|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:40:56 GMT 9
“Giữ bản sắc không phải là làm bảo tàng cho quá khứ” Đặc tính của người Việt qua nhận xét của Viện Nghiên Cứu MỹChủ nhật, 25/01/2015 Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social Research) sau khi nghiên cứu đã chỉ ra 10 đặc tính căn bản của người Việt. Khi nhìn nhận bất cứ một vấn đề gì chúng ta cũng phải có cái nhìn khách quan, đầy đủ hai mặt của vấn đề, trên nhiều phương diện giữa tốt và xấu, tích cực và tiêu cực, từ đó rút ra vậy cái gì nên phát huy và cái gì nên hạn chế. Cách đây hai mươi năm, Trung Quốc có sách “Người Trung Quốc Xấu Xí” của tác giả Bá Dương (Bo Yang). Ở Mỹ có cuốn sách nổi tiếng tương tự là: “The ugly American” của WILLIAM J. LEDERER AND EUGENE BURthingy xuất bản năm 1958 đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất thời đó. Dường như có nhiều liên quan giữa sự can đảm nhìn nhận ra những yếu kém của chính mình và sức vươn lên mạnh mẽ cho dân tộc. Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social Research) sau khi nghiên cứu đã nói lên 10 đặc tính căn bản của người Việt, xin tạm dịch như sau: 1.- Cần cù lao động nhưng dễ thỏa mãn. 2.- Thông minh, sáng tạo khi phải đối phó với những khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt. 3.- Khéo léo nhưng ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng các thành phẩm của mình. Người Việt, Đặc tính, quan liêu, lười biếng, sính ngoại Ảnh minh họa - ST 4.- Vừa thực tế vừa có lý tưởng, nhưng lại không phát huy được xu hướng nào thành những nguyên lý. 5.- Yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra, người Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt). [when small, they study because of their families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs] 6. Cởi mở và hiếu khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo dài. 7. Tiết kiệm, nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn phô trương). [to save face or to show off]. 8.- Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau chủ yếu trong những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc tính này ít khi có. 9.- Yêu hòa bình và có thể chịu đựng mọi thứ, nhưng thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ. 10.- Và sau cùng, thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh (một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 3 người làm thì kém, 7 người làm thì hỏng việc). Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy người Mỹ đã hiểu rất rõ người Việt. Tại sao người Việt lại có những đặc tính như thế này? Người xưa cũng đã nhận ra: Học giả Trần Trọng Kim (1883 – 1953) khi viết bộ Việt Nam Sử Lược, ấn hành lần đầu tiên năm 1919, cũng đã phân tích khá rõ ràng những đặc tính của người Việt và những yếu tố tạo nên những đặc tính đó. Đa số người lớn tuổi, khi còn nhỏ đều đã được học bộ sử này. Tôi chỉ xin trích lại dưới đây một số đoạn chính ông viết về đặc tính của người Việt. Người Việt, Đặc tính, quan liêu, lười biếng, sính ngoại****** Trong bài tựa, ông nói ngay: “Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn: “Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!” “Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?” “Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.” Ở Chương VI nói về “Kết Quả của Thời Bắc Thuộc”, ông có nhận định rõ hơn: “Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh lắm, mà nhất là về đời nhà Chu thì cái học thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như là Nho giáo và Lão giáo, đều khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường, những học phái ấy thịnh lên, lại có Phật giáo ở Ấn độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của Tàu đều theo tông chỉ của những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý và phong tục tương tự như nhau cả…” **** “Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên Tàu, thì đất Giao châu ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên người mình cũng theo những đạo ấy. Về sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm, như là đạo Phật thì thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi. “Phàm phong tục và chính trị là do sự học thuật và tông giáo mà ra. Mà người mình đã theo học thuật và Tông giáo của Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả. Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng thua kém Tàu, mà tự người mình không thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì cho xuất sắc, gọi là có cái tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại làm sao? … “Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay cái dở của người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học của Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách mình sùng mộ văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém, không tìm cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh ninh rằng người ta hơn mình, mình chỉ bắt chước người ta là đủ. “Địa thế nước mình như thế, tính chất và sự học vấn của người mình như thế, thì cái trình độ tiến hóa của mình tất là phải chậm chạp và việc gì cũng phải thua kém người ta vậy.” Đọc cuốn “Lều chõng”, một tiểu thuyết phóng sự của nhà văn Ngô Tất Tố (1894 – 1954), chúng ta có thể thấy rõ nền học vấn của người Tàu mà người Việt rập khuôn theo đã kềm hảm con người như thế nào. Ông vốn là một nhà Nho, đã từng tham dự các kỳ thi Hương dưới triều Nguyễn, nên đã phản ánh một cách trung thực những oái ăm của các kỳ thi này và nêu lên sự sụp đổ tinh thần của những nho sĩ suốt đời lấy khoa cử làm con đường tiến thân nhưng lại bị hoàn thất vọng . “Trước là làm đẹp sau là ấm thân” Nước Việt Nam bị Pháp đô hộ gần 100 năm, đã cởi bỏ nền học vấn của Trung Hoa, tiếp thu nền học vấn mới của phương Tây, nhưng vẫn còn giữ lại nhiều nét căn bản của nền văn hóa Trung Hoa. Có nhiều hủ tục trong quan, hôn, tang, tế mà cuộc Cách Mạng Văn Hoá của Trung Quốc đã phá sạch, nhưng nhiều người Việt vẫn cố giữ lại như những thứ “quốc hồn quốc túy”. ****** Bài tục giao sau đây vẫn còn là tiêu chuẩn và mục tiêu thăng tiến của gia đình và con người Việt Nam: Con ơi! muốn nên thân người Lắng tay nghe lấy những lời mẹ cha Gái thì giữ việc trong nhà Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa Trai thì đọc sách ngâm thơ Dồi mài kinh sử để chờ kịp khoa Mai sau nối được nghiệp nhà Trước là đẹp mặt sau là ấm thân Bây giờ người con gái không còn chỉ “giữ việc trong nhà”, và người con trai không còn chỉ “đọc sách ngâm thơ” mà đã đi vào khắp mọi lãnh vực của cuộc sống, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn chỉ là “Trước là đẹp mặt sau là ấm thân”. Tiêu chuẩn của cuộc sống hiện nay của nhiều người, nhiều gia đình là có nhà sang cửa rộng, có xe hơi, có con đi du học nước ngoài… Đi đâu cũng nghe khoe nhà trên cả tỷ bạc, xe loại sang trọng nhất, con đang học bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư… Gần như không nghe ai khoe những công trình đang nghiên cứu hay thực hiện để đưa con người, cộng đồng và đất nước đi lên. Tất cả chỉ tập trung vào hai tiêu chuẩn là “đẹp mặt” và “ấm thân”. Nếu mỗi gia đình và mỗi cá nhân chỉ lấy những mục tiêu như trên làm mục tiêu của cuộc sống và truyền từ đời nọ sang đời kia, còn lâu cộng đồng và đất nước với ngóc đầu lên được. Chúng ta không mong người Việt có những nhà phát minh làm thay đổi nhân loại như: John V. Blankenbaker (phát minh ra máy vi tính 1971), Bill Gates, Steve Jobs…, chúng ta chỉ mong người Việt biết quan tâm đến cộng đồng, đất nước và nhân loại nhiều hơn. Nhưng điều này quá khó. Đúng như người Mỹ đã nhận xét: Người Việt vì những lý do vớ vẩn, có thể hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ (như kiếm chút danh chẳng hạn). [sacrifice important goals for the sake of small ones] Người Việt thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh. Một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 3 người làm thì kém, 7 người làm thì hỏng việc! Chúng ta trông chờ vào thế hệ sắp đến, không bị vướng mắc với quá khứ, học được nhiều cái hay của xứ người, sẽ đưa cộng đồng và đất nước đi vào một hướng đi mới tốt đẹp hơn. Bạn nghĩ sao đặc điểm, cá tính của người Việt, hãy chia sẻ ý kiến , quan điểm riêng của bạn với TTOL qua mail: tintuconline@vietnamnet.vn Hãy đón đọc những chia sẻ của bạn trên trang Tintuconline. Giữ gìn bản sắc văn hóa là đúng nhưng nếu không chọn lựa cẩn thận, Việt Nam sẽ trở thành bảo tàng cho quá khứ của thế giới”- cảnh báo của ông Vũ Đoàn Kết.
Bản sắc văn hóa dân tộc là gì? Giữ gìn bản sắc như thế nào trong hội nhập để phát triển? Những câu hỏi đó đã làm nóng cuộc tranh luận với chủ đề: "Bản sắc văn hóa với hội nhập và phát triển" tại Học viện Ngoại giao sáng 5/3/2009.Tính dân tộc và cái bẫy Huntington Có vẻ như câu chuyện gốc văn hóa dân tộc vẫn còn nhiều điều phải bàn. Theo nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, gốc văn hóa chính là căn nguyên lí giải cho sự phát triển của Nhật Bản – nước nghèo tài nguyên, Singapore – nước hẹp diện tích. “Vấn đề không phải là bản sắc không mất được mà ở chỗ họ có ý thức để không bị mất. Nói cách khác, họ luôn tìm cách duy trì và tái tạo bản sắc". Tuy nhiên, ông Vũ Đoàn Kết, Phó Trưởng khoa Chính trị quốc tế, Học viện Ngoại giao lại cho rằng: không có gì là gốc văn hóa của một dân tộc. Cái được coi là gốc luôn luôn vận động, kiến tạo, tái kiến tạo trong tiến trình va chạm, hỗn dung với các sắc thái ngoại lai. Ông Kết phân tích, không có thuộc tính nào của riêng một dân tộc vì cái gọi là thuộc tính chỉ có thể định vị được trong tương quan với các thuộc tính khác của người khác và không có gì đảm bảo rằng thuộc tính này không có sự va chạm, tích hợp với các thuộc tính khác (hỗn dung văn hóa!). Đơn cử, chúng ta cần xem gốc Việt Nam là thế nào? Liệu có phải là bàn chân Giao chỉ như ông Trần Trọng Kim viết, răng đen, tóc dài như ông Quang Trung quan niệm hay là tục ăn trầu, xăm mình? Nếu vậy, liệu bây giờ chúng ta sẽ tìm thấy bao nhiêu người có bàn chân Giao chỉ, răng đen, và tục ăn trầu có phải là truyền thống của riêng người Việt? Tính dân tộc và bản sắc văn hóa phải có va chạm, hỗn dung thì mới tồn tại và phát triển. Như Robinson thì làm sao có bản sắc, bởi ông ta làm gì có sự va chạm nào để bản sắc được hình thành và hiển lộ. Do vậy, nếu xem tính dân tộc hay bản sắc văn hóa là cố hữu, chúng ta sẽ dễ rơi vào thuyết định mệnh văn hóa, hoặc vào cái bẫy của Huntington về sự va chạm giữa các nền văn minh. “Không xem bản tính dân tộc là cố hữu, chúng ta mới có thể dễ dàng bước ra khỏi biên giới, cầm hộ chiếu mà ra với bên ngoài để hội nhập”, Ông Kết nói. Nếu coi bản sắc dưới cách nhìn tuyệt đối hóa, coi bản sắc văn hóa là cố hữu, là “nhất thành bất biến” thì toàn cầu hóa sẽ đe dọa bản sắc. Ngược lại nếu nhìn từ góc độ tương đối và vận động, thì câu trả lời sẽ khác. Hơn nữa, cần xem xét bản sắc ở cả hai khía cạnh: bản sắc cá nhân và bản sắc cộng đồng. Bản sắc cộng đồng là do sự tương tác, hỗn dung giữa các bản sắc cá nhân, khi không có các cá nhân tương tác thì không còn bản sắc cộng đồng và ngược lại bản sắc cá nhân sẽ biến mất hoặc biến dạng, tái tạo nếu được đặt trong môi trường cộng đồng, bản sắc cộng đồng khác biệt. Không xem bản tính dân tộc là cố hữu, chúng ta mới có thể dễ dàng bước ra khỏi biên giới, cầm hộ chiếu mà ra với bên ngoài để hội nhập. Ảnh: VNN. Ông Kết dẫn chứng, trên vùng đất của người châu Phi, nếu không nhìn vào màu da, thì khó mà phân biệt người Việt Nam, bởi họ cũng ăn chuối chiên, cá mắm và sinh hoạt đâu khác gì họ. Chỉ khi gặp người Việt, những người gốc Việt ở đó mới thể hiện những đặc trưng Việt như dùng mắm tôm…. Như vậy, bản sắc có sự chồng lấn lẫn nhau, nhiều tầng nấc, đa lớp, đa diện. Người Việt Nam sẽ có một chút của người Ấn Độ, có một chút của người Trung Quốc nhưng không vì thế mà họ trở thành người Ấn hay người Trung Quốc. Do đó, không có lí do gì để bảo tồn văn hóa bằng cách khu biệt hóa. Giữ gìn bản sắc không phải là làm bảo tàng cho quá khứ Ông Đặng Đình Quý, Phó Giám đốc Học viện Ngoại giao nêu vấn đề: Bản sắc văn hóa là cái gì đó không mất được trong quá trình phát triển. Một khi đã bị hòa tan rồi thì không phải là bản sắc. Bằng trải nghiệm đã đi nhiều nơi, có mặt tại nhiều quốc gia, ông Quý dẫn chứng, ở Mỹ - một quốc gia đa văn hóa tiêu biểu, người Hungary gốc sống tại đó vẫn còn nét riêng, họ không giống Ireland. Sau cả nghìn năm, cái gì đó không bị mất đi đó chính là bản sắc, đó là cái cốt lõi của dân tộc tính. "Vấn đề không phải là bản sắc không mất được mà ở chỗ họ có ý thức để không bị mất. Nói cách khác, họ luôn tìm cách duy trì và tái tạo bản sắc", ông Kết góp lời. Nếu không có ý thức giữ gìn, thì người dân tộc nào cũng sẽ sống hoàn toàn theo cách sống ở cộng đồng mà họ tồn tại. Khi đó, làm sao phân biệt được ranh giới giữa các dân tộc. Từ lập luận này cho thấy cần đặt bản sắc trong một số cách tiếp cận tương đối, theo đó, bản sắc là không cố hữu, là tiến trình, có sự vận động kiến tạo, tái kiến tạo. Nó phải được đặt trong tương quan với các bản sắc khác, không biệt lập. Bản sắc có sự tự sinh - tự tiêu, tích hợp, hỗn dung, sáng tạo liên tục. Dưới góc độ đó, toàn cầu hóa là cầu nối góp phần thức tỉnh các giá trị, bản sắc văn hóa, kiến tạo, tái tạo văn hóa. Bản sắc văn hóa có thể thay đổi và người ta có thể lựa chọn, chấp nhận bản sắc mới (không nói đến sắc tộc, màu da… vì nhưng điều này không làm nên bản sắc văn hóa!) Trong hội nhập, nhiều người muốn ta phát triển, khuyên ta giữ bản sắc văn hóa, là chính bản thân ta, có khi họ muốn ta giữ vì muốn chúng ta là mẫu hình tương phản với họ, là bảo tàng quá khứ của họ, là nơi họ đến để xem, ngó, chụp ảnh… Nếu như vậy, ta khác gì mẫu vật triển lãm cho họ! Và "giữ gìn là đúng nhưng không chọn lựa cẩn thận, Việt Nam sẽ trở thành bảo tàng cho quá khứ của thế giới”, ông Kết cảnh báo. Phương Loan
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:43:09 GMT 9
Để mất "biên giới văn hóa" là nguy hại cho đất nướcHọa sĩ Lê Thiết Cương Từ chuyện Nhật tố thói xấu Việt, xem lại "Tự phán" thói xấu, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Văn Vĩnh, Vương Trí Nhànthói xấu, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Văn Vĩnh, Vương Trí Nhàn Ai lên danh sách? Thử tìm trên mạng, không thấy có website hay thông tin nào về Viện nghiên cứu xã hội học Hoa Kỳ. Kết quả tìm kiếm chỉ ra trang web của Viện Nghiên cứu Mỹ www.air.org. Ngoài ra, còn có Viện Nghiên cứu xã hội của ĐH Michigan. Vào trong website của Viện Nghiên cứu Mỹ, tìm với từ khóa “Vietnamese” cũng không ra kết quả gì. Theo suy đoán chủ quan của một giảng viên tiếng Anh, bản danh sách này do người Việt hoặc có yếu tố Việt viết ra, vì văn phong bản tiếng Anh của danh sách này “không được Mỹ lắm”. Tìm hiểu tới các nguồn thông tin chính thức, phản hồi từ Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam cho biết những thông tin kiểu này khó kiểm chứng, không xác nhận về tính xác thực của thông tin, cũng như sự tồn tại của một viện có tên như vậy. Bởi vì ở Hoa Kỳ, các cơ quan nhà nước chỉ đề ra luật, nguyên tắc, quy định. Họ không thành lập và quản lý theo danh sách các viện như của VN. Kể cả gọi sang Bộ Giáo dục Mỹ cũng không xác định được. Ngay cả các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục cũng là các đơn vị độc lập, không chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước nào. “Bản danh sách” này thực tế đã tồn tại hơn 10 năm nay, thậm chí có ý kiến cho rằng là có thể do ai đó bịa ra… cho vui. Người ngoài nhìn người Việt Mặc dù là “hàng cũ”, nhưng khi được các facebooker “khai quật” lại, bản danh sách trên vẫn được lan ra với một tốc độ chóng mặt. Những nhận xét của người nước ngoài về tố chất, và đặc biệt là thói xấu của người Việt, luôn nhận được sự quan tâm của chính người Việt Nam. thói xấu, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Văn Vĩnh, Vương Trí Nhàn Hình ảnh vụ "hôi bia" đình đám tại Biên Hòa cách đây hơn một năm Trong bài viết "Tổng thuật thói hư tật xấu của người Việt" đăng trên Tạp chí Nghiên Cứu và Phát Triển, số 3-4 (110-111).2014, tác giả Trần Văn Chánh cho biết: Theo ghi nhận khá rời rạc của một số nhà truyền giáo tiên phong tiếp xúc với xã hội Việt Nam, như Christoforo Borri (1583-1632), Alexandre De Rhodes (1591-1660)…, thì đặc điểm xấu chung phổ biến của người Việt thời kỳ này là thói mê tín dị đoan, ưa tin vào phép thuật của các thầy phù thủy… Baldinotti ghi vắn tắt về con người Việt Nam khi ông tới Đàng Ngoài năm 1626 như sau: “Về diện mạo thì họ khá cao ráo, vạm vỡ và can đảm… Binh sĩ thì đeo gươm mang kiếm, đó là những người bệ vệ dễ giao thiệp, trung thành, vui vẻ... Dân thường thì hay trộm cắp, vì thế người ta phạt kẻ ăn trộm ăn cắp cũng như ngoại tình bằng án tử hình”. Phải đợi đến giữa thế kỷ XVIII trở đi, tài liệu ghi chép về Việt Nam nói chung và về người Việt nói riêng mới được phong phú hơn. Về tính cách/ lối sống cá nhân thì mê tín dị đoan, nát rượu và cờ bạc là ba thói xấu thường thấy. Trong quan hệ với công quyền và xã hội, người Việt có thói ganh tị với người giàu, ham thích quan tước, tham nhũng hối lộ, vu cáo nói xấu người khác, ưa kiện tụng, và không biết tôn trọng luật pháp. Những tác phẩm mô tả người Việt trong giai đoạn tiếp xúc đầu tiên của người Pháp khi mới đến xứ ta (1860) đã được Malleret tập hợp giới thiệu khá đầy đủ trong quyển Exotisme indochinois dans la littérature francais depuis 1860, qua đó chúng ta ngày nay còn đọc được một vài nhận xét của họ về tính cách người Việt cách nay trên dưới 150 năm. Một cố đạo nghĩ về tính nhẹ dạ, hời hợt của người Việt: “Tính nết họ hay thay đổi, nhẹ dạ lạ lùng. Tôi tin rằng họ không thể theo dõi một cách chăm chỉ một ý tưởng gì…”. Hoặc của nhà văn Jean Hougron cho rằng người Việt “nhu nhược không có cá tính, biển lận, thích tố giác”. Hoặc của Palazzoli, cho người Việt là “nửa kín nửa hở, dè dặt, dò xét…, một thiên hướng đa nghi, mưu mẹo, một thói quen lúc nào cũng thích chống đối, rồi lại nhanh chóng buông trôi chấp nhận”. Người Việt tự nhìn mình Nhà văn, nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) từ năm 1913 đã triển khai một loạt bài chuyên đề gọi là “Xét tật mình” trên tờ Đông Dương Tạp Chí (1913 - 1919) với một số bài như “Học để làm quan”, “Gì cũng cười”… Phan Chu Trinh cũng từng liệt kê mười điều bi ai của dân tộc Việt Nam, trong đó có “Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề; thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám”, “Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí óc; thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con”... Phan Bội Châu nhận xét về không khí xô bồ nhếch nhác thường thấy phổ biến ở lễ hội của người Việt: Miếng ăn quá to, người ta chỉ nghĩ đến ăn, tranh giành ngôi thứ cũng chỉ vì ăn… Hoài Thanh trong bài “Có một nền văn hóa Việt Nam” (1946): “Người Việt chúng ta sống ở trong nhịp điệu trong thanh âm nhiều hơn trong tư tưởng. Tâm lý ấy có giống với tâm lý trẻ con. Trẻ con thường vẫn ca hát luôn miệng mà chẳng mấy khi quan tâm đến ý nghĩa lời ca”. Chế Lan Viên có câu thơ “Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp – Giấc mơ con đè nát cuộc đời con”. Cố GS Trần Quốc Vượng, GS Cao Xuân Hạo cũng từng bày tỏ ý định làm sách về thói xấu người Việt Nam nhưng chưa thành. Nhà văn, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã tổng hợp, hệ thống lại ý kiến của các bậc tiền bối trong chuyên mục “Người xưa cảnh tỉnh” in trên báo Thể Thao và Văn Hóa giai đoạn 2005 - 2007, sau công bố lại trên Blog Vương Trí Nhàn, với những chủ đề: Người Việt và ý thức công dân ý thức xã hội, Người Việt qua cách nói năng cười cợt, Thói hư tật xấu người Việt trong làm ăn buôn bán, Việc tìm tòi học hỏi và nền giáo dục của người Việt, Thị hiếu nhỏ mọn và chất bi thương sầu cảm trong văn chương, Quan hệ giữa người với người, Bẻ queo những chuẩn mực đạo lý nhân bản, Giả dối, lừa lọc, kiêu ngạo, hiếu danh, Nếp tư duy đơn sơ tùy tiện. Nhiều tờ báo đã tổ chức diễn đàn để chỉ tên thói xấu của người Việt thời nay, thu hút được rất đông độc giả tham gia. Tại sao người Việt, từ gìa đến trẻ, vẫn miệt mài nghe, đọc và viết về những thói xấu của chính mình? Có thể lấy ý kiến của Vương Trí Nhàn, trong một bài phỏng vấn trên báo Tiền phong, để trả lời cho câu hỏi trên: “Tôi cho rằng khi tôi nói về những thói xấu của anh, anh sẽ tiếp cận tôi hơn, và điều đó chứng tỏ sự trưởng thành... Tôi rất thích câu của nhà văn Nga Sêkhôp: Một con người sẽ tốt hơn nếu ta nói cho anh ta biết anh ta là người thế nào...”. Ngân Anh – Nguyễn Thảotổng hợp Trong thời đại toàn cầu hoá và khi thế giới ngày càng trở nên "phẳng" hơn thì việc đề cao bản sắc văn hoá, giữ gìn văn hoá lại càng nên coi trọng. Văn hoá cũng là một biên giới. Để mất cái biên giới này là nguy hại cho đất nước.LTS. Một đất nước muốn phát triển bền vững thì phải đứng chắc trên đôi chân khỏe mạnh là văn hóa và kinh tế. Thu hẹp được khoảng cách giữa sự lắm tiền nhiều của và sự giàu có về văn hóa thì đây mới là một yếu tố tạo nên sự ổn định xã hội. Xin giới thiệu những chia sẻ của họa sĩ Lê Thiết Cương, tham gia diễn đàn “Vì sao văn nghệ sĩ ‘im hơi lặng tiếng’?”Trước tiên, xin hiểu cho: Cái cách cất tiếng tốt nhất của nghệ sĩ trước những vấn đề của cuộc sống là bằng tác phẩm. Nói cách khác mỗi nghề mỗi ngành có tiếng nói đặc trưng của mình. Ấy là chưa kể nghệ thuật có nhiều môn. Mỗi môn lại có ngôn ngữ riêng. Ví dụ sau một trận lũ hoặc tình trạng tắc đường ở các đô thị, người ta có thể làm phim tài liệu, chụp ảnh phóng sự ngay, nhưng vẽ một bức tranh sơn dầu khổ to dựa vào đề tài đó thì cần phải có thời gian hoặc ngành múa múa ngay một điệu để chứng tỏ ta cũng không im lặng trước những vấn đề nóng của cuộc sống thì buồn cười quá. Một số nhạc sĩ đã nỗ lực viết ca khúc về sinh đẻ kế hoạch hoặc ô nhiễm môi trường nhưng đều là những bài chưa thể nói là hay được. Không nên bắt cầu thủ đá bóng đi thi bóng chuyền. Ấy thế nhưng đôi khi nghệ sỹ im lặng lại vì một lý do khác, đó là sự nản lòng. Khi mà họ thấy những bức xúc của mình tác động quá ít đến dư luận. Tâm huyết mấy đi chăng nữa nhưng hình như viết ra, vẽ ra, nói ra cũng chỉ là trong giới biết với nhau, thế thì để làm gì? Chả lẽ lại im. Tôi hay nói với bạn bè, có nhiều chuyện ai cũng biết, ai cũng nói ở các quán café, quán trà nhưng nghệ sỹ khác người bình thường là họ dám viết ra, nói ra trên tác phẩm, trên sách báo, dám hiển ngôn trên giấy trắng mực đen. Dám chịu trách nhiệm là phẩm chất của trí thức. Tất nhiên bằng kinh nghiệm sống tôi hiểu rằng, sống giống như mọi người, đừng khác biệt thì dễ sống hơn. Tôi cũng hay băn khoăn về vấn đề văn hóa. Phải thật sòng phẳng để thú nhận rằng so với trước khi Đổi Mới, mặt bằng tri thức và kinh tế của xã hội đã nâng lên được một bước nhưng mặt bằng văn hoá thì dường như lại thấp hơn trước nhiều. Đời sống khá hơn, dân trí cao hơn mà văn hoá lại xuống cấp thì phát triển thế nào đây? Sau 20 năm đổi mới, kinh tế đã tiến lên một bước nhưng phải mất 50 năm may ra mới đưa văn hoá phát triển lên được nửa bước. Thế mà không những không phát triển, mặt bằng văn hoá chung của toàn xã hội lại đi xuống? Ngày nay, người ta quan niệm biên giới là một khái niệm mềm và mở hơn (không chỉ là chuyện của riêng Việt Nam). Trong thời đại của công nghệ thông tin và truyền thông. Trong thời đại toàn cầu hoá và khi thế giới ngày càng trở nên phẳng hơn thì việc đề cao bản sắc văn hoá, giữ gìn văn hoá lại càng nên coi trọng. Văn hoá cũng là một biên giới. Để mất cái biên giới này là nguy hại cho đất nước. Hãy nhìn cái cách mà người ta nhân danh phục dựng lễ hội, trùng tu di tích trong 20 năm qua để thấy họ ứng xử với văn hoá một cách vô văn hoá như thế nào. Nên quan niệm đền ơn đáp nghĩa, Tổ quốc ghi công thực chất là phải xây dựng được một đời sống tốt đẹp. Chỉ có như vậy mới làm yên lòng những người đã khuất... Vẫn biết rằng phát triển kinh tế thì nhanh và không khó bằng phát triển văn hoá nhưng chẳng nhẽ người ta cứ mải làm giầu mà không cần xây dựng cho mình những kiến thức tối thiểu về văn hoá nghệ thuật. Thật đáng mừng là ở Việt Nam đã xuất hiện một tầng lớp trung lưu (về kinh tế) nhưng cũng thật đáng buồn là chưa có một tầng lớp trung lưu về văn hoá. Tôi đã đến một số ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam, toàn những "ông lớn" cả nhưng hoặc là họ không treo gì hoặc là treo toàn tranh nhái, tranh copy loại rẻ tiền. Nếu các bạn muốn xem tranh rởm, tranh sến miễn phí thì xin mời đến một số khách sạn 5 sao ở Hà Nội... Những đại thương gia, đại thương hiệu mà còn thế thì không biết đến bao giờ chúng ta mới có một tầng lớp trung lưu văn hoá. Thêm một ví dụ khác. Bạn đã bao giờ đến nghỉ tại Resort HAGL ở Quy Nhơn và Đà Lạt chưa? Nội thất xấu đến thậm tệ. Rất khó giải thích, rất khó hiểu rằng tại sao những doanh nghiệp lớn như vậy, có tiền như vậy nhưng họ lại ít hiểu biết về mỹ thuật, kiến trúc. Thật lãng phí, đáng nhẽ chỉ cần ít tiền hơn cộng một chút kiến thức mỹ thuật thì các resort đó đã đẹp hơn rồi. Tiếc. Sự chênh lệch của khoảng cách giàu nghèo thì ai cũng nhìn thấy nhưng sự chênh lệch giữa tiền bạc và văn hoá thì ít người biết đến. Giảm bớt điều này chắc chắn cũng là một yếu tố tạo ra sự ổn định xã hội. Chả lẽ người ta cứ làm giầu (thậm chí làm giầu bằng mọi cách), cứ giầu, cứ sống mà không cần quan tâm đến chất lượng sống. Sống không chỉ là chuyện thọ, yểu và có bao nhiêu tiền mà là sống thế nào. Tôi cứ băn khoăn một điều rằng thời chiến tranh, khi kinh tế đất nước còn khó khăn thì không như vậy mà bây giờ thì... Thời chiến tranh, thời nghèo khổ, mọi sự đều thuần phác, mộc mạc. Thời loạn nhưng lòng người lại yên, bây giờ thì ngược lại, hầu như tất cả đều “năng động”, khôn ngoan, mưu mô, lọc lõi, toan tính. Đời sống văn minh không chỉ tạo ra bởi luật mà chính là văn hoá của mỗi công dân tạo nên sự tự giác, tự nguyện cùng xây dựng xã hội tốt đẹp. Nếu chỉ chăm chăm phát triển kinh tế, chỉ nhìn thấy lợi trước mắt mà không phát triển văn hoá, không thấy lợi ích lâu dài thì phát triển để đi đến đâu. Nếu chỉ chạy theo tiền, chạy theo chỉ số kinh tế để đến mức như thế thì phát triển làm gì. 20 năm đổi mới, kinh tế đất nước đã phát triển lên một bậc nhưng để văn hoá phát triển lên dù nửa bậc thì có lẽ cần gấp đôi, gấp ba khoảng thời gian đó cũng chưa chắc đã đủ nhưng dẫu sao thì cũng phải bắt đầu. Mất văn hoá thì mất nước nhưng trong lịch sử thế giới đã có những trường hợp mất nước nhưng văn hoá của họ không mất. Họa sĩ Lê Thiết Cương
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:45:34 GMT 9
Sẽ là sai lầm lớn nếu lấy văn hóa làm "Chân Ga"Nhà văn Nguyên Ngọc Tôi thấy bây giờ chúng ta đang tăng tốc để đuổi kịp các nước khác về nhiều mặt, sẽ là sai lầm lớn nếu mình lấy văn hóa làm chân ga. Văn hóa cần phải giữ cái sự bình tĩnh cho xã hội, cho con người - Nhà văn Nguyên Ngọc. LTS. Vị khách mời tiếp theo tham gia diễn đàn ’Vì sao văn nghệ sĩ "im hơi lặng tiếng"?’ cho biết, nên đặt thêm câu hỏi: vì sao văn học nghệ thuật chưa giúp được cho xã hội, cho con người, nâng cao đạo đức và chất người trong mỗi chúng ta. Và ông đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của văn hóa. Xin giới thiệu ý kiến của nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyên Ngọc.
Cần phải chắc chân phanh khi vào cua hoặc đang tăng tốc. Theo tôi, có rất nhiều nguyên nhân vì sao văn nghệ sĩ “im hơi lặng tiếng”. Còn nhớ trước Đại hội Nhà văn lần thứ IV, ông Đào Duy Tùng mời tôi lên gặp để trao đổi về tình hình đại hội và Hội Nhà văn. Hồi ấy tôi mới bị kỷ luật, thôi không làm Báo Văn Nghệ nữa. Có thể ông ngại là trong đại hội mình sẽ làm gì chăng? Tôi nói với ông Tùng: Chúng ta không nên đánh giá thấp Hội Nhà văn, mà cũng đừng đề cao Hội quá. Không phải cứ có tổ chức Hội tốt thì sinh ra thiên tài đâu. Thời cụ Nguyễn Du, xã hội bi đát thế, mà vẫn có thiên tài đấy thôi. Văn học, nghệ thuật có những quy luật riêng, lúc thời thế suy tàn nhân tài vẫn có thể xuất hiện. Hội tốt chưa chắc đã có thiên tài, mà nếu Hội có kém thì cũng không vì thế mà lại không có tài năng văn học nổi lên. Nên không có gì phải quá lo lắng. Ví như nếu tôi viết kém không thể đổ tại ông Nguyễn Đình Thi (cố Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam - PV) lãnh đạo kém. Nguyễn Huy Thiệp viết hay, không phải nhờ có Nguyên Ngọc (nguyên TBT báo Văn Nghệ - PV) mà hay. Cái chính vẫn là lúc mình ngồi trước trang giấy. Có hai lúc con người cô đơn nhất, đó là trước cái chết và trước trang giấy, bởi vì không ai có thể viết thay anh và cũng không ai chết thay anh được. Có lần tôi cũng đã nói với ông Lê Đức Thọ (khi ấy là Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng - PV), đời sống văn học sở dĩ tồn tại là do các nhóm chơi với nhau. Trong chiến tranh người cầm bút của chúng ta ra trận vì lòng yêu nước, văn nghệ sĩ trở thành một binh chủng chiến đấu, theo tôi thời ấy văn học của chúng ta đã làm tròn nhiệm vụ của mình đối với dân tộc, và tổ chức văn học nghệ thuật như một binh chủng chiến đấu lúc bấy giờ là thích hợp. Nhưng hết chiến tranh thì nên để các tổ chức văn học tồn tại theo đúng quy luật của nó, nghĩa là theo nhóm của những người hoạt động nghề nghiệp. Tự Lực văn đoàn chỉ là một tổ chức văn học tư nhân, mà tạo ra cả một thời kỳ văn học đấy thôi. HNV chưa chắc đã tạo ra được một thời kỳ văn học như Tự Lực văn đoàn. Với tư cách của một nhà văn, một công dân, một người làm văn hóa, anh phải có tiếng nói trung thực, thẳng thắn về các vấn đề xã hội, chống lại những cái sai phạm. Rồi anh phải góp phần xây dựng cho con người những phẩm chất để họ tự làm được điều đó. Lại có lần tôi trò chuyện cùng một anh bạn người Philippines, từng tốt nghiệp tiến sĩ ở ĐH Havard, từng làm cho một tổ chức LHQ ở Paris. Được khoảng hơn 10 năm, anh bỏ công việc của LHQ, về đi làm văn hóa, làm phim, nghiên cứu. Chúng tôi nói đến các nước còn chậm phát triển như Philippines, Việt Nam đang phải ráng sức đuổi kịp các nước phát triển khác về kinh tế, xã hội, chính trị… thì vai trò của văn hóa ở đâu? Anh hỏi tôi: “Ông có lái xe không? Vì lái xe quan trọng nhất là hai cái chân, chân ga và chân phanh. Kinh tế, chính trị giống như cái chân ga, bao giờ cũng phải đạp ga, lao tới phía trước. Văn hóa là chân phanh, người ta luôn phải giữ chân phanh cho tốt, đặc biệt là khi tăng tốc, hoặc khi vào cua". Nhớ lại câu chuyện ấy, tôi thấy bây giờ chúng ta đang tăng tốc để đuổi kịp các nước khác về nhiều mặt, sẽ là sai lầm lớn nếu mình lấy cả văn hóa làm chân ga. Thấy kinh tế, chính trị lao lên, thì văn hóa cũng lao tới. Văn hóa cần phải giữ cái sự bình tĩnh cho xã hội, cho con người. Truyện Cánh đồng bất tận (của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tư) có nói gì về chính trị, kinh tế đâu, nó nói về chất người, và đi tìm kiếm chất người. Thành công là ở chỗ đó, chứ không phải là dũng cảm đấu tranh chống tiêu cực đâu. So với chính trị, kinh tế thì văn học là cái lâu dài, cái mãi mãi của con người. Nền tảng văn hóa cơ bản là vấn đề lớn nhất của văn học. Vì sao chúng ta chưa có những tác phẩm đỉnh cao, tương xứng với tầm vóc thời đại và dân tộc? Chúng ta biết, trí thức Việt Nam là trí thức yêu nước, văn nghệ sĩ Việt Nam là bộ phận của giới này. Cuộc cách mạng của chúng ta là cách mạng dân tộc, kháng chiến và chiến tranh của chúng ta về cơ bản cũng là giải phóng dân tộc, nên hầu như tất cả trí thức đi theo kháng chiến. Có điều trí thức của ta cơ bản là trí thức nhỏ. Về cơ bản, văn học nước ta khi có kích thích gì đó thì sôi nổi lên, nhưng cái sôi nổi ấy lại không phải là… cơ bản. Một vài người có tài thì vượt lên, làm được một cái gì đó, nhưng có hiện tượng đặc biệt là tài năng của mình không lâu dài. Nhiều tài năng văn học của chúng ta xuất hiện từ rất sớm, nhưng rồi cũng chỉ đến thế. Cho nên nếu mình chưa có tác phẩm lớn xứng với tầm thời đại thì cũng là điều bình thường. Chỉ có những đại trí thức thì mới trở thành nhà văn lớn của nền văn học lớn. Lev Tolstoi chẳng hạn, ông là một đại trí thức, thậm chí được coi là bộ óc lớn nhất của thời đại mình. Cuộc sống có biết bao nhiêu cái để viết, nhưng nền tảng của anh kém quá thì anh có đủ sức, tài năng, tầm vóc để xử lý vấn đề ở tầm nhân loại hay không? Đổi mới sinh ra một động lực, là một cú hích mở ra cho những tài năng phát triển nên mới sinh ra lớp những Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài… Nhưng đến một lúc nào đó cú hích này hết đà thì nó sẽ từ từ dừng lại. Và khi ấy nó trở lại vấn đề cơ bản ban đầu là nền tảng văn hóa. Nếu có nền tảng tốt thì anh tự đi được xa, không có thì sẽ dừng lại. Tôi nhận thấy trường hợp Bảo Ninh dường như tiêu hết vốn rồi thì thôi... Văn nghệ phải lo cho cái lâu dài của con người. Gorky nói, không được phép ngây thơ tin rằng cách mạng chữa hết bệnh cho con người. Những căn bệnh ngoài da chỉ lặn sâu vào trong nội tạng, vì vậy chữa bệnh lâu dài cho nước Nga là văn hóa, văn học và giáo dục. Văn học có chức năng lo cái lâu dài đó. Ngoài ra, văn học của chúng ta còn xoàng vì sa vào hai thứ: thứ nhất là đấu tranh chống tiêu cực một cách "báo chí"; thứ hai là ám chỉ. Những cái đó, theo tôi không phải văn học. Văn học lo đến những cái dài hơn, mang chất người. Cần phải nói thêm thế này, nếu tạo được sự đồng thuận thì chúng ta mới đối phó được với những thách thức, với kẻ thù. Đồng thuận ở đây nên hiểu theo nghĩa là người trên lắng nghe, và đồng thuận với những gì người dưới nói đúng; người dưới là chấp hành, là tham mưu cho người trên chứ làm sao mà đồng thuận “ngược” lên trên được? Đặt câu hỏi vì sao các văn nghệ sĩ im hơi lặng tiếng, vì sao bây giờ văn học nó không sôi nổi như trước kia cũng là một cách. Nhưng nên đặt thêm câu hỏi: vì sao văn học nghệ thuật chưa giúp được cho xã hội, cho con người, nâng cao đạo đức và chất người trong mỗi chúng ta. Hay nói như Gorky là chỉ có văn hóa và giáo dục mới có thể “chữa bệnh lâu dài” cho nước Nga. Cách dấn thân của một nhà văn không giống cách dấn thân như một nhà chính trị. Trách nhiệm của anh là giữa đường thấy việc bất bình chẳng tha. Nhưng sứ mệnh của anh là phải giải quyết những vấn đề của con người, nghĩa là anh phải chiến đấu cho cả những mục tiêu trước mắt và lâu dài. Trong điều kiện như vậy thì nhà văn viết cái gì? Không phải ngẫu nhiên sinh ra cái gọi văn học ám chỉ thời gian gần đây. Phải chăng vì nó bí, hay là vì cực chẳng đã phải chọn cách làm như vậy? Những nhà văn thực sự giỏi sẽ vượt qua được sự ám chỉ để nói những vấn đề lớn hơn của con người, của kiếp người. Theo tôi Cánh đồng bất tận đã vượt qua và làm được điều đó. Tại sao con người lại đau khổ, kiếp người lại bi đát thế? Chính cái đó nó giữ cái chất người cho xã hội. Xã hội giống như một cái hộp vuông. Nhà nước giống như một khối tròn bên trong hộp vuông ấy. Về nguyên tắc, khối tròn có lớn cỡ nào thì cũng không thể lấp đầy cái hộp vuông. Bao giờ cũng còn những cái góc. Cái góc ấy để xã hội làm, xã hội càng tốt thì khối tròn nhà nước càng nhỏ. Còn khối tròn mà lớn, nghĩa là mọi việc nhà nước làm hết, thì xã hội sẽ nghèo nàn, cằn cỗi. Những nhà văn cần phải tự phấn đấu trong điều kiện của mình. Những người có tài phải kiên trì nâng tầm văn hóa lên, tự mình vượt lên, để có thể làm chức năng cải tạo, chữa bệnh, làm lại con người. Hữu Việt
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:49:04 GMT 9
Sự hình thành và ý nghĩa của lễ hội truyền thốngLễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người Việt Nam từ hàng ngàn đời nay có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn vinh những hình tượng thiêng, được định danh là những vị “Thần” - những người có thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần linh đã hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống giặc ngoại xâm; những người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những người chống chọi với thiên tai, trừ ác thú; những người chữa bệnh cứu người; những nhân vật truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con người hướng thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh phúc... Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc. Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người. Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí... Lễ hội là dịp con người được giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che đặng vượt qua những thử thách đến với ngày mai tươi sáng hơn. Quy trình của lễ hộiThông thường địa phương nào mở hội cũng đều tiến hành theo ba bước sau: 1. Chuẩn bị: Chuẩn bị lễ hội được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn chuẩn bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho mùa lễ hội sau được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị đã có sự phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau. Khi ngày hội sắp diễn ra, công việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn, mở cửa di tích, rước nước làm lễ tắm tượng (mộc dục) cùng các đồ tế tự, thay trang phục mũ cho thần... 2. Vào hội: nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các nghi thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là toàn bộ những hoạt động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay ít khách đến với lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày hay một ngày hoàn toàn chi phối bởi các hoạt động trong những ngày này. 3. Kết thúc hội (xuất tịch, giã đám, giã hội): Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng cửa di tích. Thời gian mở hộiLễ hội ở Việt Nam được tổ chức nhiều nhất vào ba tháng mùa xuân và mùa thu. Hai khoảng thời gian trên là lúc người dân nhàn rỗi. Mùa xuân tiết trời ấm áp, mùa thu tiết trời mát mẻ, đều thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội. Hai yếu tố cơ bản tạo nên sự thoải mái, vui vẻ cho người đi dự hội. (Theo gosanh.vn)
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 7:51:56 GMT 9
Văn minh Chăm - Văn học Chăm Vietsciences-Nguyễn Đức Hiệp Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, ngoài những khám phá các di chỉ khảo cổ mới quan trọng ở Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng Nam, đã có những công trình nghiên cứu đáng kể về nền văn minh Chăm được xuất bản, nối tiếp truyền thống nghiên cứu sâu sắc và nghiêm túc của các nhà sử học và khảo cổ người Pháp thuộc trường Viễn đông bác cổ vào những năm đầu đến giữa thế kỷ 20. Các công trình này cho ta hiểu rõ thêm về lịch sử và văn hóa của dân tộc Chăm ở Việt Nam. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho sự phát triển tìm hiểu một nền văn minh cổ bản sứ, rực rỡ và rất đặc thù ở Đông Nam Á. Có thể liệt kê một vài kết quả gần đây trong nhiều công trình nghiên cứu mà tôi cho là đáng ghi nhận. Ở ngoài nước hiện nay có các học giả như A. Hardy, I. Glover, M. Yamagata, P. Zolese, Po Dharma, E. Guillon, G. Wade, A. Schweyer, W. Southworth, M. Vickery (6)(7)(8)(9)(20)(21). Guillon (10) đặc biệt cho ta thấy ảnh hưởng và sự liên hệ của nghệ thuật ở bắc Champa (Thừa thiên, Quảng Trị) qua các tượng bồ tát Avalokitesvara Phật giáo Đại thừa trải rộng đến nghệ thuật ở thung lũng Chin và Mun (bắc Thái), nghệ thuật Môn Dvaravati (Miến Điện và trung Thái Lan) và nghệ thuật ở Vân Nam. Levin (18) cho thấy qua sự khám phá năm 2001 ở Khương Mỹ (Quảng Nam) các nền của ba đền và điêu khắc ở chân nền tả các cảnh từ câu truyên thần thoại Ramayana Ấn độ mà trong đó có cảnh về sự đối chọi giữa Ravana và Sila ở vườn Asoka. Cảnh này chưa bao giờ được thể hiện trong nghệ thuật điêu khắc đền ở Đông Nam Á và Nam Ấn. Vì thế Levin cho là sự sắp loại nghệ thuật đền Khương Mỹ là giai đoạn chuyển tiếp của phong cách Đồng Dương đến phong cách Mỹ Sơn mà các nhà nghiên cứu ở thế kỷ trước như Parmentier cho là do ảnh hưởng của nghệ thuật từ Java bắt đầu từ thế kỷ 9 có thể phải xét lại và thật sự là có chiều hướng đi ngược lại: Champa ảnh hưởng lên nghệ thuật Java. Nhưng điều chắc chắn là Champa và Java đã có những tiếp xúc trao đổi sâu đâm về văn hóa và cả chiến tranh giữa hai bên qua đường hàng hải. G. Wade cho rằng nguồn gốc của chữ viết Tagalog Phi Luật Tân trước khi chuyển ra chữ latin vào thế kỷ 17 là từ chữ viết Chăm (20). W. Southworth và M. Vickery phân tách lại các nguồn dữ kiện và cho rằng Maspero có những sai lầm: có nhiều tiểu quốc Chăm chứ không phải một vương quốc Champa và Lâm Ấp không phải là thực thể Chăm trong giai đoạn đầu (21). Và sau cùng Po Dharma đã lấp lỗ hổng lớn về lịch sử cận đại của dân tộc Chăm vùng Panduranga trong giai đoạn các thập niên đầu thế kỷ 19 đánh dấu sự hiện diện cuối cùng của vương quốc Champa (19). Ở Việt Nam, chú trọng về lịch sử, khảo cổ, nghệ thuật là những nhà nghiên cứu như Ngô Văn Doanh (1),(2), Trần Kỳ Phương (3)(4)(5). Đặc biệt về văn học Chăm là những công trình của Inrasara, một người Việt gốc Chăm (11)(12)(13)(14)(15). Ngô Văn Doanh phổ thông các kiến thức hiểu biết về văn minh văn hóa Chăm trong độc giả Việt nam trong nhiều năm qua các sách về lịch sử Champa và di chỉ văn hóa Champa như Mỹ Sơn, mà năm 1999 được liệt kê là Di sản văn hóa thế giới bởi tổ chức UNESCO của Liên Hiệp Quốc. Dựa vào những kết quả của các cuộc khai quật ở các di chỉ khảo cổ gần đây bắt đầu từ năm 1993 ở Trà Kiệu và những kết quả trước kia của Claeys do trường Viễn đông Bác cổ thực hiện ở Trà Kiệu vào năm 1927-1928, Trần Kỳ Phương đã chỉ ra sự liên hệ mật thiết giữa kiến trúc đền tháp Chăm và các điêu khắc chung quanh bệ thờ ở trung tâm đền, chia ra thành 2 giai đoạn: giai đoạn đầu bệ thờ trung tâm nằm “lộ thiên” ở giữa đền không có tường đá và đền được xây bằng khung gỗ với mái ngói dựa trên các cột đá (như đền B14 Mỹ Sơn), giai đoạn hai tất cả đền đựợc xây bằng gạch đá với các cửa giả (3). Từ đó Trần Kỳ Phương cho rằng bệ thờ Trà Kiệu với điêu khắc tinh xảo tuyệt mỹ (mà ông cho là từ huyền thoại Ramayana) xuất phát từ điểm B nơi chỉ còn lưu lại nền kế cạnh bên điểm A nơi là vị trí chính của tháp trong họa đồ khảo cổ của Claeys. Tuy vậy P. Baptist (16) thì lại cho rằng bệ thờ Trà Kiệu thật ra là xuất phát từ chân của tháp chính của đền. Khác với các nhà nghiên cứu chuyên về khảo cổ, lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật Chăm, Inrasara tập trung vào văn học Chăm. Đây là lãnh vực mà chúng ta còn thiếu hiểu biết và là mảng trống to lớn mà ít nhà nghiên cứu quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó trong đời sống văn hóa và tâm linh của dân tộc Chăm. Có thể các nhà nghiên cứu đã quá ấn tượng với một nền văn minh cổ để lại những dấu vết vừa hùng vĩ vừa kỳ bí qua những tháp chàm, bia ký.. để nhìn về quá khứ cố gắng soi sáng mong sao hiểu được đôi chút về điều gì, động cơ nào của một dân tộc trong quá khứ đã tạo thành những di sản trên mà quên đi rằng hậu duệ của dân tộc này hiện nay mặc dầu trong một không gian hạn hẹp vẫn còn và đang cố gắng giữ gìn, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, văn hóa, lịch sử mà tổ tiên họ đã truyền lại trong một thế giới mới nhiều đổi thay, đầy bất trắc của thời đại toàn cầu hóa mà ngay cả nền văn hóa chính của xã hội mà họ đang sinh sống cũng phải đối chọi để giữ lại được sắc thái riêng. Chính vì thế mà vai trò của Inrasara rất là quan trọng. Inrasara có một vị trí đặc biệt và thuận lợi vì anh vừa là người Việt và người Chăm thấm nhuần cả hai nền văn hóa. Chúng ta thật may mắn là nhờ anh, chúng ta đã có thể được hé nhìn và thưởng thức những thành quả của một nền văn hóa bản địa, một nền văn minh đã có lâu đời ở miền Trung Việt Nam, tiếp nối của một nền văn hóa tiền sử không kém rực rỡ ở Đông Nam Á: văn hóa Sa Huỳnh. Ít có ai trong chúng ta biết là chỉ cách đây khoảng 200 năm, vẫn còn một tiểu quốc Chăm ở Panduranga (Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay) thần phục và triều cống vua Gia Long và sau này tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt khi vua Gia Long mất. Tiểu quốc Panduranga đã hiện diện cho đến năm 1833 khi vua Minh Mạng dẹp tan liên minh Lê Văn Khôi (Gia Định thành) – Katip Sumat (Panduranga), phá bỏ Gia Định thành và sát nhập Panduranga vào tỉnh Bình Thuận (19). Inrasara đã trải qua nhiều năm khổ cực, lắm lúc gian nan thu thập tư liệu từ nhiều nguồn trong dân gian, từ sách, tư liệu viết tay để lại.. để cuối cùng anh viết lại và cho ra đời các công trình nghiên cứu về văn học Chăm một cách có hệ thống. Các tư liệu viết tay là đều bằng chữ Chăm akhar thrah. Inrasara dự định xuất bản toàn bô gồm 10 quyển, 3 quyển đã được công bố: Văn học dân gian, sử thi Chăm và trường ca Chăm. Cho đến nay văn tự cổ nhất chữ Phạn tìm thấy ở Đông Nam Á là trên bia Võ Cảnh, gần Nha Trang thuộc thế kỷ 3, và tiếng Chăm vào khoảng thế kỷ 6 trên bia tìm được vào năm 1936 ở Đông Yên Châu gần Trà Kiệu. Chữ Phạn được giới cầm quyền, giới thượng lưu như giáo sĩ Brahma dùng lúc đầu nhưng sau này vào khoảng thế kỷ 8 CE thì tiếng Chăm qua chữ viết akhar thrath (bắt nguồn từ mẫu tự Brahmi ở Nam Ấn) mới được dùng nhiều và sau thế kỷ 16 thì phổ biến rộng rãi hơn trên các bia ký. Còn tồn tại nhiều nhất là các tư liệu viết tay trên giấy, trên lá buông mà cổ nhất là cách đây khoảng 200 năm. Đây là những tư liệu mà Inrasara tập trung, với nội dung vừa truyền thống và vừa cận đại Trong tác phẩm Văn học Chăm – khái luận (11), Inrasara đã đề cập hầu như toàn bộ văn học Chăm bắt đầu từ văn học dân gian như d**nưy (thần thoại, truyền thuyết), Dalikal (chuyện cổ tích), Panwơc yaw (tục ngữ), Panwơc pađau (câu đố), Panwơc Pađit (ca dao), Kadha rinaih dauh (đồng dao), các loại hát dân gian, akayet (sử thi), ariya (thơ ca trữ tình), thơ thế sự, gia huấn ca, thơ triết lý cho đến văn học Chăm hiện đại ngày nay. Chi tiết hơn là các tác phẩm cho từng lãnh vực trên gồm các trích tuyển bằng chữ akhar thrath (*), chuyển âm qua chữ latin và dịch ra tiếng việt: Văn học dân gian, ca dao - tục ngữ - thành ngữ - câu đố Chăm (12), Akayet - Sử thi Chăm (13), ariya cam trường ca chăm (14). Sơ qua về sự phong phú và chi tiết của các công trình nghiên cứu trên, tôi xin trích lược một vài đoạn tư liệu trong toàn bộ công trình đầy lý thú và đáng để ý này. Về thần thoại Chăm, điểm đặc biệt như ta biết là yếu tố bên ngoài như ảnh hưởng của thần thoại Ấn độ thường rất ít hoặc đa số đã bị bản địa hóa. Thí dụ thần thoại Pram Dit-Pram Lak dựa vào thần thoại Ramayana Ấn độ nhưng đã được bản địa hóa với yếu tố Chăm là nổi trội. Trong thần thoại Chăm, Ppo Inư Nưgar (Mẹ của xứ sở hay Bà Chúa Xứ) đóng một vai trò chủ đạo. Thần thoại d**nưy Ppadauk Tanưh Riya kể rằng, thuở sơ khai, lúc vũ trụ còn chìm trong tối tăm, Ppo Inư Nưgar là một sinh thể tự sinh đầu tiên và duy nhất. Từ ngài phát sinh ra Ppo Yang Amư (thần cha) tạo ra muông thú và viết sử, Ppo Alwah dùng chính phần châu thân mình hóa Thánh đường truyền dạy giáo lý cùng phong tục tập quán cho người Chăm Bàni (Awal) và Ppo Debita Swơr hóa mâm thờ và lo cho bên Chăm Bà-la-môn (Ahier). Ppo Alwah được tôn vương trị vì đất nước. Sau đó mỗi cử động của Ppo Inư Nưgar, xuất hiện tinh tú, trời, đất, sấm, sét… Ở đây ta thấy thần mẹ Ppo Inư Nưgar quan trọng hơn thần cha Ppo Yang Amư, một nét đặc biệt có nguồn từ xã hội mẫu hệ Chăm truyền thống xa xưa. Tuy nhiên sự hiện diện của Ppo Alwah cho người Chăm Bani (Hồi giáo bản xứ) và được tôn vương trị nước cho thấy d**nưy Ppadauk Tanưh Riya có lẽ đã được sửa đổi hay thêm vào sau này trong thần thoại cổ Chăm sau khi Hồi giáo du nhập và chiếm vị trí trội hơn Bà Là Môn truyền thống bắt đầu từ thế kỷ 12. Ngoài thần thoại về Ppo Inư Nưgar về sự thành lập trời, đất, con người và muôn thú, đất nước, tập quán, xã hội.. còn có câu truyện Atmuhekat (hay Sự tích con gà gáy sáng) về sự hình thành vũ trụ. “Chuyện kể rằng, Thánh Ppo Kuk Parahimuk là Đấng sáng tạo ra vũ trụ và mọi vật trong trời đất. Một ngày kia, Ppo Kuk phái Thánh Iparahamuk cùng các vị thánh khác xuống trần gian để cai quản thế giới. Không ngờ, các vị thánh này bê tha rượu chè, ngủ say sưa để chỉ trong một đêm, quỷ Mưnưmax Xibac Kayong đến lén lấy cây cung và mũi tên vàng của Ppo Kuk, bắn tan nát hết mặt trời, mặt trăng và muôn tinh tú. Trời đất trở nên tối tăm, mù mịt. Muôn loài lại chìm trong hỗn loạn. Vùng thức giấc, Ppo Kuk biết nỏ thần bị đánh cắp, Ngài cũng chẳng thấy cột thánh đường đâu cả. Ngay tức thì, Ppo Kuk triệu tập những đại biểu ưu tú nhất của muôn loài để cùng Ngài đi tìm mặt trời, mặt trăng để thắp sáng vũ trụ trở lại. Ppo Kuk vượt đại dương cùng với đôi bạn gà vịt tự nguyện (gà gáy báo sáng và vịt chở họ đi) và tìm được mặt trời, mặt trăng đang lẩn trốn trong con ngươi của thần Inưrathwơl Akmư Lia-el. Vũ trụ được thắp sáng trở lại, trật tự được tái tạo, và xã hội loài người ổn định từ đó.” (11) Tại sao lại có hai thần thoại khác nhau về sự thành lập vũ trụ, vạn vật ?. Theo tôi thì thần thoại d**nưy Ppadauk Tanưh Riya về Ppo Inư Nưgar với tính cách nghiêm trang xuất khởi từ giai cấp giáo sĩ thượng lưu trong vương triều. Ngược lại Atmuhekat với sự nhân cách hóa các vị thánh thần (cũng bê tha rượu chè) bắt nguồn từ quần chúng Chăm. Ta cũng không loại trừ sự khác biệt do thời gian trong lịch sử và nguồn gốc khác nhau từ các vương quốc Chăm trong khắp vùng từ Indrapura đến Panduranga. Trong các truyền thuyết, tôi để ý đến nhất là truyền thuyết về Ppo Rome (d**nưy Ppo Rome) và truyền thuyết Ppo Bin Swơr (Chế Bồng Nga) với lý do chính là chúng có liên quan đến những sự kiện trong lịch sử Việt Nam d**nưy Ppo Rome kể chuyện dựa vào sự kiện vua Rome lấy công chúa Đại Việt (như có ghi trong chính sử), và vào chuyện chặt cây kraik - cây lim thần (biểu tượng cho sức mạnh và linh hồn của Champa) “.. quần chúng Chăm đã thêu dệt xung quanh hai sự kiện này vô vàn chi tiết mang tính huyền hoặc. Công chúa đã giả vờ đau bệnh, đã giấu bánh tráng dưới chiếu để tạo tiếng kêu như tiếng xương gãy khi lăn qua lăn lại trên giường bệnh, và được lành hẳn khi kraik bị đốn. Còn kraik: kraik đã than vãn, đã phun máu giết chết đám quần thần khi họ đến đốn kraik. Rồi thì tiếng khóc của kraik trước nhát búa đầu tiên của Ppo Rome, cái chết với dòng máu đỏ của kraik! Óc tưởng tượng của quần chúng cũng không dừng lại ở đây: gỗ kraik tiếp tục được mang đi đóng thuyền chiến dẫn Ppo Rome vượt đại dương làm nên những chiến tích lẫy lừng. Khi gặp địch đóng cọc ở cửa khẩu, thuyền kraik biết trước, dừng ngay lại. Ppo Rome không chịu hiểu kraik, nổi cơn thịnh nộ và chặt bỏ mũi tàu được đóng bằng phần quý nhất của gỗ kraik. Đến lúc này kraik mới chịu chết thật sự. Sau đó là cái chết không tránh khỏi của Ppo Rome, cùng lúc là sự sụp đổ của vương triều Ngài.” (11) Qua câu chuyện này, ta thấy rất rõ là người dân Chăm tin rằng nguyên nhân chính mà vương quốc Chăm mất là do nội xâm từ bên trong vương triều, tầng lớp thượng lưu. Và Đại Việt đã mượn tay họ để giết đi sinh khí, cái hồn của dân tộc mà quần chúng Chăm đã bất lực không thể cứu vãn được. Niềm tin này có cơ sở hay không, hay chỉ là một lý luận bào chữa lãng tránh về sự yếu kém của vương quốc Chăm trong sự tranh đấu sanh tồn giữa các dân tộc trong lịch sử là một vấn đề gây nhiều bàn cãi. “Chuyện Ppo Bin Swơr (Chế Bồng Nga) đã thủ đắc được cây thanh long đao (bat) bách chiến bách thắng cùng với những chiến công hiển hách cũng được bao bọc bởi một màn thần thoại khác. Riêng về cái chết của Ngài, truyền thuyết kể rằng khi đầu Ngài đã rơi vào tay quân thù, thân Ngài vẫn tiếp tục sống, hẹn với đầu sẽ nối kết lại khi về đến quê hương. Trở về đến bãi biển làng Bal Riya (Bính Nghĩa - Ninh Thuận), bị bọn trẻ chăn trâu hiểu nhầm, đã lên tiếng chế nhạo. Khi đó Ngài mới ngã xuống và chết thực sự.” (11) Thông qua chuyện thần thoại này, theo tôi thì người dân Chăm mặc dầu kính trọng Ppo Bin Swơr như một vị anh hùng qua những chiến thắng lớn lao của ngài nhưng coi những chiến công đó là do có được cây thanh đao thần kỳ chứ không do biệt tài quân sự mà ông thực ra đã được đánh giá như một vị vua lỗi lạc nhất trong lịch sử Champa. Phải chăng Ppo Bin Swơr đã chưa thuyết phục được dân tộc Champa về đường lối và chính sách của ngài trong quan hệ và chiến tranh với Đại Việt. Và niềm tin của Ppo Bin Swơr cho đất nước Champa mãi mãi không bao giờ mất. Đối với quân thù, ngài không bao giờ chết nhưng ngài chỉ thực sự chết khi người dân Champa không còn tin tưởng ở ngài. Ta có thể hiểu được tâm tình của đất nước Champa trong giai đoạn lịch sử này khi nghiên cứu thần thoại của Champa về Ppo Bin Swơr. Liên hệ đến chuyện thần thoại là các chuyện cổ tích. Đọc Inrasara về phần chuyện cổ tích Chăm, tôi cảm thấy như đi vào một thế giới kỳ ảo đầy bất ngờ, hồn nhiên đầy sức sống. Chuyện cổ tích Chăm rất phong phú như các truyện giải thích với ẩn ý giáo dục như chuyện con hổ có nhiều đốm vằn vện là hậu quả của sự ngu ngốc, chuyện con vịt không ấp trứng chỉ là phần thưởng cho đức hi sinh (Sự tích con ễnh ương) hay giải thích những hiện tượng đã có trong thiên nhiên như màu lông sặc sỡ của loài công hay màu đen thui của con quạ (Truyện Quạ, Dông và Công). Lý do trái bầu có eo ở khúc giữa hay lá chuối có đường rãnh (Truyền thuyết về Ppo Klaung Girai). Nguyên nhân ra đời của phong tục tập quán dân tộc như tại sao người Chăm Bà-la-môn kiêng thịt bò (Bà thần Kapil), tín đồ Bàni (đạo Hồi Chăm đã được bản địa hóa) không được uống rượu… Ta thấy có vài truyện cổ tích Chăm có vài điểm tương đồng với chuyện cổ tích Việt Nam như chuyện con công và quạ. Trong dân gian Việt Nam truyền tụng chuyện trạng Quỳnh thì chuyện cổ tích Chăm cũng có diễn tả thực tài tình trí thông minh láu lỉnh như chùm truyện về Trạng Con (ám chỉ Ppo Klaung Girai) đấu trí với quan quân của triều đình, đánh lừa các sứ giả vượt qua tất cả những thử thách của nhà vua, đã làm cho nhiều thế hệ quần chúng Chăm tắc lưỡi thán phục. Blơk blơng amư (Chúa nói dối) đã chọc thiên hạ cười suốt từ đầu đến cuối câu chuyện không chỉ do yếu tố gây cười ở cốt truyện mà chính là bởi trí thông minh sắc sảo của chàng trai lãng tử (11). Như mọi dân tộc khác, tục ngữ là tích đọng túi khôn và chúng có nhiều điểm tương đồng lẫn nhau rất lý thú. Tục ngữ Chăm cũng vậy. Inrasara đã tổng hợp, hệ thống hóa với các dị bản và xuất xứ các sưu tầm của anh trong nhiều năm từ dân gian qua các điền dã và từ vài tư liệu đã xuất bản trước về tục ngữ ca dao như Dictionnaire Cam – Vietnamien – Francais do G. Moussay và một số cộng tác viên Chăm biên soạn năm 1971 v.v.. để cho ra một công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ nhất hiện nay vê văn học dân gian gồm hơn 1500 câu tục ngữ, thành ngữ, hơn 70 bài ca dao, đồng dao và hơn 70 câu đố Chăm (12). Ở đây ta có thể thấy một vài thí dụ đặc thù như (12) Rimaung gamrơm rimaung bbơng asuw, rimaung ppadơp kakuw rimaung bblơng mưnwix Cọp gầm to là cọp ăn chó, cọp giấu vuốt mới là cọp vồ người. Palak tangin hu inư kađieng, inư canuw Bàn tay có ngón út, ngón cái. Dak lihik kabaw yuw oh dak di mưluw bbauk Thà mất đôi trâu còn hơn mất mặt Hay ca dao (kadha pađit) qua thể thơ ariya diễn tả tâm tình của người con trai đi xa chiến đấu và khi ngoảnh nhìn lại, không gian ở quê hương chỉ toàn là một vùng mây mù, không thấy đâu là cửa nhà, đâu là làng xóm (12) Cơk