|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 5:54:49 GMT 9
Edward Teller Cha đẻ bom nguyên tử HVietsciences-Phạm Văn Tuấn Edward Teller (1908 - 2003) cha đẻ bom nguyên tử H Theo nhà bác học Lewis Strauss, Chủ Tịch của Ủy Ban Nguyên Tử Lực Hoa Kỳ, thì các nhà bác học có thể được xếp thành ba loại: loại thứ nhất chỉ chuyên tâm vào môn Khoa Học thuần túy, những người thuộc loại thứ hai chú ý tới các áp dụng của Khoa Học, còn sau cùng là những nhà bác học quan tâm tới ảnh hưởng của Khoa Học trên phương diện chính trị. Tuy nhiên, cũng có nhà bác học thuộc về cả ba loại kể trên: đó là trường hợp của ông Edward Teller.
Edward Teller không phải là người chỉ biết sống trong tháp ngà. Ngoài những lúc đắm mình trong các bài toán vật lý nguyên tử, ông còn phụ trách việc giảng dạy môn Vật Lý Cao Cấp hoặc liên lạc với Bộ Quốc Phòng, vì ông vừa là hội viên của Tiểu Ban Tư Vấn thuộc Ủy Ban Nguyên Tử Lực, vừa là hội viên của Tiểu Ban Tư Vấn Khoa Học thuộc Bộ Không Lực Hoa Kỳ. Ngoài công việc khảo cứu Khoa Học, sở dĩ Edward Teller còn chú tâm tới chính trị cũng vì những ảnh hưởng do thời thơ ấu của ông.1/ Thời niên thiếu. Edward Teller chào đời vào ngày 15 tháng 1 năm 1908 tại thành phố Budapest, thuộc nước Hung Gia Lợi, trong một gia đình giàu có dòng dõi Do Thái. Sau cuộc Thế Chiến Thứ Nhất, nước Hung bị chia cắt và nền kinh tế của đất nước này sụp đổ. Vì cảm thấy sự bại vong của đất nước và vì nhận ra các dấu hiệu bài Do Thái, người cha của Edward Teller đã in sâu vào tâm khảm của cậu con trai hai điều: thứ nhất, khi nào tới tuổi thanh niên đầy đủ khả năng, cậu phải di cư sang một xứ sở nào hiếu khách hơn, thứ hai, vì thuộc vào lớp người thiểu số bị ghét bỏ, cậu phải vượt lên những kẻ khác để có thể đồng đẳng với họ. Vì thế ngay từ thuở nhỏ, Edward Teller đã lo sợ trước nỗi ám ảnh của những chính thể độc tài. Cậu đã hiểu rõ những kết quả tai hại do các cuộc thất bại mang đến. Chính những lời dặn của người cha, chính sự lo lắng cho tương lai đã khiến Edward Teller trở nên một người làm việc siêng năng. Thời còn theo ban trung học tại Budapest, cậu Edward đã tỏ ra là một học sinh có năng khiếu về Toán Học và đã vượt xa các bạn một cách dễ dàng. Ngoài thú vui làm toán, Edward còn ưa thích Âm Nhạc, Văn Thơ, ham đánh cờ hoặc đi tản bộ trong miền thôn dã. Edward Teller đã làm thơ và đã sáng tác khi rung động trước đôi mắt xanh của cô em gái một người bạn. Sau khi học xong bậc trung học, Edward Teller ghi tên vào Viện Kỹ Thuật của thành phố Karlsruhe, nước Đức, tốt nghiệp kỹ sư Hóa Học rồi tới Munich và Leipzig, theo học ngành Hóa Lý (physical chemistry), lãnh văn bằng Tiến Sĩ vào năm 1930. Đề tài của luận án tốt nghiệp của Edward Teller gồm khảo cứu về ion của phân tử hydrogen (hydrogen molecular ion), sự nghiên cứu này đã đặt nền móng cho một lý thuyết về quỹ đạo phân tử (molecular orbital) mà ngày nay còn được giới Khoa Học chấp nhận rộng rãi. Vào năm 1933 khi Hitler lên nắm chính quyền tại nước Đức thì Edward Teller đang nghiên cứu cách cấu tạo phân tử của vật chất và theo học môn vật lý lý thuyết dưới sự chỉ dẫn của nhà bác học Niels Bohr tại Copenhagen, nước Đan Mạch, rồi sau đó giảng dạy môn Vật Lý tại trường Đại Học Goettingen từ năm 1933 tới năm 1935. Thời bấy giờ, người Đức Quốc Xã bắt đầu bạc đãi giống dân Do Thái. Edward Teller liền lợi dụng cơ hội này, trốn sang nước Anh cùng bà vợ Augusta Harkanyi rồi hai năm sau, ông sang Hoa Kỳ, nhận chân Giáo Sư Vật Lý tại trường Đại Học George Washington. Trong thời gian giảng dạy này, Edward Teller đã khảo cứu về các phản ứng nhiệt lượng hạch tâm, tức là những điều cho phép nhà khoa học cắt nghĩa được nguyên nhân sự cháy sáng của các vì sao. Cùng với nhà vật lý George Gamow, Edward Teller thiết lập ra các quy luật mới để xếp hạng các cách theo đó các hạt hạ nguyên tử (subatomic particles) có thể thoát ra khỏi nhân nguyên tử trong thời kỳ phân rã phóng xạ (radioactive decay). Bẩy tháng trước ngày Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, các nhà bác học Hoa Kỳ cảm thấy lo ngại khi hay tin tại nước Đức, các nhà vật lý đã thành công trong việc phá vỡ nhân nguyên tử. Khi Thế Chiến xẩy ra thì tại châu Mỹ, nhà bác học Léo Szilard cũng đạt được các kết quả khả quan trong các thí nghiệm về hạch tâm và chứng tỏ rằng nước Mỹ có thể chế tạo được một thứ bom cực kỳ mạnh. Léo Szilard cùng vài nhà bác học khác liền vận động để chính phủ Hoa Kỳ khởi sự công cuộc chế tạo thứ vũ khí đó. Muốn cho Tổng Thống Franklin D. Roosevelt phải đặc biệt chú ý, các nhà bác học Mỹ đồng ý rằng cần có chữ ký của nhà Đại Bác Học Albert Einstein. Szilard liền nhờ Edward Teller đưa xe tới Peconic Bay, thuộc tiểu bang New York, để gặp Einstein và nhờ vậy, Dự Án Manhattan ra đời, cho phép các nhà khoa học thực hiện những điều hiểu biết mà từ trước, chúng vẫn còn ở trong lãnh vực lý thuyết. Như vậy cuộc viếng thăm Albert Einstein tại Peconic Bay đã đánh dấu một khúc quanh trong quãng đời của Edward Teller. Từ đây ông không còn có thể dửng dưng trước các vấn đề chính trị, chiến tranh và nhất là vấn đề võ trang quân đội. 2/ Nghiên cứu về Bom Khinh Khí. Năm 1941, Edward Teller gia nhập quốc tịch Hoa Kỳ rồi tới năm 1946, tham gia vào nhóm các khoa học gia của Enrico Fermi tại Viện Khảo Cứu Nguyên Tử (the Institute for Nuclear Studies) thuộc trường Đại Học Chicago, tại nơi này, phản ứng hạt nhân dây chuyền (nuclear chain reaction) đã được thực hiện. Sau đó, Edward Teller nhận lời mời tới trường Đại Học U.C. Berkeley để khảo cứu lý thuyết về loại bom nguyên tử loại A cùng với J. Robert Oppenheimer rồi khi Oppenheimer thiết lập nên Cơ Sở Thí Nghiệm Khoa Học tại Los Alamos, thuộc tiểu bang New Mexico, vào năm 1943 thì Edward Teller là người đầu tiên được tuyển dụng. Trong khi quả bom nguyên tử A còn đang ở trong thời kỳ chế tạo, Edward Teller lại tìm ra một phương pháp mới dùng nhiệt lượng hạch tâm để từ đó chế tạo ra một thứ bom cực kỳ mạnh. Edward Teller đã cùng nhà vật lý Stanislaw M. Ulam khám phá ra cấu hình Teller-Ulam (the Teller-Ulam configuration) dùng làm căn bản cho việc chế tạo vũ khí hỗn hợp hạt nhân (fusion weapons). Nhưng khi hai quả bom nguyên tử A nổ, san phẳng hai thành phố Hiroshima và Nagasaki một cách quá khốc hại, thì phần lớn các nhà bác học trong chương trình Manhattan bị lương tâm cắn dứt, họ hối hận về thứ phát minh mới đó, không muốn tiếp tục công cuộc khảo cứu các vũ khí nguyên tử và không quan tâm đến dự định của Edward Teller. Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt được vài năm. Mọi người quên lãng thứ khí giới khủng khiếp kể trên thì vào tháng 8 năm 1949, Liên Xô cho nổ quả bom nguyên tử đầu tiên của họ. Cuộc thí nghiệm này khiến cho tại Hoa Kỳ, nhiều người lo ngại. Edward Teller liền đưa ra dự án chế tạo bom H với sức tàn phá còn khốc liệt gấp ngàn lần thứ bom A thả xuống đất Nhật. Tuy nhiên, cũng có người lại cho rằng Liên Xô chế tạo được vũ khí nguyên tử sẽ làm quân bình thế giới trên phương diện chính trị. Trong khi mọi người đang xôn xao thì phần lớn các nhà bác học thuộc Tiểu Ban Tư Vấn của Ủy Ban Nguyên Tử Lực Hoa Kỳ, dưới quyền chủ tọa của Robert Oppenheimer, đã đồng thanh tuyên bố chống lại mọi dự án chế tạo bom H. Edward Teller phải đi ngược lại quyết định trên với một phần thắng rất mỏng manh. Ông cũng được Lewis Strauss giúp đỡ. Cuộc tranh chấp với Oppenheimer đang dằng dai thì tới tháng 1 năm 1950, một vụ gián điệp nguyên tử bị phát giác và làm rung chuyển dư luận thời bấy giờ. Thủ phạm là Klaus Fuchs, một nhà bác học gốc Đức, quốc tịch Anh và làm việc tại nước Anh, đã thú nhận có trao các tài liệu nguyên tử cho các gián điệp của Liên Xô. Hơn nữa, Fuchs cũng giúp việc tại căn cứ Los Alamos và cũng đã biết các tài liệu về các phản ứng nhiệt lượng hạch tâm, điều này làm cho Hoa Kỳ lo ngại. Bốn ngày sau buổi nhận tội của Fuchs, Tổng Thống Harry Truman hạ lệnh cho Ủy Ban Nguyên Tử Lực bắt tay vào công cuộc chế tạo bom H. Vào tháng 11 năm 1952, cuộc thử bom loại H thứ nhất đã làm biến mất hòn đảo san hô Elugelab tọa lạc tại phía nam Thái Bình Dương. Tuy nhiên đây chưa hẳn là quả bom H. Theo một nhà bác học thì vào thời đó, nguyên tắc chế tạo bom H chỉ có hai người thấu triệt, đó là ông Edward Teller và nhà bác học Liên Xô Andrei Sakharov. Cũng vào năm 1952, Edward Teller là nhà khoa học có công rất lớn trong việc thiết lập nên cơ sở thí nghiệm nguyên tử thứ hai của Hoa Kỳ, đó là Trung Tâm Thí Nghiệm Lawrence Livermore, đặt tại Livermore thuộc tiểu bang California, rồi trong 4 thập niên kế tiếp, đây là cơ xưởng chính của Hoa Kỳ đã chế tạo ra các vũ khí nhiệt tâm (thermonuclear weapons). Edward Teller đã là phụ tá giám đốc của Trung Tâm này từ năm 1954 tới năm 1958 và từ năm 1960 tới năm 1975, rồi nhận chức vụ giám đốc vào các năm 1958 - 60, đồng thời ông cũng là Giáo Sư Vật Lý tại Đại Học U.C. Berkeley từ năm 1953 tới năm 1970. Edward Teller là nhà khoa học chống đối tích cực chế độ Cộng Sản. Trong thập niên 1960, ông đã giúp công vào tiến trình Hoa Kỳ vượt qua Liên Xô về vũ khí nguyên tử. Ông đã phản đối Hòa Ước Chống Thí Nghiệm Nguyên Tử Năm 1963 (the 1963 Nuclear Test-Ban Treaty) qua đó cấm cản việc thử vũ khí nguyên tử trên tầng không, đồng thời ông cũng là người tiền phong trong Dự Án Plowshare (Project Plowshare), một chương trình của chính phủ Liên Bang đi tìm kiếm các công dụng hòa bình của các vụ nổ nguyên tử. Vào thập niên 1970, Edward Teller là cố vấn của chính sách vũ khí nguyên tử của Hoa Kỳ rồi tới các năm 1982 - 83, ông Teller cũng ảnh hưởng tới Tổng Thống Ronald Reagan trong Dự Án Bảo Vệ Chiến Lược (the Strategic Defense Initiative) và đây là một hệ thống phòng vệ các cuộc tấn công nguyên tử của Liên Xô. Theo ông Edward Teller, Khoa Học ngày nay là Kỹ Thuật của ngày mai, vì thế ông cho rằng muốn thắng Liên Xô trên địa hạt Khoa Học, Hoa Kỳ phải đẩy mạnh phong trào khảo cứu Khoa Học thuần túy và gia tăng nền giáo dục Khoa Học tại các trường trung học. Vẫn theo ông Edward Teller, việc học hỏi Khoa Học không đòi hỏi một năng khiếu bẩm sinh mà cần phải chú tâm đến vấn đề. Ông cho rằng chỉ có Khoa Học mới giải quyết được các vấn đề gai góc mà chúng ta sẽ gặp phải, nhất là khi trái đất càng ngày càng trở nên chật hẹp trước sự bành trướng về nhân số và kỹ nghệ. Ông mất hôm thứ Ba ngày 10 tháng 9 năm 2003
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 5:59:47 GMT 9
Nikola Tesla (1856-1943), Thiên tài về điện hai chiềuVietsciences-Phạm Văn Tuấn 1- Tuổi trẻ tại châu Âu.
Làng Smiljan và ngôi nhà bên cạnh nhà thờ mà Nikola Tesla sinh ra đờ,. Cha ông là tu sĩ Orthodox
Vào khoảng năm 1942, người ta thường thấy một ông già gầy ốm, trầm lặng, với bộ y phục màu đen và một túi đựng hạt ngũ cốc cho chim ăn, tới công viên Bryant Park gần thư viện công lập New York. Ông già cô độc này là Nikola Tesla, một thiên tài về điện lực, một nhà kỹ thuật của nhân loại. Tesla đã sống cả một cuộc đời không vợ con, thiếu bạn bè, để hiến thân cho Khoa Học. Vào mùa đông, Tesla thường tìm vui trong việc chăm sóc vài con chim bồ câu gẫy cánh trong căn phòng của mình. Ông ngắm chúng hàng giờ mà không biết chán. Thú vui đơn giản này đã tới với Tesla khi ông mới được 6 tuổi. Khi đó, cậu bé Nikola đã quá ham mê chim bồ câu đến nỗi vào ngày dọn nhà đi nơi khác, cha mẹ cậu không biết rõ cậu mải chơi ở đâu nên cả gia đình đã bỏ sót cậu lại.
Nikola Tesla ra đời vào năm 1856 tại làng Smiljan, miền Croatia khi đó thuộc Đế Quốc Ao. Nikola có một người anh thần đồng nhưng yểu mệnh, cậu thường thua kém anh về nhiều phương diện nên cậu đã phải cố gắng về mọi mặt. Cha của Nikola là một tu sĩ, ông ta quyết định cho cậu nối nghiệp của mình nhưng Nikola lại chịu ảnh hưởng của mẹ. Bà mẹ này tuy học vấn không cao nhưng lại có tài sáng chế và đã cải tiến nhiều vật dụng dùng trong nhà cũng như các nông cụ. Ngay từ thuở thiếu thời, Nikola đã tỏ ra có năng khiếu về cơ khí. Cậu đã từng phát minh ra một thứ máy móc nhỏ chuyển vận bằng 16 con bọ hung. Cậu đã từng làm ra nhiều súng hơi và đã bán súng cho các bạn để lấy tiền nhưng công việc khai thác thương mại này không kéo dài được lâu : thứ súng do Nikola chế tạo đã là nguyên nhân khiến cho nhiều cửa kính trong làng bị bắn vỡ, vì vậy cha cậu đã đóng cửa vĩnh viễn "cửa hàng" của cậu. Nikola rất yêu thích đọc sách. Nhiều đêm cậu mê mải với sách vở đến nỗi quên cả ngủ. Cha cậu đã phải giấu hết đèn nến nhưng Nikola lại đổ lấy nến để dùng. Năm 1863, cha của cậu Nikola phụ trách một ngôi giáo đường tại thành phố Gospic. Cậu bé từ đây xa cách miền Smiljan và bắt đầu làm quen với đời sống thành thị. Nhưng dù ở đâu, Nikola vẫn tỏ ra có năng khiếu về máy móc. Lúc bấy giờ một công ty chữa lửa mới được thành lập. Trong ngày khai trương, các viên chức lớn của thành phồ đọc diễn văn và tiếp theo là cuộc trình diễn chiếc máy bơm nước mới. Lệnh bắt đầu cuộc biểu diễn được ban ra : mỗi bên 8 nhân viên lực lưỡng điều khiển chiếc vòi rồng rất nhịp nhàng nhưng chẳng thấy nước phun ra. Trước tình trạng nguy ngập này, Nikola khi đó đang đứng coi các người lính chữa lửa làm việc, liền nhẩy ngay xuống sông. Trong khoảng khắc, cậu Nikola đã ý thức được cách cơ hành của chiếc máy bơm và không đầy 10 giây đồng hồ, cậu đã tìm ra chỗ gây trở ngại. Máy bơm nước lại vận chuyển và nước vọt ra như suối. Buổi trình diễn thành công vẻ vang. Nikola được các nhân viên chữa lửa công kênh lên vai và dân chúng đứng chung quanh vỗ tay khen ngợi. Khi theo học tại Carlstadt, xứ Coatia, Nikola ở trọ tại nhà của một người cô. Bà này rất khắc nghiệt, tưởng rằng đứa cháu gầy ốm sẽ không ăn được nhiều nên Nikola thường bị đói khát. Thêm vào đó, vùng cậu cư ngụ lại lắm muỗi độc nên chẳng bao lâu Nikola mắc bệnh sốt rét. Nhưng chính trong hoàn cảnh suy kém về sức khỏe này, Nikola được biết tới một dụng cụ thí nghiệm về điện học và chính vật dụng này đã quyết định tương lai của cậu. Nguyên trong phòng thí nghiệm, một vị giáo sư vật lý đã sáng tạo ra một thứ động cơ chuyển vận được khi nối với một máy phát điện một chiều, hiện tượng này khiến cho Nikola suy nghĩ trong nhiều năm nhưng mặc dù có năng khiếu về cơ khí, Nikola vẫn bị cha bắt buộc phải nối nghiệp tu hành. Cậu biết rằng không còn cách nào khác hơn là vâng lời cha. Khi mùa hè tới, Nikola trở lại tỉnh Gospic thì bệnh dịch hạch cũng lan tới vùng này. Vào thời đó, người ta cho rằng không khí đã làm lan truyền bệnh dịch và vì phương pháp ngừa bệnh không được áp dụng chu đáo, nên chẳng bao lâu tới lượt Nikoloa bị nằm liệt giường. Lúc này, cha cậu thường săn sóc bên con và chính trong lúc bệnh tình gần như tuyệt vọng, Nikola đã nói với cha : "Có lẽ con sẽ khỏi, khi đó xin cha cho phép con theo học ngành kỹ sư điện". Vì thương con, ông Nikola vui vẻ nhận lời : "Con sẽ theo học tại một trường danh tiếng nhất". Rồi không hiểu tại sao, Nikola bình phục trong một thời gian ngắn khiến cho các y sĩ điều trị phải ngạc nhiên. Sau khi khỏi bệnh, Nikola được cha cho đi tĩnh dưỡng một năm trường tại miền núi nhưng trong khoảng thời gian này, cậu đã lén lút đọc hết sách này tới sách kia. Trong đầu óc của cậu đã nẩy sinh ra rất nhiều dự kiến phát minh. Cậu đã phác họa cách dùng chuyển động của trái đất vào việc chạy máy. Rất nhiều ý tưởng táo bạo đã đến với cậu và hầu như là khả năng suy tư về máy móc của Nikola không có giới hạn. Năm 19 tuổi, Nikola Tesla theo học trường kỹ thuật ở Gratz, thuộc nước Ao. Tới lúc này, Nikola cố gắng chứng tỏ cho cha mẹ thấy rằng các người đã chọn đúng ngành cho chàng. Vì vậy người ta thường thấy chàng thanh niên này đọc sách từ 3 giờ sáng tới 11 giờ đêm và một vị Giáo Sư của trường đã phải biên thư cho ông Nikola thúc dục ông sớm mang con trai về nhà trước khi chàng chết vì lao lực. Bước lên năm thứ hai, Nikola mới được dịp tỏ rõ thiên tài của mình. Năm đó, nhà trường mới mua từ Pháp về một máy Gramme dùng dòng điện một chiều. Máy được một vị giáo sư vật lý trình bày cho cả lớp quan sát, mọi người đều nhận thấy một khuyết điểm lớn không sửa chữa được của máy, đó là các tia lửa sẹt ra. Sau khi xem xét kỹ càng máy Gramme, Nikola thấy rằng chiếc chổi tiếp xúc (brush commutator) là nguyên nhân của các tia lửa, vì vậy chàng đề nghị rằng phải loại bỏ thứ chổi đó và nếu thế, chiếc máy này sẽ đơn giản hơn lại dùng được cho cả dòng điện hai chiều. Nhưng ý tưởng của Nikola đã bị cả lớp nhao lên phản đối và chính Giáo Sư Poeschl cũng phải công nhận: "Anh Tesla có thể làm được nhiều việc lớn, nhưng đối với chiếc máy này, chắc chắn rằng anh không thể cải tiến được". Khi bày tỏ ý kiến trên với các bạn cùng lớp, Nikola chưa có các ý tưởng về cách chế tạo một động cơ điện không chổi, nhưng chàng biết chắc rằng sau này, phải có một thứ máy như vậy và chàng quyết định tìm cách thực hiện ý nghĩ. Trong 6 năm trời, Nikola luôn luôn học hỏi các kiến thức mới về máy Gramme. Sau khi rời tỉnh Gratz, Nikola theo ngành học kỹ sư trong một năm rồi tới Đại Học Prague và học nốt chương trình đó trong một năm nữa. Tới giai đoạn này, Nikola thấy rằng chàng phải tự túc mà không được sống nhờ vào cha mẹ, vì vậy chàng xin việc làm trong một công ty điện thoại tại Budapest. Ban ngày làm việc kiếm tiền, ban đêm Nikola giành thời giờ vào việc tìm hiểu chiếc động cơ mà chàng hằng mơ tưởng. Từ lâu, nhiều nhà phát minh đều công nhận rằng động cơ đơn tướng (single-phase a.c. motor) bị giới hạn rất nhiều. Vì vậy Nikola đã dùng trực giác áp dụng vào việc hoàn thành một động cơ đa tướng (polyphase) và nhờ vậy, đã tìm thấy rằng không có một giới hạn nào đối với thứ động cơ này. Trước kia khi dùng dòng điện một chiều, người ta không thể chế tạo được một động cơ mạnh hơn 200 mã lực, nhưng về sau nhờ phát minh của Tesla, các động cơ đa tướng dùng dòng điện hai chiều đã vượt quá sức mạnh 40,000 mã lực. Nikola Tesla bắt đầu mua dụng cụ và chế tạo thứ động cơ mới này khi ông định cư tại Strassbourg, miền Alsace của nước Pháp. Nhờ nguyên tắc của Tesla, người ta có thể làm được nhiều loại máy lớn phát ra dòng điện 2 chiều cũng như rất nhiều động cơ xử dụng thứ điện đó. Nikola đi tìm người bỏ vốn nhưng các nhà tư bản châu Au thường hay bi quan. Họ không muốn đầu tư vào một chương trình nào mà kết quả chưa rõ ràng. Chính trong lúc chưa tìm ra người thành lập công ty, Nikola đã gặp một người bạn cũ là kỹ sư Charles Bachellor. Ong này khuyên Nikola nên sang Hoa Kỳ và làm việc cho "ông chủ" Edison. Nikola nhận lời và mua vé tầu qua nước Mỹ năm 1884.
2- Cuộc sống tại Hoa Kỳ.
Hai năm về trước, Thomas Edison đã thực hiện một chương trình mắc điện cho vài trăm tòa nhà tại New York. Edison là một nhà phát minh tự học, tính tình rất bình dị, nhưng ông ta hay gắt gỏng và nghi ngờ tài năng cũng như học vấn của những người tốt nghiệp từ những trường đại học. Vì vậy khi nhìn thấy dáng điệu thư sinh và đẹp mã của Nikola Tesla, ông già Edison đã trao cho chàng một nhiệm vụ khó khăn, đó là xem xét hệ thống điện trên con tầu thủy Oregon hiện đang trì hoãn chuyến ra khơi vì bình phát điện bị hư hỏng, trong khi bộ phận này lại được đặt tại giữa các thành phần khác nên rất khó tháo ra. Buổi chiều hôm đó, sau khi được các thủy thủ đưa đi xem tầu, Nikola Tesla đã tìm ngay ra nguyên nhân và sửa chữa chỗ hư hỏng vào buổi tối. 5 giờ sáng hôm sau, lúc gặp lại Edison, Tesla trình rằng chàng đã hoàn tất việc sửa chữa và hệ thống đèn trên tầu Oregon đã cháy sáng trở lại. Điều này làm cho Edison hết sức kinh ngạc. Nikola Tesla nghiên cứu các dynamo cung cấp dòng điện một chiều của Edison và thấy rằng có thể thêm vào đó nhiều cải tiến. Edison bảo Tesla: "Cứ làm thử đi, nếu được, sẽ có 50,000 mỹ kim trong đó". Sau nhiều tháng trường nghiên cứu, Tesla đã chế tạo được nhiều kiểu mẫu dynamo mới và khi hỏi ông Thomas Edison về số tiền thưởng thì "ông già" lại trả lời rằng: - "Anh không hiểu gì về sự khôi hài của người Mỹ". Đối với người châu Au, tiền bạc không phải là chuyện đùa, nên Tesla đã xin từ chức. Từ đó về sau, Tesla rất ghét nghe đến tên Edison! Sau đó, Tesla nhận làm phụ tá cho ông A.K. Brown thuộc Công Ty Western Union Telegraph, rồi cùng với một người bạn, lập ra Công Ty Tesla Electric. Trong phòng thí nghiệm của ông trên đại lộ South Fifth, bây giờ gọi là West Broadway, không xa phòng thí nghiệm của Edison, Tesla đã thực hiện được nhiều kiểu máy phát điện (generator) sản xuất dòng điện hai chiều, cũng như các máy biến điện và động cơ dùng thứ điện mới này. Tesla đã gửi một động cơ mới tới Giáo Sư W.A. Anthony, một người rất có thẩm quyền về Khoa Học. Sau khi thử máy, vị Giáo Sư này đã phải viết một bài tường thuật để ca ngợi nhà phát minh. Tesla liền phổ biến một số vật dụng khác do ông sáng chế. Tất cả các sáng tạo này đã làm cho giới kỹ thuật ngạc nhiên. Người ta đã mời ông diễn thuyết trước Viện Kỹ Sư Điện Lực Hoa Kỳ (The American Institute of Electrical Engineers). Ngày 11 tháng 5 năm 1888, khi Nikola Tesla trình bày các ý tưởng mới của mình thì những kiến thức này đã làm lay chuyển tới tận gốc rễ nền kỹ nghệ điện lực, khi đó vẫn còn thô sơ. Khi các ý tưởng của Tesla được phổ biến thì không đầy một tháng sau, George Westinghouse, vốn là người trông xa, thấy rộng, đã trả cho công ty của Tesla một triệu mỹ kim để mua lại các bằng sáng chế và thuê nhà phát minh Tesla tới Pittsburg làm giám sát cho kế hoạch chế tạo các dụng cụ mới. Nhưng vào thời bấy giờ, rất ít kỹ sư điện quen với dòng điện hai chiều. Họ không tin tưởng vào thứ điện này vì cao thế của nó và họ lại cho rằng thứ điện hai chiều khi đi qua các đường dây sẽ là mối đe dọa cho dân chúng. Để làm sáng tỏ vấn đề này, Tesla đã để dòng điện hàng triệu Volt đi qua thân thể của mình khiến cho mọi người phải kinh ngạc và cho rằng nhà phát minh có tài quỷ thuật. Trong khi đó Edison lại bảo vệ các quyền lợi từ dòng điện một chiều của ông. Vì việc chuyền dòng điện một chiều đòi hỏi dòng điện phải thật mạnh, rồi sự mất nhiệt đã làm giảm dần tầm chuyền điện đi xa, nếu thế, người ta phải tăng thêm đường kính của dây điện, điều sau này khiến cho không làm sao có đủ chất đồng để thực hiện các hệ thống dây. Vì vậy chỉ có dòng điện 2 chiều cao thế mới có thể giải quyết được ngõ bí này, và nhiều nhà khoa học khác phải công nhận rằng phát minh của Nikola Tesla là một thứ rất cần thiết cho sự phát triển kỹ nghệ điện lực về sau. Một cuộc tranh chấp đã kéo dài trong nhiều năm nhưng rồi Tesla đã thắng. Cuối cùng, thành công huy hoàng nhất của Nikola Tesla là công trình kỹ thuật của ông trong Hội Chợ Thế Giới Chicago tổ chức vào năm 1893. Đây là lần đầu tiên một hội chợ quốc tế được thắp sáng rực rỡ bằng 92,622 bóng đèn do 12 máy phát điện đa tướng (polyphase) do Tesla chế tạo. Ba năm sau, khi các máy phát điện Westinghouse đặt tại Thác Nước Niagara gửi điện tới Buffalo cách đó 25 dặm thì các người phản đối dòng điện hai chiều mới chịu im lặng. Nhờ lợi tức của nhiều bằng phát minh, Nikola Tesla có thể đắm mình trong phòng thí nghiệm và trong các công trình khảo cứu khác. Ong trở nên con người khắc khổ, khó tính, vừa bí ẩn, vừa hồ nghi, và vì quá chuyên tâm vào nghiên cứu, ông hoàn toàn không để ý tới sự yêu đương. Người ta còn kể lại rằng có một lần, nữ kịch sĩ lừng danh Sarah Bernhardt đánh rơi khăn tay gần ông nhưng Tesla đã nhặt khăn trả lại người đẹp mà chẳng buồn nói lên một tiếng. Và hơn nữa, ông còn chủ trương cần tới hàng ngàn thợ giỏi không biết tới ái tình mà chỉ biết lo làm việc! Nikola Tesla có thói kỳ dị về ăn uống. Ong thường bắt người đấu bếp làm các món ăn theo ý của ông và ông cũng dùng vài thứ rượu riêng nhưng mỗi ngày vào đúng 10 giờ đêm, Tesla đứng phắt lên và trở về phòng thí nghiệm. Ong đã làm nhiều thí nghiệm về các ống chứa đầy khí, các khảo cứu này dần dần đưa tới sự phát minh ra đèn ống huỳnh quang. Nikola Tesla cũng đã thí nghiệm về một số dụng cụ truyền thanh và họa kiểu loại bóng đèn điện tử (electronic tube) để dùng làm bộ phận phát hiện (detector) trong hệ thống vô tuyến, công trình này đã đi trước Lee De Forest 20 năm. Trong các năm từ 1891 tới 1893, ông đã diễn thuyết trước hàng ngàn kỹ sư và khoa học gia của Hoa Kỳ và châu Au. Năm 1893, Tesla là người đầu tiên nói về nguyên tắc điều hưởng ở máy vô tuyến điện (radio tuning). Ong cũng phác họa về hệ thống phát thanh. Một phát minh đáng kể nữa của Tesla là một bộ phận biến thế cho tần số cao (high frequency transformer) và được gọi là "cuộn Tesla" (Tesla coil). Tesla còn chế ra một thứ đồng hồ vận tốc của xe hơi và đã nghiên cứu về hóa học. Năm 1898, Nikola Tesla trở nên công dân Hoa Kỳ và thành công trong việc lắp ráp một chiếc thuyền nhỏ điều khiển bằng vô tuyến điện. Công trình này đã mở đường cho loại phi cơ và phi đạn điều khiển từ xa. Ong còn báo trước về sự phóng năng lượng nguyên tử. Về già, Tesla vẫn theo đuổi các chương trình nghiên cứu vừa vĩ đại, vừa táo bạo. Ong được John Jacob Astor trợ giúp trong việc thiết lập một phòng thí nghiệm trên miền núi Colorado để trắc nghiệm các sáng chế. Lý thuyết của ông về kế hoạch này rất phức tạp nhưng nói một cách vắn tắt, ông trù tính nạp điện bằng một thứ điện lượng địa cầu và đã thành công trong việc thắp sáng các bóng đèn và chạy các động cơ nhỏ ở cách xa phòng thí nghiệm hơn 15 dặm. Năm 1902, J.P. Morgan lại trợ cấp Tesla trong việc xây dựng một chiếc tháp cao 50 mét tại Shoreham, thuộc Long Island. Với đài cao này, Tesla dự tính dùng làm nơi phát thanh và truyền lực vô tuyến nhưng về sau, vì sự khó khăn tài chính và sự chậm trễ của nhà thầu, việc thực hiện chiếc tháp bị dở dang. Trong thời gian cư ngụ tại Hoa Kỳ, Nikola Tesla vẫn nhận được tiền trợ cấp của chính phủ Nam Tư. Ong sinh sống rất khắc khổ và ăn uống tiết chế, thường gồm sữa bò và rau tươi và cả tuần lễ ở trong một căn phòng có nhiệt độ 32 độ C, vì ông tin tưởng rằng nhờ nguyên tắc này, ông có thể thọ tới 150 tuổi. Càng về già, Nikola Tesla càng nói về những sự kiện khoa học quá bí ẩn và mơ hồ, chẳng hạn như sức vũ trụ (cosmic force), như những tia sáng có thể giết chết hàng triệu người và làm hư hỏng động cơ của máy bay cách xa hàng trăm dặm. Vì thế một nhà báo phải nói rằng "nếu điều này do một người khác không phải là Nikola Tesla thì tôi phải kết luận rằng hắn ta điên". Mặc dù vậy, các nhà chế tạo cơ khí vẫn e ngại rằng biết đâu các ý tưởng do trực giác của Tesla sẽ có thể giúp họ làm ra được những máy móc đáng giá bạc triệu. Ít người biết được những ngày cuối đời của Nikola Tesla. Sáng ngày 7 tháng 1 năm 1943, người ta đã thấy ông từ trần trong một căn phòng cô đơn tại thành phố New York. Nhà phát minh được đất nước Nam Tư tưởng nhớ bằng Viện Bảo Tàng Tesla xây dựng tại thành phố Belgrade. Năm 1956, một đơn vị cường độ từ trường trong mét hệ được gọi bằng tên "Tesla" để vinh danh vị thiên tài về dòng điện hai chiều. Nikola Tesla là một thiên tài kỹ thuật của thế kỷ 20. Nếu không có các phát minh của ông, ngày nay các thành phố lớn như Chicago hay New York đang phải dùng tới hàng ngàn máy phát điện, mỗi cơ xưởng lại phải trang bị nhiều máy phát điện riêng còn tại miền quê Hoa Kỳ, biết đâu dân chúng vẫn còn dùng các ngọn đèn dầu hỏa và đã không có cả các nhà máy thủy điện. Thiếu điện lực, việc sản xuất về kỹ nghệ, về thực phẩm... sẽ bị giới hạn trong các phạm vi nhỏ hẹp và nền văn minh của nhân loại cũng bị ảnh hưởng nặng nề./.
Bài đọc thêm nơi nguồn: chem.ch.huji.ac.il/~eugeniik/history/tesla.htm
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 6:06:10 GMT 9
Alan Mathison Turing (1912-1954) Nhà Toán học cha đẻ máy computer Colossus, phát minh softwareVietsciences- Võ Thị Diệu Hằng Turing là một trong những nhà khoa học lớn bị lãng quên của thế kỷ XX, cho dù ông là cha đẻ của các máy tính, hay ít nhất cũng là một phần lý thuyết của nó. Sự đóng góp to lớn của ông quyết định cho sự chiến thắng của phe Đồng Minh trong Thế chiến thứ hai. Nhưng có thể nhà cầm quyền nước Anh khuyến khích ông tự vận, vì những lý do tối mật, đã giấu tên ông?Alan Turing sinh ngày 23 tháng 6 năm 1912 tại London. Cha làm trong ngành thu thuế tại Ấn độ và mẹ đi theo cha năm 1913, để lại bé Alan từ người giám hộ này tới người giám hộ khác trong các nội trú. Alan không phải là một học trò giỏi. Các giáo sư phê bình ông là học trò lơ đễnh. Năm 15 tuổi, ông gặp Christopher Morton, và hai người bạn này đã cùng nhau trao đổi đam mê khoa học. Sự liên hệ này hơi mập mờ giữa tình bạn và tình yêu. Nhưng Christopher mất vào tháng hai năm 1930 đã làm Turing bối rối. Tuy vậy, ông cũng thi đậu vô trường King's College tại Cambridge. Tại đây ông phát triển tài năng vì nhờ nơi này không ai chế nhạo sự đồng tính luyến ái và bề ngoài khác biệt của ông. Tại trường, mỗi người giữ cá tính của riêng mình, ai sao mặc ai. Alan tóc tai quần áo bê bối và thường không cạo râu, thích đạp xe đạp và đeo cái đồng hồ nơi thắt lưng để coi thời gian đạp xe và với một mặt nạ phòng khí độc đeo trên mặt để phòng dị ứng phấn hoa (hay fever). Ngoài việc chơi thể thao cấp cao (chạy bộ), Alan còn thích những công trình về cơ học lượng tử của John Von Neumann. Cho dù ông lập dị, nhưng khả năng toán học rực rỡ và những việc làm của ông thật đặc sắc. Năm 1924 Turing in một bài báo chứng tỏ rằng toán luôn chứa những trạng thái mà không thể chứng minh hay bị bắt bẻ. Ngoài lý luận trên, ông dự tính một cái máy có thể tính bất cứ con số nào. Cái máy đó bao gồm một bộ phận điều khiển (control unit) và một bộ nhớ, có thể hoàn thiện nhiều thao tác cơ bản: đọc, viết hay xóa những ký hiệu trên băng (tape), và cho băng chạy tới hay chạy lui. "Máy Turing" đơn giản này dùng làm mẫu cho các máy tính số sau này. Ông cũng thích môn sinh học, đặc biệt là mạng nối giữa các dây thần kinh. Ông tự hỏi: "Tại sao các máy quá tài tình trong việc tính toán mà lại hạn chế sự mô phỏng những hành động tự nhiên giản dị nhất của người như đi, cầm cái ly...)?" Trước tuổi 30, ông đã tưởng tượng những căn bản cho một máy tính số (digital computer) tân kỳ và dẫn đầu về lý thuyết cơ bản cho thông minh nhân tạo (artificial intelligence). Là người phát minh tư tưởng một cái máy vạn năng (universal machine) , tìm ra lý do quan trọng tại sao một máy tính có thể làm rất nhiều chuyện. Tiếc thay Turing không còn sống để thấy sự tiến triển khổng lồ của ngành thông tin, máy tính. Nhà toán học người Anh này sống trong hai thế giới khác nhau. Trước công chúng, ông là một nhà toán học tài ba, đã giúp Thế giới đại chiến lần II thắng nhờ giải được các mã số của phe Đức. Còn bên trong, Turing là một người nhát gan, hay mắc cỡ, lập dị và bị đối xử tàn bạo do cách sống riêng biệt của ông đã đưa ông đến cái chết đau thương lúc 41 tuổi. Năm 1935, ông hiệu chính khái niệm một máy vạn năng để hình thức hóa khái niệm toán giải bằng algorithme. Máy của Turing có khả năng cả một quá trình algorithme. Những máy tính hiện đại là những thực hiện cụ thể máy của Turing. Năm 1936, Turing đến Princeton University, nơi này ông lấy bằng PhD Toán học và làm việc với nhà toán học người Mỹ gốc Hongrie là John von Neumann (1903-1957), nổi tiếng nhờ Cơ học Lượng tử. Nhờ đó Turing học thêm về xác suất và logique. Turing trở về Anh quốc năm 1938. Liền sau đó ông vào quân đội Anh cho cuộc chiến tranh sắp đến. Đầu Thế chiến thứ hai, quân đội Đức thắng nhiều trận vinh quang trên biển. Một trong những chìa khóa của các chiến thắng đó là máy viết mật mã Enigma, một máy mã hóa điện từ, để giúp bộ tham mưu Đức truyền những thông điệp cho các tàu ngầm, những thông điệp mà phe các nước Đồng Minh không thể giải được . Do đó quân đội Anh nhóm họp trong một nơi tối mật: cơ quan "bẻ mật mã" chuyên giải mật mã của máy Enigme của Đức. Họ gồm 10.000 người thư ký, các nhà nghiên cứu và ngay cả những người chơi đánh bài, nghĩa là làm tất cả mọi việc để hiểu cơ chế của máy Egnima. Khối Đồng Minh có được những sơ đồ của máy này từ đầu chiến tranh và muốn hiểu tin mật mã của Đức, nhưng họ không thành công. Turing đến gặp của quân đội Anh tại Bletchley Park và đã giúp họ thiết kế máy tính Bombe, một máy tính rất nhanh có thể giải mã nhanh chóng bằng cách thử hàng ngàn code khác nhau. Turing làm việc với một nhà toán học khác, Gordon Welchman. Trước khi chiến tranh chấm dứt, ông đã cho ra đời một máy điện tử, máy Kolossus, dùng để giải mã tất cả những thông điệp Đức. Sau chiến tranh, ông trở về làm việc tại Automatic Digital Machine, một computer lớn tại University of Manchester và tin rằng giữa người và máy chỉ khác tí xíu về xử lý tín hiệu. Ông sáng chế ra máy Turing Test để đo khả năng nhận thức cảm nghĩ. Turing đề nghị rằng một cái máy có thể xem như nhận thức đuợc nếu như nó lừa được những người hỏi nó nếu như nó ở một phòng và nói chuyện với một người đó ở phòng khác. Thiên tài của Turing được Churchill công nhận. Churchill đã giao cho Turing nhiệm vụ làm một hệ thống thông tin tối mật để ông liên lạc với tổng thống Roosevelt. Nhân cơ hội đó, Turing qua Hoa kỳ và gặp Claude Shannon, người sáng lập ra thuyết Tin học và là người phát minh ra bit, 0-1. Cũng trong thời kỳ chiến tranh mà ông hỏi cưới duy nhất một người: cô Joan Clarke. Cô Joan dạy Turing đan áo. Turing tặng cô quyển Tess of Uberville, tác giả Thomas Hardy và thú thật rằng ông có biệt nhãn với người cùng phái. Họ trở thành bạn của nhau từ đó. Turing không muốn những người láng giềng thấy mặt và sợ dị ứng với phấn hoa nên thường đi xe đạp và mang mặt nạ chống khí độc của chiến tranh. Có khi ông từ chối không ký tên lên thẻ kiểm tra chỉ vì trong hồ sơ có ghi câu "Tất cả mọi hình thức viết tay đều bị cấm". Ông viết: "Cái mà tôi thích không phải tạo ra bộ óc tài ba, mà chỉ cần một bộ óc ngu ngốc cỡ bộ óc của ông chủ tịch hãng điện thoại American Telephone và hãng điện báo Telegraph Company" Vì thất vọng, ông đã ăn một trái táo có tẩm cyanur và mất đúng ngày lễ Pentecôte 7 tháng 6 năm 1954 tại Wilmslow, England. Tượng của Turing tại Manchester Tượng bằng đồng do quỹ Tưởng niệm Alan Turing tài trợ Nhà điêu khắc: Glyn Hughes, Adlington, Lancashire UK Nhà thầu: Tianjin Focus Arts & Crafts Co, Tianjin PR Hội Alan Turing Memorial Fund (Tưởng niệm Alan Turing), thành lập từ năm 1996 thành lập một quỹ, quyên tiền để xây dựng một tượng kỷ niệm bằng đồng cho Turing. Đến cuối năm 2000 mới quyên được £15,000. Tượng của Alan Mathison Turing tay cầm trái táo, để tưởng niệm cái chết đau đớn của ông. Hãng Apple có cái logo trái táo cắn nửa chừng, cũng có ý như vậy? Bài đọc thêm: Nỗi đau đớn của Alan Turing Lịch sử ngành Tin học Giải thưởng Alan Turing Quả bomb của Turing và cách hoạt động (link) www.btinternet.com/~glynhughes/sculpture/turing.htm
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 6:12:37 GMT 9
Wernher von Braun (1912 - 1977) Nhà bác học hỏa tiễnVietsciences-Phạm Văn Tuấn Vào cuối cuộc Thế Chiến Thứ Hai, dân chúng nước Anh đã kinh hoàng, điêu đứng vì một thứ khí giới mói : bom bay. Các quả bom không biết từ đâu, đã rơi xuống thành phố London cả ngày lẫn đêm. Cha đẻ của thứ vũ khí này là một nhà bác học trẻ tuổi mà thời bấy giờ giới Khoa Học chưa được biết tiếng : Von Braun.
