|
Post by NhiHa on Nov 4, 2010 2:53:20 GMT 9
SẢN XUẤT VÀ SỬ DỤNG VACCIN22.1. LỊCH SỬ Antoni van Leeuwenhoek (1632-1723) phát minh ra kính hiển vi và nhìn thấy vi khuẩn vào năm 1684. Hơn 100 năm sau Edward Jenner là người đầu tiên trở thành phương pháp chủng đậu để phòng ngừa bệnh đậu mùa. Trong giai đoạn từ 1857 đến 1885 Louis Pasteur trở thành “Ông tổ” của ngành Vi sinh vật và cũng là người đầu tiên chế tạo ra vaccin phòng bệnh than và bệnh dại. Hình 22.1: Edward Jenner Bảng 22.1: Niên biểu phát hiện mầm bệnh và sản xuất vaccin a- Quá trình phát hiện mầm bệnh b. San Xuat Vacin: 22.2. VACCIN 22.2.1. Sự phát triển của vaccin Vaccin học (Vaccinology) được mở đầu thành công vào cuối thế kỷ 18 bởi bác sĩ thú y E.Jenner (Anh) với vaccin làm từ chủng gây bệnh đậu bò, tiêm cho cậu bé 13 tuổi J.Philip. Hiện nay, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã công nhận tiêm vaccin là phương cách bảo vệ hiệu quả, giúp nhân loại tránh được các bệnh truyền nhiễm. Từ 1880, Louis Pasteur (Pháp) đã sáng chế thành công vaccin chống bệnh Than và nhiều loại vaccin khác trên ý tưởng của Jenner, tạo ra một trường phái riêng tồn tại cho đến ngày nay. Sang nửa thế kỷ 20, mặc dù công nghệ vaccin có những bước tiến vượt bậc và đạt nhiều thành tích đáng kể, nhưng cũng đã nảy sinh nhiều thách thức, nhiều bệnh dịch nguy hiểm tái phát và mới xuất hiện. Tình trạng miễn dịch mà cơ thể có được sau khi sử dụng vaccin là kết quả của sự đáp ứng miễn dịch đối với các thành phần kháng nguyên có trong vaccin. Tùy từng loại vaccin, hiệu lực bảo vệ có thể do miễn dịch dịch thể, miễn dịch qua trung gian tế bào hoặc phối hợp cả hai loại. Ngoài miễn dịch đặc hiệu, vaccin còn có khả năng tăng cường cả miễn dịch không đặc hiệu như làm tăng quá trình thực bào nhờ kháng thể đóng vai trò là yếu tố opsonin đặc hiệu và nhờ lymphokin hoạt hóa đại thực bào… 22.2.2. Nguyên tắc sử dụng vaccin Việc sử dụng vaccin phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây: - Tiêm chủng trên phạm vi rộng, đạt tỷ lệ cao. - Tiêm chủng đúng đối tượng. - Bắt đầu tiêm chủng đúng lúc; bảo đảm đúng khoảng cách giữa các lần tiêm chủng; tiêm chủng nhắc lại đúng thời gian. - Tiêm chủng đúng đường và đúng liều lượng. - Nắm vững phương pháp phòng và xử trí các phản ứng không mong muốn do tiêm chủng. - Bảo quản vaccin đúng quy định. 22.2.2.1. Phạm vi và tỷ lệ tiêm chủng - Về phạm vi tiêm chủng: Phạm vi tiêm chủng được quy định theo tình hình dịch tễ của từng bệnh. Phạm vi tiêm chủng đương nhiên không giống nhau giữa các nước. Ngay cả các khu vực trong một nước cũng có thể có sự khác nhau. Những quy định này lại có thể thay đổi theo thời gian do sự thay đổi về dịch tễ dịch tễ học của bệnh nhiễm khuẩn. Về lý thuyết, người ta thường nói tiêm chủng càng rộng càng tốt. Thực tế thì không thể thực hiện được điều đó vì những lý do sau đây: Thứ nhất, sẽ rất tốn kém (chi phí cho việc mua hoặc sản xuất vaccin và cho việc tổ chức tiêm chủng); thứ hai, tuy các phản ứng không mong muốn do vaccin gây ra rất ít nhưng không phải là không có. - Về tỷ lệ tiêm chủng: Những khu vực có lưu hành bệnh truyền nhiễm, tiêm chủng phải đạt trên 80% đối tượng chưa có miễn dịch mới có khả năng ngăn ngừa được dịch. Nếu tỷ lệ tiêm chủng chỉ đạt trong khoảng từ 50% đến 80%, nguy cơ xảy ra dịch chỉ giảm bớt. Nếu tỷ lệ tiêm chủng dưới 50% dịch vẫn dễ dàng xảy ra. 22.2.2.2. Đối tượng tiêm chủng Đối tượng cần được tiêm chủng một loại vaccin nào đó là tất cả những người có nguy cơ nhiễm vi sinh vật gây bệnh mà chưa có miễn dịch. Trẻ em là đối tượng cần được đặc biệt quan tâm. Sau khi hết miễn dịch thụ động do mẹ truyền (trong thời gian khoảng 6 tháng) nguy cơ mắc bệnh của trẻ rất lớn. Mặt khác miễn dịch thụ động nhờ kháng thể truyền qua rau thai hoặc qua sữa chỉ có đối với những bệnh mà cơ chế bảo vệ chủ yếu do miễn dịch dịch thể. Đối với những bệnh mà cơ chế bảo vệ là miễn dịch qua trung gian tế bào thì trẻ có thể bị bệnh ngay từ những tháng đầu tiên sau khi sinh. Những hiểu biết này là cơ sở cho việc quy định thời điểm bắt đầu tiêm chủng cho trẻ em. Trừ những đối tượng chống chỉ định, tất cả trẻ em đều phải được tiêm chủng. Đối với người lớn, đối tượng tiêm chủng thu hẹp hơn. Thường chỉ tiến hành tiêm chủng cho những nhóm người có nguy cơ cao. Trong thời kỳ mở cửa, số lượng người đi du lịch giữa các nước ngày càng lớn, tiêm chủng cho người du lịch đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với cả nước có công dân đi du lịch và cả nước đón khách du lịch. Trong những năm gần đây, đề phòng bệnh uốn ván sơ sinh, phụ nữ ở lứa tuổi sinh đẻ được tiêm phòng uốn ván. Hình 22.2: Tiêm chủng vaccin Diện chống chỉ định tiêm chủng (không được tiêm chủng) có hướng dẫn riêng đối với mỗi vaccin. Nói chung không được tiêm chủng cho các đối tượng sau đây: - Những người đang bị sốt cao. Những trường hợp đang bị nhiễm khuẩn nhẹ không sốt hoặc chỉ sốt nhẹ thì không cần phải hoãn tiêm chủng. - Những người đang ở trong tình trạng dị ứng. Những người có cơ địa dị ứng hoặc có lịch sử gia đình bị dị ứng vẫn tiêm chủng được, nhưng cần phải theo dõi cẩn thận hơn. - Vaccin sống giảm độc lực không được tiêm chủng cho những người bị thiếu hụt miễn dịch, những người đang dùng thuốc đàn áp miễn dịch hoặc những người mắc bệnh ác tính. - Tất cả các loại vaccin virus sống giảm độc lực không được tiêm chủng cho phụ nữ đang mang thai. 22.2.2.3. Thời gian tiêm chủng Việc tiêm chủng được tiến hành thường xuyên hoặc tập trung tiêm chủng hàng loạt tùy thuộc vào yêu cầu của mỗi loại vaccin và các điều kiện cụ thể khác. - Thời điểm tổ chức tiêm chủng: Khi đã xác định được quy luật xuất hiện dịch, cần phải tiến hành tiêm chủng đón trước mùa dịch, để cơ thể có đủ thời gian hình thành miễn dịch. Đối với vaccin được tiêm chủng lần đầu, thời gian tiềm tàng kéo dài từ 24 giờ đến 2 tuần (trung bình khoảng 1 tuần), tùy thuộc vào bản chất vaccin và tính phản ứng của cơ thể. Hiệu giá kháng thể đạt được đỉnh cao nhất sau khoảng 4 ngày đến 4 tuần (trung bình 2 tuần). Đó là kết quả của đáp ứng miễn dịch tiên phát. Khi tiêm chủng nhắc lại, thời gian tiềm tàng sẽ rút ngắn, hiệu giá kháng thể đạt được đỉnh cao nhất chỉ sau một số ngày nhờ những tế bào lympho có trí nhớ miễn dịch. Đó là kết quả của đáp ứng miễn dịch thứ phát. - Khoảng cách giữa các lần tiêm chủng: Đối với những vaccin phải tiêm chủng nhiều lần (khi tạo miễn dịch cơ bản), khoảng cách hợp lý giữa các lần tiêm chủng là 1 tháng. Nếu khoảng cách này ngắn hơn, mặc dù tiêm chủng lần sau nhưng kết quả đáp ứng của cơ thể vẫn chỉ như tiên phát, đáp ứng miễn dịch thứ phát sẽ không có hoặc bị hạn chế. Ngược lại, vì một lý do nào đó phải tiêm chủng lần tiếp theo sau hơn 1 tháng, hiệu quả miễn dịch vẫn được đảm bảo, vì vậy lần tiêm chủng trước vẫn được tính. Tuy nhiên, không nên kéo dài việc tiêm chủng nếu không có những lý do bắt buộc, vì trẻ có thể bị mắc bệnh trước khi được tiêm chủng đầy đủ. - Thời gian tiêm chủng nhắc lại: Tùy thuộc vào thời gian duy trì được tình trạng miễn dịch có đủ hiệu lực bảo vệ của mỗi loại vaccin. Thời gian này khác nhau đối với các loại vaccin khác nhau. Khi tiêm chủng nhắc lại thường chỉ cần 1 lần. Với lần tăng cường này, cơ thể sẽ đáp ứng miễn dịch nhanh và mạnh hơn, cho dù kháng thể của lần tiêm chủng trước chỉ còn lại rất ít. 22.2.2.4. Liều lượng và đường đưa vaccin vào cơ thể a- Liều lượng Liều lượng vaccin tùy thuộc vào loại vaccin và đường đưa vào cơ thể. Liều lượng quá thấp sẽ không đủ khả năng kích thích cơ thể đáp ứng miễn dịch. Ngược lại, liều lượng quá lớn sẽ dẫn đến tình trạng dung nạp đặc hiệu đối với lần tiêm chủng tiếp theo. b- Đường tiêm chủng - Chủng (rạch da): đây là đường cổ điển nhất, được thực hiện ngay từ lúc Jenner sáng chế ra vaccin phòng bệnh đậu mùa. Đối với vaccin này, đường chủng vẫn được dùng cho tới khi bệnh đậu mùa bị tiêu diệt hoàn toàn trên hành tinh của chúng ta (1979), không cần phải chủng đậu nữa. Ngày nay đường chủng vẫn còn được sử dụng cho một số ít vaccin. - Đường tiêm: Có thể tiêm trong da, tiêm dưới da hoặc tiêm bắp, không bao giờ tiêm vaccin vào đường tĩnh mạch. Tiêm trong da có thể được thực hiện bằng bơm kim tiêm hoặc bằng bơm nén áp lực không kim. - Đường uống: Đường uống là đường đưa vaccin vào cơ thể dễ thực hiện nhất. Tuy nhiên chỉ thực hiện được đối với vaccin không bị dịch đường tiêu hóa phá hủy. Cùng với tiến bộ trong sự hiểu biết về vai trò của miễn dịch tại chỗ do IgA tiết, những vaccin phòng bệnh đường tiêu hóa (hoặc bệnh ở nơi khác nhưng vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể theo đường tiêu hóa) đã được sử dụng hoặc đang được nghiên cứu đưa vào cơ thể bằng cách uống. Đường uống kích thích miễn dịch tiết tại chỗ mạnh hơn nhiều so với đường tiêm. Ngoài 3 đường nói trên, vaccin còn được vào cơ thể theo một số đường khác như khí dung, đặt dưới lưỡi, thụt vào đại tràng, những đường này ít được sử dụng. 22.2.2.5. Các phản ứng phụ do tiêm chủng Về nguyên tắc, vaccin phải đảm bảo đủ độ an toàn. Song trên thực tế không thể đạt được mức độ an toàn tuyệt đối. Tất cả các vaccin đều có thể gây ra phản ứng phụ ở một số người. - Phản ứng tại chỗ: Những phản ứng nhẹ thường gặp sau tiêm chủng là nơi tiêm có thể hơi đau, mẩn đỏ, hơi sưng hoặc nổi cục nhỏ. Những phản ứng này sẽ mất đi nhanh chóng sau một vài ngày, không cần phải can thiệp gì. Nếu tiêm chủng không đảm bảo vô khuẩn, nơi tiêm có thể bị viêm nhiễm, mưng mủ. - Phản ứng toàn thân: Trong các phản ứng toàn thân, sốt hay gặp hơn cả (10% đến 20%). Sốt thường hết nhanh sau một vài ngày. Co giật có thể gặp nhưng với tỷ lệ rất thấp (1/10.000), hầu hết khỏi không để lại di chứng gì. Một số vaccin có thể gây ra phản ứng nguy hiểm hơn, trong đó có sốc phản vệ, tuy nhiên tỷ lệ rất thấp. Khi bàn về những phản ứng do vaccin, rất cần phải nhấn mạnh rằng mức độ nguy hiểm do vaccin nhỏ hơn rất nhiều so với mức độ nguy hiểm do bệnh nhiễm khuẩn tương ứng gây ra. Thí dụ, tỷ lệ biến chứng nguy hiểm do bệnh ho gà gấp hàng trăm đến hàng nghìn lần phản ứng nguy hiểm do vaccin bạch hầu – ho gà – uốn ván (vaccin DPT) gây ra. 22.2.2.6. Bảo quản vaccin Vaccin rất dễ bị hỏng nếu không được bảo quản đúng. Chất lượng vaccin ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực tạo miễn dịch, vì vậy các vaccin cần phải được bảo quản tốt ngay từ lúc nó được sản xuất cho tới khi được tiêm chủng vào cơ thể. Thường quy trình bảo quản các vaccin không giống nhau, nhưng nói chung các vaccin đều cần được bảo quản trong điều kiện khô, tối và lạnh. Nhiệt và ánh sáng phá hủy tất cả các loại vaccin, nhất là những vaccin sống như vaccin sởi, bại liệt và vaccin BCG sống. Ngược lại, đông lạnh phá hủy nhanh các vaccin giải độc tố (như vaccin phòng uốn ván và bạch hầu). Trong quá trình sử dụng ở cộng đồng, các vaccin cần được bảo quản ở nhiệt độ trong khoảng từ 2oC đến 8oC. Một trong những công việc quan trọng nhất trong việc tổ chức tiêm chủng là tạo lập được dây chuyền lạnh. Dây chuyền lạnh không đơn thuần là có các nhà lạnh, tủ lạnh, các phích đá hoặc các hộp cách nhiệt mà còn phải lưu ý cả những khâu trung gian trong quá trình vận chuyển vaccin và tiến hành tiêm chủng. Vaccin nếu đã bị phá hủy dù có được bảo quản lai ở điều kiện thích hợp cũng không thể có hiệu lực trở lại, cũng không có tác dụng nữa, phải loại bỏ. Một điểm cũng cần được lưu ý là các hóa chất tẩy uế, sát trùng đều có thể phá hủy vaccin. Nếu các dụng cụ tiêm chủng được khử trùng bằng hóa chất thì chỉ cần một lượng rất ít dính lại cũng có thể làm hỏng vaccin. Vì vậy các dụng cụ tiêm chủng trước khi dùng phải được rửa sạch sau đó khử trùng ở nhiệt độ cao bằng cách luộc hoặc hấp. 22.3. TIÊU CHUẨN CỦA VACCIN Hai tiêu chuẩn cơ bản nhất của vaccin là an toàn và hiệu lực. 22.3.1. An toàn Một vaccin lý tưởng khi sử dụng sẽ không gây bệnh, không gây độc và không gây phản ứng. Sau khi sản xuất vaccin phải được cơ quan kiểm định nhà nước kiểm tra chặt chẽ về mặt vô khuẩn, thuần khiết và không độc. - Vô khuẩn: Vaccin không được nhiễm các vi sinh vật khác, nhất là các vi sinh vật gây bệnh. - Thuần khiết: Ngoài kháng nguyên đưa vào để kích thích cơ thể đáp ứng miễn dịch chống vi sinh vật gây bệnh, không được lẫn các thành phần kháng nguyên khác có thể gây ra các phản ứng phụ bất lợi. - Không độc: Liều sử dụng phải thấp hơn rất nhiều so với liều gây độc. Tuy nhiên, như đã nêu ở phần 2.5., không có vaccin nào đạt được độ an toàn tuyệt đối. Khi cân nhắc để quyết định xem một vaccin nào đó có được đưa vào sử dụng hay không, cần phải so sách giữa mức độ phản ứng do vaccin và tính nguy hiểm của bệnh nhiễm khuẩn tương ứng. 22.3.2. Hiệu lực Vaccin có hiệu lực lớn là vaccin gây được miễn dịch ở mức độ cao và tồn tại trong một thời gian dài. Hiệu lực gây miễn dịch của vaccin trước hết được đánh giá trên động vật thí nghiệm, sau đó trên thực địa. Trên động vật thí nghiệm: Cách thứ nhất, đánh giá mức độ đáp ứng miễn dịch thông qua việc xác định hiệu giá kháng thể hoặc xác định mức độ dương tính của phản ứng da. Cách đánh giá này không cho biết hiệu lực bảo vệ. Cách thứ hai, xác định tỷ lệ động vật đã được tiêm chủng sống sót sau khi thử thách bằng vi sinh vật gây bệnh. Dù đã được cơ quan kiểm định nhà nước kiểm tra và đã được đánh giá trên động vật, trước khi đưa ra tiêm chủng rộng rãi, vaccin đều phải được thử nghiệm trên thực địa (field test): Vaccin được tiêm chủng cho một cộng đồng, theo dõi thống kê tất cả các phản ứng phụ và đánh giá khả năng bảo vệ khi mùa dịch tới. Ngoài 2 tiêu chuẩn trên, để chọn một vaccin tiêm chủng, người ta còn quan tâm đến giá thành và tính thuận lợi cho việc tiến hành tiêm chủng. 22.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu lực của vaccin 22.3.3.1. Bản chất và liều lượng của vaccin Hiệu lực của vaccin sẽ cao nếu chứa các kháng nguyên có tính sinh miễn dịch mạnh. Mặt khác vaccin phải được sản xuất từ các chủng vi sinh vật “đủ tư cách đại diện” cho tác nhân gây bệnh. 22.3.3.2. Đường đưa vaccin vào cơ thể 22.3.3.3. Các chất phụ gia miễn dịch Các chất phụ gia miễn dịch được dùng rộng rãi nhất là các hợp chất của nhôm (aluminum hydroxit hoặc aluminum photphat). Chất phụ gia miễn dịch có tác dụng làm cho vaccin chậm giáng hóa, vì vậy có thể giảm được liều lượng và số lần tiêm chủng. Chất phụ gia còn có tác dụng kích thích cơ thể đáp ứng miễn dịch mạnh hơn. Như vậy chất phụ gia miễn dịch vừa có tác dụng làm tăng hiệu quả kinh tế, vừa có tác dụng làm tăng hiệu quả miễn dịch. 22.3.3.4. Tình trạng dinh dưỡng Những ảnh hưởng của tình trạng dinh dưỡng đến đáp ứng miễn dịch đã được xác định. Những kết quả nghiên cứu cho thấy, suy dinh dưỡng làm giảm đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào rõ hơn miễn dịch dịch thể. Tuy nhiên các trẻ suy dinh dưỡng vẫn cần được tiêm chủng vì 2 lý do: Thứ nhất, chúng vẫn có khả năng đáp ứng miễn dịch; thứ hai, chúng rất dễ bị mắc các bệnh truyền nhiễm. 22.3.3.5. Kháng thể do mẹ truyền Kháng thể do mẹ truyền có khả năng ức chế đáp ứng miễn dịch của loại vaccin tương ứng. Vì vậy hiệu lực miễn dịch của một số vaccin sẽ bị hạn chế nếu tiêm chủng quá sớm khi hiệu giá kháng thể do mẹ truyền còn tương đối cao. Những bệnh như lao, bại liệt có cơ chế đề kháng chủ yếu là miễn dịch qua trung gian tế bào, đứa trẻ không được mẹ truyền, vì vậy phải được tiêm vaccin phòng lao và uống vaccin phòng bại liệt từ rất sớm ngay những ngày đầu tiên sau khi sinh. 22.4. PHÂN LOẠI VACCIN Vaccin có thể chia thành 3 loại: 1) Vaccin giải độc tố, 2) Vaccin chết toàn thể hoặc kháng nguyên tinh chế, và 3) Vaccin sống giảm độc lực. 22.4.1. Vaccin giải độc tố Loại vaccin này được sản xuất từ ngoại độc tố của vi khuẩn đã được làm mất tính độc nhưng vẫn giữ được tính kháng nguyên. Vaccin giải độc tố kích thích cơ thể sản xuất ra kháng độc tố, là loại kháng thể có khả năng trung hòa ngoại độc tố. Vaccin này nhằm phòng chống các bệnh nhiễm trung do vi khuẩn gây bệnh chủ yếu bằng ngoại độc tố. 22.4.2. Vaccin chết toàn thể hoặc kháng nguyên tinh chế Loại vaccin này sản xuất từ các vi sinh vật gây bệnh. Sau khi vi sinh vật đã bị giết chết có thể lấy toàn bộ huyền dịch làm vaccin (vaccin toàn thể), hoặc tinh chế lấy các thành phần kháng nguyên quan trọng, đó là các “kháng nguyên bảo vệ” (protective antigens). Các kháng nguyên này chủ yếu kích thích đáp ứng miễn dịch dịch thể. Các kháng thể được hình thành có thể trực tiếp giết chết vi sinh vật, ngăn cản sự bám dính của chúng vào tế bào cơ thể vật chủ, làm tăng khả năng thực bào …, hoặc phối hợp các cơ chế trên. 22.4.3. Vaccin sống giảm độc lực Loại vaccin này sản xuất từ vi sinh vật gây bệnh hoặc vi sinh vật giống vi sinh vật gây bệnh về cấu trúc kháng nguyên, đã được làm giảm độc lực không còn khả năng gây bệnh. Vaccin sống tạo ra trong cơ thể một quá trình nhiễm khuẩn tự nhiên, kích thích cơ thể đáp ứng cả miễn dịch toàn thể và miễn dịch tại chỗ, cả miễn dịch dịch thể và miễn dịch qua trung gian tế bào. Tuy nhiên điều phải quan tâm đặc biệt là tính an toàn của vaccin sống, phải đảm bảo không còn khả năng gây bệnh hoặc chỉ gây bệnh rất nhẹ, và vi sinh vật phải có tính di truyền ổn định không trở lại độc lực ban đầu. 22.5. PHỐI HỢP VACCIN Mục đích chính của việc phối hợp vaccin là mà giảm bớt số mũi tiêm chủng hoặc làm giảm bớt số lần tổ chức tiêm chủng. Có 2 loại phối hợp vaccin: 1) Tiêm chủng vaccin phối hợp (trộn các vaccin với nhau, tiêm chủng cùng một lần, cùng một đường) 2) Tiêm chủng nhiều vaccin riêng biệt trong cùng một thời gian, có thể ở các vị trí khác nhau hoặc theo những đường khác nhau. Hình 22.4: Tiêm vaccin cho trẻ em Phối hợp vaccin phải đảm bảo giữ được hiệu lực tạo miễn dịch và không gây ra tác hại gì. Hiệu lực tạo miễn dịch đối với mỗi thành phần vaccin ít nhất phải bằng khi chúng được tiêm chủng riêng rẽ. Một số trường hợp khi phối hợp vaccin tạo ra được đáp ứng miễn dịch mạnh hơn. Ngược lại có những trường hợp phối hợp không hợp lý làm giảm hiệu lực tạo miễn dịch. Sự phối hợp vaccin hợp lý sẽ không làm tăng tỷ lệ phản ứng phụ. Nghĩa là độ an toàn vẫn được đảm bảo như khi chúng được tiêm chủng riêng rẽ ở những thời gian khác nhau. 22.6. PHÁT TRIỂN VACCIN 22.6.1. Tiêu chuẩn chấp nhận - Tuyệt đối vô khuẩn và an toàn khi sử dụng với số lượng lớn. - Hiệu quả bảo vệ cộng đồng tương đối cao và phải kéo dài (có thể suốt đời người). - Thích ứng với tình hình dịch tễ ở địa phương. - Được dung nạp tốt, dễ sử dụng, ổn định chất lượng kể cả ở các nước vùng nhiệt đới nóng ẩm và giá cả được chấp nhận. 22.6.2. Thời kỳ sơ khai Đậu mùa, sau bệnh sẽ không mắc lại, biện pháp miễn dịch chủ động do Jenner (1796) đề xuất với chủng đậu Bò. Kapikian và cộng sự đề nghị tiêm vaccin cho trẻ chống bệnh viêm dạ dày ruột qua đường uống Rotavirus từ khỉ theo phương pháp Jenner. Năm 1985 Pasteur dùng vaccin làm yếu qua cấy truyền trên thỏ phòng dại – phát sinh từ vaccin. Từ đó tạo nguyên lý “làm yếu mầm bệnh bằng cấy truyền sang cơ chất không thích hợp” còn gọi là “phương pháp cố định”. 22.6.3. Thời kỳ giải độc tố và vaccin bất hoạt - 1884 Laffler phát hiện vi khuẩn bạch hầu và Roux – Yersin phát hiện độc tố bạch hầu gây bệnh. - Sau khi Behring – Kitasato phát hiện kháng huyết thanh thì Gleumy – Ramon giải độc độc tố bằng formalin – ra đời vaccin giải độc tố bạch hầu 1923. - Tiến đến phát minh vaccin toàn thân tế bào bất hoạt chống vi khuẩn thương hàn, tả, ho gà, vaccin virus bất hoạt khác như: Bại liệt Salk, viêm não Nhật Bản, cúm. 22.6.4. Thời kỳ vaccin sống Nuôi cấy virus trong phòng thí nghiệm đã thành công vào giữa thế kỷ 20 nhờ đó việc sản xuất vaccin phất triển. Enders tạo môi trường nuôi virus từ 1948. Năm 1954 Sabin phát triển vaccin bại liệt bất hoạt bằng kỹ thuật nuôi cấy tế bào thận khỉ đồng thời Sabin và cộng sự làm vaccin bại liệt sống gồm 3 typ, thực địa ở Rumani thành công. Tiếp đó là các vaccin sống như: Sốt vàng, sởi, quai bị, rubella (thập kỷ 60), Rota, Bại liệt Sabin. 22.6.5. Thời kỳ công nghệ gen Virus học và nuôi cấy mô phát triển là tiền đề cho phát triển vaccin. Đặc biệt khi miễn dịch học hiện đại và công nghệ gen tái tổ hợp ra đời đã kích thích mạnh mẽ nghiên cứu sản xuất vaccin công nghệ cao. Trước đây chỉ có các bác sĩ nhân y và thú y quan tâm đến vaccin. Đến nay, nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực sinh, hóa, lý và công nghệ đã kết hợp với nhau nghiên cứu ứng dụng công nghệ gen và protein trong phát triển vaccin. Đầu tiên là với vaccin viêm gan B: Tác nhân gây bệnh là virus nhóm ADN mà tiểu phần HBs có trong máu bệnh nhân là kháng nguyên chính. Vì chưa có thể sản xuất lớn, việc thu nhóm HBs lúc đầu dựa vào nguồn máu bệnh nhân nên dễ lây nhiễm, số lượng có hạn và không an toàn. Khắc phục điều này có hai nhà sản xuất Merck (Mỹ) và Matsubazơ (Nhật) đồng thời tìm ra phương pháp tái tổ hợp dùng nấm men sản xuất kháng nguyên HBs. ADN của virus viêm gan B được gắn vào nấm men thông qua plasmid và nuôi cấy nấm men tái tổ hợp sẽ sản sinh số lượng lớn kháng nguyên dùng pha chế vaccin. Phương pháp mới đã thay thế hoàn toàn công nghệ cổ điển và đưa ngành sản xuất vaccin bước vào kỷ nguyên mới. Hình 22.9: Vaccin phòng tránh một số ung thư 22.6.6. Năm hướng phát triển trong tương lai - Sử dụng các phụ gia (adjuvant) mới, nhằm gây ra loại đáp ứng miễn dịch mong muốn. Thí dụ, chất nhôm photphat và các oligonucleotid chứa CpG demetyl hóa đưa vào vaccin khiến đáp ứng miễn dịch phát triển theo hướng dịch thể (tạo kháng thể) thay vì tế bào. - Vaccin polypeptit: tăng cường tính sinh miễn dịch nhờ liên kết tốt hơn với các phân tử MHC: peptit nhân tạo ½ giống virus, ½ kia gắn MHC; đoạn peptit mô phỏng một quyết định kháng nguyên (epitop). - Anti-idiotyp: idiotyp là cấu trúc không gian của kháng thể tại vị trí gắn kháng nguyên, đặc hiệu với kháng nguyên tương ứng. Anti-idiotyp là các kháng thể đặc hiệu đối với idiotyp, do đó anti-idiotyp xét về mặt đặc hiệu lại tương tự với kháng nguyên. Vậy, thay vì dùng kháng nguyên X làm vaccin, người ta dùng idiotyp anti-anti-X. - Vaccin ADN: ADN của tác nhân gây bệnh sẽ được biểu hiện bởi tế bào người được chủng ngừa. Lợi thế của ADN là rẻ, bền, dễ sản xuất ra số lượng lớn nên thích hợp cho những chương trình tiêm chủng rộng rãi. Ngoài ra, vaccin ADN còn giúp định hướng đáp ứng miễn dịch: tác nhân gây bệnh ngoại bào được trình diện qua MHC loại II, dẫn đến đáp ứng CD4 (dịch thể và tế bào). Khi kháng nguyên của tác nhân đó được chính cơ thể người biểu hiện, nó sẽ được trình diện qua MHC loại I, lúc này đáp ứng miễn dịch tế bào qua CD8 được kích thích. Tuy nhiên phương pháp này là con dao hai lưỡi bởi lẽ tế bào mang ADN lạ có nguy cơ bị nhận diện là “không ta”, sinh ra bệnh tự miễn. - Sử dụng véc-tơ - dùng các virus hoặc Protein “tải” và “cộng hợp” kháng nguyên. Hình 22.10: Định hướng sản xuất vaccin chống HIV/AIDS
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 4, 2010 3:37:25 GMT 9
22.6.7. Công nghệ mới trong sản xuất vaccin 22.6.7.1. Đại cương Các công nghệ mới trong sản xuất vaccin đã góp phần quan trọng trong quá trình phòng chống bệnh tật cho con người. Sự bùng nổ về số lượng các công nghệ như tái tổ hợp ADN, tinh khiết đại phân tử, sinh hoá học Protein … đã tạo ra nhiều ứng dụng trong sản xuất các loại vaccin đặc hiệu cho nhiều loại bệnh mà y học tưởng như bó tay (Viêm gan B, viêm não Nhật Bản, …). Trong khoảng hai thập kỷ cuối của thiên niên kỷ thứ 2 đã có sự bùng nổ về số lượng những vấn đề kỹ thuật trong sản xuất vaccin mới. Có được sự phát triển này là do những tiến bộ nhanh chóng trong nhiều lĩnh vực, bao gồm sinh học phân tử, công nghệ tái tổ hợp ADN (rADN), sinh hoá học protein, hoá học polysaccharit, sinh hoá học phân tích, tinh khiết đại phân tử, virus học, vi khuẩn học, huyết thanh học và miễn dịch học. Một vài ứng dụng sớm nhất của những công nghệ mới hơn đã dành cho những vaccin đã có, với mục đích là để tăng số lượng sản xuất (như vaccin viêm gan B) hoặc để có sự an toàn hơn (như vaccin ho gà). Tuy nhiên, phần lớn những ứng dụng đều hướng vào việc phát triển những vaccin mới mà từ trước đến nay chưa làm được. Các công nghệ mới còn được mở rộng sang những lĩnh vực khác như thay đổi sinh lý học (thụ tinh), dị ứng, ung thư, điều trị miễn dịch và hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải. Mục tiêu của một vaccin chủ động là kích thích cơ thể tạo ra một trạng thái miễn dịch bảo vệ ở người được tiêm. Có hai loại vaccin chủ động: Vaccin “sống” là một vi sinh vật hoạt động như một tác nhân gây miễn dịch, có khả năng gây nhiễm cho các tế bào và nhân lên ở túc chủ mà không gây ra bệnh; Vaccin “chết” hay “bất hoạt” là một kháng nguyên gây miễn dịch, không có khả năng gây bệnh truyền nhiễm túc chủ. Bảng 22.2: Công nghệ mới trong vaccin học 22.6.7.2. Vaccin sống Một vài vaccin sống đã đáp ứng về cơ bản những tiêu chuẩn cho một vaccin lý tưởng. Đó là: Có khả năng tạo ra một sự bảo vệ suốt đời với một phản ứng tối thiểu ở gần như toàn thể những người đã nhận một hoặc hai liều vaccin. Những vaccin loại này chứa các vi sinh vật thường là các virus; chúng gây nhiễm các tế bào và nhân lên ở túc chủ, giống như sự nhân lên của vi sinh vật hoang dại gây ra nhiễm khuẩn tự nhiên. Như vậy, vi sinh vật có trong vaccin sẽ gây ra một đáp ứng miễn dịch của cơ thể giống như đáp ứng với vi sinh vật hoang dại. Vaccin sống đã được giảm độc lực, tức là khả năng gây bệnh của vi sinh vật hầu như đã được loại bỏ bằng các thủ thuật sinh học hay kỹ thuật. Các vaccin sống thường tạo ra cả hai loại miễn dịch, đó là miễn dịch dịch thể (kháng thể) và miễn dịch tế bào (tế bào Limpho T). Vaccin sống gồm có 2 loại sau: a/ Vaccin cổ điển Thuật ngữ “cổ điển” đề cập tới những chiến lược vaccin không dùng tới công nghệ rADN. Chiến lược vaccin cổ điển đầu tiên làm giảm độc lực trong nuôi tế bào đã trở nên hiện thực trong các thập kỷ 40 và 50 với nuôi tế bào hiện đại invitro (trong phòng thí nghiệm) và khả năng nuôi virus trong các nuôi tế bào đó, tạo ra vaccin uống poliovirus, các vaccin tiêm như sởi, quai bị, thuỷ đậu, rubella. Một cách chế tạo vaccin cổ điển thứ hai là phân lập và nuôi virus động vật, gây ra một bệnh động vật tương tự như bệnh ở người. Virus động vật này tạo ra được miễn dịch ở người nhưng không gây bệnh cho người. Đó là trường hợp Jenner đã dùng virus Vaccina (đậu bò) để làm vaccin phòng bệnh đậu mùa ở người (Variola virus) 200 năm về trước. Chính vaccin này đã dẫn đến việc thanh toán bệnh đậu mùa trên phạm vi toàn thế giới vào giữa thập kỷ 70, đây cũng chính là căn bệnh đầu tiên được thanh toán bằng vaccin. Hình 22.11: Kiểm tra dưới kính hiển vi điện tử b/ Vaccin tái tổ hợp Có 2 hướng trong đó công nghệ rADN đã được ứng dụng để phát triển những vaccin virus sống mới: Ứng dụng thứ nhất là tạo ra những biến đổi đặc hiệu hoặc những xoá bỏ ở gen của virus, điều đó sẽ làm cho virus được giảm độc lực một cách vững bền. Như vậy, chúng sẽ không còn có khả năng quay trở lại độc lực. Đây là hướng đi tạo vaccin H5N1 của Viện Vệ sinh dịch tễ TƯ (Hà Nội). Ứng dụng thứ hai của công nghệ ADN cho việc phát triển những vaccin sống mới là làm cho những virus trở thành các vecto của những Polypeptit “ngoại lai” hay những Epitop peptit từ những tác nhân gây bệnh khác của người. Mục đích tạo ra những vecto như vậy là để giới thiệu Polypeptit hay peptit ngoại lai cho hệ thống miễn dịch, trong khuôn khổ của một virus sống, làm sao cho hệ thống miễn dịch đáp ứng với Polypeptit ngoại lai như một kháng nguyên miễn dịch “sống”. Như vậy sẽ phát triển được một miễn dịch rộng rãi hơn (dịch thể, tế bào hay cả hai). Là một phần của một virus sống, Polypeptit ngoại lai được biểu thị bên trong bào tương của tế bào bị nhiễm, được làm gẫy thành những đoạn peptit, rồi được chuyển vận tới bề mặt của tế bào. Từ đó, chúng sẽ kích thích sự đáp ứng của tế bào Limpho T độc với tế bào. Vecto virus mẫu thường được dùng rộng rãi trong việc tạo ra vaccin sống mới là virus đậu mùa. Để làm cho virus này trở thành một vecto, phải tạo ra một plasmid có chứa gen cho polypeptit ngoại lai, với những trình tự nối tiếp hướng sự biểu thị của nó vào trong các tế bào, sự kết hợp đó được gọi là “một cát xét biểu thị”. Virus Vaccinia và cát xét biểu thị được đưa cùng vào nuôi tế bào, các tế bào có thể tiếp nhận cả hai cùng một lúc vào trong bào tương. Ở đó xảy ra quá trình tái tổ hợp, sản xuất ra một virus Vaccinia tái tổ hợp biểu thị ra Polypeptit ngoại lai. Hình 22.12: Sản xuất vaccin ADN 22.6.7.3. Vaccin bất hoạt So với vaccin sống thì các vaccin bất hoạt dễ sản xuất hơn. Theo định nghĩa, các vaccin bất hoạt không thể nhân lên hoặc lan tỏa để có thể gây ra bệnh. Nói chung, chúng được dung nạp tốt hơn, đặc biệt phần lớn các vaccin bất hoạt đã qua xử lý tinh khiết để loại bỏ các đại phân tử khác. Ngoài ra, do công nghệ phát triển hiện nay, có thể dễ thực hiện được việc sản xuất các vaccin bất hoạt. Khả năng tạo miễn dịch của một vaccin bất hoạt thường được nâng cao nhờ thêm tá dược. Tá dược duy nhất được cấp giấy phép dùng cho người là muối nhôm hydroxit hay photphat, đã được dùng tiêm cho hơn 1 tỷ người trên toàn cầu. Kháng nguyên của vaccin gắn một cách vững bền vào muối nhôm nhờ tác động tương hỗ iôn và làm thành một hỗn dịch. Các vaccin chết thường có chức năng kích thích các đáp ứng miễn dịch dịch thể, cũng như khởi động cho miễn dịch tế bào. a/ Vaccin bất hoạt nguyên tế bào Sản xuất vaccin bất hoạt nguyên tế bào vi khuẩn hay toàn hạt nhỏ virus, với mục đích kích thích việc hình thành các kháng thể đối với nhiều kháng nguyên; một vài vaccin còn có tác dụng trung hoà tác nhân gây bệnh. Trong trường hợp vaccin viêm gan A chẳng hạn, các tế bào bị nhiễm virus viêm gan A được làm dung giải bởi các hạt virus đã tinh khiết bằng phương pháp sinh hoá học, bất hoạt bằng Formalin, rồi sau đó hấp phụ vào một muối nhôm.Chiến lược cổ điển này dẫn đến việc sản xuất ra những vaccin có hiệu lực, đến nay vẫn còn là một công nghệ lựa chọn cho nhiều vaccin virus. b/ Vaccin bất hoạt protein Đối với nhiều tác nhân gây bệnh thì việc phát triển một vaccin dựa trên Protein là chiến lược được lựa chọn. Phương pháp chế tạo ra một vaccin dựa trên Protein bằng các kỹ thuật miễn dịch, di truyền và sinh hoá học xác định tính đặc hiệu kháng nguyên. Kỹ thuật nói trên cho phép các biểu vị bảo vệ và những Polypeptit được xác định rất đặc hiệu. Vaccin viêm gan B làm từ nguồn huyết tương người là vaccin đầu tiên trong thể loại này. Protein bề mặt của virus viêm gan B (HBsAg), được xác định là một Lipoprotein, một kháng nguyên có những biểu vị bảo vệ trên bề mặt. HBsAg lấy từ huyết tương của những người mang virus viêm gan B mãn được tinh khiết rồi bất hoạt để làm vaccin. Vaccin viêm gan B tái tổ hợp là ứng dụng đầu tiên của công nghệ rADN cho việc sản xuất vaccin dùng cho người. 22.6.8. Định hướng phát triển vaccin mới Để phát triển 1 vaccin mới có nhiều trở ngại thường làm nản lòng các nhà nghiên cứu và đầu tư: - Cần thời gian lâu 10-20 năm - Rủi ro cao: Khoảng 80% gặp thất bại trong nghiên cứu lâm sàng - Không ngạc nhiên khi các doanh nghiệp nhà nước ở các nước tư bản không tiếp tục phát triển sản xuất vaccin nữa. - Báo trước/tồn tại một hố sâu ngăn cách giữa cam kết của cộng đồng quốc tế, quốc gia về nhu cầu sức khỏe cộng đồng với vấn đề thương mại. - Các tổ chức thương mại luôn cân nhắc về khả năng thu hồi vốn, giá cả và thị trường. Nói chung, để phát triển vaccin mới cần xem xét các vấn đề công nghệ sau: So sánh công nghệ bào chế “Cổ điển”: - Vaccin sống giảm độc lực hay được bất hoạt. - Vaccin nguyên tế bào hay vaccin tiểu đơn vị“ Mới”: - Những vecto sống, vật lây truyền khác. - Những mầm bệnh được biến đổi về di truyền. - Cộng hợp. - Tá dược. - Hấp thu qua niêm mạc. - Tái tổ hợp ADN. - Những kỹ thuật phát hiện kháng nguyên. - Các thiết bị chiết tách. Với các tế bào vi khuẩn hoặc nấm men đã được lắp ghép thêm các gen mới, người ta có thể nuôi cấy ở quy mô lớn sản xuất các loại protein kháng nguyên để chế tạo ra các loại vaccin thế hệ mới. Ưu điểm của các loại vaccin này là: - Rất an toàn vì không sử dụng các tác nhân gây bệnh. - Giá thành hạ vì không phải nuôi cấy trên phôi gà hoặc trên các tổ chức động vật, trong các thiết bị đắt tiền. - Hạn chế được kinh phí kiểm định. - Hạ thấp giá thành trong bảo quản và vận chuyển. Thuộc về các loại vaccin thế hệ mới có thể kể đến vaccin kháng nguyên nhân tạo, vaccin riboxom, vaccin các mảnh của virus, vaccin công nghệ ADN. Các vaccin chống ung thư gan nguyên phát, chống ung thư cổ tử cung , chống ung thư bạch cầu Burkih là những bước tiến quan trọng đầu tiên của con người trong việc tìm kiếm biện pháp miễn dịch chống hiểm hoạ ung thư. Nhờ ghép được ADN của vi khuẩn Hansen vào vi khuẩn E.coli mà người ta hy vọng làm ra được vaccin chống phong thế hệ hai ngừa một bệnh nan y đang làm khổ sở 15 triệu người trên thế giới. Theo Vane và Cuatrecasas (1984) có thể tóm tắt các tiến bộ lai của vaccin tương lai như sau: a. Vaccin thông thường: Vaccin sống giảm độc và vaccin bất hoạt mà việc sản xuất chủ yếu dựa trên kiến thức kinh nghiệm. b. Vaccin cải tiến: việc sản xuất dựa trên nuôi cấy invitro (kể cả tế bào động vật có vú), nắm chắc tính chất các kháng nguyên hiểu biết rõ các vị trí sinh miễn dịch và ADN của chúng. c. Vaccin protein đơn: bao gồm việc phân lập kháng nguyên tinh khiết sao nhân mã hoá các kháng nguyên đó, phân tích cấu trúc bậc nhất đưa vào sử dụng công nghệ kháng thể đơn dòng và tá dược cải tiến. d. Vaccin peptit tổng hợp: việc chế tạo dựa trên hoá miễn dịch, nghiên cứu cấu trúc peptit trên máy tính và hiểu biết cơ chế của hiện tượng cộng hợp. e. Vaccin qua đường uống, khí dung và thực phẩm. 22.6.8. Các dạng trình bày mới của vaccin tương lai Đó là các loại: ADN tái tổ hợp di truyền, vaccin ăn qua miệng, vaccin tinh thể Trehaloz, vaccin dán trên da.Một gen kháng nguyên được ghép vào hệ gen của một vi khuẩn hay virus (vecto) dưới sự điều hoà của một promoter, rồi gây nhiễm cho cơ thể, kích thích tạo miễn dịch. Vaccin tái tổ hợp có vecto dẫn truyền này, cũng như loại hình vaccin sống giảm độc, còn nhiều hạn chế. Trước hết nó khá cồng kềnh do phải duy trì nguồn virus hay vi khuẩn sống. Do vậy, người ta phải tìm kiếm một phương thức khác, đưa gen kháng nguyên vào một vecto đơn giản là plasmid. Thực nghiệm cho thấy, khi đưa ADN của một loại plasmid tái tổ hợp mang gen kháng nguyên ngoại lai vào cơ thể thì cơ thể lại tạo miễn dịch chống lại. Việc nghiên cứu thử nghiệm này đã và còn tiếp tục trong những năm tới đây. Vaccin nucleic bao gồm vaccin ADN và vaccin ARN. Đó là các ADN hoặc ARN của một loại plasmid tái tổ hợp mang gen kháng nguyên ngoại lai và promoter. 22.6.8.1. Vaccin tái tổ hợp dùng tiêm Loại vaccin này đang tạo một cuộc cách mạng trong công nghệ sản xuất vaccin. Năm 1989, Gustav (USA) tình cờ phát hiện ra liệu pháp gen trong phòng thí nghiệm dùng tế bào động vật có vú sản xuất một loại protein mã hoá trong gen. Ba năm sau, S. Johnston ở đại học Texas phát minh kỹ thuật nhân chuỗi ADN tạo sản phẩm protein ngoại lai trên tế bào động vật. Từ protein đến vaccin phải chờ đến bước đột phá tiếp theo của các nhà bác học Mỹ Harriet Robinson, David Weiner và nhóm S.Johnstons tiến hành thành công vào năm 1991. Vaccin ADN có tác dụng chống ung thư, chữa bệnh tự miễn dịch và dị ứng. Vaccin ADN có khả năng dung nạp cao, an toàn, ổn định và hiệu quả kéo dài so với vaccin cổ điển. Ngoài ra, việc dễ dàng sản xuất lớn, giá thành chấp nhận được rất có lợi cho các nước đang phát triển. 22.6.8.2. Vaccin ăn qua miệng (thực phẩm) Giữa những năm 80, RoyCutiss III và Guy Gardinau (USA) đề xuất ý tưởng cấy gen ADN ngoại lai của virus, vi khuẩn vào thực vật. Năm 1992 nhà thực vật học Boyce Thompson ở New-York có ý tưởng làm vaccin tự nhiên cho người qua việc ăn các thực phẩm cấy gen trên. Hiện đã có ít nhất 5 công ty công nghệ sinh học lớn đang nghiên cứu phát triển vaccin “ăn” được kiểu này. 22.6.8.3. Vaccin hóa học dùng tinh thể “Trehaloz” làm “vật mang” Là loại đường đôi có nhiều trong các mô sinh học, có khả năng tích trữ năng lượng để duy trì sự sống khi gặp điều kiện bất lợi. Năm 1990 B.Roz ở Anh đã đề xuất việc gắn các kháng nguyên với tinh thể này và xoa trên da, dễ dàng xâm nhập vào mô sống phóng thích kháng nguyên như kiểu tiêm chủng cổ điển. Trehaloz còn là tá dược đông khô vaccin, dạng khí dung dùng qua đường thở (vaccin cúm). Nhờ khả năng bắt giữ và thải chậm, vaccin Trehaloz rất ổn định luôn giữ được công hiệu cao trong thời gian dài ở bất kỳ nhiệt độ bảo quản nào (60oC/1 tháng không mất công hiệu). 