|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 10:59:34 GMT 9
Chương 4 / Đảo Chánh ngày 19 tháng 2 năm 1965 - bốn - Đảo Chánh ngày 19 tháng 2 năm 1965 ***** Sáng sớm chủ nhật, 19 tháng 2 năm 1965, tiếng súng nổ ở hướng Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, hướng căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất, và hướng Bộ Tổng Tư Lệnh. Tôi lái xe xuống Biệt Khu Thủ Đô vì gần nhà. Đường Lê văn Duyệt từ Chợ Ông Tạ đến "trại Lê Văn Duyệt" (tức Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô) phải hơn nửa tiếng đồng hồ vì kẹt xe. Đến cổng trại, tôi gặp ngay Thiếu Tá Lưu Ngọc Kỉnh -bạn tôi từ năm 1955- đang là Tiểu Đoàn Trưởng thuộc Sư Đoàn 25 Bộ Binh, có nhiệm vụ chiếm giữ Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô:
“Chào anh Kỉnh. Ông nào lãnh đạo vậy anh?
“Anh Hoa, lâu quá mới gặp. Thiếu Tướng Phát (Lâm Văn Phát) lãnh đạo đó”.
“Bây giờ Thiếu Tướng đi với cánh quân nào anh biết không?
“Thiếu Tướng lên hướng căn cứ Không Quân và tôi đoán là ổng đang ở trên đó”.
“Tôi nghe có tiếng súng bên hướng Bộ Tổng Tư Lệnh. Vậy bên đó có lực lượng nào không anh?
“Có. Trung Tá Thao với 2 Tiểu Đoàn chiếm giữ bên đó. Nè, anh nói giùm với Trung Tá Thao là tôi đến đây rồi mà chưa có lệnh gì thêm, với lại không có tiếp tế thực phẩm cho anh em. Anh nói Trung Tá Thao liên lạc với tôi và đem tiếp tế đến đây giùm nghe”.
“Sao anh không gọi máy nói chuyện với ảnh?
“Lệnh im lặng vô tuyến chưa giải toả nên không dùng máy. Thôi, anh đi giùm đi”.
“Được rồi. Tôi sang Bộ Tổng Tư Lệnh ngay. Chào anh”.
Chiếc Jeep phải lách mãi mới quay lại được đường Thoại Ngọc Hầu và chạy sang Bộ Tổng Tư Lệnh. Tại cổng số 1, Quân Cảnh Bộ Tổng Tư Lệnh kiểm soát chặt chẻ người lẫn và xe ra vào cổng. Bên trong, hầu hết là quân nhân mang phù hiệu Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Trước cửa văn phòng Tổng Hành Dinh/Bộ Tổng Tư Lệnh, tôi gặp Trung Tá Lê Hoàng Thao.
Đầu năm 1962, anh là Thiếu Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Vỉnh Bình trong thời gian Đại Tá Trần Thiện Khiêm, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Hậu Giang bao gồm 8 tỉnh bờ nam sông Tiền, kể cả tỉnh Vỉnh Bình. Lúc ấy tôi là Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, kiêm điều hành văn phòng Ấp Chiến Lược của Khu Chiến Thuật Hậu Giang. Do công tác này mà tôi tiếp xúc thường xuyên với quí vị Tỉnh Trưởng đang trắc nghiệm Ấp Chiến Lược, từ đó chúng tôi quen nhau.
“Anh Thao. Hôm nay trông anh oai quá”.
“Oai cái gì. Mệt quá trời đây nè”.
“Anh Kỉnh cần liên lạc với anh và xin anh lo tiếp tế cho Tiểu Đoàn của ảnh bên Biệt Khu Thủ Đô đó”.
“Giờ này làm sao tôi lo được, bên đó phải tự túc chớ. Được rồi, tôi sẽ gọi ảnh”.
“Thiếu Tướng Phát ở đâu anh Thao?
“Bên căn cứ Không Quân. Ổng bắt được ông Khánh rồi (ý nói Trung Tướng Nguyễn Khánh). Tôi cho anh biết là có ông Thảo bên Mỹ về làm vụ này đó nghe. Xong là "sếp" về ngay”."Sếp" mà Trung Tá Thao vừa nói có nghĩa là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đang là Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ. Còn ông Thảo, tức Trung Tá Phạm Ngọc Thảo. Trước kia ông Thảo bên hàng ngũ cộng sản về "hồi chánh" thời Tổng Thống Diệm. Với mức độ tin cậy nào đó, Tổng Thống Diệm đồng hóa cấp Đại Úy cho ông và cử ông giữ chức Tỉnh Trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre), một địa phương mà đa số đồng bào có thân nhân hoạt động trong hàng ngũ cộng sản. Do thành tích triệt hạ nhiều hạ tầng cơ sở cộng sản tại đây nên được tiến cấp Thiếu Tá, sau đó lại lên Trung Tá (cấp đồng hóa khi được thăng cấp gọi là "tiến cấp"), và do đề nghị của Trung Tá Thảo mà Thiếu Tá Thao được Tổng Thống cử giữ chức Tỉnh Trưởng tỉnh Vỉnh Bình.
Trung Tá Thảo có vẻ như được lòng của Đại Tá Khiêm, có thể vì ông được Tổng Thống Diệm nâng đỡ, cũng có thể do thành tích của Trung Tá Thảo tại Kiến Hòa, hoặc cả hai kết hợp lại. Nhưng có điều tôi không rõ là Đại Tá Khiêm có cảm tình với Trung Tá Thảo là thật lòng hay vì yếu tố chính trị? Bởi, theo tôi, Đại Tá Khiêm là người ít nói nhưng không phải là kém thận trọng, vì dù sao đi nữa thì những gì Trung Tá Phạm Ngọc Thảo đạt được trong thời gian qua, vẫn chưa đủ sức bôi xóa được nguồn gốc quá khứ của ông, để tạo cho ông chỗ đứng vững chắc trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Trung Tá Thảo đang làm việc trong tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ. Do những điều tôi biết về Đại Tướng Khiêm đến trước ngày ông lưu vong (7/10/1964) thì tôi không tin Đại Tướng Khiêm phái Trung Tá Thảo về đây tổ chức đảo chánh. Nhưng có thể là nhận thức của tôi sai lầm, vì biết đâu quan điểm chính trị của Đại Tướng Khiêm từ ngày lưu vong đến nay -dù chưa đầy 5 tháng- đã thay đổi? Dù sao thì Trung Tá Phạm Ngọc Thảo -theo lời Trung Tá Thao- cũng đang có mặt trong cuộc đảo chánh này vẫn làm tôi thắc mắc. Đến đây tôi xin mở ngoặc để thuật lại câu chuyện liên quan giữa tôi với cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trong cuộc điện đàm tối 21/10/2003. Sau khi ông hỏi tôi những chi tiết trong cuộc đảo chánh này, tôi liền hỏi lại ông: (trong câu chuyện, cựu Đại Tướng Khiêm xưng là anh Tư và ông gọi tôi là chú, tôi thì xưng em)
“Thưa anh Tư, em xin hỏi anh Tư trong vụ Thiếu Tướng Phát đảo chánh ngày 19/02/1965, theo lời Trung Tá Lê Hoàng Thao nói với em là có Trung Tá Phạm Ngọc Thảo từ tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ về tham gia, dự trù khi thành công thì anh Tư về cầm quyền. Điều đó có đúng không anh Tư?
“Trời ơi! Bây giờ chú hỏi Anh mới biết là tại sao lúc đó mấy anh nhà báo của Mỹ nhất là tờ Washington Post theo phỏng vấn Anh.
“Họ hỏi Anh biết gì về cuộc đảo chánh đó? Anh trả lời là Anh không biết gì hết, và đang chờ tin tức từ Việt Nam. Còn cái vụ ông Thảo về Việt Nam là do ông Khánh (Trung Tướng Nguyễn Khánh) gởi công điện gọi ông Thảo về gấp đó. Anh có nghe nói khi ông Thảo về tới phi trường Tân Sơn Nhất, được người nào đó cho biết là ông Khánh đã phái người chận bắt ông Thảo đem đi giết, nên người đó giúp ông Thảo chạy trốn luôn. Về sau, bị nhóm nào đó bắt được và giết chết”.
“Vậy thì lời của Trung Tá Lê Hoàng Thao đã không đúng”.
Và cựu Đại Tướng Khiêm hỏi lại tôi:
“Chú có biết là tại sao ông Phát (Thiếu Tướng Phát) đảo chánh ông Khánh (Trung Tướng Khánh) bị thất bại, mà ông Khánh lại lưu vong hông? Ông Phát thua thì phải rồi, còn ông Khánh tại sao thua? Hồi ông Khánh qua ở đây với Anh (Đại Tướng Khánh có đến nhà Đại Tướng Khiêm khi ông Khiêm giữ chức Đại Sứ tại Hoa Kỳ), Anh có hỏi ổng: “Tại sao ông Phát thua mà Anh cũng thua nữa? Ông Khánh cười cười mà không trả lời.
“Điều này em không biết rõ, chỉ biết rằng Hội Đồng Quân Đội lúc ấy có Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, và còn nữa nhưng người kể lại cho em nghe thì không nhớ hết, các vị quyết định Thiếu Tướng Phát phải lui quân. Và các vị lại họp tiếp và quyết định trục xuất Trung Tướng Khánh ra khỏi Hội Đồng Quân Đội, cách chức Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và buộc lưu vong”.
“Anh có gặp Thiếu Tướng Phát khi ổng qua Mỹ này, Anh hỏi ổng tại sao ổng đảo chánh hồi năm 1965. Ông Phát trả lời thật ngắn là “Mỹ xúi”. Anh thấy chuyện đời mà buồn! Chú có biết là Anh (tức cựu Đại Tướng Khiêm), ông Khánh, ông Đức (Dương Văn), và ông Phát, bốn đứa Anh cùng học một khoá không? Vậy mà khi lên Tướng lại quay mặt đánh nhau! Chú có thấy chính trị nó làm mất tình cảm giữa anh em bè bạn với nhau không!
“Thưa anh Tư, em còn nhớ vào chiều ngày 06/10/1964, khi chuẩn bị lưu vong, anh Tư gọi em đến nhà, anh đích thân đem bánh rót nước trà mời em. Anh Tư có nói rằng: “Tôi nói với chú cũng như mấy chú trong văn phòng, nếu như còn thương tôi thì đừng bao giờ làm chính trị, vì chính trị đôi khi dẫn người ta đến chỗ không còn giữ lại cho mình tình cảm với người thân, với bạn bè bằng hữu”. Mà theo em nghĩ, chính trị tự nó không có gì là xấu cả, chỉ tại người làm chính trị thôi anh Tư”.
Đến đây thì cựu Đại Tướng Khiêm bận việc gì gấp nên chấm dứt vội vàng. Một lúc sau ông gọi lại cho biết là có việc nên không tiếp tục được. Xin đóng ngoặc.
Trước khi trở lại câu chuyện giữa tôi với Trung Tá Lê Hoàng Thao, tôi xin nói thêm về sự kiện Trung Tá Phạm Ngọc Thảo bị bắt và bị giết. Ngày 18/01/2004, đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại do ông Hồng Phúc phỏng vấn tôi về cuộc Chỉnh Lý ngày 30/01/1964, nhưng ở phần đầu người xướng ngôn có đọc bức thư của ông Bùi Dzũng từ Paris (con trai của cựu Đại Tá Bùi Dzinh). Theo đó thì khoảng tháng 07 năm 1965, Trung Tá Phạm Ngọc Thảo bị bắt và bị giết chết sau đó. Theo một vị đã trả lời trong cuộc phỏng vấn cũng của đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại, nguyên nhân là do bà Bùi Dzinh thường tới lui thăm nuôi chồng nên bị lộ tung tích. Lúc ấy cựu Đại Tá Bùi Dzinh, cựu Đại Tá Đỗ Văn Diễn, và Trung Tá Phạm Ngọc Thảo, cùng trốn chung trong một ngôi nhà vùng ngoại ô Biên Hòa. Ông Dzũng cho biết, thật ra người đến thăm thường xuyên là bà Đỗ Văn Diễn nên bị lộ tung tích chớ không phải bà Bùi Dzinh, tức mẹ của ông Dzũng. Cuối cùng, ông Dzũng yêu cầu đài phát thanh đính chánh để mẹ ông được yên nghỉ trong lòng đất. (So với ấn bản lần 3, xin đính chánh theo yêu cầu của ông Bùi Dzũng, ông không phải là bác sĩ. Đa tạ) Bây giờ xin tiếp tục câu chuyện. Tôi hỏi Trung Tá Lê Hoàng Thao: “Anh có chắc là Trung Tướng Khánh bị bắt rồi không? “Chắc chắn mà. Nói thiệt anh nghe, nếu không xong thì 2 trái lựu đạn này đủ giải quyết rồi anh”. Trung Tá Thao vừa nói vừa đưa 2 tay nắm vào 2 trái lựu đạn móc ở giây thắt lưng. Mặc dù anh Thao quả quyết việc Thiếu Tướng Lâm Văn Phát đã bắt được Trung Tướng Nguyễn Khánh nhưng tôi chưa dám tin, vì bắt Trung Tướng Khánh không phải dễ dàng đâu, bởi ông có toán an ninh cận vệ xứng đáng với sự tin cậy của ông. Tôi lên xe với ý định xuống nhà Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Đổng lý Văn Phòng Bộ Tổng Tư Lệnh. Vừa ra cổng Bộ Tổng Tư Lệnh, trông thấy xe của bác sĩ Trung Úy Nguyễn Đức Thành (em ruột của Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng. Cấp bậc lúc ấy), bác sĩ riêng của Trung Tướng Khánh, từ hướng phi trường xuống, tôi ngoắc lại:
“Anh Thành. Anh có biết Trung Tướng ở đâu không?
“Trung Tướng lên phi cơ đi rồi Thiếu Tá”.
“Chắc không anh, vì tôi nghe ông Trung Đoàn Trưởng đang chiếm giữ Bộ Tổng Tư Lệnh nói là Trung Tướng bị bắt rồi?
“Chắc chắn vì tôi đưa đi mà. Lúc phi cơ cất cánh có 2 chiếc Thiết Giáp chạy ra đường băng cản lại nhưng không kịp”.
“Trung Tướng đi đâu anh biết không?
“Tôi không rõ lắm, nhưng có thể là bay xuống Sư Đoàn 21 Bộ Binh (Bạc Liêu)”.
“Bây giờ tôi xuống nhà Thiếu Tướng Vỹ, anh có đi với tôi không?
“Tôi bận chút việc, nếu tiện thì tôi đến sau”.
“Vâng. Chào anh”.Vào nhà Thiếu Tướng Vỹ, hai ông bà rất thản nhiên chừng như không có việc gì xảy ra hết trơn.
“Lâu quá mới gặp anh. Anh chị mạnh khỏe chớ? Bà Vỹ thật vui khi nói với tôi như vậy.
“Cám ơn chị, tụi tôi vẫn thường thôi”.
“Hôm nay anh ở đây dùng cơm với vợ chồng tôi à nghe. Đây này, anh điện thoại về cho chị đi”. Vừa nói chị vừa đưa ống nói điện thoại cho tôi.
“Rất cám ơn chị và xin lỗi chị, chúng tôi có thân nhân từ Vĩnh Long lên thăm, nên chốc nữa phải quay về dùng cơm trưa chị à”.
Tôi vào chuyện nóng bỏng luôn:
“Thưa Thiếu Tướng, chắc Thiếu Tướng biết tin Trung Tướng Khánh đã xuống miền Tây rồi?
“Có. Tôi có biết”.
Lúc ấy tôi nghĩ mãi không ra là do đâu mà Thiếu Tướng Vỹ biết nhanh như vậy. Tôi thuật lại những gì tôi với bác sĩ Thành nói chuyện với nhau cho ông bà Vỹ nghe, sau đó tôi chào ông bà và trở lại Bộ Tổng Tư Lệnh, tìm gặp Trung Tá Thao:
“Anh Thao, Trung Tướng Khánh đã rời Sài Gòn bằng phi cơ lúc sáng, điều đó là xác thực. Tôi nghĩ là anh nên trình với Thiếu Tướng Phát mà cẩn thận, vì Trung Tướng Khánh nhiều thủ đoạn lắm, tôi e là không ổn đâu nghe”.
“Thiếu Tướng Phát nói với tôi là bắt ông Khánh rồi mà”.
“Tôi không nói Thiếu Tướng Phát nói không đúng, nhưng anh nên nghe tôi vì tin tôi nhận được là chính xác. Tùy anh”.
Tôi vào văn phòng và chờ xem nội vụ mà tôi tin là thất bại. Buổi trưa hôm ấy, các vị Tướng Lãnh họp trong căn cứ Không Quân để tìm biện pháp giải quyết. Các vị nhiệt tình nhất là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, và Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi. Kết quả buộc Thiếu Tướng Lâm Văn Phát phải rút quân.
Tôi nghĩ, Trung Tướng Khánh chắc là rất bằng lòng khi biết quyết định này, vì Hội Đồng Quân Đội thu hẹp dù không có ông nhưng đã giải quyết đúng theo ý ông. Nhưng, các vị Tướng lại họp nữa, và kết quả sau cùng là "trục xuất" Trung Tướng Khánh ra khỏi Hội Đồng Quân Đội, đồng thời buộc ông phải lưu vong. Xin nói thêm rằng, sau cuộc Chỉnh Lý ngày 30 tháng 1 năm 1964, Thiếu Tướng Thi với Thiếu Tướng Kỳ là hai vị Tướng Lãnh ủng hộ Trung Tướng Khánh mạnh mẽ nhất, vì cả 3 vị này có cùng quan điểm là phải đánh ra Bắc mới giải quyết tận gốc chiến tranh. Mở cuộc chiến tranh vào lãnh thổ cộng sản miền Bắc là một quyết định chiến lược ngoài tầm tay và cả tầm vói của những vị lãnh đạo của chúng ta cho dù các vị đang nắm quyền lãnh đạo. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa chúng ta được Hoa Kỳ cung cấp trang bị cho một khả năng phòng thủ, mà chỉ là phòng thủ diện địa chớ không có khả năng chống không quân của địch nữa. Với hoàn cảnh "trói tay" như vậy, quan niệm đánh ra Bắc chỉ là một chiến lược không tưởng, dù rằng quan niệm này không phải là quá sớm. Nhưng dù sao thì những vị Tướng của chúng ta có một quan niệm chiến lược như vậy cũng là điều đáng mừng, vì bộc lộ một trách nhiệm cao độ trong chiến tranh gìn giữ quê hương. Khi biết mình bị loại ra khỏi Hội Đồng Quân Đội, Trung Tướng Khánh gọi về văn phòng:
“Anh Hoa, anh tìm xem ông Đại Sứ Mỹ ở điện thoại nào và trình tôi ngay”. “Trung Tướng đang ở đâu vậy?
“Vũng Tàu”.
“Vâng. Tôi thi hành”. Sau khi tìm mãi không được, tôi điện thoại trình Thiếu Tướng Vỹ thì ông cho biết là Trung Tướng Khánh vừa liên lạc với ông Đại Sứ Mỹ rồi. Và theo Thiếu Tướng Vỹ biết thì ông Đại Sứ cho rằng, người Mỹ không can thiệp vào vấn đề chính trị nội bộ của Việt Nam Cộng Hòa. Điều này được hiểu là Trung Tướng Khánh không còn lối nào để thoát. Vậy là con đường lưu vong mà Trung Tướng Khánh thiết lập cho Đại Tướng Khiêm "khánh thành", kế đó là Trung Tướng Dương Văn Minh trong chức "đại sứ lưu động", và bây giờ chính ông là người lữ hành đơn độc trên con đường mà chính ông chỉ muốn dành riêng cho những vị Tướng mà ông xem như “kẻ thù”. Tôi nghĩ, Trung Tướng Khánh không ngờ rằng, tên ông cũng có trong danh sách những vị một thời là “nạn nhân quyền lực” của chính ông! Xin mở ngoặc để ghi lại lời thuật của anh Võ Văn Nghi, vào một tối cuối tháng 11 năm 2003 tại thành phố Houston. Anh là bạn tôi, và anh đồng ý cho tôi bổ túc vào ấn bản lần 4 này. Anh Võ Văn Nghi, tốt nghiệp khóa 10 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt năm 1954. Cấp bậc sau cùng (năm 1975) là Thiếu Tá, binh chủng Truyền Tin. Năm 1964, anh là Đại Úy Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn Truyền Tin/Bộ Tổng Tư Lệnh. Anh được cử vào chức vụ Sĩ Quan Truyền Tin/Phủ Thủ Tướng, với nhiệm vụ chính là cung cấp mọi dịch vụ liên lạc vô tuyến khi tháp tùng theo Trung Tướng Nguyễn Khánh. Cùng trong toán Truyền Tin lưu động với anh còn có Đại Úy Lê Văn Hòa. Anh Nghi với anh Hòa, luân phiên nhau trực đi theo Trung Tướng Khánh. Ngoài Đại Úy Nghi hoặc Đại Úy Hòa tùy phiên trực, trong toán Truyền Tin lưu động này còn có một Trung Sĩ và một Hạ Sĩ chuyên viên sử dụng máy WM2. Giải thích của Phạm Bá Hoa: Ngày 1/11/1964, Trung Tướng Khánh đã tấn phong chánh phủ Trần Văn Hương, sau đó là chánh phủ Phan Huy Quát. Như vậy, Trung Tướng Khánh không còn ngồi trong Phủ Thủ Tướng nữa, nhưng theo lời anh Nghi thì Trung Tướng Khánh vẫn sử dụng bộ phận Truyền Tin của Phủ Thủ Tướng, vì cơ quan này có trang bị máy vô tuyến WM2, loại máy liên lạc được với tất cả các cơ quan hành chánh cũng như tất cả các đơn vị quân đội trên toàn quốc. Do vậy mà anh Nghi thuộc đơn vị Truyền Tin/Phủ Thủ Tướng. Điều này cũng được hiểu là khi bàn giao chức vụ Thủ Tướng, Trung Tướng Khánh vẫn giữ nguyên toán truyền tin đặc biệt và lưu động này theo ông, như là toán biệt phái đặc biệt. Hết phần giải thích. Ngày 19 tháng 2 năm 1965, khi lực lượng Sư Đoàn 25 Bộ Binh do Thiếu Tướng Lâm Văn Phát điều động xâm nhập tiến chiếm một số cơ quan trọng yếu trong thủ đô Sài Gòn, thì anh Nghi đang bận việc ngoài phố dù là anh đang trong phiên trực, vì vậy mà anh không kịp đi theo Trung Tướng Khánh khi ông dùng phi cơ C47 dành riêng cho ông để thoát khỏi Sài Gòn. Sau đó, toán Truyền Tin của anh bên cạnh Trung Tướng Khánh báo tin cho anh hay, lúc ấy Trung Tướng Khánh đã đến Vũng Tàu. Và đây là lời của cựu Thiếu Tá Võ Văn Nghi: ''Nghe nhân viên báo tin, tôi vội dùng xe Jeep với bảng số dân sự chạy ra Vũng Tàu. Đến nơi, thì phi cơ cất cánh đi nữa rồi nhưng chưa rõ đi đâu. Tôi quay về Sài Gòn. May quá, được tin từ toán Truyền Tin lưu động cho biết là Trung Tướng Khánh sẽ đến Biên Hòa họp với các vị Tướng Lãnh ở đó. Tôi chạy lên Biên Hòa, lúc ấy Trung Tướng Khánh chưa đến. Thiếu Tướng Kỳ trông thấy tôi, ổng nói: “Giờ này mà anh còn đi theo ông Khánh làm gì nữa”. Ngưng một lúc để moi thêm trí nhớ, anh Nghi nói tiếp: “Trung Tướng Khánh đến. Vào phòng họp, nhưng tôi không được vô. Một lúc sau, anh cận vệ bước ra nói với tôi là Thiếu Tướng Kỳ (Nguyễn Cao Kỳ) với Thiếu Tướng Thi (Nguyễn Chánh Thi) muốn Trung Tướng Khánh từ chức liền, nhưng Trung Tướng Khánh không đồng ý vì ông cho rằng, vụ chiếc tàu của cộng sản chở vũ khí đạn dược xâm nhập Việt Nam Cộng Hòa bị đánh chìm tại Rũng Rô (tỉnh Khánh Hòa, ngày 16/2/1965), đang là vấn đề quan trọng cần phải nghiên cứu để có biện pháp thích ứng với tình hình. Sau đó, Trung Tướng Khánh ra sân bay. Lên phi cơ. Tôi đi theo. Trung Tướng Khánh ra lệnh Đại Úy Đoàn, trưởng phi hành đoàn, bay ra Vũng Tàu (giải thích của Phạm Bá Hoa: từ đây, Trung Tướng Khánh gọi về văn phòng bảo tôi tìm ông Đại Sứ Hoa Kỳ cho ông liên lạc như tôi đã thuật ở trên). Anh Nghi thuật tiếp: “Khoảng giữa đêm, Trung Tướng Khánh ra lệnh tất cả lên phi cơ, cất cánh ra Nha Trang. Trước khi đáp xuống Nha Trang, ổng bảo tôi gọi cho ổng nói chuyện với ông Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh (dường như là Thiếu Tướng Lữ Lan). Tôi liên lạc được, nhưng khi trao ống nói cho Trung Tướng Khánh thì đầu máy bên kia không nói nữa. Lúc ấy phi cơ đáp phi trường Nha Trang. Trung Tướng Khánh và tùy tùng xuống phi cơ thì bị một toán Không Quân võ trang bao vây. Trung Tướng Khánh chưa có phản ứng gì thì Thượng Sĩ Ngàn trong phi hành đoàn, dõng dạc nói với toán Không Quân rằng: “Đây là chuyện của những vị Tướng Lãnh, mấy chú không được hành động gì với Trung Tướng (Khánh) cả”. Thế là toán Không Quân giải tán. Thật sự thì tôi không biết Thượng Sĩ Ngàn là người như thế nào trong Không Quân mà lời nói của ổng được toán quân nhân võ trang này nghe theo, nếu không thì tôi cũng chưa biết việc gì xảy ra nữa”. Ngưng một lúc, anh Nghi thuật tiếp: “Trung Tướng Khánh bảo tôi liên lạc với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ để ổng nói chuyện. Tôi liên lạc được với Thiếu Tướng Kỳ và xin ổng chờ nói chuyện với Trung Tướng Khánh, nhưng khi tôi trao ống nói cho Trung Tướng Khánh thì Thiếu Tướng Kỳ không nói nữa. Giống như trường hợp liên lạc với Thiếu Tướng Lữ Lan (?). Như vậy có lẽ là trung ương đã thông báo cho các đại đơn vị rồi, ít ra cũng là Sư Đoàn 25 Bộ Binh tại Quảng Ngãi (giải thích của Phạm Bá Hoa: lúc thành lập, Sư Đoàn 25 Bộ Binh đồn trú tại Quảng Ngãi, về sau di chuyển vào Củ Chi, Hậu Nghĩa). Khoảng 2 giờ sáng (ngày 20/2/1965), Trung Tướng Khánh ra lệnh mọi người lên phi cơ và cất cánh lên Đà Lạt. Căn cứ Không Quân Nha Trang không cho phi cơ cất cánh, nhưng Trung Tướng Khánh bảo cứ cất cánh, và phi cơ rời khỏi đường băng an toàn. Đại Úy Đoàn, trưởng phi cơ báo cáo có hai chiếc khu trục AD6 đã cất cánh từ Sài Gòn ra, có thể là họ đuổi theo chiếc phi cơ này. Trung Tướng Khánh bảo tắt đèn và bay thấp, đổi hướng đi Hong Kong. Nhưng vài phút sau đó, Trung Tướng Khánh bảo quay lại và bay lên Đà Lạt, đừng đáp Liên Khàng mà đáp sân bay Cam Ly (giải thích của Phạm Bá Hoa: Cam Ly là phi trường nhỏ, sát ngoại ô thành phố Đà Lạt). Phi cơ bay không đèn, sân bay cũng không