|
Post by NhiHa on Jan 22, 2011 7:41:20 GMT 9
Các tên gọi Người Việt Gốc Hoa Nguyễn Văn Thái Khi nói đến người Trung Hoa ở Việt Nam (người Việt gốc Hoa), ta thường nghe những danh từ như chú Ba Tàu, chú Ba, chú Chệt, Minh-Hương, Người Tàu v.v…. Tuy nhiên rất ít người biết rõ lý do tại sao người Việt Nam lại gọi người Trung Hoa (Chinese) bằng những tên như vậy. Có người thắc mắc rằng tại sao lại gọi là chú ba, mà không gọi là chú hai, chú tư, chú năm, v.v… Dưới đây là giải đáp cho thắc mắc nêu trên. Người Tàu: - Trung Hoa là một nước rộng lớn và có đông dân. Các vua chúa thì xa-hoa phung-phí ("luxurious and squandering") trong khi dân chúng thì hầu hết là bị thiếu ăn. Do đó người dân Trung Hoa lúc nào cũng có khuynh hướng ("tendency") đi tìm đất mới để sinh sống. Hơn nữa, vào khoảng giữa thế kỷ 17 tại Trung Hoa, sự sụp đổ của nhà Minh ("Ming Dynasty") dẫn đến làn sóng người Trung Hoa (trung thành với nhà Minh và không thần phục nhà Thanh - Qing Dynasty) bỏ quê hương chạy sang vùng Đông Nam Á tị nạn, trong đó có Việt Nam. Những người này phần lớn là chạy trốn khỏi nước bằng tàu thuyền ("boat people"). Do đó dân Việt mình gọi họ là người Tàu. Ba Tàu: - Có hai giả thuyết giải thích tại sao lại gọi là Ba Tàu mà không là bốn, là năm, là sáu tàu. Giả thuyết 1. Một số tướng lãnh của Nhà Minh (Ming Dynasty) bị quân của Nhà Thanh (Qing Dynasty) đuổi. Họ dùng ba chiếc tàu lớn, chở họ hàng con cháu và quân lính chạy trốn về phương nam, đến Đà Nẵng xin Chúa Nguyễn (Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần) cho vào tị nạn. Chữ “Ba” trong Ba Tàu để chỉ số lượng ("quantity") chứ không phải để chỉ số thứ tự ("order") như anh chị em trong một gia đình. Giả thuyết 2. Người Trung Hoa chạy trốn bằng tàu, không phải là đi cùng một lúc, mà đi bằng nhiều đợt khác nhau, có lúc một tàu, có lúc hai tàu, và có khi ba hoặc bốn tàu. Chữ “ba” ở đây, không chỉ số lượng ba (3) mà là chỉ số (nhiều) nào đó, không chính xác, không đếm được, theo như cách nói của người Việt Nam. Ví dụ: - Nấu ba hột gạo (ba không có nghĩa là chỉ nấu đúng ba hột, ai ăn ai nhịn đây?) - Làm ba con cá: Làm (sạch) một ít con cá. - Nhậu ba sợi : Uống lai rai một vài ly rượu. - Thằng cha này ba phải: Người không có tính quyết định, thế nào cũng được, cũng cho là phải (chỉ có phải hoặc trái; chỉ có một cái phải, không thể có hai, ba,bốn cái phải trong một vấn đề). Cả hai giả thuyết trên cũng vẫn chỉ là giả thuyết mà thôi. Ai thích giả thuyết nào là quyền của họ. Dù là giả thuyết nào chăng nữa thì chữ “ba” đã gắn liền với chữ “tàu” để trở thành từ ngữ “Ba Tàu” từ lâu rồi, và chúng ta cũng đã quen dùng hàng ngày rồi. Từ ngữ “Ba Tàu” là tiếng không được lịch sự khi nói về người Tàu. Vì thế, khi có dịp nói chuyện trực tiếp với người Trung Hoa hay người Việt gốc Hoa thì nên tránh dùng từ ngữ này, mà nên gọi họ là Người Hoa (Trung Hoa) Chú Ba Tàu (thường gọi tắt là Chú Ba): - Người Tàu (Việt gốc Hoa) sinh sống tại Việt Nam thường tỏ ra hiền lành, chịu khó làm ăn và giao dịch với người Việt một cách thân thiện. Do đó người Việt cũng không có ác cảm với họ và coi họ giống như những người Việt khác vậy. Để tỏ tình thân thiện, người Việt thêm chữ “chú” vào đằng trước từ ngữ “ba Tàu” thành ra “Chú Ba Tàu”. Chữ “chú” ở đây có nghĩa là người em trai của cha mình; như vậy là quá thân tình rồi còn gì nữa. Nhiều khi người Việt còn bỏ bớt chữ “Tàu” mà chỉ nói “Chú Ba”, thì người nghe vẫn hiểu là Chú Ba Tàu. Ta hãy để ý đến một điểm đặc biệt sau đây: Trong thâm tâm của người Tàu, họ luôn luôn tự cho rằng họ là một chủng tộc văn minh, và coi người Việt là giống man di mọi rợ ("savage"), nhưng khi đến cư trú tại Việt Nam thì người Việt mình chỉ gọi họ là CHÚ, mà không là ông, là bác, là cụ… Cao nhất thì cũng chỉ được một vai vế ở dưới bố mình, không thể ngang hàng với bố được. Điều này chứng tỏ rằng tổ tiên ta đã rất hiểu cái giá trị của giòng giống Lạc Hồng, không coi mình là thấp kém hơn người Tàu. Chú Chệt: - Nhóm người Trung Hoa sang sinh sống ở miền nam Việt Nam nhiều nhất là người Triều Châu (còn gọi là Tiều Châu). Theo ngôn ngữ của người Triều Châu thì “A-Cheạt” có nghĩa là “chú” (em trai của cha mình). Người Việt Nam đọc “A-Cheạt” thành ra là Chệt. Chệt đã có nghĩa là chú rồi, nhưng người Việt không rành ý nghĩa của nó, cho nên đã thêm chữ “chú” vào cho chắc ăn. Vì thế mới có từ ngữ “chú Chệt”. Tưởng cũng nên nhắc lại, là không nên dùng “chú Chệt” khi nói chuyện trực tiếp với người Trung Hoa hoặc Việt gốc Hoa, vì đây là tiếng không lịch sự, sẽ làm họ không vui. Minh Hương (Người Minh Hương): - Làn sóng người Trung Hoa chạy sang Việt Nam xin tị nạn đông nhất là khoảng giữa thế kỷ thứ 17 {Khi Nhà Minh (Ming Dynasty) bị Nhà Thanh (Qing Dynasty) cướp ngôi vua}. Những người này là những người trung thành với Nhà Minh, họ không muốn sống dưới sự cai trị của Nhà Thanh cho nên đã chạy trốn. Chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền Vương) cho họ vào lập nghiệp ở các tỉnh phía nam như Mỹ Tho, Cần Giờ, Biên Hòa… Vì những người này là dân của Nhà Minh cho nên ta gọi là người Minh Hương (*). Tại sao lại là Minh Hương? Ý nghĩa lúc ban đầu như sau: Minh viết theo chữ Hán là 明, có nghĩa là họ Minh (giống như họ Lý, Trần, Lê, Nguyễn của ta). Chữ Hương viết theo chữ Hán là 香, có nghĩa là “thơm”. Vậy Minh Hương kết hợp lại nghĩa là hương thơm của nhà Minh. Đến năm 1827, vua Minh Mạng sợ rằng nếu viết Minh Hương (theo lối chữ Hán) như trên đây thì sẽ gây đụng chạm đến Nhà Thanh (đang cai trị nước Tầu) vì vậy vua Minh Mạng cho đổi lại cách viết chữ Hương như sau: Hương viết là 鄉, có nghĩa là “làng”. Vậy thì Minh Hương là làng của người Minh; và cũng có thể diễn dịch là làng sáng sủa vì Minh cũng có nghĩa là sáng sủa. Tại Sài Gòn có một làng Minh Hương ở Gia Thanh. (*) Tên Minh Hương chỉ áp dụng cho người Việt gốc Hoa ở miền Nam Việt Nam; miền Trung và miền Bắc không gọi là Minh Hương. Chú Khách: - Danh từ ba tàu là tiếng thông dụng nhất ở miền Nam VN để chỉ người Trung Hoa sinh sống tại Việt Nam. Trước năm 1954, khi tôi còn ở miền Bắc VN, tôi không thấy ai gọi người Trung Hoa là ba tàu, mà chỉ biết có danh từ người tàu/quân tàu để gọi người Trung Hoa trong các bài học Việt Sử. Nhưng ở ngoài dân chúng thì người ta gọi họ là chú khách. Vậy tại sao gọi là Chú Khách? Ở các tỉnh phía nam Trung Hoa có một dân tộc gọi là Hakka, tiếng Việt đọc là Hạ Kha hoặc là Khách Gia. Từ ngữ Khách Gia được nhiền người dùng hơn. Một số người Khách Gia sang sinh sống ở miền Bắc Việt Nam. Do đó họ được gọi là người Khách hoặc Chú Khách (Khách là tiếng gọi rút ngắn của Khách Gia) Trước 1954, tôi sống ở thành phố Nam Định, nơi đây có một phố lớn, chạy dài từ đầu tỉnh tới cuối tỉnh, mang tên là Phố Khách. Hầu hết người Tàu trong thành phố đều cư ngụ và buôn bán ở Phố Khách. Nó cũng gần giống như những Chinatowns ở Mỹ vậy . *************** Có người giải thích câu “Chuối sau cau trước” rằng đây là sự hướng dẫn để lựa trái chuối và trái cau ngon. Trái chuối ngon nằm ở phía sau (dưới) của bẹ/nải chuối; trái cau ngon nằm ở phía trước (trên) của buồng cau. Sự giải thich này không hơp, lý vì thực tế cho thấy rằng những trái chuối nằm dưới bẹ/nải chuối thường nhỏ, gầy, và hay bị dập ("decayed") nữa. Muốn hiểu rõ câu này, ta phải viết lại cả câu tục ngữ sau đây: "Đa đầu, gạo cuối, chuối sau, cau trước." Đây là một câu tục ngữ nói về phong tục tập quán của một làng quê ở Miền Bắc (thời xưa) trong việc trồng cây. Làng ở Miền Bắc, dù lớn hay nhỏ, đều có chung những nét sau đây: Chung quanh làng có trồng một luỹ tre ("bamboo hedge") gai. Mục đích của luỹ tre gai này là để chống kẻ gian - nhất là trộm cướp - vào làng. Làng chỉ có hai lối ra vào, gọi là cổng làng, có cửa đóng mở đàng hoàng, và ban đêm thường có trai tráng chia phiên nhau đi tuần ("patrol") quanh làng. Phía cổng nào dân làng ra vào nhiều được gọi là đầu làng; phía cổng nào ít người ra vào hơn thì gọi cuối làng. Phía ngoài của đầu làng thường được trồng một cây đa, thuộc loại cây cổ thụ ("secular tree") cho bóng mát quanh năm để dân làng có chỗ nghỉ mát/nghỉ mệt trước khi vào làng. Phía ngoài của cuối làng thường được trồng một cây gạo, thuộc loại cây có thân cao (vào khoảng 50-60 feet); cây gạo không có cành lá xum xuê ("luxuriant") như cây đa, nhưng có hoa gần giống như cái loa kèn màu đỏ trông rất đẹp mắt. Vì cây gạo cao, cho nên ở xa ai cũng có thể nhìn thấy rõ; và có lẽ đó là cách để người ta nhận biết đấy là cuối làng. Do vậy, “Đa đầu, gạo cuối” trong câu tục ngữ trên diễn tả thói quen trồng cây của một làng quê: Cây đa ở đầu làng và cây gạo ở cuối làng. Chuyển sang phạm vi ("domain") nhỏ của một gia đình, thì thói quen trồng cây được diễn tả ở bốn chữ “chuối sau, cau trước.” Các gia đình trong làng đều có trồng một hàng rào tre để làm ranh giới giửa các gia đình với nhau. Hàng rào tre này không cần phải là tre gai, mà thường là loại tre có thân thẳng đứng, cao, và gần như đặc ruột ("thick wall, solid"). Dân làng thường dùng loại tre này để chế tạo các vật dụng sinh hoạt hàng ngày, như rổ rá, bàn ghế, giường nằm, kèo cột v.v… “Cau trước”, có nghĩa là cây cau luôn luôn được trồng ở phía trước căn nhà. “Chuối sau”, có nghĩa là người dân làng luôn luôn trồng chuối ở phía sau căn nhà của họ. Tới đây thì nhóm chữ “chuối sau, cau trước” đã được rõ nghĩa. Bụi tre, cây đa, cây gạo, cây chuối, và cây cau đã gắn liền với đời sống hàng ngày của dân quê (miền Bắc thời xưa) cho nên chúng đã đi vào văn chương đại chúng ("popular literature") từ lúc nào không ai hay. Dưới đây là mấy câu tiêu biểu: Về cây đa. Không tiền ngồi gốc cây đa Có tiền thì hãy lân la vào hàng. (ca dao) Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề. (tục ngữ) Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh Có sông sâu lờ lững vờn quanh (Bài hát “Làng tôi”của NS Chung Quân) Về cây gạo. Hoa gạo nở tươi điềm tất thắng, Sao em còn lo lắng vẩn vơ? …………………………….. Ứng điềm hoa gạo nở Ôi, đoá hôn đầu tiên! Cả hai cùng bỡ ngỡ Anh đền hay em đền? (Bài thơ “Đi thi” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương) Về cây chuối. Mẹ già như chuối chín cây, Sao đấy chẳng liệu cho đây liệu cùng? (ca dao) Gió đưa bụi chuối sau hè Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ. (ca dao) Về cây cau. Cau già dao sắc lại non Mẹ già khéo nói thì con đắt chồng. (ca dao) Cau già dao bén thì ngon Người già trang điểm phấn son vẫn già. (ca dao) Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng? (ca dao) Về cây tre. Làng tôi sau lũy tre mờ xa Tình quê yêu thương những nếp nhà… (Bài hát “Làng tôi”của NS Hồ Bắc) Làng tôi nhỏ bé xinh xinh Chung quanh có lũy tre xanh rườm rà… (ca dao) Đối với các bạn trẻ sinh ra và lớn lên tại miền Nam Việt Nam (sau năm 1954), những hình ảnh kèm theo bài viết này sẽ giúp cho các bạn nhận diện được bốn loại cây của Việt Nam. Và, từ đó các bạn sẽ dễ dàng hiểu thế nào là “chuối sau, cau trước”. Được như vậy, tức là đã thoả mãn ("satisfied") sự mong đợi của người viết bài này
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 4:36:17 GMT 9
Làm
Thân Trọng Thủy Làm nghĩa là gì? Đại Nam Quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (viết đúng như ở bìa gốc là : Đại Nam Quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của) giải nghĩa như sau: Làm là dấy việc, gầy việc, ra tay, ra công, chuyên chủ việc gì. Định nghĩa đó có vẻ không ổn lắm, vì ta lại có thể thắc mắc thế dấy việc, gầy việc là gì? Còn nữa, ai cũng biết có khi làm nhưng chẳng hề ra tay mà chỉ ra chân (như làm bàn chẳng hạn), chẳng hề ra công (như làm cha, làm mẹ, làm anh, làm em...) hay chẳng hề chuyên chủ việc gì cả (như làm gì, làm sao, làm chi, làm ghi...) Thiết tưởng khó mà tìm ra được một định nghĩa vừa ngắn gọn vừa đầy đủ. Một số từ điền tiếng Việt hiện đại có phân biệt 12 nghĩa khác nhau, nhưng có lẽ những cuốn từ điển đó chỉ phân loại một cách khái quát mà thôi chứ thực tế- cũng như động từ ăn và động từ nói- động từ làm chắc là có nhiều nghĩa hơn. 1. Trước hết làm được dùng thay thế cho nhiều động từ khác nhau và, vì thế, nghĩa của nó cũng rất đa dạng : * Ăn : Làm một chén, làm một bữa, làm một bụng, làm ba miếng. Nhưng xin đừng lỡ miệng mà nói : "Làm bậy ba miếng rồi đi cho kịp giờ", nói thế người ta cười cho đó, vì "làm bậy ba miếng" hiểu theo nghĩa xấu là... eo ôi, ẹ lắm! * Uống : Làm một ngụm, làm một lon, làm một vại, làm vài ly. Ông chồng rất khôn khi biết cách trả lời vợ như thế nầy: "Anh đâu có uống nhiều, anh chỉ làm ít ly thôi mà, say đâu mà say!" Nhưng làm ít ly nghĩa là làm y lít! * Ngủ : Làm một giấc. * Hát : Làm tuồng. * Học : Làm ba chữ . Tưởng làm ba chữ mà chơi vậy / Bỗng chốc nên quan đã sướng chưa! (Nguyễn Công Trứ / Thua bạc) Làm ba chữ ở đây còn có nghĩa là đánh ba đồng ba trự, tức là đánh bạc. * Đánh cờ, đánh bài : Làm một ván * Du lịch : Làm một chuyến vòng quanh châu Âu. * Gây gỗ, la mắng: Làm một trận * Đọc, viết : Làm một mạch mười trang không nghỉ. * Bắn : Làm một phát * Đánh, đấm : Làm một cú ngay giữa mặt. * Ghi chép : Làm sổ * Sáng tác : Làm thơ, làm văn. * Viết : Làm đơn, làm giấy. * Nghiên cứu & viết: Làm sử, làm ngôn ngữ "Chúng tôi vốn là dân làm ngôn ngữ nên nội dung các nhận xét có nghiêng hẳn về phía ngữ học..." ( Nguyễn Đức Dương / Tìm về linh hồn tiếng Việt ) * Chế tạo : Làm nước mắm, làm hộp quẹt. * Xây cất : Làm nhà. * Chất, đổ : Làm một đống choán hết lối đi. * ( Mụt nhọt ) sung tấy : Làm mủ [ Đừng lầm với Làm mũ ( dấu ngã ) là làm nón mũ .] * Bài tiết : Làm một bãi, Làm xấu. * Bài tiết không kiềm chế được : "Ông cụ lại làm trong quần rồi!" 2. Làm là thực hiện một vai trò , trong tuồng, trong kịch hoặc ngoài đời : - Sử dụng vào một mục đích nào đó : * Lấy đất làm chiếu, lấy chợ làm nhà. * Lành làm gáo, vỡ làm môi. * Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu; khăn lau giắt đỏ lòm, trải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quáthú (Nguyễn Công Trứ / Hàn nho phong vị phú) - Đóng vai: "Lan làm Trưng Trắc còn Mai làm Trưng Nhị. - Ở một địa vị nào đó, giữ một vai trò nào đó : * Làm dâu, làm rể. Làm dâu khó lắm chị ơi /Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than. (Ca dao). * Làm cha làm mẹ, làm ông làm bà, làm con làm cháu... Ta thường nghe nói : "Tao mà nói láo thì tao làm con mầy!", hoặc khi nghe nói: "Nè, đừng làm cha nghe không!", hoặc " Đừng có làm trời làm đất!" thì phải hiểu là "Đừng có mà chơi trội! Đừng có muốn làm gì thì làm"chứ không phải chữ "cha" hay chữ "trời, đất"ở đây hiểu theo nghĩa thông thường đâu. * Làm anh làm chị (khác với làm anh chị tức là làm du côn du đãng ): - "Làm anh ăn trước bước đầu / Vẽ vời em út ngõ hầu thay cha " (Ca dao). " Làm anh khó lắm/ Phải đâu chuyện đùa/ Với em gái bé / Phải người lớn cơ! /.. Làm anh thật khó / Nhưng mà thật vui / Ai yêu em bé / Thì làm được thôi. " ( Phan Thị Thanh Nhàn- Làm anh ). * Làm trai thì phải: - Làm trai quyết chí tu thân / Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo - Làm trai cho đáng nên trai / Xuống Đông đông tĩnh, lên Đoài đoài tan.( Ca dao ). chứ đừng như thế nầy: - Làm trai rửa bát quét nhà / Vợ gọi thì dạ:"Bẩm bà tôi đây" thì nhục lắm! * Còn làm gái thì: Làm thân con gái chớ thương chồng người và Làm thân con gái chớ ăn trầu người (Ca dao) - Làm hoa cho người hái, làm gái cho người chòng (=ghẹo) nhưng mẹ dặn ai mời trầu thì đừng ăn. * Làm vua làm quan, làm vương làm tướng, làm ma làm quỉ... - "Tôi làm trạng nguyên, anh tể tướng.."(Nguyễn Vỹ / Nhớ Trương Tửu) - "Ta thà làm quỉ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc (Trần Bình Trọng). * Làm bạn, làm chủ, làm thuê, làm thầy, làm thợ,làm người : - Trời đất sinh ra chán vạn nghề / Làm thầy làm thợ với làm thuê (Tú Xương / Tự trào) * Làm chủ một hãng buôn là làm với tư cách người chủ, làm chủ tình thế là giữ thế mạnh, thế chủ động cho mình.Trái với làm chủ là làm thuê tức là làm cho người khác để được trả công. * Làm khách thường dùng với nghĩa : làm ra vẻ người lạ, không thật tình ( trong tiệc tùng, ăn uống). * Làm người : - " Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo " (Nguyễn Công Trứ) Có một câu của Đỗ Phủ ai cũng nhớ: "Nhân sinh thất thập cổ lai hy", Cụ Đồ Chiểu đã dịch câu đó thành văn vần rất hay: " Làm người trong cõi gió mưa / Bảy mươi mấy mặt người xưa thấy nào" (Nguyễn Đình Chiểu / Lục Vân Tiên). Nguyễn Công Trứ muốn kiếp sau làm cây (cây thông), còn một tác giả khác lại muốn làm cá, làm chim: "Hoặc làm cá bể đông vùng vẫy/ Hang cửu nguyên tìm lấy nương thân/ Làm chim bay chín tầng vân/ Dọc ngang trời rộng mười phân thanh nhàn (Hồng Vân/ tự thán). Nhưng " làm trâu làm bò" chắc không ai muốn, vì không ai muốn ngu (ngu như bò), lại càng không muốn bị người khác gọi mình là bò, là trâu, như cái ông cử nhân trong giai thoại sau đây : Một ông Cống mới thi đỗ, đệ đơn lên huyện xin làm thịt trâu để khao. Lúc ấy đang có lệnh cấm mổ trâu. Bà huyện Thanh Quan (thường hay thay chồng giải quyết đơn từ) muốn đùa ông Cử nên phê vào đơn rằng: "Người ta thì chẳng được đâu / Ừ thì ông Cống làm trâu thì làm". Ông Cống nhà ta chắc phải ngậm bồ hòn làm ngọt vì "làm trâu" ở đây còn có nghĩa là "làm con trâu" (cho người ta cỡi) chứ đâu phải chỉ là làm thịt trâu. ( Ta thường nói " ngậm bồ hòn làm ngọt " nhưng Chu Mạnh Trinh lại nói ngậm bồ hòn làm tươi : " Nước lã ra chừng coi cũng lạnh Bồ hòn hầu dễ ngậm làm tươi (Chu Mạnh Trinh/ Thơ vịnh Kiều - Thúc sinh về thăm Họan thư) Ông Cống trong giai thọai trên hay bất cứ ai cũng đâu có thích làm trâu, làm chó, dẫu kiếp này hay kiếp sau cũng vậy. Nhưng lỡ kiếp sau có làm chó thật thì cũng xin: "Nếu làm chó, hãy làm chó của samourai" (tục ngữ Nhật) Hoặc ao ước như một nhà thơ sinh viên Huế thuở nào: "Kiếp sau nếu làm chó, xin được là chó berger, còn nếu làm người xin được là người sư phạm" * Làm mai là làm trung gian trong hôn nhân. Người ta cho rằng làm mai là một trong bốn cái ngu ở đời: - Ở đời có bốn cái ngu / Làm mai, gánh nợ, gác cu, cầm chầu.(Ca dao) - Định vị trí, phân ngôi thứ: Làm vợ cả, làm vợ thứ, làm lẽ, làm thiếp, làm bé, làm chủ, làm tớ... - "Gió xuôi chạy lá buồm mền / Muốn vô làm bé biết bền hay không? (Ca dao) - "Tiên Dung nói với Chử Đồng Tử: "Chàng có muốn lấy nàng kia làm thứ thất không?" - "Đời Hùng Vương có một người tên là Mai An Tiêm, người ngọai quốc, mới được 7 tuổi, do thuyền buôn chở tới. Vương mua về làm đầy tớ" (Hồ Đình Chữ / Tìm hiểu thần thoại và cổ tích thời Hùng Vương) - "Người hiếu nữ tên gọi là Vương Thúy Kiều vì việc cứu cha nên phải bán mình làm thiếp cho khách họ Mã lấy số tiền sính lễ là bốn trăm năm mươi lạng bạc (Bản dịch Kim Vân Kiều nguyên truyện) 3. Làm là thực hiện một công việc, một nghề nghiệp nào đó : * Chuyên về một nghề : làm thợ, làm báo, làm quan, làm công chức, làm chính trị, làm cách mạng. * Gò, sửa khung xe : Làm đồng * Nấu ăn : Làm bếp * Xếp đặt phòng, giường ngủ : Làm phòng, làm giường * Vỡ đất : Làm đất * Cày cấy, trồng trọt : Làm ruộng, Làm rẩy * Đốn củi : Làm củi * Chữa bệnh: Làm thuốc * Tổ chức, cử hành: Làm lễ * Sửa sọan thức ăn : Làm cơm, làm gà. * Sửa sọan bữa ăn lớn để cúng giỗ hoặc cưới xin : Làm cỗ, làm tiệc, làm chay. "Con cò mắc rò mà chết / Con quạ ở nhà mua nếp làm chay ." ( Ca dao). * Cúng vong hồn lúc mãn tuần : Làm tuần * Bán trôn nuôi miệng : Làm đĩ, làm gái, làm tiền * Nâng giá, đẩy giá lên để mong hưởng lợi : Làm giá * Nhận việc làm xong mới nhận tiền công, không tính thời gian : Làm khoán 4. Làm là thực hiện một hành vi, hành động nào đó : * Ra dấu : Làm hiệu * Làm bộ làm điệu để vòi vĩnh vì biết được nuông chiều : Làm nũng * Bức bách : Làm ngặt * Khiến người khác phật lòng : Làm mếch lòng * Bố thí, giúp đỡ người khác : Làm phước, làm phúc, làm ơn * Làm chuyện lếu láo, hống hách : Làm tàng * Lên mặt tự cao tự đại : Làm phách * Bắt bí, lấn tới khi đã được lợi thế : Làm già Đừng lầm với "làm nhà" mà ở thôn quê miền Trung người ta phát âm là "làm già". Có người nói vui rằng khidự tính chi phí làm nhà phải tính già lên một chút, vì thế nào cũng sẽ có chi phí phát sinh không lường trước được. Rõ ràng là làm già chứ không thể làm non được. * Giữ một chức vụ, nhưng thực tế không làm gì cả: Làm vì * Đưa bóng vào lưới của đối phương : Làm bàn ( Bàn đây là bàn thắng, không phải là làm bàn, làm ghế như trong câu đối thoại sau: " Nếu sai lời tao sẽ làm ghế cho mầy ngồi. " * Tìm cách hòa thuận với người đã giận dỗi với mình : Làm lành "Chồng giận thì vợ làm lành / Miệng cười hớn hở rằng: Anh giận gì?/ Thưa anh, anh giận em chi / Muốn cưới vợ lẽ em thì cưới cho" (Ca dao) * Giả vờ : Làm bộ * Giả vờ không quen không biết : Làm ngơ, làm lơ "Đã không như là mơ, nếu tình cờ gặp xin cứ làm ngơ"(Trần Thiện Thanh / Gặp nhau làm ngơ) * Nêu mẫu mực cho người khác theo : Làm gương " Cho hay những kẻ tài tình lắm / Trời bắt làm gương để thế gian " (Phạm Quí Thích / Tổng vịnh truyện Kiều) * Đứng ra xác nhận những điều mình đã chứng kiến: Làm chứng * Để chứng thực một điều gì: Làm bằng * Biếu xén vật gì để làm vui lòng ai : Làm quà * Tô điểm sắc đẹp, sự quyến rũ cho mình : Làm đẹp, làm dáng, làm duyên. * Gây khó khăn cho người khác : Làm khó * Quấy nhiễu, làm rộn người khác : Làm phiền * Làm chuyện sai quấy: Làm bậy "Do đói quá,người ta đã làm bậy" (Võ Hương An / Chuyện đời vay trả) "Chúng bây loài bọ gậy / Ở nước chỉ hay quấy / Xuống dưới đã ăn càn / Lên trên lại làm bậy " (Khuyết danh / Vịnh con muỗi) * Làm cho hãnh diện, tự hào: Làm đẹp mặt "Mong cho anh sớm thành tài / Trước làm đẹp mặt nở mày mẹ cha..." ( Ca dao) * Gây tiếng động : Làm ồn Tuy nhiên, trái nghĩa của làm ồn là làm thinh, mà thinh (= thanh) lại có nghĩa là tiếng! - Làm thinh là tình đã thuận - "Lần tiếng sẻ hỏi ai đàn tá?/ Dừng tiếng đàn nấn ná làm thinh" (Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, bản dịch của Phan Huy Thực) Sở dĩ có sự "tréo cẳng ngỗng" đó là do chữ nầy nguyên là hàm thinh, hàm nghĩa là ngậm như trong hàm huyết phún nhân(=ngậm máu phun người), lâu ngày hàm thinh bị dùng chệch thành làm thinh.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 4:37:09 GMT 9
Làm nghĩa là gì? Tiep theo
5. Làm với một vài sắc thái chỉ cách thức, mức độ thực hiện : * Làm qua loa cho có lệ : Làm lấy rồi, làm lấy có
* Làm không chú tâm, không kỹ lưỡng : Làm ẩu.
* Bắt chước một cách giả trá và làm tổn hại đến cái chân thật : Làm giả
* Làm không suy nghĩ, không cẩn thận :Làm bừa, làm đại.
* Làm lần đầu, chưa phải chính thức, còn sửa : Làm nháp
* Tự mình làm, không nhờ ai khác giúp : Làm lấy
* Làm cho mau rồi, cho xong chuyện : Làm phứt, làm phứt cho xong.
* Giải quyết rạch ròi cho rõ trắng đen : Làm cho ra ngô, ra khoai
* Phóng đại quá đáng một sự việc để gây bất hòa, tranh cãi : Làm to chuyện 6. Tính đa nghĩa của làm còn thể hiện ở các trường hợp dùng với nghĩa bóng, nghĩa mở rộng, nghĩa cũ, nghĩa mới, và thú vị nhất là dùng như tiếng lóng, dùng trong thành ngữ, tục ngữ . * Tạo ra nhiều tiền của: Làm giàu
* Phát triển, làm cho phong phú: Làm giàu vốn từ vựng, làm giàu kiến thức.
* Bỏ số lẻ thập phân hoặc bách phân của một con số: Làm tròn (rounding)
* Thực hiện đầy đủ (nhiệm vụ): Làm tròn - Làm tròn còn được sử dụng như " thực hiện", " hoàn thành": .... "Xem như đang chết dần/ Người không biết xoay trở/ Khi công việc lở dở/ Hay đau khổ vì yêu/ Người không dám biết liều/ Để làm tròn mộng ước...(Thân Trọng Sơn / Đừng để mình chết dần chết mòn - chuyển ngữ từ bản tiếng Pháp thơ của Pablo Neruda)
* Làm thịt là giết ( thú vật ) nhưng Bọn côn đồ đã làm thịt cô gáithì hiểu là cưỡng bức.
* Làm cỏ là nhổ cỏ, giẫy cỏ và còn có nghĩa là tiêu diệt, tàn sát.
* Làm tiền không phải chỉ là kiếm tiền mà còn hàm ý kiếm tiền một cách bất chính. Còn nếu kiếm tiền bằng "vốn tự có" thì làm tiền đồng nghĩa với làm gái hay làm đĩ.
* Làm nhục là làm tổn hại danh dự người khác bằng lời nói, hành động, sức mạnh, uy quyền. Tuy nhiên nhiều lúc người phụ nữ bị làm nhục thì không phải chỉ danh dự bị tổn hại !
- Một số từ xưa ngày nay ít dùng, có thể khó hiểu :
* Làm lưng : Giữ làm vốn liếng, tạo số tiền ban đầu để làm ăn.
" Đêm hôm cũng giấn mình đi / Sang đây kiếm ít đem về làm lưng (Hồ Huyền Quy /Truyện Trinh thử)
* Ở Huế trước kia có một từ rất hay mà hiện nay ít thấy dùng: Làm hoanh. " - Chiều nay mời cả nhà đi kéo ghế ở "Cháo lòng Đồng Ý". Tôi bao. " - Này, không có tiền thì đừng làm hoanh nghe!"
- Ngược lại, một số từ mới xuất hiện, ban đầu là tiếng lóng rồi phổ biến dần :
* Làm phao : Lén lút chuẩn bị tài liệu để quay cóp trong phòng thi.
* Làm luật : Nộp tiền hối lộ cho quản lý bến bãi hoặc cho cảnh sát giao thông.
* Làm việc: nghĩa là bị thẩm vấn Nó vừa được mời lên phường làm việc với công an.
- Trong quan hệ nam nữ, để chỉ " chuyện ấy " có khi không cần phải nói làm tình mà chỉ là làmhay làm ăn :
- Bố đã 75 tuổi rồi, đâu còn làm ăn gì được nữa!
- (Bạn bè hỏi nhau): "Tối qua mầy chở nhỏ X. đi chơi, có làm ăn gì được không?"
- (Trong phòng, nữ thúc giục nam) : "Làm đi anh!"
-"Chị Xấu ôm anh Giàu khóc, nói: "Ôi chồng ơi, chồng ơi, chó mèo còn biết làm, răng anh (sao anh) không biết?" ( Nguyễn Quang Lập / Xóm đàn bà hoang).
- "Anh nghĩ coi, ngày chui lủi trong rừng, túi (tối) về uống bát rượu, con cái ngủ hết, điện đóm không có, tui với mạ hắn rủ nhau mần cái hè (làm một cái nhé), rứa là đẻ thôi".( Nguyễn Thế Thịnh / Đánh kẻng gọi con).
"Làm" được gọi là "Mần" ở một số địa phương miền Trung.
Mần việc = Làm việc; Mần ăn = Làm ăn.
Nhiều người nghe không hiểu câu nầy:
"Đôi ta thương chắc mần ri/ Cha mẹ mần rứa anh thì mần răng"(Ca dao) (thương chắc = thương nhau; mần ri = như thế này; mần rứa = làm thế; mần răng = làm sao).
- " Tau ở nhà tau, tau nhớ mi/ Nhớ mi nên phải bước chân đi/ Không đi mi nói răng không đến/ đến thì mi nói đến mần chi/Mần chi tau đã mần chi được/ Mần được tau đã mần lắm khi (Nguyễn Công Trứ/ thư gởi bồ nhi)
Có một giai thoại: Một hôm ông nghè Tân đi thanh tra các hạt, nhân ghé vào một quán hàng, gặp một người đàn bà nhờ ông viết hộ một cái đơn khai để nộp tiền xin chôn trâu. Ông nghè Tân hỏi đầu đuôi mới rõ quan phủ nơi đó đã ra lệnh rằng hễ ai có trâu chết phải nộp 5 quan. Ông nghè liền viết hộ người đàn bà lá đơn như sau:
"Tôi là phận gái nữ nhi/ Có con trâu chết tôi đi trình ngài/ Vội vàng váy trụt đơn rơi/ Tôi mượn một người mần cái đơn ni/ Quan Tri kia hỡi quan Tri/ Xin quan chấp lấy đơn ni làm bằng/ Dù quan có hỏi mần răng/ Rồi quan cắn cỏ lạy thằng mần đơn"
Người đàn bà kia không biết chữ, cứ cầm cái đơn thẳng đến phủ. Quan phủ xem xong toát mồ hôi, hỏi cặn kẽ rồi cho lính đi dò xem ai là kẻ làm đơn. Đến khi biết tác giả bài thơ là quan thanh tra, quan phủ vội vàng đi đón rước rồi van lạy sói trán! Từ đó trong phủ nếu có trâu bò chết thì cứ cho chôn, phủ không dám vòi tiền nữa.(Trần Trung Viên/ Văn đàn bảo giám)
- Tay cầm quạt giấy che trăng/ Thiếp thương chàng vô tận, biết mần răng đặng chừ (=biết làm sao được bây giờ) (Ca dao) * * * Đề cập đến cái hay, cái đẹp, cái tinh túy của tiếng Việt, ngoài chữ "làm thinh" nói ở đọan trên, chúng tôi xin nêu thêm một vài từ kết hợp với ' làm ' nữa:
a/.- "Làm đôi" bao gồm hai nghĩa đối lập nhau:
- "Tách làm đôi" và"Gộp chung làm một" (một đôi) : Cô kia cắt cỏ một mình/ Cho tôi cắt với chung tình làm đôi/ Cô còn cắt nữa hay thôi/ Cho tôi cắt với làm đôi vợ chồng" (Ca dao)
Tách làm đôi thì ta có hai phần, còn "làm đôi vợ chồng" thì lại hàm ý gộp lại.
b/.- Diễn tả một ý phủ định bằng một câu hỏi:
- Làm sao em hiểu được? có nghĩa là: Em không hiểu đâu. " Những lừa lọc làm sao Em hiểu được/ Lòng thơ ngây trong sáng ánh thủy tinh ( Đặng Lệ Khánh / Nhìn cung tên, nhớ Mỵ Châu)
c/ Những từ kết hợp "làm sao", "làm cho", "làm chi" là những từ thường được nhắc đến trên cửa miệng, do đó ta gặp nhiều trong ca dao, tục ngữ, và thơ văn:
* Làm sao = Cớ sao, tại sao: "Làm sao bác vội về ngay"(Nguyễn Khuyến/Khóc Dương Khuê)
* Làm sao = như thế nào: "Nơi ăn đã vậy, nơi nằm làm sao?" (Ca dao)
* Làm sao = làm thế nào, làm cách nào, liệu cách nào.
- "Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm" (Ca dao)
- "Anh quê mùa, tay chân đen bùn lấm/ Làm sao thành hoàng tử đánh thức em...(Tràm Cà Mau / Em ngủ giấc thần tiên trên rơm)
* Làm sao = Gì, bao nhiêu "Quan chẳng quan thì dân, chiếu trung đình ngất ngưởng ngồi trên, nào lềnh, nào trưởng, nào bàn ba, xôi làm sao, thịt làm sao, đóng góp là làm sao, một năm mười hai tháng thảnh thơi, cái thủ lợn nhìn thầy đã nhẵn mặt..."(Nguyên Công Trứ)
* Làm chi:
- "Chàng ơi phụ thiếp làm chi/Thiếp là cơm nguội đỡ khi đói lòng (Ca dao)
- "Mười lăm năm ấy bao nhiêu sướng/ Còn trách làm chi đứa bán tơ" (Từ Đạm / Thơ vịnh Kiều)
- "Tui không điên, cũng không hề bối rối / Ngó làm chi cho tủi nhục đau thương..." (Nguyễn Thị Hoàng / Chi lạ rứa)
- Làm chi cũng chẳng làm chi Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao! Làm sao cũng chẳng làm sao, Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi! (Ca dao)
* Làm ghi :
- "Của tin gọi một chút nầy làm ghi"( Kiều )
- " Trời cao biển rộng đất dày / Núi Nùng sông Nhị chốn nầy làm ghi" (Ca dao).
d/ Làm gì không phải chỉ có ý hỏi mà còn là :
* Chối bỏ, phủ nhận: Làm gì có!
* Thách thức: Làm gì nhau nào!
Có rất nhiều thành ngữ, tục ngữ quen thuộc liên quan đến động từ làm này :
* Chín bỏ làm mười, dám làm dám chịu, ai làm nấy chịu, bụng làm dạ chịu, dám nghĩ dám làm
Những năm gần đây ta hay gặp một thành ngữ chế diễu hạng người chỉ tay năm ngón, chỉ biết sai khiến hay xúi giục người khác làm, còn mình thì không dám làm hoặc làm không được: " Dám (Giám) đốc chứ không dám làm "
* Làm cỗ cho ma ăn : Làm khó nhọc để người khác hưởng.
* Quít làm cam chịu : Người nầy làm mà người khác lãnh hậu quả.
* Cưa sừng làm nghé : Làm ra vẻ còn tơ, còn trẻ.
* Làm bia đỡ đạn : Chịu búa rìu dư luận, chịu nguy hiểm thay người khác. ...
Chúng quen thuộc đến độ dễ dàng đi vào ngôn ngữ hàng ngày của mọi người.
Ta hãy nghe một ông chủ la rầy thuộc cấp của mình để thấy rõ điều đó :
" Tôi đã bảo là cứ làm như tôi nói chứ đừng làm như tôi làm mà anh có nghe đâu. Nếu anh làm như tôi làm thì anh lên làm sếp cho rồi! Anh nên nhớ làm thì có chúa múa thì có trống mà anh làm vậy coi sao được, làm thử rồi làm thiệt, làm lui làm tới, làm đi làm lại, làm rồi làm nữa,làm mãi làm hoài mà cứ làm sai, làm hư, làm trái, làm thừa làm thiếu, làm quanh làm quất, làm tưới hột sen, chẳng có trách nhiệm gì cả. Lại còn dám nói "làm cho lắm tắm cũng ở truồng" nữa chứ! Nếu anh siêng năng chăm chỉ một chút thì có khi tôi cũng nghĩ lại mà chín bỏ làm mười. Đằng này anh là cái thứ làm thì ốm mà đâm cốm thì siêng. Thật là đồ làm dối, làm biếng, làm lấy có, làm cho có làm, làm lấy rồi, làm tào lao, làm qua quít, làm bỏ mứa, làm ẩu xỉ tả, làm ẩu làm tả, làm bậy làm bạ, làm cho có lệ, ăn vặt quen miệng làm biếng quen thân, làm qua loa, làm qua-loa-rờ-măng, làm như nhà trò giữ nhịp;người đâu mà ăn thì như rồng cuốn, nói như rồng leo, mà làm thì như mèo mửa. Lại còn làm bộ làm tịch, nào ai làm tình làm tội gì anh mà mỗi lần nói động tới là anh làm mặt sưng mày sỉa, anh làm mình làm mẩy; làm kinh doanh mà cứ như làm văn nghệ không bằng, việc cần làm anh không làm, anh đi làm chuyện ruồi bu, anh ra mặt dạy tôi phải biết làm việc thiện, phải biết làm phúc à? Thế anh không nghe người ta nói làm phúc phải
tội, làm phúc quá tay ăn mày không kịp à? Thôi không nói nhiều.Làm trong giờ của nhà nước mà như thế thì kể từ nay anh phải làm thêm ngoài giờ, làm tăng ca, ăn đến nơi thì làm phải cho đến chốn, làm cho có mưa gió mà ăn chứ làm cái kiểu đó thì tôi biết ăn làm sao nói làm sao với cấp trên đây? Tôi nói vậy anh nghe lọt lỗ tai thì tốt, còn nếu anh muốn làm lại cuộc đời, muốn tìm
nơi khác để làm quan rồi ngồi không mà ăn được lộc vua, ở chùa ăn được lộc phật, thì tùy anh, tôi không ép."
Và đây là câu nói lầm bầm của anh nhân viên khốn khổ : "Đúng là đồ làm lớn làm láo, ỷ thế làm ông chủ rồi tha hồ làm tàng, làm phách, làm ta đây, làm mặt làm mày, làm mưa làm gió, làm hùm làm hổ. Rõ ràng là giận ai đâu rồi đem mình ra làm cục kê, làm bia đỡ đạn. Tưởng ổng ăn nên làm ra, tay trắng làm nên sự nghiệp thì cũng biết nhón tay làm phúc làm phước với kẻ ăn người làm trong sở, nào dè... còn lâu ông ấy mới biết làm phúc: làm phúc nơi nao, cầu ao chẳng bắc. Thú thật là đã có lúc mình quyết làm cho ra lẽ, làm cho ra ngô ra khoai, bởi vì nghĩ mình đây: Vốn đã biết làm thân kẻ khó/ Có dám đâu đánh đọ với giàu (Bần nữ thán), nhưng lúc đói chẳng ăn vụng, lúc túng chẳng làm càn. Phải chi mình biếng nhác, trễ nãi làm hư việc của ổng thì mình cũng đành bụng làm dạ chịu, ai làm thì nấy chịu, vì xưa nay mình là kẻ dám nghĩ dám làm, dám làm dám chịu. Đằng này mình thấy mình vẫn luôn luôn làm tốt, thậm chí làm quá tải, lại còn làm dâu cả trăm họ mà ổng còn chưa vừa lòng. Mình làm vậy có khác chi làm đầy tớ không công. Ngày ngày làm như đánh vật, làm không kịp thở ăn chẳng kịp nhai ( Lục súc tranh công ), làm đổ mồ hôi sôi nước mắt, làm ngày làm đêm, làm thâu đêm suốt sáng, làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm, mình vẫn hiểu rằng tay làm hàm nhai tay quai thì miệng trễ nên luôn luôn làm cật lực, làm hết sức mình, lúc nào cũng vừa làm vừa học, đâu có như người ta làm chơi mà đòi ăn thiệt, làm chung mà đòi ăn riêng, làm khi lành để dành khi đau chứ đâu có làm đồng nào xào đồng đó, chẳng những một mình mình làm mà còn huy động cả nhà góp công góp sức nữa:
Thế mà cả gái trai già trẻ/ Đều còng lưng làm nghé làm trâu (Ca dao)
Thế mà đói vẫn hoàn đói. Thật là hay làm thì đói hay nói thì no. Ổng đã làm mặt lạ với mình, làm tổn thương lòng tự trọng của mình, nói những câu như giọt nước làm tràn ly, mình còn biết làm sao đây hở trời! Thật đúng là làm ơn mắc oán!
Một từ với 12 nghĩa ghi trong từ điển ( như đã nói ở phần đầu ) xem ra đã là nhiều. Vậy mà chịu khó tìm thêm một chút bài viết này đã ghi nhận trên 80 nghĩa và chắc chắn là chưa hết. Ai dám bảo là tiếng Việt nghèo ?
Thân Trọng Thủy
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 6:38:23 GMT 9
Thế nào là hát Chèo cũa người Miền Bắc.
Từ bao đời nay hát chèo đã trở thành một loại hình sinh hoạt văn hóa nghệ thuật quen thuộc của người dân Việt Nam, nuôi dưỡng đời sống tinh thần dân tộc bởi cái chất trữ tình đằm thắm sâu sắc. Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian dân tộc chèo là một loại hình sân khấu kịch hát đậm đà tính dân tộc, với sự kết hợp nhuần nhuyễn của hàng loạt yếu tố: hát, múa, nhạc, kịch mang tính nguyên hợp vô cùng độc đáo. Vùng trung châu và đồng bằng Miền Bắc là cái nôi của chèo, từ cái nôi ấy sau bao nhiêu thăng trầm của lịch sử nghệ thuật chèo ngày càng phát triển và khẳng định được tầm quan trọng trong nền văn hóa dân gian dân tộc.
Có thể nói nghệ thuật chèo mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam, chèo sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự trữ tình. Ðặc biệt hơn là tính tổng hợp của sân khấu chèo từ bản trò, đến đề tài nhân vật với sự "pha âm cách điệu" giữa âm nhạc, hát và múa. Sân khấu chèo xưa ra đời từ các làng chèo với các múa hội hát. Cứ mỗi độ xuân sang người muôn nơi lại bồi hồi bởi sự thúc giục của trống chèo và những lời ca tiếng hát của nghệ nhân làng chèo. Người xưa có câu "nhất cử động giai điểm vũ" điều đó biểu hiện nét đặc trưng của nghệ thuật chèo là "tính múa", những diễn xuất tinh tế của nghệ nhân chèo đều ở điểm này mà ra. Với đôi bàn tay khéo léo từng cử chỉ, động tác đã toát lên cái "thần" của nhân vật, qua đó thấy được thành công của người diễn. Từ mùa xuân rồi tới mùa thu trong các hội hè đình đám ở khắp vùng đồng bằng MIền Bắc không khi nào thiếu vắng tiếng hát chèo. Cũng chính vì thế mà chèo mang tính quần chúng và được gọi là loại hình sân khấu của hội hè. Công chúng đam mê chèo bởi khi đến với sân khấu chèo có thể tận hưởng niềm vui từ những tiếng cười châm biếm đả kích sắc và tinh tế. Trong mỗi vở diễn, mỗi tình tiết, mỗi lớp nhân vật của chèo đều có cái hài xen kẽ với cái bi, người xem bao giờ cũng coi trọng những yếu tố đó. Người xưa thường nói "có tích mới nên trò" điều đó khẳng định tích chuyện là linh hồn của vở diễn. Cũng chính vì vậy mà chèo được đánh giá là loại hình sân khấu kịch hát kể chuyện dân tộc. Ðiều này đã làm nên đặc điểm cơ bản của nghệ thuật chèo cổ. Không những thế chèo còn thuộc loại sân khấu ước lệ cách điệu, sự khoa trương- tô phóng có tính chọn lọc đã làm nổi bật hơn những góc cạnh đặc trưng của nghệ thuật chèo- những mảng chèo đặc sắc được ra đời từ nhân tố đó.
? thời nào nghệ thuật đều chứng tỏ những nét tương đồng với lối sống của xã hội thời đó. Thời xưa chèo mang đậm dấu vết của những điệu múa dân gian, hàng loạt lễ tiết của phần cúng tế trong các hội làng ở miền bắc Việt Nam. Trong con đường phát triển của nghệ thuật chèo có hình thức tương hợp song song với sự phát triển và sáng tạo. Cá nhân các nghệ sĩ, những nhà nghiên cứu... đã đóng góp một phần vô cùng quan trọng trong bước đường hoàn thiện thể loại kịch hát dân tộc có tính bác học. Chèo hiện đại (chèo cải biên) đã khẳng định được vị thế của mình với những vở diễn và hình tượng con người mới nhờ sự bảo tồn và phát huy truyền thống của nghệ thuật chèo cổ, xứng đáng tiêu biểu cho nghệ thuật sân khấu dân tộc.
nghệ thuật chèo là một "viên ngọc long lanh sắc màu" trong kho tàng văn hoá nghệ thuật chèo với những nét độc đáo, tiêu biểu: quá trình hình thành và phát triển, đặc điểm cơ bản của chèo cổ-chèo hiện đại, trong đó không thể thiếu một số gương mặt của các nghệ sĩ "làng chèo". Những người làm chương trình hy vọng rằng, đây sẽ là một tư liệu cần thiết và bổ ích cho những ai yêu mến tiếng hát chèo và nền văn hoá nghệ thuật dân tộc Việt Nam
Những ý kiến đã phát biểu về nguồn gốc và sự hình thành chèo
CNnhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc và sự hình thành của chèo, tuy nhiên có thể tóm tắt một số ý kiến đã phát biểu từ trước đến nay, về nguồn gốc và thời điểm xuất hiện của Chèo như sau:
- Chèo có nguồn gốc ngoại lai, bắt đầu từ sự kiện quân ta cầm giữ nghệ nhân Lý Nguyên Cát ở trận Tây Kết;
- Chèo khởi lên từ Trịnh Trọng Tử cho quân hát khúc Long ngân đang khi đưa tang vua Trần Nhân Tông:
- Danh xưng chèo do ghi Nôm, dịch chữ Hán ra; hoặc từ chữ Trào (trào lộng) mà ra; hoặc chữ chèo do phát âm sai mà thành chèo; do phiên Nôm, dịch Hán đồng dạng những chữ chào (chào mừng), chữ chầu (chầu thần thánh), chữ triều (triều đình, đọc thành trào đình)...
- Chèo chỉ động tác chèo thuyền, đề nói nguồn gốc chèo xuất phát từ trò tang lễ và lao động;
- Chèo là hình thức sân khấu thuần tuý dân tộc, bắt nguồn từ kho tàng văn hoá nghệ thuật dân gian phong phú lâu đời Việt Nam;
- Về thời điểm thành hình, có những ý kiến cho chèo có ở nước ta từ thời tiền sử, thế kỷ thứ IV trước Công nguyên đến thế kỷ thứ I sau Công nguyên; hoặc thế kỷ thứ X (thời nhà Ðinh); hoặc thế kỷ XIV (cuối nhà Trần);...
2. Người ra còn có ý kiến cho rằng chèo bắt đầu thành hình từ khi có nghệ sĩ Trung Hoa tên là Lý Nguyên Cát (hay Hứa Tông Ðạo)
Dựa trên những gì ghi khắc trong sử sách, bi ký qua các đời Ðinh, Tiền Lê, Lý đến cuối Trần, đã có thể rút ra mấy nhận xét.
Một. Các hình thái hát (kết hợp) múa, các trò hề riễu đã tồn tại ở xã hội ta khá phong phú và ngày một phát triển:
- Ðời Ðinh tương truyền có Phạm Thị Chân, Ðào Văn Xó
- Ðời Lý với tầng lớp tăng lữ đông đảo có thế lực, kết hợp lại qua với quý tộc cũ mới, thêm Nho giáo, rồi qua chiến tranh giữ nước mà chín muồi dần tinh thần dân tộc đưa tới ra đời chữ Nôm với sự liên kết giữa tăng lữ Từ Ðạo Hạnh, nho sĩ Mai Sinh, nghệ nhân Sai ất (hay Phan Khất?). Và rằng phần lớn các vua Lý đều thích múa hát với Ðào Thị, Ðỗ Anh Vũ...
- Ðời Trần, Nho giáo ngày một lấn át Phật Giáo, Ðạo Giáo, nẩy sinh tầng lớp nho sỹ vừa sử dụng tốt chữ Hán, vừa mầy mò xây dựng chữ Nôm, vừa chan hoà với văn hoá dân gian, như Chu Văn An, Nguyễn Thuyên, Dư Nhuận Chi, Nguyễn Sỹ Cố, Trần Nhật Duật,...
Hai. Sự xuất hiện những mảnh trò có tích đơn giản, những nghệ nhân vươn lên chuyên nghiệp nhiều loại, như giáp (kép), đào, lão, mụ, hề, những trò nhại (về hào phú, trưởng giả), những bài giáo (như giáo trống, giáo hương,...) để từ đấy tổ chức Giáo phường, tập hợp người nghề, lần đầu tiên cho nhà nước quản lý, với những phường trò, phường hát,...
Ba. Trong bối cảnh ấy, một Tây Vương Mẫu hiến bàn đào hát tiếng Trung Quốc, ăn vận kiểu Trung Hoa , biểu diễn với dàn nhạc Trung Hoa, không thể xoá nhoà tất cả, để có thể coi là khởi điểm cho sự ra đời một kịch chủng thuần tuý Việt Nam như Chèo. Những cung cách tiến hành biểu diễn tiết mục ấy, với sắc thái và âm hưởng như sử sách miêu tả, xét các mặt nghệ thuật hát, múa, diễn kỹ, không ai có thể nhận thấy là chèo.
Có chăng, với số điểm mới trong tiết mục (như quần áo lại kiểu, âm nhạc lạ tai, sân khấu hẳn hoi, nghệ nhân ra diễn, lại vào, lại ra diễn...) sẽ góp phần thúc đẩy nghệ thuật bản địa thích ứng nhanh hơn với tình hình và yêu cầu thưởng thức của nhân dân đương thời.
3. Từ trước đến nay, chúng tôi vẫn cho rằng, chèo bắt nguồn từ kho tàng văn hoá nghệ thuật dân chúng , với sự đóng góp quan trọng của giới trí thức bình dân và quý tộc, từng tồn tại lâu đời trên đất nước Việt Nam, đúng ra là vùng trung châu và đồng bằng miền Bắc
Khi nói chèo bắt nguồn từ kho tàng dân ca cổ truyền Miền Bắc, lưu ý rằng, không phải loại dân ca nào cũng có thể phát triển thành chèo, mà chỉ những loại hát nói đậm đặc chất tự sự mới tiềm ẩn khả năng đó, chí ít cũng có số hình thái mang âm hưởng gợi nhắc đến chèo. Tất nhiên, những nghệ nhân chèo lành nghề có thể "chèo - hoá" không mấy khó khăn bất cứ làn điệu hoặc bài dân ca nào.
Có vẻ như cổ xưa, mấy loại dân ca đồng bằng miền Bắc, như Hát đúm, Hát ví, Hát trống quân... với cấu trúc giai điệu ngắn gọn thẳng đuột, phụ thuộc vào ngữ điệu, tiết nhịp câu dân dao 6/8, thêm dăm ba tiếng đệm lót vào đầu, chen giữa hoặc vào cuối cho thành về trống vế mái. Về sau, tuỳ địa phương, tuỳ người hát, chúng có chuyển hoá chút ít hoặc thêm chữ để thành những câu thất tự, bát tự, cửu tự hoặc thêm nội dung làm câu hát dài ra; hoặc thêm đảo nhịp, nghịch nhịp cho câu hát thêm vui nhộn; hoặc gia tăng loại câu đố đó thêm lề lối các loại dân ca khác, đặt vào "giọng vặt", làm buổi hát là sự tập hợp sắc màu cho "xôm trò" hơn là một cách phát triển nghệ thuật.
Những loại dân ca cổ hơn thì qua lề thói sinh hoạt và tiến trình thực hiện, đủ nói sự phát triển từng thời kỳ với số hiện tượng nghệ thuật khá gần gũi với chèo.
Như Hát Xoan (Phú Thọ) mà các hội làng mấy huyện Phù Ninh, Lâm Thao, Tam Nông, Ðoan Hùng, Hạc Trì hàng năm mở đầu cầu thịnh đầu xuân, đều đón Phường Xoan về đình hát thờ và vui chơi. Việc Phường Xoan đi hát các làng không phải vì kế sinh nhai, mà do ràng buộc về tập tục "nước nghĩa" với nhau.
Các buổi hát xoan thường bắt đầu từ chập tối. Khi hát, đào thường đội khăn nhung, xống láng, áo the thâm, thắt lưng đen, có khi bao xanh hoặc hồng; kép thì khăn lượt hoặc khăn xếp, áo the thâm, quần trắng, cổ quàng giải khăn nhiễu điều. Sau hồi trống dạo, Trùm phường cùng ông Chủ tế hội làng ra trước hương án cất câu hát chúc (kiểu đọc sớ). Dứt tiếng, một kép trẻ đeo trước bụng chiếc trống nhỡ, vừa hát vừa nhún nhẩy, miệng Giáo trống, Giáo pháo. Rồi bốn đào xếp hàng ngang, tay càm quạt khuỳnh ra trước mặt vừa hát Thơ nhang vừa làm điệu bộ câu "Tiến nhang lên, lùi nhang xuống" và bắt vào Ðóng đám, chấm dứt 4 câu "vặt" mở đầu, để chính thức vào hát Quả cách (gọi tắt là hát cách), theo trật tự quy định từ quả 1 đến quả 14 (như Kiều giang cách, Nhàn ngâm cách, Tùng mai cách, Xuân thời cách, Chèo thuyền cách, Tứ mùa cách,...). Hát hết các quả lại chuyển sang hát các dọng "vặt", (như Bợm giá, Bỏ bộ, Xin hoa, Bắt cá, Hát phú,...). Xem chừng đã hòm hòm, ông Trùm và ông Chủ tế cất câu hát giã kết thúc đêm hát.
Trong bài Phú Năm canh thấy có những câu giống in mấy câu trong vở chèo Quan Âm, như:
Bây giờ hồ sang trống canh một, Chim bay về chân núi Lịch San, Ve gợi sầu nhắn nhủ đê đàn, Sông lai láng, buồn về góc bể....
Và còn không ít câu gợi nhắc văn vở Lưu Bình Dương Lễ....
Hay như Hát dậm (Hà Nam cũ) mà hàng năm, làng Quyến Sơn (Kim Bảng) mở hội để tưởng vọng công tích Lý Thường Kiệt đánh giặc Chiêm thuở nào, thì Phường dậm lại tụ họp nhau tập dượt hàng tháng trước. Hát dậm cũng nằm trong phạm trù hát tờ và vui chơi, có những hình thái diễn xuất không mấy khác Hát xoan, chẳng những thế, còn gây cảm giác "cổ" hơn.
Nằm trong các sinh hoạt dân ca cổ, như Hát cửa đình, hát quan họ, hát dậm,... thường thấy đưa vào vô số giọng "vặt" mang tên hát bỏ bộ, tức là hát có điệu bộ, mà nhiều khi thực chất là những trò diễn giản đơn, hồn nhiên, ở mức hoạt cảnh và nếu thêm tích thì còn sơ lược, có tính chất minh hoạ. Nhưng thú vị thay, chúng lại mang những gì gần gũi nhau, trước hết về sự hài hước dung tục, anh em với hề chèo.
Song xét mặt ca nhạc, thì gần gũi với hát chèo hơn cả có lẽ là hát xẩm, loại nghệ thuật "đặc biệt" của lớp người mù loà có năng khiếu văn nghệ, mà dân gian gọi là xẩm. Bất chấp mọi điều kiện hết sức khó khăn, xẩm là biết tổ chức nhau lại thành Làng, Phường hoặc Hội, có ông (bà) Trùm (do làng bầu) và số nghệ sỹ giỏi nghề có uy tín, trông coi cắt đặt công việc làm nghề, hàng năm có họp bàn xem xét mọi mặt, bầu người cầm đầu, giải quyết các vụ việc tranh chấp, dạy dỗ bọn trẻ...
Thành ra, hát xẩm từ yêu cầu của khách thưởng thức đòi người nghề phải thể hiện nội dung ngày một mở rộng (câu hát dài hơi hơn, tích chuyện đi sâu hơn, nhân vật nhiều hơn,...), nên mặc dầu ở tình cảnh mù loà, ngồi một chỗ vừa hát vừa đàn và làm điệu bộ, nó cũng đã gia tăng làn điệu với sắc thái nhiều đến kết cấu làn điệu của hát chèo. Dĩ nhiên, có thể nghĩ, là hát xẩm ra đời trước khi có hát chèo, là một trong nhiều nguồn góp phần cấu thành hát chèo; hoặc ngược lại, hát xẩm chỉ là bản sao vụng về của hát chèo trong điều kiện và hoàn cảnh rất ư hạn chế của lớp người tật nguyền; hoặc đây là mối liên quan ruột rà tất yếu không ai chối cãi giữa hai loại hình, bởi chính nghệ nhân xẩm xếp Hát xẩm và Chèo cùng loại trung ca, trong khi Tuồng vào loại võ ca, Ca trù vào loại văn ca.
Những điều vừa trình bày qua thực tế nghệ thuật của một phần kho tàng hát múa dân gian vùng trung chân và đồng bằng miền Bắc đã thấy chúng có những tố chất khả dĩ dẫn đến sự hình thành hoặc có ảnh hưởng qua lại đậm đặc hay nhẹ nhõm tới nghệ thuật chèo (cổ).
Ðã nói chèo bắt nguồn từ kho tàng dân ca, dân vũ, dân nhạc và trò diễn dân gian, bao gồm những trò nằm trong phạm trù tín ngưỡng, những trò trình diện, trình nghề luôn thấy trong các hội làng, mà nó cấu thành ngôn ngữ nghệ thuật, để thể hiện một kịch bản với vở diễn mang sắc thái hứa hẹn phong cách một loại hình cao hơn, hay nói cho đúng, là tạo dựng được số hình ảnh có tính cách nói lên đức độ, với nghệ thuật thể hiện phức tạp tinh tế hơn.
4. Hát múa thời Trần và Chèo thuyền bản
Chèo thuyền bản đánh dấu sự thành hình kịch chủng chèo, xuất hiện vào nửa sau đời Trần, khoảng cuối thế kỷ XIV, với sự đóng góp của tầng lớp trí thức bình dân-quý tộc. Những hình thái văn hoá nghệ thuật thành văn cũng như dân gian thời ấy khả dĩ xem là những yếu tố cấu thành chèo:
- Ðã có nghệ sỹ (Phạm Thị Chân), nghệ sỷ làm trò nhại (Ðào Văn Xó) từ thời Ðịnh;
- Ðã tổ chức giáo phường và định tên gọi đào, kép, hề ghi vào văn bản nhà nước từ thời Lý, với nhà sư Từ Ðạo Hạnh, sáng tác giáo trống, Sai ất làm trò cười;
- Thời Trần đã có những trí thức làm nghệ thuật nổi tiếng như (Tiến sĩ) Dư Nhuận Chi giỏi soạn bài hát, Thiên chương học sỹ Nguyễn Sỹ Cố giỏi nhạc giỏi đàn, rất có tài khôi hài,...
