|
Post by Can Tho on Mar 4, 2011 8:01:05 GMT 9
Lan Khai Vũ Trọng Phụng, Mớ Tài Liệu Cho Văn Học Sử Việt Nam I. GIA THẾ, HÌNH DUNG VÀ TÂM TÍNH VŨ TRỌNG PHỤNG 1 Vũ Trọng Phụng là con một gia đình rất nghèo. Ông nội Phụng chỉ là một viên lý trưởng. Phụ thân Phụng, kém hơn nữa, chỉ là một thường dân, không có lấy một tấc đất cắm dùi ở nơi quê quán, mặc dầu thế gian vẫn rộng lớn vô cùng. Phụng tên sữa là Tý, lọt lòng mẹ mới được bảy tháng đã mồ côi cha. Phụ thân anh cũng đã chết về bệnh ho lao. Và, như vậy, Phụng chẳng những thừa hưởng được của ông cái nghèo thế mà anh còn chịu một di truyền ghê gớm khác là cái bệnh lao, nó đã giết anh giữa thời trai tráng vậy. May cho anh là dù mồ côi cha từ khi trứng nước, anh cũng không đến nỗi bị chết sớm vì đói rét hoặc bị chìm đắm trong nạn thất học, như ngàn vạn đứa trẻ khác cùng cảnh ngộ với anh, mà ta thường thấy nhan nhản trên vỉa hè Hà Nội. Sự may mắn ấy đều nhờ ở cái đức tận tâm, kiên quyết và hy sinh ở mẹ anh, một bà mẹ trong số các bà mẹ càng ngày càng mất dần đi, càng ngày càng chỉ còn là những ghi nhớ xã hội, êm đềm và đáng tiếc! Người đàn bà đáng kính thờ kia đã chịu cảnh đơn chiếc lạnh lùng từ lúc mới hai mươi mốt tuổi, mái tóc đương xanh, làn môi đương thắm và trái tim đương cần phải rung động bởi những say đắm yêu đương. Nhưng thiếu phụ đã nhất định ở vậy, nhất định thắt lưng buộc bụng làm ăn nuôi mẹ già con dại để rồi khi tưởng được nhờ con thì con lại lăn cổ ra chết trước mình! Bậc hiền phu ấy, hiện thời, vẫn còn phải làm lụng luôn tay để nuôi mẹ già chín mươi tuổi và đứa con gái của con bà, giống bố nó cả từ cái chỗ bị mồ côi từ lúc vừa bưng mắt trông ánh sáng! Những người nào hay lui tới thân mật nhà Phụng, hồi anh còn sống, chắc đều đã cảm thấy bà mẹ góa của anh đã yêu thương con một cách mênh mông và dịu dàng biết chừng nào. Chính bà đã ngồi quạt cho Phụng suốt bao đêm mà Phụng trằn trọc trên giường bệnh, mặc dầu Phụng có vợ, và vợ Phụng rất có thể làm cái việc mệt nhọc ấy thay bà. Có được bà mẹ ấy Phụng đã thản nhiên lớn lên rồi đi học, rồi đi làm thư ký, một thư ký vô danh của nhà I.D.E.O. Thầy ký Phụng ác một nỗi chẳng chịu cam tâm cứ làm một thầy ký suốt đời như mọi đồng sự khác. Thầy đã tập viết văn, nói là diễn đạt một cách say sưa những uất ức do cảnh nghèo nó sớm đầu độc trái tim thầy thì đúng hơn, và đã bị chủ đuổi. Thế là đồng tuyệt với đời cạo giấy. Đồng thời, trên các tờ Ngọ Báo, Nhật Tân và trên nhiều báo khác, người ta bắt đầu đọc cái bài truyện ngắn, phóng sự, truyện dài do anh viết. Cái tên Vũ Trọng Phụng lừng lẫy ra đời trong chớp mắt. Trên đường văn, Phụng chắc sẽ còn đi xa hơn nữa, xa đến không ai ngờ trước được nếu anh đã không bất thình lình ngã gục bởi sự tàn phá của vi trùng Koch. Nhà phóng sự kiêm tiểu thuyết ấy là một thanh niên khổ người cao độ thước sáu, mảnh khảnh, vai vuông và lưng hơi gù. Cái ngày tôi bắt đầu quen anh (1934), Phụng hãy còn mặc ta: áo sa trơn, giày Gia Định, khăn xếp bằng lượt mà chữ nhân sát xuống tận gần cặp lông mày xám. Bộ quốc phục vô duyên với anh lắm. Nó đã khiến một vài người tinh nghịch trong đám bạn quen gọi đùa anh là bác "cung văn". Câu đùa bỡn ấy tất nhiên không được Phụng thưởng thức tí nào. Và, để tránh cái bực mình, Phụng đã nhất định dịch phục. Nhưng mà Phụng đã chẳng sung sướng hơn được chút nào trong bộ quần áo Tây. Người ta trông anh vẫn cọc cạch, lọng khọng, vẫn "thế nào ấy"! Thêm vào cách ăn mặc nó tố cáo sự thiếu thói quen trang điểm của con nhà giàu và cái dáng cách lúc nào cũng thẫn thờ, cũng mệt nhọc ấy, một bộ mặt chữ nhật mà những nét đặc biệt chính là cái mầu da lúc nào cũng mai mái với đôi quai hàm vuông thước thợ. Mái tóc rễ tre lệch của anh thường buông tua tủa xuống cái trán phẳng không cao. Mắt anh nông mà sắc; mũi trái mật; miệng rộng, môi mỏng và hai góc mép thường kéo dài ra hai bên, làm cho đôi má lõm nhăn lại. Cái bệnh ho của anh ngấm ngầm đã lâu nên tôi vẫn giữ trong trí nhớ một cử động nó khiến ta có thể nhận ngay được anh, dù anh lẫn trong một đám đông: một bàn tay gầy úp lấy mỏ ác, những khi anh phải ho đã rồi mới nói được. Ồ, những câu nói của Vũ Trọng Phụng! Nếu ta đương háo hức về một dự định nào, nếu ta đương say sưa về một việc tốt đẹp nào và ta muốn cái háo hức, cái say sưa ấy, ta hãy lánh xa Vũ Trọng Phụng. Là vì, Phụng chỉ cần độ dăm phút thôi là có thể giội nước đá lên lưng ta được, làm cho người ta nguội hết nhiệt thành, mất hết tư tưởng, trở nên hoài nghi, trơ trụi và chán ngán. Cái khí giới của anh chỉ là một lời nói, một cái nhếch mép, thoạt nghe và trông tưởng cũng thường vậy mà, sự thực, nó sắc hơn dao, nhọn hơn kim. Tôi còn nhớ một lần ngồi uống rượu với Phụng, tôi, nhân một lúc cần tâm sự, đã nói: "Không hiểu sao cứ hễ lâu lâu mà không nhận được bức thư nào của bạn hữu, tôi lại cảm tưởng như cả loài người đã quên tôi rồi ấy!". "Còn tôi ấy à? - Phụng nhìn tôi bằng một cái nhìn lạnh lẽo - Tôi sợ nhất những bức thư của bạn, bất cứ là bạn xa hay bạn gần cũng vậy. Là vì, nhỡ bố nào tự nhiên lại hỏi vay tiền thì thực là tai hại!". Và, sau một hớp rượu, anh đã kết luận: "Trong chỗ chúng bạn, tôi ghét nhất sự vay mượn. Ở đâu mà đồng tiền đã lọt đến, sự tốt đẹp sẽ không còn!". Cũng như tất cả mọi tâm hồn nghệ sĩ, Phụng cho ở đời chỉ có tình bạn là đáng cho ta mất nhiều thời giờ hơn cả. Nhưng, sự ưa bạn của anh có một chỗ khả dĩ gọi là quá quắt: sự tỉ mỉ trong cách nhận vật và trả lại. Anh không bao giờ chịu để ai mời đi ăn một bữa, đi hát một chầu. Trước khi anh đã chắc chắn có tiền để sẽ mời người ấy ăn hoặc hát. Nhà văn biếu anh một cuốn sách; anh tặng lại một cuốn khác liền, và điều đáng chú ý đặc biệt là anh cũng dùng đúng những chữ đề tặng trên đầu quyển sách mà người ta đã tặng anh! Chẳng những trong sự xử thế tiếp vật, Phụng tỏ ra là một người phải chăng hơn ai hết mà thôi, ngay trong sự ăn, sự mặc của anh cũng thế. Chưa ai, trong số các bạn thân của anh, đã được ngạc nhiên thấy Phụng dám phá cách ăn một món lạ bao giờ. Đúng như Nguyễn Tuân đã nói: "Quanh đi quẩn lại chỉ biết phở xào rồi lại áp chảo, đậu rán, bún chả, và tái bò chấm tương gừng". Trong cái sống phải chăng của Phụng, vẫn theo lời anh Nguyên Tuân, có một cái phải chăng này đáng cảm động hơn hết: ấy là những thứ văn phòng tứ bảo. Mực anh dùng viết là một thứ mực tím ít khi tươi màu, phần nhiều là loãng, là nhạt, là chết. Giấy anh dùng là thứ giấy sáu xu một thếp đã kẻ sẵn. Ấy là thứ giấy vô danh với cái khuôn khổ của tất cả mọi người. Ngòi bút Phụng thích dùng nhất là cái thứ ngòi incomparable, xu ba ngòi. Giấy, bút, mực ấy là giấy, bút, mực của học trò. Thật là bình dị quá. Thế mà lời văn dùng bút ấy mà ký thác lên giấy lại chẳng xoàng xĩnh chút nào... Phụng còn phải chăng đến cả những cái thèm muốn về tương lai. "Tao chỉ mong sao mỗi khi chúng mày đàn đúm kéo nhau về chơi với tao, thì có được mãi mãi một mâm cơm cho tươm tất... Đời Phụng chưa có một cái mộng nào để mà ôm, chưa mơ màng đến một cái gì để thỉnh thoảng lìa khỏi cái tẹp nhẹp mè nheo ở đời này. Trong đời Phụng, Phụng cử động theo suy nghĩ nhiều quá. Chưa có một giây phút nào hắn dám điên cuồng lấy một tị". Bởi phải chăng và cẩn thận như thế nên Phụng rất ghét sự bừa bãi - nó là cái tật chung của nghệ sĩ. Một lần nữa Lưu Trọng Lư đã gắt ầm lên, cho Phụng là "một viên chức trong làng văn". Câu này suýt làm cho Phụng và Lư đoạn tuyệt, nếu tôi không khéo hòa giải. Phụng có những thù ghét thoạt nghe ai cũng phải sửng sốt. Một hôm, anh đột ngột bảo tôi: "Trong đời tao, tao oán ghét nhất cái gì, mày có biết không?... Cái tủ chè!". Tôi tròn mắt và bật phì cười trong khi anh thản nhiên tiếp: "Thực thế, cái dân An Nam này đã khổ sở và sẽ còn khổ sở về cái tủ chè ấy không biết đến bao giờ. Mày thử xem, trong mỗi nhà An Nam, cái chỗ tốt đẹp nhất đáng lẽ phải để tủ sách hoặc treo những tác phẩm của họa sĩ hoặc để máy truyền thanh, người mình đã chỉ dùng để kê tủ chè. Người mình có can đảm suốt đời chịu dốt nát như các súc vật, và nhịn ăn, nhịn mặc, nhưng không có gan không sắm tủ chè. Anh em ruột thịt lìa nhau, bạn bè khinh nhau cũng chỉ vì cái tủ chè. Đến nỗi chạy loạn chúng nó cũng nghĩ đến cái tủ chè trước đã rồi mới nghĩ đến sinh mệnh! Thực là một nghiệp chướng cho một thứ dân chỉ thiết "làm culi cũng được miễn là có chút hư danh thì thôi!". Về tư tưởng, Phụng tỏ ra có thể táo bạo chừng nào, thì về cảm tình, Phụng, trái lại, bảo thủ chừng ấy. Ngay giữa lúc tranh luận về triết lý chẳng hạn, Phụng cũng chỉ coi các huấn điều luân lý Khổng Tử là vĩnh viễn bất khả xâm phạm như thường. Phụng giữ chữ tín như một nhà nho chính tông. Nhất là về tiền nong, Phụng càng đúng câu: Tài tượng phân minh hơn ai hết. Người ta khinh phục anh ở chỗ này. Tất cả đều coi anh chỉ là một nhân cách bình thường, một "người của nguyên tắc". Hôm ba ngày anh, Nguyễn Tuân và tôi được cử xuống soạn sách vở, các kỷ vật, nhất là đọc tờ chúc thư mà anh đã viết từ khi biết mình không thể sao thoát khỏi tay thần Chết được nữa. Chúng tôi đương lúi húi làm cái việc buồn rầu nọ, bỗng Tuân mở một quyển sổ rồi nói: "Thế này thì quá lắm!". Tôi hỏi: "Gì vậy?". Tuân đáp: "Nghe nhé. Ngày sinh nhật của con tôi bác X mừng một cái vòng, ông A một cái áo, anh C một chai rượu vang..." Tuân nhìn tôi, khẽ nhún vai: "Đã ghê chưa? Ông ấy biên thế để sẽ thực hành cái lối ăn miếng trả miếng đấy!". Phụng chính là người "ăn miếng trả miếng", người "đã ơn ai một chút không quên, thù ai một chút để bên dạ này". Trong cái thế giới nhà văn, tôi chưa từng thấy một người nào mà bạn và thù lại được phân chia xếp đặt trong đáy lòng bằng một cách rõ rệt thứ tự như Phụng. II. CÁC NGUYÊN TỐ ĐÃ TẠO NÊN VĂN SĨ VŨ TRỌNG PHỤNG Nếu ta nhìn đến đời tư của một người con hiếu, của một người dân tốt, của cả các bậc thánh nhân, anh hùng, danh sĩ mà tên tuổi còn chói lọi trong lịch sử nhân loại, ta đều thấy phần nhiều các người ấy đã có những bà mẹ rất hiền cả. Vũ Trọng Phụng, như tôi đã nói trên kia, cũng đã có một bà mẹ rất hiền. Chính bà đã hy sinh cả một thời xuân để nuôi nấng, để giữ gìn, để cho ta nhà văn sĩ có tài ấy. Chính bà đã khiến Phụng, một người hoài nghi đến quắt cả tấm lòng vẫn cứ có thể tin được ở sự cao quý và đẹp đẽ của con người. Chính lòng tin này nó giữ lại cho hồn Phụng cái hồn nhiên, cái ngây thơ mà những người chưa từng sống trong sự thân mật với Phụng chẳng thể nào ngờ là Phụng có. Đối với một người trơ trọi, nghèo nàn như Phụng, lòng tin nói trên đây có thể là một bảo vật vô giá. Nó là cái tổ ấm cho hồn Phụng, mỗi khi hồn anh cần đến sự nghỉ ngơi êm ái. Nó là cái cửa bể kín đáo để cho con tàu Vũ Trọng Phụng, sau khi đã trải qua những cơn bão táp của đời, còn có được một chỗ mà ẩn núp. Và, nếu Phụng cố giữ gìn cho nó không thể mất đi được, ấy cũng là một sự rất tự nhiên. Ở thiên trên, tôi đã nói về các đức tính, như sự thủ tín, sự tôn sùng các nguyên tắc luân lý cũ, của Phụng. Tất cả những cái ấy đều do cái khuynh hướng ngấm ngầm muốn giữ gìn những tình cảm đặc biệt Á Đông mà cội nguồn tức là tình mẫu tử rất êm đềm mà Phụng đã được hưởng. Do đây ta có thể hiểu được cái lẽ tại sao, trong các văn phẩm táo bạo của Phụng, vẫn phảng phất cái vị bảo thủ mà đáng lý ra, không ai dám đợi chờ ở nhà văn sĩ ấy. Sự bảo thủ tôi vừa nói có thể sẽ đưa Vũ Trọng Phụng đến cái đời một người con hiếu, một người chồng mà vợ rất kính nể, một ông hàng xóm không mất lòng ai bao giờ, một người dân lương thiện, nghĩa là một phần tử vô danh của cái đại khối gia đình, quốc gia. Và, như thế, văn học Việt Nam sẽ không được cái sung sướng ghi tên anh, cái thế hệ văn sĩ 1929-1930, sẽ không có được cái danh dự pha chút ghen tuông được kể anh vào bọn. Nhưng may mắn sao, còn hai nguyên tố khác mà sự kết tinh đã thành ra cái tài năng kỳ dị của Phụng, cái tài năng đã mang đến cho ta những áng văn bất hủ như: Quý phái 2, Người tù được tha. Hai nguyên tố nó ngăn ngừa cái ảnh hưởng vừa hay lại vừa dở của tình mẹ ở Phụng ấy là sự phẫn uất gây nên bởi cảnh ngộ và cái bệnh lao di truyền. * Thực vậy, Vũ Trọng Phụng suốt đời chỉ là một người bị phẫn uất. Đã sinh trưởng ở một gia đình nghèo khổ, lại mồ côi cha từ khi mình còn trứng nước. Vũ Trọng Phụng chưa từng được biết thế nào là hạnh phúc gia đình, thế nào là sự đầy đủ no ấm, trừ cái tình yêu thương não nùng của một bà mẹ lúc nào cũng bận bịu, lúc nào cũng lo âu vất vả. Cuộc đời u ám này kéo dài cho đến khi Phụng đến tuổi đi học, anh mới được bước chân tới một thế giới khác, trong một bầu không khí khác có thể đầy ánh sáng và những tiếng vui đùa: ấy là trường học. Khổ thân cho Phụng, ở đây, anh lại chỉ thấy rõ rệt mình trơ trọi, và lòng anh lại chỉ hứng nhận thêm không biết bao nhiêu đau đớn mà thôi. Ta hãy tưởng tượng một cậu học trò nhỏ, một cậu học trò mồ côi bố, ngày hai buổi đến trường với một cái áo vải tây thâm, một cái mũ lá gồi, một cái quần vải ta không là không nếp, chân không bao giờ được xỏ đôi giày, dù chỉ làm bằng da trâu lộn, và hai bàn tay khư khư ôm một quyển vở đóng bằng giấy hạng xấu rẻ tiền nhất, kèm một lọ mực và một quản bút bằng gỗ tạp không sơn. Cậu học trò nhỏ ấy vừa bước vào cổng trường đã lấm lét, đã sợ sệt, cố nép vào một chỗ, cố thu nhỏ mình lại, cố đừng làm ai chú ý đến mình. Nhưng, bạn học có bao giờ để cậu được yên thân! Những bạn học con nhà giàu, lại đương vào cái tuổi chưa biết tình thương là gì hết, chúng xúm lại mà chế giễu, mà bắt nạt, mà bợp mũ, vứt sách vở của cậu. Nếu cậu khóc chúng sẽ cười ầm lên và trêu ghẹo nữa. Nếu cậu kháng cự chúng sẽ lấy số đông mà đè lên cậu. Đứa trẻ mồ côi chẳng còn biết làm cách nào để thoát khỏi sự độc ác của lũ bạn học tinh quái kia nữa. Mà nếu chúng nó có buông tha cho cậu để vui đùa với nhau hoặc để ăn những thức quà bánh ngon lành đến làm cho cậu nhỏ nước miếng thì cậu học trò nghèo của chúng ta lại càng thêm tủi cực không biết chừng nào. Sự cô độc, sự lo sợ, sự hiếp đáp của kẻ khác, sự thèm thuồng những cái mình chẳng bao giờ có dần dần làm cho trò Tý càng ngày càng trở nên xa mọi người và lòng cậu ngày càng rắn lại vì thù ghét. Qua trường tiểu học, và trong lúc những con nhà khác được cha mẹ cho học lên bậc trên và trên nữa, trong lúc các chàng thanh niên cùng tuổi tha hồ được mơ tưởng đến những tương lai rực rỡ, những cuộc yêu đương đầy thơ mộng, Phụng đã sớm phải đem tuổi trẻ của mình giam vào trong bốn bức tường buồng giấy các nhà buôn. Ở đấy người ta cam lòng bán cả nhân cách, cả tự do, cả mộng đẹp nữa để có tiền mua cơm áo, giữ cho thân mình khỏi chết vì đói rét. Thế rồi, trong lúc mưu sinh, trong lúc đụng chạm với đồng loại, trong lúc nhìn thấy hàng ngày tất cả những cái gì là bi đát, là trào phúng, là đê tiện, Phụng bắt buộc phải nghĩ đến mình. Phụng thấy lòng mình sạch sẽ ngây thơ bao nhiêu thì thấy ở quanh mình toàn những cái giả dối, bẩn thỉu bấy nhiêu. Chỗ nào cũng cá nhớn nuốt cá bé, trên lương tâm nào cũng giấu kín một đồng tiền! Tất nhiên, Phụng nảy ra cái lòng tự kiêu và khinh đời. Anh bắt đầu chế giễu, công kích, rồi mạt sát. Chế giễu bao nhiêu, mạt sát bao nhiêu, Phụng càng bảo thủ bấy nhiêu, bảo thủ một cách máy móc, do sức phản động tự nhiên của một người mang nặng trong tâm hồn những ảnh hưởng của nền luân lý Khổng - Mạnh, và do sự không hiểu biết đến tận cội rễ của các hiện tượng xã hội. Cũng vì không hiểu biết, Phụng đã công kích, thù hằn người hơn là công kích, thù hằn cái chế độ đã sản ra người. Sự viết đối với anh là một sự trả thù hơn là cái hy vọng kiến thiết. Tôi không đồng ý với nhà phê bình Trương Tửu, khi ông này viết: "Đời ông (trỏ Vũ Trọng Phụng) trí não ông, ý nguyện ông, ngòi bút ông nhập làm một sức mạnh để đứng dậy cứu vớt" (Tao Đàn, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, trang sáu, dòng cuối trang). Một chứng cớ khác: nếu ai thân với Phụng, người ấy đã từng được nghe anh nói câu này: "Tức quá, đời chúng nó xúm lại chửi tao là thằng chỉ biết viết văn khiêu dâm; tao sẽ viết một quyển nào rõ thật lãng mạn, thơ mộng cho chúng nó biết tay mới được!". Cho chúng nó biết tay mới được, ấy là cái nguyên cái động lực duy nhất của sự sáng tác của Phụng. Người mắc bệnh lao là người hoặc đã tuyệt vọng, còn bao vốn liếng dồn vào một nước bạc cuối cùng: ấy là hạng bệnh nhân lăn mình vào khoái lạc, hạng băn khoăn, đa dục; hoặc vẫn còn tin ở sự rủi may thình lình: ấy là hạng bệnh nhân câm lặng, u uất, hờ hững với ngoại vật. Dù thuộc hạng nào, kẻ mắc bệnh cũng ngày càng xa cách và không hiểu cái phần nhân loại lành mạnh nữa. Và, nếu khỏi được, bệnh nhân cũng thành ra cái khuynh hướng trở nên một kẻ không thích dụng, một kẻ vô xã hội, một kẻ khinh khoảnh, tự cao, tự đại. Vũ Trọng Phụng đã ra đời với cái nọc bệnh lao ngấm ngầm trong máu và đã từ bỏ cõi đời do bệnh lao. Anh đã chỉ là một kẻ ốm. Cử chỉ của anh, sự hiểu biết, sự cảm xúc, sự suy nghĩ, tính tình của anh đều là của một kẻ ốm. Anh đã băn khoăn, đã lặng lẽ, đã lạnh nhạt. Anh lại đã khinh khoảnh, tự cao, tự đại. Anh đã có thể tiếp cùng một lúc hai ba người bằng những câu nói, những thái độ khác hẳn nhau nó chỉ rõ cái địa vị của từng người trong lòng anh. Anh thường bảo tôi: "Tao ghét mày nhất về cái thói dễ dãi. Nhà mày, bất cứ đứa nào đến cũng được! Tao ấy à? Tao đã tiếp đứa nào ở nhà tao thì đứa ấy có thể yên trí rằng nó đã là bạn tao rồi". Một bệnh nhân mà tính tình đã như thế, ta lại thêm sự phẫn uất và cái khuynh hướng bảo thủ vào nữa thì tức là ta đã có một nhân vật hoàn toàn khó chịu cho những kẻ bị Phụng ghét ghen hoặc khinh bỉ. Nhất là khi Phụng lại có cái tài đặc biệt để chỉ nhận xét những cái xấu của con người, dù là những cái xấu rất tỉ mỉ. Bởi thế, khi đọc các văn phẩm của Vũ Trọng Phụng ta thấy lúc nhúc một nhân loại đen tối, ngu xuẩn, ích kỷ, tàn nhẫn và dâm dật một cách vô cùng lố bịch. Ồ, dâm dật! Người ta đã kêu ầm lên rằng Vũ Trọng Phụng là một nhà văn khiêu dâm. Người ta đã công kích, đã tẩy chay và đã đọc Vũ Trọng Phụng nhiều hơn đọc các nhà văn khác. Sự thực, các vai truyện do anh tạo ra đều chín phần mười là những kẻ đa dâm có khi rất quái ác.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 4, 2011 8:01:44 GMT 9
Tại sao, ở một nhà văn như Vũ Trọng Phụng, một nhà văn rõ rệt bảo thủ, lại có sự mâu thuẫn ấy?
Tại bệnh. Phải, tại cái bệnh lao nó đã ngấm ngầm nằm trong tạng phủ anh, cũng như các thói tật khác vừa nói ở trên.
Vũ Trọng Phụng đã mang theo ra đời cái bệnh ho lao, tức là anh đã thuộc vào cái hạng đa dục vì bệnh.
Nhưng cái khuynh hướng của anh chẳng được thỏa mãn do các lẽ sau này:
a. Luân lý.
b. Thể chất.
c. Sự nghèo tiền.
Muốn giữ cho hôn nhân và gia đình cái vẻ thiêng liêng của xã hội phải đè nén sự ham thích của trai gái đến tuổi dậy thì. Bằng cách nào? Bằng cách dùng luân lý, dùng tôn giáo và pháp luật. Người ta đã dạy trẻ rằng sự nam nữ là một cái gì ghê tởm, xấu xa; người ta đã nêu lên cái khẩu hiệu: "Vạn tội, dâm đứng đầu!". Và, như thế, con trai, con gái đến tuổi dậy thì mà chưa qua hôn lễ đều phải gắng sức đè nén cái khuynh hướng tự nhiên của họ.
Sự đè nén, sự nín nhịn ấy thoạt đầu cũng cho được một cái lợi là làm dịu bớt những thôi thúc của xác thịt, nhưng nó lại thường đẻ ra những nguy hiểm khác: sự chống lại hoàn cảnh, sự bại liệt và nhiều bệnh về tinh thần, chẳng hạn cái khuynh hướng phẫn uất, oán hờn và phá hoại. Ở Phụng, cái khuynh hướng này càng gia tăng sự phẫn uất sẵn có, do cảnh ngộ và do thể chất nữa.
Đã mang bệnh ngay từ khi lọt lòng mẹ, lại chẳng được đủ các chất bổ trong khi cơ thể cần được phát triển tận độ, Vũ Trọng Phụng đã thành ra một thanh niên luôn luôn yếu ớt, gày còm và xanh xao. Anh không có cả cái thanh tú của một thư sinh kiểu cũ, anh lại sống vào giữa thời đại mà các tay vô địch quần vợt, vô địch đấu quyền và xe đạp được công chúng hoan hô, tôn sùng.
Trong tình trạng này, tất nhiên Vũ Trọng Phụng là một kẻ bị loại, bị hắt hủi, và chẳng thể nào có được những mộng yêu đương êm ái. Nếu anh giàu tiền, anh có thể dùng sức mạnh của đồng tiền mà chữa lại sự bất công ấy. Thực vậy, ở cái thời mà bất cứ vật nào, dù là lương tâm, là ái tình nữa, cũng đều có thể mua bằng tiền được, Phụng chẳng vẫn thấy ông già sáu bảy chục tuổi bỏ tiền ra cưới những cô hầu non mười lăm mười tám đấy ư? Hoặc là những đứa ngu ngốc, những thằng mà tất cả giá trị chỉ là tủ sắt của cha mẹ chúng, những thằng thô bỉ như lợn, gian ác, đểu giả như chó, nhưng, chỉ vì lắm tiền vẫn có thể chiếm được những giai nhân tuyệt sắc, những con người ngọc ngà mà một nụ cười, một đuôi mắt có thể tạo nên một thi sĩ phi thường. Khốn nỗi, Phụng lại rất nghèo. Và một khi không có tiền tức là không có tất cả, ngay đến cái tình của một gái điếm hạng bét cũng vậy.
Thế là, như trên đã nói, cái khuynh hướng của con người đa dục vì bệnh ấy đã bị cấm ngăn bởi luân lý, bởi thể chất, bởi sự thiếu đồng tiền. Ở Phụng, đã có tất cả một sự đè nén nguy hiểm. Và, sự đè nén kéo dài mãi mãi ấy đã khiến cho bản năng không thể chịu được nữa. Nó phải tìm một đường tiêu thoát. Con đường ấy đã khác hẳn những con đường quen thuộc khác của trường hợp này. Nó đã là văn chương. Chính thế, viết văn để tả những cảnh sôi máu, đối với Vũ Trọng Phụng tức là một cách hành dâm vậy. Anh đã tìm thấy sự thoả mãn quái gở trong khi anh tưởng mình làm việc tố cáo rất cần cho thuần phong mĩ tục.