đèn, cũng may là trời có trăng nên đáp an toàn. Tôi gọi mấy anh trong biệt điện đem xe dodge ra đón một cách lặng lẽ. Trung Tướng Khánh cho Đại Úy Đoàn 20.000 đồng như để khen thưởng anh điều khiễn phi cơ đáp an toàn trong đêm tối, rồi ông bảo mọi người nghỉ ngơi. Tôi hỏi anh Nghi: “Theo anh thì liệu có giới chức nào ở Đà Lạt biết Trung Tướng Khánh đến đây không? “Tôi chắc là không ai biết đâu. Khoảng 10 giờ 30 trưa, anh Truyền Tin gọi tôi dậy vì Trung Tướng Khánh bảo tôi vào phòng gặp ông gấp, và ông ra lệnh: Anh (Đại Úy Võ Văn Nghi) thảo công điện gởi về Sài Gòn và phổ biến ngay, nói là tôi đồng ý thoái vị. Đồng thời yêu cầu các đơn vị đảo chánh hãy trở về vị trí”. Tôi xin anh dừng lại để nêu câu hỏi cho rõ: “Anh có nhớ rõ là Trung Tướng Khánh nói thoái vị hay nói từ chức? Anh Nghi lặp lại: “Trung Tướng Khánh nói thoái vị. Lúc ấy tôi thấy khó quá, vì đây là bản văn rất quan trọng mà ổng bảo tôi viết rồi gởi luôn. Tôi trình Trung Tướng Khánh: “Xin Trung Tướng viết và tôi chuyển ngay”. “Anh viết là được rồi”. Lời của Trung Tướng Khánh. “Dạ, tôi viết rồi trình Trung Tướng ký”. “Không cần. Viết xong anh chuyển đi ngay”. “Viết xong tôi gọi về Truyền Tin Phủ Thủ Tướng và đọc “bạch văn” luôn. Tôi yêu cầu phổ biến ngay trên các đài phát thanh. Sau đó thì Trung Tướng Khánh trở về Sài Gòn. Ông có yêu cầu Bộ Tổng Tư Lệnh phải để cho các quân nhân phục vụ trực tiếp cạnh ông lâu nay, được chọn đơn vị phục vụ. Và tôi trở về chức vụ Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn Truyền Tin/Tổng Tư Lệnh”. Đến đây là hết phần tường thuật của cựu Thiếu Tá Võ Văn Nghi. Xin đóng ngoặc và trở lại với Hội Đồng Quân Đội. Lời yêu cầu sau cùng của Trung Tướng Khánh là xin Hội Đồng Quân Đội cử ông giữ chức Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Tây Ban Nha, Hội Đồng Quân Đội không đồng ý. Nhưng theo lời trình của Hội Đồng Quân Đội, Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu ký Sắc Lệnh thăng cấp Đại Tướng cho Trung Tướng Nguyễn Khánh. Phải chăng đây là hành động của Hội Đồng Quân Đội an ủi Đại Tướng Nguyễn Khánh lên đường lưu vong? Dường như Đại Tướng Khánh “suy bụng ta ra bụng người” khi ông xin chức Đại Sứ, vì biện pháp mà ông loại trừ Đại Tướng Trần Thiện Khiêm với Trung Tướng Dương Văn Minh là ông cử đi làm “Đại Sứ lưu động” là xong. Một chức vụ tưởng như thưởng nhưng thật ra là phạt. Chức "Đại Sứ lưu động" là một chức vụ nghe rất lớn vì không phải chỉ làm Đại Sứ tại một quốc gia mà là nhiều quốc gia, chỉ tội một điều là không có tòa đại sứ, không xe không nhà, cũng không tùy tùng hay cận vệ, bởi chức vụ này chỉ dành cho những vị Tướng sa cơ thất thế! Cũng vì vậy mà báo chí thường nửa đùa nửa thật khi ví von câu: "được làm vua, thua làm đại sứ". Trong nửa năm qua (1964) sự thật là như vậy, nhưng sự thật này đã hạ thấp vai trò và trách nhiệm của những vị Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa trên chính trường quốc tế, và làm đau lòng những ai hằng quan tâm đến Quốc Gia Dân Tộc! Ngày 25/02/1965, Đại Tướng Nguyễn Khánh rời Việt Nam tự đi làm "đại sứ lưu động" ở đâu đó. Trước khi lên phi cơ, Đại Tướng Khánh thể hiện “lòng yêu nước thương dân” của ông bằng cách hốt nắm đất cho vào cái túi nhỏ mà ông gọi là "nắm đất quê hương" để mang theo trên đường "nhậm chức đại sứ". Đến đây xem như xong màn bi hài kịch của một nghệ sĩ trình diễn. Nhưng khổ nỗi, nếu như nghệ sĩ tồi thì chỉ những khán giả thiệt hại về tiền bạc, về công sức, về thời gian, còn trường hợp Đại Tướng Khánh trong 4 chức vụ lãnh đạo cao nhất với những quyền uy tột đỉnh của đất nước Việt Nam: Quốc Trưởng + Thủ Tướng + Tổng Trưởng Quốc Phòng + Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ông đã gây tổn hại tinh thần, tổn hại nền nếp kỹ cương của quân đội, tổn hại uy tín quốc gia trên chính trường quốc tế, kể cả kẻ thù từ quốc gia phía bắc vĩ tuyến 17! Theo tôi, giá mà Đại Tướng Nguyễn Khánh giữ những chức vụ lãnh đạo quân đội, điều binh khiễn tướng ở chiến trường thì thích hợp với ông hơn là nắm giữ chức vụ lãnh đạo quốc gia. Thật ra, Đại Tướng Khánh có phong cách và cái uy của vị Tướng xông pha trận mạc. Trong cách nhìn nào đó sau khi để qua một bên về khía cạnh chính trị và những gì thuộc về riêng tư, Đại Tướng Nguyễn Khánh, Đại Tướng Cao Văn Viên, và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí, mỗi vị có cách riêng của mình trong nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh, và cả ba vị đều là Tướng Lãnh rất xứng hợp trong vai trò lãnh đạo và chỉ huy quân đội trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Tiếc thay, chỉ hơn một năm cầm đủ thứ quyền trong tay, Đại Tướng Khánh đã làm rối loạn nền nếp sinh hoạt chính trị lẫn kỷ cương quân đội. Phải công nhận Đại Tướng Khánh làm được nhiều việc, nhưng cái cốt lõi của vai trò lãnh đạo là đem lại sự đoàn kết mọi thành phần trong xã hội thành một khối để toàn dân một lòng gìn giữ quê hương, thì kết quả ngược lại. Liệu chúng ta có nên qui một phần trách nhiệm tinh thần cho Đại Tướng Trần Thiện Khiêm khi đưa Đại Tướng Nguyễn Khánh từ Tư Lệnh Quân Đoàn I lên đến chức vụ lãnh đạo quốc gia hay không, cho dẫu sự tiếp tay đó là vô tình đã tạo môi trường và cơ hội cho Đại Tướng Khánh thực hiện tham vọng chính trị? Nhưng nghĩ cho cùng, Đại Tướng Khiêm đã bị Đại Tướng Khánh bạc đãi đến mức hận thù rồi, không nên đè nặng lên tinh thần ông thêm nữa. Xin nói thêm là cuối năm 1965, tôi nhận được bức thư dài 8 trang viết tay của Bà Trần Thiện Khiêm, 8 trang nhưng không có nghĩa là bức thư dài vì chữ viết của Bà rất to rất dễ đọc. Có đoạn Bà cho biết, dù đối xử không tốt với gia đình Bà, nhưng Đại Tướng Khánh cùng với Trung Tướng Đỗ Cao Trí, (đã tử nạn trực thăng trong cuộc hành quân vượt biên năm 1970) đã đến Washington D.C. sống trong gia đình Bà hằng tháng trời dù Bà không mời, khi Bà viết câu: "khách không mời mà cứ đến cứ ở". Đến đây tôi xin mở ngoặc để thuật lại câu chuyện liên quan mà tôi đã trao đổi với cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trong cuộc điện đàm tối 21 tháng 10 năm 2003. Sau khi ông hỏi tôi những chi tiết trong cuộc đảo chánh này, tôi liền hỏi lại ông: (trong câu chuyện, cựu Đại Tướng Khiêm xưng là anh Tư và ông gọi tôi là chú, tôi thì xưng em)
“Thưa anh Tư, em xin hỏi anh Tư trong vụ Thiếu Tướng Phát đảo chánh ngày 19 tháng 2 năm 1965, theo lời Trung Tá Lê Hoàng Thao nói với em là có Trung Tá Phạm Ngọc Thảo từ tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ về tham gia, dự trù khi thành công thì anh Tư về cầm quyền. Điều đó có đúng không anh Tư?
“Trời ơi! Bây giờ chú hỏi Anh mới biết là tại sao lúc đó mấy anh nhà báo Mỹ nhất là tờ Washington Post theo phỏng vấn Anh. “Họ hỏi Anh biết gì về cuộc đảo chánh đó?” Anh trả lời là Anh không biết gì hết, và đang chờ tin tức từ Việt Nam. Còn cái vụ ông Thảo về Việt Nam là do ông Khánh (Trung Tướng Nguyễn Khánh) gởi công điện gọi ông Thảo về gấp đó. Anh có nghe nói là khi ông Thảo về tới phi trường Tân Sơn Nhất, được người nào đó cho biết là ông Khánh đã phái người chận bắt ông Thảo đem đi giết, nên người đó giúp ông Thảo chạy trốn luôn. Về sau, bị nhóm nào đó bắt được và giết chết”.
“Vậy thì anh Lê Hoàng Thao đã không đúng”.
Xin đóng ngoặc, trở lại Bộ Tổng Tư Lệnh. Hội Đồng Quân Đội cử Trung Tướng Trần Văn Minh giữ chức Quyền Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. (Trung Tướng Minh nói ở đây không phải Trung Tướng Trần văn Minh sau này là Tư Lệnh Không Quân). Chức vụ đứng đầu quân đội hơn 600 ngàn quân, một lần nữa không có ai bàn giao cho người nhận chức. Không quốc kỳ, không quân kỳ, không vị nào chủ tọa, cũng không sĩ quan nào tham dự, chỉ mỗi Trung Tướng Minh và vài sĩ quan thân cận vào nhận việc một cách lặng lẽ! Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà "xuống giá" đến mức thảm thương như vậy đó! Thảm thương đến mức không bằng buổi bàn giao chức vụ Trung Đội Trưởng bộ binh khi tôi tốt nghiệp Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức nữa, vì dù sao cũng có Trung Úy Đại Đội Trưởng của tôi -Trung Úy Nguyễn Văn Thảo- chủ tọa giao nhận đàng hoàng, có bắt tay chúc mừng thân mật, và cùng nâng chén nước trà bên bụi chuối tại khu vực hành quân trong vùng hẻo lánh thuộc Quận Tam Bình tỉnh Vĩnh Long vào thượng tuần tháng 2 năm 1955. Đây là lần thứ tư thay đổi chức vụ đứng đầu quân đội mà không có bàn giao. Lần thứ nhất ngay sau ngày lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm thành công, Trung Tướng Trần Văn Đôn nhận chức ngày 2 tháng 11 năm 1963, lúc ấy Đại Tướng Lê Văn Tỵ nằm quân y viện. Lần thứ nhì, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm nhận chức ngày 30 tháng 1 năm 1964, lúc ấy Trung Tướng Trần Văn Đôn đã bị bắt. Lần thứ ba, Trung Tướng Nguyễn Khánh nhận chức ngày 7 tháng 10 năm 1964, lúc bấy giờ Đại Tướng Trần Thiện Khiêm vừa rời Việt Nam lưu vong. Trung Tướng Minh không thay đổi tổ chức cũng như nhân viên văn phòng, ngoại trừ Đổng Lý Văn Phòng và Bí Thư của ông. Rất có thể vì chức vụ của ông có chữ "Quyền" đứng trước có nghĩa là "tạm thời", nên ông không thay đổi gì cả, và ông cũng không hề thăm bất cứ một đơn vị nào, thậm chí ngay cả các Phòng của Bộ Tổng Tư Lệnh cũng không được ông ghé mắt vào nữa. Nhưng tại văn phòng, Trung Tướng Minh giải quyết công việc tương đối nhanh chóng và dứt khoát. Phải công nhận là ông xử sự với tất cả quân nhân viên chức rất lịch sự. Không bao giờ ông gọi anh này anh kia, mà bao giờ ông cũng dùng tiếng "vous" (tiếng Pháp) bất luận trước mặt ông là anh tùy phái hay vị sĩ quan. Tôi không rõ thời oanh liệt của Trung Tướng Minh ra sao, nhưng trong chức vụ Quyền Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ông không khác vị công chức sắp về hưu bao nhiêu, cứ như "sáng vác ô đi tối vác về" đều đặn như vậy trong mấy tháng ngồi trong phòng rộng lớn chính giữa tầng lầu 2 tòa nhà chánh của trại Trần Hưng Đạo. Bên phải bàn giấy của ông là những cửa kiến nhìn xuống võ đình trường rộng lớn uy nghi, với cột cờ cao vời vợi mà trên đỉnh là lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ tung bay trong gió. Cũng từ đây nhìn bao quát là những dãy nhà 2 tầng với kiến trúc khang trang mang dáng vấp phương Tây, dùng làm các phòng sở cơ quan trực thuộc ẩn hiện dưới những tán cây nhiều bóng mát, tô điểm thêm những nét chấm phá cho bản doanh cơ quan cao nhất của quân đội: "Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa". Một cơ quan có đến 2.000 quân nhân viên chức, trong số có rất nhiều Tướng Lãnh và sĩ quan cao cấp. Chính nơi đây, những vấn đề chiến lược chiến thuật được các phòng sở cơ quan nghiên cứu, soạn thảo, ban hành về tổ chức, trang bị, huấn luyện, nuôi dưỡng, và điều khiễn hành quân chống trả quân cộng sản xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa trong mục tiêu chiến lược bành trướng chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới nói chung, và Việt Nam Cộng Hòa trong bối cảnh một Đông Nam Á cộng sản nói riêng. Nhưng không biết là Trung Tướng Minh có khi nào đứng bên cửa sổ nhìn bao quát khuôn viên trại Trần Hưng Đạo này, để mà thấy rõ trách nhiệm của người có đủ tư cách và quyền uy ngồi vào chiếc ghế Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hay không? Chức vụ Quyền Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa của Trung Tướng Trần Văn Minh, kéo dài đến một ngày tính ra chỉ được gần 4 tháng ….
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 11:33:12 GMT 9
Chương 5 / Quân Đội Lãnh Đạo Quốc Gia ngày 19 tháng 6 năm 1965 - năm-
Quân Đội Lãnh Đạo Quốc Gia ngày 19 tháng 6 năm 1965
***** Từ ngày lên cầm quyền, gần như chẳng mấy khi giữa Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu với Thủ Tướng Phan Huy Quát đồng quan điểm về chính sách quốc gia. Không biết trước kia giữa hai vị có điều gì bất hòa nhau hay không, mà trong giai đoạn hai vị là người lãnh đạo cao nhất nước, đang gánh vác trách nhiệm quản trị quốc gia trong thời chiến, nhưng có vẻ như đang quay lưng vào nhau. Thật là đáng buồn! Bác sĩ Phan Huy Quát nhận chức Thủ Tướng ngày 16/02/1965. Hơn một tuần sau đó, Đại Tướng Nguyễn Khánh rời Việt Nam (25/02/1965) lưu vong. Vào những ngày đầu trung tuần tháng 06 năm 1965, Thủ Tướng Phan Huy Quát gởi đến Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Trưởng Quốc Phòng, một văn thư quay roneo dài 2 trang giấy dầy, khổ 21x33 phân tây, có đóng dấu của Thủ Tướng. Văn thư này có thông báo Trung Tướng Trần Văn Minh, Quyền Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tôi đã đọc nó. Lúc ấy tôi là Thiếu Tá, Trưởng Phòng Quân Sự Vụ/Nha Đổng Lý Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Xin được nhắc lại rằng, sau cuộc Chỉnh Lý ngày 30/01/1964, Trung Tướng Nguyễn Khánh trong chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, hành sử chức năng Quốc Trưởng, đã ban hành Sắc Lệnh vào đầu tháng 4 năm 1964, hệ thống hóa tổ chức quân đội dưới danh xưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, bao gồm: Hải Quân, Lục Quân, Không Quân, và Địa Phương Quân Nghĩa Quân. Trong khi đó, Bộ Tổng Tham Mưu trở thành Bộ Tổng Tư Lệnh, và văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng cũng biến cải lại thành Nha Đổng Lý Bộ Tổng Tư Lệnh gồm: Phòng Quân Sự Vụ mà tôi là Trưởng Phòng. Phòng Dân Sự Vụ do Thiếu Tá Hoàng Ngọc Tiêu -tức nhà thơ Cao Tiêu- Trưởng Phòng. Và Phòng Báo Chí do Thiếu Tá Tâm làm Trưởng Phòng. Với tổ chức và phương thức điều hành của Nha Đổng Lý, hầu như tất cả Văn Thư của các Phòng Sở Bộ Tổng Tư Lệnh đều đến Phòng Quân Sự Vụ để trình vào Trung Tướng Tổng Tư Lệnh. Về tổ chức Nha Đổng Lý, tôi nghĩ rằng, trong quân đội và ngay cả trong phạm vi Bộ Tổng Tư Lệnh, rất ít sĩ quan biết đến, vì đây là một tổ chức rất xa lạ với những sĩ quan tham mưu hiểu biết về tổ chức trong quân đội. Xin trở lại Văn Thư của Thủ Tướng Phan Huy Quát. Nội dung nói lên sự bất đồng quan điểm giữa Thủ Tướng với Quốc Trưởng về vấn đề thay đổi nhân sự cấp Bộ trong chánh phủ. Vấn đề chưa kết thúc, bỗng dưng Quốc Trưởng cho biết là ông từ chức. Như vậy, chánh phủ cũng phải từ chức theo. Sau cùng, Thủ Tướng Quát yêu cầu Hội Đồng Quân Đội, hãy nhân danh quân đội mà nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo quốc gia trong giai đoạn cực kỳ khó khăn hiện nay. Xin nói thêm là ngay sau cuộc Chỉnh Lý, tổ chức đại diện quân đội vẫn sử dụng danh xưng là Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng như trước đó. đến tháng 11 năm 1964 thì tổ chức này cải danh là Hội Đồng Quân Đội. Do văn thư đó, Hội Đồng Quân Đội họp liên tục trong căn cứ Không Quân, và kết quả là Hội Đồng đồng ý nhận lời yêu cầu của Thủ Tướng Phan Huy Quát. Để thực hiện trách nhiệm lãnh đạo quốc gia, Hội Đồng quyết định thành lập một tổ chức với danh xưng “Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia” để lãnh đạo theo nguyên tắc “Ủy Ban quyết định, những thành viên thi hành”. Thành viên Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia trên căn bản theo chức vụ đương nhiệm trong quân đội là 11 vị, gồm: Chủ Tịch. Tổng Thư Ký. Thủ Tướng. Tổng Trưởng Quốc Phòng. Tổng Tham Mưu Trưởng. Tư Lệnh Hải Quân. Tư Lệnh Không Quân. Tư Lệnh Quân Đoàn I, Tư Lệnh Quân Đoàn II, Tư Lệnh Quân Đoàn III, và Tư Lệnh Quân Đoàn IV. Sau cuộc tham khảo bầu chọn, kết quả các chức vụ như sau: (1) Chủ Tịch: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu. (2) Tổng Thư Ký: Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu. (3) Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, tức Thủ Tướng: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Thiếu Tướng Kỳ còn kiêm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Không Quân. (4) Tổng Ủy Viên Chiến Tranh tức Tổng Trưởng Quốc Phòng: Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có. Thiếu Tướng Có còn kiêm nhiệm chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Các thành viên: (5) Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân. (6) Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I. (7) Thiếu Tướng Vĩnh Lộc, Tư Lệnh Quân Đoàn II. (8) Thiếu Tướng Cao Văn Viên, Tư Lệnh Quân Đoàn III. (9) Thiếu Tướng Đặng Văn Quang, Tư lệnh Quân Đoàn IV. Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ gọi nội các của ông là “nội các chiến tranh”. Trong nội các chiến tranh của ông có một Bộ mới thành lập, đó là Bộ Xây Dựng Nông Thôn, và Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng được cử giữ chức Tổng Trưởng. Bộ này đáp ứng nhu cầu bình định nông thôn trong chiến lược tách dân ra khỏi sự kiểm soát của cộng sản. Nhớ lại sau cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, chánh phủ Nguyễn Ngọc Thơ rất lúng túng với chính sách Ấp Chiến Lược thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm để lại. Với chánh phủ của Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ, chính sách Ấp Chiến Lược được phát triển đến mức có một Bộ phụ trách, và Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng được đánh giá là một Tướng Lãnh có khả năng, nhiệt tâm, cương quyết, được xem là trong sạch, lãnh đạo Bộ này (và những Đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn lần lượt ra đời từ kế hoạch của Thiếu Tướng Thắng). Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia theo thành phần nói trên là 11 vị, nhưng vì Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng, và Thủ Tướng Kiêm Tư Lệnh Không Quân, nên thực tế chỉ có 9 vị. Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia chọn ngày 19 tháng 06 năm 1965 ra mắt tân chánh phủ, với danh xưng “Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương”. Đó cũng là ngày đánh dấu Quân Đội nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc gia. Cũng vì vậy mà ngày 19 tháng 6 được Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia chọn làm “Ngày Quân Lực”. Còn “Quốc Khánh” vẫn giữ ngày 1 tháng 11 hằng năm. Sau khi bàn giao chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II xong, Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có điện thoại cho tôi: “Anh Hoa, anh ở lại đó phụ tá cho anh Tài nghe”. “ Vâng. Cám ơn Thiếu Tướng”. “Anh phụ trách về hồ sơ công văn của Bộ Tổng Tham Mưu, anh Tài (Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tài) sẽ là chánh văn phòng và có những công tác đặc biệt. Bây giờ anh chuẩn bị lễ bàn giao giữa Trung Tướng Minh với tôi vào ngày 15 tháng 7 (năm 1965). Anh trình Trung Tướng Minh rồi điện thoại cho tôi biết ngay”. “Tôi nghĩ là Thiếu Tướng nên nói chuyện trực tiếp với Trung Tướng Minh thảo luận nhanh hơn, thưa Thiếu Tướng”. “Anh trình với Trung Tướng Minh là được rồi”.
“Vâng. Tôi trình Trung Tướng Minh và sẽ trình lại Thiếu Tướng sau”. Tôi vào trình cho chánh văn phòng là Trung Tá Trần Văn Quiền (không phải tôi viết sai đâu mà tên của ông là như vậy đó), Trung Tá Quiền bảo tôi vào trình trực tiếp với Trung Tướng Minh. Tôi thi hành:
“Thưa Trung Tướng, Thiếu Tướng Có từ Pleiku điện thoại về bảo tôi trình Trung Tướng là ngày bàn giao chức vụ Tổng Tư Lệnh sẽ tổ chức vào ngày 15 tháng 07 thưa Trung Tướng”.
Xin giải thích. Bộ Tổng Tham Mưu do Trung Tướng Khánh cải danh thành Bộ Tổng Tư Lệnh, khi Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia hình thành thì Ủy Ban quyết định sử dụng lại danh xưng Bộ Tổng Tham Mưu, trong lúc giao thời này Thiếu Tướng Có gọi là Bộ Tổng Tham Mưu nhưng Trung Tướng Minh vẫn gọi Bộ Tổng Tư Lệnh.
“Vous cứ nói với ông Có là ngày nào cũng được. Hôm đó tôi mặc quân phục đại lễ”.
“Vâng. Tôi sẽ trình lại Thiếu Tướng Có như vậy”.
Trung Tướng Trần Văn Minh (không phải là Trung Tướng Trần Văn Minh mà sau này là Tư Lệnh Không Quân, cũng không phải là Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô), thường dùng tiếng chữ “vous” (Pháp ngữ) khi tiếp chuyện hay khi ra lệnh, lời của ông chậm rãi, từ tốn, rõ ràng, chẳng mấy khi tôi thấy ông nổi giận. Tôi điện thoại lên Pleiku:
“Thưa Thiếu Tướng, Trung Tướng Minh đồng ý ngày bàn giao 15 tháng 7, và buổi lễ hôm đó Trung Tướng Minh mặc quân phục đại lễ 4 túi”.
“Không được. Anh trình với Trung Tướng Minh là tôi mặc quân phục tác chiến. Mình đang trong tình trạng chiến tranh mà”.
Tôi vào trình Trung Tá Quiền, ông vẫn bảo tôi vào trình Trung Tướng Minh.
“Thưa Trung Tướng, Thiếu Tướng Có sẽ mặc quân phục tác chiến và Thiếu Tướng Có xin Trung Tướng cũng mặc như vậy”.
“Vous nói với Thiếu Tướng Có mặc gì thì tùy ông ấy. Còn tôi, tôi sẽ mặc 4 túi”.
