|
Post by Vĩnh Long on Jul 1, 2014 10:32:06 GMT 9
tiếp theo bài của tác giả Việt Linh)
Tổng thống Hoa Kỳ đã công khai đồng hóa nhóm qúa khích ây với Phật giáo, và đã minh thị đồng hóa nhóm quá khích ấy với nhân dân VN.... Những sai lầm thô bạo nói trên đã hầu hết được các tác giả sau này phê phán nghiêm khắc, coi đó như những xuẩn động của chính quyền Kennedy.
Cùng ngày 2/9 tại Saigon, tờ Times of Vietnam (của chính phủ) kéo tít lớn tố cáo CIA âm mưu đảo chính chống lại chính quyền miền Nam VN. Bang giao giữa dinh Độc Lập và tòa Bạch Ốc đã căng thẳng lại càng căng thẳng hơn. Sự kiện này đã được nhóm đấu tranh quá khích tại Saigon triệt để khai thác. Nó cũng được nhóm chống Ngô Đình Diệm trong tòa Bạch Ốc triệt để khai thác.
Đang khi đó, anh em ông Diệm càng ngày càng tỏ ra quyết liệt đối với nhóm đấu tranh quá khích, cũng như dối với những đòi hỏi của tòa Bạch Ốc.
7) Công điện số 478, đại sứ Lodge gửi bộ ngoại giao
Sau những lời tuyên bố của TT Kennedy trên đài truyền hình CBS, tòa Bạch Ốc vẫn không tìm hướng đi rõ rệt, nhất là không tìm được giải pháp cho vấn đề Ngô Đình Diệm. Dúng lúc đó Robert Kennedy xuất hiện.
Robert Kennedy
Trong một phiên họp các cố vấn vê chính sách đối ngoại của TT Kennedy tại tòa Bạch Ốc, Robert Kennedy nói: "Nếu thấy không thể thắng được chiến tranh VN dưới bất cứ một chính thể nào tại miền Nam, thì bây giờ là lúc Hoa Kỳ nên rút khỏi miền Nam. Nhưng nếu nhận định rằng chế độ Ngô Đình Diệm là một trở ngại cho cuộc chiến thắng, thì đại sứ Lodge phải được trao cho toàn quyền hành động để đem lại những thay đổi cần thiết".
Vấn đề cắt viện trợ lại được đặt ra, nhất là vấn đề cắt lương của Lực Lượng Đặc Biệt do đại tá Lê Quang Tung chỉ huy. Và vấn đề lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm lại được đem lên thảm xanh của tòa Bạch Ốc.
Robert Kennedy, thay mặt anh ruột, đề nghị Ngũ Giác Đài cho biết ý kiến của các cố vấn quân sự tại chiến trường miền Nam để giúp tòa Bạch Ốc có dữ kiện hầu tìm một giải pháp thỏa đáng và dứt khoát cho vấn đề VN.
Đại tướng Taylor, tham mưu trưởng liên quân HK, bèn cử trung tướng Victor Krulag đi VN. Roger Hillsman, vì sợ Ngũ Giác Đài không am hiểu chính trị và sẽ gây trở ngại cho chủ trương lật đổ Ngô Đình Diệm, cho nên bèn đề nghị Joseph Mendenhall cùng đi với tướng Krulag.
Phái đoàn "đi tìm sự thật" đến VN ngày 7/9, và trở và Hoa Thịnh Đốn ngày 9/9. Trong hai ngày, họ đã tìm thấy sự thật ! Ngày 10/9, TT Kennedy và các cố vấn họp khẩn cấp tại tờa Bạch Ốc để nghe phái đoàn tường trình về chuyến đi tìm sự thật.
Theo Menenhall (thuộc phe Hillsman - Do Thái) thì chính quyền Ngô Dình Diệm đang đi đến sụp đổ toàn diện, dân chúng sợ và ghét vợ chồng Ngô Đình Nhu tình hình có thể đưa đến một cuộc chiến tranh tôn giáo, hoặc một phong trào quần chúng rộng lớn đi theo VC. Mendenhall kết luận: "Nhu phải ra đi, nếu chúng ta muốn thắng cuộc chiến tranh VN" (Memorandum of conference with the president, sept 10, 1963, Box 316, national security files, John F. Kennedy library, được trích dẫn trong Kennedy in Vietnam, trang 135)
Quan điểm của tướng Krulag thì hoàn toàn khác. Theo tướng Krulag thì cuộc chiến đấu quân sự vẫn đang tiến hành với một nhiệp độ đáng khâm phục. Cuộc khủng hoảng chính trị cũng có ảnh hưởng đến, nhưng không bao nhiêu, VC sẽ thua, nếu Mỹ vẫn tiếp tục những chương trình viện trợ về quân sự và xã hội, không cần lý đến những thiếu xót trầm trọng của chính quyền Ngô Đình Diệm (Report, Visit to Vietnam, 7-8, sept 1963, Box 316, national security, JFK library, được trích dẫn trong Kennedy in Vietnam, trang 135)
Nghe xong phúc trình đối chọi nhau của hai người cùng đi trong một phái đoàn tìm sự thật, TT Kennedy chỉ còn biết kêu trời.
Chính lúc đó, đại sứ Lodge lại nhảy vào vòng chiến, lần này với sự trắng trợn và quyết liệt ít thấy nơi một nhà ngoại giao Tây phương. Trong một công điện đặc biệt gửi về Hoa Thịnh Đốn (công điện số 478) đại sứ Lodge khẳng định rằng: chính quyền miên Nam đã hiển nhiên tách rời ra khỏi thực tế. Ông ví chế độ Diệm với một chiếc tàu đang chìm dần xuống biển. Ông chủ trương chính quyền Mỹ phải cố gắng một lần nữa để khích lệ một cuộc đảo chánh. Và ông kết luận: "đã đến lúc HK phải dùng mọi chế tài hữu hiệu có trong tay để lật đổ chính quyền hiện hữu và thiết lập một chính quyền khác". Nguyên văn: The time has arrived for the US to use what effective sanctions it has to bring about the fall of the existing government and the in installation of another" (Telegram 478, Saigon to State, Box 316, nationalsecurity file JFK library, được trích dẫn trong Kennedy in Vietnam, trang 138)
Trong công điện, đại sứ Lodge còn cho biết: biện pháp chế tài hữu hiệu nhất, sẽ là cắt viện trợ trong một số lãnh vực lựa chọn, như một tín hiệu ủng hộ cuộc đảo chánh, điều mà các tướng lãnh VN đã từng yêu câù hồi cuối tháng 8 vừa qua.
8) Công điện ngày 17/9, tòa Bạch Ốc gửi đại sứ Lodge.
Công điện số 478 của của đại sứ Lodge được đem ra mổ xẻ trước hội đồng ANQG. Và ngày 17/9, tòa Bạch Ốc gửi cho đại sứ Lodge một công điện tóm tắt và xác quyết lập trường của Hội đồng về những biện pháp dối phó với tình hình miền Nam. Bức công điện gồm 10 điểm. Dưới đây là những điểm chính:
a/ Tòa Bạch Ốc chưa thấy có cơ hội tốt để lật đổ Ngô Đình Diệm lúc này (điểm 2 của công điện).
b/ Tòa Bạch Ốc cho phép đại sứ Lodge được tùy nghi trì hoãn những cuộc cung cấp hoặc chuyển tiền viện trợ của bất cứ một cơ quan Mỹ nào cho chánh quyền miền Nam, nếu đại sứ Lodge nghĩ rằng những cuộc cung cấp hoặc chuyển tiền viện trợ ấy không có lợi cho Mỹ. Tòa Bạch Ốc cũng nhấn mạnh rằng đại sứ Lodge nên xử dụng quyền này để hạn chế tất cả những hình thức viện trợ cho (hoặc qua) Ngô Đình Nhu hoặc những cá nhân liên hệ với Nhu, tỷ như Lê Quang Tung (điểm ba).
c/ Tòa Bạc Ốc chỉ thị cho đại sứ Lodge phải buộc chính quyền Ngô Đình Diệm phải cải thiện, như: thả hết sinh viên và Phật tử, cho báo chí được tự do ngôn luận, giới hạn mật vụ và cảnh sát chiến đấu vào nhiệm vụ hành quân tiểu trừ CSVN thay vì thiểu trừ đối lập, cải tổ nội các, chấp nhận tự do bầu cự chấp nhận phái đoàn Phật giáo quốc tế đến điều tra tại VN, hủy bỏ dụ số 10 (điểm 4)
d/ Tòa Bạch Ốc chỉ thị đại sứ Lodge phải làm áp lực buộc Ngô Đình Nhu ra khỏi VN (điểm 6)
e/ Tòa Bạc Ốc khuyên đại sứ Lodge nên mở lại và tiếp tục đối thoại với TT Diệm và thâu lượm tin tức tình báo (điểm 8)
f/ Tòa Bạch Ốc khuyên chờ đợi ý kiến của đại sứ Lodge đối với chương trình phác họa ở trên, trước khi tòa Bạch Ốc có quyết định cuối cùng.
Đây chỉ là một kế hoạch tạm thời (Telegram 63516, White House to Lodge Sept 17, 63, The Pentagon Papers, p. 206)
Đọc bức công điện trên, chúng ta thấy tòa Bạch Ốc vẫn giữ vững chủ trương phải lật đổ ông Diệm. Nhưng vì chưa có cơ hội tốt để lật đổ ông Diệm, nên tòa Bạch Ốc phải đưa ra một kế hoạch tạm thời để đối phó với tình hình tòa Bạch Ốc ban cho đại sứ Lodge toàn quyền tu chính. Và tòa Bạch Ốc sẽ chỉ đưa ra quyết định cuối cùng, sau khi nhận được phúc đáp của đại sứ Lodgẹ
9) Công điện ngày 19/9, đại sứ Lodge gửi TT Kennedỵ
Công điện nói trên của tòa Bạch Ốc không làm cho đại sứ Lodge hài lòng. Ông không muốn tiếp xúc với ông Diệm. Ông cho rằng: đề nghị cải tổ cũng như đòi ông Diệm phải loại bỏ Ngô Đình Nhu, là một việc làm vô ích. Trước sau, ông vẫn chủ trương phải lật đổ ông Diệm để cải thiện miền Nam.
Ngày 19/9, đại sứ Lodge gửi cho TT Kennedy một công điện gồm 11 điểm. Dưới đây là những điểm chính:
a/ Đồng ý với tòa Bạch Ốc rằng hiện nay chưa có cơ hội tốt để lật đổ Diệm, vì vậy phải tạm thời làm bất cứ những gì chúng ta có thể làm được, trong khi chờ đợi cơ hội đó đến (điểm 1).
b/ Không kỳ vọng lắm vào những cuộc tiếp xúc với Diệm, cũng như không kỳ vọng lắm vào những hứa hẹn cải tổ của Diệm (điểm 2).
c/ Không nghĩ rằng việc công khai tiếp xúc với Diệm có thể giải quyết thỏa đáng những vấn đề mà tình thế đặt ra. Theo Duơng văn Minh cho biết mới đây, thì : VC càng ngày càng lớn mạnh, càng được lòng dân, những cuộc bắt bớ vẫn tiếp tục, các nhà tù đầy ấp, thêm nhiều sinh viên đã đi theo VC, chính quyền càng ngày càng tham nhũng và ăn cắp tiền viện trợ Mỹ (điểm 4)
d/ Đang nghiên cứu biện pháp ngăn chặn viện trợ để trừng phạt Diệm Nhu mà không gây ra sự sụp đổ vỡ kinh tế và trở ngại cho nỗ lực chiến đấu của quân đội (điểm 5).
e/ Đề nghị tòa Bạch Ốc cứu xét vấn đề ủng hộ một quân đội biệt lập với chính quyền Ngô Đình Diệm. Bức công điện viết như sau: "Tôi cũng nghĩ rằng bất cứ biện pháp chế tài nào mà chúng ta tìm được, phải được trực tiếp nối liền với một cuộc đảo chánh có triển vọng thành công. Ngoài viễn tượng nói trên, các biện pháp chế tài ấy sẽ không được áp dụng. Trong hướng đó, tôi nghĩ rằng chúng ta nên tiếp tục tiếp xúc với Big Minh và thúc giục ông ta tiến tới, nếu ông ta xem ra còn muốn hành động. Tôi (Cabot Lodge) đặc biệt nghĩ rằng tòa Bạch Ốc nên nghiêm chỉnh cứu xét vấn đề ủng hộ một quân đội VN biệt lập với chính quyền". Nguyễn văn câu cuối cùng: I particularly think that the idea of supporting a Vietnamese Army independent of the government should be energically studied. (Cablegram 544, ambassador Lodge to State dept., "For President only", sept 19, 63, The Pentagon Papers, p. 208-209)
Chúng ta cần ghi nhận những điều sau đây, liên quan tới bức công điện nói trên.
1/ Đại sứ Lodge bác bỏ việc mở lại những cuộc tiếp xúc với ông Diệm. Ông vẫn chủ trương phải lật đổ Ngô Đình Diệm.
2/ Đại sứ Lodge dùng lời lẽ của tướng Dương Văn Minh để lên án TT Ngô Đình Diệm.
3/ Đại sứ Lodge chủ trương phải tiếp tục tiếp xúc với tướng Dương văn Minh, thúc dục tướng Minh làm đảo chánh.
4/ Đại sứ Lodge thúc dục tòa Bạch Ốc phải cứu xét vấn đề ủng hộ "một quân đội VN độc lập với chính quyền trung ương". Nói cách khác, một quân đội VN không chịu mệnh lệnh của vị tổng thống kiêm Tổng Tư Lệnh Tối Cao QLVNCH. Nói cách khác; một quân đội không nằm trong hệ thống chính quyền hợp hiến của quốc gia miền Nam. Nói cách khác: một quân đội chịu mệnh lệnh của ngoại bang và phục vụ ngoại bang trong những mưu đồ bất chính của ngoại bang.
Giữa tháng 1/63, một phát đoàn gồm tổng trưởng quốc phòng McNamara và đại tướng Taylor được TT Kennedy cử sang VN để thẩm định tình thế, đồng thời ước tính triển vọng về một cuộc đảo chánh tại miền Nam. Phái đoàn rời Saigon ngày 2/10. Bản phúc trình của họ lạc quan về tình hình quân sự, nhưng bi quan về tình hình chính trị. Họ khuyến cáo TT Kennedy phải áp dụng những biện pháp chế tài về kinh tế đối với TT Diệm. Một trong những biện pháp đề nghị là: ngưng viện trợ cho chính quyền Ngô Đình Diệm.
Một điểm đáng ghi nhận là: trong chuyến đi, tướng Taylor và tổng trưởng quốc phòng McNamra đi đích thân đến thăm tướng Dương Văn Minh.....
10/ Công điện ngày 5/10, đại sứ Lodge gửi Bộ Ngoại Giao
Ngày 2/10, khi phái đoàn McNamara-Taylor rời Saigon để trở về Hoa Thịnh Đốn, thì Lucien Conein được lệnh của đại sứ Lodge phải mở lại những cuộc tiếp xúc với tướng Trần văn Đôn. Hai người gặp nhau tại bờ biển Nha Trang. Trong cuộc gặp gỡ, tướng Đôn cho Conein biết: nhóm đảo chánh đã thuyết phục được tướng Tôn Thất Đính, và quân đi đã sẵn sàng để lật đổ ông Diệm. Tướng Đôn cũng yêu cầu Conein đích thân đến gặp tướng Minh.
Lucien Conein
Ngày 5/10, đại sứ Lodge gửi về bộ ngoại giao một công điện gồm 10 điểm để tường trình về cuộc tiếp xúc giữa Conein và tướng Minh. Dưới đây là những điểm chính:
a/ Trung tá Lucien Conein tiếp xúc với Dương văn Minh trong một giờ mười phút , tại bản doanh của Dương văn Minh đường Lê văn Duyệt. Conein đã được phép của tòa đại sứ để làm việc này. Họ chỉ có hai người và nói với nhau bằng tiếng Pháp (điểm 1).
b/ Dương văn Minh nói với Conein rằng ông ta cần phải biết rõ lập trường của chính quyền Mỹ đối với một cuộc thay đổi chính quyền tại miền Nam trong một tương lai rất gần. Dương văn Minh cho biết : nhóm đảo chánh, ngoài ông ta ra, gồm các tướng Trần văn Đôn, Lê văn Kim và Trần thiện Khiêm (điểm 2).
c/ Dương văn Minh cho biết ông ta không kỳ vọng một sự giúp đỡ đặc biệt nào của Mỹ trong việc thay đổi chính quyền, nhưng ông ta rất cần chính quyền Mỹ cam kết rằng sẽ không tìm cách làm hỏng kế hoạch của ông ta (điểm 3).
d/ Dương văn Minh phác họa ba kế hoạch để thay đổi chính quyền. Thứ nhất, ám sát Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và giữ TT Diệm lại. Thứ hai bao vây thủ đô Saigon bằng những đơn vị khác nhau, đặc biệt là những đơn vị đồn trú tại Bến Cát. Thứ ba: trực tiếp giàn quân đánh nhau với quân chính phủ. Dương văn Minh cho biết Nhu có thể trông cậy vào một số quân trung thành khoảng 5,500 binh sĩ (điểm 5).
e/ Dương văn Minh cho biết ba người nguy hiểm nhất miền Nam là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Ngô Trọng Hiếu. Conein nói: Lê Quang Tung là người đáng sợ hơn, thì Dương văn Minh trả lời: Khi tôi loại trừ được Nhu, Cẩn và Hiếu rồi, thì Tung sẽ quỳ xuống trước mặt tôi (điểm 7).
f/ Dương văn Minh nói rằng ông ta rất thắc mắc về vai trò của Trần Thiện Khiêm. Trần Thiện Khiêm có thể đã đi hàng hai trong vụ tháng 8 vừa qua. Trước đó, CIA đã đưa cho Khiêm họa đồ căn cứ Long Thành và bản kê khai vũ khí tại căn cứ này để Khiêm trao lại cho Dương văn Minh. Nay Dương văn Minh muốn có bản sao những tài liệu đó để đối chiếu với những tài liệu mà Khiêm đã trao cho ông ta (điểm 8).
g/ Dương văn Minh cho biết một trong những lý do khiến ông ta phải hành động gấp rút, là: nhiều sĩ quan chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội cũng đang tự động đứng ra tổ chức những cuộc đảo chánh riêng, họ có thể thất bại và di hại cho đại cuộc (điểm 9) (Telegram 1445, Lodge to State, oct 5, 63, The Pentagon Papers, p. 213).
Chúng ta nên ghi nhận những điểm quan trọng sau đây:
Thứ nhất: trước khi đảo chánh, tướng Dương văn Minh muốn biết rõ lập trường dứt khoát của Hoa Kỳ về việc thay đổi chính quyền Ngô Đình Diệm. Đây là một hình thức xin phép, trước khi hành động. Nhóm tướng lãnh VN chỉ dám đảo chánh, khi biết chắc Mỹ cho phép đảo chánh và bật đèn xanh cho phép đảo chánh.
Thứ hai: CIA Mỹ đã vẽ họa đồ căn cứ Long Thành (tức căn cứ của Lực Lượng Đặc Biệt trung thành với ông Diệm), và lập bản kê khai vũ khí của căn cứ này trao cho nhóm tướng lãnh đảo chánh.
Cũng ngày 5/10, đại sứ Lodge gởi thêm một điện văn nữa về bộ ngoại giao đề nghị cho phép Conein, trong cuộc tiếp xúc lần tới với tướng Dương văn Minh, được: thứ nhất, hứa với tướng Minh rằng Hoa Kỳ sẽ không tìm cách làm hỏng cuộc đảo chánh của ông ta.
Thứ hai: cam kết với tướng Minh rằng HK sẽ tiếp tục viện trợ cho VN sau khi đảo chánh, miễn là chính quyền mới hứa tranh thủ nhân tâm và chiến thắng CS (The Pentagon Papers, p. 215).
11/ Công điện ngày 5/10, TT Kennedy gửi đại sứ Lodge.
Cũng ngày 5/10, TT Kennedy gửi mật điện, ra chỉ thị cho đại sứ Lodge không nên ngầm khuyến khích một cuộc đảo chánh. Nhưng ông cũng chỉ thị cho đại sứ Lodge phải cấp tốc bí mật nhận diện và tiếp xúc với những người có thể thay thế ông Diệm. Ông căn dặn đại sứ Lodge phải tuyệt đối bí mật và hành động khôn khéo, để sau này chính quyền Mỹ có thể chối cãi một cách dễ dàng là đã không nhúng tay vào vụ lật đổ Ngô Đinh Diệm (Telegram 63560, White House to Lodge Aug 5, 63, The Pentagon Papers p. 215).
Chúng ta ngạc nhiên về thái độ khó hiểu và đầy mâu thuẩn của TT Kennedy. Ông chỉ thị cho đại sứ Lodge phải cấp tốc bí mật nhận diện và tiếp xúc với những người có thể thay thế ông Diệm. Sự thật, không có gì khó hiểu. TT Kennedy đã gửi mật điện nói trên, trước khi nhận được bức công điện số 1445 mùng 5 tháng 10 của đại sứ Lodge cho biết rướng Dương văn Minh đã sẵn sàng để lật đổ ông Diệm.
Sau khi nhận được công điện 1445 báo tin tướng Dương văn Minh đã sẵn sàng để đảo chánh, TT Kennedy gửi ngay điện văn dưới đây cho đại sứ Lodge. 12/ Điện văn ngày 6/10, TT Kennedy gửi đại sứ Lodgẹ Điện văn này có hai đoạn quan trọng.
Đoạn một có câu sau đây: "Đành rằng chúng ta không muốn xúi dục một cuộc đảo chánh, nhưng chúng ta cũng không nên để lại cảm tưởng rằng HK sẽ ngăn chặn một cuộc thay đổi chính quyền và sẽ từ chối viện trợ kinh tế và quân sự cho chế độ mới".
Đoạn hai của điện văn có đoạn sau đây: "về vấn đề đặc biệt của Dương văn Minh, ông đại sứ phải nghiêm chỉnh nghĩ đến việc cho nhân viên (tức Conein) đến nói với Minh rằng: trong tình trạng hiểu biết hiện tại của nhân viên, nhân viên không thể nghiêm chỉnh đệ trình vấn đề lên cấp trên cứu xét. Muốn trình lên cấp trên và được cấp trên cứu xét, nhân viên cần phải có những chi tiết chứng tỏ một cách rõ rệt rằng kế hoạch của Minh có nhiều triển vọng thành công. Với tin tức được cung cấp cho tới nay, nhân viên không thấy có triển vọng đó. (Telegram 74228, White House to Lodge, Oct 6, 63, The Pentagon Papers, p. 216)
Chúng ta nhận thấy rõ sự bất lương và đạo đức giả của những kẻ mà phó tổng thống Johnson đã gọi là "vừa đánh trống vừa ăn cướp". TT Kennedy và những cố vấn tòa Bạch Ốc tưởng rằng với luận điệu "không khuyến khích cuộc đảo chánh và cũng không ngăn cản cuộc đảo chánh", họ có thể rửa sạch hai bàn tay nhơ bẩn của họ trước lịch sử. Quyển "Kennedy in Vietnam" mỉa mai như sau: "sự phân biệt giữa khuyến khích một cuộc đảo chánh" với "không làm hỏng một cuộc đảo chánh" là một lối chơi chữ lắt léo không đếm xỉa gì đến ảnh hưởng của Mỹ tại miền Nam, Việc Mỹ hứa ủng hộ kinh tế quân sự cho nhóm đảo chánh sẽ có hậu quả khuyến khích các tướng lãnh làm đảo chánh, cũng như việc Mỹ đe dọa từ chối viện trợ đã từng có hậu quả làm nản lòng nhiều vụ âm mưu đảo chánh trước đó" (sách đã dẫn, trang 148).
William Colby, cựu giám đốc CIA tại VN, sau này cũng nói: "trong các công điện, người ta cứ nhắc đi nhắc lại rằng chính các tướng lãnh VN mới là kẻ sẽ quyết định về việc lật dổ ông Diệm, chứ không phải chúng ta. Luận điệu này dễ nghe lắm, nhưng thật ra nó phản lại thực tế, nếu bạn nghĩ đến cái tư thế cực kỳ quan trọng của người Mỹ tại VN" (sách đã dẫn, trang 148).
Chúng ta cũng thấy rõ TT Kennedy quyết tâm và mong muốn lật đổ TT Diệm. Khi được biết rõ ý định của tướng Dương văn Minh muốn đảo chánh, ông vội vàng ra chỉ thị cho tòa dại sứ phải lập tức phối kiểm xem kế hoạch đảo chánh có nhiều triển vọng thành công hay không. Tại sao TT Kennedy lại muốn biết điều đó ? Câu trả lời nằm ngay trong câu hỏi. TT Kennedy muốn biết rõ, để còn bật đèn xanh cho các tướng lãnh khởi sự.
13/ Công điện ngày 25/10, đại sứ Lodge gởi Bundy.
Ngày 6/10, chính quyền Kennedy cắt viện trợ. Tín hiệu đã được đưa vào băng tần và được gởi đến các tướng lãnh VN. Saigon lên cơn sốt đảo chánh. Nhóm tướng lãnh phản loạn coi dó như là một bằng cớ cụ thể chứng minh tòa Bạch Ốc đã thực sự dấn thân và thực sự ủng hộ việc lật ông Diệm. Tin đồn sẽ có đảo chánh và cuộc đảo chánh được Mỹ ủng hộ lan tràn trong dân chúng như khói thuốc pháo. Riêng tòa đại sứ Mỹ tại Saigon, họ dồn mọi nỗ lực để chạy đua với kim đồng hồ trong việc tiếp súc với các tướng lãnh.
Ngày 25/10, đại sứ Lodge gửi công điện số 1964 cho George Bundy, cố vấn anh ninh quốc gia HK. Bức công điện gồm 8 điểm. Dưới đây là những điểm chính:
a/ Nhân viên của tôi (Lucien Conein) vẫn thi hành nghiêm chỉnh những chỉ thị của tôi. Chính tôi đích thân chấp thuận mọi cuộc gặp gỡ gữa Conein và Đôn (điểm 2 của bức công điện).
b/ Đôn và các tướng lãnh của ông ta đang thực sự tìm cách thực hiện một sự thay đổi trong chính quyền. Tôi không tin rằng đây là một cuộc đảo chánh giả của Ngô Đình Nhu. Trong trường hợp cuộc đảo chánh thật bị thất bại, cũng như trong trường hợp cuộc đảo chánh CIA của Nhu thành công, tôi tin rằng sự liên hệ của chúng ta cho tới ngày hôn nay qua Lucien Conein vẫn còn là điều có thế dễ dàng chối cãi. Cơ quan CIA hoàn toàn sẵn sàng để cho tôi có thể phủ nhận Conein bất cứ lúc nào (điểm 4).
c/ Chúng ta không muốn làm hỏng một cuộc đảo chánh cũng như chúng ta không có ngay cả tứ thế để làm hỏng một cuộc đảo chánh, khi mà chúng ta không biết rõ những gì đang xảy ra (điểm 5).
d/ Chúng ta không nên làm hỏng một cuộc đảo chánh, vì hai lý do. Thứ nhất, chắc chắn chính quyền kế tiếp sẽ không vụng về và không hành động sai lầm như chính quyền hiện hữu. Thứ hai, nếu chúng ta dội nước lạnh trên những cuộc âm mưu đảo chánh, nhất là trong khi những cuộc âm mưu ấy đang ở trong thời kỳ bắt đầu, thì đó là một điều cực kỳ thất sách cho chúng ta về lâu về dài. Chúng ta nên nhớ rằng đảo chánh là phương thức độc nhất để nhân dân VN có thể thực hiện một cuộc thay đổi chính quyền (điểm 6).
e/ Tướng Đôn cho biết sẽ không có kỳ thị tôn giáo trong chính phủ tương lai. Ý định đó đáng khen. Và tôi hoan nghênh ý của ông ta không muốn làm một thứ "chư hầu" của Mỹ. Tôi muốn thêm hai đòi hỏi. Thứ nhất, không nên thanh trừng toàn thể nhân viện trong chính quyền. Những cá nhân nào đặc biệt đáng bị trách cứ có thể bị mang ra trước pháp luật sau này để xét xữ. Thứ hai, tôi đang nghĩ đến một chính quyền trong đó có Trí Quang và những nhân vật tầm vóc như Trần Quốc Bửu, chủ tịch nghiệp đoàn lao động (điểm 7).
Đọc bức điện tín trên đây, chúng ta thấy những móng vuốt nhọn hoắt và lông lá của Mỹ đã cắm sau lút vào vận mệnh miền Nam. Họ sắp đặt cuộc đảo chánh cho miền Nam và sắp đặt luôn cả thành phần chính phủ tương lai miền Nam. Một điều mà chúng ta không thể không nhìn thấy là sự thiếu thành thật của đại sứ Lodge, nếu không nói là bất lương. Ông vẫn lập di lập lại rằng: Mỹ không nên làm hỏng cuộc đảo chánh, chẳng những vậy ông còn khẳng định rằng Mỹ không có ngay cả khả năng để làm điều đó. Viết như vậy, ông đã quên bức công điện số 375 trong đó ông đòi tòa Bạch Ốc phải triệt để ủng hộ các tuớng lãnh trong việc lật đổ ông Diệm. Trong bức công điện đó, ông đã viết: "cơ may thành công của cuộc đảo chánh tùy thuộc vào các tướng lãnh VN mt mức độ nào đó, nhưng cũng tùy thuộc vào chúng ta, ít nhất cũng có một mức độ đó" (Telegram 375, Lodge to Stat, Aug 29, 1963).
14/ Công điện ngày 30/10, Bundy gửi đại sứ Lodge
Bức công điện ngày 25/10 của đại sứ Lodge vẫn không trấn an được TT Kennedy. Thâm tâm TT Kenedy rất muốn lật đổ TT Ngô Đình Diệm, nhưng ông lại sợ thất bại và bị chê cười như ông đã thất bại và bị chê cười trong âm mưu lật đổ Fidel Castro hồi tháng 4/1961. Ông sợ mất uy tín trước dư luận trong nước và ngoài nước. Lần này, lật đổ Ngô Đình Diệm ông chủ trương "đã ra tay là phải thắng". Nhưng, những tin tức của đại sứ Lodge gửi về đã không đủ để cho ông tin một cách chắc chắn rằng cuộc đảo chánh sẽ thành công. Vì vậy, ngay sau khi nhận được công điện ngày 25/10 của đại sứ Lodge, George Bundy, vị cố vấn được tín nhiệm nhất tại tòa Bạch Ốc đã được lệnh phải cấp tốc gửi ngay tối hôm đó bức công điện số 63590 nói rõ cho đại sứ Lodge biết rằng TT vẫn lo ngại không thành công. (Telegram 63590, Bundy to Lodge, Oct 25, 1963, Box 201, national security files, JFK library).
Bốn ngày sau, ngày 29/10, đại sứ Lodge báo cho tòa Bạc Ốc biết: một cuộc đảo chánh sắp xảy ra. Ông quan niệm rằng: Hoa Kỳ không nên cũng như không thể ngăn chặn được cuộc đảo chánh, trừ phi đi báo cho Diệm và Nhu biết, một hành động sẽ đem lại ô nhục cho HK (The Overthrow of Ngo Dinh Diem, United States - Vietnam Relation III, pg 46).
TT Kennedy vẫn không an tâm. Ông sợ các tướng lãnh VN sẽ thất bại, và sự thất bại ấy sẽ kéo theo tất cả uy tín còn lại của ông đối với các nước trong vùng Đông Nam Á. Vì vậy, ngày 30/10, Bundy được lệnh phải cấp tốc gửi một công điện cho đại sứ Lodge để nói rõ những ưu tư của TT Kennedy về cuộc đảo chánh sẽ xảy ra. Bức công điện gồm 10 điểm. Dưới dây là những điểm chính:
a/ Tòa Bạc hốc tin rằng thái độ của chúng ta đối với nhóm đảo chánh vẫn còn có hậu qủa quyết định đối với họ. Tòa Bạch Ốc tin rằng lời nói của chúng ta đối với nhóm đảo chánh có thể khiến họ hoãn lại cuộc đảo chánh... Cuộc sắp hàng các lực lượng tại Saigon cho thấy hai bên (quân chánh phủ và quân đảo chánh) gần như đang cân đồng la.n. Như vậy, cuộc nổ súng sẽ kéo dài và quân đảo chánh có thể sẽ bị đánh bại. Trong cả hai trường hợp, hậu qủa sẽ cực kỳ nghiêm trọng và tai hại cho quyền lợi của nước Mỹ. Vì vậy, chúng ta phải có được sự bảo đảm rằng tương quan lực lượng quân sự thực sự nghiêng về phía quân đảo chánh (điểm 2 của công điện)
b/ Trong trường hợp ông rời khỏi Saigon một ngày nào đó truớc ngày đảo chánh, thì trước khi đi, ông cần phải tham khảo ý kiến đầy đủ với tướng Harkins và phòng trung ương tình báo để có những sắp xếp rõ rệt về (a) việc điều hành những hoạt động thông thường, ( việc tiếp xúc với nhóm đảo chánh, © việc phải làm khi cuộc đảo chánh khởi sự (điểm 7)
c/ Nếu cuộc đảo chánh phải xảy ra, vấn đề bảo vệ các kiều dân Mỹ sẽ tức khắc được đặt ra. Tòa Bạc Ốc có thể cho không vận tiểu đoàn thủy quân lục chiến từ Okinawa tới Saigon trong 24 tiếng đồng hồ. Tòa Bạch Ốc đã ra lệnh cho CINCPAC sắp xếp cuộc di chuyển của tiểu đoàn thủy quân lục chiến bằng đường thủy đến hải phận gần Nam VN (điểm 8)
d/ Tòa Bạch Ốc hiện đang cứu xét nhưng trường hợp bất ngờ có thể xảy ra sau khi cuộc đảo chánh bùng nỗ. Yêu cầu ông đại sứ cho biết ngay những khuyến cáo của ông về thái độ mà tòa Bạch Ốc phải có sau khi cuộc đảo chánh khởi sự, đặc biệt đối với những lời yêu cầu để hành động trong trường hợp cuộc đảo chánh (a) thành công, ( thất bại, © không ngã ngũ (điểm 9).
e/ Tòa Bạch Ốc nhắc lại rằng nhóm đảo chánh có trách nhiệm phảo đưa bằng cớ chứng minh rằng họ thực sự có triển vọng sẽ thành công mau lẹ. Nếu không, chúng ta sẽ phải can ngăn họ đừng đảo chánh, bởi lẽ: một sự tính toán sai lầm sẽ đưa tới hậu qủa làm tổn thương đến tư thế của nước Mỹ tại vùng ĐNA. Đây là điểm 10 và cũng là điểm chót của bức công điện (Telegram 79079, Bundy to Lodge, Oct 30, 1963, Box 317 national security files, JFK library)
Chúng ta nhận thấy rõ tâm trạng của TT Kennedy. Ông rất muốn lật đổ ông Diệm, nhưng sợ thất bại. Ông đã ẩn náu mình trong cái trò chơi ngôn ngữ "đừng khuyến khích cuộc đảo chánh cũng như đừng làm hỏng cuộc đảo chánh" để có thể chối tội sau này. Nhưng ông dấu đầu hở đuôi. Thật vậy, tại điểm 10 của bức điện tín nói trên, tòa Bạch Ốc (tức TT Kennedy) đã ra lệnh cho đại sứ Lodge phải ngăn chặn cuộc đảo chánh, nếu thấy cuộc đảo chánh không có triển vọng thành công. Thì ra, chánh sách "không được ngăn chặn cuộc đảo chánh" mà TT Kennedy đã đề ra cho siêu cường Mỹ trong vụ lật đổ ông Diệm năm 1963, không áp dụng cho một cuộc đảo chánh có triển vọng thành công. Nó chỉ áp dụng cho một cuộc đảo chánh không có triển vọng thành công. Đó là đạo đức quốc gia của nước Mỹ, và đó cũng là cái thông minh của TT Kennedy trong vụ lật đổ ông Diệm năm 1963.
Người xưa đã dạy: "muốn nói dối, thì phải có một trí thông minh trên mức bình thường, nếu không, sẽ có ngày chính mình lại chửi lại mình". Phải chăng, trong vụ lật đổ ông Diệm năm 1963, TT Kennedy của siêu cường HK và các cố vấn của ông đã không có được cái trí thông minh trên mức bình thường ?
15/ Công điện ngày 30/10, đại sứ Lodge trả lời.
Ngay sau khi nhận được công điện ngày 30/10 của cố vấn an ninh tòa Bạch Ốc, đại sứ Lodge không nén được sự kinh ngạc trước ý định của tòa Bạch Ốc muốn trì hoãn cuộc đảo chánh của các tướng lãnh VN. Ông bèn cấp tốc gửi một công điện gồm 13 điểm cho bộ ngoại giao. Dưới đây là những điểm chánh:
a/ Tôi không tin rằng chúng ta có đủ quyền lực để trì hoãn hoặc ngăn chặn một cuộc đảo chánh... Tôi có thể nói rằng: chúng ta có rất ít ảnh huởng đối với vụ này, một vụ hoàn toàn thuộc nội bộ VN (điểm 1 của công điện).
b/ Trừ phi cuộc đảo chánh thành công chớp nhoáng, tôi dự kiến rằng khi cuộc đảo chánh bắt đầu bùng nổ, chính quyền Diệm sẽ yêu cầu tôi hoặc tướng Harkins dùng ảnh hưởng để kêu gọi các tướng lãnh bãi bỏ cuộc đảo chánh. Tôi tin rằng ảnh hưởng của chúng tôi (tức là đại sứ Lodge và tướng Harkins) chắn chắn không lớn hơn ảnh hưởng của tổng thống kiêm tổng tư lệnh tối cao quyền lực Hoa Kỳ. Nếu tổng thống đã không thể dùng ảnh hưởng để bãi bỏ được cuộc đảo chánh, thì chúng tôi cũng không thể dùng ảnh hưởng để kêu gọi các tướng lãnh bãi bỏ cuộc đảo chánh. Làm như vậy, chúng ta sẽ chỉ gây nguy hiểm cho sinh mạng người Hoa Kỳ. Chính quyền Ngô Đình Diệm có thể sẽ yêu cầu chúng ta gửi máy bay hoặc trực thăng đến để di tản những nhân vật trọng yếu trong chính quyền... Nhưng chắc chắn chúng ta sẽ không để cho phi cơ và phi công của chúng ta dấn thân vào nơi hòn tên mũi đạn, khi hai phe đang dàn trận chống đối nhau (điểm 10).
c/ Các tướng lãnh có thể cần một số tiền vào phút chót để mua chuộc phe chống đối. Nếu số tiền này có thể đưa cho họ một cách kín đáo, tôi nghĩ rằng chúng ta nên cho họ, miễn là chúng ta xác tín rằng cuộc đảo chánh mà họ dự tính, đã được tổ chức chu đáo và có triển vọng tốt để thành công. Nếu nhận thấy rằng cuộc đảo chánh không phân thắng bại, và cuộc nổ súng sẽ kéo dài, chắc chắn chúng ta sẽ phải đứng ra giúp đỡ cả hai bên giải quyết vấn đề, vì lợi ích của cuc chiến tranh chống cộng taị miền Nam (điểm 11).
d/ Tôi hoàn toàn đồng ý rằng một sự tính toán sai lầm sẽ gây ra tai hại cho tư thế của HK tại vùng Đông Nam A’. Nếu chúng ta xác tín rằng cuộc đảo chánh sẽ đi đến thất bại, dĩ nhiên chúng ta sẽ làm tất cả những điều mà chúng ta có thể làm được, để ngăn chặn cuộc đảo chánh. Nguyên văn câu chót: "If we are convinced that the coup is going to fail, we would, of course do everything we could to stop it" (điểm 12).
e/ Tướng Harkins đã đọc công điện này và không đồng ý. Nguyên văn: Gen Harkins has read this and does not concur". Đây là điểm 13 và cũng là điểm chót. (Telegram 2063 , Lodge to State, Oct 30, 63. The Pentagon Papers, pg 227-229)
Bức công điện 2063 nói trên của đại sứ Lodge là một kiệt tác của sơ hở, mâu thuẫn ngu xuẩn và bất lương. Đoạn trên nói rằng chính quyền Mỹ không đủ quyền lực để ngăn chặn cuộc đảo chánh, đoạn dưới lại nói rằng nếu thấy cuộc đảo chánh sẽ đi đến thất bại thì chúng ta (Hoa Kỳ) sẽ làm tất cả những điều có thể làm được để ngăn chặn cuộc đảo chánh. Đoạn trên nói rằng đây là một vấn đề hoàn toàn thuộc nội bộ VN, đoạn dưới lại nói rằng chúng ta nên cho nhóm đảo chánh một số tiền để họ mua chuộc phe chống đối.
Tuân Tử của nước Tàu, Talleyrand của nước Pháp và Metternich của nước Áo, hiện đang ngủ dưới đáy mồ, nếu họ được đọc bức công điện của nhà ngoại giao Lodge, chắc chắn họ sẽ đội mồ mà chỗi dậy, và kêu trời cho cái chất xám của chính giới Mỹ. Bất lương ngu xuẩn và mâu thuẫn. Có lẽ tướng Harkins cũng đã nhìn thấy cái bất lương và mâu thuẫn của đại sứ Lodge, vì vậy ông đã không đồng ý và đòi đại sứ Lodge phải ghi vào công điện rằng ông không đồng ý.
Dù sao, những sơ hở, mâu thuẫn ngu xuẩn và bất lương của bức công điện cũng giúp cho lịch sử ghi lại một sự thật ngàn đời, cuộc đảo chánh 1963 đã do chính quyền Kennedy chủ trương, chủ mưu, sắp xếp và thúc đảy. Nhóm tướng lãnh VN là những tay sai bản xứ ..!
16/ Công điện ngày 30/10, George Bundy gửi đại sứ Lodge
Bức công điện ngày 30/10 (số 2063) của đại sứ Lodge không được sự chấp thuận của tướng Harkins, tư lệnh MAGV tại Saigon. Tòa Bạch Ốc đã nhìn thấy sự xích mích và bất đồng quan điểm giữa đại sứ Lodge và tướng Harkins trong vụ lật đổ ông Diệm. Và tòa Bạch Ốc lo ngại.
Chiều 30/10, George Bundy lại cấp tốc gửi một công điện 6 điểm cho đại sứ Lodgẹ Dưới đây là những điểm chính:
a/ Tòa Bạch Ốc không chấp nhận luận điệu của ông đại sứ cho rằng "chúng ta không đủ quyền lực để trì hoãn hoặc ngăn chặn một cuộc đảo chánh tại VN" như là căn bản chủ đạo cho chánh sách đối ngoại của HK. Trong công điện của ông đại sứ, điểm 12, ông đại sứ cũng nói rằng nếu ông xác tín rằng cuộc đảo chánh sẽ đi đến thất bại, thì ông sẽ làm tất cả những điều có thể làm được để ngăn chặn nó. Cũng trên căn bản đó, tòa Bạch Ốc tin rằng ông đại sứ sẽ hành động để thuyết phục các tướng lãnh ngưng lại hoặc hoãn lại bất cứ một cuộc động binh nào mà ông đại sứ nghĩ rằng không có triển vọng thành công (điểm 2 của công điện).
b/ Vì vậy, nếu ông đại sứ phải kết luận rằng cuộc đảo chánh không thực sự có triển vọng thành công, thì ông phải cho các tướng lãnh biết mối hoài nghi của ông. Nói làm sao để ít nhất trì hoãn cuộc đảo chánh lại cho tới khi có được cơ hội tốt hơn. Khi nói điều đó với các tướng lãnh, ông đại sứ nên xử dụng sức nặng của lời khuyên nhủ tốt nhất của HK (nguyên văn: The weight of US best advice) và minh thị bác bỏ mọi ám chỉ rằng chúng ta chống lại những nỗ lực của các tướng lãnh vì chúng ta ưa thích chế độ hiện tại hơn là ưa thích họ (điểm 3).
c/ Sau đây là chỉ thị của tòa Bạch Ốc liên quan đến thái độ của Hoa Kỳ (HK) trong trường hợp cuộc đảo chánh xảy ra:
1/ Các viên chức HK sẽ không đáp ứng những lời kêu gọi giúp đỡ của cả hai bên. Phi cơ HK và những khả năng khác của HK sẽ không được đưa đến dấn thân vào nơi hòn tên mũi đạn, để ủng hộ bất cứ bên nào nếu không được phép của Hoa Thịnh Đốn.
2/ Trong trường hợp cuộc đảo chánh bất phân thắng bại, các viên chức HK có thể tùy nghi làm những hành vi thích hợp với nguyện vọng của cả hai bên, tỷ như di tản các nhân vật trọng yếu hoặc chuyển vận tin tức. Và khi hành động như vậy, các viên chức HK phải cố tránh để khỏi bị hiểu lầm là làm áp lực đối với bất cứ bên nào.
3/ Trong trường hợp cuộc đảo chánh lâm vào tình trạng sẽ thât bại, hoặc thực sự thất bại, các viên chức HK có thể tùy nghi mở cửa nương náu cho những kẻ minh thị hoặc mặc nhiên cần sự nương náu.
4/ Nhưng một khi cuộc đảo chánh đã bắt đầu, thì vì quyền lợi của HK, cuộc đảo chánh ấy phải thành công (The Pentagon Papers, pg 231)
Chúng ta thấy rõ: trong công điện nói trên, tòa Bạch Ốc đã minh thị bác bỏ quan điểm của đại sứ Lodge cho rằng HK không đủ quyền lực để ngăn chặn một cuộc dảo chánh tại VN. Chẳng những vậy, tòa Bạch Ốc còn khẳng định rằng chính quyền HK có thừa quyền lực và có bổn phận phải ngăn chặn cuộc đảo chánh, nếu thấy cuộc đảo chánh không có triển vọng thành công. Tòa Bạc Ốc minh thị nhắc lại mệnh lệh của TT Kennedy: "một khi cuộc đảo chánh đã bắt đầu, cuộc đảo chánh ấy phải thành công, vì đó là quyền lợi của Hoa Kỳ."
Chúng ta cũng thấy rõ: tòa Bạch Ốc chỉ dự liệu can thiệp trong trường hợp cuộc đảo chánh bất phân thắng bại, và trường hợp quân đảo chánh bị đánh bại. Can thiệp để giúp cho các tướng đảo chánh có chỗ nương náu và thoát hiểm. Tòa Bạch Ốc không dự liệu can thiệp trong trường hợp ông Diệm bị đánh bại. Số phận ông Diệm không được tòa Bạch Ốc quan tâm đến.
Tất cả những tài liệu trên đây đã trở thành chính sử của Hoa Kỳ, và được lưu trữ trong "Hồ Sơ An Ninh Quốc Gia" tại thư viện JFK. Đó là những bằng cớ trên giấy trắng mực đen chứng minh một sự thật lịch sử. Sự thật lịch sử đó, là: cuộc lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm năm 1963 đã do chính quyền Kennedy chủ trương, chủ mưu, chủ xướng, chủ động, chủ lực, khuyến khích và thúc đẩy, các tướng lãnh VN chỉ là những tay sai bản xứ !!
Lịch sử đã viết: nhờ sự mẫn cán và thông minh của các tướng lãnh VN, cuộc đảo chánh năm 1963 đã hoàn thành mỹ mãn !!!
Những tài liệu nói trên cũng là những bằng cớ trên giấy trắng mực đen chứng minh sự bất lương, ngu xuẩn và luộm thuộm của chính quyền Hoa Kỳ trong vụ lật đổ ông Diệm. Từ tổng thống Kennedy, đến các cố vấn tòa Bạch Ốc, đến đại sứ Cabot Lodge.
Một công điện (ngày 24/8/63) của tòa Bạch Ốc gửi cho vị đại sứ của mình tại nước ngoài, liên quan đến một vấn đề trọng đại của quốc gia HK, thế mà các viên chức cao cấp có trách nhiệm trong chính quyền không được thông báo, tham khảo. Chẳng những vậy, còn bị lừa bịp. Kể cả TT Kennedy cũng bị lừa bịp. (Điều này chứng tỏ bọn Do Thái trong chính quyền Mỹ đã có một sức mạnh không tưởng, không coi Tổng Thống Kennedy ra gì, chính sau này anh em Kennedy cũng bị bọn chúng giết chết, vì không tuân theo kế hoạch toàn cầu hoá của bọn chúng).
Trong các công điện của tòa Bạch Ốc, của chính TT Kennedy và của bộ ngoại giao gởi đi, cũng như trong các công điện của đại sứ Cabot Lodge gửi về, thì công điện trước chửi công điện sau, hoặc công điện sau chửi công điện trước. Trong cùng một công điện, thì đoạn trước chửi đoạn sau, đoạn sau chửi đoạn trước. Giáo sư André Tunc trong quyển Les Etats Unis, có nói đến "quyền lực nằm trong tay những kẻ thiếu lương tâm".
Trong vụ chính quyền Kennedy lật đổ ông Diệm, chúng ta phải thêm hai chữ ngu xuẩn vào cuối câu và nói: "quyền lực nằm trong tay những kẻ thiếu lương tâm và ngu xuẩn". [Nguyễn Văn Chức, VIỆT NAM CHÍNH SỬ, trang 61-85).
.......Chế độ Ngô Đình Diệm là một chế độ độc đoán (autoritaire) như hầu hết các quốc gia phải đương đầu với hiểm họa cộng sản. Điều đó không ai chối cãi. Nên nhớ: Đài Loan đã áp dụng chế độ thiết quân luật gần 35 năm, và chỉ bãi bỏ chế độ ấy mới đây, năm 1986.
Cũng không ai chối cãi rằng: Đệ nhất cộng hòa đã có những lạm dụng quyền hành, nhớp nhúa. Và cả tội ác nữa.
Nhưng, những lạm dụng, lộng hành nhớp nhúa, tội ác ấy không bắt nguồn từ những quy định hoặc thiếu sót của hiến pháp mà bắt nguồn từ sự không tôn trọng hiến pháp và luật pháp quốc gia bởi chính những kẻ cầm quyền.
Vì vậy, chúng ta không nên dựa vào hiến pháp một nước để chỉ trích hoặc nguyền rủa một chế độ. Nhưng ông Đỗ Mậu và những kẻ đến sau (tức là những kẻ xuyên tạc, những kẻ "hiếp dâm" lịch sử hoặc những kẻ bôi bẩn vô căn cớ với lòng đầy hận thù, ác tâm, vô luân và thành kiến đối với TT Ngô Đình Diệm, đối với nền đệ nhất cộng hòa của TT Diệm (lời góp ý thêm của Aladin)) làm việc đó.
Và: khi làm công việc đó họ đã tỏ ra thiếu khả năng.
(Việt Nam Chính Sử, NVC, trang 48-49).
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 1, 2014 10:34:35 GMT 9
"Cựu đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân" bây giờ ra sao? Vài dòng giới thiệu:
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc ĐÔI DÒNG NHÌN LẠI bài viết của tác giả Quang Hưng.về bà Ngô đình Nhu để bạn đọc có thể biết cuộc sống đạm bạc, ẩn dật của một goá phụ đã một thời nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam trong nền Đệ nhất Cộng Hoà.
Tôi không biết đĩa chỉ tác giả để xin phép, mong được lượng thừ
Bà Ngô Đình Nhu - Trần Lệ Xuân
Mỗi khi nhắc đến gia đình họ Ngô, mọi người đều biết cặp Ngô Đình Nhu – Trần Lệ Xuân. Dù đứng trong bóng tối của chế độ Ngô Đình Diệm, nhưng quyền uy lại khuynh đảo cả miền Nam trước năm 1975. Mấy anh chị em ruột nhà Ngô, nay đã về “nước Chúa”, chỉ còn lại bà quả phụ Ngô Đình Nhu, tức Trần Lệ Xuân. Đệ nhất phu nhân, một thời lừng lẫy, ngày nay sống ra sao?
Sau năm 1963, Trần Lệ Xuân cùng các con chuyển về sinh sống tại La Mã, nơi giám mục Ngô Đình Thục đang cư trú. Ngày 13/12/1984, mấy mẹ con bà nhận được tin giám mục Thục từ trần tại Mỹ sau mấy năm bị khủng hoảng tinh thần. Lúc còn ở Việt Nam hay khi sống lưu vong ở nước ngoài, giám mục Ngô Đình Thục lúc nào cũng yêu thương mẹ con bà. Do vậy, ông không chỉ là người thân ruột thịt, mà còn là ân nhân nơi đất khách quê người của Trần Lệ Xuân. Người ta nói, nhà cửa của mẹ con bà ở La Mã đều do ông mua sắm và còn cung cấp cả tiền bạc cho con cái bà ăn học nữa.
Khi được tin giám mục Ngô Đình Thục qua đời, mẹ con bà Nhu định sang Mỹ chịu tang. Nhưng chẳng biết vì sao, có lẽ do xích mích trong gia đình, ông Ngô Đình Luyện, em út trong gia đình họ Ngô đã cấm không cho mẹ con bà sang dự tang lễ.
Gần hai năm sau, ngày 28/7/1986, bà Xuân nhận được điện thoại của em ruột là Trần Văn Khiêm, báo tin cha mẹ ruột là ông bà Trần Văn Chương qua đời, nhưng không rõ nguyên nhân. Sau đó, Khiêm bị cảnh sát FBI bắt, do có liên can đến cái chết của hai người này. Cha mẹ ruột qua đời, bà Nhu cũng không thể qua Mỹ chịu tang.
Đến năm 1990, người em út của Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Luyện qua đời tại Paris vì bệnh. Mẹ con bà Nhu cũng không thể đến dự tang, do trước đó có xích mích với nhau. Cuộc đời bà Trần Lệ Xuân, từng chứng kiến 10 đám tang, đều bất đắc kỳ tử của người thân, từng khóc hết nước mắt, nhưng không lần nào được tham dự tang lễ.
Cho đến nay, người ta vẫn đồn đoán: bà Nhu đã lấy chồng, hoặc qua đời từ lâu rồi, vì không ai nghe tin tức. Tất cả đều vô căn cứ. Vào tháng 3/2002, luật sư Trương Phú Thứ có sang Paris chơi, và đã đến thăm bà quả phụ Ngô Đình Nhu, chụp được tấm ảnh của bà. Khi về đến Hoa Kỳ, ông Thứ có viết một bài khá dài về bà.
Luật sư Trương Phú Thứ cho biết: bà Nhu sống một mình trong căn hộ của một tòa nhà mới xây gần tháp Eiffel. Bà có hai căn ở tầng thứ 11, tại một khu vực đẹp và đắt tiền nhất Paris. Bà ở một căn, căn còn lại cho thuê để sinh sống. Đó là nguồn thu nhập duy nhất, đủ để sống, không cần nhờ vả đến các con. Bà sống ẩn dật, âm thầm lẻ loi, đến mức cựu trung tướng quân đội Sài Gòn Trần Văn Trung, rất quen thuộc với cộng đồng người Việt tại Paris, cũng tưởng bà Nhu đang sống ở Italia.
Bà Nhu tuy đã ngoài 80, nhưng vẫn khỏe mạnh. Bà đi đứng nhanh nhẹn, lưng thẳng, đôi mắt to và sáng. Căn nhà bà Nhu khá tầm thường, với hai phòng ngủ và một phòng khách. Trên tường phòng khách còn treo vài bức ảnh lớn của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu và con gái lớn Ngô Đình Lệ Thủy. Bà Nhu bác bỏ tin đồn chuyện một người Pháp giàu có biếu giám mục Thục số tiền lớn, sau đó ông cho bà để mua căn hộ này. Rồi bà dành dụm thêm để mua căn nữa. Sự thật không phải thế. Bà Nhu trực tiếp nhận được tiền từ một ân nhân ẩn danh. Sau đó bà nhờ một cựu bộ trưởng thời De Gaulle giúp mua cho hai căn hộ này.
Trần Lệ Xuân nói: “Mấy thanh niên Việt Nam mới đến Pháp, bơ vơ, tôi cho tạm trú ở căn hộ này, không lấy tiền nhà và điện nước. Một thời gian sau, họ có thân nhân đón đi hay mua nhà riêng, tôi mới cho một nhà ngoại giao Nhật thuê. Bà còn tiết lộ vị ân nhân đó chính là bà Capici, một phụ nữ Italia từng nằm trong danh sách những người giàu nhất thế giới. Bà Nhu chưa từng gặp mặt vị ân nhân này, và mãi 4 năm sau khi bà này tạ thế, Trần Lệ Xuân mới biết rõ thân thế và sự nghiệp!
Trên bức tường ngăn phòng khách và nhà bếp, có treo bức ảnh đen trắng “Biệt điện Trần Lệ Xuân” ở Đà Lạt. Bà không hề có ý định trở về thăm Việt Nam. Khi nói về con cái, bà Nhu có vẻ hãnh diện. Con trai lớn là Ngô Đình Trác, tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp, năm nay 57 tuổi, lấy vợ Italia, có 3 con trai, 1 gái. Bà Nhu khoe những đứa cháu nội, con trai ông Trác: Ai cũng cao 1,8 mét, to lớn và rất đẹp trai. Vợ ông Trác thuộc dòng dõi quý tộc, rất giàu có. Ông Trác chế tạo được nhiều nông cụ thích hợp cho canh tác những mảnh đất nhỏ. Gia đình ông có một biệt thự to và đẹp ở nội thành La Mã, có dáng dấp như một tu viện cổ. Bà Nhu từng ở đây nhiều năm, khiến có tin đồn đoán bà sống trong một tu viện Công giáo!
Người con thứ nhì là Ngô Đình Quỳnh cũng đã ngoài 50 tuổi, tốt nghiệp Trường cao đẳng Kinh tế và Thương mại - ESEC. Đây là trường tư thục cao cấp, mức học phí rất lớn. Sinh viên phải thi tuyển gắt gao, nhưng khi tốt nghiệp lại được nhiều cơ quan tài chính quốc tế trọng dụng. Khi Quỳnh học, bà Nhu không đủ tiền học phí để đóng, phải ký giấy xin khất nợ. Hiện ông Quỳnh làm đại diện thương mại cho một công ty Hoa Kỳ ở Bruxelles, thủ đô nước Bỉ. Ông ta không có vợ con, bà Nhu nói: “Nó giống ông bác ruột (Ngô Đình Diệm)”.
Cô gái út, Ngô Đình Lệ Quyên có bằng tiến sĩ luật, Trường đại học Rome. Lệ Quyên là luật sư ngành công pháp quốc tế rất nổi tiếng, nhưng chỉ được mời thỉnh giảng tại Đại học Rome. Lý do: Cô không gia nhập quốc tịch Italia! Luật pháp xứ này không cho phép người không có quốc tịch làm giáo sư chính thức. Lệ Quyên được mời tham dự nhiều hội nghị quốc tế và đã công bố nhiều tham luận xuất sắc. Cô lấy chồng người Italia, nhưng đứa con trai lại lấy họ mẹ: Ngô Đình Sơn, khiến cho bà Nhu rất hãnh diện.
Mỗi sáng sớm, bất kể thời tiết nóng lạnh, bà Nhu đều đi bộ chừng 10 phút đến nhà thờ Saint-Paul dự lễ. Sau thánh lễ, bà ở lại giúp dọn dẹp nhà thờ và xếp đặt trưng bày hoa, nến. Ngày Chủ nhật, bà còn dạy giáo lý cho trẻ con.
Bà Nhu rất ít đi mua sắm. Nói đến áo quần, bà có vẻ đăm chiêu: “Ở Sài Gòn nóng quá, nên tôi mặc áo dài hở cổ, khiến Tổng thống không bằng lòng”. Chiếc áo dài hở cổ được đặt tên “kiểu áo bà Nhu” một thời là mốt thời thượng ở Sài Gòn. Bà nói: “Nhiều khi tôi phải đại diện chính phủ tiếp phu nhân các nước mà chẳng có đồ trang sức nào cả. Có một bà bộ trưởng muốn bán số đá rubi trang sức, tôi xin Tổng thống Diệm số tiền 6 ngàn đồng, để mua lại. Ông bằng lòng, nhưng buộc phải viết giấy biên nhận, ghi đầy đủ lai lịch từng món. Đó là lần duy nhất ông Diệm cho tôi tiền, và bây giờ cũng không còn nhớ chúng thất lạc ở mô!”.
Bà Nhu kể lại: Dịp mùa xuân 1975, hệ thống Đài truyền thanh Mỹ, NBC có xin phỏng vấn 30 phút. Bà chấp nhận và đòi thù lao 10.000 USD và 2 vé máy bay khứ hồi hạng nhất Paris - Washington, để dẫn Lệ Quyên đi thăm ông bà ngoại, Trần Văn Chương. Đó là lần duy nhất bà đi Mỹ và cũng là lần duy nhất bà xuất hiện trên truyền thông quốc tế sau năm 1963. Ngoài ra bà chưa từng gặp gỡ hoặc tiếp xúc với bất kỳ báo chí Việt ngữ dưới bất kỳ hình thức nào.
Bà quả phụ Ngô Đình Nhu đang viết dở một quyển hồi ký bằng tiếng Pháp do chính bà dịch sang tiếng Italia, Anh và Việt Nam. Bà cho biết, chỉ sau khi qua đời sách mới được phát hành
Quang Hưng
23/09/2009
Oakland, CA Fri Apr 16, 2010DHN Vài dòng giới thiệu :
Tôi vừa nhận được bài viết mới của GS Tôn thất Thiện Trong cùng một mục đích vạch sai lầm của Hoa Kỳ và một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hoà làm đảo chánh,... giết chết một cách hết sức dã man TT Ngô đình Diệm và ông cố vấn Ngô đình Nhu, mà đầu sỏ là tên Big Minh xin phép GS Tôn thất Thiên cho tôi được đưa vào phần đọc thềm trong Đôi dòng nhìn lại Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà Ngô đình Diệm.
Trân trọng
Cộng Sản Nghĩ Sao Về Tổng Thống Ngô Đình Diệm?
Tác Giả : Tôn Thất Thiện Thứ Năm, 29 Tháng 4 Năm 2010
Trong những năm qua, tôi đã có nói cho anh em biết một số nhận định của các lãnh tụ cộng sản khi được tin về vụ Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị đảo chánh và sát hại.
Các lãnh tụ Việt Cộng Miền Nam, như Nguyễn Hữu Thọ, hoặc Miền Bắc, như Võ Nguyên Giáp, và cả ông Hồ Chí Minh, đều có nhận định về biến cố này.
Hôm nay, tôi nhắc lại những nhận xét đó, và thêm vào đó, tôi xin kể thêm vài chuyện mà chính tai tôi đã được nghe, đặc biệt là nhận định của Ông Hồ Chí Minh, từ miệng một người đã được nghe chính Ông Hồ nói.
Có biết những chuyện này mới có chất liệu để trả lời cho những người lập luận rằng "giết Ông Diệm là một điều cần để trừ hậu vận".
Nhưng nay thì rõ ràng rằng đó là lỗi lầm tầy trời của một số nhân vật, quân sự và dân sự, đối với dân tộc Việt Nam, không những đối với hai triệu người đã phải bỏ quê hương đi tìm nơi an thân, mà ngay cả mấy chục triệu người Miền Nam đang phải sống trong ô nhục, đàn áp, đói rách, mà chế độ cộng sản đã áp đặt lên họ.