Tôi nói "trong khi anh tưởng", vì Vũ Trọng Phụng là một nhà văn ít có ý thức về mình nhất. Thực thế, Vũ Trọng Phụng viết, chỉ để thỏa sự phẫn uất đầy ứ trong lòng, và anh đã là người trước nhất lấy làm ngạc nhiên khi thấy tên tuổi mình được người ngoài ca tụng. Anh không bao giờ tự kiểm một cách rõ rệt về tài năng, về giá trị, nhất là cái địa vị của anh trong văn đàn hiện đại. Chính người khác đã làm anh nhận chân được các cái ấy. Và, nếu hồi anh gần mất, anh đã thiết tha đến chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ, ấy cũng vì một vài nhà phê bình đã gán cho anh những dụng ý mà anh không có.
Những điều trên đây, tôi không sợ ai cải chính, bởi những người đã thân mật với Vũ Trọng Phụng đều đã thấy như tôi cả. Anh vẫn thường hỏi chúng bạn, bằng một giọng rất ngây thơ, khi anh được ca tụng về một quyển hoặc một đoạn văn nào: "Có thực hay không? Chúng mày thành thực đấy chứ?". Và khi đã chắc là mọi người nói thực, anh liền tỏ ra sung sướng một cách rất hồn nhiên.
Chẳng những về tài năng, về giá trị, về địa vị của anh, ngay đến bản thân anh, Vũ Trọng Phụng cũng thường tỏ ra không hiểu biết một cách đích đáng nữa. Thực là một sự lạ lùng đối với một nhà văn đã được tiếng là thấu rõ con người và sự đời. Tôi còn nhớ một lần, Vũ Trọng Phụng đã hỏi tôi một cách thân mật: "Mày trông tướng tao có gì là giảo quyệt và độc ác không?" (Nên nhớ là Phụng tin tướng số lắm và lấy tử vi rất thạo). Tôi cười mà rằng: "Nguyên cái sự anh băn khoăn và hỏi tôi này đã đủ tỏ ra rằng anh không giảo quyệt, không gian ác chút nào hết!". "Thế sao, tất cả chúng nó cùng bảo tao thế?". Tôi đã cười rất giòn trước vẻ ngơ ngác của Phụng, và tôi đã thân yêu anh từ đấy.
Trong các văn sĩ hiện đại, nếu tôi hình dung Lê Văn Trương bằng một pho tượng khổng lồ đất sét, đầu lúc nào cũng muốn đụng tới mây xanh, thì tôi sẽ nói rằng Vũ Trọng Phụng chỉ là một người, với tất cả cái hay cái dở của thằng người, có khác chỉ khác ở chỗ hai tay và hai chân lúc nào cũng dính be bét những bùn tanh của địa ngục.
III. NGƯỜI TA HIỂU VŨ TRỌNG PHỤNG NHƯ THẾ NÀO?
Để kết luận một truyện ngắn rất hay của ông, văn hào Nga Dostoievski đã viết một câu đại ý như thế này: "Thế gian là gì? Là gồm những người cô độc; và quanh mình họ, sự im lặng mênh mông, thế thôi...". Thực vậy, con người, càng sống và càng từng trải, càng thấy mình hoàn toàn cô độc. Và, do đấy, tri kỷ ở đời mới hiếm và quý không biết chừng nào.
Kể các nhà văn của các thế hệ 1929-1940, Vũ Trọng Phụng là người ít được hiểu hơn ai hết. Độc giả của anh đều hình dung anh như một người đã có tuổi, lõi đời, nhanh nhẹn, sành thạo, láu lỉnh, cơ tâm, nham hiểm, một người mà họ tưởng chừng như khi đến gần thì không thể không lo sợ, không thể không ngờ vực, không thể không đề phòng.
"... Nhưng sự thực có phải như thế không? Tôi (đây là lời của Lưu Trọng Lư) xin hỏi những bạn thân sơ đã ăn một bữa cơm, ngủ một đêm, ngồi một tiệc rượu với tác giả Cạm bẫy người, Giông tố. Tôi chắc ai nấy sẽ trả lời rằng: Người vừa từ giã chúng ta tuy là một nhà văn tài lỗi lạc, mà than ôi! Chỉ là một người bình dị, một người cha đứng đắn, một người chồng đứng đắn hơn, một người con rất hiếu, người của khuôn phép, của nề nếp. Cái đồng hồ luôn luôn ở trong túi áo, và những kim chỉ phút không bao giờ sai lạc với đồng hồ của những người hàng phố, của tất cả những người khác trong xã hội. Sự cẩn thận, sự chu đáo của Phụng đã thành tục ngữ".
Tại sao xảy ra sự hiểu nhầm ấy?
Có phải, như Nguyễn Tuân đã nói trong Tao Đàn số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, trang 47, tại... "cái lỗi của Vũ Trọng Phụng là đã đem những cái thối mọt, cặn bã nhân tâm vào trong tác phẩm của mình đến đầy rẫy".
Sự hiểu nhầm nói trên nếu đáng ta lấy làm lạ thì sự hiểu nhầm của những người tự nhận là phê bình còn lạ đến đâu!
Nghe bọn này, ta phải tưởng tượng Vũ Trọng Phụng là một nhà văn có mục đích phá hoại và kiến thiết rõ ràng. Một nghìn lần không! Vũ Trọng Phụng, như tôi đã giải rõ, chỉ là một kẻ phẫn uất, một người mà tâm hồn đã bị đầu độc bởi ý định báo thù, một tâm tính gan góc mà thôi. Và, như vậy, anh đã rất thành thực với anh, trước khi thành thực với độc giả. Tôi còn nhớ hôm người ta đưa đám ma Phan Thanh, Phụng cũng có mặt trong đám đông, nhưng lấy tư cách kẻ bàng quan hơn là dự cuộc. Và, khi thợ ảnh sắp chụp một đám người đi đưa, Vũ Trọng Phụng, đứng ngoài, chăm chú nhìn cái vẻ trịnh trọng của kẻ dự cuộc và anh đã nói một câu chua chát: "À, bây giờ các ngài có nên cười một tý cho nó tươi không?". Ấy đấy, con người xã hội của Vũ Trọng Phụng đã xuất hiện tất cả trong một câu nói ấy. Và, chúng ta, chúng ta hãy nên chỉ nhận lấy cái gì mà Vũ Trọng Phụng có thể cho được chúng ta. Như thế chẳng đã đủ lắm sao?
Lẽ thứ nhất bởi con người không thể là một cái gì khác hơn nó được. Con người là sản vật của gia đình, của hoàn cảnh, của giáo dục, của tập quán, của tín ngưỡng, của bệnh tật, và các điều kiện vật chất trong đó nó sống. Muốn cho nó khác đi tức là ép nó phải giả dối, phải đeo nạ, phải đóng kịch với chính nó và với tất cả.
Lẽ thứ hai bởi các văn phẩm do Vũ Trọng Phụng viết ra dù chẳng cho ta chút ít hy vọng hoặc chút ít phương pháp kiến thức nào, song tất cả đã khiến ta thấy rõ cái hiện trạng xã hội và đã khiến ta suy nghĩ về các hiện trạng ấy. Nói các điều kiện đã tạo nên anh, Vũ Trọng Phụng cho ta được thế đó đã nhiều lắm, có thể nói là đã cho ta tất cả vậy. Ta còn muốn gì hơn! Ta hãy biết ơn nhà văn ấy. Ta hãy khen ngợi Vũ Trọng Phụng về chỗ anh đã có can đảm là anh, trong khi phần đông các nhà văn khác đã chỉ dám đua đòi, phỏng chép, nghĩa là không thành thực.
Quả vậy, trong làng văn Việt Nam hiện đại, ít kẻ đã dám là mình như Vũ Trọng Phụng! Nếu họ không đua đòi, không phỏng chép thì họ cũng đã chỉ tỏ ra rằng họ là những cái máy lặp lại những ý tưởng, những cảm tình xảo đến chết người. Những ai lưu tâm đến quốc văn trong vòng mười năm nay chắc đều nhận thấy rằng đa số các thi sĩ văn sĩ chỉ nhai lại cổ nhân, chẳng khác con trâu nhai lại cỏ. Có gì lạ trong các "văn phẩm" mà người ta in bán nhan nhản các phố phường? Toàn một thứ văn chương điêu trá, mục đích ca tụng những cái gì phù phiếm. Văn nhân thi sĩ của ta hầu hết đã nhận sai cái nhiệm vụ của mình. Họ đã cam tâm làm những kẻ mua vui cho một hạng. Họ đã tô son điểm phấn cho những thực trạng xấu xa để tự lừa mình và lừa người. Họ đã chạy theo bọn gái hư để tự hiến làm những "vú em có thắt cravate" của bọn này. Họ đã kêu gào van vỉ ái tình như một lũ ăn mày xin cơm áo. Họ đã bới xấu, đã vu cáo lẫn nhau, nếu không tâng bốc, không liếm giày những kẻ có thể có lợi cho họ. Và còn gì nữa!... Thực là cái thời đại của sự tầm thường, và những ngón gian ngoan nhiều khi làm điên đảo cả dư luận.
Trong khi ấy, Vũ Trọng Phụng đã chỉ là Vũ Trọng Phụng. Anh là một cách hồn nhiên đến nỗi nhiều khi không tự biết nữa! Anh chưa sáng suốt đến bậc có thể trở nên một tay cải tạo xã hội, nhưng anh đã làm đầy đủ cái chức vụ của một nghệ sĩ. Vì sao? Vì nghệ thuật chính là cái biểu thị tối cao của sự bất bình. Mà văn chương của anh đã ngụ một bất bình sôi nổi, một bất bình nhiều khi chua cay, sỗ sàng và độc ác nữa.
Hoặc giả có người cho Vũ Trọng Phụng là hằn học quá!
Tôi không đồng ý về sự chê ấy. Chúng ta, từ trước, đã hững hờ nhiều rồi, đến nỗi cái thái độ của chúng ta có thể bị ngờ là do sự ngu dốt hoặc do cái lập tam a tòng. Chúng ta không có quyền thờ ơ, không có quyền dễ dãi. Chúng ta phải bắt đầu học lấy thói thù ghét những cái gì bất công, vô nhân đạo! Chỉ có trắng hẳn nếu không đen hẳn. Kẻ nào lờ mờ là những kẻ nguy hiểm, phải coi như thù địch.