Về sau vào thập niên 1960, các thành công của Von Braun về hỏa tiễn liên lục địa và thám hiểm không gian đã khiến cho toàn thể Thế Giới phải chú ý và theo dõi. 1/ Thuở thiếu thời. Wernher Von Braun sinh ngày 23 tháng 3 năm 1912 tại Wirsitz, tỉnh Silisie, thuộc miền đông của nước Đức, phần đất này ngày nay đã thuộc về nước Ba Lan. Wernher là con thứ hai trong ba người con trai của Nam Tước Magnus Von Braun. Cha cậu là một điền chủ nghiêm nghị, đã từng tham gia vào việc chính trị của nước Đức thời Cộng Hòa Weimar, còn mẹ cậu, bà Emmy Von Quistorp, là người rất say mê Thiên Văn Học. Bà thường dẫn các con lên sân thượng vào các buổi tối và chỉ cho các con những hành tinh cùng các vì sao lấp lánh trên bầu trời. Vì vậy cậu Wernher đã ước mơ một ngày kia cậu có thể đặt chân lên các thiên thể xa lạ đó. Mới 13 tuổi, Wernher đã ưa thích chơi pháo. Cậu nhồi thuốc súng vào một chiếc xe của trẻ em rồi châm lửa đốt. Chiếc xe chạy thục mạng như một con quái vật, gây kinh hoàng cho khách qua đường và làm cho bầy ngựa bạt vía. Cậu bị cảnh sát dẫn về nhà. Ông Magnus nghiêm mặt lại và mắng : "Wernher, mày không được làm mang tiếng tao như vậy. Tao sẽ cho mày vào ở trong ký túc xá của một trường học cách đây 5 cây số để mày hết nghịch ngợm đi". Thế rồi sang niên học mới, Wernher rời gia đình theo học tại một ngôi trường hẻo lánh tọa lạc trên một hòn đảo miền Frise. Tại nơi đây, cậu không chăm chỉ học hành. Đối với các thầy giáo, cậu là một học trò kém vì vị Hiệu Trưởng đã phê bình về cậu : "Học trò thiếu chăm chỉ, hoàn toàn dốt về Toán, khó lòng theo học nổi". Vào năm 1925, do tình cờ Wernher Von Braun được đọc một quyển sách về Thiên Văn. Trong cuốn sách này có vẽ một chiếc hỏa tiễn đang bay về hướng mặt trăng, kèm theo là một bài do Hermann Oberth viết. Oberth là một trong vài lý thuyết gia đầu tiên về hỏa tiễn, cũng là đồ đệ của Tsiolkovsky, nhà tiên tri người Nga về cách chinh phục không gian. Cuốn sách của Obeth, "Hỏa tiễn trong không gian liên hành tinh", đã làm ngạc nhiên nhiều người và làm điên đầu cậu Von Braun. Cuốn sách gối đầu giường của cậu dày hơn 100 trang này thật là khó hiểu đối với cậu, vì nó chứa đựng rất nhiều phương trình bí hiểm. Cậu quyết định xin cha cho học tư về Toán Học và Vật Lý. Có lần Von Braun đã nói "Toán Học rất cần thiết cho việc hiểu biết về cách đi đường trong không gian nên tôi quyết định tìm học". Von Braun tiến bộ về Toán Học và Vật Lý đến nỗi cậu có thể thay thế giáo sư giảng bài cho các bạn trong lớp mỗi khi giáo sư vắng mặt. Vào năm 1928, Hội Du Lịch Không Gian (Verein fur Raumschiffahrt) được Obeth lập ra. Hội này xuất bản mỗi tháng một tờ báo lấy tên là "Hỏa Tiễn" và tập họp được một số nhà bác học cùng các thanh niên Đức say mê hỏa tiễn. Trong số các độc giả của tờ báo Hỏa Tiễn có một thanh niên 16 tuổi, khổ người cao lớn, mắt xanh, tóc nâu, cằm vuông, biểu lộ nhiều nghị lực, đó là chàng Wernher Von Braun vừa học xong bậc trung học và đã ghi tên vào Viện Kỹ Thuật Berlin. Tới mùa thu năm 1929, Von Braun đến nhà ông Willy Ley và trình bày với ông ta về sở thích của mình đối với sự thám hiểm không gian. Von Braun lại muốn được ông Ley giới thiệu vào Hội Du Lịch Không Gian mà ông ta là một hội viên sáng lập. Ông Willey Ley liền dẫn Von Braun đi gặp Obeth và bắt đầu từ đó, chàng Von Braun hãnh diện được vác trên vai các hỏa tiễn mà các bậc đàn anh sẽ phóng đi. Thời đó, nhà sản xuất điện ảnh danh tiếng Fritz Lang có ý định quay một cuốn phim về sự chinh phục không gian. Fritz Lang mời Obeth làm cố vấn kỹ thuật. Obeth nhận lời nhưng cũng không quên đòi hỏi một số tiền thù lao đủ để chế tạo một chiếc hỏa tiễn và Obeth dự định phóng hỏa tiễn đó vào ngày cuốn phim bắt đầu chiếu. Năm đó, cuốn phim "Một người đàn bà trên mặt trăng" của Fritz Lang mang lại đầy thành công trong khi việc phóng hỏa tiễn lại bị thất bại chua cay, trái với lời tán dương rầm rộ của báo chí. Nhưng các hội viên của Hội Du Lịch Không Gian không đến nỗi quá thất vọng. Theo ý họ, sở dĩ họ gặp thất bại về hỏa tiễn bởi vì chưa tìm ra được một thứ nhiên liệu có thể tạo nên một áp suất đủ mạnh cần thiết. Họ liền nhờ các nhà hóa học sáng chế ra một chất cháy mới. Tại Reinickendorf, ngoại ô của thành phố Berlin, có một khoảng đất trống. Hội Du Lịch Không Gian liền ký một giao kèo với Hội Đồng Thành Phố vào ngày 27-9-1930 để thuê khoảng đất kể trên với giá là 1,500 đồng trong một năm. Khoảng đất này được đặt tên một cách hãnh diện là "Phi Trường Hỏa Tiễn". Phi trường này tuy sơ sài thật nhưng chỉ vài tháng sau, đã được khắp thế giới biết đến vì tính cách đặc biệt của nó. Nhiều người đã từ các nước Pháp, Mỹ, Anh… tới thăm. Có kẻ tình nguyện giúp sức vào công cuộc thí nghiệm. Tại nới đây có mặt đầy đủ các nhà kỹ thuật nhiều thiện chí : kỹ sư, thợ máy, hóa học gia, phi công… Hội Du Lịch Không Gian tuy không giàu về ngân quỹ nhưng các hỏa tiễn Mirak loại nhỏ cũng ra đời. Tính tới năm 1932, Oberth, Ley, Von Braun và các hội viên khác đã thành công trong 85 lần thử và một trong các hỏa tiễn đã lên cao được một dặm, đạt kỷ lục của thời đó. Mùa xuân năm 1932, Von Braun học xong chương trình kỹ sư của Viện Kỹ Thuật Berlin (the Berlin Institute of Technology) rồi hai năm sau, đoạt được văn bằng Tiến Sĩ Vật Lý của Trường Đại Học Berlin. Tuy nhiên, sự học hành không làm gián đoạn công cuộc theo đuổi ngành kỹ thuật hỏa tiễn của Von Braun. 2/ Chế tạo hỏa tiễn. Vào năm 1931, quân đội Đức tìm kiếm một thứ khí giới mới, có tầm hoạt động xa mà không bị ngăn cấm bởi Hòa Ước Versailles. Hỏa tiễn có thể là thứ khí giới phù hợp với điều kiện trên. Đại úy kỹ sư Walter Dornberger được giao phó trách nhiệm phải viết một bản báo cáo về dự án đó. Ông ta liền tới thăm phi trường hỏa tiễn trong 3 ngày liền, hỏi han các nhà bác học và tham dự các cuộc bắn thử hỏa tiễn. Khi đó, Dornberger đã để ý đến Wernher Von Braun vì nghị lực, vì sự sáng suốt và trí hiểu biết của chàng này. Rồi tất cả kế hoạch về hỏa tiễn được chuyển tới Bộ Tổng Tham Mưu Đức vào mùa thu năm 1932. Vào một ngày của tháng 8 năm 1932, Von Braun được mời đến trung tâm thử hỏa tiễn quân sự đặt tại Kummersdorf. Trung tâm này ẩn náu trong một khu rừng thông ở phía nam thành phố Berlin. Chàng thanh niên 20 tuổi Von Braun trở nên Giám Đốc Kỹ Thuật, Đại Uùy Dornberber làm Giám Đốc Quân Sự còn ngân quỹ của trung tâm do Bộ Binh Đức đài thọ. Thời kỳ hỏa tiễn thực sự bắt đầu vào ngày 21 tháng 12 năm 1932 tại Kummersdorf. Tại trung tâm nghiên cứu này, các tai nạn xẩy ra không phải là ít. Đã có lần Von Braun thoát chết, song quần áo bị rách nát. Ngày 17-5-1933, viên kỹ sư danh tiếng Max Valier đã chết trên vũng máu vì máy điều chỉnh phát nổ trước kỳ hạn và đã phóng một mảnh thép vào ngực ông ta. Ít lâu sau, tiến sĩ Warmke, kỹ sư hóa học, cũng chết tan xác vì thứ thuốc nổ mới phát minh. Tại trung tâm nghiên cứu này, Von Braun đã say sưa làm việc. Người ta thường thấy ông ngủ trên các họa đồ dang dở : Von Braun đang trù tính làm 2 loại hỏa tiễn, một thứ dài 1,40 mét còn thứ kia cao 3 mét. Khi bước chân vào trung tâm hỏa tiễn, Von Braun tưởng rằng Bộ Quốc Phòng Đức sẽ bỏ ra hàng triệu bạc để thực hiện chương trình chế tạo vũ khí này. Nhưng ông đã lầm. Ngân quỹ đã không cho phép trung tâm tiêu quá một số tiền giới hạn, mọi vật liệu đều thiếu thốn. Mặc dù các trở ngại, hai loại hỏa tiễn kể trên cũng được hoàn thành và đã lên cao được hơn 2,200 mét, thật là một thành công đáng kể. Trung tâm Kummersdorf càng ngày càng trở nên chật chội. Giới quân sự Đức đang tìm kiếm một nơi rộng rãi hơn. Vào một dịp Giáng Sinh, Von Braun và nhóm chuyên viên của ông dự lễ trên một hòn đảo nhỏ hẻo lánh tại miền biển Baltique. Đảo Peenemunde này thực là quá hiu quạnh, lại ở vào một vị trí kín đáo, rất xứng đáng là nơi bắn thử vũ khí bí mật. Từ tháng 8 năm 1936, Bộ Quốc Phòng Đức bắt đầu xây cất trên đảo Peenemunde : đường lộ, cầu cống, sân bay, bãi phóng hỏa tiễn, dinh thự, khách sạn cùng các lô cốt… song từ trên máy bay, rất khó mà nhận thấy các kiến trúc này. Có tới hàng ngàn vật lý gia, hóa học gia, kỹ sư, sinh viên, chuyên viên… hoạt động tại đây. Họ làm việc quần quật từ sáng tới tối. Phương châm của họ được khắc trên mặt tiền của trung tâm nghiên cứu : "Các vật lý gia, kỹ sư, kỹ thuật gia là những người tiền phong của Thế Giới Mới". Tại nơi đây, các tai nạn xẩy ra không phải là ít nhưng các nhà khoa học cũng giải quyết được nhiều bài toán mới lạ. Các hỏa tiễn càng ngày càng lên cao hơn nhưng điều đó không khiến cho các tướng lãnh Quốc Xã đặt tin tưởng vào. Hitler chỉ hy vọng ở các chiến xa hạng nặng hơn là thứ khí giới mới lạ này. Đã có lần Hitler tới thăm Trung Tâm Hỏa Tiễn Peenemunde mà không nói quá 10 tiếng rồi ra về chán nản. Sau khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, Von Braun cho ra đời một loại hỏa tiễn lên cao được 7,000 mét. Trung tâm hỏa tiễn gửi phim chụp tới Hitler nhưng không được trả lời. Các tướng lãnh cao cấp Đức cũng bắt chước thái độ im lặng của Hitler mà gọi vào quân đội các kỹ sư của Von Braun. Các phương tiện thiếu dần làm cho kết quả trở nên tại hại. Quân đội Đức lại bắt đầu thua ở khắp các mặt trận, vì vậy Hitler hạ lệnh cấp tốc chế tạo hỏa tiễn nhưng sau hai lần mời các thanh ra quân đội tới dự các cuộc phóng thử, hỏa tiễn vẫn không bay nổi. Người nâng đỡ chính thức của Von Braun tại Berlin, Đại Tướng Becker, được Hitler gọi đến : ông ta được quyền chọn đến trại tập trung hoặc tự sát. Ông Becker đã tự tử. Còn Von Braun, ông biết rằng nếu sau một lần bắn thử hỏa tiễn nữa không thành, ông sẽ bị xử bắn hay bị bọn Gestapo hành hạ. May mắn thay, lần thử thứ ba đã thành công. Vào ngày 7-7-1943, Von Braun được phong tặng chức Giáo Sư còn Dornberger được thăng chức Thiếu Tướng, rồi hai người được gọi đến Văn Phòng của Hitler. Nhà độc tài Quốc Xã đã tỏ ra hối tiếc rằng nếu có hỏa tiễn từ năm 1939, có lẽ đã không có chiến tranh. Rồi Hitler ra lệnh cấp tốc chế tạo thứ khí giới báo thù, làm sao san phẳng các thành phố London và New York trong một thời gian ngắn. Von Braun trở về đảo Peenemunde và được toàn quyền hành động. Đảo này được tăng cường về mặt quân sự cũng như an ninh. Giám đốc Sở Tình Báo Gestapo đích thân theo dõi sự an ninh trên đảo, các pháo đài canh phòng ngày đêm, chung quanh đảo là các bãi mìn tự động và hàng rào dây kẽm có mắc điện cao thế làm cho hòn đảo trở nên bắt khả xâm phạm. Nhưng vẫn chưa hết, người ta còn gạch tên Peenemunde trên bản đồ và khi gọi, lại dùng tên làng kế cận Karlshagen. Von Braun có 5,000 người dưới quyền. Tất cả các kỹ thuật gia đều gắng sức làm việc để lấy lại thời gian đã mất. Nhưng thứ khí giới bí mật của Von Braun đã bị bọn gián điệp Đồng Minh biết. Các người dân chài Thụy Điển thường kể lại rằng họ thấy các vật lạ bay rất nhanh và phát ra những tiếng động đinh tai nhức óc. Có người lại nhặt được các mảnh vỡ trong đó có chứa đựng những phụ tùng điện tử. London rất lo lắng. Lệnh oanh tạc hòn đảo Peenemunde được ban ra vào cuối tháng 7 năm 1943. Các pháo đài bay Đồng Minh tập dượt rồi đến ngày 17-8 mới lên đường. Đêm hôm đó, hàng ngàn tấn bom đã đổ xuống hòn đảo. Toàn đảo chìm trong biển lửa. Hàng ngàn người chết. Các xưởng vũ khí bị thiệt hại nặng nề. Sáng hôm sau, khi bay quan sát trên đảo, Von Braun đã phải khóc cho công trình của mình. Một trung tâm hỏa tiễn thứ hai được thiết lập tại Volkenrode trong dãy núi Hartz. Người Đức lại cố gắng làm việc. Loại bom bay được lắp hàng loạt tại hai trung tâm hỏa tiễn. Von Braun cả ngày nghiên cứu loại hỏa tiễn liên lục địa và loại hỏa tiễn phóng đi từ các tầu ngầm. Tuy nhiên, vào tháng 12 năm 1943, Von Braun cũng bị bắt giam trong nửa tháng : Himmler đã tố cáo ông phá hoại vì ông đã chú trọng đến việc chinh phục không gian hơn là tìm cách tàn phá các thành phố London và New York. Tới khi Đại Tướng Dornberger phải đích thân xin với Hitler, Von Braun mới được trả lại tự do. Từ năm 1942, các chuyên viên của Von Braun đều công nhận rằng không có thứ võ khí nào chống lại được bom bay. Ngay cả việc làm cho bom bay đi lạc hướng cũng rất khó khăn. Đô Đốc Canaris, Giám Đốc Sở Phản Gián Đức Quốc, là người lo xa nên đã phái đi 10 gián điệp có nhiệm vụ đặt các máy vô tuyến phát ra làn sóng ngắn, dấu tại nóc những tòa nhà chọc trời tại thành phố New York. Các máy phát sóng này sẽ hướng dẫn bom bay phóng từ các tầu ngầm Đức nổi tại ngoài khơi Đại Tây Dương. Các bom bay đã được sẵn sàng từ đầu năm 1944 nhưng Hitler chưa ra lệnh dùng tới. Sau khi xẩy ra cuộc đổ bộ của Đồng Minh tại miền Normandie, thứ khí giới bí mật đó mới xuất hiện. Quả bom bay V-1 đầu tiên rơi xuống đất Anh vào ngày 16-6-1944, mở màn cho Chiến Dịch Vergeltung (Báo Thù). Người Đức đã dùng chữ V để đặt tên cho bom bay. Nhiều người đã kể lại rằng vào 4 giờ sáng hôm 16-6, một quan sát viên Anh trông thấy một vật sáng bay lại. Vật càng tới gần, tiếng rú của máy càng được nghe rõ, rồi vật đó rơi xuống ngoại ô của thành phố London với tiếng nổ long trời, tàn phá cả một khu vực chung quanh. Thông thường, trong một ngày có tới 200 quả bom bay V-1 rơi xuống đất Anh. Người ta tính rằng chỉ trong vòng 3 tuần lễ, thành phố London đã lãnh chịu hơn 3,000 quả bom. Thủ Tướng Churchill kêu gọi phải sửa đổi phương pháp phòng không. Nhưng phải chờ đợi tới 3 tháng sau, người Anh mới tìm ra cách chống đỡ. Tới ngày 8-9-1944, loại bom bay V-2 lại bắt đầu tung hoành. Đây là một thứ võ khí có thể mang 800 kilô chất nổ tới các mục tiêu xa hơn 2,000 dặm, lại bay với tốc độ siêu thanh tức là một dặm trong một giây, trong khi vào thời kỳ đó, chưa có một hệ thống hoàn hảo nào báo động sự lao tới của bom bay. Hơn 3,000 quả bom bay V-2 đã tàn phá thành phố London và nước Hòa Lan cả ngày lẫn đêm. Thứ khí giới tinh sảo này đã đánh dấu một bước tiến trong lịch sử chiến tranh của Nhân Loại. Vài năm sau, trong một cuộc phỏng vấn của Tạp Chí New Yorker, Von Braun đã nói về thứ khí giới đó : "Tôi thành thực hối tiếc rằng hỏa tiễn của chúng tôi được sinh ra vì một lý tưởng, nhưng lại bị áp dụng vào công việc giết người. Chúng tôi đã vẽ ra hỏa tiễn với mục đích mở đường tới các hành tinh khác, chứ không phải để tàn phá chính Trái Đất này". Ngoài bom bay V-1 và V-2 ra, vẫn chưa phải là hết khí giới bí mật. Người Đức còn định dùng một thứ bom khủng khiếp gấp vạn lần : bom nguyên tử. Thực vậy, ngay từ năm 1939, nhà vật lý người Đức Otto Hahn đã thành công trong việc bắn vỡ nhân nguyên tử. Tới năm 1942, ông Otto Hahn đã chế tạo được chất Plutonium. Rồi kết quả của công trình khảo cứu của Otto Hahn trong năm 1944 đã khiến ông đoạt Giải Thưởng Nobel về Vật Lý của năm 1945. Tất cả các sự kiện này khiến người ta tin chắc rằng nước Đức đã bắt tay vào việc chế tạo bom nguyên tử. Vào năm 1945, quân đội Đồng Minh tiến dần vào lãnh thổ Đức. Peenemunde sắp rơi vào tay địch. Von Braun và các chuyên viên hỏa tiễn phân vân không biết chọn phe Dân Chủ hay phe Cộng Sản. Khi Hồng Quân còn cách Peenemunde 100 cây số, Von Braun hạ lệnh tản cư khỏi trung tâm hỏa tiễn : người ta dùng anatol, chất nổ của bom V-2, để phá hủy tất cả các cơ xưởng. Von Braun và đại đa số chuyên viên quyết định tới gặp quân đội Hoa Kỳ. Đoàn xe vận tải chuyển bánh về miền Bavière, băng qua các cánh đồng đầy dân tị nạn. Von Braun, Dornberger và hơn 400 kỹ thuật gia ẩn náu tại miền Allgau, chờ đợi. Lúc đi đường, 5 kỹ thuật gia Đức trốn đi gặp Hồng Quân Liên Xô. 12 năm sau, họ là những người có công đầu trong việc phóng lên không trung vệ tinh Spoutnik. Trong cuộc hành trình di tản, Von Braun bị thương ở cánh tay, phải bó bột nhưng không lúc nào ông rời một gói tài liệu quan trọng, nó chứa đựng một dự án về hỏa tiễn liên lục địa và một dự án về vệ tinh nhân tạo. 3/ Chương trình Không Gian. Từ tháng 4 năm 1945, Đại Tướng Eisenhower được lệnh thu thập, kiểm soát và gìn giữ mọi giấy tờ, hồ sơ, kế hoạch liên quan tới kỹ nghệ và khoa học cùng các tài liệu khác của các tổ chức Đức phục vụ cho mục tiêu quân sự. Vào tháng 5 năm đó, lệnh trên được nới rộng tới các khoa học gia, kỹ sư và kỹ thuật gia về hỏa tiễn của Đức Quốc. Do Chiến Dịch Paperclip này, hồ sơ các nhà khoa học Đức đã được cứu xét và chọn lựa để dùng vào việc di chuyển các nhà bác học Đức sang Hoa Kỳ. 1945 ông cùng với 150 kỹ sư và cán sự ra đầu hàng Mỹ Khi nghe thấy đoàn chiến xa Hoa Kỳ tiến lại gần, Von Braun đã đứng ra thương thuyết. Sau vài ngày, Von Braun và 125 nhân viên dưới quyền đã lên máy bay sang nước Mỹ. Các nhà bác học Đức được chở tới Fort Strong, thuộc tiểu bang Massachusetts vào ngày 20-9-1945 rồi được bí mật đưa tới Aberdeen Proving Ground, Maryland. Tới tháng 5 năm 1948, con số các chuyên viên hỏa tiễn Đức và Aùo được đưa sang Hoa Kỳ lên tới 1,136 người. Họ làm việc theo hợp đồng với các bộ Lục Quân, Hải Quân, Không Quân và Thương Mại. Đa số các nhà bác học này về sau đã nhập quốc tịch Mỹ, kể cả Von Braun (1955) và Dornberger. Công tác đầu tiên của Von Braun tại Hoa Kỳ là chọn lọc và đối chiếu lại các tài liệu khoa học thu thập được từ nước Đức, rồi ông được đưa tới White Sands, gần El Paso trong tiểu bang Texas. Tại miền biên giới Mễ Tây Cơ này, Von Braun thấy lại tất cả các cơ xưởng, đài quan sát như tại Peenemunde khi trước, nhưng ông không khỏi cảm thấy chán nản vì chính phủ Hoa Kỳ đã không chú ý đến chương trình thám hiểm không gian bằng hỏa tiễn. Các bom bay V-2 được cải tiến hơn trước, nhưng khí cụ này không thể bay thật cao và chỉ được dùng vào các công cuộc khảo cứu khí tượng. Tới năm 1947, Von Braun được phép trở lại miền Bavière trong một thời gian ngắn. Tại nơi này, ông kết hôn với cô em họ 18 tuổi tên là Marie Louise Von Quistorp. Để đề phòng ông bị Liên Xô bắt cóc, các thám tử luôn luôn canh chừng ông, ngay cả trong thời kỳ trăng mật. Cuộc chiến tranh Triều Tiên xẩy ra. Năm 1950, các nhà bác học Đức được đưa về Huntsville, Alabama, và được lệnh chế tạo cho Lục Quân một loại hỏa tiễn có tầm hoạt động xa và có thể mang đầu đạn nguyên tử. Von Braun trở nên Giám Đốc Kỹ Thuật của chương trình võ khí phi đạn của Lục Quân Hoa Kỳ (the U.S. Army ballistic-weapon program). Vào năm 1953, hỏa tiễn Redstone của Von Braun được phóng lên tại Mũi Canaveral khiến cho nhiều người hy vọng rằng chương trình thám hiểm không gian có thể thực hiện được. Mùa hè năm 1954, Von Braun cùng một nhóm kỹ thuật gia tới Washington đề nghị phóng lên không gian một vệ tinh nặng từ 2 tới 3 kilô. Nhưng Trung Tâm Nghiên Cứu Hải Quân cam đoan sẽ phóng một vệ tinh có chứa máy ghi lên quỹ đạo của trái đất mà chỉ dùng tới 88,000 mỹ kim. Người ta quyết định giao cho Bộ Hải Quân vì chương trình Vanguard đẹp về mặt lý thuyết hơn, và vệ tinh sẽ được phóng lên không gian vào Năm Địa Cầu Vật Lý Học (1957-58). Von Braun và nhóm chuyên gia của ông thực ra là vô địch về phương diện hỏa tiễn, tuy nhiên họ chỉ được phép chế tạo loại hỏa tiễn có tầm hoạt động trung bình. Tháng 9 năm 1956, hỏa tiễn Jupiter-C đã bay được 5,300 km, nghĩa là vượt qua tất cả các loại phi đạn tự động của Hoa Kỳ. Von Braun hy vọng sẽ dùng loại hỏa tiễn Jupiter-C này vào việc phóng vệ tinh. Ông chờ đợi. Von braun hướng về mặt trăng Bỗng vào ngày 4-8-1957, Liên Xô đã phóng thành công lên không gian vệ tinh Spoutnik, làm cho Thế Giới Tự Do hoảng hốt. Von Braun biết rằng giờ đã điểm. Ông tới Thủ Đô Washington và xin phép phóng một vệ tinh lên quỹ đạo trong 60 ngày. Việc phóng vệ tinh Vanguard của Hải Quân đã thất bại đau đớn. Bây giờ tới lượt Von Braun. Ngày 31-1-1958 tại Mũi Canaveral, hỏa tiễn Jupiter-C 4 tầng đã đặt vào quỹ đạo của trái đất vệ tinh "Thám Hiểm I" (Explorer I) nặng 14 kilô. Một loại hỏa tiễn khác của Von Braun tên là Redstone đã đưa Alan B. Shepard, Jr., phi hành gia đầu tiên của Hoa Kỳ lên quỹ đạo của Trái Đất vào năm 1961. Vào năm 1958, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật cho phép thành lập một cơ quan liên bang mới gọi tên là Cơ Quan Quản Trị Hàng Không và Không Gian NASA (the National Aeronautics and Space Administration). Nhiệm vụ của cơ quan này là nghiên cứu các kỹ thuật bay trong và ngoài lớp khí quyển của trái đất, chế tạo, thử nghiệm và điều hành các phi thuyền trong không gian, khám phá vũ trụ bằng các phi thuyền không người và có người lái, cộng tác với các quốc gia khác trong nhiều dự án xử dụng không gian vì hòa bình. Trong số các nhân vật đầu tiên được bổ nhiệm vào Cơ Quan NASA có Von Braun, một chuyên gia hàng đầu về hỏa tiễn, giữ chức Giám Đốc Trung Tâm Không Gian George C. Marshall (the George C. Marshall Space Flight Center) tại Huntsville, Alabama. Trong các năm sau, Von Braun đã giúp công vào 3 chương trình bay trong không trung là Mercury, Gemini và Apollo, chường trình đáp xuống Mặt Trăng. Chính nhờ Von Braun, hỏa tiễn khổng lồ Saturn V đã được chế tạo. Đây là loại hỏa tiễn 3 tầng, cao gần 110 mét (hơn 360 feet), nặng khoảng 3,000 tấn. Khi phóng đi, sức đẩy của hỏa tiễn này là 7,500,000 pounds, đốt cháy hơn 10 tấn nhiên liệu trong mỗi phút đồng hồ. Năm 1969, hỏa tiễn Saturn V đã đưa các phi hành gia lên Mặt Trăng. Các thành công về kỹ thuật của các hỏa tiễn loại Saturn đã là các kỷ lục của thời đại đó. Cuộc chạy đua về thám hiểm không gian giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đã làm cho ngành Hàng Không Liên Hành Tinh tiến vượt mức. Con người từ nay đã có hy vọng vượt khỏi trái đất chật hẹp của mình để đi tìm các thế giới xa lạ. Vào năm 1975, ông Von Braun tổ chức Viện Không Gian Quốc Gia (the National Space Institute). Đây là một cơ quan tư, có mục đích tìm hiểu và phổ biến các hoạt động khoa học về không gian với sự ủng hộ của đại chúng. Do các đóng góp về kỹ thuật không gian, ông Von Braun đã lãnh được rất nhiều bằng khen, phần thưởng… Ông Von Braun qua đời vào ngày 16-6-1977 tại Alexandria, Virginia. Von Braun tin chắc rằng chỉ trong một thời gian gần đây, con người có thể tới được Hỏa Tinh, hành tinh mà vào thời ông còn trẻ, mẹ ông thường chỉ cho ông thấy qua kính thiên văn vào những đêm quang đãng. Von Braun tin tưởng vào trật tự của Vũ Trụ và cho rằng con người sẽ tới được các thế giới tuy xa xôi nhưng không kém phần đẹp đẽ và huyền bí
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 6:18:57 GMT 9
Leonardo Da Vinci (1452 – 1519) Thiên tài lỗi lạc về mọi phương diệnVietsciences-Phạm Văn Tuấn Biểu tượng của tinh thần Phục Hưng Leonardo da Vinci là một thiên tài lỗi lạc về mọi phương diện. Ông khảo cứu mọi vấn đề, thấu triệt tất cả rồi nghĩ ra nhiều dụng cụ, máy móc và nhiều sáng kiến của ông đã đi trước nền Khoa Học thời bấy giờ khiến cho vào thời đại của ông, người ta chưa thể thực hiện được những sáng kiến đó. Leonardo da Vinci vừa là họa sĩ, vừa là nhà điêu khắc, kiến trúc sư, kỹ sư, nhà địa chất, nhà cơ thể học, nhà phát minh và nhà bác học, nói tóm lại ông là một nghệ sĩ lừng danh, một nhà tiền phong trong nhiều lãnh vực Khoa Học và Nghệ Thuật của thời kỳ Phục Hưng (the Renaissance), tức là một phong trào văn hóa bắt đầu tại nước Ý vào các năm 1300. Hai tác phẩm hội họa “Mona Lisa” và “Bữa Tiệc Cuối Cùng” (The Last Super) của Leonard da Vinci được xếp vào các bức danh họa tuyệt vời của thế giới. Virgin and Child with St. Anne The Last Supper 1498 Fresco, 460 x 880 cm (15 x 29 ft); Convent of Santa Maria delle Grazie (Refectory), Milan 1/ Thuở thiếu thời. Leonardo da Vinci chào đời vào năm 1452 trong một ngôi nhà đổ nát bên ngoài ngôi làng Vinci, gần thành phố Florence thuộc miền trung của nước Ý. Thiên tài này đã sớm mang lấy số phận hẩm hiu của một đứa con đẻ hoang do một người đàn bà tầm thường có tên là Caterina. Người cha của Leonardo là ông Ser Piero da Vinci, một chưởng khế miền Florence, đã không nhìn nhận đứa con rơi này để lấy một thiếu nữ giàu có, nhưng vì người vợ chính thức này không có con, ông ta đã bắt Leonardo về nuôi khi đứa bé lên 5 tuổi. Hàng rào xã hội đã ngăn cách mãi mãi Leonardo với người mẹ đẻ và vì thiếu tình mẫu tử, cậu bé này chỉ còn biết sống cô độc để suy nghĩ một mình. Vì người cha đối xử với Leonardo một cách hờ hững, có thể nói vì bổn phận, nên cậu bé được tự do lang thang trên các sườn đồi, sống giữa cảnh thiên nhiên mà tự tìm lấy nguồn an ủi. Cậu bé Leonardo tha thẩn cả ngày vào việc góp nhặt rất nhiều viên đá cuội đẹp, các cây cỏ hiếm thấy hay tự làm ra các đồ chơi để giải buồn. Tuy còn ít tuổi, Leonardo đã có những thiên khiếu đặc biệt, những tài vặt và cậu có thể viết chữ ngược cũng như viết xuôi, bằng tay phải cũng như tay trái. Những tập sách dùng tiếng La Tinh khó khăn và buồn tẻ đã không hấp dẫn được cậu bé, Leonardo chỉ thích tự tìm hiểu thiên nhiên, cũng vì thế mà tới tuổi 15, Leonardo vẫn còn mù chữ. Leonardo quả thực có tài vặt ngay từ khi còn ít tuổi. Một người quen biếu cha cậu một cái mộc bằng gỗ cây vả. Leonardo xin cha cho mình được phép trang trí cái mộc này. Cha cậu bằng lòng. Leonardo bí mật giam mình trong phòng luôn 8 ngày, cậu vẽ trên tấm mộc hình một con quỷ rất hung dữ đang phun lửa. Vào lúc chập tối, giữa đống xác rắn rết, Leonardo đưa trình tác phẩm cho cha coi. Bức hình trông rất ghê sợ, lại ở trong một khung cảnh gớm ghiếc, đã làm cho người cha phải giật mình, lùi bước. Leonardo thích thú, cậu coi đây là sự thành công. Cha Leonardo liền đem chiếc mộc của con bán cho một tiệm kim hoàn lấy 10 ducats và người này bán lại cho Hầu Tước miền Milan lấy 300 ducats. Sau lần khám phá thấy tài năng của con, cha Leonardo nghĩ rằng thằng nhỏ có thể kiếm ra tiền được. Ông ta liền cho cậu vào học nghề tại xưởng của một người thợ kim hoàn xứ Florence tên là Andrea del Verrocchio. Verrocchio là một bậc thầy về thủ công nghệ. Ông ta chuyên đúc đồng, nặn tượng, chạm chổ kim loại. Khi được theo học Verrocchio, Leonardo mới cảm thấy mình dốt nát và hối tiếc những thời gian lãng phí trước kia. Nhưng nhờ có thiên tài, cậu không những học được nghề mà còn phát minh ra nhiều thứ khác, chẳng hạn như chiếc đồng hồ chạy bằng nước, chiếc máy dát mỏng kim loại hay những cây đàn Luthe chế tạo bằng xương cá và xương xọ của các con vật. Leonardo cũng tìm hiểu thêm về thiên văn và toán học. Ngoài tài khéo tay đã làm cho các bạn của cậu phải khâm phục, Leonardo còn có một khuôn mặt đẹp đẽ, một thân hình cường tráng và một sức mạnh đáng kể cho phép cậu bẻ cong một móng ngựa bằng sắt hay giữ chặt một con ngựa đang lồng lộn. Để thay đổi lối giải trí, Leonardo học thêm về hội họa. Vào một buổi chiều trong khoảng năm 1472, ông Verrocchio mắc bận, phải để dang dở bức họa “Lễ Rửa Tội của Chúa” (The Baptism of Christ). Trong khi thầy vắng nhà, Leonardo liền lấy cọ và sơn màu, hoàn thành bức tranh bằng hình ảnh một thiên thần đang quỳ gối. Lúc trở về, Verrocchio đã ngắm nghía tác phẩm rồi vì quá cảm phục Leonardo, ông ta liền từ bỏ giá vẽ. 2/ Thời kỳ hoạt động. Thời gian học nghề chấm dứt, các học viên đã thành tài đều trở về quê để mở các tiệm thủ công. Riêng Leonardo lúc này là chàng thanh niên 21 tuổi, vì không có vốn, nên đành ở lại làm công cho ông Verrocchio. Trong thời gian làm thợ, Leonardo được các tu sĩ Scopetto đặt vẽ tác phẩm “Lễ Dâng của các người kính Chúa Hài Đồng” (Adoration des Mages). Do tìm hiểu quá nhiều phương diện, mọi công việc không thể làm xong nhanh chóng được khiến cho các tu sĩ phải hối thúc chàng họa sĩ nhiều lần, Leonardo mới hoàn thành tác phẩm. Quá cảm phục trước những nét vẽ tuyệt vời, các tu sĩ Scopetto bèn thưởng thêm cho Leonardo một thùng rượu chát. Sau đó ít lâu, một cuộc âm mưu đã tố cáo chàng họa sĩ vi phạm thuần phong mỹ tục. Vụ án kéo dài trong 2 năm rồi chàng được tha bổng. Sự việc này đã khiến Leonardo cảm thấy cay đắng khi phải giao tiếp với những người khác. Thêm vào đó, các rối loạn chính trị khiến chàng quan tâm cả về kỹ thuật quân sự. Leonardo đã nghĩ ra cách chế tạo nào thứ đại bác mới, nào xe có 3 bánh để chở súng, nào dụng cụ gạt đổ thang của địch quân tựa lên tường thành... Nhưng không ai đặt làm những phát minh này khiến chàng buồn bã và phải từ bỏ quê hương, đi tìm thời vận. Leonardo liền tìm tới Hầu Tước miền Milan là Ludovico Sforza, là người có thể cần tới các sáng kiến quân sự để chống nhau với người Pháp. Hầu Tước Ludovico là con người xảo quyệt, đã tiếm đoạt quyền hành bằng nhiều thủ đoạn trong khi đó dân chúng lầm than, đói khổ vì sưu cao, thuế nặng. Leonardo đã phải sống im lìm giữa bầu không khí ngột ngạt, đầy những âm mưu bè phái, đầy các phản bội và thù hận trong suốt 8 năm trường, vì lúc bấy giờ chiến tranh chưa xẩy ra nên Hầu Tước Ludovico chưa quan tâm tới các phát minh khoa học của ông. Các sáng kiến của Leonardo đã đi trước thời đại nhiều thế kỷ. Leonardo đã phác họa ra chiến xa, xe hơi, lựu đạn, súng phun lửa, hơi ngạt... và những dụng cụ chiến tranh này được trình bày bằng những đường nét mỹ thuật cổ xưa nhưng cũng nói lên sự nhìn xa, biết rộng của Leonardo da Vinci và chứng tỏ rằng ông là một nhà phát minh dồi dào các tư tưởng cải tiến. Năm 1490, bệnh dịch hạch lan tràn tới miền Milan. Hầu Tước Ludovico chạy khỏi thành phố sau khi đã trao việc cứu chữa cho các nhà chiêm tinh. Nhân dịp này, Leonardo đã đề nghị những giải pháp vệ sinh và ông nghiên cứu một kế hoạch chỉnh trang đô thị. Theo ông, nên phân tán các thành phố lớn thành nhiều nhóm thị trấn chứa độ 30 ngàn người, và đường phố phải rộng bằng chiều cao của các tòa nhà. Ông còn trù liệu hệ thống cống rãnh để thoát nước và những phương pháp làm thoáng khí. Việc khảo sát ngành kiến trúc đã khiến ông nghiên cứu luật phối cảnh và môn quang học. Ông là người đầu tiên tìm ra thủy tinh thể khi khảo sát con mắt. Ông đã cải tiến rất nhiều máy móc, tiên liệu về máy may và trù tính cả sự thay thế nhân công bằng người máy. Nhưng tất cả óc sáng kiến lẫn tài ba lỗi lạc về ngành Hội Họa của Leonardo da Vinci đều không được Hầu Tước Ludovico quan tâm tới, Hầu Tước chỉ sai Leonardo thực hiện các công việc viển vông. Trong khi Leonardo đang do dự sẽ từ bỏ nghề hội họa thì tu viện Santa Maria delle Grazie tại Milan, đặt ông vẽ bức họa “Bữa Tiệc Cuối Cùng” (The Last Super). Nhưng ông đã không vẽ xong sớm khiến cho vị tu sĩ quản đốc thúc dục. Bực mình, ông liền trả lời vì còn đang tìm kiếm một người mẫu để vẽ nhân vật Judas, và nếu vị tu sĩ bằng lòng ngồi làm mẫu thì bức họa mới mau hoàn thành. Từ đó không ai dám thúc dục Leonardo nữa. Khi được vẽ xong, bức họa này đã mang lại danh vọng vô bờ cho Leonardo da Vinci. Sau đó ít lâu, Hầu Tước Ludovico đặt Da Vinci đắp một bức tượng cha mình đang cưỡi ngựa, một công việc khiến cho ông phải nghiên cứu tỉ mỉ cơ thể của loài ngựa và nhân dịp này, ông lại vẽ ra các kiểu chuồng ngựa mới rất tiện lợi và tối tân hơn. Khi đã nghiên cứu về cơ thể loài ngựa xong, Da Vinci phác họa xây đắp một con ngựa dài 7 thước đang phi nước kiệu và đè chết một địch quân. Nhưng mẫu hình này không làm cho Hầu Tước Ludovico vừa ý và Hầu Tước dự tính dùng một nhà điêu khắc khác thực hiện. Da Vinci quá chán nản về thất bại này. Thế rồi một sự việc đã cứu vãn hoàn cảnh của ông. Vào tháng 1 năm 1491, Ludovico sẽ thành hôn với nàng Beatrice d’Este. Da Vinci được giao phó công việc vẽ các kiểu áo và trang hoàng các lâu đài và đại hí viện. Nhờ tài năng về máy móc, Da Vinci đã thành công rực rỡ trong một màn trình bày các thiên thần giáng phàm để ca ngợi Beatrice. Cả nước Ý nói về thành quả này. Da Vinci nhờ vậy được phép thực hiện lại bức tượng. Sau hơn hai năm trường, tấm màn phủ mẫu hình bằng đất được mở ra để công chúng ngắm coi vào năm 1493. Tất cả mọi người đều phải trầm trồ ngợi khen tác phẩm điêu khắc này và sau đó, Leonardo da Vinci đã trở thành một nhà tiên trị về một trường phái mỹ thuật mới. Nghệ sĩ tại khắp bốn phương đều bắt chước quan niệm mỹ thuật của Da Vinci. Thật là mỉa mai khi một nhà danh họa phải nhờ tài đạo diễn của mình mới trở nên nổi tiếng. Nhờ thành công về điêu khắc, Da Vinci được Hầu Tước Ludovico quý trọng hơn. Ông được tăng thêm tiền trợ cấp nhờ đó có thể nghiên cứu thêm về hội họa, và sự học hỏi về cơ thể con người khiến ông giải phẫu các xác chết để tìm hiểu tường tận từng thớ thịt. Các bức họa thực hiện trong thời kỳ sống tại Milan đã khiến cho Da Vinci nổi danh và mọi người phải kính phục ông. Những tác phẩm của ông đã ảnh hưởng tới một số họa sĩ trẻ, kể cả Sandro Botticelli và Piero di Cosimo. Những nghệ sĩ này trở nên các nhà lãnh đạo của các họa sĩ thuộc thế hệ mới của miền Florence, rồi sau khi trở về nơi này lần thứ hai, các họa phẩm của Leonardo da Vinci còn ảnh hưởng tới một thế hệ họa sĩ trẻ khác bao gồm Andrea del Sarto, Michelangelo và Raphael. Khi quân lính Pháp tràn qua dãy núi Alpes vào năm 1499, Ludovico Sforza thua trận và bị cầm tù. Vì không có ngươi che chở, Da Vinco đành từ bỏ Milan, sang thành phố Mantua, tại nơi đây ông đã vẽ một bức họa danh tiếng cho bà vợ của Hầu Tước Mantua tên là Isabella d’Este. Khi sống tại Venice, Da Vinci đã dâng hiến các phát minh về quân sự. Ông đã thực hiện cho Hầu Tước Cesar Borgia các áo lặn và người nhái để bảo vệ hải cảng. Ông còn nghiên cứu phép vẽ bản đồ, cách đào kênh và cách chế tạo tầu ngầm, nhưng phát minh lợi hại này đã khiến ông suy nghĩ và dấu kín. Sau khi sống tại Venice một thời gian, Da Vinci trở về Florence vào năm 1500 và ông nghiên cứu máy bay. Người dân tỉnh này đã tưởng ông điên khùng khi ông mua rất nhiều chim rồi thả cho chúng bay đi, có ai biết rằng ông đang khảo sát cách đập cánh của loài chim. Rất tiếc rằng sức mạnh do chân và tay của con người không đủ mạnh và phát minh về máy bay do người đập cánh của ông đã không thành công. Trong các năm từ 1513 tới 1516, Leonardo da Vinci sống tại Rome do lời mời của Hồng Y Giuliano de Medici, người anh em của Giáo Hoàng Leo X. Vào thời gian này, các nghệ sĩ lừng danh đang làm việc tại Rome như Donato Bramante trông coi xây dựng Giáo Đường St. Peter’s Basilica, Michelangelo lo việc nặn tượng và kiến trúc tại ngôi mộ của Giáo Hoàng Julius, và Raphael thực hiện các bức danh họa trong các căn phòng của Giáo Hoàng. Leonardo được mời vẽ các bản đồ và lo cải tạo vùng sình lầy Pontine gần Rome. Từ thời kỳ Phục Hưng, các vua chúa đều mong muốn tập trung trong triều đình các nghệ sĩ và các học giả. Vào năm 1516, Leonardo da Vinci được Vua Francis I của nước Pháp mời qua Pháp làm việc. Ông đã cư ngụ trong lâu đài Cloux tại Amboise, gần Tours, trong 3 năm và được tặng danh hiệu là “nhà hoạ sĩ, kiến trúc sư và nhà cơ khí số một của nhà vua”. Ông được tự do khảo sát bộ môn nào ưa thích. Chính trong thời gian này, Leonardo đã phác thảo rất nhiều bản vẽ kiến trúc như xây dựng lâu đài, vườn hoa, nghiên cứu khoa học, cơ thể học, không thể học (aerology), thủy tĩnh học (hydrology)... Leonardo da Vinci qua đời tại Cloux vào ngày 2 tháng 5 năm 1519 và được chôn cất trong phần đất nhà thờ của lâu đài này. Về sau trong cuộc Cách Mạng Pháp, nhà thờ Cloux cùng với các kỷ niệm quốc gia khác đã bị tàn phá và người ta không còn biết nắm xương tàn của nhà danh họa và bác học này ở đâu. 3/ Vài tác phẩm danh tiếng của Leonardo da Vinci. Ngày nay, tác phẩm hội họa được nhiều người biết tới nhất của Leonardo da Vinci là bức “La Gioconda”, hay thường được gọi bằng tên “Mona Lisa”. Có lẽ đây là bức chân dung danh tiếng nhất từ xưa tới nay. Mona Lisa có lẽ là người vợ trẻ của một nhà buôn lụa xứ Florence, tên là Francesco del Giocondo. Mona Lisa là tên gọi tắt của Madonna Lisa (qúy bà Lisa) còn tên La Gioconda có nghĩa là bà Giocondo. Tác phẩm với món tiền thù lao cao nhất của Da Vinci là bức họa lớn dang dở có tên là “Trận Chiến Anghiari” (the Battle of Anghiari) vẽ trên tường trong phòng của tòa Đô Sảnh Florence, mô tả một trận đánh bằng kỵ binh với các chiến binh hung hãn trên lưng ngựa và các đám bụi mù, đây là cảnh đạo quân Florence đã đánh bại đạo quân Milan vào năm 1440. Nhiều người cũng ca tụng tuyệt tác phẩm “Bữa Tiệc Cuối Cùng” (The Last Super) vẽ trên tường của phòng ăn nơi tu viện Santa Maria tại Milan, nước Ý. Đây là cảnh bữa ăn cuối cùng của Chúa Jesus và 12 tông đồ, và Chúa mới cho biết có một người trong nhóm này sẽ phản lại Chúa. Một tác phẩm điêu khắc còn dang dở của Leonardo da Vinci là bức tượng khổng lồ một nhân vật cưỡi ngựa, được dựng lên để vinh danh Francesco Sforza, nhà sáng lập của triều đại Sforza. Nhà danh họa Da Vinci đã bỏ ra 12 năm trường để trù liệu bức tượng này. Sự chính xác về cơ thể của người và ngựa, các tỉ lệ chính xác và nét chuyển động khéo léo của bức tượng đã là mẫu mực của ngành điêu khắc trong thế kỷ 17. Các sáng kiến, tài năng đa dạng và tầm hiểu biết rộng lớn của Leonardo da Vinci đã khiến cho người đời sau coi ông là một biểu tượng của tinh thần Phục Hưng Bài đọc thêm: Leonard da Vinci là cha đẻ của ôtô? Minh Thi Một mô hình xe hơi của da Vinci được trưng bày tại Bảo tàng Florence. Họa sĩ lừng danh thời Phục hưng đồng thời là một kỹ sư tài ba, nhưng ít ai biết rằng ông còn là cha đẻ của những chiếc xe hơi ngày nay. Hôm qua, Bảo tàng Khoa học Lịch sử ở Florence, Italy, đã trình làng chiếc ôtô đầu tiên, được chế tạo dựa trên những phác hoạ trong sổ tay của da Vinci. "Đây thực sự là một công việc mạo hiểm, nhưng cũng giúp chúng tôi mang đến cho mọi người cái nhìn sâu hơn về trình độ am hiểu xe hơi của Leonardo", Paolo Galluzzi, Giám đốc bảo tàng, phát biểu. Cỗ máy kỳ cục có bộ dạng giống xe kéo này chạy bằng lò xo thay vì xăng, và có thể được cố ý để phát ra những âm thanh đặc biệt tại các sự kiện sang trọng, nhưng nó vẫn là phương tiện tự đẩy đầu tiên trên thế giới, các chuyên gia nhận định. Chiếc xe không phải là sáng chế đầu tiên được phát hiện trong những bản thảo bí ẩn của da Vinci, bao gồm cỗ máy biết bay, trực thăng, tàu ngầm, xe tăng quân sự và xe đạp. Sinh tại Florence vào năm 1452, da Vinci được coi là "Người đàn ông thời Phục Hưng" - một danh hoạ, một nhà điêu khắc, kỹ sư và nhạc sĩ. Rất nhiều sáng kiến của ông được ghi lại trong những sổ tay hiện được lưu trữ tại bảo tàng và thu hút sự quan tâm của đông đảo người hâm mộ cũng như giới khoa học. Năm 1905, Girolamo Calvi, một trong những người đầu tiên nghiên cứu về da Vinci, đã tìm ra mối liên hệ giữa những bản vẽ của nhà khoa học với những chiếc ôtô đầu tiên xuất hiện trên đường phố. Năm 1936, Calvi đã gọi một trong những phác hoạ của da Vinci là "Fiat của Leonardo", nhưng chỉ đến gần đây các nhà khoa học mới giải nghĩa chính xác bản phác hoạ đó, và những mô hình hiện được trưng bày tại Florence là công trình tái hiện đầu tiên. Ba mô hình ôtô của da Vinci sẽ được trưng bày tại bảo tàng đến ngày 5/6/04
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 6:47:58 GMT 9
Bell Alexander Graham (1847-1922) Người thực hiện được máy điện thoại, nói đầu tiên qua điện thoạivietsciences-Nhã Chân Ống nói điện thoại BELL 10-03-1876 Ðiện thoại cầm tay 9/7/1877 Graham BELL (Edimbourg Scotland, 1847 - Baddeck Canada, 1922) Như cha ông và ông nội ông lúc trước, ông nghiên cứu phương pháp dạy người câm-điếc và bộ máy âm thanh con người. Ông nghiên cứu về Sinh lý học ỏ Ðại học Luân đôn và trở thành giáo sư âm nhạc và nghệ thuật diễn đạt. Năm 1870 ông di cư qua Canada và ở Brantford, Ontario. Năm 1871 ông đến Boston để bắt đầu những cuộc diễn thuyết về hệ thống học âm thanh do cha ông phát minh và năm 1873 ông là giáo sư Sinh lý học, khoa Âm thanh tại Ðại học Boston. Graham BELL Cùng lúc đó ông đã trải qua nhiều buổi họp đêm cho những cuộc thí nghiệm về điện thoại đã đưa đến kết quả là ông đã truyền được Message đầu tiên bằng điện thoại: Bell gọi người phụ tá của ông là Tom Watson: "Ông Watson, lại đây, tôi muốn gặp ông" Phát minh lạ lùng này đã giải thoát cho ông về những lo lắng tài chánh trước sinh nhật thứ 30 của ông Ngày 9/7/1877 ông thành lập Công ty BELL TELEPHONE. Vô quốc tịch Mỹ năm 1882 và thành lập Trường cho người điếc ở Washington , nhưng trường này bị đóng cửa hai năm sau. Năm 1885 ông đến lần đầu tiên tại Baddeck, Nouvelle Ecosse Canada. Nơi đây ông bắt đầu thích ngành Hàng không và bắt đầu những cuộc thí nghiệm từ con diều bay (cerf-volant) cho đến sự thực hiện xuồng nước (hydroglisseur) tên HD-4 mà tháng 9 năm 1919 ông đã chiếm kỷ lục thế giới về vận tốc. Năm 1910-1911 ông du lịch vòng quanh thế giới sau khi bỏ tiền ra xây dựng National Geographic Society mà ông là Chủ tịch năm 1898. Khi ông mất, năm ông 75 tuổi, tại Hoa Kỳ đã có 14 triệu máy điện thoại.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 6:52:30 GMT 9
Christopher Columbus (1451-1506) Nhà hàng hải Ý khám phá châu MỹVietsciences-Phạm Văn Tuấn 1/ Thomas More và cuốn sách "Không Tưởng". Vào năm 1516, một học giả kiêm văn sĩ, kiêm chính trị gia người Anh là Sir Thomas More (1478-1535) đã viết ra một tác phẩm rất nổi tiếng, là cuốn truyện "Không Tưởng" (Utopia), đề cập tới một hòn đảo tại nơi này một xã hội sinh hoạt theo trí tưởng tượng của tác giả. "Utopia" theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là "không ở nơi nào cả" (nowhere). Theo Sir Thomas, những người Utopian này ở trong một môi trường sống dư thừa, không phải lo lắng, không gặp cảnh nghèo khó, không phải bận tâm về cuộc sống vì đây là một xã hội hạnh phúc. Tất cả người dân được hưởng mọi tự do, kể cả tự do tư tưởng. Mọi người trong xã hội này đều biết tôn trọng các quyền lợi của người khác và không bao giờ xâm phạm vào các niềm tin của người khác. Người dân xứ Utopia này rất yêu chuộng hòa bình, họ chỉ tham chiến khi cần tự bảo vệ. Như vậy danh từ "Utopia" hay "Utopian" tượng trưng cho một lý tưởng hay một sự toàn hảo. Kể từ khi đó, xứ Utopia là một sản phẩm của trí tưởng tượng của Sir Thomas More và tác giả đã đặt hòn đảo này ở bên ngoài khơi của châu Mỹ, vì trước đó vài năm, các người châu Âu đã biết được sự hiện hữu của châu Mỹ sau chuyến viễn du vào năm 1492 của nhà hàng hải Christopher Columbus. Châu Mỹ đã được người châu Âu coi là một nơi hoang dã không người lui tới, một nơi mà nhiều người có thể khởi đầu mọi xây dựng mà không bị ảnh hưởng bởi các thành kiến của thế giới cũ. Và đối với Sir Thomas More, châu Mỹ có thể là nơi để lập ra một xã hội toàn hảo. 2/ Nhà hàng hải Christopher Columbus. Trong các công cuộc thám hiểm bằng đường biển, chuyến đi quan trọng nhất và nổi tiếng nhất là của Christopher Columbus, thực hiện vào năm 1492. Quan trọng và nổi tiếng không phải vì sự táo bạo và thời gian vượt biển lâu dài, mà là vì sự tìm thấy châu Mỹ. Vào thời văn minh Cổ Hy Lạp, nhà triết học lừng danh là Plato đã đề cập tới một nền văn minh bị biến mất trên một hòn đảo chìm sâu xuống biển có tên gọi là Atlantis. Qua thế kỷ thứ 8, các tu sĩ người Ái Nhĩ Lan đã dùng một loại thuyền có bọc da, tên gọi là "curragh" để tìm ra hải đảo Iceland rồi tới thế kỷ sau, các người Na Uy đã định cư trên hải đảo này. Sau năm 980, những người đi biển Na Uy này lại tìm ra đảo Greenland. Ðây là một hòn đảo cung cấp cho các người định cư mới một vùng đất mở rộng với nhiều loài chim lạ, rồi họ tới các các hải đảo khác như đảo Baffin vào khoảng năm 1,000 và sau đó, tới miền Newfoundland. Như vậy tại phần phía bắc của Ðại Tây Dương, các người Bắc Âu đã dùng thuyền, đi khá xa nhưng họ đã không ghi lại các khám phá hàng hải của họ. Còn tại phần Ðại Tây Dương ở phía tây của châu Âu, cho tới thế kỷ 15 chỉ có một ít báo cáo về vài hòn đảo nằm ngoài khơi. Ðã có một bản đồ thời đó vẽ một hòn đảo lớn theo truyền thuyết, tên gọi là "Antilla", nằm ở phía tây của xứ Bồ Ðào Nha và trên cũng vĩ độ với hải cảng Lisbon. Người châu Âu thực sự tìm ra hai nhóm đảo Madeiras và Azores vào giữa thế kỷ 14, còn nhóm đảo Canaries được biết tới vào năm 1402. Cho tới cuối thế kỷ 15, các học giả về môn địa dư đều cho rằng nếu bằng một con tầu biển đi về hướng tây, người ta có thể tới được các xứ Trung Hoa và Nhật Bản. Người thời đó chưa biết rằng sau Ðại Tây Dương còn có lục địa châu Mỹ và một đại dương bao la là Thái Bình Dương. Sáng sớm ngày 12 tháng 10 năm 1492, nhà hàng hải Christopher Columbus đã bước lên bờ một hòn đảo thuộc châu Mỹ, một miền đất chưa ai được biết đến. Ðây là một sự kiện lịch sử, đã mở đầu cho việc tìm hiểu Tân Thế Giới và dẫn tới việc phổ biến nền văn minh tây phương trên lục địa này. Christopher Columbus đã tới được Tân Thế Giới do sự tình cờ. Chủ đích của ông là đi tìm một con đường biển để tới châu Á và khi nhìn thấy miền đất này, ông Columbus đã tin tưởng cho tới ngày qua đời rằng ông đã đạt được mục tiêu. Dù cho có sự nhần lẫn đó, người đời sau vẫn xếp ông Columbus là một trong các nhà hàng hải lớn lao nhất. Cha của Christopher Columbus tên là Domenico Colombo, là một người thợ dệt len, có cơ sở thương mại tại thành phố cảng Genoa, nước Ý. Christopher tên thật là Cristoforo, ra đời vào cuối mùa hè hay đầu mùa thu năm 1451. Lúc thiếu thời, Christopher cùng với em trai tên là Bartholomew giúp cha trong việc chải len. Khi lớn lên, Christopher là một chàng thanh niên cao lớn, tóc đỏ, tính tình trầm lặng và rất sùng đạo. Giống như các thanh niên khác của xứ Genoa, Christopher đã theo các đoàn tầu thuyền đi đánh cá mòi và có lẽ đi tới tận đảo Corsica. Christopher cũng có dịp tới các bờ biển Bắc Phi và trong các chuyến hải hành này, chàng đã học hỏi được kỹ thuật đi biển. Vào năm 1476, Christopher Columbus đã theo tầu buôn xứ Genoa tới hải cảng Lisbon thuộc xứ Bồ Ðào Nha rồi tới cả nước Anh và miền Flanders. Vào thời kỳ này, các quốc gia thuộc miền Ðịa Trung Hải đang gây chiến với nhau, vì vậy các tầu buôn đều phải có hộ tống. Con tầu chở Christopher khi tới phần biển phía nam của Bồ Ðào Nha thì bị tầu lạ tấn công và bị chìm. Christopher bơi được vào bờ và tìm đường tới Lisbon. Vào cuối thế kỷ 15, Bồ Ðào Nha là quốc gia đứng đầu về viễn du hàng hải. Trong một nửa thế kỷ và dưới sự bảo trợ của Hoàng Tử Henry, các thủy thủ Bồ đã thực hiện được các cuộc hải hành quan trọng tới các miền bờ biển Bắc Phi và đã mang về nhiều tài sản giá trị. Nhiều thương nhân gốc Genoa đã làm ăn phát đạt tại Lisbon và vì vậy, Christopher Columbus đã nhìn thấy cơ hội có thể trở nên một thuyền trưởng của các con tầu biển Bồ Ðào Nha. Việc đầu tiên Christopher Columbus phải làm là học nói, đọc và viết các tiếng La Tinh, tiếng Bồ và tiếng Castilian là ngôn ngữ chính của Tây Ban Nha, để có thể tự mình hiểu rõ các sách nói về địa dư. Christopher cũng mưu sinh trong một thời gian bằng nghề vẽ bản đồ. Năm 1479, Christopher kết hôn với cô Dona Felipa Perestrello, có cha là một trong các thuyền trưởng của Hoàng Tử Henry. Họ đã có một con trai tên là Diego. Nhờ giai cấp gia đình cao sang của vợ, Christopher có thể giao du với các nhân vật quan trọng và cũng nhờ vợ, ông đã có được bộ sưu tập các bản đồ của người cha vợ thuyền trưởng và sau đó, tìm hiểu thêm các khám phá và kế hoạch của nước Bồ Ðào Nha. Vào năm 1481, Christopher Columbus phục vụ dưới quyền của Vua John II của Bồ Ðào Nha và đã đi tới Elmina, một hải cảng thương mại của nước Bồ trên miền Bờ Biển Vàng (Gold Coast) của châu Phi. Christopher Columbus là người tự học, biết nhìn xa trông rộng lại có nhiều kinh nghiệm hàng hải nhờ các chuyến viễn du. Giống như nhiều nhà trí thức đương thời, Christopher biết rằng trái đất tròn. Do tin tưởng rằng bằng đường biển đi về hướng tây, ông có thể tới được châu Á là một miền đất giàu có. Hơn 200 năm về trước, Marco Polo đã mô tả nước Trung Hoa khiến cho các người châu Âu rất thèm muốn tới được châu Á. Hàng hóa của châu Á nếu vận chuyển bằng đường bộ, sẽ gặp nhiều trắc trở và bị hư hỏng, khiến cho giá thành tăng cao. Như vậy, các con tầu biển có thể chuyên chở nhiều hàng hóa hơn, sẽ khiến cho giá phẩm vật rẻ hơn. Tới lúc này, các thủy thủ Bồ Ðào Nha đã tìm thấy con đường vòng qua phía nam của châu Phi để đi tới Ấn Ðộ. Christopher tin rằng châu Á nằm ở phía tây của châu Âu nhưng vấn đề đặt ra là khoảng cách giữa hai châu này là bao nhiêu. Christopher Columbus đã nghiên cứu các chi tiết về khoảng cách đề cập trong Thánh Kinh, trong cuốn sách du lịch của Marco Polo và trong cuốn "Imago Mundi" (Hình ảnh của Thế Giới) của Hồng Y Pierra d' Ailly xuất bản vào đầu thế kỷ 15, cũng như căn cứ vào các lập luận của một nhà địa dư người Ý kiêm bác sĩ, có tên là Paolo Toscanelli, để đi tới phần kết luận quá lạc quan là nước Trung Hoa chỉ cách châu Âu 3,500 dậm về hướng tây trong khi khoảng cách thực sự là 11,766 dậm. Sau nhiều năm nghiên cứu với các dẫn chứng từ các học giả và từ các người đi biển danh tiếng, Christopher Columbus đã đệ trình kế hoạch thám hiểm của mình lên Vua John II của nước Bồ Ðào Nha vào năm 1484. Một ủy ban của nhà vua đã cứu xét dự án rồi bác bỏ vì lý do khó tin. Trong khi đó, người vợ qua đời, Christopher bèn mang con qua nước Tây Ban Nha, tìm kiếm người tài trợ kế hoạch. Ông gửi con cho các sư huynh tại tu viện La Rabida. Tại nước Tây Ban Nha, Christopher Columbus nhờ một số bạn bè có thế lực đệ trình kế hoạch thám hiểm lên Vua Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella. Mặc dù đang bận tâm về cuộc chiến tranh với người Moors tại Granada, hai vị vua này cũng giao kế hoạch cho một ủy ban cứu xét và trong khi chờ đợi, ông Columbus đã cưới bà Beatriz Enriquez de Harana. Họ có một người con tên là Fernando. Do cứu xét lại kế hoạch của Columbus, Vua John mời nhà thám hiểm trở lại Bồ Ðào Nha nhưng đúng vào lúc này, Bartholomew Dias đã trở về sau khi tìm thấy Mũi Hảo Vọng. Như vậy con đường biển đi tới Ấn Ðộ đã được mở ra và người Bồ Ðào Nha không còn quan tâm tới con đường hướng về phía tây nữa. Trước tin tức này, Columbus đành ở lại Tây Ban Nha. Tháng 1 năm 1492, quân đội Tây Ban Nha đã chiến thắng tại Granada nên Vua Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella đồng ý tài trợ chuyến đi của Columbus. Yếu tố quan trọng thứ nhất trong quyết định này là do vị quan Luis de Santagel, người thủ quỹ Cơ Mật Viện của Nữ Hoàng, đã hứa với nhà vua rằng ông ta sẵn sàng dùng tài sản tư để tài trợ dự án. Yếu tố thứ hai là vì Tây Ban Nha không được chính thức chấp nhận dùng con đường biển qua Tây Phi Châu, khi đó đã do nước Bồ Ðào Nha kiểm soát. Ngoài sự đồng ý tài trợ, hai nhà vua Tây Ban Nha này cũng hứa sẽ ban cho Christopher Columbus tước hiệu Ðô Ðốc của Ðại Dương (Admiral of the Ocean Sea) và Phó Vương của tất cả các hải đảo và lục địa nếu tìm thấy được. Thành phố hải cảng Palos ở phía tây nam của Tây Ban Nha được lệnh cung cấp hai tầu biển dành cho công cuộc thám hiểm, đó là chiếc Nina và chiếc Pinta, đều dài khoảng 70 feet (24 mét). Chiếc tầu chỉ huy với tên hiệu Santa Maria tuy lớn hơn nhưng kém hơn về trang bị buồm, được chính Christopher Columbus điều khiển. Thuyền trưởng và các thủy thủ của hai con tầu kia được tuyển mộ tại hải cảng Palos. Công việc chuẩn bị kéo dài mười tuần lễ. 3/ Chuyến đi đầu tiên của Christopher Columbus. Mờ sáng ngày 3 tháng 8 năm 1492, đoàn thủy thủ tham dự buổi lễ cầu nguyện rồi Columbus bước lên tầu Santa Maria. Cả ba con tầu kéo neo, dương buồm rời hải cảng Palos trước khi mặt trời mọc. Sau 3 ngày ra đi, con tầu Pinta bị mất bộ phận lái, còn cánh buồm tam giác của con tầu Nina cho thấy không thích hợp với công cuộc đi biển. Columbus ra lệnh cho đoàn tầu dừng lại tại quần đảo Canaries để sửa chữa tầu và lấy lương thực mới. Ngày 9 tháng 9, ba con tầu lại ra khơi, gặp gió mậu dịch thổi từ hướng đông bắc rất thuận tiện cho việc đi về hướng tây. Vì thế trong một ngày, đoàn tầu thám hiểm đã vượt qua được 182 dậm, tốc độ trung bình là 8 hải lý (knots), một độ nhanh hàng hải rất đáng kể đối với thời bấy giờ. Trong khi đoàn tầu tiếp tục di chuyển, Christopher Columbus đã ghi lại cuộc hành trình bằng hai cuốn sổ ghi, một cuốn dành riêng cho mình còn cuốn kia cố ý ước lượng khoảng cách ngắn đi để công bố cho các thủy thủ, vì bằng cách này, Columbus hy vọng sẽ tránh cho các thủy thủ không bị sợ hãi vì đã đi quá xa. Tuy thế, thời gian ở trên tầu quá lâu đã làm cho các thủy thủ lo ngại, họ e sợ hướng gió sẽ không đổi chiều để đưa họ trở về bến cũ, rồi thời tiết tốt đẹp, không mưa cũng khiến cho họ e sợ rằng sẽ không có nước uống. Tới ngày 10 tháng 10, tinh thần của thủy thủ bị suy sụp. Sau 30 ngày lênh đênh trên biển cả bao la, các thủy thủ trên con tầu Maria sắp nổi loạn, đã đòi hỏi Christopher Columbus phải quay trở về và vì vậy, Columbus đã hứa với họ rằng sẽ làm việc này nếu trong hai hay ba ngày nữa không nhìn thấy đất liền. Vào ngày 11 tháng 10, tầu Pinta vớt được một mẩu tre, một cây