|
Post by Can Tho on Jan 13, 2011 5:37:43 GMT 9
Theo truyền thống dân tộc Á Châu, các ngành nghề đều có Ông Tổ hoặc Bà Tổ. Tiết mục khá lý thú cho nen chung toi sưu tầm các bài viết trên internet, nếu bạn nào có thêm thông tin hoặc hình ảnh các Ông Tổ hoặc Bà Tổ thì xin hãy tham gia . Phần 1: Ông tổ nghề nông:Thần Nông (chữ Hán: 神農), hay Viêm Đế (炎帝), là một trong các vị vua Trung Hoa đầu tiên đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên đã làm lễ Tịch Điền (còn gọi là lễ Thượng Điền, tổ chức sau khi gặt hái, thu hoạch mùa màng) hoặc Hạ Điền (lễ tổ chức trước khi gieo trồng), cũng như nghề làm thuốc trị bệnh, cho nên trong dân gian có câu Thần Nông giáo dân nghệ ngũ cốc (tức Thần Nông dạy dân trồng ngũ cốc). Theo truyền thuyết phương nam thì Thần Nông là tổ tiên năm đời của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân và Âu Cơ được coi là tổ tiên của người Việt. Có tài liệu cho rằng Hoàng Đế và Thần Nông là một người. Có tài liệu thì lại cho rằng Phục Hi, Thần Nông và Hoàng Đế là ba người khác nhau (gọi chung là Tam Hoàng). Thực ra tất cả chỉ đều là huyền thoại, không có gì đảm bảo là họ là ba người hay chỉ là một hoặc hai người. Câu hỏi tại sao người Việt nhận là con cháu của Thần Nông, một trong những ông vua đầu tiên của Trung Hoa là vấn đề được nhiều người tranh cãi. Một số nhà nghiên cứu hiện nay, dựa trên các dữ liệu về sử học, thần thoại học, ngôn ngữ học, đã giả thiết rằng Thần Nông là một vị thần có nguồn gốc từ phương nam (từ phía nam sông Dương Tử xuống đến hết Việt Nam ngày nay, đó là vùng đất cư trú của cư dân Bách Việt). Sau khi nước Trung Hoa mở rộng từ phía tây sang phía đông (giai đoạn một), rồi từ phía bắc xuống phía nam (giai đoạn hai) thì Thần Nông được người Trung Hoa sát nhập vào văn hóa của họ và được coi là một trong các "ông vua" đầu tiên của họ. Thực ra trước đó, Thần Nông đã được coi là "ông tổ" của một số bộ tộc Bách Việt. Và sau này, do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa rất mạnh, nhiều người lầm tưởng người Việt nhận một ông vua Trung Hoa làm ông tổ của mình. Các dữ liệu ủng hộ giả thuyết trên: * Thần Nông tức là vị thần về nông nghiệp, vị thần này thường được hình dung cưỡi trâu để đi lại nên vị thần gắn liền với văn hóa lúa nước. * Thần Nông còn có một tên gọi khác là Viêm Đế (vua xứ nóng - vua phương nam), và được coi là vị thần cai quản phương nam. * Cách đọc từ Thần Nông là cách đọc của phương nam, người phương bắc sẽ có xu hướng đọc là Nông Thần. Tuy nhiên, điều này bị phản bác rằng từ Thần Nông vẫn hiểu được theo ngữ pháp phương bắc, và có nghĩa là người nông phu-thần linh. * Truyền thuyết của một số dân tộc thiểu số của Việt Nam (ít bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa) như dân tộc Mèo cũng coi Thần Nông là ông tổ của nghề trồng lúa nước. Lễ Thần Nông Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thần Nông để cầu mong được mùa và nghề nông phát đạt. Trên các quyển lịch cổ hàng năm, người ta thường vẽ một mục đồng dắt một con trâu. Mục đồng tức là vua Thần Nông, còn con trâu tượng trưng cho nghề nông. Hình mục đồng cũng như con trâu thay đổi hàng năm tùy theo sự ước đoán của Khâm thiên giám về mùa màng năm đó sẽ tốt hay xấu. Năm nào được coi là được mùa, Thần Nông có giày dép chỉnh tề, còn năm nào mùa màng bị coi là kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày một chân. Con trâu được đổi màu tùy theo hành của mỗi năm, nó có thể có một trong 5 màu vàng, đen, trắng, xanh, đỏ đúng với các hành Thổ, Thủy, Kim, Mộc, Hỏa. Thời phong kiến, hàng năm đều có tục tế và rước Thần Nông tại triều đình cũng như ở các địa phương. Nghi thức lễ tế Thần Nông thời Nguyễn Lễ tế Thần Nông hàng năm cử hành vào ngày Lập xuân, bởi vậy nên lễ tế Thần Nông còn được gọi là tế xuân. Theo chỉ dụ của vua Minh Mạng, hàng năm sau tiết Đông chí, tòa Khâm thiên giám phải lo sửa soạn việc tế Thần Nông. Các quan cùng nhau họp để nặn trâu và tượng Thần Nông. Trước ngày lập xuân hai ngày, tại gần cửa Đông Ba (ngày nay là cửa chính Đông), các quan Khâm thiên giám cho lập một cái Đài hướng đông. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đưa tới lưu tại phủ Thừa Thiên để ngày hôm sau các quan trong phủ mới rước từ phủ tới Đài. Các quan vận lễ phục, có quân lính mang gươm giáo, tàn lọng, cờ quạt theo hầu. Tới Đài thì một lễ đơn giản được cử hành, ngụ ý trình với Thổ Công về sự hiện diện của tượng Thần Nông và trâu. Sau đó, trâu và tượng Thần Nông lại được khiêng về kho cất. Hôm tế xuân, tượng và trâu lại được rước ra Đài, nhưng lần này đi rước là các quan bộ Lễ và các quan phủ Thừa Thiên. Khi đám rước đi qua cung vua, một viên thái giám vào tâu để vua biết. Sau đó, đám rước lại tiếp tục đi và khi đi qua bộ Lễ, một viên quan đánh vào mông trâu ba roi, có ý thôi thúc trâu phải làm việc. Tới Đài, các quan làm lễ tế Thần Nông theo như nghi lễ các cuộc tế khác. Tế Thần Nông xong, trâu và tượng Thần Nông được quân lính mang đi chôn sau buổi lễ. Tại các tỉnh, trong ngày Lập xuân cũng có lễ tế Thần Nông và lễ cũng được sửa soạn từ sau ngày Đông chí. Các quan tỉnh phụ trách việc hành lễ. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đem chôn. Lễ tế Thần Nông của các dân tộc khác Người Dao Tuyển, để cảm tạ công ơn và cầu xin cho mùa màng bội thu, nhà nhà hạnh phúc thì lễ hội ngày 6 tháng 6 âm lịch là ngày cúng Thần Nông lớn nhất trong năm. Ngoài ra họ còn thờ cúng Thần Nông vào các ngày 1 tháng 1 âm lịch và 9 tháng 9 âm lịch hàng năm
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2011 5:39:00 GMT 9
Phần 2: Vài nét về Tổ Kim Hoàn Việt Nam
Nghề kim hoàn Việt Nam được xem là một trong những nghề thủ công truyền thống có từ rất lâu đời. Mặc dù chưa rõ gốc tích tổ nghề kim hoàn ở vào thế kỷ nào, nhưng theo sử sách ghi lại, khoảng 300 năm về trước, hai vị Cao Ðình Ðộ và Cao Ðình Hương được xem như hai vị tổ sư của nghề kim hoàn Việt Nam.
Ông Cao Ðình Ðộ sinh năm 1744 tại làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Tuy xuất thân từ một gia đình nông dân, nhưng ông lại có niềm mơ ước là trở thành người thợ kim hoàn xuất sắc. Trong thời kỳ chỉ có người Hoa biết nghề chế tác vàng và độc quyền sản xuất, buôn bán vàng bạc, ông cải trang thành người Hoa, xin vào giúp việc cho một chủ tiệm vàng ở Thăng Long (Hà Nội).
Mặc dù người Hoa thường không muốn truyền nghề cho người ngoài, thế nhưng do tư chất thông minh, hiếu học, cộng thêm tính trung thực, ông Cao Ðình Ðộ đã được người chủ tiệm kim hoàn này truyền nghề.
Năm 1783, sau khi thành nghề, ông đưa vợ và con trai vào làng Kế Môn, huyện Phong Ðiền, Thuận Hóa, lập nghiệp và truyền nghề cho con.
Người con trai ông, Cao Ðình Hương, nhanh chóng tiếp thu nghề kim hoàn của cha, trở thành một nghệ nhân thực thụ. Tại Thuận Hóa, ông Cao Ðình Ðộ còn thu nhận đệ tử, truyền nghề cho họ. Làng Kế Môn trở thành làng nghề kim hoàn kể từ đó.
Năm 1810, ông Cao Ðình Ðộ qua đời. Mặc dù còn được kế tục sự nghiệp của cha trong triều Nguyễn với chức quan lãnh binh, nhưng ông Cao Ðình Hương nhận thấy hoài bão của cha mình sẽ bị mai một nếu không có người nối nghiệp. Ông từ quan về nhà với ý định tìm người truyền nghề, nối nghiệp gia đình. Nghề kim hoàn ở miền Trung từ đó được phát triển.
Tại Thuận Hóa, ông Cao Ðình Hương nhận ba học trò là Trần Hòa, Trần Ðiện và Trần Ðiền. Tất cả là con của quan Thượng Thư Bộ Lại Trần Minh. Ngoài ra, ông còn truyền nghề cho ba người cháu Huỳnh Quang, Huỳnh Bảo và Huỳnh Nhật. Năm 1821, trước khi mất, ông dặn dò học trò mình phải đem nghề kim hoàn truyền bá rộng rãi trong dân gian.