- Ðã có số tiết mục hát múa, trò diễn thể hiện một tích truyện đơn giản (Trang Vương và 6 người con), một loại người ở mức khái quát nhất định (các vai trình nghề: Thày Ðồ, Thày Ðạo,... cả những Thằng Ngô, con Bợm, Nhiêu Lập, Nhiêu Oanh,...).
Nói đến chèo thuyền bản là nói đến sự tích có 4 nhân vật do 3 người đóng vai. Nó đã có tích hẳn hoi, tuy còn ở dạng truyện huyền thoại nhưng mang ý nghĩ quan thiết đến đời sống con người.
Từ những cung cách thể hiện những trog giáo, chèo thuyền bản nêu lên một kiểu kể chuyện bằng sân khấu do chính những người sắm vai cung nhau thực hiện với số nét riêng.
So sánh các sinh hoạt hát múa và trò diễn dân gian đã nêu, nhất là qua kết cấu và chữ dùng trong đó thấy Giáo đò nếu không trước nhất, thì cũng ra đời cùng thời, với những giáo hương, giáo mõ, giáo trống, giáo đất, giáo pháo...Ðương nhiên, giáo đò có thể có câu cú chữ nghĩa trau tria hơn, do tăng lữ viết và được lưu truyền rộng khắp, được dùng nhiều.
Chèo Thuyền bản là bản chèo xưa nhất, ra đời vào thời kỳ khoảng giữa giáo đò với chèo thuyền lễ cách và trò diễn Mục liên địa tạng, đủ khả năng đánh dấu sự thành hình kịch chủng chèo.
Chèo cổ có những đặc điểm sau:
Chèo thuộc loại sân khấu khuyến giáo đạo đức
Chèo thuộc loại kịch hát dân tộc, một dạng hát - múa - nhạc - kịch mang tính tổng hợp Chèo thuộc loại kịch hát bi - hài dân chúng Chèo thuộc loại sân khấu kể chuyện Việt Nam (còn gọi là sân khấu tự sự dân tộc) Chèo thuộc loại sân khấu ước lệ và cách điệu Ðặc điểm chuyên dùng và đa dùng nghệ thuật bộc lộ quy luật phát triển của chèo cổ
Sáu đặc điểm trên liên quan mật thiết với nhau, cái nọ bổ xung, hỗ trợ, tác động lại cái kia, cùng đứng chắc trên quan điểm triết mỹ khá rõ. Tất nhiên tùy quan niệm của người vận dụng, có thể đưa sân khấu kể chuyện lên đặc điểm 2, đến kịch hát bi hài, đặc điểm 3, hát - múa - nhạc - kịch cũng gọi là ngôn ngữ nghệ thuật kịch chủng, đặc điểm 4, hoặc đặc điểm hát - múa - nhạc - kịch trên đặc điểm kịch hát bi hài. Nhưng đặc điểm khuyến giáo đạo đức và đặc điểm chuyên dùng đa dạng nghệ thuật thì nhất thiết phải ở vị trí một và sáu, do chúng chi phối quán xuyến cả bên trong lẫn bên ngoài, cả quá khứ, đương đại và tương lai, có tính quyết định bộ mặt và sức sống của kịch chủng. Cũng như đặc điểm ước lệ - cách điệu thuộc phạm trù biểu diễn đặt vào vị trí năm là thoả đáng.
Không quên, 6 đặc điểm trên hình thành dần trong điều kiện và hoàn cảnh của một xã hội văn minh lúa nước, diễn biến tự phát, lẻ tẻ, chậm chạp; lại bị một thời gian thử thách với xã hội thời Pháp , nhất là trước tầng lớp thị dân, nên có tình trạng đan xen đến phức tạp, giữa các yếu tố hiện còn khả năng đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người hôm nay, với số yếu tố dẫu một thời được nhiều khách mê say, nhưng giờ đã trở thành rườm rà, dài dòng, nên đòi hỏi một sự nhìn nhận biện chứng bằng những cặp "mắt xanh", mới hy vọng kế thừa học tập thỏa đáng vốn cũ để xây dựng tốt cái mới.
1. Thử phác quá trình chuyển hóa và phát triển của sân khấu kịch hát chèo qua thực tiễn nghệ thuật mấy vở truyền thống:
* Lưu Bình trò:
Lưu Bình trò có thể xuất hiện vào thế kỷ XVII. Có thể nói đây là vở ở dạng cổ nhất. Các bản đều có số lớp trò tuần tự như sau: Giáo đầu; Dương Lễ tới rủ bạn là Lưu Bình đi thi; Dương Lễ đậu "tam kỳ đệ nhất"; Lưu Bình thi trượt, về quê thì nhà cửa bị "cơn binh hỏa" cháy sạch, sang nhờ bạn, bị Dương Lễ sai Trù Phòng làm nhục; Dương Lễ cậy 1 trong 3 vợ đi nuôi bạn ăn học, nhưng chỉ có Châu Long, vợ 3 khẳng khái nhận lời; Quán Nghênh Hương, Lưu Bình gặp Châu Long; hai người về sống chung; Lưu Bình sau 3 năm dùi mài kinh sử, thi đậu về nhà thấy Châu Long; Lưu Bình buồn rầu, được Dương Lễ cho lính mời sang chơi; Ðôi bạn cũ gặp nhau, Lưu Bình than thở Nàng Ba ra hầu trà: Lưu Bình chợ hiểu thâm ý bạn, cúi đầu, vái Anh, kính Chị hát Kết trò.
Sự khác nhau giữa các bản trò thường do sau này thêm vào trò diễn ý nghĩa sâu hơn và cũng hấp dẫn hơn. Như có bản thêm vào lớp Thày Ðò dạy học tiếp theo lớp Dương Lễ sang rủ bạn đi thi (nay đổi là đi học); có bản thêm lớp Vợ chồng giữa lớp Lưu Bình gặp gỡ Châu Long ở Quán Nghênh Hương. Nhiều bản vở mở rộng 2 câu kết làm Vãn trò nhấn thêm chủ đề bằng hữu, Vợ chồng. Kể thêm vô số câu pha trò của Trù, Phòng dinh Dương Lễ, của chú Hề đi theo Lưu Bình, tất cả như cố ý nhắc nhở, cảnh tỉnh những học trò "cả tháng rông dài; một ngày kinh sử"......
Nhưng so chiếu một số mặt nghệ thuật giữa các bản trò, thấy có những điểm đáng lưu ý: Ở lớp giáo đầu, Lưu Bình chỉ dẫn chung chung:
Nhớ xưa tích cũ, Có hai chàng Dương Lễ Lưu Bình Bạn đồng khoa đèn sách học hành.....
Rồi sau nói: "Ðây đã đến Kinh Kỳ Kẻ chợ" và "bên kia Tây Hán có tên học trò Lưu Bình đỗ "tam kỳ đệ nhất"; còn các bản Lưu Bình lại nói:
Có hai chàng Dương Lễ Lưu Bình, Kẻ Sơn Tây, người Bắc Ninh...
Vở này được nhà nghề truyền ngôn là "văn chương nghĩa lý", gồm phần lớn thơ thất ngôn, thỉnh thoảng chen đôi câu ngữ ngôn. Riêng Lưu Bình trò thấy một lần viết theo thể 4/8 lồng cho sử rầu:
Công danh bởi trời, Kim lan nghĩa cũ, trách trời sao nên
Về nghệ thuật Lưu Bình trò được nhà nghề xếp vào loại trò nhời, sử dụng chủ yếu nói sử cùng với các dạng sử rầu, than sử, mà "cao" nhất là sử chuyện đã thành điệu, chen vào những ngâm thơ, nói vần, nói thường biền ngẫu. ở đây không có sự biến đòi giải quyết gay gắt, dùng nhân vật ở vào thế đối phó trực diện, mà là những hành vi và lời lẽ thuyết phục nhau, xoay quanh mấy quan hệ bình thường nhưng "đặc biệt" giữa bạn bè, vợ chồng, tớ thầy.
Lưu Bình trò hoàn thiện dần một cách kết cấu bản trò theo dạng sân khấu kể chuyện riêng, ở chỗ các sự biến xẩy ra tuần tự, được nghệ nhân thể hiện bằng nói lối và hát kết hợp mà lộ dần tính cách, thật ra là đức độ mỗi lúc dầy thêm, cho đến khi đạt yêu cầu mà soạn giả đề ra cho tích trò và cũng phân thành những lớp giáo đầu, lớp vào trò, thân trò với số lớp ruột trò, lớp kết trò, rồi sau cùng lớp vãn trò.
Nhìn vào quá trình chuyển hóa sáng tạo nghệ thuật thấy Lưu Bình trò đã đóng góp số lớp riêng giá trị cho vốn nghề truyền thống ngày càng sắc sảo và thâm thúy về Hề, về giá trị thơ văn và chất trữ tình khi miêu tả quan hệ vợ chồng cả chân và giả làm cho tiết mục trở thành vở trò nhời mẫu mực của nghề Tổ.
Ðoán định Lưu Bình trò có thể xuất hiện khoảng thế kỷ XVII là từ những lẽ đó, mà chưa nại đến nguyên nhân làm cháy nhà chàng Lưu ("qua cơn binh hỏa" hay tại "nạn hỏa tai"?). Nghệ sỹ các thế hệ sau, cả các nho sỹ, các nhà khoa cử, sẽ bồi đắp sáng tạo thêm về nhiều mặt nghệ thuật, nhất là mặt hài hước với số câu, đoạn pha trò sắc bén, châm chích "gán" vào miệng chú Trù Phòng, chú hề gậy, cố ý để chuyển thành chèo Lưu Bình Dương Lễ của thế kỷ XIX sau này.
* Quan âm trò:
Từ Quan âm trò sang chèo Quan âm đến Quan âm Thị Kính đánh dấu bước phát triển quan trọng hơn nữa của nghệ thuật chèo sân đình. Bản Quan âm trò cổ nhất tìm được thấy ghi khắc in năm 1872. Các bản Quan âm trò bằng chữ quốc ngữ la-tinh mới in năm 1924 tại Hà Nội.
Ðây là vở chèo tiếp nối dòng trò nhà Phật được đông đảo dân chúng thích thú thưởng thức nhất từ trước đến nay, kể lại 2 nỗi oan tày đình, với sự chịu nhẫn nhục cực kỳ của Thị Kính Phật Bà. Ngoài lớp giáo đầu, Quan âm trò gồm hai phần: phần 1 kể sự kiện "thửa làm vợ để chồng ngờ thất tiết" với các lớp (Thiện Sĩ) hỏi vợ, (ông Mãng) gả con, sự biến tỉa râu và nỗi oan giết chồng, (Thị Kính) than thở phần 2 kể "lúc làm trai cho gái đổ oan tình" với các lớp Chùa Vân (và Tiểu Kính) , (Thị Mầu) lên chùa, Nô và Màu, Việc làng (gồm lớp Mẹ Ðốp-Xã Trưởng, lớp Bắt khoán), "Trả" con, Nuôi "con"; Nỗi oan giải tỏ, Phật tổ ban sắc và cuối cùng là lớp Chạy đàn.
Quan âm trò đã chứng tỏ một trình độ phối kết nhuần nhị và một sức sáng tạo nghệ thuật phong phú, các thủ pháp cấu thành ngôn ngữ nghệ thuật kịch chủng khi mô tả những sự biến, những nhân vật trong quá trình bộc lộ phẩm cách, nhất là với số nhân vật có suy nghĩ và hành động vượt ra ngoài khuôn khổ đạo đức nhân sinh của xã hội đương đại.
Có thể nói chèo Quan âm có nhiều lớp trò mới với những khuôn diễn mới bao gồm làn điệu mới, điệu múa mới và tất nhiên tạo hình mới. Như những lới tỉa râu, đánh mắng con dâu, Thị kính than thở, Tiểu nuôi "con", chạy đàn; đặc biệt là lớp lên chùa sử dụng chủ yếu hát múa kết hợp với lời thơ và diễn xuất tạo hình, lớp Việc làng chỉ dùng nói thường vần vè và nói lối cùng với số nhân vật biểu trưng sắc sảo cho cái ngu dốt, thối nát của lũ hào lý nơi xóm thôn, kết hợp với diễn kỹ tương hợp mà đạt hiệu quả sáng giá lâu dài. Sự sáng tạo ở đây thật đáng lưu ý, bởi nay chân kinh và truyện nôm cũng chỉ miêu ta đận lên chùa trong 16 câu thơ 6/8; tả đoạn làng bắt khoán chưa đến 20 câu và không hề ló thấy những Vợ Mõ, Xã trưởng với lũ Ðồ "điếc", Hương "câm", thầy "mù".
Xét về mặt nghệ thật, có so chiếu với văn chương và nội dung các bản chân kinh, truyện nôm, so chiếu với kết cấu cả nội dung và nghệ thuật số vở vẫn được nhà nghề coi là mẫu mực của vốn chèo truyền thống, có thể đoán định Quan âm trò ra đời vào thế kỷ XVIII, sớm cũng là cuối thế kỷ XVII. Tất nhiên do sự phổ biến sâu rộng trong quảng chúng, Chèo Quan âm được lớp thế hệ nghệ nhân, cả nho sỹ sáng tạo bổ sung không dứt, điều mà tất các loại hình văn nghệ dân gian đều trải qua; để nói sang thế kỷ XIX, chèo quan âm dần chuyển thành chèo Quan âm thị kính với các phần nghệ thuật vẫn trau chuốt tiếp tục mà trở thành vở chèo cổ truyền hoàn chỉnh hơn hết.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 6:39:58 GMT 9
3. Trò Kiều: trò kiều, chèo Kiều mới xuât hiện khoảng giữa thé kỷ XIX,hoặc muộn hơn vài chục năm, thậm chí vào đầu thế kỷ XX, do chúng vẫn đang trên đà tsáng tạo bổ sung nghệ thuật. Bởi ngay Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng mới thai nghén và ra đời những năm cuối thế kỷ XVIII hoặc đầu thế kỷ XIX. Càng không thể có chèo Kiều ra đời trước Truyện Kiều.
Từ những bản trò Kiều có hoặc không mang tên soạn giả, đã hoặc chưa đưa ra công diễn, thử lấy ra mấy nhận xét:" Thời kỳ Kiều ilấy Từ hải, đều không sử dụng đoạn "đại đoàn viên" của truyện nôm, mà lại kết vở bằng cảnh "trẫm mình trên sông Tiền Ðường". Phải chăng, đông đảo khán giả và người nghề cũng cho là cảnh Kim Kiều đoàn tụ lúc kết truyện mang nhiều giả tạo, không thực tế? Hoặc vào chiếu chèo, trò Kiều có phần chịu ảnh hưởng về cái chết "trọn vẹn" của "con vân bạc dạ hát hay múa lạ" mà điều kiện (tài năng, thời gian) chưa cho phép họ tạo dựng một hình tượng nàng Kiều "đẹp và hay" hơn vân dại? và quả thật, hình ảnh nàng Kiều chưa có thời gian để nghệ nhân thể hiện thành sống động, gây ấn tượng sâu sắc và mạnh tới nhiều người xem, như nàng Vân dại.
Thứ hai, kết cấu Truyện Kiều đầy tính kịch, để lộ rõ từng mảng đời nhân vật chính, cho phép những người làm chèo dễ dàng lẩy ra thành vở diễn, nói đủ một sự kiện "lớn", qua các đận vào đề, gặp biến cố, mở ra tình huống mới.Vì thế, chèo không qua lo lắng kể lại chuyện đời của nàng kiều ngành ngọn trong đêm, hoặc trong vài đêm liên tục, mà phân ra từng "vở nhỏ", song chẳng ai bảo làm thế là không thoả mãn thị hiếu đông đảo khán quan. Như vở vở Kiều du xuân (còn có tên Kiều-Kim Trọng) đã thể hiện mối tình nồng nàn trong trắng của đôi lứa, đẹp đẽ tới mức xem cũng mơ ước, được các hội Xuân làng xã đón mời háo hức..Có lẽ chư một truyện nôm nào được chèo khai thác sâu và kỹ, để nhân lên những bài học với các cách đối phó, ứng sử trong cuộc đời trước mắt như Truyện Kiều.
Thứ ba, tiếng cuời trong các vở chèo Kiều cũng như hầu hết những vở truyền thống khác, chiếm gần nửa, lắm khi khi hơn, thời gian buổi biểu diễn và ở nhiều cung bực: vui vẻ thoải mái hư Hề đồng Kim Trọng, Lão Mốc với thày trò Kim Trọng; chê trách nhẹ nhàng thì như Hề với Thúc sinh….ở đây, nghệ nhân lợi dụng mọi tình huống cho phép để "pha trò", theo cung cách thường gặp trong cấu trúc diễn chèo, là xen kẽ "lớp" hài, "lớp" bi hoặc trữ tình và ngay ở ‘lớp’ bi cũng cố chen vào đôi tiếng cười. Dường như lan tràn suốt vở là những tiếng cười nhẹ nhõm đôn hậu, cốt xoá bớt nỗi cực nhục bi phẫn của Thiúy Kiều; ngoại trừ đôi câu thô thiển tục tĩu khá "tương xứng" với không khí sinh hoạt xuỗng xã chốn lầu xanh.
Nhìn chung, các vở chèo Kiều nghiêng nhiều vở loại trò nhời, nhờ tính nhân bản và chất hiện thực đậm đà của tích truyện khái thác, lại do nghệ sỹ được đông đảo khách xem cổ vũ khuyến khích, đã bất chấp sự ra đời muộn màng, mà có số mảng diễn, vai đóng mang những nét nghệ thuật riêng khó lẫn lộn.
Nói đến mảng miếng "hay" trong chèo Kiều, nhà nghề đều nhắc những cảnh thề nguyền, sai nha, khấn Tiên Sư, lầu Ngưng Bích, báo ân trả oán...mỗi cảnh mỗi sắc, thật rõ nét rõ người, gây nổi trong bà con ngồi xem sự thương cảm ngậm ngùi dai dẳng khó dứt về số phận nhân vật chính.
Sự hình thành những vở chèo khai thác Truyện Kiều, cũng như sự ít ỏi của số sáng tác nhạc mới, "múa" mới, kể cả khuôn diễn mới, khả dĩ làm mẫu mực cho nghề Tổ, có thể còn vì nghệ nhân chưa đủ thời gian sáng tác tạo nghệ thuật, để dần hoàn thiện chúng chăng? Vì lẽ đó mà có thể đặt chèo Kiều vào thời kỳ cuối rốt của quá trình phát triển chèo sân đình.
2. Mấy nhận xét về quá trình chuyển hoá và phát triển của chèo sân đình:
Vậy là, chỉ cần căn cứ vào những vở cổ còn lưu giữ trong nhà nghề, đặc biệt số vở được nghệ nhân lấy ra những mảng miếng, thủ pháp đủ sức làm mẫu cho nghệ thuật truyền thống, chúng ta đã thể nhận ra quá trình chuyển hoá, phát triển nhiều mặt của chèo cổ, đúng hơn chèo sân đình.
Trên đường xâm nhập ngày càng sâu vào mọi mặt sinh hoạt đời thường của bà con thôn xóm, những người làm chèo đã nhanh chóng kịp thời chuyển địa điểm diễn qua sân đình, từ lòng đình hoặc thềm đình quay ra ba phương sáu hướng, lấy đấy làm khán trường ngoài trời rộng rãi phóng khoáng; Cứ thế, dần hình thành cả loạt nguyên tắc kịch thuật linh hoạt độc đáo, mà nhiều nhà chuyên môn gọi là sân khấu ba mặt.
Quá trình tìm cách thể hiện các tích mới, nhân vật mới, tình huống mới, nghệ nhân đã vay mượn các loại dân ca, dân vũ trò diễn dân gian và "chèo hoá" chúng dần cho tới khi thành thủ pháp của vốn nghề nhà. Không loại trừ những cái mới không thể không sáng tạo, ban đầu có thể còn vụng về, gồ ghề, sau được người này kẻ kia uốn nắn sửa sang mà thành hay dần, đẹp dần, với sức diễn tả mạnh dần.
Dường như trong chèo cổ, cái cười ngày càng chiếm thời gian dài, càng chú ý phản ánh những thói hư tật xấu của đời thường. Ðiều đó, làm cho tính xã hội của chèo ngày mỗi nổi đậm về sau. Nổi bật hơn cả là lớp việc làng chỉ bằng nói thường, nói lối, nói rao, "ngâm thơ", với đủ thành phần nhân sự của bộ máy chính quyền cơ sở đại diện cho pháp luật, tập tục, đạo lý, tôn giáo, bị vạch mặt thật ê chề.
Song nhà nghề trân trọng gìn giữ, coi là mẫu mực cho nghề Tổ, còn là cả loại hình tượng nhân vật nữ tốt có, chưa hẳn tốt có, chưa hẳn xấu cũng có, đặc biệt là số nhân vật nữ vượt khỏi vòng kiềm toả của đạo lý phong kiến, như Thị Màu, đào Huế, Suý Vân,...
Có điều, nếu Thị Màu chỉ là nhân vật đối tỷ cốt làm bật rõ sự nhẫn nhục của Thị Kính lần nữa, để đức độ nàng khả dĩ đủ mức lên toà sen thành Phật Quan Âm; nhân vật đào Huế tuy chẳng ai nói là "phản diện" nhưng cũng không được nhà Nho "ưa", vẫn chỉ là chi tiết phụ, mà nếu có lược đi cũng không hại gì đến kết cấu và chủ đề tích chuyện; còn Suý Vân, người phụ nữ bất đắc dĩ đành bỏ chồng, lại nằm vào bản thân (tích) trò, hay nói đúng hơn, dễ tới 2/3 thời gian diễn tích Kim Nham là để thể hiện nàng.
Thị Màu, Ðào Huế, Suý Vân đều được nghệ nhân sáng tạo thành khuôn diễn với nhiều bài hát múa dành riêng, độc đáo, tới nay vẫn giữ nguyên giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật.
Những tính cách, chính là đức độ bản sắc nhân vật ấy thường bộc lộ thụ động, tức là họ chỉ phô bày tâm trạng và cách ứng phó khi sự biến đã xẩy ra, bằng cách diễn xuất mang nội dung và hình thức nhiều ít hấp dẫn đủ sức làm gương cho người xem. Chỉ số ít mang tính cách vượt khỏi quan điểm phong kiến mới phô bày một cách chủ động, mà có đúng là cố ý, khi nghệ nhân dùng những làn điệu và khuôn diễn thật đặc sắc làm rạng rỡ nghệ thuật cổ truyền: tính từ những nhân vật Thày Ðồ, Thày Bói, Phù Thuỷ, Vợ Mõ đến Thị Màu, Ðào Huế, Suý Vân.
Ðồng thời với sự xuất hiện lần lượt những cái mới trên, tính xung đột hay thường gọi là tính kịch trong một số bản trò cùng tuỳ người soạn, tuỳ tích, tuỳ phường gánh và khán giả mà gia tăng đáng kể. Ðiều này đi theo với việc bộc lộ tính cách nhiều hay ít chủ động của nhân vật. Như xung đột trực diện và quyết liệt giữa Ðào Huế và Tuần Ty (với đào Nấp) là một bước "mới" so với xung đột cũng trực diện trước đấy giữa Châu Long và Lưu Bình, hoặc giữa Vợ Mõ với Xã Trưởng.
Ðừng quên, dầu nhà nghề nhìn nhận rất "đúng", rằng từng vở diễn thường là sự ghim ghép (cho là có sáng tạo) các mảng diễn sẵn có của vỗn cũ song với ngót một chục vở truyền thống vẫn được làm mẫu mực cho nghề Tổ, thì nhận xét đó không mấy chính xác. Nhìn vào thực tiễn nghệ thuật của những vở này, ngay số lớp diễn đa dùng (như lớp giáo đầu, lớp lão ông có con gái lớn đến tuổi...) đã thấy sự cố gắng vận dụng cho sát yêu cầu thể hiện bản trò số lớp thuộc vào thân trò cũng chỉ thấy đôi nét hao hao (như Thị Phương lấy chồng đâu có "giống" Thị Kính hát múa Duyên phận phải chiều với Thiện Sỹ, càng không "giống" Suý Vân hát múa vu quy với Kim Nham,..); còn những lớp ruột trò của tích thì rõ ràng khác hẳn về nội dung đã đành, nhất là về hát múa và diễn xuất tạo hình, và dẫu có dùng lại đây đó một vài điệu s?p hay sa lệch hoặc mươi câu nói sử thì nhờ diễn suất thể hiện nội dung mới, chúng đã ăn nhập với toàn khuôn diễn mới. Cứ thử so sánh nghệ thuật của ông Mãng với Lão Mốc, của Thừa Tướng với Trương Công, của Trương mẫu với Tống mẫu, của Hề theo Trương Viên với Hề theo Lưu Bình, Hề theo Kim Trọng v.v... mọi người đều thấy mỗi lớp có nét riêng khó thể "in lại máy móc" vào bất kỳ vở nào khác. Nói chi những lớp "ruột" (Chạy loạn, Sống chung, Lên Chùa, Việc làng, Ðánh ghen, Vân dại,...) là những tập đại thành về trí sáng tạo truyền đời của các thế hệ làm nghề, bao gồm từ người soạn tích, người sắp trò đến nghệ sỹ ở đây cũng thấy rõ quá trình thu hút hòa nhập số loại hình dân ca, dân vũ, diễn xướng và trò diễn dân gian làm thành bản thân nghệ thuật chèo, mà thực tế diễn xuất của số vở truyền thống còn hằn rõ dấu vết. Cho nên, nói "chèo ra đời từ thời Ðinh, xây dựng trên cơ sở trò nhại và hát múa" như một nhà nghiên cứu đã viết là chưa thỏa đáng. Thực ra, chèo từ loại Giáo phát triển thành có tích, có nhân vật, từ đấy du nhập, chuyển biến các loại hát bỏ bộ (trong sinh hoạt hát Xoan, hát Dậm, hát Dô,...), các loại hát nói (trong hát ả đào, hát văn, hát xẩm,...), kết hợp với số động tác trong múa (hát) chèo đò, múa (hát) cửa đình (các khuôn múa bàn tay, múa lượn ngón, múa cánh tay), múa mâm đên, múa qnạt, múa cờ,...; với cả những trò nói mặt, trò trình nghề vốn rất phổ biến trong những hội làng, đánh dấu từng mức trình độ sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ thuật của đồng bào từng vùng.
Cho nên, nói chèo sân đình hình thành ngôn ngữ nghệ thuật ngay khi thành hình và phát triển kịch chủng, là đã lưu ý nhiều đến số lớp trò chuyên dùng, xếp cạnh số lớp trò đa dùng, trong đó, âm nhạc giữ vai trò rất quan trọng. Nói cách khác, những gì làm người xem phân biệt chèo với các kịch chủng cùng nằm trong loại hình kịch hát dân tộc (Việt) như Tuồng, kể thêm Cải lương, chưa nói Opera, hay kịch nói, những cái lọt vào tai, hiện ra trước mắt người xem (dù là tâm tư tình cảm nhân vật hay không gian thời gian xẩy ra sự biến) chính là âm nhạc, gồm cả nhạc gõ, nhạc khí và làn điệu qua nghệ thuật biểu diễn của nhà nghề.
Nhìn phương diện đó, với quan niệm rộng rãi về nhạc như cha ông ngày trước, có thể nói, quá trình hình thành và tiến triển nghệ thuật suốt 5 thế kỷ của chèo sân đình, từ Trương Viên trò, Tống Trân trò, cả Lưu Bình trò, rồi Quan Âm trò, sang Chu Mãi Thần, Kim Nham, phải chăng cũng là quá trình phát triển của nhạc chèo, nằm trong đường đi chung của nền nhạc dân tộc (Việt)?
Ðương nhiên, do phải phụ thuộc hoặc chịu ảnh hưởng nhiều ít của những biến thiên văn hóa xã hội mỗi thời kỳ lịch sử mà từ Lý Trần về trước, nhạc dân gian và nhạc cung đình, hòa hợp gần như là một; sang đời Hậu Lê có lúc nhạc cung đình hướng ngoại cố giữ vị trí chủ lưu, song không bao lâu cũng chịu bất lực để "tục nhạc" (trong đó có nhạc chèo) bùng lên, ùa tràn vào các lễ nghi triều miếu, bất chấp mấy lần vua Lê chúa Trịnh ra sắc chỉ cấm đoán ngăn chặn, như từng chép ở Ð?i Việt sử lý, Vũ trung tuỳ bút. Tới thế kỷ XIX, nhà Nguyễn có lúc muốn thâu tóm tất cả những gì thuộc lễ nhạc về một mối, lập hẳn một Thự, rồi một ban Hiệu Thư chuyên lo mà cũng chỉ cản trở chuyện đó phần nào. Bởi chèo sân đình nhờ bám chắc vào đời sống đông đảo bà con và các Hội làng, nên dù ở hoàn cảnh nào cũng được nhân dân bù trì khích lệ mà tồn tại và lớn dần đến ngày nay.
Con đường gần 5 thế kỷ từ Chèo Thuyền bản đến chèo Kiều, hoặc có thể nói, từ trò nhà Phật (có thể gọi là chèo sân chùa?) chuyển sang chèo sân đình qua biết bao biến thiên văn hóa xã hội, cả chính trị, đã để lại cho đời cả một kho tàng nghệ thuật sân khấu dân tộc quý giá, đòi các thế hệ sau quan tâm bảo tồn, kế thừa, phát huy và phát triển thích đáng.
Quả thật, phần lớn vở chèo (cổ) đề cao rất mực những thư sinh lý tưởng (dùi mài kinh sử, thi đỗ làm quan) và những thục nữ mẫu mực, lên án những kẻ bất nhân thất đức, lấy tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức làm thước đo mỗi phẩm cách nhân vật, làm lẽ sống cần vương tới cho mọi người.
Cũng chính từ cuộc sống khổ cực phải chịu hàng ngày mà nhân dân đã thúc đẩy hỗ trợ những người có năng khiếu trong họ sáng tạo ra những diễn xướng, trò diễn có lời hay không có lời có hát múa hay không có hát múa, hoặc chỉ có nhạc gõ với diễn xuất. Tức là chúng hết sức đa dạng, phong phú, chuyển hóa theo những biến thiên văn hóa xã hội, cả chính trị, để từng bước hình thành nghệ thnật chèo sân đình. Quá trình chuyển hóa sáng tạo liên tục này là tập đại thành trí tuệ và công sức của lớp lớp trí thức yêu mến thiết tha nghệ thuật dân tộc, của các thế hệ nghệ nhân giàu tính ngẫu hứng ứng tác ứng diễn truyền đời, không ngừng bổ sung ổn định vốn cũ trau tria kỹ năng tài nghề mà tạo dựng những khuôn diễn cho các loại vai trong các tiết mục, làm cho nghệ thuật chèo ngày thêm giàu sức thể hiện, giàu sức gợi cảm và truyền cảm, gia tăng sức hấp dẫn, đồng thời, càng đặm đặc tính dân tộc.
Mặt khác xem xét từ bản trò đến diễn xuất, cả từng chi tiết thuộc phần ứng tác ứng diễn của nghệ nhân, đều thấy bộc lộ vai trò cốt cán của người soạn tích, những kẻ sĩ. Thì đấy, ngôn từ dùng trong các bản trò dành cho hầu hết các loại vai, thấy chữ Hán chiếm tỷ lệ không nhỏ, dễ tới 1/3. Không kể vô số bài thơ ngâm thuần Hán, còn không ít đoạn lời của đủ các nhân vật lão mụ, kép, đào, hề gặp luôn những đoạn Hán Nôm chen lẫn, lắm khi một câu mà cũng thấy "bán nôm bán tự", trong khi hầu hết nghệ sỹ chèo đều "mù chữ". Nhìn vào quá trình chuyển hóa phát triển chèo cổ, thấy dường như mỗi bước vươn lên, mỗi xu hướng nghệ thuật ở từng giai đoạn, từng tiết mục, đều lộ ra bàn tay kẻ soạn bản trò. Nghệ nhân đóng vai, trong phạm vi được bác Thơ, ông Trùm giao, chỉ làm phong phú sống động những tích trò, những vai đóng đã do người viết hoạch định các sự biến đủ làm bộc lộ phẩm chất đức độ nhân vật từ trước.
Sự hình thành khuôn diễn cho từng loại nhân vật hay cho từng nhân vật cụ thể là cả một công trình nghệ thuật mang tính tập thể cao độ, trong đó, mỗi người mỗi góp vào, phần nhiều từ ứng diễn ứng tác truyền đời trên cơ sở bản trò. Vì thế hình tượng vai đóng đã hầu thành khuôn diễn chung trên đường nét cơ bản đòi kẻ đi sau phải cố gắng tuân thủ, nhất thể đối với số vai hay, vở diễn hay, đã được giới nghề coi là vốn cũ truyền thống. Sự sáng tạo (nếu có) của những kẻ đi sau có chăng là số nét chi tiết khác lạ hơn trước, do nghệ nhân dùng ngay bản thân đóng vai, với các thủ pháp nghệ thuật nằm trong ngôn ngữ kịch chủng. Việc "sáng tạo" đó còn tùy thuộc vào tài năng mỗi người nghề, vào thích thú thưởng ngoạn của khán giả từng nơi, vào quan điểm nghệ thuật của mỗi bác Thơ hay ông Trùm, cốt sao vai đóng vừa khác lạ (so với trước), vừa hay (xem sướng mắt ngọt tai). Chứ diễn xuất có ngẫu hứng mấy mà hát không hay, số nét "mới" đó không tô đậm thêm hình ảnh thậm chí làm loãng, làm "lạc" bản chất nhân vật truyền thống, thì không thể nói là sáng tạo.
Việc chèo cổ mỗi khi dựng vở khác tích vẫn cố gắng dùng lại vốn cũ (câu văn, làn điệu, diễn xuất) còn khả năng thể hiện nội dung mới đưa vào; hoặc "bẻ làn nắn điệu" (tức là chuyển hóa một bước) để vốn "cũ" phù hợp hơn với nội dung mới; đồng thời sáng tạo diễn xuất mới khi gặp nhân vật mới, tình huống kịch mới mà vốn cũ chịu bất lực; tất cả phải trên cơ sở yêu cầu của bản trò. Ðấy chính là cung cách kế thừa và phát triển nghệ thuật của chèo sân đình.
Nhìn vào phương diện văn sử cũng thấy vậy. Cho dầu đều do các nhà nho biên soạn, con đường đi từ Việt diện u linh.... ghi lại nhưng chuyện thần thông biến hóa của không ít quỷ ma tiên thánh, với thái độ kính tín thờ phụng, chi ít cũng tỏ ra rất trân trọng; thì sang Lĩnh Nam chích quái soạn đi soạn lại vẫn loại chuyện đó, song hành trạng của mỗi Vị, được ghi lại trên nét chính, qua số sự biến đủ vẽ lên, đúng hơn, phác họa cuộc đời một siêu nhân, tuy đã kể lướt hoặc lược bỏ số chi tiết bộn bề của hiện thực, song không hề thấy có sự xúc phạm hoặc thái độ hay cảm giác chê bai. Ðể đến những truyện "ra đời" sau đấy rõ là hiện thực ngoài đời tràn vào ngày một nhiều thì văn nghệ dân gian và chèo phải phát huy cái hài ngày mỗi mạnh, để phản ánh, thực ra có phần đối phó với tình hình, ngõ hầu bắt kịp những đổi thay theo đà tiến chung của xã hội.
Cũng từ quá trình chuyển hoá mọi mặt của chèo sân chùa, sân đền sang chèo sân đình dòng dã mấy thế kỷ mà lộ dần số đặc điểm chi phối các khâu thuộc nội dung và hình thức của chèo cổ. Có điều do hạn chế lịch sử, số đặc điểm này chưa được đúc kết thành hệ thống (hoặc đúc kết rồi nhưng thất lạc chưa tìm thấy lại), nên chúng thường nằm ẩn đây đó trong các khâu nghệ thuật, đòi người nay phải đầu tư trí tuệ và công sức tìm hiểu, bàn bạc, thậm chí tranh luận mới mong đi tới những kết quả đủ chứng minh con đường phát triển của chèo sân đình.
Chèo văn minh và chèo cải lương
Từ chiếu diễn sân đình chuyển dần vào sân khấu hộp Nguyễn Ðình Nghị, chủ suý của phong trào chèo cải lương Mấy nhận xét về nghệ thuật chèo thời thuộc Pháp.
Dựa vào một số sử liệu và cứ liệu ít ỏi ghi trong sách báo của các bậc đi trước, một số di vật quý hiếm còn tồn giữ và lời kể của các nghệ nhân từng chứng kiến hoặc trực tiếp hoạt động chèo qua các giai đoạn của thời kỳ, vào số cáo bạch, quảng cáo, chụp ảnh và bài viết (rất ít) trên báo chí đương thời hiện lưu trữ tại Thư viện Saigon và HàNội .
1. Từ chiếu diễn sân đình chuyển dần vào sân khâu hộp: Sán Nhiên đài và việc xuất hiện chèo văn minh
Theo một số nghệ nhân cao tuổi, trước đây Hà Nội không có phường chèo thưong mại. Những dịp đình đám hội hè, giỗ chạp khao vọng, xóm phố lại cử người ra ngoại thành mời phường chèo quanh đấy về hát giúp dăm bảy bữa với cung cách biểu diễn và thưởng thức nghệ thuật không khác mấy chèo sân đình.
Mấy năm vừa chiếm thành Hà Nội, Pháp sai Ðội Nghỉ chiêu mộ nghệ nhân lập phường, hát mỗi tuần vài ngày trên bãi chợ Hôm, cho lính Pháp và người quen xem để "củng cố tinh thần". Sợ Cần vương đánh lén, người ta tổ chức hát từ 9, 10 giờ sáng kéo tới chiều tối. Tại đây, nghệ sỹ chèo đã đặt bàn thờ Tổ ghé vào nội tẩm Giáo phường quán của phường nhà Trò (Ca Trù) chuyên hát cho hội đình làng Hoà Mã hàng năm, xây sát liền bên cạnh.
Rạp được thị dân bấy giờ hiểu là điểm biểu diễn và thưởng thức nghệ thuật có mái che, có tường vây quanh, do tài chủ bỏ vốn xây dựng kinh doanh kiếm lời. Thực ra, đấy chỉ là gian nhà khá rộng, đủ chứa bảy tám chục khán giả, ánh sáng là 2 chiếc đèn đĩa (hoặc đèn 3 dây), sàn diễn đắp đất, be gạnh, cao hơn nền nhà dăm sáu tấc ta, trải chiếu, người xem vây quanh. Có vài hàng ghế hay chõng tre giành cho người mua vé 5, 7 xu, 1 hào, ngồi đất 2, 3 xu, đứng 1 xu, xu rưỡi.
Mặc dầu địa điểm có phần chật chội so với sân đình ngoài trời, các phường vẫn diễn những tích Trương Viên, Quan Âm, Lưu Bình, Tống Trân Cúc Hoa, Lý Công, Trần Tử Lệ, Từ Thức, Phạm Công... qua đó, nổi lên số nghệ sỹ tài năng người xem nay còn nhớ. Như phường chèo ông Trùm Dương (Hưng Yên) năm nào cũng vào diễn luân lưu mấy địa điểm nội thành hàng tháng, có hề Quýnh nổi bật trong vai Hai Móm gây được những tràng cười ý nhị hóm hỉnh; có kép Hỷ, Nữ Lã (nam đóng giả) ra vai nào cũng có góc cạnh khó quên. Như phường chèo ông Tổng Bốn (Sơn Tây) có đào Xuyến nổi tiếng về những vai đào thương (Thị Phương ở Trương Viên) và đào lẳng (Thị Mầu ở Quan Âm) được không ít khách xem mến mộ nồng nhiệt; có nữ Hỗ là nam đóng Châu Long duyên dáng ôn như rất mực...
Khoảng 1905, một tư thương ở Hàng Bạc, thấy mấy chủ Năm Chăn, Thông Sáng cho thuê rạp "phát tài", thấy các phường chèo vào diễn ở Hà Nội "ăn khách", liền xuất vốn mua nhà, sửa thành rạp, thuê mướn nghệ nhân lập gánh kinh doanh, gọi là Gánh chèo ông cả Vỵ. Gánh này diễn mỗi tuần ba tối (thứ tư, thứ bảy, chủ nhật); các tối khác cho thuê diễn tuồng hoặc hội họp, cưới hỏi.
Ðây là gánh chèo chuyên nghiệp đầu tiên ở Hà Nội, do tài chủ ra tiền và điều khiển, tập làm ăn theo lối tư bản chủ nghĩa. Vì chủ gánh không biết nghề, nên việc tìm tích, ghép mảng, bổ vai được giao cho lão Bất, một nghệ nhân tháo vát, chuyên đóng lão và hề.
Suốt mấy năm, cả nội thành chạy dọc bờ Hồ Gươm sang hàng Bông, Cửu Ðông, tuốt tới Nghi Tàm, Ðại Yên ra sát sông Cái, lấy chợ Ðồng Xuân, chợ Bắc Qua làm trung tâm, phía Nam tận Bạch Mai, không ít dân chúng đã xem và nhắc đến những khuôn hình điêu luyện về ông Mãng hồn hậu vui tính, Thừa Tướng đĩnh đạc bình dân của lão Bất; về anh Trương Viên hiếu dễ thuỷ chung, chàng Từ Thức hào hoa phong nhã của kép Hỷ,... Nhất là những Thị Màu lẳng lơ, Suý Vân "anh hoa phát tiết" làm điên đảo bao khán giả của đào Xuyến; hoặc cô đào Huế "già tay dễ đã mấy ai" của Nữ Lã thật sống động, hay nàng Châu Long duyên dáng mà hóm hỉnh của Nữ Hỗ đều được khách xem trầm trồ...
Năm 1908, mấy nhân sỹ hợp tác với số nhà buôn mua đất ở ngõ Sầm Công, xây Ðồng lạc đài. Rạp này chứa hơn trăm khán giả, có sân khấu mô phỏng theo cách làm ở trong Kinh (Huế) và qua thực tiễn làm nghề của mấy rạp Năm Chăn, Thông Sáng, nên mang nhiều dáng dấp loại sân khấu hộp.
Sân khấu Ðồng Lạc được đông đảo khách xem tán thưởng thời gian dài, do Ban Hát có nhiều "canh tân": lời trò, câu hát, khuôn diễn có trau tria cô gọn nên chừng mực và ý nhị hơn, trang phục đồ nghề đã mới lại đẹp và màu sắc hơn, tài năng người nghề được khuyến khích phát huy... Quan trọng, là bên cạnh số vở diễn nhiều ở Hà Nội, nay có thêm số tích "ruột" của mấy phường tỉnh ngoài, như Phạm Tải Ngọc Hoa, Hoàng Trừu; chuyển số tích của Tuồng sang, như Tứ Linh, Hán Sở nhất là khai thác truyện cổ dân gian để viết tích mới, như nàng Tiên ốc, Chàng Sọ Dừa, Ðức bà Chúa Ba,...
Ðồng lạc là rạp hát đầu tiên thuần diễn chèo ở Hà Nội, cũng là rạp hát đầu tiên đưa chèo vào sân khấu hộp một cách c hính thức ở Hà Nội. Tất nhiên, trước đấy, nhiều phường đã làm quen với việc diễn trong nhà ở các rạp hàng Quạt, hàng Gà, và thử thách mấy năm dòng ở rạp hàng Bạc. Song sử dụng thuần thục và chững chạc dần, đúng là sân khấu hộp với "bức tường thứ tư", thì phải kể sân khấu Ðồng lạc.
ở đây, trống chầu ngày càng bớt ý nghĩa và vai trò cầm trịch buổi diễn (thúc đẩy uốn nắn diễn xuất, khen phạt nghệ nhân, hướng dẫn khán giả) vì thiếu người biết thưởng thức đứng ra đảm nhiệm. Yêu nghề như ông Khoá Căn cũng chỉ đủ sức duy trì việc đó dăm bẩy tháng, sau vì còn bận nhiều việc khác, đành bỏ lửng. Những việc khen thưởng nghệ nhân mỗi khi xem được ngón hay, thì khán giả vẫn giữ tuy có khảng tảng hơn. Cũng vậy, dù đồng bào thuộc nghề, thuộc cả tính nết và biết rõ gia cảnh từng nghệ nhân, đôi khi có khán giả đùm bọc chăm sóc họ như người thân, song sự giao lưu mật thiết giữa người xem và người diễn thì không còn như thời kỳ chèo sân đình. Nhiều khán giả vui vẻ chấp nhận thái độ thưởng thức thụ động khi xem diễn. Và nghệ nhân đóng vai chỉ còn trông chờ người nhắc vở và tự mình tìm bắt trúng mạch khán giả mà có diễn xuất tương hợp. Ðồng lạc đông khách khoảng dăm bảy năm, rồi lại rơi vào tình trạng giống bên hàng Bạc là thiếu tích mới, cho dẫu đã tích cực chuyển từ tích Tuồng và đồ lại chuyện cổ. Rõ ràng, khi Ban Hát diễn ở một địa điểm cố định, với số nhiều khán giả thị dân có điều kiện mua vé xem thường xuyên, thì vấn đề tích mới là chuyện sống còn, điều mà các phường gánh lưu diễn hàng năm xuân thu nhị kỳ chưa thấy cấp thiết.
Về địa điểm diễn chèo ở thành thị thì thời gian này, các nghệ sỹ còn nhắc đến rạp Tám gian, rạp Nhà Bò ở Hải Phòng, rạp hàng Thao, rạp hàng Rượu ở Nam Ðịnh, rạp Tiền An ở Bắc Ninh,... Mấy rạp này thường diễn khi thì chèo, khi thì Tuồng, tuỳ các phường đến thuê, mà chưa tổ chức được Ðội hát, Ban hát chuyên như gánh chèo rạp hàng Bạc và Ban hát chèo rạp Ðồng lạc ở Hà Nội.
Ban hát Ðồng lạc nhờ Khoá Căn nỗ lực chèo lái, nhờ dàn nghệ nhân diễn xuất tốt, với những Hề Quýnh, lão Bất, mụ Hỗ... đêm đêm đua nhau phô tài cùng với lớp đàn em ham mê tập rèn. Tuy vậy, Ðồng lạc chỉ đông khách khoảng 7 năm rồi cũng rơi vào tình trạng thiếu tích mới, do khán giả thị dân có điều kiện mua vé xem nhiều, đã quen thuộc và biết rõ từng ngón nghề của mỗi nghệ nhân, không chấp nhận những kiểu lặp lại dễ dãi, nhất thể ở những vỡ cũ, bất chấp áo quần vai sắm may mới. Cuối năm 1913, một số kêu gọi hùn vốn lập Hội Sán Nhiên với mục đích "chấn hưng nền hý kịch nước nhà cho tiến kịp văn minh thế giới".
Hội sán nhiên thành lập với gần 100 cổ phần, bầu Ban Quản trị, có các ông Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, nhà giáo vừa là nhà sưu tầm tục ngữ phong dao có tiếng, các ông Nguyễn Quang Oánh, Ðỗ Thận,... Hội chiêu mộ người nghề, lập Ban Hát, được phần lớn anh chị em trong gánh chèo Hàng Bạc và một số ở ban hát Ðồng Lạc hưởng ứng.
Ban đầu, chèo Sán Nhiên hát ở rạp hàng Buồm thuê của một chủ người Hoa: xây gạch lợp lá, chứa hơn 100 khán giả, sàn diễn bố trí tương tự như bên Ðồng Lạc, với dàn nhạc ba bốn người ngồi mé dưới 2 ngọn đèn 3 dây, thắp dầu hoả treo đàng trước, chiếu sáng cả rạp suốt đêm diễn. Trống cái đặt bên dàn nhạc đánh mở đầu ba hồi theo lệ cổ và 1 hồi kết thúc, thi thoảng đánh giữ nhịp và tham gia gây không khí ồn ào khi trò diễn cần. Trống này chỉ làm nhiệm vụ cầm trịch hướng dẫn đêm hát, khen thưởng nhà nghề mỗi tối thứ bảy hoặc những buổi hát do khán giả mộ cổ, bỏ tiền xin ngồi cầm chầu...
Hội Sán Nhiên vừa tiến hành mọi việc thuận lợi thì bùng nổ Thế chiến thứ nhất. Pháp dấy lên khắp thành thị nông thôn, tổ chức lạc quyên, thúc ép nhân dân ganh đua "rồng Nam phun bạc" quơ bắt thanh niên đi lính "bảo vệ mẫu quốc".
Nhiều nhà yêu nước nương theo thời cuộc mà muốn canh tân nền hát Chèo nên thúc đẫy dân chúng HàNội tuỳ sức tuỳ hoàn cảnh góp phần duy tân cải cách. Nhiều đoạn lời, ý nghĩa hoặc kín đáo chỉ trích chế độ đương thời, hoặc khéo léo gợi lòng nhớ nước thương nòi ra đời. Cùng lúc, một nhóm quan lại, viên chức, nhà buôn, đứng ra gọi cổ phần lập Công ty Quảng Lạc cũng nêu chiêu bài "chấn hưng hý kịch nước nhà", cử người triều đình với chủ người Hoa, mua đứt rạp hàng Buồm, buộc Ban chèo Sán Nhiên rời sang điểm diễn khác. Hội Sán Nhiên phải diễn tạm ở Nhạc Hội Bờ Hồ, tìm mua đất xây cao rạp riêng. Hơn một năm, ban hát Sán Nhiên mỗi tuần chỉ hát 3 ngày, cốt kiếm lương ăn cho nhà nghề, còn nhóm phụ trách vẫn ghi chép chỉnh lý ản trò, hướng dẫn nghệ nhân học thuộc lời, trau dồi kỹ năng...
2. Nguyễn Ðình Nghị, chủ suý của phong trào chèo cải lương.
Qua quảng cáo đăng báo của Cải lương hý viện, Văn Minh hý viện, thấy nêu Nguyễn Ðình Nghị soạn 27 tiết mục, trong đó, 21 vở chua là trận cười, 6 vở đã in bán thì 2 vở đi vào đề tôn giáo. Phần lớn số này khai thác chất liệu cuộc sống đương thời; số khác đi vào truyện cổ truyện Tàu. Khoảng năm 1962, Nguyễn Ðình Hy trao cho ban Nghiên cứu Chèo 33 kịch bản nói là của Nguyễn Ðịnh Nghị, 6 vở thêm vào đều phỏng theo truyện cổ hoặc viết lại tích cũ.
Song bằng vào cung cách làm nghề với số nét riêng (cách đặt tiêu đề, cách cổ động quảng cáo,...) còn có thể đoán định Nguyễn Ð?nh Nghị, ngoài 27 vở trên, còn soạn hơn 30 vở nữa, số 33 do Nguyễn Ðình Hy đưa ra, có thể là số tiết mục với số nét riêng (cách đặt tiêu đề, cách cổ động quảng cáo,...) còn thể đoán định Nguyễn Ð?nh Nghị, ngoài 27 vở trên, còn soạn hơn 30 vở nữa, hầu hết phỏng theo truyện cổ, dã sử, thần tích, thánh tích. Con số 33 do Nguyễn Ðình Hy đưa ra, có thể là số tiết mục thường diễn của các gánh Nghị lập ban, Tự lập ban, rồi Như ý ban, đã viết thành kịch bản hẳn hoi và từng thử thách nhiều, nên gia đình tốn giữ. Khoảng 60 vở trên, xét nhiều mặt, khả dĩ phản ánh khá đúng những đóng góp cũng như hạn chế không riêng một Nguyễn Ðình Nghị mà cả phong trào chèo cải lương những năm 20, 30...
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 6:40:32 GMT 9
Qua những kịch bản ấy, xét quan điểm sáng tác, thấy Nguyễn Ðình Nghị chịu ảnh hưởng sâu đậm của một số nhà Nho nhiều ít có tinh thần dân tộc, mà trực tiếp là mấy vị trong Ban Quản trị Hội Sán Nhiên, khi luôn nhắc mục tiêu "chấn hưng nền hý kịch nước nhà", lên án, chỉ trích những con người, những hiện tượng trái "luân thường", trên cơ sở bảo vệ duy trì đạo lý cũ khi chủ trương loại bỏ dần các tích mượn truyện Tàu và thay bằng những tích mới soạn từ kho tàng truyện cổ của cha ông.
Nguyễn Ðình Nghị một lần nói: "Các vở của tôi soạn đều chú trọng vào việc răn đời, lấy lời ca giọng hát và tiếng cười tao nhã duy trì phong hoá mà cảnh tỉnh thế đạo nhân tâm". Ông còn viết trong Lời tựa vở Một Trận Cười, rằng: "Nghề diễn kịch theo thời cũng như cách bán hàng chiều khách, nên chỉ cốt đem nhời giản dị cho dễ lọt tai, để làm thú vui chung, trong lúc thừa nhàn giải trí... Soạn giả có tuân theo ý kiến của quý hội Sán Nhiên đài và soạn ra tích hài kịch Một trận cười này, cũng nhân điệu cũ mà tả thành lời mới, gọi là theo tài học nói..".
Soạn phẩm của ông, chẳng kể khai thác truyện cổ hay đề tài trước mắt, đều trên cơ sở đạo lý phong kiến, hô hào mọi người góp sức canh tân đất nước, c?i lương mọi mặt nhằm làm cho dân giàu nước mạnh, kêu gọi bài trừ những thú vui tập tục hủ lậu, lên án chỉ trích những hiện tượng luân thường nghiêng ngả, đồng thời ca ngợi những tấm gương hiếu nghĩa, thông qua quan hệ cha mẹ chú bác với con cháu, vợ chồng, bè bàn, tớ thày, xoay quanh những chuyện nhân tình thế thái, chơi bời đàn đúm... trên cái trục bĩ thái, đòi con người ăn ở "phải lẽ" theo định mệnh giành sẵn, và nhân vật cột trụ của mỗi vợ thường nằm trong tầng lớp trung lưu, như Viên ngoại, Phú thương, Phú ông, bà Tham, Nhà giàu...
Phần lớn tiết mục mang đề tài cổ vẫn tôn trọng chủ đề chuyện cũ, chỉ thâu tóm số sự biến đủ làm rõ số phận nhân vật chính, phụ mà đòi nghệ nhân đóng vai phả từ vốn nghề tích luỹ của ban thân, bồi đắp tạo tác sao cho hình ảnh đủ làm khách xem vừa lòng.
ở số vở đúng là chèo cải lương, Nguyễn Ðình Nghị đã vẽ lên những Thông phán, Hào phú rượu chè bài bạc, hút sách, chơi bời trước sau sẽ chịu hậu quả xấu xa thảm bại, rồi nhờ mẹ hiền, vợ thảo, con khôn mà nhận ra sai trái, trở về với gia đình.
Về kỹ thuật viết vở, Nguyễn Ðình Nghị theo người đi trước, phần nhiều nương theo cách viết của sân khấu kể chuyện nhưng chia thành từng Hồi (diễn 1 đêm), từng Ðoạn (mỗi hồi 2 đoạn), từng Cảnh (mỗi đoạn từ 2 đến 3 cảnh), mỗi Cảnh là 1 màn nói trọn 1 hoặc 2, 3 sự biến. Không thấy ông dùng Lớp dầu hiểu theo nghĩa của cha ông (gần như 1 màn) hoặc theo kịch Thái Tây (thêm hay bớt 1 nhân vật). Ông thay giáo đầu (cho là rườm) bằng một bài tóm hoặc sự tích "để xem cho hiểu" đọc trước khi vào diễn; những lời xưng danh thì đặt lẫn vào các câu hỏi của vai.
Nếu tính số vai có mặt trong các vở, thì Ông để lại đến mấy trăm nhân vật. Song xét số vai có cá tính gây ấn tượng trong người xem thì không nhiều. Khán giả đương thời thường ghép tên người đóng giỏi vào tên nhân vật. Như một thời, nhắc đến sân khấu Sán Nhiên, tiếp đó Cải lương hý viện, khán giả rất khen kép Phẩm "vai nào ra vai ấy", "làm hề cũng không nhường ai"; kép Thịnh với các vai Tuần Ty, Lưu Bình, ông Mãng, Lão Mốc, Công tử Bột; đào Tửu với các vai Châu Long,Vân Dại, Mẫu Thoải; đào Tam với các vai Tú Bà, Thị Màu, Thảo Mai lừng tiếng suốt mấy năm...
Trong lúc sân khấu chèo gặp khó khăn gay gắt trên đường chuyển hoá nghệ thuật từ xã hội nông nghiệp bước vào xã hội thực dân đang học đòi tư sản hoá, lại bị chiếu bóng, kịch nói, rồi Cải Lương cạnh tranh ráo riết, Nguyễn Ðình Nghị đã chịu khó học tập áp dụng những cái "mới" cái "lạ", mạnh dạn cái tiến từng khâu thủ pháp, lan dần sang đổi khác nội dung, cải tiến cách khai thác đề tài, thay đổi thể tài,... làm cho chèo thêm sức sống, trụ nổi trên sân khấu Hà Nội ngót một chục năm.
Về kịch bản, ông tiếp nối việc làm đúng đắn của Sán Nhiên đài (sai nhuận ổn định lời văn các bản trò cổ hoặc soạn mới theo đề tài cổ), cho diễn xen kẽ những vở chèo văn minh vốn được khán xem ưa chuộng, cả số "tích mới soạn" dàn dựng theo cách làm cố hữu, đồng thời với số vở chèo cải lương.
Với chèo cải lương, Ông khai thác thêm nhiều đề tài, mở rộng phạm vi phản ánh các hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội, gắn cháp các mảng hài lẻ xoay quanh mỗi truyện đời, làm thành từng trận cười dài, hy vọng đưa chèo hoà nhập vào cuộc sống trước mắt. Ðiều mà chèo cổ bộ lộ chủ yếu qua ứng diễn ứng tác của nghệ nhân, thì tới chèo cải lương trở thành "máu thịt" của vở diễn.
Về âm nhạc, Ông bổ sung mấy cây nguyệt, thập lục, bầu, tam, tiêu, cùng với số cũ nhị, sáo, mõ, thanh la, trống cơm,... làm cho dàn nhạc của Ban hát rôm rả hơn. Về làn điệu, thì song song với việc dùng lại tối đa vốn cũ trong số tiết mục cổ, cả số vở mới soạn khai thác đề tài cổ, chú ý đăng trước lên cáo bạch, viết phấn lên bảng con, rồi chìa cho khán giả biết tên điệu mà vai đóng đang hát. Ông cho du nhập một cách phóng tay đủ loại dân ca các vùng, bài bản nhiều loại, kể cả bài hát Tây, hát Tàu.
Về biểu diễn, Ông đòi nghệ sỹ phải diễn thuộc theo lời viết sẵn, làm động tác dung dị như ngoài đời, không dùng múa. Nhưng Ông lại tán thành những ai "nống lên" làm cười, cốt người xem hể hả là được. Bản thân, ông cũng phóng bút những đoạn làm nẩy tiếng cười, nhiều khi gây xộc xệch cả kết cấu của tiết mục, làm mờ nhoè nhiều ý tốt nép dấu ở cảnh này đoạn nọ...
Có điều, bất chấp ý tốt "chấn hưng hý kịch nước nhà", Ông còn bộc lộ nhiều hạn chế trong soạn phẩm của mình, về quan điểm cũng như đổi mới nghệ thuật. Dường như tất cả các nhân vật của ông, điều bị thuyết định mệnh chi phối sâu đậm, xoay quanh trục bĩ (cực) thái (lai) và những vai làm cười thì phần lớn bị tính dục "hành hạ" đưa đẩy. Trong đó, những kẻ "xấu" đắm chìm trong vũng bùn truỵ lạc, rồi nhờ người thân giúp đỡ mà nhận ra sai lầm, hối hận, như Thừa Kham, Trọng Hỷ,... nhưng lại nó "do Tạo hoá an bài"; những người "tốt" từng đau khổ lao đao vì chồng con lầm lạc, nhờ cố gắng mà lấy lại hạnh phúc, như Xuân Nương, Thục Khanh,... cũng thở dài đổ cho "con Tạo trêu ngươi"... Còn những nhân vật nam giới, cả "quân tử" lẫn "tiểu nhân", hễ gặp gái trẻ là cặp mắt sáng lên, lắm kẻ "máu dê" nổi dậy đến trơ trẽn dầy dạn...
Ông còn sai lầm khi "bắt trước" kịch bên Pháp , đưa chèo vào "tả chân", loại bỏ múa du nhập sống sít dân ca và bài hát bên ngoài, vô tình đẩy chèo sáp gần sân khấu Cải lương đang lấn lướt. Ông muốn đưa phần hài hước vào "chính bản" và chỉ quan tâm thoả mãn thị hiếu nhất thời của khán giả, nên nhiều trận cười vốn đã mang tích truyện lủng củng, bố cục lỏng lẻo, lại bị chìm ngập vào cái biến cười bông phèng, thô thiển, như Một Trận cười, Tam đại dở hơi, Cái nhầm to,... kể cả với số tích khai thác loại đề tài "đứng đắn", như mấy vở viết về Hồ Xuân Hương, Nguyễn Quỳnh...
Thế nên, cho dẫu khá nhiều soạn phẩm của Nguyễn Ðình Nghị đòi bảo vệ duy trì đạo lý ngày xưa , có lúc tưởng ông rơi vào bảo thủ nhưng xét từ thực tiễn các trận cười, lại thấy ông có những nhận thức và quan điểm thuộc phạm trù hệ tư tưởng tư sản ngày càng rõ rệt. Ông đã từ chèo văn minh, cố gắng tạo dựng một thứ kịch (hài) sử dụng hát chèo và nhiều loại hát khác khá phóng túng, và vẫn đang trên đường lầm mò thử thách.
3. Mấy nhận xét về nghệ thuật chèo thời thuộc Pháp..
Một, nhìn tổng quát các hoạt động chèo của các phường, gánh, ban hát thời Pháp thuộc, thấy hầu như khắp vùng trung châu và đồng bằng miền Bắc, mỗi tỉnh ít cũng có vài ba có tỉnh dăm bẩy phường chèo (có nơi gọi là phường trò), hoạt động theo mùa vụ cấy cầy với cung cách làm ăn và trình diễn chẳng mấy khác cung cách tổ chưc và làm ăn của các phường từ thế kỷ XIX trở về trước.
Hai, chèo văn minh là bước chuyển hoá quá độ từ phương thức làm ăn phường hội (diễn theo mùa vụ hội hè, vừa cầy cấy vừa hành nghề, diễn vừa thuộc vừa cương, sân khấu ngoài trờ 3 mặt, ăn chia theo mức độ nghề chênh lệch thấp...) sang cung cách làm ăn bước đầu kinh tế thương mại (nghệ sỹ làm cho chủ, ăn lương, diễn quanh năm, vừa thuộc vừa cương tuy đã có ý tiến lên diễn thuộc, trên sân khấu hộp hình thành dần "bức tường thứ tư",...).
Ba, chèo cải lương bộ lộc quá trình canh cải nhiều mặt nghệ thuật của sân khấu Sán Nhiên khi ban hát chuyển sang tay "bác Thơ" Nguyễn Ðình Nghị, thử nghiệm rồi thực hiện loại "tả chân hý kịch".
Bốn, so sánh nghệ thuật chèo cổ (tức chèo sân đình) với chèo văn minh, Nguyễn Ðình Nghị một lần trả lời phỏng vấn đăng báo cho rằng: "chúng giống nhau ở chỗ các vai trò không cần thuộc vở, nhiều khi tuỳ trường hợp mà ứng khẩu, nhưng khác nhau ở chỗ chèo văn minh đã bắt đầu đề cập đến sinh hoạt ngày nay".
Năm, quá trình chuyển hoá thích nghi của chèo khi vào diễn ở thành phố thời thuộc Pháp, xảy ra tiếp nối từng chu kỳ, lên xuống trong khoảng từ 5, 6 đến 8, 9 năm.
Không là chuyện lạ, khi sau năm 1945, con cháu, bạn bè của mấy vị hoạt động chủ chốt trong phong trào chèo cải lương, cả số gánh từng tin phục cách làm ăn của chèo cải lương ở Hải Phòng, Nam Ðịnh, đều chuyển thành hoặc tham gia làm nòng cốt cho các đoàn chuyên diễn Cải lương, như Ðoàn Cải lương Hoa Mai (Hà Tây), Ðoàn Cải lương Phương Ðông (Hải Pòng), Ðoàn cải lương Bình Minh (Nam Hà); Chưa kể hàng mấy chục anh chị hoạt động trong Nhà hát Cải lương Trung ương và các đoàn Cải lương Thanh Hoá, Thái Bình,...
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 7:21:51 GMT 9
LỊCH SỬ HÒN NON BỘ
Phan Quỳnh Chơi cây cảnh, chơi đá tảng, chơi non bộ, là môn chơi tao nhã, hấp dẫn, từ ngàn xưa của người Việt, kể cả các dân tộc phương đông và ngày nay thú chơi này đã lan rộng sang các nước phương tây .