Trình qua trình lại, cuối cùng thì hai vị mặc quân phục theo ý riêng của mình. Một vị mặc quân phục tác chiến màu xanh lá cây, một vị mặc quân phục đại lễ màu trắng. Phải chăng vì Trung Tướng Minh đang Quyền Tổng Tư Lệnh (chữ “quyền” đồng nghĩa với tạm thời), một chức vụ mà ông thừa biết là Hội Đồng Quân Đội dùng ông để tạm thời trám vào cái khoảng trống đó trong khi tìm người chánh thức, nên ông không chấp nhận ảnh hưởng của vị Tướng nào cả? Cũng có thể vì ông là vị Tướng thâm niên, mà ông không sẵn lòng chịu sự ngang hàng với vị Tướng cấp nhỏ mà lại ít thâm niên, cho dù lời yêu cầu của Thiếu Tướng Có không có gì là kém trang trọng? Rồi những trục trặc trong lễ bàn giao ngày 15/07/1965 tại võ đình trường Bộ Tổng Tư Lệnh do Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, chủ tọa. Theo lễ nghi quân cách, quan trọng nhất là lúc trao quân kỳ Bộ Tổng Tư Lệnh theo tuần tự như sau: Thủ quân kỳ trao cho Trung Tướng Trần Văn Minh. Trung Tướng Minh trao cho Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, biểu tượng cho trách nhiệm và quyền hạn Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chấm dứt từ giờ phút này. Trung Tướng Thiệu, với tư cách Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chủ tọa buổi lễ, sau khi dõng dạc tuyên bố trao trách nhiệm cho Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có từ giờ phút này, là ông trao quân kỳ cho Thiếu Tướng Có, biểu tượng trách nhiệm và quyền hạn của vị Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu từ giờ phút này. Thiếu Tướng Có với quân kỳ trong tay, ông tuyên bố nhận trách nhiệm trước vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao và hứa sẽ hoàn thành trách nhiệm, rồi trao quân kỳ lại “thủ quân kỳ”. Nhưng cái trục trặc rất ư là kỳ cục lại xảy ra, vì Trung Tướng Minh không chịu nhận quân kỳ từ tay của quân nhân “thủ quân kỳ”, cho nên quân nhân “thủ quân kỳ” phải ngập ngừng một lúc rồi bước đến trao thẳng cho Trung Tướng Thiệu. Sự kiện này làm Trung Tướng Thiệu phải mất vài chục giây ngỡ ngàng mới đưa tay nhận. Lại thêm vài chục giây ngỡ ngàng nữa trước khi ông tuyên bố trao quân kỳ cho Thiếu Tướng Có. Rõ ràng là Trung Tướng Minh không tôn trọng lễ nghi quân cách, dù rằng ông là vị Tướng rất thâm niên mà lại xuất thân từ trường sĩ quan của quân đội Pháp. Quốc kỳ biểu tượng một quốc gia, quân kỳ biểu tượng một đơn vị. Trong tất cả quân kỳ thì quân kỳ Bộ Tổng Tư Lệnh là cao nhất vì đó là biểu tượng của một quân đội, nhưng hôm nay -ngày 15 tháng 7 năm 1965- quân kỳ Bộ Tổng Tư Lệnh được bàn giao như vậy đó! Là một quân nhân, tôi cảm nhận một nỗi buồn! Giao nhận xong, Bộ Tổng Tư Lệnh trở lại với danh xưng “Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa”. Giải tán Nha Đổng Lý và tổ chức lại “văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng” như trước. Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tài giữ chức Chánh văn phòng, tôi phụ tá cho anh. Nhận chức xong, ngoài công tác ở bàn giấy và những lần đi thăm các đại đơn vị, Thiếu Tướng Có cho xây tấm vách chắn ngang “cây đòn dông” của Trung Tâm Hành Quân, theo đường thẳng tưởng tượng chỉa thẳng vào giữa văn phòng ông Tổng Tham Mưu Trưởng. Cũng vì “cây đòn dông” này mà khi Trung Tướng Trần Thiện Khiêm nhận chức Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng vào ngày 31 tháng 1 năm 1964, bà Khiêm bảo tôi nhờ người treo cái kính soi mặt thật lớn dóng hướng và treo lên đó, nhằm làm cho “cây đòn dông” nếu kéo dài theo đường thẳng tưởng tượng sẽ đụng vào tấm kiếng mà “không vào” bên trong được. Và việc thứ hai là Thiếu Tướng Có cho dời hai ngôi mộ của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu ra nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, nơi đã dự trù hạ huyệt ngày 5 tháng 11 năm 1963 nhưng đã không thực hiện được. Thiếu Tướng Có cho rằng, “cây đòn dông và hai ngôi mộ” đã là những điều không may cho Bộ Tổng Tham Mưu trong thời gian qua. Đúng hay không thì sau đó mới rõ, nhưng có điều là thêm một vị Tướng mang cả lòng tin về tướng số, tử vi, địa lý vào chức vụ cao nhất của quân đội. Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có kiêm nhiệm chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng đúng 3 tháng. Ngày 15 tháng 10 năm 1965, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu lại chủ tọa buổi lễ Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có bàn giao chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng cho Thiếu Tướng Cao Văn Viên. Xin nhắc lại, Thiếu Tướng Viên sau khi bàn giao chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân, lên Biên Hòa nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn III. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn cùng các đơn vị trực thuộc, di chuyển từ trại Lê Văn Duyệt, Quận 3 Sài Gòn, lên đồn trú ở Biên Hòa sau cuộc Chỉnh Lý ngày 30/01/1964. Nay, Thiếu Tướng Viên trở lại Bộ Tổng Tham Mưu với chức vụ cao hơn trước. Từ sau cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963, chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng đã lần lượt trong tay 6 vị “Nguyên Soái” mà trong đó 4 lần không có bàn giao, 1 lần bàn giao không đúng lễ nghi quân cách. Và ngày 15 tháng 10 năm 1965 là lần bàn giao thứ 6. Lễ bàn giao tuy mức độ trang trọng không đạt đúng chức vụ đứng đầu quân đội, nhưng giao nhận đàng hoàng. Lần thứ nhất, Trung Tướng Trần Văn Đôn nhận chức ngày 02/11/1963 sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ và bị giết chết. Lần thứ hai, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, nhận chức ngày 31/01/1964 sau khi Trung Tướng Trần Văn Đôn bị bắt. Lần thứ ba, Trung Tướng Nguyễn Khánh nhận chức ngày 08/10/1964 sau khi Đại Tướng Trần Thiện Khiêm lưu vong ngày hôm trước (07/10/1964). Lần thứ tư, Trung Tướng Trần Văn Minh, nhận chức ngày 26/02/1965 sau khi Đại Tướng Nguyễn Khánh lưu vong ngày hôm trước (25/02/1965). Lần thứ năm (15/07/1965), Trung Tướng Minh bàn giao cho Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có không đúng lễ nghi quân cách. Và lần thứ sáu là ngày 15/10/1965 này, bàn giao giữa Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có với Thiếu Tướng Cao Văn Viên, đúng lễ nghi quân cách. Chưa tròn 2 năm mà thay đổi 5 vị Tổng Tham Mưu Trưởng, và Thiếu Tướng Cao Văn Viên là vị Tổng Tham Mưu Trưởng thứ 6. Nếu đem thời gian chia đều thì mỗi vị chỉ ngồi ghế Tổng Tham Mưu Trưởng có bốn tháng rưỡi, thử hỏi làm sao xây dựng được chiến lược chiến thuật thích ứng với mọi biến chuyển của tình hình để quân đội nắm quyền chủ động trên chiến trường, trong khi tình hình quân sự ngày càng đẫm máu với những trận đánh cấp Trung Đoàn, Sư Đoàn. Từ ngày quân bộ chiến Hoa Kỳ và Đại Hàn trực tiếp tham chiến, một số Sư Đoàn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chúng ta gần như tập trung vào những cuộc hành quân yểm trợ bình định nông thôn chung quanh các thành phố thị trấn, ngoại trừ lực lượng của Quân Đoàn IV vùng đồng bằng Cửu Long là vẫn trong thế chủ động, vì vùng này chỉ có căn cứ của Sư Đoàn 9 Bộ Binh Hoa Kỳ ở Mỹ Tho, và Sư Đoàn này chỉ giới hạn hoạt động ở bờ bắc sông Tiền (hay Tiền Giang) thôi. Nếu cứ cái đà tranh giành như thế này hoài thì bất cứ vị Tướng vị Tá nào có tính liều mạng hay bốc đồng, cũng có thể lên cầm quyền chơi mỗi người mấy tháng nếu được vài đơn vị ủng hộ. Để rồi khi bị đẩy ra khỏi chiếc ghế lãnh đạo cũng còn hi vọng vớt vát cái chức “Đại Sứ tại chỗ” hoặc “Đại Sứ lưu động” chớ có thua thiệt gì đâu. Sự thua thiệt là ở những ai tha thiết với tổ quốc dân tộc, và hơn nửa triệu quân nhân dưới cờ là thua thiệt nhất, vì ngày đêm Họ miệt mài với chiến trận để ngăn chận quân cộng sản xâm lăng, trong khi trung ương thì thường xuyên trong tình trạng rối ren do giành giựt! Nhận bàn giao xong, Thiếu Tướng Cao Văn Viên cho dọn sang văn phòng mới vừa xây dựng xong, và kiến trúc này do Trung Tướng Khánh cho khởi công từ tháng cuối năm 1964. Thiếu Tướng Viên có quyết định dọn ngay trong ngày bàn giao, một phần cũng vì Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có không chịu dời văn phòng của ông sang Bộ Quốc Phòng. Đây cũng là một hành động kỳ cục của Thiếu Tướng Có. Ông có hai chức vụ mà cả hai chức vụ đều thuộc loại nhất nhì đối với quân đội, và sau khi bàn giao cho Thiếu Tướng Viên chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng, ông còn lại chức Tổng Trưởng Quốc Phòng chớ có phải “ngồi chơi xơi nước” đâu mà ông lại tranh chỗ ngồi của ông Tổng Tham Mưu Trưởng mới nhận chức do chính ông bàn giao. Điều kỳ cục này dẫn đến sự cãi cọ giữa hai phu nhân của hai vị Tướng. Tuy chưa phải là lớn chuyện, nhưng cũng là “thành tích chẳng đáng khuyến khích” chút nào trong ngũ lãnh đạo! Tôi, với chức vụ phụ tá chánh văn phòng khi Thiếu Tướng Có là Tổng Tham Mưu Trưởng, tôi chuẩn bị bàn giao cho Thiếu Tá Vĩnh Thái vì tôi phụ trách toàn bộ hồ sơ văn phòng, còn Thiếu Tá Thái là chánh văn phòng Tư Lệnh Quân Đoàn III, theo Thiếu Tướng Viên về Bộ Tổng Tham Mưu. Trong lúc chúng tôi giao nhận từng thành phần hồ sơ nhất là hồ sơ xếp vào loại mật và tối mật mà tôi giữ trong tủ sắt ngay sau lưng tôi, Thiếu Tướng Cao Văn Viên bước vào:
“Chú Hoa không bàn giao gì hết. Tôi cử chú vào chức vụ chánh văn phòng. Còn chú Thái sẽ nhận nhiệm vụ khác”.
Thật ra thì hai ngày trước đó, bà Cao Văn Viên có điện thoại tôi:
“Chú Hoa, Thiếu Tướng cử chú làm chánh văn phòng đó nghe”.
“Còn anh Vĩnh Thái thì sao Chị? Em ngại sẽ mích lòng với anh ấy”.
“Chú không lo. Thiếu Tướng nói chú Thái thuyên chuyển sang Bộ Quốc Phòng”.
“Vậy thì em nhận, và cám ơn Chị”.
Sau đó, Thiếu Tá Vĩnh Thái được cử vào chức vụ Tùy Viên Quân Sự tại tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Đại Hàn Dân Quốc.
Thiếu Tá Vĩnh Thái, năm 1960 đang dạy tại Trường Sinh Ngữ Quân Quân Đội. Sau ngày 11/11/1960, thuyên chuyển sang Lữ Đoàn Nhẩy Dù, giữ chức chánh văn phòng Tư Lệnh mà lúc đó Đại Tá Viên vừa nhận chức Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù. Lần lượt theo Thiếu Tướng Viên về văn phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, rồi lên Quân Đoàn III. Vì gắn bó như vậy mà tôi rất thận trọng không dám nhận lời khi Thiếu Tướng Viên điện thoại cho tôi trước khi bà Viên giải thích. Anh Thái cũng là người thường đến Viện Đại Học nhận giùm bài học đem về cho Thiếu Tướng Viên, đang là sinh viên của Đại Học Văn Khoa. Tôi nghĩ, việc Thiếu Tướng Viên cử tôi vào chức vụ chánh văn phòng, rất có thể là do tôi quen việc nơi đây, cũng có thể là ông nghĩ đến ngày 01/11/1963 khi tôi nhận trách nhiệm đưa ông từ “phòng tạm giữ” lên ngồi trong văn phòng tôi. Thật ra thì lúc bấy giờ hành động của tôi chỉ nhằm giúp Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm (cấp bậc đến ngày 01/11/1963), tránh được điều khó xử với bạn của ông thôi. Vậy là tôi với Đại Úy Nguyễn Hữu Có, trước đây là chánh văn phòng và tùy viên của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, nhưng giữa năm 1964 Đại Úy Có thuyên chuyển sang Nhẩy Dù làm sĩ quan tùy viên cho Thiếu Tướng Cao Văn Viên. Bây giờ, sau hơn một năm, hai chúng tôi ráp lại trong chức vụ chánh văn phòng và tùy viên của Thiếu Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Ngày 01/11/1965, Quốc Khánh Việt Nam Cộng Hòa, Thiếu Tướng Cao Văn Viên được thăng cấp Trung Tướng. Cùng thăng cấp Trung Tướng với ông còn có nhiều vị nữa, và trong số đó có Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có, Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, Thiếu Tướng Đặng Văn Quang. Tháng sau đó, tôi được thăng cấp Trung Tá. Trung Tướng Cao Văn Viên có vóc dáng cao lớn, thường luyện tập Yoga, với bộ quân phục nhẩy dù, trông ông rất khỏe mạnh. Ông có đủ dáng vẻ của vị Tướng chiến trường. Trung Tướng Viên rất xông xáo, thường đến thăm các đơn vị nhất là các đơn vị đồn trú và hoạt động Vùng I Chiến Thuật và Vùng II Chiến Thuật. Từ giữa năm 1965 là thời gian bắt đầu và dồn dập có nhiều đơn vị Đồng Minh -nhất là Hoa Kỳ- lần lượt đổ quân vào Việt Nam. Trung Tướng Viên thường được cử thay mặt Chánh Phủ và nhân danh Tổng Tham Mưu Trưởng, có mặt tại các địa điểm đổ bộ để chào đón quân bạn. Đơn vị đầu tiên mà Trung Tướng Viên chào đón kể từ sau ngày nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng, là Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Chu Lai, còn gọi là vịnh Dung Quất. Vậy là Hoa Kỳ đã thực hiện được mục tiêu chiến lược của họ, “chiến lược Domino” mà trong thực tế là những căn cứ quân bộ chiến của Hoa Kỳ trải dài như những mắt xích nối liền nhau từ Đại Hàn xuống Nhật Bản, sang Đài Loan, Phi Luật Tân, đến Việt Nam Cộng Hòa, và Thái Lan. Những căn cứ này là những nơi xuất phát lực lượng Hải Quân, Lục Quân, Không Quân, có khả năng ngăn chận chiến tranh xâm lược của cộng sản tấn công các quốc gia trong vùng Đông Nam và Đông Bắc Á Châu. Quân Lực Hoa Kỳ trong vùng Thái Bình Dương, được trang bị nhiều loại vũ khí tối tân mới được sử dụng lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ đã nỗ lực thuyết phục Tổng Thống Diệm, nhưng đã bị Tổng Thống Diệm khước từ một cách cứng rắn. Xin mở ngoặc để nói đến cuộc phỏng vấn ngày 18/10/2003, giữa ông Hồng Phúc của đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại từ Washington DC, với ông Bùi Tín cựu Đại Tá quân đội cộng sản từ Paris. Khi ông Hồng Phúc yêu cầu ông Bùi Tín cho một quan điểm như là so sánh giữa Tổng Thống Ngô Đình Diệm với ông Hồ Chí Minh. Ông Bùi Tín nói rằng, theo quan điểm của ông thì ông Ngô Đình Diệm (ông Bùi Tín không dùng chữ chức vụ Tổng Thống) yêu nước thật sự vì sau khi nhận chức Thượng Thư Bộ Lại khoảng 4 tháng thì từ chức vì Toàn Quyền Pháp tự ý sửa đổi Hòa Ước 1884 đặt Trung Kỳ dưới quyền bảo hộ của Pháp như Bắc Kỳ. Ông Diệm thông minh hơn ông Hồ, đạo đức hơn ông Hồ, trong sạch hơn ông Hồ, chỉ riêng cái quyết định không bằng lòng cho Hoa Kỳ sử dụng cảng Cam Ranh, ông Diệm đã nói rằng “nếu để một mảnh đất vào tay Hoa Kỳ, sau này khi có hiệp thương giữa hai miền Nam Bắc thì ông phải giải thích như thế nào với đồng bào.” Câu này do Vũ Ngọc Nhạ thuật lại cho ông Bùi Tín nghe sau ngày chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, và ông ta gặp lại Bùi Tín ngay trong dinh Độc Lập. Vũ Ngọc Nhạ, là một cán bộ tình báo cao cấp được lãnh đạo cộng sản Việt Nam cài vào Phủ Tổng Thống (Việt Nam Cộng Hòa) với chức vụ cố vấn của Tổng Thống. Xin đóng ngoặc. Nhân lễ Giáng Sinh 1965, Trung Tướng Viên chỉ thị tôi tổ chức buổi tiếp tân trọng thể ngay tại võ đình trường trước tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu. Khách mời: Ngoại quốc, gồm: Các vị trong Ngoại Giao đoàn, kể cả các vị Tùy Viên quân sự. Các vị Tư Lệnh lực lượng Đồng Minh đang có mặt trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, các đơn vị trưởng cùng các sĩ quan tham mưu trực thuộc lực lượng này. Nội bộ, gồm: Các vị trong Chánh Phủ, trong Quốc Hội. Tất cả các vị Tướng Lãnh đang phục vụ tại thủ đô và lân cận, các vị Chỉ Huy Trưởng binh chủng, Tổng Cục Trưởng, Cục Trưởng, và các sĩ quan cao cấp phục vụ tại Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tổng số gần 500 vị. Đây là lần đầu tiên các cấp chỉ huy lực lượng Đồng Minh, gồm: Đại Hàn, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi, Thái Lan, và Hoa Kỳ, với các cấp chỉ huy của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có cơ hội tiếp xúc tìm hiểu nhau về cá nhân cũng như về kiến thức quân sự. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đều có mặt. Chương trình tổng quát với lời chúc Giáng Sinh ngắn gọn của Trung Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, và của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Tiếp đó là chương trình văn nghệ với những bài hát Giáng Sinh bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Buổi tiếp tân diễn ra trong bầu không khí thân hữu và trang trọng. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, là hai vị lãnh đạo cao nhất của đất nước. Trải qua thời gian cầm quyền, tôi nghĩ là những ai quan tâm đến thời sự quốc gia quốc tế, dễ dàng nhận thấy rằng: về chức vụ thì Trung Tướng Thiệu cao hơn nhưng Thiếu Tướng Kỳ lại được đồng bào trong nước cũng như nhiều nhân vật quốc tế biết đến nhiều hơn. Trung Tướng Thiệu thì trầm ngâm, sâu sắc, chỉ xuất hiện khi cần thiết. Thiếu Tướng Kỳ thường tuyên bố điều này điều khác, đôi khi ông tuyên bố tùy hứng mà không cần biết điều đó có thực hiện được hay không. Nói cách khác, Thiếu Tướng Kỳ không có cái sâu sắc trong địa vị chính trị của ông, nhưng trong một chừng mực nào đó, ông lại là nhân vật có vẻ thích ứng với vai trò của ông, vai trò một Thủ Tướng có cá tính “bốc đồng” trong giai đoạn chiến tranh lúc ấy. Phải chăng đó là chính sách của Hoa Kỳ? Nhìn chung thì Trung Tướng Thiệu với Thiếu Tướng Kỳ, không hợp nhau từ bản chất cá nhân, nhưng lại là một cặp lãnh đạo đất nước! Thật ra trong thuật lãnh đạo, trong hàng lãnh đạo rất cần những quan điểm trái ngược, nhưng là trái ngược trong tinh thần thúc đẩy phát triển quốc gia chớ không phải trái ngược trong mục đích đả phá nhau do tinh thần cá nhân hay phe nhóm. Vậy, quí vị quí bạn nhìn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ như thế nào? Xin hiểu là nhìn lại để rút ra bài học kinh nghiệm cho mai sau, chớ không phải nhìn lại để chỉ trích cá nhân, thậm chí là kết án. Dư luận trong giới chính trị cũng như trên báo chí quốc nội quốc tế, khi nói đến những vị lãnh đạo quốc gia của chúng ta thường nhắc đến “bộ ba” gồm Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, và Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, tức Quốc Trưởng + Thủ Tướng + Tổng Trưởng Quốc Phòng. Theo tôi, con người của Trung Tướng Có không có nét nào hợp với Thiếu Tướng Kỳ, cũng không trầm ngâm như Trung Tướng Thiệu. Ông không có tính xốc nổi nhưng cũng không sâu sắc, ông rất hăng say trong trách nhiệm lãnh đạo Quốc Phòng, nhưng dường như kiến thức tổng quát cũng như kiến thức quân sự có những giới hạn, nên không có gì đặc biệt ở cương vị của ông trong nội các chiến tranh. Tôi nghĩ, những công việc có tính cách điều hành của Bộ Quốc Phòng cũng như Bộ Tổng Tham Mưu, thích hợp với ông hơn là những vấn đề chiến lược chiến thuật. Về cấp hiệu sĩ quan mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm qui định từ đầu năm 1956 (hay 1957?), thay thế cấp hiệu của Pháp (mà quân đội quốc Gia Việt Nam áp dụng khi mới thành lập) là cấp Uý biểu tượng bằng bông mai vàng và cấp Tá là bông mai trắng trên cổ áo hoặc trên mũ lưỡi trai. Nhưng vì kỹ thuật của các nhà sản xuất chưa hoàn hảo nên màu sắc không chính xác giữa trắng với vàng, nhất là thời gian sử dụng càng lâu thì màu sắc càng dễ gây lầm lẫn. Chẳng hạn như một Đại Úy với cấp hiệu 3 bông mai vàng với một Thiếu Tá cấp hiệu một bông mai trắng đi ngược chiều nhau, nhưng vì màu sắc trên bông mai vàng phai mờ nên ông Thiếu Tá tưởng lầm ông Đại Úy đi ngược chiều là Đại Tá, bèn đưa tay chào cho dẫu có thắc mắc không biết có phải Đại Tá hay không vì trông trẻ quá. Vì vậy mà Trung Tướng Nguyễn Hữu Có quyết định cấp hiệu của sĩ quan cấp Tá được gắn thêm một vạch ngang phía dưới bông mai trắng để dễ phân biệt giữa cấp Uý với cấp Tá. Thế nhưng, lúc bấy giờ có dư luận cho rằng, Trung Tướng Có được các nhà sản xuất các loại huy hiệu cấp hiệu quân đội, lo lót một khoản tiền để ông đưa ra quyết định như vậy, vì tất cả sĩ quan cấp Tá đều phải mua cấp hiệu mới theo mẫu đó, và dĩ nhiên là các nhà sản xuất thu được khoản tiền lời lớn. Đúng hay sai thì tôi không rõ, nhưng có điều chắc chắn là qui định này đã giúp cho sự dễ nhận giữa cấp Úy với cấp Tá. Tôi nghĩ, đây là một quyết định đúng. Nhân vụ cấp hiệu này xin nói thêm về nhiều loại huy chương được thiết lập trong thời gian Trung Tướng Nguyễn Khánh cầm quyền, trong mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho các sĩ quan tham mưu và sĩ quan chuyên môn, được tưởng thưởng thích hợp và nhiều huy chương hơn để đeo trên ngực áo trong những lễ hội, những lần đón tiếp các phái đoàn quân sự ngoại quốc, hoặc du học du hành ngoại quốc. Trung Tướng Khánh có sáng kiến này là vì có một vị Tướng (dường như là Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng) khi xuất ngoại, trên ngực áo chỉ có 3 huy chương cuống trông thật là “đơn côi” và làm cho vị Tướng có vẻ “yếu đi” mặc dù ông có vóc dáng cao lớn và khỏe mạnh. Về cách giải quyết công văn tại văn phòng, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm với Đại Tướng Cao Văn Viên có cùng thận trọng như nhau, nhưng Đại Tướng Viên có phần nhanh hơn. Đại Tướng Nguyễn Khánh cũng nhanh nhưng mức độ thận trọng không bằng hai vị Tướng nói trên. Trung Tướng Trần Văn Minh thì chỉ làm việc cho hết giờ. Trung Tướng Nguyễn Hữu Có thì thận trọng quá đáng nên có phần chậm chạp. Xông xáo đi thăm các đơn vị tại mặt trận hoặc các đơn vị đang công tác đặc biệt, Đại Tướng Viên và Đại Tướng Khánh như nhau, Trung Tướng Có cũng gần như vậy, Đại Tướng Khiêm thì thỉnh thoảng, còn Trung Tướng Minh thì không có gì để so sánh. Đại Tướng Khánh, trong hơn một năm cầm đủ thứ quyền trong tay, là thời gian nhiều xáo trộn chính trị, thế nhưng ông đã dành thì giờ để đến với nhiều đơn vị, đó là điều ghi nhận tốt. Ông là vị Tổng Tư Lệnh duy nhất cho mang theo công văn để ông làm việc trên phi cơ trong khi đi thăm đơn vị, nhưng ông cũng là vị Tổng Tư Lệnh kỳ cục nhất khi bất đồng quan điểm với ông Đại Sứ Hoa Kỳ thì tự dời văn phòng làm việc cách xa Bộ Tổng Tư Lệnh hằng trăm cây số (từ tháng 6 năm 1965, Bộ Tổng Tư lệnh mới trở lại danh xưng Bộ Tổng Tham Mưu). Về mối liên hệ tình cảm trong công tác, Trung Tướng Viên nghiêng về Thiếu Tướng Kỳ hơn là Trung Tướng Thiệu, dù rằng Trung Tướng Thiệu chức vụ cao hơn Thiếu Tướng Kỳ. Phải nhận rằng, Thiếu Tướng Kỳ tuy cá tính xốc nổi nhưng dám nói dám làm, dù là làm được lẫn làm không được, nhưng được sự ủng hộ của số đông chiến hữu và đồng bào, nhưng những nhà hoạt động chính trị thì không ủng hộ ông. Lực lượng có khả năng trực tiếp tham gia đảo chánh là Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến thì đứng về phía Thiếu Tướng Khang và Trung Tướng Viên, nên Thiếu Tướng Kỳ có thế đứng vững hơn những Thủ Tướng trước ông. Trong những lúc nói chuyện với tôi và sĩ quan tùy viên, Trung Tướng Viên thường tỏ ra ca ngợi Thiếu Tướng Kỳ và không hề nhắc đến Trung Tướng Thiệu dù Trung Tướng Thiệu đang là Quốc Trưởng. Trung Tướng Viên cho rằng, trong số những khuôn mặt hiện nay (năm 1965-1966) thì Thiếu Tướng Kỳ là người thích hợp hơn hết. Trong năm 1965 và đầu năm 1966, sinh hoạt ở trung ương tương đối yên ắng, tuy phần lớn trong giới chính trị lão thành cũng như giới thân hào nhân sĩ tỏ ra không ủng hộ Thiếu Tướng Kỳ. Tôi căn cứ vào những báo cáo mật của Tổng Nha Cảnh Sát thông báo cho Tổng Tham Mưu Trưởng mà ghi nhận như vậy. Trong hệ thống điều hành thông thường, chẳng có qui định nào buộc Cảnh Sát phải thông báo những tin tức về các hoạt động chính trị cho Bộ Tổng Tham Mưu cả, nhưng có thể là do mối liên hệ mật thiết giữa Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ -Thủ Tướng- với Trung Tướng Cao Văn Viên -Tổng Tham Mưu Trưởng- mà hậu thuẫn của Trung Tướng Viên là lực lượng Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến để chống đảo chánh, nên Tổng Giám Đốc Cảnh Sát -rất được Thiếu Tướng Kỳ tin cậy- mới có những thông báo như vậy. Ngay sau ngày Thiếu Tướng Viên (hai tuần sau đó ông mới thăng cấp Trung Tướng) nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng, Đại Tá Ngô Quang Trưởng -dường như lúc bấy giờ ông là Tư lệnh Phó Nhẩy Dù- đến văn phòng tôi, ông nói: “Anh Hoa, để kịp thời đối phó với những biến động quân sự về phía nội bộ, bất cứ là giờ nào trong ngày nếu như anh thấy có điều gì nghi ngờ về một cuộc đảo chánh hay tương tự như vậy, thì anh báo tin cho tôi ngay, vì lúc nào tôi cũng có một đơn vị túc trực tại căn cứ Hoàng Hoa Thám (tên doanh trại của Lữ Đoàn Nhẩy Dù, khỏi ngã tư Bảy Hiền, trên đường Sài Gòn-Tây Ninh)” Khi tôi bổ túc đoạn ngắn này thì cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã từ trần. Xin cắm nén hương tưởng nhớ đến Ông, một Tướng Lãnh khi xuôi tay yên nghỉ, nhận được lòng ngưỡng mộ và thương cảm của hầu hết các thành phần trong Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản tại hải ngoại! Điều làm cho các vị Tướng lãnh đạo ở trung ương nói chung và Thiếu Tướng Kỳ nói riêng, lo ngại là Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I kiêm Đại Biểu Chánh Phủ tại Trung Phần, về những lời tuyên bố cùng một số hành động của ông có tính cách trái ngược với trung ương nếu không nói là chống lại trung ương. Xin nhắc lại. Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, sau hơn 2 năm lưu vong trên vương quốc Cam-Bốt, được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng sau cuộc lật đổ và giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm đón về, lần lượt thăng cấp Thiếu Tướng, rồi Trung Tướng, và hai lần thăng cấp này hoàn toàn không do công trạng trong chiến trận. Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi là người có tính bộc trực, thẳng tính, và nóng tính. Buổi sáng ngày 30 tháng 1 năm 1964, ngay trong sân nhà Trung Tướng Khánh, trong lúc có nhiều sĩ quan quanh quẩn ở đó để theo dõi tin tức về cuộc “Chỉnh Lý”, Trung Tướng Thi lúc đó là Đại Tá, đã bạt tai Thiếu Tá Nguyễn Huy Lợi với tất cả sự nóng giận của ông. Hỏi ra tôi mới biết là trong thời gian lưu vong, Thiếu Tá Lợi cũng như các bạn cùng lưu vong, đã khinh thường ông vì ông không làm ra tiền mà trông chờ vào sự “chạy gạo” của các sĩ quan cấp nhỏ hơn ông trong nhóm lưu vong. Chắc vì vậy mà ông bạt tai cho hả giận, và chắc cũng để tỏ ra là ông đã qua thời xuống chó và đang thời lên voi chăng? Trong thời gian Trung Tướng Khánh bắt đầu có khoảng cách với Đại Tướng Khiêm, rồi khoảng cách đó ngày càng rộng và sâu thêm, cho đến một ngày khoảng cách đó rộng bằng cả Đại Tây Dương thì Đại Tướng Khiêm bị đẩy sang bên kia bờ phía tây gọi là thăm vài nước Châu Âu, thì những vị Tướng thân thiết nhau như: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Thiếu Tướng Cao Văn Viên, Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, và Thiếu Tướng Lê Nguyên Khang (1964), có vẻ như không can dự gì vào chuyện giữa Trung Tướng Nguyễn Khánh với Đại Tướng Trần Thiện Khiêm cả. Nhưng tôi không rõ là bắt nguồn từ nguyên nhân nào mà Trung Tướng Thi (1966) lại tách ra khỏi nhóm đó, và tách ra từ lúc nào nữa. Chỉ biết là khi Trung Tướng Thi chống đối trung ương trở nên công khai đến mức báo chí đăng tải, thì lúc đó Trung Tướng Thi đang là Tư Lệnh Quân Đoàn I tại Đà Nẳng. Xin giải thích: tôi chỉ nói đến những vị Tư lệnh có quân có quyền trong tay và có khả năng đảo chánh lẫn chống đảo chánh thôi.