Tôi kể lại sau đây những tường thuật của báo chí và học giả, mà tôi đã có dịp nhắc đến trong bài điểm sách "The Year of the Hare" của Giáo Sư Francis Xavier Winters năm 1999 cho tạp chí Ấn Độ "World Affairs": " Một quan điểm mới về vụ đảo chánh tháng 11, 1963: Ngô Đình Diệm không phải là kẻ tác quái mà là một nạn nhân của thực dân" (Bài này đã được dịch ra tiếng Việt, in ra và phát cho người dư. Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống năm 1999). Tôi xin trích lại mấy đoạn sau đây:
"Khi đuợc tin ông Diệm bị lật đổ, Hồ Chí Minh nói với ký giả cộng sản danh tiếng, Wilfrid Burchett: "Tôi không thể ngờ rằng tụi Mỹ ngu đến thế ".
"Khi tướng Võ Nguyên Giáp và những đồng chí còn sống sót của ông gặp Ông McNamara ở Hà Nội tháng 11 năm 1995, họ nói rằng: "Chính sách Kennedy ở Việt Nam sai lầm hết chỗ nói. Ngô Đình Diệm là một người có tinh thần quốc gia, không khi nào ông chịu để cho người Mỹ dành quyền điều khiển chiến tranh, và sự người Mỹ dành quyền đã đưa người Mỹ đến thất bại đắt giá.
Cho nên, kết quả của cuộc đảo chánh lật đổ ông Diệm năm 1963 là sự kết thúc sớm [sự hiện diện] Hoa Kỳ ở Việt Nam, một điều đáng làm cho người ta ngạc nhiên"
"Và đài phát thanh Hà Nội nói: "Do sự lật đổ Ngô Đình Diệm và em ông là Ngô Đình Nhu, tụi đế quốc Mỹ đã tự mình hủy diệt những cơ sở chính trị mà họ đã mất biết bao nhiêu năm để xây dựng"
"Về phía các lãnh tu. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thì họ không ngờ là họ lại may mắn như thế. Nguyễn Hữu Thọ nói với báo Nhân Dân: "Sự lật đổ Diệm là một món quà mà Trời ban cho chúng tôi."
Và Phó Chủ Tịch Trần Nam Trung nói: "Tụi Mỹ quyết định đổi ngựa giữa dòng. Chúng sẽ không khi nào tìm được một người hữu hiệu hơn Diệm."
Còn tiếp ... Reply With Quote Reply With Quote 25-03-2011 05:29 PM #54 nguoibatcao nguoibatcao is offline Member Join Date 12-08-2010 Posts 1,499 Trên đây là chuyện báo chí và học giả ngoại quốc kể lại. Bây giờ tôi xin kể ba chuyện mà chính tôi đã được tai nghe mắt thấy từ những người trong cuộc. Những chuyện này vừa có một giá trị nhân chứng, vừa có một giá trị lớn về lịch sử, và đối với chúng ta, những người kính mến Tổng Thống, nó làm cho ta hãnh diện là "Diemiste" (Năm 1955, ở quảng trường Trocadéro, Paris, một người Pháp mắng tôi là "espèce de Diemiste", khi vượt xe tôi, vì ông ta cho rằng tôi đã cản đường xe ông, và tôi rất lấy làm hãnh diện bị mắng như vậy...)
1/ Trong những năm trước 1963, trong số kỷ giả Mỹ ở Sài Gòn có ông Keyes Beech, đặc phái viên của báo Chicago Tribune, một nhà báo rất được kính nể. Năm 1963 ông này không vào hùa với đám ký giả chống Tổng Thống. Sau 1963, ông vẫn được ở lại Sài Gòn, và ông vẫn thân thiện với tôi. Ông thỉnh thoảng mời tôi đến nhà ông ấy ở gần Bộ Ngoại Giao ăn cơm. Một hôm, trong những chuyện ông kể tôi nghe có chuyện sau đây.
Ông nói: "You know, on the afternoon of the day President Diem was overthrown, I was in a bar in Pnom-Penh. Sitting next to me was Wilfrid Burchett. We were not friends. But on hearing the news about President Diem’s death, he turned to me and said: "It's unbelievable! They have killed the only man with the ideas and the organisation that can stop us". ("Thật là không thể tin được: chúng nó đã giết chết người duy nhất có tư tưởng và tổ chức có thể chận chúng tôi"). Burchett không nói rõ "chúng nó và "chúng tôi" là ai, nhưng ta cũng có thể thấy rõ là "chúng nó" là phe chống cộng, và "chúng tôi" là phe cộng sản.
2/ Lúc trẻ, trước năm 1945, ở Huế, tôi quen bà Hồ Thị Mộng Chi. Bà này là con Cụ Thượng Thơ Hồ Đắc Khải, cháu gọi Bác sĩ Tôn Thất Tùng là cậu, và vợ Bác sĩ Đặng Văn Hồ. Bác sĩ Tùng là bà con và hàng xóm, ở cách nhà tôi hai nhà, và Bà Chi ở sít nhà Bác sĩ Tùng. Bà lại là bạn thân của Ông Tạ Quang Bửu, thầy tôi. Nên chúng tôi qua lại thường, và tôi coi bà ấy như là chị, và bà ấy cũng đối xử với tôi như em mình.
Sau 1945, bà Chi đem con đi Pháp, ở Paris cho chúng đi học. Lúc đó tôi du học ở London. Mùa hè nào cũng có về Paris chơi và ở nhà bà ấy, có khi ở cả tháng. Nhưng sau 1954, bà tỏ ra thân với phía Bắc Việt, có lẽ vì Bác sĩ Tùng và ông Bửu ở phía đó, cũng có thể vì Bác sĩ Hồ, lúc đó là Thiếu tá Quân Y trong quân đội Việt Nam, mà lại thêm có vợ bé. Tôi thì cộng tác với Tổng Thống Diệm. Vì vậy mà tôi không đi lại với gia đình Bà Chi nữa.
Sau 1960, và nhất là sau 1968, thì "chiến tuyến" lại càng rõ ràng hơn nữa, vì Bà Chi làm bí thơ cho Bà Nguyễn Thị Bình. Hai người con bà ấy cũng "anti-Saigon" rất hăng, và khi "phe ta" thắng trận năm 1975 thì mẹ con đều dắt nhau về Việt Nam thăm viếng ngay.
Qua bạn bè, đặc biệt là anh Bửu Kỉnh (nay đã mất), một người bạn thân của gia đình bà Chi, mà cũng thân tôi, tôi được biết như trên, nên sau 1975, tôi vẫn giữ thái độ "kính nhi viễn chi". Nhưng một hôm, vào khoảng năm 1978, nhân dịp ghé Paris, gặp anh Bửu Kỉnh, anh ấy bảo: " Sao toa không đến thăm Chị Chi". Tôi trả lời: "Sức mấy! Chắc chi Chị ấy tiếp tui mà đến!"
Anh Kỉnh lại nói: "Đến đi! Chị hỏi thăm toa đó!" Tôi ngạc nhiên. Anh Kỉnh lại nói thêm: "Nay, thay đổi rồi!". Tôi nghĩ: "À, như rứa!". Và một hai hôm sau, tôi điện thoại đến bà Chi. Bà trả lời rất vui vẻ, xem như chẳng có gì xảy ra giữa chị ấy và tôi từ 1954 cả, và bảo tôi đến chơi. Chị lại nói thêm là Chị sẽ làm "purée de pomme de terre" cho tôi ăn. Xin nói đó là món ăn mà trước 1954 bà ấy thường cho tôi ăn. Bà làm rất ngon, và tôi rất thích.
Trong buổi tái ngộ, nói chuyện lông bông luôn mấy giờ đồng hồ. Tôi ngồi nghe nhiều hơn là nói, và nghe ba mẹ con đua nhau đả kích Việt Cộng kịch liệt! Tôi sửng sốt. Tôi không dám hỏi tại sao, nhưng chỉ đoán, nhờ bà Chi nói "tụi nó tệ lắm", và nhờ anh Bửu Kỉnh cho biết trước đó là trong chuyến về Việt Nam bà không được Việt Cọng tiếp đón niềm nở, vì nó thắng rồi nên không cần đến bà nữa. Bà thì lại tưởng rằng vì bà là người có công, nhất là đã giúp cộng sản trong việc tuyên truyền (con đại thần Triều Nguyễn mà lại đứng về phe cách mạng, bí thơ Bà Nguyễn Thị Bình, ở ngay Paris, trong một cuộc đàm phán hệ trọng).
Người con thì có thổ lộ là "tụi nó dốt quá" (nó nói rằng Mã Lai không phải là quốc gia độc lập, còn Lê Đức Thọ, được anh ta dẫn đi coi thành tựu kinh tế kỹ nghệ Pháp lúc viếng thăm Paris thì cho rằng "chẳng có gì đáng để ý")!! Nhưng điều đáng ghi nhất là giây phút chót của cuộc tái ngộ. Lúc đó cũng gần 12 giờ khuya. Bà Chi đưa tôi ra cửa, và cùng tôi đi mấy bước ra giữa phố , lúc đó vắng. Tôi không hề đề cập gì đến ông Diệm trong cuộc gặp gỡ, nhưng trước khi chia tay bà ta nói: "Nghĩ kỹ lại, chỉ có Ông Diệm là hơn hết!".
3/ Chuyện thứ ba là một chuyện về kiên nhẫn, hay có thể nói là lì lợm. Từ năm 1963 tôi hằng nghĩ rằng Ông Hồ Chí Minh phải có chia sẻ với những người trong Đảng một nhận định gì về cuộc đảo chánh. Nhưng sưu tầm tài liệu, hết năm này qua năm khác, không thấy có một nhận định nào của Ông Hồ. Tất nhiên, điều đáng làm nhất là hỏi những người gần gũi Ông Hồ. Nhưng họ là người "phía bên kia", và họ lại ở Hà Nội. Làm được việc này hầu như là vô hy vọng. Nhưng, may thay, tôi đã làm được.
Trong thời gian gần đây tôi may mắn gặp một người từ Hà Nội, mà tôi quen khá thân trước năm 1954. Và cũng rất may, người này là một người hiếm có đã được chính tai mình nghe Ông Hồ nhận định về vụ đảo chánh 1963.
Người này tuyệt đối cấm tôi tiết lộ tên trong khi y còn sống, vì đây là một "bí mật thâm cung", nên tôi chỉ gọi y là "Cán bộ X". Cán bộ X đã kể cho tôi nghe câu chuyện như sau: Y là một người có mặt tại Phủ Chủ Tịch ở Hà Nội ngày xảy ra đảo chánh ở Sài Gòn. Y thuộc một nhóm được Ông Hồ cho gặp chiều ngày 2/11/1963.
Khi vào Phủ Chủ Tịch thì Ông Hồ đang bận tiếp một phái đoàn gì đó. Y phải đợi ngoài hành lang. Đang đợi thì thấy có người mang một bao thơ vào cho Ông Hồ. Nhìn vào, thấy Ông mở thơ ra đọc, xong, không nói gì, bỏ thơ vào túi, rồi tiếp tục tiếp khách. Một lúc sau, khách đi rồi, Ông cho gọi nhóm của Cán bộ X vào, và nói: "Lúc nãy người ta báo cho Bác biết là Ông Diệm vừa bị lật đổ. Ông Diệm là kẻ địch thủ ghê gớm nhứt của Bác. Nay Ông đã bị loại rồi, thì chiến thắng chắc chắn sẽ về ta rồi."
Lịch sử Miền Nam Việt Nam từ 1963 đến 1975 có thể thâu gọn trong câu nói đó, và những người tự nhận là thuộc về Đệ Nhứt Cộng Hoà nên nhắc nhủ những cá nhân, hay đoàn thể, đã nhúng tay vào việc lật đổ và hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên suy niệm về câu nói đó và trách nhiệm của mình về những gì đã xảy ra từ 1963 đến nay. Vài dòng giới thiệu: Tôi vừa được đọc bài viết của tác giả Lữ Giang :”Yêu cầu Tướng Khánh trả lời trước lịch sử”.
Tôi xin phép tác giả Lữ Giang được cho vào Phần đọc thêm trong “ Đôi dòng nhìn lại Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà Ngô Đình Diệm”.
Trân trọng.
Quỳnh Hương (nvn)
Yêu cầu Tướng Khánh trả lời trước lịch sử
Hiện nay Đại Tướng Nguyễn Khánh, một nhân chứng lịch sử còn lại, vẫn đang khoẻ mạnh và tinh thần minh mẫn, nên chúng tôi viết bài này với ước mong Đại Tướng trả lời trước công luận về một quyết định lịch sử rất quan trọng và chính quyết định này đã đưa Miền Nam vào những cơn khủng hoảng liên tục, và sau đó chấm dứt sự nghiệp của Tướng Khánh, đó là:
Ai đã ra lệnh cho Bộ Tư Pháp soạn soạn thảo và ban hành một đạo luật man rợ, bất chấp các nguyên tắc căn bản của luật pháp, để giết ông Ngô Đình Cẩn và một số người liên hệ đến chế độ Ngô Đình Diệm?
Trước đây, chúng tôi đã có lần hỏi Đại Tướng ai đã ra lệnh nói trên, Đại Tướng trả lời rằng chuyện đó do bên Bộ Tư Pháp làm, ông không hay biết gì hết! Tôi làm trong chính quyền lâu năm, tôi biết rõ không bao giờ một cơ quan cấp bộ tự ý làm một chuyện quan trọng như vậy mà không có lệnh của cấp lãnh đạo quốc gia.
DIỄN BIẾN LỊCH SỬ
Sau cuộc “chỉnh lý” ngày 30.1.1964, ngày 31.1.1964, Tướng Nguyễn Khánh lên làm Chủ Tịch Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Đội và theo chỉ thị của CIA, loại tất cả các tướng lãnh thân Pháp đã được Mỹ dùng làm công cụ đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.
Cuộc “chỉnh lý” nói trên, thường được gọi là “Pentagon Coup”, do Tướng Khiêm, một nhân viên CIA (agent) thứ thiệt, chủ động dưới sự chỉ đạo của CIA, còn Tướng Khánh chỉ “ăn có”. Do đó, tài liệu để lại cho thấy, theo sự chỉ đạo của Toà Đại Sứ Mỹ, Tướng Khánh sẽ làm Quốc Trưởng bù nhìn, còn Tướng Trần Khiêm làm Thủ Tướng nắm thực quyền. Nhưng Tướng Khánh không muốn làm Quốc Trưởng bù nhìn, nên ông quyết định đẩy Tướng Khiêm ra ngoại quốc rồi ông vừa nắm chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, vừa nắm chức Thủ Tướng.
Ngày 7.2.1964, Tướng Khánh ban hành Hiến Ước Lâm Thời số 2, cử Tướng Dương Văn Minh lên làm Quốc Trưởng bù nhìn và Tướng Khánh làm Thủ Tướng. Ngày 8.2.1964 Tướng Khánh công bố thành phần chính phủ.
Theo quy chế lúc đó, tất cả tổ chức chính phủ, kể cả quốc trưởng, đều nằm dưới quyền của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng do Tướng Khánh làm Chủ Tịch. Do đó, người lãnh đạo tối cao của Miền Nam lúc đó, sau Đại Sứ Mỹ là Tướng Nguyễn Khánh. Vậy phải có lệnh của Tướng Khánh, Bộ Tư Pháp mới soạn ra đạo luật nói trên.
TIẾN TRÌNH CỦA LUẬT MAN RỢ
Trước khi nói chuyện tiếp với Tướng Nguyễn Khánh, chúng tôi xin trình bày qua tiến trình hình thành Sắc Luật số Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 thiết lập Tòa Án Cách Mạng và nội dung của sắc luật này.
Sau khi đảo chánh thành công, Tướng Dương Văn Minh không quan tâm gì đến việc giải quyết những vấn đề của quốc gia mà chỉ lo vơ vét. Sau khi “chỉnh lý”, không biết tự mình hay theo lệnh của ai, Tướng Nguyễn Khánh đã cho xúc tiến một cách khẩn cấp thủ tục thanh toán ông Ngô Đình Cẩn và một số nhân vật liên hệ đến chế độ cũ chưa thể giết được trong cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963. Nhưng việc giết ông Cẩn và những người liên hệ gặp khó khăn, vì các luật pháp hiện hành lúc đó không cho phép làm như vậy. Do đó, công việc trước tiên là phải hình thành một đạo luật mới, quy định một cách nào đó để có thể đưa ông Cẩn và những người liên hệ ra xét xử và tuyên án tử hình. Đây là một công việc rất phức tạp.
1.- Đưa Giám Đốc Nha Quân Pháp về làm Bộ Trưởng Tư Pháp
Công việc trước tiên là đưa Đại Tá Nguyễn Văn Mầu, Giám Đốc Nha Quân Pháp, lên làm Bộ Trưởng Tư Pháp.
Tại Việt Nam, Bộ Trưởng Tư Pháp thường được chọn trong các thẩm phán cao cấp hay các luật sư lão thành vì hai lý do: Lý do thứ nhất là người ở chức vụ này phải được mọi người kính nể, nhất là giới luật gia. Lý do thứ hai là người đó phải rất am tường về luật pháp và ngành tư pháp. Trường hợp của Đại Tá Nguyễn Văn Mầu là một biệt lệ. Ông ta chỉ chuyên về quân pháp nên không thể nắm vững tình trạng luật pháp rất phức tạp của Việt Nam thời đó được. Cấp bậc của ông ta lại thấp nên bị coi thường. Nhưng Tướng Khánh đã quyết định chọn ông ta vì chỉ có ông ta mới chịu thi hành lệnh của Tướng Khánh, dù trái với các nguyên tắc căn bản của luật pháp. Một thẩm phán cao cấp hay một luật sư lão thành không bao giờ chịu làm như vậy.
2.- Vượt lên trên nguyên tắc căn bản của luật pháp
Theo bộ Hoàng Việt Hình Luật áp dụng tại Trung Phần hay Hình Luật Canh Cải áp dụng tại Nam Phần, nếu truy tố “dư đảng Cần Lao” về các tội như bắt người trái phép, đả thương, tống tiền, kinh tài bất hợp pháp... thì không thể tuyên án tử hình được. Vì vậy, Bộ Tư Pháp được lệnh phải soạn thảo và cho ban hành một văn kiện như thế nào để có thể xử tử hình ông Cẩn và những người liên hệ. Một nhóm luật gia đã được bí mật giao cho phụ trách công tác này.
Dự thảo luật đã đưa ra một số tội phạm mà họ cho rằng ông Ngô Đình Cẩn và “dư đảng Cần Lao” đã vi phạm và ấn định những tội này có thể bị tử hình. Một sự quy định như thế dĩ nhiên là hoàn toàn trái với nguyên tắc bất hồi tố của hình luật (principle of non-retroactive of criminal law), tức hình luật không áp dụng cho những trường hợp xẩy ra trước ngày luật ban hành. Đây là một một nguyên tắc căn bản của hình luật được hầu hết các quốc gia trên thế giới công nhận và áp dụng, kể cả Hoàng Việt Hình Luật và Hình Luật Canh Cải của Việt Nam thời bấy giờ. Nguyên tắc này cũng đã được ghi vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị.
Điều 11, đoạn 2, của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền quy định như sau:
“Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành, mà cũng không bị tuyên phạt một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian phạm pháp.”
Điều 15 của Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị quy định:
“Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay quốc tế áp dụng trong thời gian khi tội phạm xẩy ra. Cũng sẽ không bị tuyên một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian sự phạm pháp xẩy ra. Tuy nhiên, người vi phạm được hưởng sự khoan hồng hơn nếu luật mới ban hành sau ngày phạm pháp ấn định hình phạt nhẹ hơn.”
Mặc dầu có nhiều tranh luận, dự thảo Sắc Luật số 4/64 thiết lập Tòa Án Cách Mạng cũng đã được Tướng Nguyễn Khánh ký và ban hành ngày 28.2.1964. Sắc Luật này đã đưa ra những quy định hoàn toàn trái với nguyên tắc căn bản của hình luật như đã nói trên.
Điều 1 của Sắc Luật quy định:
“Nay thiết lập một toà án Cách mạng có thẩm quyền xét xử trên toàn quốc những tội ác gây ra trong khoảng thời gian từ 26 tháng mười năm 1955 đến 1 tháng mười một năm 1963 bởi những bọn mật vụ, đại kinh tài, viên chức chính quyền cao cấp cùng nhân vật quan trọng dưới thời Ngô Đình Diệm.”
Điều 2 quy định Toà Án Cách Mạng sẽ mở phiên xử đầu tiên trong tháng ba năm 1964, và hoạt động trong thời gian 3 tháng.
Điều 3 quy định 12 tội sẽ bị truy tố trước Toà Án Cách Mạng: gian nhân hiệp đảng; cố sát với trường hợp gia trọng; giết người bằng thuốc độc; tra tấn và phạm trọng tội; cố ý đả thương với mọi trường hợp gia trọng; hiếp dâm với mọi trường hợp gia trọng; bắt giam trái phép; cướp với trường hợp gia trọng; sách thủ tiền tài; đốt hủy sổ bộ, chứng thư, chứng khoán, thương phiếu; hối lộ và hối mại quyền thế, và lũng đoạn kinh tế quốc gia. Điều 4 định nghĩa lại các yếu tố tội phạm, phần lớn khác với định nghĩa của các điều luật đã áp dụng trước đó:
(1) Gian dâm hiệp đảng: những tổ chức khủng bố bí mật hay công khai;
(2) Đầu độc giết người: tội bắt giam người trong hầm có hơi độc, hay có chất độc hay thiếu không khí, để gây thiệt mạng;
(3) Mưu sát: Tội giết người đối lập về chính trị, việc tra tấn cho đến chết;
(4) Bắt giam trái phép: việc lưu đày một người mà không có án toà và ngoại trừ trường hợp dự liệu bởi Dụ số 6 ngày 11 tháng giêng năm 1956;
(5) Cướp: các việc tịch thu bất hợp pháp;
(6) Lũng đoạn kinh tế quốc gia: việc mang đi hay cho mang ra khỏi xứ, bất cứ bằng cách nào, các giá khoán động sản, giấy bạc Việt Nam, vàng, bạc, ngoại tệ, trái khoán, và bằng khoán; tổ chức kinh tài bất hợp pháp; sang đoạt công nho.
Điều 5 cấm toà án cách mạng không được quyền giảm khinh, cũng như không được phạt án treo.
Điều 15 quy định rằng Toà Án Cách Mạng tuyên án liền sau phiên họp nghị án, không đình hoản. Những án khuyết tịch coi như đương tịch.
Điều 16 cấm các bị cáo không được kháng cáo hoặc thượng tố.
Hầu hết những quy định trên là những quy định mới, không được dự liệu trong các luật lệ đã có từ trước và đã được đem áp dụng để truy tố và xét xử ông Ngô Đình Cẩn và “dư đảng Cần Lao” nên hoàn toàn trái với nguyên tắc bất hồi tố của hình luật. Điều này cho thấy những người đứng đàng sau vụ án đã có quyết tâm giết ông Ngô Đình Cẩn và một số người liên hệ đến chế độ cũ bằng mọi giá.
Sau vụ này, trong các sách giáo khoa ở trường luật, các giáo sư thường nêu lên Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 như một văn kiện điển hình vi phạm nguyên tắc bất hồi tố của hình luật đã được đưa ra thi hành và các luật gia đã coi đó là một thứ luật man rợ, một vết dơ trong nền tư pháp Việt Nam Cộng Hoà. Ngay trong vụ án Saddam Hussein được Toà Án Đặc Biệt Iraq (Iraqi Special Tribunal) xét xử, trong bản án phúc thẩm ngày 26.12.2006, Toà Phúc Thẩm Iraq xác nhận nguyên tắc bất hồi tố của hình luật vẫn được tôn trọng. Nói cách khác, luật pháp của Iraq áp dụng cho tập đoàn Saddam Hussein còn văn minh và công bằng hơn luật pháp do Tướng Nguyễn Khánh đưa ra lúc đó.
Chúng tôi đã phỏng vấn nhiều thẩm phán và luật sư lão thành thời đó xem nhóm luật gia nào đã được giao cho soạn thảo Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 và ai đã chỉ thị cho họ làm như vậy, nhưng không một tin tức nào được tiết lộ.
Tiếp theo, ngày 28.2.1964, Tướng Khánh ký Sắc Lệnh số 120-TP cử các tay chân bộ hạ của ông, sẵn sàng thi hành lệnh ông, vào thành phần xử án để thi hành quyết định của mình, đó là Đại Tá Trần Văn Chương, Đại Tá Nguyễn Văn Chuân, Đại Tá Đặng Văn Quang, Trung Tá Dương Hiếu Nghĩa (ghi lầm là Nguyễn Văn Nghĩa), v.v.
LỆNH GIẾT PHÁT XUẤT TỪ ĐÂU?
Trong cuốn “Việt Nam nhân chứng”, Tướng Trần Văn Đôn cho biết như sau:
“Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng đã quyết định đưa ông Cẩn đi ra ngoại quốc rồi. Ông Cẩn lại không có tội gì rõ rệt đến nổi sinh mạng ông bị đe doạ. Hai anh của ông ta chết, máu đổ thêm nữa có ích lợi gì?...” (tr. 248).
Thế thì tại sao có lệnh phải làm một đạo luật man rợ để giết ông Cẩn?
Một số người cho rằng áp lực đòi nợ máu của nhóm Phật Giáo đấu tranh, nhất là hai Thượng Tọa Thiện Minh và Trí Quang, là động lực chính khiến Tướng Khánh phải ra tay, vì Tướng Khánh vốn bị nhóm này tố cáo là “Cần Lao tái xuất giang hồ” , nên phải có hành động như thế để chứng minh ông ta không phải là Cần Lao.
Tuy nhiên, nhiều người tin rằng sự thúc đẩy hay khuyến cáo của một số viên chức Hoa Kỳ, nhất là Đại Sứ Cabot Lodge, là lý do chính khiến Tướng Khánh phải ra tay: Nếu ông Cẩn còn sống, các nhóm ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm có thể làm đảo chánh và đưa ông Cẩn lên.
Trong công điện khẩn mang số 930 gởi cho Bộ Ngoại Giao ngày 5.11.1963 (sau khi ông Diệm vừa mới bị giết), ông Lodge nói ông Cẩn sẽ “được xét xử theo luật pháp” và “chính phủ Hoa Kỳ có thể trở thành người biện hộ cho tội ác, nếu toan tính làm việc xét xử ở đây bị trở ngại vì ông Cẩn là khuôn mặt đáng phải chịu sự oán ghét mà ông ta đang phải nhận” . Điều này cho thấy ông Lodge đã quyết định giết ông Cẩn. Nhiều người tin rằng ông Lodge đã mượn tay Tướng Khánh để thực hiện âm mưu của mình.
Thời đó, không có lệnh của Toà Đại Sứ Mỹ, Tướng Khánh không bao giờ dám đưa ra một quyết định quan trọng như vậy, dù bị áp lực của nhóm Phật Giáo đấu tranh đòi nợ máu. Trong công điện gởi về Washington ngày 30.4.1964, Đại Sứ Lodge kể lại rằng Tướng Khánh đã nói với ông:
“Chúng tôi người Việt Nam muốn người Mỹ chịu trách nhiệm với chúng tôi chứ không phải chỉ là những cố vấn”. (We Vietnamese want the Americans to be responsible with us and not merely be advisers).
GIẤU ĐẦU LÒI ĐUÔI
Năm 2005, khi bị chất vấn về vụ giết ông Cẩn, Tướng Nguyễn Khánh nói rằng quyền tha hay giết ông Cẩn là quyền của Tướng Dương Văn Minh, vì lúc đó Tướng Minh là Quốc Trưởng. Riêng ông đã giúp ông Cẩn bằng cách đưa Đại Tá Đặng Văn Quang, con đỡ đầu của ông Cẩn, vào làm phụ thẩm Quân Nhân tại Tòa Án Cách Mạng xét xử ông Cẩn. Nhưng Tướng Khánh đã nói láo.
Đại Tá Đặng Văn Quang sinh tại Ba Xuyên là người công giáo đạo gốc, đi lính Pháp với cấp cập hạ sĩ từ 1947 – 1949, sau đó đi học khoá 1 sĩ quan Đập Đá ở Huế cùng với Nguyễn Văn Thiệu.
Trong thời gian ở Huế, Đặng Văn Quang còn là Trung Tá, có người tình là cô Đỗ Thị Năm, người Nam, không có đạo. Cô Năm đã xin theo đạo để hợp thức hoá tình trạng hôn nhân theo luật đạo Công Giáo. Trung Tá Quang đã nhờ bà Ngô Đình Thị Hiệp, em ông Diệm, vợ ông Tạ Văn Ấm và mẹ Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, đỡ đầu cho cô Năm khi chịu phép rửa tội và lấy tên thánh là Elisabeth, có lẽ để được ông Cẩn tin cậy và giúp đỡ! Như vậy không hề có chuyện ông Cẩn đỡ đầu cho Đại Tá Đặng Văn Quang như Đại Tướng Khánh đã nói. Ông Cẩn cũng không bao giờ đỡ đầu rửa tội cho bất cứ ai.
Về chuyện đổ tội cho Tướng Dương Văn Minh, chúng tôi đã nói với Tướng Khánh rằng lúc đó Tướng Minh chỉ là quốc trưởng bù nhìn, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng do Tướng Khánh làm Chủ Tịch mới có quyền đưa ra quyết định tối hậu. Nhưng ông vẫn đổ tội cho Tướng Minh.
Đại Tướng Khánh có biết ông Cẩn đã nhìn các sĩ quan được Đại Tướng cử làm phụ thẩm quân nhân tại Toà Án Cách Mạnh như thế nào không? Luật Sư Võ Văn Quan người biện hộ cho ông Cẩn, cho biết, khi nhìn mấy tên phụ thẩm quân nhân ngồi xét xử, ông Cẩn đã nói với Luật sư Quan:
“Luật sư biết không, lúc mấy tên đó tới lui tại nhà tôi, khúm núm xưng “con”, xin xỏ, cầu cạnh. Bây giờ bọn nó tiếp tay để ngồi phiên xử này xử tôi, mặc dầu họ có thể từ chối. Đúng là một lũ phản phúc...”
Luật sư Quan cho biết thêm, lúc ở phiên toà, ông Cẩn ngồi dựa vào ghế, nhìn thẳng vào các phụ thẩm quân nhân. Một vài phụ thẩm quân nhân, khi nhìn xuống, chạm phải mắt ông Cẩn, liền quay về hướng khác.
Còn Tướng Nguyễn Khánh thì sao? Đại Úy Nguyễn Văn Minh, người phụ trách về an ninh của ông Cẩn lúc đó có kể lại năm 1956, sau khi nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh ở Huế, Tướng Khánh đến xin được vào chào ông Cẩn, nhưng không hiểu tại sao ông Cẩn không tiếp. Đại Tá Khánh liền áp dụng chiến thuật “lỳ”. Từ hôm sau, mỗi buổi sáng, đầu giờ làm việc, Tướng Khánh đều mặc quân phục chỉnh tề, tự mình lái xe đến đậu ngay trước nhà ông Cẩn. Sau khi yêu cầu nhân viên gác cổng vào trình xin cho ông được gặp, ông trở ra ngồi trên xe đợi hàng tiếng đồng hồ. Không được gặp, hôm sau Tướng Khánh lại lái xe đến và làm như thế, liên tiếp trong ba bốn sáng. Cuối cùng, ông đã được ông Cẩn tiếp.
Luật Sư Võ Văn Quan Luật sư Quan đã kết luận bài biện hộ cho ông Cẩn như sau:
“Trong cuộc cách mạng năm 1789 của Pháp, quốc hội gọi là Convention National, bầu trong thời kỳ La Terreur (Khủng Bố) gồm đa số là những người do tên độc tài khát máu Robespierre dùng áp lực để đưa vào. Trước khi đem vua Louis XVI ra xét xử tại Quốc Hội, Robespierre đã tuyên bố là phải cho án tử hình. Trong phiên tòa đặc biệt đó, nhiều người của Convention National đã cật vấn hằn học, mạt sát thậm tệ vua Louis XVI, cho biết trước rằng họ sẽ bỏ phiếu tuyên án tử hình. Khi đứng lên biện hộ cho vua Louis XVI, Luật sư Sège đã can trường nói thẳng với họ: “Je viens ici chercher des juges, mais je ne trouve que des bourreaux.” (Tôi đến đây tìm những vị thẩm phán quan, nhưng tôi chỉ gặp những tên đao phủ thủ).
Trong lịch sử tư pháp Việt Nam, chúng tôi chưa thấy có luật sư nào dám xúc phạm các quan tòa như vậy. Nhưng vì những điều Luật Sư Quan nói là sự thật nên các “phán quan” chỉ ngồi chịu trận chứ không có phản ứng nào.
Trong vụ án Đặng Sỹ, Đại Tướng Khánh cũng đã quyết định tuyên án tử hình. Nhưng khi bị áp lực của Khối Công Dân Công Giáo, Đại Tướng đã phải thay đổi quyết định của mình.
Sáng 7.6.1964 một cuộc biểu tình lớn với khoảng 100.000 người tham dự đã được tổ chức tại công trường Lam Sơn, trước trụ sở Quốc Hội ở Saigon. Đoàn biểu tình đứng kéo dài trên đường Lê Lợi đến chợ Bến Thành. Trong cuộc biểu tình này người ta thấy có các biểu ngữ: “Lột mặt nạ bọn lợi dụng Cách Mạng để đàn áp Công Giáo”, “Mỵ dân là phải bội Dân Chủ”, “Ủng hộ cuộc đấu tranh của Công Giáo miền Trung” ,... Thỉnh thoảng có một vài biểu ngữ “Cabot Lodge cút đi” được đưa lên rồi hạ xuống.
Trước áp lực của khối Công Giáo, chiều 7.6.1964, Tướng Nguyễn Kháng đã cho Chuẩn Tướng Albert Nguyễn Cao, đại diện cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đến thông báo cho Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, Linh mục Trần Tử Nhãn ở Dòng Cứu Thế và gia đình Đặng Sĩ biết Đặng Sỹ sẽ không bị tuyên án tử hình và đừng quan tâm đến bản án tòa sẽ tuyên trong ngày mai. Tòa chỉ tuyên án để thỏa mãn những đòi hỏi của Phật Giáo mà thôi. Trong một thời gian ngắn, khi tình hình lắng dịu, Đặng Sỹ sẽ được trả tự do.
Điều này một lần nữa xác định Tướng Khánh là người nắm quyền quyết định về kết quả của các vụ án do Toà Án Cách Mạng xét xử.
Thiếu Tá Đặng Sỹ cho biết, sau khi tuyên án, ông Chánh Thẩm Lê Văn Thụ đã đi ngang qua chỗ ông đang đứng và nói: “Anh Sỹ, anh đừng buồn chúng tôi. Chắc anh đã hiểu!” Nói cách khác, ông Chánh Thẩm Lê Văn Thụ muốn nói với Thiếu Tá Đặng Sỹ rằng không phải ông muốn tuyên án như vậy, nhưng đó là lệnh. Một chánh thẩm của vụ án mà thanh minh như vậy, đâu còn là công lý nữa?
XIN TRẢ LỜI DỨT KHOÁT
Bây giờ chúng tôi đã thu thập đầy đủ những văn kiện liên quan đến ba vụ án quan trọng của thời đó là vụ án Phan Quan Đông, vụ án Ngô Đình Cẩn và vụ án Đặng Sỹ, trong đó có bản cáo trạng, lời khai của các nhân chứng, các chứng tích được xuất trình, bài cãi của các luật sư và bản án. Chúng tôi cũng đã tìm được các báo cáo của Đại Sứ Cabot Lodge cho Washington trong thời gian vụ án Ngô Đình Cẩn xẩy ra. Chúng tôi mong rằng Đại Tướng sẽ làm sáng tỏ lịch sử.
Đại Tướng Dương Văn Minh đã không thể chối cãi việc ông đã ra lệnh giết Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Đại Tá Lê Quang Tung, Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu.
Các tài sử liệu chúng tôi đã đưa ra nói trên cũng cho thấy Đại Tướng Nguyễn Khánh là người đã quyết định số phận của Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn và Thiếu Tá Đặng Sỹ. Tướng Khánh cũng không thể chối cãi được. Khi chúng tôi trình bày hồ sơ của từng vụ án, Tướng Khánh sẽ thấy rõ hơn.
Dư luận thắc mắc là trong các vụ án nói trên, Tướng Khánh đã tự ý hành động hay đã làm theo lệnh của Đại Sứ Cabot Lodge hoặc áp lực của nhóm Phật Giáo đòi nợ máu? Nếu Tướng Khánh tự ý làm, xin cho biết lý do.
Chúng tôi muốn tạo cơ hội cho Đại Tướng trả lời một cách thẳng thắn trước lịch sử thay vì chối quanh hay đánh bùn sang ao. Chúng tôi cũng xin nói rõ, với các tài liệu còn lưu lại, Đại Tướng không thể chối quanh hay đánh bùn sang ao được.
Nếu Đại Tướng không thể giải thích được, những sự kiện được chúng tôi dẫn chứng nói trên sẽ đi vào lịch sử và Đại Tướng sẽ phải lãnh nhận sự lên án của các thế hệ tiếp theo như Tướng Dương Văn Minh.
(Cali ngày 12.4.2009)
Lữ Giang những điều mà cố tt Ngô Đình Diệm đã là cho đất nước để rồi ngã xuống với cái nhìn nhạo bán của đại bộ phận dân tộc, tại sao lại như vậy? chỉ vì chúng ta là những kẻ thua cuộc, chúng ta thua nhưng thua trong danh dự, trong tình yêu với đất nước còn CS thắng nhưng trong nỗi nhục của một lũ bán nước cho tàu trở lại vẫn đề, bây h những người ở nước ngoài về Việt Nam bắt gặp một cậu bé lớp 1 rồi hỏi: " cháu biết tổng thống Ngô Đình Diệm không?". câu trả lời sẽ là "không". " thế cháu biết bác Hồ ko?, tất nhiên là có cũng câu hỏi như vậy với một học sinh lớp 6 hay lớp 12 thì gần như 80% sẽ "tổng thống chính quyền Mỹ Diệm, tay sai của Mỹ", " kẻ bán nước", " tên ác ôn côn đồ",19.5% sẽ là " thằng cha nào vậy" 80%đó là do chính sách ngu dân của CS và những điều đc viết trong sách lịch sử từ lớp 4 đến lớp 12, 19.5% là do CS đã huỷ hoại cả 1/4 thế hệ học sinh 0.5% còn lại rất hiếm hoi may ra còn hiểu được công lao của tt hay chí ít cũng biết ông ko phải là kẻ bán nước Ngoại đê`: từ nước ngoài trở về chắc chẳng ai ngờ rằng thế hệ thanh niên VN bây giờ trở nên hư hỏng ăn chơi và sa đoạ như vậy, cái này phần lớn là do chính sách ngu dốt của CS, nhiều người khi nghe thanh niên VN bây giờ nói chuyện phải sởn da gà vì kiểu ăn nói tục tỉu của họ. Sex, mại dâm, ma tuý...tràn lan, nhiều người còn không biết mục tiêu sống của mình là gì chỉ biết ăn chơi và rất rất rất nhiều không hề biết cũng không cần quan tâm đến quá khứ đất nước, chẳng biết viết lên đc hai từ Tổ quốc Trở lại với cố TT Ngô Đình Diệm Có thể nói CS có một chính sách ngu dân cực kì hoàn hảo, sau hơn 30 năm, bây h ai ai cũng có chung một tư tưởng đó là tư tưởng HCM. HCM chính là một bậc thánh nhân vĩ đại ko ai bì kịp. Còn Ngô Đình Diệm chỉ là một tên tay sai của Mỹ không hơn không kém Vấn đề tôi muốn nói ở đây chính là bao nhiêu năm sau khi CS sụp đổ thì HCM mới bị lật mặt và bao nhiêu năm sau đó nữa người ta mới hiểu được sự hi sinh của cố tổng thống cho đất nước này. VN đã mất đi ko phải một mà là nhiều thế hệ bị CS che mắt Liệu đến lúc CS sụp đổ người ta có chịu phanh phui chuyện HCM không hay là vì mất danh dự quốc gia mà người ta ém chặt. Trong lớp học nghe những lời phỉ bán của học sinh đối với cố tt Ngô, tôi cảm thấy đau lòng, đau lòng không chỉ vì nỗi nhục mà Ngô tổng thống phải gánh chịu mà còn vì nghĩ rằng dân trí nước ta như thế thì đến lúc nào mới đánh tan nạn CS ko phải chỉ có học sinh mà ngay cả giáo viên gần 60 tuổi rồi mà vẫn còn nói với giọng đầy kính trọng: " được đứng vào hàng ngũ của Đảng là một vinh dự to lớn, và cũng là trách nhiệm với dân" nam mô a di đà Phật, tôi chỉ còn biết thở dài và cầu nguyện cho các thế hệ Việt sớm thoát khỏi nạn cs P/s: sở dĩ VN chúng ta phải chịu hậu quả như ngày hôm nay cũng chỉ vì tội nghiệp dân tộc ta quá nặng khi tàn sát người Chăm quá dã man
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 13, 2014 4:54:29 GMT 9
Bà Ngô Đình NhuTác giả: Nguyễn Văn LụcBà Trần Lệ Xuân Bà Ngô Đình Nhu qua đời ngày 24-4-2011, tại Rome. Thế là kể như cả một thế hệ những người lãnh đạo miền Nam thời tuổi trẻ của tôi đã không còn nữa. Tính đến nay cái chết của bà thấm thoắt đã được hơn ba năm!! Hôm nay, một lần nữa, xin lên tiếng như một tưởng niệm và nói thay cho một người đã làm thinh. Tôi là người ngay từ lúc 9, 10 tuổi đã đem lòng ái mộ ông Ngô Đình Nhu, phu quân của bà lúc ông còn hoạt động ở Bắc vào những năm 1950-1952. Tôi đã giáp mặt ông một số lần trong bộ đồ bốn túi với nụ cười nhếch mép. Anh cả tôi lúc bấy giờ cũng theo học những lớp về Xã Hội do ông tổ chức và giảng dạy. Làm sao tôi không quý mến ông được. Sau này, thời thế thay đổi tôi và ông đều chọn ở miền Nam làm quê hương. Giã từ đất Bắc. Giã từ cộng sản. Ông là biểu tượng cho miền Nam chống lại ý thức hệ cộng sản. Tôi theo gót chân ông và tiếp tục con đường ông đã đi.. Vào miền Nam, tôi ngây thơ tưởng thế là tạm yên. Đất nước miền Nam đang đứng lên, đang xây dựng với niềm tin và hy vọng. Tôi lo học hành, lo chơi. Không ngờ, cộng sản lại lén lút đeo đuổi phá hoại xóm làng miền Nam chúng tôi một lần nữa. Họ lại muốn giải phóng chúng tôi. Lần này thì ông đóng vai một lãnh tụ dấu mặt. Chưa bao giờ thấy ông dùng công xa, có xe còi hụ chạy ngoài đường phố. Dân chùng nhiều người chưa biết mặt ông. Phải chăng đó là cái dở của ông. Nhưng lại một lần nữa, tôi lại có một số dịp gặp ông tham dự các buổi lể của Viện Đại học Đà Lạt trong vai trò cố vấn, còn tôi- với tư cách sinh viên viện đại học-. Đã đôi lần, tôi tính bạo dạn lên gặp ông để hỏi chuyện. Nhưng lần nào cũng vậy, buổi lễ gần xong là ông đã biến đi đằng nào rất nhanh. Chắc tính ông kín đáo, không thích gặp gỡ, nói chuyện la cà xã giao. Ông đến và đi kín đáo. Nhưng tôi còn nhớ như in là ông thường đi một mình, không có bà Nhu bên cạnh. Việc công, việc tư, ông phân biệt rõ ràng. Chắc hẳn bà Nhu lúc ấy đang ngồi ở ngôi biệt thự ở Đà Lạt chơi với các con của bà. Mà nay thì tôi mới hiểu tại sao ông làm như vậy..Ông không thích đàn bà dính dáng vào chuyện chính trị của ông. Và nỗi khỗ của ông và bà cũng từ chỗ này, gây ra những tranh cãi, buồn phiền. Ông đi biền biệt, không biết đi đâu, gặp những ai, làm gì!! Phần bà thì muốn dính dáng vào nhiều truyện, cả truyện tư đến truyện đời công, truyện chính trị, chính em!! Bà sốc nổi, ông bình tĩnh. Bà thông minh, ông thâm trầm. Bà thích xuất hiện trước đám đông, ông tránh mặt. Thực sự nếu bà hiểu được bà đang nắm được một ưu vật hiếm có trong tay thì hai người hạnh phúc biết bao. Đến khi tôi bắt đầu cầm bút thì ông đã không còn nữa. Bao nhiêu biến cố đau thương xã hội, chính trị bầy ra mỗi ngày, miền Nam như con tàu trôi nổi, không định hướng. Chỉ càng về sau này, từ người trí thức đến người lãnh đạo đến người dân thường mới thấm thía được sự mất mát ấy!! Muộn quá rồi. Thua vào tay cộng sản. Những người đàn anh của tôi như giáo sư Tôn Thất Thiện nói: Cả trăm năm nữa, chúng ta cũng không có được người như ông Diệm. Rồi những người như anh Huỳnh Văn Lang, anh Lê Châu Lộc từng sát cánh với anh em nhà ông cũng nói một tuồng như vậy. Tôi phải tin như thế thôi. Không có anh ông và không có ông, miền Nam như mất hướng. Người Mỹ đến VN để giúp chúng tôi chống lại cộng sản, nhưng trước tiên họ tìm cách giết những người bạn của họ.. Phần tôi, chót trân trọng ông, tôi không thể nghĩ khác được. Tôi càng thấy khâm phục ông hơn về sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử, về chính trị, nhất là khi đọc Chính Đề của ông. Lòng quý mến ấy của tôi càng tăng khi ông và cụ Diệm bị bọn tướng lãnh thảm sát. Tôi tôn quý ông lúc sống và tiếc thương ông lúc chết! Ai nói khác thì mặc kệ họ. Cái thất bại của gia đình họ Ngô là cụ Diệm không phải là người làm chính trị. Cụ có thể đã đi tu ngay từ cái ngày cụ tạm thời trú ngụ ở một dòng tu bên Bỉ. Còn ông Nhu, có lúc tâm sự trong vụ Phật giáo, ông cho rằng đáng nhẽ ông phải là một giáo sư sử học, ngồi nghiên cứu thay vì làm chính trị.!! Phải chăng cả hai ông đã chọn lầm nghề!! Bản thân ông là người ít bạn mà nhiều kẻ thù. Kẻ thù ngay trong số những người từng tin cẩn và hợp tác như trường hợp những Trần Kim Tuyến, Nguyễn Đình Thuần, Đỗ Mậu, Tôn Thất Đính. Và nhất là người Mỹ. Cái chết của anh em ông là do người Mỹ dàn dựng gây ra chứ không ai khác!! Và ngay khi sang Mỹ ‘giải độc”, bà Ngô Đình Nhu, dù không có đảm lược chính trị, nhưng lại có cái bản năng nhạy bén chính trị đã tuyên bố thẳng thừng: ‘Whoever has the Americans as allies does not need any ennemies’. Và câu nói sau đây chẳng khác gì một lời tiên đoán số phận miền Nam sau khi chế độ Đệ nhất cộng hòa không còn nữa: ‘I can predict to you all that the story in Viet Nam is only at its beginning’. Phần tôi lại có thêm cái may mắn là hoặc được đọc, được rèn đúc thêm hoặc là được gặp một số nhân chứng của thời Đệ Nhất Cộng Hòa như quý ông Tôn Thất Thiện, Cao Xuân Vỹ, trung tá Nguyễn văn Minh, thượng nghị sĩ Lê Châu Lộc, ông trung tướng Tôn Thất Đính, đại tá Nguyễn Hữu Duệ, ông Huỳnh Văn Lang, Minh Võ và nhiều người khác. Hoặc là được hiểu biết nhiều hơn về chế độ với Nhị Lang, Lansdale, cụ Quách Tòng Đức, cụ Đoàn Thêm, luật sư Lâm Lễ Trinhvv.. Không lẽ tất cả những người đã một thời góp bàn tay xây dựng nên một miền Nam một thời đều nghĩ sai, viết sai cả sao? Về phía người Mỹ thì phải nói ngược lại. Phải nhìn nhận có những người như Haberstam và Browne, họ đã đi tìm vinh quang nghề nghiệp trên những xác chết của hai vị lãnh đạo Đệ nhất cộng hòa và xác chết của những người lính VNCH. Cả hai đều nhận được giải thưởng Pulitzer vào năm 1964, sau khi hai anh em ông Diệm đã chết. Tôi không nói oan cho những kẻ cầm bút giết người trên. Hãy để một người đồng nghiệp thuộc loại sáng giá nhất sau này-Stanley Karnow- nhận xét về đám ký giả này: ‘Cái thảm kịch của Việt Nam lúc bấy giờ lại trở thành giấc mơ của một số ký giả, nhưng lại là một cơn ác mộng đối với các viên chức chính phủ Mỹ vì họ lo sợ rằng những biến cố ở Việt Nam sẽ khiến dư luận Mỹ chống lại những nỗ lực chiến tranh ở Việt Nam. Kiểm duyệt thì không được mà không kiểm duyệt thì thật khó kiểm soát những phóng viên trẻ năng động như David Haberstam của tờ The New york Times. Neil Sheehan của United Press International và Malcom Browne của Associated Press.. Những phóng viên trẻ này đưa ra tràn ngập những tin tức thật cũng có mà giả cũng không thiếu được cung cấp bởi những kẻ thù của chế độ’. Một ký giả uy tín và lão thành ở thời kỳ ấy là Joseph Alsop đã thẳng thừng kết án các đồng nghiệp trẻ của ông là đang tiến hành một chiến dịch tuyên truyền tồi tệ chống lại ông Diệm và ông so sánh đám ký giả này giống thời kỳ họ từng chống lại tướng Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc trước khi sụp đổ rơi vào tay Trung Cộng. Về cuốn Finding the Dragon Lady của bà Monique Brinson Demery Cuốn sách trên được xuất bản năm 2013, nghĩa là sau hai năm khi bà Ngô Đình Nhu qua đời. Đây là công trình làm việc tốn khá nhiều công sức và năm tháng. Tác giả, giống như nhiều người Mỹ khi làm công tác nghiên cứu đã chuẩn bị học tiếng Việt đến nơi đến chốn. Demery học với Ngô Như Bình ở đại học Harvard. Demery cũng đã được sự chỉ dẫn của Edward Miller- một giáo sư, một nhà sử học Mỹ có những cái nhìn sử học khách quan và chính xác hơn các nhà sử học thế hệ đàn anh của tôi. Tôi rất trân trọng những ý kiến mới mẻ của Ed.Miller. Và ít lắm là trong vòng năm trời tác giả Demery đã liên lạc, trao đổi và theo đuổi bà Nhu!! Bà Nhu vốn tránh mọi tiếp xúc, phỏng cấn- trừ một hai trường hợp cho Stanley Karnow cho chương trình đài truyền hình. Phải nhìn nhận cái kiên trì và phương pháp làm nghiên cứu của người Mỹ qua tác giả trẻ- bà Demery-. Vì thế, khi cuốn sách vừa mới ra thì tôi đã cất công tìm đọc ngay và cũng cảm thấy thất vọng sau khi đọc xong. Cái thất vọng của tôi có thể người đọc khác có thể không thấy. Nếu đi tìm hiểu một tác giả chỉ cốt thu nhặt sự kiện, các chứng từ, các nhân chứng, vật chứng, cùng lắm ta có được một nhân dạng. Điều chính yếu là phải vào được bên trong tác giả, chia sẻ với con người trong một hoàn cảnh. Về điều nay, chưa thật sự có một giao cảm, một tin tưởng nào giữa bà Nhu và Demery. Theo như tôi hiểu thì bà Nhu vẫn e ngại người ký giả trẻ tuổi này. · Cái thất vọng thứ nhất khi đọc Demery là tác giả chịu nhiều ảnh hưởng của Haberstam và Malcom Browne trong cách trình bày các sự kiện lịch sử miền Nam một cách thiên lệch. Khi còn sinh viên, bà đã có dịp đọc những lời nhận xét hận oán cùng cực của Malcon Browne như sau: ‘Theo kinh nghiệm riêng của tôi thì bà Nhu là một kẻ thù nguy hiểm nhất cho bất cứ người đàn ông nào’. . Tại sao Malcon Browne lại có một nhận xét cay nghiệt như thế thì không biết được. Nhưng phần cá nhân Browne thì lại được phía tranh đấu Phật giáo tín cẩn vào loại số một. Ông là người được thông báo ngày giờ, địa điểm tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức và bức hình của M. Browne được gửi đi khắp thế giới vào từng mỗi gia đình Mỹ trong buổi sáng hôm sau!! Và chính từ sự gợi hứng từ M. Browne mà Demery đi tìm lại bà Nhu. Một bà Nhu không phải một góa phụ sống lẻ loi đơn độc một mình ở Paris. Mà một bà Nhu thuở vang bóng một thời với một nhãn hiệu đi kèm: Dragon Lady- một phụ nữ tinh quái, gian ác, ngổ ngáo, xấc xược. Tệ hơn nữa, không phải đệ nhất phu nhân mà một con khốn chết tiệt!! Nếu chỉ đi tìm một bà Nhu như thế thì chỉ cần dở mấy sách vỡ cũ ra là có đủ! Cần gì mất năm năm tra hỏi. Và nếu muốn tham khảo thêm tiếng Việt thì nên tìm đọc cuốn Đệ Nhất Phu nhân của tên đạo văn là Hoàng Trọng Miên.. Tôi tự hỏi văn hóa Mỹ, người Mỹ viết tham khảo có dùng những từ thóa mạ như thế với những mệnh phụ phu nhân như Bà Kennedy không? · Cái thất vọng thứ hai là phần lớn các sự kiện đều đã được nhiều tác giả, nhiều người nói tới và không đem lại điều chi mới lạ. Người nào bảo mới là vì chưa đọc cho đủ tài liệu. Như trường hợp bà Nhu tổ chức với Giám mục Lê Hữu Từ đem một số dân di cư đi biểu tình ủng hộ ông Diệm lúc ban đầu, người ta đã nói tới rồi. Việc bà Nhu can thiệp vào vụ đảo chánh 1960, người ta cũng nhắc tới rồi..Tướng Khánh là người trong cuộc cũng đả kể lại đầy đủ với luật sư Lâm Lễ Trinh. · Những chi tiết về đời sống của bà Nhu lúc còn trẻ, lúc lập gia đình, lúc ở Đàlạt, lúc ở trong Dinh Độc Lập đều vụn vặt, chắp nối và nhiều chi tiết không cần phải nói ra..Những chi tiết về gia đình ông bà Chương-bố mẹ ruột bà Nhu- một thứ cai thầu chính trị- một thứ gió chiều nào ngả theo chiều đó- trong nhà lúc đón tiếp những nhân vật lãnh đạo Nhật, lúc đón chính khách Pháp, lúc tiếp đón Bảo Đại- ra vào tấp nập, tai tiếng lắm, đủ thứ chuyện…cũng là chuyện không cần phải đợi đến tài liệu mật thám Pháp khui ra. Bảo Đại trong hồi ký của ông cũng gián tiếp nhắc đến những liên hệ của ông với bà Nam Trân!! Nhưng đó phải chăng cũng là những điều quan yếu đối với bà Nhu!! · Cái điều duy nhất mà người đọc có thể thu lượm được khi đọc cuốn sách là một vài tâm sự của bà Nhu đối với ông Nhu..Bà tỏ ra buồn phiền, bực bội, chán nản, cô đơn vì có cảm tưởng ông Nhu không quan tâm gì đến bà. Chỉ lo chuyện chính trị..Và cũng từ chỗ đó bà muốn nhảy ra hoạt động chính trị, xã hội- một điều cả ông Nhu, ông Diệm và nhất là ông Cẩn rất khó chịu.. Tìm cho ra địa chỉ chỗ ở của bà Nhu tại một building trên đường Charles Floquet, số 24. Cuối cùng tác giã đã gửi thư, đã có thể liên lạc điện thoại với bà Nhu. Bước đầu đã đạt được.- · Cuốn sách của bà Monique Brison Demery chủ yếu ghi lại những phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu qua điện thoại. Phải công nhận sự kiên nhẫn trì chí của tác giả trong khoảng thời gian năm năm trời- và tìm đủ mọi cách để khai thác cá nhân và cuộc đời bà Ngô Đình Nhu. Ngay cả nếu cần, mang cả con nhỏ sang Paris để được sự chú ý của bà Nhu. Nhưng kết quả cho đến phút chót là một thất bại, vì bà Nhu đã nghi ngại và hai lần thất hẹn không cho gặp như đã hứa!! · Cái được còn lại là một tập sách nhỏ nhan đề Những viên sỏi trắng. Đây không phải là thứ hồi ký cũng không phải nhật ký. Nó là một thứ suy niệm ( Méditations) đượm tính chất huyền bí ( Mystique) dựa vào thánh kinh. Nó không dễ dàng gì để hiểu nếu không nắm được cái chìa khóa mở nó. Nhưng nó lại là bản tóm lược toàn diện hành trình đời sống tâm linh của bà Nhu kể từ năm 1963-2011. Gần 50 năm trời!! Gần 50 năm trời sống ẩn dật, khép kín, sống đúng phẩm cách con người, sống đúng mẫu mực của một phụ nữ góa bụa hầu như không tỳ vết. 50 năm đó tự nó xóa tẩy mọi vết nhơ, vết bôi nhọ trên phẩm giá một người phụ nữ. Mà ngay những kẻ thâm độc nhất và có thừa khả năng dựng truyện cũng đành im tiếng! · Rất tiếc, phần đời ấy lại chỉ được tác giả viết thoáng qua trong vài trang, chương 16: In Exile. Và cũng chả có thể nào trách được tác giả, vì khả năng của bà không đủ để có thể theo dõi những chặng đường tâm linh với nhiều lối nói trình bày mang tính ẩn dụ. Và cũng vì mục đích chính của tác giả là khai thác, đi tìm con người ác phụ trong bà Nhu!! Muốn thỏa trí tò mò, có lẽ bà Demery nên xoay hướng tìm hiểu những nhân vật nước Mỹ như dòng họ anh em nhà Kennedy, bà cựu tổng thống Kennedy cũng như bà Joan Kennedy..Như mới đây, tôi đi qua một tiệm sách thấy một tạp chí có nhan đề rất gợi tò mò: Anh em nhà Kennedy, ai giết Marilyn Monroe? · Những điều mà bà Déméry mong đợi thu thập được như cuộc đời riêng của bà Nhu, những truyện thâm cung bí sử, những chuyện liên quan đến tình ái nếu có, những dính dáng của bà với sinh hoạt chính trị miền Nam, hay những hiểu biết của bà qua ông Ngô Đình Nhu về các nhân vật liên quan đến chế độ, những thành bại của chế độvv. Kết quả thu thập thật ít ỏi. Trong nhật ký riêng của bà Nhu viết năm 1959, bà bầy tỏ một cách tuyệt vọng về cuộc sống hôn nhân của bà. Về sự thờ ơ của ông Nhu, về thú đi săn, về sự cách biệt tuổi tác khiến ông không thể làm gì hơn những gì ông đã làm!! Nói chung, bà khát vọng những chiều chuộng, những lời nói vuốt ve tuổi trẻ của bà, những giây phút lãng mạn… Và rồi những ước vọng thầm kín của một người đàn bà ở tuổi 32.. Bà nói một cách mơ hồ, thóang qua hình ảnh một người tên H. Hắn là một thứ Don Juan và chỉ có thế, không cho biết bất cứ chi tiết cụ thể nào về mối liên lạc đó. Nó như một cơn gió thoảng qua rồi thôi. Biên giới của cái được, cái cho phép và cái cấm kỵ trong tình huống lúc bấy giờ cho đến ngày hôm nay có thể cũng không có điều chi cho phép một sự ngờ vực.. Gần 50 sống cuộc đời cô thế vẫn như tảng đá ngầm, không gì lay chuyển được. Sự lựa chọn trong cuộc đời đôi khi không dễ dàng gì!! Không, người ta không thể nào biết hơn được những điều mà người ta đã biết như thế. · Tôi còn dám nói như một kết luận là chính bà Nhu cũng không hiểu ông Nhu cho đủ. Theo cụ Cao Xuân Vỹ – người thân cận với ông Nhu kể cho tôi nghe- Ông Nhu là người say mê chính trị nên mọi chuyện khác ông coi thường. Ông ăn mặc giản dị đến xuềnh xoàng. Ngay khi đã vào ở trong dinh, ông vẫn áo sơ mi bỏ ra ngoài, đi dép lệt xệt. Trong khi những chức sắc khác vào dinh thì quần áo chỉnh tề, lon chậu, mũ áo đầy đủ. Ông vượt lên trên cái thường tình của mọi người. Trong phòng làm việc, bày biện sơ sài, sách vở, tài liệu vất tung tóe trên sàn nhà, trên giường ngủ lộn xộn. Đó là thế giới của riêng ông. Ông không muốn bà dòm ngó vào, cũng không cần ai thu xếp dọn dẹp. Ông chỉ có thú say mê đọc sách và đi săn hổ. Khi không hiểu, khi không tôn trọng thế giới của người đàn ông- một người trí thức thượng thặng- một chính trị gia già dặn, sắc sảo- thì khó đủ nghĩa làm vợ một người đàn ông như thế!! Khi muốn kéo thấp người đàn ông xuống đến những chi tiết nhỏ, câu chuyện thường ngày là một cách gián tiếp xâm phạm đến những cuộc sống tinh thần của người ấy. Cho nên, thật khó cho cả hai người vì đôi khi không cùng nhìn về một hướng. Ý nghĩa câu nói của St. Exupéry về tình yêu lứa độ trong trường hợp này thật là cần thiết. · Trong một dịp, nếu tôi nhớ không lầm do cụ Đoàn Thêm kể lại, ông phải đại diện chính phủ sang Pháp, lúc bấy giờ người ta mới cuống lên, phải đặt may gấp cho ông một bộ vét cho trang trọng xứng đáng đại diện chính phủ một nước. Lại còn vấn đề chức vụ? Ông chẳng có chức vụ gì cả, cũng chẳng nằm trong quy chế lương bổng. Rồi mọi người đồng ý đặt cho ông chức cố vấn…Từ đó, chữ cố vấn được chính thức dùng. Ông không có lương bổng, tiền là do quỹ đen của ông Diệm cho ông. Một chi tiết nhỏ là khi bà Nhu và con gái đi dự hội nghị và sang Mỹ, trong túi họ chỉ có 5000 Mỹ kim và khi bên nhà đảo chính ông Diệm, bà Nhu không có tiền trả cho khách sạn!! Họ được một số bạn bè Mỹ ứng cho mà vẫn thiếu hụt. · Trong 9 năm cầm quyền thời ông Diệm, có người dân đô thành nào thấy ông Ngô Đình Nhu ngồi trên xe Limousine, có còi hụ, có xe cảnh sát dẫn đường không? Phần tôi chưa bao giờ nhìn thấy cả. Nhưng chỉ ít lâu sau 1963, Phó Thủ tướng Văn Hóa Đỗ Mậu, tướng Tôn Thất Đính đi đâu là kéo theo cả một đoàn tùy tùng, rầm rộ, còi hụ, dẹp đường, dẹp xá. Điều đó cho thấy phong cách của hai loại người!! · Để chứng minh cho thấy- dù trong cảnh vực nào-, người phụ nữ vẫn chỉ là người phụ nữ trong gia đình. Trong một lần duy nhất, bà Nhu bắt gặp ông Nhu cùng 8 người đàn ông khác, đang ngồi quây quần và ở giữa có một người bị tra hỏi và bị đánh có máu me trên mặt. Tất cả những người có mặt hôm đó, ngay cả kẻ bị đánh làm như thể không có chuyện gì xảy ra khi bà Nhu vào. Khi ông Nhu về phong ngủ của hai vợ chồng, bà đã tò mò muốn biết chuyện gì xảy ra, người bị đánh là ai. Ông Nhu vốn bản tính kín đáo không trả lời. Bản thân bà Nhu bị chính ông Ngô Đình Nhu ngăn cản, cách ly bà ra khỏi những sinh hoạt chính trị. Sinh hoạt của bà mỗi ngay là giặt giũ quần áo, nấu ăn và tắm rửa cho con cái. Sau này, một vài hoạt động nổi của bà- như Hội Phụ nữ Liên Đới- chỉ là thứ chính trị trình diễn hơn là thực tiễn. Một người đàn bà như thế có thể nào biết được tất cả những sinh hoạt chính trị miền Nam? Hơn nữa, hoạt động chính trị của ông Nhu không có tính cách bàn giấy để giải quyết các công văn giấy tờ mà phần lớn là những hoạt động về những chính sách, những quyết định, những họp mặt bí mật, những âm mưu tính toán.. · Bà Nhu hoàn toàn đứng ngoài lề các hoạt động chính trị của ông Nhu. Bà càng hăng hái xuất hiện, càng bất lợi cho chế độ và càng bất lợi cho bà như lời nhận xét của cụ Đoàn Thêm như sau đây: · Dù không làm hay chưa làm việc gì có hại, người đàn bà không thể thừa thế nhà chồng mà xen vào việc chính quyền. · Sự ra mặt của bà, dưới mắt số đông, trái ngược hẳn với hình ảnh cố hữu của phụ nữ Á Đông khiêm nhượng, ý nhị hiền hậu, của người mẹ, người vợ Việt Nam. · Nguyên do sâu xa nhất và đích thật nhất của nỗi ác cảm với bà là do người đã đẹp mà lại muốn khỏe và hách nữa thì quá lắm, không chịu nổi. Đối với ông Nhu, người ta còn nhẫn nhịn, nhưng đối với bà thì ngay cả sự xuất đầu lộ diện cũng không được tán thành hay dung thứ. · Nên dù trái hay phải, người đàn bà Việt Nam muốn vội sống theo theo đàn bà tiền phong(Avant garde) Âu Mỹ, tất chưa thể được yên thân trên một đất nước mà nhiều người còn ghê sợ những Võ Hậu, những Từ Hy. · Tâm lý số đông như vậy nên nhiều con mắt dễ nhìn thấy những sơ hở và lỗi lầm để buộc lỗi gay go. Mỗi lời nói việc làm của bà đều là những cớ, những dịp cho cho dư luận chỉ trích nghiêm ngặt.. Bi kịch của chế độ bắt đầu từ chỗ đó!!! Phần tác giả Demery, viết về bà Nhu mà như thiếu tư liệu để viết!! Viết cái gì? Viết con người bà hay viết về chế độ..Cuối cùng viết về con người bà thì ít mà viết chung về chế độ mà nhiều phần bà như thể đứng ngoài cuộc. Để bù lấp những khoảng trống ấy về các bí mật chính trị, tác giả bắt buộc phải trích dẫn những phần tài liệu từ nhiều nguồn mà phần lớn người đọc có thể đã biết rồi. Và sự sắp xếp cuốn sách không khỏi có những vá víu dựa vào những nhận xét của người khác. Câu hỏi chính còn lại đặt ra là tác giả có tỏ ra mức độ khách quan với một tấm lòng không khi đi tìm một bà Ngô Đình Nhu? Cứ như tôi hiểu, bà Demery đi tìm một bà Ngô Đình Nhu- như một Dragon Lady? Hiểu như thế, tôi cho là việc tìm kiếm coi như uổng công. · Ngay nhan đề cuốn sách đã không ổn khi gọi bà Nhu là: Dragon Lady. Nhan đề này cũng từng được gán cho bà Tưởng Giới Thạch 20 năm về trước. Có một sự trùng hợp ý nghĩa gì chăng? Hình bìa lại chọn bức hình bà Nhu đang nhắm mắt tập bắn trong một buổi chủ tọa Thanh nữ cộng hòa với nền mầu đỏ chói chang.Trông quả thực không phản ánh đúng con người bà Ngô Đình Nhu. Mầu bìa như bị hoen ố chung quanh một cách cố ý và vụng về. Khá khen cho người nào đó đã vẽ mẫu bìa này. · Và trong những lời trích dẫn ở trang trong tờ bìa. Người ta cố tình gán cho bà Nhu cái trách nhiệm không nhỏ là làm sụp đổ nền đệ nhất cộng hòa. Có nghĩa là bỏ quên đi tất cả vai trò và trách nhiệm của người Mỹ trong việc lật đổ này. · Và trước khi vào chương một, tác giả không quên trích dẫn một câu thơ của William Watson do thượng nghĩ sĩ Stephen Young, tiểu bang Ohio trong đó có câu chót: The woman with the serpent’s tongue.