Non bộ là núi nhân tạo , dùng đá , vữa hồ , đất , ... , tạo cảnh thiên nhiên hùng vĩ với hang động , ghềnh thác , núi cao biển rộng của cảnh thật hay cảnh tưởng tượng , được bàn tay nghệ nhân khéo léo bầy xếp , gắn tạc , đục đẽo , để dàn trải trong vườn cảnh , hay trong hồ cá , hoặc ngay trong chậu cạn , đồng thời điểm xuyết, trang trí rêu cỏ , cây cối nhỏ bé có dáng vóc cổ thụ , một số hình tượng (như mục đồng , ngư ông , tiều phu , tiên ông , đạo sĩ , ... , chùa tháp , đền miếu , cầu đường , ghe thuyền, thác nước đổ , phun sương , phun khói , cù lao , muông thú bằng sành , bằng đất sét v.v. ...) hầu diễn tả một sự tích , một câu chuyện làm cho non bộ có nội dung và linh hoạt , gợi hình , gợi cảm cho người thưởng ngoạn .Có non bộ cao lớn hàng chục , hàng trăm thước tây , ví dụ hòn Ộ Vạn Tuế SơnỢ của vua Lý Thái Tông chế tác năm Mậu Thìn 1028 , và cũng có non bộ bé nhỏ bằng gang tay hay nhỏ hơn Theo Lê Văn Siêu thì : không thể căn cứ vào lớn nhỏ mà luận về sự quí giá của non bộ . Nhiều khi nhỏ mà toàn thể là một cục long não , hoặc là một hình hết sức đẹp bầy trên án thư của nhà ẩn sĩ , để những khi nhà ẩn sĩ mở sách thánh hiền ra đọc và đốt một đỉnh hương trầm cho khói tỏa lên cây lên núi như những làn mây thì dẫu người trần mắt thịt đến đâu cũng phải thấy ngay m?t vẻ gì là tiên phong đạo cốt. Người ta lại còn dùng núi đá ấy để làm nghiên mực nữa . Ta hãy tưởng tượng một cái bể nước con con với rêu , cỏ , cây , nhỏ lí tí trên một hòn non nhỏ bằng đá trắng , với những từng đá lăn tăn như dợn sóng , ôm lấy một mảng đá như một cái thung lũng để mài mực , và nhà nho cầm bút chấm vào nghiên mực ấy để viết những vần thơ , thì ta thấy rằng người Việt Nam xưa dẫu chẳng tiên thì cũng đã chẳng còn gì là tục nữa . (1) I Nghĩa ngữ. Non bộ là thuật ngữ cổ thuộc gốc Nam Á . Từ Bộ có nghĩa là dáng vẻ, bắt chước, phỏng theo, nhái theo, kiểu cách, mô phỏng, ra vẻ, v.v.... ví dụ : giả bộ, làm bộ, điệu bộ, bộ dạng...Từ Non có nghĩa là núi . Cùng một nghĩa chỉ núi với các từ trong ngữ hệ Malayo-Polynesiene và Mon-Khmer thuộc văn minh Nam Á , chúng ta thấy từ Ph-num của người Miên, từ Phơnơm của người Mạ, từ Bơnơn của người Bà-na dọc Trường sơn , từ B-non của người Ê-đê nam Tây nguyên , từ Gu-nong hay phunông của người Mã-lai, , từ Phu của người Thái, từ B-nam của cổ Phù-nam (2), v.v. ... Khi xưa tiếng Hán đang còn đóng khung ở vùng phía bắc sông Hoàng-hà, sông Vị-hà thì nó chưa thể có nhiều những từ nêu lên tên gọi của những sản vật mà chỉ phương nam mới có , do đó có sự vay mượn , ảnh hưởng qua lại . Những danh từ chỉ thực vật như cảm lãm ( trám ) , phù lưu ( trầu ) ba la mật ( mít ) v.v. ... chắc chắn là những danh từ vay mượn các ngôn ngữ vùng nhiệt đới . Để chỉ sông , phía Bắc , người Hán gọi là Hà , nhưng từ sông Dương Tử trở về Nam lại gọi là Giang . Theo các nhà Địa danh học giang là một từ vay mượn , thanh phù công ( ) đứng cạnh bộ chấm thuỷ ( )trong chữ giang ( ) rất dễ dàng gợi cho chúng ta nghĩ đến Kion ( Miến ) , Kon ( Katu ) , Karan ( Mơ Nông ) , Krong ( Chăm ) , Không ( Mường ) , Hông ( Khả) , Krông ( Bà Na ) , Khung ( Thái ) , Sôngai ( Mã Lai ) , cũng như nghĩ đến Sông trong tiếng Việt (3) , ( Việt Miên Lào có chung con sông là Mê-kông ). Có khi chiều ảnh hưởng chỉ đi theo một đường thẳng đơn giản, từ bên này sang bên kia, nhưng cũng nhiều khi mũi tên có thể đi đường vòng từ A sang B , rồi lại từ B quay trở về A. Ví dụ ở tiếng Nam Á có danh từ chỉ một thứ võ khí ta gọi là Ná (So sánh với Na của Mường , của Chức , nả của La-ha [Mường-la] , Hna của Bà Na , của Ê-dê, Mnaá của Sơ Đăng, Sa-Na của Kơ-ho, S-Na của Miên, Snao của Raglai, Na của Mạ, Hnaá của Gia Rai , Sơ-Na của Srê, Sna của Chăm Phan Rang, Phan Rí, Nả của Thái hay Pnả của Mã Lai ), có nhiều cơ sở để có thể khẳng định chính từ tên gọi này được nhập vào vốn từ vựng của người Trung Quốc , sản sinh ra tiếng Hán có cách đọc Hán Việt cổ là Nõ hay Hán Việt hiện nay là Nỗ ( [ ] tổng hợp của thanh phù Nô [ như nô bộc] đứng trên chữ Cung tượng hình [ ]) rồi lại quay trở về Việt Nam được đọc theo Nôm là Nỏ. Nỏ là một phát minh của người phương Nam . Từ Non bộ hay Bơnơn Bouy là mô phỏng núi , dáng vẻ núi non, nhái theo núi non, hoặc còn gọi là núi giả , sau này được các nho sĩ, sử gia chuyển ngữ sang chữ Hán mà cách đọc Hán Việt là giả sơn . Nhưng thuật ngữ giả sơn lại không được thông dụng ở Trung quốc , kể cả Hoa Nam và Hoa Bắc . Người Trung quốc quen dùng thuật ngữ Bồn tài (p-en tsai - cây trong chậu) Bồn cảnh (p-en ching - cảnh trong chậu) , mãi đến cuối thời Nguyên (1271-1368) , thời Minh (1369-1643) mới xuất hiện danh từ chữ Hán hoàn chỉnh có cách đọc Hán Việt là Sơn Thủy Bồn Cảnh ( shan shui p-en ching - cảnh sơn thuỷ trong chậu ) (4) , để chỉ lối chơi giống hệt như lối chơi non bộ ở Việt Nam . Người Thái Lan có lối chơi Mai khèn ( cây lùn ) hay Mai dăt ( cây uốn ) , người Nhật có lối chơi Bonsai ( bồn tài - cây trong khay , trong chậu ) , Bonseki (bồn thạch - đá trong khay , trong chậu ) . Theo tác giả Nguyễn Vọng thì : Người Nhật có nghệ thuật đặt đá trên khay để trưng , không có cây cỏ . Giả thử đá ấy có hình dáng một trái núi thu nhỏ ta cũng không nên coi đó là một non bộ (5) . II Những gợi ý của non bộ. Non bộ ở Việt Nam có từ bao giờ ? Chưa thấy có tài liệu nào trả lời dứt khoát câu hỏi này, nhưng rõ ràng cây và đá đã có sự liên hệ mật thiết lâu đời và đóng góp tích cực vào sinh hoạt vật chất và tinh thần của tổ tiên người Việt . Ngay từ thời đại các vua Hùng dựng nước , ngót năm ngàn năm nay, chúng ta đã được biết hình ảnh mơ hồ của một non bộ : có đá, có cây, có mây nước, có đền miếu, v.v... gói trọn trong một tình tiết cảm động . Đó là truyện Trầu cau ( xem Lĩnh Nam Chích Quái) , một nguồn cảm hứng dồi dào cho các văn nhân nghệ sĩ sau này của các bộ môn thơ , văn , vũ , nhạc , họa , điêu khắc v.v.... Những tín ngưỡng tối cổ . 1/.Trở ngược thời gian về hàng chục ngàn năm trước Công nguyên, sau khi dời bỏ đời sống trong hang động và săn bắn hái lượm để xuống định cư tại đồng bằng sông Hồng , sông Mã , chuyển sang đời sống nông nghiệp lúa nước (lạc điền), người Việt cổ vẫn còn bảo lưu được những đồ trang sức , những dụng cụ và công cụ sản xuất xa xưa bằng đá được đẽo mài , khoan , tiện, chế tác rất xinh xắn , đều đặn , khéo léo như vòng tay , khuyên tai , nhạc khí (đàn đá ) , rìu đá , cuốc đá , mũi tên đá , v.v.... đồng thời họ còn giữ tục thờ đá , tục thờ cây , tín ngưỡng tối cổ của nhân loại mà nay vẫn còn tàn dư ở các nhóm dân tộc tại bán đảo Đông Dương và trải rộng đến các vùng hải đảo miền đông nam châu Á . Trước 1945, tại một số làng thôn quê Bắc Việt, chúng ta vẫn còn thấy trước cổng mỗi nhà về phía trái dựng một hòn đá . Theo các cụ già xưa kể lại thì hòn đá này được gọi là con chó đá , đặt trước cổng để xua đuổi tà ma , quỉ mị , bảo vệ gia chủ , cho dù hòn đá không có vóc dáng của một con chó . Vua Lê Thánh Tông có bài thơ tả con chó đá này như một tướng quân chức quyền bao trùm một cõi , lòng son sắt thờ chúa , gìn giữ giang sơn . Đọc Lĩnh Nam Chích Quái , đọc Việt Điện U Linh Tập , hoặc Quảng Châu kí, Giao Châu Ngoại Vực Kí , cho dù các sử liệu cổ xưa này đã bị các nho sĩ , sử gia xưa nhuận sắc , uốn sửa theo lăng kính Khổng giáo , chúng ta ngày nay vẫn nhìn thấy nhiều khe hở nói về tục thờ đá thờ cây xa xưa ở Việt Nam xuyên qua các từ ngữ như Ông Đống ( pù đống trong tiếng Tày), Thạch Khanh , ..., truyện tảng đá có vết chân to lớn của người anh hùng làng Dóng thời Hùng vương ở núi Sóc Sơn , Bắc Ninh , hoặc truyện Mộc tinh , hay truyện Đô Lỗ Thạch thần , vị thần bảo trợ cho Thục An Dương Vương tại thành Cổ Loa, truyện Man Nương với phép linh của phiến đá , nằm trong một gốc cổ thụ , tạc thành bốn tượng Vân, Vũ, Lôi, Điện tại chùa Dâu. Tương tự ở các nhóm dân tộc Nam Á khác cũng có những nghi thức cầu nguyện hay thờ phụng thần cây thần đá . Ví dụ người Chăm Phan Rang , Phan Rí có tục thờ hòn đá tượng chưng cho Kút , thờ Linga, người Sê-đăng nam Tây nguyên có thần thoại thần đá, thần núi xuyên qua truyện Nữ thần Hoa Lan , người Lào có tục thờ Thitsana Hỉn, người Thái có tục Soat-non conhin , người Tagalog vùng đảo Luzon có tục Bato manalangin ( thờ đá) , tục Puno pananampalataya (thờ cây) , người Visaya vùng đảo Palawan có tục Batu gui-ampo (thờ đá) , người Ilocano vùng đảo Mindanao có tục Mula Icararag (6) . 2/.Ngoài tục thờ đá , thờ cây , một gợi ý nữa liên quan đến thú chơi non bộ ở VN là tín ngưỡng về hang động và Thần Tiên Bất Tử . Trong những năm 1934-1939 trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội đã khai quật một số cổ mộ của cư dân tỉnh Bắc Ninh , Bắc Việt , khoảng các thế kỷ trước và sau Công nguyên . Những mộ táng này được xây bằng gạch , đôi khi bằng đá , gắn nhau bởi một thứ hồ vữa đặc biệt rất dắn chắc để nhái theo hình thể hang động thiên nhiên , có nhiều động , nhiều phòng , mái vòm cong , thông nhau bởi những đường hầm địa đạo . Khảo cổ học đã xếp những mộ táng này vào giai đoạn văn minh Lạch Trường (7) . Văn minh Lạch Trường mà mộ táng trải rộng ở các tỉnh Bắc Việt, bắc Trung Việt và lưa thưa ở một vài nơi phía nam Hoa Nam thuộc Trung Quốc, liên quan đến một tín ngưỡng dân gian người Việt thời thượng cổ : tín ngưỡng về Hang Động, còn gọi là Động Trời hay Động Thiên . Theo tín ngưỡng này thì trong lòng một hòn núi lớn có những hang động rất linh thiêng mà cái vòm tượng trưng vòm trời, lòng đáy phù hợp với đất , cửa vào những hang ấy là biên giới giữa thế giới vật chất và thế giới siêu hình (8) . Từ xưa, sống lâu vẫn là mơ ước của con người , họ than thở về sự ngắn ngủi của đời sống trần gian và người Việt xưa nay thường tin tưởng và khao khát về một đời sống trường cửu nơi thế giới bên kia về sau bên bờ biển xa xăm hay siêu việt trên núi cao vút chín từng mây , hang động được coi rất thiêng liêng và là cung điện của các Thần Tiên bất-tử . Tín ngưỡng hang động với Thần Tiên bất tử có một dấu ấn đậm nét của triết lý phồn thực , đặc trưng của của các dân tộc ở Nam Á trước khi có ảnh hưởng văn hóa Hán Tạng tràn từ phương Bắc xuống. Do đó không lạ gì hòn non bộ thường được đặt vào những nơi thờ nữ thần ở Việt Nam mà Rolf A. Stein hay nói đến. Ta thấy có những tục lệ đã nói lên được một ý thức tập thể về hang động hoặc thần thoại về Thần Tiên . Động Thẩm Lệ ở Yên Bái , Bắc Việt , được coi linh thiêng , hàng năm trai gái đến tụ tập hát giao duyên , khai xuân phát động nguồn sinh lực của tạo vật , thần thoại về Việt Tĩnh , thần thoại Giáng Tiên với hang Từ Thức , thần thoại Hồ Công động , Kim Sơn động , Chấn Linh động , Hương Tích động , v.v. ... , ngoài ra còn cả một nhóm thần thoại dòng Đạo Nội lấy Chử Đồng Tử làm Sáng tổ của đ?o Thần Tiên bất-tử (9). Triết sử gia Hồ Thích nhận xét rằng từ khi Trung Quốc bắt đầu Ộkhai hóaỘ các dân tộc xung quanh , chủ yếu là các dân tộc phương Nam , thì đồng thời với việc các dân tộc này hấp thụ nền văn hóa phương Bắc , đạo Thần Tiên Bất Tử cùng với các chuyện thần thoại giàu chất trữ tình hấp dẫn của họ cũng được mang vào Trung Nguyên . Trong sách Trung Quốc Triết Học Sử , ông viết : Các tân dân tộc hấp thụ nền văn hóa Trung-nguyên là điều rõ ràng, thiết-tưởng không cần phải nói thêm. Nhưng cùng một lúc, các chuyện thần thoại giầu tính-chất hấp dẫn của các quốc gia trên được mang vào đất Trung-nguyên. Chúng ta thử xem các chuyện thần-thoại trong các tác phẩm văn học của Khuất Nguyên (người Sở thuộc Bách Việt) , Tống Ngọc, tất cả đều là những mẫu chuyện mà nền văn học phương Bắc không bao giờ có, ...Có lẽ thuyết thần-tiên cũng do đấy mang sáp-nhập vào văn-minh Trung-quốc chăng? (10) Học giả Rolf A. Stein của trường Viễn Đông Bác Cổ đã tổng kết : Từ địa linh và tiên cảnh , thế giới của Thần Tiên bất tử , đến quá trình ma thuật tiền hóa học , và đến sự trầm tư mặc tưởng thần bí, tất cả đều qui về một toàn bộ rất hệ thống mạch lạc những đề tài, hình ảnh, liên tưởng hệt như hệ thống cảnh hòn non bộ. (From the holy place and paradisiacal site, the land of the Immortals, to alchemical processes and mystical meditation, everything leads to a strongly coherent assemblage of themes, images, associations - a complex identical to that accompanying miniature gardens)(11) Rolf A. Stein còn cho biết tại các đền miếu chùa chiền và tư gia ở Việt Nam , dù giàu hay nghèo đều chơi non bộ . (Two preliminary facts about Indochina should be presented right away: nui non bo (miniature rocks covered with dwarf plants and set incotainers of water) are commonly present in both pagodas and private homes, even in those of the poor (not often in Hanoi, but frequently in Hue) ; and the rocks placed in the courts of pagodas, thus forming part of the sacred enclosure, are almost always accompanied by parallel verses in Chinese.)(12) Một hiện tượng cần được nghiên cứu kỹ hơn để kết luận là trong khi ảnh hưởng văn hóa phương Bắc đã tràn ngập vào đất nước Vạn Xuân và sau này là Đại Cồ Việt , lối chơi non bộ đã rộ phát tại phương Nam nhưng chưa thấy sử sách hay tài liệu nào nói về lối chơi này ở phương Bắc, cho mãi đến thời kỳ các triều đại Nguyên, Minh, Thanh chúng ta mới thấy hiện tượng chơi non bộ Sơn Thủy Bồn Cảnh nở rộ tại Trung quốc
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 5:47:11 GMT 9
Tính trào lộng trong văn chương của người VN. Mãi Phương Trong những cuộc hội họp, nhân những buổi quan, hôn, tang tế hay những giờ làm việc vất vả ở các công xưởng, xí nghiệp hay đồng án, người ta thường bày ra những câu chuyện bông đùa, tiếu lâm, hài đàm... để cùng nhau cười vui quên cả nhọc mệt và để hăng hái làm việc. Đó là văn chương trào lộng của Việt Nam ta.
Ở khắp các nước trên thế giới. Kể cả nước đồng văn với Việt Nam như Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn. Có lẽ không một nước nào có một thứ ngôn ngữ dồi dào, đầy đủ và một nền văn chương điêu luyện phong phú về mặt trào lộng, châm biến hoạt kê, hài hước như nước Việt Nam ta. Và có lẽ thế giới chỉ có ngôn ngữ Việt Nam là giàu danh từ mỉa mai châm chích, biếm nhẽ hơn cả.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc vui tánh, lạc quan, dí dỏm, nên bất cứ trong trường hợp nào, cũng có thể tìm cách nô đùa, bỡn cợt, chế diễu, để tìm cái cười hả hê cho thỏa thích cái thiên tánh của mình.
Hình như chỉ riêng có dân Việt Nam ta, mới có biệt tài về môn trào lộng, mỉa mai, một đặc điểm rất ít gặp trong văn chương các nước khác. Có thể nói rằng: Văn chương trào lộng là một thể văn riêng biệt, độc đáo và kỳ thú trong nền văn học nước ta và nói như vậy quả không có gì là quá đáng.
Những câu chuyện có tánh cách tiêu sầu, giải muộn ấy, biểu lộ tài hoạt bát, trong việc khen chê, châm biến của dân ta.
Ai đã có dịp về miền thôn quê chứng kiến những cuộc hò "ĐỐI ĐÁP" trong các vụ cấy hái, mới nhận thấy tài ứng đối, báo biến mau lẹ, dễ dàng của các "NHÀ VĂN BÌNH DÂN" này, khi họ vấn đáp xỏ xiên, châm chọc lẫn nhau bằng những vần thơ "ỨNG KHẨU" rất tế nhị và linh động của các cô cấy lúa bên đường:
Hởi anh đi đường cái quan Dừng chân đứng lại em than đôi lời Đi đâu vội mấy anh ơi Công việc đã có chị tôi ở nhà
và khi lữ khách đi đã xa, còn nghe văng vẳng sau lưng câu hát ghẹo:
Anh về kẻo tối anh ơi Kẻo bác mẹ mắng rằng em dỗ dành
Nếu những trung thần, liệt nữ hào kiệt, anh hùng được người đời tán dương, ca tụng, thì trái lại những phần tử thối tha, nhơ nhớp làm trái luân thường đạo lý, miệng thế nguyền rủa, chê bai, mạt sát không tiếc lời:
Trăm năm bia đá để mòn Trăm năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
Những trạng thái bất thường trong xã hội, đều "BỊ" đem ra chế diễu, cười cợt:
Bà già đã tám mươi tư, Ngồi trong cửa sổ gởi thư kén chồng.
Và:
Ví dầu chồng thấp, vợ cao, Qua sông nước lớn cõng tao bớ mày.
Đó là chế nhạo những cặp vợ chồng không "XỨNG ĐÔI VỪA LỨA" đến như cười chê những cô gái "VỚ" phải chồng hèn, đần thì:
Tiếc con gái khôn lấy thằng chồng dại, Tiếc bông hoa lài, cặm bãi cứt trâu. Tiếc thay cây quế giữa rừng, Để cho thằng Mán nó trèo nó leo. Một đêm quân tử nằm kề, Còn hơn thằng ngốc vỗ về quanh năm.
hay là:
Lấy chồng say như trong chay, ngoài bội, Ngó vô trong nhà như hội Tần vương.
Hoặc:
Lấy chồng ghiền như ông tiên nho nhỏ, Ngó vô trong nhà đèn đỏ tợ sao.
Điều nên chú ý là trong ngôn ngữ ta, có rất nhiều danh từ trào lộng, châm biến, như người sợ vợ được gọi là "THỜ BÀ", đàn bà ghen là "SƯ TỬ HÀ ĐÔNG", người hay ghẹo gái là người có "MÁU 35", người hà tiện là "NGỘ CÔNG RÍT CHÚA", v.v... Ngoài ra còn vô số câu ca dao, câu hát, câu hò, mang một tính chất trào lộng.
Cụ TÚ XƯƠNG đã phải vận dụng đến tài trào phúng, khi thấy người ta đua nhau mặc mới trong ngày Tết:
Khăn là bác nọ to lày tế, Váy lĩnh cô kia quét sạch hè.
Và:
Chí cha chí chết đua giày dép, Đen thủi, đen thui cũng lượt là.
Không biết vào thời ấy có thuế nào giống thuế TVA (Taxe sur Valeur Ajoutée) mà Ông lại nảy ra cái óc "ĐẦU CƠ THƯƠNG MẠI" khi nghe người ta chúc nhau ngày Tết:
Phen này ông quyết đi buôn cối, Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
Và:
Phen này ông quyết đi buôn lọng, Vừa chửi, vừa rao cũng đắt hàng.
Nghĩ đến thói đời đen bạc, hay xu phụ kẻ sang giàu, Cụ NGUYỄN KHUYẾN đã viết mấy câu cay đắng:
Thới có thanh tao, ruồi đổ đến, Gan không mật mỡ, kiến bò chi ?
Nhất là Bà HỒ XUÂN HƯƠNG, thường hay châm chọc người đời bằng những vần thơ bất hủ. Bà vẻ đúng cái cảnh "LẺ MỌN" vì chính Bà cũng là người ở vào hoàn cảnh này:
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng, Cầm bằng làm mướn, mướn không công...
Đến như con gái "KHÔNG CHỒNG MÀ CHỬA" Bà cũng chẳng buôn tha:
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, Phận liễu đã đành nảy nét ngang. ........................................................ Những kẻ không chồng, chửa mới ngoan.
Câu sau này là do câu ca dao biếm nhẽ, người con gái "CHỬA HOANG":
Không chồng mà chửa mới ngoan, Có chồng mà chửa, thế gian sự thường.
Và khi bị té sóng soài, Bà đã chống chế:
Dang tay với thử trời cao thấp, Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài...
Một nhà văn có tiếng về môn hài hước trong Nam, Ông HỌC LẠC đã phải mượn các đầu đề như: VỊNH CON TRÂU, VỊNH ÔNG LÀNG HÁT BỘI, để ngạo báng mấy ônh hương chức ngu dốt mà hống hách thời xưa:
Trong bụng lem nhem ba lá sách, Ngoài hàm lém đém một chòm râu.
Và:
Trong bụng trống trơn, mang cổ giữa (áo) Trên đầu trọc lóc, bịch khăn ngang ...
Thật là một lối tả chân siêu thực đúng nguyên trạng đến trăm phần trăm.
Những quan lại "SÂU DÂN MỌT NƯỚC" cũng bị các ông tổ hoạt kê lôi ra làm bia để chế diễu, nô đùa.
Nhân nhày lễ thất tuần hạ thọ của Hoàng Thái Hậu triều NGUYỄN, một ông quan địa phương bắt buộc dân chúng phải đóng góp để đi lễ, nhưng ông quan này đã khôn ngoan đút túi hết một phần. Một nhà văn "VÔ DANH" đã làm đôi câu đối, đến nay còn truyền tụng:
Tuổi thọ bảy mươi mừng mẹ nước, Túi tham chục một chết cha dân.
Tại tỉnh Ninh Bình (Bắc Phần) có núi Dục Thúy là một thắng cảnh nổi tiếng. Một ông Tổng Đốc đến trấn nhậm tỉnh này có tật sính làm thơ và hay của lót. Ông ta đục mấy vần thơ và luôn cả hai chân mình vào đá trên núi Dục Thúy. Một thi sĩ "VÔ DANH" khác đã tặng Ông mấy vần thơ, mà đến nay còn nhiều người nhắc nhở, cho là một giai thoại văn chương:
Năm trước ông toan đục mấy vần, Năm nay lại đục cả hai chân Khen cho đá cũng bền gan nhỉ ? Đứng mãi cho ông đục mấy lần.
Cái khéo là ở chỗ tác giả xử dụng chữ ĐỤC để ám chỉ tài "ĐỤT KHOÉT" nhân dân của ông quan kia.
Nói đến tài KHINH NHÂN NGẠO VẬT ta không thể bỏ quên Ông CAO BÁ QUÁT một tài hoa lỗi lạc, lúc ấy ở đế đô có các tay văn hào thi bá lừng danh như TÙNG THIỆN VƯƠNG, TUÝ LÝ VƯƠNG đến đỗi vua Tự Đức phải khen tặng:
Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường.
(Thơ của Tùng, Tuy hơn cả thơ Thịnh Đường). Họ họp nhau lại thành THI XÃ để ngâm thi vịnh phú. Có người đọc mấy bài thơ xướng hoạ của các ông trong THI XÃ cho ông CAO BÁ QUÁT nghe. Nghe xong, Ông CAO BÁ QUÁT lật đật bịt mũi mà đọc rằng:
Ngán cho cái mũi vô duyên Câu thơ THI XÃ, CON THUYỀN Nghệ An
Ai cũng biết thuyền Nghệ An chở nước mắm, xông ra một mùi hôi thúi khó ngửi. Thế mà Ông QUÁT lại đem so sánh với câu "THI XÃ" chua chát đến thế là cùng. Khi được bổ làm huấn đạo ở một tỉnh miền Thượng Du, Ông QUÁT có làm đôi câu đối dán trường học:
Nhà dột một hai gian, một thầy, một cô, một chó cái, Học trò năm bảy đứa, nửa người, nửa ngợm nửa đười ươi.
Tuy tả đúng tình cảm của ông lúc bấy giờ nhưng ông cũng không lột bỏ được tính cách trào phúng, ngạo mạn, hàm súc trong đôi câu đối ấy.
Gần đây, trong biến cố Mậu Thân vừa qua tại Cố Đô Huế đã trải qua một cuộc điêu tàn tang thưong. Một nhà văn, nhân ghé thăm Huế, tức cảnh bằng hai câu thơ sau đây, vừa "TẢ CHÂN" vừa dí dỏm khiến ai đọc đến cũng bắt phì cười:
Núi ngự không cây chim ngủ đất, Sông Hương vắng khách, đĩ kêu trời.
Còn ở Hà Nội mấy mươi năm về trước, còn ai không nghe tên tuổi cô Hồng, tay trắng làm nên sự nghiệp hàng trăm vạn bạc. Khi đã giàu sang, cô bèn vận động mua hàm cửu phẩm cho cha ruột mình, để hãnh diện cùng làng nước. Khi mở tiệc ăn khao, có vô số thân bằng quyến thuộc đến lễ mừng. Một ông đại khoa đã đi hạ cha con cô Hồng bằng đôi câu đối như sau:
Cửu phẩm sắc phong Hàm cụ lớn Trăn năm danh giá Của bà to.
Cha con nhà ấy trịnh trọng đem treo câu đối này vào một chỗ tốt nhất trong nhà lấy làm vinh dự vì được một nhà khoa bảng đại danh đề tặng. Họ đâu có biết rằng: Ông ấy đã "XỎ NGỌT" nhà mình, một "VỐ" hết sức sâu sắc, chau cay bằng văn chương, chữ nghĩa. Thật vậy, mấy chữ "HÀM CỤ LỚN", "CỦA BÀ TO" hàm súc một ý nghĩa mỉa mai thâm độc vì chữ "HÀM" ở đây phải hiểu theo nghĩa đen của nó và chữ 'CỦA" ở đây lại có một nghĩa thô tục vô cùng. Sau đây là một chuyện dùng chữ rất tài tình nữa:
Một anh học trò khó vào nhà một quan viên sang trọng để xin tiền. Ông này ra câu đối, bắt anh học trò đối được mới cho tiền. Câu ra như vầy:
Miệng kẻ sang, có gang, có thép,
Không cần nghĩ ngợi, anh học trò đã đối lại là:
Đồ nhà khó, vừa nhọ, vừa thâm.
Cũng như câu chuyện trên kia, đây là một lối "CHƠI CHỮ" rất tinh vi và tế nhị. Chữ "ĐỒ" ở đây có một nghĩa rất thô tục (theo một danh từ thông dụng ở miền Bắc) và cố nhiên anh học trò đã chơi xỏ, bằng cách đem "CÁI ẤY" ra đối với "MIỆNG KẺ SANG".
CỐNG QUỲNH cũng đã từng nghịch ngợm, ranh mãnh với câu:
Lại đứng đầu bờ xin XỎ chị Chị nở lòng nào chị chẳng cho.
Cố nhiên Ông đã bắt người đọc hiểu chữ "XIN XỎ" ra một nghĩa khác hơn nghĩa thật của nó.
Người Tàu - Ông thầy văn hoá của ta, cũng không khỏi bị ta cho những bài học đau đớn. Họ tự phụ đã từng đô hộ ta với câu:
Đồng tụ chí kim đài vị lục (Cột đồng chia ranh giới, đến nay rêu vẫn còn xanh)
Thì đây là câu trả lời:
Đằng giang tự cổ huyết do hồng (Sông Bạch Đằng từ xưa đến nay, máu vẫn còn đó)
Bà ĐOÀN THỊ ĐIỂM cũng đã từng cho người Tàu một vố đau điếng khi Bà giả làm hàng nước, bị quân Tàu đến trêu ghẹo. Chúng đã bảo nhau rằng:
An-nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh. (Ở nước Nam, một tất đất không biết bao nhiêu người cày) "Nghĩa bóng", Bà đáp lại:
Bắc triều sĩ đại phu, giai do thử đồ xuất. (Bên Tàu các quan lớn nhỏ đều do ngõ ấy mà ra)
Bà ĐIỂM đã làm cho quan Tàu thấy rõ tài ứng đối mau lẹ và tài châm biến sâu cay của người mình.
Để chấm dứt bài này, chúng tôi xin kể thêm một chuyện xẩy ra hồi Lê mạt, Nguyễn sơ. Để chứng minh một lần nữa, tánh chất trào lộng, tiềm tàng trong tâm não dân ta:
Nguyên khi vua LÊ CHIÊU THỐNG thất quốc chạy sang Tàu cầu viện, bầy tôi nhà Lê, người thì tòng vong, khứ quốc, người thì lui về ở ẩn, để cho trọn nghĩa với vua Lê. Lúc ấy có một số người cương quyết từ chối để giữ vững tiết tháo của mình, một số người khác, lục đục kéo ra thọ tước lộc của tân trào mong được phong thê, ấm tử. Một danh sĩ đương thời, thuộc phái "Bất hợp tác" kiểu Ấn Độ đã chế diễu những người "Cộng tác" ấy bằng mấy câu thơ, đau như búa bổ vào đầu:
Nhất đôi DI, Tề hạ Thú Dương, Cộng ngôn vi khổ, bất kham thương. (Một lũ Bá Di, Thúc Tề, đồng kéo nhau xuống núi Thú Dương, và đồng bảo rằng rau vi đắng quá ăn không nổi nữa).
Ở đời có nhiều cách mạt sát, mạ lỵ người ta. Mà hậu quả có khi đưa đến "Thượng đai" xa hơn nữa là thanh toán nhau v.v...
Những cách "CHỬI XÉO" trên đây, xem ra có phần thích thú, hào hứng lắm vậy.
Mãi Phương
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 18, 2011 4:04:30 GMT 9
Tục ngữ, ca dao về Mèo Vietsciences- Nguyễn Lân Dũng Tạm kể một số câu như sau: Ăn nhỏ nhẻ như mèo; Có ăn nhạt mới thương tới mèo; nam thực như hổNữ thực như miu, ; Chó giữ nhà, mèo bắt chuột; Chó treo, mèo đậy; Chó chê mèo lắm lông; Buộc cổ mèo, treo cổ chó; Im ỉm như mèo ăn vụng; Rình như mèo rình chuột; Tiu nghỉu như mèo cắt tai; Mèo nhỏ bắt chuột con; Mèo mù vớ cá rán; Mèo khen mèo dài đuôi; Mèo mù móc cống; Mèo già lại thua gan chuột nhắt; Mèo mả, gà đồng; Hùm mất hươu như mèo mất thịt; Chẳng biết mèo nào cắn mỉu nào; Không có chó bắt mèo ăn cứt; Giấu như mèo giấu cứt; Chửi chó, mắng mèo; Đá mèo quèo chó; Chuột gặm chân mèo; Mèo con bắt chuột cống; Mèo nào ngán mỡ; Tươm tướp như mèo thấy mỡ; Mỡ để miệng mèo; Mèo đàng chó điếm; Mèo già hóa cáo, cáo già hóa thần; Sắc nanh chuột dễ cắn được cổ mèo; Mèo nào chẳng ăn vụng mỡ; Bèo nhèo như mèo vật đống rơm; Mèo lành ai nở cắt tai; Mèo lành chẳng ở mả; Mèo vẫn hoàn mèo; Đá mèo, quèo chó; Mèo già khóc chuột; Chó ghét đứa gặm xương, mèo thương người hay nhử; Mèo uống nước bể chẳng bao giờ cạn; Mèo cào không xẻ vách đôi; Mèo bị bỏng sợ cả nước lạnh; Mèo hoang lại gặp chó hoang, anh đi ăn trộm gặp nàng bứt khoai; Mèo tha miếng thịt thì đòi, cọp tha con lợn mắt coi trừng trừng; Con mèo đập vỡ nồi rang, con chó chạy lại phải mang lấy đòn; Ăn như rồng cuốn, uống như rồng leo, làm như mèo mửa; Cơm treo, mèo nhịn đói; Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì giàu; Ba má bày đặt cho anh, áo bà ba may hai túi để anh . . . o mèo; Mẹ chồng ở với nàng dâu, như mèo với chuột thương nhau bao giờ; Mèo nằm bồ lúa khoanh đuôi, vợ anh đẹp lắm: đuổi ruồi không bay; Chồng người đi ngược về xuôi, chồng tôi ngồi bếp sờ đuôi con mèo; Còn duyên anh cưới ba cheo. hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi… Hiểu hết ý nghĩa của các câu ca dao, tục ngữ này thật không dễ. Các bạn trẻ nên nhờ các bậc cao niên giải thích cho những câu còn khó hiểu.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 19, 2011 4:51:43 GMT 9
NGÀY TẾT, VÁI LẠY "CỬU HUYỀN THẤT TỔ" LÀ VÁI LẠY AI? Trần Minh Tạo Hiện nay, rất nhiều gia đình người Việt miền Nam, nằm trong nhóm theo Đạo “thờ cúng ông bà”, đạo Phật, đạo PGHH, đạo Cao Đài , thường có treo bộ “Liễn thờ”, lộng kiếng, nằm phía sau bàn thờ tổ tiên vốn luôn dựa lưng vào tấm vách lòng giữa nhà để có thể quay mặt nhìn thẳng ra sân trước. Tại nơi giữa của bộ khung “liễn thờ” này bao giờ cũng có 4 đại tự bằng chữ Hán, đọc theo âm Việt là “Cửu Huyền Thất Tổ” , được viết nghiêm trang, tề chỉnh theo chiều dọc. (Bộ “liễn thờ”này hiện không biết làm ra từ đâu nhưng thường thấy thương nhân bán lẻ chở trên xe ba bánh , xe hai bánh hoặc trên xuồng ghe dưới sông để bán bình dân cho bất kỳ ai có nhu cầu mua; tập trung nhất là vào khoảng thời gian gần Tết Nguyên đán). Từ đây, vào đêm 30 tết , người ta thường bảo: “cúng rước Ông Bà”; vào sáng mùng 3 tết , người ta thường bảo: “cúng đưa Ông Bà ” nhưng khi mọi người tiến hành nghi thức truyền thống thì lại bảo là “vái lạy tổ tiên” hoặc “ vái lạy Cửu Huyền Thất Tổ”. Có lần, một lão nông cùng một thiếu niên hỏi tôi Cửu Huyền Thất Tổ là gì ,gồm cụ thể những ai, thì tôi đành ú ớ vì không biết, dù Tết nào bản thân mình cũng phải quỳ trước bàn thờ để vái lạy vào nơi có treo 4 đại tự nói trên. Thế là, từ đó, tôi bèn để tâm sưu tra sách vở gần xa để mong hiểu được ít nhiều về nó. Và dưới đây là những gì tôi biết được; dù chắc chắn là chưa cụ thể , đầy đủ lắm song cũng xin trình bày ra đây nhân dịp Tết đến xuân về để bà con bạn đọc gần xa có thêm tư liệu mà tọa đàm luận bình thêm bớt những lúc ngồi bên chén rượu chung trà dĩa mồi khay bánh cùng nhau. 1/. Xin nói trước rằng , trong Hán Việt từ điển của cụ Đào Duy Anh không có từ mục “Cửu Huyền” lẫn “Thất Tổ”. Càng không có tổ hợp từ Cửu Huyền Thất Tổ bên trong. Tra Từ Nguyên, Từ Hải lẫn Khang Hy từ điển bên Trung Quốc thì cũng tương tự như vậy . Tra sang Phật Học từ điển của cụ Đoàn Trung Còn thì vẫn không thấy. Tra qua kinh giảng của giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo thì thấy có dùng cụm từ này nhưng không thấy định nghĩa, giải thích nội dung. Chừng tra sang Cao Đài từ điển, do cụ hiền tài Nguyễn Văn Hồng, hiệu là Đức Nguyên, biên soạn , thì gặp tổ hợp từ này. Nó được giải thích như sau. Mà có đến 2 kiểu cách , mang 2 nội dung nghĩa khác nhau. Theo cách 1: Cửu Huyền có nghĩa là “9 đời ”. Bản thân ta là 1. Phụ thân (cha) ta là 2. Nội tổ (ông nội) ta là 3. Tằng tổ (ông cố) ta là 4. Cao tổ (ông sơ) ta là 5. Tiên tổ (cha của ông sơ) ta là 6. Viễn tổ (ông nội của ông sơ) ta là 7. Cao cao tổ (ông cố của ông sơ) ta là 8. Thỉ tổ (ông sơ của ông sơ) ta là 9. Còn Thất Tổ có nghĩa là “7 đời tổ”. Nó chính là từ đời ông nội ta đếm lên tới ông sơ của ông sơ ta , cũng theo nơi thang bậc Cửu Huyền vừa kể. Lấy Cửu Huyền trừ ra đời cha ta và đời bản thân ta thì thành Thất Tổ). Theo cách 2: Cửu Huyền cũng có nghĩa là 9 đời.Từ trên đếm xuống: Ông sơ ta là 1. Ông cố ta là 2. Ông nội ta là 3. Cha ta là 4. Bản thân ta là 5. Con trai (tử ) ta là 6. Cháu nội (tôn) ta là 7. Cháu cố (tằng tôn) ta là 8. Cháu sơ (huyền tôn) ta là 9. Còn Thất Tổ thì cũng là 7 đời. Nói cho ngắn gọn: thêm cha ta vào ,đồng thời đôn ông cố của ông sơ ta lên làm thỉ tổ sau khi bỏ ông sơ của ông sơ ra, theo cái list Cửu Huyền ở cách 1, thì đấy là Thất Tổ. 2/. Tất nhiên, Cửu Huyền Thất Tổ vừa giải thích ở trên là theo từ điển của đạo Cao Đài. Nó mang tính giáo lý của tôn giáo này, là vấn đề nội bộ của đạo, nên tôi không có ý kiến gì vào .Tôi chỉ nêu ra để tham khảo như một nguồn lẫn một kênh tư liệu đặc thù. Tới đây, tôi xin kể ra thêm một nguồn dữ liệu khác ,mang tính lịch sử , có liên quan đến cụm từ Cửu Huyền Thất Tổ này, xuất hiện vào một thời kỳ xa xôi, ở bên Trung Quốc, vào lúc đạo Cao Đài ở Việt Nam ta còn chưa khai dựng. Xin bắt đầu từ Lão tử, một triết gia tồn tại vào thời Xuân Thu ở Trung Quốc cổ đại, tổ sư của trường phái Đạo gia (lớn hơn Khổng Tử khoảng 20 tuổi),cũng là một trong nhiều nhân vật được tôn thờ nơi đạo Cao Đài ngày nay song song với Khổng Tử , Phật Thích Ca .... Theo Lão tử, siêu việt và có trước vạn hữu đang vây quanh ta hiện nay là một thực thể rất linh diệu , nhiệm mầu không thể nghe được, không thể thấy được, không thể diễn tả được ; nếu kêu lên và đặt tên được cho nó thì không còn là nó nữa (Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh) nên tạm quyền biến mà gọi là Đạo . Đây là cái sinh ra vạn cái (nhất bản tán vạn thù); rất “huyền chi hựu huyền” mà lại “chúng diệu chi môn” (một thể sâu thẳm lặng lẽ, càng rất sâu thẳm lặng lẽ, nhưng lại là cái cửa mà mọi thứ từ đó diệu kỳ xuất hiện, làm nên vạn vật nơi thế gian). Dĩ nhiên, đây chỉ là quan điểm triết học mang tính duy tâm chủ quan của Lão tử về thế giới với quan niệm Đạo như là yếu tố đầu tiên khởi sáng ra vũ trụ - con người . Thế nhưng , sang thời Chiến Quốc, lợi dụng tình trạng chiến tranh loạn lạc khổ não đang hồi liên miên bất tận khiến nhân dân khắp nơi đều đâm ra chán ngán thế sự nhân sinh, một số kẻ cơ hội chủ nghĩa lẫn cơ trí bấy giờ, gọi là các phương sĩ, manh nha giải thích cái thực thể “huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn” nói trên của Lão Tử theo hướng thần tiên hóa; đối với giai cấp vua chúa chuyên gây chiến tranh thôn tính và xa hoa dâm dật bấy giờ thì lại bịa đặt ra rằng có thể tìm tới xứ tiên và xin được thuốc trường sinh bất tử nhằm “vạn thọ vô cương”, kéo dài sự khoái lạc vật chất trên đời. Cái sự này kéo dài tới thời Tần Thỉ Hoàng (221tr.cn -206 tr.cn), qua thời Tây Hán (206 tr.cn -8cn) không những không chấm dứt mà còn phát triển với nhiều biến tướng khác nhau. Sang thời Đông Hán (25-220: triều đại này từng có Bà Trưng ở nước Việt ta khởi nghĩa , đuổi được quan thái thú sở tại, tên là Tô Định, trốn chạy về nước …), Trung Quốc vẫn tiếp tục rơi vào tình trạng rối loạn không ngưng. Có một người tên là Trương Lỗ, cháu của Trương Lăng , con của Trương Hoành , kế thừa thành tựu của cha ông , đã duy trì, biến cải, lập ra Đạo “ngũ đấu mễ” cách tân (ai xin vào thì phải nộp “5 đấu gạo” nên có cái tên gọi này) để chiêu nạp binh sĩ – tín đồ, chiếm được vùng Hán Trung rồi dựng lấy một nước riêng cho mình tại đây. Bấy giờ, trong phương sách nội trị, ông buộc các giáo đồ - binh sĩ thuộc quyền phải học tư tưởng về Đạo của Lão tử theo hướng tiếp tục bị thần tiên và trường sinh hóa sau khi Lão tử được tôn thành thần , gọi là “Thái Thượng Lão Quân”. Như vậy, tới đây, Đạo gia đã chính thức biến thành Đạo giáo và Đạo giáo đã kết hợp với chính trị một cách nhuần nhuyễn. Tới thời Lưỡng Tấn - Nam Bắc triều(265-589), Đạo giáo bám sâu , mở rộng ra khắp xã hội. Bấy giờ , có một người tên là Cát Hồng( 283-363), hiệu là Bao Phác Tử , lập ra Đạo “Kim Đan” bằng cách kết hợp đạo Phật và Đạo giáo vào nhau, với mục đích vừa dưỡng sinh , vừa tu tiên ; chủ yếu dành cho giai cấp quý tộc cầm quyền giàu có. Song song đó, đối với quần chúng bị trị, ông này cổ súy, chủ trương kết hợp “ngoài Nho trong Đạo”để trị quốc an dân. Bấy giờ, trong nhiều kinh sách khác nhau của Cát Hồng, người ta có thể bắt đầu nhặt ra được từ Cửu Huyền bên trong. Điển hình một câu sau đây: “Cửu thiên chân nữ ngự phi phượng , bạch loan, du ư cửu huyền chi thượng” (Tạm dịch: Cửu Thiên Chân Nữ ngự trên chim loan chim phượng bay vui vào chốn cửu huyền). Như vậy, mà cũng căn cứ vào sự giải thích nơi quyển Hán Ngữ Đại Từ Điển, do Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã thuộc nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa hiện nay ấn hành vào tháng 9 năm 1986, do La Trúc Phong chủ biên, thì Cửu Huyền bấy giờ thực chất chỉ là một thuật ngữ của Đạo “Kim Đan”, một phát triển và biến tướng khác của Đạo giáo trước đó , mang nghĩa là “chốn tiên”; đượm màu sắc triết học một chút thì gọi là “Thiên không tối cao xứ” (chốn nguyên hợp túc mãn tĩnh lặng tối cao tự tại và đời đời ). Tuy nhiên, bấy giờ, đạo “Kim Đan” của Cát Hồng , với thuật ngữ Cửu Huyền bên trong , cơ bản chỉ xuất hiện một cách độc quyền ở phía Bắc nước Trung Quốc là nhiều . Nhưng , sau đó ít lâu, tại nước Bắc Ngụy (398-535) , xuất hiện một người cho rằng từng học thuật của Trương Lỗ trước kia , tên là Khấu Liêm Chi, tự cho mình được Thái Thượng Lão Quân truyền ban cho quyển “Vân Trung Âm Tụng Tân Khoa Chi Giới”cùng phong cho chức vị Thiên Sư để chỉnh đốn, thống nhất lại Đạo giáo. Thế là, bấy giờ, khi nghe vậy , tể tướng nước Bắc Ngụy này bèn “tài trợ”ông ta rồi phong cho làm Quốc Sư. Từ đây, Đạo giáo phía Bắc Trung Quốc càng thịnh hành, được gọi mới là Bắc Thiên Sư đạo , song song tồn tại với Kim Đan đạo . Trong lúc đó ,ở Nam triều, tại nước Tống (420-589), có một đạo sĩ tên là Lục Tu Tỉnh chủ trương kết hợp Bắc Thiên Sư đạo với Kim Đan đạo làm một. Ông này cho rằng Phật giáo và Đạo giáo tuy có hai đường lối tu hành khác nhau nhưng chỉ chung cùng một mục đích . Ông bèn lấy nghi thức tu hành của Phật giáo cải biến đi ít nhiều rồi đem dùng cho Đạo giáo của ông, được gọi là Nam Thiên Sư đạo. Nam Thiên Sư đạo này được vua chúa phong kiến ở Trung Quốc bấy giờ và sau đó tín ngưỡng và trọng dụng . Đến nỗi, vào đời Đường (618-907), có một hoàng đế tự xưng mình là con của Lão Tử. Có vị khác mê tín thuốc tiên, uống linh đan vào mà phải ngã lăn ra chết vì ngộ độc. Còn Đường Huyền Tông thì lập ra Sùng Huyền Quán , chuyên chú sớ Đạo Đức kinh của Lão tử, thậm chí nhận các đạo sĩ làm tôn thất. Sang đời Tống (960-1279), vua Tống Chân Tông suy tôn Lão Tử là “Thái Thượng Hỗn Nguyên Hoàng Đế”. Đến thời Lý - Trần ở nước ta(1010-1400), bên Trung Quốc có một đạo sĩ , tên là Vương Trọng Dương, lập ra đạo Toàn Chân trên cơ sở Đạo giáo đương thời nhưng lại không còn chú trọng đến yếu tố thần tiên, phù phép và luyện linh đan nữa. Tư tưởng trung tâm của Đạo này là tam giáo hợp nhất: “Nho môn,Thích hộ, Đạo tương thông/ Tam giáo tòng lai nhất tổ phong”. Từ đây, Vương Trọng Dương lấy Hiếu Kinh của Nho giáo; Tâm Kinh của Phật giáo; Đạo Đức Kinh của Lão tử để dạy tu hành cho tín đồ của mình. Do vậy, đến đây, ta không thể không nói rằng thuật ngữ Cửu Huyền của Đạo giáo xưa kia không thể không đậm thêm lần nữa tư tưởng của Phật Giáo và của Nho giáo bên trong (đã manh nha từ Kim Đan đạo vào thời của Cát Hồng). Và, ngược lại, đến đây, tư tưởng của Nho giáo (bắt nguồn từ Nho gia. Trở thành Nho giáo vào đời Hán Vũ đế bên Tàu) , của Phật giáo , khi chỉ về một cõi “siêu thế gian” nào đó , nơi mà bất cứ người đời nào cũng phải “tử quy”, thì cũng không thể bảo rằng không bị ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng thần tiên siêu thoát của Đạo giáo. Cái sự này thấy rất rõ trong ngôn từ của dân ta hiện nay: “Quy tiên”, “nhập niết bàn”, “trực vãng Tây phương”, “chầu trời”… đều là những khái niệm đồng nghĩa với tình trạng đã chết của một chủ thể nào đó. Vì rằng, vào lúc này, khi các vua nhà Lý ở nước ta chính thức “nhập khẩu”Đạo nho từ Trung Quốc vào, chính thức lập miếu thờ các vị tổ sư của Đạo Nho trên đất nước ta (và các vua nhà Trần vẫn còn tiếp nối) , thì không thể không đồng thời nhập khẩu luôn cái tình trạng tam giáo hợp nhất nói trên vào ý thức xã hội bấy giờ , lẫn trong ngôn ngữ sử dụng hằng ngày . Mà , theo tôi, Cửu Huyền Thất Tổ là một dạng hợp nhất về ngôn ngữ như vậy. Vì sao? Vì , rõ ràng, Cửu Huyền là thuật ngữ có nguồn gốc từ Đạo giáo xưa kia, như trên đã nói; có tận vào thời của Cát Hồng. Còn “Thất Tổ” thì rõ ràng lại là ngôn từ của Nho gia. Nó là một trong những khái niệm nằm trong hệ thống tư duy tông pháp của Đạo nho, có từ thời Hạ, Thương, Chu bên Tàu, trước khi Đạo gia lẫn Đạo giáo ra đời rất lâu. Nó có nghĩa là “thất đại tổ tiên” (bảy đời tổ tiên), cũng theo Hán Ngữ Đại từ điển nói trên. Như vậy, nảy sinh một câu hỏi thú vị sau đây: sự hợp nhất ra tổ hợp từ Cửu Huyền Thất Tổ này có từ lúc nào? Và có nghĩa chung ra làm sao? Theo lịch sử Trung Quốc thì cuối đời nhà Đường bên Tàu (618-907) nội chiến xảy ra khắp nơi và liên tục. Phía Bắc Trung Quốc, từ năm 907-960, có tất cả 5 triều đại thay nhau lên cầm quyền. Tại phía Nam, có 10, trong đó có một triều đại gọi là Tiền Thục. (Lúc này, nhân cơ hội nhà Đường tự tan rã nói trên mà dân Việt Nam ta dần dần giành được độc lập …). Bấy giờ, tại nước Tiền Thục này có một Đạo sĩ nổi tiếng , tên là Đỗ Quang Đình. Ông có viết một quyển kinh , tựa là “Trung Nguyên chúng tu kim lục trai từ”. Trong quyển kinh này có một câu như sau: “Thần đẳng cửu huyền thất tổ thụ phúc chư thiên di tộ lưu tường truyền hưu vô cực”. (Tạm dịch: Cửu huyền thất tổ của chúng thần thụ phúc từ Chư Thiên, lưu giữ và truyền tiếp không ngưng nghỉ sự thụ phúc ấy đến vô cực cháu con”). Như vậy, rõ ràng, chậm lắm là vào thời Tiền thục này (907-925), tổ hợp từ Cửu Huyền Thất Tổ đã ra đời và được các đạo sĩ dùng trong việc “chuyện trò” tại các buổi tụng cầu cùng đấng “Chư thiên” của mình. Dù mang màu sắc của Đạo giáo, nhưng đấy lại là một tổ hợp từ phản ánh một nội dung đối tượng rất trần thế. Đó là các đời tổ tiên, vừa xa vừa gần , của một chủ thể nhất định . Và các đời tổ tiên này chỉ là những người đã “du” về một “tiên cảnh” nào đó chứ không phải là “đã chết”. Tới đây, có một vấn đề cần làm rõ. Cửu Huyền thì không cần bàn về nguồn gốc cùng ý nghĩa của nó nữa. Nhưng tại sao lại kết hợp với “thất tổ” mà không phải là với “ lục tổ” hay “ngũ tổ” để chỉ các đời ông bà đã “cưỡi hạc quy tiên” của mình? Theo tôi, là như thế này. Đạo giáo là kết quả của sự thần tiên hóa từ Đạo gia, với nhiều biến thể khác nhau, từ thời Xuân Thu – Chiến Quốc cho mãi đến thời Minh – Thanh gần đây, thậm chí cho đến tận bây giờ, kể cả bên Việt Nam ta. Mà Đạo gia thì xuất hiện sau Nho gia. Bản thân chữ cửu” trong từ "cửu huyền”, ngay lúc đầu, đã không mang nghĩa là con số 9 của số học. Không thể hiểu nó theo kiểu “chín huyền thể ” được. Mà phải hiểu “Cửu” là sự “tối tột”. Ngoài việc có ý nghĩa là con số 9 của số học ra , nó còn là một khái niệm chỉ sự “tuyệt cực ”trong Dịch học, một kiểu loại ngôn ngữ đặc biệt , xuất hiện vào tận thời Phục Hy bên Tàu (4477-4363 tr.CN). Cụ thể hơn, trong Dịch học, số 9 (Cửu) đúng là con số mang ý nghĩa thái dương (nghịch ngược với thái âm). Và, một khi như thế, khi dùng Cửu Huyền như một đơn vị từ tố kép , có giá trị cấu tạo ra cái tổ hợp mà chúng ta đang bàn, thì người ta hồi ấy không thể không dùng con số 7 (thất) với 2 lý do nội tại cơ bản như sau: Một, để cho phù hợp về tư duy đăng đối trong thiết kế câu từ vốn có ở người Trung Quốc xưa. Hai, quan trọng hơn, 7 vẫn là con số của Dịch học, chỉ tình trạng dương tính tuyệt cực đứng sau con số 9 (Cửu) đã dùng ở trên rồi . (Trong Dịch học, nó là số thiếu dương). Như vậy, theo đó, Cửu Huyền Thất Tổ chỉ có nghĩa là vô lượng tổ tiên ông bà đã chết trong quá khứ của mình . Đây là nội dung nghĩa mà kinh cầu siêu của Phật giáo Việt Nam ngày nay vẫn đang còn dùng. Nói cụ thể hơn, hiện nay, khi có một vị thầy cúng theo Phật giáo nào đó mà đi tụng kinh dẫn dài theo một đám đưa ma nào đó thì bao giờ cũng có một đoạn văn sau đây: “…Cửu huyền thất tổ trực vãng Tây Phương”. “Tây Phương” , trong giáo lý nhà Phật hiện nay, tương tự như “thiên không tối cao xứ” hay “bồng lai tiên cảnh”… của Đạo giáo. Còn “Trực vãng” là “siêu khuất thẳng về”. Có nghĩa rằng, trong đoạn kinh trên, Cửu Huyền Thất Tổ vẫn chỉ là một tổ hợp từ trỏ chung những ông bà “đã chết” của mình. Tóm lại, Cửu Huyền Thất Tổ , vào thuở ban sơ, là một tổ hợp từ do Đạo giáo chế tác bằng cách vay mượn từ ngữ Thất Tổ của Đạo Nho kết hợp vào từ ngữ Cửu Huyền vốn từng có trước đó trong Đạo của mình. Khi đã trở thành thuật ngữ mới, đương nhiên là nó phải mang nội dung nghĩa đầu tiên theo quan điểm của Đạo giáo. Sau đó, trong hoàn cảnh tam giáo hợp nhất xảy ra, Đạo Phật đã mượn lại tổ hợp từ này từ Đạo giáo. Riêng bản thân Nho giáo thì có vẻ đã chưa từng mượn tổ hợp từ này trong sinh hoạt tế tự nội bộ của mình nhưng lại mượn một điều đặc biệt hơn,quan trọng hơn. Đó là thế giới tâm linh trong tư tưởng của nhà Phật và thế giới siêu thoát thế gian trong tư tưởng của Đạo giáo. Hay nói cách khác, khi tam giáo hợp nhất , Đạo Nho bấy giờ cũng như cái vỏ ốc tư duy hóa thạch đang hồi thô ráp rỗng ruột được đổ đầy vào đó tinh thần từ bi bác ái của nhà Phật cùng tinh thần phóng khoáng tự do khinh bạc tung hoành xuất thế của Đạo giáo. Nhưng dù biện giải theo quan điểm tôn giáo của mình như thế nào, giữa Đạo giáo và Phật giáo , thì Cửu Huyền Thất Tổ cũng vẫn là một tổ hợp từ điểm chỉ các thế hệ tổ tiên ông bà đã chết trong quá khứ của mình. Rất khác với quan điểm thờ cúng của Nho gia hay Nho giáo: thờ cúng theo dòng , theo chi, theo nhánh và tại từng dòng , từng chi, từng nhánh này lại chỉ thờ cúng tới 5 đời tổ so với bản thân mình; khi tổ thứ 5 trở thành thứ 6 theo thời gian thì không trực tiếp thờ cúng nữa.(ngũ thế tắc thiên). Chẳng những vậy, họ chỉ tập chú thờ cúng các tổ ông ; cố tình phân biệt , bỏ rơi hoặc xem khinh phân nửa tổ còn lại , ấy là các tổ bà. Phản ánh rất rõ tư duy phong kiến: vừa tôn ti thứ bậc thân sơ dựa trên quan hệ quyền lực sở hữu và lợi ích truyền thừa sản nghiệp là chính lại vừa ẩn chứa thường trực xu hướng cát cứ phân rẽ nơi họ: không có yếu tố bình đẳng cận mật gì với nhau trong bản chất của sự quan hệ. Trong khi đó, Cửu Huyền Thất Tổ là một khái niệm thờ cúng mang tính “đồng nguyên” tuyệt đối trong tình cảm lẫn trong tư duy. Phản ánh tính chất duy nhân bản và hòa thân , phóng khoáng trong quan điểm triết lý sống đời của những ai theo loại tín ngưỡng thờ cúng này,dù sắc thái lễ nghi biểu hiện ra sao… Trần Minh Tạo
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 27, 2011 4:30:02 GMT 9
Nơi tôn nghiêm, chữ nghĩa sao có thể Đình, chùa, đền, miếu,…là nơi linh thiêng tôn thờ các vị Phật, các vị thánh thần, nhất là những anh hùng dân tộc, hoặc người có công với dân, với nước. Vậy mà khi trùng tu, tôn tạo các di tích này, một số nơi đã không cẩn trọng trong việc viết hoành phi, câu đối, đại tự nên có nhiều sai sót khiến phật tử, khách thập phương đến lễ bái, tham quan phải giật mình kinh ngạc. Chữ Tác đánh thành chữ Tộ Thấy tôi sang chơi, cô gái hàng xóm hớn hở trỏ lên tường, khoe: "Đầu xuân năm mới xuất hành, cháu lên tận Văn Miếu-Quốc Tử Giám xin chữ Duyên để treo trong phòng cưới lúc chồng cháu đi xa. Thầy đồ nơi cửa Khổng sân Trình trẻ ơi là trẻ. Mà chữ viết rồng bay phượng múa quá đẹp, phải không bác". Tôi lặng người. Biết mà không nói là có lỗi. Không muốn làm cô gái mất vui khi đến với chữ nghĩa của thánh hiền, tôi nói: "Cháu chọn chữ Duyên là hay lắm đấy. Duyên là hợp tình, hợp ý, hợp tính, hợp nết với nhau; là tình duyên và số phận của vợ chồng đã được định trước; là cái vẻ dịu dàng duyên dáng của người phụ nữ được mọi người mến yêu. Chữ Duyên có bộ Mịch, là cái dây, một sợi dây liên hệ vô hình kết nối hai vật thể với nhau. Còn đây là chữ Lục, nghĩa là màu xanh. Thầy đồ viết nhầm, vì hai chữ này tự dạng gần giống nhau". Cô gái xịu mặt buồn. Tôi động viên: "Để bác viết lại. Chữ này sai còn sửa được, chứ ở một số nơi tôn nghiêm như đình chùa miếu mạo,…người ta còn viết sai khủng khiếp, sai chết người và trở thành giai thoại, thành bia miệng nữa kia". Rồi tôi vừa viết lại chữ Duyên, vừa kể chuyện thật như bịa cho cô gái nghe… Lần đến tham quan ngôi đền ở Sóc Sơn, có đôi câu đối viết bằng chữ Nôm (trích một vế): "Kim thiên Hồ Bác bình Tây Mỹ". (Ý nói: Ngày nay Bác Hồ đánh đuổi quân Tây, quân Mỹ). Chữ Nôm là do ông cha ta sáng tạo ra, và người viết phải tuân thủ theo ngữ pháp của tiếng Việt. Không thể viết Hồ Bác, mà phải viết là Bác Hồ. Hơn nữa, chữ Hồ, lại viết nhầm thành chữ Triều, trong từ triều đình; một âm là Triêu, nghĩa là buổi sớm. Sau lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ, Trung đoàn Thủ đô vừa được thành lập đã chiến đấu kiên cường giam chân quân Pháp trong 60 ngày đêm giữa lòng Hà Nội để Trung ương Đảng và Chính phủ rút lên chiến khu Việt Bắc an toàn. Ngay trong dịp Tết Đinh Hợi 1947, Bác Hồ đã viết thư khen ngợi Trung đoàn với câu nói nổi tiếng: "…Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh". Để ghi dấu sự kiện quan trọng này, năm 1984, tượng đài "Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh" đã được dựng bên cạnh đền Bà Kiệu, hồ Hoàn Kiếm. Về tượng đài này cũng có nhiều ý kiến tranh luận. Các cụ từng là chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô quả quyết rằng, họ chưa bao giờ thề là cảm tử mà chỉ thề quyết tử mà thôi. Có một chuyên gia của Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì cho rằng, sắc thái biểu cảm của chữ Quyết mạnh mẽ hơn chữ Cảm. Nghĩa ban đầu của chữ Quyết là vỡ đê. Mà thế nước vỡ đê thường tạo ra cơn hồng thuỷ, vốn được xếp hàng đầu trong bốn đại họa: thuỷ, hoả, đạo, tặc. "Các em quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" là bản hùng ca cho ngàn sau. Ngày 24/10/2004, tượng đài "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" được dựng tại vườn hoa Hàng Đậu để kỷ niệm nghìn năm Thăng Long - Hà Nội. Chữ Nghiêm, chữ Túc ở đình Phùng Khoang, Hà Nội. Tại sân một ngôi đình thờ Phùng Hưng ở Hà Nội, người ta treo lá cờ thần, thêu dòng chữ "Bố Cái Đại Vương". Trong tiếng Việt cổ, từ Bố Cái để chỉ cha mẹ. Vì Phùng Hưng có công với dân, với nước, được nhân dân ta ái mộ, coi ông như cha mẹ của dân, nên mới gọi ông là Bố Cái Đại Vương. Vậy mà chữ Cái, trong từ Bố Cái (cha mẹ), người ta lại thêu nhầm thành chữ Cái, trong từ cái bang, khất cái, nghĩa là người ăn xin; tổ chức thành hội ăn xin. Tại một ngôi chùa ở Hà Nội, dưới bức ảnh Đức Phật Thích Ca, người ta treo bài thơ "Tương tiến tửu" (Mời uống rượu) của Lý Bạch. Trong đạo Phật, ai cũng biết Ngũ giới (năm điều cấm là: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói càn, không uống rượu). Hẳn là nhà chùa không biết nội dung bài thơ Đường nổi tiếng "Tương tiến tửu", có câu: Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch. Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh (Xưa nay các bậc thánh hiền đều mờ mịt. Chỉ có kẻ uống rượu là danh vẫn để đời), nên mới để câu thơ khuyến khích uống rượu dưới Đức Phật Thích Ca. Hài hước thay và cũng đáng buồn thay! Tại đình Trung Kính Hạ, người dân cung tiến đôi câu đối, mà lẽ ra chỉ dùng để treo ở nhà thờ họ, nội dung như sau: "Mộc căn sắc thái ư hoa diệp. Tổ khảo tinh thần tại tử tôn" (gốc rễ vững nở trăm hoa lá. Tinh thần tiên tổ còn lại với cháu con). Phía ngoài cổng đình, kẻ hai chữ Nghiêm (tôn nghiêm) hai bên cánh gà. Hỏi tại sao không viết cả chữ Túc (cung kính) cho đủ ý, có cụ trả lời: Viết hai chữ Nghiêm hai bên là để khi quan khách vào đình quá đông, nếu dòng người che mất chữ Nghiêm bên trái, thì dòng người bên phải vẫn nhìn thấy chữ bên phải để đọc. Hỏi, vậy tại sao nhiều đình, người ta viết đủ hai chữ Nghiêm Túc, như đình Phùng Khoang, Hà Nội chẳng hạn. Vừa nói, tôi vừa rút tấm ảnh chụp hai chữ Nghiêm Túc đưa cho các cụ xem. Bí quá, một cụ nói ba phải: Nghiêm-Nghiêm cũng được, Túc-Túc cũng xong, mà Nghiêm-Túc thì càng ôkê! Thật là thiếu nghiêm túc! Chủ nhật vừa rồi, tôi được mời tới dự lễ khánh thành chùa Minh Hồng ở ngoại thành Hà Nội. Gặp tôi, sư thầy Thích Chí Thành niềm nở chào hỏi. Thầy không quên kể lại thuở trước, khi mới xuất gia, chú tiểu Hoàng (nay là sư thầy Thích Chí Thành) thường xuyên vào nhà tôi đọc sách. Trước khi về, thế nào chú tiểu Hoàng cũng phải mượn bằng được mấy cuốn sách mà thầy tâm đắc nhất. "Bây giờ, nhiều người không chịu đọc sách, không chịu học hành cho đến nơi, đến chốn, thế nên chữ nghĩa lỗm bỗm lắm. Đến như thầy tôi chuyên đi cho chữ người ta mà còn viết chữ sai, lại khắc trên câu đối bằng đá ngoài cổng chùa to đùng giữa bàn dân thiên hạ". - Thầy dừng lại. Tôi biết ý không hỏi thêm. Vì trước đó, tôi biết đôi câu đối này, (trích một vế): "Minh Hồng bảo tự, đề tư chúng chúng nhập thiền môn". (Minh Hồng chùa quý mở, người người đến thiền môn). Ý tứ thật hay, chỉ tiếc thay, người cho chữ viết nhầm chữ Thiền/thuyền trong chữ thiền/thuyền quyên (có bộ Nữ), tả cái dáng vẻ xinh đẹp của người con gái, với chữ Thiền của nhà Phật (có bộ Kỳ), chỉ sự tĩnh tâm tu dưỡng Phật pháp. Từ mong muốn người người đến thiền môn tu tâm theo đạo Phật, lại thành "khuyến khích" mọi người đến với… gái đẹp. Thật tai họa. Tôi nói: "Thầy có nhớ câu: Thanh xuất ư lam?" (Trò giỏi hơn thầy). "Nhớ chứ. Nói đầy đủ là: “Thanh thủ chi lam nhi thanh ư lam. Băng, thủy vi chi nhi hàn ư thủy" (Màu xanh lấy từ cây chàm, mà xanh hơn cây chàm. Băng do nước mà thành, nhưng lại lạnh hơn nước). Câu này của Tuân Tử (313-238 Tr.CN), một nhà tư tưởng, nhà giáo dục, nhà văn Trung Hoa, người nước Triệu. Cuối đời về dạy học, nhiều học trò giỏi, nổi tiếng như Hàn Phi, Lý Tư đã kế thừa và phát huy tư tưởng của ông. Tuân Tử vui mừng tặng lại trò câu nói nổi tiếng ấy". Tôi nói: "Giá đại đức mà biết điển tích này, chắc không mắc những sai sót kể trên. Chữ Ngộ không thành chữ Quá Mọi công tác chuẩn bị cho việc trùng tu, tôn tạo nhà thờ họ Lê làng tôi đều suôn sẻ. Duy có điều, khi bàn đến chữ nghĩa trên hoành phi, câu đối, đại tự của các cụ để lại, thì ai nấy đều lo lắng, vì nhiều vị túc nho trong làng đã lần lượt về với tiên tổ. Tôi, với tư cách là Trưởng Hội đồng gia tộc, nói: "Xin quan họ yên tâm. Cách đây 3 năm, đêm nào tôi cũng lọ mọ đi học chữ Hán. Và hiện nay vẫn tiếp tục học lớp Hán Nôm nâng cao. Một thế hệ thầy vàng, bạn vàng đã giúp tôi hiểu ra rằng, đối với chữ thánh hiền, thì cẩn trọng bao nhiêu cũng không bao giờ thừa. Thầy kể, đến như câu đối trên đền Hùng mà còn viết sai. Mà lại sai nghiêm trọng, đến mức các cụ có đơn kiện lên Trung ương. Trung ương phái cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm về thẩm định và cho sửa lại… đúng một phần tư nét phẩy. Nói thế để thấy rằng, chỉ một nét chữ viết sai là ảnh hưởng đến tâm linh của cả dòng họ". Nói rồi, tôi dẫn chứng câu đối ngoài hiên nhà thờ họ Lê: "Tổ công khai thác quang tiền đại. Tôn đức tư bồi dụ hậu côn". (Công lao tổ tiên khai phá làm vẻ vang đời trước. Đạo đức tiền nhân bồi đắp làm rạng rỡ đời sau). Lần sửa nhà thờ gần đây, người ta thêm bộ Thuỷ vào bên trái chữ Côn, thành ra chữ Hỗn. Mà Hậu Hỗn thì thật nguy tai! Cổng nhà thờ họ Lê, ghi (trích) "...chủ nhân nghênh quý khách". Trong nhà thờ thì ai là chủ? Ai là khách? Chả lẽ cụ tổ là chủ? Con dân họ Lê là khách? Vì thế, trong hơn 2 năm qua, tất cả chữ nghĩa trên hoành phi, câu đối, đại tự trong nhà thờ họ Lê,… đều được in bằng máy tính, phô tô thành nhiều bản gửi đi các viện có liên quan, như Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Nghiên cứu Văn hoá,… cùng các giáo sư, tiến sĩ chuyên ngành, hoặc các thầy giảng dạy chữ Hán Nôm, bạn bè hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực này nhờ thẩm định, cho ý kiến. Sau đó, tôi niêm yết những chữ ấy tại nhà thờ để họ hàng, làng xóm, bạn bè tới tham quan, góp ý. Vậy mà đâu có xong. Gần ngày cất nóc nhà thờ, tôi lại đến nhà từng thầy nhờ chỉ giáo cụ thể từng chữ. Về nhà, một ông đồ gàn đã viết ngược chữ trên cây nóc nhà thờ. Tôi nói, ông viết thế này thì phải quay lưng vào cụ tổ để đọc à? Khi viết chữ Hán Nôm, các cụ ta xưa còn phải kiêng cả nét mác không đâm vào bàn thờ kia đấy!". Ông ta cãi: "Thì bố ông dạy tôi viết thế". "Tốt nhất là ông lên nhà tôi. Bố tôi viết chữ để thờ ông nội tôi, thì không thể sai!". Nhìn lên nóc nhà tôi, ông ta lẩm bẩm: "Quái nhỉ! Chả lẽ tôi viết sai à?". "Ông đã viết chữ Hán sai như thế trên cây nóc của nhiều nhà nữa kia". Ông ta không nói năng gì. Còn bà dâu trưởng họ thì cứ nhất quyết, chữ bây giờ tôi làm không giống chữ của các cụ ngày xưa. Bà ấy bắt tôi phải mời thợ đá Ninh Bình lên sửa lại. Tôi giải thích thế nào, bà ấy cũng không nghe. Tôi sợ tâm không bình, khí không hòa thì nói dễ lầm lỡ, hỏng việc lớn, đành nhẫn nhịn. Lên Hà Nội, tôi điện cho vợ tôi, nói rằng mỗi bên bỏ ra một triệu. Bà dâu trưởng họ mời các vị túc nho, luật sư tới kiểm tra, nếu ai đúng thì được cầm cả số tiền cược, lúc đó bà ấy mới thôi đòi sửa chữ Hán. Trước lễ cắt băng khánh thành nhà thờ họ Lê một tuần, tôi mời mấy vị am tường chữ nghĩa Hán Nôm về xem xét lại lần cuối. Nghe tôi trần tình về chuyện chữ nghĩa, một vị nói, Khổng Tử dạy: "Biết thì bảo rằng biết, không biết thì bảo rằng không biết, thế là người biết vậy". Thật chí lý.