22.6.8.4. Vaccin dán trên da Người Mỹ cho rằng việc thấm qua da cũng là một cách đưa vaccin vào tiếp cận hệ thống miễn dịch của cơ thể người. Nhóm nghiên cứu của G.Glenm đã thử dán miếng giấy thấm chứa độc tố tả CT. CT là chất kích thích miễn dịch mạnh nhưng nếu được làm giảm độc tính (các tiểu phần) thì chính nó trở thành một tá dược chuẩn cho nhiều loại vaccin khác, việc đưa CT qua da rất an toàn sau khi thử trên một số người tình nguyện. Thử với LT của E.coli trên chuột cũng cho kết quả tốt. Đã có 30 loại kháng nguyên làm vaccin thử ở dạng này (bạch hầu, uốn ván, cúm, dại …) thậm chí không gây miễn dịch chéo với CT. “Miễn dịch qua da” đã bước đầu được thử trên 18 người tình nguyện với hai kháng nguyên CT và LT dán trên cánh tay trong 6 giờ. Sau 3 tuần đo hiệu giá kháng thể thấy rất cao, không gây phản ứng phụ so với chứng. Có thể vaccin này sẽ phải cải tiến bằng việc thay dùng trực tiếp các độc tố vi khuẩn bằng các vector plasmid ADN. 22.6.8.5. Vaccin khí dung: Phun xịt qua đường hít thở (Vaccin cúm…) 22.7. TIÊM CHỦNG VÀ NHỮNG SỰ CỐ SAU TIÊM CHỦNG 22.7.1. Lợi ích và thách thức Trong 2 thế kỷ qua vaccin đã góp phần rất lớn đẩy lùi nhiều bệnh tật và giảm tỷ lệ tử vong cho con người. Trước khi bị khai tử bởi vaccin bệnh đậu mùa từng là nỗi kinh hoàng của cả Châu âu trong thế kỷ 18, đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người. Vaccin cũng là vũ khí hữu hiệu chống lại các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như Bại liệt, Sởi, Viêm não góp phần quan trọng hạn chế những di chứng gây tàn phế cho bệnh nhân, tiết kiệm được nhiều chi phí cho gia đình và xã hội. Trung bình hàng năm, tiêm chủng đã cứu sống được khoảng 3 triệu người trên toàn thế giới, khống chế và loại trừ được nhiều căn bệnh mới nảy sinh nhưng con người chưa có vaccin phòng chống. Hình 22.13: Biết bao trẻ em còn chưa được tiêm chủng vaccin hàng năm Với một số bệnh cụ thể sau, nếu được miễn dịch bằng vaccin, số người trên toàn thế giới sẽ được cứu sông hàng năm sẽ là: - Từ bệnh đậu mùa: (5 triệu người). Thực tế bệnh đã chấm dứt từ năm 1997 đến nay. - Từ bệnh tiêu chảy (3 triệu người), riêng Rotavirus là 0,9 triệu người. - Nhiễm khuẩn hô hấp: (3,7 triệu người), trong đó do phế cầu là 1,2 triệu do virus 0,5 triệu. - Từ lao (3,2 triệu người), sởi (2,7 triệu người), sốt rét (2,1 triệu người). - Uốn ván (2 triệu người), viêm gan siêu vi B (1,2 triệu người), HIV/AIDS (1 triệu người), ho gà (1 triệu người), bại liệt (0,6 triệu người), bạch hầu (0,3 triệu người), sốt xuất huyết (0,03 triệu người). Tổng cộng: 24.395.000 người (nguồn CVI/GPV1-1997). Lợi ích của tiêm chủng vaccin cho cộng đồng trong nhiều thập kỷ qua đã được thế giới công nhận. Thành tựu nổi bật nhất là việc thanh toán vĩnh viễn bệnh đậu mùa trên phạm vi toàn cầu từ những năm 1980. Ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam đã công bố xóa bỏ bệnh bại liệt vào năm 2000. Trong vòng 10 năm tới, có thể chúng ta sẽ đẩy lùi bệnh uốn ván sơ sinh bằng vaccin. Ở Việt Nam dự án tiêm chủng mở rộng quốc gia đã triển khai 10 loại vaccin, hai thập kỷ qua đã giảm đáng kể tỷ lệ mắc và tử vong do các bệnh truyền nhiễm như ho gà, bạch hầu, tả, thương hàn, lao. Tiêm vaccin sởi có thể giảm 80% nguy cơ mắc và tử vong do bệnh sởi gây ra ở trẻ em, song trong số trẻ được tiêm có một tỷ lệ nhỏ bị phản ứng. Khoa học ngày càng phát triển trong các lĩnh vực vi sinh vật học, miễn dịch học, sinh học phân tử, di truyền học, hóa học, vật lý, tin học và công nghệ nano đã hỗ trợ đắc lực cho công cuộc tìm kiếm những vaccin an toàn, công hiệu hơn. Vaccin học đã tiếp cận sang nhiều lĩnh vực mới như bệnh dị ứng, bệnh xã hội học, các bệnh nan y (ung thư, HIV/ADIS), bệnh ký sinh trùng sốt rét và đạt nhiều thành quả đáng kể. Giá vaccin cũng từng bước được tháo gỡ bằng những biện pháp hỗ trợ của các tổ chức Quốc tế (UNICEF thỏa thuận với các nhà sản xuất giảm giá các vaccin thiết yếu cho trẻ em) và chính phủ các nước (trợ giá các vaccin chương trình, giảm thuế, xóa bỏ sự ràng buộc của luật độc quyền sở hữu trí tuệ). Nhiều năm qua, Việt Nam đã mạnh dạn thực hiện chiến lược tự túc vaccin, Nhà nước hỗ trợ sản xuất vaccin trong nước và vận động nhân dân sử dụng vaccin nội địa, giữ được giá vaccin ở mức hợp lý. Việc cải tiến phương thức sản xuất theo lối “cộng hợp” để có vaccin đa giá (1 mũi tiêm phòng được nhiều bệnh) và thay vaccin thế hệ mới nhằm giảm đau đớn và lo lắng cho người dùng (nhất là với trẻ em) đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các chiến diïch tiêm chủng. Các tổ chức phi chính phủ như GAVI, quỹ Bill Gates cũng tạo nhiều nguồn tài trợ mới cho việc nghiên cứu và phát triển vaccin. Những thách thức: a/ Tính an toàn: Những phản ứng phụ không an toàn của vaccin cho người được tiêm đang là mặt trái, gây cản trở lớn cho công tác vận động tiêm chủng. Mặc dù tỷ lệ xuất hiện những phản ứng phụ nghiêm trọng do vaccin rất thấp, nhưng vấn đề xác định đúng nguyên nhân và cách khắc phục vẫn là những thách thức không nhỏ đối với mọi quốc gia. b/ Chi phí: Việc đầu tư sản xuất vaccin rất tốn kém. Chi phí từ giai đoạn nghiên cứu đầu tiên đến việc sản xuất thử, trang thiết bị và cuối cùng là đánh giá lâm sàng hiệu quả của một vaccin mới ra đời ước tính từ 200 – 400 triệu USD. Đây quả là mức chi không tưởng cho các nước nghèo. c/ Nhiều bệnh mới xuất hiện chưa có vaccin: Từ 3 thập kỷ qua đã xuất hiện nhiều bệnh truyền nhiễm mới như: HIV/AIDS, bò điên, sốt xuất huyết, SARS, cúm gà – là thách thức lớn cho giới khoa học và các nhà quản lý y tế của các nước. Trước hết nhân loại đang tập trung tìm hiểu nguyên nhân gây dịch, chủ động phòng và dập tắt các vụ dịch bằng nhiều biện pháp tổng hợp, song không thể bỏ qua giải pháp toàn diện và triệt để nhất là sử dụng vaccin. Mặt khác, vẫn phải tiếp tục tìm kiếm các vaccin hữu hiệu phòng chống các bệnh khác như: sốt rét, phong cùi, tim mạch, ung thư, dị ứng cùng nhiều bệnh nhiễm khuẩn và không nhiễm khuẩn khác. Hình 22.14: Vùng dịch Sốt vàng ở Châu Phi và Nam Mỹ Mỗi năm có 130 triệu trẻ em được sinh ra nhưng vẫn có 30 triệu trẻ trong số này không được tiêm phòng, tỷ lệ tiêm phòng cho trẻ dưới 5 tuổi giảm từ 80% (năm 1990) xuống 74% (năm 1999) ¼ số trẻ mới sinh ra không được hưởng vaccin miễn phí của chương trình tiêm chủng mở rộng phòng 6 bệnh cơ bản sởi, bại liệt, uốn ván, bạch hầu, ho gà và lao. Trẻ em ở các nước đang phát triển vẫn có nguy cơ chết vì những bệnh có vaccin phòng ngừa cao gấp 10 lần so với trẻ ở các nước phát triển. Tiêm chủng là sự lựa chọn đúng đắn, cần miễn dịch để bảo vệ cả cộng đồng, tiêm chủng tiêu diệt mầm bệnh, bảo vệ không chỉ một thế hệ mà còn cho các thế hệ tiếp nối. Đầu tư cho tiêm chủng vẫn là giải pháp rẻ nhất trong các biện pháp phòng chống dịch bệnh: 50 USD cho tiêm chủng có thể tiết kiệm hàng chục ngàn USD cho việc cứu sống một sinh mạng do bệnh tật cướp đi. 22.7.2. Chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR) Chương trình TCMR hình thành khái niệm từ đầu những năm 1974 đề ra mục tiêu năm 1990 chống 6 bệnh nguy hiểm. Đặc điểm 6 bệnh: - Sởi giết 2 triệu trẻ/năm. - Uốn ván giết 800.000 trẻ/năm (2 mũi bảo vệ cả mẹ và con 80% trong 3 năm). - Ho gà giết 600.000 trẻ/năm (công hiệu bảo vệ 62 – 80% nếu tiêm đủ 3 liều từ 6 tuần tuổi/cách 1 tháng). - Lao: 2 triệu trẻ dưới 5 tuổi mắc/năm (60.000 sẽ lao màng não, tử vong 50 – 100%). BCG giữ 2 năm <80C. Bảng 22.3: Nhận biết về chương trình TCMR Nội dung Thế giới Việt Nam Khởi động WHO 1974 1984 Loại vaccin 6 loại (Bạch hầu, ho gà, uốn ván, lao, bại liệt, sởi) 6 loại (Bạch hầu, ho gà, uốn ván, lao, bại liệt, sởi) Bổ sung loại vaccin (1997) Viêm gan B, thương hànVi, sốt vàng (tùy dịch tễ từng nước). 1997/ Viêm gan B, thương hàn Vi, viêm não, tả (4 loại). Đối tượng mục tiêu < 5 tuổi < 5 tuổi Độ lớn về thị trường 130 triệu trẻ sơ sinh/năm (các nước AZAN 26 triệu), 65% số trẻ ở các nước đang phát triển 1,6 triệu trẻ sơ sinh/năm - Bạch hầu: 10 – 18% tử vong trong các bệnh bạch hầu (25.000 trường hợp/năm ở trẻ em) hiệu quả bảo vệ 100% DTP nếu bảo quản tốt. Từ năm 1997 TCMR của Việt Nam bổ sung thêm 4 loại vaccin: Tả uống, viêm gan virus B, viêm não Nhật Bản B và Thương hàn. Trong TCMR tỷ lệ sau 20 năm thực hiện ở Việt Nam đã giảm 100 lần tỷ lệ mắc các bệnh trên ở trẻ em. Chương trình tiêm chủng ở Việt Nam: - Đối tượng tiêm chủng gồm trẻ em, phụ nữ có thai, phụ nữ tuổi sinh đẻ. - Khoảng 17 triệu lượt đối tượng tiêm chủng trong 1 năm trong TCMR. - Hơn 50% nhu cầu vaccin sử dụng trong TCMR được sản xuất trong nước. Hình 22.17: Chương trình Tiêm chủng mở rộng 22.8.3. Một số lưu ý về chỉ định tiêm chủng Không có nhiều chống chỉ định trong tiêm chủng. Tất cả trẻ em cần được tiêm chủng, trừ một số trường hợp sau: a) Những liều tiêm tiếp theo đối với những trường hợp có phản ứng quá mẫn với liều tiêm trước hoặc những người có tiền sử dị ứng với các thành phần của vaccin. b) Không nên tiêm vaccin BCG cho trẻ em bị bệnh AIDS. Chú ý: Trẻ bị nghi ngờ nhiễm HIV hoặc đã có dấu hiệu của bệnh AIDS nên tiêm vaccin sởi cho trẻ khi được 6 tháng tuổi và nhắc lại khi trẻ được 9 tháng. c) Trong trường hợp trẻ bị ốm nếu bố mẹ trẻ không đồng ý tiêm, không tiêm cho trẻ, cán bộ y tế cần đề nghị bà mẹ mang trẻ trở lại khi đã khỏi ốm. Những trẻ đã có phản ứng quá mẫn với lần tiêm trước thì không nên tiêm tiếp. Nếu trẻ bị tiêu chảy khi uống OPV, cần cho trẻ uống 1 liều bổ sung cách liều thứ 3 ít nhất 4 tuần.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 4, 2010 3:38:40 GMT 9
Lưu ý khi tiêm vaccin: * Nếu tiêm hơn 1 loại vaccin trong cùng một thời điểm, hãy sử dụng một bơm kin tiêm cho mỗi loại vaccin đó và không được tiêm cùng một chỗ ở đùa hoặc tay. Mỗi loại vaccin cần được tiêm ở những vị trí khác nhau. * Không tiêm hơn một liều cùng một loại vaccin cho phụ nữ hoặc trẻ em trong một lần tiêm chủng. * Tiêm đúng khoảng cách giữa các mũi tiêm theo hướng dẫn. (Ví dụ: phải đợi tối thiểu 4 tuần giữa các liều đối với Bại liệt, DTP và viêm gan B) * Những trường hợp sau không chống chỉ định: - Có tiền sử dị ứng hoặc hen (trừ trường hợp bạn biết rõ dị ứng với thành phần nào của vaccin). - Các trường hợp ốm nhẹ, như viêm nhiễm đường hô hấp hoặc tiêu chảy có thân nhiệt dưới 38,50C. - Tiền sử gia đình co giật, động kinh hoặc ngất. - Đang điều trị các thuốc kháng sinh. - Nhiễm hoặc nghi ngờ nhiễm HIV nhưng chưa biểu hiện triệu chứng AIDS. - Dấu hiệu và triệu chứng của AIDS, ngoại trừ vaccin BCG. - Bệnh mãn tính như các bệnh về tim, phổi, thận hoặc bệnh gan. - Các bệnh thần kinh bẩm sinh: Bại não hoặc hội chứng Down. - Đẻ non hoặc nhẹ cân (không nên trì hoãn tiêm vaccin). - Đã hoặc sắp phẫu thuật. - Suy dinh dưỡng. - Có tiền sử vàng da khi đẻ. 22.8.3. Lịch tiêm chủng Bảng 22.4: Lịch tiêm chủng miễn dịch cơ bản cho trẻ em Việt Nam. * Chỉ tiêm chủng ở các vùng có nguy cơ bệnh 22.8.4. Những sự cố sau tiêm chủng Lợi ích của tiêm chủng cho sức khỏe cộng đồng ai cũng rõ và là điều không thể phủ nhận. Song, những sự cố hay những phản ứng có hại cho sức khỏe từng cá nhân trong cộng đồng thì cần nhìn nhận đúng. Cũng như thuốc, vaccin dùng trong tiêm chủng luôn đạt yêu cầu về tính an toàn và hiệu lực bảo vệ mới được lưu hành. Nhưng không thể có một lọai vaccin nào hoàn toàn an toàn vì vẫn còn những tỷ lệ nhất định những sự cố xảy ra sau tiêm chủng. Thêm vào nguyên nhân do chính bản chất vaccin thì quá trình tiêm chủng cũng là một nguyên nhân gây sự cố đó. Việc giám sát để hạn chế tác dụng của các sự cố đang là yêu cầu bức thiết trong chiến lược tiêm chủng ở nước ta hiện nay. Cần có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở để thống kê các báo cáo trung thực về những phản ứng có hại đích thực do vaccin, do tiêm chủng hay do tác động ngẫu nhiên trùng hợp khi tiêm chủng. Để có cái nhìn trung thực ấy, cần phân loại những phản ứng sau tiêm như trong bảng dưới đây. Bảng 22.5. Năm loại sự cố sau tiêm chủng Choáng phản vệ dù có khả năng gây tử vong nhưng vẫn có thể điều trị được mà không để lại hậu quả lâu dài. Các phản ứng nặng khác do tác động ngẫu nhiên trùng hợp nhiều hơn do phản ứng đích thực của vaccin. Trong chiến dịch tiêm chủng, cần nắm vững các thông tin để dự đoán tỷ lệ và loại phản ứng sau tiêm chủng, phải tiến hành điều tra ngay nếu thấy tỷ lệ xảy ra cao hơn và phản ứng nặng hơn. Ngất xỉu thường xảy ra ở trẻ trên 5 tuổi (không đòi hỏi phải xử lý gì ngoài việc đặt bệnh nhân ở tư thế nằm nghiêng). Có thể ngăn ngừa trước bằng cách rút ngắn thời gian chờ đợi, giữ nhiệt độ phòng ở mức vừa phải dễ chịu, khi chuẩn bị vaccin đừng cho trẻ thấy và tiêm riêng rẽ từng trẻ một. Không để trẻ được tiêm bị ngã và phải để trẻ ở tư thế ngồi khi tiêm. Cảm giác trúng gió là kết quả của sự lo sợ khi đi tiêm chủng với những triệu chứng đặc biệt như nhức đầu nhẹ, chóng mặt, tê xung quanh miệng và các bàn tay, hơn nữa hay gặp ở các trẻ nhỏ, thậm chí ngừng thở, có khi hét trốn chạy. Lo sợ có thể dẫn đến một vài trường hợp co giật. Có tình huống gây hysteria hàng loạt (khởi đầu thường ngất xỉu từ một trẻ). Giới hạn những tác động có hại của tiêm chủng và cách điều trị thể hiện trong bảng sau đây. Bảng 22.6: Triệu chứng, cách điều trị và loại vaccin gây ra. Để giảm thiểu tác hại của sự cố sau tiêm cần có hệ thống giám sát, báo cáo thống kê, hành động xử lý kịp thời từ cấp cơ sở đến Trung ương. Ngoài ra, việc điều tra sau đó để tìm đúng nguyên nhân sai sót cần được làm minh bạch, trung thực. Việc tuyên truyền trấn an dư luận với cha mẹ và quần chúng nhân dân cần được làm nghiêm túc trên cơ sở khoa học có tình, có lý. Việc xử lý và thông tin qua các cơ quan truyền thông là công việc hết sức tế nhị nhạy cảm cần thận trọng và đúng hướng nhằm tạo niềm tin lâu dài của cộng đồng với công tác tiêm chủng. 22.9. TRIỂN VỌNG CỦA CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT VACCIN Vaccin là sản phẩm được chế tạo từ các vi sinh vật (virus, vi khuẩn, nấm men) hoặc các kháng nguyên đặc hiệu, được đưa vào cơ thể người gây miễn dịch chủ động nhằm phòng nhiễm khuẩn do các vi sinh vật tương ứng gây ra. Thuật ngữ vaccin E.Jenner dùng đầu tiên bắt nguồn từ chữ Latinh “vacca” (con bò) để chỉ chất chế từ vảy đậu bò dùng chủng cho người nhằm phòng bệnh đậu mùa. Sau này, L.Pasteur dùng thuật ngữ vaccin rộng rãi để ghi nhớ công trình có ý nghĩa lịch sử của E.Jenner. Nhìn chung các vaccin hiện này thuộc hai nhóm chính: Vaccin bất hoạt (còn gọi là vaccin chết) chứa các vi sinh vật đã bị diệt hoặc các ngoại độc tố của chúng đã được giảm độc không còn khả năng gây bệnh (tác nhân bất hoạt nhiệt, bức xạ, siêu âm, hoá chất như formalin, phenol, beta probiolactol, merthiolate). Những tác nhân này phải có tác dụng làm giảm độc và bảo vệ kháng nguyên. Vaccin giảm độc lực (Vaccin sống) chứa vi khuẩn hoặc virus đã được giảm độc bằng cách cấy chuyền hoặc xử lý sao cho mất khả năng gây độc hoặc bị biến chủng không còn khả năng gây độc nữa nhưng còn khả năng miễn dịch. Khởi đầu 200 năm trước đây là sự ra đời của vaccin đậu mùa. Rồi gần 100 năm sau vaccin dại lần đầu tiên được chủng ngừa cho người, đến những năm 1890 lần lượt ra đời vaccin tả, thương hàn, dịch hạch Thập kỷ đầu thế kỷ là vaccin ho gà, lao. Đến những năm 80 của thế kỷ 20, hơn 20 loại vaccin khác được đưa vào sản xuất. Trong 27 loại vaccin, tất cả đều được tiêm trừ 3 loại đã có vaccin uống là bại liệt, tả, thương hàn. Không phải tất cả các trẻ em trên thế giới đều có thể được dùng vaccin ví như vaccin tả, thương hàn, sốt – vàng chỉ cần cho người sống trong một vùng dịch hoặc có ghé qua vùng đó. Trong sơ đồ miễn dịch chuẩn đang dùng ở các nước đang phát triển cũng có tới ít ra từ 5-6 mũi tiêm. Ở Mỹ trẻ em được tiêm chủng với 14 loại (11 loại trước 8 tháng tuổi) nhiều gấp đôi số lượng yêu cầu 10 năm trước. Với hơn 200 loại vaccin đang nghiên cứu và phát triển, kể cả vaccin phòng bệnh do phế cầu khuẩn và não cầu khuẩn gây ra, số lần tiêm sẽ không giảm đi. Ông Walter-vADNermissen của hãng SB phát biểu trong cuộc họp của CVI gần đây cho rằng ít nhất sẽ có 25 loại vaccin cho trẻ em vào năm 2010. Như vậy trẻ em đang quá tải vì những mũi tiêm ! Và những thầy thuốc y học dự phòng có liên quan đến sự quá tải này hơn chính cha mẹ của những đứa trẻ khỏe mạnh phải tiêm vaccin. Vấn đề này phức tạp hơn ở những nước phát triển vì cả những mũi tiêm không an toàn nữa. Việc phối hợp hầu hết các vaccin vào một mũi tiêm là một cách để hạn chế số lần tiêm vaccin. Các tiến bộ kỹ thuật trong tương lai dĩ nhiên sẽ sản xuất được nhiều loại khác như vaccin uống nhưng trước mắt cần “Một hỗn hợp kháng nguyên trộn vào một sản phẩm đơn thích hợp vẫn là một giải pháp hợp lý tránh quá tải cho trẻ”. 22.9.1. Thành tựu (1949 - 1983) 1949: Vaccin đa giá đầu tiên, liên kết các kháng nguyên bạch hầu và ho gà, bạch hầu và uống ván, bạch hầu – ho gà – uốn ván (DTP: Diphteria-Pertussis-Tetanus). 1955: Vaccin đơn giá (1 bệnh) đa chủng đầu tiên vaccin bại liệt bất hoạt (IPV: Inactivated Polio Vaccine) liên kết 3 týp virus polio được dùng để tiêm và vaccin thương hàn, phó thương hàn A và B/ 1957: Phối hợp ađenovirus, cúm (được chấp nhận sử dụng năm 1980)/ 1958: Vaccin bại liệt 3 týp theo đường uống (OPV) “sabin” đã được sử dụng rộng rãi ở Liên bang Xô Viết từ năm 1958 và được đăng ký ở Mỹ năm 1963. 1967: Phối hợp sởi – đậu mùa (được chấp nhận năm 1985 sau khi đã thanh toán bệnh đậu mùa). 1970: Phối hợp sởi Đức (rubella) – quai bị. 1971: Phối hợp sởi – rubella và sởi – quai bị – Sởi Đức. 1973: Phối hợp sởi – quai bị. 1975: Vaccin cộng hợp 2 chủng (A-C) của não cầu khuẩn sử dụng kháng nguyên vỏ vi khuẩn polyxacarit (MenPS) 1977: Vaccin phế cầu polyxacarit (PnPS) cộng hợp 14 chủng của phế cầu khuẩn 1981: Vaccin viêm màng não thế hệ 2 phối hợp 4 chủng của não cầu khuẩn (A, C, Dịch vụ và W 135). 1983: Vaccin phế cầu 23 chủng thay thế loại 14 chủng. Với tổ chức CVI khuyến khích dùng vaccin đa giá và đơn giản hóa việc tiêm chủng nhằm tăng số lượng trẻ miễn dịch với kháng nguyên mới càng sớm càng tốt. Những lợi điểm của vaccin - Về thực tiễn: + Người được chủng ngừa và gia đình: giảm đau và lo lắng vì bị tiêm ít hơn, giảm số lần đi tiêm. Năm 2001, tại Pháp, nhờ sử dụng vaccin liên hợp, trẻ < 2 tuổi, chỉ phải tiêm 7 mũi, thay vì phải tiêm 88 mũi; trẻ < 18 tuổi, chỉ phải tiêm 11 mũi, thay vì phải tiêm tổng cộng 55 mũi. + Nhân viên chủng ngừa: tiết kiệm thời gian, giảm nguy cơ bị kim châm. - Về y tế cộng đồng: + Tăng tỷ lệ chủng ngừa. + Các kháng nguyên mới dễ được chấp nhận hơn. + Lợi điểm về lịch chủng ngừa. - Về kinh tế: Tiết kiệm trong các khâu + Sản xuất: thủ tục xuất lô, bao bì, kho chứa, chuyên chở, kiểm kê. + Đưa thuốc và cơ thể: Ống tiêm, kim tiêm, nhân viên tiêm. a, Các khó khăn khi phát triển một vaccin phối hợp Phải bảo đảm sự tương thích giữa các loại thành phần của các vaccin được liên hợp với nhau (kháng thể, chất bảo quản, chất phụ gia, tá dược, chất ổn định) Phải bảo đảm được độ bền vững của các vaccin thành phần. Phải bảo đảm tính gây miễn dịch và hiệu quả bảo vệ của từng kháng nguyên. Phải bảo đảm phối hợp không làm tăng tác dụng phụ của các vaccin được phối hợp. b. Nguyên lý phối hợp Khi công nghệ vaccin phát triển, như Phó tổng Giám đốc hãng SB Francis ADNres đánh giá, vaccin phối hợp 10 loại kháng nguyên là “kỹ thuật có thể thực hiện được”. Người ta cho rằng vaccin DTP sẽ là bộ khung chỉ cần đắp thêm các kháng nguyên khác sẽ có tác dụng hiệu quả toàn cầu. Sự lựa chọn này có 2 lý do chính: DTP được sử dụng rộng rãi, đồng thời DTP còn được xem là một vaccin ổn định và vẫn giữ vai trò chính của các chương trình tiêm chủng quốc gia trên toàn thế giới (những chương trình này đã chủng ngừa được khoảng 75-80% trẻ em trên thế giới dưới 2 tuổi). Vào năm 1991, một loại vaccin DTP mới thành phần kháng nguyên ho gà vô bào (DPaT) được đăng ký ở Mỹ. Vaccin ho gà vô bào này đã được phát triển đầu tiên ở Nhật gần 20 năm trước, sử dụng một hoặc nhiều kháng nguyên tinh khiết của vi khuẩn ho gà – thay cho vaccin ho gà “toàn tế bào” cổ điển (wP) DtaP công hiệu như DTwP nhưng ít có phản ứng phụ hơn. Song loại này đắt giá, cao gấp rưỡi so với DTwP trên thị trường nước Mỹ. Hình 22.16: Sản xuất vaccin tả ở quy mô lớn Sự xuất hiện các kháng nguyên hóa học mới như Hep B (Viêm gan B) hoặc Hib (Haemophilus influenza typ b) gây viêm màng não và viêm phế quản đã tạo thêm các dạng phối hợp mới, DTwP với HepB hoặc Hib hoặc với Hib và IPV, cũng có khi người ta dùng của vaccin DTwP-HepB dạng nước tiêm cùng vaccin Hib đông khô. Bạn cũng có thể phối hợp Hib và HepB với HepA. Cho đến nay, đã có 17 kiểu phối hợp vaccin theo nhiều phương pháp thích hợp. Và sẽ không có lý do gì để chúng ta không thấy được 17 loại vaccin phối hợp khác thành 34 loại. Để phối hợp tốt đã ra đời kỹ cộng hợp. Các vấn đề nảy sinh cần giải quyết vaccin là giá cả, liều lượng thích hợp, quy thành sản xuất, nhu cầu bảo quản lạnh, tuổi thọ vaccin, phản ứng phụ, hiệu quả bảo vệ và nhiều điều khác. Nhờ máy tính với vaccin phòng 5 bệnh (bạch hầu, uốn ván, ho gà, Hib và viêm gan B), đã có 16.000 kiểu phối hợp khác nhau, vì thế phối hợp là một sự thay thế hợp lý để tiết kiệm mũi tiêm. Dù thế nào, cần loại trừ các kháng nguyên thừa khi phối vaccin. Ở các nước đang phát triển cần cân nhắc khi phải đưa HepB hoặc Hib vào chương trình tiêm chủng mở rộng. Có thật sự cần phối hợp vaccin, liệu có thừa – khi ghép thêm ác kháng nguyên mới chưa gây dịch … cũng như vấn đề giá cả và hệ thống dây chuyền lạnh. Trường hợp tự sản xuất DTP thì có nên nhập DTP-HepB-HiB hay chỉ nhập đơn lẻ các kháng nguyên dạng bán thành phẩm? Muốn vậy, vaccin DTP tự sản xuất phải đạt chất lượng cao của quốc tế quy định. Với các nước còn đang tự sản xuất DTwP thì có nên nhập DtaP ? Nói chung các nước đang phát triển vẫn thích dùng DTwP hơn vì rẻ tiền, vì còn nghi ngờ công hiệu của Pa và cần duy trì nền sản xuất đang có của chính các nước đó. Giá còn đắt là cản trở trước nhất cho việc sử dụng vaccin phối hợp ở các nước đang phát triển. Các vaccin phối hợp bán ở Mỹ (14-20 USD/liều) nếu mua số lượng lớn có UNICEF trợ giá với các nước nghèo có thể thấp hơn 10 USD nhưng chắc không dưới 2 USD/liều. Trong khi các nước nghèo còn phải lo bao cấp các vaccin cần thiết hơn như DTP, BCG, bại liệt, sởi thì các vaccin phối hợp quả là khó bán được rộng rãi ở các nước này. Để giảm giá cần tăng cường tiếp thị để mọi người dân thấy được cái lợi của con em họ khi dùng vaccin phối hợp, tăng số lượng bán ra song song với việc giảm bớt các chi phí trung gian như công tiêm chích và đào tạo các nhân viên y tế, các chi phí do dụng cụ tiêm, phí vận chuyển và bảo quản, giảm tỉ lệ hao hụt vaccin như đóng lọ liều phù hợp tùy loại, tùy thị trường. Trở ngại cuối cùng để phổ cập vaccin phối hợp là vấn đề thông tin tuyên truyền về công thức phối hợp, hiệu quả phòng bệnh cao và các phản ứng phụ ít của vaccin mới chưa kể những thông tin công nghệ phối hợp vaccin cho các nước đang phát triển. 22.9.2. Những vấn đề công nghệ Bản chất kháng nguyên, sự tương tác trong hỗn hợp, cộng hợp và dung nạp, định lượng kháng nguyên. Tính hiệu quả và an toàn so sánh giữa phối hợp với từng thành phần đơn. Công thức và ảnh hưởng của chất đệm, pH, bảo quản trong vaccin đa giá. Chi phí cho kiểm định in vitro và in vitro kết quả thực địa theo từng vùng dân cư và dịch tễ khác nhau. Sự tương đồng giữa hiệu quả huyết thanh học với dịch tễ học (nhất là các thành phần đơn nguyên tương tự như kháng nguyên vi khuẩn ho gà). Thực địa với vaccin hỗn hợp khó đánh giá hết hiệu quả của từng hợp phần nếu dùng riêng. Tổng chi phí để cho ra đời một loại vaccin phối hợp mới cần đầu tư 100-200 triệu USD. 22.9.3. Vấn đề thị trường Phối hợp vaccin cho phù hợp nhu cầu của khối các nước phát triển và nghèo hay cho cả hai. Liệu có thu hút tham gia chung của tất cả các nhà sản xuất vaccin hay chỉ khu trú 5 công ty lớn. Liệu có độc quyền công thức phối hợp và độc quyền phân phối vaccin để hứa hẹn đầu tư ? Tuổi thọ vaccin phối hợp liệu có dài như vaccin đơn hay dễ bị thay thế trong thời đại phát triển công nghệ như hiện nay. Nếu tuổi thọ ngắn, cần cân nhắc đầu tư sao cho giá cả phải chăng nếu không sẽ khó tiêu thụ vaccin phối hợp. Cuối cùng là thói quen về tiêu thụ và chính sách tự lực sản xuất vaccin ở các nước đang phát triển cũng ảnh hưởng đến khả năng đầu tư phát triển các vaccin phối hợp mới. Dù sao cũng có những số liệu khả quan về thị trường tiêu thụ các vaccin phối hợp ví dụ thị trường ở Anh quốc từ 1,2tỉ USD năm 1992 tăng dần 1,7 tỉ USD năm 1997 và năm 2002 sẽ là 3,8 tỉ USD (trong 10 năm qua vaccin phối hợp chiếm 40-50 thị phần vaccin). Phối hợp vaccin còn mở đường phát triển cho các nhà sản xuất khi cần đẩy mạnh số lượng bán ra bằng cách phổ cập vaccin đơn giá thấp vào một loại đa giá và ngược lại. Phải nắm bắt yêu cầu của thị trường riêng mỗi nước theo kiểu bệnh từng địa phương để kịp đưa vào những vaccin phù hợp đó là chiến lược phát triển của các nhà sản xuất lớn hiện nay. Có những bệnh chưa phải tối nguy hiểm như thủy đậu hoặc quai bị nhưng nếu có thêm vaccin này trong vaccin phối hợp đa giá sẽ hấp dẫn cộng đồng tránh hội chứng lạm dụng vaccin ví như việc phối hợp một số kháng nguyên nhất định trong nhiều nguyên nhân tiêu chảy để chỉ định rạch ròi cho người du lịch hay chỉ dùng cho dân cư ở những nơi có các bệnh địa phương. Các tổ chức quốc tế WHO, CVI sẽ định hướng phát triển vaccin phối hợp chung toàn cầu trong một ngày gần đây để phát huy sức mạnh của dạng vaccin phối hợp mới nhằm tăng hiệu quả an toàn cho người sử dụng.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 4:19:01 GMT 9
TỰ NGĂN NGỪA VÀ TỰ CHỮA TRỊ BỊNH NAN Y
GS Phạm Văn Chinh Bịnh nan y là bịnh kinh niên, bất trị, tức là loại bịnh không trị được bằng thuốc men và bằng giải phẫu. loại bịnh này có rất nhiều, là loại bịnh thời đại, đang được báo động vì có quá nhiều người mắc phải. Bất cứ ở lứa tuổi nào cũng mắc phải. Trẻ con từ 6 tuổi trở lên đã có thể mắc bịnh nan y, nhất là tại các nước công nghiệp tiên tiến, thừa thải thực phẩm như ở Mỹ, Anh, Úc…. Trong bài viết này, chúng ta chỉ có đủ thời gian để nói đến nhóm bịnh nan y do ăn uống phát sinh. Dịp khác, chúng ta sẽ tiếp tục nói đến các bịnh nan y khác.Nhiều tài liệu cho biết trẻ em Mỹ từ 6 đến 13 tuổi có đến 54 % mắc các chứng bịnh nan y loại này ngay từ 1960 và trong số đó có đến 60 % đã chết non do biến chứng sang tim mạch. Còn người lớn và người già có tỷ lệ còn cao hơn nữa. Đây là một thảm trạng của các nước giàu, thừa thải vật chất, cần phải tìm hiểu để ngăn chặn và chữa trị cho con em chúng ta. Do đó có thể nói rằng bài viết này xem như là dành riêng cho giới trẻ. Chúng ta sẽ nói về các nhóm bịnh này cũng như cách tự đề phòng và chữa trị. Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng mà bất cứ ai cũng phải quan tâm. 1.Nhóm bịnh nan y do ăn uống phát sinh Hầu hết chúng ta đều biết các loại thức ăn, thức uống tại thị trường hiện nay chứa nhiều hóa chất độc hại đến độ phải báo động. Các thứ hóa chất làm cho các loại thú vật nuôi tăng trọng nhanh chóng, các loại hóc môn kích thích sự tăng trưởng bằng cách ăn uống ngon và ăn uống nhiều, tích chứa vào người, dần dần biến con cháu chúng ta và cả chúng ta( có thói quen ăn uống) gần giống như các loài vật nuôi. Các loại cá nuôi cũng thế. Ngay cả các loại rau củ, trái cây cũng chứa đầy thuốc sát trùng, các loại hóa chất làm tăng trưởng nhanh như vật nuôi , cá nuôi. Có thể nói đến 90% thực phẩm hiện nay ở khắp nơi đều mang tính công nghiệp, không còn tự nhiên nữa. Vì vậy, ngay cả người ăn chay trường cũng không tránh được bịnh nan y. Tình trạng này là một thảm họa của nhân loại! Trọng lượng cơ thể tăng nhanh theo thực phẩm ướp các lọai hóa chất nói trên. Mà cơ thể tăng trọng thì đồng thời cũng kéo theo nhiều bịnh tật, hầu hết đều là bịnh nan y. Những bịnh nan y của thời đại như : mập phì, cao máu, cao mỡ, tiểu đường dẫn đến tai biến não, tai biến tim giết chết nhiều người, làm đau khổ dai dẳng hàng triệu triệu người khắp nơi trên thế giới chớ không riêng một nước nào, một dân tộc nào. Nguồn gốc phát sinh là hóa chất, là hóc môn tích chứa trong máu, gan, thận, trong da, thịt, xương tủy và cả trong hệ thần kinh não bộ nên không dùng thuốc để tẩy rửa được. Thuốc uống vào chỉ tăng thêm hóa chất, vì hầu hết các loại thuốc trị các loại bịnh nan y này đều là hóa chất. Phải tìm đến một cách khác, một phương pháp khác giúp cho cơ thể tự loại bỏ các loại hóa chất độc hại này. Cho đến nay, có thể nói chỉ có phương pháp “ Ngưng ăn( fasting), “Ngưng uống” của Tiên Thiên Khí Công mới tẩy rửa được hóa chất độc hại tích chứa lâu ngày trong ngũ tạng, lục phủ. Phương pháp ngưng ăn này cũng được gọi một cách chuyên môn là “Nhập Thất”, đã được chúng tôi phổ biến từ 2 năm qua. 2.Làm sao ngăn ngừa được các loại bịnh nan y Phòng bịnh bao giờ cũng tốt hơn là chữa bịnh. Phòng bịnh tức là bịnh chưa phát sinh. Phòng bịnh rất cần cho trẻ con, cho thiếu niên, cho thanh niên và cho những người chưa mắc bịnh nan y. Ở các độ tuổi nhỏ, bịnh nan y chưa phát sinh do hóa chất tích tụ chưa đủ hoặc do cơ thể còn năng lực để chịu đựng, chớ không phải chưa tích chứa hóa chất. Do đó, việc ngăn ngừa bịnh nan y cho giới trẻ là điều các bậc phụ huynh phải đặc biệt quan tâm. Quan tâm càng sớm càng tốt để bịnh không có điều kiện phát sinh. Phải giáo dục giới trẻ về ăn uống, về nhập thất để phòng bịnh, để có cuộc sống hạnh phúc hơn chúng ta. Đừng để cho bịnh phát sinh rồi mới lo chữa trị. Đừng đợi “thấy quan tài rồi mới đổ lệ” Phần đông giới trẻ không được trang bị kiến thức về ăn uống, nên thường ăn theo sở thích, ăn theo thời thượng của xã hội, chớ không phải ăn để khỏe mạnh, ăn theo lý trí. Một bửa ăn tại các trường học thường chứa nhiều chất đạm, chất béo động vật mang theo nhiều hóa chất. Về nhà lại tiếp tục đưa hóa chất thêm vào, sớm hay muộn nhất định trọng lượng phải tăng cao, đưa đến mập phì và kéo theo các bịnh nan y khác như : cao mỡ, cao máu, tiểu đường…. Hãy nhìn thể trạng của giới trẻ từ 6 tuổi – 20 tuổi tại các trường học của bất cứ dân tộc nào, chúng ta sẽ không khỏi lo ngại vì phần đông đều mập phì. Chúng ta có trách nhiệm phải báo động về tình trạng thực phẩm chứa đầy hóa chất để giới trẻ biết mà tránh. Ngoài ra, ngay tại nhà chúng ta cũng phả lựa chọn những thực phẩm quân bình âm dương, chớ không phải rẻ tiền, song song với việc tẩy rửa cơ thể thường xuyên. a.Những loại thực phẩm đầy hóa chất độc hại không nên dùng Phải giảm đến mức tối thiểu các loại thịt thú vật nuôi công nghiệp. Các loại thịt bò, thịt heo, thịt gà nuôi công nghiệp chỉ ăn vài ba lần trong tuần và ăn rất ít từ 5-10 %. Các loại cá nuôi, các loại cá lớn con ở biến như cá thu cũng không nên ăn nhiều vì chúng chứa nhiều hóa chất. Các loại thịt cá còn tươi đã không nên ăn thì các loại thịt cá đóng hộp bất cứ loại nào lại càng nên tránh. Các loại nước vô chai cũng không nên dùng, đặc biệt tránh các loại thực phẩm làm sẵn lại hết thời hạn sử dụng. Còn rau quả thì không nên ăn các loại cực âm như : cà tím, măng, nấm các loại. Nếu ăn rau củ sống thì phải ngâm nước muối. Còn ăn luộc thì nên bỏ nước. Gia vị thì kiêng hẳng bột ngọt, đường hóa học, đường tinh chế. Nên tăng cường các loại đậu, các loại rau củ, các loại trái cây tươi không mang nhiều âm tính. Bịnh nan y do ăn uống là bịnh âm nên phải dương hóa bằng thức ăn dương. Vấn đề này đã viết rất rõ trong quyển sách “ Ăn uống quân bình âm dương”. b.Phải tập Nhập Thất để tẩy rửa hóa chất Hóa chất không thể tẩy rửa được nếu ăn uoống bình thường. Hóa chất tích tụ ít hay nhiều các loại thịt từ gia súc, cá nuôi, không làm sao tránh khỏi được. Vì vậy, việc tẩy rửa hóa chất luôn luôn cần thiết để duy trình tình trạng khỏe mạnh. Cơ thể chỉ có thể làm được việc này khi chúng ta Nhập Thất. Nhập Thất là tạo điều kiện cho cơ thể được nghỉ ngơi để phân tích các chất dư thừa, độc hại. Việc ngưng ăn, Nhập Thất đã có từ ngàn xưa. Vấn đề này đã được nhiều sách Mỹ nói đến là một vấn đề đã có từ nhiều ngàn năm trước. Đức Phật Thích Ca, Đức Chúa Jesus, Thánh Gandhi đều từng ngưng ăn nhiều ngày. Riêng chúng tôi thường xuyên ngưng ăn từ 3 – 7 ngày…. c. Làm sao để trị bịnh nan y nanh chóng ? Nếu đã mắc các chứng bịnh nan y do ăn uống như đã nói trên thì việc chữa bịnh nhanh chóng để đẩy lùi căn bịnh càng sớm càng tốt, vì để lâu thì căn bịnh sẽ biến chứng nguy hiểm đưa đến tử vong. Các loại bịnh nan y bắt nguồn từ thức ăn, từ thuốc tăng trọng nên việc đầu tiên là phải giảm trọng lượng. Tiếp theo việc giảm trọng là giữ cho trọng lượng không tăng trở lại. Hai vấn đề này không đơn giản ngay cả đối với các phương cách tiên tiến của y học hiện đại nhưng lại không đến nỗi quá khó khăn đối với người đã Nhập Thất. d.Làm sao giảm trọng lượng và giảm bao nhiêu ? Cách giảm trọng lượng nhanh nhất là tham dự một lớp Nhập Thất có sự hướng dẫn của người có kinh nghiệm. Thời gian Nhập Thất là thời gian hoàn toàn khác với thời gian ăn uống bình thường. Cơ thể cũng có nhiều biến chuyễn và phản ứng tùy theo từng trường hợp. Vì vậy, ta nên tham khảo với những người có kinh nghiệm trước khi thực hiện Nhập Thất. Tùy theo từng bịnh trạng, thể trạng. Có người chỉ cần 3 ngày là đủ. Nhưng có người phải kéo dài đến một tuần hay lâu hơn thì bịnh trạng mới lùi được, trọng lượng cơ thể mới đạt được mức cân bằng. e.Giữ trọng lượng không tăng trở lại Phải thay đổi hoàn toàn cách ăn uống đã làm cho tăng trọng. Cách ăn uống nhiều thịt, mỡ động vật nuôi, nhiều cá nuôi, cá biển to, thức ăn làm sẵn đóng hộp quá hạn sử dụng… đã làm cho trọng lượng tăng thì phải thay đổi, không ăn nữa. Tùy theo bịnh âm dương mà ăn uống các loại thực phẩm thích hợp. Không ăn nhiều và quá no. Đừng ăn vội vàng, nhai không kỹ, lại ăn quá đầy bụng làm ì ạch bộ tiêu hóa. Nhiều người nói rằng : “Tôi có ăn uống gì đâu mà sao cứ lên cân ? “ Cơ thể không thể nào lên cân nếu không có thực phẩm đưa vào. Trọng lượng cơ thể bao gồm 30% chất đặc và 70% chất lỏng, đều là vật chất chớ không phải là không khí hay chất vô hình nào khác. Trước khi biết Nhập Thất, chúng ta rất khó thay đổi cách ăn uống nhưng khi đã Nhập Thất một hay vài lần rồi thì việc thay đổi cách ăn uống là điều dễ dàng, tính thèm ăn, thèm uống cũng đã thay đổi hoàn toàn. Đây là một tiến bộ quan trọn, không mua được bằng tiền, giúp chúng ta chủ động chọn lựa theo lý trí chớ không phải theo sở thích và thói quen. f.Phải năng tập luyện Ngoài việc ăn uống đúng cách, hằng ngày chúng ta phải chịu khó tập luyện để khai thông kinh mạch, máu huyết lưu thông. “ Thông tắc bất thống. Thống tắc bất thông.” Khí huyết lưu thông thì người vô bịnh. Những động tác Tiên Thiên Khí Công vừa đơn giản vừa giúp cơ thể đào thải, phân hủy các chất bổ dưỡng dư thừa. Phải tái Nhập Thất thường xuyên : gan, thận, tim, bộ máy tiêu hóa và ngay cả hệ thần kinh của chúng ta đều được cải thiện như thế sau mỗi lần Nhập Thất. Nếu mỗi tuần hay mỗi tháng ngưng ăn 24 giờ và mỗi năm ngưng ăn 4 lần, mỗi lần 7 ngày thì tuổi thọ rất cao. Riêng chúng tôi đã chứng nghiệm ngay bản thân ngưng ăn nhiều lần 3 ngày và 7 ngày trên 40 năm qua chỉ dùng một loại thuốc duy nhất. Đó là thuốc “ ngưng ăn” mà sức khỏe vẫn được bảo toàn, mắt, tai đều tốt, đọc sách chữ nhỏ không cần kiếng mặc dù đã ở độ tuổi “thất thập cổ lai hy”. Chúng tôi sẽ tiếp tục mãi mãi con đường này để rút tỉa những bài học kinh nghiệm thực tế quý giá hầu truyền lại cho mọi người và con cháu chúng ta. Cần tìm hiểu sâu về cách tự chữa trị các bịnh nan y như : tiểu đường, cao mỡ, cao máu, mất ngủ, viêm gan, cách ăn uống quân bình âm dương…Quý vị vào Website của Hội: www.ttkc.org order trực tiếp các sách Việt và Anh cùng DVD thực hành phương pháp Tiên Thiên Khí Công, DVD thuyết trình về bịnh nan y, DVD thuyết trình về cách sống thiên đàng tại thế gian… Điện thoại liên lạc trực tiếp đại diện Hội Tiên Thiên Khí Công : Nguyễn Định : (714) 702-7001 GS PHẠM VĂN CHÍNH
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 4:21:09 GMT 9
Câu Chuyện Thầy Lang: Những Con Số HÊN cho Sức Khỏe
