|
Post by Vĩnh Long on May 9, 2014 6:04:41 GMT 9
Những bài học cho kẻ xâm lược và bán nướcTầu Trung Quốc tấn công tầu VN. Ảnh: CS Biển VN Mấy ngày qua tin tức nóng bỏng đụng độ Việt Nam – Trung Quốc trên biển Đông và vụ bắt blogger Ba Sàm đã làm dư luận tại Việt Nam quên hẳn sự kiện rất nóng Ukraine và Nga. Chiến tranh dường như đã cận kề vì chính quyền non trẻ ở Kiev đã thẳng tay với phe thân Nga ly khai ở miền Đông Ukraine. Cho dù kết quả không như mong đợi, chưa dành lại quyền kiểm soát các cơ quan chính phủ, nhưng Kiev đã gửi một thông điệp mạnh mẽ cho Moscow, vấn đề chủ quyền, không thể nhân nhượng. Bài học cho Putin Sau khi chiếm Crimea dễ dàng, Putin xúi dân miền Đông nổi dậy, làm náo loạn và có cớ để tấn công Ukraine. Cách đây mấy ngày, thành phố cảng Tương quan lực lượng Ukraine và Nga. Ảnh: WP Odessa, một nơi từng lưu dấu bao kỷ niệm của nhiều trí thức Việt Nam, chìm trong khói lửa. Hơn 40 người chết, trực thăng của Ukraine bị bắn rơi. Mối quan hệ anh em Nga-Ukraine đã thành thù hận, không thể một sớm một chiều có thể hàn gắn. Ukraine tỏ ra không sợ đối đầu về quân sự, điều 40 ngàn quân áp sát miền Đông, hàng trăm xe tăng tấn công phe thân Nga. Nghiêng hẳn về phương Tây, Kiev không cần đi dây có từ thời Yanukovych, chấm hết câu chuyện tình bạn láng giềng, như Georgia đã đoạn tuyệt với Nga. Với kiểu lạt mềm buộc chặt, phương Tây và Mỹ dùng đòn kinh tế bao vây Nga, giải quyết vấn đề dầu hỏa và khí đốt trong dài hạn sẽ làm Nga mất một nguồn ngoại tệ chiếm tới 80% GDP. Giới làm ăn Nga dựng nên đế chế Putin đều dây mơ rễ má với phương Tây không ít thì nhiều. Paris, London, New York, DC đều có dấu vết các tỷ phú Nga. Các đòn trừng phạt, cấm vận kinh tế sẽ làm nhóm oligarchs (giầu có) bừng tỉnh. Putin thừa hiểu, lấy Crimea là chuyện đã rồi, nhưng mang quân vào miền Đông Ukraine là câu chuyện lớn hơn nhiều. Tấn công xâm lược rất dễ, giữ mới khó. Sự lụn bại quốc gia thường bắt đầu bằng cuộc chiến không chính nghĩa. Phương Tây muốn cho Nga tàn phế, tiến tới Regime Change – thay đổi chính quyền, có nhiều cách. Dân chủ từ từ, các cuộc cách mạng mầu, nổi dậy từ đường phố. Còn cách khác, đó là tạo ra đối đầu. Phương Tây chỉ đợi Nga khai mào cuộc chiến Ukraine. Ai cũng biết, dính vào chiến tranh, Nga sẽ hết đường làm ăn. Có lẽ vì thế, vào phút chót, trước cuộc trưng cầu dân ý của phe thân Nga dự định vào ngày 11-5 tại miền Đông và Nam Ukraine, sau cuộc gặp với ông Didier Burkhalter, tổng thống Thụy Sĩ và hiện là chủ tịch Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) ngày 6-5, Putin bỗng ra lệnh … bỏ cuộc. Putin còn nói thêm, cuộc bầu cử tổng thống Ukraine vào ngày 25 tháng Năm là “một bước đi đúng hướng”, dù trước đó một ngày Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Lavrov khăng khăng, cuộc bầu cử này là bất hợp lệ. Dường như Putin đã xuống giọng vì ông còn thông báo, quân Nga đã không còn ở sát biên giới với Ukraine. Putin có đáng tin hay không là một câu chuyện khác, nhưng ít nhất trong thời điểm này, ông ta hiểu, nước Nga đừng đi quá xa, vượt vạch chỉ đỏ thì đế chế Nga sẽ trên đường diệt vong như CCCP. Bài học cho Tập Cận Bình Trong lúc Ukraine rối ren, sắp xảy ra chiến tranh với Nga, Mỹ và phương Tây bận đối phó khắp nơi, thì Trung Quốc ra tay ở biển Đông. Cho giàn khoan khủng di động, giá gần 1tỷ đô la, đóng tại địa điểm cách đảo Lý Sơn 221km của Việt Nam. Đây là vị trí nằm sâu trong EEZ (vùng đặc quyền kinh tế) của Việt Nam. Kèm theo là 80 tầu chiến, tầu hộ tống để bảo vệ giàn khoan. Phía Trung Quốc còn ra lệnh đâm tầu cảnh sát biển Việt Nam, làm hư hại và đã có 4 cảnh sát biển bị thương. Họp báo quốc tế tại HN. Ảnh: VNN Tình hình căng thẳng tới mức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh đã lên tiếng với người đồng nhiệm Bắc Kinh bằng một thông điệp rất mạnh mẽ “” Việt Nam không thể chấp nhận và kiên quyết phản đối việc làm này của Trung Quốc; yêu cầu Trung Quốc rút hết giàn khoan HD-981 và các tàu hộ tống ra khỏi khu vực này và cùng đàm phán để xử lý những bất đồng xung quanh vấn đề này. Việt Nam sẽ áp dụng mọi biện pháp phù hợp cần thiết để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình” Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam chưa có đồng minh phương Tây như Ukraine, nhưng sự lên tiếng đã giúp cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ thái độ hung hăng và ý đồ xâm lược của Trung Quốc. Cảnh sát biển Việt Nam và hải quân tỏ ý không ngại va chạm cũng là một tín hiệu mạnh mẽ trên biển. Báo chí truyền thông cần những bài viết rõ nét hơn. Người Việt cũng như người Ukraine sẵn sàng làm bạn với hàng xóm tốt, nhưng không thể tin 16 chữ vàng của kẻ luôn tìm cách đâm dao sau lưng. Tập Cận Bình cần hiểu rằng, trong cuộc chiến không cân sức giữa Việt Nam và Trung Quốc, những thắng lợi chiến thuật có thể có trong ngắn hạn, nhưng về dài hạn, Trung Quốc sẽ chẳng được gì ngoài sự cô lập như Nga đang bị bởi sự kiện Ukraine. Một phát súng nổ ra, Trung Quốc sẽ mất hoàn toàn Việt Nam như Nga đã mất Georgia và gần đây là Ukraine. Mỹ và phương Tây sẽ là kẻ tọa sơn quan hổ đấu. Dính vào cuộc chiến sẽ hao người tốn của, Trung Quốc sẽ tự suy yếu mà Mỹ chẳng cần bao vây. Có vẻ Putin đã lùi bước, liệu Tập Cận Bình có học được bài học sơ đẳng trong quan hệ quốc tế và phát triển quốc gia bền vững hay không. Bài học của Yanukovych cho những kẻ phản bội quyền lợi quốc gia Có lẽ những ngày này, Yanukovych đọc tin về Ukraine với niềm hối hận khôn lường. Crimea đã về tay Nga không một tiếng súng, và miền Đông Ukraine khói lửa và chiến tranh. Vùng Donetsk nóng bỏng, nơi ông sinh ra, lớn lên là một kẻ cắp và tội phạm, bị kết án, nhưng sau vẫn lên được tới chức tổng thống Ukraine với biệt thự xa hoa kiểu Mezhygirrya rộng gần 200 hecta mà ngay cả những vua chúa trên thế giới cũng phải nằm mơ. Biến động chính trị ở Kiev, ông chạy sang cầu cứu Putin, một người luôn coi ông là kẻ tôi đòi, thật nhục nhã cho một lãnh đạo hèn yếu. Putin ra tay, Ukraine mất luôn Crimea, lại là điều Yanukovych không hề muốn. Và chắc ông cũng không muốn Putin nuốt Ukraine như ông từng phát biểu gần đây. Người Nga coi ông là kẻ phản bội nên khó chứa chấp vì đã phản bội lại tổ quốc thì sao còn đáng tin. Ukraine cũng coi Yanukovych là kẻ bán rẻ tổ quốc. Phương Tây không có chỗ náu nương cho một kẻ cắp từ thuở ấu thơ cho đến thời tổng thống. Khi đang viết entry này, có tin tòa án Thụy Sỹ đã đóng băng khối tài sản giá 193 triệu đô la của ông. Thưở đương nhiệm, Yanukovych có thể xây dựng Ukraine thành một quốc gia hùng mạnh án ngữ giữa Đông và Tây ở châu Âu. Rất đáng tiếc, vì lợi lộc của bản thân, gia đình và nhóm lợi ích, y đã bán mình cho quỉ sứ, đưa Ukraine thàng kẻ thù của Nga, đang có cơ rơi vào nội chiến. Có lẽ mỗi sáng thức dậy ở xứ người, Yanukovych luôn tự hỏi, hôm nay có phải là ngày cuối cùng của kẻ ăn cắp, tham nhũng và bán nước như ông. Những kẻ Lê Chiêu Thống thời nay ở xứ Việt có đủ trí thông minh để học bài Yanukovych đang không chốn nương thân. Vĩ thanh Xin lấy mấy dòng status của anh Huy Đức trên facebook để kết thúc bài viết “Hy vọng, vụ giàn khoan 981 sẽ thức tỉnh Đảng Cộng sản Việt Nam, không chỉ sớm quay lại bờ nhân dân để đuổi “quân bành trướng Bắc Kinh” mà quan trọng hơn là kiến tạo cho Việt Nam một con đường mới. Một con đường có nhiều đối tác, bạn bè.” Ukraine đã và đang làm điều đó. Hiệu Minh Thế cờ chiến lược chính trị của PutinDân Nga từ trước đến giờ vẫn nổi tiếng quán quân ngoại hạng với biệt tài chơi cờ vua. Trên bàn cờ chính trị chắc hẳn cũng sẽ phản ảnh rất rõ những mưu lược cùng những tính khí tập quán của người trong cuộc như Putin, người đang đứng đầu lãnh đạo nước Nga. Phải công nhận rằng Putin đi những nước cờ chính trị rất thần tình và già dặn hơn nhiều so với lãnh đạo nước Mỹ là Obama lẫn liên hiệp Châu Âu luôn ở trong tư thế bị động. Trong chiến thuật ngắn hạn hiện thời về quân sự cũng như ngoại giao, Putin đã có những nước đi ngoạn mục, áp đảo được hẳn Obama và liên hiệp Châu Âu. Với nước Nga, Putin có thể dễ dàng cai trị theo lối độc tài, chuyên quyền trong một thể chế mất dân chủ cũng là một truyền thống di sản của nước Nga từ trước đến giờ đi từ những chế độ như Sa Hoàng đến Cộng sản đều độc tài, và dân Nga cũng không cần phải bận tâm thắc mắc hay chống đối gì nhiều về sự độc tài, bởi từ xưa đến giờ dân Nga hầu như đã quen thuộc và xem đó như sự măc nhiên trong suốt chiều dài lịch sử của nước Nga, thật sự chưa có cơ hội nào để thực thi những gía trị phổ cập về tự do dân chủ theo Tây Phương, ngoại trừ thời gian ngắn ngủi duy nhất trong nhiệm kỳ tổng thống Boris Yeltsin. Sau thời kỳ cai trị của chế độ quân chủ Sa Hoàng, tiếp đến là cuộc cách mạng theo Cộng sản của Lénin năm 1917, đến ngày nay Putin tiếp nhận một di sản nửa nạc nửa mỡ, giữa chủ nghĩa dân tộc bành trướng các thời kỳ Sa Hoàng và hào quang siêu cường thống trị các quốc gia chư hầu thời cộng sản. Putin cũng đã nhận thấy lịch sử một nước Nga tồn tại đã luôn đi đôi với sự bành trướng lãnh thổ cùng sự cai trị dộc tài chuyên chính nơi một chính phủ trung ương tập quyền duy nhất, nếu không nưóc Nga sẽ tan rã như Liên Bang Xô Viết đã tan rã vào thời kỳ Mikhail Gorbachev mở cửa (glasnost), cải tổ kinh tế (perestroika) theo hướng tự do đã buộc chính phủ trung ương tập quyền phải thực hiện hệ thống tản quyền đến các nước cộng hòa Estonia, Latvia, Litva, Belorussia, Moldavia, Ukraina, Gruzia, Armenia, Azerbaijan, Turkmenistan, Uzbekistan, Tajikistan, Kyrgyzstan, Kazakhstan hậu qủa ngày nay chúng ta đã thấy 14 nước cộng hòa này ly khai ra khỏi khối Liên bang Xô viết. Có tật nên hay giật mình, bước kế tiếp trong nước cờ chính trị Putin sẽ làm gì sau khi thu tóm xong bán đảo Crimea? Nhìn chung bối cảnh lịch sử nưóc Nga, chúng ta cũng có thể đón được là Putin sẽ cai trị nước này bằng bàn tay thép, bởi Putin không có cách nào làm khác hơn. Đi theo các giá trị phổ cập về tự do dân chủ của Tây Phương ư? — Bất khả thi!…bài học Mikhail Gorbachev và Boris Jelzin đã rành rành trước mặt. Muốn trở thành một siêu cường tự do dân chủ như Mỹ ư? — Khó qúa! Nhìn cuộc cách mạng Hoa Kỳ 1776 đã trải dài trên 200 năm ngày nay mới phân phối hệ thống tảng quyền, tự do dân chủ và bình đẳng đến khắp các tiểu bang một cách hài hòa vững mạnh. Còn nước Nga sau cuộc cách mạng cộng sản 1917 của Lénin cũng đã sinh sau đẻ muộn, lại còn èo uột bệnh hoạn đủ thứ sau hơn 70 năm thực thi thiên đường chủ nghĩa xã hội cộng sản! Một chọn lựa khả thi đối với Putin không phải mạo hiểm như Gorbachev hay Jeltsin theo Tây Phương, ngược lại chỉ muốn tiếp nối di sản độc tài của các đế chế Sa Hoàng và Cộng sản thì Putin mới có thể cai trị theo hướng giữ vững và bành trướng lãnh thổ một đế quốc Nga ra khắp thế giới. Từ chiến trường Georgia, Abkhazia, Nam Ossetia đến Crimea và hiện thời Nga đang tập trận, đồn trú quân đe dọa chiếm cả miền Đông Ukaina, đủ thấy Putin đã chọn con đường truyền thống cổ điển theo lối cai trị độc tài, trung ương tập quyền có phần dễ hơn là mạo hiểm theo lối tân thời Gorbachev hay Jeltsin. Đối với Putin mở ra những nuớc cờ đấu tranh quân sự đã từng thắng ở Georgia, Nam Ossetia hay Crimea thì những cuộc chiến này đã dễ như trở bàn tay, không có gì gọi là mạo hiểm như hai lãnh tụ thân Tây Phương trước đây; nhưng dù có mạo hiểm trong chiến tranh vẫn còn hơn là mạo hiểm trong chính trị? —Điều này cho thấy Putin đã thắng những nước cờ quân sự trong chiến thuật, nhưng toàn bộ chiến lược cho cả quân sự, kinh tế lẫn địa lý chính trị đã không liên kết triển khai được thì những chiến thắng nhất thời riêng trong lãnh vực quân sự sẽ đưa Putin vào thế hiểm nghèo, bị cô lập hơn trên trường quốc tế. Putin đã không hề nghĩ chiến tranh là hiện tượng nối dài của chính trị theo quan điểm của Clausewitz trong sách Chiến Tranh Luận (Vom Kriege). Chính trị thống lãnh và điều hành mọi lãnh vực như quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội… Nhưng chọn lựa của Putin là truyền thống cổ điển, thiết lập một thể chế cai trị độc tài với một nhà nước chuyên chính trung ương tập quyền duy nhất và quay mặt lại, không chấp nhận những thể chế chính trị đầy tự do khai phóng của Tây Phương, nên nước Nga của Putin đang dừng lại nơi ngưỡng cửa quân sự, võ trang để tranh giành lãnh thổ khắp nơi ngoài biên địa, cuối cùng sẽ dẫn nưóc Nga đến chỗ phá sản như chế độ cộng sản đã từng bị phá sản, bởi Putin còn đang ôm lấy di sản từ nền chính trị truyền thống cổ điển của các Sa Hoàng và hào quang đã lịm chết của một siêu cường từng thống trị các quốc gia chư hầu cộng sản.
|
|
|
Post by Can Tho on May 13, 2014 8:25:26 GMT 9
Bắn chìm tàu TQ xâm phạm, Nga cảnh cáo: ‘Đừng vuốt râu hùm!’Nga luôn khẳng định lập trường về chủ quyền lãnh thổ của mình với Trung Quốc một cách cứng rắn nhất. Bắn chìm tàu Trung Quốc xâm phạm Đối với Trung Quốc, Nga có thái độ hết sức cứng rắn với những vi phạm về chủ quyền lãnh thổ dù là nhỏ nhất. Những hành động này chính là cảnh cáo mà phía Nga dành cho những yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc. Điển hình là thái độ cứng rắn của Nga trong việc xử lý các tàu Trung Quốc vi phạm vùng lãnh hải. Ngày 15/2/2009, Nga đã gây sốc không chỉ cho Trung Quốc mà còn với toàn thế giới. Tàu chiến Nga đã bắn khoảng 500 viên đạn vào mũi và đuôi của tàu New Star của Trung Quốc, nhấn chìm chiếc tàu tại lãnh hải Nga gần thành phố cảng Vladivostok. Nga cho rằng, việc tàu New Star tự động rời cảng Nakhodka khi chưa được phép là xâm phạm trái phép lãnh hải Nga và khi cơ quan biên phòng nước này phái 2 tàu đuổi theo, ra lệnh dừng lại trong một thời gian dài, nhưng họ cũng không chấp hành. Tàu New Star thuộc sở hữu của một doanh nhân tại tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc và công ty có trụ sở ở Hongkong. Tàu chở hàng của Trung Quốc bị Nga bắn chìm năm 2009 vì vi phạm lãnh hải Trước vụ việc này, Đại sứ Trung Quốc tại Nga là Lý Huy nói: "Trung Quốc bị sốc và vô cùng lo ngại trước vụ việc, đồng thời bày tỏ sự thất vọng lớn của Bắc Kinh trước việc tàu chiến Nga bắn tàu hàng của Trung Quốc, cũng như thiếu nỗ lực trong việc cứu giúp những thủy thủ bị rơi xuống nước". Ngày 20/2, Vụ trưởng Vụ Quan hệ Châu Âu-Trung Á thuộc Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã gửi công văn phản đối tới Lãnh sự Nga tại Trung Quốc, đồng thời cho rằng, thái độ của Nga trong vụ tàu New Star bị đắm ở lãnh hải của Nga là vô cùng khó hiểu và không thể chấp nhận được. Chính phủ Trung Quốc coi việc này là vô cùng quan trọng và yêu cầu Nga phải điều tra toàn diện để nhanh chóng tìm ra nguyên nhân vụ việc. Tuy nhiên, Nga đã thể hiện lập trường cứng rắn, cho rằng việc xử lý của mình là hợp pháp. Tiếp đó ngày 21/2, cơ quan chức năng Nga đã ra quyết định khởi tố đối với thuyền trưởng tàu New Star vì xâm phạm trái phép biên giới với bản án 2 năm tù giam. Không chỉ vậy, vào ngày 17/7/2012, hai tàu cá từ tỉnh Sơn Đông của Trung Quốc (tàu Chiết Đài Ngư 8695 và Lỗ Vinh Ngư 80-117) đã bị tuần duyên Nga bắt giữ do xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Nga. Sau nhiều giờ rượt đuổi trong khi bị tàu cá Trung Quốc cố tình phớt lờ, tàu Cảnh sát biển Nga Dzerzhinsky đã buộc phải bắn vào 1 trong 2 con tàu trên nhưng không có ai bị thương. Tuy nhiên, sau đó truyền thông Trung Quốc lại loan tin 1 trong số các ngư dân trên 2 con thuyền đã bị mất tích sau vụ đụng độ với tàu tuần duyên Nga trên biển vào hôm 16-17/7 và yêu cầu phía Nga phải chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, ông Trình Quốc Bình, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn lên tiếng chỉ trích Nga về việc "thực thi pháp luật một cách thô bạo", đồng thời yêu cầu phía Nga nhanh chóng thả người và tàu. Thế nhưng, Moscow cũng không ngần ngại thể hiện lập trường cứng rắn trong vấn đề này. Ngày 20/7, hãng tin Nga Interfax dẫn lời văn phòng báo chí Cục An ninh Liên bang trực thuộc Bộ Chỉ huy Biên phòng Lãnh hải nước này còn cho biết tiến trình pháp lý khởi tố hình sự hai thuyền trưởng Trung Quốc trong vụ tàu cá trên đã sắp hoàn thiện. Theo đó, ông Trương Tân Kỳ (tàu Chiết Đài Ngư 8695) và Khâu Hiểu Minh (tàu Lỗ Vinh Ngư 80-117) đang phải đối mặt 2 tội danh là xâm phạm lãnh hải và đánh bắt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Nga. Trước phản ứng kiên quyết của Moscow, Bắc Kinh hôm 22/7 phải xuống nước tỏ ra ‘mềm mỏng’ với luận điệu: “Nhân dân hai nước hãy nhìn nhận vấn đề theo chiều hướng khách quan và bình tĩnh”, phát ngôn viên Hồng Lỗi nói. Tàu Cảnh sát biển Nga Dzerzhinsky nổ súng vào 2 tàu cá Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Nga và ngang nhiên hoạt động bất chấp cảnh báo Hành động bắn vào tàu cá Trung Quốc năm 2012 và trước đó là bắn chìm tàu hàng của Trung Quốc năm 2009 là thông điệp Nga gửi đến đến Trung Quốc, rằng chủ quyền lãnh thổ Nga là thứ mà Trung Quốc không nên mơ tưởng. Răn đe bằng tập trận Năm 2013, lực lượng quân sự Nga có những hoạt động tập trận hết sức nhộn nhịp. Ẩn chứa đằng sau đó là những thông điệp hết sức rõ ràng. Trước hết là tập trận “Hợp tác trên biển 2013” giữa hải quân Nga và Trung Quốc được tổ chức ở vịnh Pie đại đế thuộc Biển Nhật Bản từ ngày 5/7 đến 12/7. Cuộc tập trận này được cho là nhằm gửi thông điệp đến Mỹ và đồng minh đối với chiến lược chuyển trọng tâm sang Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ. Trong cuộc diễn tập có sự tham gia của 11 chiến hạm nổi và một tàu ngầm của Nga, được đánh giá là lực lượng hải quân mạnh nhất tham gia trong lịch sử tiến hành các cuộc diễn tập trên biển. Cuộc tập trận đang khiến Trung Quốc như "mở cờ trong bụng" khi được cùng Nga lên gân với Mỹ và các đồng minh thì Nga đã dội ngay "gáo nước lạnh" vào Trung Quốc khi chỉ sau chưa đầy 12 giờ đồng hồ tính từ thời điểm lực lượng Hải quân Trung Quốc quay trở về căn cứ quân sự của mình, Nga tiến hành một cuộc diễn tập lớn chưa từng thấy từ trước tới nay. Kế hoạch và lực lượng quân sự khổng lồ của Nga tham gia tập trận Thông cáo báo chí của Bộ Quốc phòng Nga cho biết, theo mệnh lệnh của Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang Liên bang Nga - Tổng thống Vladimir Putin, toàn bộ các quân đoàn, sư đoàn và các lữ đoàn độc lập trực thuộc các quân khu Trung tâm và quân khu miền Đông, Hạm đội Thái Bình Dương, các căn cứ không quân tiêm kích, vận tải và không quân chiến lược ở vùng Viễn Đông Nga đã được lệnh tiến hành tập trận kiểm tra sẵn sàng chiến đấu bất thường với quy mô lớn chưa từng có. Viễn Đông chính là vùng hết sức nhạy cảm trong quan hệ Nga và Trung Quốc. Cuộc tập trận diễn ra từ ngày 13 - 20/7, các sư đoàn vận chuyển cơ giới đường bộ, đường sắt, đường biển và đường không được lệnh thực hiện đổ quân chiến dịch trong cự ly hơn 3.000 km. Tham gia tập trận có 1.000 xe tăng và xe bọc thép, 130 máy bay vận tải, tiêm kích, ném bom chiến thuật và chiến lược, máy bay trực thăng các loại, 70 tàu chiến và tàu hỗ trợ của Hải quân Nga. Cuộc tập trận huy động đến 160.000 quân nhân, 5.000 xe tăng và thiết giáp Ở mặt trận trên bộ, Tập đoàn quân số 36 triển khai lực lượng hùng hậu gồm các xe tăng hạng nặng, xe bọc thép và các đơn vị tên lửa chiến thuật tham gia tập trận. Toàn bộ Lữ đoàn xe tăng số 5 thuộc Tập đoàn quân số 36 đã thực hiện hành quân cơ động sẵn sàng chiến đấu trên quãng đường dài hơn 1.100 km với 100 xe tăng, xe thiết giáp và 60 xe bọc thép các loại. Ngoài ra, các lữ đoàn tấn công đổ bộ số 11, lữ đoàn điều khiển 75 và lữ đoàn hậu cần kỹ thuật 101 với tổng cộng hơn 400 xe cơ giới cũng đã thực hiện hành quân liên tục trên quãng đường 1.100 km trong vòng 2 ngày đêm. Lữ đoàn cơ giới độc lập số 37 cùng với khoảng 200 chiếc xe bánh xích và 100 xe bọc thép đã hành quân cơ động từ căn cứ đóng quân ở thành phố Kyahta đến thao trường Burduny. Xe tăng Nga trong cuộc tập trận Trong khi đó, lữ đoàn tên lửa chiến thuật Tochka-U số hiệu 103 cũng trực thuộc Tập đoàn quân số 36 đã được lệnh triển khai đội hình ở cấp độ sẵn sàng chiến đấu cao. Đồng thời, các lực lượng hỗ trợ nhanh chóng làm nhiệm vụ tổ chức phòng thủ, ngụy trang và nghi binh bằng các thiết bị điện tử tinh vi. Các lực lượng không quân và phòng không của Bộ tư lệnh số 3 không quân Nga và quân khu miền Đông được giao nhiệm vụ xuất kích bảo vệ bầu trời cho các hoạt động của các đơn vị mặt đất và trên biển. Trong đó, các trung đoàn không quân tiêm kích Su-27 đã thực hiện ngăn chặn tấn công đường không của đối phương. Cùng với đó, các đơn vị không quân chiến lược gồm các máy bay ném bom tầm xa Tu-95MS cũng được huy động tham gia tập trận. Đặc biệt, Nga đã báo động sẵn sàng chiến đấu 2 sư đoàn tên lửa chiến lược tại vùng Viễn Đông, bao gồm Sư đoàn tên lửa Tagil thuộc tỉnh Sverdlovsk và Sư đoàn tên lửa Yasnenskaya thuộc tỉnh Orenburg. Theo các nguồn tin công khai, Sư đoàn tên lửa Tagil được trang bị các tên lửa đạn đạo liên lục địa Topol (SS-25 Sickle), trong khi Sư đoàn tên lửa Yasnenskaya được trang bị các hệ thống tên lửa đạn đạo RS-20V Voyevoda (SS-18 Satan). Quân Sự, Nga, Trung Quốc, Tập trận, Quãng đường hành quân lên đến hàng nghìn km Quân Sự, Nga, Trung Quốc, Tập trận, Máy bay ném bom chiến lược Tu-95MS tham gia cuộc tập trận Quân Sự, Nga, Trung Quốc, Tập trận, Tên lửa đạn đạo liên lục địa Topol (SS-25 Sickle) tham gia cuộc tập trận Cùng thời gian, quân khu miền Đông đã thành lập 6 biên đội tàu chiến hỗn hợp trong đó bao gồm các tàu chiến mặt nước và tàu ngầm của Hạm đội Thái Bình Dương. Theo thông báo, các đơn vị vũ trang của hai Tập đoàn quân 35 và 36 thuộc quân khu Trung tâm và quân khu miền Đông thực hiện nhiệm vụ diễn tập-chiến đấu tại 17 thao trường trên đất liền và 2 thao trường trên biển. Có thể thấy rằng cuộc diễn tập quy mô này đáng chú ý nhất là cuộc hành quân khổng lồ tới hàng nghìn km trên bộ, cũng như số lượng các thao trường trên bộ nhiều hơn nhiều so với trên biển. Các chuyên gia phân tích và phương tiện truyền thông quốc tế đều đồng loạt cho rằng cuộc tập trận quy mô chưa từng thấy của nước Nga thời hiện đại có đối tượng trên biển là Nhật Bản, trên bộ là Trung Quốc. Tạp chí “Học giả Ngoại giao” Nhật Bản phân tích bài báo cho rằng, sự thực cho thấy, cuộc diễn tập quân sự lần này đã chứng minh mặc dù gần đây, hai nước Nga-Trung đã có sự cải thiện rõ rệt trên một số lĩnh vực, chẳng hạn hợp tác năng lượng và quân sự (tuần trước hai nước đã tổ chức cuộc diễn tập liên hợp trên biển quy mô lớn nhất trong lịch sử của họ), nhưng quan hệ hai nước vẫn rất đáng lo ngại. Đặc biệt là rất nhiều quan chức Nga hết sức nghi ngờ Trung Quốc đang có ý đồ khởi động một chiến lược thôn tính lâu dài đối với khu vực Viễn Đông của Nga, bởi những năm gần đây có rất nhiều người Trung Quốc đã di cư đến khu vực này. Do vậy, Nga tiến hành cuộc tập trận này với hai đối tượng cần cảnh báo đó là Nhật Bản và Trung Quốc. Alexander Khramchikhin, nhà phân tích quân sự độc lập Moscow nói: “Rất rõ ràng, phần đất liền của cuộc diễn tập này là nhằm vào Trung Quốc, còn phần trên biển và đảo là nhằm vào Nhật Bản”. Đinh Tuấn