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 17, 2011 1:28:58 GMT 9
36 câu nói của người xưa
Nguyễn Dư Tục ngữ, châm ngôn, thành ngữ, phương ngữ Việt Nam đã được nhiều học giả để ý sưu tầm, giải nghĩa từ khoảng một trăm năm nay. Sách viết bằng chữ hán, chữ nôm vừa hiếm, vừa khó hiểu nên dần dần bị quên lãng. Sách còn được lưu truyền đến ngày nay, hầu như chỉ có sách viết bằng chữ quốc ngữ. Coi như chữ quốc ngữ đã loại được chữ " thánh hiền " và chữ " nôm na ". Đáng ngạc nhiên hơn nữa là trong số những người đi tiên phong trong việc truyền bá chữ quốc ngữ lại có cả người Pháp. Trong lúc người Việt còn bàn cãi thì một vài người Pháp đã bắt đầu viết sách bằng chữ quốc ngữ về... tục ngữ, thành ngữ Việt Nam. Có thể kể: - Sách Chrestomathie Annamite (Quảng tập viêm văn) của"Dáo (giáo) học Ngô Đê Mân" (Edmond Nordemann, professeur au Collège des Interprètes, Trường Thông Ngôn). Edmond Nordemann (viết tắt EN) cũng là người sáng lập ra Société tonkinoise d'Enseignement mutuel (Hội Trí Tri). Sách Quảng tập viêm văn được xuất bản năm 1898 tại Hà Nội, gồm 180 bài phương ngữ Bắc Kỳ, kèm theo một tập từ vựng giải thích. Thiên thứ chín sưu tầm "Nhời ví mấy câu ví, dọn theo vần A, B, C ". Nhời ví, câu ví là những câu tục ngữ và thành ngữ được phổ biến đến tận ngày nay. Sách còn cho người đọc thấy được tình trạng chữ quốc ngữ tại Bắc Kỳ hồi cuối thế kỉ 19. - Các bài biên khảo về Croyances et Pratiques Religieuses des Viêtnamiens (Tín ngưỡng và nghi thức tôn giáo của người Việt Nam) của Léopold Cadière (LC), được viết trong khoảng từ năm 1901 đến 1912. Năm 1957, trường Viễn Đông Bác Cổ tại Paris tập hợp các bài viết và in thành sách. Sách được tái bản năm 1992. Trong mục Philosophie populaire: Cosmologie (Vũ trụ quan ) Léopold Cadière sưu tầm được nhiều câu tục ngữ liên quan đến súc vật. Về phía các tác giả Việt Nam, có rất nhiều sách. Tuy nhiên, các sách nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu về tục ngữ thì không nhiều. Xin nêu ra một số tiêu biểu : - Tục ngữ, phong dao (1916) của Nguyễn Văn Ngọc (NVN) sưu tầm được hơn sáu nghìn năm trăm (6500) câu tục ngữ, thành ngữ và nhiều bài phong dao (ca dao). Nguyễn Văn Ngọc là người đầu tiên làm công việc sắp xếp các câu tục ngữ, các bài phong dao theo thứ tự A, B, C..., và theo số chữ của câu. Rất tiện cho việc tra tìm. - Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (in lần thứ tám, 1978) của Vũ Ngọc Phan (VNP) sưu tầm và sắp xếp các câu nói, bài ca theo đề tài (Vũ trụ, con người và xã hội, quan hệ thiên nhiên, quan hệ xã hội...). Sách sưu tầm được nhiều bài chống thực dân, đế quốc của nhiều sắc dân. Vì các câu nói, các bài ca được sắp xếp theo nội dung, đề tài nên rất khó tra tìm theo câu chữ cụ thể. - Thành ngữ-tục ngữ Việt Nam (2007) của Thuỳ Linh (TL) sưu tầm thêm nhiều câu mới, đặc biệt là cả những câu của đầu thế kỉ 21. Thuỳ Linh tiếp tục làm công việc đã được Nguyễn Văn Ngọc bắt đầu gần 100 năm trước. Tiếc rằng cả năm tác giả tây và ta kể trên chỉ sưu tầm các câu nói. Không giải nghĩa. Sách có giải nghĩa thành ngữ và tục ngữ tương đối còn hiếm. Đáng kể là: - Thành ngữ tiếng Việt (1978) của Nguyễn Lực và Lương Văn Đang (LĐ). - Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (1989) của Nguyễn Lân (NL). Bên cạnh các ghi chép còn phải kể thêm một ít tranh vẽ, minh hoạ các câu nói: - Bộ tranh Technique du peuple Annamite (Kĩ thuật của dân An Nam) của Henri Oger, xuất bản năm 1909, sưu tầm được 36 câu tục ngữ, thành ngữ. - Sách Imagerie populaire vietnamienne (1960) (Tranh dân gian Việt Nam) của Maurice Durand sưu tầm thêm được 13 câu. Bài này giới thiệu 36 câu nói trong bộ tranh Oger. - Các tranh được đánh số 1, 2, 3...8. Các câu nói của mỗi tranh được ghi a, b, c... - Chữ nôm đọc từ trên xuống dưới và từ phải sang trái. Chỗ nào sai sẽ được nêu ra. - Các chữ viết tắt (NVN, VNP...) là tên tác giả của sách được tham khảo. Tranh 1 a - Ngỗng ông lễ ông (LC, NVN, LĐ, NL). (Prendre) l'oie de quelqu'un pour la lui offrir (LC). Remercier quelqu'un avec ses propres bienfaits (Gustave Hue) Ý nói: Vật biếu người ta chẳng qua cũng chỉ là của của người ta (NL). Giải thích của Nguyễn Lân (NL), Léopold Cadière (LC) và Gustave Hue hơi lủng củng, khó hiểu. Đồ biếu của mình là... đồ của người ta? Hoá ra Ngỗng ông lễ ông là ăn trộm mang đồ trả lại cho người bị mất trộm à? Đến cửa quan (công môn) thú tội, lạy ông tôi ở bụi này, để được... vào tù à? Dân đen dại dột, ngu xuẩn như vậy sao? Nhất định là không! Quan không hiểu lòng dân chứ dân thì đứa nào cũng... đi guốc trong bụng quan! Không hiểu Ngỗng ông lễ ông muốn nói gì để tố cáo nạn quan ăn hối lộ, hà hiếp dân đen? b - Sáng trăng bà về vậy. Sáng trăng suông bà về vậy (NVN). Chữ vậy ở cuối câu nói cho thấy sự thất vọng của người đàn bà. Về vậy có nghĩa là đành phải về. Ngày xưa, ở thôn quê cũng như ở thành thị, sáng trăng là dịp trẻ con rủ nhau vui đùa trong xóm, ngoài ngõ. Nhưng sáng trăng lại bất tiện cho những việc làm lén lút như trộm cướp, hẹn hò bất chính. Dường như người đàn bà trong tranh đang gặp tình cảnh này. Bà muốn " đi đêm" nhưng trăng cứ sáng vằng vặc, rõ như ban ngày thế kia thì... hỏng chuyện! Bỏ về là vừa. Nghĩa bóng của câu nói : định làm chuyện mờ ám nhưng không thành. c - Già chơi trống bỏi ( LĐ, NL). Già còn chơi trống bỏi (NVN, TL). Ám chỉ người già lấy thêm vợ trẻ (LĐ). Chê những người già vẫn có những việc làm không đứng đắn, không còn xứng với tuổi của mình nữa (NL). Ngày nay ám chỉ các cụ động cỡn, đú đởn thích " chơi " tin (teen). d - Khóc đống bòng bong (có tấm bia khắc chữ Mộ chí) Mồ cha không khóc, khóc đống mối, Mồ mẹ không khóc, khóc bối bòng bong (NVN). Mồ cha chẳng khóc, khóc đống mối (NL). Chê người tha thiết đến một việc không phải là phận sự của mình (NL). Chê cười kẻ không thương cha, thương mẹ đẻ của mình mà lại vớ vẩn đi thương ông nọ, ông kia ở mãi tận đâu đâu. Tranh 2 a - Nuôi ong tay áo (EN, LĐ, NL). - Nuôi ong tay áo; nuôi khỉ dòm nhà (LC). Nuôi dưỡng, giúp đỡ kẻ xấu có thể phản bội lại mình (NL-LVĐ). Giúp đỡ, che chở một kẻ sẽ phản bội mình (NL). Câu nói Nuôi ong tay áo ngắn gọn, đầy đủ ý nghĩa. Nhưng nhiều người lại muốn kéo dài hơn : - Nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà (NVN). - Nuôi ong tay áo, ấp rắn vào ngực (NVN, NL). - Nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà (TL). b - Từ bi oản quả, day tay oản quả Từ bi cũng một phẩm oản, quả chuối, Ra tay mắm miệng cũng một quả chuối phẩm oản (NVN). Từ bi từ tại cũng phẩm oản quả chuối, day tay mắm lợi cũng quả chuối phẩm oản (TL). Nghĩa đen của câu nói: Chùa có ông thiện, ông ác. Hai ông đều được khách thập phương mang oản, quả cúng bái. Nghĩa bóng: Quan lại tốt hay xấu dân đen đều phải đút lót như nhau. c - Ăn cây nào rào cây ấy (nấy) (EN, NVN, NL, TL). Nói người có tình nghĩa luôn luôn tỏ lòng biết ơn người làm ơn cho mình (NL). Dường như NL nhầm lẫn với câu Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Để tỏ lòng biết ơn tục ngữ còn có câu Uống nước nhớ nguồn. Ăn cây nào rào cây ấy khuyên người ta nên cẩn thận, ăn chắc, được tới đâu hay tới đấy. Làm việc gì thì nên chú ý vào kết quả trước mắt của việc ấy. d - Rán sành ra mỡ (NVN, LĐ, VNP, NL, TL). Quá hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn (LĐ). Giễu kẻ hà tiện quá mức (NL). Xem thêm câu Vắt chày ra nước ở phần sau (3b). Tranh 3 a - Bảo lấy hương, lấy đao thiết Câu nói không có nghĩa. Hai chữ đao thiết cần được tìm hiểu. Chữ thiết (bộ khẩu+chữ thiết) không có trong tự điển Hán Việt của ta. Đây là chữ nôm. Bộ khẩu là kí hiệu, âm của chữ nôm được viết bằng chữ thiết. Chữ đao (Hán) đứng trước chữ thiết trở thành vô nghĩa. Đao phải là chữ nôm. Đao thiết phải được đọc nôm như thế nào? - Chữ đao thường được đọc nôm là dao (con dao). Vừa đúng âm, vừa đúng nghĩa. Đao cũng có khi được đọc theo âm thành đeo (vác), đẽo (đục đẽo)... - Chữ thiết đọc nôm là thét (hét to), thết (đãi), thớt (cái thớt của nhà bếp)... Hai từ đao thiết của câu tục ngữ có thể đọc nôm thành : dao thớt, dao thết, đeo thớt, đẽo thớt v.v. Chúng ta có thể loại bỏ mấy cặp từ đeo thớt, đẽo thớt, dao thết...vì không thích hợp với câu nói và nội dung tranh. Còn lại cặp từ dao thớt. Bảo lấy hương, lấy dao thớt Câu nói nghe xuôi tai nhưng tối nghĩa. Dao thớt không giải thích được nội dung của tranh. Nghệ sĩ dân gian muốn viết chữ gì ? Truyện Thầy trừ chồn, trong sách Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký, có đoạn : (...) " Chủ nhà nghe chịu liền. Vậy thầy mới biểu : Đâm bột cho nhỏ, đậu cà ra làm nhân, cho đầy một thúng cái, đến mai tôi đến, tôi làm phép cho một bữa thì hết. Thầy xách chiết tới, lấy bột, lấy đậu đem ra nắn chồn lớn, chồn nhỏ, để nơi ghế. Lại nắn một con lớn hơn hết để giữa... ". Chiết là một từ cổ, được chú thích là cái đẫy, cái túi. Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của định nghĩa chiết là đồ đựng đan bằng tre, mây, có nắp đậy, cũng gọi là cái cọ, cái nừng. Chữ thiết (bộ khẩu + chữ thiết) đọc nôm là chiết, nghĩa là cái bị. Cái bị cho phép suy ra rằng chữ đao đã được nghệ nhân dân gian dùng để viết chữ nôm đầy. Tóm lại, đao thiết đọc nôm là đầy chiết. Câu nói trở thành Bảo lấy hương, lấy đầy chiết (bị). Người xưa trách kẻ tham lam. Bảo lấy hương (lấy hoa), (nhưng nó cứ) lấyđầy bị. Ngày nay thường nói : Ăn lấy vị, chứ ai lấy bị mà mang (NVN). Ăn lấy thơm lấy tho, chứ không ai ăn lấy no, lấy béo (NVN). Câu nói quay sang ám chỉ cảnh ăn uống đình đám. Trong cả hai trường hợp, câu nói đều khuyên người ta chớ tham lam. Không nên lợi dụng " của chùa ". b - Vắt chày ra nước. Vắt cổ chày ra nước (NVN, LĐ, NL,TL) Câu nói chê người hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn quá đáng (LĐ, NL). Vắt chày ra nước thường đi đôi với Rán sành ra mỡ. Hai câu có nghĩa giống nhau. Việt Nam tự điển của Khai Trí Tiến Đức (1931) gộp chung hai câu tục ngữ thành Vắt cổ chày ra mỡ. c - Cõng rắn (về) cắn gà nhà. (EN, NVN, VNP, LĐ, NL, TL). Bắt rắn về cắn gà nhà (LC). Bắt rắn hợp lí hơn cõng rắn. Câu nói phê phán những tên phản bội đưa các lực lượng phản động bên ngoài về sát hại đồng bào (NL). Hành động phản lại nhân dân, Tổ quốc, đem giặc về giết hại đồng bào (LĐ). Cõng rắn cắn gà nhà thường đi với câu Rước voi giầy mả tổ (xem câu 6a). d - Ăn quả chẳng nhớ kẻ trồng cây. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây (EN, NVN, NL, TL). Cả hai câu cùng có nghĩa. Ngày xưa trách người quên ơn, ngày nay khuyên người ta phải nhớ ơn. Cách nói khác nhau. Trách móc nhẹ nhàng hay dạy bảo trực tiếp. Tranh 4 a - Đãi cứt sáo lấy hạt đa. Đãi cứt sáo lấy hạt đa, đãi cứt gà lấy hạt tấm (NVN, NL, TL) . Chê những kẻ quá hà tiện, quá bủn xỉn (NL) b - Rút giây động rừng (người viết chữ nôm thay đổi cách viết : đọc từ trên xuống dưới, từ trái sang phải). Rút dây động rừng (NVN). Rút dây động dừng (Dừng là cốt để trát bức vách) (NL). Rút dây sợ động rừng (TL). Rút dây, chả xợ (sợ) động rừng (EN). Ý nói : Đả động đến điều gì thì ảnh hưởng đến điều khác (NL). Câu nói của EN có nghĩa ngược lại. Làm điều gì thì không nên sợ đụng chạm. Người xưa dũng cảm. Đáng được đưa vào sách ghi các thành tích. c - Chớ thấy sóng cả ngã tay chèo. Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo (NVN, TL). Chớ thấy sóng cả mà rã tay chèo (NL). Khuyên phải gắng vượt mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ (NL). d - Đục nước (thì) béo cò (EN, NVN, LĐ, NL, TL). Lợi dụng tình trạng mâu thuẫn, lục đục để kiếm lợi (LĐ). Ý nói : Vì xung đột lẫn nhau nên kẻ khác lợi dụng (NL). e - Cái tôm chẳng chật bể. Cái tôm chật gì bể (NL). Cái (con) tôm có chật gì sông, cái lông có chật gì lỗ (TL). Lời khiêm tốn của một người khi xin gia nhập một tập thể (NL). Tranh 5 a - Chơi (với) chó, chó liếm mặt (LC, NVN, VNP, NL). - Chơi với chó, chó lờn mặt ; chơi với con nít, con nít dể ngươi (LC). Ý nói làm thân với kẻ xấu nhiều khi nó hại lại mình (NL). Nhiều người thích ví von, ghép thêm một vế : Chơi chó chó liếm mặt Chơi gà gà mổ mắt (hoặc Chơi cò cò mổ mắt, Chơi chim chim mổ mắt). Quảng tập viêm văn không có câu Chơi chó, chó liếm mặt. Thay vào đó là câu Nuôi cò, cò mổ mắt (EN, LC). Xưa kia nhiều nhà nuôi chó để ban ngày dọn dẹp cứt đái, ban đêm canh trộm. Dân ta coi chó là con vật đáng khinh, không ra gì. Đồ chó là một tiếng chửi. Để cho chó liếm mặt là bị... mất mặt, bị khinh thường ! Dân ta ngày xưa không chơi với chó. Cũng không có ai bế gà hay cò lên chơi để đến nỗi bị mổ mắt. Nuôi cò ( ?), nuôi gà để làm thịt thì có. Nuôi cò, nuôi gà, hay nuôi chó nghe hợp lí hơn là chơi cò, chơi gà, chơi chó. Ý nghĩa cũng sâu sắc hơn. Ngày nay nước ta nhan nhản đại gia chơi chó kiểng. Đưa chó đi mĩ viện mài móng, tỉa lông. Được chó Bắc Kinh liếm mặt thì... Chao ôi, sao mà sướng thế. Đê mê như được bồ nhí xoa bóp, hôn hít. Chơi chó chó liếm mặt được các đại gia của thời kì toàn cầu hoá đánh giá là Tốt với người thì được người đáp lễ lại. b - Đốt nhà táng phủi tay. Vén tay áo sô, đốt nhà táng giấy (NVN, VNP, LĐ, NL, TL). Nói con cái phá gia tài của cha mẹ để lại (NL). Chi tiêu, sử dụng tiền tài phung phí, bừa bãi, không suy tính (LĐ). Than phiền nạn các quan lãng phí của công. Tiêu tiền (của dân) như nước (lũ). c - Phượng hoàng ăn cứt gà (đọc từ trên xuống dưới, từ trái sang phải). Sáo đói thì sáo ăn đa, Phượng hoàng lúc đói cứt gà cũng ăn (NVN, NL, TL). Kẻ quí phái đến lúc sa cơ thì còn khổ hơn người bình thường (NL). Chê bọn lúc túng làm càn. Sa cơ lỡ vận, thất sủng, sẵn sàng làm cả những việc tồi bại, mất danh dự. d - Qua rào vỗ vế (NVN, NL). - Chưa qua dào (rào) đã vỗ vế (EN). Qua đò, khinh sóng (NVN, VNP, LĐ, NL, TL). Qua sông, đấm bòi vào sóng (NVN, NL, TL). Ý nói : Sau khi vượt qua một bước khó khăn, lấy làm vui mừng (NL). Vui mừng thì vỗ tay chứ không vỗ vế (đùi). Vỗ đùi hay vỗ đít là tỏ vẻ coi thường. Câu nói có ý chê kẻ vừa thoát khỏi, thậm chí có khi chưa thoát khỏi bước khó khăn đã tỏ ra kiêu ngạo, khinh thường. e - Chơi chim chim mổ mắt. Cùng nghĩa và thường đi đôi với câu Chơi chó chó liếm mặt (xem câu 5a). Tranh 6 a - Rước voi giầy mồ (NVN). Rước voi giầy mả tổ (LĐ, NL, TL). Rước voi về rầy (giầy) mồ (EN, LC). Nghĩa giống câu Cõng rắn cắn gà nhà (xem câu 3c). Câu nói ám chỉ bọn rước ngoại bang về sát hại đồng bào. b - Đánh chó đá. Đánh chó đá vãi cứt (NVN, NL). Chê kẻ bất tài mà lại hay khoe khoang (NL). c - Trâu bò húc nhau. Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết (EN, LC, NVN, VNP, LĐ, NL, TL). Ý nói: Khi kẻ trên hục hặc nhau thì kẻ dưới bị thiệt lây (NL). Những kẻ mạnh xung đột, đánh nhau, kẻ yếu bị liên luỵ tai vạ (LĐ). Bọn vua quan, quyền thế bên trên đấu đá, tranh giành nhau thì chỉ khổ chỉ chết đám dân đen bên dưới. d - Qua cầu bỏ dịp. Qua cầu cất nhịp (NVN, NL) Qua cầu rút ván (NL, TL). Chê kẻ đã tiến lên rồi không muốn cho người khác tiến lên như mình (NL). Tranh 7 a - Đường cao núi quanh. Khen người không ngại khó khăn, vất vả. b - Nói rắn trong lỗ bò ra (viết sai thành Nói rắn trong bò lỗ ra) (NVN, NL). Nói con kiến trong lỗ cũng phải bò ra (LĐ, TL). Khen người có tài khéo nói, dễ thuyết phục được người khác (NL). c - Cá lớn nuốt cá con (NVN). Cá lớn nuốt cá bé (LĐ, NL, TL). Kẻ mạnh ức hiếp bóp chết kẻ yếu (LĐ). Chê những kẻ có quyền thế bắt nạt, đàn áp người lép vế (NL). d - Chim chích ghẹo bồ nông. - Chim chích mà ghẹo bồ nông, Đến khi (cơn) nó mổ lạy ông xin chừa (EN, LC, NL, TL). Chê người yếu trêu người khỏe (NL). Còn có câu : - Chớ thấy hùm ngủ vuốt râu Đến khi hùm dậy đầu lâu chẳng còn Cả hai câu ca dao đều mang ý nghĩa tiêu cực. Trái với câu : - Châu chấu đá ông voi (EN) - Châu chấu chống xe - Nực cười châu chấu đá xe Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng. e - Cắm sào sâu khó nhổ (EN, NVN, NL, TL) Đã quá đi sâu vào một việc gì thì khó gỡ ra (NL) Khuyên người ta làm việc gì cũng phải nghĩ đến hậu quả, không nên cực đoan, thái quá. Đừng có thiên lôi chỉ đâu đánh đấy, có khi đánh trúng cả cha mẹ, anh em. g - Cá vàng bụng bọ (EN, NVN, NL, TL) Bên ngoài trông tốt đẹp, nhưng trong lòng xấu xa (NL). Tranh 8 a - Cầm chổi quét chùa (cổng chùa có 2 chữ Pháp môn) - Con vua thì lại làm vua, Con nhà thầy chùa (con sãi ở chùa) lại quét lá đa (NVN, NL, TL). Nói lên nỗi bất công trong xã hội phong kiến (NL). Lên án nạn cha truyền con nối. Bọn có chức có quyền, giàu sang sung sướng thì cứ tiếp tục ăn trên ngồi trốc. Thấp cổ bé họng thì tiếp tục chịu cực, chịu khổ. Ngày xưa dân gian gọi bọn Con vua thì lại làm vua là bọn con cha cháu ông (Génibrel). Ngày nay nói sai thành bọn con ông cháu cha. b - Đánh trống qua nhà sấm. Đánh trống qua cửa nhà sấm (EN, NVN, LĐ, NL, TL). Bộc lộ trình độ vụng về, kém cỏi trước người hiểu biết, tinh thông hơn mình (LĐ). Lời nói khiêm tốn tỏ rằng mình phải trình bày hoặc biểu diễn trước một cử toạ mà mình cho là giỏi hơn mình (NL). Chê bọn điếc không sợ súng, huênh hoang độc diễn. Ta tài, ta giỏi, ta nhất... trong xóm ta. Chê bọn coi trời... nhỏ hơn cái vung. c - Nhăn như bà cốt uống thuốc. Bà cốt che mặt (NVN). Bà cốt là người đàn bà làm nghề đồng bóng. Bọn đồng bóng, phù thuỷ lúc nào cũng tự nhận là con thần cháu thánh, có phù phép đuổi tà, trị bịnh... cho người khác. Đến khi chính mình bị bịnh thì chẳng thấy ông đồng bà cốt nào đuổi được tà, chữa được bịnh. Các ông, các bà cũng phải uống thuốc, mặt mày nhăn nhó như mọi người. Vạch mặt bọn kiếm ăn bằng lừa dối, bằng mê tín dị đoan. d - Cầu Thích Ca ngoài đường. Bụt nhà không cầu, cầu Thích Ca ngoài đường (NVN). Bụt chùa nhà không thiêng, đi (lại) cầu Thích Ca ngoài đường (EN, NL). Bụt nhà không thiêng, đi cầu thích ca ngoài đường (TL). Phê phán thái độ tự ti coi nhẹ khả năng của người mình, thích đi cầu cạnh người ngoài (NL). Phê phán bọn sính đồ ngoại, chê đồ nội. Trong nhà có nước mắm Phú Quốc thì không ăn, chạy đi mua nước mắm Thái Lan. Chê trà Bảo Lộc, khoái trà Lipton v.v. *** Ai cũng biết rằng thành ngữ, tục ngữ ít khi được nói, được hiểu theo nghĩa đen. Hầu như câu nói nào cũng phải hiểu theo nghĩa bóng. Làm sao vẽ được... nghĩa bóng? Chính vì vậy mà tranh minh hoạ tục ngữ rất... ngây ngô. Thậm chí vô nghĩa. Tuy vậy, tranh minh hoạ tục ngữ cũng góp phần làm chứng nhân của một thời kì lịch sử. Làm chiếc cầu chuyển tiếp chữ nôm sang chữ quốc ngữ. Ngày nay xem lại, chúng ta thoáng hiểu một vài cách xử thế, dăm ba lời khuyên của người xưa. Xưa cũng như nay... Sau luỹ tre xanh hay trước toà nhà cao tầng. Dưới trận mưa tầm tã hay giữa cơn nắng chang chang. Trong sạch nhẹ nhàng hay ô nhiễm bức xúc. Một câu hỏi luôn luôn được đặt ra : Cái gì nên vứt bỏ, cái gì nên trân trọng bảo tồn ? Nguyễn Dư (Lyon, 1/2011) Sách tham khảo : - Edmond Nordemann, Chrestomathie annamite (Quảng tập viêm văn), 1898, Nguyễn Bá Mão biên dịch và chú thích, Hội Nhà Văn tái bản, 2006. - Léopold Cadière, Croyances et Pratiques religieuses des Viêtnamiens, 3 tập (1944, 1955, 1957), École Française d'Extrême-Orient tái bản, 1992. - Nguyễn Văn Ngọc (NVN), Tục ngữ, phong dao, 1928, Mặc Lâm tái bản, 1967. - Vũ Ngọc Phan (VNP), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, in lần thứ 8, Khoa Học Xã Hội, 1978. - Nguyễn Lực, Lương Văn Đang (LĐ), Thành ngữ tiếng Việt, Khoa Học Xã Hội, 1978. - Nguyễn Lân (NL), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Văn Hoá, 1989. - Thuỳ Linh (TL), Thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, Lao Động � Xã Hội, 2007. - Trương Vĩnh Ký, Chuyện đời xưa, 1866, Sudasie tái bản, 1994. - Maurice Durand, Imagerie populaire vietnamienne, EFEO, 1960
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2011 5:25:28 GMT 9
Làng tôi 1. Sông Đào 2. Cụ Hậu
Đỗ Đình Tuân 1. Sông Đào Tôi sinh ra ở một làng nhỏ ven sông Kinh Thày mà dân cả vùng tôi vẫn quen gọi là sông Cái. Ngày nay, làng tôi mang một cái tên là làng Thông Lộc (Cổ Thành, Chí Linh, Hải Dương). Cái tên này cũng là do mấy ông cán bộ địa phương hồi sau cách mạng tháng Tám (1945) đặt ra thôi, chứ trước kia, làng tôi vốn tên là Cổ Châu Hạ xã, thuộc tổng Cổ Châu, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Nhưng cửa miệng thì người đời vẫn gọi làng tôi là Hạ thôn hoặc làng Riêng. Hạ thôn thì chỉ là cách rút gọn của Cổ Châu hạ xã, còn làng Riêng mới là cái tên gắn liền với lịch sử hình thành ra làng. Vốn dĩ trước đây làng tôi và làng Dâu chỉ là một làng có cái tên chữ là Cổ Châu xã. Nhưng rồi về sau do phe cánh hay anh em dòng tộc mâu thuẫn nhau gì đó mà một số người mới bỏ làng ra lập trại ở riêng. Không những ở riêng mà họ còn đòi lập làng riêng, đòi có triện đồng lý trưởng riêng. Không rõ cuộc đấu tranh ấy kéo dài bao lâu nhưng cuối cùng người làng tôi cũng đạt được mục tiêu. Họ còn chiếm được cả cái chợ và cái đền thờ bà Công chúa Trần triều vốn là người mở bến, lập chợ, chiêu dân lập ra cái làng Cổ châu này. Cái tên làng Riêng gốc tích là như thế. Nhưng còn cái tên làng Thông Lộc đặt ra sau này thì không thấy có một căn cứ gì. Làng tôi đâu có rừng thông, cũng chẳng có lấy một cây thông nào cả. Vì vậy mà "Thông Lộc" là gì thì tôi cũng chịu không sao giải thích được. Thời còn sống ma ông bố tôi, trong những lúc giải lao chuyện gẫu giữa buổi cày, buổi gặt, đôi khi ông cụ cũng có giải thích một cách hài hước rằng "Làng mình ở cạnh con Sông Đào, nên có bao nhiêu "lộc" thì nó "thông" đi cả, vì thế mới gọi là làng "Thông Lộc"? Đúng là làng tôi nằm ngay cạnh một con Sông Đào. Các ông già bà cả trong làng thường vẫn kể về sự tích con sông này là do quân lính nhà Mạc đâo. Vua Mạc định đóng đô ở vùng núi thuộc Bình Giang-Phả Lại bây giờ, mới cho quân lính đào con sông này, cắt ngang qua cánh đồng, từ sông Kinh Thày vào, làm con đường thủy chuyển kinh đô từ Cổ Trai (Dương kinh) lên. Nhà vua lệnh cho quân lính phải đào xong ngay trong một đêm. Nhưng mới đào được đến nửa chừng thì có một vị thần núi hóa thành một con gà trống cất tiếng gáy báo sáng. Quân lính tưởng là trời sáng thật nên cũng nghỉ không đào nữa. Con Sông Đào thành một con sông cụt. Ngọn nó lửng lơ ở giữa cánh đồng mà việc xây dựng kinh đô của nhà Mạc ở vùng này cũng bị hủy bỏ. Nhưng ở đây vẫn còn dấu tích của thành nhà Mạc ở Phả Lại. Gần thành nhà Mạc còn có một cái ao cạn khá to gọi là Đấu Đong. Không phải để đong thóc, đong gạo mà là để đong quân lính. Đặc biệt, còn cả một phòng tuyến bằng lũy đất nối dài đến hàng mấy cây số, vẫn gọi là Bờ Hào. Ngọn con Sông Đào có cái tên rất hình tượng: Đuôi Nheo. Cái tên này đã làm tôi luôn nghĩ con Sông Đào chính là một con cá nheo khổng lồ, đầu nó rúc vào sông Kinh Thày còn đuôi nó thì ve vẩy quẫy ở giữa cánh đồng. Mà cái Đuôi Nheo ấy đang quẫy thật. Bởi nó nối liền với đầu của ba dòng suối chảy từ Chùa Sùng về, từ Càng Cua ra và từ Lễ Kễ xuống. Ba con suối ấy vòng vèo uốn lượn như ba dải lụa mềm vắt vẻo qua cánh đồng mà nối với Đuôi Nheo. Đuôi Nheo chính là ngọn sông Đào làng tôi. Không biết có phải vì thế không, mà người làng tôi những lúc ru con hay những khi làm cỏ trên đồng thường hay hát cái khúc hát này: Muốn tắm mát lên ngọn sông Đào Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh Hai tay vít lấy hai cành Quả chín thì vặt, quả xanh thì đừng Cùng một lời hát ấy thôi, khi hát ru thì nghe rất thiết tha nhắn nhủ, mà khi hát vui trên đồng nghe lại ngân nga, bay bổng, cứ như muốn khoe khoang cùng trời đất vậy. Tuổi thơ tôi đã từng được ru trong câu hát ấy và tôi cũng cứ đinh ninh rằng câu hát ấy là do chính người làng tôi làm ra, mặc dù cho đến tận bây giờ tôi vẫn chẳng có lấy một bằng cứ nào để chứng minh cho điều ấy cả. Ngày chúng tôi còn bé, hàng năm, cứ đến mùa mưa rào là nước rừng theo các dòng suối ấy mà đổ vào Sông Đào. Nước con Sông Đào lại dâng lên cuồn cuộn chảy đổ ra sông Cái. Các loài thủy sinh, nhất là giống cá chép lại từ ngoài sông Cái được dịp ngược nước vào trong đồng tìm bãi đẻ. Đó là mùa người làng tôi thường rủ nhau đi úp cá giả. Toàn được cá thật thôi nhưng lại vẫn gọi là cá giả. Bởi ở mùa sinh nở, bao nhiêu tuyết vị thơm ngon béo ngọt của con cái thì dồn vào trứng, con đực thì dồn vào tinh cả, nên cá gầy ăn nhạt nhẽo không ngon. Gọi "cá giả" là vì thế. Giống cá đẻ thường thích chọn những ruộng trũng, hoặc bãi cỏ ven sông. Con cái lao lên đấy, chạy vòng tròn quẫy đạp rồi đẻ trứng. Những con đực cũng bám đuôi theo, hễ thấy con cái đẻ trứng thì lập tức chúng cũng phun tinh dịch vào. Làng tôi có ông Lý Tín quanh năm kéo vó bè và hay sờ mò cá mú đêm hôm nên rất thạo về cá. Tôi phải gọi "ông Lý Tín" bằng bác, vì là anh em thúc bá với bố tôi và là bác trưởng tộc dòng họ Đỗ nhà tôi ở đời thứ 6. Ngày ấy, chúng tôi chưa biết được tên tục của bác, chỉ biết "Tín" là tên cô con gái cả, mà tôi vẫn gọi là chị, còn "Lý" thì bố tôi bảo chỉ là một chức "Lý mua" chứ không phải "Lý làm". Sau cách mạng tháng Tám, cũng như nhiều làng khác, làng tôi không còn "Tục hội đình", "Tục giỗ hậu" và "Tục bán chức" nữa. Nhưng những ai đã làm, đã mua, tức là đã thành danh thì người làng gọi quen rồi không thay đổi được nữa: ông Lý Tín, ông Đội Nhân, ông Lý Khang, ông Hội Tùng, ông Hội Mậu, ông Cai Viêm, ông Lý Vỵ, ông Tiên Phác, ông Ký Đính, ông Trưởng bạ Thọ, ông Trương Hương, ông Nho Mại... Bác Lý Tín nhà tôi, có dáng người cao cao, cái đường ngôi cân ở giữa và một mái tóc mượt luôn được vuốt ngược về phía sau, trông khá ấn tượng. Chúng tôi thường thấy bác vận một bộ quân áo nâu đã bạc mầu nắng gió. Ống quần thường cộc chỉ chấm đến đầu gối. Ống tay cũng cắt cộc vừa chấm đến khuỷu tay. Những lúc đi cày ,đi bừa bác hay đội nón gủ và có cái dáng đi rất lững thững. Nhưng những lúc đi úp cá thì khác, bác thường để đầu trần hoặc chỉ đội một cái nón mê rất bé. Vì đã thông thạo những nơi cá hay đến đẻ nên bác thường đi "úp lảnh", nghĩa là đi riêng một mình chứ không "quần tam tụ ngũ" như dân nghiệp dư. Bác cũng không úp bằng nơm mà úp bằng một cái dập. Dập là một công cụ úp cá trông giống như một cái "vó tôm". Nó gồm có hai cái gọng tre và một vuông lưới gai được nối vào bốn chân gọng tre bằng những đường riềm sợi gai rất chắc. Úp bằng dập có cái diện tích úp lớn hơn nơm, nhưng vì mắt lưới thoáng nên lại nhẹ hơn nơm. Bác thường nép mình dưới một bóng tre, hay ngồi thu mình trên bờ, chăm chú theo dõi những đường cá chạy, y như một con thú rình mồi. Chỉ khi nào đàn cá cắn đuôi nhau đã thu vào thành một vòng tròn nhỏ và con cá cái ở giữa bắt đầu quẫy đẻ bác mới giương dập lên úp gọn. Có lần một mẻ dập của bác đã tóm gọn được cả một đàn cá có đến 12 con và cứ to đều như hòn gạch chỉ. Bác lễ mễ ôm cái bọc cá ấy về nhà trước sự trố mắt ngạc nhiên và thán phục của những người chứng kiến... Bác Lý Tín có hai bà vợ. Bà vợ cả là kết quả của một mối tình đầu mãnh liệt. Hai người phaỉ lòng nhau, nhưng gia đình nhà gái không chịu gả cho bác vì chê nhà bác nghèo, mà lại đem ép gả cho người làng khác. Không chịu mất nhân ngãi bác hẹn với nhân tình cứ để đúng đến đêm hôm cưới thì trốn đi. Âu cũng là duyên trời, ngay tối hôm cưới, khi người chồng bé con còn đang vòi ngủ với mẹ, thì "cô dâu" trốn được ra điểm hẹn và hai người rủ nhau đi biệt. Làng xóm lại ồn lên về một câu chuyện tình vừa ly kỳ vừa sốt dẻo. Người ta bàn luận, khen chê, phỏng đoán... nhưng cũng là để cho vui miệng thế thôi chứ ảnh hưởng gì? Mãi đền khi câu chuyện tình kia đã nguội và những người "rỗi hơi" cũng đã thấy mỏi mồm thì đôi "vợ chồng trẻ" mới dẫn nhau về. Lúc này thì bụng "cô dâu" đã lùm lùm, ván đã đóng thuyền và thuyền đã có lái, một tay lái vững vàng, chắc khỏe. Bấy giờ thì "nhà giai" bên "chồng cũ" chỉ còn cách thuận tình cho nhà gái giả lễ. Nhưng bác cả này chỉ sinh được ba cô con gái: Tín, Ái, Phiếm. Bác càng ngày càng khát con trai. Giữa nạn đói năm 1945, cô Son-em gái bác, một lần ra chợ Bến, thấy một bà mẹ đói muốn cho con đi, cô Son đã xin về cho anh chị mình nuôi. Vì xin ở chợ Bến nên cũng đặt tên luôn là Bến và cái tên đầy đủ của người nghĩa tử trưởng tộc này là Đỗ Đình Bến. Về sau, trong làng lại có một bà góa chồng mà mới sinh được một mụn con trai, đặt tên là Chấp. Người ta cũng đang cần chỗ dựa mà bác cũng đang cần một người vợ biết đẻ con trai. Bác tìm đến và cả hai bên đều thuận tình vui vẻ. Không ngờ cái mối tình "rổ rá cạp lại" này lại sinh thêm cho bác đúng ba người con trai nữa: Sĩ, Cam, Tý. Nhưng khi lũ rừng về, nước sông Cái lên to, thì nước lại chảy ngược con sông Đào mà vào trong đồng. Người làng tôi lại phải hò nhau ra lấp cống để ngăn nước sông Cái không cho chảy vào đồng. Qua mùa lũ lại phải đào lên tháo cống ra để lấy nước vào đổ ải cấy chiêm. Không rõ con đê được đắp lên từ bao giờ nhưng cái cống Kỳ Đặc nối sông Đào ra sông Cái thì có ghi niên đại xây dựng là năm 1922. Năm nào cũng thế cứ phải một lần lấp xuống, lại một lần đào lên tốn khá nhiều công sức. Nhưng cứ đến mùa lũ sông Kinh Thày thì bắt buộc phải lấp, không lấp thì cả làng, cả huyện sẽ ngập trong nước lũ. Bởi con sông Kinh Thày có đến bốn nguồn cung cấp nước: sông Đuống, sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam. Cho nên cứ sau một trận mưa nguồn vài hôm là nước sông Kinh Thày lại dâng lên. Dòng nước đục ngầu cuồn cuộn chảy, và cuốn theo nó cơ man nào là củi rác ở trên rừng về. Những cành cây củi rác từ trên rừng núi Thái Nguyên theo sông Cầu mà đổ vào sông Lục Đầu. Những cành cây củi rác trên núi rừng Yên Thế theo dòng sông Thương cũng đổ vào sông Lục Đầu. Những cành cây củi rác từ vùng núi Chàng, Chũ theo sông Lục Nam cũng lại đổ vào sông Lục Đầu. Sông Lục Đầu gom chúng lại rồi đưa chúng về xuôi. Nhưng đến đoạn hợp lưu với con sông Đuống thì bị ngọn nước của dòng sông Đuống này đánh tạt sườn, đùn phần lớn củi rác ở sông Lục Đầu vào sông Kinh Thày. Con sông Kinh Thày thành một dòng sông chở đầy củi rác. Dân hai ven bờ cứ thấy lũ đem củi về thì lại đua nhau ra kéo củi về đun, và họ cũng đặt tên luôn cho con sông này là dòng Sông Củi . Có lẽ đây mới chính là cái tên khai sinh của dòng sông . Rồi từ tên Sông Củi, các nhà nho mới chuyển nó thành tên chữ: Sài Giang: sài là củi mà giang cũng là sông. Sau này Sài Giang lại được thay hình đổi dạng một lần nữa mà thành ra Kinh Thày: "thày" vẫn là củi mà "kinh" cũng chỉ là một dòng kênh, tức là sông. Cũng giống như Sài Sơn được gọi là Núi Thày, rồi từ Núi Thày mà có tên Chùa Thày vậy... Từ khi cống Kỳ Đặc bị lấp, nước sông Đào không có đường thoát ra sông Cái nữa. Chúng bị ứ lại và dìm làng tôi và hàng loạt các làng khác suốt một vùng trong đê của huyện Chí Linh vào mùa úng ngập. Cả cánh đồng dưới làng tôi bị ngập nước trắng băng, chỉ còn thấy nổi lên lác đác những gò đống: đống Cao, đống Mả Dậm, đống Quán Giáo, đống Cổng Chợ, đống Gốc Đề, đống Gốc Cậy, trại Phù Trang...Theo các bờ ruộng, giống cỏ nùng, cỏ môi ngoi lên nhanh chóng. Còn dưới chân ruộng thì tha hồ cho các loài rong rêu tự do mọc: rong đuôi chó, rong vẩy ốc, rau vậy, trang trang, súng...Vụ mùa, cánh đồng dưới làng tôi không cấy lúa được. Nó thành nơi thả trâu, đánh dậm, đánh sẻo và thả lưới bén...
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2011 5:26:26 GMT 9
2. Cụ Hậu...
Hồi đầu kháng chiến, có một lần giặc Pháp đi càn qua làng tôi. Chúng đóng quân lại một đêm trong khu nhà ngói ở giữa làng. Đó là khu nhà của cụ Hậu. "Hậu" chỉ là một chức mua của làng còn tên thật cụ là Đỗ Thị Thang, chị ruột của ông nội tôi. Nhưng khi tôi lớn lên thì các cụ đã "đi" cả rồi, nên những chuyện về các cụ tôi chỉ còn được nghe "hóng hớt" qua những cuộc chuyện trò giữa bố tôi với các bác, các chú, hoặc với những người bạn cày, bạn thợ. Qua những câu chuyện nghe "hóng hớt" được ấy, đại khái tôi hiểu rắng cụ Hậu là một người giầu nhất làng tôi. Cụ có đến năm mươi mẫu ruộng. Cụ cũng có lấy một đời chồng, gọi là cụ Nhất (do đỗ đầu một khoa thi hương nào đó mà có cái danh xưng này). Nghe nói cụ Nhất quê ở vùng Gia Lộc, cũng là một đấng mày râu "phong tình có hạng". Cụ đã từng có khá nhiều vợ, nhiều con ở các vùng quê khác. Thế mà không hiểu sao, đoạn cuối đời cụ lại bén duyên với "cô Thang" làng tôi và sống ở đấy cho đến trót đời. Không ai nhớ và kể về câu chuyện tình của họ. Người ta chỉ kể lại loáng thoáng về cuộc sống cao sang, đài các của "cặp uyên ương" ấy ở làng tôi thôi: cơm thì toàn những tám xoan, gạo dự, thổi bằng một loại niêu đất chỉ to bằng chiếc gáo dừa. Thức ăn mặn thì giò rim, tôm rang, cá kho...và chúng đều được tẩm ướp, kho rang rất công phu kỹ lưỡng. Các món canh, món nấu cho đến hoa quả ăn tráng miệng cũng vậy. Tuy hai ông bà ăn ít thôi nhưng phải thơm ngon, tinh khiết và hợp khẩu vị. Chẳng hạn: chuối phải là chuối chín trứng cuốc, hồng phải là thứ hồng chín đỏ và thật nhừ, đặc biệt là na thì phải chọn những quả to, chín mềm, để sẵn vào đĩa rồi dùng tăm gẩy hết mắt đi...Hai ông bà sống trong một ngôi nhà hai tầng duy nhất và cao nhất làng tôi. Phía sau là một một dinh cơ nhà ngói cây mít, sân gạch tường hoa của một trong những người con trai của cụ Nhất: ông Tiên Phác. Đằng trước, phía tay phải, hướng vuông góc với ngôi nhà hai tầng là bể hứng nước mưa đủ ăn quanh năm không cạn. Rồi đến năm gian nhà ngói chạy dài làm chỗ ở cho những người làm thuê. Kế đến là một khu nhà kho, nhà bếp có nền khá cao, chắc là để đề phòng những năm nước lớn. Dãy nhà kho nhà bếp này đối diện với ngôi nhà hai tầng và cách ngôi nhà hai tấng bằng một cái sân gạch, lát bằng gạch vuông Bát Tràng rộng mênh mông. Chỉ cách một con đường, và hơi chếch về phía tây nam khuôn viên này, lại là một cơ ngũ nữa: cũng nhà ngói cây mít, cũng sân gạch tường hoa, vườn bên ao trước, mênh mông thoáng đãng. Đó là dinh cơ của nhà ông Ký Đính con giai nuôi cụ Hậu (nhưng vẫn lấy họ chồng là họ Nguyễn). Ngôi nhà ông ký Đính tuy chỉ có một tầng nhưng cũng cao ngất nghểu y như nhà hai tầng. Bởi nó có cái nền rất cao. Trước cửa nhà để tiền sảnh. Mặt trước tiền sảnh xây tường hoa, có để ô thoáng. Hai bên xây hai bậc lên xuống trông giống như hai cái cầu thang vậy. Nhưng không hiểu là do lấy chồng muộn hay sinh phải giờ "độc đinh cô quả" mà cụ Hậu làng tôi không sinh nở được. Bao nhiêu của nả cụ vun vào xây dựng cho con chồng, rồi xây dựng cho con nuôi. Cụ còn mua Hậu làng và xây trước cho mình một khu lăng mộ trên đống Mả Bà. Đây là một khu lăng mộ xây dựng toàn bắng đá xanh: kiểu dáng rất thanh thoát mà vẫn bề thế, khá bình dị mà vẫn hoành tráng. Giữa khu lăng là hai ngôi mộ nằm song song của hai ông bà. Phía đầu lăng có một am đá nhỏ. Phía chân lăng để một lối đi có bậc lên xuống. Xung quanh lăng được quây dựng bằng một hàng lan can đá. Không thấy có dựng bia tạc tượng cũng không thấy có bất kỳ một ý định phô trương nào trong khu lăng mộ này.
Nhưng ngay khi giặc vừa rút đi khỏi khu nhà ngói giữa làng tôi thì lập tức một đơn vị bộ đội được cử về phá sập. Người ta chỉ để lại cho làng năm gian nhà ngói tuy không dỡ mái nhưng vẫn phá tường. Ngược lại ngôi nhà hai tầng chỉ đánh sập được tấng, được mái nhưng lại không đánh sập được tường quây. Ngoài ra các khu khác đều thành những đống gạch vụn. Sau đó người làng tôi đi nhặt nhạnh những viên gạch lành còn sót lại xếp quây tạm tường bao và dùng ngôi nhà ngói năm gian này làm "Trụ sở", làm "Nhà văn hóa" của làng trong suốt một thời gian dài, qua kháng chiến chống Pháp, rồi hòa bình lập lại, mãi đến cải cách ruộng đất đem chia quả thực cho nông dân nó mới bị phá dỡ hoàn toàn.
Bước vào thời tao loạn, những con đường làng tôi, cũng không còn được tu bổ hàng năm như trước nữa. Nước ngập, rồi trâu bò đi lại nhiều, nó cuốc phá ra, lở xuống sông, xuống ao hết cả. Làng tôi bước vào thời kỳ "Trăm cái tội không bằng cái lội làng Riêng". Nhưng không thể lội bộ mà gánh gồng chuyên chở mãi được. Người làng tôi chuyển sang đan thuyền, đan mủng để "vận tải thủy", biến cái "khó" thành cái "thuận". Hàng năm cứ đến mùa nước úng, người làng tôi lại thi nhau đan thuyền hoặc sắn lại thuyền. Việc đan thuyền không nhẹ nhàng như đan rổ, đan rá nên phải có một "tốp thợ" mới làm được. Vì nan thuyền to, dài và cứng nên sau khi đưa chúng vào "lóng" còn phải gõ, sảm cho chúng thật khít vào nhau. Khi đã đan xong mê thuyền, lại phải chọn một nơi đất cứng, đào lấy một cái khuôn giống như cái thuyền thật, đặt mê thuyền vào rồi dùng chân dận, vồ đập, đòn thúc, sao cho mê thuyền ăn thật khít vào khuôn đất. Khi ấy người ta mới cạp thuyền. Nhưng thuyền cạp xong cũng chưa thể hạ thủy ngay được, còn một khâu quan trọng nữa: sắn thuyền. Sắn thuyền tức là dùng một loại vật liệu đặc biệt chát kín những kẽ nan để chống thấm nước.
Ở vùng tôi có một loại vỏ cây chuyên dùng vào việc sắn thuyền và người ta cũng gọi luôn cây đó là cây sắn thuyền. Làng tôi không sẵn loại cây này nên thường phải đi chợ Thiên, chợ Ngái mua về: băm nhỏ ra, cho vào cối đá đại, dùng chày dài đứng giã tung tơi ra như ruốc, đổ loại bột này vào lòng thuyền, dùng một loại đòn tre, có dập mềm đầu đi một chút, rồi cứ thế mà thúc, mà chà đi xát lại cho bột vỏ sắn thuyền nhét kín vào các kẽ nan. Chất nhựa trong vỏ cây sẽ làm cho loại bột này tự kết dính lại, ngăn cho nước không ngấm được lên lòng thuyền nữa. Nhưng thực ra nó cũng chỉ làm chậm quá trình ngấm nước lại thôi, cho nên cái thuyền nào người ta cũng vẫn phải để chừa ra một khoang nhỏ gần sạp lái làm tầu tát nước. Hễ nước vào nhiều thì lại phải dùng gầu, dùng gáo múc tát nước ra.
Tôi biết được cây sắn thuyền là nhờ ở vườn sau nhà cụ Hội Thỉnh, ngay phía trước nhà tôi có một cây sắn thuyền to lắm. Khoát của nó chắc phải già một gang tay. Đoạn thân đứng thẳng, từ gốc đến chỗ phân chi, phân nhánh phải cao ngót ba mét. Hàng năm tôi vẫn thấy nhà ông cụ cho bóc vỏ một lần. Nhưng chỉ một thời gian sau vỏ mới lại mọc ra che kín cái thân gỗ.Tán lá cây sắn thuyền khá thon gọn. Màu lá cây sắn thuyền không xanh biếc, xanh đậm mà ngả màu nhung bạc như có một lớp sương khói mỏng láng ngoài. Quả cây sắn thuyền khi chín giống như quả mồng tơi nhưng tròn hơn. Nó có vị chua chua ngòn ngọt mà bọn trẻ chúng tôi rất lấy làm khoái khẩu. Nhưng thèm là thèm vậy thôi, chứ vườn nhà ông cụ rào kín, nhà lại có chó. Nhất là cái thằng Phả, cháu nội của ông cụ, kém tôi vài tuổi, thỉnh thoảng lại tụt quần ôm áo, lon ton chạy ra gốc sắn thuyền, chìa cái mông trắng hếu của nó ra mà ị. Con chó quen rồi cũng lập tức chạy theo và nó ị đến đâu thì con chó cũng "tiêu thụ" ngay đến đó. Thành thử, nhiều khi đứng ngoài dậu, trông thấy những quả sắn thuyền rơi lấp lánh trên lá, trên cỏ mà chúng tôi vẫn không dám xé dậu chui vào bởi nhỡ ra...thì sao...?
Chỉ có cây duối ở góc vườn nhà ông cụ, ngay trước cổng nhà tôi, là nằm ngoài hàng rào và không ai giữ cả. Cây duối này cũng to. Gốc chả kém gì cây sắn thuyền nhưng giống duối không cao cây như sắn thuyền. Lá duối mép có răng cưa, mặt trên xanh biếc và nhẵn, mặt dưới xanh nhạt và nháp. Chúng tôi thường lấy lá duối, gấp mặt nhẵn vào, dùng mặt nháp để đánh trắng răng, làm đỏm. Cây duối này rất sai quả và quả chín rất rộ. Nhiều khi đến bất ngờ. Chiều hôm trước chưa thấy gì, thế mà chỉ sau một đêm, sớm hôm sau trời hửng nắng, nhìn lên cây đã thấy vàng mọng những quả là quả. Cứ như những chùm vàng ,chuỗi ngọc treo gắn thấp thoáng ẩn hiện khắp vòm lá xanh. Quả duối to như hạt ngô, khi chin ngả mầu vàng, mọng nước trông rất là ngon mắt, nhưng ăn thì chỉ nhan nhát ngọt không mấy thú vị. Nhất là sau những trận mưa, quả duối trông càng mọng, càng to thì ăn lại càng nhạt. Nhưng mùa nào thứ ấy, có thứ hoa quả gì mà chúng tôi không vơ vào miệng: duối, sung, vú bò, phèn đen, trà vó, rút rế...
Cơ ngơi của cụ Hội Thỉnh tuy chưa có nhà ngói cây mít nhưng đã có sân gạch tường hoa và ngôi nhà năm gian bằng gỗ xoan rất đẹp. Chính giữa vườn trước sân, có một khóm mẫu đơn hoa trắng, to như cái đống rạ lùn. Đến mùa hoa nở, trông cứ trắng đều như bát úp, thỉnh thoảng lại thấy dập dờn những cánh bướm, to như cái bàn tay, màu sắc sặc sỡ, bay dạo quanh kiếm mật. Bên cạnh khóm mẫu đơn là một cái bể chứa nước. Xung quanh bể có trồng mấy cây cau, vừa tạo cảnh vườn quê vừa làm những cái phễu để hứng nước mưa. Hết vườn trước là đến ao trong, rồi đến ao ngoài (vì nó nằm ngoài bờ tre, giáp với cánh đồng bãi nên gọi là ao ngoài). Bên bờ ao trong, mép vườn trước, có một cây hồng, nhưng không mấy khi trông thấy quả. Chúng tôi để mắt nhiều hơn đến cái cây ổi Tầu đã đổ ngả xuống ao, một phần cành lá của nó đã nhúng xuống cả mặt nước.