glaung glai cơng mưng nak Kuw maung mai wơk o bboh dhan phun Núi cao rừng lá che ngang Ngoái nhìn nào thấy bóng làng ta đâu. không khác chi tình cảm của người Việt đối với quê hương xóm làng mình khi đi xa. Giá trị của công trình “Văn học dân gian” là ở chổ tác giả Inrasara đã minh định rõ các thuật ngữ dịch từ tiếng Chăm trước khi phân loại, hệ thống hóa, chi tiết các dị bản cũng như xuất xứ, nguồn.. Đây là những thao tác không thể thiêu của một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Thể thơ Ariya tương tự như thơ lục bát Việt và Inrasara cho ta thấy qua đối chiếu và phân tích sơ bộ, lục bát Việt và ariya Chăm có rất nhiều điểm giống nhau. Trong đó cái giống nhất là nhịp điệu của chúng. Thể thơ ariya đã được mang vào các tác phẩm về thơ ca trữ tình, tương tự như thể thơ lục bát trong những tác phẩm văn học Việt Nam như Bích câu Kỳ ngộ, Lục Vân Tiên hay Truyện Kiều. Tuy nhiên có điều khác biệt là ngoài Ariya Ppo Thien và Ariya Kei Oy của Ppo Thien (Thiên Sanh Tây), Ariya Rideh Apwei của Phú Bô, tất cả các tác phẩm văn học trước thế kỷ 20 kể cả ariya thơ ca trữ tình, sử thi Akayet đều là khuyết danh, không xác định được tác giả. Inrasara cũng đã phân loại một loại thơ mà anh gọi là thơ thế sự (11). Thơ thế sự xuất hiện vào khoảng cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 20 gồm những sáng tác mô tả các cuộc nổi dậy của nông dân Chăm chống lại triều đình nhà Nguyễn như Ariya Twơn Phauw (71 câu), Ariya Kalin Thak Wa (80 câu). Ariya Twơn Phauw nói về cuộc khởi nghĩa của một thủ lảnh tên Twơn Phauw cùng với Lê Văn Khôi chống lại Minh Mạng. Hay Ariya Glơng Anak (116 câu) kể về tâm tư , nổi ưu sầu về thế sự của tác giả (khuyết danh) trong tình cảnh đất nước suy tàn, thu hẹp và loạn lạc dưới thời chúa Nguyễn và sau đó Tây Sơn và niềm hy vọng nhỏ bé vào cuộc sống của chính mình lúc nào cũng mở rộng với lòng bao dung độ lượng chứ không yếm thế và hận thù. Tâm trạng của tác giả trong Ariya Glơng Anak có thể cũng thể hiện tâm tư của đại đa số dân Chăm lúc đó. Một tác phẩm triết lý tuyệt tác trong văn học Chăm. Các loại thơ thế sự như trên là các tư liệu văn học có giá trị cho nghiên cứu lịch sử và xã hội Chăm vào cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Ngoài ra còn một tập thơ thế sự khác có giá trị trong nghiên cứu xã hội và lịch sử Việt Nam là Ariya Ppo Parong. Tập thơ này mô tả chuyến du khảo điền dã của tác giả (nay được xác định là Hơp Ai) vào năm 1885 cùng với nhà nghiên cứu Pháp E. Aymonier đi từ Phan Rang đến Nha Trang, Phú Yên, Bình Định, Huế, Hà Nội rồi quay trở lại Saigon và sau cùng về lại Phan Rang. Tác giả đã thích thú học hỏi, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác và mô tả cảnh vật, cuộc sống dân tình, phong tục ở mỗi nơi: nông dân, đàn bà, giọng nói ở xứ Bắc, đồng ruộng, sông Hồng, rừng mía ở Nha Trang, tàu Pháp bắn hỗ trợ lính Lê Dương trong lúc đánh kinh thành Huế, phố xá choáng ngợp ở Saigon, quan sát đủ sắc dân trong đoàn lính Lê Dương v.v... (11). Một nhân chứng sống động về xã hội Việt Nam ở cuối thế kỷ 19. Trong các tác phẩm nổi tiếng về thơ ca trữ tình phải kể đến Ariya Bini – Cam, Ariya Xah Pakei. Hai tác phẩm này xuất hiện sau thời đại Po Rome vào thế kỷ 18 trong khoảng thời kỳ phân tranh giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn Ánh. Lúc này vương quốc Chăm đôi lúc trở thành bãi chiến trường của quân đội Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Ariya Sah Pakei nói về một chuyện tình và phản ảnh nhân sinh quan Chăm qua triết lý âm-dương (mà linga-yoni là biểu tượng), một triết lý chủ đạo chi phối lối suy nghĩ, sự sinh hoạt của người Chăm trong cuộc sống. Ariya Bini-Cam nói lên sự xung đột giữa hai tôn giáo Bàlamôn Ấn độ và Hồi giáo qua một chuyện tình đổ vỡ giữa một hoàng thân Chăm và công chúa Hồi giáo. Sự xung đột và mất niềm tin của người Chăm với văn hóa Ấn Độ là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của vương quốc Chăm. Hồi giáo được mang vào không những ở Champa mà ở các nước Đông Nam Á hải đảo từ thế kỷ 9 CE qua các thương gia Ả Rập. Tôn giáo này phát triển mạnh bắt đầu từ thế kỷ 12 khi các tầng lớp thượng lưu và cai trị ở các vương quốc trong vùng Đông Nam Á bỏ đạo Bà La Môn chuyển sang Hồi giáo. Thời điểm này cũng là thời kỳ mà sự giao thương liên hệ và ảnh hưởng văn hóa giữa Champa và thế giới Mã Lai hải đảo phát triển mạnh mẽ ở điểm cao trong lịch sử quan hệ giữa hai vùng. Sự du nhập của Hồi giáo đã gây nhiều đổi thay và biến động trong xã hội Đông Nam Á mà văn hóa truyền thống trước đó là văn hóa Ấn độ Bà La Môn. Nhưng so với các nơi khác như Trung Đông, Ấn Độ thì sự đổi thay ít có xung đột và có chiều hướng hòa bình hơn qua sự bản địa hóa các ý thức hệ du nhập trong một xã hôi mà cơ bản là đa dạng. Có phải sự phân cực văn hóa tôn giáo trong xã hội Chăm là nguyên nhân chủ yếu gây nên sự suy tàn và cuối cùng là sự biến mất hoàn toàn của vương quốc Champa trước sức mạnh Nam tiến của Đại Việt hay không là một vấn đề đáng lưu tâm suy nghĩ và cần nghiên cứu. Về sử thi thì ba sử thi quan trọng nhất trong văn học Chăm là Akayet Dewa Mưno, Akayet Inra Patra và Akayet Um Mưrup. Văn bản in Akayet Dewa Mưno và Akayet Inra Patra lần đầu được xuất bản trong các năm đầu thập niên 1970 do nhóm nghiên cứu của Trung tâm văn hóa Chàm-Phan Rang gồm G. Moussay, Thiên Sanh Cảnh, Lâm Gia Tịnh, Nại Thành Bô, Đàng Năng Phương, Lưu Ngọc Hiến và Trượng Tốn thực hiện. Akayet Deva Muno là thi phẩm ca nổi tiếng, đóng vai trò quan trọng trong văn học Chăm và được phổ biến rất rộng rãi. Có lẽ đây là tác phẩm đầu tiên được sáng tác bằng chữ akhar thrah. Tác phẩm kể về cuộc chiến đấu cam go anh hùng của Deva Muno chống lại Deva Samulaik, cứu công chúa Ratna và mang lại hòa bình cho thế giới trần gian. Năm 1975, G. Moussay đã xác định nguồn gốc Mã Lai của thi phẩm Akayet Deva Muno. Sử thi Akayet Deva Muno vay mượn cốt truyện Hikayat Deva Mandu của Mã Lai có ảnh hưởng Ấn độ. Bản in sử thi này đã được chuyển tự ra tiếng Pháp, Việt, Mã Lai và xuất bản ở Mã Lai năm 1989. Tuy vậy bản in đã có một số sai lầm mà Insara đã vạch rõ và vì thế sau đó đã được sửa chửa và hiệu đính trong các bản in sau này. Akayet Inra Patra cũng có nguồn gốc từ Hikayat Indra Putera của Mã Lai có ảnh hưởng Hồi giáo Ả Rập được sáng tác gồm 581 câu ariya vào đầu thế kỉ XVII. Tương tự như mô tip Deva Munro, người anh hùng Inra Patra (biểu hiện cho cái thiện), sau khi vượt qua bao khó khăn và với đức độ của mình đã chiến thắng các lực lượng đại diện cho cái ác, cuối cùng mang lại an bình cho xứ sở, hạnh phúc cho nhân dân. Trong ba sử thi trên thì Akayet Um Mưrup là sáng tác bản địa hoàn toàn của Chăm không vay mượn yếu tố nào từ ngoài. Tuy vậy mặc dù có vay mượn cốt truyện hay không, nhưng các Akayet Chăm có những đặc trưng và phong cách riêng như Inrasara phân tích sau (13) "Mặc dù hai trong ba akayet nổi tiếng được vay mượn từ ngoài, vay mượn từ cốt truyện đến tên nhân vật, địa danh… nhưng với chữ viết (akhar thrah) và ngôn ngữ của mình, các thi sĩ Chăm đã kịp thời hoán cải chúng cho phù hợp với đặc trưng văn hóa dân tộc. Do đó, xét về mặt hình thức, dù các akayet Chăm không có được cái tầm vóc đồ sộ của sử thi Ấn Độ hay các tác phẩm cùng thể loại của các nước trong khu vực, nhưng chúng luôn đạt tới một bố cục gẫy gọn và cô đúc. Điều cốt yếu là chúng đã nêu bật được hành động và tính cách anh hùng của nhân vật bằng các trận giao chiến với kẻ thù, các chiến công lẫy lừng, í chí vượt trở ngại để đi đến tiêu đích một cách anh dũng. Cả ba sử thi đều lược bỏ mọi sinh hoạt đời thường, các lễ nghi phong tục tập quán rườm rà và cả quang cảnh hùng vĩ cũng được tiết chế một cách đáng kể. Tất chi tiết đều nằm trong màn kịch và chỉ phục vụ cho tấn kịch.” Với cốt truyện về sự va chạm giữa ý tưởng mới Hồi giáo và Bà la Môn truyền thống, sử thi Chăm Akayet Um Mưrup cho ta thấy hoàn cảnh xã hội và tâm tư con người Chăm trong bối cảnh lịch sử Champa lúc đó. Đây là những tư liệu quý giá bổ sung cho các nhà nghiên cứu lịch sử Chãm. Theo Inrasara thì sự phân cực và đối chọi giữa hoàng tử Um Mưrup (đại diện cho Hồi giáo) và vua cha (đại diện cho Bà La Môn truyền thống) cuối cùng dẫn tới vương quốc Chăm phải chấp nhận Hồi giáo. “Một khía cạnh khá độc đáo nổi bật lên ở các akayet này là, bên cạnh hai khuôn mặt đại diện cho sức mạnh của thế lực cũ là Dewa Mưno và Inra Patra, xuất hiện một khuôn mặt hoàn toàn mới: Um Mưrup. Có lẽ chính vì thế mà trong khi Dewa Mưno và Inra Patra, sau khi vượt qua mọi hiểm nguy, trở về quê hương trong khúc ca khải hoàn thì, Um Mưrup lại kiêu dũng gục chết nơi chiến trường. Nhưng cái chết của tráng sĩ này báo hiệu một lực lượng mới đang đi tới, rầm rộ và không gì cản nổi, hướng về vương quốc Champa. Để rồi sau đó, Champa, trước nguy cơ tan rã, đã phải mở vòng tay đón nhận một luồng ảnh hưởng mới khác từ bên ngoài: văn hóa Hồi giáo." (13) Và sau cùng Inrasara đã phát họa tổng quan cho chúng ta thấy một khía cạnh quan trọng khác mà ít ai đề cập đến. Đó là văn học Chăm hiện đại. Trong khái luận về văn học Chăm hiện đại, Inrasara sơ lược các nhà văn, thơ Chăm từ đầu thế kỷ 20 như Ppo Thien (Hữu Đức) đã có hai tập thơ Ariya Ppo Thien và Ariya Kei Oy được truyền tụng trong quần chúng. Nhà thơ Mưdwơn Jiaw được Inrasara coi như là một gạch nối giữa văn học cổ điển và văn học hiện đại Chăm. Sau Mưdwơn Jiaw, là nhà thơ Jaya Mưyut Cam có một bài thơ dài “Su-on bhum Cam” (Nhớ quê Chăm) được nhiều người biết, và các nhà thơ nhà văn Jaya Panrang, Huyền Hoa, Jalau, Chế Thảo Lan... đóng góp trong các đặc san Hồn quên Ninh Thuận, Panrang, Ước Vọng xuất bản ở Phan Rang trước 1975. Các tác giả Chăm sau này có Trà Vigia với tập truyện Chăm H’ri, nhà thơ Chế Mỹ Lan, Đồng Chuông Tử, Jalau Anưk, Jaya Hamu Tanran (chuyên sáng tác bằng tiếng Chăm), Phú Đạm, Trầm Ngọc Lan, Trà Ma Hani, Trần Wũ Khang, Tuệ Nguyên và Inrasara với tập thơ nổi tiếng Tháp Nắng, Lễ tẩy trần tháng Tư, tiểu thuyết Chân dung cát. Văn hóa Chăm sẽ khó có cơ hội bảo tồn và phát triển nếu không có sự liên tục tiếp nối của những người đi sau với truyền thống để lại của tiền nhân. Văn hóa Chăm phải là một thực thể hữu cơ tiến hóa trong hoàn cảnh và môi trường mới luôn thay đổi của thời đại. Hiểu được điều này, Inrasara, bản thân cũng là một nhà văn, đã tích cực trở thành một trong những người sáng lập và xuất bản thường kỳ tuyển tập Talagau tập hợp các tác giả, nhà văn, nhà nghiên cứu Chăm hiện đại sáng tác hay viết về các vấn đề văn học, xã hội, ngôn ngữ, lịch sử... liên quan đến văn hóa Chăm. Ngoài các công trình nghiên cứu văn học chính như đã nêu trên, còn có các bài về vấn đề văn học, văn hóa, tự thuật cũng như các nghiên cứu về xã hội .. đã được đăng nhiều nơi nay được trình bày chung trong quyển “Văn hóa - xã hội Chăm, nghiên cứu & đối thoại “(15). Trong đó có các bài với đề tài như ‘Người Chăm Pandagura ở Thành phố Hồ Chí Minh”, “Thử soi rọi ba vùng mờ của văn hóa Chăm: “Họ” của người Chăm, Múa Chăm, Harơk Kah ở đâu ?”,”Chế độ mẫu hệ Chăm”, “Xã hội Chăm hôm nay và tương lai cộng đồng”, “Làm thế nào để nói tiếng Chăm”, “Để hiểu văn chương Chăm”, “Sáng tác văn chương Chăm hôm nay”, ‘Chuyện chữ”, “ Tagalau, bảy năm nhọc nhằn và kiêu hãnh”… đều là những tư liệu xã hội, văn hóa có giá trị. Để kết luận cho bài này, theo tôi thì nếu G. Coedes trước đây (1944) đã thành công tổng hợp các thành quả nghiên cứu khảo cổ, sử học của các học giả về các vương quốc Ấn độ hóa ở Đông Nam Á để cho ta một công trình có tầm vóc với cái nhìn toàn cảnh về lịch sử và sự liên hệ của các nước trong vùng, trở thành một cuốn sách (16) tham khảo gối đầu giường cho tất cả những nhà nghiên cứu thì những công trình của Inrasara về văn học Chăm cũng đã thành công tương tự trong lãnh vực văn học. Mặc dầu anh chủ yếu là nhà văn nhưng những công trình của anh qua các thao tác có tính cách khoa học và hệ thống là những thành quả hàn lâm nghiêm túc rất giá trị. Có thể Inrasara chưa được đánh giá đúng mức trong giới học giả trên thế giới vì những tác phẩm nghiên cứu của anh được viết bằng tiếng Việt và cũng có thể anh không thấy cần thiết là phải đăng trong các tạp chí hàn lâm. Nhưng tôi tin rằng chẳng bao lâu những thành quả của anh sẽ được tham khảo rộng rãi và dịch ra tiếng nước ngoài. Mà thật ra các thành quả của anh đã được tiếp cận và tham khảo gần đây rồi bởi một số các nhà nghiên cứu về văn minh và lịch sử Chăm. Nhưng quí giá hơn hết và quan trọng hơn hết là như anh đã viết (11) “Chòm nến thơ ca kia ngỡ đã tắt hẳn, nhưng không. Các thế hệ Chăm đi tới vẫn cứ sống, làm việc, làm thơ… và làm nên phép lạ. Khik baik adat Cam drei Bilan saung harei jang tơl pajơ Cố giữ nhé, đạo cha ông Sắp đến rồi kia ngày mai tươi sáng. (Pauh Catwai 3, Inrasara dịch)“ (Sydney 5/1/2010) Tham khảo (1) Ngô Văn Doanh, Văn hóa cổ Champa, Nxb Văn hóa dân tộc, 2002 (2) Ngô Văn Doanh, Thánh địa Mỹ Sơn, Nxb Trẻ, 2003 (3) Trần Kỳ Phương, The relationship between architecture and sculpture in Cham sacred art of the Seventh to the Ninth Centuries CE, in "Interpreting Southeast Asia's past: monument, image and test", 2009, Ed. by E. Bacus, I. Glover, P. Sharrock, pp. 55-72. (4) Trần Kỳ Phương, The wedding of Sita: A theme from the Ramayana represented on the Tra Kieu pedestal, in "Narrative sculpture and literary traditions in South and Southeast Asia", ed. by J. Fontein, M. Klokke, 2000. (5) Tran Ky Phuong, Rie Nakamura, The Mỹ Sơn and Pô Nagar Nha Trang sanctuaries: On the cosmological dualist cult of the Champa kingdom in Central Vietnam, Asia Reseaarch institute Working paper Series No. 100, 2008, www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps08_100.pdf(6) A. Hardy, M. Cucarzi, P. Zolese, Champa and the Archaeology of My So'n (Vietnam), Nus Press, 2009. (7) Po Dharma, Le Panduranga (Campa), 1802-1835: Ses Rapports Avec Le Vietnam, 1987, Ecole Francaise d'Extreme-Orient. (8) Emmanuel Guillon, Cham art: treasures of the Da Nang museum Vietnam, 2001, River Books, Bangkok (9) Emmanuel Guillon, Hindu-Buddhist Art of Vietnam: Treasures from Champa (translated from the French by Tom White). Trumbull, CT: Weatherhill, 1997. (10) Emmanuel Guillon, The archaeology of Champa, North of Hue - Towards new perspectives, in "Interpreting Southeast Asia's past: monument, image and test", 2009, Ed. by E. Bacus, I. Glover, P. Sharrock, pp. 73-84. (11) Inrasara, Văn học Chăm - khái luận, Nxb Văn hóa dân tộc, 1994 (12) Inrasara, Văn học dân gian, ca dao - tục ngữ - thành ngữ - câu đố Chăm, Nxb văn hóa Dân tộc, 2006. (13) Inrasara, Akayet - Sử thi Chăm, Nxb Khoa học xã hội, 2009. (14) Inrasara, ariya cam trường ca chăm, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 2006 (15) Inrasara, văn hóa - xã hội Chăm, nghiên cứu & đối thoại, Nxb Văn Học, 2007. (16) G. Coedes, The indianized states of Southeast Asia, East West Center, Honolulu, 1968. (17) P. Baptiste, The dancers and musicians of Tra Kieu: Pedestal or base, in "Interpreting Southeast Asia's past: monument, image and test", 2009, Ed. by E. Bacus, I. Glover, P. Sharrock, pp. 46-54. (18) C. Levin, Recasting the sacred heroes: a new discovery of sculptural epic narration from ancient Champa, in "Interpreting Southeast Asia's past: monument, image and test", 2009, Ed. by E. Bacus, I. Glover, P. Sharrock, pp. 85-99. (19) Po Dharma, Le Panduranga (Campa) 1802-1835: ses rapport avec le Vietnam, Publication de l’ Ecole Francaise d’Extreme-Orient (EFEO), Paris, 1987. (20) G. Wade, On the Possible Cham Origin of the Philippine Scripts, Journal of Southeast Asian Studies, Vol. 24, 1993 pp. 44-87. (21) M. Vickery, Champa revisited, ARI working paper 37, 2005, www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps05_037.pdf (*) Chữ akhar thrath hiện nay cũng đã được đưa lên máy tính.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 5:22:30 GMT 9
BÀI HỌC TỪ LỊCH SỬ Trần Kim Anh Trong bài tấu nghị về giáo dục trình lên chúa Trịnh với nội dung đánh giá tình hình giáo dục đương thời nhằm đưa ra những giải pháp cứu vãn thực trạng yếu kém về giáo dục và đào tạo nhân tài, Ngô Thì Nhậm đã có một đề nghị: “Thần kính xin theo lệ Chu Văn Trinh triều trước, cho đem ông Bùi Sĩ Tiêm vào tòng tự ở Văn miếu để làm rạng vẻ cho nền lý học của bản triều và khuyến khích sĩ phu trong thiên hạ”. Vậy Bùi Sĩ Tiêm là ai và vì sao lại được đề cao như vậy? Theo Các nhà khoa bảng Việt Nam, Bùi Sĩ Tiêm sinh năm 1690, không rõ năm mất, người xã Kinh Lũ huyện Đông Quan, nay thuộc xã Đông Kinh huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình. 18 tuổi đỗ thi Hương, 26 tuổi đỗ Hoàng giáp. Sau khi thi đỗ, bước đường hoạn lộ của ông luôn hanh thông, ngoài 40 tuổi thăng đến Thái thường tự khanh. Tháng 2 năm 1731, nhân việc Thái thượng hoàng Lê Dụ tông mất, chúa Trịnh Giang xuống dụ tỏ ý lo lắng đến nỗi gian nan của trăm họ, kêu gọi các bề tôi lớn nhỏ trong ngoài triều trình bày hết những điều cốt yếu thiết thực thích hợp với thời cuộc để chọn lựa thi hành. Dụ ban ra cuối tháng 5, đầu tháng 6 Bùi Sĩ Tiêm dâng tờ khải trình bày về 10 điều thiết yếu, cấp bách đối với thời cuộc. Điều thứ nhất: Ông thẳng thắn nêu lên mối nghi ngờ của dư luận về việc các chúa Trịnh ức hiếp vua Lê. Điều thứ hai: Phê phán tệ tham nhũng hối lộ công khai ở triều đình. . Điều thứ ba: Lên án tệ nạn cường hào chiếm đoạt ruộng đất khiến cho dân chúng đói khổ phiêu bạt. Điều thứ tư: Nêu lên sự phiền nhũng đối với dân chúng trong trong việc cung đốn phu phen binh dịch. Điều thứ năm: Phê phán tệ nạn quan liêu “dân ít quan nhiều”. Điều thứ sáu: Nói về năng lực của quan lại, đề nghị thanh lọc ra những kẻ tham ô nhũng nhiễu dân chúng, đuổi về. Điều thứ bảy: Phê phán lối học khoa cử, vô bổ đối với việc cai trị, đề nghị chấn hưng thực học để đào tạo nhân tài. Điều thứ tám: Làm rõ lệ xét xử để chấm dứt tệ nạn trong xét xử kiện tụng. Điều thứ chín: Sự cần thiết phải cử các quan có trách nhiệm đi điều tra tình hình thực tế của dân chúng ở các địa phương. Điều thứ mười: Phê phán việc buông lỏng quản lý đối với người nước ngoài đến khai thác rừng và tài nguyên khoáng sản, lưu ý về âm mưu vơ vét sản vật và nhòm ngó đất nước của ngoại bang. Những điều này cho đến nay dường như vẫn còn nguyên tính thời sự - lịch sử ít thay đổi hay lịch sử vẫn còn trầm tích và luôn luôn tái phát các bệnh tật của nó?! Nội dung 10 điều kể trên được Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên (1) chép lại đầy đủ. Trong 10 điều trên, điều thứ 10 dường như vẫn nóng hổi với hiện tại, chúng tôi xin trích dịch và đưa kèm nguyên văn chữ Hán dưới đây: “Nhà nước đối với người Khách (2) phương Bắc, xử trí có cách, cư trú có nơi, chưa từng buông thả cho ở lẫn với dân ta. Gần đây ở các trấn, người làm thuê trong các mỏ, những hộ lấy quế ở rừng núi, phần nhiều là người Khách nước ngoài. Họ liên kết tụ tập, chia nhau ra ở các nơi kể đến hàng ngàn vạn người. Có người làm khán thủ, có kẻ sung làm công dịch trong rừng sâu động vắng. Có người mở lò luyện để đúc tiền, có kẻ chiêu tập thợ để đúc súng, che chở cho những hộ trốn tránh, chứa chấp lũ trộm cướp. Có khi vì tranh đoạt mà bày trận đánh nhau, có khi chặn đường mà giết người cướp của. Cũng có kẻ đốt đuốc dấy binh mặc sức làm điều ác, cũng có người dựa vào rừng núi hiểm trở mà chống lại quan ty, hung hiểm đến vậy, pháp luật có lúc không ngăn chặn được. Vả lại sản vật của núi rừng vốn dành cho quốc dụng, nhưng trong đó đóng thuế trăm phần không được một, mà hầu hết đều về tay lũ gặp may, còn lại phân tán vào tay bọn nước ngoài thì không biết bao nhiêu ức vạn mà kể. Huống nữa không phải là nòi giống ta bụng chúng tất nghĩ khác. Những bọn chợt đi chợt đến đó biết đâu chẳng mưu làm gián điệp? Bọn chia ở rải rác các nơi biết đâu chẳng có ý dòm ngó? Những cái đó không thể để cho lớn dần lên kẻo sẽ quan hệ đến quốc kế rất lớn vậy! Kính xin bỏ mối lợi nhỏ mà rộng mở cơ mưu sâu xa. Xem xưởng mỏ nào thổ sản còn ít, lệ thuế rất ít đều nên triệt bỏ. Còn xưởng mỏ nào thổ sản rất nhiều, lệ thuế đã thành mới cho khai thác như cũ. Nhưng phải sức cho quan cai quản chỉ cho chiêu mộ người bản quốc làm phu mỏ, còn người nước ngoài không được dung nạp cho làm nữa. Nếu làm trái thì Khán thủ phải luận tội chém đầu. Đối với các hộ bóc quế cũng chiếu theo lệ này mà làm. Còn nếu Khán thủ quế hộ là người Khách (TQ) đều nên đình bãi đuổi về...” (十 曰: 國 家 於北 外 客 人, 處 置 有 方, 插 住 有 所, 未 常縱 與 民 雜 處也 . 近 來 各 鎮 廠 礦 傭 夫 , 山 林 桂 戶, 多是 外 國 客 丁. 結 聚 分 居 以千 萬 計 . 或 為 看 守, 或 充 公 役 于 深 林 遂 峒 中. 或 開 冶 以 鑄 錢, 或 招 工 而 鍊 銃. 影 蔽逋 逃 之 戶, 窩 藏 盜 劫 之 徒. 或 因 爭奪 而 結 陣 相 攻, 或 截 通 衢 而 剎 人 攘 掠. 亦或 明 燭持 兵 肆 行 惡 事, 亦 或 依山 據 險 抗 侮 官 司. 似 此 凶 黠, 法 制 有 所 不 及 . 且 山 林 產 物 固 國 用 之 所覽. 然 其 間 供 課 百 分 不 及 其 一, 而 盡 總 于 僥 倖 之 徒. 至 其 散 于 外 來 之 客, 又 不 知 幾 干 萬 億 . 況 非 我 族 類 其 心 必 異. 彼 翛 往忽 來 之 輩, 安 知 其 不 通 間 牒 之 謀? 散 居 分 處 之徒, 安 知 其 不 畜 窺 覦 之 志 ? 此 又 漸 不 可 長 而 於國 計 大 有 關 係 也 . 恭 乞 舍 鎦 錸 之 小 得, 及 遠 大 之 深 幾. 係 某 廠 礦 土 產 尚 稀 稅 例 頗 少 者, 並 應 撤 罷. 其 土 產 頗 饒 稅 例 已 成 者, 方 許 依 舊 掘 採, 仍 申 飭 該 管 官只 許 招 集 本 國 人 以 充 傭 債, 其 外 國 人 不 得 容納 級 役. 違 者, 看 守 有 斬 罪 論 . 其 桂 戶 採 取 亦照 此 例 行 . 至 如 看 守 桂 戶 係 客 人 者, 並 應 停 罷勒 回...) Có lẽ đúng như nhận định của Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên, do những ý kiến của ông trái ý người chấp chính và do nhiều quyền thần, yếu nhân không bằng lòng nên Bùi Sĩ Tiêm bị đoạt hết quan chức, đuổi về quê. May thay đến thời chúa Trịnh Doanh, do ý thức được những đề nghị của Bùi Sĩ Tiêm thực sự là quan trọng trong tình hình chính trị xã hội đương thời nên triều đình đã cho ban hành một số luật lệnh nhằm vãn hồi thiện chính, trong đó có những luật lệnh liên quan đến việc cư trú của người nước ngoài và lệ về khai thác mỏ cùng các khoản thuế liên quan đến vấn đề này. Đồng thời xét ông là người trung thực, dám nói, nên truy tặng ông hàm Tham chính Đại học sĩ, tước Trung tiết hầu và cấp cho ruộng thờ. Ngô Thì Nhậm cũng là một đại thần mẫn cán làm quan triều Lê sau Bùi Sĩ Tiêm vài chục năm. Khi tại chức, ông cũng đã từng nhiều lần đi giải quyết các vấn đề liên quan đến khai thác mỏ ở vùng biên giới phía Bắc và cũng đã từng hết sức băn khoăn về việc khai thác mỏ của người Khách nên ông hiểu sâu sắc những điều Bùi Sĩ Tiêm trình tấu. Trong bài khải về việc giải quyết tình hình ở mỏ bạc Tống Tinh Thái Nguyên ông viết: “...Bọn Khách ở xưởng mỏ báo tin cho nhau, bênh vực lẫn nhau, triều đình có lệnh gì những kẻ ăn cánh với chúng ở Kinh thành đều đem sự việc báo trước, vì thế chúng khinh miệt quan trên, coi nhờn pháp luật, khi đầy túi vượt qua núi về Quảng Đông... thậm chí tiết lậu cả tình hình trong nước, làm nhũng nhiễu cả kế hoạch ngoài biên... Một dải biên giới phía bắc liền ngay với nội địa (Trung Quốc), thổ dân thì ít, quan trấn phủ đều vì lực lượng không đủ, che chỗ nọ giàn chỗ kia, tình hình ngoài biên đành phải đặt ngoài sự kiềm chế... Nay các châu huyện ven biên giới đều theo tục gióc tóc, còn bọn Khách thì tranh giành mối lợi rất tinh vi... mà việc giữ cho chặt chẽ chỗ trọng yếu nơi biên thành là rất lớn... Về sự việc sáu động (3) thì đã vậy rồi, song còn phải lo tới việc giữ gìn về tương lai”. Qua những tấu khải trên của những trí thức có tâm huyết với đất nước, có thể nhận thấy âm mưu vơ vét tài nguyên khoáng sản và nhòm ngó đất nước ta của láng giềng là một âm mưu thường trực, và cũng đã từ lâu, những người có tâm huyết với quốc gia dân tộc luôn lên tiếng cảnh báo về vấn đề này. Lịch sử cho thấy sự việc liên quan đến an ninh quốc gia là không thể xem thường, không có các hành động cụ thể để ngăn chặn, không đặt quyền lợi của đất nước của dân tộc lên trên mà chỉ vì quyền lợi của một nhóm người là điều đáng sợ nhất, nguy hiểm nhất. Lịch sử cũng cho thấy xưa nay những trí thức lớn luôn vì nước, và vì nước họ không biết sợ quyền uy. Vậy thì khi trí thức với tầm nhìn của mình lên tiếng là họ đã thực sự vì nước mà ngăn chặn những sai lầm của nhà cầm quyền. Ngày xưa chưa có những phương tiện thông tin đại chúng như bây giờ (internet, FB, blog cá nhân) nên những ý kiến kiểu Bùi Sĩ Tiêm, Ngô Thì Nhậm dễ rơi vào tình trạng bị cô lập và nguy đến tính mạng, vậy mà vì nước - những trí thức hàng đầu đó vẫn lên tiếng. Thật đáng khâm phục thay! . T.K.A . Chú thích: 1. Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên. ký hiệu A1415, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm 2. Danh từ thời xưa người nước ta dùng gọi người Trung quốc. 3. Sự kiện Mạc Đăng Dung dâng 6 động cho nhà Minh. . tác giả Trần Kim Anh (Viện Nghiên cứu Hán Nôm)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 5:24:40 GMT 9
CỐNG HIẾN CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM ĐỐI VỚI VĂN HOÁ HÁN QUA TƯ LIỆU HÁN NÔM VÀ SỬ LIỆU TRUNG QUỐC
Đàm Chí Từ* Như nhiều học giả đã công nhận, Trung Quốc và Việt Nam là hai nước có nền văn hóa rất gần nhau. Sự gần nhau về văn hóa đó là kết quả của sự giao lưu văn hóa đó lâu dài qua nhiều thế kỷ giữa hai nước. Mối giao lưu văn hóa này mang tính hai chiều, tuy không loại trừ trường hợp một chiều trong một khoảng thời gian nhất định. Bởi vậy, chúng ta phải nhìn thấy tính hai chiều của nó khi nghiên cứu mối giao lưu văn hóa giữa hai nước Trung - Việt. Đáng tiếc là, lâu nay trong giới nghiên cứu khoa học tồn tại một tình trạng thiếu khoa học là cường điệu một chiều sự ảnh hưởng của nền văn hóa Hán đối với nền văn hóa Việt Nam (Hán sang Việt), còn chiều khác là sự ảnh hưởng (cống hiến) của văn hóa Việt Nam đối với văn hóa Hán (Việt sang Hán) thì rất ít được đề cập đến. Bài viết này xin đưa ra quan điểm của chúng tôi về những cống hiến của người Việt và văn hóa Việt Nam vào văn hóa Hán dựa trên tư liệu Hán Nôm và sử liệu Trung Quốc.Trước hết, chúng tôi khẳng định rằng, song song với chiều văn hóa Hán truyền sang, góp phần hình thành và phát triển văn hóa Việt Nam, còn tồn tại chiều văn hóa Việt Nam truyền sang văn hóa Hán, góp phần làm phong phú thêm nội dung của văn hóa Hán. Điều đó được thể hiện trong những khía cạnh sau đây: I. Một số loại sản vật Việt Nam hoặc từ Việt Nam truyền sang Trung Quốc, làm phong phú thêm kho tàng tài nguyên sản vật và đời sống của nhân dân Trung Quốc Theo sử sách Trung Quốc, những loại sản vật đó gồm các cây nhãn, vải, giầu cau, dừa, khoai lang, thuốc lá, bông, ý dĩ (bo bo), hoàng tiết (黃 屑) và phong hương (楓 香) v.v... Cây nhãn, vải: vốn xuất xứ vùng Giao Chỉ, Cửu Chân, sau đó được truyền sang miền Nam Trung Quốc. Vua Ngụy Văn Trung Quốc từng xuống chiếu rằng: “Những hoa quả lạ ở miền Nam có cây nhãn, vải... xuất xứ ở Giao Chỉ, Cửu Chân(1)”. Cây trầu cau: cuốn Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm chép: cây trầu cau “có nguồn gốc ở Lâm ấp (miền Trung Việt Nam ngày nay)”. Có học giả Trung Quốc nhận định rằng, thời gian cây trầu cau truyền sang Trung Quốc không muộn hơn đời Tấn(2). Cây dừa: vốn xuất xứ ở vùng Mêlanixia (thuộc châu Đại Dương) và được truyền sang vùng Đông Nam Á trước công nguyên. Trước đời Hán, cây dừa được truyền từ Việt Nam sang Trung Quốc(3). Cuốn Tề dân yếu thuật, quyển 10 dẫn các sách Quảng chí, Giao Châu ký, Dị vật chí rằng: “Cây dừa xuất xứ từ Giao Chỉ, nhà nào nhà nấy đều trồng cây đó”. Cây khoai lang: vốn xuất xứ ở châu Mỹ, được truyền sang vùng Đông Nam Á vào thế kỷ XVI. Khoảng niên hiệu Vạn Lịch (1573 - 1620) đời Minh, ông Trần ích, người Quảng Đông đem giống cây khoai lang từ Việt Nam tới và ông Trần Chấn Long, người Phúc Kiến đem giống khoai lang từ Phi-líp-pin về, sau đó cây khoai lang được trồng rộng rãi ở vùng Quảng Đông, Phúc Kiến(4). Cây thuốc lá: vốn xuất xứ ở châu Mỹ. Năm 1492, nhà hàng hải Cô-lôm-bô phát hiện cây thuốc lá, từ đó cây thuốc lá được truyền đi khắp nơi trên thế giới. Lúc đầu cây thuốc lá được truyền qua con đường Phi-lip-pin sang Trung Quốc vào khoảng niên hiệu Vạn Lịch đời Minh. Đến niên hiệu Thiên Khởi (1621 - 1627) đời Minh, cây thuốc lá lại được truyền từ Việt Nam sang vùng Quảng Đông Trung Quốc. Cuốn Cao Yếu huyện chí ở Quảng Đông chép rằng: “Thuốc lá xuất xứ từ Giao Chỉ, nay nơi nào cũng có(5)”. Cây bông: theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, cây bông ở Trung Quốc được nhập từ nước ngoài qua ba con đường. Một trong ba con đường đó là từ Việt Nam qua đường biển truyền sang đảo Hải Nam, Phúc Kiến và Quảng Tây v.v... Thứ vải được dệt bằng loại bông đó được gọi là Việt Bố (vải Việt)(6). Cây ý dĩ (bo bo): là loại cây họ thảo sống lâu năm, quả ý dĩ có thể ăn hoặc làm thuốc, lá và thân cây ý dĩ có thể dùng làm nguyên liệu giấy. Ngày nay các tỉnh Hà Bắc, Sơn Đông và Quảng Tây đều trồng cây ý dĩ. Theo sử sách ghi chép, ngày xưa, loại ý dĩ Việt Nam có hạt to nhất. Vào đời Đông Hán, Mã Viện vào cai trị vùng Giao Chỉ, khi trở về, lần đầu tiên ông đem giống ý dĩ về Lạc Dương, kinh đô nhà Hán. Sau khi chết, ông mang “oan ý dĩ”(7). Hiện nay trong tiếng Hán còn có thành ngữ “ý dĩ minh châu” nói về chuyện đó. Cây hoàng tiết (黃 屑), cây phong hương (楓 香): cuốn Nam phương thảo vật trạng của Từ Trung, người đời Tấn chép: “cây hoàng tiết Nhật Nam (nay là miền Trung Việt Nam) tốt nhất, thỉnh thoảng đem vào cống [cho Trung Quốc]”; “cây phong hương, quả to như trứng vịt... chỉ quận Cửu Chân mới có(8)”. Còn có thể điểm ra nhiều ví dụ khác, song trong khuôn khổ của một bài viết không cho phép liệt kê hết mọi sản vật được truyền từ Việt Nam sang Trung Quốc được. II. Một số người Việt Nam sang Trung Quốc góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa hai nước và giúp sức xây dựng, phát triển nền văn hóa Hán Từ thời Tần Thủy Hoàng đã có người Việt Nam sang Trung Quốc. Sử sách chép rằng, vào đời Tần Thủy Hoàng, có Lý Ông Trọng, người Từ Liêm, Giao Chỉ, cao 3 trượng 2 thước, sang nước Tần làm quan đến chức Tự lệ hiệu úy. Ông đem quân đóng giữ đất Lâm Thao (nay thuộc tỉnh Cam Túc Trung Quốc), uy danh chấn động nước Hung Nô. Khi tuổi già, về làng rồi chết. Thủy Hoàng cho rằng ông là người kỳ lạ, đúc đồng làm tượng để ở cửa Tư Mã Hàm Dương. Bụng tượng chứa được mấy chục người, lắp máy bên trong, nên tượng có thể chuyển động được. Hung Nô tưởng đó là Hiệu úy còn sống, không dám đến xâm phạm(9). ở đời Đông Hán, có người Giao Châu là Lý Tiến, Lý Cầm và Trương Trọng sang học rồi làm quan ở Trung Quốc. Sử sách Trung Quốc chép rằng: “Nhân tài Giao Châu được cùng tuyển dụng với người Trung Châu có thể là bắt đầu từ Lý Tiến(10). Đời Đường, có ba người Việt Nam là hai anh em Khương Công Phụ và Khương Công Phục, Liêu Hữu Phương đều đậu Tiến sĩ và làm quan ở Trung Quốc. Nhất là Khương Công Phụ, ông đã làm quan đến chức Tể tướng. Chẳng những thế, ông còn giỏi làm văn. Hai bài Bạch vân chiếu xuân hải phú và Đối trực ngôn cực gián sách của ông đều đã được thu chép vào bộ sách Toàn Đường văn. Ông Trương Tú Dân, một học giả Trung Quốc chuyên về lịch sử quan hệ Trung Việt đã tôn xưng ba ông Khương Công Phụ, Khương Công Phục và Liêu Hữu Phương là An Nam tam hiền đời Đường(11)”. Đời Đường, còn nhiều văn nhân Việt Nam (chủ yếu là Nho sĩ và tăng lữ) sang Trung Quốc, đã trao đổi nghệ thuật văn chương, tư tưởng với các văn nhân Trung Quốc. Sự kiện đó được phản ánh qua một số bài thơ của một số nhà thơ đời Đường trong tập thơ Toàn Đường thi, như các bài Sơn trung tặng Nhật Nam tăng, Tống Nam khách của nhà thơ Trương Tịch, bài Cung Phụng Định pháp sư quy An Nam của nhà thơ Dương Cự Nguyên, bài Tống An Nam Duy Giám pháp sư của nhà thơ Giả Đảo v.v... Những người Việt Nam trên đây sang Trung Quốc, hoặc cố gắng làm việc trong phạm vi chức quyền của mình, hoặc trao đổi nghệ thuật văn chương, qua đó đã góp phần vào sự phát triển của văn hóa Hán. Kể từ thời Nam Bắc triều đến đầu đời Tùy, nhạc và múa của Lâm ấp (nay là Trung bộ Việt Nam) đã được chọn làm cống phẩm cho Trung Quốc(12). Trong nhạc cung đình đời Thanh còn có nhạc An Nam(13). Ở đời Lý - Trần, Lê Đức Toàn là một Bác sĩ Việt Nam nổi tiếng đã sang Trung Quốc chữa bệnh cho Hoàng hậu nhà Tống, rồi ông ở lại miền Nam Trung Quốc cho đến chết. Ông quê ở Nghĩa Lư, tự hiệu là Tuệ Tĩnh Thiền Sư. Sau khi ông chết, vua nhà Tống tổ chức lễ tang ông và cho khắc bia đá ghi lại sự tích của ông. Về sau, có sứ giả Việt Nam sang Trung Quốc đem bia đá đó về nước. Đến năm Thiệu Trị thứ 6 (1853), Việt Nam bị dịch đậu mùa nghiêm trọng, tấm bia đá đó đã hiển linh để giúp dân. Do đó, dân lập đền thờ ông(14). Đời Minh, Nguyễn An, một kiến trúc sư tài ba Việt Nam theo lệnh triều đình nhà Minh trực tiếp phụ trách công trình thiết kế và xây dựng thành phố Bắc Kinh, trong đó chủ yếu là Tử Cấm Thành và Hoàng Thành. Nguyễn An đã hoàn thành sơ bộ công trình đồ sộ đó trong 4 năm. Ngày nay, khi đến tham quan Cố Cung của thành phố Bắc Kinh, người ta biết ơn kiến trúc sư tài ba Việt Nam Nguyễn An(15). Lê Trừng, tự Mạnh Nguyên, hiệu Nam Ông, con trưởng của Hồ Quý Ly, bị tướng nhà Minh Trương Phụ bắt giải sang Trung Quốc. Triều Minh thấy Trừng thông minh tính trời, văn võ kiêm toàn, bèn thả và trọng dụng ông. Trừng chuyên phụ trách quản lý chế tạo hỏa khí, nên được người ta ví là thần Hỏa khí. Người đời Minh phàm thờ hỏa khí, đều thờ luôn ông Trừng. Lê Trừng đã làm quan đến chức Công bộ thượng thư, góp phần to lớn vào nền quốc phòng triều Minh(16). III. Trong quá trình tiếp thu văn hóa Hán, văn hóa Việt Nam đã có những sáng tạo mới, góp phần phát triển và làm phong phú thêm nội dung của văn hóa Hán Trong khi tiếp thu văn hóa ngoại lai, mọi dân tộc đều không rập khuôn máy móc, mà căn cứ theo tình hình cụ thể của mỗi dân tộc để tiếp thu có chọn lọc và cải tạo, đồng thời phát huy văn hóa ngoại lai để nâng văn hóa bản địa lên tầm cao mới. Nhưng vì bối cảnh và điều kiện lịch sử khác nhau, nên mức độ cải tạo và phát huy văn hóa ngoại lai của mỗi dân tộc cũng khác nhau. Về phần Việt Nam, xét tổng quan trên bình diện lịch sử, Việt Nam không xây dựng một nền văn hóa khác hẳn văn hóa Hán. Nhưng điều đó không có nghĩa là Việt Nam không có sáng tạo gì trong quá trình tiếp thu văn hóa Hán. Trong một số lĩnh vực, dân tộc Việt Nam đã có sáng tạo mới. Xin đơn cử một số trường hợp sau đây: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) của Nguyễn Du đã mượn cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân - một nhà văn cuối đời Minh đầu đời Thanh (Trung Quốc). Nhưng Nguyễn Du đã sử dụng một cách tài tình ngôn ngữ Việt Nam (tiếng Việt) và thể thơ Việt Nam (lục bát) để sáng tác lại Truyện Kiều. Kết quả là Truyện Kiều của Nguyễn Du không những được coi là tác phẩm văn học nổi tiếng nhất ở Việt Nam, mà còn có tiếng trên thế giới, từng được dịch và giới thiệu bằng tiếng Trung, Pháp, Anh, Nga, Đức, Nhật, Tiệp Khắc và Hung-ga-ri. Nguyễn Du cũng vì đó mà trở thành danh nhân văn hóa. Còn bản Kim Vân Kiều truyện Trung Quốc thì hầu như không có tiếng tăm gì, chỉ những học giả chuyên về văn học thời kỳ đó mới biết thôi. Trên một chừng mực nào đó, sở dĩ sau này bản Kim Vân Kiều truyện Trung Quốc được nhiều người biết đến là nhờ tiếng tăm của bản Truyện Kiều Việt Nam, tức họ biết Truyện Kiều của Nguyễn Du trước, biết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân sau. Phú là một trong bốn thể loại văn cổ đại Trung Quốc. Trong quá trình tiếp thu phú Trung Quốc, phú Việt Nam đã có sáng tạo và phát triển mới. Chẳng hạn, phú Trung Quốc thì thường hay sử dụng những lời văn mỹ miều để ca ngợi công đức của bọn thống trị hoặc tác giả khoe tài. Còn phú Việt Nam thì có khi dùng để bàn luận sự việc hoặc thuyết minh đạo lý, thậm chí để luận chiến, giống như thể văn nghị luận, như bài Cần Chính lầu phú, Quan Chu nhạc phú của Nguyễn Pháp v.v... Đôi khi phú Việt Nam còn được dùng để thuyết trình đặc tính và hướng dẫn cách sử dụng dược phẩm, giống như thể văn thuyết minh ngày nay, như bài Trực giải chỉ nam dược tính phú, Nam dược Quốc ngữ phú của Nguyễn Bá Tĩnh v.v... Chơi chữ bằng chữ Hán là bộ phận quan trọng trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, cũng được nhân dân Việt Nam ưa thích. Người Việt Nam đã tiếp thu văn hóa chơi chữ Hán rồi kết hợp với văn hóa bản địa để tạo ra nhiều tác phẩm chơi chữ mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Thực tế, cách chơi chữ bằng chữ Hán của Việt Nam đã góp phần làm phong phú thêm nội dung của văn hóa chơi chữ Trung Quốc, thí dụ: Vua Duy Tân chơi chữ với cha cố Tây: Cha cố: Rút ruột ông vua, tam phân thiên hạ. Vua Duy Tân: Chặt đầu thằng Tây, tứ hải giai huynh. Cha cố Tây đã chơi chữ bằng chữ vương (王) trong tiếng Hán, bởi chữ vương rút đi sổ giữa (〡), còn lại chữ tam (三), ngụ ý Việt Nam bị chia cắt làm ba Kỳ. Vua Duy Tân đã chọi lại ông cha cố bằng cách chơi chữ Tây (西, hồi ấy Việt Nam gọi người Pháp là Tây) trong tiếng Hán, bởi chữ Tây (西) cắt đi phần đầu còn lại chữ tứ (四). Xem thêm câu đố sau đây: Đầu cha lấy làm chân con, Mười bốn năm tròn hết số thì thôi. Đáp án của câu đố trên là hai chữ Hán “光 景” (Quang Cảnh). Vì phần đầu của chữ “光” là “小”, đúng là phần chân của chữ “景”, Quang chỉ vua Quang Trung, Cảnh chỉ năm Cảnh Thịnh, triều Quang Trung chỉ tồn tại 14 năm. Xin xem thêm bài Chiết tự trong Nhật ký trong tù của Bác Hồ như sau: 折 字 囚 人 出 去 或 為 國 患 過 頭 時 始 見 忠 人 有 懮 愁 優 點 大 籠 開 竹 閂 出 真 龍 Phiên âm: Chiết tự Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc, Hoạn quá đầu thời thủy kiến trung. Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại, Lung khai trúc sản xuất chân long. Ở đây, với trình độ Hán học uyên thâm, Bác Hồ đã bày tỏ ý chí cách mạng của mình bằng hình thức chơi chữ Hán. Tập Kiều là một hình thức chơi chữ trên cơ sở kết hợp văn hóa chơi chữ Hán với văn hóa bản địa Việt Nam, vừa là kết quả của mối giao lưu văn hóa giữa hai nước Trung - Việt, lại vừa thể hiện tinh thần sáng tạo của dân tộc Việt Nam. Thí dụ: Một hôm, học trò của cụ Phan Bội Châu bị bắt bởi sờ vào ngực của cô hàng hoa. Để cứu trò mình, cụ Phan Bội Châu chơi chữ bằng hình thức tập Kiều: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai. Những là âu yếm vành ngoài, Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm. Còn bao nhiêu tác phẩm chơi chữ nữa mà tác giả của chúng chính là người Việt Nam. Đó là sự phát triển mới của văn hóa Hán ở khu vực ngoài Trung Quốc. Những tác phẩm đó đã góp phần làm phong phú thêm nội dung của văn hóa chơi chữ Hán. IV. Văn hóa Việt Nam đã bảo tồn được một số thành phần văn hóa mà ở Trung Quốc đã bị mất mát đi hoặc khó tìm được Việc một số thành phần của văn hóa bị mất đi bởi nhiều nguyên nhân trên dòng sông lịch sử dài hơn mấy nghìn năm là hiện tượng khó tránh khỏi. Những thành phần văn hóa đó bao gồm cả văn hóa vật chất và tinh thần. Những thành phần đó có khi chúng ta có thể tìm lại được hoặc khám phá được ở khu vực ngoài Trung Quốc. Trung Quốc và Việt Nam có quan hệ chặt chẽ về lịch sử và văn hóa, nên Việt Nam đã bảo tồn những thành phần văn hóa Hán mà ở Trung Quốc đã bị mất đi hoặc khó tìm. Thí dụ: Nhạc cổ Trung Quốc đời Tống bị biến mất, từng tìm lại được ở Việt Nam như Hoàng Đế Viêm, một thứ nhạc trượng cổ đã thất truyền ở Trung Quốc(17). Hiện nay, Việt Nam lưu giữ được một kho tàng di sản Hán Nôm đồ sộ và vô giá, tập trung nhất và phong phú nhất tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm với khoảng 26.000 quyển sách, khoảng 36.000 đơn vị thác bản văn khắc, 20.000 tấm ván gỗ khắc in sách Hán Nôm. Đó là một cống hiến vô cùng to lớn của nền văn hóa Việt Nam nói chung và ngành Hán Nôm học Việt Nam nói riêng đối với nền văn hóa Hán. Kho tàng Hán Nôm đó tiềm ẩn biết bao ẩn số về văn hóa Hán và văn hóa Việt Nam (không phải là đối tượng nghiên cứu của bài này) đang chờ đợi các nhà Hán học đi tìm tòi, khám phá mà những người đi trước đã đạt được thành quả đáng mừng. Xin nêu thí dụ: Hệ thống chữ Nôm và âm Hán Việt đã giữ được nhiều dữ liệu về ngữ âm tiếng Hán thời trung cổ mà ở Trung Quốc khó tìm được. Năm 1948, ông Vương Lực, nhà Ngôn ngữ học nổi tiếng Trung Quốc khảo sát chữ Nôm và hệ thống âm Hán Việt một năm ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, ông viết bài Hán Việt ngữ nghiên cứu nổi tiếng, giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng về lịch sử ngữ âm tiếng Hán. Cho đến ngày nay, chữ Nôm và âm Hán Việt là tài liệu quan trọng được các học giả Trung Quốc quan tâm nghiên cứu về ngữ âm tiếng Hán thời trung đại. Đôn Hoàng học là một nền học vấn hết sức sâu rộng và có lịch sử lâu dài ở Trung Quốc, đến nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa ngã ngũ. Một trong những vấn đề đó là thể loại văn học. Vương Tiểu Thuẫn, Giáo sư Khoa Trung văn trường Đại học Thanh Hoa Trung Quốc đã giải quyết được một số vấn đề hết sức quan trọng về thể loại văn học Trung Quốc nói chung và văn học Đôn Hoàng nói riêng qua một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu về di sản Hán Nôm Việt Nam. Những thành quả nghiên cứu liên quan đến di sản Hán Nôm của ông được công bố trong hai quyển sách là Từ Đôn Hoàng học đến văn học chữ Hán nước ngoài và Việt Nam Hán Nôm văn hiến mục lục đề yếu. Ông đánh giá rất cao cống hiến của di sản Hán Nôm Việt Nam đối với văn hóa Hán. Ông cho rằng: “Văn hiến Hán Nôm được lưu giữ ở Việt Nam hiện nay đã cung cấp nhiều tư liệu mới cho nền học thuật Trung Quốc trong thế kỷ mới. Sự tác động tích cực của nó đối với nền học thuật Trung Quốc sẽ không chỉ giới hạn trong những ngành khoa học truyền thống như văn, sử, triết, v.v... mà nó còn tác động cụ thể đến nghiên cứu Đôn Hoàng. Cho nên, nó vừa là tấm gương phản chiếu nền văn hóa kinh điển Trung Quốc, vừa là tấm gương soi bóng nền văn hiến Đôn Hoàng(18). Với sự không ngừng phát triển của ngành Hán Nôm học Việt Nam và mối quan hệ hợp tác quốc tế trong công tác nghiên cứu di sản Hán Nôm, chắc chắn còn nhiều cống hiến cụ thể của văn hóa Việt Nam đối với văn hóa Hán. Thay lời kết Không nghi ngờ gì nữa, giao lưu văn hóa giữa hai nước Trung - Việt trong lịch sử tồn tại hai chiều, không chỉ tồn tại ảnh hưởng và cống hiến của văn hóa Hán đối với văn hóa Việt Nam, mà còn ngược lại, tồn tại ảnh hưởng và cống hiến của văn hóa Việt Nam đối với văn hóa Hán. Điều đó đã được chứng tỏ qua di sản Hán Nôm Việt Nam và sử liệu Trung Quốc. Vấn đề này cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu không những đối với học giả Việt Nam mà còn đối với học giả Trung Quốc nữa. Di sản Hán Nôm Việt Nam với nội dung phong phú, hình thức đa dạng cần được tiếp tục khai thác để làm rõ hơn vấn đề này. Thiết nghĩ, trong quá trình khai thác di sản Hán Nôm, học giả Trung Quốc và Việt Nam tiến hành hợp tác là yếu tố cần được quan tâm. Đ.C.T CHÚ THÍCH (1) Lý Phiên biên soạn: Lịch sử phát triển của thực vật trồng trọt Trung Quốc, (中 國 栽 培 植 物 發 展) KHXH,1984, tr.220 (2) Lâm Minh Hoa: Trầu cau và mối giao lưu văn hóa Trung Việt (檳 桹 與 中 越 文 化 交 流), tạp chí Đông Nam Á học san của Sở Châu Á - Thái Bình Dương, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, 1989, số thử san. (3) Lý Phiên: Sđd., tr.223. (4) Mẫn Tông Điện: Trung Quốc nông lịch sử hệ niên yếu lục (中 國 農 曆 史 系 年 要 錄)Nxb. Nông nghiệp 1989, tr.178 (5), (6)Vương Giới Nam: Trung Quốc dữ Đông Nam Á văn hóa giao lưu chí (中 國 與 東 南 亞 文 化 交 流 志), Nxb. Nhân dân Thượng Hải, 1998, tr.137, 132. (7) Hậu Hán thư, quyển 24 (後 漢 書, 卷 24, 馬 援 傳) chép: “Xưa, Mã Viện ở Giao Chỉ, thường ăn hạt ý dĩ dể làm nhẹ nhàng mình mẩy và thắng chướng khí. Quả ý dĩ miền Nam rất to, Viện muốn lấy làm giống. Khi quân trở về nước, chở một xe ý dĩ về. Người bấy giờ cho đó là đồ quý lạ của miền Nam, những người quyền quý đều nhòm ngó. Bấy giờ Viện đang được triều đình nuông chiều, nên không việc gì. Sau khi Viện chết, có người dâng sớ vu khống ông, cho những gì ngày xưa Viện chở về đều là châu báu vật lạ, nên Viện bị can tội, không được táng vào mộ, vợ ông cũng bị liên lụy. Sử gọi chuyện đó là ‘oan ý dĩ’. Về sau được minh oan”. “初, 援 在 交 趾, 常 餌 薏 苡, 用 能 輕 身 省 欲 以 勝 瘴 氣. 南 方 薏 苡 寔 大, 援 欲 以 為 種, 軍 還, 載 之 一 車. 時 人 以 為 南 土 珍 怪, 權 貴 皆 望 之 援 時 方 有 寵, 固 莫, 以 文 及 卒 後 有 上 書 之 者 以 為 前 所 載 還, 能 明 珠 文 犀 因 而 坐 罪, 死 不 歸 墓 妻 子 亦 株 連, 史 稱 薏 苡 之 謗, 後 詔 雪” (8) Thạch Thanh Hán, Tập Từ Trung Nam phương thảo vật trạng (輯 徐 衷 南 方 草 物 狀). Nxb. Nông Nghiệp, Bắc Kinh, 1990, tr.23. (9) Theo Ngô Sĩ Liên: Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển I và Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam. (10) Gia Khánh trùng tu nhất thống chí (嘉 慶 重 修 一 統 志), quyển 553, Việt Nam, Nhân vật. (11) Trương Tú Dân: Đường đại An Nam văn học sử tư liệu tập dật (唐 代 安 南 文 學 史 資 料 輯 佚), Tạp chí Nghiên cứu Đông Dương, số 1 - 1983. (12) Âm nhạc trên đường tơ lụa cổ đại (古 代 絲 綢 之 路 的 音 樂). Vương Diệu Hoa dịch. Nxb. Âm nhạc Nhân Dân, 1988, tr.60. (13) Âm Pháp Lỗ: Mối giao lưu văn hóa âm nhạc giữa Trung Quốc và các nước phương Đông trong lịch sử (曆 史 上 中 國 和 東 方 各 國 音 樂 文 化 的 交 流), trong Đông phương văn hóa tri thức giảng tọa (東 方 文 化 知 識 講 座), Nxb. Hoàng Sơn, 1988, tr.89. (14) Phan Thúc Trực tập, Quốc sử di biên, tập II, Quốc triều Đại Nam ký, điều năm Thiệu Trị thứ sáu (國 史 遺 編, 下 集, 國 朝 大 南 記 - 紹 治 六 年 條). Sở Nghiên cứu Tân Á Đại học Trung văn Hồng Kông, tháng 10/1965, tr.380. (15), (16) Trương Tú Dân: Trung Việt quan hệ sử luận văn tập (中 越 關 系 史 論 文 集). Nxb. Văn Sử Triết, Đài Loan, 1991, tr.121, 57. (17) Thẩm Quát: Mộng khê bút đàm, nhạc luật (夢 溪 筆 談 - 樂 律). (18) Vương Côn Ngô: Từ Đôn Hoàng học đến văn học chữ Hán nước ngoài (從 敦 煌 學 到 域 外 漢 文 學). Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, năm 2003, tr.154. . * Tác giả Đàm Chí Từ (người Trung Quốc), là PGS. Đại học Trịnh Châu, Hà Nam, NCS. Đại học Ký Nam, Trung Quốc. Bài đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 1 (62)- 2004, trang 36-43.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 6:10:05 GMT 9
BA BÍ MẬT ĐỂ ĐẤT NƯỚC CÓ NGƯỜI TÀI Nguyễn Xuân Diện . Để chiêu dụ nhân tài, các tỉnh thường đưa ra các tiêu chí về học hàm học vị, nhưng thực chất của các học hàm học vị đó ra sao thì không ai kiểm chứng được. Để chiêu dụ nhân tài, các tỉnh thường đưa ra các ưu đãi như: cấp cho các căn hộ, trả lương ở mức cao, bổ nhiệm cho chức vụ... Nhưng những người tài cao vẫn chỉ về rồi lại đi. Họ vấp phải một môi trường làm việc cũ kỹ, không phát huy được trí lực của bản thân họ. Họ không muốn bị biến thành một công chức "sáng vác ô đi, tối vác về". Trong đề bài kỳ thi Đình năm 1442, chính vua Lê Thái Tông yêu cầu các sĩ tử "hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời" cho mình về việc cầu hiền tài, chiêu hiền đãi sĩ. Thí sinh Nguyễn Trực đã nói với nhà vua trong bài thi của mình rằng: "Bệ hạ muốn quân tử tiến, tiểu nhân lùi thì không gì bằng gần gũi bề tôi khí tiết, sử dụng kẻ sỹ chính trực để họ đưa vua đi đúng đường, đặt vua vào chỗ không lầm lỗi". Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, trẫm sẽ đích thân xem xét Nhà vua đã ra một đề bài như thế này: "Đức Thái tổ Cao hoàng đế ta lấy được thiên hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiền mà không có một ai trúng tuyển. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng sức trị nước, thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mở thăm thẳm. Sao người quân từ khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như vậy? Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, trẫm sẽ đích thân xem xét". Xem thế đủ biết lòng vua chân thành là vậy! Thí sinh Nguyễn Trực trả lời rằng: "Bệ hạ muốn quân tử tiến, tiểu nhân lùi thì không gì bằng gần gũi bề tôi khí tiết, sử dụng kẻ sỹ chính trực để họ đưa vua đi đúng đường và đặt vua vào chỗ không lầm lỗi". Rồi lại nói thẳng với nhà vua rằng: "Vua có nhân, không ai không có nhân; Vua có nghĩa, không ai không có nghĩa; Vua chân chính, không ai không chân chính. Trước hết, vua chân chính rồi cả nước sẽ bình yên". Lời một thí sinh nói với vua như thế! Rất thẳng thắn! Thí sinh Nguyễn Trực cho rằng đạo của người làm vua là tự mình chọn người tài. Song ông cũng cho rằng: "tiến cử tài năng cho đất nước, lại là chức trách của bậc đại thần". Ông cho rằng, nếu các đại thần mà "ngầm nuôi mưu gian ghen ghét hiền tài cất nhắc bè lũ. Bản thân chúng đã chả ra gì, thì làm sao tiến cử được nhân tài! ...Người xưa có câu: Ai tiến cử nhân tài, sẽ được ban thưởng mức cao nhất. Kẻ nào che lấp tài năng, phải bị trị tội nặng". "Thần cho rằng: lừa dối bề trên, hãm hại hiền tài, lấy bọn theo mình làm giỏi, lấy bọn múa mép làm tài, mua quan bán tước, hối lộ ngang nhiên, những việc như vậy, đâu phải vì nước tiến cử nhân tài, vì vua lựa chọn bề tôi? Do vậy mà người quân tử khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết". "Ôi, quân tử và tiểu nhân hoàn toàn trái ngược nhau. Đạo quân tử mạnh thì đạo tiểu nhân suy; đạo quân tử suy thì đạo tiểu nhân mạnh. Như âm với dương, như ngày với đêm không thể cùng song song vận hành; như nước với lửa, như thơm với thối, không thể cùng chứa trong một rọ. Cho nên bậc bề trên, mỗi lúc dùng người phải bình tĩnh, phải chuyển tâm, phải thử thách, phải thận trọng mới được". "...Hãy nhớ ba điều Trí, Nhân, Dũng là đạt đức của thiên hạ. Không có Trí thì không thể hiểu người; không có Nhân thì không thể chọn người; không có Dũng thì không thể dùng người. Lấy Trí hiểu người thì có thể hiểu biết rõ ràng và đầy đủ tài năng của họ. Lấy Nhân chọn người thì không bỏ người tài khi họ cùng khốn và chọn được người hết lòng trung thành. Lấy Dũng dùng người thì tin dùng không nghi ngờ và chuyên tâm nghe hết mọi điều. Nếu có cả ba điều Trí, Nhân, Dũng này thì lẽ dùng, bỏ rõ ràng, lòng yêu, ghét chính đáng. Đó chính là ý nghĩa của câu 'Chỉ có người nhân mới biết yêu người, biết ghét người' vậy". Lời phân tích của Nguyễn Trực thật trong sáng, thẳng thắn và bộc trực. Giữa thời quân chủ, trong một bài văn của sĩ tử đi thi, (nếu đỗ thì sẽ bắt đầu bước lên hoạn lộ) mà có cơ hội để bộc trực như vậy, đủ biết không khí chiêu hiền đãi sĩ, chuộng lời nói thẳng của người xưa như thế nào! Kỳ thi ấy (1442), vua lấy đỗ Nguyễn Trực (1417 - 1473) là Trạng nguyên. Và ông chính là vị Trạng nguyên đầu tiên của triều Lê. Tấm bia ghi về khoa thi này là tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu được dựng năm 1484. Nguyễn Trực cũng không phụ tấm lòng cầu hiền của nhà vua. Năm 1444 ông dẫn đầu đoàn sứ bộ sang sứ nhà Minh. Giữa triều đình phương Bắc, Nguyễn Trực đã hoàn thành sứ mệnh bằng kiến thức uyên bác, tài ứng đối nhạy bén, sắc sảo, sự vững vàng cứng cỏi và trên hết là ý thức tự hào dân tộc rất chính đáng của mình, khiến vua tôi nhà Minh phải kiêng nể. Năm 1457 viên sứ thần nhà Minh là Hoàng Gián sang ta. Lê Nhân Tông đã triệu Nguyễn Trực về triều để tiếp sứ. Hoàng Gián vặn vẹo đủ điều, nhưng điều nào cũng được Nguyễn Trực giảng giải phân minh, khiến cho vị "thiên sứ" nọ phải thán phục thốt lên "Quốc hữu nhân tài"(nước Việt có nhân tài). Tài năng và phẩm chất của Nguyễn Trực được Lê Thánh Tông đánh giá cao, cử ông làm Quốc tử giám tế tửu (như chức Hiệu trưởng một đại học hoàng gia). Nguyễn Trực tham gia hiệu đính, phê duyệt bộ "bách khoa toàn thư" của thời ấy: Thiên Nam dư hạ tập. Theo lệnh của Lê Thánh Tông bộ Thiên Nam dư hạ tập biên soạn xong, phải mang đến tận nhà để Nguyễn Trực phê duyệt mới được xuất bản. Biết rõ dĩ vãng, rộng nhìn tương lai Trên văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442) - khoa mà Nguyễn Trực được đề ở vị trí đầu tiên, Hàn lâm viện Thừa chỉ Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung viết: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần kíp". Bài văn còn có đoạn: "Việc dựng tấm đá này có lợi ích rất nhiều: kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện lấy đó làm gắng, biết rõ dĩ vãng, rộng nhìn tương lai, vừa là để rèn giũa danh tiết của kẻ sĩ, vừa là để củng cố mệnh mạch nước nhà". Như vậy, thông điệp mà người xưa gửi rất rõ ràng. Xác định nhân tài là "nguyên khí" của quốc gia, có quan hệ đến sự hưng vong của thế nước. Vì vậy các bậc thánh đế minh vương luôn luôn coi việc bồi dưỡng, kén chọn nhân tài, vun trồng nguyên khí quốc gia là việc cần thiết, thường xuyên liên tục và đặt trong tình trạng cấp bách. Việc chọn người tài, đưa vào các vị trí quan trọng của đất nước là quyết định của nguyên thủ quốc gia. Nhưng việc tiến cử tài năng cho đất nước, lại là chức trách của những người đang nắm những trọng trách trong các cơ quan quyền lực giúp việc cho nguyên thủ. Điều này cho thấy, trách nhiệm của những người này là tìm kiếm người có năng lực để gánh vác việc nước là vô cùng quan trọng. Nếu nguyên thủ quốc gia mà thành thực cầu hiền, muốn kén chọn nhân tài, lại được các quan chức thuộc quyền tiến cử bằng sự minh bạch, sáng suốt, ngay thẳng và không vụ lợi thì người tài sẽ xuất hiện, đem hết tâm sức cùng đưa thế nước đi lên. Nói như Nguyễn Trực cách đây 568 năm thì những bậc hiền tài, kẻ sỹ khí tiết đó sẽ "đưa vua đi đúng đường và đặt vua vào chỗ không lầm lỗi". Nếu trong việc tiến cử người vào các chức vụ quan trọng mà có chuyện mua quan bán chức, chạy chức chạy quyền, kéo bè kéo cánh, để bọn sâu mọt chui vào hàng ngũ quan chức thì sẽ làm thế nước nguy nan, khiến nguyên thủ đi lạc đường và rơi vào lầm lỗi. Khi có được hiền tài, thế nước sẽ mạnh. Ngược lại, khi kẻ tiểu nhân và dốt nát được trao những trọng trách thì thế nước suy yếu vì những hành xử của họ. Và khi ấy nhân tài sẽ rũ áo mà đi, quay lưng với thời cuộc, cho dù họ đã từng có những nỗ lực đóng góp trước đó. Họ đi ẩn cư nơi rừng sâu núi thẳm, lánh tục tìm nhàn, ngâm thơ vịnh nguyệt, bạn cùng hạc nội mây ngàn. Họ ẩn cư ngay giữa chốn phồn hoa đô hội, bằng sự im lặng, "giả điếc, giả câm" của mình. Sự lãng phí không biết nói sao cho hết! Hiểu xưa để biết nay, như lời người xưa "biết rõ dĩ vãng, rộng nhìn tương lai", thiết nghĩ chúng ta nên phải tổ chức lại việc cầu hiền tài trong thời đại mới. Hiện nay, mặc dù đã có nhiều tỉnh thành quyết tâm thực hiện việc chiêu hiền đãi sĩ, nhưng việc này chưa thực sự có hiệu quả. Chưa có ai thống kê được các tỉnh thành đó đã đón được bao nhiêu nhân tài về làm việc. Quan niệm về nhân tài hiện nay cũng chưa được đưa ra một cách thống nhất. Người ta vẫn coi các sinh viên tốt nghiệp xuất sắc ở các Đại học là những nhân tài, cần được trải thảm đỏ đón về, mà không hiểu rằng việc có kết quả xuất sắc ấy, nhiều khi chỉ là "học gạo". Lại cũng có những bạn trẻ tài năng than rằng, thảm đỏ có trải ra thật, nhưng bước lên đó lại đầy chông gai. Để chiêu dụ nhân tài, các tỉnh thường đưa ra các tiêu chí về học hàm học vị, nhưng thực chất của các học hàm học vị đó ra sao thì không ai kiểm chứng được. Để chiêu dụ nhân tài, các tỉnh thường đưa ra các ưu đãi như: cấp cho các căn hộ, trả lương ở mức cao, bổ nhiệm cho chức vụ... Nhưng những người tài cao vẫn chỉ về rồi lại đi. Họ vấp phải một môi trường làm việc cũ kỹ, không phát huy được trí lực của bản thân họ. Họ không muốn bị biến thành một công chức "sáng vác ô đi, tối vác về". Họ lại ra đi! Vì nhà cửa, tiền lương, chức vụ không phải là cái mà người tài bận tâm trước nhất! Sao người tài khó biết và khó dùng vậy? Ghi chú: Bài viết sử dụng bản dịch bài văn sách thi Đình của Nguyễn Trực, do TS. Hoàng Văn Lâu (Hoàng Hưng) dịch, bài văn bia đề danh tiến sĩ khoa thi Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo 3 (1442) do GS Ngô Đức Thọ và cộng sự dịch. Nhân đây xin trân trọng cám ơn các dịch giả! Bài đăng trên Tuần Việt Nam (VNN).