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 10, 2014 7:56:10 GMT 9
Ai đã bắn rơi máy bay của ông John McCain?ĐCV: Câu chuyện về Jonh McCain nóng lên khi mới đây ông được bí thư thành ủy Việt Nam, ông Phạm Quang Nghị tặng món quà chính là tấm bia kỉ niệm mà Hà Nội mới dựng ghi lại chiến tích bắn hạ chiếc máy bay do John McCain lái. “Hai tấm hình chụp tấm bia, ghi hình ảnh viên phi công đang giơ tay đầu hàng, cạnh đó là những thanh thiếu niên đang thong dong đi dạo ven hồ đã làm cho ngài thượng nghị sĩ thật sự hào hứng và xúc động. Nó gợi lại cho con người mà chúng tôi đang ngồi bên cạnh nhớ lại quá khứ – một quá khứ thật khốc liệt và đầy ý nghĩa với cả người “từ trên trời rơi xuống” theo đúng nghĩa đen, và những người “từ dưới đất xông lên”, vít cổ chiếc máy bay của vị thiếu tá phi công năm xưa, bây giờ là một thượng nghị sĩ có thâm niên và uy tín lớn trong chính giới Hoa Kỳ.” Quà tặng của ông Nghị đã gây bão trong cộng đồng mạng khi nhiều bình luận cho rằng, nó kém tính ngoại giao, sỉ nhục người nhận, là ‘ngu xuẩn’… John McCain sau khi rơi xuống hồ Trúc Bạch, được một nông dân vớt lên trong tình trạng bị thương, ông bị giam ở Hỏa Lò và sau này được trao trả. Trong những lần thăm lại Việt Nam, John đã gặp người cứu mình từ lòng hồ, trong tình trạng bị dây dù quấn và đã gẫy chân. Nhưng ai là người đã bắn rơi máy bay của John McCain thì không thấy báo chí Việt Nam nhắc đến, dù những năm gần đây, cái tên John McCain trở nên quen thuộc với truyền thông Việt Nam như một biểu tượng về thành công của chính sách ngoại giao của nhà nước cộng sản, hay một biểu tượng của quan hệ Việt – Mỹ. Mới đây, một facebooker đã phát hiện điều này. Người bắn rơi máy bay do John McCai lái là một chuyên gia huấn luyện của Nga. Mẩu chuyện bên dưới chia sẻ điều này: Năm 2008 khi ông Yury Trushyekin lên tiếng trên báo chí Nga rằng chính ông mới là người bắn rớt máy bay của ông Thượng Nghị Sĩ Mỹ John Mc Cain, lúc ấy còn là thiếu tá hải quân Mỹ, thì đài truyền hình Nga đã nhiều lần phỏng vấn vị “anh hùng” này. Ông này về cuối đời sống nghèo khổ trong 1 căn hộ ở ngoại ô St Petersburg. Ông Yury Trushyekin cho biết trong suốt thập niên 1960 -1970, đã có hàng ngàn binh lính và sĩ quan Nga được điều động sang miền Bắc Việt Nam để giúp quân cộng sản Bắc Việt chống Mỹ. Phần lớn làm công tác cố vấn, ngoài ra còn có mặt trực tiếp tại chiến trường để huấn luyện cho bộ đội CSVN cách sử dụng những vũ khí mà Nga cung cấp. Đài Nga đưa tin Ông trưng ra hình ảnh, hộ chiếu và cả 1 bằng khen của nhà nước CS Bắc Việt làm bằng chứng. Bộ đội Việt Nam ‘toàn bắn trượt’ Riêng về việc bắn hạ máy bay của ông John Mc Cain , ông Yury Trushyekin cho biết bộ đội VN toàn bắn hụt, ngày hôm đó đã bắn hết 12 quả đạn tên lửa mà chẳng trúng quả nào! Khi chỉ còn 1 quả cuối cùng, ông đã phải thân chinh nhắm bắn mới hạ được phi cơ của ông Mc Cain. Hộ chiếu và bằng khen của ông Yury Trushyeki Ông còn cho biết chính ông đã cứu mạng ông John. Vì khi bộ đội CSVN vớt ông này lên, lúc đó đã bị gãy hết 2 tay và 1 chân , thì với lòng căm thù cao độ được huấn luyện sẵn, 1 đám đông đã nhào vào đánh đập, đâm ông này suýt chết. Ông Yury Trushyekin và đồng đội đã phải can thiệp và ra lệnh cho bộ đội ngừng tay và chỉ được bắt sống. Trong cuốn hồi ký của mình, ông Mc Cain cũng kể lúc bị bắt, mặc dù bị trọng thương mình mẩy đầy máu và lúc ngất lúc tỉnh, ông đã bị hàng trăm tên bộ đội xông vào đấm đá, nhổ nước bọt và có ai đó còn cầm cả lưỡi lê đâm vào hông và chân ông! Ông Yury Trushyekin kể tiếp rằng sau đó ông có vài lần vào thăm ông Mc Cain trong Hỏa Lò, nơi còn được gọi mỉa mai là “khách sạn Hà Nội Hilton”. Ông nói CSVN đã cố gắng “cải tạo tư tưởng” cho ông John bằng cách bắt ông này đọc những quyển sách giáo điều cộng sản dày cộm, bao gồm cuốn của Karl Marx. Khi được hỏi nếu bây giờ gặp lại ông John Mc Cain thì ông sẽ nói gì? Ông Yury Trushyekin cười và bảo ông sẽ hỏi ông John đã đọc hết cuốn Marx chưa! Riêng ông Mc Cain cho biết lúc đầu ông bị đối xử rất tệ hại, nhưng sau khi biết được ông là con trai và cháu nội của 2 vị tướng lừng danh của Mỹ thì ông được ưu đãi hơn , vì CS Bắc Việt biết ông có giá trị trao đổi. Lúc đó ông mới được chữa trị vết thương, và cái chân gãy được mổ, nhưng các bác sĩ làm việc quá dở làm dứt hết mấy sợi gân, khiến chân ông bị tật cho đến bây giờ . Tổng hợp theo heraldsun.com.au, englishrussia.com và FB Ngoc Nhi Nguyen
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 31, 2014 9:06:01 GMT 9
Kiểm tra thực tế: Putin trước sự sụp đổ của đồng rúp và UkraineNataliya Vasilyeva (AP) | DCVOnline lược dịch USSR One Ruble Coin 1961-67 StyleMOSCOW (AP) – Kiểm tra thực tế về một số phát biểu của Tổng thống Nga Vladimir Putin trước sự sụp đổ đồng rúp và cuộc khủng hoảng Ukraine trong cuộc họp báo hàng năm của ông hôm Thứ Năm. Tổng thống Nga Vladimir Putin lắng nghe trong cuộc họp báo hàng năm của ông tại Moscow, Nga, hôm thứ Năm, 18 tháng 12, năm 2014. Tổng thống Nga Vladimir Putin hôm qua cho biết, trong cuộc họp báo hàng năm của ông, là nền kinh tế Nga sẽ mạnh trở lại và giá đồng rúp sẽ ổn định; Putin cũng nói Ukraine phải hiện hữu như một thực thể chính trị, bày tỏ hy vọng cuộc khủng hoảng ở đó có thể được giải quyết bằng đàm phán hòa bình. Hình: AP Photo / Pavel Golovkin Về nền kinh tế Nga Putin: “Chúng ta sẽ dựa vào tài sản dự trữ trong Và tôi tin chắc rằng chúng ta sẽ giải quyết các vấn đề xã hội lớn, sẽ đa dạng hóa nền kinh tế, và không thể tránh khỏi, tôi lặp lại, tình hình sẽ trở lại bình thường.” Thực tế: Với đồng rúp mất đi một nửa giá trị kể từ tháng Giêng, với số vốn thất thoát ra ngoài và suy giảm đầu tư đáng kinh ngạc, giới chuyên gia dự đoán nền kinh tế Nga sẽ khủng hoảng vào năm tới. Mặc dù ông Putin đã nhiều lần có lời cam kết lèo lái nền kinh tế của Nga khỏi vùng lệ thuộc dầu mỏ và khí đốt, Hai ngành công nghiệp này vẫn chiếm hơn một nửa doanh thu của chính phủ. Về giá dầu Putin: “Tôi không biết cần bao lâu để chúng ta thích ứng với việc đó, nếu giá (dầu) ở mức hiện tại hoặc thậm chí giảm xuống dưới 60USD hoặc 40USD (mỗi thùng).” Thực tế: Putin, được 81 % dân Nga ủng hộ, đã đủ tự tin để công khai đề cập đến một kịch bản tiêu cực do giới phân tích thị trường đưa ra là giá dầu thô sẽ tiếp tục giảm xuống trong năm tới. Putin thừa nhận rằng sự sụt giảm giá dầu là một thách thức khó khăn với Nga. Về vấn đề Crimea Putin: “Chúng ta không tấn công và chúng ta cũng không xâm lăng bất cứ ai. Chúng ta chỉ bảo vệ lợi ích của chúng ta.” Thực tế: Chỉ vài ngày sau khi tổng thống Ukraine thân với Kremlin bị lật đổ hồi tháng Hai, hàng ngàn người đeo mặt nạ trang bị vũ khí đã chiếm đóng những cơ sở quan trọng trong bán đảo Crimean của Ukraine và bao vây căn cứ quân sự Ukraine ở đó. Nga khẳng định họ là lực lượng tự vệ địa phương bất kể biển số Nga trên đoàn xe của họ và các dấu hiệu khác. Sau cùng thì Putin đã thừa nhận là Moscow đã đưa quân đội sang Crimea trước một cuộc trưng cầu dân ý gấp rút mà dân chúng ở đó muốn sát nhập vào nước Nga. Ngay sau cuộc trưng cầu dân ý, Nga sáp nhập bán đảo Crimea vào nước Nga. Về mặt trận ở miền Đông Ukraine Putin: “Không phải quân nổi dậy ở miền đông nam Ukraine đã gửi quân tới Kiev. Ngược lại, quân đội chính phủ Kiev đã chuyển quân về phía đông nam, dùng hỏa lực pháo binh và hàng không.” Thực tế: Tình hình ở miền đông Ukraine yên tĩnh cho đến khi một nhóm người không rõ nguồn gốc trang bị vũ khí tiến vào một số thành phố hồi tháng tư, chiếm giữ các trụ sở chính quyền địa phương và thiết lập các trạm kiểm soát trên đường phơ. Ngoài một vài APC với lính trang bị nghèo nàn, chính phủ Kiev đã không gửi thêm quân đến đó cho đến cuối tháng Năm, khi cuộc chiến leo thang. Vấn đề về quyền con người tại Nga Putin: “Đối với các quan chức Nga, tôi xin nhắc lại: Chưa bao giờ có bất kỳ một nỗ lực nào hay bất cứ một mệnh lệnh nào nhằm trả đũa bất cứ ai và sẽ không bao giờ có.” Thực tế: Nhà chức trách Nga đã quấy nhiễu giới lãnh đạo phe đối lập và các tổ chức nhân quyền trong nhiều năm qua, cảnh sát, các cơ quan hành pháp cùng giới tư pháp đã tham gia vào các chiến dịch đàn áp. Bộ Tư pháp Nga mới đây đã yêu cầu Tối cao Pgasp viện Nga đọng của Memorial,một tổ chức nhân quyền nổi tiếng nhất ở Nga. Nhà chức trách cũng đã săn đuổi bắt cơ quan giám sát bầu cử Golos và các nhóm dân sự khác phải ghi danh là cơ sở nước ngoài vì họ nhận một số tài trợ nước ngoài. Những người hoạt động đối lập như Alexei Navalny cũng đã nhiều lần bị truy tố ra tòa án hình sự, nhiều người khác bị đưa a tòa không có bên bị can. Vì ai mà nước Nga khốn đốn?russian-bear Sau khi cho sáp nhập Crimea, ông Vladimir Putin nhận được nhiều sự ủng hộ của người dân Nga. Mới cách đây chỉ khoảng hai tháng, theo một cuộc thăm dò của Trung tâm Levada ở Moscow, có đến 88% người Nga được hỏi tín nhiệm ông. Nhưng nay mọi chuyện đã khác. Crimea không còn là điều để người dân Nga vui mừng. Mối bận tâm của họ lúc này là làm sao đối phó với những khốn đốn vì giá cả tăng vọt, đồng rúp mất giá. Đối diện với những khó khăn ấy – như Lev Gudkov, người đứng đầu Trung tâm Levada nhận định, được tạp chí Time trích dẫn hôm 16/12/2004 – họ không còn mặn mà với những hành động của ông tại Crimea và Ukraine và sẽ quay lưng lại với ông. Có thể chính ông Putin cũng nhận ra rằng ông đang phải trả giá cho những hành động kiêu căng, toan tính sai lầm của mình ở Crimea và Ukraine. Chiếm được Crimea, nhưng ông và nước Nga lại mất nhiều thứ khác. Kinh tế trượt dốc Là một nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào việc xuất khẩu dầu khí (chiếm đến 68% tổng kim ngạch xuất khẩu của Nga năm 2013), giá dầu quốc tế sụt giảm kỷ lục trong những tháng qua đã tác động xấu lên nền kinh tế Nga. Nhưng có thể nói việc ông bất chấp luật pháp quốc tế sáp nhập Crimea và gây bất ổn tại miền Đông Ukraine là yếu tố quan trọng đưa đẩy nền kinh tế Nga đến tình trạng điêu đứng ngày hôm nay. Nghĩ rằng mình có nhiều dầu khí, các nước châu Âu lại cần đến nguồn năng lượng từ Nga và vì vậy không dám có các biện pháp cứng rắn với Moscow, ông Putin đã phớt lờ những kêu gọi, chỉ trích, đe dọa từ các nước châu Âu và Mỹ. Ông đã cho quân vào Crimea và thôn tính vùng tự trị này của Ukraine. Không chỉ truyền thông và người dân Nga mà một vài tờ báo ở Việt Nam như Tiền Phong cũng khen ngợi hành động đó của ông, cho rằng ông đã thắng các nước phương Tây ‘trong trận chiến Crimea, rộng hơn là Ukraine’. Bài viết có tựa đề ‘Trận pháp Putin’ của Tiền Phong còn cho rằng trừng phạt kinh tế nếu làm Nga “vỡ đầu” thì nó cũng làm phương Tây “mẻ trán”. Nhưng ông và những người ủng hộ ông đã toan tính sai. Các nước châu Âu – đặc biệt Đức, một nước thường được coi là đồng minh của Nga trong Liên hiệp châu Âu (EU) – đã quyết định tiến hành hàng loạt các biện pháp trừng phạt đối với Nga. Và đến giờ, chưa rõ các nước EU có ‘mẻ trán’ hay không, lệnh trừng phạt mà các nước phương Tây tiến hành đối với những người thân cận của ông Putin và nhiều lĩnh vực kinh tế khác của Nga – như tài chính, ngân hàng, năng lượng – đã và đang làm họ và nền kinh tế Nga nói chung ‘vỡ đầu’. Hơn nữa, sự trừng phạt đó của các nước phương Tây cũng trói buộc ông Putin và giới lãnh đạo Nga, khiến họ khó tìm được một giải pháp, liều thuốc linh nghiệm nào để chữa lành vết thương càng ngày càng nghiêm trọng của kinh tế Nga. Chẳng hạn, dù đã tìm mọi cách – trong đó có việc Ngân hàng Trung ương Nga tăng mạnh lãi suất – để nhằm bảo vệ đồng rúp, ngăn chặn lạm phát, đồng tiên Nga cứ tiếp tục mất giá, làm phạt cứ leo thang. Như tựa đề của bài viết ‘Putin Can’t Bully or Bomb a Recession’ trên tờ Daily Beast hôm 16/12, ông Putin có thể dùng sức mạnh quân sự ngạo mạn thách thức phương Tây, đe dọa, lấn chiếm các nước láng giêng, ông không thể dùng ‘bom’ chấm dứt sự khốn đốn kinh tế – thậm chí nguy cơ suy thoái, khủng hoảng kinh tế – mà nước Nga đang phải đối diện. Không chỉ nền kinh tế Nga mà ngay cả bản thân ông Putin cũng đang phải đương đầu với không ít khó khăn. Minh họa cho bài viết có tựa đề ‘Russia: A wounded economy’ trên The Economist hôm 22/11/2014, là một con gấu nâu đang lủi thủi, nặng nề lê bước trên tuyết và càng đi, nó càng để lại sau đó nhiều dấu chân thấm máu. Hình ảnh đó mô tả khá rõ không chỉ sự khốn đốn của kinh tế Nga hiện tại mà còn cả sự đơn độc, thất bại và nhiều vết thương khác mà ông Putin đang phải chịu đựng. Mất nhiều thứ khác Trong những năm qua, ông Putin nhận được sự ủng hộ của người giới tài phiệt và người dân Nga chỉ vì kinh tế Nga phát triển, họ kiếm được nhiều tiền, đời sống của họ được cải thiện. Nhưng với việc đồng rúp mất giá kỷ lục (thấp nhất kể từ năm 1998 – khi Nga khủng hoảng tài chính), giờ mọi chuyện trở nên khốn đốn với giới kinh doanh và người dân Nga. Một bài viết của Ivana Kottasova đăng trên CNN Money hôm 16/12/2014 cho rằng trong năm 2014, giới thân hữu tài phiệt của ông Putin đã mất hơn 50 tỷ USD. Khi kinh doanh thua lỗ, cuộc sống bấp bênh, người Nga sẽ không còn tín nhiệm ông Putin và quay lưng lại với ông. Trong bài ‘Putin watches Russian economy collapse along with his stature’ trên tạp chí Time hôm 16/12/2014, Simon Shuster cho rằng không chỉ kinh tế Nga đang suy sụp mà hình tượng của ông Putin cũng đang dần dần sụp đổ. Tương tự một bài viết Timothy Heritage của Reuters hôm 17/12/2014 cũng cho rằng cuộc khủng hoảng đồng rúp hiện tại có thể làm lung lay quyền lực của ông Putin. Trên phương diện quốc tế, ông Putin bị cô lập, coi thường. Không lâu sau khi can thiệp vào Crimea, Nga đã bị loại khỏi nhóm 8 nước công nghiệp hàng đầu. Vào những cuộc gặp quan trọng – như tại Thượng đỉnh G20, Brisbane, Úc mới đây – ông Putin bị các lãnh đạo phương Tây né tránh hay công khai chỉ trích. Là một người độc đoán và tham quyền, nhưng luôn tỏ vẻ dân chủ và luôn tìm mọi cách để đánh bóng tên tuổi, củng cố vị thế, tính chính danh của mình, chắc chắn ông Putin cảm thấy khó chịu, mất mặt khi bị coi thường, khinh rẻ như vậy. Sự chao đảo về kinh tế hiện tại của Nga cũng có thể đe dọa sự tồn tại của Liên minh kinh tế Âu-Á (Eurasian Economic Union, EEU) non trẻ mà Nga mới ký kết với Belarus và Kazakhstan vào tháng Năm năm nay. Là người coi sự sụp đổ của Đế chế Nga và chuyện Liên Xô tan rã là hai thảm họa của thế kỷ 20, ông Putin luôn có tham vọng thiết lập một khối các quốc gia Á-Âu chịu sự kiểm soát của Moscow giống như Liên Xô trước đây. EEU – một dự án mà ông theo đuổi từ nhiều năm nay – được coi là bước đầu để ông thực hiện tham vọng ấy. Trước đây Ukraine được coi là nền tảng để Nga thiết lập EEU. Sau khi Nga thôn tính Crimea và gây bất ổn ở miền Đông Ukraine, việc Kiev quay trở lại quỹ đạo của Nga giờ càng xa vời. Thực ra ngay từ khi thành lập, giới nghiên cứu đều cho rằng EEU sẽ rất khó – nếu không muốn nói là không thể thành công – vì EEC được xây trên nền tảng không bền vững. Ngoài việc tìm cách thiết lập, mở rộng EEU, từ năm 2013 Nga còn muốn xúc tiến các hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Liên minh thuế quan (CU) và Ấn Độ, Mông Cổ, New Zealand, Israel và Việt Nam. Nhưng theo Stanislav Secrieru, các cuộc thương thảo FTA giữa CU và các nước này chẳng có tiến bộ gì nhiều. New Zealand đã ngừng đàm phán với CU sau khi Nga thôn tính Crimea. Được biết hôm 15/12/2014, Việt Nam đã kết thúc đàm phán FTA với Liên minh thuế quan (CU) và dự kiến sẽ tiến hành ký kết FTA với EEC (Eurasian Economic Commission) do Nga đứng đầu vào đầu năm tới. Nhưng trong bối cảnh CU and EEC còn non yếu, có nguy cơ thất bại và Nga phải đối diện với khủng hoảng kinh tế, không biết hiệp định này có được áp dụng và mang lợi gì cho Việt Nam hay không? Riêng đối với ông Putin, trước sự khốn đốn của kinh tế Nga và trong tình cảnh ông bị Mỹ và các nước phương Tây khác cô lập, trừng phạt, có thể nói từ khi lên nắm quyền vào năm 2000, chưa bao giờ ông phải đối diện nhiều nhiều khó khăn như ngày hôm nay. Tại ông mọi đàng? Trong bài diễn văn trước Quốc hội Nga hôm 04/12/2014 và trong cuộc gặp báo chí quốc tế hôm nay (18/12/2014), ông Putin cho rằng Mỹ và các nước phương Tây luôn tìm cách kìm kẹp, muốn tiêu diệt Nga, và việc Nga can thiệp vào Ukraine chỉ là cái cớ để họ làm điều đó. Nhưng như bài ‘Putin’s people’ trên The Economist hôm 13/12/2014, cách nói đó của ông Putin không còn thuyết phục người dân Nga và họ cũng cảm thấy chán khi nghe mãi những điều đó. Không biết hiệp định tự do với Liên minh thuế quan của Nga làm lợi gì cho Việt Nam hay không? Khi loan báo có thêm những biện pháp trừng phạt mới đối với Nga hôm 16/12/2014, chính quyền Tổng thống Barack Obama đã nhấn mạnh rằng sự rối loạn kinh tế hiện tại của Nga hoàn toàn do ông Putin gây nên. Và có thể, hơn ai hết, ông cũng hiểu rằng chính ông – hay chính những hành động của ông đã đẩy nước Nga vào tình cảnh cô lập, bế tắc và khốn đốn hôm nay. Bài ‘A Wounded Economy’ trên trang The Economist viết ông Putin cùng phải hiểu rằng ông phải trả giá cho những hành động của mình. Xâm chiếm một quốc gia khác, thế giới sẽ có hành động chống lại ông. Bài viết ấy cũng cho rằng nếu ông biết dành thời gian củng cố nền kinh tế Nga, thay vì chỉ đi lo làm giàu cho người thân, bạn bè của mình, ông Puttin không yếu thế như vậy ngày hôm nay. Tiến sỹ Đoàn Xuân Lộc
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 16, 2015 8:24:03 GMT 9