( Người dàn bà với cái lưỡi của con rắn). · Trong các trích dẫn các tác giả đầy rẫy những lời nhận xét bất xứng, gọi bà Nhu là con nọ, con kia.Những nhà báo như Halberstam, Browne, Stanley Karnov thì ít nhiều coi bà Nhu như một thứ kẻ thù. Tôi tự hỏi, không biết họ có dám viết như thế về những nhân vật như bà Kennedy hay không? · Phần cuối đời của bà Nhu, chương 16 vỏn vẹn được vài trang, từ trang 213-225. Điều đó cho thấy một sự bất cân xứng khi tìm hiểu cuộc đời bà Nhu!!!Đối với kẻ viết bài này, bà Nhu đã chết và đem theo bà tất cả những gì bí nhiệm của cuộc đời đầy sóng gió và khổ lụy của bà..Tôi không biết còn ai khổ hơn bà Nhu cả lúc sống và lúc chết? Nghĩ tới bà, tôi nghĩ tới hoàn cảnh bà Nam Phương Hoàng Hậu. Đó là số phận dành cho những người dàn bà mà đáng nhẽ họ có thể có một cuộc sống mà bất cứ người phụ nữ nào cũng ao ước đạt được!! Và việc đi tìm bà Nhu trong cuốn sách cuối cùng ta bắp gặp một Bà Nhu- một người đàn bà bình thường như hằng trăm người khác. Họa chăng bà có một số nổi niềm riêng. Bà cảm thấy buồn bực, bị quẫn trí vì người chồng lo chuyện thế sự, quanh năm vắng nhà bất tử..Và một cảnh đời như thế có chi xa lạ với những hoàn cảnh những người phụ nữ có chồng làm chính trị? Nhưng cũng có thể vì thế mà bà bị rơi vào tình trạng trầm uất. Ra ngoại quốc như một kẻ lưu vong- .Biết bao nhiêu nỗi cay đắng, cô đơn và tủi nhục! Một hoàn cảnh chẳng khác xa mấy với hoàn cảnh hoàng hậu Nam Phương lúc bỏ Đà Lạt sang Pháp vào năm 1950!! Những người đi tìm hiểu bà lại thường thiếu một tấm lòng, một sự chia sẻ. Nói như bà Clinton trong cuốn sách mới xuất bản: Hard choices. Có nhiều chọn lựa thật khó và dù chọn lựa nào thì cũng phải có một cái đấu và một con tim. Họ đến với bà như một kẻ đi truy tầm quá khứ mà thiếu một sự trân trọng!! Cuốn sách của tác giả Demery vì thế thiếu hẳn một sự chia xẻ về thân phận một người phụ nữ trong những hoàn cảnh cực đoan nhất, đầy đọa nhất như mất chồng, mất con, mất sự nghiệp, mất tương lai, mất mọi nguồn hy vọng, mất tin tưởng vào tình đời, tình con người.. Và trong những trường hợp như thế, từ chỗ tối tăm của vực sâu của tuyệt vọng dọi sáng lên một nguồn hy vọng một niềm tin tôn giáo. Và vì thế ta mới hiểu được tải sao bà viết về Những viên sỏi trắng. Những viên sỏi trắng đã vực bà dậy để bà đi hết con đường nhân thế. Có lẽ, theo tôi, điều quan trọng nhất không hẳn là đào xới quá khứ đi tìm những mảnh vụn đời sống mà biết tôn trọng cuộc sống riêng, cô độc, khép kín của bà. Cho nên, tôi có cảm tưởng tác giả Demery đã không hiểu gì về con người thực của bà Nhu, nhất là phần cuộc đời còn lại từ năm 1963 cho đến khi bà mất vào 24 tháng tư, 2011ở Rome.. Cũng giống như hoàng hậu Nam Phương, bà đem theo sang bên kia thế giới một nỗi niềm riêng mà không thể chia sẻ cùng ai được!! Những năm tháng sau 1963, chính là phần đời sống giúp bà nhận diện ra chính mình, nhận ra hướng đi của cuộc đời còn lại của bà. Không hiểu được phần đời này của bà, không nắm bắt được con người thực của bà. Bà tìm một lối gỉai thoát trong cuộc sống thông qua những suy niệm tôn giáo.. Và bà đã viết ra những kinh nghiệm suy tư này dưới cái tên Những viên sỏi trắng. Và đã hẳn, vì người ta đã không bắt gặp được một bà Nhu ăn nói bạo miệng, với những lời tuyên bố bốc lửa!! Họ thất vọng. Họ cũng sẽ thất vọng khi họ tìm đọc cuốn La République du Viet Nam et les Ngô Đình suivi des mémoires posthumes de madame Ngô Đình Nhu do con trai Ngô Đình Quỳnh và con gái bà in sau khi bà qua đời. Tôi cũng đã nhiều lần nói truyện với ông Trương Phú Thứ về cuốn sách do bà Nhu trao cho ông TPT để chuyển ngữ ra tiếng Việt và để xuất bản. Cũng theo ông TPT thì cuốn sách không có giá trị gì về lịch sử, về nội bộ chính trị VN trong giai đoạn ấy. Và nếu ai chờ đợi những điều như thế trong tập sách này thì hoàn toàn vô vọng.. Bằng chứng sách đã được in ra bằng tiếng Pháp, nhưng ít ai nhắc tới và giới thiệu hoặc phẩm bình. Bản thân tôi cũng điện thoại và gửi điện thư cho ông Ngô Đình Quỳnh, nhưng không được ông trả lời. Chắc ông nghi ngại nhiều thứ!! Câu hỏi chính còn lại đặt ra là tác giả có tỏ ra mức độ khách quan với một tấm lòng không khi đi tìm một bà Ngô Đình Nhu? Cứ như tôi hiểu, bà Demery đi tìm một bà Ngô Đình Nhu- như một Dragon Lady? Hiểu như thế, tôi cho là việc tìm kiếm coi như uổng công. Về cuốn nhật ký 1959-1963 của bà Nhu Trong một bài viết đăng trên dvonline.net, nhan đề Đi tìm bà Nhu, gặp ông Đại úy. Tác giả Trần Giao Thủy tiết lộ bà Nhu có viết một cuốn nhật ký từ năm 1959-1963. Cuốn sách này hiện nay do đại úy James Văn Thạch có được. Trần Giao Thủy do liên lạc được với viên đại úy người Mỹ lai Việt Nam. Đại úy James là con của trung tá John W. Peterkin đã nghỉ hưu, một cựu sĩ quan Mỹ đã từng phục vụ trong chiến tranh Cao Ly và Việt Nam. Ông lấy một phụ nữ VN có tên là bà Thạch Thị Ngọc, một nữ lực sĩ trong môn nhảy cao. Đại úy James sinh năm 1976, lớn lên ở Bellerose, Queens, Newyork và tốt nhgiệp cử nhân khoa sử tại St. John Cũng theo tác giả Trần Giao Thủy, đại úy James đã liên lạc được với bà Demery và hai người đã gặp nhau tại một quán cà phê Starbuck và đã cho bà Demery đọc qua cuốn sách. Cuốn sách khổ 12cm-18cm đã úa cũ, gáy phải dán keo..Những trang trong viết bằng mực xanh, mực nâu, có khi mực đỏ. Nét chữ nghiêng và tuồng chữ giống hệt tuồng chữ trong những lá thư của bà Ngô Đình Nhu. Lại nữa, ký giả David Horwitz, đài NBC trong một chương trình phát hình ngày 28 tháng ba- 1964, người ta thấy được tấm bảng ghi rõ ” Sự thật về ngày 11 tháng/ 11-1960, tài liệu tối mật trích nhật ký của bà Ngô Đình Nhu nhủ danh Trần Lệ Xuân’. Như thế, bằng vào những lời trình bày của Trần Giao Thủy, ngưới ta có thể đi tới kết luận, đây là một tài liệu thật, một nhật ký riêng của bà Ngô Đình Nhu viết trong khoảng 1959-1963. Có thể chúng ta khỏi mất thời giờ bàn cãi thêm nữa. Vấn đề nên bàn cãi là nguồn gốc lai lịch cuốn nhật ký, do đâu mà đại úy John có được. Hiện viên đại úy này vẫn không cho biết rõ nguồn gốc của nó. Được hỏi vì sao có được cuốn nhật ký này. Viên đại úy nói một cách không rõ ràng là do có bà con làm việc trong chính thể VNCH nên có được. Trong câu trả lời Demery thì vắn tắt hơn: Tôi lớn lên, rồi tôi có cuốn sách đó. Một câu trả lời mà như không trả lời gì cả!! Và người ta có quyền suy luận rằng chắc là do viên trung tá Mỹ có một cơ duyên nào đó có được cuốn nhật ký đã giữ trong nhiều năm và nay trao lại cho con trai.. Câu hỏi là giữ như thế để làm gì? Trong khi tác giả cuốn nhật ký đó là bà Ngô Đình Nhu sống lưu vong từ năm 1963.. Chỉ cần nhắc điện thoại- nhật ký của người ta thì trả cho người ta-đơn giản chỉ có thế và đem trao trả đến tận tay cuốn nhật ký.. Cử chỉ ấy đẹp biết mấy!! Tôi cũng nhắc một trường hợp khác để chúng ta cùng suy nghĩ. Căn nhà trong Tân Sơn Nhất của ông bà Nguyễn Cao Kỳ do một viên đại tá chiếm ngụ.. Ông này thu thập một số hình ảnh riêng của bà Kỳ và thư từ của bà cất riêng một chỗ. Sau đó, ông đại tá phải sang đánh giặc bên Campuchia. Biết nguy hiểm, có thể chết, ông gói sấp hình ảnh tài liệu của bà Kỳ và dặn vợ con, khi nào có thể liên lạc được với gia đình ông Kỳ thì trao lại cho họ. Khoảng 10 năm sau nối lại được liên lạc, Bà Kỳ hẹn về và đến nhận sấp hình ảnh tài liệu và thắp hương trước bài vị ông sĩ quan chung quanh có con cháu của ông ta.. Chính tôi được xem những tấm hình này.. Đấy là những tình tự con người vượt trên quá khứ, chiến tranh hận thù.. Cũng theo Trần Giao Thủy, chính bà Nhu cũng biết có cuộc triển lãm này và bà đã phản đối việc dùng tài liệu riêng tư của bà mà không có phép. Người ta cũng không biết vào thời gian nào thì đại úy James có được cuốn nhật ký này tính từ 1965 trở đi. Chỉ biết rằng, theo lời ông tiết lộ, đã có một cơ sở báo chí muốn thương lượng để phát hành cuốn nhật ký này. Nhưng chính gia đình bà Nhu, qua người con rể, ông Olindo Borsooi, chồng của bà Ngô Đình Lệ Quyên cũng ngỏ ý xin lại cuốn nhật ký đó và để lưu trữ như một khối di sản của dòng họ Ngô Đình. Cả hai đề nghị trên đều bị ông Đại Úy từ chối vì không thích hợp với quan điểm và dự tính của người đang giữ cuốn nhật ký. Qua trao đổi với Trần Giao Thủy, ông này cho rằng viên đại úy là người rất say mê sử học, nhất là sử VN.. Cái say mê lấy của người làm của mình cho thấy tư cách người say mê này thế nào? Qua tất cả những chặng đường gian nan, chòng chéo, vụ lợi, bất minh…vể cuốn nhật ký bị lưu lạc trong nhiều năm. Sự khám phá ra cuốn nhật ký vô tình biến nhà báo Trần Giao Thủy thành thứ người hùng, một thứ nhà báo chuyên ngiệp đã có công khám phá ra tài liệu bí mật, cất giữ từ hơn nửa thế kỷ nay. Đấy là một kỳ công mấy ai đạt được!! Tôi không biết rõ luật lệ ở Hoa Kỳ về quyền sở hữu tài sản trí tuệ xét sử như thế nào? Nhưng cứ như theo cách sử sự bình thường theo công tâm mà nói, một cuốn nhật ký của một người phụ nữ đang còn sống nay không trao trả lại là một điều đáng trách!! Tư cách gì, ông đại úy cho rằng cuốn nhật ký của một người đàn bà có chồng làm chính trị, bị ám hại lại trở thành tài liệu mang tính lịch sử của Việt Nam, nó thuộc về toàn dân VN. Những chữ lịch sử Việt Nam, thuộc toàn dân VN đều là những lời tuyên bố cao ngạo và trống rỗng. Và ông nói thêm: Nó là một tài liệu quan trọng cần phổ biến khắp nơi, cho tất cả những ai quan tâm đến giai đoạn đó trong lịch sử VN cận đại. Cuốn nhật ký không thể chỉ là hàng mẫu trưng bầy trong viện bảo tàng và nó cũng không thể bị cắt, chỉnh sửa để xuất bản. Cần phổ biến khắp nơi mà ông lại giữ chịt không biết bao nhiêu năm rồi và đến bao giờ thì toàn dân VN sẽ được diễm phúc đọc một tài liệu được ông coi là vô giá? Và mục đích chính của ông là giữ cuốn Nhật Ký ‘vô giá’, not for sale này, sau đó ông sẽ cho xuất bản và tiền bán sách, ông sẽ dùng để tu chỉnh nghĩa trang Bình An. Xét về mặt pháp lý, về mặt ứng xử, về mặt đạo lý con người- mặc dầu ông cho rằng tập tài liệu thuộc toàn dân- Nhưng thực ra, từ đầu tới của, ông chỉ khăng khăng muốn giữ cho riêng mình và ông tự cho mình có quyền quyết định muốn in ấn và xử dụng số tiền lời tùy theo ý ông.. Bất kể đến quyền lợi tinh thần của gia đình bà Ngô Đình Nhu.. Con cái bà phải chăng có quyền bảo vệ thanh danh cho mẹ mình? Nội dung cuốn sách là nhật ký cho nên có thể có nhiều nỗi niềm riêng tư của bà Nhu. Tôi cứ giả dụ rằng trong đó viết rất nhiều chuyện riêng tư đến đọc mà ngượng, hoặc đọc mà ứ nước mắt, hoặc đọc mà thỏa mãn thú tính đi nữa.. Nó vẫn chỉ riêng cho bà và chỉ riêng cho bà Nhu, mình bà biết, mình bà hay-. Nó là thành phần bản thân bà- nó là cõi riêng, nó là chính bà với những điều tối mật như chuyện chăn gối, chuyện hụt hẫng, chuyện trông chờ một cái gì xảy đến như cơn mưa mùa hạ, một sự lấp đầy chan hòa. Mà ngay cả người chồng của bà cũng không nên dòm ngó vào-. Có thể đó là những bất hòa, cãi cọ, giận hờn, nặng lời đến chửi bới nhau, chén vỡ bay tung tóe, cửa đóng đến sầm, vội vã bỏ đi săn biền biệt không về. Có những đêm mất ngũ, nước mắt chan hòa trên gối, nằm trăn trở một mình… Có thể là những ghen tuông, gọi tình địch là con đĩ, một thứ dơ dáy, một thứ súc vật-. Và cũng có thể là những suy nghĩ trái chiều như một thứ trả thù bằng cách khơi dậy, mơ đến những ham muốn nhất thời ngoài vòng. Và nay mai, nó sẽ đượ in ấn, phát hành hằng trăm ngàn ấn bản và được công khai hóa..cho bất cứ ai muốn đọc? Phải chăng cái đó ta gọi là các sự kiện lịch sử, đến tình hình chính trị miền Nam? Đây là một thái độ ngụy trí thức, giả đạo đức, giả nhân nghĩa mà thực sự chứa đựng một tâm địa nhỏ nhen. Nghĩ đến thái độ và cách hành xử của ông đại úy James Văn Thạch làm tôi liên tưởng đến một vài trường hợp xin ghi ra sau đây. Trường hợp cuốn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Thượng sỹ Thông dịch viên Nguyễn Trung Hiếu cùng một người Mỹ tên Fred đang lo đốt những tài liệu bị loại bỏ thì Nguyễn Trung Hiếu yêu cầu đừng đốt một cuốn nhật ký. Thế là cuốn nhật ký được Fred giữ lại. Mấy hôm sau, Hiếu tìm được phần hai của cuốn Nhật Ký. Cả hai cùng đọc và chia xẻ với người đã chết. Và làm gì còn biên giới thù hận với người đã hy sinh, nằm xuống bên này, bên kia. Năm 1972, Fred trở về Mỹ mang theo cuốn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Fred trong nhiều năm trời tìm đủ mọi cách để có thể trao lại cuốn nhật ký cho gia đình Đặng Thùy Trâm. Và cuối cùng thì Frederic Whitehurst cũng đạt được ý nguyện, trả cuốn nhật ký về tận tay gia đình mẹ của Đặng Thùy Trâm!! Con người cao quý với tấm lòng rộng rãi bao la của Fred với một nghĩa cử cao đẹp tuyệt vời, anh đã giữ cuốn nhật ký 35 năm vốn được coi là kẻ thù địch và anh đã vượt khỏi cái ranh giới ấy để đến ngày 29-4-2005, anh chính thức viết thư cho em gái của Đăng Thùy Trâm là Đặng Kim Trâm xin gửi trả lại gia đình cuốn nhật ký ấy. Câu chuyện của Rich Câu chuyện thứ hai do nhà văn Uyên Thao viết lại về trường hợp một người lính Mỹ tên Rich đã bắn chết một cán binh cộng sản ngay trong tầm súng của anh ta. Và sau trận chiến, Rich đã rút được trong ví của người cán binh cộng sản một tấm hình nhỏ síu, ông ta chụp với một bé gái chừng 6 tuổi. Tấm hình ấy cứ ám ảnh Rich mãi về sau. Trong dịp ông đến viếng bức tường ghi tên 58 ngàn binh sĩ Mỹ tử trận tại Việt Nam, ông đã để lại tấm hình với lời ghi: ‘ Thưa ông, Suốt 22 năm nay, tôi giữ hình ông ở trong ví. Hôm ấy tôi mới 18 tuổi, khi chúng ta trông thấy nhau trên con đường mòn gần Chu Lai, Việt Nam. Xin tha thứ cho tôi đã giết ông. Đã nhiều lần trong những năm qua. Tôi nhìn hình ông và người con gái tôi đoán là con ông. Mỗi lần tim tôi bừng cháy với nỗi đau tội lỗi. Xin ông tha thứ cho tôi. Bức thư và tấm hình lại được một người Mỹ cựu chiến binh cũng có tấm lòng tên Duery Felton- một người quản lý phòng sưu tập tại đài kỷ niệm cất giữ. Thế là cả hai quyết đi gặp nhau và cùng gửi thư cho tòa đại sứ Hà Nội tại Hoa Thạnh Đốn.. Câu chuyện kết thúc một cảnh đẹp đến rơi nước mắt khi Rich tìm gặp lạii đứa con gái trong tấm hình.. Ông quyết định bay qua Việt Nam và đích thân đặt tấm hình vảo tay cô bé. |Nay đã trưởng thành và có gia đình. Lúc này đã là mùa xuân năm 2000 và là năm thứ 33 kể từ khi Rich nhìn thấy tấm hình. Cao đẹp biết là bao qua ba câu chuyện tôi vừa kể. Tự nó là lời biện minh để cho những ai còn tin tưởng rằng việc giữ tập hồi ký của bà Ngô Đình Nhu là điều chính đáng. Có một sụ thật đơn giản được nhắc đi nhắc lại đến nhàm chán. Nhưng vẫn xin nhắc lại ở đây: Cái gì của Caesar, xin hãy trả lại cho Caesar.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 5, 2014 9:50:35 GMT 9
BA THẾ LỰC, MỘT NỖI OAN TÌNH, ÔNG NGÔ ĐÌNH CẨN BỊ XỬ BẮN *Ông Ngô Đình Cẩn (1912 – 9/5/1964)Ông Ngô Đình Cẩn là con áp út trong đại gia tộc Ngô Đình. Độc thân với hơn nửa cuộc đời sống âm thầm lo chăm sóc mẹ già, ông còn lo tổ chức cơ sở kết nạp những người có lòng với đất nước để hổ trợ cho các anh hoạt động cách mạng chống thực dân Pháp và chống cộng sản. Tuy ít học, nhưng ông lại hết sức thông minh và là một người rất có năng khiếu về tình báo và chiến tranh du kích. Khi Chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh thì tình hình chính trị tại miền Trung rất khó khăn. Dân tình thì ly tán, đảng phái quốc gia thì chia rẽ, và việt cộng thì thừa lúc tranh tối tranh sáng hoạt động mạnh mẽ. Trong cơn nguy biến đó, ông Ngô Đình Cẩn đã tận sức giúp đỡ cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tái lập lại niềm tin của đồng bào miền Trung, đặc biệt là Huế. Đảng Đại Việt Cách Mạng của ông Hà Thúc Ký thiết lập chiến khu Ba Lòng Vùng Quảng Trị chống lại chính phủ. Sau khi diệt được chiến khu Ba Lòng một số lãnh tụ Đại Việt bị bắt. Điển hình là ông Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị Trần Điền phải ra tòa và bị kết án 7 năm tù giam. Vậy mà ông Ngô Đình Cẩn đã vận động với chính phủ giảm án cho ông không ở tù ngày nào. Sau đó ông Ngô Đình Cẩn dùng tình thân xóa bỏ lỗi lầm, bằng cách mở trường trung học tư lấy tên là Trường Trung Học Bình Minh tại Quận III thị xã Huế và giao cho ông Trần Điền làm Giám Học. Một số lớn khó khăn giữa chính quyền, đảng phái, và tôn giáo tại Huế và các tỉnh miền trung đều đã được ông Ngô Đình Cẩn dàn xếp dùm chánh phủ. Vì lẽ đó mà một văn phòng ra đời tại Huế gọi là Văn Phòng Cố Vấn Miền Trung và người ta gọi ông là Ông Cố Vấn Miền Trung. Ưu điểm của ông Ngô Đình Cẩn mà ít người biết đến là lòng yêu nước, tinh thần chống cộng sản, và khả năng tình báo. Khả năng tình báo thiên phú của ông được biểu hiện cụ thể qua thành quả mà Đoàn Công Tác Đặc Biệt (DCTĐB) Miền Trung do ông thành lập, và giao cho ông Dương Văn Hiếu chỉ huy, đạt được. Điểm lại thành quả của tất cả các cơ quan tình báo VNCH thì DCTĐB Miền Trung là một trong những cơ quan tình báo hữu hiệu nhất. Cụ thể, DCTĐB Miền Trung đã làm cho Cụm Tình Báo Chiến Lược của Cộng Sản Hà Nội xấc bấc xang bang, dở sống dở chết với 95% cơ sở đã bị tận diệt, và một số phải di tản ngược ra Bắc vì không còn đất sống. Đáng chú ý là 80% điệp viên của bọn chúng bị đoàn Công Tác Miền Trung bắt giữ. Trong đó có Thiếu Tướng tình báo việt cộng Mười Hương là Ủy Viên Dự Khuyết BCT/TƯĐ và chỉ huy màng lưới Tình Báo Gián Điệp Việt-Miên-Lào, Đại Tá tình báo việt cộng Lê Câu, và hằng trăm tên tình báo chiến lược và phái khiển tình báo khác. Ông Ngô Đình Cẩn cũng là một chuyên viên lão luyện về chống du kích cộng sản. Ads by QuieenCOupuonAd Options Có thể nói chưa có một nhà giam tù nhân nào lạ lùng như nhà giam các tù nhân cộng sản của DCTĐB đặt tại Huế. Nhà giam không có lính gác và mở cửa. Tù nhân sinh hoạt và ăn ngủ tự nhiên tùy thích. Họ không bị ràng buộc một giờ giấc kỷ luật nào cả. Nơi đây không có thẩm vấn mà chỉ có đối thoại và hội thảo. Nên một số tù nhân đã nhận được rõ ràng đâu là chính nghĩa quốc gia và được bổ nhiệm làm việc cho chính phủ VNCH. Cán bộ bị bắt và hồi chánh đầu tiên, hợp tác với DCTĐB khai báo và chỉ dẫn nhiều cơ sở từ Huế đến Đà Nẵng là Nguyễn Đình Chơn, Thành ủy viên Thành ủy Huế. Rồi từ đó lần ra các tỉnh Miền Trung, vào Sài gòn và cả Miền Nam. Chơn được trả cấp bậc Thiếu Tá. Trưởng Ty Cảnh Sát ĐB Gia Định đến 1-11-63. Một ví dụ điển hình nữa là tù nhân Lê Đình Khôi thuộc Tổ Quân Báo của Cục Quân Báo Hà Nội. Ông Lê Đình Khôi, bị bắt và sau một thời gian ở trại tù nầy, đã được bổ nhiệm làm Trưởng Phòng Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc Nha Cảnh Sát Quốc Gia Vùng I. Cũng như một cán bộ khác thuộc Phái Khiển Tình Báo của Cục Tình Báo Hà Nội, bị bắt và sau thời gian ở trại tù nầy, cũng đã được bổ nhiệm đi làm Huấn Luyện Viên trường Tình Báo Cảnh Sát Quốc Gia của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Vùng I. [Tôi không nêu tên vì không rõ ông ta có còn ở Việt Nam hay không.] Tất cả những việc nầy đều do chương trình và kế hoạch của ông Ngô Đình Cẩn và, lạ lùng thay, kế hoạch nầy lại có kết quả tốt. Đây cũng là một hình thức quốc sách Chiêu Hồi cán binh cộng sản về với Chính Nghĩa Quốc Gia của Chính Phủ Đệ II Việt Nam Cộng Hòa. Tại Thừa Thiên ông Ngô Đình Cẩn đã tổ chức Đoàn Nhân Dân Võ Trang và giao cho ông Hoàng Trọng Bá chỉ huy để hoạt động tại nông thôn trong công tác dân vận giúp đỡ dân chúng. Đồng thời đây cũng là lực lượng ngăn chận các hoạt động khủng bố hoặc xâm nhập của cộng sản vào dân chúng và xóm làng ở nông thôn. Chương trình Bình Định Nông Thôn, do Hoa Kỳ và chính Phủ Đệ II Việt Nam Cộng Hòa thành lập, có cách thức hoạt động cũng rập khuôn theo cách thức của Đoàn Nhân Dân Võ Trang của Ngô Đình Cẩn và Hoàng Trọng Bá. Ngoài ra cũng cần phải nói đến vai trò của ông Ngô Đình Cẩn trong vấn đề chiêu hồi Thích Trí Quang về với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Để cảm hóa Thích Trí Quang, ông Ngô Đình Cẩn đã can thiệp với cơ quan an ninh để Trí Quang khỏi bị bắt trong vụ Phong Trào Hòa Bình của cộng sản tại Huế mà Thích Trí Quang là một thành phần quan trọng của phong trào nầy. Ngoài ra ông Ngô Đình Cẩn cũng giúp đỡ tài chánh cho Hội Phật Giáo tại Huế để trùng tu lại chùa Từ đàm cũng như các ngôi chùa khác. Tất cả những công việc trên mà ông Ngô Đình Cẩn đã làm hoàn toàn có tính cách tự nguyện, không chức vụ gì do chính phủ bổ nhiệm và không lãnh lương tiền của chính phủ. Tất cả chỉ phát xuất từ lòng yêu nước, chống cộng sản, và phụ giúp cho Tổng Thống trong một số công việc. ÔNG NGÔ ĐÌNH CẨN TỴ NẠN CHÍNH TRỊ Ở TÒA LÃNH SỰ HOA KỲ TẠI HUẾ BỊ ĐẠI SỨ CABOT LODGE GIẢI GIAO CHO “HỘI ĐỒNG QUÂN NHÂN CÁCH MẠNG”. Ads by QuieenCOupuonAd Options Trong khi tại Sài Gòn Thích Trí Quang được chính phủ Hoa Kỳ che chở qua việc Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge tại Sài Gòn chứa chấp y và viên thông ngôn của y là Thích Nhật Thiện tỵ nạn chính trị tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ từ đêm 20/8/1963 đến ngày 4/11/1963 thì trở về chùa Xá Lợi, thì tại Huế ông Ngô Đình Cẩn, người em thứ hai của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị ông Cabot Lodge giao trả cho “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng”. Ngày 4/11 Thích Trí Quang (trái) lần đầu tiên bước ra khỏi Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn kể từ khi chạy vào đây tị nạn chính trị. Thích Trí Quang, 44 tuổi, tị nạn trong Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn. – Ảnh do AP chụp 2/9/1963. Nội vụ xảy ra như sau: Vào sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963 sau khi nhận được tin Tổng Thống và ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã bị sát hại, ông Ngô Đình Cẩn bí mật rời khỏi tư dinh trên đường Nguyễn Trường Tộ thuộc quận Hương Thủy, gần nhà thờ Phủ Cam. Ông xuống trú ẩn tại Dòng Chúa Cứu Thế tại đường Nguyễn Huệ thuộc Quận 3 Thị xã Huế. Nhà dòng đã sắp xếp cho ông một căn phòng nhỏ kín đáo trên lầu 2 để trú ẩn. Vào sáng ngày 3/11/1963 Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn I, từ Đà Nẵng bay ra Huế liên lạc với Đại Úy Nguyễn Văn Minh và nhờ Đại Úy Minh nhắn với ông Ngô Đình Cẩn rằng: Thế nào cũng lục soát tư thất tại Phủ Cam. Có tài sản thì giao cho Thiếu Tướng giữ sau này tình hình yên ổn sẽ trả lại. Đừng lo lắng gì cả. Thiếu Tướng sẽ bảo đảm sinh mạng cho. Biết được ông Ngô Đình Cẩn đang ẩn trốn tại Dòng Chúa Cứu Thế, Helble Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Huế liền đề nghị ông Cẩn vào tỵ nạn tại Tòa Lãnh Sự Mỹ cho an toàn. Ông Ngô Đình Cẩn đã được ông Helble Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Huế chấp nhận cho vào trốn tại Tòa Lãnh Sự Huế với tư cách là tỵ nạn chính trị. Ông Cẩn xin cho mẹ đi theo nhưng Tòa Tổng Lãnh Sự từ chối. Trong khi đó thì Cabot Lodge lại buộc Tòa Lãnh Sự tại Huế phải báo cáo rằng đã có hằng ngàn đồng bào bao vây tư gia của ông Cẩn tại Làng Phủ Cam và phải phao vu ông Cẩn có chứa vũ khí và tài liệu Việt Cộng trong nhà ông ta. Thật ra chẳng có gì cả mà là chuyện bịa đặt của ông Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge mà thôi. Tuy nhiên nhận được tin trên, Ngoại Trưởng Dean Rusk gởi một công điện với nội dung: “Nếu ông Cẩn yêu cầu được trú ẩn, trong tình trạng sinh mạng bị nguy hiểm, tiếp xúc với Tướng Trí, yêu cầu bảo vệ thích nghi và đưa ông ta đi”. Ngày 5 tháng 11 năm 1963 ông Ngô Đình Cẩn rời Dòng Chúa Cứu Thế đến Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại số 4 đường Đống Đa thuộc Quận 3 Thị xã Huế. Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ Helble nói với ông Cẩn rằng ông sẽ được đi tỵ nạn tại Hồng Kông. Ads by QuieenCOupuonAd Options Sau đó ông Ngô Đình Cẩn rời Huế vào Saigon bằng phi cơ của Hoa Kỳ cùng với những người đi theo như sau: Phó Lãnh Sự Hoa Kỳ ông Mullen, 1 trung tá và 2 nhân viên an ninh Mỹ. Máy bay đến phi trường Tân Sơn Nhất thay vì đổi chuyển máy bay, bay đi Hồng Kông như đã hứa thì phái đoàn Mỹ lại giao ông Cẩn cho “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng” tống giam ông ta vào Khám Chí Hòa chờ ngày mở phiên tòa. Như vậy, chính Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Huế đã âm mưu bán đứng ông Ngô Đình Cẩn giao cho “Hội Đồng Tướng Lãnh VNCH”. HOA KỲ, NHÓM TƯỚNG PHẢN LOẠN, THÍCH TRÍ QUANG – BA THẾ LỰC XỬ TỬ HÌNH ÔNG NGÔ ĐÌNH CẦN 1)- Thế lực thứ 1 Đó là Hoa Kỳ mà đại diện là Đại sứ Cabot Lodge nghĩ rằng ông Ngô Đình Cẩn có khả năng tổ chức một cuộc phản đảo chánh. Vì vậy nếu chấp nhận để cho ông Ngô Đình Cẩn rời khỏi Việt Nam đi tỵ nạn chính trị tại một quốc gia nào đó sẽ là một hành động “Thả cọp về rừng”. 2)- Thế lực thứ 2 Đó là nhóm Tướng Phản Loạn mà hầu như tất cả họ đều sợ một cuộc phản đảo chánh. Vì thế họ dứt khoát “Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc”. Nên khi Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge trao kẻ tỵ nạn chính trị của tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Huế cho nhóm Tướng Phản Loạn, thì Loạn Tướng Trần Văn Đôn chẳng cần úp mở mà tuyên bố thẳng thừng rằng: “Ông Ngô Đình Cẩn phải bị giam và bị xét xử”. Ads by QuieenCOupuonAd Options Đám tướng phản loạn vẫn tưởng rằng ông Ngô Đình Cẩn hiện đang giữ một gia tài ít nhất vài trăm triệu Mỹ kim, nên ngay từ giờ đầu khi ông Ngô Đình Cẩn trốn trong Dòng Chúa Cứu Thế tại đường Nguyễn Huệ, thuộc Quận III Thị xã Huế, thì chính Loạn Tướng Đỗ Cao Trí đã nhắn gởi với ông Cẩn rằng ông Trí sẽ bảo vệ cho ông Cẩn và có tiền bạc tài sản bao nhiêu thì giao cho ông ta giữ cho không sao cả. Sau nầy tình hình yên ổn ông sẽ trả lại. Trong những lần hỏi cung ông Ngô Đình Cẩn tại khám Chí Hòa, thẩm vấn viên theo lệnh các loạn tướng đều tra hỏi rất kỹ về tiền bạc và tài sản mà ông Ngô Đình Cẩn cất giữ. Ông Ngô Đình Cẩn đã khai với thẩm vấn viên rất rõ ràng: “Gia tài chỉ có ngôi nhà từ đường tại làng Phủ Cam do cha mẹ để lại cho mấy anh em của ông, và ngoài ra có ngôi nhà tranh nhỏ ở cửa Thuận An mà thôi”. 3)- Thế lực thứ 3 Đó là thế lực của tên Việt Cộng Thích Trí Quang thuộc cơ quan tình báo chiến lược cộng sản Hà Nội và nhóm Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Tên Việt Cộng đại ma đầu Thích Trí Quang nằm vùng trong Phật Giáo nầy đã dùng thế lực của Phật giáo Ấn Quang và quần chúng Phật tử đặt điều kiện với đám loạn tướng, chẳng hạn với Nguyễn Khánh rằng: Nếu muốn được sự hổ trợ của y tức là của Phật Giáo thì phải thẳng tay với Ngô Đình Cẩn, với “đám Cần Lao”, và với “tổ chức mật vụ Nhu Diệm” tức là Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung Dương Văn Hiếu, Tổ chức Mật Vụ Trần Kim Tuyến, Phan Quang Đông, và Lê Văn Dư. Do sợ hãi thế lực của Trí Quang có thể làm lung lay đến địa vị, mất chức và mất quyền lợi cá nhân, đám loạn tướng đầu lãnh như Khánh, Đôn, và Minh đã phải cúi đầu vâng lệnh của Trí Quang. Thế nhưng họ đâu biết rằng những đòi hỏi của Trí Quang chính là những nhu cầu và chỉ thị của Tổng Cục Tình Báo Bắc Việt (Hà Nội). Thích Trí Quang có nhiệm vụ phải thi hành nhằm mục đích đánh sập và vô hiệu hóa các cơ quan tình báo bậc nhất của Việt Nam Cộng Hòa. Thời gian ông Ngô Đình Cẩn bị giam giữ tại Khám Chí Hòa, Tướng Nguyễn Khánh nói rằng ông ta bị áp lực nên ra lệnh ông Bộ Trưởng Tư Pháp Nguyễn Văn Mầu phải nghiên cứu cách nào để có thể xét xử và tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn và những người chỉ huy cùng những nhân viên của các tổ chức tình báo Việt Nam Cộng Hoa như: Ông Phan Quang Đông, Bác sĩ Trần Kim Tuyến, và Trưởng Ty Công an Thừa Thiên Huế Lê Văn Dư. Ông Cố Vấn Ngô Đình Cẩn, 53 tuổi, bị bệnh rất nặng đang được đưa ra phiên tòa ngày 17/4/1964 và bị tòa án tại Sài Gòn tuyên xử tử hình vào ngày 24/4/1964. – Ảnh AP Ông Bộ Trưởng Tư Pháp Nguyễn Văn Mầu thấy nếu áp dụng bộ Hoàng Việt Hình Luật thì không thể tuyên án tử hình những tội danh vu vơ như chịu trách nhiệm vì thuộc cấp bắt người trái phép, hay đả thương v.v… được. Bởi bằng mọi cách phải tử hình ông Ngô Đình Cẩn cho danh chánh ngôn thuận và hợp pháp, nên Tướng Khánh chỉ còn một lựa chọn duy nhất là chỉ thị ông Bộ Trưởng Tư Pháp Nguyễn Văn Mầu lập ra một bộ luật mới, gọi là Sắc Luật số 4/64 ban hành ngày 28/2/1964. Sắc Luật số 4/64 này thiết lập Tòa Án Cách Mạng để quy một số hành động của các nhân vật cộng tác đắc lực cho chế độ Tổng Thống Diệm vào các tội cố sát, lũng đoạn kinh tế quốc gia v.v… và Sắc luật này còn được quy định có hiệu lực hồi tố. Trên căn bản thì hình luật chỉ áp dụng cho những hành vi trọng tội xẩy ra sau ngày ban hành luật đó mà thôi, vì vậy việc hồi tố là không đúng và hoàn toàn sai nguyên tắc. Vào ngày 24/4/1964 ông Ngô Đình Cẩn đã bị tòa án tuyên xử tử hình một cách vô luật pháp. Để đạt mục đích giết người một cách hợp pháp, việc đầu tiên của Tướng Khánh là đưa một tay đàn em làm Bộ Trưởng Tư Pháp nhằm dễ bề sai khiến. Bộ Trưởng Tư Pháp trong chính phủ của Tướng Khánh là Đại Tá Nguyễn Văn Mầu, nguyên Giám Đốc Nha Quân Pháp. Theo Thẩm Phán Nguyễn Cần (tức Lữ Giang), tại Việt Nam, Bộ Trưởng Tư Pháp được chọn trong các Thẩm Phán cao cấp hay các luật sư lão thành vì lý do: Thứ nhất, người giữ chức vụ nầy phải được mọi người kính nể, nhất là giới luật gia. Thứ hai, người đó phải am tường luật pháp và ngành tư pháp. Đằng này Đại Tá Nguyễn Văn Mầu chỉ chuyên về quân pháp nên không nắm vững tình trạng luật pháp rất phức tạp của luật pháp Việt Nam. Tướng Khánh chọn Đại Tá Nguyễn Văn Mầu, như trên đã nói, không ngoài mục đích chỉ để sai khiến ông này thi hành lệnh của Tướng Khánh mà thôi. Ông Bộ Trưởng Tư Pháp Nguyễn Văn Mầu đã cử một số luật gia soạn thảo và đưa ra dự thảo luật về một số tội phạm mà theo họ ông Ngô Đình Cẩn và “dư đảng Cần Lao” đã vi phạm và ấn định những tội nầy vào tội bị tử hình. Đây là việc làm hoàn toàn trái với nguyên tắc bất hồi tố của hình luật, tức hình luật không áp dụng cho những trường hợp xẩy ra trước ngày luật ban hành. Mọi quốc gia trên thế giới và ngay cả Hoàng Việt Hình Luật cũng đã công nhận và áp dụng nguyên tắc căn bản của hình luật nầy, và nguyên tắc nầy cũng đã được ghi vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị. Điều 11, đoạn 2, của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ghi rằng: “Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành, mà cũng không bị tuyên phạt một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian Phạm Pháp.” Điều 15 của Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị quy định: “Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay quốc tế áp dụng trong thời gian khi tội phạm xảy ra. Cũng không thể bị tuyên một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian sự phạm pháp xảy ra. Tuy nhiên, người vi phạm được hưởng sự khoan hồng hơn nếu luật mới ban hành sau ngày phạm pháp ấn định hình phạt nhẹ hơn.” Như đã biết, dự thảo Sắc Luật số 4/64 thiết lập Tòa Án Cách Mạng nhằm mục đích xử tử hình ông Ngô Đình Cẩn, ông Phan Quang Đông, và Thiếu tá Đặng Sĩ. Cho nên mặc dù dự thảo Sắc Luật số 4/64 có rất nhiều tranh cãi, Tướng Nguyễn Khánh vẫn bất chấp những sai trái và những nguyên tắc căn bản của hình luật. Ngày 28/2/1964 Tướng Khánh đã ký ban hành Sắc Luật 4/64. Xin hãy xét qua một số điều luật trong Sắc Luật 4/64: Điều 1 quy định: “Nay thiết lập một Tòa Án Cách Mạng có thẩm quyền xét xử trên toàn quốc những tội ác gây ra trong thời gian từ 26 tháng Mười năm 1955 đến 1 tháng Mười Một năm 1963 bởi những bọn mật vụ, đại kinh tài, viên chức chính quyền cao cấp cùng nhân vật quan trọng dưới thời Ngô Đình Diệm.” Điều 2 quy định: “Tòa Án Cách Mạng sẽ mở phiên xử đầu tiên trong tháng 3 năm 1964 và hoạt động trong thời gian 3 tháng.” Điều 3 quy định: 12 tội sẽ bị truy tố trước tòa án Cách mạng: 1)- Gian nhân hiệp đảng. 2)- Cố sát với trường hợp gia trọng. 3)- Giết người bằng thuốc độc. 4)- Tra tấn và phạm trọng tội. 5)- Cố ý đã thương với mọi trường hợp gia trọng. 6)- Hiếp dâm với mọi trường hợp gia trọng. 7)- Bắt giam trái phép. 8)- Cướp với trường hợp gia trọng. 9)- Sách thủ tiền tài. 10)- Đốt hủy sổ bộ, chứng thư, chứng khoáng, thương phiếu 11)- Hối lộ và hối nại quyền thế. 12)- Lũng đoạn kinh tế quốc gia. Điều 4 định nghĩa lại các yếu tố phạm tội, phần lớn khác với định nghĩa của các điều luật đã áp dụng trước đó. 1)- Gian dâm hiệp đảng: Những tổ chức khủng bố bí mật hay công khai. 2)- Đầu độc giết người: Tội bắt giam người trong hầm có hơi độc, hay có chất độc , hay thiếu không khí, để gây thiệt mạng. 3)- Mưu sát: Tội giết người về đối lập về chính trị, việc tra tấn cho đến chết. 4)- Bắt giam trái phép: Việc lưu đày một người mà không có án tòa và ngoại trừ trường hợp dự liệu bởi Dụ 6 ngày 11/1/1956. 5)- Cướp: Các việc tịch thu bất hợp pháp. 6)- Lũng đoạn kinh tế quốc gia: Việc mang đi hay cho mang ra khỏi xứ, bất cứ bằng cách nào, các giá khoán động sản, giấy bạc Việt Nam, vàng, bạc, ngoại tệ, trái khoán và bằng khoán. Tổ chức kinh tài bất hợp pháp. Điều 5: Cấm Tòa Án Cách Mạng không được quyền giảm khinh, cũng như không có quyền phạt án treo. Điều 15: Quy định rằng Tòa Án Cách Mạng tuyên án liền sau phiên họp nghị án, không đình hoãn. Những án khuyết tịch coi như đương tịch. Điều 16: Cấm các bị cáo không được kháng cáo hoặc thương tố. Những quy định ở các điều khoản trên hoàn toàn trái với nguyên tắc bất hồi tố của hình luật và, như vậy, cho ta thấy rõ một sự thật thâm độc của Tướng Nguyễn Khánh, Cabot Lodge, và tên Việt Cộng Thích Trí Quang trong quyết tâm phải giết cho bằng được ông Ngô Đình Cẩn và một số người liên liên hệ, và giới chức của Đệ I Việt Nam Cộng Hòa. Tướng Nguyễn Khánh sau ngày 28/2/1964 cũng đã ký một Sắc Lệnh Số 120-PT để cử các tay chân bộ hạ của ông ta vào thành phần ngồi xử án để thi hành các chỉ thị và quyết dịnh của ông ta. Đó là: Chánh Thẩm: Ông Lê Văn Thu. Phụ Thẩm gồm có: Đại Tá Trần Văn Chương Đại Tá Nguyễn Văn Chuân Đại Tá Đặng Văn Quang Trung Tá Dương Hiếu Nghĩa Phụ Thẩm nhân dân gồm có: Nguyễn Văn Phước Nguyễn Văn Yến Nguyễn Văn Sửu Bùi Văn Nhu Chưởng Lý Nguyễn Văn Đức Lục Sự Nguyễn Văn Tâm Luật Sư bào chữa cho ông Cố Vấn Ngô Đình Cẩn là Luật Sư Võ Văn Quan. Luật Sư Võ Văn Quan thăm ông Cố Vấn Ngô Đình Cẩn và Linh Mục đang làm lễ trước giờ bị xử tử ngày 9/5/1964 Chiều ngày 9/5/1964 trong tình trạng đang mang bệnh trầm trọng, tiểu đường và cao máu, không ngồi dậy được, ông Ngô Đình Cẩn được để nằm trên băng ca với 6 người khiêng từ phòng giam của khám Chí Hòa ra một bãi đất trống trong khuôn viên của khám giam. Một Linh Mục đến bên ông Ngô Đình Cẩn làm phép xức dầu, sau đó ông bị trói vào cây cột. Khi được hỏi nguyện vọng cuối cùng của ông, ông yêu cầu đừng bịt mắt khi bắn ông nhưng yêu cầu không được chấp thuận. Và lời nói cuối cùng của ông Ngô Đình Cẩn mà giám thị trại giam, và một số người quanh vụ xử bắn nghe được: “Xin Chúa tha thứ cho kẻ giết mình”, rồi ông bị bắn bởi một tiểu đội hành quyết. Ảnh ông Cố Vấn Ngô Đình Cẩn trong quốc phục áo dài đen quần trắng sau khi bị xử bắn ngày 9/5/1964 Có lẽ ông Ngô Đình Cẩn đã tha thứ cho tiểu đội hành quyết và tha thứ cho thủ phạm chính là Nguyễn Khánh, Cabot Lodge, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn Mầu và nguyên một băng đảng sư phản loạn như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Thiện Siêu, Thích Đôn Hậu, Thích Tâm Châu, Thích Hộ Giác, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Chánh Lạc, Thích Giác Đức,… đã bịa ra những “tội ác mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo” cho ông. Nhưng lịch sử không thể tha thứ cho những tên đao phủ thủ vô lương tri vô đạo đức này và một thủ phạm nữa là cộng sản Hà Nội. Đây là thủ phạm điều khiển giựt dây cho Phong Trào Phật Giáo Tranh Đấu qua Thích Trí Quang, giết cho sạch dòng họ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và phá cho tan tành đất nước. Đã năm mươi năm trôi qua, người mất thì đã mất, nhưng nỗi oan khiên vẫn còn đó. Xin một nén hương cúi đầu trước vong linh người ái quốc Ngô Đình Cẩn đã Vị Quốc Vong Thân. (Trích từ cuốn THÍCH TRÍ QUANG THẦN TƯỢNG HAY TỘI ĐỒ DÂN TỘC?) Liên Thành chauxuannguyen.org/2014/08/27/cxn_072814_5775_mot-bang-dang-su-phan-loan-nhu-thich-tri-quang-thich-thien-minh-thich-thien-sieu-thich-don-hau-thich-tam-chau-thich-ho-giac-thich-huyen-quang-thich-quang-do-thich-chanh-lac-th/
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 31, 2014 9:13:13 GMT 9
Việt Nam Cộng Hòa và dòng họ Ngô-Đìnhwww.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2015/02/150223_nguyenvanchau_ngodinhthihiep_1Lời Giới Thiệu- Tôi mới nhận được sách do người bạn gửi tặng, cuốn La République du Việt Nam et les Ngô Đình bằng tiếng Pháp của tác giả Ngô-Đình Quỳnh, Ngô-Đình Lệ Quyên (+2012), nhà xuất bản L’Harmattan, in năm 2013, dầy 246 trang. Phần sau có in thêm hồi ký hậu tử của bà Ngô Đình Nhu (suivi des Memoires posthumes de Madame Ngô Đình Nhu) xuất bản sau khi tác giả đã qua đời. Phần chính nói về Việt Nam Cộng Hòa và gia đình họ Ngô dài trên 60 trang, khoảng 30 trang gồm hình ảnh gia đình và cuối cùng phần phụ: hồi ký của bà Ngô Đình Nhu dài 120 trang. Tôi xin lược dịch phần chính của cuốn sách do hai tác giả Ngô-Đình Quỳnh và Ngô-Đình Lệ Quyên biên soạn, tác phẩm gồm 4 chương diễn tả lại những sự kiện lịch sử nay đã vang bóng một thời. Các danh từ, địa danh tiếng Việt đều được viết có dấu, văn tiếng ngoại quốc có phần khó hiểu, tôi chỉ lược dịch những ý tưởng chính. TĐ —————————————————————– Chương 1- Dòng họ Ngô-Đình Họ Ngô-Đình thuộc dòng dõi Ngô Quyền, vị Hoàng đề đầu tiên của Việt nam. Ở thế kỷ thứ nhất vào năm 939, sau nhiều cuộc chiến chống xâm lược, Ngô Quyền đã dựng lên triều đại Việt Nam đầu tiên. (Có lẽ tác giả nhầm, chắc là thế kỷ thứ 9, nguyên văn Au 1er siècle, en 939, TĐ). Thế kỷ thứ 14, thời nhà Trần, họ Ngô-Đình là một trong những gia đình đầu tiên cải đạo Thiên Chúa Giáo. Ông Ngô-Đình Khả (1857-1923) được gửi đi học bên Tầu, Mã Lai về nước lập gia đình, là cha của hai ông Diệm, Nhu sau này. Họ Ngô-Đình ít thấy có ở Việt Nam. Ngô-Đình Khà là người học rộng được vào triều đình dậy học, sau làm Thượng thư bộ Lễ, quân sư vua Thành Thái. Làm quan to nhưng ông chống Pháp, từ bổng lộc. Theo Thiên Chúa Giáo nhưng vẫn thờ tổ tiên, sau Tết ba ngày ông thường mời những người bên lương đi tảo mộ. Mặc dù theo Thiên Chúa Giáo nhưng Ngô-Đình Khả yêu nước, chuộng văn hóa phong tục cổ của dân tộc. Ông khác với những người đồng đạo Thiên Chúa theo Tây, thực dân, tại Nam Việt nhiều vùng Thiên Chúa Giáo dựa vào thực dân để được cấp đất dai. Sau Thế chiến thứ nhất 1914, thập niên 30 Việt Nam nghèo, phong trào dành độc lập bắt đầu. Năm 1931 phong trào Việt Minh thành lập. Ông Ngô -Đình Khôi con cả của ông Ngô-Đình Khả, tổng đốc Quảng Nam bị Việt Minh giết năm 1944 cùng với người con trai duy nhất. Con thứ hai là ông Ngô-Đình Thục sinh năm 1897 đi tu, năm 1938 được bổ nhiệm Giám mục địa phận Vĩnh Long, năm 1960 làm Giám mục địa phận Huế, không có mặt trong cuộc đảo chính ngày 2-11-1963 (thực ra ngày 1-11, TĐ), ông lưu vong tại Ý, Pháp, Tây Ban Nha và mất tại Mỹ ngày 13-12-1984. Ông Ngô-Đình Diệm sinh ngày 3-1-1901 là con trai thứ ba, sinh viên xuất sắc trường luật và hành chánh Hà Nội, năm 1921 ông đậu thủ khoa làm việc tại thư viện Hà Nội sau làm Tuần vũ (tỉnh trưởng) Phan Rang gồm 300 làng, ông hiểu rõ về đời sống nông thôn. Sau này khi làm Tổng thống ông hay đi thăm các tỉnh. Là người có tài năng ông được Hoàng đế Bảo Đại đưa vào triều giữ chức Thượng thư bộ lại năm 1933 khi còn trẻ mới có 32 tuổi. Mấy tháng sau ông Diệm từ quan vì là người yêu chuộng độc lập, ông thấy nhà vua không muốn dành độc lập tử tay người Pháp, ông tuyên bố không có thực quyền, người Pháp dọa bắt ông. Tháng 9-1945 ông Diệm bị Việt Minh bắt đưa đi giam ở một vùng đồi núi biên giới Việt Hoa, ông bị bệnh nặng. Hồ Chí Minh mời ông Diệm hợp tác chống Tây nhưng ông từ chối và kết án Việt Minh giết anh ông, vu cáo gia đình ông: Diệm nói Ông coi tôi có sợ ai không? Sau đó Hồ thả Diệm. Biết là mình bị đe dọa nên ông Diệm tìm đường ra ngoại quốc tại Á châu, Âu châu, Mỹ. Năm 1950 ông ở La Mã, sang Bỉ rồi sang Mỹ ở trong một tu viện tại Lakewood, New Jersey nghiên cứu sử, thần học, triết học. Ngô-Đình Nhu sinh taị Huế ngày 7-10-1910 là con trai thứ tư, đi Pháp du học văn khoa đại học Sorbonne, tốt nghiệp năm 1938 môn khảo cổ về nước làm phó giám đốc thư viện Hà Nội. Từ 1946-1954 ông hoạt động chính trị để thành lập chính phủ quốc gia độc lập. Ngô-Đình Cẩn và Ngô-Đình Luyện là hai người em út sau này cũng giữ chức vụ, nhiệm vụ trong chính phủ Việt Nam. Trần Lệ Xuân, sau này là phu nhân Ngô-Đình Nhu sinh năm 1924 tại Hà Nội, bà cụ thân sinh thuộc dòng dõi nhà Nguyễn, cha là luật sư Trần Văn Chương, bộ trưởng ngoại giao thời vua Bảo Đại năm 1945, bà lấy ông Nhu năm 1930 tại Hà Nội và cải đạo Thiên Chúa Giáo. Chương 2- Thành Lập và mở mang nền Cộng Hòa Việt Nam Khi Hội nghị Genève đang diễn ra sau khi Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ, Hoàng Đế Bảo Đại nghĩ tới ông Ngô-Đình Diệm. Pháp không ưa ông nhưng Mỹ chú ý tới, ngày 16-6-1954 Hoàng Đế mời ông làm chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng (Tác giả nhầm, hồi đó gọi là Thủ Tướng, Le Premier Ministre chứ không phải Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, President du Conseil des Ministres, TĐ) Ông Diệm về Việt Nam tháng 7-1954, khi chấp chính ông gặp trở ngại vì Pháp ngăn trở. Hoàng Đế Bảo Đại ở Cannes không quan tâm việc nước, khi ấy nhà vua giao cho ông Diệm được toàn quyền. Cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức ngày 23-10-1955, ông Diệm được 98% số phiếu. Ngày 4-3-1956 bầu lập pháp Quốc hội, ông Diệm mời ông Nhu, em trai làm cố vấn. Trước mắt có nhiều điều khó khăn nguy nan gồm Các giáo phái và bọn cướp Bình Xuyên. Giáo phái và Bình xuyên được Pháp giúp. Tướng Trịnh Minh Thế giúp Tổng thống dẹp loạn Bình Xuyên,chúng lộng hành tại Sài Gòn, sau khi đánh Cao Đài Hòa Hảo xong ông Diệm đánh Bình Xuyên. Ngày 27-9-1956 tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Ngày 26-10-1956 thành lập nền Cộng hòa, ông Diệm là người sáng lập nền Cộng hòa Việt Nam, chấm dứt phong kiến và chế độ thuộc địa. ( Tác giả nhầm: sự thực ông Diệm đánh Bình Xuyên, Hòa Hảo giữa năm 1955 xong mới Trưng cầu dân ý lên làm Tổng thống tháng 10-1955 chứ không phải làm TT rồi mới dẹp loạn, TĐ) Ông Diệm mở mang giáo dục, mở nhiều trường học. Hạ tầng cơ sở được tạo dựng nhưng bị Việt Cộng phá hoại. Đời sống người dân được bảo đảm về y tế, an ninh. Việc giáo dục tiến bộ, các trường gia tăng mở mang, xuất cảng gạo tăng 500% tính từ 1954-1959. Ông Ngô-Đình Nhu lập đảng Cần Lao Nhân vị, thành lập Thanh niên Cộng hòa, lập thuyến Nhân Vị có tầm vóc tinh thần, tầm vóc xã hội và chính trị, kinh tế. Cộng Sản lừa dối cán binh, nhiều ngưới đã ra hàng, ông Nhu sáng kiến và thực hiện Ấp chiến lược. Trưởng ấp, xã trưởng, giáo viên, ý tá đã bị Cộng Sản sát hại. Ấp chiến lược cấp cho người dân phương tiện tự vệ chờ trực thăng chở quân chiến đấu tới, nay người dân được an tâm sinh sống trong làng có hàng rào. Việt cộng không áp dụng chính sách quân dân cá nườc được, họ ra hồi chánh nhiều, mùa hè 1962 cuộc chiến thuận lợi nhờ ấp chiến lược. Ngày 23-7-1962 Bộ trưởng quốc phòng McNamara lập kế hoạch rút quân và giảm viện trợ VNCH. Ông Nhu chủ trương hòa bình với Bắc Việt, ông Hồ chí Minh tặng cành đào cho ông Diệm dịp Tết, Ngô-Đình Nhu còn đề nghị ra Bắc cũng như đưa hai con trai ra thăm miền Bắc. Mỹ ép ông Diệm nhận thêm cố vấn quân sự, đòi đưa ông Nhu ra ngoại quốc nhưng bị phía VN từ chối, họ giảm viện trợ để khiến người dân nổi dậy chống ông Diệm. Tổng thống Kennedy tuyên bố muốn thay đổi chính trị và thay đổi người ở VN, họ tuyên truyền làm giảm uy tín của ông Diệm tạiTây phương, ngưởi ta tin Mỹ và tin vào tuyên truyền của họ. Ngày 3-12-1962 Roger Hilman, Giám đốc nghiên cứu Bộ ngoại giao nhận định Ấp chiến