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Bà con mình nhiều người tin tưởng rằng nếu có một vài con số sẽ mang lại Hên Vui cho đời sống thì cũng có con số đưa tới không vui, nên tránh.Còn nhớ trước đây ở quê nhà, nhiều người đều sẵn sàng chi ra một số tiền lớn để có được bảng số xe với mấy con số 9 hoặc 8 hoặc 6 liền nhau. Nhiều người cầu kỳ còn muốn có 9 nút cho số điện thoại, số nhà, số chương mục ngân hàng. Con số mà không mấy người ưa là số 13 vì « «sui tận mạng ». Phòng khách sạn nhẩy từ số 12 lên 14, bỏ rơi chú 13. Việc đại sự là phải tránh ngày 13 thứ Sáu. Lại còn khi bị bạn bè gán cho con số 35 thì mấy ông giãy nẩy như đỉa phải vôi, nhưng trong lòng thầm nghĩ « Còn dê được là còn mùa Xuân cuộc đời ». Chứ mà trên bảo dưới không nghe thì, ôi thôi cũng vô tích sự. Riêng đối với sức khỏe thì cũng có những con số tốt, số hên mà ai cũng muốn có. Các số này thay đổi tùy theo chức năng bộ phận cơ thể. Xin cùng tìm hiểu một vài con số cần có và đáng ghi nhớ. Huyết áp 1- Trước hết xin định nghĩa “huyết áp là gì”? Huyết áp (HA) là áp suất của máu lên thành động mạch chính khi máu được tim bơm vào. Áp suất tùy thuộc sức cản của động mạch và số lượng máu. Cao khi hai yếu tố này cao và ngược lại. HA được ghi nhận bằng milimét thủy ngân mmHg và đo bằng huyết áp kế đặt ở động mạch cánh tay là nơi áp suất giống như áp suất khi máu rời trái tim. Áp suất cao nhất khi tâm thất co bóp (HA tâm thu- systolic) đẩy máu ra khỏi tim. Huyết áp thấp nhất khi tâm thất giãn ra (HA tâm trương-diastolic) để tiếp nhận máu. Huyết áp chấp nhận được thay đổi từ 90-140/60-90mmHg Huyết áp bình thường thay đổi tùy theo tuổi. Ở một người trưởng thành, khỏe mạnh và trong tình trạng nghỉ ngơi, huyết áp dưới 120/80mmHg được coi là bình thường, lý tưởng là khoảng 117/75. Hoạt động gắng sức, cảm xúc mạnh, căng thẳng tâm thần đều làm tăng HA tâm thu. Ngược lại khi ngủ thì HA này lại thấp nhất. Huyết áp thấp ở trẻ em, tăng dần với tuổi. Hệ thần kinh giao cảm và vài kích thích tố trong cơ thể điều chỉnh giữ HA ở mức độ bình thường. 2- Và thế nào là cao huyết áp? Khi áp suất trong động mạch lên tới 140/90mmHg là cao huyết áp. Huyết áp 120/80 là Tiền Cao HA và ta đã phải lưu tâm theo dõi rồi. Chỉ cần một con số trên mức bình thường là đã bị bệnh cao H.A. Thường thường bệnh được tìm ra khi ta đi bác sĩ khám bệnh hoặc tình cờ nhờ bạn bè đo. 3- Thế nào là huyết áp thấp Các nhà y học cũng đồng ý với nhau là huyết áp thấp khi một trong hai kết quả bằng hoặc dưới 90 cho tâm thu, 60 cho tâm trương. Như vậy nếu có kết quả 115/50 thì là huyết áp thấp. Đây là con số chung chung, với người này là thấp nhưng lại bình thường với người khác vì họ không có các khó khăn dấu hiệu bệnh như chóng mặt, sỉu hoặc bất tỉnh. Người tập luyên cơ thể, các lực sĩ thường hay có huyết áp và nhịp tim hơi thấp hơn bình thường mà họ vẫn khỏe mạnh. Nhịp tim Tim co bóp do một nhóm tế bào đặc biệt nằm ở vách sau của tâm nhĩ phải khởi xướng và quyết định số nhịp đập của tim. Đó là nút- xoang- nhĩ (sino-atrial node), một máy điều hòa nhịp tim (pacemaker) tự nhiên. Nút phát ra những xung lực điện, được những sợi cơ tim đặc biệt dẫn truyền tới kích thích các ngăn của tim co bóp. Âm thanh co bóp được diễn tả bằng hai âm tiết “lubb” và “dupp”, nghe được khi ta đặt tai vào ngực để nghe. Âm “lubb” trầm, dài hơn, khi tâm thất bắt đầu bóp và các van nhĩ thất khép lại. Âm “dupp” thanh nhưng ngắn hơn khi tâm thất bắt đầu thư giãn và các van bán nguyệt khép lại. Mạch (pulse) là do sóng áp suất chuyển tới động mạch mỗi khi trái tim co bóp, đẩy máu ra ngoài. Mạch được nhận ra dễ dàng trên các động mạch nổi gần mặt da như động mạch quay (radial artery) ở cổ tay động mạch cảnh (carotid artery) ở cổ, động mạch ở cổ chân, ở bẹn, ở thái dương.... Mạch được tính theo số lần tim đập trong một phút và có thể đếm dễ dàng bằng cách đặt đầu ngón tay giữa và chỏ lên một động mạch nổi trên da. Ngón tay sẽ cảm thấy chuyển động nhè nhẹ của sóng áp lực trên mạch máu đó. Mỗi sóng tương ứng với một lần tim bóp. Khi bắt mạch, nên thoải mái, thư giãn, vì nếu hồi hộp, lo lắng, nhịp tim thường nhanh hơn một chút. Đếm mạch trong 1 phút hoặc trong 30 giây rồi nhân đôi để có số nhịp tim. Nhịp tim bình thường tùy thuộc tuổi tác, tình trạng sức khỏe, thời gian trong ngày...Buổi sáng trước khi thức giấc, nhịp thấp nhất. Khi hít thở vào, nhịp hơi nhanh hơn và khi thở ra, nhịp hơi chậm. Nhịp phải đều đặn, có nghĩa là thời gian giữa hai nhịp phải bằng nhau. Sau đây là số nhịp trung bình trong 1 phút: - Trẻ em dưới 1 tuổi: 100 tới 160 nhịp/ 1phút - Trẻ từ 1 tới 10 tuổi: 70 tới 120 nhịp/1phút - Người từ 10 tuổi trở lên: 60 tới 120 nhịp/ 1phút - Vận động viên thể thao: 40 tới 60 nhịp/1 phút. Phụ nữ có nhịp tim nhanh hơn nam giới khoảng 5 lần tim đập và được giải thích là tim quý bà hơi nhẹ hơn tim quý ông, mà nhẹ thì co bóp hơi nhanh hơn, nhiều hơn. Mặc dù tim đập là do chính trái tim điều khiển, nhưng nhịp tim có thể bị chi phối bởi hệ thần kinh và nhiều yếu tố khác. Tập luyên cơ thể đều đặn làm cơ tim mạnh hơn và tăng lượng máu đẩy ra mỗi lần tim đâp. Khi nghỉ ngơi, nhu cầu máu được thỏa mãn với nhịp tim chậm. Do đó nhịp tim ở các vận động viên thể dục, thể thao đều chậm. Nhịp tim có thể cho biết nhiều chi tiết về tình trạng khỏe mạnh hoặc đau yếu của cơ thể. Các vị thầy thuốc y học cổ truyền chỉ cần bắt mạch mà chẩn đoán được vô số bệnh của lục phủ ngũ tạng. Với y khoa hiện đại, mạch là một trong 4 dấu hiệu chính cần được kiểm soát mỗi khi đi khám bác sĩ. Đó là Mạch, Nhịp Thở, Thân Nhiệt và Huyết áp. Ngoài ra, sinh hoạt điện của tim có thể được ghi bằng tâm-điện-đồ (EKG). Nhiệt độ cơ thể Một trong những đặc tính của động vật có vú là khả năng giữ nhiệt độ cơ thể ổn định, mặc dù có thay đổi trong môi trường sinh sống. Có nhiều ý kiến khác nhau về nhiệt độ trung bình của cơ thể. Với một số tác giả, 37°C (98.6°F) là bình thường, nhưng nghiên cứu mới đây cho hay thân nhiệt trung bình là 98.0°F hoặc thấp hơn. Mỗi người có nhiệt độ trung bình khác nhau. Nhiệt độ ở trẻ em hơi cao hơn người lớn, nam giới thấp hơn nữ giới một chút. Thân nhiệt thay đổi tùy theo thời gian trong ngày, thấp nhất vào sáng sớm khi đang ngủ và cao nhất vào nửa buổi chiều. Vì vậy, thân nhiệt trung bình có thể du di giữa 36.°C- 37.4°C (97°- 99.4°F). Thân nhiệt tăng khi ăn uống tiêu hóa thực phẩm, vận động cơ thể, cơ bắp co căng, có kinh nguyệt, có thai, khí hậu nóng ấm, mặc nhiều quần áo, cảm xúc mạnh, run lạnh. Nhiệt độ hơi giảm khi thời tiết giá lạnh. Sự tăng giảm này đều có tính cách tạm thời, ngắn hạn. Cần lưu ý tới sự thay đổi nhiệt độ bình thường ở người cao tuổi và trẻ thơ. Họ đều dễ dàng thất thoát nhiệt độ khi tiếp xúc với khí hậu lạnh và đưa tới thiểu nhiệt (hypothermia). Ở lớp tuổi này, nhiều khi dù đã bị nhiễm trùng mà nhiệt độ chưa tăng, cho nên khi tìm ra bệnh thì quá trễ. Đường Huyết Đường huyết thay đổi rất nhanh sau khi ăn, vận động cơ thể hoặc sau khi chích insulin. Đây là đường glucose do sự chuyển hóa thực phẩm có chất carbohydrat mà ra. Với người không bị tiểu đường, đường huyết trung bình thay đổi từ 70mg/dl- 99mg/dl đo sau 8 giờ nhịn ăn. Từ 100-125mg/dl là Tiền Tiểu Đường. Trên 126mg/dl là bị tiểu đường. - Dưới 200mg/dl (11mol/l) hai giờ sau khi ăn là bình thường. Đo đường huyết ở nhà, kết quả có thể không chính xác nếu: - Cồn lau lẫn vào máu. Nếu lau ngón tay với cồn, nên đợi ngón tay khô hẳn trước khi chích kim. - Nước hoặc xà bông dính trên đầu ngón tay. - Giọt máu lớn quá hoặc nhỏ quá. - Que thử bị ẩm ướt. Kết quả thử nghiệm chính xác hay không là tùy theo loại máy, giấy thử cũng như người thực hiện có làm đúng như hướng dẫn. Ngoài ra, kết quả còn tùy thuộc vào mấy điểm sau đây : - Số lượng hồng huyết cầu (hematocrit): người có hồng cầu cao thì đường huyết thấp hơn ở người có hồng cầu trung bình. Ngược lại, khi hồng cầu thấp thì kết quả thử nghiệm đường cao hơn. - Một vài hóa chất nhu acid ascorbic, acid uric...làm thay đổi kết quả thử nghiệm. Do đó, nên coi kỹ bảng hướng dẫn để tránh các chất có ảnh hưởng tới việc đo đường huyết. - Thời tiết, độ ẩm, nhiệt độ, độ cao so với mặt biển cũng ảnh hưởng tới giấy thử và kết quả. Cần cất giữ máy đo theo chỉ dẫn của nhà sản xuất. - Máy đo có thể cho kết quả không đúng nếu cơ thể thiếu nước, đang trong tình trạng căn thẳng. - Dùng giấy thử khác hiệu có thể cho kết quả không chính xác. Nên mua loại giấy thử cùng hãng với nhà sản xuất máy. Hiện nay có nhiều máy đo đường huyết ở nhà mà không cần giấy thử có hóa chất xúc tác. Thường thường máy đo đáng tin cậy để theo dõi và điều trị tiểu đường, nhưng máy cũng không toàn hảo. Kỹ thuật dùng trong máy đo tại nhà không chính xác bằng thử nghiệm được thực hiện tại bệnh viện hoặc các phòng thí nghiệm. Đếm tế bào máu. Tiếng Anh gọi là Complete Blood Count (C.B.C). Kết quả thử nghiệm này cho ta biết thiếu hoặc thừa tế bào máu, ung thư máu, máu loãng hoặc đặc. Đây là thử nghiệm mà hầu như mỗi lần khám bệnh là ta đều được làm. C.B.C nhắm vào các tế bào sau đây: a- Hồng Huyết cầu (R.B.C)- Hồng cầu được sản xuất từ mô tạo máu của tủy sống. Vì không có nhân nên H.H.C không phân bào được. Mỗi H.C. cần 6 ngày để thành hình và có tuổi thọ khoảng 120 ngày. Ở người trưởng thành, mỗi giây đồng hồ có 3 triệu hồng cầu được sinh ra để thay thế HC già nua mệnh một. H.C. chứa huyết cầu tố mà chức năng chính là chuyên chở dưỡng khí nuôi tế bào và loại khí độc CO2 ra ngoài. Bình thường người trưởng thành có khoảng từ 4 đến 5 triệu H.C./ 1 mm ³ máu. Phụ nữ hơi thấp hơn nam giới một chút nhưng chẳng sao, quý tỷ muội nhỉ. Cho người ta hơn cái này thì mình lấy cái khác nhiều hơn và da vưỡn trắng vưỡn hồng là được rồi. Quàng thêm chuỗi ngọc trai trên cổ thì hồng cầu xuống tí ti cũng gật đầu. b- Bạch Huyết Cầu (W.B.C.)- B.H.C. có ba loại chính là bạch cầu hạt, đơn bào và lymphô nhân. Nhiệm vụ của B.H.C là chiến đấu chống lại sự xâm nhập của vi sinh vật, bảo vệ cơ thể bằng cách “sơi tái” các phần tử nguy hại lạ; sản xuất và chuyên trở kháng thể. Khi ta bị đứt da tay, nhiễm trùng thì B.H.C. được động viên kéo tới vết thương đề tòng quân diệt giặc. Xác chết quân ta và địch lẫn với bạch cầu sống sót tạo thành chất mủ. Số lượng bình thường B.H.C. là 4000-5000/mm³. B.H.C có đời sống ngắn ngủi hơn trong mạch máu, khoảng từ 6-8giờ, nhưng một số lớn vào trú ngụ tại các tế bào thì tồn tại có khi cả năm. c- Tiểu cầu (Platelets)- Gọi là tiểu cầu vì tế bào này có hình dạng tròn dẹp khác nhau. Đây là những tế bào nhỏ nhất của máu, không có nhân hoặc DNA, được tạo ra từ tủy sống. Mỗi mm³ máu có từ 150,000-450,000 tiểu cầu. Tuổi thọ trung bình là 10 ngày. Nhiệm vụ chính của tiểu cầu là tạo sự đông máu. Khi công chúa gọt quả soài tượng, chẳng may đứt da tay chẩy máu thì tiểu cầu chạy tới, kết tụ với nhau thành một cái nút lấp kín mạch máu hở. Ngón tay công chúa hết chẩy máu, nàng tiếp tục thưởng thức soài tượng chấm với muối ớt. d- Huyết cầu tố (Hemoglobin)- Máu cần một số lượng đầy đủ H.C.T. để chuyên trở dưõng khí. Người trưởng thành có khoảng từ 14-17 g/ 100mL máu. H.C.T. Thấp dưới mức này là dấu hiệu của thiếu máu (anemia). Chất béo Đây là những chất mà bà con ta lưu tâm nhiều nhất, quen thuộc nhất và cũng mang lại nhiều e ngại, thắc mắc. Và y giới cũng dành nhiều công sức để nghiên cứu các chất béo này vì khi quá cao trong máu, chúng có thể gây ra nhiều rủi ro bệnh hoạn. Thử nghiệm máu nhắm vào mấy loại chất béo chính Cholesterol, Triglycerides, LDL, HDL. a- Cholesterol. Cholesterol có nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể. Nó là thành phần cấu tạo màng bao che các tế bào, mô thần kinh não bộ; cần thiết cho sự tổng hợp kích tố steroids, mật; sinh tố D. Hầu hết cholesterol được gan tạo ra nên nhiều khi ta không phải ăn thêm thực phẩm có chất này. Cholesterol có nhiều trong chất béo động vậy và hầu như không có trong thực vật. Trong máu, cholesterol được chất đạm protein chuyên chở, nên có tên gọi là lipoprotein. Mức độ Cholestretrol Toàn Phần lý tưởng là dưới 200 mg/ 100ml; từ 200 -240 mg/ 100ml thì tạm chấp nhận được nhưng cần giảm tiêu thụ chất béo, vận động cơ thể; trên 240 mg/ml thì đến lương y ngay để khám nghiệm thêm rồi điều trị, dinh dưỡng đúng cách ngõ hầu mang con số trở lại bình thường. b- LDL- LDL viết tắt của chữ Low Density Lipoprotein, một thứ cholesterol do protein cõng với tỷ trọng rất thấp. Thấp nhưng lại hay gây bệnh hoạn cho cơ thể nhất là bệnh tim mạch khi mức độ trong máu lên cao. Dưới 100 mg/100ml máu là tốt, trên số này là hổng có được, phải giảm tiêu thụ mỡ, uống thuốc. c- HDL viết tắt của High Density Lipoprotein là cholesterol tỷ trọng cao, được coi như lành tính có ích cho cơ thể. Dưới 35 mg/100 ml là không tốt mà càng cao là càng tốt. d- Triglycerides dưới 200 mg/100 ml là bình thường mà trên số này là có rủi ro gây bệnh tim. Và cuối cùng là: Số giờ ngủ Nhu cầu ngủ nhiều hay ít thay đổi tùy theo với tuổi tác. Trẻ sơ sinh ngủ tới 17 giờ một ngày, nếu bé sanh non lại ngủ nhiều hơn. Tới 6 tháng tuổi, ngủ 14 giờ, 16 tháng ngủ 10 giờ. Kể từ khi bước chân vào đại học tới tuổi trưởng thành thì cần từ 7-8 giờ mỗi ngày. Như vậy thì nếu thọ tới tuổi 75, con người đã dành cho sự ngủ một khoảng thời gian khá dài: một phần tư thế kỷ, vị chi là 25 năm. Kết luận Số Hên cho sức khỏe còn nhiều, chẳng hạn như chỉ số trung bình chức gan, thận, chất điện phân trong máu…Nhưng nếu có được những con số trên đây thì cũng có đủ sức khỏe để được an hưởng tuổi vàng, “Bách Niên Giai Lão” rồi. Thân chúc bà con có được những con số Hên vừa kể. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 7, 2013 10:20:14 GMT 9
Ung Thư Nhiếp Hộ Tuyến! (bài 1) Vietsciences- Trần Thị Vĩnh Tường 23/11/2013 Bản tin ngày 06/08/2013 từ nước Úc, nhiều người đàn ông đã tự tử sau khi nhận kết quả thử máu tìm “ung thư nhiếp hộ tuyến”. Giáo sư Ken Sikaris/ Melbourne University cho hay ông nhận nhiều cú phone “bạn anh ta tự tử sau khi có kết quả thử nghiệm”. Sikaris đã trình bày trong hội nghị quốc tế về “ung thư nhiếp hộ tuyến” ở Melbourne tháng 8/2013 rằng nhiều thần dân nữ hoàng ở Down Under/ Miệt Dưới đã lo lắng không cần thiết, rằng kết quả xét nghiệm máu làm nhiều người sợ hãi đến nỗi tự tử (1) Vì đâu nên nỗi? Có thật kết quả PSA cao là ung thư nhiếp hộ tuyến? Thế nào là cao so với thấp? Điều gì dẫn đến ung thư nhiếp hộ tuyến? Có nhất thiết ung thư nhiếp hộ tuyến là chết? Có chắc phải chết ngay? Hay 20, 30 năm sau mới chết vì nguyên nhân khác? Yếu tố di truyền (từ bố mẹ) có ảnh hưởng gì? Có thể chọn một tên khác thay thế cho chữ “Ung thư/Cancer” đáng sợ? Tại sao người ta sợ ung thư nhiếp hộ tuyến tới thà chết ngay còn hơn? Có phải chữ ung thư/cancer đưa đẩy tới cái chết khi chưa phải chết hoặc đẩy sự chẩn đoán và chữa trị tới mức độ không cần thiết? Trong vòng 30 năm qua, ung thư nhiếp hộ tuyến đã bị chẩn đoán quá mức/overdiagnosis và chữa trị quá mức/ overtreatment như thế nào? Tại sao? Ai được hưởng lợi trên sự “chữa trị quá mức”? Bao nhiêu người đàn ông đã bị cắt oan uổng “suối nguồn hạnh phúc”? Ai có thể thay đổi điều đáng buồn trên: giới y sĩ hay bệnh nhân? Không rõ có thống kê số người Việt tự tử sau khi bác sĩ báo tin, hay do chịu đựng chiến tranh lâu dài người Việt coi cái chết nhẹ tựa lông …mèo. Dù gan cách mấy hai chữ “ung thư” không chỉ ảnh hưởng trực tiếp trên người bệnh mà cả gia đình và bạn bè thân quyến như một lưỡi dao sắc lẻm treo trên đầu. Riêng ung thư nhiếp hộ tuyến còn là một bản án tử hình cho nam tính. Một ngày tháng tư 2013 tiếng nói người thân từ đầu dây điện thoại báo tin “bị ung thư nhiếp hộ tuyến”. Giọng nói càng có vẻ thản nhiên càng khiến sự cam chịu trở nên sức nặng ngàn cân gây tê liệt hệ thần kinh nơi người nghe. Chỉ ba tháng trước, người viết bài này chứng kiến sự thay đổi nơi hai người bạn (một ung thư ruột già, một ung thư vú), tóc rụng hết, da sạm đen, chiều cao sức nặng chỉ còn phân nửa, một hố mắt sụp xuống, xương mũi biến mất, môi chỉ còn là hai lằn chỉ, tiếng nói thều thào, răng xiêu vẹo. Cả hai lịm dần và mất sau đó một, ba tháng. Ung thư có nghĩa là chết! Và chết thảm!! Hình ảnh này khiến người viết bài này cố tìm hiểu dù i tờ kiến thức y khoa. May ra có lối thoát! May ra? May thật, nên có bài này gửi đến bạn đọc. Bài viết tuyệt đối không hàm ý đóng góp ý kiến, thay thế chẩn đoán, làm lệch hướng chữa trị, mà chỉ có tính cách chia sẻ, thông tin và nêu thắc mắc. Bài viết tường thuật ngay tình một chuyện hoàn toàn có thật nhỡ bạn đọc có thể cần đến những nguồn tài liệu y khoa trích dẫn trong bài. Bài viết vì vậy có khi đi vào chi tiết do kinh nghiệm lặn lội tìm lời giải đáp nên muốn bạn đọc cùng cảnh ngộ nhẹ gánh phần nào. Bài viết được sự đồng ý của người trong cuộc tạm gọi là Tép Riu, mà ung thư nhiếp hộ tuyến ở giai đoạn sớm nhất. Một số kiến thức y khoa trong bài được “biên tập” bởi một người bạn làm pathologist tạm gọi Bs. Pat, ẩn danh với Tép Riu, mà chuyên ngành là xem xét các mô sinh thiết dưới kính hiển vi, chẩn đoán độ phát triển và mức nguy hiểm của ung thư và tầm lan rộng trong cơ thể. Ngoài ra mọi sai sót thuộc về người viết. “Ung thư nhiếp hộ tuyến” là gì Phải thật thà thú nhận chỉ vài năm gần đây email qua lại do các ông lang bà lang Bướm Vàng hăm dọa về đủ thứ chuyện trên đời mới biết tới hai chữ “nhiếp hộ tuyến” hay “tuyến tiền liệt” vốn có gốc từ chữ Nhật và Trung Hoa. Người ta chú ý tới ung thư vú nhiều hơn nhất là sau khi nữ tài tử Angelina Jolie quyết định cắt hết cả hai trái vú sữa. Bao nhiêu…nam tài tử bị cắt hạt Walnut ít ai để ý vì người trong cuộc cũng tránh nói tới. Điều này có lẽ theo quan niệm dạy dỗ từ hồi nhỏ “đàn ông không được khóc than” rất vô lý và tàn nhẫn vì hình hài dẫu khác nhau linh vật nào cũng đau đớn như nhau. Mở cuộc phỏng vấn chớp nhoáng nam nữ tài tử bạn bè hầu như không ai nói đúng nhiệm vụ prostate là sản xuất một thành phần của tinh dịch/semen. Thành phần này có tính chất kiềm và giúp trung hòa môi trường acid của âm đạo (bảo vệ tinh trùng), và cung cấp những diếu tố giúp tinh trùng bơi đến gặp trứng. Nhiệm vụ của tinh dịch/semen không chỉ vẻn vẹn trong 10 giây xuất tinh mà ông tướng prostate đã bắt đầu điều động binh lính từ nhiều phút trước đó. Một nữ tài tử hốt hoảng “Chết chửa! Phải đi khám ngay xem có “bị” không”. Có đâu mà bị? Chỉ nam tài tử có prostate nên mới “bị”. Câu định nghĩa “duyên dáng” nhất: “tuyến tiền liệt là một đội binh đang xông ra tuyến đầu mặt trận khi không nằm lăn tê liệt hết ráo”. Diễu dở này tuy vậy có phần đúng vì trong tiếng Hy Lạp prostates là “người lãnh đạo, đứng trước” (2). Trong cơ thể, vị trí của prostate là tuyến đứng trước bọng đái sau dương vật. Ở tuổi thanh niên prostate bằng cỡ hạt walnut, dài chừng 3cm. Thể tích của Prostate tăng với tuổi tác. Trong bài dùng Prostate hay NHT cho nhiếp hộ tuyến, Prostate Cancer hay UTNHT cho ung thư nhiếp hộ tuyến. Một số từ ngữ chuyên môn khác để cả tiếng Anh vì không biết dịch, hoặc để không cản trở bạn đọc tham khảo trên internet hay sách báo ngoại quốc. Trong ba rối loạn nơi prostate, ung thư nhiếp hộ tuyến hầu như không có triệu chứng -ở giai đoạn đầu- so với hai rối loạn khác là BPH/Benign Prostatic Hyperplasia (tăng kích thước) và Prostatitis (viêm). BPH và Prostatitis có vài triệu chứng chung như tiểu khó, tiểu són hay lắt nhắt nhiều lần. Những triệu chứng này chỉ có ở UTNHT vào giai đoạn/stage muộn cộng thêm đau ngang thắt lưng, háng và đùi. BPH và Prostatitis KHÔNG BAO GIỜ biến thành ung thư. Bs Pat. nói rõ, nhìn dưới kính hiển vi, các tế bào của bướu lành không giống quái thai, không phân chia bậy bạ và nếu đo hay nhuộm các hóa chất thì không có dấu chứng của ung thư. Ví dụ fibroma là một loại bướu lành. Nữ tài tử nào biết chắc trong ngực đang có một fibroma thì chỉ làm Lumpectomy chứ không làm Masectomy cắt trọn cả cái bầu quyến rũ cả ong bướm lẫn loài người. Một người có thể có cả hai BPH và ung thư nhiếp hộ tuyến. Hai cơ chế hoàn toàn khác nhau. Cả hai chứng đều có thể đưa đến nhiễm trùng và triệu chứng đau kinh niên ở vùng dưới. Cái nào có truớc có sau chỉ có trời biết. Đừng hỏi trời vì ngài đang bận. Điều gì gây ung thư? Ai trả lời được sẽ đoạt giải Nobel. Có ba điều thường bị đổ oan gây UTNHT: làm tình quá nhiều, cột ống dẫn tinh hay thủ dâm. Ung thư xảy ra khi một số tế bào bất thường phát triển trong cơ thể. Tế bào bất thường này đưọc gọi là cancer cells, malignant cells, hay tumor cells Điều gì khiến tế bào “trở nên bất thường”? Bs Otto Warburg đoạt giải Nobel 1931 do chứng minh rằng nhiều nguyên nhân thứ cấp gây cancer, nhưng nguyên nhân đầu tiên là tế bào không nhận được đủ oxy nên dùng cách khác là fermentation of sugar (Cancer, above all other diseases, has countless secondary causes. But, even for cancer, there is only one prime cause. Summarized in a few words, the prime cause of cancer is the replacement of the respiration of oxygen in normal body cells by a fermentation of sugar) (4). Nôm na, fermentation of sugar là cơ chế biến hóa của cơ thể khi không đủ oxy phải quẹo cua tìm cách khác, vì vậy gây ung thư. Theo Bs Pat. giả thuyết của Warburg có thể chấp nhận ở điểm ... “tế bào ung thư dùng anaerobic respiration/hô hấp yếm khí (vì thiếu oxy) thay vì aerobic respiration/hô hấp hiếu khí để tạo năng lượng mà sống và mọc.” Tuy nhiên “không thể chấp nhận rằng fermentation/anaerobic respiration là nguyên nhân của ung thư. Ta có thể giải thích đơn giản: tế bào ung thư mọc mạnh hơn tế bào bình thường rất nhiều và vì không có đủ oxy để làm thế (vì không có đủ máu từ các mạch máu có sẵn) nên phải dùng cơ chế fermentation. Thế có nghĩa là phải có cái gì đó biến một tế bào thành ung thư trước cái đã rồi cái ung thư đó mới "bắt chước" các vi khuẩn và nấm dùng fermentation - lên men các chất đường để tạo năng lượng khi không có đủ oxy từ các mạch máu địa phương. Fermentation là cơ chế để sinh trưởng, hay kết quả của ung thư chứ không phải là nguyên nhân của ung thư. Bạn đọc tha hồ tìm hiểu thêm, có thể được Nobel không chừng. Thế nào là ung thư mọc nhanh/chậm Theo Bs Pat. cơ thể có chừng một trăm ngàn tỷ (1014) tế bào. Mỗi ngày chừng 70 tỷ (7010) tự hoại vì nhiều nguyên nhân (để tạo các bộ phận, cơ quan mới và để các tế bào và mô phản ứng với các điều kiện bất thuận lợi cho đời sống toàn cơ thể). Khi tế bào tự hoại, bạch huyết cầu sẽ ăn đi các mảnh tế bào và không gây hại cho cơ thể. Khi tế bào chết và vỡ ra vì thương tích, chúng tạo phản ứng sưng và làm mủ. Ung thư nhiếp hộ tuyến xẩy ra khi tế bào mọc bất thường thành bướu/tumor. Nếu không chữa trị, có thể từ prostate lan tới bộ phận khác, đặc biệt là xương và hạch/lymph nodes. Khi đã lan, “treatment” (tạm hiểu “chữa trị”) vẫn có thể được, nhưng “cure” (tạm hiểu “chữa dứt”) là điều khó đạt được. UTNHT có thể phát triển nhanh hay chậm. Nhanh có thể từ 1 đến 2 năm là dứt điểm. Cần canh chừng nếu PSA tăng gấp đôi trong vòng 2 năm, có nghiên cứu cho là tăng gấp ba trong vòng 5 năm. Chậm/slow growing có thể trong vòng 20 năm. Câu hỏi quan trọng nhất của bác sĩ và bệnh nhân là UT ở trong prostate hay đã lan ra ngoài và khi nào lan. Nếu UT chỉ ở trong prostate, khả năng sống sót là 100%. Nếu UT đã lan, khả năng sống sót tối đa 5 năm là 34% (3) Thế nào là “lan”? Làm sao biết ung thư sẽ lan hay không lan? Trên nguyên tắc, tế bào không có khả năng lan không phải là tế bào ung thư; nhưng tế bào ung thư nào cũng xuất thân từ một tế bào "lành", chỉ vì một hay nhiều nguyên nhân nào đó, tế bào lành “đánh mất” những kiềm chế và trở thành Tí Quậy. Thế nào là “lan”? Ung thư không "lây lan" như cảm cúm, ho lao, đậu mùa...Khi tế bào lành trở thành tế bào UT “dữ”, nó có khả năng a) “ăn lan/invade hay spread” xuyên qua lớp màng mỏng ngăn cách các mô tới vùng bên cạnh hay b) “di cư/metastasis” bằng cách chui vào mạch máu đỏ/blood vessels hay mạch máu trắng/lymph vessels, tới vùng khác của cơ thể và mọc một bướu UT ở vùng đó. Dù “invade” hay “metastasis” bướu mới tuy vậy vẫn mang đầy đủ đặc tính và tên của tế bào ung thư Prostate. Ví dụ dù di cư tới xương, bướu ung thư đó vẫn có tên “Prostate Cancer”, sự chữa trị in hệt như chữa Prostate Cancer. Những chữ “lan” trong bài xin hiểu là ăn lan/invasion hay metastasis/di cư, không phải “lây lan” như một số hiểu lầm khiến người mang UT càng cô độc thêm trong bóng tối của sợ hãi. Có lẽ “biến cố” UT cũng là dịp đo lường tình người, tình gia đình, nghĩa vợ chồng. Chữa trị thế nào? Vì tài tử chính Tép Riu chỉ mới chớm ung thư nhiếp hộ tuyến nên bài viết xoay quanh giai đoạn “mới chớm” này. Theo Conventional Treatment/Chữa Trị Thông Dụng hiện nay, tiến trình chữa trị gồm 1. Chẩn đoán bằng thử PSA, DRE và Biosy 2. Chữa trị bằng Giải Phẫu, Quang Tuyến. PSA Nữ tài tử làm Mammogram tìm ung thư vú hay Pap Smear tìm ung thư cổ tử cung, nam tài tử làm PSA thử máu mỗi năm kể từ 50 tuổi tìm dấu hiệu UTNHT. PSA là test được áp dụng từ năm 1988. Mức PSA (đo bằng mcg/mL, ng/mL, hay mg/L) là một hiện tượng sinh lý, thay đổi bất thường ngay trong một cá nhân. Lượng PSA thay đổi tùy theo nhiều yếu tố: hoạt động tình dục, có tuổi, bướu xơ, nhiễm trùng, ung thư. Vì vậy, PSA cao không luôn luôn có nghĩa có UT. Nhưng PSA thấp cũng không có nghĩa là không có UT. Thế thì còn biết đàng nào mà lần? (Xin lưu ý: không có một “tiêu chuẩn quốc tế” nào là “mức an toàn” cho PSA, con số có thể thay đổi ở châu Âu, Úc, Việt Nam… Các lab lại tha hồ dùng phạm vi tham chiếu (reference range) với giới hạn khác nhau) Các webpages thường nhắc PSA có thể cho con số sai nếu 24-72 tiếng đồng hồ trước khi làm PSA có xuất tinh, sờ mó, cưỡi ngựa, đi xe đạp…Ngay cả sự hứng tình suông khi quí quan liếc trên internet mấy cô gái nhà nghèo ít vải cũng có thể làm máu dồn tới prostate làm đương sự căng vì bực mình bực mẩy (căng không phải sưng). Do đó, chỉ chăm chú vào mỗi chuyện “không có sex” trước 24-72 tiếng mà “tháo khoán” những chuyện khác có thể cho số PSA sai. Theo Gs Sikaris của Melbourn University, nếu kết quả PSA - dưới 4, cần làm PSA mỗi 4 năm - từ 4 đến 10, cần làm PSA mỗi 2 năm - trên 10 cần gặp urologist xem nguyên nhân từ prostate, do nhiễm trùng hay do bướu lành. Cũng trong bản tin này, nước Úc đã áp dụng từ 9/2012 một loại test mới có tên PHI với độ chính xác là 75% so với độ chính xác của PSA chỉ 55% (1). Nếu PSA dưới 10, bướu còn nằm trong prostate. Nếu lớn hơn 30, có vẻ như đã ra ngoài prostate và khó mà chữa dứt. Có thể căn cứ trên vận tốc của PSA (PSA velocity) đo sự thay đổi của lượng PSA theo thời gian. Tuy nhiên các nghiên cứu không thống nhất con số trung bình là 0.35, 0.6 hay 0.75 một năm. Bs. Ian Thompson cho rằng dùng PSA velocity ở mức 0.35/y không giúp nhiều cho chuyện tiên đoán ung thư sẽ lan hay chăng nhưng chỉ làm tăng thêm lần biopsy! (14) DRE/khám trực tràng Bs dùng ngón tay thăm NHT qua đường hậu môn (có thể) nhận xét kích thước, hình dạng hay cấu trúc NHT bình thường hay chăng. Đa số cancer không được nhận dạng bằng DRE. Còn nếu khi “cảm” thấy được vì cứng hơn hay lợn cợn thì có lẽ lúc đó PSA đã lên tới 100. Nhưng đôi khi qua DRE có thể tìm thấy cancer dù PSA thấp. Cả hai test PSA và DRE đều không chính xác. Biopsy/sinh thiết Mục đích làm biopsy là để định bệnh, định giai đoạn của bệnh (staging), định sự nguy hiểm của trường hợp. Uurologist (Bs làm biopsy) dùng kim rút một miếng nhỏ ở prostate như trong ảnh. Kim có đường kính trong ruột là 1mm. Bs lấy sợi dài sợi ngắn tùy nơi. Pathologist sẽ xem xét những sợi này dưới kính hiển vi xem có tế bào/mô ung thư không và xếp hạng từ 1 đến10. Nếu có ung thư, Pathologist sẽ quyết định một Gleason Score, thấp nhất là 6 so với cao nhất là 10. Gleason score có thể thay đổi trong những lần biopsy sau hay trên NHT sau khi mổ vì dù rút ra nhiều sợi tế bào, biopsy vẫn có thể bỏ sót vùng có ung thư. Biopsy có thể làm prostate viêm/inflammation và làm ung thư dễ lan không? (16). Theo Bs Pat. biopsy đưa đến một chút inflammation nhưng chỉ giới hạn trong vừa thời vừa điểm, trong khi ung thư cũng tạo inflammation nhưng kéo dài và lan rộng. Có thể biopsy khởi động việc ung thư lan, nhưng có lẽ phần biến chứng đó chỉ là…tép riu so với công dụng rất quan trọng của biopsy cho việc định bệnh và chọn lối chữa bệnh. Biopsy có làm tế bào ung thư theo kim lan ra không? Theo American Cancer Society, điều này có thể xẩy ra trong quá khứ với kim lớn. Với kim nhỏ ngày nay khả năng ung thư lan rất thấp (5). Thế nào là thấp so với cao? Mức độ thấp có gây ảnh hưởng gì? Quí quan có thể vào Google Scholar Search xem có bài nào xin chạy nhựt trình cho các tài tử khác đọc ké. Bảng tóm tắt rủi ro ung thư: Thấp: PSA< 10, Gleason score ≤ 6, stage ≤ T2a, 95% sống hơn 15 năm Trung bình: PSA 10-20, Gleason score 7, stage T2b/c, Cao: PSA > 20, Gleason score ≥ 8, stage ≥ T3 và T4, 15-40% sống tới 15 năm Nếu cần phải làm lại biopsy, sẽ làm 20 tháng sau (17). Tép Riu trước 11/2012: PSA 3.3 Xin chia sẻ trường hợp Tép Riu với tất cả sự dè dặt, vì không có hai cơ thể hay hoàn cảnh gia đình giống in hệt nhau. Tép Riu 58 tuổi, tâm hồn ăn uống lên ngôi vì thánh nữ nấu ăn ngon, không ăn fast foods (KFC, McDonald, v.v…). Tép Riu không cà phê/rượu bia/thuốc lá, thỉnh thoảng có ăn chè, bánh ngọt, cà rem, rượu nho. Hải đảo không khí trong lành, đồ biển tươi, rau cỏ không thuốc trừ sâu, mớ cà rốt mua từ chợ khác cà rốt đất liền: da mịn không chút trầy sát, màu tươi ửng, nhổ cả rễ giữ tươi lâu. Tép Riu có việc làm vững chắc, gia đình êm ấm, không chơi stock, chỉ có một căn nhà và một xe nên không mang nợ nhà băng lu bù, cuộc sống ngăn nắp, bận rộn nhưng không lo lắng. Tép Riu nhiều bạn bè, có niềm tin tôn giáo và tâm linh, không áp lực đời sống, không sầu buồn, ít cãi cọ phân trần dành phần thua/thắng. Tép Riu không ở trong hội “Ba Cao Một Thấp” (cao đường cao mỡ cao máu thấp khớp), viếng bác sĩ/nha sĩ định kỳ, đi bộ ngày một tiếng, không mỡ bụng, Body Mass Index lý tưởng: dưới 21. Nói rõ như thế để loại trừ những nguyên nhân gây ung thư mà các emails thân ái dọa nạt rung chuyển hơn động đất: ung thư do hút thuốc, uống rượu, lo buồn, sống xô bồ, ô nhiễm… Emails cũng chu đáo kê toa: phải xả, phải thiền, mua chim mua cá thả tứ tung, phải ăn chay nộp tiền xây thiền viện… Tép Riu bắt đầu thử PSA từ năm 50 tuổi. Trong bẩy năm, PSA từ 1.3 đến 3.3, velocity là 0.28/năm. Tép Riu sau 11/2012: PSA 4.3 Tháng 11/2012 thử PSA, chỉ trong hai tháng rưỡi, PSA nhảy lên 4.3. Tháng 1/2013 PSA vẫn 4.3. Nếu phải tính velocity, thì con số sẽ là 4.8, một con số “chìm tàu” không tưởng. DRE sờ không thấy “bướu Dấu hiệu bất thường duy nhất: Free PSA ratio là 14%. Trên 25% là không ung thư, dưới 25% có nghĩa cái “bướu” nhỏ đó rất có thể là ung thư. Bs hải đảo gửi Tép Riu làm biopsy lấy 19 sợi ở prostate. Theo báo cáo Patholoy, Gleason score 6. Trong 19 sợi có 2 sợi có dấu neoplasia (mô mới mọc), không có dấu hiệu metastasis/di cư vào mạch máu, mạch bạch huyết hay mô thần kinh. Neoplasia ám chỉ cả mô lành lẫn mô ung thư, đặc tính chung là “mới tạo”. Bs không cho vị trí và kích thước của bướu vì cho là quá nhỏ. Theo Bs Pat. về sau đọc cả hai báo cáo, thì PSA dưới 2.4 ở người dưới 50 và “được phép” lên đến 4.5 ở người 50-59. PSA 4.3 chỉ là tép riu. Từ đó gọi tài tử là Tép Riu. Kích thước bướu chừng 4mmx2.25mm. Chừng mươi năm trước, Tép Riu vẫn có thể “bị” chữa trị bằng giải phẫu vì Bs không thể nào chắc chắn vận tốc ung thư và metastasis, hoặc chính bệnh nhân chọn giải phẫu vì không muốn bị đe dọa thường trực khi trong cơ thể có “ung thư”. Ngày nay, tài tử Tép Riu có thể lựa chọn đóng một trong hai phim: giải phẫu hay Active Surveillance. Giải phẫu cắt ung thư Trong vòng 40 năm qua, loài người lên tới mặt trăng cách mặt đất 384.400km, các thi sĩ lên mặt trăng bất kể giờ giấc, thì trái tinh cầu rực lửa trong cơ thể ít ai nhắc nhở cho đến khi có “vấn đề”, lật đật khoán trắng cho quí lang Ta lang Tây lang Tàu, lang Băm, lang email. Khi ung thư ở giai đoạn/stage T1 và T2 tức còn ở trong prostate như trường hợp Tép Riu, chữa trị là giải phẫu. Có hai loại giải phẫu do Bs giải phẫu (surgical oncologist) thực hiện 1.“Radical prostatectomy/cắt toàn phần”: Radical có nghĩa là “tận gốc”. Bs cắt: - Prostate “trọn gói” - một số mô, hạch, - vas deferens (ống dẫn tinh nhập với ống từ seminal vesicle thành ejaculatory duct (ống xuất tinh), ống xuất tinh đổ thẳng vào urethra. - seminal vesicle (tuyến cung cấp 65-75% tinh dịch và chất bổ dưỡng cho tinh dịch) - Urethra (ống dẫn tinh và nước tiểu) sẽ bị cắt tạm thời, sau khi cắt bỏ Prostate, sẽ nối Urethra trở lại (6). Bs giải phẫu bằng tay hay nhờ robot thường gọi là da Vinci như trong youtube sau. Quí quan đau tim hay thánh nữ khó ngủ không nên coi: 2. “Focal therapy/cắt một phần” nơi “được biết là có ung thư” mục đích tránh rối loạn đường tiểu và liệt dương. Từ 2008, tổ chức The International Symposium on Focal Therapy and Imaging in Prostate and Kidney Cancer họp hành ngoạn mục mỗi năm thay phiên ở Hoa Kỳ và Hà Lan, nhưng còn quá sớm để biết có phải “cầu được ước thấy” như các đấng lang Tây hân hoan hớn hở hứa hẹn. Lý do: Tới giờ này chưa biết nguyên nhân tạo UT, trong prostate chỗ nào cũng có thể có tế bào UT, làm biopsy vẫn có thể sót hoặc không “cập nhật hóa” kịp với tốc độ phát triển của tế bào UT. Tất cả những phương pháp như DRE, biopsy, ultrasound, CAT scan đều không dò tìm được tất cả UT, thì khó có thể nói focal surgery không để sót phần có ung thư Nerve-sparing trong Radical Prostatectomy là gì? Prostate có hai chùm dây thần kinh. Nếu hai chùm này không bị cancer Bs giải phẫu sẽ cố không đụng tới. Nếu Bs không cắt đứt các dây thần kinh, khả năng cương cứng có thể trở lại quanh 18 tháng sau giải phẫu. Ngay cả một trong hai hay cả hai bị cắt bỏ, khả năng tình dục vẫn còn (7). Tỷ lệ bất lực không tùy thuộc vào…quảng cáo mà vào sự khéo léo/kinh nghiệm của Bs nhận diện được những dây thần kinh, và may khéo để sẹo về sau không ảnh hưởng lên các dây thần kinh đó. Bản tin tờ New York Times: Paul Nelson 46 tuổi được giải phẫu bằng robot bởi một Bs giải phẫu nổi tiếng ở New York quảng cáo rằng 98% bệnh nhân an toàn. 5 năm sau, Nelson tiết lộ “Of course, I wasn’t perfectly fine/Dĩ nhiên, tôi không thuộc loại tuyệt đối an toàn” (7). Ồ, chữ “dĩ nhiên” đầy cam phận! Bản dạ khúc “Tiếng khóc khô không lệ” Dù cắt toàn phần hay một phần, hậu quả chính vẫn là rối loạn đường tiểu và bất lực, có thể là lý do chính dẫn tới chọn lựa thà chết còn hơn tuột lơ ống sậy. Dù được quảng cáo như dầu cù là Con Cọp, nghiên cứu cho con số không mấy tươi cười: có tới 86% potency/bất lực, 86-100% rối loạn đường tiểu. Sự cường dương có thể trở lại sau 2 hay 3 năm, nhưng chỉ làm libido tức tưởi in hệt…thái giám. Chỉ kể sơ sơ: sự sướng ngất nếu có cũng “khô” vì không còn tinh dịch. Ngoài ra bệnh nhân phải mang tã có khi suốt đời, bị tê nửa người…Những tin tức này được lập đi lập lại, với các con số khác nhau, ở webpages US National Library of Medicine, Memorial Sloan-Kettering Cancer Center, WebMD, Cancer Research UK (8)...American Cancer Society dẫn New England Journal of Medicine 01/2013, theo dõi 1,655 người (1.164 giải phẫu và 491 radiation), 15 năm sau tất cả vẫn có vấn đề (cường dương, đại và tiểu tiện): 87% ở người giải phẫu và 93.9% ở người có radiation (9). Radiation là dùng một nguồn năng lượng để phá các sợi DNA của tế bào ung thư. Phá là làm vỡ hay làm gãy, không phải “đốt” là làm cháy. Tùy loại therapy, Radiation có thể energy cao hay thấp. Bs Durado Brooks dẫn báo cáo của US Preventive Services Task Force a. chừng 30% bệnh nhân có một trong những hậu quả trên b. cứ 200 người thì có 1 người chết 30 ngày sau khi giải phẫu (10). Bs Brooks là giám đốc Prostate and Colorectal Cancers, American Cancer Society Active Surveillance là gì? Tép Riu may mắn có một oncologist hải đảo không lùa Tép Riu lên bàn mổ mà dùng hư chiêu Active Surveillance “No treatment is best treatment/Cách chữa hay nhất là không chữa gì hết”. Onco: mass, tumor; oncologist là Bs chuyên khoa UT. Bs gửi Tép Riu về nhà đuổi gà hẹn làm PSA và biopsy tháng 8/2013. Theo Bs Brooks ở Mỹ cứ 9 trong 10 người có prostate cancer được điều trị cấp kỳ ngay sau khi được chẩn đoán có ung thư, vì không bao giờ nghe tới Active Surveillance/ Canh Chừng. Tép Riu may mắn là người thứ 10. Active Surveillance áp dụng cho bệnh nhân còn trẻ, mạnh khỏe, stage 1 hay 2. Active Surveillance khác với Watchful Waiting “Nothing we can do/Không làm được gì hết” tức đợi triệu chứng bệnh xuất hiện, dành cho người lớn hơn 70 tuổi cuộc đời còn lại có thể -+10 năm nữa. Có webpage còn khuyên bệnh nhân nên làm di chúc. Hiện nay, một số y sĩ không còn dùng chữ Watchful Waiting vì cho bệnh nhân cảm tưởng “không làm gì cả”. Brooks nhấn mạnh chính các bác sĩ cũng chưa thống nhất về ý nghĩa và áp dụng giữa Watchful Waiting và Active Surveillance . Dù tên gọi là gì, bệnh nhân cần biết đang chờ đợi những gì. Theo Brooks, Active Surveillance là hoãn giải phẫu hay radiation cho đến khi có dấu hiệu cần thiết, có thể là vài năm hay cả đời. Bs sẽ theo dõi bằng PSA velocity, Free PSA Ratio và biopsy, canh chừng nếu có triệu chứng tiểu ra máu, đau lưng, đau bụng dưới hay háng. Nhưng bệnh nhân với tâm lý muốn đẩy ngay mầm ung thư mà họ cho là kinh khủng trong người, khi được báo “Không Cần Làm Gì Hết” thường chạy bay biến đi tìm một bác sĩ khác để “được làm gì”, và rất hài lòng với đề nghị giải phẫu hay tiêu diệt tế bào cancer bằng radiation bất chấp hậu quả của hai lối điều trị này. Điều kỳ nhất là khổ chủ muốn phá hủy Prostate của mình hăng hái hơn cả Bs (10) . Người ta, kể cả bác sĩ, sợ ung thư quá và thà rủi ro tiểu són liệt dương hơn là chết. Nhưng ngay cả khi bệnh nhân có hiểu biết về Active Surveillance cũng còn nhiều yếu tố khác ảnh hưởng tới việc chọn lựa này. Đó là sự ủng hộ của Bs, gia đình và bạn bè. Quan trọng nhất là bệnh sử của bệnh nhân, kinh nghiệm có với bệnh nhân cancer khác và quan niệm về cuộc đời phía trước. Ít webpage nói rõ hậu quả tiêu cực (tiền bạc/nhân mạng) của chữa trị quá mức/ overtreatment là nguyên nhân vẽ ra màn Active Surveillance. Ý niệm Active Surveillance có thể còn mới mẻ, nên webpages chuyên ngành luôn khuyến khích bệnh nhân “self-educated/tự học”. Chữa trị không còn là độc quyền của y sĩ trong thời buổi toàn cầu hóa tin tức như hiện nay. Prostate dưới “con dao hai lưỡi” Hơn 30 năm nay “cắt phăng” là cách dễ nhất. Làm biopsy, hơn chục cái kim đâm nát prostate khiến nhiều tuần lễ sau nước tiểu và tinh dịch còn trộn máu, nhưng vẫn có thể bỏ sót một vài tế bào ung thư phục kích. Oncologist/Urologist/Surgeon không là thầy bói tiên đoán vận mệnh của prostate. Còn đợi gì mà không cắt một cục thịt vô dụng và nguy hiểm? Tuy nhiên, như Tagore viết “Một đầu óc duy lý giống như con dao hai lưỡi có thể làm chẩy máu tay”. Chữa trị hiện nay chỉ xoay quanh cái hạt Walnut 3cm làm bệnh nhân và gia đình hốt hoảng theo quên rằng dù có ung thư con người vẫn có một đời sống đẹp. Cái tuyến prostate dù hư nhưng giống như con mình nó không... hỏng. Con cái không phải hễ hư là hỏng hoặc không hỏng cũng cứ hư. Người Ấn Độ vô địch về tưởng tượng, nhân cách hóa. Theo kinh Veda Ấn Độ, Linga/dương vật tượng trưng cho quyền uy tối thượng của tri thức và sáng tạo. Yoni, bộ phận người đàn bà, cái ổ ẩn mật chuẩn bị đón nhận sự sinh tồn. Linga của thần Shiva là biểu tượng cho sự vượt thẳng, sự thăng hoa. Sự dựng đứng tượng trưng cho lửa là nơi cư trú của Đấng Thông Suốt, bên trong chứa đựng Đấng Hồi Sinh. Một vụ ly dị phải suy nghĩ năm hồi bẩy trận, thủ tục toà án bắt tương nhượng chán chê trước khi ra phán quyết. Prostate, hậu phuơng của Linga, chăm chỉ ngỏng đầu làm việc không ngừng chưa xin nghỉ không lương ngày nào lại không được hưởng xa xỉ ấy. Đây là một điểm tâm lý còn phủ lớp màn đóng kín chưa ai phân tích tại sao nam tài tử không dám cắt tiết một con gà hay đập chết một con mèo nhưng dễ dàng tự…ám sát. Tại quá sợ ung thư? Tại không thực sự trân trọng sức khoẻ? Bị dư luận xã hội mua đứt rằng phải tin lời bác sĩ? Vì bị nghiền nát trong “văn hóa tiêu thụ” độc nhất vô nhị của nước Mỹ “phải nợ mới có credit ngon, phải cắt mới chữa được ung thư”. Không ai hỏi bệnh nhân choáng váng thế nào, đau đớn ra sao, cô độc có thể đưa đến những toan tính gì…Bệnh nhân cũng chỉ sợ mất mặt làng xã vì phải mang tã hơn là ý nghĩa của việc cắt bỏ một mầm sống. Ít ai nhớ tới nhiệm vụ đầu tiên của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế “…che chở mạng sống và phẩm cách cho nạn nhân khỏi vũ khí, bạo lực…” Phải cố cứu cả mạng sống và phẩm cách khi “còn nước còn tát”, cách ngôn Việt Nam có vẻ thích hợp trường hợp này. “Hai muơi năm sau, bạn sẽ thất vọng hơn nữa vì những điều bạn đã không làm hơn là những điều bạn đã làm. (H. Jackson Brown Jr.) Bốn tháng có kịp chữa cháy? Cú phone từ hải đảo báo tin có “ung thư nhiếp hộ tuyến” chỉ làm hoảng hốt trong giây lát, người viết liền sắm vai Lính Chữa Lửa vì sẵn đang theo dõi chứng BPH (nhiếp hộ tuyến tăng kích thước) cho thành viên trong nhà, và vì gia đình Tép Riu ở xa đất liền khó cơ hội mua sắm. Nắm giữ chức “chủ tịch ủy ban nhát gan” vì sợ dao kéo, Lính Chữa Lửa cho là phải “ra tay” trước thay vì ngồi chờ tháng 8 năm Dần tháng 3 năm Ngọ. Làm gì để “diệt ung thư” mà không hại người bệnh? Làm sao chạy đua với kim đồng hồ chỉ còn bốn tháng khi Lính Chữa Lửa i tờ không chút kiến thức y khoa. “Tát” gì khi bí kíp duy nhất là kết quả PSA Tép Riu gửi qua email, với định nghĩa mà Lính phải lội bì bõm mới hiểu chút đỉnh: total PSA, Free PSA ration, prostatic acinar adenocarcinoma, High-grade prostatic intraepithelial neoplasia… Hai tuần lễ đầu, ngoài internet Lính la cà ở thư viện, tiệm sách, bệnh viện, tiệm Whole Food. Càng đọc tài liệu nhắm thanh toán “cái mầm chết”, bức tranh Conventional Treatment càng hiện lên càng gây sững sờ vì độ “chính xác” không …chính xác đến vô lý. - Nguyên nhân gây UTNHT: không rõ - PSA: chỉ chính xác 55% - DRE, biopsy, Ultrasound, CAT scan: vẫn có thể sót tế bào UT - PSA velocity: nghiên cứu cho con số khác nhau - Giải phẫu và Radiation: dẫn tới rối loạn đường tiểu/khả năng sinh lý - Active Surveillance-Watchful Waiting: Bs cũng không phân biệt - Active Surveillance chỉ là trì hoãn (giải phẫu, radiation…) Cả một hệ thống y tế khổng lồ khập khiễng chạy theo chữa triệu chứng, chữa con số, chữa kết quả thử máu…mà không màng đến bệnh nhân. “Bệnh nhân” chỉ là cái bóng mờ cạnh cái bướu vô hình. Quan tòa không thèm liếc nhìn “bị can” hoang mang run rẩy trước vành móng ngựa, lạnh lùng tuyên án. “Ông bị ung thư” là án tử hình, Giải Phẫu là khổ sai vô hạn, Active Surveillance là chung thân hữu hạn. Lính mới đọc đến đâu dấu biệt tới đó không cho Tép Riu hay vì thánh nữ trong nhà chỉ muốn Tép Riu trắng án. Ánh sáng cuối đường hầm? Thình lình Lính mới lưu ý tới sự ca tụng thái quá “ăn uống kiểu Mediterranean” của người Ý/Hy Lạp/Tây Ban Nha: nhiều rau, trái, cá, ít sữa dầu mỡ thịt... cho là vì vậy người dân vùng Địa Trung Hải thon gọn và ít ung thư. Cách ăn uống này đâu có khác gì món Việt? Món ăn VN còn lành mạnh hơn vì không có sữa + phó sản vốn là những món mà giới nghiên cứu ung thư Trung Hoa cấm kỵ. Những món như canh chua cá kho tộ - gỏi bắp cải- chả cá thì là…vừa ngon vừa bổ vừa rất “nên thuốc”. Món phở với hồi-quế-gừng--ớt toàn là “thuốc” mà thời nữ hoàng Cléopâtre phải trả bằng vàng mới có. Lại chăm chú đọc tới đọc lui báo cáo bệnh lý ghi dòng nhỏ xíu Tép Riu thiếu vit.D/Vitamin D deficiency. Vit. D giữ vai trò gì trong ngăn cản tế bào ung thư biến thành "dữ"? Cơ thể còn thiếu vitamin gì nữa? Thiếu vitamin liên hệ thế nào tới ung thư? Đơn chất hợp chất nào bù lượng vitamin thiếu? Kỷ niệm trong gia đình bà nội dùng nghệ đen nghệ vàng mật ong ngải cứu chữa đủ thứ “bệnh” vào 60 năm trước thời một viên Ganidan hay Dagénan của Pháp quí như vàng. Tại sao không trở lại…thời bà nội dùng thực phẩm thiên nhiên tránh dao kéo mổ xẻ? Tình cờ vớ trong một tiệm Whole Food cuốn Alternative Medicine của Burton Goldberg Group liệt kê hơn 200 thứ bệnh trị bằng cây cỏ dân gian. Cuốn sách được coi là Kinh Thánh hơn một ngàn trang giấy khổ lớn, tái bản lần thứ hai, đủ hiểu người Mỹ cũng nương tựa vào Mẹ thiên nhiên. Internet la đà chuyện đau đớn lẫn vui mừng của bệnh nhân Cancer. Có người chỉ uống nước cà rốt trong vòng 2 tuần. Nhà văn Aleksandr Solzhenitsyn viết là ông dùng trà Chaga chữa khỏi ung thư. Đối chiếu với những websites chuyên ngành như Medicine.net, webMD, Harvard, John Hopskins, Mayo Clinic, Medicine.net, JAMA, National Cancer Institute...