Cụ Hội Thỉnh thuộc lớp người cùng thế hệ với ông nội tôi. Nghe đâu, ông nội tôi trước đây đã từng dạm hỏi đính ước với chị gái cụ hội Thỉnh: bà Nghiêm Thị Cách. Nhưng chưa kịp cưới xin gì thì bà Cách đã mất sớm. Sau này khi biên soạn lại gia phả của dòng họ, tôi vẫn thấy ở một bản sao chép lại trong cuốn vở học trò của chi hai (chi nhà tôi) có tên bà Nghiêm Thị cách. Có lẽ vì thế mà khi bố tôi đến tuổi lấy vợ, ông nội tôi muốn nối lại nghĩa cũ tình xưa để đi lại cho thêm gần gặn, mới định hỏi cô Nghiêm Thị Giảng, con gái cụ Hội Thỉnh cho bố tôi. Nhưng cụ Hội Thỉnh không chấp nhận với lý do: "Còn có họ, không lấy được!". Thế là cô Giảng phải đi lấy chồng người làng Gốm, sau khi sinh được một người con trai thì lại mất vì bệnh hậu sản. Bố tôi sau này lấy mẹ tôi người bên làng Ninh xá. Có sinh nở vài lần, nhưng nuôi được có mỗi mình tôi rồi cũng mất vì bệnh hậu sản. Số phận của hai người phụ nữ này cũng na ná giống nhau. Đó là lý do mà về sau này bố tôi thường hay than thở với những người bạn cày: "Ấy cũng tại cái số tôi nó thế. Lấy bà nào thì bà ấy cũng chê mình mà bỏ mình đi!".
Ông Hội Thỉnh là người cáu bẳn và cố chấp. Cái giọng nói của ông cụ vừa dè dè vừa lảu nhảu gắt gỏng rất khó nghe. Không mấy ngày mà hàng xóm không thấy tiếng ông cụ quát tháo gắt gỏng ở bên nhà. Ngày tôi còn bé, tôi cũng gặp đôi lần ông cụ sang nhà tôi chơi. Nhưng hơi tý là ông cụ cũng mắng mỏ hoạnh họe rất to tiếng với tôi, làm tôi chẳng mấy có cảm tình với cái "lão già này". Nhưng sau đó thì ông cụ xuống sức nhanh chóng. Tôi không còn thấy ông cụ sang nhà tôi chơi nữa. Nhưng thỉnh thoảng vẫn còn nghe thấy tiếng những cơn ho kéo dài của ông cụ. Tiếng ho cứ ngày càng nhỏ dần. Rồi ít tháng sau, ông cụ mất vì bệnh ho lao.
Cụ bà Hội Thỉnh ngược lại rất ít tiếng, miệng luôn bỏm bẻm nhai trầu, nhưng nói câu nào nghe cũng vắt vẻo, khoảnh khoái giọng bề trên lắm. Cho nên cũng ít người gần gặn. Được cái bà cụ ăn mặc khá tươm tất, chỉnh tề: cái váy thâm đất, cái áo cánh nâu, cái khăn mỏ quạ, lúc nào cũng lành lặn sạch sẽ, chứ không lôi thôi cũ kỹ như bà cụ Chùa, bà cụ Chuột làng tôi. Bà cụ sống mãi đến thời cải cách ruộng đất, bị nông truy bức đấu tố, không chịu nổi, một đêm bà cụ trốn nhà ra một cái chuôm giữa đồng trẫm mình chết. Sáng hôm sau có người làng phát hiện ra, vớt xác cụ lên thì cua đã cắp nát tai, nát mắt bà cụ rồi!
Nhà ông cụ có cả thẩy sáu người con: Thỉnh, Chư, Giảng, Đọc, Mưu, Nghệ. Trong đó có ông Thỉnh, ông Chư là con trai. Ông Chư biết nói, đi tham gia cách mạng từ ngày còn "bóng tối", mất ở xa, không thấy trở về làng. Ông Thỉnh là cả thì lại bị câm. Tuy không nói được nhưng ông Thỉnh tỏ ra rất khôn và làm thợ mộc giỏi nhất làng tôi. Khi giao tiếp với mọi người ông ta chỉ "a, á...á, á...", "ự, ự...ự ự..." và dùng tay ra hiệu chỉ trỏ, dùng cổ gật gật, lắc lắc, cộng thêm với nét mặt nữa, để biểu hiện ý mình. Bọn trẻ chúng tôi không hiểu được ngôn ngữ của ông Thỉnh. Nói đúng ra, chúng tôi chỉ hiểu được vài từ rất bản năng và phổ biến. Chẳng hạn để chỉ đàn bà, con gái hoặc cái của đàn bà con gái mọi người thường ấn đầu ngón trỏ vào ngón giữa rồi khuỳnh ngón ra để làm biểu tượng. Ông Thỉnh làm đơn giản hơn, chỉ bấm đầu ngón trỏ vào đầu ngón cái tạo ra một vòng tròn để làm biểu tượng thôi. Còn biểu tượng chỉ đàn ông, con trai hoặc cái của đàn ông, con trai thì cũng như mọi người: đó là một ngón tay trỏ. Ông Thỉnh rất hay dùng cái biểu tượng này để trêu đùa chúng tôi. Hễ thấy chúng tôi đâu là ông ấy lại lấy cái ngón trỏ, xỏ xỏ vào cái vòng tròn, hất hàm hỏi: " Đã muốn lấy vợ chưa?". Chúng tôi lắc đầu "chưa, chưa" là ông ta lại cười và lắc đầu không thừa nhận "Các cậu đếch trung thực!"...Ông Thỉnh cũng có vợ, có con đàng hoàng. Vợ ông Thỉnh là một người phụ nữ cũng khá gái và tính tình rất điềm đạm. Nghe bà ấy kể lại thì ông Thỉnh cũng là người khá nóng tính. Cái gì không vừa ý là cũng gắt nhặng lên, có khi còn đấm đá túi bụi rồi dùng tay hẩy hẩy đuổi cút vợ đi. Những lúc như thế, bà Thỉnh chỉ lẳng lặng chấp hành, giả vờ đi chơi bên hàng xóm. Đợi khi ông ấy đi làm thì lại mò về lo toan việc nhà, chứ chấp gì với cái ông câm.
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2011 8:53:24 GMT 9
Cái váy và cái quần của các bà Nguyễn Dư Thuở còn mài đũng quần trên ghế nhà trường, được học bài Hai bà Trưng: Bà Trưng quê ở Châu Phong Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên ... Hồng quần nhẹ bước chinh yên Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành ... Nghe thầy giảng lúc ra trận hai bà mặc hồng quần, nghĩa là quần đỏ. Cả lớp khoái chí, cười khúc khích. Sau này đọc sách thấy nhiều học giả đồng ý với thầy. Hồng quần: quần chính nghĩa là cái váy, cái xiêm, phụ nữ xưa mặc quần đỏ. (Đinh Xuân Lâm và Chu Thiên , Đại Nam quốc sử diễn ca, Văn Học, 1966, tr. 87 ). Hồng quần: đàn bà (xưa mặc quần đỏ). (Hoàng Xuân Hãn, tập 2, Giáo Dục, 1998, tr. 77). Hồng quần: quần đỏ (tức con gái). (Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển). Hình ảnh hai bà Trưng mặc quần đỏ dẹp giặc đẹp quá! Đẹp quá hoá ra ... đáng ngờ! Theo truyền thuyết thì thời Hùng Vương, đàn ông Việt Nam đóng khố, đàn bà mặc váy kín (váy chui) hoặc váy mở (váy quấn). (Thời đại Hùng Vương, Khoa Học Xã Hội, 1976, tr.177). Sử nước ta lại cho biết thêm: Năm 1414, nhà Minh cấm con trai con gái không được cắt tóc; đàn bà con gái thì mặc áo ngắn quần dài, hoá theo phong tục phương Bắc. (Đại Việt sử kí toàn thư). Nhà Minh muốn đồng hóa dân ta, cấm đàn bà con gái nước ta mặc váy, bắt phải mặc quần như người Tàu. Năm 1428 Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh, giành lại độc lập cho đất nước. Sử không cho biết cách ăn mặc của dân ta dưới thời Lê Thái Tổ và mấy triều vua kế tiếp. Thời tự chủ, với ý quyết xoá bỏ hết tàn tích nô lệ về y phục, vua Lê Thần Tông niên hiệu Thịnh Đức năm đầu (1653) định phép ăn mặc cho quan dân. Vua Lê Huyền Tông niên hiệu Cảnh Trị thứ ba (1665) cấm đàn bà con gái không được mặc áo có thắt lưng và mặc quần có ống chân (nghĩa là bắt buộc phải mặc váy). (Nhất Thanh, Đất lề quê thói, Đại Nam, tr. 206). Vào khoảng năm 1744 chúa Võ Vương ở phương nam bắt dân gian cải cách y phục. Theo giáo sĩ Koffler thì chúa bắt bỏ lối quần áo thô bỉ của người đường ngoài, mà châm chước theo lối quần áo của người Tàu. (Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, Bốn Phương, 1961, tr. 173). Chúa Võ Vương muốn "Triều đình riêng một góc trời, gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà" (Kiều), độc lập đối với vua Lê chúa Trịnh đàng ngoài nên ra lệnh bắt đàn bà đàng trong phải ăn mặc như Tàu. Vì chúa muốn "Thà làm tôi thằng hủi hơn chịu tủi anh em", mà các bà đàng trong phải mặc quần. Vua Minh Mạng đi xa thêm một bước nữa: Tháng tám (có chỗ hát tháng chín) có chiếu vua ra Cấm quần không đáy người ta hãi hùng Không đi thì chợ không đông Đi thì bóc lột quần chồng sao đang. Thật ra thì chưa chắc đã là tháng tám hay tháng chín vì sử nhà Nguyễn chép: tháng 10 năm 1828, truyền đổi cách ăn mặc từ sông Gianh trở ra Bắc. (Quốc triều chính biên toát yếu, Thuận Hoá, 1998, tr. 188). Quần không đáy, "vừa bằng cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có bên Tàu thì không", tức là cái váy. Minh Mạng bắt cả đàn bà đàng ngoài mặc quần, cấm mặc váy. Trên lí thuyết thì từ năm 1828 đàn bà cả nước ta đều phải mặc quần theo ý muốn của nhà vua. Nhưng thực tế thì ra sao? Thực tế thì "phép vua thua lệ làng". Đằng sau luỹ tre xanh, mọi chuyện trong nhà ngoài xóm đều được dàn xếp theo bộ luật bất thành văn "lệnh ông không bằng cồng bà". Vua nói vua nghe, váy bà bà mặc. Minh Mạng làm sao mà đụng được vào cái váy của các bà nhà quê đàng ngoài! Trong lúc tỉnh thành xôn xao kháo nhau cởi váy mặc quần thì thôn quê miền Bắc vẫn khư khư giữ cái váy. Cho mãi đến những năm 1940 vẫn còn cảnh: Quanh bếp ấm nồi bánh chưng sùng sục Thằng cu con dụi mắt cố chờ ăn Đĩ nhớn mơ chiếc váy sồi đen rức Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm (Anh Thơ, Đêm ba mươi tết, 1941) Cái váy của ta cứ âm thầm "Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi"(Phạm Duy). Nhiều phen được vua yêu, lắm lúc bị chúa ghét! Cái váy cứ nhẫn nhục bám lấy các bà mà tồn tại. Thế mà hai bà Trưng đã tung ra mốt mặc quần từ những năm 40-43, nghĩa là gần 14 thế kỉ trước khi nhà Minh ra lệnh bắt đàn bà nước ta mặc quần, gần 18 thế kỉ trước khi vua Minh Mạng cấm mặc váy! Đầu thế kỉ 20, đàn bà nước ta "quần phần nhiều mặc quần sồi, lĩnh thâm, đôi khi cũng có người mặc quần nhiễu đỏ; ở Nam kỳ và Trung kỳ thì người phong lưu mặc quần nhiễu trắng, chốn quê mặc quần vải xanh". (Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng hợp Đồng Tháp,1990, tr. 330). Đến khoảng 1938, dân ta "quần thì chỉ dùng sắc trắng và nâu. Những người già cả mà giàu sang thì ngày hội hè tết nhất mới dùng quần đỏ". (Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, sđd, tr. 173). Hai bà Trưng nhìn xa, đi trước thiên hạ hay cái quần của hai bà ... có vấn đề? Bàn về quần, trước hết phải đặt câu hỏi quần là cái gì? Chết thật! Ngần này tuổi đầu mà không biết quần là cái gì à? Quần (chữ hán, bộ y) được Huỳnh Tịnh Của và Đào Duy Anh định nghĩa là đồ để che phần dưới thân thể. Tự điển Génibrel dịch chữ quần là pantalon (quần dài), culotte (quần đùi), jupe (váy đàn bà), vêtement descendant depuis les reins jusqu'aux pieds (đồ mặc che từ eo xuống đến chân). Quần được Thiều Chửu dịch là cái quần, cái xiêm. Đang tìm hiểu cái quần lại bị vướng vào cái xiêm. Vậy xiêm là cái gì? Xiêm là áo choàng che trước ngực (Thiều Chửu), áo che đàng trước (Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển), cái váy (Đào Duy Anh, Từ điển truyện Kiều), đồ bận dưới, cái củn (củn là đồ bận trên), cái váy (Huỳnh Tịnh Của), jupe (váy dài), jupon (váy ngắn), vêtement inférieur (đồ mặc che phần dưới) (Génibrel), manteau (áo choàng) (Gustave Hue). Đúc kết các định nghĩa trên, chúng ta hiểu rằng xiêm là cái áo choàng, áo mặc ngoài. Xiêm ngắn, chỉ che phần trên thân thể, thì chỉ có một tên gọi là xiêm. Xiêm dài (che cả phần dưới thân thể) thì ngoài tên xiêm, còn được gọi là quần, hay váy. Quần là chữ dùng để chỉ đồ mặc che phần dưới thân thể. Quần được dùng cho cả đàn ông và đàn bà. Quần có thể là cái sa rông của người Miên, cái kilt của người Ecosse ... Đàn ông và đàn bà Tàu đều mặc quần hai ống, cho nên quần đàn ông hay quần đàn bà Tàu đều là ... quần (như cách hiểu ngày nay). Chỉ có cái quần đàn bà Việt Nam mới lận đận, rắc rối. Ngày xưa (tạm cho là trước thời thuộc Minh) đàn bà nước ta không mặc quần. Thế à? Các bà không mặc quần hai ống như ngày nay mà chỉ mặc váy thôi. Chữ quần (hán), chỉ đồ mặc để che phần dưới thân thể của đàn bà Việt Nam ngày xưa, phải được hiểu và phải được dịch nôm là cái váy để khỏi nhầm lẫn với cái quần đàn ông. Điều này đã được tranh dân gian Oger (1909) chứng minh rõ ràng hơn qua một tấm vẽ đàn bà mặc váy. Tranh được ghi chú bằng chữ hán nôm "dã phụ y thử quần, tục danh quần đùm" (váy của đàn bà nhà quê, tục gọi là váy đùm). Người đàn bà trong tranh mặc váy, do đó chữ quần (hán) phải được dịch (nôm) là váy. Váy đùm là váy buộc túm cạp lại. Dường như chỉ có văn học mới dùng hồng quần hay quần hồng để chỉ cái váy. Bốn cột lang, nha cắm để chồng Ả thì đánh cái, ả còn ngong Tế hậu thổ khom khom cật, Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng Tám bức quần hồng bay phới phới, Hai hàng chân ngọc đứng song song. Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy, Cột nhổ đem về để lỗ không. (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập) Hai cô gái đánh đu, khoe "tám bức quần hồng". Vậy là mỗi cô có "bốn bức quần hồng". Hồ Xuân Hương cũng đưa ra "bốn mảnh quần hồng" trong bài Đánh đu: ( ...) Trai du gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới Hai hàng chân ngọc duỗi song song ... Bốn bức hay bốn mảnh quần hồng ở đây là cái gì? Nếu chỉ là cái quần hai ống thì mỗi ống phải xẻ hai. Ta không có kiểu quần tân kì như thế. Cũng không phải là một mình cái váy vì không có váy nào lại xẻ tư như vậy. Chỉ còn cái áo tứ thân (áo tứ thân có 2 vạt đằng trước, 1 vạt đằng sau) cộng với cái váy mới hợp thành bốn mảnh quần hồng. Cái áo tứ thân (cái xiêm của ta) đã được các tác giả gọi là cái quần. Chúng ta hiểu vì sao Thiều Chửu đã định nghĩa quần là cái xiêm, và Huỳnh Tịnh Của lại định nghĩa cái xiêm là đồ bận dưới, tức là cái quần. Trong bài Chỗ lội làng Ngang Nguyễn Khuyến có nói đến cái quần đàn bà: Đầu làng Ngang có một chỗ lội Có đền ông Cuội cao vòi vọi Đàn bà đến đấy vén quần lên Chỗ thì đến háng chỗ đến gối Ông Cuội ngồi trên mỉm mép cười Cái gì trăng trắng như con cúi Đàn bà khép nép đứng liền thưa Con trót hớ hênh ông xá tội ... Đàn bà vén quần, hớ hênh, để lộ cả cái gì trăng trắng như con cúi. Các nhà quan sát có thẩm quyền kết luận rằng người đàn bà trong câu chuyện mặc váy. Quần hai ống vén đến gối hay đến háng thì vẫn còn kín đáo, chưa để lộ bí mật. Nguyễn Khuyến đã dùng chữ quần theo nghĩa chữ hán, để chỉ cái váy của các bà. Hình ảnh vén váy để hở cả cơ đồ còn được thấy qua tấm tranh dân gian Hứng dừa dí dỏm. Qua vài thí dụ kể trên thì thấy rằng từ thế kỉ 15 (Hồng Đức quốc âm thi tập) đến đầu thế kỉ 20 (Nguyễn Khuyến) chữ quần đã được văn học Việt Nam dùng theo nghĩa của chữ hán, để chỉ đồ che nửa dưới thân thể. Quần của đàn bà (miền Bắc) Việt Nam ngày xưa là cái váy, cái áo dài (xiêm), chứ chưa phải là cái quần hai ống ngày nay. Hồng quần của hai bà Trưng phải được hiểu là cái váy màu đỏ. Từ ngày người Pháp cai trị nước ta thì các bà nhà quê miền Bắc mới dần dần mặc quần hai ống như các ông. Một số bà tân thời ở tỉnh thành mặc màu trắng. Dân quê chỉ dùng màu đen hay màu nâu. Ngày nay, cả hai phái nước ta, phái mạnh và phái đè đầu phái mạnh, đều mặc quần hai ống, nhiều màu sắc, kể cả màu hồng, màu đỏ. Cái váy, cái quần không những đã ám ảnh vua chúa mà còn đè nặng lên đời sống của đám dân đen. Người xưa có phương thuật "chữa mắt hột bằng gấu quần đàn bà". Quần nào chả là quần, tại sao không dùng quần đàn ông mà phải dùng quần đàn bà? Chẳng nam nữ bình quyền tí nào cả! Nam nhi thua thiệt quá! Thật ra thì phương thuật dùng gấu váy, sau này váy hiếm, khó kiếm người ta mới thay váy bằng quần, dĩ nhiên phải là quần đàn bà. Chữ váy, ngoài nghĩa thông dụng là cái váy đàn bà, còn có nghĩa khác là nạo vét, lau chùi (curer, nettoyer, tự điển Génibrel). Váy là dùng vật gì mà vặn xáy (xoáy) hoặc móc ra. Váy tai nghĩa là móc cứt ráy trong lỗ tai ( Huỳnh Tịnh Của). Váy (đồ mặc) đồng âm với váy (lau chùi, xoáy móc). Do đó, giới bình dân đã dùng cái váy để tượng trưng cho động tác lau chùi. Ai bị đau mắt hột thì lật mí mắt lên, lấy gấu váy dí nhẹ vào mí là tất cả các hột sẽ được đánh sạch. Từ ngày các bà không mặc váy nữa thì người ta dùng gấu quần. Đứng về mặt chữ nghĩa thì cái quần không giải thích được ý nghĩa của phương thuật. Phải thông qua cái váy mới rõ nghĩa. Quần đàn ông không dính dáng gì đến váy cho nên không chữa được mắt hột! Quần của các ông thua quần các bà chứ không phải các bà kì thị các ông! Xưa kia, "thợ may và thợ giặt không nhận may váy, giặt váy cho các bà". Pierre Huard và Maurice Durand (Connaissance du Vietnam, EFEO, Paris, 1954, tr. 178) cho rằng ta bắt chước tục Tàu. Người Tàu kiêng để lẫn lộn quần áo vợ chồng còn trẻ, dưới 70 tuổi. Thuyết âm dương của Tàu e rằng cao siêu quá, vượt quá xa cái triết lí bình dân của cái váy của ta: Sáng trăng em tưởng tối trời Em ngồi em để sự đời em ra Sự đời bằng cái lá đa Đen như mõm chó, chém cha sự đời. Bọn thợ may, thợ giặt sợ cái váy có lẽ chỉ vì họ tin rằng váy có ma thuật nạo vét của cải, làm hao tài, sạt nghiệp mà thôi. Giới trí thức cũng bị váy, quần làm cho vướng mắc lùng bùng ... Ngày xưa, "thư sinh, nhà nho kiêng không sờ vào váy, vào quần đàn bà giữa ban ngày". Không biết cụ Khổng lúc bé có phải giặt giũ, phơi quần áo giúp mẹ không? Nhiều người cho rằng vì váy, quần đàn bà là vật ô uế nên nhà nho không đụng đến. Giải thích như vậy nghe không ổn. Cho dù váy, quần của các bà có ô uế thật đi nữa thì cũng chỉ ô uế vài ngày lúc các bà có tháng thôi. Còn những ngày bình thường thì quần đàn ông hay váy đàn bà đã chắc gì cái nào sạch hơn cái nào? Không riêng gì nhà nho, đến người mù chữ cũng chẳng ai muốn đụng đến những đồ ô uế. Nhà nho là người dùi mài kinh sử chuyên nghiệp. Ông nào cũng đầy một bụng chữ thánh hiền. Ban ngày ban mặt, nhỡ mà đụng vào cái váy hấp dẫn kia thì còn đâu là chữ nghĩa nữa! Cái váy sẽ cạo vét, lau chùi sạch sành sanh cái bụng chữ thì làm sao mà mở mày mở mặt với thiên hạ được! Có muốn sờ thì chờ lúc nhá nhem hãy sờ."Tối lửa tắt đèn, nhà ngói cũng như nhà tranh", mèo nào cũng xám như nhau. Tranh tối tranh sáng thì ... có mắt cũng như không, còn thấy đường nào mà cạo với vét! Dân gian có một giai thoại về cái váy. Chuyện kể rằng ông lí làng kia mới tậu được cái ô đen. Ông rất hãnh diện, đi đâu cũng che ô để khoe với dân làng. Một hôm ông vênh vang đi qua chỗ có mấy cô gái đang làm cỏ ruộng. Một cô hát: Hôm qua tôi mất xống thâm Hôm nay tôi gặp người cầm ô đen. Một cô phụ hoạ thêm: -Nói thế thì ra người ta ăn cắp cái xống thâm, cái váy đen của chị về may ô à? Em nhớ là xống thâm của chị tươi đẹp hơn ô đen kia cơ mà. Để em lên mượn, chúng mình xem cho kĩ nhé. Ông lí bầm gan tím ruột định mắng mấy con "vén váy không nên" kia, nhưng ông chợt nghĩ nhỡ đụng phải bọn "xắn váy quai cồng" thì thật là nan giải. Nghĩ vậy, ông lí vội cụp ô, chuồn cho nhanh. Hải Phòng cũng có một giai thoại tương tự. Trong một cuộc hát đúm, cô gái tấn công trước: Hôm qua em mất cái váy thâm Hôm nay em thấy anh cầm một chiếc ô đen. Cô gái chanh chua vừa dứt lời, liền được chàng trai nhã nhặn đáp lễ: Em nói thế là em cũng nhầm Hôm qua anh thấy ông đội khăn thâm ra đình Trong lúc các bà nhà quê phải mất nhiều năm mới bỏ được cái váy sồi, váy đùm, váy đụp, thì mấy cô ở thành thị lại hớn hở tung hô cái váy xoè, váy chẽn, váy cụt của phương Tây. Thú phô trương ao ước bấy lâu nay! Giờ mới được mân mê cái váy hiện đại, hiện sinh ... hiện hình! Khách bên đường sững sờ liếc trộm cái của lạ muôn màu, muôn vẻ ... Muôn năm! Thấy mà chóng cả mặt, chỉ ... muốn nằm! Nguyễn Dư (Lyon, 8/2003)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 12, 2011 4:19:49 GMT 9
"Ca" "hát" lung tung Nguyễn Dư Nghe mấy ông cô-lô-nhần, tây thuộc địa hát (h) sai tiếng Việt, người Việt nào chả bực mình. Nhưng vẫn chưa khó chịu bằng nghe người Việt a dua theo Pháp, trọ trẹ thêm một lần nữa. Kết quả của cuộc giao lưu văn hoá bất đắc dĩ này là nhiều địa danh nửa tây nửa ta được ra đời. Hồng Hải trở thành Hòn Gai, Nam Hoa thành Nam Ô, Hải Vân thành Ải Vân, vân vân...(xem bài "Hát" hay không "hát" ?). Có người đùa dai, nửa nạc nửa mỡ : tây hát (h) sai nhưng ca (k) thì sao ? Câu hỏi thật sáng giá, đáng đồng tiền... phật lăng ! Tội gì không đem ra...bàn suông cho sướng miệng ! Miền Nam hát (h) khá hơn miền Bắc, miền Trung. Nhưng tài tử đờn ca (k) cũng có khi hơi lạc điệu. Chẳng hạn như bài "Kỳ Hoà hỗn chiến Chí Hoà" đầy ai oán. Sử của ta cho biết : Năm 1790 Nguyễn Ánh sai Ông Tín (Olivier de Puymanel) xây thành Gia Định, theo kiểu cách của Vauban. Năm 1832, Minh Mạng bỏ tên thành Gia Định, đặt tên mới là thành Phiên An. Năm 1833, Lê Văn Khôi nổi lên chống lại triều đình, chiếm thành Phiên An. Mãi đến năm 1835, sau khi Lê Văn Khôi bị bịnh chết, quân triều đình mới chiếm lại được thành. Minh Mạng hạ lệnh đốt thành Phiên An cho hả giận. Năm sau (1836) xây thành khác. Thành mới nhỏ hơn thành Phiên An, không có tên riêng. Sử gọi là thành tỉnh Gia Định. Sách báo của tây gọi thành xây thời Minh Mạng này là Citadelle de Saigon, ta dịch là thành Sài Gòn. Ngày 17-2-1859, thành Sài Gòn bị Pháp đánh chiếm. Ba tuần sau, ngày 8-3-1859, đô đốc Rigault de Genouilly ra lệnh đốt phá, san bằng thành Sài Gòn. Sách Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn chép : - (Năm 1859, tháng giêng) quân của Tây dương vây đánh thành tỉnh Gia Định (thành Sài Gòn). Khi ấy quân của Tây dương đã liền mấy ngày (từ ngày 11 đến ngày 14) bắn phá các đồn ven sông, rồi thẳng đến bến sông tỉnh thành (ngày 15) hướng vào thành bắn súng. Lại một toán lên bộ, quanh thành đánh sấn vào. Quan quân tan chạy cả, thành bèn bị vỡ...(1). Hai năm sau... - (Năm 1861, tháng giêng) quan Tây dương đánh phá đồn lớn và chỗ tỉnh đóng tạm của Gia Định, quân quan lui về đóng ở tỉnh Biên Hoà (...) (2). Đồn lớn là đồn nào, tên là gì ? Đại Nam thực lục không cho biết. Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép rõ hơn : - (Năm 1861) Ông Nguyễn Tri Phương cùng với quan tham tán đại thần Phạm Thế Hiển vào xếp đặt ở Gia Định một cách rất có qui củ, đắp dãy đồn Kỳ Hoà (người Pháp gọi là dãy đồn Chí Hoà) cũng hợp qui thức, để chống nhau với quân của đại tá d'Ariès. Hai bên đã từng đánh nhau hai ba trận, đều bị thiệt hại cả (3). Sực nhớ ngày xưa được nghe thầy kể trận tây đánh đồn Kỳ Hoà. Hôm nay để ý, mới biết thêm chi tiết : tên Kỳ Hoà của Việt Nam, người Pháp gọi là Chí Hoà. Nôm na toạc móng heo thì Kỳ Hoà được người Pháp ghi âm thành Chí Hoà. Hân hạnh cho khám Chí Hoà. Được tây xây, tây đặt tên. Tây từ trong ra đến ngoài. Thật là bất ngờ. Bất ngờ đến độ... khó tin. - Gớm nhỉ, nghi ngờ cả sử à? - Thưa thầy, ngày xưa học sử với thầy để... đi thi. Hôm nay, thầy nghỉ hưu rồi, mới dám hỏi thầy... Kỳ Hoà, Chí Hoà tên nào là ta, tên nào là tây? Tên nào đúng, tên nào sai ? Ôi ! Giang sơn gấm vóc! Hương hoa đất nước! Tha hồ... ta về ta tắm ao ta. Ta cùng nhau đi... nhờ các sử gia, các nhà nghiên cứu của ta trả lời giùm câu hỏi. Tiếc rằng bộ Đại Nam thực lục đồ sộ đã bỏ rơi không đả động gì đến Kỳ Hoà hay Chí Hoà. Chính sử của ta, ta không cần chép... chuyện của tây. Đại Nam dư địa chí ước biên cũng không ghi chép gì về "6 tỉnh Nam kỳ đã thuộc nhượng địa"(4). Không chơi với tây. Mất cho mất luôn. Thật oái oăm cho đời sau, phải dựa vào tài liệu của tây để... tìm hiểu chuyện của ta. Loanh quanh, luẩn quẩn như đèn cù. Có lẽ vì vậy mà các nhà "Gia Định học" vẫn chưa đồng ý với nhau. Người thì chép là đại đồn Kỳ Hoà(5)(6), người thì chép là chiến luỹ Chí Hoà (đại đồn Phú Thọ) (7), hay đại đồn Chí Hoà(8). Hàng thật, hàng giả khó phân biệt. "Bì bõm ao ta" coi bộ không xong. Thôi đành phải "quờ quạng hồ tây" vậy! Báo L'Illustration(9) có hai bài phóng sự chiến trường viết về chiến dịch Pháp đánh chiếm tỉnh Gia Định. Bài thứ nhất, của phóng viên V. Paulin, tường thuật trận tấn công thành Sài Gòn (Citadelle de Saigon), ngày 17-2-1859. Bài báo có tranh vẽ cửa chính thành Sài Gòn. Tài liệu do thư kí của đô đốc Rigault de Genouilly cung cấp. Bài thứ nhì, của phóng viên F. Roux, tường thuật trận đánh đại đồn Kỳ Hoà (Grand Fort de Ki-Hoa), diễn ra trong hai ngày 24 và 25-2-1861. Bài báo có bản đồ hành quân, địa hình khu vực. Pháp đánh Sài Gòn ngày 17-2-1859 Pháp đánh Kỳ Hòa hai ngày 24 và 25-2-1861 Sài Gòn 1795 So sánh bản đồ của bài báo với bản đồ do Pháp vẽ năm 1795, và bản đồ thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, thì thấy : Trong cùng khoảng thời gian xây thành Gia Định(1790), Olivier cho đắp thêm một dãy luỹ (Mur d'enceinte). Luỹ dài khoảng 10km, chạy dọc theo rạch Thị Nghè, từ Cầu Bông đến Ngã tư Ông Tạ. Đồn lớn (đại đồn Kỳ Hoà, Grand Fort de Ki-Hoa) do Nguyễn Tri Phương xây đắp năm 1861 nằm cạnh dãy luỹ của thời Gia Long, trải dài từ Ngã tư Ông Tạ đến Ngã tư Bảy Hiền. Bản đồ khu vực đại đồn Kỳ Hoà của báo L'Illustration không ghi lại vết tích của dãy luỹ. Điều này cho phép suy đoán rằng Minh Mạng đã cho phá huỷ toàn bộ hệ thống thành Phiên An, kể cả dãy luỹ. Ngoài báo L'Illustration, H. de Bizemont (10), Paul Bonnetain (11) cũng cho biết nhiều chi tiết về trận đánh đại đồn Ki-Hoa. Các tài liệu (bản đồ, sách, báo) đương thời đều cho thấy vào những năm đầu của cuộc xâm chiếm Việt Nam (giai đoạn 1860-1890), người Pháp ghi âm các địa danh của nước ta còn tuỳ tiện, thiếu chính xác. Chẳng hạn như Nam Định thì ghi là Name Digne, An Cựu là Ane-Keuou , Chợ Lớn là Cho-len v.v.. Tuy nhiên, khi nói đến trận đánh chiếm tỉnh Gia Định thì các tài liệu đều chép là Ki-Hoa. Sang đầu thế kỉ 20, người Pháp bắt đầu nghiên cứu về đất nước và con người Việt Nam. Dần dần, các địa danh được viết theo lối phát âm của tiếng Việt. H-L Jammes nhiều lần nói đến làng Chí Hoà và đồn luỹ Chí Hoà(12). Trong bài biên khảo về Đồn điền và bài viết về Tổng đốc Thuận Khánh Trần Bá Lộc, George Dürrwell cũng nhiều lần dùng địa danh Chí Hoà (13). Làng Chí Hoà ngày xưa ở gần trường đua ngựa, khoảng góc đường Thuận Kiều và Général Lizé (14). (Đường Thuận Kiều sau đổi thành Lê Văn Duyệt, ngày nay là Cách Mạng Tháng Tám. Đường Lizé đổi thành Phan Thanh Giản, ngày nay là Điện Biên Phủ). Nếu không để ý đến năm tháng của các bài viết thì có thể nói rằng chính người Pháp đã lẫn lộn Kỳ Hòa và Chí Hoà... trước người Việt. Nhạc trưởng Tây đã hướng dẫn ban nhạc "trống đánh xuôi kèn thổi ngược" chơi bài "Kỳ Hoà hỗn chiến Chí Hoà" ! - Bà thấy chưa ? Hồ tây đâu có hơn gì ao ta. Tui chịu thua mấy ông... học giả. - Chuyện gì mà kì cục vậy. Tui học thiệt, ông còn không coi ra gì. Bây giờ lại chịu thua cả mấy thằng... học giả sao ? Chu choa, đến nước này thì phải nhờ trạng mẹo giúp một tay mới xong! - Thông thường thì ch của tiếng Pháp được phát âm , giống chữ s của tiếng Việt miền Trung, miền Nam (miền Bắc phát âm sai chữ s).
Chien (siêng, con chó). Chat (sa, con mèo). Cochon (cô-sông, con heo). Chocolat (sô-cô-la). Cochinchine (cô-sanh-sin, Nam kì)...
- Nhưng, nhiều khi ch lại được phát âm [k], giống chữ k của tiếng Việt.
Chaos (ka-ô, hỗn độn). Choléra (kô-lê-ra, dịch tả). Orchidée (O-ki-đê, hoa phong lan). Chiromancie (ki-rô-măng-xi, xem tướng tay)...
- Tiếng Pháp không có âm ch của tiếng Việt.
Con chiên của ta không phải là con chó tây. Rượu chát không phải là... rượu con mèo Dubonnet.
Cháu chắt của mấy vị sáng chế ra chữ quốc ngữ bị lúng túng với ch của tiếng Việt. Cái thuở ban đầu lơ láo và vênh váo ấy, có người hiến kế : mang cách đọc ch thành k của tiếng Pháp áp dụng cho tiếng Việt. Diệu kế! Không cần oong đơ gì cả, mấy ông Lang Sa liền rủ nhau ghi âm ch của tiếng Việt bằng chữ k.
Thí dụ điển hình là Chí Hoà của ta được nhà báo, nhà văn Pháp ghi âm thành Ki-Hoa. Tuy không hoàn toàn đúng, nhưng... "cười gượng còn hơn mếu".
Bây giờ xin bàn thêm về câu nói của Trần Trọng Kim.
- Nếu Kỳ Hoà là tiếng Việt, như Trần Trọng Kim nghĩ, thì người Pháp chỉ việc chép lại là Ky-Hoa. Vừa đúng chữ vừa đúng âm. Pháp Việt ca (k) giống nhau. Và chắc chắn người Pháp sẽ không vặn vẹo viết là Ki-Hoa.
- K (Việt) hoàn toàn khác ch (Pháp). Không bao giờ người Pháp lại chọn giải pháp "lợn lành chữa thành lợn què", ghi âm Kỳ Hoà thành Chi-Hoa (Si-Hoa). "Đường quang không đi, đâm quàng bụi rậm". Vừa rắc rối, vừa sai!
Nói rằng Kỳ Hoà của ta được người Pháp ghi âm thành Chí Hoà là vô căn cứ, là sai.
Trần Trọng Kim và những người bắt chước ông, đã đặt cái cày trước con trâu. Địa danh Chí Hoà của Việt Nam bị mấy ông cô-lô-nhần bóp méo thành Ki-Hoa (Kí Hoà). Người Việt nhanh nhảu thêm mắm thêm muối (các đại gia thời tây gọi là thêm bơ thêm ma-di) kéo dài chữ i, xoay dấu sắc sang dấu huyền. Rốt cuộc, Ki-Hoa bị sửa sai, sai thêm một lần nữa, thành Kỳ Hoà.
Trên đây chỉ là một trường hợp tây ta đồng ca (k)... lạc điệu. Ngoài ra, đó đây thỉnh thoảng lại ngân lên điệp khúc Bắc Kạn, Đa Kao, K. K. tùm lum! Lỗi tại các vị cố đạo ! Tại sao khi sáng chế ra chữ quốc ngữ, các vị không chỉ rõ cách phân biệt cu (q), ca (k), xê (c). Dân cày sâu cuốc bẫm vùng Bắc Kạn lo xoay xở chống khô cạn, dân Đa Kao lo vác đồ lên cao ngừa ngập lụt, ai hơi đâu để ý ca (k) cho đúng, xàng xê (c) cho hay, cái mớ chữ như lăng quăng của các vị.
Cũng may, người Việt vốn dễ tính. Ca (k), hát (h), trọ trẹ lâu ngày cũng thành quen tai. Ai không thích thì... đừng nghe.
Trên nền cũ của thành Sài Gòn, Pháp cho xây Caserne du Onzième Régiment de l'Infanterie Coloniale, viết tắt 11è R.I.C. (Trại Bộ Binh Thuộc địa, đội thứ mười một). Pháp đi, 11è R.I.C. trở thành Thành Cộng Hoà. Rồi thành Cộng Hoà cũng thành bình địa.
Xưa kia, khám Chí Hoà của Sài Gòn nổi tiếng không thua gì Hoả Lò của Hà Nội. Thế rồi, trời đất nổi cơn gió bụi.Hoả Lò được dập tắt. Đống tro tàn hoá thân thành khách sạn đẳng cấp. Máy lạnh mát rượi. Trong khi Chí Hoà vẫn trơ trơ với cái nóng nung người. Trước sau vẫn "lòng ta sắt đá, há lung lay". Dửng dưng với cây xanh, bóng mát của công viên Kỳ Hoà gần bên. Thế à! Thiệt sao? Kỳ Hoà được nằm cạnh Chí Hoà ! Tình tứ, lãng mạn hết chỗ chê.
Chí Hoà, Kỳ Hoà tuy gần nhau nhưng vẫn chưa được... đề huề bên nhau. Có lẽ vì đàn còn ngang cung, ca (k) còn lạc điệu.
Nguyễn Dư (Lyon, 4/2011) Chú thích : (1)(2) - Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Giáo dục, 2006, tr. 594, 699.
(3) - Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Bộ Giáo Dục, tập 2, Miền Nam, tr. 258.
(4) - Cao Xuân Dục, Đại Nam dư địa chí ước biên, bản dịch của Hoàng Văn Lâu, Văn Học, 2003, tr. 17.
5) - Phạm Văn Sơn, Việt sử toàn thư, Khai Trí, 1960, tr. 634, 635.
(6) - Cao Tự Thanh, Đoàn Lê Giang, Tác phẩm Nguyễn Thông, Sở Văn Hoá và Thông Tin Long An, 1984, tr. 18).
(7) - Sơn Nam, Đất Gia Định xưa, nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 1984, tr. 112.
(8) - Ca Văn Thỉnh, Bảo Định Giang, Nguyễn Thông, con người và tác phẩm, nxb Thành Phố Hồ Chí Minh 1984, tr. 24.
(9) - Les Grands Dossiers de l'Illustration-L'Indochine (1843-1944), Le Livre de Paris, 1987, tr. 18-23.
(10) - H. de Bizemont, L'Indo-Chine Française, Paris, Librairie de la Société Bibliographique, 1884, tr.28.
(11) - Paul Bonnetain, L'Extrême Orient, Paris, Maison Quantin, 1887, tr. 108.
(12) - H-L Jammes, Souvenirs du pays d'Annam, Challamel, 1900.
(13) - George Dürrwell, Ma chère Cochinchine, Paris, La Renaissance du Livre, 1911.
(14) - Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, Khai Trí, 1968, tr. 78.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 12, 2011 4:44:02 GMT 9
Các nông cụ Việt Nam vang bóng một thời Tiểu Đệ Trong dân gian ai cũng biết : "Đời sống con người hay vật dụng hằng ngày cũng chỉ có một thời kỳ mà thôi". Bởi vì, sự vô thường phải đến để thay đổi không ai thoát khỏi, từ con người cho đến vật dụng. Nếu chúng ta nhìn ngược thời gian khoảng non một lục hoa giáp (60 năm), thì chúng ta sẽ thấy sự thay đổi đời sống con người đáng lưu ý, bằng chứng những nông cụ Việt Nam chúng ta đã không còn sử dụng nữa, ví như : Cối xay lúa, cối xay bột, cối giả gạo... cho đến cái phảng, cái cù nèo, cái nọc để cấy lúa v.v. Trước đây, trong quyển sách 4000 TỪ NGỮ THỰC HÀNH tôi để bút hiệu Hàn Lâm NGUYỄN PHÚ THỨ (nay bước sang năm 2011 tôi chỉ dùng Tiểu Đệ NGUYỄN PHÚ THỨ), có nêu đến các Nông Cụ Việt Nam, ngõ hầu góp phần giữ gìn và phổ biến cho thế hệ sau biết (xin xem Sinh Hoạt Đời Sống Việt Nam trong quyển sách 4000 TỪ NGỮ THỰC HÀNH từ trang 567 đén trrang 599). Nay, xin góp phần mọn về Vang bóng một thời qua các nông cụ Việt Nam, như chúng ta biết, đất nước VN phần đông sống về nông nghiệp, cho nên mới thấy trong dân gian có câu : Tháng chạp là tháng trồng khoai, Tháng giêng trồng đậu, Tháng hai trồng cà, Tháng ba cày vỡ ruộng ra, Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng... Lưỡi cày và trâu cày ruộng Vì thế, công việc làm ruộng bắt dầu tháng 3 âm lịch (Tháng ba cày vỡ ruộng ra), ngày trước dùng lưỡi cày với đôi trâu cày đất làm ruộng. Sau đó, mới lựa lúa tốt làm giống để chuẩn bị rải lúa xuống miếng đất gieo mạ (Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng) và bừa trục miếng đất. Trâu bừa trục dất Mãi đến khoảng 14 tháng 7 âm lịch hằng năm, nước dâng bò lên tớicác ruộng đất gò, thì bắt đầu nhổ mạ, bởi vì, con nước rong chỉ thuận tiện để cấy được mấy ngày, nếu nhổ mạ trễ thì cây mạ kể như bị nằm phơi nắng, hoặc là có nơi mùa cấy bắt đầu rất muộn, khoảng đầu tháng 8 âm lịch. Đó là, lúc mưa dầm nước lụt, ngập đến lưng quần, nông dân phải cấy các loại giống lúa mùa có thân cao như : nàng thơm, nàng tét, trắng lùn... lúc đầu thì cấy nọc, sau đất thuộc dùng trâu cày thì cấy tay. Nhổ mạ để cấy Cây nọc Quang cảnh các thợ cấy Khoảng bốn giờ hay hơn một chút, người thợ cấy đến miếng ruộng để bắt công cấy và khoảng năm giờ sáng bắt đầu cấy, họ cấy thật nhanh thoan thoát với cái âm thanh tay người rút khỏi mặt nước nghe chong chóc vang đều, có nơi họ phải trầm mình dưới nước hoặc bị những đám mưa, mặc cho muỗi mòng đĩa vắt. Trên lưng họ là tấm lá chằm và chiếc nón lá để che mưa, nắng. Bữa cơm trưa của họ thường ăn trên bờ giồng gồm : Cơm, một chén Mắm chưng hoặc là Cá kho và một tô Bí rợ hầm dừa... Khi nói đến cấy lúa, thường dành đàn bà, phải dùng cây nọc để cấy lúa. Cây nọc thường dùng cây Căm xe, Cà chất để đẽo làm cây nọc, nếu làm bằng cây tạp như cây : Sao, Dầu, Mù U... thì cấy chỉ được một mùa mà thôi. Còn đàn ông thì lo chuyển gánh mạ, đôi khi bằng trâu để cung cấp cho đàn bà cấy. Ngoài ra, họ phải lo cày bừa, trục và phát cỏ để dọn đất, cào cỏ thành bờ giồng cho sạch để trước khi quý đàn bà cấy lúa. Khi nhắc đến cây Phảng phát cỏ, thì nó phải đi kèm với cây Cù nèo móc cỏ. Hồi xưa, dân làng phát cỏ dọn đất vào mùa mưa, vì cỏ mọc xanh dờn cả cánh đồng. Đây là, công việc nặng nhọc, người nông dân trai tráng chỉ có thể phát cỏ một công đất mỗi ngày, là mệt đừ, cho nên phải ăn cơm trước dằn bụng mới phát nổi, từ sáng sớm khoảng 4 giờ 30 hay 5 giờ đã ra đồng để phát cỏ, nghe tiếng phảng đập xuống phình phịch, làm dậy lên cả cánh đồng. Cây Phảng với Cù nèo và người phát cỏ Như chúng ta đã biết việc làm ruộng bắt đầu : Tháng ba cày vỡ ruộng ra, Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng Cho đến gần Tết tức tháng Chạp mới đem lúa được về nhà và chuẩn bị ăn Tết nguyên Đán chào mừng năm mới. Vì thế, nhà nông có nơi làm tới 2 hoặc 3 vụ mùa, tùy theo lúa giống và khu đất ruộng đã được phân chia khoanh vùng manh mún để thực hiện. vì thế, trên đồng ruộng lúc nào cũng có lúa chín, mới ngậm đồng đồng, mới cấy, mới gieo mạ hay cấy giâm... Nhưng đa phần, mùa nước nổi từ tháng bảy đến tháng tám là mùa đông ken để cấy lúavà bắt đầu tháng 11 cho đến tháng Chạp là mùa gặt lúa chín vàng ngoài đồng. Dưới đây, là quang cảnh cắt lúa, đập lúa của nhà nông : Sau đó, mới phơi lúa, quạt lúa, giê lúa... mới đem lúa vào nhà, hoặc lúa bán đong bằng cái gịa 40 lít như dưới đây : Khi có lúa vào bồ nhà rồi, quý bà con nhà nông còn phải qua giai đoạn xay lúa, rồi giả gạo mới có hạt gạo trắng để nấu cơm dùng hằng ngày, giai đoạn này thời xa xưa cũng không kém phần cơ cực mới có miếng ăn. Nhân đây, xin kể Cối xay lúa, Cối giả gạo, Cối xay bột....ngày xưa Vang bóng một thời nay không còn hữu dụng nữa như sau : 1.- Cối xay lúa : Ngày trước không có nhà máy xay lúa như ngày nay, cho nên phải dùng Cối xay lúa, trong thời gian trước kia, khoảng nửa thế kỷ, ngày nay cối này không còn thấy để sữ dụng nữa, chỉ thấy ở trong viện bảo tàng, để các em cháu thuộc thế hệ trẻ sau biết được Cối xay lúa, xin trích hình ảnh tôi đã chụp được như sau : Khi nhìn chúng ta thấy Cối xay lúa có hai thớt trên và dưới chồng lên nhau, cho nên Ông bà mình nói Cối xay lúa này có âm dương kết hợp giống như Cối xay bột vậy, ngoài ra còn có cần trục để xay lúa. Cái thớt trên để đổ lúa vào như chúng ta thấy hình ảnh dưới đây : Việc làm Cối xay lúa rất cơ cực, tôi đã nghe các bô lão xa xưa kể lại,xin trích dẫn như sau : Khi nhìn cái cối, chúng ta thấy cái vỏ của nó làm bằng tre hoặc trúc, cho nên trước hết phải đương như cái hình dạng giống như cái cần xé, rồi chọn đất sét thật tốt và dẽo, có khi dùng chân đạp vào cho de?, kế đến chọn cây như : Căm xe, Cà chất để chẻ làm răng đặt lên trên, nếu làm bằng cây tạp như cây : Đước,Sao, Dầu, Mù U... thì chỉ xài không được lâu, tuy giá rẻ hơn. Việc làm cối phải biết chẻ răng cho đúng kỹ thuật, nếu không xay lúa không ra gạo lức tốt mà còn làm nát gạo... Việc làm cối thớt trên và thớt dưới làm giống như nhau,chỉ khác thớt trên phải khoét lỗ để khi xay lúa mà cho lúa vào và làm thêm 2 tay để gắn cần trục xay lúa. Sau đó, làm cái chân cối và cái cần cần trục để xay lúa bằng tay. Về việc làm cối, mỗi miền đất nước khác nhau, có nơi rất cầu ky?, dùng Tre để đan vỏ cối phải đốn vào tháng chạp, bởi vì, mùa khô, Tre khô ráo nước, vừa dễ đan và có độ bền. Còn răng cối được làm bằng rễ cây dẻvà được trét một lớp đất ổ mối lên các kẽ răng, bởi vì, các Cụ ngày xưa cho rằng đất ổ mối chịu được khí hậu nóng lạnh không nứt nẻ rất tốt. Cối xay lúa chỉ để xay ra gạo lức, còn muốn có gạo trắng để ăn thì phải dùng chiếc cối giã gạo. Muốn có gạo lức sạch sau khi xay lúa xong, lại phải đem ra gió để giê lúa cho sạch vỏ lúa trước khi đem giã gạo trắng. 2.- Cối giã gạo gồm có cái cối và cái chày, thông thường thời xưa cái Cối làm bằng cây quý như Căm xe, Cà chất, Cẩm lai.... để cho nó cứng, chắc bền, quết (giã) lâu ngày không ra dăm, có hình trụ, sau thập niên 60 - 70 Cối không làm bằng cây nữa, mả được thay thế Cối bằng đá, bởi cây quý càng ngày khó tìm chăng ? còn cái chày thường làm 2 cái bằng cây tạp như : Sao, Dầu, Mù U...dài khoảng từ 1 thước 2 đến 1 thước rưỡi (1,5m), để hai người cùng giã cho mau trắng gạo, vào dịp năm hết Tết đến, thường dùng cái cối này để quết Bánh Phòng (xin xem bài Phong Tục Tết trích quyển Tìm Hiểu Đời Sống An Lạc từ trang 590 đến trang 616 của Tiểu Đệ Nguyễn Phú Thứ). Cối chày giã gạo Gạo tấm chimvie3.free.fr/43/NPT_cacnongcuvangbong/Image775.jpgBà đang sàng gạo Các cái Sàng Sau khi giã gạo xong, còn phải dùng cái sàng để sàng lọc Cám và gạo tấm ra. Cám để cho heo ăn, còn gạo tấm để nấu cơm tấm sau này. Cối xay bột 3.- Cối xay bột : Sau khi dùng Cối giã gạo để có gạo trắng nấu cơm ăn mỗi ngày, giống như người Pháp ăn bánh mì vậy. Nhưng muốn có bột dể làm bánh, thì phải dùng gạo ngâm nước trước một đêm trước khi xay ra bột. Cối xay bột, làm bằng khối đá, rồi đẽo thành hai thớt trên và dưới như hình kế bên đây. Ngày xưa, nhứt là trong dịp cận Tết, thông thường, quý bà con đồng hương dùngCối xay bột để xay ra bột, rồi làm các loại bánh, đặc biệt còn mang bột đến lò để tráng các bánh tráng như :bánh tráng mỏng đểlàm bánh cuốn, chả giò, bánh tráng mỏng ngọt để ăn sống,bánh tráng dày để nướng. Ngoài ra, quý bà trong khi tráng bánh, còn mang theo nhưn đậu xanh, dừa nạo mới rán vỏ... rồilấy bánh tráng ngọt mõng làm da bánh ướt ăn rất ngon. Đó là, thời kỳ xa xưa, Cối xay bột ngày nay không còn dùng nữa, vì bột đã được bày bán khắp nơi rất tiện dụng. 4.- Dụng cụ bắt Cá, lươn : Trở lại mùa nước nổi từ tháng bảy đến tháng tám là mùa đông ken để cấy lúa, các loại cá cũng thi nhau lên đồng tìm chổ đẻ và đến mùa lúa chín vàng đồng , nước bắt đầu rút cạn, thì cá cũng bắt đầu trở ra sông rach, cho nên nhà nông bắt cá quanh năm và thường dùng dụng cụ để bắt cá, xin trích dẫn trang 586 quyển 4000 Từ Ngữ Thực Hành 2 viết 4 ngôn ngữ : Anh Pháp Việt và Hoa (Đức) Ngữ của Nguyễn Phú Thứ có nêu lên các dụng cụ nhà nông đã vang danh một thời dưới đây : Cái bung Cái đụt Cái giỏ Cái rộng cá Cái đăng Cái nôm Nôm bắt cá Cái đó Cái lờ Cái trúm đặt bắt lươn (Nếu cần tìm hiểu thêm phương cách Soi cá, Câu cá, Nhấp cá, Cấm câu, Giăng câu, Bủa lưới cá, Đặt lờ bắt cá Sặt, Đặt trúm bắt lươn, bắt chuột.... xin mời tìm đọc các bài viết của nhà văn Lê Cần Thơ, chủ bút tạp chi Văn Hóa Việt Nam, phát hành Houston, Texas, Hoa Kỳ, đặc biệt bài viết của Anh Kể Chuyện Bắt Cá Miệt Vườn Trên Sông Nước Quê Tôi, đã đăng trên đặc san Phù Sa Cửu Long Xuân Kỷ Sửu 2009 từ trang 93 đến trang 102, rất giá trị, trân trọng giới thiệu đến thế hệ trẻ nghiên cứu sưu tầm làm tài liệu khi cần). Nếu chúng ta nhìn ngược thời gian trên dưới 50 năm, đời sống của chúng ta ở nông thôn VN, mặc dù với nông cụ thô sơ miệt vườn, không được văn minh máy móc tối tân như bây giờ, nhưng có đời sống thoải mái, bởi ngoài đồng có ruộng lúa, có cá tôm, chim, chuột rất nhiều, sau vườn có cây trái và có sông nước trong lành, không bị nhiểm trùng như hiện nay, làm cho sức khỏe con người bị bịnh đe dọa, bởi hóa chất và kỷ nghệ máy móc tạo nên. Hơn nữa, ngày nay dân số đã tăng trên 85 triệu người, trong khi các loại cá tôm sanh nở không đáp ứng lại nhu cầu đòi hỏi, cho nên không còn cảnh rải Cám ran thơm trên đất sình khi nước cạn rồi chờ các lũ Cá Mè Dinh theo nước lớn lên ăn mồi, để Chài vài mẻ bắt Cá Mè Dinh, như thời thân phụ tôi đã chài xa xưa, bởi vì, bị nguồn nước không được trong sạch do các chất thải độc hại ô nhiểm của các nhà máy, ngoài ra, do sự đánh bắt quá nhiều mà không biết bảo dưỡng các loại cá tôm cá, ví như rà điện.... làm tiêu hao những trứng và cá con, đôi khi không còn thấy xuất hiện những con cá quen thuộc như cá : Trê vàng, Lăng, Phèn, Rô đồng (chỉ thấy Cá Rô Phi).... Để tạm kết thúc bài này, xin góp phần mọn cho những ai muốn tìm hiểu các Nông Cụ Vang Bóng Một Thời, đồng thời rất mong những vị đã từng sanh sống ở nông thôn hiểu biết, xin cho biết thêm để bổ túc bài này đầy đủ hơn. Trân trọng Cảm Ơn trước. Tiểu Đệ
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 19, 2011 3:20:21 GMT 9
Hoàng Tiểu Ca Mắm, món ăn khó quên Ngày còn nhỏ tôi đọc tác phẩm "Rừng Mắm" của nhà văn Bình Nguyên Lộc mà tôi cứ ngỡ ông muốn ít nhiều nói về những món mắm miền Nam ê hề. Nhưng thật sự không phải vậy. Truyện nói về cây mắm mọc lên hằng hà sa số. Nó tạo ra sự tích nối tiếp về sau qua câu chuyện trao đổi giữa hai ông cháu như sau: "Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được. Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp: - Ông với lại tía của con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau. Đời cây mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu của họ hưởng... Ông nội vui vẻ quá, vì ông bỗng sực nhớ lại những câu hò của thế hệ người tiên phuông đi khai thác đất hoang ở miền Nam, mà ngày nay thế hệ tràm không hát nữa. Ông cất giọng khàn khàn lên: Hò... ơ... Rồng chầu ngoài Huế, Ngựa tế Đồng Nai Nước sông trong sao cứ chảy hoài, Thương người xa xứ lạc loài đến đây." (Bình Nguyên Lộc) Tuy vậy, bài văn có nhắc đến món ba khía và bồn bồn. Bồn bồn ở miệt Cà Mau rất nhiều, người ta duuu`ng làm dưa, gọi là dưa bồn bồn. Còn ba khía và còng được làm mắm. Trong tinh thần văn chương ẩm thực về các món mắm, những đặc thù của vùng đất miền Nam, bài viết sẽ lạm bàn về mắm, và dỉ nhiên trong tầm hồn yêu mắm. Theo nhà văn Sơn Nam thì ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều loại mắm: mắm cá lóc, cá rô đồng, cá trê vàng ở miệt rừng U Minh, Cà Mau, mắm Thái Châu Ðốc, tôm chua Gò Công... Ta có thể kê khai những thổ sản đặc sắc của miền Nam như Mắm còng, mắm tôm chà, ba khía,... Hãy nói về ba khía đi nhé. Ba khía: Ba khía là loại sinh vật sống ở bến bãi, sông rạch trong rừng ngập mặn, hình dạng giống con cua; lớn hơn con còng, trên cái yếm màu nâu sẫm của nó có ba cái khía, tức 3 gạch nên người ta cho nó cái tên cúng cơm là ba khía. Từ miệt Sóc Trăng về Bạc Liêu xuống tận mũi Cà Mau, men theo những cánh rừng mắm đen mọc giáp biển là những vùng có lắm ba khía. Từ tháng tám trở đi, lúc mùa màng đã xong, người quê lại rủ nhau chèo ghe đi bắt ba khía. Người bắt ba khía phải canh theo con nước, lúc nước lớn, ba khía bám đầy thân cây mắm, như Bình Nguyên Lộc đã đề cập ở trên. Vào khoảng tháng mười là mùa ba khía sinh sản nhiều vô số kể. Đi bắt ba khía rất vui vì phải đi ban đêm, bởi vào tối khuya ba khía di chuyển chậm chạp, mình thò tay là chộp dính ngay vài chú thiếm ba khía. Mỗi bận đi bắt như vậy ghe trở về với những khạp đầy ba khía. Người biết rành về còng và ba khía thì tháng năm hàng năm thì ba khía cái có trứng đeo đầy sau yếm, các thiếm ba khía mập mạp, đô con va chắc thịt. Ba khía mang về đem ngâm nước, rửa thật sạch đất bùn. Sau đó mới gỡ bỏ mai, bẻ đôi thân ba khía, cả càng, gọng cũng bẻ rời, đem trộn tất cả vào gia vị như tỏi, ớt, đường, chanh hoặc dùng khóm bằm nhuyễn, xong ngâm hổn hợp một buổi cho ba khía thật thấm. Khi vị ba khía được đầy đủ độ mặn, chua, ngọt thì ba khía sẽ ngon và dịu khi ta thưởng thức. Cách ăn ba khía là tách yếm làm đôi rồi bẻ nhỏ ngoe, càng ba khía ra để chiêm ngưỡng gạch son, rưới lên cơm phần nước đã có trong yếm trộn chung. Vắt thêm ít chanh tươi trước khi ăn, mà ăn ba khía phải ăn với cơm nguội mới đúng điệu đồng quê, và đừng quên nhai thêm vài trái ớt hiểm, vài tép tỏi, vài lát gừng sống vừa nhai cho âm ấm bụng - huhu... để mắt nhòa lệ vì nồng độ cay cay dâng tràn bờ mi quyện vào mùi thơm nhớ đời ba khía. Mắm còng: Bàn về món mắm còng, theo Giáo sư Trần Văn Chi viết trong bài "Hương vị Miền Nam: Mắm Còng", đất rẫy là đất vào mùa khô bị ngập mặn bởi nước biển tràn vào, chỉ làm ruộng hay trồng trọt được vào mùa mưa, như vùng ven biển Gò Công, Bến Tre. Con còng ở Gò Công kêu là “còng quều”, thuộc loại cua, rạm, ba khía, cua đồng... Còng nhỏ hơn cua biển, cỡ ngón tay cái người lớn, có màu tìm sậm... Còng ở Gò Công thì nhiều vô kể. Trời bắt đầu “mưa già” một chút thì còng không biết ở đâu xuất hiện ở ruộng rẫy nhiều vô số, thấy phát sợ... Nhiều người Gò Công nghe nói tới mắm còng là phải chảy nước miếng! Và cũng không ít dân Gò Công chưa ăn món mắm còng, hoặc chưa biết, chưa nghe tên món mắm còng, dầu đó là món ngon độc đáo, đã nổi tiếng là “món ngon tiến cung, với tên gọi gắn liền với địa danh Gò Công. Con còng lột đem làm mắm gọi là mắm còng, chỉ có ở Gò Công và Bến Tre và đã từ lâu món nầy được lưu truyền trong dân chúng, được liệt kê vào bản món ngon quý hiếm từ thời bà Từ Dũ. Cứ vào mùa Tết Ðoan Ngọ thì con còng bắt đầu bỏ lớp vỏ cứng, lột xác thành con còng lột. Mỗi năm chỉ có một lần, vào đúng ngày mùng 5 tháng 5 Âm Lịch, còng lột rộ, người địa phương gọi là ngày hội còng lột. Còng sau khi được rửa đi rửa lại bằng nước sạch; phải chích bỏ yếm, bỏ miệng và mắt, lấy cho hết “bọng cứt”... nghĩa là các chất dơ trong bụng còng, thì con mắm mới ngọt, nước mắm mới trong. Nhớ phải cho còng “uống rượu”, nghĩa là ngâm với rượu đế, khử mùi tanh. Vớt còng ra, để cho ráo rồi nhẹ tay, mẹ tôi sắp từng con còng vào hũ thật đầy và gài chặt bằng lớp lá vông và mấy que ổi.... Mắm cuối cùng được chan bằng nước mắm ngon nấu với đường, để nguội. Trời Tháng Năm nắng gắt, phơi độ trên mươi ngày là hũ mắm bắt đầu nghe mùi thơm, có thể ăn được rồi... Mở nắp hũ nghe mùi thơm độc đáo không thể tả, nhìn lớp bọt li ti nổi trên mặt, màu nước mắm trong veo, màu con mắm còng tím sậm... bạn sẽ biết được hũ mắm ngon cỡ nào. Trúc hũ mắm ra thau, trộn thêm phu gia như tỏi, ớt, đường và khóm bằm nhuyễn. Khóm là chất xúc tác giúp cho gia vị thấm vào con mắm và làm cho mắm còng mặn mà dịu và ngon như ý. Nhớ mắm trộn xong gia vị phải để “cách nhựt”, ngày hôm sau, mắm mới thấm, và ăn mới ngon. Theo Giáo sư Xuân Tước kể về Đặc Sản Quê nhà, ông đề cập về món mắm còng như sau: Người ở vùng sông Cửu Long thường hát: "Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn còng, Về sông ăn cá, về giồng ăn dưa." Rẫy là một vùng đất miền nước mặn. Ở các vùng Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, người ta thường làm rẫy, trồng nhiều loại rau cải, thơm khóm, và cũng là vùng sinh sống lý tưởng cho các loại còng... Mắm Còng món ăn thượng hảo hạng của xứ Gò Công. Gò Công là một vùng đất nằm theo vùng biển và miệt sông Cửa Tiểu. Xứ Gò Công rất nổi danh vì đây là vùng quê cha của đại thần nhà Nguyễn là ông Phạm Đăng Hưng. Nhà họ Phạm gã con gái cho vua Thiệu Trị về sau này là Thái Hậu Từ Dũ, mẹ của vua Tự Đức. Vì ở gần biển nên các vùng đất Gò Công là nơi sinh sống của nhiều loại còng. Nhưng đáng giá nhất là còng đỏ. Loại còng này thân đỏ, chân và càng cũng màu đỏ ửng xanh. Chúng lớn bằng chừng chân cái của chúng ta và là nguồn sản xuất mắm còng, một loại mắm đặc sản của các vùng biển và rất hiếm có. Không phải nơi nào cũng có thể làm mắm còng. Hai nơi quan trọng là vùng biển Gò Công và Bến Tre, nhưng Gò Công có nhiều còng đỏ hơn Bến Tre. Không phải mùa nào cũng có thể làm mắm còng. Thấy còng nằm đỏ bãi sông, nhưng không ai bắt còng chắc mà làm mắm, chỉ bắt còng lột mà thôi. Và mỗi năm còng chỉ lột có một lần vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch. Đến ngày này, người dân Gò Công đi bắt còng lột. Mà là những trũng nước nhỏ để còng vùi mình xuống đó mà lột. Người ta quậy nước muối sẵn, rồi chống xuồng theo bờ sông, bờ lạch, nhìn chỗ nào có còng là ghé lại, bắt một con còng mềm nằm dưới. Còng lột được bỏ vào nước muối có pha đường để ngâm. Khi còng đã thấm mặn thì người ta đem phơi nắng. Thường có hai cách để làm mắm còng: -Còng lột được rửa sạch, đong 10 chén còng thêm 1 chén tỏi ớt. Cho vào cối quết cho dập, sau đó nhận vào hũ, trộn thêm rượu để cho hết mùi khai nồng. Đem phơi chừng 3 ngày cho được nắng, rồi lấy nước cốt còng đem phơi cho quánh lại thì dùng được. Lúc dọn ra ăn thì trộn còng với chanh, khóm, đường, tỏi, ớt. -Còng lột được rửa sạch để cho ráo nước, trụng với nước sôi nếu muốn khử trùng, đong hai chén còng, một củ tỏi, mười trái ớt. Tất cả trộn chung rồi cho vào hũ, đem phơi nắng cho thấm đều. Muốn ăn, nêm chanh, khóm, đường, tỏi ớt. Từ miền quê Gò Công, Bến Tre đến các vùng chợ, mắm còng được mọi người ái mộ. Ở đâu muốn ăn mắm còng cho ngon, cũng phải trộn với thịt ba rọi hay thịt nướng và ăn với nhiều rau sống, như: húng cây, húng lũi, tía tô, kinh giới, dấp cá, quế, gừng và ớt. Mắm còng mà ăn với bún thì ngon tuyệt. Ở vùng quê hay các vùng chợ thuộc miền Nam Việt Nam, mắm còng còn có hương vị đậm đà của quê hương. Màu bún trắng, mắm còng màu thâm, tía tô màu tím, rau húng màu xanh.. trộn với một chút mắm còng thơm phức, người ta thưởng thức được hương vị đậm đà của quê hương. Mắm tôm chà: Nghề làm mắm tôm chà xuất hiện từ đầu thế kỷ 19. Lúc sinh thời, bà hoàng Từ Dũ cùng gia đình đã chế biến và giới thiệu món này cho triều đình nhà Nguyễn. Bà Từ Dũ nhủ danh Phạm Thị Hằng - con gái của Quốc sử quán Tổng tài Phạm Đăng Hưng được tiến cung năm 1824 và sau đó đã trở thành đức Thái hậu Từ Dũ, vợ của vua Thiệu Trị, mẹ của vua Tự Đức. Do hương vị đặc trưng từ Gò Công của Hòang thái hậu mà được triều đình Huế thường dùng để tiếp đãi khách trong các buổi yến tiệc, những dịp lễ lạc. Món mắm tôm chà đã chào đời vào khoảng 200 năm. Mắm tôm chà khi biến chế người ta dùng tôm đất hay tôm bạc thẻ ở sông, hay có thể thế bằng tôm sú (tôm vùng biển) miễn còn tươi, nếu còn sống càng tốt, cho vào thau ngâm với rượu đế khử mùi tanh chừng 5, 7 phút. Sau đó vớt ra để ráo rồi bỏ vào máy xay thật nhuyễn, sau đó đem chà trên ray có lỗ thật nhỏ để chắc lấy nước, phần vỏ và thịt được bỏ đi. Nước tinh chất của tôm được đệm thêm vào đường, muối, ớt bột, tỏi rồi đem phơi ít nhất một tuần dưới ánh nắng để cho sản phẩm đặc kẹo lại mới dùng được. Thông thường thì cứ ba ký tôm mới làm ra được 1 ký mắm tôm chà mịn màng thơm dịu. Mắm tôm chà có thể dùng nguyên chất hoặc có thể pha thêm tỏi, ớt băm nhuyễn, đường, chanh tùy khẩu vị và được dùng với bún, thịt luộc, rau sống, khế, dưa leo, chuối chát, xoài sống thái lát. Khi ăn quệt thịt, soài lát vào hổn hợp mắm tôm cùng bún và rau. Trong Thú ăn chơi Tản Đà tiên sinh đã viết: "Tôi có qua chơi vùng nhà quê Long Xuyên, cùng ăn bữa cơm nhà một ông Chánh tổng, nhiều thứ mắm thiệt ngon". Do vậy, xin kể ra vài loại mắm đặc trưng nữa: *Mắm cá linh: Cá linh còn có thể làm mắm. Cá làm sạch, cho vào hũ ướp muối, ba ngày sau dùng vỉ tre gài chặt xuống. Một tháng sau, vớt ra trộn thính vào rồi cho vào hũ gài chặt như trước. Một tháng sau, lại vớt ra cho đường vào , rồi đổ vào hũ gài chặt lại. Thêm một tháng nữa là mắm có thể dùng được. Mắm cá linh có thể ăn vơi bún hoặc cơm, hay làm mắm kho với cá, tôm, thịt ba rọi thái mỏng và cà tím. * Mắm cá trèn: Mắm cá trèn được xem ngon hơn mắm cá linh. Mắm cá trèn ăn vơi bún, thịt ba rọi luộc và rau sống. * Mắm thái: Mắm thái được làm bởi cá lóc loại to, thịt nhiều được thái filet. Cá được ngâm muối. Mắm ngon thông thường là mắm có mùi thơm dịu, thịt ửng hồng không cứng quá cũng không mềm nhũng. Trung bình mất khoảng 6 tháng đến 1 năm. Sau đó mắm được chao đường, chọn đường thốt nốt thắng cho có chỉ rồi thêm gia vị là lúc màu sắc, hương vị được định độ ngon của con mắm. Dùng mắm lóc filet bỏ da, tách xương, thái thành sợi, màu thính phải tươi, hạt thính nhuyễn, đường thắng kẹo sệt có màu vàng đỏ. Đu đủ trộn với mắm phải là đu đủ mới, còn xanh, bỏ vỏ và hột, bào thành sợi mỏng, muối mặn để khoảng 10 ngày cho hết mùi, xả sạch. Tỷ lệ thịt và đu đủ 50/50, sao cho sợi mắm không bị nhão, có vị bùi của mắm, vị ngọt, dòn của đu đủ. * Mắm ruột: Mắm ruột là mắm được làm từ ruột cá lóc. Cá được chọn để chế biến món mắm phải là loại cá lóc to, ngon nhất là loại cá lóc có trứng mang sắc vàng ươm. Cá được làm sạch phần bao tử và ruột non của cá. Sau khi làm sạch ruột cá xong, ruột cá được rửa sạch, ngâm nước muối. Cách pha nước muối cũng là một kỹ thuật, vì sau khi pha độ 2 – 3 ngày, ruột cá phải thấm mặn đến tận bên trong để mắm mới không bị hư. Sau đó vớt ruột cá ra để cho thật ráo nước và đem trộn với thính, rồi cho vào hủ ém thật chặt. Kế đến chế nước mắm nhỉ lên trên mặt, phải là nước mắm nhỉ mới cho hương thơm đậm đà. Người ta thường ướp ruột cá và nước mắm trong vòng một tháng, sau đó đem chao với đường thốt nốt được thắng vàng, đến khi nguội thì hương vị của món mắm ruột tỏa ra rất thơm. Để có hủ mắm thật ngon, trung bình phải mất 4 tháng. Nguyên liệu dùng để ăn kèm là xà lách, húng cay, khế, chuối chát, ớt sừng trâu, đu đủ và củ riềng thái sợi nhỏ, thịt ba rọi luột thái mỏng, bánh tráng, bún và sau cùng là một chén nước mắm chua chua ngọt ngọt thật cay. Mắm ruột cũng như mắm lóc thái ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng tùy sở thích. * Mắm xé: Mắm xé ngon nhất là mắm cá sặt, mắm cá lóc... Ngày xưa khi tôi được dịp ghé thăm các tỉnh miền tây, bà conn hay ba`nn bè mời ăn món bình dân nhưng độc dáo này. Bên cạnh dĩa mắm xé có đĩa rau sống, dưa mleo, xoài bằm, dứa, mít non, khế, chuối lát cắt lát... đừng quên ớt hiểm thật cay vị giác. Khi ăn vào hổn hợp của vị chua, chát, ngọt, cay thấm vào làm dịu mắm cá. * Mắm kho: Mắm cá sặc hoặc mắm lóc được nấu tan trong nước dậy mùi sả băm, tỏi phi vàng. Nồi nước lèo được thêm vào thịt heo hay heo quay, cá bông lau hay cá catfish, tôm, mực, cà tím,... Vị cá mắm thấm ngấm vào cá, tôm, mực và thịt. Mắm kho ngon nhờ rau ghém như rau sống, rau đắng, bắp chuối, ngó sen, rau muống chẻ, giá, bông súng, bông so đũa, bông điên điển, soài sống,... Mắm kho ăn với cơm hoặc bún. * Lẩu mắm: lẩu mắm như món mắm kho nêu trên về cách làm. Nước lèo được đặt trên nồi lẩu để giữ độ sôi sục liên tục. Thịt, cá, tôm, mực là đồ để thực khách nhúng vào nước lèo. Lẩu mắm cần nhiều rau như các loại ở quê nhà: đọt nhút, rau dừa, bông so đũa, bông súng, bông điên điển, bắp chuối,... và đậu rồng, đậu bắp, chuối chát, khế, soài chua. Món này nên ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng * Mắm ruốc: Mắm ruốc là mắm làm từ con ruốc, một loại con tép riu, màu đỏ nâu, đặc mịn, thơm mùi mắm, mắm ruốc có nhiều ở miền trung hay Vũng Tàu. Tuy mắm ruốc trông giống mắm tôm, nhưng màu sắc và mùi vị không giống mắm tôm. Mắm ruốc không tanh bằng mắm tôm, có thể pha thêm nước, chanh, đường tỏi ớt khi làm nước chấm và có thể dùng làm gia vị xào hay nấu, như mắm ruốc xào thịt ba rọi với sả ớt. oOo Trong suốt bài này, mắm được trình bày như món ăn truyền thống đặc sắc của người miền Nam. Vì các loại mắm được trích dẫn hay bàn luận xuất phát từ miền đồng bằng sông Cửu Long. Thức ăn hay ẩm thực là một khía cạnh của văn hóa. Như vậy mắm là một di sản văn hóa dân tộc vậy, nó phản ảnh từ nơi xuất phát rồi lan đi khắp năm châu, cuốn theo làn sóng và cuộc sống lưu lạc của người Việt Nam ly hương ngày nay. Thật vậy, mắm là di sản quê hương. Hoàng Tiểu Ca