lược khiến chính phủ bình định được miền quê hiệu quả. Việt Cộng gây ảnh hưởng tỉnh thành, tuyên truyền dụ dỗ những thành phần bất mãn chính phủ Diệm, những người này thân Cộng bài Mỹ. Ông Diệm phải trấn an công chức quân nhân, tiên đoán có đảo chính. Văn thư trên của Hilman cũng cho thấy chính phủ VN có tiến bộ. Chính phủ vừa phải chống Cộng và chống nội bộ tranh dành quyền hành (đảo chính) Tháng 4-1963 ông Nhu ban hành chính sách chiêu hồi, ra lệnh quân đội không được giết kẻ địch mà chỉ phá hậu cần và cho chúng con đường chạy. Quân địch ra hàng rất nhiều, sau mấy tháng có 6,000 người, họ đói rách khốn khổ, họ nói ấp chiến lược khiến họ không còn lương thực. Tháng 10-1963 McNamara nói tình trạng an ninh tiến triển tốt, Tướng Harkins, Tư lệnh quân Mỹ ở VN nói tinh thần chiến đấu rất cao. Khi Ngô-Đình Nhu chết, 8,000 trong số 12,000 làng đã được lập thành. Ấp chiến lược khiến cho VC không ám sát, bắt thanh niên. Khi người Mỹ loại bỏ ông Nhu, họ bỏ ấp chiến lược và đổ nửa triệu quân vào với những phương tiện chiến tranh to lớn nhưng thất bại 12 năm sau đó. Bà Ngô-Đình Nhu được bầu dân biểu, cũng là Chủ tịch Phong trào liên đới phụ nữ, phong trào đã giúp đỡ đồng bào di cư, tổng cộng có một triệu người từ Bắc vào Nam như vậy chứng tỏ chính phủ Diệm hấp dẫn hơn Hồ Chí Minh. Phong trào Liên đới giúp đỡ cô nhi, nạn nhân chiến tranh, tàn tật, bà cũng mở một phong trào bán quân sự, huấn luyện tự vệ. Khi ông Diệm mất, đất nước chịu những tranh dành quyền hành trở thành bi kịch của các Tướng lãnh. Bà Nhu đã giải phóng phụ nữ, đưa ra luật gia đình. Từ năm 1958 bà trình quốc hội và được chấp thuận, nam nữ bình quyền, bỏ tục đa thê, bà Nhu thực hiện được bộ luật gia đình. Tổng thống độc thân nên bà Nhu giữ vai trò đệ nhất phu nhân trong các nghi lễ lớn ngoại giao. Các báo chí, hình ảnh Việt nam đầu thập niên 60 thể hiện tiến bộ của kinh tề miền nam dưới thời Ngô-Đình Diệm. Về quân sự ấp chiến lược đã có kết quả, những thành quả tốt đẹp sau đó bị hành pháp Mỹ phá hỏng hết, họ quyết định hạ Diệm-Nhu. Không phải người dân chống chính phủ mà vì các Tướng nhiều tham vọng, tham quyền, ham danh vọng do Mỹ điều khiển Chương 3- Cuộc đảo chính Trong tháng 8 -1963, Tổng thống Diệm và Nhu biết Mỹ định mua chuộc các Tướng để lật đổ chính phủ. Hai ông bèn triệu tập các Tướng để nhắc nhở họ về trách nhiệm với đất nước. Tổng thống Kennedy cử ông Cabot-Lodge tới Sài Gòn làm Đại Sứ thay ông Nolting. Cabot-lodge tới Sài Gòn ngày 22-8-1963, ông điện tín về Bộ ngoại giao Mỹ nói các Tướng giữ nhiệm vụ quan trọng ở Sài Gòn trung thành với ông Diệm, các Tướng khác thì không rõ, đảo chính chỉ là cầu may. Cuối tháng 8 họ không có chính sách về VN. Dean Rusk (bộ trưởng ngoại giao) chủ trương Mỹ không rút khỏi VN trước khi thắng CS và không làm đảo chính tại VN. Hồ sơ giải mật Ngũ giác đài đã cho biết những sự kiện mới. Ngày 13-6-1971 báo New york Times cho đăng những tài liệu bí mật mà McNamara thu thập từ 1967, bị tiết lộ ra báo chí. TT Nixon tức giận muốn muốn cấm đăng nhưng ngày 30-6-1971 Tối cao Pháp viện cho phép đăng. Chương 4 của hồ sơ này có tên là Lật đổ Ngô-Đình Diệm , có lời ghi “Tài liệu nghiên cứu Ngũ giác đài về chiến tranh Việt Nam” cho thấy TT Kennedy biết kế hoạch đảo chính quân sự 1963 và ông chấp thuận. Tài liệu khảo cứu nói từ tháng 8-1963 chúng ta (tức người Mỹ) đã khuyến khích, chấp thuận kế hoạch đảo chính của các Tướng lãnh VN và hứa lập chính phủ thay thế lâu dài… chúng ta đảo chính để tăng thêm trách nhiệm của chúng ta tại VN và sự can thiệp của Mỹ. Hồ sơ cho thấy người Mỹ không đồng lòng khi kết án hành động ông Diệm. TT Kennedy cử một phái đoàn sang Sài Gòn để lượng giá tình hình, cử Tướng Krulak và Mendenhall nguyên Cố vấn chính trị đại sứ Mỹ, họ về báo cáo trái ngược nhau. Ngày 23-9-1963 ông gửi một phái đoàn khác gồm McNanara và Tướng Maxwell Taylor, ngày 2-10 họ báo cáo quân sự tốt đẹp, ấp chiến lược mở mang, chúng ta có thể rút cố vấn về cuối 1965, cắt viện trợ kinh tế để ép chính phủ Diệm cải tổ chính trị. Kennedy chấp thuận, McNamara tuyên bố 1,000 người Mỹ sẽ rời VN nước cuối 1963. Kennedy lưỡng lự trước hai báo cáo của những người ủng hộ và chống Diệm. Tướng Harkins ở VN báo cáo về Mỹ: lúc này thay đổi lãnh đão không tốt, tôi không thấy ai chống cộng bằng ông Diệm, tình hình quân sự ở vùng 1, 2, 3 và 4 nói chung tốt đẹp. Đại sứ Cabot-lodge gửi thư cho George Bundy, cô vấn Kennedy ngày 30-10-1963 nói Mỹ đã giúp xứ này về quân sự kinh tế nhưng muốn thắng cuộc chiến phải thay đổi chính quyền, phải chuẩn bị đảo chính. Các Tướng chủ mưu cần tiền để mua chuộc các Tướng thân cận ông Diệm thì đảo chính sẽ thành công, chúng ta sẽ lo di tản gia đình họ. Đại sứ Cabot-Lodge công nhận kinh tế, quân sự tiến bộ nhưng cho là ông Diệm lỗi thời cần phải trừ khử bất kể hậu quả ra sao. Quyết định của Đại sứ Cabot-Lodge ảnh hưởng tới TT Kennedy, cuộc đảo chính đang tiến hành không thể dừng lại được, hai ngày sau nó bùng dậy. Trung tá CIA Lucien Conein được giao nhiệm vụ liên lạc các Tướng vì ông biết tiếng Pháp, ông ta khuyến khích các Tướng phản lại Tổng thống Diệm, hứa nếu thất bại sẽ được Mỹ bảo vệ, thắng thì nắm quyền. Tòa đại sứ bật đèn xanh, CIA hợp tác chặt chẽ các tướng. Cuối tháng 10, không khí Sài Gòn u ám, Ngô-Đình Nhu nghĩ tới vợ và con gái (bà Nhu và Lệ Thủy) đi xa, ông gọi Trác lúc ấy 16 tuổi, Trác là người nối dõi dòng Ngô-Đình vì ba người anh lớn (của ông Nhu) không có con nối dòng. Ông Nhu bảo Trác đưa hai em (Quỳnh, Lệ Quyên) lên Đà Lạt. Tác giả chú thích nói hôm sau ngày đảo chính ba anh em ở Đà Lạt, trốn vào rừng cùng mấy người cận vệ rồi tìm tới phi trường (Đà Lạt) lên máy bay sang La Mã. (Tác giả nhớ sai vì hồi đó ông còn nhỏ, sự thực ba người con bà Nhu đã được tân chính phủ cho đi chính thức tại Sài Gòn sau đảo chính TĐ) Trưa ngày 1-11 (1963), các Tướng họp dự tiệc ở bộ Tổng tham mưu do Tướng Trần Thiện Khiêm đãi, khi mọi người vào bàn Tướng Dương Văn Minh đứng dậy tuyên bố một cuộc đảo chính đang bắt đầu và yêu cầu mọi người ủng hộ. Ai nấy đều hoan hô riêng Tướng Lê Quang Tung, chỉ huy trưởng lực lượng đặc biệt của cố vấn Ngô-Đình Nhu nói: Các ông phải biết ai gắn sao cho các ông?” LQTung bị bắt đi xử tử cùng với người em Lê Quang Triệu. Nguyễn Hữu Duệ, đại úy (thực ra là Thiếu tá, TĐ) Tham mưu trưởng lữ đoàn phòng vệ phủ Tổng thống gọi điện thoại cho Tổng thống và cho biết ông sẽ tấn công chớp nhoáng bộ TTM bằng bộ binh, chiến xa, nếu tấn công sẽ bắt trọn bộ các Tướng làm phản. Ông Diệm từ chối nói người đồng đội không giết lẫn nhau, lúc 17 giờ (5 giờ chiếu) Tướng Dương Văn Minh điện thoại cho cố vấn Ngô-Đình Nhu nói nếu hai người không ra hàng thì sẽ cho ném bom, bắn đại bác vào dinh (Gia Long). Tối lúc 20 giờ, đại sứ Cabot-Lodge điện thoại cho ông Diệm nói nếu ông hàng thì sẽ được đi ngoại quốc nhưng Tổng thống nói sẽ tử thủ tại đây. Tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh vùng I, Huế cũng như Nguyễn Khánh, Tư lệnh vùng II (Pleiku) báo cáo Tổng thống muốn đưa quân về cứu, Tướng Huỳnh Văn Cao Tư lệnh vùng IV ở Cần Thơ cũng ra lệnh tiến về Sài Gòn nhưng Tổng thống bác bỏ không muốn đổ máu. Nguyễn Khánh đề nghị anh em ông đến Pleiku nhưng ông cũng từ chối không muốn đổ máu cho quân đội quốc gia. Nửa đêm hai ông Diệm Nhu đi xe Cao Xuân Vỹ, Tổng giám đốc Thanh niên cộng hòa, ông Diệm ngồi trước, Nhu, Đỗ Thọ ngồi sau. Tới nơi ông Diệm ra lệnh cho quân phòng thủ (tại dinh Gia Long) ngưng chiến tranh đổ máu. Khi đại tá Nguyễn Văn Thiệu mở cuộc tấn công, những ngưòi lính phòng thủ trong dinh chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Tổng thống và người em ngủ tại nhà Mã Tuyên, người Việt gốc Hoa phụ trách Thanh niên Cộng hòa tại Chợ Lớn. Sáng ngày 2-11-1963 hai anh em Ngô-Đình chịu lễ tại nhà thờ Francois Xavier Chợ Lớn (nhà thờ Cha Tam). Sau lễ ông Diệm nhờ linh mục (người làm lễ) liên lạc với Tướng Trần Văn Đôn, ông muốn đưa họ về lý lẽ và tình yêu tổ quốc. Các Tướng Đôn và Trần Tử Oai chuẩn bị xe cộ đàng hoàng đi đón hai ông nhưng Tướng Mai Hữu Xuân được lệnh đi gặp có thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa và Nguyễn Văn Nhung, cận vệ Tướng Dương Văn Minh đi theo. Trước khi khởi hành Dương Văn Minh đưa hai ngón tay ra hiệu giết cả hai người. Ông Diệm và Nhu đợi trước nhà thờ với linh mục, bỗng một xe díp và một xe bọc thép tới. Tướng Xuân nói ông được lệnh tới bắt và mở cửa xe thiết giáp, ông Nhu phản đối thì ông Xuân nói xe này bảo đảm an ninh. Trên đường về hai anh em ông Diệm bị Nguyễn Văn Nhung bắn nhiều viên và đâm chết, để chối tội anh này nói hai ông tự sát thực ra hai tay bị trói. Bộ Tổng tham mưu ngạc nhiên thấy hai ông bị giết, TT Kennedy cũng bối rối trước cảnh hai ông đã mạng vong trong cơn khói lửa, việc mà ông không tiên đoán sẽ xảy ra. Sau khi chính phủ bị lật đổ, Cộng quân tuyên truyền dụ dỗ đồng bào miền nam chống đế quốc Mỹ. Cũng chính Tướng Dương Văn Minh được Mặt trận giải phóng kêu gọi. Chính ông ta đã đuổi Mỹ, ông ta đầu hàng không chống cự Việt Cộng khi họ vào Sài Gòn và giao đất nước cho quân địch. Một kết thúc ô nhục cho kẻ chịu trách nhiệm chính trong sự phản bội và sát hại thượng cấp đưa đất nước vào tình trạng hỗn loạn. Ngày 5-11-1963, Tổng thống Pháp De Gaulle có tiếp xúc Đại sứ Mỹ Bohlen và nói: “Tôi không tin các ông thành công bằng can thiệp trực tiếp vào VN, rất tiếc cho Mỹ là hai ông Diệm Nhu đã bị giết, những người thay thế chắc sẽ không thành công. Kinh nghiệm riêng của chúng tôi thì những người cầm quyền do ngoại bang điều khiển sẽ thất bại nhất là về sự lãnh đạo cuộc chiến, tôi không tin là sẽ tốt đẹp. Quan điểm của tôi như đã quyết định từ Genève 1954, không can dự vào vấn đề Việt Nam, nhận định này dùng cho Cộng Sản nhưng cũng cho các ông, tôi sợ các ông sẽ sa lầy khó rút ra” Sau khi chính phủ Ngô-Đình Diệm bị lật đổ, trong hai năm có 8 chính phủ, mặc dù được Mỹ bảo trợ nhưng không lãnh đạo được đất nước. Tất cả thành quả mà họ Ngô-Đình xây dựng bị bị phá hủy hết, các đảng phái phong trào bị dẹp hết, 41 tỉnh trưởng bị thay thế. Năm 1964 cuộc chiến gia tăng khi Johnson lên làm Tổng thống Mỹ. Các Tướng lãnh làm đạo đức suy đồi so với thời ông Diệm. Họ nói bà Ngô-Đình Nhu là một trong bẩy người đàn bà giầu nhất thế giới nhưng khi lưu vong bà chỉ lấy thù lao qua các cuộc phỏng vấn để chăm lo cho các con nhỏ. TT Kennedy bị ám sát, chính phủ Johnson đương đầu với Việt Cộng, Nguyễn Hữu Thọ Chủ tịch mặt trận giải phóng tuyên bố với ký giả Úc Wilfrid Burchett “Chế độ Ngô-Đình sụp đổ là món quà tự trên trời rơi xuống cho chúng tôi” Chương 4 Một khía cạnh khác Sách nói về nhà Ngô-Đình thường viết “ngược đãi Phật giáo, độc tài, tàn ác, thối nát” ngừòi ta cũng kết án Tổng thống Diệm không tôn trọng Hiệp định Genève, không thực hiện Tổng tuyển cử … những nhận định trên vô căn cứ, dưới đây là những quan điểm hợp lý. Về Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước nó chỉ được chính phủ Pháp và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh) ký đã bị chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, chính phủ miền nam VN tương lai của Ngô-Đình Diệm bãi bỏ. (Thực ra hồi đó gọi là Quốc Gia Việt Nam, État du Việt Nam chứ không phải Việt Nam Cộng Hòa, République du Việt Nam như tác giả nói, TĐ) Mỹ cũng không ký, trong đó có Trung cộng, Nga, Anh. Phần nói về bầu cử thống nhất hai miền không có bên nào ký không có giá trị, tuy nhiên miền nam đòi bầu cử được bảo đảm trong sáng. Trái lại CS vi phạm Hiệp định Genève, xâm nhập, khủng bố miền nam đã bị Ủy hội quốc tế phản đối nhiều lần. CS với mục đích bá chủ và không tôn trọng Hiệp định Paris (1973) mặc dù Kissinger và Lê Đức Thọ được phát giải Nobel hoà bình nhưng Hiệp định lại bị CS vi phạm. CSBV xâm lăng miền nam VN tháng 4-1975 lợi dụng Mỹ suy yếu vì vụ Watergate. Về vụ Phật giáo lịch sử đã chứng minh một huyền thoại lớn để chống TT Ngô-Đình Diệm. Bà Ngô-Đình Nhu cho biết cuộc khủng hoảng này như cơn gió thổi ngược chiều bởi những phe đối nghịch từ nhiều phía Việt Nam, Pháp, Mỹ và CS. Trước vụ một nhà sư tự thiêu 1963 mà báo chí thế giới đã phổ biến không có ai chống đối chính phủ Diệm cầm quyền từ 1954. Tháng 5-1963 truyền thông phóng đại kết án chính phủ Công giáo Ngô-Đình Diệm gây nhiều tội ác nhưng dưới sự lãnh đạo của chính phủ Diệm chùa chiền phát triển nhiều. Một nghìn hai trăm bẩy mươi lăm (1275) ngôi chùa mới được xây dựng. Chùa Xá Lợi được xây dựng nhờ Tổng thống tặng 600,000 đồng, một ngàn hai trăm chín mưoi năm (1295) ngôi chùa được trùng tu, như vậy số chùa đã tăng lên 200%. Về phía Thiên Chúa Giáo số nhà thờ chỉ tăng 30%. Trong số 18 Bộ trưởng của chính phủ chỉ có 5 người Thiên Chúa Giáo, hơn nữa chỉ có 3 trong 19 Tướng lãnh là Thiên chúa giáo. Trong số 113 dân biểu 75 người là Phật giáo, phó Tổng thống và ngay cả Tỉnh trưởng Huế, (nơi xẩy ra vụ Phật giáo) là người theo đạo Phật. Ông Diệm trả lời một ký giả nói “Tôi đâu có điên, chín năm cầm quyền trong lúc có chiến tranh lại đi đàn áp” Tổng thống thành lập Ủy ban để giải quyết vấn đề Phật giáo, khi phái đoàn hai bên ký thông cáo chung ngày 16-6-1963, vấn đề được giải quyết xong, Phật giáo thỏa mãn. Thích (Thượng tọa,Vénérable) Trí Quang là nhà sư giả, ông ta là CS, ông thành lập Phật giáo cấp tiến tổ chức tự thiêu liên tục, TT Diệm cho khám chùa thấy nhiều truyền đơn chống chính phủ và cả vũ khi súng gươm. Thượng tọa Thích Thiện Hòa, phái Cổ sơn môn kêu gọi chấm dứt biểu tình, tuyệt thực, hoạt động chính trị. Trong số 4,000 ngôi chùa, 12 chùa bị đóng cửa đã dược mở lại tại Sài Gòn , 250 ngàn người biểu tình ủng hộ Ngô tổng thống do các Thanh niên Cộng Hòa kêu gọi. Ủy ban điều tra Liên Hiệp Quốc được chính phủ VN mời vào điều tra từ 24-10 tới 3-11-1963, Ủy ban tuyên bố không có đàn áp Phật giáo. Ngày 7-12-1963 họ soạn tờ trình 234 trang, Ủy ban gồm thành viên các nưóc Afghanistan, Brésil, Thái Lan, Costa Rica, Dahomey, Maroc, Népal. Tòa Đại sứ Mỹ cho ông Thích Trí Quang tỵ nạn nhưng lại từ chối không cho ông Ngô-Đình Cẩn tỵ nạn. Johnson, người chống đảo chính , thừa hưởng chính quyền, năm 1968 ông ta đưa tổng cộng 536,000 quân Mỹ vào VN, quân VNCH tăng từ 820,000 người lên 968,000 người. Nixon lên nhậm chức TT năm 1969 tìm hòa bình, ngày 27-1-1973 ký kết Hiệp định Paris, tổng cộng có 55,000 quân Mỹ chết tại VN. Lấy lý do muốn thắng CS nhanh nên họ đã tổ chức cuộc đảo chính. Từ 2-11-1963 tới 2-7-1976, 13 năm cuộc chiến đẫm máu tàn phá đất nước, giết hại hàng triệu người. Cả thế giới thấy ông Đại sứ Mỹ cuốn cờ trên nóc tòa Đại sứ chạy. Hôm sau ngày 30-4-1975 bà Ngô-Đình Nhu trả lời phỏng vấn đài MBC nói: Sức mạnh quân sự Hoa Kỳ để làm gì hay chi để chạy? Ngày 17-4 Khmer Đỏ vào Nam Vang, ngày 30-4 Việt Cộng vào Sài Gòn, ngày 29-11-1975 Lào thành lập chính phủ Cộng hòa nhân dân, ngày 2-7-1976 thống nhất nước Việt Nam, Đông Dương vào tay CS. Dưới ánh sáng sự thật làm sao giải thích những lời vu khống anh em Ngô-Đình và sự yên lặng vẫn phủ nhận sự thật. Tháng 6-1964, bà Nhu, Lệ Thủy 19 tuổi được báo Truth Rally mời sang Mỹ phỏng vấn, họ muốn tìm thêm những gì khác lạ nhưng chính phủ Mỹ không cấp Visa lấy lý do an ninh quốc gia. Tại sao hai người đàn bà đến một siêu cường có thể ảnh hưởng an ninh quốc gia? Khủng bố đe dọa Tây phương, người ta khám xét tại phi trường thì không ai coi chính phủ đó là độc tài. Chính phủ Ngô-Đình Diệm lại không có quyền tương tự như vậy sao? Báo chí, giới trí thức, chính trị gia đòi phải có dân chủ tại VN (miền nam) trong khi đang có chiến tranh, khủng bố. Trên thế giới có hàng triệu thanh niên chống cuộc chiến tranh mà họ chẳng biết gì. Nếu không có hàng triệu người vượt biển cuối thập niên 70, đầu 80 trốn CS có lẽ huyền thoại Việt Cộng yêu nước vẫn còn. CS chiếm miền nam, họ tàn phá đất nước thì truyền thống Tây phương im lặng cho tới khi hàng nghìn, hàng vạn người VN vượt biển. Hai anh em Diệm-Nhu tỏ ra người cầm quyền Thiên Chúa Giáo đạo đức đối với cuộc đảo chính phản bội. Người ta không thể làm cho người chết sống lại nhưng ít ra phải có công lý và sự thật cho họ. Cuối cùng phải kể đến trách nhiệm của những người gây nên nhưng cái chêt ây và gây thảm kịch cho VN. Sự tòng phạm về tinh thần mà thế giới và Giáo hội không thể cho phép. Trọng Đạt lược dich ****************************************** 3 câu chuyện( Trilogy) về ba mẹ con bà Ngô Đình Nhu. I. NGÔ ĐÌNH LỆ THỦY, HỒNG NHAN MỆNH YỂU (kim thanh) Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương .(Đoạn Trường Tân Thanh) 1. Niên khóa 1962-63, tôi học năm cuối của chương trình Cử Nhân Giáo khoa Văn Chương Pháp tại trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Còn nhớ cùng lớp tôi lúc ấy có nhạc sĩ Hùng Lân (Hoàng Văn Hương), người hiền lành, dễ mến, như một thầy tu, thỉnh thoảng nổi hứng bất tử ngồi lén ghi nốt nhạc ngay tại chỗ, trong lúc thầy giảng bài. Có bà sơ Phạm Thị Nhâm, mà tôi thường hỏi mượn cua mỗi lần trốn học đi chơi, sau trở thành hiệu trưởng trường Nữ Thánh Tâm Nha Trang, và đã nhận ra tôi ngay khi vừa thấy tôi lò dò đến trường xin dạy. Có Đặng Tiến, da vàng xanh như người bị sốt rét kinh niên, tóc bờm xờm không chải, trước 1975 ở phòng tùy viên Tòa đại sứ VNCH tại Thụy Sĩ, đào ngũ qua Pháp sống cho đến bây giờ, chuyên viết báo nịnh hót Cộng sản và phê bình gia văn chương tầm cỡ. Có Đại úy Ngô Văn Minh, sau lên chức Đại tá Tham mưu trưỏng Quân Đoàn III, Biên Hòa. Có Wang Seng, cô bạn Tàu, Bùi Thế Cần, Lương Thị Nga, Thái Thị Nhân, Lê Thị Bích, Thái Tuyết Lê, Lê Thị Ngọc Loan, và Irène Công Huyền Tôn Nữ Phụng Tiên –đồng hương Nha Trang và đồng môn trong lớp Latin của ông Le Menn và Michel Piclin– tất cả đang ở Pháp. Có Nguyễn Nương Minh Châu, sau thành vợ Bác sĩ Đinh Hà, cả hai là cựu JECU (viết tắt của Jeunes Etudiants Catholiques Universitaires, Thanh Sinh Công Đại Học), đang sống rất thầm lặng tại một nơi nào trên đất Mỹ. Học trên chúng tôi là Nguyễn Ngọc Diễm, Phạm Dương Hiển, Lưu Nguyên Đạt, Nghiêm Hồng (con giáo sư Nghiêm Toản), và Nghiêm Ngọc Thúy (con ông Nghiêm Xuân Thiện, sau này làm hôtesse cho Air France). Đầu niên học, từ lầu ba, tôi và Bùi Thế Cần (học giỏi có thể nhất lớp, con của dân biểu Bùi Tuân, Huế) hay xuống lầu một, vào giảng đường Dự Bị, để tìm người quen giữa đám nai vàng ngơ ngác, hay đúng hơn tuyển mộ tân binh cho JECU. Lúc ấy, Cần là trưởng JECU Liên Trường, Nguyễn Ánh Tuyết (con trai), thư ký, còn tôi, trưởng Nhóm Văn Khoa Pháp. Một hôm, tôi thấy đứng trước cửa giảng đường một sĩ quan mang ba hoa mai bạc, đầu đội béret đỏ, tay cầm một xấp cua. Ông dáng cao gầy, vẻ tươi cười. Gặp ông, tôi khẽ gật đầu chào, và ông lịch sự chào lại. Có người cho biết, đó là Đại tá Cao Văn Viên. Mấy năm sau, ông lên tướng, trở thành xếp quá lớn của tôi, và lấy bằng Cử Nhân Pháp. Có kẻ xấu mồm nói, ông nhờ người đi học và đi thi thay cho ông. Tôi không tin. Vì ở Văn khoa Pháp, thầy cô không phát cua, phải vào lớp ghi chép hoặc mượn ai, và kỷ luật thi cử lúc bấy giờ khá gắt gao, ít sinh viên, lại phải thi oral, thầy trò biết mặt nhau hết, rất khó gian lận. Vào trong giảng đường, Cần và tôi ngồi lẫn lộn với đám tân sinh viên, nghe cha Pineau (thay cha Cras) giảng về Socrate và Hégel hay thầy Kiết dịch tiếng Pháp ra tiếng Việt mà phát mệt trở lại. Một hôm, chúng tôi thấy Yvonne Lan Hương, cô bạn trong JECU, học dưới một lớp, đang ngồi trò chuyện với một cô. Bèn sà đến. Yvonne giới thiệu, đây Thủy, Ngô Đình Lệ Thủy. Lần đầu gặp cô, chúng tôi không nói gì hơn ngoài vài câu xã giao thông lệ. Về sau, khi Lệ Thủy gia nhập JECU Văn khoa Pháp, tôi tiếp xúc với cô thường hơn, nhưng cũng chỉ để thông báo ngày giờ và chương trình họp của Hội. Cô có dáng thanh thanh, vẻ thùy mị, thông minh, ít nói, ít cười, đôi mắt linh hoạt, mặt trái soan, cằm hơi nhọn, tóc dày, cài bandeau trắng hoặc đỏ. Chúng tôi nói tiếng Pháp với nhau, cho nên bây giờ tôi không biết cô nói tiếng Việt ra sao, giọng miền nào. Đó là một điều mà sau gần nửa thế kỷ, già đi, nghĩ lại, tôi thấy “dị hợm”, mắc cỡ, mặc dù do thói quen, giống như các em Việt Nam hiện tại ở Mỹ nói chuyện bằng Anh ngữ, chứ chẳng vì “snobisme”, thời thượng, lòe thiên hạ. Lệ Thủy thường mặc váy đỏ, áo sơ mi trắng đi học, đôi khi cả đồng phục Thanh Nữ Cộng Hòa. Nói chung, cô đẹp, nhưng không lồ lộ, sexy như Irène, không tươi lộng lẫy như Lương Thị Nga. Một sắc đẹp trang nhã, đài các, kín đáo. Tôi để ý, cô ở đâu là luôn luôn có một, hai anh chàng gorilles (hộ vệ), giả dạng sinh viên, ngồi phía dưới, cách cô một dãy bàn, nhìn chòng chọc vào mọi người. JECU Văn Khoa Pháp lâu lâu ra một tờ Bản Tin (Bulletin), bằng tiếng Pháp, do Bùi Thế Cần, Ánh Tuyết, Minh Châu và tôi viết gần hết, vì không ai gửi bài. Trong đó, thỉnh thoảng có đăng một vài bài thơ tình lẩm cẩm của tôi, không đối tượng, chỉ là gửi gió cho mây ngàn bay, mà bây giờ tôi còn nhớ lõm bõm vài câu: Je veux tremper mes lèvres Dans l' eau pure de ton coeur Et émerger frissonnant D' une aube de lumière... (Tôi muốn nhúng đôi môi Vào nước tinh tuyền tim em Và bừng lên run rẩy Dưới ánh sáng bình minh…) hay những câu dịch thơ của John Keats, hoặc Tennyson, đại khái: Ce n' est pas toi que je regrette C' est le rêve par toi brisé (Không phải em mà tôi tiếc nuối Mà giấc mơ vì em vỡ tan) Lệ Thủy đọc xong, mày hơi nhíu, bảo tôi, nghiêm trang như một cô giáo la rầy học trò: "Je n' savais pas que tu es si romantique. Les poèmes d’amour, ça c’est vraiment beau, mais ils désespèrent aussi" (tôi không biết anh lãng mạn dữ thế. Những bài thơ tình hay thật, nhưng cũng làm người ta tuyệt vọng). Tôi khoát tay, ấp úng chối tội như ăn vụng bị bắt quả tang: "Un peu, oui, j’ ne les ai faits que pour m'amuser. Rien de sérieux!" (Chút chút, đúng, tôi chỉ làm để chơi vui thôi mà. Không có gì quan trọng!). Lệ Thủy không bao giờ đến CLB Phục Hưng để họp, ngoại trừ một lần, tôi nhớ, tham dự thánh lễ đầu tháng cho toàn JECU do cha Pineau cử hành, rồi về ngay sau lễ. Chúng tôi chỉ gặp nhau tại giảng đường Propédeutique, trong giờ nghỉ giải lao, năm sáu đứa ngồi cuối phòng, có khi tại bàn của Lệ Thủy, thảo luận, hay trao đổi vài thông tin cần thiết. Hai anh chàng gorilles, chắc đã được báo trước, đứng xa xa hút thuốc, để chúng tôi yên. Một ngày thứ bảy, JECU Liên Hội tổ chức đi thăm trại cùi và nhà thương điên Chợ Quán, sau đợt công tác thăm viếng dân lao động nghèo tại Xóm Chùa cách đó mấy tháng. Mỗi người góp mười đồng, làm chi phí lặt vặt, và ăn trưa. Số tiền không nhỏ, hơn ba tô phở vào thời ấy, đối với ngân quỹ khiêm tốn của sinh viên còn lãnh lương cha mẹ. Lệ Thủy đưa cho tôi một trăm đồng, trước mặt Cần, nói là tiền của “maman cho Hội”, nhưng “tiếc là bận việc bên Thanh Nữ Cộng Hòa, không đi với tụi toa được.” Tôi nhận tiền, cám ơn, rồi nói nhỏ vào tai Cần: “Như thế cũng hay. Có Thủy tham gia, hai gorilles phải theo, phiền phức, mà trông ngứa mắt lắm!” Hôm ấy, tất cả chúng tôi, khoảng bốn chục người, chia nhau lên hai xe buýt, tuyến đường Chợ Bến Thành-Trần Hưng Đạo. Hoặc tự túc, có xe hơi riêng, như hai chị em Anh Thư và Hạp Thư, hay “đại ca” Dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ. Tổ y tế gồm các sinh viên Y khoa, trang bị ống nghe và túi cứu thương, do Đinh Hà hướng dẫn, làm công tác khám bệnh, phát thuốc. Tổ ăn uống do Rosa, sau thành vợ của Nguyễn Ánh Tuyết, và người chị là Rosette, điều động. Tổ văn nghệ gồm một cây guitare và một số ca sĩ mầm non, do các cô bên Dược, tôi nhớ có Yvette Trương Tấn Trung, Tôn Nữ Tâm Thường, và Nguyễn Cẩm Nhung (con của Luật sư Nguyễn Văn Huyền) phụ trách. Bùi Thế Cần làm tổng tư lệnh, Ánh Tuyết phụ tá hành quân. Đầu tiên chúng tôi thăm nhà thương điên. Toàn đàn ông. Vài ông, tóc dài rũ rượi, biểu diễn nhiều màn rất… điên, như xé áo xé quần, rú lên những tràng cười kinh dị, khiến các cô sợ quá, mặt mày tái mét. Nhưng đa số hiền lành đứng nhìn chúng tôi đi qua, vẻ thẫn thờ, ngây dại. Tôi cười, chào, hỏi thăm, họ vẫn vô cảm. Rồi cả toán chuyển sang thăm trại cùi. Thói quen nghề nghiệp, Đinh Hà phát sẵn mấy chai alcool, để tùy nghi. Bệnh nhân rất đông, sống theo khu, gồm cả con nít, trông rất tội nghiệp. Tôi không lạ với cảnh này, vì gần xóm tôi ở Nha Trang, khu Lạc Thiện, cũng có một trại cùi do các tu sĩ dòng Franciscains sáng lập và đảm nhiệm, nhưng lúc ấy tôi còn nhỏ, chỉ là một khán giả bàng quan, đi ngang tò mò đứng nhìn vào qua những vòng rào kẽm gai dày. Bây giờ, lần đầu tiên có dịp thấy tận mắt những thân hình gầy còm, lở lói, những bàn tay, bàn chân co quắp, hoặc mất ngón, những cặp mắt mờ đục, mù lòa. Và lòng dâng tràn một niềm cảm thương vô hạn. Tổ y tế bắt đầu khám, phát thuốc cho những bệnh nhân cùi bị cảm cúm, đau đầu, sổ mũi, do trưởng trại giới thiệu, yêu cầu. Các cô tập họp những cháu bé lại, phát kẹo, tập chúng hát theo nhịp đàn guitare của Ánh Tuyết, vỗ tay, rồi cười lớn tiếng với nhau. Vài cháu chưa bị nhiễm bệnh, mặt mày trông rất sáng sủa, thông minh, phải theo sống chung với cha mẹ. Tháng sáu 1963, mãn trường. Bùi Thế Cần, Nguyễn Nương Minh Châu đậu Cử Nhân liền một khi. Tôi rớt oral chứng chỉ Văn chương Quốc âm –bắt buộc cho sinh viên Văn khoa Pháp, Anh– vì trong buổi thi vấn đáp với giáo sư Vương Hồng Sển tôi không nhớ Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị ông nào theo Tây, ông nào chống Tây, và đem thơ ông này cắm vào cằm ông kia. Với giáo sư Bửu Cầm, kết quả còn tệ hơn, tôi không biết chiết tự bốn câu thơ chữ Nôm của thi sĩ Tuy Lý Vương, đứng chịu chết như Từ Hải, nhìn thầy cười cầu tài. Phải thi lại hai môn vấn đáp này. Còn những nàng tiên nga “trong đám xuân xanh ấy”, mà tôi đã kể tên ở trên, chưa có ai “theo chồng bỏ cuộc chơi”, như trong thơ Hàn Mặc Tử, nhưng đã lần lượt lên đường du học Pháp một cách lặng lẽ từ năm thứ hai, thứ ba. Cần ra Huế, tôi về quê Nha Trang, dạy tại Collège français môn Việt văn, cũng nhờ cái chứng chỉ Văn chương Quốc âm khó ác ôn ấy. Không bao giờ tôi gặp lại Lệ Thủy, đã biến mất, từ ngày cô tặng JECU chúng tôi một trăm đồng. Tôi biết cô cũng đã đậu Propédeutique, qua bản niêm yết dán trước của trường, với tên chính thức, đầy đủ: Anne-Véronique Ngô Đình Lệ Thủy, sinh năm 1945. Chiến sự mỗi ngày leo thang. Khủng hoảng chính trị gia tăng. Sinh viên và Phật tử xuống đường hàng ngày. Cảnh sát dàn chào với dùi cui, lựu đạn cay. Những tờ báo chui chửi thậm tệ chế độ. Làm tôi rất quan tâm vì, qua Lệ Thủy, cảm tình của tôi với cụ Diệm rất sâu nặng, không như một vài bạn JECU lớn tuổi hơn, chẳng hạn Nguyễn Hữu An. Tôi lờ mờ hiểu rằng thế nào bàn tay lông lá của người Mỹ cũng đã nhúng vào nội bộ Việt Nam. Nhưng tôi tin tưởng và cầu mong cụ Diệm sẽ vượt qua hết như lần đảo chánh hụt 1960. Thời gian sau đó, nhiều biến cố xảy ra, dồn dập. Lựu đạn nổ tại đài phát thanh Huế. Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu. Nữ sinh viên Quách Thị Trang biểu tình bị cảnh sát bắn chết tại chợ Bùng Binh Sài Gòn. Rồi đảo chánh. Ngày 2/11/1963, nghe tin hai anh em cụ Diệm bị giết, ba tôi chảy nước mắt và trong giờ kinh tối ba bắt cả nhà đọc thêm kinh cầu hồn cho hai cụ. Còn tôi tự nhiên thấy buồn vô hạn, suốt mấy bữa, mặc dù chưa hề lãnh được một tí ơn mưa móc nào từ chế độ. Lúc ấy Lệ Thủy đang ở ngoại quốc với mẹ trong chuyến công du giải độc. Liền sau đảo chánh, các phản tướng chia nhau tiền thưởng của CIA, nhảy đầm thả giàn, phá bỏ các ấp chiến lược. Báo chí, sách vở (của anh chàng Hoàng Trọng Miên nào đó chẳng hạn), hùa theo các ký giả Mỹ, mở chiến dịch bôi nhọ gia đình họ Ngô, và bà Nhu, Lệ Thủy cũng bị dính miểng. Nào là bà Nhu có một chiếc ghế khích dục, trong dinh Độc lập, nhưng sự thật đó chỉ là chiếc ghế làm răng thường thấy trong phòng nha sĩ. Nào là ông Nhu bất lực. Nào là bà Nhu tư tình với cụ Diệm, với ông tướng này, ông tướng nọ. Nào là Lệ Thủy có nhiều bồ, kể cả một anh người Nhật, Lệ Thủy thất tình, học Văn Khoa, chỉ ghi danh, không đến lớp mà cũng có bằng, v.v… Tôi đọc và thấy buồn nôn. Vô lý quá, vậy mà dân chúng ít học hoặc quá khích vẫn tin, thế mới kỳ lạ. Thì cũng giống như dân quê miền Bắc mười mấy năm sau, đã ném đá vào sĩ quan cải tạo chúng tôi một cách thật tình, nguyền rủa chúng tôi là “quân mọi rợ giết người, ăn thịt con nít, hiếp dâm phụ nữ.” Công việc và đời quân ngũ làm tôi quên Ngô Đình Lệ Thủy. Kỷ niệm với JECU những ngày có cô cũng dần phai theo thời gian. 2. Cho đến đầu 1967. Bốn năm sau. Tôi được tăng phái cho Tiểu đoàn 4/44 Bộ Binh trong chiến dịch Bình Định Nông Thôn tại quận Thiện Giáo (Ma Lâm cũ), nổi tiếng nguy hiểm, thuộc tỉnh Phan Thiết. Ngày đi hành quân tìm địch, qua các thôn xóm, đêm đóng quân ven rừng, mắc võng giữa hai thân cây nằm nghe tiếng đại bác ầm ì xa xa, nhìn hỏa châu từng hồi loé sáng trên ngọn Tà Dôm, mà thương cho kiếp lính tráng nay đây mai đó, trực diện cái chết cận kề. Một buổi trưa, tôi đang nói chuyện với ông Đại úy Tiểu đoàn trưởng, một viên đạn rít ngang nón sắt, cách đầu tôi một đường tơ, xuyên ngay cổ binh nhất H., mang máy truyền tin PRC 25 đứng gần đó, làm anh gục chết tại chỗ. Tên du kích bắn sẻ vụt bỏ chạy, bị lính Tiểu đoàn rượt theo và lãnh trọn một tràng carbine, phơi thây. Một người lính, bà con của H., giận dữ chửi thề và muốn xẻo tai tên này để trả thù, tôi phải khuyên ngăn mãi, mới thôi. Cảnh tượng quá thảm cho bên này, bên kia. Tôi nghĩ thêm, những người lính chiến miền Nam, hơn ai hết, là những người thực sự yêu chuộng hòa bình, và vì yêu chuộng hoà bình họ phải hy sinh mạng sống đánh đuổi giặc xâm lược từ Miền Bắc. Nếu phải chống đối chiến tranh thì họ mới là những người có quyền lên tiếng trước tiên, chứ không phải những anh làm thơ, làm nhạc ấm ớ ở hậu phương, sợ chết, trốn quân dịch, núp bóng các ông sĩ quan văn phòng cao cấp mê văn nghệ, để mà gào thét ngưng chém giết, nối vòng tay lớn, tay nhỏ. Rồi tại sao lại phản chiến một chiều? Tại sao không ra Bắc kêu gọi Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp ngưng gây hấn và tấn công miền Nam? Tại sao chỉ to mồm lên án miền Nam là nơi đã cho họ cơm ăn, áo mặc, tự do sáng tác, tự do phản bội? Bao nhiêu câu hỏi cứ lẫn quẫn trong tôi, cho mãi đến hôm nay, khi những dòng nhạc dòng thơ góp phần làm mất nước ấy vẫn còn được yêu chuộng, mê man, và các tác giả được thổi bằng ống đu đủ lên tận mây xanh. Nói tiếp về Ngô Đình Lệ Thủy. Một ngày cuối tuần và cuối tháng 4, 1967, tôi cùng với vài sĩ quan bạn được phép lên Phan Thiết, cách Thiện Giáo khoảng mười lăm cây số, để nghỉ xả hơi qua đêm, và nhậu bia với gà luộc. Tại quán bánh căng “còn ướt sền sệt”, chúng tôi gọi mỗi người hai tô, mỗi tô hai mươi lăm cái, đổ đầy nước mắm, ăn cho bõ những bữa cơm sấy, đồ hộp ngán đến tận óc. Tôi mua một tờ nhật báo, và giật mình đọc tin Lệ Thủy đã chết trong một tai nạn xe hơi tại Pháp, chính xác tại Longjumeau, vùng Essonne, ngoại ô Paris. Chết tại chỗ. Lúc ấy cô vừa hai mươi hai tuổi. Bài báo kể, ban đêm, cô lái xe nhỏ và bị một camion ngược chiều húc thẳng, đầu xe của cô nát bấy. Sau này, đọc trên tờ Time, số Friday April 21, 1967, thấy cũng đăng đúng tin ấy. Mặc dầu tình cảm của tôi đối với cô, và ngược lại, chưa bao giờ thắm thiết, gắn bó, đong đầy, đủ để những giọt lệ trào dâng chan chứa, như trong mắt nàng kỹ nữ Tầm Dương làm đẫm vạt áo xanh của người Giang Châu Tư Mã thuở trước, tôi vẫn thấy bàng hoàng, xao xuyến. Tôi bỏ dở bữa nhậu đã từ lâu chờ đợi, ngồi thừ người, nghĩ đến những kỷ niệm thời sinh viên, JECU, những buổi họp, những bài thơ tình lẩm cẩm và lời phê bình nặng ký của cô, một trăm đồng “maman cho”. Đêm về, qua cửa sổ khách sạn, tôi nhìn trời xanh thẳm không gợn mây và nửa mảnh trăng mới mọc vàng úa trên núi Tà Dôm mà nhớ câu thơ của Mạc Đĩnh Chi khóc nàng công chúa Tàu: Y! Vân tán, tuyết tiêu Hoa tàn, nguyệt khuyết (Ôi! Mây tản, tuyết tan Hoa tàn, trăng khuyết). 3. Hai tháng sau, tôi được lệnh thuyên chuyển đi Qui Nhơn. Tôi đáp chuyến bay Air VN đến Sài Gòn trước, dự trù ở chơi vài hôm, rồi về Nha Trang nghỉ phép một tuần, trước khi ra Qui Nhơn đáo nhậm đơn vị mới. Hành trang là túi ba lô và cây carbine đeo vai, cây Colt bên hông, và bộ quân phục mặc trên người. Trong chuyến bay có một số sĩ quan trẻ từ các đơn vị tác chiến về, cũng trang bị tận răng như tôi, báo hại các cô tiếp viên phải gom hết súng lại, đem cất đi một nơi phía sau phi cơ. Tại phi trường Tân Sơn Nhất, đang đứng chờ taxi, tôi bất ngờ thấy Thái Tuyết Lê cũng từ chuyến Air France xuống. Tôi hỏi dồn: - Tuyết Lê phải không? Toa về từ Pháp? Không ai đón sao? - Không, moa không báo trước ngày giờ, muốn dành ngạc nhiên cho gia đình. Tuyết Lê, người Huế, cựu JECU mặc dầu ngoài Công giáo, là em bà chủ tiệm kem Phi Điệp, chợ Bến Thành-Trần Hưng Đạo, du học Pháp từ năm thứ ba Văn Khoa. Tay bắt mặt mừng, tôi mời Tuyết Lê đi chung chuyến taxi vào thành phố. Trong xe, Tuyết Lê nhìn tôi đăm đăm, tấm tắc khen, “toa trông đen, nhưng có vẻ nam nhi, hùng dũng, khác với hồi còn là thư sinh.” “Dĩ nhiên, tôi vênh mặt đáp, bắt chước nghệ sĩ Hùng Cường, lính mà em!” một cách vô duyên. Cả hai cùng cười vui. Câu chuyện xoay quanh bạn cũ bên đó, bên này, và tôi được biết Irène Phụng Tiên học ở Grenoble, quê hương của Stendhal, tác giả mà tôi yêu mến từ thời còn học tại Jean-Jacques Rousseau. Rồi cái chết của Ngô Đình Lệ Thủy. Đổi sang tiếng Pháp, để tài xế taxi không nghe hiểu, Tuyết Lê kể: - Tại Paris, tụi moa có đi viếng xác Lệ Thủy và dự lễ cầu hồn và đưa nó ra nghĩa trang. Đầu Lệ Thủy bị kính trước cắt gần lìa cổ. Khi liệm, được khâu lại và quàng bằng chiếc khăn lụa màu thiên thanh, trông mặt nó đẹp quá, thanh thản như một thiên thần. Bà Nhu từ Rome bay sang, ôm xác con mà khóc ngất, khiến tụi moa cũng khóc theo. Chiếc xe bị nạn là chiếc Peugeot còn mới do Tổng giám mục Ngô Đình Thục mua cho Lệ Thủy. Tài xế xe camion không việc gì cả, bị thẩm vấn qua loa, rồi cho về. Tôi hỏi: - Lệ Thủy học trường nào ở Paris? - Trường Luật. - Tụi toa có gặp Thủy lần nào trước đó? - Thỉnh thoảng. Thủy vẫn gentille (dễ thương) như trước kia. Tôi bỗng thở dài: - Tội nghiệp nó quá! Đúng là hồng nhan bạc phận! Xe ngừng trước tiệm kem Phi Điệp. Tuyết Lê giành trả tiền, mời tôi vào chơi, ăn kem. Nhưng tôi thoái thác, “thôi, toa mới về, cần gặp gia đình, để dịp khác”, rồi vác túi ba lô và cây súng lững thững bước đi, gọi xích lô chở về nhà ông bác họ ở đường Nguyễn Trãi. 4. Nếu còn sống, năm nay Lệ Thủy cũng đã 66 tuổi. Quá khứ xa rồi, nhưng khi ngồi viết bài này, tôi vẫn thấy lòng bồi hồi, bởi kỷ niệm. Tôi vẫn nhớ lời cô “la rầy” tôi một lần về những bài thơ tình làm tuyệt vọng. Và hôm nay tôi sửa lại câu thơ ngày đó: C’est bien toi que je regrette Ce n’est pas le rêve par toi brisé (Chính em mà tôi tiếc nuối Không phải giấc mơ vì em vỡ tan) Nhưng trong một nghĩa nào, vì mang bệnh kinh niên lãng mạn, tôi nghĩ rằng mỹ nhân Ngô Đình Lệ Thủy mất sớm như vậy cũng hay. Để không bao giờ cho thế gian thấy tóc mình bạc màu. (Portland, 1/11/2011) II. BÀ NGÔ ĐÌNH NHU, NĂM MƯƠI NĂM CÔ ĐƠN. (kim thanh) Tin từ Ngô Đình Trác báo cho ông bạn tôi, Luật sư Trương Phú Thứ, hay rằng Bà quả phụ Ngô Đình Nhu, nhũ danh Maria Trần Lệ Xuân, đã về Nước Chúa lúc 2 giờ sáng ngày lễ Phục Sinh, 24/4/2011, hưởng thọ 87 tuổi. Tôi viết bài này gửi các thân hữu, bạn bè, và những người mà tôi biết chắc vẫn còn ái mộ, quý mến –hoặc ít ra không thù ghét– Bà Ngô Đình Nhu, chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam, và Tổng thống Ngô Đình Diệm. Không như những phản tướng 1963, tôi chưa hề gặp mặt Bà Nhu, chưa hề nhận ân sủng nào của Bà hay của chế độ, ngoài một trăm đồng Bà gửi tặng Hội JECU (Thanh Sinh Công Đại Học) năm xưa, được Ngô Đình Lệ Thủy trao cho tôi (xin đọc bài “Ngô Đình Lệ Thủy, hồng nhan mệnh yểu”). Bà Ngô Đình Nhu là người nổi tiếng thuộc dòng họ Ngô Đình và người liên hệ trực tiếp với chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa duy nhất còn sống sót vừa ra đi. Dù thương hay ghét Bà, ai cũng phải công nhận Bà là một nữ lưu thông minh, có tài có sắc, một cộng sự viên đắc lực, quả cảm của chồng và anh chồng. Qua hai nền Cộng Hòa, chưa có một phụ nữ tầm cỡ public figure (người của quần chúng) Việt Nam nào làm tôi thấy cảm phục và hãnh diện như Bà Ngô Đình Nhu. Cho dù, dĩ nhiên, Bà chưa hoàn hảo, cũng như bất cứ ai trên đời. Trước và sau vụ đảo chánh 1963, Bà là mục tiêu tấn công của những nhà báo và chính khách Việt Nam và ngoại quốc, nhất là Mỹ, chưa nói Cộng sản đội lốt tôn giáo, đối lập, “cách mạng”, đã không ngần ngại vu khống, xuyên tạc, đổ lỗi, thêu dệt đủ điều, kể cả về đời tư của Bà. Đọc tất cả những tài liệu đã được giải mật, và những sách báo cũ, và những sách báo mới trên các Diễn Đàn Hải Ngoại –những diễn đàn của Đui Chột, của Thù Hận, của Ác Độc– tôi thấy bất nhẫn và buồn nôn trước sự hèn hạ, nhỏ nhen của con người, vì dù sao Bà cũng chỉ là một phụ nữ và không giữ một chức vụ chính thức nào trong chính quyền. Bọn họ, kể cả Mỹ và Tây Phương, không mã thượng, anh hùng đủ, than ôi, để đánh Bà bằng một cành hoa hồng, nhưng đã dùng mọi thứ dao búa. Họ dã man, trên phương diện tinh thần, không khác chi một Gia Long đã hành hình, về thể xác, nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái 16 tuổi bằng cách cho voi dày. Bà là hiện thân và nạn nhân của Bất Hạnh như một trong những nữ nhân vật chính tuyệt đẹp của những vở bi kịch Hy Lạp. Nhưng khác với họ luôn vùng lên, phản kháng, chất vấn Thượng Đế, Bà đã im lặng, chấp nhận mệnh số nghiệt ngã, và âm thầm chịu đựng tất cả những sầu khổ, oan khiên, bất công, suốt một nửa thế kỷ. Một điểm nữa, sáng ngời, về con người của Bà, mà tôi tin rằng đến cả kẻ thù cũng không thể phủ nhận. Khi chồng bị thảm sát, Bà còn trẻ đẹp lắm –điều mà báo chí Mỹ thiên vị và ác độc cũng phải ca ngợi. Nhưng Bà ở vậy, thờ chồng, nuôi đàn con còn vị thành niên, không có của chìm của nổi, không lầu son gác tía, nhờ tham nhũng hoặc ăn cắp của công. Nếu có bằng chứng Bà phạm vào hai điều cấm kỵ này, chắc chắn báo chí và công luận Mỹ và Việt Nam, vốn thù nghịch, đã không bao giờ để Bà yên. Bà sống khép kín như một nữ tu tại gia. Không xuất hiện trước đám đông. Không cho nhân gian thấy tóc đổi màu, những dấu chân chim in trên đuôi mắt và những tàn phai bởi thời gian, theo gương những mỹ nhân tự thuở xưa. Không tuyên bố này nọ. "Thời của tôi qua rồi", bà thường nói với những người quen biết, như một lời giã biệt thế gian. Không mang tiếng, không bồ bịch, không bước thêm bước nữa. Không vì tiền bán thân cho tỷ phú. Nếu sống vào thời quân chủ, Bà xứng đáng nhận lãnh bằng khen "Tiết Hạnh Khả Phong". Bấy nhiêu thôi cũng đủ làm tôi yêu mến Bà như một người mẹ (bà kém mẹ tôi một tuồi). Ca ngợi Bà như một nữ chính khách một thời sáng giá, đảm lược, dám nói dám làm, như chồng Bà, trước vòng vây khốn của thù trong giặc ngoài. Kính trọng Bà như một thần tượng. Làm sao tôi không xúc động khi nghe tin Bà đã bước vào một cuộc hành trình cuối cùng, ngày Chúa chết trên cây thập giá và sống lại, để từ nay vĩnh viễn thuộc về của Tuổi, nói theo Edwin Stanton, belongs to the Ages. Nhà danh họa thuộc phái ấn tượng Auguste Renoir của những tuyệt phẩm chan hòa ánh sáng và màu sắc, những năm cuối đời, bị bệnh thấp khớp hành hạ, không đứng được nữa, phải ngồi vẽ tranh một cách đau đớn với bàn tay co quắp, nhức buốt. Người học trò của ông, danh họa Matisse, thấy vậy, thương ông, đã hỏi: “Tại sao Thầy phải tiếp tục ngồi vẽ một cách khổ sở như thế?” Renoir ngước nhìn khung vẽ, trả lời: “Đau đớn sẽ qua đi. Cái đẹp sẽ còn lại.” Tôi muốn nhắc lời của Renoir, để nói về Bà, trong một nghĩa nào. Đau đớn tinh thần của Bà Ngô Đình Nhu sẽ qua đi. Cũng như đau đớn thân xác của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Nhưng vẻ đẹp của Bà sẽ tồn tại. Vĩnh viễn. Tôi biết những kẻ chống và ghét Bà sẽ khó chịu vì bài viết của tôi. Không sao. Đời mà. Tuy nhiên, xin những kẻ ấy xử sự cao thượng một chút, như một con người. Hãy để Bà yên nghỉ, ít nhất trong thời gian này. Chờ sau ba tháng, một năm, mười năm nữa, rồi hãy chìa ra nanh vuốt, cũng chưa muộn. Tôi muốn báo tin cho các thân hữu của tôi và xin họ đọc một kinh, cầu nguyện cho linh hồn Bà mau về Cõi Vĩnh Hằng, và tìm được Bình An đích thực. Sau năm mươi năm cô đơn. (Kim Thanh - Ngày Chúa sống lại 8/4/2012) III. BẢN SONATE CHO MỘT NGƯỜI TỬ TẾ, LUCIA NGÔ ĐÌNH LỆ QUYÊN. (kim thanh) Tin dữ được chuyển đến tôi sáng nay từ một anh bạn phương xa làm tôi rụng rời, như mới đây một người quen, không thân lắm, đột ngột ra đi, dù tuổi lớn và bệnh hoạn. Huống chi Ngô Đình Lệ Quyên rời bỏ dương trần lúc 53 tuổi –còn quá trẻ đối với tôi. Trong một phút giây, tôi mong đó không phải là sự thật. Biết đâu ai đó đã đùa dai tung trễ lên mạng ảo một poisson d’Avril, dù tháng tư sắp hết. Đến khi Luật sư Trương Phú Thứ gọi điện thoại kiểm chứng với Ngô Đình Quỳnh và sau đó tôi lên web thế giới và có trong tay bài báo bằng tiếng Ý và một đoạn băng video, thì chút hy vọng mỏng manh thật sự tan vỡ và nỗi đau buồn trong tôi lên tới tột độ. Bàng hoàng như mất một người thân thuộc. O mon Dieu, mais pourquoi, pourquoi, pourquoi? Tôi thầm hỏi Thượng Đế và cho riêng tôi như một lời thở than, đột nhiên –như năm xưa khi đọc tin chị cô, Lệ Thủy, người bạn trẻ thuộc Nhóm Thanh Sinh Công, đã chết trong một tai nạn xe hơi cũng thảm khốc, cũng bất ngờ không kém– vẳng lên từ đáy tiềm thức trước nỗi tuyệt vọng khôn cùng. Mặc dù tôi chưa hề một lần gặp gỡ Lệ Quyên, chưa hề thấy một bức hình nào của cô trước kia, chưa hề một lần nghe nhắc đến tên cô, ngoại trừ trong bản thảo hồi ký của mẹ cô, bà quả phụ Ngô Đình Nhu. Cô rời Việt Nam năm 1963, lúc mới bốn tuổi, một tháng sau khi cha và bác bị thảm sát bởi những bàn tay tanh tưởi mùi máu và mùi đô la, nên những người thuộc thế hệ già chúng tôi không để ý lắm. Chỉ hai hôm nay thôi, tôi mới được biết Lệ Quyên đã nhiều năm đặc trách giúp đỡ những người di dân khắp thế giới trong cơ quan Caritas của thành phố Roma, nơi cô đã sống gần nửa thế kỷ thầm lặng dấn thân. Và đã chết trong một khoảnh khắc kinh hoàng. Nằm chết cô đơn giữa dòng xe xuôi ngược, giữa dòng đời như thản nhiên đến vô tình. Chết một cách bi thảm, tức tưởi, trong vô vàn thương tiếc muộn màng của biết bao người không có mặt sáng ấy trên đường Pontina, Roma. Khi sao phong gấm rủ là Giờ sao tan tác như hoa giữa đường Chúa ơi, tại sao, tại sao, tại sao? Tôi tự hỏi. Có lời giải đáp nào cho sự bí ẩn siêu hình phi lý này không? Nếu người bị nạn không phải là con ông bà Ngô Đình Nhu, em của Ngô Đình Lệ Thủy, cháu của một tổng thống và một tổng giám mục, em họ của một hồng y, nếu cô không thuộc dòng tộc quyền quý, cao sang, nổi tiếng vào bậc nhất của lịch sử Việt Nam cận đại, thì câu hỏi này đâu cần thiết nữa. Có người trả lời, bằng cách so sánh dòng họ Ngô Đình với dòng họ Kennedy –cũng chịu nhiều oan trái tương tự. Phần tôi không nghĩ như thế. John F. Kennedy, những đồng lõa Mỹ và tay sai Việt Nam, năm 1963, rõ ràng là thủ phạm trực tiếp hay gián tiếp giết chết ba anh em nhà Ngô, để sau đó ào ạt đổ quân vào Việt Nam, gây ra những xáo trộn, khủng hoảng chính trị, quân sự, và cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của cả Miền Nam, mười hai năm sau. Thủ phạm làm sao có thể đồng hóa với nạn nhân? Rồi nữa, làm sao so sánh ba anh em nhà Kennedy với ba anh em họ Ngô Đình về tư cách và đạo đức cá nhân? Những kẻ căm ghét chế độ Ngô Đình Diệm, trái lại, ưa trích câu “ác giả ác báo” để giải thích tai nạn xảy ra theo quan niệm tôn giáo và bài học luân lý sơ đẳng, đúng hơn theo thuyết karma (nhân quả) quen thuộc. Tôi cũng không nghĩ như thế. Lệ Thủy, Lệ Quyên, hoặc xa hơn John Kennedy Jr., đã làm gì nên tội, mà bị Trời “phạt” về những lỗi của người lớn, nếu có? Nếu thuyết nhân quả đúng, tại sao Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, hay Staline, Mao Trạch Đông, Pol Pot v.v..., những tên đại gian, đại ác nổi tiếng, đã sát hại biết bao sinh linh lại được chết già an lành, trong khi hàng triệu nạn nhân hiền lành, vô tội bị giết oan, chết thảm? Ông trời quả có mắt thật không? Gần nhất, những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân v.v... tay đã nhúng máu của hàng ngàn đồng bào ở Huế dịp Tết Mậu Thân mà vẫn còn sống nhơn nhơn. Tại sao? Mới đây, lần đầu được thấy những bức ảnh của Lệ Quyên, với đôi mắt sâu đen thăm thẳm, nét mặt cương nghị, phảng phất một nỗi buồn xa vắng, tôi chợt nhớ đến dáng vẻ kiêu hãnh và sắc đẹp bi thảm (tragique) tương tự của một nữ tài tử Hy Lạp đóng vai nhân vật Antigone trong cuốn phim cùng tên. Antigone (442BC), vở bi kịch bất hủ của nhà soạn kịch Hy Lạp lừng danh, Sophocle, kể những thảm họa phủ xuống Oedipe và gia đình bởi mệnh số khắc nghiệt và độc đoán. Nhân vật Antigone, cũng như Electre, Phèdre của kịch tác gia Euripide, và Hermione, Oreste, Pyrrhus... trong các vở bi kịch khác nữa mà Racine, thế kỷ XVII văn học Pháp, đã mô phỏng, đều là những nạn nhân của định mệnh nghiệt ngã dành cho con người vốn yếu đuối, bất lực trước thần linh, những thế lực siêu hình, hoặc đam mê tàn bạo. Chỉ có cái chết mới hóa giải mọi oan nghiệt. “Evil strikes at it down the generations wave after wave, like seas that batter a headland...” (Bất hạnh dập xuống qua các thế hệ theo từng đợt sóng tiếp nối, như biển vỗ vào bờ đất cao...” (Sophocle, Antigone). Trong một bối cảnh khác, thi hào Nguyễn Du há đã chẳng viết cho những hồng nhan bạc phận: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” hoặc “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”, và về uy quyền tối thượng của Trời, thế lực trên cao: Ngẫm hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao. Người Công giáo xem những bất hạnh trên đời là do sự Quan Phòng (Providence) của Thiên Chúa toàn năng, là thử thách dành cho những người công chính, như ông Job trong Kinh Thánh đã phải chịu trăm bề đớn đau, khổ nhục. Dù được cắt nghĩa thế nào, cái chết đột ngột của Lệ Quyên làm tôi vừa cảm thương vừa kính phục vừa thấy hãnh diện về cô. Cảm thương, như Thúy Kiều ngày nào bên mộ Đạm Tiên không quen, khéo dư nước mắt khóc người đời xưa. Hãnh diện, vì cô được báo chí ngoại quốc nhắc đến trong tư cách người Việt Nam đến Ý tỵ nạn chính trị từ bé, sau đó giữ chức vụ quan trọng trong Hội Caritas Roma, đã yêu thương, giúp đỡ tha nhân và những người cùng khổ, và hết lòng thờ phượng Chúa. Kính phục, vì dù có bằng tiến sĩ Luật, mà bởi nhất quyết không chịu vào quốc tịch Ý, cô không được đi dạy đại học, và cô cũng chẳng cần. Kính phục, vì tuy lấy chồng người Ý cô vẫn đặt tên con là Ngô Đình Sơn. Một phụ nữ Việt Nam muốn mãi mãi giữ căn cước và bản chất Việt Nam –xin hiểu VNCH. Còn gì cao đẹp hơn? Cũng như mẹ và hai anh, cô chưa một lần trở về thăm cố hương –bây giờ đang nằm trong nanh vuốt của Hận Thù, của Dối Trá, của Bất Công, của Tàn Bạo. Và cũng như mẹ cô, chưa một lần nói một lời, viết một câu hằn học kết án cá nhân những kẻ đã sát hại cha, bác, chú của mình. Cô đã quên và tha thứ tất cả. Và như thế, tôi nghĩ rằng, trong bao năm sống kín đáo, khiêm nhường, làm việc, lặng lẽ như một bóng mờ –không còn ai nhắc đến– giữa chốn bụi hồng lao xao, biết đâu cô muốn chống lại, hoặc ít ra xoay đổi, định mệnh khắc nghiệt đè nặng lên gia đình, dòng họ, theo cách riêng của cô. Cũng như Antigone, theo cách riêng của nàng, khi đúng trước vua Créon, cãi lại lệnh cấm không được ai chôn xác người anh nổi loạn, Polynice, và qua đó, thách đố mệnh trời cứ đeo đẳng trừng phạt gia đình Oedipe, cha nàng. Bị kết án tử hình, nàng ngẩng cao đầu và kiêu hãnh “xem cái chết như một điều tốt khi con người sống giữa bao nhiêu điều bất hạnh, khổ đau...” Những tưởng Ngô Đình Lệ Quyên từ nay sẽ được giải thoát khỏi lời nguyền của định mệnh. Ngờ đâu, định mệnh không buông tha. Và một sáng, cô đã gục ngã. Đầu hàng, bất lực. Như một nữ nhân vật đích thực trong những vở bi kịch của một Hy Lạp huyễn mơ mà tôi đọc say mê từ ngày còn đi học... Tôi ca tụng và tiếc thương cô biết mấy cho vừa. Thôi, cô hãy ngủ giấc bình an ngàn năm, tự do từ đây, hỡi Lệ Quyên, Antigone của lòng tôi. (Portland, 17/4/2012 - Kim Thanh)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 2, 2016 5:24:28 GMT 9