Theo di chúc của thầy, ba anh em họ Trần ra Thăng Long mở lò thu nhận đệ tử. Anh em họ Huỳnh vào Nam, đến Phan Thiết thì dừng chân, vừa thu nhận đệ tử truyền nghề, vừa để tưởng nhớ một người anh em đã qua đời tại đây. Nghề kim hoàn ở Phan Thiết được khai sinh.
Sau đó, từ Thăng Long, anh em họ Trần quyết định vào Nam, và họ chọn Gia Ðịnh-Chợ Lớn là điểm dừng chân. Sau khi truyền nghề cho 36 thợ bạc ở Chợ Lớn, ba ông tiếp tục hành trình đến các tỉnh miền Tây, qua Cambodia, Thái Lan. Hiện nay, vẫn không biết ba ông qua đời vào lúc nào và ở đâu.
Như thế, Tổ Sư Thứ Nhất Cao Ðình Ðộ và Tổ Sư Thứ Nhì Cao Ðình Phương là hai vị khai sáng nghề kim hoàn. Anh em họ Trần và họ Huỳnh chính là những người có công phổ biến nghề kim hoàn đi khắp đất nước. Họ được người trong nghề tôn vinh là tổ sư thứ hai của nghề kim hoàn Việt Nam.
Hiện nay, lăng mộ hai vị Tổ sư đời thứ nhất đều tọa lạc tại phường Trường An, phía Nam thành phố Huế, theo kiến trúc văn hóa đặc trưng của triều Nguyễn. Ðền thờ hai ông được đặt tại phường Phú Cát, thành phố Huế.
Hàng năm, thợ kim hoàn tổ chức lễ giỗ Tổ Sư Thứ Nhất Cao Ðình Ðộ vào ngày 27 Tháng Hai Âm Lịch, lễ giỗ Tổ Sư Thứ Nhì Cao Ðình Phương vào ngày 7 Tháng Hai Âm Lịch. Tại làng Ðịnh Công, Hà Nội, có giỗ tổ sư họ Trần, tại Phan Thiết có giỗ tổ sư họ Huỳnh.
Trước năm 1975, nghề kim hoàn tại miền Bắc hoàn toàn im tiếng. Mặt hàng vàng bạc bị chính quyền cộng sản quản lý chặt chẽ, không cho tư nhân kinh doanh nên những người có tâm huyết với nghề chỉ làm chui, dạy chui để duy trì nghề gia truyền này. Trong khi đó tại miền Nam, ngành kim hoàn đã có một thời kỳ cực thịnh, nhưng mẫu mã mới chế tác công phu như những tác phẩm nghệ thuật luôn được giới thiệu đến công chúng.
Sau năm 1975, người thợ kim hoàn trong nước một lần nữa lại phải làm chui, bán chui, nhưng họ nhất quyết không bỏ nghề. Trong hàng trăm ngàn người vượt biển thập niên 1970-1980, đã có không ít người thợ kim hoàn ra đi. Gặp nhau trên đất khách quê người, một lần nữa họ lại phải làm lại từ đầu để tiếp tục đem đến cho xã hội những sản phẩm có ý nghĩa trong mỗi giai đoạn của đời người.
Dù ngày nay được sự trợ giúp của máy móc hiện đại, thế nhưng trong mỗi sản phẩm vàng bạc, vẫn luôn lưu giữ dấu ấn của người thợ yêu nghề. Và cho dù thành công hay thất bại, tổ nghề vẫn luôn được họ coi trọng và tôn thờ. (V.Ð.T.) (Theo Người Việt Online)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2011 5:40:10 GMT 9
Phần 3 - Ông Tổ Cải Lương
Ông Tổ Cải Lương tên thật là Tống Hữu Định, bút hiệu Tịnh Trai, người ta còn gọi là Thầy Phó Mười Hai - gọi Thầy Phó vì ông từng làm Phó Tổng đất Vãng (sau đổi thành tỉnh Vĩnh Long) và gọi Mười Hai là theo hạng thứ trong gia đình. Ông sanh năm 1896 tại làng Long Châu, Vĩnh Long và mất năm 1932.
Ông là một danh sĩ tài hoa, vốn dòng dõi một công thần nhà Nguyễn - ngài Tống Phước Hiệp, thần hoàng bốn tỉnh - người có công trùng tu và tân tạo Văn Thánh miếu mà cũng là người nâng đỡ chu toàn nền cổ nhạc Long Hồ.
Nhưng ông cũng là người ăn chơi nổi tiếng, hào hoa đứng đầu tỉnh Vĩnh Long vào những năm 1915-1920. Lúc sanh tiền ông hay tổ chức đờn ca tiệc tùng, đá gà nòi, bài bạc, đờn hát, ngâm thơ đủ thứ. Đệ nhất thế chiến 1914-1918, ông tổ chức hát dạo quyên tiền giúp quốc trái nhưng chưa bao giờ lên hát trên Sài Gòn. Họa chăng ông là người ham dạo chơi đó đây, nên ông từng ghé Mỹ Tho ngủ đêm tại đây để chờ sáng đáp xe lửa lên Sài Gòn, nhân dịp đó có lẽ ông đã từng xem hát bóng có đờn ca tài tử tại Mỹ Tho, cũng như ông từng lên ngồi uống rượu ở nhà hàng P.T. (góc Lê Thánh Tôn - Thủ Khoa Huân) và tại nhà hàng Lương Hữu, khách sạn ông Bảy Phương (đường Nguyễn Thiệp), ông thấy giàn đờn tài tử, ông chớp để bụng mang về nhà bày đờn ca ngồi trên ván ngựa v.v.
Tuồng Cải Lương được diễn lần thứ nhất tại nhà Thầy Phó Mười Hai (Vũng Liêm) là ngày 15-11-1918, kế đó diễn nơi Sa Đéc và Vũng Liêm. Lúc bấy giờ, nói đến tên ông Tống Hữu Định, trong giới âm nhạc tài tử ai đều cũng biết. Ông là người có sáng kiến khai sinh ra điệu ca bộ, ông tổ chức nghệ thuật sân khấu Cải Lương. Khoảng đầu năm 1916, trong một buổi hòa tấu nhạc tại nhà ông, bài ca Tứ Đại Oán "Bùi Kiệm Thi Rớt Trở Về" được trình diễn bằng hình thức "ca ra bộ", vừa ca vừa ra bộ. Ba người thủ vai: Bùi Ông, Bùi Kiệm, Kiều Nguyệt Nga (Cô Ba Định thủ vai Nguyệt Nga, ông giáo Du trong vai Bùi Ông và ông giáo Diệp Minh Ký trong vai Bùi Kiệm).
Ông Tống Hữu Định nổi tiếng là người hào hoa phong nhã hiếu khách, say mê nghệ thuật đờn ca, hàng tuần vào ngày thứ bảy đều có tổ chức hòa nhạc, tiệc tùng tại nhà ông với đôi ba người tài tử nghệ sĩ. Phong trào âm nhạc tài tử nhờ đó mà phát triển mạnh mẽ ở miền Tây cách đây 75 năm. Ông vừa là người có tâm hồn nghệ sĩ vừa là một nhà thơ, đã đứng ra vận động thành lập Hội Văn Thánh, quyên tiền trùng tu Văn Thánh miếu Vĩnh Long.
Phần 4 - Tổ Nghề Gốm
Trong truyền thuyết, sự xuất hiện của đồ gốm, đồ sứ như một điều bí hiểm, linh thiêng “Đồ gốm, sứ là loại chất bột nằm sâu trong lòng đất, ở những nơi linh thiêng có ma quỷ canh giữ. Muốn khai thác được phải chọn ngày lành tháng tốt. Lên tới mặt đất, nhờ ánh sáng chói lọi của mặt trời soi dọi chất bột đó mới biến thành gốm, sứ…”
Thực ra đó chỉ là truyền thuyết ly kỳ để tăng cái phần quan trọng của kỹ nghệ gốm, sứ xa xưa. Thực chất hàng gốm, sứ ra đời nhờ đôi bàn tay khéo léo và đầu óc sáng tạo của người thợ thủ công. Lịch sử Việt Nam, tập 1, trang 38 có ghi: “Trong giai đoạn Phùng Nguyên, kỹ thuật tạo chế đồ đá đã đạt đến trình độ cực thịnh. Những chiếc rìu, vồ đục… quy mô to nhỏ khác nhau, được chế tạo bằng cách mài, cưa khoan, rất hoàn thiện. Những vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi… bằng đá được chau chuốt, tiện, gọt tinh vi. Những loại hình đồ gốm (nồi, bát, cốc, vò…) có hình dáng đẹp, chắc, khoẻ, phần nhiều đã được chế tạo từ bàn tay. Mặt ngoài đồ gốm phủ đầy hoa văn trang trí với những đường vạch sắc sảo, những nét cong uyển chuyển, mềm mại, được phối trí, đối xứng và hài hòa. Đó là một biểu hiện về óc thẩm mỹ khá cao của người Việt Nam lúc bấy giờ….”
Vậy là kỹ nghệ gốm giai đoạn Phùng Nguyên (cách ta gần 4.000 năm) ở nước ta đã phát triển mạnh. Con người buổi đó đã biết nghĩ ra bàn xoay và chế tạo ra thứ men để phủ ngoài, tăng thêm vẻ đẹp kỳ diệu của đồ gốm.
Đây là một thời kỳ của nước Văn Lang. Cho tới thời Âu Lạc, kỹ nghệ gốm đã phát triển mạnh lắm. Nghề nung gạch, làm ngói… cũng đã có từ ngày này.
Phải nói thời cực thịnh của gốm sứ là thời kỳ Lý – Trần (thế kỷ XI – XIV). Đó là những năm đất nước phồn thịnh, kinh tế mạnh mẽ, quân sự vững mạnh, văn hóa phát triển, đất nước an bình, mọi kỹ nghệ được khuyến khích phát đạt.