IV. VÀI CHUYỆN BUỒN CƯỜI HOẶC CẢM ĐỘNG
VỀ VŨ TRỌNG PHỤNG
Một hôm, trong một cuộc nói phiếm, có người chợt hỏi Phụng:
"Giá bây giờ anh trúng số độc đắc mười vạn, anh sẽ làm việc gì trước nhất?".
Phụng đáp không nghĩ ngợi:
"Tôi mà trúng số độc đắc ấy à? Thì cái việc đầu tiên tôi sẽ làm ấy là thuê du côn giã cho Lê Văn Trương một mẻ!".
Buổi trưa ngày rằm tháng tám ấy (cách ít lâu trước hôm Phụng chết) Nguyễn Tuân và tôi đến thăm anh ở số 56, phố Hàng Bạc. Anh đương nằm nghỉ liền vùng dậy: "Quý hóa quá! Chúng mày đến thăm, làm tao như người sống lại. Mấy hôm nay, tao cảm thấy trơ trọi không biết chừng nào!". Tôi đáp: "Chúng tôi cũng muốn đến thăm anh luôn, nhưng, anh còn lạ gì nữa! Ai nấy đều phải tối mắt về sinh kế". Phụng thở dài, tần ngần một lát, đoạn anh gọi vợ pha nước, cắt bánh ngọt mời chúng tôi ăn. Anh săn sóc từng hớp nước, từng miếng bánh của chúng tôi, như bà mẹ hiền săn sóc những đứa con yêu. Anh ngả bàn đèn và tiêm cho chúng tôi hút (Hồi này Phụng đã theo lời thầy thuốc, nghiện hẳn để cố kéo dài sự sống). Anh giữ chúng tôi ở chơi mãi đến chiều. Có một lúc cao hứng, anh ngồi dậy: "Lan Khai thích nghe đờn, tao phải chiều nó mới được!". Anh lấy cây nguyệt đờn luôn vài bản, nghe rất du dương ảo não. Đờn xong, anh hỏi: "Thế nào, gần đờn già dặn thế, chưa thể chết được chứ?". Tuân lắc đầu: "Không việc gì!". Câu ấy tuy là một câu an ủi hão mà nó cũng làm cho Phụng hớn hở một cách cảm động: "Phải không? Tao tin chắc rằng không thể nào tao chết được! Cuộc đời còn đẹp quá, đáng yêu quá. Nhất là thằng Khai từ trước vẫn bị tao hiểu nhầm mà mạt sát. Đến bây giờ tao biết rõ nó, biết yêu nó mà tao với nó lại phải lìa nhau thì thậm là vô lý!". Phụng nhìn tôi, hai mắt long lanh như ướt nước. Cái nhìn ấy hiện vẫn còn trước mắt tôi và chắc không bao giờ tôi quên được.
Minh Phương xuất bản năm 1941, 32 trang.
-------------------------------- 1 Nội dung chính chương này, Lan Khai rút từ bài "Con người Vũ Trọng Phụng" đăng trên báo Tao Đàn Tạp chí, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng tháng 12-1939. 2 Di cảo Vũ Trọng Phụng do Minh Phương sắp xuất bản (chú thích của Lan Khai).
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 23, 2013 19:14:58 GMT 9
Nhà văn “nhìn thấy trước”07/07/2013 Nhà văn Vũ Trọng Phụng - Ảnh: vanvn.net Vũ Trọng Phụng viết phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây năm 1934. Ngót 70 năm sau khi tác phẩm này ra đời, vấn đề mà ông nêu ra vẫn còn mang tính thời sự. Nói như Suzane, một nữ nhân vật trong kỹ nghệ độc đáo này, thì "những người Tây ấy... nuôi đầy tớ sợ nó ăn cắp, thà lấy một người vợ, vừa được sai bảo vừa được... việc khác nữa. Đã không cùng nói một thứ tiếng, người vợ lại chỉ coi ông chồng là cái tủ bạc thì người chồng dễ mỗi lúc đã đem tấm ái tình ra tặng vợ hay sao". Vậy là đã rõ. Đây chỉ là một dạng hợp đồng của kinh tế thị trường. Mà bây giờ ta đang kinh tế thị trường, nên đọc cái phóng sự này vẫn thấy như mới. Thử hỏi, có cái phóng sự nào, có nhà văn viết phóng sự nào mà 70 năm sau đọc vẫn "vào", vẫn mang tính thời sự như phóng sự Vũ Trọng Phụng? Nhà văn không chỉ phản ánh mà còn phải nhìn thấy trước. Tác phẩm và nhân vật của họ không chỉ là tấm gương cố định hay "tấm gương kéo trên đường" mà còn phải là tấm gương có khả năng tái sinh qua thời gian. Dự cảm về bản chất nhân vật, bản chất hiện tượng của nhà văn đã khiến tác phẩm như tự tái sinh trong mắt người đọc nhiều thế hệ, và những vấn nạn mà tác phẩm đặt ra, những tính cách mà nhân vật thể hiện vẫn còn là những vấn nạn của hiện tại, những tính cách có sức cuốn hút trong hiện tại. Vũ Trọng Phụng chỉ sáng tác trong khoảng 10 năm, nhưng hàng loạt nhân vật trong nhiều tác phẩm của ông đã có sức sống tới bây giờ. Sức sống bền lâu Vũ Trọng Phụng chỉ sáng tác trong khoảng 10 năm, nhưng hàng loạt nhân vật trong nhiều tác phẩm của ông đã có sức sống tới bây giờ. Chúng như những gien mạnh, những gien trội, dù cơ thể xã hội có nhiều thay đổi nhưng chúng vẫn tìm đúng được môi trường để "nhân rộng điển hình". Đó là thành công rất lớn của Vũ Trọng Phụng. Nhưng cơ sở nào để nhà văn xây dựng được nhân vật, lại là những nhân vật "sống lâu", mang tính tiên báo? Trước hết, có thể nói Vũ Trọng Phụng là nhà văn có được một hệ thống ngôn ngữ mới mẻ vào loại bậc nhất so với những nhà văn cùng thời ông. Nhân vật của ông, tùy từng kiểu người, đều có cách nói riêng rất tự do, rất "đời", rất "bụi". Và cũng không giống lắm với tác phẩm của một số nhà văn hiện thực bấy giờ, Vũ Trọng Phụng đứng riêng, bởi ông không phải nhà văn lãng mạn đã đành, ông cũng không phải nhà văn phản ánh hiện thực một cách "thật thà". Cái hiện thực trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng bao giờ cũng là cái hiện thực được làm quá lên, được cường điệu theo một ý đồ nghệ thuật riêng. Do nghề làm báo, ông có dịp tiếp xúc với nhiều loại người, và có thể nói, loại người cơ hội, đạo đức giả khiến ông căm phẫn nhất. Ông quyết đưa chúng vào tác phẩm của mình dưới cái dạng đúng như thực của chúng, chứ không phải như cái dạng giả mà chúng trình bày trước cuộc đời. Ấy nhiều khi siêu thực lại thực hơn cả hiện thực, là vì vậy. Nó lột được bản chất của hiện thực, nó tái tạo con người (chủ yếu là phần bên trong) như con người nó thế, và sẽ như thế. Phép ngoa dụ (hyperbole) trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng lại hàm chứa phép ẩn dụ (metaphor), và con đường thăng tiến cực kỳ vô lý của anh Xuân Tóc Đỏ trong Số đỏ chẳng hạn lại được bảo đảm bằng một phép biện chứng cứng rắn (a hard dialectique). Thật không dễ gì vô hiệu hóa được những Xuân Tóc Đỏ trong cuộc đời. Vũ Trọng Phụng đã sờ tới được cái dây sắt, cái xương sống bằng inox của phép biện chứng này. Ông không bi quan, không bị tư tưởng định mệnh chi phối khi sáng tác như có nhà phê bình từng nhận định. Đơn giản là ông đã thấy trước, đã báo trước, và đã chịu đựng trước cái tiếng kèn thuốc lậu "mới tinh và sạch bóng như cái kèn mặt trời" trong thơ Apollinaire, tiếng kèn ấy do những Xuân Tóc Đỏ thổi lên trên những "con phố mà anh đã quên mất tên". Phải sống hằng ngày với những nhân vật như thế, thì họa có robot mới không bi quan theo một nghĩa thông thường. Nhưng là nhà văn thì sự bi quan hay lạc quan trong tác phẩm của họ phải được hiểu một cách khác, cao hơn, rộng hơn, và cũng cụ thể hơn. Vũ Trọng Phụng (1912 -1939) nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Tuy thời gian cầm bút rất ngắn ngủi nhưng ông đã để lại một kho tác phẩm đồ sộ: hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch cùng hàng trăm bài báo... Trong đó có những tác phẩm đáng chú ý như các phóng sự: Cạm bẫy người (1933); Kỹ nghệ lấy Tây (1934); Cơm thầy cơm cô (1936); Lục xì (1937). Tiểu thuyết: Giông tố (1936), khi đăng trên Hà Nội báo có tên Thị Mịch; Vỡ đê (1936); Số đỏ (1936); Làm đĩ (1936); Lấy nhau vì tình (1937)... Thanh Thảo bản thảo viết tay của nhà văn Vũ Trọng Phụng23/10/2012 Ngày 22.10, nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn VN đã chủ trì Lễ tưởng niệm 100 năm sinh nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912-2012) tại Hà Nội. Trước đó, chiều 21.10, Ban Chấp hành Hội Nhà văn VN cũng đã đến thắp hương tại mộ nhà văn Vũ Trọng Phụng ở Nhân Chính, Hà Nội. Trong quãng đời ngắn ngủi 28 năm, Vũ Trọng Phụng đã viết 9 cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn và hàng trăm phóng sự nổi tiếng, được xã hội, báo chí tôn vinh là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Các tác phẩm văn chương và phóng sự của ông đã phản ánh cuộc sống tăm tối, bất hạnh cùng mọi thói hư, tật xấu của đủ các hạng người thời thuộc Pháp trước cách mạng. Bản thảo viết tay của cố nhà văn Vũ Trọng Phụng - Ảnh: Việt Chiến Tại lễ tưởng niệm này, Hội Nhà văn VN và gia đình nhà văn đã công bố những bản thảo tiểu thuyết viết tay của Vũ Trọng Phụng cùng những tác phẩm: Giông tố, Vỡ đê, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Làm đĩ, Cạm bẫy người, Lục sì, Lấy nhau vì tình... được các NXB Minh Đức, Mai Linh, Minh Phương phát hành và phóng sự in trên báo chí cách đây hơn 80 năm như: Tiểu thuyết thứ bảy, Đông Dương tạp chí, Hà Nội báo, Tao đàn, Tiểu thuyết thứ ba...