Maneli với Ngô Đình Nhu, chuyện gì đã xảy ra? (P1) Nguyễn Văn Lục Sài Gòn những năm 1963 tràn ngập tin đồn. Trước, người ta rỉ tai nhau. Sau đó câu chuyện được công khai nơi quán nhậu, quán cà phê, trên sàn nhảy về ông Ngô Đình Diệm và gia đình. Từ cành đào ở Dinh Độc Lập đến chuyến săn cọp trong rừng Tánh Linh (Hồ sơ đi đêm Maneli-Ngô Đình Nhu?) Hoa Anh Đào. Nguồn: OntheNet Nhưng quan trọng nhất là nơi giới báo chí Mỹ đóng trụ tại khách sạn Majestic. Một trong những nhà báo Mỹ kỳ cựu là Josep Alsop đã tố cáo các đồng nghiệp trẻ là đang tiến hành một “egregious crusade”, một cuộc vận động quá đỗi nhằm bôi bẩn chế độ Diệm. Và Joseph Alsop đã so sánh những nhà báo này giống như trường hợp một số nhà báo trước đây đã mở chiến dịch bôi nhọ Tưởng Giới Thạch đưa đến chỗ nước Tàu rơi vào tay cộng sản. (Stanley Karnow, “Vietnam: A History” New York, NY: Viking Press, 1983, trang 297.) Những nhà báo có thái độ thù nghịch với chế độ Diệm như David Halberstam, Neil Sheehan và Malcolm Browne mà Stanley Karnow đã nhận xét như sau: “The Vietnam drama at the time was a journalist’s dream, but a nightmare for U.S. officials […] David Halberstam of The New York Times, Neil Sheehan of United Press International and Malcolm Browne of The Associated Press who were deluged with real and imaginary details fed them by adversaries of the regime. Even Lodge who could be as devious as any Vietnamese, leaked information aimed at tarnishing Diem’s image.” (Stanley Karnow, ibid., trang 296.) Bi kịch Việt Nam lúc đó là điều mơ ước cho nhà báo, nhưng lại là cơn ác mộng cho chính quyền Mỹ. […] David Halberstam của The New York Times, Neil Sheehan của United Press International và Malcolm Browne của The Associated Press có đầy đủ những tin tức thật cũng như những chi tiết tưởng tượng do những kẻ thù của chế độ cung cấp cho họ. Và ngay cả Lodge, cũng thủ đoạn như bất cứ người Việt Nam nào, đã tiết lộ thông tin để làm hoen ố hình ảnh ông Diệm. Và giới truyền thông Mỹ ít nhất đã thành công trong hai vu, vụ Phật giáo liên quan đến tín ngưỡng và vụ chính quyền Diệm-Nhu bắt tay với cộng sản Bắc Việt liên quan đến chính trị. Theo Karnow, Lodge đã vi phạm ngay nguyên tắc “không can thiệp” của chính ông ta bằng cách đề nghị hai nhân vật vào trong chế độ mới. Đó là Trí Quang – lãnh đạo Phật giáo tranh đấu, và Trần Quốc Bửu, lãnh đạo nghiệp đoàn lao động Việt Nam, một người có liên hệ mật thiết với CIA “That said, Lodge then violated his own principle of noninterference by proposing the composition of a future Saigon regime to include the Buddhist militant Tri Quang, and Tran Quoc Bưu, a labor leader with close ties to the CIA.” (Stanley Karnow, ibid., trang 298.) Ngày nay, nhìn lại, có cơ hội đọc tài liệu cho thấy trước khi cho quân vào xâm chiếm Iraq dưới thời Saddam Husein, chính quyền Mỹ cũng mở một chiến dịch bôi nhọ, xuyên tạc thông tin, dựng tài liệu giả, về Saddam Husein cả một năm trước đó. Đọc thêm cuốn sách “Saddam Hussein & the Crisis in the Gulf”, Random House (1990)” của Judith Miller, và Laurie Mylroie. Đó chỉ là chuyện tuồng tích cũ, đào kép mới. Bài viết này chú trọng đến dư luận cho rằng ông Nhu đã bắt tay với cộng sản đến độ ngay những người thân cận với chế độ cũng tin là thật và cho đến tận bây giờ, nhiều sách báo tài liệu cũng vẫn sao chép lại một cách máy móc, không dẫn chứng, về nhưng tin đồn vô căn cứ ấy. Cành đào trong Dinh Độc Lập Trong cuốn “Về Nguồn – Sinh lộ cho quê hương”, trang 89, ông Lâm Lễ Trinh có kể lại theo lời ông Quách Tòng Đức trong một dịp tết Nguyên đán Quý Mão 1963, một cành đào đỏ lộng lẫy được trưng bày nơi phòng khánh tiết Dinh Độc Lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tịch Nhà nước Cộng hoà Xã hội miền Bắc”. Theo tôi thì chuyện cành đào là có thật. Báo chí thời đó được phép chụp và đăng báo hẳn hoi. Nghị sĩ Lê Châu Lộc, nguyên là tùy viên của TT Diệm sau này cho biết, chính ông là người đến nhận cành đào tại trụ sở Ủy Hội Quốc Tế để về trưng bày tại Dinh Độc Lập. Cành đào đỏ chắc là đẹp thật. Hậu ý của người cho cành đào thì không ai biết được. Nhưng ông Diệm đã cho trưng bày và để cả tấm danh thiếp rõ ràng là không muốn dấu diếm ai. Và phải chăng đó cũng chứng tỏ cái quyền của một tổng thống? Quay ngược lại thời gian sau 1954-1955, mấy ai còn nhớ có một mối liên lạc giữa Bắc-Nam vẫn còn được duy trì, tối thiểu là qua các bưu thiếp in sẵn. Theo giáo sư Huỳnh Văn Lang, ông Nhu là người có sáng kiến in những tấm bưu thiếp “tình nghĩa” này. Người dân hai miền chỉ việc điền các tin tức gia đình, hỏi thăm nhau sức khỏe, chuyện con cái và gửi bưu thiếp qua đường bưu điện chính thức ở Sài Gòn. Có thể sau đó Ủy Hôi Quốc tế kiểm soát đình chiến đã giúp chuyển giao giữa hai miền? Giả dụ cái chương trình ấy vẫn cứ được Hà Nội tiếp tục- dù khác chính kiến chính trị – hẳn là có tác dụng tốt cho người dân cả đôi bên? DCVOnline: Tác giả Trần Trọng Khải, trong bài “Kỷ niệm 60 năm Hiệp định Genève (20-7-1954 ~ 20-7-2014): Bưu thiếp Bắc-Nam” ở trang temviet.com, dẫn 5 nguồn tài liệu theo sau, có những đoạn viết: Bưu tiếp Bắc Nam (Bản đâu tiên, 1955-7). Nguôn: TTK Bưu thiếp Bắc Nam. Mặt trước: Đặc biệt chữ NGƯỜI GỞI (theo tiếng miền nam),kích thước 10 x 15cm. Mặt sau in sẵn nội dung về thông tin gia đình và 5 giòng (hàng) để trống. Loại nầy thường thấy sử dụng vào các năm 1955-1957. Nguôn: TTK Mẫu bưu thiếp sau cùng; mặt sau đã để trống hoàn toàn như mẫu của miền bắc phát hành. Kích thước vẫn 10 x 15cm. Loại này được dùng sau 1962. Nguồn: TTK. Mẫu bưu thiếp sau cùng; mặt sau đã để trống hoàn toàn như mẫu của miền bắc phát hành. Kích thước vẫn 10 x 15cm. Loại này được dùng sau 1962. Nguồn: TTK. “Ngày 18-2-1955, Bộ Giao Thông Công Chính nước VNDCCH đã ra tuyên bố: “…Chúng tôi rất mong việc liên lạc, trao đổi thư từ, tin tức giữa hai miền Bắc và miền Nam giới tuyến quân sự được sớm lập lại…” Chính phủ miền VNCH đã “cử một đoàn chuyên viên bưu điện ra Hải Phòng để họp với đoàn chuyên viên bưu điện VNDCCH. ” Mạt sau của bưu thiếp Bắc-Nam. Mẫu sau cùng. Nguồn: TTK Mặt sau của bưu thiếp Bắc-Nam. Nội dung mặt sau không thay đổi, vẫn loại có 5 giòng để trống. Kích thước vẫn 10 x 15cm. Loại nầy thấy được sử dụng 1958-1959. Nguồn: TTK “Ngày 12-4-1955, biên bản “Về việc trao đổi bưu thiếp gia đình giữa hai miền” được ký kết (2). Biên bản quy định bưu thiếp có kích thước 10 x 15 cm (của miền Nam màu vàng, của miền Bắc màu trắng). Bưu thiếp có 2 mặt: Mặt trước trên cùng và chính giữa có 2 chữ BƯU THIẾP, dưới in hình bản đồ Việt Nam màu đen, dưới cùng có 3 đường kẻ; mặt sau có nội dung in sẵn về thông tin gia đình và 5 dòng kẻ để trống. Bưu thiếp khi gửi đi phải để ngỏ, với nội dung hạn chế trong 5 dòng và chỉ được phép viết về thông tin gia đình.” […] “Từ tháng 2 năm 1965 Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc và do sự phát triển của phong trào cách mạng miền Nam, chiến sự lan rộng. Tại giới tuyến, máy bay Mỹ bắt đầu đánh phá vào các đồn công an giới tuyến của ta. Trước tình hình đó, việc trao đổi bưu thiếp dần dần thu hẹp và đi đến chấm dứt giữa năm 1965.” Thời đó dân ở Vĩnh Linh có hai câu than thở: “Bưu thiếp chỉ có năm dòng Làm sao nói hết tấm lòng nhớ thương!” (1) “Bộ Giao thông Công chính Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Tuyên bố về vấn đề liên lạc bưu điện giữa hai miền Bắc Nam, ngày 18-2-1955, Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Tp HCM, ký hiệu PTT 20.145 (2) Phủ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hỏa, Biên bản “Về việc trao đổi bưu thiếp gia đình giữa 2 đoàn chuyên viên Bưu điện miền Nam và miền Bắc”, ngày 12-4-1955. Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Tp. HCM, ký hiệu Đệ I CH 13.371 (3) Hoàng Chí Hiếu, “Một số đường liên lạc Bắc Nam qua giới tuyến quân sự tạm thời”. Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5-2009 (4) Bộ trưởng Giao thông Công chánh Việt Nam Cộng Hòa, Công văn số 470 CC/HC/M gởi Phó Tổng Thống, ngày 12-4-1962. Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Tp HCM, ký hiệu Đệ I CH 15.099 (5) Bộ Công dân vụ Việt Nam Cộng Hòa, Công văn báo cáo tình hình bưu thiếp liên lạc giữa hai miền Nam Bắc năm 1962 gởi Đổng lý Văn phòng Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp HCM, ký hiệu Đệ I CH 17.383 Cũng theo ông Huỳnh Văn Lang, trong những buổi họp của Liên Kỳ bộ, đảng Cần Lao, mà ông là Bí thư, vấn đề hiệp thương được mang ra bàn cãi công khai. Những người như ông Huỳnh Văn Lang, chuyên viên về kinh tế, chủ trương nên xúc tiến việc giao thương vì miền Nam ở thế mạnh. Tỉ giá đồng đô la ở miền Nam là mạnh. Trong khi đó, miền Bắc đang gặp nạn đói. Họ chỉ có thể trao đổi như đổi than lấy gạo. Cán cân thương mại nghiêng về phía miền Nam vì chúng ta ở thế thượng phong. Họ, miền Bắc ở thế yếu; sức mạnh chính trị của miền Nam dấy lên từ đó. Thư Phạm Văn Đồng gửi vào cho ông Diệm đề cập đến Tổng tuyển cử. Ông Diệm từ chối vì dân số miền Bắc đông hơn. Dân quê miền Nam chưa sẵn sàng. Nhớ lại, tất cả những chuyện giao tiếp giữa hai bên như thế đã không gây một dư luận hay những lời đồn thổi xấu nào! Nhưng sau này chỉ vì một cành đào đã gây nhiều dư luận và trở thành bối cảnh tiền đề cho cảnh máu đổ sau này. Từ câu chuyện cành đào này tôi có một nhận xét, người miền Nam trước 1975 chúng ta ít chú trọng đến những gì ông Diệm làm mà chỉ chú trọng đến những gì người ta nói. Ngày nay nhiều người miền Nam suy nghĩ lại thấy hối tiếc về thời đã qua thì xem ra đã trễ. Chính trị làm cho con người sợ sự thật và xa sự thật, diễn giải theo chiều hướng mang tính định kiến và tìm cách chối bỏ thực tại trước mặt. Ông Nhu đi săn cọp ở rừng Tánh Linh Chuyện cành đào trong Dinh Độc Lập, nhiều người đã quên. Nhưng dư luận “Ông Nhu đi đêm” thời 1963 thì tạo ra nhiều dư luận mà mỗi người diễn giải một cách. “Radio Catinat” tại Sài gòn vào cuối năm 1963 bàn tán rộng rãi về chuyện này ntrong giới báo chí, ký giả, truyền thông trong nước và ngoại quốc! Phải chăng đó là một tình trạng ấu trĩ chính trị sống bằng tin đồn? Cũng theo ông Quách Tòng Đức được dẫn trong sách của ông Lâm Lễ Trinh, tin đồn ông Nhu đi đêm với cộng sản đã được đề cập đến trong vài phiên nhóm với tướng lãnh tại Bộ Quốc phòng. Báo cáo của CIA (4 tháng 9, 1963), Công bố 24 tháng 7, 2015): “d. [xoá 1 dòng] …Nhu gần đây tự hào trong một cuộc họp với sĩ quan cấp tướng về mối liên lạc của ông với phía bắc [xoá 3 dòng] giới chức Bắc Việt tuyên bố rằng họ đã liên lạc với các đối tác của họ ở miền Nam.” Nguồn: The Central Intelligence Agency, The President’s Intelligence Checklist. Ông Nhu cũng đề cập đến vấn đề này khi nói chuyện tại suối Lồ Ồ khi nói chuyện với cán bộ Xây Dụng Ấp chiến lược, khóa 13. Đó là những vấn đề do chính ông Nhu nói ra công khai, không phải là lời đồn thổi. Tuy nhiên, ông Quách Tòng Đức là một công chức cao cấp, Đổng lý Văn phòng Phủ Tổng thống, có đưa thêm nhận xét chính xác: “Đây chỉ là một đòn chiến thuật của ông Nhu dể dằn mặt Hoa Kỳ.” (Lâm Lễ Trinh, ibid., trang 89) Nhận xét của ông Quách Tòng Đức cũng không khác gì với ý kiến của tác giả Quốc Đại, trong cuốn “Ai giết anh em ông Ngô Đình Diệm”, trong đó có tiểu đề, “Bắt tay với cộng sản chỉ là chiến thuật trả đũa Hoa Kỳ”. (Quốc Đại. “Ai giết anh em ông Diệm”, NXB Thanh Niên 2003, trang 216-217.) Qua những dẫn chứng trên, người viết nhận thấy chiến thuật của ông Nhu phao tin “đi đêm với cộng sản” là một chiến thuật tự giết mình, stratégie perdante. Vì tình thế chính trị năm 1963 không giống với tình thế1955. Cũng vẫn chưa thỏa mãn tại sao ông Nhu lại dùng gậy đập lưng ông? Người viết điện thoại hỏi giáo sư Huỳnh Văn Lang. Câu trả lời vắn gọi và chắc nịch của Huỳnh Văn Lang là, “Tại vì ông Nhu quá tự tin.” Nhưng câu chuyện ông Nhu đi săn cọp tại rừng Tánh Linh theo nhiều người, sẽ được dẫn chứng sau này, lại là một câu chuyện hoàn toàn bịa do ông Cao Xuân Vỹ dựng lên trong lần trả lời phỏng vấn của ông Minh Võ đăng trên dcvonline.net. (Minh Võ, “Mạn đàm với ông Cao Xuân Vỹ (Kết)”, 24/09/2007, © DCVOnline) Cho đến nay, sức khỏe suy yếu, tác giả Minh Võ cũng không muốn nhắc lại chuyện này nữa, mặc dầu trách nhiệm là của ông Cao Xuân Vỹ. Tìm hiểu tại sao ông Cao Xuân Vỹ lại dựng đứng một câu chuyện quan trọng như thế liên quan đên sinh mạng chính trị của chế độ thì không có thể có một lời giải thích nào tương hợp. Khi ông còn sinh thời, người viết bài này có dịp nói chuyện với ông thì hầu hết chỉ đề cập đến vấn đề ai là tác giả cuốn Chính Đề. Nhưng tôi giả dụ rằng nếu ông Ngô Đình Nhu không có thú đi săn cọp thì điểm hẹn lịch sử tháng 11, 1963 chung cuộc sẽ xảy ra ở đâu và xảy ra như thế nào? Lịch sử có những định mệnh và những bất ngờ không suy đoán trước được mà khi nhìn lại chỉ có thể tiếc, giá như thế này, giá như thế kia. Ông Nhu đi săn cọp chưa bao giờ bị cọp vồ, nhưng trớ trêu thay của lịch sử, ông lại bị người vồ. Cuộc đời làm chính trị của ông một phần gặp gian lao chỉ vì câu chuyện gặp Phạm Hùng tại khu rừng Tánh Linh – một câu chuyện ngày nay có dịp xem lại, tra cứu, thấy gần như một câu chuyện hoang đường! Bài viết này xin trình bày các nguồn dư luận cũng như tài liệu nhiều phía để tìm ra sự thật và biết đâu có thể giải oan cho những kẻ đã chết vì cọp vồ hay người vồ. Hiện nay, người viết căn cứ vào cuốn sách của Maneli — trưởng phái đoàn của Ba Lan trong Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến (ICC) — cuốn “War of the Vanquished”, xuất bản năm 1971. Tài liệu đã cũ cần những tài liệu khác mới hơn. Và trong vài năm gần đây – qua tài liệu văn khố của Balan với bằng chứng đầu nguồn – các điện tín của chính phủ Ba Lan đã được mở ra. Và chúng ta có dịp được đọc các điện tín gửi đi Hà Nội, Beijing, Sài Gòn, New Delhi, Moscow. Những điện tín lưu trữ tại Văn Khố Ba Lan – như một tài liệu đầu nguồn – giúp bác bỏ những bài viết của một số tác giả người Việt của một số tướng lãnh VNCH, một số người chủ trương cuộc đảo chánh về những tin tức, dư luận, lời đồn thổi hầu hết không có cơ sở hoặc bằng cớ xác thực. Thêm vào đó, các bản phúc trình của đảng cộng sản Ba Lan (AAN) nói về mối liên lạc giữa Ba Lan, Sô Viết và cộng sản Bắc Việt trong giai đoạn 1963 củng cố thêm luận cứ vừa nêu. Hy vọng của người viết là có thể nhờ đó làm sáng tỏ một số vấn đề mà trước đây đã bị hiểu sai lạc. Đồng thời tìm hiểu xem các nhá báo Mỹ thời đó cũng như các nhà sử học của họ đã viết gì về vấn đề này? Phía người Mỹ và Cabot Lodge Ngày nay, chúng ta tương đối có đủ tài liệu cũng như cơ hội để hiểu rõ các chính sách của người Mỹ. Và nhờ đó, chúng ta có thể hiểu tại sao người Mỹ đã có chính sách này nọ cũng như sự thay đổi chính sách ấy. Ngay việc muốn thay đổi Diệm cũng có hai dư luận trái chiều ở tòa Bạch Ốc: phía ủng hộ, phía muốn lật đổ. Giữa TT Kennedy và phó Tổng thống Johnson cũng vậy. Nhưng phe muốn lật đổ nắm được một lợi thế vô cùng thuận lợi: Sự có mặt của viên đại sứ Cabot Lodge. Và trong trường họp họ có thể thay đổi chính sách của họ thì chúng ta đừng lấy làm ngạc nhiên. Người Mỹ ở mỗi thời điểm, mỗi nhiệm kỳ tổng thống là mỗi chính sách. Chính sách của Mỹ thời Eisenhower không giống thời Kennedy. Thời Bush-cha Bush-con không giống thời Barack Obama. Barack Obama phải để hai nhiệm kỳ tổng thống để giải quyết những tồn tích của đảng Cộng Hòa. Hiểu được như thế, sẽ không có gì để ngạc nhiên về sự thay đổi chính sách của họ ở Việt Nam. Người Mỹ trong những năm 1955 trở đi – qua viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam – dùng viện trợ để hỗ trợ cho chính sách và đường lối của họ tại Việt Nam. Họ không hỗ trợ cho cá nhân ông Diệm – nhưng hỗ trợ cho ông Diệm để ông Diệm thực thi chính sách đường lối của họ. Nhưng nếu lại chính người Mỹ muốn thay đổi hoặc đưa ra sáng kiến hoặc đề ra chính sách mới thì đó lại trở thành câu chuyện bình thường. Eisenhower – người tiền nhiệm của Kennedy – muốn coi VN như một tiền đồn chính trị- thì Kennedy lại chỉ muốn rút! Bằng chứng là đại sứ Mỹ ở Ấn Độ – ông Galbraith từng tiếp xúc với ngoại trưởng ngoại giao Ba Lan và tỏ ra hưởng ứng kế hoạch Trung lập Hóa miền Nam của Ba Lan dựa trên căn bản thỏa ước Trung Lập Lào – và cũng phù hợp với chính sách của chính quyền Kennedy. Kennedy cũng muốn tháo khoán, rút ra khỏi Việt Nam, thì xem ra không có vấn đề gì. Sau này, cũng chính người Mỹ mở ra những cuộc thương lượng với cộng sản Hà Nội thì lại là một điều chính đáng! “Ngoại giao con thoi” với hàng trăm cuộc tiếp xúc kéo dài với Kissinger, thúc ép, ve vãn, lừa đảo, ngay cả có thể ám sát TT Nguyễn Văn Thiệu nếu cần, và bỏ rơi chính quyền Đệ Nhị Cộng Hòa họ cũng vẫn làm. Hiệp định Ba Lê là kết quả một cuộc mặc cả số phận miền Nam giữa Kissinger-Lê Đức Thọ. Đó là một tội ác ám sát chính trị. Nếu thời Ngô Đình Diệm có Cabot Lodge thì thời Nguyễn văn Thiệu có Henry Kisinger. Giả dụ ngay từ 1963 kế hoạch của Rapacki-Galbraith về sáng kiến hòa bình cho Việt Nam vào tháng 1-2, năm 1963 được thi hành thì liệu có cần thiết phải có cuộc thảm sát anh em Diệm-Nhu vào tháng 11-1963. (Margaret K. Gnoinska, “Poland and Vietnam, 1963: New evidence on secret Communist. Diplomacy and the ‘Maneli Afair’”, Woodrow Wilson Center for International Scholars, March 2005. Tác giả hiện là phó Giáo sư khoa Sử tại đại học Troy, USA ) Nhưng nếu chúng ta chịu khó nhìn lại từ đầu – khi ông Diệm về nước – thì công việc của ông Diệm, đúng ra mà nói, chỉ là một công cụ để thực hiện chính sách của người Mỹ. Họ nói để giúp ông Diệm mà chính ra để giúp họ vì cả hai bên đều đồng thỏa thuận coi miền Nam là một “tiền đồn” của thế giới tự do! “Tiền đồn” chống cộng ấy tại sao không đặt ở Đài Loan hay Đại Hàn chẳng hạn? Tại sao lại là Việt Nam? Vì thế, ngay từ những ngày đầu khai sinh ra nền Đệ Nhất Cộng Hòa, người ta đã có thể nhận thức ra người Mỹ đến Việt Nam không chỉ để giúp Việt Nam mà còn để chỉ huy và có thể áp đặt nữa. Nguyên lý của người Mỹ khi sang giúp Việt Nam tóm tắt rất đơn giản: theo Mỹ hoặc không theo Mỹ. Theo thì thuận hảo, không theo thì lật đổ. Trên thực tế, họ đã tính thay thế ông Diệm ngay từ đầu và nếu không có việc dẹp được Bình Xuyên thì số phận ông Diệm và miền Nam hẳn không phải như vậy. Và đấy phải chăng là nguyên cớ chính để sau này đưa đến việc lật đổ ông Diệm? Ông Diệm từng than phiền qua lời tường thuật của nữ ký giả Marguerite Higgins: “I cannot seem to convince the Embassy that this is Viet Nam.” Xem ra tôi không thể nào thuyết phục được tòa đại sứ Hoa Kỳ tin được rằng đây là Việt Nam [chứ không phải Hoa Kỳ]. Bài báo của ký giả Marguerite Higgin được đăng trên tờ New York Herald Tribune, đầu tháng 8, 1963. Câu nói trên cũng được Minh Võ lặp lại trong cuốn “Ngô Đình Diệm và chính nghĩa dân tộc”, trong bài điểm sách “Chiến thắng bị bỏ lỡ”, trang 356,. Những lý do nổi được nêu ra như những chiêu bài dẫn đến việc phải lật đổ ông Diệm như: độc tài, gia đình trị, đàn áp Phật giáo, tham nhũng thật ra cũng không sai lắm. Vì tất cả những điều được nói ra chỉ là phần phản diện, là cái bề mặt nổi. Nhưng đúng mà có thể không đúng vì chúng chỉ là cái cớ. Giữa điều được nói ra và điều không được nói ra – về mặt chính trị – điều không được nói ra mới là quan trọng, mới là yếu tố quyết định. Nếu ông Diệm nghe theo người Mỹ thì mọi chuyện đều OK hết. Tham nhũng ư. Không sao. Đàn áp Phật giáo ư? Thời Nguyễn Cao Kỳ cho quân đội dẹp bàn thờ tại Huế, điệu Trí Quang từ Huế về Sài gòn bằng C 47, mà đoạn đường bay phần lớn trên biển, Trí Quang sợ hãi hỏi một nhân viên áp tải: “‘Are you going to drop me into the sea?’ He quailed. – ‘No, said the crewman, our orders to bring you to Saigon.’” (Nguyen Cao Ky, Marvin J. Wolf, “Buddha’s Child: My Fight to Save Vietnam”, trang 225 Và sau đó Trí Quang được giam lỏng tại dưỡng đường Duy Tân. Tại đây, Trí Quang đã tuyệt thực 100 ngày cho đến tháng 9, 1966. Về việc bị giam lỏng và tuyệt thực tại dưỡng đường Duy Tân, độc giả muốn biết chi tiết hơn, xin đọc Nguyen Cao Ky cuốn sách nói trên, trang 226. Nguyễn Cao Kỳ nói Trí Quang là cộng sản. Nguồn Chicago Tribune, 22 tháng 5, 1966. Ý nghĩa việc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức ngày nào gây xúc động lương tâm trên toàn thế giới và hình ảnh ấy đi vào phòng ngủ của dân chúng Mỹ. Nhưng sau đó, sau 1963, sau 1975, nhiều vụ tự thiêu ở Việt Nam cũng như ở Tây Tạng, tiếp diễn nhưng không còn gây được sự chú ý của dư luận. Cũng theo ký giả Stanley Karnow ghi lại trong một lần ông đã chứng kiến vụ tự thiêu của ni cô Thanh Quang – khoảng chừng 55 tuổi – vào tảng sáng ngày 29 tháng 5, tại Chùa Diệu Đế; ni cô đến chùa cùng với vài người bạn. “She assumed the lotus position as one friend doused her with gasoline. Then she lighted a match, immediately exploding into flame as another friend fed peppermint oil to the fire to suppress the stench of scorches flesh. By the time I arrived, her burning body was still erect, the hands clasped in prayer. The religious rite was fast becoming a political episode […] reporters from the local radio station passed among them, recording theirs cries for later broadcast. Soon Tri Quang appeared to distribute to the foreign correspomdents present copies of a letter that the nun had addresed to the President Johnson. Tri Quang blamed Johnson for her death.” (Stanley Karnow, ibid. Trang 449) Ni cô ngồi thế liên hoa tọa (kiết già) trong khi một người bạn của bà tưới xăng lên người. Rồi bà ấy bật một que diêm, ngay tức thì ngọn lửa bùng lên trong khi một người bạn khác lấy dầu bạc hà đổ vào ngọn lửa để giảm bớt mùi thịt cháy khét. Lúc tôi tới nơi, thân xác đang cháy của ni cô vẫn còn ngồi thẳng, hai tay chắp vào nhau đang cầu nguyện. Nghi thức tôn giáo bỗng chóng trở thành một vở tuồng chính trị […] phóng viên của đài phát thanh địa phương đi vào giữa đám người đang cầu nguyện và thu băng những tiếng kêu của họ, dùng cho cuộc phát thanh sau đó. Chẳng bao lâu sau đó, Trí Quang xuất hiện, phân phát cho những phóng viên ngoại quốc hiện có mặt các phó bản của lá thư mà ni cô đã viết gửi cho tổng thống Johnson. Trí Quang đổ trách nhiệm cho Johnson về cái chết của ni cô Quang Thanh. Mỗi lần đọc lại đoạn văn này, tôi đều có cảm giác muốn nôn mửa. Những người phụ nữ tu hành chất phác và đạo hạnh – có thể họ quê mùa, ít học – đã bị lôi cuốn vào một tình trạng bị phấn khích tột độ, đến nỗi như không kiểm soát được chính họ nữa và họ đã làm những việc ngoài sức con người. Người điều động tất cả mọi việc sau lưng vụ tự thiêu là một nhà sư có bề ngoài lạnh lùng, giọng nói nhát gừng, cặp mắt sắc lạnh. Thật mỉa mai, ông sư ngồi trong chùa, biết trước sư cô Quang Thanh tự thiêu, và đi phát thơ của bà cho ký giả nhưng lại đổ lỗi chô ông tổng thống nước Mỹ ở xa ngàn dặm. Trí Quang sẵn sàng dùng những cuộc tự thiêu này cho những mục tiêu chính trị của ông ta. “As more Buddhist suicides occurred, Johnson issued a statment calling them “tragic and unnecessary,” and urge the South Vietnamese people to uphold the governmen – a clear sign that the United States woud not abandon Ky and his entourage.” (Stanley Karnow, ibid., trang 449-50) Khi nhiều vụ Phật tử tự thiêu [vẫn] xảy ra, Johnson đã ban hành một tuyên bố gọi đó là [những cái chết] “bi thảm và không cần thiết”, và vận động người dân miền Nam Việt Nam ủng hộ chính phủ — một dấu hiệu rõ ràng cho thấy Hoa Kỳ sẽ không bỏ rơi Kỳ và đoàn tùy tùng của ông ta. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao những thành phần Phật tử có học, có hiểu biết, từng là đầu não trong các phong trào Phật tử tranh đấu — mà tôi thấy không cần thiết phải liệt kê tên tuổi họ ra đây — không một người nào có vinh dự nằm trong danh sách các vị bồ tát tử vì đạo pháp? Bọn họ ở đâu rồi nhỉ? Và nhất là hiện nay, chùa Liên Trì bị san bằng ngày 17-9, Hòa thượng Không Tánh về lại ngôi chùa cũ mà ngài từng ở 50 năm, ngồi khóc một mình. Sư ông Thích Không Tánh với ngôi chùa hơn 50 tuổi nay chỉ còn là đống gạch vụn. Ảnh: Tin Mừng Cho Người Nghèo Tôi cảm nhận được tất cả nỗi khổ đau của vị sư già! Không một ai lên tiếng! Người lên tiếng chính thức cho vụ Chùa Lên Trì lại là một dân biểu Mỹ. Phần ông Diệm, chính ở chỗ không theo họ, họ loại trừ ông bằng cách giết hại cả 3 anh em ông. Nếu ông Diệm biết nghe theo họ thì tham nhũng, độc tài, gia đình trị, đàn áp Phật giáo, chỉ là những màn khói, không phải là đám cháy, và không cần đến xe cứu hỏa dập tắt. Bằng chứng mới đây nhất, tôi đọc cuốn “The Politics of Deception: JFK’s Secret Decisions on Vietnam, Civil Rights, and Cuba” của Patrick J. Sloyan, Thomas Dunnes Books, 2015, người ta thấy hết được thực chất chính sách của người Mỹ tại Việt Nam cùng cái tráo trở của người Mỹ. Tôi dùng chữ tráo trở là đứng về mặt đạo đức chả có nghĩa gì về mặt chính trị. Còn đối với người Mỹ thì đó chỉ là sự thay đổi một chính sách phù hợp với quyền lợi của người Mỹ. Gọi là tráo trở hay gọi là thay đổi cũng được tùy theo mỗi bên. Nhưng chính họ tố cáo họ! Deception có thể dịch ra tiếng Việt là “trò lừa dối, mánh khoé lừa bịp”? Càng hiểu rõ thế sự, càng hiểu rõ bản chất con người, càng hiểu rõ chính trị đảo điên. Nhưng nay tôi hiểu hơn: Chính trị làm con người sợ sự thật. Và tôi có cảm tưởng có hai cuộc chiến – hai thứ quân đội – Một cuộc chiến của người Việt Nam và một cuộc chiến riêng của người Mỹ chống cộng sản. Họ có vai trò riêng và sứ mạng riêng. Nếu so sánh sự can thiệp giữa người Mỹ tại miền Nam và Trung Cộng cũng như Liên Xô tại miền Bắc – ở thời điểm đó – thì tôi cạn nghĩ sự can thiệp của người Mỹ tại miền Nam bộc lộ một sự thô bạo, trắng trợn và ngay cả có thể tàn nhẫn hơn. Và vì thế, xin mọi người nhớ lại trong lần nói chuyện sau cùng, ông Diệm đã nói thẳng với Cabot Lodge: “Je ne suis pas une marionnette. I am not a puppet…” (Patrick J. Sloyan, The politics of Deception, trang 189) Tôi không phải là bù nhìn [của các ông]. Đây có thể là câu trối trăng của một kẻ sắp chết để lại cho đời sau như một bài học đắt giá! Sự can thiệp ấy, Lansdale, một người thân tín của ông Diệm ngay từ lúc đầu, than rằng “10 điều đề nghị với ông Diệm, may ra ông theo một.” Cái nguyên tắc “chìm hay bơi với Ngô Đình Diệm” chỉ là một cách nói về sự kiên nhẫn của người Mỹ trước sự cứng cỏi của ông Diệm, một nguyên tắc sống chết cùng chia sẻ nay xem ra đã bị sói mòn và mỏi mệt. Hay nói theo Maneli, Trưởng phái đoàn Ba Lan trong ICC, họ như đôi vợ chồng bỏ nhau mà còn ghen tuông. Chìm thì họ chắc chắn họ không muốn chìm và họ muốn đổi một tay bơi khác. Việc thay thế đại sứ Nolting bằng đại sứ Cabot Lodge là dấu hiệu bật đèn xanh cho các tướng lãnh muốn đảo chánh ông Diệm. Dưới mắt Patrick J. Sloyan, trong The politics of Deception: “Cabot Lodge là mẫu điển hình cho sự phản bội của Mỹ ở Việt Nam. Trên bàn của viên đại sứ luôn luôn có khẩu súng lục và nếu phải đi ra ngoài thì ông dấu khẩu súng với đạn .357 Magnum vào bên trong chiếc áo vét trắng người.” (Patrick J. Sloyan, ibid,, trang 187) Một ông đại sứ nước bạn, có nhiều cận vệ, hà cớ gì phải dấu súng lục phòng thân như vậy? Sự có mặt của Cabot Lodge khi đáp máy bay xuống sân bay Tân Sơn Nhất vào cuối tháng 8 ở Sài Gòn là dấu hiệu của sự mất kiên nhẫn của Hoa Kỳ trước người đồng minh bướng bỉnh. Nó tạo thêm mối nghi kị và căng thẳng khó hàn gắn giữa Mỹ và ông Diệm. Việc bổ nhiệm Lodge thay Nolting dưới mắt các nhà ngoại giao là dấu hiệu bật đèn xanh cho các tướng lãnh làm đảo chánh và báo trước ngày cáo chung của chế độ Ngô Đình Diệm. Những cơ may ông Diệm đáp ứng những đòi hỏi của Mỹ thực sự là không có. Không và không. Ông Diệm không muốn nhượng bộ như yêu cầu ông Ngô Đình Nhu phải ra đi ngay cả khi có đe dọa cúp viện trợ. Đúng ra, ngay từ khi đặt chân xuống Tân Sơn Nhất thì một cách nào đó, viên đại sứ đã thủ trong người một “giấy phép giết người” (a licence to kill). Thật vậy, Cabot Lodge trong chương trình truyền hình WGBH, Open Vault, Ông ta đã gián tiếp nói về vai trò của ông và những mối liên hệ của ông ta – giúp ông thêm quyết tâm loại trừ Diệm. Sau khi được TT Kennedy chỉ định làm đại sứ tại Nam Việt Nam tháng 6/1963, ông Cabot Lodge đã đến Sài Gòn vào một ngày cuối tháng Tám, hai tháng trước ngày đảo chính chính phủ Diệm. Stanley Karnow đã đặt câu hỏi là làm thế nào, chỉ trong thời hạn một hai tuần lễ, ông Đại Sứ đã có thể đưa ra những quyết định là “Diem himself cannot be preserved” như trong mật điện gởi về Washington ngày 24 tháng 8, 1963? Sau đây là câu trả lời của ông Cabot Lodge: “Tôi đã có được một vài người bạn mới ở Sài Gòn giúp tôi am hiểu đầy đủ hơn về Việt Nam. Bằng cách đó làm gia tăng giá trị những thông báo của tôi gửi cho tổng thống. Một trong những người bạn ấy là Tổng Giám Mục Salvatore Asta, khâm sứ Tòa Thánh.” Và cũng theo Cabot Lodge, vị khâm sứ này có được những liên hệ tín cẩn với các lãnh đạo Thiên Chúa giáo nhờ đó ông có được những thông tin đáng tin cậy. Nhưng xem lại báo cáo của CIA cho Tổng thống Mỹ ngày 4 tháng 9, 1963: “a. The Italian Ambassador and the Apostolic Delegate in Saigon believes Ngo Dinh Nhu wants to work things out with US. They say on the basis of contact with Nhu, that madame Nhu is ready to leave the country for a time in order to “save face” for the United States.” “a. Đại sứ Ý và Tổng Giám Mục [Salvatore Asta] Khâm sứ Toà thánh ở Saigon tin rằng Ngô Đình Nhu muốn giải quyết vấn đề với Mỹ. Họ nói, dựa trên những liên hệ với Nhu, là bà Nhu sẵn sàng rời Việt Nam mọt thời gian để “giữ thể diện” cho Hoa Kỳ.” Rõ ràng quan điểm của Cabot Lodge dựa theo ý kiến của Khâm sứ Toà thánh khác xa với báo cáo của CIA về cái nhìn của TGM Salvatore Asta đối với thái độ của ông Nhu với Mỹ Cabot Lodge đi đến kết luận: H. Cabot Lodge trả lời phỏng vấn (1979). Nguồn: WGBH, Open Vault. “Những buổi nói chuyện trao đổi với các vị trên cho thấy mặc dầu TT Diệm là một nhà lãnh đạo có năng lực đạt được kết quả tốt trong quá khứ, việc điều khiển chính quyền hiện nay của ông ta rõ ràng ở giai đoạn kết thúc [terminal phase] bất kể những gì mà chính phủ Hoa Kỳ đã làm.” (“Vietnam: A Television History; America’s Mandarin (1954 – 1963)”; Interview with Henry Cabot Lodge, 1979 [Part 2 of 5] WGBH, Open Vault. goo.gl/bs6lfG)Cũng trong tinh thần đó, Cabot Lodge viết như sau trong hồi ký của ông: “Tôi rất có may mắn được quen biết hai nhân vật thật đặc biệt, (người thứ hai là giáo sư P. Honey- giáo sư người Anh, thông thạo tiếng Việt, dạy đại học văn Khoa, Sàigon). một cơ hội ra ngoài thông lệ, nhờ đó tôi học hỏi được nhiều điều. Khâm sứ Asta là người quen biết rộng rãi trong giới trí thức Thiên Chúa giáo và được họ tin cẩn. Đó là nguồn tin đáng giá và nhờ đó cho thấy được toàn bộ hoàn cảnh lúc bấy giờ.” (Henry Cabot Lodge, “The Storm Has Many Eyes”, W.W. Norton & Company, Inc (1973) trang 206-207) Cho nên, cuộc tiếp tân của ông Trương Công Cừu vào chiều ngày 25 tháng 8, 1963 trong đó có việc khâm sứ Salvatore Asta giới thiệu đại sứ Ba Lan Maneli với ông Ngô Đình Nhu, mở đầu cho một loạt những tin đồn thất thiệt. Những tin đồn đủ thứ này củng cố cho quyết định loại trừ anh em Diệm-Nhu của Cabot Lodge và tướng lãnh Việt Nam. Và cũng rất có thể suy đoán, chính vị khâm sứ này vừa giới thiệu Maneli cho ông Nhu và cũng chẳng ai khác thông báo “cuộc tiếp xúc của ông Nhu với đại sứ Ba Lan” cho đại sứ Cabot Lodge? Phải chăng không ai khác ngoài người bạn tín cẩn của ông ta là Khâm Sứ Salvatore Asta? Và biện pháp thứ nhất của kẻ chi tiền là cúp viện trợ vào tháng 10-63 với lời lẽ giả dối: Cúp viện trợ không phải là để bật đèn xanh cho tướng lãnh. Ngược lại để giúp Diệm củng cố vai trò chính trị của ông Diệm bằng cách loại trừ người em ra ngoại quốc. “The allegation in the Pentagon Papers that in october we cut off aid to Diem in order to give a ‘great light to the gene rals’ is wrong. It was done in order to get Diem to strengthen his political position at home by sending brother out of the country.” (Henry Cabot Lodge, ibid., trang 211.) Chính vì thế, đã có lần ông Nhu cay đắng tiên đoán: Đã đến lúc phải ăn cơm vắt với muối mè. Nhưng hãy đọc thêm về phần tài liệu Pentagone Papers để thấy rõ những suy nghĩ và tính toán thật của Cabot Lodge như thế nào. Nhan đề là: ‘Lodge đấu với Diệm’ trong đó tiết lộ thủ đoạn của Cabot Lodge. Lodge viết: “Xin hãy tin rằng những cơ may Diệm đáp ứng các đòi hỏi của ta thực sự là không. Đồng thời khi đưa những đòi hỏi đó, ta lại cho Nhu cái cơ hội ra tay trước hoặc ngăn chặn hành động bằng quân sự. Nguy cơ này, chúng tôi tin ràng không đáng liều, với Nhu kiểm soát các lực lượng chiến đấu ở Saigon. Bởi đó đề nghị chúng ta đi thẳng tới các tướng lãnh với các đòi hỏi của chúng ta mà không thông báo cho Diệm. Sẽ nói với họ là chúng ta đã sẵn sàng chấp nhận Diệm mà không có hai vợ chồng Nhu, nhưng thật ra giữ Diệm lại hay không là tùy ở họ. Sẽ nhấn mạnh vào việc các tướng lãnh cần phải có những biện pháp để phóng thích các lãnh tụ Phật giáo và thi hành thỏa thuận ngày 16-6-. Yêu cầu cho ngay các chỉ thị sửa đổi.” Ở một đoạn khác có chỉ thị của tòa nhà Trắng đã hoãn lại khoản tiền 18 triệu đô la và chỉ thị được nêu rõ: “Chỉ thị này cũng cho đại sứ Lodge được quyền rộng rãi để xử dụng công cuộc viện trợ như một nguồn ảnh hưởng trong công việc này. Nhưng dặn dò vị đại sứ phải’ lưu tâm rằng chính sách hiện nay của ta không phải là cúp bỏ viện trợ hoàn toàn, […] Chỉ thị đó mặc dù không ra lệnh – cũng đã thúc giục vị đại sứ nên tiếp xúc lại với tổng thống Diệm.” Thế nhưng ông Lodge không chịu. “Các điệp văn cao cấp của Hoa Thịnh Đốn gửi cho vị đại sứ tới hết mùa thu năm 1969 rất đáng lưu tâm vì tính cách nhượng bộ khác thường đối với vị đại sứ” (“Hồ sơ mật Lầu Năm góc về chiến tranh Việt Nam”, theo nguyên văn đã được công bố trên Nữu Ước Thời Báo với sự đóng góp của 36 tác giả. Bản dịch của tạp chí Trình Bày, số 40, từ trang 66-79 ngày 27 tháng Năm, 1972.) Dù sao, “cuộc đi đêm” này như nhận xét của McNamara trong “In Retrospect” theo tôi là phản ảnh thực tế quan điểm của người Mỹ hơn cả: “Đầu hè (1963) chúng tôi được tin ông Diệm, qua người em trai là ông Nhu, đã bí mật móc nối với Hà Nội. De Gaulle rất muốn tái lập ảnh hưởng của họ ở Đông Dương cũng được thông báo về sự liên lạc này và họ thấy đây là một cơ hội tốt. De Gaulle liền đưa ra lời kêu gọi thống nhất và trung lập hóa miền Nam. Không biết rõ đây là sự thật hay chỉ là lời đồn đãi, và tự hỏi Diệm đang có ý định hăm dọa chúng ta để làm giảm nhẹ áp lực việc ông ta đàn áp thô bạo những phần tử chống đối.” (Robert S. McNamara, “In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam”, Random House Inc., NY, 1995, trang 51.) Dăng lại, nguồn 2016 DCVOnline
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 2, 2016 5:42:20 GMT 9
Maneli với Ngô Đình Nhu, chuyện gì đã xảy ra? (Kết) Nguyễn Văn Lục Chuyện đi đêm giữa Maneli và ông Ngô Đình Nhu là một sự giàn dựng từ đầu tới cuối. (Tiếp theo P1) Về phía ông Diệm TT Ngô Đình Diệm tại buổi lễ tốt nghiệp khóa 17 Trường võ bị Đà Lạt vào tháng 3/1963 (8 tháng trước khi bị giết). Nguồn: petrotimes.vn/Nói về ông Ngô Đình Diệm, người viết bài này mong muốn đi tìm lại bài viết của cụ Ngô Tất Tố, trên Thực nghiệp Dân báo năm 1933, nhan đề “Bình về Bộ Lại và Ngô Đình Diệm” với bút danh Phó Chi. Có được tài liệu này cũng giúp hiểu thêm con người ông Diệm. Theo tôi, nếu có điều gì làm cho ông Diệm là ông Diệm là ở chỗ ông coi chủ quyền quốc gia là số một. Ông chống Tây cũng vì thế, chống không hợp tác với Bảo Đại cũng vì thế, chết dưới bàn tay người Mỹ – qua Cabot Lodge – cũng vì thế. Khi cuộc đảo chánh đã nổ ra, ông Diệm gọi cho đại sứ Mỹ nói: “Nhưng ông phải có những ý nghĩ đại cương. Dù sao tôi cũng là vị Quốc Trưởng. Tôi đã cố gắng làm bổn phận của tôi. Tôi muốn làm điều mà bổn phận và lương tri đòi hỏi. Tôi tin vào bổn phận trên hết.” (“Hồ sơ mật của lầu năm góc về chiến tranh Việt Nam”. Bản dịch của tập san Trình Bày, số 42, tháng 9-1972.) Ông không muốn sự có mặt lộ liễu của người Mỹ ở Việt Nam như các cố vấn và các nhân viên mật vụ Mỹ. Ông nghi ngại và chống đối các hoạt động phản gián của người Mỹ ở Việt Nam. Nhiệm kỳ của TT. Eisenhower chỉ vỏn vẹn có 300 “cố vấn” Mỹ ở Việt Nam. Thời TT. Kennedy, năm 1962 số “cố vấn” Mỹ tăng tăng từ 700 lên 12000 người; sau khi TT Diệm bị ám sát, con số này là khoảng 16000 người. Một số khác này làm việc cho CIA. Ngay cả nhóm Thanh Niên Thiện Chí cũng cài đặt người của CIA vào. Nói chi đến các cơ quan USAID, USOM, USIS, v.v. Ông Nhu có lần tuyên bố với phái viên tờ Washington Post: Nguồn: LIFE “On Sunday, May 12, the front page of The Washington Post featured an interview by Warren Unna with Ngo Dinh Nhu, in which Unna quoted Nhuas saying that “South Viet Nam would like to see half of the 12,000 to 13,000 American military stationed here leave the country”. Unna described Nhu as the power behind the throne and wrote that Nhu told U.S. authorities 5 months earlier that it was possible to withdraw one half of the American forces, and that the presence of unnecessary American forces lent credence to Communist propaganda. Unna reported that Nhu and Diem distrusted Americans working at local levels in Vietnam and that Nhu felt that many American advisers were only intelligence gatherers. Referring to American impatience, Nhu said that the time was not ripe for a general counter-offensive […]” (122. “Telegram From the Department of State to the Embassy in Vietnam”, May 13, 1963, FRUS 1961–1963, Volume III, Vietnam, January–August 1963, Cước chú số 2) “Vào ngày Chủ Nhật, 12 tháng 5, 1963, trên trang nhất của tờ Washington Post là bài phỏng vấn của Warren Unna với Ngô Đình Nhu, trong đó Unna dẫn lời Nhu nói rằng “Nam Việt Nam muốn thấy một nửa số 12.000 đến 13.000 quân nhân Mỹ ở đây rời Việt Nam” […] Unna cũng viết ông Nhu đã nói 5 tháng trước đó là Mỹ có thể rút 1/2 lực lượng quân nhân Mỹ, và sự có mặt không cần thiết của quân đội Mỹ chỉ làm lợi cho tuyên truyền của cộng sản. Unna đưa tin rằng rằng Nhu và Diệm không tin tưởng người Mỹ làm việc ở các cấp địa phương ở Việt Nam và Nhu cảm thấy rằng nhiều cố vấn Mỹ chỉ đi lấy thông tin tình báo. Đề cập đến sự thiếu kiên nhẫn của Mỹ, Nhu nói rằng chưa phải lúc cho một cuộc tổng phản công.” Cũng có lần ông Diệm đã phàn nàn với đại sứ Pháp: “Tất cả những người lính này. Tôi chưa hề bao giờ yêu cầu họ đến đây. Họ không có đến cả một cái giấy thông hành nữa.” (Gordon M. Goldstein, “Lessons in Disaster”, trang 72.) Mặc dầu không có những dấu hiệu gì cho thấy ông Diệm chuyển hướng về chính trị một cách rõ rệt, nhưng ông Diệm cũng mong được Pháp cho vay tiền để xây dựng những dự án kinh tế như nhà máy lọc đường, lò mổ heo tân tiến, đường tàu điện Đà Lạt và cầu Mỹ Thuận. Trong suốt 21 năm chiến tranh miền Nam, Mỹ giúp được gì VNCH trong việc phát triển kinh tế? [DCVOnline: “United States Econmic Assistance to South Vietnam — 1954-75”, Tập III là một thư mục 317 trang đánh máy, liệt kê những tài liệu chính thức của chính phủ Mỹ về Viện trợ Kinh tế cho Việt Nam Cộng hoà trong 21 năm, 1954-1975, do cơ quan USAID biên soạn xong ngày 31, tháng 12, 1975. Tóm lược của những nét chính của những chương trình viện trợ kinh tế lớn nằm ở Tập I và Tập II. Đây là tài liệu dành cho những người muốn nghiên cứu về viện trợ Mỹ ở miền Nam Việt Nam từ ngày thành lập đến khi xụp đổ nền Cộng hoà, 1954-1975, gồm Thư mục tài liện về Viện trợ của Mỹ cho VNCN từ 1954-1975. Nguồn: USAID, 31/12/1975 – 25 trang về Kinh tế tổng quát – 44 trang về Canh nông – 2 trang về Chăm sóc Trẻ em – 3 trang về Hàng không Dân sự – 8 trang về Nhập cảng Thương mại – 6 trang về Kế hoạch Phát triển – 16 trang về Phát triển Nông thôn – 28 trang về Giáo dục – 6 trang về Nhà ở và Đô thị – 10 trang về Kỹ nghệ – 14 trang về Cải cách Ruộng đất v.v.] Kỹ nghệ chiến tranh theo nghĩa từ việc sản xuất một máy bay phản lực – đến súng đạn- trang bị quân sự đủ loại – đến một sợi giây giầy đều do tiền viện trợ Mỹ cung cấp. Mỹ không có ý định lâu dài trong việc trang bị cho Việt Nam có thể tự lập và cũng không có một văn kiện chính thức nào cho phép người Mỹ vào chiến đấu ở miền Nam Việt Nam. Và đó, là điều ông Ngô Đình Nhu luôn luôn phàn nàn với người Mỹ về sự lệ thuộc này. Ngoài mấy phi trường và bến cảng cho nhu cầu quân sự, có lẽ chỉ có xa lộ Biên Hòa cho thấy sự “có mặt của người Mỹ”. “Xa lộ Biên Hòa với 700 mét cầu và lộ giới rộng từ 60 tới 100 mét. Xa lộ được khánh thành ngày 28-4-1961. Nhờ có xa lộ này mà ông Ngô Đình Diệm thiết lập làng đại học Thủ Đức và khu kỹ nghệ Biên Hòa ở cây số 22. Nơi đây có công ty giấy Cogido góp cổ phần giữa Việt Nam Thương Tín và hãng Sindacato, Cellusosa, Pomolio của Ý. Số tiền lên đến 150 triệu Mỹ kim.” (Báo Quê Hương số 23, tháng 5-1961, năm thứ ba – tập II -Tập 2) Mặc dầu Mỹ có cơ quan viện trợ United States Agency for International Development [USAID], nhưng một dự án như xây cầu Mỹ Thuận rồi cũng bị chìm xuồng vì nhiều nguyên do. Kỹ sư kiều lộ Phan Đình Tăng trong một bài viết đã gợi nhớ lại những dự án xây cầu vào thập niên 1960 gọi đùa là cầu có tên Mỹ Thuận, nhưng Mỹ không Thuận nên không thành hình. Và phải đợi đến năm 2000, Úc mới xây cây cầu Mỹ Thuận. (Báo Đi Tới số 29, tháng 1/2001.) Trong số những người Mỹ còn tin tưởng và ủng hộ ông Diệm – người cuối cùng là phó Tổng thống Mỹ Jonhson – người đã từng gọi Diệm là Winston Churchill của Đông Nam Á. Khi được gửi sang Việt Nam vào năm 1961, ông đã gửi một phúc trình như sau: “Chính là ở nơi này sẽ là nơi mà chúng ta sẽ phải đưa ra những quyết định chính sách căn bản cho vùng Đông Nam Á, hoặc là chúng ta buông xuôi và rút lui tuyến phòng thủ của của chúng ta đến tận San Francisco. Sự kính nể ông Diệm đi đến chỗ hình ông Diệm được treo ở hành lang nhà ông. Hôm sau ngày đám tang Kennedy, ông đã chỉ cho Phó TT. Humphrey và chỉ vào bức hình ông Diệm treo trên tường nhà ông và nói: “Chúng ta đã đưa bàn tay của chúng ta ra trong việc ám sát ông ta. Bây giờ đến lượt chúng ta rơi vào đúng hoàn cảnh như vậy.” (Arthur M. Schlesinger, Jr.; traduit de l’anglais par Jean-Pierre Carasso, “Robert Kennedy et son temps”, trang 359.) Tôi chỉ thấy điều này nơi một người Việt Nam khác khi tôi đến thăm cụ Cao Xuân Vỹ. Cụ không phải chỉ treo ảnh ông Diệm mà cụ để ảnh trên bàn thờ. Những tài liệu về phía các tác giả miền Nam về “vụ đi đêm” giữa Maneli-Ngô Đình Nhu Phần lớn các tác giả miền Nam đều sao chép một cách cẩu thả, không dẫn chứng nguồn và và gây một dư luận tai hại cho chế độ Đệ nhất Công Hòa miền Nam về “vụ đi đêm” giữa Maneli-Ngô Đình Nhu. Có những tác giả trình bày với ác ý như Vũ Ngự Chiêu, vì ngu dốt như đám tướng lãnh, có những tác giả trình bày với thiện ý, nhưng quá khờ khạo. Hầu như tất cả đều bị dư luận đầu độc. Trừ một vài trường hợp như tác giả Nguyễn Ngọc Giao Vũ Ngự Chiêu trong loạt bài đăng trên Giao Điểm đã lập luận là ông Ngô Đình Diệm đã rơi vào cái bẫy sập “hòa bình, thống nhất, trung lập của Hà Nội” với sự cổ võ của chính phủ Charles De Gaulle. Và Vũ Ngự Chiêu quả thực đã đánh giá quá thấp hai ông Diệm-Nhu khi viết: “Như một phản ứng dây chuyền, hai anh em Diệm-Nhu bèn vận hết sức lực để tự cứu, một mặt ông Nhu xúc tiến mạnh hơn việc móc nối cộng sản qua trung gian của Pháp và khâm sứ Salvatore d’Asta. Trong bóng tối, ông Nhu bí mật gặp Phạm Hùng, phó thủ tướng đặc trách vấn đề thống nhất ở Bà Rịa. (Chính Đạo [Vũ Ngự Chiêu], “CuộcThánh chiến chống Cộng”, Văn Hóa, c2004- , Trường Hợp Phạm Hùng, trang 312.) Trong một bài báo nhan đề “1963, Tìm hiểu cuộc ‘đi đêm’ giữa Sài Gòn và Hà Nội”, Nguyễn Ngọc Giao đã nhắc khéo nhà sử học Vũ Ngự Chiêu như sau: “ Một nhà sử học (1) đã khẳng định có cuộc gặp này và viện dẫn hồi kí của William Colby. Ông trùm CIA viết gì trong hồi kí? “ Mấy năm về sau, tôi nghe kể từ một tướng lĩnh cao cấp Nam Việt Nam, một người lãnh đạo cuộc đảo chính chống Diệm và Nhu (…). Viên tướng này khoe đã nghe nói rằng, tuy ông ta không chứng kiến trực tiếp, đúng là năm 1963 Nhu đã gặp Phạm Hùng, người lãnh đạo nỗ lực Cộng sản ở miền Nam.