sào, một miếng ván và một cây gậy có lẽ được chặt bằng dao sắc. Tới 2 giờ sáng ngày 12 tháng 10, thủy thủ Rodrigo de Triana trên con tầu Pinta đã la lên: "Ðất liền! Ðất liền!". Columbus bèn ra lệnh cho con tầu Santa Maria tiến tới gần, xác nhận quả là đất liền và cả đoàn tầu chờ đợi ở ngoài khơi cho đến sáng. Sau đó, Christopher Columbus và các thủy thủ đã bước lên bờ và họ là những người châu Âu đầu tiên đặt chân lên quần đảo Caribbean và hòn đảo này là đảo Walting, thuộc Bahama của San Salvador. Columbus cùng các thủy thủ đã quỳ xuống đất, cảm tạ Thượng Ðế đã giúp đỡ họ trong chuyến đi an toàn và thành công, rồi nhận miền đất này thuộc quyền của các Vua Tây Ban Nha. Họ đã gặp thổ dân da đỏ Arawark Taino, một giống người hiền lành và các thổ dân đã chào hỏi đoàn thám hiểm cũng như trao đổi quà tặng. Khi nhìn thấy các vòng vàng nhỏ đeo trên mũi của thổ dân, Christopher Columbus lại càng tin chắc rằng ông đã tới được xứ Ấn Ðộ. Columbus đã ghi trong nhật ký như sau: "tôi định đi nữa để coi xem có thể tìm ra hòn đảo Nhật Bản hay không". Christopher Columbus ra lệnh dương buồm ra khơi và đã dừng lại tại các hòn đảo mà ông đặt tên là Santa Maria de la Conception (bây giờ là đảo Rum Cay), Fernandina (Long Island), và Isabella (Crooked Island). Vào ngày 6-12-1492, đoàn tầu dừng lại tại bờ biển phía bắc của đảo Hispaniola. Tại mọi nơi, Columbus đều hỏi thổ dân xem có thể kiếm ra vàng tại đâu và các thủy thủ đã không tìm thấy một thành phố hay một lâu đài hoàng gia nào, họ chỉ gặp các thổ dân hút thuốc xì gà và đây là các người châu Âu đầu tiên biết tới thuốc lá. Sau khi đo lường kinh độ và vĩ độ, Columbus chỉ biết kết luận rằng ông đã tới được các hòn đảo nằm bên ngoài xứ Cathay. Ba tháng sau ngày nhìn thấy đất liền, Christopher Columbus và đoàn tầu của ông đã đi vòng vo qua các vùng biển xa lạ và khá nguy hiểm là các đảo Bahama, Cuba và Hispaniola. Trên đảo Hispaniola, Columbus phấn khởi khi thấy dân làng đeo nữ trang bằng vàng và cũng đã nhận được một quà tặng là một mặt nạ vàng. Ðoàn tầu biển ba chiếc khi tới Cape Haitien thì chiếc Santa Maria bị đụng đá ngầm nên đáy tầu bị rách và phải bỏ lại. Với khối lượng gỗ của con tầu này, Columbus đã xây dựng một pháo đài nhỏ tại La Navidad. Một số thủy thủ vì bị lôi cuốn bởi các câu chuyện về mỏ vàng, nên đã tình nguyện ở lại trên đảo. Ðây là nhóm dân 39 người định cư đầu tiên tại Tân Thế Giới. Vào ngày 16-1-1493, Christopher Columbus quyết định cho đoàn tầu trở về. Hai con tầu Nina và Pinta chất đầy phẩm vật gồm vàng bạc, các con vẹt có lông màu sắc sặc sỡ, các loại cây cỏ và sinh vật lạ, một số nữ trang và quần áo của thổ dân cùng nhiều thổ dân bị bắt cóc. Do tình cờ, hai con tầu biển này lọt vào vùng biển phía bắc của đảo Bermuda, nơi có gió thổi rất thuận tiện. Sau một tháng hải hành tốt đẹp, tầu gặp bão khi đến gần quần đảo Azores nhưng rồi cuối cùng, con tầu Nina do Columbus chỉ huy cũng tới được hải cảng Lisbon để sửa chữa. Vào ngày 4 tháng 3, Columbus được Vua John đón tiếp tại Lisbon. Cuối cùng, vào ngày 15-3-1493, cả hai con tầu cùng bỏ neo tại hải cảng Palos. Vua và Nữ Hoàng Tây Ban Nha đã đón tiếp Christopher Columbus tại triều đình Barcelona. Columbus đã tặng cho các vua sáu thổ dân, vàng bạc và một số cây cối cùng các con vật lạ. Christopher Columbus được mời ngồi bên phải các vị vua và được ban tước hiệu "Don Cristobal Colon". Ðây là lúc vinh quang nhất của ông. 4/ Các chuyến đi về sau. Christopher Columbus đã báo cáo về các hòn đảo nằm bên ngoài bờ biển của xứ Cathay, một nơi có nhiều vàng bạc và hương liệu, với thổ dân vừa e dè, vừa dễ chịu, rất dễ cải theo đạo Thiên Chúa. Columbus cũng mô tả vẻ đẹp thiên nhiên của núi cao, bãi biển cát trắng, các loại cây gồi đặc thù của vùng nhiệt đới, nhưng phần báo cáo về quý kim thì đã bị ước lượng quá đáng. Sở dĩ ông nói quá về số lượng vàng bạc của địa phương để các nhà vua Tây Ban Nha sẵn lòng tài trợ các chương trình thám hiểm kế tiếp. Cùng với vài thổ dân trình ra làm bằng chứng cụ thể, Christopher Columbus đã mô tả về vài hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi mà ông cho rằng sâu vào bên trong là nước Trung Hoa, đúng như lời Marco Polo đã nói rằng những thổ dân tại các hải đảo này còn man rợ và họ sống như các thú vật. Do vậy, Vua Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella đều đồng ý cử Columbus đi thám hiểm một lần nữa để cố gắng tiếp xúc với triều đình của Ðại Hãn. Từ năm 1455, nước Bồ Ðào Nha đã xin được sắc lệnh của Giáo Hoàng cho độc quyền trên đại dương ở phía đông và phía tây nam. Người Bồ đã dùng quần đảo Canaries làm chuẩn và cho rằng vùng biển từ quần đảo này trải dài xuống phía nam Ðại Tây Dương là của mình. Ðể bảo đảm các quyền lợi tại phía tây, các vua Tây Ban Nha cũng xin Giáo Hoàng đặc quyền thương mại và chinh phục các xứ sở tại phía tây đại dương. Giáo Hoàng thời bấy giờ là Alexander VI, cũng là người Tây Ban Nha và thuộc nhóm Borgia, nên đã lắng nghe các yêu cầu của Vua Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella. Hai nhà vua này đòi đặt một đường ranh dọc 100 hải lý (khoảng 300 dậm) phía tây của quần đào Azores. Phía tây đường ranh này thuộc Tây Ban Nha còn phía đông thuộc Bồ Ðào Nha. Sự phân chia này là do đề nghị của Christopher Columbus khi nhận xét về nơi thay đổi hướng gió, thay đổi hướng từ trường của địa bàn và cũng là nơi có khác lạ về mặt biển. Giáo Hoàng Alexander VI đã chấp thuận đề nghị của Tây Ban Nha bằng Ðạo Luật Inter Caetera. Vua Bồ Ðào Nha bèn phản đối sự phân vùng kể trên, đòi hỏi Tây Ban Nha phải tôn trọng đạo luật Aeterni Regis năm 1481 của Giáo Hoàng khi trước. Sau khi thương thảo, hai nước Bồ Ðào Nha và Tây Ban Nha đã đi tới Hòa Ước Tordesillas ký vào tháng 6 năm 1494, về sau được duyệt bởi Giáo Hoàng, theo đó đường ranh dọc do Tây Ban Nha đề nghị được đặt lùi 270 hải lý về phía tây, tức là ở kinh độ 46 độ 37'W, và cũng vì thế mà sau này miền đất Brasil nằm ở phía đông đường ranh, đã thuộc về Bồ Ðào Nha. Sự phân chia kể trên đã khiến cho 25 năm về sau, khi thám hiểm mỏm cực nam của Nam Mỹ, Ferdinand Magellan đã bị cảnh cáo không nên vi phạm lằn ranh và các giới hạn về lãnh thổ của nhà vua Bồ Ðào Nha. Nhưng khi xẩy ra cuộc cạnh tranh về thám hiểm và khám phá các vùng đất mới, không một thế lực nào khiến cho Hòa Ước Tordesillas hay Ðạo Luật Inter Caetera được các quốc gia khác tôn trọng và Vua Francis của nước Pháp đã nói rằng muốn được coi "di chúc" của ông Adam chia Tân Thế Giới cho Hoàng Ðế Tây Ban Nha Charles V và Vua Bồ Ðào Nha. Rồi tới giữa thế kỷ 16, ông bộ trưởng William Cecil của Nữ Hoàng Anh Elizabeth đã cảnh cáo vị đại sứ Tây Ban Nha rằng "Giáo Hoàng không có quyền chia thế giới rồi phân phối các vương quốc cho những người được ưa thích". Thế nhưng vào năm 1493, các quyền lợi của Tây Ban Nha đã được coi trọng và việc phân vùng ảnh hưởng đã ổn định. Christopher Columbus đã ở trên cực điểm của danh vọng. Trong 10 năm, nhà hàng hải này thường qua lại giữa Tây Ban Nha và vùng đất mới mà ông cho rằng sau đó là nước Trung Hoa. Vào tháng 9 năm 1493, Christopher Columbus ra đi lần thứ hai và sau 21 ngày thuận gió, nhà hàng hải tới được phía bắc của quần đảo Windward mà ông đặt tên là Dominica, theo tiếng Ý là ngày Chủ Nhật, ngày nhìn thấy đảo. Sau đó Columbus đi theo đường vòng cung của các đảo Leeward tới tận Puerto Rico và đặt tên cho các đảo lần lượt là Santa Maria de Guadalupe, Santa Maria de Monserrate (Montserrat), Santa Cruz (nay là đảo St. Croix). Khi đến đảo Hispaniola để thăm lại khu định cư Navidad gần Cape Haitien, Columbus thấy rằng nơi này đã bị đốt trụi, 39 thủ thủ khi xưa đã bị giết chết. Columbus liền lập ra một nơi định cư thứ hai trên đảo Hispaniola. Chính trên các hải đảo miền Trung Mỹ này, các thủy thủ Tây Ban Nha đã được ăn khoai lang (yam), gặp loại cây bông gòn, các thứ cây trái mới lạ. Christopher Columbus cũng khám phá ra đảo Jamaica. Vào mùa xuân năm 1496, đoàn tầu biển của Christopher Columbus trở về Tây Ban Nha và nhà hàng hải vẫn thuyết phục Vua Tây Ban Nha rằng xứ Trung Hoa sắp ở trong tầm tay thám hiểm. Tới tháng 5 năm 1498, Christopher Columbus lại rời Tây Ban Nha, ra đi lần thứ ba, lần này hướng về phía nam nhiều hơn. Trong kỳ thám hiểm này, nhà hàng hải đã tới đảo Trinidad và đây là một khám phá địa dư mới. Vài ngày sau, đoàn thám hiểm đặt chân lên đồng bằng Orinoco rồi Columbus khảo sát Vịnh Paria và nhận ra rằng đây phải là một lục địa rất lớn: Christopher Columbus đã tới vùng bờ biển phía bắc của Nam Mỹ. Trong chuyến đi lần thứ tư vào mùa hè năm 1502, Christopher Columbus đã tới Honduras mà ông tưởng lầm là bán đảo Mã Lai. Ðể tranh đua với Vasco da Gama của Bồ Ðào Nha khi đó đã tìm thấy Ấn Ðộ, nhà hàng hải Columbus cho tầu đi về phía nam, tới Nicaragua và Costa Rica. Trong cuộc thám hiểm lần thứ tư này, Columbus đã gặp thất bại trong việc tìm đường qua châu Á, trong các công cuộc định cư trên đảo Hispaniola và tại các nơi khác. Christopher Columbus đã chết vào ngày 20 tháng 5 năm 1506, vào tuổi 55, tại Valladolid, trong cảnh nghèo khó. Di hài của nhà hàng hải lừng danh này được chuyển tới an táng tại phần đất của một tu viện ở Seville vào năm 1513, nơi đã chôn cất người con Diego của ông. Christopher Columbus là nhà hàng hải đã băng qua đại dương, tới các vùng biển hoàn toàn xa lạ và nhờ bản năng tài giỏi, ông đã điều khiển đoàn tầu vượt qua được những miền nước sâu, nước cạn, cũng như các vùng đá ngầm và các đảo san hô để tới mục tiêu đúng lúc. Vì vậy người đời sau vẫn coi ông Columbus là một trong các nhà hàng hải tài ba nhất của thời đại đó. Ý tưởng táo bạo đi về hướng tây để tới châu Á cũng khiến cho Christopher Columbus được coi là một con người cương quyết theo đuổi lý thuyết do mình đặt ra. Việc khám phá ra Tân Thế Giới của Christopher Columbus đã khiến cho ông được xếp hạng với các nhân vật gây ảnh hưởng lớn lao nhất trong lịch sử của Nhân Loại, chỉ sau các vị sáng lập ra các tôn giáo của Thế Giới./.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 19, 2011 3:21:57 GMT 9
René DescartesVietsciences- Phạm Văn Tuấn René Descartes (1596-1650) nhà đại Bác học Pháp 1/ Thuở thiếu thời. Réné Descartes chào đời tại La Haye thuộc tỉnh Touraine nước Pháp, ngày 31 tháng 3 năm 1596 trong một gia đình quý tộc. Cậu Réné này là con thứ ba của ông Joachim Descartes, cố vấn Nghị Viện Rennes và bà Jeanne Brochard. Cậu trải qua thời thơ ấu mà không có đủ tình thương của mẹ vì vào năm cậu lên một tuổi, mẹ cậu qua đời. Ông Joachim giao cậu cho người vú nuôi dưỡng nên về sau, Descartes vẫn còn quý mến người mẹ nuôi này. Mẹ cậu đã chết vì bệnh phổi nên cậu Réné cũng hay ho khan và làn da xanh lợt của cậu khiến cho các y sĩ đoán rằng cậu cũng chẳng sống lâu. Năm 1600, ông Joachim kết hôn với cô Morin và có thêm với bà vợ này 4 người con, nhưng trong số 7 đứa trẻ, ông nhận thấy chỉ có Descartes là thông minh nhất. Tuy nhiên tính tình của cậu trai này lại không hợp với ông và ông thường phàn nàn về bản tính ương ương gàn gàn của cậu. Ông lại bông đùa mà gọi cậu Réné là "triết gia" và không ngờ rằng sau này, tư tưởng của cậu sẽ khởi đầu một ngành triết học mới. Vì không thường sống chung trong gia đình nên cậu Réné bị mọi người quên lãng, cha cậu gần như không thừa nhận đứa con thiệt thòi này còn các anh em khác lại hay dèm pha và tỏ ra không có cảm tình với cậu. Vào thời còn niên thiếu mà đã gặp phải nhiều cay đắng nên về sau, Descartes đã lẩn trốn các người thân yêu mà không hối tiếc. Hoàn cảnh này phải chăng đã khiến cho Descartes trở nên một người sống cô đơn và đau khổ. Năm lên 8 tuổi, Descartes được theo học trường La Flèche do các cha Dòng Tên đảm nhiệm. Trường học này được Vua Henri IV lập ra, mục đích để dạy dỗ con cháu các gia đình quý tộc. Từ khi ngồi vào ghế nhà trường, Descartes đã tỏ ra là một học sinh gương mẫu. Cậu được học về Văn Chương, Vật Lý, Luận Lý, Siêu Hình v.v. Tất cả các môn học này đều khó hiểu vì chứa đựng nhiều học thuyết tối nghĩa và nhiều tư tưởng cao siêu. Muốn hiểu thấu tất cả, người học sinh phải có một trí thông minh đáng kể. Hơn nữa, phương pháp giáo dục lại cổ hủ vì chỉ gồm các cuộc tranh luận về những bài trích giảng từ các tác phẩm của Aristotle. Các học sinh tranh luận với nhau bất kể nơi nào, lúc nào: ở trong lớp, khi đi dạo, vào giờ ra chơi... Vì cách giảng dạy này, Descartes đã yêu thích môn Toán Học hơn các môn học khác. Tại trường Dòng Tên, có vài vị tu sĩ đã là môn đệ về Toán Học của Clavius và Stifel là các nhà toán học danh tiếng thời đó. Nhưng ngành Toán Học vào thời kỳ này hãy còn sơ sai và chỉ được áp dụng vào vài kỹ thuật đơn giản. Triết Học là môn học chính của nhà trường nên chỉ có một số ít học sinh theo đuổi môn Toán Học. Descartes học hành rất tiến bộ về cả hai môn Toán Học và Triết Học khiến cho các cha Dòng Tên hết sức khen ngợi. Khi còn niên thiếu, Descartes đã tỏ ra là người hiếu học, ưa suy tưởng. Thể chất của cậu rất yếu đuối, cậu không làm việc được nhiều mà phải nằm nghỉ, nhưng nhờ ưu điểm là học hành xuất sắc, các cha Dòng Tên đã miễn cho cậu không phải làm các công việc phụ. Cậu được phép tỉnh dậy muộn vào buổi sáng trong khi các bạn khác phải thức dậy đúng giờ và làm việc cực nhọc hơn. Sự dậy muộn đã khiến cho Descartes khỏe mạnh hơn nhưng điều có lợi nhất đối với cậu là cậu có đủ thời giờ xây dựng một phương pháp suy tưởng. Khi cậu bừng tỉnh, mặt trời đã lên cao, phòng ngủ trong tu viện yên lặng như tờ vì các bạn khác đã ra đi từ sớm. Chính tại nơi cô tịch, cậu Réné đã suy nghĩ lan man đến mọi sự vật, cậu đã đặt câu hỏi, suy luận rồi tự trả lời, tất cả các điều thắc mắc về sự vật đã diễn ra trong khối óc của cậu bé mảnh mai này. Trường hợp sức khỏe mỏng manh của Descartes làm nhiều người liên tưởng tới thể chất của Newton, của Pascal và nhiều nhà bác học khác và người ta tự hỏi phải chăng ở trong cái cơ thể mảnh mai đó, khả năng tư tưởng của con người đã được phát triển hơn? 2/ Thời kỳ trưởng thành. Năm 1614, Descartes rời trường La Flèche lên sống tại thành phố Paris. Khi đó chàng thanh niên 18 tuổi này đã thông thạo tiếng La Tinh và Toán Học nhưng chàng không khỏi cảm thấy mình còn nhiều nhầm lẫn và nghi ngờ về các điều học hỏi. Vài tháng sau, Descartes đến ghi tên vào Đại Học Luật Khoa tại Poitiers và đậu ra với văn bằng Cử Nhân. Sự học Luật đã không mang lại cho chàng thanh niên này nhiều hứng thú vì Triết Học vẫn là môn học chàng ưa thích. Chàng cho rằng các cuộc du lịch sẽ giúp chàng gặp gỡ được các nhân vật danh tiếng để học hỏi thêm và cũng là dịp bổ túc về hiểu biết Triết Lý. Descartes đã tìm lối thoát bằng cách ghi tên vào quân đội. Đây quả là một lối du lịch đặc biệt chỉ có vào thế kỷ 17 và chỉ hợp với hoàn cảnh của chàng thanh niên đầy nghị lực này. Năm 1616, Descartes gia nhập quân đội của Hoàng Tử Maurice de Nassau để chống nhau với quân đội cơ đốc của Tây Ban Nha. Hòa bình vãn hồi, Descartes tới Breda nước Hòa Lan, ghi tên vào Hàn Lâm Viện Quân Sự. Tại nơi này, chàng lãnh hội thêm được các hiểu biết mới mẻ về Toán Học. Một hôm, Descartes thấy một số người xúm lại xem một tờ yết thị viết bằng tiếng Flamand. Chàng không biết ngôn ngữ này nên nhờ một người đứng gần đó phiên dịch. Đó là một đề bài hình học của một người ẩn danh, nhờ các nhà toán học trong vùng giải đáp. Người mà Descartes nhờ dịch đề bài là ông Isaac Beeckman, hiệu trưởng trường Dort và cũng là một nhà toán học danh tiếng. Ông ta thấy bài toán trên khá khó và lấy làm ngạc nhiên khi nghe Descartes hứa sẽ giải được. Thực vậy, một người trong bộ quân phục vào thời đó thường chỉ có một trình độ văn hóa trung bình nên chưa chắc gì có đủ khả năng theo kịp các kiến thức mới lạ về Toán Học. Sự ngạc nhiên của ông Beeckman lại càng tăng thêm vì sáng hôm sau, Descartes đã tới tận nhà ông và trao bài giải đáp. Từ đó hai người trở nên đôi bạn thân thiết và về sau này, dù có ở nơi xa xôi, Descartes vẫn viết thư thăm hỏi và tranh luận cùng ông Beeckman. Vào tháng 4 năm 1619, Descartes rời Breda đi Đan Mạch rồi tới nước Đức và xin vào quân đội của Hầu Tước Maximilien de Bavière, khi đó đang đánh nhau với Vua xứ Bohême. Descartes đã dự nhiều trận mạc nhưng chàng không bao giờ ngừng học hỏi về Siêu Hình và Toán Học và nếu có trường hợp nào cần áp dụng kiến thức Toán Học, chàng đều đem ra thực hành ngay. Mùa đông năm 1620, Descartes đóng quân gần thành Ulm và chính vào đêm hôm mồng 10 tháng 11 năm đó, khi ngồi bên lò sưởi, chàng thấy tinh thần minh mẫn lạ thường: chàng đã tìm thấy được nền tảng của "một Khoa Học đáng khâm phục", đó là một phương pháp mang tính cách rất tổng quát của Khoa Học. Cuộc sống quân nhân tuy giúp chàng du lịch được nhiều nơi nhưng cũng không khỏi khiến chàng chứng kiến nhiều điều ngang trái và bất công của đời người. Cũng vì những điều này mà Descartes chán nghề gươm súng. Chàng từ giã cuộc sống quân ngũ và bước vào cuộc đời của một lữ khách tự do năm 1621. Sau khi đi lang thang khắp các miền phương bắc nước Đức, Descartes xuống thuyền sang xứ Hòa Lan. Chàng vẫn còn giữ bản tính trầm ngâm và lời nói nhỏ nhẹ của thời niên thiếu nên khi thấy chàng trong bộ y phục bảnh bao với thanh kiếm đeo bên hông và tên hầu người Pháp, nhiều người đã cho rằng đây là một công tử non nớt. Vì vậy khi thuyền lênh đênh giữa biển cả, các thủy thủ Hòa Lan tưởng chàng là người ngoại quốc, không biết tiếng nước họ nên chúng không ngần ngại bàn với nhau cùng giết chàng rồi ném xác xuống biển để cướp lấy tiền bạc. Tức thì, Descartes đứng phắt dậy và chế ngự nhóm thủy thủ âm mưu bằng những lời nói đanh thép, khiến cho cả bọn phải sợ hãi và phải đưa chàng lên bờ bình yên. Descartes thăm viếng xứ Hòa Lan xong, trở về nước Pháp vào năm 1622 rồi sang Thụy Sĩ và Ý Đại Lợi. Vào thời gian này, nhà đại bác học Galilei mới đề cập tới một môn phái mới của Triết Học : ngành Triết Học Thực Nghiệm. Các thí nghiệm và lý thuyết của Galilei đã khiến cho ông trở thành một nhân vật danh tiếng trong giới Khoa Học nhưng Descartes khi sang nước Ý lại không được nghe danh và gặp gỡ nhà đại bác học này. 3/ Thời kỳ nghiên cứu Khoa Học. Trở về nước Pháp, Descartes dự tính sống tại quê nhà nhưng Paris không phải là nơi ông có thể làm việc hữu hiệu bởi vì nơi này quá náo nhiệt và trong các buổi bàn luận về các vấn đề khoa học, không khỏi có các điều bắt buộc. Cho nên sau một thời gian ngắn, ông quyết định đi tìm một nơi yên tĩnh để suy tưởng và nghiên cứu các vấn đề Triết Học. Vốn bản tính ưa thích cảnh cô đơn và cuộc sống ẩn dật, xa lánh các đô thị náo nhiệt, ông cho rằng chỉ có xứ Hòa Lan là thích hợp với tâm hồn của ông. Vì vậy Descartes bán một phần gia sản và sang xứ sở đó vào năm 1629. Chính tại Hòa Lan, Descartes cảm thấy thái bình và tự do trong tư tưởng. Ông không ngừng nghiên cứu về Siêu Hình, Cơ Thể Học, Hóa Học, Thiên Văn, Vật Lý và Toán Học. Ông tiếp tục cư ngụ tại nơi này cho tới năm 1649. Tại xứ Hòa Lan ngày, người dân rất ưa hoạt động và chỉ chú tâm vào công việc của mình hơn là dòm ngó tới các chuyện của người khác. Mặc dù sống biệt lập như trên một bãi sa mạc hẻo lánh nhất, Descartes vẫn luôn luôn liên lạc với các nhà bác học đương thời bằng thư từ, do sự trung gian của linh mục Mersenne, một nhà bác học tại Paris, rồi mãi về sau bằng các lần trở về nước Pháp. Nhiều nhà toán học danh tiếng như Fermat, Roberval, Pascal, Huygens v.v. đã trao đổi với Descartes các bức thư trong đó chứa đựng rất nhiều điều tranh luận gắt gao. Năm 1633, Descartes viết xong cuốn "Khảo Sát về Hệ Thống Thế Giới" (Traité du Système du Monde) nhưng ông đã bỏ đi khi được tin nhà đại bác học Galilei bị kết án vì phổ biến các tư tưởng mới lạ về Thái Dương Hệ. Phải chăng Descartes cũng e sợ phạm vào các điều cấm đoán đương thời? Năm 1637, Descartes cho xuất bản cuốn "Phương Pháp Luận" (Discours de la Méthode), viết bằng tiếng Pháp có phụ thêm phần khảo sát về Hình Học và Quang Học. Nhờ cuốn sách này, mọi người có được một ý niệm về phương pháp kiểm chứng các điều suy luận. Tuy nhiên theo Descartes, cuốn sách này dùng để thăm dò dư luận. Ngoài ra, ông lại tìm cách thay thế các ký hiệu Toán Học phiền phức cũ bằng các ký hiệu mới giản dị hơn. Rồi các định luật về sự khúc xạ ánh sáng và những khám phá về môn Hình Học của ông đã là những điều hiểu biết tân kỳ của thời đại đó. Cuốn "Suy Tưởng về các Vấn Đề Siêu Hình" (Meditations de Prima Philosophiae) của ông được xuất bản bằng tiếng La Tinh vào năm 1641 và năm sau, được Hầu Tước De Luynes dịch sang tiếng Pháp. Lý thuyết mới về Triết Học này của Descartes đã làm cho phái theo học thuyết Aristotle đứng lên phản kháng. Các cha Dòng Tên, những vị thầy cũ của Descartes, đã viết báo để bài bác thứ tư tưởng quá mới lạ này. Năm 1644, Descartes lại cho xuất bản cuốn "Nguyên Lý Triết Học" (Principia Philosophiae) viết bằng tiếng La Tinh là ngôn ngữ khoa học đương thời. Cuốn sách này chia làm 4 phần : phần thứ nhất đề cập tới các vấn đề Siêu Hình, trình bày các nguyên tắc của sự hiểu biết của con người. Sang phần sau, Descartes đã dùng không gian, thời gian, trạng thái động và tĩnh để cắt nghĩa về thành phần cấu tạo của sự vật. Phần thứ ba và thứ tư dành cho lý thuyết về Vũ Trụ. Theo ông, trong Vũ Trụ có các cơn lốc do các vật chất rất tế nhị cấu tạo nên. Mặt trời và các vì sao là các trung tâm của các cơn lốc này. Khi cuốn sách sắp được xuất bản, Descartes hy vọng rằng cha Mesland sẽ giảng dạy học thuyết của ông tại Paris nhưng sự thật trái hẳn lại: cha Mesland đã bị đổi sang Canada vì giao du thân thiết với Descartes! Nếu tại nước Pháp, tác phẩm kể trên của Descartes bị phản kháng thì tại Hòa Lan, nó cũng chẳng được mọi người tán thưởng. Một cuộc tranh luận dữ dội đã diễn ra tại Hàn Lâm Viện Utretch giữa nhà thần học Gilbert Voetius và môn đệ của Descartes là Regius. Khi cuộc tranh chấp trở nên quá gay go, Thượng Nghị Viện Utretch phải can thiệp vào và cấm Regius không được giảng dạy lý thuyết mới đó. Rồi đến lượt Đại Học Đường Leyde tố cáo Descartes đã nhạo báng cả Thần Thánh, đến nỗi Đại Sứ Pháp phải đích thân bênh vực nhà bác học. Xứ Hòa Lan lúc này không còn là nơi cho phép Descartes suy tưởng trong Tự Do và Thái Bình nữa, không còn là nơi an lạc để tìm thấy Chân-Thiện-Mỹ nữa . . . ông đã thay đổi chỗ ở 3 lần mà không tìm ra được nơi nào vừa ý. Descartes đành phải trở về Pháp. Tuy nhiên thành phố Paris vẫn không hợp với ông. Tác phẩm cuối cùng được xuất bản lúc sinh thời của Descartes là cuốn "Xúc Cảm của Linh Hồn" (Les Passions de l' Âme). Đầu năm 1649, Nữ Hoàng Marie Christine nước Thụy Điển gửi giấy khẩn khoản mời nhà bác học Descartes sang Stockholm. Ông đã do dự nhiều lần song nghĩ rằng ảnh hưởng của Nữ Hoàng có thể giúp cho các tác phẩm của ông được phổ biến dễ dàng hơn. Vì vậy cuối cùng Descartes đã nhận lời rồi vào tháng 10 năm đó, ông tới Thụy Điển và được đón tiếp rất trọng thể. Sống tại triều đình Thụy Điển và tuy được nhà Vua quý trọng nhưng Descartes vẫn cảm thấy rằng nếp sống vương giả không thích hợp với ông. Tuy mời ông giảng dạy về Triết Học song Nữ Hoàng thực ra chỉ muốn có nhiều danh nhân sống nơi triều đình của mình, rồi nhà Vua lại để tâm tới Văn Phạm hơn là Triết Học, điều này làm cho Descartes chán nản. Hơn nữa khí hậu tại nơi đây quá lạnh lẽo, tuyết phủ quanh năm, cảnh vật chỉ gồm toàn một màu trắng. Ông là người có thể chất mỏng manh thì làm sao cảm thấy dễ chịu tại nơi đây. Bản tính hay dậy muộn của ông lại càng làm cho ông bị mất tự do khi mỗi buổi sáng, ông phải tới thư viện của nhà Vua vào lúc 5 giờ. Ông đã cho biết cảm tưởng của mình khi sống tại nơi cung điện này như sau: "Sống tại nơi này, tôi tưởng rằng tư tưởng của con người rắn đặc lại như nước đóng thành băng. . . Ý muốn quay về nơi cô tịch của tôi càng ngày càng tăng thêm và tôi chỉ ao ước có được sự yên tĩnh nghỉ ngơi. . .". Với nữ hoàng Kristina Hòa Ước Westphalie kết thúc cuộc Chiến Tranh 30 Năm. Nhân dịp này, Nữ Hoàng Thụy Điển tổ chức một dạ tiệc có khiêu vũ và trong cuộc vui, nhà Vua van nài Descartes đặt lời thơ cho màn dạ vũ, ông đành nhận lời. Việc này làm ông liên tưởng tới nhà Đại Hiền Triết Socrates chỉ làm thơ khi sắp chết. Vào một buổi sáng ngày cuối tháng giêng năm 1650, Descartes tới cung điện của Nữ Hoàng và bị cảm lạnh. Vài ngày sau, chứng sưng phổi đã hành hạ ông và Descartes từ trần ngày 11 tháng 2 năm đó, thọ 54 tuổi. Nữ Hoàng Christine muốn chôn ông trong nghĩa trang của các gia đình quý tộc bậc nhất nước Thụy Điển nhưng Bélin, một cận thần, đã vì lòng cuồng tín mà dèm pha với nhà Vua và đề nghị chôn Descartes tại nghĩa địa dành cho các người ngoại quốc, các trẻ mồ côi và nhất là dành cho các người không theo đạo của xứ Thụy Điển. Có lẽ cũng do Bélin sắp đặt đám tang đến nỗi quang cảnh buổi lễ an táng thật là buồn thảm: người ta chỉ thấy có mặt vài nhân viên của Tòa Đại Sứ Pháp. Năm 1667, nhờ sự can thiệp của vị Đại Sứ Pháp, di hài của Descartes được mang về chôn cất trọng thể tại nhà thờ Sainte Genèvière du Mont. Đến năm 1799, theo lệnh của chính phủ Pháp, nắm xương tàn của nhà đại bác học Descartes được đặt tại Viện Bảo Tàng Các Danh Nhân Pháp (Musée des Monuments Français) là nơi dành riêng cho các nhân vật đã mang lại Vinh Quang cho nước Pháp. Cuối cùng vào năm 1819, Thánh Đường Saint Germain des Prés mới là nơi an nghỉ vĩnh viễn của vị thiên tài bất hủ. Réné Descartes đã sống trong cảnh độc thân và cô quạnh nhưng trí tuệ của ông lúc nào cũng say đắm trong sự tìm hiểu. Ông là người không màng danh lợi nhưng danh vọng đã đến với ông trong nhiều thế kỷ. Cách áp dụng môn Đại Số vào Hình Học của ông trong tác phẩm "Hình Học" (Geometry, 1637) đã mở đầu cho môn "Hình Học Giải Tích" và các cách suy luận về Phương Pháp (methodology) và về Triết Học (philosophy) trong tác phẩm "Phương Pháp Luận" đã là những tư tưởng mới lạ, chính xác mà các triết gia sau này chỉ cần bổ túc cho hoàn hảo hơn
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 29, 2011 2:12:35 GMT 9
Marco PoloPhạm Văn Tuấn Marco Polo (1254 - 1324) nhà thám hiểm Châu Á lừng danh Trong thời Trung Cổ, không một người châu Âu nào đã đi du lịch qua phía đông quá xa như Marco Polo và đã mang về các tin tức của một xứ sở xa lạ là nước Trung Hoa. Cuộc viễn du của Marco Polo đã đóng góp vào sự hiểu biết của người tây phương về châu Á, mở ra các đối thoại và mậu dịch với châu Á, giúp công vào việc làm giầu cho xứ Venice cùng các thành phố khác của nước Ý nhờ đó Thời Phục Hưng đã phát triển. Marco Polo không phải là người châu Âu đầu tiên tới được Bắc Kinh nhưng là người đầu tiên mô tả từng chi tiết về các cung điện, lối sống và triều đình của Đại Hãn nhà Nguyên tại Bắc Kinh, người đầu tiên nói về các miền đất Java, Sumatra, Thái Lan và Miến Điện. Sự giàu có của nước Trung Hoa vào thế kỷ 14 đã là điều nghi ngờ và mơ ước của các người tây phương, họ hỏi làm sao tới được miền đất trù phú đó, nếu không bằng đường bộ thì bằng đường biển. Marco Polo đã trải qua 24 năm tại một thế giới xa lạ và còn bí ẩn đối với người châu Âu, sự bí ẩn giống như của các hành tinh đối với chúng ta ngày nay. Câu chuyện kể của Marco Polo về nước Trung Hoa được coi là một loại huyền thoại và trong 200 năm, cuốn sách “Mô tả về Thế Giới” của ông đã là nguồn tin tức chính về một xứ phương đông chưa được biết tới. 1/ Chuyến đi buôn của người cha, Nicolo Polo. Vào thế kỷ 13, châu Âu đã trải qua Thời Kỳ Đen Tối (the Dark Ages) và cô lập, chuyển sang giai đoạn phát triển về thương mại và chiến tranh với vùng Cận Đông. Dân chúng của châu Âu gia tăng, các thành phố bắt đầu mở rộng khiến cho có nhu cầu về hàng hóa. Vào thời đại đó, các nhà quý tộc thường khinh rẻ ngành buôn bán nên đã xuất hiện một tầng lớp trung lưu gồm các thương nhân tại một số thành phố lớn nhỏ. Trong các địa điểm đông dân cư đang phát triển, không nơi nào thích hợp với công việc mậu dịch hơn thành phố Venice của nước Ý. Đây là nơi lý tưởng, nằm trên biển Adriatic và hướng về phương Đông. Năm 1254, ông Nicolo Polo cùng người em trai tên là Maffeo, là hai thương nhân về nữ trang, đã thực hiện một chuyến đi xa, tới thành phố Constantinople, rồi cũng do công việc thương mại, hai người này đã đi khá xa về phía đông, tới tận Bukhara, sâu vào bên trong miền đất thời bấy giờ thuộc quyền kiểm soát của quân Mông Cổ. Người Mông Cổ đã từ phần đất phía bắc của nước Trung Hoa, tràn qua đánh chiếm châu Âu và lập nên các lãnh thổ mới do các Khả Hãn cai trị. Tại nước Nga, người Mông Cổ được gọi là rợ Thát Đát (Tartars). Hai anh em thương nhân này đã bị mắc kẹt trong xứ của người Thát Đát trong 3 năm vì các trận chiến quanh vùng, vì các bọn cướp đe dọa đường về. Cuối cùng, nhân một chuyến về thăm triều đình Đại Hãn tại Trung Hoa của một vương hầu Thát Đát, hai anh em Polo được mời đi theo. Đây là cơ hội rời khỏi miền Bukhara một cách an toàn, nên hai thương nhân này đã nhận lời theo đoàn sứ quân ra đi. Năm 1265, sau hơn một năm trời gian nan trên đường trường, hai anh em Nicolo và Maffeo đã tới được Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) và được Đại Hãn Hốt Tất Liệt (Kublai Khan) đón tiếp niềm nở. Đại Hãn là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, vị hoàng đế đã lập nên đế quốc Mông Cổ rất rộng lớn, trải dài từ miền bắc châu Á tới tận các phần đất phía đông của châu Âu. 20 năm về trước, đã có vài người châu Âu là các thương nhân hay các tu sĩ tới được nước Trung Hoa và xứ Mông Cổ, nhưng Nicolo và Maffeo là hai người châu Âu đầu tiên được trình diện trước triều đình của Đại Hãn. Hai thương nhân miền Venice khi tới Yên Kinh, đã rất ngạc nhiên về nhiều điều mới lạ. Đại Hãn Hốt Tất Liệt Kinh đô này có các bức tường thành cao bao vây chung quanh và phần bên trong tường thành được phân chia thành nhiều vùng với lâu đài hoàng gia ở giữa. Anh em nhà Polo cũng rất cảm kích trước lòng hiếu khách của Đại Hãn và sự xuất hiện của những người xa lạ, từ một xứ chưa được biết tới, đã khiến cho Đại Hãn Hốt Tất Liệt phải quan tâm. Đại Hãn cũng thắc mắc về đạo Thiên Chúa nên khi anh em Polo rời khỏi Trung Hoa, nhà vua đã yêu cầu họ mang một bức thư gửi cho Giáo Hoàng, yêu cầu phái đến triều đình Mông Cổ 100 tu sĩ học giả. Đại Hãn cũng chân thành mời anh em Polo trở lại Trung Hoa đồng thời cấp cho họ một giấy phép có đóng mộc vàng, để bảo đảm an toàn lúc đi đường. Năm 1269, hai anh em Polo đã về tới Venice thì được biết bà vợ của Nicolo đã qua đời sau lần sinh hạ một cậu con trai đặt tên là Marco Polo và cậu này được một người trong gia đình nuôi dưỡng. Lúc này, cậu Marco Polo đã là một thiếu niên 15 tuổi, lanh lẹ, tháo vát, thường lân la chơi đùa tại bến tầu và quen biết với khá nhiều thủy thủ. 2/ Chuyến đi xa của Marco Polo. Hai năm sau ngày trở về, ông Nicolo lại cùng với người em trai xuống tầu từ Venice và trong lần viễn du này, có dẫn theo cậu con trai Marco. Khi đến Jerusalem thì vị Giáo Hoàng quen biết khi trước đã qua đời trong khi đó các hồng y chưa bầu ra được một Giáo Hoàng mới. Anh em nhà Polo đành quyết định vẫn ra đi với 2 tu sĩ và một số dầu thánh (holy oil). Đường đi gian truân đã làm cho 2 tu sĩ nản lòng rồi vì lo sợ cho sự an toàn, họ đã giả vờ bệnh nặng và trở về, còn các thương nhân Venice vẫn tiếp tục lên đường. Marco Polo lúc này là cậu thanh niên yêu thích thiên nhiên, có đầu óc thực tế, biết nhận xét những điều xa lạ, nên đã giữ sổ nhật ký, ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc hành trình. Rời Jerusalem bằng thuyền, hai thương nhân tới thị trấn Acre rồi thị trấn Ayas. Tại nơi này họ lên bờ, đi theo đoàn lạc đà. Khi hai thương nhân đã rời khỏi Jerusalem thì được tin Theobald of Piacenza được bầu làm Giáo Hoàng Gregori X. Để tránh nơi giao tranh giữa hai lực lượng Thập Tự Chinh (Crusaders) và các quân Hồi Giáo, họ đã đi về phía bắc, hướng tới Hắc Hải rồi vòng qua hướng đông, tới gần núi Ararat, nơi mà nhiều người tin rằng con thuyền lớn của ông Noah đã được kéo lên bờ. Đoàn lữ hành cũng đã đi qua các ngọn đồi của miền nam xứ Georgia thuộc nước Nga ngày nay. Các vùng đất này đều quen thuộc với các thương nhân châu Aâu nhưng riêng với Marco Polo, cậu rất ngạc nhiên trước các loài chim lạ, loại đá muối, các loại hồng ngọc và các giếng dầu. Loại dầu này không dùng để ăn mà được người dân địa phương chữa các bệnh ngoài da cho người và lạc đà, và dùng để đốt đèn vào ban đêm. Khi vào xứ Iran, anh em nhà Polo đã dừng chân tại Saba, nơi mà theo chuyện kể, 3 tu sĩ Magi đã mang quà tặng, theo chỉ hướng của các vì sao tới thăm viếng Chúa Hài Đồng tại Bethlehem. Tới lúc này, đoàn thương nhân đã đi quá xa, tới vùng xa lạ và nguy hiểm, đi rất chậm với tốc độ từ 10 tới 20 dậm một ngày, qua các thung lũng lạnh lẽo, các xa mạc nóng bỏng và toàn sỏi đá, không còn thấy các cây cối xanh tươi. Khi đến thị trấn Kerman, anh em Polo cho rằng nên dùng đường biển để tới Trung Hoa, họ đã đổi hướng về phía nam, tiến tới hải cảng Hormuz nằm trong vịnh Ba Tư. Trên đường đi, họ đã thấy các làng mạc ẩn hiện sau các bức tường thành cao đắp bằng đất để ngăn cản loại quân chuyên cướp bóc Karaunas. Bỗng nhiên, bầu trời tối sầm lại và trong trận bão cát, đoàn thương nhân bị quân cướp kể trên ập tới đánh phá. Marco Polo đã kể lại rằng người Karaunas biết dùng phép phù thủy khiến cho trời quang trở thành tối tăm, mọi người khó nhìn thấy mặt nhau trừ khi đứng rất gần nhau. Trong trận đánh cướp này, cha và chú Polo cũng như Marco đã thoát nạn nhờ may mắn, một số người cùng đi đường bị bắt, nhiều kẻ bị giết. Cuối cùng, đoàn lữ hành cũng tới được hải cảng Hormuz. Tại nơi này, khi nhìn thấy các con thuyền đi biển mỏng manh, may bằng sợi dây dừa, các kẻ viễn du đã phải đổi ý, quay trở lại thị trấn Kerman, theo Con Đường Tơ Lụa hướng lên phía bắc rồi đi về phía đông, tới thành phố Balkh tại mạn bắc của xứ Afghanistan. Balkh 50 năm về trước là một thành phố với các lâu đài tráng lệ xây bằng đá hoa trắng, là kinh đô của xứ Bactria và cũng chính tại nơi đây, Đại Đế Alexander đã cưới công chúa của vua Ba Tư Davis. Nhưng vào lúc này, Marco Polo thấy thành phố đã bị cháy rụi, trở thành bình địa, tàn phá do đoàn quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn. Sau khi rời khỏi Balkh, gia đình Polo đã đi về hướng Badakhshan là một tỉnh nằm về phía bắc của rặng núi Hindu Kush và cũng là nơi có nhiều mỏ đá màu xanh da trời, gọi tên là “lapis lazuli”. Marco Polo cũng ghi nhận rằng nơi này sản xuất ra các loại hồng ngọc rất quý và đây cũng là nơi có khí hậu rất tốt, sớm làm phục hồi sức khỏe của bệnh nhân. Từ Badakhshan, đoàn lữ hành đi qua cao nguyên Pamir, một vùng mà Marco Polo đã thấy có rất nhiều loại hươu sừng rất dài. Rồi đoàn người leo lên trên một cao nguyên 12,000 bộ, được gọi là “Mái nhà của thế giới” (the Roof of the World). Marco Polo đã ghi trong sổ rằng: “không thấy có chim muông nào trên miền núi” và “lửa không còn cho cùng sức nóng như ở các mạn dưới thấp”. Từ miền núi cao, đoàn lữ hành xuống thấp dần, lọt vào vùng Tân Cương, một vùng có các ốc đảo xanh tươi và bờ sông đầy loại đá hoa cương. Khi tới thị trấn Lop, đoàn lữ hành chuẩn bị băng qua phần phía nam của Sa Mạc Takla Makan. Theo lời ghi chép của Marco Polo thì “những người sửa soạn vượt qua sa mạc đã nghỉ ngơi tại thị trấn này một tuần lễ để phục hồi người và vật, rồi họ lo một tháng thực phẩm cho cuộc hành trình. Khi rời thị trấn này, họ đi vào sa mạc. Chiều dài của sa mạc lớn tới độ người ta nói rằng phải mất một năm hay hơn để đi từ đầu này tới đầu kia, và đi theo chiều ngang ngắn nhất cũng phải mất một tháng”. Người dân địa phương tin rằng sa mạc Takla Makan có các loại ma quỷ, gọi tên người, giả làm kẻ đồng hành và đưa các kẻ lữ hành tới chỗ chết. Vì vậy anh em nhà Polo đã phải rất cẩn thận trước sa mạc cát nóng, tạo ra các ảo ảnh. Trong nhiều tuần lễ, họ đã đi men theo phía nam của sa mạc Gobi, tới được thị trấn Kumul rồi vào xứ Mông Cổ. Đây là phần đất có giống người Thát Đát cư ngụ. Marco Polo đã thấy tận mắt loại thạch miên (asbetos), nhìn thấy bức tượng Phật nằm rất lớn và đã ghi chép các nhận xét chính xác về người Mông Cổ : “các người Thát Đát giàu có mặc y phục bằng lụa và vàng, bằng da và lông của các thú vật với các kiểu cách sang trọng. Người Thát Đát rất gan dạ trong trận chiến, tới độ cực đoan. Họ có thể chịu đựng mọi loại thiếu thốn và khi cần, có thể sống cả tháng bằng sữa của lừa ngựa hoang mà họ săn bắt được. Các người đàn ông Thát Đát được huấn luyện sống trên lưng ngựa hai ngày mà không xuống đất, ngủ trên lưng ngựa khi ngựa ăn cỏ. Không một giống dân nào trên trái đất vượt hơn họ về cách chịu đựng các khó khăn và kiên nhẫn. Nếu hoàn cảnh cần đến, họ có thể đi bộ 10 ngày mà không đốt lửa hay dùng bữa. Trong thời gian này, ho sống bằng máu ngựa”. Sau khi rời thành phố Venice trong 3 năm rưỡi, anh em Polo đã vượt qua 8,000 dậm đường, băng qua các miền đất rất khó đi và nguy hiểm. Sự việc đoàn lữ hành tới đất Mông Cổ đã được báo về cho Đại Hãn rõ và nhà vua đã cho người đón trước ở khoảng cách 40 ngày đường, ra lệnh cho mỗi nơi dừng chân dành cho họ các tiện nghi tối đa. Mùa hè năm 1275, đoàn lữ hành tiến vào cung thành Mông Cổ là Thượng Đô (Shangtu), nơi có các lâu đài mùa hè rất lớn bằng đá hoa rực rỡ, tọa lạc trên vùng đất rộng 16 dậm vuông, với các suối nước và thật nhiều hươu nai cùng các con thú khác mà Đại Hãn đã săn bắt được bằng các con báo rừng hay diều hâu. Vào thời kỳ này, đế quốc Mông Cổ là miền đất rộng lớn nhất chưa từng thấy, trải dài từ bờ biển Trung Hoa ở phía đông tới tận xứ Hungari ở phía tây. Hai ông Polo và cậu Marco được dẫn tới một đại sảnh có dát vàng rực rỡ. Ở giữa cung điện và ngồi trên ngai vàng là ĐaÏi Hãn Hốt Tất Liệt mặc áo lụa thêu chỉ vàng, vào cỡ tuổi 60, là một nhân vật oai vệ, có chiều cao trung bình nhưng vạm vỡ, với đôi má hồng và “đôi mắt đẹp màu đen”. Sau khi quỳ lậy, ông Nicolo trình diện cậu Marco là “kẻ hầu của nhà vua và cũng là con trai của tôi” thì được ĐaÏi Hãn trả lời là rất vui mừng đón tiếp, rồi nhà vua hạ lệnh tổ chức tiệc rượu. Thượng Đô là nơi nghỉ mùa hè của Đại Hãn, tọa lạc về phía bắc 200 dậm và không xa Vạn Lý Trường Thành. Tới cuối tháng 8, nhà vua lại dọn về sống tại Yên Kinh (ngày nay là Bắc Kinh), một nơi có các cung điện rực rỡ hơn. Marco Polo dần dần trở nên một trong các cận thần của vua Mông Cổ nên chàng thanh niên xứ Venice này đã có nhiều cơ hội quan sát và ghi chép về lối sinh hoạt tại triều đình. Đại Hãn Hốt Tất Liệt tuy bản chất là người Mông Cổ nhưng đã chấp nhận nhiều lối sống văn minh của người Hán. Nhà vua có 4 hoàng hậu với cả ngàn người hầu cận. Trong các buổi thiết triều, một trong các hoàng hậu cũng được ngồi vào ghế danh dự, ngang hàng với nhà vua. Đại Hãn còn có hàng trăm cung tần và mỗi hai năm, từ 30 tới 40 thiếu nữ mới được tuyển lựa cẩn thận vào cung theo các tiêu chuẩn về nhan sắc và các đặc điểm khác như khi ngủ không ngáy to, thân thể không tiết ra thứ mùi khó chịu. Cha mẹ của các cung tần này thường hãnh diện khi có con gái được tuyển mộ vào cung cấm và sau vài năm sống tại hậu cung, các cung tần được nhà vua gả cho các quan trong triều. Đại Hãn là một con người nhân từ, thường ra lệnh cấp ngũ cốc và gia súc cho những miền đất bị thiên tai, hạn hán. Đại Hãn còn có một đội ngũ các chiêm tinh gia, đúng hơn là các thầy phù thủy và Marco Polo đã mô tả họ là loại người thô lỗ, dơ bẩn, thường khoe khoang kiểm soát được gió mưa và có các khả năng huyền bí. Chung quanh Đại Hãn có các võ tướng người Mông Cổ, một số học giả người Trung Hoa và nhà vua còn dùng vài người ngoại quốc trong việc cai trị xứ sở. Đế quốc Mông Cổ vào thời kỳ này rất rộng lớn, gồm 34 tỉnh do 12 vương hầu cai trị và chịu trách nhiệm trước Đại Hãn. Tuy là một miền đất bao la nhưng người Mông Cổ đã tổ chức được một mạng lưới thông tin hữu hiệu với khoảng cách 25 dậm có một trạm liên lạc, với ngựa khỏe và thông tin viên sẵn sàng mang các văn thư, hiệu lệnh của Đại Hãn tới các nơi xa xôi trong một thời gian kỷ lục. Marco Polo đã kể lại rằng một kỵ mã thông tin có thể vượt 250 dậm trong một ngày nhờ đó vào mùa hè, trái cây được hái buổi sáng tại Yên Kinh, đã được đưa đến Thượng Đô vào buổi chiều ngày hôm sau, trên một hành trình mà bình thường cần tới 10 ngày đi đường. Marco Polo còn mô tả về tiền giấy, một thứ tiền được chấp nhận tại mọi nơi trong đế quốc Mông Cổ, nhờ đó các lái buôn, các kẻ lữ hành đã không gặp khó khăn khi phải mang tiền đi xa. Người Trung Hoa đã dùng vỏ cây dâu, đâm vụn thành một thứ bột giấy giống như bông gòn và làm ra một loại giấy màu đen rồi trên đó có đóng triện đỏ của nhà vua. Việc làm bạc giả bị trừng phạt bằng tội tử hình. Trong vài năm sống tại triều đình của Đại Hãn Hốt Tất Liệt, Marco Polo đã quan sát và học hỏi được nhiều phong tục, tập quán của các người Á châu, lại nói được ít nhất bốn ngôn ngữ địa phương của đế quốc Mông Cổ, khiến cho Đại Hãn rất khâm phục trí thông minh của cậu và đã nhờ chàng thanh niên này thi hành các sứ mạng tại miền nam Trung Hoa, tại các xứ Bengal và Miến Điện. Do Đại Hãn ưa thích nghe kể về những gì chưa được biết tới, Marco Polo đã ghi chép nhiều chi tiết về những miền đất đã đi qua. Trong 17 năm trường phục vụ cho Đại Hãn, Marco Polo đã đặt chân tới từ miền bắc xứ Mông Cổ tới tận miền nam là Vân Nam, từ các tỉnh bờ biển phía đông tới xứ Tây Tạng về phía tây và còn được bổ nhiệm làm quan tại Hàng Châu (Hangchow). Marco Polo đã mô tả thành phố này giống như Venice của xứ Ý, được xây dựng trên các giòng sông với chu vi vào khoảng 100 dậm. Nơi này có hai ngàn cây cầu bắc qua sông và con đường lớn của thành phố rộng tới 40 bộ theo chiều ngang. Trên đại lộ chính này, có tới 10 trung tâm thương mại với các cửa tiệm bán thực phẩm, rượu, gia vị, và cả các nữ trang như ngọc trai. Mỗi tuần, người dân tại nơi đây họp chợ 2 hay 3 kỳ và Marco Polo đã mô tả cảnh phồn thịnh của sinh hoạt tại Hàng Châu. Nơi chợ có đủ mặt hàng, từ các thú vật như hươu, nai, công, trĩ, tới bò, heo, gà, vịt, các loại lá cây và trái cây, mùa nào thức nấy không thiếu chi. Trong khi cha Nicolo và chú Maffeo mải lo buôn bán nữ trang thì Marco Polo đã đi công tác qua nhiều địa phương, biết rõ về đất nước Trung Hoa hơn phần lớn các người Mông Cổ và người Hán. Các lần đi công tác xa xôi không phải là an toàn vì dọc đường thường có các trộm cướp, các dã thú, các thác ghềnh... Các đoàn lữ hành thường phải đóng trại vào ban đêm, đốt lửa để xua đuổi mãnh thú. Marco Polo đã có dịp tới Tứ Xuyên, Vân Nam và Tây Tạng, một nơi đặc biệt tiêu xài bằng thứ tiền muối. Nơi đây có các suối muối và người dân đun muối trong các chảo nóng. Khi đã sôi trong một giờ, muối được cô đọng lại thành một loại bánh nặng chừng 3 gam, mặt dưới phẳng, mặt trên cong trên đó có đóng triện của nhà vua, để trở thành một thứ tiền tệ lưu hành trong dân chúng. 17 năm sống tại Trung Hoa, một thời gian quá lâu, đã làm cho các thương nhân này nhớ nhà, mong đợi được trở về thành phố Venice thân yêu. Marco Polo đã ghi lại rằng càng ngày, gia đình Polo càng quyết tâm quay về vì Đại Hãn càng già, nếu qua đời bất ngờ thì khó lòng xin được các ân sủng để trở về xứ sở. Rồi vào một ngày đẹp trời, Marco Polo chờ lúc Đại Hãn vui vẻ, đã sụp lậy dưới chân để xin cho mình và gia đình được phép ra đi. Vào lúc này, Đại Hãn đã tỏ ra bất bình. Nhà vua có quyền tuyệt đối, việc từ chối thường xẩy ra và ba người Ý sẽ trở thành các người tù mãn đời trên đất Trung Hoa, và châu Âu sẽ không có cơ may được nghe kể về một xứ sở giàu sang, rực rỡ nhất vào thời đại đó. 3/ Cuộc trở về của Marco Polo. Vào khoảng năm 1286, một thân nhân của Đại Hãn là Khả Hãn Tốc Bất Đài (Arghyn Khan) hiện đang cai trị xứ Ba Tư, đã phái sứ giả về Trung Hoa yêu cầu Đại Hãn kén chọn cho một cô vợ mới. Một thiếu nữ 17 tuổi, đầy đủ tài sắc, đã được tuyển lựa và phái đoàn này đã lên đường về Ba Tư theo đường bộ. Nhưng sau một năm, đoàn lữ hành đã phải quay lại Yên Kinh vì chiến tranh giữa các bộ lạc địa phương. Chính vào thời gian này, Marco Polo cũng mới trở về sau một chuyến đi công tác xa và đã được phái đoàn Mông Cổ tại xứ Ba Tư yêu cầu hướng dẫn họ bằng đường biển. Chương trình cuộc trở về châu Au được trình lên Đại Hãn và nhà vua bất đắc dĩ phải nhận lời, bằng lòng để Marco Polo với cha và chú ra đi, đồng thời Đại Hãn cũng gửi theo đoàn vài bức thư viết cho các nhà vua của châu Âu. Năm 1292, một đoàn thuyền gồm 14 chiếc với hàng trăm người hộ tống, gồm có đoàn sứ giả Mông Cổ từ Ba Tư với cô dâu mới, gia đình Polo, đã ra khơi từ Hàng Châu, xuôi về phía nam, qua gần bờ biển Việt Nam, tới Singapore, Sumatra, ghé Ấn Độ, Tích Lan rồi men theo mỏm cực nam của lục địa Ấn Độ và tới hải cảng Hormuz. Cuộc hành trình này kéo dài mất hai năm và trên đường đi, Marco Polo đã ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe về đất đai, con người, sinh vật... mà người châu Âu chưa từng biết tới. Marco Polo đã mô tả con tê giác là loại thú có một sừng, kể chuyện về cướp biển... Các gian nguy trên đường về đã cướp đi nhiều mạng sống. Cuối cùng, đoàn sứ giả cũng tới được nước Ba Tư và cô dâu được giao cho triều đình Mông Cổ địa phương nhưng Khả Hãn Tốc Bất Đài đã qua đời và cô dâu được gả cho người con của Khả Hãn. Đường về từ xứ Ba Tư tới thành phố Venice còn khá xa. Marco Polo đã theo đường bộ, băng qua xứ Ba Tư, tới thành phố Trebizond bên bờ Hắc Hải rồi dùng thuyền, qua Constantinople. Trong cuộc hành trình, Marco Polo nghe tin báo rằng Đại Hãn đã qua đời năm 1294. Cuối cùng vào năm 1295, hai ông Nicolo và Maffeo cùng với Marco Polo đã cập bến cảng Venice, sau 24 năm vắng mặt và cuộc hành trình đi và về dài 15,000 dậm hay 24,000 cây số. Dân địa phương và các người họ hàng đã không nhận ra và nhớ được ba kẻ lữ hành này vì họ đã vắng mặt quá lâu, tiếng nói pha lẫn giọng phát âm Mông Cổ. Ông Nicolo đã tổ chức một bữa tiệc khoản đãi các người trong giòng họ và bạn thân rồi sau bữa ăn, ba thương nhân Polo đã dùng dao, rạch các chiếc áo mà họ đã mặc trên đường trở về từ xứ Trung Hoa, đổ lên bàn nào là vàng bạc, ngọc trai, kim cương, hồng ngọc và các loại đá quý khác. Vào lúc này, Marco Polo ở vào tuổi trên 40 và không còn nghĩ tới chuyện đi xa nữa. Đã từ lâu, Genoa và Venice là hai thành phố thù nghịch nhau. Năm 1296, quân lính Genoa đã đánh chiếm Venice và Marco Polo bị bắt. Không có sử gia nào cho biết về các lý do bị cầm tù này. Khi nằm trong nhà tù, Marco Polo đã kể lại các lần đi xa của mình và trong số các bạn tù ngồi nghe, có một văn sĩ chuyên nghiệp từ miền Pisa, tên là Rustichello. Vì bị hấp dẫn bởi cuộc hành trình, Rustichello đã yêu cầu Marco Polo cho mượn cuốn sổ ghi chép. Từ các câu chuyện kể lại và cuốn nhật ký, Rustichello đã dùng lối viết văn của minh, mô tả lại chuyến viễn du của Marco Polo và cuốn truyện được hoàn tất một năm trước khi Marco Polo được thả ra khỏi nhà tù vào năm 1299. Cuốn truyện có tên là “Mô tả về Thế Giới” (Description of the World) được Rustichello viết bằng tiếng Pháp cổ, là ngôn ngữ văn chương của nước Ý vào thời kỳ đó. Cuốn truyện cho biết các tin tức đầu tiên về nước Trung Hoa mà vào thời đó còn được gọi là “Cathay” và Marco Polo đã kể về sự giàu sang của Đại Hãn Hốt Tất Liệt, về cách khai mỏ và dùng than đá, một loại nhiên liệu mà người châu Âu chưa được biết tới. Marco Polo cũng mô tả cách dùng tiền giấy trên đó có dấu ấn của nhà vua, các phong tục của xứ Trung Hoa, các lâu đài tráng lệ, cùng nhiều sự việc mà người châu Âu thời đó đã không tin, một phần cũng do Marco Polo nói quá sự thật. Vào đầu thế kỷ 14, ngành ấn loát chưa được phát minh ra tại châu Âu. Cuốn truyện “Mô tả về Thế Giới” của Marco Polo đã được một số học giả chép tay và phổ biến, gợi trí tò mò, gây ảnh hưởng tới các nhà thám hiểm. Sau khi hai xứ Genoa và Venice tái lập hòa bình năm 1299, Marco Polo được thả ra khỏi tù. Ông lập gia đình và đã có ba con gái nhưng không giàu có lúc qua đời vào năm 1324 mặc dù các vàng ngọc mang về từ xứ Trung Hoa. Marco Polo trở nên nổi tiếng tại địa phương nhờ các câu chuyện hấp dẫn, khó tin và khi đó nhiều người bạn hỏi nhà thám hiểm có muốn bỏ bớt những phần nói quá sự thật không, thì ông đã trả lời “ tôi mới chỉ kể ra một nửa những gì trông thấy”. Các điều quan sát và tường thuật của Marco Polo đã gây ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ, tới các học giả, các nhà địa dư, các thợ vẽ bản đồ và các nhà thám hiểm. Một trong các nhầm lẫn của Marco Polo là đã đặt xứ Nhật Bản giữa Trung Hoa và châu Âu. Sự giàu sang của châu Á đã hấp dẫn các nhà thám hiểm như Christopher Columbus. Họ tin tưởng rằng con người nếu không dùng đường bộ, thì có thể dùng đường biển để tới được xứ Trung Hoa. Trong thời Trung Cổ tại châu Âu, chưa có nhà thám hiểm nào đi xa về phía đông như Marco Polo, một nhân vật đã kể về các nền văn hóa khác, xa lạ với những điều hiểu biết của người đương thời, đã đóng góp vào việc mở ra các liên lạc đông tây về mậu dịch và kiến thức.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 29, 2011 2:21:13 GMT 9