Ngày Quân Lực. Khi Hội Đồng Quân Đội nhận trách nhiệm Lãnh đạo quốc gia theo yêu cầu của Thủ Tướng Phan Huy Quát, và thành lập Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia với Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, và chọn ngày 19/06/1965 ra mắt quốc dân đồng bào và ngoại giao đoàn. Từ đó, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia quyết định chọn ngày 19 tháng 6 hằng năm làm Ngày Quân Lực. Và Ngày Quân Lực 19 tháng 6 đầu tiên được tổ chức trọng thể vào ngày 19 tháng 6 năm 1966. Ngày Quân Lực đầu tiên nói ở đây là Ngày Quân Lực 19 tháng 6, nhưng thật ra còn một Ngày Quân Lực đã được chọn và tổ chức trước đó nữa. Đó là Ngày Quân Lực 30 tháng 1. Chuyện như thế này. Xin nhắc đến cuộc Chỉnh Lý ngày 30/01/1964 do Trung Tướng Nguyễn Khánh, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, và Đại Tá Cao Văn Viên, lãnh đạo lật đổ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng của Trung Tướng Dương Văn Minh, và thành công. Nhưng sau khi Trung Tướng Khánh công bố bản Hiến Chương tại Vũng Tàu, liên tiếp những cuộc mít tinh biểu tình cáo giác Trung Tướng Nguyễn Khánh là độc tài, từ đó Trung Tướng Khánh cho rằng Đại Tướng Khiêm đứng đằng sau những vụ đó. Thế là Trung Tướng Khánh đẩy Đại Tướng Trần Thiện Khiêm lưu vong (07/10/1964). Và rồi Trung Tướng Khánh quyết định chọn ngày 30 tháng 1 làm Ngày Quân Lực. Ngày Quân Lực 30 tháng 1 được tổ chức vào tối 30 tháng 1 năm 1965, trên sân thượng câu lạc bộ Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Đổng Lý Văn Phòng Tổng Tư Lệnh, chỉ thị tôi Trưởng Phòng Quân Sự Vụ, và Thiếu Tá Hoàng Ngọc Tiêu -tức nhà thơ Cao Tiêu- Trưởng Phòng Dân Sự Vụ, trách nhiệm tổ chức. Tham dự Ngày Quân Lực 30 tháng 1 năm 1965, gồm: quí vị trong Chánh Phủ, quí vị Tướng Lãnh, quí vị trong Ngoại Giao đoàn, các đơn vị trưởng trong Quân Trấn Sài Gòn, và sĩ quan cao cấp phục vụ tại Bộ Tổng Tư Lệnh. Ngày Quân Lực 30 tháng 1 được tổ chức hôm ấy là lần đầu tiên, cũng là lần duy nhất. Tôi nghĩ rằng, “Ngày Quân Lực tổ chức ngày 30 tháng 1 năm 1965” rất ít người biết đến, vì không có văn kiện ban hành, cũng không phổ biến bất cứ hình thức nào, Trung Tướng Khánh chỉ ra lệnh ngang qua Thiếu Tướng Vỹ, chúng tôi gởi thư mời, và tiến hành tổ chức thôi. Chương trình buổi lễ rất đơn giản như một buổi tiếp tân ngoài trời. Không diễn văn dài dòng, cũng không một ai phát biểu. Chỉ sau một diễn văn ngắn gọn của Trung Tướng Khánh là vào tiệc, với chương trình văn nghệ rất đông nghệ sĩ tân nhạc nổi tiếng của Sài Gòn lúc ấy trình diễn. Nhân đây cũng xin nói thêm về những ngày khác, nếu như trước ngày 19 tháng 6 năm 1966 mà có cuộc thăm dò ý kiến trong quân đội thì tôi nghĩ, những ngày sau đây có thể được chọn là Ngày Quân Lực, như: ngày 1 tháng 1, ngày 1 tháng 5, hay ngày 1 tháng 7.
Ngày 1 tháng 1. Trong cuộc chiến giữa thực dân Pháp với Việt Minh cộng sản 1945-1954, chánh phủ Pháp ước tính không thể dẹp tan đối phương trong thời gian 6 tháng như Cao Ủy Pháp tại Đông Dương đã từng tuyên bố, nên sử dụng chính sách dùng người Việt không cộng sản đánh nhau với người Việt cộng sản, bằng quyết định thành lập một số Tiểu Đoàn Việt Nam và những đơn vị nhỏ hơn, dưới quyền chỉ huy của Pháp. Đầu tiên là Chi Đội Thám Thính của binh chủng Thiết Giáp thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1951. Lần lượt sau đó, một vài đơn vị đầu tiên là: Ngày 1 tháng 2 năm 1951: một đơn vị Truyền Tin.
Ngày 1 tháng 5 năm 1951: một đơn vị Không Quân.
Cùng ngày 1 tháng 5 năm 1951: một đơn vị Quân Vận.
Ngày 1 tháng 8 năm 1951: một đơn vị Nhẩy Dù.
Ngày 1 tháng 9 năm 1951: một đơn vị Công Binh.
Ngày 1 tháng 11 năm 1951: một đơn vị Pháo Binh.
Ngày 1 tháng 3 năm 1952: một đơn vị Hải Quân.
Trong nét nhìn nào đó, những đơn vị Việt Nam đủ tiêu biểu cho Hải Lục Không Quân nhưng quá đổi khiêm nhường, ngoại trừ Lục Quân có một số đơn vị khả dĩ có khả năng "đánh tay đôi" với quân Việt Minh cộng sản. Như vậy, ngày 1 tháng 1, là ngày mà đơn vị đầu tiên của Việt Nam được thành lập, dù rằng đơn vị này do Liên Hiệp Pháp chỉ huy và yểm trợ. Ngày 1 tháng 5. Do Dụ số 43 ngày 23/05/1952 (sau này gọi là sắc lệnh) của Quốc Trưởng Bảo Đại, thành lập Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam từ ngày 01/05/1952. Vị Tổng Tham Mưu Trưởng đầu tiên là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh. Ông là Trung Tá Không Quân Pháp chuyển sang. Tuy có cơ quan đầu não của quân đội, nhưng thực chất các đơn vị Việt Nam đã thành lập trước đó vẫn do sĩ quan Pháp chỉ huy và yểm trợ mọi nhu cầu của đơn vị. Bộ Tổng Tham Mưu non trẻ này tập trung nỗ lực vào trách nhiệm tổ chức 60 Tiểu Đoàn tân lập bộ binh do Pháp cung cấp dụng cụ chiến tranh. Bộ Tổng Tham Mưu thực hiện quan niệm tổ chức hai loại Tiểu Đoàn mà cơ quan này cho là thích hợp với chiến trường hiện tại: "Tiểu Đoàn Việt Nam" có trang bị súng cối và đại liên để đánh nhau với cộng sản cấp Đại Đội, vì lúc ấy quân cộng sản trên chiến trường miền Nam cũng chỉ tổ chức đến cấp Đại Đội. Và loại "Tiểu Đoàn Khinh Quân", quân số ít và trang bị nhẹ so với Tiểu Đoàn Việt Nam, dễ luồn lách hoạt động trong vùng địch. Ngày 1 tháng 7. Căn cứ quân sự trong vùng lòng chảo Điện Biên Phủ của Pháp bị thất thủ vào ngày 07/05/1954, trước những cuộc "tấn công biển người" của quân Việt Minh cộng sản dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của quân Trung Hoa cộng sản, dẫn đến Hiệp Định Đình Chiến ký ngày 20/07/1954 tại Genève, Thụy Sĩ. Lãnh thổ Việt Nam bị chia đôi thành hai quốc gia: Vĩ tuyến 17 trở lên Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, theo chế độ cộng sản độc tài. Vĩ tuyến 17 trở xuống Nam là Quốc Gia Việt Nam, theo chế độ tự do. Trên địa thế, tiêu biểu cho vĩ tuyến 17 là "sông Bến Hải với cầu Hiền Lương", phía bắc thị trấn Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Trung tuần tháng 12 năm 1954, Tướng Collins của Hoa Kỳ và Tướng Paul Ely của Pháp thỏa thuận, theo đó, Bộ Tư Lệnh Quân Viễn Chinh Pháp sẽ trao toàn quyền chỉ huy quân sự cho quân đội Việt Nam từ ngày 01/07/1955. Sau thỏa thuận này, một phái bộ hổn hợp Mỹ Pháp được thành lập từ ngày 20/01/1955, dưới tên gọi "Phái Bộ Liên Lạc Và Huấn Luyện Tại Việt Nam" (tiếng Anh là Training Relations Instruction Mission, gọi tắt là TRIM), với số sĩ quan gồm 200 của Pháp và 217 của Hoa Kỳ. Từ sau thỏa ước trên, Bộ Tổng Tham Mưu gần như ào ạt tiếp nhận quyền chỉ huy hệ thống tổ chức lãnh thổ, từ Chi Khu (quận), Tiểu Khu (tỉnh), Phân Khu (2 hoặc 3 Tiểu Khu), đến Quân Khu (nhiều Phân Khu), và các đơn vị tác chiến lẫn yểm trợ. Và thật sự là Bộ Tổng Tham Mưu nắm quyền chỉ huy quân đội quốc gia Việt Nam từ ngày 1 tháng 7 năm 1955. Vậy, ngày "1 tháng 1 năm 1951" là ngày thành lập đơn vị Việt Nam đầu tiên nhưng do sĩ quan Pháp chỉ huy, ngày "1 tháng 5 năm 1952" là ngày thành lập Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, và ngày "1 tháng 7 năm 1955" là ngày Bộ Tổng Tham Mưu chánh thức thật sự nắm quyền lãnh đạo chỉ huy quân đội quốc gia Việt Nam. Tôi nghĩ, nếu phải chọn một ngày trong 3 ngày nói trên thì ngày 1 tháng 5 là danh chánh ngôn thuận để kỷ niệm "Ngày Quân Lực" nếu so với ngày 30/01 hay ngày 19/06, vì thông thường Ngày Quân Lực là ngày thành lập quân đội.
Nhưng tôi cũng nghĩ rằng, rất có thể vì quân đội được khai sinh từ quân đội Pháp trong hoàn cảnh chiến tranh giữa thực dân với cộng sản trong khi người Việt không cộng sản chúng ta chưa có vị trí rõ ràng trên bàn cờ chính trị, nên quí vị không chọn một trong những ngày đó mà chọn ngày quân lực nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc gia để kỷ niệm. Ngày này có ý nghĩa vai trò quân đội trong chiến tranh ý thức hệ giữa “Tự Do với Độc Tài”, giữa cái Thiện với cái Ác. Quyết định chọn ngày 19 tháng 6 làm "Ngày Quân Lực", tiêu biểu nét đặc thù trong chiến tranh giữ nước của chúng ta trước làn sóng đỏ tràn xuống phía nam trong những thập niên 50 đến 70, mà hiệp chủng quốc Hoa Kỳ và nhiều quốc gia đồng minh đã đặt Việt Nam Cộng Hòa chúng ta vào vị trí "quốc gia tiền đồn" trên mặt trận toàn cầu đương đầu với cuộc chiến ý thức hệ cộng sản thế giới, mà cộng sản Việt Nam là cánh tay nối dài của cộng sản thế giới. Và kỷ niệm “Ngày Quân Lực 19 tháng 6” đã được Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tổ chức trọng thể hằng năm kể từ năm 1966. Trong chốn riêng tư, ngày 19 tháng 6 năm 1966, còn tiềm ẩn ý nghĩa sự thành công của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, trong nỗ lực giải quyết vụ khủng hoảng chính trị mà báo chí thường gọi là “khủng hoảng miền Trung” nữa. Nói là thành công, nhưng thật sự có phải là thành công hay không, tùy sự đánh giá của quí vị quí bạn. Từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, người cựu quân nhân chúng ta trong những hoàn cảnh thích hợp tại mỗi quốc gia hay thành phố định cư, đã cùng nhau tổ chức kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 tháng 06. Hành động như vậy, tôi nghĩ là hoàn toàn đúng và nên tiếp tục. Đúng, vì cho đến nay -đầu năm 2010-, trong Cộng Đồng Việt Nam chúng ta tị nạn cộng sản tại hải ngoại, không một cá nhân hay một tổ chức nào khả dĩ có đủ tư cách để thay đổi. Với lại chúng ta cần có -phải nói là rất cần- một ngày trọng đại để vinh danh quân đội, vinh danh những đồng đội đã hi sinh, vinh danh những đồng đội thương phế binh đã để lại một phần thân thể trên khắp miền quê hương đất nước, và vinh danh những bà quả phụ đã tảo tần tạo dựng thế hệ nối tiếp trách nhiệm của chúng ta. Đồng thời, cũng là ngày nhắc nhở chúng ta -những người cựu quân nhân chưa tròn nhiệm vụ đang sống lưu vong khắp chân trời góc biển- hãy tiếp tục nhiệm vụ còn dang dở trong cuộc chiến hôm nay, góp phần vào công cuộc dân chủ hóa chế độ chính trị trên quê hương Việt Nam, và cùng thế hệ hậu duệ nối tiếp xây dựng một chế độ dân chủ tự do thật sự trên quê hương Việt Nam ngày mai. **********
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 11:35:53 GMT 9
Chương 6 / Khủng Hoảng Chính Trị ngày 9 tháng 3 năm 1966 - sáu -
Khủng Hoảng Chính Trị ngày 9 tháng 3 năm 1966
***** Đầu tháng 3 năm 1966, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ -Thủ Tướng- và Trung Tướng Cao Văn Viên -Tổng Tham Mưu Trưởng- ra Đà Nẳng duyệt lại tình hình Quân Đoàn I. Sau chuyến đi, bà Viên nói với tôi đại ý rằng:
“Nói là duyệt lại tình hình chớ thật ra là tìm cách giải quyết những bất đồng giữa Thiếu Tướng Kỳ với Trung Tướng Thi về một số vấn đề, nhưng cuối cùng vẫn không giải quyết được gì hết. Trước khi lên phi cơ rời Đà Nẳng trở về Sài Gòn, Trung Tướng Thi đến bắt tay rồi vòng tay ôm Trung Tướng Viên, mà không hề nói gì với Thiếu Tướng Kỳ, làm như chỉ có Trung Tướng Viên trong chuyến đi này. Thiếu Tướng Kỳ là người dễ nóng giận, nhưng lúc bấy giờ ông im lặng, đứng nhìn, xem như không nghe không thấy Trung Tướng Thi”.
Một số vấn đề mà bà Viên nói đến, báo chí tại Sài Gòn cũng đã nói đến, và trong một chừng mực nào đó, được xem là Trung Tướng Thi chống đối Chánh Phủ.
Với thái độ im lặng của Thiếu Tướng Kỳ tại phi trường Đà Nẳng, không có nghĩa là ông chịu thua Trung Tướng Thi đâu! Và đây là hành động thể hiện thái độ đó của Thiếu Tướng Kỳ. . .
Cách chức Trung Tướng Thi. Ngày 08/03/1966, buổi họp thu hẹp của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia gồm Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Trung Tướng Cao Văn Viên, và Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi. Buổi họp có mục đích giải quyết trực tiếp vụ Trung Tướng Thi đã nhiều lần tỏ ra chống lại lệnh của trung ương. Tôi nói thu hẹp, vì Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đầy đủ gồm 11 vị, nhưng buổi họp hôm nay chỉ có 4 vị thuộc trung ương nhưng lại không có vị Tổng Thư Ký, mà lại có vị Tư Lệnh Quân Đoàn I kiêm Đại Biểu Chánh Phủ Miền Trung. Có thể nói đây là buổi họp thu hẹp đặc biệt. Địa điểm họp là văn phòng cũ dành cho vị Tổng Tham Mưu Trưởng, hiện đang trống. Trung Tướng Viên dặn tôi trước khi ông vào phòng họp:
“Đây là họp tối mật, chỉ khi nào cần thì tôi gọi chú. Bất cứ ai khác đều không được vào”.
“Vâng, tôi hiểu”.
Đúng là tôi hiểu mục đích của buổi họp, vì chiều hôm qua, Trung Tướng Viên có nói với tôi tuy là không nói rõ. Đến 1 giờ trưa, Trung Tướng Viên bước ra với nét mặt đầy ưu tư:
“Chú lo ăn trưa ngay và mang vào ăn tại chỗ”.
“Sớm lắm cũng phải 40 phút, vì phải xuống nhà hàng Thanh Thế thưa Trung Tướng”.
“Thì xong lúc nào mang vào lúc ấy”.
“Vâng”.
Tôi nhờ Đại Úy Có xuống nhà hàng Thanh Thế (gần chợ Sài Gòn) mua ngay 15 phần ăn trưa đựng trong hộp, chỉ có vậy mới nhanh thôi. Tuy có 5 vị họp nhưng tôi phải mua 15 phần, vì mỗi vị Tướng đều có sĩ quan tùy viên và cận vệ đi theo.
Khi mang thức ăn vào, tôi trông thấy không một vị nào có nét mặt cũng như dáng vẻ bình thường hay vui tươi như những buổi họp quan trọng trước đó, điều này cho phép tôi suy đoán là vấn đề cần giải quyết, chẳng những chưa đạt được mà trái lại có thể càng trở nên rắc rối hơn. Từ lúc bắt đầu họp cho đến lúc chấm dứt khi trời tối hẳn, không một vị nào bước ra ngoài, ngoại trừ trường hợp Trung Tướng Viên bảo tôi lo ăn trưa. Với nét mặt đăm chiêu qua những nếp nhăn trên vầng trán của các vị, tôi đoán là cả ngày họp chẳng đạt được kết quả nào. Riêng Trung Tướng Thi có vẻ như tức giận thì phải. Trước khi ra về, Trung Tướng Viên hỏi tôi về công tác chuẩn bị cho ông thăm Sư Đoàn 2 Bộ Binh tại Quảng Ngãi và Sư Đoàn 23 Bộ Binh tại Ban Mê Thuột vào ngày mai 9 tháng 3 năm 1966.
“Thưa Trung Tướng, mọi việc tôi đã chuẩn bị xong”.
Chuyện thế này. Buổi sáng, ngay khi đến văn phòng, ông gọi tôi:
“Ngày mai, chú tổ chức cho tôi ra Quảng Ngãi gắn huy chương cho Sư Đoàn 2. Sau đó lên Ban Mê Thuột gắn huy chương cho Sư Đoàn 23. Cơm trưa tại đây. Lúc 1 giờ trưa, rời Ban Mê Thuột về Sài Gòn. Có gì trở ngại chú trình tôi ngay”.
“Có cần sĩ quan Tổng Quản Trị tháp tùng không, thưa Trung Tướng?
“Không cần. Chú giao cho chú Có là được”.
Chương trình của Trung Tướng Viên, tôi đã liên lạc với Không Quân cung cấp phi cơ, cất cánh lúc 7 giờ sáng tại bãi đậu VIP, theo không trình Sài Gòn-Quảng Ngãi-Ban Mê Thuột-Sài Gòn. Cũng đã thu xếp chương trình với Sư Đoàn 2 và Sư Đoàn 23 Bộ Binh xong lúc sáng. Bây giờ chỉ cần xác nhận giờ là xong. Tôi điện thoại ra Quảng Ngãi xin tiếp chuyện với Chuẩn Tướng Hoàng Xuân Lãm:
“Tôi Phạm Bá Hoa, thưa Chuẩn Tướng. Ngày mai, Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng sẽ đến phi trường Quảng Ngãi khoảng 8 giờ 45. Không có sĩ quan cao cấp nào tháp tùng. Sau khi dự thuyết trình tại bộ tham Sư Đoàn và trao gắn huy chương xong, Trung Tướng sẽ rời Quảng Ngãi lên Ban Mê Thuột chớ không dùng cơm trưa theo ý kiến của Chuẩn Tướng. Xin được xác nhận điều này với Chuẩn Tướng”.
“Anh trình với Trung Tướng, Sư Đoàn có tiệc trà sau khi gắn huy chương, nếu vậy tôi sẽ mời Trung Tướng dùng tiệc trà trong khi thuyết trình. Nếu có gì khác, anh cho ông Tham Mưu Trưởng của tôi biết hỉ”.
“Nếu tôi không điện thoại lại có nghĩa là Trung Tướng đồng ý, thưa Chuẩn Tướng”.
Tôi điện thoại lên Ban Mê Thuột gặp ngay Chuẩn Tướng Võ Văn Cảnh, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh:
“Thưa Chuẩn Tướng, xin xác nhận về chương trình ngày mai. Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng sẽ từ Quảng Ngãi đến Ban Mê Thuột khoảng 11 giờ. Giờ chính xác tôi sẽ xác nhận kịp thời. Sau lễ gắn huy chương và dùng cơm trưa tại Sư Đoàn, Trung Tướng sẽ rời Ban Mê Thuột lúc 1 giờ để về Sài Gòn kịp buổi họp với MACV, thưa Chuẩn Tướng”. (MACV, dịch sang Việt ngữ là Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Hòa).
“Nếu có gì khác, anh gọi tôi ngay nghe anh Hoa. Này, có bao nhiêu sĩ quan tháp tùng với Trung Tướng?
“Dạ không có vị nào cả, ngoài sĩ quan tùy viên của Trung Tướng, thưa Chuẩn Tướng”.
Sau khi công tác chuẩn bị chuyến đi ngày mai của Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng được xác nhận với các nơi liên hệ, tôi ra về. Lúc ấy chẳng còn ai trong tòa nhà chánh ngoài sĩ quan trực và nhân viên an ninh. Vừa về đến nhà thì chuông điện thoại reo:
“Trung Tá Hoa tôi nghe”.
“Chú liên lạc tìm Trung Tướng Thi (Nguyễn Chánh Thi) và mời ông ấy ngày mai cùng đi chung phi cơ với tôi ra Quảng Ngãi, còn phi cơ của Trung Tướng Thi chờ tại Quảng Ngãi để đón ông Thi ra Đà Nẳng sau khi lễ xong. Phi cơ cất cánh tại Sài Gòn lúc 6 giờ sáng chớ không phải 7 giờ. Chú rõ chưa?
“Thưa Trung Tướng, tôi nghe rõ”. Tôi liên lạc và chuyển được lời mời của Trung Tướng Viên đến Trung Tướng Thi đang có mặt tại nhà ông ở đường Gia Long, và được Trung Tướng Thi chấp nhận dễ dàng. Tiếp đến là liên lạc với Bộ Tư Lệnh Không Quân xác nhận lại giờ cất cánh và không trình chuyến bay. Lại phải cấp tốc liên lạc xác nhận với Chuẩn Tướng Lãm (Quảng Ngãi) và Chuẩn Tướng Cảnh (Ban Mê Thuột).
Lúc 5 giờ sáng ngày 9/3/1966, điện thoại reo vang:
“Trung Tá Hoa tôi nghe”.
“Chú tìm xem Trung Tướng Có ở đâu và cho tôi biết ngay”.
“Vâng”.
Đó là lệnh của Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi điện thoại đến tư dinh Trung Tướng Có trong cư xá Bộ Tổng Tham Mưu, nghe tiếng phụ nữ:
“Chào bà. Tôi là Trung Tá Hoa. Xin bà vui lòng cho tôi tiếp chuyện với Trung Tướng”.
“Nhà tôi lên xe đi rồi anh Hoa”.
“Dạ, cám ơn bà”.
Tôi điện thoại đến toán gác cổng số 1 Bộ Tổng Tham Mưu, được biết xe của Trung Tướng Có đã ra cổng và quẹo lên hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi gọi lên phòng VIP trong phi trường:
“Tôi, Trung Tá Hoa. Xin lỗi có Trung Tướng Tổng Trưởng Quốc Phòng ở đó không à?
“Tôi đây anh Hoa. Có việc gì không?
“Dạ, Trung Tướng Viên bảo tôi tìm biết Trung Tướng ở đâu thì trình lại Trung Tướng Viên chớ không có gì, thưa Trung Tướng”.
Sau đó tôi trình Trung Tướng Viên. Và ông ra lệnh:
“Chú vào văn phòng ngay, báo cho các nơi hủy bỏ chuyến đi của tôi ra Quảng Ngãi với Ban Mê Thuột. Yêu cầu hai vị Tư Lệnh trao gắn huy chương cho các quân nhân trực thuộc, vì tôi bận vào giờ chót”.
“Vâng. Chào Trung Tướng”.
Trời hãy còn tối. Sĩ quan trực cũng như các nhân viên an ninh tòa nhà chánh, trong mấy năm gần đây đã quen với những trường hợp đèn đuốc sáng choang trong văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, nên không ai tò mò lên văn phòng tôi. Tôi gọi Đại Úy Có và chính anh gọi các nhân viên trực thuộc vào văn phòng làm việc. Sau khi liên lạc xong với Bộ Chỉ Huy Không Chiến, với Chuẩn Tướng Hoàng Xuân Lãm và Chuẩn Tướng Võ Văn Cảnh xác nhận lệnh của Trung Tướng Viên, nghe tiếng xe bên dưới tôi đến cửa sổ nhìn xuống lầu thấy xe Trung Tướng Viên vừa ngừng ở thềm tầng trệt. Trung Tướng Viên vào một lúc thì xe của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, rồi xe của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đến. Cả hai vị, một cách im lặng, lần lượt vào phòng Trung Tướng Viên. Rồi Trung Tướng Viên vào phòng tôi ra lệnh có vẻ vội vàng:
“Chú xuống lầu đón Trung Tướng Có và Trung Tướng Thi, hướng dẫn vào phòng họp hôm qua. Chỉ một mình Trung Tướng Thi vào đó thôi, sĩ quan tùy viên và cận vệ của Trung Tướng Thi ngồi ở phòng chú và chú trách nhiệm”.
Tôi xuống lầu. Trời vẫn chưa sáng. Xe Trung Tướng Nguyễn Hữu Có dừng trên thềm tầng trệt, trong khi sĩ quan tùy viên chưa mở cửa xe thì toán cận vệ của Trung Tướng Có từ xe Jeep phía sau nhảy xuống, súng cầm tay trong tư thế sẳn sàng sử dụng. Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi xuống xe, toán cận vệ kèm hai bên, và sau lưng Trung Tướng Thi một khoảng ngắn là Trung Tướng Có.
Đến đây thì tôi hiểu việc gì đang xảy ra. Trung Tướng Có bảo tôi đi trước, như là dẫn đường lên phòng họp hôm qua. Ông nói khẽ:
“Vào xong, anh khóa cửa lại và cho Quân Cảnh gác cẩn thận”.
“Vâng”.
Tôi nói riêng với Đại Úy Có:
“Anh thay tôi trách nhiệm canh giữ anh tùy viên với cận vệ của Trung Tướng Thi nghe. Lệnh của Trung Tướng đó. Tốt hơn hết là mình "ngăn cản khéo" không cho các anh ấy đi đâu hết, ngoại trừ vào phòng vệ sinh thì bảo Quân Cảnh theo giữ”.
Đại Úy Có hơi ngập ngừng một chút vì chưa biết nguyên nhân nhưng anh không hỏi, vì chúng tôi đã qui ước với nhau rằng, nếu một bên không nói thì bên kia không hỏi và hiểu rằng đó là lệnh mật.
Vẫn chưa đến giờ làm việc. Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, và Trung Tướng Viên, cùng vào phòng họp, mà trong đó đã có Trung Tướng Thi, cũng là Đại Biểu Chánh Phủ tại Miền Trung. Khoảng 1 tiếng đồng hồ sau đó, tôi vào trình Trung Tướng Viên về vấn đề ăn sáng. Đây là tôi cố tình vào và sự cố tình này cũng có lý của nó, vì lúc ấy gần 9 giờ (sáng) mà các vị chưa ăn sáng. Trước đây, thỉnh thoảng có những buổi họp đặc biệt trước giờ điểm tâm, các vị thường gọi tôi vào lo các phần ăn sáng. Tôi nghe các vị nói chen kẻ và qua đó tôi hiểu phần nào mục đích của các vị thuộc trung ương, nhằm thuyết phục Trung Tướng Thi chấp nhận giải pháp sang Hoa Kỳ chữa bệnh một thời gian, nhưng Trung Tướng Thi không đồng ý. Âm thanh của Trung Tướng Thi rất rõ ràng và không kém phần mạnh mẽ, cho phép suy đoán là ông không dễ dàng chịu áp lực của bốn vị Tướng đứng đầu chánh phủ và quân đội. Trong khi các vị ăn trưa ngay trong phòng họp, tất cả các sĩ quan tùy viên và cận vệ của các vị cũng đang dùng bữa tại phòng tôi. Sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Thi nói với tôi là anh cần về nhà Trung Tướng Thi có việc cần, tôi mời anh ngồi xuống và tiếp tục ăn trưa:
“Anh thông cảm cho tôi nghe. Cái nghiệp chánh văn phòng và tùy viên của tụi mình là không có quyền ra lệnh cho ai hết, mà chỉ có nhận lệnh và chuyển lệnh thôi. Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng dặn tôi là tất cả các bạn không nên rời khỏi đây cho đến khi các vị họp xong. Vậy, mời anh hãy tự nhiên với chúng tôi như lúc nào. Thông cảm nghe anh”.
Tôi nghĩ, anh tùy viên muốn ra khỏi đây để báo về nhà Trung Tướng Thi và báo ra Đà Nẳng cho Quân Đoàn biết tình trạng của Trung Tướng Thi, vì rõ ràng là Trung Tướng Thi "bị cưỡng bách" trước mắt anh chớ không phải đến đây để họp như ngày hôm qua.
Cuối cùng cũng không đạt kết quả, nên Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu hẹp quyết định "quản thúc" Trung Tướng Thi, lúc đầu dự trù tại câu lạc bộ Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng sau đó đưa về quản thúc tại nhà ông với sự canh giữ của An Ninh Quân Đội và Quân Cảnh.
Lúc bấy giờ là buổi chiều, trong phòng làm việc của Trung Tướng Viên, cả 4 vị Tướng đều mệt mỏi với nét mặt đăm chiêu, và trong nhiều phút không vị nào lên tiếng, chừng như mỗi vị có cách nghĩ riêng của mình thì phải? Riêng Trung Tướng Thiệu, mặt ông hơi đỏ lên với những giọt mồ hôi lấm tấm hai bên thái dương mặc dù ông vừa từ phòng lạnh bên kia sang phòng lạnh này, chứng tỏ là không khí buổi họp rất căng thẳng. Trước khi ra về, Trung Tướng Viên tạt vào phòng tôi:
“Chú mời "Đại Hội Đồng Quân Lực" họp lúc 10 giờ sáng mai (10/3/1966). Không mời Tư Lệnh Sư Đoàn 1 (Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, tại Huế) và Sư Đoàn 2 (Chuẩn Tướng Hoàng Xuân Lãm, tại Quảng Ngãi). Lý do sẽ cho biết khi họp”.
“Phòng họp nào, thưa Trung Tướng?
“Bên phòng họp số 2”.
“Vâng”.
Đại Hội Đồng Quân Lực có 36 vị, gồm: Tất cả các vị trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia. Các vị Tướng Lãnh. Chỉ Huy Trưởng binh chủng Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Truyền Tin, Quân Vận, và Biệt Động Quân. Các vị Tư Lệnh Quân Chủng, Tư Lệnh Nhẩy Dù, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, đều là Tướng Lãnh, đương nhiên trong thành phần trên rồi. Mỗi lần mời họp đều sử dụng điện thoại, và phải mời các vị ở xa trước để quí vị ấy kịp chuẩn bị phương tiện về Sài Gòn, sau đó mới mời các vị trong Quân Trấn Sài Gòn và lân cận. Mời xong, chưa kịp thu xếp ra về. Lúc ấy màn đêm xuống khá lâu, điện thoại lại reo:
“Trung Tá Hoa tôi nghe”.
“Chú mời xong chưa?
“Dạ vừa xong, thưa Trung Tướng”.
“Chú xác nhận lại với các vị là họp lúc 8 giờ sáng, tức sớm hơn 2 tiếng đồng hồ. Chú ráng làm ngay trong đêm nay”.
“Vâng. Tôi sẽ lần lượt xác nhận lại, thưa Trung Tướng”.
Khi trả lời câu hỏi đầu tiên của Trung Tướng Viên, tôi cứ tưởng sẽ nhận được lời khen của ông, nào ngờ chẳng khen mà lại nhận thêm công tác. Vậy là bắt đầu làm lại. Và cứ theo "bổn cũ" mà làm. Mãi đến gần nửa đêm mới rời văn phòng! Ngày 10 tháng 3 năm 1966. Tại phòng họp số 2, còn có tên là "Tân Sinh Nông Thôn" trong tòa nhà trệt bên kia đường, xéo về bên phải của tòa nhà chánh, Đại Hội Đồng Quân Lực họp dưới sự chủ tọa của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia. Vào phòng họp, tôi cảm nhận ngay bầu không khí căng thẳng, ngột ngạt, vì tất cả các vị đều im lặng. Tuy khi mời không nêu lý do nhưng giữa các vị chắc đã có liên lạc nhau trước nên cũng hiểu được tại sao có buổi họp đặc biệt này. Tôi nhận ra điều này là do vài vị nói chuyện với nhau trước khi vào phòng họp. Mở đầu, Trung Tướng Thiệu tuyên bố lý do. Tiếp đến là Thiếu Tướng Kỳ, rồi Trung Tướng Có, liên tục nêu những lời phát biểu cũng như những hành động của Trung Tướng Thi trong thời gian qua, đã lạm quyền trung ương và chống lại trung ương chẳng khác tình trạng "một sứ quân" hay là "một chánh phủ trong một chánh phủ". Thiếu Tướng Kỳ và Trung Tướng Có nói nhiều nhất, nói hăng nhất. Đúng ra là hai vị luân phiên "hài tội" Trung Tướng Thi nhưng Trung Tướng Thi đang bị quản thúc tại nhà ông, nghĩa là không có mặt trong phòng họp. Những điều mà các vị nêu lên về lời tuyên bố cũng như hành động của Trung Tướng Thi, trước đây báo chí đã đăng tải khi những sự kiện đó xảy ra. Chẳng hạn như Trung Tướng Thi nhân danh Đại Biểu Chánh Phủ, đã ấn định giá biểu từ Huế vào Sài Gòn cho chi nhánh Hàng Không Việt Nam tại Huế và Đà Nẳng. Theo giá biểu này thì thấp nhiều so với giá biểu do Tổng Nha Hàng Không Việt Nam qui định. Đến chuyện Trung Tướng Thi tự ý bổ nhiệm Thiếu Tá Nghĩa (dường như là họ Nguyễn) vào chức vụ Tỉnh Trưởng tỉnh Quảng Tín, sau khi trung ương không chấp nhận đề nghị này. Dĩ nhiên là Thủ Tướng Kỳ vẫn bác bỏ quyết định đó của Trung Tướng Thi. Và v.. v.. Phải thừa nhận rằng, Thiếu Tướng Kỳ cũng như Trung Tướng Thi, mỗi vị đều có những cái đúng và những điều sai, vì cả hai đều có tiếng là nóng tính, dễ giận, nghĩ sao nói vậy, nói tuốt luột những điều mình nghĩ đến mức gọi là "nói thẳng ruột ngựa". Nhưng trường hợp này, theo tôi, Trung Tướng Thi hoàn toàn sai. Quyết định bổ nhiệm Tỉnh Trưởng là quyền của Thủ Tướng tức Thiếu Tướng Kỳ, Đại Biểu Chánh Phủ chỉ có quyền đề nghị mà thôi. Trung Tướng Thi đôi lần đã tuyên bố với báo chí rằng, "các Tướng Lãnh cầm quyền ở trung ương có hành động tham những". Sự kiện đúng hay sai cần phải viện dẫn đầy đủ bằng cớ, chớ Trung Tướng Thi không thể căn cứ vào điều ông nghĩ mà ông tự ý hành động vượt quyền như vậy được. Nếu Trung Tướng Thi cho là các vị Tướng cầm quyền tham nhũng, ông cứ đưa ra tòa với những bằng cớ rành rành thì quan tòa làm sao bao che được. Với lại nếu lời tố cáo của Trung Tướng Thi được minh chứng xác thật với bằng cớ, chắc chắn dư luận -nhất là các cơ quan truyền thông- chẳng ngại ngùng gì mà không lên tiếng ủng hộ, như vậy là sự kiện này càng thêm thuận lợi cho Trung Tướng Thi cũng như thuận lợi cho phiên tòa xét xử. Hoặc Trung Tướng Thi phản đối trung ương bằng cách từ chức là cách hay nhất mà ông có thể làm được. Thậm chí, Trung Tướng Thi có thể đứng ra lãnh đạo cuộc đảo chánh để thành lập một chánh phủ trong sạch lãnh đạo quốc gia, vì đảo chánh không phải là điều xa lạ cũng không phải là điều khó khăn đối với Trung Tướng Thi. Còn trong khi đang tại chức với cấp bậc Trung Tướng, mà ông tự tách mình ra khỏi trung ương để chống đối trung ương thì còn gì là kỹ luật quân đội, còn gì là một chánh quyền thống nhất để bảo vệ quốc gia dân tộc đang bị cộng sản xâm lăng! Sau nhiều tiếng đồng hồ thảo luận gay gắt, đến phần bỏ phiếu kín: "Thuận hay không thuận cách chức Trung Tướng Thi?". Khi kiểm phiếu có 1 phiếu trắng, còn lại đều thuận. Trung Tướng Có, đẩy ghế ra sau, đứng dậy, và lên tiếng: “Trong phòng họp này, chúng ta là những người có trách nhiệm trong Đại Hội Đồng với tư cách thay mặt toàn quân, bỏ phiếu thuận hoặc không, còn phiếu trắng trong trường hợp này là "lưng chừng", không dứt khoát lập trường. Vậy, ai là người bỏ phiếu trắng nên giải thích cho anh em rõ?
Vừa dứt câu, có tiếng ghế đẩy thật mạnh, tất cả cặp mắt của những vị có mặt gần như đồng loạt quay nhìn, và một người dỏng dạc đứng lên. Đó là Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Nhẩy Dù: “Kính thưa Trung Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, kính thưa quí vị. Tôi là người bỏ phiếu trắng. Trung Tướng Thi đã một thời là cấp chỉ huy của tôi trong binh chủng Nhẩy Dù, nên tôi không thể hành động chống Trung Tướng Thi cho dù Trung Tướng Thi có sai trái với quân đội. Tôi vẫn biết rằng, hành động của tôi không làm thay đổi được quyết định chung cuộc, nhưng tôi vẫn làm vì lẽ đó. Và nếu sau này, có điều gì xảy ra với Trung Tướng Viên, tôi vẫn hành động như tôi vừa làm. Và bây giờ, quí vị toàn quyền quyết định về tôi: "Ở lại hay ra khỏi Nhẩy Dù, tôi thi hành ngay". Xin cám ơn”.
Cả phòng họp im phăng phắc. Cuối cùng cũng không có quyết định gì về Chuẩn Tướng Đống, có lẽ các vị thừa nhận tính khẳng khái của vị Tướng Tư Lệnh Nhẩy Dù mà không bàn gì về ông chăng?
Tôi rất khâm phục nghĩa khí và lòng dũng cảm của Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống, ông xứng đáng là vị Tư Lệnh binh chủng Nhẩy Dù. Đành rằng, nếu Đại Hội Đồng Quân Lực có cách chức ông và để ông "ngồi chơi xơi nước" đi nữa, ông vẫn là Tướng Lãnh, nhưng thử hỏi có được bao nhiêu vị Tướng khẳng khái như ông. Sau buổi họp, tôi đến chào Chuẩn Tướng Đống và xin được bắt tay ông, chỉ vì hành động vừa rồi của ông.
Thế là quyết định cách chức Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và Đại Biểu Chánh Phủ tại miền Trung của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu hẹp ngày hôm qua, trở thành quyết định chung cuộc của Đại Hội Đồng Quân Lực hôm nay, mà Đại Hội Đồng Quân Lực trên nguyên tắc là thay mặt toàn quân. Ngay lúc buổi họp vừa chấm dứt, đa số quí vị thành viên Đại Hội Đồng Quân Lực vừa từ từ ra cửa vừa bàn luận tình hình chiến sự gần như là chuyện bên lề, không biết có phải quí vị muốn chuyển sang bầu không khí trách nhiệm thường xuyên để làm nhẹ đi hoặc quên đi cái không khí căng thẳng trong tình đồng đội chen lẫn trong lãnh vực chính trị vừa rồi hay không, nhưng rõ ràng là không khí rộn ràng vui vẻ hẳn lên chớ không nặng nề như lúc ngồi trong phòng họp. Trung Tướng Viên gọi tôi về văn phòng gặp ông: “Chú tìm Chuẩn Tướng Nhuận và mời đến gặp tôi ngay”.
“Hy vọng là tôi tìm được vì nhà Chuẩn Tướng Nhuận ở trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu, thưa Trung Tướng”.
Đó là Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, là một trong chín Đại Tá được thăng cấp Chuẩn Tướng hồi tháng 7/1964 ngay khi Trung Tướng Nguyễn Khánh vừa thiết lập cấp bậc Chuẩn Tướng. Ông đang là Chỉ Huy Trưởng binh chủng Biệt Động Quân.
Rất may, Chuẩn Tướng Nhuận có mặt tại nhà. Vào văn phòng Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng một lúc, khi trở ra ông tạt vào phòng tôi và nói là ông hy vọng tôi giúp ông cho kịp. Nói xong, ông vội vàng đi ngay chừng như thời gian gấp rút lắm. Tôi nói vói theo là tôi "sẽ cố gắng", nhưng thật ra tôi chưa hiểu việc gì tôi phải làm liên quan đến "hy vọng" mà Chuẩn Tướng Nhuận vừa nói, cho đến khi Trung Tướng Viên bấm chuông gọi tôi: “Chú làm ngay mấy việc. Thứ nhất, chú thu xếp lấy chiếc C47 đưa Chuẩn Tướng Nhuận và các sĩ quan tháp tùng ông ra Huế ngay chiều nay (10/3/1966). Thứ hai, điện thoại ra Huế yêu cầu Thiếu Tướng Chuân (Nguyễn Văn Chuân) chuẩn bị và thực hiện công tác bàn giao chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho Chuẩn Tướng Nhuận ngay khi ông Nhuận đến Huế. Sáng ngày mai (11/3/1966), Thiếu Tướng Chuân vào Đà Nẳng nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I. Thứ ba, điện thoại Đại Tá Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I, đón Thiếu Tướng Chuân và trình bày tình hình mới nhất để ông Chuân nắm vững tình hình. Và thứ tư, gởi công điện "hỏa tốc" xác nhận lệnh đó với Quân Đoàn I/Quân Khu I và Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Chú có gì cần hỏi thêm không?
“Dạ không, thưa Trung Tướng”.
Một Thông Cáo của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia được phổ biến trên các làn sóng phát thanh vào buổi tối, theo đó, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đã chấp thuận cho Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I, xuất ngoại chữa bệnh mũi một thời gian. Thông Cáo đơn giản chỉ có thế, nhưng đoạn văn này lại là khởi đầu cho một cuộc khủng hoảng chính trị trong nội tình Việt Nam chúng ta. Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia xem như giải quyết được sự chống đối của Trung Tướng Thi, nhưng lại phát sinh vấn đề khác, giống như nhiều loại thuốc trị bệnh có kèm theo tác dụng phụ của nó vậy. Vấn đề của Trung Tướng Thi là vấn đề lớn, vì nếu không lớn hà tất phải triệu tập Đại Hội Đồng Quân Lực, nhưng vấn đề phát sinh thì lớn hơn nhiều và lâu hơn nhiều. Khủng hoảng bắt đầu. Sự kiện Thủ Tướng là Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ với Đại Biểu Chánh Phủ tại miền Trung là Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi bất đồng nhau trầm trọng, không giới nào trong xã hội là không biết. Ấy vậy mà nội dung Thông Cáo như thế thì làm sao che được mặt bên kia của vấn đề. Xin nhớ rằng, Trung Tướng Thi rất được lòng của khối Phật Giáo miền Trung, trong đó có cả sinh viên, quân nhân Phật tử, và giới chính trị nữa. Cho nên có tệ lắm thì người ta cũng nhận thức được sự kiện Trung Tướng Thi bị trung ương cách chức và đưa đi lưu vong. Thêm nữa, nếu thật sự Trung Tướng Thi đi ngoại quốc chữa bệnh thì cần gì phải Thông Cáo cho toàn dân biết, chỉ cần cái sắc lệnh của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, cho phép Trung Tướng Thi xuất ngoại, đồng thời cử vị Tướng khác thay thế trong thời gian ông ấy vắng mặt là đủ. Chính sự có mặt của bản Thông Cáo ở cấp lãnh đạo quốc gia là điều không bình thường chút nào. Thế là Phật Giáo có phản ứng. Và phản ứng đầu tiên bằng cuộc mít tinh biểu tình tại Đà Nẳng, đòi chánh phủ phục chức cho Trung Tướng Thi. Đòi hỏi này nhanh chóng lan ra Huế và vào vài tỉnh lân cận phía nam Đà Nẳng. Khí thế của các cuộc mít tinh biểu tình ngày càng mạnh mẽ với số người tham gia ngày càng đông, đông đến độ khó ước lượng được là bao nhiêu. Trước tình hình này, tôi cảm thấy các vị lãnh đạo trung ương dường như không tiên liệu đến, hoặc có tiên liệu nhưng tiên liệu không đến mức báo động cao như vậy. Ngay ngày phản ứng đầu tiên của khối người đông đảo tại Đà Nẳng, Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, Trung Tướng Có, với Trung Tướng Viên, họp trong phòng Trung Tướng Viên. Rồi những ngày sau đó là họp liên miên, không giờ giấc gì cả. Chúng tôi lo ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, và ăn tối luôn. Với thành phần như vậy, có thể gọi là "Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu hẹp của thu hẹp", vì không có mặt Trung Tướng Tổng Thư Ký, và hai vị Tướng Tư Lệnh Không Quân với Tư Lệnh Hải Quân. Phải có 3 vị này mới đủ thành phần thu hẹp của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia. Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, được Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia cử vào chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, đồn trú tại Huế và Quảng Trị, rất có thể vì ông là người sinh trưởng tại miền Trung và là một Phật tử, hy vọng ông có thể thuyết phục được những thành phần chống đối. Nhưng ngay khi nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1, ông đã tuyên bố đứng vào "hàng ngũ lực lượng tại Huế chống lại trung ương". Do đó mà ông được xem là Tư Lệnh của lực lượng chống đối tại đây. Sự kiện này cho thấy quí vị trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đã quá đơn giản khi bổ nhiệm một Tướng Lãnh vào một chức vụ rất cần uy tín, bản lãnh, với một phong cách vừa thuyết phục vừa cương quyết, mà theo tôi, Chuẩn Tướng Nhuận không có những yếu tố đó. Tôi không rõ là Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi có đề nghị hay không, mà các vị lãnh đạo quyết định cho ông trở ra Đà Nẳng gọi là để giải thích sự việc với đồng bào, yêu cầu đồng bào chấm dứt những xáo trộn trong khi chánh phủ cần tập trung nỗ lực vào tình hình quân sự. Ngày 17/3/1966, chiếc C47 của Không Quân đưa Trung Tướng Thi ra Đà Nẳng. Trước khi lên phi cơ tại phi trường Tân Sơn Nhất, ông tuyên bố với báo chí rằng:
“Tôi chẳng có bệnh mũi gì cả, mà cho dù có bệnh đi nữa thì tôi cũng điều trị tại Việt Nam chớ không đi nước nào hết. Sự thật là như vậy”
Lời tuyên bố này chính là sự xác nhận rõ ràng và dứt khoát. Cũng có nghĩa là ông đã vạch trần nội dung bản Thông Cáo ngày 10/3/1966 của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia nói về ông. Tôi nghĩ, các vị trung ương chắc đã phải cảm nhận "cái tát" khi xem câu trả lời ngắn ngủi đó trên các báo tại thủ đô Sài Gòn. Rồi sau đó. Cứ mỗi lần Trung Tướng Thi xuất hiện ở Đà Nẳng, Huế, hay Quảng Nam, đều được sự ủng hộ nồng nhiệt của đám đông mít tinh biểu tình. Và những lời tuyên bố của ông đều chung một ý là ông cùng với đồng bào nơi đây chống lại các Tướng Lãnh cầm quyền tại trung ương. Thế là cuộc "khủng hoảng miền Trung" -báo chí thường gọi như vậy- tự dưng được "trung ương" tăng cường thêm hai Tướng Lãnh, do đó mà khí thế càng thêm mạnh! Sai lầm nghiêm trọng của trung ương trong quyết định chọn người vào chức vụ quan trọng, hy vọng sẽ là một trong những bài học lãnh đạo trong tương lai đối với những thế hệ tiếp sau. Tiếp đến, Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu, Tổng Thư Ký Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia bay ra Huế, cũng với hy vọng trong một chừng mực nào đó, ông có thể thuyết phục được Trung Tướng Thi. Ông đến tòa đại biểu chánh phủ (Huế) cùng với Trung Tướng Thi, trong khi bên ngoài đông nghẹt thanh niên sinh viên. Từ trong đám đông đó có người bước ra hỏi Trung Tướng Chiểu:
“Trung Tướng có công nhận hành động của chúng tôi là đúng không?
“Đúng”. Trung Tướng Chiểu trả lời.
“Trung Tướng công nhận là đúng. Vậy Trung Tướng có ở lại Huế với chúng tôi không?
“Có”.
Lập tức, một nhóm thanh niên ùa vào hoan hô Trung Tướng Chiểu và công kênh ông ra xe đưa đến khách sạn bên khu chợ Đông Ba. Nhóm thanh niên này nói là luôn luôn túc trực bên cạnh Trung Tướng Chiểu và ông cần gì cứ gọi họ. Chữ "túc trực" ở đây được hiểu là "canh giữ" Trung Tướng Chiểu.
Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan -cánh tay phải của Thủ Tướng Kỳ- Tổng Giám Đốc Cảnh Sát kiêm Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội, cử nhiều toán Cảnh Sát, An Ninh, Tình Báo dưới quyền ông ra Huế và Đà Nẳng, bám sát tình hình. Mỗi ngày báo cáo hai lần về Phủ Thủ Tướng và thông báo văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng. Còn chính ông, sự đi lại giữa Đà Nẳng với Sài Gòn bất cứ lúc nào mà ông cho là cần thiết.
Ngoài ra, tổng đài điện thoại Cộng Hòa trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu, được lệnh thu băng toàn bộ các cuộc nói chuyện bất cứ là ai, bất cứ từ đâu đến, mà ngang qua hệ thống viễn liên này và trình lên văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng vào đầu giờ buổi sáng, và cuối giờ buổi chiều. Đây là nguồn cung cấp thông tin xác thật nhất về những lời đối thoại giữa các tỉnh miền Trung với Sài Gòn, bất luận người nói chuyện là ai cũng đều thu vào và trình lên tất cả. Nhờ đó mà tôi biết được những lời đối thoại giữa các vị Tướng từ trung ương với vị Tư Lệnh Quân Đoàn I cũng như với các vị Tư Lệnh khác. Tuy có được những công điện mật mã thường xuyên của nhóm an ninh tình báo, cùng với những tờ trình của tổng đài điện thoại Cộng Hòa, nhưng trong những cuộc đàm thoại giữa Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, Trung Tướng Có từ Sài Gòn với Thiếu Tướng Chuân tại Đà Nẳng, thì không thể nào hiểu được tình hình thật sự khi nhìn từ Bộ Tổng Tham Mưu. Trung Tướng Thiệu gọi tôi: “Chú liên lạc với Thiếu Tướng Chuân, hỏi tình hình hôm nay ra sao rồi cho tôi biết”.