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 27, 2014 4:49:41 GMT 9
Trí thức văn nghệ sĩ Sài Gòn trước 1975 với Vũ Trọng Phụng
Trần Hữu Tá
Một trong những hoạt động chính của văn học Sài Gòn (nói rộng ra, của văn học trong các thành thị miền Nam) trước 1975 là giới thiệu, đánh giá văn học trước Cách mạng tháng Tám 1945, trong đó giai đoạn 1932 – 1945 (mà các nhà nghiên cứu Sài Gòn qui định là 1932 – 1945) được đặc biệt chú ý. Hiện tượng này là một tất yếu, vì thành tựu và kinh nghiệm sáng tác của giai đoạn văn học phát triển rất phong phú này quả là cần thiết cho bất cứ ai muốn hiểu biết văn học dân tộc, nhất là lúc nền văn học ấy đang vận hành với công suất lớn trên con đường hiện đại hóa.
Vì vậy hầu hết các tác phẩm có tên tuổi của giai đoạn này được tái bản, và không chỉ một lần. Nhiều nhà văn tiêu biểu của giai đoạn này được giới sáng tác và giới nghiên cứu văn học đi sâu tìm hiểu. Nhưng có thể nói, trừ hiện tượng Nhất Linh rộ lên trong năm 1963 (năm ông tự tử và sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chánh, ông được tổ chức tưởng niệm hết sức trọng thể), thì ít ai được giới trí thức văn nghệ sĩ quan tâm một cách đặc biệt như Vũ Trọng Phụng.
Hầu hết tác phẩm của Vũ Trọng Phụng được tái bản trong đó đáng kể đến nhiều tác phẩm lẽ ra chỉ có thể lục tìm trong các chồng báo cũ của thư viện, như các truyện ngắn (non 40 truyện), các kịch ngắn (non 10 vở) như vở kịch dài Giết mẹ (dịch từ nguyên tác Lucrèce Borgia của V.Hugo), hoặc như 3 chương di cảo, trong tiểu thuyết Người tù được tha.
Các báo chí chuyên ngành văn học như Tập san Văn, tạp chí Văn học, tạp chí Thời nay, Giai phẩm văn học, tạp chí Nghiên cứu văn học cho ra những tờ đặc biệt về Vũ Trọng Phụng. Có tờ, như tạp chí Văn học, 3 lần ra số đặc biệt để tưởng niệm nhà văn quá cố.
Bên cạnh những bài viết mới, các tập san, báo chí nói trên còn cho đăng lại rất nhiều bài viết về Vũ Trọng Phụng, đã công bố trên báo chí Hà Nội trước năm 1945 của Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Tam Lang, Lưu Trọng Lư, Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật, Lê Văn Trương, Ngọc Giao, Trương Tửu, Nguyễn Thanh, Thanh Châu, Lê Thanh, v.v…
Đã có nhóm văn nghệ sĩ tổ chức những đêm kịch Vũ Trong Phụng. Một số vở hài kịch ngắn của ông cũng như hai tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ được chuyển thể, được lên sàn diễn.
Xem lại danh sách những trí thức văn nghệ sĩ viết về Vũ Trọng Phụng, chúng tôi thấy có thể phân thành ba nhóm. Thứ nhất, đó là những nhà văn đã thành danh từ trước năm 1945, vì những lý do khác nhau, tập trung sống và viết ở Sài Gòn như Vũ Bằng, Tam Lang, Nguyễn Vỹ, Đinh Hùng, Thiết Can, Lê Tràng Kiều…
Thứ hai, đó là các nhà nghiên cứu như Nguyễn Duy Diễn, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung, Bùi Xuân Bào…
Thứ ba, đó là các nhà văn hoặc những người vừa sáng tác vừa hoạt động nghiên cứu, như Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu…
Nếu căn cứ vào quan điểm nhân sinh, thái độ chính trị của các cây bút này, chúng ta thấy họ khá khác biệt, thậm chí đối lập nhau. Có người chống đối cách mạng từ căn bản ý thức hệ, như Doãn Quốc Sỹ. Có người không nhất quán về chính trị như Dương Nghiễm Mậu. Số đông đậm sắc thái “trung tính”, ngược lại có một số người giác ngộ cách mạng, và với các vị ấy văn học là mặt trận đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới, tất nhiên bằng những phương cách khác nhau, với những tư thế khác nhau, như Vũ Bằng, Lữ Phương, Vũ Hạnh…Có người đã hy sinh trên chiến trường Tây Ninh năm 1986, lúc đã thoát ly khỏi vùng giải phóng như Trần Triệu Luật.
Trong số 46 bài báo và cuốn sách mà chúng tôi có trong tay, viết về Vũ Trọng Phụng ở Sài Gòn trước năm 1975 (một con số chắc chắn chưa đầy đủ so với thực tiễn hoạt động của xuất bản báo chí ở một địa bàn rất nhộn nhịp và phức tạp như Sài Gòn và các thành thị miền Nam suốt 21 năm trước ngày giải phóng), có thể phân ra hai loại:
Loại thứ nhất, gồm 17 bài viết dưới dạng hồi ức, kỷ niệm. Người viết đều là các bạn văn, thậm chí chí cốt với Vũ Trọng Phụng lúc sinh thời. Đáng chú ý là các bài viết của Tam Lang (Vài kỷ niệm về Vũ Trọng Phụng – Giai phẩm văn học số 170, ngày 05/8/1973), Nguyễn Vỹ (Vũ Trọng Phụng, chương 4 cuốn Văn thi sĩ tiền chiến, trang 49-66, Nhà xuất bản Khai Trí, Sg, số 1969), Đinh Hùng (Nhớ Vũ Trọng Phụng, Tạp chí Văn học, Sg, số 44, ngày 15/8/1965) và sáu bài viết của Vũ Bằng đăng trên các Tạp chí Văn học (Sg) (15/10/1969), Giai phẩm văn học (05/8/1973) hoặc in trong các cuốn Bốn mươi năm nói láo (Phạm Quang Khai xuất bản, Sg, 1971). Ngoài ra còn có các bài viết khác của Lê Tràng Kiều, Thiết Can, Đồ Nam, v.v…
Loại thứ hai, gồm 29 bài hoặc chương sách nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Có những bài khảo sát dưới góc độ thể loại, như của Doãn Quốc Sỹ (Văn học và tiểu thuyết – Nhà xuất bản Sáng tạo, Sg, 1973), Vũ Bằng (Khảo về tiểu thuyết – Phạm Văn Tươi xuất bản, Sg, 1955), v.v… Có một số bài nghiên cứu căn cứ khuynh hướng nghệ thuật của ông, như các bài Vũ Trọng Phụng nhà văn tả chân bất hủ (Nguyễn Duy Diễn – Tạp chí Hiện đại, Sg, tháng 4/1960), Vũ Trọng Phụng, nhà văn hiện thực xã hội (Bùi Ngọc Dung – Tạp chí Văn học, Sg, số 44, ngày 15/8/1965), Kỹ thuật tả chân của Vũ Trọng Phụng (Đỗ Long Vân, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Sg, 5/1968), Nhóm tả chân xã hội (Nguyễn Văn Trung, trong Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết – Nam Sơn xuất bản, Sg, 1965). Cũng có một số nhà nghiên cứu dưới góc độ văn học sử, như Phạm Thế Ngũ (Vũ Trọng Phụng, trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Quốc học tùng thư xuất bản, Sg, 1965).
Xin hãy nói về các bài hồi ký. Thể ký đặc sắc này hấp dẫn người đọc trước hết vì với tư cách là người trong cuộc, hay ít nhất là chứng nhân, người viết đã lọc lựa trong kho kỷ niệm những chi tiết vừa xác thực, gợi cảm, vừa có ý nghĩa sâu sắc, giúp cho độc giả hiểu được sự việc, con người mà họ đang quan tâm – các thiên hồi ký chỉ có thể được coi là thành công khi nó làm người đọc giàu có thêm nhận thức xã hội và phong phú thêm về tình cảm đậm chất nhân văn.
Mười bảy bài hồi ký nói trên, chất lượng không phải đều cao. Có bài vụn vặt và tẻ nhạt (Đồ Nam – Năm cái bí mật của Vũ Trọng Phụng). Không ít chi tiết trùng lặp trong năm bài viết của Vũ Bằng. Nhưng điều đáng quý là ở chỗ, các nhà văn nhà báo cựu trào này đã làm rõ một cách xúc động hai vấn đề lớn của con người nghệ sĩ Vũ Trọng Phụng. Đó là nhân cách và tài năng.