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 4:17:29 GMT 9
TƯƠNG LAI TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT
Thu Tứ Cái sai của Phạm Quỳnh Nhìn kỹ cái đúng của P.Q. Cảm lắm, cô đơn nhiều Tiếng cảm không có tương lai Đây cái quá trình mất tiếng "Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ" Cái sai của Phạm QuỳnhPhạm Quỳnh chia từ tiếng Việt thành hai loại: loại cụ tượng và loại trừu tượng.(1) Loại từ thứ nhất có nội dung liên quan đến "thế giới hữu hình do giác quan có thể cảm được". Loại từ thứ hai có nội dung liên quan đến "những nghĩa lý thuộc về tâm trí phải suy xét".(2) Chia xong, ông Phạm bảo tiếng ta giàu từ cụ tượng mà nghèo từ trừu tượng. Đã gần tám thập kỷ qua mà không thấy ai bày tỏ bất đồng với ý kiến trên. Thiết nghĩ nó có chỗ sai. Vấn đề ở chỗ, Phạm Quỳnh chỉ thấy một nhóm từ trừu tượng, tức những từ mà nội dung là "nghĩa lý (...) phải suy xét". Ví dụ: xã hội, cộng đồng, quốc gia, chủ nghĩa, dân tộc. Những từ này người Việt chủ yếu vay mượn của người Tàu, vì tiếng ta không sẵn có. Nhóm từ trừu tượng vừa nói xuất phát từ hoạt động của trí óc. Nhưng con người ta, ngoài trí óc còn có tâm hồn! Không phải chỉ sản phẩm của trí óc mới trừu tượng. Sản phẩm của tâm hồn cũng đâu có "hình", giác quan nào mà cảm được nó! Nó trừu tượng kém gì "nghĩa lý"! Từ trừu tượng xuất phát từ hoạt động của tâm hồn chẳng hạn: áy náy, băn khoăn, bần thần, bâng khuâng, bẽ bàng, bịn rịn, bồi hồi, bồn chồn, bủn rủn, bứt rứt, canh cánh, chống chếnh, dằn vặt, đau đáu, e ấp, hằn học, hụt hẫng, hững hờ, khao khát, lâng lâng, mê mẩn, ngại ngùng, ngẩn ngơ, ngỡ ngàng, phơi phới, rạo rực, se sắt, thẫn thờ, thổn thức, xao xuyến, xốn xang. Đây người Việt gần như không vay mượn của ai cả, vì cái tâm hồn đặc biệt đa cảm của ta nó làm tiếng Việt đã sẵn giàu có những từ ấy lắm rồi. Vậy có hai nhóm từ trừu tượng. Nhóm "Phạm Quỳnh" gồm những từ chỉ khái niệm. Nhóm nữa gồm những từ chỉ cảm xúc hay tâm trạng. Tiếng Việt quả rất nghèo từ trừu tượng khái niệm. Nhưng nó có lẽ giàu từ trừu tượng cảm xúc hơn bất cứ thứ ngôn ngữ nào trên thế giới... Nhìn kỹ cái đúng của Phạm Quỳnh Phạm Quỳnh đúng khi bảo tiếng Việt đặc biệt giàu từ cụ tượng. Nhưng từ cụ tượng có hai nhóm. Tiếng Việt chỉ đặc biệt giàu về một nhóm mà thôi. Hai nhóm từ cụ tượng là: Nhóm "vô cảm": gồm những từ không chứa cảm giác, cảm xúc. Ví dụ: trời, đất, núi, rừng, sông, biển, ao, chuôm, cây, cỏ, chim, cá, nai, gà, lợn, rìu, củi, nồi, niêu, lúa, khoai, tay, chân, râu, tóc v.v.(3) Nhóm "hữu cảm": gồm những từ có chứa cảm giác hoặc cảm xúc. Ví dụ: nhấp nhô (thị giác), lả lay (thị giác), tí tách (thính giác), bì bõm (thính giác), ngào ngạt (khứu giác),thoang thoảng (khứu giác), trơn tru (xúc giác), ram ráp (xúc giác), chát xít (vị giác), chua lè (vị giác), nao nao (cảm xúc), nho nhỏ (cảm xúc), sè sè (cảm xúc), rầu rầu (cảm xúc).(4) Không phải chỉ từ kép mới hữu cảm. Những từ đơn như co, cúi, cuộn, cựa, day, gập, khom, khum, lách, lòn, luồn, nép, oằn, rướn, thót, uẩy, vẹo v.v., chúng cũng đều có chứa thứ cảm giác nhất định gì đấy chứ không phải "rỗng" như nồi, niêu, nón! Tiếng Việt không giàu từ cụ tượng vô cảm, nhưng hết sức phong phú từ cụ tượng hữu cảm. Tại sao? Từ cụ tượng vô cảm chẳng qua là tiếng đặt ra để gọi tên vật. Phải đi nhiều, thấy nhiều vật nọ vật kia, phải chế tạo ra nhiều vật nọ vật kia, thì mới giàu tên gọi. Người Việt chúng ta đi được bao nhiêu, chế được bao nhiêu, mà đòi tiếng mình giàu tên gọi bằng, chẳng hạn, tiếng Anh! Mặt khác, tuy thế giới Việt không phong phú vật bằng thế giới Tây, do người Việt có lối tiếp xúc với thực tại bằng tất cả giác quan và tất cả tâm hồn, vật nào trong cái thế giới tương đối nghèo nàn của ta cũng có vô số phong cách.(5) Mỗi phong cách làm nảy sinh một từ cụ tượng hữu cảm, nhờ đó về loại từ này tiếng Việt không chỉ giàu hơn hẳn tiếng Anh mà rất có thể giàu hơn hẳn bất cứ thứ tiếng nói nào trên thế giới! Cảm lắm, cô đơn nhiều Tiếng Việt hết sức giàu từ cụ tượng hữu cảm và từ trừu tượng cảm xúc. Thế thì hẳn các thứ tiếng khác đua nhau mượn những từ ấy về để làm giàu cho mình? Không đâu. Chẳng có tiếng nào bổ sấp bổ ngửa chạy đi vay từ của tiếng Việt cả, bất kể loại từ gì. Thời xưa, người Tàu đô hộ nước ta hơn nghìn năm, bắt dân ta lên rừng săn tê giác xuống biển mò trai ngọc. Hằng hà sa số sản vật quý của phương nam đã "xuôi" về phương bắc, nhưng rốt cuộc khi "ông đội" bị "gió Ngô Quyền đưa về Tàu"(6) vẫn chưa có được bao nhiêu chữ Việt chảy vào kho từ vựng của tiếng Tàu. Thời gần đây, người Pháp chiếm nước ta gần trăm năm, cũng bắt dân ta khai thác đủ thứ tài nguyên để họ chở về "mẫu quốc". Khi quân Pháp bại trận phải a-đi-ơ (7) "tử quốc", chữ Việt cũng chưa đi vào tiếng Pháp. Thời rất gần đây, người Mỹ đổ bộ hàng nửa triệu lính lên một nửa nước ta hàng non chục năm trời. Khi họ "giã từ vũ khí"(8), chữ Việt coi như vẫn còn hoàn toàn đứng ngoài tiếng Anh. Nhờ chiến tranh Việt Nam, một thời ở nơi cửa miệng một số người Mỹ có thấy những "congai", "chagio", "aodai" v.v. Nhưng ngay những từ ấy rồi hình như cũng không hề đi được vào bất cứ từ điển nào của tiếng Anh. Tại sao tiếng Tàu, tiếng Pháp, tiếng Anh không chịu vay từ của tiếng Việt? Trước hết, đó là do cái luật của tự nhiên là bên giàu mạnh không bao giờ tích cực đi vay văn hóa của bên nghèo yếu. Vay, là khi thấy cần. Họ hơn ta về vật chất thì họ đâu cần phải học tiếng ta làm gì, vì khi đôi bên giao thiệp ta sẽ phải nói thứ tiếng nói của họ. Vay, cũng là khi thấy quý. Tàu, Pháp, Mỹ không thấy tiếng Việt là quý, bởi cái hơn về vật chất làm họ thấy họ cũng hơn ta luôn về tinh thần! Chỉ nội như trên cũng đã đủ để ngừa tình trạng tiếng Việt "bị" tiếng Tàu tiếng Tây tích cực vay mượn. Nhưng còn nữa. "Mai sau, dù có bao giờ"(9) nước Việt Nam trở nên giàu mạnh, e cái tinh túy của tiếng Việt cũng vẫn không "xuất khẩu" đi đâu được! Nguyên cớ ở đây là đặc tính hữu cảm độc đáo của cái tiếng ta nói. Cảm, bất kể do ngũ quan hay do tâm hồn, không thể giải thích. Ví dụ: "Lạnh" là từ cụ tượng vô cảm, tức từ đặt ra để gọi tên cảm giác lạnh. Nó tương đương với "cold" trong tiếng Anh. Nếu ngày nào đó người Mỹ thấy quý tiếng Việt, họ có thể nói "I am lanh"! (theo cái lối nhiều người Việt bây giờ nói "chuyện ấy sua"). Lạnh chỉ là cái tên gọi có nghĩa do qui ước, cho nên có thể mượn tuyệt đối dễ dàng. Trong khi, chẳng hạn, "gây gấy" là một âm thanh có gói ghém trong nó một cảm giác nhất định về tác dụng của nhiệt độ bên ngoài đối với cơ thể. Nó là từ cụ tượng hữu cảm: nó có chứa cảm và nếu người nghe nó là người Việt thì nó có gợi cảm. Nhưng nếu người nghe nó là người nước ngoài thì gây gấy không gợi gì hết và dù ta có hết sức dài dòng cắt nghĩa thì người nước ngoài cũng không thể nào thực hiểu được gây gấy! Ví dụ: "Nao nao" trong "nao nao dòng nước uốn quanh" là từ cụ tượng hữu cảm chứa cảm xúc của Kiều khi nhìn dòng nước chảy gần mả Đạm Tiên. Cảm xúc ấy thế nào, làm sao cắt nghĩa được cho Tây! Ví dụ: Kiều ở lầu xanh tiếp Thúc Sinh, lòng Kiều "đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh". Buồn tênh là từ trừu tượng cảm xúc chứa tâm trạng Kiều khi nghĩ đến hoàn cảnh "hoa đã lìa cành" của mình. Buồn là sad, nhưng buồn tênh thì dịch ra tiếng Anh thế nào đây hở Trời?! Nghe từ cụ tượng hữu cảm và từ trừu tượng cảm xúc, Tây với Tàu dù có quý tiếng Việt đến đâu cũng đành... ngẩn tò te. Thì còn vay mượn làm sao! Khắp mặt đất bao la không một giống người khác nào tri kỷ, cô đơn lắm có phải không, hỡi những nhấp nhô, róc rách, ngạt ngào, gây gấy, chua lè, nao nao, nho nhỏ, đìu hiu, man mác, se sắt, bẽ bàng, chống chếnh, xao xuyến, xốn xang, ngỡ ngàng, ngẩn ngơ, buồn tênh, bịn rịn v.v. của ta ơi! Tiếng cảm không có tương lai Như nói trên, thì tiếng Việt - ít nhất là cái phần độc đáo của tiếng Việt - sẽ mãi mãi cô đơn chứ gì? E không phải thế. E không được thế! Mãi mãi cô đơn tức mãi mãi còn, tức còn khá! Đằng này, căn cứ vào diễn biến văn hóa, e đến lúc nào đó thì những từ cụ tượng hữu cảm và từ trừu tượng cảm xúc sẽ vắng hẳn trên môi người Việt. Chúng sẽ đi xuống mồ, đi vào nghĩa trang Tử Ngữ. Thật không, vì đâu nông nỗi? Thật chứ. Vì trời sinh con người ta có hai cái tính không bỏ được là muốn sống và muốn giàu. Không biết vì sao, trước khi đôi bên gặp nhau, văn hóa Việt Nam và văn hóa Tây phương đã phát triển theo hai hướng trái ngược.(10) Văn hóa ở ta phát triển theo hướng gần như thuần cảm. Đối với tự nhiên, tổ tiên ta tập trung cảm thụ chứ không thắc mắc, nghĩ ngợi, tìm cách chinh phục. Hướng phát triển này dĩ nhiên không đưa đến thành công vật chất lớn lao. Trong khi ở Tây phương văn hóa lại phát triển theo hướng gần như thuần nghĩ. Nghĩ ngợi suốt bao nhiêu thế hệ, rốt cuộc người Tây phương phát minh ra một cách nghĩ đặc biệt thích hợp cho việc chinh phục tự nhiên, là khoa học. Nhờ khoa học, các nước Tây phương trở nên mạnh nhất hoàn cầu và có phương tiện để xâm lăng cả những nước ở rất xa họ. Bây giờ, để "sống" - tức để tiếp tục tồn tại độc lập -, dân tộc Việt Nam không có chọn lựa nào khác ngoài cách trở nên mạnh như Tây. Ta phải theo khoa học. Tiếp xúc với Tây còn làm ta bỏ cảm theo nghĩ vì một lý do khác. Đó là chênh lệch giàu nghèo. Khoa học không chỉ giúp người Tây phương cách mạng vũ khí mà còn giúp họ chế ra được những sản phẩm dân dụng hết sức tinh xảo, nhờ đó trở nên giàu có phi thường. Vì muốn giàu như họ, người Việt chọn theo khoa học. Xưa thiên nặng về cảm, nên ta mới nói thứ tiếng cảm. Còn nay ta đã bắt đầu cố nghĩ nhiều như Tây, chẳng bao lâu nữa sẽ nghĩ nhiều y như Tây, thì rồi tiếng Việt sẽ phải hóa thành một thứ tiếng nghĩ như các thứ tiếng Tây, chứ làm sao khỏi được?! Đây cái quá trình mất tiếng Chỉ lấy luật tự nhiên mà xét, đã biết bản sắc từ vựng tiếng Việt rồi sẽ mất. Biết thế, rồi lại muốn biết thêm cụ thể nó mất thế nào. Thì đây. Sở dĩ ta có vô số những từ như nhấp nhô, tí tách, ngạt ngào, ram ráp, chua lè, nao nao, đìu hiu, man mác, băn khoăn, chống chếnh, đau đáu, thấp thỏm, xốn xang, xao xuyến v.v. là do ta đã có vô lượng thời gian để cảm và cảm. Ta đã có đủ thời gian để tận cảm cả cái bên ngoài mình lẫn cái bên trong mình. Từ khi ta bắt đầu chạy đua vật chất với Tây, thời gian cứ càng ngày càng hiếm. Ta phải bỏ thì giờ nghiên cứu đủ thứ hiện tượng, bỏ thì giờ lên và thực hiện đủ thứ kế hoạch, bỏ thì giờ giải quyết đủ thứ vấn đề phát sinh do kế hoạch của ta. Và hễ tạm thôi làm việc thì ta lại, cũng hết sức bận rộn, lo giải trí! Còn thì giờ đâu nữa để ngồi vận dụng giác quan, tâm hồn, mà cảm cho sâu bên ngoài bên trong! Chưa hết. Con người Việt Nam hiện đại quá lu bù hoặc làm việc hoặc giải trí: đó chỉ mới là một trở ngại cho cái cảm tinh tế. Còn một trở ngại nữa, cũng rắc rối không kém chút nào. Ấy là, do hoạt động tích cực của người Việt, môi trường Việt đang thay đổi rất nhanh chóng. Ngược hẳn với tình hình trì trệ xưa kia. Nếu tất cả mọi vật chung quanh ta cứ biến hóa vù vù, thì làm sao ta kịp thấy rõ hoặc nẩy sinh cảm xúc rõ về chúng được?! Một phần vì môi trường Việt trước Tây hầu như bất biến mà tổ tiên ta cảm được nó đến nơi đến chốn. Một phần vì môi trường Việt sau Tây đổi thoăn thoắt mà ta đang trở nên gần như vô cảm! Rồi dĩ nhiên môi trường không bền thì cảm xúc con người cũng không bền. Cảm xúc có đó không đó thì làm sao trở nên tinh tế được. Một phần nhờ sống trong môi trường bền mà tổ tiên ta mới bật ra được những từ như bẽ bàng, bỡ ngỡ, canh cánh, đau đáu, hụt hẩng, hững hờ, ngại ngùng, ngẩn ngơ, ngỡ ngàng, rạo rực, se sắt, thẫn thờ, xao xuyến v.v. Hai cái trở ngại to đùng. Trách nào xem lại, hình như hầu hết những từ cụ tượng hữu cảm và từ trừu tượng cảm xúc đều đã có mặt trong tiếng Việt từ đời... tám hoánh, chứ không phải mới được đặt ra gần đây. Nhất là nhóm trừu tượng cảm xúc, hình như lâu lắm rồi tiếng Việt không thêm từ mới. Tuy coi như đã ngưng sáng tạo những từ ấy, nhưng có lẽ trong một thời gian khá dài, đa số người Việt sẽ vẫn tiếp tục dùng chúng trong lời nói và lời viết. Dùng cách hững hờ, mỗi ngày mỗi thêm hững hờ, chứ không với sự rung động sâu xa của tổ tiên xưa kia... Cứ thế đến, chẳng hạn, đầu thế kỷ 22. "Có người (...) xa nghe (...) nức tiếng (...) tìm chơi"(11), mới hay những đìu hiu, lãng đãng, chống chếnh, khắc khoải, phơi phới, xốn xang v.v. đã rơi khỏi cửa miệng người Việt tự bao giờ! "Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ" Một mai tiếng Việt thôi "cảm", thì có sao đâu? Nó sẽ rụng mất hết những gập ghềnh, phất phơ, đìu hiu, man mác, lâng lâng, xao xuyến v.v. Bù lại, nó sẽ mọc thêm vô số từ gọi tên vật nọ vật kia, khái niệm nọ khái niệm kia. Cứ tình hình khoa học kỹ thuật phát triển nhanh hơn chớp, nó sẽ được bù dư, chứ có chịu lỗ lã gì đâu mà rên rẩm? Bù làm sao được mà đòi bù! Khi người Việt còn nói thứ tiếng cảm độc đáo của mình, họ là những con người cảm thụ thực tại đến nơi đến chốn. Họ không trông được tận mắt bao nhiêu thứ, nhưng trông những thứ quanh mình họ thấy được thật nhiều và cảm thấy được thật nhiều. Họ nghèo, nhưng đời sống tinh thần của họ lại thật giàu. Trong lịch sử lâu dài, người Việt Nam điển hình là một nông phu suốt đời quanh quẩn bên lũy tre. Rất dễ tưởng cứ sống mãi trong "ngục" (tuy là "ngục xanh") như thế tâm hồn con người ta sẽ cùn mòn đi, khiến lời ăn tiếng nói dần trở nên lạnh lùng, vô cảm. Bé cái nhầm! Người nông phu Việt Nam có tâm hồn cực kỳ tinh nhậy, bằng chứng là họ nói thứ tiếng nói gợi cảm nhất thế giới! Hóa ra, cái thời gian bỏ ra để nhìn mãi những cảnh vật quen thuộc không phải thời gian bỏ phí, mà chính là vốn đầu tư cần thiết để gặt hái những độ nhìn sâu sắc. Và như đã trình bày, có sống ở trong một môi trường bền thì cảm xúc của con người ta nó mới bền, mới có cơ hội để trở nên đúng mực tinh tế. Không lâu lắm nữa, người Việt Nam điển hình sẽ là một thị dân hoàn toàn hiện đại. Người ấy sẽ "đầu tắt mặt tối" hoặc làm việc hoặc giải trí, chứ không như người nông phu lạc hậu trước kia có vô số lúc không làm cũng không chơi. Tâm hồn con người ta phát triển chính trong những lúc "rảnh", không làm không chơi! Do đó, do bận rộn liên tục, tâm hồn của thị dân sẽ dần teo tóp. Đã thế, môi trường đô thị lại thay đổi vùn vụt. Vận dụng một cái tâm hồn yếu ớt để cảm một cái thực tại biến hóa mạnh mẽ, mà có kết quả đáng nói được sao! Trông ra ngoại cảnh không cảm được mấy; trông vào bên trong mình, kẻ thị dân cũng không cảm được mấy. Chính y, chứ không phải người nông phu tổ tiên y, mới nói thứ tiếng nói lạnh lùng, vô cảm. Tiếng Việt tương lai sẽ hết sức dễ dịch ra tiếng Tây, vì nó chính sẽ là một bản dịch của tiếng Tây!(12) Trở lại chuyện đền bù. Thực ra, đến khi tiếng Việt bắt đầu trở thành một thứ tiếng nghĩ như các thứ tiếng Tây thì dĩ nhiên người Việt đã teo tóp tâm hồn. Không còn bao nhiêu tâm hồn thì đâu có biết trân trọng những gập ghềnh, phất phơ, đìu hiu, man mác, lâng lâng, xao xuyến v.v. nữa mà đòi bắt đền! Người nằng nặc đòi đền của chính là người chưa mất của, như kẻ viết bài này. Vẫn ôm lâng lâng, xao xuyến chặt trong tay mà tưởng tượng ngày mất lâng lâng, xao xuyến. Miên man tưởng tượng, rồi nhớ khôn nguôi! 6 - 2010 (Khai triển từ ý trình bày trong sách Tìm tòi và suy nghĩ (2005)) _____________________ (1) Cũng như tất cả các thứ tiếng nói khác, tiếng Việt gồm những từ có nội dung và những từ không có nội dung. Từ có nội dung là từ chỉ một cái gì đó. Từ không có nội dung là từ giúp ta đặt câu, chẳng hạn, và, với, vậy, thì, là, rằng, mặc dầu, cho nên. Ở đây chỉ nói về những từ có nội dung. (2) "Quốc học với quốc văn", tạp chí Nam Phong, số 164, tháng 7 năm 1931, in lại trong Luận về quốc học, nxb. Đà Nẵng, VN, 1999, tr. 527. (3) Dĩ nhiên trong số những từ vô cảm đối với ta bây giờ, có thể có một số vốn xưa kia là hữu cảm. Tổ tiên ta có thể đã cảm giác thế nào đó khi gọi chim là "chim", cá là "cá". (4) Truyện Kiều, chỗ Kiều qua mả Đạm Tiên: "Nao nao dòng nước uốn quanh / Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc sang / Sè sè nấm đất bên đàng / Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh". (5) Xem bài Có Màu Và Màu và bài Nhìn Sao Nói Vậy của TT. (6) Ca dao: "Gió đưa ông đội về Tàu / Bà đội ở lại xuống bàu bắt cua...". (7) Tức adieu, nghĩa là vĩnh biệt. (8) Tên một tác phẩm của nhà văn Mỹ Ernest Hemingway. (9) Truyện Kiều, chỗ Thúy Kiều tâm sự với Thúy Vân về tình yêu giữa mình và Kim Trọng. (10) Ở đây chúng tôi cũng có chút ý kiến, nhưng xin được trình bày vào dịp khác. (11) Truyện Kiều, chỗ kể đời Ðạm Tiên: "Có người khách ở viễn phương / Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi / Thuyền tình vừa ghé tới nơi / Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ". (12) Rất có thể không lâu nữa Tàu sẽ trở nên giàu mạnh hơn Tây. Nhưng tuy các dân tộc Tây phương rồi có thể tụt hậu về vật chất, cái tinh thần duy lý của văn hóa Tây phương vẫn đại thắng. Tàu đang hóa Tây, cho nên ở đây chỉ nói Tây mà không nói Tàu.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 4:18:28 GMT 9
Tiếng Việt thời thượngTrịnh Thanh Thủy Nói đến tiếng Việt thời thượng, chúng ta có thể hình dung hay nhớ đến nhiều cụm từ lạ tai bao gồm cả những tiếng lóng hay ngôn ngữ mạng được ưa thích và sử dụng rộng rãi trong những tầng lớp xã hội khác nhau. Tỷ như khi vào ăn trong một quán mì gõ chúng ta nghe tiếng gọi: - Cho 2 cái hầm, 2 bộ hài cốt nghen... - Thêm "2 xị vô sinh" nữa... - Chài, trời nóng mà mần vô sinh chi? cho 2 cái "bật nắp là thấy" đi... Hoặc ngôn ngữ trên một lá thư của 2 học trò teen đang chuyền tay nhau trong giờ học. "H. à, nhớ su súp ghia mà nghè mơi có ktra, hem đi đc, star life mình "khổ hơn cún" á. Ừ, bi h cóa ai bỉu mình not learn hén, chắc mình sướng die granma lun hén mày. Eh, hn mày nhận đc tn của B. k? Hwa nó vừa bị broke ktra đó. Thấy tía rồi, thôi stop 8, tao xách đik dzìa nhà học thoai, chớ hông là bài nì "dzục cho cún ăn" đóa, tao chưa có chữ nào trong não hết, b h cóa nhét iốt dzô não cũng cóc dzô". Nhắc đến những tiếng lóng lạ lùng như trên là nhắc đến một thế giới ngôn ngữ đầy bí ẩn cần phải có giải mã nên tôi định chỉ thu hẹp bài viết này trong phạm vi những tiếng Việt thời thượng có xuất xứ hay liên quan tới những ngôn ngữ khác như Pháp hay Anh chẳng hạn. Như chúng ta đã thấy, Anh ngữ ngày nay được xem như một sinh ngữ quốc tế được nhiều người sử dụng và giảng dạy như một ngôn ngữ thứ hai trong nhiều quốc gia trên thế giới. Việc sử dụng Anh ngữ như một ngôn ngữ chung cho toàn cầu ngày càng tăng trưởng và đã trở thành một tiện ích. Nó mang lại sự cảm thông trong sinh hoạt toàn cầu không những trong các lãnh vực thông tin, truyền thông, liên mạng mà cả ở những lãnh vực giáo dục, kinh tế, thương mại, nghiên cứu, âm nhạc, du lịch, cũng như các hoạt động tôn giáo, chính trị hay văn hóa khác. Trong nền kinh tế thị trường, Việt Nam là một nước mới phát triển. Các nước tiên tiến mang tài chánh và nhân lực vào Việt Nam để đầu tư nên nhu cầu học và hiểu tiếng Anh như một nhịp cầu thông cảm cần thiết hơn bao giờ. Thêm nữa, vì phải mở cửa ngành du lịch, Việt Nam cần phải nói và viết Anh Ngữ thông thạo, ngỏ hầu phục vụ tinh thần giao tiếp cho thật hữu hiệu. Để chạy cho kịp bánh xe tiến hoá toàn cầu, Việt Nam đã du nhập tiếng Anh vào nước như một nhu cầu thiết yếu. Sự ưa chuộng và sử dụng tiếng Anh cho nhuần nhuyễn của người Việt như một hấp lực mạnh mẽ đưa đến một việc lạm dụng không thể tránh. Hậu quả là nhiều thứ tiếng Anh-Việt thời thượng lai tạp ra đời. Người Việt trong thói quen ứng xử rất thích dùng phương pháp tiện và lợi. Tiếng Việt là tiếng đơn âm tiết không như tiếng Anh là tiếng đa âm tiết nên muốn tạo từ mới phương pháp ghép chữ là một phương pháp khả thi. Do đó chúng ta hay ghép tắt các từ vào với nhau, như "điều nghiên" là từ ghép của "điều tra và nghiên cứu". Để tân tiến hơn, tiếng Anh được mang vào ngôn ngữ hàng ngày và bỗng nhiên những từ lắp ghép Anh Việt trở thành thông dụng . Nhất là giới trẻ, việc học và dùng tiếng Anh đã biến thành phong trào. Khắp nước đi tới đâu ta cũng thấy thứ tiếng Việt pha tạp mà Việt kiều hay dùng, gọi là tiếng ba rọi. Trong công sở, ngoài xã hội, trên truyền hình, các trang mạng, face book hay blog, đâu đâu cũng có. Những từ như: show hàng, áo chip hai màu xì-tin, quần xì cực cute, quần sock ngắn, chip ukie, điện thoại Bikini, hot teen múa cột, hot boy nói gì, tiệm bánh snack, slogan thể hiện, đang hot, top tuần..v..v.. đầy rẫy trên báo chí và các trang mạng. Sự phát triển tiếng Anh quá nhanh mang đến việc nhiều người sử dụng ngoại ngữ một cách cẩu thả mà không nghiên cứu cũng như học hỏi đến nơi đến chốn. Nhưng thái độ dễ dãi và xuề xoà đi tới chấp nhận của người Việt trước những sai lầm đôi khi biến những thứ tiếng Việt thời thượng kỳ dị ấy dùng lâu thành tiếng Việt thực thụ. Tỷ như chữ Mô-đen mà chúng ta dùng đã lâu nhưng dùng sai ngữ pháp nguyên thủy mà không biết. Chữ Mô-đen nguyên thủy từ chữ Modèle phát âm trại đi theo tiếng Pháp là Mô-đen. Modèle có nghĩa là: mẫu mã, mẫu mực, gương mẫu hay mô hình, vật mẫu. Trong tiếng Anh, người ta dùng chữ Model cho nghĩa này. Nhưng khi nói tới nghĩa mới và thời trang thì người Pháp dùng chữ Mode, tiếng Anh là Fashion, trong khi tiếng Việt ta lại dùng chữ Mô-đen cho hai nghĩa này. Những chữ Modèle, Moderne và chữ Mode có âm giọng giông giống nhau. Người Việt chúng ta chắc khó phân biệt, dùng lâu thành nếp nên phân biệt chi cho mệt, tiện thì dùng luôn, thế là mô-đen được sử dụng với nghĩa thời thượng hay hiện đại trong khi tiếng Pháp phải dùng chữ Moderne hay Modern trong tiếng Anh. Rốt cuộc, Mô-đen bị Việt hoá với đủ các nghĩa như mẫu mã, mẫu mực, gương mẫu, mô hình, vật mẫu, mới, thời trang, thời thượng hay hiện đại. Ngạc nhiên hơn, một từ mới sau này phát sinh từ chữ Mô-đen và có một nghĩa khác biệt chẳng dính dấp gì tới cái nghĩa xưa cũ từ lúc nó sơ sinh là từ "Kết Mô-đen" lạ hoắc. Đây là những ví dụ điển hình trong sự lạm dụng từ Mô-đen: Nó có nghĩa rất mới, rất tân tiến, đúng thời trang, thời thượng như: "Cực kỳ mô-đen". Hoặc ngược lại "Lạc quẻ với mô-đen bùng nhùng". Từ này còn ám chỉ một mẫu hàng "Mô-đen 3100". Nó còn là tiếng gọi một người mẫu, "Thin nít sờ Mô đen (teenist model)". Hay là "mô đen sống mình ên", không gì "vắt vai" đang là môđen của nhiều người trẻ thành đạt, Môđen bây giờ là đi "tàu nhanh", mô đen Hàn Quốc, mô đen wằn wại. Ghế ngồi chờ xe buýt quá "mô-đen", Các bạn ơi con gái thời nay mô đen lắm đó, thời trang ý ẹ: Mô-đen dây và rây, Tóc "mô đen" - Nhìn và thấy Mô đen bây giờ là tóc càng dựng càng đẹp. Và nó còn được dùng cả trong lãnh vực tình cảm như "Tin tức, Trần Kiều Ân kết mô-đen Lam Chính Long". Người Việt đã tỏ ra ứng xử ngôn ngữ rất nhanh nhạy trước giai đoạn đổi mới khi đối đầu với lượng ngoại ngữ quá lớn từ bên ngoài ồ ạt đổ vào. Chưa bao giờ tiếng Việt phát triển cực độ như bây giờ. Kho tàng từ vựng của ngôn ngữ Việt Nam ngày một dồi dào thêm và du nhập về những "tiếng lạ" do nhu cầu giao tiếp cùng người ngoại quốc. Hàng ngày chúng ta thấy nhan nhản việc dịch sai, nói sai, dùng sai ngữ pháp khiến sự việc trở thành một trò cười được lưu hành khắp nơi trên mạng thông tin. Chính thói quen thích sử dụng tùy tiện, lại thích tỏ ra chúng ta có óc sáng tạo nên nhiều từ vựng được sinh ra nghe rất ngô nghê và không đúng ngữ pháp nguyên thủy của những từ được vay mượn. Có lần tôi đọc được thực đơn những thức giải khát của một nhà hàng ở Hà Nội. Họ bán một thứ nước uống gọi là Milk Sex. Tôi ngạc nhiên, ngồi ngẫm nghĩ mãi mới đoán ra là có lẽ họ bán thứ nước uống giống sinh tố bên Mỹ gọi là Milk Shake làm bằng sữa. Vì khi người Mỹ phát âm Shake, họ nghe không rõ nên tưởng lầm là Sex, rồi tỏ ra sáng tạo hơn sao không gọi là Milk Sex. Thế là thứ nước uống rất Việt Nam gọi là Milk Sex ra đời!!! Học tiếng nước người không những chúng ta học từ vựng, ngữ pháp, cách đặt câu, cách viết bài mà chúng ta còn học cả văn hoá của ngôn ngữ đó nữa. Trong việc chuyển ngữ, dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt đã khó, dịch từ tiếng Việt sang Anh còn khó hơn. Nó đòi hỏi người thông dịch phải thật giỏi cả hai ngôn ngữ mà còn cần có kinh nghiệm sống dồi dào trên đất nước của hai ngôn ngữ được sử dụng để hiểu cách dùng cho nhuần nhuyễn. Do đó vì kém ngoại ngữ mà trong một thực đơn của nhà hàng ở Vịnh Hạ Long món Mực nướng được dịch ra tiếng Anh là ink baked thay vì baked squid mới đúng. Tuy con squid có ink (mực) nhưng con squid (con mực) không được gọi là con ink. Và chữ động từ nướng bake phải có thêm ed để thay đổi thành tiếng tính từ và đứng trước danh từ squid để thành baked squid. Một nơi khác không ngần ngại dịch phăng món Ốc thành Screw!!! tức là cái đinh ốc thay vì dùng chữ Snail. Và nước đá là Water stone, hi light viết thành Hair light, Fast food viết thành fat food hay fast foot, welcome viết thành wellcome, cua dịch sai thành crap thay vì crab. Sai một ly đi một dặm chữ crap trong tiếng lóng có nghĩa là "cứt ". Việc dịch sai một vài thực đơn trong nhà hàng có thể đem lại vài trận cười tiếu lâm cho người đọc. Nhưng nó biến thành hỏng trầm trọng khi một nhóm chuyển ngữ gồm các bác sĩ, sinh viên, nghệ sĩ có tên là BSP Entertainment (TPHCM) tung ra một CD gồm 10 bài hát với tên gọi "Tình ca 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội". nhân đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Tặng phẩm này dành cho chương trình "Những tấm lòng với Thăng Long - Hà Nội" là công trình dịch thuật những bài hát viết về Hà Nội nổi tiếng được dịch ra tiếng Anh. Dịch ca từ không phải là việc dễ, dịch từ tiếng Việt sang Anh còn khó hơn. Nó đòi hỏi một kiến thức Việt và ngoại ngữ lưu loát mà còn phải biết rành âm nhạc cũng như am hiểu đặc tính thơ ca trong ca từ. Không biết vì kém tiếng Anh, thời gian thực hiện lại gấp gáp hay sao mà nhóm BSP đã tung ra một sản phẩm dịch thuật thiếu chuyên nghiệp, kém chất lượng, tồi tệ đến nỗi một bài viết trên báo Lao Động phải kêu lên "ca từ trong CD này đã bị chuyển ngữ một cách vô cùng cẩu thả, thô thiển" (xin xem các link về những bài báo này dưới mục Tài liệu tham khảo). Bài báo còn dẫn ra những câu dịch sai: "Hanoi's this season... absent the rains. The first cold of winter make your towel's gently in the wind. Flower stop falling, you inside me after class on Co Ngu street in our step slowly return..." - đây chính là phần chuyển ngữ của ca khúc "Hà Nội mùa vắng những cơn mưa" (Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa/ Cái rét đầu đông khăn em bay hiu hiu gió lạnh/ Hoa sữa thôi rơi, em bên tôi một chiều tan lớp/ Đường Cổ Ngư xưa chầm chậm bước ta về). Xin trích ý kiến của một số bạn đọc trên mạng sau khi đọc bài báo: Bạn đọc lang doan viết: "Sau khi đọc được lời dịch qua tiếng Anh (Mỹ), tôi phải bật cười vì cách dịch cứ như người mới học sinh ngữ được 2-3 lớp sơ đẳng, hoặc chưa hề tập viết văn chương bằng tiếng Anh. Từ cú pháp, ẩn dụ thật tối nghĩa cho tới văn phạm đều sai. Cho nên, nếu dịch cẩu thả là không thể chấp nhận, vì như vậy là coi thường thính giả trong và ngoài nước, đồng thời thiếu tôn trọng văn hoá Việt. Không những thế, người ta sẽ đánh giá trình độ văn hoá của cả nước khi những tác phẩm này được quảng bá đại diện cho văn hoá VN. Lấy thí dụ nhỏ, cái "khăn" để đội đầu hay cuốn quanh cổ mà dịch thành "Towel" (khăn tắm, khăn rửa mặt, khăn lau xe) thì hết ý kiến!". Trớ trêu hơn, bạn Nhựt Hồng phát hiện: "You inside me after class" theo nghĩa Mỹ có nghĩa là... "anh và em quan hệ tình dục sau lớp học" chứ chẳng phải "em bên tôi một chiều tan lớp". Không chỉ dừng ở việc "tàn sát" các ca từ trong ca khúc "Hà Nội mùa vắng những cơn mưa", kiểu dịch "từ đối từ" sai về cú pháp, ngữ pháp tiếp tục được lặp đi lặp lại trong các ca khúc nổi tiếng về Hà Nội khác như: "Có phải em mùa thu Hà Nội?" (Are you the autumn in Hanoi?): "August autumn, did leaf fall come yellow. Since you've been gone, I miss you silent" - (phải hiểu là: Tháng tám mùa thu, lá rơi vàng chưa nhỉ. Từ độ người đi, thương nhớ âm thầm) hay "One day return, I visit sad Thanglong" (cần hiểu là: Một ngày về xuôi, chân ghé Thăng Long buồn). Còn trong bài "Hà Nội niềm tin và hy vọng" có đoạn "Đường lộng gió thênh thang năm cửa ô, nghe tiếng cười không quên niềm thương đau" được chuyển ngữ thành "The windy road immense the doorway, hear the laugh but don't forget the pain". Bây giờ nếu đem phân tích những lỗi lầm dịch thuật đã phạm trong những ca khúc này, chúng ta cần phải học bao nhiêu bài học, viết bao nhiêu bài phân tích về Anh ngữ cho đủ. Nên tôi xin miễn bàn thêm. Chỉ có điều đáng tiếc và đáng buồn không phải ở chỗ khả năng người dịch kém, ca sĩ phát âm không đúng mà ở chỗ sản phẩm kém vẫn được quảng cáo và truyền thông đến người tiêu dùng. Bài quảng cáo "Chắp cánh cho ca khúc Việt bay xa" được đăng trên trang web chính thống của Bộ VHTTDL, trang web của Uỷ ban Người VN ở nước ngoài TPHCM, và những trang thông tin kết nối với bạn bè quốc tế, người Việt xa xứ. Điều này cho thấy cơ quan chức năng cũng tệ không thua gì sản phẩm!!! Việc toàn cầu hoá ngôn ngữ trong việc dùng tiếng Anh đã mang lại nhiều tiện ích cho Việt Nam. Nó giải quyết được nhiều lúng túng trong việc thiếu từ vựng trong nhu cầu tạo từ mới trong các lãnh vực, kỹ thuật, tin học, kinh tế, y khoa, chính trị, khoa học cũng như văn hoá. Do đó sự ưa thích được gọi là sính dùng tiếng Anh đã lan nhanh như cơn sóng lớn có ảnh hưởng chiều ngang đến ngôn ngữ mẹ đẻ của người Việt và dần dà ăn sâu đến văn hoá theo chiều dọc của bản chất dân tộc Việt. Tuy nhiên cái gì cũng có hai mặt tích cực và tiêu cực. Việc sử dụng sai phạm, kém hiểu biết, thiếu chuyên nghiệp, cẩu thả sẽ biến thành trò cười cho người ngoài và những người thông hiểu tiếng Anh. Mà trên đà toàn cầu hoá, trên thế giới đã có khoảng trên dưới 500 triệu người đang sử dụng tiếng Anh như là một quốc ngữ, và khoảng phân nửa dân số thế giới dùng Anh ngữ như là một ngôn ngữ thứ hai. Còn một nguy cơ nữa chúng ta cần lưu ý là đừng để mất bản sắc dân tộc khi đắm chìm trong việc chạy theo lực cuốn hút của tiếng Anh. Đã đến lúc chúng ta phải nhìn lại và dừng lại sự say mê lạm dụng tiếng Anh trong đời sống hàng ngày. Đừng để một ngày nào đó nhìn lại một trang viết hay trong một câu nói của một học sinh chỉ còn lõm bõm hai ba chữ quốc ngữ, phần còn lại chỉ toàn là tiếng Anh. Lúc đó chúng ta sẽ đánh mất luôn cái hồn nước cuối cùng của dân tộc. Trịnh Thanh Thủy Tài Liệu tham khảo Thảm hoạ ca từ nhạc Việt www.laodong.com.vn/Tin-Tuc/Tham-hoa-ca-tu-nhac-Viet/15619Chắp cánh cho ca khúc Việt bay xa www.cinet.gov.vn/ArticleDetail.aspx?rnd=10&newsid=53050&rid=140&zoneid=73&page=7Ha Noi's this season absent the rain- video clip vqhn.wordpress.com/2010/10/02/ha-nois-this-season-absent-the-rain/Đặc sản tiếng Việt us.24h.com.vn/cuoi-24h/anh-vui-dac-san-tieng-viet-9-c70a272414.html
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 19, 2011 3:56:20 GMT 9
Trên dưới, ngắn dài ra sao? ___________ Nguyễn Dư Bạn bè của tôi ơi ! Các bạn có còn nhớ mấy kỉ niệm " chữ nghĩa " năm xưa không ? Ôi ! Cái thời lạy cô đi qua, lạy thầy đi lại. Có đứa độc miệng khấn thêm Đi mau mau cho bọn con nhờ. Quên làm sao được cái thời ấy nhỉ ? Năm chúng tôi... Thôi, không dám chơi trèo, thấy người sang bắt quàng làm họ, người ta chửi cho thì khốn. Mình làm, mình chịu, đừng vơ thêm, lôi thêm người khác vào. Vậy, xin khiêm tốn sửa lại rằng... Năm tôi học lớp ba trường tiểu học Quang Trung (Hà Nội, 1952), có một lần cả lớp viết sai chính tả từ giặt gỵa. Sai đủ kiểu. Nhiều đứa viết là giặt dịa. Có đứa viết giặt gịa. Hai ba đứa viết giặt giạ. Thầy bảo phải viết là giặt gỵa. Cả lớp chả hiểu tại sao lại viết như vậy. Ngày sau sẽ hiểu. Hôm nay thầy dạy như vậy thì cứ biết như vậy. Mãi sau này mới được thấy từ giặt gyạ (Laver ses habits, giặt quần áo) trong tự điển của Génibrel (1898). Thấy cả vua Gyalong (Gia Long) trong báo L'Illustration (1857). Lật Từ điển tiếng Việt (1988) của Hoàng Phê ra xem thì thấy viết là giặt gịa. Từ đơn gịa không có trong từ điển của Hoàng Phê. Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895) định nghĩa gịa là đồ đong lúa, tức là từ giạ của Hoàng Phê. Hôm ấy có đứa hỏi vặn thầy tại sao không viết là giặt dịa? Thầy bảo không được vì giặt gỵa là từ kép, dê dưới (g) phải đi với dê dưới. May cho thầy. Cả lớp không có đứa nào biết trường hợp dê dưới đi với dê trên (d) của giản dị để đưa ra " ăn thua " với thầy. Muốn cho gyạ giống gịa thì chỉ việc thay một chữ, đặt cái dấu vào đúng vị trí. Có vậy thôi mà cũng không biết ! Không biết thì cứ giặt giũ cũng được. Dù sao thì giặt gyạ (Génibrel) hay giặt gịa (Hoàng Phê) cũng là một trường hợp... hơi phức tạp. Còn nhiều trường hợp khác giản dị hơn nhiều nhưng cũng đủ để làm cho trẻ con... bực mình ! Năm tôi học lớp nhất trường tiểu học Thạnh Mỹ Tây (Thị Nghè, 1954) gặp mấy chuyện nửa cười nửa mếu. Người lớn gọi là chuyện... ngôn ngữ bất đồng. Này, này, coi chừng vạ miệng bây giờ! Tiếng Việt thuần nhất. Không có chuyện ngôn ngữ bất đồng giữa người Việt với người Việt. Những kẻ có ý xấu muốn kì thị, chia rẽ thì... Chết ! Chết ! Cái sảy nảy cái ung thì... bỏ mẹ cả đám. Xin sửa lại. Đây chỉ là chuyện... phát âm không giống nhau thôi. Nói như thế được chưa ạ? Được, chúng ta không nên chuyện gì cũng... bé xé ra to ! Xin phép được lau mồ hôi hột. Và xin bắt đầu lại câu chuyện. Năm tôi học lớp nhất trường tiểu học Thạnh Mỹ Tây (Thị Nghè), mỗi tuần phải viết một bài chánh tả. Viết xong, cả lớp đổi tập cho nhau. Cô giáo đọc lại, giảng nghĩa, chỉ cách viết các chữ khó. Cả lớp dò theo, sửa lỗi cho nhau. Bạn bè đứa nào cũng khoái bắt lỗi thằng ngồi bên cạnh. Đứa nào cũng chăm chú sửa cho bạn, không bỏ sót một cái dấu phết. Sửa bài như vậy vừa nhanh, vừa kĩ, lại vừa đỡ mệt cho cô. Có lần tôi bị một lỗi vì... một cái lá. Phải nói ngay là không phải cái lá nho úp úp mở mở hay cái lá đa lấp ló lem nhem, mà đây chỉ là cái lá chuối... " nỏn ". Cô giáo nhấn mạnh chữ " nỏn " dấu hỏi. Tôi giơ tay xin nói. Cô hất hàm cho phép. " Thưa cô, nõn dấu ngã chớ không phải dấu hỏi ". Cô giáo lắc đầu : " Dấu hỏi chớ không phải... dấu ngả ". " Dạ, nõn dấu ngã ". " Cãi bậy ". Cô đập thước kẻ xuống bàn : " Lên đây coi ". Tôi bất đắc dĩ phải lên chỗ cô đứng. Cô cầm thước chỉ vào trang sách. " Sách viết dấu hỏi nè, thấy chưa ? ". Tôi bắt đầu run. " Dạ thấy ". Trong bụng muốn nói thêm " Thấy cả mẹ em rồi, cô ơi ". Nói có sách, mách có chứng đàng hoàng, đâu phải chuyện giỡn. Cô có lí trăm phần trăm. Cãi nữa thì ăn đòn. Em chịu thua cô. Mấy năm sau mới được học câu Tận tín thư bất như vô thư (Đọc sách mà quá tin sách chẳng bằng không đọc sách). Thấm thía nhưng hơi muộn. Chỉ tiếc cho cái lá chuối " nỏn ", già héo mất rồi. Hôm ấy, tôi sốt ruột chờ giờ tan học. Thơ thẩn dạo một vòng sở thú, rồi mới về nhà. Dọc đường, khám phá ra một điều thú vị. Lang thang sở thú sướng hơn ngồi trong lớp học. Đến tối vẫn còn ấm ức. Tức hộc máu vì cái lá chuối " nỏn "... May mà chưa bị hộc máu thật. Thôi mà. Bỗng sực nhớ hình như có lần mẹ khuyên Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Còn đi học thì phải mặc áo gì đây, mẹ ? Mặc sơ mi trắng mau bẩn lắm. Chẳng lẽ ngồi yên chịu trận sao? Ngu vừa vừa thôi chớ ! Thua quỷ thua ma chứ ai lại thua cả cái " vớ vẩn " kia ? Đã vậy thì... Đi với chánh tả của cô thì mày phải mặc áo... bi- da-ma giáo. A ha ! Cái gì mới khó chứ ma giáo thì... dễ ợt cô à. Qua mặt cô cái vèo, khỏi cần bấm còi. Sách không phân biệt hỏi ngã thì mình phải làm cho hỏi ngã... giống nhau. Chu choa, xin lãnh hội những lời vàng ngọc của quới nhơn. Hỏi chỉ khác ngã cái đuôi vểnh cong. Dạ, đúng vậy. Vậy ta chỉ việc phe phẩy thêm một cái đuôi be bé xinh xinh vào dấu hỏi là xong. Hình dạng hỏi hay ngã sẽ giống nhau như... chị em con Ngọc sinh đôi ở cuối xóm. Xin bái lạy quới nhơn. Nhưng chưa xong ! Thông thường thì dấu hỏi phải viết thẳng đứng, dấu ngã viết nằm ngang. Đó là cách viết chân phương. Nôm na gọi là viết rõ ràng. Lối viết của những kẻ không theo tôn chỉ của ma giáo. Muốn theo ta thì từ nay phải viết... mập mờ. Không thẳng, không ngang, mà phải... lửng lơ con cá lóc. Chênh chếch như ánh trăng... một đêm trong rừng vắng ! (Ta lạc đề. Thèm sơn nữ quá). Viết nghiêng chênh chếch thế nào để kết quả chắc ăn một trăm phần trăm? Nhà địa lí gọi là nghiêng theo hướng tây bắc, đông nam. Nhà toán học gọi là nghiêng 45 độ âm. Nhà quê gọi là nghiêng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải. Đố cô giáo của con hay bất cứ ai phân biệt được hai cái dấu. Lá nõn hay lá nỏn ai muốn đọc thế nào cũng được. Xin đa tạ quới nhơn. Xin khất quới nhơn một li nước đá nhận. Ta thấy con bị nạn thì giúp, ta không nhận thù lao. Chết cha ! Chó chê chè ! Ngài không thèm ăn thật hay ngài chê chẳng bõ dính răng ? Quới nhơn hay là quái nhơn đây ? Cho đến hết năm học tôi không còn bị hai cái dấu hỏi, dấu ngã ám ảnh. Nhưng cái số con rệp vẫn còn bị sao quả tạ chiếu. Một hôm cô bắt viết bài tả một đám đánh nhau đến... mẻ đầu " sức " trán. Trúng tủ ! Biết rồi, khổ lắm, viết mãi. Mẻ sứt này thì cũng như Chớ cười những người đui què mẻ sứt của thời mặc quần... soọc. Tôi tự tin viết " sứt " trán. Một lỗi ! Lại gân cổ lên cãi. " Thưa cô, sứt mẻ là chữ t. Sức mạnh mới là chữ c ". Cô giáo liền giở bửu bối Nói có sách, mách có chứng để bịt họng đứa con nít. Một lần nữa tôi bị mắng là vừa bướng vừa không chịu nghe lời cô giáo trong lớp. Mấy thằng trời đánh thánh vật lại được một phen cười hô hố. Khoe đủ mấy cái răng... sứt ! Một lỗi là một lỗi, không tha thứ được. Tình thầy trò bắt đầu sứt mẻ. Sức mấy mà hàn gắn lại được. Lần này quới nhơn của tôi cũng khoanh tay chịu thua. Cô mày võ nghệ cao quá. Ta không địch lại được. Hoàn toàn bế tắc. Không có mẹo nào để làm cho c cũng như t được. Cũng may. Những ngày nửa cười nửa mếu rồi cũng qua mau. Đến kì thi tiểu học tôi tự nguyện " hoàn lương ". Ngậm ngùi từ giã ma giáo. Vì tin rằng người chấm bài sẽ không dựa vào mấy trang sách " mắc dịch " để hại đám tuổi trẻ mà tài cãi lí lại chưa cao. Tôi nhẹ nhõm trở về với dấu hỏi thẳng đứng, dấu ngã nằm ngang. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học thừa nhận rằng phát âm của người miền Bắc phân biệt hỏi ngã, chữ cuối là c hay t, có g hay không có g, nhưng lại mắc phải mấy khuyết tật khác. Người miền Bắc uốn lưỡi không khéo như người miền Nam. Không phân biệt s với x, ch với tr, d với r... Thầy nào dùng sách do dáo (giáo) học Ngô Đê Mân chích (trích) lục, cho học trò viết chính tả bài Xự (sự) tích hai chị em, bà Chưng Chắc (Trưng Trắc), bà Chưng Nhị (Trưng Nhị) (Edmond Nordemann, Quảng tập viêm văn (Chrestomathie Annamite, 1898), Hội Nhà Văn, 2006, tr 50-52) thì chắc chắn chẳng có trò nào thoát được con số không to tướng. Đặc điểm của tiếng Việt là có năm cái dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Muốn doạ người nước ngoài chỉ cần đưa ra mấy câu thần chú : ma, má, mà, mả, mã, mạ. Ba, bá, bà, bả, bã, bạ. Mỗi chữ một nghĩa khác nhau. Cao siêu hơn thì đưa ra hình ảnh : Dưới hiên hiển hiện người hiền Sắc, không, ngã, nghiệp, pháp huyền hỏi ai ? Năm cái dấu sắc sảo, nặng nề, huyền bí... Con trẻ học hỏi vất vả, dễ ngã lòng. Đôi khi người lớn cũng bối rối cười trừ. Một vài hội đoàn Việt kiều bên Pháp, bên Mĩ kêu gọi bà con đóng tiền cho... thủ quỷ. Cho quỷ giữ quỹ, vì thế mà nhiều người e ngại đóng góp. Bộ sử nổi tiếng của Trần Trọng Kim được in lại bên Mĩ với tựa đề mới Việt Nam sữ lược (Miền Nam). Dường như từ sữ chưa có trong các từ điển tiếng Việt. Trong nước xuất bản Quốc triều chỉnh biên toát yếu (Thuận Hoá, 1998). Kẻ nào to gan muốn chỉnh cả chính sử của nhà Nguyễn? Chưa hết. Đôi lúc còn phải chọn chữ i ngắn (i) hay i dài (y). Ngày xưa, Huình - Tịnh Paulus Của viết : Nguít (ngó có nửa con mắt, không muốn ngó). Huinh đệ. Huiên đường. Ngày nay mấy từ này được viết là nguýt, huynh, huyên. I được thay bằng y. Ngược lại, ym (mát mẻ, tư nhuận) được viết là im. Y nhường chỗ cho i. Mọi người vui vẻ chấp nhận mấy thay đổi này. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều trường hợp khó thay đổi. Người này khư khư giữ chữ i. Thưa quí vị, ngân quĩ cúng ma quỉ còn tiền, khỏi phải quịt bọn hàng mã... Người khác lại khăng khăng đòi chữ y. Dài mới đẹp. Bồng bềnh, uyển chuyển, thướt tha. (Lại lạc đề). Thế là khắp nơi nổi lên một loạt nào là ca sỹ, văn sỹ, bác sỹ, thạc sỹ, tiến sỹ, sỹ quan... Ngày xưa dân ta chỉ biết Nhất sĩ nhì nông. Ngày nay sỹ bỵ bán sỷ. Mặt mày bý xỵ. Cứ theo trường phái ba phải là chắc ăn nhất. Có nhà báo đưa tin : Thượng nghị sĩ McCain thăm viếng Việt Nam... Các quan chức của ta đánh giá cao cuộc thăm viếng của thượng nghị sỹ McCain. Trường kĩ thuật " chất lượng cao " kia tự hào đào tạo được nhiều kỹ sư xuất sắc. Bên cạnh chuyện i ngắn i dài, lại còn chuyện phải đánh dấu cho đúng chỗ. Cần gì đúng ! Miễn sao trông cho cân đối là được. Cứ đánh vào giữa là xong. (Đóa hoa, lõa lồ...). Dài ngắn, trước sau, loạn xà ngầu. Mặc kệ quy định và quyết định của bộ Giáo Dục. Bất chấp Từ điển chính tả tiếng Việt (Hoàng Phê, Giáo Dục, 1985), Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Khoa Học Xã Hội, 1988). Trong chuyến du lịch Tam Đảo tôi nghe lỏm được tại một khách sạn. - Em làm giấy tờ cho anh để về thanh toán với cơ quan. - Dạ vâng. Thế tên anh " nà " gì nào ? - Lê Đức Linh - Nê Đức Ninh. - Anh tên là Linh. Không phải Ninh. - Ninh... Ninh... Thế tên anh viết bằng " nờ " dài hay " nờ " ngắn ạ ? - Cái nhà cô này thật là ỡm ờ. " Nờ " của anh dài. Vừa ý chưa ? Cô gái cười giòn tan : - " Nờ " dài. Tí nữa thì em cắt cụt. - Tưởng là chỉ có dê trên (d), dê dưới (g), i dài (y), i ngắn (i), bây giờ lại có cả " nờ " dài (l), nờ ngắn (n). Còn em, tên là gì ? Có trên dưới, ngắn dài gì không ? - Dạ, em " nà " Xuân. - Tên hay nhỉ, nhưng phải sờ mạnh (s) hay sờ nhẹ (x) Xuân mới chịu ? Cô Xuân đỏ mặt, cười duyên : - Nhè nhẹ thôi anh. Nguyễn Dư (Lyon, 11/2009)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 19, 2011 4:00:52 GMT 9
Miền Nam và Ca Dao