(11) đôi khi bổ túc nhau hay trái ngược nhau. Website này bảo Brazil nut rất tốt vì nhiều Selenium, website kia lắc đầu quầy quậy. Website khác nói calcium cao có thể làm tăng prostate cancer. Website này bảo giá làm từ hạt broccoli có chất sulfurophane 30-50 lần nhiều hơn broccoli thường có thể diệt tế bào ung thư. . . Rốt cuộc Lính mới cũng “khoanh vùng” được một số rau cỏ theo tiêu chuẩn do các webpages đề ra: 1. tiêu hủy/ngưng không cho tế bào ung thư phát triển 2. nâng hệ miễn nhiễm/Immune System 3. nâng mức Antioxidants 4. diệt Free Radical Dù Immune System, Free Radical là những khái niệm mới còn trong vòng nghiên cứu nên mạnh ai nấy hiểu, nhưng đọc hoài thì ngộ ra rằng dân gian còn đi trước Hippocrates “Food is your medicine/thực phẩm chính là thuốc”. “Trong tay thánh nữ có đời Tép Riu” Bắt đầu tháng 6/2013, Tép Riu theo một Nutrition Road Map gồm hai nhóm: nhóm bổ dưỡng và nhóm tạm gọi Cancer-Fighter. Cả gia đình Tép Riu chuyển qua ăn gạo lức, nhiều broccoli, cà chua, thìa là, gà, đồ biển, dầu olive, muối biển Himalaya, làm giá từ hạt broccoli/kale/bắp cải/alfafa…Nguồn tin tình báo Homeleaks cho hay Tép Riu vẫn ăn ngon lành khiến các cô người mẫu phải ao ước và triệu phú ốm lăn ốm lóc trên đống vàng muốn đánh đổi. Mật báo viên cho hay ngoài danh sách DON’T, Tép Riu không kiêng cữ thứ gì, dọn gì ăn nấy, thích gì ăn nấy. Tép Riu biết rằng dinh dưỡng chỉ có thể thay đổi ung thư giai đoạn đầu nên càng vui miệng càng tốt. Sáng chàng hân hoan ăn bốn lát sandwich, trứng chiên, thịt bò thịt heo nạc, khoai ghiền, rau sống… Chàng nhẹ nhàng sơi thêm một chén oat meal, một dĩa trái cây cùng sữa đậu nành. Sợ sữa buồn, chàng rón rén thêm ly nước cam cho có bạn và sau cùng nhanh chóng thanh toán chiến trường lén thánh nữ dấu hai nắm đủ loại hạt trong túi áo. Mớ hạt đó buổi trưa chàng đi bộ ngoài nắng chia cho mấy chú sóc bươn bả chạy theo xin xỏ…Buổi tối xum họp gia đình, chàng vui vẻ sơi tái ba chén cơm nếu có món canh chua cá kho rau xào tôm rang chem chép nướng …Đây là điều đáng lưu ý vì thường “bệnh nhân” ung thư khi không kiêng khem đủ thứ, trên đầu mọc một dàn dưa leo, tay trái leo một dây mướp đắng, tay phải tháp một cây đu đủ đực, người xanh um như một vườn rau biết đi, cay như một củ gừng, vàng khè như một củ nghệ, thở toàn mùi tỏi, sáng sớm uống hai muỗng dấm táo. Ăn uống không đầy đủ, không quân bằng, thiếu các sinh tố hay amino acid mà cơ thể không chế tạo được sẽ dẫn đến hàng trăm thứ bệnh. Vấn đề là ăn gì và nấu thế nào? Câu trả lời đến từ nhà bếp. Thế là “Trong tay thánh nữ có đời Tép Riu”. Tủ thuốc dã chiến Cancer-Fighter Cũng từ tháng 6/2013, “tủ thuốc Cancer-Fighter” của Tép Riu bắt đầu “đi vào hoạt động”. Trà: Quế, Dandelion Root, Chaga Tea, Rosemary, Kashmiri Tea, Triphala, Essiac Hạt: Hemp Seed, Flaxseed, Sunflower, Chiaseed Nut: Brazil nut, Pitashios, Walnut, Almond, Kỷ Tử/Goji Supplement: Vit. D, Seaweed, Wheat Grass…. Sẽ trở lại với những loại rau cỏ, chất khoáng này trong bài tới, từ cỏ dại Dandelion rẻ tiền đến nấm đắt tiền. Ngoài ra, Tép Riu còn phải theo một danh sách “DON’T”, nói KHÔNG với Cá lớn, cá nuôi Thịt ướp (sausage, bacon, hotdog) Sữa + phó mát/cheese + yogurt, Mỡ động vật và một số dầu thực vật Các loại nước ngọt-cà phê-rượu bia Đường trắng, bánh mì trắng, gạo trắng, mì ống 100% juice cũng khó tin vì không rõ thành phần trái cây, thành phần hoá học Tép Riu chăm chỉ ăn uống, đi bộ ngày hai tiếng, không hy vọng hão, không thất vọng sảng, sự chấn động ban đầu phai dần. Tép Riu không sống với “cái tôi” thường thấy ở những “tiến sĩ”. Có lẽ vì là tiến sĩ toán, Tép Riu biết khoa học có nghĩa là tò mò mới tiến bộ nên hớn hở ghi vào bộ não trắng tinh kiến thức mới mẻ. Với hiểu biết giới hạn và “tủ thuốc dã chiến Cancer-Fighter” tài tử chánh tài tử phụ chỉ dám hy vọng giữ PSA yên mức 4.3, vì nếu tính nhẩm kiểu…“thuyền ra cửa biển”, mỗi 2.5 tháng tăng một chấm, một năm tăng gần 5 chấm, thuyền chưa ra tới biển đã chìm lỉm. PSA tháng 8/2013: kết quả bất ngờ Sau ba tháng (sáu/bẩy/tám) thử PSA từ 4.3 giảm xuống 2.6 (4 là mức “an toàn”). PSA từ 3.3 lên 4.3 rồi xuống 2.6! Oncologist vò đầu bứt tai! PSA nhảy tanh tách như một con cào cào buổi khai trường, đứng yên suốt 10 tháng rồi đột ngột xuống thang. Tép Riu làm khoa học mất mặt bầu cua vì không biết chẩn đoán ra sao. Theo Bs Pat. ung thư đồng nghĩa với đau đớn và chết nhưng chỉ đúng cho ung thư thứ dữ, hết thuốc chữa, khi người bệnh đã có triệu chứng lâm sàng. Rất có thể có nhiều người bị ung thư nhưng thoát chết mà không hay biết vì một tình cờ may rủi nào đó trong đời, trong đó có lối sống và ẩm thực. Điều này giải thích có rất nhiều người cà phê, trà rượu, không kiêng cữ ăn uống nhưng không bị ung thư. Ngược lại, bà xơ bị ung thư vú rất nhiều. Tép Riu biết có ung thư chỉ vì cái test PSA oái ăm 4.3. Có thể a. chàng đã có “mầm” ung thư từ lâu nhưng không biết b. nếu lab thử PSA dùng một phạm vi tham chiếu (reference range) khác thì PSA Tép Riu cho ra một số thấp hơn c. nếu Tép Riu không thử PSA, chàng hoàn toàn không hay biết, hồn nhiên sống và chỉ lơn tơn chết vui vẻ vì bệnh khác. Bố của Tép Riu đang mạnh khỏe vào tuổi 89. Một oncologist cho là Tép Riu có cơ thể của một…quái nhân. Ông cho rằng có thể do thực phẩm nhưng herbal agents/cây cỏ có thể là nguyên nhân dù không chắc lắm vì Tép Riu không có “nhật ký” ghi chép ăn uống mỗi ngày. Ông cho rằng có thể một loại trà quỷ quái làm giảm libido khiến Prostate không thèm “bực mình”, không “căng” nên PSA thấp? Tép Riu từ chối không làm biopsy tháng 8 như Bs đề nghị. Bs hẹn làm PSA tháng 12/2013. Sự thật ở đâu? Sự kiện có nhiều nhưng sự thật chỉ có một. Cơ thể và tâm linh con người không thể tách rời nhau. Tép Riu có gia đình hạnh phúc bạn bè ân cần, có niềm tin mãnh liệt vào đời sống dù chưa biết ngắn dài: một mặt thảo chương trình dài hạn ngắn hạn, một mặt nhận săn sóc chăm lo và chuyển cho người khác. Có lẽ chính bản năng sinh tồn tự động làm việc mà không cần sự can thiệp của não bộ và những định nghĩa mơ hồ “Boosting Immune System/nâng hệ thống miễn nhiễm”. Có thể Tép Riu tha thiết với cuộc đời vì “chỉ có một cuộc đời tươi đẹp này để sống” khiến cơ thể tự hàn gắn. Hay tình yêu thương gia đình ràng buộc khiến Tép Riu không thể rời xa ít nhất lúc này? Hay Tép Riu có công trình dở dang cần làm xong chưa…đi được? Tép Riu đã tự cứu mình khi đổi cách ăn uống và tựa vào Mẹ Thiên Nhiên dùng nhiều cây cỏ hơn là “thuốc” trích hóa chất từ cây cỏ. Có thể trong “tủ thuốc Cancer-Fighter” và thực phẩm hàng ngày, có đơn chất hợp chất nào đó bổ xung chất cơ thể Tép Riu đang thiếu? Cobalt, iodine, iron, selenium, magnesium…? Nutrition Road Map có vẻ như giữ vai trò quyết định giai đoạn này. Chắc không nên hỏi 10 năm 20 năm sau nữa ra sao, không nên ép thời gian quá mức. Vì còn nhiều ẩn số. “Khoa Học! Hãy ở tuyến đầu!” Loại bướu Tí Quậy của Tép Riu mới mọc, không sờ thấy, không cần giải phẫu, không cần quang tuyến, không cần uống thuốc, không lang thang quậy phá hàng xóm, tại sao Giá Bs thẩy Tép Riu lên bàn mổ, anh nhóc Tí Quậy này sẽ là một gánh nặng xã hội chừng vài chục ngàn đô la. Năm 2010, tốn phí cho Prostate Cancer là $11.85tỷ đô la (16). Cách chữa trị tối tân hơn, nhưng kết quả có khá hơn? Có giảm hậu quả nghiêm trọng như nêu trên? American Cancer Society đặt câu hỏi và tự trả lời “Câu trả lời thật đáng ngạc nhiên “Ai mà biết? Mà biết làm quái gì mới được chứ?” (17).. Theo Bs Pat. trường hợp Tép Riu nên gọi là Indolentoma hay PEN (Prostatic Epithelial Neoplasia). Indolentoma: In: không; Dolent: đau; Oma: bướu. Epithelia: biểu bì, lớp ở trên hay ở trong các cơ quan; Neo: mới; Plasia: mọc. Theo Bs Jonathan Oppenheimer, ngoài lý do bệnh lý, chữ Neoplasia không mang gánh nặng đe dọa. Nó giúp giới y sĩ chẩn đoán, giúp bệnh nhân và bác sĩ dễ đi tới một đối thoại hợp lý, đồng thời cũng giúp bệnh nhân lựa chọn cách điều trị và do đó có thể làm giảm hậu quả tiêu cực của chữa trị (12). ; (13). Trời đất! Thế thì y sĩ giải phẫu ung thư sắp đi xin tiền thất nghiệp? Không phải dỡn chơi! Khủng hoảng tinh thần của giới y sĩ vì thưa kiện, tiền thưởng kếch xù cho người thắng kiện, tiền đóng bảo hiểm nghề nghệp leo thang và một số Bs quyết định bỏ nghề là những điều có thật. Có lẽ chỉ cộng đồng VN có nạn ép con học bác sĩ để được tiếng “bố mẹ quan đốc”, một quan niệm có từ thời Pháp thuộc rơi rớt từ thời Nho sĩ. “Bệnh nhân! Hãy ở tuyến đầu! Bs Lundberg, National Cancer Institute và JAMA có những bài trên cho giới y sĩ, không cho chúng sinh vô tội. Đã đến lúc quí tài tử cũng phải hô to “Bệnh nhân! Hãy ở tuyến đầu” Muốn ở tuyến đầu không khó trong thời buổi tin học này! Tới giờ này y học chưa biết hết ngõ ngách nguyên nhân ung thư, do đó không có chữa trị nào tuyệt đối an toàn hay không an toàn. Những khám phá đều tương đối. Các nghiên cứu/tài liệu luôn dùng chữ “có thể/may be” thì đừng “ép” Bs hay trông mong Bs “phải biết quá nhiều”. Bs chỉ là người nhắc lại những gì học ở nhà trường, họ không phải là người sáng chế. Bs như người làm bánh nướng bánh dẻo ngày tết trung thu một trăm cái in hệt nhau. Không có giải pháp “one size fit all” khi cơ thể có những ẩn số riêng ảnh hưởng to lớn đến chẩn đoán và chữa trị như yếu tố di truyền, kích thước/vị trí cái bướu…American Cancer Society cung cấp một danh sách câu hỏi (15) nếu tự tìm hiểu và trả lời trước khi mếu máo gõ cửa bác sĩ chắc chắn cứu vãn được thời gian, tiền bạc và mạng sống. Tự mình đi tìm sự thật là một thách đố và cũng là một tự do trong thời buổi tin học đầy rẫy tin tức: phân tích đúng/sai và sử dụng chúng thế nào là tùy mỗi người. Làm sao ở tuyến đầu! Kết quả 2.6 trên là từ cố gắng dù đầy rẫy sai lầm. Hoang mang giữa bí mật của cơ thể, của thiên nhiên và sự phức tạp của hàng ngàn trang giấy, Lính Chữa Lửa non nớt đã phạm nhiều sai lầm, từ hệ trọng như chưa biết giai đoạn/stage đã xem Focal Surgery như giải pháp tốt nhất; cho đến đơn giản là đọc tào lao đến khi hỡi ơi khám phá chỉ 20% nghiên cứu chuyên môn thật sự có giá trị, và đôi khi các giá trị đó cũng thất lạc vì hiện tượng tam sao thất bổn khi đến tay đại chúng, chưa kể đại chúng i tờ. Nhưng cũng chính từ sai lầm ấy, Lính mới sắp xếp được bài này theo tiến trình hợp lý. Nếu bài viết giúp làm sáng tỏ đôi điều thì đó là “duyên lành” của Tép Riu, của Bs Pat, của những nghiên cứu và cả những chú chuột trong phòng thí nghiệm. “Giữa đoàn hùng binh có anh đi hàng đầu” hay “Giữa đoàn hàng binh có anh đi hàng đầu” hoàn toàn là lựa chọn cá nhân “Hãy yêu lấy sự bất toàn” Nguồn tin HomeLeaks cho hay Tép Riu đang sống vui sống khỏe với PSA 2.6. Tép Riu sẽ làm gì để giữ PSA dưới 5, giữ PSA velocity dưới 0.6 μg/l/y, là phim bộ nhiều tập. Nhiệm vụ chữa cháy đã xong, Lính Chữa Lửa thơ thới lui về trồng rau, trả sân khấu cho tài tử Tép Riu. Riêng với bạn đọc kiên nhẫn, thưa thốt đôi điều nhân duyên đưa đẩy thoảng nghe từ lớp thiền Miến Điện một ngày tháng 5/2013, tiểu bang xanh Washington. đau đớn bệnh tật ư? đó mới là bạn đường chung thủy lẽo đẽo theo mình cả đời dù thề thốt nặng lời không ai chết theo mình cả chỉ bệnh tật mà thôi hãy thăm hỏi lắng nghe Tí Quậy nói gì đừng nghiến răng trợn mắt nó trợn mắt lại là bỏ mạng sa tràng mỗi sáng nhớ chào hỏi lễ phép “nè Tí Quậy thức dậy uống nước nào” chuyện trò mỗi ngày hỏi nó cần gì muốn nghe nhạc nhẹ hay dắt tay đi bộ ngoài bãi biển buổi tối nhớ xoa lưng ân cần “Tí Quậy ơi ngủ cho ngoan” nếu dứt bỏ, nhẹ tay êm ái mỗi ngày một chút nếu chặt phăng, Tí Quậy dẫy đành đạch mình cũng chết ngay chưa chắc ai chết trước nhớ rằng các tế bào sinh ra đều lành như tinh trùng ban đầu thụ thai trong trứng nếu con đẹp đẽ khoẻ mạnh là con mình chẳng lẽ con quặt quẹo bất toàn là con ông hàng xóm? còn biết ngày mai sẽ ra đi, vẫn vui như không phải hôm nay ngày cuối bên đồi hoa, Dandelion vẫn rực vàng vẫn có một đời tươi đẹp đón chờ nếu khi ra đi mang theo niềm tin yêu và hy vọng rằng nếu bắt đầu lại từ đầu xin khoan xin khoan đừng đi vội về sau ánh sáng rực rỡ tràn ngập trái tim của sát na gặp gỡ cuối cùng là buổi bình minh của kiếp sau Riêng gửi bạn đọc giai đoạn T4 bài hát Le Papillon, Le papillon Phim tiếng Pháp Le papillon Parce que ça fait partie du charme Enfin…. Pourquoi les jolies fleurs se fanent? Parce que ça fait partie du charme. Rồi ra… Tại sao hoa xinh rồi cũng tàn héo? Ô kìa! Bởi vì tàn héo cũng đẹp chứ sao Trần Thị Vĩnh Tường 14-24 tháng chín 2013 Viết từ Suối Nước Trong Đồi hoa dại Dandelion *** *** *** Chú thích 1. Conventional Treatment/Chữa Trị Thông Dụng, là những phương cách Bs thường chọn chữa trị ung thư, gồm Chemotherapy Radiotherapy Surgery Biological therapies Hormone therapy 2. Không rõ có nghiên cứu nào về sự “bực mình” khi quí quan liếc các cô nhà nghèo ít vải: một ngày bực mấy lần, căng bao lâu, số lần bực có hay đổi theo tuổi tác, tới tuổi nào hết bực, sự bực mình này có ý nghĩa gì về phương diện bệnh lý và tâm lý học: phản ảnh sức khoẻ tốt cả tâm lý lẫn thể xác hay ngược lại? 3. Bs George D. Lundberg, cựu chủ nhiệm của JAMA trong suốt 17 năm, bị JAMA cho nghỉ việc “vì bất đồng chính kiến” JAMA, viết tắt của The Journal American Medical Association. Ai bảo nước Mỹ luôn “trong suốt”? en.wikipedia.org/wiki/George_D._Lundberg. 4. United States Preventive Services Task Force (USPSTF) và National Cancer Institute (NCI) đều trực thuộc bộ Y Tế (U.S. Department of Health and Human Services) nhưng độc lập trên nguyên tắc chuyên môn. USPSTF: do bộ Y Tế thành lập, yểm trợ tài chánh và nhân sự để duyệt xét bằng chứng của sự hữu hiệu và làm đề nghị cho các dịch vụ y khoa phòng ngừa. USPSTF gồm các nhà chuyên môn trong ngành y khoa cơ bản (primary care physicians) và dịch tễ học (epidemiologists) độc lập và đặt trọng tâm vào sự hữu hiệu của các kỹ thuật y khoa trên sự ngừa bệnh. NCI: đảm trách sự điều hành và yểm trợ các dich vụ y tế để nghiên cứu, đào luyện và phổ biến những dữ kiện liên hệ đến nguyên nhân, phòng ngừa, định bệnh và điều trị ung thư. Cả hai cơ quan độc lập với các cơ sở y và dược học thương mãi nhưng vì trực thuộc vào bộ Y Tế, đôi khi ý kiến của họ có thể phải phản ảnh đường lối chính trị của đảng cầm quyền, và đảng cầm quyền có thể bị lobby của các cơ sở thương mãi mua chuộc. Tham khảo 1. Suicides linked to prostate cancer test, expert warns www.couriermail.com.au/lifestyle/health/suicides-linked-to-prostate-cancer-test-expert-warns/story-fnihoylo-12266923480552. etymonline.com/?term=prostate3. Elizabeth Radke, MPHFaina Linkov, PhD University of Pittsburgh Cancer Institute - Epidemiology of Prostate Cancer - University of Pittsburgh www.google.com/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=3&ved=0CEAQFjAC&url=http%3A%2F%2Fwww.pitt.edu%2F~super4%2F34011-35001%2F34031.ppt&ei=myeDUq69KeX5iwKUyYHoBw&usg=AFQjCNEBZ7O7fWnjpkA3PjGgKY_f6NhRbA&sig2=dCommKZATysVowdOpFK2ZA&bvm=bv.56343320,d.cGE 4. Otto Warburg, The Prime Cause and Prevention of Cancer healingtools.tripod.com/primecause1.html/5. Does surgery cause cancer to spread? www.cancer.org/treatment/treatmentsandsideeffects/treatmenttypes/surgery/surgery-surgery-and-cancer-spread6. Radical Retropubic Prostatectomy www.upmccancercenter.com/cancer/prostate/radprostretropubic.cfm 7. Nerve-Sparing Radical Prostatectomy www.upmccancercenter.com/cancer/prostate/radprostnerve.cfmwww.nytimes.com/2011/09/25/sunday-review/the-side-effects-of-prostate-surgery.html?_r=0&pagewanted=print 8. Surgery for prostate cancer www.cancer.org/cancer/prostatecancer/detailedguide/prostate-cancer-treating-surgeryManaging Side Effects www.mskcc.org/cancer-care/adult/prostate/managing-side-effectsRadical Prostatectomy www.webmd.com/prostate-cancer/radical-prostatectomy-operationSexual Dysfunction after Radical Prostatectomy www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1477599/www.cancerresearchuk.org/cancer-help/type/prostate-cancer/treatment/radiotherapy/side-effects-of-prostate-cancer-radiotherapy9. Study Confirms Long-Term Side Effects from Prostate Cancer Treatment www.cancer.org/cancer/news/news/study-confirms-long-term-side-effects-from-prostate-cancer-treatment 10. To Treat or Not to Treat Prostate Cancer: That Is the Question www.cancer.org/cancer/news/expertvoices/post/2012/01/18/to-treat-or-not-to-treat-prostate-cancer-that-is-the-question.aspx 11. Pomegranate, Green Tea, Turmeric And Broccoli May Help Fight Prostate Cancer www.medicalnewstoday.com/articles/261688.phpCancer-Fighting Superfoods www.health.com/health/gallery/0,,20430736,00.html Foods That Fight Cancer™ www.aicr.org/foods-that-fight-cancer/Seven (Easy to Find) Foods That May Help Prevent Cancer www.webmd.com/cancer/features/seven-easy-to-find-foods-that-may-help-fight-cancer Foods High in Vitamin D www.globalhealingcenter.com/natural-health/10-foods-containing-vitamin-d/healing.naturalnews.com/Johns Hopkins Dietary Guidelines for Cancer Patients www.livestrong.com/article/399812-johns-hopkins-cancer-diet/#ixzz2ToRO2x33Fat Intake After Diagnosis and Risk of Lethal Prostate Cancer and All-Cause Mortality archinte.jamanetwork.com/article.aspx?articleid=1696179Prostate Cancer: Epidemiology, Screening, and Biomarkers www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1578720/12. Jonathan Oppenheimer, MD, FCAP, Prostatic Epithelial Neoplasia (PEN), a new name for a common and overtreated pathologic finding. www.ourlab.net/pen/ 13. George D. 1Lundberg, MD, Call Them 'Indolentomas,' Not Cancer www.medscape.com/viewarticle/809982_2jama.jamanetwork.com/article.aspx?articleid=172219www.medscape.com/viewarticle/80865414. Ian Thompson, MD, và đồng nghiệp, Assessing Prostate Cancer Risk: Results from the Prostate Cancer Prevention Trial, Journal of the National Cancer Institute, Vol. 98, No. 8, April 19, 2006 , articles 529 jnci.oxfordjournals.org/content/98/8/529.full.pdf 15. Questions to Ask My Doctor About Prostate Cancer www.cancer.org/acs/groups/cid/documents/webcontent/003289-pdf.pdf16. The Cost of Cancer www.cancer.gov/aboutnci/servingpeople/cancer-statistics/costofcancer17. Prostate cancer detection at rebiopsy after an initial benign diagnosis: results using sextant extended prostate biopsy www.scielo.br/scielo.php?script=sci_arttext&pid=S1807-59322008000300009&lng=en&nrm=iso&tlng=en
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2014 9:27:15 GMT 9
Một số dấu hiệu báo sớm cơn đau tim.TTCN *** Tại phòng đợi ở các bệnh viện đều có dán cáo thị về các dấu hiệu của cơn đau tim (signs of a heart attack), nhưng chúng ta tự hỏi không biết có những dấu hiệu nào báo sớm cho chúng ta biết là tim chúng ta đang bị trục trặc hay không? Rất may là trong những năm gần đây các nhà khảo cứu đã phát hiện ra là quà thực có những dấu hiệu và triệu chứng báo cả tháng có khi cả năm trước là một cơn đau tim sẽ xẩy ra . Bác sĩ Jonathan Goldstein, chuyên gia về tim tại Trung tâm Y học St Michael, Newark, New Jersey nói:” Trái tim, cùng với các động mạch nối vào nó, là một bắp thịt lớn, và một khi nó bắt đầu suy yếu thì những triệu chứng có thể xuất hiện ở nhiều bộ phận khác nhau trong cơ thể”. Dưới đây là năm dấu hiệu sớm cho biết là chúng ta cần phải đi bác sĩ kiểm tra lại tim. Bất cứ một trong những dấu hiệu này — và đặc biệt là hai hay nhiều những dấu hiệu này – mà xuất hiện là chúng ta nên gọi lấy hẹn gặp bác sĩ ngay. 1- Đau cổ Bạn cảm thấy bắp thịt ở một bên cổ bị đau rút và triệu chứng này kéo dài lâu không hết. Người ta thường coi thường triệu chứng này, vì nghĩ là nếu bị lên cơn đau tim thì phải đau buốt và ngực, vai cùng cánh tay phải bị tê cứng. Riêng đối với phụ nữ họ không thấy đau như vậy.mà lại thấy có những cơn đau nhói và có cảm giác như một luồng co thắt (tightness) chạy dọc theo vai và xuống cổ. Cơn đau có thể lan xuống phẩn bên trái cơ thể dọc theo vai trái và cánh tay trái. Lý do - Các dây thần kinh của mô cơ tim bị tổn thương chuyển những tín hiệu lên xuống doc theo tủy sống tới các mối nối với những dây thần kinh ở cổ và vai. Cách nhận biết - Cái đau toả dài chứ không qui tụ tại môt điểm nhất định. Chườm nước đá , áp nhiệt hay xoa bóp bắp thịt cũng không hết đau. 2- Vấn đề chăn gối (sexual problem). Thông thường những đàn ông không còn khả năng tình dục đểu mắc bệnh động mạch vành (coronary artery disease) mà không hay biết. Theo một thống kê tại Châu Âu, cứ ba người bị bệnh liệt dương (erectile dysfunction-ED)cả tháng hay cả năm thì có hai người được chẩn đoán là tim có vấn đề. Bác sĩ về tim Golsdtein cho biết các nghiên cứu gần đây đều xác nhận là có sự liên hệ giữa ED và bệnh tim mạch, nên tiêu chuần hiện nay là khi một người than phiền bị ED thì các bác sĩ sẽ phải xét nghiệm toàn bộ hệ tim mạch của bệnh nhân. Ông cho biết “ Trong những năm gần đây, chúng tôi đã thâu lượm đủ bẳng chứng cho thấy những bệnh nhân ED có rủi ro cao bị lên cơn đau tim và bị tử vong”. Lý do - Giống như các động mạch quanh tim có thể hẹp lại và cứng ra, các động mach dẫn máu tới dương vật cũng vậy. Vì các động mach ở dương vật nhỏ hơn nên tổn thương xẩy ra sớm hơn nhiều—cả ba hay bốn năm trước khi bệnh tim được phát hiện. Cách nhận biết - Trong trường hợp này, nguyên nhân không có thể được phân biệt thấy liền. Vì vậy khi bạn hay đối tác mất khả năng cương dương (erection) thì cẩn được khám nghiệm xem có phải vì bệnh tim mạch hay không. 3. Chóng mặt, ngất xỉu hay hơi thở ngắn. Theo một cuộc khảo cứu đăng trên tạp chí Circulation: Journal of the American Heart Association thì 40 phần trăm những phụ nữ có hơi thở ngắn (shortness of breath) nhiều ngày trước khi cơn đau tim ( heart attack) xẩy ra. Bạn có thể cảm thấy khó thở, hoặc thấy chóng mặt hay muốn ngất xỉu, giống như khi ở độ cao. Nếu bạn thở dốc khi lên cầu thang, hút bụi, cắt cỏ hoặc làm những công việc khác mà trước đó không thấy như vậy, thì bạn hãy coi chừng. Lý do- Máu truyển qua các động mạch tới tim không đủ nên tim bị thiếu oxigen. Bệnh động mạch vành (CAD)—do sự tạo thành các mảng làm nghẽn động mach dẫn máu tới tim---ngăn cản không cho tim nhận đủ oxigen. Càm giác đột ngột không thể hít thở xâu được (deep breath) thông thường là dấu hiệu đầu tiên của đau thắt ngực (angina), một dạng đau của các cơ tim. Cách nhận biết - Nếu hơi thở ngắn do bệnh phối, thì triệu chứng này thuờng ra chỉ xuất hiện dần dần theo sự tổn thương của mô phổi do hút thuốc hay do các yếu tố môi trường xung quanh. Còn nếu hơi thở ngắn do bệnh tim hay bệnh tim mạch gây ra thì triệu chứng nàysẽ xẩy ra đột ngột hơn nhiều khi bạn ráng sức và sẽ biến mất khi bạn nghỉ ngơi. 4. Ăn không tiêu, buồn nôn hay ợ nóng (heartburn). Hầu hết chúng ta đều nghĩ rằng bất cứ bệnh nào liên quan đến tim chỉ gây đau nơi ngực, nhưng thật ra đau nơi bụng cũng có thể xẩy ra. Đối với một số người,nhất là phụ nữ, cơn đau xẩy ra dưới dạng ợ nóng hay cảm giác no đầy và nghẹt thở. Môt cơn khó tiêu nặng và buồn nôn có thể là dấu hiệu báo trước cơn đau tim hoặc nhồi máu cơ tim, đặc biệt đối với phụ nữ. Một nghiên cứu cho biết , số phụ nữ bị nôn mửa, buồn nôn và ăn khó tiêu nhiều tháng trước khi cơn đau tim xẩy ra nhiều hơn gấp đôi số đàn ông. Lý do - Chất béo lắng đọng trong động mạch có thể giảm hay cắt nguồn cung cấp máu cho tim, tạo nên cảm giác co thắt hay đau hầu hết nơi ngực nhưng đôi khi ở bụng. Tùy theo phẩn tim bị ảnh hưởng , tim sẽ chuyển tín hiệu xuống thẩp hơn trong cơ thể. Buồn nôn và đầu nhẹ lâng (ligh headness) cũng có thể là những dấu hiệu cơn đau tim đang hình thành, nên cẩn gọi bác sĩ ngay nếu các triêu chứng này không dứt. Cách nhận biết - Cũng giống như tất cả các loại đau thắt (angina), đau nơi bụng có liên quan tới bệnh tim trở thành nặng hơn khi bạn ráng sức và giảm bớt khi bạn nghỉ ngơi. Ngoài ra, cơn đau như vậy lập đi lập lại nhiều lần, chứ không kéo dài như trong trường hợp khó tiêu thông thường hay ngộ độc thực phẩm. 5. Đau quai hàm và đau tai. Đau quai hàm không dứt là một trong những triêu chứng có thể có nhiều nguyên nhân, và đôi khi có thể là dấu hiệu cụa bệnh động mach vành (CAD) và của cơn đau tim sắp xẩy đến. Cái đau có thể chạy dọc theo quai hàm cho tới tai và khó có thể xác định là nó từ đâu đến. Đây là một trong những triệu chứng duy nhất mà nhiều bệnh nhân nhận thấy nhiều ngày hay nhiều tuần trước khi lên cơn đau tim. Lý do - Mô tim bị tổn thương gởi các tín hiệu đau lên xuống dọc theo tủy sống tới các mối nối với các dây thẩn kinh tỏa ra từ đốt sống cổ (cervical vertebrae) dọc theo quai hàm lên tới tai. Cách nhận biết - Khác với đau quai hàm do rối loạn khớp thái dượng-hàm dưới, đau răng hay nhiễm khuẩn tai, cái đau này không qui tụ ở một điểmmà tỏa ra theo một đường thẳng và có thể truyền xuống vai và cánh tay--đặc biệt về phía bên trái. Xoabóp, chườm đá hay áp nhiệt cũng không hết đau.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 16, 2015 4:16:01 GMT 9
Ngừa Ung Thư Tùy Thuộc Vào Chính BạnBs Nguyễn Thượng Chánh Phỏng dịch từ tác phẩm “Prévenir le cancer, ça dépend aussi de vous” Pr David Khayat Video Télé matin France 2: Les 4 Vérités: Les recetets du professeur David Khayat pour prévenir le cancer fr.news.yahoo.com/video/video-les-4-v%C3%A9rit%C3%A9s-les-104146034.htmlDavid Khayat là một bác sĩ chuyên khoa về ung thư nhiều kinh nghiệm. Ông là trưởng khoa ung thư tại bệnh viện Pitié –Salpétrière Paris từ năm 1990,đồng thời cũng là giáo sư về ung thư tại Université Pierre et Marie Curie (Paris VI). Ông còn là professeur adjoint tại Centre médical MD Anderson Houston (Texas) David Khayat là bác sĩ riêng của nhiều yếu nhân nặng ký chẳng hạn như vợ chồng cựu TT Chirac, nhà điện ảnh Roger Vadim, nhà điêu khắc César, v.v. * * * Hình ảnh về ngừa ung thư. Prévenir le cancer, ça dépend aussi de vous -Xuất bản tháng 10/2014 7 loại thực phẩm dẫn đầu để phòng chống ung thư (top 7 des bons aliments anti cancer):rf page 79-108 Video: Les top 7 aliments anticancer 1 - Lựu (grenade) 2 - Tỏi (ail) 3 - Sélénium,(cá thon, noix de Brésil, thận bò, lòng đỏ hột gà, cá maquereau, đậu chiche vv…) 4 - Nghệ (curcuma) 5 - Quercétine (nhóm antioxydant Flavonoide có trong trái cây đỏ, pommes, rượu chát đỏ, nho, củ hành, chocolat), 6 - Trà xanh (chất catéchine), 7 - Cải brocoli Các vitamines và chất acid béo oméga 3 *Omega 3, các khảo cứu mới nhứt gần đây cho biết chính sự thặng dư acid béo oméga 3 mới thật sự nguy hiểm- và có thể dự phần trong vấn dề xuất hiện ung thư tiền liệt tuyến (prostate) ở đàn ông… “Dietary supplementation with omega-3 fatty acids is unlikely to prevent cancer” Rf:–Messieurs,méfiez vous des oméga-3, Trang 72- 73. *Vitamine D giúp giảm 15-20% cancer ruột già colon ở phụ nữ nhưng ngược lại làm tăng 20% nguy cơ cancer prostate ở đàn ông.... Trang 61-63 *Vitamine E, (alpha –tocophérol) làm tăng nguy cơ (risque) cancer phổi ở đàn ông và đàn bà tuổi từ 50-75, càng trầm trọng hơn nếu hút thuốc. Có thể tăng nguy cơ cancer prostate ở đàn ông. Cẩn thận với các chất bổ sung supplément vitamine E. -- Trang 56-57 Vitamine A, nguy hiểm, tăng nguy cơ cancer phổi ở người đang hút thuốc hay đã từng hút thuốc trong quá khứ)-Cẩn thận với các supplément vitamine A/béta carotène-...Trang 52-53 Vidéo:Cancer: vitamines et oméga 3 sont-ils vraiment des alliés ? Hình ảnh về ngừa ung thư. Viagra và sex *Viagra (Sildéfanil) tăng nguy cơ cancer da ác tính mélanome malin (Dr Abrar Qureshi, Brown University-7 avril 2014) –Trang 65. *Múa lân (sex)-rất tốt nếu là làm theo kiểu bình thường “nhà truyền giáo” (position du missionnaire avec pénétration)-mặt đối mặt. Xuất tinh éjaculation, giúp giảm nguy cơ cancer tiền liệt tuyến ở đàn ông.Nhưng không hiệu quả nếu làm theo kiểu tự sướng…(Bs David Khayat nói, mỗi lần xuất tinh thì cũng đồng thời giúp tống những chất độc (gây cancer) nhóm polyamines ra khỏi prostate- “Làm thiệt” thì khối lượng tinh dịch phóng ra nhiều hơn so với cách “làm giả” nhờ chị năm., tống ra ra rất ít tinh dịch-Tham khảo video Télé matin France 2) Phía phụ nữ, sex cũng rất tốt để giảm nguy cơ cancer vú - Lý do liên quan đến hormone- Trang 111 Khẩu dâm (oral sex), 69, fellation, cunnilingus…coi chừng bị vướng ung thư ORL (họng, miệng lưỡi…) do virus papillomavirus/HPV (thường hiện diện trong những vùng cấm địa). Loại virus HPV là tác nhân gây cancer cổ tử cung, hậu môn, và chim, sò -Trang 112-113. Hình ảnh về ngừa ung thư. Rượu chát đỏ và café có tốt cho sức khỏe không? *Mỗi ngày nên uống một-hai ly rượu chát đỏ (thứ thiệt 8-16% alcool) tốt cho sức khỏe tim mạch! (một hai ly -- thôi nhé). Rượu chát đỏ có chứa polyphenols mà đặc biệt là chất chống oxyt hóa Resvératrol giúp giảm cholesterol xấu (LDL),tăng cholesterol tốt HDL lên và bảo vệ tế bào khỏi bị cancer. Vin rouge, uống “vừa phải” (quantité modérée) thì không có nguy cơ gây cancer. (Le vin en quantité modérée, nest pas cancérigène).Trang 116-119 www.jamiesonvitamins.com/fr/node/961*Uống 4 tách cà phê /một ngày tốt cho sức khỏe, ngừa cancer gan,vú, cancer ORL(tai, mũi, họng) và tiền liệt tuyến (prostate) ở quý ông. Tuy nói vậy, nhưng hình như cancer phổi lại tăng ở đàn ông, có lẽ tại vì các ông vừa uống café, vừa hút thuốc và lại còn làm luôn cả rượu mạnh. Trang 120-127 Cà phê và sức khỏe vietbao.com/a214772/noi-troi-theo-van-nuoc-mot-thoi-duoc-si-ban-ca-phe-via-heCancer: Nên ăn (à privy légier)- Nên tránh ăn (à éviter) Quý bà *Cancer ORL: nhóm cancer tai mũi họng... Hình ảnh về ngừa ung thư. 20 lời khuyên dành cho quý bà (Trang 225-227) - Ngưng hút thuốc lá, kể luôn thuốc lào chicha (shisha). - 30 phút thể dục/ngày. - Kiểm soát cân nặng, ăn uống cẩn thận. - Nên dành ưu tiên cho 7 loại thực phẩm phòng chống cancer (lựu, tỏi, sélénium, nghệ, quercétine, trà xanh và cải brocoli ) - Uống trà xanh mỗi ngày. - Coi chừng arsenic trong nước uống và trong thịt thà biến chế công nghiệp. - Thử test vitamin D để phòng ngừa trường hợp bị thiếu.Uống thêm sữa và các ăn sản phẩm làm từ sữa. - Đừng quên rượu chát đỏ/tối đa 2 ly một ngày-Không được vượt quá 20g éthanol/ngày. - Tránh ăn đồ nướng trên lửa hay chiên trong chảo dầu sôi. - Múa lân (sex) làm càng nhiều càng tốt (fairelamour autant que possible). - Tránh dùng rau quả bị phun xịt hóa chất, nông dược. - Xài mỹ phẩm hữu cơ (bio) không có chứa chất bảo quản parabènes - Hạn chế việc sử dụng các loại hóa chất chùi rửa, phun xịt… trong nhà.Nên xài loại hữu cơ bio. - Không nên lạm dụng cell phone (cancer não?) - Coi chừng mặt trời- phơi nắng tối thiểu mà thôi, chỉ xài crème không có chứa oxybenzone và rétinyl palmitate. Tránh các phòng tắm nắng nhân tạo cabine de bronzage. - Cẩn thận khi dùng các loại thuốc thay thế mãn kinh (traitements substitutifs de la ménopause) - Tránh stress, hãy có tinh thần tích cực. - Kiểm soát thường xuyên nốt ruồi. - Từ 50 tuổi nên ghi tên vào các programme xét nghiệm cancer cổ tử cung, cancer vú, và ruột. (chuyện bên Tây, bên Anh bên Mỹ …mà) - Nếu kinh kỳ bất thường, nên đi khám bác sĩ chuyên môn về phụ nữ gynécologue. Hình ảnh về ngừa ung thư. Shampoo không có Parabens 20 lời khuyên dành cho quý ông.(trang 228-230) - Ngưng thuốc lá và thuốc lào chicha (shisha) - Thể dục, vận động 30 phút/ngày - Kiểm soát thường xuyên cân nặng (coi chừng mập) - Nên ưu tiên ăn 7 loại thực phẩm: lựu, tỏi, sélénium, nghệ, quercétine, trà xanh, cải brocoli - Uống trà xanh - Sau 50 tuổi không nên lạm dụng sữa và sản phẩm lên men (fromages, yaourts)-sợ bị cancer prostate ! www.extenso.org/article/le-lait-cause-le-cancer-de-la-prostate/Hình ảnh về ngừa ung thư. Ý kiến nầy bị tài phiệt và kỹ nghệ sữa phản công dữ dội. - Coi chừng arsenic trong nước uống, nitrite và nitrates trong nước và trong thịt biến chế charcuteries. - Không cần phải kiêng rượu chát đỏ, nhưng giới hạn 2-3 ly một ngày. - Không nên lạm dụng rượu mạnh (pas dexcès dalcools forts)-uống chút chút cho vui thì ok. - Tránh thực phẩm nướng trên lửa grillades và chiên trong chảo dầu sôi sùn sụt. ***-(Pas de supplémentation):Không uống thêm các loại supplément vitamine A, vitamine D và vitamine E - Múa lân tối đa (nếu có thể…)-Tránh Viagra nếu có nước da màu Hình ảnh về ngừa ung thư. (sợ bị cancer da mélanome)nâu đỏ (roux), trắng, mắt trong hay trong gia đình đã có người bị ung thư da ác tính mélanome rồi.( Faites lamour autant que possible !) - Xài mỹ phẩm không có chứa chất bảo quản parabènes. - Ăn rau quả loại không có bị phun xịt hóa chất. - Hạn chế việc sử dụng các loại hóa chất chùi rửa bếp núc, phun xịt nhà cửa cho thơm tho. - Không lạm dụng cell phone - Cẩn thận với nắng mặt trời - Tránh bị stress, hãy giữ tinh thần lạc quan tích cực. - Kiểm soát thường xuyên tình trạng nốt ruồi của mình.(sợ bị cancer da) - Trên 50 tuổi, nên ghi tên vào chương trình xét nghiệm cancer ruột già colorectal. Hình ảnh về ngừa ung thư. Nguồn dưỡng chất tìm thấy ở đâu? **Oméga 3 (acide alpha-linolénique): (Trang 75) Uống supplement omega 3 /nguy hiểm- Thặng dư omega 3 trong máu là mối nguy cơ gây cancer prostate ở đàn ông! jnci.oxfordjournals.org/content/105/15/1132Khảo cứu 2013-: Thặng dư omega 3 gây ung thư prostate ở đàn ông! **Vitamine A/rétinol: (Trang 50) **Bêta-carotène…(Trang 50) **Vitamine E... …(Trang 54) **Vitamine D...(Trang 59) **Calcium (Trang 59) **Sélénium …(Trang 89) **Quercétine...(Trang 99) **Vitamine B6… (Trang 115) **Méthionine…(Trang 115) Kết luận: “Tự mình thắp đuốc lên mà đi” Dùng thức ăn đa dạng (diversité), và đừng ăn quá thường xuyên một loại nào đó để tránh hiện tượng dồn cộng bioaccumulation chất POP (polluants organiques persistants) độc hại và có thể gây cancer./. Tham khảo
- Nguyễn Thượng Chánh
Khi bác sĩ bị ung thư não vietbao.com/p117a235495/khi-bac-si-bi-ung-thu-nao
Đối Mặt Với Bệnh Ung Thư Còn Nước Còn Tát vietbao.com/a218465/doi-mat-voi-benh-ung-thu-con-nuoc-con-tat
Mãng cầu Xiêm có trị ung thư được không? vietbao.com/p117a218164/mang-cau-xiem-co-tri-ung-thu-duoc-khong
Vidéo: Dr David Khayat-Existe-t-il un régime universel anti-cancer ?