“Vâng. Tôi gọi ngay, thưa Trung Tướng”.
Tôi điện thoại ra Đà Nẳng và Thiếu Tướng Chuân đang có mặt tại văn phòng:
“Tôi Hoa đây thưa Thiếu Tướng. Trung Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia muốn biết sự thật của tình hình bây giờ ra sao. Hoặc là Thiếu Tướng tiếp chuyện trực tiếp với Trung Tướng, hoặc tôi sẽ chuyển trình lại Trung Tướng, thưa Thiếu Tướng”.
“Anh trình với Trung Tướng Chủ Tịch là tình hình không có gì đáng ngại đâu. Như thế là được rồi, tôi khỏi phải trình nữa”.
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, những tháng cuối năm 1954 là Trung Tá, Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, lúc ấy tôi là sinh viên sĩ quan trừ bị của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức trong số hơn 200 sinh viên gởi lên đây học, vì Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức không đủ cơ sở. Từ đó, tôi thường liên lạc với ông trong tình thầy trò.
Tôi trình lại Trung Tướng Thiệu thì Trung Tướng Có bảo tôi gọi cho ông nói chuyện trực tiếp với Thiếu Tướng Chuân. Kết quả cuộc đàm thoại đó cũng là những thông tin mà tôi nhận lúc nảy thôi. Một tháng sau ngày cách chức Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, hầu như tất cả sinh hoạt tại Đà Nẳng, Huế, và vài tỉnh lân cận, nói chung là rất xáo trộn, đôi lúc được xem là hỗn loạn nữa. Vì vậy mà phòng làm việc của Trung Tướng Viên trở thành nơi làm việc hằng ngày của Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, và Trung Tướng Có. Hội họp liên tục và những quyết định về tình hình miền Trung cũng như liên quan đến các đại đơn vị khác, đều xuất phát từ đây. Trung Tướng Có quyết định, chính ông phải ra Đà Nẳng để biết rõ tình hình, chớ mờ mờ ảo ảo như thế này thì không thể giải quyết được mà có thể ngày càng trầm trọng đến mức nguy hiểm. Trung Tướng Thiệu và Trung Tướng Viên, khuyên Trung Tướng Có không nên mạo hiểm, vì rất có thể là Thiếu Tướng Chuân đã bị phía chống đối quản thúc canh giữ nên Thiếu Tướng Chuân không thể trình bày sự thật được. Nếu sự thể xảy ra như vậy thì Trung Tướng Có sẽ tự mình dấn thân vào thế bị động của Thiếu Tướng Chuân luôn. Nhưng Trung Tướng Có vẫn giữ nguyên quyết định, và ông đi Đà Nẳng. Đến căn cứ Không Quân Đà Nẳng, Trung Tướng Có gọi về cho biết, con đường từ căn cứ Không Quân đến bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I đầy chướng ngại vật, nhưng phía chống đối mở lối cho xe của Quân Đoàn đến đón ông. Rồi cũng không khác Thiếu Tướng Chuân về cách trình bày tình hình, và Trung Tướng Thiệu tin là Trung Tướng Có đã bị quản thúc cùng với Thiếu Tướng Chuân. Thế là trung ương tiếp tục lún sâu vào thế bị động.
Biện pháp quân sự. Ngày 14/4/1966, trung ương quyết định chuyển quân ra Đà Nẳng để giải quyết tình hình. Nói cho thật đúng là Thiếu Tướng Kỳ quyết định sử dụng biện pháp mạnh. Trung Tướng Thiệu không phản đối nhưng cũng không hẳn là đồng ý, Trung Tướng Viên vẫn như từ ngày đầu đến giờ là không tham gia quyết định nào cả vì ông cho rằng đây là vấn đề chính trị, vấn đề của chánh phủ mà ông chỉ thi hành lệnh thôi. Trước khi ra về, Trung Tướng Viên gọi tôi vào phòng:
“Sáng sớm mai tôi và bộ chỉ huy hành quân ra Đà Nẳng, chú lo mấy việc sau đây: Chuẩn bị giường xếp và lương thực 7 ngày cho 10 người ăn. Chú Có và vài chú trong toán an ninh theo tôi. Chú tìm ngay Trung Tá Mã Sanh Nhơn cùng đi với tôi. Trung Tá Nhơn sẽ là Thị Trưởng Đà Nẳng thay cho Bác Sĩ Mẫn đã theo phía chống đối. Chú liên lạc với văn phòng Thiếu Tướng Kỳ để biết giờ phi cơ Caravelle cất cánh. Chú lo ngay cho kịp”.
Giao công tác lo gường xếp với lãnh lương khô cho Đại úy Có xong, tôi liên lạc với chánh văn phòng của Thủ Tướng Kỳ được biết, bộ chỉ huy hành quân sẽ đi bằng phi cơ Caravelle của Hàng Không Việt Nam và cất cánh lúc 3 giờ sáng trước phòng VIP. Điều tôi lo nhất là không biết có tìm được Trung Tá Mã Sanh Nhơn hay không vì gần đây tôi ít có dịp liên lạc với anh, nhưng cuối cùng tôi cũng tìm được. Khi ra sân bay, tôi thấy có một cô gái người Huế cùng đi với Trung Tá Nhơn, và theo lời Trung Tá Nhơn thì cô này có khả năng giúp anh thuyết phục thanh niên học sinh Đà Nẳng.
Trong cuộc chuyển quân này, Không Quân Hoa Kỳ dứt khoát không cho mượn phi cơ vận tải hạng nặng C130 để chở chiến xa, họ nêu lý do phương tiện chiến đấu chỉ sử dụng trong chiến tranh chớ không can dự vào cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ, nhất là đàn áp đồng bào. Họ nói rất đúng, nhưng liệu lý do đó còn có mặt trái của nó hay không? Hãy chờ. Tại phi trường, tôi được biết Chuẩn Tướng Trần Thanh Phong, Trưởng Phòng 3/Tổng Tham Mưu, đã điều động Thủy Quân Lục Chiến và Nhẩy Dù vào cuộc hành quân này. Ngoài Thủ Tướng Kỳ, Trung Tướng Viên, còn có Thiếu Tướng Lê Nguyên Khang, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến và Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Nhẩy Dù. Từ căn cứ Không Quân Đà Nẳng, Đại Úy Nguyễn Hữu Có, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, điện thoại về tôi:
“Trung Tướng và bộ chỉ huy đã đến nơi và trú đóng trong căn cứ Không Quân. Theo tin tức thì ngoài đường phố đầy nghẹt bàn thờ và người của phía chống đối khi họ biết lực lượng tổng trừ bị ra đây giải quyết tình hình. Có vẻ rắc rối lắm. Trung Tướng Có (tại bộ tư lệnh Quân Đoàn I) tức giận về việc Nhẩy Dù với Thủy Quân Lục Chiến có mặt ngoài này đó anh. Có gì lạ tôi sẽ gọi về anh”.
Vậy là "không khí chiến tranh" giữa trung ương với địa phương rất sẳn sàng xảy ra, nếu như phía trung ương có một hành động nào đó mà phía chống đối cho là khiêu khích. Trong ngày đầu tiên, lực lượng trung ương án binh bất động, phía chống đối củng cố công tác bố trí lực lượng trên đường phố trong tư thế "nghênh chiến". Cái đau ở chổ "cả hai phía đều là phe ta cả!"
Trung Tướng Có điện thoại về phòng Tổng Tham Mưu Trưởng nói chuyện với Trung Tướng Thiệu:
“Tại sao trong khi tôi đang dàn xếp với bên kia thì anh lại đưa quân ra thế này? Bây giờ không còn cách nào nói chuyện với họ được vì họ không tin tôi nữa!
“Ông Kỳ đó”.
“Anh cho rút về ngay đi. Nếu không thì tình hình sẽ nguy hiểm lắm”. “Được. Tôi sẽ cho lệnh rút về”. Trung Tướng Thiệu ngồi tại bàn viết của Trung Tướng Viên, tự ông viết công điện ra lệnh chuyển lực lượng tổng trừ bị về Sài Gòn và ký ngay trên bản thảo đó. Ông gọi tôi:
“Chú đánh máy xong, trình Trung Tướng Viên ký và gởi đi ngay cho tôi. Xong, trình lại tôi”.
“Vâng, tôi làm ngay thưa Trung Tướng”.
Ngay đêm hôm đó (15/4/1966), Thủ Tướng Kỳ và Trung Tướng Viên về lại Sài Gòn, giao cho Chuẩn Tướng Trần Thanh Phong chỉ huy. Lệnh này gây rắc rối, vì Chuẩn Tướng Phong kém cấp bậc và kém thâm niên, nên Thiếu Tướng Khang và Chuẩn Tướng Đống cũng trở về Sài Gòn và trao quyền chỉ huy cho hai vị Tư Lệnh Phó của hai ông.
Tôi thuật lại cuộc nói chuyện giữa Trung Tướng Thiệu với Trung Tướng Có, đồng thời trình công điện "hỏa tốc" (có nghĩa là phải gởi ngay) cho Trung Tướng Viên mà tôi đã đánh máy xong. Ông không nhìn vào mà nói:
“Chú để trên bàn cho tôi”.
Sáng hôm sau, Trung Tướng Thiệu đến sớm trong khi Trung Tướng Viên chưa đến, khi đi ngang bàn tôi ông ra hiệu tôi theo ông vào phòng:
“Chú làm xong chưa?
“Thưa Trung Tướng, xong rồi, nhưng Trung Tướng Viên chưa ký”.
“Tại sao?
“Tôi không rõ, thưa Trung Tướng”.-
“Khi Trung Tướng Viên tới là chú trình ngay cho tôi”.
“Vâng”.
Trung Tướng Viên đến, và sau khi ông điện thoại với Thiếu Tướng Kỳ, tôi không rõ là Thiếu Tướng Kỳ nói gì mà Trung Tướng Viên duyệt ký công điện đó. Lực lượng rút về xong thì Trung Tướng Có cũng được phía chống đối cho “tự do” sang căn cứ Không Quân về Sài Gòn. Trung Tướng Chiểu từ Huế cũng vậy. Trung Tướng Tôn Thất Đính, một trong năm vị Tướng bị ba vị trong nhóm lãnh đạo “Chỉnh lý ngày 30/1/1964” quản thúc tại Đà Nẳng rồi chuyển lên quản thúc ở Đà Lạt, 3 tháng sau đó được tự do nhưng không được giữ các chức vụ có quân có quyền. Trường hợp như vậy báo chí thường gọi là “Tướng không quân”. Trung Tướng Đính ngỏ ý với bà Cao Văn Viên mà ông tin chắc là đến tai Trung Tướng Viên, và rồi Trung Tướng Thiệu với Thiếu Tướng Kỳ cũng biết. Theo đó, Trung Tướng Đính bắn tiếng rằng: “Nếu được tín nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I, ông có khả năng giải quyết được tình hình một cách êm dịu”. Bà Viên nói cho tôi nghe như vậy. Và chắc là nghe xuôi tai, với lại trong khi chưa chọn được vị nào khác, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu hẹp, quyết định cử Trung Tướng Tôn Thất Đính vào chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I thay Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, và tôi được lệnh lo phi cơ đưa ông và các sĩ quan tháp tùng ra Đà Nẳng. Ngày hôm sau, một mẫu tin trên nhiều nhật báo tại thủ đô Sài Gòn có nội dung vắn tắt như thế này:
“Trước khi lên phi cơ, Trung Tướng Đính tuyên bố là cọp về rừng”.
Đúng là “cọp lại về rừng”, vì sau khi Trung Tướng Đính nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I thì ông tuyên bố tại Đà Nẳng cũng như sau đó tại Huế, là ông chờ ngày này đã lâu lắm rồi. Đồng thời ông nói thẳng ra rằng ông đứng về phía lực lượng chống đối trung ương. Thế là không khí đấu tranh trong hàng ngũ chống đối chánh phủ càng thêm hăng hái, vì có thêm một Tướng lãnh vừa từ trung ương ra là chống lại trung ương ngay.
Lúc này hầu hết vũ khí dự trữ trong các kho Tiếp Vận tại Huế và Đà Nẳng, đều bị phía chống đối lấy trang bị cho lực lượng của họ. Tư Lệnh lực lượng chống đối tại Huế là Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận. Tại Đà Nẳng, phía chống đối tổ chức một Quân Đoàn lấy tên là “Quân Đoàn Trần Hưng Đạo” do Đại Tá Đàm Quang Yêu giữ chức Tư lệnh. Có một số Cảnh Sát và quân nhân Phật tử tham gia. Nói là Quân Đoàn nhưng thật ra chỉ là một số quân nhân và cảnh sát Phật tử tập hợp lại thôi, chớ có tổ chức Sư Đoàn Trung Đoàn gì đâu. Còn Đại Tá Đàm Quang Yêu, đang là Chỉ Huy Trưởng Đặc Khu Quảng Đà (tức Quảng Nam Đà Nẳng), được phía chống đối đưa ông vào chức Tư Lệnh Quân Đoàn Trần hưng Đạo. Theo đề nghị của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội, đang có mặt tại Đà Nẳng, Trung Tướng Viên bảo tôi liên lạc với Cục Quân Cụ (quản trị các loại dụng cụ chiến tranh) đưa lên căn cứ Không Quân 500 khẩu súng trường loại MAS 36 (do Pháp sản xuất từ đệ nhị thế chiến) mà Cục không cần biết lý do. Không Quân chuyển số súng này ra Đà Nẳng và dùng trực thăng đưa đến hai Quận phía bắc thành phố Huế, trang bị cho các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Lực lượng tình nguyện sẽ chống cộng sản và chống cả lực lượng đang chống đối trung ương. Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu hẹp, đã lần lượt thất bại trong việc chọn người giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I sau khi cách chức Trung Tướng Thi, ngay việc hai vị Tướng lãnh từ trung ương ra Huế và Đà Nẳng tìm hiểu và giải quyết tình hình tại chỗ, cũng đều thất bại. Từ những thất bại đó, những va chạm qua lại đã xảy ra là điều không tránh khỏi, và trong nội bộ đã hình thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất gồm: Trung Tướng Thiệu, Trung Tướng Có, và Trung Tướng Đặng văn Quang, Tư Lệnh Quân Đoàn IV. Và nhóm thứ hai gồm: Thiếu Tướng Kỳ, Trung Tướng Viên, Thiếu Tướng Khang, và Chuẩn Tướng Đống. Sở dĩ tôi dùng chữ “Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia thu hẹp” vì những quyết định đều do những vị trong số 4 vị trên đây đưa ra chớ không phải đầy đủ trong thành phần Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia 11 người. Trình bày như vậy, tôi có ý lách phần trách nhiệm của 7 vị còn lại trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia không có mặt trong những quyết định liên quan trực tiếp đến tình hình xáo trộn gần hai tháng qua. Với lại chữ “thu hẹp” mà tôi dùng ở đây cũng không hoàn toàn đúng nghĩa nữa, mà phải gọi là “thu hẹp của thu hẹp”'. Trong khi đó, các vị lãnh đạo phía chống đối chuyển mục tiêu đấu tranh sang đòi xây dựng một chế độ dân cử. Mục tiêu của phía chống đối, bước đầu là phục chức cho Trung Tướng Thi, khi Trung Tướng Thi về lại Đà Nẳng thì chuyển sang bước thứ hai là đấu tranh đòi Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, và Trung Tướng Có từ chức, và bây giờ là bước thứ ba hoàn toàn về chính trị. Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, rõ ràng là từ lúc khởi đầu đến bây giờ đều trong thế bị động, tuy đã có nhiều cố gắng để tái lập ổn định tình hình nhưng tất cả đều không thành công. Từ đó dẫn đến rạn nứt trong nội bộ thành hai nhóm, và nếu tình trạng này không sớm chấm dứt thì rồi đây đất nước sẽ như thế nào? Danh dự và trách nhiệm đối với quốc gia dân tộc, quí vị quên rồi sao? Lẽ nào lại thế! Dù thế nào đi nữa thì Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, cũng phải tìm một vị Tướng khác ra thay Trung Tướng Đính, và vị đó là Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao. Thiếu Tướng Cao từ sau cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963, chỉ giữ những chức vụ không có quân trong tay và những chức vụ cũng chẳng có gì quan trọng theo đúng nghĩa của nó. Các vị chọn Thiếu Tướng Cao cũng là điều khó hiểu, vì Thiếu Tướng Cao là tín đồ Thiên Chúa Giáo. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, ông rất được tín cẩn. Bây giờ được cử vào chức vụ có trách nhiệm giải quyết cuộc khủng hoảng với Phật Giáo, thì liệu mức độ thành công có được bao nhiêu! Lại thêm một chọn lựa liều lỉnh nữa chăng? Khi Thiếu Tướng Cao từ phòng Trung Tướng Viên bước ra, chẳng những ông không có được nụ cười như lệ thường mà trái lại nét mặt của ông chứng tỏ rằng ông rất lo âu về chức vụ mà Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia vừa giao cho ông. Nếu nhận xét cho thật đúng thì Thiếu Tướng Cao sợ hãi! Đây là lần thứ tư tôi được lệnh lo phi cơ đưa vị Tướng ra Đà Nẳng nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I trong một tình hình rối ren nội bộ. Chỉ vài ngày sau khi Thiếu Tướng Cao có mặt tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, sau giờ làm việc chiều trở về, điện thoại nhà tôi reo:
“Trung Tá Hoa tôi nghe”.
“Chú liên lạc tìm sĩ quan tùy viên của Thống Tướng Westmoreland hỏi xem giờ nào phi cơ cất cánh và bãi đậu ở đâu?
“Thưa Trung Tướng, tôi chưa rõ việc này, xin Trung Tướng cho lệnh rõ hơn”.
“Tôi cần đi Đà Nẳng ngay bây giờ. Ông Westmoreland cho tôi mượn chiếc phi cơ U 21 của ổng. Chú hỏi rồi cho tôi biết ngay”.
Thống Tướng William C. Westmoreland, đang là Tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam. U 21 là chiếc phi cơ phản lực, dường như 8 chỗ ngồi mà Không Lực Hoa Kỳ dành riêng cho ông. Mọi thu xếp xong xuôi, và phi cơ cất cánh lúc 8 giờ tối tại bãi đậu của Không Quân Hoa Kỳ, và trên phi cơ chỉ một hành khách duy nhất là Trung Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng. Trung Tướng Viên 3 ngôi sao, Thống Tướng Westmoreland 4 ngôi sao, phối hợp nhau trong mọi vấn đề rất chặt chẻ. Mỗi tuần vào đầu giờ làm việc chiều thứ hai đều họp cấp cao tại văn phòng Trung Tướng Viên, giải quyết những vấn đề vượt quá trách nhiệm của hai bộ tham mưu, hoặc vì hai bộ tham mưu không đồng quan điểm nên chưa giải quyết được. Ngoài ra, Thống Tướng Westmoreland còn cử một Đại Tá (lúc đó là Đại Tá Freund, ông này thường nói tiếng Pháp), làm sĩ quan liên lạc của ông và có văn phòng tại Bộ Tổng Tham Mưu (ở tầng trệt tòa nhà chánh). Trước khi lên phi cơ, Trung Tướng Viên dặn tôi: “Chú chờ tôi ở đây và rất có thể là tôi về khuya lắm”.
Tôi muốn biết chuyện gì xảy ra, nên điện thoại hỏi bà Viên vì tôi tin là bà biết. Và đúng như vậy, bà Viên cho biết:
“Thiếu Tướng Cao nói ổng bị ông Loan (Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan) cho người mưu sát ổng ngay tại văn phòng, nên ổng đã bỏ Quân Đoàn chạy sang tị nạn bên Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đệ Tam Thủy Bộ Hoa Kỳ. Trung Tướng ra đó giải quyết ngay trong đêm”.
Bỗng dưng tôi có dịp quan sát căn cứ Không Quân về đêm. Dưới ánh sáng như ban ngày do hệ thống đèn pha cực mạnh, những bộ phận chuyên viên bảo trì phi cơ và chuẩn bị bom đạn với hỏa tiển để phi cơ sẳn sàng cất cánh lên đường ra trận. Những toán quân nhân làm đêm, không phân biệt Việt Nam hay Hoa Kỳ, đều hoạt động liên tục. Cứ độ nửa tiếng đồng hồ là chiếc xe bán thức ăn nước uống của Hoa Kỳ đến để bán cho các quân nhân Việt Mỹ. Làm việc ban đêm là một nhiệm vụ cấp trên giao phó, nhưng nhìn vào cung cách và thái độ của những quân nhân chuyên viên đó, tôi nhận thấy tấm lòng của họ, tấm lòng của “Người Lính Không Quân” đối với “Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm”. Xứng đáng biết bao hỡi những chiến sĩ Không Quân âm thầm trong đêm tối.
Trung Tướng Viên về đến lúc 3 giờ sáng. Trước khi lên xe, ông đưa tôi cái thơ không niêm, và nói:
“Tôi về nhà luôn. Chú ghé đưa thư này cho bà Cao và nói rằng, Thiếu Tướng Cao nhờ trao tận tay. Ngoài ra ông Cao không có dặn gì thêm”.
Nhà Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao trong cư xá Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng tôi không ghé ngay mà tôi vào luôn văn phòng. Tôi muốn biết tình hình xảy ra như thế nào và tôi nghĩ là thư của Thiếu Tướng Cao có thể có những thông tin liên quan đến. Thế là tôi sao chụp một bản trước khi ghé nhà Thiếu Tướng Cao trao cho bà ấy. Sỡ dĩ tôi hành động như vậy là vì từ cái đêm Tổng Thống Diệm ra lệnh thiết quân luật 20/8/1963 để lùng bắt Thượng Tọa Thích Trí Quang cho đến nay, tôi ghi chép những sự kiện xảy ra, và đồng thời sao chụp các bản tài liệu kèm theo bản văn ghi chép theo câu “nói có sách mách có chứng”, để sau này cung cấp cho những sử gia hoặc giả tôi sẽ đăng báo hoặc viết thành sách. Một phần những bản văn ghi chép cùng những bản sao chụp có được, tôi đã thiêu hủy trước khi vào tù tháng 6/1975, chỉ còn lại “tài sản” lưu giữ trong ký ức và một bao đựng những trang giấy viết tay do quân cộng sản lục soát khám xét và xé bỏ tung tóe trước khi bọn họ rời khỏi nhà tôi. Năm 1986, tôi thuật lại cho các bạn trong phòng giam số 1 trại tù Nam Hà nghe trong 9 đêm liền. Thuật lại như vậy, tôi nghĩ, sự lưu giữ trong ký ức sẽ được dài lâu vì phát ra cũng có nghĩa là thu lại, và mặt khác, trong số các bạn trong phòng giam có những bạn chứng kiến tận mắt hoặc đã tham gia một số sự kiện tại địa phương trong thời ấy như Đại Tá Đàm Quang Yêu chẳng hạn, xác nhận những gì tôi thuật. Có lẽ nhờ vậy mà những gì “tồn trữ trong ký ức” của tôi đã giúp tôi hoàn thành quyển “Đôi Dòng Ghi Nhớ”, góp mặt trong hằng loạt sách hồi ký xuất bản tại hải ngoại. Trở lại thư của Thiếu Tướng Cao. Tôi biết hành động như vậy là không đúng, nhưng tôi muốn có dữ kiện ghi chép chính xác. Tôi không biện minh cho việc tôi làm, nhưng rõ ràng là tôi không hề có ý định gì ngoài điều tôi vừa trình bày. Thư ông chưa đầy trang giấy, chỉ vắn tắt rằng : “..... Vì có người ám hại nên ông phải ra ngoại quốc tìm kế mưu sinh và sẽ gởi tiền về giúp đỡ gia đình. Cuối cùng, ông cầu xin Đức Mẹ che chở cho vợ con ông”. Ngày hôm sau, tôi được bà Viên cho biết thêm như thế này:
“Nhận chức xong, Thiếu Tướng Cao duyệt lại tình hình từng nơi, đặc biệt là ông chú trọng đến Đà Nẳng và Huế. Ông thấy cần ra Huế để nắm vững tình hình tại đây về lực lượng dưới quyền ông cũng như lực lượng của phía chống đối. Thiếu Tướng Cao đến Huế bằng trực thăng của Hoa Kỳ, khi chuẩn bị đáp thì từ đám đông phía dưới có người bắn lên và xạ thủ trên trực thăng đã bắn chết người đó. Ông quay về Đà Nẳng. Rồi ngay trong phòng làm việc của ông tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, bất ngờ ông phát hiện kịp thời một sĩ quan của ông Loan (Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan) dí súng vào đầu ông từ phía sau, nhưng đúng lúc có một sĩ quan Hoa Kỳ bước vào nên hắn không hành động được. Ông Cao quá tức giận và nói cho ông Loan biết là ông sẽ rời bỏ Quân Đoàn. Ông Loan quì xuống ôm chân Thiếu Tướng Cao và nói trong vội vàng: 'Thiếu Tướng hiểu lầm rồi, không có chuyện mưu sát gì đâu. Tôi lạy Thiếu Tướng, xin Thiếu Tướng đừng bỏ Quân Đoàn. Ngay sau đó, ông Cao sang Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đệ Tam Thủy Bộ Hoa Kỳ xin Tướng Waltz -Tư Lệnh- giúp cho ông sang Hoa Kỳ tị nạn chính trị. Thiếu Tướng Cao viết thư đó tại văn phòng Tướng Waltz”.