Hòa Đa Kính Tặng Má, tặng Hồng, vợ tôi, người đã ru con bằng ca dao.Một trong những thiếu sót trong chương trình học ở Việt Nam từ trước đến nay là sự mất cân đối trong việc giới thiệu đến học sinh những dữ kiện về văn học theo sự phân bố về địa dư. Nói cho rõ hơn, chương trình văn ở bậc trung học nghiêng nặng về những tác giả tác phẩm ở ngoài Bắc và đã bỏ quên những sinh hoạt văn học trong Nam. Không thể chối cãi là ở trung học, chúng ta học quá nhiều về Tự Lực Văn Đoàn, về Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo... mà không hề nói gì về những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc...chẳng hạn; chúng ta học quá nhiều về Nam Phong, Đông Dương tạp chí, học Nguyễn văn Vĩnh, Phạm Quỳnh... mà không nhắc gì về Gia Định Báo, Phụ Nữ Tân Văn, Phan Khôi... Có thể nói, trong mọi lãnh vực về văn học ở chương trình trung học, miền Nam đã bị bỏ quên, khiến cho sau bao nhiêu năm, sự lãnh hội về kiến thức trong chúng ta về văn học đã bị thiếu sót. Ca dao miền Nam cũng chịu chung số phận như thế. Mặc dù không hề được nhắc đến ở trường học, nhưng ca dao miền Nam vẫn có sức sống của nó. Chẳng những thế nó còn được phát triển mạnh và là một sinh hoạt tiềm tàng trong cuộc sống của người bình dân, cho dù chúng ta không còn thấy những màn hò đối đáp trong công việc hàng ngày ở trên đồng ruộng, sân lúa hay trên sông rạch như tiểu thuyết đã mô tả. Nó nằm ngay trên cửa miệng người bình dân, họ đọc ra như một phản xạ tự nhiên phù hạp với hoàn cảnh đang xảy ra không chê được. Chẳng hạn, thấy một chàng trai ở rể bị lợi dụng, miệng đời đã có câu đàm tiếu: Công anh làm rể đốn rào Tào lao phất ngọn, chớ nào vợ anh? (1) Câu này làm chúng ta nghĩ ngay đến câu tương tự ở ngoài Bắc: Công anh làm rể chương đài Một mình ăn hết mười hai vại cà, Giếng đâu thì dắt anh ra Không thì anh chết với cà nhà em. Hay để trêu chọc sự dan díu ngoài khuôn phép của gia đình và xã hội của một đôi trai gái, chúng ta đã có sẵn câu: Mùng ba thì có trăng non, Anh đi lên xuống có con anh bồng Nó cũng nằm ngay trong câu hát ru con của các mẹ, các chị bình dân, những câu ca dao cứ tuần tự tuôn ra một cách tự nhiên, không gò ép, không sửa soạn, cứ hết câu này đến câu khác, ru trẻ vào giấc ngủ. Nhiều khi họ còn dùng để diễn tả, kể lể tâm trạng của họ: - Má ơi đừng gả con xa, Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu. - Ví dầu cầu ván đóng đinh Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi - Giả đò mua khế bán chanh Giả đi đòi nợ thăm anh đỡ buồn ... Năm 1970, tôi về làm việc tại một tỉnh nhỏ ở đồng bằng Cửu Long nên có dịp tiếp xúc với người bình dân, nông dân. Sau 1975, do chính sách của chính quyền Việt Nam lúc bấy giờ, tôi lại có dịp sống hẳn ở nông thôn, gần gũi với nếp sống bình dị, làm quen với cách ứng xử, sinh hoạt của họ. Do đó xin nêu lên vài cảm nhận có tính rất chủ quan về ca dao miền Nam. Tôi không có tham vọng trình bày về ca dao miền Nam như một bài khảo cứu, công việc này xin dành cho những nhà biên khảo hay cho những công trình luận văn cao học, tiến sĩ. Cũng xin nói thêm, vì sự thuần nhất (một cách tương đối) về âm sắc trong cách nói, sự tương đồng về sinh hoạt, xin được nới rộng yếu tố địa dư miền Nam ra đến phần đất tam Phan (Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết) mà do sự phân chia hành chánh, vùng này được xếp vào Trung phần. Và cũng xin nhấn mạnh bài viết chỉ nhằm đóng góp, nêu lên một phần di sản văn hóa bị bỏ quên trong văn học sử, tuyệt nhiên không có ý phân biệt địa phương. I. Vài nét về sự hình thành cư dân Miền Nam Kể từ sau cuộc hôn nhân Việt -Chiêm giữa Huyền Trân Công Chúa và Chế Mân , nước Việt chúng ta có thêm hai châu Ô, châu Rí (Thế kỷ XIV, XV). Để đối kháng với thế lực thống trị từ phía Bắc, Việt Nam cần phát triển hậu cứ, lập nền tảng kinh tế để phát triển tiềm năng kháng cự với Tàu, nên đã bắt đầu chú ý đến việc phát triển về địa lý vào phương Nam. Nhưng phải chờ đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá (năm 1558) và tuyên xưng là Chúa Nguyễn (năm 1600), hướng phát triển vào Nam mới được phát triển một cách có qui củ để tạo thành một thế lực ngang ngửa với chúa Trịnh ở miền Bắc. Với chính sách tầm ăn dâu, người Việt cứ bành trướng dần vào Nam. Những người tiền phong là những lính thú khai hoang lập ấp, họ là những người vừa chiến đấu vừa sản xuất. Họ cũng là những lưu dân từ vùng Thanh Nghệ, tìm đến phần đất của chúa Nguyễn để sinh sống, người có tài như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Cảnh... thì được trọng dụng, người bình dân thì được đưa vào dần trong Nam theo chân các tập đoàn quân sự khai hoang lập ấp. Họ cũng là những tù, hàng binh của Trịnh do Nguyễn bắt được, đưa sâu vào Nam để dễ bề quản thúc, kiểm soát... Cũng có những cuộc tình duyên có tính chính trị nhằm mở rộng lãnh thổ như cuộc tình duyên của công chúa Ngọc Hoan (hay Ngọc Vạn?) với vua Miên Chey Chetty dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi), bà hoàng người Việt này đã mang theo nhiều người Việt vào sinh sống ở vùng đất Chân Lạp. Sang thế kỷ XVII, các di thần nhà Minh không chấp nhận Thanh Triều đã đem bộ hạ và gia quyến vào xin đầu phục Chúa Nguyễn, Chúa Hiền cũng cho vào định cư vùng Đồng Nai, Biên Hòa (Trần Thắng Tài), Mỹ Tho (Dương Ngạn Địch, TrầnThượng Xuyên) và sau đó (2) vùng đất Hà Tiên do Mạc Cửu mộ dân khai thác được dâng cho Chúa Nguyễn. Khi Gia Long lên ngôi, một trong những chính sách quan trọng ở miền Nam là ổn định đời sống về kinh tế, miễn thuế cho cư dân thuộc vùng đã giúp nhà vua khi còn bôn đào trong thời chiến tranh với Tây Sơn. Sau Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị đã cho phát triển những đơn vị bán quân sự, cho đào kinh (3) khuyến khích việc mộ dân lập làng, tiếp tục miễn giảm thuế cho những vùng vừa khai thác nên dân số ngày càng đông . Thành phần cư dân hình thành trong vùng gồm phần đông là binh lính, di dân Việt từ Thuận-Quảng chuyên làm ruộng ít học, sau đó là người Miên, sống rải rác trong các sốc (làng Miên) trên những vùng đất cao ráo và người Hoa làm rẫy hay buôn bán, tập trung cạnh các con sông lớn, tạo thành những thị tứ thịnh vượng. Phát triển của vùng này chỉ được chú trọng vào quân sự và kinh tế, còn văn hóa chỉ phát triển có hệ thống về phía tôn giáo ở các miếu, đình, chùa. Hơn thế kỷ sau, Pháp xâm chiếm Việt Nam, chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ, miền Nam gần như mất hẳn ảnh hưởng chính quyền trung ương, văn hóa miền Nam cũng theo trào lưu đó mà biến đổi. Nền học cũ bị bãi bỏ, cái học mới chỉ để phục vụ cho chế độ thực dân. Đại đa số người dân miền Nam thiếu học, lại mất đi nguồn bổ sung nhân lực chính là các binh lính từ các phiên trấn thuộc chính quyền trung ương, sinh hoạt văn hóa thông thường và dễ dãi của người bình dân là hát hò với nhau. Với sự hinh thành về thành phần cư dân cho vùng đất miền Nam như thế, Sự giao lưu về văn hóa giữa ba nhóm cư dân nói trên (Việt, Miên, Hoa) nhất định phải xảy ra và vì vậy, chúng ta không thể không để ý đến tính đa văn hóa sẽ phát triển trên vùng đất này và có thể giải thích được tại sao văn hóa miền Nam không bị gò bó vào khuôn mẫu và có tính cách thuần nhất như ở miền Bắc. Người bình dân, lính thú... thiếu học, đơn giản, sống tương đối rải rác sẽ khó có thể có những sinh hoạt văn hóa dựa trên chữ viết, sân khấu... mà sinh hoạt truyền miệng, phóng khoáng hơn, dễ dãi hơn được phát tirển mạnh. Có điều nhận xét khá lý thú là âm sắc trong ngôn ngữ càng vào sâu trong Nam càng nhẹ dần, nhưng vốn từ vựng từ phía nam Hải Vân vẫn còn được duy trì thống nhất và được phát triển thêm, làm giàu thêm trong suốt chiều dài phát triển lãnh thổ về phía nam (4) . Tinh thần văn hóa ở phần đất này có những độc đáo, tự nhiên, bình dị và đôi khi đi đến sỗ sàng, trong khi tinh thần văn hóa ở phần đất thuộc Đàng Ngoài (thuộc chúa Trịnh) đã đạt đến mức tinh luyện, khuôn mẫu, nghiêm túc. Người dân miền Nam chịu ảnh hưởng của luồng văn hóa có tính bình dân của các văn nhân theo vào với Chúa Nguyễn trong giai đoạn đầu đan kết với những luồng văn hóa của Khmer, Hoa, Pháp, cộng với điều kiện sinh hoạt dễ dàng, đất rộng người thưa, sông sâu nước chảy, tài nguyên thiên nhiên thừa thải. Họ sống bình dị, không muốn bó mình trong những khuôn mẫu có sẵn là điều dễ hiểu. Có khi do điều kiện sinh hoạt riêng rẽ (trong giai đoạn đầu tiên không phải ở làng xã nào cũng có những bậc túc nho hay người biết chữ), nên sự tùy tiện trong giải thích hay trong sinh hoạt văn hóa làm nảy sinh tính dễ dãi, uyển chuyển, sao cũng được, miễn là mọi người vui và hạnh phúc là được rồi. Hơn nữa, đối với những con người tiền phong, sau những lúc phấn đấu với thiên nhiên còn mang tính hoang dã: Xứ đâu có xứ lạ lùng Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh hay Cà Mau khỉ khọt trên bưng Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um thì trong những lúc có dịp ngồi lại với nhau như sau vụ mùa, buổi chợ, trong những dịp ma chay cưới hỏi, cất nhà... người bình dân còn có nhu cầu giải trí nào khác ngoài những dạng nói thơ, kể chuyện tiếu lâm, hát, hò....? Họ không có khả năng ngâm vịnh, sáng tác. Ca dao miền Nam đã phát triển trong chiều hướng đó. Chính yếu tố bình dị, nghĩ sao nói vậy, mộc mạc, dễ hiểu đã làm cho ca dao miền Nam có sức sống rất mạnh, được quần chúng chấp nhận dễ dàng và do đó làm ảnh hưởng đến sự sinh hoạt và tư tưởng của quần chúng: - Hủ qua (khổ qua) xanh, hủ qua trắng Hủ qua mắc nắng hủ qua đèo Thương em, thì anh làm giấy giao kèo Lăn tay điểm chỉ mới thiệt con mèo của em - Thấy em gò má hồng hồng Phải chi em đừng mắc cỡ, anh bồng anh hun thật khó tìm thấy những câu tương tự như vậy ở ca dao miền Bắc. II. Vài tính chất có tính đặc trưng Ca dao, ở đâu cũng vậy, là sản phẩm của quần chúng. Chúng ta không biết tác giả hay hoàn cảnh sáng tác, nhưng chúng ta biết chắc một điều: ca dao được người bình dân biết đến, sử dụng và truyền bá. Không có quần chúng, ca dao nói riêng, văn chương bình dân nói chung không thể phát triển và lưu truyền. Qua ca dao, chúng ta có thể mường tượng được nếp sinh hoạt, hoàn cảnh sống và phần nào tâm tư của người bình dân. Do vậy, tuy ca dao có những cái chung nhưng cũng có những cái riêng của vùng. Chúng ta khó có thể tưởng tượng được ca dao miền Nam lại có những câu nói về núi cao, ao cá: - Núi cao chi lắm núi ơi, Che khuất mặt trời, không thấy người yêu. - Tiếc công anh đào ao nuôi cá, Năm bảy tháng trời, người lạ tới câu. dù trên thực tế, không phải người dân miền Nam không biết núi, biết ao. Chúng ta thử lược qua những tính chất đặc sắc của ca dao miền Nam. 1/ Tính uyển chuyển. Một trong những nét dễ nhận thấy là người miền Nam không chịu bó trong những khuôn mẫu có sẵn, có lẽ do cuộc sống quá được ưu đãi từ thiên nhiên hào phóng, con người cũng trở nên phóng khoáng. Từ một câu có tính nhận xét trong đời sống hàng ngày, mà chúng ta thấy ở đâu cũng đúng: Chiều chiều quạ nói với diều Tìm nơi đống trấu có nhiều gà con vào đến miền Nam chúng ta nghe thấy nó biến thể thành: Chiều chiều quạ nói với diều Cù Lao Ông Chưởng (5) có nhiều cá tôm Người miền Nam có thể chuyển nhóm chữ "Cù Lao Ông Chưởng" thành một nhóm chữ nào đó thích hợp với địa danh họ đang sống, họ chẳng hề bị bó buộc phải rập khuôn theo câu ca có sẵn. Vùng Ô Môn, Bình Thủy (Cần thơ) cũng có câu tương tự, chỉ đổi bốn chữ cù lao Ông Chưởng bằng bốn chữ Ô Môn Bình Thủy. Chúng ta có thể tìm thấy dạng này khắp nơi ở miền Nam, lâu dần chúng ta không còn biết câu nào là nguyên bản, câu nào là sao chép. Ở vùng Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười chúng ta có câu: Nước chảy Láng Linh, chảy ra Vàm Cú Thấy dáng em chèo, cặp vú muốn hun Nhưng vùng Trà Cú (Vĩnh Long - Vĩnh Bình), ta lại nghe: Nước chảy sông xa, chảy qua Trà Cú Thấy dáng em chèo, cặp vú muốn hun Một câu khác mà chúng ta ai cũng biết: Nam Vang đi dễ khó về, Trai đi có vợ, gái về có con để chỉ Nam Vang là xứ ở xa, rất xa, đi lại không tiện, ai đi Nam Vang (nghĩa là qua Miên) làm ăn thì thường lập gia đình luôn ở bên ấy. Ở miền Nam, chúng ta nghe không thiếu gì câu hát trên, chì đổi chữ Nam Vang thành Long Xuyên, Cần Thơ, Gò Công... và nghe những câu ấy, chúng ta cảm được cái tình ấm áp của người địa phương làm cho kẻ lãng du phải dừng chân: Tới đây thì ở lại đây, Chừng nào bén rễ xanh cây rồi về Thật ra. tính uyển chuyển vừa nêu không phải là một đặc thù của ca dao miền Nam, nhưng ở miền Bắc và miền Trung, những dị bản của những câu ca dao ít tìm thấy hơn ở trong Nam. Một trong những câu điển hình là câu: Gió đưa cành trúc la đà Hồi chuông Trấn Quốc, canh gà Thọ Xương ở ngoài Bắc, vào đến Huế biến thành: Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. Cũng vì tính chất này mà ở miền Nam, chúng ta thấy ca dao thường ở dạng lục bát biến thể nhiều hơn. Số chữ trong mỗi câu hoàn toàn tùy thuộc vào cách nói, không bị gò cho đủ 6 hay 8 chữ, miễn sao diễn tả đủ ý muốn nói và có vần điệu dễ đọc, dễ nhớ. Phải chăng tính thực tiển và phóng khoáng của người dân Nam bộ đã làm cho sự uyển chuyển dễ xảy ra hơn? Nhân đây, xin nói thêm về tính uyển chuyển đó: ở trong Nam: Ai đã từng sống ở nông thôn vùng Cửu Long đều biết, khi cúng dựng nhà người nông dân miền Nam thường bày dĩa trái cây trên bàn thờ theo công thức: dừa, đu đủ, xoài; hay mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài biểu thị lòng mơ ước của họ: vừa đủ xài hay cầu vừa đủ xài, họ không bao giờ cúng chuối, dù trên bàn thờ của gia đình vào ngày Tết, cho rằng như vậy là chúi nhủi, khác với cư dân từ Nha Trang vào đến Xuân Lộc luôn có chuối trên bàn thờ, bất luận dịp nào- Đó là do cách phát âm trong Nam không phân biệt dừa và vừa, xoài và xài, chuối và chúi. Ở đồng bằng Nam Bộ người ta chỉ bày chuối trên bàn thờ Phật. Cũng do sự dễ dãi trong phát âm, không chàng trai gốc ngoài Bắc hay Trung nào, lần đầu tiên khi vào miền Nam (đặc biệt miệt vườn Cửu Long) không hết hồn khi gặp mấy cô gái ruộng tay cầm vòng hái (lưỡi hái) chấp lại kính cẩn chào xin vái thầy hay bị chới với khi cô gái vườn niềm nở mời hôm nào "quởn" ( hưởn), mời anh vô vườn em chơi. Xin nhắc lại là người miền Nam không phân biệt được âm v và âm d, gi . 2/ Tính cường điệu: Người bình dân miền Nam nói riêng, và cả nước nói chung ít học, nhưng ở miền Nam, người bình dân lại thường ra vẻ "ta đây" hay chứng tỏ mình ngon lành, thích nói chữ như muốn chứng tỏ mình là người hay chữ, đôi khi không trúng trật vào dâu - Bước vô trường án, vỗ ván cái rầm Bủa xua (6) ông Tham biện, chớ bạc tiền ông để ở đâu? - Cách một khúc sông, kêu bằng cách thủy (?) Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa (7) ... Chính vì tính hay phô trương không đúng chỗ, nên chúng ta đừng chờ đợi ở ca dao miền Nam những cách sử dụng đúng từ ngữ, diễn tả đúng cách, đúng chỗ. Cái mà chúng ta thường gặp ở đó là những cách nói vô nghĩa, cốt chỉ có vần, có điệu; nhất là trong các câu hò, chúng ta thấy hình như họ cố ý kéo dài câu hò, nói lan man, cốt để tranh thủ thời gian tìm ý. Họ thường ưa nói quanh co, không đi ngay vào đề tài chính, mà đôi khi lối quanh co này chẳng dính dáng gì đền việc họ muốn nói. Muốn trêu chọc một cô gái, chàng trai nói lan man: Đầu giồng có bụi chuối Cuối giồng có cây đa Ngã ba đường cái có cây tơ hồng Con gái chưa chồng, cái lòng hực hở, Con trai chưa vợ, ruột thắt tầm canh để cuối cùng mới nói : Ngó lên mây trắng trời xanh, Ưng đâu cũng vậy, ưng anh cho rồi hay cô gái muốn từ chối nhẹ nhàng lời tỏ tình của chàng trai vì còn phải lo phụng dưỡng cha mẹ già (không chừng đó chỉ là cái cớ nêu ra để từ chối), cô không nói thẳng vào vấn đề, mà xa xôi bóng gió trước: Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc Gió nào độc cho bằng gió Nam Vang Một tiếng anh than, hai hàng lụy nhỏ Có chút mẹ già, biết bỏ ai nuôi ? Ta thấy ngay, tính chất này khác hẳn với cách nói có tính cách khuôn mẫu ở ngoài Bắc, người dân miền Bắc thường nghiêm túc hơn, trữ tình một cách khách sáo hơn, mang ít nhiều tính nghệ thuật hơn, và thường "đi thẳng" vào vấn đề hơn: Trèo lên cây bưởi hái hoa, Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay... hay khen tặng vẻ đẹp của cô gái một cách kín đáo trong: ...Xây dọc rồi lại xây ngang Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân Có rửa thì rửa chân tay, Đừng rửa lông mày chết cá ao anh Kiểu nói dông dài này gặp rất thường trong ca dao miền Nam, nơi mà con người thường ồn ào chứng tỏ sự "thông thái" của mình một cách rất dễ dãi, mà cũng rất dễ thương Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu Anh về học lấy chữ nhu Chín trăng em đợi, mười thu em chờ hay: Tàu xúp lê một, còn thương còn nhớ Tàu xúp lê hai, còn đợi còn chờ Tàu xúp lê ba, tàu ra biển Bắc, Tay vịn song sắt, nước mắt ròng ròng Thương em từ thủa mẹ bồng Bây giờ em lớn, em lấy chồng bỏ anh! 3/ Tính trữ tình Trữ tình vốn là một thuộc tính của tình nam nữ, cho dù ở phần nào của đất nước, người bình dân diễn tả tình cảm của mình một cách rất nhẹ nhàng, thoải mái. Quả thật, kho tàng văn chương bình dân cho ta vô vàn những câu tỏ tình bóng gió có, lộ liễu có, và rất đậm tình quê hương. Miền Nam cũng không ra khỏi thông lệ đó. Ca dao miền Nam dùng để tỏ tình có nhiều như bất cứ vùng nào của đất nước. Ta có thể đơn cử vài câu: -Rồng chầu ngoài Huế, Ngựa tế Đồng Nai, Nước sông trong chảy lộn sông ngoài, Thương người xa xứ lạc loài tới đây. -Thò tay anh ngắt ngọn ngò Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ - Mù u bông trắng, lá thắm, nhị (nhụy) vàng, Anh đi khắp xứ, tới đây mới gặp nàng thiệt dễ thương - Mẹ mong gả thiếp về vườn, Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh Thương anh cũng muốn theo anh Ngặt cha với mẹ không đành thì sao? Cũng như các phần khác của đất nước, ca dao miền Nam thể hiện rõ nét phong cảnh, sinh hoạt, đồng ruộng màu mỡ, sông rạch của miền Nam. Đời sống tình cảm của người dân cũng trải rộng với thiên nhiên, sông nước: -Bớ chiếc ghe sau, chèo mau anh đợi Qua khỏi chỗ này lùm bụi tối tăm. - Cầu cao ván yếu, Con ngựa nhỏ xíu nó kiệu tứ linh Em đi đâu tăm tối một mình Hay là em có tư tình với ai? - Tàu Nam Vang chạy ngang cồn cát, Xuồng câu tôm bơi sát mé nga Thấy em cha yếu mẹ già Muốn vô hoạn dưỡng biết là được chăng -Mười giờ xe lửa nhỏ bỏ chợ Bến Thành, Xúp lê kia dạo thổi, bộ hành xôn xao. Đối với những tình cảm nhẹ nhàng khác, tình gia đình chẳng hạn, cách diễn tả ở miền Nam cũng đơn giản và thực tế hơn: - Râu tôm nấu với ruột bầu, Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon - Chim quyên ăn trái nhãn lồng Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi. - Sông dài cá lội biệt tăm Phải duyên chồng vợ, mấy năm cũng chờ khác hẳn với tính sâu sắc, nên thơ như ở miền Bắc: Hôm qua ra đứng bờ ao Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ... ...Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ. hay thâm trầm như ở miền Trung. Chồng chài, vợ lưới, con câu Sông Ngô, bể Sở, biết đâu bến bờ? Khi nên tay kiếm tay cờ Không nên thì cũng chẳng nhờ cậy ai Qua ca dao chúng ta có thể tìm thấy nhiều từ rất thông dụng ở miền Nam. Đây là nguồn tài liệu quan trọng cho những ai muốn khảo cứu về ngữ âm miền Nam: - Nước rong (8) nước chảy tràn đồng Tơ duyên có đó, chỉ hồng chưa xe - Nước ròng bỏ bãi xa cừ Mặt em có thẹo, anh trừ đôi bông - Bậu nói với qua bậu không hái mận bẻ đào Chớ mận đâu bậu bọc, đào nào bậu cầm tay. - Mưa lâm thâm, ướt dầm bông sói Bậu đi lấy chồng, sao không nói anh hay? ... 4/ Tính chớt nhả, cắt cớ: Tính phóng khoáng trong cuộc sống ở miền Nam thể hiện rất rõ nét trong ca dao miền Nam, tính chất này còn được đẩy xa hơn, trở thành chớt nhả. Hơn đâu hết, chính miền Nam là nơi người ta tìm thấy dễ dàng sự cắt cớ, sống sượng đến độ bất ngờ khiến người trong cuộc (dù có học) chưa chắc thoát ra được. Cô gái đang làm việc dưới ruộng, mình mẩy dầy bùn sình, hỏi chàng trai đang ở trên bờ: Hai tay em cắm xuống bùn Mình mẩy lấm hết, chớ anh hun chỗ nào? chàng trai trả lời tỉnh bơ: Cầu trời đổ trận mưa rào Bùn sình trôi hết, chỗ nào anh cũng hun! Chàng trai, muốn đặt cô gái vào tình trạng khó xử, sống sượng yêu cầu Đôi mình mới gặp ngày nay Cho hun một cái em Hai đừng phiền chàng trai đắc ý, tưởng sẽ nhận được ở cô gái sự e thẹn, hay lời rủa sả hay một cái bộp tai; không dè cô gái không phải tay vừa, đốp chát liền: Ừ, muốn hun thì hun cho liền Đừng làm thố lộ xóm giềng cười em trong trường hợp nếu bạn là chàng trai đó bạn làm sao? không biết bây giờ ai là người bị lúng túng, ở đây chàng trai chẳng những không lúng túng mà còn liều lĩnh sống sượng hơn, lỡ rồi đành tới luôn: Tui hun mình dẫu có la làng Thì tui ra đó hai đàng chịu chung Tui hun mình dẫu có làm hung Nhơn cùng tắc biến, tui chun xuống sàn (9) Về tính cắt cớ, muốn đặt đối phương vào trong những tình huống khó tháo gỡ, chúng ta thường gặp trong những câu hò đố. Nếu ở ngoài Bắc những câu hát đố luôn có tính nghiêm trang, có tính "bác học" đến độ chúng ta phải đặt dấu hỏi liệu đó có phải là sản phẩm của lớp bình dân ít học? xin đơn cử: ...Chùa nào mà lại có hang Ở đâu lắm gỗ thời chàng biết không? Ai mà xin được túi đồng Ở đâu lại có con sông ngân hà Nước nào dệt gấm thêu hoa... ...Chùa Hương Tích mà lại có hang Trên rừng lắm gỗ thời nàng biết không? Ông Nguyễn Minh Không xin được túi đồng Trên trời lại có con sông ngân hà Nước Tàu dệt gấm thêu hoa... hay những câu hát đố đẹp và hay như một bài thơ: Đố ai biết lúa mấy cây Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng Đố ai quét sạch lá rừng Để tôi khuyên gió, gió đừng rung cây... ở miền Trung, chúng ta có câu: Đố anh con rít mấy chưn Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người (10) thì ở miền Nam, chúng ta khó tìm thấy những câu hò, câu hát đố có tính trữ tình như thế, nhưng chúng ta lại tim thây khá nhiều những câu có tính buộc thắt, khiến đối phương phải rất nhanh trí để thoát khỏi thế bí, và như chúng ta sẽ thấy, họ "thoát hiểm" rất dễ dàng và gài lại đối phương. Những câu sau đây sưu tập được từ Vĩnh Long (11) -Thấy anh ăn học có thi Em đây xin hỏi con chi không đầu Sao em lại hỏi cơ cầu Thượng cầm hạ thú, không đầu là con cua - Thấy anh theo dõi bút nghiên Em đây xin hỏi, trời nghiêng bên nào Anh từng đọc sách bên Tàu Đất nghiêng thì có, trời nào đâu nghiêng - Thấy anh ăn học lảu thông Em đây xin đố, khăn lông có mấy đường Em về đếm hết cỏ vườn Lại đây anh nói mấy đường khăn lông - Thấy anh ăn nói có tài Em đây xin đố cây xoài có mấy bông Em về đếm cá dưới sông Lại đây anh nói mấy bông cây xoài. Những câu trên có cùng một dạng thức, điều đó chứng tỏ có thể từ một người làm ra, nhưng trong một đám cưới ở một vùng nông thôn thuộcVĩnh Long, trong đêm nhóm họ ở nhà cô dâu, chính người viết đã nghe ít nhất có hai câu đố trên, tất nhiên không thấy có câu trả lời thích đáng từ đối phương. Cũng có những câu đố mắc mỏ, không mong gì tìm được câu trả lời xác đáng: Đố ai kiếm được Cái vảy con cá trê vàng, Lá gan con tép bạc Mấy ngàn em cũng mua. chỉ còn nước trả lời theo kiểu huề vốn: Kiếm đâu cho được Cái vảy con cá trê vàng, Lá gan con tép bạc Để nàng chịu mua? III. Vài cảm nghĩ Trong những phần trên, chúng ta đã lượt qua một vài đặc sắc của ca dao miền Nam. Trong khuôn khổ của bài báo, người viết không thể trình bày hết những nét đặc thù của ca dao miền Nam nói riêng cũng như những dạng văn chương truyền khẩu khác như hò, vè... nói chung. Điều đáng nói là văn hóa miền Nam chưa có chỗ đứng dúng đắn trong văn học sử của Việt Nam, cũng chưa được đề cập một cách đầy đủ trong chương trình học ngày trước (và cả ngay bây giờ). Chúng ta có thể có nhiều cách giải thích. (1) Có lẽ do người viết chương trình của bộ giáo dục trong những năm đầu chuyển tiếp từ chương trình Pháp sang chương trình Việt (và cả những vị về sau, trong các chương trình cải tổ) không có tài liệu nhiều về văn học trong Nam; hay (2) người viết chương trình không biết gì về văn học trong Nam; hay (3) người viết chương trình cho rằng văn học trong Nam quá nôm na, không có vẻ "bác học"; hay (4) đơn giản hơn hết là văn học trong Nam chưa có đủ chiều dài về thời gian để có chỗ đứng trong văn học sử... Dù vì bất cứ nguyên nhân nào, chúng ta đã không dành một chỗ đứng thích đáng cho văn học trong Nam. Chúng ta đã bỏ quên tính đại chúng trong giáo dục, phần nào, chúng ta đã tự tách rời người có học với quần chúng; và quần chúng này, tuyệt đại đa số là những người có rất ít những liên hệ văn hóa với những phần đã được dạy ở nhà trường. Làm thế nào đại đa số quần chúng ở miền Nam ấy có thể hiểu và thông cảm với những gì mà chính họ, hay con cái của họ đã nhận được từ trường, khi những điều đó không thấy được thể hiện quanh họ? - Mặc dù không thể không nói đến những đóng góp về văn học Việt Nam do những nhà văn, nhà báo tiền phong (mà hầu hết đều xuất thân từ phân nữa trên của đất nước), nhưng sự mất cân đối trong chương trình học đã làm học sinh trở thành xa lạ với môi trường họ đang sống, trở thành vong thân với chính xã hội của họ. Ngày nay, phần nào văn chương bình dân của miền Nam đã đi vào đời sống qua các bài hát dựa vào các điệu lý, điệu hò. Nếu cách đây ít lâu, ngoại trừ lãnh vực cải lương, cổ nhạc Nam phần, ca sĩ dù người miền Nam, trình bày những bài hát về miền Nam cũng ráng tập phát âm bằng giọng Bắc, càng chuẩn càng tốt, không dám hát bằng giọng Nam sợ bị chê là quê mùa, thì bây giờ nhạc sĩ, ca sĩ (có cả người gốc ngoài Bắc) dùng hẳn giọng Nam để sáng tác, để hát, không có cái "mặc cảm" quê mùa như trước. Thử tưởng tượng Phi Nhung hát bài Lý con Sáo Bạc Liêu (Phan Ni Tấn) bằng giọng Bắc thì nó ra làm sao? Còn những bài khác nữa: Tiếng Hát Chim Đa Đa (Võ Đông Điền), Bài Tình Ca Đất phương Nam (Lư nhất Vũ - Lê Giang), Chiếc Áo Bà Ba (Trần Thiện Thanh), Còn Thương rau đắng mọc sau hè (Bắc Sơn), Điệu Buồn Phương Nam (Vũ Đức Sao Biển)... làm thế nào để ca sĩ diễn tả tính Nam bộ trong các bài hát đó bằng giọng Bắc. Cũng vậy, ngày xưa lúc ban Hợp Ca Thăng Long hát bài Tiếng Sông Cửu Long (trong trường ca Hội Trùng Dương), nghe Thái Thanh ngâm: Chẻ tre bện sáo cho dày Ngăn ngang sông Mỹ, có ngày gặp em hay thì có hay, nhưng thấy nó vẫn là lạ. Cũng nhân đây, xin nói thêm về cái thiếu hiểu biết về miền Nam, hay coi nhẹ tinh thần Nam bộ, mà các tác giả về mọi lãnh vực đã không đặt nặng việc sử dụng đúng ngôn ngữ trong Nam cho các công việc của họ. Trong Việt Nam Sử Lược, khi nói về Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh, sử gia Trần Trọng Kim chỉ dùng Nguyễn Hữu Kính, người dân miền Nam không thể nhận ra đó là vị Chưởng Cơ đã có rất nhiều công trong việc xây dựng và bảo vệ phần đất này trong giai đoạn đầu. Cũng vậy, khi Phạm Duy viết đến miền Nam (trong Con Đường Cái Quan) đã dùng: Giả ơn cái cối cái chày Đêm khuya giả gạo có mày có tao Giả ơn cái nhịp cầu ao Đêm khuya vo gạo, có tao có mày Không ai có ý kiến gì về lãnh vực âm nhạc mà nhạc sĩ Phạm Duy đã là bậc thầy, nhưng cách dùng chữ, rõ ràng là ông vẫn còn ảnh hưởng miền Bắc nên không dùng đúng những chữ mà người miền Nam đã dùng. Nghe nó ngọng nghịu và làm giảm ít nhiều giá trị đích thực của bài hát. Người miền Nam không ai nói "giả ơn" mà nói "trả ơn" hay "cám ơn". Chúng ta cũng có thể bỏ qua vì cứ xem người "lữ khách" của Phạm Duy chỉ mới vừa vào miền Nam, chưa đổi được thói quen của mình; nhưng "cầu ao" để vo gạo thì không có. Ở miền Nam chỉ có "cầu nước, cầu nhủi", đơn giản vì miền Nam không có ao (trừ ao Bà Om của Người Miên ở Trà Vinh, một địa điểm để du ngoạn, cắm trại), miền Nam chỉ có hồ, đìa, đầm, vũng, giếng... Chúng ta phải chấp nhận tính đơn giản mộc mạc... của miền Nam như là một đặc thù của văn chương ở vùng đất non trẻ này của đât nước, chúng ta không có mặc cảm gì về sự nôm na, chất phác của lớp người bình dân ấy. Trả lại cho văn chương và văn hóa miền Nam chỗ đứng đúng đắn trong văn học sử là việc nên làm, phải làm. Công việc đó qui mô và cần công sức của nhiều học giả, nhà nghiên cứu, của nhiều người. Bài viết này xin được là một đóng góp nhỏ cho công việc to lớn ấy. Tài liệu Tham Khảo: 1. Việt Nam Sử Lược (Quyển II) - Trần Trọng Kim -Trung Tâm học Liệu xb 1971 2. Việt Sử Tân Biên (Quyển 3) - Phạm văn Sơn - Cơ sở xuất bản Đại Nam (in lại) 3. Đồng Bằng Sông Cửu Long hay là Văn Minh Miệt Vườn - Sơn Nam - Nhà xuất bản Xuân Thu (in lại) 4. Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam - Sơn Nam - Nhà xuất bản Xuân Thu (in lại) 5. Tiến Trình Văn Nghệ Miền Nam - Nguyễn Q. Thắng - Văn Hiến xb 1994 6. Sưu tầm Ca Dao Đồng Bằng Cửu Long - Tài liệu in roneo, trung học Tống Phước Hiệp - Vĩnh Long. Chú thich
(1) - Trong toàn bài, những câu in nghiêng, theo thiển ý của người viết,là những câu trong miền Nam.
(2) - Năm 1708, đời Nguyễn Phúc Chu
(3) - Kinh Vĩnh Tế, Kinh Thoại Hà (Kinh Núi Sập) do Thoại Ngọc Hầu đốc xuất dân binh đào.
(4) - Trong chuyện Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) ta thấy còn rất nhiều từ không có ở ngoài Bắc, nhưng lại vẫn còn dùng trên cửa miệng của dân miền Nam như dươn (duyên), làm riết, tu hoài tu huỷ, cho xuê, hây hây, ấm cật, bậu, xinh ghê...
(5) - Tức Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh, cù lao thuộc huyện Chợ Mới - Long Xuyên, An Giang,
(6) - Phiên âm chữ "bonjour" (tiếng Pháp)
(7) - Cũng có chỗ đọc: Cúc mọc dưới sông, kêu bằng cúc thủy
Chợ Sài gòn xa, chợ Mỹ cũng xa...
không biết có loại cúc nào mà mọc dưới sông?
(8) - Nước rong: nước lớn do thủy triều cao, nước từ sông không đổ ra biển được, chảy vào rạch, đồng ruộng; khác với nước ròng do thủy triều thấp, nước từ ruộng chảy ra rạch, sông lớn.
(9) - Một dị bản khác:
Tui ôm, bậu có la làng, thì tui ôm riết hai đàng xấu chung. Tui ôm bậu có làm hung, nói cùng bất quá tui chun xuống sàn (10) - Câu này nghe được ở vùng Phan Rang Nha Trang. Không biết Cầu Ô ở đâu, nhưng chợ Dinh có thể là chợ Kinh Dinh ở Phan Rang. Cũng có người cắt nghĩa cầu Ô là cầu Ô Thước (trong chuyện Ngưu Lang Chức Nữ), chợ Dinh là chợ tại các Dinh, các Trấn ở miền Nam, nơi dân cư đông đúc. (11) - Sưu Tầm Ca Dao Đồng Bằng Cửu Long - Tài liệu lưu hành nội bộ, in roneo do Trung Học Tống Phước Hiệp - Vĩnh Long ấn hành
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 19, 2011 4:07:10 GMT 9
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Qua vài nét văn hóa Miệt Vườn Nguyễn Văn Trần "Nhà Bè nước chảy chia hai Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về"I.- SƠ LƯỢC KHAI MỞ MIỀN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG.- 1.- Người ta nói "Miền" Đồng Bằng Sông Cửu Long để tách bạch một địa phương, tuy rộng lớn, trên một phạm vi rộng lớn hơn, đó là "vùng", như "vùng" Nam Thái Bình Dương, "vùng" Đông Nam Á, mà Miền Đồng Bằng Sông Cửu Long chỉ là một "đơn vị" nằm trong vùng địa lý văn hóa Đông Nam Á . Chúng ta ai cũng biết miền Nam Việt Nam chạy dài tận mũi Cà Mau thành hình theo bước Nam tiến của tiền nhơn . Năm 1658, di thần nhà Minh , "Phản Thanh phục Minh", với 3000 quân tinh nhuệ, với chiến thuyền và võ trang hùng hậu, đến Thuận Hóa để xin được Chánh quyền Việt Nam giúp đỡ. Chúa Nguyễn, Hiền Vương, nghĩ nếu từ chối và đuổi đi, thiø đám tàn quân nầy vì cùn đường có thể đánh phá ta, nên tiếp đãi niềm nở, còn khoản đãi, phong chức và cho phép vào phía nam khẩn hoang, lập nghiệp ở Biên Hòa, Cù Lao Phố, và Định Tường với lời chỉ dẫn "đó là vùng đất mới của ta". Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch là hai tướng nhà Minh chỉ huy lực lượng hải thuyền di tản về phương nam với lòng mưu cầu phục Minh sau này . Tướng Trần Thắng Tài vâng lệnh Chúa Nguyễn dẩn một đoàn quân với chiến thuyền đi về vùng Biên Hòa để khai phá và định cư lập nghiệp. Họ mở mang thương mãi và chỉ trong ít lâu biến Cù Lao Phố thành một trung tâm thương mãi trù phú . Đến khi Tây Sơn tiến đánh vào Nam, một phần dân cư ở đây di tản về Bến Nghé sanh sống . Họ chuyên thu mua và bán nông phẩm từ phía Định Tường chở tới . Bến Nghé sau này trở thành Chợ Lớn và hoạt động kinh tế vẫn còn nằm trong tay người Tàu . Trong lúc đó, tướng Dương Ngạn Địch dẫn một đoàn quân kéo về Định Tường định cư lập nghiệp. Cánh nầy chuyên vê nông nghiệp . Họ lập ra chín nông trại, dần dần mở mang ra thành Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long ngày nay . 2.- Người Việt Nam theo chơn người Tàu tiếp tục bước Nam tiến và thành lập Chánh quyền ở những nơi dân cư ổn định đời sống . Nơi nào có Chánh quyền Việt Nam, nơi đó lập tức được hợp thức hóa trở thành lãnh thổ của Việt Nam . Tức nước Việt Nam định hiønh . Sự kiện lịch sử này hoàn toàn phù hợp với tinh thần công phàp ngày nay . Người học sử có nhận xét đặc biệt về lịch sử lập quốc của Việt Nam, không giống lịch sử lập quốc của phần nhiều các quốc gia khác bởi "chính người Việt Nam từng bước lập thành nước Việt Nam". Chúng ta có thể mường tượng lịch sử lập quốc Việt Nam như một dòng nước từ trên vùng đất cao chảy loang ra vùng đất thấp . Nước chảy đến đâu thiø đất thắm nước là đất của dòng nước ấy. Mà Việt Nam cũng tắm mình trong dòng nước Nam Hải với các quốc gia khác trong Vùng Đông Nam Á . Đất trong Nam là đất của Nhà Nguyễn, nên khi Gia Long tẩu quốc, chạy vào Định Tường, Ba Giồng, được dân chúng miền Nam khắp nơi niềm nở đón tiếp và phục vụ nhà vua tận tình . Cũng vào thời gian ấy, Mạc Cữu từ Thái Lan qua, đặt chơn ở Hà Tiên, lập ra thương cảng, một thời buôn bán phồn thịnh . Sau nhiều lần bị Thái Lan và Cao Miên uy hiếp, Mạc Cữu chấp nhận thuần phục Nhà Nguyễn và được chúa Nguyễn phong chức quan, cai quản phần đất Hà Tiên để về sau nầy nối liền với Rạch Giá . Và lãnh thổ Nhà Nguyễn từ đó chạy dài tận mũi Cà Mau . II.- TỔ CHỨC ĐỊNH CƯ VÀ MIỀN ĐỊA LINH NHƠN KIỆT 1.- Chánh quyền địa phương được thiết lập xong liền bắt tay ngay vào việc lo tăng gia sản xuất lúa gạo, hoa màu, chăn nuôi gia súc, gia cầm, đánh cá, ... để góp phần cải thiện đời sống dân chúng . Cùng với hoạt động kinh tế, Chánh quyền còn quan tâm đến đời sống tinh thần của người dân, đứng ra lập đền chùa, miếu mạo, tổ chức quan hôn, tang, tế trong dân chúng . Đồng thời, trường học cũng xuất hiện để khai hóa dân trí con em trong làng xã . Những người có học chữ nho, y học, được Chánh quyền cho phép dạy học, chữa bịnh cho dân chúng . Đến đây, chúng ta nhận thấy một sự kiện xã hội rõ nét ở địa phương mới khai khẩn này, đó là người Tàu và người Miên, vốn là chủ nhơn ở đây, chỉ chăm lo làm ăn, buôn bán, còn người Việt Nam đến sau, lại quan tâm tổ chức xã hội theo trật tự Nhà Nguyễn . Vì thế mà trong quá trình lập quốc, ít khi xảy ra những cuộc tranh chấp về chủ quyền đất đai gay gắt . Người Tàu và người Miên mặc nhiên nhìn nhận Chánh quyền Nhà Nguyễn và người Việt là chủ nhơn của phần đất này . Cơ sở xã hội văn hóa được tổ chức như thế đã vững chắc cho đến khi thực dân Pháp đến xâm chiếm 2.- Có hai nơi được xem như Trung tâm văn hóa quan trọng của Miền Nam lúc bấy giờ, đó là Vĩnh Long và Định Tường . Hai nơi này đã đào tạo một Phan Thanh Giản thi đậu tiến sĩ . Ông bị lên án là ông quan nhu nhược, đầu hàng thực dân vì đã chấp hành hòa ước với Pháp năm 1862, nên sau đó ông đã chọn cái chết để tỏ tiết tháo sĩ phu . Dân miền Nam không quên những nhà Nho ái quốc và đầy tiết tháo khác, như Bùi Hữu Nghĩa thi đậu thủ khoa ; thủ khoa Huân chết sống với Mỹ Tho; Trương Công Định rạng danh chống Pháp ở đám lá Tối Trời, Gia Thuận, Gò Công; Thiên Hộ Dương, một điền chủ ái quốc chống Tây ở Đồng Tháp ; Nguyễn Trung Trực chống giữ vùng Nhật Tảo nêu cao tấm gương ái quốc và can trường mà ngày nay người Rạch Giá tôn thờ là vị thần linh : "Lửa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần". Đó là 4 vị sĩ phu Nam Hà xuất thân từ trung tâm văn hóa Định Tường và Vĩnh Long, sống chết cho Đồng Bằng Sông Cửu Long . Trong quá trình khai mở miền Nam, nhà Nguyễn chiêu mộ dân lập ấp đưa về miệt dưới như Ba Xuyên, Cà Mau, Rạch Giá . Trong chương trình lập ấp, tức tổ chức định cư về mặt xã hội, chánh quyền nhà Nguyễn kêu gọi những tù phạm nếu hưởng ứng chương trình này họ sẽ được khoan hồng Nhà Nguyễn theo đuổi mục tiêu chiến lược là mở rộng bờ cõi về phía Nam, thiết lập và củng cố chánh quyền miền Nam, tổ chức phòng thủ chống ngoại xâm . 3.- Khi thực dân Pháp đến, nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, nên họ cho bố trí lực lượng quân sự kỹ lưỡng . Nhưng vẫn không thiếu những người dân thường, dưới sự lãnh đạo hoặc ảnh hưởng những tấm gương sáng ái quốc của các sĩ phu Nam Hà, đứng lên từng nhóm chống Tây . Họ bị bắt và bị đày biệt xứ, tức bị đày qua Rạch Giá, Bạc Liêu, Cà Mau, hoặc chính họ rời bỏ Hai Huyện mà chạy trốn qua những vùng đất mới này để lánh nạn : "Cần Thơ là cảnh Cao Lãnh là quê Anh đi khỏi xứ Tào Khê Thoát vòng lao lý đâu dè gặp em". Đồng thời, thực dân Pháp xoa dịu, tránh mọi phản ứng không cần thiết của dân chúng . Họ mở trường dạy học và mời các ông đồ ngày trước làm đốc học và thầy giáo . Học sinh không mấy người chịu đi học trường của Tây khai mở . Khi thực dân Pháp tới thì Văn Miếu tiêu biểu nền Nho học vẫn còn . Lập tức, các giáo sĩ Vatican chiếm lấy ngay để biến làm nơi truyền giáo . Họ muốn vĩnh viễn tiêu diệt mọi mầm mống chống đối chính quyền thực dân vì Nho sĩ vẫn là "cái đầu" của xã thôn và đồng thời xóa tận gốc vết tích nền học vấn cũ ung đúc lòng yêu nước và tinh thần quật khởi trong dân chúng, thay thế vào đó là cái học mới theo nền văn minh Tây phương . Chính sự việc này còn là nguyên nhân sâu xa của tầng lớp sĩ phu chống đối thực dân Pháp và đợt sóng văn minh mới . Trước lòng dân oán hận, thực dân Pháp phải cho duy trì những tập tục cũ như lễ lạc, tín ngưỡng dân gian . Ông già Ba Tri, tức nhà Nho ái quốc Nguyễn Đình Chiểu than thở, lòng đầy uất hận vì bất lực : "Thà đui mà giữ đạo nhà Còn hơn sáng mắt, ông cha không thờ ". III- SƠ LƯỢC VỀ VĂN HÓA - XÃ HỘI 1.- Có nhiều người quan tâm phân biệt những vùng đất khác nhau, như, "Miệt Vườn" với Đồng Bằng Sông Cửu Long . Chữ "Miệt" chỉ một vùng đất ở xa theo vị trí địa lý đối với người nói chuyện, như "Miệt Trên" , "Miệt Dưới", "Miệt Cao Lãnh" , "Miệt Đồng Tháp", "Miệt Xà Toóng" , "Miệt Bảy Núi",... "Miệt Vườn" chỉ những vùng đất cao, thấm nước ngọt, thuận lợi cho việc lập vườn tược cây trái . Nơi đây, cách sinh hoạt được tổ chức khác hơn so với những nơi người dân sanh sống bằng nghề làm ruộng . Từ đó, phong cách xã hội của người dân cũng khác . Họ có vẻ thanh tú hơn nông dân ở vùng ruộng nước . Khỏi phải nói, phụ nữ "Miệt Vườn" đẹp hơn phụ nữ "Miệt Ruộng" vô cùng . "Đời phải đời thạnh trị Cuộc phải cuộc văn minh, Kìa là gió mát trăng thanh Biết đâu nhơn đạo bày tình cho vui". (Câu hát dân gian) Người miệt vườn hay miệt ruộng tuy có khác nhau về phong thái xã hội nhưng phần lớn họ đều nặng lòng ái quốc như nhau . Đó là nét văn hóa dễ nhận ở người dân của vùng đất mới này . Về cách tổ chức đời sống, họ ăn mặc đơn giản, ngắn gọn nên chiếc áo bà ba rất thích hợp với mọi người và mọi lứa tuổi . Nhà cửa thường xây cất tập trung theo trục giao thông như đường cái, ven sông rạch và mở toang ra bên ngoài, khác với miền Bắc, nơi thời tiết lạnh lẽo . Từ đó, tánh tiønh người miền Nam, nhất là miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, tỏ ra thật thà, bộc trực, không thích suy nghĩ, nói năng quanh co, bợ đỡ, xảo trá,... Trong quan hệ giao tiếp, họ luôn luôn nhiệt tình với lối xóm, bạn bè : "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Với bạn bè hay lối xóm, họ phải ăn ở với nhau cho "điệu nghệ", tức theo "đạo nghĩa" (nghĩa = công bằng, cho phải phải phân phân để không mất lòng nhau vì không ai bị thiệt) . 2.- Sau khi ổn định xong vùng đất mới với chế độ thuộc địa, người Pháp bắt đầu mở rộng sự xâm nhập văn hóa Tây phương. Họ mở trường dạy chữ quốc ngữ, chữ Tây chung với chữ Nho nhưng trọng chữ Tây hơn để sớm đào tạo một lớp quan chức mới, phục vụ cho bộ máy hành chánh thuộc địa . Lớp "sĩ phu" Tây học này được trả lương cao nên có đời sống vật chất dễ chịu và họ rời bỏ ruộng vườn ra sanh sống ở thành thị . Đây chính là lúc nhà Nho Tú Xương than thở : " Cái học nhà Nho đã hỏng rồi Mười người đi học, chín người thôi..." hoặc châm biếm cách thi cử theo chế độ mới : "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm oẹ quan trường miệng thét loa, Lộng cắm rợp trời quan sứ đến Váy lê quét đất mụ đầm ra." hoặc " Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt Dưới sân ông cử ngoảnh đầu rồng." Than thở cho số phận của một ông Nghè, ông Cống và giễu cả ông Phán: "Nào có lạ gì cái chữ nho Ông Nghè ông Cống cũng nằm co, Sao bằng đi học làm ông Phán Tối rượu săm banh, sáng sửa bò." Tuy nhiên, ở đây vẫn còn những Học Lạc, Thủ Khoa Huân, Đồ Chiểu, Sương Nguyệt Anh cố bám giữ cái học cũ . Họ làm thơ cổ bằng chữ nho . Nhưng những sáng tác của nho sĩ chỉ được một số ít người có học chữ nho đón nhận nồng nhiệt mà thôi . Trước trào lưu ồ ạt của văn minh tây phương, một số nhà nho đành chấp nhận "đầu hàng", quay ra dịch truyện tàu ra quốc ngữ, hoặc truyện bằng chữ nôm ra quốc ngữ . Từ cuối thế kỷ 19, bắt đầu có những sáng tác, báo chí bằng chữ quốc ngữ như "Thầy Lazaro Phiền" , "Gia Định báo", "Nông Cổ Mín Đàm",... Truyện văn vần như Phạm Công Cúc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương, Sáu Trọng, ... bằng quốc ngữ rất được rộng rãi giới bình dân ưa chuộng . Những nho sĩ ái quốc cũng bắt đầu đón đọc những tác phẩm về tư tưởng tây phương, như của Montesquieu, J.J.Rousseau, qua Hán văn dịch từ tiếng Nhựt . Một lần nữa, những nho sĩ ái quốc chịu ảnh hưởng tư tưởng chính trị tây phương, đứng lên làm cách mạng chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc mà không "Cần Vương" nữa . Tiếp theo, một lớp người mới, học trường Tây, chữ Tây ngay từ nhỏ, lớn lên, học xong, đỗ đạt trường Tây, họ kêu gọi dân chúng tập hợp lại chống Tây . Những người này khác hẳn với một số người đương thời với họ, học Nga, học Tàu, trình độ học vấn kém hơn họ nhiều nhưng lại theo Nga, theo Tàu, đánh mất hoàn toàn con người Việt Nam ỏ họ . Những người học Tây mà theo Việt Nam đó là Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Võ Thành Cứ, . . . 3.- Trong sinh hoạt văn hóa, một bộ môn nổi bật và hấp dẫn quần chúng mạnh nhất là hát bộ, hát cải lương và đờn ca tài tử. Vào đầu thế kỷ qua, nhà in Phát Toán ở đường Nguyễn Văn Thinh, Sài Gòn 1, in và xuất bản "Bản đờn tranh và bài ca". Người bấy giờ chơi đờn ca theo quan niệm là đờn ca chỉ để "di dưỡng tánh tình, giao cảm với bạn tri âm", hoàn toàn không có ý làm tiền nên còn được dân chúng và giới mộ điệu gọi là "văn nghệ tài tử". Ngày trước, đờn ca, hát múa chỉ dành riêng và thạnh hành trong Cung điønh, nay mở rộng ra phục vụ dân chúng, mà lại là dân chúng miền Đồng Bằng Sông Cửu Long . Cải lương và nhiều bài hát còn lưu truyền cho tới ngày nay đều xuất phát từ miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, bởi vì miền này trù phú, người dân có đời sống sung túc nên có thời giờ và điều kiện nghĩ đến những môn giải trí tao nhã . Từ đó xuất hiện văn nghệ . Tại Vĩnh Long, có ông Tống Hữu Định tổ chức ca hát tại tư gia của ông . Người ca hát đứng trên bộ ván và hát có bộ, tức có nhiều cử chỉ để diễn tả ý của bài hát . Cũng ỏ Vĩnh Long, có ông Huờn, công chức tòa án, sáng tác bài ca cải cách, ông Phạm Đăng Đàng là một thầy đờn nổi tiếng, ông Trương Duy Toản là soạn giả tiền phong về cải lương . Ông Toản còn là ký giả và chủ bút báo Trung Lập . Về Từ Hải, ông ca ngợi tinh thần anh hùng, tranh đấu mà không vì "công hầu khanh tướng", lại phảng phất tinh thần yêu nước : " ... Đường cung kiếm, cái chí nam nhi Núi sông là phận, từ đây quyết vẫy vùng cho sống dậy trần ai Rền một trời, đùng đùng xao động, Tài oanh liệt, mấy ngọn gươm vàng Rạch một sơn hà, mặc dầu ngang dọc..." Đờn ca chẳng riêng biểu diễn cho công chúng Đồng Bằng Sông Cửu Long thưởng ngoạn mà còn được đem qua tận xứ Pháp, tham dự như phần văn nghệ tại cuộc triển lãm quốc tế vào lúc bấy giờ . Miệt vườn một thời nổi tiếng "ca nhạc tài tử với bộ điệu" đã ảnh hưởng mạnh đến những vùng xa xôi khác, như Sài Gòn . Ở Hậu Giang, lúc bấy giờ có ông Hai Khị, người gốc Minh Hương, giỏi về nhạc ; ông Sáu Lầu sáng chế bản "Dạ cổ hoài lang", tức bản vọng cổ còn lưu truyền đến ngày nay . Năm 1917, ông André Thậm lập gánh xiệc có pha ca hát có điệu bộ . Qua đó, chúng ta thấy cải lương ra đời từ miệt vườn, thâu thái cái hay cũ, đổi mới theo nhu cầu, hoàn cảnh địa phương . Người dân đến đây định cư lập nghiệp cũng vận dụng óc sáng tạo để thích nghi với từng hoàn cảnh, điều kiện đất đai, nước gió . Nơi họ giữ ruộng cày cấy, nơi họ xạ lúa và nơi thì họ trồng đủ các loại cây ăn trái,... Mỗi chọn lựa đều nhằm thích nghi để phát huy khả năng sản xuất . Văn nghệ tài tử và cách tổ chức đời sống của người Việt từ miền ngoài vào đây theo bước nam tiến là hai nét đặc trưng của văn hóa dân tộc : " Chuồn chuồn bay thấp Mưa ngập ruộng vườn Nghe lời nói lại càng thương Thương em, anh muốn lập vườn cưới em ". (Câu Hò) Người miệt vườn có tiếng là văn minh -"Văn minh miệt vườn". Thế mà khi tiếp xúc trực tiếp với nền văn minh tây phương, họ chẳng những ngỡ ngàng mà còn ú ớ nữa . Năm 1917, máy hát dĩa chạy bằng dây thiều nhập vào Việt Nam . Nhà giàu miệt vườn là trong số những người mua sắm máy hát đầu tiên . Khi nghe máy hát, có nhiều người sợ hãi bảo nhau : "Trong đó, có hồn người ta bị bắt nhốt vào nên nó mới hát thành tiếng . Chứ máy bằng sắt thì làm gì nói ra tiếng người ta được". Còn thấy máy chụp hình thì họ càng sợ hãi hơn nữa, vì họ cho là máy chụp hình sẽ "hốt hồn vía" của họ mất đi . 4.- Khi phong trào cách mạng Duy Tân phát động năm 1919, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để đến Mỹ Tho, Tân Châu, Cao Lãnh vận động quần chúng . Qua năm 1910, có thêm những nhà cách mạng, như ông Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Võ Hoanh từ Côn Đảo được đưa về và chỉ định an trí ở Bến Tre, Mỹ Tho, Sa Đéc . Những nhân sĩ Nam Kỳ theo phong trào Duy Tân, Đông Du như các ông Nguyễn An Khương, Nguyễn An Cư, Nguyễn Thần Hiến, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Quang Diêu, gốc Nho học nên chịu ảnh hưởng Tôn Dật Tiên "Tiết chế tư bổn, bình quân địa quyền". Hưởng ứng cuộc vận động cách mạng dân tộc của các nhà ái quốc này, thanh niên Nam Kỳ dấn thân theo chương trình Đông Du đông đảo hơn những nơi khác, và dân Nam Kỳ đóng góp tiền bạc cũng nhiều hơn những nơi khác . Sách báo bằng quốc ngữ, nhờ những điều kiện thuận lợi của địa phương nên xuất hiện ở xứ Nam Kỳ phải nói là rất sớm, vào cuối thế kỷ 19 . Về truyện, có "Thầy Lazaro Phiền" của Nguyễn Trọng Quảng, mà ngày nay người đọc vẫn hiểu được như thường bỡi lời văn tuy có xưa nhưng vẫn không quá khác biệc với chữ nghĩa ngày nay . Về báo, có Gia Định báo xuất bản vào cuối thế kỷ 19 và kéo dài làm nhiều chục năm, qua đến cuối thập niên đầu của thế kỷ 20 . Lục Tỉnh Tân Văn tiếp theo và tồn tại khá lâu . Nam Phong và Phong Hóa, Ngày Nay chỉ xuất hiện sau, vào cuối tiền bán thế kỷ 20 . Cũng như về tiểu thuyết, đến năm 1923 mới thấy Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, trong lúc ấy, tiểu thuyết quốc ngữ của Hồ Biểu Chánh đã ra mắt vào năm 1916 . Thế mà văn học sử chỉ thấy ghi tiểu thuyết quốc ngữ chỉ có Tố Tâm, Tự Lực Văn Đoàn và báo, chỉ có Nam Phong, Phong Hóa, Ngày Nay . Điều đáng buồn là không được ghi nhận sự "có mặt" của sách báo Nam Kỳ, chứ không phải được ghi vào danh mục rồi bị phê bình là "dở quá", không xứng đáng là tác phẩm văn học ! 5.- Một sự kiện văn hóa Đồng Bằng Sông Cửu Long nổi bật rực rỡ chỉ trong vòng không quá hai năm, thâu phục hơn 2 triệu người, đủ thành phần xã hội, nam nữ, tuổi tác và đưa số người này khuôn vào nếp sống hướng thượng, lành mạnh, đạo đức và đầy lòng ái quốc . Đó là sự ra đời của Phật Giáo Hòa Hảo vào năm 1939, tại Châu Đốc . Các nhà ái quốc tiền bối đau lòng cho vận nước, không ngại gian khổ, bôn ba ra hải ngoại vận động cứu nước như phong trào Duy Tân, Đông Du . Nối tiếp công cuộc đó, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, trước tiønh hình thế chiến bùng nổ, vận mạng Việt Nam còn trong vòng kiềm chế của thực dân, bèn đứng lên vận động quần chúng ngay nơi Ngài sinh trưởng, tức quần chúng nông dân miền Đồng Bằng Sông Cửu Long . Ngài ý thức sức mạnh đánh đuổi ngoại bang giành độc lập cho đất nước không tìm ở đâu khác hơn là ở ngay đồng ruộng miền Nam . Cũng như về tu Phật, Ngài dạy "Phật tại tâm chứ đâu mà tìm". Trào lưu văn minh Tây phương đã làm đảo điên xã hội, Ngài cổ súy chấn hưng phong hóa nước nhà, đồng thời thức tỉnh lòng ái quốc ở người dân để thành lập phong trào nhơn dân tranh đấu cứu nước. Ngài lấy đạo dạy đời làm căn bản : "Đời không đạo, đời vô liêm sỉ Đạo không đời, đạo biết dạy ai". và sống đời sống của người Phật Giáo Hòa Hảo lấy Tứ Đại trọng Ân làm kim chỉ nam : "Tu đền nợ nước cho rồi Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen". Trước đó, năm 1927, tại miền Đông xuất hiện Cao Đài Đại Đạo . Đây cũng là một tôn giáo ái quốc của xứ Nam Kỳ, vùng đất vừa mới được khai mở, thiếu cái gốc ngàn năm của đất Thăng Long hay đất Thần Kinh . Cao Đài xuất hiện ở miền Đông viø dân Hai Huyện văn minh hơn, có học Tây nhiều hơn, và số người làm việc cho bộ máy hành chánh của Tây cũng đông đảo hơn . Từ đó, cách tổ chức, hành đạo, truyền bá giáo lý của Cao Đài Đại Đạo đều mang tính khoa học tây phương . Người khai mở đạo là một vị Đốc Phủ Sứ . Những người cầm đầu mối đạo cũng là những người thuần tây học. Và Cao Đài mở rộng trong tầng lớp trung lưu, công tư chức Nam Kỳ . lV.- GIỜ ĐÂY VÀ NƠI ĐÂY* Hội Ái Hữu Đồng Bằng Sông Cửu Long là một tập hợp những người Việt hải ngoại, ngày nay đến đây lập nghiệp .Tất cả cùng có chung quê hương thuộc vùng sông nước ấy . Trước kia, tiền nhân của họ đã một lần rời bỏ làng xóm, quê hương theo bước chân nam tiến đến vùng đất xa xôi, từng bước định cư, lập nghiệp và cùng nhau thành lập miền Đồng Bằng Sông Cửu Long . Giờ đây, con cháu của họ lại một lần nữa rời quê hương của ông cha để lại, tản mạn ra hải ngoại ở khắp nơi . Rồi ở đây, họ cùng nhau dựng lại Đồng Bằng Sông Cửu Long với những con người "miệt vườn, miệt ruộng" thiệt, nhưng trên đất đai của xứ định cư . Nhưng Đồng Bằng Sông Cửu Long ở đây mới chính là "cái còn" của chúng ta, vì chúng ta đã dựng lại nó với tất cả tâm tình chân thật, với nếp văn hóa của lớp con cháu của những người trước kia khai mở nó . "Cái còn" này chúng ta phải trân quý, gìn giữ . Nếu để mất một lần nữa là chúng ta bị mất hết, mất trọn vẹn gia sản tiền nhân. Cũng như người con gái miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, trước làn sóng văn minh Tây Phương làm thay đổi nếp sống miệt vườn, cương quyết bảo vệ cho kỳ được cái nét đôn hậu ở người yêu : "Áo bà ba, vạt ngắn vạt dài Em may cả đống đó, sao anh không bận, mà anh bận chi hoài cái áo bành- tô " ? Quả thật, người con trai giật mình, thức tỉnh trước lời người con gái trách móc . Bổng tự nhiên anh cảm thấy những lời mộc mạc ấy có sức mạnh như một công án thiền . Không biết phải thốt lời gì khác hơn là tìm cách tự bào chữa cho mình . Lời ngụy biện nhưng rất có duyên chắc sẽ làm mát lòng người yêu : "Áo bành- tô xấu mặt nhưng dễ nhìn Anh bận nó hoài... để có cái túi bự ... mà anh đựng cục tình của em... " Nguyễn văn Trần, Nông dân " Miệt ruộng phèn " Cần Giuộc Ghi chú : *Ghi lại buổi nói chuyện hôm lễ giới thiệu Hội Ái Hữu ĐBSCL tại Vancouver, với vài sửa đổi nhỏ Áo Bành-tô là áo của Tây, như áo " Vết " ngày nay . Sơn Nam, Đồng Bằng Sông Cữu Long, Xuân Thu, TX, huê kỳ Sơn Nam, Tìm hiểu đất Hậu giang, Phù Sa, Saì gòn, 1959 Phan Khoang, Lich sử Đàng Trong, Sài gòn, ( sd ) Nguyễn văn Hầu, Thoại Ngọc Hầu, Những cuộc Khai phá Miền Hậu giang, Hương Sen, Sài gòn, 1972 Vài tài liệu của Văn Khố pháp, tài liệu Hội thảo về "Âu Á" ở Aix-en-Provence ( bảng chụp thiếu ngày )