- Video Dr David Khayat. The Real Anticancer Diet
- Video:Dr David Khayat Prévenir le cancer, ça dépend aussi de vous
Montreal 2015
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 16, 2015 4:22:06 GMT 9
Khi Bác Sĩ Bị Ung Thư NãoBs Nguyễn Thượng Chánh Phỏng theo Tác phẩm “Anticancer: A new way of life” by David Servan-Schreiber, M.D, Ph.D Trên một triệu quyển đã được xuất bản qua 35 ngôn ngữ và bán tại gần 50 quốc gia. David Servan Schreiber (21/4/1961-24/7/ 2011) là Bs, chuyên khoa thần kinh học, giáo sư tại đại học y khoa Pittsburgh, PA (Hoa Kỳ), và đại học Y khoa Claude Bernard Lyon 1 (Pháp). Servan-Schreiber was born in Neuilly-sur-Seine, Hauts-de-Seine, he was co-founder and then director of the Centre for Integrative Medicine at the University of Pittsburgh Medical Center.. He was also a founding board member of Environmental Health Trust and a leader in efforts to promote safer cell phone use. In 2002 he was awarded the Pennsylvania Psychiatric Society Presidential Award for Outstanding Career in Psychiatry. He is the author of Healing Without Freud or Prozac (translated in 29 languages, 1.3 million copies sold), and Anticancer: A New Way of Life (translated in 35 languages, New York Times best-seller, 1 million copies in print) in which he discloses his own diagnosis with a malignant brain tumor at the age of 31 and the treatment program that he put together to help himself beyond his surgery, chemotherapy, and radiotherapy. He was also a regular columnist for Ode magazine and other publications (Wikipedia) * * * Để chống ung thư... Số phận nghiệt ngã Năm 1992 bác sĩ Schreiber (31 tuổi) bị cancer não ác tính. Các bác sĩ chuyên khoa về ung thư thời đó tiên đoán Bs Schreiber chỉ còn sống được tối đa không quá 6 năm! Ông được chữa trị gồm giải phẫu, hóa trị và xạ trị... Các bác sĩ điều trị cho biết là ông muốn ăn gì thì cứ ăn, không cần phải kiêng cữ nữa vì nó chẳng làm thay đổi được gì hết! Nhưng, bệnh nhân Schreiber lại nghĩ khác đi...Ông quyết định phải tự mình nắm lấy vận mạng của mình. Ông tự tìm cách giúp cơ thể (terrain) mạnh lên để chống lại bệnh ung thư. Và đã sau hơn 18 năm chống chỏi, bịnh ung thư của ông không thấy xuất hiện trở lại! Phải biết chọn lựa loại thực phẩm Thực phẩm có thể là những chất có khuynh hướng tạo ung thư hoặc là những chất giúp chúng ta ngăn ngừa được căn bệnh quái ác nầy. Vậy, phải biết chọn những loại thực phẩm như rau quả chứa nhiều chất chống oxy hóa. Bác sĩ David Servan-Schreiber, tác giả của nhiều quyển sách giá trị về dinh dưỡng và cancer,trong số có tác phẩm: Chống cancer, một lối sống mới (Anticancer: A new way of life) xuất bản 2008, nói lên tầm quan trọng của rau quả trong việc phòng trị ung thư. Bs S.Schreiber đề cao giá trị của rau quả trong việc phòng chống cancer tương tợ như hướng nhìn của Bs Richard Béliveau (Canada) trong tác phẩm “Ngừa ung thư bằng rau quả” (Les aliments contre le cancer), xuất bản 2005. Để chống ung thư... Hy vọng tràn đầy Nhờ vào sự kiện ông ta đã thay đổi lối sống, đã quan tâm đến sự dinh dưỡng trong lành và củng cố tinh thần giữ được luôn luôn bền vững! Người gõ có dịp xem qua cuộc phỏng vấn bác sĩ Servan-Schreiber trên đài TV Radio Canada. Ông đã khiêm nhường không dám sử dụng danh từ hết bệnh hay đã được chữa khỏi, mà chỉ dùng danh từ bệnh ngưng lại (rémission) trong thời gian dài (18 năm) ngoài sự mong đợi của mình. Cuộc phỏng vấn nầy được thu hình một thời gian lúc bệnh ông vừa tái phát trở lại. Bs Shreiber khuyên bệnh nhân cancer phải giữ lối trị liệu của bệnh viện và của bác sĩ chuyên khoa về ung thư, nhưng đồng thời phải kết hợp với lối trị liệu song hành (médecine alternative, médecine parallèle) gồm thuốc thiên nhiên, cải thiện dinh dưỡng và ổn định tinh thần nhằm tạo điều kiện cho cơ thể đủ sức chống lại căn bệnh ung thư. Đó là lối tiếp cận của y học tổng hợp hay y học hòa nhập (integrative medicine), nói nôm na ra là vừa trị theo lối Tây và đồng thời kết hợp với trị theo lối ngoại khoa, thiên nhiên, tâm lý, tâm linh, cần nguyện, thiền định, xã hội, v.v... Integrative medicine aims to enhance cancer care by creating a comprehensive, integrative treatment plan that addresses all dimensions of care – physical, psychological-spiritual, and social. It makes use of all appropriate therapeutic approaches, providers, and disciplines to improve quality of life, help to manage symptoms, and achieve the best possible treatment results. -/ Từ bỏ các thói quen xấu (bỏ thuốc, bỏ rượu, v.v…) và dùng những thức ăn trong lành giàu chất chống oxy hóa và chất chống cancer; -/ Dùng nhiều rau quả giàu chất chống oxy hóa chẳng hạn như: Trà xanh, Nghệ (curcuma)… -/ Tập thể dục, thiền; -/ Tránh đừng để bị stress; -/ Tránh đường có trong thức ăn hay thức uống; -/ Tránh mỡ dầu vì chúng có thể chứa nhiều chất acid béo oméga-6, nhưng lại quá ít omega 3 Được biết omega-6 có khuynh hướng tạo viêm sưng (inflammation) và tạo điều kiện thuân lợi cho tế bào cancer dễ phát triển; -/ Về vấn đề rau quả hữu cơ (organic, bio) thì ông khẳng định là không cần thiết cho lắm. Ông nêu thí dụ là: thà ăn cải brocoli trồng theo lối thường có xịt thuốc trừ sâu, có bón phân hóa học còn hơn là không ăn gì hết...Lý do brocoli có chứa các chất chống cancer (anticancer) rất cần thiết. Video: Bác sĩ Servan-Schreiber kể chuyện ông bị cancer và lúc được điều trị. Dr Servan-Schreiber's remarkable story as a cancer survivor and a scientist: www.anticancerbook.com/Nhưng rồi bác sĩ Servan-Schreiber cũng phải “ra đi” như mọi người Sanh-lão-bệnh-tử, đó là quy luật chung cho mọi người như Đức Phật đã dạy. Ngày 24/07/2011, ông đã qua đời sau một thời gian bệnh cũ tái phát rechute lại từ năm 2010. Ông biết trước nên đã tâm sự cùng độc giả:“Chết là một quy trình của sự sống, ai cũng phải đi qua đó hết. Điều nầy làm cho mình rất an tâm. Hãy lợi dụng thời gian còn lại để sống và làm những gì quan trọng ngay từ bây giờ.” «Khi bệnh ung thư tái phát lại năm 2010, bác sĩ Servan-Schreiber ý thức rằng đây là giai đoạn cuối của cuộc đời mình, nhưng ông vẫn giữ vững niềm tin. Tháng 6/2011, ông đã gởi gấm những suy tư vô cùng cảm động qua tác phẩm On peut se dire au revoir plusieurs fois (Người ta có thể nói lời giả biệt nhiều lần): “Trước sau gì nó cũng trở lại. Tôi biết pronostic (tiên lượng) bệnh trạng của tôi. Tôi có thể kéo dài ngày đáo hạn, gần như quên hẳn nó đi, nhưng lần nầy là trận Big One như người dân Cali thường lo sợ đến trận động đất vô cùng khốc liệt sắp tới… Sự tái phát đã làm tôi phải tự vấn lại đời tôi, nếu tôi bị bệnh trở lại trong khi tôi ăn, tôi vận động, tôi thở và tôi sống theo nguyên tắc chống ung thư, vậy thì còn gì là Anticancer" Quyển sách nầy là dịp để tôi nói lời từ giả đến những người đã ưu ái những tác phẩm trước của tôi, hoặc những ai đã nghe theo tôi. Cho dù chuyện gì xảy ra, tôi có thể nói rằng đây không phải là lời giả biệt cuối cùng». ON PEUT SE DIRE AU REVOIR PLUSIEURS FOIS David SERVAN-SCHREIBER «Tôt ou tard, il allait revenir. Je connaissais les pronostics de mon cancer. Je pouvais retarder l'échéance, gagner des années, presque l'oublier, mais cette fois c'était "the Big One", comme disent les Californiens qui redoutent un tremblement de terre dévastateur. Cette rechute m'a amené à me poser les questions les plus graves, peut-être les plus importantes, de ma vie: si je suis rattrapé par la maladie alors que je pense, mange, bouge, respire et vis anticancer, alors que reste-t-il d'Anticancer ? C'est pour répondre à cette question que j'écris aujourd'hui. Ce livre est aussi l'occasion, pour moi, de dire au revoir à tous ceux qui ont apprécié mes livres précédents ou qui sont venus m'écouter. Quoiqu'il arrive, j'ai le ferme espoir que cet au revoir ne sera pas le dernier. On peut se dire au revoir plusieurs fois.» Một tấm gương can đảm và đầy nghị lực. Ông đã thành công trong việc đẩy lùi được cancer của chính bản thân mình trong một khoảng thời gian khá dài, và ông đã sống thêm được tới 20 năm! Có một số bác sĩ phê bình cho là việc làm và cách suy nghĩ của bác sĩ Servan-Shreiber là…lang băm. Nhưng dù sao đi nữa, thực tế cho thấy bác sĩ Servan-Schreiber đã đem đến cho khoa học một cách nhìn mới: rộng rãi hơn, trọn vẹn hơn và đầy tình người hơn. Ông là niềm hy vọng của biết bao người chẳng may vướng phải căn bệnh nan y nầy. Hầu hết đa số 90% các phản hồi trong Internet đều ca ngợi công trình và sự can đảm của bác sĩ Servan-Schreiber. Tháng 6/2011, nhà sư Matthieu Ricard có dịp ghé thăm bạn là Dr David Servan-Schreider tại Neuilly, Pháp… Cả hai người đều là nhà khoa học và họ chia sẻ quan điểm chung là thiền quán rất có ích lợi cho thân tâm. Bác sĩ Servan-Schreiber tâm sự là dù trong bất cứ tình huống nào đi nữa, thì chúng ta cũng phải cố gắng bám víu và đeo đuổi tới cùng (il faut saccrocher jusquau bout) Được hỏi về cái chết của chính mình, Dr Servan-Schreiber trả lời là ông rất bình thản (rassurant). Theo nhà sư Matthieu Ricard, thì không có gì bất công trong cái chết, nó sẽ xảy ra một lúc nào đó trong đời. Và chỉ có phẩm cách chúng ta sống đến phút cuối cùng mới đáng kể mà thôi... Để chống ung thư... Có người bắt chước theo để mong làm giàu? Nhiều vị bác sĩ khác cũng nhảy ra viết sách về dinh dưỡng và cancer để được nổi tiếng và để …hốt bạc. Đó là trường hợp của bác sĩ David Khayat. Vị bác sĩ nầy là một nhà chuyên khoa về ung thư, làm việc tại một bệnh viện Paris. Ông ta là bác sĩ riêng của nhiều yếu nhân nặng ký chẳng hạn như vợ chồng cựu TT Chirac, nhà điện ảnh Roger Vadim, nhà điêu khắc César, v.v. Since April 2004, he has served as the President of the French Cancer National Institute. Khayat serves as a professor emiritus for a number of educational institutes worldwide, including the Suzhou Institute for oncology, China, and Matsumoto University, Japan. He is also Adjunct Professor of Medicine of the Department of Breast Diseases at the MD Anderson Cancer Center, University of Texas, USA. Ngày7/05/2011, bác sĩ David Khayat tung ra tác phẩm “Le Vrai Régime Anticancer”(The Real Anticancer diet), và mới đây, tháng 10/ 2014 ông tung ra quyển Prévenir le cancer, ça dépend aussi de vous,... Cũng là xào nấu lại những gì của hai bác sĩ Richard Béliveau và David Servan-Schreiber đã viết từ trước rồi mà thôi! VIDÉO:David Khayat dans les 4 vérités Télématin - Journée mondiale contre le cancer (4 février 2013) Trong tác phẩm:”Ngừa ung thư, tùy thuộc vào chính bạn”, Bs Khayat có nêu ra 7 loại thực phẩm dẫn đầu để phòng chống ung thư (top 7 des bons aliments anti cancer):rf page 79-108. - Lựu (grenade) - Tỏi, - Sélénium,(cá thon, noix de Brésil, thận bò, lòng đỏ hột gà, cá maquereau, đậu chiche vv…) - Nghệ (curcuma) - Quercétine (nhóm antioxydant Flavonoide có trong trái cây đỏ, pommes, rượu chát đỏ, nho, củ hành, chocolat), - Trà xanh (chất catéchine), - Cải brocoli. Củ nghệ và trái lựu (photo NTC) Cải brocoli (photo NTC) Rượu tỏi giúp tăng sức miễn dịch (Photo NTC) Tương đồng và dị biệt giữa hai tác phẩm Anticancer (bác sĩ David Servan- Schreiber) và Le vrai régime anticancer (bác sĩ David Khayat) *Cả hai đều đồng ý: 1) Dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc phòng chống cancer: Rau quả tốt cho sức khỏe, nhưng không phải rau quả nào cũng đều giống nhau hết; 2) Chất curcumin của nghệ, chất génistéine của đậu nành, polyphénols của trà xanh, rượu chát đỏ, các chất trong trái Goji (câu kỷ tử, Lycium barbarum, wolfberry), các composés soufrés của hành và tỏi; {Goji: Chứa nhiều vitamins, bêta carotène, C, B1, B2, trypptophane và nhiều khoáng chất như sélénium, sắt, calci...Thị trường có bán đủ loại sản phẩm có chứa Goji. Giá cả cũng rất khác biệt nhau… Ăn trái, ngâm rượu, phơi khô, nấu trà…Dân Tây Tạng gọi là happy berry. 3)Tập thể dục tốt cho sức khỏe; 4) Ô nhiễm có hại cho rau quả, nguồn nước, cá tôm và các loại thủy sản nằm ở cuối dây chuyền thực phẩm; 5) Các loại tạp phẩm (junk foods) như chip, v.v… có chứa chất gây ung thư, đừng bao giờ đem nhiệt độ lúc chiên lên đến điểm sôi bốc khói; 6) Toàn cầu hóa tập tục ăn uống theo kiểu Mỹ là một thảm họa cho sức khỏe. *Cả hai bất đồng quan điểm: - Oméga-3; - Vitamin D; - Vai trò của đường; - Thịt đỏ và cancer ruột già. *Điểm đặc biệt riêng của David Khayat - Tránh dùng jus dorange đối với một số người vì chất psoralènes trong cam là nguyên nhân gây cancer mélanome (một loại cancer da rất độc). - Nên dùng chất quercétine trong vỏ táo pomme và củ hành tây. Ông ta nhấn mạnh là nấu ăn bằng cái chảo (wok) rất nguy hiểm. Có lẽ ông ám chỉ dùng chảo để chiên (nhiệt độ cao, nhiều mỡ dầu sôi sùn sụt chăng"). *Điểm đặc biệt riêng của David Servan-Schreiber - Nấm và rong (tảo) giúp kích thích hệ miễn dịch. - Nên phối hợp nhiều loại thực phẩm với nhau. - Cancer là do sự mất quân bình trong cơ thể, giữa hệ miễn dịch và các tác nhân gây ung thư… - Nhân tố nguy cơ: kỹ nghệ thực phẩm. - Nên tập thể dục, thiền hay tìm sự quân bình cho thân tâm… *Dr Servan-Schreider nói gì về quyển “Le Vrai Régime Anticancer” của Dr David Khayat “Khi hai nhà khoa học nghiên cứu cùng một đề tài thì rất hiếm thấy có sự thống nhứt ý kiến 100%. Nếu Dr Khayat có bàn luận về một vài điểm nào đó trong tác phẩm Anticancer của tôi, đó là điều không làm ai ngạc nhiên hết. Đây là sự mong đợi từ các nhà khoa học thí dụ như phải biết lý luận một cách khắt khe về những đề tài còn mù mờ mà trong đó các ý niệm “đúng” và “sai” đang biến đổi. Khi dấn thân trong nghề nầy, chúng tôi ý thức rằng mình phải đầu tư công sức vào việc xây dựng và bảo vệ ý kiến của mình, và đôi khi phải chấp nhận sự chối bỏ bởi những khám phá mới. Bàn luận và diễn giải là điều kiện làm tiến triển khảo cứu. Tuy nhiên, khi xuất bản sách cho đại chúng, chúng tôi cần phải có thêm một trách nhiệm nữa. Chính trong tinh thần trách nhiệm nầy mà tôi lấy làm tiếc rằng Dr David Khayat, một cách mặc nhiên đã nhắm vào công trình của tôi làm mục tiêu, khi ông ta đề tựa tác phẩm của ông là Le Vrai Régime Anticancer. Tôi nghĩ đến phản ứng của bệnh nhân lúc họ đang tìm mọi cách để giúp cơ thể họ chống lại bệnh tật, đến người trong gia đình đang chứng kiến thân nhân họ đang trong cảnh đau đớn ngặt nghèo. Họ đã quyết định thay đổi lối dinh dưỡng và nếp sống với hy vọng là tăng cơ may sống còn và có lại được một sức khỏe bình thường. Họ đã có một sự chọn lựa thật can đảm và rất khó khăn nhưng thình lình có người nào đó bảo họ: không đúng đâu, sai rồi. Thật là một đòn làm cho họ choáng voáng.” Để chống ung thư... David Khayat & David Servan Schreiber:Ai đúng ai sai đây? Trên diễn đàn có rất nhiều phê bình tiêu cực về Bs David Khayat! ***DAVID KHAYAT & DAVID SERVAN SCHREIBER: PEUT-ON AVOIR CONFIANCE DANS LEURS LIVRES « ANTI-CANCER » ? (ENTRETIEN ORIGINAL) www.agrobiosciences.org/article.php3?id_article=2834La triste fin du Pr Khayat, cancérologue www.cadenemtc.com/articles/item/90-la-triste-fin-du-pr-khayat-cancerologueCòn ngừa ung thư theo Les Aliments contre le cancer của Bs Richard Béliveau thì sao? R. Béliveau-Ngừa ung thư bằng rau quả vietbao.com/a195728/ngua-ung-thu-bang-rau-quaRichard Béliveau, une sommité dans le domaine du cancer, est titulaire de la Chaire en prévention et traitement du cancer de lUniversité du Québec à Montréal, ou il est également professeur de biochimie. Il est professeur à la faculté de médecine de lUniversité de Montréal (département de chirurgie et département de physiologie) et le directeur du Laboratoire de médecine moléculaire au service dhémato-oncologie du Centre de Cancérologie Charles Bruneau de lHôpital Sainte -Justine. Một vài loại thực vật đã được khoa học xác nhận là có tính năng giúp chúng ta ngừa được một số cancer. Chẳng hạn như nhóm cải bắp (crucifère) có khả năng ngăn chặn việc tạo ra hormones œstrogènes nhờ đó có thể làm giảm nguy cơ xuất hiện cancer vú ở phụ nữ... Cà Tomate có chất chống oxy hóa lycopène giúp ngừa cancer tiền liệt tuyến ở đàn ông lớn tuổi... Củ nghệ và chocolat đen cũng có chứa những chất chống oxy hóa giúp ngừa sự xuất hiện của vài loại cancer… Dân Nhật Bản sống trên đảo Okinawa có tuổi thọ cao nhất thế giới có lẽ nhờ họ sống trong một môi trường trong lành, và đồng thời họ cũng áp dụng lối dinh dưỡng tốt gồm có nhiều rau cải tươi, rong biển và cá. Nguyễn Thượng Chánh Nghịch lý Okinawa, món ăn là vị thuốc vietbao.com/a230068/nghich-ly-okinawa-thuc-an-la-vi-thuoc- Nghệ (curcuma): chất kháng cancer curcumine, ngừa cancer ruột già, bao tử, gan, da… - Bleuets (blueberries): delphinidine - Fraises (strawberries): acide ellagique - Trà xanh (green tea): epigallocatéchine-3-gallate, trà xanh chứa nhiều chất catéchines hơn trà đen... - Đậu nành (soja, soybean): génistéine, ngừa cancer vú ở đàn bà và cancer tiền liệt tuyến ở đàn ông. Thực phẩm làm từ hạt đậu nành thí dụ như đậu nành rang, tàu hũ, miso, sữa đậu nành, vân vân tự làm lấy ở nhà tốt hơn các viên suppléments soja hay sữa đậu nành bán trong siêu thị. - Tomates: lycopène, ngừa cancer tiền liệt tuyến. Pâte de tomate chứa nhiều lycopène hơn tomate sống. - Nho (grapes): resvératrol, rượu chát đỏ làm từ nho cũng rất tốt nhưng chỉ nên uống ít và điều độ thôi vì dù sao nó cũng vẫn là rượu. - Bưởi (grapefruits): limonène - Tỏi (garlic): diallyl-sulfide - Cải bắp (chou, cabbages): indole-3-carbinol - Broccoli: sulphorahane - Chocolats đen: có chứa 70% cacao, cung cấp một số lượng polyphénols đáng kể*, nên được xem rất có ích để ngừa các bệnh mãn tính như cancer và các bệnh thuộc về tim mạch. Rau quả đa dạng (Photo NTC) Cải bắp cabbage (photo NTC) Mt St Grégoire, Québec 2010 (photo NTC) Các thức ăn cần nên tránh ăn thường xuyên - Các loại thịt ngâm muối (mariné) và các loại rau quả ngâm giấm; - Thịt, cá hong khói (fumé); - Thức ăn chiên, nướng khét ở nhiệt độ cao; - Thức ăn biến chế theo lối công nghiệp thí dụ như đồ conserve, thịt nguội charcuterie, jambon, saucisse, lạp xưỡng, vân vân; - Rượu: hạn chế. Ngừa ung thư bằng cách nào? + bỏ thuốc lá (cancer phổi, miệng, thanh quản…) + giảm bớt năng lượng calories ăn vào, giảm bớt các loại fast food và các loại nước ngọt có gaz. và không ăn thức ăn quá nóng! + giảm bớt thịt đỏ như thịt bò, thịt heo và thịt dê cừu (cancer ruột già), nên ăn thịt trắng như thịt gà, thịt nạc hay cá (cá có chứa nhiều chất acid béo oméga-3 rất tốt cho sức khỏe) + thay nguồn protéine từ thịt bằng các loại đậu và tàu hũ, không cần phải nhất thiết ăn thịt mỗi ngày! + giảm bớt việc ăn những loại sản phẩm có chứa những hóa chất bảo quản có tiềm năng gây cancer chẳng hạn như thịt bacon, saucisse, jambon, hot dog, lạp xưỡng, thịt hong khói (smoked meat), vân vân, vì các sản phẩm nầy đều có chứa nhiều nitrites và lúc chiên hay nướng chúng sẽ chuyển ra thành chất nitrosamines là chất có thể gây ra cancer! + tránh dùng những món ăn đã bị khét. Khi nướng thịt trên lửa ngọn, mỡ chảy ra và bốc cháy thành những chất hydrocarbures aromatiques bám vào miếng thịt, đây là chất gây cancer. Khi nấu thịt ở nhiệt độ cao cũng sẽ tạo ra chất amines hétérocycliques cũng là chất gây ra cancer! + tránh ăn những sản phẩm có quá nhiều muối! + ăn nhiều rau quả tươi (đủ màu sắc) để có nhiều chất chống oxy-hóa và vitamines và nên ăn một thức ăn đa dạng! + vận động, thể dục, thể thao đều đặn! Vận động, chìa khóa của sức khỏe vietbao.com/a231717/qua-dau-nam-van-dong-la-suc-khoeNhững tin đồn bất lợi về rau quả = Rau quả nhiễm hóa chất, nông dược (pesticides) có thể gây cancer? Sai - Các xét nghiệm tại Canada cho biết, rau quả nếu có bị nhiễm hóa chất thì cũng chỉ nhiễm ở mức độ rất thấp. Trước khi ăn nên rữa sạch, gọt bỏ vỏ, hay gỡ bỏ các lớp bên ngoài như trường hợp cải bắp. Lợi ích của việc dùng rau cải vẫn trội hơn là vấn đề sợ rau cải bị nhiễm hóa chất mà không ăn! = Rau quả xuất phát từ kỹ thuật làm thay đổi gène (GMO) nên ăn không tốt? Sai - Đa số rau quả mà chúng ta dùng mỗi ngày đều là sản phẩm standard, và được trồng một cách bình thường mà thôi. GMO thật ra là một vấn đề thuộc về sinh thái (biodiversité)! = Chỉ có rau quả Bio, Organic, Hữu cơ mới tốt cho sức khỏe? Sai - Tất cả các khảo cứu từ trước tới nay đều được thực hiện với các loại rau quả bình thường và đã nói lên lợi ích của chúng đối với sức khỏe. Được biết rau quả Bio hay Organic là rau quả trồng theo lối thiên nhiên và không sử dụng hóa chất, và nhãn hiệu Bio không phải là điều tối cần thiết trong việc tận dụng những lợi ích của rau quả! Kết luận Hằng ngày, chúng ta nên sử dụng nhiều loại rau quả tươi và đa dạng! Đó là bước đầu để chúng ta có được một sức khỏe tốt, đồng thời cũng có thể giúp giảm thiểu nguy cơ xuất hiện của một vài loại ung thư nào đó. Ngày nay, một chế độ dinh dưỡng nhiều thịt và nhiều mỡ dầu có thể là đầu mối của nhiều vấn đề đối với sức khỏe. Và sau cùng là không quên thể dục và thiền! Thức ăn là liều thuốc! (Que ton aliment soit ta seule médecine!) Hippocrate 460-377 av. JC Tham khảo:
Vidéo: Santé par le plaisir de bien manger, Dr Richard Béliveau
-/ Video Dr David Servan-Schreiber. Alimentation contre le cancer videos.doctissimo.fr/sante/cancers/David-Servan-Schreiber-l-alimentation-qui-protege-du-cancer.html
- Video Dr David Khayat. The Real Anticancer Diet
Video:Dr David Khayat -Prévenir le cancer ca dépend aussi de vous
-/ Le blog de David Servan-Schreiber www.24heures.ch/actu/monde/david-servan-schreiber-accrocher-bout-2011-06-18
-/ Le Nouvel Observateur 18/6/2011. Rencontre entre Mathieu Ricard et David Servan Schreiber spinescent.blogspot.com/2011/06/rencontre-entre-matthieu-ricard-et.html
Montreal, 2015
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 19, 2016 8:46:43 GMT 9
Loạt bài cấp cứu VienDongDaily.Com BS Nguyễn Thị Nhuận Cấp cứu (First Aid) là ưu tiên hàng đầu của vấn đề sức khỏe. Chúng ta nên biết về những kỹ thuật cấp cứu để phòng khi cần đến.1.Sốc phản vệ (Anaphylactic shock) Sốc phản vệ không phải là hiếm gặp, nguyên nhân thường là do dị ứng. Sốc phản vệ là một phản ứng dị ứng đe dọa tính mạng, gây sốc, giảm huyết áp đột ngột và khó thở. Ở những người bị dị ứng với một chất nào đó, sốc phản vệ có thể xảy ra vài phút sau khi tiếp xúc với chất này. Trong một số trường hợp, có thể phản ứng xảy ra chậm hoặc sốc phản vệ có thể xảy ra mà không có một nguyên nhân rõ ràng. Triệu chứng sốc phản vệ: - Phản ứng ở da, gồm có nổi mẩn, ngứa, da ửng đỏ hoặc tái xanh - Sưng mặt, mắt, môi hoặc họng - Đường hô hấp bị co thắt lại, gây thở khò khè và khó thở - Mạch yếu và nhanh - Buồn nôn, nôn mửa hoặc tiêu chảy - Chóng mặt, ngất xỉu hoặc bất tỉnh Một số tác nhân gây sốc phản vệ: - Thuốc - Thực phẩm như đậu phộng, hạt, cá và sò hến - Bị côn trùng như ong, ong vàng, ong bắp cày, ong bắp cày và kiến lửa... cắn. Sau đây là những đáp ứng cấp cứu khi thấy người có triệu chứng sốc phản vệ - Ngay lập tức gọi 911 hoặc số khẩn cấp y tế địa phương. - Hỏi nạn nhân xem họ có mang theo người một ống chích có chứa epinephrine (EpiPen, Auvi- Q,…) để điều trị cơn dị ứng không. - Nếu nạn nhân nói họ cần ống chích đó, hỏi xem bạn nên giúp chích thuốc không. Thường chỉ cần nhấn ống chích tự động này vào đùi họ. - Cho nạn nhân nằm ngửa. - Nới lỏng quần áo và đắp chăn cho nạn nhân. Đừng cho họ uống bất cứ thứ gì. - Nếu họ đang nôn hoặc chảy máu từ miệng, cho họ nằm nghiêng để tránh bị nghẹn. - Nếu không có dấu hiệu của hơi thở, ho hoặc cử động, bắt đầu cấp cứu CPR. Nhấn ngực liên tục - khoảng 100 lần mỗi phút - cho đến khi xe cứu thương tới. - Cần tiếp tục điều trị khẩn cấp, ngay cả khi các triệu chứng nguy hiểm đã qua. Sau một cơn sốc phản vệ, triệu chứng có thể tái phát. Nạn nhân cần được quan sát trong bệnh viện ít nhất vài giờ. Nếu bạn đang ở gần một người có dấu hiệu và triệu chứng của sốc phản vệ, không nên chờ xem các triệu chứng có bớt không. Tìm cách điều trị cấp cứu ngay. Trong trường hợp nặng, sốc phản vệ không được điều trị có thể gây tử vong trong vòng nửa giờ. Một viên thuốc kháng histamine như diphenhydramine (Benadryl), thường không đủ để điều trị sốc phản vệ. Các loại thuốc này có thể giúp giảm các triệu chứng dị ứng, nhưng làm việc quá chậm chạp trong một phản ứng nặng. Nếu bạn đã từng bị bất kỳ loại phản ứng dị ứng nghiêm trọng nào trong quá khứ, hãy hỏi bác sĩ về ống chích tự động chứa epinephrine để mang theo. 2. Làm gì khi bị thú vật cắn? Đa số chúng ta bị thú nuôi trong nhà cắn, và đa số là chó cắn, ít khi mèo cắn. Tuy nhiên, vết mèo cắn lại hay gây ra nhiễm trùng hơn. Khi bị thú nuôi cắn, nên tìm biết con thú đó có được chích ngừa bệnh dại chưa. Thú nuôi chưa chích ngừa bệnh dại và thú hoang có thể gây ra bệnh dại, nên khi bị các loại thú này cắn, cần đến gặp bác sĩ hoặc đến phòng cấp cứu ngay. Các loại thú hoang thường mang siêu vi bệnh dại (rabies) là: raccoons, skunks, dơi và chồn. Thỏ, sóc và những con vật gậm nhấm khác cũng có thể mang bệnh dại tuy hiếm hơn. Răng và nước dãi các con thú thường dơ và có thể mang vi trùng phong đòn gánh. Do đó, nếu lần cuối bạn chích ngừa phong đòn gánh đã hơn 5 năm và vết thương rất sâu hay rất bẩn, bạn nên đến gặp bác sĩ hoặc đến phòng cấp cứu ngay để được chích ngừa phong đòn gánh. Ngay sau khi bị cắn, nên làm những chuyện sau: 1.Vết thương nhẹ: Nếu chỉ trầy da sơ sơ và không có nguy cơ bị nhiễm bệnh dại (do chó mèo nuôi trong nhà chưa chích ngừa hay bị thú hoang cắn), chỉ cần rửa sạch vết thương bằng thật nhiều nước và xà bông, sau đó bôi kem sát trùng lên và băng lại. 2.Vết thương sâu: Nếu vết thương thủng sâu hoặc rách da nhiều và chảy máu, băng lại bằng miếng vải sạch và khô để bớt chảy máu và đi cấp cứu ngay. 3.Vết thương nhiễm trùng: Nếu vết thương sau đó có dấu hiệu nhiễm trùng như sưng đỏ, đau, ra nước vàng hay mủ, cần gặp bác sĩ ngay. 4.Nghi ngờ bị nhiễm bệnh dại: Nếu bạn nghi ngờ có thể bị nhiễm bệnh dại (do chó mèo nuôi trong nhà chưa chích ngừa hay bị thú hoang cắn), cần gặp bác sĩ hay đến phòng cấp cứu ngay. 3. Chữa vết phồng (blisters) Thường chúng ta bị vết phồng là do bị cọ xát hay bị phỏng. Nếu vết phồng không gây đau đớn, tốt nhất là chúng ta để yên nó vì làn da là một vật rất tốt giúp tránh bị nhiễm trùng. Băng vết phồng nhỏ lại bằng băng dán, nếu vết phồng lớn, băng lại bằng miếng băng có lớp hút chất ướt và có chỗ cho vết thương “thở”. Nếu bị dị ứng với cao su có thể dùng băng dán bằng giấy. Đùng chọc thủng vết phồng trừ khi vết ấy làm bạn đau, khiến bạn không đi hay không sử dụng tay được. Nếu bạn không bị bệnh tiểu đường, có thể theo chỉ dẫn sau đây để làm bớt cái đau gây ra do vết phồng: - Rửa vết phồng bằng xà bông và nhiều nước ấm - Rửa vết phồng bằng iodine hay alcohol - Chùi một cái kim nhọn bằng alcohol - Dùng kim này chọc thủng vết phồng, chọc vào nhiều chỗ gần bìa, để nước chảy ra hết nhưng để miếng da lại. - Bôi kem sát trùng lên vết phồng và dán băng keo lại - Sau nhiều ngày, có thể cắt bớt chỗ da đã chết trên mặt vết phồng bằng kéo đã sát trùng. Bôi kem sát trùng lần nữa và băng lại. Cần gọi bác sĩ nếu có dấu hiệu nhiễm trùng như sưng đỏ, chảy mủ, đau hay nóng. Muốn đề phòng vết phồng nên mang găng tay, vớ, băng dán... để bảo vệ chỗ da bị cọ xát. 4. Chữa vết bầm Chúng ta bị bầm khi bị đụng mạnh khiến những mạch máu gần lớp da bị bể ra, làm máu chảy ra và tụ lại ở mô tế bào dưới da. Đám máu này là những vết bầm mầu xanh đen. Nếu da không bị rách, chúng ta không cần băng vết bầm lại nhưng có thể theo những chỉ dẫn dưới đây để mau hết bầm: - Để phần cơ thể bị thương cao lên - Chườm đá lạnh nhiều lần trong ngày - Cho chỗ bị thương nghỉ ngơi, không vận động chỗ đó nữa. - Có thể uống thuốc Tylenol hay Motrin để bớt đau và bớt sưng Nên gặp bác sĩ nếu có những triệu chứng sau: - Vết bầm quá to và đau, nhất là khi không có lý do rõ rệt - Bạn dễ bị bầm và chảy máu nhiều chỗ như chảy máu cam, chảy máu nướu răng, hau có máu trong mắt, nước tiểu, phân. - Chưa từng bị bầm nhưng nay bỗng dưng bị bầm nhiều Những triệu chứng kể trên có thể là triệu chứng vài bệnh nguy hiểm, thí dụ như bệnh về đông máu hay bệnh máu. Vết bầm đi cùng với đau nhức hay nhức đầu cũng có thể là triệu chứng vài bệnh quan trọng, cần được khám nghiệm. Bài cấp cứu 2 : Hồi sức tim phổi CPR (Cardio Pulmonary Resuscitation)(VienDongDaily.Com BS Nguyễn Thị Nhuận Hồi sức tim phổi (CPR) là một kỹ thuật cứu sống hữu ích trong nhiều trường hợp khẩn cấp, gồm cả đau tim hoặc gần chết đuối, khi nạn nhân ngưng thở hay tim ngừng đập. Mới nhất hiện nay là sự thay đổi về thủ thuật cấp cứu: bắt đầu bằng Nhấn Ngực (Compression) thay vì check đường thở, Hội Tim Mạch Hoa Kỳ khuyên tất cả mọi người - những người đứng ngoài không được đào tạo và nhân viên y tế - bắt đầu CPR bằng cách nhấn ngực.