Henri PoincaréVietsciences-Phạm Việt Hưng Henri Poincaré, con quỷ toán học làm thay đổi thế giới Câu nói nổi tiếng của Isaac Newton, “Nếu tôi nhìn được xa hơn, ấy là vì tôi đứng trên vai những người khổng lồ”, đã tạo cảm hứng cho Melvyn Bragg viết cuốn “On Giants’ Shoulders” – một cuốn sách được tờ The Times ở Anh bình luận là đã “bỏ bùa mê … và mở toang kho báu khoa học của Aladin cho mọi độc giả”. Trong số 12 nhân vật “đứng trên vai những người khổng lồ” được Bragg liệt kê để viết tiểu sử, có 3 và chỉ 3 nhân vật vừa là nhà toán học vừa là nhà vật lý: Archimedes, Isaac Newton, và Henri Poincaré. Nói chính xác hơn, đó là ba “nhà đại quảng bác” (universalists), riêng Poincaré được gọi là “nhà đại quảng bác cuối cùng” (the last universalist). Đó là những nhà đại bác học có những khám phá phi thường bao trùm lên hết thẩy mọi lĩnh vực của toán học và vật lý đương thời, mở ra những chân trời mới cho khoa học để hậu thế tiếp tục khai phá. Không thể kể hết những lời ngợi ca mà người đời đã dành cho họ. Archimedes từng được nhà bác học trứ danh Galileo Galilei ca ngợi là “thần thánh” (divine), rồi thốt lên: “Không có Archimedes thì tôi sẽ chẳng làm nên trò trống gì!”. Newton thì được nhà thơ Alexander Pope ngợi ca bằng hai câu thơ bất hủ, viết theo thể “Sáng thế ký” trong Kinh Thánh: “Nature and Nature’s laws lay hid in night God said “Let Newton be”, and all was light” Xin tạm dịch: “Thiên nhiên và quy luật của Tự nhiên, Lâu nay vẫn ẩn mình trong đêm tối, Chúa phán “New-ton hãy ra đời”, Và thế là khắp thế gian bừng sáng”. Còn Poincaré thì sao? Ông có được ngợi ca như “thần thánh” không? Thế kỷ 19 không sùng bái thần thánh nữa, vì thế Poincaré “bị” gọi là “con quỷ toán học”, nhưng … “con quỷ” ấy đã làm thay đổi thế giới! 1* “Con quỷ toán học” làm thay đổi thế giới: Khiếp sợ trước khả năng phi thường của cậu học trò Poincaré, một thầy giáo dạy toán tại Trường trung học Nancy (Lycée de Nancy, nay là Lycée Henri Poincaré) là Carta de Elliot ở Liard đã gọi cậu là “con quỷ toán học”. Năm 1872, trong một thư gửi cho một người bạn, thầy Elliot viết: “Trong lớp của tôi ở Nancy, có một con quỷ toán học, đó là Henri Poincaré” (J’ai dans ma classe à Nancy, un monstre de mathématiques, c’est Henri Poincaré). Và “cậu bé bị thầy của mình gọi là con quỷ toán học ấy đã chứng minh rằng cậu đúng là như thế: Cậu đã biến đổi nền toán học trong phần còn lại của thế kỷ 20”, Bragg đã viết về Poincaré như vậy. Nhận định của Bragg hoàn toàn chính xác, nhưng chưa đầy đủ, bởi vì, cùng với những người khổng lồ khác như Max Planck, Albert Einstein, … Poincaré còn làm thay đổi cả vật lý trong phần còn lại của thế kỷ 20. Có thể nhiều người đến nay vẫn chưa biết rằng Poincaré đã 51 lần được đề cử nhận Giải Nobel vật lý. Xin chú ý: Giải Nobel đầu tiên diễn ra vào năm 1901. Poincaré mất năm 1912. Vậy trong 12 năm, ông được đề cử 51 lần, trung bình mỗi năm có hơn 4 đề cử ! Nhưng tại sao ông chưa một lần đoạt giải Nobel? Đơn giản vì trong số những đóng góp lớn nhất của Poincaré cho vật lý, có những tư tưởng vượt quá xa thời đại, đến nỗi Uỷ ban Nobel cũng chưa thể đánh giá hết được ý nghĩa của nó, hoặc vì họ thận trọng không muốn mắc sai lầm. Thí dụ điển hình là Thuyết tương đối hẹp (Special Theory of Relativity). Giả sử vì một lẽ gì đó, Uỷ ban Nobel nhận thấy “muộn còn hơn không bao giờ”, rồi quyết định trao Giải Nobel vật lý cho lý thuyết này thì sao nhỉ? Khi ấy, những người xứng đáng được nhận giải có lẽ sẽ không chỉ có một mình Einstein, mà còn phải bao gồm một số người khác, đặc biệt là Hendrik Lorentz và Henri Poincaré – hai trong số những người đi tiên phong trong tư tưởng về tương đối tính và đã “dọn đường” cho Einstein đi tới đích cuối cùng. Vấn đề này sẽ được trình bầy kỹ ở mục 4*. Một bằng chứng khác là Lý thuyết hỗn độn (Theory of Chaos). Mặc dù phải đợi tới những năm 1960-1970, lý thuyết này mới xuất đầu lộ diện như một lý thuyết khoa học hoàn toàn mới, nhưng nguyên lý cơ bản của nó đã được Poincaré khám phá ra ngay từ tháng 11 năm 1890, khi ông công bố lời giải của “Bài toán ba vật thể” (Problème à Trois Corps)(1) trên tạp chí Acta Mathematica. Và thiết tưởng, nếu không có Lý thuyết topo (Topology) thì không biết toán học và vật lý học ngày nay sẽ ra sao. Vậy mà Poincaré lại chính là cha đẻ của Topo đại số. Trong lĩnh vực này, Giả thuyết Poincaré (Poincaré Conjecture) đã đứng sừng sững trong suốt một thế kỷ qua như một trong những thách thức lớn nhất đối với các nhà toán học, để mãi đến năm 2006 mới được giải quyết trọn vẹn bởi nhà toán học Grigori Perelman, và sự kiện này đã trở thành đột phá của khoa học năm 2006. Không kể rất nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc khác trong toán học và vật lý, chỉ riêng đóng góp của Poincaré đối với ba lý thuyết khổng lồ nói trên cũng đã quá đủ để nói lên tầm vóc khổng lồ của ông. Nhưng sẽ là một thiếu sót lớn nếu nghĩ rằng “con quỷ toán học” chỉ nghiên cứu khoa học thuần tuý: Poincaré đồng thời còn là một nhà triết học thâm thuý, một nhà tư tưởng có tầm nhìn xa trông rộng. 2* Poincaré, nhà tư tưởng nhìn xa trông rộng: Một sinh viên của Poincaré viết về thầy của mình: “Poincaré luôn kết thúc buổi giảng bằng những công thức đơn giản, được diễn giải bằng một thứ ngôn ngữ đầy hình ảnh đến nỗi buộc chúng tôi phải hiểu”. Nhận xét ngắn ngủi này phản ánh chính xác tư tưởng và tính cách của Poincaré: Đối với ông, toán học phải sinh động, giầu hình ảnh, đầy cảm nhận trực giác, mặc dù bề ngoài của nó là những ký hiệu và các phương trình. Ký hiệu hay phương trình chỉ là công cụ để thể hiện một tư tưởng, không được phép biến thành một thứ ngôn ngữ chết, một chuỗi suy diễn logic máy móc, vô hồn vô cảm. Điều này giải thích vì sao Poincaré quyết liệt chống đối chủ nghĩa toán học hình thức ngay từ buổi trứng nước của nó. Thật vậy, đầu thế kỷ 20, bất chấp đa số các nhà toán học lao theo con đường do David Hilbert vạch ra, dồn mọi nỗ lực vào việc tìm kiếm Chiếc Chén Thánh Toán Học (The Holy Grail of Mathematics)(2), hòng biến toán học thành một hệ thống logic hình thức thuần tuý, hoàn toàn tách rời khỏi hiện thực, không đếm xỉa tới trực giác, Poincaré vẫn ung dung đi trên con đường riêng của mình và không ngừng cảnh báo chủ nghĩa hình thức về sai lầm của họ: “Nhà toán học xa rời thực tiễn giống như một hoạ sĩ bị tước đi vật mẫu”. Lời cảnh báo bất hủ ấy đã nhanh chóng được kiểm chứng: Năm 1902, Bertrand Russell, một nhà tiên phong trong cuộc hành trình tìm kiếm Chiếc Chén Thánh, trớ trêu thay, lại khám phá ra một nghịch lý của chính logic hình thức, Nghịch lý Russell(3), cho thấy chủ nghĩa logic hình thức giống như con rắn tự nuốt đuôi của mình. Không giấu được vẻ giễu cợt, Poincaré nói: “Cuối cùng thì chủ nghĩa logic cũng đã chứng minh được rằng nó không hoàn toàn vô ích. Rốt cuộc nó cũng sinh đẻ được, nhưng lại đẻ ra một nghịch lý”. Bất chấp sự khác biệt về lý tưởng toán học, Russell vẫn khảng khái nhận định: “Poincaré là người có tài trí khoa học vĩ đại nhất đang còn sống” (Poincaré was the greatest scientific mind then living). Năm 1931, Định lý Godel ra đời, xác nhận chủ nghĩa hình thức quả thật là một ảo tưởng, do đó Poincaré quả thật là người nhìn xa trông rộng! Tuy nhiên không phải mọi điều đã được hiểu đúng ngay từ những năm 1930. Bằng chứng là chủ nghĩa hình thức vẫn còn giương cao ngọn cờ “toán học mới” để tấn công ồ ạt vào hệ thống giáo dục phổ thông ở tây phương những năm 1960. Phải đợi tới những thập kỷ cuối thế kỷ 20 mọi điều mới tỏ rõ. Giống như sau một cơn bão, khi bình yên trở lại trên đống hoang tàn, người ta mới nghiệm ra rằng quả thật Poincaré sâu sắc, và thế là dấy lên một trào lưu “đọc lại” những tác phẩm của ông: · “Science et hypothèse” (Khoa học và giả thuyết, ra mắt năm 1902), · “La valeur de la science” (Giá trị của khoa học, 1905), · “Science et méthode” (Khoa học và phương pháp, 1908), · “Savants et écrivains” (Nhà bác học và nhà văn, 1910), Đó là những tác phẩm triết luận sâu sắc, hùng hồn, hấp dẫn, đến nỗi Poincaré được đánh giá như một nhà triết luận tài ba, và đã trở thành nhà khoa học đầu tiên được bầu vào Viện hàn lâm văn chương Pháp (Académie Francaise). Đáng tiếc là chưa có một tác phẩm nào nói trên được dịch ra tiếng Việt. Điều này cũng dễ hiểu: Sự chậm trễ của người Việt chúng ta chỉ là tấm gương phản chiếu sự chậm trễ trên toàn cầu. Nhưng thế giới đã thức tỉnh, và khi tỉnh dậy, người ta ngạc nhiên chứng kiến một Poincaré luôn luôn có mặt trên tuyến đầu của tất cả các cuộc cách mạng lớn nhất về nhận thức trong thế kỷ 20, từ “cuộc cách mạng về tương đối tính” đến cuộc cách mạng về bất định, ngẫu nhiên và hỗn độn: Lời giải “Bài toán ba vật thể” của Poincaré chính là ánh chớp đầu tiên báo hiệu cuộc cách mạng tư tưởng sâu sắc nhất sắp xẩy ra trong thế kỷ 20: Cuộc chuyển dịch của nhận thức từ xác định sang bất định. 3* Từ xác định tới bất định: Trước thế kỷ 20, tư tưởng thống trị trong khoa học là chủ nghĩa tất định (determinism) – chủ nghĩa cho rằng vũ trụ vận hành theo những quy luật xác định và tất yếu như một chiếc đồng hồ. Từ thế kỷ 17 trở về sau, chiếc đồng hồ ấy được mệnh danh là “chiếc đồng hồ Newton” (Newtonian clock), bởi vì với cơ học Newton, người ta có thể xác định được tương lai hoặc quá khứ của vũ trụ nếu biết rõ trạng thái của nó tại một thời điểm cho trước. Nhà toán học Pierre Simon Laplace giải thích: “Chúng ta có thể coi trạng thái hiện tại của vũ trụ như hậu quả của quá khứ và là nguyên nhân của tương lai … và trước con mắt của một người trí thức, chẳng có gì là bất định cả, tương lai cũng như quá khứ sẽ chỉ là hiện tại mà thôi”. Đó là “Tất định luận Laplace” (Laplace’s determinism). Tất định luận này ăn sâu vào tâm trí các nhà khoa học đến nỗi Louis Lagrange, nhà toán học lỗi lạc cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, phải buồn rầu than thở: “Newton đã tìm ra hết mọi bí mật rồi, chẳng còn gì cho chúng ta làm nữa”. Dù cho vật lý thế kỷ 19 được bổ sung bởi Lý thuyết điện từ của James Clerk Maxwell, nhưng lý thuyết này hoàn toàn nhất quán với cơ học Newton để tạo nên một hệ thống lý thuyết hoàn toàn xác định và chắc chắn, làm nền tảng cho mọi hiểu biết về vũ trụ, đến nỗi nhiều người nghĩ rằng khoa học đã tiệm cận tới những trang cuối cùng. Nhưng ….. Lạ thay, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, những tư tưởng hoàn toàn mới đã nẩy mầm trên mọi lĩnh vực của nhận thức: Tư tưởng về cái bất định, bất toàn, ngẫu nhiên, hỗn độn – những cái không chắc chắn và không thể dự đoán trước (unpredictable)(4). Tư tưởng ấy bộc lộ trong hội hoạ của Paul Cézanne và Pablo Picasso, … trong bộ tiểu thuyết vĩ đại “À la recherche du temps perdu” (Đi tìm thời đã mất) của Marcel Proust, … và trong một loạt lý thuyết khoa học hoàn toàn “đảo lộn” sau đây: · Nguyên lý bất định của Heisenberg trong cơ học lượng tử, ra đời năm 1921. Lý thuyết này đã dẫn tới cuộc xung đột “xác định vs bất định” giữa hai biểu tượng vĩ đại của vật lý thế kỷ 20: Albert Einstein, “nhà vật lý cổ điển cuối cùng”, và Niels Bohr, nhà phát ngôn và lãnh tụ triết học của cơ học lượng tử. Nếu hiểu hết mọi nhẽ mà Bohr đã nêu lên để bác bỏ quan điểm xác định cổ điển cuả Einstein thì khi đó người ta sẽ hiểu rõ bất định lượng tử là gì, và tại sao Bohr được coi là “vị trưởng lão quyết đoán” tương ứng với vị trí (-1) trên trục số, trong khi Einstein tương ứng vị trí zero(5). · Định lý bất toàn của Kurt Godel. Khi định lý này mới ra đời năm 1931, trừ một vài người thấy giật mình đến mức phải thay đổi định hướng nghiên cứu toán học, điển hình là John von Newman(6), đa số vẫn “phớt lờ” để tiếp tục tôn thờ chủ nghĩa hình thức. Nhưng càng ngày người ta càng nhận thấy ý nghĩa vĩ đại của định lý này: Trong toán học tồn tại những mệnh đề không quyết định được (undecidable) – những mệnh đề không thể chứng minh và không thể bác bỏ. Hoá ra toán học cũng không tuyệt đối chắc chắn như người ta tưởng. Greg Chaitin sau này còn đi xa hơn khi chứng minh rằng yếu tố ngẫu nhiên và bất định nằm ngay trong nền tảng của số học(7). · Lý thuyết hỗn độn mà Henri Poincaré là người đặt nền móng. So với Nguyên lý bất định của Heisenberg và Định lý bất toàn của Godel, tư tưởng về cái hỗn độn ra đời sớm hơn rất nhiều – ngay từ năm 1890 khi Poincaré công bố lời giải “Bài toán ba vật thể”, trong đó ông mô tả: “Khi tôi cố gắng mô tả hình ảnh được tạo ra bởi hai đường cong này và vô số giao điểm của chúng, … những giao điểm này tạo nên một mạng lưới, một mớ lằng nhằng hoặc một cạm bẫy vô cùng rắc rối. Tôi hết sức kinh hoàng vì tính phức tạp của hình ảnh này đến nỗi tôi không cố sức để vẽ nó ra nữa”. Năm 1908 ông giải thích vấn đề này rõ hơn: “Một nguyên nhân rất nhỏ mà chúng ta không nhận thấy có thể dẫn tới một hậu quả lớn đến mức không thể đoán trước, và vì thế chúng ta bảo rằng hậu quả này xẩy ra do ngẫu nhiên … Có thể xẩy ra trường hợp những khác biệt vô cùng nhỏ trong dữ kiện ban đầu dẫn tới những hậu quả vô cùng lớn trong hiện tượng sau cùng. Một sai lệch nhỏ ban đầu có thể gây ra một sai lệch khổng lồ trong kết quả. Dự đoán trở nên bất khả, và chúng ta có một hiện tượng ngẫu nhiên” (trích Science et méthode). Đó chính là tuyên ngôn mở đầu về những hiện tượng không thể dự đoán trước. Lần đầu tiên trong khoa học, bản chất ngẫu nhiên đã được đề cập. Lần đầu tiên tư tưởng tất định từng ngự trị trong hàng trăm năm trước, ít nhất kể từ thời Newton, đã bị nghi vấn. Lần đầu tiên lời than vãn của Lagrange đã bị chứng minh là sai. Đó là cuộc cách mạng đầu tiên về cái ngẫu nhiên, bất định, và hỗn độn trong thế kỷ 20! Melvyn Bragg viết: Poincaré là “người tình cờ khám phá ra tính hỗn độn”, nhưng đó là sự tình cờ vĩ đại chỉ xẩy ra ở những bộ óc vĩ đại! 4* Giả thuyết Poincaré(8): Năm 2000, Viện toán học Clay ở Mỹ nêu lên danh sách 7 bài toán khó nhất của thiên niên kỷ thứ hai (từ năm 1001-2000) và treo giải thưởng 1 triệu USD cho mỗi bài toán. Giả thuyết Poincaré (GP) do Poincaré nêu lên từ năm 1904 là một trong số 7 bài toán đó. Thông thường, bài toán tổng quát trong không gian n chiều là bài toán khó nhất, nhưng kỳ lạ thay, lịch sử giải quyết GP lại rất “ngược đời”: · Năm 1966, Stephen Smale đoạt Giải Fields (giải thưởng danh giá nhất trong toán học, được xem như Giải Nobel toán học) vì đã chứng minh được GP trong trường hợp n = 5 và n > 5. · Trong những năm 1970, William Thurston đoạt Giải Fields vì chứng minh được một tính chất đặc biệt của các đa tạp 3 chiều và chứng minh này được coi là một đóng góp lớn vào việc chứng minh GP. · Năm 1982, Michel Friedman đoạt Giải Fields vì chứng minh được GP đúng với n = 4. · Tháng 11-2002, Grigori Perelman, tiến sĩ thuộc Viện toán học Steklov ở St Petersburg, Nga, bắt đầu công bố các chứng minh của ông trên internet, gây nên một cuộc xáo động chưa từng có trong thế giới toán học, kể từ sau cuộc xáo động do Andrew Wiles gây ra khi công bố chứng minh Định lý cuối cùng của Fermat. Tháng 04-2003, Perelman tới thăm Viện công nghệ Massachusetts (MIT), Đại học Princeton, Đại học tiểu bang New York ở Stony Brook, Đại học Columbia, và Đại học New York, để trao đổi với các đồng nghiệp và thực hiện các cuộc thuyết trình chuyên môn. Ba nhóm học giả độc lập đã được thành lập để nhận định công trình của Perelman. Trong khi chờ đợi sự đánh giá, Perelman từ chối trả lời mọi câu hỏi của báo chí, làm cho cả thế giới phải nín thở để theo dõi. Không khí căng thẳng này làm người ta nhớ đến khung cảnh năm 1993, khi Andrew Wiles lần đầu tiên trình bầy chứng minh Định lý cuối cùng của Fermat tại Đại học Princeton. Lần ấy, chính Wiles đã phát hiện ra sai lầm của mình, và phải mất hơn một năm trời để sửa chữa chứng minh rồi mới đi đến thắng lợi. Có vẻ như Perelman đã học được bài học đó. Điều lý thú là cả Wiles lẫn Perelman đều đơn thương độc mã đương đầu với một thách thức thuộc tầm cỡ ghê gớm nhất đối với bộ não của con người: Wiles mất 7 năm cho bài toán Fermat, Perelman mất 8 năm cho bài toán Poincaré. Cuối cùng, tháng 05-2006, Liên đoàn toán học quốc tế thừa nhận chứng minh của Perelman là đúng và quyết định trao tặng Perelman Giải Fields. Đồng thời, Perelman cũng đoạt Giải Thiên Niên Kỷ (Millennium Prize) của Viện Clay. Nhưng ông từ chối mọi giải thưởng. Đó là chuyện lạ chưa từng có! Phải chăng Perelman muốn thể hiện sự khinh rẻ đối với bả vinh hoa + danh vọng + tiền tài? Phải chăng ông muốn đề cao CÁI ĐẸP như chính Poincaré đã từng đề cao: “Nhà khoa học không nghiên cứu tự nhiên vì việc đó có ích; Anh ta nghiên cứu nó vì anh ta thấy thích thú và anh ta thấy thích thú vì nó đẹp. Nếu tự nhiên không đẹp thì nó không đáng để biết, và cuộc sống không đáng để sống”. Nhưng dù Perelman nghĩ gì thì người đời cũng vẫn phải nghiêng mình bái phục ông. Nhà toán học lỗi lạc Đào Triết Hiên (Terence Tao), người hiện nay được mệnh danh là “Mozart của toán học” (danh hiệu trước đây dành cho Poincaré), đã không tiếc lời ca tụng: “Những bài toán thiên niên kỷ giống như những vách đá thẳng đứng bên bờ biển, không có chỗ bám víu. Tôi không biết làm thế nào mà có thể leo lên tới đỉnh. Theo ý kiến của tôi, đối với tất cả chúng ta có mặt ở đây, chứng minh Giả thuyết Poincaré của Perelman là một thành tựu kỳ vĩ, xứng đáng nhất để trao giải thưởng … chứng minh của Perelman thật sự là một loạt các đột phá…”. Với 4 Giải Fields đã đoạt được, lời giải của Giả thuyết Poincaré đã chiếm kỷ lục về số giải thưởng cao quý nhất mà một bài toán có thể đạt được. Nói cách khác, nó cũng chiếm kỷ lục về sự tiêu hao năng lượng của những bộ óc vĩ đại nhất thế kỷ 20. Điều đó thiết tưởng đã quá đủ để nói lên tầm vóc của tác giả giả thuyết đó. 5* Poincaré và Thuyết tương đối hẹp: Vốn ngưỡng mộ Einstein, năm 2005 tôi thật sự bị choáng khi đọc bài báo “Anhxtanh, thiên tài đạo văn?” trên tạp chí Khoa học & công nghệ số 1-2005. Thoạt nhìn đầu đề bài báo, tôi có cảm giác khó chịu, nhưng ngay sau khi đọc xong, tôi thấy cần tìm hiểu sự thật một cách kỹ lưỡng, vì bài báo được viết theo những nguồn thông tin nghiêm túc. Điều kỳ lạ là xung quanh hai khám phá lớn nhất của Einstein đều xẩy ra những chuyện rắc rối liên quan đến quyền tác giả. Chẳng hạn, theo cuốn “Phương trình của Chúa” (God’s Equation) của Amir Aczel, đã có một cuộc tranh chấp giữa Einstein và David Hilbert, một nhà toán học lớn cùng thời, về quyền tác giả đối với Phương trình trường trong Thuyết tương đối tổng quát(9). Một uỷ ban đã được thành lập để giải quyết cuộc tranh chấp này, nhưng phải đợi mãi đến cuối năm 1997, sau khi nhiều văn khố lưu trữ chưa từng biết về Einstein được công bố, thì mới có kết luận chung quyết: Quyền tác giả Phương trình trường thuộc về Einstein. Đối với Thuyết tương đối hẹp thì sao? Không có vấn đề tranh quyền tác giả ở đây, nhưng trớ trêu thay, “Năm vật lý Einstein 2005”, năm kỷ niệm Thuyết tương đối hẹp tròn 100 tuổi, đã trở thành dịp phơi bầy ra nhiều sự thật trước đây ít được biết, gây nên tranh cãi lớn xung quanh câu hỏi ai là tác giả thật sự của Thuyết tương đối hẹp. Thực ra sự chia rẽ quan điểm đã có từ lâu, nhưng nhờ internet, việc tự do ngôn luận đã bùng nổ thành một cuộc tranh cãi lớn trên toàn cầu, trong đó nổi lên ba nhóm ý kiến: · Nhóm 1 gồm những người đề cao đóng góp của những người đi trước Einstein về tương đối tính. Điển hình là Edmund Whittaker, tác giả cuốn “Một lịch sử về lý thuyết ê-te và điện” (A History of the Theories of Aether and Electricity), trong đó nói rằng Thuyết tương đối hẹp là đóng góp chủ yếu của Lorentz và Poincaré, còn Einstein chỉ là người mở rộng thêm vấn đề(10). · Nhóm 2 gồm những người mắc bệnh sùng bái Einstein, coi Einstein như “ông thánh khoa học” và do đó cho rằng Thuyết tương đối hẹp chỉ có thể là sản phẩm của một bộ óc phi thường duy nhất – bộ óc Einstein. Điển hình cho nhóm này là Amir Aczel, tác giả cuốn “Phương trình của Chúa” đã nói ở trên. · Nhóm 3 gồm những người có thái độ khách quan tôn trọng sự thật. Đó là thái độ khoa học chân chính. Một trong những nhân vật điển hình của nhóm này là Max Born, nhà vật lý đoạt Giải Nobel năm 1954, một người bạn của Einstein, và cũng là người nổi tiếng chính trực. Theo một bài báo trên tạp chí NEXUS tập 11, số 1, thì trong cuốn “Physics in My Generation” (Vật lý trong thế hệ của tôi) của Max Born, do Pergamon Press xuất bản tại London năm 1956, trang 193, Born viết: “Thêm một nét đặc biệt khác thường nữa của công trình hiện nay đang nổi tiếng, công trình của Einstein năm 1905, là sự vắng mặt của bất kỳ một tham khảo nào về Poincaré hoặc về bất kỳ ai khác. Điều đó gây cho bạn ấn tượng rằng đây là một cuộc mạo hiểm hoàn toàn mới. Nhưng tất nhiên, như tôi đã cố gắng giải thích, điều đó không đúng sự thật”. Có lẽ đây chính là nguyên nhân làm cho nhiều người nghĩ rằng Thuyết tương đối hẹp chỉ có thể là sản phẩm của một bộ óc thiên tài duy nhất. Nhưng may thay, chính Einstein đã sửa chữa sự hiểu lầm đó: Hai năm trước khi mất, tức năm 1953, ông gửi thư cho ban tổ chức kỷ niệm lần thứ 50 ngày ra đời Thuyết tương đối hẹp sẽ tổ chức vào năm 1955, trong đó viết: “Tôi hy vọng chúng ta cũng sẽ quan tâm tới việc vinh danh thích đáng công lao của Lorentz và Poincaré vào dịp đó”. Đó là đảm bảo bằng vàng đối với công lao của Lorentz và Poincaré! Công lao ấy đã được làm sáng tỏ trong bài báo “Ai phát minh ra Thuyết tương đối?” (Who Invented Relativity?) của Hermann Weyl, một trong những nhà toán học và vật lý xuất sắc nhất thế kỷ 20. Weyl mở đầu: “Mọi sự khởi đầu đều không rõ ràng”, rồi ông viết tiếp: “Một trong những khía cạnh lịch sử thú vị của thuyết tương đối hiện đại là ở chỗ, mặc dù nó thường được xem như một đóng góp cực kỳ độc đáo và cách mạng của một cá nhân duy nhất, nhưng hầu hết mọi tư tưởng và sự trình bầy của lý thuyết này đã được những người khác nói từ trước. Chẳng hạn, cả phương trình hiệp biến Lorentz (Lorentz covariance) lẫn quán tính của năng lượng đều đã ngầm chứa trong các phương trình Maxwell. Cũng vậy, năm 1887 Voigt đã rút ra những phép biến đổi Lorentz một cách hình thức dựa trên những khảo sát tổng quát đối với phương trình sóng. Vào những năm 1890, trong phạm vi điện-động-lực-học, Fitzgerald, Larmor, và Lorentz, tất cả đều đã đi tới những phép biến đổi Lorentz, bao gồm tất cả những hiệu ứng khác thường gắn liền với Thuyết tương đối hẹp của Einstein như hiện tượng dãn thời gian và co độ dài. Năm 1905, Poincaré đã phát biểu rõ ràng nguyên lý tương đối và nhiều hệ quả của nó, đã chỉ ra sự thiếu cơ sở thực tiễn của tính đồng thời tuyệt đối (absolute simultaneity), đã thách thức ý nghĩa bản chất của ê-te, và đã chứng minh rằng những phép biến đổi Lorentz chứa một nhóm biến đổi có ý nghĩa giống như các phép biến đổi Galileo”. Sau khi đề cập đến việc so sánh Einstein với Copernicus, Weyl cho rằng việc so sánh đó là đúng, rồi ông phân tích tiếp: “Chỉ những người kế tiếp như Kepler, Galileo, và Newton, nhờ đào xới những hiểu biết của Copernicus đến mức sâu sắc hơn chính Copernicus đã làm thì mới thực sự tạo ra được một lý thuyết vật lý mới lạ về chất. Rõ ràng là Copernicus chỉ là một trong số nhiều người tập hợp lại để cùng tạo nên cuộc cách mạng Copernicus trong khoa học, và chúng ta có thể lập luận tương tự rằng Einstein cũng chỉ là một trong số những cá nhân bao gồm cả Maxwell, Lorentz, Poincaré, Planck và Minkowski cùng có trọng trách đối với cuộc cách mạng về tương đối tính”. “Trong những năm cuối đời Einstein nhận xét rằng không nghi ngờ gì nữa Thuyết tương đối hẹp, nếu đánh giá sự phát triển của nó trong sự hồi tưởng quá khứ, là đã chín muồi để được khám phá ra trong năm 1905. Cùng với Lorentz, người tiến gần nhất tới việc khám phá ra thuyết tương đối hẹp trước Einstein chắc chắn là Poincaré, người đã đề xuất trong năm 1900 một định nghĩa rõ ràng thích hợp về tính đồng bộ hoá của đồng hồ và năm 1904 đã gợi ý rằng ê-te về nguyên tắc là không thể phát hiện được … Hai đề xuất đó và những hệ quả của chúng về cơ bản đã là hiện thân của toàn bộ Thuyết tương đối hẹp”. Trong thời đại thông tin ngày nay, quan điểm của Weyl đã đến với mọi người, và được nhiều học giả thể hiện sự đồng thuận. Chẳng hạn bài báo “Poincaré contemplates Copernicus”(11) (Poincaré suy ngẫm về Copernicus) viết: “Hai công trình của Poincaré năm 1905 cùng với những công trình của ông trước đó đã mô tả một cách rõ ràng một lý thuyết về tương đối tính, ngay cả khi nó không giống với lý thuyết của Einstein trong mọi khía cạnh triết học”. Sau đó bài báo trích dẫn lời của chính Poincaré viết năm 1905 (trước khi Einstein công bố công trình của ông về tương đối hẹp), rằng: “Dường như việc không thể phát hiện được chuyển động tuyệt đối trên trái đất bằng thí nghiệm có thể là một định luật tổng quát của tự nhiên; Một cách tự nhiên chúng ta có khuynh hướng thừa nhận định luật này, mà chúng ta gọi là Tiên đề về tính tương đối và thừa nhận vô giới hạn. Tiên đề này đến nay vẫn phù hợp với thực nghiệm, nhưng dù cho sau này nó có thể được xác nhận thêm hoặc bị bác bỏ bởi những thí nghiệm chính xác hơn, thì trong mọi trường hợp, việc tìm hiểu những hệ quả của nó vẫn rất thú vị”. Một bài báo khác nhan đề “Relativity” (Thuyết tương đối) trên trang mạng “How it works”(12) viết: “Thuyết tương đối hẹp được phát triển một cách độc lập bởi Henri Poincaré tại Paris và Albert Einstein tại Zürich … Henri Poincaré là người khởi đầu thật sự của thuyết tương đối”. Theo bài báo này thì chính Poincaré chứ không phải ai khác đã là người đầu tiên gieo thuật ngữ “relativité” (tương đối tính) vào thế giới khoa học, và cũng chính Poincaré chứ không phải ai khác đã là người đầu tiên nêu lên hệ quả của tính tương đối, rằng không có cái gì có thể chuyển động nhanh hơn ánh sáng. Đó chính là một tiên đề cơ bản của Thuyết tương đối hẹp. Nhưng cũng chính Einstein chứ không phải ai khác đã có công giải đáp những nghịch lý về ê-te do Lorentz và Poincaré khám phá ra. Nói cách khác, Einstein đã đẩy tư tưởng của Lorentz và Poincaré tới bước quyết định mang tính cách mạng. 6* Kết: Trở về chủ đề “đứng trên vai những người khổng lồ”, xin thưa, thực ra đó là một lối nói ẩn dụ đã lưu truyền trong nền văn hoá Tây phương từ xa xưa, nguyên văn tiếng La-tinh là “Nanos gigantum humeris insidentes”, tức “Những chú lùn đứng trên vai những người khổng lồ”. Tuy nhiên, những người như Newton, Einstein, Poincaré không phải là “những chú lùn”, mà là những người khổng lồ đứng trên vai những người khổng lồ. Vì thế tầm nhìn của họ quá xa, quá rộng, đến nỗi không dễ gì có thể hiểu hết những điều họ nghĩ trong một thời gian ngắn. Nhưng dường như chưa bao giờ bức chân dung Poincaré hiện ra rõ rệt như hiện nay, khi những dịp kỷ niệm lớn về ông đang tới: · Năm 2010 là dịp kỷ niệm 120 năm ngày ra đời của tư tưởng về cái hỗn độn – ngày công bố lời giải của Poincaré đối với “Bài toán Ba Vật Thể”. · Năm 2012 sẽ là dịp kỷ niệm tròn 100 năm ngày mất của Poincaré. Điều này gợi nhớ tới ý kiến của nhà toán học Jean Mawhin tại Viện quốc tế Solvay về vật lý và hoá học ở Brussels, Bỉ, viết năm 2004, nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Poincaré: “Năm 1954, cộng đồng khoa học kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Poincaré. Tại thời điểm đó, danh tiếng của Poincaré không nằm ở vị trí cao nhất trong số các nhà toán học, (vì) tinh thần Hilbert đang thống trị trong phần lớn tư duy toán học. Đó cũng không phải là điểm cao nhất của Poincaré trong vật lý, vì vật lý đang quan tâm chủ yếu đến lý thuyết lượng tử. (Nhưng) bất chấp điều đó, lễ kỷ niệm vẫn rất quan trọng trong những lĩnh vực mà sự hiện diện hoặc tên tuổi của Poincaré có ý nghĩa, và nội dung của những lĩnh vực đó đã được công bố trong một Cuốn Sách Vàng (Golden Book), được tái bản trong tập cuối của bộ sách Công trình khoa học của Poincaré. Năm nay chúng ta kỷ niệm tròn 150 năm ngày sinh của Poincaré, sự nổi tiếng của Poincaré đã đạt tới những đỉnh cao mới trong thế giới khoa học, thậm chí đối với cả những người không làm khoa học. Lý thuyết hỗn độn và nguồn gốc của Thuyết tương đối đã đưa tên tuổi và chân dung của Poincaré lên các tạp chí khoa học nổi tiếng nhất”. Sydney ngày 01 tháng 01 năm 2010 PVHg Tài liệu tham khảo: [1]: “On Giants’ Shoulders”, Melvyn Bragg, Sceptre Edition, London 1998, [2]: “Henri Poincaré-A life at the Service of Science”, Jean Mawhin, Proceedings of the Symposium Henri Poincaré, International Solvay Institutes for Physics&Chemitry, Brussels, 8-9 Oct 2004. [3]: “Henri Poincaré” trên trang mạng: www-chaos.umd.edu/misc/poincare.html [4]: “Who invented relativity?”, Herman Weyl, mathspage: www.mathpages.com/rr/s8-08/8-08.htm [5]: “Poincaré contemplates Copernicus”, mathspage: www.mathpages.com/HOME/kmath305/kmath305.htm [6]: “Henri Poincaré”, Wikipedia: en.wikipedia.org/wiki/Henri_Poincaré [7]: “The Relativity of Space”, Henri Poincaré, một bài trong “Science et méthode”. [8]: “What is Mathematics, Really?”, Reuben Hersh, Vintage Publisher, London, 1998 [9]: “From Certainty to Uncertainty”, David Peat, The National Academies Press, US 2002 [10]: “How It Works: Relativity”: leebor2.100webspace.net/relativity.html [11]: “Science et méthode”, Henri Poincaré, Flammarion, Paris 1908 (English version, Science and Method, published by Dover Edition, New York 2003). Chú thích: (1): Xem “Hiệu ứng con bướm” của Phạm Việt Hưng trên Khoa Học & Tổ Quốc tháng 11-2009, hoặc trên mạng Vietsciences, địa chỉ vietsciences.org (2): Xem “Con voi toán học hay Chiếc chén thánh của Chủ nghĩa hình thức” của Phạm Việt Hưng, Khoa Học & Tổ Quốc tháng 03-2009, hoặc trên mạng Vietsciences (3): Xem “Lời sám hối của một nhà toán học hình thức” của Phạm Việt Hưng, Khoa Học & Tổ Quốc tháng 05-2009, hoặc trên mạng Vietsciences. (4): Dựa theo nhận định của David Peat, tác giả cuốn “From Certainty to Uncertainty”, National Academies Press, Washington DC, 2002. (5): Xem “Bohr, vị trưởng lão quyết đoán” của Chu Hảo, trong “Kỷ yếu Max Planck”, NXB Trí Thức, trang 275. (6): Xem “Những quả trứng vàng đẻ ra từ một thất bại vinh quang” của Phạm Việt Hưng, Khoa Học & Tổ Quốc tháng 08-2009, hoặc trên mạng Vietsciences. (7): Xem “Tính ngẫu nhiên của toán học” của Phạm Việt Hưng, Khoa Học & Tổ Quốc tháng 10-2009, hoặc trên mạng Vietsciences. (8): Xem 1/ “Giả thuyết Poincaré đã được chứng minh?” và “Giả thuyết Poincaré” của Phạm Việt Hưng trên Tia Sáng, số 12, Tháng 07-2003, hoặc trên tintonghop.info/news ; 2/ “Bài toán Poincaré và Câu chuyện nằm ở mặt sau của tấm huy chương vàng Fields 2006” của Phạm Trà Ẩn, trên trang mạng VnM@th Encyclopedia, pedia.vnmath.com/2009/06/bai-toan-poincare (9): Xem “Câu chuyện về phương trình thâu tóm cả vũ trụ” của Amir Aczel, NXB Trẻ năm 2004, hoặc “Chuyện Làng Viết” của Phạm Việt Hưng trên Văn Nghệ Trẻ số 9 ngày 29-02-2004. (10): Edmund Taylor Whittaker là một nhà toán học Anh, viện sĩ Hội Hoàng Gia Anh, từng được tặng Huân chương Copley, một phần thưởng danh dự nhất trong khoa học Anh. Cuốn “A History of the Theories of Aether and Electricity” được viết năm 1910, trình bầy lịch sử các lý thuyết về ether từ René Descartes tới Hendrik Lorentz. Năm 1953, cuốn sách này ra mắt Tập II, gây nên tranh cãi vì Chương “Thuyết tương đối của Poincaré và Lorentz”, trong đó coi Poincaré và Lorentz là những người xây dựng nên Thuyết tương đối hẹp, trong khi xem nhẹ đóng góp của Einstein. (11): Xem tài liệu tham khảo [5]. (12): Tài liệu tham khảo [10].
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 29, 2011 2:33:43 GMT 9
J. Robert OppenheimerVietsciences-Phạm Văn Tuấn J. Robert Oppenheimer (1904 - 1967), cha đẻ bom A Quả bom Nguyên Tử đầu tiên thả xuống đất Nhật năm 1945 đã làm cho mọi người kinh hoàng về thứ khí giới mới và cũng làm cho các nhà khoa học tin tưởng rằng Thuyết Tương Đối của nhà Đại Bác Học Albert Einstein là đúng. Tuy sức tàn phá của quả bom Nguyên Tử quá khủng khiếp, song người ta vẫn phải trầm trồ khen ngợi một nhà bác học trẻ tuổi, cha đẻ ra quả bom A này. Giáo Sư J. Robert Oppenheimer, Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Nguyên Tử Lực tại Los Alamos thuộc tiểu bang New Mexico, Hoa Kỳ, trái lại rất chán nản về phát minh của mình. Và chính ông Julius Oppenheimer cũng không ngờ người con trai của mình lại trở nên một nhà bác học danh tiếng đến như thế, vì ông Julius chỉ ước mong con trai trở thành một công dân trên trung bình. 1/ Thuở trẻ của Robert Oppenheimer. Ông Julius Oppenheimer gốc người Do Thái, từ nước Đức sang Hoa Kỳ lập nghiệp và hoạt động trong ngành xuất cảng vải sợi tại thành phố New York. Vốn là một đại thương gia, ông đã nhiều lần cùng con trai sang thăm châu Âu. Ngay từ thuở nhỏ, Robert đã tỏ ra là một cậu bé thông minh và hiếu học. Cậu theo ban trung học trong thành phố New York. Các sách viết bằng tiếng La Tinh, Hy Lạp, đối với cậu không khó và môn Vật Lý được cậu ưa chuộng nhất. Trong các câu chuyện giữa chúng bạn, Robert bàn luận rõ ràng, cậu ghét tính ba hoa và ưa tư lự. Phải chăng tính ưa thích cô độc là một đặc tính của các nhà bác học? Vào một dịp hè, ông Julius dẫn con trai đến phòng thí nghiệm của Giáo Sư Auguste Klock, xin cho con theo học thêm về môn Hóa Học. Robert tiến bộ đến nỗi cậu ngốn hết cả chương trình một niên học trong 6 tuần lễ. Ông Klock đã phải ngạc nhiên về trí thông minh của cậu học trò mới này và đã nói : "Cậu Robert học khá đến nỗi không vị Giáo Sư nào nỡ cấm cản không cho cậu học thêm bài mới". Khi bước chân vào trường Đại Học Harvard, Robert đã say sưa với các sách báo của thư viện nhà trường. Các tác phẩm triết học Đông Phương cũng như Tây Phương đã làm chàng thanh niên này đam mê, suy nghĩ. Trong 3 năm trường, chàng đã theo 6 môn học chính và 2 môn học phụ, trong khi các sinh viên khác chỉ có thể học tối đa 5 môn học. Rồi vào năm 1925, Robert Oppenheimer tốt nghiệp trường Đại Học Harvard với hạng ưu và lời khen ngợi của Hội Đồng Giáo Sư. Sau đó chàng sang nước Anh và ghi tên vào trường Đại Học Cambridge. Tại Cơ Sở Thí Nghiệm Cavendish, chàng được theo học Giáo Sư J. Thomson và Lord Rutherford là các nhà tiền phong về khảo cứu nguyên tử và cũng là các nhà bác học lừng danh thời bấy giờ. Chàng cũng được gặp gỡ các nhà bác học lỗi lạc Niels Bohr người Đan Mạch, Paul Dirac người Anh và Max Born người Đức. Ông Max Born mời chàng sang Đức theo học tại trường Đại Học Goettingen. Từ xưa, nước Đức vẫn nổi tiếng về Khoa Học và Đại Học Đường Goettingen là một ngôi trường danh tiếng của châu Âu. Robert Oppenheimer sang Đức và sau 6 tuần lễ ghi tên, chàng đã đậu văn bằng Tiến Sĩ, năm đó chàng mới 23 tuổi. Các Giáo Sư đều khen ngợi bản luận án xuất sắc của chàng về Nền Cơ Học Lượng Tử (la Mécanique Quantique). Ít lâu sau, chàng lại sang Thụy Sĩ, theo học trường Bách Khoa Zurich là một trong các trường kỹ thuật danh tiếng nhất của châu Âu. Khi Robert trở về Hoa Kỳ, ông Julius hết sức ngạc nhiên vì thấy con trai gầy còm chẳng khác gì một chiếc gậy. Thân hình cao lỏng khỏng, má hóp, ngực lép, chàng Robert lại húng hắng ho. Ông Julius liền tìm cách cho con trai đi nghỉ ngơi tại miền quê để dinh dưỡng cơ thể. Ông mua ngay cho con một nông trại trong tiểu bang New Mexico. Tại nơi đây, cả ngày ngồi trên yên ngựa, chàng Robert ngao du khắp các đồi núi. Cái nông trại miền New Mexico này không giống với các nông trại khác. Nơi đây vắng vẻ, hiu quạnh, khiến cho người ta có cảm tưởng một bãi sa mạc hơn là một miền đồng quê. Nhờ hít thở không khí trong lành và nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, Robert Oppenheimer đã hoàn toàn bình phục. Năm 1928, Viện Kỹ Thuật California (the California Institute of Technology = C.I.T.) là nơi tụ tập các nhà vật lý danh tiếng trên thế giới, đã gửi giấy mời ông Robert Oppenheimer giữ chức Giáo Sư của Viện. Trường Đại Học California tại Berkeley (the University of California at Berkeley) cũng đón mời. Ông Robert Oppenheimer nhận lời giảng dạy tại cả hai trường. Trong hơn 10 năm giảng huấn, ông Robert Oppenheimer đã được cảm tình của hầu hết sinh viên. Họ đã gọi ông giáo sư trẻ 24 tuổi này là Oppie cho tiện và thân mật. Tuy giữ chức Giáo Sư Đại Học nhưng Giáo Sư Oppie lúc nào cũng bình dị và nội tâm của ông vẫn là một chàng sinh viên ưa hoạt động và hiếu học. Robert Oppenheimer không e ngại khi chính mình phải học thêm một môn học nào đó. Cũng vì vậy ông tìm tới Giáo Sư Arthur Ryder là nhà bác học chuyên về Triết Lý Ấn Độ và xin học chữ Phạn. Đây là sinh ngữ thứ tám của ông nhưng đối với ông cũng không khó và ít lâu sau, ông đã hiểu thấu nền triết học rất uyên thâm và phức tạp này. 2/ Thời kỳ khảo cứu Nguyên Tử. Từ thập niên 1920, các lý thuyết mới về Quang Tử (Quantum) và Thuyết Tương Đối (Relativity Theories) đã gây chú ý trong giới Khoa Học nên các khảo cứu ban đầu của ông Robert Oppenheimer là về các hạt hạ nguyên tử (subatomic particles), gồm cả các âm điện tử (electrons), dương điện tử (positrons) và các tia vũ trụ (cosmic rays). Ngoài ra, ông còn huấn luyện một thế hệ mới các nhà vật lý Hoa Kỳ và những khoa học gia này chịu ảnh hưởng của Robert Oppenheimer cả về tinh thần độc lập lẫn tài lãnh đạo. Từ năm 1933, sự việc Adolf Hitler lên nắm quyền tại nước Đức đã khiến cho ông Robert Oppenheimer quan tâm tới chính trị. Vào năm 1936, ông Oppenheimer đứng về phe các người cộng hòa trong cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha đồng thời ông cũng có cơ hội làm quen với các người Cộng Sản. Nhưng các thảm cảnh mà Joseph Stalin gây ra đối với các nhà Khoa Học Nga đã khiến cho ông Oppenheimer không còn giao du với đảng Cộng Sản nữa mà chỉ là một người theo lý thuyết dân chủ cấp tiến (liberal democratic philosophy). Năm 1943, Thế Chiến Thứ Hai đang ở vào thời kỳ khốc liệt. Các gián điệp của Hoa Kỳ báo tin rằng các nhà bác học Đức đã tìm ra Nguyên Tử và đang tìm cách áp dụng kỹ thuật này vào khí giới chiến tranh. Vì vậy Hoa Kỳ phải quyết định mở một cuộc chạy đua kỹ thuật nguyên tử và Lục Quân Hoa Kỳ được giao cho trách nhiệm tổ chức các nhà khoa học người Anh và người Mỹ để tìm ra một phương pháp chế ngự năng lượng nguyên tử dùng cho các mục đích quân sự. Theo đề nghị của Tướng Leslie Groves, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã mời ông Robert Oppenheimer giữ chức Giám Đốc Trung Tâm Khảo Cứu Nguyên Tử Lực của Hoa Kỳ và Trung Tâm này có mục đích chế tạo ra bom nguyên tử. Thực ra, việc bổ nhiệm này cũng hơi lạ lùng. Tuy Robert Oppenheimer nổi tiếng về ngành chuyên môn của mình tức là ngành Vật Lý Nguyên Tử, nhưng ông chỉ giỏi về mặt lý thuyết, suốt ngày sống giữa tấm bảng đen và những con số mà chưa hề sáng chế về máy móc hay điều khiển một trung tâm khảo cứu nào. Vào thời kỳ đó, tại Hoa Kỳ không thiếu gì các nhà bác học lừng danh từ châu Âu chạy sang tị nạn như Albert Einstein, Niels Bohr, Enrico Fermi. . . và ngay cả trong ngành Nguyên Tử cũng không thiếu gì các Giáo Sư tài ba, nhiều tuổi hơn Robert Oppenheimer, uy tín cao hơn để xứng đáng giữ trọng trách điều khiển Trung Tâm. Việc chế tạo bom nguyên tử là một công trình vĩ đại, nó đòi hỏi ở người chỉ huy những đức tính mà chưa chắc gì một Giáo Sư Đại Học đã có đủ, và còn cần tới một tài năng không những thuộc về địa hạt Khoa Học mà còn thuộc cả về địa hạt Kỹ Nghệ và Quản Trị nữa. Dự Án Manhattan, tên riêng của dự án chế tạo bom nguyên tử, được Tướng Leslie Groves thi hành. Ông này đã tín nhiệm Robert Oppenheimer hơn là các nhà bác học đương thời danh tiếng khác. Từ giã Đại Học Đường, Robert Oppenheimer với tuổi 38, đã tỏ ra là một nhân vật xứng đáng giữ trọng trách đó. Ông đã thu được cảm tình của hầu hết các nhà bác học tài ba dưới quyền cũng như đối với các chuyên viên. Trung tâm nghiên cứu nguyên tử lực đầu tiên của Hoa Kỳ được đặt tại Los Alamos, gần thành phố Santa Fe trong tiểu bang New Mexico, nơi mà trước kia, ông Oppenheimer đã từng lang thang trên yên ngựa, đã biết từng đồi cát tới các con đường mòn. Nhà máy nguyên tử này thật là lạ lùng: nó vừa là nhà máy vì gồm có các cơ xưởng lớn, vừa giống như một tu viện vì mọi người làm việc quần quật suốt ngày, lại giống một trại lính vì đóng ở giữa sa mạc, chung quanh có hàng rào kẽm gai bao bọc và được canh phòng cẩn mật. Trung tâm nguyên tử này có số vốn ban đầu là 60 triệu mỹ kim, lúc đầu chỉ gồm 400 người nhưng chẳng bao lâu tăng lên tới 4,500 công nhân. Người ta cố gắng làm việc nhưng vào thời kỳ đó, chưa ai có thể tiên đoán được sức phá nổ của nguyên tử vì từ trước tới giờ, lý thuyết nguyên tử vẫn còn nằm trong vòng giả thuyết. Tại trung tâm nghiên cứu, ông Robert Oppenheimer bắt đầu tìm kiếm một phương pháp tách chất Uranium - 235 ra khỏi Uranium thiên nhiên và xác định khối lượng tới hạn (critical mass) của Uranium là chất để làm ra quả bom. Trong giai đoạn nghiên cứu này, ông Robert Oppenheimer đã làm việc hơn 20 giờ mỗi ngày, người gầy dộc đi đến nỗi chỉ còn nặng 52 kilô, trọng lượng này thật là quá ít đối với một người cao 1,82 mét. Ngày 16 tháng 7 năm 1945 là ngày quả bom nguyên tử đầu tiên được cho phát nổ thử tại sa mạc Alamogordo trong tiểu bang New Mexico. Một làn chớp sáng lòa rồi tiếp sau là một tiếng nổ long trời, làm cho mọi người tưởng chừng như được chứng kiến một trận động đất dữ dội vậy. Sau đó, khói đen bốc lên cao ngất trời theo hình một chiếc nấm vĩ đại. Trước cảnh tàn phá của thứ khí giới mới khủng khiếp này, ông Robert Oppenheimer mới nhớ tới một câu trong quyển Kinh Ấn Độ Bhagavad-Ghita : "Ta đã trở nên Tử Thần và làm cho nhiều Thế Giới run sợ, hãi hùng". Sau khi 2 quả bom nguyên tử A thả xuống đất Nhật và chấm dứt chiến tranh, mọi người đều gọi ông Robert Oppenheimer là cha đẻ ra thứ bom A đó. Nhưng riêng Giáo Sư Robert Oppenheimer lại bắt đầu ngờ vực thứ võ khí khủng khiếp mà ông đã dày công chế tạo. Võ khí nguyên tử không những ảnh hưởng đặc biệt tới quân sự mà còn trở nên vấn đề liên quan tới nền Đạo Đức nữa. Sự tàn phá của bom nguyên tử lúc phát nổ rồi ảnh hưởng của bụi phóng xạ khi chất này tỏa rộng, lẫn vào trong không khí mà rơi xuống đại dương, theo gió mà bay tới các lục địa xa xôi, khiến cho mọi người e ngại về sự tồn vong của Nhân Loại. Trong khi ông Robert Oppenheimer hối hận vì phát minh của mình thì vài nhà bác học khác lại nghĩ tới việc chế tạo một thứ bom khủng khiếp gấp ngàn lần: bom khinh khí H. Người ủng hộ dự án này một cách nhiệt liệt nhất là nhà bác học Edward Teller, người Mỹ gốc Hungary. Vì vậy tại Hoa Kỳ vào thời bấy giờ, có hai phe, người ủng hộ dự án chế tạo bom H, kẻ phản đối thứ khí giới quá khốc liệt đó. Trong khi chính quyền Hoa Kỳ còn đang phân vân thì thình lình, người ta báo tin rằng Liên Xô đã cho nổ thử một trái bom nguyên tử. Tin sét đánh này làm cho nhiều người sửng sốt, phe ủng hộ dự án chế tạo bom H đã thắng và Tổng Thống Harry Truman hạ lệnh chế tạo bom H đó. Được biết tin như vậy, ông Robert Oppenheimer liền bước ra khỏi phòng khảo cứu và tuyên bố dứt khoát: "Tôi không phải là một lái súng, tôi chỉ là một nhà bác học". Ông Robert Oppenheimer từ chức Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Nguyên Tử vào tháng 8 năm 1945. Từ năm 1947 tới năm 1953, ông Robert Oppenheimer là Giám Đốc của Viện Nghiên Cứu Cao Cấp thuộc trường Đại Học Princeton (the Institute for Advanced Study at Princeton University) và cũng là Chủ Tịch của Ủy Ban Cố Vấn của Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ (the U.S. Atomic Energy Commission = AEC). Ông cũng là vị cố vấn cho Bộ Quốc Phòng Mỹ và giúp công vào việc soạn thảo bản đề nghị đầu tiên của Hoa Kỳ về việc kiểm soát quốc tế năng lượng nguyên tử. Năm 1953, một số tài liệu nguyên tử của Hoa Kỳ bị mất cắp. Phong trào chống Cộng Sản tại Mỹ đang lên bồng bột. Các nhà bác học nguyên tử là những người bị nghi ngờ. Ông Robert Oppenheimer cũng ở trong số đó. Hơn nữa, ông có giao du với một số phần tử Cộng Sản. Sở phản gián đã gom góp được nhiều tài liệu để kết tội ông. Các địch thủ của ông hùa nhau vào để hạ ông. Cũng có nhiều người đứng ra bào chữa cho ông như nhà Đại Bác Học Albert Einstein và Phó Tổng Thống Richard Nixon. Vào tháng 4 năm 1954, ông Robert Oppenheimer bị lôi ra trước một ủy ban điều tra của Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử nhưng Tổng Hội Các Nhà Khoa Học Mỹ (the Federation of American Scientists) đã lên tiếng bảo vệ ông Oppenheimer trước tòa án. Vụ xét xử về an ninh này đã công bố rằng ông Robert Oppenheimer không phạm tội phản bội nhưng ông không được phép tiếp xúc với các bí mật quân sự. Kết quả là chức vụ cố vấn cho Ủy Ban Nguyên Tử Lực Hoa Kỳ của ông bị hủy bỏ. Sự lên án này đã làm sôi nổi dư luận tại Hoa Kỳ và tại châu Âu. Ông Robert Oppenheimer là một biểu tượng quốc tế của các nhà Khoa Học cố gắng giải quyết các vấn đề đạo đức (moral problems) sinh ra trong công cuộc khám phá Khoa Học và ông cũng trở nên một nạn nhân của công cuộc săn tìm phù thủy (a witch-hunt). Tuy đã bị mất chức, nhưng từ năm 1947 tới năm 1966, ông Robert Oppenheimer vẫn còn là Giám Đốc của Viện Nghiên Cứu Khoa Học Cao Cấp tại Princeton thuộc tiểu bang New Jersey. Tại Viện Khảo Cứu của tư nhân này, các nhà bác học lỗi lạc được tự do tìm tòi, làm sao cho thiên tài của họ được phát triển tối đa. Vào năm 1963, Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ đã trao tặng ông Robert Oppenheimer phần thưởng Enrico Fermi. Đây là danh dự cao quý nhất để khen thưởng các đóng góp của ông vào nền Vật Lý Lý Thuyết. Nhiều người cho rằng công việc này là một cố gắng của Chính Phủ Hoa Kỳ để sửa chữa lỗi lầm khi trước. Ông Robert Oppenheimer về hưu năm 1966 và qua đời vào ngày 18 tháng 2 năm 1967 tại thành phố Princeton vì bệnh ung thư cổ. Khi còn sinh thời, ngoài việc nghiên cứu Khoa Học và viết sách, ông Robert Oppenheimer còn ham thích các môn Hội Họa và Âm Nhạc. Phải chăng hai Nghệ Thuật này là các món ăn phụ của các đầu óc Khoa Học phi thường?.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 29, 2011 2:37:59 GMT 9
Louis PasteurVietsciences-Phạm Văn Tuấn và Võ Thị Diệu Hằng Louis Pasteur (1822-1895) chế thuốc chủng ngừa bệnh chó dại "Tôi mong các bạn dành sự quan tâm cho những lãnh địa thiêng liêng rất nhạy cảm có tên là phòng thí nghiệm. Mong sao những lãnh địa này sẽ nhiều hơn và chúng sẽ được tô điểm để trở thành những ngôi đền của tương lai, của thịnh vượng và sức khỏe. Đây là nơi nhân loại sẽ lớn lên, vững mạnh và hoàn thiện. Nơi đây, loài người sẽ học cách đọc được sự phát triển và sự hài hòa cá nhân trong những công việc của thiên nhiên, trong khi đó công việc của chính loài người lại thường là man rợ, cuồng tín và phá hoại" - Louis Pasteur Phòng thí nghiệm của Pasteur tại Ecole Normale de Paris Vi trùng bệnh chó dại 1/ Chữa bệnh chó dại 2/Thuở thiếu thời của Louis Pasteur Tuổi trẻ của Louis Pasteur đã không cho thấy các dấu hiệu của một nhà khoa học, một nhà khảo cứu tìm hiểu về các bí ẩn căn bản của đời sống con người. Khi lên 13 tuổi, Louis Pasteur là một cậu bé có tài về hội họa với các bức chân dung bà mẹ và các người chị, các bức vẽ giòng sông chảy gần nhà. Louis Pasteur ra đời vào ngày 27-12-1822 tại Dôle, một tỉnh nhỏ nằm bên giòng sông Doubs, trong một căn nhà nhỏ trên đường "Các thợ thuộc da" (Rue des Tanneurs). Cha của Louis là ông Jean Pasteur, trước kia là một trung sĩ trong đạo quân của Napoléon Bonaparte, nay làm thợ thuộc da. Năm 1827, ông Jean Pasteur đem gia đình dọn qua tỉnh Arbois và căn nhà mới ở gần giòng sông Cuisance và sau nhà là một hố lớn để ngâm các bộ da bò và da cừu. Trong thời gian theo bậc trung học, Louis Pasteur đã không tỏ ra là một học sinh xuất sắc nhưng lại là một con người kiên nhẫn với thói quen làm việc cần mẫn. Hai năm trước khi tốt nghiệp trung học, Louis Pasteur được ông hiệu trưởng Romanet khuyên nên thi vào Trường Cao Đẳng Sư Phạm (Ecole Normale Supérieure), một ngôi trường danh tiếng chuyên đào tạo các giáo sư về Khoa Học, Lịch Sử, Văn Chương và Nghệ Thuật. Mùa thu năm 1838, khi 15 tuổi, Louis Pasteur đã cùng với người bạn tên là Jules, lên xe ngựa để đi Paris, cách Arbois 250 dậm (400 km). Sống trong một ký túc xá tại Paris, Louis cảm thấy quá nhớ nhà nên một tháng sau, ông Jean Pasteur phải lên Paris, đón con trở về. Louis Pasteur tiếp tục học trung học tại Arbois rồi theo Đại Học Besancon cách nhà 25 dậm (40 km). Vào thời gian này, cậu Louis nổi tiếng về vẽ chân dung nhưng cậu vẫn không quên ước mơ thi vào Trường Cao Đẳng Sư Phạm. Tháng 8 năm 1842, Louis Pasteur tốt nghiệp đại học Besancon với các hạng ưu về vật lý, toán học và tiếng La Tinh rồi thi đậu vào Trường Cao Đẳng kể trên, với hạng 15 trên tổng số 22 sinh viên được tuyển chọn trên toàn nước Pháp. Louis đã không vừa lòng với kết quả này nên đã từ chối, không theo học và đây là một điều khác biệt với các sinh viên cùng lứa tuổi. Năm sau, 1943, trong kỳ dự tuyển lần thứ hai, Louis Pasteur đứng hạng 4, theo học phân khoa Khoa Học để sau này trở nên một giáo sư về Vật Lý và Hóa Học. Vào thời kỳ này, Paris là nơi cung cấp các cơ hội học hành tốt đẹp nhất cho giới thanh niên, và các sinh viên ưa thích các bài giảng của Jean Baptiste Dumas, một Giáo sư Hóa Học danh tiếng. Louis Pasteur đã viết thư về cho gia đình, cho biết: "rất đông sinh viên tới nghe các buổi diễn giảng của Giáo Sư Dumas. Giảng đường rất lớn mà luôn luôn hết chỗ. Chúng tôi phải đến trước nửa giờ để chiếm chỗ ngồi tốt, như thể trong rạp hát…". Ngoài Giáo Sư Dumas, các sinh viên còn mến phục các nhà khoa học khác như nhà vật lý Jean Baptist Biot, nhà hóa học Antoine Jerome Balard… Năm 1845, Louis Pasteur là một trong bốn sinh viên tốt nghiệp và các giáo sư giảng dạy đã ghi chú về Pasteur như sau: "… sẽ trở nên một giáo sư xuất sắc". Sau đó Louis Pasteur chỉ xin được một việc làm tại phòng thí nghiệm của Giáo Sư Balard và bắt đầu nghiên cứu về bản chất của các tinh thể (crystals). Vào đầu thế kỷ 19, giáo sư Biot đã khám phá thấy rằng các tinh thể của vật chất có đặc tính làm lệch tia sáng chiếu đến, và có loại làm lệch qua bên phải, lại có loại làm lệch qua bên trái. Louis Pasteur bắt đầu khảo sát một loạt các hợp chất gọi là axít tartaric và các muối tartrate. Có hai loại tinh thể axít tartaric được tạo thành bên trong thùng rượu nho khi nước nho lên men, thế nhưng đã có một bí ẩn vì một loại dung dịch axít kể trên làm lệch ánh sáng trong khi loại thứ hai không có đặc tính đó. Sau cả ngàn lần quan sát qua kính hiển vi, Louis Pasteur đã nhận ra rằng trong số các mặt nhỏ của hai loại tinh thể axít tartaric, chỉ có một mặt nhỏ khác nhau về độ dốc. Khám phá mới của Louis Pasteur đã là căn bản cho một thứ hóa học mới của thời kỳ bấy giờ, đó là ngành hóa học ba chiều (stereo chemistry). Tháng 1 năm 1849, sau khi tốt nghiệp văn bằng Tiến Sĩ Khoa Học, Louis Pasteur nhận chức vụ giảng sư về hóa học tại trường Đại Học Đường Strassbourg và vào tuổi 26, Louis Pasteur quen cô Marie Laurent, ái nữ của vị viện trưởng đại học. Họ cử hành hôn lễ vào ngày 29-5-1848 và từ đây, bà Marie đã lo lắng mọi công việc gia đình, để chồng chuyên tâm nghiên cứu Khoa Học. Tại Strassbourg, 3 trong 5 người con đã ra đời: cô gái Jeanne sinh năm 1850 rồi một năm sau là người con trai Jean Baptiste và hai năm sau nữa là cô gái Cécile. 