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 19, 2011 3:23:04 GMT 9
Tre trúc Việt Nam Nguyễn Dư Tình cờ trong lúc đi tra nghĩa một thành ngữ, tôi được đọc : Trong bài hịch kể tội Tuỳ Dượng Đế, Lý Mật có viết : Chặt hết trúc trên núi Nam Sơn, chẻ thành tre cũng chẳng đủ để ghi tội ác của Tuỳ Dượng Đế. (Điển cố văn học, Đinh Gia Khánh chủ biên, nxb Khoa Học Xã Hội, 1977, tr. 412). Lời giải thích nghe hơi lạ. " Chặt hết trúc, chẻ thành tre ", nghĩa là thân cây trúc to hơn thân cây tre à ? Thế mà từ thuở bé đến giờ tôi cứ đinh ninh là tre to hơn trúc. Hình ảnh cái mành trúc, cái chõng tre của bà nội, cái xe điếu uốn cong của bố, cái cầu ao đầu làng... Hay là mình nhớ sai ? May quá, Từ điển tiếng Việt của nhóm Hoàng Phê cho biết Trúc là tên gọi chung của nhiều loài tre nhỏ, gióng thẳng. Nghĩa là... trúc nhỏ hơn tre. Yên tâm chưa ? Dạ... chưa. Định nghĩa rõ như vậy mà còn chưa yên tâm à? Định nghĩa thì rõ nhưng thí dụ đưa ra thì hơi mù mờ. Từ điển tiếng Việt giải thích thành ngữ " Trúc chẻ ngói tan " là ví thế quân mạnh như chẻ tre, đánh đến đâu, quân đối phương tan tới đó. Trúc chẻ là... chẻ tre. Hoá ra trúc lại là tre ? Rốt cuộc, trúc là tre hay khác tre ? Là... cả hai! Thế mới... điên cái đầu ! Đầu đuôi chỉ vì : - Nếu trúc là chữ Hán thì tiếng Việt dịch là cây tre. Thí dụ : Trúc côn là cái gậy tre (Từ điển tiếng Việtcủa Văn Tân). - Nếu trúc là tiếng Việt thì trúc... hơi khác tre. Họ tre có nhiều cây, mỗi cây có một tên gọi khác nhau : trúc, bương, luồng, vầu, lồ ô, giang, mai, nứa, hóp v.v.. Trúc là một giống tre nhỏ. Trúc xinh trúc mọc đầu đình. Tre to lớn hơn trúc. Tre mọc hoang thành rừng. Tre được trồng để bao bọc, bảo vệ xóm làng. Làng tôi xanh bóng tre. Thân tre được để nguyên, dùng làm nhà, làm cầu ao...hoặc được chẻ nhỏ làm tăm, tước mỏng làm lạt... Tre và trúc khác nhau như vậy. Nhưng đôi khi cũng bị lẫn lộn. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi có câu : Quyết Đông Hải chi thuỷ, bất túc dĩ trạc kỳ ô ; Khánh Nam Sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác. Văn Tân dịch là : Tát cạn nước Đông hải, không đủ rửa vết nhơ Chặt hết trúc Nam sơn, chẳng đủ ghi tội ác Trúc Khê dịch là : Múc cạn nước Đông Hải dễ mà rửa sạch tanh nhơ Đẵn hết trúc Nam Sơn chẳng đủ biên ghi tội ác Bùi Kỷ dịch là : Độc ác thay ! trúc rừng không ghi hết tội Dơ bẩn thay ! nước bể không rửa sạch mùi Chữ trúc được cả ba người dịch dịch là... trúc. Đúng ra phải dịch là tre. Nguyễn Trãi muốn nói rằng Chặt hết tre Nam Sơn (chẻ thành thanh) cũng không đủ để ghi tội ác (của quân Minh). Trong một bài biểu dâng lên vua Gia Long, Đặng Trần Thường cũng nói : Xét tội ác (của bọn Ngô Thời Nhậm thì) chẻ hết tre cũng khó biên hết.(Đại Nam thực lục, tập 1, bản dịch của Nguyễn Ngọc Tỉnh, Giáo Dục, 2002, tr. 547). Ngày xưa, khi chưa có giấy, người ta viết lên tre. Những thanh tre chép sử, có lớp vỏ màu xanh, được gọi là thanh sử. Thanh sử dịch sang tiếng Việt là sử xanh. Nghìn thu gặp hội thăng bình Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời Lan đài dừng bút thảnh thơi Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh... (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, Đại Nam quốc sử diễn ca) Ngày nay lịch sử được viết bằng giấy trắng mực đen, được gọi là trang sử. Chỉ có mấy ông hoài cổ, ưa màu mè, mới phóng bút viết những trang sử xanh (rờn). Thân trúc (tiếng Việt) vốn nhỏ, người Việt không chẻ trúc để làm gì cả. Chỉ có văn học mới lôi trúc (chữ Hán) ra chẻ. Bản dịch Bình Ngô đại cáo có câu : Trận Bồ Đằng như sấm vang chớp giật, Trận Trà Lân như trúc chẻ tro bay. Thơ Nôm cũng có những câu tương tự : Nhân cơ phá trúc đuổi dài Bảo Hà mở luỹ, Hồng Mai trú đồn (Đại Nam quốc sử diễn ca) Thừa cơ trúc chẻ ngói tan Binh uy từ ấy sấm ran ra ngoài (Kiều) " Trúc chẻ " chữ Hán là " phá trúc ". " Phá trúc " dịch hết sang tiếng Việt là " chẻ tre ". " Trúc chẻ ngói tan " chỉ thế quân mạnh, đánh đâu được đấy. Dễ như chẻ tre, tháo ngói. Chẻ tre, chẻ được một mắt thì các mắt khác tự tách ra. Tháo ngói, tháo được một hòn thì cả mảng sụt theo (Đào Duy Anh, Từ điển truyện Kiều). Đào Duy Anh gián tiếp đồng ý rằng " trúc chẻ " nghĩa là " chẻ tre ". Tại sao trong thơ văn xưa của ta, chữ tre không được dùng, chữ trúc không được dịch ? Chỉ vì niêm luật, thanh điệu của thơ văn. Tre (thanh bằng) không thay thế cho trúc (thanh trắc) được. Rốt cuộc các tác giả, dịch giả đã chọn cái hay (nhưng tối nghĩa) thay cho cái đúng (nhưng nằm ngoài vòng luật lệ). Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Miệng ăn măng trúc, măng mai Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng (Trấn thủ lưu đồn, Ca dao) Măng mai to bằng bắp chân ăn còn bữa đói bữa no, huống hồ măng trúc nhỏ như ngón tay. Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể sai người ở đi tìm măng trúc về... nhắm rượu, nhưng anh lính thú " ngày thì canh điếm tối dồn việc quan " kia thì nhất định không mất thì giờ đi kiếm măng trúc về... nhâm nhi, ăn chơi. Oằn oại đôi vai quân tử trúc Long lay một cổ trượng phu tòng (Nguyễn Hữu Huân, Khi bị đóng gông) Gông mà làm bằng trúc thì chỉ có gông hàng mã cho trẻ con bẻ chơi. Luật bằng trắc đã loại chữ tre, dùng chữ trúc (Hán). Tuy nhiên, đôi khi chữ trúc cũng được niêm luật cho phép dịch là tre. Tú hoa dã trúc tam xuân hảo Tinh nguyệt minh song nhất thất hư (Tre hoang, hoa đẹp, ba xuân tốt, Cửa sáng, trăng trong, nhà trống trơ). (Nguyễn Bỉnh Khiêm, Xuân đán cảm tác, Đinh Gia Khánh dịch) Mặc dù bị trúc Tàu lấn át, thỉnh thoảng cây tre của ta cũng được các cụ nhà Nho đề cao. Thế à? Hoá ra bụt chùa nhà cũng thiêng sao ? Đồ đựng tăm ngày xưa được khắc câu Mỗi phạn bất vong quân tử trúc (Mỗi bữa cơm không quên cây tre quân tử). Cây tre được ví với người quân tử vì tre có " tiết cứng, lòng không " : Vị xuất thổ thời tiên hữu tiết Đáo lăng vân sứ dã vô tâm (Chưa mọc lên khỏi mặt đất đã có tiết Lên đến mây cao thì không có tâm) Có chắc là cây tre không ? Con ve kêu ỏng ảnh tiếng chầy Kìa quân tử trúc, dạ này bâng khuâng... Dân ca cũng tơ tưởng quân tử trúc kia mà ! Quân tử trúc là... quân tử Tàu. Quân tử tre là... quân tử ta. Đôi khi dân ca còn vượt cả chữ nghĩa của thánh hiền : Gió đưa bụi trúc ngã quỳ Ba năm trực tiết còn gì là xuân Tiết hạnh của nữ nhi và tiết tháo của quân tử, cái nào đáng quý hơn cái nào ? Trở lại chuyện cơm nước hàng ngày. Mỗi bữa cơm không quên cây tre quân tử. Người ta có thể ba ngày, ba tháng không đọc sách, nhưng mấy ai có thể khoanh tay...chịu mắc răng nửa ngày ? Câu nói vừa có nghĩa đen là ăn cơm xong phải nhớ lấy tăm (tre) xỉa răng, vừa có ý nhắc nhở mọi người phải tu thân để trở thành người quân tử. Dạ, dạ, quân tử dễ thương lắm. Chả thế mà chị Xuân Hương đã nhiều lần thủ thỉ : Quân tử có yêu thì đóng cọc Xin đừng mân mó nhựa ra tay (Quả mít) Quân tử có thương thì bóc yếm Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi (Ốc nhồi) Bọn em chỉ mơ được : Một đêm quân tử nằm kề Còn hơn thằng nhắng vỗ về quanh năm Oan cho nhà Nho đến thế là cùng. Nhà Nho khuyên mọi người sống như quân tử chứ không phải khuyến khích các em... chơi trèo với quân tử như vậy đâu. Người ta, kẻ thì mong được " một phút huy hoàng ", kẻ thì lỡ dại được " một giờ ", thế mà mấy em đòi những... " một đêm"! Quân tử như gió, tiểu nhân như cỏ... Mưa gió suốt đêm, coi chừng có ngày sập nhà, gãy giường đấy. Nghĩ mà bực mình giùm cho thằng nhắng Việt Nam. Dớ da dớ dẩn, rờ rẫm ra sao để đến nỗi xôi hỏng bỏng không, bị chê sát ván như vậy ? Nó phải sống ở bên Tây thì mới đúng đất dụng võ. Tha hồ trổ tài vỗ về các bà. Huy chương vàng nịnh đầm (galant) đút túi là cái chắc ! Ta có thành ngữ Tre già măng mọc để nói thế hệ trẻ nối tiếp thế hệ cha ông. Ngày xưa còn có thành ngữ Tre còn măng mất (Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên), và Tre già khóc măng (Génibrel) để chỉ hoàn cảnh con cái chết trước cha mẹ. Mới ngày nào... Tre được dựng thành hàng rào dày đặc để phòng giữ các bản làng miền núi, để bảo vệ các ấp chiến lược xa xôi hẻo lánh. Tre được vót nhọn, cắm tua tủa dưới hầm chông. Qua rồi, cái thời chinh chiến... Mẹ nhìn lên cao trong vắt trăng sao Đầu làng tre xanh vui đón xôn xao Mẹ nhìn tay con không súng không dao Nụ cười trên môi Ôi trái tim người... (Phạm Thế Mỹ, Giấc mơ của mẹ) Bụi tre, khóm trúc lại trở thành chứng nhân của hò hẹn, yêu đương... Anh nhớ xót xa, dưới tre là ngà Gợn buồn nhìn anh, em nói mến anh Mây lướt thướt trôi, khi nắng vương đồi Nhớ em dịu hiền, nắng chiều ngừng trôi. (Lê Trọng Nguyễn, Nắng chiều) ... của nhớ thương, hờn trách Công anh đắp nấm trồng chanh Chẳng được ăn quả vin cành cho cam ... Chắc về đâu đã hẳn hơn đâu, Cầu tre vững dịp hơn cầu thượng gia Cầu thượng gia tức là cầu " thượng gia hạ trì " (trên là nhà, dưới là ao). Có nơi gọi là " cầu ngói " (Thanh Toàn), " cầu Nhật Bản " (Hội An). Chàng trai trách người yêu tham giàu phụ nghèo. Em ơi, cầu thượng gia kia nhìn bề ngoài thì sang trọng, to lớn nhưng chắc gì đã vững bền hơn chiếc cầu tre đơn sơ, mộc mạc này? Thuở thanh bình, tre trúc reo vui... Vườn nhà chúng tôi tre mọc um tùm. Lúc mới dọn về, vườn chỉ có một khóm tre thưa. Vợ chồng hăm hở đánh vài gốc, cắm trồng mấy góc vườn. Hàng xóm đỡ dòm sang nhà mình . Không ngờ, mấy năm sau chỗ nào cũng đầy tre. Chặt rồi lại mọc. Tre mọc kín hàng rào. Tre chui dưới tường, đâm ra ngoài đường. Tre bò sang hàng xóm. Tre nâng cả gạch lát sân. Rễ tre sắp lan đến bếp, sắp đụng phòng khách. Người bạn Pháp ngạc nhiên : - Ồ ! Tre biết lách, biết luồn tránh chướng ngại. Nhiều đốt cụt ngủn, hình thù xiên xẹo. - Một vài cây bị biến tướng. Có lẽ tại thuỷ thổ. - Bên Pháp không có tăm tre, người Việt xoay xở ra sao ? - Không có tăm tre thì có tăm quẹt, tăm gỗ, tăm nhựa. Tăm nào chả được, miễn sao sạch sẽ, được việc. Nguyễn Dư (Lyon, 6/2006)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 19, 2011 3:49:21 GMT 9
Đèn Hoa Kỳ của Việt Nam! ___________
Nguyễn Dư Ngày nay, hầu như khắp nước Việt Nam chỗ nào cũng dùng đèn điện. Nhớ lại, mới ngày nào... - Chờ độ năm phút, Dung cũng ngồi dậy. Nàng sang phòng khách. Một tên người nhà ủ rũ ngồi ngủ gật trên một cái ghế tràng kỷ, dưới một ngọn đèn măng sông đã tối một nửa búp đa, vì cạn dầu. Qua phòng khách, Dung đẩy cửa vào buồng mẹ thì thấy mẹ đã ngủ kỹ. Nàng khêu nhỏ ngọn đèn dầu ở bàn rồi rón rén quay ra. Dung tìm bao diêm ở ô kéo, đốt một cây đèn hoa kỳ lên, tắt phụt ngọn lửa ở đèn dầu xăng. Nhìn ra sân, thấy trời tối om, Dung bèn bỏ bao diêm vào túi (...). (Vỡ đê (1936), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 2, Văn Học, 1987, tr. 198). Vũ Trọng Phụng kể tên nhiều kiểu đèn của những năm 1930. Đèn măng sông (manchon) thì rõ ràng là đèn của Pháp. Nhờ cái tên gọi. Còn đèn hoa kỳ? Hoa Kỳ... là Mỹ, vậy đèn Hoa Kỳ là đèn của Mỹ sao? - Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê định nghĩa Đèn hoa kì là đèn dầu hoả nhỏ, có bấc tròn. Không cho biết lí lịch đèn hoa kỳ. Nó là con cái nhà ai, ở đâu chui ra mà lại mang cái tên như vậy? - Đèn Hoa Kỳ là đèn của bọn Mỹ sang ta buôn dầu hoả. Muốn bán được dầu hoả, nó phải làm đèn cho người mua dầu dùng (...). Dầu của Mỹ, viết tắt là Socony (Standard oil Company of New York), cạnh tranh với dầu của Anh viết tắt là Shell. Bất cứ ở thành thị hay nông thôn, hễ có đại lý dầu Mỹ, là ở gần đó, có ngay đại lý dầu Anh. Và trái lại. Nhà bán dầu Mỹ có biển sơn màu vàng, nhà bán dầu Anh có biển sơn màu đỏ. Những nơi bán dầu xăng ô tô, Anh Mỹ cũng cạnh tranh như vậy. Ở Hà Nội, còn có xe dầu đi bán ở phố, cũng sơn màu của hãng... Trụ sở của Ủy ban Khoa học Kỹ thuật ở phố Trần Hưng Đạo, số 39, là trụ sở cũ của hãng dầu Shell của Anh, nên quét vôi màu đỏ. Ngày trước ta gọi là nhà dầu Shell (...). (Nguyễn Công Hoan, Nhớ và ghi về Hà Nội, Trẻ, 2004, tr.149). Nguyễn Công Hoan khẳng định đèn Hoa Kỳ là đèn của Mỹ ! Lạ nhỉ ! Cho đến năm 1954, mấy ông trưởng giả của Hà Nội hết mời nhau thuốc lá Mỹ, rượu Mỹ, lại quay ra khoe nhau bút máy Mỹ, đồng hồ Mỹ. Một vài đại gia vung tay " tiêu tiền như Mỹ ", dám tậu cả ô tô Mỹ uống xăng như uống nước lã. Cái gì cũng Mỹ, nhưng đến cái đèn thì lại là Hoa Kỳ ! Kị huý hay là có hiểu lầm ? Ý kiến của Nguyễn Công Hoan cần được xét lại. - Cuối thế kỷ XIX người Tây đem dầu lửa, cũng gọi dầu hôi, vào dùng và bán (...). Hãng bán dầu đã chế ra thứ đèn nhỏ, ngọn lửa vừa bằng ngọn đèn dầu chay, đèn được cho không kèm theo mỗi thùng dầu bán ra, để làm quảng cáo ; không rõ lúc ấy dầu lửa từ xứ nào nhập cảng, mà cái đèn kia được gọi là đèn Hoa-kỳ ; ngày nay tại nhiều nhà nó vẫn là bạn cố tri bên cạnh cái điếu thuốc lào. (Nhất Thanh, Đất lề quê thói, 1968, Đại Nam tái bản, tr.258). Nhất Thanh cho biết thêm là đèn Hoa Kỳ có từ cuối thế kỉ 19. Người Tây tặng đèn cho khách mua dầu lửa. Nhất Thanh thắc mắc về cái tên Hoa Kỳ. Thắc mắc là phải. Thông thường thì các mặt hàng của Mỹ đều được khoe là made in USA nhưng tại sao cái đèn Hoa Kỳ lại không thấy khoe quê quán của mình ? Thế mới có chuyện để tán gẫu. Xin phép các cụ... Trẻ con đi chỗ khác chơi, để người lớn bàn chuyện đất đai, khủng hoảng kinh tế. Dạ, xin phép các cụ cho... bênh vực phe ta! Thế à, bênh vực phe ta thì cứ việc nói, khỏi cần phải bày vẽ xin phép. Xin bắt đầu bằng... từ đầu câu chuyện. - Tên Hoa Kỳ ta dùng để gọi nước Mỹ (USA) có từ bao giờ, do ai xướng lên ? Lục tìm trong đống sách cũ thì được biết năm 1920, Phan Châu Trinh sáng tác Giai nhân kỳ ngộ, lúc cụ sống tại Pháp (Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911/1925, Đông Nam Á, 1983, tr.254). Năm 1926, Giai nhân kỳ ngộ được in lần thứ nhất tại Hà Nội, nhưng bị tịch thu và thiêu huỷ. Năm 1959, mới được xuất bản tại Sài Gòn. Trong truyện có câu (252) : Xem trong thế-giới xưa nay, Cộng-hoà chỉ có một tay Hoa-kỳ (Phan Châu Trinh, Giai nhân kỳ ngộ, Lê Văn Siêu bình giải và chú thích, Hướng Dương, 1959, tr.25). Tên Hoa Kỳ chỉ được Phan Châu Trinh dùng một lần. Những lần khác, cụ gọi là nước Mỹ, người Mỹ, châu Mỹ. Tại Việt Nam, tên Hoa Kỳ được Tản Đà dùng trong bài Thú ăn chơi : Mán sừng cái bánh chưng xanh Hoa Kỳ tiệc bánh Tin lành nhớ ai Tản Đà chú : Ngày tôi làm việc báo Hữu Thanh có đến thăm một ông mục sư người Hoa Kỳ ở nhà Tin lành. Chủ nhân thết ăn bánh, toàn là thứ bánh Hoa Kỳ cũng long trọng. Báo Hữu Thanh chỉ sống được vài tháng, năm 1920 (Xuân Diệu), hoặc 1921 (Nguyễn Công Hoan) hay 1924 ( Dương Quảng Hàm). Đào Duy Anh (1931) gọi nước Mỹ là Hoa Kỳ quốc vì quốc kỳ nước Mỹ có 48 ngôi sao như 48 cái hoa. Gustave Hue (1937) cũng giải thích Hoa kỳ là drapeau à fleurs (cờ hoa), là États-Unis. Thiều Chửu (1942) gọi nước Mỹ là Mỹ lợi kiên. Nói tóm lại, tên Hoa Kỳ được dùng tại nước ta từ khoảng năm 1920. Nhà dầu Shell tại Hà Nội, nằm tại góc phố Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền ngày nay, được xây cất vào khoảng năm 1930. (René Parenteau, Luc Champagne, Conservation des quartiers historiques en Indochine, 1997, tr. 79). Như vậy thì chuyện của Nguyễn Công Hoan kể về sự cạnh tranh bán dầu, bán xăng của Shell và Socony là chuyện xảy ra sau năm 1920. Dân ta được dùng dầu Mỹ có sớm lắm thì cũng chỉ từ sau năm 1920. Còn trước đó thì sao ? Khi chưa có nhà dầu Shell của Anh, chưa có cạnh tranh của dầu Mỹ, thậm chí chưa có cả tên Hoa Kỳ, thì nước ta đã có... đèn Hoa Kỳ chưa ? Có vài tài liệu giúp ta tìm câu trả lời. 1) Dumoutier (1850-1904) cho biết (dịch) : - Nghề làm đồ bằng sắt tây (Ferblanterie) ở An Nam phát triển mạnh từ khi bị người Pháp chiếm đóng. Tại Hà Nội có cả một phố chuyên làm nghề này. Trước kia thợ sắt tây chỉ làm chóp nón, đĩa đèn, hộp đựng thuốc phiện và vài món đồ lặt vặt khác cho dân bản xứ dùng. Bây giờ họ làm tất cả những sản phẩm của kĩ nghệ phương tây như bình nước, đèn xe, đèn xách tay, đèn nhỏ (lanterne de poche), đủ loại hộp có hình dáng, kích thước khác nhau, giá cắm nến, thùng tưới, bình đựng dầu, ống hình trụ, bồn tắm, hoa sen (...). Họ lấy sắt tây từ những vỏ bọc các thùng hàng nhập cảng của Pháp, từ những thùng dầu hoả, hộp đồ ăn (...). (G. Dumoutier, Essais sur les Tonkinois, Imprimerie d'Etrême - Orient, 1908, tr. 74-75). Dầu tây (còn gọi là dầu hoả, dầu lửa, dầu hôi) ta dùng hồi đầu thế kỉ 20 là dầu của Pháp. Dầu đựng trong thùng sắt tây, được bán trong hiệu hoặc được gánh đi bán rong ngoài phố như tấm tranh Oger (1909) Bán dầu tây minh hoạ. Cái thùng sắt tây được đóng thêm một thanh gỗ làm thùng gánh nước, hay được cắt ra làm đồ dùng, đồ chơi. (Năm 1915, Léon Busy chụp ảnh một cửa hiệu bán đồ chơi Tết trung thu tại Hà Nội (Villages et villageois au Tonkin, Conseil Général des Hauts de Seine,1986, planche 24). Đồ chơi làm bằng gỗ và sắt tây, sơn màu sặc sỡ. Nhiều và đẹp không thua gì đồ chơi ngày nay). 2) Bộ tranh Oger (1909) giới thiệu kĩ thuật của người An Nam. Tranh vẽ nhiều kiểu đèn dầu, trong đó có Đèn sắt tây. Người vẽ tranh ghi rõ là đèn được làm bằng sắt tây và được đốt (thắp) bằng dầu tây. Đèn sắt tây của năm 1909 giống đèn Hoa Kỳ của Hà Nội dùng năm 1954. Đoạn viết của Dumoutier và mấy tấm tranh Oger cho thấy thông tin của Nhất Thanh chính xác hơn thông tin của Nguyễn Công Hoan. Mặt khác, nói rằng đèn Hoa-Kỳ là đèn do Mỹ làm là vô tình gây hiểu lầm, đặt ngang hàng kĩ nghệ của Mỹ năm 1930 với thủ công của ta năm 1909! Thế mà thiên hạ cứ ca tụng nhặng xị nước Mỹ nào là làm được tàu hoả, tàu thuỷ, ô tô, máy bay, tàu ngầm, nào là xây nhà chọc trời v.v. Tuy nhiên, nếu đèn Hoa Kỳ không phải là của Mỹ thì phải giải thích tại sao cái đèn sắt tây (Dumoutier gọi là lanterne de poche, đèn nhỏ để bàn) tự dưng lại " đổi quốc tịch " như vậy ? Thấy người sang bắt quàng làm họ à ? Dạ, không dám ạ. Chẳng cần phải bắt quàng làm họ làm quái gì. Hoa Kỳ chẳng phải... là Mỹ ! Ấy, ấy... lại loạn ngôn rồi ! 3) Trong phần giới thiệu nghề khảm sà cừ ( Les Incrusteurs), Oger kết luận (dịch) : - Hai trung tâm chính của nghề khảm sà cừ là Hanoi và Nam-Dinh. Các ông chủ của nghề này đều giàu sụ. Người làm ăn giỏi và khéo nhất là Hoa-Ky, ở phố Jules Ferry. Ông là người thông minh, đã biết tìm cách cải tiến một nghề truyền thống của dân tộc An Nam. (Henri Oger, Introduction générale à l'étude de la technique du peuple Annamite, Geuthner, tr. 28). Ba cái tên Việt Nam không được đánh dấu. Hanoi là Hà Nội, Nam-Dinh là Nam Định. Hoa-Ky có nhiều khả năng là Hoa-Kỳ. Nếu đúng như vậy thì Hoa Kỳ là tên người hoặc tên một cửa hiệu nổi tiếng của Hà Nội chứ không phải là nước Mỹ. Kết hợp các đoạn viết của Dumoutier và Oger, kèm thêm tranh minh hoạ, chúng ta rút ra được vài kết luận : - Đầu thế kỉ 20 thợ Việt Nam đã làm được đèn sắt tây, thắp bằng dầu tây. Sắt và dầu là của Pháp. - Hiệu Hoa Kỳ phố Jules Ferry (Hàng Trống ngày nay) làm đồ khảm sà cừ và bán đèn sắt tây. Dân Hà Nội gọi đèn của hiệu Hoa Kỳ là đèn Hoa Kỳ. - Hãng dầu của Pháp (đầu thế kỉ 20) và của Mỹ (khoảng 1930) mua đèn Hoa Kỳ tặng khách hàng mua dầu. Thương hiệu Hoa Kỳ bị hiểu lầm thành tên gọi nước Mỹ. Rốt cuộc, đèn Hoa Kỳ là đèn Việt Nam, làm bằng sắt Pháp, được hãng dầu Mỹ mua tặng khách hàng Hà Nội. Lí lịch rất... trong sáng ! Từ nay trẻ con trong Nam ngoài Bắc có thể rủ cả người lớn cùng rước đèn, ca hát líu lo : Cái gì be bé xinh xinh Nhờ tay thợ khéo xe tình chúng ta? Điếu reo, khói toả... Thế mà Mơ màng chàng ngỡ em là... Cờ hoa ! Nguyễn Dư (Lyon, 2/2009)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 22, 2011 7:27:37 GMT 9
Đồng bóng với điện Hòn Chén Phanxipăng Là một tín ngưỡng dân gian cổ truyền, khi công khai, khi lén lút, đồng bóng, còn gọi đạo Mẫu hoặc Thiên Tiên Thánh giáo, hiện hữu khắp mọi tỉnh thành ở nước ta. Trong các am, miếu, đền, phủ, vào những ngày mùng 1, 14, rằm, 29 hoặc 30 hằng tháng âm lịch, thêm các lễ vía nữa, con nhang đệ tử tụ tập cúng cầu, hầu giá, số lượng thường chỉ dăm bảy người, nhiều lắm cũng chỉ vài mươi. Một số di tích đặc thù - như phủ Dầy ở Nam Định, phủ Tây Hồ ở Hà Nội, đền Bà Đế ở Hải Phòng, đền Mẫu ở Hưng Yên, đền Sòng ở Thanh Hoá, đền Cờn ở Nghệ An, điện Hòn Chén / điện Huệ Nam ở Huế, tháp Bà ở Nha Trang, núi Bà ở Tây Ninh, miếu Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc - thì đều đặn mỗi năm có đôi vài nhật điểm thu hút hàng nghìn ông đồng bà cốt gần xa nô nức đổ về trẩy hội với bao nghi thức hết sức lạ thường. Ông lên, ông nhảy lom xom Bạn chứng kiến hiện tượng hầu đồng bao giờ chưa? Năm 1915, một người Pháp là H. Délétie đã tường thuật trong bài La fête du Ruoc-sac de la Déesse Thiên-Y-A-Na au temple Huê-Nam-diên / Lễ rước sắc của nữ thần Thiên Y A Na ở điện Huệ Nam đăng trên Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH: Tập san Đô Thành Hiếu Cổ). Cảnh tượng ấy diễn ra hồi đầu thế kỷ XX cũng chẳng khác hôm nay bao nhiêu. Thoạt tiên thì xông trầm, đốt nhang, hiến cúng lễ vật, tuyên đọc sớ điệp, sì sụp bái lạy và "lầm rầm khấn vái nhỏ to". Dàn bát âm - gọi là cung văn - bắt đầu sửa soạn nhạc cụ: đàn nhị, đàn nguyệt, kèn sona, trống bản, sênh tiền. Sau khúc tiền tấu đầy kích động, đồng cô bóng cậu nhập vào một con nhang đệ tử nào đấy rồi, tức thì cung văn chuyển giọng ừ ứ ư: Khói hương nghi ngút án tiền, Mời cô Bơ giáng hạ, giã non Tiên, cô về. Cô Bơ linh hiển ai bì... Cô Bơ là cách gọi kiêng cô Ba, hồn thiêng đồng nữ ở cõi "tứ phủ công đồng". Có nhiều cô Ba lắm: cô Ba Ngoại Cảnh này, cô Ba Chín Suối này, cô Ba Thoải / Thuỷ Phủ này, v.v. Đó là 1 trong 12 giá phụ, sau các giá chính gồm "ngũ vị thánh bà" và "lục vị tôn ông". Vì thế, ốp đồng còn được gọi hầu giá hoặc hầu bóng. Người lên đồng, dù nam hay nữ, đều phục trang cực kỳ đặc biệt. Áo mớ ba mớ bảy nhiều màu. Thắt lưng kim tuyến. Quần thắt chẽn ống. Giày vải hoặc hài nhung. Tóc chít khăn xếp xanh đỏ. Vai khoác lụa là. Tai, tay, cổ và cả cườm chân đều đeo vàng bạc ngọc ngà lấp lánh. Mặt nhồi phấn. Môi tô son. Mắt kẻ chì. Có trường hợp phải bôi mặt đen sì, vai quàng dây leo, eo đóng khố, tay cầm khèn hoặc quấn luôn con... rắn (làm giả bằng rễ cây) nếu nhập vai ông Bảy hay ông Chín Thượng Ngàn. Lại có lúc họ còn đội lốt cọp để làm Hạ Ban, tức thần Hổ. Trong ánh sáng đèn nến, hương khói trầm nhang và lời ca tiếng nhạc, xác đồng ngồi trước án thờ, đầu và mặt trùm khăn che kín. Chợt xác đồng rùng mình, lắc qua lắc lại rồi đột ngột đứng phắt dậy, thét vang một tiếng cùng lúc giật bỏ chiếc khăn trùm và nhảy cà tưng. Ví như đó là nữ đệ tử hầu giá cô Ba thì sao? Chân cô nhún. Tay cô múa. Vai cô giật giật. Ngực cô phập phồng. Cô đánh mắt lúng liếng nhìn quanh và nhoẻn miệng cười, chao ôi là tình tứ. Lát sau, cô tiến sát án thờ, rút chiếc quạt cầm tay, vừa nhảy, vừa phe phẩy. Lập tức, cung văn hát bài múa quạt: Đôi tay phấp phới ánh hồng, Quạt cô yểu điệu mát lòng tôi con. Quạt cô, chiếc quạt vàng son, Miệng cô chúm chím, cô giòn, cô xinh. Bỗng cô trao quạt cho các đệ tử chầu rìa. Đoạn, cô rút mái chèo và khoắng ào ào trong không khí. Cung văn chuyển sang lời ca chèo đò: Bỏ quạt, cô múa chèo loan, Thuyền trôi nhè nhẹ, cô khoan thai chèo. Buông mái chèo, cô cầm nón mà ngắm nghía, rồi uốn éo lượn lờ theo bài hát chầu văn múa nón: Tay cô cầm nón bài thơ, Nón nhân, nón ngãi, nón chờ đợi ai? Cô thơm như thể hoa nhài... Nói cho đúng thì các cung văn phải theo bóng đồng mà ứng tác lời ca và điều chỉnh nhịp phách thích hợp. Điều này hoàn toàn trái ngược với khiêu vũ: người không nhảy theo nhạc, mà nhạc phải nhót theo người. Thật ra, các cung văn chuyên nghiệp đã thủ sẵn cả kho tàng văn nghệ dân gian để vừa tận dụng vốn cũ, vừa cải biên hoặc sáng tác mới, kịp thời bám sát các vũ điệu khá quen thuộc của quý ông bà cô cậu: múa quạt, múa nón, múa bài bông, múa độc kiếm, múa song kiếm, múa thiết bản, múa chuỳ, phi ngựa, bắn cung, v.v. Một vũ điệu khá phổ biến trong hầu giá là múa mồi: dùng tay kẹp ống giấy tròn nhỏ đã tẩm sẵn paraffin / paraffine / thạch chá, đốt cháy phừng phừng, mà uốn éo. Trò múa lửa này trông khá ngoạn mục, nhất là về đêm, tuy nhiên chính nó là nguyên nhân gây ra không ít vụ hoả hoạn làm thiêu rụi miếu đền nhà cửa! Con nhang đệ tử phần đông là dân thợ thuyền và giới tiểu thương, chưa học qua vũ đạo cùng quyền cước lẫn binh khí gì cả, do đó mỗi người lên đồng thì nhảy một kiểu, miễn sao hao hao các vũ điệu những kẻ khác nhập đồng. Sau các màn múa, tuỳ từng giá đồng, người hầu bóng sẽ cất tiếng dạy bảo đủ điều cho các "thằng nam con nữ" tham dự buổi lễ. Nếu ông Chín Thượng Ngàn thì hú hét quát tháo ầm ĩ. Còn cậu Hoàng Mười lại răn đe từ tốn, nhẹ nhàng. Lắm phen hứng khởi, vai đồng lấy các vật phẩm cúng trên án thờ như hoa quả, bánh kẹo, xôi chè, kể cả tiền thật để ban lộc cho quan khách. Thậm chí có tay mới xoá nạn mù chữ nhưng nhập đồng rồi là cầm bút son vẽ ngoằn ngoèo và viết cả Hán tự (sai bét!) lẫn Pháp ngữ (trật lất!) mí lị Anh văn (hỏng toét!) lên giấy, bảo đấy là bùa, phát cho thiên hạ đem về dán trước cửa hoặc trong nhà nhằm trừ ma yểm quỷ! Tôi sở dĩ biết khá tỉ mỉ những chuyện trên nhờ ấu thời từng nhiều phen cùng lũ bạn nhóc tì lân la am này phổ nọ xem thiên hạ ốp đồng. Chẳng những được thưởng thức hát múa miễn phí mà thỉnh thoảng còn được chén ê hề lộc thánh. Dù nghe con nhang đệ tử đồn thổi bao chuyện thần tiên linh hiển, nếu ai đó thiếu nghiêm cẩn trong ngôn ngữ hoặc hành vi thì sẽ bị các đấng vô hình trừng phạt, cả bọn "nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò" nào có ngán gì. Thoạt đầu là trêu ghẹo cung văn bằng cách kiếm me hoặc khế chua chấm muối ớt, nhai nhóp nhép chọc thèm, khiến tay thổi kèn nhểu nước bọt, không hoạt động nổi, còn gã chầu văn thì ngắc ngứ cà lăm! Tiếp theo là tương kế tựu kế để các thứ vàng mã, hình nộm cúng trong buổi lễ bùng cháy bất ngờ, làm Xích Lân tiên nữ hốt hoảng quăng cả kiếm cung mà kêu la í oé! Một thằng nhãi tinh mắt phát hiện ra rằng thánh thần sao cũng bất công, hễ ngài ban lộc thì con cháu xác đồng hưởng lắm quà cáp ngon lành, trong khi người dưng chỉ nhận lèo tèo quả ổi xanh hoặc chùm dâu chua lét. Thế là hắn bí mật dùng dây câu nguyên con gà luộc béo múp ngay giữa án thờ, đem đãi cả bọn chúng tôi một chầu thoả thích. Lại có vị người lớn bày cho mấy bài ca dao châm chích. Lũ trẻ khoái chí tập hát theo làn điệu chầu văn rồi chĩa loa đồng ca oang oang buộc cậu Bốn cô Ba chưa kịp giáng đã phải thăng. Hát rằng: Ông lên, ông nhảy lom xom, Bà lên, bà nhảy trúc om nước chè. Ông lên, ông... đái xè xè, Bà lên, bà tưởng nước chè, bà xơi. Thiên Tiên Thánh giáo Những trò nghịch ngợm tuổi thơ rồi cũng qua. Vì nhiều lý do, tôi nay lại muốn tìm hiểu hiện tượng đồng bóng với thái độ và góc độ khác. Một số câu hỏi được đặt ra: Tín ngưỡng này đã phát sinh và phát triển như thế nào? Sự nhập đồng có thật không và mang ý nghĩa gì? Trong đời sống xã hội hiện đại, việc hành lễ của con nhang đệ tử là tích cực hay tiêu cực? Chưa xác định rõ thời điểm hình thành các nghi thức cúng quảy nhảy vọt. Trong tác phẩm Thượng kinh ký sự, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720 - 1791) từng thuật lại một buổi lên đồng mà ông tình cờ quan sát tại xã Kim Khê (hiện thuộc TP. Vinh, Nghệ An) trên đường ra Thăng Long vào năm Tân Sửu 1781. Trước đó, năm Quý Sửu 1553, Dương Văn An soạn Ô châu cận lục đã ghi nhận sinh hoạt hiến tế có chầu văn tại đoạn sông Kim Trà, tức sông Hương ở Huế ngày nay. Có ý kiến cho rằng việc đồng bóng xuất xứ từ đền Sòng ở Thanh Hoá, nơi thờ thánh mẫu Vân Hương - tên gọi khác của công chúa Liễu Hạnh, một nhân vật huyền thoại trong truyện cổ dân gian Việt Nam. Thực tế thì bà chúa Liễu được dân ta phụng thờ nhiều nơi, như phủ Dầy / Dày / Giầy / Giày ở xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định và phủ Tây Hồ ở phường Quảng An, quận Tây Hồ, TP. Hà Nội. Tiếp xúc với ông đồng bà cốt tại nhiều tỉnh thành, tôi biết họ rất sùng kính mẫu và chư vị. Theo quan niệm dân gian, mẫu / Mẫu là 1 trong 4 vị thánh bất tử, gồm Tản Viên sơn thần, Phù Đổng thiên vương, Chử Đồng Tử, và công chúa Liễu Hạnh. Tương truyền Mẫu vốn là công chúa Quỳnh Nương, nữ thần hàng đầu trên thiên cung, vì lỡ tay làm vỡ chén ngọc nên bị Ngọc Hoàng thượng đế đầy giáng trần. Cũng theo lời kể, Mẫu từng hiển hiện ở nhiều địa phương và thi triển nhiều phép lạ, do đó được triều đình nhà Lê tôn vinh "Thượng đẳng phúc thần" và sắc phong "Mã Cái công chúa" (Mã Cái nghĩa là mẹ) rồi được thăng "Chế Thắng Hoà Diệu đại vương". Riêng sử sách nhà Nguyễn còn ghi rõ: năm Thiệu Trị thứ VI, tức Ất Tị 1845, nhà vua đã ban cho Mẫu chức "Thần hoàng nhất phẩm". Mẫu đây cũng còn là Thiên Y A Na, nữ thần vĩ đại của dân tộc Champa với tên gọi Po Nagar hoặc Muk Juk, bấy nay được thờ tại Tháp Bà ở Nha Trang. Sự tích Thiên Y tiên nữ đã được nhiều thư tịch ghi chép, chẳng hạn Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn. Trong quá trình Nam tiến, người Việt kế tục việc thờ cúng của cư dân Chăm bản địa và tôn làm "thượng đẳng thần". Năm Nhâm Tuất 1802, ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long tấn phong cho Mẫu danh hiệu "Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi". Dân gian quen gọi bà chúa Ngọc, bà chúa Xứ, ngắn gọn là Mẫu, và lập phủ, điện, am, miếu để cung thỉnh phụng thờ. Điều buồn cười là phần đông ông đồng bà cốt và con nhang đệ tử chẳng mấy ai rành rẽ sự tích Mẫu, dẫu họ tự nhận là tín đồ thuần thành của Thiên Tiên Thánh giáo. Khác nhiều người nghĩ, với tên gọi này, Thiên chẳng phải trời, Tiên chẳng phải nhân vật yên vui và có nhiều phép mầu. Chuyên luận Tín ngưỡng dân gian Huế của Trần Đại Vinh (NXB Thuận Hoá, Huế, 1995) ghi nhận: "Cách đặt tên Thiên Tiên Thánh giáo được giải thích là: Thiên là huyện Thiên Bản, Tiên là làng Tiên Hương, tức thôn Vân Cát, làng An Thái, là nơi giáng trần lần thứ hai của Liễu Hạnh công chúa. Hai chữ Thánh giáo thể hiện một nguyện vọng của Tổng hội xin thừa nhận tín ngưỡng này như một tôn giáo thiêng liêng." Mấy địa danh mà sách vừa nêu đều thuộc tỉnh Nam Định. Theo Địa chí Nam Định của nhiều soạn giả (NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2003) thì huyện Thiên Bản đã đổi thành huyện Vụ Bản từ cuối thời Nguyễn. Ở huyện này, 2 làng Tiên Hương và Vân Cát nay là 2 thôn tại xã Kim Thái, nơi quần thể phủ Dầy toạ lạc, trong đó có lăng mộ Liễu Hạnh, đã được Bộ Văn hoá và Thông tin công nhận di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia ngày 21-2-1975. Sách Phủ Dầy và tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh của Bùi Văn Tám (NXB Văn Hoá Dân Tộc, Hà Nội, 2001) còn cho hay rằng xã An Thái cũ là thôn Tiên Hương bây giờ, Thực chất, Thiên Tiên Thánh giáo chẳng được tổ chức quy củ như đạo Phật, đạo Hồi, đạo Kitô. Thiên Tiên Thánh giáo lại chẳng có kinh điển cùng luật lệ chính thức. Sinh hoạt của tín đồ Thiên Tiên Thánh giáo mang tính tự phát, tự túc, tự nguyện. Dăm bảy hoặc vài chục người họp thành phổ, cứ đến ngày 14, rằm, 30, mùng 1 âm lịch mỗi tháng thì tới một am miễu nhất định để dâng lễ, cúng cầu, hầu giá. Xong, ai về nhà nấy, tiếp tục làm lụng sinh nhai như tất cả chúng ta. Khác chăng là họ cữ kiêng vài loại thực phẩm vì "ăn sợ mắc tội": thịt chó, thịt trâu, bồ câu, cá chép / cá gáy. Có lúc, có nơi, do áp lực của dư luận xã hội hoặc chủ trương của chính quyền sở tại, đệ tử của Mẫu phải lên đồng âm thầm lén lút. Chẳng hạn thời gian Nhà nước phát động phong trào "bài trừ mê tín dị đoan" khá rầm rộ tại Huế, mà đỉnh cao là việc triệt phá am miếu diễn ra vào năm 1985, đố đồng cô bóng cậu nào dám cóc cheng nhảy nhót công khai. Từ năm 1986 đến nay, nhờ công cuộc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc, cùng với nhiều lễ nghi truyền thống được phục hồi như xuân tế lẫn thu tế đình làng, cầu ngư, cúng tổ ngành nghề, v.v., thì tín đồ Thiên Tiên Thánh giáo lại sửa am, lập miếu, thoải mái chầu văn, ốp đồng. Thiên Tiên Thánh giáo thường được xã hội gọi "đạo nhảy vọt", còn giới nghiên cứu lại gọi "tín ngưỡng tứ phủ" vì hàng tín đồ quan niệm rằng tiên, thánh, thần ở 4 cõi: thượng tiên, trung thiên, thượng ngàn, thuỷ phủ. Cũng theo họ, cả 4 cõi kia liên kết nhau chi phối cõi người. Và cõi nào cũng được cơ cấu tương tự một triều đình quân chủ chuyên chế có quyền lực vạn năng, gồm: đế vương, thánh mẫu, chư tiên, hoàng tử, công chúa, khâm sai, giám sát, thập nhị triều quận, thập nhị triều cô, ngũ hổ đại tướng, âm binh bộ hạ, v.v. Tất nhiên, bà chúa Liễu và bà chúa Ngọc ngự trị cõi thượng thiên chót vót. Ngoài ra, Thiên Tiên Thánh giáo còn thờ Phật A Di Đà, Bồ Tát Quán Thế Âm, thờ cả Quan Công cùng Sơn Tinh, Thuỷ Tinh lẫn Đức Thánh Trần tức Hưng Đạo đại vương! Khi hầu giá, xác đồng nhập vai một vị nào đấy cả nam lẫn nữ thuộc "tứ phủ công đồng". Đàn bà con gái thì Mộc Tinh thánh nữ, Ngũ Hành tiên nương, Đào Huê công chúa, cô Năm Ngoại Càn, v.v. Đàn ông con trai thì Linh Hầu thái tử, Sơn Tiêu Độc Cước, quan Lớn Tuần Tranh, Bô Bô động chủ, v.v. Nhạc sĩ Phạm Duy nhận xét khá chí lý trong Đặc khảo về dân nhạc Việt Nam (NXB Hiện Đại, Sài Gòn, 1972): "Lên đồng là một hiện tượng hoá thân, người phụ nữ Việt mượn đồng bóng để thể hiện những nguyện vọng thầm kín của mình. Ai cũng biết trong dĩ vãng, người đàn bà Việt Nam chịu thua thiệt đủ điều. Lên đồng giúp họ một ảo tưởng ăn chơi như ông hoàng bà chúa. Khi bóng cô bóng cậu nhập vào người lên đồng thì cuộc sống thần tiên bắt đầu." Quả là hàng tín đồ Thiên Tiên Thánh giáo đều có đủ nam nữ, song rõ ràng phái yếu chiếm số lượng đông hơn hẳn. Cũng cần thêm rằng tuy có nhiều điểm khác biệt về nghi thức, hiện tượng ốp đồng không chỉ tồn tại ở Việt Nam mà còn diễn ra tại nhiều nơi khác trên hoàn cầu. Tôi tò mò muốn ốp đồng thử một phen cho biết. Nhờ quen với tay chủ am nọ nơi xã Thuỷ Biều, ngoại thành Huế, tôi được trùm khăn ngồi trước án thờ nghi ngút khói nhang trong lúc cung văn chơi "liên khúc" từ Xuân phong, Long hổ, Lưu thủy, Hành vân, sang Cổ bản, Đăng đàn cung, Phú lục, rồi Tẩu mã. Lạ thay! Thiên hạ chỉ ngồi tí tì ti liền "nhập" ì xèo, còn cái thằng tôi cứ "trơ như đá, vững như đồng", nóng bức và ngột ngạt tưởng chịu hết xiết! Tay chủ am giải thích: - Chậc... Mạng anh không có "chân lính". Chịu thôi! Tôi cũng lấy làm lạ vì rất hiếm thấy ông đồng bà cốt "giáng lâm" vỗ ngực xưng danh nhị vị thánh mẫu tối cao là Liễu Hạnh và Thiên Y A Na. Họ sợ hãi hay khiêm cung nhỉ? Được biết trong quá khứ, dù mang quốc tịch Chiêm Thành hay Đại Nam, Mẫu đều đã thị hiện trên núi Ngọc Trản thuộc làng Hải Cát ven bờ sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10km về phía thượng lưu. Tại đó có điện Hòn Chén thờ Mẫu cùng chư vị, xuân thu nhị kỳ thường niên đều long trọng tổ chức đại lễ hội. Núi Ngọc huyền bí Lênh đênh theo thuyền rồng ngược dòng Hương, tôi đã đến núi Ngọc. Cũng có thể tới đây bằng đường bộ băng qua Kim Long, Hương Hồ, Ngọc Hồ. Núi nguyên tên Ngọc Trản, gọi nôm na là Hòn Chén. Dân gian kể rằng do biến âm từ Hoàn Chén, bởi vua Minh Mạng từng đến đây và lỡ tay đánh rơi chén bằng đá quý xuống sông Hương, tưởng chẳng cách gì lấy lại được, bỗng một con rùa to lớn nổi lên, miệng ngậm chén ngọc trả lại nhà vua. Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn còn ghi nhận một tên khác là núi Hương Uyển và viết: "Mạch núi do các núi ở phía tây bắc trùng trùng điệp điệp, như rồng đi hổ phục, chạy dài chênh chếch về phía nam, đến phía tây sông Hương thì dừng lại, nổi vọt lên một ngọn vừa tròn vừa đẹp như hình cái chén nên gọi tên ấy. Sườn núi có đền thiêng. Chân núi kề vực sông, nước rất trong ngọt, người ta phải gọi là nước Ngọc Trản và thường lấy dâng ngự dụng." Trong sách Nguyễn triều cố sự (Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1956), Bửu Kế lưu ý thuyết cho rằng tên Ngọc Trản chỉ là một lối dùng mỹ từ mà thôi, vì bên kia có địa danh Ngọc Hồ / bầu ngọc thì bên này có Ngọc Trản / chén ngọc để được cân đối. Tương truyền bà chúa Ngọc lẫn bà chúa Liễu từng giáng hạ nơi đây nên dân làng Hải Cát dựng đền thờ phụng và tôn sùng mẫu như đấng khai canh. Có lẽ tiền thân của đền là điểm thờ nữ thần Po Nagar của cư dân Chăm bản địa rồi được người Kinh kế tục cúng bái. Dần dần, các chúa Nguyễn phong tặng sắc thần và chính thức hoá việc thờ cúng. Đến năm Nhâm Thìn 1832, niên hiệu Minh Mạng thứ XIII, nhà vua đã cho trùng tu, mở rộng ngôi đền. Đó là đền Hàm Long hoặc đền Ngọc Trản. Một năm sau khi lên ngôi, Bính Tuất 1886, vua Đồng Khánh đổi tên thành điện Huệ Nam. Dân chài quanh vùng nói rằng khúc sông ngay trước điện Hòn Chén sâu nhất dòng Hương, thợ lặn khoẻ mấy cũng không tài nào mò tới đáy. Nhiều kẻ tin rằng thánh mẫu Thoải (tức bà Thuỷ, tương truyền là con của Long Vương ở hồ Động Đình, có đền thờ chính ở Tuyên Quang) chuyên trị vì nước ấy. Đại Nam nhất thống chí chép rằng tại đây "có con rùa lớn bằng tấm chiếu, mỗi khi nổi lên tất có sóng dữ, người ta trông thấy gọi là sứ giả của Hà Bá". Nghe đồn con rùa quý hiếm kia hiện vẫn còn và được các đệ tử của mẫu kính cẩn gọi "cố trạnh". Thuở sinh thời, ba tôi có kể một giai thoại về khúc sông này. Rằng xưa, thuyền đò ngang qua đấy thì ai nấy đều phải im lặng thắp nhang tỏ lòng thành kính. Chỉ cần một người nẩy suy nghĩ xúc phạm mẫu là thuyền đắm ngay tức khắc, do đó nạn nhân chết đuối tại chỗ ngày càng như rạ. Biết chuyện, vua Tự Đức ngự giá lên điện Hòn Chén, đeo vào tay mẫu chuỗi hạt bồ đề, rồi lệnh: "Thôi hí! Tu đi!". Từ đó, tai nạn không còn. Điều kỳ lạ là thái độ hết mực tôn sùng Mẫu của vua Đồng Khánh mà sử sách vẫn thường nhắc. Theo nguyên tắc xưa, khi đã lên ngôi thiên tử, vị vua nào cũng đứng trên mọi bậc thánh thần. Riêng vua Đồng Khánh tự nhận đồ đệ của Mẫu, lễ phép thưa Mẫu bằng "chị", và đưa cả lễ hội thường niên điện Hòn Chén vào hàng quốc lễ. Vì sao? Cảnh Tông Thuần hoàng đế, tức vua Đồng Khánh, vn xuất thân là công tử Ưng Thị, con trưởng của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và Thái vương phi Bùi Thị Thanh. Năm Ất Sửu 1865, mới 2 tuổi, ngài đã được vua Tự Đức chọn làm dưỡng tử. Đến giai đoạn trưởng thành, gặp thời kỳ lịch sử éo le, ngài chờ đợi mãi vẫn chưa được nối ngôi, bèn nhờ mẹ ruột lên điện Hòn Chén cầu đảo. Trong một buổi hầu đồng, Mẫu phán: năm Ất Dậu 1885, ngài sẽ toại nguyện, song chỉ ngất ngưởng cửu trùng hơn 3 năm thôi, đến cuối năm Mậu Tý 1889 thì ngài thăng hà! Nếu thực tế Mẫu đã tiên tri như thế, rõ xứng danh Hoằng Huệ Phổ Tế Linh Ứng Diệu Thông Mặc Tưởng Trang Huy Ngọc Trản Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần đúng y thần hiệu mà vua Đồng Khánh ngay sau khi tức vị đã tôn phong Mẫu. Vua còn sắc phê: "Phong cảnh Ngọc Trản thực là chốn tiên nữ linh sơn sáng đẹp muôn đời, trông rõ hình thể như con sư tử uống nước sông, quả là nơi chân cảnh thần tiên. Đền Ngọc Trản nhờ đắc linh khí, các phúc thần đầy quyền uy ngự trị cứu người độ đời, giúp dân giữ nước. Vậy trẫm cho đổi đền ấy làm điện Huệ Nam (nghĩa là ban ân huệ cho nước Nam và vua Nam) để biểu hiện ơn nước trong muôn một". (Đại Nam thực lục chính biên - Đệ lục kỷ). Theo Nguyễn triều cố sự (sđd) thì chính vua Đồng Khánh thân hành trông nom việc tái thiết điện Huệ Nam khang trang đồng thời với việc xây Tư lăng gần núi Thiên Thai ở phía bên kia sông Hương. Bởi tin tưởng tuyệt đối vào lời tiên đoán của mẫu nên nhà vua phải sớm lo liệu nơi an nghỉ cuối cùng cho bản thân. Năm Đinh Hợi 1888, mẹ ruột cùng em trai Ưng Đậu và em gái Như Cư của vua Đồng Khánh còn đúc đại hồng chung dâng cúng Mẫu ở điện Huệ Nam nữa. Vua và cả hoàng thân quốc thích đã vậy thì hàng ngũ quan lại triều thần cùng đông đảo nhân dân cả nước càng sùng tín Mẫu; càng tin rằng núi Ngọc chính là thánh địa để cúng cầu, hầu lễ, hành hương. Mặc dù Tổng hội Thiên Tiên Thánh giáo chính thức thành lập vào năm 1965, trụ sở đặt tại 252 đường Chi Lăng, TP. Huế, song có thể khẳng định tín ngưỡng này hưng thịnh nhất lại là cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nhiều vị bô lão bảo: - Hồi đó, mỗi lần trẩy hội điện Hòn Chén, khách thập phương dồn về kín kịt cả khúc sông Hương suốt một tuần liền, tưng bừng náo nhiệt khôn tả. Tưởng cũng nên biết thêm: giai đoạn ấy, nước ta chịu ách đô hộ của thực dân Pháp, thiên tai và dịch bệnh xảy ra liên tục, dân chúng nghèo khốn và lạc hậu luôn rơi vào trạng thái bất an nên hằng trông chờ sự phù trợ từ cõi vô hình. Còn theo BAVH, "những người Tây cứng đầu" dám táo tợn gọi điện Hòn Chén là "la Pagode de la Sorcière / ngôi chùa của mụ phù thuỷ", cớ sao họ vẫn béo tốt phây phây? Ngồi trước mũi thuyền rồng giữa dòng Hương, hoặc leo lên đồi Vọng Cảnh bên hữu ngạn, tôi cũng như nhiều du khách thảy đều thừa nhận rằng phong cảnh quanh núi Ngọc hữu tình và hùng vĩ làm sao. Đúng như mấy vần thơ chữ Hán của Nguyễn Đức Quân treo trong nội điện đã mô tả: Đệ lâm bích thuỷ, long lai viễn, Nhất vọng thanh sơn, hổ cứ hùng. Phan Thuận An, trong sách Kiến trúc cố đô Huế (NXB Thuận Hoá, Huế, 1995), dịch: Bên dòng nước biếc như rồng lượn, Ở chốn non xanh tựa cọp ngồi. Toàn bộ các công trình kiến trúc xinh xắn của điện Hòn Chén đều toạ lạc lưng chừng sườn đông nam núi Ngọc. Trung tâm là Minh Kính Đài có diện tích mặt bằng 255m², được chia làm 3 cung. Cao nhất là Minh Kính cao đài đệ nhất cung, còn gọi Thượng cung hay Thượng điện, dùng để thờ thánh mẫu Thiên Y A Na, thánh mẫu Vân Hương và... vua Đồng Khánh cùng một số thánh thần thượng đẳng khác. Kế tiếp là Minh Kính trung đài đệ nhị cung, còn gọi Cung Hội đồng, thờ Phật và hàng chục thần thánh, dùng làm nơi thiết trí loạt tự khí dùng để rước sắc. Sau rốt là Minh Kính tiểu đài đệ tam cung, còn gọi Tiền điện, là chỗ đặt trống chuông, là nơi cử hành tế lễ. Nội thất Minh Kính Đài thuộc diện "tuyệt đối trang nghiêm, bất khả xâm phạm", nên không phải ai ai cũng được vãng lai dịp đại lễ hội, kể cả đông đảo tín đồ Thiên Tiên Thánh giáo. Nhờ sự giúp đỡ sốt sắng của các nhân viên bảo vệ thuộc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế - cơ quan hiện đang giữ nhiệm vụ quản lý và duy tu điện Hòn Chén - nên ngay kỳ thu tế, tôi được lọt vào Minh Kính Đài để "xem tận mắt, sờ tận tay" nhiều đồ tự khí được chế tác tự xửa xưa: hàng loạt bài vị và tượng thần thánh cùng cờ quạt, tàn lọng, phụng liễn, long đình. Trên Thượng điện có cái mão chạm trổ cửu long bằng vàng ngọc rất cầu kỳ, đang được thờ trong hộp kính. Một nhân viên bảo vệ giới thiệu với tôi rằng đó là mão của vua Đồng Khánh lưu lại. Nhìn quanh, tôi còn thấy nhiều di vật của vị vua nổi tiếng "thích chuyện huyền bí và hết sức tôn sùng Đức Thiên Y A Na tại điện Hòn Chén" (theo Nguyễn Phúc tộc thế phả - NXB Thuận Hoá, Huế, 1995, trang 377). Đó là những bức hoành, câu đối, thơ phú do vua ngự bút tôn vinh Mẫu; và một số tranh ảnh do ngài thành tâm cúng dường. Tôi hết sức lạ mắt trước những đao kiếm sơn son thếp vàng cùng các đồ thờ dành cho lễ rước sắc: nào kiệu, nào ngai, nào võng song loan. Hầu hết cổ vật ở đây được trưng bày rất bề bộn nhưng lại gây hiếu kỳ cho bất kỳ ai có dịp mục kích. Bên phải Minh Kính Đài là nhà Quan Cư, viện Trinh Cát, chùa Thánh. Bên trái là dinh Ngũ Hành tiên nương, bàn thờ Các Quan, động thờ ông Hạ Ban tức Thần Hổ. Lại có miếu thờ Quan Thánh Đế Quân và miếu thờ vị tiền nhân họ Lê khai canh làng Hải Cát. Rải rác còn có một số am và bệ thờ nhỏ, như am cô Ngọc Lan, am Trung Thiên. Dưới chân núi, sát bờ sông, có miếu Thuỷ Phủ thờ Thuỷ Long tôn thần. Du khách ghé Huế, thăm viếng Kinh thành, cung điện, chùa chiền, lăng tẩm, v.v., thảy đều bắt gặp con rồng xuất hiện với tần số cao trong các hoạ tiết trang trí nội ngoại thất. Ghé điện Hòn Chén sẽ thấy khác. Ở đây, chim phượng hoàng lại chiếm ưu thế. Bờ nóc, bờ quyết Minh Kính Đài cùng các viện, dinh, am, miếu, và nhiều hiện vật tại khu di tích này đều được đắp, khắc, hoặc vẽ phượng hoàng vì loài chim này tượng trưng cho phái nữ. Phải thôi, nơi thờ Mẫu mà lị! Nếu leo lên đỉnh núi Ngọc, khách sẽ thấy một ngọn núi uy nghi vươn lên cách đó không xa. Được xem là chủ sơn của đất Phú Xuân, ngọn núi cao 427m ấy cũng mang tên loài chim phượng hoàng: núi Kim Phụng. Điện Hòn Chén là 1 trong 16 công trình kiến trúc triều Nguyễn ở Huế được UNESCO công nhận di sản văn hoá thế giới vào ngày 11-12-1993. Điện Hòn Chén cũng được Bộ Văn hoá và Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia theo quyết định số 2009/1998 QĐ/BVHTT ban hành ngày 26-9-1998.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 22, 2011 7:33:59 GMT 9