Từ Staline tới PutinPutin và Stalin Nước Nga, một giải đất rộng mênh mông bát ngát chiếm 1/6 diện tích thế giới, một đất nước vĩ đại vô cùng lạnh lẽo, một dân tộc bất hạnh chịu nhiều tang thương đau khổ bị dầy vò xâu xé vì chiến tranh cách mạng, chịu nhiều thảm kịch núi xương sông máu qua những thập niên dài đằng đẵng. Mùa đông nước Nga lạnh nhất thế giới, thường là bốn, năm chục độ dưới số không. Họ có một nền văn chương giầu vào bậc nhất trên thế giới với nhiều nhà văn hào, thi hào vĩ đại như Léon Tolstoi, Dostoievsky, Pouchkine, Sholokhov… đã được cả thế giới nhất là Tây phương vô cùng ngưỡng mộ. Thời Nga hoàng, đất nước, xã hội không văn minh bằng Anh, Pháp, cuộc cách mạng tháng 2-1917 nhà lãnh đạo Kerensky lật đổ Nga Hoàng, từ tháng 3 tới tháng 5 ông làm Bộ trưởng tư pháp và chiến tranh, tháng 7 làm Thủ tướng một chính phủ tư sản. Tháng mười 1917 Kerensky bị Lénine cướp chính quyền lật đổ. Người ta thường hiểu lầm cuộc cách mạng vô sản hay cách mạng Bolshevik lật đổ Nga hoàng, thực ra chính quyền tư sản lật đổ chế độ phong kiến (tháng 2) sau đó nhóm Marxist mới cướp lại chính quyền từ tay tư sản (tháng 10). Mới đầu các lý thuyết gia Mác xít tưởng cách mạng vô sản sẽ nổ ra tại Đức, một nước công nghiệp, nơi phát sinh lý thuyết Marx Engels. Đúng lý thuyết một nước muốn tiến lên xã hội chủ nghĩa phải là một nước tư bản công nghiệp vì họ có sắn nhiều xưởng máy có khả năng sản xuất nhiều của cải vật chất tiến lên làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế cách mạng lại diễn ra tại Nga một nước nông nghiệp lạc hậu, sau đó nó cũng phát sinh tại Trung Hoa, Việt Nam … những nước lạc hậu nông vi bản. Những nước nghèo đói, xã hội thối nát là những miếng mồi ngon của Cách mạng, có người nói. “Con vi trùng Cộng Sản chỉ sinh sôi nẩy nở trong những đống rác xã hội hôi thối” Lý thuyết vô sản chỉ sống được trong những môi trường dơ bẩn thối tha, những nước Nga, Tầu, Việt Nam , Cuba … nghèo nàn đói rách, xã hội đầy bất công là môi trường thuận lợi nhất cho cách mạng. Những nước này tiến lên Xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn tư bản. Sau cách mạng 1917 nước Nga lâm vào một cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài từ 1917 cho tới 1922 giữa khoảng 4 triệu lính Hồng quân và 2 triệu rưỡi Bạch Vệ. Khi cuộc chiến kết thúc Hồng quân có một triệu hai và Bạch vệ một triệu rưỡi người tử trận. Joseph Stalin được cử làm Tổng bí thư Trung ương đảng từ 1922, ông củng cố địa vị mạnh sau khi Lénine chết năm 1924, xóa bỏ những lời kết tội của Lénine. Di chúc Lénine được soạn đầu năm 1923 trong đó có đề nghị truất Staline ra khỏi chức Tổng bí thư Trung ương đảng. Tháng 3-1923 Lénine bị liệt, cuối cùng bản di chúc không loại được Staline khi Lénine mất tháng 1 năm 2014, vợ Lénine muốn di chúc phải được đọc trước Đại hội đảng lần thứ 13, tháng 5 năm 1924. Năm 1926 Staline bị áp lực phải cho đọc bản di chúc trước kỳ họp của Trung ương đảng. Staline đã củng cố địa vị của ông ta những năm cuối thập niên 20, kết án những ai trích dẫn di chúc này coi như phản động. Sau khi Nikita Khrushchev hạ bệ Staline tại Đại hội đảng kỳ 20 năm 1956, chính phủ cho chính thức in lại di chúc. Từ 1926 bản di chúc đã được đăng đầy đủ trên báo New York Times, trong bộ Lénine tuyển tập, bản dịch tiếng Việt do Hà Nội ấn hành thập niên 70 có ghi lời Lénine; “Chúng ta không dùng đồng chí Staline nữa, đồng chí Staline là một người thô bạo” Sau năm 1924 Staline cho xóa bỏ những chỉ trích kết án của Lénine, Staline làm Tổng bí thư cho tới 1952 khi chức này bị bỏ vào năm 1952, ông ta đồng thời làm Thủ tướng từ 1941. Dưới thời Staline, lý thuyết chủ trương chỉ thực hiện xã hội chủ nghĩa trong nước thôi được chấp nhận từ 1924, trái ngược với Léon Trosky chủ trương tiến lên vô sản hóa toàn thế giới. Staline thay đổi chính sách kinh tế mới của Lénine bằng chính sách kinh tế chỉ huy tối đa, xúc tiến một giai đoạn công nghiệp hóa và hợp tác xã để biến nước Nga thành một cường quốc kỹ nghệ. Staline đã đưa nước Nga phong kiến lạc hậu lên hàng cường quốc kỹ nghệ nhưng phải trả giá quá đắt, ông đã làm đổ máu khoảng 10 triệu người. Thập niên 1930, một thập niên đẫm máu ghê tởm nhất của lịch sử nước Nga khi Staline tiến hành thực hiện Hợp tác xã nông nghiệp, làm ăn tập thể tiến lên làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa. Staline cho lệnh tiêu diệt những thành phần ăn bám, chống đối, lừng khừng, phản động …Đây là giai đoạn đoạn bắn giết tập thể theo kế họach của Staline. Sau này Tổng thống Nga Gorbachov tố cáo Staline tắm trong máu, ông cho biết đã thấy danh sách tử hình dài do Staline ký hàng loạt, trong khoảng 1937-1941 có tới 11 triệu người bị giết. Churchill viếng Kremlin năm 1942, Staline thú thực với ông đã có 10 triệu người bị đổ máu trong giai thực hiện Hợp tác xã, ông nói không thể làm khác hơn được. Phim The Soviet Story nói trong khi ấy tại Đức Hitler theo dõi và khâm phục Staline, trong một khoảng thời gian không dài lắm đã giết được nhiều người như thế. Năm 1932-33 Staline đã gây nạn đói tại Ukraine khiến 7 triệu người chết. Từ 1934-1939 Staline mớ những cuộc thanh trừng vĩ đại, đẫm máu trong đảng, trong chính phủ, quân đội, ngành tình báo….nhiều triệu người bị coi là kẻ thù của nhân dân bị tù đầy bắn giết trong các trại tập trung từ 1936-1939. Ông ta mở chiến dịch chống kẻ thù trong các khuôn mặt lớn của Đảng CS như các Bolsheviks lão thành, Léon Trosky và phần lớn các Tướng lãnh Hồng quân. Họ bị xử tử với tội danh âm mưu lật đổ chính quyền, Trosky trốn sang Mễ Tây Cơ bị Staline cho ngưòi tới ám sát năm 1940. Năm 1939 Staline đàm phán với Anh Pháp để lập liên minh chống Đức Quốc Xã nhưng thất bại, ông ký hòa ước với Đức tháng 8-1939. tháng sau Staline cho chiếm đông Ba Lan trong khi Đức chiếm phía tây Ba Lan. Hitler trở mặt mở chiến dịch Barbarossa tấn công Sô Viết ngày 22-6-1941 với đạo quân khổng lồ 180 Sư đoàn bộ binh và cơ giới (70% lực lượng) nhưng Staline lại thờ ơ không tin mấy. Quân Nga mặc dù đông nhưng trang bị lỗi thời đã bị Đức đè bẹp ngay từ đầu. Khởi đầu chiến dịch cho tới những ngày gần chót khi quân Đức đã tiến sát Mạc Tư Khoa trong gần nửa năm, họ đã bắt được khoảng 3 triệu tù binh Nga. Đầu tháng 12-1941, quân Đức chỉ còn cách Mạc Tư Khoa 18 dặm Anh (30km), cả thành phố hốt hoảng tưởng như địch sắp vào tới nơi, Hitler đắc thắng tuyên bố “Cộng Sản Nga đang dẫy chết”. Thế giới nín thở, người ta cho rằng nước Nga đã thua trận, khoảng hơn 200 Sư đoàn chủ lực đã bị đánh tan rã. Nhờ tin tình báo của Tiến Sĩ Sorge cho biết quân Nhật ở Mãn Châu sẽ không tấn Nga như đã dự trù. Staline cho rút 40 sư đoàn tại đây về tăng cường cứu nguy Mạc Tư Khoa, chuyển bại thành thắng, đẩy lui được quân Đức ra xa hằng 100km. Trận Moscow kéo dài từ tháng 10-1941 cho tới tháng 1-1942 Hitler cho tiến xuống chiếm Stalingrad phía nam, vì tiến quá xa thiếu tiếp tế, bị Nga bao vây từ tháng 8-1942 tới đầu tháng 2-1943 quân Đức đầu hàng, Staline thắng một trận lớn nhưng thiệt hại quá nặng, khoảng nửa triệu lính tử trận, nhiều hơn toàn bộ số binh sĩ tử trận của Mỹ trong suốt Thê chiến (400 ngàn). Những năm 1942, 1943 đất nước trở thành bãi chiến trường đẫm máu cho các trận đánh long trời lở đất giữa hàng trăm sư đoàn Nga-Đức. Những tháng đầu 1944, quân Đức phải rút về phía tây vì thiệt hại nặng, thiếu tiếp liệu, Staline đã đuổi được quân thù ra khỏi đất nước. Không ai ngoài Staline có thể lãnh đạo thắng lợi trận chiến mà họ gọi là Cuộc Chiến Tranh Vệ Quốc Vĩ Đại, Great Patriotic War nhưng với cái giá quá cao. Theo tài liệu do Liên Xô đưa ra là 20 triệu người trong đó một nửa là dân, một nửa là lính (sách báo Liên xô tại Saigon sau 1975) nhưng theo Tây phương tổng cộng có 27 triệu người Nga bị giết trong cuộc Thế chiến (phim Anh-Mỹ: World War II Behind Closed Doors). Ngoài ra (theo tài liệu Nga) có hơn 1,000 tỉnh, thị xã, quận huyện Nga bị phá hủy. Sự lãnh đạo sắt máu tàn bạo của Staline không kể gì tới sinh mạng người dân mà chỉ cần tiến tới mục tiêu chiến thắng. Thế chiến thứ hai gần kết thúc, Staline họp với Roosevelt, Churchill tại hội nghị Yalta, Mỹ nhường Đông Âu cho Nga để nhờ phụ Mỹ đánh quân Nhật tại Á châu vì địch còn mạnh. Staline truy kích Đức Quốc Xã đầu năm 1944 và chiếm luôn các nước Đông Âu như Lỗ Ma Ni, Bảo Gia Lợi, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức… tại những nước này quân Nga lấy hết vàng bạc, quí kim, ngoại tệ trong các ngân hàng đem về. Staline chủ trương chỉ tiến lên xã hội trong một nước nhưng cuối Thế chiến nhân đánh đuổi quân Đức rồi chiếm các nước Đông Âu dựng lên nhiều chính quyền Cộng Sản. Nhân dịp này ông ta tiến lên vô sản hóa thế giới không bằng đấu tranh giai cấp mà bằng họng súng đẻ ra chính quyền. Cuộc Thế chiến là cơ hội nghìn vàng cho CS bành trướng rất nhanh mà chính họ cũng không ngờ. Ngày 6 và 9 tháng 8-1945 Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố lớn ở Nhật, ngay sau đó một triệu rưỡi quân Nga tấn công lộ quân Quân Đông Nhật tại Mãn Châu. Sự thực Sô Viết chỉ nhẩy vào ăn có sau khi Mỹ đã ném bom nguyên tử, khoảng một triệu quân Nhật đầu hàng. Người Nga lấy kho vũ khí to lớn của Nhật kể cả xe tăng thiết giáp giao cho Mao Trạch Đông, thật là giáo vào tay giặc. Nga cũng tháo gỡ hết các nhà máy tại đây đem về nước. Giữa năm 1946 cuộc nội chiến Trung Hoa giữa Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông nổ ra, Mỹ giúp Tưởng, Nga giúp Mao.. sau mấy năm chinh chiến, Mao thắng trận, Tưởng đại bại. Ngày 1-10-1949, Mao tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, thủ đô là Bắc Bình, nay đổi là Bắc Kinh. Cuối năm 1949 Tưởng và khoảng 2 triệu Quốc Dân Đảng chạy khỏi Đại lục tới đảo Đài Loan. Thế là Staline lập được một đế quốc CS mênh mông từ Âu sang Á y như đế quốc Mông cổ của Thành Cát Tư Hãn bẩy thế kỷ trước, nước Tầu rơi vào tay CS làm lệch cán cân giữa Thế giới tự do và Xã hội chủ nghĩa Sô viết. Mặc dù đã bị Đức Quốc Xã đập cho một trận nên thân, Nga không lo tái thiết mà vẫn không ngừng bành trướng. Cuối tháng 8-1949, Nga thí nghiệm thành công bom nguyên tử lần đầu nhờ đánh cắp tài liệu Mỹ. Giữa năm 1950 Staline giúp Bắc Hàn tấn công chiếm Nam Hàn, Mỹ vào can thiệp, sau mấy năm chiến tranh tàn khốc, hai bên ký đình chiến tháng 7-1953 Staline mất ngày 5-3-1953 sau gần 30 năm cầm quyền. Nikita Khrushchev Ông là người kế vị Staline, giữ chức Bí thư thứ nhất đảng CS Nga từ 1953 tới 1964, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng hay Thủ tướng từ 1958 tới 1964. Khrushchev là người hạ bệ Staline và yểm trợ chương trình không gian Nga và có một số cải cách trong nội trị, chú trọng nâng cao đời sống nhân dân. Năm 1964 ông bị Bộ chính trị đảng lật đổ và đưa Leonid Brezhnev lên thay, xuất thân công nhân kim loại thời trẻ tuổi, thời nội chiến ông là Ủy viên chính trị, ủng hộ cuộc thanh trừng của Staline. Năm 1939 Khrushchev được Staline gửi tới Ukraine tiếp tục thanh trừng tại đó, ông làm chính ủy thời Thế chiến, sau 1945 ông về Ukraine và được Staline gọi về làm cố vấn. Nikita Khrushchev Sau 1953 ông ta dành được quyền. Khi đã diệt hết tay chân của Staline, năm 1956 trong kỳ Đại hội đảng lần thứ 20 ông ta tố cáo cuộc thanh trừng, tố cáo tội ác của Staline và bắt đầu một chính sách cai trị ít đàn áp hơn. Khruschev cải thiện cuộc sống ngưòi dân nhưng ít kết quả nhất là nông nghiệp. Từ 23-10-1956 cho tới 10-11-1956 cuộc nổi dậy của người Hung Gia Lợi tại Budapest đòi tự do bị Khrushchev cho xe tăng đàn áp dã man có khoảng 2,500 người Hung bị thiệt mạng, quân Nga có 700 người chết. Ông hy vọng nhiều ở hỏa tiễn và giảm bớt lực lượng thuộc chiến tranh qui ước, tuy cắt giảm nhưng ông cũng gặp nhiều căng thẳng trong chiến tranh lạnh nhất là vụ khủng hoảng hỏa tiễn tại Cuba trong 13 ngày căng thẳng tháng 10-1962 Mỹ-Nga về hỏa tiễn Xô viết đặt tại Cuba đã được đưa lên truyền hình trên toàn thế giới và đã suýt đưa tới chiến tranh nguyên tử toàn diện. Để trả đũa vụ Mỹ xâm lược Vịnh Con Heo năm 1961 và Mỹ đặt hỏa tiễn tại Thổ Nhĩ Kỳ, Ý mà Moscow nằm trong tầm, Khrushchev theo yêu cầu của Cuba đặt hỏa tiễn mang đầu đầu đạn hạt nhân tại đây để ngăn ngừa Mỹ xâm phạm như vụ Vịnh Con Heo sau khi ông ta họp mật với Fidel Castro tháng 7. Tháng 10-1963 Mỹ đang có tranh cử Tổng thống, máy bay do thám U-2 khám phá ra hỏa tiễn tầm trung nguyên tử tại Cuba , TT Kennedy làm dữ cho ngăn chận tầu Nga mang hỏa tiễn tới và buộc phải tháo gỡ hỏa tiễn đã gắn tại Cuba mang về Nga. Sau cuộc thương thuyết căng thẳng đạt tới thỏa thuận giữa Kennedy và Khrushchev, Nga tháo gỡ hỏa tiễn tại Cuba mang về có Liên Hiệp Quốc giám sát, ngược lại Mỹ sẽ phải thỏa thuận không được xâm lược Cuba mà không tuyến chiến. Mỹ cũng bí mật tháo gỡ hỏa tiễn tại Ý, Thổ Nhĩ Kỳ đem về nhưng không tuyên bố cho dân biết. Sau đó Mỹ-Nga thỏa thuận thiết lập đường giây điện thoại nóng giữa Moscow và Washington để ngăn ngừa Thề chiến mà cả hai bên cùng sợ, tình hình đã dịu sau đó. Năm 1949 Nga thỏa thuận sẽ giúp Trung Cộng chế tạo bom nguyên tử, sau 1956 khi Khrushchev hạ bệ Staline khiến Nga-Hoa lạnh nhạt rồi căng thẳng, Mao tức giận vì Khrushchev không hỏi ý kiến Mao trước, ông này âm mưu phá Khrushchev đang muốn hòa hoãn với Mỹ. Nga cho rút các chuyên viên nguyên tử về nước 1959. Năm 1960 hai bên công khai chỉ trích, xỉ vả nhau ngày càng dữ dội, Trung Cộng chỉ trích Nga là xét lại sự va chạm hai bên gia tăng.Ngày 16-10-1964 Trung Cộng thành công cho nổ trái bom nguyên tử đầu tiên nhờ đánh cắp tài liệu Mỹ, cùng năm đó Khrushchev bị Leonid Brezhnev và Trung ương đảng lật đổ tháng 10 khi ông vắng mặt, người ta cũng cho là Mao lật đổ Khrushchev và cho nổ bom nguyên tử. Leonid Brezhnev Ông giữ chức Tổng bí thư Trung ương đảng Sô Viết từ tháng 10-1964 cho tới khi chết tháng 11-1982, tổng cộng 18 năm, làm Tổng bí thư lâu nhất sau Staline, ông giữ chức Chủ tịch Liên Bang Sô viết từ tháng 6-1977 tới tháng 11-1982. Dưới thời Brezhnev ảnh hưởng Nga trên thế giới sút giảm mạnh phần vì phát triển quân sự đánh dấu thời kỳ sự trì trệ xã hội, kinh tế của Liên bang Xô viết. Leonid Brezhnev Tốt nghiệp kỹ sư ngành luyện kim tại Ukraine , ông tham gia Thanh niên xung phong năm 1923, sau đó vào quân đội tham gia Thế chiến Thứ hai. Năm 1946 giải ngũ khi mang cấp bậc Trung tướng, năm 1952 ông trở thành Ủy viên Trung ương đảng, năm 1964 kế vị Khrushchev trong chức Bí thư thứ nhất trong khi Kosygin kế vị chức Thủ tướng. Ông thường hỏi ý kiến các cộng sự trước khi hành động nhưng lế lối cầm quyền thiếu cải cách kinh tế khiến đưa tới suy thoái giữa thập niên 1970, thời kỳ bị đình trễ. Chi phí quốc phòng lên cao vì chạy đua vũ trang khoảng 12.5% tổng sản lượng, các nhà lãnh đạo Nga giai đoạn này nói chung già nua thiếu khả năng khiến Tổng sản lượng kinh tế sút giảm so với Tây phương. Theo lượng giá CIA, từ 1960-1965 tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Nga là 4.8, từ 1970-1975 tụt hậu còn 3.00, từ 1980-85 tụt xuống còn 1.8. Kinh tế gia Samuelson nói trong cuốn Economics trang 830 (in 1970). “Thập niên 1970 cũng như thập niên 1960 Tổng sản lượng kinh tế của Nga vào khoảng một nửa Tổng sản lượng Mỹ” (In the 1970s, as in the 1960s, U.S.S.R real GNP is about one-half United States real GNP)Brezhnev thúc đẩy hòa hoãn với Tây phương theo lời kể của Henry Kissinger trong White House Years (chương 8, The Agony of Vietnam tr. 276-311) , năm 1969 Nga muốn đàm phán với Mỹ về tài giảm binh bị. Cuối tháng 5-1972 TT Nixon sang Moscow ký với Brezhnev hiệp ước tài giảm binh bị vũ khí hạt nhân. Tuy thế năm 1968 ông ra Thuyết Brezhnev cương quyết trấn áp một nước trong khối xã hội chủ nghĩa một khi có ý muốn chuyển qua tư bản, nó không chỉ liên quan tới nước đó nhưng liên hệ tới cả khối CS. Cuối năm 1979 Nga đưa quân qua Afghanistan để giúp chính phủ thân Nga chống lại cuộc nổi dậy, cuộc chiến sa lầy 9 năm cho tới đầu năm 1989 đã khiến 14,453 lính Nga bị giết. Trong No More Vienams trang 214 (in 1985) Cựu Tổng thống Nixon khâm phục Nga nói trừ Afghanistan họ đưa quân đàn áp phong trào chống chính phủ bù nhìn Nga, Moscow đã thống trị được 9 nước kể từ 1974 mà không phải gửi quân vào. Thật vậy Sô viết chỉ đứng ngoài dựt giây đã chiếm được nhiều nước. Thuyết Brezhnev được tuyên bố để biện minh cho việc Nga đưa quân sang Tiệp Khắc tháng 8-1968 đàn áp cuộc nổi dậy tại Prague cũng như sự đàn áp tại Hung gia Lợi từ năm 1956. Khrushchev bị lật đổ phần lớn vì ông không quan tâm tới các Ủy viên cao cấp trong đảng và chính phủ, thời Brezhnev nước Nga do một tập thể cai trị từ thập niên 60 cho tới 70. Quan hệ với Trung Cộng ngày càng xuống, hai bên đã chạm súng nhau tại biên giới tháng 3-1969, Nga có 59 người Thiệt mạng, Trung Cộng từ 200 tới 800 người, cả hai bên đều dấu kín chuyện này. Khrushchev mới đầu trợ giúp Bắc Việt trong tình đồng chí nhưng khi chiến cuộc leo thang ông kêu gọi các lãnh đạo BV từ bỏ con đường giải phóng miền Nam . Ông từ chối giúp BV và bảo họ thương thuyết với Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc. Sau khi Khrushchev bị lật đổ, Brezhnev tiếp tục giúp CSVN dấn thân vào cuộc chiến đẫm máu, nhất là thập niên 70, Nga viện trợ quân sự cho BV rất nhiều để chiếm cho được miền nam VN và toàn cõi Đông dương. Yuri Andropov Hai ngày sau khi Brezhnev chết, Andropov được bầu làm Tổng bí thư đảng CS Sô viết từ tháng 11-1982 cho tới khi chết 14 tháng sau đó. Từ 1967 Andropov làm Giám đốc KGB, đây là lần đầu tiên một Giám đốc KGB được bầu làm Tổng bí thư. Trong thời gian tại chức, ông đã cách chức 18 bộ trưởng, lần đầu tiên những sự kiện trì trệ kinh tế hoặc khoa học trở ngại tiến bộ được cho phổ biến và chỉ trích. Yuri Andropov Mặc dù nhận thấy chiến tranh Afghanistan có thể là sai lầm nhưng ông không thành tâm nghĩ tới thương thuyết để rút quân. Dưới thời Andropov quan hệ Nga-Mỹ xấu đi, họ không muốn hoà hoãn, Tổng thống Mỹ Ronald Reagan coi Xô Viết là một Đế quốc xấu, nguy hiểm. Một việc đáng lưu ý trong thời gian làm Tổng bí thư, ông đã trả lời thư một cô gái Mỹ 10 tuổi ở Maine , mời cô sang chơi với trẻ con Nga tại Moscow . Trong khi đó đàm phán tài giảm binh bị hỏa tiễn tầm trung tại Âu châu bị Nga hủy bỏ. Chiến tranh lạnh lại căng thẳng khi chiến đấu cơ Nga bắn rơi một máy bay hàng không Đaị Hàn từ Anchorage , Alaska Mỹ tới Hán Thành ngày 1-9-1983 bay lạc vào không phận Nga khiến 269 hành khách tử nạn. Chính Nga đã tìm được hộp đen nhưng giả vờ nói không biết cho tới 1992 Yeltsin công bố bí mật này. Konstantin Chernenko Andropov chết tháng 2-1984 sau 15 tháng cầm quyền, bốn ngày sau Chernenko được bầu làm Tổng bí thư lên thay trái với ý của Andropov muốn Gorbachev thay ông. Chernenko là Tổng bí thư thứ năm của Sô viết, Gorbachev là nhân vật thứ hai sau Chernenko, thường chủ toạ các phiên họp Bộ chính trị khi Chernenko bị bệnh, về sau sức khỏe suy yếu, Gorbachev luôn thay thế ông. Chernenko được coi là người trở lại chính sách thời Brezhnev, ông thực hiện một thay đổi nhân vật dưới quyền là cất chức Tổng tham mưu trưởng Thống chế Ogarkov, ông này cổ võ tiết giảm tiêu xài để tăng chi phí nghiên cứu và phát triển quân sự và thay bằng Thống chế Akhromeyev. Về đối ngoại ông ký hiệp thương với Trung Cộng, mặc dù kêu gọi hòa hoãn nhưng ông ta không giảm chiến tranh lạnh với Mỹ . Chernenko chết bệnh 10-3-1985 sau 13 tháng cầm quyền. Mikhail Gorbachev Lên thay Chernenko năm 1985, Gorbachev là người lãnh đạo Liên Bang Sô Viết cuối cùng, ông giữ chức Tổng bí thư đảng CS Nga từ 1985-1991, ngưởi đứng đầu nhà nước từ 1988 cho tới khi giải thể năm 1991. Gorbachev sinh năm 1931 là Tổng bí thư duy nhất sinh sau Cách mạng tháng mười. Tốt nghiệp đaị học luật, chính sách của ông gồm Mở rộng và Tái cấu trúc (Đổi mới) và họp Thượng đỉnh với TT Ronald Reagan của Mỹ với khuynh hướng tài giảm binh bị chấm dứt chiến tranh lạnh. Ông chủ trương bỏ vai trò đảng cai trị đất nước đưa tới giải thể Liên bang Sô viết. Gorbachev được giải Nobel hòa bình năm 1990 và nhiều giải thưởng hoà bình, tiến sĩ danh dự. Mikhail Gorbachev Ông cải tổ đảng trì trệ và kinh tế bằng cởi mở, tái cấu trúc, đổi mới, dân chủ hóa và đẩy mạnh tiến bộ kinh tế tại Đại hội đảng thứ 27 năm 1986, mục đích làm sống lại kinh tế Nga sau những năm trì trệ thời Brezhnev. Gorbachev nói kinh tế trì trệ cần tái tổ chức, cải cách chính gồm: Cải cách trong nước Mục đích làm sống lại nền kinh tế, ông chủ trương cải tiến kỹ thuật cấp tốc, tăng sản xuất kỹ nghệ, canh nông, cải tiến chính trị Sô viết cho hữu hiệu hơn. Theo ông muốn cải tổ kinh tế phải cải tổ chính trị xã hội, tháng 5-1985 ông cổ võ canh tân, thay ngoại trưởng Andrei Gromyko người đã giữ chức vụ này 28 năm qua. Tái cấu trúc (perestroika) Người ta cũng thường gọi là đổi mới, nó là cơ bản để canh tân giải quyết kinh tế trì trệ, năm 1986 được phác họa tại Đại hội đảng kỳ 27, phát huy dân chủ, chính quyền tự chủ, chỉ trích, phê bình mọi cơ cấu xã hội. Tháng 1-1987 Gorbachev đề nghị cho nhiều ứng cử viên tham gia bầu cử, những viên chức chính phủ không cần có đảng tịch, không cần phải là đảng viên (CS) Cởi mở Gorbachev chủ trương cho người dân quyền tự do ngôn luận, bãi bỏ kiểm duyệt, thả tù chính trị, tù bất đồng chính kiến, ông chấp nhận cho người dân được quyền chỉ trích ông và chính phủ . Năm 1988 ông thực hiện một cải cách lớn nhất từ thời Lenine, đó là chính sách kinh tế mới ra luật cho tư nhân được quyền sản xuất, buôn bán, hoạt động ngoại thương. Mới đầu luật cho đánh thuế cao và hạn chế thuê nhân viên về sau có xét lại để tránh gây trở ngại cho lãnh vực kinh tế tư. Từ đó cửa hàng, cửa tiệm tư, hãng xưởng bắt đầu hoạt động, cho tổ chức nghiệp đoàn. Hoạt động dịch vụ tự trị được khuyến khích để mong đầu tư nước ngoài vào làm ăn. Tháng 6-1988 Gorbachev cho cải cách cấp tiến cắt giảm quyền kiểm soát của đảng CS trong chính phủ, tháng 3-1989 cho bầu cử Quốc hội tự do trên toàn liên bang, đây là cuộc bầu cự tự do lần đầu tiên kể từ 1917 tại Liên bang Xô viết. Ngày 25-3-1990 Gorbachev được các Đại biểu bầu làm Tổng thống liên bang Sô viết với 59% phiếu bầu, Quốc hội họp lần đầu ngày 25-5 được đưa lên truyền hình bị chỉ trích, người dân muốn cải tổ nhanh hơn nữa. Trong cuộc bầu cử nhiều ứng cử viên của đảng CS thất cử, Yeltsin được bầu ở Moscow và trở thành chính khách nổi luôn chỉ trích Gorbachev Đối ngoại. Gorbachev cải thiện bang giao, thương mại với Tây phương , giảm cường độ chiến tranh lạnh. Năm 1986 ông tiến xa trong quan hệ quốc tế, đề nghị hủy bỏ hỏa tiễn tầm trung tại Âu châu và chiến lược của ông để hủy bỏ vũ khí nguyên tử vào năm 2000. Ngày 11-10-1988 Gorbachev và TT Mỹ Reagan họp tại Iceland bàn về tài giảm vũ khí nguyên tử tầm trung. Họ thỏa thuận rời bỏ 100 hỏa tiễn tầm trung khỏi Âu châu, sẽ loại bỏ tất cả vũ khí nguyên tử trong vòng 10 năm vào 1996 thay vì 2000 như Gorbachev lần đầu đề nghị, thực hiện ký kết Thỏa ước hỏa tiễn tầm trung năm 1987. Tháng 2-1988 ông cho rút khỏi Afghanistan , tổng cộng có 28,000 người Nga bị giết từ 1979-1989. Một sự kiện vô cùng quan trọng là Gorbachev. tuyên bố bãi bỏ học thuyết Brezhnev (nêu trên) cho phép các nước Đông Âu tự do lựa chọn số phận của họ. Ngày 4-6-1989 Ba Lan cho bầu cử tự do, chính phủ CS bị hạ bệ, Nga bỏ thuyết Brezhnev khiến dân Đông Âu nổi dậy suốt năm 1989 khiến cho chủ nghĩa CS bị hủy bỏ. Cuối năm 1989 cuộc nổi dậy tại thủ đô các nước Đông Âu từ nước này sang nước khác vứt bỏ chế độ CS xây dựng tại đây từ sau Thê chiến thứ hai. Cuộc cách mạng dân chủ tự do bắt đầu từ Ba Lan và sau đó Hung Gia Lợi, Đông Đức, Bảo Gia Lợi, Tiệp Khắc, chỉ có Lỗ Ma Ni (Roumanie) là nước duy nhất dùng bạo lực lật đổ chính quyền Cộng sản, biến cố Thiên an Môn năm 1989 ở Bắc kinh thất bại. Thời kỳ chiến tranh lạnh chấm dứt, Gorbachev được cấp giải Nobel hòa bình 15-10-1989 và nhiều giải thưởng của các nước, nhiều tổ chức trên thế giới. Ngày 9-11 dân Đông Bá Linh tràn qua Tây Bá Linh Giải thể Liên bang Xô viết Mặc dù Gorbachev cải tổ tự do dân chủ cho Sô Viết và Đông Âu nhưng kinh tế đi gần tới khủng hoảng , cuối thập nên 80 thực phẩm khan hiếm phải dùng tem phiếu như như thời chiến. So với 1985 khiếm ngạch từ 0 lên 109 tỷ rúp, dự trữ vàng giảm từ 2,000 xuống còn 200 tấn, nợ bên ngoài từ zero tới 120 tỷ đô la. Vả lại việc dân chủ hóa Sô viết và Đông Âu phá hủy quyền lực của Đảng CS Nga cũng như của Gorbachev, các nước thuộc địa đòi trả độc lập nhất là ba nước Lithuania, Latvia, và Estoniađã bị Staline sáp nhập vào Nga năm 1940. Năm 1989 người Tây phương gọi là cuộc Cách mạng 1989 (Revolutions of 1989) các nước đông Âu từ bỏ chế độ CS và trở lại chế độ dân chủ tự do của họ trước 1945. Ngoài ra các nước trong Liên bang, thuộc địa cũ từ thời Nga Hoàng tuyên bố độc lập, Liên Bang Sô viết tan như xác pháo cuối năm 1991. Mười lăm (15) nước tuyên bố độc lập tách khỏi Liên bang Xô viết là Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Lithuania, Moldova, Russia, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraine, và Uzbekistan. Sự ly khai này đã khiến Nga mất một nửa dân số, trước là 290 triệu nay chỉ còn 145 triệu. Cách đây 72 năm Lenine đem lý thuyết Marx Engels về thực hiện cuộc Cách mạng vô sản long trời lở đất năm 1917 và bây giờ Gorbachev thực hiện cuộc Cách mạng 1989, giải tỏa xiềng xích chế độ CS áp bức, đem lại dân chủ tự do cho Nga, cho các nước Đông Âu và các nước thuộc địa cũ của Nga từ thuở xa xưa. Gorbachev là người có công lớn với nhân loại, ông đã cứu nước Nga, các nước Đông Âu, các thuộc địa cũ của Liên bang, đem lại tự do bác ái cho nhân dân. Gorbachev người có ảnh hưởng nhất thế giới thập niên 80, đã thay đổi cả một kỷ nguyên, một vĩ nhân của thế kỷ. Chính ông ta đã đào huyệt chôn vùi chế độ CS tại Nga, Đông Âu và cả trên thế giới mặc dù nay các nước CS da vàng còn thoi thóp thở nhưng chúng cũng đang từ từ giẫy chết. Tháng 8-1991, Ủy ban nhà nước tình trạng khân trương đưa quân nhẩy về Moscow làm đảo chính theo kiểu Nguyễn Chính Thi năm 1960 tại Sài Gòn để lật đổ Gorbachev, ông này bị giam ba ngày tại Crimea . Yeltsin, Tối cao liên bang (Chủ tịch quốc hội) đã đứng trên một chiếc xe tăng hô hào nhân dân chống đảo chính, ông đã dẹp được cuộc phản loạn, nhân dân biểu tình chống quân đảo chính, Gorbachev được cứu tại Crimea. Cuộc đảo chính của nhóm CS bảo thủ thất bại, người dân không muốn trở lại chế độ hà khắc, tàn bạo, đây là cái quẫy mình cuối cùng của bọn tàn dư CS Nga trước khi chết. Boris Yeltsin Sự nghiệp chính trị Gorbachev suy thoái, Yeltsin dần dần nắm được quyền hành từ bộ này sang bộ khác kể cả điện Cẩm Linh. Ngày 6-11-1991 ông ra nghị quyết bãi bỏ tất cả mọi hoạt động của Đảng CS trên đất Nga. Mới đầu ông là người ủng hộ Gorbachev, Yeltsin nổi lên khi thực hiện Tái cấu trúc, đổi mới, ông thành đối thủ chính trị mạnh nhất của Gorbachev. Ngày 29-5-1990 Yeltsin được bầu Chủ tịch Tối cao Sô viết (Chủ tịch Quốc hội). Ngày 12-6-1991Yeltin được bầu theo phổ thông đầu phiếu làm Tổng thống Cộng hòa Xã hội liên bang Sô Viết Nga (Russian Soviet Russian Soviet Federative Socialist Republic), lúc đó là một nước trong liên bang 15 nước. Khi Gorbachev từ chức và Liên bang Số viết giải tán ngày 25-12-1991, Yeltsin giữ chức Tổng thống liên bang Nga, năm 1996 ông tái đắc cử. Boris Yeltsin Ông chủ trương cải tổ kinh tế chỉ huy xã hội chủ nghĩa tới một nền kinh tế thị trường tự do, dưới thời Yeltsin, nhiều suy thoái như lạm phát, tham nhũng, kinh tế khủng hoảng và nhiều vấn đề chính trị xã hội ảnh hưởng nặng nước Nga. Năm 1992 vật giá tăng vọt, thập niên 90 tổng sản lượng suy giảm còn một nửa, thất nghiệp dữ dội, lạm phát phi mã khiến bao nhiếu người mất hết tiền tiết kiệm, mười triệu người Nga lâm vào cảnh bần hàn. Ông tiếp tục giữ chức Tông thống cho tới 31-12-1999, tỷ lệ ủng hộ xuống không còn gì trong những ngày cuối cùng, một loạt những khủng hoảng kinh tế chính trị khiến Yeltsin không lấy lại được uy tín lúc ban đầu. Ông từ chức ngày 31-12-1999, Thủ tướng Vladimir Putin trở thành tổng thống lâm thời cho tới khi cuộc bầu cử mới được tổ chức ngày 26 tháng 3, 2000. Vladimir Putin. Ông giữ chức Thủ tướng Nga từ tháng 8-1999 tới tháng 12-1999, sau đó làm Tổng thống lâm thời do Yeltsin trao lại từ cuối 1999 tới tháng 3-2000. Putin đắc cử Tổng thống 26-3-2000 với 53% số phiếu nhiệm kỳ đầu 2000-2004 và tái đắc cử nhiệm kỳ hai 2004-2008 đồng thời với hai nhiệm kỳ của TT Mỹ Bush con. Ông lại làm Thủ tứớng từ 2008-2012 trong khi Dmitry Medvedev, Thủ tướng của ông lên làm Tổng thống. Putin cũng là chủ tịch đảng Thống nhất Nga, đã phục vụ cho KGB 16 năm, lên tới trung tá trước khi hoạt động chính trị. Ông tham gia chính phủ Yeltsin và lên rất nhanh. Vì hiến pháp chỉ cho làm Tổng thống hai nhiệm kỳ ông không thể ra ứng cử tiếp năm 2008. Dmitry Medvedev, Thủ tướng của Putin đắc cử Tổng thống 2008 và cử Putin làm Thủ tướng. tháng 9-2011 sau khi luật thay đổi tăng nhiệm kỳ Tổng thống từ 4 lên 6 năm, Putin cho biết ông sẽ ứng cử lần thứ ba (2012) khiến nhân dân biểu tình chống đối tại nhiều thành phố Nga. Ông lại thắng cử Tổng thống năm 2012 (63.6% số phiếu) và sẽ cầm quyến 6 năm, cử Dmitry Medvedev làm Thủ tướng. Đây chỉ là một trò hề bầu cử, ông Tổng thống xuống làm Thủ tướng rồi ông Thủ tướng lên làm Tổng thống, nước Nga trở thành một hí trường cho hai anh hề diễn tuồng bầu bán ma mãnh. Putin bị trong nước chống đối, bị thế giới coi là dân chủ giả hiệu, người ta cho là nền dân chủ lai căng này sẽ từ từ đưa tới độc tài, năm 2014 Nga bị truất khỏi G-8 vì sáp nhập bán đảo Crimea vào nước họ. Ngày 21-2-2014 Quốc hội Ukraine lật đổ Tổng thống thân Nga Yanukovych và cử TT lâm thời Turchynov lên thay. Mỹ và Tây phương công nhận chính phủ mới, Nga phủ nhận. Hai ngày sau Putin đưa vũ khí lén giúp bọn gốc Nga chiếm bán đảo Crimea, cuối tháng 3 họ tổ chức bầu cử ma mãnh dưới sự yểm trợ xe tăng để sáp nhập bán đảo này vào Nga. Kinh tế tốt đẹp trong thời kỳ Putin làm Thủ tướng và Tồng thống lần đầu 1999-2008 lợi tức thực sự tăng 2.5 (hai lần rưỡi), lương bổng thực sự tăng gấp ba, thất nghiệp, nghèo nàn giảm một nửa, nhân dân mãn nguyện. Nhiệm kỳ trước của Putin được đánh dấu kinh tế tăng trưởng, kinh tế Nga tiến một mạch 8 năm, Tổng sản lượng tăng 600% , chính phủ giảm thuế. Chính sách năng lượng khiến Nga trở thành siêu cường năng lượng. Putin trợ giúp kỹ nghệ high tech như Quốc phòng, nguyên tử, đầu tư ngoại quốc gia tăng khiến kỹ nghệ xe hơi tăng trưởng. Nay đầu tư vừa giảm 2.5% vì Ukraine khủng hoảng, nước Nga khác thường trong số những nền kinh tế lớn ở chỗ họ dựa vào lợi tức năng lượng dầu, khí để tăng trưởng. Đất nước được thiên nhiên ưu đãi có đầy tài nguyên thiên nhiên gồm dầu, khí đốt thiên nhiên, kim loại quí…chiếm phần lớn hàng xuất khẩu Nga. Những thập niên 2000 năng lượng nhiên liệu đã thay đổi bộ mặt nước Nga trở thành siêu cường năng lượng như năm 2012 dầu và khí đốt chiếm 16% Tổng sản lượng, chiếm 52% lợi tức ngân sách liên bang và chiếm hơn 70% hàng xuất cảng. Kỹ nghệ quân sự Nga rất cao, năm 2013 vũ khí xuất cảng là 15 tỷ (Mỹ kim) đứng thứ hai sau Mỹ gồm máy bay chiến đấu, phòng không, tầu chiến, tiềm thủy đĩnh … Từ 2000-2012 xuất cảng dầu khí khiến đời sống người dân tăng, lợi tức tăng 160% nhưng lợi tức phân phối không đều trong khi 110 nhà tỷ phú chiếm giữ 35% tiến của trong nước. Nga cũng bị nạn tiền thất thoát ra ngoại quốc, từ 2000-2012 mất 880 tỷ Mỹ kim. Nay kinh tế Nga bị suy thoái từ khi sáp nhập bán đảo Crimea, bị Mỹ và Tây phương trừng phạt kinh tế, thị trường chứng khoán lao xuống vực thẳm, đồng Rúp mất giá gần một nửa. Nay giá dầu thô tụt xuống dưới 50 đô so với trên 100 đô nửa năm trước khiến kinh tế Nga càng khốn đốn vì họ sống bằng bán dầu, năng lượng. Nga hoàn toàn trái ngược với nước Nhật, diện tích Nga nay 17 triệu Km vuông gấp 44 lần nước Nhật (337 ngàn Km2), Nga có rừng vàng biển bạc trong khi Nhật bị thiên nhiên bạc đãi, không có tài nguyên nhưng nhờ trí thông minh, tài năng họ đã chế tạo được các hàng xuất khẩu tuyệt hảo bán khắp năm châu. Kỹ nghệ đã đưa Nhật lên hàng kinh tế lớn thứ nhì trên thế giới thập niên 80, 90 và 2000, chỉ mới xuống hàng thứ ba những năm gần đây. Putin có công đào xới cái “của trời cho” đem xuất cảng đưa đất nước lên hàng cường quốc kinh tế thứ 8 mà trước đó đứng hàng thứ mấy chục. Cuối thập niên 90 sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ, 15 nước trong Liên bang đòi trả độc lập, Đông Âu từ bỏ chế độ CS, nưóc Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, Tổng sản lượng suy giảm còn 50%, lạm phát gia tăng. Thời mà đế quốc Sô viết đã từng chọc trời khuấy nước nay còn đâu? Dậu đổ thì bìm bìm leo, nhiều nước nhất là Mỹ, Tây phương khinh rẻ nước Nga hết thời, có người nói đừng coi thường Nga họ vẫn còn cả một kho vũ khí cũ. Đó cũng là lý do thúc đẩy Putin vùng vẫy để lấy lại chút hào quang quá khứ mà nhân dân cũng đồng ý để ông quậy cho đỡ tủi. Ông dật dây dựng lên một chính quyền thân Nga tại Ukraine trước đây để từ từ kéo họ về Nga nhưng thất bại, người Ukraine ác cảm với Nga vì họ đã từng bị Staline giết bẩy triệu người năm 1933. Họ lật đổ Tổng thống thân Nga khiến Putin nổi giận sáp nhập bán đảo Crimea vào Nga trắng trợn Khi bị Tây phương trừng phạt kinh tế, Putin quá giận mất khôn tuyên bố Nga là nước duy nhất có thể biến Hoa Kỳ thành tro bụi. Nay bất lực trước đòn kinh tế Putin chỉ còn nước hù dọa cho đỡ tủi. Đe dọa chỉ là vũ khí của kẻ yếu, nay kho vũ khí cũ đã quá lỗi thời chẳng dọa được ai, cũng chẳng đánh được ai. Ngay cả những tay trùm CS như Staline, Khrushchev, Brezhnev .. đã từng hét ra lửa, mửa ra khói cũng không dám nói vậy. Putin lợi dụng chính sách đối ngoại mềm yếu của Obama để lộng hành, nhưng hai năm nữa, Cộng hòa sẽ lên nắm quyền, khi ấy ông sẽ không dại gì mà vuốt râu hùm. Có vài người nịnh Putin, thổi ông lên hàng người có nhiều quyền lực nhất thế giới nhưng quyền lực ở chỗ nào? Nay dân số Nga chỉ còn một nửa (145 triệu, List of countries by population Wiki) sau khi Liên bang Sô viết tan rã đứng hàng thứ 9 trên thế giới. Tổng sản lượng Nga thập niên 60, 70 bằng nửa của Mỹ như Samuelson đã nói trên, nay TSL Nga (2,000 tỷ) đứng hàng thứ 9, chỉ bằng gần 1/8 của TSL Mỹ (16,7 68,000). Ngân sách quốc phòng Nga (88 tỷ) hiện đứng thứ ba trên thế giới nhưng chỉ bằng 1/7 của Mỹ (640 tỷ), diện tích Nga từ 24 triệu Km2 còn 17 triệu Km2. Nhiều người cho rằng Putin muốn trở lại thời chọc trời khuấy nước của Liên bang Xô viết xa xưa nhưng than ôi thời oanh liệt nay còn đâu? Muốn vậy trước hết phải chiếm lại 15 nước thuộc địa cũ để đưa dân số từ 145 triệu trở lại 290 triệu và Tổng sản lượng lên hàng thứ hai, thứ ba, sau đó chiếm lại Đông Âu để tái lập giang sơn nhưng chỉ có những thằng điên mới mang ảo tưởng như vậy, làm sao có thể quay ngược bánh xe lịch sử? Liên bang Xô viết, cái nôi của CS đầu hôm sớm mai tan như xác pháo, nhà Phật gọi là vô thường, chẳng có gì là thường còn, có sinh thì có diệt. Có lẽ ông Putin nên nghĩ tới kế hoạch phục hưng nền kinh tế đang suy thoái thì hay hơn là đào xới “của trời cho” đem bán, miệng ăn núi lở, ăn mãi nó cũng phải hết. Các nước Nhật , Nam Hàn không có nguyên liệu, họ có tài năng làm ra của cải vật chất không phải phụ thuộc vào thị trường năng lượng như Nga. Tương lai kinh tế nước Nga thật là ảm đạm, một ngày nào Putin cũng sẽ quan tâm tới chính sách xét lại con đường sai lầm mà ông hằng theo đuổi một cách vô ích. Trọng Đạt
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 9, 2015 8:32:10 GMT 9
Ukraine 1932-1933: trận đại tàn sát kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại của StalineMùa đông năm 1932-33 Ukraine, quốc gia nhỏ bé phía tây nước Nga đã trải qua một nạn đói khủng khiếp khiến cho bẩy triệu người chết thảm, đây là cuộc đại tàn sát lớn nhất trong lịch sử nhân loại do Staline ra tay trừng trị nước chư hầu này vì đã dám đòi độc lập và chống lại Xô viết. Mặc dù số người thiệt mạng khổng lồ như thế nhưng trang sử ghê tởm nhất của Xô Viết đã không được nhân loại biết tới trong suốt 70 năm. Người ta khen Staline đã khéo giấu kín được tội ác tầy trời này trước mắt cả thế giới, cho tới nay trận đại tàn sát này cũng ít được biết tới, nó còn được gọi là The forgotten Holocaust, có thể người ta tưởng nó chỉ là chuyện nội bộ của Liên bang Xô Viết. Dưới thời Lenine Ukraine diện tích bằng nước Pháp, một đất nước có nhiều ruộng nương mầu mỡ đã bị Nga hoàng cai trị 200 năm. Năm 1917 Nga Hoàng sụp đổ trước cuộc cách mạng vô sản do Lénine lãnh đạo, Ukraine lợi dụng thời cơ đòi tự trị, tuyên bố độc lập, thành lập nước Cộng hòa nhân dân, thủ đô Kiev. Thế nhưng nền tự trị này quá ngắn ngủi, cuối 1917 Lénine tuyên bố các lãnh thổ xưa do Nga hoàng cai trị nhất là Ukraine mầu mỡ đều phải nằm trong Liên bang Xô Viết. Trong 4 năm liên tiếp Quân đôi Quốc gia Ukraine phải chiến đấu chống Hồng quân Bolshevik, chống lực lượng Bạch Vệ trung thành với Nga Hoàng và cả quân xâm lược Đức và Ba Lan. Năm 1921 Xô Viết thắng, Tây Ukraine chia cho Ba Lan, Rumani, Tiệp Khắc. Xô Viết vơ vét thóc gạo về cứu đói Moscow và các thành phố lớn bên Nga. Kế đó tự nhiên Ukraine lại bị một trận hạn hán gây nạn đói khiến người dân căm phẫn Lénine và Xô Viết. Lénine bèn nới tay để xoa dịu nhân dân Ukraine, thôi lấy thóc gạo, khuyến khích tự do buôn bán. Nhân đó người dân Ukraine muốn tự do, độc lập, khôi phục văn hóa nghệ thuật, phong tục.. cũ. Cuộc chiến kỳ lạ Lénine mất năm 1924, Staline kế vị, nhà lãnh đạo này được coi là một trong vài con người khát máu nhất của thế kỷ. Bộ Lenine Tuyển Tập có ghi lại một bức thư của Lénine, ông ta đã nhắn nhủ “chúng ta không nên dùng đồng chí Staline, đồng chí Staline là một người thô bạo” Staline không chấp nhận phong trào đòi độc lập của Ukraine, ra lệnh đàn áp thẳng tay y như đường lối áp dụng tại Nga. Năm 1929 Staline cho bắt giam 5,000 trí thức, các nhà khoa học gia Ukraine, kết tội phản loạn đem xử bắn hoặc đầy đi Siberia. Đầu thập niên 30, Staline thực hiện kế họach hợp tác xã nông nghiệp để tiến lên làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa trong đó tư sản bị lọai bỏ, ngày nay đường lối canh tác tập thể này được coi như tồi tệ nhất nhưng hồi đó Xô Viết ép dân theo vì lý thuyết Marx bắt phải như vậy. Giới phú nông Ukraine mà họ gọi là Kulaks chỉ chiếm từ 4% tới 5% dân số, phú nông được định nghĩa có từ 24 hoặc trên 24 mẫu đất và có thuê người làm và được coi thành phần nguy hiểm. Ngày 1-5-1930 Đảng Cộng Sản Nga bắt đầu thực hiện Hợp tác xã nông nghiệp, một phần của Kế họach ngũ niên (Five Year Plan), nông dân Nga ít chống đối vì họ đã có truyền thống canh tác cộng đồng từ lâu, đất đai thuộc về làng xã (Mir) không thuộc về cá nhân như tại Ukraine nên họ dễ thích hợp với Hợp tác xã của Cộng Sản. Ngày 30-7-1930 nhà nước hủy bỏ làng xã. Vùng Ukraine trái lại người dân làm ăn cá thể, 80% dân chúng tại thôn quê có ruộng đất riêng từ xưa nên họ chống đối Hợp tác xã ra mặt, Moscow mới đầu tạm thời nhượng bộ. Người Ukraine giết gia súc, ngựa, heo, cừu… dần dần trước khi gia nhập hợp tác xã khi ấy nhà nước ra lệnh tử hình ai giết gia súc. Những người chống đối Hợp tác xã bị lưu đầy, chính quyền Xô Viết mở tuyên truyền kêu gọi nhân dân Ukraine ủng hộ chính quyền cách mạng nhưng thất bại, mặc dù dọa nạt khủng bố nhưng nông dân Ukraine vẫn chống đối, phá hoại, đốt nhà không đầu hàng, họ lấy lại nông cụ, gia súc mà Hợp tác xã đã chiếm trước đây, ám sát các viên chức Xô Viết. Trung ương đảng Nga đưa mật vụ quân đội sang đàn áp cuộc nổi dậy nhưng kháng chiến quân Ukraine vẫn tiếp tục chống đối, họ muốn làm ăn cá thể như xưa. Nông dân Ukraine thách đố Staline. Việc chống gia nhập Hợp tác xã chỉ là một nguyên do, Ukraine còn chống đối về mặt chính trị, họ muốn đòi độc lập, tự do. Staline trước hết cho thanh toán hành quyết hàng nghìn trí thức Ukraine, nhà văn nhà báo, nhà lãnh đạo. Âm mưu đòi độc lập cho Ukraine không phải chỉ ở làng xã mà mà ngay cả ở Trung ương đảng Cộng Sản Ukraine. Xô Viết cho thanh trừng dữ dội, nhiều người tự tử, nhiều nhà văn, đảng viên cũng tự tử. Cuộc chống đối của Ukraine với Xô Viết y như trứng chọi đá, cuộc chiến giữa người nông dân với cuốc xẻng và Hồng quân , mật vụ Nga vũ trang súng đạn. Làng mạc bị bao vây, tấn công bằng đại bác xe tăng, máy bay ném bom bắn phá.. khiến một Đại tá công an Nga sô phát khóc nói với một ký giả, ông cho biết mình đã chiến đấu trong hàng ngũ Hồng quân chống Bạch Vệ thời nội chiến bây giờ được lệnh bao vây tấn công những người dân vô tội. Hatayevich, một đảng viên cao cấp Xô viết cho biết cuộc chiến đấu ác liệt giữa Xô Viết và nông dân Ukraine đang diễn ra, một cuộc chiến sinh tử, năm 1933 là thử thách giữa sức mạnh của Đảng CS Nga và sự chịu đựng của nông dân, họ sẽ nếm mùi đói để xem ai làm chủ nơi đây. Cuộc chiến 1932-33 một cuộc chiến kỳ lạ nhất lịch sử. Staline thay đổi chiến lược. Thảm kịch mùa đông 1932-1933 Trận đói khủng khiếp mùa đông giữa 1932 và 