3/ Nghiên cứu vi trùng. Vào tháng 9 năm 1954, Louis Pasteur được Bộ Trưởng Giáo Dục Pháp bổ nhiệm làm Giáo Sư Hóa Học và Khoa Trưởng Khoa Học tại Đại Học Lille. Đây là một ngôi trường mới được thành lập tại trung tâm kỹ nghệ rất giàu có thuộc miền bắc của nước Pháp. Louis Pasteur với tuổi 32, đã được giao trọng trách là giáo dục các sinh viên làm sao đáp ứng được các nhu cầu thực tế của địa phương. Giáo Sư Pasteur đã khởi đầu một quan niệm giáo dục rất tiến bộ đối với thời bấy giờ, đó là lập ra các lớp học buổi tối dành cho các công nhân trẻ của thành phố kỹ nghệ, đồng thời ông cũng dẫn các sinh viên ban ngày đi thăm viếng các nông trại và các nhà máy lớn. Pasteur đã từng nói: "không có hai loại Khoa Học mà chỉ có Khoa Học và các áp dụng của Khoa Học. Hai thứ này liên kết với nhau như trái cây mọc ra từ cành cây". Tại vùng Lille, có rất nhiều nhà máy nấu rượu. Người ta đã cho men vào nước nho và sau tiến trình lên men, nước nho trở thành rượu chát. Nhưng vào thời kỳ đó, không ai biết rõ tại sao đã có những biến đổi này. Các nhà khoa học chỉ nói về tiến trình lên men là "lạ lùng và còn bí ẩn ". Vào một ngày mùa hè năm 1856, ông Bigo là chủ của một lò nấu rượu đã tới trường đại học, thăm viếng Giáo Sư Pasteur. Ông Bigo đã trình bầy rằng một dung dịch củ cải đường thường được chuyển thành rượu nhưng lần này, nó đã trở thành dấm chua. Các nhà sản xuất rượu khác cũng báo cáo cùng một trở ngại và đây là một điều xấu cho nền kỹ nghệ trong vùng bởi vì sự lên men dấm đã gây thiệt hại hàng ngàn quan tiền trong một ngày. Không ai biết rõ nguyên do đã sinh ra sự lên men rượu, tại sao rượu trở thành dấm chua. Ông Bigo hi vọng rằng vị Giáo Sư Pasteur dạy người con trai của ông, sẽ cho các lời khuyên. Vì vậy Louis Pasteur đã tới thăm nhà máy nấu rượu và đã lấy các mẫu dung dịch của cả loại tốt lẫn loại đã bị hư hỏng. Qua kính hiển vi, Louis Pasteur nhận thấy rằng các tế bào men rượu (ferments) ở dạng hình tròn rất nhỏ, nhưng trong dung dịch bị hư hỏng, các tế bào tròn đó đã bị các tế bào hình que lấn át. Louis Pasteur gọi các tế bào men rượu là "wee germs" (vi trùng) (sau này được gọi là các vi sinh vật = microorganisms). Ông nhớ lại công trình khảo cứu của nhà khoa học Charles Cagniard-Latour theo đó các tế bào men rượu đã sinh sản bằng cách mọc mầm (budding). Pasteur đặt giả thuyết rằng nếu các tế bào này sinh sản được thì chúng có sự sống và đã sống nhờ đường trong dung dịch củ cải đường và biến dung dịch này thành rượu. Louis Pasteur đã cấy men trong nhiều loại dung dịch đường và đã nhìn thấy qua kính hiển vi các tế bào men rượu sinh sôi nẩy nở, ngay cả trong một môi trường nhân tạo thiếu khí oxygen, quan niệm này trở thành hiệu ứng Pasteur (the Pasteur effect). Khi nghiên cứu về dung dịch sữa là thứ dễ bị hư hỏng, Louis Pasteur cũng thấy sữa trở thành chua khi có nhiều loại tế bào hình que, loại đã thấy trong dung dịch củ cải đường bị hư hỏng của ông Bigo. Do sự khám phá của mình, Giáo Sư Pasteur đã khuyên các nhà nấu rượu nên dùng kính hiển vi để khám xét các thùng rượu đang lên men. Năm 1857, sau hai năm khảo cứu về dung chất củ cải đường, ông Pasteur phổ biến một báo cáo về sự lên men theo đó có hai loại men, một loại có ích đã biến dung dịch củ cải đường thành rượu và một loại có hại, hình que, chỉ dài bằng 0.001 mm. Báo cáo về sự lên men do các vi sinh vật gây nên, đã tạo ra một cơn bão phản đối trong giới khoa học vì một số nhà khoa học thời đó tin rằng sự lên men là do phản ứng giữa các chất thành phần. Nhiều nhân viên của Hàn Lâm Viện cũng không chấp nhận các chứng cớ nêu ra. Tuy thế, Giáo Sư Louis Pasteur vẫn tiếp tục nghiên cứu. Cuối năm 1857, Louis Pasteur được gọi về Trường Cao Đẳng Sư Phạm tại thủ đô Paris và làm giám đốc khảo cứu khoa học. Vào thời gian này, Louis Pasteur đã gặp các khó khăn mà các nhà khoa học đương thời cùng phải chịu đựng: phòng khảo cứu không được trang bị đầy đủ dụng cụ, không có ngân khoản và các tiện nghi khác. Ông Pasteur phải dùng tiền riêng của mình để biến đổi hai phòng trên lầu của nhà trường thành một nơi khảo cứu. Louis Pasteur tìm cách bác bỏ lý thuyết về sự sinh sản tức thời (spontaneous generation). Ông tin rằng trong không khí có các vi trùng, vì vậy ông đã nghĩ ra một cách thí nghiệm theo đó dung dịch nước đường được đun sôi và chứa trong hai bình thủy tinh khác nhau, một bình được gắn kín còn bình kia để mở ra không khí. Sau vài ngày, dung dịch trong bình thông với không khí đã bị hư hỏng, trái với dung dịch kia. Louis Pasteur cũng làm thí nghiệm với các loại dung dịch khác như sữa, nước canh… và đã chứng minh được rằng vi trùng từ bên ngoài không khí xâm nhập vào các dung dịch. Nhưng các nhà khoa học phản đối vẫn cho rằng việc gắn kín bình đã làm ngưng lại sự sinh sản tức thời. Ông Pasteur bèn nghĩ thêm một cách khác, dùng tới loại bình chứa dung dịch có cổ dài uốn theo hình chữ S nhờ đó dung dịch bên trong vẫn tiếp xúc với không khí mà không bị bụi chứa vi trung xâm nhập. Louis Pasteur còn khảo sát ảnh hưởng của không khí có chứa vi trùng tại nhiều địa điểm như trong hầm rượu, trên đồi miền Arbois và trên miền núi cao Mont Blanc. Chính vào thời kỳ ông Pasteur bận tâm khảo cứu thì người con gái đầu lòng của ông tên là Jeanne mắc bệnh sốt thương hàn và qua đời vào tháng 9 năm 1859. Tháng 11 năm 1860, Giáo Sư Louis Pasteur báo cáo trước Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp về các kết quả thí nghiệm của mình theo đó, bụi trong không khí là nguyên do làm hư hỏng các dung dịch. Louis Pasteur đã nghĩ ra một phuong pháp làm sạch vi trùng mà ngày nay được gọi là cách khử trùng Pasteur (pasteurization). Nhờ phương pháp này, các thực phẩm có thể lưu trữ được lâu hơn và được chuyên chở mà không bị hư thối. Ngày 8-12-1862, Louis Pasteur được bầu vào Hàn Lâm Viện Khoa Học, một danh dự cao quý nhất của các nhà khoa học người Pháp. Các công trình nghiên cứu của ông Pasteur đã mở đường cho nhiều sinh viên và nhà khoa học khác tìm kiếm các vi trùng tại các phạm vi khác nhau. 4/ Nghiên cứu về các bệnh truyền nhiễm. Do yêu cầu của Bộ Trưởng Canh Nông, Giáo Sư Dumas đã khẩn khoản nhờ ông Louis Pasteur xuống miền Nam nước Pháp để nghiên cứu về bệnh tầm, một bệnh dịch đang tàn phá nền kỹ nghệ tơ lụa của địa phương. Miễn cưỡng phải nhận lời, nhà khoa học Pasteur đã ra đi cùng với người học trò giỏi nhất là Emile Duclaux và vài sinh viên khác. Nhóm nhà nghiên cứu này cư ngụ tại làng Alais. Louis Pasteur đã tìm đọc tất cả các tài liệu viết về con tầm, cách nuôi tầm cũng như dùng kính hiển vi để quan sát các mầm bệnh đã giết hại loài tầm. Ông đã làm việc không ngừng trong khi hoàn cảnh gia đình của ông gặp các bất hạnh liên tục: ông Jean Pasteur qua đời rồi tới lượt người con gái Camille, 2 tuổi, thiệt mạng vào tháng 9-1865 vì bệnh sốt thương hàn. 10 tháng sau tới lượt người con gái Cécile, 13 tuổi, cũng chết vì bệnh sốt kể trên. Do bị căng thẳng và buồn phiền, ông Pasteur đã bị tai biến mạch máu não vào đêm 19-10-1868. Nhiều người đã tưởng nhà bác học qua đời thế nhưng chỉ 3 tháng sau, mặc dù bị liệt một phần thân thể, Giáo Sư Pasteur vẫn trở lại với các công trình nghiên cứu. Năm 1870, Louis Pasteur cho phổ biến một báo cáo về bệnh tầm do một loại vi trùng ký sinh. Ông đã chỉ dẫn cách tìm ra các con tầm mắc bệnh và cách dùng loại trứng tầm tốt để tạo nên các con tầm khỏe mạnh, và phương pháp này đã được các nhà chăn nuôi khắp châu Âu xử dụng. Cũng vào năm này, bùng nổ cuộc chiến tranh giữa nước Pháp và nước Phổ khiến cho ông Pasteur phải rời khỏi thành phố Paris. Ông trở lại nơi này vào cuối năm 1871, khi chiến tranh chấm dứt với các bệnh viện tràn ngập các binh sĩ bị thương. Nhà bác học Pasteur vì vậy đã nghiên cứu các vết thương và đã khuyên các bác sĩ phải chú tâm về vấn đề vệ sinh khi chữa trị bệnh nhân. Mấy năm về trước tại xứ Tô Cách Lan, Giáo Sư về khoa Giải Phẫu Joseph Lister của Đại Học Đường Edinburgh, đã đọc các luận chứng của Louis Pasteur về vi trùng rồi tìm hiểu nguyên do các bệnh nhân bị nhiễm trùng. Từ năm 1867, ông Joseph Lister đã dùng dung dịch axít carbolic để khử trùng các dụng cụ y khoa, các vết thương và các bàn tay của bác sĩ giải phẫu nhờ đó đã làm giảm số tử vong của các bệnh nhân được 97 phần trăm. Năm 1874, trong bức thư gửi cho Louis Pasteur, Joseph Lister xác nhận rằng nhờ lý thuyết về vi trùng của nhà bác học người Pháp mà ông đã thực hiện được hệ thống thanh trùng (antiseptic system). Louis Pasteur không phải là một bác sĩ y khoa nhưng các khảo cứu của ông về vi trùng, về các bệnh truyền nhiễm đã khiến cho nhà bác học được bầu vào Hàn Lâm Viện Y Học của nước Pháp vào năm 1873. Nhà bác học Pasteur lại có các phụ tá trẻ tuổi tài giỏi: bác sĩ Jules-Francois Joubert, bác sĩ Emile Roux và bác sĩ Charles Chamberland… và phòng nghiên cứu của ông vẫn tìm kiếm nhiều phương pháp kiểm soát các vi trùng gây bệnh. Sau 20 năm nghiên cứu, các khám phá về vi trùng và bệnh truyền nhiễm của Louis Pasteur đã được phổ biến qua tác phẩm "Lý thuyết về vi trùng và áp dụng trong Y Khoa và Giải Phẫu" (The Germ Theory and its Application to Medicine and Surgery). Tác phẩm này cắt nghĩa sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm và từ nay, các nhà khoa học bắt đầu tìm hiểu về các bệnh dịch như đậu mùa, dịch tả… Vào thời kỳ đó, tại miền đông của nước Phổ có bác sĩ Robert Koch đang tìm hiểu nguyên nhân gây ra bệnh than, một thứ bệnh giết hại rất nhiều cừu và các gia súc khác. Tháng 4 năm 1876, bác sĩ Kock đã dùng kính hiển vi, tìm ra loại vi trùng gây bệnh than, được đặt tên là "bacillus anthracis". Như vậy bác sĩ Koch đã chứng minh lý thuyết về vi trùng của nhà bác học Pasteur. Năm 1878, Louis Pasteur khởi đầu nghiên cứu vi trùng gây ra bệnh dịch tả gà (chicken cholera). Nhà bác học đã nuôi vi trùng trong nước dùng gà (chicken broth) rồi dùng các liều độc chất từ yếu đến mạnh chích dần vào các con gà và đã thấy cơ thể gà chống cự được sự xâm nhập của vi trùng. Louis Pasteur đã gọi phương pháp này là chủng ngừa (vaccination) và ngày nay, kỹ thuật miễn dịch (technique of immunization) của nhà bác học vẫn còn được xử dụng. Luôn luôn nhà bác học Pasteur muốn chia xẻ các khảo cứu và khám phá của mình với các nhà khoa học khác. Năm 1881, Louis Pasteur thuyết trình về phép chủng ngừa trước Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp thế nhưng, ông vẫn gặp các nghi ngờ và chống đối. Một số người thắc mắc làm sao một nhà hóa học lại hiểu rõ về các bệnh tật của súc vật. Viên chủ nhiệm tạp chí Thú Y (the Veterinary Journal) đề nghị một công cuộc thử nghiệm công khai về thuốc chủng ngừa bệnh than (anthrax vaccine). Louis Pasteur nhận lời. Vào ngày 31-5-1881 tại nông trại Pouilly-le-Fort thuộc vùng Melun gần thủ đô Paris, các nông gia, các bác sĩ thú y, các nhà khoa học và nhân viên chính phủ đã chứng kiến Louis Pasteur cùng các cộng sự viên là Roux, Chamberland và Louis Thuillier chích ngừa nhóm 1 gồm 25 con cừu bằng các liều thuốc chủng từ yếu đến mạnh, còn nhóm thứ 2 cũng gồm 25 con cừu, được nuôi riêng để kiểm chứng. Sau đó, cả 50 con cừu đều được chích bằng liều vi trùng bệnh than cực mạnh. Kết quả là 25 con cừu của nhóm 2 đã chết và nhóm 1 đã được chủng ngừa không bị ảnh hưởng. Sự thành công thực là rực rỡ. Như vậy nhà bác học Pasteur đã khám phá ra một thứ võ khí hữu hiệu để chống lại một số bệnh truyền nhiễm. Tới cuối thập niên 1870, Louis Pasteur lại nghiên cứu về bệnh chó dại (rabies). Đây là một trong các bệnh khủng khiếp của nhân loại với hình ảnh các con chó điên, miệng sùi bọt, tấn công các người qua đường. Bằng các phương pháp tương tự khảo cứu về bệnh dịch tả gà, nhà bác học Pasteur đã không tìm ra được vi trùng bệnh chó dại trong máu của các con chó và thỏ mắc bệnh. Vào thời kỳ đó, các nhà khoa học như Pasteur chưa biết rằng các bệnh như bệnh than, bệnh dịch tả gà là do vi trùng (bacteria) nên có thể nhận ra qua kính hiển vi, còn nguyên nhân gây nên bệnh chó dại là các vi khuẩn (virus), chỉ nhìn thấy được bằng các kính hiển vi cực mạnh mà các nhà khoa học thuộc cuối thế kỷ 19 chưa có. Thế nhưng, do thấy người mắc bệnh chó dại bị co giật, Louis Pasteur đã cho rằng bộ óc và hành tủy (medulla oblongata) là nơi trú ẩn của các vi trùng bệnh chó dại. Nhà bác học Pasteur sau đó đã tìm ra loại thuốc chủng nhưng chưa có cơ hội áp dụng, cho tới ngày 6-7-1885, liều thuốc chủng đầu tiên của Louis Pasteur đã cứu sống em Joseph Meister. 5/ Di sản của nhà bác học Louis Pasteur. Vào năm 1888, một ủy ban khoa học độc lập đã trắc nghiệm thuốc chủng ngừa bệnh chó dại của Louis Pasteur và xác nhận thứ thuốc này an toàn. Một nhân viên trong ủy ban đã viết: "chúng tôi tin tưởng vào giá trị của khám phá do ông Louis Pasteur, và khám phá này còn có thể áp dụng cho các bệnh tật khác". Sau đó, Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp cổ động một chương trình gây quỹ để thành lập một viện nghiên cứu. Mọi người trên toàn thế giới đã gửi tới các đóng góp. Ngày 14-11-1888, Viện Pasteur được mở cửa để phục vụ cho sức khỏe công cộng và nhà bác học Pasteur đã mời nhiều nhà khoa học thuộc các bộ môn khác cùng nhau nghiên cứu. 15 bác sĩ và khoa học gia đã cộng tác với Viện Pasteur. Giáo Sư Pasteur cũng huấn luyện một số nhà khảo cứu trẻ, đáng kể là bác sĩ Roux và bác sĩ Alexandre Yersin đã tìm ra độc tố và cách chữa trị bệnh yết hầu (diphtheria), một căn bệnh đã giết hại hàng ngàn trẻ em mỗi năm, và một vị phụ tá xuất sắc nhất của Louis Pasteur là Elie Metchnikov đã phát hiện ra các cách cơ thể chống lại vi trùng, rồi nghiên cứu về tính miễn nhiễm. Ngày 27-12-1892, các nhà khoa học thuộc nhiều quốc gia đã họp mặt tại Đại Giảng Đường của Trường Đại Học Sorbonne ở Paris để kỷ niệm lần sinh nhật thứ 70 của Louis Pasteur. Nhà bác học Pasteur vì bị liệt nửa người bên trái, được Tổng Thống Pháp Sadi Carnot dìu vào Hội Trường. Rất nhiều nhân vật lừng danh trên thế giới đã lên tiếng ca ngợi ông Louis Pasteur, kể cả Giáo Sư Joseph Lister. Vì không đủ sức khỏe, nhà bác học Pasteur đã không đọc nổi bài diễn văn và người con trai của ông phải đọc thay ông. Sau đó các người ngưỡng mộ đến viếng thăm căn phòng thí nghiệm mà nhà bác học đã làm việc trong 6 năm cuối đời, trong số này có ông Charles Chappuis, người bạn cũ 50 năm và hiện là Viện Trưởng Danh Dự của Hàn Lâm Viện Dijion. Vào tháng 4 năm 1895, Louis Pasteur được đưa tới thăm phòng thí nghiệm của bác sĩ Roux và được mời coi qua kính hiển vi thứ vi trùng của bệnh dịch "plague bacillus" mới được tìm thấy một năm về trước và nhà bác học Pasteur đã phải thốt lên: "A ! thì ra còn quá nhiều việc phải làm". Ngày 28-9-1895, nhà bác học Louis Pasteur qua đời, linh cữu được quàn tại giáo đường mà ngày nay là Nhà Bảo Tàng của Viện Pasteur ở Thủ Đô Paris. Vào buổi tang lễ, một số công trình nghiên cứu của Louis Pasteur đã được trình bày trước dân chúng, gồm các tác phẩm: "Hóa học phân tử bất đối xứng" (Molecular dissymmetry, 1848), "Sự lên men"(Fermentations, 1857), "Về sự sinh sản tự nhiên"(Spontaneous generation, 1862), "Các khảo sát về rượu nho" (Studies of wine, 1863), "Các bệnh của loài tầm"(Silk worms diseases, 1865), "Các khảo sát về rượu bia" (Studies of beer, 1871), "Các bệnh truyền nhiễm" (Infectious diseases, 1877), "Thuốc chủng ngừa" (Vaccines, 1880), "Ngừa bệnh chó dại" (Prevention of rabies, 1885). Theo phương pháp khảo sát của Louis Pasteur, các nhà khoa học của phòng nghiên cứu của bác sĩ Robert Koch đã tìm ra độc tố của vi trùng bệnh uốn ván (tetanus toxin) vào năm 1890 rồi qua đầu thế kỷ 20, nhiều liều thuốc chủng ngừa hữu hiệu đã được khai triển để trị các bệnh đậu mùa, lao phổi, sốt vàng da, tê liệt (poliomyelitis), dịch tả, sởi, thương hàn, ho gà, cúm, dịch hạch… Các khảo cứu khoa học của Louis Pasteur đã là căn bản dùng cho hơn 100 phát minh của các Viện Pasteur và kể từ năm 1900, 8 khoa học gia của các Viện Pasteur đã đoạt được các Giải Thưởng Nobel lừng danh về Sinh Học và Y Khoa. Nhà bác học Louis Pasteur đã từng nói với các người cộng tác: "các bạn đã mang lại cho tôi niềm vui sâu đậm nhất của một người có niềm tin không lay chuyển được, đó là Khoa Học và Hòa Bình sẽ chiến thắng sự Ngu Dốt và Chiến Tranh… và Tương Lai sẽ thuộc về những ai làm lợi ích nhiều nhất cho Nhân Loại đang đau khổ ". Louis Pasteur là một nhà nghiên cứu khéo léo với trí tò mò không giới hạn, có thiên tài về quan sát, đã tận tụy suốt đời cho các công trình khảo cứu để bảo vệ Kỹ Nghệ và Khoa Học. Louis Pasteur là một nhà bác học thực hiện được bốn lý tưởng: Niềm Tin, Hi Vọng, Lòng Bác Ái và Khoa Học (Faith, Hope, Charity and Science). Do các công trình khảo cứu và các kết quả hữu ích dùng cho Canh Nông, Kỹ Nghệ và Y Khoa, Louis Pasteur xứng đáng được người đời sau ca ngợi là Vị Ân Nhân của Nhân Loại./. Võ Thị Diệu Hằng viết: 1822 : 27 tháng 12 . Louis Pasteur ra đời tại Dole (Jura) 1840 : Ðậu Tú tài Văn chương tại Besançon. Thầy hướng dẫn học sinh tại trường trung học College de Besançon 1853 : Pasteur được giải Société de Pharmacie de Paris nhờ nghiên cứu và tổng hợp acide racémique từ acide tartrique. Khám phá acide tartrique không hoạt động (inactif) 1860 : Nghiên cứu thành phần không khí tại Arbois cho vấn đề "tự sinh" (génération spontanée). Nghiên cứu thuyết Tự sinh 1895 : 28 tháng 9. Pasteur qua đời tại Villeneuve-l'Étang. Khám phá của ông cho rằng hầu hết các bệnh nhiễm trùng là do những mầm bệnh, mang tên "lý thuyết về mầm bệnh", là một trong những khám phá quan trọng nhất trong lịch sử y học. Sự nghiệp của ông trở thành nền móng cho ngành vi sinh, và là cột móc đánh dấu bước ngoặc của y học hiện đại. Tóm tắt những đóng góp to lớn của Pasteur cho vi sinh và y học: Thứ nhất, ông đấu tranh đòi thay đổi thực hành trong bệnh viện để giảm thiểu lây lan bệnh do vi khuẩn. Thứ hai, ông phát hiện ra rằng có thể dùng dạng vi khuẩn đã làm yếu để chủng ngừa chống lại dạng vi khuẩn độc. Thứ ba, Pasteur thấy rằng bệnh dại lây nhiễm nhờ một tác nhân rất nhỏ không nhìn thấy dưới kính hiển vi, nhờ đó mở ra thế giới các virus. Kết quả là ông đã triển khai được kỹ thuật tiêm vaccin cho chó chống bệnh dại và điều trị người bị chó dại cắn. Và thứ tư, Pasteur đã phát triển phương pháp "tiệt trùng kiểu Pasteur" (pasteuriser), một quy trình dùng sức nóng để tiêu diệt vi khuẩn có hại trong các loại thực phẩm dễ thiu thối mà không làm hỏng thực phẩm. Sự nghiệp của Pasteur Mỗi khám phá trong sự nghiệp của Pasteur đều là những mắt xích của một chuỗi không tách rời bắt đầu bằng tính bất đối xứng phân tử và kết thúc bằng phòng bệnh dại, theo con đường nghiên cứu trên men, tằm, bệnh của rượu và bia, vô trùng và vaccin. Từ tinh thể học tới phân tử bất đối xứng Năm 1847 ở tuổi 26, Pasteur tiến hành công trình đầu tiên về tính bất đối xứng phân tử, nêu lên cùng một lúc các nguyên lý của tinh thể học, hóa học và quang học. Ông đã đề ra định luật cơ bản: tính bất đối xứng phân chia thế giới hữu cơ với thế giới vô cơ. Nói một cách khác, các phân tử bất đối xứng luôn là sản phẩm của sinh thể sống. Công trình của ông trở thành cơ sở cho một ngành khoa học mới - ngành hóa học lập thể. Nghiên cứu sự lên men và sự tự sinh Theo yêu cầu của một nhà sản xuất rượu tên là Bigo ở miền bắc nước Pháp, Pasteur bắt đầu nghiên cứu xem tại sao rượu lại bị nhiễm những chất ngoài ý muốn trong quá trình lên men. Ông đã sớm chứng minh được rằng mỗi giai đoạn của quá trình lên men đều liên quan với sự tồn tại của một loại vi sinh vật đặc thù hay con men - một sinh vật mà người ta có thể nghiên cứu bằng cách nuôi cấy trong một môi trường vô trùng thích hợp. Nhận định sáng suốt này là cơ sở của ngành vi sinh. Pasteur đã giáng một đòn quyết định vào thuyết tự sinh, học thuyết đã từng tồn tại trong 20 thế kỷ cho rằng cuộc sống có thể tự này sinh từ những chất liệu hữu cơ. Ông cũng phát triển lý thuyết mầm bệnh. Cùng thời gian này, ông khám phá ra sự tồn tại của sự sống trong điều kiện không có oxy: "Lên men là hậu quả của sự sống không có không khí". Khám phá về sự sống yếm khí đã mở ra con đường nghiên cứu những mầm bệnh gây nhiễm trùng huyết và bệnh hoại thư, cùng với nhiều bệnh nhiễm trùng khác. Nhờ Pasteur, người ta có thể phát minh ra những kỹ thuật tiêu diệt vi khuẩn và kiểm soát ô nhiễm. Kỹ thuật "tiệt trùng kiểu Pasteur" Hoàng đế Napoleon III đã đề nghị Pasteur nghiên cứu những bệnh ảnh hưởng đến rượu đang gây thiệt hại cho ngành sản xuất rượu. Năm 1864, Pasteur tới khu vườn nho ở Arbois để nghiên cứu vấn đề này. Ông đã chứng minh rằng bệnh của rượu là do vi sinh vật gây ra, những vi sinh vật này có thể bị tiêu diệt bằng cách đun nóng rượu đến nhiệt độ 55°C trong vài phút. áp dụng cho bia và sữa, cách xử lý này, được đặt tên là "tiệt trùng kiểu Pasteur" đã nhanh chóng thông dụng trên khắp thế giới. Nghiên cứu bệnh nhiễm trùng ở người và động vật Năm 1865, Pasteur bắt đầu nghiên cứu những bệnh của tằm đang làm lụn bại ngành tằm tơ ở Pháp. Ông đã tìm ra tác nhân gây bệnh và cách lan truyền những tác nhân này - theo qui luật lây và di truyền - và cách ngăn ngừa bệnh. Bổ sung thêm nghiên cứu về sự lên men, giờ đây ông có thể khẳng định mỗi bệnh là do một vi khuẩn đặc trưng gây ra và những vi khuẩn này là những yếu tố ngoại lai. Với hiểu biết này, Pasteur có thể đặt ra những qui tắc cơ bản của tiệt trùng. Ngǎn ngừa được lây nhiễm, phương pháp tiệt trùng của ông đã cách mạng hóa ngành ngoại khoa và sản khoa. Từ năm 1877-1887, Pasteur vận dụng cơ sở vi sinh học vào cuộc chiến chống các bệnh nhiễm trùng. Ông tiếp tục tìm ra ba vi khuẩn gây bệnh cho người: tụ cầu, liên cầu và phế cầu. Điều trị và phòng ngừa bệnh dại Louis Pasteur đã tìm ra phương pháp làm yếu các vi sinh vật độc là cơ sở cho chủng ngừa. Ông đã phát triển các vaccin chống bệnh tả ở gà, bệnh than và bệnh heo đóng dấu. Sau khi nắm vững phương pháp chủng ngừa, ông đã áp dụng khái niệm này vào bệnh dại. Ngày 6/7/1885, lần đầu tiên Pasteur đã thử phương pháp điều trị bệnh dại của mình cho người: bé Joseph Meister đã được cứu sống. Thành lập Viện Pasteur Ngày 1/3/1886, Pasteur trình bày kết quả phương pháp điều trị bệnh dại của ông trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và kêu gọi thành lập một trung tâm vaccin dại. Đông đảo dân chúng và cộng đồng quốc tế đã vận động tài trợ cho việc xây dựng Viện Pasteur, một viện nghiên cứu tư đầu tiên được Tổng thống pháp Jules Gresvy công nhận năm 1887 và được người kế nhiệm ông là Sadi Carnot khánh thành năm 1888. Theo mong ước của Pasteur, Viện được xây dựng thành một cơ sở điều trị bệnh dại, một trung tâm nghiên cứu các bệnh nhiễm trùng và một trung tâm giảng dạy. Nhà khoa học 66 tuổi đã dành trọn 7 năm cuối cùng của cuộc đời cho Viện nghiên cứu vẫn mang tên ông. Trong thời gian này, Pasteur cũng được hưởng niềm vui của danh tiếng và được tôn vinh khắp thế giới bằng những huân huy chương có uy tín. Sự nghiệp của ông được tiếp tục và được mở rộng trên kháp thế giới nhờ lớp lớp học trò. Con người của tự do và nghiêm ngặt Sự nghiệp của Pasteur không phải đơn giản là phép cộng những khám phá của ông. Nó còn tiêu biểu cho cuộc cách mạng phương pháp luận khoa học. Pasteur đặt lên trên hết hai nguyên tắc không thể bàn cãi của nghiên cứu hiện đại: tự do sáng tạo nhất thiết phải đi với thử nghiệm nghiêm ngặt. Ông dạy các học trò của mình: "Đừng có đưa ra điều gì mà anh không thể chứng minh bằng thực nghiệm" Louis Pasteur là người theo chủ nghĩa nhân văn, luôn luôn làm việc theo hướng cải thiện địa vị của con người. Ông là một người tự do chưa bao giờ ngập ngừng khi nhận những vấn đề mà trong thời đại của ông người ta vẫn thường cho rằng chúng sẽ thất bại. Ông đặc biệt coi trọng việc phổ biến kiến thức và ứng dụng nghiên cứu. Trong cuộc đời của một nhà khoa học, lý thuyết và phương pháp Pasteur đã được đưa vào thực tiễn vượt xa khỏi biên giời nưới Pháp. Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng quốc tế của sự nghiệp ông, các học trò của Pasteur đã đi khắp thế giới tới bất cứ nơi nào cần đến sự giúp đỡ của họ. Năm 1881, Viện Pasteur ngoài nước Pháp đầu tiên được thành lập ở Sài gòn, Việt Nam), mở đầu cho mạng lưới các Viện Pasteur quốc tế. Vì ông đã làm thay đổi vĩnh viễn thế giới, tổ quốc quê hương ông và cả thế giới luôn coi ông là một ân nhân của nhân loại. Sự tiến bộ của nhân loại "Tôi cầu khẩn các bạn dành sự quan tâm cho những lãnh địa thiêng liêng rất nhạy cảm có tên là các phòng thí nghiệm. Mong sao những lãnh địa này sẽ nhiều hơn và chúng sẽ được tô điểm để trở thành những ngôi đền của tương lai, của thịnh vượng và sức khỏe. Đây là nơi nhân loại sẽ lớn lên, vững mạnh và hoàn thiện. ở đây, loài người sẽ học cách đọc được sự phát triển và sự hài hòa cá nhân trong những công việc của tự nhiên, trong khi công việc của chính loài người lại thường man rợ, cuồng tín và phá hoại" - Louis Pasteur
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 29, 2011 2:43:42 GMT 9
Isaac NewtonVietsciences- Võ Thị Diệu Hằng If I have seen further it is because I have stood on the shoulders of giants (Isaac Newton viết cho Robert Hooke năm 1676) Là một trong những thiên tài lớn nhất thế giới, Newton là nhà toán học và thiên văn học, ông cũng là nhà vật lý và cơ học, hóa học, về lý thuyết lẫn thực nghiệm. Chế ra kính thiên văn, phát minh Toán vi phân và nhất là khám phá lực hấp dẫn. Isaac Newton sinh tại Woolsthorpe, Anh quốc ngày 25/12/1642, vài tháng sau khi Galilée qua đời, và một thế kỷ sau khi Nicolas Copernic (1473 - 1543) qua đời. Là con của Isaac Newton và Hannah Ayscough, trại chủ. Cha ông thô thiển và yếu, mất lúc 37 tuổi sau khi cưới mẹ ông không lâu và trước khi ông ra đời hai tháng. Ngược lại mẹ ông là con của gia đình khá giả ở Yorkshire. Có lẽ vì ảnh hưởng đến cái chết của cha ông mà mẹ ông sinh thiếu tháng. Khi Isaac lên hai tuổi, mẹ tái giá, và Isaac được gởi đến bà ngoại nuôi, cậu James Ayscough đỡ đầu. Lên năm, Isaac học tiểu học trường làng, trước tiên tại Skillington, sau đó tại Stoke. Năm 12 tuổi, Isaac được vô trường trung học Grantham. Newton là một học sinh lơ đãng và học được 4 năm thì mẹ gọi về Woolstorpe để làm nông trại và trông coi mảnh đất nhỏ mà mẹ cho lúc bà tái giá. Bởi vì học bao nhiêu đó cũng đủ để nối nghiệp cha. Nhưng sau một thời gian, mẹ Isaac thấy con trai bà có năng khiếu về cơ học hơn là coi sóc gia súc nên bà đã quyết định cho con tiếp tục đi học để lên đại học . Lúc 17 tuổi, Isaac kết bạn với một cô bạn cùng lớp cũ, cô Storey và hai người yêu nhau, đính hôn với nhau định sẽ cưới sau khi Isaac học xong. Năm 18 tuổi, Isaac đậu vô Đại học Cambridge, nơi đó ông ở lại trong suốt 40 năm, đầu tiên là sinh viên, sau đó là giáo sư. Tại đại học này ngoài những bài học về Toán Descartes, ông còn thích môn Thiên văn, do đó phải học toán hình học vì ông còn thiếu nhiều khái niệm toán học để hiểu các công trình của Edmund Halley (1656-1742) Việc học của Isaac không cho phép ông có thì giờ cưới cô Storey và cuối cùng ông sống độc thân suốt đời. Voltaire có viết "Trong suốt cuộc đời dài như vây mà ông không đam mê lẫn yếu đuối. Ông không hề đến gần người đàn bà nào. Bác sĩ riêng và bác sĩ giải phẩu đã xác nhận với tôi giữa cánh tay người quá cố". Tại Cambridge, trong 3 năm đầu tiên của đời sống sinh viên, ông học Số học, Hình học trong Éléments (*1) của Euclide và Lượng giác. Sự gặp gỡ với giáo sư khoa học Isaac Barrow (1630 - 1677) quyết định nghề nghiệp khoa học của ông sau này. Giáo sư Barrow ngạc nhiên về trí thông minh của Newton đến nỗi ông từ chức để nhường chỗ cho Newton, một người mà ông biết ngay sẽ là một nhà toán học và vật lý học vô cùng đặc biệt. Năm 23 tuổi, chàng thanh niên Newton nhận bằng Bachelor of Arts, tương đương với cử nhân hiện nay. Lúc bấy giờ bệnh dịch hạch lan tràn khắp Âu châu , đại học đóng cửa và Newton về quê Woolsthorpe, ở trong nông trại nơi ông sinh ra. Trong suốt hai năm, ông không ngừng làm việc, suy nghĩ và nghiên cứu khoa học. Mùa hè năm 1666 tại Woolsthorpe, Isaac Newton sửa soạn trình bày một thí nghiệm sẽ là nguồn gốc của tất cả những lý thuyết hiện đại về ánh sáng và màu sắc. Trong phòng thí nghiệm đóng kín cửa tối om. Từ một lỗ khoét nơi cửa một tia sáng (1) chiếu vào trong phòng. Ông đặt một lăng kính (2) hình lăng trụ đáy tam giác bằng thủy tinh trên con đường đi của tia sáng. Chẳng có gì xảy ra cho tới khi ông đặt một tấm giấy trắng như một "màn ảnh". Và thật lạ lùng , thay vì tưởng nhận được một vệt trắng, ai ngờ thấy hiện ra một tập hợp màu tiếp cận nhau: mà những nhà vật lý gọi là phổ. Newton chắc chắn là nhờ lăng kính đã phân tách ánh sáng (3) trắng ra ánh sáng màu. Ông đặt tiếp theo một thấu kính hội tụ (4) ánh sáng màu hội tụ và đi ngang lăng kính kình trụ, trở lại thành ánh sáng trắng (5) 29 tuổi, ông được đắc cử vào Royal Society nhờ phát minh ra kính telescope, mà vật kính là một gương lõm (3) . Tia sáng (1) chiếu vô gương lõm (3) sẽ phản chiếu qua một gương phẳng (4) đặt nằm nghiêng , tia phản chiếu sẽ qua một gương lõm để cách tiêu điểm (f) một khoảng cách nhỏ bằng đồng có dạng parabole, đường kính 37 mm và rọi lớn 38 lần. Tiếp theo, ánh sáng đi lệch một phía nhờ phản chiếu qua một tấm gương phẳng nằm nghiêng một góc 45° . Cuối cùng ánh sáng qua những thấu kính để khuếch đại ảnh lên và đến thị kính. Kính thiên văn phản chiếu đầu tiên do Newton làm ra có đường kính 0,2m , được trưng bày tháng 2 năm 1672 Ông viết những công trình về ánh sáng và đuợc nổi tiếng ngay lập tức và cũng vì những khám phá của ông mà gây ra biết bao là tranh cãi ai phát minh ra trước ai làm cho ông ghê sợ. Nhiều năm trời tranh luận giữa ông và Robert Hooke (1635 – 1703) trên vấn đề ánh sáng và lực hấp dẫn. Chính vì vậy mà để tránh tranh cãi với Robert Hooke mà ông chỉ in bài Quang học và hai bài khảo luận về toán sau khi Hooke mất Tuy nhiên, sự tranh luận sôi nổi nhất là Luật tỷ lệ nghịch với bình phương. Hooke chưa có luật này nhưng ông đã tiến tới trong sự hiểu biết vấn đề này. Ý của ông hoàn toàn độc lập với ý của Newton và Newton là người kín miệng, không nói cho ai biết, mấy năm sau người ta mới biết việc làm của ông. Hook cho là Newton ăn cắp tư tưởng của ông, nhưng Newton chống lại rằng ông chưa hề nghe ai nói về những nghiên cứu của Hooke và chững chưa đọc những công trình của Hooke. Nhưng ngày nay chúng ta biết là Newton nói láo, là vì ông ghét Hooke. Ông khám phá ra toán vi phân. Cũng trong lúc đó, Gottfried Leibniz (1646-1716), nhà bác học Đức cũng tìm ra cách tính này. Do đó sinh ra một cuộc bút chiến giành quyền tác giả ưu tiên, một cuộc bút chiến dữ dội và lâu dài vì Newton khái niệm về toán vi phân trước Leibniz rất lâu, nhưng Leibniz lại in đề tài này ra trước Từ năm 1692 đến 1694, Newton bị đau màng óc, phải nghỉ gần 10 năm mới xuất bản quyển Khảo luận về Quang học (Traité d'Optique) và quyển Khảo luận về cách tính diện tích các đuờng cong (Traité de la quadrature des courbes) trong đó có tính vi phân (calcul différentiel). Toán Vi phân dùng để tính những số lượng chuyển biến như sự vận động của các vật thể, của làn sóng và để giải những bài toán vật lý có liên quan tới mọi sự chuyển động Ngay lúc đó , nhà toán dọc Đức Leibnitz cũng khám phá ra toán này nên hai bên cãi nhau để tranh giành quyền tác giả ưu tiên. Theo ông, “phương pháp thích đáng nhất để nghiên cứu đặc tính của sự vật là suy luận xuất phát từ những cuộc thí nghiệm” Vào tuổi 51, Newton sức khoẻ kém, tinh thấn suy sụp bởi ông thất vọng vì khám phá của mình ít được ai đánh giá cao như ý ông muốn, chao đảo bởi những vấn đề thần học và tín ngưỡng, và hình như cuộc hỏa hoạn đã đốt cháy căn nhà ông với phòng thí nghiệm cùng một số lớn bản thảo mà ông quí biết bao tất cả như giọt nước đã làm tràn cái ly đầy làm ông trở nên đa nghi đến cực độ, tạo kẻ thù khắp nơi. Ba năm sau, tinh thấn ông khá hơn nhiều. Ông bỏ chức giáo sư, ra khỏi Cambridge vì phần lớn bạn ông đều đã chết hay đã không còn làm ở đó nữa Năm 1699, Newton bắt đầu thích thú trong những hoạt động của Royal Society. Ít lâu sau ông được làm thành viên của hội đồng. Năm 1701, trong cuộc họp, ông đọc một bản báo cáo hóa học mà chưa ai cho ông biết. Ngay trong năm đó, ông trình bày luật về việc làm lạnh bằng sự truyền nhiệt, đồng thời các quan sát trên nhiệt độ sôi và độ nóng chảy. Cuối cùng ông diễn tả một nhiệt kế và vẽ những khắc giữa các nhiệt độ chuẩn Ngày 10 tháng 12 , 1701, Newton từ chức ghế giáo sư mà ông đã giữ tại trườc Đại học Cambridge mặc dù ông không còn giảng dạy từ nhiều năm Ngày 30 tháng 11, 1703 Newton được đắc cử chủ tịch của Royal Society và giữ chức này cho đến ngày cuối cùng. Được phong tước quý tộc năm 1705 Newton tham dự thường xuyên những buổi họp của Royal Society và tới sở đúc tiền mỗi tuần một lần. Năm 1724 bệnh phổi của ông bắt đầu và ông bị bó buộc phải rời London để tới Kensington ở. Ngày 28 tháng Hai 1727, ngay vừa mời bớt bệnh goutte, ông đã phải đến London để chủ tọa cuộc họp ở Royal Society. Đường xa mệt nhọc đã làm ông nằm liệt cho đến 20 tháng Ba thì ông qua đời, được mai táng trong tu viện Westminster, bên cạnh các vua Anh quốc, thọ 85 tuổi. Các cháu ông chia của cải tài sản của ông. Năm 1687 ông xuất bản quyển Những nguyên tắc Toán học trong Triết học tự nhiên (Principes de Mathématiques de la Philosophie naturelle). Trong đó ông chứng minh sự rơi, sức hút vạn vật và sự chuyển động các vì sao. Đó là sức hấp dẫn vạn vật. "...Quyển đầu tiên của bộ sách Nguyên tắc toán học, đề cập đến sự chuyển động các vật thể trong không gian. Phần thứ hai của quyển này đề cập đến sự chuyển động trong môi trường trở lực, thí dụ như chuyển động dưới nước. Trong phần cuối Newton đề cập đến sự chuyển động phức tạp của thể lỏng và những bài toán về sự chuyển động này đều được giải đáp. Ngoài ra Newton có tính các tốc độ của âm thanh và diễn tả bằng toán học sự chuyển động của làn sóng. Quyển một này là nền tảng của khoa học vật lý toán học, khoa thủy tĩnh học và thủy động học ngày nay..." (đoạn này trích trong "Lược sử thời gian" của Hawking) Bài đọc thêm: Bốn Lực Cấu Tạo Vũ Trụ Lực hấp dẫn Isaac Newton và quyển Philosophiae Naturalis Principa Mathematica Cách xử thế của Newton Tiểu sử Robert Hooke Principes de Mathématiques de la Philosophie naturelle Calcul différentiel (*1) "... Những nguyên lý (Les éléments) . Công trình này tượng trưng cho sự tổng hợp của những kết quả về Toán học. Sách gồm 13 quyển. Bốn quyển đầu giảng về Hình học phẳng với những khái niệm về các điểm, đường thẳng, và diện tích. Ngoài ra cũng những bài diện tích các đa giác Quyển V nói về những khái niệm về phân tích. Quyển VI bàn về sư giống nhau giữa các hình và đưa ra cách giải phương trình bậc hai nhờ hình học. Các quyển VII, VIII và XI nói về Số học. Quyển X giảng về số vô tỉ (nombres irrationnels) và ba quyển cuối cùng giảng về hình học không gian. Quyển hệ luận Porismes được chia thành hai nhóm: nhóm các giả thiết (hypothèses) và nhóm các tiên đề (axiomes). Trong số năm tiên đề có định đề (postulat) Euclide nổi tiếng: Trong mặt phẳng, qua một điểm ngoài đường thẳng, chỉ có một đường thẳng song song với đường thẳng đó mà thôi..." (Trích Lựợc sử thời gian của Hawking"
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 29, 2011 2:46:27 GMT 9
Mendeleev Dimitri IvanovitchVietsciences-Võ Thị Diệu Hằng Mendeleev (1834-1907) cha đẻ của Bảng phân loại tuần hoàn các Nguyên tố Ông sinh năm 1834 tại Tobolska, Sibérie. Thời bấy giờ cha ông là hiệu trưởng trường Trung học cấp 3. Là con út trong gia đình có 17 anh em nên được mẹ quý nhất. Khi cha ông mất, mẹ ông quyết định đi Moscou. Ông học môn Khoa học Tự nhiên và Toán tại trường Ðại học Khoa học. Tháng Năm và tháng Sáu năm 1855 ông đậu và đạt điểm cao nên được huy chương vàng. Lúc 32 tuổi ông được bổ nhiệm làm giáo sư Hóa học tại trường St-Pétersbourg. Tháng Tư 1859, sau khi học xong Hóa học Hữu cơ, ông về lại Heidelberg (Ðức) để thong thả nghiên cứu. Năm 1869 ông thiết lập bảng phân loại những nguyên tố dựa trên khối lượng nguyên tử và trên tính tuần hoàn về tính chất vật lý và hoá học của chúng , gọi là Bảng phân loại tuần hoàn các Nguyên tố Bản gốc chỉ có 63 nguyên tố. Một năm sau khi ông mất bảng đã có 86 nguyên tố..
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 29, 2011 2:48:45 GMT 9
Vasco da GamaVietsciences-Phạm Văn Tuấn & Võ Thị Diệu Hằng Vasco da Gama (1460-1524) người đầu tiên tìm ra con đường đến Ấn độ bằng cách vòng qua Phi châu Vasco da Gama (1460-1524) là nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha (Portugal) đã khám phá ra con đường đại dương từ Portugal tới miền Đông. Ông sinh trong một gia đình quý tộc tại Sines, Portugal. Cha của Da Gama là Estavao, cũng là một nhà thám hiểm. Da Gama học ngành thiên văn và hàng hải và trở thành sĩ quan hải quân năm 1492 Thời đó người ta nghĩ là cuộc du thuyền của Gama không thể thực hiện được vì họ nghĩ là Ấn độ dương không liền với các biển khác. Năm 1497, vua Manuel I của nước Portugal bảo Gama tìm con đường biển đi đến Ấn độ bằng cách đi vòng quanh châu Phi. Cha của Gama được chọn để dẫn đầu cuộc hành trình, nhưng ông đã chết trước khi hoàn tất. Da Gama được lệnh điều kiển bốn con tầu trong đó ba chiếc được đóng dưới sự giám sát của Bartholomeu Dias, là tầu chỉ huy Sao Gabriel, tầu Sao Raphael, còn tầu thứ ba có tên gọi không còn được ghi lại và Berio là con tầu thứ tư. Đoàn tầu của ông có cả thảy 170 người. Ông mang theo rất nhiều thiết bị cho việc vận tải. Ngày 8 tháng 7 năm 1497, Vasco da Gama đã cho tầu rời hải cảng Lisbon tiến về hướng Đông. Có lẽ do lời khuyên của Dias, hải trình kỳ này đã không theo sát bờ biển của miền tây châu Phi mà vòng ra xa để tránh các giòng nước không thuận tiện và các bãi đất ngầm. Da Gama đã lợi dụng được luồng gió mùa và sau ba tháng, vượt hơn 4,000 dặm, đoàn tầu đã tới được bờ biển châu Phi tại vịnh St. Helena, phía bắc của Cape Town. Sau đó đoàn thám hiểm tiếp tục đi qua Cape Agulhas, tới vịnh Mossel. Tại vịnh này, Da Gama cho đóng một cột ghi dấu rồi lại tiếp tục giương buồm về hướng đông. Trên đường đi, Da Gama đã đặt tên cho các địa điểm như Natal với ý nghĩa là Ngày Sinh của Chúa, hay giòng sông "Các Điềm Lành" (the River of Good Omens). Khi tới hải cảng Mozambique, Da Gama đã gặp các thương nhân có hình dáng kỳ dị, các người Ả Rập và thổ dân buôn bán trên bến cảng. Sau đó, đoàn thám hiểm tới Mombasa, một hải cảng Ả Rập sầm uất rồi tới Malindi, nơi đã có một cộng đồng người Ấn Độ cư ngụ. Một số người theo Thiên Chúa giáo tại nơi này đã khiến cho Da Gama tin rằng Vua Giáo Sĩ Prester John ở không xa đó, sâu vào trong đất liền. Những thương gia Hồi giáo A Rập tại Moçambique (Mozambique) và Mombasa thù ghét người Bồ đào nha, vì họ không muốn chia con đường thương mãi đầy lợi nhuận này nên cố bắt giữ tàu thuyền của họ, nhưng những người dân ở Malindi thân với họ hơn nên tìm cách hướng dẫn họ tới Ấn độ. Vasco da Gama thuê được một thủy thủ lái tầu tài giỏi tên là Gujarati của miền tây Ấn Độ, đoàn tầu của ông đã vượt qua eo biển Ả Rập, tới được hải cảng Calicut, nơi mà trước kia Covilha đã báo cáo vào năm 1490. Ngày 20 tháng Năm, 1498, Da Gama tới Calicut, India. Đầu tiên Gama và những người trong ngành thương mại được tiếp đón nồng hậu, nhưng không bao lâu sau, ông bị bắt đóng thuế nặng và bị bó buộc phải để hàng hóa của ông lại. Gama rời Ấn độ ngày 29 tháng 8 năm 1498, mang theo hết tất cả hàng hóa của mình và vài người Ấn độ để làm con tin. Hải trình qua Ấn Độ Dương mất ba tháng và nhiều thủy thủ đã mắc bệnh hoại huyết (scorbut, thiếu vitamin C). Vì không đủ người, Da Gama đành phải hủy bỏ con tầu Sao Raphael gần Mombasa, rồi cuộc trở về đã không gặp khó khăn. Đ>Đoàn tầu của Da Gama trở về Lisbon, Portugal tháng 9 năm 1499 sau hơn hai năm đi biển, vượt qua được 24,000 hải lý với 44 thủy thủ sống sót trong số 170 người đã ra đi. Sau khi trở về, ông được tiếp đãi như một vị anh hùng và được nhà vua thưởng. Vua Portugal là Manuel I gởi Gama, lúc bấy giờ là Admiral (Đô đốc hải quân, vào một cuộc thám hiểm khác tại Ấn độ (1502-1503). Trong chuyến đi này, Gama dẫn 20 chiếc thuyền có võ trang để ngừa trước các vấn đề với thương gia hồi giáo. Trong chuyến đi này, ông đã giết hàng trăm người hồi giáo, thường là rất hung bạo, để tỏ quyền năng của mình Vasco da Gama đã mang lại cho người châu Âu các quan niệm mới về thế giới, một nơi không còn bị giới hạn bởi bốn lục địa. Thế Giới từ nay đã được mở rộng cho nhiều người khác thám hiểm và khai thác
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 29, 2011 2:52:39 GMT 9
Niels BohrVietsciences-Phạm Văn Tuấn Niels Bohr (1885 – 1962) Nhà Bác Học Đan Mạch Danh Tiếng Thế giớ, Nobel vật lý năm 1922, nguyên tử số 107 có tên “bohrium” (Bh) để vinh danh ông Đối với dân tộc Đan Mạch, các điều khiến cho họ hãnh diện nhất gồm có kỹ nghệ đóng tầu, sản phẩm bơ sữa và hai vĩ nhân Hans Christian Anderson và Niels Bohr. Niels Bohr chào đời vào ngày 07 tháng 8 năm 1885 trong lâu đài của Vua Georg, một dinh thự đẹp nhất của thủ đô Copenhagen, nước Đan Mạch. Niels Bohr là con của bà Ellen Adler, thuộc một gia đình Do Thái chủ ngân hàng giàu có, và ông Christian Bohr, giáo sư môn sinh lý học tại trường đại học Copenhagen. Vào thời kỳ còn là sinh viên, Niels đã nổi tiếng là xuất sắc về các môn toán, vật lý và túc cầu. Năm 22 tuổi, Niels Bohr đã đoạt được một huy chương vàng của Hàn Lâm Viện Hoàng Gia Đan Mạch (the Royal Danish Academy of Sciences and Letters) nhờ công trình khảo cứu về sức căng mặt ngoài (surface tension). Tới năm 1911, sau khi đã đậu văn bằng Tiến Sĩ Khoa Học với luận án về lý thuyết điện tử của các kim loại (the electron theory of metals), Niels Bohr sang nước Anh để học hỏi tại Phòng Nghiên Cứu Cavendish ở Cambridge. Tại nơi này, Bohr được Sir Joseph John Thomson hướng dẫn. Nhà đại bác học này là người đã khảo cứu tính chất điện từ của tia âm cực nên đã được giới Khoa Học gọi là “cha đẻ của điện tử”. Tháng 3 năm 1912, Bohr đổi sang trường đại học Manchester và theo học nhà đại bác học Ernest Rutherford, nhờ vậy ông được làm quen với lý thuyết về cấu tạo nguyên tử. Vào thời bấy giờ, Lord Rutherford đã cắt nghĩa nguyên tử bằng một hệ thống giống như thái dương hệ theo đó mọi nguyên tử có một nhân ở giữa mang điện dương và xoay quanh nhân này là các điện tử mang điện âm. Lý thuyết của Rutherford rất đúng nên nhờ đó, các nhà khoa học có thể cắt nghĩa được nhiều hiện tượng vật lý nhưng một trở ngại được nêu lên. Nếu có các điện tử xoay quanh nhân, thì chắc hẳn phải có sự phát ra ánh sáng và do đó, sinh ra sự co lại của các quỹ đạo khiến cho các điện tử này sẽ bị rơi vào nhân trong khi theo sự nhận xét, điều này đã không xẩy ra. Các điều bí ẩn về nguyên tử đã khiến cho Niels Bohr suy nghĩ. Năm 1913, Bohr đi tới kết luận như sau: ông công nhận hình ảnh về nguyên tử của Rutherford nhưng ông đặt giả thuyết rằng các điện tử tuy xoay với vận tốc đều trên các quỹ đạo cố định chung quanh nhân, nhưng không phát ra ánh sáng và vì vậy, không bị kéo về phía nhân. Tại các quỹ đạo này, các điện tử ở trong tình trạng ổn định, nghĩa là năng lượng của chúng không bị thay đổi. Tuy nhiên, vì các hỗn loạn do bên ngoài gây nên, chẳng hạn như sự va chạm hay bức xạ, các điện tử sẽ bị dời chỗ tạm thời để rồi trở về quỹ đạo cũ bằng cách nhẩy vọt và mỗi lúc nhẩy vọt từ quỹ đạo ngoài vào quỹ đạo trong kế cận sẽ phát ra một quang tử và quang tử này tiêu biểu cho sự khác biệt về năng lượng giữa quỹ đạo bên ngoài vừa từ bỏ và quỹ đạo bên trong vừa chấp nhận. Như vậy ánh sáng chỉ được phát ra trong trường hợp này mà thôi. Niels Bohr đã dùng kiểu mẫu nguyên tử của ông và lý thuyết về quang tử của Max Planck để tiên đoán về các màu sắc, về chiều dài làn sóng và về các loại ánh sáng do các vật chất khác nhau phát ra. Các quan niệm về nguyên tử của Bohr đã giải thích được nhiều điều thắc mắc và đã khiến cho công việc khảo cứu nguyên tử đi được các bước thật dài. Niels Bohr làm việc cùng với Lord Rutherford cho tới năm 1916 rồi ông trở về Copenhagen để nhận chân giáo sư môn vật lý lý thuyết. Ngay sau khi Thế Chiến Thứ Nhất chấm dứt, Niels Bohr cho rằng công việc tìm kiếm, học hỏi về nguyên tử và nền vật lý hạch tâm (nuclear physics) cần tới một Viện nghiên cứu đặc biệt, không những có đầy đủ các dụng cụ, máy móc tối tân mà còn cần tập trung nhiều nhà vật lý trên khắp thế giới. Vì thế Bohr đã đề nghị kế hoạch này với trường đại học và chương trình được nồng nhiệt chấp thuận. Thành phố Copenhagen đã tặng cho Viện một khu đất rất rộng để xây dựng Viện Vật Lý Lý Thuyết (the Institute of Theoretical Physics) và Viện này đã được khánh thành vào ngày 15/9/1920. Niels Bohr trở nên nhân vật đứng đầu của Viện Vật Lý Lý Thuyết, một cơ sở lừng danh trên thế giới về nghiên cứu nguyên tử. Trong thời gian này, Bohr đã khám phá được nhiều định luật chi phối thế giới nguyên tử trong đó có nguyên tắc tương ứng (principle of correspondence) và nguyên tắc bổ túc (principle of complementary). Dưới sự hướng dẫn của Niels Bohr, Viện Vật Lý Lý Thuyết đã lôi cuốn được rất nhiều nhà khoa học trẻ tuổi, xuất sắc, tới nghiên cứu, học hỏi, trong số này đầu tiên có Wolfgang Pauli từ nước Áo, H.A. Kramers từ Hòa Lan, Georg Charles von Hevesy từ Hungary, Oskar Klein từ Thụy Điển rồi hai năm sau, 1924, có Werner Heisenberg, John Slater và Paul Dirac cùng nhiều nhà vật lý khác. Trong thập niên 1920, trường phái Vật Lý Copenhagen đã tiến bộ rất đáng kể do các công trình nghiên cứu, chẳng hạn như lý thuyết về cơ học phương trận (matrix mechanics) của Heisenberg, cơ học làn sóng (wave mechanics) của Schroedinger, lý thuyết tương đương (demonstration of equivalence) bởi Max Born, Paul Dirac và P. Jordan, lý thuyết điện tử xoay tròn (theory of electron spin) của Wolfgang Pauli, lý thuyết làn sóng của vật chất (wave theory of matter) do Louis de Broglie..., tất cả đã được nghiên cứu và thảo luận sổi nổi tại Viện của Bohr. Cũng vì thế, nhiều nhà vật lý đã gọi thập niên này là thời kỳ hào hùng của nền vật lý hạt tử (quantum physics) vì đã có được sự cộng tác của cả một thế hệ các nhà khoa học lý thuyết tới từ nhiều quốc gia để nghiên cứu ngành cơ học hạt tử (quantum mechanics) và ngành điện từ học (electromagnetics). Phần thưởng khoa học đầu tiên của Niels Bohr là huy chương Hughes do Hàn Lâm Viện Hoàng Gia Anh Quốc (the Royal Society) trao tặng vào năm 1921. Lý thuyết nguyên tử của Bohr đã được nhiều nhà bác học thời đó chấp nhận nhưng mặc dù lý thuyết này được ông đề cập tới 9 năm về trước, mãi tới năm 1922, Niels Bohr mới được trao tặng Giải Thưởng Nobel về Vật Lý. Dù sao, tính tới lúc bấy giờ, Niels Bohr vẫn là nhà bác học trẻ tuổi nhất lãnh giải thưởng cao quý đó. Nhà đại bác học Albert Einstein đã phải nói về Niels Bohr như sau: “Không có ông Bohr, không biết các kiến thức về nguyên tử của chúng ta sẽ ra sao. Về phương diện cá nhân, Niels Bohr là một trong các người cộng sự đáng quý nhất mà tôi đã gặp. Ông ta phát biểu các ý tưởng của mình như một người đi dò dẫm và không bao giờ cho rằng mình có sẵn chân lý tuyệt đối”. Vào mùa xuân năm 1939, Lise Meitner và Otto Frisch khi đó đang làm việc tại Viện Vật Lý của Niels Bohr thì được đọc về các khám phá của vài nhà khoa học người Đức theo đó, người ta có thể phân tách nhân nguyên tử Uranium ra làm hai phần gần bằng nhau. Khi nhân nguyên tử bị chia tách như vậy, sẽ có một số năng lượng khủng khiếp thoát ra và điều này sẽ trở nên một hệ quả quan trọng về quân sự. Trong chuyến du hành sang Hoa Kỳ, Niels Bohr đã bàn luận về năng lượng nguyên tử với Albert Einstein và với nhiều nhà bác học khác trong đó có cả Enrico Fermi, khi đó đang làm việc cho trường đại học Columbia. Vào thời bấy giờ, chưa có nhà bác học nào biết rằng giữa hai chất Uranium238 và Uranium235 với lượng rất ít, chất Uranium nào đã bị phân hạch tâm để phát ra năng lượng lớn lao. Bohr cùng tiến sĩ John A. Wheeler nghiên cứu vấn đề này trong vài ngày và đã đi đến kết luận rằng chỉ có chất U-235 bị chia tách. Sau đó, lý thuyết về nhân hỗn hợp (compound nucleus) của Bohr cũng đã là một đóng góp to lớn vào nền vật lý hạch tâm, nhờ đó các nhà vật lý đã cắt nghĩa được tính phóng xạ, sự phát ra neutron (neutron emission) và sự phân hạch tâm (fission). Niels Bohr trở về Đan Mạch vào tháng 3 năm 1939 và làm việc tại Viện Vật Lý Copenhagen. Ngày 01 tháng 9 năm 1939, Hitler cho quân tiến vào đất Ba Lan và Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ. Tới tháng 4 năm 1940, quân đội Đức tràn vào Đan Mạch và chiếm trọn xứ này trong vài giờ. Trong bốn năm liền, người Đức đã kêu gọi sự cộng tác của dân quân Đan Mạch nhưng không thành công. Các cuộc phá hoại và đột kích vẫn luôn xẩy ra cho đến tháng 9 năm 1944, Vua Đan Mạch bị bắt giam và quân đội Đan Mạch bị tước khí giới. Khi chế độ Quốc Xã đi tới giai đoạn tiêu diệt thẳng tay các người Do Thái, nhóm dân lạc lõng này đã bị lùng bắt ở khắp nơi, nhưng nhờ sự giúp đỡ của dân Đan Mạch, 5,000 trong số 6,000 người Đan Mạch gốc Do Thái đã được đưa lén qua Thụy Điển bằng những con thuyền nhỏ. Nhà bác học Niels Bohr vì có mẹ gốc Do Thái, cũng phải chạy trốn. Ông cùng vợ con xuống một con tầu đánh cá có tên là Sea Star, lánh nạn qua Thụy Điển vào tháng 9 năm 1943. Từ đây, Niels Bohr sang nước Anh bằng một máy bay oanh tạc của đồng minh rồi sau đó, ông sang Hoa Kỳ và làm việc với nhóm các nhà bác học chế tạo bom nguyên tử (Manhattan Project). Chính tại Trung Tâm Nghiên Cứu Nguyên Tử Los Alamos thuộc tiểu bang New Mexico, Niels Bohr đã giữ chức vị cố vấn cao cấp nhất cho nhà bác học J. Robert Oppenheimer, giám đốc trung tâm. Sau khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, Niels Bohr trở lại Đan Mạch và làm việc tại Viện Vật Lý cũ của ông. Ông là chủ tịch của Hàn Lâm Viện Khoa Học Hoàng Gia Đan Mạch (the Royal Danish Academy of Sciences) cho tới khi qua đời. Ngoài sở thích về Khoa Học, Niels Bohr còn quan tâm đến Hòa Bình. Trước khi hai trái bom nguyên tử thả xuống đất Nhật vào năm 1945 và đã gây nên cảnh tàn phá khủng khiếp, Niels Bohr đã kêu gọi sự kiểm soát quốc tế về võ khí và năng lượng nguyên tử nhưng không thành công. Vào năm 1955, Hội Nghị Quốc Tế Nguyên Tử Phụng Sự Hòa Bình lần đầu tiên (the First International Conference on the Peaceful Uses of Atomic Energy) được tổ chức tại Geneva. Niels Bohr vốn là chủ tịch của Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử Đan Mạch (the Danish Atomic Energy Commission) đã được bầu làm chủ tịch của Hội Nghị kể trên. Ông cũng giúp công vào việc tạo nên Ủy Ban Nghiên Cứu Nguyên Tử của Châu Âu (CERN = the European Council for Nuclear Research). Tháng 8 năm 1957, Phần Thưởng Ford về Nguyên Tử Phụng Sự Hòa Bình (the first U.S. Atoms for Peace Award) với số tiền 75,000 Mỹ kim được trao về ông. Khi đã ngoài 70 tuổi, Niels Bohr tự cảm thấy già nua trong việc sáng tạo nên ông chuyên tâm vào việc giảng huấn và cổ động cho hòa bình. Niels Bohr qua đời vào ngày 18 tháng 11 năm 1962 tại tư gia ở Copenhagen. Ông và Albert Einstein là hai nhà đại bác học gây nên ảnh hưởng lớn lao nhất đối với nền vật lý của thế kỷ 20. Năm 1997, Hội Nghị Quốc Tế về Hóa Học Thuần Lý và Áp Dụng (the International Union of Pure and Applied Chemistry) đã công bố rằng nguyên tố hóa học với nguyên tử số 107 sẽ có tên chính thức là “bohrium” (Bh) để vinh danh nhà đại bác học Niels Bohr. Niels Bohr là nhà bác học lãnh được nhiều giải thưởng hơn bất cứ khoa học gia nào khác và theo như lời Albert Einstein: “Không còn hoài nghi gì nữa, Niels Bohr là một trong các nhà phát minh khoa học vĩ đại nhất của thời đại chúng ta”./.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 29, 2011 3:00:45 GMT 9
ArchimèdeVietsciences-Võ Thị Diệu Hằng Archimède (-287 , -212) nhà Bác học danh tiếng Hy Lạp Viện Bảo Tàng Quốc Gia Naples Ông sinh tại thành phố Syracuse, con của nhà thiên văn Phidias. Rất sớm bị ảnh hưởng bởi nhà trường xứ Alexandrie. Ông qua Ai Cập rồi Tây Ban Nha và định cư vĩnh viễn tại thành phố Cyracuse, xứ Sicile. Ðược hoàng gia tài trợ về tài chính, ông cống hiến hoàn toàn cho nghiên cứu khoa học. Học trò của nhà Thiên văn chính thức của vua Ptolémée III Evergète tại Alexandrie là Conon de Samos (khoảng -280, khoảng -220) và bạn của Ératosthène de Cyrène (-284; -192) học trong trường thuộc trường phái Euclide (-323; -283) tại Ai Cập. Conon de Samos và Archimède suốt đời là bạn của nhau. Công trình: Ông tìm ra: 1) - Công thức tính diện tích và thể tích hình lăng trụ và hình cầu. 2) - Số thập phân của số Pi. Năm -250, ông chứng minh rằng số Pi nằm giữa 223/7 và 22/7 3) - Phương pháp tính gần đúng chu vi vòng tròn từ những hình lục giác đều nội tiếp trong vòng tròn. 4) - Những tính chất của tiêu cự của Parabole 5) - Phát minh đòn bẫy, đinh vis Archimède (có thể do Archytas de Tarente), bánh xe răng cưa. 6) - Chế ra máy chiến tranh khi Cyracuse bị quân La Mã vây. 7) - Chế ra vòng xoắn ốc không ngừng của Archimède (có thể do Conon de Samos) 8) - Tính diện tích parabole bằng cách chia ra thành tam giác vô tận 9) - Nguyên lý Thủy tĩnh (hydrostatique), sức đẩy Archimède, Trọng tâm. Barycentre 10) - Những khối Archimède (Solides d'Archimède) 11) - Những dạng đầu tiên của tích phân. Nhiều công trình của ông đã không được biết đến cho đến thế kỷ XVIIe đến thế kỷ XIXe, Pascal , Monge và Carnot đã làm công trình của họ dựa trên công trình của Archimède. Tác phẩm Ông đã viết về: - Sự cân bằng các vật nổi - Sự cân bằng của các mặt phẳng trên ký thuyết cơ học - Phép cầu phương của hình Parabole - Hình cầu và khối cầu cho Toán. Tác phẩm này xác định diện tích hình cầu theo bán kính , diện tích bề mặt của hình nón từ diện tích mặt đáy của nó. Ông còn viết những sách về: - Hình xoắn ốc (đó là hình xoắn ốc Archimède, vì có nhiều loại xoắn ốc) - Hình nón và hình cầu (thể tích tạo thành do sự xoay tròn của mặt phẳng quanh một trục (surface de révolution), những parabole quay quanh đường thẳng hay hyperbole - Tính chu vi đường tròn (Ông đã cho cách tính gần đúng của con số Pi mà Euclide đã khám phá ra. - Sách chuyên luận về phương pháp để khám phá Toán học. Sách này chỉ mới được khám phá ra vào năm 1889 tại Jérusalem. - Về trọng tâm và những mặt phẳng: đó là sách đầu tiên viết về trọng tâm barycentre (ý nghĩa văn chương là "tâm nặng") 10 3) Tính chu vi vòng tròn Máy chiến tranh Gương hình parabole dùng sức nóng mặt trời
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 29, 2011 3:12:03 GMT 9
GaliléeVietsciences-Võ Thị Diệu Hằng Galilée (1564-1642) nhà vật lý và thiên văn Ý đã quả quyết rằng trái đất quay... Bản sao kính thiên văn Galilée Ông sinh tại Pise, mất tại Arcetri (Ý) Ông là nhà sáng lập môn khoa học thực nghiệm tại Ý, chế ra cân thủy tĩnh (balance hydrostatique) , khám phá ra tính đẳng thời của các quả lắc và những định luật về sự rơi của đồ vật. 1952-1610: Dạy học tại đại học Padoue Phát minh hàn thử biểu Làm một kính thiên văn tại Venise năm 1609. Nhờ kính thiên văn, ông tìm ra vệ tinh của Jupiter (Mộc tinh), những phase của Vénus (Kim), giải Ngân Hà cấu tạo bằng sao và giải thích những dấu vết ở mặt trời. Cuối cùng nhờ những khám phá này mà ông thừa nhận thuyết Copernic là đúng. Pháp đình La Mã kết tội ông theo Copernic, nên Galilée bị đuổi không cho dạy học. Ông về quê tại Florence và viết quyển Ðối thoại về những hệ thống lớn của vũ trụ. Giáo hoàng lúc bấy giờ là Urbain cho là đối nghịch với Thánh kinh, cho rằng còn nguy hiểm hơn Martin Luther và Calvin nên thu hết sách của ông. 1633, thêm một lần nữa pháp đình La Mã mang ông ra xử. Bắt ông phải quỳ gối chối bỏ những gì ông đã viết và đã nói là sai. Vì bị ép buộc phải nói ngược chân lý, ông phải nói, nhưng sau đó ông vẫn lẩm bẩm: "E pur si muove" (Et pourtant elle tourne, Tuy vậy, trái đất vẫn quay). Vì nhìn mặt trời nhiều, bị những tia bức xạ làm hỏng mắt ông nên về già ông bị mù. Ông để lại một số bánh xe răng cưa sắp theo hệ thống cùng với một bài vẽ hệ thống bánh xe của đồng hồ quả lắc ngày nay. Ông cũng để lại một số bài tính về thiên văn.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2011 3:46:35 GMT 9
Euclid Tu 1 diem , ngoai 1 duong thang, ta co the ke duoc 1 duong thang, thang goc hay song song voi duong thang do , va chi 1 duong ma thoi . Chân dung Euclisd của Justus van Ghent vào thế kỉ 15. Không có tranh tượng hoặc miêu tả nào về bề ngoài của Euclid từ thời ông còn lại đến nay Sinh khoảng : 330 TCN Nơi cư ngụ : Alexandria, Ai Cập Quốc gia : Hy Lạp Ngành : Toán học Nổi tiếng vì : Hình học EuclidEuclide
Vietsciences-Nguyễn Vũ Ngân Hà Euclide (-323; -283), Archimède và Apollinos là ba nhà toán học lớn của cổ Hy Lạp.