Trong những trường hợp cấp cứu, làm một cái gì đó vẫn hơn là không làm gì cả vì sợ rằng kiến thức hoặc khả năng của mình không hoàn hảo. Nên nhớ rằng, sự khác biệt giữa chuyện làm một cái gì đó và không làm gì cả có thể là cuộc sống của một người.Theo Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, nên dùng những kỹ thuật dưới đây để cấp cứu tim mạch: -Nếu bạn chưa từng học cách làm CPR: Trường hợp này, bạn nên làm CPR bằng tay mà thôi. Nghĩa là bạn chỉ nhấn ngực nạn nhân 100 lần mỗi phút cho đến khi nhân viên y tế đến (chi tiết ở phần dưới). Bạn không cần phải cố gắng thổi hơi vào miệng hay mũi nạn nhân. -Nếu bạn đã được huấn luyện và rất tự tin: Trường hợp này, bạn hãy bắt đầu với nhấn ngực thay vì kiểm tra đường thở và làm hô hấp nhân tạo. Bắt đầu CPR với 30 cái nhấn ngực trước khi kiểm tra đường thở và thở cho nạn nhân. -Đã có học CPR nhưng lâu năm rồi không dùng: Trường hợp này, bạn chỉ cần nhấn ngực 100 lần mỗi phút (chi tiết mô tả dưới đây.) Những lời khuyên trên áp dụng cho người lớn, trẻ em và trẻ nhỏ dưới 1 tuổi, không áp dụng cho trẻ sơ sinh. CPR có thể giúp bơm máu có chứa oxygen lên óc và các cơ quan quan trọng khác cho đến khi nạn nhân được điều trị để phục hồi nhịp tim bình thường. Khi tim ngừng đập, máu có chứa oxygen không được bơm lên óc, có thể gây tổn thương não chỉ trong một vài phút. Một người có thể chết trong vòng tám đến 10 phút. Muốn học CPR, nên ghi tên vào một khóa học huấn luyện cấp cứu được công nhận, bao gồm CPR và cách sử dụng một máy khử rung tim tự động (Automatic External Defibrillation hay AED). Nếu bạn chưa từng được huấn luyện và có điện thoại, gọi ngay 911 trước khi bắt đầu CPR. Nhân viên trực có thể hướng dẫn bạn làm các kỹ thuật thích hợp cho đến khi nhân viên y tế đến. Trước khi bắt đầu Trước khi bắt đầu CPR, nên xem thử: -Nạn nhân còn tỉnh hay đã bất tỉnh? -Nếu nạn nhân có vẻ bất tỉnh, gõ hoặc lắc vai của họ và hỏi lớn: “Anh (chị) có sao không (Are you OK)?” Nếu nạn nhân không đáp ứng và đang có hai người tại đó, một người nên gọi 911 hoặc số khẩn cấp địa phương và một nên bắt đầu CPR. Nếu bạn đang một mình và có điện thoại, gọi 911 trước khi bắt đầu CPR - trừ khi bạn nghĩ rằng nạn nhân bất tỉnh vì bị nghẹt thở (chẳng hạn như do đuối nước). Trong trường hợp đặc biệt này, làm CPR trong vòng một phút và sau đó gọi 911 hoặc số khẩn cấp địa phương. Nếu máy AED có sẵn, dùng máy để sốc nạn nhân 1 lần theo lời hướng dẫn in trên máy, sau đó bắt đầu CPR. Hãy nhớ thứ tự này: C-A-B CAB là viết tắt của các chữ compressions, airway, breathing - nhấn ngực, đường thở, thở - để giúp mọi người nhớ thứ tự cấp cứu. C: Nhấn (Compression): Để khôi phục lưu thông máu 1.Đặt nạn nhân nằm ngửa trên một mặt cứng. 2.Quỳ xuống bên cạnh cổ và vai của họ. 3.Đặt gót một bàn tay lên giữa ngực của người đó, giữa hai núm vú. Đặt bàn tay kia trên bàn tay đầu tiên. Giữ khuỷu tay thẳng và đặt vai của bạn trực tiếp phía trên hai bàn tay. 4.Sử dụng toàn trọng lượng cơ thể của bạn (không chỉ là cánh tay) khi bạn đẩy thẳng ngực nạn nhân xuống (nhấn) ít nhất là 2 inch (khoảng 5 cm). Nhấn mạnh với tốc độ khoảng 100 nhấn/một phút. 5.Nếu bạn chưa từng được huấn luyện CPR, nên tiếp tục nhấn ngực cho đến khi có dấu hiệu của sự chuyển động hoặc cho đến khi nhân viên y tế khẩn cấp đến. Nếu bạn đã được huấn luyện CPR, nhấn ngực 30 cái rồi xem đường thở và hô hấp của nạn nhân. A: Đường thở (Airway): Làm thông đường thở 1.Nếu bạn từng được huấn luyện CPR và đã thực hiện 30 lần nhấn ngực, đây là lúc làm thông đường thở của nạn nhân bằng cách dùng thủ thuật nghiêng đầu, ngửa cằm (head tilt-chin lift). Đặt lòng bàn tay của bạn trên trán của nạn nhân và nhẹ nhàng nghiêng đầu ra sau. Sau đó dùng tay kia, nhẹ nhàng ngửa cằm về phía trước để mở đường thở. 2. Xem nạn nhân có thở bình thường không trong vòng năm hoặc 10 giây. Nhìn xem nạn nhân có chuyển động ngực không, lắng nghe âm thanh hơi thở bình thường, và cảm nhận hơi thở của người đó trên má và tai của bạn. Thở hổn hển không được coi là thở bình thường. 3.Nếu nạn nhân không thở bình thường và bạn đã được huấn luyện CPR, bắt đầu thở miệng-áp-miệng (mouth to mouth). Nếu bạn nghĩ rằng nạn nhân bất tỉnh vì một cơn đau tim và bạn không biết cách cấp cứu, bỏ qua việc thực hành thở miệng-áp-miệng và tiếp tục nhấn ngực. B: Thở (Breathing): Thở cho nạn nhân 1.Có thể dùng cách thở miệng-áp-miệng, hoặc miệng-áp-mũi nếu miệng bị thương nặng hoặc không thể mở được. 2.Với đường thở đã được mở bằng cách nghiêng đầu, ngửa cằm, bịt hai lỗ mũi nạn nhân và dùng miệng mình lấp miệng của nạn nhân thật kín để không khí không bị thoát ra khi thổi vào miệng nạn nhân. Thổi hơi thở đầu tiên - kéo dài một giây - và nhìn xem ngực nạn nhân có nhô lên không. Nếu có nhô lên, tức không khí có vào được phổi nạn nhân, thổi hơi thở thứ hai. Nếu ngực không nhô lên, trở lại thủ thuật nghiêng đầu và nâng cằm để mở đường thở lại, sau đó mới thổi hơi thở thứ hai. Ba mươi cái nhấn ngực theo sau bởi hai hơi thở giải cứu được coi là một chu kỳ. 3.Tiếp tục nhấn ngực để khôi phục lại lưu thông máu. 4.Nếu nạn nhân không bắt đầu chuyển động sau năm chu kỳ (khoảng hai phút) và có sẵn một máy khử rung tim tự động (AED), sử dụng máy theo các hướng dẫn trên máy. Làm một sốc, sau đó tiếp tục CPR - bắt đầu với nhấn ngực - hai phút nữa trước khi làm một sốc thứ hai. Nếu bạn không từng được huấn luyện sử dụng một AED, người trả lời điện thoại 911 có thể hướng dẫn bạn cách sử dụng. Nếu không có sẵn máy AED, đi đến bước 5 dưới đây. 5.Tiếp tục CPR cho đến khi có những dấu hiệu của sự chuyển động hoặc nhân viên y tế đến. hực hiện CPR nơi một đứa trẻ Thủ tục làm CPR cho trẻ em tuổi từ 1 đến 8 về căn bản giống như đối với một người lớn. Sự khác biệt như sau: -Nếu bạn chỉ có một mình, làm năm chu kỳ nhấn ngực và thổi hơi thở - mất khoảng hai phút - trước khi gọi 911 hoặc số khẩn cấp địa phương hoặc sử dụng máy AED. -Chỉ sử dụng một tay để thực hiện nhấn ngực. -Thổi hơi thở nhẹ nhàng hơn. -Sử dụng tỷ lệ nhấn ngực/thổi hơi thở tương tự như ở người lớn: 30 lần nhấn ngực, theo sau là hai hơi thở. Đây là một chu kỳ. Sau hai hơi thở, ngay lập tức bắt đầu chu kỳ tiếp theo. -Sau năm chu kỳ (khoảng hai phút) của CPR, nếu không có phản ứng và có sẵn máy AED, dùng máy theo hướng dẫn. Sử dụng miếng đệm cho trẻ em, nếu có, đối với trẻ em lứa tuổi từ 1 đến 8. Nếu không có miếng đệm trẻ em, sử dụng miếng đệm người lớn. Không sử dụng AED cho trẻ em dưới 1 tuổi. Làm một cú sốc, sau đó tiếp tục CPR - bắt đầu với nhấn ngực - hai phút nữa trước khi làm một cú sốc thứ hai. Nếu bạn không từng được huấn luyện sử dụng một AED, người trả lời điện thoại 911 có thể hướng dẫn bạn cách sử dụng. Tiếp tục cho đến khi trẻ chuyển động hoặc nhân viên y tế đến. Thực hiện CPR cho em bé Hầu hết các vụ ngưng tim ở trẻ sơ sinh xảy ra do thiếu oxygen, chẳng hạn như vì chết đuối hay bị nghẹn. Nếu bạn biết là em bé bị tắc nghẽn đường thở, thực hiện cứu cấp nghẹt thở ngay. Nếu bạn không biết tại sao em bé không thở, thực hiện hô hấp nhân tạo. Để bắt đầu, nên xem xét tình hình. Phết vào người em bé xem có phản ứng không, chẳng hạn như chuyển động, nhưng không lắc em bé. Nếu không có phản ứng, thực hiện CAB theo dưới đây: -Nếu bạn là người duy nhất tại chỗ, làm CPR hai phút - khoảng năm chu kỳ - trước khi gọi 911. -Nếu có người thứ hai, bảo người này gọi điện thoại để được giúp đỡ ngay lập tức trong khi bạn làm việc với em bé. C: Nhấn ngực (Compression) Khôi phục lưu thông máu 1.Đặt em bé nằm ngửa trên một bề mặt phẳng và cứng, thí dụ như chiếc bàn, sàn nhà hoặc mặt đất. 2.Tưởng tượng một đường ngang nối hai núm vú của em bé. Đặt hai ngón tay của một bàn tay ngay dưới dòng này, ở trung tâm của ngực. 3.Nhẹ nhàng nhấn ngực xuống khoảng 1,5 inches (khoảng 4 cm). 4.Đếm lớn tiếng khi đang nhấn với một nhịp điệu khá nhanh. Bạn nên nhấn với tốc độ 100 lần ép một phút. A: Đường thở (Airway): Làm thông đường thở 1.Sau 30 lần nhấn ngực, nhẹ nhàng làm nghiêng đầu em bé về phía sau bằng cách nâng cằm lên bằng một tay và đẩy xuống trên trán bằng tay kia. 2.Trong không quá 10 giây, áp tai gần miệng bé và tìm hơi thở: Nhìn xem ngực có chuyển động không, lắng nghe tiếng thở, và cảm nhận hơi thở vào má và tai của bạn. B: Thở (Breathing): Thở cho bé 1.Lấp miệng và mũi của em bé bằng miệng của bạn. 2.Chuẩn bị cho hai hơi thở cấp cứu. Sử dụng sức mạnh của đôi má để cung cấp hai hơi thở nhẹ (thay vì thổi mạnh từ phổi) vào miệng của bé một lần, kéo dài một giây. Quan sát xem ngực của em bé có nhô lên không. Nếu có, thổi nhẹ thêm hơi thở thứ hai. Nếu ngực không nhô lên, lặp lại thủ tục mở đường thở như trên và sau đó cung cấp hơi thở thứ hai. 3.Nếu ngực của em bé vẫn không nhô lên, quan sát trong miệng bé để bảo đảm không có vật lạ bên trong. Nếu nhìn thấy vật lạ, dùng ngón tay quét nó ra. Nếu đường thở dường như bị nghẹt, thực hiện thủ thuật cứu nghẹn. 4. Thổi hai hơi thở sau mỗi 30 ép ngực. 5.Thực hiện CPR trong khoảng hai phút trước khi gọi để được giúp đỡ, trừ khi ai đó có thể gọi trong khi bạn giúp em bé. 6.Tiếp tục CPR cho đến khi bạn nhìn thấy dấu hiệu của sự sống hoặc cho đến khi nhân viên y tế đến. Cấp cứu: Phỏng điện(VienDongDaily.Com - 19/02/2016) BS Nguyễn Thị Nhuận Phỏng điện có thể gây ra bởi một số các nguồn điện như sạm sét, súng stun-guns hay dòng điện trong nhà. Phỏng điện nhẹ được chữa như các vết phỏng nhẹ khác. Khi nào nên gọi bác sĩ? Khi bị thương do tiếp xúc với điện, nên được khám bởi bác sĩ. Đôi khi một chấn thương do điện có thể gây ra thiệt hại cho các mô bên trong, thường là ở cánh tay hay chân. Thương tích có thể nặng hơn các vết phỏng trên da.Chú ý - Đừng chạm vào nạn nhân nếu người đó vẫn còn tiếp xúc với dòng điện. - Gọi 911 hoặc số khẩn cấp địa phương nếu nguyên nhân của vết bỏng là dây cao áp hoặc sấm sét. Đừng đến gần dây điện cao áp trừ khi điện đã tắt. Đường dây điện trên cao thường không được bọc. Nên ở cách xa ít nhất 20 feet (khoảng 6 mét) - xa hơn nếu dây đang chuyển động và phát ra tia lửa. - Không di chuyển một người bị chấn thương do điện trừ khi người đó đang ở trong tình trạng nguy hiểm cấp thời. Khi nào nên tìm kiếm sự chăm sóc khẩn cấp? Gọi 911 hoặc số khẩn cấp địa phương nếu nạn nhân: - Bị phỏng nặng - Bị hoảng loạn - Bị khó thở - Nhịp tim có vấn đề (loạn nhịp tim) - Tim ngừng đập - Bắp thịt co thắt và đau - Bị động kinh - Bất tỉnh Nên thực hiện những động tác sau ngay lập tức trong khi chờ đợi sự giúp đỡ: - Tắt nguồn điện nếu có thể. Nếu không, di chuyển nguồn điện khỏi cả bạn và nạn nhân bằng cách sử dụng một vật không dẫn điện khô bằng bìa carton, nhựa hoặc gỗ. - Bắt đầu CPR nếu người đó không có dấu hiệu sống, chẳng hạn như thở, ho hoặc cử động. - Cố gắng giúp nạn nhân khỏi bị lạnh run. - Đắp băng. Che các khu vực bị phỏng bằng băng gạc vô trùng, nếu có, hoặc một miếng vải sạch. Không sử dụng chăn hoặc khăn, vì các sợi lỏng lẻo có thể dính vào vết phỏng. Cấp cứu 6: Điện giật Sự nguy hiểm từ một cú sốc điện phụ thuộc vào loại dòng điện, độ cao điện áp, cách dòng điện đi qua cơ thể, sức khỏe tổng thể của nạn nhân và mức độ nhanh chóng của việc chữa trị. Một cú sốc điện có thể gây phỏng da hoặc không để lại một dấu vết gì nhìn thấy trên da. Trong cả hai trường hợp, dòng điện đi qua cơ thể có thể gây ra thiệt hại bên trong, làm tim ngừng đập hoặc các tổn thương khác. Trong vài trường hợp, ngay cả một lượng nhỏ điện cũng có thể gây tử vong. Người bị thương do tiếp xúc với điện nên được khám bởi bác sĩ. Chú ý - Đừng chạm vào nạn nhân nếu người đó vẫn còn tiếp xúc với dòng điện. - Gọi 911 hoặc số khẩn cấp địa phương nếu nguyên nhân của vết bỏng là dây cao áp hoặc sấm sét. Đừng đến gần dây điện cao áp trừ khi điện đã tắt. Đường dây điện trên cao thường không được bọc. Nên ở cách xa ít nhất 20 feet (khoảng 6 mét) - xa hơn nếu dây đang chuyển động và phát ra tia lửa. - Không di chuyển một người bị chấn thương do điện trừ khi người đó đang ở trong tình trạng nguy hiểm cấp thời. Khi nào nên tìm kiếm sự chăm sóc khẩn cấp? Gọi 911 hoặc số khẩn cấp địa phương nếu nạn nhân: - Bị phỏng nặng - Bị hoảng loạn - Bị khó thở - Nhịp tim có vấn đề (loạn nhịp tim) - Tim ngừng đập - Bắp thịt co thắt và đau - Bị động kinh - Bất tỉnh Nên thực hiện những động tác sau ngay lập tức trong khi chờ đợi sự giúp đỡ: - Tắt nguồn điện nếu có thể. Nếu không, di chuyển nguồn điện khỏi cả bạn và nạn nhân bằng cách sử dụng một vật không dẫn điện khô bằng bìa carton, nhựa hoặc gỗ. - Bắt đầu CPR nếu người đó không có dấu hiệu sống, chẳng hạn như thở, ho hoặc cử động. - Cố gắng giúp nạn nhân khỏi bị lạnh run. - Đắp băng. Che các khu vực bị phỏng bằng băng gạc vô trùng, nếu có, hoặc một miếng vải sạch. Không sử dụng chăn hoặc khăn, vì các sợi lỏng lẻo có thể dính vào vết phỏng. Cấp cứu 7: Phỏng hóa chất Phỏng hóa chất có thể gây ra bởi nhiều chất như acid mạnh, thuốc thông cống, thuốc rửa sơn và xăng. Thông thường, ta dễ nhận ra vết phỏng và nguyên nhân gây ra nó. Nhưng đôi khi ta có thể không nhận ra ngay lập tức một vết phỏng gây ra bởi một loại hóa chất nhẹ vì giống như phỏng nắng, triệu chứng đau và da nổi đỏ có thể chỉ phát ra vài giờ sau khi bị phỏng. Nếu bạn nhận ngay ra vết phỏng: - Lấy đi các chất hóa học gây ra phỏng một cách cẩn thận để bảo vệ chính mình. Nếu là hóa chất khô, phủi đi những phần còn dính lại. Đeo găng tay hoặc sử dụng khăn lau hoặc bàn chải. - Cởi những quần áo hoặc đồ trang sức có dính hóa chất để tránh bị cháy tiếp tục. - Rửa vết bỏng ngay lập tức dưới vòi nước mát đang chảy trong 10 phút hoặc hơn. Luôn luôn bảo vệ đôi mắt của bạn. - Đắp lỏng lẻo một miếng băng gạc lên vết phỏng. - Nếu cần thiết, uống thuốc giảm đau như ibuprofen (Advil, Motrin IB), naproxen sodium (Aleve) hoặc acetaminophen (Tylenol). - Xem xét việc chích ngừa uốn ván. Thường các bác sĩ khuyên nên chích ngừa uốn ván ít nhất mỗi 10 năm. Nếu nghi ngờ là phỏng hóa học: - Phải chắc chắn là quần áo hoặc đồ trang sức có dính chất hóa học không còn tiếp xúc với da. - Rửa vết phỏng nếu bạn nghĩ rằng hóa chất vẫn còn nằm trên da. - Đắp lỏng lẻo một miếng băng gạc lên vết phỏng. - Nếu cần thiết, uống thuốc giảm đau như ibuprofen (Advil, Motrin IB), naproxen sodium (Aleve) hoặc acetaminophen (Tylenol). - Xem xét việc chích ngừa uốn ván. Thường các bác sĩ khuyên nên chích ngừa uốn ván ít nhất mỗi 10 năm. Khi nào cần cấp cứu ngay? Cần gọi 911 nếu - Nạn nhân có dấu hiệu của sốc như ngất xỉu, da nhợt nhạt hoặc hơi thở rất cạn. - Vết phỏng sâu qua lớp trên của da và phỏng nhiều hơn 3 inches (khoảng 8 cm) đường kính. - Phỏng tay hay chân hoặc liên quan đến mắt, bàn tay, bàn chân, mặt, háng hay mông, hoặc một khớp xương lớn. - Nếu bạn không chắc chắn là hóa chất có độc không, nên gọi Poison Control ở số 800-222-1222 tại Hoa Kỳ. Nếu bạn tìm kiếm trợ giúp y tế khẩn cấp, đem thùng hóa chất hoặc tên của loại hóa chất đến phòng cấp cứu. Cấp cứu 8: Hóa chất văng vào mắtNếu hóa học văng vào mắt, ngay lập tức: 1. Xối mắt bằng nước sạch, ấm từ vòi nước trong ít nhất 20 phút. Sử dụng một trong những phương pháp dưới đây, chọn cách nào nhanh nhất: - Vào chỗ tắm vòi sen và cho dòng nước chảy nhẹ nhàng trên trán bên mắt bị đau. Nếu cả hai mắt đều bị, cho nước chảy trực tiếp trên sống mũi. Giữ mí mắt mở. - Cúi đầu, nghiêng qua một bên. Giữ mí mắt mở và đặt mắt dưới một vòi nước chảy nhẹ nhàng. Nếu có sẵn nơi rửa mắt ở chỗ làm việc, nên sử dụng nó. - Trẻ em tốt nhất cho nằm trong bồn tắm hoặc tựa lưng trên một chậu rửa. Cho dòng nước mát chảy nhẹ nhàng ở vùng trán trên mắt bị ảnh hưởng hoặc trên sống mũi để tuôn vào cả hai mắt. 2. Rửa tay bằng xà phòng và nước. Rửa tay kỹ để chắc chắn không còn hóa chất hoặc xà bông. 3. Lấy kính sát tròng ra. Nếu trong lúc xối mắt mà kính này không tuột ra thì ta phải lấy chúng ra. - Đừng chà mắt vì có thể gây ra thiệt hại thêm. - Đừng cho bất cứ gì vào mắt trừ nước hoặc nước muối rửa kính sát tròng. Và không sử dụng thuốc nhỏ mắt trừ khi nhân viên cấp cứu cho bạn biết phải làm như vậy. Sau khi làm theo các bước trên, nên tìm sự chăm sóc khẩn cấp của một chuyên gia về mắt (bác sĩ nhãn khoa) hoặc gọi số 911 hoặc số khẩn cấp địa phương. Hãy đem thùng hóa chất hoặc tên của loại hóa chất đến phòng cấp cứu. Nếu có sẵn, đeo kính râm để giúp làm giảm độ nhạy cảm với ánh sáng. Cấp cứu 9: Mắc nghẹnMắc nghẹn xảy ra khi một vật lạ bị kẹt trong cổ họng hay khí quản khiến không khí không vào phổi được. Người lớn thường bị mắc nghẹn vì một miếng đồ ăn. Trẻ nhỏ thì thường mắc nghẹn vì nuốt các vật nhỏ. Mắc nghẹn làm không khí không vào phổi được để cung cấp oxygen, óc cũng bị cắt nguồn oxygen, do đó chúng ta cần thực hiện cấp cứu càng nhanh càng tốt. Dấu hiệu thông thường của mắc nghẹn và nghẹt thở là nạn nhân đưa bàn tay nắm chặt cổ họng. Dấu hiệu của mắc nghẹn Nếu nạn nhân không đưa ra dấu hiệu nào, ta có thể quan sát xem có những triệu chứng sau không: - Không nói được - Thở khó hoặc thở ồn ào - Không ho mạnh được - Da, môi và móng tay chuyển màu xanh hoặc sẫm màu - Bất tỉnh Hội Hồng Thập Tự đưa ra cách “năm-và-năm” để cấp cứu: - Đập mạnh 5 cái vào lưng: Dùng gót bàn tay đập mạnh vào lưng của nạn nhân, nơi giữa hai xương bả vai. - Đẩy mạnh bụng 5 lần. Dùng bàn tay nắm lại để đẩy mạnh nơi bụng nạn nhân 5 lần (cách này được gọi là thủ thuật Heimlich). - Luân phiên 5 cái đập và 5 cái đẩy cho đến khi vật làm nghẹn bị long ra. Hiệp hội Tim Mạch Mỹ không dùng kỹ thuật đập mạnh vào lưng, chỉ dùng cách đẩy bụng. Nếu bạn chưa từng học cách đập lưng thì không cần phải sử dụng cách này. Cả hai phương pháp đều được chấp nhận. Thủ thuật Heimlich Cách đẩy bụng (thủ thuật Heimlich) cho người khác: - Đứng đằng sau nạn nhânVòng hai cánh tay của bạn xung quanh thắt lưng nạn nhân. Đẩy người họ ra phía trước một chút. - Nắm một bàn tay lại. Đặt nắm tay phía trên rốn nạn nhân một chút. - Bàn tay kia nắm chặt nắm tay trên. Nhấn mạnh vào bụng với một cái đẩy lên thật nhanh – giống như muốn nâng người họ lên. - Làm tổng cộng 5 cái đẩy bụng, nếu cần thiết. Nếu vật làm nghẹn vẫn không bị long ra, lặp lại các chu kỳ năm và năm. - Nếu bạn là người độc nhất nơi đó, thực hiện đập lưng và đẩy bụng trước khi gọi 911 hoặc số khẩn cấp địa phương để được giúp đỡ. Nếu có người khác, bảo họ gọi 911 trong khi bạn thực hiện việc cấp cứu. - Nếu bệnh nhân bị bất tỉnh, thực hiện hô hấp nhân tạo tiêu chuẩn bằng cách nhấn ngực và thở cấp cứu. Cách đẩy bụng (thủ thuật Heimlich) cho chính mình: Nếu bạn đang một mình và bị mắc nghẹn, hãy gọi 911 hoặc số khẩn cấp địa phương ngay lập tức, nếu có thể. Sau đó, dù không thể tự đập lưng, bạn vẫn có thể tự làm cách đẩy bụng để đánh bật vật làm mắc nghẹn. - Đặt một bàn tay lên bụng, phía trên rốn. - Nắm chặt bàn tay trên bụng bằng tay kia và cúi xuống một bề mặt cứng, thí dụ như chỗ quầy hoặc ghế. - Ấn nắm tay của bạn vào bên trong và lên trên. Mở đường thở cho phụ nữ mang thai hoặc cho người béo phì: - Đặt bàn tay của bạn lên bụng nạn nhân, ở chỗ cao hơn một chút so với khi làm thủ thuật Heimlich, ngay xương ức, nơi các xương sườn thấp nhất nối nhau. - Tiến hành giống như làm thủ thuật Heimlich, nhấn mạnh vào ngực, với một lực đẩy nhanh. - Lặp lại cho đến khi miếng đồ ăn long ra hoặc nạn nhân bất tỉnh. Mở đường thở cho người đã bất tỉnh: - Hạ thấp nạn nhân cho nằm ngửa trên sàn nhà. - Mở đường thở. Nếu vật làm mắc nghẹn có thể được nhìn thấy ở mặt sau của cổ họng hoặc cao trong cổ họng, đặt một ngón tay vào miệng và quét vật ấy ra. Hãy cẩn thận không đẩy sâu vật này vào đường thở, có thể dễ dàng xảy ra ở trẻ nhỏ. - Bắt đầu làm CPR nếu vật làm nghẹn chưa long ra và nạn nhân không đáp ứng sau khi bạn thực hiện các biện pháp trên. Hành động nhấn ngực khi làm CPR có thể đánh bật vật làm nghẹn. Nhớ kiểm tra miệng thường xuyên xem vật làm nghẹn đã bật ra chưa. Mở đường thở cho trẻ sơ sinh dưới 1 tuổi: - Ngồi trên ghế, đặt cẳng tay của bạn trên đùi bạn và và giữ bé úp mặt trên cẳng tay. - Vỗ một cách nhẹ nhàng nhưng chắc chắn 5 lần vào giữa lưng của nạn nhân bằng gót bàn tay của bạn. Sự kết hợp của trọng lực và vỗ lưng có thể làm vật gây nghẽn long ra. Mở đường thở bằng cách vỗ lưng - Lật cho đứa bé nằm ngửa mặt lên trên cánh tay của bạn với đầu thấp hơn thân nếu cách trên không hiệu quả. Dùng hai ngón tay đặt ở trung tâm của xương ức đứa bé để nhấn khá mạnh vào ngực nó 5 lần. Mở đường thở bằng cách nhấn ngực - Lặp lại đập lưng và nhấn ngực nếu bé vẫn không thở. Gọi trợ giúp y tế khẩn cấp. - Bắt đầu CPR cho trẻ nếu những kỹ thuật mở đường thở như trên không hiệu quả. Nếu trẻ lớn hơn 1 tuổi, chỉ thực hiện cách đẩy bụng. Để chuẩn bị cho những tình huống cấp cứu này, nên học về thủ thuật Heimlich và CPR nơi một khóa đào tạo cấp cứu được chứng nhận. Cấp cứu 10: Đứt da và trầy trụaKhi bị đứt da và xây xát nhỏ, ta thường không cần đi đến phòng cấp cứu. Những hướng dẫn sau đây có thể giúp bạn chăm sóc cho vết thương: 1. Rửa tay để giúp tránh nhiễm trùng. Mang găng tay bảo vệ dùng một lần nếu có sẵn. 2. Cầm máu. Vết đứt và xây xát nhỏ thường ngưng chảy máu sau thời gian ngắn. Nếu không ngưng chảy máu, ấn nhẹ lên vết thương bằng băng vô trùng hoặc vải sạch và nâng cao vết thương. 3. Làm sạch vết thương. Rửa vết thương dưới vòi nước sạch đang chảy và làm sạch xung quanh vết thương bằng xà phòng và vải sạch. Không cho xà phòng dính vào vết thương, vì có thể gây khó chịu. Nếu bụi bẩn hoặc mảnh vụn vẫn còn trong vết thương sau khi rửa, dùng nhíp đã khử sạch bằng alcohol để gắp bỏ chúng. Nếu các mảnh vụn vẫn còn, cần gặp bác sĩ. Rửa sạch vết thương làm giảm nguy cơ nhiễm trùng và bệnh uốn ván. Không cần dùng hydrogen peroxide, iodine hoặc dung dịch có iodine vì chúng có thể gây khó chịu cho các mô đã bị thương. 4. Bôi chất kháng sinh. Bôi một lớp mỏng kem hoặc mỡ kháng sinh (Neosporin, Polysporin) để giúp giữ cho mặt vết thương ẩm ướt. Những sản phẩm này không làm cho vết thương lành nhanh hơn nhưng có thể ngăn chặn nhiễm trùng và giúp tiến trình lành bệnh tự nhiên của cơ thể. Một số thành phần trong thuốc mỡ có thể gây nổi đỏ ở một số người. Nếu bị nổi đỏ, nên ngừng sử dụng thuốc mỡ. 5. Che vết thương. Băng gạc có thể giúp giữ cho vết thương sạch và ngăn ngừa vi trùng có hại. Nếu tổn thương chỉ là một vết xước hay cào nhỏ, có thể cứ để trần. 6. Thay băng ít nhất một lần mỗi ngày hoặc bất cứ khi nào băng bị ướt hoặc bẩn. Nếu người bị thương dị ứng với chất keo dính trong băng và băng, chuyển sang băng gạc không có chất keo dính hoặc đắp miếng băng vô trùng lên rồi dán dính bằng băng keo giấy, hay dùng băng cuộn hoặc đắp lỏng tay miếng băng thun. Các thứ này thường có sẵn tại các hiệu thuốc. Sau khi vết thương đã tạm lành, đủ để không dễ bị nhiễm trùng, bạn có thể để trần vết thương vì tiếp xúc với không khí sẽ làm vết thương mau lành hơn. 7. Cần khâu vết thương sâu. Một vết thương sâu – đứt xuyên qua các lớp da - hở miệng hay lởm chởm, sâu đến thấy được lớp mỡ hoặc bắp thịt sẽ cần được khâu lại. Dải băng dán hoặc băng bướm có thể đóng lại một vết cắt nhỏ, nhưng nếu vết thương không thể dễ dàng đóng lại, cần gặp bác sĩ càng sớm càng tốt. May kín vết thương sâu trong vòng một vài giờ sau khi bị thương sẽ làm bớt bị sẹo và làm giảm nguy cơ nhiễm trùng. 8. Theo dõi xem có dấu hiệu nhiễm trùng không. Đi khám bác sĩ nếu vết thương không liền mặt hoặc bị đỏ, đau, rỉ nước, nóng hoặc sưng lên. 9. Chính ngừa bệnh uốn ván. Nếu không từng chích ngừa uốn ván trong 5 năm qua và vết thương sâu hoặc bẩn, nạn nhân có thể cần một liều chích nhắc lại, càng sớm càng tốt.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 19, 2016 8:47:54 GMT 9
Cẩn thận khi dùng thuốc: nhiều loại thuốc có thể làm tăng huyết áp VienDongDaily.Com BS Nguyễn Thị Nhuận
Ai cũng biết là thuốc thường có những tác dụng phụ mà người dùng thuốc không muốn xảy ra. Một trong những tác dụng phụ có thể gây tai hại cho người dùng thuốc là tác dụng làm tăng huyết áp. Có rất nhiều loại thuốc có tác dụng phụ tai hại này, bao gồm những thuốc có toa, thuốc mua tự do ngoài quầy, kể cả thuốc bổ hay thuốc “dược thảo”. Ngoài tác dụng làm tăng huyết áp, các thuốc này có thể ảnh hưởng đến những thuốc giảm huyết áp mà bệnh nhân đang uống khiến những thuốc này giảm bớt hay không còn công hiệu, do đó huyết áp không còn được kiểm soát nữa.
Bài này kể ra những loại thuốc làm tăng huyết áp. Nếu bạn đang uống những thuốc này và sợ rằng chúng ảnh hưởng đến huyết áp của bạn, nên đem thuốc đến nói chuyện với bác sĩ. 1) Thuốc giảm đau hay chống viêm: Một vài loại thuốc giảm đau hay chống viêm có thể làm bạn giữ nước trong người, gây ra vấn đề thận và làm tăng huyết áp. Dưới đây là một vài thí dụ: - Indomethacin (tên hiệu là Indocin) - Thuốc chống viêm không phải là steroid (NSAIDs), gồm có naproxen sodium (tên hiệu là Aleve, Anaprox) và ibuprofen (tên hiệu là Motrin IB, Advil) - Piroxicam (Feldene) Nếu bạn đang dùng các thuốc giảm đau và chống viêm này, nên đo huyết áp thường xuyên. Hỏi BS xem thuốc giảm đau nào là tốt nhất cho bạn. Nếu bạn cần phải uống loại thuốc làm tăng huyết áp, BS có thể khuyên bạn nên thay đổi lối sống cho lành mạnh hơn hoặc cho bạn uống thêm thuốc làm bớt huyết áp. 2) Thuốc chữa trầm cảm: Thuốc chữa tràm cảm hoạt động bằng cách đổi cách cơ thể của bạn phản ứng với các chất hóa học do não sản xuất, là những chất serotonin, norepinephrine và dopamine, ảnh hưởng tới cảm xúc của bạn. Các chất này cũng có thể làm tăng huyết áp. Dưới đây là một số thí dụ: - Venlafaxine (Effexor XR) - Monoamine oxidase inhibitors - Tricyclic antidepressants - Fluoxetine (Prozac, Sarafem, others) Nếu bạn đang dùng những thuốc chống trầm cảm trên, nên đo huyết áp thường xuyên. Nếu huyết áp của bạn tăng lên hay không thể kiểm soát được, hỏi BS cho thuốc khác thay thế. BS có thể khuyên bạn nên thay đổi lối sống cho lành mạnh hơn hoặc cho bạn uống thêm thuốc làm bớt huyết áp. 3) Thuốc hay dụng cụ ngừa thai Thuốc ngừa thai hoặc các dụng cụ ngừa thai có chứa kích tố làm tăng huyết áp do làm các mạch máu co lại. Hầu như tất cả các loại thuốc uống ngừa thai, thuốc dán ngừa thai hay vòng âm đạo đều có lời khuyến cáo là huyết áp có thể tăng. Nguy cơ tăng huyết áp sẽ cao hơn nếu người dùng thuốc lớn hơn 35 tuổi, cân nặng quá khổ hay có hút thuốc. Không phải ai dùng thuốc ngừa thai có kích tố đều bị tăng huyết áp nhưng để cẩn thận, nên đo huyết áp ít nhất mỗi 6 tháng. Nếu bạn đã bị cao huyết áp, nên tìm cách ngừa thai khác. Nguy cơ bị tăng huyết áp sẽ ít hơn nếu bạn dùng loại thuốc có chứa liều lượng estrogen thấp. 4) Chất caffeine Chất caffeine có thể làm tăng huyết áp? Điều này vẫn còn đang được bàn cãi. Nếu bạn uống một lúc 200- 300mg chất caffeine, huyết áp của bạn có thể tăng cao, nhưng tác dụng này không biết là chỉ tạm thời hay kéo dài lâu. Caffeine có thể tạm thời gây ra huyết áp cao bằng cách ngăn chặn một loại kích tố làm cho mạch máu nở ra để máu chạy thông hơn. Ngoài ra, caffeine còn khiến cơ thể chúng ta tiết ra nhiều cortisol và và adrenaline khiến máu chạy nhanh hơn gây ra tăng huyết áp. Tuy nhiên, vẫn chưa có chứng cớ cho thấy tác dụng tăng huyết áp của caffeine sẽ kéo dài. Dưới đây là một vài thuốc hay sản phẩm có chứa caffeine: - Thuốc caffeine (tên hiệu là Vivarin) - Cà phê, nước năng lực và một số nước uống khác Một vài nghiên cứu đưa giả thuyết cà phê có chứa một chất làm hạ huyết áp, làm vô hiệu tác dụng của caffeine. Thêm nữa, nồng độ caffeine trong các loại cà phê khác nhau xa, do đó khó có thể đưa ra lượng cà phê mỗi ngày người ta có thể uống mà an toàn. Nếu muốn thử xem caffeine có làm tăng huyết áp của bạn không, nên đo huyết áp 30 phút sau khi uống 1 cup cà phê hay một loại thức uống nào có chứa caffeine. Nếu huyết áp tăng lên từ 5- 10 điểm, bạn có thể bị nhạy cảm với tác dụng tăng huyết áp của cà phê. 5) Thuốc nghẹt mũi Thuốc nghẹt mũi làm các mạch máu co lại khiến máu khó chạy qua hơn đưa đến việc tăng huyết áp. Thuốc trị nghẹt mũi cũng có thể khiến vài loại thuốc trị cao huyết áp bớt hiệu quả. Đây là vài thí dụ về thuốc trị nghẹt mũi: Pseudoephedrine (Sudafed), Phenylephrine (Neo- Synephrine). Nên xem kỹ nhãn hiệu của loại thuốc cảm hay thuốc chữa dị ứng của bạn để xem nó có chứa thuốc nghẹt mũi không. Nếu bạn bị huyết áp cao, tốt nhất là tránh uống thuốc nghẹt mũi. Hãy hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ về các loại thuốc chữa nghẹt mũi dành cho người bị huyết áp cao. 6) Thuốc bổ sung (supplementals) hay dược thảo Hãy nhớ nói cho bác sĩ biết những thứ thuốc bổ sung hay “dược thảo” bạn đang dùng hay định dùng để xem những thuốc này có thể làm tăng huyết áp hoặc tương tác với các thuốc chữa huyết áp cao. Dưới đây là ví dụ về các thuốc bổ sung dược thảo có thể ảnh hưởng đến huyết áp hoặc tương tác với thuốc huyết áp: - Kim sa (Arnica montana) - Cam đắng (Citrus aurantium) - Ephedra (ma- huang) - Ginkgo (Ginkgo Bilboa) - Nhân sâm (Panax quinquefolius và Panax ginseng) - Guarana (Paullinia cupana) - Cam thảo (Glycyrrhiza glabra) - Senna (Cassia senna) - St. John's wort (Hypericum perforatum) Các loại “dược thảo” thường xưng là an toàn vì là thiên nhiên, điều này không nhất thiết là đúng. Nên nói chuyện với bác sĩ trước khi dùng bất cứ dược thảo nào. Nên tránh những loại thuốc bổ có thể làm tăng huyết áp của bạn hoặc gây trở ngại với thuốc hạ huyết áp của bạn. 7) Thuốc ức chế miễn dịch Một số thuốc ức chế miễn dịch có thể làm tăng huyết áp của bạn, có thể vì ảnh hưởng đến thận. Dưới đây là các thuốc ức chế hệ miễn dịch có thể làm tăng huyết áp: - Cyclosporine (Neoral, Sandimune) - Tacrolimus (Prograf) Nên đo huyết áp thường xuyên. Nếu huyết áp của bạn tăng hoặc không được kiểm soát tốt, hãy hỏi bác sĩ về những thuốc thay thế cho các loại thuốc này. BS có thể khuyên bạn nên thay đổi lối sống cho lành mạnh hơn hoặc cho bạn uống thêm thuốc làm bớt huyết áp. 8) Thuốc kích thích Những thuốc kích thích, chẳng hạn như methylphenidate (Ritalin), có thể làm cho tim bạn đập nhanh hơn hoặc tăng huyết áp của bạn một cách đột xuất. Nên đo huyết áp thường xuyên nếu bạn cầm uống những thuốc kích thích. Nếu huyết áp của bạn tăng hoặc không được kiểm soát tốt, hãy hỏi bác sĩ về những thuốc thay thế cho các loại thuốc này. BS có thể khuyên bạn nên thay đổi lối sống cho lành mạnh hơn hoặc cho bạn uống thêm thuốc làm bớt huyết áp. 9) Thuốc bất hợp pháp Các thuốc bất hợp pháp có thể làm tăng huyết áp bằng cách thu hẹp các động mạch cung cấp máu cho tim của bạn. Điều này làm tăng nhịp tim và thiệt hại cho cơ tim. Các loại thuốc bất hợp pháp có thể ảnh hưởng đến tim gồm có: - Amphetamine, bao gồm methamphetamine - Anabolic steroids - Cocaine Nếu bạn đang sử dụng ma túy bất hợp pháp, nên ngưng lại. Hãy hỏi bác sĩ của bạn về các chương trình tư vấn hoặc điều trị bằng thuốc.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2017 0:20:14 GMT 9
Làm sao tránh bệnh lẫn Alzheimer'sBS Nguyễn Thị Nhuận Gần phân nửa số người Mỹ 85 tuổi mắc bệnh Alzheimer's, một chữ mà người Việt ở Mỹ đã quen thuộc và thường dịch là bệnh lẫn. Một số người còn mắc bệnh này khi chưa đến 65 tuổi, được gọi là bệnh lẫn sớm. Căn bệnh quái ác này thường lởn vởn trong óc tất cảchúng ta và nhiều người thường tự hỏi “Có phải mình đang mắc chứng Alzheimer's sớm?” Thực ra thì bệnh hay quên thường được gặp ở mọi lứa tuổi: không thể tìm thấy chìa khóa, quên tên người đối diện hay người trong một câu chuyện đang kể, hoặc bước vào một căn phòng rồi không thể nhớ tại sao lại vào đó. Đối với đa sốthì vấn đề chỉ là do thiếu ngủ hoặc căng thẳng tạm thời. Nhưng đôi khi những triệu chứng này trở nên thường xuyên hơn và đáng lo ngại hơn khiến chúng ta cần đến gặpbác sĩ để được chẩn bệnh chính xác. Rất may là nghiên cứu gần đây cho thấy nhiều loại thực phẩm có thể giúp ngăn ngừa bệnh Alzheimer và thậm chí có thể đảo ngượccác vấn đề của trí nhớ khi chúng được phát hiện sớm. Khi xem xét óc của những người bệnh Alzheimer's, các nhà khoa học thấy giữa các tế bào não là mảng nhỏ li ti, được gọi là mảng beta- amyloid. Dưới kính hiển vi, những mảng này trông giống như viên thịt hoặc cuộn len. Họ cho rằng những mảng này đã dần dần phá hủy các tế bào óc. Tại sao có những mảng này? Các nhà nghiên cứu ở Mỹ và châu Âu cho rằng câu trả lời tìm thấy trong thói quen ăn uống của chúng ta. Một số thức ăn làm dễ bị bệnh Alzheimer's và ngược lại, một số khác giúp ngăn chặn bệnh. "Chất béo xấu"Chất béo bão hòa thuộc loại chất béo không lành mạnh: đây là chất béo trong thịt vàđặc biệt là trong các sản phẩm sữa, chẳng hạn như phô mai và kem. Các nhà nghiên cứu trong Chicago Health and Aging Project thấy rằng những người ăn nhiều những “chất béo xấu“ có hơn ba lần nguy cơ mắc bệnh Alzheimer's so với những người tránh ăn những chất béo này. Và đây là điều đáng sợ: Nếu bạn ăn hai quả trứng và một miếng bacon (thịt ba chỉ ướp mặn) cho bữa ăn sáng, một miếng ức gà không da với một ly sữa cho bữa ăn trưa, và một bánh pizza pho mát nhỏ cho bữa ăn tối, bạn đã lấy đủ “chất béo xấu” để được xếp vào nhóm có nguy cơ cao. Đúng vậy. Những thức ănhàng ngày mà chúng ta quen ăn khiến chúng ta bị xếp vào nhóm có nguy cơ bị bệnh. Chất transfat có trong bánh donut và các món ăn vặt khác cũng làm tăng nguy cơ bị các vấn đề của trí nhớ sau này. Sắt , đồng và các kim loại khácKim loại - sắt và đồng - từ các loại thực phẩm và từ nồi chảo có thể là một phần củavấn đề. Chúng ta đều cần sắt cho hồng huyết cầu và đồng cho các phân hóa tố (enzyme), nhưng với số lượng lớn, các kim loại này sản xuất các gốc hóa học làm tổn thương các tế bào não. Các kim loại này đến từ đâu? Chất sắt có trong các loại thịt và tất nhiên là trong chảo gang, do đó nên dùng nồi chảo làm bằng thép không rỉ (stainless steel), an toàn hơn. Chất đồng được tìm thấy trong ống nước - vì vậy ta nên dùng máy lọc nước - cũng như trong gan và nhiều loại thực phẩm khác. Cả chất sắt và chất đồng thường được thêm vào các loại vitamin, vì vậy nên đọc kỹ nhãn hiệu vitamin bạn mua và chọn những loại thuốc không có các kim loại này. Chất nhôm cũng đã được tìm thấy trong óc của bệnh nhân Alzheimer's. Trong khi các nhà khoa học tiếp tục tranh luận xem các kim loại này là thủ phạm hay chỉ là một chất có mặt vô tội vạ, tốt hơn hết là ta đừng đem chúng vào người. Không nên dùng nồi nấu bằng nhôm và đọc nhãn hiệu kỹ khi mua baking powder, thuốc antacid, và thực phẩm chế biến sẵn để chọn loại không có các chất này. Thực phẩm bảo vệ khỏi bệnh Alzheimer'sKhông phải tất cả các thực phẩm đều có hại. Một số thực phẩm thực sự bảo vệ óc. Chúng là: - Các loại hạt chứa nhiều vitamin E, đã được chứng minh là giúp ngăn ngừa bệnh Alzheimer's. Đặc biệt tốt là hạnh nhân (almonds), quả óc chó (walnuts), quả phỉ (hazelnuts), hạt thông (pinenuts), quả hồ đào (pecans), quả hồ trăn (pistachios), hạthướng dương (sunflower seeds), hạt vừng (sesame seeds), và hạt lanh (flaxseed). Chỉ cần một ounce (một nắm) mỗi ngày là đủ. - Quả việt quất (blueberries) và nho có được màu đậm là từ anthocyanins, chất chống oxy hóa mạnh mẽ giúp học tập tốt và tăng trí nhớ trong các nghiên cứu tại Đại họcCincinnati. - Khoai lang là thức ăn chính của người Okinawa, giống người sống lâu nhất trên trái đất. Họ cũng được biết là có thể duy trì tinh thần minh mẫn vào tuổi già. Khoai lang chứa nhiều beta- carotene, một chất chống oxy hóa mạnh mẽ. - Các loại rau lá xanh cung cấp sắt trong một hình thức dễ hấp thụ hơn khi cơ thể cần nhiều và ít được hấp thụ khi cơ thể bạn đã có dư, bảo vệ bạn khỏi tình trạng quá dưchất sắt, có thể gây hại cho não. Rau xanh cũng có rất nhiều chất folate, một loại vitamin B bảo vệ óc. - Các loại đậu và chickpeas có vitamin B6 và folate cũng như protein và calcium, không có chất béo bão hòa hoặc transfat. - Vitamin B12 rất cần thiết để giúp hệ thần kinh và các tế bào não khỏe mạnh. Folate , vitamin B6 và vitamin B12 hợp chung sẽ loại bỏ homocysteine, là chất tích tụ trong máu - giống như chất thải nhà máy - và làm hư não. -Ăn chay, nhất là ăn thuần chay rất tốt. Một nghiên cứu tại đại học Loma Linda cho thấy người ăn chay không chỉ sống lâu hơn những người ăn thịt mà họ giữ được sự minh mẫn lâu dài hơn. Vận động bộ óc thường xuyênDùng những cách sau để vận động bộ óc: - Làm trái tim đập mạnh hơn: Đi bộ nhanh 40 phút ba lần mỗi tuần mang oxygen lên óc và có thể đảo ngược sự co rút do tuổi cao của óc, theo trường đại học Illinois. - Vận động trí óc: Những bài tập kích thích não - từ sách, báo hay các bài tập não đã được chứng minh là làm óc mạnh lên. - Ngủ. Giấc ngủ rất cần thiết để gìn giữ trí nhớ. Nửa đầu của đêm rất quan trọng cho giấc ngủ sóng chậm, khi bộ óc tổng hợp các sự kiện và từ ngữ học được trong ngày. Nửa thứ hai của đêm nhấn mạnh giấc ngủ REM, khi những cảm xúc và kỹ năng thể lý được tổng hợp. Nên đi ngủ vào khoảng 10:00 tối, và ngủ đủ tám tiếng hoặc nhiều giờ như có thể được. Bảo vệ trí nhớ của bạnTránh những "chất béo xấu" trong các loại thịt , các sản phẩm sữa, bánh ngọt ăn vặt, và tận dụng các chất dinh dưỡng tốt trong các loại rau, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt , và đậu. Vitamin B12 là một chất dinh dưỡng cần thiết. Và đừng quên tập thể dục cho thể xác cũng như tinh thần mỗi ngày. Đừng chần chờ. Nếp nhăn bắt đầu rất sớm và cuộc sống cũng như tóc bạc và những thay đổi trong bộ óc đã bắt đầu và tiến hành trước khi hầu hết chúng ta nhận ra. Ngay bây giờ là thời gian để tận dụng các loại thực phẩm tốt cho não . Bác sĩ Nguyễn Thị Nhuận -http://m.viendongdaily.com
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2017 0:25:43 GMT 9