(2) […] Ông trùm tình báo cũng đủ tinh khôn để viết thêm một câu thận trọng: “Giai thoại này có thể là chuyện bịa”. Không biết Colby muốn nói ông tướng “bịa” ra cuộc gặp, hay chính ông đã “bịa” ra ông tướng. Nhưng bịa là cái chắc. Bịa tồi nữa kia: năm 1963, người lãnh đạo Trung ương cục miền Nam là ông Nguyễn Văn Linh, tiếp theo (từ 1964 đến 1967) là ông Nguyễn Chí Thanh, sau khi tướng Thanh từ trần, ông Phạm Hùng mới vào Nam đảm nhiệm chức vụ này.” (Nguyễn Ngọc Giao, “1963: tìm hiểu cuộc “đi đêm” giữa Sài Gòn và Hà Nội”, (1) Vũ Ngự Chiêu, Tướng Dương Văn Minh và Đệ Nhất Cộng Hoà xem ở đây. (2) William Colby, “The Lost Victory”, Contemporary Books, Chicago, 1989, tr. 102-103; có thể tham khảo bản tiếng Pháp “Vietnam / histoire secrète d’une victoire perdue”, Perrin, Paris, 1992, tr 118. DIỄN ĐÀN số 131 tháng 7.2003, diendan.org, goo.gl/FQk5cG)Theo Nguyễn Ngọc Giao thì “vụ đi đêm” giữa Ngô Đình Nhu và Phạm Hùng là một chuyện bịa, và lại “bịa tồi nữa kia”. Trong cuốn “Làm thế nào để giết một tổng thống” của Lương Khải Minh – Cao Vị Hoàng, tập II có một đoạn như sau: Trần Kim Tuyến (Saigon, 1964). Nguồn: AP Wire “Thường hay tháp tùng Ông Nhu đi săn cọp tại khu rừng già Phan Rang, chưa có lần nào Đại Úy Hạp thấy ông Cố Vấn Nhu tiếp xúc với việt cộng tại vùng này. Song sự tiếp xúc với cộng sản Bắc Việt đã diễn ra ngay tại Sài Gòn và trong mấy tháng liền. Cuộc tiếp xúc gần như định kỳ mỗi tháng 2, 3 lần. Có lần khi trở về Dinh Ông Nhu rất tươi vui. Có lần ông đăm chiêu cau có. Lần tiếp xúc cuối cùng với đại diện của Bắc Việt đã diễn ra vào ngày 21, 22 tháng 10.1963. Khoảng 7 giờ tối hôm đó, ông Cố Vấn Nhu cho gọi Đại Úy Hạp vào Dinh bảo sửa soạn để ông đến dùng cơm chiều với ông Đại Sứ Ấn Độ Ram Chundur Goburdhun tại Ủy Hội Quốc Tế. Ông Goburdhun khoảng 50 tuổi (người Đảo Maurice Ấn Độ tốt nghiệp Cử Nhân Luật Khoa tại Đại Học Lille, cùng là bạn học cũ của Ông Nhu khi hai người còn du học tại Pháp) […] Từ khi đến Sài Gòn, tân Đại Sứ Ấn trở thành trục nối giữa Hà Nội và Sài Gòn. Mỗi khi đi Hà Nội về, có tin tức gì, ông Đại Sứ Ấn lại vội vã đến thông báo cho Ông Nhu. Hoặc mỗi lần có mang theo “khách lớn’’ từ Hà Nội thì ông Đại Sứ Ấn Độ lại tổ chức bữa cơm chiều tại tại Dinh, ông Cố vVấn Nhu trở thành thượng khách. Đại Úy Hạp tò mò theo dõi thì lần nào cũng chỉ có ba người dùng cơm với nhau: Ông Nhu, Đại Sứ Ấn và một nhân vật quan trọng theo Đại Úy Hạp. Nhân vật này, mặt mũi rất sáng sủa, rất trí thức, có lần mặc complet, có lần mặc áo lãnh tụ cộng sản song lần nào ông ta cũng gài ở trên túi áo ngực một ngôi sao vàng trên nền đỏ. Bữa cơm vào cuối tháng 10 kéo dài đến 11 giờ khuya, khi ômg Nhu ra về thì chỉ có Đại Sứ Ấn ra tiễn chân ông ở cửa. Trước đó trong dịp đi săn cọp ở Phan Rang, Ông Nhu đã nói thẳng với ông Phước mà Đại Úy Hạp nghe được đại khái: “Mỹ họ gây cho mình nhiều khó khăn quá. Ngoài Bắc Việt họ tính chuyện hòa hoãn với mình. Mình cũng nên tìm cách hòa hoãn với họ trong một giai đoạn xem sao.” Ông Cố Vấn Nhu cũng tỏ ý như vậy với Trung Tá Đường vào một lần giữa năm 1963 khi ông đến Bình Tuy săn cọp.” (Lương Khải Minh, Cao Vị Hoàng, “Làm thế nào để giết một tổng thống”, tập hai, tr 607-609) Nguyễn Văn Châu với cuốn “Ngô Đình Diệm và Nỗ lực hòa bình dang dở” do Nguyễn Vy Khanh dịch, Nxb Xuân Thu, Los Alamitos, CA, USA, 1989. Nguyên bản tiếng Pháp tựa đề “Ngô Đình Diệm En 1963: Une Autre Paix Manquée” (Luận án M.A. khoa Sử, Université de Paris VII, 1982) Trong cuốn sách đó có nhiều giai thoại – hay những huyền thoại – liên quan đến Maneli, và những thương thảo Bắc-Nam cho đến nay hoàn toàn không có một tài liệu nào chứng thực được. Ông Nguyễn Văn Châu. Nguồn: Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Vy Khanh, “Ngô Đình Diệm và nỗ lực hòa bình dang dở”, Nxb Xuân Thu 1989 “Kể từ tháng 6 năm 1963, vài liên lạc và thảo luận được thiết lập giữa hai chính phủ nam và Bắc Việt qua trung gian của đại sứ Ấn Độ Ram C. Gobourdhyn và đại sứ Ba Lan Mieczylaw Maneli thuộc Ủy Hội Quốc tế Kiểm soát đình chiến.” (Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Vy Khanh, “Ngô Đình Diệm và nỗ lực hòa bình dang dở”, trang 159-160.) “Chính quyền Bắc Việt vẫn cấm tất cả mọi chuyên bay trực tiếp tù Hà Nội vào Sàigòn, nay cho phép Tổng lãnh sự Pháp ở Hà Nội Jacques de Burzon bay trực tiếp từ Hà Nội vào Sàigòn để gặp tổng thống Diệm. Đại sứ Lalouette đưa ông tới dinh Gia Long trình bày với Tổng Thống Diệm rằng Hồ Chí Minh không còn coi ông là “kẻ phản bội, bù nhìn trong tay người Mỹ” mà nói về Tổng Thống Diệm như “một con người tốt, một người Việt yêu nước dù thế nào đi nữa.” (24) “Trong khi đó Đại sứ Ba Lan Miezylaw Maneli thuộc Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, nhìn nhận ông Nhu là một lý thuyết gia đứng đắn duy nhất ngoại thế giới cộng sản, về du kích chiến, đã đến gặp ông cố vấn để đưa tin riêng của Thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng.” (Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Vy Khanh, ibid., trang 161.) Đoạn trong ngoặc kép (24) dẫn chứng bằng tham khảo “Joseph Alsop. New York Herald Tribune, số ra ngày 18 tháng 9 năm 1963.” “Ngoài ra hai bên còn trao đổi sứ điệp bằng cassettes gữa Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm. (Những cassette này hiện được lưu trữ tai một viện đại học ở California, theo lời xác nhận của sư huynh giáo sư Gaselin Mai Thông Tâm, khi tôi gặp sư huynh tại Orléans vào năm 1965.) […] “Vào tháng 9 năm 1963, trên đường Nha Trang–Đà Lạt gần Phan Rang, nhân một cuộc săn cọp có sự tham dự của ông đại sứ Lalouette, ông Nhu đã tiết lộ với thị trưởng Đà Lạt Trần Văn Phước: “Đã tới lúc phải hành động cách khác. … Bắc Việt muốn thương thảo với miền Nam, tại sao ta không thử nói chuyện với họ xem sao.”” (Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Vy Khanh, ibid., trang 161-162) Ô. Cao Xuân Vỹ kể việc Ô. Ngô Đình Nhu bí mật gặp Phạm Hùng trong cuộc nói chuyện với tác giả Minh Võ, San Diego. Bài phỏng vấn của tác giả Minh Võ, mặc dầu chủ đề là nói về việc ông Nhu bí mật gặp Phạm Hùng, dài hơn 10 trang đánh máy, nhưng chỉ dành độ nửa trang đánh máy nói về việc này. Cho đến lúc viết bài này, tôi vẫn không lý giải được câu chuyện mà ông Cao Xuân Vỹ trả lời cho ông Minh Võ. Nhưng trước hết, xin đọc xem ông Cao Xuân Vĩ đã nói gì? DCVOnline tổng hợp “19. Minh Võ (MV): Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người họ bàn chuyện gì không? Cao Xuân Vỹ (CXV): Lúc ấy thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến Quận Tánh Linh ở đây có một vùng do Cộng quân kiểm soát. Ban đầu cứ tưởng đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến nơi ông Nhu bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét. Có Phạm Hùng chờ ở đó. Sau này về nhà tôi cũng không tiện hỏi ông Nhu. Nhưng qua những gì ông tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì, nội dung câu chuyện trên một tiếng đồng hồ, gồm nhiều điều cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Có một điều mà phía họ rất quan ngại, nếu không bảo là sợ, rất sợ chương trình Ấp Chiến Lược. Họ yêu cầu cho biết ai là người chủ trương và mục đích để làm gì? Ông Nhu trả lời: đó chỉ là một chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của người dân, ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các ông… Các ông bảo cán bộ đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59. Cán bộ các ông có thể về sống với dân lành tại các ấp…” (Minh Võ, “Mạn đàm với ông Cao Xuân Vỹ (Kết)”, 24/09/2007, © DCVOnline) Lê Mạnh Hùng, “Nhìn Lại Sử Việt Tập 5: Thời Cận Hiện Đại 1945-1975”, Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ 2015. Đây là một cuốn sách sử xuất bản năm 2015, sau hơn nửa thế kỷ vẫn sao chép lại một cách tùy tiện, không dẫn chứng. Xin trích nguyên văn: “Tình trạng căng thẳng giũa hai bên cuối cùng đã nổ ra vào tháng 5, 1963 khi Ngô Đình Nhu chính thức một cách công khai đặt câu hỏi rằng liệu người Mỹ có biết họ làm gì tại Việt Nam hay không và đề nghị Mỹ cắt giảm quân số 5000 người. Cũng vào đầu mùa hè năm 1963, ông Diệm và ông Nhu cũng bắt đầu tìm cách thương thuyết với Hà Nội một giải pháp giải quyết vấn đề Việt Nam dựa trên căn bản Mỹ rút ra khỏi miền Nam Việt Nam.” (Lê Mạnh Hùng, “Nhìn Lại Sử Việt Tập 5: Thời Cận Hiện Đại 1945-1975”, trang 506.) Tướng Tôn Thất Đính Trong cuốn Hồi ký “20 năm binh nghiệp”, tướng Tôn Thất Đỉnh có trích dẫn một câu nhận định được coi là của ông Ngô Đình Nhu trong một bài phỏng vấn. Lời phát biểu như sau: “Dẫu sao thì những người Cộng sản Việt Nam vẫn là những người anh em cùng quốc gia, cùng dân tộc với chúng tôi.” Ngoài câu nói đó ra thì tướng Đính còn khẳng định rằng: Tôn Thất Đính, Saigon 1963. Nguofn: LIFE “Đó là trong giai đoạn đang diễn ra cuộc thương lượng sơ bộ giữa ông Ngô Đình Nhu và một số các nhân vật cộng sản có mặt tại miền Nam, qua trung gian của Ủy Hội Quốc tế kiểm soát đình chiến, hay qua trung gian của các tổ chức MTGPMN ở Saigon. Có thể các đại diện cộng sản Bắc Việt này đã thúc giục ông Nhu ‘đuổi’ Mỹ (như chính sách và chủ trương của Hà nội lúc bấy giờ) và đặt quan hệ Bắc-Nam như chung một nhà trên tình nghĩa dân tộc, quốc gia, dù cho là Cộng sản hay chống Cộng sản.. thì vẫn là “anh em”. Đó có thể là sai lầm chính trị và sai lầm về lãnh đạo to lớn nhất của các nhân vật miền Nam Việt Nam, từ ông Nhu cho đến cả các tổ chức Hòa Hợp Hòa Giải sau này, (và có thể cả bây giờ) vì Cộng Sản không bao giờ chấp nhận người Quốc gia là anh em một nhà cả, mà xem người Quốc gia là kẻ địch thù phải đánh ngã, phải sát hại dưới bất cứ giai đoạn nào để Cộng sản độc tôn cầm nắm quyền bính.” (Tôn Thất Đính, “20 năm Binh Nghiệp tức tự truyện “Nghĩa Biển Tình Sông””, Chánh Đạo 1998, trang 295-296.) Tướng Đỗ Mậu Phần ông Đỗ Mậu thì gán cho cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 là nhằm ngăn chặn một sự thỏa hiệp giữa chính quyền Diệm-Nhu và đối phương. Ông viết: Ông Đỗ Mậu (Hoa Kỳ). Nguồn: OntheNet “Âm mưu thỏa hiệp với với chính quyền cộng sản Hà Nội của chế độ Diệm là một trong những động cơ quan trọng, nếu không nói là động cơ quan trọng nhất thúc đẩy quân đội cùng với toàn dân đứng lên làm cuộc cách mạng 1-11-63 để ngăn chặn và trừng phạt dòng họ Ngô Đình dâng miền Nam cho cộng sản.” (Maneli trích lại trong “War of the Vanquished”, trang 112.) Về các tướng đảo chính, tôi có hỏi ý kiến giáo sư Huỳnh Văn Lang – người có liên lạc và hiểu biết rõ chân tướng các tướng lãnh – nhất là những vị có chân trong đảng Cần Lao – cho nhận xét về họ. Theo gíao sư Huỳnh Văn Lang, họ không có tinh thần quốc gia, dân tộc. Gốc gác họ chỉ là những người lính đánh thuê để lại từ thời Pháp thuộc nên chỉ nghĩ tới chức tước, quyền lợi. Trong số những người ấy, những kẻ càng nịnh bợ thì càng làm phản. Mieczyslaw Maneli, Trưởng phái đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Quốc Tế kiếm soát Đình chiến (UHQTKSĐC, International Commission for Supervision and Control in Viet Nam) với cuốn “War of the Vanquished”. Trưởng Phái đoàn Ba Lan tại ICC, Mieczyslaw Maneli, và tác phẩm War Of The Vanquished. Nguồn: OntheNet Có thể nói đây là một cuốn sách ẩn trong gần nửa thế kỷ đối với tôi và có thể – tôi nói có thể vì cũng có thể có người đã đọc – đối với nhiều người khác. Nếu tôi nhớ không làm thì tôi chỉ được đọc nó khoảng năm 2008 gì đó. Sau đó thấy như một khám phá ra chất liệu mới, tôi viết bài đăng báo. Rồi in trên sách. Và không gây một chút âm vang gì cả. Và nay tôi nghĩ cần viết lại một lần nữa. Viết kỹ hơn, đầy đủ hơn, nhất là nhìn rõ hơn và khẳng định hơn. Tôi nhớ lại dư luận lúc bấy giờ coi việc ông Ngô Đình Nhu bí mật liên lạc với phía cộng sản là sự thật khỏi cần bàn cãi sau khi hai anh em ông Diệm-Nhu bị thảm sát. Lúc ấy tôi cảm thấy hơi thất vọng về họ. Ông Diệm để cả đời chống cộng sản sau lại ngả theo chiều hướng thỏa thuận với phia bên kia thì còn gì là lý tưởng? Các sách viết đề cao nền Đệ Nhất cộng hòa và các ông Diệm-Nhu phần đông đều né tránh không đề cập đến vấn đề này, vì không có tài liệu. Người thù ghét ông Diệm-Nhu thì đây là dịp để họ khai triển cái mặt tiêu cực này. Nhiều năm sau khi cuốn sách trên của Maneli đã xuất bản vào năm 1971 vẫn không có một nhà viết sử nào trong nước đọc và phổ biến tài liệu này. Về tình trạng nghèo nàn và thiếu vắng sự cập nhật sự kiện sử học thì đây là một bằng chứng hiển nhiển và nói sao cho vừa và cho hết. Chính vì thế mà sau này, cho dù ở hải ngoại, những sử gia như Vũ Ngự Chiêu chắc cũng không có cơ hội được biết đến cuốn sách này đã chẳng ngần ngại bôi bẩn chế độ Đệ Nhất Cộng hòa như ông thường làm. Nói chi đến những tướng tá như Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu, Trần văn Đôn thì sự hiểu biết về sử của họ là con số không cũng lập lại như con vẹt. Tôi hy vọng cuốn sách này cũng như tài liệu văn khố Ba Lan đã được mở ra sẽ giúp khai sáng cái mảng tối những hoạt động chính trị đi đêm với cộng sản của ông Ngô Đình Nhu. Trước hết, Maneli nguyên một giáo sư luật và đã được đảng cộng sản Ba Lan bổ nhiệm làm Trưởng Phái đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Quốc tế kiểm soát đình hiến(UHQTKSĐC). (Ủy Ban này gồm ba nước thành viên: Canada đại diện cho các nước tự do. Ba Lan cho khối cộng sản. Ấn Độ cho các nước trung lập và Ấn Độ được chỉ định là trưởng phái đoàn). Ông Maneli sang Việt Nam từ năm 1954. Ở đó hai năm trong vai trò cố vấn pháp luật và chính trị cho phái đoàn Ba Lan tại ICC rồi về nước. Giai đoạn sau tại ICC, 1963-64 với tư cách Trưởng phái đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Ông cho hay Hà Nội trong thời kỳ này thay đổi nhiều, như một thành phố buồn hiu (sad city) như Bắc Kinh. Cũng theo Maneli, qua Việt Nam, ông phải dùng đường hàng không đến Bắc Kinh và từ đó phải mất 6 ngày xe lửa từ Bắc Kinh đến biên giới Việt Nam. Và từ biên giới về Hà Nội thì dùng xe hơi. Và người đại diện của Hà Nội tiếp đón ông là Hà Văn Lâu. Cũng theo Maneli, Hà Nội cũng như Bắc Kinh không có một chút tin tưởng gì vào khả năng có thể có một sự thống nhất giữa hai miền dưới một chế độ cộng sản. Thời gian 1963 đến khi có dịp tiếp xúc với ông Nhu là một khoảng thời gian ngắn vỏn vẹn trong vài tháng. Về việc này, Trưởng Phái đoàn Ba Lan tại ICC cũng đã viết rõ ràng như sau: “Tôi đã nhận được lời mời cùng với các nhân viên UHQTKSĐC [International Commssion] đến dự buổi tiếp tân ngày 25-8-1963 của vị tân ngoại trưởng [lúc bấy giờ ông Vũ Văn Mẫu đã xin từ chức và ông Trương Công Cừu được bổ nhiệm thay thế]. Đây là buổi tiếp tân đầu tiên có mặt đại sứ Lodge, ông ta có một thái độ kẻ cả và đại diện các nước khác đối với ông ta có vẻ kính trọng. Cảnh tượng ấy làm người ta nhớ lại những quan hệ ngoại giao tại thủ đô các nước cộng sản: rất nhiều đại sứ Xô Viết cư xử giống như đại sứ Lodge, và những đại sứ đàn em thì giống như bọn học trò nhỏ trong cuộc thanh tra của thầy hiệu trưởng. Tôi đứng bên một nhóm những nhà ngoại giao Tây Âu,và kín đáo quan sát ông Nhu. Đại sứ Ý và vị khâm mạng tòa thánh, Đức cha Salvatore Asta nói với tôi rằng, tôi nên nhân dịp này mà gặp gỡ cá nhân vị Cố Vấn Tổng Thống.” Khi gặp ông Nhu, tôi nói: “I am honored to meet Your Excellency.” (Mieczyslaw Maneli, “War Of the Vanquished”, trang 136-137.) Công việc và vai trò trung gian của Khâm Mạng Tòa Thánh giới hạn chừng đó và dừng lại ở đó như trong hồi ký của Maneli. Theo hồi ký của ông Mieczyslaw Maneli, ông muốn tìm cách tiếp xúc “bí mật” với ông Ngô Đình Nhu. Và để đạt được điều này, người ta khuyên ông ta là nên gặp và tiếp xúc với các đại sứ Pháp Roger Lalouette, đại sứ Ý hoặc vị Khâm Mạng Tòa Thánh. Theo nhận xét của ông Maneli, đại sứ Roger Lalouette chỉ là người “thừa nước đục thả câu” lợi dụng sự xung đột giữa Mỹ và ông Diệm mà ông ta thừa hiểu rằng Mỹ đang tính loại bỏ Ngô Đình Diệm – một món hàng mà sau 9 năm người Mỹ đang tính khai trừ – thì tại sao người Pháp lại không nhảy vào tính mua lại với giá rẻ mạt! (Mieczyslaw Maneli, ibid., trang 125) Còn vị Khâm Mạng tòa thánh nhằm mục đích gì để dính dáng vào trò chơi quyền lực đối với một chính quyền hợp pháp? Vì vậy không lạ gì vị khâm sứ là người vận động để đưa Giám Mục Ngô Đình Thục và bà Ngô Đình Nhu ra ngoại quốc. Nhưng một điều có thể khẳng định một cách chắc chắn là việc thúc đẩy bà Ngô Đình Nhu cũng như Giám Mục Ngô Đình Thục đi ra ngoại quốc là “công” của vị khâm sứ này cũng như đại sứ Pháp. Khâm Sứ Salvatore Asta cũng là người đến gặp trực tiếp bà Ngô Đình Nhu và khuyên bà nên tạm rời khỏi nước. Bà Nhu sau đó nhận được giấy mời tham dự của Hiệp Hội Báo Chí Hoa Kỳ, nhưng trên đường đến Mỹ, bà nhận được lệnh cấm vào nước Mỹ. Lộ trình của bà Nhu phải thay đổi. Nhưng sau đó, bà lại có giấy phép nhập cảnh ngày 7 tháng 10 để đến Hoa Kỳ. Tôi không loại bỏ khả năng tình hình sẽ được cải thiện nếu bà Nhu và Tổng Giám Mục Thục rời khỏi đất nước. Và đến ngày 7 tháng Chín, 1963, Giám Mục Thục đã rời Việt Nam với sự can thiệp trực tiếp của Vatican thông qua đại diện của Vatican là viên khâm sứ tại Việt Nam. Việc Giám Mục Thục rời Việt Nam như vậy rõ ràng có sự thúc bách của người Mỹ và khâm sứ Asta. “Vị đại diện tòa thánh, khâm sứ Salvatore Asta nói với tôi rằng, tôi nên nhân dịp này gặp riêng cá nhân ông cố vấn chính trị phủ Tổng Thống. Tôi đã trả lời là tôi rất lấy làm sung sướng, nếu họ sắp xếp được buổi gặp gỡ đó. Vị khâm sứ tòa thánh, một con người thanh tú và có vẻ luôn bận rộn, một người ân cần một cách khác thường và sẵn sàng giúp đỡ tiến về phía ông Nhu trong một chốc lát, và rồi vị khâm sứ và đại sứ Orlandi, Lalouette và Goburdhun tiến thêm vài bước tạo thành một vòng, họ nói chuyện với người kia giữa họ với nhau.[…] Vị đại diện tòa thánh nêu tên tôi ra và ông Nhu chìa tay ra bắt. Sau một vài câu chuyện xã giao, ông Nhu bắt đầu câu chuyện: “Trong con người VN, vẫn có sự bén nhạy về vấn đề chủ quyền và sự nghi ngại đối với không riêng gì người Trung Hoa, mà với tất cả những kẻ xâm lược cùng thực dân, tất cả!” Ông Nhu nhắc lại chữ sau cùng khiến mỗi người chúng tôi nghĩ ông ta muốn nói gì, kể cả người Mỹ chăng?” (Mieczyslaw Maneli, ibid., trang 138) “Ông Nhu nói tiếp: “Nước chúng tôi đã đã từng cam chịu làm thuộc địa Pháp, nhưng tất cả chúng tôi đều được giáo dục trong tinh thần văn hóa Pháp. Hiện nay, chúng tôi mong mỏi hòa bình. Tôi tin rằng UHQT sẽ và nên đóng một vai trò quan trọng trong việc tái lập cho hòa bình VN […] Maneli đáp lại ông Nhu là Ủy hội sẽ đóng vai trò xây dựng đối với cả hai phía và ông bảo đảm rằng riêng phần ông, ông sẵn sàng đóng một vai trò tích cực và xây dựng. Đồng thời bày tỏ như một vinh dự để được gặp ông Nhu. Phần ông Nhu đáp lại ông có thể tiếp ông Maneli lúc nào cũng được và đại tá An sẽ lãnh nhiệm vụ sắp xếp công việc này.” (Mieczyslaw Maneli, ibid., trang 139.) “Hai ngày sau, đại sứ Ấn Độ gọi điện thoại cho tôi bảo: “Ngài cố vấn Chính trị đề nghị ông đến gặp vào ngày 2.9.1963, hồi 10 giờ sáng.” Hai ngày sau, Đại Tá An đã gọi cho tôi: “Ông Cố vấn chính trị đề nghị tôi đến gặp ông ta vào 9 giờ sáng ngày mồng 2 tháng Chín. Tôi đánh điện tín về Warsava nói về cuộc hẹn với Nhu. Và như thường lệ, tôi không nhận được sự trả lời từ Warsava. Tôi có thể giải thích sự im lặng đó theo nghĩa là: Chúng tôi không phản đối.” (Mieczyslaw Maneli, ibid., trang 139) Cho đến lúc này, ông Maneli chỉ gặp ông Ngô Đình Nhu có hai lần: Lần gặp thứ nhất có tính cách công khai như một giới thiệu Maneli với ông Nhu. Ngày 25 tháng 8 trong một khoảng thời gian rất ngắn. Chỉ có lần gặp thứ hai là gặp riêng giữa Maneli-Nhu theo lời mời của ông Nhu. Ngày 2-9 Tuy nhiên, việc tiếp xúc của Maneli với ông Nhu chỉ có tính cách “hình thức”, tính ngoại giao, không đi vào một nội dung cụ thể nào, đồng thời đã xảy ra quá trễ, vì cái hạn sống còn của chế độ ông Diệm chỉ vỏn vẹn còn có 60 ngày. Điều này cũng được đại sứ Pháp thông báo cho Maneli, một ngày trước khi gặp ông Nhu, cho biết là thời gian dành cho hai anh em ông Diệm-Nhu không còn bao lâu nữa. Mô tả quang cảnh buổi gặp gỡ, Maneli kinh ngạc khi thấy căn phòng của ông Nhu bừa bãi sách vở, tài liệu, báo chí. Và ông nghĩ không biết làm thế nào để ông Nhu kiếm ra một tài liệu nếu cần. Buổi tiếp xúc diễn ra và Nhu phủ nhận những cuộc thương lượng bí mật với cộng sản. Nhưng đồng thời ông cho rằng về mật ý thức hệ và chính trị điều ấy rất có thể xảy ra. (During our talk, Nhu formally denied that there were secret negatiations going on…[…] (Mieczyslaw Maneli, ibid., trang 148-149.) Nhưng chỉ có vậy, đến một lúc nào đó, chỉ còn mình ông Nhu độc thoại bằng một thứ ngôn ngữ triết học trừu tượng tuôn ra như một thứ ngôn ngữ hàm hồ, tối nghĩa. (Mieczyslaw Maneli, ibid., trang 143.) Tóm tắt ý chính của tác giả. Sau buổi tiếp xúc, ông Nhu có nói với Maneli là những buổi tiếp xúc như thế thật hữu ích và hy vọng có những buổi tiếp xúc khác. Nhưng nếu quả thực muốn có liên lạc chặt chẽ với Hà nội thì ông Nhu đã xúc tiến việc gặp lại Maneli. Không. Việc đó không xảy ra, dù chỉ thêm một lần. Sau đó, Maneli đã gửi bá cáo về buổi tiếp xúc với Nhu về Warsava, cho đại sứ Ba Lan tại Lào, tại Cam Bôt, gửi cho Hà Văn Lâu và đại sứ Xô Viết ở Hà Nội. Như thế thì cả thế giới biết! Dĩ nhiên Hà Văn Lâu cho rằng cuộc tiếp xúc là đúng thời điểm và rất quan trọng. Riêng Ba Lan đã gửi một mật điện cho Maneli hay trong đó không đồng ý cho Maneli tiếp xúc với Ngô Định Nhu, như sau: “We advise you against paying a visit to Nhu. He may use it for provocative purposes. Ignore the invitation” It was signed: Michalowski – the then director general of the Foreign Ministry and then Polish ambassador to…” (Mieczyslaw Maneli, ibid., trang 147.) Điện tín gửi cho Maneli ở trên càng làm nổi bật tính chất ‘vô hiệu quả’ của buổi tiếp xúc giữa Maneli-Nhu. Chỉ với hai lần tiếp xúc – thật quả là không đủ làm nên câu chuyện “đi đêm” giữa Sài Gòn và Hà Nội — đã kết thúc vào ngày 2/11/1963 không để lại dấu vết gì! Nó kết thúc cùng với cái chết của hai anh em ông Diệm. Tài liệu của Margaret K. Gnoinska, đại học George Washington University Tác giả Margaret K. Gnoinska Nguồn: trojan.troy.edu Nhưng gần đây, một số một tài liệu từ văn khố Ba Lan và các bản bá cáo của đảng cộng sản Ba Lan trích dẫn lại trong khảo luận của Margaret K. Gnoiska, càng củng cố thêm câu chuyện đi đêm giữa Saigon-Hanoi là chuyện không có thực, chỉ có mục đích tuyên truyền và lợi dụng từ nhiều phía. Tài liệu với nhan đề “Poland and Viet Nam, 1963: New Evidence on Secret Communist Diplomacy and the ‘Maneli Affair’”, thuộc viện Woodrow Wilson International Center for Scholars. Tôi xin tóm tắt sơ lược ý chính của tập tài liệu như sau. Trước đây vì không thể tiếp cận được tài liệu của Ba Lan nên đã tạo ra nhiều tin đồn, nhiều giả thuyết về việc liên lạc giữa Sài Gòn và Hà Nội – trong đó ông Nhu bí mật liên lạc với Hànội – qua trung gian Maneli, để đi tới một giải pháp trung lập miền Nam, qua mặt người Mỹ. Và vì thế bắt buộc người Mỹ phải thay thế Diệm, ủng hộ các tướng lãnh, thiết lập một chế độ mới trong việc chống cộng. Nay nhờ tài liệu văn khố của Ba Lan được mở ra mà Margaret K. Gnoiska gọi là “Bằng cớ hiển nhiên mới về bí mật ngoại giao của cộng sản và vụ Maneli.” Ít nhất, tài liệu văn khố cho thấy, chính quyền Ba Lan chưa bao giờ khởi xướng một tiến trình hòa bình như dư luận đòn thổi lúc bấy giờ và cũng đã không cho phép Maneli gặp gỡ riêng với Ngô Đình Nhu. Chính quyền Ba Lan đã ngăn cản Maneli không được dính dáng đến bất kỳ các hoạt động hoà giải, điều đình nào (any mediating activities) dù dưới áp lực của cộng sản Hà nội. Và chỉ thi hành một cách nghiêm chỉnh công việc của một thành viên của Ủy Hội Quốc tế Kiểm soát đình chiến (ICC). Dù Hà Nội có yêu cầu, Maneli cũng đã từ chối. Cũng theo nguồn tài liệu mới được mở ra, Hà nội muốn bắt đầu với những trao đổi về văn hóa và thương mại (đổi than miền Bắc lấy gạo của miền Nam) trước khi có những giàn xếp thỏa thuận về chính trị. Tài liệu cũng chỉ cho thấy rằng cả miền Bắc lẫn miền Nam không tin tưởng được vào Maneli đủ để Maneli có thể đóng vai trò trung gian giàn xếp việc trung lập hóa miền Nam như các nguồn tài liệu của Mỹ. Theo Margaret K. Gnoinska, có hai nguồn tài liệu gốc của Ba Lan: 1. Một là nguồn tài liệu văn khố thuộc Bộ ngoại giao Ba Lan (Archiw Ministerstwa Spraw Zagraniczych; AMSZ.) 2. Hai là tài liệu văn khố thuộc đảng cộng sản Ba Lan trước đây (The Archive of modern Records; Archiwum Akt Nowych, AAN) Tài liệu văn khố thứ nhất của Bộ ngoại giao Ba Lan(AM SZ) ghi lại tất cả các điện tín bí mật (szyfrogamy) giữa Ba Lan và Moskova. Trong những điện gửi về Ba Lan, Maneli không hề ám chỉ gì đến việc Maneli giúp Diệm-Nhu điều gì trong việc liên lạc với Bắc Việt như các nguồn tin của Mỹ. Có thể Nhu nói đến chuyện trao đổi thương mại với miền Bắc hoặc tỏ ra tức giận với người Mỹ và muốn có một Việt Nam tự do và độc lập. Nhưng Nhu đã không có ý định cắt đứt mối liên lạc với người Mỹ. Maneli nhận xét là Nhu tỏ ra dè dặt và nghi ngờ trong buổi gặp gỡ giữa hai người và điều đó chỉ ra rằng Nhu không tin tưởng vào Maneli trong vai trò trung gian tiếp xúc giữa Saigon và Hà nội. Cũng qua bá cáo của Maneli, Nhu không có một xác nhận cụ thể nào vì còn có những hy vọng nối kết lại với người Mỹ. Cùng lắm Maneli chỉ đóng vai trò người đưa tin (messenger) thay vì vai trò người điều đình (mediator). Tóm lại, do đó không có một bằng chứng cụ thể nào về một đề nghị chính trị từ phía Hà Nội cho Maneli đến có thể vì những đề nghị ấy là nguyên cớ cho sự sụp đổ chính quyền Diệm vào năm 1963 như các nguồn tin từ phía Mỹ hay từ phía các nướcphương Tây cũng như từ giới báo chí miền Nam. Nhưng có thể có những câu hỏi đặt ra là tại sao Maneli đã gặp Nhu mặc dầu không có chỉ thị và cho phép của chính phủ Ba Lan? Có phải chỉ vì ông tò mò theo thói thường hay có một tham vọng cá nhân nào? Hay có thể ông đã chịu sức thúc ép của Hà Nội? Hay ông nghĩ rằng Liên Xô và chính phủ Ba Lan thỏa thuận cho một cuộc gặp gỡ như vậy? Hay sự khuyến khích của đại sứ Pháp Lalouette và các nhà ngoại giao phương Tây ở Sài gòn mà ông đã quên đi cái bổn phận của ông là đại diện cho Ủy Hội? Tài liệu sách vở của Mỹ Thật là khá ngạc nhiên khi mở các tài liệu, sách báo Mỹ để xem họ nhận định như thế nào về vụ đi đêm giữa Maneli-Ngô Đình Nhu. Ngoài tài liệu của lầu năm góc đã trich dẫn ở trên, tôi hầu như không thấy một tài liệu, một cuốn sách nào đề cập xa gần tới vấn đề này. Trong điều kiện giới hạn về tài liệu và cũng không có thời giờ để có thể đọc thật kỹ lại từng cuốn sách một, nhưng nói chung, người Mỹ họ không quan tâm đến vấn đề này. Điều đó gián tiếp khẳng định việc đi đêm giữa Hà Nội-Saigon hay giữa Maneli-Ngô Đình Nhu hat “giải pháp Bắc-Nam” chỉ là chuyện dàn dựng và tin đồn. Cuốn thứ nhất, theo tôi, đây là cuốn quan trọng nhất và đã dẫn chứng cuốn sách của một tác giả thời kỳ 1963, Stanley Karnow vốn là một thành phần khuynh tả, không ưa chế độ ông Diệm. Cuốn sách có nhan đề “Viet Nam. A History. The first Complete Account of Vietnam at War”, in năm 1983. Cuốn thứ hai của William Colby nhan đề “Lost Victory”, in 1989. Ông là một nhan viên tình báo cao cấp của Mỹ, có hai lần sang Việt Nam làm việc, rất am hiểu tình hình miền Nam và ông đỗ cái lỗi mất miền Nam là do chính sách sai lầm của Mỹ. Đối với tôi, đây là một cuốn sách xứng đáng có trong tủ sách của mình. Nguồn: Univ Pr of Kansas (April 21 2009) Cuốn thứ ba của John Prados. “Vietnam: The History of an Unwinnable War, 1945-1975”, 2009 Đây là một công trình khảo cứu công phu và đồ sộ về mặt tài liệu. Ông cũng là tác giả các cuốn, “The Blood Road: The Ho Chi Minh Trail and the Vietnam War”, và “The Hidden History of the Vietnam War”. Cuốn thứ tư của Arthur J. Dommen nhan đề “The Indochinese Experience of the French and the American”, 2001, với lời đề tặng cuốn sách cho một người tên Loan. Dommen vốn là một nhà báo làm việc ở Saigon trong nhiều năm. Cuốn sách kể chyện từ thời Pháp sang thời VNCH bằng những phân tích tinh hình chung của Đông Dương cũng như giai đoạn lật đổ ông Diệm một cách khá trung thực và công bằng. Và chúng tôi chưa kể đến những nhà báo có thái độ thù nghịch với chế độ Diệm như David Halberstam của tờ New York Times. Neil Sheehan của United Press International và Malcom Browne của Asociated Press. Kết luận Khi trình bày tất cả các nguồn tài liệu vừa dẫn trên, người viết đi đến kết luận như sau: Những người ủng hộ ông Diệm. Số này khá đông. Họ rất khó xử khi đề cập đến vân đề ông Diệm móc nối liên lạc với miền Bắc.Bởi thế phần đông họ giữ thái độ im lặng, không lên tiếng, hoặc né tránh không đề cập đến vấn đề đi đêm giữa Maneli-ông Nhu. Có thể họ im lặng vì muốn giữ uy tín cho chế độ, có thể họ không đủ chứng cớ tài liệu để có thể phản bác lại dư luận.Tuy nhiên, trong số này, tôi thấy ông Cao Xuân Vỹ qua phỏng vấn của tác giả Minh Võ khẳng định ông Nhu gặp Phạm Hùng như đã trình bày ở trên, rồi Trần Kim Tuyến và Cao Thế Dung dựa trên lời kể lại của đại úy cận vệ của ông Nhu, đại úy Hạp, kể lại ông Nhu thường gặp một người Việt Năm, buổi tối tại nhà đại sứ Ấn Độ. Ông Nguyễn Văn Châu trong luận án do Nguyễn Vy Khanh dich đã cho thêm nhiều giai thoại không cách nào kiểm chứng được: Hà Nội cho phép lãnh sự quán Pháp bay thẳng từ Hà Nội đến Sài Gòn? Có băng cassette thu cuộc trao đổi giữa Hà Nội và Sài gòn mà hiện nay còn lưu trữ được tại một đại học ở California, nhưng không ghi rõ đại học nào, tài liệu số mấy, mà chỉ qua lời kể của một sư huynh. Đúng là một huyền thoại. Chúng tôi chỉ muốn dùng tài liệu gốc để chứng minh rằng ông Ngô Đình Diệm có thể hoàn toàn không biết chuyện này và cũng có thể không bao giờ ông chấp nhận một cuộc thương thuyết nào với phía cộng sản và phía cộng sản có thể cũng làm như vậy. Chủ trương của cộng sản là chiếm đánh miền Nam đi đến chiến thắng bằng bất cứ giá nào. Phía ông Nhu thì thực chất có thể chỉ là trò chơi hỏa mù – một thứ provocative với người Mỹ. Nhưng quả thực như thế thì kết quả sau cùng xác nhận đó là một trò chơi nguy hiểm. Phía đối lập với chính phủ. Quan trọng nhất là về phía tướng lãnh. Quan trọng, nhưng lại chỉ là cái cớ biện hộ cho việc lật đổ chế độ ông Diệm. Ngoài ra trong đó có cả những người như Trần Kim Tuyến cũng có mưu đồ đảo chánh ông Diệm với danh sách thành lập chính phủ thì đây chỉ là cơ hội nhận chìm chế độ. Còn kẻ có “giấy phép giết người” như Cabot Lodge thì đây là cách loại trừ chính đáng nhất. Về phía dư luận, chúng tôi không quan tâm nhiều tới các tài liệu về phía Việt Nam từ trước 1975 đến sau 1975 thường có thói quen lười biếng – không sưu tầm tài liệu – viết rập khuôn nhau, sao chép một cách máy móc mà không có cách nào có thể kiểm chứng đúng hay sai. Cái gì của dư luận để cho dư luận mà người làm biên khảo không cần bận tâm vì ai cũng có thể đồn thổi, bịa đặt. Cuối cùng chỉ còn tài liệu gốc trong văn khố Ba Lan là có sở để chứng tỏ một cách khẳng định là không có một giao thiệp chính thức nào giữa chính quyền Ngô Đình Diệm và chính phủ miền Bắc. Chuyện đi đêm giữa Maneli và ông Ngô Đình Nhu là một sự giàn dựng từ đầu tới cuối. nguồn : 2016 DCVOnline
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 28, 2017 16:12:38 GMT 9
QUAN ĐIỂM CỦA ÔNG NGÔ ĐÌNH NHU VỀ HIỂM HỌA XÂM LĂNG TRUNG CỘNG
Khi hay tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, Cố Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, đã nhận xét: Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề trong vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp… Tôi khâm phục ông Diệm, ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm nữa mới tím được một lãnh tụ cao quí như vậy. Nhưng khi đọc xong tác phẩm Chính Đề Việt Nam của ông Ngô Đình Nhu, tôi nghĩ cần phải thêm vào lời nhận xét đó, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm hay nhiều hơn nữa mới tìm được một nhà lãnh đạo có viễn kiến chính trị sâu sắc như ông Nhu.. Thực vậy, đối với cá nhân người viết, sau hơn 30 năm giảng dạy và nghiên cứu về các vấn đề chính trị Việt Nam tại một số các viện đại học, các viện nghiên cứu, các bảo tàng viện và thư viện tại Việt Nam, Úc, Hoa Kỳ và Âu châu.. người viết được các đồng nghiệp và các chuyên gia quốc tế về Việt Nam đã dành cho một chút cảm tình và nễ trọng về kiến thức chuyên môn và sự khổ công đọc sách. Tuy nhiên, với tất cả sự thận trọng cần thiết của một người nghiên cứu lịch sử, người viết phải thành thật công nhận rằng, trong tất cả những sách nghiên cứu mà người viết đã có dịp đọc trong hơn 30 năm qua vì sở thích hay vì nhu cầu giảng dạy và nghiên cứu đòi buộc phải đọc bằng Việt, Pháp và Anh ngữ, chưa có một tác phẩm nào, thể hiện một sự tổng hợp bao quát và rất giá trị về các vấn đề chính trị thế giới trong hơn 200 năm qua, để rồi sau đó đưa ra những viễn kiến chính trị vô cùng sâu sắc để làm Kim Chỉ Nam Phát Triển cho Việt Nam cũng như các Quốc Gia Chậm Tiến trên thế giới, như tác phẩm này của ông Nhu. Có lẽ phải nói đây là một đóng góp quí báu vào kho tàng tư tưởng chính trị thế giới. Và giả dụ rằng, nếu có thể sống thêm 100 năm nữa để đọc sách, người viết nghĩ rằng không thể nào có được một óc tổng hợp bao quát, đứng đắn và một viễn kiến chính trị sâu sắc thần kỳ như tác giả của quyển Chinh Đề Việt Nam. Vì tác phẩm nguyên bản bằng Pháp ngữ, và người viết tin rằng dịch giả đã rất xuất sắc trong khi chuyễn ngữ, vì ấn bản Việt ngữ đã diễn tả một cách hết sức lưu loát những khía cạnh sâu sắc và phức tạp của các vấn đề. Tuy nhiên, những người đã quen tiếp cận với lối hành văn của ông Nhu qua các diễn văn mà Ông đã soạn thảo cho Tổng Thống Diệm trong suốt 9 năm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa,chắc chắn sẽ thấy rằng cách hành văn trau chuốt, chính xác, nghiêm túc, sắc bén và chặt chẻ của ông Nhu mà bản dịch không thể nào thể hiện được. Tuy nhiên, người viết muốn độc giả trực tiếp tiếp cận, một phần nào, với cách luận giải và trình bày độc đáo của ông Nhu về các vấn đề chính trị Việt Nam và quốc tế, nên người viết đã quyết định trích nguyên văn những phần trong Chính Đề Việt Nam liên quan dến chủ đề của bài viết này. Và người viết sẽ hạn chế tối đa phần đưa ra những diễn giải và nhận xét riêng tư của mình. Về nội dung tác phẩm, có lẽ phần cuốn hút được sự ngưỡng mộ nhất của người viết là, trước đây gần nữa thế kỷ, ông Nhu đã nhận xét Liên Sô sẽ tự giải thể để làm hòa với Tây Phương và Trung Cộng sẽ thất bại trong việc sử dụng chủ nghĩa Cộng Sản để phát triển kinh tế, cũng như Âu Châu sẽ tập hợp lạii với nhau trong một khối thống nhất như Khối Liên Hiệp Âu Châu ngày nay. Nhưng điều hấp dẫn hơn nữa, ông Nhu đã không đưa ra những lời tiên đoán như một người thầy bói hay một chiêm tinh gia, trái lại, ông đã đưa ra những phán đoán của mình, sau khi đã phân tích và tổng hợp các dữ kiện lich sử và các biến cố chính trị thế giới, một cách khoa học, khách quan và vô tư. Chính vì vậy, người viết nghĩ rằng tập sách này sẽ có một mãnh lực vô cùng hấp dẫn đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam và các quốc gia chậm tiến Á Phi, nếu họ thực sự mong muốn xây dựng và phát triển đất nước, theo một đường lối khoa hoc, thực tiển và hợp lý nhất. Ví tác phẩm bao quát nhiều vấn đề lớn lao liên quan đến kinh nghiệm phát triển kinh tế của Nhật Bản, Liên sô, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ.. và cả trường hợp của Trung Cộng nữa. Đó là những đề tài quá lớn cho bài viết này. Do đó, người viết nghĩ rằng, vấn đề thời sự nóng bỏng nhất hiện nay là vấn đề Trung Cộng xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải, các hải đảo Hoàng Sa & Trường Sa cùng vùng Cao Nguyên Trung Phần. Chúng ta thử tìm xem, gần 50 năm trước đây, ông Nhu đã tiên đoán hiểm họa này ra sao, đã kiểm điểm lại chinh sách ngoại giao sai lầm của chúng ta như thế nào và phương sách nào phải theo đuổi để chống lại Trung Cộng, để chúng ta có thể thấy được kiến thức uyên bác của một chính trị gia và cũng là một học giả lỗi lạc của thời đại chúng ta. Sự Thiển Cận Của Nhà Cầm quyền Hà Nội. Sự xâm lăng của Trung Quốc đối với Việt Nam có tính cách trường kỳ, nhưng những nhà lãnh đạo Hà Nội vì thiển cận và vì quyền lợi hẹp hòi của Đảng Cộng Sản và cũng có thể vì quyền lợi cá nhân ích kỷ của những vị lãnh đạo, đã không ý thức hiểm họa xâm lăng khiếp hải đó của Trung Quốc, họ đã xem nhẹ quyền lợi của quốc gia, dân tộc, đã liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, đánh mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, là khai thác những mâu thuẫn giữa hai khối Tây Phương và Liên Sô sau Thế Chiến Thứ Hai, để khôi phục độc lập và nhận viện trợ của cả hai khối để phát triển dân tộc…như Ấn Độ. Trái lại, việc cam tâm làm chư hầu cho Trung Cộng và Liên Sô đã đưa Việt Nam vào cuộc chiến tranh với Tây Phương một cách vô nghĩa và phi lý, và đã đem lai một hậu quả vô cùng khủng khiếp cho cả dân tộc, đó là sự hủy diệt toàn bộ sinh lực của quốc gia, cả về phương diện tinh thần lẫn vật chất và sinh mang của người Việt, trong suốt hơn 30 năm… Nhưng còn tệ hại hơn nữa, là sự nhận viện trợ đó từ Trung Cộng đã là tiền đề để rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam ngày nay. Từ những năm đầu của thập niên 1960, ông Nhu đã nhìn thấu suốt được hiểm họa xâm lăng truyền kiếp đó như sau: Trong lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu hồi phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình. Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm trên. Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, vì Đinh Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo quân, do đường thuỷ và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa. Ý cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất. Trong 900 năm, từ năm 939 đến năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xã hội Đông Á làm cho những mâu thuẫn, nội bộ của xã hội này, tạm ngưng hoạt động, Trung Hoa đã bảy lần toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần nhà Nguyên, một lần nhà Minh và một lần nhà Thanh. Một hành động liên tục như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn định: lưu vực sông Hồng Hà là đướng thoát ra biển thiên nhiên của các tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đã như vậy thì, ngay bây giờ, ý định của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần. Cũng chỉ vì lý do này mà, năm 1883, Lý Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức cầu viện để chống Pháp, đã, thay vì gởi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa để chống ngoại xâm, và thay vì cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa đáng lý ra có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia cắt Việt Nam với Pháp, Trung Hoa dành cho mình các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để lấy đường ra biển. Và ngay Chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 16 trở lên phía Bắc cũng vì lý do trên. Xem thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên. Do đó, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như Trung Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp. Sùng Bái Chủ Nghĩa Cộng Sản là một Sai Lầm Nghiêm Trọng Trong khi Liên Sô và Trung Cộng xem chủ nghĩa Cộng Sản như là phương tiện tranh đấu để qui tụ các nước nhược tiểu Á Phi vào đồng minh với họ, chống lại sự bao vây của Tây Phương nhằm giúp họ phát triển kinh tế của đất nước họ, thì Cộng Sản Việt Nam sùng bái chủ nghĩa Cộng Sản như là một chân lý để cải tạo xã hội và xây dựng đất nước. Chính vì sự thiếu sáng suốt của nhà cầm quyến Hà Nội đã khiến Việt Nam phải bị chia cắt làm 2 miền vào năm 1954, mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, để xây dựng đất nước và củng cố độc lập để chống ngoại xâm. Ông Nhu đã luận giải nan đề đó như sau: Nhưng chúng ta cũng còn nhớ rằng Nga Sô sở dĩ liên kết với các thuộc địa của Tây phương là bởi vì Nga Sô cần có đồng minh trong công cuộc chiến đấu trường kỳ và vĩ đại với Tây phương, mà mục đích trước hết và trên hết, là phát triển dân tộc Nga. Tính cách thiêng liêng giữa các đồng chí của lý tưởng cách mạng xã hội thế giới chỉ là một tín hiệu tập hợp qui tụ kẻ thù của Tây phương vào một mặt trận phục vụ một chiến lược tranh đấu của dân tộc Nga. Ngày nay, mục đích phát triển của Nga đã đạt. Sự thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của Nga Sô bằng những giá trị tiêu chuẩn, di sản của văn minh nhân loại, như chúng ta đã thấy trong một đoạn trên, là một bằng cớ hùng biện nhất, soi sáng lập trường của Nga. Trung Cộng tố cáo Nga phản bội chủ nghĩa Các-Mác Lê-Nin vì những sự kiện trên. Trung Cộng lại muốn thay thế Nga, nhân danh chủ nghĩa Các-Mác Lê Nin hô hào qui tụ các nước kém mở mang, để phục vụ công cuộc phát triển cho dân tộc Trung Hoa. Ngày nào mục đích phát triển đã đạt, thì cuộc đồng minh mới này do Trung Cộng đề xướng cũng không còn hiệu lực đối với Trung Cộng, cũng như cuộc đồng minh trước đây do Nga đề xướng, ngày nay, không còn hiệu lực đối với Nga. Và mục đích cuối cùng của cuộc tranh đấu vẫn là mục đích dân tộc. Nhiều nhà lãnh đạo Á Đông mà quốc gia cũng đã bị Đế quốc thống trị, đã đủ sáng suốt để nhìn thấu thâm ý chiến lược của Nga Sô. Gandhi và Nehru, từ chối sự đồng minh với Cộng Sản vì lý do trên. Chúng ta chưa có một tài liệu hay một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay đã nhận thức các điều kiện trên. Ngược lại, các thư lại chính trị của miền Bắc còn đang ca tụng như là những chân lý những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ. Như thế thì có lẽ dân tộc chúng ta còn phải bất hạnh mục kích các nhà lãnh đạo miền Bắc của chúng ta tôn thờ như một chân lý, một lý thuyết mà Nga Sô và Trung Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô bắt đầu sa thải khi mục đích phát triển đã đạt. Như thế thì, giả sử mà người Pháp có thật sự thi hành một chính sách trả thuộc địa, như người Anh, đối với Việt Nam, thì các nhà lãnh đạo miền Bắc cũng chưa chắc đã đưa chúng ta ra được ngoài vòng chi phối trực tiếp của hai khối để khai thác mâu thuẫn mà phát triển dân tộc. Trong hoàn cảnh mà cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối nặng nề hành động chính trị của các quốc gia nhỏ, lập trường Cộng Sản, lệ thuộc Trung Cộng, của các nhà lãnh đạo miền Bắc, đương nhiên gây phản ứng của Tây phương và sự phân chia lãnh thổ cũng không tránh được. Như vậy, tư cách Cộng Sản của các nhà lãnh đạo miền Bắc là một điều kiện thuận lợi giúp cho người Pháp thi hành những toan tính chính trị của họ ở Việt Nam. Và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng là một nguyên nhân của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam, trong khung cảnh chính trị của thế giới, sau Đại chiến thứ hai, do sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối. Tóm lại nguyên nhân sâu xa của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam ngày nay là chính sách thuộc địa của Pháp và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng của các nhà lãnh đạo miền Bắc. Trong thực tế, sự phân chia đã nảy mầm khi hai quốc gia Tây phương Anh và Mỹ, để dọn đường cho một giải pháp chấm dứt sự bế tắc của Pháp ở Việt Nam, nhìn nhận và bắt dầu viện trợ cho quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, viện trợ quân sự và kinh tế đều qua tay chính phủ Pháp. Và một phần lớn, đã được sử dụng trực tiếp hay gián tiếp trong công cuộc tái thiết nước Pháp đã bị chiến tranh tàn phá. Thời gian qua, xét kỹ thì thời kỳ này lại là thời kỳ mà những thủ đoạn chính trị của Pháp ở xứ này mang đến nhiều kết qảu nhất. Bên khối Cộng Sản, Nga và Trung Cộng cũng nhìn nhận Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam và cũng bắt đầu viện trợ. Từ đây, chiến cuộc Việt Nam, biến thành một chiến trường quân sự và địa phương của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương. Những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương mà, đúng lý ra, phải được dùng để phát triển dân tộc, lại trở thành những khí giới gieo rắc sự chết cho toàn dân. Những yếu tố của một cơ hội phát triển đã biến thành những khí cụ của một tai họa. Đồng thời, điều này vô cùng quan trọng cho chúng ta, sự chi phối của Trung Hoa, và sau lưng sự chi phối, sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa, mà chúng ta đã biết là vô cùng nặng nề, một cách liên tục, cho chúng ta trong hơn tám trăm năm, tạm thời đình chỉ trong gần một thế kỷ Pháp thuộc, đã bắt đầu hoạt động trở lại dưới các hình thức viện trợ và cố vấn quân sự cho quân đội của Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam. Chúng ta thừa hiểu rằng sự phát triển của Tàu, là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh hiện nay của các nhà lãnh đạo Trung Cộng, cũng như sự phát triển của Nga là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh trước đây của các nhà lãnh đạo Nga. Nhưng Hà Nội còn phạm những lỗi lầm nghiệm trong hơn nữa, khi quyết định dụng võ lưc để thôn tính miền Nam, đã dẫn tới việc trực tiếp đụng độ quân sự với Hoa Kỳ, khiến miền Bắc đã khánh tận và kệt quệ trong cuộc chiến tranh chống Pháp càng lún sâu trong cảnh tượng hoàn toàn đỗ nát và hoang tàn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, mà ngày nay, qua hành động gần như van nài của Hà Nội để xin lập lại bang giao với Hoa Kỳ vào năm 1996, ai còn chút lương tri bình thường cũng thấy rằng cuộc chiến đó là hoàn toàn vô lý và xuẫn động, mà nguy hiểm hơn nữa là trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Cộng tự do xâm lăng Việt Nam, vì Mỹ đã không còn hiện diện ở miền Nam, để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng. Trong tác phẩm Chinh Đề Việt Nam, hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng ngày nay cũng đã được báo động cách đây gần 50 năm: Sự lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Ký ức của những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta còn ghi trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta. Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc. Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian. Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung hòa bình của Nga Sô. Vì vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách trống trị một lần nữa. Chính Sách Ngoại Giao Có lẽ, trong quá khứ, chúng ta quá sùng bái văn hóa Khổng Mạnh và quá lệ thuộc về chính trị đối với các Hoàng Đế Trung Quốc, nên chúng ta đã không xây dựng được một đường lối ngoại giao khoáng đạt như Nhật Bản để có thể cứu nguy cho đất nước, khi dân tộc bị nạn ngoại xâm. Ông Nhu đã kiểm điểm sự thất bại nặng nể của chính sách ngoại giao của các vua chúa ngày xưa qua những dòng dưới đây: Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc. Hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế. Tâm lý thuộc quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại còn lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, thì đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lý đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng gay go. Đã đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công trình mà dân tộc đã thực hiện được. Nhưng chúng ta còn thiếu tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc phong phú hơn thì, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển? Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng ta, đã sớm phát ra nhiều ngõ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ đã rộng rãi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi dào và hữu hiệu hơn. Nhưng thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam. Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lãnh đạo Triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao rộng rãi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là vì các nhà lãnh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nỗi không khí tâm lý thuộc quốc đã đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta. Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa. Chúng ta đã biết Trung Hoa đã hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của nhà Nguyễn. Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đã lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt Nam. Các sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục đích điều đình, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đình, thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho mình. Vì thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên đã trình bày, thì cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại giao đó đã mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, thì có lẽ những sự thất bại nặng hơn nhiều. Sự bành trướng của chúng ta đã thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lý ra phải là cái cửa sống cho chúng ta. Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, thì ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lãnh thổ. Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đã bị ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lãnh thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm. Vì vậy cho nên, chốngngoại xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị của Việt Nam. Chính trị cổ truyền, của các triều đại Việt Nam không được quan niệm rộng rãi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng của Trung Hoa thì lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay vì mở cho chúng ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu hao chỉ để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại giao chật hẹp đã đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các nhà lãnh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ. Chính sách chống ngoại xâm. Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy. Vì sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lãnh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương? Trước hết, các biện pháp cổ truyền đã đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vấn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam. So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam, và như thế, đương đầu phải là mục đích đương nhiên, thì chúng ta đã thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta. Lý do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà Thanh, chúng ta phải nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới hạn. Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta. Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt. Nếu ý thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm não của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, thì các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí quật cường của cả một dân tộc. Nhưng ý chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lãnh đạo thì cũng không làm gì được đối với kẻ xâm lăng. Vì vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lãnh đạo, và, điều này còn chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lãnh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi vì, có như thế, những người lãnh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng. Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lý luận đã dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng. Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên. Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt. Sự thể đã như vậy, thì đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ. Bản chất của môt chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền. Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ý thức của mọi người, thì, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm. Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét người lãnh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm. Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà Nguyễn, thay vì lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đã nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân. Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Mãn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã khêu gợi được ý chí tự do và độc lập của toàn dân. Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đã nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam. Vì những lý do trình bày trên đây, chính thể thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của dân tộc. Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải như thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt. Tóm lại theo ông Nhu, muốn thoát khỏi hiểm họa xăm lăng của Trung Hoa, chúng ta phải theo đuổi 3 biện pháp sau đây: Biện pháp ngoại giao. Việt Nam cần phải có một sách lược ngoại khôn khéo, biết khai thác những mâu thuẩn giữa các cường quốc, các thế lực của các liên minh khu vực như khối ASEAN, khối Liện Hiêp Âu Châu…vì ngày nay theo khuynh hướng toàn cầu hóa của thế giới, thì ảnh hưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới cỏn có một tác động quyết định tới sự sồng còn đối với Trung Cộng, hơn là 30 hay 40 chục năm trước đây. Ngày nay, sự mâu thuẩn và tranh chấp giữa các cường quốc không còn gay cấn như thời chiến tranh lạnh, nhưng một quốc gia như Trung Cộng với một dân số hơn 1.3 tỉ người, chiếm tỉ lệ 19.64% dân số thế giới, đang vươn vai đứng dậy với tham vọng làm một cường quốc bá chủ Á Châu. Đó không những là một đe dọa riêng rẽ cho khu vực Á Châu Thái Bình Dương mà còn là một hiểm họa chung cho cả thế giới nữa. Trước đây gần 50 năm, ông Nhu cũng đã đề cập đến vấn đề này, Không phải tình cờ mà ông Paul Reynaud, cựu Thủ Tướng Pháp trong cuộc viếng thăm nước Nga đã long trọng tuyên bố với Thủ Tướng Krutchev. “ Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu Châu”. Trong tháng 9. 2009 vừa qua, nhà cầm quyền Hà Nội, đã cử Tướng Phùng Quang Thanh, sang Tân Gia Ba để ký Hiệp Ước Hợp Tác Quốc Phòng, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đến Úc Châu, và Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm đến Hoa Kỳ, bí mật thảo luận về vấn đề an ninh lãnh thổ, phải chăng là thái độ nước đến chân mới nhảy, như hai phái đoàn của các vua chúa Triều Nguyễn ngày xưa, chúng ta thử nghe ông Nhu biện giải: Sau khi Trung Hoa bị tấn công, thì lúc bấy giờ phản ứng của chúng ta là vội vã gửi hai phái bộ sang Pháp và Anh, mà không có một sự chuẩn bị ngoại giao nào cả. Lối gởi phái bộ như vậy là lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay. Và sự gởi hai phái bộ sang Pháp và Anh, theo lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay, lại càng làm cho chúng ta nhận thức, một cách rõ rệt hơn nữa, quan niệm ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ mang nặng ‘tâm lý thuộc quốc’ [đối với Tàu], đến mức độ nào. Lẽ ra, các nhà lãnh đạo Hà Nội phải tích cực hơn, phải khôn khéo hơn, nếu không dám công khai, thì ít ra cũng phải bí mật, vận động giới truyền thông thế giới, cảnh báo và vận động dư luận thế giới, trước hết là các quốc gia ở vùng Đông Nam Á Châu, rồi đến Nga Sô, Liên Hiệp Âu Châu và các quốc gia Á Phi biết về hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng. Điều rõ ràng nhất hiện nay, là các quốc gia trong vùng như Úc, Tân Gia Ba, Thái Lan, Nam Dương và Mã Lai Á, đều gia tăng ngân sách cho tài niên 2009 về Không lực và Hải quận gấp bội, nhằm đối đầu với âm mưu bành trướng của Trung Cộng. Nghĩa là các quốc gia này đều bắt đầu lo sợ về sự lớn mạnh của Trung Cộng, nhưng chưa có một vận động quốc tế nào nhằm qui tụ những nỗ lực này thành cụ thể và tích cực để ngăn chặn sự bành trướng đó. Việt Nam là nạn nhân trước hết và trực tiếp của nguy cơ này, phải biết dồn hết nỗ lực về mặt trận ngoại giao, phải vận động, công khai hoặc bí mật, tất cả các quốc gia trên thế giới nhận thức sâu sắc được mối hiểm họa nghiêm trọng này và khi tạo được sự đồng thuận của đa số… Việt Nam vận động đưa vấn đề này ra Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, dù biết rằng hiện nay Trung Cộng là 1 trong 5 hội viên thường trực của Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, mọi nghị quyết của Đại Hội Đồng. Nhưng vấn đề chủ yếu của Việt Nam là chính thức công khai đưa ra trước Liên Hiệp quốc một hiểm họa thực sự nghiêm trọng của toàn thế giới, để kiếm tim một hổ trợ quốc tế tích cực nhằm ngăn chặn âm mưu xâm lăng từ Trung Cộng. Hơn nữa, Việt Nam cũng phải biết vận động và nỗ lực đưa vấn đề này ra trước Tòa Án Quốc Tế ở The Hague (International Court of Justice at The Hague). Mục đích không phải là tìm kiếm một phán quyết của tòa án này cho vần đề tranh chấp, nhưng trọng điểm của nỗ lực này là tạo nên sự chú tâm theo dỏi của dư luân quốc tế về một hiểm họa chung của thế giới Chúng ta còn nhớ, khi muốn lật đỗ chinh quyền Ngô Đình Diệm, Nhóm chống Tổng Thống Diệm trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã vận dộng các quốc gia Á Phi đưa vấn đề được báo chí Hoa Kỳ thời đó gọi là Đàn Áp Phật Giáo và Vi Phạm Nhân Quyền tại Việt Nam, ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, chuẩn bị dư luận trước ở các quốc gia Á Phi cho việc thay đổi chính phủ tại miền Nam, trước khi âm mưu tổ chức đảo chánh ở Sài Gòn, để khỏi gây nên những ảnh hưởng tiêu cực tại các quốc gia đó đối với chính sách ngoại giao của Mỹ. Nhưng ông Nhu và Gs. Bửu Hội[6] đã phá vỡ âm mưu này bằng cách chính thức mời Liên Hiệp Quốc cử một phái đoàn đến Việt Nam điều tra tại chổ, trước khi đưa vấn đề này ra thảo luận tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Rồi khi phái đoàn này đến Việt Nam điều tra và hoàn thành một bản phúc trinh dày gần 300 trang, với kết luận là không có đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam, thì Bộ Ngoai Giao Hoa trở nên lúng túng, sợ rằng nếu đưa vấn đề này ra thảo luận tại Liên Hiệp Quốc sẽ làm giảm uy tín của Hoa kỳ và tạo cơ hội cho Trung Cộng tấn công Hoa kỳ đã xen vào nội bộ của Việt Nam và đã tổ chức đảo chánh ở Saigon, nên cử Cabot Lodge vào đầu tháng 12. 1963, liên lạc với Sir Senerat Gunaewardene của Tích Lan, là trưởng phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc lúc đó, đừng đưa bản phúc trình này ra thảo luận tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc nữa, và Sir Senerat đã đồng ý làm điều đó như một ân huệ cá nhân của ông dành cho Lodge (Gunawardene agreed to do so as a personal favor to Lodge), vì trước đây khi làm Đại Sứ Hoa kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Lodge là bạn của ông. Như vậy, chúng ta thấy đối với một cường quốc như Hoa Kỳ, họ cỏn biết vận dụng Diễn Đàn Liên Hiệp Quốc hỗ trợ cho những mục tiêu chính trị của họ. Tại sao Việt Nam đứng trước một hiểm họa đe dọa sinh tử đến vận mạng của cả dân tộc, chúng ta lại không vận động để tìm hậu thuẩn của thế giới để bảo vệ nền độc lập của chúng ta ? Nhưng thực tế, chúng ta rất đau lòng, khi thấy, các nhà lãnh đạo Hà Nội, về phương diện ngoại giao, đã đánh mất rất nhiều cơ hội lịch sử quí báu, để khôi phục độc lập cho dân tộc và phát triển quốc gia. Đó là cơ hội của những năm 1945, 1954, 1973 và 1975. Thực vậy, nếu ngày xưa các vua chúa Triều Nguyễn, vì quá tin tưởng vào văn hóa Trung Hoa đã trở nên tự tôn và thiển cận, thì ngày nay các nhà lãnh đạo Hà Nội cũng quá sùng bái chế độ Cộng Sản và quá tin tưởng vào lý luận giai cấp đấu tranh, đã trở nên mù quáng, xem mọi người đều là kẻ thù, nên chưa bao giờ họ có thể đề ra một chính sách ngoại giao khoáng đạt và lương hảo, còn về phương diện quốc nội họ cũng không có đủ cởi mở, để thực tâm mời những thành phần khác biệt chính kiến, thành lập một chính phủ đoàn kết để phất triển quốc gia. Trái lại, họ chỉ có những thủ đoạn chính trị gian trá và xão quyệt để lừa dối đối phương, để rồi cuối cùng là tiêu diệt đối phương. Điều này chứng tỏ hết sức rõ rệt khi nhìn về lịch sử Việt Nam Cận và Hiên Đại. Năm 1946, Cộng Sản dùng chiêu bài chính phủ Liên Hiệp, để tiêu diệt phe Quốc Gia, rồi năm 1954, ký hiệp định Genevea, chưa ráo mực, họ đã vi pham hiệp định này, bằng cách gài lại hơn 70,000 cán bộ tại miền Nam với âm mưu khuynh đảo chính quyền Quốc Gia Việt Nam. Đến năm 1973, một lần nữa, họ đã lừa phỉnh để tiêu diệt phe quốc gia dưới chiêu bài mới là Hòa Hợp và Hòa Giải Dân tộc. Còn đối với quốc tế, khi ký hiệp định Paris, họ long trọng cam kết để nhân dân Miền Nam hoàn toàn tự do quyết định vận mạng của mình. Ngay sau đó, khi người Mỹ, theo đúng cam kết của hiệp định này, rút khỏi miền Nam, thì họ đem quân xóa sỗ chinh phủ Sài Gòn…Với một những phương cách gọi là liên hiệp, hợp tác và một lịch sử bang giao đầy phản trắc và gian trá như vậy, ai còn có thể tin tưởng vào Hà Nội để hợp tác hữu nghị. Do dó, từ ngày cướp chính quyến tại Hà Nội vào tháng 8 năm 1945 đến nay, các nhà lãnh đạo miền Bắc bị đuôi mù bởi lý thuyết Mác-Lênin và Mao Trach Đông, theo đuổi một chế độ độc tài phi nhân, tàn sát và thủ tiêu các thành phần bất đồng chính kiến, đầy đọa toàn dân trong cảnh nghèo đói, thất học, thù hận và bắn giết lẫn nhau. Còn về phương diên quốc tế, vì thiếu hiểu biết và chỉ biết quyền lợi của phe nhóm, nên họ đã liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, để đưa toàn thể dân tộc vào một cuộc chiến tranh kéo dài hơn 30 năm. Đó là một cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt nhất trong lich sử nhân loại. Thực vậy, lâu dài nhất vì cuộc Thế Chiến I, chỉ có 4 năm, từ 1914-1918, Thế Chiền 2, chỉ có 6 năm, từ 1939-1945, và khốc liệt nhất, vì số bom đạn được sử dụng trong chiến trường Việt Nam gấp 2.5 số bom đạn dùng trong Thế Chiến 2. Nhưng điều tệ hại hơn nữa, khi nhận viện trợ từ Trung Cộng để đánh Mỹ cũng là lúc họ đã thực sự rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam. Đối với những nhà lãnh đạo có một não trạng bệnh hoạn như vậy làm sao có được một viễn kiến chính tri sâu sắc, một chinh sách ngoại giao khoáng đạt và biết khai thác những mâu thuẩn quốc tế để kiếm tìm nhũng đồng minh hữu hiệu, để rồi cùng với sự hỗ trợ tích cực của toàn dân trong nước, nhằm tạo thành một sức mạnh dũng mãnh để chống lại hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng Biện Pháp Quân Sự Hiện nay, Việt Nam có một đội quân khoảng 450,000 người. Đây là một lực lượng quân sự lớn nhất so với các quốc gia tại Đông Nam Á hiện nay. Nhưng vấn đề đặt ra liệu quân nhân dưới cờ còn có tinh thần để hy sinh và chấp nhận gian khổ để chiến đấu nữa hay không? Khi chính họ chứng kiến những thực trạng xã hội quá phũ phàng trước mắt, trong khi các lãnh tụ của họ tìm mọi cách để vơ vét tài sản quốc gia cho cá nhân, gia đình và phe nhóm, còn tuyệt đại đa số dân chúng, trong đó có cả các gia đinh bộ đội Cộng Sản, bị bóc lột, sống trong cảnh khốn cùng nhất, chưa từng thấy trong lịch sử cận đại Việt Nam, từ trước tới nay, nghĩa là còn cơ cực hơn thời Thực Dân Pháp đô hộ đất nước chúng ta. Nhưng sau hết và mấu chốt hơn hết, vẫn là vấn đề các nhà lãnh đạo Hà Nội có còn ý chí để chiến đấu nhằm bảo vệ tổ quốc chống lại họa ngoại xâm nữa hay không? Chúng ta hơi bi quan, khi nghe lời bình luận của Carl. Thayer, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam, tại Học Viện Quốc Phòng Hoàng Gia Dantroon của Úc. có lẽ bây giờ các nhà lãnh đạo Hà Nội đã trở nên quá giàu có, họ muốn được yên thân để bảo vệ tài sản và gia đình của họ hơn.. cho nên việc mất thêm một vài hải đảo xa xôi như Hoàng Sa và Trường Sa, mất thêm một ít lãnh thổ và lãnh hải ở phía Bắc không còn là vấn đề quan trọng với họ nữa ! Biện Pháp Chính Trị Đó là nuôi dưỡng tinh thần độc lập, tự cường, tự chủ cùng ý thức quốc gia và dân tộc. Ông Nhu đã biện giải vấn đề này như sau: Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt. Và sau cùng ông Nhu đã đi đến kết luận, muốn thắng hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng một chính thể chuyên chế hay độc tài như Hà Nội hiện nay, không thể nào thành công được. Trong khi đó, chúng ta đều biết rằng hiện nay thế giới đang chứng kiến những thay đổi khốc liệt nhất, đặc biệt là trong lãnh vực tin học và khoa học kỹ thuật, còn trong lĩnh vực chính trị ngoại giao, như Tổng Thống Obama, cũng kêu gọi, một sự hợp tác và hòa giải giữa các quốc gia, để đẩy lùi bóng tối của chiến tranh và nghèo đói, nhằm kiến tạo một kỷ nguyên hữu nghị, hợp tác, hòa bình và thịnh vượng cho toàn thế giới, thì các nhà lãnh đạo của Hà Nội vẫn giữ nguyên bản chất của Cộng Sản là độc quyền lãnh đạo, độc tài toàn trị và để cũng cố chính quyền chuyên chế, họ thẳng tay đàn áp đối lập, các giáo hội tôn giáo chân chính, áp dụng chính sách đầy đọa người dân trong cảnh nghéo đói, chậm tiến và thất học… để trong nước không còn ai có thể chống đối lại họ được. Với những kiểm điểm sơ lược trên đây, chúng ta đều thấy trước rằng, nếu dân tộc chúng ta không còn cơ may để thay đổi thành phần lãnh đạo tại Bắc Bộ Phủ, thi vấn đề Việt Nam nội thuộc nước Tàu chỉ còn là vấn đề thời gian. Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu Melbourne, 1. 11. 2009
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 22, 2018 13:50:57 GMT 9
Luận văn của ông Ngô Đình Nhu-------------------------------------- Dưới đây là bản tóm tắt luận văn tốt nghiệp trường École Nationale des Chartes năm 1938 của Ngô Đình Nhu (1910-1963). Luận văn này có tên “Les moeurs et les coutumes des Annamites du Tonkin au xviie siècle”. Quốc Anh bạn tôi đang dạy học ở Sciences Po đã bớt thời gian gõ đầu trí thức Pháp mà vào thư viện lục lọi và gửi về. Bạn Quốc Anh cũng đã bớt thời gian đi học để dịch bản luận văn này qua tiếng Việt với tên “Những phong tục và tập quán của người An Nam ở Đằng Ngoài thế kỷ XVII”. Nhưng trước hết là một chút thông tin về tác giả bản luận văn. Năm 1970, tức là 7 năm sau khi chế độ Diệm-Nhu sụp đổ, ông Trần Kim Tuyến, một người bạn và sau này là cộng sự thân thiết của ông Nhu, cho biết ông Nhu có bằng cử nhân văn học ở Sorbonne rồi học tiếp École des Chartes. Trong một tài liệu khác thì nói rõ ông Nhu học ngành cổ tự học lưu trữ (archiviste palégraphe). Ông Tuyến cho biết trường này rất kén chọn, sinh viên phải qua hai năm dự bị ở một trường rất danh tiếng là Henry Đệ Tứ rồi mới được nhập học, mỗi lớp chỉ có 20 học viên, sử dụng tiếng Latin rất nhiều, và chỉ có hơn một nửa số học viên này tốt nghiệp (link này cho thấy năm 1938 chỉ có 13 người trong danh sách luận văn). Do đó có từ “Chartistes” để chỉ các sinh viên tinh hoa của trường này. Năm 1961, khi ở đỉnh cao quyền lực, ông Nhu có đi qua Paris và gặp gỡ cá nhân với ngoại trưởng Pháp là Couve de Murrville, đại sứ Pháp ở VN và Étienne Manach phụ trách Châu Á của bộ ngoại giao Pháp. Cũng theo ông Tuyến thì nhờ hào quang của trường Chartes nên các cuộc gặp chỉ là cá nhân mà ông Nhu đã phá băng quan hệ Pháp Việt. Sau khi có ủng hộ của Pháp, ông Nhu bắt đầu chống Mỹ mạnh hơn, dẫn đến việc Mỹ quyết thay thế Diệm Nhu. Và theo như Phạm Xuân Ẩn trong “Perfect Spy” thì một trong những lực lượng gây ra cái chết của ông Nhu chính là CIA, đã can thiệp sâu vào đảo chính, thông qua một người bạn CIA của ông Ẩn tên là Lou Conein. Tuy nhiên, ông Ẩn tránh không nói đến ai trực tiếp ra lệnh giết ông Nhu, có thể bởi người ra lệnh (Minh Cồ) lại là bạn của ông Ẩn. Có vẻ như giữa ông Ẩn và ông Nhu chỉ có một người bạn chung nổi tiếng: đại tá Edward Lansdale, người vẫn được cho là nguyên mẫu của The Quiet American , và dù có không phải thì về sau tiểu sử của Lansdale vẫn có tên là The Unquiet American . Trở về Hà Nội năm 1938 ngay sau khi tốt nghiệp (28 tuổi), ông Nhu làm việc như một học giả trẻ cho đến khi bị lùng bắt và phải bỏ trốn qua Lào rồi về Đà Lạt. Cụ thể từ năm 38 đến 43 ông làm nhân viên Nha văn khố trung ương Hà Nội. Sau đó kiêm thêm Chủ sự văn khố tòa khâm sứ Huế. Triều đình Huế cũng bổ nhiệm ông làm Chủ tịch hội đồng chỉnh đốn Châu bản của Văn khố nhà Nguyễn. Sau đó Nhật đảo chính Pháp, ông Nhu (có thể vì có anh ruột là ông Diệm thân Nhật chống Pháp) nên được bổ nhiệm làm Giám đốc văn khố trung ương tại Hà Nội. Năm 1945 ông Nhu đã kịp xuất bản cuốn khảo cứu ” “La Fête de l’ouverture du Printemps a Hanoi – Hội Khai xuân ở Hà Nội”. Trong thời gian này, ông Nhu cũng lấy vợ, đám cưới được làm lễ ở Nhà thờ lớn Hà Nội. Vợ ông là Trần Lệ Xuân, kém ông 14 tuổi, sau này nổi tiếng với tên gọi “đệ nhất phu nhân” ở Việt Nam, và với tên do tổng thống Kennedy đặt là Dragon Lady (bà chằn) ở Mỹ. Trần Kim Tuyến mô tả bà Trần Lệ Xuân, một thiếu nữ trẻ đẹp, sống trong nhung lụa, phải học tiếng Việt qua gia sư, và là “một phụ nữ thuộc một giai cấp ở Việt Nam không có”. Bà Xuân đã “nuôi chồng” suốt thời gian ông Nhu “thất nghiệp, chưa có sự nghiệp”, ở Đà Lạt và sau đó là Sài Gòn. Thời kỳ đó ông Nhu không có cả tiền để mua thuốc lá và ăn sáng, phải có bạn bè cộng sự “bao”. Cuộc sống giản dị kiểu một trí thức khắc kỷ này đã đi cùng ông Nhu đến hết cuộc đời. Các tài liệu nói rất rõ sau Cách mạng tháng 19/8/1945 ông Diệm bị bắt và được thả, nhưng về ông Nhu thì chỗ nói bị bắt, chỗ nói không bị bắt. Tuy nhiên theo như tôi hiểu qua câu chuyện tôi mới được nghe kể gần đây thì ngay sau 19/8 ông Hà đã đến gặp ông Nhu (lúc đó làm việc dưới quyền bộ trưởng Võ Nguyên Giáp) rồi sử dụng xe của chính phủ (đi mua gạo) để đưa ông Nhu trốn ra ngoại thành, rồi đi Phát Diệm. Chi tiết này có lý vì ông Hà lấy bằng Tiến sỹ Chính trị học ở ngôi trường danh tiếng Sciences Po năm 1937 rồi về nước hoạt động xã hội rất mạnh, trở nên nổi tiếng và có rất nhiều quan hệ với các phe phái lực lượng. Chắc ông Hà có quen ông Nhu từ lúc ở Paris, và ở thời điểm sau 19/8 ông Hà có thể biết ông Nhu đang gặp nguy hiểm (hai người anh của Nhu một bị bắt, một bị giết cùng thời kỳ này) đã báo cho ông Nhu và giúp ông Nhu bỏ trốn. Cuộc gặp giữa ông Hà và ông Nhu, tôi nghe kể: “nói bằng tiếng Pháp, tôi chỉ nghe được câu mốt câu hai, nhưng chắc chắn là về chính trị”, có lẽ “chuyện chính trị” mà hai ông nói liên quan đến việc tính mạng ông Nhu đang nguy cấp. Trong quá trình chạy trốn, ông Nhu quen Trần Kim Tuyến, lúc này là một thành niên trẻ mới học xong tú tài. Trần Kim Tuyến sau trở thành trùm mật vụ của chế độ Diệm-Nhu trước khi bị ông Nhu nghi ngờ và cách chức. Sau khi bị Nhu phế, ông Tuyến sợ quá trốn ra nước ngoài. Sau sự kiện 1963 ông Tuyến mới dám trở về Sài Gòn những cũng vẫn bị bắt. Người cứu ông là Phạm Ngọc Thảo, một điệp viên của miền bắc, và là đại tá quân đội VNCH lúc bấy giờ. Đến 30/4, một lần nữa ông Tuyến lại được Phạm Xuân Ẩn, cũng là một tay tình báo của miền bắc, cứu vào phút chót. Chưa hết, trợ lý thân tín của ông Tuyến là Ba Quốc, cũng là tình báo của miền bắc (thiếu tướng Đặng Trần Đức). Điều này thật kỳ lạ. Nó cũng kỳ lạ như Phạm Ngọc Thảo sau chính biến đã đem một toán quân xuống Chợ Lớn để cứu Diệm và đưa Nhu ra nước ngoài nhưng bất thành. Chuyện đại tá Thảo và ông Ẩn hai lần cứu cựu trùm mật vụ Trần Kim Tuyến, đều do ông Ẩn và chính bác sỹ Tuyến kể lại. Sau này, năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị mật vụ truy sát, bắn ở bờ suối, nhưng không chết mà vẫn xin được giấy của học trò để viết tin nhắn. Bức thư viết tay đẫm máu của ông Thảo hiện vẫn ở Sài Gòn. Cách đây mấy hôm tôi đã ngồi cách nó chỉ độ hai mét nhưng mà không được xem tận mắt. Ông Nhu, vốn là con trai của một gia đình quan lại phong kiến nhưng theo tây học, trở thành học giả trẻ uyên bác, điều này lý giải cho việc sau nhiều năm ở ẩn ông bất ngờ trở thành một chính trị gia mưu lược và bí hiểm. Các phát biểu của ông Nhu cộng với nội dung cuốn sách, được coi là của Ngô Đình Nhu, xuất bản sau khi ông bị giết (Chính đề Việt Nam) hé lộ rất nhiều chi tiết cho thấy một học giả cổ sử, am hiểu lịch sử Việt Nam và Châu Âu, đã nghiền ngẫm tri thức trị quốc của nhà Nguyễn, của Châu Âu rồi biến nó thành tư tưởng và học thuyết chính trị của riêng mình. Cách ông Nhu sáp nhập Hoàng Triều Cương Thổ, dẹp yên các tổ chức có vũ trang ở miền nam, xây dựng ấp chiến lược … (theo thứ tự) cực kỳ giống những gì nhà Nguyễn đã làm (theo thứ tự) với vương quốc cuối cùng của Chân Lạp (1832), dẹp loạn Lê Văn Khôi (1832-1835), dẹp Mọi Đá Vách ở Quảng Ngãi (1863). Trong Chính Đề Việt Nam (sử dụng bút danh Tùng Phong) ông cũng không che dấu các bí quyết trị quốc phải được truyền từ đời (vua) này qua đời khác, một cách nói khéo rằng các ông đã học các bí quyết trị nước từ quá khứ. Ở một khía cạnh khác, ông Nhu học hỏi rất nhiều từ lịch sử chính trị Châu Âu, và trở thành hình mẫu lãnh đạo chính trị kiểu Machiavelli đầu tiên ở Việt Nam. Siêu điệp viên Phạm Xuân Ẩn cho rằng ông Nhu là người tổ chức ám sát Trình Minh Thế. Đại tá an ninh quân đội Đỗ Mậu và trùm mật vụ Trần Kim Tuyến thì kể chi tiết cách ông Nhu xử lý các vấn đề biên giới và xung đột sắc tộc với Khmer bằng cách tổ chức ám sát Sihanouk và đảo chính ở Cambodia. Với những kẻ có quyền lực yếu hơn, đôi khi ông Nhu cũng vẫn Machiavelli nhưng theo kiểu ngược lại. Bác sỹ Tuyến kể việc ông Nhu giải quyết các hộ kinh doanh bình dân sống bằng kinh doanh vỉa hè rất lộn xộn bằng cách mời đại diện nghiệp đoàn của họ vào Dinh để nói chuyện. Đó là ông Vượng, người đã phát minh ra “bia cốc bờ Hồ” được ưa chuộng cực kỳ ở Hà Nội trước 1954. Món “bia cốc” này, tôi nghĩ, chính là tiền thân của bia hơi Hà Nội mà ngày nay chúng ta vẫn nốc cùng thịt chó. Cách hành xử thực dụng và máu lạnh kiểu Machiavelli đã khiến ông Nhu trở thành chính trị gia bị sợ hãi và căm ghét; từ đó người ta quên đi rằng ông này có lẽ là người đầu tiên (và cũng có lẽ là duy nhất) biết cách và có chủ ý xây dựng một quốc gia dân tộc (quốc gia = nhà nước) đúng nghĩa. Một nation builder, nói theo kiểu tây, có kiến thức lịch sử chính trị và địa lý vững chắc, nắm vững tình thế, hiểu đại cục từ trong nước đến quốc tế, có tầm nhìn xa và dự báo chiến lược khá chính xác. Ngày nay nhìn lại, có nhiều cái ông Nhu tiên đoán, nhận định, chuẩn vãi chưởng. Tôi đoán rằng, việc ông Diệm phế ông Bảo Đại và biến Việt Nam thuộc Pháp từ thể chế quân chủ sang thể chế cộng hòa hoàn là đường lối của ông Nhu. Hiến pháp của thể chế này không thấy ở đâu nói là ai viết, nhưng chắc cũng có bàn tay của ông Nhu. Ngày mà bản Hiến pháp 1956 này được thông qua cũng được lấy làm ngày quốc khánh của Việt nam Cộng hòa (sau được gọi là nền cộng hòa đệ nhất). Cách cai trị độc tài của chế độ Diệm-Nhu, định hình bởi bộ óc của ông Nhu và phong cách quan lại của ông Diệm vốn là quan lớn của nhà Nguyễn. Phương pháp cai trị của ông Nhu có thể đến từ việc ông đã nghiên cứu rất kỹ Hitler, Gandi, Lenin, Mao cũng như am hiểu sâu sắc bản chất con người Việt Nam. Trần Kim Tuyến cho biết ông Nhu mỗi năm đóng cửa 10 ngày chỉ để đọc sách. Đọc sách gì ông cũng có kế hoạch sẵn, đọc cuốn nào cũng có ghi chú đầy đủ. Các nhân vật mà ông Nhu thích đọc là Lenin, Mao. Phòng làm việc rất ngăn nắp và tài liệu sắp đặt rất khoa học. Công cụ và lực lượng dùng để cai trị của ông Nhu, rất giống nhà nước cảnh sát của Hitler. Sách ông Nhu đọc theo lời kể của bác sỹ Tuyến là các sách ông đọc sau này, khi đã thành chính trị gia ở Sài Gòn. Còn trước đó, khi ở ẩn trồng hoa lan trên Đà Lạt, hay thủa đi học ở Paris ông đọc gì? Tôi đoán ông Nhu đã đọc các sách cổ sử như kiểu Herodotus, hay các sách địa lý, tôn giáo thế giới. Dấu vết của việc đọc này có thể tìm thấy trong Chính đề Việt nam, khi tác giả của cuốn sách phân tích lịch sử văn minh nhân loại, cùng với sự hình thành và suy yếu của các đại đế quốc, từ La Mã đến Quốc Xã, từ Nga đến Liên Xô, so sánh các thể chế trong lịch sử, giữa Anh và Pháp. Tôi cũng đoán ông Nhu có đọc cả Gustave Le Bon khi ông phân tích đặc tính tâm lý của dân tộc Việt Nam, mà ông dùng từ tính khí, đó là yếu ớt và nhược tiểu, dẫn đến ứng xử ngoại giao yếu kém do tính khí yếu ớt lại đặt dưới áp lực đe dọa bởi ngoại xâm. Tất nhiên ông Nhu thuộc cổ sử Việt Nam, và trong 2 trang của Chính Đề ông đã diễn giải chính xác công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt trong 1000 năm trở lại đây cũng như mổ xẻ chi tiết lý do/nguyên nhân Trung Quốc luôn có khát khao xâm lược Việt Nam. Với cuốn sách hoàn thành năm 1962 này, ông Nhu có lẽ là người đầu tiên đặt ra nhiều câu hỏi sâu sắc cho dân tộc, ví dụ như tại sao người Việt có bờ biển dài hàng ngàn cây số mà chưa bao giờ họ khao khát đi ra biển, thậm chí cũng chưa một lần tiến lên cao nguyên trong suốt quá trình Nam tiến ấy; cũng như là người đầu tiên phát biểu và chứng minh được mở cửa và hội nhập sâu (mà ông gọi là phương tây hóa, ngày nay gọi là toàn cầu hóa) không làm mất đi cái gọi là bản sắc dân tộc. Một số “sách lược, chiến lược” ông Nhu chỉ ra trong sách, sau này không hiểu vô tình hay học lóm mà các chế độ sau đều áp dụng. Là một nhà nghiên cứu cổ tự, ông Nhu sớm nhận ra giới hạn nghèo nàn của tiếng Việt và danh từ tiếng Việt, cũng như lợi thế của chữ quốc ngữ so với chữ nôm. Trong CĐVN, ông dành hẳn một phần rất dài đưa ra các giải pháp làm mạnh tiếng Việt. Về tư tưởng, trong A history of the Vietnamese, nhà sử học K.W. Taylor cho rằng ông Nhu từ chối cả hai ý thức hệ (tư bản và cộng sản, quần chúng và cá nhân). Chính đảng do ông Nhu xây dựng có tên là Đảng Cần Lao, nếu dịch ra tiếng Anh (Labor Party) thì rất giống tên chính đảng cầm quyền ở miền bắc lúc bấy giờ là Đảng Lao Động. Nhưng trong tiếng Việt thì ông Nhu lý giải rằng chữ “động” trong “lao động” có màu sắc cưỡng bức đám đông của Mao còn chữ “cần” trong “cần lao” của ông Nhu thì có màu sắc tự nguyện. Sử gia Taylor giải thích triết lý (ý thức hệ) Nhân Vị của ông Nhu là do chịu ảnh hưởng triết lý “personalism” của triết gia công giáo Emmanual Mounier (khi ông còn ở khu Latin, Paris), nhưng ông Nhu đã nhấn mạnh chân giá trị của cá nhân trong bối cảnh “hợp tác tập thể để tự cá nhân” rồi phát triển nó thành học thuyết riêng của mình mang tên Nhân Vị. Taylor khuyến nghị cách dịch Nhân Vị ra tiếng Anh là “personism”. Lập luận này của Taylor có lẽ đúng bởi chính ông Nhu phủ nhận thuyết Nhân Vị của mình giống với Nhân Vị của Công giáo. Với học thuyết Nhân Vị, nảy mầm vào khoảng thời gian ông trốn khỏi Hà Nội, ông Nhu đã có tư tưởng chống Mỹ (tư bản) nhiều hơn chống Pháp (theo lời Cao Văn Viên), hòa hợp được nhiều tôn giáo (theo giải thích của ông Nhu), và là cơ sở đề cao sự tự quyết của dân tộc (không cho Mỹ đưa quân vào, không cho tăng cường cố vấn quân sự, không cho đặt cố vấn Mỹ bên cạnh các tỉnh trưởng, …là những cái được chính quyền Sài Gòn chấp thuận sau khi Diệm Nhu bị giết). Hòa hợp tôn giáo cuối cùng thất bại, nỗ lực chống lại can thiệp quân sự của người Mỹ vào Việt Nam cũng thất bại. Cả hai đều dẫn đến sự sụp đổ của gia đình họ Ngô. Can thiệp của người Mỹ vào đảo chính thì như trên đã dẫn lời Phạm Xuân Ẩn. Còn xung đột với Phật Giáo, sách của Đỗ Mậu và Trần Kim Tuyến nói ngược nhau, nhất là về việc thượng tọa Trí Quang trốn vào sứ quán Mỹ cho đến khi xong đảo chính. Còn Phạm Xuân Ẩn, từ thời đó đã biết đại tá Thảo là tình báo của Hà Nội, nhưng sau này có vẻ như lờ đi, không nói về thượng tọa Trí Quang mà chính bạn của ông Ẩn là bác sỹ Tuyến luôn cho là một ông sư marxist. Sách của Trần Kim Tuyến và Đỗ Mậu cũng nói ngược nhau về nguyên nhân của sự liên lạc của ông Nhu với Hà Nội. Dù rằng việc liên lạc ấy là có vẻ như là thực và giống nhau trong sách của cả ông Mậu lẫn ông Tuyến: thông qua ngoại giao, bên ông Nhu bí mật vào rừng, hoặc bên miền bắc từ rừng bí mật vào dinh tổng thống (chắc sử liệu ở Hà Nội có ghi chi tiết). Người cán bộ cộng sản thư sinh bí mật vào dinh gặp ông Nhu nhiều lần, được cho là Trần Độ (?). Sách của Đỗ Mậu và Trần Kim Tuyến chỉ ngược nhau về cách giải thích. Nhưng dù giải thích thế nào, thì việc ông Nhu bí mật nói chuyện với Hà Nội cũng là một cái cớ nữa để người Mỹ xuống tay. Việc ông Nhu đi Pháp như nói ở trên, cũng là một nước cờ quan trọng nhằm kéo thêm ủng hộ (viện trợ) của Pháp bù vào phần hụt mà Mỹ sẽ cắt đi, trong lúc tiếp tục đàm phán bí mật để dẫn đến thỏa hiệp với Hà Nội (mà nhiều người cho rằng nếu thành công thì sẽ thống nhất đất nước bằng hòa bình, giữ được nền cộng hòa, và ông Nhu có thể một ngày nào đó trở thành thủ lĩnh). Điều này có vẻ cũng có lý, khi trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, ông Nhu đã từng thực hiện thành công một việc tương tự, khi ông gặp bí mật Bảo Đại trước khi ông vua trẻ này rời Việt Nam qua Pháp đúng 10 năm trước (1953). Trong một nghiên cứu ngắn cách đây chưa đến chục năm, Nguyễn Gia Kiểng đã tiếp xúc và có tài liệu từ một chính trị gia lão thành thuộc phe cánh tả của Pháp, ông Jaques Bénet. Ông Bénet là bạn học cùng trường Chartes với ông Nhu, tham gia kháng chiến, tham gia thành lập đệ tứ cộng hòa của Pháp, và có quan hệ chính trị rộng rãi. Sau này ông Bénet là người của Đảng Xã Hội Pháp. Ông Nhu có tiếp xúc bí mật với Bénet trước khi Bảo Đại qua Pháp; và chính ông Bénet đã làm đầu mối bí mật để vận động Pháp lặng lẽ chọn Ngô Đình Diệm làm giải pháp thay thế Bảo Đại. Nhận định này là do ông Kiểng đã gặp trực tiếp Bénet và đọc từ bức thư riêng mà ông Nhu và Bénet trao đổi với nhau. Ông Kiểng cũng phân tích rằng ông Nhu hoàn toàn không có quan hệ với bất cứ ai ở Mỹ, cho đến khi ông Nhu có quyền lực ông mới quen Lansdales ở Sài Gòn. Ông Diệm thì có một chút quan hệ với Mỹ từ năm 1950, nhưng phải sau khi ông lên tổng thống, qua thăm chính thức nước Mỹ, và sau khi chính phủ Pháp thời De Gaulle quay lưng lại với ông Nhu, thì người Mỹ mới chính thức đứng sau ông Diệm. Phân tích này cũng phù hợp với thông tin ới nhất (2013) của Edward Miller lấy từ tài liệu được giải mật của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, trong đó Mỹ có rất ít thông tin và mù mờ về ông Diệm. Ông Kiểng cũng cho rằng sau khi Diệm Nhu bị lật đổ, nước Pháp đã quay về phía Hà Nội. Điều này khá logic với việc ông Nhu không sử dụng nhóm ông Hà (học giỏi, có uy tín, đã từng làm bộ trưởng ở Hà Nội), ông Hãn (học giả lớn), ông Luyện (em ruột ông Nhu và là bạn học của Bảo Đại) dù rằng chính nhóm này đã thuyết phục Bảo Đại ký giấy bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng. Ông Diệm phần nào giải thích việc không sử dụng các trí thức lớn thiên tả Hà, Hãn, Tường trong thư riêng gửi ký giả Joseph Buttinger năm 1956. Cả Đỗ Mậu vẫn Trần Kim Tuyến đều nói các bài diễn văn quan trọng của ông Diệm đều do ông Nhu viết bằng tiếng Pháp rồi cho người dịch ra. Lá thư gửi Buttinger có thể cũng do ông Nhu viết. Các lập luận của ông Kiểng cũng logic với việc một người chống Pháp như ông Diệm mà chỉ trong năm 1955 đã dẹp sạch những gì chịu ảnh hưởng của Pháp, kể cả quân đội Bình Xuyên. Năm 1955 chính quyền ông Diệm sáp nhập vùng đất Hoàng Triều Cương Thổ của Bảo Đại vào miền nam, cũng như dẹp nguồn tài chính của Bảo Đại ở Chợ Lớn (sòng bài Đại Thế Giới, xóm ăn chơi Bình Khang) do Bình Xuyên của Bảy Viễn điều hành (Bảy Viễn được Bảo Đại phong tướng năm 1952, một năm trước khi Bảo Đại qua Pháp). Chỉ dựa vào ủng hộ của Mỹ mà không có đèn xanh từ Pháp thì sẽ không có giải pháp thay thế ngoạn mục: nhanh và ít đổ máu như vậy. Thậm chí chiến dịch Hoàng Diệu của Dương Văn Minh đánh vào rừng Sác, cũng được cho là chiến dịch do ông Nhu dàn xếp sẵn với Pháp chứ không hẳn là bắn nhau thật. Sau đó Pháp đã đưa Bảy Viễn qua Paris. Trong các sách tôi đọc, thấy cũng ông Nhu luôn chế diễu các phe phái chống cộng là “không có giải pháp thay thế (thì chống để làm gì)” có lẽ là vì lý do bí mật về “giải pháp thay thế Bảo Đại” mà ông Kiểng phát hiện ra. Sau khi chế độ Diệm Nhu bị hạ đổ, Sài Gòn rơi vào hỗn loạn chính trị, đảo chính hạ bệ nhau liên tục, cho đến khi Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống tình hình chính trị mới bớt hỗn loạn. Nguyễn Văn Thiệu được cho là người ra lệnh giết Phạm Ngọc Thảo. Ông Ẩn không có nhận xét gì nhiều về Diệm Nhu, nhưng với Thiệu ông mô tả ông tổng thống này như một con khỉ nghiện thuốc phiện của người Hoa, ý nói ông Thiệu là con khỉ nghiện viện trợ của Mỹ. Ông Ẩn, có vẻ như hơi cay đắng khi trách người Mỹ đã lật đổ ông Diệm mà không có “giải pháp thay thế”. Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946-1955 rất bí hiểm và rối rắm. Mà lịch sử Việt Nam thời kỳ nào cũng thế. Nếu tất cả những thông tin nói trên mà đúng, và chắc là đúng thôi, ít ra ở sự logic các sự kiện và nhân vật, thì ông Nhu là một trường hợp vô tiền khoáng hậu. Từ một trí thức trẻ uyên bác, nghèo xác xơ, nói và viết tiếng Việt rất kém, trong một bối cảnh xã hội phức tạp vừa thoát khỏi thực dân phong kiến, dân trí thấp, thậm từ vựng chính trị của tiếng Việt cũng vẫn còn nghèo nàn, ông Nhu đã xây dựng được lực lượng chính trị của riêng mình, với tư tưởng và học thuyết chính trị của riêng mình (tuy tổ chức còn lỏng lẻo, nghiệp dư và có nhiều bê bối). Rồi từ đó ông Nhu đã trở thành một chính trị gia mưu lược, rất giỏi ẩn mình. Ông dựng lên một tổng thống đầu tiên, một thể chế chính trị cộng hòa mới mẻ, một nhà nước với guồng máy cai trị thực dụng đến tàn nhẫn nhưng rất hiệu quả.Cuối cùng ông Nhu chết cùng với vị tổng thống và chế độ do chính mình dựng nên, để lại thể chế cộng hòa còn non nớt. Ngày Diệm-Nhu bị lật đổ được lấy làm ngày quốc khánh thứ hai cùng nền cộng hòa thứ hai (đệ nhị) và bản hiến pháp thứ hai ở miền nam. Người lật đổ Diệm (tổng thống đầu tiên của miền nam) sau này trở thành tổng thống cuối cùng của miền nam và hàng tướng nổi tiếng nhất thế kỷ 20. Các bí ẩn quanh quan hệ của tướng Dương Văn Minh, thượng tọa Trí Quang, nhà điệp báo Phạm Xuân Ẩn, cùng với khám phá mới nhất (2013) của Miller về kế hoạch tấn công giải phóng miền bắc của ông Diệm (sau trận Ấp Bắc), sẽ là món “nhậu” khoái khẩu cho các vị theo thuyết âm mưu, và là sự hồi hộp cho những ai kiên nhẫn đợi chờ sự tiết lộ dần dà của lịch sử. Trước khi chuyển qua bản luận văn, xin trích vài đoạn trả lời của ông Nhu, theo ghi chép của bác sỹ Tuyến: Câu hỏi: Hình như Đức Hồng Y Spellman có khuyến cáo Tổng Thống nên mở rộng chính phủ và chấp nhận đối lập? Ông Nhu trả lời: Điều đó có, Tổng Thống cũng đang cứu xét nhưng với một nước chậm tiến như Việt Nam không thể áp dụng chế độ tự do dân chủ như Tây phương. Đất nước chúng tôi truyền thống dân chủ từ cả ngàn năm trước, dân chủ từ hạ tầng, từ xã ấp. Ở thượng tầng phải làm thế nào giữ được uy quyền tối thượng của quốc gia. Mỹ có thói quen bắt buộc các đồng minh phải dập khuôn như họ…nhưng ở Mỹ khác, ở Á Châu này khác…trong một quốc gia hòa bình thì lại hoàn toàn khác với một quốc gia đang có chiến tranh. Tổng Thống Kennedy khuyến cáo Việt Nam cải tổ cơ chế dân chủ có nghĩa là (mô) phỏng cơ chế dân chủ của Mỹ. Nhưng (), ông cha chúng tôi đã có nhiều kinh nghiệm về nạn chia rẽ, nạn kỳ thị phe phái…nếu ở Việt Nam áp dụng dân chủ như ở Mỹ thì chỉ đi đến tình trạng hỗn loạn. Mà Việt Nam thì không thể chấp nhận được tình trạng hỗn loạn. Câu hỏi: Hình như Tổng Thống Kennedy muốn Miền Nam có sự canh tân Hiến Pháp? Ông Nhu trả lời: Không chính thức khuyến cáo như vậy nhưng Hoa Thịnh Đốn gián tiếp muốn chúng tôi làm như vậy. Câu hỏi: Hầu hết người Mỹ đứng đắn đều không muốn Việt Nam bị xáo trộn nhưng họ muốn một chế độ cởi mở? Ông Nhu trả lời: Vâng họ đang lên án chúng tôi là độc tài cũng như trước đây họ đã lên án Tưởng Giới Thạch và Lý Thừa Vãn… Người Mỹ đã lầm giữa chế độ độc tài với sự bảo vệ uy quyền quốc gia tối thượng. Chẳng hạn họ bảo chúng tôi là độc tài vì cho rằng không có Tối Cao Pháp Viện nên Hành Pháp điều khiển Tư Pháp. Họ cũng kết án chúng tôi là độc tài vì cho rằng Quốc Hội chỉ có một viện và do Quốc Hội không kiểm soát được Hành Pháp. Trích từ “Chính đề Việt nam”: ““Nước Việt Nam là một nước nhỏ, nhỏ về dân số, nhỏ về lãnh thổ, nhỏ về kinh tế kém phát triển, và nhỏ về sự góp phần của chúng ta vào văn minh nhân loại. Trong suốt phần lịch sử nhân loại mà chúng ta được biết tới ngày nay, số phận của các quốc gia nhỏ, từ xưa vẫn không thay đổi. Lúc nào các quốc gia nhỏ cũng phải bị chi phối bởi những trận phong ba bão táp vô trách nhiệm do các nước lớn gây ra. Và lúc nào cũng sống dưới sự đe dọa liên tục của một cuộc ngoại xâm.” “Từ ngày lập quốc, hơn một ngàn năm lịch sử đã chứng minh rằng Việt Nam chúng ta không thoát ra ngoài vận mạng thông thường đó. Hết phải chống Bắc, rồi phải chống Tây, rồi lại phải chống Bắc. Liên tục, và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa Dân Tộc Việt Nam.” ‘’Trong quá khứ, ngay những lúc ta chiến thắng Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khôn ngoan hòa thuận với Trung Quốc và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng điều mà Trung Quốc muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống Trung Hoa, suốt thời gian gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như tạm mất’’ “Như vậy, thuyết cộng sản đối với Nga chỉ là một phương tiện và ngày nào mục đích đã đạt được, phương tiện sẽ không còn giá trị nữa. Các biến cố hiện tại ở Âu Mỹ chứng tỏ rằng Nga sắp đến lúc bỏ phương tiện cộng sản và trở về với xã hội Tây phương.” “Sức mạnh của nước Anh hay nước Mỹ mà chúng ta mục kích ngày nay bắt nguồn trước hết từ chỗ hai quốc gia này đã thực hiện được việc liên tục lãnh đạo quốc gia trong gần 200 năm. Một nhà lãnh đạo Anh, ngày nay bước lên nắm chính quyền, là tức khắc sau lưng mình có 400 năm kinh nghiệm và văn khố làm hậu thuẫn. Đó là một di sản quí báu không có gì thay thế được và tạo cho họ một sức mạnh phi thường.” “Như trên đã trình bày, sự lãnh đạo quốc gia được liên tục khi nào các điều kiện dưới đây được thỏa mãn: 1. Sự chuyển quyền được bình thường từ lớp người trước cho tới lớp người sau. 2. Các bí mật quốc gia được truyền lại. 3. Thuật lãnh đạo được truyền lại và được cải thiện càng ngày càng tinh vi. 4. Các kinh nghiệm của dĩ vãng được xếp vào văn khố, được truyền lại và có người biết sử dụng văn khố.” “Trình độ gián đoạn trầm trọng nhất xảy ra khi sự chuyển quyền không thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Bí mật lãnh đạo và bí mật quốc gia đều mất. Thuật lãnh đạo không truyền lại được. Di sản dĩ vãng không người thừa nhận, văn khố thất lạc và bị cướp bóc. Đó là trường hợp của các nước bị chinh phục, mất chủ quyền. Và đó là trường hợp của Việt Nam chúng ta trong thời kỳ Pháp thuộc.” Tác giả của bản luận văn tốt nghiệp trường Chartes năm 1938 đã chết cách đây đúng nửa thế kỷ. Và lời giới thiệu về tác giả như thế này là quá dài và hơi liên thiên. Dưới đây là bản dịch tóm lược bản luận văn… Những phong tục và tập quán của người An Nam ở Đằng Ngoài thế kỷ XVII Ngô Đình Nhu ——————- Tài liệu tham khảo —————— Phần mở đầu Không có bất cứ tài liệu nguồn gốc châu Á nào, do đó các tài liệu châu Âu có vai trò đặc biệt quan trọng. Các thầy tu dòng Tên (Jésuites): Baldinotti, Alexandre de Rhodes, Marini, Tissanier. Các thầy dòng của Hội thừa sai: Deydier, Jacques de Bourges, Belot, Guisain. Các nhà buôn: Baron, Dampier. Văn khố của Hội thừa sai ; tổng hợp và miêu tả. ————— Phần Một Xã hội Chương Một Các nhóm dân cư 1. Làng xã. – bao gồm hai mươi đến bốn mươi ngôi nhà lợp mái rơm rạ, dựng nên từ tre và đất sét. Không có công trình kiến trúc lớn. Nước lấy từ ao. Trưởng làng có nhiệm vụ thu thuế và chủ trì việc phân chia phần đất chung theo kì hạn. 2. Chợ giữa các làng. – Chợ họp hàng tuần và thường là giữa bốn đến năm làng, các làng thay phiên nhau làm chủ chợ. Việc họp chợ giữa các làng là tế bào kinh tế của cả vùng. Các đô thị quan trọng nhất là Domea (200 nóc nhà) và Hien (2000 nóc nhà) thường xuyên có sự hiện diên của các nhà buôn nước ngoài và Kien-lao (7000 giáo dân) trở thành lợi thế của vùng để được hưởng các ưu tiên của triều đình 3. Ke-cho (Hanoi) – Kinh đô, nơi có các công ty xuất nhập khẩu châu Âu. Sự phồn thịnh, 36 phố phường, bảy mươi hai khu chợ, mỗi phố chỉ chuyên một ngành hàng, 20 000 nóc nhà. Chương Hai Nông nghiệp 1. Lúa gạo a) Vị trí bậc nhất của cây lúa. Lí do. b) Chế độ sở hữu: hợp đồng cầm cố (vente à réméré) chỉ được chấp nhận đối với người ngoại quốc, ruộng đất manh mún. Chiếm dụng đất theo dòng họ (groups de famille), sự nhũng lạm của giới quý tộc. c) Nông cụ: sử dụng cày. Tự điển của linh mục de Rhodes cần được sử dụng cẩn trọng, có liên hệ tới cả Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài. d) Canh tác: hai vụ lúa mỗi năm và tô (prix de revient) tăng cao. e) Nạn đói: mười hai nạn đói từ năm 1681 đến 1721: tính chất. 2. Trồng trọt thứ yếu. – Trồng cau, dâu tằm. Chương Ba Chăn nuôi, Đánh cá, Công nghiệp 1. Chăn nuôi. – Gia cầm và lợn thịt. Ít bò và trâu. Thiếu đồng cỏ. 2. Đánh cá. – Tầm quan trọng đối với người Đàng Ngoài a) Nước ngọt: Vợt và vó. b) Trên biển: kém phát triển do giá tàu biển cao. 3. Làng nghề. – Có rất ít tài liệu liên quan đến chủ đề này: văn khố của Hội thừa sai cung cấp một văn bản quý giá cho phép định vị nghề dệt chiếu ở tỉnh Nam-dinh. Nghề sơn và gốm sứ. Kéo sợi và dệt lụa là nguồn cung xuất khẩu duy nhất: các nhà buôn nước ngoài đến vào tháng bảy, đặt mối với các thợ thủ công – luôn phải qua khâu trung gian – và chờ đợi ít nhất sáu tháng để đơn hàng được hoàn thiện. Chương Bốn Tiền tệ 1. Các loại tiền tệ. – Duy nhất một loại tiền được lưu hành: tiền đúc từ đồng. Tiền 10 đồng và 6 đồng được nhập từ Trung Quốc và Nhật Bản, chỉ được dùng ở Ke-cho và bốn tỉnh xung quanh. 2. Tỷ giá quy đổi. – Sự ổn định của đồng so với vàng, sự bất ổn của tiền đồng trong đó có yếu tố trượt giá: 1 quan đổi ra 600 đồng năm 1666 và 1200 đồng năm 1715. 3. Cho vay nặng lãi. – Lãi suất hợp pháp từ 25% đến 30% thường xuyên bị vượt qua, người ta cho vay lấy lãi 100% đến 240% rồi 3600%. Tình trạng khốn cùng cuối thế kỷ XVII và đời sống đắt đỏ. Chương Năm Thương nghiệp 1. Nội thương a) Các con đường giao thương: sông và kênh b) Các phương tiện giao thông: không có máy móc vận tải, chuyển chở trên ván thăng bằng, thuyền ba ván. 2. Ngoại thương. – Những con đường đến Đàng Ngoài: mọi hoạt động ngoại thương đều qua đường biển. Thương nhân Trung Quốc ngược lên Cua Luc-bô (Rokbo theo Dampier) chính là sông Đáy; người châu Âu qua Cua Lâ (Thai-Binh) dẫn đến Domea; ngôi làng này chắc chắn không phải là Dôn-Minh, mà là Dông-xuyên-ngoai : những tàu buôn châu Âu không đi xa thêm trong khi thuyền mành (jonque) Trung Quốc ngược lên đến Hien. Người ta không bao giờ chỉ ra rằng, bên ngoài Đàng Ngoài, không có bóng dáng một con thuyền cũng như không có một nhà buôn Đàng Ngoài nào, và những người châu Á khác cùng với người châu Âu đã độc chiếm hoàn toàn ngoại thương của vùng. Thường xuyên thiếu lương thực, bị bỏ đói định kỳ, người Đàng Ngoài nhận lấy một sự tồn tại khốn khó, bất bênh và không thể nghĩ đến điều gì ngoài miếng cơm hàng ngày. ———— Phần Hai Cuộc sống gia đình ———— Chương Một Tổ chức gia đình 1. Nền tảng của quan hệ họ hàng. – Quan hệ huyết thống, địa vị vượt trội của họ hàng bên nội thể hiện qua những cách gọi tên đặc biệt. 2. Cấu trúc gia đình. – Không có thị tộc (clan); bố mẹ và con cái. 3. Tổ chức gia đình. – Người mẹ phụ thuộc vào quyền quyết định của người cha, con cái bình đẳng. Chương Hai Hôn nhân Nguồn bằng chứng châu Âu dồi dào trở nên đặc biệt quý giá khi không có bất cứ tài liệu nào có xuất xứ An Nam. 1. Vai trò của đôi vợ chồng tương lai. – Không có quyền được chọn người hôn phối; bố mẹ cưới gả con từ khi còn nhỏ tuổi. 2. Ăn hỏi. – Người mối lái, sính lễ, thách cưới chàng rể tương lai. 3. Đám cưới. – Trình của hồi môn, luôn là ruộng vườn và được tặng bởi chú rể; nộp khoản phí bắt buộc cho các chức sắc trong cộng đồng; cỗ cưới do chú rể chi trả; cô dâu trình diện trước các ông thần bếp (ông Táo) và tổ tiên của chồng Chương Ba Chấm dứt hôn nhân 1. Ly hôn. – Người phụ nữ hiếm khi có thể ly hôn và trong trường hợp có thể thì phải bồi thường cho người chồng. 2. Bỏ vợ. – Người chồng luôn có rất nhiều cơ hội để ruồng rẫy vợ. 3. Cách thức ly hôn và bỏ vợ. – Sự phá bỏ quan hệ hôn phối được thể hiện công khai: “đồng tiền hay chiếc đũa bẻ đôi” 4. Bât-dông hay dô-dông. – Các quý tộc có quyền lấy làm lẽ những người phụ nữa góa chồng, bị chồng bỏ, ly hôn hay những cô gái chửa hoang trong làng; những người này chỉ có thể khước từ bằng cách nộp 1 quan tiền cho quý tộc và từ đó không được phép lấy bất cứ ai. Tục lệ này chỉ còn được lưu giữ trong văn khố của Hội thừa sai. Chương Bốn Sinh và Tử 1. Sinh a) Ngày sinh: đặc biệt quan trọng b) Tên riêng: không được là tên một đứa trẻ khác đã chết; đặt tên xấu cho con để tránh bị ma quỷ quấy nhiễu. Khi đứa con đầu tiên ra đời, cách gọi tên ông bà nội và ông cậu họ nội sẽ được thay đổi, cách gọi tên người con cả thay đổi khi người con thứ ra đời. Khi thôi nôi, đa phần tên gọi cũ sẽ được thay thế bằng một cái tên đẹp. Sự tôn kính một bậc bề trên thể hiện qua việc không bao giờ gọi tên của người này cũng như tên của cha mẹ ông ta, và người ta phải nói chệch đi bằng các từ đồng âm với tên gọi; cũng từ đó mà một số gia đình có vốn từ đặc biệt. c) Tuổi trưởng thành : mười tám tuổi. Thông thường, trẻ em được tính một năm tuổi khi vừa chào đời và được hai tuổi vào Têt (đầu năm) sau. d) Con nuôi : phổ biến, nhưng không được chứng thực bằng giấy tờ và không công khai. Baron được một hoàng tử ở Đàng Ngoài nhận nuôi để không phải chịu phiền toái và những Thừa sai người Pháp nhận làm con trai danh dự của một ái phi của Trinh Can để tự bảo vệ trong một phiên xử khó. Nhận nuôi thường không chỉ là một sự tiến cử đơn thuần, chỉ ra rằng ở Đàng Ngoài vào thế kỉ XVII không có tổ chức xã hội nào khác ngoài gia đình và rằng người ta không thể có người bảo hộ nào khác ngoài cha và mẹ. 2. Tử. – Người Đàng Ngoài sợ cái chết, nhưng có thái độ chấp thuận, và sợ nhất là không có được một cỗ áo quan đẹp. Thi hài được quàn trong mười đến mười lăm ngày trước khi được an tang ở bản quán. Thời gian chịu tang : ba năm cho con, hai năm, ba tháng và mười ngày cho góa phụ ; phải sống khắc khổ trong thời gian chịu tang. Thờ cúng tổ tiên, trong đó gia đình là đơn vị, tạo nên sự gắn kết và sức mạnh. Phần Ba Đời sống cá nhân ——– Chương Một Trang phục Tóc thả dài, biểu tượng của tự do ; việc cắt tóc là một nhục hình hoặc là dấu hiệu của tang gia. Trán rộng được cạo nhẵn, răng được nhuộm lúc mười sáu hay mười bảy tuổi. Mũ, quần áo. Dân cư chủ yếu ở trần. Chương Hai Thức ăn Gạo là thức ăn chính ; thịt, nhất là thịt chó ; các loại cá và nuoc-mam. Chỗ ở và đất đai. Một chế độ ăn thiếu thốn giải thích cho việc các tín đồ Cơ Đốc ở Đàng Ngoài đều không ăn chay. Chương Ba Tính cách Có sự tương thích giữa các lời chứng. Người Đàng Ngoài cởi mở, nhạy cảm với tình bạn, ý tứ, ít gây gổ, ngăn nắp nhưng cũng tham ăn (có lẽ đơn giản là do bị bỏ đói), lười nhác và trộm cắp. Mại dâm thế kỷ XVII. ——– Kết luận Nhìn chung, các tập quán ở Đàng Ngoài không có nhiều thay đổi từ thế kỷ XVII và không có gián đoạn nào trong sự tiếp nối tâm lý. Tuy nhiên, ta nhận thấy ở người Đàng Ngoài một sự thích nghi đáng lưu ý: những phong tục khắc nghiệt biến mất không để lại dấu vết và nhận định này khiến chúng ta cần thật sự cẩn trọng trong những giả thuyết về các nguồn gốc của văn minh Đàng Ngoài. Nguồn : Internet blog của 5xu ------------ Link : www.google.com.vn/…/2013/11/20/luan-van-cua-on…/amp/------------ Ghi chú ( THD ) : Có một bài viết cho rằng tác giả của " Chính đề " không phải của ông Ngô Đình Nhu. Với tất cả sự dè dặt & trên tinh thần tìm hiểu , tôi gửi đường dẫn ( link ) để các bạn có thể đối chiếu, tham khảo . www.danluan.org/…/thong-luan-tung-phong-le-van-dong…Cảm ơn quý vị & các bạn đã đọc và chia sẻ . Trân trọng ! Trần Hồ Dũng . Washington , March 2018 .