Nghề gốm, xem ra phát triển rải rác khắp đất nước. Ở tỉnh nào cũng có những vùng làm nghề gốm. Cứ ven các dòng sông, chúng ta gặp nhiều mảnh sành, mảnh gốm còn vương sót lại. Hoặc chúng ta gặp những dãy lò gốm đang ăn khói nghi ngút. Những trung tâm sứ gốm ở nước ta, xuất hiện từ thời Lý – Trần mà đến nay vẫn còn hưng thịnh nghề nghiệp, đó là Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà, Phù Lãng (Bắc Ninh), Hương Canh (Vĩnh Phúc), Quế Quyển (Hà Nam Ninh), Chum Thanh (Thanh Hóa)… Mỗi vùng quê gốm lại giữ kỹ nghệ riêng biệt. Và mỗi nơi, lại có mặt hàng gốm đặc trưng riêng của mình, tạo thêm cái đa dạng và phong phú của công nghệ gốm Việt Nam. Nếu nói trung tâm gốm ở nước ta, phải nói tới Bát Tràng – Thổ Hà – Hương Canh. Một đặc điểm riêng biệt và rõ nét nhất của nghề gốm là đều phát triển dọc sát các triền sông. Bởi lẽ nó tiện đường chuyên chở, và đất sét dọc các triền sông là thứ nguyên liệu quý để sản xuất gốm, sứ.
Gốm Bát Tràng ngày nay
Theo tài liệu giới thiệu Lịch sử nghề gốm ở Thổ Hà của Ty Văn hóa Hà Bắc, và tài liệu Tìm hiểu nghề gốm ở Bát Tràng, tư liệu đánh máy của Viện Mỹ thuật, năm 1964, cho biết: Vào khoảng thời Lý – Trần có người đỗ Thái học sinh (đặc biệt chức Thái học sinh thì mới có từ thời Trần) được cử đi sứ nhà Tống (Trung Quốc) là: Hứa Vĩnh Kiều, người làng Bồ Bát (Thanh Hóa), Đào Trí Tiến, người làng Thổ Hà (Hà Bắc), Lưu Phong Tú, người làng Kẻ Sặt (Hải Dương). Cả ba ông này, khi đi sứ đã học được nghề sứ gốm. Khi về nước, ba ông chọn ngày lành tháng tốt lập đàn ở bên sông Hồng làm lễ truyền nghề cho dân làng. Công nghệ có được phân như sau: Ông Kiều về Bồ Bát, ông Tiến về Thổ Hà, ông Tú về Phù Lãng, và:
- Làng Bồ Bát chuyên chế các hàng gốm sắc trắng.
- Làng Thổ Hà chuyên chế các hàng gốm sắc đỏ.
- Làng Phù Lãng chuyên chế các hàng gốm sắc vàng, thẫm.
Nửa năm sau nghiên cứu, chế tạo thành công, ba ông lấy các đồ gốm do tay mình chế được, dâng Vua xem. Nhà Vua thấy sản vật đẹp, liền khen thưởng các quan sứ thần bốn chữ “Trung ái Quán Thế” và phong cho ba ông danh “Khởi nghệ tiên triết”. Tục truyền, dịp này, dân làng ở ba nơi đều tế lễ sầm uất và linh đình. Sau dâng ba tuần rượu, dân chúng nhảy nhót hoan hô để biểu dương các ngài đem nghề về truyền cho dân. Sau khi ba ông mất, dân chúng ba nơi đều tôn ba ông là “Tổ sư”, tức “Tổ nghề”.
Phường gốm Bồ Bát sau có rời ra ngoài Bắc. Dọc theo con sông Hồng, tới một bãi sông có đất thó trắng, họ dừng lại lập lò gốm ở đó, với tên gọi Bạch Phường thổ, sau này đổi là Bát Tràng phường. Và ngày nay, ta quen gọi là Bát Tràng.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2011 5:43:44 GMT 9
Tổ nghề dệt lụa - Công chúa Thiều Hoa Ăn, ở, mặc…là những nhu cầu vật chất cơ bản của xã hội loài người nói chung và Việt Nam nói riêng. Ở Việt Nam có nhiều vị tổ nghề thủ công truyền thống, nhưng không ai không biết đến công chúa Thiều Hoa, người được tôn vinh là tổ nghề dệt lụa - một nghề truyền thống có lịch sử lâu đời gắn bó mật thiết với người phụ nữ Việt Nam. Người Việt Nam từ ngàn xưa đến nay có câu “Người đẹp vì lụa…”, vải lụa là một sản phẩm văn hóa bản địa của Việt Nam có giá trị từ trong lịch sử đến ngày nay. Vải lụa đã đi vào ca dao Việt Nam: Lụa này là lụa Cổ Đô Chính tông lụa cống, các cô ưa dùng Cùng với sự ra đời của nhiều giá trị văn hoá khác trong lịch sử dân tộc, lụa Cổ Đô gắn với bà tổ nghề là Công chúa con Vua Hùng Vương thứ 6 - Công chúa Thiều Hoa. Các triều đại Vua Hùng gắn với buổi bình minh lập nước của lịch sử Việt Nam. Nghề dệt lụa cũng có từ buổi ấy và gắn với truyền thuyết về một nàng công chúa xinh đẹp, một trong những vị tổ nghề quan trọng đặt nền tảng cho một giá trị văn hoá vật chất có sức sống lâu bền đến nay và là niềm tự hào của người Việt. Truyện kể rằng công chúa là người hiền lành, xinh đẹp nhưng lại không chịu lấy chồng. Nàng từ chối ý định gả chồng của vua cha và sang sống ở trang trại khác. Nàng có biệt tài nói chuyện với chim và bướm mỗi khi vào rừng chơi. Một lần nói chuyện với bướm nâu, biết bướm nâu chỉ ăn một thứ lá dâu để đẻ ra trứng rồi nở thành sâu, nhả ra sợi vàng. Bướm đưa Thiều Hoa ra bãi dâu ven sông thấy hàng ngàn con sâu đang làm kén. Thiều Hoa xin bướm giống trứng và sâu ấy cũng như hỏi bướm cách kéo tơ rồi tìm cách đan chúng thành những mảnh, tấm nõn nà vàng tươi. Nàng đặt tên cho những tấm sợi ấy là lụa. Chính cái tên Thiều Hoa gọi bướm là ngài và giống sâu cho sợi ấy là tằm còn gọi đến ngày nay. Sau kỳ tích ấy Thiều Hoa đem truyền dạy cho mọi người trồng dâu, chăn tằm, kéo sợi, dệt lụa. Tấm lụa đầu tiên nàng đem tặng Vua cha. Hùng Vương khen ngợi con gái yêu và truyền cho dân chúng theo đó mà dệt lụa. Dân làng Cổ Đô, Vân Sa…rất nổi tiếng về nghề dệt lụa và nhiều làng tôn Thiều Hoa làm tổ sư nghề dệt lụa, làm thành hoàng làng của mình. Lụa tơ tằm Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện nay có tiếng trong nước và quốc tế. Nó không chỉ đưa lại giá trị kinh tế cho quốc gia, nhiều dòng họ, gia đình, nhiều làng mà còn là một nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam gắn với một vị tổ nghề là phụ nữ sáng lập không có lợi ích riêng, một phụ nữ “Lá ngọc cành vàng”- Công chúa Thiều Hoa. st Tổ nghề mộc và xây dựng - Lỗ Ban Image Lỗ Ban được xem là ông tổ của nghề mộc và nghề xây dựng. Trong ngành xây dựng thường nói tới “thước Lỗ Ban”, còn dân gian lại hay nhắc tới “bùa Lỗ Ban”. Có vài thuyết về lai lịch của ông. Lỗ Ban là thợ mộc giỏi của nước Lỗ (nay là tỉnh Sơn Đông) thời Xuân Thu (770-476 TCN). Tên ông là Ban, họ là Công Thâu (cũng đọc Công Du). Lỗ Ban nghĩa là “ông Ban người nước Lỗ”. E.T.C. Werner (A Dictionary of Chinese Mythology) cho rằng Lỗ Ban sinh năm 506 TCN. Cha là Công Thâu Hiền. Công Thâu Ban thuở trẻ là thợ giỏi về các loại vật liệu như gỗ, đá, kim loại. Năm 40 tuổi ông ở ẩn trên núi Lịch Sơn, tu luyện pháp thuật. Tượng thờ Lỗ Ban ở Đài Loan. Chân tượng có khắc chữ Xảo thánh tiên sư , tức là Lỗ Ban Công. Một thuyết khác cho rằng Lỗ Ban là người Đôn Hoàng , Túc Châu (nay là huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc), thời Chiến Quốc (475-221 TCN). Ông có tài nghệ tinh xảo, chế tạo diều gỗ cho người ngồi trên đó bay đi do thám thành trì nước Tống. Một thuyết khác lại cho rằng ông tên là Công Thâu Ban, thường gọi là Công Thâu Tử , vốn là con của Lỗ Mục Công (có sách chép là Lỗ Chiêu Công). Tương truyền Công Thâu Tử chế tạo nhiều loại máy móc, có thể dùng trong tác chiến, thí dụ như thang mây (vân thê) bắc lên tường thành để công phá thành. Mặc Tử là người chủ trương phản chiến, từng đánh bại Công Thâu Ban về kỹ thuật công phá thành. Sách Mặc Tử, thiên Công Thâu chép: “Công Thâu Ban làm thang mây cho nước Sở xong, sắp đem đi đánh Tống. Mặc Tử nghe tin, bèn đi suốt mười ngày mười đêm từ nước Lỗ đến kinh đô của nước Sở để yết kiến Công Thâu Ban. [...] Mặc Tử cởi đai lưng giả làm thành, lấy thẻ tre giả làm khí giới. Công Thâu Ban chín lần bày cách đánh thành giả ấy nhưng Mặc Tử chín lần cự lại. Công Thâu Ban dùng hết khí giới đánh thành mà Mặc Tử thì còn cách chống giữ. Công Thâu Ban chịu thua”. Theo các thuyết trên, từ điển Từ Hải nói nên xem Lỗ Ban và Công Thâu Ban là hai người khác nhau. Trong dân gian thường truyền tụng về sự linh nghiệm của bùa Lỗ Ban, thước Lỗ Ban, v.v… Thợ mộc và thợ xây dựng thờ Lỗ Ban làm tổ sư, ngày vía là 13 tháng 6 âm lịch. Ứng dụng thước Lỗ Ban (Lỗ Ban Xích) trong phong thủy Lỗ Ban tương truyền là ông tổ của nghề mộc đã được hoá thân thành Thánh đã phát minh ra cây thước Lỗ Ban. Cây thước Lỗ Ban có rất nhiều thuyết khác nhau liên quan đến xuất xứ của nó. Chỉ biết rằng trong Phong Thủy thì nó... được ứng dụng để đo chiều dài trong thiết kế nhà cửa và âm phần. Hiện nay người ta thường sử dụng loại thước Lỗ Ban dài 43cm chia thành 8 cung bằng nhau : Cung _________ Ý Nghĩa Tài........ Ứng với sao Tham Lang tức Sinh Khí - Tốt Bệnh....... Ứng với sao Phá Quân tức Tuyệt Mệnh - Xấu Ly......... Ứng với sao Vũ Khúc tức Phúc Đức - Tốt Nghĩa...... Ứng với sao Cự Môn tức Thiên Y - Tốt Quan....... Ứng với sao Văn Khúc tức Lục Sát - Xấu Kiếp....... Ứng với sao Liêm Trinh tức Ngũ Quỷ - Xấu Hại.........Ứng với sao Lộc Tồn tức Hoạ Hại - Xấu Bổn.........Ứng với sao Tả Phụ tức Phục Vị - Tốt Đo chiều dài của nhà cửa, vật dụng mà rơi vào các cung Tài, Ly, Nghĩa, Bổn là tốt, các cung khác là xấu. Ngoài ra còn một loại khác dài 51cm chia thành 8 cung bằng nhau như sau : Cung _________ Ý Nghĩa Quý Nhân........ Hành Mộc – Tốt Hiểm Hoạ........ Hành Thổ - Xấu Thiên Tai....... Hành Thổ - Xấu Thiên Tài....... Hành Thủy - Tốt Nhân Lộc........ Hành Kim – Tốt Cô Độc.......... Hành Hoả - Xấu Thiên Tặc....... Hành Hoả - Xấu Tể Tướng........ Hành Thổ - Tốt Quý vị có thể sử dụng một trong hai loại trên để đo đạc và tính toán. Nếu cẩn thận có thể sử dụng cả hai loại thước trên. Về tính khoa học của thước Lỗ Ban hiện có rất nhiều cách giải thích khác nhau, có thuyết cho rằng đó là sự trải dài của Bát Quái và việc sử dụng thước tuân theo Bát Quái và Ngũ Hành. Song theo khoa học thì ngay cả trong lòng đất cũng tồn tại những dao động với những tần số khác nhau, nhất là những dao động âm trong lòng đất vồn liên tục tồn tại. Vì vậy, nếu kích thước của nhà ở và các yếu tố trùng với bước sóng thì dễ gây ra cộng hưởng và làm giảm sự bền vững. Có thể, cây thước Lỗ Ban là sản phẩm của sự đúc kết kinh nghiệm trong xây dựng để tránh những sự cộng hưởng hoặc phần bụng sóng dao động mạnh, giảm thiểu được rủi ro, tăng tuổi thọ cho nhà ở và vật dụng. Phong thủy Đông Phương - (Theo Phong thủy Việt Nam)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 14, 2013 8:06:10 GMT 9
Y Phục Phụ Nữ VN Hành Trình về Đất Mẹ, công trình của Trần Thị Lai Hồng(VienDongDaily.Com - 05/08/2011) Công chúa Mỵ Nương đang đánh trống đồng Ngọc Lũ - ảnh: tài liệu của Trần Thị Lai Hồng. Mai Hoàng/Viễn Đông (ghi lại) Mặc dù đã “nói chuyện” dăm ba lần qua e-mail, lần đầu tiên tôi được thấy mặt bà Trần thị Lai Hồng là vài tuần trước, khi bà “đăng đàn” nói chuyện về hành trình chiếc áo dài Việt Nam. Hãy hình dung một “bà cụ” trên 70 nhưng trông vẫn còn trẻ trong chiếc áo dài lụa tơ tằm màu trắng tinh khiết choàng trên tấm thân gầy gò, và mái tóc lấm tấm hoa râm. Hãy hình dung một dáng điệu nhanh nhẹn tự tin nhưng không kém phần dè dặt khi muốn nói về mình hay những công trình của mình. Đó là hình ảnh của nhà vẽ, nhà văn thơ, nhà giáo Trần Thị Lai Hồng. Cuối tuần này, chính xác là ngày mai Thứ Bảy, 6 tháng 8, năm 2011, bà Lai Hồng cùng Viện Việt Học tổ chức một show trình diễn độc nhất vô nhị có chủ đề “Hành Trình về Đất Mẹ qua Y Phục Phụ Nữ” từ 7 giờ tới 10:30 tối tại rạp hát quen thuộc Saigon Performing Arts. Các giai đoạn lịch sử của quê hương Việt Nam sẽ được diễn ra qua các hoạt cảnh do hằng trăm “diễn viên” mặc trang phục của những thời kỳ lịch sử ấy: - Công chúa Mỵ Nương và trống đồng Ngọc Lũ - Hai Bà Trưng và thời Áo Xống - Phụ Nữ và Văn Học: từ Đoàn Thị Điểm đến Hồ Xuân Hương - Phụ Nữ và Thời Thế: từ Sương Nguyệt Anh đến Phan Thị Bạch Vân - Tái tạo áo dài Le Mur - Và độc đáo nhất: lời kêu gọi xóa bỏ dấu vết nô lệ Tàu bằng cách may và mặc áo dài cài bên trái. * Trần thị Lai Hồng là ai? Cái tên Lai Hồng, được đặt bởi ông nội là một nhà nho, có nghĩa là con chim Hồng bay trở lại, theo bộ điểu cũng như tất cả tên của các chị em bà, chứ không phải là hoa hồng đã tới, như trước giờ tôi vẫn nghĩ. Trần thị Lai Hồng bên khúc “Sắc Lụa” Art on Silk - ảnh: tài liệu của Trần Thị Lai Hồng. Theo bản tiểu sử (đã tóm gọn) đăng trên web site “gio-o.com” thì: “Dạy học, viết văn, làm thơ, Trần thị Lai Hồng cộng tác với nhiều báo hải ngoại trên giấy cũng như trên mạng lưới, đồng thời tiếp tục đi xa hơn trên đường nghệ thuật vẽ và nhuộm lụa đã bắt đầu từ hồi còn ở quê nhà. Lập phòng vẽ Sắc Lụa Art on Silk năm 1992, Trần thị Lai Hồng được mời trưng bày áo dài lụa vẽ tại viện bảo tàng Wing Luke Museum, Seattle, Washington. Bà là người đầu tiên vinh danh y phục phụ nữ Việt Nam tại bảo tàng viện hải ngoại. Cho đến nay, đã có trên ba mươi lần trình diễn riêng lụa vẽ tại Hoa Kỳ, Đức và Canada. Đặc biệt có chương trình Y Phục Phụ Nữ Việt Nam Xưa và Nay, từ thời Hùng Vương đến hiện đại, do chính bà vẽ và thực hiện trên lụa”. Những điều ghi trong bản tiểu sử này chưa nói lên được hết niềm đam mê tha thiết của Lai Hồng đối với chiếc áo dài thân thương của phụ nữ Việt Nam. Phải nói chuyện với bà và xem gần hết những chiếc áo dài bà đã vẽ cũng như những bộ trang phục cổ mà bà đã nghiên cứu để chế tạo ra thì mới thấy được “nỗi niềm” của Trần thị Lai Hồng. * Mỵ Nương và trống đồng Ngọc Lũ Để hiểu rõ màn hoạt cảnh này, phải đọc những gì Lai Hồng đã viết về trống đồng Đông Sơn mà trống Ngọc Lũ là chiếc trống đẹp và có hoa văn rõ ràng nhất: “Thế giới phát hiện nền văn minh Đông Sơn, bao gồm ngót 300 trống đồng trải dài từ Vân Nam bên Tàu qua tận Cao nguyên miền Trung Việt Nam và nhiều nước Đông Nam Á, như Miên, Lào, Thái, qua tận Mã Lai, Indonesia. Riêng Việt Nam chiếm ngót 200 trống đồng, hầu hết là những chiếc có hoa văn đẹp nhất, chi tiết nhất, ghi khắc rõ ràng tín ngưỡng thờ Mặt Trời, cùng những sinh hoạt nhân gian, múa hát với nhạc cụ, cảnh săn bắn hái lượm, giã gạo, súc vật như hươu nai gà chim, cảnh chiến thuyền đuổi giặc... với cách ăn mặc của người thời Hùng Vương. Đặc biệt phải kể cả chữ khoa đẩu nòng nọc, ghi trên trống đồng Bắc Sơn, mà cho đến nay trên thế giới chỉ có khoảng mươi người đọc được. Mỗi trống đồng xưa sau khi đúc xong, đều do Mị Nương tức là con gái Vua Hùng, khai trương và đích thân đánh trống, làm lễ khánh thành, gọi sấm cầu mưa, cầu mùa, khai trương lễ hội… Về sau này, khi hết thời Hùng Vương, các Lạc hầu Lạc tướng đều dùng trống đồng, và quyền uy mỗi người căn cứ trên số trống đồng sở hữu. Hai Bà Trưng ra trận dùng trống đồng thúc quân. Bất cứ người ngoại quốc nào, nhìn thấy trống đồng, đều biết ngay về văn minh Đông Sơn. Trống đồng, tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn. Trống đồng, niềm kiêu hãnh của người Việt. Không có lý do nào để người Việt không hãnh diện về nền văn minh xưa của Việt Nam”. Hoạt nhạc cảnh Trống Nhạc Lễ “Mỵ Nương và Trống Đồng” có Mỵ Nương khai trương và đánh trống đồng Ngọc Lũ, cùng các nam vũ công múa tàu cau, y hệt hoa văn quang cảnh khắc trên mặt trống đồng, và nữ vũ công cầm các mặt trống Đông Sơn vẽ trên lụa. Những bộ trang phục này do chính Sắc Lụa Art on Silk của Trần thị Lai Hồng thực hiện. Bản nhạc dùng trình diễn là Trống Nhạc lễ, do Trần Văn Khê, Trần Quang Hải và Trần thị Thúy Ngọc trình tấu. * Hai Bà Trưng và thời Áo Xống Ba bộ “Áo Xống” (áo và váy) do Trần thị Lai Hồng vẽ kiểu dựa trên hoa văn trống đồng và cán dao: từ trái sang phải, bộ áo xống của phụ nữ Mường, bộ áo xống của Hai Bà Trưng, bộ áo xống của công chúa Mỵ Nương có kèm theo khăm trùm đầu - ảnh: tài liệu của Trần Thị Lai Hồng. Trích văn của Trần Thị Lai Hồng: “Vấn đề nêu ra, là trang phục của Hai Bà Trưng. Tuy sử sách ta cũng như Tàu không hình ảnh để lại, nhưng đều ghi rõ cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng, hai vị nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc. Hai Bà khởi nghĩa vào năm 39 sau Tây lịch, đánh đuổi Thái thú Tô Định, dành lại độc lập cho quê hương. Cả hai cùng lên ngôi vua, lấy hiệu Trưng Nữ Vương, trị vì từ năm 40 đến năm 43, thì bị Nhà Hán bên Tàu cử lão tướng Mã Viện sang đánh bại. Thời điểm này là vào thế kỷ thứ nhất. Tất cả thế giới, từ Tây sang Đông, đàn ông cũng như đàn bà đều mặc váy, vì chưa phát minh ra chiếc quần. Mãi đến thế kỷ thứ ba sau Thiên Chúa loài người mới sáng chế chiếc quần, và chỉ dân vùng đồng hoang cỏ dại cỡi ngựa chăn nuôi săn bắn mới dùng. Khi xuất hiện dưới thời Gaulois bên Pháp, quần chỉ phổ biến trong giới bình dân. Chiếc quần qua Cổ Ba Tư vào thế kỷ thứ VI, lan sang Hy Lạp, La Mã, qua Trung Á, lên Mông Cổ, Mãn Châu, xuống Tàu vào thế kỷ XVII rồi vào Việt Nam. Phụ nữ Việt Nam vẫn mặc xống váy, đặc biệt ở Đàng Ngoài, cho đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh thế kỷ XVIII, đàn bà Đàng Trong mới bắt đầu bỏ chiếc váy để mặc quần cùng áo dài, dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát, và cụm từ áo quần xuất phát vào thời điểm này. Thế kỷ thứ nhất, y phục Hai Bà Trưng tất nhiên là y phục xưa còn rõ nét khắc trên cán dao, lưỡi rìu, tượng đồng, và hoa văn trống đồng, gồm yếm, áo bên trong tròng đầu hoặc xẻ phía trước, ngắn ngang hông hoặc có hai vạt dài, áo khoác ngắn bên ngoài, mặc váy quấn hoặc váy chui, buộc thắt lưng có bản thòng dài che cả phía trước và phía sau, đeo kiếm, đầu quấn khăn gắn lông chim, bông lau hoặc tàu cau, lá cây, chân quấn xà cạp, mang dép giản dị. Hai Bà Trưng mặc váy, vì vào thời điểm đó, thế kỷ thứ nhất, chiếc quần chưa ra đời”. Trần thị Lai Hồng đã dựa vào những hình ảnh khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lũ và cổ vật cán dao Làng Vạc để vẽ kiểu bộ áo và xống váy của Hai Bà Trưng trong hoạt cảnh này, thay cho bộ áo quần chúng ta vẫn thấy các cô hoa hậu mặc trong những buổi lễ tưởng niệm Hai Bà Trưng tổ chức hằng năm. * Áo dài cài bên trái Bà Trần thị Lai Hồng trong buổi nói chuyện về áo dài phụ nữ Việt Nam. Trên tường là áo ngũ thân và áo dài tân thời cài bên trái - ảnh: Mai Hoàng/Viễn Đông Trích văn Trần thị Lai Hồng: “Nhìn quanh thế giới, từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc, như có một luật lệ ngầm không văn bản không ký kết, nhưng loài người cùng tôn trọng: đàn ông mặc áo cài bên phải, đàn bà cài qua trái. Duy chỉ có người Tàu, đàn ông đàn bà nhất loạt áo cài qua bên phải. Những tài liệu tiền nhân để lại cho thấy người Việt luôn luôn cố gắng phấn đấu, không những bảo tồn từng tấc đất giang sơn, mà còn gìn giữ căn bản văn hóa dân tộc, trong số, phải kể đến chiếc áo dài phụ nữ. Sử sách ghi chép rằng người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo cài bên trái. Chỉ từ khi bị người Tàu xâm chiếm đô hộ, ta bị buộc đồng hóa, phải dùng kiểu Tàu: áo cài bên phải. Đặc biệt sách Luận Ngữ ghi chép những nhận định của Đức Khổng Tử, bản dịch của Đoàn Trung Còn, và Sử Ký Tư Mã Thiên, Sử Trung Quốc, bản dịch của học giả Nguyễn Hiến Lê, đều có nhắc lời Đức Khổng Tử khen Quản Trọng. Sách Luận Ngữ do Đoàn Trung Còn dịch, chương 14 về Hiến Văn, trang 222, ghi lời Đức Khổng Tử khi luận về các công thần tài trí hơn người, đã nói ‘Vi Quản Trọng ngô kỳ bị phát tả nhậm hỉ’. Nghĩa là nếu không có Quản Trọng thì ngày nay ta – tức là người Tàu phương Nam, trong số có Khổng Tử quê nước Lỗ ở phương Nam – phải cắt tóc, mặc áo cài bên trái vậy (tức là Khổng Tử nói rõ xưa kia, giống Bách Việt ở phương Nam - trong đó có người Việt Nam- cài áo bên trái. Chỉ sau khi bị người phương Bắc đô hộ, ta mới cài áo bên phải). Nhưng, lại vẫn chữ nhưng quan trọng này, ta thoát ách đô hộ Tàu cả nghìn năm trước, và nay đã là một quốc gia hoàn toàn độc lập, không có lý do giữ lại dấu vết nô lệ lạc lõng giữa phụ nữ thế giới với quy luật y phục chung cho toàn cầu, là áo phụ nữ cài qua bên trái. Áo dài phụ nữ cài bên trái, lý tình đều thuận hợp”. Trần thị Lai Hồng chắc chắn sẽ cho chúng ta xem những chiếc áo dài cài bên trái. Chẳng những vậy bà và các bạn đã công bố một cuộc thi may áo dài cài bên trái với giải thưởng 500 Mỹ kim. Một chị tên Kiều Nhi, chuyên may áo dài, đã may ngay một áo dài cài bên trái, cho biết: “Cài bên trái rất thuận tiện và dễ dàng cho đa số chúng ta là người thuận tay mặt, thành thử áo dài cài bên trái rất là có lý”. * Những tiết mục khác Không thể kể hết những tiết mục đặc sắc khác của buổi trình diễn “Hành Trình Về Đất Mẹ”. Ngoài những tiết mục kể trên còn có những bài ca hùng sử và dân ca được trình bày bởi ban Hợp Xướng Ngàn Khơi, các nhóm ca, song ca, Lê Hồng Quang… minh họa bằng những điệu vũ và trang phục truyền thống của dân mình thật đẹp mắt. Và đặc biệt hơn cả, chiếc áo dài Le Mur vang danh của họa sĩ Cát Tường được tái tạo theo mẫu vẽ đăng trên báo Phong Hóa, cách đây gần cả trăm năm. Theo bà Lai Hồng, họa sĩ Cát Tường không những chỉ muốn vẽ kiểu áo làm đẹp cho phụ nữ mà ông còn viết bài đăng trên báo Ngày Nay, Đẹp, xuất bản tại Hà Nội đầu thập niên 1930, hướng dẫn các bà các cô cách ăn mặc, cách cư xử, thể dục, mở mang kiến thức... sao cho xứng danh người phụ nữ thời thế. Chương trình còn có một số phụ nữ trong văn học như Đoàn thị Điểm, Nguyễn thị Lộ, Bà Huyện Thanh Quan, bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương… cũng như những nhà văn nhà báo nữ tân tiến của miền Nam gần trăm năm trước, đã đi trước thời đại với kiến thức và lòng dũng cảm muốn sống đẹp và thức thời: Nữ sử Đạm Phương, Sương Nguyệt Anh, Phan Thị Bạch Vân... được tượng hình trên sân khấu, nhắc lại một thời đã qua của nước nhà. Nói tóm lại, “Hành Trình Về Đất Mẹ” là một buổi trình diễn công phu, đầy tâm huyết, rất đáng cho tất cả chúng ta đến xem và nghe. Để lòng còn được dấy lên niềm tự hào được làm con dân đất Việt. Hành Trình Về Đất Mẹ Thứ Bảy, 6-8-2011 Saigon Performing Arts Center 16149 Brookhurst St, Fountain Valley
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Aug 18, 2013 16:40:47 GMT 9