Bí quyết cực hay giúp bạn ghi nhớ 90% những gì đã họcLàm sao để có thể ghi nhớ được hết những gì bạn học được? Bí quyết ghi nhớ cực hay dưới đây sẽ khiến bạn bất ngờ đấy! Bạn mong sao mình có thể học nhanh hơn, ghi nhớ lâu hơn? Bất kể bạn đang học một ngoại ngữ mới, nhạc cụ mới hoặc một môn thể thao mới thì đều có thể tận dụng lợi ích từ phương pháp học tập tăng tốc*. Ai cũng chỉ có 24 giờ mỗi ngày và chìa khóa để có thể học tập tăng tốc là bạn không những phải tăng thêm số giờ học mà còn phải biết cách tối ưu hóa hiệu suất học tập ngay từ đầu. Phép loại suy cái xô nướcBạn đổ đầy nước vào một cái xô, tất nhiên là sẽ chẳng có vấn đề gì xảy ra cho đến khi nước đầy lên và tràn ra khỏi xô. Có phải bạn đã từng nghĩ rằng: Não bộ cũng tương tự như xô, chỉ đến khi lượng kiến thức bạn nạp vào quá đầy đầy thì nó mới "tràn" ra ngoài? Não bộ cũng tương tự như xô, chỉ đến khi lượng kiến thức bạn nạp vào quá đầy thì nó mới "tràn" ra ngoài? Nhưng sự thật là não bộ của chúng ta không hoạt động theo cách thức này. Trên thực tế, hầu hết thông tin vào não bộ sẽ bị rò rỉ dần dần. Vì thế, thay vì coi não bộ giống như một cái xô có thể chứa đựng và duy trì mãi một lượng nước thì hãy coi nó như một cái xô bị rò nước. Bạn đang nghĩ rằng phép so sánh trên đây có phần quá tiêu cực phải không? Nhưng điều này hoàn toàn bình thường. Trừ những người có bộ nhớ siêu phàm thì não bộ của chúng ta không được thiết kế để ghi nhớ được hết mọi thứ, thông tin hay những trải nghiệm mà chúng ta có được trong cuộc sống. Hãy coi bộ não như một cái xô bị rò nước. Vậy, làm thế nào để có thể ghi nhớ được 90% những gì bạn đã học? Sự phát triển của mô hình Kim tự tháp học tập (Learning pyramid) trong những năm 1960 - được phổ biến rộng rãi bởi Viện NTL ở Bethel, Maine đã chỉ ra cách thức mà nhân loại đã học như thế nào. Khi nghiên cứu, người ta nhận thấy rằng con người sẽ ghi nhớ được: - 5% những gì họ học được thông qua giảng dạy (chẳng hạn ở trường Đại học hay Cao đẳng). - 10% những gì họ học được từ văn bản (chẳng hạn đọc sách, báo). - 20% những gì họ học được thông qua những hình ảnh minh họa (chẳng hạn như các ứng dụng hay video). - 30% những gì họ học được thông qua hiện vật trưng bày, triển lãm. - 50% những gì họ học được thông qua thảo luận nhóm. - 75% những gì họ học được thông qua thực hành. - 90% những gì họ học được nếu áp dụng ngay lập tức kiến thức đó. Kim tự tháp học tập.Vậy thì, chúng ta cần học thế nào để có được hiệu quả cao nhất? Sách vở, các bài giảng trên lớp, video... đều là những phương pháp học tập không có sự tương tác và kết quả là 80 - 95% kiến thức đi vào tai này nhưng lại rơi rụng ở tai kia. Vấn đề ở đây là thay vì bắt ép não bộ phải ghi nhớ thông tin qua những phương thức thụ động như vậy thì chúng ta nên tập trung thời gian, năng lượng và nguồn lực vào những phương pháp mang tính chất thực hành nhiều hơn, mang lại hiệu quả cao hơn trong một khoảng thời gian ngắn hơn. Điều này có nghĩa là: * Nếu bạn muốn học ngoại ngữ thì bạn cần tập trung nói chuyện với người bản địa và nhận phản hồi ngay lập tức từ phía họ thay vì học trên các ứng dụng di động. * Nếu bạn muốn giữ dáng thì hãy luyện tập trực tiếp với các huấn luyện viên thể hình thay vì xem các video hướng dẫn trên YouTube. * Nếu bạn muốn học cách chơi một nhạc cụ mới thì hãy học từ các giáo viên âm nhạc. Điều này sẽ dẫn đến vấn đề như sau: Thời gian hay tiền bạc? Đã rất nhiều lần bạn được nghe ai đó nói: "Tôi không có thời gian để làm việc X này..." phải không? Trong tất cả mọi thứ mà tạo hóa đã ban tặng cho con người thì thời gian là thứ công bằng nhất. Bất kể bạn là ai, ở đâu trên thế giới này, phấn đấu nhiều như thế nào thì bạn cũng chỉ có 24 giờ mỗi ngày mà thôi. Khác với tiền bạc, mỗi phút đều là duy nhất và khi nó trôi qua, bạn không thể lấy lại được. Vậy nếu tất cả chúng ta đều chỉ có 24 giờ mỗi ngày như nhau thì cần giải thích thế nào về sự thành công của những triệu phú trẻ tuổi cũng bắt đầu từ hai bàn tay trắng hay một sinh viên học toàn thời gian ở trường vẫn có thể thành thạo một ngôn ngữ khác ngoài tiếng mẹ đẻ chỉ trong 3 tháng rưỡi? Đó là vì họ đã biết cách tối ưu hóa hiệu suất thay vì chỉ tính hiệu quả. "Bạn có thể trì hoãn, nhưng thời gian thì không" - Benjamin Franklin. Nếu bạn còn thấy khó hiểu về kết luận trên thì hãy tham khảo ví dụ sau đây: Chẳng hạn, một anh A dành 1 tiếng đồng hồ để học ngoại ngữ và ghi nhớ được 90% lượng kiến thức anh ta thu nạp được. Ngược lại, anh B dành 9 tiếng để học và chỉ ghi nhớ được 10% những gì đã học. Chỉ cần làm một phép tính đơn giản, chúng ta cũng có thể thấy rằng, mặc dù anh B dành hơn anh A 9 lần thời lượng học nhưng lượng kiến thức ghi nhớ được thì chỉ tương đương. Khoan hãy bàn về những con số trên mà hãy cùng rút ra bài học cho chính mình. Cách để có thêm nhiều thời gian hơn không phải là nỗ lực cho những lợi ích nhỏ mà hãy chạy theo những lợi ích lớn hơn. Thay vì dành thời gian xem các video trên YouTube, bạn có thể lựa chọn một phương pháp học tập hiệu quả nhất ngay từ đầu. Hoặc liên tục thay đổi các phương án thay thế miễn phí thay vì phải đầu tư vào một giải pháp tốn kém thời gian, công sức và tiền bạc. Thời gian là hữu hạn, bạn nên tập trung phần lớn thời gian để áp dụng phương pháp mang lại hiệu quả cao nhất và nói không với những thứ còn lại. Khả năng ghi nhớ nhiều kiến thức trong thời đại lượng thông tin quá nhiều và quá "nhiễu" là một kỹ năng vô cùng quan trọng giúp bạn dễ dàng đạt được bất cứ mục tiêu nào một cách nhanh chóng. Bằng cách học ghi nhớ nhiều thông tin mỗi ngày, bạn sẽ chỉ phải dành ra chút ít thời gian để ôn lại những kiến thức cũ và có nhiều thời gian hơn để học cái mới. Tất cả chúng ta đều đang mất dần đi thời gian còn lại của bản thân và ngày hôm nay chính là lúc mà bạn trẻ trung và sung sức nhất trong suốt quãng đời còn lại. Câu hỏi đặt ra là: Bạn sẽ sử dụng quỹ thời gian đó như thế nào là tốt nhất? *Học tập tăng tốc (Accelerated Learning hoặc suggestopedia, hoặc Superlearning): một phương pháp dạy và học thúc đẩy phát triển tâm lý tích cực trong truyền đạt và hỗ trợ trí nhớ. Theo Trí Thức Trẻ -http://khoahoc.tv *************************************** GIÀ QUÁ LÚ? BS VŨ QUÍ ĐÀI Con cái chăm sóc cha mẹ khi già yếu là bổn phận mà cũng là truyền thống tốt đẹp của dân ta. Tuy vậy ta cũng thường nghe nhiều câu than thở, như: "Bà già tôi hồi này lẫn nặng rồi, đâu có dám để cụ ở nhà một mình nữa được!", hay là: "Ông cụ già rồi đâm đốc chứng!". Tuổi bắt đầu lú lẫn hay thay tính đổi nết thì tùy người. Có khi chưa tới sáu mươi, có khi ngoài bảy mươi mới phát hiện. Cũng có người sống tới ngoài chín mươi mà không thay đổi là bao. Những chứng lú (dementia) như vậy, ngày trước thì cho là tiến trình tự nhiên của tuổi già, coi như là "hết thuốc chữa". Nhưng càng ngày càng thấy là có nhiều căn do bệnh tật sinh lú lẫn, và trong nhiều trường hợp, có thể, nếu không chữa được bệnh thì ít ra cũng làm cho bệnh chậm lại. Người già lú lẫn như thế nào? Để đâu quên đó: Để chùm chìa khóa nhà đâu đó rồi quên lú đi, thì cũng là thường. Nhưng người bị bệnh lú, có khi cất chìa khóa vào ngăn kéo đựng vớ, hay là bỏ kính đeo mắt vào tủ lạnh rồi đi tìm trong hộp đựng giầy, mà vẫn cho là tự nhiên như không! Đã vậy lại còn nổi quạu nếu con cháu nó có nhắc nhở, giống như bị chạm tự ái "Thì tao vẫn biết, việc gì phải nói?". Quên thời gian, không gian, quên cả người quen: Thường ta cũng nhiều khi quên không nhớ hôm nay là thứ mấy, có khi quên không biết là tháng mấy. Nhưng người bị bệnh thì không nhớ luôn cả năm nay là năm 1999, ở trong nhà mình mà không biết mình đang ở đâu. Người bình thường, có khi gặp bạn cũ, người ta nhận ra mình, mà mình không thể nào nhớ ra bạn được. Người bệnh lú thì nặng hơn nhiều. Ôm chầm lấy một người bà con xa rồi hỏi: "Ông có phải bố tôi không?", hay là nhìn chăm chăm vào mặt bà vợ mà nói: "Tôi không quen bà này!". Tật cầm nhầm: Vào tiệm mua thứ này thứ khác rồi lừng lững đi ra không trả tiền. Con cháu nó để dành đồng quarter để đi giặt đồ, thì cứ đem lén cất giấu đi, rồi quên tịt không biết là để ở đâu. Nói năng lung tung: Đối thoại khó khăn, vì nhiều khi nói nửa chừng rồi bí. Hoặc là giao tế lộn xộn. Mời người ta uống nước, người ta đã cầm tách nước trên tay đang uống, lại đến bên đon đả hỏi: "Bác uống nước không?" Hay là hỏi thăm người bạn: "Các cháu có khỏe không?" Người ta vừa trả lời được vài phút, lại lập lại y hệt câu hỏi trước. Tật lục lọi: Người bị bệnh lú lẫn nhiều khi kiếm cớ tìm kiếm vật gì rồi lục lọi lung tung ngăn bàn ngăn tủ, làm mọi thứ bừa bãi. Lục lọi đồ của mình chưa đủ, có khi lục lọi cả đồ của người khác nữa. Ăn mặc lộn xộn: Áo sơ mi có khi mặc ngược, hay là mặc áo may ô ra ngoài sơ mi. Có khi ở truồng tồng ngồng ngồi giữa phòng khách. Cũng có người thủ dâm ngay trước mặt người khác. Nhưng thường thì người mắc bệnh lú lẫn không có hành vi nào nguy hiểm cho xã hội. Đi lang thang: Một bà cụ tự nhiên bỏ một bộ quần áo trong túi xách rồi cứ thế ra cửa từ từ đi khỏi nhà. Con cháu tìm hết hơi mấy khúc đường mới gặp. Cụ tỉnh như không, nói là cụ đi về quê. Có người đi từ phòng ngủ vào phòng tắm, rồi quên phứt không biết mình đang ở đâu, cứ đi loanh quanh tìm đường về giường ngủ. Nhất là khi dọn nhà mới, người bệnh dễ bị lạc hướng ngay trong nhà . Đầu óc mụ đi, hai với hai là bốn cũng không biết: Mất khả năng suy nghĩ trừu tượng. Người có học đàng hoàng, mà làm tính cộng, tính trừ đơn giản cũng không xong Người bị lú lẫn thay tính đổi nết. Cũng vì bị quên lú, mà người bệnh cảm thấy mình sống lạc lõng ở một thế giới xa lạ; người lạ, nơi chốn lạ, những câu đối thoại cũng không hiểu nổi. Vì vậy sinh ra những thay đổi tính nết như sau: Lo âu: Đã lo âu, mà lại lo vô căn cứ, không hiểu tại sao mình lo âu, chỉ có cảm tưởng như mọi sự bỗng rối bét, mà mình thì lúng túng vô phương giải quyết. Bứt rứt bực bội: Mình lúng túng không làm gì được, mà có ai cất nhắc giúp đỡ, thì lại khó chịu bực bội, có khi ném đồ ném đạc, hay là quát tháo người khác. Phiền muộn chán đời: Không thiết tha cái gì cả, dù là ăn uống ngủ nghê, có khi ngủ li bì. Có người biết mình bị bệnh có người không, nhưng thường uống thuốc phiền muộn (antidepressant) thì bớt. Đa nghi vô lý: Nhìn đồ ăn không ăn, vì nghi có người đánh thuốc độc. Thấy bà vợ, lại tưởng người lạ, rồi nghi là người ta vào nhà mình trộm cướp. Nghe còi xe chữa lửa, tưởng cảnh sát tới bắt. Tiếng người nói nghe không rõ, thì cho là người ta đang xầm xì nói xấu mình. Mất tính tự lập: Theo đeo người thân từng bước, và muốn có người ở bên săn sóc. Ngược lại, có người chỉ thích ngồi buồn bã một mình, vì thấy chung quanh quá xa lạ. Bệnh lú ảnh hưởng tới sức khỏe Vì hay quên, hay vì những thay đổi tính nết như trên, mà sức khỏe có thể bị ảnh hưởng. Ngồi lâu quá ở một vị thế sinh trầy da thành loét da khó lành. Khát nước không nhớ uống nước sẽ bị thiếu nước nguy hiểm như người say nắng. Ngoài ra, còn có thể bị táo bón, tiêu chảy, sưng phổi trầy da, có khi gãy xương vì vấp ngã. Tất cả đều là do cái vô ý vô tứ của ngươi bị bệnh lú lẫn. Ngoài ra còn nhiều người bị tiêu tiểu bùa bãi không giữ gìn được. Khám bệnh đều làm gì? Tuy rằng chứng lú lẫn thực sự thì không chữa được, nhưng cái lợi của việc đi khám bệnh là tìm ra những bệnh khác trong người, sinh lú lẫn, mà những bệnh khác này thì lại trị được. Những bệnh có thể sinh một số tình trạng giống như lú lẫn, thí dụ như: bệnh bướu cổ thyroid, bệnh nhiễm trùng, chất điện giải xáo trộn, thiếu sinh tố, bị thuốc làm độc, hay là bệnh phiền muộn. Thường thì Bác sĩ sẽ hỏi về các chứng của người bệnh, thuốc men đang dùng, hỏi về gia đình giòng họ, khám tổng quát, chú ý nhiều đến cao máu, và tiểu đường. Sau đó sẽ thử máu và có thể chụp hình cắt lớp (CT) hay là cộng hưởng từ (MRI) để loại trừ trường hợp bướu trong óc. Nếu không phải là những bệnh hay là nguyên do nào sinh lú lẫn trong nhất thời, thì bấy giờ mới coi là bị bệnh lú lẫn thực sự. Nguyên nhân của bệnh lú lẫn (thực sự) : Phần lớn người già bị bệnh lú lẫn là do bệnh Alzheimer. Có một ít trường hợp Alzheimer có di truyền trong gia đình, nhưng phần đông thì không. Nguyên do tại sao bị Alzheimer, thì cũng chưa biết rõ. Mổ tử thi thì thấy có thoái hóa não, và xét nghiệm kính hiển vi thì thấy có hai thứ mô đặc biệt trong óc, một ở bên trong sợi dây thần kinh, một ở bên ngoài. Tuy vậy cũng đã có trường hợp người minh mẫn bình thường mà cũng có hai thứ đó. Nguyên nhân thứ nhì, là do bị tai biến mạch máu não (stroke, trúng gió) do cao máu, sinh nhiều đốm nhỏ của óc bị hư, gọi là multi-infarct dementia (infarct là chỉ cái đốm não bị hư) Người đánh "bốc", bị đập mạnh vào đầu nhiều, cũng có thể bị bệnh lú. Bệnh AIDS cũng làm hư óc, và sinh lú được. Hồi gần đây, báo chí có nói tới bệnh "bò điên" ở bên Anh. Có một bệnh tương tự như vậy, tên là bệnh Creutzfeld-Jacobs là một bệnh nhiễm trùng óc, cũng sinh lú lẫn trước khi chết. Cuộc đời về chiều : Từ khi thấy hay quên, thấy có những dấu hiệu là lạ trong tính tình, trong cách sinh hoạt, cho tới khi Bác sĩ định bệnh là bị Alzheimer, hay lú, thì độ một hai năm. Khoảng thời gian chừng ba, bốn năm sau đó thì người nhà còn săn sóc được. Đến khi nặng quá, con cháu không cưu mang nổi phải đưa vào nhà dưỡng lão, thì thường kéo dài thêm được vài năm nữa. Thời gian hoàng hôn của cuộc đời này, người bệnh đáng được săn sóc chu đáo với tất cả tình thương, tuy là săn sóc người bị bệnh lú là cả một nhiệm vụ khó khăn và nặng nề. Bs Vũ Quí Đài, M.D., Ph.D., Cựu Giáo Sư Khoa Trưởng Y Khoa Đại Học Sàigòn Bài này chỉ nhằm cung cấp những thông tin căn bản về sức khỏe và y tế. Nếu cần chữa bệnh, xin liên lạc trực tiếp với Bác sĩ của bạn. Nguồn Nguyệt san Việt Nam
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 17, 2018 8:37:19 GMT 9
8 Dấu Hiệu Sớm Của Bệnh Parkinson Dễ Bị Cho Qua16 Tháng Giêng 20181 8 Dấu Hiệu Sớm Của Bệnh Parkinson Dễ Bị Cho Qua Parkinson, hay thường gọi là Chứng liệt rung, là 1 loại bệnh do suy thoái một phần não gọi là “Substantia nigra”, gây ra tình trạng run (lắc tay), cứng cơ bắp, rối loạn chuyển động, và cũng có nhiều bệnh nhân mắc bệnh Parkinson bị trầm cảm, hay mất trí nhớ... Ở giai đoạn đầu, rất khó nhận biết các triệu chứng của bệnh, nên thường tới giai đoạn phát bệnh thì mọi việc đã quá muộn để có thể chữa trị. Hiện trên thế giới có khoảng 6.3 triệu người mắc bệnh Parkinson. Sau đây là các triệu chứng cảnh báo sớm mà bình thường nhiều người không để ý. Việc lưu ý sẽ giúp mọi người có thể nắm bắt được và giúp cho việc chữa trị dễ dàng hơn rất nhiều. Chữ viết tay bị thay đổi: Nếu chữ viết tay của một người bị thay đổi mà không có lý do hay chủ ý thì nên cẩn thận, đây cũng có thể là 1 cảnh báo sớm cho khả năng bị Parkinson. Có khá nhiều bệnh nhân bị triệu chứng sớm là các cử động bị chậm dần, hoặc bắt đầu có những vấn đề với việc làm các tác vụ lặp đi lặp lại như viết chữ. Giảm khả năng nhận biết mùi: Nếu một người tự dưng cảm thấy mình không còn ngửi thấy những thứ nặng mùi, hoặc đến cả món ăn ưa thích cũng không còn có mùi vị đã quen thuộc, nên đến gặp bác sĩ kiểm tra. Tuy đây không phải là những triệu chứng thường gặp của bệnh, nhưng theo bác sỹ Hall của trường đại học Y Rush tại Chicago, với những bệnh nhân mà bà đã chữa trị phần lớn đều có nhắc đến việc không còn có thể nhận biết mùi vị là một trong những triệu chứng sớm nhất mà họ gặp phải. Có một giả thiết là các khối protein alpha-synuclein, loại được tìm thấy trong não của tất cả các bệnh nhân Parkinson, có thể được sản sinh ra trong phần não chịu trách nhiệm về khứu giác trước khi lan ra các vùng khác và ảnh hưởng đến chức năng cử động. Giấc ngủ có vấn đề: Nếu trước đây một người khá dễ ngủ và tự dưng cảm thấy trằn trọc khó ngủ, trằn trọc hoặc ngã xuống giường mà không kiểm soát, cũng nên suy xét việc đi kiểm tra sức khỏe. Tuy còn cần phải nghiên cứu nhiều hơn sự liên quan giữa ngủ và Parkinson, nhưng cũng có 1 giả thiết về việc thoái hoá 1 số phần nhất định trong não cũng dẫn đến hiện tương giấc ngủ của bệnh nhân có vấn đề. Táo bón: Nếu một người không đi vệ sinh đều đặn hoặc việc đó càng ngày càng trở nên khó khăn, cũng có thể là 1 triệu chứng sớm của Parkinson. Cũng tương tự với các dây thần kinh và phần não có liên quan đến giấc ngủ bị thoái hoá, căn bệnh cũng có thể làm thay đổi hệ thần kinh tự động của cơ thể, nơi có nhiệm vụ quản lý vụ tiêu hoá và chức năng ruột. Việc bị táo bón thường xuyên nếu kết hợp cùng với các triệu chứng khác là dấu hiệu cho thấy bệnh nhân cần đến bác sĩ kiểm tra. Trầm cảm: Mối liên kết giữa trầm cảm và Parkinson là có thật, một ví dụ điển hình là cố diễn viên hài Robin Williams. Khi biết mình bị Parkinson hay các bệnh khó chữa, nhiều người sẽ cảm thấy buồn bã, rồi dẫn đến trầm cảm nếu không được tư vấn tâm lý sớm. Tuy nhiên, cũng có những bệnh nhân bị trầm cảm rất lâu trước khi họ bắt đầu có những triệu chứng của Pảkinson. Theo bác sỹ Michele Tagliati, giám đốc của chương trình Rối loạn cử động tại trung tâm Cedars-Sinai California, đặc điểm của Parkinson là rối lại chuyển động gây ra bởi việc thiếu dopamine trong não, ngoài ra còn bởi việc giảm số dây thần kinh truyền tin như serotinin, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc trầm cảm. Những người bệnh thường tự thấy thương hại bản thân và không còn hứng thú với các sở thích cũ, ngoài ra họ còn có cảm giác buồn nản và vô vọng. Nếu không kịp thời đến khám bác sĩ, khả năng dẫn đến tự sát do trầm cảm là khá cao. Rung hoặc lắc nhẹ khi đang nghỉ ngơi: Việc bị rung cơ là bình thường nếu một người vừa tập thể dục xong hoặc khi họ lo lắng, hiện tượng còn có thể gặp trong một vài tác dụng phụ của thuốc. Tuy nhiên, nếu họ có những cơn rung nhẹ ở ngón tay, tay, cằm, môi hoặc các cơ khi cơ thể và các cơ đang trong trạng thái nghỉ, đó có thể là 1 triệu chứng của Parkinson. Khoảng 70% người bệnh sẽ trải quá tình trạng rung cơ, và triệu chứng sẽ rõ hơn nếu họ bị trầm cảm hoặc hưng cảm. Khó chuyển động hoặc chuyển động bị chậm lại: Hãy chú ý đến đơ cứng khác thường ở các khớp cùng với sự yếu đi của các cơ mà không tự chấm dứt hoặc gây ảnh hưởng đến các tác vụ hàng ngày như đi lại, đánh răng, cài cúc quần áo hay nấu ăn. Nếu khi đi lại, phần tay không còn tự vung vẩy như bình thường, hoặc phần chân cảm giác dính chặt lên sàn làm người bệnh không muốn cất bước tiếp, hoặc bạn bè phản ánh lại rằng một người nhìn “cứng đơ” khi đi lại mặc dù họ không hề bị chấn thương, họ nên di khám ngay. Bị mất giọng khác thường hoặc mặt “poker face”: Một trong những triệu chứng khá rõ, đặc biệt là trong trường hợp giọng nói bị yếu dần đi không chủ ý. Còn trường hợp mặt một người bị cứng đơ, không cảm xúc, cũng nên chú ý theo dõi hoặc tốt nhất là nên đi kiểm tra sức khỏe ngay. Phần lớn các triệu chứng trên đều là một phần của những cảnh báo sớm về bệnh Parkinson. Có thể người bệnh sẽ gặp 1 hoặc 1 số triệu chứng sớm, nhưng phần lớn đều sẽ bỏ qua chúng. Việc chú ý đến những triệu chứng khác thường, ghi chép lại, khi khám sức khoẻ định kì nên hỏi các bác sĩ là việc cần thiết với tất cả mọi người để phòng ngừa bệnh tật.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 20, 2018 4:55:48 GMT 9
Bệnh cúmBác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng January 18, 2018 Hỏi -Mấy hôm nay thấy nhiều người ho hen, nghe nói mùa cúm đang đến và rất nặng, có đúng như vậy không? Xin bác sĩ cho biết chi tiết hơn. -Khi bị ho hen, làm sao để phân biệt là mình đang bị cúm, hay cảm, hay nhiễm trùng viêm họng, hay do nguyên nhân nào khác. Cách chữa trị có khác nhau không? Khi nào thì nên đi gặp bác sĩ? Đáp Dựa theo cập nhật hàng tuần mới nhất của CDC (Trung Tâm Quản Lý và Phòng Bệnh Hoa Kỳ), tính đến ngày 12 Tháng Giêng, 2018, mùa cúm năm nay có vẻ nặng giống như hồi năm 2014-2015, cũng là một mùa cúm nặng. California đang nằm trong nhóm 10 tiểu bang có tỉ lệ bị nhiễm cúm nặng nhất. Trong mùa cúm năm nay, tỉ lệ bị nhập viện cao nhất xảy ra ở người từ 65 tuổi trở lên (98 trường hợp trên mỗi 100,000), sau đó là lứa tuổi trung niên (24 trường hợp trên mỗi 100,000), và trẻ em dưới 5 tuổi (16 trường hợp trên mỗi 100,000). Tỉ lệ tử vong do viêm phổi và cúm tính đến 23 Tháng Mười Hai, 2017, là 7%. Theo khuyến cáo mới nhất của CDC, các thuốc chủng ngừa cúm theo dạng hít, không có hiệu quả như mong đợi, và được khuyến cáo là không nên dùng. Các thuốc chích ngừa vẫn được khuyến cáo nên dùng như thường, và những ai chưa chích ngừa cúm vẫn nên đi chích ngừa càng sớm càng tốt. *** Dù có một số triệu chứng giống nhau, thật ra cảm và cúm là hai bệnh khác nhau. Nói chung, cảm thường nhẹ hơn cúm, và thường gặp hơn cúm rất nhiều. Kỳ này ta sẽ tìm hiểu đôi điều cần biết về cúm. Cúm (tiếng Mỹ gọi là “flu” hay “influenza”), cũng là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, tuy nhiên nó thường nặng hơn cảm. Nó thường xảy ra trong các cơn dịch địa phương, và thường lên đến cao điểm vào mùa Đông, hầu như hằng năm. Khi lan tràn toàn thế giới, nó có thể tạo thành đại dịch. Cúm cũng gây ra nhiều triệu chứng như cảm, có thể nhẹ hay nặng, tùy theo loại vi rút và sức đề kháng của bệnh nhân. Dù là vi rút đường hô hấp, cúm có thể ảnh hưởng các hệ thống khác của cơ thể. Các triệu chứng của cúm thường là sốt cao, ớn lạnh, rêm, ê ẩm mình mẩy, nhức đầu, đau họng, sổ mũi, kiệt sức, ho, tiêu chảy, chóng mặt,… Bệnh nhân có thể bị vài, hoặc tất cả các triệu chứng kể trên. Cúm có thể dẫn tới các biến chứng nguy hiểm, bị bội nhiễm bởi vi trùng. Người trên 50 tuổi, trẻ em nhỏ, những người bị bệnh mạn tính hay bị suy giảm miễn dịch, là những thành phần dễ bị các biến chứng nguy hiểm nhất. Một số bệnh cũng có một số triệu chứng gần giống cảm cúm là viêm mũi dị ứng, viêm mũi do co giãn mạch máu ở mũi, các hội chứng do nhiễm các loại vi rút khác. Chẩn đoán cúm Cúm thường được chẩn đoán chỉ bằng thăm khám. Thăm khám thường đủ để bác sĩ quyết định chẩn đoán cúm và bắt đầu điều trị. Sốt cao, ớn lạnh, ho, đau rêm mình mẩy vào mùa cúm, thường là các triệu chứng điển hình của cúm. Có một số xét nghiệm (mà một trong những cách tương đối đơn giản, lẹ làng nhất, là thử chất tiết ra ở cổ họng) có thể giúp xác định cúm. Tuy nhiên, nó thường hữu ích hơn trong việc kiểm soát dịch (hơn là trong việc điều trị). Các xét nghiệm khác như quang tuyến, cũng chỉ thường để phát hiện các biến chứng của cúm. Nguyên nhân của cúm Vi rút cúm chỉ có ba nhóm khác nhau là A, B và C. Cúm A là loại thường gặp nhất, sau đó là cúm B, cúm C thường chỉ gây bệnh nhẹ với các triệu chứng mà chính bệnh nhân nhiều khi cũng không ghi nhận được. Điều đặc biệt của vi rút cúm, là chúng có thể thay đổi cấu trúc di truyền rất nhanh. Chính vì thế mà mỗi năm người ta đều phải chế ra các loại thuốc chích ngừa cúm mới nhằm thích hợp nhất với các chủng cúm được khảo sát là có nhiều khả năng gây ra dịch trong năm đó. Diễn tiến và các biến chứng của bệnh cúm Cúm có thể kéo dài chỉ 24 tiếng đồng hồ, hoặc có thể một tuần hay hơn. Trung bình, cúm kéo dài khoảng bốn đến năm ngày. Giống như cảm, khi nào còn có triệu chứng thì bệnh nhân còn có thể lây bệnh sang người khác. Biến chứng thường gặp nhất của cúm là viêm phổi. Các biến chứng có thể gặp khác của cúm là viêm cơ (bắp thịt), bị hội chứng Reye, viêm cơ tim, viêm màng cơ tim, và các biến chứng trên hệ thống thần kinh. Viêm phổi thường gồm các triệu chứng sốt, rét, khó thở, đàm, đau ngực. Viêm phổi có thể do chính vi rút cúm gây ra, do bội nhiễm vi trùng, hoặc do kết hợp cả hai. Viêm phổi do chính vi rút cúm gây ra thường ít gặp, nhưng thường nặng hơn do vi trùng. Những người dễ bị viêm phổi là người đã bị các bệnh tim phổi, bị các bệnh kinh niên như tiểu đường, bệnh thận, suy giảm miễn dịch, những người sống trong các viện chăm sóc, điều dưỡng, những người lớn tuổi. Viêm bắp thịt thường xảy ra ở trẻ em hơn, gây ra đau nhức bắp thịt kinh khủng, thường gặp nhất ở chân. Đau rêm bắp thịt là triệu chứng rất thường gặp trong bệnh cúm. Tuy nhiên, viêm bắp thịt thật sự ít gặp hơn rất nhiều. Hội chứng Reye, cũng thường gặp ở trẻ em, thường bắt đầu bằng buồn nôn, ói mửa, sau đó tổn thương gan, tổn thương thần kinh với các triệu chứng như co giật, hôn mê. Hội chứng này dễ gặp hơn ở trẻ em dùng aspirine. Do đó, nên tuyệt đối tránh dùng aspirin ở trẻ em bị cảm, cúm hoặc các bệnh có triệu chứng tương tự như vậy. Một số bệnh của hệ thống thần kinh khác, cũng có thể là biến chứng của cúm, như viêm não, viêm tủy sống… Viêm cơ tim và viêm màng cơ tim là các biến chứng ít gặp của bệnh cúm. (Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2018 13:21:48 GMT 9
Có dấu hiệu này lúc ăn cơm hãy đưa đi viện gấp, coi chừng xuất huyết não Khi tôi viết những dòng này còn đúng 10 ngày nữa là đến ngày giỗ đầu của mẹ. Từ ngày mẹ mất đến nay tôi luôn sống trong nỗi ám ảnh dằn vặt đến ngạt thở, hình ảnh giọt nước mắt mẹ trào ra khóe mắt khi tôi gào lên gọi mẹ lần cuối cứ ám ảnh từng giấc ngủ. Năm ngoái tôi mới ra trường chưa có việc làm, nên về nhà một thời gian. Vào 1 ngày cuối năm định mệnh, khi 2 mẹ con vừa ngồi ăn khuya với nhau xong, mẹ bảo thấy mệt nên đi ngủ trước. Ba tôi ngủ ngoài cửa hàng, nhà anh trai cách 1 con hẻm nhỏ, còn chị gái chỉ cách 1 con đường. Lúc mẹ đi ngủ được hơn nửa tiếng, tôi còn ngồi xem tivi ngoài phòng khách, nghe tiếng mẹ la ú ớ trong phòng, tôi nghĩ không biết mẹ nằm mơ gì mà la dữ vậy. Rồi 5 phút sau mẹ hét lên 1 tiếng thật to, tôi chạy vô phòng xem thấy mẹ đang nằm dưới đất, còn thấy quần ướt nhẹp. Tôi hơi bực, trong đầu nghĩ sao mẹ lớn rồi còn lại ghê thế này. Rồi tôi bật đèn sáng hơn, vì mẹ để đèn phòng ngủ màu đỏ nên tôi chỉ thấy mờ mờ, khi bật đèn sáng hơn, tôi lại định đỡ mẹ lên giường. Tôi lấy quần định thay cho mẹ, nhưng khi sờ vào người mới thấy mẹ lạnh ngắt thế này, tôi vội gọi: – Mẹ, mẹ bị sao vậy mẹ ơi. Mẹ dường như vẫn còn nghe được tiếng nên ráng nhướng mắt lên và thều thào ờ, ờ mấy tiếng rồi nín bặt. Tôi thấy không ổn, nên gào lên, rồi gọi điện thoại cho ba, anh trai và chị gái. Ba và các anh chị đến, nhìn thấy mẹ anh trai bảo chắc trúng gió rồi, sắp lập đông mà. Anh bảo tôi lấy đồ cạo gió, nhưng tôi nhất quyết không lấy, đòi anh kêu taxi đưa mẹ đi cấp cứu. 15 phút sau xe đến, dù đoạn đường từ nhà tôi đến bệnh viện khoảng 5 phút. Đưa mẹ vào phòng hồi sức cấp cứu các bác sĩ dùng tháy thở, rồi dùng 2 cái gì ấn vào người để điều hòa nhịp tim. Tôi không biết gọi là gì nhưng xem phim thấy người ta hay làm vậy. Qua khe cửa tôi thấy các bác sĩ chạy rần rần lại và 1 bác sĩ trực tiếp cứu mẹ, miệng la hét gì đấy rồi ông đứng thẫn người xuôi tay và lắc đầu. Biết có điềm không lành nhưng tôi cũng ráng cố gắng chờ tin. Ảnh minh họa 1 phút sau bác sĩ báo tin mẹ tôi đã chết trước khi đưa vô đây, dù hy vọng chết lâm sàng và sẽ cứu được nhưng quá trễ, đã qua thời gian vàng cứu chữa rồi. – Nhưng mẹ em bị sao mà chết vậy bác sĩ – Tôi hỏi trong nước mắt. – Bà bị tai biến mạch máu não, dẫn đến xuất huyết não, máu tràn qua cả màng não rồi không cứu được. Đáng lẽ em phải đưa bà vô bệnh viện sớm hơn sau để muộn dữ vậy. – Em không biết, khi em nghe mẹ la gì đó, chạy vô phòng, thấy mẹ nằm dưới đất còn ướt quần nữa, em còn thay quần cho mẹ xong rồi mới gọi điện cho ba và anh trai về nhà. Bác sĩ lại hỏi tiếp: – Vậy trước đó bà có biểu hiện gì khác thường không, chẳng hạn như bà có mắc cao huyết áp không, cách đây vài ngày giọng nói của bà có thay đổi gì không, bà ăn cơm có khó nuốt không, có bị rơi ra ngoài như em bé không, tay chân có khó điều khiển không? Tôi lục lại trí nhớ của mình thì hầu như có triệu chứng đó, còn về cao huyết áp thì mẹ đã bị nhiều năm nay rồi. Có lẽ vì vậy dạo gần đây tôi thấy mẹ nói chuyện mà giọng cứ run run, ăn cơm thì đổ cả bàn, tôi còn đùa sao mà mẹ cứ như con nít ấy, ăn rơi đầy kìa. Bác sĩ giải thích thêm, đó là dấu hiệu sớm nhận biết mẹ tôi bị tai biến mạch máu não. Nếu gia đình biết sớm đưa bà đến bệnh viện trong giai đoạn này thì còn cứu được, lúc đó 1 trong những mạch máu trong não đã bị vỡ rồi, tuy nhiên vẫn chưa xuất huyết nặng, chỉ cần phẫu thuật và nối lại là mẹ tôi sẽ không sao. Nghe bác sĩ giải thích xong tự nhưng lòng tôi quặn lại, tôi không còn đứng vững được nữa, thì ra sự vô tâm của mình đã làm mẹ chết như vậy. Là 1 người kề cận bên mẹ vậy mà những thay đổi của mẹ như vậy mình chẳng thèm để ý. Bây giờ tôi có ăn chay cạo đầu sám hối cũng chưa hết tội. Khi y tá đẩy mẹ ra bảo mọi người nhìn mặt mẹ lần cuối, tôi gào lên, mẹ ơi. Vậy nên khi thấy cha mẹ mình có những thay đổi này, nhất là cha mẹ có sẵn bệnh cao huyết áp lập tức đưa đi bệnh viện ngay. Dưới đây là các triệu chứng tai biến mạch máu não cần phải cảnh giác: – Nhức đầu dữ dội, đột ngột. Triệu chứng này có ở trên 50% số bệnh nhân. – Đột nhiên thấy chóng mặt, ù tai, choáng váng. Một bên chân bị yếu hẳn, không vững. – Đột nhiên một bên tay không cầm nắm chắc được đồ vật, dễ rơi thìa, đũa, bát. Nhặt lại vật dụng để rơi một cách khó khăn. – Đột nhiên rối loạn ngôn ngữ: nói khó, nói ngọng, mọi người không hiểu được bệnh nhân nói gì. Triệu chứng này có thể chỉ diễn ra trong ít phút, nhưng cũng có thể kéo dài cả ngày trước khi tai biến nghiêm trọng xảy ra: bệnh nhân không còn khả năng phát ngôn. – Đột nhiên bệnh nhân có cảm giác như kim châm, kiến đốt ở đầu chi tay, chân, một nửa bên trên người. – Xuất hiện những “khoảng vắng”: thỉnh thoảng bệnh nhân như mất hẳn sự kiểm soát của chính mình. Đang nói bỗng mất ngang trong giây lát mới lại tiếp tục được câu chuyện. Để rơi vật dụng trong tay mà không biết để rồi vài giây sau mới sực nhớ ra và nhặt lên. – Những rối loạn trí thức: bệnh nhân đột nhiên mất định hướng trong vài phút, vài giờ. Thoáng quên, thoáng điếc, mất định hướng về không gian và thời gian. – Đột nhiên xuất hiện cảm giác như có ruồi bay trước mắt, mất thị lực hoàn toàn hoặc một phần, hoặc một hai bên trong giây lát.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 26, 2018 6:58:07 GMT 9
Ðôi Ðiều Nhắc Nhở12/18/2018 Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức 1-Sổ mũi. Hắt hơi. Rát cổ = Xin đừng vội dùng kháng sinh. Thời tiết bắt đầu chuyển động. Ðâu đây rạng rỡ nắng hanh vàng với: “Heo may chớm đã lên mùa gió Ngăn ngắt chiêm bao lạnh chiếu nằm”-Vũ Hoàng Chương. Vâng : “lạnh chiếu nằm”, vì “Ðã nghe rét mướt luồn trong gió” Xuân Diệu. Cho nên nhiều người đã bắt đầu than phiền khó chịu với sổ mũi, hắt hơi, cảm lạnh..Và cũng không thiếu gì người vội vàng lục lọi tìm kiếm vài chục viên kháng sinh để tiêu trừ bệnh tật. Vì sợ rằng để lâu thì bệnh nặng thêm. Ðây là hành động đáng khen và cũng cần xét lại. Khen vì đã biết tự lo tự liệu nhưng có điều hơi “nhanh nhẩu đoảng”. Giới chức y tế khắp nơi vẫn luôn luôn nhắc nhở rằng thủ phạm những cảm lạnh vào cuối Thu đầu Ðông của mỗi năm không phải do vi khuẩn gây ra. Ða số hung thần là những cô những chú siêu vi sinh vật virus bất trị, ngang ngược. Kháng sinh đều bó tay trước sự hoành hành của các tiểu yêu này. Cho nên dùng kháng sinh chẳng những vô hiệu mà còn gây ra nhiều rủi ro xấu. Sự khác biệt giữa Virus và Vi khuẩn. Vi khuẩn (bacteria) là những vi sinh vật đơn bào, sinh sản vô tính bằng cách phân chia nhân đôi tế bào. Vi khuẩn có khắp mọi nơi: trong nước, đất, không khí . Nhiều loại sống ký sinh ở người, súc vật và cây cối. Trong cơ thể, vi khuẩn nhởn nhơ đầy rẫy ngoại trừ máu và nước tủy sống. Không phải tất cả vi khuẩn đều có hại, vì một số giúp cơ thể trong nhiều lãnh vực khác nhau. Kháng sinh có thể khuất phục được hầu hết các bệnh do vi khuẩn gây ra. Còn virus là những “hạt” rất nhỏ, có khả năng sinh sản nhưng chỉ tồn tại được ở trong tế bào sống. Ra không khí một thời gian ngắn là chúng hai năm mươi tiêu tùng. Kích thước của virus rất nhỏ nên không nhìn thấy qua kính hiển vi quang học. Nhỏ vậy mà chúng đã và đang gây ra những bệnh quái đản giết hại có khi cả mấy chục triệu sinh linh, người và súc vật. Như là cảm lạnh, cúm, đa số viêm cuống phổi và cuống họng; bệnh sởi, quai bị, thủy đậu, herpes, đậu mùa, tê liệt trẻ em, bệnh dại, viêm gan. Ðặc biệt trong những thập niên qua, các bệnh liệt kháng HIV-AIDS, Cúm Gia Cầm đang hầm hừ đe dọa nhân loại và các quốc gia đang sát cánh với nhau dốc toàn lực phòng chống. Kháng sinh không có hiệu lực với virus nhưng một số bệnh có thể kiểm soát được bằng chủng ngừa vắc xin. Vậy thì tôi phải làm gì khi sổ mũi, hắt hơi? Sổ mũi là chuyện thường xẩy ra khi bị cảm lạnh, đặc biệt ở trẻ em. Khi vi sinh vật xâm nhập mũi, mũi phản ứng bằng cách tiết ra chất lỏng trong để loại bỏ các tác nhân này khỏi lỗ mũi và xoang mũi. Sau vài ngày, hệ thống miễn dịch của cơ thể bắt đầu hoạt động, phản công lại các cô chú virus, nước mũi trở thành mầu trắng hoặc vàng. Rồi đến khi vi sinh vật tăng sinh trong mũi, chúng sẽ làm nước mũi có mầu xanh xám. Ðó là những diễn tiến bình thường. Và khi mũi bị chất tiết kích thích thì ta phải hắt hơi, để gạt bỏ những chất này. Ðôi khi chất tiết xuống cuống họng, ta ngứa cổ; xuống cuống phổi , ta ho sù sụ. Khi thấy vậy, ta nên kiên nhẫn chờ đợi vài ngày, đừng vội vàng dùng kháng sinh. Lý do là kháng sinh KHÔNG làm bớt ho, bớt chẩy nước mũi hoặc đau nhức xương thịt, mà chúng tự hết sau ít hôm. Có nhiều thuốc trị chẩy nước mũi hiệu nghiệm. Chẳng hạn nhiều người chỉ cần nhỏ mấy giọt nước pha muối, hít thở vào máy bốc hơi lại giải quyết được vấn nạn mau chóng. Kháng sinh chỉ nên dùng nếu thầy thuốc nói bị bội nhiễm vi khuẩn như viêm xoang sinusitis, sưng phổi. . Thế còn cảm lạnh, cúm có cần đến kháng sinh không? Như đã thưa ở trên, Cảm Lạnh và Cúm là do virus gây ra. Cảm Lạnh Common Cold là bệnh cấp tính do siêu vi thuộc nhóm rhinovirus, tác hại trên mũi, xoang mặt, cuống họng, thanh quản, đôi khi xuống tới cuống phổi. Bệnh này chưa có thuốc chủng ngừa. Còn Cúm do virus Influenza A và B gây ra. Siêu vi này thay đổi cấu trúc mỗi năm do đó sự trầm trọng của bệnh cũng thay đổi. Nhưng Cúm có thể ngăn chặn lây lan được bằng chủng ngừa trước mùa cúm khoảng một tháng. Ðọc xong bài này, xin mời quý thân hữu đi chích ngừa ngay cho kịp. Vì ở các xứ lạnh, Cúm đến vào mùa Ðông, từ tháng 11 trở đi tới tháng hai tháng ba. Còn ở xứ nóng thì cúm xẩy ra hầu như quanh năm. Kháng sinh không tiêu diệt được virus. Bị cảm lạnh, cúm mà dùng kháng sinh chẳng những vô ích tốn tiền, không chữa được bệnh, không ngăn ngừa sự lan truyền bệnh sang người khác, không làm mình cảm thấy khỏe hơn. Trái lại còn đưa tới nhiều ảnh hưởng xấu như nhờn thuốc, tốn tiền, phí phạm dược phẩm. Thường thường cảm lạnh , cúm tự lành sau khi bệnh đã hoàn tất chu kỳ là hai ba tuần lễ. Ðiều trị bao gồm sự hỗ trợ như uống nhiều chất lỏng (Nước lã tinh khiết, nước trái cây, nước súp) để tránh khô nước; hít thở trong máy phun hơi hoặc nhỏ mấy giọt nước pha muối vào mũi nhiều lần trong ngày; làm dịu đau cuống họng với ngậm vài viên nước đá cục, xúc miệng với dung dịch diệt trùng. Ho là phản ứng tự nhiên của cơ thể để đẩy nước tiết ra khỏi phổi nên cũng chẳng cần quan tâm. Nhưng nếu ho nhiều đến đau ngực, rát họng, mệt mỏi thì uống mấy thìa thuốc giảm ho. Chỉ khi nào có dấu hiệu bội nhiễm vi khuẩn như sung phổi mới cần đến kháng sinh. Mà khi bác sĩ cho toa thì uống đủ ngày, đúng liều lượng đã ghi trong toa thuốc, chứ đừng thấy bớt là ngưng, để dành thuốc cho kỳ sau. Riêng Cúm thì bác sĩ có thể cho mấy loại thuốc như Tamiflu, Relenza, Amantadine, Rimantadine … Rửa tay thường xuyên, tránh tiếp xúc quá gần với người bệnh là những phương thức rất hữu hiệu để ngăn ngừa sự lan truyền bệnh gây ra do virus. 2-Sàng lọc ung thư Người Việt tỵ nạn chính trị mình hội nhập với Hiệp Chủng Quốc Mỹ mới có trên một phần tư thế kỷ mà đã được giới y khoa lưu ý rất nhiều. Vì ta có nhiều điều để nghiên cứu, thăm dò. Theo tài liệu của Trung Tâm Kiểm Soát Bệnh Tật Hoa Kỳ (Centers for Disease Control) cũng như kết quả nhiều thăm dò Mỹ Việt thì một trong những điều đáng để ý là “dường như quý vị đồng hương ta cũng hơi lơ là với việc sàng lọc ngừa bệnh thì phải”. Chẳng hạn Ung Thư Cổ Tử Cung. Cổ tử cung là phần dưới của dạ con chứa nhiều niêm dịch và thông với âm đạo. Ung thư cổ tử cung đứng hàng thứ ba trong số các u ác tính về sản khoa và thứ tám trong số các bệnh ung thư của người đẹp bản xứ Hoa Kỳ. Bệnh đặc biệt có nhiều liên hệ nhân quả với hoạt động tình dục: a) gia tăng khi thiếu nữ giao hoan quá sớm; b) gia tăng khi giao hợp với nhiều đối tượng khác nhau. Vì một loại virus lây truyền do lang chạ làm tình vung vít đã được coi như một trong nhiều nguyên nhân đưa tới ung thư này. Ở giai đoạn phát triển mạnh và di căn xa, hy vọng sống sót của người bệnh là 0 tới 15%. Nghĩa là tử vong rất cao nếu điều trị quá trễ. May mắn là trên 90% ung thư cổ tử cung có thể phát hiện sớm ngay từ khi chưa có dấu hiệu bệnh bằng phương pháp xét nghiệm tế bào rất giản dị gọi là Pap test. Pap viết tắt từ chữ Papanicolaou, tên của vị bác sĩ người Mỹ gốc Hy Lạp George Nicolas Papanicolaou đã tìm ra phương pháp thử tế bào để phát hiện ung thư cổ tử cung. Thống kê cho hay khoảng 50% bệnh nhân với ung thư này chưa bao giờ làm Pap, nhất là những thành phần có nguy cơ mắc bệnh cao.Trong số đó có phụ nữ người mình. Ðã có nhiều nghiên cứu cho hay phụ nữ Mỹ gốc Việt có tỷ lệ ung thư cổ tử cung cao gấp năm lần dân da trắng bản xứ: Việt 43.0 / 100,000; Mỹ 8.7 / 100,000, cao hơn cả ở phụ nữ các sắc dân thiểu số khác. Vậy mà quý bà quý cô nhà ta lại ít nhận lãnh ích lợi việc làm Pap smear mà y khoa học đã dầy công nghiên cứu và cống hiến từ nhiều thập niên. Vì phải chăng người mình: a-Có một kiêng kỵ taboo đối với việc xét nghiệm Pap với thiếu nữ chưa lập gia đình; b-Hiểu không đúng rằng chỉ phụ nữ có gia đình mới cần Pap; c-Không biết có sàng lọc tìm kiếm ung thư cổ tử cung và sự ích lợi của nó?; Vì thế một số người có hiểu biết, có học làm nhiều hơn; d-Sợ đi khám lòi ra bệnh thì “chỉ có chết”, nên mũ ni che tai, chẳng thà không biết; d-Lão bà càng lớn tuổi càng ít làm Pap, vì “tôi ngần này tuổi đầu, khỏe như voi, sanh cả chục đứa con thì Pap Piếc làm chi cho rắc rối”? e-Theo phong tục tập quán lâu đời, quý bà rất ngại ngùng khi nói tới chuyện “riêng tư”, huống chi là nằm cho người không quen nhòm ngó; Tự khám vú thì làm chứ chuyện khám ở dưới thì ngại ngùng, “em chã”. g-Trở ngại đến với dịch vụ y tế vì ngôn ngữ khó khăn, thiếu đối thoại lại thêm kỳ thị da mầu; h-Có thói quen là khi nào bệnh thì đi chữa trị nhiều hơn phòng ngừa, sàng lọc bệnh i- Khi không có dấu hiệu bệnh thì ít khi đến gặp bác sĩ. Rồi đến Ung thư cặp Nhũ Hoa Phụ nữ Việt gốc Mỹ mình có tỷ lệ ung thư nhũ hoa thấp, so với dân da trắng bản xứ: 38/100,000 và 116/100,000. Nhưng ung thư vẫn là nan bệnh và tử vong vì điều trị chậm, phát hiện trễ vẫn xẩy ra. Và ở quý bà nhà mình thì ung thư này lại trầm trọng hơn, vì chẳng chịu sàng lọc, tự khám và tham khảo ý kiến bác sĩ. Có người để tới khi lan truyền xa rồi mới đi chữa thì bệnh đã quá muộn màng. Một thăm dò của Seatles King County Health Department thực hiện vào năm 1995-1996 cho hay: 1/3 số nữ nhân Mỹ gốc Việt được hỏi ý kiến không biết cách tự khám nhũ hoa; 30% biết nhưng không nghĩ tới chuyện tự khám; 29% nói khám làm gì, đâu cần thiết. Mà việc screening thì cũng giản dị thôi. Tự khám mỗi tháng có thể tìm ra những cục nhỏ bất thường nằm trong vú và nếu xác định là ung thư thì điều trị hiệu quả hơn. Chụp X quang vú mỗi năm một lần kể từ trên 50 tuổi có thể giàm tử vong từ 25 tới 35% ở người chớm bị ung thư vú. Chẳng cũng ích lợi sao! Lại còn viêm gan B với ung thư gan. Theo Trung Tâm Á Châu về Ung Thư Gan tại Ðại Học Stanford, U bướu ác tính này là nguyên nhân tử vong thứ nhì vì ung thư ở người Mỹ gốc Việt, 13 lần cao hơn ở người bản xứ. Ngay tại Việt Nam hiện nay, cứ 1 trong 4 người dân bị nhiễm virus viêm gan B. Mà đa số do mẹ truyền cho con ngay khi sanh hoặc khi trưởng thành hồ hởi giao hoan với người mang bệnh mà không biết. Họ trở thành người mang bệnh kinh niên và gây ra lây lan cho nhiều người khác. Vì thế tất cả phụ nữ có thai ở bên Mỹ đều được thử nghiệm coi có nhiễm viêm gan B. Nếu có thì vừa lọt lòng mẹ, bé sẽ được chích ngừa để tránh mắc bệnh. Ðã có nhiều hội thảo, thuyết trình khắp cộng đồng mình về ung thư gan vì viêm gan B, mời gọi mọi người chích ngừa. Chỉ với ba mũi chích mà bảo vệ được sức khỏe, tưởng cũng chẳng nên bỏ qua. Nhất là với quý vị hay đi du lịch Á châu, cần chích ngừa cả viêm gan A lẫn B. Và Ung thư ruột già cũng vậy. Ung thư này đứng hàng thứ ba cả về nhiều ít và tỷ lệ tử vong trong số các loại ung thư ở Hoa Kỳ với trên 75,000 người mệnh một hàng năm. Ruột già quý vị cao niên là môi trường mầu mỡ cho loại ung thư này. May mắn là hiện nay có nhiều phương thức có thể tìm ra ung thư ở giai đoạn phôi thai. Như là tìm máu kín trong phẩn hàng năm, nội soi ruột già mỗi 10 năm, nội soi trực tràng mỗi 5 năm. Vậy mà người mình dường như cũng hay quên không làm. Theo kết quả thăm dò do các nhà chuyên môn y tế Ðại Học California ở San Francisco dưới sự hướng dẫn của giáo sư Judith M.E. Walsh thực hiện năm 2004 thì: a) 36% người da trắng thực hiện nội soi trực tràng trong 5 năm vừa qua, thì chỉ có 18% người mình; b) 31% da trắng làm nọi soi ruột gìa, người mình có 22%; Ðiểm son là có tới 31% người mình tìm máu ẩn trong phẩn so với 19% sắc dân da trắng thực hiện thử nghiệm sàng lọc này. Và người mình cũng có tỷ lệ chích ngừa các bệnh truyền nhiễm cho con trẻ cao nhất ở Mỹ. Thật xứng đáng là hậu duệ con Rồng cháu Tiên Hồng Lạc bốn ngàn năm văn hiến. Kết luận Vì tiêu đề là “Ðôi Ðiều Nhắc Nhở” nên chỉ xin tản mạn hai chuyện mà thôi. Còn nhiều điều khác muốn nói muốn bàn lắm. Nhưng lại ngại rằng “Sao mà cứ vạch áo cho người xem lưng”!! Người vạch áo thực ra là các nhà chuyên môn nghiên cứu Việt Mỹ, giữa đường thấy sự khác thường, nêu ra. Chẳng hạn vào năm 1990 giáo sư Nội Khoa Stephen .J. McPhee và các cộng sự viên tại Ðại Học UCSF đã làm một cuộc thăm dò sự hiểu biết về phòng ngừa ung thư của người Việt mình ở vùng Vịnh San Francisco. Kết quả như sau: a)13% chưa bao giờ biết/ nghe về ung thư; b)27% không biết rằng hút thuốc lá là nguyên nhân lớn đưa tới ung thư phổi; c)28% cho ung thư là bệnh truyền nhiễm; d)48% chưa biết rằng viêm gan B có liên hệ tới tỷ lệ ung thư gan khá cao ở người Việt; e)32% chưa bao giờ làm Pap smears; f)28% chưa bao giờ tự khám vú; g)83% chưa bao giờ chụp quang tuyến vú. Và các nhà nghiên cứu cũng tìm hiểu lý do những lơ là và đưa ra các đề nghị để chấn chỉnh. Lơ là vì không biết có các dịch vụ đã có sẵn; ít được hướng dẫn giải thích; không có bảo hiểm sức khỏe kém lợi tức; không có bác sĩ gia đình khám trị bệnh và giới thiệu đi thử nghiệm; trở ngại ngôn ngữ và ngại ngùng để người lạ khám nhìn cơ thể, vân vân … Họ đề nghị giới chức chính quyền mang dịch vụ phòng chữa bệnh tật tới gần dân chúng; thu hẹp cách biệt chăm sóc sức khỏe; mở nhiều thảo luận trong cộng đồng về các vấn đề y tế xã hội; có nhiều thông dịch viên để giải thích; giúp đỡ phương tiện đi sàng lọc tìm bệnh. Trong quảng bá kiến thức phòng bệnh, tìm bệnh này, vai trò của truyền thông báo chí cũng đặc biệt quan trọng và vô cùng hữu hiệu. Các nhà y khoa học đăng đàn giải thích, truyền thông liên tục phổ biến nhắc nhở trên đài trên báo, dân chúng sẽ dần dần ý thức được ích lợi của y khoa phòng ngừa, của y tế công cộng. Ðể cùng nhau duy trì một sức khỏe tốt cho bản thân, gia đình. Rồi cùng nhau hội nhập dòng chính cho bằng người bằng ta, chung sức xây dựng cộng đồng, làm đẹp quê hương với nhiều đóa hoa tự do dân chủ hơn. Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức Texas-Hoa Kỳ ******************************************* BS Nguyễn thị Nhuận www.caidinh.com/Tại sao cần biết là cúm hay cảm Mọi người thường hay dùng hai chữ cảm cúm đi chung với nhau dù thực ra đây là hai bệnh riêng biệt và gây ra bởi những con siêu vi trùng khác hẳn nhau. Đó là vì một số những triệu chứng của bệnh cúm (flu) cũng giống như triệu chứng bệnh cảm (cold), chỉ có điều là chúng nặng hơn mà thôi. Ngoài ra, cũng có những triệu chứng khác hẳn nhau.Năm nay, với dịch cúm đang lan tràn và nặng hơn bao giờ hết, chúng ta cần phân biệt giữa cúm và cảm. Không nên tự cho là mình đang bị cảm và thờ ơ không đi khám bệnh hay chữa trị. Nếu bị cúm, chúng ta nên gặp bác sĩ ngay và lấy toa mua thuốc trị cúm trong vòng 48 tiếng sau khi bắt đầu có triệu chứng.
Mời bạn trả lời thử những câu hỏi dưới đây xem bạn hiểu biết gì về hai chứng bệnh này, cũng như về những tin tưởng rất thông thường nhưng đôi khi không chính xác. Sau đó, mời bạn “check” phần trả lời xem mình đúng được bao nhiêu phần trăm.
1. Bạn sẽ bị cảm nếu ra đường khi tóc còn ướt vào mùa đông. a) Đúng b) Sai
2. Khi con bạn bị cúm hay cảm, bạn nên cho cháu uống thuốc aspirin hay Tylenol vì đó là thuốc cảm. a) Đúng b) Sai
3. Bạn thình lình bị bệnh. Cả người bạn nhức mỏi. Bạn bị sốt, ho khan và thấy rất mệt. Vậy bạn đã bị a) Cúm b) Cảm c) Cả hai đều không đúng
4. Bao lâu bạn mới cần chích ngừa cúm một lần? a) Chỉ một lần là đủ b) Mỗi năm một lần c) Mỗi 5 năm d) Mỗi 10 năm
5. Thuốc trụ sinh chữa bệnh cảm hay cúm hiệu nghiệm nhất? a) Đúng b) Sai
6. Bạn bị buồn nôn, ói mửa và đi tiêu chảy. Như vậy, chắc chắn là bạn đã bị a) Cảm b) Cúm C) Cả hai đều sai
7. Mới đầu bạn chỉ bị ngứa cổ. Sau đó, bạn bị hắt xì liên tục, chẩy nước mũi và đau cổ họng. Như vậy bạn đã bị a) Cảm b) Cúm c) Không thứ nào hết
8. Bạn sẽ bị một cơn cúm nhẹ sau khi bạn chích ngừa cúm. a) Đúng b) Sai
Trả lời
1. Bạn sẽ bị cảm nếu ra đường khi tóc còn ướt vào mùa đông?
Sai
Từ lâu, người Việt cũng như người Mỹ đều tin rằng ra đường khi trời lạnh mà không giữ đủ ấm hoặc khi tóc còn ướt thì sẽbị cảm hay cúm. Một vài thử nghiệm đã cho thấy điều này không đúng. Tóc ướt hay khô, lạnh hay ấm, bạn đều có thể bịcảm hay cúm nếu không may bạn nhiễm phải con siêu vi cảm hay cúm. Vào mùa đông, trời lạnh, người ta dễ bị cảm cúm hơn là vì vào mùa này, những con siêu vi này trở nên hoạt động mạnh mẽ hơn.