1933 không do thiên tai hạn hán mà do con người làm ra, do lệnh của một người. Trong một phiên họp Trung ương đảng ngày 11-9-1932, Staline cho biết tình hình Ukraine nghiêm trọng, nếu không sớm ra tay Xô Viết sẽ mất miền đất mầu mỡ này, năm 1932 dân số Ukraine là 32 triệu, khoảng 75% điền sản tại đây đã phải gia nhập Hợp tác xã. Để đối phó với tình hình, Staline bèn đưa một kế họach ác ôn, man rợ vừa để trả thù và để dẹp tắt phong trào, kế họach đã khiến bẩy triệu người (7.000.000) dân quê Ukraine phải chết đói la liệt khắp các xã thôn. Staline ra lệnh cho tịch thu hết thực phẩm tại Ukraine: khoai tây, cải bắp, lúa mì..chở sang Sô Viết từ tháng 8, tháng 10 1932 và tháng 1-1933 số lượng tịch thu tăng cao khiến Ukraine không còn thực phẩm nhất là tại các làng miền quê. Staline cho xuất cảng lúa mì tịch thu để lấy ngọai tệ phục vụ Ngũ niên kế họach, canh tân nông nghiệp và củng cố quốc phòng. Số lúa mì bị Xô Viết cướp đi đủ sức nuôi dân Ukraine trong vòng hai năm. Đảng Cộng Sản Ukraine khẩn xin Moscow bớt lấy lúa mì của Ukraine và cứu trợ thực phẩm, Staline từ chối rồi đưa 100 ngàn quân Nga tới thanh trừng đảng Cộng Sản Ukraine. Quân Nga đóng cửa biên giới Ukraine, ngăn chận thực phẩm đưa vào Ukraine khiến cho đất nước này biến thành một trại giam khổng lồ, theo lệnh của Staline chính quyền phải để mặc nhân dân chết đói cho họ biết tay. Người dân miền quê còn giấu giếm được một số thực phẩm sống lây lất nhưng Staline lệnh cho mật vụ Nga tại Ukraine đi từng nhà tịch thu hết mọi thực phẩm dự trữ của các gia đình, nhân dân không còn đến một củ khoai, một miếng bánh. Nông dân bị cấm không được đi các địa phương khác hoặc lên tỉnh xin ăn, họ cũng bị cấm lấy trộm thực phẩm của hợp tác xã, nhiều người đói quá ra đồng lấy một vài bông lúa ăn đỡ hoặc lấy trộm khoai, lúa… trong các kho bị công an bắn chết ngay. Nạn đói lan nhanh, từ già đến trẻ bắt đầu chết đói la liệt khắp nơi. Các đội mật vụ đi gom các xác chết quẳng xuống hố tập thể chôn cất hàng ngày, theo lời các nhân chứng kể lại những người suy nhược chưa chết cũng bị quẳng xuống hố . Khác với Hitler giết người bằng hơi ngạt khiến nạn nhân chết ngay không đau đớn, Staline bắt các nạn nhân phải suy nhược quằn quại, đói khổ.. họ phải sống trong đau khổ cho tới chết. Mặc dù bị cấm đi địa phương khác kiếm ăn người dân quê vẫn lên tỉnh để rồi cũng lăn ra chết thê thảm. Thành phố được cấp theo khẩu phần, dân tỉnh bị cấm không được cứu giúp những người chết đói, bác sĩ không được chữa bệnh cho những dân quê đang chết đói, người dân quê lên tỉnh cuối cùng chết la liệt ngoài đường phố, hàng ngày có xe chở đi chôn tập thể. Trong khi các đảng viên, mật vụ lính Nga béo tốt, được ăn uống no đủ thì người dân Ukraine nhất là miền quê đói rã họng ra, theo lời các nhân chứng còn sống sót kể lại vì hết thực phẩm người dân phải ăn lá cây, vỏ cây, mèo chuột, chó, cả sâu bọ … để cầm hơi qua ngày. Cả trẻ nít vô tội cũng bị Xô Viết bắt phải chết như người lớn. Ngoài ra nhân dân còn bị quân Nga, mật vụ cướp bóc hãm hiếp . Nhân dân đói quá phải ăn thịt người chết, có người giết cả trẻ nít đang hấp hối để nuôi gia đình, theo lời các nhân chứng còn sống, dân Ukraine tại miền quê năm 1932-33 ăn thịt người là chuyện thường. Mùa xuân 1933, cao điểm của nạn đói, khoảng 250 ngàn người chết mỗi ngày tại Ukraine, có nơi cả làng chết. Tại Âu châu, Canada, Mỹ người gốc Ukraine gửi thực phẩm về giúp đồng bào nhưng chính quyền Xô Viết cấm chở thực phẩm tới biên giới vì họ phủ nhận không có nạn đói. Tại Ukraine ai nói có nạn đói bị kết án tuyên truyền chống Xô Viết và bị bắt giam ngay. Tới cuối năm 1933 khoảng 25 % dân Ukraine, tức 8 triệu người bị chết đói kể cả 3 triệu trẻ em. Bọn hào phú bị tiêu diệt , nhà nông toàn nước bị dìm xuống, Staline đã đạt được mục đích, đã tiêu diệt xong bọn phản động, tiểu tư sản thoái hóa chống lại Hợp tác xã… để tạo dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhà độc tài bèn cho phân phối thực phẩm trở lại Ukraine, nạn đói chìm dần, tuy nhiên những cuộc thanh trừng chính trị, bắt bớ phản động vẫn tiếp tục chỉ ngưng lại năm 1941 khi bị Đức Quốc Xã tấn công. Hitler xua quân vào Ukraine cướp bóc vựa lúa và thay thế chế độ Cộng Sản hà khắc bằng khủng bố phát xít. Bao nhiêu người đã chết? Số người chết trong nạn đói tại Ukraine không toàn toàn chính xác cũng như số người chết trong các cuộc chiến tranh lớn hay thế chiến vì không ai có thể đếm, thống kê đến nơi đến chốn được nhưng các nhà nghiên cứu cũng cố gắng tìm ra con số gần với sự thật nhất. Theo Andrew Gregorovitch trong bài “Black Famine in Ukraine 1932-33, a struggle for existence” cho biết nhóm Conservative Estimates ước lượng số nạn nhân trong trận đói 1932-33 tại Ukraine khoảng 4 triệu 8 , nhưng nhiều nhà nghiên cứu ước lượng nó vào khoảng từ 5 cho tới 8 triệu người chết. Mặc dù Xô Viết luôn luôn chối bai bải không có nạn đói tại Ukraine nhưng người ta đã tham khảo một cách gián tiếp và đã ước lượng khoảng từ 10% cho tới 25% dân Ukraine đã chết trong nạn đói kể trên, nhà nghiên cứu Vasyl Hryshkocho biết mỗi ngày có 25,000 người chết tại các làng ở Ukraine, hoặc hơn 1,000 người chết trong một giờ hoặc 17 người trong một phút. Nửa năm đầu 1933, Xô Viết cấm người ngoại quốc tới thăm Ukraine, các ký giả không vào lấy tin được cho tới mùa hè, thu khi họ bãi bỏ lệnh cấm. Nhà ký giả Mỹ Henry Chamberlin đến thăm Ukraine ngay sau khi Xô Viết bãi bỏ lệnh cấm du lịch và cho biết mỗi làng ông đến thăm có ít nhất khoảng 10% người dân chết vì đói . John F. Stewart trong cuốn Tortured but Unconquerable Ukraine, xuất bản 1953, trang 8 cho biết. “Trong khi chưa có số thống kê chính thức về tấm thảm kịch này , theo như trong tự điển Nga The Small Soviet Encyclopedia năm 1940 xác nhận dân Ukraine năm 1927 là 32 triệu nhưng năm 1939 tức 12 năm sau, dân tụt xuống còn 28 triệu, thế thì 4 triệu người đã đi đâu? Ngoài ra còn phải kể 4 triệu người do gia tăng dân số?” Như vậy theo Stewart số nạn nhân là 8 triệu. Theo Holodomor (nguồn Wikipedia) số nạn nhân chết đói tại Ukraine năm 1933 được ước lượng từ 2 triệu 6 cho tới 10 triệu người. Theo bài “Staline Forced Famine in 1932-1933, 7,000,000 Deaths” (trong The History Place , Genocide in the 20 th Century) số nạn nhân là 7 triệu. Theo phóng viên Askold Krushelnycky con số nạn nhân được ước lượng vào khoảng từ 7 triệu cho tới 11 triệu người chết đói tại Ukraine 1933. Như thế đa số các nhà nghiên cứu, ký giả ước lượng vào khoảng bẩy triệu người đã bỏ mạng trong trận đói này. Staline che mắt thế gian Người ta khen Staline đã khéo dấu nhẹm cuộc tàn sát vĩ đại này, các triều đại Cộng Sản Xô Viết sau Staline cũng ếm nhẹm thảm kịch này nhưng cái kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra. Ký giả Askold Krushelnycky trong bài phát thanh trên Radio free Europe ngày 8 tháng 4-2003 tại Tiệp Khắc “Staline gây nạn đói tại Ukraine – bẩy mươi năm sau, phần lớn thế giới vẫn không biết tới thảm kịch này” (Staline’s Starvation of Ukraine – Seventy Years later, World Still Largely Unaware Of Tragedy) cho biết mặc dù số người chết thê thảm nhiều như thế nhưng thế giới không có mấy người biết về trang sử ghê tởm này của Cộng Sản Nga so với cuộc diệt chủng Do thái. Theo ông lý do chính là Đức Quốc Xã bị bại trận, hàng ngàn nhân chứng còn sống kể lại chi tiết về trại giam và cuộc tàn sát tập thể, người ta còn lấy được nhiều phim ảnh, hồi ký ghi lại tội ác của bọn phát xít, rồi những tên đồ tể, đao phủ bị bắt đem đi xử… vì thế cuộc tàn sát diệt chủng của Hitler đã được phổ biến sâu rộng. Robert Conquest, sử gia Anh chuyên nghiên cứu về thảm kịch này, trong tác phẩm năm 1986 của ông “Harvest of Sorrow”, mùa gặt nỗi u sầu lần đầu tiên đã đem tấn thảm kịch này đến cho khán giả Tây phương . Ông nói một sự khác biệt nữa giữa cuộc diệt chủng Do thái là Hitler đã viết thành văn bản trong cuộc tàn sát của mình còn Staline không ghi văn kiện tài liệu kế họach của y, ông nói nay nhiều sử gia chấp nhận có nạn đói thì một số nghi ngờ đã tìm cách biện hộ cho Staline. Ông cho biết từ ngày Liên bang Xô Viết tan rã khiến người ta dễ vào tìm tài liệu tại các văn khố Nga, chính ông đã có bằng chứng là Staline đã biết hàng trăm ngàn dân quê tìm cách vào Nga kiếm thực phẩm. Conquest cho rằng nạn đói trước nhất nhắm vào Ukraine mà Staline không chỉ thù ghét người dân quê mà cả các đảng viên Cộng Sản cao cấp Ukraine. Lyubomyr Luciuk giám đốc Hiệp hội nghiên cứu của Canada về Ukraine cho biết lý do tại sao tin tức về nạn đói lại không được chuyển đến Tây Phương, ông chỉ trích những nhà báo Tây phương hồi đó ở Moscow đã biết nạn đói này nhưng đã không đề cập đến nó và còn cố ý che dấu nữa. Ông cho biết người ký giả đóng vai then chốt trong việc che dấu này là ký giả Walter Duranty của tờ Nữu Ước Thời Báo, The New York Times . Duranty là người ngưỡng mộ Staline, ông ta mô tả nhà độc tài này như “Chính khách lỗi lạc nhất thế giới hiện nay” (The world greatest living statesman), Duranty là người ký giả Mỹ đầu tiên được phỏng vấn nhà lãnh đạo Sô Viết này và được cho phép tham khảo, lấy những tin mật của chế độ. Hồi ấy, Duranty đã tâm sự với một nhà ngoại giao Anh rằng ông nghĩ khoảng 10 triệu người đã bị chết đói nhưng khi các ký giả khác thăm Ukraine rồi viết báo về nạn đói diễn ra tại đây thì Duranty lên tiếng bài bác ngay cho là tuyên truyền láo khoét chống Xô Viết, Liciuk cho rằng Duranty bị Mật vụ Nga hăm họa công bố sự thật về đời tư anh ta vì biết anh có nhiều bệnh kỳ quái về tình dục. Sô Viết bầy trò lừa bịp các ký giả ngọai quốc đến lấy tin như nhà văn Anh Bernard Shaw thăm Nga rồi về viết bài thuận lợi cho Cộng Sản. Cựu Thủ Tướng Pháp Edward Herriot được sang thăm Ukraine năm ngày trong chuyến du hành đã được dàn cảnh bịp bợm, đi thăm những khu phố đẹp sạch sẽ tại Kiev, thăm một Hợp tác xã kiểu mẫu, khi về nước ông ta nói có lợi cho Cộng Sản và tuyên bố không có nạn đói tại đây Sáu kỹ sư người Anh làm việc tại Nga Xô bị bắt và kết án phá hoại, gián điệp, hối lộ rồi bị hăm dọa kết án tử hình, phiên tòa xử sau đó chỉ là trò hề ma mãnh đánh lạc hướng ký giả ngoại quốc để họ không chú ý tới nạn đói Ukraine nữa. Xô Viết hăm dọa ký giả ngọai quốc để viết thuận lợi cho họ, đa số ký giả ngoại quốc phải nhượng bộ Cộng Sản và viết bài có lợi cho Xô Viết như Duranty viết “những bài nói về nạn đói thật nhố nhăng”. Các nước Tây phương giữ thái độ thầm lặng đối với thảm kịch này dù họ đều đã biết nỗi đau khổ của Ukraine qua các nguồn tin tín cẩn của giới ngoại giao. Năm 1933 Tân Tổng Thống Roosevelt đã chính thức công nhận chính quyền Cộng Sản Staline và đề nghị buôn bán với họ. Ngũ Niên Kế Hoạch của Nga để canh tân đất nước cần phải mua hàng hóa, máy móc thiết bị của Tây phương với khối lượng rất lớn. Các nước Tây phương vớ được mối làm ăn béo bở, được một ông khách hàng rất sộp nên họ lờ đi không nói tới nạn đói. Tại sao tàn sát? Trong phim The Soviet story người ta đặt câu hỏi: Tại sao cần phải tàn sát? Why killing is essential? Một nhà nghiên cứu Nga trong phim cho biết Karl Marx là cha đẻ của chủ nghĩa diệt chủng chính trị ngày nay. Marx nói. “Những giai cấp và chủng tộc quá yếu không theo kịp cuộc sống mới cần phải bị lọai bỏ” (“The class and the races too weak to master the new condition of life , must give away” – Marx – People’s paper, April 16-1858) “Họ phải bị tiêu diệt trong hỏa lò cách mạng” (They must perish in the revolutionary Holocaust – Karl Marx – Journal of the History of ideas, Vol 42, number 1 – 1981). Tàn sát bắn giết của người Cộng Sản là một chính sách. Lenine nghiên cứu rất kỹ tư tưởng Marx – Engels và áp dụng triệt để phương thức này, ông gọi là bạo lực cách mạng. Lenine viết trong một bức thư như sau: đem 100 tên tư sản đi bắn để cho nơi cách xa đó hàng trăm cây số người ta phải sợ (theo phim The Soviet Story), người xưa gọi là “sát nhất nhân, vạn nhân cụ”, giết một người sẽ làm cho một vạn người sợ. Trước hết việc tàn sát bắn giết của Cộng Sản để gieo rắc kinh hoàng, khủng bố gây khiếp đảm cho người dân phải sợ không dám chống lại họ. Cả hai hệ thống Quốc Xã Đức và Cộng Sản Nga đều lấy tàn sát làm cơ bản cho sự cai trị để tạo con người mới (the birth of a new man) , phải tiêu diệt con người cũ mới tạo được con người mới. Chế độ phát xít Hitler chủ trương con người mới phải là người thông minh, đẹp giai, khỏe mạnh, những người tàn tật xấu xí, đi cà nhắc cà nhắc, răng hô mắt chột… hoặc người Do Thái phải bị tiêu diệt sạch. Đối với người Cộng Sản, bọn phản động, tiểu tư sản, địa chủ phải bị giết sạch để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, trên thực tế các nước Cộng Sản thường giết vào khoảng 10% dân số. Trong khi Đức Quốc Xã, phát xít Nhật quí trọng người dân nước họ, chỉ giết người ngoại quốc thì các chế độ Cộng Sản “khôn nhà dại chợ” chỉ biết đè cổ nhân dân của mình ra tàn sát không gớm tay. Đức Quốc Xã là chủ nghĩa xã hội quốc gia, Cộng Sản là chủ nghĩa xã hội quốc tế. Thập niên 1930, một thập niên đẫm máu ghê tởm nhất của lịch sử nước Nga khi Staline tiến hành thực hiện Hợp tác xã nông nghiệp, làm ăn tập thể tiến lên làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa. Nhà độc tài cho lệnh tiêu diệt những thành phần ăn bám, cản đường, lừng khừng không có lập trường cách mạng, bọn phản động âm mưu chống đối và bọn có tinh thần làm ăn cá thể… Đây là giai đoạn đoạn bắn giết tập thể theo kế họach của Staline . Staline cho xây dựng hằng hà sa số các trại tập trung tại những nơi xa xôi để giam cầm tiểu tư sản những kẻ không theo họ, có khoảng một phần ba hoặc một nửa bỏ xác vì đói lạnh trong chốn địa ngục trần gian. Trong phim The Soviet Story, thập niên 30 là giai đọan tàn sát của Staline, Xô viết cho xây dựng khắp nước Nga những lò sát sinh y như thời thượng cổ. Những tòa nhà này được xây bằng gạch kiên cố, những phòng bắn người làm ở dưới hầm, có đường rãnh để dẫn máu chẩy ra ngoài. Tội nhân được dẫn xuống dưới hầm tới phòng đỏ, họ bị bắn vào gáy, mỗi tối mật vụ có thể bắn một trăm hoặc vài trăm người, ban đêm có xe bít bùng chở xác vào rừng chôn tập thể.. Sáng ra người dân kinh hãi khi thấy các vệt máu trên đường đi, họ không dám hé răng nói tới. Các mồ chôn tập thể rải rác trong nước, số người bị hành hình quá nhiều, con cái các nạn nhân bị hành quyết mất cha, mất mẹ, không nhà không cửa đi lang thang ngoài đường phố, số người vô gia cư ngày một nhiều, Staline cho phép bắn các trẻ em trên 12 tuổi để làm sạch thành phố. Tại các địa phương bắn giết người đạt chỉ tiêu được thưởng. Tổng thống Nga Gorbachov tố cáo “Staline tắm trong máu”, ông cho biết đã thấy danh sách tử hình dài do Staline ký hàng loạt, trong khoảng 1937-1941 có tới 11 triệu người bị bắn giết. Năm 1942 Churchill viếng Kremlin, Staline thú thực với ông đã có 10 triệu người bị đổ máu trong giai thực hiện Hợp tác xã, tiến lên làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa, nhà độc tài nói không thể làm khác hơn được. Phim The Soviet Story nói trong khi Xô Viết tàn sát hàng hà sa số người thập niên 30, tại Âu châu có một người theo dõi và khâm phục Staline, trong một khoảng thời gian không dài lắm đã giết được nhiều như thế, người ấy là Hitler, như vậy Staline là bậc sư của Hitler trong nghề sát sinh . Theo Le livre noir du communisme của Courtois, Werth, Pannée, Trần Hữu Sơn lược dịch Cộng Sản quốc tế đã sát hại 100 triệu người. Trung Cộng 65 triệu, Nga 20 triệu, Bắc Hàn 2 triệu, Miên 2 triệu, Việt Nam 1 triệu… Một điều khó hiểu là trừ Staline bị hạ bệ, những tên đồ tể Mao, Hồ, Kim Nhật Thành… đã làm đổ máu nhiều triệu người nhưng vẫn được xây lăng, dựng tượng, được ca tụng, sùng bái… khắp nơi trong nước, thật là hiện tượng kỳ quái. Cộng sản Việt Nam cũng như các nước chư hầu xã hội chủ nghĩa khác đã rập khuôn áp dụng bạo lực cách mạng, lấy đa sát, bắn giết làm tôn chỉ. Như chúng ta đã biết năm 1945 khi Việt Minh cướp chính quyền họ đã thủ tiêu chôn sống vài chục ngàn người quốc gia và nhiều tình nghi vô tội khác. Năm 1952, 53 trong thời kỳ kháng chiến Việt Minh đã cho đấu tố địa chủ và nhất là năm 1955, 1956 họ phát động phong trào cải cách ruộng đất qui mô, đấu tố …giết hại khoảng 170 ngàn người vô tội. Những năm 1957, 58, 59… tại nông thôn miền Nam Việt Nam, Việt Cộng đã sát hại hàng chục ngàn viên chức xã thôn, thường dân vô tội. Năm 1968 CS Băc Việt thủ tiêu khoảng 6 ngàn người thường dân, tình nghi tại Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, trong trận chiến 1972 tại Quảng Trị, CSBV pháo kích gây thiệt hại hàng chục ngàn thường dân trên đường chạy loạn, năm 1975 hàng mấy chục ngàn người thường dân chạy loạn tại các bến tầu, cửa biển, trên đường số 7… bị thiệt mạng vì pháo kích của Cộng quân . Hitler nói sau này nhân loại sẽ phải nhớ ơn chế độ Quốc Xã vì ta đã diệt chủng được bọn Do Thái. Các nhà lãnh đạo Cộng Sản Staline, Mao, Hồ, Pôn Pốt.. đều đã cho rằng những cuộc thanh trừng, tàn sát của họ là vì nhân dân, vì lợi ích của đất nước. Tưởng niệm Đài tưởng niệm nạn đói 1932-1933 tại Kiev Tháng 3 năm 2008 nhiều nước trên thế giới đã lên án tội diệt chủng của chính quyền Xô Viết, Liên Hiệp Quốc năm 2003 cũng đã xác nhận nạn đói tại Ukraine và nhiều nơi trong nước Nga do hậu quả của chính sách độc tài tàn bạo. Ngày 28-11-2006 quốc hội Ukraine lên án nạn đói năm 1933 là tội diệt chủng, ngày 23-10-2008 Quốc Hội châu Âu ra quyết nghị coi nạn đói 1933 là tội ác chống nhân loại. Ngày 13-1-2010 tòa Kiev, Ukraine tuyên án nạn đói là diệt chủng, Staline và các lãnh đạo Sô Viết phạm tội diệt chủng Ukraine 1933. Nay người ta dựng nhiều tượng đài tại Ukraine và nhiều nơi trên thế giới để tưởng niệm các nạn nhân nạn đói 1933. Tại Edmonton, Alberta Canada 1983, đài tưởng niệm 50 năm nạn đói Ukraine đã được dựng lên . Tại Canada tỉnh Ontorio, ngày 9-4-2009 ra nghị quyết tưởng niệm nạn đói. Tại Mỹ ngày 13-11-2009 Tổng Thống Obama đọc diễn văn trong ngày tưởng niệm nạn đói Ukraine (Ukrainian Holodomor Remembrance Day), ông nói: “Tưởng niệm những nạn nhân của thảm họa nạn đói Ukraine cho chúng ta dịp để nghĩ tới hoàn cảnh của những người dân phải sống khốn khổ dưới các chế độ cực đoan, tàn bạo trên thế giới” (“remembering the victims of the man-made catastrophe of Holodomor provides us an opportunity to reflect upon the plight of all those who have suffered the consequences of extremism and tyranny around the world”- Wikipedia- Holodomor) © Trọng Đạt Xem video: Câu chuyện Xô Viết ——————————————– Tham khảo: vimeo.com/12057428: The Soviet Story from Saigonner on Vimeo, post by Tiengthongreo.blogspot.com, a film by Edvins Snore. www.historyplace.com/worldhistory/genocide/stalin.htmStaline forced Famine 1932-1933: The History Place, Genocide in the 20 th Century www.infoukes.com/history/famine/gregorovich: Black Famine in Ukraine 1932-33, a struggle for existence, by Andrew Gregorovich. ukemonde.com/news/rferl.html: Staline’s Starvation of Ukraine – Seventy years later, World still Largely Unaware of Tragedy – By Askold Krushelnycky, Radio Free Europe/Radio Liberty . faminegenocide.com/resources/ukraine_famine.html: Ukraine famine; en.wikipedia.org/wiki/Holodomor: Holodomor www.infoukes.com/history/famine/The artificial famine/genocide (Holodomor) in Ukraine 1932-33 www.ihr.org/jhr/v06/v06p207_Moroz.htmlVolentyn Moroz: Nationalism and genocide: The origine of the artificial famine of 1932-1933 in Ukraine. www.ukemonde.com/holodomor/famine_rs.htmlFamine in Ukraine: Induced starvation, death for millions, genocide. www.nhacsing heo.com/ToiacCS/ index.html Le livre noir du communisme: Courtois, Werth, Pannée, Trần Hữu Sơn lược dịch www.Daiviet.us. Tiến sĩ Phan Văn Song: Ba tên đồ tể lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ 20. Gop Y: - Thật khủng khiếp! Tôi đã từng du học ở Ukraina,và bạn bè Tây của tôi họ kể lại là : người ta còn nói là tại các đường phố ở thành phố lớn Ukraina người chết nằm la liệt,không có người khiêng đi chôn,và tất nhiều người bị xẻo mông đít để làm thức ăn cho người còn sống.Đọc về tai nạn diệt chũng ở Ukraina mà tôi không cầm được nước mắt.Tại sao trên thế gian loài người này lại có những chế độ diệt chủng đồng loại kinh khủng như vậy.Cầu mong cho đất nước Ukraina và người dân ở đó có cuộc sống thật hạnh phúc,ấm no ngày nay.