Tục hiến trinh tiết thiếu nữ cho... trâu thời cổ đại26/7/2013 10:07 Trong lịch sử nhân loại, trinh tiết được xem là “món quà” để hiến tế cho thần linh, tăng lữ,… thậm chí là cho trâu. Hiến tế trinh tiết cho trâu Ai Cập cổ đại được xem là một trong những nền văn minh phát triển rực rỡ nhất trên trái đất. Nền văn minh Ai Cập cũng đã tạo ra những phong tục, tập quán vô cùng độc đáo mà một trong số đó chính là tục hiến trinh cho trâu. Tục hiến trinh tiết thiếu nữ cho... trâu thời cổ đại | Chuyện lạ 4 phương,Chuyện lạ thế giới,Phi thường,Chuyện lạ có thật,Chuyện lạ khó tin,Tục hiến trinh tiết Tập tục hiến trinh kì lạ này của người Ai Cập xuất phát từ phong tục sùng bái thần Kim Ngưu của người Ai Cập cổ. Kim Ngưu vốn là tên dùng để chỉ một loại trâu với bộ lông vằn đặc trưng. Theo truyền thuyết của người Ai Cập xưa, loài trâu này chính là hóa thân của bộ phận sinh dục của một vị thần. Những con trâu này sau khi được sinh ra sẽ được đưa đến cho các thầy tư tế nuôi nấng vô cùng cẩn thận với chế độ chăm sóc, ăn uống đặc biệt. Khi những con trâu này được 4 tháng tuổi, chúng sẽ được đưa vào một ngôi miếu có tên là miếu Kim Ngưu. Con trâu này sẽ ở đây trong 40 ngày. Và trong thời gian đó, một lễ hiến trinh kì lạ sẽ xảy ra trong chính ngôi đền Kim Ngưu. Khi con trâu ở trong miếu Kim Ngưu sẽ không có một người đàn ông nào được phép đi vào trong miếu. Chỉ có những người con gái còn trinh tiết mới được phép vào trong miếu và để thực hiện lễ hiến tế trinh tiết cho vị thần đáng kính của họ. Những người con gái này sẽ khỏa thân, đi vào trong miếu và dâng hiến cho con trâu trinh tiết của mình. Lần lượt từng người con gái sẽ làm điều này với một niềm tin sâu sắc rằng họ đang thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm tôn giáo của mình. Bản thân các thiếu nữ Ai Cập cũng luôn coi tập tục hiến trinh này là một điều cao quý và thiêng liêng dành cho họ. Tục hiến tế trinh nữ của người Maya Theo các văn bản cổ đại của người Maya ghi lại, thời tiết hạn hán là do thủy thần nổi giận. Để vị thần trở nên vui vẻ, họ đưa vào giếng một cô gái đồng trinh 14 tuổi. Người xưa quan niệm rằng, cô gái khi được vứt vào giếng sẽ trở thành người hầu của thủy thần, được ăn ngon mặc đẹp và tận hưởng cuộc sống an nhàn. Tục hiến trinh tiết thiếu nữ cho... trâu thời cổ đại | Chuyện lạ 4 phương,Chuyện lạ thế giới,Phi thường,Chuyện lạ có thật,Chuyện lạ khó tin,Tục hiến trinh tiết Ngay cả những khi thời tiết ổn định, không hạn hán hay thiên tai, giới tăng lữ ở Maya cũng chọn một cô gái xinh đẹp để cám ơn Thủy thần. Người dân khắp nơi kéo đến tập trung ở ngôi miếu thần cạnh giếng phép. Ngôi miếu này dài 60 m, cao 30 m, trong miếu khắc hình của thủy thần - một con rắn có cánh. Cô gái được tuyển chọn mặc một bộ đồ lộng lẫy, ngồi đợi trong miếu. Đứng cạnh cô gái là nhiều chàng trai khỏe mạnh khoác trên mình bộ giáp vàng, sẵn sàng đưa cô dâu của thần mưa tới giếng thánh “an toàn”. Buổi lễ sẽ bắt đầu vào lúc rạng sáng, “cô dâu” của thủy thần được đặt trong kiệu hoa và được các pháp sư làm phép, chúc phúc. Cô gái còn phải uống một thứ nước ma thuật giúp an thần, giữ bình tĩnh. Đoàn người sẽ rước cô gái tới giếng thánh trên con đường dài 400 m. Khi tới nơi, cô gái trẻ bị các chàng trai vệ sĩ tung lên không trung rồi rơi tự do vào giếng thánh. Lúc này tiếng trống nổi lên, đám đông sẽ nhảy múa hát hò, những người giàu có sẽ ném vàng bạc, châu báu xuống giếng để cầu xin sự bình an. Hiến trinh cho thầy tế, tăng lữ Tại Ấn Độ, trong xã hội, tăng lữ, thầy cúng có vị trí và vai trò rất quan trọng. Họ được xem là những người đại diện cho thần linh, cầu nối giữa các vị thần với những con người phàm tục. Tăng lữ, thầy cúng sẽ có trách nhiệm lắng nghe, truyền đạt lại những yêu cầu của thần linh với con người. Ngược lại, họ là những người sẽ dâng lên thần linh lời thỉnh cầu con người mong muốn.Vì thế, vị trí của các tăng lữ, thầy cúng luôn được nhấn mạnh trong từng phong tục, tập quán của người Ấn. Tục hiến trinh tiết thiếu nữ cho... trâu thời cổ đại | Chuyện lạ 4 phương,Chuyện lạ thế giới,Phi thường,Chuyện lạ có thật,Chuyện lạ khó tin,Tục hiến trinh tiết Trong tục hiến trinh tiết của người con gái Ấn, tăng lữ và thầy cúng là những người đứng ra, thay mặt cho thần linh để đón nhận sự dâng hiến trinh tiết của những người con gái trong trắng. Sức mạnh của phong tục kì lạ này còn được thể hiện qua sự tác động của nó đối với tầng lớp quý tộc trong xã hội Ấn Độ. Thông thường, tầng lớp quý tộc vẫn được coi là một cấp cao hơn so với những thành phần khác trong xã hội Ấn Độ. Tuy nhiên, trong phong tục hiến tế gái trinh cho các tăng lữ, thầy cúng thì tầng lớp quý tộc cũng không phải là ngoại lệ. Phong tục này còn được áp dụng luôn với cả các bậc vua chúa. Theo tục lệ này, sau khi quốc vương tổ chức lễ cưới với hoàng hậu thì trong thời gian ba ngày đầu tiên, quốc vương không được tiếp xúc thân thể với hoàng hậu. Vào ngày thứ ba, nhà vua sẽ phải tự nguyện dâng hiến đêm đầu tiên của hoàng hậu cho vị tăng lữ cao cấp nhất trong giới tăng lữ. Chỉ sau khi thực hiện nghi lễ tự nguyện này, nhà vua mới có thể chính thức có quan hệ thể xác với hoàng hậu. Như vậy, đủ thấy sức mạnh của tầng lớp tăng lữ, thầy cúng trong cuộc sống tâm linh của người dân Ấn Độ.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 10, 2014 8:33:08 GMT 9
Cá ‘Ông’(VienDongDaily.Com - 08/08/2014) Trần Công Nhung Cá voi xanh Các quốc gia ở phương Tây coi cá voi là một nguồn lợi lớn có giá trị kinh tế cao thì các dân tộc ở vùng Đông Nam Á nhất là Việt Nam, hầu hết dân vạn chài lại coi cá voi như ân nhân cứu mạng.Họ tôn cá voi là cá “Ông” để thờ cúng mong được giúp đỡ trong lúc làm nghề bị bão tố ngoài biển khơi. Về khoa học, cá voi chỉ là một sinh vật có vó xác lớn nhất sống trên các đại dương. Khoa học ghi nhận loài cá voi xanh sống trong tất cả các đại dương trên địa cầu, thân dài lên tới 30 mét (98 ft) nặng trên 170 tấn là loài sinh vật to lớn của đại dương. Có ít nhất 3 loài cá voi xanh: B. M. Musculus sống ở vùng biển bắc Đại Tây Dương và bắc Thái Bình Dương, B. M. Intermedia sống ở vùng biển phía Nam và B. M. Brevicauda (cá voi xanh lùn) sống ở Ấn Độ Dương và nam Thái Bình Dương. Giống như các loài cá voi khác, thức ăn của chúng là sinh vật phù du và có xác nhỏ. Cá voi Trước thế kỷ 20, cá voi xanh tồn tại với số lượng lớn ở hầu hết các đại dương trên thế giới. Nhưng hơn 100 năm qua, chúng bị săn bắt đến mức gần như tuyệt chủng cho đến khi được bảo vệ bởi luật pháp quốc tế vào năm 1966. Trước khi bị săn bắt ráo riết, cá voi xanh nhiều nhất ở vùng biển Nam cực, khoảng 239,000 con. Các nhóm nhỏ hơn (khoảng 2,000 con) tập trung ở các vùng biển Đông Bắc Thái Bình Dương. Có 2 nhóm khác ở Bắc Đại Tây Dương và ít nhất 2 nhóm nữa ở Nam Bán Cầu. Người phương Tây phần đông xem cá voi, cá heo như những “con thú nghệ thuật,” có những du thuyền đưa khách đi xem cá voi. Đã có nhà nhiếp ảnh trúng lớn nhờ chụp được ảnh một chú cá voi to vẫy đuôi cao khỏi mặt nước. Đuôi cá voi Việc cá voi dạt vào bờ biển đã được sử sách ghi lại từ cách đây gần 450 năm. Tiến sĩ Dương Văn An (thế kỷ XVI) chép trong “Ô Châu Cận Lục,” mục “Cửa Việt Khách,” Cửa Việt Quảng Trị ngày nay (1): “... Khoảng năm Quang Thiện tiến triều (đời Lê) có loài cá voi theo nước biển vào. Khi nước triều rút xuống, người bờ bể bắt được. Có người dùng xương sống cá làm xà nóc dựng nhà...” Cá voi dạt vào bờ Theo truyền khẩu, tục thờ Cá Ông do từ tín ngưỡng của người Chăm. Tuy nhiên, từ đời