Chúng ta biết rất ít về đời sống của Euclide. Hình như ông dạy Toán ở Alexandrie thời Ptolémée 1er. Ông là người sáng lập ra Trường Alexandrie đã ảnh hưởng đến những công trình của Archimède Bù lại với sự hiểu biết ít ỏi về ông, lý thuyết của ông được biết và lập thành một phương hướng cho lịch sử Toán học.
Tác phẩm chính là quyển Những nguyên lý (Les éléments) . Công trình này tượng trưng cho sự tổng hợp của những kết quả về Toán học. Sách gồm 13 quyển. Bốn quyển đầu giảng về Hình học phẳng với những khái niệm về các điểm, đường thẳng, và diện tích. Ngoài ra cũng những bài diện tích các đa giác
Quyển V nói về những khái niệm về phân tích. Quyển VI bàn về sư giống nhau giữa các hình và đưa ra cách giải phương trình bậc hai nhờ hình học. Các quyển VII, VIII và XI nói về Số học. Quyển X giảng về số vô tỉ (nombres irrationnels) và ba quyển cuối cùng giảng về hình học không gian.
Quyển hệ luận Porismes được chia thành hai nhóm: nhóm các giả thiết (hypothèses) và nhóm các tiên đề (axiomes). Trong số năm tiên đề có định đề (postulat) Euclide nổi tiếng: Trong mặt phẳng, qua một điểm ngoài đường thẳng, chỉ có một đường thẳng song song với đường thẳng đó mà thôi.Cơ sở Euclid (tiếng Hy Lạp: Εὐκλείδης, phiên âm tiếng Việt là Ơ-clit) là nhà toán học lỗi lạc thời cổ Hy Lạp, sống vào thế kỉ thứ 3 TCN. Ông được mệnh danh là "cha đẻ của Hình học". Có thể nói hầu hết kiến thức hình học ở cấp trung học cơ sở hiện nay đều đã được đề cập một cách có hệ thống, chính xác trong bộ sách Cơ sở gồm 13 cuốn do Euclid viết ra, và đó cũng là bộ sách có ảnh hưởng nhất trong Lịch sử Toán học. Ngoài ra ông còn tham gia nghiên cứu về luật xa gần, đường cô-nic, lý thuyết số và tính chính xác. Tục truyền rằng có lần vua Ptolemaios I Soter hỏi Euclid rằng liệu có thể đến với hình học bằng con đường khác ngắn hơn không? Ông trả lời ngay: "Muôn tâu Bệ hạ, trong hình học không có con đường dành riêng cho vua chúa". [1] Euclid sinh ở thành Athena, sống khoảng 330-275 trước Công nguyên, được vua Ai Cập là Ptolemaios I Soter mời về làm việc ở chốn kinh kỳ Alexandria, một trung tâm khoa học lớn thời cổ trên bờ biển Địa Trung Hải. Bằng cách chọn lọc, phân biệt các loại kiến thức hình học đã có, bổ sung, khái quát và sắp xếp chúng lại thành một hệ thống chặt chẽ, dùng các tính chất trước để suy ra tính chất sau, bộ sách Cơ sở đồ sộ của Euclid đã đặt nền móng cho môn hình học cũng như toàn bộ toán học cổ đại. Bộ sách gồm 13 cuốn: sáu cuốn đầu gồm các kiến thức về hình học phẳng, ba cuốn tiếp theo có nội dung số học được trình bày dưới dạng hình học, cuốn thứ mười gồm các phép dựng hình có liên quan đến đại số, 3 cuốn cuối cùng nói về hình học không gian. Trong cuốn thứ nhất, Euclid đưa ra 5 định đề: Qua hai điểm bất kì, luôn luôn vẽ được một đường thẳng Đường thẳng có thể kéo dài vô hạn. Với tâm bất kì và bán kính bất kì, luôn luôn vẽ được một đường tròn. Mọi góc vuông đều bằng nhau. Nếu 2 đường thẳng tạo thành với 1 đường thẳng thứ 3 hai góc trong cùng phía có tổng nhỏ hơn 180 độ thì chúng sẽ cắt nhau về phía đó.Và 5 tiên đề: Hai cái cùng bằng cái thứ ba thì bằng nhau. Thêm những cái bằng nhau vào những cái bằng nhau thì được những cái bằng nhau. Bớt đi những cái bằng nhau từ những cái bằng nhau thì được những cái bằng nhau. Trùng nhau thì bằng nhau. Toàn thể lớn hơn một phần.Với các định đề và tiên đề đó, Euclid đã chứng minh được tất cả các tính chất hình học. Con đường suy diễn hệ thống và chặt chẽ của bộ cơ bản làm cho tập sách được chép tay và truyền đi các nước. Tuy nhiên, các định đề và tiên đề của Euclid còn quá ít, đặc biệt là không có các tiên đề về liên tục, nên trong nhiều chứng minh, ông phải dựa vào trực giác hoặc thừa nhận những điều mà ông không nêu thành tiên đề.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2011 3:52:20 GMT 9
Phạm Văn Tuấn George Eastman (1854 - 1932) Nhà phát minh phim và máy ảnh Kodak Ngày nay tại khắp nơi trên thế giới, nếu mọi người được xem những hình ảnh thời sự trên các mặt báo, trong các tạp chí, nếu mọi sách giáo khoa chứa đựng nhiều tấm ảnh dẫn chứng cụ thể, nếu các bác sĩ có thể xem xét người bệnh bằng phim chụp do quang tuyến X và nếu mọi người giải trí nhờ những rạp chiếu bóng. . . thì tất cả các phát minh này đã được khai triển nhờ đức tính tận tụy của một thiên tài siêu việt trong ngành Nhiếp Ảnh, đó là ông George Eastman.
Nhờ thiên tài sáng tạo của ông Eastman, cách chụp ảnh trước kia là một công việc phức tạp và khó khăn, đã trở nên dễ dàng và chỉ cần một động tác đơn giản là ấn vào một cái nút trên chiếc máy ảnh cầm tay, máy sẽ cơ động trong một phần trăm giây đồng hồ và người ta sẽ lấy được các hình ảnh rất trung thực.
Phát minh của ông Geoge Eastman đã cải tiến ngành Nhiếp Ảnh, làm dễ dàng công việc ghi rõ hình ảnh của thế giới hiện tại để truyền lại cho thế giới tương lai. Phát minh của ông George Eastman còn giúp ích vào các công cuộc khảo cứu khoa học, từ việc nghiên cứu những đối tượng cực nhỏ như các vi trùng, các nguyên tử , tới các thiên thể cực lớn chẳng hạn các tinh vân khổng lồ. Ngành Nhiếp Ảnh còn được áp dụng vào Y Khoa, Kỹ Nghệ, Khoa Học, Giáo Dục, Nghệ Thuật và cả vào ngành Giải Trí.1/ Thời niên thiếu. George Eastman là con của ông George Washington Eastman và bà Maria Kilbourn, chào đời ngày 12 tháng 7 năm 1854 tại làng Waterville, thuộc tiểu bang New York. Cha của George làm nghề ươm cây, đã bán lại cơ sở kinh doanh khi cậu bé George lên 6 tuổi, rời gia đình tới thành phố Rochester và mở một trường thương mại. Hai năm sau ông George qua đời, để lại một vợ, ba con gồm hai cô gái lớn và cậu trai út, tất cả sinh sống trong cảnh nghèo túng. Trong thời gian vất vả này, bà Eastman phải nấu cơm trọ để lấy tiên nuôi các con ăn học. Vào thời bấy giờ, cậu George là một học sinh rất chăm chỉ nhưng lại không giỏi hẳn về một môn học nào. Cậu là tay chơi dã cầu vào hạng khá. Cậu đã sáng chế được các món đồ chơi rất tỉ mỉ bằng những cây que đan cũ. Nhiều bạn học cùng lớp hỏi xin đồ chơi nhưng cậu nhất định không chịu tặng không. Cậu bảo bạn : "Nếu bạn ưa thích thứ đó, sao không mua đi? Giá chỉ có 10 xu thôi!". Và George đã bán được "sản phẩm" của mình. Cậu đã ghi lại số tiền kiếm được vào sổ tay, điều này chứng tỏ cậu có khuynh hướng về thương mại và suốt cuộc đời của cậu, George chỉ suy tính về các công việc chi thu mà thôi. Khi George lên 14 tuổi, gia đình Eastman lâm vào hoàn cảnh quá nghèo túng. Biết rõ cảnh khổ của mẹ, cậu xin thôi học, trở về giúp đỡ gia đình. Cậu tự nguyện sẽ đưa gia đình ra khỏi cảnh túng bấn. Cậu vận động và xin được chân tùy phái của một văn phòng bảo hiểm với số lương 3 mỹ kim một tuần lễ. Cậu làm việc rất cẩn thận và chu đáo. Xong việc tại sở, cậu George phải đi bộ hàng cây số để trở về giúp nhà làm các công việc vặt trong 6 hay 7 giờ nữa. Công việc tùy phái này kéo dài trong một năm trường, tới khi George xin được việc làm trong văn phòng của một hãng bảo hiểm khác. Nhờ óc sáng tạo, George được giao những công việc quan trọng hơn và lương bổng của cậu cũng tăng lên tới 5 mỹ kim một tuần lễ. Năm 1874, sau 5 năm làm việc tại hãng bảo hiểm, George Eastman được Ngân Hàng Rochester Savings nhận làm thư ký với tiền lương là 800 mỹ kim một năm. Tới lúc này, vì đời sống trở nên dễ chịu hơn, George bèn nghĩ tới việc giải trí. Cậu học tiếng Đức và tiếng Pháp, gia nhập hội thể thao và đôi khi còn mượn xe ngựa để mời vài bạn gái đi dạo chơi ngắm cảnh. Vào năm 24 tuổi sau một thời gian làm việc cực nhoc, George quyết định đi nghỉ hè để dưỡng sức. Do đọc các sách báo nói về miền Santo Domingo, George dự tính sẽ tới nơi này. Đây là lần đầu tiên đi nghỉ mát nên George phải bàn tính kỹ lưỡng chương trình du ngoạn với các bạn đồng nghiệp. Khi nghe George nói về những nơi sẽ viếng thăm, một người bạn tỏ lộ với George lời thèm muốn như sau : "Ước gì tôi được đi với anh ! Nhưng dù không được đi chăng nữa, nếu tôi được xem những hình ảnh do anh chụp và mang về thì cũng đủ vui thích rồi". Chính lời nói bất ngờ này đã dẫn dắt George Eastman vào ngành Nhiếp Ảnh. Eastman không định mang theo máy ảnh trong chuyến du ngoạn nhưng ông cho rằng lời nói của anh bạn là một ý kiến hay. Vì vậy ông đã bỏ ra 94.36 mỹ kim để mua một máy ảnh với dụng cụ đầy đủ. Vào thời bấy giờ, công việc chụp ảnh rất phức tạp. Nhà nhiếp ảnh phải dùng kính tráng một lớp thuốc và thứ kính này phải được chụp khi lớp thuốc còn ướt rồi rửa ngay sau đó. Vì thế khi bán máy ảnh, người ta cũng bán kèm những lọ thủy tinh đựng hóa chất, những khay, quặng (phễu), cân hóa chất và cả một chiếc lều vải dùng làm phòng tối. Khi nhớ lại các kỷ niệm xa xưa, ông George Eastman còn nói :"Nhà nhiếp ảnh tài tử không những chỉ cần một chiếc máy ảnh, mà còn cần tới cả một bộ đồ nghề trong đó chiếc máy ảnh chỉ là một phần nhỏ. Tôi cho rằng làm một anh thợ ảnh cần phải khỏe mạnh và còn phải can đảm nữa, vì mang bộ đồ nghề nhiếp ảnh chẳng khác nào mang bộ yên cương". Vì lý do riêng, Eastman không thể đi Santo Domingo được, ông liền dùng thời giờ nhàn rỗi vào việc tìm hiểu Nhiếp Ảnh. Khi đã hiểu biết tạm đủ về kỹ thuật, ông Eastman liền qua đảo Mackimac để chụp hình chiếc cầu thiên tạo. Eastman chọn một ngày nhiều nắng và mang máy ảnh ra xử dụng. Nhóm du khách thấy có thợ chụp ảnh liền sắp hàng trên cầu để được chụp. Họ coi Eastman đặt máy, ngắm nghía, vặn vật kính và theo dõi nhà nhiếp ảnh chạy lăng xăng từ lều ra máy với những tấm kính ướt. Hôm đó, trời nắng gắt nhưng nhóm người ưa thích được chụp ảnh vẫn kiên tâm đứng yên để Eastman làm đủ mọi động tác phức tạp. Tới khi Eastman rửa ra kính ảnh rồi, một người trong bọn hỏi mua thì ông Eastman trả lời : "những kính ảnh này không bán vì tôi chỉ là một người chụp ảnh tài tử". Tới lúc này, ông khách liền nổi nóng : "Anh điên hả? Tại sao anh bắt chúng tôi đứng hàng nửa giờ ngoài nắng trong khi anh chạy đi chạy lại lăng xăng, đáng lẽ anh phải treo tấm bảng ghi rõ anh là một người chụp ảnh tài tử chứ ?". 2/ Chế tạo kính ảnh. Các ngày nghỉ đã hết, Eastman khi trở lại ngân hàng thì đã thấu triệt được kỹ thuật của môn Nhiếp Ảnh thời bấy giờ. Do sự say mê chụp ảnh, Eastman thấy cần phải làm đơn giản các phương pháp rắc rối cũ. Ông tìm cách đọc các sách báo nói về Nhiếp Ảnh xuất bản tại nước Anh, rồi một tin tức đã khích động Eastman hơn cả là sự tìm ra kính khô. Nhờ phương pháp này người ta không cần phải chụp và rửa phim ngay tại chỗ và tốc độ thu hình trước kia từ 3 tới 4 giây, bây giờ được rút gọn còn 1 phần 25 giây. Ông Eastman đã theo đúng các công thức cho sẵn trong tờ tạp chí Anh để tự chế tạo kính ảnh. Lúc đầu ông chỉ dự tính chế tạo kính khô cho riêng mình dùng nhưng chẳng bao lâu, ông lại nẩy ra ý kiến chế tạo thật nhiều loại kính đó để bán ra ngoài. Ông tham khảo rất nhiều sách vở để tìm hiểu các phương pháp thí nghiệm và sản xuất. Ban ngày làm việc tại ngân hàng, đến tối ông bận rộn pha trộn và nấu thuốc ảnh trong bếp. Ông thường làm việc cho tới khi nào mệt lả. Có nhiều đêm, ông để nguyên cả quần áo mà ngả lưng trên ghế rồi ngủ cho đến sáng. Lòng lo sợ cảnh nghèo túng đã ám ảnh ông, nhất là khi gia đình ông lại gồm mẹ già và một người chị bị bại liệt nửa người. Ông Eastman đã làm việc không ngừng vì hai nguyên do : lòng yêu mến mẹ già và ý chí kiếm tiền. Vào tháng 4 năm 1880, ông Eastman thuê từng lầu thứ ba của một tòa nhà trên đường State trong thành phố Rochester, dùng làm nơi sản xuất kính ảnh sau khi đã xin bằng sáng chế để bảo đảm phương pháp chế tạo của mình. Eastman thôi việc tại ngân hàng khi Henry Strong, người khách trọ trong nhà của bà mẹ và cũng là nhà sản xuất roi đánh xe ngựa, bằng lòng bỏ ra năm ngàn mỹ kim làm vốn và hai người lập ra Công Ty Kính Khô Eastman. Lúc đầu, việc bán sản phẩm nhiếp ảnh chưa gặp khó khăn và mặc dù đã có 6 nhân viên, Công Ty Eastman vẫn phải mướn thêm người phụ giúp. Nhưng ít lâu sau, các người chơi ảnh phàn nàn rằng kính khô do Eastman sản xuất chưa nhạy lắm và các nhà buôn đã hoàn trả công ty một số kính ảnh bị hư hỏng vì lỗi kỹ thuật chế tạo. Trước tình thế này, vài người hùn vốn rút lui. Eastman và Strong quyết định qua nước Anh là nơi tiến bộ nhất về kỹ nghệ chế tạo dụng cụ nhiếp ảnh với hy vọng nhờ các chuyên viên tại nơi này tìm ra khuyết điểm. Sau khi trở lại Rochester, Eastman đã cải tiến phương pháp cũ và từ nay, ông đã thực hiện được các kính ảnh hoàn toàn tốt khiến cho không còn ai phải phàn nàn về sản phẩm nữa. Vào năm 1884, công việc chế tạo kính khô phát đạt, ông Eastman phải mở rộng thêm cơ xưởng. Ông dọn trụ sở tới một tòa nhà bốn tầng mà ngày nay là nơi chiếc tháp Kodak còn đứng sừng sững. Với mục đích làm giản dị ngành Nhiếp Ảnh, ông Eastman luôn luôn nghĩ tới cách chế tạo ra một chất liệu nào thay thế kính là thứ hay bị bể vỡ và nặng nề. Ông đã dùng giấy để thay thế với hy vọng lắp được cả cuộn phim vào máy để chụp hàng loạt. Đồng thời với việc nghiên cứu, ông Eastman còn khuếch trương công ty. Ông hủy bỏ giao kèo cũ và thành lập Công Ty Kính và Phim Ảnh Eastman (the Eastman Dry Plate and Film Company) với 12 người cộng tác. Eastman đã quảng cáo vào năm 1885 sản phẩm của mình như sau : "Ít lâu nữa, sẽ có một loại phim chụp ảnh mới dùng vào việc thu hình ngoài trời cũng như trong nhà, loại phim này vừa rẻ tiền, vừa tiện lợi để thay thế những tấm kính ảnh khô". Với sự trợ giúp của William Walker, Eastman đã tìm ra một loại giấy âm bản. Tuy sản phẩm này thành công trên thị trường nhưng phát minh của Eastman vẫn còn khuyết điểm. Vì giấy không đúng là chất làm nền hoàn hảo, nên khi in ra hình ảnh, người ta vẫn thấy rõ các sợi giấy. Eastman lại bắt tay vào việc tìm kiếm một chất mới để thay thế cho giấy. Ông đã dùng chất collodion nhưng chất này không bắt thuốc ảnh. Vì thế ông phủ một chất keo có thể tan được lên trên mặt giấy rồi tới lượt lớp keo thuốc ảnh không tan trong nước. Sau khi chụp xong, lớp keo thuốc ảnh được bóc ra khỏi giấy và dán vào một tờ keo trong khác rồi người ta mới bôi thêm một lớp collodion ra ngoài. Vào năm 1886, vì công việc tổ chức công ty quá bận rộn, ông Eastman phải thuê thêm các nhà hóa học phụ giúp việc nghiên cứu. Bất cứ lúc nào, đầu óc của ông Eastman cũng bận rộn về cách chế tạo các máy móc mới để giảm bớt nhân công và làm hạ giá sản phẩm. Sau khi thay thế kính ảnh bằng phim, ông nhận thấy số người dùng phim ảnh chưa có nhiều. Ông muốn theo đuổi một công cuộc kinh doanh lớn lao và muốn vậy, ông phải tìm cách hấp dẫn đa số quần chúng. Ông quyết định cung cấp đầy đủ vật liệu nhiếp ảnh với giá thật rẻ để mọi người đều có thể chụp ảnh được. Ông đã quảng cáo rầm rộ sản phẩm của mình và tìm cách khai thác thị trường thương mại. Để đại chúng hóa ngành Nhiếp Ảnh, ông Eastman tung ra thương trường chiếc máy ảnh Kodak đầu tiên vào tháng 6 năm 1888. Đây là chiếc máy ảnh kiểu hộp, nhỏ và nhẹ, có dây đeo, bên trong có lắp một cuộn phim giấy dài, đủ chụp 100 kiểu ảnh. Khách chơi ảnh chỉ việc bỏ ra 25 mỹ kim để mua máy có lắp sẵn "Phim Hoa Kỳ" rồi khi chụp xong, gửi máy ảnh về thành phố Rochester và tại nơi này, hãng Eastman sẽ tháo phim ra, rửa và in hình, tất cả chỉ tốn thêm 10 mỹ kim. Trong việc quảng cáo, Eastman đã nói : "Bạn chỉ cần bấm nút rồi chúng tôi sẽ lo tất cả các công việc còn lại". Đây là một cải cách mới, làm thay đổi hoàn toàn chính sách thương mại và ông Eastman đã áp dụng các phương pháp tân kỳ vào việc sản xuất đại quy mô để làm giảm giá hàng. Do cách quảng cáo đặc biệt, máy chụp ảnh Kodak của Eastman đã nổi tiếng trên khắp thế giới và ngành Nhiếp Ảnh bình dân được khai sinh. Không những thành công về phương diện thương mại, ông George Eastman còn đạt được một kết quả rực rỡ về phương diện kỹ thuật, đó là sự tìm ra loại phim dẻo và trong suốt. Loại phim này là kết quả của sự pha trộn rất nhiều chất khác nhau với nitrocellulose cho tới khi dung dịch đủ đặc để thành một lớp phim mỏng, trong suốt và không có hạt, đủ sức dẻo dai, làm nền đế để bôi các lớp thuốc ảnh lên trên. Vào tháng 8 năm 1889, loại phim Kodak trong suốt đầu tiên được bán ra thị trường và đã được các nhà nhiếp ảnh đón tiếp nồng nhiệt. Cũng nhờ loại phim này, nhà bác học Thomas Edison đã xử dụng để làm cuộn phim chiếu bóng đầu tiên, khai sinh ra kỹ nghệ điện ảnh. Với chủ đích làm giản dị ngành Nhiếp Ảnh, ông Eastman lúc nào cũng nghiên cứu, tìm tòi. Ông đưa ra các cải tiến liên tiếp khác nhau. Vào năm 1891, Hãng Kodak sản xuất loại phim cuộn khiến cho các người chơi ảnh có thể lắp phim vào máy ngay tại ngoài trời và từ đây, người ta không cần phải gửi máy ảnh trở lại thành phố Rochester để lắp phim nữa. Từ khi loại phim cuộn ra đời, một tình trạng khác hẳn đã xẩy ra. Trước kia người chơi ảnh phải là một thợ ảnh, họ phải biết tráng phim và rọi hình, hai công việc này bắt buộc họ phải học thêm kỹ thuật phòng tối. Ngày nay với loại phim mới, người chơi ảnh chỉ cần chụp sao cho đẹp, theo đúng theo các điều kiện ánh sáng, còn việc tráng phim và rọi hình đã có hàng ngàn hiệu ảnh lớn nhỏ đảm nhiệm thay họ. Vào năm 1895, một loại máy ảnh có thể xếp lại và bỏ túi, được tung ra thị trường rồi 5 năm sau, máy ảnh Brownie dùng cho trẻ em đã được bán ra với giá một mỹ kim. Việc chế tạo phim, giấy và máy ảnh đã trở nên một loại kỹ nghệ và Công Ty Eastman Kodak trở thành một hãng sản xuất sản phẩm nhiếp ảnh lớn nhất thế giới. 3/ Đóng góp vào cộng đồng. Từ xưa, ông George Eastman vẫn chỉ mong tìm ra các phương pháp làm giản dị môn Nhiếp Ảnh để đại chúng có thể hưởng lợi thì ngày nay, điều đó thành sự thật. Những đóng góp của ông Eastman vào ngành Nhiếp Ảnh thật là lớn lao. Charles Greeley Abbot đã phải nói rằng : "Đó là một cuộc cách mạng trong ngành chụp ảnh, được thực hiện nhờ lòng tận tụy của một viên thư ký ngân hàng chơi ảnh một cách tài tử". Do thiên tài sáng tạo, viên thư ký ngân hàng đã trở nên một tay cự phú. Nhưng dù thành công rực rỡ, ông George Eastman vẫn giữ lòng khiêm tốn, ít khi ông xuất hiện nơi công cộng hay có hình ảnh đăng trên báo chí. Vì luôn luôn hồi tưởng những ngày còn hàn vi, phải sống chật vật để sinh tồn, ông nghĩ ra các dự án thiết lập các quỹ hưu bổng, bảo hiểm và trợ cấp cho các công nhân của công ty. Ông Eastman đã đi trước các chủ nhân đương thời về những đức tính dân chủ và nhân đạo trong việc xây dựng kỹ nghệ bằng cách nâng đỡ giới công nhân theo cách chia lời cho họ tỉ lệ với số lương, vì ông biết rằng người công nhân có được tưởng thưởng xứng đáng thì sản phẩm mới tốt đẹp hơn. Ông Eastman cho rằng sự thịnh vượng của một tổ chức không những chỉ nhờ vào các phát minh và các bằng sáng chế mà còn cần tới thiện chí và lòng trung thành của giới công nhân. Khi tuổi đã cao, ông Eastman đành phải mướn các chuyên viên thay thế mình trong nhiều công việc nghiên cứu, nhờ vậy ông có dư thời giờ nhàn rỗi để đi săn bắn, câu cá, du lịch hay thưởng thức âm nhạc. Vào thời còn trẻ, ông Eastman không được học hỏi về Âm Nhạc trong khi ông rất ưa chuộng các vẻ đẹp và những âm thanh êm tai. Ông thường kể lại vào thời xa xưa, ông đã mua một cây sáo và tập thổi bài hát Annie Laurie trong hai năm trường. Dù rằng không có thiên khiếu về âm nhạc nhưng do lòng yêu thích nghệ thuật âm thanh, trong thập niên 1920 ông Eastman đã thảo ra nhiều kế hoạch thành lập tại thành phố Rochester một trường âm nhạc , một rạp hát và một ban nhạc hòa tấu, và dân chúng Rochester đã ủng hộ sáng kiến của ông. Ông George Eastman còn giúp đỡ các bệnh viện và trường y khoa tại Rochester, nhưng ngành chữa răng được ông chú ý tới nhất. Ông đã ủng hộ tài chính để thành lập tại thành phố của ông một bệnh viện nha khoa trị giá 2 triệu rưỡi mỹ kim. Có người hỏi tại sao ông ưu đãi các nhà thương chữa răng thì ông Eastman trả lời : "Tiền bỏ ra cho ngành này mang lại nhiều kết quả hơn bất cứ ngành nào khác. Về y học, chúng ta nhận thấy trẻ em sẽ tốt đẹp hơn, sức khỏe dồi dào hơn và năng lực tinh thần mạnh mẽ hơn nếu răng, mũi, cuống họng và miệng của chúng được chăm sóc chu đáo trong thời còn nhỏ". Từ lý do vững vàng này, ông Eastman đã tặng nhiều tiền cho các bệnh viện nha khoa của các thành phố London, Paris, Rome, Bruxelles và Stockholm, và hàng trăm ngàn trẻ em châu Âu đã ghi ơn ông George Eastman trong cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai. Ngoài việc giúp đỡ các công cuộc chống bệnh tật, ông Eastman còn chú ý tới nền giáo dục. Khi Viện Cơ Khí Rochester (the Mechanics Institute of Rochester) được thành lập vào năm 1887 và đang phải phấn đấu, ông Eastman đã tặng tiền cho Viện rồi ông còn tự đề nghị là một trong 10 người đỡ đầu cho Viện. Ngày nay Viện này được đổi tên thành Viện Kỹ Thuật Rochester (the Rochester Institute of Technology). Do việc thuê mướn một số kỹ sư tốt nghiệp từ Viện Kỹ Thuật Massachusetts, ông Eastman thấy được khả năng của các chuyên viên này và ông càng khâm phục Viện Kỹ Thuật đó. Rồi do lòng quý trọng, ông Eastman đã tặng cho Viện Kỹ Thuật đó một số tiền lớn tới 20 triệu mỹ kim với ẩn danh là "ông Smith". Người ta đã bàn tán rất nhiều về ông Smith và trong bài hát phổ thông của Viện, các sinh viên năm dự bị ngày nay còn ca tụng vị ân nhân bí mật của họ như sau : "Hoan hô, hoan hô, nhân danh sinh viên trường Kỹ Thuật và trường Boston, hoan hô, hoan hô ông Smith, vị ân nhân ẩn danh". Vào năm 1924, ông Eastman đã tặng hơn 75 triệu mỹ kim cho Viện Kỹ Thuật Massachusetts (M.I.T.), trường Đại Học Rochester trong đó có trường Âm Nhạc Eastman, trường Y Khoa, trường Nha Khoa, Viện Hampton và Viện Tuskegee là cơ sở nâng đỡ nền giáo dục của người da đen. Ông đã cắt nghĩa lý do tặng tiền rộng rãi này như sau : "Trước hết, sự tiến bộ của thế giới tùy thuộc vào Giáo Dục vì thế tôi đã chọn các Viện Giáo Dục. Tôi chỉ muốn đỡ đầu vài ngành mà thôi và tôi cho rằng với các Viện này, tôi có thể tìm thấy các kết quả nhanh chóng và trực tiếp hơn, hơn là để số tiền tản mát đi quá nhiều". Ông George Eastman là một nhân vật không thích tự quảng cáo. Thật là trái ngược khi một vĩ nhân của ngành Nhiếp Ảnh lại ít chụp ảnh hơn bất cứ một danh nhân nào khác trong thời đại của ông. Do ít người biết mặt, ông Eastman có thể dạo chơi trên đại lộ chính trong thành phố mà không mấy ai nhận ra được ông. Ông Eastman rất yêu thích và am tường về Hội Họa, ông thường đi thăm các phòng triển lãm của châu Âu và ông đã có một bộ sưu tầm tranh đáng kể. Nếu trong cuộc kinh doanh, ông Eastman là một tay cạnh tranh ráo riết và thực tế thì trong các cuộc du ngoạn, ông cũng là một người hoạt động tích cực. Ông thường tổ chức các cuộc đi săn lớn tại châu Phi, tự vẽ kiểu từng món đồ cắm trại và luôn luôn cải tiến các vật dụng sao cho nhẹ nhàng hơn, thu gọn được, và mỗi món đồ đều được dùng cho hai hay ba công việc. Ông lại là tay nấu bếp giỏi, luôn luôn nhận làm các món ăn đặc biệt cũng như món tráng miệng. Ông Eastman là một con người can đảm và giàu lòng tin tưởng. Trong một cuộc săn thú tại châu Phi, ông đã bình tĩnh quay phim một con tê giác xông tới tấn công ông và viên thợ săn đã bắn hạ con thú chỉ cách ông 5 bước chân. Có người lo rằng chỉ sơ sót một chút, ông có thể bị thiệt mạng thì ông Eastman bình tĩnh trả lời rằng : "Dĩ nhiên là tôi phải tin vào cách tổ chức của tôi chứ !". Ông George Eastman qua đời tại Rochester vào ngày 14 tháng 3 năm 1932, không vợ con. Ông là một người tiền phong trong việc khai thác các thị trường ngoại quốc. Ông cũng bỏ ra rất nhiều tiền dùng vào các công cuộc khảo cứu kỹ nghệ, vào các cách quảng cáo rầm rộ cũng như nghiên cứu ngành Tiếp Thị (marketing). Ông George Eastman xứng danh là một nhà phát minh thiên tài, một kỹ nghệ gia ngoại hạng, một nhà tổ chức sáng suốt, một công dân ái quốc và một con người giàu lòng bác ái, vị tha.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2011 3:55:32 GMT 9
Mahatma GandhiLê Bích Sơn Mahatma Gandhi (1859 - 1948) Linh hồn vĩ đại Nhân ngày cả nước Ấn Độ và Đảng Quốc Đại Ấn Độ tổ chức kỷ niệm sinh nhật lần thứ 134 của Thánh Gandhi (ngày 2 tháng 10 năm 2003), xin gởi đến quý độc giả gần xa đôi nét sơ lược về cuộc đời Thánh Gandhi. Thánh Gandhi tên thật là MOHANDAS KARAMCHAND GANDHI, chào đời vào sáng ngày 2 tháng 10 năm 1869 trong một căn nhà nhỏ tại Porbandar thuộc vùng Kathiawad - một vùng biển phía Tây Ấn Độ - thuộc Bombay. Thân phụ Mohandas Karamchand Gandhi tên Karamchand Gandhi, thân mẫu là bà Putlibai, gia đình Gandhi thuộc giai cấp thương gia (Vaishya, đẳng cấp thứ 3 theo đạo Hindu). Sử sách còn ghi lại: Ông nội của Mohandas Karamchand Gandhi là Uttamchand Gandhi, một thương gia nổi tiếng của vùng Porbandar. Mohandas Karamchand Gandhi là con út trong gia đình có sáu người con, song thân thường gọi cận bé trai út này là “MONIYA” (cục cưng) thể hiện sự triều mến nhất trong sáu đứa con của mình. Năm Mohandas Karamchand Gandhi lên Bảy (7 tuổi) gia đình chuyển đến vùng Rajkot. Tại Rajkot, Mohandas K. Gandhi được gởi đến học tại một trường tiểu học trong vùng cùng với anh trai của mình. Mohandas K. Gandhi vốn xuất thân từ một gia đình thuộc gia cấp thương gia, nên những đứa trẻ cùng lớp đều tìm cách xa lánh và cắt đứt mọi tiếp xúc, dù rằng Mohandas K. Gandhi là một hoc sinh rất khá và sáng giá của trường. Một ngày kia, trông thấy Aku - một người bạn cùng lớp – đi ngang qua nhà, Mohandas K. Gandhi bảo Aku đợi và chạy vào bếp lấy một ít bánh ngọt tặng Aku với mong muốn được làm quen với người bạn thuộc diện “khó tiếp xúc” (untouchable) này. Niềm vui như bị tan biến khi Mohandas K. Gandhi đối diện với sự thật, “Cậu không nên đến gần tớ” Aku van xin, Mohandas K. Gandhi liền hỏi “Tại sao không? Tại sao con người không thể đến gần con người?”, “Bởi vì tớ là một người giai cấp thấp, con của một gia đình ở đợ” Aku buồn bã trả lời. Mohandas K. Gandhi chụp tay Aku và đặt những miếng bánh ngọt vào đó, Aku không nói lời nào quay mặt vụt chạy. Bà Putlibai từ cửa sổ chứng kiến sự việc, nhẹ nhàng gọi Mohandas K. Gandhi vào phòng bảo: “… Những người thuộc giai cấp cao theo đạo Hindu (high-caste Hindu) không nên tiếp xúc, va chạm đến những kẻ cùng đinh”, tất nhiên là Mohandas K. Gandhi không chấp nhận điều này, bởi vì “… không có gì khác nhau giữa con và Aku”. Bà Putlibai đáp lại bằng sự im lặng và bảo Mohandas K. Gandhi đi tắm. Rất nhiều những người cầm bút đồng ý rằng sự im lặng của bà Putlibai là thái độ của sự đồng ý… Thời đó, tục lệ tảo hôn vẫn còn duy trì ở Ấn Độ, gia đình buộc Mohandas K. Gandhi phải lấy vợ ở tuổi 13. Người bạn đời của Mohandas K. Gandhi được chọn bởi dòng họ Gandhi là cô Kasturbai tại Porbandar, cũng ở tuổi 13… Một tiệc cưới linh đình diễn ra với nhiều người tham dự, người ta chúc mừng cặp “Tân lang tân giai nhân” này rất nhiều hoa thơm và lá chuối… Ông Karamchand Gandhi tạ thế ba năm sau ngày cưới của đứa con út Mohandas K. Gandhi (tức năm Gahdhi 16 tuổi). Sau khi tốt nghiệp chương trình Trung học, Mohandas K. Gandhi được trúng tuyển vào Đại học Samaldas (Samaldas College) tại Bhavgagar. Sau một học kỳ tại Đại học Samaldas, Mohandas K. Gandhi gặp một số khó khăn, Mohandas K. Gandhi quyết định thôi học trở về nhà làm việc phụ giúp gia đình. Thân mẫu và bào huynh của Gandhi không chấp thuận điều đó, họ đã khuyên nhũ, động viên Gandhi phải đi lên bằng con đường học vấn và tạo mọi điều kiện để Gandhi có thể sang Anh Quốc du học. Ngày 4 tháng 9 năm 1888, Mohandas K. Gandhi rời Bombay sang Anh Quốc trên một chuyến thuyền buôn trong trang phục của một người Tây phương. Tại Luân-Đôn (London), Mohandas K. Gandhi được Tiến sĩ P.J.Mehta - một người bạn của cha mình - tận tình giúp đỡ. Tiến sĩ P.J.Mehta đã ân cần hướng dẫn Mohandas K. Gandhi mọi sinh hoạt và cách thức thích ứng với “phong cách Tây âu” (European manners). Mohandas K. Gandhi bắt đầu học thêm tiếng Pháp với quyết tâm theo học ngành Luật của Đại học tổng hợp Luân Đôn. Lần thi tuyển đầu tiên, Mohandas K. Gandhi vượt qua các môn Pháp ngữ, Anh ngữ, Hoá học nhưng lại bị “kẹt chân” ở môn La-Tinh (Latin), tình thế “kẹt chân” này được cứu vãn ở “kỳ thi vớt” sau đó. Tháng 11 năm 1888, Mohandas K. Gandhi chính thức trở thành sinh viên Luật khoa của Đại học tổng hợp Luân Đôn. Mohandas K. Gandhi kết thúc khoá học và chính thức nhận văn bằng tốt nghiệp vào ngày 10 tháng 6 năm 1891, với bảng điểm xếp hạng khá. Sau đó hai ngày, Mohandas K. Gandhi lại theo thuyền buôn trở về Ấn Độ. Trong thời gian ba năm lưu trú tại Luân Đôn, Mohandas K. Gandhi tham gia Hội người ăn chay Luân Đôn (London Vegetarian Society), và người ta thấy nhiều bài báo dưới bút danh Mohandas K. Gandhi được đăng tải trên tạp chí Vegetarian (Người Ăn chay). Thuyền cập vào cảng Bombay, Mohandas K. Gandhi thấy những người thân trong gia đình đang chờ mình ở đó, nhưng Mohandas không nhìn thấy hình ảnh kính yêu mà Mohandas K. Gandhi mong đợi nhất, bà Putlibai vừa từ trần vài tuần trước đó, những người thân trong gia đình giấu kín tin này vì sợ ảnh hưởng đến kỳ thi tốt nghiệp của Mohandas K. Gandhi. Trở về cố hương tại Rajkot, Mohandas K. Gandhi hành nghề luật sư (barrister), nhưng những thành kiến và sự bất đồng trong bộ phận những người hành nghề Luật tại Rajkot đã phần nào làm Mohandas K. Gandhi lâm vào tình thế khó khăn. Công ty Dada, Abdulla & Co., - chủ công ty là một người Ấn ở Nam Phi – nhìn sự khó khăn của Mohandas K. Gandhi như một vận hội tốt đến với mình, bèn ngõ lời mời Mohandas K. Gandhi làm luật sư đại diện chính thức với mức lương vô cùng hấp dẫn, Mohandas K. Gandhi nhận lời mời không chút đắn đo. Giới kinh doanh thời đó nhận định rằng: Ông chủ công ty Dada, Abdulla & Co. thừa thông minh để hiểu Mohandas K. Gandhi nói tiếng Anh rất lưu loát, học và hiểu rõ những luật lệ Anh quốc, hơn thế nữa Mohandas K. Gandhi là một “cây bút bén và đa năng”. Tháng 4 năm 1893, Mohandas K. Gandhi rời Bombay đến với phương trời mới Nam Phi (South Africa). Cuối tháng 5 năm 1893, Mohandas K. Gandhi đặt chân đến Durban – Nam Phi sau một chuyến hải hành đầy gian khổ. Từ đó, Mohandas K. Gandhi bắt đầu công việc của mình trong cái nhìn không mấy thiện cảm của những người dân Nam Phi. Tại Nam Phi, nạn kỳ thị chủng tộc đã làm phần đời Mohandas K. Gandhi vốn đã gặp nhiều bất trắc lại càng trở nên khốn khổ. Chuyện kể rằng, trên một chuyến tàu từ Durban đi Pretoria, Mohandas K. Gandhi mua một vé tàu hạng nhất (first-class ticket), nhưng khi lên đến tàu người phục vụ hành khách (conductor) lại dùng những lời mạ lỵ và quyết không cho Mohandas K. Gandhi vào toa tàu như trong vé đã ghi: “Này, thằng luật sư cu-li (làm mướn), mày không được vào trong ngồi chung với những hành khách da trắng” (Hey, you barrister coolie, you can’t sit inside with the white passengers). Tất nhiên là chuyện phiền phức kéo theo sau đó, Mohandas K. Gandhi bị bỏ lại ga xe lửa trong một đêm dài tối tăm. Mohandas K. Gandhi viết một tờ đơn gởi đến các cấp lãnh đạo, và tất nhiên không bao giờ ông nhận được bất kỳ câu trả lời nào. Những sự kiện dồn dập, ông nhận ra sự bất công trong nạn kỳ thị chủng tộc, ông đã viết nhiều thư, đơn, các bài viết gởi đến các cơ quan công quyền, các tờ báo xuất bản ở Nam Phi, nhưng thái độ duy nhất mà Mohandas K. Gandhi nhận được từ các nơi ông gởi đến là sự ngó lơ, lạnh lùng… Tác giả bên tượng Mahatma Gandhi tại Bảo Tàng Gandhi - New Delhi Năm 1896, Mohandas K. Gandhi xin được trở lại Ấn Độ trong vòng sáu tháng để lo thủ tục bảo lãnh vợ con sang đoàn tụ. Gandhi đặt chân đến Calcutta vào một ngày giữa năm 1896, sau 24 ngày đêm lênh đênh trên đại dương. Từ Calcutta về Rajkot ông đi bằng đường bộ. Gia đình Mohandas K. Gandhi đoàn tụ, bà Kasturbai và hai người con trai của Gandhi hết sức vui mừng trong cuộc đoàn viên này. Cùng năm này, nhiều thuận duyên liên tục đến “gõ cửa” Mohandas K. Gandhi, ông đã gặp gỡ, tiếp xúc khá nhiều các nhà lãnh đạo Ấn Độ, giới truyền thông, như Lokamanya B.G.Tilak của Maharashtra, Gopal Krishna Gokhale, .v.v. những quan điểm của Mohandas K. Gandhi được tìm thấy trên vô số các tờ báo, người ta cũng thấy sự ca tụng và ủng hộ những ý kiến của Mohandas K. Gandhi. Gandhi đã thực sự tạo ra một “diễn đàn Gandhi” sôi nổi trong giới báo chí thời bấy giờ. Tháng 11 năm 1896, Mohandas K. Gandhi nhận được một thư khẩn, đề nghị ông khẩn cấp sang Nam Phi vì những vấn đề nghiêm trọng của công ty. Mohandas K. Gandhi nhanh chóng rời Ấn Độ mang theo vợ, hai con và một cháu trai (con của một người chị). Trở lại Nam Phi (18-12-1896), Mohandas K. Gandhi bắt đầu được những người Tây âu lưu trú lại Nam Phi hết sức quan tâm. Gandhi đến với các hội thảo do những người Tây âu tổ chức như một “khách mời đặc biệt”. Vợ, con, cháu của Mohandas K. Gandhi được gởi đến sống với gia đình Rustomji; sau đó chuyển đến ở chung với gia đình ông Laughton, cố vấn công ty Dada, Abdulla & Co. Cũng từ đó, Mohandas K. Gandhi bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp chính trị tại Nam Phi, Ông gặp gỡ và trao đổi với báo giới về những quan điểm của mình, Mohandas K. Gandhi thành lập các hội bảo vệ người Ấn tại Nam Phi, và một trong những điều đặc biệt được ghi lại về Mohandas K. Gandhi trong thời gian này là ông bắt đầu ăn thức ăn chay không cần phải qua nấu nướng (uncooked food). Năm 1901, Mohandas K. Gandhi quyết định hồi hương. Sau khi về đến Ấn Độ, Mohandas K. Gandhi quyết định thực hiện chuyến tham quan toàn Ấn Độ. Ông đến Calcutta, gặp lúc Đảng Quốc Đại Ấn Độ (Indian National Congress) tổ chức cuộc mít-tinh cho năm đó, Mohandas K. Gandhi được người chủ tịch – ông Dinshaw Wacha - mời làm khách mời danh dự. Chính cuộc mít-tinh này là cơ hội tốt để Mohandas K. Gandhi tiếp xúc các giới chức lãnh đạo cao cấp trong đảng Quốc Đại, như: Pherozeshah Mehta, Lokamanya B.L. Tilak, G.K.Gokhale,.v.v. Sau những cuộc gặp gỡ này, Mohandas K. Gandhi tiếp tục thực hiện cuộc hành trình đi khắp Ấn Độ của mình. Sau cuộc hành trình này, Mohandas K. Gandhi tiếp tục công việc của một luật sư tại Bombay. Tháng 12 năm 1902, Mohandas K. Gandhi nhận được bức điện tín gởi từ Nam Phi báo tin Joseph Chamberlain, Bộ trưởng thuộc địa Anh Quốc (Colonial Secretary) sẽ đến thăm Natal và Transvaal (thuộc địa của Anh ở Nam Phi). Đảng quốc đại Ấn Độ tại Natal cũng ngõ lời thỉnh cầu Mohandas K. Gandhi là nhân vật đại diện cho cuộc tiếp xúc đó. Mohandas K. Gandhi lên đường đến Natal kịp thời và bị viên Bộ trưởng thuộc địa Anh Quốc tiếp đãi lạnh nhạt. Sau cuộc tiếp xúc với giữa Mohandas K. Gandhi và Joseph Chamberlain đã làm cho những người Ấn ở đó vô cùng thất vọng. Joseph Chamberlain tiếp tục lên đường đến Transvaal, những người Ấn này một lần nữa mong cầu Mohandas K. Gandhi đại diện cộng đồng người Ấn trình bày những nguyện vọng và sự bất bình của họ trước viên Bộ trưởng thuộc địa Anh Quốc Joseph Chamberlain. Tuy nhiên, khi đến Transvaal, bộ luật di trú đã có những thay đổi, Mohandas K. Gandhi quyết định ở lại Transvaal trong một thời gian. Tại Johannesgurg, Mohandas K. Gandhi nộp đơn xin toà án tối cao mở một văn phòng luật sư, điều đó được chấp thuận. Văn phòng luật sư của Mohandas K. Gandhi được ra đời tại Johannesgurg. Vào năm 1904, Madanjit tìm đến Mohandas K. Gandhi bàn về những dự kiến cho ra đời tờ tuần báo “Indian Opinion” (Quan điểm người Ấn). Mohandas K. Gandhi đồng ý và xúc tiến mọi thủ tục. Tờ tuần báo “Indian Opinion” song ngữ: Gujarati và Anh ngữ nhanh chóng đến với bạn đọc, chủ bút là Mansukhlal Naaza, Mohandas K. Gandhi giữ vai trò trị sự, xuất bản và phụ trách cột xã luận (editorial column). Tờ “Indian Opinion” được độc giả và công chúng ủng hộ nhiệt liệt, vì ở đó người ta thấy được bức tranh sống động, chân thực của những người Tây âu bóc lột các nước thuộc địa, tiếng nói và những khó khăn của nhân dân thuộc địa được công khai trên mặt báo, đặc biệt là những tâm tư, nguyện vọng của những người Ấn lưu vong trên xứ sở Nam Phi trong cảnh “nước mất nhà tan”…. Cùng năm đó, Mohandas K. Gandhi gặp gỡ H.S.L.Polar, trợ lý tổng biên tập của tờ “The Critic” (bình phẩm, phê bình), và cả hai người cùng nhận ra nhau họ có chung một hướng đi… Với những trợ giúp của H.S.L.Polar, tuần báo “Indian Opinion” thực sự trở thành diễn đàn, thành cuốn “cẩm nang” cho công chúng, những đóng góp của “Indian Opinion” không những dừng lại ở lĩnh vực chính trị mà con mang trong nó nhiều sắc thái khác nhau (ví dụ: mục đồng án đã làm người dân có cái nhìn mới về thữa ruộng mình đang có”… Tờ “Indian Opinion” dời trụ sở về Phoenix gần Durban, tại đây “Indian Opinion” thực sự trở thành một cơ sở độc lập, với đầy đủ các trang thiết bị cho một cơ sở báo chí thời đó. Điều tất nhiên là Mohandas K. Gandhi phải “gồng mình” với cả hai vai trò cùng một lúc: nhà báo và luật sư. Ông quyết định đưa gia đình sang Nam Phi lần nữa… Chính vì những công việc căng thẳng của Mohandas K. Gandhi, bà Kasturbai đã âm thầm chứng kiến cảnh chồng bà mỗi ngày dùng một nhiều trà và cà phê, trong khi đó “thức ăn” chính của Mohandas K. Gandhi chỉ toàn là nước lã… Tháng 8 năm 1906, chính quyền Transvaal ra thông báo: Tất cả những người Ấn Độ tại Transvaal phải đến khai báo các chi tiết cá nhân, sau đó chính quyền sẽ cấp một giấy chứng nhận, tờ chứng nhận này phải được mang theo người mọi lúc mọi nơi, phải xuất trình khi các nhân viên chính quyền tra hỏi. Nếu không có giấy chứng nhận đó, người Ấn sẽ bị bỏ tù hoặc trục xuất. Cảnh sát có quyền đến nhà kiểm tra bất kỳ khi nào “cảm thấy cần”… Đứng trước thông báo này, Mohandas K. Gandhi cho đó là một điều sỉ nhục, một sự kỳ thị chủng tộc dã man, Ông kêu gọi mọi người Ấn Độ lưu vong chống lại thông báo đó. Và sau đó mọi người nhìn thấy Mohandas K. Gandhi “nghỉ mát” trong một nhà tù ở Transvaal, vì lý do không có “giấy hộ thân”. Sau đó Mohandas K. Gandhi được gởi đến Pretoria gặp tướng Smuts. Ông Tướng này tỏ thái độ mềm mỏng hơn với lời giải thích: “Không phải tôi không thích người Ấn Độ, tôi chỉ muốn người Ấn sống và tuân theo pháp luật”, rồi ra lệnh thả Mohandas K. Gandhi. Ra tù, Gandhi cổ vũ một số người Ấn đến gặp các quan chức địa phương để giải thích và đưa lên những kiến nghị. Một hôm, trên đường đến công sở, Mir Alam dùng gậy bất ngờ đánh mạnh liên tiếp vào Gandhi cho đến khi bất tỉnh, rồi lôi thân thể Gandhi đặt vào nhà một người Anh rất thân với Gandhi… Thời gian này người ta ghi nhận rằng Mohandas K. Gandhi vào nhà giam Transvaal “ngồi bóc lịch” đến ba lần. Lần thứ ba sau khi ra khỏi nhà giam, Mohandas K. Gandhi đã tổ chức cuộc mít-tinh và gởi kháng thư đến chính quyền Anh, thư được hồi âm, Seth Haji Habid va Mohandas K. Gandhi được mời sang Luân Đôn để trình bày những nguyện vọng và phàn nàn của cộng đồng người Ấn tại Nam Phi. Kết quả lại thất bại… Tháng 10 năm 1913, Mohandas K. Gandhi lãnh đạo hơn 6000 công nhân người Ấn đình công chống lại sự bóc lột và thuế quan của chính quyền Transvaal tại vùng mỏ Natal. Mohandas K. Gandhi và vô số công nhân bị bắt và bỏ tù cho vụ này. Lại một lần nữa các quan chức cấp dưới lại cầu xin sự chiếu xét của tướng Smuts. Sự việc được chuyển đến tướng Smuts vào tháng 12 năm 1913. Tuy nhiên trước đó, các nhân viên người Tây Âu ngành đường sắt cũng đứng dậy biểu tình, đình công liên tục. Các vụ việc này làm các cấp chính quyền “rối óc”, vụ việc Mohandas K. Gandhi cũng được chính quyền “cho qua”… Mohandas K. Gandhi quyết định cùng gia đình trở về Ấn Độ sau hai mươi mốt (21) năm đóng góp sức mình cho lợi ích cộng đồng người Ấn tại Nam Phi. Trong khi chuẩn bị hành lý thì Gandhi nhận được bức điện tín của Gokhale gởi từ Luân Đôn, Gokhale nói rằng ông muốn gặp Gandhi tại Luân Đôn trước khi trở về Ấn Độ. Ngày 18 tháng 7 năm 1914, Mohandas K. Gandhi cùng bà Kasturbai lên đường sang Anh Quốc. Hai ngày trước khi Gandhi đến Luân Đôn, ngày 4 tháng 8 năm 1914 chiến tranh thế giới bùng nổ. Khi đến Luân Đôn, Gandhi nghe tin Gokhale đã sang Paris vì lý do sức khoẻ, thông tin liên lạc giữa Luân Đôn – Paris lại bị cắt đứt vì lý do chiến tranh. Gandhi thất vọng vì ước nguyện đơn giản gặp gỡ Gokhale vẫn chưa thực hiện được, Ông ngồi ở Luân Đôn đợi Gokhale. Trong lúc nhàn rỗi, Mohandas K. Gandhi tập họp những sinh viên Ấn đang lưu học tại Luân Đôn thảo luận về phương pháp đấu tranh giành độc lập Ấn Độ. Một trong những ý kiến khiến Gandhi hết sức lưu tâm là: “Cuộc chiến này có thể là một vận hội mới cho nền độc lập Ấn Độ”… Vài hôm sau ông Gokhale cũng về đến Luân Đôn, Mohandas K. Gandhi đã đến thăm hỏi và thảo luận với Gokhale về vấn đề độc lập Ấn Độ… Trong một lần quá vui, Gandhi tự nhiên ngã bất tỉnh, các bác sĩ khám và cho biết Mohandas K. Gandhi bị viêm màng phổi (pleurisy) khá nặng. Bác sĩ Jivraj Mehta tận tâm chữa trị. Gokhale rời Luân Đôn trong lúc Gandhi đang được các bác sĩ điều trị. Bệnh ngày một trầm trọng, họ khuyên Gandhi nên trở về Ấn Độ càng sớm càng tốt. Gandhi đồng ý và cùng vợ lên tàu về lại Ấn Độ. Thuyền cập cảng Bombay, dân chúng đón mừng Mohandas K. Gandhi như một người hùng, vì tiếng thơm của Gandhi đã bay đến Ấn Độ trước đó. Sau 12 năm tha hương, ông muốn trở lại thăm ngôi nhà cũ, nhưng hay tin Gokhale đang trong cơn “thập tử nhất sinh”, Mohandas K. Gandhi cùng bà Kasturbai tức tốc đến thingya (Pune) thăm Gokhale. Gokhale cầm tay Gandhi không ngăn được dòng nước mắt, Gokhale nhắn nhủ: “Đừng quên chúng ta là những người đang đấu tranh cho nền lập Ấn Độ, đừng bỏ quên ý chí đó”. Từ giã Gokhale, Gandhi về Rajkot và Porbandar thăm lại bà con thân thích, thăm lại ngôi nhà xưa, tìm về chốn kỷ niệm… Rồi đến Santiniketan thăm lại ngôi trường cũ, nơi đó giáo viên và học sinh của trường tiếp đón Mohandas K. Gandhi như một niềm vinh hạnh. Cũng tại Santiniketan, Gandhi lần đầu tiên được Tagore và C.F.Andrews tiếp đón nồng nhiệt… Và cũng tại Santiniketan vài ngày sau đó, Mohandas K. Gandhi ngậm ngùi khi hay tin Gokhale đã trút hơi thở cuối cùng… Sau khi làm lễ hoả táng Gokhale, Mohandas K. Gandhi đến gặp các vị lãnh đạo cao cấp của tổ chức những người cùng đinh Ấn Độ (the Servants of India Society) và được mời vào tổ chức, vì tổ chức này hết sức kính trọng Gokhale, tuy nhiên phần đông thành viên trong hội này không mấy tỏ ra thân thiện với Mohandas K Gandhi. Ít lâu sau Mohandas K. Gandhi được mời đến tham quan thủ đô Rangoon - Miến Điện… Tháng 2 năm 1916, Mohandas K. Gandhi được mời làm chủ toạ một cuộc mít-tinh tại Đại học Banaras Hindu (Banaras Hindu University, viết tắt là BSU, tại Varanasi). Và người ta còn thấy Gandhi xuất hiện trên rất nhiều hội nghị của các đảng phái chính trị, như: hội nghị về quản trị nhà đất của Tilak và Besant giữa cuối năm 1916, họp mặt và