Lại biện pháp quân sự. Trở lại văn phòng của Trung Tướng Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng. Từ sau ngày Thiếu Tướng Cao bỏ Quân Đoàn I, các vị Tướng lãnh đạo quốc gia và quân đội, gần như làm việc bất kể ngày đêm tại phòng làm việc của Trung Tướng Viên, có hôm đến nửa đêm mới rời nơi đây. Trong một buổi tối, vẫn là Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, Trung Tướng Có, và Trung Tướng Viên, và đây là lần đầu tiên Trung Tướng Viên trình bày quan điểm của ông một cách mạnh mẽ, ông nhân danh Tổng Tham Mưu Trưởng, ông không chấp nhận một quân đội trong một quân đội như tình trạng hiện nay. Và ông đề nghị với các vị có mặt là phải dùng biện pháp quân sự để giải quyết dứt khoát tình hình. Buổi họp đi đến quyết định là chấp thuận kế hoạch của Trung Tướng Viên, và ngày 15/5/1966 là ngày chuyển quân ra Đà Nẳng. Lần chuyển quân này được phía Hoa Kỳ trực tiếp cung cấp vận tải cơ hạng nặng C130 và vận tải hạm chở chiến xa từ Sài Gòn ra phi cảng và hải cảng Đà Nẳng. Vẫn Thủy Quân Lục Chiến và Nhẩy Dù như lần trước, cộng thêm lực lượng Thiết Giáp. Và rồi diễn tiến cuộc “hành quân” giải tỏa tình hình hỗn loạn tại Đà Nẳng được thực hiện rất thuận lợi, không một cuộc nổ súng nào xảy ra giữa lực lượng chánh phủ với lực lượng chống đối, ngoại trừ tại một ngôi chùa nhỏ có vài phát súng bắn ra nhưng không gây thiệt hại nào. Tại Huế cũng trong một tình hình tương tự như vậy. Đại Tá Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Phó Nhẩy Dù, được cử ra phía bắc Huế tiếp xúc với một Trung Đoàn của Sư Đoàn 1 Bộ Binh ủng hộ trung ương, tiến vào thành phố Huế với nhiệm vụ giải tỏa lực lượng chống đối. Nhiệm vụ hoàn thành trong yên tịnh. Sự kiện gần như trái ngược với dự đoán của giới truyền thông cũng như của nhiều thành phần khác trong xã hội khi được biết trung ương lại đưa quân ra Đà Nẳng. Bởi vì trước đó một tháng, trung ương đã chuyển quân ra Đà Nẳng, và đã thất bại nên rút quân về. Rõ ràng là có một điều gì khó hiểu, vì lực lượng chống đối đang bừng bừng khí thế, bỗng dưng tịt mất hoàn toàn như ngọn đèn đang sáng thì tắt phụt khi có người ngắt dòng điện vậy. Phải chăng khi không khí mít tinh biểu tình lên đến cường độ nào đó thì có thêm ngọn đèn xanh, và đến lúc này thì đèn xanh tắt và đèn đỏ được “ai đó” bật lên hay không? Xin quí vị nhớ lại cuộc chuyển quân ngày 15/4/1966, Hoa Kỳ khước từ yểm trợ phương tiện vận tải hàng không với lý do không bàn cãi vào đâu được, thế nhưng cuộc chuyển quân lần này cũng cùng mục tiêu như lần trước, lại được yểm trợ đầy đủ theo nhu cầu. Liệu quyết định như vậy có liên quan đến “ai đó” nói trên hay không? Xin lược lại vài sự kiện gần như có mối liên hệ với nhau để dẫn đến tình hình vừa nêu. Thứ nhất, là sau ngày lực lượng chống đối nêu yêu sách đòi tiến đến sinh hoạt dân chủ mà bước đầu là bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để soạn thảo Hiến Pháp, thì Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia tuyên bố chấp nhận tổ chức bầu cử quốc hội vào tháng 9/1966. Tôi nghĩ, chắc là Hoa Kỳ có ảnh hưởng nếu không nghĩ là họ áp lực đến quyết định này. Thứ hai, là Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, trước đó ông không có ý kiến gì về những quyết định của những vị lãnh đạo quốc gia, nhưng bất ngờ ông đưa đề nghị biện pháp quân sự và cuộc hành quân đã diễn ra thật tốt đẹp. Đúng ra khi nói đến hành quân phải nói đến chiến thắng, nhưng tôi thấy không ổn nếu dùng chiến thắng để chỉ cuộc hành quân này, vì “phe ta đánh phe mình” với lại “bất chiến tự nhiên thành”. Về đề nghị của Trung Tướng Viên, liệu ông có biết là đèn xanh cho phía chống đối đã tắt và đèn đỏ đã bật lên chăng? Cho dù các câu hỏi có đặt ra hay không thì những sự kiện cùng những quyết định nói trên đã diễn tiến rất nhịp nhàng, và những ai quan tâm đến đất nước, có thể đã tự hỏi như vậy, hay hơn thế nữa. Và thứ ba, cũng có thể là vị nào đó, khi thấy Trung Tướng Thi bị cách chức liền nhập cuộc với những thành phần ủng hộ Trung Tướng Thi, và dần dần nắm quyền lãnh đạo cuộc chống đối trung ương, từng bước đòi hỏi tiến đến xây dựng cơ cấu dân chủ trong sinh hoạt quốc gia, khi được trung ương chấp nhận bầu cử Quốc Hội Lập Hiến thì xem như mục tiêu đấu tranh đạt được nên ra lệnh chấm dứt chăng? Nhưng trong trường hợp này, có phải là Trung Tướng Viên đã mạo hiểm trở lại quyết định của Thủ Tướng Kỳ đã không thành công cách đó một tháng không? Nếu đúng như vậy, quả là Trung Tướng Viên rất dũng cảm cho cuộc mạo hiểm của ông nhưng tình cờ lại đúng thời cơ. Nhìn lại chuỗi biến cố. Và tôi cũng tự hỏi: “Liệu từ cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963 của Trung Tướng Dương Văn Minh, cuộc Chỉnh Lý ngày 30/1/1964 của Trung Tướng Nguyễn Khánh với Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, rồi cuộc Biểu Dương Lực Lượng ngày 13/9/1964 của Trung Tướng Dương Văn Đức, đến Thiếu Tướng Lâm Văn Phát đảo chánh Trung Tướng Nguyễn Khánh ngày 19/2/1965, rồi quân đội nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc gia ngày 19/6/1965, và cuộc khủng hoảng này từ ngày 9/3/1966, có liên quan với nhau trong một chuỗi biến cố chính trị, hay chỉ là những sự kiện riêng lẽ? Nếu riêng lẽ, thì tại sao trong cuộc “Đảo Chánh” Tổng Thống Ngô Đình Diệm có một người Mỹ (Trung Tá Conein) trong phòng Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, bản doanh của Hội Đồng Quân Nhân lãnh đạo đảo chánh từ lúc bắt đầu đến khi Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu bị giết chết? Tại sao trong cuộc “Chỉnh Lý” của Trung Tướng Nguyễn Khánh, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, và Đại Tá Cao Văn Viên, cũng có một người Mỹ tại bản doanh ngay trong tư dinh của Trung Tướng Nguyễn Khánh từ đầu đến cuối? Tại sao viên chức tình báo tại tòa đại sứ Hoa Kỳ ra lệnh cho Trung Tướng Dương Văn Đức (ngang qua Trung Tá Tạ thành Long), người đứng đầu cuộc “Biểu Dương Lực Lượng” phải rút quân về vị trí? Tại sao Trung Tướng Nguyễn Khánh yêu cầu ông Đại Sứ Taylor giúp đỡ khi bị Thiếu Tướng Lâm Văn Phát “Đảo Chánh” thì ông trả lời là không can thiệp vào nội bộ chính trị của Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời khuyên Trung Tướng Nguyễn Khánh nên ra ngoại quốc? Rồi tại sao Hoa Kỳ chuẩn y không văn bản cho Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ sau khi Tướng Tư Lệnh Không Lực Hoa Kỳ có lời ủng hộ? Và tại sao Hoa Kỳ không giúp không vận và hải vận chuyển quân và chiến cụ ra Đà Nẳng lần thứ nhất trong khi lực lượng chống đối trung ương với khí thế rất mạnh, đến cuộc chuyển quân và chiến cụ lần thứ nhì chỉ cách đó một tháng thì Hoa Kỳ yểm trợ hoàn toàn, cùng lúc với sự tê liệt (hoặc hiểu theo cách nào đó cũng tương đương như vậy) của lực lượng chống đối tại Đà Nẳng cũng như tại Huế? Hoặc tất cả những sự kiện đó là một chuỗi biến cố chính trị liên quan với nhau? Vì Tổng Thống Ngô Đình Diệm không đồng ý để Hoa Kỳ thiết lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam theo chiến lược Domino của họ, nên ông bị các Tướng Lãnh của ông lật đổ với ngọn đèn xanh của ông Đại Sứ Hoa Kỳ, nhân chính sách không bình đẳng tôn giáo lên cao điểm. Rồi họ không muốn vương vấn chút ảnh hưởng nào của Pháp trong giới Tướng Lãnh Việt Nam nên nhóm Tướng thân Pháp (Trung Tướng Minh, Trung Tướng Đôn, ...) bị hạ bệ, đồng thời gầy dựng nhóm Tướng cầm quyền thân Mỹ (Trung Tướng Khánh, Trung Tướng Khiêm). Khi Trung Tướng Khánh “lên ngôi”, chỉ thỏa mãn nhu cầu chiến lược Domino mà không thực hiện chế độ dân cử, để rồi cuộc biểu dương lực lượng của Trung Tướng Đức là một cảnh cáo của Hoa Kỳ đối với Trung Tướng Khánh phảng phất tính độc tài. Tiếp đến là Thiếu Tướng Phát với Sư Đoàn 25 Bộ Binh trong tay nhưng không đủ bản lãnh lật đổ, lại là cơ hội tốt giúp cho Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, đẩy luôn Trung Tướng Nguyễn Khánh lưu vong. Vài tháng sau đó, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, và Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, nhân danh quân đội nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc gia theo yêu cầu của chánh phủ dân sự Phan Huy Quát. Đây là lời yêu cầu trên văn bản, nhưng văn bản còn có mặt trái hay không thì tôi không rõ. Nhưng vẫn chưa thực hiện chế độ dân cử (theo tôi, là do yếu tố an ninh hơn là yếu tố độc tài quân phiệt) cho đến khi cuộc “Khủng Hoảng Miền Trung” đòi hỏi mới chấp nhận. Liệu sự chấp nhận bầu cử Quốc Hội Lập Hiến có phải là sự thúc giục của Hoa Kỳ từ phía sau, hay thật sự là do phía chống đối đòi hỏi? Nhưng rõ ràng là đến lúc này thì Hoa Kỳ hài lòng và kết thúc chuỗi biến cố chính trị mà họ điều hướng trong 3 năm qua. Nếu đúng như vậy thì tại sao Hoa Kỳ phải kiên nhẫn trong một thời gian khá dài với một thái độ âm thầm nhưng rất hiệu quả để hướng đến một chế độ dân cử? Ta biết rằng, cơ chế thượng tầng kiến trúc của Hoa Kỳ gồm Lập Pháp, Hành Pháp, và Tư Pháp, được tổ chức và điều hành theo quan niệm “Kiểm Soát và Cân Bằng”, nhưng Quốc Hội có tiếng nói mạnh hơn về chính sách viện trợ ngoại quốc. Trong chính sách này, tiêu chuẩn có tính cách quyết định viện trợ hay không viện trợ là chế độ “dân chủ hay không dân chủ” tại quốc gia mà họ cứu xét viện trợ. Vì vậy mà Hành Pháp Hoa Kỳ khi thực hiện chiến lược quân sự tại Việt Nam Cộng Hòa, vẫn phải trong khuôn khổ chính sách viện trợ của Lập Pháp. Điều đó có nghĩa là, khi Hành Pháp sử dụng các Tướng Lãnh lật đổ chế độ dân cử Việt Nam Cộng Hòa, thì họ phải bằng mọi cách xây dựng lại chế độ dân cử để tránh áp lực của Lập Pháp, ảnh hưởng đến chiến lược quân sự tại Á Châu của họ. Và họ đã thành công, tuy cũng gần 3 năm sau kể từ ngày lật đổ Tổng Thống Ngô đình Diệm. Trở lại tình hình Miền Trung. Dưới quyền của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, các thành phần Cảnh Sát và An Ninh Quân Đội lần lượt bắt giữ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Trung Tướng Tôn Thất Đính, Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, và Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận. Riêng Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân đã theo lệnh về Sài Gòn họp và bị giữ từ hạ tuần tháng 4/1966. Ngoài ra, lực lượng an ninh còn bắt giữ nhiều người nữa, trong số đó có Đại Tá Đàm Quang Yêu, Tư Lệnh Quân Đoàn Trần Hưng Đạo của phía chống đối, và bác sĩ Mẫn, Thị trưởng Đà Nẳng.
Song song với công tác bắt giữ một số nhân vật, là công tác bổ nhiệm các nhân vật khác thay thế: (1) Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh, nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I. (2) Đại Tá Ngô Quang Trưởng, nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. (3) Đại Tá Phan Hòa Hiệp, nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh. (4) Trung Tá Lê Chí Cường, đang là Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu, nhận chức Thị Trưởng Đà Nẳng.
Tiếp đó là nhiều chức vụ trưởng cơ quan đơn vị tại Đà Nẳng và Huế đã tích cực tham gia lực lượng chống đối trung ương, đều bị thay thế.
Một quyết định đãi ngộ dành cho những sĩ quan được xem là có công được ban hành không văn bản, mà chỉ bằng điện thoại do văn phòng tôi phụ trách chuyển đến vị Tư Lệnh Nhẩy Dù, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến, và Chỉ Huy Trưởng binh chủng Thiết Giáp. Rằng, những sĩ quan do các vị Tư Lệnh và Chỉ Huy Trưởng chọn và đề nghị lên Tổng Tham mưu Trưởng, sẽ được du lịch Hong Kong một tuần lễ. “Sự vụ lệnh” do Bộ Quốc Phòng cấp với lý do “công vụ đặc biệt”. Với lý do như vậy, các sĩ quan sẽ được ngân sách quốc phòng đài thọ tiền vé phi cơ khứ hồi cùng với khoản tiền trên căn bản tiền công tác ngoại quốc mỗi ngày nhân lên cho 7 ngày. Ngoài ra, vị trưởng đoàn được cấp thêm một khoản nữa gọi là phụ cấp ngoại giao. Có tất cả 4 danh sách và mỗi danh sách gồm 7 sĩ quan. Được quyền đưa vợ tháp tùng và trường hợp này thì Bộ Quốc Phòng chỉ đài thọ tiền vé phi cơ mà thôi. Danh sách khi được Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng duyệt y (thật ra Trung Tướng Viên không thêm bớt một sĩ quan nào) thì văn phòng chúng tôi làm mọi việc và mang tay lên Bộ Quốc Phòng trao cho chánh văn phòng. Tiếp đó là ông Tổng Trưởng ra lệnh cho Tổng Giám Đốc Tài Chánh và Thanh Tra Quân Phí làm thủ tục ngay. Nghĩa là thủ tục rất nhanh chóng. Hai vị Tư Lệnh Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đứng đầu danh sách của binh chủng. Đầu tháng 7 năm 1966, Trung Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, gọi tôi vào văn phòng và ra lệnh: “Chú mời các vị trong Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt về họp trong hai ngày 8 và 9 (7/1966) tại phòng họp số 2 (tức phòng họp Tân Sinh Nông Thôn). Chú liên lạc với An Ninh Quân Đội tổ chức thu băng để làm biên bản. Không một ai được vào phòng khi đang họp. Chú lo thức ăn trưa tại chỗ”. “Thưa Trung Tướng, về an ninh phòng họp có cần tổ chức đặc biệt hay như thường lệ?
“Không cần đặc biệt lắm đâu, tùy chú xem tình hình mà thích ứng. Chú mời các vị Tướng bị giữ vào phòng bên cạnh, chú phải luôn luôn có mặt tại chỗ và lo ăn sáng ăn trưa cho các ổng. Chú lần lượt mời từng vị vào phòng họp của Hội Đồng mỗi khi tôi thông báo”.
Thành phần Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt, không phải là thành phần của Hội Đồng Quân Lực, vì chỉ gồm các Tướng Lãnh mà thôi. Ngày họp. Bàn ghế trong phòng họp được xếp theo hình chữ U, đáy chữ U là bàn của chủ tọa đoàn, gồm: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Trung Tướng Cao Văn Viên, và Trung Tướng Linh quang Viên trong chức vụ Thư Ký của Hội Đồng, phụ trách đọc các bản cáo trạng. Còn trên đầu chữ U có bục gỗ dành cho vị Tướng “bị cáo”, tạm gọi là “vành móng ngựa”. Bên góc trái cuối phòng họp có cái phòng nhỏ được thiết trí máy thu băng và máy khuếch đại âm thanh. Chỉ có chuyên viên truyền tin và sĩ quan An Ninh được ra vào phòng này. Trước cửa có Quân Cảnh gác. Phía sau lưng phòng họp là một phòng khá rộng dành cho 5 vị Tướng “bị cáo” ngồi chờ đến lượt, đồng thời cũng là nơi mà văn phòng tôi lo ăn sáng ăn trưa cho quí vị ấy. Tôi được ra vào phòng họp lẫn phòng thu băng. Buổi họp bắt đầu. Trung Tướng Thiệu, rồi Thiếu Tướng Kỳ, trình bày lý do với các vị Tướng Lãnh thành viên của Hội Đồng, cũng là cách cung cấp cho các thành viên nắm được nguyên nhân và sẳn sàng thực hiện nhiệm vụ đặc biệt trong hai ngày họp này. Khi phòng họp sẳn sàng, theo lệnh Trung Tướng Viên, tôi mời Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi vào trước và hướng dẫn đến bục gỗ. Ông bước vào “vành móng ngựa” với thái độ thản nhiên như một vị chủ tọa đã từng đứng lên bục gỗ này để ban huấn thị vậy. Trung Tướng Thiệu: “Hôm nay, Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt họp để nghe Trung Tướng trình bày về những việc làm của Trung Tướng trong thời gian xáo trộn chính trị tại Miền Trung, vì có những điều mà Hội Đồng chưa biết chắc là Trung Tướng có phải đã hành động như thế hay không, để Hội Đồng có quyết định không nhầm lẫn. Mong rằng, Trung Tướng cho biết sự thật”. Sau đó, Trung Tướng Linh Quang Viên, với tư cách Thư Ký của Hội Đồng đã đọc bản cáo trạng với từng lời tuyên bố cũng như những hành động của Trung Tướng Thi trong thời gian nói trên. Đọc xong, Trung Tướng Thiệu mời Trung Tướng Thi biện minh về những lời cáo trạng vừa nêu. Trung Tướng Thi, vẫn bình thản tự nhiên, và nói một cách mạnh mẽ rằng: “Bây giờ tôi có nói như thế nào đi nữa thì quí vị cũng không tin tôi, do đó mà tôi không có điều gì để trình bày với quí vị. Quí vị quyết định như thế nào thì tùy quí vị”. Trung Tướng Thi dùng chữ rất hay. Ông nói “quí vị quyết định thế nào là tùy quí vị” chớ ông không nói “quí vị quyết định thế nào thì tôi thi hành thế ấy”. Thiếu Tướng Vĩnh Lộc -Tư Lệnh Quân Đoàn II- nói gần như tha thiết với Trung Tướng Thi là nên trình bày sự thật để anh em trong Hội Đồng hiểu rõ được sự việc. Trung Tướng Thi vẫn giữ nguyên câu nói của ông vừa rồi, và ông xin ra khỏi phòng họp. Có thể thừa nhận là Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi có dũng khí của người làm Tướng, điều mà không phải vị Tướng nào cũng có được như ông. Nhưng cũng có thể là ông thấy không có cách nào để biện minh nên thà tỏ ra cứng rắn vẫn hơn chăng? Theo tôi, Trung Tướng Thi quả là có dũng khí của vị Tướng. Vị kế tiếp là Trung Tướng Tôn Thất Đính. Rất dễ dàng trông thấy Trung Tướng Đính có cố gắng bình tỉnh nhưng ông đã không nén được nỗi lo âu trên nét mặt khi bước vào “vành móng ngựa”. Trung Tướng Thiệu cũng nói những lời như đã nói với Trung Tướng Thi, và rồi Trung Tướng Viên đọc cáo trạng của ông. Trung Tướng Đính dần dần lấy lại sự bình tỉnh, rồi bắt đầu ồn ào với những lời biện minh, nhưng là biện minh một cách gượng gạo nên không đủ lý lẽ để xóa bỏ được câu cáo trạng nào cả. Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao là vị thứ ba vào “vành móng ngựa”. Tiếp đến Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, và sau cùng là Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận. Trung Tướng Thiệu và Trung Tướng Viên (Linh Quang Viên), theo điệp khúc như đã đối với Trung Tướng Thi, Trung Tướng Đính, nghĩa là một vị giới thiệu mục đích buổi họp và vị kia thì kê khai những “tội” của từng vị bị cáo. Bản cáo trạng của Trung Tướng Thi, Trung Tướng Đính, và Chuẩn Tướng Nhuận rất dài, vì các vị này chống đối trung ương từ đầu, còn cáo trạng của Thiếu Tướng Cao với Thiếu Tướng Chuân thì ngắn thôi, vì không chống nhưng cũng không làm tròn nhiệm vụ trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I. Thiếu Tướng Cao với Thiếu Tướng Chuân khá bình tỉnh khi biện minh và biện minh ngắn gọn, trong khi Chuẩn Tướng Nhuận khóc sướt mướt với những lời trình bày toàn kêu oan, chỉ vì ông một lòng lo giải quyết tình hình xáo trộn tại Huế. Lúc bấy giờ tôi được lệnh cho phát lại đoạn băng thu cuộc đàm thoại giữa Chuẩn Tướng Nhuận (tại Huế) với vị Thượng Tọa tại chùa Ấn Quang (Sài Gòn). Trong đoạn băng đó có lời của Chuẩn Tướng Nhuận rằng: “..... Thưa Thầy, con quyết tâm đấu tranh đến khi nào ba tên Thiệu, Kỳ, Có từ chức mới thôi .....”. Nghe xong, Chuẩn Tướng Nhuận òa khóc. Thật lòng mà nói, tôi không hiểu tiếng khóc của ông có nghĩa là thú nhận lời của ông, hay đó lại là nước mắt kêu oan chỉ vì ông muốn lợi dụng những vị lãnh đạo Phật Giáo để giải quyết tình hình, chớ những lời đó không phải là thật lòng? Cho dù là như thế nào đi nữa, rõ ràng là phong cách của Chuẩn Tướng Nhuận không xứng đáng với cấp bậc mà Trung Tướng Nguyễn Khánh, với chức năng Quốc Trưởng trao gắn cho ông một năm trước đó. Ngày hôm sau, Hội Đồng Kỷ Luật thảo luận gần như suốt ngày để đạt đến một kết luận thống nhất, kết luận đó trở thành “bản án” và bản án này làm cho “một loạt những vì sao rơi rụng”. Bản án trừng phạt mỗi vị “60 ngày trọng cấm” và giải ngũ bắt buộc. Riêng Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận bị giáng xuống cấp Đại Tá, và giải ngũ. Trong khi thảo luận, Trung Tướng Cao văn Viên và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, có nhắc lại lời viết của Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao trong một phúc trình trình lên Tổng Thống Ngô Đình Diệm sau vụ thất bại trận Ấp Bắc (Mỹ Tho) đầu năm 1963. Lời viết đó là “....... Khi tôi (tức Thiếu Tướng Cao) giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, tôi đã từng trăm trận trăm thắng ......” Và đối với Chuẩn Tướng Nhuận, Thiếu Tướng Kỳ cho là chỉ xứng đáng làm một Thượng Sĩ thôi. Hình phạt “trọng cấm” là hình phạt cao nhất đối với sĩ quan mà quy chế qui định. Thông thường một sĩ quan khi bị phạt một lần hay nhiều lần cộng lại lên đến 60 ngày trọng cấm thì bị giải ngũ, vì xem như sĩ quan đó có thành tích xấu, không xứng đáng là sĩ quan nữa. Hình phạt nhẹ hơn là hình phạt “khinh cấm”. Một tuần sau ngày họp nói trên, một biên bản được hoàn thành với 157 trang đánh máy quay ronéo một mặt, cở 21x27 phân, bìa màu xanh, được mang tay đến các vị thành viên của Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt. Xem xong, phải hoàn lại Cục An Ninh Quân Đội. Riêng tôi được “tặng” một bản ngoài số bản quay ronéo, nhưng cuối cùng tôi phải đốt một phần cùng với nhiều tập tài liệu mà tôi đã ghi chép từ tháng 8 năm 1963. Khi tôi vào tù, nhà tôi bị lục soát một tuần lễ nên ban đêm vợ tôi đã lén đốt một phần nữa. Và phần còn lại thì bị quân cộng sản lục soát khám xét, chúng xé từng mảnh hoặc vứt từng trang tung toé khắp nhà. Sau cuộc lục soát này, vợ tôi lượm lại từng trang từng mảnh cho vào bao, đến khi tôi ra tù mới góp nhặt dán lại, cũng bổ túc được một số chi tiết khi tôi lén lút viết lại và lần lượt nhờ người mang qua Mỹ. Phần viết lại này được 1600 trang giấy học trò. “Cuộc khủng hoảng miền Trung” kết thúc bằng bản án nói trên, nhưng với nét nhìn chung cuộc thì các vị Tướng Lãnh lãnh đạo quốc gia đã phải chấp nhận tiến đến xây dựng cơ cấu dân chủ, mà bước đầu là bầu cử Quốc Hội Lập Hiến vào hạ tuần tháng 9/1966, Như vậy: Theo quí vị quí bạn, “ai thắng và ai thua” trong cuộc khủng hoảng này? Và cuộc khủng hoảng gần 3 tháng qua, phải chăng là một thử thách khả năng và bản lãnh của các vị Tướng Lãnh trong trách nhiệm lãnh đạo quốc gia thời chiến? Nếu là thử thách, theo quí vị quí bạn, thì các vị ấy như thế nào? **********
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 11:38:08 GMT 9