- Nạn đói tại Ukraine, trước 75 tại miền Nam sách báo cũng đã nói đến. Số nạn nhân lúc đó nói là từ 6 đến 10 triệu, cũng không sai lắm. Nguyên nhân lúc đó nói là do Staline ra lệnh cấm đem lương thực vào Ukraine, và người ta đoán là vì dân Ukraine chống lại chính sách tập thể hóa nông nghiệp nên bị cho chết đói để cho dân sợ mà phải làm việc trong hợp tác xã và nông trường. Nhưng khía cạnh dân Ukraine đòi độc lập thì lúc đó các nước Tây phương tuy biết nhưng không nhấn mạnh. Chỉ sau khi Liên Xô sụp đổ thì người dân Ukraine sống qua thời kỳ đó mới nói về cuộc chiến đấu giành độc lập. Nhiều người bị bắt, giết khi Hồng quân tiến vào Ukraine một số lớn chạy ra nước khác, nhiều người đến Canada nên Canada có các nhà thờ kiểu Chính Thống Giáo giống như ở Ukraine. Trong khi Staline đem các thanh niên các nước thuộc địa đến Nga để dạy CNCS và đem chiêu bài giành độc lập để đánh đuổi các đế quốc Tây phương, thiết lập chế độ kiểu Xô Viết thì chính Staline lại không tôn trọng độc lập của các nước xung quanh Nga mà dùng vũ lực sáp nhập vào Nga. Staline làm việc này dưới danh nghĩa là giải phóng cho các nước này khỏi sự bóc lột của giai cấp thống trị bóc lột mà xóa mờ đi khía cạnh xung đột giữa hai dân tộc, hai quốc gia.
” Ông Stalin ơi , Ông Stalin ơi , thương Cha thương Mẹ Thương Chồng thương Mình thương một , thương Ông thương mười ” , ” Yêu biết mấy nghe Con tập nói , tiếng đầu lòng con gọi Stalin ” , ” Tôi có thể sai lầm , tôi bảo đãm với các đồng chí , đồng chí Stalin không bao giờ sai lầm …” . Đấy , HCM và đám đàn em cũa hắn ta tôn thờ con quỷ Stalin …Sao vẫn còn những tên u mê tin vào HCM và đảng CSVN . Một anh sinh viên Hà Nội du học tại Nga viết : ” Ngay từ khi còn là một cậu bé mới biết nói , biết đọc , tôi đã được nhồi sọ Bác Hồ tối lành như một vị Thánh . Lớn lên tôi được biết Bác Hồ tôn thờ Stalin …..Qua Nga du học , tôi được biết người dân Nga nói riêng , dân Liên Xô nói chung xem Stalin là một con quỷ hung ác nhất ..” . Rồi , anh chàng sinh viên kết luận : ” Xưa nay , có chăng Quỷ thờ Thánh , chứ Thánh không bao giờ thờ quỷ ..” . Quá hay , quá sâu sắc !!! Quỷ chỉ có quỷ thờ , Ô nhục thay , Stalin là quỷ Chúa , Chúa tể cũa loài quỷ , còn HCM và đảng cũa ông ta ?
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2015 8:12:44 GMT 9
Mao Trạch Đông với những thủ lĩnh Khmer Đỏ "gốc Hoa"Từ trái sang: Mao Trạch Đông tiếp Pol Pot và Ieng Sary tại Bắc Kinh Cả 5 nhân vật nắm quyền lực cao nhất trong ban lãnh đạo Khmer Đỏ ở Campuchia đều là người “gốc Hoa” được Mao tin cẩn… Họ gồm: 1. POL POT (SALOTH SAR) - NGƯỜI CAMPUCHIA GỐC HOA (sinh 1928 tại Kampong Thom): nhân vật quyền lực số 1 (biệt danh “anh Cả”), lãnh đạo Đảng Cộng sản Campuchia, thủ tướng Chính phủ Campuchia dân chủ (1976-1979). Sau gần 4 năm cầm quyền (kể từ Khmer Đỏ đánh chiếm Phnom Pênh 17.4.1975 đến ngày sụp đổ 7.1.1979) - chế độ Pol Pot gây nên cái chết của gần 2 triệu người và Pol Pot trở thành đối tượng hàng đầu của Tòa án quốc tế xét xử tội ác diệt chủng và chống lại loài người ở Campuchia (ECCC) do Liên Hiệp Quốc bảo trợ. Song, Pol Pot chết ở tuổi 70 vào năm 1998 trong một cánh rừng thuộc căn cứ địa của Khmer Đỏ và hỏa thiêu tại đó trước ngày phiên tòa ECCC được mở. 2. NUON CHEA (LONG BUNRUOT) - NGƯỜI CAMPUCHIA GỐC HOA (sinh 1926 tại Battambang): nhân vật quyền lực số 2 (biệt danh: “anh Hai”), nắm giữ “phần hồn” của Campuchia theo tư tưởng Mao. Bị ECCC xử tù chung thân (8.2014) về “tội ác chống nhân loại”. 3. IENG SARY (THẠCH RẸM) CÓ MẸ NGƯỜI HOA (sinh 1922 tại Trà Vinh, miền Nam Việt Nam): nhân vật quyền lực số 3, Phó thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Chính phủ Campuchia dân chủ, chỉ đạo tiến trình “vô sản hóa Campuchia”, phát động thù địch với văn hóa phương Tây, sát hại trí thức và đóng cửa tất cả trường học - bị tuyên án tử hình vắng mặt bởi Tòa án Cộng hòa nhân dân Campuchia (1979), xét xử bởi ECCC (2007), qua đời vì bệnh (3.2013). 4. TAMOK - NGƯỜI HOA - KHMER (sinh 1926 tại Takeo): nhân vật quyền lực số 4 - tổng tư lệnh quân đội Khmer Đỏ (biệt danh: “tên đồ tể”), cầm đầu các cuộc thảm sát tập thể dân thường vô tội và mở các chiến dịch thanh trừng nội bộ tàn khốc. Bị ECCC kết án về “tội ác chống lại loài người” (2002), lâm bệnh mất (2006). 5. KHIEU SAMPHAN - NGƯỜI CAMPUCHIA GỐC HOA (sinh 1931): nhân vật quyền lực số 5 - Chủ tịch Hội đồng nhà nước Campuchia dân chủ (1976-1979) - giữ vai trò trọng yếu trong các chủ trương và kế hoạch diệt chủng trên phạm vi toàn quốc. ECCC xử tù chung thân. Danh sách thủ lãnh Khmer Đỏ gốc Hoa còn dài, như KHANG KHEK IEU (tức KAING GUEK EAU - biệt danh “sát thủ S-21”) sinh 1942 tại Kompong Cham trong một gia đình Khmer gốc Hoa, cựu giám đốc nhà tù khét tiếng Tuol Sleng ở thủ đô Phnom Pênh, đã bắt giam khoảng 16.000 người gồm cả phụ nữ trẻ em, tất cả bị tra tấn dã man trước khi hành quyết (chưa đầy 20 người sống sót). ECCC xử tù chung thân (2012). Hoặc: SON SEN - người gốc Hoa - trợ thủ đắc lực của Pol Pot một thời… Những động tĩnh của tất cả bọn họ đều được Trung Nam Hải theo dõi chặt chẽ. Tình báo Hoa Nam (Trung Quốc) mở các đợt kích động tâm lý huyết thống trong cộng đồng người Campuchia gốc Hoa để họ “hướng về tổ quốc” cũng như ủng hộ các “thủ lãnh Khmer Đỏ gốc Hoa” suốt thời kỳ trước và sau 1975. * TRƯỚC 1975, Mao luôn tìm cách kết nối “thế mạnh hoàng gia” của Sihanouk (được hơn 8 triệu thần dân Campuchia tôn kính) với “chiến tranh du kích” của Khmer Đỏ chống chế độ Cộng hòa thân Mỹ của Lon Nol (tổng thống đầu tiên ở Campuchia 1970-1975) do Pol Pot phát động. Mao đề nghị Sihanouk ủng hộ Pol Pot. Lúc đầu Sihanouk còn chần chừ, dè dặt. Bởi từ thập niên 1950, Sihanouk sớm gán cho những người cộng sản Campuchia do Pol Pot lãnh đạo “một từ bằng tiếng Pháp đầy vẻ chế nhạo” - trở nên phổ biến là: “Khmers Rouges” (tức: Khmer Đỏ) và ra lệnh lùng bắt. Giờ đây lẽ nào Sihanouk chịu khép mình đến với họ? Đang lúc Sihanouk do dự thì Mao không ngần ngại “tấn công” - ve vuốt: Sihanouk viết, Mao luôn đích thân ra tận cửa xe chào đón mỗi lần Sihanouk đến thăm, cấp cho Sihanouk và những thành viên trong chính phủ lưu vong của ông đầy đủ tiện nghi về nơi ăn chốn ở với các hoạt động dịch vụ của một hoàng cung, kể cả nhân viên văn phòng, một đội xe con, một trung tâm thể thao và chiếu bóng, những người làm vườn lẫn đội ngũ đầu bếp lão luyện đưa từ Thượng Hải đến để nấu ăn riêng cho Sihanouk theo thực đơn cung đình Trung Hoa, Campuchia và cả những món gà sốt vang của Pháp mà Sihanouk rất thích… Mọi chiều chuộng của Mao lấp đầy nỗi trống vắng của “ông hoàng không ngai” đang lận đận, dần dần khiến Sihanouk xiêu lòng tự nhận “Trung Hoa là quê hương thứ hai của tôi” (tên một ca khúc do Sihanouk sáng tác trình diễn lần đầu tại phòng hòa nhạc Thiên Tân) - và đồng ý đứng chung với Pol Pot cùng các thủ lãnh Khmer Đỏ gốc Hoa trên cùng một chiến hào đang đẫm máu. Quả thực Mao quá lợi hại và đã thành công trong thủ đoạn “trải thảm” mời ông hoàng Sihanouk bước vào “chiếc lồng son phủ màu cờ đỏ”. Để tận dụng “tài ngoại giao” của Sihanouk (kết hợp với “khả năng quân sự” của Khmer Đỏ), Mao cung cấp phương tiện đi lại “tối ưu” để Sihanouk công du đến Triều Tiên, Nam Tư, Roumania, Albania, Algeria, Mauritania, Morocco (Maroc), Iraq, Siria, Ai Cập, Soudan, Uganda, Somalia bằng những toa tàu sang trọng nhất, hoặc những chuyên cơ dành cho các nguyên thủ quốc gia“có thêm một máy bay phụ để chở những thùng quà ngoại giao mà tôi (Sihanouk) sẽ tặng trong các chuyến thăm hữu nghị đó” (Hồi ký Sihanouk, sđd. tr. 124). Đến bất cứ quốc gia nào, theo hướng Mao gợi ý, Sihanouk đều lớn tiếng đả kích tổng thống Mỹ Nixon, lên án CIA và phái hữu Lon Nol, kêu gọi ủng hộ Khmer Đỏ và Pol Pot. Vô hình chung Sihanouk thành “đài phát thanh sinh học di động” của Bắc Kinh, giúp Mao gây sức ép chính trị và ngoại giao để đem ra mặc cả với Nixon trong bóng tối. Ở mặt trái, qua đường dây tình báo Hoa Nam, Mao đã “tiếp tục có những cuộc tiếp xúc bí mật với chính quyền Lon Nol - kẻ thù của Sihanouk (Lon Nol cũng là người dân tộc Hoa -Khmer cầm đầu cuộc lật đổ Sihanouk tháng 3.1970)”. Đến lúc nội chiến Campuchia bùng nổ lớn, tuy ngoài mặt ủng hộ Sihanouk và chính phủ kháng chiến, nhưng bên trong Mao “vẫn ngấm ngầm duy trì quan hệ bí mật với Lon Nol - Sirik Matak, mặt khác tích cực dùng bọn Pol Pot - Ieng Sary dần dần biến Đảng Cộng sản Khmer thành một đảng phụ thuộc vào Đảng Cộng sản Trung Quốc” (trích Công bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam - Hà Nội 4.10.1979). Vậy là Mao sử dụng một lúc ba quân cờ: trực tiếp ảnh hưởng mạnh lên Sihanouk - Pol Pot (Khmer Đỏ) và tác động từ xa tới Lon Nol (phái hữu Phnom Pênh) - để bọn họ đánh nhau tan nát và Mao là “con mèo vờn chuột” đứng chờ hồi kết với “muỗng nĩa” trên tay (còn nữa)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 30, 2017 2:09:43 GMT 9
STALIN ĐÃ BỊ GIẾT HẠI TẠI ĐIỆN KREMLIN?quanhequocte.org/chien-tranh-bien-gioi-phia-bac-cai-bay-cua-bac-kinh-danh-cho-ha-noi/(NCTG) Đó là khẳng định của một bài báo trên tờ "Sự thật Thanh niên" (Komsomolskaya Pravda), được đăng tải trong dịp 57 năm ngày mất của nhà độc tài này. nhipcauthegioi.hu/old/modules.php?name=News&op=viewst&sid=2298Mộ phần của Stalin tại nghĩa trang bên tường điện Kremlin Bài viết cho hay: trái với những gì chúng ta được biết xưa nay (theo đó, Stalin đã qua đời vì bệnh tai biến mạch máu não tại nhà nghỉ của ông ở Kuntsevo, cách Moscow 15 cây số), sự thực, có thể ông đã bị sát hại ngay tại điện Kremlin. Theo tác giả bài báo, thông tin nói trên đã được lãnh tụ Nikita Khrushchev tiết lộ trong một buổi tiếp tân đón đoàn đại biểu đảng và chính phủ Hungary, được tổ chức vào tháng 7-1963. Bài báo nhắc lại: trong phát biểu và chúc tụng khi chạm cốc, Khrushchev đột ngột nói "vo" với lời lẽ khác với nội dung đã được soạn trước. Tác giả bài báo ghi lại từng lời mà vị bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô đã phát biểu, trong đó có đoạn: trong lịch sử có nhiều nhà độc tài tàn bạo, nhưng những kẻ duy trì quyền lực của mình bằng bạo lực thì cũng sẽ bị diệt vong bởi bạo lực. Qua các phát biểu của Khrushchev, tác giả bài báo lập luận: có thể giả định rằng Stalin thực ra đã bị ám hại tại điện Kremlin và một người đóng thế đã được đưa tới nhà nghỉ của ông. Trong vòng 5 ngày, khi các hậu duệ của Stalin chia chác quyền lực, người đó đã được "chữa chạy" và sau đó đã bị giết bằng độc dược. Tác giả bài báo còn cho rằng, giả thiết về việc Stalin bị ám sát dường như được củng cố bởi những dữ liệu điều tra trong vụ án xét xử nguyên soái công an Lavrentiy Beria (người đứng đầu cơ quan mật vụ chính trị Liên Xô thời kỳ 1938-1953), cũng như những tin đồn được truyền tụng đến ngày nay, theo đó Beria đã dọa dẫm và "bắt bí" Khrushchev rằng chính ông cũng từng tham dự vụ ám hại Stalin. Như chúng ta đã biết, sau cái chết của Stalin vào mùa xuân 1953, thời gian đầu, Beria có vai trò nổi trội hơn so với các đối thủ chính trị và được coi là người có thể nối nghiệp nhà độc tài, nhưng rồi ông bị bộ tam Nikita Khrushchev, Vyacheslav Molotov và Georgy Malenkov lật đổ. Sau khi bị bắt giữ với sự hợp tác của phe quân đội (đứng đầu là nguyên soái Zhuklov và nhiều tướng lĩnh khác), trong một phiên tòa bí mật, Beria bị quy tội "gián điệp cho tư bản" và ông đã bị xử bắn ngay tại phòng giam sau khi phán quyết được đưa ra. Beria còn bị tước mọi danh hiệu và phần thưởng mà trước đây, ông được nhà nước Liên Xô trao tặng, trong đó có cả danh hiệu Nguyên soái Liên Xô. Bài báo trên cho hay: chưa ai được tiếp cận những bí mật trong hồ sơ vụ án Beria và một phần của hồ sơ, về sau cũng biến mất. Theo bài báo, tất cả những điều này cho thấy rằng trong vụ án Beria, bí mật lớn nhất có liên quan đến cái chết của Stalin. Tác giả bài báo cũng nhắc lại một tin đồn tồn tại cho đến nay, rằng tại chân tường điện Kremlin, nơi có mộ phần Stalin, thực ra trước kia người ta đã chôn một chiếc quan tài rỗng. Bởi lẽ, di cốt Stalin đã được hỏa thiêu vào thời Khrushchev, sau khi được đưa khỏi lăng Lenin. Trần Lê, theo Hãng Thông tấn Hungary MTI THÊM MỘT TỘI ÁC CỦA LIÊN XÔ BỊ VẠCH TRẦN[12.09.2014 23:06 - Nhịp Cầu Thế Giới Online] (NCTG) Trong khuôn viên một lâu đài ở vùng Tây Ukraine, các nhà khảo cổ học mới đây đã phát hiện ra một ngôi mộ tập thể với khoảng một ngàn hài cốt - đa phần là người Ba Lan. Các quân nhân Ba Lan trước đài tưởng niệm nạn nhân của vụ thảm sát Katyń Phát hiện này diễn ra vào cuối tháng 8-2014 tại TP. Volodimir-Volinsky thuộc vùng Tây Bắc Ukraine, giáp biên giới Ba Lan. Đây là vùng đất đã bị sáp nhập vào Liên bang Xô-viết trong thời kỳ 1939-1941, trên cơ sở bản Hiệp ước bất tương xâm mà Liên Xô ký kết với Đức quốc xã nhằm chia đôi và xâm chiếm, xóa sổ Ba Lan trên bản đồ Châu Âu, và làm nổ ra Đệ nhị Thế chiến Tại đây, trong tòa lâu đài từ thời Trung cổ mang tên vị vua Ba Lan Casimir Đại đế (Casimir Đệ tam, 1333-1370), một nhóm các chuyên gia Ukraine và Ba Lan đã tìm ra gần một ngàn hài cốt bị chôn chung trong một ngôi mộ tập thể. Được biết, tòa lâu đài từng được cơ quan mật vụ chính trị Liên Xô sử dụng như một nhà tù bí mật trong thời gian 1939-1956, và những cuộc thảm sát đã diễn ra trong thời kỳ 1940-1941, đồng thời với những chiến dịch đàn áp và đày ải cư dân Ba Lan sinh sống tại địa phương. Báo chí Ba Lan đã gọi sự kiện này là một “Katyń mới”, ám chỉ cuộc thảm sát Katyń (*) nhằm vào chừng 22 ngàn sĩ quan và những phần tử tinh hoa của giới quân sự, trí thức Ba Lan, được cơ quan mật vụ chính trị Liên Xô NKVD (Bộ Dân ủy Nội vụ) thực hiện theo chỉ thị ngày 5-3-1940 của Stalin. Trả lời phỏng vấn tờ nhật báo “Cộng hòa Ba Lan” (Rzeczpospolita), nhà khảo cổ học người Ukraine Aleksiej Złatogorski cho hay: nhóm chuyên gia đã tìm thấy 950 hài cốt - đa phần là thường dân Ba Lan - và những vỏ đạn của loại súng lục bán tự động TT (Tokarev-Tula) rất phổ biến trong quân đội Liên Xô. Những dấu hiệu còn lại cho thấy các nạn nhân đã bị kề súng và bắn vào gáy. Theo nhà nghiên cứu Ba Lan, TS. Dominika Siemińska, các nhân viên mật vụ NKVD đã tiến hành chôn cất các nạn nhân một cách vội vã, khả năng là họ đã dùng báng súng đập nát các thi thể trước khi quẳng xuống một hố to. Báo chí cho hay, những cuộc đào bới tìm kiếm vẫn tiếp tục được tiến hành, chính quyền tổ chức tái mai táng những bộ hài cốt đã tìm được và vào ngày 23-9 tới, một đài tượng niệm sẽ được dựng lên để tưởng nhớ hương hồn những người đã khuất. (*) Thảm sát Katyń được coi như một tội ác chống nhân loại, đồng thời là tội ác lớn nhất đối với tù binh trong lịch sử các cuộc chiến thế kỷ 20. Nạn nhân của vụ giết người hàng loạt này được chôn trong các nấm mồ tập thể tại Katyń (gần Smolensk), Mednoye (gần Tvar) và các khu rừng ở Pyatykhatky (ngoại ô Kharkov). Trong suốt nửa thế kỷ, Liên Xô đã đổ vấy tội ác này cho phát-xít Đức, cho dù vào năm 1943, khi quân đội Đức chiếm được các vùng nói trên, họ đã phát hiện ra thủ phạm chính là Liên bang Xô-viết và điều này đã được các phái đoàn, các ủy ban giám sát quốc tế độc lập (do Đức mời đến hiện trường) xác nhận. Có thể tham khảo Hồ sơ của NCTG về cuộc thảm sát Katyń ở đây. Trần Lê, theo index.hu CHỈ ĐIỂM VÀ ĐẠO ĐỨC, VẤN ĐỀ NHỨC NHỐI THỜI HẬU CỘNG SẢN Ở ĐÔNG ÂU[16.03.2015 23:12 - Nhịp Cầu Thế Giới Online] Mới đây, một bộ phim tài liệu mang tựa đề “Trong tầm ngắm của Securitate” đã được công chiếu trên hai kênh truyền hình quốc gia của Hungary. Sự kiện này làm dấy lên trong công luận và truyền thông Hungary những vấn đề về đạo đức và tội ác trong quá khứ vẫn chưa bị trừng phạt. Các hồ sơ mật vụ trong một kho lưu trữ - Ảnh: origo.hu Được biết, bộ phim đã được quay tại những hiện trường gốc, với sự tham dự của các nhân vật đa phần đã can dự vào những sự kiện có thật xảy ra cách đây ba chục năm, dưới chính thể của thủ lĩnh cộng sản Ceaușescu tại Romania, khi cơ quan mật vụ chính trị Securitate làm mưa làm gió ở quốc gia này. Chỉ điểm ngay trong gia đình Bộ phim nói về tấn thảm kịch của một gia đình ở vùng Kolozvár (Cluj-Napoca), một mảnh đất từng thuộc Vương quốc Hungary, sau đó bị sáp nhập vào Romania và vẫn còn một cộng đồng Hung kiều đông đảo sinh sống. Hai vợ chồng nọ, vợ là Tőkés Eszter, chồng là Barta Tibor đều là những bác sĩ, những nhân vật có uy tín và được trọng vọng trong vùng. Cùng một số gương mặt của giới trí thức vùng Kolozvár, gia đình Tőkés Eszter có xu hướng đối lập rõ rệt. Đặc biệt, thành viên gia đình có mục sư Tin lành Tőkés László là người được coi như thủ lĩnh tinh thần của Hung kiều ở Romania, và cuộc nổi dậy cuối năm 1989 tại nước này được coi là có cơ nguyên từ hoạt động bảo vệ nhân quyền và tín ngưỡng của ông. Bản thân bác sĩ nha khoa Tőkés Eszter nhiều lần thực hiện các cuộc phỏng vấn bí mật về tình hình rất nghiêm trọng tại khu vực có đông kiều dân Hung sinh sống, và tìm cách tự chuyển sang Hungary, hoặc thông qua một người bạn. Nhưng những kế hoạch đó luôn thất bại: tại biên giới, các nhân viên mật vụ đã chờ sẵn để “bắt quả tang” họ. Một số những bài viết quan trọng, hoặc truyền đơn, tờ rơi với nội dung đối lập mà Tőkés Eszter đã cẩn thận cất giấu kỹ lưỡng vì sợ có thể bị khám nhà bất cứ lúc nào, không hiểu sao cũng đều đều lọt vào tay mật vụ chính trị Securitate, và trở thành những bằng cứ mà chính quyền sử dụng để chống lại gia đình bà. Trong những năm tháng ấy, cố nhiên không ai nghi ngờ người chồng, một vị bác sĩ chỉnh hình tài ba, đầy uy tín, một con chiên sùng đạo Công giáo, chơi dương cầm rất điệu nghệ, và sau giờ làm việc còn chữa chạy miễn phí cho bệnh nhân nghèo. Ông Barta Tibor còn hết sức được lòng hai người con riêng của bà Eszter với người chồng thứ nhất. Sau biến cố 1989, bác sĩ Barta Tibor sang Hung định cư. Vợ ông, bà Eszter không theo chồng, và tới năm 2004 hai người ly dị. Phải tới hần hai chục năm sau, năm 2007, bà mới nhận được một hồ sơ từ Viện CNSAS (cơ sở xử lý các hồ sơ của mật vụ chính trị Romania thời kỳ cộng sản), và cay đắng khi được biết sự thật về người chồng trong quá khứ. Theo đó, gần như hàng ngày, chồng bà đã viết báo cáo về hoạt động của đối lập của bà trong năm năm liền để gửi lên thượng cấp. Thậm chí, bác sĩ Barta Tibor sở dĩ kết hôn với bà năm 1985 cũng là để nhằm thông qua bà, có được mối quan hệ với cả gia đình bà, để thực hiện hoạt động chỉ điểm được Securitate giao phó. Mang biệt danh “Stelian”, Barta Tibor viết tường trình về tất cả mọi thứ có thể một cách hết sức kỹ lưỡng, kể cả về lễ thành hôn của hai vợ chồng. Ngay sau khi cưới, ông ta còn đưa vợ và hai con riêng của vợ đi nghỉ ở bờ biển để trong thời gian đó, mật vụ chính trị Securitate có thể đặt thiết bị nghe trộm vào ngôi nhà của họ. Những bài viết, truyền đơn hoặc tư liệu gửi sang Hungary của bà vợ Tőkés Eszter cũng đều bị ông chồng chuyển tới cho Securitate. Là một kẻ chỉ điểm hết sức chuyên cần, Barta Tibor không bỏ qua bất cứ cuộc gặp mặt gia đình hay xã hội nào của gia đình Tőkés Eszter, để có được thông tin tức khắc cho mật vụ chính trị. Không chỉ báo cáo về nhà vợ, Barta Tibor còn chỉ điểm rất nhiều nhân vật trí thức quan trọng vùng Kolozvár, trong đó có các chính khách, các nhân vật thuộc giới tăng lữ, các nhà nghiên cứu - nhiều người vẫn coi vị bác sĩ uy tín này là bạn thân có thể chia sẻ được. Khi cuộc nổi dậy và chính biến 1989 ở Romania xảy ra, Barta Tibor biến khỏi nhà và trong nhiều ngày ông ta ở lỳ trong trung tâm của mật vụ chính trị địa phương nằm ngay trên tầng trên của trụ sở Giáo hội Công giáo thuộc giáo phận đó. Khả năng là trong thời gian ấy, ông ta đã tìm cách tẩu tán hồ sơ tuyển dụng của mình với biệt danh “Stelian”. Chỉ điểm, di chứng đau đớn của một thời Dùng mạng lưới chỉ điểm dày đặc để duy trì chính quyền và khiến người dân luôn trong cảnh sợ hãi và phục tùng là một trong những đặc tính của các thể chế cộng sản tại Liên Xô (cũ) và vùng Đông Âu. Trong nhiều thập niên, Stasi của Đông Đức, Securitate của Romania hay AVH của Hungary là những cái tên kinh hoàng đối với mọi người dân. Tại Hungary, theo ước tính chưa đầy đủ, đã có chừng hai trăm ngàn “chỉ điểm viên” từng phục vụ thể chế độc tài cộng sản, trong số đó, có cả những “kiều nữ” trẻ thành thạo tiếng Ả Rập và không ngần ngại nếu phải sử dụng thân xác cho “việc lớn”, theo một lãnh đạo Cục Lưu trữ Lịch sử trực thuộc Cơ quan An ninh Quốc gia nước này. Trong một phần tư thế kỷ qua, không ít những nhân vật có uy tín - những chính khách, tăng lữ, văn nghệ sĩ, nhà thể thao... - của Đông Âu đã bị lộ diện là những kẻ chỉ điểm. Chỉ điểm trong nội bộ gia đình cũng không phải là quá mới mẻ, đặc biệt như trong trường hợp mât vụ chính trị Stasi của Cộng hòa Dân chủ Đức, hay KGB của Liên Xô. Tuy nhiên, tại Romania, phương pháp “nghiệp vụ” này không hay được cơ quan Securitate áp dụng. Trường hợp của Barta Tibor đặc biệt ở chỗ, nó được kiến tạo và tiến hành hết sức công phu, có chủ ý, đạt hiệu quả cao, và kết quả là đã làm tan nát cuộc đời của nhiều con người khi những giây phút, cảm xúc riêng tư nhất của họ cũng bị phản bội. Phân tích các “loại hình” chỉ điểm, các nhà nghiên cứu nhận thấy, không ít người bị cưỡng bức và làm công việc này một cách miễn cưỡng, “cho xong việc”. Nhưng cũng có những kẻ làm một cách tích cực, nhiệt tình như thể họ tìm được khoái cảm trong việc chỉ điểm và ngầm làm hại cuộc đời người khác, kể cả đó là người gần gũi nhất với mình. Thuật lại một câu chuyện ít nhiều đã được biết đến cách đây ít năm, bộ phim “Trong tầm ngắm của Securitate” khiến người xem sững sờ ở chỗ, nó cho thấy một thể chế có thể làm hỏng con người như thế nào. Hoặc giả, nó tạo điều kiện để những bản năng tệ hại nhất của con người được “thả nổi”, trở thành hiện thực. Về mặt đạo đức, rõ ràng bác sĩ Barta Tibor đã có thể lựa chọn cách khác, và không cần làm hại chính vợ ông ta - và gia đình nhà bà, cũng như những bạn hữu gần gũi và thân thiết - một cách chủ động và tích cực như vậy. Nhưng ông ta đã làm điều đó và ngay cả về sau này, khi bị phát hiện, cũng không hề cảm thấy cần phải sám hối. Chỉ điểm đã từng được các lãnh đạo Xô-viết thời Stalin ở Liên Xô coi là một “bổn phận công dân”, khi họ hô hào “mỗi người dân đều là một chiến sĩ an ninh”, kỳ thực là những nhân viên mật vụ. Điều này cũng đúng với các nước Đông Âu thời kỳ 1945-1989, khi tất cả mọi công dân chỉ còn là một ốc vít trong cỗ máy vận hành. Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều người ở các xứ Đông Âu thời hậu cộng sản, khi có cơ hội, đã không dám tìm hiểu những hồ sơ chỉ điểm được bạch hóa, sợ sẽ thấy trong đó những cái tên quen thuộc, hoặc là thành viên gia đình, bố mẹ con cái mình, hoặc bạn bè mình. Những biệt danh trong các hồ sơ mật vụ, nhiều khi vĩnh viễn sẽ không được biết đến. Trường hợp của bà Tőkés Eszter, được sự hỗ trợ của thân nhân là ông Tőkés László - người hùng của cách mạng Romania 1989, nay là dân biểu Nghị viện Châu Âu - nên đã được biết đến rộng rãi thông qua báo chí và phim ảnh. Tuy nhiên, người chồng Barta Tibor, hiện vẫn sống và làm việc trên cương vị một bác sĩ có tiếng tại Budapest, thì không hề phải chịu hậu quả gì. Báo chí Hungary có đặt câu hỏi: đúng vào thời điểm bộ phim được công chiếu, ông Barta Tibor còn có một buổi hòa nhạc tại Vương cung thánh đường Budapest, nơi lẽ ra hàng ngày ông ta phải tới sám hối cho tội lỗi của mình. Tuy nhiên, ông ta đã không hề tỏ ra hối hận, và dùng giấy tờ giả để biện minh, chối bỏ và phủ nhận mọi hoạt động chỉ điểm của mình! Tư pháp bất lực, dành chỗ cho phán xử đạo đức Tại các quốc gia cựu cộng sản vùng Đông - Trung Âu , kể từ sau biến cố dân chủ 1989-1990, nhu cầu thiết lập công lý, trừng phạt những tội ác trong quá khứ, để kẻ gieo gió phải gặp bão - nói rộng ra là trong sạch và trực diện triệt để với quá khứ - luôn là ý nguyện của số đông cư dân từng là nạn nhân bị đàn áp, tù đày, hoặc bị theo dõi, chỉ điểm bởi các thể chế độc tài toàn trị. Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm sau ngần ấy năm không đơn giản, khi rất nhiều nhân chứng không còn sống, những hồ sơ, tư liệu tiêu hủy và thiếu sót, sự buộc tội và chứng tỏ tội trạng rất khó khăn. Nhiều kẻ thủ ác - trong giai tầng lãnh đạo, hoặc đơn thuần là những kẻ thừa hành của bộ máy mật vụ - không hề bị trừng phạt, và có thể sinh sống và ra đi êm thấm. Báo chí Đông Âu hay nhắc tới ba cái tên Csatáry László, Képíró Sándor và Biszku Béla, ba kẻ thủ ác trong thập niên 40 và 50 thế kỷ trước tại Hungary, cũng chỉ bị xem xét tội trạng trong những năm cuối đời. Hai người đầu, phải chịu trách nhiệm trong những cuộc thảm sát dân Do Thái trong Đệ nhị Thế chiến - rốt cục đều đã thoát tội, và qua đời trong chăn ấm đệm êm ở tuổi 97. Chỉ có Biszku Béla, Bộ trưởng Nội vụ thời sau cách mạng 1956, kẻ được coi là “nắm đấm cứng nhất” của thể chế độc tài cộng sản ở Hungary, là bị kết án ở tuổi 83 sau mấy chục năm sống yên lành và sung túc tại một biệt thự khu “thượng lưu” ở Budapest, với mức lương bổng gấp bốn lần lương hưu của một người bình thường. Không chỉ thế, tại Cộng hòa Slovakia, mới đây chính quyền địa phương còn đưa ra một quyết định hết sức bị phản đối nhằm vinh danh một nhân vật cộng sản cộm cán - ông Vasil Biľak, đã mất cách đây một năm ở tuổi 95 - bằng cách phong ông ta làm công dân danh dự và dựng bảng ghi danh tại làng nơi ông ta chào đời. Giữ chức Bí thư Trung ương đảng trong vòng hai chục năm, ông Vasil Biľak từng là một yếu nhân của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, đồng thời là nhân vật quan trọng nhất trong số năm quan chức cao cấp đã ký vào bức thư “mời” Moscow và quân đội khối Hiệp ước Warszawa vào đàn áp Mùa xuân Praha tại Tiệp Khắc năm 1968. Những năm cuối đời, Vasil Biľak sống tại một biệt thự vào hàng sang trọng nhất ở thủ đô Bratislava. Hành vi “cõng rắn cắn gà nhà” của ông từng bị điều tra vì tội danh “bán nước”, nhưng hồ sơ điều tra của vụ án - lên tới hơn 23 ngàn trang - đã bị khép lại năm 2011. Luôn chối tội, Bilak đã ra đi mà không hề phải đối diện với hành động của mình trước vành móng ngựa. Tuy nhiên, một khi công lý đến bởi cơ quan tư pháp tạm bất lực, thì người dân đã có cách khác để bày tỏ sự phán xử đạo đức của họ. Những tấm biểu ngữ được giăng trước nhà những nghi can trên, hoặc trong phiên xử của họ, kêu gọi tội ác phải bị trừng phạt, kẻ sát nhân không thể ngủ yên, v.v... chính là bản án của người dân, của những nạn nhân dành cho kẻ thủ ác. Đối với Barta Tibor, tuy không bị truy tố nhưng tờ nhật báo lớn nhất của Hungary “Tự do Nhân dân” (Népszabadság) đã có bài bình luận về ông ta với những lời phê phán rất nặng. Tác giả đặt câu hỏi, là một bác sĩ chỉnh hình, thường xuyên phẫu thuật cột sống, nhưng chính ông ta lại là kẻ không hề có xương sống khi chỉ điểm chính vợ mình, gia đình mình trong nhiều năm... Như thế, khi nền tư pháp bất lực, công luận và người dân sẽ có sự phán xét đạo đức riêng của họ, cho những kẻ đáng bị trừng phạt, và suy cho cùng đây là hình phạt cao nhất... (*) Bài viết đã đăng trên RFI. Hoàng Nguyễn, từ Budapest
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 30, 2017 2:15:19 GMT 9
PHƠI BÀY HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC CỦA MẬT VỤ CHÍNH TRỊ CỘNG SẢN[03.04.2015 21:31 - Nhịp Cầu Thế Giới Online] Mới đây, tại Budapest, hội thảo quốc tế lần thứ hai với chủ đề là sự hoạt động và hợp tác giữa các cơ quan an ninh mật thuộc các nước cộng sản trong vùng Đông Âu trước kia đã được Ủy ban Ký ức Quốc gia Hungary tổ chức. Kho lưu trữ mật của Stasi tại Berlin Ủy ban Ký ức Quốc gia Hungary được thành lập và đi vào hoạt động hơn một năm nay, với mục đích làm sáng tỏ và xử lý mọi vấn đề có liên quan tới quá khứ cộng sản ở quốc gia này, thông qua việc tiếp cận và nghiên cứu các hồ sơ mật vụ, chỉ điểm. Chính giới Hungary đặt niềm tin vào Ủy ban này trong việc giải quyết cho đến cùng những vấn đề có liên quan tới nền độc tài cộng sản một thời ở Hungary, và mở ra khả năng thực thi công lý trong những gì còn tồn đọng. Trong cuộc hội thảo nói trên, các nghiên cứu đã phản ánh những nét đặc biệt và ly kỳ, cũng như quan liêu và cả nhàm chán trong hoạt động của các cơ quan mật vụ chính trị khét tiếng một thời này. Một kết luận được đưa ra: một phần tư thế kỷ sau ngày CNCS sụp đổ ở Châu Âu, còn rất nhiều tư liệu mật chưa được bạch hóa, và do đó chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện nào về sự hợp tác, hay ngay cả đối đầu giữa những định chế mật vụ “anh em” này. Tuy nhiên, một số nét chính, đặc thù của sự “phối hợp anh em” đó cũng đã được phân tích, mổ xẻ. Ngoài “ông anh lớn” Liên Xô, Cơ quan An ninh Quốc gia KGB, giới mật vụ chính trị Đông Đức Stasi cũng không chịu “kém cạnh” là bao. Tình báo Nga - Xô luôn chiếm “thượng phong” Xứng đáng với vai trò đứng đầu khối cộng sản, an ninh mật Xô-viết từ đầu đến cuối luôn chiếm cương vị ở “chiếu trên”. Trong thập niên 50, khi các xứ Đông Âu - với sự giúp đỡ của Liên Xô - dần dần trở thành các quốc gia cộng sản bằng bạo lực, khủng bố, đàn áp hoặc gian lận trong bầu cử, rất nhiều nhân viên KGB - mang vỏ bọc “cố vấn” - đã được cử tới vùng Đông Âu để chỉ đạo trực tiếp các vụ việc tại đó. Cuối những năm 50, vai trò của những nhân viên này được thay bởi các “liên lạc viên”, họ đặt cả văn phòng và duy trì một đội ngũ nhân viên tại các công sở, cơ quan chính quyền của các nước “chư hầu”, và hầu như có quyền can thiệp vào tất cả mọi việc. Các sử gia và giới nghiên cứu tham dự hội nghị tại Budapest cho hay, trong hoạt động này, KGB đã nhận được sự hỗ trợ rất tích cực của an ninh mật bản địa tại hai nước Tiệp Khắc và Bulgaria. Ở một mức “vừa phải” hơn, an ninh mật Hungary chỉ hợp tác cầm chừng, ở bề ngoài, và trong nhiều trường hợp thì tỏ ra ngần ngại. Romania là một trường hợp ngoại lệ: trong hai thập niên 40-50, mật vụ chính trị của nước này do các sĩ quan KGB Liên Xô chỉ đạo, nhưng năm 1964, Ban lãnh đạo Romania tuyên bố “độc lập”, thay đổi hàng loạt các sĩ quan mật vụ chủ chốt, thậm chí còn đoạn tuyệt với “người anh” Stasi, khiến Stasi phải hoạt động bí mật tại Bucharest. Chính thức hiện diện quân đội và đội ngũ ngoại giao đông đảo, mang tính áp đảo tại các xứ cộng sản Đông Âu cho tới tận năm 1991, giới mật vụ, tình báo KGB đóng vai trò đắc lực trong việc quản lý và kìm hãm những nỗ lực độc lập và dân chủ của các nước sở tại. Đặc biệt, những nhân viên ngoại giao Xô-viết nhiều khi cũng chính là điệp viên, hoặc về sau trở thành trùm mật vụ, tình báo: chẳng hạn, Đại sứ Andropov và Bí thư thứ nhất ĐSQ Liên Xô tại Hungary Kryuchkov thời kỳ 1956, về sau đều trở thành Chủ tịch KGB! Đông Đức bành trướng hoạt động tại Đông - Trung Âu Được coi là cơ quan tình báo và mật vụ chính trị khét tiếng thứ hai chỉ sau KGB của Liên Xô, tự bản thân giới lãnh đạo Stasi cũng đánh giá rằng họ đã thực hiện nhiệm vụ ở mức rất xuất sắc. Trong kỳ hội thảo, sử gia Đức Christian Domnitz đánh giá Stasi là “cơ quan an ninh hoạt động rất chuyên nghiệp và ở tầm vóc cao”. Theo mô hình của “đàn anh” KGB, Stasi cũng đặt cơ sở tại các nước XHCN khác, và tìm cách gây ảnh hưởng rất mạnh đến các cơ quan mật vụ sở tại. Nỗ lực ấy của Berlin đã đạt kết quả: cơ quan an ninh mật Bulgaria đã phục vụ Stasi hết sức trung thành, như môn đệ dễ bảo đối với thầy, thậm chí các báo cáo, tờ trình của Bun cũng được viết theo mẫu của Đông Đức. Tình hình ở Ba Lan cũng tương tự: cơ quan nội vụ nước này đã cung cấp cho Stasi nhiều dữ liệu và dịch vụ hơn mức mà Ban lãnh đạo Warszawa cho phép họ. Chỉ có Budapest là tỏ ra cầm chừng với lý do Stasi đòi hỏi họ nhiều quá, vượt khả năng mà họ có thể. Cần nói thêm, Stasi không chỉ theo dõi các công dân Đông Đức ở nước ngoài, mà họ còn “ra tay” rất quyết liệt mỗi khi cần, bất chấp mọi pháp luật của nước sở tại. Chẳng hạn, ở Hungary, hè 1989 khi 60-80 ngàn người Đông Đức tụ tập để tìm cách sang Phương Tây, Stasi đã cử người sang bắt cóc và đưa về Berlin và thoạt đầu, Budapest cũng bó tay trước hoạt động phi pháp này. Chỉ về sau, khi Ban lãnh đạo Hungary quyết định hợp tác với Tây Đức và Áo để mở biên giới Hung - Áo, hiện tượng này mới kết thúc. Đáng chú ý là ngoài Liên Xô ra, thì Stasi còn quan tâm đến mọi bí mật của các nước cộng sản khác, chẳng hạn, họ thường xuyên có báo cáo về Berlin về tình hình nội bộ của các đảng “anh em”, cũng như về phong trào đối lập nhen nhóm tại các xứ đó. Năm 1981, khi lãnh tụ đảng Hungary Kádár János gặp gỡ Thủ tướng Tây Đức Helmut Schmidt, chỉ sau mấy ngày Stasi đã có được nguyên văn cuộc nói chuyện - sở dĩ Hungary được Stasi đặc biệt chú ý vì Đông Đức thời đó rất thù nghịch với đường lối chính trị và chính sách ngoại giao theo hướng khá cởi mở của Budapest. “Bức tường Berlin nối dài” Đó là khái niệm do bà Slachta Krisztina, nhà nghiên cứu thuộc Kho Thư khố Lịch sử của các cơ quan an ninh quốc gia, trong bài diễn thuyết rất toàn diện về hoạt động của Stasi ở Hungary. Theo bà, Stasi sở dĩ cử nhân viên tới các nước cộng sản Đông Âu khác để vận hành “bức tường Berlin” tại đó, và ngăn chặn không cho công dân Đông Đức được nối quan hệ với thân nhân ở Phương Tây, cản họ tiếp xúc với sách vở, nguồn tin tự do mà Berlin thời đó coi là “phản động”. Như thế, “bức tường Berlin nối dài” ở đây cần được hiểu theo nghĩa, một ranh giới thực sự và trong tinh thần đã được Stasi dựng lên để ngăn Đông Đức và các xứ XHCN khác không được tiếp xúc với phần còn lại của Châu Âu. Để làm được điều đó, riêng ở Hungary, Stasi đã cho vận hành cả một “thế giới mật vụ song hành”: không chỉ theo dõi các công dân Đông Đức sang Hung thăm thú, mà Stasi còn tuyển dụng các sinh viên và người lao động Đông Đức tại Hung để làm chỉ điểm cho họ. Và, trong một chừng mực nào đó, các “đồng nghiệp” Hungary đã giúp Stasi, lúc đầu hăng hái, nhưng sau đó thì cầm chừng và rồi do suúc ép chính trị nên đã thôi hẳn. Một điều ít người biết, là các nhân viên tình báo, mật vụ Đông Đức có thể xuất sắc và kiếm được nhiều tin ở Phương Tây, nhưng trong vùng Đông Âu thì họ kém hiệu quả hơn nhiều, một lý do khá nực cười là do không thạo tiếng. Chẳng hạn, một nhóm điệp viên Stasi ở Budapest thì chỉ một người biết tiếng Nga, và không ai biết tiếng Hung! Nguyên nhân của sự yếu kém ấy là bởi điệp viên Stasi được chọn căn cứ lòng trung thành với đảng, còn khả năng và kiến thức về địa phương nơi họ hoạt động không được tính đến. Tại Hungary, nơi các điều kiện sinh sống, ăn ở hơn hẳn Đông Đức, các nhân viên Stasi thường cảm thấy khó bắt nối quan hệ với người dân và các “đương sự”, và không khỏi có nỗi hoài nhớ cố hương. Khi Hungary chấm dứt hợp tác với Stasi, điều này gián tiếp dẫn đến sự cáo chung của Đông Đức và bức tường Berlin cũng sụp đổ, không chỉ trong nước, mà cả phần “nối dài” của nó. Di chứng còn lại Các tham luận tại hội thảo Budapest cho thấy, hoạt động và sự hợp tác của các cơ quan tình báo, mật vụ cộng sản ở ngay trên các xứ “anh em” cho đến năm cuối thập niên 90 thế kỷ trước đã đạt đến mức khổng lồ. Các quốc gia XHCN tại Châu Âu đã tạo nên một “sổ đen” - do KGB chịu trách nhiệm điều hành - với thông tin của những “kẻ thù chung”: mang tên “Hệ thống lưu trữ và thông tin thống nhất”, “sổ đen” này chứa dữ liệu của hai trăm ngàn “kẻ thù”, tính đến tháng 10-1989. Đó là những tổ chức, thương gia, ký giả, nhà ngoại giao và những người bị trục xuất và bị coi là thù địch, thông tin về họ được chia sẻ và sử dụng chung trong nội bộ các cơ quan an ninh mật cộng sản. Nhà nghiên cứu người Czech Milán Bárta cho hay, hệ thống này có những nhược điểm như quá phức tạp, khó “nhận dạng” vì tên người được viết bằng chữ cái Latin và Kirin (Cyrillic), và luôn có quá nhiều đề xuất được gửi đến “trung tâm” để hỏi xin các thông tin về những kẻ “thù địch”. Những số liệu đó đã được dùng với mục đích gì, và trong một phần tư thế kỷ qua, những người có tên trong đó có còn bị vào tầm ngắm nữa không? Đặc biệt, những nhân vật thuộc phe đối lập của các quốc gia cộng sản thời xưa và có quan hệ hợp tác với nhau - đối tượng mà mật vụ chính trị cộng sản lo ngại nhất -, giờ có còn bị nhòm ngó dưới một dạng nào đó? Đây là câu hỏi chưa có lời đáp, vì giới nghiên cứu nhìn chung chưa tiếp cận được với các hồ sơ tình báo. Một điều chắc chắc: giới điệp viên Đông Âu thời xưa tập trung rất nhiều công sức để tổ chức và kích động các nhóm chính trị có lợi cho họ, chẳng hạn các tổ chức cánh tả và “yêu hòa bình”, các hội “hữu nghị”, theo phân tích của của sử gia Đan Mạch Thomas Wegener Friis. Đây là điều mà tình báo Nga hiện giờ vẫn thực hiện, có điều, thay vì cực tả, giờ chính quyền Nga rất chuộng các tổ chức cực hữu và tân phát-xít, hoặc những nhóm theo khuynh hướng chống EU. Và “di sản” ấy của KGB vẫn là thứ cần phải được để tâm và phòng tránh... (*) Bài viết đã đăng trên RFI. Hoàng Nguyễn, từ Budapest
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 12, 2018 0:54:13 GMT 9