hội thảo thường niên của Đảng Quốc đại tổ chức tại Lucknow tháng 12 năm 1916,.v.v. Hơn hai năm trời, Gandhi đã đi nhiều nơi, diễn thuyết khá nhiều địa phương, công chúng đến với Gandhi ngày một nhiều.... Và tất nhiên Mohandas K. Gandhi phải đối diện với muôn vàn khó khăn, phức tạp với một xã hội nhiều màu sắc như Ấn Độ, các cuộc bất đồng giữa các tôn giáo, sự bất bình đẳng trong xã hội như nghèo – giàu, cùng đinh – quý tộc, trí thức – dân đen… Cùng năm 1916, tại quận Champaran thuộc tiểu bang Bihar nông dân gặp phải những khó khăn trong chính sách của những người Anh về nông nghiệp. Rajkumar Shukla, một nông dân cố tìm diện kiến Mohandas K. Gandhi, mời Gandhi về Champaran để chứng kiến sự lầm thang của người dân trong vùng và lên tiếng dùm họ. Tuy nhiên, lúc bấy giờ Mohandas K. Gandhi phải tham dự cuộc mít-tinh của Đảng Quốc đại tổ chức tại Lucknow (thủ phủ tiểu bang Uttar Pradesh ngày nay), nên hẹn dịp khác. Dù vậy, Rajkumar Shukla vẫn cố theo nài nỉ, cuối cùng Gandhi hứa sẽ đến Champaran sau khi về đến Calcutta. Rajkumar Shukla theo chân Gandhi như một cái bóng, nơi nào có Gandhi thì phía sau có Rajkumar Shukla. Khi Mohandas K. Gandhi vừa đến Calcutta thì Rajkumar Shukla đã đợi sẵn ở đó, hai người cùng đón tàu về Bihar. Gandhi thăm quận Champaran vào đầu năm 1917. Khi vừa đến nơi Mohandas K. Gandhi thấy trên những ngả đường giăng câu khẩu hiệu: “Gandhi không được lưu lại lâu ngày ở Champaran. Hãy rời khỏi đây như đoàn tàu đã chuyển bánh rời Champaran”. Tất nhiên, Gandhi không tuân theo những câu khẩu hiệu đó, Gandhi chỉ đón nhận sự hân hoan chào đón của những người dân cùng khổ trong làng. Gandhi đã đi từ làng này qua xóm nọ thăm hỏi hơn 8000 nông dân (cultivator), quan tâm đến sự giáo dục của từng đứa trẻ, thăm hỏi, bắt tay từng cụ già… những hình ảnh đó tạo ra sự an ủi, thanh thản trong lòng mọi người… Mohandas K. Gandhi không thể kéo dài thời gian ở Bihar, những nơi khác lần lượt đến và xin Mohandas K. Gandhi chiếu cố đến thăm thôn xóm của họ. Người làng Ahmadabah đến sau người làng Champaran, nên từ giã Champaran Mohandas K. Gandhi đến Ahmadabah… Gandhi vận động nông dân chống lại những món thuế phi lý và sự bóc lột của chính phủ Anh tại Ấn. Điều này được vô số người dân ủng hộ, kể các các quan chức, những người cầm đầu nhiều công hội cũng hết sức tán thành, điển hình như các quan chức tại Gujarat: Vallabhbhai Patel, Shankarlal Banker, Mahadev Desai, v.v. Mùa xuân năm 1917, Ngài Chelmsford, phó quốc trưởng Ấn Độ (the Viceroy of India), mở cuộc hội thảo bàn về những diễn biến về cuộc chiến thế giới, khách mời là tất cả các nhà lãnh đạo cao cấp tại Ấn Độ, tất nhiên Mohandas K. Gandhi cũng nằm trong số đó. Cùng năm này sức khoẻ Mohandas K. Gandhi bắt đầu xuống cấp, ông từ chối mọi thuốc men và mọi lời khuyên về sức khoẻ, dấu hiệu xuống dốc của cơ thể ngày một rõ rệt, nhưng Mohandas K. Gandhi vẫn quả quyết rằng tinh thần sẽ chiến thắng tất cả. Sức khoẻ ông chưa bình phục, thì tin mừng được toan tải trên toàn cầu “Chiến tranh kết thúc”. Mohandas K. Gandhi đi Matheran, từ Matheran ông đến thingya. Tại thingya một bác sĩ tốt bụng lại phát tâm khám và khuyên Gandhi nên dùng ít sữa và tiêm ít thuốc. Gandhi đồng ý cho vị bác sĩ đó tiêm ít thuốc, nhưng từ chối việc dùng sữa. Bà Kasturbai đứng cạnh đó lên tiếng: “Ông không thể dùng được sữa bò, sữa trâu, nhưng sữa dê (goat’s milk) cũng không dùng nữa sao!”, “Ừ đúng đấy, sữa dê cũng có hàm lượng sinh tố cao, giúp người bệnh chóng phục hồi, ông uống thử chút đi!” ông bác sĩ “đệm” vào, Gandhi khẽ gật đầu… Sức khoẻ tạm thời bình phục, Mohandas K. Gandhi trở lại Ahmedabad. Tại Ahmedabad, Gandhi nhận được thư mời đến Madras. Tại Madras, Gandhi đã gặp gỡ C.Rajagopalachari, một nhân vật lãnh đạo mà Gandhi rất ngưỡng mộ, và cuộc hội thảo các nhân vật lãnh đạo cao cấp diễn ra ở đó. Báo giới và các sử gia đánh giá cuộc hội thảo này là tiếng chuông đầu tiêng đánh thức người dân Ân Độ đứng lên giành lại độc lập. Rời Madras, Mohandas K. Gandhi trở lại Bombay tham gia phong trào “đóng cửa tiệm” vào ngày 6 tháng 4 năm 1919. Trong khi đó tại Delhi, Lahore, Amrissar người ta đã bắt đầu phong trào “đóng cửa tiệm” từ ngày 30 tháng 3, cảnh sát Delhi đã thực hiện lệnh giới nghiêm trong cả thành phố vào ngày này. Một thư mời Mohandas K. Gandhi trở về Delhi, nhưng ông đáp lại rằng: ông sẽ đến Delhi sau khi thực hiện xong phong trào “đóng cửa tiệm” ở Bombay. Phong trào này thành công rực rỡ, ngày đó người ta thấy không một cửa tiệm nào trong thành phố Bombay mở cửa, không thấy bóng dáng bất kỳ chiếc xe nào chuyển bánh trên đường… Và toàn Ấn Độ ngày đó, ngày 6 tháng 4 năm 1919, đồng loạt đứng lên chống đối chính quyền Anh tại Ấn Độ cùng một tư thế, không ồn ào, không giết chóc, không đạn bom, tất cả im lặng, một sự “im lặng sấm sét” trong các sách Thiền, một sự “im lặng đến rợn người” trong các bộ sử thi Ấn Độ… tất cả đã được Mohandas K. Gandhi âm thầm vận động. Những nơi Mohandas K. Gandhi đã đi qua đều lưu lại ở xứ sở đó những làn gió của tinh thần “bất bạo động” (Ahimsa, Non-violence). Mohandas K. Gandhi bị bắt tại Palwal trên đường đi đến Punjab, và bị cưỡng bức trở lại Bombay. Các tin tức Mohandas K. Gandhi bị bắt đăng tải đầy các tờ báo, dán khắp nơi ở Bombay. Vô số đám đông tụ tập trên các nẻo đường Bombay để chờ đón Mohandas K. Gandhi, nhưng khi ông vừa đến ga, một viên cảnh sát chờ sẵn ở đó “mời” ông về thẳng đồn cảnh sát. Sau cuộc “vấn an sức khoẻ” của các cảnh sát, Gandhi hứa sẽ dùng “giải pháp mềm dẻo hơn” và đề nghị cảnh sát tổ chức một cuộc mít-tinh cộng đồng để ông “sửa lỗi”. Cuộc mít-tinh được tổ chức tại Sabarmati Ashrama, dưới sự giám sát của hàng ngàn cảnh sát thường phục có, cảnh phục có. Mohandas K. Gandhi bắt đầu buổi diễn thuyết bằng câu: “I have made a Himalayan miscalculation”, công chúng cười “ồ” một tràng nhạo nhễ, những người bạn thân tỏ vẻ thất vọng và điên tiết, chỉ vì họ chỉ nghĩ “nghĩa đen” của câu nói trên. Gandhi bắt đầu bài nói chuyện của mình, không gian và thời gian dường như chết lặng, người ta không dám thở mạnh để có thể chú tâm lắng nghe những lời nói của Gandhi… Cùng năm này, tiểu bang Punjab xảy ra vụ đụng độ kinh hoàng giữa người dân và chính quyền: 379 người bị giết, 200 người bị thương trong cuộc đàn áp đẫm máu tại Jallianwala Bagh (ngày nay người dân Punjab dùng từ “Jallianwala Bagh” để ám chỉ “sự tàn sát dã man”). C.F.Andrews bấy giờ đang ở đó, ông viết bức thư gởi đến Gandhi với nội dung: chỉ có Mohandas K. Gandhi mới làm dịu đi cơn phẫn nộ của dân chúng. Gandhi hồi âm rằng ông sẽ không trở lại vùng đất ông đã bị trục xuất khi chưa có một quyết định nào của chính phủ. Tháng 10 năm đó, Phó quốc trưởng Ấn Độ ký quyết định đồng ý cho Mohandas K. Gandhi tự do đi lại trong vùng đất Punjab. Gandhi quyết định đến Punjab, tại đây ông được người dân vô cùng kính trọng, quây quần bên ông tỏ lòng kính ngưỡng. Cảnh “dầu sôi lửa bỏng” ở Punjab lắng dần. Cũng tại Punjab, Mohandas K. Gandhi đã gặp Jawaharla Nehru. Gandhi trở thành người đứng đầu đảng Quốc đại vào năm 1920. Từ đó Ông được dân chúng tôn vinh là người lãnh đạo mọi phong trào giành độc lập Ấn Độ. Mohandas K. Gandhi cũng bắt đầu chuyển hướng đảng Quốc đại vốn chủ yếu của giai cấp trí thức và tư sản thành một tổ chức của quần chúng, thu nhận cả nông dân, giai cấp trung lưu.v.v. Mohandas K. Gandhi kịch liệt chống lại chủ nghĩa đấu trang bạo động, khủng bố, phương châm hành động của ông chủ yếu dựa trên những phương pháp hoà bình. Phương pháp chính yếu của Gandhi dựa trên hai nguyên tắc: Satyagraha (nguyên tắc chân lý) và Ahimsa (bất bạo động). Tình hình chính trị Ấn Độ ngày càng trở nên tồi tệ, điều này khiến chính phủ Ấn “nát óc”, tình trạng căng thẳng xảy ra khắp nơi. Ngày 1 tháng 8 năm 1920, trong một bức thư gởi đến Phó quốc trưởng Chelmsford, Gandhi bày tỏ thái độ không hợp tác chiến dịch do Phó quốc trưởng đề ra. Gandhi xin trả lại huy chương vàng “Kaiser-i-Hind” nhận được năm 1915. Và trong một cột báo của tờ “Young India” (tuổi trẻ Ấn Độ) Gandhi cho đăng các quan điểm nhằm bảo vệ quyết định “không cộng tác” (Non-co-operation) và “bất bạo động” (non-violent) của mình. Ngày 26 tháng 12 năm 1920, tại cuộc họp thường niên của đảng Quốc đại, Mohandas K. Gandhi được thắng cử với phần đông người tán thành. Ngày 17 tháng 11 năm 1921, Hoàng tử xứ Wales đến thăm Bombay, lúc đó Mohandas K. Gandhi cũng đang ở Bombay. Hôm sau, Hoàng tử xứ Wales đến thăm một thành phố lân cận, hốt hoảng khi nhìn thấy cảnh “đường không người, phố không xe”. Tác giả của “màn kịch” “đường không người, phố không xe” kia không ai khác ngoài Motilal Nehru và Jawaharlal Nehru, tất nhiên là họ cùng một số người liên can đến vụ việc được đưa vào “nhà đá” để “đào tạo”. Chính phủ Anh tại Ấn thời bấy giờ nghi ngờ Mohandas K. Gandhi chính là “đạo diễn” vụ nầy, và quyết định “tặng” Gandhi bản án sáu năm tù giam tại nhà tù Yeravda ở thingya. Năm 1924, bệnh tình Gandhi tái phát, kéo theo chứng bệnh mới viêm ruột thừa cấp tính. Một cuộc giải phẫu dưới sự giám sát của chính phủ hoàn toàn thành công, nhưng sự bình phục diễn ra rất chậm. Chính phủ quyết định thả tự do cho Gandhi. Ông đến Juhu một địa danh gần Bombay để dưỡng bệnh. Gandhi quyết định rời bỏ chính trường để tập trung tâm hồn mình vào những tiến triển tâm linh. Người ta nhận thấy rằng sáu năm kể từ ngày ra tù, Mohandas K. Gandhi không bao giờ bàn đến việc chính trị. Người ta chỉ thấy ông đến các tu viện, đền thờ bàn luận giáo lý với các nhà sư, người ta tìm thấy trên đầu giường của ông Kinh Phật và cả các bộ Thánh điển Hindu nữa… Năm 1928, Phó quốc trưởng ngỏ ý mời Mohandas K. Gandhi đến thăm hỏi, Gandhi nhận lời và một cuộc gặp gỡ không nồng ấm kéo theo. Ngày 31 tháng 12 năm 1929, Jawaharlal Nehru được bầu làm chủ tịch Đảng Quốc đại, người ta hy vọng đất nước Ấn Độ sẽ hoàn toàn độc lập sau cuộc bầu cử này. Nhưng khi Đảng Quốc đại chưa làm được điều đó, thì giá muối và thuế muối gia tăng, thậm chí chính phủ còn đánh thuế vào những người dân nghèo thu nhặt muối tự nhiên trên biển. Vào ngày 2 tháng 3 năm 1930, Mohandas K. Gandhi viết một bức thư rất dài gởi ông Tân Phó quốc trưởng Irwin than phiền về những khó khăn trong những chính sách của người Anh tại Ấn và đề xuất một cuộc gặp mặt để thảo luận, nhưng ông Tân Phó quốc trưởng trả lời thông qua một vị thư ký với nội dung “trách ngầm” Gandhi là một người “phá bỏ luật lệ”. Toàn dân Ấn Độ quyết định ủng hộ quan điểm của Gandhi, bắt đầu từ 6:30 sáng ngày 12 tháng 3 năm 1930, hàng vạn người chứng kiến và hô hào ủng hộ “chiến dịch” Mohandas K. Gandhi cùng 78 người dân Ấn từ những giai cấp khác nhau “thầm lặng chống đối” trên quãng đường dài 241 dặm từ nhà Gandhi đến bờ biển Dandi, khẩu hiệu cho cuộc chống đối này là “Vứt đi Luật muối” (Salt law would be broken). Sau 24 ngày, cuối cùng “đôi mắt” của chính quyền Ấn Độ và ống kính báo chí thế giới bắt đầu dõi theo Gandhi. Chính phủ Ấn Độ hoàn toàn “bó tay” trước chiến dịch này, vì họ nhận thấy rằng mỗi ngày con số tham gia vào chiến dịch “vứt đi Luật muối” tăng lên vùn vụt, từ số trăm lến đến số ngàn, người già, phụ nữ, trẻ em lần lượt xuất hiện gia tăng vào chiến dịch… Chiến dịch kết thúc vào ngày 5 tháng 4 năm 1930 khi đoàn đến bờ biển Dandi. Vài ngày sau đó Mohandas K. Gandhi lại bị cảnh sát bắt và đưa đến nhà tù Yeravda. Trong tù Gandhi hoàn toàn im lặng và tự tại. Trong khi đó, khắp mọi miền Ấn Độ người dân lần lượt đứng lên học theo phong trào “vứt đi Luật muối” của Gandhi, chính quyền hoàn toàn ngỡ ngàng, không thể nào “dập tắt” phong trào “vứt đi Luật muối”. Rồi chuyện cũng “lọt vào tai” Thủ tướng Anh, Ông ra lệnh phóng thích Gandhi và bàn chuyện trả hoà bình cho Ấn Độ. Gandhi được phóng thích năm 1931, sau khi ra khỏi nhà tù ông yêu cầu Phó quốc trưởng Irwin cho ông một cuộc phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn được đáp ứng ngay sau đó, tất nhiên khi đối diện cả hai đều nhận ra họ đến từ hai thế giới khác nhau. Cùng lúc đó, tại Luân Đôn nội các Anh đang trong một hội nghị bàn tròn bàn xoay quanh vấn đề tương lai của Ấn Độ. Tháng 8 năm 1931, Gandhi lên tàu sang Luân Đôn sau một buổi tiệc nhỏ. Mohandas K. Gandhi trải qua 84 ngày ở Anh Quốc, hầu hết thời gian này ông dành cho các cuộc họp mặt và hội thảo. Churchill từ chối gặp gỡ Gandhi, tuy nhiên người đàn ông Ấn Độ này đã làm “quyến rũ” mọi người bởi phong cách đặc biệt của mình. Ngay cả đức Vua và Hoàng hậu cũng phải mời Mohandas K. Gandhi ngồi chung một buổi tiệc trà. Một phóng viên phỏng vấn Gandhi: “Ông có nghĩ rằng trang phục ông đang mặc đủ tiêu chuẩn để tham dự một tiệc trà như thế này chăng?”, “Tôi nghĩ chiếc áo mà đức vua đang mặc đủ cho cả hai người” Gandhi mỉm cười trả lời, tất nhiên là phóng viên kia chết điếng người trong câu trả lời “nửa vời” mà thâm thuý đó. Tại hội nghị bàn tròn người ta hoàn toàn không hề đả động gì đến vấn đề độc lập Ấn Độ, người Anh đã “đánh lạc hướng” qua đề tài “những khác biệt giữa Ấn giáo và Hồi giáo”, để rồi cuối cùng kết luận một cách vu vơ rằng: những cuộc nổi dậy ở Ấn Độ hoàn toàn chỉ vì lý do tôn giáo. Gandhi trở về Ấn Độ không mang theo bất kỳ tin tức mới mẻ nào. Niềm hy vọng người Ấn như vụt tắt. Đầu năm 1932, Mohandas K. Gandhi muốn diện kiến vị Tân Phó quốc trưởng, Willingdon; Tuy nhiên Willingdon trả lời rằng thời gian đàm phán đã chấm dứt. Gandhi thông báo với các cơ quan chức năng là ông sẽ tiếp tục tổ chức một chiến dịch chống đối. Tân Phó quốc trưởng Willingdon cho đó là một sự hăm doạ, bèn ra lệnh nhốt Gandhi vào nhà tù Yeravda. Tháng 3 năm 1932, Gandhi tuyên bố ông sẽ tuyệt thực cho đến chết. Tin này được lan rộng một cách nhanh chóng, các bản tin chép tay được dán khắp nơi. Các nhà lãnh đạo hoàn toàn sửng sốt trước quyết định này của Gandhi, nhiều người từ các giai cấp khác nhau kéo đến nhà tù Yeravda xin thế mạng cho Gandhi, hoặc tuyệt thực bên ngoài, hoặc đòi phá ngục vào trong. Tagore gởi đến Gandhi bức điện tín với nội dung khuyên nhủ và chia sẻ, Tiến sĩ B.R.Ambebkar hứa hẹn sẽ tìm mọi cách cứu thoát Gandhi. Gandhi bắt đầu tuyệt thực vào ngày 20 tháng 9 năm 1932, đến ngày thứ ba thì Gandhi ngã quỵ, lính gác xốc ông vào nhà tắm tạt nước, hồi lâu Gandhi tỉnh dậy với giọng nói thều thào và ngày một yếu dần, huyết áp tăng cao… Người cai tù hoảng sợ cho phép bà Kasturbai và những người thân vào bên trong. Tagore đến thăm Gandhi vào ngày tuyệt thực thứ năm. Sau đó, tin tức về cái chết gần kề của Gandhi cũng đến tai chính phủ, và ông được trả tự do vào một ngày đầu năm 1933. Bảy năm kể từ ngày được phóng thích, Gandhi đã tiếp tục nỗ lực, dùng hết sức mình đấu tranh và đóng góp cho các mối quan hệ xã hội và cho công cuộc giành độc lập Ấn Độ, Ông cũng khuyến khích người dân Ấn Độ không quên việc phát triển tâm linh và tinh thần đoàn kết tôn giáo mà Ấn Độ vốn đã có từ ngàn đời. Tất nhiên, nhiều nhà lãnh đạo Ấn Độ thời bấy giờ không chấp nhận quan điểm, chính sách (bất bạo động) của Gandhi, kể cả Jawaharlal Nehru. Tháng 10 năm 1934, Gandhi cắt đứt quan hệ thành viên chính thức với đảng Quốc đại, vì ông không tán đồng các khuynh hướng bạo động của những người đang đứng đầu trong đảng này. Gandhi về Sevagram ở Maharashtra tĩnh dưỡng trong một căn phòng nhỏ. Tuy vậy, Gandhi vẫn đóng vai trò cố vấn cho đảng Quốc đại trong một thời gian khá dài. Năm 1939, Đệ nhị thế chiến bùng nổ, chính phủ Anh tại Ấn quyết định gia nhập quân đội Ấn Độ vào phe đồng minh (allies’ side). Đảng Quốc đại hứa sẽ hết sức ủng hộ quân Anh khi Ấn Độ hoàn toàn tự do, độc lập, nhưng ông Churchill và chính phủ Anh phớt lờ điều đó, họ từ chối hợp tác với Đảng Quốc đại. Từ đó, người ta ghi nhận rằng các nhà lãnh đạo tối cao của Đảng Quốc đại liên tục xuất hiện trong căn phòng nhỏ ở Sevagram của Gandhi để bàn thảo về những chương trình hành động…
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2011 3:56:44 GMT 9
Tháng 9 năm 1940, cuộc mít-tinh toàn quốc của đảng Quốc đại diễn ra tại Bombay, tất cả tán thành cho một cuộc chống lại chính quyền thuộc địa, và họ cũng quyết định mở một cuộc mít-tinh nhằm vào chiến dịch chống lại chủ nghĩa đế quốc mà người Anh đang thực hiện, tất nhiên cuộc mít-tinh này bị cấm. Nehru bị bắt và vài tháng sau đó con số thành viên đảng Quốc đại bị bỏ tù lên đến hơn 30000 người. Không hiểu vì sao Gandhi vẫn tại ngoại?!
Tháng 12 năm 1941, chính phủ phóng thích tất cả các tù nhân hoạt động theo khuynh hướng Gandhi. Năm 1942, quân đội Nhật vượt Thái bình dương, xuyên qua Malaya và Miến Điện, và quân đội Nhật có thể xâm lược Ấn Độ, người Anh bắt đầu nghĩ đến việc dàn xếp cho Ấn Độ.
Trước sự đe doạ xâm lăng của Nhật Bản, Gandhi đề xuất việc thành lập một chính phủ lâm thời nhằm chống lại quân xâm lược, nhưng đề kiến đó bị phớt lờ. Tháng 3 năm 1942, Churchill tuyên bố nội các đồng ý về một chương trình dành cho Ấn Độ, và ông Stafford Cripps đã thoả thuận việc đến Ấn Độ tìm kiếm những nhà lãnh đạo Ấn Độ có khả năng tiếp nhận chương trình đó. Ngày 22 tháng 3 năm 1942, Stafford Cripps đến Delhi gặp mặt Gandhi, Nehru, Azad, Jinnah và các nhân vật lãnh đạo tối cao nhiều đảng phái khác. Stafford Cripps hứa hẹn sẽ trao trả tự do hoàn toàn cho Ấn Độ sau cuộc chiến, tuy nhiên các thành viên đảng Quốc đại không đồng ý, vì họ không tin vào những lời hứa hẹn đó, người Anh đã cố tình nuốt lời và lừa bịp nhân dân Ấn Độ nhiều lần trước đó…
Tháng 8 năm 1942, cuộc mít-tinh toàn quốc của đảng Quốc đại lại tổ chức tại Bombay, ông Maulana Abul Kalam Azad làm chủ toạ, thành lập một chính phủ lâm thời. Mohandas K. Gandhi dõng dạc tuyên bố: “Đây là thời điểm người Anh phải ra đi” (the time has come for the English to go). Đêm đó Gandhi và vô số thành viên đảng Quốc đại bị bắt, người ta nhốt ông tại điện Aga Khan ở thingya (Pune). Mahadev Desai, Kasturbai, Naidu, Mirabehn và rất nhiều người của đảng Quốc đại cũng bị nhốt ở đó. Trong khi đó, bên ngoài dân chúng đã đứng lên nổi dậy khắp nơi, một cuộc hỗn chiến diễn ra trên đất Ấn, nhân dân Ấn Độ đã phá đổ tất cả các cơ sở, các toà nhà của chính phủ, người ta gọi cuộc nổi dậy này là biểu tượng của sự “đạp đổ chủ nghĩa bành trướng đế quốc Anh tại Ấn Độ”… Đình công, biểu tình, và hỗn loạn nổi dậy khắp mọi nơi trên toàn đất Ấn. Phó quốc trưởng Linlithgow quy cho Gandhi là người “xúi giục dân chúng tạo phản”. Trong những bức thư dài nhiều kỳ Phó quốc trưởng Linlithgow gởi đến Gandhi, Linlithgow đã cố gắng thuyết phục Gandhi từ bỏ cuộc “xúi giục dân chúng tạo phản”. Tháng 2 năm 1943, Gandhi lại tuyệt thực nhằm chống lại các loại thuế, các chi phí bất công mà người dân Ấn Độ phải gánh chịu, lần tuyệt thực này như một tiếng chuông hướng vào toà án tối cao Ấn Độ. Gandhi ngã quỵ sau 21 ngày tuyệt thực, một thử thách tưởng không thể vượt qua, nhưng ông vẫn tiếp tục sống. Bà Kasturbai chăm sóc ông, nhưng khi Gandhi bình phục chính là lúc sức khoẻ bà Kasturbai tuột dốc. Mohandas K. Gandhi cố gắng mọi cách cứu nguy và chữa trị, nhưng tất cả đều vô hiệu. Ngày kia, bà Kasturbai lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay Gandhi. Gandhi lặng thinh, mọi người xung quanh đều khóc. Vài tuần sau ngày bà Kasturbai qua đời, Gandhi cũng bị rơi vào tình thế hiểm nguy của bệnh sốt rét. Dân chúng lại lên án chính quyền, biểu tình đòi thả tự do cho Mohandas K. Gandhi diễn ra khắp nơi, chính quyền cũng tin rằng Gandhi đang đến gần cửa tử và ra lệnh phóng thích ông. Như một phép lạ, Gandhi dần bình phục và trở lại bình thường. Người dân Ấn Độ tin rằng cơ thể Gandhi ví như linh hồn xứ Ấn đang hồi sinh. Và họ hy vọng.
Tháng 5 năm 1945, hai tháng sau ngày Đức đầu hàng. Đảng Lao động dưới sự điều khiển của Nội các Anh, Attlee giữ chức Thủ tướng. Vài tháng sau ngày Nhật Bản thất bại thảm hại, người Anh đã chính thức tuyên bố “buông tay” và hứa trả lại Ấn Độ cho những người chủ thực sự của nó. Cuộc đấu tranh giành độc lập Ấn Độ đang tiến đến đỉnh thành công. Chính quyền Anh tại Ấn tuyên bố cuộc bầu cử quốc hội cho Ấn Độ. Đảng Quốc trại “thắng lớn” trong cuộc bầu cử này. Sau cuộc bầu cử một số thành viên thuộc Hồi giáo đặt vấn đề chia cắt Pakistan, Mohandas K. Gandhi trả lời trong tiếng khóc: “Bạn có thể cắt tôi làm hai, nhưng xin đừng làm điều đó với Ấn Độ” (Cut me in two, but do not cut India in two).
Tháng 2 năm 1946, chính phủ Anh cử phái đoàn Đặc sứ nội các đến Ấn Độ, gồm: Pethick-Lawrence, Stafford Cripps, A.V.Alexander. Sau chuyến viếng thăm và điều tra này, phái đoàn Đặc sứ nội các Anh tuyên bố sẽ rút các cơ quan quyền lực của Anh khỏi Ấn Độ.
Ngày 24 tháng 8 năm 1946, Jawaharlal Nehru chính thức nhậm chức Phó Tổng thống chính phủ Ấn Độ lâm thời. Sau ngày chính phủ lâm thời Ấn Độ được thành lập, Gandhi ước ao được về tĩnh dưỡng tại Sevagram, tuy nhiên những người đứng đầu đảng Quốc đại xin Ông ở lại Delhi để giúp họ cố vấn mọi vấn đề. Gandhi quyết định ở lại Delhi. Nhân ngày 15 tháng 10 năm 1946, tập đoàn Hồi giáo quyết định gia nhập vào chính phủ lâm thời, Gandhi cho rằng đây là thời gian tốt nhất để ông có thể về thăm Sevagram. Khi vừa rời Delhi, Gandhi nghe tin các nhóm Hồi giáo đang nổi loạn ở Bengal, nhiều vụ án thảm khốc xảy ra ở đó. Gandhi quyết định dời bỏ ý định về Sevagram, ông đến thẳng quận Noakhali thuộc đông Bengal, với hy vọng sẽ mang lại an bình cho nơi đó. Tại Bihar hàng ngàn người bị giết chết, mấy ngàn người bị thương, Gandhi chết lặng trước thảm cảnh đó, ông khuyên mọi người hãy bình tâm và khuyên rằng “người Ấn đừng nên tiếp tục sát hại người Ấn”. Gandhi bắt đầu đi từ làng này sang làng khác, từ nhà này đến nhà nọ, nơi nào ông đến nơi đó được mang theo thông điệp của bình an. Nơi nào những làn sóng phản đối nổi dậy, nơi đó Mohandas K. Gandhi đến và mọi bạo động đều tan biến…
Ngày 3 tháng 6 năm 1947, Thủ tướng Anh – Attlee – tuyên bố phân chia Ấn Độ, Đảng quốc đại và tập đoàn Hồi giáo đồng ý ký vào văn bản.
Phó quốc trưởng cuối cùng của Anh tại Ấn Độ – Mountbatten – băn khoăn và không muốn kéo dài thêm tình trạng cai trị người Anh trên đất Ấn. Ông quyết định thu ngắn để nhân dân Ấn Độ sớm đón ngày vui mừng. Cuộc họp bàn giữa hai chính phủ quyết định chọn ngày 15 tháng 8 năm 1947 là ngày trao trả độc lập cho Ấn Độ. Nhân dân Ấn Độ như “mở cờ trong bụng” khi nghe tin này loan tải. Ông Mountbatten – Phó quốc trưởng Ấn Độ – tôn vinh Mohandas K. Gandhi là “Kiến trúc sư xây dựng ngôi nhà tự do Ấn Độ thông qua những viên gạch bất bạo động” (the architech of India’s freedom through non-violence).
Ngày 13 tháng 1 năm 1948, Mohandas K. Gandhi bắt đầu tuyệt thực nhằm chống đối lại việc làm của những kẻ Hồi giáo cuồng tín tạo nên một “hình ảnh Gandhi phản bội” trong mắt của vô số tín đồ Hindu quá khích. Người dân Ấn vô cùng xót xa trước hình ảnh một Gandhi ở tuổi 78 tuyệt thực và lên tiếng, và phản đối. Vụ việc được giải quyết sáng tỏ, Mohandas K. Gandhi thôi tuyệt thực và được đưa về an dưỡng tại Birla House. Ngày 20 tháng 1 cùng năm, trong một buổi lễ cầu nguyện, một vụ nổ mìn nhằm ám sát Gandhi, may thay mục tiêu bị lệch, quả mìn nổ gần chỗ Gandhi cầu nguyện, người bên cạnh la lớn: “Babuji, mìn đang nổ bên cạnh ngài đó”, Gandhi quay lại hỏi: “Có người dân nghèo nào bị thương không? Hãy lo cho họ” và tiếp tục cầu nguyện như không có chuyện gì xảy ra.
Ngày 30 tháng 1 năm 1948, Mohandas K. Gandhi bị một tín đồ Hindu quá khích ám hại bằng súng ngắn khi Gandhi đang dạo vườn cùng hai cháu gái tên Manu và Abha. Tên sát nhân lúng túng tìm cách thoát thân, Gandhi chỉ tay hướng theo lối rào sau, ra lệnh mọi người đừng đuổi theo và thầm khấn “Rama, Rama”. Linh hồn vĩ đại của người Ấn ra đi trong sự thanh thản lúc 5 giờ 46 phút chiều cùng ngày. Lễ hoả tán thi hài Mohandas K. Gandhi được tiến hành ngày sau đó trên một khu đất lớn, ngày nay người Ấn gọi khu đất này là Shanti Bagh có nghĩa là “cõi bình an”, “cõi vĩnh hằng”. Sau khi hoả thiêu xong, người Ấn đã đem số tro của thi hài Mohandas K. Gandhi rải trên toàn cõi Ấn Độ, rải xuống sông Ấn, sông Hằng, sông Yamuna và những con sông lớn trên khắp Ấn Độ. Những lớp tro được rải lên giải đất Ấn Độ hoá thành linh hồn hoà nhập vào “đại thể” che chở người Ấn, và người Ấn tưởng tượng rằng “Thánh Gandhi đang ôm lấy Ấn Độ trong đôi tay khổ hạnh nhưng ấm áp tình người”.
Ngày nay nhân dân Ấn Độ gọi Mohandas K. Gandhi bằng những tên gọi thể hiện tấm lòng tôn kính, trìu mến như: Babuji (Cha kính yêu), Mahatma Gandhi (Linh hồn vĩ đại, siêu thánh / Great soul), hoặc Vị cha già dân tộc (the Father of the Nation).
Delhi, ngày 2 tháng 10 năm 2003 (14:24)
Tài liệu tham khảo:
THE STORY OF GANDHI by Rajkumari Shanker, New Delhi 2002.
MAHATMA – LIFE OF MOHANDAS KARAMCHAND GANDHI (VCD, English version, 2 Vols), Gandhi Films Foundation, 2003
THE TIMES OF INDIA, New Delhi Oct 2nd 2003
DELHI TIMES, New Delhi Oct 2nd 2003
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2011 4:11:11 GMT 9
Adolf Hitler
Vietsciences- Phạm Văn Tuấn Adolf Hitler (1889 - 1945) nhà độc tài Ðức Quốc Xã 1/ Nước Đức sau Thế Chiến Thứ Nhất. Từ ngày 26 tháng 9 năm 1918, các nước Đồng Minh đã phản công lần thứ hai chống lại nước Đức. 220 sư đoàn đã đồng loạt tấn công dọc theo trận tuyến từ bờ biển nước Bỉ kéo dài tới thị trấn St. Mihiel, bắt đầu bằng lực lượng Pháp – Hoa Kỳ đánh vào vùng hai con sông Meuse – Argonne. Ngày hôm sau, 40 sư đoàn quân Anh phối hợp với 2 sư đoàn quân Hoa Kỳ tấn công vào phòng tuyến Hindenburg rồi vào ngày kế tiếp, 28 sư đoàn của Vua Albert, gồm các đạo quân Bỉ, Pháp, Anh và Hoa Kỳ đánh vào miền Flanders. Tất cả những đợt tấn công này đã bắt buộc quân đội Đức phải rút lui về phía sau sông Scheld tại phía bắc và thành phố Sedan tại phía nam. Nhìn thấy cảnh thất trận tới gần, Tướng Ludendorff đã thông báo cho Hội Đồng Chiến Tranh Hoàng Gia Đức (the Imperial Council of War) vào ngày 29 – 2 – 1918 rằng nước Đức phải tìm kiếm một cuộc đình chiến đặt trên căn bản 14 điểm của Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson. Ngày 03 – 10 – 1918, Hoàng Đế Đức (Kaiser) đã chỉ định ông Hoàng Max von Baden làm Chưởng Ấn (Chancellor = Thủ Tướng) với hy vọng tạo được một chính phủ ổn định theo Hiến Pháp, nhưng tình trạng trong nước Đức đã trở nên quá rối ren. Đã có các cuộc nổi loạn tại khắp nơi, các hội đồng công nhân và quân nhân xuất hiện tại mỗi thành phố, lính thủy làm loạn tại Kiel, miền Bavaria tuyên bố thành lập một nước cộng hòa xã hội vào ngày 07 – 11 – 1918. Sau đó 2 ngày, ông Hoàng Max von Baden công bố sự thoái vị của Vua Wilhelm II và việc thành lập chính phủ lâm thời bởi ông Friedrich Ebert, một nhà dân chủ xã hội. Vào ngày 10 tháng 11, Hoàng Đế Wilhelm II lên một toa xe lửa, rời nước Đức đi tị nạn tại Hoà Lan. Sáng ngày 11 – 11 – 1918, các đại diện của nước Đức và các nước Đồng Minh đã ký một bản đình chiến trên một toa tầu nằm trong rừng Compiègne, phía bắc của thành phố Paris, nước Pháp. Từ đây, nước Đức đồng ý từ bỏ tất cả các miền đất đã chiếm được, chấp nhận lui quân đội về phía tây giòng sông Rhine, tháo gỡ các công sự chiến đấu trong miền Rhineland và miền này bị chiếm đóng trong 15 năm, đầu hàng toàn thể bộ máy chiến tranh và hạm đội, và quân đội Đức bị giới hạn ở quân số 100 ngàn người. Đúng 11 giờ sáng ngày 11 tháng 11 năm 1918, Thế Chiến Thứ Nhất đã chấm dứt. Trên toàn thế giới và châu Âu, mọi người đã reo mừng. Tuy nhiên, vết thương chiến tranh còn in hằn trên lục địa châu Âu trong nhiều thập niên. Vào năm 1919, đất nước Đức nằm trong hoàn cảnh tang thương của thời kỳ hậu chiến. Sự thất trận làm tổn thương tinh thần của người dân Đức, nền kinh tế bị kiệt quệ vì thiếu thốn đủ thứ, hàng triệu người lính Đức trở về nhà, về đời sống dân sự mà không thể kiếm ra được công ăn việc làm. Tại nhiều thành phố đã xẩy ra các cuộc xáo trộn xách động bởi các người Cộng Sản. Nhiều quân nhân cũ do thất nghiệp, không thể hội nhập vào đời sống dân sự nên đã tham gia vào đoàn quân Freikorps (đoàn quân tự do), là một loại băng đảng bán quân sự, thường chống lại các người Cộng Sản, thường đi ăn cướp hay phá hoại. Sau Thế Chiến Thứ Nhất, chính phủ của nước Đức được bầu lên vào ngày 19 – 1 – 1919 và dẫn đầu bởi 3 đảng phái thiên cộng hòa. Chính phủ này đã họp lần đầu tiên tại thành phố Weimar để tránh sự xáo trộn của thành phố Berlin. Weimar là nơi tượng trưng cho hòa bình và triết lý của nước Đức thời bấy giờ. Hiến Pháp Weimar cũng cởi mở, có mục đích thay thế cách độc đoán của Vua Wilhelm II với các nghị viên chỉ biết vâng lời. Đất nước Đức vào thời gian này đang cần tới sự đại diện dân chủ. Trong cuộc bầu cử lần thứ nhất, 3 đảng phái ôn hòa đã nhận được ba phần tư phiếu bầu. Thời đó phe Cộng Sản đã tẩy chay cuộc bầu cử và đảng Quốc Xã chưa thành hình. Nhưng các điều kiện nghiêm khắc của Hòa Ước Versailles áp đặt lên nước Đức thất trận đã khiến cho Chưởng Ấn Phillip Scheideman từ chức vào tháng 6 năm 1919 vì không chịu chấp nhận các điều kiện đó. Trước sự đe dọa của phe Đồng Minh là sẽ xâm lăng hay phong tỏa các miền kỹ nghệ trù phú, chính phủ mới của nước Đức hậu chiến bị khuất phục và phải ký Hòa Ước Versailles vào ngày 28 – 6 – 1919. Tình trạng chính trị của nước Đức lại rối tung thêm khi Tướng Erich von Ludendorff tuyên bố rằng quân đội Đức chưa thua trận và Bộ Tham Mưu Đức bị đâm sau lưng. Vị trí của chính phủ dân sự vì thế càng trở nên yếu kém hơn. Các nhà lãnh đạo mới của Cộng Hòa Weimar non nớt đã không quen cách dùng quyền lực. Họ đã không biết đoàn kết để bảo vệ chính nghĩa, họ thường tranh cãi nhau trong suốt các năm từ 1918 tới 1933 và đã vụng về trao nền trật tự công cộng cho nhóm Freikorps tàn bạo, cho quân đội còn lại hay cho nhóm Nazi bán quân sự. Các nhà chính trị dân chủ này đã thương thảo với các kẻ cực đoan, với hy vọng là có thể thuần hóa được chúng trong đường lối đấu tranh dân chủ khi cho chúng tham gia vào chính quyền. Hiến Pháp mới của nước Đức vào các năm sau Thế Chiến Thứ Nhất đã không thể huấn luyện tinh thần và tập quán dân chủ cho một dân tộc hiếu chiến, qua một thế kỷ đã biết rất ít về thể chế dân chủ! Mặt khác, các vị khoa bảng, các giáo sư danh tiếng vào thời kỳ đó vẫn còn tuyên truyền cho chủ nghĩa quyền lực và sự vượt trội của Dân Tộc Đức và những nhà lãnh đạo đương thời thì bị coi là ôn hòa, bảo thủ, thường thiên vị các kẻ cánh hữu thích âm mưu khủng bố, hơn là các kẻ chống đối cánh tả. Trong khi đó người dân Đức lại đem lòng nhớ tiếc các kỷ niệm huy hoàng của thời chiến tranh, chán nản trước các xáo trộn kinh tế hiện đang diễn ra và các cuộc cãi cọ chính trị thường xẩy ra giữa các đảng phái. Dĩ nhiên là dân chúng Đức mong mỏi tình trạng kỷ luật, trông đợi sự đoàn kết và những điều này đã khiến cho Đảng Quốc Xã sau này nắm quyền và đưa đất nước Đức vào nơi thảm khốc. 2/ Thiếu thời của Hitler. Adolf Hitler sinh ngày 20 tháng 4 năm 1889 tại Braunau, một tỉnh nhỏ trên bờ sông Inn, biên giới Đức – Áo, về phía nước Áo. Adolf là người con thứ tư của lần lập gia đình thứ ba của ông Alois Hitler, một nhân viên quan thuế. Khi Adolf chào đời, ông Alois đã 51 tuổi và mẹ của Adolf là Klara Poelzl, thời đó 28 tuổi, con gái một nông dân. Mẹ của ông Alois Hitler là Anna Maria Schicklgruber, đã ăn ở không giá thú với một người thợ xay lúa sống lang thang tên là Johan Georg Hiedler khi Alois lên 5 tuổi và ông Johan này đã không nhìn nhận Alois làm con cho đến khi ông ta qua đời vào năm 1856. Một người em của ông Johan đã xếp đặt để cho Alois được ghi danh là con chính thức của ông Johan Georg Hiedler rồi vị tu sĩ khi ghi tên đã viết sai chữ Hiedler thành “Hitler”. Cũng vì thế khi Adolf Hitler lên nắm chính quyền, các đối thủ đã nhục mạ và gọi nhà độc tài này bằng tên Schicklgruber. Trong số 8 người con của ông Alois, chỉ có 4 người sống sót tới tuổi trưởng thành. Adolf có một người chị tên là Paula, 2 người anh em cùng cha khác mẹ là Alois và Angela. Sau khi Adolf được 6 tuổi, ông Alois về hưu và dời cư về gần Linz, nước Áo. Tại bậc tiểu học, Adolf học giỏi nhưng lên bậc trung học lại học kém, nên đã làm phật lòng người cha nóng tính và bất thường. Ông Alois muốn con trai trở thành một công chức nhưng Adolf lại muốn là một nghệ sĩ. Ông Alois Hitler chết vào năm 1903 và hai năm rưỡi sau đó, Adolf bỏ học khi 16 tuổi. Bà mẹ của Adolf lúc này sống nhờ tiền trợ cấp và một số tài sản còn lại, vì thế Adolf đã không đi kiếm việc mà cả ngày ngồi vẽ, đọc sách hay mơ mộng. Vào năm 1907, Adolf Hitler tới thành phố Vienna là thủ đô của nước Áo – Hung. Adolf muốn theo học trường Mỹ Thuật nhưng đã thi rớt 2 lần trong kỳ thi nhập học. Cũng vào năm 1907, mẹ của Adolf qua đời, để lại cho chàng một số tài sản. Adolf sống nhờ tiền trợ cấp mồ côi. Trong thời gian này, chàng Adolf sống thoải mái như một nghệ sĩ, đôi khi cũng bán được vài tấm tranh. Ngoài nghệ thuật Hội Họa, Adolf Hitler cũng đọc sách và quan tâm tới các sinh hoạt chính trị, thán phục cách tổ chức và đường lối lãnh đạo hữu hiệu của đảng Dân Chủ Xã Hội (the Social Democratic Party) của thành phố Vienna. Tại thành phố này vào thời bấy giờ thường có các cuộc chống đối người Do Thái, một dân tộc bị làm dê tế thần của châu Âu qua nhiều thế kỷ. Cũng vì thế trong tâm hồn Adolf Hitler đã sinh ra sự căm thù hai giống dân Do Thái và Slav. Giống như các người Áo nói tiếng Đức, Adolf Hitler có đầu óc quốc gia cực đoan và đã có lần nói “Tôi ghê tởm tập hợp nhiều giống dân đang sống tại thành phố Vienna, ghê tởm sự pha trộn các người Tiệp, Hung, Ba Lan, Ruthenian, Serbs và Croats... “. Hitler tin tưởng rằng người Do Thái và các giống dân thấp hèn khác đã tìm cách phá hủy nước Đức và Hitler rất ghét chủ nghĩa Bôn-Xê-Vích (bolshevism), e ngại về chính thể Dân Chủ. Hitler có tham vọng về giấc mơ của Hoàng Đế Đức, tức là nền thống trị của người Đức trên toàn lục địa châu Âu, nhưng các kiến thức chính trị và kinh tế của Hitler còn mơ hồ và nông cạn. Vào năm 1913, Hitler dọn về Munich thuộc nước Đức và đã tình nguyện đầu quân nhưng quân đội đã không chấp nhận vì không đủ sức khỏe. Tháng 8 năm 1918, Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ. Adolf Hitler lại xin phục vụ quân đội và lần này được chấp nhận trong một trung đoàn bộ binh, đóng tại miền Bavaria. Hitler đã làm chân giao liên (dispatch runner) tại mặt trận phía tây, đã bị thương, được huy chương hai lần vì cam đảm và được thăng cấp hạ sĩ. Khi nước Đức đầu hàng sau Thế Chiến Thứ Nhất, Hitler đang nằm trong bệnh viện vì bị thương do hơi mù tạc (mustard gas). Hitler còn phục vụ quân đội tới tháng 4 năm 1920, đầu tiên làm lính gác tù binh, rồi làm huấn luyện viên cho binh sĩ giải ngũ và cuối cùng lãnh chân “chính trị viên” (political agent) của Bộ Chỉ Huy Khu Munich. Sau Thế Chiến Thứ Nhất, Munich là thành phố rất xáo trộn bởi các người Cộng Sản và bọn Freikorps, nhờ vậy mà Adolf Hitler có được cơ hội hiểu rõ các ưu khuyết điểm của hai nhóm người này. Hitler bị xuống tinh thần rất nhiều do tin thất trận và cho rằng chủ quyền của nước Đức đang bị đe dọa, cần phải chính mình cứu lấy nước Đức. 3/ Sự đi lên của Đảng Quốc Xã. Khi còn phục vụ quân đội, Hitler đã tham gia đảng Công Nhân Đức (the German Workers’ Party). Đây là một đảng nhỏ của một nhóm người quốc gia (a nationalist group) có đường lối chối bỏ chính quyền Berlin, vì vậy đã thu hút được nhiều cựu quân nhân. Hitler là đảng viên thứ 55 và là nhân vật thứ 7 trong ủy ban điều hành. Hitler là một nhà hùng biện có tài nên vào giữa thập niên 1920, đã trở nên người phát ngôn chính cho Đảng và cũng là nhà ý thức hệ. Sau đó đảng Công Nhân đổi tên là Đảng Công Nhân Quốc Gia Xã Hội Đức (the National Socialist German Workers’ Party), gọi tắt là Đảng Nazi hay Đảng Quốc Xã. Đảng này chủ trương đặc tính thuần quốc gia Đức (pan-German nationalism), lập chương trình đoàn kết vào một quốc gia toàn thể người Đức bao gồm cả các người Áo và các nhóm dân thiểu số Đức sống trên những miền đất khác như Tiệp Khắc, Hungary. Đảng này có các tư tưởng cấp tiến về kinh tế, kêu gọi phải tước bỏ quốc tịch Đức khỏi các sắc dân Do Thái hay không phải là Đức, và Đảng cũng kêu gọi sự hủy bỏ Hiệp Ước Versailles. Dần dần về sau, đảng Quốc Xã đã mang cá tính và lòng hận thù của Hitler. Quyền hành của đảng được chỉ thị từ trên xuống còn trách nhiệm lại phải đi từ dưới lên trên, với lòng tin tưởng tuyệt đối là vị lãnh tụ không bao giờ nhầm lẫn cả, luôn luôn anh minh và sáng suốt. Adolf Hitler là một nhà chính trị khéo léo và một người tổ chức có tài. Ông ta đã trở nên nhân vật lãnh đạo Đảng và xây dựng Đảng với một số lớn đảng viên trong một thời gian ngắn, một phần nhờ tài hùng biện, biết xách động quần chúng bằng những bài diễn văn giật gân, nẩy lửa. Hitler đã công kích chính phủ và công bố rằng chỉ có Đảng Quốc Xã là có thể phục hồi nền kinh tế, mang lại công việc làm ăn cho mọi người và lại đưa nước Đức tới cảnh hùng vĩ. Hitler cũng tổ chức một đội quân tinh nhuệ riêng có tên là “đội quân Vũ Bão S.A.” (Sturmabteilung). Các đảng viên Quốc Xã mặc đồng phục gồm áo sơ mi màu nâu, mang huy hiệu chữ “Vạn” (swastika emblem). Vào năm 1922, đảng Quốc Xã đã có 10,000 đảng viên rồi tới tháng 10 – 1923, quân số của đội S.A. lên tới 15 ngàn người, được trang bị súng trường và súng máy. Mùa đông năm 1923, quân đội Pháp và Bỉ đã tiến vào miền kỹ nghệ Rhur để bắt buộc nước Đức phải bồi thường chiến tranh. Khi đó chính phủ Weimar chỉ biết kháng cự thụ động còn các công nhân chống đối bằng các cuộc đình công và phá hoại. Sự tê liệt sản xuất về than và thép tại miền Rhur đã làm cho nạn lạm phát gia tăng. Giá trị đồng Mark giảm xuống từ 400 xuống 1 vào giữa năm 1922, rồi sau đó từ 7,000 xuống 1 vào cuối năm 1923. Các cuộc nổi loạn Cộng Sản và quốc gia đã xẩy ra trên toàn nước Đức. Nước Cộng Hòa Đức đang trên bờ tan rã. Tiểu bang Bavaria khi đó là nơi công khai chống lại chính quyền trung ương tại Berlin. Hitler đã nhìn thấy một cơ hội để lật đổ chính quyền địa phương lẫn chính phủ trung ương. Vào ngày 8 – 11 – 1923, tại một buổi tụ họp trong Phòng Uống Bia ở Munich, Hitler đã cố gắng cướp chính quyền địa phương Bavaria. Thời đó Hitler đã có được sự ủng hộ của Tướng Erich von Ludendorff, đã dẫn đầu đội quân S.A. 2,000 người trong một cuộc biểu dương lực lượng chống lại quân đội của chính phủ sở tại. Nhưng cảnh sát tiểu bang đã nổ súng, giết chết 16 người tuần hành và làm ngừng cuộc diễn hành. Âm mưu đảo chánh thất bại. Hitler bị bắt, bị kết tội phản bội và bị kết án 5 năm tù. 4/ Cuốn sách “Cuộc Tranh Đấu của Tôi”. Chính phủ Weimar thời đó đã quá nhân từ đối với các kẻ quá khích. Đây là những người đã khéo léo khoác ra ngoài chủ nghĩa quốc gia yêu nước. Đồng thời, trong phiên tòa xét xử Hitler với tội đảo chánh, các quan tòa lại nhân nhượng Hitler và đã để cho phe báo chí biến cuộc xét xử này thành một diễn đàn chống chính phủ. Hitler lại được giam cầm trong nhà tù đầy tiện nghi Landsberg và chỉ chịu ở tù 9 tháng rồi được trả tự do với điều kiện. Trong thời gian nằm tù, Hitler đã lợi dụng thời gian này để đọc sách và soạn thảo cuốn “Cuộc Tranh Đấu của Tôi” (Mein Kampf). Trong cuốn sách này, Hitler mô tả các ý tưởng và niềm tin về một nước Đức tương lai, với chương trình chinh phục phần lớn đất đai của châu Âu, bao gồm các miền đất đã mất vì Thế Chiến Thứ Nhất, gồm nước Áo và các miền của Tiệp Khắc có dân Đức sinh sống. Đế Quốc Đức theo mô tả đó sẽ trải dài từ một phần Liên Xô tại phía đông, qua Ba Lan tới các quốc gia ở phía tây. Theo Hitler, nước Đức tượng trưng cho một giống dân ưu việt và sự thuần chủng đòi hỏi người dân Đức tránh kết hôn với các giống dân Do Thái và Slav. Hitler cho rằng những điều xấu xa đều do loại người Do Thái và đã tố cáo họ làm hư hỏng các giá trị đạo đức và quốc gia. Hitler đã tuyên bố : “bằng cách bảo vệ chính tôi đối với các người Do Thái, tôi đã làm công việc của Thượng Đế” (by defending myself against the Jews, I am doing the Lord’s work). Hitler cũng cho rằng chế độ Dân Chủ (democracy) chỉ dẫn đến chủ nghĩa Cộng Sản và chế độ độc tài là cách duy nhất để cứu giúp nước Đức ra khỏi mối đe dọa của chế độ Cộng Sản và sự phản bội của các người Do Thái. Hitler được thả khỏi nhà tù vào tháng 12 năm 1924, trở lại Munich và thấy đảng Quốc Xã đang ở trong tình trạng hỗn loạn. Đảng này cũng bị chính phủ Đức đặt ra ngoài vòng pháp luật, nhiều đảng viên chạy qua các đảng phái khác. Vì bị cấm nói chuyện tại nơi công cộng, Hitler dồn thời giờ vào việc tổ chức và củng cố đảng Quốc Xã. Hitler cũng dần dần thuyết phục được chính phủ Đức rằng đảng này sẽ hoạt động hợp pháp để rồi chính phủ hủy bỏ lệnh cấm. Đồng thời Hitler cũng có thêm được một số bạn bè nơi các tỉnh nhỏ, trong các công đoàn lao động, một số nông dân, thương gia và kỹ nghệ gia... Vào năm 1924, tình trạng nước Đức cũng khả quan hơn về nhiều mặt. Nạn lạm phát đã được giảm bớt vì các cải cách tài chính và các bạo động chính trị cũng giảm đi. Các tiểu bang Đức và chính phủ liên bang đã hòa giải được một số bất đồng, trong khi đó Bộ Trưởng Ngoại Giao Đức là ông Gustav Streseman đã cải thiện được vị trí của nước Đức trên trường quốc tế và làm cho nước này gia nhập được vào Hội Quốc Liên (the League of Nations) vào năm 1926. Từ năm 1925, Tổng Thống của nước Đức là Friedlich Ebert qua đời và được thay thế bởi Thống Chế Paul von Hindenburg, 77 tuổi, một vị anh hùng dân tộc. Uy tín của ông Hindenburg đã làm yên lòng người dân rằng Đức Quốc sẽ trở nên một nước dân chủ. Tại mọi nơi trong nước, đã có dấu hiệu của cảnh phục hồi sau chiến tranh. Phần lớn người dân Đức đã có công việc làm ăn, nhà ở, thực phẩm và mọi người hy vọng ở tương lai. Sau khi trở lại đảng Quốc Xã, Hitler nắm quyền lãnh đạo và chuẩn bị một cuộc đấu tranh mới, lần này bằng các phương tiện hợp pháp. Ông ta bắt đầu thanh lọc đảng, cố gắng lấy được cảm tình của Quân Đội và sự ủng hộ tài chính của các giai cấp bảo thủ. Để làm quân bình đội S.A., Hitler cho thành lập một đội bảo vệ tinh nhuệ, lấy tên là S.S. (Schutzstaffel = đội bảo vệ), gồm các vệ sĩ chỉ biết trung thành với lãnh tụ. Hitler cũng tập hợp quanh mình một số nhân vật mà sau này sẽ đưa ông ta lên nắm chính quyền, bao gồm : Joseph Goebbels, nhà tuyên truyền Quốc Xã hàng đầu, Hermann Goering, người lãnh tụ hàng thứ nhì sau Hitler, Rudolf Hess, một thư ký riêng trung thành, Heinrich Himmler, lãnh đạo đội quân S.S.; Ernst Roehm, lãnh đạo đội quân S.A. và Alfred Rosenberg, nhà triết lý của Đảng. Joseph Goebbels cũng là chủ nhiệm một tờ báo Quốc Xã và sau này là nhà tâm lý quần chúng tài giỏi nhất của thế kỷ. Đảng viên Quốc Xã vào năm 1928 đã lên tới 60,000 người và đã chiếm được 2.6% phiếu bầu trong các cuộc tranh cử Reichstag. 