Khi ông đồng bà cốt hành hương Tháng bảy vía cha, tháng ba vía mẹ. Con nhang đệ tử mọi miền đều nhắc nhau thế để nhớ 2 kỳ đại lễ hành hương về điện Hòn Chén hằng năm. Có thể suốt 4 mùa, do bận mưu sinh, họ không tới phổ hầu giá được, nhưng nhất thiết 2 vía trọng này thì chẳng bỏ qua. Thật ra, theo bản 51 lễ vía thường niên do Tổng hội Thiên Tiên Thánh giáo quy định thì ngày 2 tháng 3 âm lịch là vía huý nhật, ngày 5 và 6 tháng 3 âm lịch là vía sinh nhật thánh mẫu Vân Hương tức bà chúa Liễu. Còn 2 ngày tốt thượng tuần tháng 7 âm lịch lại là rước sắc nữ thần Thiên Y A Na đến đình làng Hải Cát làm lễ thu tế. Trước kia, khách trẩy hội điện Hòn Chén dịp tháng 7 nghìn nghịt từ 5 ngày đến 1 tuần liền; nay chỉ còn 3 ngày: mùng 8 tới mùng 10. Ông Lê Văn Ngộ - phó ban tổ chức đại lễ thu tế điện Hòn Chén - cho tôi biết: - Ban bảo trợ điện Huệ Nam đứng ra xin tổ chức lễ hội truyền thống này dưới sự chỉ đạo của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên - Huế, sự giúp đỡ của Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế. Dịp lễ năm nay, hàng ngũ tín đồ gần xa đăng ký về dự gồm 31 bằng án và 35 châu án. Còn số lượng cụ thể bao nhiêu lượt người thì chúng tôi không tài nào nắm chính xác nổi! Bằng án là thuyền kết đôi kết ba. Châu án là thuyền đơn. Trên thuyền có lập bàn thờ Mẫu và chư vị. Trước thuyền, người ta treo biển đề tên am, tên phổ, chẳng hạn: Kim Đồng Tiên Nữ, Thiên Thai Thuỷ Cảnh, Đài Minh Cảnh, Linh Sơn Điện, Linh Dược Điện, Tân Đức Điện, Hoằng Hoá Điện, Sòng Sơn Vọng Từ. Khá nhiều am phổ từ Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Đăklăk, Lâm Đồng. Cũng thấy am phổ từ Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh, TP.HCM, Long An, Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Hầu như toàn bộ thuyền rồng du lịch sông Hương đều được thuê mướn suốt 3 ngày đêm. Không đủ thuyền rồng thì người ta thuê cả đò chở cát sạn hoặc đò chài lưới để kết bằng án, châu án. Từ trung tâm thành Huế, các bằng án và châu án treo cờ xí, giăng đèn đóm, nổ máy bơi ngược dòng Hương lên điện Hòn Chén. Trên mỗi chiếc, con nhang đệ tử luân phiên cúng bái và hầu giá trong lời ca tiếng nhạc của cung văn được khuếch đại âm lượng qua dàn thiết bị điện tử. Người ta đua nhau tung vàng mã xuống mặt nước, ban đêm còn thả thêm hoa đăng. Con sông vốn dĩ tĩnh lặng nay bỗng sôi động hẳn với muôn hồng ngàn tía và thập cẩm âm thanh. Tôi thử đếm cả dãy bằng án, châu án đậu san sát mép sông quanh chân núi Ngọc, đã thấy vượt quá số đăng ký chính thức. Tính bình quân mỗi chiếc chứa 25 người thì lượng ông đồng bà cốt trẩy hội đã xấp xỉ 3.000 người. Lại còn hàng trăm đò nghe chở con nhang đệ tử cặp kè theo các bằng án, châu án. Ấy là chưa kể lớp lớp du khách dồn về theo đường thuỷ lẫn đường bộ. Ước tính không dưới 1 vạn lượt người đến điện Hòn Chén trong đại lễ hội này. Như nhiều danh thắng khác, mỗi người cứ đặt chân vào cổng điện đều phải mua vé tham quan. Gía mỗi vé hiện nay (Canh Dần 2010): khách nước ngoài 20.000 đồng, khách trong nước 10.000 đồng. Chà chà, phen này Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế "trúng quả đại chang" nhé! Như đã nói, đại đa số đệ tử của Mẫu thuộc giới thợ thuyền hoặc tiểu thương mà chiếm tỉ lệ cao luôn là phái nữ. Trong đội ngũ cô Năm cô Ba lụa là son phấn, không ít nàng trẻ đẹp hệt người mẫu thời trang. Qua tìm hiểu, tôi được biết một số trường hợp con nhang cả nữ lẫn nam thuộc nếp nhà khá giả, có kẻ là học sinh, sinh viên, thậm chí giáo viên. Đặc biệt, rất dễ nhận ra sự hiện diện của một số ca sĩ cùng diễn viên sân khấu và điện ảnh thuộc hàng "sao" nữa! Tôi ngạc nhiên vô cùng khi bất ngờ thấy một ông đồng áo khăn đỏ choét, hú hét om sòm, và ngoáy tít đại đao. Ngại mình nhìn nhầm, tôi cố nhận diện thật kỹ. Đúng rồi! Trúng ngay chóc! Không ai khác, đích thị Phó Giám đốc một cơ sở tư doanh ở TP.HCM. Hễ có dịp, gã này luôn rôm rả nói chuyện bài trừ... mê tín dị đoan! Thật hết biết! Lễ chính là rước sắc thánh mẫu Thiên Y A Na từ Minh Kính Đài lên đình làng Hải Cát bằng đường thuỷ. Một đám rước chưa từng thấy. Đầy đủ hoa hương, chuông trống, cờ quạt, kiếm cung, tiền hô hậu ủng. Dẫn đầu là thần Hổ với các ông Bảy, ông Chín Thượng Ngàn. Lần nữa, tôi gặp may: được quá giang ngay trên bằng án chính cung nghinh Mẫu. Thuyền đến đâu đều thấy trên bờ, dưới nước, lớp lớp trẻ già chấp tay vái lạy theo rần rần. Một thể nữ mắt phượng, mày ngài, đứng hầu kiệu, bỗng dưng khều tay tôi. Nàng chúm chím cười và nói: - Số anh sướng lắm, luôn được Mẫu đoái thương! Đôi điều thiển nghĩ Đình làng Hải Cát cũng nằm ven tả ngạn dòng Hương, cách điện Hòn Chén chừng 2km về phía thượng nguồn. Lúc cả đoàn cung nghinh Mẫu vượt sóng nước tới nơi thì trời vừa sụp tối. Người ta thắp điện đèn sáng rực, long trọng thỉnh Mẫu vào chính điện để tiến hành lễ thu tế, nguyện cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà, nhà nhà sung túc. Và suốt đêm ấy, trên hàng chục bằng án lẫn châu án đỗ dài trước bến đình, các đồng cô bóng cậu lại cóc cheng nhảy vọt phép phù, mệt thì thay nhau nghỉ ngơi, ăn uống. Mai lại rước Mẫu hồi loan, trở về núi Ngọc. Đêm ấy, lang thang với vài đồng nghiệp trên bãi sông trước đình làng Hải Cát, nhiều điều liên quan Thiên Tiên Thánh giáo, gọi gọn là đạo Mẫu, khiến tôi băn khoăn suy nghĩ. Trẩy hội điện Hòn Chén và xuân tế lẫn thu tế đình làng Hải Cát quả là phong tục cổ truyền mang đậm bản sắc văn hoá độc đáo của địa phương vùng Huế nói riêng, của đất nước Việt Nam nói chung. Tương tự loạt lễ hội ở đền Mẫu Đồng Đăng (Lạng Sơn), đền Bảo Hà (Lào Cai), đền Đuông (Vĩnh Phúc), đền Bà Đế (Hải Phòng), đền Sinh và đền Hoá (Hải Dương), đền Mẫu (Hưng Yên), phủ Tây Hồ (Hà Nội), phủ Dầy (Nam Định), đền Sòng (Thanh Hoá), đền Cờn (Nghệ An), tháp Bà (Khánh Hoà), núi Bà Đen (Tây Ninh), miếu Bà Chúa Xứ (An Giang), v.v. Xét nghi thức hành lễ liên quan những di tích ấy, rõ ràng đồng bóng đóng vai trò chủ đạo. Gắn chặt với đồng bóng đích thị chầu văn / hát văn / hát bóng, một hình thức lễ nhạc dân gian rất lý thú với nhịp ngoại / đảo phách thể hiện qua lưu không / nhạc không lời và 13 điệu / lối hát: bỉ, miễu, thổng, phú bình, phú chênh, phú nói, phú rầu, đưa thơ, vãn, dọc, cờn, hãm, dồn. Tham dự Liên hoan Giọng hát vàng ASEAN 2008, NSƯT Hồng Ngát trình diễn hát văn Hầu xá thượng và đoạt Huy chương vàng quá xứng đáng. Tuy nhiên, đồng bóng lại là hủ tục, là mê tín quàng xiên! Trong thời đại phát triển khoa học kỹ thuật ngày nay, hỏi còn gì lạc hậu cho bằng việc phòng và chữa bệnh theo liệu pháp nhảy lom xom, dán bùa chú, uống tàn nhang nước thải? Còn gì mê lầm cho bằng kiểu trấn an tâm lý theo lối "thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay" cực kỳ phung phí? Dĩ nhiên, muốn hạn chế và dần dần xoá bỏ tệ mê tín đã hằn sâu vào nếp nghĩ dân chúng tự bao đời, không thể áp dụng cứng nhắc các biện pháp hành chính cực đoan, mà phải bằng hệ thống tác động lâu dài toàn diện, như ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh từng đề xuất trong chuyên luận Tín ngưỡng dân gian Huế (sđd). Báo chí cùng các thể loại văn học nghệ thuật chắc chắn đã, đang, và sẽ góp phần hữu hiệu trong nỗ lực trường chinh đầy gian khó này. Một mai, đời sống vật chất lẫn tinh thần của toàn xã hội được nâng cao, tri thức khoa học tiên tiến được phổ biến sâu rộng và cập nhật đến tận thôn cùng xóm vắng. Lúc ấy, con người tự giải phóng mình khỏi "vòng kim cô" hủ tục; đồng thời biết trân trọng kế thừa, nỗ lực phát huy những phong tục dân tộc truyền thống với tinh thần văn hoá và nhân bản. Đã đăng: * Thế Giới Mới 320 (11-1-1998) & 321 (18-1-1998) * Kiến Thức Ngày Nay 706 (20-3-2010) & 707 (1-4-2010) Đã in trong sách Huế chừ của Phanxipăng (NXB Thanh Niên, 2000) Hát văn : Cô Bơ ---> chimvie2.free.fr/amnhac/dantoc/hatvan/HVcobo_khactu-trongquynh.htm Cô Bơ Thượng Ngàn tại phủ Dầy, Nam Định. Ảnh: Phanxipăng Múa mồi. Ảnh: Phanxipăng Vàng mã. Ảnh: Phanxipăng Lúc bằng án chính cung nghinh mẫu di chuyển giữa dòng Hương, trên một bằng án khác đồng hành có danh hài Hoài Linh ôm đại đao ngưỡng vọng. Ảnh: Phan Văn Cường Ảnh chụp điện Hòn Chén in trong BAVH 1915 với chú thích: La Pagode de la Sorcière, vue générale. Nghĩa: Toàn cảnh ngôi chùa của mụ phù thuỷ. Tại điện Hòn Chén, ngay trước ban thờ trong Thượng Cung, vua Đồng Khánh ngự bút: ??. Phiên âm: Âm dương huynh đệ thất thánh nghĩa hội. Nghĩa là "đấng thiên tử" tự xếp thứ 7! Ảnh: Phanxipăng Trụ sở Thiên Tiên Thánh giáo Việt Nam tại 252 (số hiện nay 354) đường Chi Lăng, Huế. Ảnh: Phanxipăng Tham quan điện Hòn Chén. Ảnh: Liêm Hoa Phanxipăng viếng phủ Tây Hồ tại Hà Nội. Ảnh: Quế Chi Phanxipăng thăm lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại Nam Định. Ảnh: Trần Nam Xuyên
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 4:22:01 GMT 9
Vai trò lúa gạo trong đời sống kinh tế và chính trị ở Saigon-Chợ Lớn đầu thế kỷ 20 (Phần 1) Vietsciences-Nguyễn Đức Hiệp 25/12/2011 Phần 1 Gạo là sản phẩm xuất khẩu chính và là nguồn thu lớn nhất cho nền kinh tế ở Nam Kỳ trong suốt thời kỳ Pháp thuộc. Từ tư liệu thống kê có được trong một số Tập san Phòng thương mại Saigon (Bulletin de la Chambre de commerce de Saigon) còn sót lại ở thư viện quốc gia Pháp từ năm 1881 đến 1933, cho thấy lúa gạo là sản phẩm đứng đầu và được thống kê tỉ mỉ qua số lượng, giá trị xuất khẩu từ cảng Saigon-Chợ Lớn đến các thị trường khác nhau trên thế giới. Có thể nói sự giàu có ở Đông Dương thuộc Pháp là dựa vào lúa gạo. Tác giả dùng tư liệu trong Niên giám Đông Dương, Phòng Thương mại Saigon, báo chí ở Singapore, các nghiên cứu của các học giả nước ngoài đầu thế kỷ 20 như Passerat de la Chapelle, Albert Naud và gần đây như Li Tana, Julia Martinez, Thomas Engelberg và Geoffrey Gunn để làm rõ chi tiết về sự hình thành của kỹ nghệ và thương mại lúa gạo ở Nam Kỳ nói chung và Saigon-Chợ Lớn nói riêng và sự hoạt động đầu tư của người Hoa ở Chợ Lớn, từ vùng Cư trú Eo biển (Straits Settlements gồm Singapore, Penang và Malacca), Java và Hồng Kông trong lãnh vực này. Bài biên khảo này cũng sẽ cho thấy thương mại lúa gạo có lợi nhuận rất lớn từ cuối thế kỷ 19 cho đến thập niên 1930, mà phần lớn là xuất khẩu đến các vùng khác ở Đông Nam Á, nằm trong tay người Hoa. Họ hầu như khống chế toàn diện ở Saigon-Chợ Lớn, mà người Pháp hầu như bất lực không cạnh tranh nổi. Nhưng từ cuối thập niên 1930 thì thời hoàng kim của người Hoa nói chung và từ Singapore nói riêng bắt đầu lu mờ và đến 1940 trở đi thì không còn nữa. Nhưng dấu ấn của họ vẫn còn để lại mà ta có thể thấy (còn rất ít hiện nay) dọc trên kênh Tàu hủ (quai de Mytho, quai des Jonques), rạch Chợ Lớn (quai Gaudot) nơi có các trụ sở thương mại, nhà máy ; và nhiều nơi trong Chợ Lớn (đặc biệt rue de Paris tức đường Phùng Hưng và rue de Canton tức đường Triệu Quang Phục) là các kiến trúc nhà cổ kết hợp đông tây của thời thuộc địa như ở Hồng Kông, Singapore, Penang, Quảng Châu, Sán Đầu. Người Baba (Peranakan) gốc Hoa sinh ra ở vùng Cư trú Eo biển (Straits Settlements) đã đến Saigon-Chợ Lớn, trung tâm thương mại lúa gạo, từ hậu bán thế kỷ 19 (27) . Các thương gia người Baba nổi tiếng ở Nam kỳ là Ban-Hop (Vạn Hòa), anh em Trần Khánh Hòa, Trần Khánh Vân, Trần Khánh Tinh và ông Vương Thái (Hồng Kông). Bắt đầu từ thế kỷ 20 cho đến 1930, qua các nguồn tư liệu lưu trữ, ta được biết thêm là các đại thương gia khác nổi lên không kém là Tạ Mã Điền (Tja Ma Yeng, gốc Phúc Kiến từ Java), Quách Đàm (Triều Châu, Chợ Lớn), Trương Bật Sĩ (Phúc Kiến, Penang). 1/Sự hình thành của kỹ nghệ lúa gạo ở Saigon-Chợ Lớn Lúc ban đầu do vị trí thuận tiện liên lạc qua đường sông với các tỉnh miền Tây, nên Chợ Lớn là trung tâm buôn bán nông sản và đồ tiêu dùng giữa miền Tây và thế giới bên ngoài. Đầu thế kỷ 19 trước khi người Pháp đến, Chợ Lớn được gọi là Tai Ngon hay Saigon, Saigon được gọi là Bến Nghé. Gạo là sản phẩm quan trọng nhất, các thương gia người Hoa ở Chợ Lớn nắm vai trò hầu như độc quyền thu mua từ cuối thế kỷ 19 cho đến giữa thế kỷ 20 khi vận tải qua sông rạch là phương tiện giao thông chính. Dưới thời nhà Nguyễn, xuất khẩu ra các nước ngoài được kiểm soát ngặt nghèo và nghiêm cấm. Triều đình thu thuế và thâu mua lúa gạo vào kho dự trữ và cung cấp cho nhiều vùng trong nước. Vì thế miền nam là vựa lúa quan trọng cho cả nước. Các tàu ngoại quốc đến buôn bán, mua nông sản (gạo, đường,..) bán đồ tiêu dùng, phải xin phép triều đình trước khi cặp bến và chịu nhiều thuế. Cảng Saigon rất hạn chế và các tàu nước ngoài ít viếng vì rất khó khăn được phép, nhất là từ khi có chính sách bế quan tỏa cảng của vua Minh Mạng. Từ khi Pháp đánh chiếm Saigon năm 1861, cảng Saigon trở thành cảng mở, buôn bán tự do. Thương mại của người Hoa bộc phát, và sau khi các tỉnh miền Đông và Tây hoàn toàn thuộc Pháp, tư bản Pháp và thương gia người Hoa cạnh tranh và nắm hầu như toàn bộ kinh tế Nam kỳ. Với dân số gia tăng ở Trung quốc, Hồng Kông, Nhật và sự di dân từ nam Trung quốc, Ấn Độ đến Singapore, Mã Lai thành lập phát triển các đô thị mới vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, tất cả các nơi này đều có nhu cầu lương thực nhất là gạo để đáp ứng nhân sự gia tăng. Gạo xuất khẩu từ Siam (Thái Lan), Miến Điện (Burma nay gọi là Myanmar) và Nam Kỳ đã đáp ứng được nhu cầu này. Điều này cho thấy sự phát triển kinh tế ở nhiều nơi ở Đông Nam Á trong thời kỳ này một phần cũng nhờ vào kho vựa lúa ở Nam Kỳ. Phá rừng, lập rẫy và đào kinh, rach dẫn nước canh tác ruộng của những di dân đến nhũng vùng mới ít người đã nâng diện tích trồng lúa ở các tỉnh Rạch Giá, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long An, Gò Công, Long Xuyên, Sa Đéc, Châu Đốc... Các kênh rạch cũng làm thuận tiện sự lưu thông hàng hóa. Từ khi kênh Duperré (canal Duperré, nay là kênh Chợ Gạo) được hoàn tất vào năm 1877 nối sông Tiền Giang gần Mỹ Tho với sông Vàm Cỏ (qua ngã Chợ Gạo, rạch Gò Công) rồi từ đó đổ về Saigon-Chợ Lớn qua kênh Nước Mặn (đào năm 1879, gọi là canal Mirador), Cần Giuộc và sông Rạch Cát, lúa từ các tỉnh miền Tây có thể dễ dàng chở về Chợ Lớn qua sông rạch mà không còn phải đi đường biển khó khăn và xa theo cửa sông Đồng Nai ở Cần Giờ để vào đến cảng Saigon và thành phố Chợ Lớn. Đây là con đường thủy huyết mạch giữa miền Tây và Saigon-Chợ Lớn và từ đó đến miền Đông Nam bộ và thế giới. Không như ngày nay, hệ thống đường bộ và phương tiện xe di chuyển rất hạn chế và ít hiệu quả kinh tế trong những thập niên đầu thế kỷ 20 cho đến gần cuối thế kỷ 20, so với đường thủy qua sông rạch. Vì thế Chợ Lớn là nơi thuận lợi hội tụ lúa gạo và các nhà máy xay lúa để xuất khẩu từ cảng Saigon. Năm 1877, nhà máy xay lúa đầu tiên ở vùng Saigon-Chợ Lớn được xây dựng. Trong cuối thập niên 1920, diện tích canh tác lúa ở Nam kỳ là 1,500,000 hecta, Đông Dương xuất khẩu (16) trung bình trong các năm 1921-1926 là 1,449,000 tấn gạo, đứng hàng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Miến Điện nhưng trước Siam (Thái Lan). Tổng trị giá xuất khẩu là 68% của tất cả giá trị xuất khẩu (2,629,000,000 Fr trên 3,855,000,000 Fr vào năm 1926). Giá gạo trên thị trường thế giới (10) tăng vọt từ năm 1900 khi giá gạo hạng 1 là 3.25$ (piastres) đến tháng 1 năm 1924 là 10.10$ mang lại lợi tức lớn cho điền chủ, nhà nông, thương gia và kỹ nghệ gia Pháp, Việt và Hoa. Dưới thời cựu trào nhà Nguyễn trước khi Pháp đến, gạo bị nghiêm cấm xuất khẩu do tư nhân hay chở mang ra ngoài khỏi Nam kỳ. Nông dân chỉ làm đủ ăn, hay dư chút để lại của cải cho con cháu. Khi cảng và thương mại mở rộng, lợi nhuận từ buôn bán tự do và xuất khẩu làm năng xuất sản xuất lúa gạo ở các tỉnh Nam kỳ tăng vọt trong thời tân trào. Năm 1885, ở Saigon-Chợ Lớn có các nhà máy xay lúa do người Pháp làm chủ dọc rạch bến Nghé và kênh Tàu Hủ: nhà máy Khánh Hội, nhà máy Chợ Lớn của công ty Rizerie à vapeur (ông Calhuzac đại diện quản lý) và nhà máy của công ty Rizerie Saigonnaise (do công ty anh em Denis, Denis frères làm quản lý). Ngoài ra còn có rất nhiều cơ sở nhỏ buôn bán lúa gạo và xay lúa do người Hoa và người Việt làm chủ trong vùng Saigon-Chợ Lớn, mà chủ yếu là tập trung dọc trên các bến Quai de Gaudot (nay là đường Hải thượng Lãn Ông), quai de commerce (bến Bạch Đằng, Chương Dương), quai de My Tho (bến Trần Văn Kiểu), quai de Jonques (bến Bình Đông) (9) và người Ấn Độ thì đa số chuyên làm nghề dịch vụ đổi tiền, may mặc, sản xuất và buôn bán sữa. Nhưng không bao lâu sau, vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, người Hoa ở Chợ Lớn và các thương gia gốc Hoa từ Singapore, Penang, Batavia đến Saigon đã vượt hẳn và cạnh tranh với người Pháp trên thị trường lúa gạo. Họ lần lần chiếm ưu thế, xây cất thêm và mua lại các nhà máy xay lúa của người Pháp. Để điều hành các nhà máy, họ mướn các chuyên gia kỹ thuật người Pháp, Anh, Đức để quản lý và bảo hành các máy xay lúa chạy bằng hơi nước. Các thương gia người Hoa đến Saigon-Chợ Lớn từ Hồng Kông, Singapore, Batavia (Java), Malacca lập cơ sở thương mại trong đó gạo đóng vai trò quan trọng như ông Vương Thái, Tạ Mã Điền. Ông Vương Thái, thương gia từ Hồng Kông, có một dãy nhà mà người Pháp gọi là Wang-Tai cité để cho các di dân người Hoa mới đến Chợ Lớn có chỗ cư ngụ và làm ăn gây dựng cuộc sống mới. Khu này gần kênh Tàu Hủ, ngày nay là ở đường Phan Huy Chú gần Quai Gaudot (đường Hải Thượng Lãn Ông ngày nay). Công ty của ông Vương Thái đặt văn phòng chính ở đường Charner (Wang-tai père et fils, 1985) (9) Theo Louis Imbert (11), vào cuối thế kỷ 19, thì vùng Saigon-Chợ Lớn có 7 nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước ở Chợ Lớn và một ở Saigon. Những máy xay lúa chạy bằng hơi nước mua với giá hơn 1 800 000 Francs, các máy này được chế tạo dựa vào máy đã dùng có hiệu quả bởi người Anh ở Miến Điện (1) và Siam. Nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước đầu tiên ở Saigon-Chợ Lớn là nhà máy của ông Andrew Sthingyer(2) lập ra vào năm 1874 (12). Ông Sthingyer cũng là người đầu tiên xây xưởng xay lúa đầu tiên vào năm 1869, chỉ 8 năm sau khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ. Hầu hết các máy xay lúa chạy bằng hơi nước là mua từ Anh, trong đó có 2 nhà máy dùng máy xay Barley Mill (12) mặc dầu ở Pháp cũng có các nhà sản xuất máy xay chạy bằng hơi nước. Điều này cho thấy các thương gia và kỹ nghệ người Hoa từ Singapore, Mã Lai, Miến Điện… thuộc địa của người Anh, đã có ảnh hưởng, và là chủ các nhà máy ở Chợ Lớn, họ đã không ngần ngại dùng các máy từ Anh giống như ở các nơi họ xuất phát. Công suất của các máy này là từ 600 đến 900 mã lực, nhiên liệu dùng đốt để tạo hơi nước là trấu (vỏ hạt lúa sau khi đã xay thành gạo). Tùy theo cách sử dụng và cách thức làm việc, các máy sản xuất từ 500 đến 700 tấn gạo nhà máy từ 700 đến 900 tấn lúa được xay trong 24 tiếng mỗi ngày, các máy khác thì sản xuất từ 250 đến 400 tấn gạo từ 400 đến 500 tấn lúa. Nước dùng cho máy hơi nước được lấy từ kênh rạch (kênh Tàu Hủ) cạnh nhà máy, nước được chứa trong các hồ chứa khi thủy triều lên cao và dùng cho máy xay suốt ngày. Lúa được xay thành gạo qua ba giai đoạn: xay bỏ vỏ, làm trắng và làm láng. Khi lúa đến nhà máy, lúa được đổ vào máy gạn lọc để loại ra các vật hạt sạn trộn lẫn trong lúa như gỗ, đá, bụi, rơm… Sau đó chúng được nâng lên trong các cốc chứa lớn để đổ vào máy xay. Máy xay tách vỏ lúa ra khỏi hạt và vỏ được gạt ra hay thổi ra. Lúa sau khi tách vỏ được gọi là gạo đóng hàng (riz cargo). Gạo này được đóng thành hàng cargo và xuất khẩu với khối lượng lớn qua Âu châu hay Trung quốc dưới nhãn hiệu "cargo 5, 15, 20, 30 %" tùy theo chúng còn chứa ít hay nhiều phần trăm hạt lúa còn lẫn trong gạo đã xay. Sau khi gạo đã xay, chúng được máy kéo đưa qua nhà máy bên cạnh máy xay để làm trắng gạo (blanchissage). Những máy này được gọi là cone-mills hay barley-mills, có các mặt nhám chà và làm gạo trắng đi khi chúng quay trong các thùng lớn có mái che ở trên làm bằng kim loại. Qua giai đoạn này thì ta có gạo trắng. Qua giai đoạn thứ ba gọi là chà láng (glacage), gạo trắng được chà láng bởi các da cừu được đặt trong các trống lớn xoay vòng. Sau giai đoạn này là gạo được dùng để cho dân chúng tiêu thụ như ta đã biết. Hình 1 - Sơ đồ máy xay lúa (12) ở Saigon-Chợ Lớn cuối thế kỷ 19. Lúa được đổ vào thùng (A). Giai đoạn từ B đến F là sạn lọc các hạt đất, đá, gỗ… ra khỏi lúa, giai đoạn K đến T là bóc lúa ra hạt gạo vào thùng U. Vì thế gạo xay ra từ lúa được chia ra làm nhiều hạng khác nhau, đóng vào các bao và cân trước khi được xuất ra khỏi nhà máy: (1) Gạo cargo 2 đến 30 % lúa (2) Gạo trắng số 1, 2, 3 (3) Gạo tấm đủ cỡ (4) bột gạo cargo (từ gạo cargo) (4) bột gạo trắng Có ba loại gạo chính trong thời kỳ này: gạo Bai Xau (Bãi Xào, Sóc Trăng), hột dài và thon, được coi là gạo ngon nhất, gạo Vĩnh Long (Long Hồ), hột dài và lớn, và gạo Gò Công, hạt lớn và ngắn (12). Ở Bình Dương, Biên Hòa sau này cũng có các nhà máy xay lúa, chủ yếu lúa từ các tỉnh miền Đông Nam Bộ, tuy vậy số lượng lúa gạo không đáng kể so với các tỉnh miền Tây và Cam Bốt mang đến Chợ Lớn và cảng Saigon để xuất khẩu. Các nhà máy xay lúa thường có các hợp đồng với các thương gia ở Chợ Lớn để được cung cấp lúa trước khi xay. Hầu như tất cả các hợp đồng cung cấp lúa là trong tay người Hoa ở Chợ Lớn. Họ có hệ thống đại lý mua lúa từ các điền chủ, nông dân ở các tỉnh miền Tây và Cam Bốt mang về Chợ Lớn trên các ghe thuyền. Chất lượng gạo xuất khẩu từ Nam kỳ không phải là chất lượng cao và thuộc loại hạng 2 trên thị trường thế giới. Gạo Miến Điện (Burma) và Siam (Thái Lan) rất có giá, nhất là ở thị trường Âu châu, các gạo này thuộc loại hạng nhất. Lý do gạo từ Nam kỳ không có giá cao là vì thiếu tiêu chuẩn và do tình trạng chuyên chở, bảo quản không tốt. Những lý do này đã được biết đến từ năm 1868, sau cuộc triển lãm Hội chợ thế giới (Expo) năm 1867. Ông Mettle, hội viên của Ủy ban Canh nông và kỹ nghệ Nam kỳ (Comité Agricole et Industriel de Cochinchine) đã nói: hình dáng bên ngoài của hạt gạo không trắng, đẹp, bền và trong gạo có nhiều hạt gạo bị bể do phương pháp xay hay giã gạo không tốt của người bản xứ, và do vậy nên chỉ bán được với giá rẻ so với gạo chất lượng tốt hạng nhất của Miến Điện (13). Thị trường chứng khoán Luân Đôn cho thấy giá gạo Saigon chỉ là 30% so với gạo Rangoon (Miến Điện), vì thế mất đi 15 triệu francs trong tổng số 600000 tấn gạo xuất khẩu (13). Từ khi Pháp đến cho đến năm 1873, Chợ Lớn chỉ được coi là một quận (arrondisement) của thành phố Saigon. Vào năm 1873, một Ủy ban thành phố được thành lập nhưng chỉ hoạt động trong 3 năm cho đến 1876. Ngày 20 tháng 10 1879, thì Chợ Lớn mới chính thức là thành phố mà thị trưởng đầu tiên là nhà nghiên cứu văn hóa Landes. Thành phố Chợ Lớn phát triển mạnh mẽ là nhờ kinh tế qua lúa gạo, mang lại lợi nhuận lớn, tạo công ăn việc làm cho nhiều người như thương gia, lái buôn, công nhân, chủ ghe, tiểu thương… Do các nhà các nhà máy xay lúa hầu như chạy suốt ngày, nên ô nhiễm qua bụi thóc, lúa và tro khói đốt từ trấu để đun hơi nước cho máy xay rất nặng nề, nhất là các khu dân cư sống chung quanh gần nhà máy. Pierre Passerat de la Chapelle (12) cho biết bụi và khói qua gió tỏa lan qua các vùng chung quanh các nhà máy làm dân cư rất khó sống nổi: chúng xông vào mắt làm khó chịu và gây ra các bệnh đường phổi. Bụi và khói tro xuyên đi khắp nơi và bám đầy các nhà. Trẻ em là chịu khổ nhiều nhất. Ở bót cảnh sát Bình Tây, hội đồng thành phố Chợ Lớn không điều cảnh sát đến đó trong thời hạn hơn sáu tháng, không thì nhân viên sẽ bị tác hại nguy hiểm đến sức khỏe. Thị trưởng thành phố Chợ Lớn vào đầu thế kỷ 20 là ông F. Drouhet. Ông là người thành lập ra bệnh viện phụ sản Chợ Lớn ngày 10 tháng 5 1901. Bệnh viện này trực thuộc bệnh viện thành phố Chợ Lớn và sau đó di chuyển qua một nhà kế cạnh ngày 1 tháng 7 1901. Đây là bệnh viện phụ sản đầu tiên ở Đông Dương và ở Viễn Đông (6). Người Pháp đã biết lý do chất lượng gạo xuất khẩu không đồng đều nên được ít giá. Họ đã cố gắng thiết lập cơ xưởng nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, nhưng họ không đạt được hoàn toàn điều mong muốn, mặc dầu Nam kỳ là trung tâm sản xuất gạo lớn ở Đông Nam Á. Lý do chủ yếu là do sự trộn lẫn các loại lúa mà người Hoa mua thâu trước khi được đưa tới giao cho các nhà máy. Điều này làm chất lượng gạo xay ra không được đồng đều và tốt. So với sản xuất gạo ở Miến Điện, họ để máy chạy liên tục, lúa không được lẫn lộn, vì mỗi loại lúa cho mỗi máy khác nhau. Quan trọng hơn là mua bán lúa được tiêu chuẩn hóa qua trọng lượng (chứ không dựa vào thể tích) trong "giỏ tiêu chuẩn" (standard basket) và vì thế gián tiếp làm người mua phân biệt các loại gạo có trọng lượng hạt khác nhau. Theo Niên giám Đông Dương năm 1905 (6) thì các nhà máy quan trọng ở Saigon-Chợ Lớn được liệt kê (chủ yếu) như sau: (1) Rizerie "Ban-joo-Guan" Ban-soon-An et Cie gerants, Directeur: Tran-ho-Seng Chef mecanicien: Richardson, Ismael et White, mecaniciens (2) Rizerie "Kan-Hong-Sen" quai des Jonques Tres de patente: Khoa Teck-Pye et Khuu-Tuyet Mecaniciens: Bandwin et Encarnocoa (3) Rizerie "Ban-teck-Guan et Cie", 122 quai des Jonques, Directeur: Ngo-chung-Hoan Mecaniciens: Scheidel-Splied-Brader (4) Rizerie "Man-aeck-Yuen ou Ban-aick-Guan" 1, route de Choquan Van-ich-Nguyen (5) Rizerie "Union", quai des Jonques M. Bennecke, Directeur Bader, Mecanicien Chef (6) Rizerie "Orient", quai des Jonques, M. Bennecke, Directeur Rickenmann, Mecanicien Chef (7) Rizerie "Di-Xuong" dit Yeo-Cheong (5), quai des Jonques Directeur: Ly-truong Waston et Salltam, mecaniciens (8) Rizerie "Nam-long", 345 quai de Mytho Société Man-cheong-Yuen Administrateur-directeur M. Luu-luc Chef Mecanicien, Lassen, (9) Rizerie "Van-phong-Nguyen" a Binh-dong en construction Tập trung nhiều nhất những cơ sở buôn bán lúa gạo là trên bến “quai de My Tho” (bến Trần Văn Kiểu). Các ông Khuu-Tuyet, giám đốc nhà máy xay xát lúa “Kan-Hong-Sen” (Kiến Phương Thành) ở bến Bình Đông (quai des Jonques), có cửa hàng Long Nang (375 quai de Mytho), ông Khuu-Hac (386 quai de Mytho), ông Khuu-Te, (273 quai de Mytho). Ông Ngo-Chung-Hoan, giám đốc nhà máy xay xát lúa “Ban-teck-Guan et Cie" (122 quai des Jonques) có cửa hàng Vinh-Nguyen-Long (359 quai de Mytho) và ở 13-14 bến Xóm Củi (quai Xom-cui). Ông Luu-Luc (giám đốc quản lý nhà máy xay lúa Nam Long) và ông Ly-phuoc có cửa hàng lớn Quach-vinh-xuong (308, 309 và 310 quai de Mytho). Ngoài ra còn có các ông Lam-Tham (184 quai de Mytho), Le-Ky (264 quai de Mytho), Lac-Viem (248 quai de Mytho), Kha-tu-phuong (383 quai de Mytho)… đều là thương gia buốn bán lúa gạo. Hầu hết là người Hoa từ Straits Settlements (Singapore, Penang, Malacca) và Hồng Kông. Thống kê các nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước vào năm 1907 (6) cho thấy có sự thay đổi nhân sự ở một số nhà máy. Các nhà máy “Di-xuong” (Di Xương), Ban-Joo-Guan (Vạn Dụ Nguyên) hay Ban Soon An (Vạn Thuận An), Ban-teck Guan et Cie (công ty Vạn Đức Nguyên), Kan-hong Sen (Kiến Phương Thành) hay Kim-hong Sen là của người Hoa Baba ở vùng Cư trú Eo biển (Straits Settlements gồm Singapore, Penang, Malacca). (1) Rizerie “Union”, Quai des Jonques, Giám đốc: M. Bennecke, comptable O. Schmidt (2) Rizerie “Orient”, Quai des Jonques, Giám đốc: M. Bennecke, Comptable Stoekemann, mecaniciens Rickenmann, Muller-Munster-Fame… (3) “Nam Long”, 315 Quai de My Tho, Société Man-cheong-Yuen (công ty Vạn Xương Nguyên), Quản lý (administrateur): Luu Luc, giám đốc: Ly Lap, Kỷ thuật cơ khí (mecaniciens): Lassen, Helmich Richter et Card Caertner (4) “Di-Xuong” (Yee-cheong), Quai des Jonques, giám đốc: Quach Dam, comprador: Waston et Salltam, mecaniciens (5) Rizerie “Ban-joo-Guan” (Vạn Dụ Nguyên), 34 Quai de Mytho, Ban-soan An et Cie gerants (công ty Vạn Thuận An quản lý), giám đốc: Tran Ho Seng, Tan-vu Wee (sous-directeur), comprador: Lim Keng, mecanicien: Richardson, Ismael et White (6) Rizerie “Kan-hong Sen” (8) (Kiến Phương Thành), Quai des Jonques, Khoa Teck Pye et Khuu Tuyet, giám đốc: Khuu Tuyet (7) Rizerie “Ban-teck Guan et Cie” (công ty Vạn Đức Nguyên), 122 Quai des Jonques, directeur: Tran Ho Seng, mecaniciens: Scheidel-Splied-Brader (8) Rizerie “Man-aeck-Yuen ou Ban-aaick-Guan” (Vạn Ích Nguyên), 1 Route de Cho Quan Basse, Van Ich Nguyen Rizerie “Van phong Nguyen” (Vạn Phong Nguyên), Binh Dong Người Hoa chiếm ưu thế trong nền kinh tế lúa gạo Người Pháp không kiểm soát và cạnh tranh được với người Hoa trong khâu thu mua lúa. Các thương gia người Hoa và hệ thống đại lý của họ đi thâu mua lúa từ các nông dân và điền chủ ở khắp nông thôn Nam Kỳ và Cam Bốt, và phần lớn họ không tách ra các loại lúa khác nhau. Vì nhà máy xay trả cùng giá dựa trên chất lượng trung binh của các loại lúa nên họ không có lợi gì mà phân loại lúa mà chỉ cần trộn lẫn một phần lúa tốt với lúa kém chất lượng để bán cho nhà máy theo hợp đồng. Lúa Gò Công là tốt nhất vì chúng không dễ bị bể khi xay lúa, gạo Vĩnh Long (Long Hồ) cứng trung bình hơn gạo Bãi Xau (Bãi Xào) hay dễ bị bể khi xay. Ở thị trường Âu châu, chất lượng loại gạo hạt tròn Gò Công là tốt ít bể nhưng cũng luôn luôn bị lẫn với các loại gạo hạt dài nên làm gạo từ Nam kỳ kém phẩm chất và không được giá (13). Theo Capus (13) thì ông Paris, cựu chủ tịch Phòng Canh nông Nam Kỳ (Chambre d'Agriculture de Cochinchine) kết luận cho là những nguyên do chính làm khó khăn cho việc nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu từ Nam Kỳ: (a) sự trộn lẫn lúa chất lượng khác nhau (b) các nhà máy trả cùng giá cho các lúa thâu mua dựa vào chất lượng trung bình của các loại lúa trộn lẫn (c) đại lý mua lúa theo dung tích thay vì trọng lượng, và các nhà máy không đầu tư vào các loại máy xay khác nhau cho mỗi loại lúa, mà chỉ cần là giá gạo thấp đủ làm hài lòng những nhà xuất khẩu gạo đến các thị trường Trung quốc và Viễn Đông cho đa số các loại gạo này là đủ. Họ không cần để ý đến thị trường Châu Âu mặc dầu thị trường này được giá cao cho gạo có chất lượng nhưng họ cho là khó khăn không dễ ăn như các thị trường khác. Vì đa số nhà máy là của người Hoa và thầu cung cấp lúa nằm trong tay họ nên ông Paris đề nghị chỉ có cách ra khỏi vòng oan nghiệt này là người Pháp phải đầu tư có những đồn điền trồng lúa riêng (chỉ có một số người Pháp, như các ông Jourdan, Abalaine, Dugos, Remy Gressier(3), Bernard Labaste ở Sóc Trăng). Ở tỉnh Sóc Trăng, năm 1933 (14) trong số 16 điền chủ có ruộng lớn là các ông: Bernard Labaste (Rizière de Hélèneville) 6500 mẫu, Gressier 4088 mẫu, Huỳnh Thị Ngọ 2271 mẫu, Lê Văn Trước 1939 mẫu, Nguyễn Hữu Trinh 2500 mẫu, Lâm Quang Chiêu 1870 mẫu, Trương Chánh Viên 1200 mẫu... Nhà máy xay lúa của ông Gressier ở Phú Lộc (Sóc Trăng) sản xuất khoảng 4000 tấn gạo từ vụ lúa của ông và những nông dân, điền chủ trong tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu. Ở Chợ Lớn, các nhà máy do người Pháp làm chủ (Distilleries d’ Indochine, Rizeries d’Extrême-Orient, Société des riz d’Indochine) có máy tối tân hơn và họ mua lúa theo tiêu chuẩn chọn sẵn với giá cao từ nông dân hay thương gia, để nâng chất lượng gạo xay ra. Mỗi tháng các nhà máy này sản xuất từ 35000 đến 40000 tấn gạo chất lượng cao (16). Ngày nay sau hơn 100 năm, gạo xuất khẩu Việt Nam ở cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 vẫn không được cao giá như gạo Thái Lan. Lý do cũng không khác bao nhiêu thời Pháp thuộc ở cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, tựu trung là vì tiêu chuẩn không cao và không đồng đều và chỉ nhắm vào thị trường không cao cấp. Ngược lại vào đầu thế kỷ 20, Nhật lại xuất khẩu gạo tốt của họ có chất lượng cao có tiếng cùng với gạo Miến Điện ở thị trường Âu châu với giá cao hẳn so với gạo từ Saigon và họ lại nhập gạo giá thấp từ Nam Kỳ để đáp ứng nhu cầu người dân. Họ nhìn xa, đầu tư vào thương hiệu ở thị trường cao cấp với lợi nhuận nhiều cho sự siêng năng chăm chỉ đã bỏ ra và tiết kiệm được nhiều. Theo Niên giám Đông Pháp (Annuaire général de l'Indo-Chine française) vào năm 1914 (6) thì có 9 nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước 1- Bang-aik-Guan (Vạn Ích Nguyên), trước là nhà máy Sthingyer của ông Andrew Sthingyer. 2- Ban-teck-Guan (Vạn Đức Nguyên), của người Hoa (Baba hay Peranakan) từ Singapore, trước đây cho đến năm 1886 chỉ thu thập lúa gạo để đóng hàng cargo, sau 1886 thì xay lúa thành gạo trắng 3- Union, nhà máy có cổ phần hùn của người Pháp, Đức và Hoa, được điều hành bởi công ty Société Speidel (4) của Đức, nhà máy xay lúa thành gạo và đóng cargo gạo để xuất khẩu. 4- Van-de-Nguyen (Vạn Dụ Nguyên), còn gọi là Bon-soan-An, hoàn toàn của người Hoa (Baba) từ Singapore, xây năm 1893, hoạt động năm 1895, xay lúa gạo và đóng cargo hàng 5- Kian-hong-Seng(8) (Kiến Phương Thành), của người Hoa từ Singapore, xây năm 1886, xay lúa làm gạo trắng và đóng cargo; bị cháy đầu năm 1907; 6- Van-xuong-Nguyen (Vạn Xương Nguyên), còn gọi là Nam-Long(7), hoàn toàn của người Hoa, Société Man-cheong-Yuen (công ty Vạn Xương Nguyên) từ Hồng Kông. Xây năm 1893, hoạt động 1895; làm gạo trắng và đóng hàng cargo. 7- Rizerie Orient, cùng các chủ hùn hùn vốn và điều hành như ở nhà máy Union; bị cháy ngày 21 tháng 4 1896 lúc bắt đầu hoạt động, được xây trở lại. 8- Yee-Cheong(5) (Di Xương), hoàn toàn của người Hoa (Baba gốc Phúc Kiến) từ Penang Bang-hong-Guan, hoàn toàn của người Hoa (Baba gốc Phúc Kiến) từ Java Hình 2 – Nhà máy xay lúa Orient (Rizerie Orient), trên Bến Bình Đông (Quai des Jonques) Tất cả các nhà máy trên nằm ở dọc theo bến sông và kênh để dễ dàng nhận các giạ lúa (paddy) từ các tàu bè mang lúa từ miền Tây, Cam Bốt. Sau khi xay xong, gạo được đóng chất vào các bao gạo và mang xuống tàu chở ra cảng Saigon để xuất khẩu đến các thị trường như Trung Quốc, Singapore, Java và Manila... hoặc mang đi phân phối bán trong toàn Đông Dương. Dọc bến ở các nhà máy này lúc ban đêm có đèn điện thắp sáng để làm việc đêm. Chợ Lớn bắt đầu có điện vào cuối năm 1906 trên các trục giao thông chính (6) và có ba trạm điện tín (bureaux telegraphiques), một trạm trung tâm ở bến Hội Hiệp (quai Hoi-Hiep tức Quai Gaudot nay là đường Hải Thượng Lãn Ông), một ở Bình Tây và một ở Chợ Quán và hệ thống điện thoại nối hai thành phố Saigon và Chợ Lớn được thành lập. Khi thế chiến thứ nhất xảy ra, các cơ sở thương mại của người Đức ở Đông Dương bị chế tài, công ty Speidel coi như bị phá sản. Theo báo “The Straits Times” ở Singapore thì ngày 20 tháng 8 năm 1915, hai nhà máy “Orient” và “Union et Progress” của công ty Speidel được bán đấu giá ở Saigon. Nhà máy “Union et Progres” được bán cho ông Lim Kim với giá $570,000 và nhà máy “Orient” cho ông Ly-Cho Chung với giá $785,000 (24). Chú thích (1) Hiện nay (2011) ở Miến Điện (Myanmar), một số nhà máy xay lúa vẫn còn dùng máy xay lúa chạy bằng hơi nước (2) Andrew Sthingyer là người Mỹ đầu tiên sống tại Nam kỳ, ông là nhà báo, thương gia đi cùng với đoàn quân viễn chinh Pháp đánh các tỉnh miền Đông Nam kỳ lúc ban đầu. (3) Ông Gressier có ruộng lúa ở Sóc Trăng, Vĩnh Hưng (Rạch Giá) và nhà máy xay lúa ngay tại Phú Lộc, tỉnh Sóc Trăng. Ông còn có các tàu chở lúa gạo đi Saigon-Chợ Lớn để bán và xuất khẩu. Ông mướn nhiều người Việt hay Pháp làm việc cho cơ sở thương mại lúa gạo của ông. Người Việt gọi cơ sở của ông là “điền ông kho Gressier”. Sau 1945, một số tàu chuyên chở của ông được Hải quân Pháp trưng dụng và tái thiết làm tàu tuần tiễu trên sông rạch. (4) Công ty Speidel là do ông Theodore Speidel, người Đức, lập ra ở Saigon năm 1868.. Ông Speidel cũng là lãnh sự đại diện cho Đức, Bỉ, Đan Mạch và Hòa Lan ở Nam Kỳ. Công ty Speidel có chi nhánh ở Hà Nội, Hải Phòng, Phnom Penh. Ông Speidel xây dựng hai nhà máy xay lúa Orient va Union ở Saigon, ông hợp tác buôn bán lúa gạo với người Hoa ở Saigon-Chợ Lớn. Công ty cũng có các tàu chở hàng và hợp tác chặt chẽ với người Hoa ở Đông Nam Á. Trong hồi ký “Vãng An Nam nhật ký” của một thương gia người Hoa từ Java (thuộc Hòa Lan) đi thăm Saigon năm 1890 thì khi đến Saigon, ông Speidel đã tiếp đón ông và dẫn ông đến cửa tiệm nhà của một người Baba quốc tịch Anh tên là Chan Eng Bok (Zeng Yingmu) ở đường rue des Baba, Chợ Lớn (đường Phùng Hưng hay Phúc Kiến ngày nay) để tá túc (25). Ở Chợ Lớn, ông là hội viên của Association Hospitalière de Cochinchine (6) (thành lập 11/9/1905). Ông Speidel mất năm 1909 ở Paris. Công ty sau đó được điều hành bởi F.W Speidel (22). Sau khi thế chiến thứ nhất xảy ra (1914), công ty hoàn toàn bị hạn chế hoạt động ở Đông Dương. Một người Hòa Lan, Jan Mulder, nhân viên của công ty Speidel ở chi nhánh Hải Phòng là người đầu tiên chụp những ảnh ba chiều ở Hải Phòng trong các năm 1904-1908. (5) Đây có thể là nhà máy của ông Trương Bật Sĩ (Cheong Fatt Tze (1840-1916), 張弼士), một thương gia giàu có người Hoa gốc Hẹ ở Penang (Malaysia), được mênh danh là ‘Rockfeller of the East’. Biệt thự to lớn xây theo kiến trúc cổ truyền Trung Hoa của ông ở Penang nay là di tích được bảo tồn và được nhiều du khách đến viếng thăm của thành phố Penang sau khi được đưa vào danh sách Di sản Thế giới. Theo Niên giám 1933 (7), thì có ghi công ty tàu biển Yee-Cheong mỗi tuần 2 lần đi từ Singapore đến Sán Đầu (Swatow, Quảng Đông), đều ghé Saigon. Năm 1903, trên bố cáo trang 1 trên tờ báo “The Straits Times” (23 December 1903) ở Singapore, ông Chan Ban (con của ông Chan Choon, một thương gia ở vùng Straits Settlements) đang làm ở nhà máy xay xát gạo Yee-Chong ở Chợ Lớn đăng tìm tin tức thân nhân đã mất liên lạc của một người Hoa Singapore quen của cha ông lúc làm việc ở Hồng Kông, Macao (20). Điều này chứng tỏ những người Hoa từ Straits Settlements (Singapore, Penang, Malacca) vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã đến Chợ Lớn buôn bán, sản xuất lúa gạo. Và chủ nhà máy Yee-Cheong là người Hoa từ vùng này, rất có thể là của ông Trương Bật Sĩ. (6) Nhà máy Guan-Hong-Sen, ở bến Bình Đông (quai des Jonques) còn có thể có tên là nhà máy Seng Guan (Thành Nguyên). Li Tana (21) có liệt kê Seng Guan Rice Mill cùng với nhà máy Kim Hong Seng. Nhà máy này của người Baba (Peranakan) có kỷ sư người Anh làm việc. Đây có thể là nhà máy của công ty Thành Hạnh (Chin Seng) của ông Trần Kim Chung (Tan Kim Ching), một đại thương gia (“Kapitan Cina”) ở Singapore lập ra vào cuối thế kỷ 19. (7) Nhà máy xay lúa Nam Long có lẽ là của người Hoa từ Hồng Kông. Báo South China Morning Post ở Hồng Kông năm 1921 có đăng về vụ tranh chấp qua ngân hàng HSBC (HongKong Shanghai Banking Corporation) giữa Kung Yuen và người quản lý kế nhiệm của nhà máy Nam Long sau khi ông quản lý Lau Luk (Lau Tse Tsun) mất (21). Theo tạp chí “Bulletin la Société des études indochinoises de Saigon” (1915, No. 67) thì người thành lập “Maison” Nam Long là To-duong-San. (8) Kan-Hong Seng (Kiến Phương Thành) hay Kim-Hong Seng còn có tên là Ngy-Cheong Seng (21). Đây cũng có thể là nhà máy ông Trần Kim Chung (Singapore) xây vào năm 1886. Tham khảo (1) La revue du Pacifique, 1923/07(A2,N7)-1923/12(A2,N12), pp. 501-502 (2) Thomas Engelbert, Chinese Politics in Colonial Saigon (1919–1936): The Case of the Guomindang, Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010. (3) Geoffrey Gunn, The Great Vietnamese Famine of 1944-45 Revisited, The Asia-Pacific Journal, japanfocus.org/-Geoffrey-Gunn/3483(4) Annuaire administratif de l'Indochine. 1937, Impr. d'Extrême-Orient (Hanoï), 1937, pp. 244 (5) Li Tana, The Tomb Inscription of Tjia Mah Yen, a Hokkien Businessman of French Cochinchina, Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010. (6) Annuaire général de l'Indo-Chine française ["puis" de l'Indochine], Publisher : Hanoi, 1905, 1906, 1907, 1910 (pp. 583), 1914 (pp. 453-455), 1918. (7) Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières... : Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934 / éditeurs madame L. Lacroix-Sommé, messieurs R. J. thingyson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933. (8) Recueil des procès-verbaux des séances plénières du Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de l'Indochine: session ordinaire de 1938, Grand conseil économique et financier de l'Indochine, Impr. de Le-Van-Tan (Hanoï), 1929-1939, pp. 242-244. (9) Annuaire de la Cochinchine française 1865, Saigon,1865-1888. (10) Bulletin bi-mensuel (de la Chambre de commerce de Saïgon), 20 Juin 1881, 25 Janvier 1890, 5 Juillet 1900, 19 Fevrier 1918, 21 Mai 1924, 2 Janvier 1923, 15 Fevrier 1928, 15 Janvier 1933, Saigon (11) Louis Imbert, La Cochinchine au seuil du XXe siècle, Impr. de J. Durand (Bordeaux), 1900. (12) Pierre Passerat de la Chapelle, L’industrie du decorticage du riz en basse-cochinchine, Bulletin de la Société des études indochinoises de Saigon, Imprimerie L. Ménard, 1901, pp. 49-85. (13) Guillaume Capus, Le riz d’indochine, Annales de Geographie, 1918, Vol. 27, No. 145, pp.25-42. (14) Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières: Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934 / éditeurs madame L. Lacroix-Sommé, messieurs R. J. thingyson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933 (15) Le Khuong Ninh, Investment of Rice Mills in Vietnam, The Role of Financial Market Imperfections and Uncertainty, www.economicswebinstitute.org/essays/investviet.pdf(16) Albert Naud, L'exportation des grands produits agricoles indochinois, Annales de Géographie, 1930, Volume 39, Numéro 217, pp. 50-60. (17) Annuaire général de l'Indo-Chine française, 1901, 1923. (18) Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ 1997. (19) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1991. (20) The Straits Times, 23 December 1903, newspapers.nl.sg/Digitised/Article/straitstimes19031223.2.2.4.aspx(21) Li Tana, 尋找法屬越南南方的華人米商 (Tầm trào Pháp thuộc Việt Nam nam phương đích Hoa nhân mễ thương), Chinese Southern Diaspora Studies, Vol. 4, 2010, csds.anu.edu.au/volume_4_2010/20-5C_CSDS_2010_Tana_Li.pdf(22) Julia Martinez, Chinese rice trade and shipping from the North Vietnamese port of Hai Phong, Chinese Southern Diaspora Studies, Vol. 1, 2007, csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Martinez.pdf(23) Rajeswary Ampalavanar Brown, Bank archives and research on Chinese business communities in Indo-China, South China Research Resource Station Newsletter, 15/7/2001, ihome.ust.hk/~schina/PDF/news24.pdf(24) The Straits Times, 3 September 1915, ‘Saigon Rice Mills Sold”, trang 6, newspapers.nl.sg/Digitised/Article/straitstimes19150903.2.36.aspx(25) Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Saigon: notes de voyage d’un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191 (26) The Straits Times, 22 May 1931, newspapers.nl.sg/Digitised/Article/straitstimes19310522.2.17.aspx(27) Nguyễn Đức Hiệp, Singapore-Saigon-Hong Kong: Quan hệ thương mại người Hoa từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/singapore-saigon-hong-kong/(28) Rapports au Conseil de gouvernement, session ordinaire 1927, 1928, 1929 / Gouvernement général de l'Indo-Chine, Impr. d'Extrême-Orient (Hanoï), 1927, 1928, 1929 Nguyễn Đức Hiệp
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 11:18:45 GMT 9
Phong tục về sinh đẻNguyễn Dư Chửa là cửa mả Chửa con so làm lo láng giềng Đàn bà Việt Nam ngày xưa hầu như ai cũng lo ngại chuyện mang nặng đẻ đau. Tại thôn quê, người đàn bà có chửa (có bầu, có mang) phải tự chăm lo sức khỏe. Ngoài mấy thang thuốc bắc, thuốc nam, chỉ còn biết trông cậy vào những lời khuyên được truyền từ đờì nay sang đờì nọ. Nào là: -Kiêng ăn cua Cua là loài bò ngang. Ăn cua sẽ bị đẻ ngang. - Kiêng ăn thịt thỏ Thỏ có môi trên bị hở. Ăn thịt thỏ thì đứa bé đẻ ra sẽ bị sứt môi. - Kiêng ăn trai sò ốc hến Những giống này tiết ra nhiều chất nhờn. Nếu người mẹ ăn trai sò ốc hến thì con đẻ ra sẽ bị bịnh nhiều dớt dãi. Nào là: - Nên ăn trứng gà. Trứng gà luộc vừa trắng bên ngoài lại hồng bên trong (ta quen gọi lòng đỏ trứng gà). Người mẹ ăn trứng gà luộc thì con sinh ra sẽ có nước da trắng trẻo, hồng hào. Nước da trắng như trứng gà bóc được ưa thích hơn nước da bánh mật. - Nên ăn đu đủ. Không biết quả đu đủ có dược tính gì tốt cho bà mẹ hay đứa con không ? Với trình độ hiểu biết của dân quê ngày xưa chắc sách vở của ngành y, ngành dược cũng chả gây được sự chú ý, gợi được thắc mắc cho ai cả. Người ta khuyên bà mẹ ăn nhiều đu đủ chỉ vì một lí do đơn giản là để cho tương lai của đứa con được no đủ. Mấy lời khuyên kể trên dễ hiểu, dễ thấy vì chỉ dựa vào tên gọi hoặc bề ngoài của sự vật, không phải hiểu một cách gián tiếp như nhiều lời khuyên khác. Chẳng hạn như : - Nên uống nước dừa. Cũng như quả đu đủ, quả dừa tốt cho sức khỏe ra sao là điều chưa cần để ý. Người ta khuyên các bà mẹ tương lai uống nước dừa có lẽ vì lí do khác. Cây dừa chữ hán là da. Vì vậy cho nên uống nước dừa sẽ tốt cho da. Chữ nôm dừa được viết bằng chữ dư (dư thừa) của tiếng hán việt . Như vậy thì nước dừa còn có tác dụng làm cho tương lai đứa bé được sung túc, dư thừa. Dùng tên súc vật, hoa quả quen thuộc hàng ngày để diễn đạt một lời chúc mừng là một cách chơi chữ khá phổ biến của ngày xưa. Thí dụ con nai là lộc, con dơi là phúc, bông hoa là vinh hoa...Người miền Nam ưa thích bày cúng mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài để được cầu vừa đủ xài. Trong suốt thời gian thai nghén người đàn bà phải đứng ngồi ngay ngắn. Có như thế sau này con mới trở thành người ngay thẳng. Bà mẹ tương lai tránh nhìn những cảnh không hay, tránh nghe những chuyện không đứng đắn, không tốt, để cho con sau này thành người đàng hoàng, tử tế. Thời gian thai nghén trung bình là chín tháng mười ngày. Quá thời hạn này mà chưa đẻ thì gọi là chửa trâu. Gặp trường hợp này người chồng phải dùng phương thuật, dùng mẹo để giúp vợ chóng chuyển bụng đẻ: - Dắt một con trâu ra giữa sân, lấy dao cắt đứt sợi giây thừng buộc mũi. Trâu sổng thì con sổ. Người ta lí luận rằng muốn cho mọi chuyện được nhanh chóng thì phải tìm cách trừ bỏ những cái làm cho trì trệ, làm cho lâu hoàn tất. Phải trừ bỏ cái lâu đi. Chữ lâu, tiếng hán việt có nghĩa là cái giây thừng buộc mũi trâu. Vì thế cho nên chỉ cần cắt sợi giây thừng buộc mũi trâu đi, tức là trừ bỏ cái lâu đi, thì tất nhiên mọi chuyện sẽ được nhanh chóng. Người đàn bà sẽ mau đẻ. Không hiểu người xưa có theo dõi, ghi chép chính xác thời gian trâu chửa không ? hay là khoảng thời gian hơn chín tháng mười ngày chỉ là một trùng hợp ngẫu nhiên ? Rất có thể chỉ vì phương thuật cần đến con trâu nên hai tiếng chửa lâu ban đầu đã bị đọc trại ra thành chửa trâu ! Đến ngày đẻ... Đàn ông vượt bể có chúng có bạn Đàn bà vượt cạn chỉ có một mình Gặp trường hợp đẻ khó, người chồng phải dùng một vài phương thuật. Tùy hoàn cảnh gia đình mà chọn phương thuật thích hợp. Những phương thuật chính thường được đem ra dùng là: - Viết đầy đủ họ tên một ông quan lớn vào miếng giấy. Đem đốt miếng giấy, hòa tro vào bát nước. Vừa cho vợ uống nước, vừa đọc câu thần chú đại nhân nhập, tiểu nhân xuất (người lớn vào, trẻ con ra). Thần linh nghe bùa chú sẽ phù hộ cho sinh đẻ được dễ dàng. Không biết chữ thì nhờ người khác viết cũng được. - Lấy một cái dải rút quần vắt qua bụng vợ. Xin được cái dải rút váy của một người đàn bà hàng xóm đã từng sinh đẻ dễ dàng mang về vắt qua bụng vợ thì càng tốt. Cũng có thể cầm một cái dải rút hay cái thắt lưng (còn gọi là cái ruột tượng hay cái hầu bao) leo lên vắt qua mái nhà. Hai hành động này có ý nghĩa gì ? Vì người miền Bắc phát âm sai, nên chữ dải (dải rút) được coi là đồng âm với chữ giải hán việt nghĩa là tháo gỡ , cởi, mở. Vắt dải rút qua bụng vợ, người chồng sẽ tháo gỡ, cởì bụng vợ cho đứa con lọt lòng chui ra. Vắt dải rút qua mái nhà mang ý nghĩa trang trọng hơn, muốn tháo gỡ một khó khăn đang xảy ra trong gia đình. - Người chồng còn có thể giúp vợ đẻ nhanh bằng cách đứng giữa nhà lao chiếc đòn gánh hoặc cái gậy ra ngoài sân. Cái gậy, hay cái đòn gánh quen thuộc của dân quê, chữ hán việt là côn. Chữ côn được dùng để viết chữ nôm con. Vì thế cho nên cái gậy hay chiếc đòn gánh, tượng trưng cho đứa con, được lao ra ngoài sân để diễn tả hình ảnh đứa con lọt lòng mẹ, sổ ra. - Nhà nào có trồng cau thì người chồng có thể leo lên cây cau, ôm cây tụt xuống. Phương thuật giản dị, hình ảnh dễ hiểu, thể hiện sự mong muốn đứa bé mau tụt ra khỏi bụng mẹ. Còn mấy phương thuật khác được nói đến trong bài thơ ngụ ngôn Đám cưới chuột của dân gian vùng Liễu Đôì. Chuột cái đau đẻ, bà đỡ khuyên vợ chồng chuột : (...) Đau thì nén chịu con ơi Qua cơn vượt cạn ấy thời rinh rang Chú đi tìm bắc cái thang Leo nhà ba bậc, lăn đàng năm tao Rồi ra lặn cọc bờ ao Xong rồì mớì vào liếm láp đồ rau Cứ y như phép nhiệm mầu Làm xong là đẻ chẳng đau đớn nào (...) - Bắc một cái thang rồi leo hoặc luồn qua vài bậc. Thang nghĩa là trống không ở trong người. Thang cũng có nghĩa là vật rỗng ruột. Leo thang là tỏ ý mong muốn tạo ra khoảng trống trong người, làm cho vợ rỗng ruột. Người chồng mong cho vợ đẻ. - Leo ba bậc nhà. Cái bậc nhà chữ hán việt là cấp (bộ mịch), cấp cũng có nghĩa là nhanh chóng (khẩn cấp). Phàm cái gì muốn cho nhanh chóng (chẳng hạn như vợ đẻ) đều gọi là cấp. Vì thế mà người chồng cứ leo lên leo xuống mấy cái bậc nhà để giúp vợ đẻ được nhanh chóng. Cặp vợ chồng nào ở nhà tranh vách đất, nhà không có bậc thềm thì xoay sở ra sao? Đã có mẹo khác. - Người chồng ra nằm lăn năm vòng (tao) ngoài đường. Đường (đường đi, văn thơ còn gọi là đàng) chữ hán việt là lộ (bộ túc). Chữ lộ này đồng âm với chữ lộ (bộ vũ) nghĩa là lộ ra ngoài cho thấy. Cũng có thể giải thích rằng chữ đường (tiếng việt)đồng âm với chữ đường (bộ thổ, hán việt) nghĩa là cái ao hình vuông. Chữ ao lại có nghĩa là lõm xuống. Như vậy thì lăn đường có ý nghĩa là làm cho đứa bé ra mẳt, chào đời, hay làm cho bụng bà mẹ lõm xuống. Cả hai nghĩa đều là mong cho người đàn bà đẻ nhanh. - Nếu gần nhà có cái ao thì người chồng xuống bơi vài vòng. - Không biết bơi thì múc một bát nước ao đem về cho vợ uống ba ngụm. - Hoặc đi nhổ một cái cọc cạnh bờ ao. (Nếu không có sẵn cọc thì sai người đóng trước một cái). Nhổ cọc bờ ao mang ý nghĩa gì ? Như đã nói ở đoạn trên, chữ ao nghĩa là lõm xuống. Đóng cọc là để yểm, ngược lại nhổ cọc đi là để khỏi bị yểm. Đóng cọc bờ ao là yểm không cho lõm xuống. Người chồng nhổ cọc bờ ao là để cho bụng vợ lõm xuống, nói khác đi là mong cho vợ đẻ. Tất cả những phương thuật dùng đến ao đều mang chung một ý nghĩa. Người chồng bơi dưới ao, cho vợ uống nước ao, nhổ cọc bờ ao, đều mang ý nghĩa làm cho bụng người đàn bà lõm xuống, tức là đẻ nhanh vậy. - Liếm ông đồ (đầu) rau, có nơi khuyên nhổ nước bọt vào đít ông đồ rau. Ngày xưa nhà nào cũng có ông đồ rau (hỏa lò) bằng đất nung. Vợ đẻ khó, chồng có thể chạy xuống bếp ôm liếm ông đồ rau. Cái bếp lò, hay hỏa lò ngày xưa là do chữ lô (bộ hoả) mà ra. Chữ lô này đồng âm với chữ lô (bộ nhục) nghĩa là bày ra. Rốt cuộc ôm ông đồ rau tương đương với bày vật gì ra. Người cha tương lai muốn khoe con mình chăng ? Hành động liếm ông đồ rau hoặc nhổ nước bọt vào đít ông đồ rau không biết có còn mang ý nghĩa gì khác không hay là chỉ muốn bắt chước một cử chỉ hôn má, đét đít, nựng trẻ con ? Nhà nào sẵn có cối giã gạo thì có thể dùng phương thuật: - Đóng một cái cọc vào chân cối đá Tiếng hán việt có chữ ma (bộ thạch) nghĩa là gặp khó khăn, bị đau đớn. Chữ ma còn có nghĩa là cái cối xay bằng đá. Cái cối đá trong tình huống này trở thành biểu tượng của khó khăn, đau đớn. Người ta có thể đóng một cái cọc vào chân cối đá để yểm, để trừ khử những khó khăn, đau đớn. Làm phương thuật này người đàn bà sẽ sinh đẻ được an toàn, nhanh chóng. - Treo một thanh củi cháy dở lên xà nhà Có hai cách giải thích. Chữ liêu (hay liệu)(bộ hỏa) nghĩa là bó đuốc, là đốt cháy. Chữ liêu (bộ miên) lại có nghĩa là trống không. Phải chăng ở đây người ta dùng thanh củi cháy dở (thay cho bó đuốc) để mong cho người đàn bà bụng trống không, mau đẻ ? Chữ tẫn (bộ thảo) nghĩa là củi cháy còn thừa. Chữ tẫn (bộ nhân) nghĩa là hết tiệt, hết cữ. Thanh củi cháy dở ở đây biểu hiện sự mong muốn người đàn bà lúc ở cữ (đẻ) sao cho chóng hết cữ chăng ? Trịnh Hoài Đức (1765-1825), tác giả Gia Định Thông Chí chép rằng người Đồng Nai có tục khi sanh con lấy một que củi cháy dở cặp vào đầu một cái cọc đem cắm ngoài cổng, sinh con trai thì cắm đầu củi cháy trở vào trong nhà, sinh con gái thì quay đầu trở ra; người ta còn buộc kèm thêm một cây ráy. Toàn thể dấu hiệu ấy gọi là cái khém, riêng thanh củi cháy dở gọi là cái vỏ lửa. Tục của người Đồng Nai dường như cũng muốn báo tin rằng người đàn bà đã hết cữ, đã đẻ xong. Tục ta kiêng cho ngườì khác đến đẻ nhờ ở nhà mình, kể cả người ruột thịt họ hàng. Gặp hồì loạn lạc, có ngườì đi tản cư phải dựng lều ngoài cánh đồng để đẻ. Đáng thương nhất là những người đàn bà chửa phải lao động quần quật đến tận sát ngày đẻ, đôi khi bất ngờ phải đẻ đường, đẻ rơi. Mẹ tròn con vuông là niềm vui của mỗì gia đình Việt Nam ! Thật khó mà tưởng tượng được rằng mới cách nay chưa bao lâu, nhiều vùng quê hẻo lánh của nước ta còn chìm đắm trong những phong tục kì lạ của tín ngưỡng dân gian, những phương thuật bí hiểm của mê tín dị đoan. Bên cạnh một vài mẹo vặt vô thưởng vô phạt, có nhiều mẹo nguy hiểm như cho đàn bà đẻ uống nước hòa tro, uống nước ao ! Hầu hết các phương thuật đều do đám thầy pháp, thầy phù thủy, hay mấy ông đồ nắm được một ít vốn liếng chữ nho, chữ nôm bày đặt ra. Họ tự do diễn dịch, bóp méo ý nghĩa của chữ này chữ nọ để mê hoặc đám dân quê nhẹ dạ, cả tin. Nguyễn Dư (14/9/2000) Sách tham khảo: - Phan Kế Bính,Việt Nam Phong Tục,nxb Tổng Hợp Đồng Tháp, 1990 - Đào Duy Anh,Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, nxb Bốn Phương, 1961 - Toan Ánh, Phong Tục Việt Nam, nxb Khai Trí, 1968 - Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu, Đất Lề Quê Thói,Saigon, 1968 - Bùi Văn Cường,Nguyễn Tế Nhị, Khảo sát Văn Hóa Truyền Thống Liễu Đôi, nxb Khoa Học Xã Hộì, 1982 - Thiều Chửu, Hán Việt Tự Điển, Hà Nội, 1942
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 17, 2014 16:00:08 GMT 9
Vài tâm đắc về làng xã Việt Nam
Nguyễn Tùng
LTS : Tóm lược một số ý kiến mà Nguyễn Tùng đã trình bày trong một số công trình nghiên cứu của anh về làng xã Việt Nam, bài này được viết để cho đăng trong cuốn Nhân cách sử học do các GS Trần Văn Thọ, Nguyễn Quang NGọc và Philippe Papin làm chủ biên. Với sự tham gia của 41 tác giả Việt Nam và quốc tế, nó được thực hiện để mừng « bát tuần thượng thọ » của sử gia Phan Huy Lê.