Cái cốt lõi nhất của nhân cách Vũ Trọng Phụng theo Vũ Bằng là “Một điều tưởng như vô lý, tưởng như không thể thực hiện được, nhưng Vũ Trọng Phụng đã đem áp dụng trong suốt cả cuộc đời: Dù không đủ ăn, không đủ mặc, không đủ ở, Vũ Trọng Phụng vẫn âm thầm sống để mà viết” (Cảm nhớ Vũ Trọng Phụng). Vũ Trọng Phụng vượt lên mọi eo sèo phiền toái, thậm chí cực nhọc của nợ áo cơm, trước hết vì trách nhiệm của ông với bốn thế hệ phụ nữ mà ông phải cưu mang: bà, mẹ, vợ và con gái còn thơ dại. Cho nên “Vũ Trọng Phụng không mấy tán thành nếp sống của chúng tôi lúc đó: nhiều khi anh em đi hát hay chè, rượu, phiện phò thì anh ngồi uống nước, hút thuốc lào một mình và viết bài cho báo khác để kiếm thêm giúp bà, nuôi mẹ” (Vũ Bằng – Tôi, thằng vô lại). Vì vậy, như Nguyễn Vỹ nhớ lại một chi tiết xúc động: có khi Vũ Trọng Phụng đau khổ chỉ vì một chuyện quá nhỏ nhặt, đó là không có lấy năm hào chỉ để mua cho người con gái độc nhất chiếc đèn con cá trong dịp tết Trung Thu, để cháu khỏi thèm thuồng khi nhìn đồ chơi trong tay các trẻ hàng xóm.
Nét đẹp của nhân cách Vũ Trọng Phụng còn là ở chỗ, dù bị sự nghèo túng ghì sát đất nhưng ông vẫn sống trong sạch, thanh cao, không để các ông chủ kinh doanh chữ nghĩa coi thường, xúc phạm. Với những tay chủ xuất bản keo kiệt, nhập nhằng việc thanh toán nhuận bút, Vũ Trọng Phụng đòi ráo riết, thậm chí khi cần ông đã giáng đòn sâu cay, ê ẩm (Nguyễn Vỹ – Văn thi sĩ tiền chiến). Để đối phó với loại chủ báo, chủ xuất bản tàn nhẫn thiếu lương tâm, lạnh lùng bóc lột những nhà văn cộng tác, Vũ Trọng Phụng cùng các văn hữu đấu tranh đến cùng (Đinh Hùng – Nhớ Vũ Trọng Phụng). Ông sẵn sàng từ chối chỗ làm lương cao bổng hậu, khi đã biết rõ chất trọc phú của người mời nhưng trái lại rất sẵn sàng xin bạn một hào đi xe, “vì quần áo diện như thế này mà đi bộ trông ê lắm” (Vũ Bằng – Cái tài, cái tật của Vũ Trọng Phụng). Nói là “diện”, nhưng như các bạn văn của ông cho biết, Vũ Trọng Phụng không bao giờ có một bộ quần áo đẹp. Mùa rét có một bộ tím kẻ sọc, mùa nực chỉ có hai bộ trắng.
Với tư cách là tri kỷ với người đã khuất, các nhà văn cao niên còn giúp người đọc hiểu rõ hơn những chuyện “bếp núc” trong suốt 10 năm cầm bút của Vũ Trọng Phụng. Tài năng của nhà văn được các bạn ông chân thành ca ngợi. Chẳng hạn, năm 1971, Tam Lang nhắc lại một ý ông đã từng viết năm1939, lúc Vũ Trọng Phụng qua đời “Vũ Trọng Phụng viết sau tôi, mà sắc bén hơn tôi” (Tam Lang – Vài kỷ niệm về Vũ Trọng Phụng). Sắc bén là phải, bởi vì Vũ Trọng Phụng lao động hết sức cần mẫn, nghiêm túc. Vũ Bằng làm ta ngạc nhiên, cảm phục khi kể lại cung cách viết văn như đánh vật của Vũ Trọng Phụng “nằm phủ phục xuống mà viết”, “suy nghĩ kỹ trước khi viết, đến khi cầm bút là chỉ việc viết thôi”, “lúc viết, mắt anh liếng, miệng anh há ra viết nhanh, nhưng tướng trông rất vất vả, nên anh em thường đùa gọi là bộ Việt Nam vong quốc sử” (Vũ Bằng – Cái tài, cái tật của Vũ Trọng Phụng).
Đồ Nam, trong bài viết của mình cũng cho ta rõ cách thức tích lũy vốn sống của Vũ Trọng Phụng, ngoài cái vốn sống trực tiếp, ông đã rất có tài trong việc khai thác tư liệu từ các nguồn gián tiếp, từ ông anh họ Trưởng Ca thạo nghề cờ bạc để viết Cạm bẫy người; từ người bạn Nguyễn Như Hoàn rất gần gũi và hiểu biết các me Tây để viết Kỹ nghệ lấy Tây, từ những câu chuyện của Ngô Tất Tố – con đẻ của đồng ruộng – để có những trang viết sinh động về thực trạng bi đát, đáng phẫn hận của nông thôn trong Giông tố v.v…
Vũ Bằng, cũng như Lê Tràng Kiều, Thiết Can, cho chúng ta biết tinh thần tự học rất đáng ca ngợi của Vũ Trọng Phụng “Dù bận rộn viết lách đến mấy đi nữa, tuần nào anh cũng đọc hàng chục tờ báo Pháp để học thêm. Trong anh em, có thể nói anh là người hiểu rõ tinh thần của giọng văn Canard Enchainé (Con vịt bị xiềng, tên một tờ báotrào phúng nổi tiếng của Pháp – THT) nhất, mà anh cũng am hiểu nhất chính trị ở nước Pháp và thế giới lúc bấy giờ” (Vũ Bằng – Tôi, thằng vô lại).
Tóm lại, có thể nói, cùng với các bài viết dưới dạng cảm xúc, hồi tưởng, viết lúc Vũ Trọng Phụng qua đời của Nguyễn Tuân, Tam Lang, Lan Khai, Ngô Tất Tố… và những bài hồi ký công bố rải rác trong những năm miền Bắc chống Mỹ của Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng; đặc biệt những bài viết trong những năm đầu đất nước ta đổi mới (1987 – 1990) của Bùi Huy Phồn, Lưu Trọng Lư, Đỗ Tất Lợi, Mạnh Quỳnh, Thanh Châu, Vũ Ngọc Phan v.v… chùm hồi ký của các nhà văn nhà báo Sài Gòn viết trước 1975 giúp người đọc hôm nay và mai sau hiểu chính xác về con người công dân và con người nghệ sĩ Vũ Trọng Phụng. Tất nhiên có ngoại lệ, nhưng quả là tính cách phẩm hạnh của người viết đã quyết định giá trị những trang viết của ông; sâu xa hơn, từ những hiểu biết tích cực ấy người đọc tin vào sự trong sáng, chân thành của những đứa con tinh thần của người nghệ sĩ.
Xin được nói về chùm bài nghiên cứu. Dễ nhận thấy tình trạng chất lượng không đồng đều của những bài này. Một số bài, sức khái quát chưa cao, công phu khảo sát chưa đạt đến độ sâu cần có, còn thiên về ấn tượng, cảm tưởng. Ít có công trình nghiên cứu nào thực sự qui mô, đầy đặn, có tầm cỡ của chuyên luận.
Tuy vậy giới nghiên cứu Sài Gòn trước đây cũng đã có những đóng góp rất đáng ghi nhận về thành quả lao động nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng. Để khảo sát, nhận định, nhiều người có những định hướng tiếp cận khác nhau. Từ góc độ tư tưởng nghệ thuật, Nguyễn Văn Trung so sánh Vũ Trọng Phụng và các nhà văn trong nhóm tả chân với Tự lực văn đoàn để thấy sự khác biệt chủ yếu. Theo ông, “Trong ý hướng viết của nhiều nhà văn trong Tự lực văn đoàn, người ta ghi nhận sự tự giác của nhà văn, sự ý thức được quyền lợi cá nhân của cái tôi và họ đã thể hiện sự ý thức đó trong hầu hết các nhân vật của họ”. Thế còn Vũ Trọng Phụng và nhóm tả chân? Theo Nguyễn Văn Trung “Ý hướng viết không còn bao hàm một lo lắng phục vụ một cái tôi vị kỷ, nhưng chan chứa một nỗi băn khoăn về số phận của người khác, về quyền sống của tha nhân” (Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, tr. 98, NXB Nam Sơn, 1965).
Từ góc độ chính trị, với suy nghĩ của một thanh niên giác ngộ cách mạng đang hoạt động hăng say trong phong trào tranh đấu của sinh viên thành phố, Trần Triệu Luật ca ngợi tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, cả phóng sự lẫn tiểu thuyết, đặc biệt là hai kiệt tác Giông tố và Số đỏ. Anh khẳng định tác dụng của tác phẩm trong việc tố cáo hiện thực xấu xa tệ hại trước 1945 và theo anh dù ba thập kỷ qua đi, đối với người đọc sống giữa Sài Gòn những tác phẩm ấy hoàn toàn giữ nguyên giá trị thời sự. (Vũ Trọng Phụng – Hiện diện cần thiết của xã hội ngày nay – Tạp chí Văn học (Sài Gòn, số 44, ngày 15/8/1965). Một số nhà nghiên cứu như Lê Văn Siêu, Doãn Quốc Sỹ tiếp cận Vũ Trọng Phụng từ góc độ thể loại.
Trong Văn học sử thời kháng Pháp (1858 – 1945), Lê Văn Siêu lần lượt nhận xét tác phẩm của Vũ Trọng Phụng ở hai thể loại.
Về phóng sự, theo Lê Văn Siêu, Vũ Trọng Phụng khác Tam Lang, Trọng Lang ở “cái duyên kể chuyện hiếm có”, ở “ngòi bút thật đáo để chanh chua”, nghĩa là ở “cách điệu văn riêng của Vũ Trọng Phụng”. Nét độc đáo của Vũ Trọng Phụng, theo Lê Văn Siêu còn vì “văn của ông còn chất dâm, một chất muối đậm, hơi có phần tục tĩu để đùa dai, đùa nhả, nó khiến độc giả có hứng thú theo dõi câu chuyện cho đến hết, như cái hứng thú đọc thơ Hồ Xuân Hương hay truyện tiếu lâm” (Sdđ, tr 310).