5/ Cuộc khủng hoảng kinh tế và hậu quả. Vào tháng 10 năm 1929, Bộ Trưởng Ngoại Giao Đức Gustav Streseman chết. Vào thời kỳ này, sự thịnh vượng của nước Đức tùy thuộc vào nền giao thương quốc tế và tín khoản của Hoa Kỳ. Khi thị trường chứng khoán của Hoa Kỳ sụp đổ, cả hai điều kiện kể trên đã ảnh hưởng mạnh đến nước Đức. Cũng vào năm này, nước Đức đồng ý về kế hoạch Young là hoạch định lại việc bồi thường chiến tranh. Kinh tế đi xuống, nạn thất nghiệp gia tăng hơn 20 phần trăm, người dân Đức mất tin tưởng vào các nhân vật ôn hòa đã tạo ra nền Cộng Hòa Weimar, vì thế các lực lượng Cộng Sản và Quốc Xã gia tăng rất nhanh. Từ tháng 3 – 1930 tới tháng 5 – 1932 là thời gian của chính phủ do Chưởng Ấn Heinrich Bruning lãnh đạo. Ông Bruning là một nhân vật theo đạo Thiên Chúa La Mã, thuộc đảng Trung Tâm (Center party), đã xử dụng quyền lực Hiến Pháp của Tổng Thống Von Hindenburg để điều hành Quốc Hội (Reichstag) và cai trị đất nước bằng các nghị định (decrees). Vào năm 1932, Quốc Hội Đức đã chỉ thông qua 5 đạo luật nhưng đã ban hành 60 nghị định. Các nghị định của Chưởng Ấn Bruning ban ra là để đối phó với lương bổng và giá hàng chống lại nạn lạm phát, đối phó với các cuộc bảo động quá khích ... Giống như các đối thủ khác của Hitler, ông Bruning đã đánh giá quá thấp hiểm họa do đảng Quốc Xã sẽ gây ra, khiến cho khi đã nhận chân được sự thực thì mọi việc đã quá trễ, không cứu vãn nổi! Việc công bố chương trình Young về bồi thường chiến tranh đã bị Hitler phản đối kịch liệt từ năm 1929. Hitler đã tạo ra một phong trào chống đối toàn quốc và cách vận động đó đã khiến cho đảng Quốc Xã trở nên một sức mạnh chính trị chính yếu trong nước. Hitler đã dẫn đầu các cuộc tuần hành, tổ chức nhiều cuộc mít tinh đông đảo và đọc diễn văn kêu gọi tại rất nhiều nơi trên nước Đức. Hitler cũng hạ bớt giọng kết án người Do Thái, hứa hẹn sẽ loại trừ bọn Cộng Sản và các kẻ thù khác và tuyên bố sẽ đoàn kết lại nước Đức cùng với các phần đất nói tiếng Đức. Đồng thời đảng Quốc Xã đã vận động được sự ủng hộ của Quân Đội, Cảnh Sát và các nhà kỹ nghệ, hai đội quân S.A. và S.S. tuy là các đơn vị quân sự không thuộc chính quyền, nhưng lại được võ trang đầy đủ. Vào đầu năm 1932, thời kỳ 7 năm tại chức của Tổng Thống Hindenburg đã hết. Ông Hindenburg lại ra tranh cử để chống lại Hitler và vài lãnh tụ thiểu số khác. Kết quả sau bầu cử là Thống Chế Hindenburg được 53% số phiếu, 35% thuộc về Hitler và 10% là của ông Ernst Thalman, một ứng viên Cộng Sản. Tới lúc này, Chưởng Ấn Bruning mới nhận thấy sự đe dọa của các hành động bạo lực của các đoàn quân S.A. và S.S. của đảng Quốc Xã trong thời gian tranh cử và đã khuyên Thống Chế Hindenburg ra sắc lệnh dẹp bỏ hai tổ chức quân sự này. Tuy nhiên quân đội Đức thời bấy giờ đã từ chối thi hành sắc lệnh. Sau đó nhiều áp lực đã làm từ chức ông Bộ Trưởng Quốc Phòng của Chưởng Ấn Bruning và cả chính ông Bruning nữa. Do chính phủ sụp đổ, Thống Chế Hindenburg liền mời một nhà quý tộc và cũng là một nhân vật chính trị mới học hỏi, có tên là Franz von Papen. Ông Von Papen kêu gọi một cuộc bầu cử mới vào ngày 31 – 7 – 1932 và tự phong mình là Ủy Viên Reich trên toàn nước Phổ (Reich Commissioner for Prussia). Nhưng các cuộc rối loạn ngoài đường phố vẫn xẩy ra hàng ngày và lệnh thiết quân luật được áp dụng tại thành phố Berlin cũng như tại vài thành phố khác. Ông Von Papen đã làm Chưởng Ấn tới ngày 17 – 11 năm đó. Trong thời kỳ này, Thống Chế Hindenburg đã đề nghị giao cho Hitler chức vụ Phó Chưởng Ấn dưới quyền ông Papen nhưng Hitler đã từ chối. Vì thế chức vụ trên về tay Tướng Kurt von Schleicher, một cố vấn chính trị của ông Hindenburg trong nhiều năm. Ông Schleicher đã giữ được chức vụ chỉ trong 57 ngày trước khi bị các âm mưu khác lật đổ, trong khi đó đảng Quốc Xã dần dần trở nên một đảng phái chính trị mạnh nhất và Hitler đã không nhận bất cứ một chức vụ nào, ngoài chức Chưởng Ấn (Thủ Tướng) của nước Đức. Các nhà chính trị hàng đầu và dân chúng Đức thời bấy giờ đã không muốn giao chức vụ quan trọng cho Hitler vì họ hiểu rằng Hitler sẽ trở nên độc tài, toàn quyền thao túng nước Đức. Nhưng cuối cùng, vì tình hình rối ren trong nước, vì các lời khuyên của bạn bè và của người con trai Oskar, Thống Chế Von Hindenburg, 85 tuổi, đã chấp nhận lời hứa của Hitler là sẽ hành động hợp pháp nếu Hitler được đứng ra tổ chức chính phủ. 6/ Nhà độc tài của nước Đức. Vào ngày 30 tháng 1 năm 1933, Thống Chế Hindenburg đã chỉ định Hitler làm Chưởng Ấn, đứng đầu Nội Các gồm 11 nhân vật ôn hòa và 2 bộ trưởng Quốc Xã là Hermann Goering và Wilhelm Frick. Nhiều người đã tin rằng cách xếp đặt này sẽ giới hạn quyền lực của Hitler nhưng thực ra, Hitler luôn luôn muốn nắm trọn mọi quyền hành trong tay. Đảng Quốc Xã vào thời đó đã có Wilhelm Frick làm Bộ Trưởng Nội Vụ, kiểm soát toàn thể lực lượng cảnh sát. Một nghị định khẩn cấp ký bởi Thống Chế Hindenburg vào ngày 4 – 2 – 1933 đã chấp nhận đảng Quốc Xã hợp pháp, cấm chỉ hội họp và đặt ra ngoài vòng pháp luật đảng Cộng Sản và các đảng Xã Hội khác, xác nhận quyền kiểm duyệt báo chí và quyền bắt người vì nghi ngờ phạm tội phản bội. Goering cũng cho thành lập một lực lượng cảnh sát phụ gồm hàng ngàn nhân viên S.A. và những nhân viên này được lệnh bắn thẳng vào các “kẻ thù”. Với cảnh sát, báo chí và truyền thông trong tay, đảng Quốc Xã có thể dẹp tan mọi chống đối và đòi hỏi một cuộc bầu cử mới sẽ tổ chức vào ngày 5 tháng 3 năm 1933. Vào đêm hôm 27 – 2 – 1933, vài ngày trước khi người dân Đức đi bầu chính phủ mới, tòa Dinh Thự Reichstag là trụ sở của Quốc Hội Lập Hiến Đức trong thành phố Berlin đã bị đốt cháy và chịu thiệt hại nặng nề. Kẻ phá hoại là một người Hòa Lan vô chính phủ, thiên Cộng Sản, đã bị bắt và thú nhận tội phạm. Về sau, nhiều sử gia tin rằng chính đảng Quốc Xã đã bày ra mưu kế này. Ngay trước khi kẻ phạm tội bị hỏi cung, Hitler đã soạn thảo một bản tuyên bố, kết tội vụ đốt phá là dấu hiệu của một cuộc Cách Mạng Cộng Sản và hứa hẹn với dân chúng Đức rằng sẽ hành động nhanh chóng. Trước ngày 28 – 2 năm đó, cảnh sát Đức đã bắt giữ hơn 4,000 người bị coi là chống đối Hitler rồi sau đó, Thống Chế Hindenburg lại ký một nghị định khẩn cấp khác trao quyền hành không giới hạn cho chính phủ. Mặc dù thế, cuộc bầu cử vào ngày 5 tháng 3 đã chỉ mang lại cho đảng Quốc Xã 43.9% phiếu bầu, dù cho đã có nhiều vụ khủng bố các phe đối lập. Sau cuộc bầu cử, các dại diện của đảng Cộng Sản, một số bị bắt, một số không được phép tham gia Quốc Hội, nhờ vậy đảng Quốc Xã đã nắm đa số. Ngày 23 tháng 3 năm 1933, Quốc Hội do đảng Quốc Xã chiếm đa số thông qua một đạo luật cho phép chính phủ toàn quyền và ngưng lại trong 4 năm mọi Nhân Quyền và các quyền căn bản khác. Tới giữa tháng 7 năm 1933, chính phủ do Hitler cầm đầu lại cấm đoán hẳn các đảng phái chính trị, các nghiệp đoàn lao động, cấm chỉ mọi tự do ngôn luận, báo chí và hội họp, kiểm duyệt tất cả các thư từ và nói chuyện điện thoại, cho quyền Cảnh Sát khám nhà hay tịch thu tài sản mà không cần trát tòa ... và tất cả các quyền lợi của người dân Đức bị “tạm ngưng cho đến khi có lệnh mới”. Án tử hình cũng được dùng cho nhiều loại tội phạm. Hitler và Goebbels đã nói chuyện tại nhiều cuộc mít tinh tổ chức tại nhiều nơi trong nước Đức, loan báo rằng chỉ có đảng Quốc Xã mới có thể cứu giúp đất nước ra khỏi tình trạng vô chính phủ của các người Cộng Sản. Đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và một số nhà xã hội khác bị bắt bớ, bị buộc vào các tội danh giả. Các công đoàn bị giải tán. Các đội quân S.A. và S.S. bắt đầu lập ra các trại tập trung giam nhốt các tù nhân chính trị, đồng thời Cơ Quan Gestapo (mật vụ Đức) săn lùng các kẻ đối lập. Đảng Quốc Xã đã dùng báo chí, truyền thanh và phim ảnh để nhồi nhét dân chúng Đức những lời tuyên truyền về một “trật tự mới”, về kế hoạch của Hitler tổ chức lại xã hội Đức và một phần của châu Âu. Chính phủ Quốc Xã cũng đề cao niềm hãnh diện quốc gia, việc huấn luyện quân sự , việc tái võ trang nước Đức và cách phát triển kỹ nghệ. Cũng vào thời gian này, các người Do Thái bị đẩy ra khỏi các công sở, trường học, đại học và các chức vụ điều hành. Hàng ngàn người loại này đã rời bỏ nước Đức, một số lớn khác bị gửi đi các trại tập trung cùng với hàng trăm ngàn những người bị nghi ngờ chống đối chính trị. Mỗi người dân trong xứ phải có giấy phép mới được làm việc hay thay đổi công việc làm, di chuyển hay ra nước ngoài. Chính phủ Quốc Xã cũng quản lý chặt chẽ lương bổng, nhà ở và thực phẩm. Các công nhân và chủ nhân phải thuộc về Mặt Trận Lao Động Đức (the German Labor Front) và mặt trận này cũng quản lý mọi sản phẩm, giờ làm việc, lương bổng và các hoạt động giải trí. Hitler cũng cho thiết lập các đoàn thể thiếu nhi và thanh niên Đức. Đoàn thanh niên Hitler (Hitler Youth) thâu nhận các em trai từ 14 tuổi trở lên và Xã Hội Thiếu Nữ Đức (the Society of German Maidens) bao gồm các em gái có cùng giới hạn tuổi. Mục đích của các tổ chức này là huấn luyện cho giới trẻ Đức kỷ luật quân đội và lòng tuyệt đối trung thành với Lãnh Tụ Quốc Xã. Họ được mặc đồng phục, đi đều bước trong đội ngũ, thao dượt và học tập các giáo điều Quốc Xã. Đảng Quốc Xã cũng dạy cho trẻ em phải do thám gia đình và quần chúng và báo cáo cho Đảng các chống đối mà chúng nghe thấy. Từ nay, hệ thống cảnh sát và mật vụ Quốc Xã Đức đã nhốt giữ toàn thể dân chúng Đức trong một bầu không khí đe dọa, khủng bố. Dân chúng chỉ được nghe các bài diễn văn hùng hồn và hứa hẹn của Hitler. Vào tháng 8 năm 1934, Thống Chế Hindenburg qua đời. Adolf Hitler nắm trọn quyền cai trị nước Đức và lãnh hai chức vụ, vừa là Chưởng Ấn, vừa là Lãnh Tụ (Fuhrer).
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2011 4:11:54 GMT 9
Phụ lục: Có thể Hitler đã không tự sát Những bức ảnh chưa từng công bố về Hitler Bệnh Parkinson đã góp phần đánh bại Hitler Có thể Hitler đã không tự sát Một nghiên cứu cho thấy rất có thể quốc trưởng Đức không tự bắn vào đầu trong ngày 30/4/1945 và không chết trong hầm ngầm tại Berlin. Hộp sọ có vết thủng của đạn được cho là của trùm phát xít Adolf Hitler. Ảnh: Reuters. Từ trước tới nay giới khoa học và sử học luôn cho rằng Adolf Hitler đã tự sát trong hầm ngầm Fuhrer tại Berlin bằng súng lục sau khi uống một viên xyanua vào ngày 30/4/1945 để khỏi bị rơi vào tay Hồng quân Liên Xô. Eva Braun, cô vợ mới cưới của trùm phát xít, cũng chết cùng ông ta. Sau đó xác của hai người được hỏa thiêu bằng xăng trong một vườn gần đó. Theo AP, vài tháng sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, cơ quan tình báo Liên Xô đã thu thập những đồ vật thuộc về Hitler, trong đó có mảnh xương sọ với một lỗ thủng do đạn xuyên qua ở bên ngoài hầm ngầm Fuhrer. Bộ sưu tập đó hiện được bảo quản tại Cục lưu trữ quốc gia Nga. Trong bộ sưu tập còn có những mảnh ghế sofa dính máu. Theo lời kể của nhiều nhân chứng thì Hitler đã tự bắn vào đầu bằng súng lục trên chiếc ghế sofa đó. Những kỷ vật của trùm phát xít được trưng bày trước công chúng vào năm 2000. Mặc dù một số sử gia nghi rằng chuyện Hitler tự sát chỉ là kịch bản do bộ máy tuyên truyền của phát xít Đức để biến ông ta thành anh hùng. Tuy nhiên, mối nghi ngờ của họ dường như lắng xuống khi hộp sọ có lỗ thủng của đạn được trưng bày. Kênh truyền hình quốc tế History (trụ sở tại Canada) muốn sản xuất một phim tài liệu về cái chết của Hitler để phát sóng vào tháng này. Họ thuê Nick Bellantoni, một nhà khảo cổ của Đại học Connecticut (Mỹ) kiểm tra mảnh sọ và những vết máu. Nhận được sự cho phép của chính phủ Nga, Bellantoni bay tới Matxcơva để kiểm tra mảnh sọ và những vết máu. Ông nói rằng kết quả kiểm tra sơ bộ cho thấy mảnh sọ không phù hợp với Hitler. “Mảnh sọ rất nhỏ và mỏng, trong khi xương sọ nam giới to và dày hơn nhiều. Tôi nghĩ nó có thể thuộc về một phụ nữ hoặc nam giới trẻ hơn Hitler”, ông nói. Hitler và Eva Braun. Người phụ nữ này chết khi mới 33 tuổi. Mảnh xương sọ có lỗ thủng thuộc về một phụ nữ dưới 40 tuổi. Ảnh: AP. Bellantoni đem nhiều mảnh vỡ nhỏ của hộp sọ và các vết máu về Đại học Connecticut để phân tích. Ông nhờ Linda Strausbaugh, một giáo sư sinh học phân tử và tế bào của trường lấy đủ ADN từ những mẩu xương sọ để phân tích. Bà kết luận rằng đó là ADN của một phụ nữ từ 20 tới 40 tuổi. Mảnh xương có thể là của Eva Braun. Nhưng để xác minh điều đó, các nhà nghiên cứu cần mẫu ADN của người phụ nữ này. Các nhân chứng có mặt trong hầm ngầm Fuhrer vào ngày 30/4/1945 chưa bao giờ nói Eva Braun bị bắn vào đầu. Họ nghĩ cô chết vì uống thuốc độc xyanua. “Người này, với một lỗ đạn xuyên từ trước ra sau, có thể đã bị bắn vào miệng hoặc dưới cằm”, Bellantoni nói. Strausbaugh cho biết, ADN trong các vệt máu trên ghế sofa thuộc về đàn ông. “ADN gần như bị phân hủy hoàn toàn nên chúng tôi không thể xác định chính xác đó có phải là ADN của Hitler hay không”, Bellantoni thừa nhận. Các quan chức Nga nói rằng thi thể của Hitler và Braun được tìm thấy dưới một hố bom bên ngoài hầm ngầm tại Berlin. Các nhân chứng cũng kể rằng thi thể của Hitler và Braun được cuốn vào các tấm chăn và ném xuống một hố bom. Người ta tưới xăng lên hai cái xác và đốt. Một cuộc khám nghiệm cho thấy tử thi của Hitler mất một phần hộp sọ. Một nhóm người của Liên Xô quay trở lại hố bom vào năm 1946 và tìm thấy mảnh xương sọ mà các nhà khoa học Mỹ đang nghiên cứu. Theo giới chức Nga thì phần còn lại của thi thể Hitler được chôn bên dưới một thao trường của Hồng quân Liên Xô ở thành phố Magdeburg thuộc Đông Đức cũ. Họ nói rằng thi thể được khai quật vào năm 1970 để hỏa táng. Người ta ném tro cốt vào hệ thống thoát nước của thành phố. Những bức ảnh chưa từng công bố về Hitler Một bộ các tấm hình ghi lại cuộc sống riêng tư của độc tài phát xít khét tiếng Adolf Hitler lần đầu tiên được công bố. Những bức ảnh màu đến từ bộ sưu tập của Hugo Jaeger, phóng viên ảnh riêng của Hiler. Ông đã chụp cho thủ lĩnh đảng Quốc xã Đức từ năm 1936 đến những ngày cuối cùng Hitler cầm quyền năm 1945. Jaeger giấu hàng nghìn bức ảnh trong một valy da vào cuối cuộc chiến tranh. Chiếc valy này đã được các lính Mỹ tìm thấy khi họ lục soát ngôi nhà ở Munich nơi Jaeger từng ở. Phần 1: Các hoạt động quân sự của Hitler Hitler giơ tay chào quân đội Đức trong cuộc duyệt binh vào ngày 1/9/1938. "Điều tiên quyết dẫn đến thành công là sự áp dụng không ngừng và liên tục bạo lực", Hitler từng nói. [/img] Thủ tướng Anh Neville Chamberlain (hàng đầu, thứ 2 bên tay phải) duyệt đội quân danh dự của phát xít Đức trước khi đến gặp Adolf Hitler vào ngày 28/9/1938. Hitler phát biểu tại Munich, Đức, ngày 8/11/1938, trong lễ kỷ niệm lần thứ 15 sự kiện Beer Hall Putsch, trong đó Hitler và các thành viên đảng Quốc xã đã tìm cách lật đổ chính quyền Đức nhưng không thành. Hitler tham quan cuộc triển lãm Ôtô quốc tế tại Berlin, ngày 17/2/1939. Julius Schaub, trợ thủ thân tín của Hitler, quan sát những người xung quanh tại một bữa tiệc vào ngày 25/2/1939. Hitler tham dự cuộc hạ thủy tàu chiến Tirpitz ngày 1/4/1939. Hitler và các quan chức đảng Quốc xã tham dự bữa tiệc Giáng sinh năm 1941, lúc đỉnh điểm của Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Hitler trò chuyện với các cô gái trẻ trên chiếc tàu Robert Ley của Đức trong ngày khởi hành đầu tiên của con tàu, hôm 1/4/1939. Tên tàu được lấy từ một thủ lĩnh cấp cao trong quân đội phát xít. Phòng khám bệnh trên tàu Robert Ley - một trong những tàu đầu tiên được chế tạo phục vụ riêng mục đích du ngoạn cho quân đội Đức. 2- Văn phòng và nhà ở của Hitler Căn phòng bên trong Phủ thủ tướng Đức, chứa một số món quà sinh nhật tặng Hitler nhân ngày sinh nhật lần thứ 50, hôm 20/4/1939. Mô hình lâu đài làm bằng tay gắn những viên đá quý - món quà tặng Hitler nhân ngày sinh nhật tròn 50 tuổi. Nữ diễn viên người Đức Marieluise Claudius ngồi dựa trên một chiếc ghế trong văn phòng làm việc của Hitler, trong buổi chiêu đãi các nghệ sĩ hôm 1/1/1940. Nữ diễn viên nổi tiếng chết vì suy tim vào năm 1941, khi mới 29 tuổi. Nội thất bên trong nhà riêng tại Berghof thể hiện quan niệm của Hitler về "phong cách Đức". Hình ảnh hiếm thấy bên trong căn hộ của Hitler tại Berlin. Các đồ vật bên trong văn phòng của Hitler tại Phủ thủ tướng ở Berlin. Lính gác bảo vệ trước cửa ra vào văn phòng của Hitler trong Phủ thủ tướng. Hitler bị ám ảnh bởi kiểu kiến trúc đồ sộ và những công trình hoành tráng khiến bất kỳ vị khách nào cũng phải choáng ngợp và e sợ. Văn phòng làm việc của Hitler tại Munich. Tại nơi này năm 1938, Hiệp định Munich được thủ tướng Anh Neville Chamberlain ký nhằm trao cho Đức một phần của Czechoslovakia. Diệu Minh (theo Telegraph) vnExpress Bệnh Parkinson đã góp phần đánh bại HitlerTrùm phát xít Hitler (20/4/1889 - 30/4/1945). Theo nghiên cứu của một chuyên gia về bệnh thần kinh thuộc Đại học Dekalb (Mỹ), do mắc bệnh Parkinson nên về sau tư duy của Hitler trở nên chậm chạp, không thể đưa ra những phán đoán kịp thời chính xác. Căn bệnh này là một trong những nguyên nhân thúc đẩy nhanh sự sụp đổ của trùm phát xít. Nghiên cứu trên được trình bày tại hội nghị Trao đổi học thuật quốc tế về bệnh Parkinson năm 2000. Theo đó, Hitler mắc bệnh Parkinson từ năm 1934, triệu chứng lúc đó là chân tay run rẩy và cử động chậm chạp. Cho rằng có thể dùng thuốc để che giấu được bệnh trạng, Hitler đã cùng một số trợ thủ thân tín tìm cách bịt kín việc này. Tuy vậy, căn bệnh ngày một phát triển nặng hơn. Đến năm 1945, bệnh của Hitler đã bước vào thời kỳ cuối với các triệu chứng: tư duy trì trệ, phản ứng chậm chạp, khó ngủ.... Mỗi khi bị kích động, bệnh càng nặng hơn. Lúc này, thuốc uống hầu như không còn tác dụng. Hitler không còn đủ sức xử lý những tình huống phức tạp, và rất ít khi công khai xuất hiện. Bệnh Parkinson Đây là một loại bệnh hệ thống thần kinh mạn tính, thường thấy ở lớp người trung niên và già. Nguyên nhân gây bệnh đến nay vẫn chưa được làm rõ. Theo nhiều nghiên cứu, bệnh có thể liên quan tới tình trạng trúng độc, viêm não, xơ cứng động mạch, chấn thương... hoặc có yếu tố di truyền. Biểu hiện chủ yếu của Parkinson là: Chân tay rung động một cách không tự chủ, cơ bắp bị cứng hóa, hành động chậm chạp... Những trạng thái trên có thể tồn tại đơn độc hoặc đồng thời xuất hiện. Vào thời kỳ cuối, thân thể người bệnh hoàn toàn cứng nhắc. Họ không đứng dậy nổi, sức khỏe ngày một suy giảm. Tác dụng của thuốc đối với phần lớn người mắc bệnh ở thời kỳ cuối là rất hạn chế, kể cả trường hợp tăng liều. Khi dùng thuốc lâu dài, người bệnh thường gặp những tác dụng phụ nghiêm trọng. Do mắc bệnh này nên ở thời kỳ cuối, Hitler đã thua nhiều trận và phải tự sát vì tuyệt vọng. Sức Khỏe & Đời Sống (theo tạp chí Y học đại chúng - TQ) Lần đầu: 22/08/2008 Cập nhật 15/10/2009
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2011 3:03:07 GMT 9
Charles Robert DarwinVietsciences- Phạm Văn Tuấn Kỷ niệm 200 năm thuyết tiến hóa của Darwin Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Charles Robert Darwin (12/02/1809 — 19/04/ 1882) và 150 năm Tác Phẩm On the Origin of Species (Nguồn Gốc của các Chủng Loại) 1809 là năm chào đời của các danh nhân trên thế giới như Abraham Lincoln, vĩ nhân giải phóng nô lệ, Charles Darwin, nhà sinh vật học lừng danh, William Gladstone, Thủ Tướng của nước Anh, Felix Mendelssohn, nhạc sĩ tài hoa, các thi nhân như Edgar Allen Poe, Elizabeth Bannett Browning, Alfred Tennyson. Trong số các danh nhân kể trên và trong số hàng triệu người ra đời trong thể kỷ 19, ngoại trừ Karl Marx, Charles Darwin đã làm thay đổi các khuynh hướng tư tưởng của Nhân Loại, tạo nên một hướng nhìn mới. Cuốn sách “Về Nguồn Gốc của các Chủng Loại do Cách Chọn Lựa Tự Nhiên” (On the Origin of Species by Means of Natural Selection) của Charles Darwin đã là một khúc quanh của nền Khoa Học mới, tạo nên một lý thuyết gây chấn động cho tới thời gian gần đây, ảnh hưởng sâu đậm không chỉ vào phạm vi suy nghĩ khoa học mà còn tới các địa hạt Triết Học, Tôn Giáo và các ngành tư tưởng khác. Ngày nay, các nguyên tắc căn bản của lý thuyết Darwin hầu như được toàn thế giới khoa học chấp nhận nhưng khởi đầu, lý thuyết này đã gây nên sóng gió trong gần một thế kỷ. Khởi đầu vào năm 1860 là vụ tranh luận tại thành phố Oxford, với rất nhiều cuộc tranh cãi khác rồi tới năm 1925 là “vụ kiện con khỉ” (Monkey trial) tại tiểu bang Tennessee, Hoa Kỳ, và các tranh luận chỉ nguôi dần qua thời gian. 1/ Vụ kiện “Con Khỉ”. Vào năm 1925, tiểu bang Tennessee của Hoa Kỳ thông qua Đạo Luật Butler (the Butler Act) cấm đoán việc giảng dạy Thuyết Tiến Hóa tại các trường học trong tiểu bang. Các chống đối đã diễn ra và một vụ kiện được đưa ra trước Công Lý. Bị lôi ra trước Tòa là ông John T. Scopes, 24 tuổi, giáo sư Khoa Học và ông bầu của đội banh bầu dục. Ông Scopes thú nhận rằng mình đã vi phạm luật do giảng dạy lý thuyết của Charles Darwin. Vì vậy vào tháng 7 năm đó đã xẩy ra “vụ kiện Scopes con khỉ” (Scopes Monkey Trial) mà các nhà sử học về Luật Pháp coi đây là vụ án của thế kỷ. Vụ án này là tiêu đề lớn nhất trên toàn quốc Hoa Kỳ, đã chế ngự mọi loại thông tin, các báo chí, các hệ thống truyền thanh, đã làm sáng tỏ các lý lẽ liên quan tới Hiến Pháp Hoa Kỳ, tương tự như vấn đề ngăn cách Nhà Thờ và Quốc Gia (separation of church and state), như nền tự do học vấn (academic freedom) cũng như việc diễn đạt Tu Chính Án Thứ Nhất (the First Amendment). Nhưng chính các nhân vật trong vụ tranh cãi đã khiến cho vụ án trở nên một màn kịch. Luật sư bên bị là ông Clarence Darrow, đã đối đầu với một nhân vật đã từng ba lần làm ứng viên Tổng Thống và cũng là một tín đồ Thiên Chúa Giáo thuần thành, đây cũng là nhà hùng biện danh tiếng William Jennings Bryan. Sau khi quan tòa ngăn cản việc đưa ra nhân chứng là các chuyên gia khoa học, luật sư Darrow đã kêu gọi công tố viên Bryan đứng làm chuyên gia về Thánh Kinh. Trong sức nóng bức của tháng 7, ông Darrow không ngừng đặt các câu hỏi về Thánh Kinh khiến cho cuối cùng ông Bryan phải thú nhận rằng “sự sáng tạo ra con người có thể cần tới hàng triệu năm” mà không phải chỉ trong 6 ngày, theo như Sách Sáng Thế (Genesis). Như vậy nhiều người đã tin rằng luật sư bên bị đã thắng vẻ vang về lý thuyết Tiến Hóa. Chiến thuật của bên bị là đặt vấn đề bất hợp hiến của Đạo Luật Butler, còn bên nguyên truy tố ông Scopes đã vi phạm luật. Cuối cùng bồi thẩm đoàn kết luận rằng ông Scopes “phạm tội” (guilty), đây chính là điều bên bị mong muốn! Bản án “phạm tội” này được chống án lên Tòa trên, là nơi sẽ tiêu hủy Đạo Luật Butler chống Thuyết Tiến Hóa. Tuy nhiên việc chống án chỉ được xét xử vào năm 1967 trong khi các hội đồng giáo dục của vài tiểu bang Hoa Kỳ đã bỏ thăm không đề cập tới Thuyết Tiến Hóa trong các câu hỏi thi trắc nghiệm khi mà việc giảng dạy lý thuyết này còn trong vòng tranh cãi. 2/ Thời kỳ đi học và đi khảo sát của Charles Darwin. Charles Darwin 7 tuổi, một năm trước ngày mẹ mất Charles Robert Darwin là cháu của hai người ông danh tiếng và giàu có sống trong thời đại Victoria của nước Anh. Ông nội Eramus Darwin là một vị thầy thuốc và nhà tư tưởng phóng khoáng, còn ông ngoại Josiah Wedgwood là nhà sáng lập lò gốm Wedgwood và cũng là một nhân vật hàng đầu trong cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ tại nước Anh. Cha của Charles Darwin là ông Robert Darwin, một bác sĩ tài giỏi còn mẹ là bà Susannah Wedgwood. Charles Darwin chào đời vào ngày 12 tháng 2 năm 1809 trong gia đình có người anh Eramus lớn hơn 4 tuổi. Gia đình này sống trong một tòa nhà lớn bên ngoài thị xã Shrewsbury. Khi còn nhỏ tuổi, Darwin không tỏ lộ một hứa hẹn nào rằng sau này sẽ trở nên một nhà khoa học lừng danh trên thế giới. Tuy xuất thân từ một gia đình gồm các học giả và nhà chuyên môn nhưng Darwin không phải là một học sinh xuất sắc. Tại trường tiểu học, cậu Charles chán nản trước tiếng La Tinh và chương trình giáo dục cổ điển kém uyển chuyển. Cậu bị vị hiệu trưởng trách mắng vì đã phí thời giờ vào các thí nghiệm hóa học hay vào công việc thu thập các côn trùng, các mẫu đá. Theo bước chân của cha, Charles được gửi tới trường Đại Học Edinburg vào tuổi 16 để theo học Y Khoa. Sau hai năm học tại trường này, cậu nhất định rằng ngành Y không thích hợp nên được chuyển sang Đại Học Cambridge để sau này phục vụ cho Nhà Thờ Anh Cát Giáo. Charles Darwin đã coi ba năm dài tại trường đại học sau này là phí phạm thời gian nhưng dù thế, Darwin đã hưởng lợi to lớn nhờ quen biết hai vị thầy nhiều ảnh hưởng, đó là ông John Stevens Henslow, giáo sư môn Thực Vật, và ông Adam Sedgwick, giáo sư môn Địa Chất. Nhờ hai vị thầy này chỉ dẫn, Darwin đã trải qua nhiều thời giờ trong các cuộc du khảo, thu lượm các loại côn trùng và thực tập cách quan sát thiên nhiên. Tầu H.M.S. Beagle Nhờ sự giới thiệu của Giáo Sư Sedgwick, Darwin được đề nghị đảm nhận chức vụ nhà tự nhiên học (naturalist) trên con tầu hải quân Beagle đi thực hiện một chuyến khảo sát kỹ càng miền nam bán cầu. Tầu H.M.S. Beagle là một con tầu nhỏ, dài 90 ft, rộng 24 ft nên căn phòng dành cho Darwin rất chật hẹp. Nhiều năm về sau khi nhìn lại cuộc hành trình này, Darwin đã coi đây là “một biến cố quan trọng nhất trong đời của tôi”. Trong 5 năm trường từ 1831 tới 1836, con tầu biển Beagle đã ghé vào hầu như tất cả các lục địa và các hòn đảo chính khi nó chạy vòng quanh trái đất. Darwin đã phục vụ bằng các công việc của nhà địa chất, nhà thực vật, nhà động vật và một nhà khoa học tổng quát, đây là một chuẩn bị đầy đủ dành cho cuộc đời khảo cứu và viết sách của ông sau này. Tại mỗi nơi đi qua, Darwin đều thu lượm thật nhiều cây cỏ và thú vật, các vật hóa thạch và các sinh vật, các hình thức sống trên mặt đất hay dưới biển. Ông đã nghiên cứu bằng con mắt của một nhà tự nhiên học các hệ thực vật và hệ động vật (the flora and fauna) của nhiều miền đất và miền biển, tìm kiếm thật nhiều mẫu vật trên các cánh đồng hoang của xứ Argentina, trên sườn núi khô cằn của rặng núi Andes, nơi các hồ muối hay các sa mạc của xứ Chile và Australia, trong rừng rậm của xứ Brazil, Tierra del Fuego và Tahiti, trên hòn đảo Cape Verde trơ trụi. Các nơi khảo sát của Darwin còn là các cấu tạo địa chất của bờ biển và miền núi Nam Mỹ, các ngọn núi lửa đang hoạt động hay đã tắt trên các hòn đảo hay đất liền, các đảo san hô, các hóa thạch của động vật có vú nơi miền Patagonia, các dấu vết suy tàn của con người tại Peru và cả các thổ dân của miền Tierra del Fuego và Patagonia. Nhưng qua tất cả các miền đã từng thăm viếng và khảo cứu, không nơi nào gây ấn tượng mạnh tới Darwin hơn quần đảo Galapagos, nằm cách bờ biển Nam Mỹ 500 dặm về phía tây. Trên hòn đảo cô liêu, không người cư ngụ này, chỉ gồm các ngọn núi lửa trơ trụi, Charles Darwin đã nhìn thấy các con rùa khổng lồ, các con thằn lằn thực to lớn chưa từng thấy trên thế giới, các con cua và sư tử biển quá cỡ. Ông cũng đặc biệt nhận thấy rằng các con chim tại nơi đây tương tự như thứ chim trên các hòn đảo bên cạnh nhưng không giống hệt. Ngoài ra đã có sự thay đổi trong các loại chim khác nhau từ hòn đảo này sang hòn đảo khác. Hiện tượng lạ lùng của các sinh vật trên quần đảo Galapagos cộng với các sự kiện chắc chắn đã được ghi nhận trước kia tại miền Nam Mỹ đã tăng cường các ý tưởng về tiến hóa bắt đầu hình thành trong đầu óc của Darwin. Ông Darwin đã ghi trong sổ tay như sau: “tôi đặc biệt ngạc nhiên thứ nhất vì các hóa thạch của động vật có vẩy như loại armadillo hiện có, thứ hai vì cách thức các động vật liên hệ gần đã thay thế nhau trên lục địa khi đi dần về phía nam và thứ ba, các sinh vật đổi thay khác nhau đôi chút trên các hòn đảo Galapagos dù cho các đảo này không rất cổ theo ý nghĩa địa chất”. Charles Darwin đã không hiểu ngay ý nghĩa của sự thay đổi hình thức bên ngoài của các sinh vật, ông đã ghi chép tất cả nhận xét để sau này nghiên cứu khi trở về nước Anh. Ông không chấp nhận các giáo điều trong Sách Sáng Thế (Genesis) theo đó mọi chủng loại đã được tạo nêncùng một lúc và không thay đổi qua thời gian. Sau khi trở về nước Anh, Charles Darwin cho xuất bản vào năm 1839 cuốn “Tạp Chí Khảo Cứu Địa Chất và Khoa Học Tự Nhiên của các Quốc Gia khác nhau do chuyến đi trên con tầu Beagle” (Journal of Researches into the Geology and Natural History of the Various Countries Visited by H.M.S. Beagle) và ông bắt đầu suy nghĩ về lý thuyết của sự tiến hóa hữu cơ (organic evolution) theo đó các chủng loại thay đổi không chỉ từ nơi này sang nơi khác mà còn qua các thời đại địa chất, ông muốn khám phá ra lý do của các thay đổi và đồng thời, Darwin viết cuốn sách “Nguồn Gốc của các Chủng Loại” (The Origin of Species). Bản phác thảo đầu tiên gồm 35 trang viết vào năm 1842, qua năm 1844 đã được nới rộng thành 230 trang. Từ đầu, bài toán bí ẩn là làm sao cắt nghĩa đời sống hữu cơ (organic life) đã bắt đầu phát triển kể từ thời khởi đầu của trái đất, cắt nghĩa sự xuất hiện và biến đi của các loài vật. Tại sao các loài vật đã sinh ra, bị thay đổi qua thời gian, phân chia thành các ngành khác nhau và thường khi biến mất hoàn toàn? 3/ Lập gia đình và nghiên cứu Khoa Học. Vào ngày 19/1/1839, Charles Darwin kết hôn với cô em họ gần tên là Emma Wedgwood. Cặp vợ chồng này cư ngụ tại Bloomsbury trong một căn nhà chứa nhiều mẫu vật giống như một viện bảo tàng rồi 3 năm sau, họ dọn qua làng Downe thuộc hạt Kent, một miền quê hẻo lánh. Ông bà Darwin đã có 10 người con, 2 đứa trẻ đã bị chết yểu, một người con gái tên là Annie được yêu thương nhất đã qua đời năm lên 10 tuổi, còn lại 7 người con khác đều có cơ thể yếu đuối. Trong 20 năm trường, Charles Darwin đã biên soạn cuốn sách “Nguồn Gốc” kể trên, cụ thể hóa các lý thuyết của mình. Ông đã đọc vô số tài liệu: tạp chí, sách du lịch, sách thể thao, sách dạy trồng hoa, sách dạy nuôi súc vật và sách lịch sử tự nhiên. Ông đã nói chuyện với nhiều nhà gây giống cây và thú vật, đã gửi câu hỏi tới nhiều người hiểu biết. Ông sưu tầm các bộ xương của các con vật đã được thuần hóa, so sánh chúng với xương của các con vật hoang dã. Ông đã khảo cứu các trái cây và hạt giống nổi và di chuyển trên mặt nước biển. Ông đã dùng các dữ kiện thu lượm được trong cuộc hành trình trên con tầu biển Beagle để giải đáp nhiều bài toán liên quan tới thực vật học, động vật học, địa chất học, cổ sinh vật học... Charles Darwin đã dùng cách chọn lựa nhân tạo (artificial selection) của các con vật và cây cối thuần hóa: chó, mèo, ngựa, lúa mì, lúa mạch, các loại hoa vườn... mà con người đã lai tạo để có được thứ giống vật có lợi cho nhu cầu. Như vậy nhiều chủng loại mới đã được phát triển do chọn lựa. Ông đã lý luận rằng nếu sự tiến hóa được thực hiện do cách chọn lựa nhân tạo thì thiên nhiên cũng có thể hoạt động theo cùng một phương thức do cách chọn lựa tự nhiên (natural selection)? Tuy nhiên, trong hoàn cảnh thiên nhiên, đã xẩy ra cuộc tranh đấu để sống còn. Ông đã quan sát thấy một số lớn chủng loại đã bị chết đi, chỉ một phần nhỏ sống sót. Vài loại động vật là thức ăn của các loại động vật khác. Sự tranh đấu tiếp tục không ngừng và cuộc cạnh tranh dữ dội đã diệt đi chủng loại nào không thích hợp với sự sống còn. Các thay đổi về chủng loại đã xẩy ra để đáp ứng các điều kiện cần thiết vì sự sống còn (survival). 4/ Lý thuyết Tiến Hóa ra đời. Chìa khóa của lời bí ẩn đối với Darwin do đọc cuốn sách “Khảo Luận về Dân Số” (Essay on Population) của Thomas Robert Malthus. Malthus đã cho biết sự việc cung cấp thực phẩm đã kiểm soát mức độ gia tăng dân số và số tăng thêm của con người trên trái đất bị chặn lại vì các hạn chế tích cực như tai nạn, bệnh tật, chiến tranh và nạn đói kém. Như vậy các yếu tố tương tự có thể áp dụng vào các sinh vật và thực vật. Darwin đã viết: “Từ sự quan sát lâu dài các thói quen của sinh vật và thực vật, tôi nhận ra rằng trong các hoàn cảnh sống, các chủng loại thích nghi thường được duy trì và các chủng loại không biết thích nghi sẽ bị tiêu diệt. Kết quả của sự kiện này là các chủng loại mới được sinh ra”. Như vậy đã ra đời Chủ Thuyết Darwin danh tiếng về “chọn lựa tự nhiên” (natural selection), “tranh đấu để sống còn” (struggle for existence) hay “sự sống còn của kẻ thích hợp nhất” (survival of the fittest), và đây là nền móng của cuốn sách “Nguồn Gốc của các Chủng Loại”. Charles Darwin đã cố gắng thiết lập các chứng cớ rất đồ sộ khiến cho ông không vội phổ biến công trình nghiên cứu cho tới thập niên 1850 bởi vì bà vợ Emma của ông là một người rất sùng đạo Thiên Chúa, bà đã khiến chồng thường xuyên phải đóng góp cho nhà thờ, giúp đỡ các kẻ nghèo khó và biểu lộ tấm lòng mộ đạo. Nhưng rồi do sự thúc giục của các bạn thân, Darwin chuẩn bị một tác phẩm nhiều tập. Công trình được nửa chừng thì một tiếng sấm lớn vọng tới. Charles Darwin nhận được một bức thư từ Alfred Russel Wallace, một nhà khoa học thâm niên, hiện đang thám hiểm về sinh học tại quần đảo Mã Lai. Wallace cho biết rằng ông ta đang suy nghĩ về nguồn gốc của các loài vật và giống như Darwin, cũng bị ảnh hưởng khi đọc tác phẩm của Malthus. Bức thư của ông Wallace có đi kèm với một khảo sát có tên là “Khảo luận về chiều hướng biến đổi vĩnh viễn xuất phát từ loài gốc” (Essay on the Tendency of Varieties to Depart Indefinitely from the Original Type). Đây cũng chính là lời minh xác của Darwin. Charles Darwin hiện đang ở trong tình trạng khó xử. Rõ ràng là cả hai nhân vật này do nghiên cứu độc lập với nhau, đã đi tới cùng các câu kết luận giống nhau, trong khi Darwin đã bỏ ra nhiều năm suy nghĩ và tìm kiếm, còn ý tưởng của Wallace được dẫn tới do trực giác. Nhiều nhà khoa học có cảm tình với Darwin muốn ông được ghi công do các nghiên cứu lâu dài đã qua, nên đã xếp đặt một buổi công bố các công trình của hai nhà khoa học tự nhiên. Darwin và Wallace được mời trình bày các tìm kiếm của mình trước Hội Khoa Học Linnaean (the Linnaean Society) và văn bản đầu tiên về Lý Thuyết Tiến Hóa (the theory of evolution) được phổ biến vào buổi chiều ngày 01 tháng 7 năm 1858. Sau đó cả hai bài khảo sát được đăng trên Tạp Chí của Hội Khoa Học Linnaean. Do sự việc tìm kiếm của ông Wallace, Charles Darwin ngưng việc soạn thảo một tác phẩm thật lớn mà viết một khảo cứu tóm lược. Vào cuối năm 1859, tác phẩm của Charles Darwin đã trở nên một cái mốc của Lịch Sử Khoa Học và được ông John Murray xuất bản tại thành phố London. Ấn bản đầu tiên gồm 1,200 cuốn đã bán hết trong vài ngày đầu. Các ấn bản khác chỉ bán tại nước Anh đã lên tới 24,000 cuốn và đã được dịch sang hầu hết các ngôn ngữ chính. Bản gốc của tác phẩm của Charles Darwin có tên là: “Về Nguồn Gốc của các Chủng Loại do Cách Chọn Lựa Tự Nhiên” (On the Origin of Species by Means of Natural Selection), hay “Sự Duy Trì các Dòng Giống thích ứng trong cuộc Tranh Đấu vì Lẽ Sống” (The Preservation of Favoured Races in the Struggle for Life). Nhan đề dài của cuốn sách đã được rút gọn thành: “Nguồn Gốc của các Chủng Loại” (Origin of Species). Các căn bản của lý thuyết của Darwin đã được thảo luận trong 4 chương đầu của tác phẩm “Nguồn Gốc”. Các chương sau đề cập tới ngành địa chất học, việc phân phối thực vật và sinh vật, các sự kiện thích hợp với sự phân loại, hình thái học và phôi thai học, và cuối cùng dẫn tới phần kết luận. Tác phẩm “Nguồn Gốc của các Chủng Loại” từ phần đầu đã mô tả các thay đổi nơi thú vật và cây cỏ do con người kiểm soát, các biến đổi do “chọn lựa nhân tạo” so với các thay đổi trong thiên nhiên hay “chọn lựa tự nhiên” và chủ thuyết Darwin đã kết luận rằng mỗi khi có đời sống, đều có đổi thay và không có hai cá nhân nào hoàn toàn giống nhau. Trong sự biến đổi, còn có sự tranh đấu để sinh tồn và tốc độ gia tăng theo cấp số nhân. Tác phẩm “Nguồn Gốc” còn cho thấy nguyên tắc “chọn lựa tự nhiên” đã hoạt động để kiểm soát độ gia tăng của số lượng sinh vật. Một số cá nhân trong một chủng loại sẽ có sức mạnh hơn, chạy nhanh hơn, thông minh hơn, ít bị bệnh tật hơn, có khả năng chịu đựng các khắc nghiệt về thời tiết. Các cá nhân này sẽ sống còn và các sinh vật yếu đuối hơn sẽ suy tàn. Loại thỏ trắng trường tồn trên miền bắc cực còn loại thỏ nâu sẽ bị loại chồn, sói ăn thịt. Các con hươu cao cổ nhờ cổ dài, sẽ sống còn do ăn các lá trên ngọn cây trong khi loại hươu cổ ngắn bị chết đói. Như vậy các hoàn cảnh thay đổi đã chi phối sự sống còn của các sinh vật có khả năng nhất. Charles Darwin cũng đề cập tới sự chọn lựa truyền giống (sexual selection) với các con đực thích nghi được nhiều nhất trong môi trường sống, sẽ để lại nhiều hậu duệ nhất. Khí hậu cũng là một yếu tố quan trọng. Các sinh vật chịu đựng nổi sức nóng và độ lạnh, lại có khả năng kiếm ăn, sẽ trường tồn. Tất cả các hình thức phức tạp của cuộc sống phải theo đúng với các định luật tự nhiên và tác phẩm “Nguồn Gốc” đã trình bày cuộc tiến hóa không ngừng. 5/ Tranh cãi về Thuyết Tiến Hóa. Trái ngược với điều mà mọi người hằng tin tưởng, Charles Darwin không phải là nhân vật đầu tiên tìm ra lý thuyết Tiến Hóa. Các nhà khoa học xuất sắc như Buffon, Goethe, Eramus Darwin (ông nội của Charles Darwin), Lamarck và Herbert Spencer đã ủng hộ lý thuyết này. Nhưng công trình đóng góp của Charles Darwin là ông đã thu lượm đầy đủ các dữ kiện để chứng minh sự tiến hóa và ông cũng đi xa hơn trong lý thuyết chọn lựa tự nhiên do cách cắt nghĩa phương pháp tiến hóa. Tác phẩm “Nguồn Gốc các Chủng Loại” đã xuất hiện như một tia chớp đánh vào vựa rơm. Nếu lý thuyết mới và mang tính cách mạng này có giá trị, thì câu chuyện trong Thánh Kinh về Chúa tạo ra con người sẽ không còn được chấp nhận. Giáo Hội Thiên Chúa vì thế đã coi luận đề của Charles Darwin là nguy hiểm cho tôn giáo, nên đã gây ra một trận bão tố phản đối. Dù cho Charles Darwin đã cẩn thận tránh né việc áp dụng lý thuyết của ông vào nhân loại nhưng lời buộc tội đã coi tác giả cho rằng con người bắt nguồn từ con khỉ. Nhiều lời diễu cợt đã được dùng làm cách bác bỏ lý thuyết của Charles Darwin. Tạp chí Quarterly Review đã gọi Darwin là một con người nông nổi, làm ô danh Khoa Học. Ông Darwin còn bị tố cáo là đã thu thập nhiều dự kiện để cụ thể hóa một “nguyên tắc sai”. Tại ngôi trường cũ, Đại Học Trinity ở Cambridge, ông William Whewell đã không cho phép một ấn bản nào của tác phẩm “Nguồn Gốc” được đặt trong thư viện của nhà trường. Trong số các nhân vật bảo thủ chống đối, có ông Robert Owen, nhà xã hội và kỹ nghệ tại nước Anh và ông Louis Agassiz, nhà động vật học và địa chất học người Hoa Kỳ, cả hai đều cho rằng lý thuyết của Charles Darwin là một tà thuyết khoa học, chẳng bao lâu sẽ bị quên lãng. Nhà thiên văn lừng danh người Anh Sir John Herschel đã mô tả lý thuyết này là “một định luật bừa bãi”. Vị giáo sư địa chất cũ của Darwin là ông Sedgwick, đã coi chủ thuyết Darwin là sai nhầm nặng nề. Tuy nhiên Charles Darwin đã không thiếu người bênh vực đầy can đảm. Đứng hàng đầu trong số nhân vật này là Sir Charles Lyell, nhà địa chất, Thomas Huxley, nhà sinh học, Sir Joseph Hooker, nhà thực vật học và Asa Gray, nhà thực vật học danh tiếng của Hoa Kỳ. Trong số các vị uy tín này, Darwin nhờ tới ông Huxley nhiều nhất. Darwin đã không xuất hiện trước công chúng để bênh vực lý thuyết của mình. Phần lớn sự bảo vệ là do khả năng của ông Huxley và đấu trường là buổi họp của Hội Anh Quốc (the British Association) tại thành phố Oxford vào năm 1860 với chủ đề là Chủ Thuyết Darwin (Darwinism). Đứng đầu phe đả phá là Tổng Giám Mục Wilberforce của miền Oxford. Trong bài diễn văn kết luận, vị Tổng Giám Mục này tin rằng có thể đè bẹp lý thuyết Darwin nên đã hướng về ông Huxley và hỏi một cách châm biếm: “Tôi hỏi Giáo Sư Huxley, liệu có phải phía ông nội hay bà nội của ngài có nguồn gốc từ loài khỉ phải không?”. Ông Huxley quay sang một người bạn và nói nhỏ: “Chúa đã giao ông ta vào tay tôi rồi!”. Ông Huxley bèn đứng lên và phát biểu: “Một người không có lý do gì phải xấu hổ khi có một con khỉ là ông nội. Nếu tôi xấu hổ chỉ vì có một ông tổ trí thức gặp một câu hỏi không biết rõ, làm mờ tối câu hỏi này vì lời hùng biện không chủ đích, làm lãng trí các người nghe bằng các lời lẽ lạc đề lại khéo léo dùng tới thành kiến tôn giáo”. Trên đây chỉ là một vụ trong các đụng độ diễn ra trong nhiều thập niên giữa Nhà Thờ và Khoa Học về chủ thuyết Darwin. Qua tác phẩm “Nguồn Gốc”, Charles Darwin đã đề cập một cách nhẹ nhàng về nguồn gốc của con người nhưng về sau, qua cuốn sách “Dòng dõi của Con Người” (The Descent of Man), một khối lượng lớn dữ kiện của Darwin đã chứng minh rằng con người cũng là sản phẩm của định luật Tiến Hóa, từ các hình thức thấp kém hơn. Định luật Tiến Hóa của Charles Darwin dần dần được coi là chính xác, đã ảnh hưởng tới rất nhiều phạm vi học thuật chính. Chủ thuyết Tiến Hóa Hữu Cơ (the organic evolution) đã được chấp nhận bởi các nhà sinh học, địa chất, hóa học, vật lý, nhân chủng, tâm lý, giáo dục, triết học, xã hội học và ngay cả các nhà sử học, khoa học chính trị, ngữ văn (philologists). Charles Darwin đã làm cách mạng không chỉ đối với bộ môn Sinh Học, mà còn ảnh hưởng sâu rộng tới các phạm vi Khoa Học khác, từ Thiên Văn tới Lịch Sử, từ môn Cổ Sinh Vật tới Tâm Lý Học, từ ngành Phôi Thai Học tới Tôn Giáo. Vì vậy ông Charles Ellwood đã tuyên bố rằng Charles Darwin xứng đáng với hàng danh dự cao nhất dành cho Nhà Tư Tưởng đã mang lại các kết quả sâu rộng nhất trong Thế Kỷ 19. Qua thế kỷ 20, Chủ Thuyết Darwin với ý tưởng chọn lựa tự nhiên, đã bị chế độ Đức Quốc Xã dùng vào việc tuyên truyền và tiêu diệt một số dân tộc thiểu số. Các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia đã được biện hộ một cách sai lạc rằng đây là một phương tiện để diệt trừ các kẻ yếu, và về sau khi tranh giành quyền lực, các người Cộng Sản Mác Xít cũng áp dụng lý thuyết tranh đấu để sống còn vào chủ trương “đấu tranh giai cấp” của họ. Charles Darwin qua đời vào ngày 19/4/1882 vì bệnh tim. Tin buồn này được nhiều tờ báo đăng tải bởi vì vào thời kỳ này, lý thuyết của ông đã được nhiều người công nhận. Nhật báo London Standard đã viết rằng: “Các tín đồ Thiên Chúa Giáo chân chính có thể chấp nhận các sự kiện của Luật Tiến Hóa giống như họ đã làm đối với ngành Thiên Văn và ngành Địa Chất, không vì các thành kiến do các niềm tin lâu đời và được ưa thích”. Charles Darwin mong muốn được an táng trong ngôi làng Downe, hạt Kent, nhưng giới Khoa Học của nước Anh đã đặt di cốt của ông tại Tu Viện Westminster danh tiếng, bên cạnh ngôi mộ nhà khoa học khác lừng danh trên Thế Giới
|
|