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2019 9:21:21 GMT 9
‘Đất và nhà của bà Ngô Đình Nhu ở Đà Lạt’Du Tử Lê/Người Việt June 14, 2019 Biệt thự của bà Ngô Đình Nhu. (Hình: VNExpress) Theo ghi nhận riêng của tôi thì, rất nhiều chương sách “Đà Lạt Bên Dưới Sương Mù” của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên, được độc giả ưa thích, vì nội dung độc đáo, bất ngờ; hiểu theo nghĩa chưa từng được sách nào nói tới hoặc đào sâu, chi tiết… Một trong những chương sách đạt tới tiêu chí ấy là chương tựa đề “Đất và nhà của bà Nhu ở Đà Lạt” (từ trang 187, tới trang 208). Rất nhiều chi tiết liên quan tới tiểu tựa vừa kể được tác giả nghiên cứu, sưu tầm, và viết xuống một cách đầy đủ, nhưng không vì thế mà kém phần văn chương… Mở đầu phần viết về bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu, họ Nguyễn ghi nhận: -Năm 23 tuổi, sau một cuộc loạn ly, Trần Lệ Xuân đến Đà Lạt. Nơi đây, bà gặp lại chồng mình, ông Ngô Đình Nhu, người sau này là cố vấn cho chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đây cũng là một khoảng thời gian bà Nhu có đời sống bình yên, nhẹ nhàng và nhất là tìm thấy sự hài hòa hôn nhân với người chồng quá chênh lệch về tuổi tác cũng như tính cách. Nơi thành phố kiểu Tây phương miền cao nguyên, bà chọn cách sống khiêm cung, chăm chút cho những đứa con ngoan ngoãn, xinh xắn được hưởng chế độ giáo dục của các trường Pháp. Bọn trẻ được coi bình đẳng với đám trẻ con em quan chức Pháp ở Đông Dương đang lớn lên dưới những “vườn ươm” đặc biệt này. -Ông bà Ngô Đình Nhu từng cho thấy sẽ chọn Đà Lạt để ở khi về hưu. -Ngay khi trở thành một vị đệ nhất phu nhân thì bà Nhu vẫn thường cùng chồng quay về Đà Lạt vào mỗi cuối tuần. Dù được thu xếp ở trong Dinh Toàn Quyền (Dinh 2), nhưng bà cố vấn ngoài 35 tuổi, vẫn thích du ngoạn và ghé về các biệt thự của mình. Đà Lạt vẫn mang đến cho cuộc sống gia đình bà những khoảnh khắc bình dị, trở lại với cảm giác hạnh phúc lâu bền, thoát ra khỏi những toan tính chính sự. Tinh thần ấy, toát lên trong những bức ảnh của Larry Burrows, tạp chí Life ghi lại những chuyến du ngoạn, tận hưởng bình yên ở Đà Lạt của gia đình bà Nhu. (“Đà Lạt Bên Dưới Sương Mù,” trang 187, 188). Sau đấy, họ Nguyễn cho biết thêm: “…Có lẽ vì vậy mà từ thân phận lưu dân chạy trốn binh biến và những xáo trộn thế cuộc, vợ chồng bà cố vấn, chính xác thì một mình bà Nhu, xoay xở bằng nhiều cách, đã tạo dựng nên một cơ ngơi nhà cửa không nhỏ ở thành phố này. Đây cũng chính là nguyên do của những đồn đoán, chỉ trích về sự tư lợi hay phù phiếm của người đàn bà này – một luận điểm quen thuộc mà phe chống chính quyền anh em họ Ngô thường sử dụng. Điều này có thể làm cho ông Nhu – một người Tây học và có phong thái nhà Nho truyền thống – chẳng lấy gì làm vui. Và cách mà một mình bà Nhu thu xếp khéo léo để sở hữu đất đai, nhà cửa ở Đà Lạt thì khá thú vi…” (“Đà Lạt Bên Dưới Sương Mù,” trang 188). Tìm hiểu cặn kẽ cách hợp thức hóa các dinh cơ, biệt thự ở Đà Lạt của bà Nhu, căn cứ trên các giấy tờ, công chứng, tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên trưng dẫn nhiều tư liệu cho thấy, bà Nhu đã đi những nước cờ quanh co, nhiều bước về mặt thủ tục… Thí dụ, như để trở thành chủ nhân hợp pháp của biệt thự nổi tiếng Alphido, ở số 2 đường Lê Thánh Tôn, Đà Lạt (1), vốn do thân mẫu của bà Nhu (tức bà Trần Văn Chương, nhũ danh Thân Thị Nam Trân) đứng tên mua. Nhưng người chi trả mọi phí tổn lại là bà Trần Lệ Xuân. Bước tiếp theo là thủ tuc xác nhận khoản tiền vay mượn. Và, sau đó, bà Thân Thị Nam Trân từ Mỹ về Đà Lạt làm giấy chuyển nhượng căn biệt thự cho con rể Ngô Đình Nhu bằng một tờ di chúc. (2) Cùng một cách thức để trở thành chủ nhân hợp pháp nhiều biệt thự cũng như nhiều lô đất khác ở Đà Lạt, nơi trang 192, họ Nguyễn đã nhắc tới những nhà cửa, đất đai bà Nhu đứng tên với sự tiếp tay tích cực của ông thị trưởng Đà Lạt thời đó: “…Trước đó, có lẽ chưa ở đỉnh cao quyền lực, việc sở hữu đất đai nhà cửa chưa bị các phe chính trị đối lập nhòm ngó, suy diễn, xem như điểm yếu để tấn công, thì những giao dịch với các tài sản bất động sản khác của bà Nhu tại Đà Lạt diễn ra có vẻ nhẹ nhàng hơn; thuần túy là những giao dịch dân sự được ông Thị Trưởng Trần Văn Phước khán duyệt nhanh gọn. Việc gom các thửa đất số 55, 56, 57 khu Lam Sơn là một thí dụ” (“Đà Lạt Bên Dưới Sương Mù,” trang 192). Cũng vậy, vẫn theo họ Nguyễn trong tác phẩm “Đà Lạt Bên Dưới Sương Mù,” thì việc bà Nhu trở thành sở hữu khu đất 1,700 thước vuông, để làm vườn tược ở số 1 đường Hải Thượng, “…cũng không quá khó khăn, chỉ cần bà Nhu ngó thấy thích cuộc đất thì sẽ tìm cách giao dịch nhượng địa ngay…” (“Đà Lạt Bên Dưới Sương Mù,” trang192). Nhưng trên hết, khi nói đến đất đai, nhà cửa của bà cố vấn tại Đà Lạt, trong thời gian khá dài bà gắn bó với thành phố này, thì phải kể đến biệt điện, công trình được xây trong năm năm tại một khu đất lớn trên đường Yết Kiêu, cấu trúc chính gồm ba khu vực: Biệt thự Bạch Ngọc, Lam Ngọc và Hồng Ngọc (Hồng Ngọc chính là biệt thự Alphino mà bà Thân Thị Nam Trân đã di chúc cho ông Nhu thừa kế). Khuôn viên rộng hơn 13,000 thước vuông. “Monique Brinson Demery tác giả cuốn ‘Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madam Nhu’ đã tái hiện không gian của quần thể biệt điện này…” (“Đà Lạt Bên Dưới Sương Mù,” trang195) (3) Trước khi bước qua chương kế tiếp của “Đà Lạt Bên Dưới Sương Mù,” họ Nguyễn có một kết luận, rất đáng để người đọc suy gẫm: “…Trong công việc xây dựng, sửa chữa nhà cửa tại Đà Lạt, bà Nhu là người cầu toàn, thường mời những kiến trúc sư tên tuổi hàng đầu của miền Nam lúc ấy, như Vĩnh Dự, Võ Đức Diên, Ngô Viết Thụ tham gia thiết kế, góp ý. Nhưng bà cũng là người chặt chẽ về tiền bạc. Những kiến trúc sư tên tuổi thường quảng giao, dễ tìm được các nhà thầu khoán có ưu đãi giá vật liệu, sử dụng lại vật liệu từ các công trình khác còn tốt,… đảm bảo ít tốn kém. Chỉ sau một cơn gió bụi, những dự định và ý chí của người đàn bà quyền lực (và hẳn là có trái tim luôn rộn ràng với thành phố này) đã tiêu tan như đám sương mỏng trước cơn gió nhẹ” (“Đà Lạt Bên Dưới Sương Mù,” trang 205). *** Với tôi, nếu những ghi nhận dàn trải trong cuốn sách của họ Nguyễn là trái tim, thì hình ảnh, tư liệu, tài liệu, sơ đồ hiếm, quý mà tác giả có được, chính là lá phổi của tập sách. Rồi đây, có thể chúng ta cũng sẽ có một thứ “Hoàng Triều Cương Thổ” khác, như cựu hoàng Bảo Đại, từng có tham vọng chọn làm thủ đô thứ hai cho Việt Nam. Nhưng trường hợp nào, nó cũng sẽ không thể có được cái công phu phục dựng trầm tích quá khứ như tâm, sức của Nguyễn Vĩnh Nguyên, dành cho Đà Lạt, hôm nay… Chính vì thế, tôi nghĩ, nếu muốn ghi nhận tương đối đầy đủ về những nghiên cứu, sưu tầm giá trị mà Nguyễn Vĩnh Nguyên đã đem đến cho người đọc, tôi e phải là một cuốn sách khác – phân tích từng chương mục, từng chi tiết – với số lượng 400 trang chữ in, khổ lớn, (gồm cả “Mục từ tra cứu”) như “Đà Lạt Bên Dưới Sương Mù;” hoặc chí ít, cũng phải ngang bằng độ dày hiện hữu của tác phẩm. Điều đó, tiếc thay, nằm ngoài khả năng giới hạn của tôi. *** Bạn đọc cần liên lạc với tác giả, nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên, xin qua địa chỉ email: nguyen.nguyen@phanle.net. (Du Tử Lê) —– Chú thích: (1) Trước đó, con đường này có tên là Roberin. Từ năm 1953 cho đến nay, đường được đổi tên là Lê Thánh Tôn (chú thích từ nguyên bản). (2) Họ Nguyễn trích dẫn theo tài liệu Higgins, Our Vietnamese Nightmare, 70, dẫn lại: Monique Brinson Demery. Madam Nhu Trần Lệ Xuân – Quyền Lực Bà Rồng. Mai Sơn dịch. NXB Hội Nhà văn, 2016, trang 95 (chú thích từ nguyên bản). (3) Bản tiếng Việt: “Madam Nhu Trần Lệ Xuân – Quyền Lực Bà Rồng.” Monique Brinson Demery. Mai Sơn dịch. Phương Nam Book & Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn, 2016 (chú thích từ nguyên bản). ***************************************************************************** Nhân 68 năm Hiệp định Genève 1954: “MỐI TÌNH MANELI”Tú Hoa I. “Mối tình Maneli” nghĩa là gì? Mối liên hệ giao thiệp thương thảo bí mật của em trai cố TT Ngô Đình Diệm là ông Ngô Đình Nhu với CS Hà Nội nhằm thúc đẩy hai miền Nam- Bắc né tránh một cuộc xung đột ý thức hệ chỉ có lợi cho Trung Quốc được giới tình báo Hoa Kỳ tặng cho một cái tên là “Mối tình Maneli” (Maneli affair) [đúng ra nên dịch “Sự việc Maneli” hoặc "Bà mối Maneli"]. Trong cuộc thương thảo này, VNCH đồng ý viện trợ kinh tế bao gồm lúa gạo, sản phẩm gia dụng và y tế cho Hà Nội nếu Hà Nội đồng ý tuyên bố đứng trung lập, không gia nhập khối XHCN và cùng với VNCH tham gia liên minh “Các Nước Không Liên Kết” của Ấn Độ. VNCH cam kết thương mại trao đổi với Bắc Việt và sẽ cố gắng giúp Hà Nội thoát khỏi tình trạng đói kém do đang bị cô lập với thế giới bên ngoài và phải sống bằng viện trợ chu cấp mọi thứ bởi Bắc Kinh để đến nỗi buộc lòng phải đi theo đường lối Đấu Tố của Mao Trạch Đông khiến hai trăm ngàn oan mạng bị giết chỉ trong vài năm. Hà Nội lưỡng lự trước nước cờ táo bạo này của ông Ngô Đình Nhu vì biết rõ những cam kết mà VNCH đưa ra rất thật lòng dựa trên sự ổn định phát triển kinh tế của miền Nam VN trong suốt gần chín năm sau hiệp nghị Genève 1954. Khi tình báo Hoa Kỳ liên tục gởi tín hiệu cho Washington biết về “mối tình Maneli” động trời này của hai anh em ông Diệm, TT Kennedy vô cùng tức giận vì ông cho rằng đây là một sự “phản bội tàn nhẫn”. Tòa Bạch Ốc từ đó quyết tâm loại bỏ hai anh em ông Diệm ra khỏi quyền lực bằng mọi giá. Thế nhưng mười năm sau, nước Mỹ lại áp dụng y chang kế sách của ông Nhu, Henry Kissinger thất hứa với chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, đi đêm với Chu Ân Lai làm cho VN mất quần đảo Hoàng Sa và thất thủ hoàn toàn sau đó; dẫn đến cả triệu thường dân Campuchia bị sát hại, trên hai triệu người Việt bị tan nhà nát cửa và tù tội để có được một hòa bình trong nhục nhã. Đây mới đúng là một sự “phản bội tàn nhẫn” như TT Kennedy đã từng thốt lên trước đó. II. Tại sao lại gọi là “mối tình Maneli”? Maneli là họ của ông Mieczysław Maneli, một người Ba Lan được cho là sinh vào ngày 22-1-1922 tại Miechów và mất vào ngày 9-4-1994 tại New York, Hoa Kỳ. Ông là đại diện cho Ba Lan trong Hội đồng Giám sát Hiệp nghị Genève 1954 về VN, có tên tiếng Anh là “The International Commission for Supervision and Control in Vietnam,” gọi tắt là ICC hay ICSC. Hội đồng này gồm ba quốc gia, một thuộc thế giới tự do là Canada, một thuộc khối CS là Ba Lan và một thuộc khối Không Liên Kết là Ấn Độ. Chính phủ CS tại Ba Lan hoàn toàn không có chủ định can thiệp sâu rộng vào nội tình chính trị của VN lúc bấy giờ nhưng vì Hà Nội cần Ba Lan làm cầu nối ngoại giao độc lập khỏi sự kềm tỏa của Trung Quốc để tìm hiểu thêm ý định chiến lược của hai anh em ông Diệm. Cho nên, Maneli chỉ ráng đóng vai trò của một sứ giả, truyền đạt những thông điệp cần thiết từ Hà Nội, từ Moscow đến với hai anh em ông Diệm-Nhu và ngược lại. Tuy nhiên, vòng xoáy chính trị giữa Moscow- Hà Nội- Sài Gòn- Ấn Độ- Hoa Kỳ khiến ông Maneli ngày càng bị lôi cuốn sâu vào nội tình VN. Hoa Kỳ theo dõi chặt chẽ các chuyến đi ngoại giao của Maneli tới Hà Nội, Sài Gòn để biết hiểu rõ thêm ý đồ chiến lược của hai anh em Diệm Nhu. Từ đó, cái tên “mối tình Maneli” (Maneli Affair) được hình thành. Kết cục của “mối tình Maneli” là TT Ngô Đình Diệm và ông Nhu điều bị giết sau vụ đảo chánh ngày 1-11-1963. Người bật đèn xanh cho cuộc đảo chánh dẫn đến cái chết của TT Diệm là TT Hoa Kỳ John F. Kennedy, sau đó cũng bị ám sát bí hiểm không đối chứng trong cùng một tháng cùng năm. Tại Hà Nội, phe Lê Duẩn cũng lên thay thế quyền hành của HCM, của PV Đồng và TBT Đảng Liên Xô Khrushchev - người ủng hộ lập trường VN trung lập của ông Diệm - cũng bị truất phế bởi phe Brezhnev ngay vào năm 1964. Riêng Mieczysław Maneli, ông xin tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ vào thập niên 1980 và sống tại xứ sở này cho tới ngày ông mất. III. Nội tình bên trong “mối tình Maneli”: Không cách gì có thể trình bày hết được chi tiết và cũng không thể nào tóm gọn các chi tiết bên trong của “mối tình Maneli” chỉ qua một bài viết ngắn ngủi vì mỗi chi tiết đều có ý nghĩa vô cùng quan trọng liên quan đến lịch sử bi đát của VNCH, một quốc gia coi trọng tình tự dân tộc lên trên mọi chủ nghĩa, mọi tôn giáo, dẫn đưa đến tính mạng của gia đình TT Ngô Đình Diệm, kể cả tính mạng của TT Kennedy, cũng như liên quan đến kế hoạch “phế mã tranh tiên” của Hoa Kỳ làm toàn bộ khối CS bị sa lầy trong chiến thắng quân sự mà rồi bị kiệt quệ và chia rẽ dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn tại Âu châu. Tuy nhiên, một điều quan trọng nhất tạo sửng sốt cho mọi nhân vật có liên quan và khiến không ai có thể ngờ tới được nếu biết rõ tình tiết của “mối tình Maneli” là đích thân TT Ngô Đình Diệm cam kết sẽ trục xuất Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam VN ngay lập tức nếu CS Bắc Việt chịu bãi binh và cùng đồng ý nắm tay với ông tham gia khối các nước Không Liên Kết do Ấn Độ chủ xướng. Thái độ dứt khoát né tránh chiến tranh ý thức hệ tạo bởi hai siêu cường Liên Xô- Hoa Kỳ có Trung Quốc tham dự của TT Diệm làm sửng sốt không những Hà Nội mà ngay đến cả Moscow cũng bàng hoàng. Moscow toan tính rằng việc trung lập hóa VN sẽ rất hay vì cùng một lúc xóa bỏ ảnh hưởng vô cùng sâu rộng của Trung Quốc lên Hà Nội và hất Hoa Kỳ ra khỏi Sài Gòn mà không cần súng đạn. VN từ đó sẽ theo liên minh Ấn Độ vốn có đường lối ngoại giao cởi mở đối với Liên Xô. Từ đó, Liên Xô có thể gián tiếp ảnh hưởng lên VN thông qua Ấn Độ; dù sao, Ấn Độ vẫn đáng tin cậy hơn là Trung Quốc, theo cách nhìn của Khrushchev, TBT Đảng CS Liên Xô lúc bấy giờ. Riêng về Hà Nội, mở cửa qua lại kinh tế với VNCH là một điều không thể được vì cả miền Bắc vẫn còn đang run sợ Đấu tố và sẵn sàng ồ ạt bỏ HCM nếu có thông thương với miền Nam VN. Cho nên, Hà Nội muốn kéo dài nỗ lực trung lập VN của hai anh em ông Diệm để Hoa Kỳ có thì giờ loại bỏ ông Diệm ra khỏi quyền lực dù biết rằng Moscow ủng hộ đề nghị này. Hơn nữa, Hà Nội trong đó có cả HCM không đủ can đảm để qua mặt Bắc Kinh như ông Diệm cương quyết qua mặt Hoa Kỳ. Đối với ông Diệm, quốc gia vẫn là trên hết nhưng đối với Hà Nội thì chủ nghĩa Mác Lê, thế giới đại đồng quan trọng hơn tương lai quốc gia. IV. Hệ lụy của “mối tình Maneli”: Sau khi “mối tình Maneli” tan vỡ, dân tộc VN đã phải đổ máu cho chiến thắng tất yếu của chủ nghĩa CS, của thiên đường XHCN. Kết thúc cuộc chiến tranh ý thức hệ phi lý vô nghĩa gây ra bởi Bắc Việt, dân tộc VN chẳng còn gì ngoài câu nói đau thương của TT Nguyễn Văn Thiệu mà đến giờ nhiều người cũng biết. Thông qua “mối tình Maneli”, các sử gia sẽ thấy ngay được tấm lòng yêu nước của hai anh em ông Diệm. Đối với hai ông, “quốc gia là trên hết!”. Hai ông đã cố ráng tìm đủ mọi cách để đất nước có hòa bình, dân chủ và độc lập bất chấp hy sinh tính mạng. VN sau này sẽ lại quay về với con đường mà hai ông đã khởi xướng và nhìn lại hình ảnh của hai ông như là điểm tựa của một niềm tin, đó là tinh thần quốc gia dân tộc không bao giờ chết! T.H. (ĐCV, 18/6/2015)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 5, 2020 2:33:11 GMT 9
ĐỆ NHẤT PHU NHÂNsaigonecho.com/index.php/lich-su-vn/44477-de-nhat-phu-nhanThứ Bảy, 04 tháng Bảy năm 2020 01:48 Tác Giả: Hoàng Hải Thủy Từ năm 1950 Thế giới có những vị nữ lưu gọi là “Ðệ Nhất Phu Nhân.” Danh từ và chức vị của Ðệ Nhất Phu Nhân xuất từ tiếng “First Lady” của người Mỹ. Do đó kẻ viết ở Rừng Phong cho rằng người Mỹ đặt ra danh từ “First Lady: Ðệ Nhất Phu Nhân” để gọi bà vợ của những ông Tổng Thống Mỹ.
Người thế giới gọi theo. Vị “Ðệ Nhất Phu Nhân” nổi tiếng nhất thế giới – theo tôi, THÐ – là bà Eva Peron.
Eva Peron cũng là vị Ðệ Nhất Phu Nhân thứ nhất của thế giới. Trước bà, nhiều nước đã có những vị Ðệ Nhất Phu Nhân nhưng không có vị nào hoạt động Xã hội – Chính trị sôi nổi, nhiều và nổi tiếng khắp thế giới như bà Eva Peron. Dân Argentina gọi bà bằng cái tên thân thương Evita Peron.
Chuyện đời Ðệ Nhất Phu Nhân Eva Peron xẩy ra vào những năm từ 1946 đến 1952. Ðã hơn 60 năm. Tôi – CTHÐ – viết về bà Eva Peron, Ðệ Nhất Phu Nhân Argentina, với niềm hoài cảm. Năm bà làm Ðệ Nhất Phu Nhân tôi hai mươi tuổi, tôi mới đi những bước đầu trong nghề phóng viên nhà báo.
Bà Eva Peron kết hôn với Thiếu Tá Juan Peron năm 1944. Ông Peron đã có một đời vợ. Khi ông bà kết hôn, ông 48, bà 24 tuổi.
Năm 1946 Ðại Tá Peron dùng Quân đội làm đảo chính lật đổ chính quyền dân sự. Ông trở thành Tổng Thống Argentina, bà Eva Peron trở thành Ðệ Nhất Phu Nhân. Bà làm nhiều công tác Xã hội có lợi cho dân nghèo, phụ nữ, nhi đồng, những người bị thiệt thòi trong xã hội. Bà được toàn dân Argentina kính mến. Nhưng theo đúng định luật “Hồng nhan bạc mệnh,” năm 1952 đang ở đỉnh cao của danh và quyền, bà Eva Peron đau ung thư. Bà là người bị bệnh ung thư thứ nhất trên thế giới điều trị bằng Chemography.
Bà từ trần ngày 25 July 1952, năm bà 33 tuổi. Tang lễ của bà được cử hành theo nghi lễ quốc táng. Sau giờ báo tin bà tạ thế, mọi hoạt động trong nước Argentina đều ngừng, các rạp xi-nê ngừng chiếu phim, những trường học, tiệm buôn, hàng ăn đóng cửa, Radio phát nhạc tang suốt ngày.
Di thể bà Eva được chuyên viên ướp xác ngay sau khi bà thở hơi cuối cùng. Xác ướp thật đẹp. Bà Eva Peron là Ðệ Nhất Phu Nhân Thứ Nhất& Duy Nhất của thế giới được ướp xác sau khi chết. Ngày đưa xác bà Eva Peron vào nhà mồ, dân chúng chen nhau trên đường xe tang đi qua làm 10 người chết, 2000 gười bị thương.
Thế rồi Vinh Nhục của Ðời thường đi theo nhau : Năm 1956 một số Sĩ quan Quân đội Argentina làm cuộc binh biến lật đổ Tổng Thống Juan Peron. Ông Tổng Thống bị lên án là Nhà Ðộc Tài. Ông trốn ra nước ngoài.
Xác ướp Ðệ Nhất Phu Nhân Eva Peron bị các Quân nhân mới lên cầm quyền lấy mang đi mất. Xác bà Eva Peron bị coi như mất tích trong 16 năm.
Ðúng ra nhóm Quân nhân làm đảo chính đem xác bà đến chôn trong một nghĩa trang ở tận bên Ý Quốc với tên người giả trên mộ chí. Họ giấu việc làm này. Một số báo Âu Mỹ thời đó loan tin :“Nhóm Sĩ quan đái lên xác Ðệ Nhất Phu Nhân Eva Peron và đem xác bà lên phi cơ trực thăng bay ra liệng xuống biển.” Nhưng đó là tin bịa.
Vinh – Nhục – Vinh đến đi rồi lại đến trong đời Tổng Thống Juan Peron. Sau nhiều năm sống lưu vong ở nước ngoài, năm 1971 Tổng Thống Bị Hạ Bệ Juan Peron trở về nước; năm 1973 ông ra tranh cử và được dân bầu làm Tổng Thống lần thứ hai.
Ông tìm được nơi chôn bà vợ ông trong một nghĩa trang ở Thành phố Mylan, nước Ý. Ông đem xác bà về Argentina. Xác ướp của bà bị hư hại nhiều chỗ nhưng vẫn còn gần như nguyên vẹn. Mặt bà vẫn đẹp.
Ông chôn bà ở một nghĩa trang nước Spain – Tây Ban Nha. Năm 1974 Tổng Thống Juan Peron từ trần. Rằng : “Hồng nhan tự thủa xưa Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.”
Các vị Ðệ Nhất Phu Nhân thường là người hồng nhan: người đàn bà đẹp. Các bà vì Ðẹp mà bị Trời ghen, Trời làm cho các bà bạc mệnh. Ðúng như vậy. Nếu các bà – như bà Eva Peron – không là Ðệ Nhất Phu Nhân, các bà đâu có chết yểu, nhiều bà chết thảm. Ðệ Nhất Phu Nhân có số mệnh bi thảm nhất là Giang Thanh, vợ Mao Trạch Ðông.
Giang Thanh từng hung hãn phóng tay sinh sát – giết người -trong nhiều năm. Trong những năm hoành hành tàn bạo ấy Giang Thanh được người dân Trung Quốc gọi là “Hồng Ðô Nữ Hoàng: The Red Queen.”
Mao Trạch Ðông chết, Hồng Ðô Nữ Hoàng Giang Thanh bị bọn Cộng Ðàn Em bắt, bị đưa ra tòa vì tội giết người, bị án tử hình rồi giảm án xuống án tù chung thân cấm cố. Hồng Ðô Nữ Hoàng, trong một sớm, hai chiều, trở thành “Hồng Ðô Nữ Tử Tù.”
“Cấm cố” là tù miết trong một phòng tù. Năm 1991, Giang Thanh chết trong tù. Bọn Cai Tù Tàu Cộng loan báo Giang Thanh tự tử. Tin chính thức: Hồng Ðô Nữ Hoàng chết vì thắt cổ trong phòng tù u ám.
Ðệ Nhất Phu Nhân bị bắn chết thứ hai cũng là một Mụ Trùm Cộng Sản : Mụ Elena Ceausescu Xứ Lỗ-ma-Ni. Sô-sét-cu là Chủ Tịch nước Lỗ kiêm Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản Lỗ, chức vụ như Quốc Trưởng, như Tổng Thống.
Tổng Bí Thư Sô cầm quyền rất lâu : từ năm 1965 đến năm 1987. Khoảng năm 1970 có lần vợ chồng Tổng Sô qua thăm Hà Nội, rồi sang thăm Bắc Kinh. Tổng Sô – như Tổng Ðức Hôn-nách-cơ – được bọn Bắc Cộng tiếp đón nồng nhiệt và gọi là “Ðồng chí Sô-sét-cu vĩ đại.”
Nhân dân Lỗ nổi lên chống Sô, những cuộc biểu tình nổ ra trên khắp nước Lỗ. Bọn tướng lãnh Lỗ từng nịnh bợ vợ chồng Sô, từng hưởng ân huệ của vợ chồng Sô, thấy Chủ nghĩa Cộng Sản tan rã, bèn bỏ Sô để đứng về phe nhân dân.
Vợ chồng Sô bị bắt, bị xử tử. Khi bị xử, Ðệ Nhất Phu Nhân Elena Sô còn nói : “Ta nuôi các người như mẹ nuôi con. Các người phản ta. Thật nhục nhã.” Bị lính nắm cánh tay đưa ra bãi bắn, mụ chửi người lính : “Thằng chó đẻ. Không được hỗn với tao.”
Bà Tống Mỹ Linh, phu nhân của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch, là Ðệ Nhất Phu Nhân của dân Tàu trong nhiều năm. Bà theo ông chồng sang Ðài Loan. Tưởng Tổng Thống từ trần, bà về Mỹ sống. Bà mất năm 2003 ở New Yorrk, thọ 106 tuổi. Bà là vị Ðệ Nhất Phu Nhân có tuổi thọ cao nhất. giầu sang nhất, nhiều Đô-la Mỹ nhất. Bà không có con. Tưởng Kinh Quốc là con riêng của TT Tưởng Giới Thạch.
Hoa Kỳ có hai Ðệ Nhất Phu Nhân nổi tiếng : Bà Jacqueline Kennedy, bà Hillary Clinton. Bà Jacqueline Kennedy bị chê trách vì việc bà tái giá với Onassis, ông già tỷ phú là Vua Tầu Chở Dầu Thế Giới. Onassis được gọi là Vua Dầu Nhớt. Bà Hillary Clinton trong những năm là Ðệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ đã không có hạnh phúc gia đình vì ông chồng Tổng Thống Ða Dzâm.
Theo tôi bà Margaret Thatcher, Thủ Tướng nước Anh, là vị Ðệ Nhất Phu nhân “Oanh liệt nhất, uy danh nhất, sáng giá nhất.”
Tất cả các bà Ðệ Nhất Phu Nhân khác đều nhờ ông chồng mà thành Ðệ Nhất Phu Nhân. Riêng bà Thatcher là Ðệ Nhất Phu Nhân vì chức vụ Thủ Tướng của bà. Bà là vị Nữ Thủ Tướng duy nhất của nước Anh. Bà thành công trong nhiệm vụ Thủ Tướng đến nỗi bà được Ðảng Conservative: Bảo Thủ, đề cử làm Thủ Tướng đến ba nhiệm kỳ. Xưa nay chưa có vị Thủ Tướng Anh Quốc nào ở chức vụ hơn hai nhiệm kỳ.
Trong những năm bà Thatcher làm Thủ Tướng, nước Anh xẩy ra vụ dân Ireland đòi quyền độc lập. Từ mấy trăm năm nước Ireland vẫn là một thuộc quốc của Ðế Quốc Anh. Người Ái-nhĩ-lan biểu tình đòi độc lập trong hoà bình, không được chính quyền Anh đáp ứng, họ dùng bạo động. Họ đánh bom liên miên trong các thành phố lớn. Nhiều người dân thường chết vì bom.
Thủ Tướng Thatcher coi việc đánh bom là tội hình sự, tội làm loạn, tội giết người, không phải là tội chính trị. Do đó những người Ireland đánh bom bị bắt, bị coi là tù hình sự, như trộm cướp, giết người.
Những người Ái tranh đấu bị tù làm cuộc tuyệt thực phản đối việc họ bị coi là bọn giết người. Họ đòi chính quyền phải coi họ là tù chính trị. Chính quyền có thể ép những người tù tuyệt thực phải ăn – bằng cách khi họ đói lả, cho thức ăn vào dạ dầy họ, tiếp máu cho họ – nhưng Thủ Tướng Thatcher không làm việc bắt ép đó.
Bà nói những người tù có quyền không ăn. Ðó là tự do của họ. Nhiều người Ái-nhĩ-lan tuyệt thực đến chết trong tù. Cho đến nay người Ái-nhĩ-lan chưa dành được quyền độc lập. Trận chiến tranh đảo Falklanda. Hải đảo này nguyên thuộc nước Argentina. Ðế Quốc Anh chiếm đảo này từ trăm năm trước.
Ngày 2 Tháng Tư 1982 chính phủ Argentina cho quân ra chiếm đảo, tuyên bố thu hồi đảo. Thủ Tướng Thatcher phái hải quân Anh ra đánh chiếm lại đảo. Hai bên đánh nhau dữ dội: Anh dùng hải quân, Ác dùng không quân. Ngày 20 Tháng Sáu 1982, quân Anh lên đảo, quân Ác đầu hàng. Ðến nay đảo Falklands vẫn thuộc lãnh thổ Ðế Quốc Anh.
Bà Thủ Tướng Margaret Thatcher được gọi là “Người Ðàn Bà Thép.” Bà từ trần Ngày 8 Tháng Tư 2013. Những ngày cuối đời, bà có bị Azheimer nhưng nhẹ, không quên, không lẫn nặng như Tổng Thống Ronald Reagan.
*** Tôi – CTHÐ – viết về đề tài Ðệ Nhất Phu Nhân với chủ ý kể lại vài sự việc trong đời bà Trần Lệ Xuân, bà Ðệ Nhất Phu Nhân của nước tôi.
Trong cuộc kể này tôi gọi bà Ðệ Nhất Phu Nhân Trần Lệ Xuân bằng cái tên Trần Lệ Xuân của bà. Có thể nói tôi là anh phóng viên nhà báo đến dự những cuộc hội báo của Bà Dân biểu Trần Lệ Xuân nhiều nhất. Nguyên nhân là bà Bút Trà, bà chủ nhật báo Sàigòn mới của tôi, rất muốn được làm thân với bà Trần Lệ Xuân. Bà Bút Trà muốn lấy lòng bà Trần Lệ Xuân nên rất chăm đến dự những cuộc hội báo của bà Trần Lệ Xuân.
Trong cuộc họp, đến phần diễn giả trả lời những câu hỏi của người dự, thể nào bà Bút Trà cũng lên micro hỏi một chuyện vô thưởng vô phạt để bà Trần Lệ Xuân thấy bà có mặt trong cuộc hội báo.
Là phóng viên nhật báo Sàigòn mới, tôi có nhiệm vụ đến dự những cuộc hội báo của bà Trần Lệ Xuân. Tôi đến ngồi ngắm bà Trần Lệ Xuân mà chẳng cần nghe, ghi chép bà nói gì. Hôm sau báo lấy bài tường thuật của VTX : Việt Tấn Xã – Cơ Quan Thông Tấn Nhà Nước – đăng là ăn chắc không bị mắc lỗi tường thuật sai. Các báo phải đăng tin về bà Trần Lệ Xuân thôi, người đọc chẳng ai đọc những tin ấy.
Những năm 1960 gần như tháng nào Bà Dân Biểu Trần Lệ Xuân cũng mở một cuộc họp báo. Những cuộc hội báo của bà được tổ chức ở Phòng Khánh Tiết Tòa Ðô Chính. Nhiều lần tôi thấy Tướng Nguyễn Văn Là, khi ấy là Tổng Giám Ðốc Công An – Cảnh Sát, đi lờ phờ ngoài hành lang trong lúc bà Trần Lệ Xuân chủ tọa cuộc hội báo trong phòng.
Việc ông Tổng Giám Ðốc phải đích thân đến để kiểm soát cuộc bảo vệ an ninh thì ít, mà đến để bà Dân Biểu thấy mặt chứng tỏ uy quyền của bà thời đó mạnh đến là chừng nào. Nghe nói các ông Tổng Giám Ðốc mỗi khi bị bà Trần Lệ Xuân hỏi đến là sợ quíu đít.
1960 – 2013. Năm mươi ba mùa lá đổ đã qua đời tôi, hôm nay sống ở xứ người, kể, viết chuyện cũ, tôi thấy hình ảnh bà Trần Lệ Xuân thời bà trẻ, thời tôi trẻ : bà thường mặc áo dài trắng phớt hồng, bà đeo vòng ngọc. Trước đó những bà nhà giầu Sài Gòn mang nữ trang kim cương, vàng. Bà Trần Lệ Xuân “Lăng xê mốt” vòng ngọc thạch. Có lần tôi thấy bà mang hai vòng ngọc, mỗi cổ tay một vòng.
Bà Hoàng Hậu Nam Phương cắt tóc ngắn nên khi mặc áo dài bà không thể quấn khăn, bà tạo ra cái khăn vành dây. Từ bà Nam Phương các cô dâu Việt Nam thường đội khăn vành dây, ngay cả hai Bà Trưng cũng đội khăn vành dây.
Bà Trần Lệ Xuân tạo ra kiểu áo dài hở cổ. Kiểu áo đó được phụ nữ Việt Nam dùng tới hôm nay. Trong những cuộc hội báo tôi ngồi gần bà Trần Lệ Xuân nhất là xa bà 5 thước.
Tháng Bẩy 2013, lang thang trên Internet, tôi gặp tấm ảnh bà Trần Lệ Xuân. Tôi đăng tấm ảnh bà cùng với bài này. Vẫn là ảnh xưa thôi, tôi từng thấy ảnh này nhiều lần, nhưng lần này nhìn ảnh bà tôi động lòng hoài cảm, tôi nhớ người trong ảnh 50 năm xưa, tôi viết bài này.
Tìm trên Web những bài viết về bà Trần Lệ Xuân, tôi gặp những đoạn tin này :
Hai mươi năm qua. Biên niên sử do tác giả Ðoàn Thêm soạn. Ngày 13-12-1957. Quốc Hội họp bàn về dự án Luật Gia Ðình của bà Dân biểu Ngô Ðình Nhu. Ngày 21-12-1957. Bà Ngô Ðình Nhu bỏ phòng họp ở Quốc Hội vì có nhiều Dân biểu muốn giữ những quyền của người chồng trong gia đình. Ngày 19-1-1958. Trong phiên họp Quốc Hội, vài dân biểu tỏ ý phẫn nộ: bà Ngô Ðình Nhu đã chê trách nhiều vị muốn làm ngơ không biểu quyết dự luật Gia Ðình “Chỉ vì muốn lấy vợ lẽ.” Bà Nhu gọi các ông này là những người có thái độ “thật hèn.” Theo các dân biểu này, nói như thế là xúc phạm Quốc Hội, bà Dân biểu Ngô Ðình Nhu phải xin lỗi.
Ngày 20-1-1958. Bà Ngô Ðình Nhu cho đăng báo bài thanh minh, bà cải chính những lời gán cho bà : Bà đã nói các dân biểu “thất hẹn” chứ không nói “thật hèn.” CTHÐ : Những năm 1960 tôi là phóng viên Sàgon mới đi dự khán những phiên họp của Quốc Hội. Tôi chỉ thấy bà Dân Biểu Trần Lệ Xuân đến họp vài lần. Ngày khai mạc Quốc Hội khoá mới thường có Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đến Quốc Hội đọc diễn văn, Dân biểu Trần Lệ Xuân, Dân biểu Trần Văn Khiêm có mặt trong những phiên họp khai mạc đó.
Rồi loạng quạng trên Web tôi gặp đoạn tin này: Blog “Người đưa tin.” Hội Luật Gia VN. Ngày 27 tháng 2, 2013.
Theo Hồi kí của Huỳnh Văn Lang viết: Sự thân mật giữa Bảo Ðại và Trần Lệ Xuân là có thật, đến nỗi có lần Ngô Ðình Nhu đi ngoại quốc về đã tỏ ý ghen tuông và buông lời trách móc, la rầy Trần Lệ Xuân. Ðó là khoảng thời gian năm 1949, Ngô Ðình Nhu sang Pháp mấy tháng, còn Trần Lệ Xuân ở nhà rảnh rỗi nên đi chơi, đi săn với Bảo Ðại.
Khi từ nước ngoài trở về nghe một số người nói bâng quơ, Nhu đã hằn học hỏi Lệ Xuân : “Ở nhà bà đi chơi với “Hoàng thượng” thế nào mà để người ta nói tới tai tôi ?”
CTHÐ: Cái gọi là “Hội Luật Gia VN” đưa tin trên đây chắc là Hội của bọn Bắc Cộng. Tôi hỏi ông Huỳnh Văn Lang: “Xin ông cho biết có phải ông viết đoạn chuyện trên đây không ? Nếu ông trả lời ông có viết như thế, xin hỏi thêm: “Ông Ngô Ðình Nhu nói với bà Trần Lệ Xuân câu đó làm sao ông nghe được ?”
Madam Nhu TRẦN LỆ XUÂN - Quyền Lực Bà Rồng |
Tôi không được gần bà Trần Lệ Xuân, ông Huỳnh Văn Lang là người biết nhiều về bà, tôi trích vài đoạn ông Huỳnh Văn Lang viết về Ðệ Nhất Phu Nhân Trần Lệ Xuân.
Ký Ức Huỳnh Văn Lang. Tập 1. Trang 319, 320, 321, 322. Trích : Những khi có mặt tôi thì bà đi ra, đi vô, chào hỏi xã giao, không bao giờ bà dừng lại hỏi chuyện dăm ba câu, dù bà biết rằng tôi là người khách của ông chồng bà. Tôi có cảm tưởng bà có thái độ một đưá con cưng, có thể là lúc bấy giờ bà rất được ông chồng cưng kiêu và chiều chuộng nên hay giận dỗi và kiêu căng.
Bà có cặp mắt nhỏ thật sáng, mặt trắng trẻo, gò má cao, cầm nhỏ, môi dày, bà rất xinh nhưng không có thể gọi là đẹp, vì mặt bà hơi trẹt, nhìn ngang thiếu đường nổi (profil) … bà hay “châu mày,” làm cho mặt bớt sáng. Bà đi đứng nhanh nhẹn và giữ được vẻ duyên dáng cố hữu của người con gái Việt Nam, nhờ bà nhỏ thon thành mảnh khảnh, sánh với người đàn bà VN bà có phần hơi nhỏ, hơi lùn.
Ngay lần đầu gặp bà, tôi thấy ngay bà thật thông minh và có rất nhiều nghị lực. Giọng nói của bà, Bắc không ra Bắc, Huế không ra Huế, có cả giọng Nam, tiếng nói của bà có tần số hơi cao hơn người thường nên có thể luận là bà có tánh bạo dạn, không phải là người thật nhu mì, mềm mỏng.
Một điều tôi cần phải nói ngay ra đây, bà không bao giờ có thể gọi là õng ẹo, lả lơi. Tuy nhiên trong lúc tôi ở Ðà-lạt, tôi cũng nghe người dân Ðà-lạt nói xấu bà, vì lúc ông Nhu đi Pháp vắng mặt, bà đã đi dự tiệc trong Dinh Quốc Trưởng, là một chỗ người dân Ðà-lạt cho là một trung tâm nay mưu mô chính trị, cũng là một ổ bê tha của Bảo-đại.
Tôi cho rằng việc đi dự tiếp tân một mình của bà Nhu trong khi ông chồng bà vắng mặt chỉ là một chuyện trẻ con, thiếu suy nghĩ, thiếu ý thức, chỉ có vậy thôi, không hơn, không kém.
Chẳng có chuyện chạy chức tước cho chồng hay dan díu gì, như người ta xấu miệng hay nói xấu hơn là nói tốt. Mà người dân lại hay tin những chuyện xấu hơn tin những chuyện tốt, đó là chưa nói đến những người thù ghét đã có ác ý sẵn. (….) Tất cả toàn là chuyện bịa đặt của những ngọn lưỡi rắn độc.
Ký Ức Huỳnh Văn Lang. Tập 1. Trang 468, 469, 470. Tôi không nhớ rõ ngày nào, có thể là ngày 7 hay ngày 8 tháng 10, 1954. Khi tôi đến nhà thờ Phú Nhuận thì thấy đồng bào di cư đã tập hợp và đang xếp hàng năm, hàng bảy trên đầu đường Võ Tánh.
Số đồng bào tập hợp có thể khoảng 5 ngàn người, có rất nhiều cờ xí, nhiều ban-rôn mầu trắng, mầu vàng, nhiều biểu ngữ, mấy cái loa. Thật là xôm tụ, ồ ạt, om xòm. Ðúng là một cuộc biểu tình ngoạn mục.
Nhưng ngoạn mục nhất là hình ảnh một cô gái mặc áo xanh lợt, quần đen chạy tới, chạy lui! Rồi như giựt mình! Tôi nhận ra bà Ngô Ðình Nhu, người thì nhỏ xíu, mà sao nhiều nghị lực đến thế, la hét to đến thế, lấn át cả tiếng hô “Ðả đảo quân phiệt” “Ðả đảo thực dân” của trăm, của ngàn người khác…
Và trước những ống kính máy ảnh, máy truyền hình, bà Nhu đã dẫn đoàn người biểu tình rầm rộ đi về ngả Tổng Tham Mưu và Lăng Cha Cả.
Lúc đó tôi muốn khui trong ký ức của tôi xem có khuôn mặt nào trong lịch sử Việt Nam, Trung Hoa hay các nước Âu Tây giống như khuôn mặt của bà Nhu hôm đó không? Nữ Hoàng Ðế Ðại Chu Võ Tắc Thiên ư? Ỷ Lan Nguyên Phi của vua Lý Thánh Tôn ư? Mã Hoàng Hậu của Hán Minh Ðế ư? Nữ Tướng Bùi Thị Xuân ư? Hay là Evita Peron của Á-căng-đình gần đây nhứt ư? Tôi không thấy mặt mũi những người đàn bà lịch sử đó nhưng nhờ đọc sách tôi có thể hình dung mặt mũi và phong độ của họ phần nào và tôi không thấy một khuôn mặt nào như khuôn mặt của bà Nhu hôm đó.
Hôm đó tôi thấy trên mặt bà có cái gì khác thường, có cái gì thới quá, cũng có nghĩa là không kềm chế được. Tôi nghĩ đến hai loại (Species) đàn bà : đàn bà đi đánh giặc hay xuống đường và đàn bà chen vào chính trị. Có thể bà Nhu gồm cả hai bản chất đàn bà đó.
Trước kia khi ở Ðalạt, nhiều lần tôi đã gặp bà ở trước Nhà Thờ St. Nicolas hay ở trong phòng khách nhà số 10 đường des Roses, tôi chỉ thấy bà là một cô con gái nhà lành còn ngây thơ, rụt rè.
Sáng hôm nay trên con đường Võ Tánh, Phú Nhuận tôi không còn nhận ra nữa. Bà hoàn toàn thay đổi, bà hung hăng, qua nhiều nghị lực, vẻ mặt can trường, giọng nói như la, như thét, có thể như là một trái bom nổ chậm (Boule d’énergie) hay một nồi so-de (Chaudiere) đang sôi sùng sục, có thể kéo cả đoàn tầu xe lửa lên dốc, mà cũng có thể đẩy nó xuống đèo, xuống hố !
Riêng với bà Nhu, trong thâm tâm tôi thán phục bà, nhưng có thể vì nhiễm truyện Tàu mà tôi có thành kiến ít nhiều với phụ nữ, nhứt là với phụ nữ làm chánh trị hay dẫn đầu xuống đường.
Tôi nghĩ người đàn bà nên đứng sau hơn là chường mặt ra sẽ có nhiều kết quả hơn. Cái thái độ muốn đi trước, đứng trước của bà Nhu hoàn toàn ngược với ông Nhu, ông là người thích ngồi trong bóng tối như là một Trương Lương hơn là một Hàn Tín của Lưu Bang.
CTHÐ: Tôi thấy bà Trần Lệ Xuân là một người đàn bà Ðẹp trong số những người đàn bà Ðẹp tôi được thấy trong đời tôi. Tôi thương bà. Bà là người không may. Bà bị cả hai bên Quốc Cộng mạ lỵ tàn ác. Không chỉ bọn Bắc Cộng bịa chuyện xấu về đời tư của bà, nhiều người Quốc Gia cũng vu khống bà, bôi bẩn lên đời tư của bà.
Tên mạ lỵ bà trắng trợn nhất là Hoàng Trọng Miên, tác giả tiểu thuyết “Ðệ Nhất Phu Nhân.” Tôi ghê tởm, tôi khinh những tên khốn nạn ấy. Nhưng từ năm 1963 đến năm 2011 – 48 năm – không một tên nào bịa được một chuyện bẩn nào về đời tư bà Trần Lệ Xuân. Bà sống yên nghiêm, bà chết trong yên tĩnh như một mệnh phụ phu nhân.
Có một lần tôi đứng sát bên tay phải bà Trần Lệ Xuân. Trước ánh sáng những máy quay phim rọi vào bà, tôi nhìn rõ những nếp nhăn nơi đuôi mắt bà. Ðó là buổi tối bà lên phi cơ sang Hoa Kỳ để “Giải độc công luận Mỹ về Chiến Tranh Việt Nam.” Bà trả lời những câu hỏi của phóng viên truyền thông ở Phòng Khánh Tiết phi trường. Có phóng viên hỏi bà sẽ ở lại Mỹ bao lâu, bà trả lời bà chưa quyết định. Rồi bà nói : “Tôi như con chuồn chuồn. Khi vui thì đậu, khi buồn thì bay.”
Buổi tối cuối năm 1963 ở Phòng Khánh Tiết Phi Trường Tân Sơn Nhất, bà Trần Lệ Xuân 40 tuổi, tôi 30 tuổi.*********************************** Bà Ngô Đình Nhu Bà Ngô Đình Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân (1924-2011) là một nhơn vật chánh trị Việt Nam .Bà nổi tiếng bên văn hóa Việt với cáo áo dài không cổ gọi là áo dài cổ lã,cổ thuyền Bà Ngô Đình Nhu là con cháu của dòng họ Trần danh tiếng của đất Biên Hòa Ông cố bà Nhu ,ông Trần Văn Tứ ở Biên Hòa có 8 người con thì ông nội bà Nhu là Trần Văn Thông là con trai lớn Ông Trần Văn Thông (ông nội bà ) có sáu người con thì ba bà Nhu là ông Trần Văn Chương có ba người con: 1 - Bà Trần Lệ Chi 2 - Bà Trần Lệ Xuân 3 - Ông Trần Văn Khiêm Ông nội bà Nhu là Trần Văn Thông sanh năm 1875 tại Biên Hoà,mất 1955 tại Sài Gòn Ông Thông là một trong những người Việt Nam đầu tiên đậu tú tài Tây năm 1894 (Bachelier de l’enseignement moderne) ban sư phạm, khoa học, chuyên về ngôn ngữ cổ điển Việt Nam Ông Thông lúc đầu làm trong giáo dục, từ từ rồi được bổ làm Giám đốc trường thông ngôn,Giám đốc trường Hậu Bổ Hà Nội 4 năm từ năm 1907-1911.Sau đó, ông chuyển sang ngạch hành chánh, làm Tổng đốc Nam Định trong 17 năm .Ông Trần Văn Thông có đồn điền và tư dinh ở tại Phủ Lý Bắc Kỳ Ông Trần Văn Thông lấy em gái của ông Bùi Quang Chiêu giàu có,học giỏi nổi tiếng thế gia vọng tộc ở Mỏ Cày Bến Tre Tổng đốc Nam Định Trần Văn Thông lấy Bùi Thị Lan ,người Bắc Kỳ kêu bà Lan là bà lớn Tức dòng họ này tuy làm quan,sanh con ở Bắc Kỳ nhưng thực tế là người Nam Kỳ Tổng đốc Nam Định Trần Văn Thông là Đông Các Đại Học Sĩ,Thái Tử Thiếu Bảo của nhà Nguyễn ,từng là hội viên Hội đồng tư vấn Đông Dương, Hội đồng Bảo hộ Bắc Kỳ Sau năm 1954, ông về sống ở Sài Gòn tại biệt thự số 29 Phan Thanh Giản và mất trong năm 1955 thọ 80 tuổi,chôn ở Mạc Đĩnh Chi Trong thời gian làm quan ở Nam Định ông Thông đẻ con ở đó.Ông Trần Văn Chương sanh 1898 Trong những năm 1935-1938, Trần Văn Chương du học Luật tại Viện Đại Học Sorbonne, Paris thì ông Ngô Đình Nhu theo học Quốc Gia Cổ Điến Học (Ecole Nationale des Chartes),hai người làm bạn nhau Năm 1945 ông Chương làm bộ trưởng Ngoại giao chánh phủ Trần Trọng Kim .Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Chương làm Đại sứ VNCH tại Huê Kỳ còn vợ ông bà Nam Trân là đại sứ VNCH ở Liên Hợp Quốc Ông Trần Văn Chương kết hôn với bà Thân Thị Nam Trân, con gái Tổng đốc Thái tử Thiếu bảo Thân Trọng Huề và bà công chúa Như Sắc (là con gái của của Kiên Thái Vương) Như vậy mẹ của Thân Thị Nam Trân là em gái của các vua Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh Ông bà Chương sinh được 2 gái: Trần Thị Lệ Chi và Trần Thị Lệ Xuân,và một trai Trần Văn Khiêm Trần Thị Lệ Xuân sau này kết hôn với Ngô Đình Nhu Ông Ngô Đình Nhu vốn là bạn của ông bà Trần Văn Chương,lớn hơn bà Trần Lệ Xuân 15 tuổi . Khi xưa khi vô nhà chơi,bà Trần Lệ Xuân thưa với ông Nhu là chú Những năm 1943 ông Chương về Hà Nội mở văn phòng luật sư, cô Trần Lệ Xuân vừa đậu tú tài I Pháp, chuẩn bị học tú tài 2 thì ông Ngô Đình Nhu xin cưới “cháu gái” con bạn là cô Xuân làm vợ Gia đình họ Ngô không ưng vì ông Nhu hơn cô Xuân 15 tuổi,mà họ Trần lại đạo Phật,họ Ngô dân Công Giáo dòng .Nhưng do ông Nhu dọa nên phải ưng Cô Trần Lệ Xuân lấy ông Nhu,cô từ bỏ Phật Giáo, chịu phép rửa tội, lấy tên thánh là Maria Trần Lệ Xuân Nhìn sắc diện ta thấy bà Trần Lệ Xuân có những khoảnh khắc cười rất vô tư,hồn nhiên ,cười khoe răng không câu nệ ,chứng tỏ tánh bà rất thẳng ,sống không che đậy Qủa thiệt,người đàn bà này có tánh khí thẳng tới mức nói vào ngay trọng tâm,không lòng vòng,chánh trị mà thẳng quá đôi lúc sẽ bị phản ứng Bà Trần Lệ Xuân khi còn thiếu nữ đã có tiếng cứng đầu,tánh rất nóng ,có thiên hướng xã hội ,tuy nhiên có những lúc bà rất nữ tánh ,đôi mắt long lanh tình cảm Trần Lệ Xuân lấy Ngô Đình Nhu coi vậy mà hợp tánh,nhìn hai nụ cười khá giống nhau chứng tỏ tính cách cũng tương đồng Bà Trần Lệ Xuân có tánh nóng như lửa Thiệt ra xét lại ,cái danh vị "Đệ nhứt phu nhân" của bà Trần Lệ Xuân là một cái danh ở dạng "huyền thoại" mà thôi ,quyền lực của bà trong chánh quyền không có,bà là dân biểu Rất giỏi diễn thuyết,giỏi Anh ngữ và Pháp ngữ ,say mê giải phóng phụ nữ,đề ra phụ nữ hiện đại,tuy nhiên có cái dở là tánh nóng nên đôi khi ăn miếng trả miếng Trên BBC ngày 21/3/2023 có một bài viết phỏng vấn ông Ngô Đình Quỳnh kể lại ký ức về cha mẹ Bà Trần Lệ Xuân cứu thoát ông Diệm và ông Nhu trong cuộc đảo chính hụt ngày 11/11/1960 "Ghi chép xúc động của đại úy Đỗ Thọ, tùy viên của Tổng thống Diệm kể câu chuyện sau: "Khi Tổng thống Diệm tuyên bố từ chức giao quyền lại cho phe phái quân nhân đảo chánh, tình hình trong dinh Độc Lập bệ rạc, sửa soạn rẽ sang con đường mới Tổng thống Diệm ngồi thừ trên ghế xa-lông, ông Ngô Đình Nhu vầng trán nhăn lại. Đại tá Nguyễn Khánh đưa ra kế hoạch chống đảo chánh và đợi lệnh. Bà Nhu ngồi cạnh ông Nhu vẻ mặt đanh thép. Tổng thống Diệm nhìn thẳng về phía ông Nhu hỏi: - Chú định thế nào? Ông Nhu đáp: -Anh làm Tổng thống thì anh định đoạt chứ tôi đâu có làm Tổng thống. Tổng thống Diệm yên lặng, ông Nhu đăm chiêu thêm.Thế là chẳng có ý kiến định đoạt nào cả. Một khắc thời gian trôi qua cũng đủ làm thay đổi, suy sụp chính thể. Bà Nhu giận dữ đứng dậy gỡ khúc rối trên bước đường chính trị của Tổng thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu, bằng thái độ hùng hổ: - Tại sao chúng ta lại thất bại một cách dễ dàng như thế ? Thái độ bà Nhu như gáo nước lạnh thức tỉnh Tổng thống Diệm, ông Nhu và Đại tá Nguyễn Khánh. Ba đôi mắt chính trị, lãnh tụ và quân sự đổ dồn vào bà Nhu. Bà Nhu lạnh lùng hướng về phía ông Nhu hùng hổ nói : -Anh nói vậy sao được, phải giúp Tổng thống! Quay qua Tổng thống Diệm,bà Nhu nói : - Tổng thống cương quyết dẹp đảo chánh hay hàng ? Bây giờ chúng ta phải làm như thế này… Như thế này… Trong lúc đó Đại tá Khánh tròn cặp mắt ốc nhồi nhận lệnh. Bà Nhu nói thật nhiều, thật dữ…Kết quả cuộc đảo chánh ngày 11/11/1960 thất bại. Hành động của bà Nhu thúc đẩy Tổng thống Diệm trở bại thành thắng…" Ông Quỳnh kể thêm về biến cố này : "Trong cuộc đảo chính hụt, mẹ tôi là người duy nhất đã hiểu tình thế.Khi lính nhảy dù tấn công Dinh Tổng thống, các tướng đều hoảng hốt, không hiểu việc gì đang diễn ra.Tổng thống và các tướng lĩnh không hiểu, tại sao binh chủng tinh nhuệ lại quay ra tạo phản. Mọi người đều nghĩ là cần phải thương lượng với nhóm đảo chính. Mẹ tôi nói, thương lượng là giải pháp sai. Chỉ cần ra đài phát thanh tuyên bố, Tổng thống đang được an toàn tuyệt đối. Chỉ cần giải thích là một số tướng lĩnh chỉ huy đã dối trá, lừa dối quân lính. Không có chuyện quân đội làm phản. Giải pháp chỉ đơn giản thế thôi !!!" TT Ngô Đình Diệm đọc: "Quốc dân đồng bào ! Tiếp theo cuộc gây hấn tại Thủ đô, để cho Quân đội chúng ta được toàn vẹn trong cuộc chiến đấu chống Cộng, tôi - Tổng thống Việt Nam Cộng hòa - đã quyết định giải tán Chính phủ hiện thời. Tôi kêu gọi các tướng lãnh của Quân đội Việt Nam Cộng hòa thành lập một Chính phủ lâm thời để có thể chiến đấu tiếp tục chống Cộng và bảo vệ xứ sở. Đồng thời tôi muốn phối hợp với Ủy ban cách mạng thành lập một Chính phủ liên hiệp để tránh đổ máu và trấn an dân chúng. Tôi ra lệnh Hội đồng các tướng lãnh tìm tất cả các phương pháp thích nghi để chấm dứt mọi cuộc tuyên truyền xuyên tạc và ngừng bắn" Đại tá Huỳnh Văn Cao chỉ huy Bộ binh và Thiết giáp thuộc Sư đoàn 7 đóng ở Mỹ Tho cùng Đại tá Trần Thiện Khiêm và Trung tá Bùi Dzinh chỉ huy Bộ binh và Pháo binh thuộc Sư đoàn 21 đóng ở Sa Đéc đã tiến vào Sài Gòn Cuộc đảo chánh thất bại Có một thầy tướng nổi tiếng ngày xưa đã nhận xét về bà Nhu như sau: "Cô bé này có đôi mắt đẹp và uy nghiêm lắm, sau này chắc có chồng danh vọng và cao sang lắm. Nhưng nhớ nhé, cô phải luôn luôn ở bên cạnh nhà chồng, nếu mà xa gia đình chồng thì nhà chồng sẽ có đại họa.” Ngày 1/11/1963 anh em TT Ngô Đình Diệm bị đảo chánh.Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu bị sát hại vào ngày 02-11-1963, trong khi bà Nhu và cô con gái Ngô Đình Lệ Thuỷ đang ở tại khách sạn Wilshire thuộc Beverly Hill, Los Angeles, California Lần này đảo chánh trong lúc bà Nhu không có mặt ở VN Bà Ngô Đình Nhu góa chồng năm 39 tuổi,con út Lệ Quyên mới 4 tuổi Sau đó từ Mỹ bà bay qua La Mã ,các con còn ở lại VN lần lượt được đưa qua với bà Tại La Mã, bà Nhu dọn về sống cùng một chỗ với Tổng Giám mục Ngô Đình Thục ,đó là một tu viện Và sau đó bà ở ẩn cho tới chết Trái với lời đồn,cuộc sống của bà và các con khá chật vật,bà không có nhiều tiền,thậm chí mua vé máy bay cũng không có tiền,bà kiếm tiền bằng cách thu phí cho mỗi cuộc phỏng vấn và chụp hình với báo chí,nhưng rất ít Sau cuộc đảo chánh người ta thêu dệt nhiều thứ để hạ nhục anh em TT Ngô Đình Diệm và bà Nhu Thí dụ Ngô Đình Lệ Thủy thi y khoa và xin điểm mà ông GS Phạm Biểu Tâm của trường y từ chối thẳng.Thực tế cô Thủy học văn khoa Sau 1975 thì khỏi nói ,có báo còn thêu dệt bà Nhu ...tằng tịu với anh chồng và tướng lãnh.Nhưng thực sự lịch sử rồi cũng sẽ rõ ràng thôi. Nguyễn Gia Việt
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 23, 2022 2:13:00 GMT 9
ẤP CHIẾN LƯỢC VÀ ĐẢO CHÁNH NĂM 1963Tg: Binh Nguyen . www.hinhanhlichsu.org/2020/09/ap-chien-luoc-trong-chien-tranh-viet-nam.htmlNgay sau đảo chánh 1-11-1963 thì các tướng tá phản loạn không chỉ tiếp tay cho Cộng Sản bằng việc thả các tù nhân Cộng Sản mà còn phá nát Quốc sách Ấp chiến lược mà ông Ngô đình Nhu khổ công xây dựng để đối phó với Cộng Sản cho nên tội bán nước của Dương văn Mình không phải chỉ ở chuyện đầu hàng năm 1975 mà đã bán nước ngay sau khi đảo chánh năm 1963 Đỗ Mậu viết: “Với tư cách Chủ Tịch Hội Đồng Cách Mạng ông (Dương Văn Minh) đã đưa ra hai quyết định mà chỉ có thời gian và chánh tình quốc tế mới chứng minh được ông là một "lãnh tụ "(?) sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng. Đó là việc ông ra lệnh hạ sát hai ông Diệm Nhu và quyết định hủy bỏ “Quốc sách ấp chiến lược” Người Mỹ nhận địnhNhững người Mỹ trong đó có cựu đại sứ Nolting, tướng Harkins, ông Richardson, giám đốc trung ương Tình Báo Mỹ (CIA) tại Việt Nam lên tiếng cảnh cáo rằng cuộc cách mạng 1.11 chẳng những sẽ không cải thiện được tình hình quân sự và chính trị tại Việt Nam như nhiều người Mỹ mong cầu, mà trái lại sẽ làm cho tình hình chung tồi tệ hơn. Những hỗn loạn chính trị đã bắt đầu diễn ra và về mặt quân sự, Quân Đội Việt Nam mải lo canh gác Sài Gòn và các đô thị lớn để đề phòng phe ông Diệm đã gần như bỏ trống các vùng nông thôn cho Việt cộng.” (sự bãi bỏ quốc sách Ấp Chiến Lược mà Việt cộng từng ghê sợ nhất, là một thí dụ điển hình Vậy Ấp chiến lược là gì? ẤP CHIẾN LƯỢCMục đích chính của Ấp chiến lược là loại lực lượng du kích ra khỏi dân làng để dễ dàng tiêu diệt. Kế hoạch này đã gây khó khăn cho những người cộng sản miền Nam, nhiều cơ sở của họ bị quét sạch và có nguy cơ bị tiêu diệt. Khuôn mẫu cho Ấp chiến lược được rút từ kinh nghiệm chiến dịch bình định ở Philippines của quân lực Mỹ và Malaysia của quân đội Anh. Tuy nhiên ông Ngô đình Nhu lại phát triển nó thành một chiến lược phù hợp với con người và tình hình miền Nam Việt Nam (Trích trong bài Ngô Đình Nhu (1910-1963): Một nhà chiến lược của tác giả Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm) Mục tiêu 1/. Ông Nhu quan niêm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược đối phó với xâm nhập và khủng bố của cộng sản mà thôi. Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang. 2/. Chính Ông Ngô Đình Nhu diễn giải tóm lược trong phương trình: “Tam Túc + Tam Giác = Tam Nhân: A. Tam Túc là 1- Tự Túc Về Tư Tưởng là tự mình suy luận cân nhắc mà lựa chọn một chính nghĩa để phụng sự và một khi đã chọn rồi thì không còn lay chuyển nữa. Chính nghĩa đó là cuộc cách mạnh chính trị, xã hội, quân sự mà ta đang cụ thể hóa trong các Ấp Chiến Lược. Sau đó ta tự phát huy chính nghĩa trong tâm hồn, tự học tập và tự bồi dưỡng tinh thần của ta, không cần ai thôi thúc. Tự túc về tinh thần về tư tưởng, thì tất nhiên trong mọi trường hợp khó khăn, ta vẫn vững tâm, hoặc dù có nội loạn ở thủ đô Sài Gòn chăng nữa, thì ta vẫn không bị hoang mang hay bị lung lạc. Tự túc về tư tưởng để phát huy và bành trướng chủ nghĩa. Muốn được như vậy thì phài: 2- Tự Túc Về Tổ Chức Và Tiếp Liệu, là tự ta tìm tòi, phát huy sáng kiến để có nhiều nhân vật lực để hoạt động, không ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác. Chính phủ chỉ cần giúp ta một số vốn căn bản, dựa vào đó ta tìm cách biến cải thêm để hành động và mở rộng phạm vi hoạt động. Chẳng hạn hiện giờ ta thiếu kẽm gai để làm ấp chiến lược, thì ta cố gắng tìm vật liệu khả dĩ làm tê liệt cơ thể bất cứ ai động đến (như đồng bào Thượng đã làm trên Cao nguyên); hoặc dùng địa danh địa vật để lồng hệ thống bố phòng ấp chiến lược vào trong đó, đỡ cần đào hào hay rào kẽm gai. Muốn thực hiện tự túc về tổ chức, thì cần phải 3- Tự Túc Về Kỹ Thuật là phát huy khả năng chiến đấu, và khai thác, phát triển khả năng của nhân vật lực sẵn có đến tột mức 100%. Ba bộ phận của tam túc có liên hệ mật thiết với nhau; muốn tự túc về tổ chức mà không tự túc về kỹ thuật, thì tổ chức không thành; thiếu tự túc tư tưởng thì tất nhiên sẽ không có tự túc tổ chức và tự túc kỹ thuật. Từ quan niệm tam túc sinh ra quan niệm tam giác. B.Tam Giác là: 1. Cảnh Giác Về Sức Khỏe (thể xác), nghĩa là không được đau ốm. Do đó ta phải tránh tất cả những việc làm phương hại đến thân xác ta như đau ốm, tứ đổ tường. Bảo đảm sức khỏe thì mới bảo đảm được khả năng làm tròn nhiệm vụ. 2. Cảnh Giác Về Đạo Đức Và Tác Phong Đạo Đức, vì tác phong đạo đức là cốt yếu của cán bộ, thiếu tác phong đạo đức sẽ chi phối tu tưởng, sẽ biến khả năng làm việc thiện ra việc ác, chưa kể việc thất nhân tâm. 3. Cảnh Giác Về Trí Tuệ là phát huy óc sáng tạo, sáng tác khả năng chiến đấu của nhân vật lực sẵn có đến tột độ. Vậy, không có sức khỏe, đau ốm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến óc sáng tạo và thu hẹp phạm vi hoạt động của đạo đức. Không có óc sáng tạo thì dù có sức khỏe, có đạo đức, cũng không có khả năng bồi bổ vào sự thiếu thốn nhân vật lực, là tình trạng của một nước chậm tiến. Có sức khỏe, có óc sáng tạo, nhưng không có đạo đức thì sức khỏe ấy, óc sang tạo ấy, sẽ phục vụ cho phi nghĩa, không phải cho chính nghĩa…” 3/. Ông Nhu để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu. Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thanh những “cái đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu cộng sản. Ông tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lươc được an tòan trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì cộng sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất. Quốc sách Ấp chiến lược sau hai năm đã ngăn chặn thành công. Việt Cộng không còn sống bám lén lút trong nhân dân. Vấn đề an ninh làng ấp được vững vàng hơn, quân đội chính quy quốc gia trở thành lực lượng hành quân chủ động. Du kích cộng sản chịu nhiều thất bại đáng kể, khiến cho chúng phải rơi vào thế bị động và chao đảo sau khi đã mất hạ tầng cơ sở. Tinh thần quân đội quốc gia lên cao, dân chúng được bảo vệ tốt hơn và du kích Việt Cộng càng ngày càng hồi chánh về đầu thú với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Tóm lại, Ấp chiến lược là một “quốc sách” của chính quyền Việt Nam Cộng hòa I sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam từ năm 1960 do chính quyền Ngô Đình Diệm đề xuất, đối phó hữu hiệu với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Ấp chiến lược tổ chức theo hình thức “tự quản, tự phòng và tự phát triển“. Quản lý ấp là một Ban Trị Sự, phòng thủ bảo vệ ấp là lực lượng Phòng Vệ Dân Sự, phối hợp với các đơn vị Thanh Niên, Thanh Nữ Cộng Hòa của ấp đó phụ trách. Khi ấy, tất cả các ấp đều được bảo vệ bởi các rào cản kiên cố, mỗi ấp đều có một hoặc nhiều chòi canh tầm nhìn xa, các cổng ra vào được canh gác cẩn mật. Ban ngày, người dân được tự do ra vào để làm ăn, tuy nhiên người lạ muốn vào ấp phải qua sự kiểm soát vô cùng chặt chẽ. Ban đêm, các cổng ra vào được đóng kín lại, nhưng các trường hợp cấp thiết của dân ở bên trong vẫn được giải quyết. Mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp từ bên ngoài vào đều bị phát hiện vì trong ấp có hệ thống báo động.
|
|