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 19, 2011 4:11:01 GMT 9
Những đạo giáo (sectes religieuses) ở Nam Bộ ___________ Phan Lạc Tuyên Ðạo giáo Bửu Sơn Kỳ Hương cũng như một số đạo giáo khác không phải là một tông phái của Phật giáo, tuy nó có phần nào dùng một số giáo lý Phật giáo. Thực sự đây là một đạo giáo cứu thế (religion messianiste) đã dược khai sinh không những ở Nam Bộ mà cả ở vùng Ðông Nam Á như Philippines, Indonesia. Có nhiều đạo giáo tương tự hình thành trong những điều kiện nhất định của thời điểm chính trị và không gian xã-hội : khi chủ nghĩa thực dân đế quốc xâm lược vùng Ðông Nam Á vào thế kỷ 16 trở đi, dù bọn vua quan phong kiến có đầu hàng hoặc thỏa hiệp với bọn thực dân xâm lược thì tầng lớp sĩ phu và nông dân yêu nước vẫn chống lại bằng mọi hình thức. Không thể chống lại công khai bằng bạo lực quân sự, nho sĩ và nông dân với khuynh hướng quốc gia cực đoan, bài ngoại và mê tín đã sử dụng đạo giáo và thần quyền để tập hợp và tổ chức một cách bán hợp pháp hoặc hợp pháp bí mật, hoặc công khai những lực lượng chống xâm lược ngoại bang và sự bóc lột của bọn phong kiến chủ đất, lúc ấy đã đầu hàng hoặc thỏa hiệp với thực dân ngoại bang. Như vậy bản thể của những đạo giáo trong lúc đó là nông dân, nho sĩ yêu nước, chống phong kiến và chịu ảnh hưởng của những trào lưu đạo giáo cứu thế vốn sẵn có của xã hội Ðông phương. - Nam Bộ, những đạo giáo như : Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo v.v... cũng đều mang những thuộc tính như vậy. 1) Ðạo Bửu Sơn Kỳ Hương : 1849 Hoàn cảnh lịch sử khi ra đời của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương vào giữa thế kỹ XIX (1849) là trong hoàn cảnh đất nước và xã hội cực kỳ rối ren từ Bắc vào Nam. Trong khi đó xã hội suy thoái, vua quan ngu dốt, bất tài, lại thêm nạn tham nhũng, bóc lột, sưu cao thuế nặng, triều đình kỳ thị chém giết tôn giáo : cấm đạo Gia Tô, cấm lập chùa thờ Phật. Nạn mất mùa, đói kém, kinh tế phá sản, các bệnh dịch hoành hành đã khiến nhiều cuộc khởi nghĩa và bạo động nổ ra khắp mọi nơi. Lợi dụng cơ hội này, thực dân Tây phương tác động bằng nhiều cách để gây rối loạn nhằm thực hiện ý đồ xâm lược. Trong điều kiện lịch sử như vậy, lòng dân ly tán, cố chống lại triều đình và bọn địa chủ mới đang phát triển. Ở miền Bắc có các cuộc khởi nghĩa của nông dân và nho sĩ như : Phan Bá Vành năm 1826 (Thái Bình, Nam Ðịnh), Lê Duy Lương năm 1833(Ninh Bình, Hưng Hóa), Nông Văn Vân năm 1833 (Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang). - miền Nam có cuộc khởi nghĩa của Lê văn Khôi năm 1833. Thực chất đây là cuộc khởi nghĩa của nho sĩ, nông dân nghèo và dân tộc thiểu số chống lại nạn áp bức bóc lột của triều đình, bọn chủ đất và sự đô hộ của thực dân Pháp. Người sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là ông Ðoàn Minh Huyên, đạo hiệu Giác Linh, sinh năm 1807 ở làng Tòng Sơn, tỉnh Sa Ðéc (Ðồng Tháp) trong một gia đình nông dân. Ông học bình thường, đọc sách Phật từ lúc cón nhỏ. Ông lập đạo từ năm 1849, lúc ông đã ngoài 40 tuổi và nơi truyền đạo đầu tiên là đình làng Kiển Thạnh, tỉnh Long Xuyên. Thời điểm ông truyền đạo là năm nông dân mất mùa đói kém, nhiều nơi có giặc cướp nổi dậy, bệnh dịch lan tràn, dân chúng điêu linh. Ông vừa giảng đạo, vừa chữa bệnh bằng thuốc và nhiều người đã khỏi bệnh. Họ tin vào pháp thuật của ông. Do đó dân chúng tôn ông làm Phật thầy Tây An vì khi ông chữa bệnh tại Tây An cổ tự ở Châu Ðốc, mọi người gọi ông là "Phật sống". Ông tự gọi đạo của ông là Bửu Sơn Kỳ Hương và có bài thơ truyền tụng : Bửu ngọc quân minh thiên Việt nguyên Sơn trung sư mạng địa Nam tiền Kỳ niên trạng tái tân phục quốc Hương xuất trình sanh tạo nghiệp yên. và cho rằng Bửu Sơn Kỳ Hương lấy Thất Sơn là nơi xuất phát sẽ tỏa sáng năm châu bốn biển và lúc đó hòa bình thịnh vượng lâu dài. Ðạo Bửu Sơn Kỳ Hương lấy tứ đại trọng ân làm nền tảng. Bốn ân lớn đó là : - Ân tổ tiên cha mẹ. - Ân đất nước. - Ân tam bảo. - Ân đồng bào, nhân loại. Bửu Sơn Kỳ Hương khuyên mọi người học Phật tu nhơn (tu nhân, tích đức và niệm Phật). Sau một thời gian truyền đạo, triều đình nghi ông nổi loạn nên ông bị Tổng Ðốc An Giang bắt giam, sau đó ông được thả ra, nhưng ông vị bắt buộc phải tu tại Tây An cổ tự để triều đình dễ bề kiểm soát những hành động của ông. Sau bảy năm giảng đạo, năm 1856 Phật Thầy Tây An viên tịch tại Tây An cổ tự ở Núi Sam (Châu Ðốc) và phần mộ ông nay còn ở đó. Hai mươi tám năm sau khi ông mất (1884), triều đình Huế đầu hàng thực dân Pháp xâm lược, nhưng phong trào kháng Pháp trong nhân dân lại bùng lên mạnh mẽ ở Nam Bộ. Hầu hết các tín đồ của Bửu Sơn Kỳ Hương đều tham gia vào cuộc kháng chiến. Trong số những tín đồ đã có những người là lãnh tụ của cuộc kháng chiến như Trương Công Ðịnh (1862) tức Bình Tây Ðại nguyên soái, Nguyễn Trung Trực (1861) - người anh hùng "Hỏa hồng Nhật Tảo", đốt cháy tàu chiến Espérance của quân xâm lược Pháp tại sông Nhật Tảo, Trần văn Thành (1867) khởi nghĩa tại vùng Láng Linh thuộc tỉnh An Giang. Thực dân Pháp có bọn tay sai giúp đỡ đã đàn áp tàn bạo. Sau khi phong trào kháng chiến chống Pháp tạm thời thất bại, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương lại được tiếp tục dưới hình thức giảng đạo trong nông dân vùng An Giang. Trong số những ông đạo có : Ðức Phật Trùm năm 1868 tự nhận là hậu thân của Phật Thầy Tây An giáng thế, cho sử dụng lòng phái màu đỏ có dấu Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông Phật Trùm là người Khmer, đã truyền đạo sang cả đất Campuchia. Thực dân buộc tội ông làm loạn và bắt đi đày nhưng sau đó thả về. Ông mất tại núi Tà Lơn năm 1875. 2) Ðạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa : Người sáng lập đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là ông Ngô Viện, húy là lợi nên gọi là Ngô Lợi. Ông sanh năm 1831 tại Mỏ Cày (Bến Tre), ông tự học lấy, đọc sách Phật và năm 20 tuổi viết Bà La Ni kinh. Ông lập đạo năm 36 tuổi (1876), tự xưng là Ðức Bổn sư và khi nhận đệ tử, ông cũng phát lòng phái có dấu Bửu Sơn Kỳ Hương. Năm 1872, ông đưa các tín đồ tới xã An Lộc (An Giang) dựng chùa, thành lập và truyền bá đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa (TÂHN). Sau đó ông đưa một số đệ tử vào vùng Thất Sơn (Bảy Núi) khai hoang lập trại ruộng ; và trong 14 năm lập ra bốn thôn : An Ðịnh, An Hòa, An Thành và An Lập, thôn nào cũng đều cất chùa giảng kinh. Ðạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa thờ trần điều, thờ Phật, Sơn thần và trăm quan cựu thần liệt sĩ. Về giáo lý, ông Ngô Lợi tiếp tục hoằng pháp như Bửu Sơn Kỳ Hương : Tứ đại trọng ân, học Phật tu nhơn nhưng không ly gia cát ái, không ăn chay trường và cũng hạn chế sát sanh. Về cách đối nhân xử thế thì theo đạo Nho, đạo Lão và theo Thiền Tông. Tín đồ TÂHN mặc áo vạt hò, quần lá nem nhuộm đen, bới tóc hoặc để xõa tự nhiên, đi chân đất, trước cửa nhà có bàn thờ thiên hai tầng, thờ thiên La thần và Thổ Trạch Long thần. Các tín đồ tụng riêng những kinh của đạo này lập ra như : Phổ Ðộ Bàn Ðào, Linh Sơn Hội Thượng... Pháp môn tu hành của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là : - Trì niệm theo Thiền tông ; - Xử sự theo Nho giáo. - Luyện tinh, khí, thần theo Lão giáo. - Ấn quyết, thần chú theo Mật tông. Vào ngày 15 tháng 07 năm Tân Tỵ (1881), nhân dịp một buổi hành lễ lớn, thực dân Pháp cho quân vào đàn áp, bắt bớ bắn giết khiến mọi người phải chạy lánh nạn sang Campuchia, sau đó ít tháng lại trở về chỗ cũ. Năm 1885, thực dân Pháp lại đem quân vào càn quét lần thứ hai, đốt phá chùa chiền, khiến mọi người phải chạy trốn, nhưng sau đó ông Ngô Lợi lại dẫn tín đồ trở về. Năm 1887, thực dân Pháp lại cùng tay sai là Tổng đốc Trần Bá Lộc kéo quân vào đàn áp hai lần, bắt nhiều tín đồ đày ra Côn Ðảo và bắt buộc các tín đồ còn lại phải trở về nguyên quán. Năm 1888, ông Ngô Lợi lại bị bắt nhưng trốn thoát nhờ sự che chở của nhân dân quanh vùng này. Như vậy trong 12 năm (1876-1888), thực dân Pháp đã đàn áp đạo TÂHN bảy lần (tín đồ gọi là đạo nạn), đốt phá chùa chiền, bắt bớ, tra tấn, tù dày và đốt nhà cửa tín đồ, quyết triệt hạ đạo một cách vô cùng man rợ. Ðức Bổn sư Ngô Lợi viên tịch năm 1890 tại núi Tượng. Ít lâu say đó có sự phân hóa trong đạo TÂHN. Vì không còn ai kế vị nên mọi việc đều giao cho ông Trò, ông Gánh phụ trách. Do vậy, mỗi nơi hành đạo khác nhau, thậm chí có một số vị làm phù chú chữa bệnh rơi vào sự mê tín dị đoan làm sai lạc giáo lý ban đầu của đạo. Cho đến năm 1902, tại vùng kinh Vĩnh Tế xuất hiện một nhà sư vóc dáng gầy ốm, ăn mặc kiểu đàn bà, chèo thuyền vừa đi bán khoai vừa giảng đạo "Sấm giảng người đời" được một thời gian thì mất dạng. Dân trong vùng gọi là Sư Vãi bán khoai. Tín đồ TÂHN cho đó là hậu thân cúa Phật Thầy Tân An tái xuất hiện để giảng đạo cứu đời. 3) Ðạo Hòa Hảo : Người lập ra đạo Hòa Hảo là ông Huỳnh Phú Sổ, sinh năm 1918 tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh An Giang (có sách nói sanh năm 1919). Theo tín đồ đạo Hòa Hảo thì họ tin ông là hậu thân của Phật Thầy Tây An đã nhiều lần chuyển kiếp qua đức Bổn sư Ngô Lợi (1831) (TÂHN), đức Phật Trùm 1868 và Sư Vãi Bán Khoai (1902). Ông lập đạo Hòa Hảo năm 1939 và cũng vừa đi chữa bệnh vừa đi giảng đạo. Ông bị Pháp bắt năm 1940, cho vào nhà thương điên Chợ Quán, sau họ đưa ông về giam Bạc Liêu. Khi Nhật hất Pháp (1945), quân đội Nhật cứu ông Huỳnh Phú Sổ mang về Sài Gòn và trả tự do cho ông năm 1944, từ đó ông tiếp tục đi khuyến nông và giảng đạo trong khu vực Hậu Giang... Năm 1945, ông Huỳnh Phú Sổ có tham gia UBKCNB (Ủy Ban Kháng Chiến Nam Bộ) và sau đó mất tích trong một trường hợp khó hiểu vào tháng Tư 1947 tại Ðốc Vàng (Ðồng Tháp Mười) mà tín đồ Hòa Hảo ngày nay cho rằng ông tạm vắng mặt (?). Ông Huỳnh Phú Sổ được tín đồ tôn là Huỳnh Giáo chủ, vẫn lấy giáo lý Tứ Ân làm căn bản nhưng chủ trương bài trừ mê tín dị đoan, bỏ lệ cúng kiến, gõ mõ tụng kinh và không vẽ hình đúc tượng. Ông soạn ra một số kinh sách như : Sấm giảng người đời, Thi văn giáo lý... Tại mỗi thôn ấp đều có Ðộc giảng đường để giảng giáo lý Hòa Hảo. Cuối năm 1944, ông Huỳnh Phú Sổ lập ra Việt Nam Nghĩa sĩ đảng (đảng Dân xã), Mặt trận Quốc gia thống nhất và Mặt trận Quốc gia liên hiệp nhằm mục đích cũng cố địa vị của hoạt động này trong hoạt động chính trị. Sau khi ông Huỳnh Phú Sổ biệt tích, một số đệ tử như Năm Lửa (Trần văn Soái), Phàn Lê Huê (Nguyễn thị Gấm - vợ Năm Lửa), Hai Ngoán (Lâm Thành Nguyên), Ba Gà Mổ (Nguyễn Giác Ngộ), Chín FM, Trương Kim Cà đua nhau tập hợp tín đồ, thành lập lực lượng vũ trang riêng, cát cứ từng vùng để "mưu đồ bá vương", bóc lột lớp tín đồ nông dân sùng đạo, và có khi họ đánh lẫn nhau. Số chức sắc này hợp tác với Pháp và sau đó lại về đầu hàng Diệm - Nhu (Nguyễn Giác Ngộ được phong thiếu tướng, Ba Cụt trung tá). Nhưng sau ít lâu họ lần lượt bị Diệm - Nhu sát hại hoặc thanh toán bằng cách này hay cách khác. Trong chế độ thực dân cũng như tay sai của đế quốc, một số người đầu cơ chính trị đã lợi dụng đạo Hòa Hảo để truyền bá mê tín, lừa dối nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, đưa họ vào những hành động sai trái đối với Tổ quốc như Hai Lực chỉ huy nóm Dân vệ Hòa Hảo, nhóm Hai Bành... Thế lực đế quốc ngoại bang cũng đã âm mưu lâu dài gây ảnh hưởng văn hóa - kinh tế trong vùng nhân dân Hòa Hảo bằng nhiều biện pháp kinh tế và văn hóa, đặc biệt là đã thành lập Viện đại học Hòa Hảo và cho nhiều sinh viên, trí thức Hòa Hảo đi du học ở Mỹ, Pháp, Nhật...để gây cơ sở và uy tín trong giới trí thức. Từ 1954 tới ngày giải phóng miền Nam, một số đông anh em binh sĩ trong các trung đoàn của Ba Cụt cũ (trung đoàn Nguyễn Huệ, Lê Quang) ở vùng Ðồng Tháp Mười đã cùng với những cán bộ kháng chiến cũ thành lập lực lượng vũ trang chống Diệm - Nhu từ 1957 và những đơn vị này đã tham gia tích cực vào cuộc đồng khởi ở Ðồng Tháp năm 1960. 4 ) Ðạo Cao Ðài : Nếu những đạo giáo khác như : Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo phát triển trên cơ sở nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long thì đạo Cao Ðài lại mang bản thể hoàn toàn khác hẳn. Ðạo này được lập ra do một số công chức hạng trung của chế độ thực dân Pháp và những đại diện chủ nghĩa tư sản và công chức của Pháp (từ tri huyện đến thông phán, ký lục, hội đồng...) và phát triển chủ yếu ở Sài Gòn, các đô thị và thị trấn miền Ðông Nam bộ, nơi có tòa thánh Cao Ðài Tây Ninh. Sau đó phát triển ra miền Trung ở Quảng Ngãi và có một thánh thất ở Hà Nội. Ðạo này có tham gia những cuộc họp tôn giáo ở nước ngoài và có lập thánh thất tại Phnom Pênh. Một số bà con Khmer ở Tây Ninh cũng vào đạo Cao Ðài. Ðạo Cao đài được thành lập là do Ðức Cao Ðài giáng cơ cho ông Ngô Văn Chiêu lúc đang làm Tri phủ ở Phú Quốc vào năm 1921. Năm 1925 ông được đổi về Sài Gòn và cùng lúc đó nhóm của một số công chức của Pháp như Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư... cũng cầu được cơ của Ðức Cao Ðài tìm đến và bàn nhau lập đạo. Sở dĩ đạo có tên gọi "Tam kỳ phổ độ" là vì đã có hai kỳ thượng đế đã lập đạo, nay Cao Ðài là lần thứ ba và lấy thiên nhãn làm biểu tượng. Ðạo Cao Ðài chủ trương thống nhất các tôn giáo : Phật giáo : Thích Ca Mâu Ni Tiên giáo : Lão Tử Nho giáo : Khổng Tử Thánh giáo : Jésus Christ Thần giáo : Mahomet Việc lãnh đạo giáo hội do ba cơ quan là Bát quái đài, Hiệp thiên đài do Hộ pháp cai quản và Cửu trùng đài do Giáo tông cai quản. Phía trước Tòa thánh Tây Ninh có vẽ thiên nhãn và một bảng hiệu trong có ghi hàng chữ : Dieu, Humanité, Amour, Justice (Thượng đế, Nhân loại, Tình thương, Công lý) và hình ba vị thánh là Tôn Dật Tiên, Victor Hugo và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngoài ra đạo Cao Ðài còn thờ các vị thần, thánh của các tín ngưỡng và tôn giáo khác như : Brahma, Civa, Krishna (Vishnou), Khương Thái Công, Quan Công, Lý Thái Bạch, Quan Thế Âm. Về kiến trúc, điêu khắc, cách thờ phụng, y phục, kinh kệ của đạo Cao Ðài là sự pha tạp, hỗn hợp của đủ các thứ tín ngưỡng và tôn giáo Ðông, Tây, kim, cổ ; do đấy được mệnh danh là đạo hỗn hợp (Syncrétisme). Ðạo Cao Ðài có xu hướng thân Nhật ngay từ đầu và suốt từ 1945 đến 1954, lúc thì họ hợp tác với Nhật để đánh Pháp (Trần Quang Vinh chỉ huy quân lực Cao Ðài), lúc thì họ hợp tác với Pháp để chống lại nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp (lực lượng Cao Ðài của Nguyễn Thành Phương, Lê văn Tất). Sau hiệp định Genève (1954), họ lại hợp tác với Diệm -Nhu (Trịnh Minh Thế, Nguyễn Thành Phương...). Cũng có một số tín đồ Cao Ðài đã giác ngộ Cách mạng và tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước, liên hiệp hành động với MTDTGPMNVN như lực lượng Cao Ðài của thiếu tá Huỳnh Thanh Mừng đã liên hiệp hành động với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam trong thời kháng chiến chống Mỹ. Tín đồ Cao Ðài phần lớn ở khu vực Tây Ninh, Bến Tre và thành phố Hồ Chí Minh. Tới nay đạo này đã phân hóa thành nhiều nhóm và không thống nhất với nhau. Số tín đồ toàn Nam bộ lối một triệu người. Ðạo Cao Ðài chia ra nhiều chi phái như Cao Ðài Nguyễn Ngọc Tường, Cao Ðài Câu Khe, Minh Ký... 5 ) Ðạo Dừa : Ðạo Dừa do ông Nguyễn Thành Nam sanh năm 1909 tại Phước Thạnh (Bến Tre) lập ra. Ông đậu kỹ sư hóa học ở Pháp, đã có vợ con. Ðến năm 1943, ông bỏ gia đình vào núi Thất Sơn tu khổ hạnh. Một thời gian sau, ông trở về và ở nhiều nơi để tu đạo, từ Sài Gòn tới Mỹ Tho, Bến Tre. Ðến năm 1964 ông dựng tại cồn Phụng thuộc tỉnh Bến Tre một đài bát quái cao 18 mét để ngồi tu, người ta đồn rằng hàng ngày chỉ uống nước dừa để sống, do đấy có tên là Ðạo Dừa. Ông cũng có ăn thêm trái cây và đặc biệt vài năm mới tắm có một lần và ở trên đầu tóc đanh lại. Ðạo Dừa chủ trương thờ cả Phật Thích Ca lẫn Chúa Jésus, không dựng cốt Phật, chỉ dựng Cửu trùng đài và theo cả giáo lý Phật, Lão, Nho. Sau mỗi lần tụng niệm (những bài tụng do ông viết ra) đều đọc Nam Mô A Di Ðà - Amen. Ông tự xưng là Thiên nhơn giáo chủ Thích Hòa Bình Nam Nguyễn Thành, và nơi tu tại cồn Phụng có tên là chùa Nam Quốc Phật. Ông mua một chiếc tàu cũ, sửa lại và đặt là thuyền Bát nhã (nay là nhà hàng nổi của Công ty Ăn uống tỉnh Bến Tre), lấy làm nơi tu hành. Trong thời chiến tranh chống Mỹ, có một số người Mỹ đến tu với ông Ðạo Dừa, trong số này có con trai của nhá văn J. Steinbeck với những lý do không bình thường. Tín đồ Ðạo Dừa ngày càng phân hóa thành nhiều nhóm nhỏ đi các nơi lập chùa miếu như nhóm Ðạo Chín Hồng ở Thủ Ðức, nhóm Nguyễn Văn Sự ở Long Thành, nhóm Hòa đồng tôn giáo của Lý Văn Thạnh ở Chợ Lớn... mang nặng tính mê tín dị đoan. Số tín đồ Ðạo Dừa không đông lắm, chỉ tập trung tại cồn Phụng và không có ảnh hưởng tới nơi khác. 6 ) Những nhóm đạo giáo khác : Ngoài những tôn giáo lớn và đạo giáo kể trên tại Sài Gòn và Nam bộ, còn có nhiều nhóm đạo giáo khác được hình thành, nhất là sau hiệp định Genève 1954. Ta có thể kể đến : - Hội Thông thiên học. - Ðạo Ba-hai (Baha'i-gốc ở Arab). - Ðạo Subud (gốc ở Indonesia). - Việt Võ Ðạo. - Hồng môn Minh đạo. - Tổ tiên Chính giáo. - Thiên khai Huỳnh đạo. và v.v... Những nhóm đạo giáo này không phát triển rộng rãi và chỉ có một số ít đồng bào theo đạo vì tin vào "phép lạ", thần quyền và mê tín dị đoan. Sau ngày giải phóng miền Nam (30.04.1975), những nhóm đạo giáo này phần lớn đã tự giải tán. Ðể ổn định và hóa giải những sự tồn tại trong các đạo giáo kể trên, điều quan trọng là chúng ta phải thấy đại đa số tín đồ các đạo này là nông dân nghèo, chưa có trình độ văn hóa và khoa học nên dễ bị ảnh hưởng về dị đoan mê tín, thần quyền. Ðồng thời bà con nông dân đều có tinh thần yêu nước nồng nàn, có tâm hồn chất phác, cần cù chịu khó, hào hiệp và có truyền thống bảo vệ văn hóa dân tộc. Giải quyết vấn đề ở đây cơ bản vẫn phải là nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa, đưa khoa học kỹ thuật vào cuộc sống, chống quan liêu, tham nhũng, bóc lột, dù bất cứ dưới dạng nào. Vấn đề công bằng xã hội, tự do tín ngưỡng phải được bảo đảm triệt để, để bảo đảm thực thi chính sách, đường lối của Nhà nước./. Phan Lạc Tuyên Nguyệt San Giác Ngộ số 30-32 (tháng 9/1998) Nguyên Ninh đánh máy
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 17, 2011 2:57:25 GMT 9
NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM
G.S. Nguyễn Thanh Liêm Văn hóa là gì? Một cách tổng quát có thể hiểu văn hóa là lối sống (life style) của một nhóm người ở trong một khu vực địa lý nào đó hay rộng hơn là của cả một dân tộc trong một quốc gia. Có xã hội loài người là có văn hóa vì có những sinh hoạt có ý thức của con người. Ngôn ngữ, tư tưởng, tín ngưỡng, các hoạt động kinh tế, các kỹ thuật, các sinh hoạt nghệ thuật, cách xử sự ở đời, cách ăn mặc, các thứ lễ nghi...tất cả mọi hoạt động của con người trên cõi đời này đều thuộc về văn hóa. Khi mở mắt chào đời ta đã được đặt trong một cộng đồng, một xã hội, một nền văn hóa rồi. Văn hóa cổ truyền Việt Nam Khi nói đến văn hóa Việt Nam chúng ta nghĩ ngay đến nền văn hóa của người dân Việt từ thuở xa xưa nào đến giờ và từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, với một số những đặc tính nào đó gắn liền với con người và xã hội văn hóa Việt, làm cho nó khác biệt với những nền văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới. Nó bao gồm tiếng Việt, tư tưởng Việt, tôn giáo tín ngưỡng Việt, lễ nghi Việt, quần áo thức ăn Việt, vv.. Vì mang những đặc tính rất đặc biệt của dân tộc Việt Nam từ nhiều năm qua nên văn hóa dân tộc thường được đồng hóa với văn hóa cổ truyền hay truyền thống văn hóa Việt. Đó là nền văn hóa mà hầu hết người Việt Nam chúng ta đều nghĩ rằng nó là của chung của chúng ta do tổ tiên ta dựng nên từ hơn bốn ngàn năm qua. Văn hóa biến đổi Những người thiết tha với văn hóa Việt Nam, muốn làm cái gì tốt đẹp cho văn hóa nước nhà thường có thể nghĩ đến một mặt bảo tồn nền văn hóa cổ truyền của dân tộc và mặt khác phát huy hay tân tiến hóa nền văn hóa đó để xây dựng nên một nền văn hóa mới. Và khi nói đến bảo tồn hay phát huy hay tân tiến hóa là phải nói đến sự biến đổi của văn hóa. Không có một nền văn hóa nào đứng yên một chỗ, không có một nền văn hóa nào có thể giữ nguyên trạng thái của nó từ buổi ban đầu cho đến bây giờ dù người ta có cố bảo tồn duy trì nó mãi. Kết quả của những công trình nghiên cứu về văn hóa của các nhà văn hoá nhân loại học (cultural anthropology) cho thấy không có một nền văn hóa nào hoàn toàn giữ được nguyên vẹn những đặc tính của nó qua thời gian. Bất cứ nền văn hóa nào, dù ở trong những xã hội đóng kín không có những tiếp xúc với bên ngoài đi nữa, vẫn ít nhiều thay đổi theo thời gian. Nhịp điệu biến đổi có thể từ rất nhanh, đến nhanh, hay chậm và rất chậm, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp. Phần nhiều các nền văn hóa đều thay đổi rất chậm nếu không có những va chạm/xung đột lớn lao như sự va chạm/xung đột giữa văn hóa Á Đông và văn minh Âu Tây hồi thế kỷ XIX-XX. Nhưng dầu chậm nó vẫn phải thay đổi mặc dầu trong đà biến đổi tự nhiên của văn hóa bao giờ cũng có khuynh hướng chóng chọi lại không nhiều thì ít. Sự biến đổi trong văn hóa Việt Nam Văn hóa Việt Nam không tránh được những định luật thay đổi tự nhiên đó theo thời gian và không gian. Từ trước thời Bắc Thuộc cho đến cuối thế kỷ XX nền văn hóa Việt Nam đã có nhiều thay đổi theo thời gian. Một số những tập tục xưa được ghi chép trong sách sử bây giờ không còn tồn tại nữa, hoặc chỉ còn sót lại trong các thế hệ trước đây ở một ít vùng quê xa xôi mà thôi như tục xăm mình, ăn trầu, nhuộm răng chẳng hạn. Ngược lại có những thói quen mới chỉ xuất hiện gần đây chớ không có trong xã hội xưa như thói quen uống cà phê buổi sáng hay bắt tay khi chào nhau. Tư tưởng, khoa học, kỹ thuật thay đổi nhiều từ khi có công cuộc đô hộ của người Pháp hồi cuối thế kỷ XIX. Trong quá trình bành trướng lãnh thổ từ Miền Bắc vào Miền Nam nền văn hóa Việt Nam cũng có nhiều thay đổi theo không gian, theo môi trường sinh sống, từ thức ăn, quần áo, đến cách phát âm tiếng Việt, làng mạc, tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật, tâm lý, tư tưởng, vv... Về thức ăn chẳng hạn. Người Bắc có bún chả trong khi người Nam thì có bún thịt nướng tuy cả hai thứ đều dùng những mẫu số chung là bún, thịt nướng, rau sống và nước mấm, chỉ khác nhau ở phần sắp xếp trình bày. Người Bắc thì để chung thịt nướng vào trong chén với nước mấm còn bún với rau thì để riêng cho khách tùy nghi, trong khi người Nam để chung tất cả các thứ vào trong cái tô với một chén nước mấm để riêng để khách hàng tùy nghi chan vào. Nếu lấy bún với nước lèo làm mẫu số chung thì ta có bún thang bún riêu bún ốc của người Bắc, bún bò Huế của người Trung, và bún mấm với bún nước lèo của người Nam. Nước lèo là tiếng Nam trong khi nước dùng là tiếng Bắc, tuy hai tiếng chỉ cùng một thứ nước dùng cho các loại bún nói trên. Cách ăn mặc cũng có chỗ khác nhau từ chiếc áo tứ thân của người Bắc đến chiếc áo bà ba của người Nam. Đàn ông miền Nam theo Tây sớm hơn trong khi nhiều người đàn ông miền Bắc vẫn còn mặc áo dài theo xưa. Hồi thập niên 1950 ở Đại Học Văn Khoa và Cao Đẳng Sư Phạm Saigòn người ta thấy mấy cụ giáo sư Cử/ Tú từ miền Bắc vào (cụ Bình, cụ Nghinh, cụ Quỳnh, cụ Chiểu, trừ cụ Nghè Giác) vẫn mặc áo dài khăn đóng đi dạy học trong khi các giáo sư lớn tuổi miền Nam (thầy Tấn, thầy Lúa, thầy Trụ, cụ Sển...) đều ăn mặc theo Tây. Về phương diện ngôn ngữ tuy cả ba miền đều sử dụng một thứ ngôn ngữ chung như nhau nhưng trên phần lớn ngữ vựng thông dụng cho cả ba miền còn có những tiếng địa phương đặc biệt chỉ xài cho một vùng hay một địa phương nào đó thôi. Có khi cùng một từ ngữ nhưng ý nghĩa lại khác nhau tùy theo miền. Cái hòm đối với người miền Nam là cái hàng để tẩn liệm người chết trong khi người Bắc dùng chữ đó với ý nghĩa của cái rương đựng đồ dùng của người miền Nam. Củ sắn của người Bắc là củ khoai mì của người Nam. Những tiếng xưng hô trong gia đình họ hàng cũng có chỗ khác biệt. Tiếng cô, chú, bác giữa người Nam và người Bắc rất khác nhau cũng như những tiếng dì dượng thì chỉ có người miền Nam và một số người miền Trung dùng đến. Khác biệt rõ ràng nhất là cách phát âm tiếng Việt của mỗi vùng, mỗi địa phương. Người miền Bắc phát âm đủ cả năm dấu, nhất là phân biệt được rõ ràng dấu hỏi và dấu ngã, phân biệt được phụ âm t và c ở cuối chữ (như phát và phác, phút và phúc...), nhưng lại không phân biệt được hai phụ âm tr và ch (trân châu và chân trâu chẳng hạn). Phần đông người miền Nam đều phân biệt các phụ âm tr và ch nhưng không phân biệt hỏi ngã và các phụ âm t và c ở cuối chữ. Đối với người bình dân miền Nam thì người Huế phát âm các dấu sắc hỏi ngã đều như dấu nặng, và người Quảng Nam/Quảng Ngãi thì phát âm những nguyên âm a như ơ và ơ như ô. Trên phương diện tôn giáo, tín ngưỡng, mặc dầu hầu hết người Việt Nam đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của tam giáo và đều xem sự thờ cúng tổ tiên như một tôn giáo chính của người Việt Nam nhưng riêng ở miền Nam thì ngoài căn bản tín ngưỡng đó còn có thêm những tôn giáo tín ngưỡng khác hơn chẳng hạn như Cao Đài giáo, Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo. Ở địa hạt nghệ thuật hát cải lương và câu ca vọng cổ là cái gì rất đặc biệt của người miền Nam trong khi hát chèo hát quan họ thì chỉ có người Bắc mới biết. Tiểu thuyết (như tiều thuyết của Hồ Biểu Chánh chẳng hạn) hay nói chung văn chương miền Nam có những sắc thái đặc biệt của người miền Nam mà chỉ những người sanh trưởng ở vùng đồng bằng sông Củu Long mới có thể thưởng thức được cái hay cái thích thú trong đó. Đặc biệt là tổ chức làng xã ở trong Nam không giống tổ chức xã thôn ở ngoài Bắc. Ở ngoài Bắc các xã thường được bao bọc bởi lũy tre xanh và có một cái cổng vào làng. Làng này cách biệt với làng kia bằng những ranh giới có thể nhận biết dễ dàng. Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long làng này tiếp nối với làng khác, không có cổng làng, không có lũy tre làm ranh giới. Nếu không phải là người ở tại địa phương thì khó mà biết được ranh giới giữa làng này với làng khác. Tổ chức hành chánh địa phương cũng khác với miền Bắc. Ở đây mỗi làng, dưới thời Pháp thuộc có ban hội tề gồm hương cả, hương chủ, hương sư, hương trưởng, hương quản...và chánh lục bộ, lo về việc cai trị, hành chánh trong làng. Ngoài ban hội tề còn có các vị bồi, bái, kề hiền... là những người lớn tuổi có nhiều uy tín trong làng thường giữ vai trò như cố vấn nhất là trong những việc tế tự lễ nghi. Ở miền Nam thời Pháp thuộc có những chức vụ không thấy có ở miền Bắc như Thầy Cai Tổng hay ông Hội Đồng. Tóm lại từ châu thổ sông Hồng Hà đến châu thổ sông Cửu Long lối sống của người dân Việt cũng như tổ chức xã hội Việt Nam đã có nhiều biến đổi. Điều kiện cần để có biến đổi Tại sao có những biến đổi như vậy? Môi trường sinh sống mới và sự tiếp xúc với những nền văn hóa khác là những điều kiện cần yếu đưa đến những biến đổi đó. Từ khi Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa và các chúa Nguyễn nối tiếp, xây dựng nên Đàng Trong thì bắt đầu có một nhánh văn hóa Việt biến dạng dần dần trở thành một chi nhánh văn hóa (subculture) có phần khác biệt với văn hóa cổ truyền ở miền Bắc. Sự cắt đứt liên hệ chính trị giữa Đàng Trong (Chúa Nguyễn) và Đàng Ngoài (Chúa Trịnh), sự phân tranh Nam Bắc và chia đôi lãnh thổ đã là cơ hội để tạo nên một chi nhánh văn hóa mới xa dần văn hóa cổ truyền. Đến thế kỷ XVII khi Họ Nguyễn chiếm hết cả miền Trung và rồi một số người miền Trung vào khai phá miền Nam khẩn hoang lập ấp xây dựng nên miền Nam thì một chi nhánh văn hóa khác nữa lại thành hình. Chi nhánh văn hóa mới này lại càng cách biệt với văn hóa gốc ở miền Bắc hơn nữa. Về phương diện địa lý và môi trường sinh sống, khác với những vùng đất đai chật hẹp khô cằn nằm giữa núi non và ven biển, miền Nam là cả một vùng đất hoang mênh mông chằng chịt sông rạch với không biết là bao nhiêu cá tôm rau cỏ cây trái. Đất đai lại rất phì nhiêu do phù sa mang lại. Khẩn hoang lập nghiệp tuy có cực nhọc nặng nề nhưng kết quả thu lượm dễ dàng và khả quan, đời sống tự nhiên ung dung thoải mái. Vùng mới lập này tuy có ít nhiều liên hệ với Chúa Nguyễn nhưng triều đình ở xa, tổ chức cai trị không chặt chẽ tùy thuộc ở triều đình Huế (chế độ tổng trấn), thêm vào đó còn có những biến cố chính trị làm thay ngôi đổi chủ nhiều lần cho nên tương đối có nhiều tự do địa phương. Nỗ lực chính của những thế hệ đầu tiên vào đây là khai khẩn đất đai, thiết lập đời sống mới nhiều hơn là trau dồi kinh sử để lãnh lấy mão áo chức tước của triều đình. Đời sống dễ dãi, tương đối thừa thãi về vật chất và tự do về tinh thần, đã không bắt buộc người dân Việt ở đây phải duy trì hay theo đúng những phong tục tập quán đã được mang vào Đàng Trong từ mấy thế kỷ trước. Sự lỏng lẻo của khuông phép từ thế hệ này sang thế hệ khác đã tạo nên một nếp sống mới, một tính tình và nhân cách mới, rộng rãi và phóng khoáng, với tâm hồn chân thật, chất phác, mở rộng để đón nhận những cái mới lạ hơn là khép kín để duy trì những cái đã có. Ngoài hoàn cảnh địa lý nói trên, trong quá trình mở rộng đất đai về phương Nam chi nhánh văn hóa Đàng Trong đã phải tiếp xúc va chạm với những nền văn hóa khác tạo nên điều kiện rất cần cho sự biến đổi về văn hóa. Có tiếp xúc với văn hóa khác là có cơ hội để nhìn thấy lối sống, cách hoạt động, sự tín ngưỡng, lề lối suy tư của một giống người khác. Từ đó có thể có những thích nghi với nhau hay vay mượn lẫn nhau ít nhiều từ tập quán, kỹ thuật, đến tín ngưỡng và nghệ thuật. Từ thế kỷ XVII người Đàng Trong đã có cơ hội gần gũi với văn hóa Chiêm Thành, đã nhìn thấy và hiểu biết lối sống của người dân Chàm. Sau đó sang thế kỷ XVIII người Việt khi bành trướng lãnh thổ về miền Nam lại có dịp sống bên cạnh người Miên và người Trung Hoa (Minh Hương, Triều Châu). Và gần đây hơn từ thế kỷ XIX người Việt ở đây lại có nhiều dịp để biết đến đạo Thiên Chúa cùng văn minh Tây Phương do người Pháp mang đến. Có thể nói miền Nam cũng na ná như xứ Mỹ, nó là một xã hội mới thành hình với nhiều chủng tộc sống lẫn lộn trong đó và với một nền văn hóa ít nhiều pha trộn đủ thứ. Nó như cái “melting pot” hay cái “salad bowl” của Việt Nam. Nó mang rất ít tính chất cổ truyền của nền văn hóa gốc. Điều kiện đủ để có biến đổi Sự gặp gỡ, tiếp xúc giữa các nền văn hóa thật ra chỉ là điều kiện cần mà thôi chớ chưa phải là điều kiện đủ để cho sự vay mượn, học hỏi xảy ra. Trường hợp của bốn bộ lạc lân cận trên vùng Nilgiri (Ấn Độ) chẳng hạn, cho thấy tuy có tiếp xúc văn hóa với nhau nhưng bốn bộ lạc khác nhau này không hề vay mượn nhau tí nào trong lối sống của họ. Các nhà văn hóa nhân loại học gọi trường hợp trên đây là “kinh tế, xã hội cọng sinh”(economic and social symbiosis) nghĩa là cùng sống với nhau về phương diện xã hội và kinh tế mà thôi nhưng không vay mượn nhau hay thích nghi với nhau về văn hóa (acculturation). Điều kiện đủ để đưa đến vay mượn và thích nghi văn hóa là sự có mặt của những yếu tố sau đây: (1) tinh thần khai phóng của người vay mượn, (2) sự tự do chấp nhận cái mới lạ của người vay mượn, và (3) sự lợi ích của những gì được vay mượn học hỏi. Văn hóa không thay đổi nếu các thành phần trong nền văn hóa đó không có tinh thần cởi mở, không chấp nhận những cái mới lạ của nền văn hóa khác. Mặt khác dù các thành phần chấp nhận những cái mới lạ của văn hóa khác nhưng không có tự do để học hỏi, thực hiện thì văn hóa cũng không có cơ hội thay đổi. Có thể vì luật lệ cứng rắn của quốc gia, có thể vì tính khắt khe của phong tục tập quán mà người ta không có đủ tự do để học hỏi và thực hiện điều gì mới lạ trong cuộc sống. Sau hết người ta chỉ học hỏi vay mượn khi nào điều người ta muốn học hỏi vay mượn đó đáp ứng được nhu cầu sinh sống của con người. Đây không phải là những đòi hỏi căn bản ở hạ tầng sinh lý (primary drives) như đói, khát, làm tình...mà là những thôi thúc ở gia tầng cao hơn (secondary drives) như phẩm chất của đồ ăn thức uống, phẩm chất và sự tiện lợi của loại đồ dùng nào đó, và cao hơn nữa là những nhu cầu tinh thần như tôn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật, vv... Thích ứng với môi trường: sinh tồn và tiến hóa Những điều kiện trên đây cần phải có đủ thì văn hóa mới có thể thay đổi được. Người Việt Nam trong quá trình bành trướng lãnh thổ và định cư vào Phương Nam đã có đủ những điều kiện ghi trên. Họ có tinh thần rộng rãi khai phóng, không mù quáng tôn sùng cổ nhân, không khép kín chật hẹp hay bế quan tỏa cảng. Họ có ít nhiều tự do chớ không bị chặt chẽ ràng buộc bởi luật lệ cứng rắn của triều đình hay tập quán khắt khe của xã hội. Khi đã có đủ những điều kiện cần và đủ thì tất nhiên văn hóa phải thay đổi theo lối sống thay đổi của con người ở vùng đất mới mẻ này. Như vậy có thể nói một cách tổng quát là người Việt Nam có một nền văn hóa chung (general culture) là văn hóa Việt Nam (Vietnamese Culture), và dưới nền văn hóa chung đó có những chi nhánh văn hóa (subculture) như chi nhánh văn hóa sông Hồng, chi nhánh văn hóa miền Trung, chi nhánh văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long. Các chi nhánh văn hóa có cùng một số đặc tính xem như cùng mẫu số chung nhưng trên mẫu số chung đó vẫn có những nét đặc thù khác biệt của mỗi vùng hay mỗi miền. Những khác biệt này là những biến đổi tự nhiên của văn hóa Việt Nam qua bao nhiêu thế hệ và qua quá trình bành trướng lãnh thổ, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác. Biến đổi để thích ứng với môi trường và hoàn cảnh mới, đó là điều kiện cần yếu để một nền văn hóa sinh tồn và tiến hóa. Ý kiến kết thúc Những người làm chính trị cũng như những nhà làm văn hóa, hay nói rộng ra hơn, tất cả những ai thiết tha với nền văn hóa nước nhà, cần phải nhìn thấy sự khác biệt giữa những chi nhánh văn hóa cũng như những lý do đưa đến sự khác biệt đó. Nhận biết như vậy không phải để cổ võ cho sự chia rẽ hay gây tinh thần kỳ thị địa phương mà là để có thể đi đến tinh thần đa nguyên đa văn hóa (cultural pluralism). Tinh thần này đòi hỏi người ta phải nhìn thấy và chấp nhận sự khác biệt giữa các nền văn hóa hay giữa các chi nhánh văn hóa với nhau. Từ sự chấp nhận khác biệt đó người ta mới có thể hiểu nhau và cọng tác với nhau lâu dài và hữu hiệu được. Ngược lại nếu phủ nhận sự khác biệt để đi đến cái nhìn thiên lệch là chỉ có văn hóa của mình là tốt nhất thì khó có thể tránh được hậu quả tai hại là sẽ bị rơi vào một hình thức nào đó của chủ nghĩa “chủng tộc độc tôn” (ethnocentrism) và tinh thần kỳ thị chủng tộc hoặc một hình thức kỳ thị nào khác. Sự đoàn kết quốc gia cũng như sự thống nhất ý chí để làm một việc lớn lao nào cũng phải tựa trên tinh thần đa nguyên, đa văn hóa. Phải khởi sự bằng sự chấp nhận những khác biệt của người khác cái đã rồi mới có thể đi đến những cuộc đối thoại thông cảm xây dựng và có hiệu quả thật sự. Hơn nữa, muốn dân tộc tiến bộ, muốn hiện đại hóa xã hội, cần phải biết rõ những điều kiện cần và đủ để làm cho văn hóa biến đổi theo chiều hướng tiến bộ chung của nhân loại. Đó là những điều kiện đã đưa xã hội Miền Nam đến chỗ giàu có và dân Miền Nam đến chỗ thịnh vượng, hạnh phúc hơn xã hội Miền Bắc như đã thấy ở phần trên.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 17, 2011 3:03:37 GMT 9
Sách Cũ Miền Nam 1954 -1975 - Nguyễn văn Lục Đã định tâm như thế rồi. Cho nên, khoảng 6 tháng trước khi về Sàigòn để thăm lại bạn bè, bà con mình, tôi đã nhờ bạn bè bên ấy tìm cho tôi những sách mà tôi muốn tìm. Thật ra ít có ai có thì giờ và có lòng để đi làm một công việc vô bổ như thế. Biết bao nhiêu phần đời tôi, biết tìm cái gì, biết mua ra sao. Rất may là tôi còn những người bạn có lòng để tâm giúp đỡ, tên anh là Hồ Công Danh. Đó không phải là đi mua sách cũ mà là một việc truy lùng, sục sạo, mò mẫm đầy bất trắc và may rủi, nhưng cũng đầy thú vị và mủi lòng. Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn. Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế. Đứa may trốn thoát. Tôi có đứa cháu trai, hồi đó, 6,7 tuổi. Khi đi di tản năm 1975, cháu chỉ mang cặp sách của cháu và nhặt một cuốn sách giáo khoa tâm lý học tôi viết thời đó. Sang sau vài năm, cháu đưa lại cho tôi. Kể cũng mừng và cũng buồn cười. Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói xôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít. Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi. Các cháu ngoan bác Hồ. Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng. Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên kẻ phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở.
Sách vở gì cũng sợ nên sách gì cũng phải tẩu tán. Sách vở bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, mặc dầu chúng là người ngoại quốc, mặc dầu chả dính dáng gì đến chuyện chính trị hay chiến tranh Việt nam, chúng cũng chịu chung số phận. Tôi cũng có khá nhiều sách vở bằng tiếng Pháp, nhưng tôi biết rằng, trước sau gì tôi sẽ không bao giờ dùng đến chúng nó nên lôi ra bán ve chai mà không thương tiếc. Sách nhỏ bán trước, sách lớn bán sau, cuối cùng là bộ Bách Khoa Tự Điển bằng tiếng Anh tuần tự rơi vào tay các ông bà bán ve chai. Ở nơi ấy, chẳng mấy khi mà Aristote gặp được Kant. Cũng chẳng ai ngờ được Bùi Giáng gặp mặt được Heideigger. Sách cũ đối với tôi là một ám ảnh mời gọi tìm về. Trong đó đặc biệt có truyện sưu tập tài liệu triết cũ. Cũng từ những sách cũ đó mà trước đây tôi lớn lên, được nuôi dưỡng và phát triển về trí năng mỗi ngày. Nếu cơm gạo miền Nam cho tôi lớn lên thì sách miền Nam nuôi dưỡng tôi thành người thông tuệ. Đi truy lùng lại sách cũ là tìm lại một phần bản thân tôi vậy. Nhưng khi tôi nói sách cũ thì không có nghĩa là sách cổ, mà là sách của miền Nam xuất bản trước 1975. Sách mà theo bá cáo của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại kỳ họp thứ nhất của Quốc Hội, ngày 26 tháng 6, năm 1976 là : “Việc xây dựng nền Văn Hoá mới đuợc tiến hành trong cuộc đấu tranh quét sạch những tàn dư mà Mỹ đã gieo rắc ở miền Nam. Đó là thứ Văn Hoá *nô dịch*, lai căng, đồi trụy, cực kỳ phản động..” Để thực hiện nghị quyết trên. Họ đã làm mọi cách : tịch thu, tàng trữ và đốt sách và coi sách vở báo chí miền Nam chỉ là thứ rác rưởi. Phần tôi, tôi dám gọi đó là đống rác tinh thần, tài sản của tất cả trí thức, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà phê bình, nhà khoa học miền Nam trong vòng hai mươi năm đã bị đốt. Tóm lại, đó là đống rác thân yêu của miền Nam, cho người miền Nam gìn giữ lấy.
- Tình hình sách cũ hồi 1975. Cộng chung số sách đã bị tịch thâu, hay bị đốt theo là bao nhiêu. Hình như chưa có ai hỏi câu hỏi đó và cũng chưa bao giờ có câu trả lời. Có thể chẳng ai biết được. Chỉ tính theo đầu sách thôi, các số liệu cũ của Bộ Thông Tin cho thấy, vào tháng 9- 1972, theo Ủy Hội Quốc Gia Unesco Việt Nam Cộng Hòa trung bình đã cấp giây phép cho 3000 đầu sách được xuất bản một năm. Cộng chung từ năm 1954 đến 1975, đã có khoảng từ 50000- 60000 đầu sách đủ loại được xuất bản, thêm vào đó 200.018 đầu sách ngoại quốc được nhập cảng. Giả dụ mỗi đầu sách in tối thiểu 3000 cuốn. Đã có 180 triệu cuốn sách tiếng Việt bị tiêu hủy. Đây chỉ là một lối tính ước chừng. Và như vậy số sách bị tịch thâu, bị đốt, bị bán ra vỉa hè hay ve chai là khoảng 180 triệu cuốn trên khắp miền Nam. Miền Nam theo nghĩa từ Bến Hải vào đến Cà Mâu. Con số này đã không còn đúng nữa khi ta đọc một bài viết của ông Vũ Hạnh, một nhà văn thời VNCH và là một đảng viên cộng sản trong bài:* Mấy ý nghĩ về Văn Nghệ thực dân mới đăng trong tuần báo Đại Đoàn Kết: Từ 1954 đến 1972, có 271 ngàn loại sách lưu hành tại miền Nam, với số bản là 800 triệu bản* Trong khi đó sách của ông Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra con số 357 ngàn loại. Và ông Đàn dám cả gan nói: Như vậy là con số của Vũ Hạnh gần như khớp với con số chúng tôi tìm được. Thưa ông Trần Trọng Đăng Đàn, con số cách nhau gần một trăm ngàn mà ông dám bảo là khớp thì tôi chịu ông. Các ông đã bao giờ biết nói thật chưa. Cũng vậy, tờ Tin Sáng số ra ngày 1 tháng 8, năm 1976 tính rằng: Từ năm 1962 về sau, tại Nam Việt Nam đã xuất bản 208 bộ sách chưởng, gồm 850 quyển, con số phát hành này ước tính 5 triệu bản, bằng số sách giáo khoa trung học xuất bản cùng thời gian.[ii] Con số này, xin nhờ những vị chuyên gia về Kim Dung cho biết xem thực hư ra sao.[iii] Độc giả thân mến, xin ghi nhận những thống kê của Ủy Hội Quốc Gia Unesco VN là tài liệu đáng tin cẩn. Tôi chỉ xin nói một điều, nước Pháp hiện nay mỗi năm xuất bản khoảng 1000 đầu sách tiểu thuyết mới. Làm sao VNCH có thể xuất bản mỗi năm hơn 20 chục ngàn đầu sách một năm. Những con số của ông Vũ Hạnh hay gì khác là một thổi phồng đến phi sự thực. Tôi không dám bảo là ông ấy nói láo khoét. Hãy trả lại các ông ấy những gì các ông ấy viết. Chỉ cần so sánh con số dự đoán giữa ông và Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra cũng cách nhau cả gần một trăm ngàn đầu sách. Điều đó muốn nói với chúng ta điều gì. Nay tất cả những sách đó đều ra tro. Đây là một chính sách man rợ và xuẩn động của nhà cầm quyền Hà Nội. Dĩ nhiên, người ta đã không đốt hết mà mang bán, chính vì thế nay còn rơi rớt lại một số nhỏ nơi các tiệm bán sách. Vì sợ hãi nên người ta mang sách vở tài liệu ra chợ bán ký, đó là thứ hàng vô dụng và nguy hiểm nhất trong lúc ấy. Người ta đốt những sách nào liên quan đến chính trị, nhất là sách vở chống Cộng. Người ta đốt những nhà văn nào liên quan đến chính trị như Nguyễn Mạnh Côn, Nhã Ca, Phan Nhật Nam v.v… Người ta cũng đốt tài liệu, hình ảnh cũ, giấy tờ, huân chương, bằng khen. Đó cũng là thứ mà những người chủ mới không muốn nó có mặt. Người ta đốt tất cả những kỷ niệm, dù đẹp nhất của đời mình. Mọi người phải tự hiểu rằng, phải đốt tất cả những gì cần đốt, không phải chỉ đốt những kỷ niệm mà tất cả những gì liên quan đến đới sống đó. Một đời sống mà tự nó đã là một điều xấu, một bản án. Muốn sống yên, người ta phải đốt tất cả quá khứ đời một người cùng với những kỷ niệm, những sự nghiệp từ quá khứ đó mà ra. Sách không đốt thì được bày bán lén hoặc công khai. Sự bầy bán sách vở như thế coi như dân chúng bắt mạch được thâm ý người chủ mới muốn gì. Nhưng trong số vạn người bán, vạn người mua, vẫn có những người nhà buôn bất đắc dĩ mà đặc loại là một số nhà văn, nhà giáo chế độ cũ nắm được cái chìa khóa của nhu cầu và ý nuốn của người đọc. Họ tìm ra giữa những kẽ hở để thấy được trong hàng tấn sách báo thải loại, cái nào là thứ hàng có giá trị, có giá đối với người chủ mới. Nạn chợ đen, nạn săn tìm sách cũ cho một thị trường mới nhờ thế càng phát triển. Một cách nào đó, chính những nhà giáo, nhà văn, những kẻ bán sách lề đường, những tên lái sách trở thành những người bảo tồn văn hoá miền Nam. Sách phản động càng cấm, càng có giá. Đó là phản ứng ngược chiều ở thời điểm đó. Trên báo Đại Đoàn Kết, ngày 10—11-1982, Đinh Trần Phương Nam thú nhận một thực tế phũ phàng như sau:* Các hoạt động của chúng ta vừa qua thật rầm rộ, thật phong phú và đa dạng, song các loại sách báo phản động đồi trụy, đã bị quét hết chưa. Xin thưa ngay là chưa. “Số Tiền Phong ngày 23-9-1985 cũng than thở Thành Hồ đã thực hiện nhiều đợt bài trừ sách báo xấu, nhưng hiện nay hiện tượng mua bán và cho thuê các loại sách báo xấu vẫn còn tồn tại.” Càng những sách bị cấm lại càng có giá trên thị trường đen. Trên vỉa hè phố, những sách từ ngoài đó được phép bầy bán nằm chống mốc, cong queo ít được ai ngó tới. Người ta bầy những sách trên để che mắt mà thôi. Người mua sách sành điệu chỉ cần hỏi tên một tác giả nhà văn Ngụy. Năm phút sau, chạy đi một lúc có liền. Lại một thách đố nữa cho chủ nhân ông mới. Sách Ngụy trở thành một thách đố chính quyền mới, thách đố ai hơn ai chứ không phải ai thắng ai. Thách đố mang tầm vóc văn học, giá trị nghệ thuật dựa trên nhu cầu người đọc. Sách hay thì tìm đọc, sách tuyên truyền thì không đọc. Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in trước ngày 30 tháng Tư được coi là đồi trụy. Nhiều người tiếc rẻ đem bán kilô. Các gói xôi bán buổi sáng, nay có tên Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền. Vừa ăn, vừa đọc kể cũng vui. Nhiều chỗ mang sách vở cũ ra đốt. Mà phải đốt lén vào ban đêm. Nhưng sau đó ai cũng thấy đốt là phí phạm. Không đốt thì sách vở đó đi đâu? Không ai biết nữa. Nhiều người nhắc nhở đến tên Tần Thủy Hoàng. Nhưng chẳng ai để ý đến có mối liên hệ gì giữa chuyện xưa và chuyện nay.
Tại sao lại dị ứng với văn học như thế? Không lẽ tất cả đều là phế liệu, tàn dư Mỹ Ngụy hết sao? Sách nào là phản động, đồi trụy? Vì thế sách cũ ở đây được đồng hóa với sách cực kỳ phản động, không phản động thì đồi trụy, không đồi trụy thì lai căng. Mấy chữ trên như những khẩu lệnh bao trùm và truy chụp hầu như bất cứ tác giả nào và bất cứ quyển sách nào.
- Trước hết, các nhà xuất bản sách thiếu nhi bị cấm toàn bộ. Đó là các nhà xuất bản như Tuổi thơ, Nắng sớm, Tuổi Hoa Niên, Sách Đẹp, Viễn Du, Hùng Dũng, Hoa Hồng, Hoa Hướng Dương, Hoa Mai, Hoa Hồng. - Các dịch giả kiếm hiệp sau đây cũng bị cấm : Kim Dung, Cổ Long, Trần Thanh Vân, Nam Kim Thạch, Từ Khánh Phụng, Phan Cảnh Trung, Long Đức Nhân. - Các tác giả có sách bị cấm toàn bộ như : Bùi Giáng, Chu Tử, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Doãn Quốc Sĩ, Đinh Hùng, Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Hải Thủy, Lệ Hằng, Mai Thảo, Nguyên Sa, Nguyễn Đình Toàn, Thế Uyên, Thanh Nam, Võ Phiến, Văn Quang, Vũ Hoàng Chương, Vũ Tài Lục, Nguyễn Mộng Giác, Thảo Trường, Nguyễn Thị Hoàng..
Nhận xét:
- Những nhà xuất bản sách thiếu nhi này ấn hành đặc biệt các truyện dành cho thiếu nhi. Những sách đó có tính cách giáo dục, giải trí, hay nêu gương tốt cho các em thiếu nhi. Nội dung lành mạnh và có phẩm chất giáo dục. Những nhà xuất bản này thường bất vụ lợi, có sự tài trợ đằng sau của những tổ chức tôn giáo, hay những nhà xuất bản có lòng như trường hợp ông Khai Trí. Vậy mà tội tình gì cũng bị cấm. Cứ cấm là cấm, cấm một cách trù dập vô tội vạ và vô ý thức. Các trẻ em miền Nam tự nhiên mù chữ vì không có sách đọc.