Từ 1990 đến 2002, trong hơn mười năm, chúng tôi đã tham gia hai chương trình nghiên cứu về làng xã ở đồng bằng sông Hồng trong khuôn khổ hợp tác khoa học giữa Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (Việt Nam) với Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học (Pháp), rồi với Viện Viễn Đông Bác cổ (Pháp). Các thành quả đã được công bố trong hai cuốn sách : Mông Phụ, un village du delta du fleuve Rouge và Làng ở vùng châu thổ sông Hồng : vấn đề còn bỏ ngỏ. Trước đó, tôi cũng đã nghiên cứu làng Bảo An ở Quảng Nam. Sau đây, tôi xin ghi lại vài tâm đắc về làng xã Việt Nam đã được trình bày chủ yếu trong các cuốn sách nói trên.
Làng xã, vấn đề thuật ngữ
Qua Dư địa chí của Nguyễn Trãi, ta biết là ngay từ thế kỷ XV rất nhiều từ Hán Việt được dùng để chỉ đơn vị hành chính cơ sở ở Việt Nam : hương, giáp, phường, trại, động, sách, thôn ... và nhất là xã (Nguyễn Trãi, 1976 : 209-246). Tình trạng đó đã kéo dài ít ra cho đến đầu thế kỷ XIX như ta thấy trong cuốn Các trấn tổng xã danh bị lãm (CTTXDBL, 1981), được viết vào khoảng các năm 1810-1813, nên cần định nghĩa cũng như bình luận về các từ nói trên.
Xã là từ thường gặp nhất (đến hơn 90% trong CTTXDBL). Thông thường nó chỉ một làng lớn hay ít ra được chính quyền công nhận như thế. Nhưng nhiều xã ghi trong CTTXDBL chỉ có chưa đến mười dân nội tịch. Vào khoảng những năm 1930, ở Bắc Ninh khoảng 74 % các làng thuộc loại « nhất xã nhất thôn » và 24% gồm từ hai đến bốn thôn (xem Nguyễn Văn Huyên, 1996). Từ đầu thế kỷ XX trở đi, việc dùng từ xã để chỉ các đơn vị hành chính cơ sở ngày càng trở nên phổ biến : vào năm 1928, tất cả các đơn vị hành chính cơ sở ở Bắc Kỳ đều được gọi là xã (xem Ngô Vi Liễn, 1928).
Thôn chỉ một xã nhỏ với tất cả các chức năng của một đơn vị hành chính cơ sở. Nhưng, như vừa trình bày trên đây, thôn cũng là một đơn vị địa vực nằm bên trong xã. Khác với xóm, thôn thường có đình và một số tập tục riêng, nên có bản sắc khá đậm nét so với các thôn khác cùng xã. Từ thời Minh Mạng (1820-1840), các thôn thuộc xã do phó lý cầm đầu.
Phường chỉ một xã ở đô thị hay một xã mà phần đông dân cùng làm một nghề, thủ công hay buôn bán. Phường còn được dùng để chỉ một hội ngành nghề. Trước thời Pháp thuộc, phủ Hoài Đức (tức nội thành Hà Nội ngày nay) có rất nhiều phường.
Phường thuỷ cơ (hay thuỷ cơ) là làng ở trên sông. Theo Pierre Gourou (1965 : 437-442), vào những năm 1930, nó « gồm toàn thuyền hay bè, dân làng sống bằng nghề đánh cá hay vận tải ».
Phường tứ chiếng gồm toàn dân « tứ chiếng », tức là những người đến từ nhiều nơi, nên có gốc gác không rõ. Hai thành ngữ trai tứ chiếng và gái giang hồ thường sóng đôi nhau với nghĩa rất xấu. Phải chăng từ tứ chiếng phái sinh từ tứ trấn bao quanh kinh thành Thăng Long dưới triều Lê (Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương và Sơn Tây)?
Giáo phường gồm những gia đình làm nghề hát xướng, đàn địch.
Trang chỉ các làng thời xưa (chủ yếu từ đời Lý Trần) vốn là điền trang do các ông hoàng, bà chúa, các nhà quý tộc hay quan lớn lập ra.
Trại chỉ các làng lúc đầu gồm các lều thô sơ để ở tạm do nhu cầu lao động. Chẳng hạn, vào đầu thế kỷ XIX, Mông Phụ (thuộc xã Đường Lâm, Hà Nội) có xóm Trại sẽ trở thành thôn Phụ Khang hiện nay có số dân gần bằng Mông Phụ.
Sở : nguyên xưa đây là các sở đồn điền mà dường như, theo Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT, 1968, III : 276), Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên đã cho lập vào năm 1481 để phát triển nông nghiệp.
Châu : làng được lập trên đất bồi ở ven sông.
Vạn : làng chài. Trong từ điển của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651, vạn được định nghĩa là « nơi tụ tập nhiều thuyền bè để buôn bán ». Nó còn chỉ tập hợp những người làm chung một nghề như vạn buôn, vạn xe, vạn cấy…
Giáp : từ này rất ít khi được dùng để chỉ đơn vị hành chính cơ sở, ngoại trừ ở Thanh Hoá và nhất là ở Nghệ An (xem thêm dưới đây phần viết về giáp như là tổ chức bên trong xã).
Phố : trong từ điển của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651, từ này chỉ một "con đường có các cửa hàng buôn bán" (Rhodes, 1651: 602). Hiện nay ở các đô thị miền Bắc, các con đường vẫn được gọi là phố (phố Huế, phố Bà Triệu...), khác với cách gọi ở miền Nam. Trong CTTXDBL, các tỉnh miền núi Bắc Bộ có rất nhiều phố: 5 ở An Quảng, 6 ở Tuyên Quang, 20 ở Cao Bằng, 40 ở Lạng Sơn. Ðiều đó chứng tỏ là vào đầu thế kỷ XIX, trao đổi hàng hoá bằng đường bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc được thực hiện chủ yếu thông qua Cao Bằng và nhất là Lạng Sơn. Ở hai tỉnh này, còn có nhiều chợ và quán được ghi như là các đơn vị hành chính cơ sở. Ðiều đáng ghi nhận là các tỉnh đồng bằng bao quanh phủ Hoài Ðức (thuộc tỉnh Hà Nội sẽ được lập vào năm 1831) chỉ có một phố duy nhất là Tân Hội (nằm trên địa phận của xã Ðường Lâm ngày nay). Ðiều này cũng chứng tỏ là vào thời đó, ngoài Thăng Long ra, đồng bằng sông Hồng có rất ít phố. Các phố có lẽ rất nhỏ : chỉ gồm vài cửa hàng, quán ăn và quán trọ.
Ở các tỉnh miền núi, bản làng của các dân tộc ít người thường được gọi là sách hay động. Ngoài ra còn có nhiều từ khác như lũng, xưởng, mỏ, bến, chòm cũng được dùng để chỉ xã thôn.
Ở Nghệ An và Thanh Hoá, ta còn gặp nhiều từ khác nữa : nậu (làng do một nhóm thợ hay lái buôn lập ra), tích (làng của những làm muối?), đội (làng do một đội lính lập ra ?), tộc (làng chỉ do những người cùng một tộc lập ra?), lăng (làng có nhiệm vụ bảo vệ, tu bổ một lăng vua ?) và nhất là giáp. Cuối cùng, trong Ðại Nam thực lục (1970, IX: 123), ta thấy trong số các làng do Nguyễn Công Trứ lập ra vào năm 1838, có 14 lý và 27 ấp. Về lý xin xem dưới đây phần về giáp. Còn ấp thì đã xuất hiện trong các thành ngữ thái ấp, thang mộc ấp, thực ấp chỉ các điền trang mà các vua Lý, Trần ban cho các vương hầu. Ở Nam Bộ, ấp thường được dùng để chỉ các làng.
Trong danh sách phủ huyện, làng xã ở Đàng Trong do Lê Quý Đôn chép lại vào năm 1776 trong Phủ biên tạp lục (PBTL, 1977: 78-93), ta thấy ở hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam, ngoài xã và thôn, còn còn có phường, trang, châu, giáp, ấp, tộc, ty (?), man (làng của các dân tộc ít người?) và chợ (thị).
Về từ xã và chế độ tự trị xã thôn
Trong thời Bắc thuộc, vào đời Đường (618 - 907), Giao Châu được chia thành châu, huyện, hương và xã. Theo Cao Hùng Trưng trong An Nam Chí Nguyên, đại hương gồm từ 160 đến 540 hộ và tiểu hương từ 70 đến 150 hộ, đại xã gồm từ 40 đến 60 hộ và tiểu xã từ 10 đến 30 hộ. Dưới triều Hàm Thông (860 - 874) đời Đường, Cao Biền chia Giao Châu thành 159 hương. Năm 907, Khúc Hạo đổi hương ra giáp do quản giáp điều khiển với sự trợ giúp của phó tri giáp ; cả nước có 344 giáp (Việt sử thông giáp cương mục, 1957, II: 41; Phan Huy Lê, 1984: 137). Vào thời này, theo Ngô Thì Sĩ, đơn vị hành chính cơ sở là xã do chánh lệnh trưởng và tá lệnh trưởng đứng đầu, ngoài ra còn có cả giáp trưởng, nhưng Ngô Thì Sĩ không nói gì đến giáp (Ngô Thì Sĩ, 1997: 138). Năm 1242, Trần Thái Tông đặt các chức đại tư xã (từ ngũ phẩm trở lên) và tiểu tư xã (từ lục phẩm trở xuống) cai trị từ hai đến bốn xã: mỗi xã do các xã quan quản lý được gọi là xã chính, xã sử và xã giám (ĐVSKTT, 1967, II: 17). Ngoài ra còn có chức câu đương lo giữ gìn an ninh trật tự (ĐVSKTT, 1967, II: 34). Năm 1297, Trần Anh Tông lại đổi giáp thành hương. Năm 1397, Trần Nghệ Tông "bãi các chức đại, tiểu tư xã" nhưng vẫn giữ chức quản giáp (ĐVSKTT, 1967, II: 201).
Trong thời Minh thuộc (1407 - 1427), Lý Bân lập ra vào năm 1419 một đơn vị hành chính mới là lý gồm khoảng 110 hộ, đặt dưới sự điều khiển của lý trưởng được chỉ định mỗi năm (ĐVSKTT, III: 8).
Vào đầu đời Hậu Lê, năm 1428, Lê Thái Tổ cho các xã lớn (từ 100 nội tịch trở lên) được có ba xã quan, các xã trung bình (từ 10 đến 50 nội tịch) có hai xã quan và các xã nhỏ (gồm 10 nội tịch hay ít hơn) có một xã quan. Năm 1466, Lê Thánh Tông thay xã quan bằng xã trưởng (ĐVSKTT, 1968, III: 198). Để chống nạn gia đình trị, vào năm 1488 vua quy định tri phủ hay tri huyện chỉ được cử một người trong nhóm anh em ruột và anh em chú bác làm xã trưởng.
Nhờ bi ký khắc vào năm 1543 ở chùa Hương Sơn (Phù Ninh, Phú Thọ) ta biết được rằng các chức xã chính, xã sử vẫn còn vào thế kỷ XVI (Đinh Khắc Thuân, 1996: 68). Từ quan viên xuất hiện lần đầu trên bia của xã An Trạch (Nam Xương, Hà Nam) dựng vào năm 1531 (Đinh Khắc Thuân, 1996: 54), và sau đó ít lâu trên bia của xã Đệ Nhị (Mỹ Lộc, Nam Định) (Đinh Khắc Thuân, 1996: 77).
Điều đáng để ý là trong từ điển của Alexandre de Rhodes có ghi hai từ cai xã và ông xã như là « người đứng đầu xã ». Như vậy hai từ này đã được dùng trước năm 1651, ít ra ở Đàng Trong ?
Ở Đàng Ngoài, vào năm 1658, các xã trưởng, xã sử và xã tư được các tri phủ chọn trong số các nho sĩ và người đậu sinh đồ. Năm 1670, dưới triều Cảnh Trị (1663 - 1672), các xã trưởng được chọn trong số con em của các gia đình lương thiện có khả năng giáo hóa dân; mỗi năm họ phải chịu khảo hạch và những người xuất sắc nhất được thăng làm tri huyện. Năm 1720, dưới triều Bảo Thái (1720-1731), họ được giao việc cai trị làng xã, thu thuế điền thổ và thuế thân; những người được điểm cao trong nhiều cuộc sát hạch kế tiếp nhau được ban tước. Từ 1732 trở đi, xã trưởng được chọn trong dân, nên mất đi sự quan trọng (Phan Huy Chú, 1992: 479-480) và triều đình ngưng can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của làng (Ngô Kim Chung, Nguyễn Đức Nghinh, 1987). Dường như cũng từ 1732 trở đi xã thôn trở thành « một cộng đồng tự cai trị lấy mình, tự giải quyết các tranh chấp giữa các thành viên, thu thuế cho nhà nước. Nhà nước không có quan hệ với dân làng mà với xã thôn. Và một khi hoàn thành được các nghĩa vụ đối với chính quyền, xã tự cai trị một cách tự do » (Gourou, 1965: 263). Như vậy sự tự trị của xã thôn có lẽ là một hiện tượng mới xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ XVIII.
Dường như dưới triều Minh Mạng (1820-1840), chức danh lý trưởng (do Lý Bân đưa vào Việt Nam dưới thời Minh thuộc) thay thế cho chức danh xã trưởng và các chức danh tiên chỉ, phó lý được đặt ra : hai chức danh sau chỉ được ghi trong các địa bạ lập ra từ 1832 trở đi.
Lý trưởng được giao thi hành các quyết định với sự phụ giúp của phó lý hay hương trưởng. Là người duy nhất đại diện cho dân làng trước chính quyền, lý trưởng « thu và nộp lại thuế; tiến hành chia công điền; đóng dấu vào các văn tự bán hay cầm cố ruộng đất; các văn tự sẽ vô giá trị nếu không làm thủ tục đó; đảm nhận việc bảo vệ an ninh công cộng; trình báo lên quan các tội phạm hay các sự kiện nghiêm trọng xảy ra trong làng, như giết người, cháy nhà, mở sòng bạc, buôn lậu, trộm cướp... » (Ory, 1894: 190). « Lý trưởng có thể bị luật pháp trừng trị vì việc thu và nộp lại thuế lên quan [...] Ông ta phải chịu tội thay cho dân làng. Tài sản của ông ta – nếu không có thì lấy tài sản của các kỳ mục – phải đền bù vào số tiền thuế thu thiếu. Lý trưởng giữ triện của làng. » (Pasquier, 1907: 51-52). Vì chức lý trưởng cho phép khi mãn nhiệm kỳ được tham gia hội đồng kỳ mục, nên các gia đình kình địch thường tranh nhau chức vụ này. Trái lại, một khi đã được bầu, các lý trưởng thường tìm cách từ bỏ càng sớm càng tốt chức vụ quá nặng nề này, trước khi phạm lỗi. Tóm lại, thực quyền ở làng nằm trong tay tiên, thứ chỉ và những người kỳ mục; còn lý trưởng, phó lý và hương trưởng chỉ là tay chân thân tín của họ.
Như ta biết sau 1945, chính quyền cách mạng đã lập ra xã (mới), tương đương với tổng thời xưa (ít ra về số dân), gồm nhiều xã (cũ): chẳng hạn hiện nay xã Ðường Lâm gồm cả thảy chín thôn (= xã dưới thời Pháp thuộc).
Hậu quả của cải cách hành chính nói trên là khi gặp từ xã, lắm khi ta không biết đó là xã trước 1945 (= thành phần của tổng) hay là xã hiện nay (tương đương với tổng thời xưa vì gồm nhiều làng)! Ðể tránh lẫn lộn, phải chăng nên gọi xã (mới) là tổng như trước Cách mạng tháng Tám? Có lẽ cũng nên nói thêm rằng việc dùng hai từ tổng và xã để chỉ hai đơn vị hành chính không phải bắt chước của Trung Quốc mà là một sáng tạo của người Việt!
Làng = xã ?
Theo Bùi Xuân Đính, « làng là đơn vị tụ cư truyền thống của người nông dân Việt, có địa vực riêng, cơ cấu tổ chức, cơ sở hạ tầng, các tục lệ (về cheo cưới, tang ma, khao vọng) thờ cúng riêng, tâm lý tính cách riêng và cả « thổ ngữ » (tiếng làng) riêng… ». Cho đến đây, ta có thể đồng ý với tác giả. Nhưng chúng tôi cho là ông đã lầm khi viết thêm : « …làng có bộ máy quản lý tức hội đồng kỳ mục (từ 1921 trở đi là hội đồng tộc biểu) » (Bùi Xuân Đính, 1998 : 97), vì từ làng không những chỉ các « nhất xã nhất thôn » mà cả các thôn thuộc xã.
Các xã Kim Sơn, Chân Tảo, Linh Qui, Giao Tự, Giao Tất, Phú Thị, Tô Khê của tổng Kim Sơn (Gia Lâm, Bắc Ninh) cũng được gọi, theo thứ tự, là làng Then, làng Táo, làng Vụi, làng Chè, làng Keo, làng Sủi, làng To (Nguyễn Văn Huyên, 1996 : 13) : các làng này đều là "nhất xã nhất thôn" . Nhưng khi xã được chia thành hai hay nhiều thôn, thì sự lẫn lộn có thể xảy ra, vì làng lắm khi được dùng cho cả các thôn nằm bên trong của xã. Sau đây là một số bằng chứng rút ra từ công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Huyên :
- Xã Bố Hạ (Yên Thế, Bắc Giang) gồm có bốn thôn là Bố Hạ hay làng Dinh, Bố Sơn hay làng Bo Non, làng Ðông hay Ðông Kênh, làng Thị hay Bo Chợ (Nguyễn Văn Huyên, 1996 : 150).
- Xã Thuý Cầu (Lạng Giang, Bắc Giang), dù chỉ có 185 người dân, lại gồm đến 11 thôn : Ðồng Bài, Ðồng Bằng, Ðồng Cây, Ðồng Hội, Ðồng Khanh, Ðồng Nội, làng Sanh, làng Ngoài, làng Sai, làng Trong, làng Thị (Nguyễn Văn Huyên, 1996 : 134). Khi các thôn bên xã được gọi là làng, chúng thường có đình, miếu (nhiều khi cả chùa)... và một số tập tục riêng, và vì thế có được bản sắc riêng.
Trước 1945, nếu phải dùng xã hoặc thôn trong các quan hệ chính thức với chính quyền, thì trong cuộc sống hằng ngày, người Việt thường dùng từ làng vì nó có thêm một chút gì thân thương, tình cảm hay, nói như nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi, "cảm xúc" (émotionnel) (Nguyễn Từ Chi, 1993 : 55).
Ngoài ra, cũng nên nói thêm là, theo nghĩa rộng, làng còn được dùng trong các thành ngữ làng văn, làng thơ, làng chơi, làng bẹp (những người nghiện thuốc phiện).
Ðối với người Việt Nam, từ làng gợi ngay không gian cư trú mà họ gắn bó. Thuở trước, làng thường có luỹ tre vây quanh, phân cách nó với không gian canh tác. Do đó mà có các cụm từ đối lập nhau như vào làng / ra đồng, trong làng / ngoài đồng. Ðầu làng là nơi có lối đi chính để vào làng từ đường thiên lý hay quan lộ. Thành ngữ cuối làng chỉ đầu bên kia, nơi tận cùng của làng. Thông thường thì địa phận của làng liền một dải. Nhưng đôi khi một làng có nhiều công điền nằm trong địa phận làng khác, được gọi là kỳ tại. Chẳng hạn vào đầu thế kỷ XX, làng Nhật Tảo (Từ Liêm, Hà Ðông) có công điền nằm trong không gian cư trú của làng Ðông Ngạc. Khi một xóm của làng này lại nằm trong địa phận của làng khác, thì nó được gọi là lạc giới : đó là trường hợp của một số làng (=thôn) của xã Hữu Thanh Oai (Thanh Oai, Hà Ðông) vào đầu thế kỷ XX. Một số làng lại có ruộng đất, vườn tược lẫn lộn với nhau nên gọi là hỗn canh hỗn cư. Như vậy, khác với ở Pháp (Rambaud, 1971 : 13-33), trong các làng Việt Nam trước đây, không phải lúc nào "đơn vị không gian" cũng đồng nhất với "đơn vị xã hội".
Về « giáp »
Nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi đã đặc biệt quan tâm đến vai trò quan trọng của giáp trong các sinh hoạt làng xã, nhất là về tôn giáo Nguyễn Từ Chi, 1984). Nhưng ông chưa chú ý lắm đến nguồn gốc của giáp.
Phải chăng giáp phát xuất từ chính sách của Khúc Hạo, theo ĐVSKTT (1967, I : 269), vào năm 907 đã đổi hương – do Cao Biền lập ra dưới đời Hàm Thông (860-874) – ra giáp như đã viết trên đây trong phần về từ xã. Vấn đề đặt ra là giáp của Khúc Hạo (= hương) dường như tương đương với đơn vị tổng về sau và gồm nhiều làng (xem dưới đây đoạn về tổng). Theo chúng tôi, có lẽ giáp (= làng và tổ chức bên trong làng) là hai « hoá thân » của giáp mà Lý Bân đặt ra vào năm 1419 dựa theo chính sách « bảo giáp pháp » do Vương An Thạch đề ra vào năm 1074 dưới đời Tống : là tổ chức địa vực bên trong của lý (xem trên đây phần về từ xã), giáp gồm mười hộ và do giáp thủ điều khiển. Vào lúc ấy chắc có quan hệ mật thiết giữa giáp và xóm : tùy theo số hộ, một xóm có thể được tổ chức thành một hay nhiều giáp. Trong các thế kỷ sau, một số giáp đã biến thành làng, chủ yếu ở Thanh Hoá và Nghệ An, nhưng đa số vẫn là tổ chức bên trong làng.
Ở Đông Ngạc tên các giáp (hay phe) cũng là tên của ngõ (= xóm) ghép với một số thứ tự ; theo địa bạ Gia Long, làng này có cả thảy tám giáp : Đông Giáp Nhất, Đông Giáp Nhì, Đoài Giáp Nhất, Đoài Giáp Nhì, Hoà Giáp Nhất, Hoà Giáp Nhì, Ngạc Giáp Nhất, Ngạc Giáp Nhì (Phan Huy Lê và cộng sự, 1995 : 388-393). Vào những thập niên trước 1945, các tên giáp được rút gọn thành : Đông Nhất, Đông Nhì, Ngác Nhất, Ngác Nhì, Vẽ Nhất, Vẽ Nhì, Đoài Nhất, Đoài Nhì (Phạm Văn Thuyết, 1963 : 183-184).
Cách đặt tên giáp theo tên xóm hay theo phương hướng như ta thấy ở Đông Ngạc có thể là xưa nhất. Xin đưa thêm hai bằng chứng khác :
- Vào năm 1562, bốn giáp của xã Phương Để (huyện Nam Chân, trấn Sơn Nam Hạ có tên : Đông, Trung Đông, Tây và Trung Tây (Đinh Khắc Thuân, 1996 : 106).
- Vào năm 1570, thôn Mỹ Long thuộc xã Cối Xuyên (Hội Xuyên, Hải Dương) có ba giáp Đông, Trung và Nam (Đinh Khắc Thuân, 1996 : 142).
Nhưng ngay từ nửa đầu thế kỷ XVI, tên giáp đã được đặt một cách khá tự do. Chẳng hạn, vào năm 1538, bốn giáp của xã La Uyên (Thượng Phúc, Sơn Nam Thượng) có các tên rất hoa mỹ : Kim Uyên, Ngọc Tĩnh, Cẩm Đường, Lan Đình (Đinh Khắc Thuân, 1996 : 48).
Càng về sau, giáp càng mất dần tính địa vực. Lý do chính là sự tăng dân số : vì thiếu đất thổ cư, con cháu các thành viên của giáp phải đến ở các xóm khác.
Ở Mộ Trạch, lúc đầu có 6 giáp, sau chia thành 18 giáp, rồi hợp lại còn 12 giáp ; mỗi giáp gồm các đinh của một hay vài họ nhỏ hoặc một chi, phái của họ Vũ là họ đông nhất làng (Vũ Huy Phú, 1997 : 109). Còn ở Đông Ngạc, trước 1945, từ 18 tuổi lên, đinh nào muốn vào giáp nào cũng được, không có sự bó buộc (Phạm Văn Thuyết, 1963 : 183-185).
Theo P. Gourou, « giáp là một tập hợp có tính cách tôn giáo mà người ta thuộc vào do gốc gác gia đình và có trung tâm là một ngôi đền » (1965: 266). Nhưng ông cũng công nhận rằng định nghĩa này không đầy đủ. Thật vậy, giáp phức tạp hơn nhiều, vì cách tổ chức và chức năng của nó thay đổi tùy theo làng.
Theo G. Dumontier, trong một số làng, giáp là một hội lo việc tang ma, tương trợ ; trong một số làng khác «giáp sinh hoạt như một hội có mục đích cùng làm một số nghi thức tôn giáo hay tập tục»; giáp cũng có thể chính thức đảm nhiệm việc phân chia cho các gia đình trong giáp phần sưu thuế mà họ phải đóng, tiến hành thu thuế má (Dumoutier, 1907: 309-312). Trong nhiều làng khác nữa, giáp lo bảo vệ an ninh trật tự hoặc lo tổ chức hàng năm việc thờ cúng thành hoàng và các lễ hội của làng. Chính ngày ghi tên vào sổ của giáp quy định ngôi thứ của mỗi thành viên trong giáp: nói khác đi, người ghi tên trước dù là một trẻ sơ sinh có ngôi thứ cao hơn người ghi sau cho dù người này là một ông lão trên 80 tuổi! Cũng theo G. Dumontier, trong các xã thôn theo thiên tước (hay trọng xỉ, tức là sắp xếp ngôi thứ theo tuổi tác) không có giáp: các chức năng của nó được các tổ chức theo địa vực (thôn, xóm, ngõ) đảm nhiệm. Loại làng này ít hơn rất nhiều so với các làng theo vương tước (ngôi thứ được sắp xếp theo tước vị vua ban hay tước vị mua) : vào năm 1907, ở huyện Thanh Trì (Hà Đông) chỉ có tám làng (trên 99) theo vương tước. Nhưng thông thường việc sắp xếp ngôi thứ dựa trên tuổi tác lẫn tước vị.
Ở Đông Ngạc vào khoảng nửa đầu thế kỷ XX, trong mỗi giáp, ngoài bốn người thôn trưởng chính thức đứng đầu, còn có thêm mấy người bàn nhì hay thôn trưởng sĩ bổ (đã làm xong mâm chay cỗ thờ). Những thành viên khác được gọi là nhưng bàn. 32 người thôn trưởng của tám giáp tạo thành hàng thôn trưởng hay hàng làng, được cấy ruộng của giáp để thu hoa lợi và phải lo các công việc của làng : sóc, vọng, vào đám… (Phạm Văn Thuyết, 1963 : 183-185).
Khác với Trần Từ (1984), chúng tôi không nghĩ rằng giáp được tổ chức theo lứa tuổi (classes d’âge), vì tuổi tác hay đúng hơn theo ngày ghi tên vào sổ giáp chỉ đóng vai trò phân định ngôi thứ trong giáp, chứ không kéo theo sự tổ chức thành lứa tuổi, nhất là theo nghĩa mà các nhà dân tộc học dùng khi nghiên cứu các xã hội ở châu Phi hay Nam đảo. Hơn nữa chúng ta cũng nhận thấy trong các giáp hầu như không có các nghi thức thụ pháp, kết nạp tập thể và chung sống biệt lập cho các thành viên cùng ở vào lứa tuổi vị thành niên.
Giáp có của cải riêng bằng tiền và bằng ruộng đất : « tài sản đó là do các thành viên đóng góp, di tặng hay cho. Quỹ xã hội của giáp được dùng để cho các thành viên vay tiền hay thuê ruộng đất. Thu nhập được dùng để tài trợ các cuộc vui chơi công cộng, tiệc tùng, lễ hiến sinh hay cầu xin » (Nguyễn Văn Huyên, 1944: 92).
Về đơn vị tổng
Là đơn vị hành chính nằm giữa huyện và xã (cũ), theo nhận xét của Trần Từ (1984: 147), tổng giống như một miếng đất hoang chưa ai khai phá. Do đó, ngay cả hiện nay ta không biết vào thời nào từ Hán Việt tổng được dùng để chỉ đơn vị hành chính này, một nghĩa không có trong tiếng Hán.
Trong một bài viết đăng vào năm 1990, chúng tôi đã dựa vào một tư liệu trong Phủ biên tạp lục (PBTL, 1977: 44) mà Lê Quý Ðôn lấy từ Thiên Nam dư hạ tập để đưa ra giả thuyết là chính Lê Thánh Tông đã lập ra tổng vào năm 1490 khi ông "định lại bản đồ trong nước" hay nói khác đi cải tổ hành chính (Nguyễn Tùng, 1990: 22-24).
Tài liệu xưa nhất có dùng từ tổng như là một đơn vị hành chính có lẽ là bài văn bia chùa Thiên Phúc (Xã Ða Phúc, huyện Quốc Oai, Hà Tây), được khắc vào năm 1538 (Ðinh Khắc Thuân, 1996: 55).
Ðại Việt thông sử của Lê Quý Ðôn có ghi là cha của Trịnh Khả (sinh năm 1403?), môt đại công thần của Lê Lợi, từng làm chánh tổng (1978: 207). Ðiều cần nói ngay là vào thời Lê Quý Ðôn người cầm đầu một tổng được gọi là cai tổng chứ không phải chánh tổng vì từ này chỉ được dùng từ đời Minh Mạng (1820-1840). Cũng có thể là người sao chép sách này vào thế kỷ XIX, đã sửa cai tổng thành chành tổng. Nếu chi tiết trên đây là đúng thì đơn vị tổng đã được lập trước thế kỷ XV, nhưng theo ý chúng tôi điều đó không lấy gì làm chắc. Mặt khác, cũng có thể có tương quan nào đó giữa đơn vị tổng và các chức đại tư xã và tiểu tư xã do vua Trần Thái Tông đặt ra vào năm 1242, cai trị hai, ba hoặc bốn xã (ĐVSKTT, II: 17); hoặc giữa tổng với giáp (=hương) vì như đã nói trên đây đơn vị này bao gồm nhiều làng.
Trong từ điển của Alexandre de Rhodes, được xuất bản ở Roma vào năm 1651, tổng được định nghĩa là "gồm chừng mười làng" và cai tổng là "ông quan cai trị mười làng" (Rhodes, 1651: 827). Ðịnh nghĩa này khá phù hợp với tình hình được phản ánh trong CTTXDBL (cho các trấn từ Nghệ An trở ra vào khoảng năm 1813) cũng như danh sách phủ, huyện, tổng, xã của Thuận Hoá và Quảng Nam mà Lê Quý Đôn chép lại vào năm 1776 trong PBTL (1977: 78-93). Trong cả hai tư liệu này, tên tổng hầu như luôn trùng với tên của một làng thành viên (được gọi là làng đầu tổng). Thí dụ: làng Cam Giá Thịnh là làng đầu tổng của tổng Cam Giá Thịnh
Ðiều đáng ngạc nhiên là trong các bộ chính sử trước đây, người cai tổng hay chánh tổng rất ít khi được nhắc đến: chẳng hạn ÐVSKTT chỉ ghi có một lần là vào năm 1618, triều thần làm tờ khải với Bình An vương Trịnh Tùng xin cho hỏi "bọn cai tổng cai xã" về "việc kiện về hộ hôn điền thổ"(IV: 246). Phải chăng vì thời xưa vua quan thường dựa vào các xã trưởng hay lý trưởng để thu thuế, bắt lính, bảo vệ an ninh trật tự, v.v., vì họ có được sự trợ giúp hiệu quả của các tổ chức bên trong của làng như thôn, xóm, giáp, phiên..., mà các chánh tổng không có nên không đóng được vai trò của họ.
Có lẽ chính trong cuốn Cours d'administation annamite (Giáo trình về hành chính Ðại Nam) do E. Luro giảng vào năm 1864, ta tìm thấy nhiều thông tin chính xác nhất về vai trò của người cai tổng hay chánh tổng ở Nam Kỳ vào giữa thế kỷ XIX. Dường như dưới thời Minh Mạng từ chánh tổng được tạo ra để thay thế cho từ cai tổng.
Do các quan viên, kỳ mục trong tổng bầu ra, người chánh tổng, theo E. Luro có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của dân trong tổng, thi hành các trát của quan trên, phân bổ và thu thuế má để nộp lên quan và giữ gìn an ninh trật tự trong tổng. Thông thường, chánh tổng được sự phụ tá của một phó tổng, và trong các tổng đông dân, của một bang biện hay sung biện phó tổng. "Là một người quan trọng nhờ tài sản và thế lực", chánh tổng đồng thời cũng là "người đóng vai trò hoà giải về dân sự" (Luro, 1864: 121-138).
Vì vai trò của tổng quá mờ nhạt, thời xưa dường như người Việt ít quan tâm đến tổng: bằng chứng là các sách viết về tiểu sử như Đại Nam liệt truyện chẳng bao giờ nhắc đến tổng, mà luôn luôn ghi tên huyện, rồi lắm khi ghi thêm tên làng và/hay tên tỉnh.
« Làng cổ Đường Lâm » ?
Khi vào trang web bằng tiếng Việt của Google, ta có thể tìm thấy đến cả trăm bài báo viết về « làng cổ Đường Lâm ». Theo chúng tôi cụm từ này là không chỉnh, vì người đọc có thể hiểu xã Đường Lâm hiện nay là một « làng cổ ». Trước hết, như đã nói trên đây, « xã » (mới) – được lập ra sau Cách mạng tháng Tám và nhất là từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 ở miền Nam – là tương đương với « tổng » ngày xưa, tức là gồm nhiều « xã » (cũ), từ được dùng nhiều nhất trước 1945 để chỉ đơn vị hành chính cơ sở. Do đó, ta không thể dùng từ làng để chỉ xã (mới) Đường Lâm hiện nay mà để chỉ chín làng hay « thôn » (theo cách gọi hiện nay) thành viên của nó (Mông Phụ, Cam Thịnh, Đông Sàng, Đoài Giáp, Cam Lâm, Phụ Khang, Hà Tân, Văn Miếu và Cựu Đền). Mặt khác, không phải tất cả chín thôn (làng) này đều là « làng cổ » cả. Thực ra chỉ có năm thôn Cam Thịnh, Mông Phụ, Đông Sàng, Cam Lâm và Đoài Giáp là đã được lập ra cách đây đến trên 500 năm. Còn bốn thôn kia thì đều tách ra từ Cam Thịnh (Cựu Đền), Đông Sàng (Hà Tân) và Mông Phụ (Phụ Khang và Văn Miếu) cách đây chưa đến trăm năm, thậm chí chỉ mới mươi năm thôi. Và trong năm « làng cổ » này chỉ có làng Mông Phụ là còn giữ được nhiều « nét xưa » tạo ra được dáng dấp tổng thể của một làng cổ với ngôi đình, cổng làng, cây đa cổ thụ, ao làng, quán (nhà nhỏ xây ở ngoài đồng, không có tường, để dân làng trú mưa, nắng hay để những người lỡ độ đường qua đêm vì xưa kia họ không được phép vào ngủ trong làng), điếm canh, giếng công, đường làng lót gạch…, và mấy chục ngôi nhà cổ có tường bằng đá ong và mái lợp bằng ngói mũi hài.
Vì các làng cổ nói trên (trừ Cam Lâm) nằm sát bên nhau đến mức không còn ranh giới rõ ràng, phải chăng ta nên dùng cụm từ « quần thể làng cổ Đường Lâm» để gọi chúng ?
Đường Lâm : đất hai vua ?
Ngày nay, không những ở Đường Lâm, nhiều người – trong số đó có cả một số nhà sử học – thường dùng thành ngữ « đất hai vua » để chỉ xã này và đôi khi để chỉ riêng thôn Cam Lâm. Hai vua đó là Phùng Hưng (761-802) và Ngô Quyền (899-944).
Đúng là các sử liệu đều ghi Phùng Hưng và Ngô Quyền « là người Đường Lâm ». Nhưng ta không rõ đó là một châu (= huyện) hay một làng. Và ta cũng không biết là nó nằm tại đâu ở đồng bằng sông Hồng. Dường như hiện nay hầu hết các sử gia Việt Nam đều xem xã Đường Lâm hiện nay, thậm chí làng Cam Lâm, là quê hương của Phùng Hưng và Ngô Quyền, vì lẽ, họ cũng nghĩ như Đại Nam nhất thống chí, ở làng này từ hơn một thế kỷ nay có đình thờ Phùng Hưng cũng như nhà thờ và lăng Ngô Quyền và vì lẽ bài văn khắc trên phụng tự bi của làng Cam Lân viết : « Bản xã đất ở rừng rú, xưa gọi là Đường Lâm, thời thuộc Đường có Phùng vương húy là Hưng, đến thời Ngũ Đại có Ngô vương húy là Quyền, hai vương cùng một ấp, việc ấy chưa bao giờ có » (ĐNNTC, 1971, IV : 178). Dựa trên khẳng định không vin vào cứ liệu nào cả này, ĐNNTC hồ đồ cho rằng « như thế thì huyện Phúc Thọ xưa có Đường Lâm, Đường Lâm là tên xã không phải tên châu », tuy ngay sau đó có nhắc đến quan điểm của Ngô Thì Sĩ (trong Đại Việt sử ký tiền biên) và của Phan Huy Chú (trong Lịch triều hiến chương loại chí) cho rằng Đường Lâm là một huyện ở vào quãng huyện Hoài An và Mỹ Lương thời xưa (đại khái tương ứng với huyện Mỹ Đức hiện nay thuộc Hà Nội).
Vào đầu thế kỷ XIX, Cam Lâm có tên là Cam Tuyền (xem CTTXDBL, 1981 : 42), tức chưa có từ tố « lâm » của Đường Lâm. Nhưng chỉ khoảng 60 năm sau đó, tên Cam Lâm đã thấy được ghi trong Đại Nam nhất thống chí. Phải chăng việc đổi Cam Tuyền thành Cam Lâm là để nối liền làng này với tên Đường Lâm thời xưa, rồi đi đến kết luận như trên ! Rốt cuộc, cụm từ « hai vương cùng một ấp» sau này đã được chuyển thành « đất hai vua ».
Việc đổi « Cam Tuyền » thành « Cam Lâm » theo đúng quy tắc đổi tên làng xã ở Việt Nam thời xưa mà học giả bực thầy Hoàng Xuân Hãn là người đầu tiên đã tìm ra trong cuốn Lý Thường Kiệt : tên mới của một làng bao giờ cũng giữ lại một « từ tố» của tên cũ : như Cam Tuyền thành Cam Lâm, hoặc Phi Phú → Phú An → Bảo An (từ 1975, thuộc xã Điện Quang, Quảng Nam).
Chính quyền xã Phùng Hưng cũng đã dựa vào các bằng chứng nói trên để xin quốc hội của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đổi tên thành Đường Lâm ngày 21.11.1964.
Hiện nay xã Đường Lâm còn giữ được tấm phụng tự bi ghi sự tích Phùng Hưng và Ngô Quyền. Nhưng bài văn khắc trên bia này có một số điểm đáng ngờ. Chẳng hạn nó khẳng định là bia được làng Cam Tuyền thuộc huyện Phúc Thọ, phủ Quốc Oai dựng vào năm Quang Thái thứ ba (1390). Thế mà, theo ÐNNTC (IV:178-180), tên huyện Phúc Thọ chỉ có từ năm Minh Mạng thứ 3 (1822) trở đi; từ đời Lê Quang Thuận (1460-1469) nó có tên là Phúc Lộc, rồi đổi thành Phú Lộc dưới đời Tây Sơn ; dưới đời Trần Quốc Oai là một lộ bi được lập sau năm 1822, chứ không phải vào năm 1390 ?
Bia này có ghi tên các quan viên của làng Cam Tuyền, nhưng liệu vào cuối thế kỷ XIV từ quan viên đã được dùng hay chưa? (Xem trên đây phần viết về từ xã).
Theo bài văn khắc ở phụng tự bi, thì nó đã sử dụng các sự kiện ghi trong gia phả của hai họ Phùng và Ngô. Vấn đề là trước thế kỷ XV ở Đại Việt dường như chưa có gia phả.
Tưởng cũng nên nói thêm rằng xã Đường Lâm, cùng với xã Cam Thượng láng giềng, chắc là hai hoá thân của giáp Cam Giá vào đời Lý : thật vậy, theo ĐVSKTT (I : 247), năm 1117 « người giáp Cam Giá dâng hươu đen » cho vua Lý Nhân Tông (Đường Lâm thuộc vùng « bán sơn địa », khá gần núi Ba Vì). Như ta biết, từ Hán-Việt « cam giá » có nghĩa là « cây mía » xưa kia vốn được trồng rất nhiều ở vùng này, nên «mía» thành tên nôm của nó trong nhiều thành ngữ như « phố Mía » (tức phố Tân Hội nay không còn nữa), « chùa Mía » (tức chùa Sùng Nghiêm ở Đông Sàng), « chợ Mía » (chợ Đông Sàng), « gà Mía », « bà chúa Mía ». Trước hậu bán thế kỷ XV, giáp Cam Giá nói trên đã chia thành Cam Giá Thượng (tức xã Cam Thượng hiện nay) và Cam Giá Hạ (sẽ lần lượt đổi thành tổng Cam Giá Thịnh, Cam Thịnh, rồi thành xã Đường Lâm). Tóm lại, ít ra là từ thế kỷ XII cho mãi đến năm 1964, các « tiền thân » của xã Đường Lâm hiện nay dường như chưa bao giờ có tên được tạo với hai từ tố « đường » và « lâm » !
Khó khăn lớn nhất khi nghiên cứu làng xã Việt Nam là thiếu tư liệu lưu trữ, ít ra cho đến thời kỳ Pháp thuộc. Chẳng những thế, vì các bộ biên niên sử của Việt Nam chỉ quan tâm đến các biến cố liên quan đến triều đình, đời sống kinh tế và xã hội của nhân dân hầu như không được biết đến, nhất là ở mức độ địa phương. Từ nửa sau của thế kỷ XIX, một số sĩ quan, linh mục và nhất là nhà cai trị Pháp đã ghi lại các quan sát khá tỉ mỉ của họ về xã hội Việt Nam, rồi nhiều khi viết thành bài báo hay sách. Từ 1860 trở đi, các văn kiện chính thức, những báo cáo hành chính... cũng đã được lưu trữ tương đối đầy đủ (đặc biệt về tỉnh Hà Đông): đây là điều hoàn toàn mới đối với Việt Nam. Hai nguồn tư liệu quan trọng khác là bi ký và địa bạ. Điều đáng tiếc là cho đến nay các nguồn sử liệu quý giá ấy dường như chưa được các nhà nghiên cứu Việt Nam khai thác đúng mức. Chính vì thế mà một số công trình nghiên cứu về “làng truyền thống” Việt Nam thường khá mơ hồ và nhất là cho ta cảm tưởng nó không biến đổi gì mấy qua hàng nghìn năm, kể cả trong thời Pháp thuộc. Khi nghiên cứu làng xã, chúng tôi đã băn khoăn về vài câu hỏi sau đây : Phải chăng có sự liên tục giữa các tổng thời xưa và các xã hiện nay? Phải chăng sau trên dưới năm mươi năm hiện hữu, các xã [mới] đã tạo được cho mình một bản sắc rất mạnh, nên làm lu mờ hoàn toàn bản sắc của làng đã bị thực tiễn cách mạng làm mất đi mọi thực thể? Dù từ đầu những năm 1990 có sự hồi sinh tự phát của làng truyền thống do tác động của nền kinh tế thị trường « hoang dại » ngày càng phát triển mạnh, nhưng rồi ra vai trò của thôn làng sẽ là gì trong xã hội Việt Nam ? Thú thật là cho đến nay chúng tôi vẫn cứ phân vân...
Tư liệu trích dẫn
Bùi Xuân Đính, « Bàn thêm về mối quan hệ giữa làng và xã qua quy mô cấp xã thời phong kiến », trong Đinh Xuân Lâm, Dương Lan Hải (chủ biên), Nghiên cứu Việt Nam, một số vấn đề lịch sử kinh tế - xã hội - văn hoá, Hà Nội, Nxb Thế Giới, 1998.
Các trấn tổng xã danh bị lãm được Dương thị The và Phạm Thị Thoa dịch sang tiếng Việt thành Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1981.
Dumoutier, Georges, « Essai sur les Tonkinois » [Luận về người Bắc Kỳ], Revue Indochinoise, 1907.
Đại Nam liệt truyện, Huế, Nxb Thuận Hoá, 1993, 4 tập.
Đại Nam nhất thống chí, IV, Nxb Khoa học Xã hội, 1971.
Ðại Nam thực lục, IX, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1970.
Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1967-1968, 4 tập.
Đinh Khắc Thuân, Văn bia đời Mạc, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1996.
Gourou, Pierre, Les paysans du delta tonkinois [Nông dân châu thổ sông Hồng], Paris/La Haye, Mouton, 1965, in lần thứ hai.
Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Hà Nội, Sông Nhị, 1920.
Lê Quý Ðôn, Lê Quý Đôn toàn tập, I : Phủ biên tạp lục, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1978.
Lê Quý Ðôn, Lê Quý Đôn toàn tập, III : Ðại Việt thông sử, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1977.
Luro, Émile, Cours d’administration annamite [Giáo trình về hành chính Đại Nam], bản chép tay, 1864.
Ngô Kim Chung, Nguyễn Đức Nghinh, Propriété privée et propriété collective dans l’ancien Việt Nam [Sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể ở Việt Nam thời xưa], Paris, L’Harmattan, 1987.
Ngô Thì Sĩ, Đại Việt sử ký tiền biên, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1997.
Ngô Vi Liễn, Nomenclature des communes du Tonkin [Tên làng xã ở Bắc Kỳ], Hà Nội, Lê Văn Tân, 1928.
Nguyễn Trãi, Dư địa chí trong Nguyễn Trãi toàn tập, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1976.
Nguyễn Tùng, « Tìm hiểu về tổng », Đoàn Kết, 1990, số 427.
Nguyễn Từ Chi, "Le làng traditionnel au Bắc Bộ, sa structure organisationnelle, ses problèmes" [Làng truyền thống ở Bắc Bộ, cơ cấu tổ chức, các vấn đề], trong Le village traditionnel au Vietnam [Làng truyền thống Việt Nam], Hà Nội, Nxb Thế Giới, 1993.
Nguyễn Văn Huyên, Ðịa lý hành chính Kinh Bắc. Tableau de géogaphie administrative d’une province vietnamienne : Le Bắc Ninh (ou Kinh Bắc). Hà Nội, Nxb Văn Hoá, 1996.
Ory, Pierre, La commune annamite [Làng xã Đại Nam], Paris, Augustin Challamel, 1984.
Pasquier, Pierre, L’Annam d’autrefois, Essai sur la constitution de l’Annam avant l’intervention française [Đại Nam thời xưa, Luận về sự cấu tạo của Đại Nam trước khi Pháp can thiệp], Paris, Augustin Challamel, 1907.
Phạm Văn Thuyết, Đông Ngạc tập biên, Sài Gòn, 1963.
Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1992.
Phan Huy Lê, « Về tính chất và chức năng của nhà nước thời Khúc-Dương-Ngô-Đinh-Tiền Lê (905) » trong Thế kỷ X, những vấn đề lịch sử, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1984.
Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân, Phan Phương Thảo, Địa bạ Hà Đông, Hà Nội, Trung tâm Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam, 1995.
Rambaud, Placide, « Sociologie du village » [Xã hội học về làng], trong Villages en développement. Contribution à une sociologie villageoise [Làng mạc trên đà phát triển. Đóng góp cho một môn xẵ hội học về làng mặc], Paris, La Haye, Mouton, 1971.
Rhodes, Alexandre de, Dictionnarium annamiticum lusitanum, et latinum [Từ điển Việt-Bồ-La], Roma, 1651.
Trần Từ, Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1984
Việt sử thông giáp cương mục, Hà Nội, Nxb Văn Sử Địa, tập 2, 1957.
Vũ Huy Phú, Mộ Trạch, làng tiến sĩ, Bảo tàng Hải Dương, 1997
|
|