Ngoài ra, mùa cúm ở Hoa Kỳ thường bắt đầu vào cuối mùa thu qua mùa đông tức từ tháng 11 và kéo dài đến hết tháng 3. Vào mùa đông, người ta có khuynh hướng ở trong nhà nhiều hơn, có nhiều cơ hội tiếp xúc với những người khác và vì thếdễ bị lây bệnh hơn. Thường người ta dễ bị lây bệnh do bắt tay người vừa mới ho và che miệng khiến siêu vi dính trên tay, hoặc chạm tay mình vào điện thoại và nắm cửa là những nơi dễ dính siêu vi của người bệnh, sau đó, đưa tay lên mũi, mắt và đem siêu vi vào người.
Do đó, rửa tay thường xuyên là một phương pháp hữu hiệu nhất để tránh bị lây bệnh cảm cúm.
2. Khi con bạn bị cúm hay cảm, bạn nên cho cháu uống thuốc aspirin hay Tylenol vì đó là thuốc cảm?
Sai
Mặc dầu thuốc Aspirin hay Tylenol thường được người Việt gọi là thuốc cảm, không phải lúc nào ta cũng nên dùng các thuốc này. Nếu con em bạn bị sổ mũi, ho mà không sốt, bạn không cần phải cho uống Aspirin hay Tylenol mà chỉ cần cho uống thuốc ho hay nghẹt mũi, chẩy mũi. Khi cháu bị sốt hay đau nhức, bạn nên cho uống Tylenol. Đừng bao giờ cho trẻ em uống thuốc aspirin vì thuốc này đã cho thấy là có liên hệ đến chứng bệnh Reyesyndrome là một bệnh rất nặng, ảnh hưởng đến óc và gan bệnh nhân.
3. Bạn thình lình bị bệnh. Cả người bạn nhức mỏi. Bạn bị sốt, ho khan và thấy rất mệt. Vậy bạn đã bị.... ?
Bị cúm
Triệu chứng bệnh cảm và bệnh cúm có nhiều trùng hợp. Tuy nhiên, bệnh nhân cúm thường cảm thấy mệt và đau nhức hơn nhiều. Những triệu chứng của bệnh cúm gồm có: Sốt, rùng mình, ớn lạnh và ra mồ hôi, ho khan, nhức đầu, nhức mỏi khắp người rất nhiều, mệt và cảm thấy yếu ớt, không muốn ăn.Một số bệnh nhân cúm có thể có những triệu chứng như chảy mũi, hắt xì và đau cổ giống như bệnh cảm. Tuy nhiên nếu họ sốt cao hơn 101 độ thì có nhiều phần là họ bị cúm hơn là cảm.
Thời gian ủ bệnh của bệnh cúm, tức từ khi nhiễm siêu vi tới khi phát bệnh, là từ 1 tới 4 ngày. Tuy nhiên, bệnh nhân thường thình lình có triệu chứng bệnh. Bệnh nhân sẽ hết bệnh, thấy dễ chịu hơn trong vòng từ 1 tới 2 tuần. Nếu không, thường là họ đã bị thêm những biến chứng khác như sưng phổi hay nhiễm thêm 1 con vi trùng khác.
4. Bao lâu bạn mới cần chích ngừa cúm một lần?
Mỗi năm một lần
Muốn khỏi bị cúm, ta cần chính ngừa mỗi năm một lần. Đó là vì siêu vi cúm có khả năng biến đổi và mỗi năm là một dạng siêu vi khác gây ra cúm. Thuốc chích ngừa năm trước thường không hiệu nghiệm cho năm nay. Nhà chế tạo thuốc ngừaước tính là con siêu vi nào sẽ gây ra bệnh cúm trong năm và chế thuốc theo đó.
Thời gian tốt nhất để chích ngừa cúm là vào mùa thu, trước khi mùa cúm bắt đầu. Tuy nhiên, nếu bạn lỡ “trễ tàu”, cần chích khi mùa cúm đã bắt đầu, bạn cũng cứ nên chích vì không nhiều thì ít, bạn cũng có một số kháng thể để bảo vệ khỏi bệnh cúm.
5. Thuốc trụ sinh chữa bệnh cảm hay cúm hiệu nghiệm nhất?
Sai
Thuốc trụ sinh chỉ giết được vi trùng (bacteria) mà không thể giết siêu vi (virus) tức nguyên nhân gây ra cảm cúm. Do đó, nếu bạn bị cảm hay cúm, thuốc trụ sinh sẽ không giúp được nhiều, trừ khi bạn đã bị nhiễm thêm vi trùng như sưng phổi, sưng tai chẳng hạn.
Hiện nay đã có rất nhiều vi trùng chống lại nhiều thứ thuốc trụ sinh nhờ khả năng biến hóa của chúng. Do đó nhiều thuốc trụ sinh không còn hiệu nghiệm nữa. Nếu cứ tiếp tục dùng trụ sinh không cần thiết, càng ngày sẽ có nhiều thuốc trụ sinh bịmất hiệu quả và người ta phải đi tìm những loại thuốc mới tốn kém nhiều hơn và có các tác dụng phụ nặng hơn.
Chỉ mới có một vài thuốc chống lại siêu vi dùng để chữa bệnh cúm được lưu hành nhưng phải dùng rất sớm, ngay khi mới có triệu chứng đầu tiên. Do đó, phương pháp tránh bệnh tốt nhất vẫn là chích ngừa.
6. Bạn bị buồn nôn, ói mửa và đi tiêu chảy. Như vậy, chắc chắn là bạn đã bị cảm hay cúm?
Cả hai đều không đúng
Ói mửa không phải là triệu chứng chính của bệnh cúm hay cảm, tuy trẻ em có thể ói chút ít khi chúng bị cảm cúm.
Những triệu chứng tả trong câu hỏi này là triệu chứng của bệnh “cúm bao tử”. Đây là một bệnh của đường bao tử và ruột trong khi siêu vi cảm hay cúm tấn công đường hô hấp.
7. Mới đầu bạn chỉ bị ngứa cổ. Sau đó, bạn bị hắt xì liên tục, chẩy nước mũi và đau cổ họng. Như vậy bạn đã bị. . . ?
Bệnh cảm
Bệnh cảm có triệu chứng nhẹ hơn bệnh cúm. Bệnh nhân thường cũng bị bệnh từ từ, không bất thình lình, và cũng không bịsốt cao. Bệnh nhân cũng ít bị mệt và đau nhức như bệnh cúm.
Những triệu chứng của bệnh cảm gồm có: Chảy mũi, cổ hơi rát hoặc đau, nghẹt mũi, hắt xì, ho, sốt nhẹ, dưới 102 độ, hơi mệt, không ngửi hay nếm được bằng bình thường.
8. Bạn sẽ bị một cơn cúm nhẹ sau khi bạn chích ngừa cúm.
Sai
Thuốc ngừa cúm không chứa siêu vi cúm còn sống, do đó, không thể gây bệnh cúm cho bạn được. Thuốc ngừa cúm chế tạo từ những siêu vi đã chết.
Người chích ngừa có thể bị phản ứng phụ nhẹ như sưng và đau chỗ chích. Hiếm hơn nữa, họ có thể bị sốt, đau nhức bắp thịt hay cảm thấy bịnh. Những triệu chứng này sẽ không kéo dài lâu.
Nên nhớ: dù đã chích ngừa cúm, bạn vẫn có thể bị bệnh nhưng nếu có, bạn cũng chỉ bị nhẹ hơn là nếu bạn không chích.
BS Nguyễn thị Nhuận
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 17, 2019 16:45:59 GMT 9
BỆNH LÚ LẪN ALZHEIMER Facebook @ Thu Nguyen.
A. Những giai đoạn tiến triển của Alzheimer
Bệnh lú lẫn Alzheimer tiến triển rất chậm chạp. Sự nhận biết của bệnh nhân có thể giảm dần trong vòng 7 tới 10 năm. Cuối cùng tất cả các bộ phận sinh hoạt của óc như trí nhớ, cử động, ngôn ngữ, cách cư xử, sự phán đoán và óc suy luận trừu tượng đều bị ảnh hưởng. Bệnh Azheimer's thường được chia ra 3 giai đoạn. Tìm biết về 3 giai đoạn này có thể giúp bệnh nhân và gia đình chuẩn bị cách đối phó cho tương lai. Tuy nhiên, không hẳn là bệnh nhân nào cũng theo đúng những giai đoạn này hoặc có những triệu chứng giống nhau.
1. Giai đoạn nhẹ:
Bệnh nhân trong giai đoạn này thường giảm bớt trí nhớ, đôi khi không phán đoán sáng suốt và có sự thay đổi tính tình chút ít. Họ có thể giảm sự chú ý, và bỏ dở việc đang làm. Họ cũng không muốn thay đổi và ngại chuyện khó khăn và có thể bị đi lạc ngay cả ở những chỗ đã quen thuộc.
Người nào thì cũng có lúc quên một vài tiếng hay tên người trong lúc nói chuyện nhưng người bệnh lú lẫn thì quên nhiều hơn và càng ngày càng quên thêm. Họ có thể chế ra những chữ không đâu để thay thế. Họ sẽ tránh nói chuyện để khỏi mắc lỗi và càng ngày càng khép kín, nhất là trong những dịp phải giao thiệp xã hội hay phải suy nghĩ nhiều.
Bệnh nhân Alzheimer có thể cất đồ vô những chỗ khác thường thí dụ như cất bóp vô tủ lạnh hay cho quần áo vô máy rửa chén. Họ có thể hỏi đi hỏi lại những câu hỏi và cất giữ những thứ vô giá trị. Khi mệt mỏi hoặc bực mình họ có thể nổi giận dữ dội dù thường ngày hiền lành.
2. Giai đoạn khá nặng
Trong giai đoạn này, bệnh nhân không thể sắp xếp tư tưởng hay theo được những giải thích có tính lý luận cũng như không theo được những chỉ dẫn viết ra. Họ cần được giúp chọn quần áo mặc cho thích hợp với thời tiết hoặc sinh hoạt. Dần dần họ sẽ phải được giúp mặc quần áo vì họ có thể mặc đồ lót ra ngoài hay đi giầy nhầm chân. Họ cũng có thể đại tiểu tiện trong quần.
Trong giai đoạn này, người bệnh thường mất khả năng nhận diện người thân và bạn bè. Họ có thể nhầm lẫn cho con là bạn hay vợ chồng là người lạ. Họ lẩn không biết họ đang ở đâu và không biết ngày tháng. Họ quên địa chỉ hay số điện thoại của chính mình và dễ bị đi lạc vì không thể xét đoán biết mình đang ở đâu, do đó không thể để họ một mình mà phải có người trông nom trong giai đoạn này.
Họ trở nên không yên, làm đi làm lại vài cử chỉ, nhất là về buổi chiều, hoặc nhắc đi nhắc lại một câu chuyện, một vài chữ hay cử động vô nghĩa, thí dụ như ngồi xé giấy. Càng ngày họ càng không thể nói chuyện được với ai và dẫn đến những cử chỉ kỳ lạ như hoảng loạn, kết tội người khác ngoại tình hay ăn cắp. Bức rức, giận dữ, khó chịu đưa tới chửi thề, đấm đá, đánh cắn, chụp giựt người khác hay la hét.
3. Giai đoạn nặng
Trong giai đoạn này, người bệnh cần được giúp đỡ trong mọi mặt sinh sống. Họ không thể tự đi lại và sau cùng không thể ngồi được. Họ không biết tự đi vệ sinh, không nói rõ được. Họ không nhận biết người nhà. Họ dễ bị sặc vì khó nuốt và có thể từ chối ăn uống. Bệnh sẽ kéo dài bao lâu ?
Mực độ tiến triển của bệnh thay đổi tùy theo mỗi người. Một số người bệnh nặng khoảng năm năm sau khi được định bệnh. Những người khác có thể kéo dài 10 năm.Trung bình, người bệnh sống khoảng 8 tới 10 năm sau khi định bệnh. Một vài người sống lâu tới 20 năm. Ða số bệnh nhân không chết vì bệnh Alzheimer mà chết vì những nguyên do khác như sưng phổi, nhiễm trùng đường tiểu hay biến chứng sau khi té.
B. Ngăn ngừa bệnh Alzheimer: tập thể dục là cách tốt nhất
Một báo cáo gần đây nhất của Hội bệnh Alzheimer tiên đoán là 10 triệu người Mỹ thế hệ baby boomer tức sinh ra sau thế chiến thứ 2 sẽ bị bệnh Alzheimer (tức tỉ lệ 1/8) khiến những người trong lứa tuổi này thấy lo sợ không ít. Hiện nay đã có vài loại thuốc làm bệnh chậm tiến triển nhưng con đường tìm ra thuốc chữa hãy còn rất gian nan. Trong lúc chờ đợi thuốc chữa bệnh, chúng ta hãy nghe các nhà nghiên cứu nói về kết quả của họ.
Càng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy vận động thân thể mỗi ngày không những chỉ có tác dụng tốt lên hệ tim mạch và giữ cho khỏi lên cân quá nhiều mà còn có thể ngăn ngừa chứng bệnh lú lẫn quái ác. Những nghiên cứu trên dân số cho thấy tập thể dục mỗi ngày sao cho nhịp tim tăng lên trong ít nhất 30 phút có thể làm giảm nguy cơ bị bệnh. Trong một nghiên cứu trên chuột, người ta thấy vận động thân thể có vẻ như ngăn chận được những thay đổi của óc đưa tới bệnh Alzheimer .
Một nghiên cứu có tính chất quan sát về liên hệ giữa vận động với hoạt động của trí óc trên 6000 phụ nữ từ 65 trở lên trong vòng 8 năm, cho thấy những phụ nữ thường xuyên tập thể dục ít bị sút giảm trí óc như những phụ nữ thụ động. Một nghiên cứu khác tại viện đại học Chicago được thực hiện trên những con chuột đã được nuôi sao cho óc bị những mảng giống như óc bệnh lú lẫn.
Một số chuột được cho vận động thường xuyên, số còn lại không được vận động. Óc của những con chuột vận động nhiều có từ 50 đến 80% ít mảng plaque gây bệnh hơn những con thụ động. Chuột vận động cũng tiết ra nhiều chất phân hóa tố chống tạo ra plaque. Họ kết luận: “Vận động thân thể thường xuyên có lẽ là cách tốt nhất để ngừa bệnh Alzheimers, tốt hơn cả thuốc men, vận dụng trí óc hay thuốc bổ và ăn uống kiêng cữ.
C. Cách nói chuyện với bệnh nhân Alzheimer
Bệnh nhân Alzheimers thường dần dần mất khả năng đối thoại khiến người nói chuyện với họ không hiểu nổi họ đang nghĩ gì, nói gì. Do đó, nói chuyện với người bệnh là việc rất khó, chúng ta nên tìm hiểu rõ để bớt được sự bực dọc cho mình và cho họ. Tiến triển của bệnh:
Những tuyến đường thần kinh trong óc của người bệnh lzheimer thường bị phá hủy khiến họ không nhớ và không còn hiểu những chữ thường dùng nữa. Họ có thể cảm tưởng như biết chữ đó, có sẵn trên đầu lưỡi nhưng không thể nói ra, vì thế họ rất bực dọc. Họ có thể dùng một chữ khác để thay thế chữ định nói dù ý nghĩa khác hẳn. Hay họ có thể chế ra một chữ mới để thế chữ họ định nói.
Họ cũng có thể như bị kẹt vô một cái rãnh trên máy hát, nhắc đi nhắc lại mãi một câu hỏi. Người bệnh Alzheimer cũng có thể - Bị mất dòng suy nghĩ - Vật lộn với cấu trúc của câu, chữ cho có nghĩa - Cần thêm thời gian để hiểu bạn muốn nói gì - Chửi thề hay nói lỗ mãng
PHẢI LÀM SAO?
- Hiểu người bệnh. Hiểu rằng họ không cố tình làm như vậy. - Cho họ thấy mình chú ý tới họ. Nhìn thẳng vào mắt họ và luôn ở gần bên để người bệnh biết là bạn đang lắng nghe và muốn hiểu họ. - Không nói chuyện ở chỗ đông người và nhiều tiếng động - Dùng chữ đơn giản, câu ngắn. Tránh nói những câu phức tạp hay đưa lời chỉ dẫn. Khi cần, nói chậm và chia thành từng đoạn một. Ðưa ra quá nhiều giai đoạn cùng lúc sẽ làm bệnh nhân rối loạn thêm. - Không ngắt câu bệnh nhân có thể cần nhiều phút để trả lời. Không phê bình, vội vã, sửa lỗi họ, cãi nhau với họ. - Ðưa ra vật dụng hay hình ảnh rõ ràng khi nói. Thí dụ dẫn họ đến cầu tiêu để hỏi họ cần đi hay không. - Không cãi nhau với người bệnh. Họ đã mất khả năng lý luận và phán đoán, do đó cố chứng minh họ sai chỉ là việc không tưởng, làm cả hai cùng tức giận. - Giữ bình tĩnh và thư giãn. Dù bực tức, bạn nên giữ giọng hòa nhã, bình tĩnh. Nếu lời nói và giọng nói không đi đôi với nhau, bệnh nhân sẽ khó hiểu. Giọng nói, cử chỉ của bệnh nhân nhiều khi nói lên nhiều hơn chính tiếng nói của bạn.
8 Cách Ngăn Ngừa bệnh Alzheimer
Theo BS Weil, tuy nguyên nhân gây ra bệnh Alzheimer vẫn chưa biết chính xác, yếu tố lớn nhất vẫn là tuổi tác: sau 65 tuổi, cứ thêm 5 tuổi thì nguy cơ mắc bệnh lại tăng gấp đôi. Sau 85 tuổi thì nguy cơ bị bệnh là 50%. Nếu bạn muốn giảm thiểu nguy cơ bằng cách thay đổi nếp sống 1 cách lành mạnh, thì hãy thêm 8 điều sau vào thông lệ hàng ngày của bạn.
1. Thách thức bản thân mình. Ngày càng nhiều bằng chứng về y khoa cho thấy việc kích thích não (suy nghĩ) suốt đời là chìa khóa cho việc nuôi dưỡng và duy trì các tế bào não khỏe mạnh, chặn đứng việc giảm trí nhớ và có thể ngăn chặn được bệnh Alzheimer. Hãy thử làm công việc mình thích thú (có lương hay tình nguyện), theo đuổi các sở thích (như chơi cây cảnh, sưu tầm tem, …), tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, học ngoại ngữ, ca hát, hay cách dùng các phần mềm vi tính.
2. Dùng 1 liều thấp thuốc aspirin hàng ngày (Người không đau bao tử). Một số công trình nghiên cứu phát hiện mối liên hệ giữa việc dùng aspirin (hoặc các loại thuốc kháng viêm non-steroid khác) và sự giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh Alzheimer.
3. Bổ sung Vitamin C và E. Một nghiên cứu ở trường ĐH John Hopkins cho thấy Vitamin C và E dùng chung có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh Alzheimer. (Vitamin C có nhiều trong trái cây như: Thơm (dứa), cam, chanh, quýt, dâu, cà chua, rau có lá xanh thẫm, ớt xanh. Là chất chống sự oxy hóa căn bản trong huyết tương, làm lành vết thương, kích thích sản xuất kích thích tố. Làm chậm quá trình lão hóa. Vitamin E có nhiều trong rau, đậu phụng, đậu nành, hạt dẻ, trứng, mầm lúa. Là chất chống oxy hóa hòa tan căn bản trong mỡ của cơ thể, ngăn chặn sự oxy hóa Cholesterol LDL và các chất mỡ khác, nâng cao tính miễn dịch, giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não. Vì nó ngăn chặn sự oxy hóa chất béo trong thực phẩm, bạn nên dùng hàng ngày và nhất là trước một bữa ăn thịnh soạn.)
4. Hàng ngày nên dùng loại thuốc “bổ” multivitamin chứa hàm lượng thích hợp a-xít phô-líc (acid folic tức là Vitamin B9) cùng các Vitamin B khác (tức là Vitamin B complex) vì chúng làm giảm mức homocysteine, 1 loại a-xít amin tạo ra do sự phân hủy đạm động vật. Người có homocysteine ở mức cao có nhiều khả năng bị bệnh Alzheimer.
5. Nấu nướng với các loại gia vị có dược tính tốt. Nghệ, gừng, ớt chẳng những thêm hương vị cho món ăn mà còn là những chất kháng viêm thiên nhiên (còn gọi là kháng ô-xi hóa: anti-oxidant).
6. Dùng những thực phẩm giàu chất béo omega-3; trong đó phải kể cá hồi hoang dã vùng Alaska , cá mòi, bột hạt lanh (flaxseed) mới xay, và hạt óc chó (walnut).
7. Đưa vào bữa ăn nhiều trái cây, rau củ trồng theo lối hữu cơ (không dùng phân hóa học / thuốc trừ sâu).
8. Hạn chế dùng các loại dầu thực vật có chứa chất béo poly-unsaturated (như dầu hướng dương, dầu bắp, dầu safflower) mà thay bằng dầu ô-liu ép nguội (không nấu).
Xin nói thêm: (1) Cơ thể chúng ta chỉ cần lượng chất béo poly-unsaturated chiếm 3 – 7 % năng lượng cần thiết hàng ngày, chất béo omega-6 chiếm 3% và omega-3 chiếm 0,5 – 1%, nghĩa là tỉ lệ 5-1 hay 10 -1 cho omega-6 và omega-3, thế nhưng đa số chúng ta hiện nay dung nạp 2 loại chất béo này theo tỉ lệ 14-1 hay 20-1, rất có hại cho sức khỏe. Do đó, cần tăng thêm lượng omega-3 trong khẩu phần hàng ngày, có thể bằng cách uống dầu cá thu..
(2) Ở VN dầu ô-liu rất đắt; có thể thay bằng dầu đậu nành nhưng phải rất hạn chế vì trong 100g dầu đậu nành chỉ có 7g chất béo omega-3 mà đến 51g chất béo omega-6.
(3) Có thể ngâm nhanh rau củ quả trong dung dịch dấm và nước ở tỉ lệ 10% rồi rửa lại bằng nước thường để loại bỏ thuốc trừ sâu còn tồn đọng.)
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 2, 2020 18:39:11 GMT 9
"Thủ phạm" gây ra 80% ca đột quỵ ai cũng phải biết mà phòng tránhTheo GS. BS Phạm Gia Khải - Chủ tịch Hội tim mạch học Việt Nam, 80% trường hợp đột quỵ gây nên bởi cục máu đông. Đột quỵ (hay còn gọi là tai biến mạch máu não) là một loại bệnh lý nguy hiểm được gây ra bởi hiện tượng máu lên não đột ngột bị gián đoạn. Theo thống kê của Hội Đột quỵ Mỹ, cứ 45 giây trên thế giới lại có 1 người bị đột quỵ, 3 phút lại có 1 người tử vong vì đột quỵ. Tại Việt Nam, khoảng 200.000 người bị đột quỵ mỗi năm, 50% trong số đó tử vong. Ảnh minh họa Đột quỵ có 2 dạng chính là nhồi máu não và xuất huyết não. Trong đó, nhồi máu não xảy ra khi một vùng não không được cấp máu, thường là do hẹp hoặc tắc một động mạch não. Tình trạng tắc nghẽn kéo dài cản trở máu lưu thông lên não khiến các tế bào não thiếu oxy quá mức dẫn đến chết não và ảnh hưởng đến các chức năng mà vùng não bị chết chi phối. Còn xuất huyết não, chiếm một phần nhỏ hơn trong tai biến mạch máu não là do một mạch máu não bị vỡ gây tổn thương cho các tế bào não. Dạng này thường có sự kết hợp giữa huyết áp cao với chứng phình động mạch não hay dị dạng mạch máu não bẩm sinh. Theo GS. BS Phạm Gia Khải - Chủ tịch Hội tim mạch học Việt Nam, 80% trường hợp đột quỵ gây nên bởi cục máu đông. Khi máu đông xuất hiện sẽ gây tắc nghẽn dòng máu, làm cho việc lưu thông máu bị gián đoạn, gây ra thiếu máu cục bộ tại não (nhồi máu não). Khi bị thiếu nguồn máu nuôi sống, não sẽ ngưng hoạt động rồi chết đi trong vòng vài giây đến vài phút. Lúc này, người bệnh sẽ cảm thấy chóng mặt, mất thăng bằng, đau đầu không rõ nguyên nhân, thị lực kém, nói khó, liệt hẳn 1 bên tay chân hoặc nửa người... Giải pháp phòng ngừa hình thành cục máu đôngTrong trường hợp này nếu không có hướng xử lý kịp thời sẽ dẫn đến tử vong. Do vậy việc ngăn ngừa sự hình thành của cục máu đông chính là biện pháp hàng đầu giúp ngăn ngừa đột quỵ não. Theo GS. Phạm Gia Khải, biện pháp phòng ngừa cục máu đông là duy trì một nếp sống khoa học, hợp lý trong sinh hoạt. Quan trọng là không được hút thuốc lá, hạn chế bia rượu, không ăn quá nhiều thịt, mỡ, mặn, kiểm tra huyết áp, đường máu, để kịp thời chữa trị các bệnh thường gây suy vành như bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường... Có thể tiến hành các giải pháp sau đây để ngăn ngừa cục máu đông: - Vận động nhiều: Ngồi lâu và ít vận động chính là nguyên nhân khiến cho máu bị dồn ứ lại và dễ dẫn đến hình thành cục máu đông. Chính vì vậy, bạn nên chú ý đến việc cho cơ thể vận động trong ngày, không nên ngồi lỳ 1 chỗ mà nên thường xuyên đi lại và vận động. Theo các nhà khoa học, sau mỗi giờ ngồi 1 chỗ làm việc, bạn nên đứng lên vận động 10 phút, ngoài ra cần thường xuyên tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày. - Bỏ hút thuốc lá và hạn chế bia rượu là những nguyên nhân gây nên cục máu đông. - Thận trọng với thuốc tránh thai: Thuốc tránh thai chứa những hoạt chất góp phần tăng nguy cơ tắc tĩnh mạch sâu, vì vậy bạn nên cân nhắc trước khi lựa chọn cách dùng biện pháp tránh thai này. - Cảnh giác trước những dấu hiệu của bệnh: Nếu bạn cảm thấy cơ thể xuất hiện những cơn đau kèm theo dấu hiệu sưng, đỏ, hơi thở thay đổi đột ngột, tim đập nhanh, ho ra máu thì lập tức yêu cầu được đưa đi cấp cứu tại các bệnh viện càng sớm càng tốt. Hạ Thiên ****************************************** Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Già sao cho sướngGià thì khổ, ai cũng biết. Sanh bệnh lão tử! Nhưng già vẫn có thể sướng. Muốn sống lâu thì phải già chớ sao! Già có cái đẹp của già. Trái chín cây bao giờ cũng ngon hơn trái giú ép. Cái sướng đầu tiên của già là biết mình… già, thấy mình già, như trái chín cây thấy mình đang chín trên cây. Nhiều người chối từ già, chối từ cái sự thật đó và tìm cách giấu cái già đi, như trái chín cây ửng đỏ, mềm mại, thơm tho mà ráng căng cứng, xanh lè thì coi hổng được. Mỗi ngày nhìn vào gương, người già có thể phát hiện những vẻ đẹp bất ngờ như những nếp nhăn mới xòe trên khóe mắt, bên vành môi, những món tóc lén lút bạc chỗ này chỗ nọ, cứng đơ, xơ xác… mà không khỏi tức cười! Quan sát nhìn ngắm mình như vậy, ta mới hiểu hai chữ “xồng xộc” của Hồ Xuân Hương: “Chơi xuân kẻo hết xuân đi. Cái già xồng xộc nó thì theo sau!” . Có lẽ nữ sĩ lúc đó mới vào lứa tuổi 40! Thời ta bây giờ, 40 tuổi lại là tuổi đẹp nhất. Phải đợi đến 80 mới gọi là hơi già. Trong tương lai, khi người ta sống đến 160 tuổi thì 80 lại là tuổi đẹp nhất! Tuy vậy, thực tế, già thì khó mà sướng. Con người ta có cái khuynh hướng dễ thấy khổ hơn. Khổ dễ nhận ra còn sướng thì khó biết! Một người luôn thấy mình… sướng thì không khéo người ta nghi ngờ hắn có vấn đề… tâm thần! Nói chung, người già có ba nỗi khổ thường gặp nhất, nếu giải quyết được sẽ giúp họ sống “trăm năm hạnh phúc”: * Một là thiếu bạn! blank Nhìn qua nhìn lại, bạn cũ rơi rụng dần… Thiếu bạn, dễ hụt hẫng, cô đơn và dĩ nhiên… cô độc. Từ đó dễ thấy mình bị bỏ rơi, thấy không ai hiểu mình! Quay quắt, căng thẳng, tủi thân. Lúc nào cũng đang như: “Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt Ta nằm dài nghe ngày tháng dần qua…!” (Thế Lữ). Người già chỉ sảng khoái khi được rôm rả với ai đó, nhất là những ai “cùng một lứa bên trời lận đận”… Gặp đựơc bạn tâm giao thì quả là một liều thuốc bổ mà không bác sĩ nào có thể biên toa cho họ mua được! Để giải quyết chuyện này, ở một số nước tiên tiến, người ta mở các phòng tư vấn, giới thiệu cho những người già cùng sở thích, cùng tánh khí, có dịp làm quen với nhau. Người già tự giới thiệu mình và nêu “tiêu chuẩn” người bạn mình muốn làm quen. Nhà tư vấn sẽ “matching” để tìm ra kết quả và làm… môi giới…Dĩ nhiên môi giới cho họ kết bạn. Còn sau này họ thấy tâm đầu ý hợp tiến tới hôn nhân (nếu còn độc thân) thì họ ráng chịu! Đó là chuyện riêng của họ. Ngày trước, Uy Viễn tướng công mà còn phải than: Tao ở nhà tao tao nhớ mi Nhớ mi nên phải bước chân đi Không đi mi bảo rằng không đến Đến thì mi hỏi đến làm chi Làm chi tao có làm chi đựơc Làm được tao làm đã lắm khi… Nguyễn Công Trứ Rồi họ dạy người già học vi tính để có thể “chat”, “meo” với nhau chia sẻ tâm tình, giải tỏa stress… Thỉnh thoảng tổ chức cho các cụ họp mặt đâu đó để được trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, dòm ngó, khen ngợi hoặc… chê bai lẫn nhau. Khen ngợi chê bai gì đều có lợi cho sức khỏe! Có dịp tương tác, có dịp cãi nhau là sướng rồi. Các tế bào não sẽ đựơc kích thích, được hoạt hóa, sẽ tiết ra nhiều kích thích tố. Tuyến thượng thận sẽ hăng lên, làm việc năng nổ, tạo ra cortisol và epinephrine làm cho máu huyết lưu thông, hơi thở trở nên sảng khoái, rồi tuyến sinh dục tạo ra DHEA (dehydroepiandosterone), một kích thích tố làm cho người ta trẻ lại, trẻ không ngờ! …Dĩ nhiên phải chọn một nơi có không khí trong lành. Hoa cỏ thiên nhiên. Thức ăn theo yêu cầu. Gợi nhớ những kỷ niệm xưa… Rồi dạy các cụ vẽ tranh, làm thơ, nắn tượng… Tổ chức triển lãm cho các cụ. Rồi trình diễn văn nghệ cây nhà lá vườn. Các cụ dư sức viết kịch bản và đạo diễn. Coi văn nghệ không sướng bằng làm … văn nghệ! * Cái thiếu thứ hai là thiếu… ăn ! blankThực vậy. Ăn không phải là tọng là nuốt là xực là ngấu nghiến …cho nhiều thức ăn! Ăn không phải là nhồi nhét cho đầy bao tử! Trong cuộc sống hằng ngày có nhiều thứ nuốt không trôi lắm! Chẳng hạn ăn trong nỗi sợ hãi, lo âu, bực tức; ăn trong nỗi chờ đợi, giận hờn thì nuốt sao trôi? Nuốt là một phản xạ đặc biệt của thực quản dưới sự điều khiển của hệ thần kinh. Một người trồng chuối ngược vẫn có thể nuốt được dễ dàng! Nhưng khi buồn lo thì phản xạ nuốt bị cắt đứt! Nhưng các cụ thiếu ăn, thiếu năng lựơng phần lớn là do sợ bệnh, kiêng khem quá đáng. Bác sĩ lại hay hù, làm cho họ sợ thêm! Nói chung, chuyện ăn uống nên nghe theo mệnh lệnh của… bao tử: Cư trần lạc đạo thả tùy duyên Cơ tắc xan hề khốn tắc miên…” (Ở đời vui đạo hãy tùy duyên Đói đến thì ăn mệt ngủ liền…) Trần Nhân Tông “Listen to your body”. Hãy lắng nghe sự mách bảo của cơ thể mình! Cơ thể nói… thèm ăn cái gì thì nó đang cần cái đó, thiếu cái đó! Nhưng nhớ ăn là chuyện của văn hóa ! Chuyện của ngàn năm, đâu phải một ngày một buổi. Món ăn gắn với kỷ niệm, gắn với thói quen, gắn với mùi vị từ thuở còn thơ! Người già có thể thích những món ăn…kỳ cục, không sao. Đừng ép! Miễn đủ bốn nhóm: bột, đạm, dầu, rau…Mắm nêm, mắm ruốc, mắm sặc, mắm bồ hóc, tương chao… đều tốt cả. Miễn đừng quá mặn, quá ngọt…là được. Cách ăn cũng vậy. Hãy để các cụ tự do tự tại đến mức có thể đựơc. Đừng ép ăn, đừng đút ăn, đừng làm “hư” các cụ! Cũng cần có sự hào hứng, sảng khoái, vui vẻ trong bữa ăn. Con cháu hiếu thảo phải biết … giành ăn với các cụ. Men tiêu hoá được tiết ra từ tâm hồn chớ không chỉ từ bao tử. * Cái thiếu thứ ba là thiếu vận động ! Già thì hai chân trở nên nặng nề, như mọc dài ra, biểu không chịu nghe lời ta nữa! Các khớp cứng lại, sưng lên, xương thì mỏng, giòn, dễ vỡ, dễ gãy…! Ấy cũng bởi cả một thời trai trẻ đã “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…” (TCS)! Bác sĩ thường khuyên vận động mà không hướng dẫn kỹ dễ làm các cụ ráng quá sức chịu đựng, lâm bệnh thêm. Phải làm sao cho nhẹ nhàng mà hiệu quả, phù hợp với tuổi tác, với sức khỏe. Phải từ từ và đều đều. Ngày xưa người ta săn bắn, hái lượm, đánh cá, làm ruộng, làm rẫy… lao động suốt ngày. Bây giờ chỉ ngồi quanh quẩn trước TV!. Có một nguyên tắc “Use it or lose it!” . Cái gì không xài thì teo! Thời đại bây giờ người ta xài cái đầu nhiều quá, nên “đầu thì to mà đít thì teo”. Thật đáng tiếc! Không cần đi đâu xa. Có thể tập trong nhà. Nếu nhà có cầu thang thì đi cầu thang ngày mươi bận rất tốt. Đi vòng vòng trong phòng cũng được. Đừng có ráng lập “thành tích” làm gì! Tập cho mình thôi.. Từ từ và đều đều… Đến lúc nào thấy ghiền, bỏ tập một buổi … chịu hổng nổi là được! Nguyên tắc chung là kết hợp hơi thở với vận động. Chậm rãi, nhịp nhàng. Lạy Phật cũng phải đúng… kỹ thuật để khỏi đau lưng, vẹo cột sống. Đúng kỹ thuật là giữ tư thế và kết hợp với hơi thở. Đó cũng chính là thiền, là yoga, dưỡng sinh… ! Vận động thể lực đúng cách thì già sẽ chậm lại. Giảm trầm cảm, buồn lo. Phấn chấn, tự tin. Dễ ăn, dễ ngủ…Tóm lại, giải quyết đựơc “ba cái lăng nhăng” đó thì có thể già mà… sướng vậy! Đỗ Hồng Ngọc
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 11, 2020 2:42:33 GMT 9
HIỂU VỀ VIRUS ĐỂ PHÒNG VỆ TỐT:!!! Không phải virus nào cũng như nhau !!! ------------------------------- Thông tin chính của bài: -------------------------------
- Virus sống bằng cách nào? - Virus có chết không? Khi nào? - Virus thích "sống" ở môi trường nào nhất, vì sao?Đặc biệt bài viết nhằm muốn làm sáng tỏ vấn đề virus mới xuất hiện 2019-nCoV sẽ không sao trong điều kiện nóng ẩm nhiệt đới như Việt Nam là 1 quan niệm sai lầm! Điều chủ chốt để tránh lây nhiễm là ngăn không cho yếu tố nguy cơ xâm nhập được vào cơ thể chúng ta. (Khi share bài, nhờ mọi người click "Include original post" thì bài viết tiếng Việt mới được thấy! Cám ơn mọi người nhiều!) ========================= Virus là gì? Trông nó ra sao? ========================= Virus là thứ luôn gây biết bao thắc mắc vì rất nhiều điều còn chưa được biết về chúng. Theo định nghĩa về mặt sinh học, chúng không hoàn toàn là các sinh vật sống (giải thích bên dưới). Thế nhưng virus vẫn tồn tại, sinh sôi, và biến hóa từ hàng tỉ năm qua. Thậm chí biết đâu chúng cũng có vai trò trong quá trình tạo nên sự sống cho các sinh vật có cấu trúc tế bào dù bản thân chúng không có tế bào nào. Tuy gây ra quá nhiều loại bệnh tật, ngỡ ngàng thay, cấu trúc của con virus vô cùng đơn giản! Mỗi con virus có vật chất di truyền hoặc là DNA hoặc là RNA được bao bọc bằng lớp protein được gọi là capsid. Có một số loại virus, ngoài lớp vỏ protein này, thì được bọc thêm 1 lớp màng mềm bằng chất béo (lipid). Một con virus có kích cỡ chỉ từ cỡ chục đến vài trăm nano mét (1 mét bằng 1 tỉ nano mét), vì vậy virus nhỏ hơn các loại vi khuẩn nói chung và 1 con vi khuẩn thì nhỏ cỡ bằng 1/10 tế bào hồng cầu người. Virus nhỏ như vậy nên chúng ta không thể phát hiện virus bằng kính hiển vi quang học bình thường. Tuy vậy vẫn có trường hợp ngoại lệ, có nhiều virus có kích cỡ còn lớn hơn cả vi khuẩn, được gọi là mega-virus (400-700nm) =================================== Virus có phải là 1 sinh vật sống hay không? =================================== Một sinh vật sống phải thỏa mãn 7 đặc điểm sau: (1) Có tổ chức trong cấu trúc cơ thể (2) đáp ứng với các thay đổi của môi trường (3) phát triển lớn lên và thay đổi (4) có khả năng sinh sản/sinh sôi (5) có chuyển hóa năng lượng và hô hấp (6) có khả năng tự điều hòa để giữ được tình trạng cân bằng (homeostasis) (7) có khả năng tiến hóa Virus đương nhiên có tiến hóa rồi (đặc điểm 7), nhưng không thỏa mãn điều kiện (1) vì không có cấu trúc tế bào vốn đặc trưng bởi sự hiện diện của lớp màng tế bào 2 lớp. Chúng cũng không có các bào quan để thực hiện các chức năng tự chủ cho sự sống độc lập, không tăng kích cỡ theo thời gian. Virus cần phải có môi trường vật chủ để bắt đầu "sự sống" của nó: chuyển hóa, sinh sôi tạo ra nhiều virus con để tiếp tục xâm nhập sinh vật chủ. Khi virus ở ngoài vật chủ, chúng không "sống" được, cho nên hoàn toàn không có khái niệm virus chết. Chúng vẫn tồn tại và chờ cơ hội "được sống" trở lại. =============================================== Thời gian tồn tại được bên ngoài vật chủ của virus là bao lâu? =============================================== Câu trả lời là tùy các loại virus khác nhau. Còn virus 2019- nCoV là virus mới, thông tin về nó vẫn còn là một dấu chấm hỏi rất to! Nói chung virus có thể tồn tại lâu hơn ở các bề mặt không thẩm thấu (thép, nhựa,…) so với các bề mặt có thể thẩm thấu như vải vóc áo quần. Do đó các vật dụng ở hải quan sân bay có thể là nguồn lây nhiễm khủng khiếp! Virus gây cảm lạnh: chúng có thể tồn tại khi ở trên các bề mặt trong nhà đến hơn 7 ngày. Tuy tồn tại lâu nhưng nói chung chúng có thể không còn hoạt tính sau hơn 24h. 40% dòng rhinoviruses, virus gây cảm lạnh thông thường vẫn còn hoạt tính sau 1h. RSV virus thường gây bệnh ở trẻ em có thể tồn tại ở các nắm cửa đến 6h, trên áo quần vải vóc 30-45 phút, trên da 20 phút. Virus gây cúm có thể lưu lại trên bề mặt rắn 24h, còn hoạt tính trên áo quần trong vòng 15 phút, nhưng có thể tồn tại trong các vi hạt từ dịch thể đến hàng giờ. Virus gây bệnh đường ruột tồn tại 1-4h trên các bề mặt rắn. Tuy vậy Norovirus tồn tại lâu hơn, nó còn hoạt tính trong vài ngày đến vài tuần ở bề mặt cứng. Virus Herpes chết nhanh sau khi rời khỏi da người. Chúng lây nhiễm là do hôn nhau hoặc sinh hoạt tình dục qua miệng khi chúng vẫn còn lưu hoạt tính trên da người. ============================================= Virus xâm nhập vào con người để gây bệnh bằng cách nào? ============================================= Bình thường mỗi loại virus có vật chủ riêng để chung sống hòa bình, sản xuất duy trì nòi giống. Tuy nhiên khi thay đổi vật chủ, chúng có thể gây bệnh cho vật chủ mới (ví dụ như con người). Để tìm được vật chủ thích hợp, virus phải cải tiến các thụ thể ở bề mặt cấu trúc của chúng để có thể bám vào tế bào vật chủ, thả các vật chất di truyền của mình vào và lợi dụng các bào quan của tế bào vật chủ để sản xuất ra các virus mới. Chẳng hạn virus corona bình thường sống trong với loài dơi, sau đó chúng có thể tấn công được loài trung gian khác trước khi thụ thể biến đổi đủ để xâm nhập được vào cơ thể người. SARS có loài trung gian là chồn còn MERS có loài trung gian là lạc đà. Hiện nay loài trung gian của virus mới 2019-nCoV vẫn chưa được xác định. Chỉ vài ngày trong cơ thể người virus có thể tạo ra ngàn tỉ con virus khác, gấp 10,000 lần số người trên trái đất này. Hạm đội virus đó sẽ bắt đầu gây ra các triệu chứng cho vật chủ: từ nhẹ như ho hen đến năng như xuất huyết nội tạng và gây chết người. Một số virus có thể gây bệnh ung thư như ung thư cổ tử cung. ============================================= Virus phát tán (hay gây nhiễm vào người khác) như thế nào? ============================================= Tùy loại virus! Có nhiều loại, như virus cúm influenza, ẩn mình trong các vi hạt bay từ miệng mỗi khi ta ho hoặc hắt xì. Nhưng có một số loại khác phát tán thông qua tiếp xúc với dịch thể. Ví dụ virus Ebola lây qua tiếp xúc với máu, phân, dịch nôn của người bị nhiễm. Các nhà khoa học cho rằng Ebola không thể phát tán qua không khí từ người bị nhiễm. Virus (như virus Zika gây viêm não hay virus gây sốt xuất huyết) có thể truyền sang động vật trung gian như muỗi. Khi muỗi chích, virus sẽ theo đó mà vào cơ thể chúng ta. Hiện nay phương thức phân tán của virus mới 2019-nCoV vẫn chưa được xác định. ================================== Môi trường nào thuận lợi cho virus phát tán? ================================== Mọi người ở VN đang nói với nhau: “virus sống tốt trong môi trường khí hậu khô lạnh”, nên ở VN sẽ không sao khi virus 2019-nCoV xuất hiện. Điều này có cơ sở khoa học hay không? Những gì mọi người đang lan truyền: “virus sống tốt trong môi trường khí hậu khô lạnh” có lẽ xuất phát từ hiểu biết về virus cúm mùa influenza và chỉ đúng với khí hậu châu Âu và Bắc Mỹ. Quả thật hàng năm cứ khi mùa đông về là mọi người lại cúm! Tại sao? Các nhà khoa học cũng đã cố gắng giải thích. Năm 2008 có một công bố khoa học giải thích rằng trong mùa đông lạnh về lớp màng protein bao bọc virus sẽ bị cứng lại bảo vệ chúng tốt hơn làm chúng dễ truyền từ người này sang người khác hơn. Đến mùa ấm nóng, lớp màng protein này chảy mềm hơn nên virus khó lan truyền. Thật ra có nhiều cách giải thích khác được đưa ra xoay quanh cách sống của con người: - Mùa đông lạnh, mọi người quây quần với nhau trong phòng kín nên nguy cơ lây lan nhiều hơn - Trời lạnh hệ miễn dịch con người cũng yếu đi vì thiếu ánh sáng mặt trời dẫn đến thiếu vitaminD từ đó cơ thể dễ bị virus đánh gục hơn. - Khi khí hậu khô, virus văng ra từ nước bọt sẽ phân tán thành nhiều vi hạt hơn dẫn đến tần suất tồn tại trong không khí sẽ tăng từ đó làm tăng nguy cơ lây nhiễm. Tuy virus cúm giảm khả năng tồn tại ở môi trường ngoài khi khí ẩm cao điều đó không phải luôn đúng với các tác nhân gây bệnh khác, ví dụ nấm mốc. Hơn nữa điều trên chỉ đúng với khí hậu châu Âu hoặc bắc Mỹ, nhưng hoàn toàn ngược lại với vùng khí hậu ẩm nóng nhiệt đới vốn là những nơi không có khí hậu lạnh và khô. Virus sẽ bùng phát vào mùa ẩm ướt nhất trong năm. Lý do để giải thích cho điều này là virus có nguy cơ đọng tụ ở các bề mặt cao hơn. Do vậy mặc dù khả năng sống trong không khí giảm nhưng từ khắp mọi nơi, nó sẵn sàng chờ cơ hội tiếp xúc vô tình mà đi vào cơ thể người qua việc tay dơ đưa vào miệng. Như vậy mùa đông là mùa cúm không hẳn vì virus sống tốt ở thời tiết lạnh, từ đó có thể suy ra virus khó sống ở thời tiết nóng như VN. Đây quả là 1 sự suy đoán chưa có căn cứ. Và sự thật đối với virus mới 2019-nCoV vẫn còn là điều bí ẩn chờ khám phá! ======= Kết luận: ======= Khi nói về virus sống chết như thế nào thực ra là đang nói về khả năng còn hoạt tính của virus khi ở ngoài vật chủ. Tuy nhiên khả năng lưu lại bên ngoài không quan trọng bằng khả năng chúng đi vào cơ thể con người bằng cách khác. Do đó cách phòng vệ quan trọng nhất vẫn là làm sao để giảm nguy cơ tiếp xúc với các vật thể nguy cơ một cách tối đa: - Vệ sinh tốt, rửa tay thường xuyên bằng xà phòng nhất là sau khi đi vệ sinh, trước khi động vào thức ăn, sau khi ho, hắt xì, sổ mũi - Tránh tiếp xúc với người và động vật có nguy cơ - Khi ho hắt xì thì che lại - Mang khẩu trang sạch khi đi ra đường, nhất là những chốn đông người để phòng các tiếp xúc trực tiếp không thể đoán trước với nguồn bệnh. - Giữa nhà sạch sẽ vệ sinh nhất là khi nhà có người không khỏe - Giặt áo quần có nguy cơ gây lây nhiễm ở nhiệt độ 60oC, với thuốc giặt rửa có chất tẩy Một đúc kết hết sức quan trọng qua bài viết này là không phải virus nào cũng như nhau. Trong khi chúng ta chưa biết được nhiều về 1 loại virus mới như virus 2019-nCoV thì cách tốt nhất vẫn là thận trọng, giữ vệ sinh và cách ly để bệnh tránh bùng phát thành dịch gây gánh nặng cho xã hội. - (Châu Tiểu Lan tổng hợp) ========= Tham khảo: ========= www.nhs.uk/…/how-long-do-bacteria-and-viruses-live…/Nhiều links cung cấp thông tin về virus rất đáng tin cậy nằm dưới bài này: www.nationalgeographic.com/…/human-diseases/viruses/Vì sao virus cúm mùa thường “thức dậy” vào mùa đông: www.npr.org/…/flu-risk-and-weather-its-not-the-heat…www.theguardian.com/…/weatherwatch-flu-vaccination-…www.bbc.com/…/20151016-the-real-reason-germs-spread…www.sciencedaily.com/releas…/2008/…/080330203401.htmwww.medicalnewstoday.com/articles/323431.php…Phòng ngừa lây nhiễm virus khi đi máy bay: www.nationalgeographic.com/…/how-coronavirus-sprea…/
|
|