- Về các dịch giả truyện Kiếm Hiệp cho thấy đây là những sách dịch vô tội vạ, vô thưởng vô phạt xét về mặt luân lý, giáo dục. Chủ đích của người dịch trước hết có thể là giải trí người đọc. Ai đọc truyện kiếm hiệp chả thấy hấp dẫn và hay, đọc để giải trí. Sau đó mới nói tới những chủ đề tình yêu, y học, võ thuật, nhân vật truyện, chất hài hước, chất ghen tuông, chất giang hồ, kiếm pháp trong các truyện kiếm hiệp ấy. Sách phải được coi là bổ ích và nó là bộ phận không nhỏ trong sinh hoạt văn học miền Nam. Trẻ đọc, già đọc, bình dân đọc, trí thức đọc.. Mỗi người tìm ra được cái thích thú cho riêng mình. Đến có thể nói, một trong những nét đặc thù trong sinh hoạt Văn Học miền Nam là sách của Kim Dung. Kim Dung tên thật là Trà Lương Dung. Truyện võ hiệp đầu tay là Thư Kiếm Ân Cừu, xuất bản ở Hương Cảng, từ đó có bút danh Kim Dung. Năm 1957 ra bộ Anh Hùng Xạ Điêu, 1969 ra Lộc Đỉnh Ký. Cho mãi đến 1978 Đài Loan mới rút lệnh cấm tác phẩm Kim Dung và 1986, sau khi tiến lên “4 Hiện đại hoá” ở Trung Quốc mới xuất hiện Kim Dung. Truyện chưởng Kim Dung "độc bá quần hùng" trong sinh hoạt văn học ở miền Nam thời ấy. Vào năm 1968, khi xuất hiện Tiếu Ngạo Giang Hồ trên tờ Minh Báo thì có đến 44 nhật báo ở Sàigòn đều tranh nhau dịch và đăng lại. Tình trạng mê Kim Dung đến như thế, và kéo dài cho đến 1972-1974 khi bộ Lộc Đỉnh Ký ra đời. Và đây là lời Vũ Đức Sao Biển, tốt nghiệp Đại học Văn Khoa, Sàigòn, ban Hán Văn: "Tôi học cách làm người, cách đối xử nhân thế, đắc thủ được những kiến thức hoàn toàn không có trong giáo trình đại học từ các tác phẩm của một nhà văn nước ngoài chưa hề biết mặt." Với lượng tác phẩm đồ sộ như thế, với số người đọc đông như thế, không thể không tìm hiểu văn học miền Nam nhất là văn học dịch mà bỏ qua tác giả Kim Dung. Người ta có thể bàn về bất cứ vấn đề nào của con người, của xã hội. Có thể từ tình yêu, bạo lực, đạo đức, tâm lý hay sự đánh tụt giá của chủ nghĩa bạo lực trong truyện Kim Dung. Từ vấn đề nghệ thuật, cách xây dựng nhân vật tiểu thuyết, chất thơ, chất hài... đến chứng cứ kiếm pháp, Võ và Hiệp, cho đến những vấn đề có thể trở thành tranh luận văn học như hư cấu nhân vật, hư cấu lịch sử. Kim Dung đã hư cấu lịch sử Trung Hoa cách đấy ba thế kỷ mà vẫn hay với cấu trúc tiểu thuyết liên hoàn. Vương Sóc, nhà văn-nhà phê bình Trung Hoa (mà nghĩ đến ông tôi bắt nghĩ đến Trần Trọng Đăng Đàn của Việt Nam), đã gọi tiểu thuyết Kim Dung là một trong "tứ đại tục" bởi đã hư cấu méo mó hình tượng người Trung Hoa. Từ đó đã gây thành những tranh luận lớn khắp Hoa Lục. Lại còn vấn đề tôn giáo, giáo phái trong tiểu thuyết. Luận về anh hùng và những nhân vật biểu tượng như Kiều Phong, một đại trí, đại dũng lại rất giầu tình cảm và lòng nhân ái vời vợi? Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung, tài trí hơn người, hành xử quang minh lỗi lạc, tốt bụng hơn người? Dương Quá, Địch Vân, Hồ Phỉ... Rồi còn nhân vật nữ, những mỹ nhân như Hân Tố Tố, Nhậm Doanh Doanh, Triệu Minh, Tiểu Siêu, Song Nhi, v.v.. mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một thông điệp. Không có những nhân vật nữ đó, tiểu thuyết Kim Dung còn gì? Vấn đề tâm đắc đối với tôi: Vấn đề chính hay tà, vấn đề thị phi trong cuộc đời, giữa hiệp nghĩa và xã hội đen, giữa danh môn chính phái và ma giáo. Ai chính, ai tà. Tà chính khác nhau chỗ nào? Đọc Kim Dung sẽ thấy sự phân biệt Chính và Tà là vô thực. Trong Kim Dung, có một cố gắng đánh tụt giá những người tự nhận là Chính Nghĩa, và qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Sự sa đọa xuống tới sự bất nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử phái Toàn Chân thì còn ai tin gì ở Chính Nghĩa? Chuyện đã hay, cơ man nào nhân vật, cơ man nào tình tiết tròng chéo lôi kéo người đọc. Kim Dung phải là người kiến thức rộng, đọc nhiều, dùng Quan Thoại, một thứ ngôn ngữ trong sáng, lại kế thừa truyền thống của những nhà văn như Lâm Ngữ Đường, Tào Ngu, Lỗ Tấn… đã biến những chuyện võ hiệp tầm thường thành những tác phẩm để đời. Đã vậy, có những dịch giả như Hàn Giang Nhạn chuyển ngữ tài tình làm say mê độc giả VN. Hễ hay thì người đọc, dở thì bị người bỏ quên.
- Về các tác giả, các nhà văn bị xoá sổ cho thấy tính cách tổng quát hoá và khái quát hoá đồng loạt. Tỉ dụ thơ của Vũ Hoàng Chương như Hoa Đăng, Thơ Say, Tâm Sự Kẻ Sang Tần thì tại sao cấm. Gìn Vàng Giữ Ngọc và Giòng Sông Định Mệnh của Doãn Quốc Sĩ thì chỗ nào là phản động, chỗ nào là đồi trụy. Duyên Anh với Hoa Thiên Lý, Sa Mạc Tuổi Trẻ, Ngựa Chứng Trong Sân Trường, Dấu Chân Sỏi Đá thì chẳng những không đồi trụy mà còn có tác dụng giáo dục nữa. Thơ Nguyên Sa, Gõ Đầu Trẻ, Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ thì hoặc là có tác dụng giáo dục, hoặc đặt ra những vấn đề tranh luận trong văn học. Hầu hết người ta không biết hoặc quên rằng Nguyên Sa còn có tập thơ Những Năm 1960, trong đó là thứ thơ dấn thân, nhập cuộc. Thảo Trường với Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp thì có giá trị tố cáo sự tàn bạo của chiến tranh. Bùi Giáng với Mưa Nguồn, Đi Vào Cõi Thơ là những chất ngọc nào phải thứ đồi trụy rẻ tiền. Có vẻ nhà cầm quyền lúc đó muốn truy bức tác giả hơn là tác phẩm. Vũ Hoàng Chương, Mai Thảo, Duyên Anh, Đinh Hùng, Hoàng Hải Thủy, Nguyên Sa, Chu Tử, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca, Võ Phiến, Văn Quang, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Tạ Tỵ có viết gì cũng vẫn bị coi là thứ biệt kích văn nghệ. Xin lấy trường hợp Vũ Hoàng Chương làm điển hình. Ai đã gặp Vũ Hoàng Chương rồi thì đều thấy đó là một thi sĩ gầy ốm tong teo, nói năng nhỏ nhẹ, lúc nào cũng ăn mặc rất chải chuốt, tươm tất, đầu chải mượt với cà rà vạt. Tác phẩm thì tóm gọn trong hai chữ mà thôi : Thơ Tình. Cả đời chỉ biết làm thơ. Và chỉ biết có thơ. Nhưng dù chỉ làm thơ cũng bị coi là người bội phản. Ông đã đi tù như một số nhà văn khác như trường hợp Hồ Hữu Tường. Khi ra khỏi tù được vài ngày thì ông chết. Mai Thảo dù chỉ viết truyện thuần túy văn chương như Người Thầy Cũ, Mười Đêm Ngà Ngọc, Căn Nhà Vùng Nước Mặn hay Bày Thỏ Ngày Sinh Nhật cũng vẫn bị coi là tên Biệt Kích Văn Nghệ hàng đầu của miền Nam. Thanh Tâm Tuyền dù siêu thực hay lãng đãng bí hiểm như Tôi Không Còn Cô Độc, Bếp Lửa, Cát Lầy cũng là kẻ cấy mầm độc tư tưởng ngoại lai thoái hoá. Hủy diệt các niềm tin thì đã có Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện. Duyên Anh có viết Dấu Chân Sỏi Đá, Hoa Thiên Lý, Thằng Khoa, Gấu Rừng, Giặc Ô Kê cho trẻ con cũng vẫn là tên đầu sỏ văn nghệ nguy hiểm. Người ta nhắm đánh vào người, nhắm thái độ lập trường chính trị để đánh giá tác phẩm của tác giả. Vì nhắm tác giả nên có nhiều nhà văn tự nhiên được sót tên một cách cố ý. Đó là những nhà văn một mặt nào đó có thể không chịu xếp hàng trong xã hội miền Nam cho dù thực sự họ cũng xếp hàng như mọi người. Có nghĩa là xét về mặt tác phẩm thì những nhà văn này cũng chẳng khác gì các nhà văn vừa kể ở trên. Có gì phân biệt được về phong cách viết giữa Bình Nguyên Lộc với Lê Xuyên hay với Võ Phiến. Nhưng Bình Nguyên Lộc được tha. Giữa Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung mà đôi khi ta tưởng hai người có cùng một lập trường, cùng một quan điểm và cùng một đường lối. Nhưng sách vở thì lại bị kỳ thị, phân biệt, và đối xử khác nhau. Trong số những người sót tên trong sổ đen phải kể đến Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn, Thích Nhất Hạnh. Sự đánh phá và truy bức đó nói cho cùng là một sự muốn xoá trắng văn học miền Nam. ("h*tp://www.nhohue.org/); Đó là cái tội đối với lịch sử văn học nói chung, chứ không phải chỉ có tội đối với miền Nam nói riêng. Xin trích dẫn vài tư liệu làm bằng cớ trong sách Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 200 :” Theo Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức, trong Nhà Văn VN, từ 1954-1975 có 286 bài viết nhằm vu khống, xuyên tạc văn học miền Nam. Chỉ thị của Lê Duẩn, kỳ họp Quốc Hội khoá 5 : Sau ngày giải phóng nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hoá ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.” Về những bài viết, xin kể vài bài: Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hoá mới. Nọc độc văn hoá nô dịch. Những tên biệt kích cầm bút. Lại bàn về nọc độc văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-75. Tên những người viết đó là: Trần Trọng Đăng Đàn, Lê Đình Ky, Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Thạch Phương, Phan Đắc Lập, Bùi Công Hùng và cả Lữ Phương. Miền Nam có thể thua cuộc. Nhưng cái văn học đó không có lý do gì bị xoá trắng oan uổng như thế. Bởi vì trong 20 năm sinh hoạt văn học đó, nó xác định cho thấy chỗ đứng của nó với sắc thái và cá tính của một nền Văn học đích thực. Một nền văn học mà sản phẩm của nó là kết quả của tự do suy nghĩ, tự do sáng tác. Đấy là cái ưu vượt của sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam mà trong suốt mấy chục năm chia cắt và cả sau mấy chục năm thống nhất đất nước rồi, người ta vẫn chưa thực hiện nổi một điều đơn giản đó. Đặc biệt các giáo sư Triết, dù bị phê phán vì rao truyền chủ nghĩa Hiện Sinh, nhưng sách vở của họ lại không bị cấm lưu hành toàn bộ như Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và các lớp giáo sư trẻ như Đặng Phùng Quân, Nguyễn Trọng Văn. Trừ một trường hợp đặc biệt, dù là giáo sư triết, nhưng viết văn nên cấm lưu hành toàn bộ như sách của Huỳnh Phan Anh và Nguyễn Xuân Hoàng. Phần tôi nghĩ rằng, thời kỳ sau 1975, đó là thời kỳ Văn Học bất hạnh cho toàn miền Nam Bất hạnh vì sách bị tịch thu, bị thiêu hủy. Bất hạnh vì hơn 200 nhà văn, nghệ sĩ bị đưa đi cải tạo. Bất hạnh theo suốt cả đời họ. Vì kể từ đó, họ bị khước từ là nhà văn, bản án tù cứ thế kéo dài mãi mãi vì họ không bao giờ còn có cơ hội để viết. Và kể từ đó đến sau này, ta không còn bắt gặp lại mảnh đất miền Nam với những cây trái văn học nữa, cùng lắm có những cây trái đau khổ, đọa đầy và hủy diệt. Và cái người bất hạnh nhất, tiêu biểu nhất có lẽ là nhà văn Nguyễn Thụy Long mà người ta quen gọi là nhà văn “Loan mắt nhung”. Sau 1975, ông lê kiếp số phận nhà văn như một con chó đói, một loài chuột chui nhúc để kiếm sống. Hãy nghe ông kể: “Tôi về sống với mẹ già ở Ấp Đông Ba Gia Định sau ngày “giải phóng”, bên này Cầu Bông, sau khi bị phía nhà vợ thuộc gia đình cách mạng đuổi ra khỏi nhà... Tôi ngậm đắng nuốt cay bước ra khỏi nhà sau khi bị vu bao nhiêu là thứ tội, kể cả tội ăn cắp tài sản của chính mình, suốt nhiều năm cầm bút tạo thành... Mất nhà, mất vợ chẳng nói làm gì, vì đã cạn tầu ráo máng rồi, nhưng mất con tôi mới đau.” Sau khi hồ Con Rùa trên đường Duy Tân bị nổ, ông cùng nhiều trí thức, văn nghệ sĩ bị bắt vì vụ này. Xin đọc tiếp: “Những câu chuyện vặt trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội cuối hành lang cất lên: Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất ngưỡng mộ..” Chúng tôi đã mất Sàigòn thật rồi.[v] Sau này, theo Bác Sĩ Trần Ngọc Ninh viết lại trên tờ Khởi Hành, tháng 9-2005, ông từ chối không cho nhà xuất bản sửa dù một chữ những tác phẩm của ông: “Tôi còn gì để mất ngoài liêm sỉ, thà chết đói chứ tôi không sửa văn tôi viết trước kia được”. Chính ông cũng kể lại về trường hợp có nhà xuất bản cho người đến đề nghị in lại cuốn Kinh Nước Đen với điều kiện nó phải được sửa chữa lại. Ông đã từ chối không chịu. Nay thì tờ Khởi Hành đang tiến hành giải văn chương năm nay dành cho ông. Thực tế trước mắt là ông sẽ nhận được một số tiền để sinh sống, ra khỏi kiếp đọa đầy.
B.- Tình hình sách cũ hiện nay. Về Sàigòn hôm nay, chỉ ở Sàigòn thôi mà không ở Hà Nội, tôi tìm lại xem trong đống tro tàn đó còn lại được gì. Không còn bao nhiêu. Tôi thấy họa hiếm mới còn sót lại một vài cuốn truyện. Và càng ngày, số lượng nó càng ít đi, vì mua vào mà không bán ra hoặc theo thời gian bị tiêu ma vì không có thư viện bảo quản. Chỉ còn lại một số rất ít mà trên lý thuyết vẫn là sách cấm lưu hành, bất hợp pháp, nhưng lại được bày bán công khai như thể hợp pháp. Hơn thế nữa, các loại “sách cũ” thuộc loại sách chưởng, kiếm hiệp, mặc dầu vẫn là sách cấm lưu hành lại được in lại, sách cũ trở thành “sách mới”, bày bán công khai và hợp pháp. Chẳng hạn những sách của Vũ Đức Sao Biển như Kim Dung giữa đời tôi gồm các quyển Kiều Phong, Khát vọng tự do, quyển thượng, Thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, quyển trung, Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo, quyển hạ và Thanh Kiếm và Cây Đàn, quyển kết thì đã được Nhà xuất bản Trẻ in và phát hành đoàng hoàng. Gần như toàn bộ các loại sách kiếm hiệp được in lại. Sách của nhóm TLVĐ cũng vậy. Sách Triết cũng được in lại rất nhiều với các tác giả Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm. Thế thì những bá cáo chính trị suốt bao nhiêu năm cũng như những văn kiện, nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung Ương đảng Cộng sản phải chăng chỉ còn có giá trị như những tấm giấy lộn. Để hiểu rõ thêm về phần sách cũ này, tôi có một nhận xét như sau : Kể tử 1975 đến 1985, Sàigòn hay miền Nam có hai bộ mặt sinh hoạt văn học : Mặt nổi và mặt chìm. Mặt nổi bao gồm những sách báo in chính thức từ miền Bắc gửi vào. Đó là một thứ văn học Cộng Sản mà tự nó mang tính chất đồng phục, tính chất hợp pháp và giáo điều buồn nản và tầm thường. Tôi còn nhớ trên vỉa hè phố Sàigòn những cuốn sách dịch in trên giấy xấu đến khó coi cả từ bề ngoài đến tựa đề. Đọc lên nghe tức anh ách như: Mười ngày của Bôcaxiô. 10 ngày gì mới được chứ. Thằng cười, dịch V.Hugô. Cửa hàng vì hạnh phúc các bà của E.Zôla.. Dịch lạ quá, tôi đi tìm sách của nhà văn này, nhưng đành chịu không kiếm ra cái tựa đề Cửa hàng vì hạnh phúc các bà ở đâu. Trăm năm cô đơn của G.Market. Tuổi thơ mãi mãi cùng ta của M. Karim, Đất vỡ hoang của M. Sôlôkhốp, Thời gian để sống và để chết của E. Rơmacơ. Ông già và biển cả của E. Hemingway, Đồi gió hú của E.Brônti. Cả ba cuốn này đều đã được dịch ở trong Nam trước đó rồi. Đốt Đỉnh Gió Hú, đốt Ngư Ông Và Biển Cả, đốt Thời Để Sống và Để Chết của miền Nam mà phẩm chất dịch đã hẳn là bảo đảm hơn miền Bắc để mang nguyên con những thứ đó vào miền Nam với phẩm chất không bảo đảm và giấy thì thật xấu. Để làm gì. Vì thế dân chúng trong Nam vẫn chịu khó tốn công, tốn tiền đi tìm sách báo cũ để đọc, truyền tay nhau để đọc. Bởi vì, chính những sản phẩm văn hoá đó đã làm nên họ, là của họ, là bản thân họ và trở thành biểu tượng của những giá trị quá khứ cần được nâng niu giữ gìn. Và như thể, nếu không có những thứ văn hoá phẩm đó được nuôi dưỡng thì họ không còn là họ nữa, khô chồi và thui chột. Xin trích dẫn ở đây nhận xét và tâm tình của một người bạn yêu sách miền Nam. “Vào những năm 76-79, tôi hay đi chợ Trời sách Sàigòn lục các sách kỹ thuật để xem bạn bẻ du học Mỹ, Tây, Tầu, Úc ai còn ai ở.. Sự kiện như thế này: sách kỹ thuật mà bán ở chợ Trời, tức là chủ sách đã chạy rồi và người nhà hoặc con buôn đem sách đi bán hoặc là nhà bị kiểm kê. Sách kỹ thuật được gom lại rất dơ bẩn và được chuồi ra cho con buôn. Sau này, khi tôi vượt biên, bạn bè còn lại cũng thấy sách ngành luyện kim (metallurgy) của tôi bán ở chợ trởi.. Thế là biết nhau hết. Cứ có sách ở đó, tức là người đã đi rồi. Tôi còn nhớ có một lần được một chị con buôn sách vỉa hè tin cậy, cho lén xem kho sách nó thu gom được. Cả ngàn hay vạn cuốn sách chứa đầy một căn gác rộng và kín, chỉ có vài ánh nắng chiếu vào. Tôi lom khom ở trên gác lửng đó lục sách, thôi thì gì cũng có cả: tiếng Tây, tiếng Mỹ, tiếng Tàu, tiếng Việt. Văn chương, khoa học kỹ thuật. Hàng vạn cuốn cũ chất đống, bụi bậm mịt mù mỗi khi nhấc một cuốn sách lên. Thật là một kinh nghiệm không bao giờ quên. Bây giờ nhắm mắt lại, vẫn còn thấy, còn ngửi được mùi sách, mùi bụi, mùi văn minh từ căn gác ấy. Không hiểu anh nghĩ sao, chứ bâygiờ, tôi vẫn rất kính phục những con buôn sách đó, dù rằng họ giữ gìn sách quốc cấm vì lợi nhuận chứ không phải vì họ quý trọng nền văn hoá và văn minh trong sách, bởi vì việc làm của họ đã giúp bảo tồn nền văn học của miền Nam tự do.” Nhưng một phần thì sinh hoạt văn học miền Nam dừng lại ở đó, bằng lòng với tất cả những thứ đến từ dĩ vãng, quá khứ và trong tương lai sẽ mỗi ngày mỗi thưa vắng đi, bởi vì không có người làm công việc sáng tác nữa. Đó là thứ văn học không có tương lai mà chỉ còn mở ra một sinh lộ: Quay lại quá khứ của chính mình để nhớ, để thương và để sống lại. Nếu ở hải ngoại thời đó người ta gọi VHHN là thời kỳ văn học lưu vong. Trong nước phải gọi là thời kỳ văn học của quá khứ, vang bóng một thời. Từ một nền văn học đồng phục, bị động, nghèo nàn với những sách vở lưa thưa và chưa định hình. Sách báo miền Nam cũ vẫn có mặt mà chưa có kế thừa và thay thế. Kể từ đó, sau ngày 30-4, sách báo miền Nam vỉa hè, giống như số phận của chính nền văn học ấy, thực sự trở thành sinh động chỉ nhờ vào sách báo cũ. *Điều đáng chú ý là đa số chủ nhân các tụ điểm văn hoá này là những người có học. Không thể nói là họ không am hiểu nội dung và tác hại của thử bán sách ra. Lạ một điều là bất chấp mọi hậu quả, họ cứ thản nhiên bày bán, những thứ rác rưởi văn hoá đó, ngày này qua ngày khác. Cứ mỗi độ chiều về, ở những điểm này, người bán kẻ mua tấp nập*[vi]. Không có gì lạ. Cái lạ là các ông không hiểu gì về nếp sống, nếp nghĩ, sinh hoạt văn học miền Nam cả. Những thứ mà quý ông gọi là rác rưởi thì dân miền Nam lại coi là thứ rác quý, rác hiếm. Sau 30-4, miền Nam có nhiều thứ rác lắm. Những thứ rác có thể đốt. Nhưng đốt thứ rác sách vở, báo chí văn học nghệ thuật miền Nam, các ông đã đụng chạm đến tinh thần và niềm tự hào của cả một miền đất nước thân yêu của họ. Điều đó khó mà tha thứ được.
C.- Những người có công với sách cũ của Sàigòn. Sách vở, báo chí miền Nam trở thành món ăn tinh thần là do công sức của các nhà văn, nhà phê bình, giáo sư đến các học giả. Điều hiển nhiên là thế. Nhưng sức bật, sự tác động để phổ biến những văn hoá phẩm ấy là nhờ vào một số lớn nhà xuất bản có công với Văn Học. Họ là những nhà xuất bản như Trình Bày, Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hoá Á Châu, Diên Hồng, Xưa nay, Khai Trí, Lá Bối, An Tiêm. Những nhà xuất bản này đã đóng góp vào việc xuất bản 200 triệu cuốn sách trong 20 năm. Con số thật không nhỏ.
1.- Ông Khai Trí : Chẳng mấy ai biết tên thật của ông, thành ra thương hiệu nhà sách KT, 62 Lê Lợi được đồng hoá vào tên ông. Thật ra tên ông là Nguyễn Hùng Trương, với hai tay trắng làm nên sự nghiệp. Ông vừa là một doanh gia, vừa là người làm văn hóa. Ông biên sọan khoảng 15 cuốn sách như Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc, Chánh tả cho người miền Nam... và chủ trương tuần báo Thiếu Nhi cùng với Nhật Tiến. … nhà sách KT là nạn nhân của nạn hôi của, đốt phá. Sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường. Tôi đã chính mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực, bất lực của một người tự xếp hàng vào người thua cuộc. Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu. Đứng ở đâu thì cũng cùng tâm cảnh đau xót đó thôi. Khi đã chứng kiến cảnh này rồi thì đừng bảo tôi có thể nghĩ hay cho những người mới đến. Họ không hiểu được điều đó vì quá hăng say trong men chiến thắng hay họ chưa bao giờ biết nghĩ tới người dân muốn gì, nghĩ gì. Tiếp theo đó là hai kho sách lớn cũng bị trưng thâu. Hằng vài trăm ngàn cuốn sách ra khỏi kho, rồi biến mất dạng. Ông trắng tay sau bao nhiêu năm tốn công gây dựng. Sau này, ông ở Mỹ về VN một lần nữa, mang theo hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Ông đã mang về 2000 đầu sách để tiếp tục làm Văn hoá. Sách bị tịch thâu với lý do: in trước 75. Theo Nguyễn Thụy Long, phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về giáo dục, sách hiền, sách tốt cả. Mà dại gì ông mang sách dữ, mà làm gì kiếm ra đâu được sách dữ. Nó chỉ có một cái tội: Tội đã in trước 1975. Trước 75 là xấu, vi phạm luật. Sau 75 là tốt. Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu. Trước khi ông mất, người ta đã không quên đặt tên ông cho một con phố nhỏ. Đúng như ông thày TQ nhận xét: Hôm qua nó giết mình, hôm sau nó mang vòng hoa đến phúng điếu. Ông ra đi lúc 5h15 ngày 11/3, linh cữu hiện quàn tại nhà riêng (237 Điện Biên Phủ, quận 3, Sài Gòn), lễ động quan lúc 6h ngày 14/3, hỏa táng tại Bình Dương. Nguyện vọng của gia đình là gửi tiền phúng điếu vào quỹ từ thiện thành phố. Cụ Toan Ánh, năm nay 91 tuổi, trong bữa đưa đám ma ông Khai Trí than thở: tại sao mình sống lâu như thế, ông Khai Trí mới có 80 tuổi.
2- Nhà Lá Bối: nhà Lá Bối do nguyên Đại Đức Từ Mẫn, tên thật là Võ Thắng Tiết trông nom. Sau ông hoàn tục. Ông là người có lòng, để việc phụng sự văn học nghệ thuật lên trên tiền bạc. Từ Mẫn đã giúp các nhà văn có nơi xuất bản những đầu sách có giá trị và người đọc có cơ hội đọc những cuốn sách trang nhã, chăm sóc từng chút trong việc trình bầy ấn loát và cả đến nội dung sách. Tất cả sách của Nhất Hạnh đều từ đây mà ra. Nếu không có Lá Bối, những Chiến tranh và Hoà Bình, Chiến Quốc Sách, Sử Ký Tư Mã Thiên, Kiếp người của Sommerset Maugham, Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay và Lối thoát cuối cùng của V. Georghiu sẽ nằm ở đâu? Nếu không có Lá Bối, nhiều sách chắc gì đã có cơ hội ra mắt bạn đọc. Nhất là bộ Chiến tranh và Hoà Bình của Léon Tolstoi. Sách in tốn vài ba triệu thời bấy giờ, bao giờ lấy lại vốn. Sau này, ở hải ngoại, ông tiếp tục làm công tác văn học với nhà xuất bản Văn Nghệ. Nếu cần một vinh danh gì cho 20 năm văn học dịch nói riêng và văn học nói chung, có cần nên nhắc đến Võ Thắng Tiết không? Kẻ lót đường cho Văn học miền Nam
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 17, 2011 3:04:30 GMT 9
3.- An Tiêm Thanh Tuệ. Tôi chỉ xin trích dẫn ba bài viết lúc mà Thanh Tuệ nằm xuống để thấy được rằng nhà xuất bản An Tiêm với Thanh Tuệ có lòng với văn chương như thế nào. *Thái Kim Lan về Thanh Tuệ: Hình như dưới tay anh tác phẩm được in nào cũng mang một chút lòng trân trọng của anh như thế đối với tác giả và độc giả, một nét cười bao dung mời gọi, vừa cảm khái liên tài vừa khuyến khích thúc dục, một nhịp nối uyển chuyển tài hoa giữa giãi bày tâm sự và tìm kiếm tri âm trong chữ nghĩa và tri thức, giữa người và người… An Tiêm đã khai phá, mở cửa khu vườn văn học của các nghệ sĩ trẻ miền nam trong khung cảnh sôi động của thập niên 60… * Tiếc Văn Chương, thương chữ nghĩa, Trần Thị Lai Hồng. Biết là vô thường, nhưng vẫn không khỏi tiếc thương. Tôi tiếc thương người An Tiêm Thanh Tuệ hiền hòa đã đành, mà nỗi tiếc Thương Văn Chương chữ nghĩa còn trĩu quá nặng. Thôi từ nay, còn ai khổ công lặn lội tìm tòi đãi lọc để phổ biến văn chương như đã từng với Tuệ Sĩ, Bùi Giáng, Sao Trên Rừng, Nguyễn Đức Sơn. Thôi từ nay còn ai trân quý nâng niu quý trọng chữ nghĩa như đã từng với Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mười Hai con Mắt.. Đêm Nguyệt Động, Cái chuồng khỉ và còn nhiều, rất nhiều công lao với văn học đã, đang và chưa thực hiện được. * Với nhà văn Lê Thị Huệ: Rồi bỗng nhiên nghe tin Ông chết. Đặng Ngọc Loan hôm trước rủ đi uống càphê với Ông một lần, gọi điện thoại nói với tôi: Tin gì kỳ cục. Sao người vậy mà chết nghe kỳ cục quá.
4.- Doanh nghiệp sách Thành Nghĩa, Sàigòn. Có lẽ phải nói đây là một ông Khai Trí thứ hai. Trong một dịp đi dự một buổi phát giải thường, do cái TTNCBTVPHVHDT. Viết tắt thế để quý vị khỏi mất thời giờ với cái Trung Tâm đó. Tôi có gặp anh Võ Thành Tân, Tổng giám đốc nhà sách Thành Nghĩa và nhất là anh Vũ Quang Trình, phụ tá TGĐ trong bữa ăn trưa đó. Gốc gác các anh đều là dân Quảng Nam, Quảng Ngãi mà người dân gọi đùa là: Cộng Hoà Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam Quảng Nam, Đà Nẵng. Gọi như thế để thấy cái dân ngoài đó đi theo đảng nhà nước tận tình. Nay sau 30 tháng Tư, họ, những người dân miền ấy có mặt khắp nơi, nhất là trong ngành báo chí, xuất bản. Các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên v.v. đều có người của họ. Chẳng hạn báo Thanh Niên có Nguyễn Công Khế, Tuổi Trẻ có Hùng Sơn Phước, Công An thành phố Trần Trữ Lang, Sàgòn time có Võ Như Lanh, Kinh tế VN có Cung Văn, Nhất Ánh.. Võ Thành Tân, sau 75 đang còn học Văn Khoa. Với cái vốn liếng ấy đâm ra hữu dụng, anh làm nghề mua bán sách cũ. Biết sách nào quý, biết sách nào giá trị là sở trường của một người mua bán sách cũ. Có tí vốn rồi, anh mua lại một cái ki ốt bán sách lẻ ở đường An Dương Vương. Kịp đến thời mở cửa, 1986.. Theo lời anh Trình, các anh liên kết với các nxb của nhà nước để in sách. Họ đứng tên, cho giấy phép rồi họ mặc cho mình muốn làm gì thì làm. Một cuốn sách mới đầu ít vốn in 1000 cuốn thăm dò. Bán chạy thì in lại, bán tiếp. Một năm mới đầu xuất bản 4, 5 đầu sách, rồi cứ thế tăng dần. Đến năm 2004 thì đã cho xuất bản đến 3000 đầu sách đủ loại. 2005 tăng lên 3500 đầu sách một năm. Nay thì các anh trở thành tỉ tỉ phú trong ngành xuất bản. Ngoài ra, các anh còn mở ra 18 cửa hàng bán sách với 2000 nhân viên. Hỏi sao có nhiều nhân viên như thế. Trả lời là để trông chừng những khách hàng ăn trộm đồ trong tiệm sách. Có những tiệm sách lớn có đến 40 chục ngàn đầu sách đủ loại. Làm gì còn có những Thanh Tuệ, những Từ Mẫn nữa. Làm gì còn có Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn nữa. Làm gì còn có Loan Mắt Nhung nữa.
Thôi chào vĩnh biệt sách cũ Sàigòn. Chào những đứa con tinh thần sinh trước 1975 còn sót lại. Và như trong một số bài viết của tôi, tôi luôn luôn đòi hỏi nhà cầm quyền đương thời một điều, một điều thôi. Trước khi nói hoà giải, trước khi nói tình nghĩa, trước khi kêu gọi Việt kiều về nước, trước khi nói đến khúc ruột ngàn dặm v.v. và v.v., yêu cầu các ông một lời xin lỗi chúng tôi, xin lỗi những người lính VN Cộng Hoà, xin lỗi các nhà văn, nhà trí thức, xin lỗi các bà vợ, xin lỗi người mẹ, xin lỗi trẻ con miền Nam và cuối cùng xin lỗi sách vở miền Nam. Xin lỗi tất cả. Không làm thì hãy khoan nói đến truyện gì khác.
---------------------------------------------------------------------------- Trích Văn Hoá, Văn Nghệ..Nam Việt Nam 1954-1975, Trần Trọng Đăng Đàn, trang 779, nxb Văn Hoá Thông Tin Hànội- 2000.
[ii] Trích lại trong Văn Hoá Văn Ngệ Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Dàn, trang 502, nxb Văn Hóa Thông tin.
[iii] Trích lại trong Văn Hoá, Văn Nghệ, Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Đàn. Nxb Văn Hoá Thông tin. Trg 502.
[iv] Trích Văn Học Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản, Nguyễn Hưng Quốc, trang 226, nxb Văn Nghệ, 1991
[v] [ Trích Ký ức về tiếng hát của người tử tù, Nguyễn Thụy Long, tạp chí Khởi Hành số tháng 9-2005, trang 23.
[vi] Trích SGGP, ngày 15-2-1987. Trong Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trg 228. nxb Văn Nghệ.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 17, 2011 3:05:44 GMT 9
Cuộc Di Cư Của Chữ Nghĩa - Nguyễn văn Lục Năm 1954, người ta nói đến cuộc di cư người, thật ra còn có cuộc di cư chữ nghĩa nữa. Người đi, chữ cũng đi theo. Chữ nghĩa miền Bắc cũng lềnh kềnh, lếch thếch nối đuôi nhau lên tầu há mồm. Chuyến đi gian nan của nguời di cư thế nào thì chữ nghĩa cũng vậy. Chữ ở lại, chữ ra đi, chữ nào còn, chữ nào mất? Hình như chẳng còn ai tâm trí đâu để lưu tâm tới điều đó. Chữ được di cư vào miền Nam, chở đi rồi, bao nhiêu chữ đã rơi rụng, vung vãi dọc đường? Bao nhiêu chữ đã sống còn sau khi đã hội nhập với chữ bản địa?
Phải đợi đến sau ngày 30 tháng tư 1975, người ta mới có thể biết được sự còn mất này một phần nhờ so sánh chữ nghĩa giữa hai miền. Hình như cũng ít ai để ý đến cái mất, cái còn của chữ nghĩa, vì có quá nhiều cái mất cái được được lớn hơn. Cái mất lớn hơn đó để người khác lo, người viết lạm bàn về số phận chữ nghĩa người di cư sau 1954 và nếu có dịp về chữ nghĩa của người di tản.
Phần 1.- Chữ mòn theo thời gian.
Cho dù không có cuộc di cư, chữ nghĩa cũng cách này cách khác bị sói mòn. Sự mất còn này trước hết là do sự sói mòn của thời gian. Chữ nghĩa như một vật dùng một lần thì còn ngon, nhưng dùng nhiều lần thì mòn hay cùn đi. Như cái kéo cắt mãi cũng phải cùn. Dao băm mãi cũng lụt đi. Khen đi khen lại đâm nhàm tai. Yêu nhau lắm, cắn nhau đau, hay ít ra cũng chán. Đùa dai hoài đâm nhạt như nước ốc. Hình như chữ nghĩa dị ứng với cái lập đi lập lại. Tất cả những ngữ nghĩa trên chỉ ra một điều: Thời gian và sự đi lập lại có thể làm sói mòn, hoen rỉ chữ nghĩa. Tâm lý con người lại ưa chuộng cái mới, cái lạ. Như trong tình yêu, dùng chữ đó với nhau lần đầu, trọng lượng của chữ nặng lắm, thấm thía lắm, cảm động lắm. Dùng lần thứ hai thấy nhẹ đi rồi. Phải tăng cường độ nghĩa bằng những chữ lắm, nhất, số một. Có khi cả bằng tay chân vẫn chưa đủ. Tăng lời thề.. Hình như vẫn hụt.
Trong văn chương, ta cũng gặp cảnh ngộ tương tự. Nhất là trong lãnh vực thơ. Thơ là khơi nguồn cho sáng tạo chữ mới, văn ảnh mới, biểu tượng mới. Còn nhớ, hồi thơ Nguyên Sa xuất hiện đúng lúc khi mà cuộc di cư đã hoàn tất. Chữ nghĩa thơ của ông còn nóng hổi, thơm phức như bánh mì mới ra lò. Nhiều cô cậu, ghi ghi chép chép để dùng lại:
Áo nàng vàng, tôi về yêu hoa cúc. Áo nàng xanh, tôi mến lá sân trường.
Chữ nghĩa đó được truyền tay, đến người cuối cùng có thể chỉ là chiếc bánh mì nguội. Cứng như đá. Thật ra, thơ đó có một vài văn ảnh mới. Mới với người đọc thôi. Nguyên Sa đã gợi nguồn cảm hứng từ người tình là cô Nga (sau này là bà Trần Bích Lan). Có thể lúc mà thơ đó mới ra lò, đối với ông, thơ văn đó chả có ấn tượng gì nữa. Nhưng mới người cũ ta. Có lẽ vì vậy mà nhà thơ suốt đời mang cái nghiệp phải sáng tạo cái mới. Sáng tạo không ngừng.
Số mệnh chữ nghĩa mỏng manh như số phận con người. Thời gian như thước đo chiều dài ngắn của chữ nghĩa, đồng thời cành báo về cái hữu hạn của nó. Sự sợ hãi của Nguyễn Du phải chăng cũng từ đấy mà ra? Chữ có thế vắn số nên có nhiều chữ đã trở thành chữ cổ ít ai nhắc tới. Còn nhớ, hồi mới di cư dzô Nam, người Bắc sửng sốt nhất, nghe lạ tai nhất là chữ Mã Tà. Mã Tà thời tây gọi là Hiến Binh, sau này trong Nam gọi là Cảnh Sát, ngoài Bắc gọi là Công An. Không biết vì lý do gì, chữ Mã Tà sau khoảng hai năm gì đó, không còn nghe ai nói nữa. Cũng vậy, theo sách vở, chữ “manh” nghĩa là nhỏ mọn. Người đời chỉ còn nhớ váng vất khi nó đi với chữ khác như mong manh, tan manh, chiếu manh, manh áo, manh mún. Một chữ khác như chữ “Khem”, nghĩa là kiêng cữ. Nếu nó không cặp bạn với chữ Kiêng thì người ta không còn nhận ra nó như kiêng khem ra nắng, ra gió. Chữ khác như chữ Lụn, nghĩa là hết, người ta cũng chỉ dùng trong một số trường hợp hiếm hoi: Tim lụn có nghĩa tim đèn cháy hết, lụn năm, lụn ngày, mềm lụn, lụn xuống, lụn mạt. Mấy ai còn nhớ, còn biết, còn sử dụng những chữ cổ trên. Nhưng có chết đi mới có sống lại, cái chết đi ung mầm ra cái mới. Nhờ vậy mà chữ nghĩa thay đổi và tiến bộ, mỗi ngày một đa dạng, một phong phú và chuẩn xác hơn. Thời gian đã là một nhẽ, cộng thêm dụng ý của người sử dụng chữ làm chữ nghĩa sống dở, chết dở. Từ nay, chữ có thêm nghĩa. Chữ và nghĩa. Chữ dùng giống nhau, nhưng nghĩa thì mỗi người hiểu một nghĩa. Rầy rà từ đấy mà ra.
Huyền thọai về việc xây tháp cổ Babel phải chăng là một bằng cớ báo trước về sự sa đà của ngôn ngữ, chữ nghĩa và đến cả số phận của nó nữa.
Số phận chữ nghĩa, cái sống, cái chết của nó là sống mòn, chết mòn, chết từ từ. Mỗi ngày của nó là một bước ngắn lại. Cả làng, cả nước đang dùng, vậy mà không đâu biến đi đằng nào.. Từ mòn đến là hay, nó gợi lên văn ảnh của một đồ vật mới đầu bóng loáng, sáng choang, mầu sắc rực rỡ, hấp dẫn người ta. Ai ai cũng mê, cũng nói, cũng dùng. Chữ trở thành thời thượng. Càng được dùng, càng nhiều người nhắc đi nhắc lại, càng phổ biến thì cái nguy cơ mất lúc nào không hay. Chữ vẫn đó, mà nghĩa đã mất dần. Cái xe chở chữ, lúc chở chữ này, lúc khác chở chữ khác, hoặc dán nhãn hiệu khác. Nó đã chở như thế bao nhiêu chuyến, đã thay hình đổi dạng bao nhiêu lần.
Nói như thế thì chữ mòn hay nghĩa mòn? Cái nào mòn trước, cái nào mòn sau? Chữ là cái chuyên chở nghĩa và một chữ có thể có nhiều nghĩa, tùy theo vị trí của nó trong câu nên nghĩa dễ bị mòn hơn chữ. Chẳng hạn, chữ cái và con. Chữ chỉ có hai, nhưng nghĩa thì nhiều lắm nên nghĩa lúc thế này, lúc thế khác. Cũng là con, nhưng con dao, con với cái, nhỏ con, con dại cái mang, con đĩ, cỏn con. Nhưng cũng không thiếu trường hợp cả hai đều mệnh yểu.
Chữ càng mòn nhanh nếu nó chuyên chở nhiều nội dung, ý hướng của người dùng. Tất cả tuỳ thuộc vào ý hướng người xử dụng.. Nhưng làm sao nắm bắt được ý hướng đó. Dĩ nhiên khó lắm. Vấn đề nay đã lan sang một chủ đề triết lý là: sự ngộ nhận, sự thông cảm hay sự bất lực trong việc tìm hiểu tha nhân mà các triết gia hiện sinh thường đề cập tới. Vì có dụng ý chữ nghĩa đôi lúc trở thành gian dối, lừa phỉnh và trong chính trị trở thành tuyên truyền. Một thứ bạo lực ngôn ngữ, một thứ vũ khí như con dao, khẩu súng. Chẳng hạn chữ “Việt gian” thời Việt Minh, hay chữ tay sai Cộng Sản thời bây giờ.
Với cái nhìn nhân bản thì chữ nghĩa có một cuộc sống, có dòng sinh mệnh, có thể mất, có thể còn, trôi nổi như đời sống một người. Nhiều chữ nay đã chết, nằm chôn vùi trong nghĩa địa của các viện bảo tàng hay sách cổ. Nói ra cũng ngậm ngùi. Xin trích dẫn một số chữ nghĩa làm bằng chứng về sự mất còn này. Trong lời mở đầu báo Nam Kỳ địa phận, số đầu tiên, năm 1907 có những câu như sau:
Bổn báo kỉnh cáo, tòa báo đã ước ao cho con nhà Annam, đua nhau tấn tài, tấn đức, thông phần đạo, ngoan việc đời… Tờ báo có ý khai đàng văn minh cho nhân dân đặng tấn phát cho mọi bề, việc đạo việc đời đều thông thuộc.
Xin trích dẫn một đọan khác: "Lời rao cần kíp. Bổn báo gửi cho mỗi người hai số nhựt trình đầu hết mà xem thử, như ai bằng lòng mua thì đem ba đồng bạc đến mượn cha Sở mua dùm.. " Trong một trả lời bạn đọc, chúng ta nghe thử lời rao sau đây: "Bổn báo có nhận được một mandat của một ông nào đó không đề tên, không đề địa chỉ, nhưng yêu cầu gửi báo." Tức cười thật. Nhưng 25 năm sau, trong tờ L!Impartial viết vào ngày 20-11-1929, ta thấy lối viết đã nhẹ nhàng thông thoát hơn: "Sự giải phóng người Annam về phương diện thương mại và kỹ thuật chỉ là một huyền thoại."
Bạn đọc thấy có nhiều chữ được sử dụng cách nay một thế kỷ đã không còn được dùng nữa như bổn báo kỉnh cáo, nhựt trình, con nhà Annam, tấn tài tấn đức, khia đằng văn minh. Nhưng có nhiều chữ vẫn được dùng cho đến ngày nay như chữ Cha Sở và nhất là những chữ khá chuyên môn cách nay 70 năm như giải phóng, phương diện thương mại và kỹ thuật, huyền thoại vẫn còn được dùng. Nhất là chữ huyền thoại mà người viết có cảm tưởng là nó chỉ được dùng sau này trong Triết học Tây Phương mà thôi. Hóa ra nó đã có một nguồn gốc lâu đời đến thế.
Trong những chữ bị mòn, mất đi..ở trên. Vấn đề là tìm hiểu xem, tại sao chúng không còn được dùng nữa.
Sự mất còn của một chữ trước hết là thói quen, rồi sự xói mòn, sự được dùng ít hay dùng nhiều, tính địa phương, sự sáng tạo của các nhà văn, nhà báo, dụng ý chính trị và cuối cùng là các cuộc di dân. Và đặc biệt nhất là cuộc di cư năm 1954 cũng là mục tiêu của bài viết này.
Phần 2. Cuộc di cư của chữ nghĩa.
Cuộc di cư năm 1954 không phải chỉ là vấn đề chính trị của một tập thể người chọn lựa một thể chế chính trị. Điều đó đúng nhưng không đủ. Một triệu người di cư chuyên chở theo cả một nếp sống văn hóa, phong tục, tôn giáo, cách làm ăn, cách suy nghĩ sinh sống, tính nết và cuối cùng cách ăn cách nói. Chữ nghĩa đã làm một cuộc di cư không tiền khoáng hậu trong lịch sử của người Việt từ Bắc vào Nam.
Khi lần đầu tiên tiếp xúc lại với chữ nghĩa miền Bắc sau 20 năm xa cách. Người viết có cái cảm giác sung sướng đến ngạc nhiên, đến bỡ ngỡ vì nhớ lại những chữ nghĩa tưởng chừng đã quên nay nhớ lại. Sau bao năm xa cách, hình như bắt lại được mình, nối lại được dĩ vãng thân thuộc, gần gũi. Chẳng hạn, lúc đọc nhà văn miền Bắc Vũ Thư Hiên trong cuốn Miền Thơ Ấu và nhất là cuốn Chuyện ở tỉnh lỵ; hay Tô Hoài trong O chuột (1942), Nhà nghèo (1944) và nhất là Cát bụi chân ai (1992); Nguyên Hồng trong Cửa Biển; Nguyễn Tuân Người lái đò trên sông Đà; Nam Cao với Chí Phèo, Đôi mắt; Nguyễn Khải với Mùa lạc; Lê Lựu với Một thời xa vắng. Và gần đây thôi Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma. Họ, những nhà văn, đã làm sống lại từ trong mồ nhiều chữ mà người viết đã nghe, hoặc chính mình đã dùng và nay đã quên, đã không dùng nữa. Người viết cảm động như một khám phá, như một sưởi ấm lại ký vãng đã quên. Chẳng hạn thay vì nói, ông ấy bệnh nặng, sắp chết, hay ông ấy đang hấp hối, đã cấm khẩu, tay bắt chuồn chuồn. Nhưng hạ một câu: Ông ấy sinh thì rồi thì đã quá. Và cứ như thế dàn trải ra khắp các cuốn sách quê hương cũ tìm về, dấu chân kỷ niệm và niềm thơ ấu sống lại.
Chữ nghĩa như có hồn được vực dậy, thổi thêm sinh khí. Phần lớn những thứ chữ này có vào thời tiền chiến và gần như bị “đoạn tuyệt” với TLVĐ. TLVĐ chẳng những đoạn tuyệt với phong tục, nếp sống cũ mà cả với chữ nghĩa cũ nữa. Như vậy, song song với nhóm TLVĐ, vẫn còn sót lại một dòng văn học ngược chiều với nhóm Văn Hoá Ngày Nay và cứ thế nó kéo dài đến bây giờ. Và một lần nữa, nó lại phải đương đầu với những nhà văn trẻ, thế hệ sau 1975, thế hệ sau cởi trói hay sau nữa Hậu Hiện Đại.
Cũng một cách thức tương tự, người ta tìm thấy ở miền Nam với Nhóm Sáng Tạo đổi mới nội dung, giải phóng chữ nghĩa bằng cách sử dụng những từ có vóc dáng triết lý thời thượng. Bên cạnh đó có một dòng chảy văn học chữ nghĩa như khe suối nguồn, lau lách, rỉ giỏ giữ lại cội nguồn, giữ lại bản sắc của mình với Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc và đặc biệt nhất là nhà văn Lê Xuyên. Đây là một hiện tượng văn học có vóc dáng và đáng nể.
Nhưng chuyện phải đến đã đến. Càng đọc các nhà văn miền Bắc, càng thấy chữ nghĩa mất nhiều lắm. Đếm không hết, nói mấy cũng không đủ.
Luật của đa số
O bầu thì tròn, ở ống thì dài. Coi vậy mà đúng lắm. Người mới đến phải vào khuôn, phải thích ứng, phải hội nhập. Sức ép của đa số buộc người mới tới vứt lại hành lý mang theo. Ngôn ngữ, tiếng nói phải vứt đầu tiên vì nó khác người ta quá. Tiếng nói là cái phải điều chỉnh đầu tiên. Phải vặn lại đinh ốc hàm dưới, điều chỉnh lưỡi, điều chỉnh tần số âm thanh ở tai, nhất là một thảo trình mới cho bộ óc. Càng ít, càng thiểu số, càng vào nhanh, càng giống khuôn đúc.. Cái mà còn giữ lại cuối cùng là giọng nói.
Thoạt đầu là các chữ chửi của dân miền Bắc vốn là sắc thái văn hoá bản địa. Đặc thù và cá biệt. Ai chửi hay và chửi có bài bản, có nghệ thuật, có vần điệu, ví von, có tay nghề bằng miền Bắc. Chửi hay như thế nên có kẻ làm nghề chửi thuê kiếm ăn. Chẳng hạn, trong chuyện Chí Phèo của Nam Cao, Chí Phèo chửi để lấy tiền uống rượu đến tay sừng sỏ trong làng như lão Bá cũng chào thua. Có những chữ nghĩa thuộc loại anh chị, kế thừa một truyền thống mở mồm ra địt.. mẹ, địt bố, chửi có tay nghề ở miền quê nghênh ngang lên tầu há mồm, coi ai chẳng ra gì. Vậy mà vào đến miền Nam gặp anh Hai ở cầu Ba Cẳng hay bến Tầu Sàigòn, chị Ba Cầu Muối, Chị Năm chợ cá Trần Quốc Toản đành tắt tiếng. Các chị chữ nghĩa miền Bắc vẫn có thói quen đứng dạng háng, tốc váy, hoặc vỗ đồ bồm bộp đứng xo ro một góc khi nhìn thấy những thằng cha bự tổ trảng, cởi trần, cười thì mồm vàng choé những răng vàng. Không im tiếng sao được. Đâu đây nghe tiếng: Thằng nào ngon ra đây, Đù má thằng nào vừa mới địt đây. Tiếng chửi thề của tay anh chị miền Nam không có lời đáp trả. Tiếng chửi tục biết thân, biết phận tan hàng. Tất cả những tiếng chửi tục đủ loại đã có một thời khét tiếng tỉ như Tiên sư bố, tiên sư cha, tổ sư cha, bú ****, bú buồi, địt nọ địt kia, liếm, sờ, chui..., không bao giờ được nghe nữa. Chả bù với ở miền Bắc, nhớ lại các anh chị chữ nghĩa này chửi ra rả cả ngày, cả đêm không ai dám đụng đến. Trong suốt 20 năm sống ở miền Nam, sống chung đụng với dân miền Bắc, người viết chưa nghe, dù một lần địt nọ, địt kia nữa. Cùng lắm, nghe chửi trên Tivi vào những dịp tết.
Thứ đến các chữ liên quan đến bộ phận sinh dục, các hành vi liên quan đến chuyện sinh lý, bài tiết, đến chuyện ăn nằm giữa hai vợ chồng. Người Bắc có văn hoá cao, tránh cái thô tục không cần thiết nên đã có trăm cách, trăm lối diễn tả xa xôi, bóng gió được coi là tao nhã. Vào trong Nam dẹp hết tất tần tật. Cái nào ra cái nấy phân minh, đơn giản và vắn gọn. Đi cầu là đi cầu. Đụ là đụ. Không bầy đặt hoa hòe, hoa sói. Cái đơn giản, cái thực tiễn không hàm ngụ, không gợi ý đôi khi lại thanh tao gấp mấy lần cái thanh tao thứ thiệt. Khi viết chữ C. nửa chừng, chữ L. nửa chừng, tưởng rằng kín đáo, tưởng rằng thanh tao đã là cách để cái đầu làm việc, cái đầu nghĩ bậy. Chữ là thế, nghĩa lại khác. C viết tắt. L. viết tắt thì tha hồ hồ cái đầu lùng bùng nghĩ bậy.
Tính chơn chớt, thật thà, có sao nói dậy đánh văng chữ nghĩa miền Bắc.
Bên cạnh chửi tục, người Bắc còn có lối nói mát, nói mỉa, nói xéo, chê bai cũng độc địa lắm. Chửi cha không bằng pha tiếng là vì vậy. Những lối nói này sử dụng trong những liên hệ, tương quan gần như người quen thuộc, người làng, người hàng xóm, bạn bè. Nó có nhiều cấp độ từ chê bai, khinh bỉ, trách móc, coi thường giận hờn, bực bội.. Nó chứa chất chút gì độc ác, bơi móc từ tính nết chi li từng cử chỉ, gia cảnh, cái nghèo, cái đói, cái bần tiện, rạch ròi từng cái dốt nát, cái ngu xuẩn, cái kém cỏi, cái độc ác của mỗi người.
Tỉ dụ nói mỉa mai: Cái mặt nó vác lên, trông nó đú đởn, ăn cơm hớt ấy, cho chó ăn. Thường sự mỉa mai nhắm vào sự nghèo khổ, sự ăn uống, vào tính nết, về phái tính và sự đe dọa.
- Về nghèo khổ: Dân miền Bắc túng quẫn nên lấy cái ăn, cái uống làm đầu. Lúc giận rủa nhau cũng mang cái ăn uống ra mà nhiếc móc nhau kể cũng không lấy làm lạ. Tỉ dụ diếc móc người ta như: nghèo rớt mồng tơi, nghèo lõ đít, thí cho nó tí tiền, cứ gọi là đói vàng mặt, đói rã họng. Nghe những chữ diếc móc trên đôi khi đau lòng còn quá chửi. Vì thế, người đời mới sợ tiếng diếc móc đến cầm bát cơm lên ăn không nổi..Vì thế có tâm trạng khác nhau: Khi nghe chửi, ta thấy tức giận, khi bị diếc móc, ta cảm thấy nhục. Từ tâm trạng đó kéo ra hai lối phản ứng. Khi bị chửi, ta chửi lại hoặc muốn đánh trả lại, ăn miếng trả miếng trong tương quan bình đẳng và rất có thể tương quan bất bình đẳng, kẻ yếu chửi kẻ mạnh. Nhưng khi bị diếc móc, bị xỉ nhục thì tương quan lệch, kẻ trên-kẻ dưới, nên nạn nhân hầu như không có đòn để đỡ, vì yếu thế không dám đáp trả, cam chịu ẩn nhẫn và cùng lắm nuôi hận trả thù. Cho nên, về mặt tâm lý, bị diếc móc vẫn đau hơn bị chửi. Thông thường những người có văn hoá, những người có địa vị, ở trên người khác có giáo dục thường ít chửi mà nói diếc, nói móc, nhẹ hơn là nói bóng, nói gió..
Về tính nết: Phải quen biết, phải qua lại mới biết nhau, biết từ chân tơ kẽ tóc, đến lúc giận hờn thì mang tính xấu người khác ra rủa. Chẳng hạn rủa: mắt ông viền cải tây rồi, đồ thông manh, trông vậy mà đáo để ra phết, đồ ông mãnh, cứ giãy.. lên như đĩa phải vôi, nhanh nhẩu đoảng, lanh cha lanh chanh. Tất cả những lối nói trên đều dựa vào một sự vật, vào một biểu tượng cụ thể có thật để gợi lên một ý tưởng xấu. Biến cái cụ thể thành một ý niệm trừu tượng
Cả một nếp sống văn hóa, truyền thừa, kinh qua kinh nghiệm mới nhận ra cái tế vi, cái dị biệt mà biên giới nghĩa chỉ cần xảy chân một cái là dùng sai, hiểu sai. Sử dụng đúng chỗ, đúng trường hợp hẳn không phải là dễ. Đồ thông manh thì nặng hơn mắt ông viền cải tây. Đồ cám hấp thì nặng hơn đồ dở hơi. Đồ láu cá láu tôm thì nặng hơn đồ ông mãnh. Nói không đâu vào đâu thì khác nói chua như dấm. Cân nhắc sự việc, đánh giá từng trường hợp, thẩm định người – việc – rồi dùng chữ thích đáng. Tất cả đòi hỏi sự khôn ngoan, tính toán và trải đời. Đó là thứ văn hoá chửi mà không ăn mòn bát mòn đĩa ở miền Bắc không hiểu thấu đáo được. Vào đến miền Nam sau này, người dân miền Nam với nếp sống giản dị đã trấn áp người miền Bắc, quy kết là khôn ranh. Bỏ đi Tám. Đù má, nói gì thì nói mẹ nó đi cho rồi, vòng vo tam quốc hoài, mệt quá. Vậy là phải dẹp cái thói xỏ xiên, văn hoa chữ nghĩa. Người miền Bắc di cư chỉ có mỗi một con đường trong lối sống và cư xử mới là dẹp bỏ tất cả những từ chửi bới, diếc móc ở trên. Vì thế, mấy ai còn nhớ đến những lối diếc móc trên.
- Về phái tính: Người phụ nữ miền Bắc vốn là nạn nhân của nhiều thứ, của đủ thứ đến cái gì xấu đích thị là của phụ nữ. Đến cái gì khen thì thật sự cái đó có lợi cho đàn ông. Khen tứ đức tam tòng là lời khen chết người, buộc chặt, trói chân người phụ nữ thành tên nô lệ không công. Khen tiết hạnh khả phong là lời khen trớ trêu nửa khóc, nửa cười. Khen trinh tiết làm đầu là một lối khen họan, khen thiến không hơn không kém, chẳng khác gì hoạn quan. Nói tách bạch ra, con C… là chúa, là vua.
Nhưng những lời nguyền rủa quả không thiếu mà có thừa.
Tôi muốn đứng ra, nghểnh cao cổ, hò hét bênh đàn bà cũng không được. Vì tìm đến nửa ngày cũng không kiếm đâu ra chữ để chửi bọn đàn ông. Thử xem nào: đồ đàn ông đĩ ngựa. Nghe không ổn. Đồ lẳng lơ. Cũng không nghe ra tai. Cuối cùng tìm ra được vài chữ đáng đời: Đồ súc sinh và một chữ dấm da dấm dớ: Đồ cha căng chú kiết. Thật đến là tức, tự nhiên xổ ra được một lô chữ cho hạ hoả: đồ du côn du kề, đồ ăn mày ăn xin, đồ gì nữa nào.. đồ lính tráng.
Cái may của phụ nữ miền Bắc là vào đến trong Nam, họ đã không bao giờ còn bị ai diếc móc như thế nữa.
Than vãn hay dọa nạt: đã nói thì phải nói hết. Bên cạnh đó, ở mức độ chừng mực vừa phải dễ dung nhận được là các lối nói than vãn, hăm he đe dọa. Trong lối nói này, người ta tỏ ra một oai quyền, một sự khôn ngoan già dặn, một sự từng trải, sự hiểu đời, cái hơn người. Chẳng hạn: Các người đừng có vội tí ta tí toét, cứ ỉm đi, cứ im thin thít, thời buổi nhiễu nhương, trắng đen lẫn lộn, hơi đâu mà, có dỗi hơi, kêu giời kêu đất, tôi vội vàng mát mẻ nói, đừng có bắt bí nhau, liệu cái thần hồn, bà truyền đời cho mà biết, cứ tẩn cho nó một trận đến lòi tù và ra, vả vào miệng cho tôi, cái giống nhà mày, không có tao thì cả họ này ăn bùn, nó bôi tro trát chấu vào mặt, mấy đứa kia thì đáng vật một nhát cho chết, nó lo xanh mắt và thức suốt đêm, hừ ngỡ là gì, hóa ra hắn nằm vạ, giận cá chém thớt, bà truyền đời báo danh cho mày biết, tôi biết tỏng tòng tong trong bụng ông nghĩ gì, chớ nói gở nó vận vào mình, e xúi quẩy đấy.
Người miền Nam nghe những câu trên là sùng rồi: rắc rối tổ mẹ, cái gì mà ví von qua không hiểu. Qua nói thiệt, qua có sao nói dzậy. Còn mấy cha nội, nói dzậy mà không phải dzậy. Có ngon ra đây, kiểu gì qua cũng chơi ráo trọi. Kiểu gì nó cũng chơi thì né đi cho được việc, giở sách thánh hiền ra đã có câu thánh dậy: tránh voi chẳng xấu mặt nào.
Phong kiến qua lối xưng hô bị dẹp bỏ.
Có lẽ không ở đâu, không ở nước nào cách xưng hô lại phức tạp lầy nhầy như miền Bắc. Mới đây, trong một chương trình Vidéo, người viết thấy một cô ca sĩ trẻ được người điều khiển chương trình phỏng vấn.. Lúc phải trả lời, cô lúng ba, lúng búng, vì không biết phải xưng bằng anh, chú, bác hay nhà văn với người điều khiển chương trình. Bác có vẻ già quá, anh thì có vẻ hơi xỗ xàng. Ông thì xa lạ. Cậu tớ thì xấc quá. Trong cái cách học ăn, học nói của người Bắc thì bài học vỡ lòng là học cách xưng hô. Trẻ con nào mà không được bố mẹ dạy phải xưng hô tùy theo tuổi đã đành, theo quan hệ họ hàng, theo chức vụ và theo xã giao nữa. Những tiếng thầy bu, thầy u, thầy đẻ, thầy me, cậu mợ, đằng ấy, cậu tớ, người nhớn, con nọ, con kia, huynh, đệ, quan bác, thằng cu, con đĩ, mẹ đĩ nhà tôi, nhà con, ông mãnh, thằng trời đánh thánh vật, thằng chết băm chết bằm tùy trường hợp mà dùng. Nhưng bắt chước người Tầu, ta còn có chữ Gia Phụ, Gia Mẫu, Gia Huynh, chỉ bực bề trên hay xá đệ, xá muội chỉ bực dưới. Bấy nhiêu lối xưng hô vào đến miền đất mới như lạc lõng, thi nhau bị “cáp duồn” hết. Không ai nói nữa. Do sức ép hay do tự mình cảm thấy lỗi thời, thấy dởm, thấy cầu kỳ, thấy rắc rối, thấy “không giống ai” thấy cần phải bỏ. Có lẽ thấy cái không giống ai là lý do của sự ra đi không trở lại của các cách xưng hô trên.
Các chữ dùng để gọi, xưng danh quan tước chức sắc cũng nhiều lắm. Cũng phiền lắm. Nhiêu khê lắm. Không xưng đúng danh phận, có thể bị trách, bị giận, bị trù ếm nữa. Nhiều không đếm xuể. Hầu hết, việc hài chức vụ có dụng ý, tâng bốc nịnh nọt. Nó đã dần biến mất khi vào đến trong Nam. Nó biểu tỏ một xã hội phong kiến, đẳng cấp, trên dưới không thích hợp ở miền Nam. Người dân miền Nam cũng là di dân, có cái may mắn không thừa hưởng di sản của một xã hội phong kiến, hủ lậu. Xã hội đó lo kiếm miếng ăn, làm giầu, không nghĩ đến chữ nghĩa thánh hiền, cũng chẳng bận tâm đến kẻ trên người dưới… Xã hội vừa ổn định, chưa mọc ra những mầm mống của thứ ổn định kiểu trên đè dưới, quan lại, thứ dân, giai cấp thống trị. Làng xã mở toang, không hàng rào vây kín. Xã hội cũng mở toang mọi phía mà dân là chính, dân là chủ. Sự xưng hô vì thế giản tiện và tuỳ tiện, đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Ba má thì là ba má. Khi cần gọi chung là ông già bà già. Nội việc xưng hô cũng thấy miền Nam đuợc cởi trói nhiều theo tinh thần tự do, dân chủ. Người Bắc từ xa tới, lẽ nào không thấy cái hay đó. Lẽ nào không theo, tự ý theo. Để gọi một người ở, người trong Nam chỉ gọi chung chung là người làm, vừa giản dị, vừa không có khinh miệt, rẻ rúng. Vì thế, nếu còn ai gọi cụ đốc thì thay vì là một trân trọng, nó đã biến thành trò cười, mai mỉa. Hóa cho nên, chữ nghĩa có cái thời của nó, thời để sống và thời để chết. Cách làm ăn có khác, chữ nghĩa cũng đổi khác
Cũng là xứ nông nghiệp, nhưng cách làm ruộng, cách sinh sống cũng khác miền Bắc nhiều lắm. Chữ nghĩa cũng vì thế cũng đổi theo. Rất nhiều chữ, từ miền Bắc, vào Nam không ai dùng nữa, vì đời sống kinh tế, xã hội đã thay đổi: Nghề hàng xáo (xay giã gạo, trong Nam không có nghề này ), ruộng chân nhất đẳng, nhị đẳng, ruộng mật điền (ruộng tốt nhất ) gian buồng, khóa dãy, rau muống lợn, đi đong gạo, dậm lại mái nhà, hòm gian (hòm to để đựng đồ trong nhà ), nhà pha (nhà tù), nhà dây thép, xe hòm (xe hơi sang trọng ), ngày con nước, đi lưới, cái niêu, nồi đất, chỉnh dầu, rổ rá, dao quay, dao nhựa, một bồ, vuông thóc, dây lạt, dùi đục, cái cũi, đóng cũi, cái cưa xẻ, cái gáo, cái chum, cái lọ độc bình, cái phên nứa, bát chiết yêu, đi bể (biển), tậu 3 mẫu ruộng, vác thúng, đèn măng xông, cái lồng ấp, cái hỏa lò than. Chữ sau đây cũng xưa lắm rồi, nhưng đến là hay: nhà xí. Nay thì nguời ta văn minh hơn gọi là nhà vệ sinh, trong Nam gọi là nhà cầu, siêu đun nước, cái áo quan, cái nhị tẩu (tẩu hút thuốc phiện), khay đèn, quạt lông, tràng biên (thân thế một người), đèn ló, cái mả, cái sập, cái phản, quần nái (quần dệt bằng một thứ hàng tơ tầm sợi thô, nhuộm đen), cái bình phong, con thò lò, đỉa phải vôi, giọng kẻ bể, cái trõng che, cót lúa, một bồ, vuông thóc, gạch bát tràng, gạch lát bổ cau (lát xiên và dựng nghiêng viên gạch ) gạch vồ, cái mả, rồi có cải mả, đề lao, cái lọ. Tỉ dụ: sách hai cái lọ đi kín nước. Chữ kín nước nghe thật hay, nhưng cũng ít được ai dùng tới nữa. Cái màn: Rồi từ đó thay vì nói đi ngủ, người ta còn nói vào màn. Thợ ngõa…
Người miền Bắc chân lấm tay bùn, làm ăn vất vả. Miền Nam, ruộng thẳng cánh cò bay, làm chơi ăn thật. Đi mút mùa lệ thủy không thấy nhà thấy cửa, nhất là không thấy tháp chuông nhà thờ, không thấy đình, thấy chùa. Cái nhìn về con người, về đời sống, về cách sinh hoạt làm ăn của người Bắc đã đổi khác. Chẳng mấy chốc cái ngậm ngùi lúc ra đi nay quên hết. Cứ gì chữ nghĩa bỏ quên, đất lề quê thói, phong tục, tập quán, đạo nghĩa cứ thế mà rơi rụng dần dần. Thay vì so đo, khép kín, bảo thủ, giữ lời ăn tiếng nói, giữ phép nhà bắt đầu buông thả. Thay vì chiếu trên, chiếu dưới, có phép có tắc.. nay ăn nói thả dàn, chả kiêng nể gì nữa. Con gái, con đứa nay tụn năm tụm ba đàn đúm, hát xướng, thích thì ra rặng trâm bầu tán tỉnh, mọi chuyện hạ hồi phân giải.