nhà Trần, qua thời kỳ mở nước, thu nhận hai châu Ô và Ri (Lý) của Champa (2) tức Quảng Trị thừa Thiên thì tục lệ này được Việt hóa mau chóng. Đối với người Chăm, Cá Ông là Nam Hải thần ngư được nhân dân kính cẩn. Với người Việt thì cá Ông như một sự thị hiện của Quán Thế Âm Bồ Tát cứu vớt ngư dân trong cơn bảo tố (3). Theo lệ, hễ ai phát hiện được cá voi mắc cạn (“ông lụy”) thì có bổn phận như một trưởng nam lo việc mai táng và để tang như để tang chính cha mẹ mình. Xác cá được đem tắm bằng rượu rồi liệm bằng vải đỏ. Dân làng còn lấy giấy đỏ đắp vào miệng cá thấm lấy nước dãi, xong đem phơi khô rồi đốt thành tro để chữa bệnh suyễn. Xác cá được mai táng trong đụn cát gần biển. Người phát hiện cá voi mắc cạn được nhân dân tôn sùng và dưới triều nhà Nguyễn còn được miễn sưu dịch 3 năm. Cá voi chết Dân vạn chài có câu: “Thấy ông vào làng như vàng vào tủ” vì tin “Ông lụy” trôi dạt vào làng nào, làng đó muôn đời ấm no, tai qua nạn khỏi. Ba năm sau khi mai táng “Ông,” dân làng phải cải táng, đem cốt nhập lăng và tế lễ mỗi năm. Với cá Ông lớn thì dân làng sẽ chờ đủ 3 năm cải táng cho xương vào hòm đưa về lăng thờ, trường hợp cá nhỏ, sẽ róc thịt cho xương vào hòm thờ ngay. Cảnh tượng mai táng cá “Ông” ở vạn chài rất rộn rịp tưng bừng. Dân chài già trẻ trai gái nô nức kéo ra bãi biển xem “Ông”. Ai cũng muốn đến rờ “Ông” một tí để lấy hên. Vì thế mà việc giữ trật tự phải vất vả khó khăn.Việc tế cá Ông tùy theo ngày “Ông” dạt vào bờ nên lễ hội mỗi địa phương một khác: làng Mân Thái (Đà Nẵng) lễ vào tháng Ba âm lịch. Bến Tre, lễ Nghinh Ông vào Tháng Sáu âm lịch, v.v.. Ba năm thì có đại tế một lần. Bài hát “bải trạo” (chèo cạn) trong lễ tế đức Ông của làng biển Cảnh Dương (Quảng Trạch - Quảng Bình) có câu: Nay mừng mở hội Cầu Xuân. Trời sinh Thánh thượng Duy Tân trị vì. Trời yên, biển lặng bốn bề, Đức Ông thượng thọ nước về cõi tiên. Lênh đênh mặt nước bao miền. Tìm nơi đất tốt, dân hiền ghé vô. Xuân sang lai láng biển hồ. Ngư dân trông thấy Nước vô lạch nhà. Tưng bừng nổi trống, kết hoa. Nghe tin làng nước gần xa đón mừng... Thông thường, khi cá voi bị sóng dạt vào bờ, ngư dân không bắt ăn thịt. Họ đưa cá lên bờ làm lễ mai táng tử tế. Đình làng Cảnh Dương vẫn còn lưu giữ gần như nguyên vẹn hai bộ xương cá voi. Bộ xương chứa chật một gian nhà. Mảnh xương sườn dài đến 2m, còn đốt xương sống to bằng cái mâm nhôm (4). Theo ngư dân Lý Sơn cho biết, đảo Lý Sơn là “bảo tàng” lưu giữ xương cá Voi nhiều nhất nước. Hàng chục lăng trên đảo đang thờ loài cá này theo nghi thức tín ngưỡng dân gian miền biển. Đây là bảo tàng xương cá voi độc đáo gắn liền với hành trình khai khẩn, xây dựng huyện đảo Lý Sơn từ hàng trăm năm qua. Việc phục dựng bộ xương cá voi không những thể hiện tinh thần bảo tồn, gìn giữ các giá trị văn hóa lịch sử mà còn góp phần giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm nhân dân đối với quê hương(5). Cùng với việc chôn cất, cúng tế, ngư dân còn lập miếu thờ (gọi là miếu Ông).Hầu hết các làng chài dọc theo duyên hải đều có miếu cá “Ông”: Cảnh Dương - (Quảng Bình), Minh Hải, An Bằng, Vinh Giang, Vinh Hải (Thừa Thiên Huế)... Một vài nơi ở sâu trong đất liền, nhưng có các vạn cư trú, dân cũng lập miếu thờ cá voi. Chẳng hạn làng Dạ Lê Thượng (Thừa Thiên Huế). Đặc biệt làng Mỹ Lam (Phú Mỹ - Thừa Thiên Huế), miếu thờ cá “Ông” là thờ một thai ngư bị sẩy theo nước đầm dạt vào đồng làng. Cá voi hay cá “Ông” là do niềm tin của dân chài vùng Đông Nam Á (Tàu, Việt, Thái, Indonesia...) tôn lên hàng linh vật để được che chở mỗi khi ra biển hành nghề. Hầu hết thế giới xem cá voi cũng như các loài vật khác, nhưng được bảo vệ nếu không chẳng mấy chốc loài cá này sẽ bị diệt chủng. Đối với dân vạn chài thì không cần luật cấm, trong tâm thức họ đã sẵn niềm tin và hết lòng che chở cho loài cá này. Tháng 3 – 2014 (1) Chữ “Khách” ở đây phải chăng là người Tàu (?) nếu thế thì đúng là tiên tri tên cửa Việt ngày nay. Dư luận trong nước cho biết người Tàu đã đến “đầu tư khai thác” (?) và làm chủ cửa biển này (Cửa Việt Khách). (2) Lễ cầu hôn của vua Champa Chế Mân (xem Công chúa Huyền Trân trang 17 QHQOK tập 14) (3) Cho đến nay, có rất nhiều truyền thuyết, giai thoại, truyện kể trong dân gian liên quan đến tục lệ thờ cá voi. Tương truyền rằng cá voi là tiền thân của đức Quán Thế Âm Bồ Tát, đã có lần hóa thân để cứu khổ chúng sinh. Một hôm, trên tòa sen nhìn sóng gió đại dương Nam Hải, ngài không khỏi đau lòng khi thấy muôn vàn sinh linh ngập chìm trong phong ba bão táp, nạn nhân đáng thương là những ngư dân hiền lành.Trước cảnh tượng đau lòng đó, Bồ Tát liền cởi chiếc pháp y, xé tan thành từng mảnh nhỏ ném xuống mặt biển mênh mông. Mỗi mảnh vụn theo phát nguyện của Bồ Tát đã biến thành một con cá voi với nhiệm vụ cứu nguy đám ngư dân lâm nạn trước bão tố trên đại dương. Kể từ đó, cá voi là ân nhân của dân thuyền chài sống trên biển cả. (4) Hiện nay, hai bộ xương cá voi do chiến tranh, bị thất thoát, nên chỉ còn độ 1/3. (5) Theo Tuổi Trẻ Online: Công ty trách nhiệm hữu hạn mỹ thuật Lê Vũ, đơn vị có kinh nghiệm phục dựng gần 10 bộ xương cá voi trong cả nước vừa tiến hành đề án phục dựng bộ xương cá voi (cá Ông) được lưu giữ từ hàng trăm năm nay tại Vạn chài Lăng Tân, xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn (Quảng Ngãi).Theo nhận định của các chuyên gia, đây là bộ xương cá voi lớn nhất Việt Nam. Bộ xương có chiều dài trên 20 mét; mỗi xương sườn cá voi dài gần 10m, chiều ngang của mỗi đốt sống dài từ 1.6m –1.7m.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 27, 2020 17:10:41 GMT 9
Nguyên Nhân Tục Đốt Vàng Mã.Cố HT. Thích Tố Liên chimviet.free.fr/quehuong/thichtolien/ThichToLien_TucDotVangMa.htmỞ đời, cái gì cũng phải có nguyên nhân mới có kết quả, tục đốt vàng mã cũng vậy. Đọc kinh Dịch nhà Nho, chúng ta thấy rằng: tục chôn người chết của người Trung Hoa về đời thượng cổ, một khi có người chết cứ để thế đem chôn, không quan không ván, lại cũng không khanh phần mộ gì cả. Đến đời vua Hoàng đế (267 tr. TL) cho rằng: con cháu đối với ông bà, cha mẹ trong việc mai táng cẩu thả như thế là thiếu bổn phận, mới sai ông Xích Xương sáng chế ra quan, quách để chôn cất. Trải qua đời Hoàng đế, đến đời Đường Ngu, tục lệ chôn cất người chết chỉ có thế. Nối nhà Ngu là nhà Hạ (2205 tr. TL), người Trung Hoa mới bắt đầu dùng đất sét nặn làm mâm bát, dùng tre gỗ làm nhạc khí, như chuông khánh, đàn sáo v.v... để chôn theo người chết. Các đồ vật đó được gọi là minh khí, hoặc gọi là quý khí, tức là những đồ vật đem chôn theo cho thần hồn người chết dùng ở âm phủ, lễ nhạc đối với người chết bắt đầu có từ đấy. Đã chế ra đồ dùng cho người chết, tất nhiên phải có kẻ hầu hạ người chết, thế là người ta lại chế ra người bù nhìn bằng gỗ đem chôn theo người chết. Đến đời nhà Ân (1765 tr.TL), lại không dùng mâm bát đồ đất và nhạc khí bằng tre gỗ để chôn theo người chết nữa, họ dùng toàn đồ thật chôn theo. Đến đời nhà Chu (1122 tr.TL), người Trung Hoa đã bắt đầu văn minh hơn; cố nhiên lễ nhạc đối với người chết cũng được ăn nhịp mà tiến bộ, người chết đối với người chết, đã được người sống phân ra giai cấp sang, hèn trong việc thực hiện lễ nghi chôn cất. Từ vua cho đến các quan lớn khi chết đi, sẽ được dùng cả đồ vật giả theo lệ nhà Hạ, đồ vật thật theo lệ nhà Ân để chôn theo các vua chúa đã chết; còn từ hạng sĩ phu tới bình dân, khi chết chỉ được chôn theo độc nhất một thứ đồ giả thôi. Nếu người hèn hạ nào mà dùng lễ nghi ngang với người sang, tức khắc phải tội "tiếm lễ". Không những thế, dã man nhất, độc ác nhất là người ta còn bịa đặt ra những "tuẫn táng"; nghĩa là khi các vua và các quan lớn chết đi, từ vợ con đến bộ hạ của các vua, các quan lớn, đồ yêu quý của người chết khi còn sống, sẽ phải đem chôn sống để làm đồ dùng khi đã chết. Sách Tả Truyện chép: "Đời vua Văn Công thứ sáu, vua Trần Mục Công tên là Hiếu Nhân chết, ba anh em họ Tứ Xa là Yểm Tục, Trọng Hành và Chàm Hổ đều bị chôn sống theo Mục Công. Người trong nước tỏ lòng thương tiếc ba anh em họ Tứ Xa là người hiền đức, mới làm ra thơ Hoàng Diệu để tỏ ý than vãn, mỉa mai. Trong thơ đại ý nói: Ba anh em họ Tứ xa đều là những người hiền đức gấp trăm nghìn người khác, trời đất ơi! Sao nỡ đem chôn sống để đi theo người đã tận số là Mục Công. Nếu ba trăm người như chúng tôi này được chết theo Mục Công để thế mệnh cho ba người hiền đức ấy, chúng tôi rất vui lòng mà chết thay". Về sau người ta cũng biết đem người sống chôn theo với người chết là vô nhân đạo, mới chế ra người cỏ Sô Linh, sau vì người cỏ không được mỹ thuật, người ta lại dùng đồ gỗ "Mộc ngẫu" như trước. Sách Trang Tử chép: "Vua Mục vương nhà Chu (1001 tr. TL) có người tên là Yến Sư chế ra người cỏ để chôn theo người chết. Đức Khổng Tử đọc đến chuyện này liền than rằng: Kẻ nào sinh ra tục chôn người gỗ theo với người chết là bất nhân. Thầy Mạnh Tử cũng đau buồn với tục hình nhân thế mệnh mà nguyền một câu rằng: Kẻ nào dùng người bù nhìn là tuyệt tự".Đến thời nhà Hán, giới trí thức Nho học cảm động với lời tuyệt cự thống thiết của ngài Khổng, Mạnh trong tục lệ dùng người sống chôn theo với người chết, mới bỏ tục lệ "tuẫn táng", không dùng người sống chôn theo với người chết nữa, nhưng lại làm ra nhà mồ để cho vợ, con, tôi, tớ người đã chết ra để ấp mộ. Còn các thức đồ ăn mặc... của người chết kia, khi còn sống dùng những thứ gì, khi chết cũng đem chôn theo hết. Ngôi nhà mồ kia muốn cho thêm oai vẻ, người ta lại đục phỗng đá, voi, ngựa đá để bài trí chung quang phần mộ. Từ đời Hán Hoa đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (105), ông Thái Lĩnh bắt đầu lấy cỏ cây dó và vải rách, lưới rách đem chế ra giấy. Đã có giấy, ông Vương Dũ liền chế ra vàng bạc, quần áo v.v... đều bằng đồ giấy để cúng rồi đốt đi để thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang ma, tế lễ. Sách Thông Giám cương mục chép: "Vì vua Huyền Tôn mê thuật quỷ thần mới dùng ông Vương Dũ làm quan Thái thường bác sỹ để coi việc chế vàng mã dùng trong khi nhà vua có tế lễ. Chúng ta có thể liệt Vương Dũ vào hàng thủy tổ nghề vàng mã được". Trong Phật giáo, đức Phật Thích Ca không hề dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên. Thế thì tại sao ngày rằm tháng Bảy là ngày lễ trọng thể của Phật giáo, mà một số tín đồ nhà Phật đốt rất nhiều vàng mã để kính biếu gia tiên? Nguyên nhân đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy là thế này: Vào thời vua Đạt Tôn nhà Đường (762) bên Trung Hoa, nhằm lúc Phật giáo cực thịnh, một vị sư tên là Đạo Tăng muốn cho dân chúng theo Phật giáo, bèn lợi dụng tục đốt vàng mã của người dân, vào tâu với nhà vua rằng: rằm tháng Bảy là ngày của Diêm Vương ở âm phủ xét tội phúc thăng trầm, nhà vua nên thông sức cho thiên hạ, trong việc lễ cúng gia tiên vào ngày rằm tháng bảy nên đốt nhiều vàng mã để cúng biếu các vong nhân dùng. Vua Đạt Tôn đương muốn được lòng dân nên rất hợp ý với lời tâu của Đạo Tăng, liền hạ chiếu cho thiên hạ. Thế là nhân dân Trung Hoa lại được dịp thi nhau đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy để kính biếu gia tiên. Nhưng chẳng bao lâu lại bị giới Tăng sĩ Phật giáo công kích bài trừ, vì cho rằng việc đốt vàng mã vào ngày lễ trọng của Phật giáo đã làm cho cái lệ ngày 15/7 không còn có chính nghĩa nữa. Phần lớn dân chúng Trung Hoa hồi đó đã tỉnh ngộ, cùng nhau bỏ tục đốt vàng mã, làm cho các nhà chuyên sinh sống về nghề nghiệp vàng mã gần như bị thất nghiệp, nhất là người Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ, đã bịa đặt chế ra đồ vàng mã. Thất nghiệp, Vương Luân mới bàn cùng với các bạn đồng nghiệp âm mưu phục hưng lại nghề nghiệp hàng mã. Một người giả cách ốm mấy hôm, rồi tin chết được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm liệm vào quan tài, đã có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống. Đương khi xóm làng đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với gia nhân và họ hàng của ông, đem cả hàng ngàn thứ đồ mã trong đó có cả hình nhân thế mệnh ra cúng người chết. Họ bày đàn cúng các quan thiên phủ, địa phủ và nhân phủ. "Chà! Chà! Phép quỷ thần mầu nhiệm quá nhỉ! Thiêng liêng quá nhỉ!" - khi mọi người đương suýt xoa khấn khứa, bỗng trăm nghìn mắt như một, trông thấy hai năm rõ mười, cỗ quan tài rung động lên. Bấy giờ, Vương Luân đã đứng sẵn bên quan tài. Chàng giả cách chết kia cũng lò dò ngồi dậy, giả vờ lù dù, trông trước, trông sau, mới bước từ quan tài ra, với một điệu bộ như người chết đi sống lại, rồi thuật lại chuyện với công chúng rằng: "Các thần thánh trong tam, tứ phủ vừa nhận được hình nhân thế mệnh cho tôi, với tiền bạc và đồ mã, nên mới tha cho ba hồn bảy vía của tôi được phục sinh về nhân thế". Công chúng lúc đó ai cũng tưởng thật, cho rằng hình nhân có thể thế mệnh được và thành thần trong tam, tứ phủ cùng ăn lễ đồ mã, tăng phúc, giảm tội và cho tăng thêm tuổi thọ. Từ đấy các nghề hàng mã lại được phục hưng một cách nhanh chóng vì không những linh hồn các gia tiên dùng vàng mã, mà đến cả thiên, địa, quỷ, thần trong tam, tứ phủ cũng tiêu dùng đồ, thì nhiên là vàng mã phải đắt hàng. Chuyện này còn chép rõ ràng ở sách Trực Ngôn Cảnh Giáo. Như thế, chúng ta nên thẳng thắng nhìn nhận rằng: "Bịa đặt ra tục mê tín, dị đoan, làm hình nhân thế mạng vào lễ tam, tứ phủ để đầu độc mê tín đến ngày nay là bắt đầu từ người Vương Luân. Người Trung Hoa đã bị cái bả mê tín vàng mã do Vương Luân đầu độc đến nay đã được 1847 năm (1052-1952). Dân tộc Việt Nam chúng ta mê tín cũng chẳng kém thế, nhưng vì trước đây, chúng ta bị họ đô hộ hơn 1.000 năm. Phong tục của người họ như thế nào, người mình cũng dập theo đúng khuôn khổ như vậy, bất luận hay, dở, phải, trái, tà, chính. Đó là do cái tính cẩu thả, phụ họa của người mình. Nếu chúng ta đã thừa nhận tinh thần của dân tộc Việt Nam đều nhờ Phật giáo và Nho giáo đào tạo nên, vậy thì xin hỏi giới trí thức Việt Nam: hiện tại có ai tìm thấy Phật giáo và Nho giáo dạy về thuyết đốt vàng mã ở kinh sách nào? Nếu không tìm thấy tục đốt vàng mã do Phật giáo hay Nho giáo truyền dạy, một lần tôi xin thiết tha yêu cầu người Việt Nam ta bỏ tục vàng mã đi, và khuyên mọi người cùng bỏ tục ấy. Chúng ta cùng nhau triệt để bài trừ mê tín đốt vàng mã, quyết nhiên giữa dân tộc Việt Nam này để dành cho chúng ta viên thành một công nghiệp kiến quốc vậy. ( nguồn: hophap.net )
|
|