KGB tiết lộ VC tiến hành thảm sát Huế 1968 như thế nàoNguồn Tổng Hợp, KGB dongsongcu.wordpress.com/2018/02/16/kgb-tiet-lo-vc-tien-hanh-tham-sat-hue-1968-nhu-the-nao/comment-page-1/#comment-1794Từ quan điểm Liên Xô, chủ trương “tận diệt kẻ thù” trong thảm sát Mậu Thân đã được Yuri Alexandrovich Bezmenov, cựu nhân viên KGB đào thoát sang phía tư do năm 1970, giải thích: “Tương tự, trong một quận nhỏ Huế tại Nam Việt Nam, nhiều ngàn người đã bị xử tử trong một đêm khi thành phố bị Việt Cộng chiếm chỉ trong hai ngày; CIA Mỹ không thể nào trả lời được câu hỏi, làm thế nào CS có khả năng biết từng cá nhân người bị xử tử, ông ta sống ở đâu, đến nơi nào để bắt ông và để bắt chỉ trong bốn giờ trước bình minh, bỏ ông ta lên xe, lái ra khỏi thành phố và bắn. Câu trả lời rất đơn giản. Thật lâu trước khi chiếm thành phố đã có một mạng lưới rộng lớn của những CS nằm vùng; họ là dân địa phương và là những người biết một cách tuyệt đối những ai trong thành phố có ảnh hưởng với dư luận quần chúng, kể cả những anh thợ hớt tóc và tài xế taxi. Những ai có cảm tình với Mỹ đều bị xử bắn…” Những hành động dã man nhắm vào dân lành tại Huế , làm nhớ tới Liên Xô tàn sát hàng ngàn hàng binh Ba Lan phần lớn là sĩ quan vào tháng 9-1939 tại rừng Katyn ở phía tây thành phố Smolensk, chứng tỏ bản chất hiếu sát vốn tiềm tàng trong máu óc của cộng sản, dù chúng là ai chăng nửa, tất cả đều giống nhau vì cùng chung một tổ. Trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968, Huế là thành phố bị thiệt hại nặng nhất về nhân mạng cũng như vật chất vì bị VC chiếm đóng lâu dài nhất. Riêng người Huế sỡ dĩ bị tàn sát dã man, theo một số nhân chứng , do VC được chỉ điểm bởi một số nằm vùng địa phương vì thù oán nhau mà trả thù, rồi lại được tự do đi lại trong thành phố nên tự do hành động, nhất là trong khoảng từ mồng hai tới mồng bốn, tha hồ đi từng nhà,lôi từng người ra bắn giết theo ý muốn, đúng với kỹ thuật bắt và thủ tiêu kiểu KGB. Cho đến nay không ai biết chính xác số người bị VC tàn sát tại Huế là bao nhiêu nhưng căn cứ vào thống kê số hài cốt tìm được trong một số hầm chôn tập thể sau khi giặc bị đánh đuổi khỏi thành phố, tại các địa điểm Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Bải Dâu,Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Ðức,Ðồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Ðông Ba, Trường An Ninh Hạ,Trường Vân Chí, Chợ Thông,Chùa Từ Quang,Lăng Gia Long, Ðồng Di, Vịnh Thái, Phù Lương , Phú Xuân, Thượng Hòa,Thủy Thanh, Vĩnh Hưng và Khe Ðá Mài.. tổng cộng hàng ngàn người chết. Để giết chết nhiều ngàn người bằng những phương pháp dã man và chỉ trong một thời gian ngắn không phải là hành động tự phát, tư thù, ngẫu nhiên mà là một chính sách “tận diệt kẻ thù” đã được quyết định từ trung ương đảng CSVN. Như đã được bạch hóa, danh sách sĩ quan Ba Lan bị giết tại rừng Katyn đã được chính Stalin phê chuẩn. Danh sách nạn nhân Huế cũng đã được trung ương đảng CSVN chấp thuận. Điểm khác nhau duy nhất, CS Liên Xô giết người Ba Lan còn CSVN giết người Việt Nam. Dưới chế độ CS không có chuyện cá nhân. Tất cả, từ tổ ba người đến toàn đảng đều thống nhất theo một chủ trương. Nếu có giết lầm thì việc giết lầm đó cũng nằm trong chủ trương “giết lầm còn hơn bỏ sót” của đảng. Để chiến thắng bằng mọi giá và mọi cách, đảng CS cần một mạng lưới nằm vùng trung thành, dã man, cuồng tín và hữu hiệu. Thành phần này cần thiết để trực tiếp thi hành các chính sách của đảng CS tại địa phương. Danh sách dài của những người bị giết tại Huế đã được CS cấp trên chấp thuận và giao cho các cấp địa phương để thi hành bản án xử tử. Danh sách đó dĩ nhiên do CS nằm vùng tại Huế cung cấp và chính những CS nằm vùng này là những người thực hiện việc giết người. Ngày 13/9/1939, Hồng quân Liên Xô (LX) xâm lăng Ba Lan và chiếm đóng một phần lãnh thổ nước này và bắt tay vào việc “lập lại trật tự”. Điều này đồng nghĩa với việc thiết lập hàng loạt hệ thống các trại mang danh “trại lao động”, “trại tù”, “Gulag”, hay “trại tập trung”, trong thực tế là những trại tử thần do Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô (NKVD) tiền thân của KGB (Cục An ninh Quốc gia) quản lý. Hàng ngàn thành viên giới trí thức Ba Lan cũng bị bắt giam vì bị cho là “nhân viên tình báo, sen đầm, địa chủ, những kẻ phá hoại, chủ nhà máy, luật sư và tu sĩ”. Tổng cộng, có chừng 15 ngàn người – trong số đó có hai sĩ quan mang quân hàm tướng. Ngày 5-3-1940, theo đề nghị của Beria, Chính ủy của NKVD, Stalin đã ký một sắc lệnh hành quyết 25.700 “người quốc gia và phản cách mạng”. Nạn nhân của vụ thảm sát được chôn trong các nấm mồ tập thể tại Katyn (gần Smolensk), Mednoye (gần Tvar) và các khu rừng ở Pyatykhatky (ngoại ô Kharkov). Vụ thảm sát và việc xóa bỏ dấu vết các nạn nhân đã được thực hiện một cách tuyệt mật. Đến năm 1941, Wehrmacht (quân đội Đức) đẩy lui Hồng quân và hơn một năm sau người Đức đã tìm ra những hố chôn tập thể rải rác trên 3 địa điểm nói trên. Trước lời tố cáo của Đức, Liên Xô phủ nhận hoàn toàn trách nhiệm và quy ngược lại trách nhiệm về phía phát xít Đức. Cần nói thêm ở đây là vì nhu cầu đồng minh với Liên Xô để chống phát xít, Anh và Mỹ đã cố ý cho “chìm xuồng” vụ này trong suốt thế chiến và cả nửa thế kỷ sau đó. Phải đợi đến khi chế độ cộng sản sụp đổ vào thập niên 90 thì tất cả mới được đưa ra ánh sáng với sự hợp tác của ba đời Tổng thống Nga là Yeltsin, Putin và Medvedev. Tháng 11/2010, viện Duma (hạ viện Nga) đã thông qua một nghị quyết tuyên bố rằng tội ác Katyn được tiến hành theo các chỉ thị của Stalin và các quan chức Liên Xô khác. Việc Nikita Khrushchev (1894-1971) bị đảo chánh ở Liên Xô ngày 15-10-1964 là một biến cố rất thuận lợi cho VV. Khrushchev chủ trương hòa dịu với các nước Tây phương và sống chung hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau. Chính phủ Liên Xô dưới thời Khrushchev, vào đầu năm 1957, đã đưa ra đề nghị hai miền Bắc và Nam Việt Nam cùng vào Liên Hiệp Quốc như hai nước riêng biệt, nhưng bị nhà cầm quyền VC quyết liệt phản đối. Trong khi đó, VC quyết dùng võ lực để xâm chiếm VNCH. Khi biến cố Maddox xảy ra trong vịnh Bắc Việt vào tháng 8-1964, Hoa Kỳ leo thang chiến tranh, oanh tạc Bắc Việt. Ban lãnh đạo mới của Liên Xô gồm tam đầu chế Leonid Brezhnev (1906-1982), Alexei Kosygin (1904-1980) và Nicolay Podgorny (1903-1983) muốn lôi kéo Bắc Việt về phía mình trong cuộc tranh chấp giữa Liên Xô và Trung Hoa, liền tuyên bố sẵn sàng giúp đỡ Bắc Việt trong trường hợp Bắc Việt bị Hoa Kỳ tấn công. Tháng 2-1965, thủ tướng Liên Xô Kosygin viếng thăm Hà Nội. Để đáp lễ và tiếp tục cuộc thương thảo, tháng 4-1965, Lê Duẩn (1907-1986), bí thư thứ nhất đảng Lao Động Việt Nam (LĐVN) cầm đầu phái đoàn sang Moscow. Trong dịp nầy, một thỏa ước viện trợ đã được ký kết; đồng thời Liên Xô đồng ý cho một tổ chức do đảng LĐVN lập ra để điều khiển chiến tranh ở miền Nam là MTDTGP MNVN đặt văn phòng liên lạc tại Mạc Tư Khoa. Tuy chưa chính thức thừa nhận về mặt ngoại giao theo công pháp quốc tế, nhưng việc Liên Xô chấp thuận cho MTDTGPMNVN đặt văn phòng liên lạc tại Mạc Tư Khoa, có nghĩa là Liên Xô xác nhận sự hiện diện của mặt trận nầy tại miền Nam Việt Nam, khởi đầu cho việc tăng cường viện trợ quân sự cho Bắc Việt cũng như MTDTGPMNVN theo chủ trương can thiệp mới của Liên Xô, mà sau nầy các nước Tây phương gọi là chủ thuyết Brezhnev. Từ đó, vũ khí Liên Xô được đưa vào chiến trường miền Nam để trang bị cho lực lượng cộng sản. Nhiều quan sát viên ghi nhận rằng các loại vũ khí nầy tối tân hơn các loại vũ khí còn sót lại sau thế chiến thứ hai (1939-1945), mà Hoa Kỳ trang bị cho quân lực VNCH cho đến năm 1968. Tại Bắc Việt, giữa năm 1967, đảng LĐ ra tay lần chót, lần lượt bắt giam tất cả những thành phần theo chủ trương hòa dịu giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau của Khrushchev, tức những thành phần không đồng ý với cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam. Lãnh đạo đảng LĐ lúc đó gán cho họ tội danh là thành phần “xét lại”, âm mưu “chống đảng”. Đó là các ông Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang, và khoảng 40 nhân vật khác, trong đó có cả trí thức, văn nghệ sĩ. Nhân dịp lễ kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Mười Liên Xô, Lê Duẩn, bí thư thứ nhất đảng LĐ, cùng hai uỷ viên Bộ chính trị là Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Quốc phòng và Nguyễn Duy Trinh, bộ trưởng Ngoại giao lên đường vào cuối tháng 10-1967 qua Mạc Tư Khoa dự lễ. Trên đường đi, phái đoàn nầy đã ghé qua Bắc Kinh xin quân viện, trình bày kế hoạch mới theo quyết định của Bộ chính trị VC vào tháng 7, đã được Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) hứa gởi qua Bắc Việt 300,000 lính phòng không và công binh, cung cấp hoả tiễn 107 ly, 240 ly, quân dụng, lương khô, thuốc men. Tại Mạc Tư Khoa, Liên Xô chấp thuận cho Bắc Việt thêm đại bác 130 ly, chiến xa T54, phản lực cơ Mig 21 và các loại vũ khí nặng khác. Cũng trong dịp nầy, để chứng tỏ một lần nữa tình thân thiện Xô Việt, những nhà lãnh đạo Xô Viết quyết định tặng Hồ Chí Minh huân chương Lenin. Trên toàn lãnh thổ VNCH, trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, chỉ trừ vụ tấn công Tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn để gây tiếng vang trên thế giới, du kích CS hầu như tránh tấn công các căn cứ quân sự Hoa Kỳ trên toàn quốc, mà chỉ nhắm vào các thành phố và các căn cứ quân sự VNCH. Trước Tết Mậu Thân, chỉ huy đặc khu Trị-Thiên-Huế (tức Quảng Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế) của VC là thiếu tướng Trần Văn Quang. Trần Văn Quang cử Lê Minh, bí thư tỉnh ủy đảng Lao Động (CS) tỉnh Thừa Thiên-Huế, phụ trách mặt trận Trị-Thiên. Minh chia mặt trận Trị-Thiên thành 3 khu vực: mặt trận Quảng Trị giao cho Hồ Tú Nam phụ trách; mặt trận Phú Lộc (phía nam Thừa Thiên) giao cho một cán bộ tên Chi chỉ huy; còn mặt trận Huế, quan trọng nhất, do Lê Minh đích thân đảm nhận. Minh lại chia Huế thành hai điểm để tấn công: phía bắc Huế (tả ngạn sông Hương), và phía nam Huế (hữu ngạn sông Hương) Cánh quân phía bắc Huế do một người tên Thu chỉ huy, Trần Anh Liên làm chính ủy. Lực lượng gồm có trung đoàn 6 (gọi là E-6, gồm có 3 tiểu đoàn), thêm 1 tiểu đoàn đặc công, 1 đại đội pháo và du kích hai quận Hương Trà và Hương Điền. Cánh quân nầy xuất phát đúng vào tối Giao thừa (29-1-1968) từ rừng núi tây Huế, chia làm 4 mũi đánh vào cửa Chính Tây (nằm về tay trái hoàng thành từ Kỳ đài nhìn vào), cửa An Hòa (cửa Tây Bắc), Kỳ đài (cột cờ trước Ngọ môn), sân bay Tây Lộc và đồn Mang Cá. Cộng quân làm chủ ngay được cửa Chính Tây, cửa An Hòa và Kỳ đài, nhưng thất bại ở sân bay Tây Lộc và đồn Mang Cá. Đồn Mang Cá lúc đó là nơi đặt bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 BB do chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng đứng đầu. Chính đồn Mang Cá là điểm tựa vững vàng để quân đội VNCH cũng như Đồng minh tổ chức phản công. Qua cửa Chính Tây, VC tiến chiếm Đại nội. VC dùng bờ thành Đại nội để bảo vệ Kỳ đài, nơi đó, ngày 31-1 (mồng 2 Tết), VC treo một lá cờ lớn của MTDTGP MNVN. Từ Kỳ đài, VC tiến quân theo mé bờ tả ngạn sông Hương (tức bờ phía bắc), chiếm đồn Cảnh sát chợ Đông Ba, bắt tay với một cánh cộng quân khác cũng của E-6, làm chủ hoàn toàn khu vực Đông Ba, Gia Hội. Cánh quân phía nam Huế do Thân Trọng Một chỉ huy, Nguyễn Vạn làm chính ủy. Lực lượng gồm có trung đoàn E-9 của sư đoàn 309, trung đoàn 5 (4 tiểu đoàn), 1 tiểu đoàn pháo, và 4 đội đặc công. Cánh quân nầy dự định xuất phát tối Giao thừa (29-1), nhưng vừa xuất phát thì bị phi cơ thám thính Mỹ phát hiện và bị pháo kích, phải lẩn tránh nên tiến chậm. Sáng mồng 1 Tết (30-1) cánh quân nầy mới tiếp tục tiến về phía thị xã Huế. Sau 4 ngày giao tranh, cộng quân chiếm gần hết vùng hữu ngạn thành phố Huế cho đến lao xá Thừa Phủ (gần sát tỉnh đường Thừa Thiên). Cộng sản thả khoảng 2,000 tù nhân đang bị giam trong lao xá. Những người nầy liền được CS võ trang để tiếp tay cho họ. Quân đội VNCH chỉ còn giữ đài Phát thanh, Tiểu khu Thừa Thiên, Bản doanh MACV (Military Assistance Command, Viet nam) đặt ở khách sạn Thuận Hóa, và bến tàu Hải Quân. Về phương diện chính trị, ngay sau khi chiếm vùng tả ngạn (phiá bắc Huế, vùng chợ Đông Ba, Thành nội…), ngày mồng 2 Tết (31-1) cộng sản tiến hành tổ chức cầm quyền. ủy Ban Nhân Dân (danh xưng của cộng sản) trong Thành nội gồm hai quận, do Nguyễn Hữu Vấn (giáo sư âm nhạc) làm chủ tịch quận 1, và Nguyễn Thiết (sinh viên Đại học Luật khoa) làm chủ tịch quận 2. Phía hữu ngạn, cộng sản không thành lập kịp các ủy ban nhân dân, chỉ chú tâm vào việc lùng bắt và kiểm soát tù hàng binh. Ngày mồng 3 Tết (1-2-1968), đài phát thanh Hà Nội loan báo thành lập tổ chức Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, DC & HB tại Huế do Lê Văn Hảo, giáo sư Đại học Văn khoa Huế, làm chủ tịch, và Hoàng Phủ Ngọc Tường làm tổng thư ký. Đài phát thanh HN cũng thông báo ngày 14-2, Lê Văn Hảo được đưa lên làm chủ tịch chính quyền cách mạng Huế, với hai phó chủ tịch là bà Đào Thị Xuân Yến (còn gọi là bà Tuần Chi), và Hoàng Phương Thảo (Thường vụ Thành ủy cộng sản. Nguyễn Đắc Xuân, khi còn là sinh viên sống tại Huế, đã từng tổ chức đoàn “Phật Tử Quyết Tử” vào năm 1966 để chống chế độ “Thiệu Kỳ”, rồi bỏ trốn theo CS, nay trở lại Huế, phụ trách đội “Công tác Thanh niên”. Xuân được cộng sản giao nhiệm vụ tổ chức “đoàn Nghĩa binh”, gồm những quân nhân Cộng Hòa bị kẹt trong vùng cộng sản tạm chiếm, gọi là “Quân nhân Sư đoàn I ly khai”. Ngày 4-2-1968 (mồng 6 Tết), đoàn nầy ra thông cáo đả kích chế độ “Thiệu Kỳ”, nhưng sau đó đoàn bị cộng sản phân tán ngay, vì sợ các quân nhân trong đoàn nầy quay lại chống cộng sản. Nguyễn Đắc Xuân còn tổ chức đội “Nghĩa binh Cảnh Sát”, giữ nhiệm vụ ngăn chận không cho dân di tản khi quân đội VNCH và Đồng minh phản công. Những đơn vị an ninh của cộng sản hoạt động mạnh sau khi cộng quân tạm chiếm Huế. Những đơn vị nầy do một người tên Lê (Tư) điều khiển chung, còn Tống Hoàng Nguyên phụ trách tả ngạn, và Nguyễn Đình Bảy (Bảy Khiêm) lo phía hữu ngạn. Những đơn vị nầy truy lùng và bắt giết tất cả những nhân viên chính quyền VNCH và nhân viên làm việc tại các cơ quan Hoa Kỳ, hoặc những người cộng tác với Cơ quan tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA: Central Intelligence Agency). Chính những đơn vị an ninh nầy là tác giả của những cái chết thê thảm tại Huế. ……Tình hình càng lúc càng bất lợi cho cộng sản. Lê Minh, bí thư Thừa Thiên Huế, giữ trách nhiệm trực tiếp mặt trận Huế, tỏ ý muốn rút lui trong cuộc họp ngày 19-2, nhưng còn phải chờ lệnh trên. Quân đội VNCH và Đồng minh Hoa Kỳ đẩy dần quân cộng sản ra khỏi Thành nội. Sáng sớm 23-2, lá cờ VNCH tung bay trên kỳ đài thay thế cờ của MTDTGP MNVN. Quân đội VNCH và Đồng minh có thể nói đã làm chủ được tình hình Thành nội từ đây. Phía cộng sản, “về sau có lệnh: chuẩn bị rút lui lên vùng rừng núi phía Tây, cố bảo toàn lực lượng, mang theo đủ vũ khí chưa sử dụng đến. Khi lệnh rút lui ban bố vào đêm 25 tháng 2, một không khí có phần hoảng loạn diễn ra…”. Người trong cuộc là ông Lê Minh, bí thư Thừa Thiên-Huế, phụ trách mặt trận Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, đã thú nhận rằng việc tàn sát tù binh và thường dân ở Huế là có thật. Ông ta tuyên bố chịu trách nhiệm về cuộc tàn sát nầy, nhưng lại chống chế rằng cộng quân “đã ở trong một hoàn cảnh quá khó khăn, đến không thể nào kiểm soát nổi những hành động thô bạo”. Lời thú nhận của ông Lê Minh được đưa ra năm 1988, trong thời gian đảng CSVN bắt đầu cởi mở, đã được đăng trên tạp chí Sông Hương và được dịch đăng trên báo Newsweek ở Hoa Kỳ. Sau đó những biến động ở Đông Âu dồn dập xảy ra và Liên Xô sụp đổ năm 1991, đã làm cho phái bảo thủ trong đảng CSVN cứng rắn trở lại. Hồ sơ Mậu Thân bị khép kín lần nữa. Quyển hồi ký của Lê Minh liền bị thu hồi và bản thân đương sự bị thất sủng, cô lập. Sau sự kiện 1975, một cuộc thảm sát tương tự như ở Huế 1968, nhưng lần này VC lạm sát trên toàn lãnh thổ nước Nam, và hàng triệu con dân nước Việt đã nằm xuống dưới lưỡi đao phủ của VC. Chối tội, thậm chí vu oan giáo họa là nghế của Cộng Sản. Sau khi Hồng quân Liên Xô tiến vào vùng Smolensk và đẩy lùi quân đội Đức, Liên Xô thành lập một Ủy ban đặc biệt điều tra tội ác của quân đội phát-xít Đức trong rừng Katyn. Tháng 1-1944, Ủy ban này công bố một loạt “chứng cứ” chứng minh vụ thảm sát Katyn là do quân đội Đức gây ra. Năm 1945, I. Stalin quyết định tháo “nút thắt Katyn” bằng cách đưa vụ thảm sát ra Tòa án Quân sự tại Nuremberg. Công tố viên Liên Xô, Tướng R.A. Rudenco đã buộc tội phát xít Đức thảm sát 11.000 tù binh Ba Lan tại Katyn; tuy nhiên, Tòa án Quân sự tại Nuremberg đã không đi đến một phán xét chung cuộc, vì phía Liên Xô không đưa ra được những bằng chứng thuyết phục. Hơn mười năm sau, ngày 22-12-1955, sau nhiều nỗ lực vận động của cộng đồng người Ba Lan tại Mỹ, một Ủy ban của Thượng viện Hoa Kỳ đề nghị chính phủ Hoa Kỳ đưa vụ Katyn lên Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và buộc tội Liên Xô trước Tòa án Quốc tế tại Hà Lan, song đề nghị này không được chính phủ Mỹ chấp thuận. Năm 1953, I. Stalin qua đời, “chủ nghĩa xét lại” của Tổng Bí thư Nikita Khrushchev lên ngôi nhưng N. Khrushchev cũng không vượt qua “phương pháp áp lực trực tiếp” đối với nước láng giềng Ba Lan; vì thế, “vấn đề Katyn” không thể vô cớ bị xới lên lần nữa. Cuối thập niên 50, dưới chỉ đạo của N. Khrushchev, A.Shlepin đã bí mật nghiên cứu hồ sơ vụ Katyn. Ngày 3-3-1959, A.Shlepin đệ trình “Văn bản N-632-SH”, kiến nghị tiêu hủy 21.857 cặp tài liệu về các nạn nhân Katyn – những tài liệu mà theo như A.Shlepin giải thích, là chẳng những “không có bất kỳ ý nghĩa cũng như giá trị lịch sử đối với chính phủ Liên Xô (…) và có lẽ chúng cũng không phải là mối quan tâm thực sự đối với những bạn bè Ba Lan”; trái lại, nếu ngẫu nhiên bị phát hiện, “có thể dẫn đến những hậu quả vô cùng bất lợi cho Nhà nước Xôviết”. A. Shlepin đề nghị giữ lại những hồ sơ quan trọng nhất như “Biên bản cuộc họp Troika NKVD cùng những văn bản thực hiện quyết định số phận 15.000 tù binh Ba Lan. Ban lãnh đạo Liên Xô đã chuẩn y đề nghị của A. Shlepin, chỉ giữ lại những hồ sơ quan trọng, được tập hợp thành một bộ “Hồ sơ đặc biệt Số 1” và đưa vào bảo quản theo chế độ tuyệt mật, chỉ những người lãnh đạo cao nhất của chính quyền Liên Xô mới có quyền tiếp cận. Nửa sau của thập niên 80, trong khuôn khổ công cuộc cải tổ, Michail Gorbachev đã đồng ý thành lập Ủy ban hỗn hợp Liên Xô-Ba Lan với mục đích tìm sự lý giải cho những vết đen lịch sử trong quan hệ hai nước. Gọi tên ủy ban như vậy nhưng trong thực tế là tìm phương thức thích ứng để công khai hoá thủ phạm. Cũng cần lưu ý ở đây rằng, với cương vị Tổng bí thư và Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xôviết Tối cao, chắc chắn Gorbachev đã biết rõ “Hồ sơ đặc biệt Số 1”. Trong tiến trình thắt chặt toàn diện quan hệ Liên Xô – Ba Lan, năm 1986, M. Gorbachev và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Ba Lan W.Jaruzelski ký “Hiệp định về hợp tác Liên Xô – Ba Lan trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và khoa học”, theo đó, hai bên “chú trọng không để tồn tại những vết đen trong lịch sử hai nước, không để lịch sử đốt lên hận thù dân tộc”. Ngày 19-5-1987, tại Moscow đã diễn ra phiên họp toàn thể đầu tiên Ủy ban Liên Xô – Ba Lan về lịch sử quan hệ song phương, “vấn đề Katyn” được đưa vào chương trình nghị sự, song những nghiên cứu về sự kiện này diễn tiến khá trì trệ và bị chi phối bởi tư tưởng giáo điều, bởi các yếu tố chính trị trong nội bộ mỗi nước và trong quan hệ Liên Xô – Ba Lan. Đến ngày 13-4-1990, nhân chuyến thăm Liên Xô của Tổng thống W.Jaruzelski, một số tư liệu lưu trữ liên quan đến sự kiện Katyn mới được chuyển giao cho phía Ba Lan. Ngày 13-4-1990, Hãng thông tấn Liên Xô TASS ra “Tuyên bố chính thức” thừa nhận trách nhiệm của Liên Xô trong “thảm kịch Katyn”. Tuyên bố nói rõ: “Tài liệu tìm thấy trong kho lưu trữ cho phép kết luận về vai trò, trách nhiệm của Beria, Merkulov và các đồng sự” đồng thời bày tỏ sự hối tiếc sâu sắc về sự kiện bi thảm Katyn. Sau đó 20 năm, ngày 28-4-2010, Giám đốc Cơ quan lưu trữ Liên bang Nga Andrey Artizov tuyên bố với báo giới các tài liệu liên quan đến vụ Katyn được cơ quan này đưa lên website của mình cùng lời khẳng định: “Các tài liệu này chưa bao giờ được đăng trên các website chính thức của Chính phủ và đây là lần đầu tiên được đăng tải trên trang điện tử của chúng tôi, trong đó có “Hồ sơ đặc biệt Số 1”. Các vụ xử bắn được tiến hành có phương pháp. Sau khi thông tin cá nhân của người bị kết án được kiểm tra, anh ta bị trói tay và dẫn tới một xà lim cách ly với các bao cát dọc theo các bức tường và một nỉ lót, cánh cửa nặng. Nạn nhân phải quỳ giữa phòng, sau đó kẻ hành quyết tiến lại từ phía sau và lập tức bắn vào sau đầu anh ta. Thi thể sau đó được mang qua cánh cửa đối diện và bị bỏ vào năm hay sáu chiếc xe tải đợi sẵn, và người bị hành quyết tiếp sau vào phòng. Ngoài việc cách ly kín phòng hành quyết, tiếng nổ của đạn còn được ngụy trang bằng cách cho hoạt động những loại máy có tiếng ồn lớn (có lẽ là những chiếc quạt) cả đêm. Quy trình này diễn ra hàng đêm,. Ngày 4 tháng 2 năm 2010 Vladimir Putin, đã mời người đồng cấp Ba Lan, tham giữ một cuộc tưởng niệm Katyn vào tháng 4. Ngày 10 tháng 4 năm 2010, chiếc máy bay chở Tổng thống Ba Lan Lech Kaczyński cùng phu nhân và 87 chính trị gia và các sĩ quan cao cấp khác đâm xuống đất tại Smolensk, làm thiệt mạng toàn bộ 96 người trên máy bay. Các hành khách đang trên đường tới dự một lễ tưởng niệm 70 năm vụ xử bắn ở Katyn. Đất nước Ba Lan choáng váng; Thủ tướng Donald Tusk, người không ở trên máy bay, gọi đây là “sự kiện bi thảm nhất của Ba Lan từ sau cuộc chiến tranh.” Sau đó, một số giả thuyết âm mưu bắt đầu lan truyền. Nguồn Tổng Hợp, KGB quanvan.net/community/thoi-chinh-chien/kgb-tiet-lo-vc-tien-hanh-tham-sat-hue-1968-nhu-the-nao/#post-1242
|
|