Thành trì cuối cùng: văn minh miệt vườn đối đấu với văn hóa miền Bắc.
Người miền Nam, chữ nghĩa chỉ vừa đủ dùng, nếu không nói là còn sơ sài lắm so với miền Bắc. Nó là thứ văn minh miệt vườn không đủ để ba hoa trên trường văn trận bút. Cái điều đó đã được nhà học giả Phạm Quỳnh nhận xét một cách khá bất công trong cuốn Một Tháng Ở Nam Kỳ:
“Chữ Quốc Ngữ thì đã thông dụng lắm rồi, đàn bà con trẻ thường biết đọc, biết viết cả.. Nhưng đến văn Quốc Ngữ thì xem ra cái trình độ Quốc Văn đại để hãy còn kém”
Nhận xét đó, có lẽ người trong Nam chả bao giờ quên và thành kiến đó người Bắc cũng chả bao giờ thay đổi. Cho đến giờ phút này, cái văn minh miệt vườn đó, cộng với 20 năm văn học miền Nam đến sau 75 vẫn chưa được nhìn nhận.
Thành ngữ hay lối nói miền Bắc là vốn liếng ngôn ngữ của một dân tộc. Nó tích lũy, thải loại kết tinh những đặc thù, những sắc cạnh của ngôn ngữ, của vốn liếng hiểu biết truyền thừa. Nó không thừa, không thiếu, nó vừa đủ. Nó được sử dụng trong đời sống hằng ngày như kim chỉ Nam, nó đưa ra những tiêu chỉ đời sống, phán xét, nhận định phải trái tốt xấu. Nó là thứ ngôn ngữ đã được đãi lọc, được truyền thừa của sự khôn ngoan, thu gọn lại. Phải là người địa phương, nhuần nhuyễn sắc thái văn hóa bản địa mới có thể sử dụng đúng cách, đúng trường hợp. Người ngoại cuộc, nhất là người ngoại quốc, dù có ở lâu năm tại đất nước đó, chưa dễ giầu gì nắm bắt được tình ý, nội dung hàm ẩn của những thành ngữ đó. Miền Bắc, cái nôi văn hóa lâu đời cả nước giầu dân tộc tính nhờ những lối nói, lối viết đó. Nó chuyên chở cả thời kỳ 1000 năm thủ đô Hà Nội, văn hoá Thăng Long, văn hóa cho cả nước với không biết bao tên tuổi lẫy lừng. Nó không phải tự cao rao, quảng cáo vô bằng. Người và chứng tích văn học còn đầy ra đấy. Viết ngàn trang giấy cũng chưa đủ.
Vậy mà lên khỏi tầu há mồm, cập bến Nhà Rồng, tất cả những thứ đó đổ xuống sông hết. Bài chiếu Lý Công Uẩn dời đô không lẽ mang ra dọa.. Lý Thường Kiệt, Bà Huyện Thanh Quan cất đi cho rồi vì chóa mắt với xe cộ chậy hà rầm, đường phố rộng thênh thang, tấp nập người qua lại, xe gắn máy ba bánh nổ bành bạch điếc con ráy. Xe thổ mộ lách cách vui tai thong thả dời chợ Bến Thành đi Ngã Ba Ông Tạ, hay đi chợ Bà Chiểu. Chú lái xe thổ mộ ngồi nghiêng bên thành cán xe ngựa thòng chân xuống đất, mồm kêu toóc toóc như dục chú ngựa ráng tí nữa, ráng tí nữa đi cưng. Hoa trái bầy la liệt mua một chục ê hề đủ loại. Bà bán hàng ra giá mua một chục có đầu, nghĩa là chục có thể 11, 12 đến 13 trái tùy theo thỏa thuận. Nội thế thôi, mua bán kiểu kỳ cục Nam Kỳ cũng thấy đủ sướng rồi. Thật đến là kỳ lạ cái xứ Nam Kỳ. Chẳng ai bảo ai, ngay cả đám sĩ phu Bắc Hà, đám trí thức thành thị cũng rứa. Quên hết chơn, hết chọi.. Câu chuyện văn hóa ngàn năm chẳng chống đỡ nổi một ngày.
Người Hà Nội, người di cư có văn hóa cao, hoặc các nhà văn thường sử dụng chúng một cách nhuẩn nhuyễn trong lúc giao tiếp, viết lách. Nói văn hay chữ tốt, nói có văn hóa đương nhiên phải biết sử dụng thành ngữ đó, lối viết đó như một thuật ngữ, nói ít hiểu nhiều. Miền Bắc có những nhà văn tiêu biểu sử dụng vốn liếng các thuật ngữ này như Trần Tiêu, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Khắc Trường. Đọc họ cũng lý thú lắm.
Vậy mà chữ nghĩa đó vào đến trong Nam đã bị gạt, thải loại không chừa một chữ nào. Không muốn nghe, nghe thì gạt đi, muốn nói cũng không được. Nói ra thì nó đớ đờ đờ. Có duyên, được kính nể ở ngoài Bắc, trong Nam trở thành vô duyên, không ngửi được. Đã thế, chữ nghĩa để có cơ tồn tại, nếu nó được các nhà văn dùng thì đỡ biết mấy. Chính các nhà văn di cư vào Nam như nhóm Sáng Tạo cũng quăng thùng rác không thương tiếc. Chúng bơ vơ, lạc lõng, đầu đường, góc nhà, góc phố, nơi từng nhóm người rồi biến dạng. Không có đám ma. Không kèn không trống. Cái này không phải hoàn toàn lỗi người bản địa mà chính tại người dân du nhập không muốn giữ. Hình như có một thói quen xấu, có mới nới cũ. Ít ai muốn nhắc nhở, bàn, viết về những chói sáng văn học miền Bắc.
Có lẽ cái mất lớn nhất của dân di cư là mất lối nói, lối viết, nếp sống văn hoá thành ngữ đã bị biến dạng. Nếu còn một thứ văn hoá gì là thứ “Văn hóa chảy”. Chảy tuốt luốt. Với cái độ nóng trung bình 35 độ, cái gì cũng có thể chảy được. Bù vào chỗ đó, họ phải đi tìm một hướng viết mới, mới có nghĩa là khác với tiền chiến, khác với Tự Lực Văn Đoàn. Mới thực sự thì chưa biết là thế nào, chưa biết hình thù nó ra sao, nhưng điều rõ rệt là dứt bỏ truyền thống, cái cũ, trong đó có các thuật ngữ cũ của miền Bắc. Họ không thích ngồi lau đồ đồng, đánh bóng chữ cũ mà đùa cợt mầu mè, son phấn với chữ nghĩa cho là mới, kêu rổn rảng, lặp đi lặp lại đến lập dị. Chữ nghĩa đó mà phần đông họ nói để họ nghe hoặc dành cho một thiểu số trí thức thành thị vốn chẳng đại diện cho cái gì, ngay cả cho chính họ. Chữ nghĩa đó gặp lần đầu thấy lạ thì muốn làm quen. Quen rồi thì chán ngấy muốn lỉnh, vì chẳng nói được điều gì. Chính ở chỗ đó, chữ nghĩa văn minh miệt vườn trở thành nhu cầu tinh thần của đa số dân miền Nam. Cả cái văn hoá miền Bắc đưa vào bị cháy rụi chỉ còn trơ lại ít cột kèo đen thui. Không ai đếm xỉa đến nữa.
Phần người viết, bắt gặp lại nó thấy gần gũi như người bạn cố tri lâu ngày gặp lại. Tự nhiên chẳng khác gì thấy người bạn đầy những tính tốt mà trước đây đã không lưu ý tới. Phải nói nó hay lắm, đượm mầu sắc dân tộc, quê hương, xứ sở.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 17, 2011 3:06:25 GMT 9
Thay lời kết luận: Nhà văn trước hết là người sử dụng ngôn ngữ như một người đầu bếp dùng rau cỏ, thịt thà, gia vị nấu món ăn. Làm văn không nhất thiết là sáng tạo từ mới, chữ mới. Chùi đồ đồng, đồ cổ không nhất thiết là nhai lại. Bởi vì, cùng một từ ngữ, một chữ được dùng đúng trong từng cảnh huống, nó vẫn có chỗ đắc địa. Rất tiếc là trong tất cả các nhà văn miền Bắc di cư vào Nam đã tự mình cắt cái đuôi quá khứ mở ra một lối viết mới. Hay cũng có, mà dở cũng không thiếu. Tuy không vay mượn vốn cũ, vay mượn cái cũ của người làm cái mới của mình thì tự nó vẫn là vay mượn, vẫn là cái cũ, vẫn là đi chùi đồ cũ. Cho đến nay, những suy tư, những trăn trở hiện sinh về sự tồn tại, về ý nghĩa đời sống của các nhà văn ấy, sau 54, xét ra cũng chẳng có đất sống nữa. Chẳng nói đâu xa, lối viết, lối suy nghĩ của trí thức thành thị, trưởng giả vay mượn, đượm không khí phòng trà với cà phê, thuốc lá, ánh đèn mầu, tiếng nhạc xập xình tự nó đã không có đất đứng nữa sau biến cố Phật giáo 63. Từ đó, chiến cuộc leo thang, lối viết hưởng thụ, suy tư trưởng giả về ý nghĩa đời người, về cái đáng sống hay dư thừa nhường chỗ cho lối viết nhập cuộc, dấn thân. Các nhà văn thời buổi 54-55 một lần nữa trượt dốc, bơ vơ, lạc lõng trong cuộc đu dây chữ nghĩa. Cuộc di cư năm 1954 đáng nhẽ là một cuộc hành trình chữ nghĩa, tiếp nối cái sợi giây văn hoá nối dài hai miền, tự nó đánh mất đi khúc ruột liền sinh ra một thứ văn chương không gốc. Lẽ dĩ nhiên, cạnh đó, nhiều trào lưu tư tưởng, văn học cũng góp vào các dòng chảy chung đó. Người viết gợi lại những chữ nghĩa của thời xa xưa miền bắc, có những chữ tự nó cũng không còn được dùng nữa ở miền Bắc. Điều đó thật tự nhiên và dễ hiểu. Nhưng phần đông, chúng vẫn là cái vốn liếng văn hóa của đất nước, của dân tộc nói chung vượt lên trên những đối lực chính trị vốn lúc nào cũng là kẻ thù của văn hóa. Nghĩ như thế mới thấy vai trò và sứ mệnh nhà văn quan trọng đến bực nào. Bài viết này, đã hẳn chưa đầy đủ, vì còn rất nhiều chữ bị bỏ quên chưa được nhắc tới, lại chưa hệ thống hóa đúng mực, nhưng trong chừng mực của một bài báo, thiết tưởng cũng là một hoài niệm của những người di cư nay di tản ra xứ người để có dịp nhâm nhi, dịp nhớ lại và hồi tưởng về một dĩ vãng đã qua. Và có lẽ đó là mục đích chính của bài nầy theo cái nghĩa: Vang bóng một thời của chữ nghĩa.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 17, 2011 3:11:44 GMT 9
"Ca" "hát" lung tung Nguyễn Dư Nghe mấy ông cô-lô-nhần, tây thuộc địa hát (h) sai tiếng Việt, người Việt nào chả bực mình. Nhưng vẫn chưa khó chịu bằng nghe người Việt a dua theo Pháp, trọ trẹ thêm một lần nữa. Kết quả của cuộc giao lưu văn hoá bất đắc dĩ này là nhiều địa danh nửa tây nửa ta được ra đời. Hồng Hải trở thành Hòn Gai, Nam Hoa thành Nam Ô, Hải Vân thành Ải Vân, vân vân...(xem bài "Hát" hay không "hát" ?). Có người đùa dai, nửa nạc nửa mỡ : tây hát (h) sai nhưng ca (k) thì sao ? Câu hỏi thật sáng giá, đáng đồng tiền... phật lăng ! Tội gì không đem ra...bàn suông cho sướng miệng ! Miền Nam hát (h) khá hơn miền Bắc, miền Trung. Nhưng tài tử đờn ca (k) cũng có khi hơi lạc điệu. Chẳng hạn như bài "Kỳ Hoà hỗn chiến Chí Hoà" đầy ai oán. Sử của ta cho biết : Năm 1790 Nguyễn Ánh sai Ông Tín (Olivier de Puymanel) xây thành Gia Định, theo kiểu cách của Vauban. Năm 1832, Minh Mạng bỏ tên thành Gia Định, đặt tên mới là thành Phiên An. Năm 1833, Lê Văn Khôi nổi lên chống lại triều đình, chiếm thành Phiên An. Mãi đến năm 1835, sau khi Lê Văn Khôi bị bịnh chết, quân triều đình mới chiếm lại được thành. Minh Mạng hạ lệnh đốt thành Phiên An cho hả giận. Năm sau (1836) xây thành khác. Thành mới nhỏ hơn thành Phiên An, không có tên riêng. Sử gọi là thành tỉnh Gia Định. Sách báo của tây gọi thành xây thời Minh Mạng này là Citadelle de Saigon, ta dịch là thành Sài Gòn. Ngày 17-2-1859, thành Sài Gòn bị Pháp đánh chiếm. Ba tuần sau, ngày 8-3-1859, đô đốc Rigault de Genouilly ra lệnh đốt phá, san bằng thành Sài Gòn. Sách Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn chép : - (Năm 1859, tháng giêng) quân của Tây dương vây đánh thành tỉnh Gia Định (thành Sài Gòn). Khi ấy quân của Tây dương đã liền mấy ngày (từ ngày 11 đến ngày 14) bắn phá các đồn ven sông, rồi thẳng đến bến sông tỉnh thành (ngày 15) hướng vào thành bắn súng. Lại một toán lên bộ, quanh thành đánh sấn vào. Quan quân tan chạy cả, thành bèn bị vỡ...(1). Hai năm sau... - (Năm 1861, tháng giêng) quan Tây dương đánh phá đồn lớn và chỗ tỉnh đóng tạm của Gia Định, quân quan lui về đóng ở tỉnh Biên Hoà (...) (2). Đồn lớn là đồn nào, tên là gì ? Đại Nam thực lục không cho biết. Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép rõ hơn : - (Năm 1861) Ông Nguyễn Tri Phương cùng với quan tham tán đại thần Phạm Thế Hiển vào xếp đặt ở Gia Định một cách rất có qui củ, đắp dãy đồn Kỳ Hoà (người Pháp gọi là dãy đồn Chí Hoà) cũng hợp qui thức, để chống nhau với quân của đại tá d'Ariès. Hai bên đã từng đánh nhau hai ba trận, đều bị thiệt hại cả (3). Sực nhớ ngày xưa được nghe thầy kể trận tây đánh đồn Kỳ Hoà. Hôm nay để ý, mới biết thêm chi tiết : tên Kỳ Hoà của Việt Nam, người Pháp gọi là Chí Hoà. Nôm na toạc móng heo thì Kỳ Hoà được người Pháp ghi âm thành Chí Hoà. Hân hạnh cho khám Chí Hoà. Được tây xây, tây đặt tên. Tây từ trong ra đến ngoài. Thật là bất ngờ. Bất ngờ đến độ... khó tin. - Gớm nhỉ, nghi ngờ cả sử à? - Thưa thầy, ngày xưa học sử với thầy để... đi thi. Hôm nay, thầy nghỉ hưu rồi, mới dám hỏi thầy... Kỳ Hoà, Chí Hoà tên nào là ta, tên nào là tây? Tên nào đúng, tên nào sai ? Ôi ! Giang sơn gấm vóc! Hương hoa đất nước! Tha hồ... ta về ta tắm ao ta. Ta cùng nhau đi... nhờ các sử gia, các nhà nghiên cứu của ta trả lời giùm câu hỏi. Tiếc rằng bộ Đại Nam thực lục đồ sộ đã bỏ rơi không đả động gì đến Kỳ Hoà hay Chí Hoà. Chính sử của ta, ta không cần chép... chuyện của tây. Đại Nam dư địa chí ước biên cũng không ghi chép gì về "6 tỉnh Nam kỳ đã thuộc nhượng địa"(4). Không chơi với tây. Mất cho mất luôn. Thật oái oăm cho đời sau, phải dựa vào tài liệu của tây để... tìm hiểu chuyện của ta. Loanh quanh, luẩn quẩn như đèn cù. Có lẽ vì vậy mà các nhà "Gia Định học" vẫn chưa đồng ý với nhau. Người thì chép là đại đồn Kỳ Hoà(5)(6), người thì chép là chiến luỹ Chí Hoà (đại đồn Phú Thọ) (7), hay đại đồn Chí Hoà(8). Hàng thật, hàng giả khó phân biệt. "Bì bõm ao ta" coi bộ không xong. Thôi đành phải "quờ quạng hồ tây" vậy! Báo L'Illustration(9) có hai bài phóng sự chiến trường viết về chiến dịch Pháp đánh chiếm tỉnh Gia Định. Bài thứ nhất, của phóng viên V. Paulin, tường thuật trận tấn công thành Sài Gòn (Citadelle de Saigon), ngày 17-2-1859. Bài báo có tranh vẽ cửa chính thành Sài Gòn. Tài liệu do thư kí của đô đốc Rigault de Genouilly cung cấp. Bài thứ nhì, của phóng viên F. Roux, tường thuật trận đánh đại đồn Kỳ Hoà (Grand Fort de Ki-Hoa), diễn ra trong hai ngày 24 và 25-2-1861. Bài báo có bản đồ hành quân, địa hình khu vực. Pháp đánh Sài Gòn ngày 17-2-1859 Pháp đánh Kỳ Hòa hai ngày 24 và 25-2-1861 Sài Gòn 1795 So sánh bản đồ của bài báo với bản đồ do Pháp vẽ năm 1795, và bản đồ thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, thì thấy : Trong cùng khoảng thời gian xây thành Gia Định(1790), Olivier cho đắp thêm một dãy luỹ (Mur d'enceinte). Luỹ dài khoảng 10km, chạy dọc theo rạch Thị Nghè, từ Cầu Bông đến Ngã tư Ông Tạ. Đồn lớn (đại đồn Kỳ Hoà, Grand Fort de Ki-Hoa) do Nguyễn Tri Phương xây đắp năm 1861 nằm cạnh dãy luỹ của thời Gia Long, trải dài từ Ngã tư Ông Tạ đến Ngã tư Bảy Hiền. Bản đồ khu vực đại đồn Kỳ Hoà của báo L'Illustration không ghi lại vết tích của dãy luỹ. Điều này cho phép suy đoán rằng Minh Mạng đã cho phá huỷ toàn bộ hệ thống thành Phiên An, kể cả dãy luỹ. Ngoài báo L'Illustration, H. de Bizemont (10), Paul Bonnetain (11) cũng cho biết nhiều chi tiết về trận đánh đại đồn Ki-Hoa. Các tài liệu (bản đồ, sách, báo) đương thời đều cho thấy vào những năm đầu của cuộc xâm chiếm Việt Nam (giai đoạn 1860-1890), người Pháp ghi âm các địa danh của nước ta còn tuỳ tiện, thiếu chính xác. Chẳng hạn như Nam Định thì ghi là Name Digne, An Cựu là Ane-Keuou , Chợ Lớn là Cho-len v.v.. Tuy nhiên, khi nói đến trận đánh chiếm tỉnh Gia Định thì các tài liệu đều chép là Ki-Hoa. Sang đầu thế kỉ 20, người Pháp bắt đầu nghiên cứu về đất nước và con người Việt Nam. Dần dần, các địa danh được viết theo lối phát âm của tiếng Việt. H-L Jammes nhiều lần nói đến làng Chí Hoà và đồn luỹ Chí Hoà(12). Trong bài biên khảo về Đồn điền và bài viết về Tổng đốc Thuận Khánh Trần Bá Lộc, George Dürrwell cũng nhiều lần dùng địa danh Chí Hoà (13). Làng Chí Hoà ngày xưa ở gần trường đua ngựa, khoảng góc đường Thuận Kiều và Général Lizé (14). (Đường Thuận Kiều sau đổi thành Lê Văn Duyệt, ngày nay là Cách Mạng Tháng Tám. Đường Lizé đổi thành Phan Thanh Giản, ngày nay là Điện Biên Phủ). Nếu không để ý đến năm tháng của các bài viết thì có thể nói rằng chính người Pháp đã lẫn lộn Kỳ Hòa và Chí Hoà... trước người Việt. Nhạc trưởng Tây đã hướng dẫn ban nhạc "trống đánh xuôi kèn thổi ngược" chơi bài "Kỳ Hoà hỗn chiến Chí Hoà" ! - Bà thấy chưa ? Hồ tây đâu có hơn gì ao ta. Tui chịu thua mấy ông... học giả. - Chuyện gì mà kì cục vậy. Tui học thiệt, ông còn không coi ra gì. Bây giờ lại chịu thua cả mấy thằng... học giả sao ? Chu choa, đến nước này thì phải nhờ trạng mẹo giúp một tay mới xong! - Thông thường thì ch của tiếng Pháp được phát âm , giống chữ s của tiếng Việt miền Trung, miền Nam (miền Bắc phát âm sai chữ s).
Chien (siêng, con chó). Chat (sa, con mèo). Cochon (cô-sông, con heo). Chocolat (sô-cô-la). Cochinchine (cô-sanh-sin, Nam kì)...
- Nhưng, nhiều khi ch lại được phát âm [k], giống chữ k của tiếng Việt.
Chaos (ka-ô, hỗn độn). Choléra (kô-lê-ra, dịch tả). Orchidée (O-ki-đê, hoa phong lan). Chiromancie (ki-rô-măng-xi, xem tướng tay)...
- Tiếng Pháp không có âm ch của tiếng Việt.
Con chiên của ta không phải là con chó tây. Rượu chát không phải là... rượu con mèo Dubonnet.
Cháu chắt của mấy vị sáng chế ra chữ quốc ngữ bị lúng túng với ch của tiếng Việt. Cái thuở ban đầu lơ láo và vênh váo ấy, có người hiến kế : mang cách đọc ch thành k của tiếng Pháp áp dụng cho tiếng Việt. Diệu kế! Không cần oong đơ gì cả, mấy ông Lang Sa liền rủ nhau ghi âm ch của tiếng Việt bằng chữ k.
Thí dụ điển hình là Chí Hoà của ta được nhà báo, nhà văn Pháp ghi âm thành Ki-Hoa. Tuy không hoàn toàn đúng, nhưng... "cười gượng còn hơn mếu".
Bây giờ xin bàn thêm về câu nói của Trần Trọng Kim.
- Nếu Kỳ Hoà là tiếng Việt, như Trần Trọng Kim nghĩ, thì người Pháp chỉ việc chép lại là Ky-Hoa. Vừa đúng chữ vừa đúng âm. Pháp Việt ca (k) giống nhau. Và chắc chắn người Pháp sẽ không vặn vẹo viết là Ki-Hoa.
- K (Việt) hoàn toàn khác ch (Pháp). Không bao giờ người Pháp lại chọn giải pháp "lợn lành chữa thành lợn què", ghi âm Kỳ Hoà thành Chi-Hoa (Si-Hoa). "Đường quang không đi, đâm quàng bụi rậm". Vừa rắc rối, vừa sai!
Nói rằng Kỳ Hoà của ta được người Pháp ghi âm thành Chí Hoà là vô căn cứ, là sai.
Trần Trọng Kim và những người bắt chước ông, đã đặt cái cày trước con trâu. Địa danh Chí Hoà của Việt Nam bị mấy ông cô-lô-nhần bóp méo thành Ki-Hoa (Kí Hoà). Người Việt nhanh nhảu thêm mắm thêm muối (các đại gia thời tây gọi là thêm bơ thêm ma-di) kéo dài chữ i, xoay dấu sắc sang dấu huyền. Rốt cuộc, Ki-Hoa bị sửa sai, sai thêm một lần nữa, thành Kỳ Hoà.
Trên đây chỉ là một trường hợp tây ta đồng ca (k)... lạc điệu. Ngoài ra, đó đây thỉnh thoảng lại ngân lên điệp khúc Bắc Kạn, Đa Kao, K. K. tùm lum! Lỗi tại các vị cố đạo ! Tại sao khi sáng chế ra chữ quốc ngữ, các vị không chỉ rõ cách phân biệt cu (q), ca (k), xê (c). Dân cày sâu cuốc bẫm vùng Bắc Kạn lo xoay xở chống khô cạn, dân Đa Kao lo vác đồ lên cao ngừa ngập lụt, ai hơi đâu để ý ca (k) cho đúng, xàng xê (c) cho hay, cái mớ chữ như lăng quăng của các vị.
Cũng may, người Việt vốn dễ tính. Ca (k), hát (h), trọ trẹ lâu ngày cũng thành quen tai. Ai không thích thì... đừng nghe.
Trên nền cũ của thành Sài Gòn, Pháp cho xây Caserne du Onzième Régiment de l'Infanterie Coloniale, viết tắt 11è R.I.C. (Trại Bộ Binh Thuộc địa, đội thứ mười một). Pháp đi, 11è R.I.C. trở thành Thành Cộng Hoà. Rồi thành Cộng Hoà cũng thành bình địa.
Xưa kia, khám Chí Hoà của Sài Gòn nổi tiếng không thua gì Hoả Lò của Hà Nội. Thế rồi, trời đất nổi cơn gió bụi.Hoả Lò được dập tắt. Đống tro tàn hoá thân thành khách sạn đẳng cấp. Máy lạnh mát rượi. Trong khi Chí Hoà vẫn trơ trơ với cái nóng nung người. Trước sau vẫn "lòng ta sắt đá, há lung lay". Dửng dưng với cây xanh, bóng mát của công viên Kỳ Hoà gần bên. Thế à! Thiệt sao? Kỳ Hoà được nằm cạnh Chí Hoà ! Tình tứ, lãng mạn hết chỗ chê.
Chí Hoà, Kỳ Hoà tuy gần nhau nhưng vẫn chưa được... đề huề bên nhau. Có lẽ vì đàn còn ngang cung, ca (k) còn lạc điệu.
Nguyễn Dư (Lyon, 4/2011) Chú thích : (1)(2) - Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Giáo dục, 2006, tr. 594, 699.
(3) - Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Bộ Giáo Dục, tập 2, Miền Nam, tr. 258.
(4) - Cao Xuân Dục, Đại Nam dư địa chí ước biên, bản dịch của Hoàng Văn Lâu, Văn Học, 2003, tr. 17.
5) - Phạm Văn Sơn, Việt sử toàn thư, Khai Trí, 1960, tr. 634, 635.
(6) - Cao Tự Thanh, Đoàn Lê Giang, Tác phẩm Nguyễn Thông, Sở Văn Hoá và Thông Tin Long An, 1984, tr. 18).
(7) - Sơn Nam, Đất Gia Định xưa, nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 1984, tr. 112.
(8) - Ca Văn Thỉnh, Bảo Định Giang, Nguyễn Thông, con người và tác phẩm, nxb Thành Phố Hồ Chí Minh 1984, tr. 24.
(9) - Les Grands Dossiers de l'Illustration-L'Indochine (1843-1944), Le Livre de Paris, 1987, tr. 18-23.
(10) - H. de Bizemont, L'Indo-Chine Française, Paris, Librairie de la Société Bibliographique, 1884, tr.28.
(11) - Paul Bonnetain, L'Extrême Orient, Paris, Maison Quantin, 1887, tr. 108.
(12) - H-L Jammes, Souvenirs du pays d'Annam, Challamel, 1900.
(13) - George Dürrwell, Ma chère Cochinchine, Paris, La Renaissance du Livre, 1911.
(14) - Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, Khai Trí, 1968, tr. 78.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 3:16:44 GMT 9
Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba... ngáo ộp !Nguyễn Dư Ngày xửa ngày xưa. Ôi ! Cái thời... loanh quanh ở nhà với mẹ. Biết ngày nào khôn ? Khôn hay dại thì phải chờ hỏi cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trẻ con làm sao biết được. Trước mắt chỉ nghe mẹ quát : - Trẻ con đi chỗ khác chơi ! Đi đâu mẹ ơi ? Cái phòng vừa làm buồng ngủ, vừa làm chỗ ăn, chỗ tiếp khách, chỗ học bài, làm gì còn chỗ để chơi. Cái sân, cái bếp thì hai ba gia đình chung đụng. Người vào, người ra từ sáng đến chiều... Chỉ có ngoài đường mới vắng vẻ. Cây to bóng mát. Năm 1948, 1949, phố Bà Triệu rộng thênh thang ! Dăm ba cái xe đạp, xe xích lô đủng đỉnh qua lại. Thỉnh thoảng mới có một cái ô-tô nhà binh, hay cái " bình bịch " hiến binh Pháp, một mình một chợ, phóng ầm ầm. Hè phố Hà Nội của mấy năm mới hồi cư còn rộng rãi, quang đãng, sạch sẽ. Trẻ con chơi đùa... như chỗ không người. Thằng con chợt hiểu ám hiệu của mẹ. Cám ơn mẹ. Giờ tháo cũi xổ lồng đã điểm. Hỡi đám tiểu yêu hè phố đang chờ ta... Ta cùng nhau đi... lêu lổng cho vui. Nhưng này, " hỡi các cậu bé con, trong lúc tuổi còn non ", các cậu phải coi chừng. Không được lêu lổng... vô trật tự, hỗn quân hỗn quan. Lêu lổng cũng phải kết bè, chia phe cho đàng hoàng. Rồi lại phải cãi nhau chí choé chọn trò chơi. Đánh đáo, bắn bi, bịt mắt bắt dê, lò cò là lêu lổng của đám đàn anh, đàn chị. Những tay anh chị đã từng được đào tạo, rèn luyện ở trường này, trường nọ. Tay nào cũng xuất sắc, chơi giỏi hơn học. Còn bọn hỉ mũi chưa sạch, chưa biết i tờ là cái quái gì thì quanh đi quẩn lại chỉ có hú tim, chạy đuổi, hò hét. Đàn em lêu lổng không cần phải đến trường. Chẳng cần tinh mắt, khéo tay. Cứ ồn ào như vỡ chợ là được rồi. Nào, ta cùng nhau chơi đùa... 1) Ngáo Ộp Ngáo Ộp là ai, là cái gì ? Đừng thắc mắc phí thời giờ. Cứ chơi đi. Chơi xong rồi thắc mắc cũng chưa muộn. Mau mau bắt cái xem đứa nào phải làm Ngáo Ộp nào. Mau lên ! Đứa làm Ngáo Ộp cho hai ngón tay giữa vào miệng, kéo xệch về phía mang tai... - Đằng ấy rửa tay chưa? ... dùng hai ngón tay trỏ kéo vành mắt xuống Kéo cho lòi tròng trắng mắt... - Hèn gì mắt đằng ấy lúc nào cũng có dử. ... miệng há hốc, thở phì phì như người say rượu. - Đằng ấy sún răng từ bao giờ vậy ? Ngáo Ộp là một con yêu méo mồm, mắt trợn ngược, gầm gừ đi bắt trẻ con. Ai trông thấy mà chả sợ. Thế là cả bọn hét rú lên, chạy tán loạn. Tìm gốc cây mà nấp cho mau. Đứa nào bị Ngáo Ộp bắt thì phải làm Ngáo Ộp. Cứ thế mà chơi, chán thì thôi. Ngáo Ộp là cụ nào, ông nào mà đến trẻ con chưa biết gì cũng phải sợ vậy ? Xin nhờ người lớn trả lời giùm. Từ điển xưa của ta, của tây không có Ngáo Ộp. Chỉ có Ngáo thôi. Tự điển Huỳnh Tịnh Của (1896) cho biết Ngáo là tên riêng một người mạnh mẽ đời xưa, lấy lưng đỡ nổi một chiếc thuyền, thường hiểu ra nghĩa ngơ ngáo, lảng lơ, như ngốc như dại. Thằng ngáo là thằng ngốc. Thằng ngáo của Huỳnh Tịnh Của không đáng để trẻ con phải sợ. Ngáo này không phải là Ngáo Ộp. Tự điển Génibrel (1898) có nhiều từ Ngáo. Nhưng không có từ nào dính dáng đến người hay yêu tinh, ma quỷ. Tự điển Jean Bonet (1900) định nghĩa Ngáo là nhân vật thô lỗ (personnage grossier), ngốc (sans esprit, sans raison), dã man (brute). Ngáo của Bonet vẫn chưa phải là Ngáo Ộp. Cả 3 cuốn tự điển xưa này đều không có nhân vật nào tên là Ộp hay Ngáo Ộp. Mấy chục năm sau, Việt Nam tự điển của Khai Trí Tiến Đức (1931), Tự điểnViệt Nam của Nhà Sách Khai Trí (1971) đưa ra định nghĩa mới : Ngoáo là vật tưởng tượng đặt ra để doạ trẻ con. Riêng Tự điển Việt Nam còn nói thêm Ngoáo ộp là ngoáo lớn. Thế là lại thêm một thắc mắc khác. Nếu Ngoáo Ộp là ngoáo lớn thì phải gọi ngoáo con là gì? Gọi là lũ... ngổ ngáo chăng ? Ngoáo Ộp to con nhưng bị khập khiễng, đứng không vững. Tuy vậy, Khai Trí cũng đã có công đưa Ngoáo Ộp vào tự điển, mở đường cho sau này. Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1988) cho biết Ngoáo Ộp là tên gọi một quái vật bịa ra để doạ trẻ con ; thường dùng để ví vật đưa ra để doạ dẫm, uy hiếp tinh thần. Phải công nhận một điều là người lớn " chơi " chưa lại trẻ con. Người lớn " chậm tiến " quá. Trẻ con Hà Nội biết Ngáo Ộp từ ngày xửa ngày xưa. Trở lại nguồn gốc của Ngáo Ộp. Truyện cổ tích của ta, của Tàu không có nhân vật này. Thế nhưng, bộ tranh dân gian Oger (Hà Nội, 1909) lại có tấm Ngáo Ộp doạ trẻ. Chẳng lẽ Ngáo Ộp lại là Tây à ? Nghi ngờ, thắc mắc, biết hỏi ai bây giờ ? Có người mách thử hỏi ông Tây Charles Perrault (1628-1703), tác giả của nhiều truyện nổi tiếng như Cô bé quàng khăn đỏ (Le petit Chaperon Rouge), Cô bé lọ lem (Cendrillon), Thằng bé tí hon (Le Petit Poucet), Yêu Râu Xanh (Barbe�Bleue), v.v. Đọc truyện của Perrault mới vỡ lẽ. À, thì ra thế ! Thằng bé tí hon kể truyện một gia đình tiều phu nghèo, sinh được bảy đứa con trai. Thằng út thông minh nhất nhà. Nhưng thân hình thì thấp bé tí hon. Nhà nghèo quá, không nuôi nổi đàn con, vợ chồng bác tiều phu quyết định đem bỏ chúng trong rừng. Một hôm anh em thằng bé tí hon đến gõ cửa một nhà kia để xin ăn. Không ngờ rơi vào nhà của một cặp yêu tinh và bảy cô con gái yêu. Cả nhà ai cũng thích ăn thịt tươi. Nhất là... thịt trẻ con. Thằng bé tí hon phải dùng mưu mẹo mới cứu được mấy anh em. Nó còn lấy được đôi hia bảy dặm và vàng bạc của yêu tinh. Bảy anh em tìm trở về nhà cha mẹ. Vợ chồng con cái bác tiều phu lại được đoàn tụ. Bắt đầu một cuộc sống sung túc. Yêu tinh ăn thịt trẻ con của truyện Thằng bé tí hon tiếng Pháp gọi là Ogre (Ô-gờ-rờ). Ogre theo chân thực dân sang Việt Nam, được Việt hoá thành Ộp. Đúng ra thì Ngáo của ta và Ộp của tây là hai nhân vật khác nhau. Tiếng Việt đã có sẵn thằng ngáo, thằng ngố, thằng ngốc. Ộp sinh sau đẻ muộn nhưng là... con tây, nên không bị gọi là thằng Ộp. Trái lại, người ta ghép Ngáo (hay Ngoáo) với Ộp thành ông Ngáo Ộp. Trẻ con quen gọi là ÔngÁo Ộp. 2) Mẹ Mìn Tiếng Việt không có Bà Ngáo Ộp (Ogresse). Bù lại, tiếng Việt có Mẹ Mìn. Ngày xưa, thời Pháp cai trị nước ta. " Nạn mẹ mìn ghê sợ. Trẻ ra chơi bờ hè, nhất là con gái hay bị bắt đem bán ở Móng-Cáy hay Hạ-Long. Nó dùng cả thuốc mê bắt phụ nữ ". (Hoàng Đạo Thuý, Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội, Hội Văn Nghệ Hà Nội, 1971, tr. 79). Ngáo Ộp (Ogre) là yêu tinh ăn thịt trẻ con. Yêu tinh chỉ đi bắt trẻ con nhưng không ăn thịt thì tiếng Pháp gọi là Croque-mitaine. Croque-mitaine được Việt hoá và rút gọn thành Mìn. Đàn bà đi bắt trẻ con là Mẹ Mìn. Gustave Hue định nghĩa lẫn lộn Ngáo ộp là croquemitaine. Hãi như trẻ con trông thấy ngáo ộp (épouvanté comme des enfants qui voient un croquemitaine). Thời nào yêu ma ấy. Thời Pháp, Mẹ Mìn bắt trẻ con, phụ nữ. Thời kinh tế thị trường, Mẹ Mìn phải nhường chỗ cho Má Mì. Má Mì " khôn " hơn Mẹ Mìn, chỉ bắt con gái lớn, có khả năng hành nghề. Lao động bất kể ngày đêm. Chồng của Má Mì là Ma Cô (maquereau). Cặp yêu ma này chuyên bắt con tin (teen). Dạy nghề đấu hót (hot), tiếp khách. Thôi mà thầy Hai. Xếch (sex) mé hoài ! Mời thầy vô chơi. 3) Ba Bị Yêu Râu Xanh (Barbe-Bleue) là một đại gia, có bộ râu quai nón màu xanh. Xấu xí khủng khiếp. Xấu xí nhưng lúc nào cũng có em chỉ mong được " hoàng tử đẹp trai " rước về làm vợ. Hi vọng được hưởng cái gia tài kếch sù kia. Nhưng phiền một nỗi là em nào về làm vợ hắn cũng chỉ được một thời gian ngắn là mất tích... Cho đến một ngày kia, cô vợ trẻ sau cùng khám phá ra một căn phòng bí mật của lâu đài chứa ngổn ngang xác chết đàn bà... Sắp đến lượt em... chết bỏ mẹ, bỏ cha rồi anh Hai ơi. Cứu em với ! Hồi hộp, gay cấn. Người kể bắt đầu nổi da gà. Xin tạm ngưng. Có dịp sẽ kể tiếp... Pháp có Barbe-Bleue. Việt Nam có Ba Bị. - Ba bị : tên gọi một người có hình thù quái dị bịa ra để dọa trẻ con. Xấu xí, tồi tàn : bộ quần áo ba bị. Thiếu nhân cách, lăng nhăng, chẳng ra gì. Anh chàng ba bị, đồ ba bị (Hoàng Phê). - Ba bị : Giống quái lạ người ta bịa ra để doạ trẻ con : Ba bị chín quai mười hai con mắt : nghĩa bóng là tồi tàn, xấu xí : đồ ba bị. (Khai Trí Tiến Đức). - Ba bị chín quai mười hai con mắt : Tả một con ngáo ộp để doạ trẻ con (Nguyễn Lân, Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam,1989). Ba Bị của Việt Nam cũng có hình thù quái dị, xấu xí. Ông Ba Bị của tranh Oger cũng có râu quai nón. Barbe-Bleue và Ba Bị giống nhau như anh em sinh đôi. Thì ra, Barbe-Bleue của Perrault đã nhập tịch Việt Nam, lấy tên Việt là Ba Bị. Ngày xưa bên nước Lang Sa Có chàng Ba Bị xấu là xấu ơi ! Thế mà nhiều gái mê tơi Hiến dâng... tưởng được của rơi, của chìm ! Không hiểu tại sao các bà các cô lại đẩy người tình Barbe-Bleue râu ria, lông lá của mình sang cho đám trẻ con ? Đem ông Ba Bị ra làm cái bung xung doạ trẻ con. Ba bị chín quai mười hai con mắt hay bắt trẻ con. Thật ra, Ba Bị không hề bắt trẻ con mà chỉ bắt mấy con nai tơ " nghèo mà ham ". Mơ mộng được đạp trên " vàng lá " rơi đầy sân lâu đài. Tuy nhiên, định doạ trẻ con nhưng chính người lớn lại bị rơi vào mê hồn trận. Nhiều người tìm cách giải thích câu nói vu vơ Ba bị chín quai mười hai con mắt hay bắt trẻ con. Dĩ nhiên là càng giảng giải, càng sai. Sai lầm thứ nhất là tách Ba Bị (tên riêng) thành hai từ : ba (số 3) và bị (cái túi, cái giỏ). Sai lầm thứ nhì là cố bóp méo sự thật cho... phù hợp với câu nói không có nghĩa. Génibrel giải thích : Bị chín quai là bị của ăn mày (besace du mendiant). Mang bị chín quai nghĩa là đi ăn mày (aller mendier). Gustave Hue cũng đồng ý rằng Ông ba bị chín quai là... ông già đeo 3 cái bị chín quai (le vieux aux trois sacs et neuf anses). Nước ta không có bị chín quai. Tranh Oger có nhiều tấm vẽ ăn mày. Bị của ăn mày là bị thông thường, chỉ có một quai. Tranh Ông Ba Bị vẽ một người râu xồm, đeo 3 cái bị một quai. Oger gọi Ông Ba Bị là Ogre (quái vật thích ăn thịt trẻ con trong truyện Thằng bé tí hon). Các từ điển của ta không rơi vào cái bị 9 quai nhưng thỉnh thoảng cũng bị lúng túng vì câu nói vu vơ. Không ngờ Thằng bé tí hon và Yêu Râu Xanh của Pháp lại chơi thân với trẻ con Việt Nam đến như vậy. Mấy anh lớn thích chơi bi (billes), mấy chị lớn thích chơi bịt mắt bắt dê (colin-maillard) , lò cò (marelle). Trẻ con Hà Nội năm xưa chơi đùa như... Tây con ! *** Tôi vốn yếu bóng vía. Thuở bé sợ Ngáo Ộp, Ba Bị, Mẹ Mìn. Sợ... yêu Tây. Sợ cả ma xó, quỷ nhập tràng. Nghĩa là sợ cả... yêu ta. Sợ toàn những cái mắt chưa thấy bao giờ. Lớn lên, bố mẹ cho đi tây ăn học. Ăn và học. Phải bớt ăn mới có thì giờ học. Dạ vâng. Dạ dạ, vâng vâng như vậy nhưng ăn thì luôn nhớ, học thì hay quên. Dù sao thì đi tây cũng là một dịp được học ăn học nói, tập tành bạo dạn hơn lên. Hết sợ yêu. Tưởng là yên thân. Không ngờ bây giờ, tự dưng lại đổ đốn. Đôi lúc... sợ người ! Sợ cái khoảnh khắc hoang mang, rờn rợn. Nhìn trời, trời chạng vạng, nhá nhem. Các cụ gọi là lúc " nhọ mặt người ". Nguyễn Dư (Lyon, 8/2011)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:03:39 GMT 9
Dịch là Phản ? Nguyễn Bảo Hưng Traduttore, traditore (châm ngôn Ý) Sáng 12-8-2011, khi vào trang Thư Viện Sáng Tạo trên máy vi tính tôi cảm thấy hứng khởi khi thấy giới thiệu ở ngay dòng đầu : "Người khách lạ (Truyện ngắn; Albert Camus; Võ Công Liêm chuyển ngữ)" và định bụng sẽ mở đọc liền. Hứng khởi, vì trước tình trạng sinh hoạt văn học Việt Nam hầu như dậm chân tại chỗ hiện nay, việc cho quảng bá một tác phẩm có giá trị văn học quốc tế của một nhà văn từng được giải thưởng Nobel tôi cho là một việc làm rất hữu ích và cần thiết. Thoat đọc cái tựa "Người khách lạ", tôi nghĩ ngay tới nhân vật Meursault và cuốn "L'Etranger" (1942) của A.Camus. Nhưng chỉ sau mấy dòng đầu, tôi đã ngỡ ngàng vì không gặp mấy câu văn để đời nói lên thái độ dửng dưng, hầu như vô cảm của một đứa con có bà mẹ mới chết (mà tôi đã thuộc nằm lòng) : "Aujourd'hui maman est morte. Ou peut-être hier, je ne sais pas."(Hôm nay mẹ mất. Mà cũng có thể là hôm qua, tôi không biết nữa). Rồi, chỉ cần đọc thêm không đầy nửa trang, tôi liền nhận ra đây là bản dịch truyện ngắn mang tựa đề " L'hôte " trong tập truyện " L'Exil et le Royaume " (1957). Tiếp tục đọc tới dòng cuối tôi mới biết người dịch đã không dựa trên nguyên tác, mà dịch lại theo một văn bản đã được dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Anh. Rút kinh nghiệm những lần gặp phải một số bản dịch không được dịch từ nguyên tác, mà lại dựa trên bản dịch lại bằng một ngôn ngữ khác, tôi vội đem đối chiếu bản dịch tiếng Việt với nguyên tác " L'hôte " của Camus trong tập " L'Exil et le Royaume " sẵn có. Và tôi đã phải thất vọng với những mong muốn hứng khởi ban đầu. Thất vọng, vì bản dịch có quá nhiều đoạn lệch lạc không nói lên được nội dung tư tưởng của Camus và cho thấy văn phong tài hoa của ông trong cách chọn từ, sử dụng câu chữ. Thất vọng, vì một bản dịch như vậy không giúp ích cho độc giả muốn giao tiếp với văn học nước ngoài để mở rộng tầm nhìn, nâng cao nhận thức và trình độ thưởng ngoạn của mình. Xin nói rõ tôi không hề có ý chỉ trích, bài bác cốt để gây tranh luận ồn ào vô bổ. Tôi cũng không hề có ý phê phán hay chê bai việc làm của ông Võ Công Liêm. Nếu bản dịch của ông có những sai sót, lệch lạc, rất có thể những sai lệch đó bắt nguồn từ bản dịch ra tiếng Anh mà ông sử dụng. Còn tôi, nếu có đưa ra một vài nhận xét như trên thì cũng không ngoài mục đích xây dựng đóng góp để biến việc làm dịch thuật và giới thiệu văn học nước ngoài thành một công tác văn hóa mà thôi. Để có cơ sở kiểm chứng và thảo luận nghiêm túc, trước hết, tôi xin lấy ra hai đoạn ngắn của bản dịch, sau đó là hai đoạn nguyên tác tương đương mà tôi gắng dịch lại sao cho sát với ý tưởng và phong cách diễn tả Camus. Đoạn 1 : Từ giũa dòng 33 đến dòng 44 của bản dịch. " ...Hằng ngày Daru còn phân phát thực phẩm cho lũ trẻ con nghèo mà không có người chăm sóc. - " Có lẽ cũng cần đến những bậc cha, anh đến đây mỗi tối để chia xẻ miếng ăn với đám trẻ con thì hơn ". Daru nghĩ như thế. Giờ này ; nạn đói sẽ không còn tiếp diễn nhờ tàu Pháp tiếp tế lúa mì và thực phẩm tới đây. Thật khó quên những ngày tháng gian khổ, mà chiến tranh thì như những bóng ma, chập chờn khi xuất khi hiện, gây hư hại không biết bao điều. Mặt đất như thau lại và cằn cỗi, sách vở cũng bị đốt cháy nằm chung với đống gạch vụn trải lên mặt đất.Hàng trăm gia súc chết mà chẳng mấy ai màng tới. Đứng trước nỗi khổ đó, thầy giáo Daru biến mình như kẻ tu hành ở một nơi xa xôi hẻo lánh và cho đó là niềm vui trong cuộc sống đầy gian khổ như hôm nay. Đôi khi Daru cảm thấy mình như một lãnh chúa, đối diện với bức tường vôi trắng đương đầu với thiếu thốn, bên cạnh đó còn phải lo toan những thứ khác kể cả nước uống và thức ăn. Đột nhiên trời đổ tuyết, không dự báo, mong có mưa mà mưa không tới. Vùng đất này là thế đó ! nhiều khi thấy thật là tàn nhẫn, ngay cả những người ở đây cũng thờ ơ, lãnh đạm. Nhưng Daru đã sinh và lớn lên ở đây hay bất cứ nơi đâu. Daru cảm thấy mình như kẻ bị lưu đày. Và sau đây là trích đoạn theo nguyên tác : " ... Chaque jour, Daru distribuait une ration aux petits. Elle leur avait manqué, il le savait bien, pendant ces mauvais jours. Peut-être un des pères ou des grands frères viendrait ce soir et il pourrait les ravitailler en grains. Il fallait faire la soudure avec la prochaine récolte, voilà tout. Des navires de blé arrivaient maintenant de France, le plus dur était passé. Mais il serait difficile d'oublier cette mísère, cette armée de fantômes haillonneux errant dans le soleil, les plateaux calcinés mois après mois, la terre recroquevillée peu à peu, littéralement torrérifiée, chaque pierre éclatant en poussière sous le pied. Les moutons mouraient alors par milliers, et quelques hommes, çà et là, sans qu'on puisse toujours le savoir. Devant cette mísère, lui qui vivait en moine dans cette école perdue, content d'ailleurs du peu qu'il avait, et de cette vie rude, s'était senti un seigneur, avec ses murs crépis, son divan étroit, ses étagères de bois blanc, son puits et son ravitaillement hebdomadaire en eau et en nourriture. Et, tout d'un coup, cette neige, sans avertissement, sans la détente de la pluie. Le pays était ainsi, cruel à vivre, même sans les hommes, qui, pourtant n'arrangeaient rien. Mais Daru y était né. Partout ailleurs, il se sentait exilé. A. CAMUS, (L'Exil et le Royaume , L'hôte.- Coll. Folio - Edition Gallimard 1957, p. 83). Chỉ cần đối chiếu bất cứ câu văn nào của bài dịch với nguyên tác, ta cũng cảm thấy người dịch tỏ ra dịch dịch rất tùy tiện, dịch phóng tác (hay dịch sáng tạo ?). Riêng với những đoạn như : "Thật khó quên những ngày tháng gian khổ, mà chiến tranh thì chập chờn như những bóng ma, khi xuất khi hiện, gây hư hại không biết bao điều. ", " ... sách vở cũng bị đốt cháy nằm chung với đống gạch vụn trải lên mặt đất... "..., thành thực mà nói, nếu Camus biết được, chắc ông sẽ phải đội mồ thức dậy, dụi mắt bóp trán tự hỏi không biết mấy câu văn này mình viết ra hồi nào nhỉ? Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần nguyên tác ở đoạn này và không hề thấy có chỗ nào Camus nói tới chiến tranh hay đốt sách vở cả. Rất có thể tác giả mấy câu dịch này, vì thấy mấy chữ cette armée de fantômes hoặc littéralement torérifiée mà suy ra như vậy. Nhưng chữ armée ở đây chỉ có nghĩa đông đảo như một đoàn quân, còn littéralement là đúng theo nghĩa từ vựng hay nghĩa đen mà thôi. Giả dụ tôi muốn dịch đoạn văn này theo nguyên tác, tôi xin phép được tạm dịch ra như sau : " Mỗi ngày, Daru phân phát một khẩu phần cho bọn nhỏ. Ông biết rằng chúng không có được khẩu phần đó gặp những ngày của thời buổi khó khăn này. Có thể một ông bố hay một người anh lớn nào đó sẽ tới chiều nay và ông có thể tiếp tế cho bọn nhỏ bằng hạt lúa mi. Phải làm sao cầm cự được cho tới mùa gặt tới, có vậy thôi. Giờ đã có những chuyến tàu chở lúa mì từ Pháp tới. Coi như trở ngại lớn nhất đã vượt qua. Nhưng khó mà quên được cảnh đói khổ này, những đoàn người rách rưới lang thang như những bóng ma dưới ánh mặt trời, những bình nguyên thiêu bỏng hết tháng này qua tháng khác, mặt đất thì bị rang cháy mỗi lúc như co thắt lại, mỗi viên đá tan ra thành bụi dưới bước chân. Bày cừu thì chết cả ngàn con, và rải rác đó đây, cũng có vài người chết mà chẳng ai hay biết. Trước cảnh cơ cực này, vốn quen sống như một thầy tu trong ngôi trường hẻo lánh, vả lại đã bằng lòng với cái ít oi và đới sống khắc khổ này, ông cảm thấy mình sống như lãnh chúa với những bức tường trét vôi, tấm phản hẹp, một vài cái kệ bằng gỗ trắng, cái giếng nước, cùng với thực phẩm và nước hàng tuần tiếp tế đều đều.Thế rồi, khi không, tuyêt ào ào đổ xuông, chẳng báo trước mà cũng chẳng chờ đợi một cơn mưa dọn đường. Cái xứ này vậy đó, đời sống nghiệt ngã làm sao, ngay cả khi chẳng có con người, và, dù cho có họ, thì cũng chẳng đem lại dàn xếp nào. Nhưng Daru đã sinh ra tại đây. Ở bất kỳ nơi nào khác, ông đều cảm thấy mình là kẻ lưu đày. Ở trích đoạn trên, ta nên chú ý tới cách sử dụng chọn lọc một số từ ngữ đặc biệt, có thể nói mới lạ, gợi hình cụ thể, gây ấn tượng mạnh mẽ như : faire la soudure (nghĩa đen là hàn sì), la terre recroquevillée, torrérifiée. Ngoài ra ta cũng cần ghi nhớ hai câu chót : Chúng nằm trong số một vài câu chủ chốt giúp ta nắm được nội dung tư tưởng Camus. Nhưng có lẽ ta cũng cần biết sơ qua nội dung truyện ngắn này : Daru là một dân Pháp chính gốc nhưng sinh trưởng tại Algérie, như Camus. Ông ta được bổ nhiệm làm giáo viên duy nhất cho ngôi trường làng tại một vùng cao nguyên sa mạc hẻo lánh trắc trở. Thời đó, Algérie còn trong tình trạng lạc hậu chậm tiến nên trường sở còn được sử dụng làm nơi dự trữ thực phẩm, và Daru kiêm nhiệm chức quản kho và phân phối thực phẩm cho học trò. Còn Algérie, tuy vẫn là thuộc địa của Pháp, nhưng đã manh nha một phong trào nổi dậy. Câu chuyện xảy ra vào lúc nhà trường phải đóng cửa vì tuyêt rơi phủ lấp từ mấy ngày qua, học sinh không thể đến trường. Bữa đó, Daru thấy hai người tiến về phía mình : đó là viên hiến binh già Balducci dẫn dắt một tên Ả Rập phạm tội đâm chết một nguời bà con trong một vụ cãi vã. Balducci có trách nhiệm bàn giao phạm nhân cho Daru, sau đó phải về ngay nhiệm sở do tình hình an ninh đòi hỏi. Và Daru có nhiệm vụ giải can phạm tới nhà tù dưới thành phố cách đó khoảng hai mươi cây số. Vốn tôn trọng luật pháp, nhưng sinh ra và lớn lên tại Algérie nên biết rõ tâm tính và tập tục của người dân xứ này, Daru không muốn lãnh công việc giải tù. Nhưng đó là lệnh hành chánh nên Daru đành miễn cưỡng chấp nhận. Y định bụng sẽ làm ngơ để phạm nhân có cơ hội trốn thoát. Sáng hôm sau, Daru dẫn tên Ả Rập tới một đỉnh cao, trao cho hắn một gói lương khô với một ngàn quan, rồi chỉ cho hắn hai hướng đi đê hắn tùy nghi lựa chọn : một đằng là hướng đông là hướng về phía nhà tù ; một dằng là hướng nam là phía sa mạc của dân du mục tức là hướng của tự do. Trái với dự đoán của Daru, tên Ả Rập đã chọn hướng đông tức là hướng của nhà tù. Khi Daru về đến trường, trên bảng đen thấy ghi một hàng chữ nguệch ngoạc : " Ngươi đã giao người anh em ta, ngươi sẽ phải trả nợ. " Nếu ta đọc Albert Camus để chỉ cần biết đầu đuôi câu chuyện ra sao, ta có thể đọc bản dịch này hay bất cứ bản dịch tầm tầm nào khác cũng được. Nhưng muốn đọc Camus như là nhà văn từng được trao tặng giải thưởng văn học Nobel, thì ta cần có những bản dịch chăm sóc hơn, chú ý tới từng câu chữ ông sử dụng. Bởi vì văn chương Camus không phải là văn chương truyện kể, mà thuộc loại văn chương hàm xúc ẩn dụ và ngôn ngữ ông là thứ ngôn ngữ đa tầng đa nghĩa. Ta có thể tìm thấy các đặc tính này của văn chương ông ngay trong câu chuyện đầu tiên mang tựa đề " La femme adultère " trong tập " L'Exil et le Royaume " (sdd. tr. 11 - 34) : Janine, vợ của một thương gia buôn vải, vẫn quen sống tại Pháp. Để thay đổi không khí, lần đầu tiên nàng theo chồng sang Algérie trong một chuyến đi chào hàng. Nhưng suốt cuộc hành trình, và ngay cả khi dừng nghi ở khách sạn, Janine vẫn gặp lại cái không khí ngột ngạt, nhàm chán của cuộc sống đơn điệu thường ngày. Ngoại trừ cái nhìn chăm chăm của người lính Pháp ngồi ở hàng ghế đối diện là còn đánh thức được người con gái nơi nàng đôi chút. Đêm đó tại khách sạn, trong lúc chồng đang ngủ say, Janine lẻn ra ngoài, chạy về phía pháo đài nơi chồng nàng đã dẫn lên hồi chiều. Janine leo lên thượng tầng và nhìn về phía sa mạc bao la. Trong bóng đêm bỗng sảng rực muôn vàn ánh sao, và dưới sự mơn trớn của làn gió mát như đến từ khoảng không gian bao la vô tận, Janine thấy mình như được thoát ly và cảm thấy toàn thân tràn ngập một hoan lạc đê mê như vừa được thỏa mãn mây mưa với người tình trong mộng. Sau đó, trở về phòng, Janine ôm mặt khóc nức nở vì hạnh phúc chợt bắt gặp trước cặp mắt ngơ ngác của ông chồng vừa thức giấc. Người đọc từng làm quen với loại ái tình tiểu thuyết của bà Tùng Long hay Quỳnh Dao chắc không tránh khỏi bỡ ngỡ vì chờ mãi mà chẳng thấy hành vi dan díu nào của Janine cả. Thực ra Janine không hề phản bội chồng. Nếu nàng có mang mặc cảm ngoại tình cũng chỉ vì nàng đã tìm ra được hạnh phúc trong giây phút thoát ly và sống giao cảm với thiên nhiên, cái hạnh phúc đầy cảm xúc hoan lạc ái ân mà người chồng đã không đem lại cho nàng. Cái thông điệp mà Camus muốn gửi đến chúng ta qua câu chuyện này, cũng như các câu chuyện khác trong toàn tập là thế : Nếu khung cảnh cuộc sống hàng ngày là nhàm chán, vô nghĩa, vô vị và cho ta cảm giác của một chốn lưu đày, thì bên trong nó hay bên trên nó vẫn có một miền đất lạ chan hòa hạnh phúc để ta tìm ra một vương quốc hay một quê hương. Trở về với câu chuyện " L'hôte ", đối tượng của bài viết này. Cũng như từ adultère trong " La femme adultère ", Camus đã chọn từ hôte đa tầng đa nghĩa đê làm tựa cho một câu chuyện cũng mang ý nghĩa ản dụ. Theo từ điển Pháp từ hôte, trước hết, có nghĩa là khách mời hay khách trọ, và nghĩa này là để dành cho can phạm Ả Rập. Nhưng từ hôte còn có thể áp dụng cho thầy giáo Daru vì từ hôte cũng có nghĩa là chủ nhà hay chủ trọ. Và nghĩa này không chỉ đúng với Daru như là chủ ngôi trường nhiệm sở, mà còn đúng cả với Daru như là chủ của vùng đất mà, mặc dù điều kiện thời tiết và sinh sống khắc nghiệt, ông vẫn muốn chọn làm quê hương. (coi hai câu chót của phần trích dăn trên: Mais Daru y était né. Partout ailleurs, il se sentait exilé.) Nhưng nếu ta đi tới đoạn cuối câu chuyện, ta sẽ thấy từ hôte cũng có thể dành cho Daru theo nghĩa khách mời hay khách trọ, bởi vì ngay trên mảnh đất ông muốn chọn làm quê hương, ông bỗng cảm thấy lạc lõng cô đơn như không còn là một chốn quê nhà, như trong đoạn cuối câu chuyện tôi xin trích lại dưới đây : Trước hết, theo bản dịch trên Thư Viện Sáng Tạo : " Lên lớp hôm nay ; đứng trước bục giảng. Sau lưng thầy Daru là tấm bảng đen vẽ mấy nhánh sông của đất nước Pháp, chảy ngoằn nghèo, ông run rẩy viết lên hàng chữ đề tặng : " Hãy trở lại với người anh em mình mà anh sẽ được trả ơn ". Thầy giáo Daru nhìn cảnh trời, vùng đất cao nguyên xa lạ và bờ biển cuối chân trời. Trong cảnh hoang sơ này thầy đã thấy và yêu nhiều thứ hơn bao giờ. Mặc dù sống cô đơn ở đây. " Và sau đây là đoạn chót theo nguyên tác, mà tôi cố gắng dịch lại sao cho sát ý và phản ánh trung thực tư tưởng Camus : "Un peu plus tard, planté devant la fenêtre de la salle de classe, l'instituteur regardait sans la voir la jeune lumière bondir des hauteurs du ciel sur toute la surface du plateau. Derrière lui, sur le tableau noir, entre les méandres des fleuves français s'étalait, tracée à la craie par une main malhabile, l'ínscription qu'il venait de lire : " Tu as livré notre frère. Tu paieras. " Daru regardait le ciel, le plateau et, au-delà, les terres invisibles qui s'étendaientt jusqu'à la mer. Dans ce vaste pays qu'il avait tant aimé, il était seul. " (Sdd. tr.99) (Ít lâu sau, đứng không nhúc nhích trước cửa sổ phòng học, người giáo viên ngó bằng cặp mắt vô hồn ánh sáng vàng tươi từ lưng trời ùa xuống tràn ngập khắp vùng cao nguyên. Sau lưng ông, trên tấm bảng đen, giữa các hình vẽ mấy con sông Pháp chảy ngoằn nghèo, hiện lên hàng chữ viết bằng phấn bởi một bàn tay vụng về ông vừa đọc : " Ngươi đã bán người anh em ta, ngươi sẽ phải đền tội. " Daru đưa mắt nhìn trời, vùng cao nguyên và, đằng sau kia, những giải đất vượt khỏi tầm nhìn chạy dài ra tới biển. Trên xứ sở bao la này ông từng gắn bó, ông cảm thấy cô đơn.) Trở về với đề tài bài viết này, và cũng nhằm giải tỏa cho thắc mắc của tôi qua cái tụa mang hình thức nghi vấn : " Dịch là phản ? ", ta hãy đối chiếu phần chót của bản dịch với đoạn chót của nguyên tác tôi vừa trich dẫn ở trên. Chỉ cần đọc một số chữ như : " Lên lớp hôm nay ; đứng trước bục giảng "( ? ), hoặc ... " ông run rẩy viết lên hàng chữ đề tặng : "Hãy trở lại với người anh em mình mà anh sẽ được trả ơn. "( ), cũng đủ cho thấy người dịch đã dịch phóng túng với óc tưởng tượng phong phú như thế nào. Nhưng điều này cũng không tai hại bằng việc câu cuối cùng "Dans ce vaste pays qu'il avait tant aimé, il était seul. " lại được dịch đổi ra thành " Trong cảnh hoang sơ này thầy đã thấy và yêu nhiều thứ hơn bao giờ hết. Mặc dù sống cô đơn ở đây. " Tai hại, vì nhưng lời dịch như vậy sẽ để lại cho người đọc cảm giác là câu chuyện dẫu sao cũng có một " happy end ", và mọi chuyện rồi sẽ dàn xếp ổn thỏa. Vậy là huề cả làng. Vậy là tối lửa tắt đèn, trắng cũng như đen. Vậy là truyện của Camus cũng xêm xêm như những câu chuyện kể ta có thể đọc được trên các trang báo, trang mạng hàng ngày trong tinh thần giải trí văn nghệ. Tai hại là thế, bởi vì một bản dịch như vậy không giúp cho người đọc phát hiện ra ra được Albert Camus, giải thưởng văn học Nobel, và cái ý thức về thân phận phi lý con người, tư tưởng cốt lõi của toàn bộ các tác phẩm của ông. Như đã trình bày ở trên, văn chương Camus thuộc loại văn chương ẩn dụ. Cái hay, cái đặc sắc trong các tác phẩm của Camus không chỉ có nằm trong lời lẽ kể truyện hay các sự kiện gây cấn, ngoạn mục được nêu ra. Cái làm nên giá trị văn học nghệ thuật của ông chính là cái nội dung tư tưởng, cái ý nghĩa thông điệp trong mỗi tác phẩm được dùng làm phương tiện chuyển tải. Trong câu chuyện " L'hôte " cũng vậy. Số phận của ông thầy Daru rồi sẽ sao ? Liệu ông còn được sống yên ổn với ngôi trường ông gắn bó hay không ? Điều này với Camus không quan trọng. Bận tâm của ông là nói lên diễn biến nội tâm của Daru phản ánh thân phận phi lý bi đát con người. Diễn biến tâm lý đó của Daru, chỉ cần đọc lại phần tóm lược câu chuyện và hai đoạn văn tôi đã trích ở trên là thấy được. Về đoạn một, ta có thể coi như phần giới thiệu nhân vật chính và khung cảnh địa lý, xã hội của câu chuyện. Ở đoạn này ta thấy, mặc dù điều kiện đất đai, thời tiết khắc nghiệt, nhưng ở cương vị một giáo viên, và do cùng chung hoàn cảnh sống với các em học sinh cùng phụ huynh của chúng, nên ông cảm thấy gắn bó với chốn này, coi nó như là quê hương. (Mais Daru y était né. Partout ailleurs, il se sentait exilé.) Ở đoạn hai, dáng đứng trầm ngâm ưu tư của Daru trước cửa sổ sau khi đã đọc hàng chữ đe dọa trên bảng đen, cho thấy ông đang phải sống một bi kịch vì mới phát hiện ra thân phận phi lý con người. (Dans ce vaste pays qu'il avait tant aimé, il était seul.) Trong câu chuyện này, tính phi lý không phải do thiên nhiên, không phải do điều kiện địa lý, thời tiết thù nghịch ; mà là do sự ngộ nhận, do những bức tường thù hận do chính con người dựng lên để ngăn cách nhau. Đó là một trong những ý thức về phi lý mà Camus muốn nói lên qua câu chuyện này, và cũng là cái ý thức bàng bạc trong hầu hết các tác phẩm của ông. Việt Nam, sau một thời gian bước vào giai đoạn đổi mới và mở cửa, đã thực hiện được những tiến bộ khá ngoạn mục trên một số lãnh vực, đăc biệt là về mục phô trương đời sống xa hoa và đua đòi hưởng thụ. Về mặt này có thể nói là không thua kém ai, có khi còn hơn nữa là đằng khác. Nhưng về lãnh vực văn hóa và sáng tạo, theo nhận xét có thể là chủ quan và thiển cận của tôi, dường như chưa có thực hiện nào đáng kể ( ngoại trừ một số sản phẩm, nhưng có vẻ là hàng nhái nhiều hơn). Trong khung cảnh ấy, mọi nỗ lực nhằm phổ biến và giới thiệu các tác phẩm văn học quốc tế có giá trị là việc làm tôi cho là hữu ích và cần thiết hơn bao giờ hết. Nhưng đó là công việc đòi hỏi ở người thực hiện nhiều đam mê và tinh thần trách nhiệm. Có thế mới mong biến việc làm dịch thuật và quảng bá văn học nước ngoài thành một công tác văn hóa được. Đó là cũng là mục tiêu tìm kiếm duy nhất của bài viết này. NGUYỄN BẢO HƯNG Cergy 24-8-2011