Về tiểu thuyết, nhà nghiên cứu này xếp Vũ Trọng Phụng cạnh Nguyễn Công Hoan, Vũ Bằng, Nguyên Hồng và đánh giá không cao. Ông nhận xét về sự hòa hợp giữa chất phóng sự và chất tiểu thuyết, về thành công của Vũ Trọng Phụng trong việc xây dựng nhân vật điển hình, ông tán thưởng kỹ thuật tả chân của Vũ Trọng Phụng “đã dựng nổi cho hư thành thực”, “sắc sảo khi nhận xét thực tại xã hội và diễn biến tâm lý cùng sự việc trong cuộc sống” . Nhưng Lê Văn Siêu tỏ ra nghiệt ngã khi khái quát “nhiều đoạn thì gần như quanh quẩn ở vụ tình dục bỡn cợt nhố nhăng, vụng dại. Nó là sự cố ý pha trò cho đại chúng, hay những người dễ tính đọc lấy vui qua một lúc thì thôi”. Và vì thế, theo Lê Văn Siêu: “Nói rằng nó đồng loại với những truyện cổ Trạng Quỳnh, Tú Xuất, Ba Giai hay những truyện mới về Lý Toét, Xã Xệ của Phong hóa, thì có lẽ cũng chỉ sai lệch ở phần sỗ sàng, tục tĩu…” (Sđđ, tr. 311).
Nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận tác phẩm Vũ Trọng Phụng từ trào lưu nghệ thuật, từ khuynh hướng tả chân. Nổi trội, có nhiều ý kiến chín chắn, sắc sảo hơn cả là ba bài viết của Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Duy Diễn và Dương Nghiễm Mậu.
Bài viết của Phạm Thế Ngũ là một chương trong bộ lịch sử văn học khá qui mô bề thế – bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (3 tập). Nhà nghiên cứu này có cách viết chân phương, qui phạm. Ông chủ yếu đi sâu vào hai lĩnh vực thành công nhất của Vũ Trọng Phụng – phóng sự và tiểu thuyết để từ đó phân tích hai phương diện vừa tách bạch vừa gắn bó: Vũ Trọng Phụng – nhà văn xã hội và nhà văn tả chân. Ông đánh giá cao Vũ Trọng Phụng, vì nhà văn “dám phanh phui những nhơ nhớp xã hội, nêu cao lá cờ tả chân triệt để vào một lúc mà cơn gió lãng mạn êm đềm vẫn còn thổi lên nhiều tâm trí” (Sđđ, Tập 3, tr. 516). Nhưng theo Phạm Thế Ngũ, chỗ đứng của Vũ Trọng Phụng khá chông chênh và giao động – “Sự mỉa mai căm hờn (của nhà văn) không phải chỉ hướng vào lớp thượng lưu trưởng giả mà hướng vào tất cả những kẻ xấu xa trong xã hội. Ông lố bịch hóa hạng người bé nhỏ với một ngòi bút cũng tàn ác như khi ông chửi bọn bệ vệ giàu sang. Ông chế giễu những cái hủ lậu của xã hội cũ và cũng ác liệt như ông chế giễu những lố lăng của xã hội mới” (Sđđ, tr. 518) cho nên nhiều lúc Vũ Trọng Phụng quyết liệt dữ dội, nhưng “nhiều chỗ lại nghĩ và viết như các cụ lớp trước vậy, như Tản Đà, Tương Phố, hơn nữa như Nguyễn Bá Học trong những đoản thiên cảnh thế” và Lời khuyên học trò – Phạm Thế Ngũ đã khái quát: “Đó là cái cảm tưởng rõ rệt của người đọc đi từ Giông tố đến Lấy nhau vì tình” (Sđđ, tr. 519).
Hai bài của Nguyễn Duy Diễn (Vũ Trọng Phụng – nhà văn tả chân bất hủ – TạpchíHiện đại, số1/1960) và Dương Nghiễm Mậu (Viết về Vũ Trọng Phụng – Tạp san Văn, số 67,ngày 01/10/1966) có phong cách viết khá tương đồng: cảm xúc chân thành, nhận xét tinh sắc, giọng điệu tâm sự. Hai ông ca ngợi khả năng khái quát, tái hiện hiện thực bậc thầy của Vũ Trọng Phụng. Theo Dương Nghiễm Mậu, người đọc có thể “thấy những lạc hậu, nghèo đói khổ ải, những tráo trở, biến động, thét gào trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Lạp, Nam Cao, Ngô Tất Tố…nhưng để lại cho chúng ta một bức họa sâu sắc, đầy đủ hơn hết tình trạng xã hội ấy thì phải nói đến những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Có người nói rằng khi còn ở Pháp, Tạ Thu Thâu đã nói muốn biết xã hội Việt Nam ra sao chỉ cần đọc Vũ Trọng Phụng thì biết. Nếu thế thì quả Tạ Thu Thâu đã có con mắt tinh đời”.
Nguyễn Duy Diễn còn nhấn mạnh hơn “Quái lạ! Trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong xã hội nào, tiền chiến, đương chiến cũng như hậu chiến, cái hay của Vũ Trọng Phụng đã không hề bị suy giảm mà còn, với thời gian, tăng gấp lên mãi”.
Tại sao vậy? Theo nhà nghiên cứu, vì Vũ Trọng Phụng đã “trình bày bằng cái cười trào lộng, cả một xã hội mục nát, đểu cáng mà ở bên ngoài đã được sơn phết bằng một nước sơn “văn minh” bóng loáng. Cái xã hội đó không chỉ là xã hội tiền chiến, mà còn có thể là xã hội ở mọi nơi và trong mọi thời đại – Thực vậy, khi nào mà một số phụ nữ vẫn còn tấp tểnh động cỡn, một số người vẫn dựa vào uy thế để bợ đỡ quan trên và hống hách với người dưới, khi mà còn có những thằng người vô liêm sỉ, coi sự nhục nhã vì tiền là một danh dự, coi sự lừa lọc là một thắng lợi, coi việc hiếp được một thiếu nữ quê mùa chất phác là một chiến công oanh liệt, v.v… thì ngày ấy tư tưởng căm hờn của Vũ Trọng Phụng trong Giông tố, Số đỏ, Trúng số độc đắc,v.v… vẫn còn đủ những lý do để tồn tại, để đứng vững”.
Hai ông đều đặc biệt lưu ý đến thành công của nhà văn trong việc xây dựng những điển hình bất hủ, “không điển hình cho một thời đại mà là điển hình cho mọi thời đại” (Nguyễn Duy Diễn) cũng như tỏ ra rất tâm đắc với “ngòi bút trào lộng hiếm có” của Vũ Trọng Phụng. Với những thủ pháp nghệ thuật độc đáo, nhà văn “đã trở nên một ảo thuật gia đảo lộn mọi tình tiết, bày đặt và phóng đại tất cả những sự việc, mà người đọc vẫn không hề thấy dấu vết của sự bịa đặt, phóng đại” (Nguyễn Duy Diễn).
Hai nhà nghiên cứu này còn gặp nhau, khi nhấn mạnh giá trị cơ bản của tác phẩm Vũ Trọng Phụng: giá trị nhân văn. Theo Nguyễn Duy Diễn “Vũ Trọng Phụng đã lật tẩy tất cả những cái mặt nạ của đời để chúng ta nhìn thẳng vào mà suy nghĩ. Bởi vì, đúng như Chúa Cơ Đốc đã phán: “Chỉ có sự thật mới giải thoát được cho chúng con mà thôi”.
Còn với Dương Nghiễm Mậu, thì “Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng như một bức thông điệp nhân đạo gửi cho nhân loại với cả yêu thương và tin tưởng của một con người đã sống và chết đi trong đau khổ, đói rét, bệnh tật. Chắc Vũ Trọng Phụng không muốn loài người phải như thế nữa”.
Khi đọc lại những bài viết về Vũ Trọng Phụng của tri thức văn nghệ Sài Gòn trước 1975, một câu hỏi cứ như treo lơ lửng trong tôi: tại sao các vị ấy lại quan tâm một cách đặc biệt, rất nhiều cảm tình với Vũ Trọng Phụng đến như thế?
Có động cơ thương mại chăng, bởi vì đây là món hàng văn chương đất khách? Chắc cũng có, nhưng chỉ là sự toan tính của các ông chủ xuất bản.
Trí thức văn nghệ sĩ Sài Gòn đánh giá cao Vũ Trọng Phụng một cách chân thành. Cũng như đánh giá cao Nhất Linh, Khái Hưng, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Thạch Lam… một cách chân thành. Hơn thế nữa, họ muốn tìm ở đây một bài học quý giá về lao động nghệ thuật, vì nói như Dương Nghiễm Mậu, thành công của Vũ Trọng Phụng “minh chứng rằng một tác phẩm bám sát thời đại, cuộc sống của một xã hội nào đó không có nghĩa chỉ sống trong một thời, một hoàn cảnh mà nó vẫn vượt thoát ra, vẫn thành công”.
Ở một cấp độ cao hơn, một số tri thức văn nghệ sĩ yêu nước tiến bộ như Trần Triệu Luật mà chúng tôi trình bày ở trên, muốn qua tác phẩm Vũ Trọng Phụng để nhìn rõ bản chất xã hội Sài Gòn, nói rộng ra xã hội thành thị miền Nam lúc đó. Nhìn rõ để có thể xác định thái độ sống đúng đắn. Tự nhiên tôi lại nhớ đến phát biểu của nhà thơ Tố Hữu trong Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc năm 1949: “Vũ Trọng Phụng không phải là nhà cách mạng, nhưng cách mạng cám ơn Vũ Trọng Phụng”.
Làm công việc “kiểm toán” nhũng thành tựu nghiên cứu văn học dân tộc nói chung, từ ngày Đất nước đổi mới đến nay, chúng ta không quên sự đóng góp của những trí thức Sài Gòn chân chính trong 21 năm đất nước cắt chia (1954 – 1975).
Nguồn: khoavanhoc – ngonngu.edu.vn/Tạp chí ĐH Sài Gòn, Bình luận văn học, niên giám 2012
|
|