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 5:22:13 GMT 9
Nét đặc sắc bị bỏ quên : Nói lái
Hòa Đa Tôi không phải là một nhà ngôn ngữ học, nhưng có nhận xét này, mà khi chia xẻ với nhiều người Việt Nam , tôi luôn có sự đồng tình: Nói lái là một hình thức vô cùng độc đáo của ngôn ngữ Việt.Bạn có bao giờ nghe giai thoại giải thích đại phong là lọ tương chưa? - Chuyện thế này: hai anh hề trên sân khấu tuồng ngoài Bắc, trong lúc diễu giúp vui, anh này đố anh kia: đại phong là gì? - Thì đại là lớn, còn phong là gió, đại phong là gió lớn, anh kia giải thích. Anh này bảo đại phong là lọ tương kìa: đại phong là gió lớn, gió lớn thì chùa đổ, chùa đổ thi tượng (Phật) lo, tượng lolà lọ tương. Một giai thoại khác, ở trong Nam. Lúc ấy, vào buổi tàn thời của nho học, người ta bỏ bút lông, giắt bút chì; một số chạy theo thực dân Pháp. Trong số ấy có Nguyễn văn Tâm, một lòng cúc cung với mẫu quốc, được người Pháp cất nhắc làm quan lớn; trên dưới trong ngoài, ai cũng biết nhờ bợ đỡ quan thầy mà làm quan to. Tâm lấy làm tự đắc lắm. Phú quí sinh lễ nghĩa, quan lớn nhà ta cũng muốn tỏ ra mình phong lưu, muốn có những bức hoành, trướng để trang trí. Có người dâng lên quan bốn chữ đại tự Đại Điểm Quần Thần, viết chân phương, rất đẹp và giải thích Quần thần là người bề tôi, Đại điểm là điểm lớn, ý nói quan lớn là người bề tôi có vị trí to lớn, quan trọng trong triều. Quan lấy làm thích thú đem treo bức liễn trong phòng khách; ai đến thăm quan cũng đem khoe và giải thích như trên. Ít lâu sau có người đến ngắm bức liễn, rồi xin quan lớn dẹp đi. Quan ngạc nhiên hỏi, người ấy xin đừng bắt tội, đuổi hết tả hữu rồi giải thích: người viết liễn đã cố ý bỡn quan lớn, mà quan không biết. Bốn chữ trên dịch từng chữ: Đại điểm là chấm to; Quần thần là bề tôi, nói theo kiểu trong Nam là bầy tôi. Đại Điểm Quần Thần là Chấm To Bầy Tôi nói lái lại là Chó Tâm Bồi Tây. Chẳng nghe chuyện kể nói quan có tìm tác giả bốn chữ nói trên để trị tội hay vì không muốn làm vỡ chuyện mà ỉm luôn . Trong đời sống hàng ngày, chẳng hiếm khi chúng ta gặp những câu nói lái, đôi khi chỉ để bỡn cợt, châm biếm hay tránh những tiếng thô tục. Ở Nam Bộ , có câu : Con cá đối nằm trên cối đá, Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo anh mà đối được, dẫu nghèo em cũng ưng. Người Việt, đối với những người lớn tuổi hay trưởng thành ở Việt Nam chẳng có ai là không biết cách nói lái, tùy theo gốc gác hay sinh hoạt ở Bắc, Trung hay Nam mà cách nói lái có khác nhau; nhưng tựu chung, khi nói lái, người ta tránh không nói thẳng chữ muốn nói; mà người nghe, vì không tinh ý, nhất thời không nhận ra như trong giai thoại Đại Điểm Quần Thần kể trên. Đi sâu hơn vào chi tiết: một chữ gồm hai phần: phụ âm và âm. Chữ tranh chẳng hạn gồm phụ âm tr và âm anh. Chúng ta lại có thêm sáu thanh: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng và không dấu tạo tiếng Việt thành giàu âm sắc, chỉ cần khác dấu, chữ được phát âm khác nhau: tranh, tránh, trành (trong tròng trành) trạnh (trạnh lòng) và tất nhiên có nghĩa khác nhau, và đây cũng là nét độc đáo của ngôn ngữ Việt, người nước ngoài bảo người Việt nói chuyện nghe giống như hát. Cũng có chữ không có phụ âm mà chỉ có âm, như trong ảnh ương hay ảo ảnh... 1.Nói Lái theo cách ngoài Bắc. Trở lại câu chuyện đại phong là lọ tươngnói trên. Tượng lo nói lái lại là lọ tương, người miền Bắc đổi chỗ cho hai chữ, đồng thời đổi luôn hai dấu (nghĩa là đổi âm sắc): lo đổi chỗ cho tượng, lấy dấu nặng thành lọ, tượng đổi chỗ cho lo, mất dấu nặng thành tương. Ta lấy vài thí dụ khác: đấu tranh nói lái lại là tránh đâu : tranh đổi chỗ cho đấu, lấy dấu sắc của đấu thành tránh, đấu đổi chỗ cho tranh, mang dấu của tranh (không dấu) thành đâu. hải phòng nói lái lại là phỏng hài : hải đổi chỗ cho phòng lấy dấu huyền của phòng thành hài, phòng đổi chỗ cho hải lấy dấu hỏi của hải thành phỏng Cứ theo cách ấy thì: Sầm Sơn sờn sâm Thái Bình nói lái là bính thài Hà Nội nồi hạ vv.. và vv.. Như vậy thì hai chữ có cùng dấu không nói lái được, như nhân dân, anh em, Sài Gòn, thánh thót, thực vật.... Cũng vậy, những tiếng láy như xanh xanh, hơ hớ, đo đỏ, lăng xăng....không thể nói lái được và nếu chúng ta cố tình theo qui luật trên thì cũng chỉ đổi vị trí cho nhau thôi. 2. Nói lái theo kiểu trong Nam. Trong Nam người ta nói lái theo cách khác: cá đối nói lái lại thành cối đá. Ta nhận thấy theo cách nói lái trong nam, âm trong hai chữ đổi chỗ cho nhau, phụ âm giữ nguyên vị trí, phụ âm c ghép với âm ối của đối thành cối, và phụ âm đ ghép với âm á thành đá. Như vậy: Sài gòn sòn gài Cần thơ nói lái là cờ thân Cầy tơ cờ tây Cửu long cỏng lưu (dân nam kỳ phát âm giống như cỏng lu) Thủ Đức thức đủ vv.. và vv.. Bút hiệu Thế Lữ (trong Tự Lực Văn Đoàn) chính là chữ nói lái của tên thật của ông: Nguyễn Thứ Lễ. Ngày trước đã có vế đối: Ngày Tết, Thế Lữ đi hai thứ lễ: lê ta và lê tây Trong vài trường hợp người ta nói lái cho cả ba chữ, bằng cách giữ nguyên chữ giữa như trong trường hợp mèo đuôi cụt thành mút đuôi kèo (dấu nặng trong cụt biến thể thành dấu sắc trong mút), như vậy hà thủ ô nói lái thành hồ thủ a. Đôi khi người ta lại đổi chỗ hai phụ âm cho nhau (tuy ít thôi) để sau khi nói lái có nghĩa và dễ nghe hơn, thí dụ chiến binh thay vì nói lái thành chinh biến cũng có thể nói thành biến chinh, do đó với hai chữ tranh đấu có người đã đùa mà nói rằng: tranh đấu thì tránh đâu khỏi bị trâu đánh thì thế nào cũng phải đấu tranh. Cũng như trong trường hợp trên, những chữ trùng âm như nhân dân, lù đù, lật đật...không nói lái được. Ngoài ra còn một cách nói dựa trên nói lái kiểu trong Nam, không mấy người quen sử dụng. Trong cách này, người nói ghép từng chữ (trong nguyên câu) với một chữ (đã được qui ước trước giữa hai người) rồi nói lái hai chữ này với nhau. Cách này tương đối khó, và thường gặp trong giới bình dân lao động, ít học (không biết có phải vì vậy mà không được biết đến chăng?) Thí dụ với câu: "hôm qua tui đi ra đầu ngõ chờ em tới, mà đợi hoài không thấy..." họ ghép từng chữ của câu trên với chữ ly (li) rồi nói lái lại, và do đó câu trên trở thành :"hi lôm(hôm li) qui la ( qua li)ti lui đi li ri la đi lầu nghi lõ chi lờ i lem ti lới , mi là đi lợi hi loài khi lông thi lấy..." họ nói chuyện với nhau rất nhanh và hiểu nhau dễ dàng, như thể đã được mã hóa người khác không nhận ra được. Đây là cách vô cùng độc đáo mà chưa được khai thác đúng mức. 3. Vài giai thoại - câu đối - câu đố Chúng ta đã thấy giai thoại về Đại điểm quần thần, Đại phong ở trên. Chúng ta cũng thường nghe nói đến câu tiếng lóng hạ cờ tây là hạ cầy tơ của dân nhậu trong Nam và mộc tồn (= cây còn, nói lái thành con cầy) ở ngoài Bắc, hay những lối nói lái rất quen thuộc: con chín bến đò (con chó bến đình) Hương bên đèo (heo bên đường) theo con Hương (thương con heo)... Trong Nam, mấy bạn nhậu thường hay nói chữ : "Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu" cũng đừng vội tưởng họ sính nho, thật ra họ đùa "rượu gặp tri kỷ có trời mới biểu (bảo) thôi" (thiên = trời, bôi thiểu = biểu thôi).... Về câu đối, xin trở lại câu ca dao trên: Con cá đối nằm trên cối đá. Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo. Anh mà đối đặng dẫu nghèo em cũng ưng. được đối là: Chim mỏ kiến(g) nằm trong miếng cỏ Chim vàng lông đáp đậu vồng lang Anh đà đối đặng hỏi nàng ưng chưa? Phải công nhận là câu đố và câu trả lời không chê vào đâu được, chắc gì chúng ta tìm được câu trả lời nào hay hơn cho cô gái tinh nghịch này. Một câu khác, nghe chừng như xuông miệng nói chơi, nhưng lại đối rất chỉnh, trong cả hai vế đều dùng cách nói lái: Kia mấy cây mía Có vài cái vò Một câu đối khác, nghe được sau 75, lúc người dân trong Nam không còn gì để sinh sống, đặc biệt là giới thầy cô thuộc chế độ cũ được lưu dụng. Dầu gì chăng nữa, trước đó họ là lớp người tuy sống nhờ đồng lương cố định, nhưng cũng có cơm ăn áo mặc đầy đủ. Người ta nghe thấy hai câu đối tết, nhại theo Tú Xương ngày trước, nhưng rất đặc sắc và chua xót: Chiều ba mươi, thày giáo tháo giày ra chợ bán Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang. Thực tế là giày không còn là một phần trong y phục của thày giáo, nhưng cháo đã là phần lương thực thường thấy trong bữa ăn hàng ngày. Trong một đám cưới, chú rể người Hóc Môn, cô dâu ở Gò Công; có người rắn mắt đọc đùa câu đối: Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc - Gái Gò Công vừa gồng vừa co Trong văn chương bình dân Việt Nam, câu đố chiếm một vị trí tuy khiêm nhường nhưng có sức sống tuơng đối mạnh mẽ so với hò đối đáp chẳng hạn. Ngày nay ta vẫn thường nghe những câu đố trong khi không còn thấy hò đối đáp trong sinh hoạt hàng ngày của người bình dân. Trong các dạng câu đố, cách dùng nói lái để đánh lừa người khác là một trong những cách tuy dễ nhưng cũng làm khó cho người bị đố không ít. Sau đây là vài câu đố dùng nói lái, lời giải có ngay trong câu đố: -Tổ kiến, kiển tố, đố là chi? - (đáp: tổ kiến) -Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai Bò la, bò liệt đố ai biết gì? - (đáp: khoai lang). Những chữ mũi, lái, khứ, lai chỉ cốt để đánh lừa người bị đố - Con gì ở cạnh bờ sông, cái mui thì nát cái cong thì còn - (đáp: con còng - cong còn nói lái thành con còng) - Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng - (đáp: ngón chưn cái) - Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn - (đáp: con ngựa) - Miệng bà ký lớn, bà ký banh Tay ông cai dài, ông cai khoanh - (đáp: canh bí, canh khoai) ... Một vài người cũng câu nệ về nói lái, tránh đặt tên con những chữ có thể nói lái thành thô tục như Thái (dễ ghép với chữ có phụ âm d: thái dọt, thái dúi, thái dòng...) Lài (dễ ghép với chữ có âm ồn như lài dồn, lài cồn, lài mồn...) Côn, Tôn, Đôn (ghép với chữ có phụ âm l) v.v.. và v.v.. 4. Vài suy nghĩ Qua những phân tích trên, ai cũng công nhận nói lái quả là một đặc thù của tiếng Việt. Chúng ta dùng nói lái để châm biếm, để gài người khác trong các câu đố, câu đối, để tránh những thô tục khi cố ý ghép chữ dể hạ thấp người khác. Bỏ qua một bên những cái độc đáo, lắt léo của nói lái trong câu đố, câu đối; để chỉ chú ý đến phần đông các trường hợp chúng ta sử dụng nói lái như là một hình thức hạ thấp người khác. Trong phần trên chúng ta đã thấy nhà nho nào đó đã dùng sự uyên bác của mình để chửi một quan to mà quan chẳng những đã không biết mà còn hoan hỉ chấp nhận trong giai thoại Đại Điểm Quần Thần. Chúng ta đã dùng nói lái như một thứ vũ khí của người muốn dùng tiểu xảo để chống đối, để chứng tỏ mình hơn người, như một thứ vũ khí của kẻ yếu, kẻ bị trị để bôi bác, nhạo báng, ám chỉ... để hạ phẩm cách của kẻ mạnh, kẻ thống trị. Vấn đề nêu ra để chúng ta phải suy gẫm là tại sao chúng ta có những cách rất tiêu cực như vậy? - Phải chăng vì hoàn cảnh dân tộc Việt Nam đã đắm chìm quá lâu trong cảnh bị trị, dù của ngoại bang hay của chính người đồng chủng. Người dân phải tìm cách tránh né, che đậy để sinh tồn trước sức mạnh của kẻ thống trị. Vấn đề đặt ra cho chúng ta cùng suy nghĩ là chúng ta có nên duy trì mãi những tiêu cực tương tự trong những sinh hoạt thường ngày của chúng ta không? Ai cũng thấy rõ một điều là sức sống của người Việt vô cùng to lớn, mãnh liệt, nhưng đồng thời cũng thể hiện những tiêu cực vô cùng tai hại . Chính vì chỉ muốn sống còn bằng bất cứ giá nào, người Việt đã mất đi những tích cực của tập thể cần phải có, điều này đã giúp cho kể thống trị tồn tại lâu trong vị trí và là một cách giải thích tại sao dân tộc chúng ta bị trị lâu đến như vậy. Dù vậy, nói lái vẫn là một hình thức vô cùng đặc sắc của ngôn nhữ Việt, với khả năng nhạy bén về tính trào phúng, tính châm chọc... (và chúng ta chỉ nên khai thác khía cạnh tích cực này), chúng ta tin rằng nói lái sẽ tồn tại với người Việt. Tháng 10 năm 2000 Viết lại tháng 12/2005 Hòa Đa
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 25, 2011 4:24:35 GMT 9
Sex trong xã hội đương đại và thuần phong mỹ tục Việt
Tống Văn Công Viết tặng nhạc sĩ Dương Thụ Sex bị cấm kỵ từ bao giờ ? “ Sex trong xã hội đương đại và thuần phong mỹ tục Việt ”. Đó là câu nhạc sĩ Dương Thụ nhắn qua điện thoại mời dự cuộc trao đổi ý kiến lý thú ở Cà phê Thứ bảy do anh chủ trì. Rất tiếc, tôi không đến được. Sau đó, chỉ có một tờ báo đưa tin tương đối rõ và có tựa đề là Khuynh hướng “cởi” và “mở” trong xã hội Việt Nam đương đại với thuần phong mỹ tục Việt. Tối 24 tháng 7 năm 2011 bản tin thời sự của HTV9 có đưa những ý kiến trao đổi nói trên, nhưng chỉ chọn phát biểu của 3 người (người chủ trì, một cựu quan chức và một đạo diễn), các ý kiến rất quan trọng không được nhắc đến. Do đó, tôi muốn góp vài suy nghĩ của mình. Ngày nay, chúng ta tỏ ra kiêng kỵ đối với sex hơn bất cứ thời nào trong lich sử! Tôi muốn mọi người nhìn lại xem ông bà ta từ xưa đã đối xử với sex như thế nào. (Sex từ tiếng Anh đã được Việt hóa, có nghĩa : Giới tính trai, gái; vấn đề sinh lý, dục tính; sự giao cấu.) Trong kho tàng truyện tiếu lâm từ ngàn xưa (hiện nay vẫn tiếp tục có thêm nhiều truyện tiếu lâm mới), có lẽ đủ cho thấy người Việt hiểu sex, bàn về sex không khác và không kém bất cứ dân tộc nào. Quan lại của các triều đình phong kiến, tức là những người từng dồi mài kinh sử theo nho giáo, cũng không hề kiêng kỵ mà lại còn rất mê sex. Sách Hoa viên kỳ ngộ tập một tập truyện sex (ra đời 1760-1761) do các quan lại Việt Nam đi sứ sang Tàu mang về chuyền tay nhau đọc. Người ta phát hiện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có vài truyện phỏng tác từ sách này... Xin trích mấy câu trong bài ký Cuộc gặp gỡ ở Tây viên : “ Hai nàng thẹn thùng nói : “ Chúng em việc xuân chưa am hiểu, lòng thơm đang còn khiếp sợ, chỉ e tình hoa rung rẩy, tơ liễu điên cuồng, ngượng hồng oán lục làm giảm mất một đoạn phong lưu ”. Thư sinh đáp : “ Cứ tạm thử, không dám làm hai nàng phải khổ vì mây mưa đâu ”. Nói xong, sinh cắt tàn bấc cho đèn sáng lên, rồi cùng nằm, ghé sát vàng, tựa kề ngọc, vừa nghiêng bên gối, đã xô vụn sóng ba đào ”. Thi hào Nguyễn Du là bậc thày miêu tả những cảnh sex. Đây là cảnh khỏa thân của nàng Kiêù lúc tắm : “Rõ màu trong ngọc trắng ngà, Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên” Cảnh Kiều bị thất thân bởi Mã Giám Sinh : “ Tiếc thay một đóa trà my, Con ong đã tỏ đường đi lối về ! Một cơn mưa gió nặng nề, Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương. Đêm xuân một giấc mơ màng. Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ. ” Đây là lời Tú Bà dạy Kiều cách phục vụ khách làng chơi : “ Này con thuộc lấy nằm lòng. Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề. Chơi cho liễu chán hoa chê, Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời. ” “ Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề ”, đã có trong Tố Nữ Kinh, tương truyền là ở thời Hoàng Đế của Trung Quốc (hơn 2000 năm trước công nguyên). “ Vành ngoài bảy chữ ” là kích dục bên ngoài. “ Vành trong tám nghề ” là cách làm tình. Ai đã đọc Tố Nữ Kinh thì qua câu này đã hình dung ra “ nghề chơi cũng lắm công phu ”. Chúng ta không thể không nhắc đến bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương mà hầu hết tác phẩm đều có nghĩa ngầm (cách nói của Xuân Diệu) tả sex. “ Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm, Một lạch đào nguyên suối chửa thông. Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt ”… Và “ Trai đu gối hạc khom khom cật, Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng ”… Trong Hoàng Lê nhất thống chí, có đoạn, khi được gợi ý việc xin cưới công chúa Ngọc Hân, anh hùng Nguyễn Huệ đã trả lời rất sex : Gái miền Nam thì ta đã được hưởng, nay nếu được biết gái Bắc thì hay quá ! Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 văn hóa Pháp truyền vào nước ta, trong đó có sex. Có lẽ nghệ thuật nhiếp ảnh khỏa thân du nhập vào nước ta sớm nhất, trước cả khoa kiến trúc. Anh lính Pierre Dieulefils đã chụp hằng trăm ảnh khỏa thân của phụ nữ Việt Nam ở mọi tư thế. Năm 1886, ông đã tổ chức triển lãm số ảnh khỏa thân đó tại Hà Nội. Điều này cho thấy từ ngày ấy Hà Nội đã có những người Pháp và cả người Việt biết thưởng thức loại hình nghệ thuật rất mới mẻ này. Với số ảnh đó, Pierre Dieulefils đã đoạt nhiều giải thưởng ảnh nghệ thuật của Pháp, Bỉ, để rồi sau khi giải ngũ ông tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh tại Hà Nội. Đến thập kỷ 30, 40, sex đã có mặt ở hầu hết các bộ môn văn học nghệ thuật của nước ta. Tranh khỏa thân của Trần Văn Cẩn, Lê Phổ…(cách đây đã lâu có tin, tranh khỏa thân của các cụ có giá bán hơn 3000 USD một bức); tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng; thơ tình Xuân Diệu… Sau cách mạng Tháng Tám 1945, sex vẫn không bị cấm kỵ trong văn học nghệ thuật ; nhưng bắt đầu cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp thì sex đồng nghĩa với những gì hủ bại, thậm chí rất phản động. Ngay những tác phẩm miêu tả tình yêu lành mạnh như Màu tím hoa sim của Hữu Loan cũng bị lên án là sa đọa ! Các văn nghệ sĩ tham gia cách mạng đều tuyên bố từ bỏ những đứa con tinh thần của mình sáng tác trước 1945 có hơi hướng lãng mạn chứ chưa cần có sex. Ở vùng giải phóng Nam Bộ thời chống Pháp ca vọng cổ cũng bị cấm, vi phạm sẽ bị tù ! Để thay thế loại nghệ thuật này, nhân dân vùng giải phóng Bạc Liêu, Cà Mau (quê hương của Cao Văn Lầu, tác giả bài Vọng cổ hoài lang nổi tiếng), đã sáng tạo ra hình thức Nói thơ Bạc Liêu rất “ ướt át ” để bù lại. Trong khi đó, ở các thành thị và sau này ở miền Nam, sex được các ngành nghệ thuật khai thác và có không ít tác phẩm có giá trị.. “ Cởi ra, rồi lại buộc vào...! ” Từ Đại hội 6 đôỉ mới, sex bắt đầu sống lại với các văn sĩ trẻ như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài… Các tác giả này được dư luận trong và ngoài nước đánh giá cao. Nhưng không lâu sau đã bị phê phán gay gắt. Nói chung văn nghệ sĩ Việt Nam phải tự răn mình trước khi muốn đưa sex vào tác phẩm vì rất dễ bị lâm nạn ! Nhiều tác giả nước ngoài nổi tiếng, thậm chí đoạt giải Nobel văn chương vào Việt Nam cũng bị cắt xẻo. Đầu thập kỷ 90, Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hồi Tình yêu thời thổ tả của Gabriel García Márquez với lý do “ truyện đầy cảnh dâm dục ”! Có lẽ rút bài học này mà 10 năm sau, tháng 3-2000, khi xuất bản quyển Lụa của nhà văn Ý Alessandro Baricco từ bản dịch của Pháp, nhà xuất bản Trẻ đã viết trong Lời giới thiệu sách : “ Gần cuối câu chuyện có một đoạn rất thường gặp trong tiểu thuyết hoặc phim ảnh phương Tây, nhưng xa lạ với truyền thống văn hóa phương Đông. Đó là những đoạn trong bảy trang thư tình của Hélène, vợ của Hervé Joncour nhờ người viết…Vì lý do thuần phong mỹ tục, Nhà xuất bản Trẻ đã lược bỏ bớt những chỗ quá đáng trong bảy trang thư này ”. Đúng ra Nhà xuất bản Trẻ chỉ có thể viết là “ không phù hợp với các nhà quản lý văn hóa Việt Nam ”, chứ không thể nói “ xa lạ với truyền thống văn hóa phương Đông ”, bởi vì Nhật Bản từ lâu lắm đã từ bỏ thứ truyền thống phi nhân bản đó, tiếp theo là Hàn Quốc, Đài Loan, và đến nay cả Trung Quốc nữa cũng không hề có sự kiêng kỵ đối với sex như chúng ta ! Năm 1995, có sự kiện đáng nhớ là phim Xích Lô của Trần Anh Hùng được giải Sư tử Vàng ở Liên hoan phim Venise lần thứ 52 tại Italia, nhưng Việt Nam cấm chiếu phim này và cấm tác giả về nước với lý do “ đầy những hình ảnh bạo lực, nhiều cảnh sex, hiện thực trong phim không đúng thực tế Việt Nam ”. Từ đó, cho rằng đạo diễn làm phim này nhằm chống Việt Nam. Hãng phim Giải phóng phải làm bản kiểm điểm vì sao lại hợp tác với Trần Anh Hùng làm phim này. Dù rằng suốt quá trình làm phim, có nhiều cán bộ A25 được giao bám sát, và yêu cầu Trần Anh Hùng phải sửa chữa liên tục ! Trong một lần trả lời phỏng vấn, Trần Anh Hùng cho rằng, những cảnh bạo lực của phim phải đạt mục đích là làm cho người xem căm ghét bạo lực và những cảnh sex là cần thiết cho nội dung. Ông Thái Kế Toại người được A25 giao trách nhiêm theo dõi quá trình làm phim này đã đặt câu hỏi : “ Chẳng lẽ vì để chống Việt Nam mà ban giám khảo LHP Venise hạ thấp mình để trao giải cho bộ phim mà người Việt Nam cho là thấp kém ? Nếu có lý trí tỉnh táo, có thiện chí thì giải đáp câu hỏi này không khó ”. Rất tiếc 16 năm đã qua không có cơ quan có trách nhiệm nào giải đáp câu hỏi rất cấp thiết đó ! Mười lăm năm sau, phim Bi, đừng sợ ! của Phan Đăng Di vượt qua 4 ứng viên nặng ký của Nga, Pháp, Australia, Rumani, đoạt hai giải thưởng lớn Phim đầu tay xuất sắc, và Quay phim xuất sắc ở LHP Stockholm Thụy Điển. May mắn hơn Xích Lô, phim Bi, đừng sợ ! được chiếu trong nước và được vài nhà bình luận viết bài khen ngợi, nhưng chỉ vài ngày sau, đã bị một trận bão phê bình vùi dập tơi bời trên các báo lớn, chủ yếu vì phạm tội sex, trái thuần phong mỹ tục Việt Nam ! Phan Đăng Di là đạo diễn được đào tạo bài bản. Ông được những nhà lý luận của các cường quốc điện ảnh như Mỹ, Pháp, Thụy Điển, Hàn Quốc… đánh giá cao, thế mà những người lớn tiếng chỉ trích ông chỉ cần “ món võ ” thô sơ là “ trái thuần phong mỹ tục ” ! Từ đầu thập niên 90, cho đến gần đây, nhiều họa sĩ và nghệ sĩ nhiếp ảnh xin triển lãm tranh và ảnh khỏa thân đều không được cho phép. Ban đầu, các nhà quản lý tìm cớ loanh quanh như địa điểm không thích hợp, thời điểm chưa thuận (Sở văn hóa Hà Nội đối với nhà nhiếp ảnh Thái Phiên), sau đó thì nói thẳng là trái thuần phong mỹ tục. Thái Phiên cho rằng, đó là cách viết lịch sự ở văn bản, còn nói với nhau người ta lên án là “ ảnh khiêu dâm ”! Bức ảnh Đồi trinh nữ của Thái Phiên đã được giải đặc biệt ở cuộc thi ảnh nghệ thuật Hàn Quốc, nhưng Sở văn hóa thông tin Hà Nội vẫn phán là “ không phù hợp ”. Tranh khỏa thân của họa sĩ Nguyễn Kim Đính được Hội đồng nghệ thuật Thừa Thiên - Huế thẩm định là “ đạt tiêu chuẩn nghệ thuật ”; nhưng Sở văn hóa thông tin (tức là những người có quyền nhưng không có chuyên môn) vẫn kết luận “ không phù hợp thuần phong mỹ tục ”. Có thể xem nội dung công văn của Phó giám đốc Sở văn hóa thông tin thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Tuất Việt gửi cho nữ nhiếp ảnh gia Nguyễn Kim Hoàng là lập luận chung của tất cả các nhà quản lý văn hóa Việt Nam hiện nay : “ Nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam là nét đẹp kín đáo. Các bức ảnh đều chụp cận cảnh và phô diễn những đường nét nhạy cảm nhất của người phụ nữ, nên việc triển lãm này đến công chúng là không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam ”. Nhiếp ảnh gia Nguyễn Kim Hoàng nói : “ Khi đọc công văn của Sở tôi cảm thấy vô cùng tổn thương ! ” Năm 2005, có một sự kiện đáng nhớ là việc phát hành tập truyện Bóng Đè của nhà văn nữ Đỗ Hoàng Diệu. Tập truyện được các nhà phê bình, nhà văn hóa hàng đầu của đất nước hết lời ca ngợi. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên viết : “ Phụ nữ trong quan hệ với dục tính, nhưng quan trọng hơn, phụ nữ và dục tính trong quan hệ với xã hội và lịch sử .” Nhà văn Nguyên Ngọc viết : “ Và cũng có lẽ một trong những dấu hiệu đáng tin cậy để nhận ra một tài năng văn học là đọc họ, ta cảm thấy cứ như bằng trực cảm, bằng một thứ ăngten riêng, dường như họ nhận ra được và truyền đến chúng ta những nghiền ngẫm sâu thẳm về con người, xã hội, về đất nước, thậm chí về số phận dân tộc mà chính họ bằng luận lý cũng không nói ra cho rõ được.” Nhà văn Châu Diên : “ Đây là cuốn sách mà tôi kính trọng ”. Độc giả Hoàng Hạc từ Canada cho rằng “ Ở Việt nam có thể cho là mới, nhưng so sánh không đâu xa, ngay với Trung Quốc thôi cũng không có gì là mới cả ! ” Ngay lập tức trên tờ báo Sài Gòn Giải Phóng của đảng bộ TP HCM có một bài viết phê phán rằng, đây là một quyển sách dung tục, lạc lõng, bác bỏ ý kiến ở trên của Nguyên Ngọc một cách nặng nề : “ Không biết sâu xa ý tứ ấy là gì, nhưng một người bình thường đọc quyển sách này đều khó lòng nhận ra điều cao cả ấy, nếu không muốn nói là sự báng bổ đến khó hiểu trong tâm thức nhà văn này ”. Một nhà báo không lấy gì làm nổi tiếng, lại lấy ý kiến của “ một người đọc bình thường ” (có lẽ tác giả muốn nói là ý kiến của công nông chăng), nhưng đã đủ sức khóa miệng các danh sĩ bậc nhất của đất nước ! Năm 2010 ầm ỹ với Sợi Xích của Lê Kiều Như. Lẽ ra các nhà phê bình chỉ rõ : đây không phải là một tác phẩm văn học. Sự yếu kém của Sợi Xích như bố cục lỏng lẻo, tâm trạng nhân vật nhạt nhẽo, tả sex vụng về, tự nhiên chủ nghĩa… Nhưng tất cả mọi chỉ trích dồn dập nhằm vào sex ! Có ba điều cần “ cởi ” và “ mở ” 1. Sex làm cho con người khác con vật Ngôn ngữ học cho rằng, con người khác con vật là biết tư duy qua ngôn ngữ. Tôi muốn nói thêm, con người còn khác con vật ở sex. Ông Osho một triết gia Ấn Độ cho rằng từ tình dục đến tình yêu cũng giống như từ than đá đến kim cương vậy. Không có tình dục sẽ không có tình yêu, cũng như không có than đá thì không có kim cương. Hiểu theo Osho thì con người có trình độ văn hóa cao thì tình dục và tình yêu hòa nhau làm một, như viên kim cương không còn dấu vết nào của than đá. Tôi nghĩ, sẽ rất sai lầm nếu cho rằng những quyển sách Tố Nữ Kinh của Trung Quốc, hoặc Kama Sutra của Ấn Độ là sách dạy dâm dục. Đúng ra phải hiểu đó là những quyển sách sớm nhất của nhân loại dạy cho con người biết nâng sinh hoạt tình dục thành một nghệ thuật, khoái lạc hơn, bảo vệ sức khỏe tốt hơn, hoàn toàn khác với con vật. Hãy nghe Tố Nữ góp ý cho Hoàng Đế : “ Hoàng Đế sớm xuất tinh, suy nhược là vì ngài không biết cách sinh hoạt phòng sự một cách bình thường. Hậu quả là không cảm thấy khoái lạc mà lại mệt mỏi. Tất cả chỉ vì Hoàng Đế không hiểu thủy tính và hỏa tính, không hiểu hệ quả khi không biết điều hòa âm dương ”. Sau khi Nho giáo bị lợi dụng trở thành công cụ bảo vệ vương quyền thì Tố Nữ Kinh không được phổ biến cho trăm họ nữa mà biến thành của riêng vua chúa, áp dụng nó với mục đích trụy lạc trong cung cấm. Ở nước ta một số trống đồng đã khai quật được có niên đại suýt soát thời Hoàng Đế, miêu tả những cảnh giao hợp, chứng tỏ sinh hoạt tình dục từ xa xưa, không hề bị ông bà chúng ta coi là điều xấu xa, kiêng kỵ mà đã đặt nó ở bình diện văn hóa. Như vậy cũng tức là từ xa xưa, thuần phong mỹ tục Việt Nam đã gồm có cả sex ! Nếu cứ giữ tình trạng như hiện nay, thì chúng ta sẽ là quốc gia cá biệt đối với sex. Bởi vì Trung Quốc xứ sở của nho giáo lại cùng thể chế như ta, vậy mà từ hơn 10 năm trước đã xuất hiện dòng văn học linglei 另类 bởi những nữ tác giả rất trẻ. Ban đầu các nhà lý luận định kiến gọi đó là loại “ lưu manh ”, nhưng chỉ ít lâu sau đã định nghĩa lại là “ sự năng động ”. Ở các quốc gia Hồi giáo, sex là điều rất cấm kỵ có thể bị coi là phạm tội chết. Vậy mà nữ tác giả Nedjma người A-rập theo đạo Hồi đã có tác phẩm Trái Hạnh Đào được gọi là “ sự thức tỉnh về tình yêu và tính dục ”. Nhật Bản quốc gia “ đồng văn ” phương Đông với chúng ta, sex trong văn học nghệ thuật từ lâu đã là điều bình thường. Haruki Murakami tác giả Rừng Na Uy nổi tiếng thế giới cho rằng “ Tình yêu luôn gắn với tính dục ”. Ông viết về tình dục, nhưng văn phong không hề gợi dục tính : “ Tính dục là cánh cửa mở vào tâm linh ”. Chính vì Murakami coi sex là của con người cho nên ông đươc các nhà bình luận nhiều nước cho rằng : “ Tác phẩm của Murakami có quy mô hành tinh, nó đụng chạm đến những vấn đề của toàn thể loài người ” (Philipp Vase). Trong cuộc trao đổi Cà phê Thứ Bảy, dịch giả Trần Đỉnh, ngoài 80 xuân, cho rằng “ chuyện đó ” rất “ người ”, nên nhìn nó ở khía cạnh nhân bản. Ông cho rằng không thể dùng chuẩn mực của những người nhuộm răng đen để phê phán người răng trắng. Nhà nghiên cứu Lữ Phương đã phát triển ý này : “ Càng không nên biến chúng thành những quy phạm để chỉ đạo văn học nghệ thuật ”. 2. Nếu chỉ bản năng thì chưa thoát khỏi con vật Tiến sĩ Trần Hữu Quang cho rằng đằng sau hiện tương sex tràn lan trên báo “ lá cải ” là sự khủng hoảng của xã hội đang có dấu hiệu của sự đổ vỡ. Từ hiện tượng sex, ông đã nhìn ra bình diện rộng. Đúng là xã hội chúng ta đang đứng trước những nghịch lý chưa giải tỏa được, kéo theo sự khủng hoảng văn hóa, đạo đức, trong đó có sex. Người ta chưa phân biệt sex được thể hiên như thế nào mới đạt phẩm chất của con người, còn nếu như miêu tả thô tục, bản năng thì gần với con vật. Ông Lữ Phương nhấn mạnh cái gọi là “ cởi ” và “ mở ” hiện nay đang nghiêng quá nhiều về phần đua đòi, lai căng, thô tục, xem thường phụ nữ… tràn lan trên cả các mạng chính thống của nhà nước, rất trắng trợn, hạ cấp, không phân biệt cho từng lứa tuổi. Ông cho rằng : “ Vấn đề quan trọng này không được pháp luật quy định một cách phân minh. Nếu không có giải pháp đúng đắn thì có thể chúng ta từ mong muốn thoát ra khỏi tình thế bất thường cũ lại trượt dài vào tình trạng bất thường mới : Xã hội chúng ta vẫn chưa có được một trạng thái cân bằng mà các xã hội phát triển khác đang có ”. Có lẽ, vấn đề này nên xem xét, đánh giá cả hai phía. Các văn nghệ sĩ, nhà báo phải miêu tả sex ở tầm văn hóa của con người, học tập, nâng cao nghệ thuật từ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và tiếp thu tinh hoa của các bậc thày nước ngoài. Nếu miêu tả sex một cách bản năng thì chưa đạt tính người mà hãy còn gần với con vật. Mặt khác, người tiếp nhận nghe nhìn, thưởng thức văn học nghệ thuật cũng phải được nâng sự hiểu biết lên, để phân biệt sự thanh cao với điều ô trọc. Họa sĩ tài danh người Tây Ban Nha Francisco José Goya (1746-1826) có câu nói được truyền tụng : “ Sự trần truồng là tác phẩm tuyệt mỹ của tạo hóa ban cho con người. Ý nghĩ tà dâm nãy sinh trước sự trần truồng là sự bộc lộ bản chất của những kẻ gian manh ! ”. Nhưng trước khi mạ lỵ như thế, cần phải có sự giáo dục đã ! 3. Để có trạng thái của một xã hội bình thường Nhà nghiên cứu Lữ Phương cho rằng việc quan tâm đến sex có mặt tích cực là : Phản ánh sự đòi hỏi chuyển biến từ một xã hội không bình thường sang một xã hội bình thường. Ý kiến của ông rất có lý. Xã hội ta nhiều năm qua đã đem cái không bình thường làm cái bình thường : chấp nhận phong bì, lót tay ; bầu người thoái hóa thành người “ 4 tốt ” ; khen tặng những tập thể đang che giấu tiêu cực lại là “ trong sạch vững mạnh ”... Trái lại, biến cái bình thường thành cái không bình thường như : Dám tố cáo tham nhũng ; nhường chỗ ngồi cho người già yếu, phụ nữ; dừng xe trước đèn đỏ… Trong những điều bất bình thường đó có sex, là chuyện bình thường từ ngàn xưa bỗng dưng trở thành một thứ bẩn thỉu, phải kiêng kỵ. Trong cuộc trao đổi ở Cà phê Thứ Bảy, nguyên phó giám đốc Sở văn hóa thông tin TP HCM, bà Thế Thanh cho rằng “ Cần có những đường lối phù hợp để mọi người có thể chia sẻ sự sáng tạo của mình trong báo chí, điện ảnh hay các lĩnh vực nghệ thuật xã hội khác ”. Nói vậy là các nhà quản lý văn hóa hiện nay đang thực hiện một “ đường lối ” nào đó không còn thích hợp ? Giở văn kiện Đại Hội 11 ở phần Phát triển văn hóa : “ Huy động các nguồn lực cho phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội.” Nội dung này hầu như không thay đổi từ các Đại Hội Đảng trước kia. Vậy có lẽ phải hiểu thế nào là “ kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp ” và thế nào là “ tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại ”. Việc đó chủ yếu không phải của các nhà chính trị và các nhà quản lý văn hóa mà là của các nhà nghiên cứu lý luận văn học nghệ thuật từng chuyên ngành, đồng thời phải được sự tranh biện công khai và cuối cùng được kết luận bởi cơ quan có thẩm quyền ở từng chuyên ngành. Các văn nghệ sĩ phải được bảo đảm tự do sáng tác. Các nhà quản lý có trách nhiệm bảo đảm cho các loại tác phẩm đến đúng với đối tượng, ví dụ sách, ảnh, phim… loại nào dành cho lứa tuổi nào. Việc phê bình đánh giá tác phẩm nên được tiến hành công khai, tôn trọng sự phản biện và các quan điểm chưa được số đông công nhận cũng được bảo lưu và tiếp tục tranh biện. Tránh sự áp đặt một quan điềm không biết từ đâu mà ai cũng kiêng dè. Ví dụ mới đây, có nhà báo viết dưới tiêu đề Dấn thân vào cảnh nóng gồm ba bài liên tục : Cảnh “nóng” và nước mắt ; Đi qua dư luận và Giá trị không ở cảnh sex. Chỉ cần đọc ba tựa đề cũng thấy được người viết không coi sex có sự cần thiết cho bất cứ tác phẩm nào mà chỉ là một loại để câu khách ! Lẽ ra người viết loạt bài này phải chỉ ra cụ thể, những bộ phim Việt Nam nào (người viết cho rằng đến 80 % số phim) đã đưa sex không phải vì cần thiết cho nội dung mà chỉ nhằm câu khách.Vậy mà, tất cả văn nghệ sĩ và các nhà lý luận phê bình Việt Nam đều im tiếng. Đó là một tình trạng rất, rất không bình thường ! Ngày 27 tháng 7 năm 2011 Tống Văn Công
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 10, 2011 9:13:06 GMT 9
Cách dùng họ và tên của các dân tộc Việt Nam Nguyễn Khôi LỜI DẪN : Nguyễn Khôi vừa cho phát hành cuốn Các Dân Tộc Ở Việt Nam Cách Dùng Họ Và Đặt Tên , Nhà Xuất Bản Văn Hoá Dân Tộc, Hà Nội - 2006 . Cách dùng họ và đặt tên của Việt nam rất độc đáo , nó mang đặc sắc văn hoá Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử dựng và giữ nước. Chúng tôi xin trích giới thiệu 6 bài trên 54 bài về giải mã họ và tên 54 tộc người ở Việt nam. 1. Ê Đê 2. Chăm 3. Thái 4. Mường 5. Mông 6. Khơ Me BÀI THỨ NHẤT - DÂN TỘC ÊĐÊ Ê Đê có nghĩa là người sống trong rừng tre . Dân tộc Ê Đê có trên 270 nghìn người , cư trú tập trung ở Đắc Lắc , Gia Lai, Khánh Hoà và Phú Yên. Các nhóm địa phương gồm : Rađe Đe, Kpa, Adham, Krung, Ktul, Đlie, HrueBlô, Epan, Mdhuna,Bih. Về kinh tế đồng bào này làm nương rẫy , nhóm Bih làm ruộng nước dùng trâu giẫm đất thay cho cày cuốc , ngoài ra là chăn nuôi, săn bắn , dệt... Tổ chức đời sống chặt chẽ. Làng gọi là " Buôn" , các địa danh gọi tên rất gợi như " Buôn chư mơ ga " 9 nghĩa là làng núi lửa., Sông Đực, Sông Cái , Sông Tóc... Gia đình theo mẫu hệ, chủ nhà là phụ nữ . Con cái mang họ mẹ , con trai không được hưởng thừa kế. đàn ông ở nhà vợ. Nếu vợ chết mà bên nhà vợ không còn ai thay thế thì người chồng phải về ở với chị em gái mình. Nếu chết , được chôn bên người thân của mẹ đẻ. Nhà ở của người Êđê là nhà sàn và nhà sài. Trang phục màu chàm có điểm các hoa văn sặc sỡ . đàn bà mặc váy áo , đàn ông đóng khố mặc áo . Ngày xa có tục cà 6 răng cửa hàm trên. Người Êđê rất thích uống rượu cần , đặc biệt là vào các dịp lễ tết. Về tín ngưỡng , thờ nhiều thần linh. Người Êđê có kho tàng văn hoá đồ sộ to lớn như các sử thi " Khan Đam San " , cồng chiêng cũng rất nổi tiếng , đã được Unesco công nhận là văn hoá phi vật thể của nhân loại. Người Êđê có Lễ đặt tên. Khi đứa trẻ sinh ra trong vòng một tháng , gia đình sửa soạn đồ cúng để làm lễ đặt tên cho trẻ.Thầy cúng hướng dẫn gia đình chuẩn bị lễ vật . Họ quan niệm : Khi mới sinh ra , con người cha có hồn , nên lúc đặt tên là lúc nhập hồn cho đứa trẻ . Gia đình sẽ chọn rất nhiều tên trong dòng tộc của ông bà nội ngoại , tên những người tài giỏi , có uy tín được lấy để đặt tên cho đứa trẻ. Ý nghĩa việc này là mong trẻ mới sinh ra được nhập hồn của một trong những người tài giỏi của dòng họ. Muốn làm được như thế , người trong nhà khi đi mời thày cúng sẽ nói trước với thày cúng những tên dự kiến đó để thày cũng nhập tâm . Lễ vật cho lễ đặt tên thường là một con gà , một ché rượu . Lễ được tổ chức vào đêm khuya, khoảng 11-12 giờ đêm., khi cả buôn đã đi ngủ thì bắt đầu làm lễ . Ché rượu được đặt vào cột chính gian trước , lễ vật đặt phía đông. Thày cúng ngồi đối diện với ché rượu , quay mặt về phía đông để cúng. Thầy khấn: " Ơ Yàng , hiện giờ gia đình đã dâng lên một con gà , một chén rượu để làm lễ đặt tên cho con. Mời tất cả các Yàng về uống rượu , ăn thịt , giúp đỡ cho trẻ ăn no , chóng khoẻ, không khóc. Mời các ông , các bà trong dòng tộc của gia đình : Mảng , Ma Choá , Mí Thơ, Mí Thơm, Ma Đam ... về ăn thịt, uống rượu , giúp đỡ cho trẻ lớn... ". Thày cúng khấn đến tên nào, đứa trẻ không thấy khóc lại tỏ ý thích thúc (vui) thì gia đình sẽ lấy tên đó để đặt tên cho trẻ. Khi cúng xong , cả gia đình và thày cũng sẽ ăn cơm , ăn thịt gà , uống rượu . Sau khi ăn uống xong thì toàn bộ xương , lòng , lông gà , cơm dư thừa sẽ được gói lại cẩn thận, ché rượu úp xuống , bỏ lại gian khách (tiếng ÊĐê là Gah) của gia đình đúng 3 ngày . Sở dĩ làm thế , bởi người Êđe quan niệm rằng con người khi mới sinh còn rất yếu ớt, mới được nhập hồn người chết còn rất mỏng , nên phải giữ tất cả những lễ vật đã cúng đúng 3 ngày rồi mới mang đi thả xuống suối. Khi đó hồn mớí nhập hoàn toàn vào trẻ mới sinh. Các họ của người Êđê : Adrâng, Ayun, Ayun C, Ayun Tul H, Wing Atul, Atul Buon Yah, Buon Krong , Duot, Eban, Eban Rah Lan, Eman, Emo, Enoul, Hđok, Hrue, Hmok, Hwing, Jdrong, Ktub, Kebour, Knul, Kpa, Kpor, Ksor, Ktla, Ktul, Mjao, Mlo, Mlo Duon Du , Mlo Hut, Mlo Ksei, Nie Blo, Nie Buon Dap, Nie Buon Rit, Nie Cam , Nie Mkriek, Nie Mla, Nie Mlo, Nie Sieng, Nie Sor , Nie Sok , Nie To, Nie Trang ... Xin có ví dụ : . Nam : Y Ngong Nie Dam ( 4 chữ này có nghĩa là Trai-Tên-Họ - Chi họ) . Nữ : Hlinh Mlo Duon Du ( 4 chữ này có nghĩa là Gái- Tên-Họ- Chi họ) Người Êđê xưng hô : Khi vợ chồng có con thì gọi theo tên con . Tục này có ở nhiều dân tộc , kể cả người Kinh , ví ma Thuột có nghĩa là Bố thằng Thuột. Chính về thế mới có tên " Buôn Ma Thuột ) tức là làng bố thằng Thuột , nên nay có thành phố Buôn Ma Thuột . Còn nếu gọi Ban mê Thuột là gọi theo tiếng Lào có nghĩa là mẹ thằng Thuột. Như vậy dùng tên con để gọi bố mẹ . Thật là độc đáo bản sắc văn hoá Việt nam ./. BÀI THỨ HAI - DÂN TỘC CHĂM Dân tộc Chăm có trên 132 nghìn người. Sống ở Ninh Thuận ( 50%), Bình Thuận, An Giang, Đồng Nai , Sài Gòn, . Người Chăm là cư dân bản địa lâu đời. Đồng bào trồng lúa nước thâm canh có trình độ cao. Các nghề thủ công như đồ gốm , dệt thổ cẩm rất nổi tiếng. Người Chăm theo chế độ mẫu hệ . Mỗi làng có từ 1000 đến 8000 người. Văn hoá nghệ thuật rất phong phú với các sử thi, lễ hội, mua hát , ca nhạc... Tháp Chăm là công trình thờ cúng đặc sắc của người Chăm. Cũng như địa danh làng Palei Chăm , tên người của dân tộc Chăm thường có hai (2) tên : tên khai sinh theo hộ khẩu tương tự như người Kinh và tân dân tộc . Các họ Chăm : Bá, Bạch , Báo, Bố, Chế, Dương, Đàng, Đạo, Đạt ,Đổng, Fatimah, Hàm , Hán, Hứa, Kiêu, La, Lâm,Lộ, Lu, Ma, Mohâmch, Miêu, Nại , Não, Nguyễn, Ông (ôn), Phú, Qua, Quảng Đại, Samách, Tài , Từ, Thanh, Thập, Thị (nữ), Thiên Sanh, Thiết, Thổ, Trà , Trương, Trượng , Văn. Ví dụ Tên thường gọi là Phú Trạm (tên dân tộc là Inrasa), Chế Bồng Nga (Ceibingu), Chế Mân (SimhavarmanIII), Phạm Phật (Bhadravarman). . Nam: Ka Sô Liêng (Họ- Lót - Tên) . Nữ : Sô Mơ Đinh . Theo nhà thơ Inrasara thì : Họ ngày xưa của các vua Chăm Pa gồm có : . Inđra/Indravarzman . Jaya/Jờyinhavarma . Cri/Cri Satyavirman . Maha/MahaVijaya . Rudra/Rudrravarman... Ngày nay các họ này vẫn còn được một số người sử dụng : . Inra/Patra (là biến thái của inđra) . JayaMrang . JayaPanrang . Inrasara (Inra là sấm , Sara là muối) . Puđradang Các họ này được phiên âm ra tiếng hán là Chế (Cri) như Chế Mân , Chế Củ, Chế Bồng Nga, Chế Linh , Chế Lan Viên... . Họ Ong (hay Ông) như: Ông ích Khiêm,Ông Văn Tùng ... . Họ Ma có lẽ phiên âm từ chữ Maha. . Họ Trà (có lẽ từ Jaya) Bốn họ Ông, Ma , Trà, Chế xưa kia là họ Vua. Họ người Chăm bình dân : ở người Chăm thường thì cứ Ja (Nam) hay M (nữ) được đặt trước tên để phân biệt giới tính, nó như Văn nam Thị nữ của người Kinh , thời xa coi đó là họ ? Gần đây có khuynh hướng đặt tên cho mình như thế , ví dụ Lờy "nó" làm bút danh như Jantâhrei (nhà nghiên cứu Thiên Sanh Cảnh), Talau (Nhà thơ Trương Văn Lỗu) được coi là đẹp và sang. Họ người Chăm theo dòng tộc: Như trên đã trình bày , trước đây người Chăm không có họ như kiểu người Kinh như Trần , Nguyễn , Phạm , Lê..., mà người Chăm chỉ có chữ Ja hoặc M (Mng) đặt trước tên mình để phân biệt nam nữ, ví dụ Ja Phôi, Ja Ka (Nam) M Ehava, Mng Thang Ôn (nữ) , giống như Văn Thị của người Kinh . Người Chăm chỉ có hoàng tộc mới có họ : Ôn, Trà , Ma, Chế . Quan lại thường đựoc gọi bằng chức như Po Klăn Thu (ngài Trấn thủ) , Pô Phok Thăk (ngài phó trấn thủ tên Thak hoặc như Đwai Kabait (ông đội Kabait). Cũng có dòng họ đặt theo tên vua : họ Po Rome, họ Po Gihlw hoặc đặt theo tên lòai cây trụ trong kut chính , họ Ga dak, họ Mul Pui , nhưng không dùng họ này đặt tên riêng. Họ và tên còn đặt theo tôn giáo ( Islam) :Thường do sự tiên đoán tương lai của đứa con mà người cha chọn 1 trong 25 vị thánh đặt tên : . Con trai là Ali, Ibrohim, Mousa, Ysa... . Con gái là : Fatima,Khođijah,Maryam... Cách đặt tên theo giấy khai sinh : Vào đời vua Minh Mạng ( 1820-1840) , năm thứ 14 , nhà vua ban cho người Chăm các họ theo phong tục Việt Nam : . Bá . Đàng . Hứa . Lưu . Lựu . Hán . Lộ . Mà . Châu . Nguỵ . Tử . Tạ . Thiên . Uc . Vạn . Lâm . Hải . Báo . Cây . Dương . Quảng . Qua . Tưởng . L... Số người có công với triều đình được mang họ Nguyễn . Như vậy có sự giao lưu văn hoá Kinh - Chăm , nhưng nét đặc sắc của văn hoá Chăm là Họ tộc Chăm là theo Mẫu Hệ , ví dụ Nguyễn Văn Tỷ (khai sinh) , họ mẹ là Po Đăm hoặc Phú Trạm (khai sinh) , họ mẹ là Inrasara ./. BÀI THỨ BA - DÂN TỘC THÁI Dân tộc Thái có trên 1,32 triệu người, cư trú ở các tỉnh Tây Bắc, Hoà Bình, Thanh Hoá và Nghệ An. Người Thái có nhiều họ khác nhau. Họ Lò không ăn thịt chim Táng Lò ( vật tổ). Họ Quang kiêng ăn thịt hổ... Đồng bào Thái thờ cúng tổ tiên , trời , đất, cúng bản Mường , không theo tôn giáo nào. Văn hoá nghệ thuật Thái rất độc đáo rạng rỡ với nghệ thuật " Múa Xoè", " Múa Nón" , Khèn Thái, Pí Pặp, Quăm Khắp (Hát). Các tác phẩm truyện thơ nổi tiếng như "Sống Trụ Son Sao " (Tiếng dặn người yêu - như Truyện Kiều) mà Nguyễn Khôi đã chuyển dịch rất thành công sang thơ Song thất lục bát , tái bản nhiều lần ), Khun Lua - Nàng ủa , Em bé - Nàng Hổ ( như Tấm Cám của người Kinh . Lối hát giao duyên " Hạn Khuống" ( như Quan họ Bắc Ninh ) , rất hấp dẫn. Nhìn chung người Thái là dân tộc phát triển trồng lúa nước , dệt thổ cẩm, làm được súng săn... Thường được goi là " người Kinh " ở miền Núi.Có rất nhiều nhà hoạt động chính trị , tướng tá , văn nghệ sỹ khá nổi tiếng. Người Thái có các họ : Bạc , Bế, Bua, Bun, Cà, cầm, Chẩu , Chiêu, Đèo , Hoàng, Khằm , Leo, Lỡo, Lềm, Lý, Lò, Lô, La, Lộc , Lự, Lường, Mang, Mè, Nam, Nông , Ngần , Ngu , Nho, Nhọt, Panh, Pha, Phia, Quàng, Sầm, Tụ, Tày, Tao, Tạo, Tòng, Vang, Vì, , Sa, Xin, . 12 họ gốc là Lò, Lường, Quàng, Tòng, Cà, Lỡo, Mè, Lù, Lềm, Ngần, Nông. Người Thái có một số dòng họ quý tộc ( thường là các họ lớn ) tuỳ theo từng nơi đó là Cầm, Bạc, Xa, Đèo,Hà, Sầm, Lò... Các tên khác của một số họ : Họ Lò còn gọi là Lô, La, sau còn đổi là Cầm, Bạc, Điêu (Đèo), Tao (Đào), Hoàng , Lò Cầm (Lò Vàng) , Lò Luông (Lò Lớn). Họ Lường còn gọi là họ Lương Họ Quàng còn gọi là họ Hoàng, Vàng. Cà còn gọi là Sa , Hà , Mào . Vi còn gọi là Vi, Sa. Lêm còn gọi là Lâm , Lim. Ngành Thái đen còn có các họ Cầm , Bạc thường hay giữ các chức vị Chảu Mường . Ngành Thái trắng thường là các họ Đèo Lò làm Chảu Mường Các tên thường gặp , ví dụ như : Lò Văn Muôn (vui) Lò Văn ứt (đói) Hoàng Nó (vua măng). Xưng hô hàng ngày của người Thái thường không gọi tên tục của nhau Thưòng là hai ngưôi " Cu-mưng ( như ủa- nỉ của Tàu, Toa- moa của Pháp , hiểu đơn giản như Tao-Mày - tôi- anh (chị). Thường gọi " dựa " con : Đàn ông là ải nọ... , ải kia... , người tôn trọng nhất gọi là "ải ộ", anh là "ải luông", bác là "ải lung" rồi " ải thẩu"; đàn bà là Êm (ếm) nọ ..., Êm kia , già nhất là Êm thẩu. Các vị chức sắc xưa thì gọi là Tạo nọ , Tạo kia hay Phìa nọ , Phìâ kia ( con cháu những người này cũng được tôn trọng gọi là Tạo con..., Nàng... già là bà Nàng...) Sau năm 1945 bà con dân tộc được đổi tên mới , đặt tên không theo truyền thống mà phù hợp với đời sống văn minh hiện đại.Ví dụ nhà văn nhà thơ lấy bút danh như Tòng ín là Ban Pún (Hoa ban nở). Dân tộc Thái có Huyền thoại về dòng Họ : Sau nạn hồng thuỷ , chỉ còn sống sót một cặp vợ chồng. Người vợ có một thỏi đồng liền đem ra nấu và đúc thành dụng cụ. Quá trình đúc đồng được chia làm mấy giai đoạn như : lúc đầu làm đồng nguyên , sau nấu gọi là lô, muốn tăng sức nóng thì phải quạt , rồi đảo quấy đều , sau đó thành nước loãng , đem luyện lại , tô luyện thành công cụ rắn chắc . Vì vậy khi sinh con , họ đặt cho con đầu lòng mang họ Tông (đồng), con thứ hai là Ló nay gọi là Lò (lô), con thứ ba họ Ví ( quạt) , con thứ tư họ Quá( quàng) , con thứ năm họ Đèo( đồng thành nước), con thứ sáu họ Liếng ( đã luyện ) nay gọi chệch là Lường , con thứ bày họ Cả ( tôi luyên rắn thành công cụ ) , nay gọi là Cà. Quá trình phân hoá giàu nghèo nên các họ trên đều có ngày giỗ riêng . Đến nay tên đệm Văn cho Nam và Thị cho Nữ khá phổ biến như người Kinh. Theo nghiên cứu của chúng tôi thì nét đắc sắc văn hoá dùng họ và đặt tên có thể thấy ở Thanh Hoá, Nghệ An và Lai Châu . Người Thái Trắng ở Lai Châu rất chú trọng lễ đặt tên cho con. Đồng bào cho rằng: Trẻ con mới sinh do vía yếu , không muốn người lạ lên nhà người ta gài vào đầu cầu thang một cành lá xanh và giắt tấm phên đan mắt cáo (Ta Leo). Đến ngày trẻ đầy tháng (Hết Hoóng) làm lễ cúng đầy tháng và cũng là lúc đặt tên cho trẻ . Cách đặt tên không trùng với tên gọi ông bà họ hàng nội ngoại là được. Ngườì Thái Nghệ an do Lê Thái Tổ cho di từ Thuận Châu vào Miền Tây Nghệ An. Người Thái ở Thanh Hoá có câu tục ngữ :" Người có họ , cây có vườn (con mi họ, co mi xuân). Người Thái gọi là " Chao " có nghĩa là nòi giống. Tại Tây Bắc họ Lường làm thày mo , họ Lò làm Tạo , nhưng ở Thanh Hoá thì họ Hà làm Tạo. Người Thái theo phụ quyền (huyết thống cha), ở Việt nam người Thái mang cả tên họ gốc và tên phiên âm sang tiếng Việt , ví dụ Chao Lộc là họ Lục. Đó cũng là nét văn hoá Thái trong cộng đồng 54 dân tộc Việt nam ./.
|
|