Chương 7 / Vài Sự Kiện Quan Trọng (trong những năm 1967-1974) - bảy - Vài Sự Kiện Quan Trọng (trong những năm 1967-1974) ***** Tôi rời chức vụ chánh văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng vào những ngày cuối năm 1966 để nhận chức tại tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ), nên không có điều kiện theo dõi những sự kiện chính trị từ trong căn phòng nhỏ hẹp của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (Trung Tướng Viên thăng cấp Đại Tướng nhân lễ Quốc Khánh năm 1967), nơi mà các vị lãnh đạo với tất cả quyền lực trong tay thường hội họp và quyết định những vấn đề trọng đại của quốc gia trong năm 1965 và 1966. Giữa năm 1968, tôi thuyên chuyển trở lại Bộ Tổng Tham Mưu, phục vụ trong bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận với chức vụ Chánh Sở Kế Hoạch Chương Trình. Năm 1972, nhận chức Cục Trưởng Cục Mãi Dịch. Năm 1974, nhận chức Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Trong thời gian này cho đến giờ thứ 25 của cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc, tôi có cơ hội trực tiếp lẫn gián tiếp, theo dõi được tình hình quốc gia qua một số sự kiện quan trọng trong phần này và những phần tiếp sau. ***** Quỹ Tương Trợ & Tiết Kiệm Quân Nhân. Xin nhắc lại, đầu tháng 6/1965, Thủ Tướng Phan Huy Quát gởi văn thư mật, yêu cầu Hội Đồng Quân Lực nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc gia, vì do bất đồng quan điểm với Quốc Trưởng khi thay đổi nhân sự trong nội các mà Quốc Trưởng từ chức, và Thủ Tướng phải từ chức theo. Văn thư nhấn mạnh, nếu Hội Đồng Quân Lực không nhận trách nhiệm này thì tình hình có thể sẽ trở nên rối loạn. Sau hai ngày họp, Hội Đồng Quân Lực quyết định chấp nhận lời yêu cầu của Thủ Tướng. Để có khả năng đảm nhận trách nhiệm lãnh đạo quốc gia, Hội Đồng Quân Lực đã tổ chức hai cơ cấu: Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia do Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Chủ Tịch, và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương do Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ giữ chức Chủ Tịch. Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia hành sử chức năng Quốc Trưởng, và Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức Thủ Tướng chánh phủ. Ngày 19 tháng 6 năm 1965, tất cả thành viên của hai Ủy Ban này đã ra mắt quốc dân đồng bào và ngoại giao đoàn. Trong năm 1965 và 1966, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đã tổ chức hai lần "Đại Hội Toàn Quân", để quyết định đường lối hành động trong trách nhiệm quân đội lãnh đạo quốc gia. Thật ra những thành viên của hai lần Đại Hội này, tôi có tham dự cả hai đại hội, hằng ngàn quân nhân đại diện toàn quân về Sài Gòn tham dự để nghe quí vị thành viên của hai Ủy Ban trình bày về những chính sách của các ngành sinh hoạt quốc gia, và trong một chừng mực nào đó, có thể xem đây là một sách lược quốc gia. Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ với tư cách Thủ Tướng, đã tuyên bố nội các của ông là "nội các chiến tranh" và là "chánh phủ của người nghèo". Sau đó ông có thực hiện một số chính sách giúp đỡ người dân cải thiện đôi chút cuộc sống, như: Bán xe Lambretta 3 bánh trả góp dùng chở khách trong thành phố. Đây cũng là cách gia tăng phương tiện chuyên chở công cộng trong thành phố. Cất nhiều khu nhà liên kế, bán trả góp cho quân nhân viên chức. Bán xe gắn máy 2 bánh cho quân nhân trả góp. Tổ chức hệ thống Quân Tiếp Vụ, bán hàng tiêu dùng thông thường với giá miễn thuế cho quân nhân và gia đình. Và vân ... vân . . . Năm 1967, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia quyết định tăng lương đồng đều cho tất cả quân nhân các cấp thuộc chủ lực quân, mỗi quân nhân 100 đồng. Lúc bấy giờ, quân số chủ lực quân khoảng 450.000 người (chưa kể quân số Địa Phương Quân và Nghĩa Quân). Chỉ 100 đồng thôi vì ngân sách không thể chi trả nhiều hơn nữa, mà 100 đồng thời điểm ấy cũng chẳng mua sắm được gì. Cũng không rõ là Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia có chấp thuận cho Bộ Quốc Phòng hay không, về việc sử dụng 100 đồng đó để thành lập một quỹ gọi là "Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân", và chỉ áp dụng cho quân nhân chủ lực quân mà thôi. Mục đích của quỹ như tên gọi là "vừa tiết kiệm vừa tương trợ quân nhân và gia đình". Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Tổng Trưởng Quốc Phòng, giữ chức Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị. Tôi không nhớ hết các vị thành viên trong Hội Đồng Quản Trị, chỉ nhớ là có vị Tổng Giám Đốc Tài Chánh Thanh Tra Quân Phí/Bộ Quốc Phòng, và Thiếu Tướng Đồng Văn Khuyên (cấp bậc lúc bấy giờ) Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi không rõ vị nào đã đưa ra đề nghị này, nhưng có điều là Quỹ này có hợp lệ hay không thì nhiều dư luận trái ngược nhau, mặc dù Quỹ đã được Bộ Nội Vụ cấp giấy phép hoạt động. Vì Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia quyết định tăng lương là trách nhiệm của cấp lãnh đạo đối với quân nhân, nhưng Bộ Quốc Phòng đã thay mặt quân nhân quyết định thành lập Quỹ. Ngay trong Bộ Tổng Tham Mưu, các quân nhân cũng phàn nàn quyết định này không ít, vì Họ là thành viên đương nhiên nhưng không hề được hỏi ý kiến về việc nên hay không nên thành lập Quỹ. Với lại trên nguyên tắc, Quỹ này không phải của quân đội mà lại do vị Tổng Trưởng Quốc Phòng nắm chức Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị. Các thành viên trong Hội Đồng đều được lãnh phụ cấp. Các vị khác thì tôi không rõ, nhưng riêng Thiếu Tướng Đồng Văn Khuyên lãnh xong là ông hoàn vào quỹ. Chính mắt tôi thì không thấy, nhưng Thiếu Tướng Khuyên nói điều này trong những buổi họp tham mưu của Tổng Cục Tiếp Vận. Xin tạm gác sự kiện này sang một bên, để theo dõi dư luận đồn đoán xoay quanh nguyên nhân dẫn đến quyết định tăng lương mà là số tiền được tăng gần như chẳng đáng là bao so với vật giá thị trường. Lúc bấy giờ, dư luận từ các nhà hoạt động chính trị cho rằng, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia tăng lương chỉ nhằm mục đích lấy lòng quân nhân chuẩn bị cho liên danh quân đội ra ứng cử Tổng Thống-Phó Tổng Thống, chớ thật ra số tiền được tăng đó không có giá trị bao nhiêu về vật chất. Và rồi quí vị Tướng Lãnh ra ứng cử thật. Không phải một liên danh mà đến hai liên danh: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu một liên danh, và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ một liên danh khác. Sự kiện này đã đưa quân đội, cho dù có thản nhiên đến mấy đi nữa, tự nó đã hình thành ba khuynh hướng: Một khuynh hướng ủng hộ Trung Tướng Thiệu, một khuynh hướng khác ủng hộ Thiếu Tướng Kỳ, và một khuynh hướng khác nữa thì không quan tâm mấy đến việc phải ủng hộ liên danh nào. Nếu tình trạng hai liên danh vẫn quyết tranh đua trong cuộc bầu cử này thì sự phân hóa trong quân đội là điều không tránh khỏi, và đó là điều tệ hại cho quân đội, cho quốc gia. Cũng may, các vị Tướng Lãnh đã vận động hai vị đứng đầu hai liên danh đến sát cạnh ngày hết hạn nộp đơn ứng cử, thì Thiếu Tướng Kỳ bằng lòng đứng chung liên danh với Trung Tướng Thiệu, sau cuộc họp khá gay gắt tại câu lạc bộ Bộ Tổng Tham Mưu. Cũng trong "sự thành công" đó, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu có hứa nếu đắc cử Tổng Thống, ông sẽ tham khảo các vị như trong thành phần Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia về đường lối chính sách quốc gia. Đồng thời ông cũng thỏa thuận với Thiếu Tướng Kỳ là sẽ mời giáo sư Nguyễn Văn Lộc -người đứng chung liên danh với Thiếu Tướng Kỳ lúc 2 liên danh riêng rẽ- thành lập chánh phủ. Trở lại Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân. Khi quân số chủ lực quân gia tăng thì số vốn hằng tháng cũng theo đó mà gia tăng. Khi quân lực lên đến hơn 1 triệu quân thì chủ lực quân xấp xỉ con số 600.000 người, và như vậy có nghĩa là số vốn hằng tháng của quỹ ngoài các khoản lời khác, được tăng thêm đến 60.000.000,00 đồng. Có thể nói mà không sợ lầm lẫn, lúc bấy giờ chưa có cơ sở tài chánh nào tại Việt Nam mà số vốn gia tăng nhiều đến như vậy cả. Điều này ít nhất cũng là một trong hai nguyên nhân dẫn đến việc Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân "bị đánh sập" sau 51 tháng hoạt động. Nguyên nhân thứ hai, tôi sẽ thuật tiếp ở phần sau. Trong thời gian thành lập Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân, tôi đang phục vụ tại tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ) nên không trực tiếp thấu hiểu, nhưng năm sau đó (1968) tôi thuyên chuyển về Tổng Cục Tiếp vận mới có cơ hội nghe Thiếu Tướng Đồng Văn Khuyên cho biết thêm về tổ chức và hoạt động của Quỹ này. Theo ông, số vốn ngày càng gia tăng nhanh chóng và Hội Đồng Quản Trị quyết định thành lập một số cơ sở dịch vụ và kinh doanh, song song với gia tăng số vốn đầu tư vào các công ty dệt sợi, đặc biệt là Vimytex (Việt Mỹ Dệt Sợi Công Ty). Đây là công ty dệt sợi lớn nhất lúc bấy giờ. Hằng năm, công ty này trúng thầu khoảng 50% đến 70% trong số 30 tỷ đồng (Việt Nam Cộng Hòa) cung cấp vải treillis thường và treillis ngụy trang dùng may quần áo trận cho quân nhân. Ngoài ra còn các nhu cầu vải sợi khác, như: vải may quân phục Không Quân, Hải Quân, vải may mùng, may võng, may mũ, vải che mưa, vải dùng lau chùi vũ khí, vải may quân phục đại lễ, quân phục mùa đông cho sinh viên Trường Võ Bị Quốc Gia, quân phục cho sinh viên Trường Bộ Binh Thủ Đức, vải may quân phục cho quân nhân công du hoặc du học ngoại quốc, ..v..v.. Theo thời gian, các cơ sở sau đây được thành lập: Kỹ thương ngân hàng. Công ty bốc dỡ hàng hóa tại cảng Sài Gòn. Công ty vận tải. Công ty sản xuất vật liệu xây dựng. Xây cất tòa nhà nhiều tầng tại số 8 đại lộ Nguyễn Huệ khu trung tâm thủ đô, dự trù sử dụng cho văn phòng ngân hàng, cho các công ty do Quỹ thành lập, và cho thuê. Tòa nhà này thường được gọi là "cao ốc số 8 Nguyễn Huệ". Quan điểm táo bạo nhất là Hội Đồng Quản Trị sẽ tiến đến xây dựng nhà máy sản xuất đạn bắn thẳng mà khởi đầu là tân trang. Quan điểm này càng trở nên mạnh mẽ khi Trung Tướng (đã được thăng cấp) Đồng Văn Khuyên được cử giữ chức Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Không biết do đâu mà quan điểm này lọt ra ngoài, và phía Hoa Kỳ bắn tiếng xa gần là sẽ không hỗ trợ mục tiêu này nếu như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thực hiện. Rất có thể đây là nguyên nhân thứ hai mà tôi vừa nói ở trên. Hoa Kỳ cho rằng, họ sẽ cung cấp đầy đủ đạn dược với phí tổn nhẹ hơn so với giá thành sản xuất tại Việt Nam. Đúng hay không thì chưa rõ, vì phải nắm được giá thành sản xuất tại Hoa Kỳ mới so sánh được, với lại trong nghiên cứu chiến lược lắm khi những vị lãnh đạo phải chấp nhận phí tổn cao về kinh tế để đạt được mục đích khác cao hơn như mục đích chính trị chẳng hạn. Giả thuyết rằng, một viên đạn sản xuất tại Việt Nam cùng phẩm chất mà giá thành cao hơn giá thành sản xuất tại Hoa Kỳ, chánh phủ vẫn chấp nhận được vì cái cốt lõi của mục đích là khả năng tự lực, còn giá thành không phải là yếu tố quyết định cho dù đó là yếu tố đáng quan tâm. Nhưng điều đó cho phép ta nhận định là Hoa Kỳ không muốn Việt Nam Cộng Hòa dần dần ra khỏi tầm kiểm soát của họ, mà đây là bước đầu Hội Đồng Quản Trị muốn thử nghiệm. Và theo tôi, đây là nguyên nhân thứ hai góp phần dẫn đến quyết định đánh sập Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân, mà lại là quyết định từ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu! Số tiền thanh trả cho quân nhân và gia đình ra khỏi Quỹ, ngày được gia tăng nhiều hơn lúc đầu nhờ vào số lời thu được từ các nguồn đầu tư. Đùng một cái, Tổng Thống chỉ thị Phó Tổng Thống Trần Văn Hương thành lập Ủy Ban Thanh Tra do Đại Tá Trương Bảy (về sau là Chuẩn Tướng ngành Cảnh Sát) trách nhiệm, và Cục Mãi Dịch là cơ quan được nhắm vào như là trọng tâm. Đại Tá Trương Bảy là sĩ quan ngành Tiếp Vận, và ông là vị Cục Trưởng thứ hai từ khi ngành Mãi Dịch trong quân đội thành lập năm 1964. Cơ quan này căn cứ vào thể lệ mãi ước hành chánh quốc gia, và căn cứ vào nhu cầu cùng những điều kiện kỹ thuật do các ngành liên hệ cung cấp, có trách nhiệm thiết lập hồ sơ đấu thầu và đệ trình Tổng Cục Trưởng Tiếp Vận (nếu khế ước có trị giá đến 80 triệu đồng lúc thành lập ngành, và năm 1973 tăng lên đến 200 triệu) và Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu quyết định (nếu khế ước trị giá 80.000.001 đồng trở lên, và năm 1973 thì từ 200.000.001 đồng trở lên). Khi thành lập Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân, không ít sĩ quan ngay tại quân trấn Sài Gòn tỏ ý than phiền việc thành lập Quỹ cũng như Hội Đồng Quản Trị Quỹ này không nằm trong nguyên tắc hành chánh nào cả, vì tổ chức này không hoàn toàn quân sự cũng không hoàn toàn là dân sự. Nhưng khi Quỹ bị bắt buộc giải tán và chi trả tài sản cho quân nhân thì dư luận quay lại ủng hộ Quỹ, cho rằng Tổng Thống đã bị "tài phiệt Chợ Lớn" và Hoa Kỳ khống chế, đành tâm đánh sụp một cơ sở tài chánh mà "tài phiệt Chợ Lớn" rất sợ sẽ mất độc quyền về kinh tế tài chánh. Đúng hay không, tôi không có được những bằng chứng xác đáng về việc này nên không dám đánh giá, nhưng rõ ràng là sự sụp đổ của Quỹ Tương Trợ Và Tiết Kiệm Quân Nhân đã dẫn đến bữa tiệc rất trọng thể của nhiều nhà "tài phiệt Chợ Lớn". Sở dĩ Cục Trưởng Cục Mãi Dịch bị Ủy Ban Thanh Tra nhắm vào vì Cục Trưởng là một thành viên trong Ủy Ban Thực Hiện cung cấp máy móc dụng cụ cho cao ốc số 8 đại lộ Nguyễn Huệ nói trên, đặc biệt là các thang máy chở đồ và chở người cho cao ốc này, trị giá chung là 60.000.000,00 đồng Việt Nam. Ủy Ban Thanh Tra kết luận, việc thực hiện hai loại thang máy nói trên là không đúng nguyên tắc, và hệ quả là vị Cục Trưởng bị phạt và bị cách chức. Ủy Ban Thanh Tra cho rằng, đáng lẽ Ủy ban Thực Hiện phải mở cuộc đấu thầu công khai với các nhà thầu quốc tế lẫn trong nước, đằng này Ủy Ban Thực Hiện chỉ "gọi thầu trực tiếp" dù là với nhà thầu quốc tế, nghĩa là mời các nhà thầu mà Ủy Ban Thực Hiện xét thấy có khả năng thi hành khế ước để khảo giá trực tiếp rồi trình lên Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị. Sở dĩ trình lên Hội Đồng Quản Trị vì ngân khoản này không thuộc ngân sách quốc gia, mà là ngân khoản của Quỹ. Thật ra theo nguyên tắc mãi ước hành chánh do chánh phủ Pháp ban hành năm 1899 (chính xác là vậy đó), mà nền hành chánh Việt Nam Cộng Hòa vẫn áp dụng không mảy may thay đổi điều khoản căn bản nào cả. Cũng theo đó, "đấu thầu công khai" hay "gọi thầu trực tiếp", đều đúng nguyên tắc cả, có điều là mỗi nhu cầu tùy theo trường hợp và thực hiện theo cách nào cho là thích hợp nhất mà áp dụng, nhưng nhất thiết phải có lợi cho ngân sách. Xét cho đúng thì không có gì trái nguyên tắc cả, với lại lần thực hiện đó giảm chi được khoản tiền đáng kể mà lại được món hàng tốt nữa. Nhưng khi cấp thẩm quyền muốn cho nó sập thì kết luận phải cho nó sập, vì đó là lệnh của Tổng Thống mà! Lúc ấy tôi đang phục vụ tại Bộ Chỉ Huy 4 Tiếp Vận (Cần Thơ), được cử thay thế vị Cục Trưởng nói trên. Bấy giờ là tháng 6 năm 1972. Tôi đương nhiên là thành viên trong Ủy Ban Thanh Lý tài sản của Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân. Ủy Ban Thanh Lý do Tổng Nha Tài Chánh và Thanh Tra Quân Phí/Bộ Quốc Phòng giữ chức Chủ Tịch, có nhiệm vụ thanh lý và hoàn trả những khoản còn lại trong thời gian thực hiện cao ốc số 8 đại lộ Nguyễn Huệ, mà trọng tâm là xác định mức độ công tác hoàn thành của nhà thầu Huỳnh Thi (?). Về họ thì tôi chắc chắn là đúng, nhưng về tên của nhà thầu thì tôi chưa dám xác định. Trong thời gian tham gia Ủy Ban này, tôi được biết một số sự kiện, đồng thời Trung Tá Bùi Hy Trọng -Cục Phó Cục Mãi Dịch lúc thực hiện hàng cho cao ốc số 8 Nguyễn Huệ- cung cấp cho tôi những con số sau đây: Đến khi bị cưỡng bách giải tán thì số vốn do đóng góp là 3.520.000.000,00 (3 tỷ 520 triệu) đồng Việt Nam. Trước đó, số tiền chi trả cho quân nhân giải ngũ, về hưu, hi sinh, từ trần hay mất tích, là 460.000.000,00 (460 triệu) đồng. Khi thanh lý tài sản, đã chi trả cho toàn thể quân nhân hội viên (gồm cả tiền lời) lên đến 3.500.000.000,00 (3 tỷ 500 triệu) đồng. Đã chi ra 360.000.000,00 (360 triệu) đồng vào công trình xây dựng cao ốc Nguyễn Huệ. Số tiền còn lại trong ngân hàng là 500.000.000,00 (500 triệu) cùng với tài sản tại các công ty của Quỹ ước tính cũng đến vài chục triệu nữa. Cao ốc số 8 Nguyễn Huệ gồm 12 tầng, cộng với sân thượng dự trù sử dụng một nửa phía đại lộ Nguyễn Huệ để cho thuê khai thác nhà hàng có ca nhạc, và một tầng hầm làm chỗ đậu xe (parking) với lối ra vào dành cho xe chuyên chở hàng hóa sử dụng chuyển vận lên các tầng trên, và hai máy phát điện đủ cung cấp điện năng cho cao ốc khi bị cúp điện. Ngay tầng trệt dành cho Kỹ Thương Ngân Hàng và phòng khách chung cho cao ốc như tại các khách sạn lớn vậy. Bộ Tài Chánh có ý mua lại cao ốc số 8 Nguyễn Huệ với giá sơ khởi do Ủy Ban Thanh Lý ra giá là 1.000.000.000,00 (1 tỷ) đồng. Khi tôi được cử vào chức vụ Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, tôi không còn trong Ủy Ban Thanh Lý nữa nên không rõ diễn tiến như thế nào mà đến tháng 4 năm 1975, cao ốc vẫn chưa bán được. Hãy để mục đích thành lập cũng như mục đích đánh sập Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân đúng hay sai qua một bên, chúng ta thử kết toán một cách tổng quát sau 51 tháng hoạt động: Số vốn 3 tỷ 520 triệu, đã lên đến 4 tỷ 460 triệu, cộng với cao ốc số 8 Nguyễn Huệ trị giá 1 tỷ, cộng với tài sản tại Kỹ Thương ngân hàng và các công ty. Nếu không bị đánh sập, rất có thể Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân, có khả năng góp phần đáng kể vào mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia, cũng có thể góp phần quan trọng vào mục tiêu của quân đội từng bước tiến đến tự lực trong nền kinh tế quốc gia, đang đặt trọng tâm vào khả năng và tiềm năng tìm kiếm khai thác dầu hỏa dưới thềm lục địa Việt Nam, mà Ủy Ban Quốc Gia Dầu Hỏa đặt nhiều tin tưởng vào đó, ước tính từ năm 2000. Không phải là ảo tưởng khi Thiếu Tướng Đồng Văn Khuyên (cấp bậc lúc bấy giờ), Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, năm 1969, giao cho tôi lúc tôi phụ trách Sở Kế Hoạch & Chương Trình/Tổng Cục Tiếp Vận, âm thầm nghiên cứu phác thảo một hướng đi cho ngành Tiếp Vận từng bước tiến đến tự lực các loại dụng cụ chiến tranh, mà một trong những nền tảng là khả năng và tiềm năng dầu hỏa. Trong năm 1970, Thiếu Tướng Khuyên đã chấp thuận dự thảo của tôi và ngay sau đó đã ban hành trong toàn ngành Tiếp Vận tập tài liệu nhỏ có tên là Đường Lối Tiếp Vận 10 điểm với dự phóng từ năm 2000 có khả năng đạt đến nếu như những dự phóng phát triển của Ủy Ban Quốc Gia Dầu Hỏa không quá sai lệch. Sau đó, từng lãnh vực trách nhiệm được nghiên cứu phác thảo tổng quát. Và rồi tháng 4 năm 1975 chợt đến, tất cả trở thành giấy vụn.
*****
Chuẩn bị phát triển quốc gia. Hiệp Định ngưng bắn trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa ký ngày 27 tháng 1 năm 1973, đến tháng 3 năm 1973 Hiệp Định có hiệu lực. Sau đó là trao đổi tù binh, gồm cả tù binh Hoa Kỳ và tù binh Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản giam giữ. Hiệp Định bị lãnh đạo cộng sản Việt Nam có tên là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vi phạm ngay khi Hiệp Định tưởng chừng chưa ráo mực. Nhưng không vì vậy mà chánh phủ đặt nhẹ nhu cầu phát triển đất nước. Với những sinh hoạt khá rộn rịp, chuẩn bị các dự án phát triển quốc gia thời hậu chiến, như: Tháng 6 năm 1973, một phái đoàn chánh phủ gồm quí vị: Tổng Trưởng Giao Thông Bưu Điện, Tổng Trưởng Tài Chánh, Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Phát Triển Kỹ Nghệ cùng 3 vị Giám Đốc trực thuộc, Chủ Tịch Phòng Thương Mại Sài Gòn, và nhiều công kỹ nghệ gia thuộc Phòng Thương Mại Sài Gòn. Phía quân đội được Thủ Tướng chỉ định đích danh 4 sĩ quan của ngành Tiếp Vận liên quan đến các dự án của chánh phủ, tham dự: Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, Cục Trưởng Cục Công Binh. Đại Tá Nguyễn Hữu Bầu, Cục Trưởng Cục Quân Nhu. Đại Tá Trần Văn Lễ, Cục Trưởng Cục Quân Tiếp Vụ. Và tôi, Đại Tá Phạm Bá Hoa, Cục Trưởng Cục Mãi Dịch. Một nửa phái đoàn sang Hawaii hội thảo với các nhà đầu tư Hoa Kỳ, rồi sang Singapore ráp vào một nửa kia từ Sài Gòn sang Singapore trước vài ngày, cùng nghiên cứu về phát triển chiều cao, phát triển kỹ nghệ chế biến, và xây dựng hải cảng dành cho loại tàu chở container. Trước đó, một khóa hội thảo về đầu tư phát triển được tổ chức tại Trường Cao Đẳng Quốc Phòng kéo dài trong 3 tuần lễ, với sự tham dự đông đảo của công thương kỹ nghệ gia Việt Nam, và phái đoàn kỹ nghệ gia Hoa Kỳ. Tôi được Tổng Cục Tiếp Vận chỉ định tham dự hội thảo. Tóm tắt tổng quát các dự án đã trình bày, gồm: Dự án mở rộng Sài Gòn về phía Thủ Thiêm được xem như thủ đô chính trị. Biến vùng Rừng Sát ngập nước, lọt thỏm giữa Sài Gòn-Biên Hòa-Vũng Tàu, thành khu chế xuất lớn nhất Việt Nam mang dáng vấp khu kỹ nghệ Jurong Town của đảo quốc Singapore. Một phi trường quốc tế tọa lạc gần sông Đồng Nai, cũng gần xa lộ Sài Gòn-Biên Hòa. Phi trường Tân Sơn Nhất trở thành phi trường quốc tế thứ hai. Hầu hết những cơ sở cấp trung ương của quân đội chuyển lên hướng xa lộ Sài Gòn-Biên Hòa, nhường chỗ cho những dự án canh tân thủ đô. Tất cả đều dự trù thực hiện trong khoảng 20 năm kể từ đầu thập niên 1980. Với những dự án này -trong một chừng mực nào đó- cho thấy chánh phủ vẫn tin tưởng vào Hiệp Định, dù rằng bị cộng sản vi phạm ngay sau khi Hiệp Định có hiệu lực. Sở dĩ tôi được tham dự khoá hội thảo này vì tôi trách nhiệm liên lạc với Bộ Kế Hoạch lúc đầu, về sau là Ủy Ban Quốc Gia Dầu Hỏa, để nghiên cứu phác thảo một quan niệm tổng quát về khả năng ngành Tiếp Vận có thể từng bước tiến đến tự lực về dụng cụ chiến tranh, căn cứ vào khả năng và tiềm năng quốc gia mà dầu hỏa được xem là nền tảng cho công cuộc phát triển đất nước. Công tác đang diễn tiến, thì lần lượt Phước Long rồi Ban Mê Thuột thất thủ, rút bỏ Cao Nguyên, rồi những cuộc lui binh hỗn loạn từ tuyến đầu Quảng Trị cho đến Cam Ranh, ..v..v.. thế là kết thúc. Ngay trong năm 1973, trong phạm vi Tổng Cục Tiếp Vận, gồm 8 ngành chuyên môn: Quân Nhu, Quân Cụ, Quân Y, Quân Vận, Quân Tiếp Vụ, Công Binh, Truyền Tin, và Mãi Dịch quân đội, thực hiện chương trình cải tổ để thích nghi với viện trợ quân sự Hoa Kỳ sẽ giảm nhiều. Trọng tâm của chương trình cải tổ là giản lược hệ thống tổ chức về tồn trữ và sửa chữa quân dụng theo quan niệm tập trung, để giảm bớt số lượng tồn trữ trải mỏng theo quan niệm diện địa, vì số lượng dụng cụ chiến tranh không nhiều như trong thời chiến. Đồng thời áp dụng khoa quản trị vào công tác quản trị toàn bộ dụng cụ chiến tranh bằng máy điện toán IBM 360/50, là loại máy có khả năng rất lớn so với quân đội của các quốc gia bạn trong khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ, để giải quyết nhu cầu tiếp liệu, tồn trữ, vận chuyển, sửa chữa và tân trang, vừa chính xác vừa nhanh chóng. Tách hẳn kế toán với tồn trữ, quan niệm này có nghĩa là bộ phận giữ kho không hề biết trong kho có những món hàng nào, số lượng bao nhiêu, hay vị trí món hàng ở đâu. Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận là cơ quan kế toán, và Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân là cơ quan điều khiễn. Tổng Cục Tiếp Vận sử dụng danh từ “khách hàng” để chỉ các đơn vị Tiếp Vận tại 5 Vùng Tiếp Vận, được chỉ định liên lạc trực tiếp với Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận ngang qua máy điện toán để xin tiếp liệu hay sửa chữa, nói chung là mọi nhu cầu về quản trị Tiếp Vận. Cũng xin giải thích thêm về 5 Vùng Tiếp Vận: Vùng 1 Tiếp Vận thuộc Quân Đoàn I/Quân Khu I, Vùng 2 Tiếp Vận và Vùng 5 Tiếp Vận thuộc Quân Đoàn II/Quân Khu II, vì lãnh thổ Vùng này trải dài theo ven biển và từ ven biển lên tận Cao Nguyên, Vùng 3 Tiếp Vận thuộc Quân Đoàn III/Quân Khu III, và Vùng 4 Tiếp Vận thuộc Quân Đoàn IV/Quân Khu IV. Kế hoạch cải tổ đã thực hiện xong phần căn bản về tổ chức, nhưng về máy điện toán của các khách hàng chưa thực hiện xong, thì chế độ dân chủ tự do chúng ta sụp đổ.
*****
Viện trợ quân sự. Tháng 3 năm 1973, Hiệp Định Paris Ngưng Bắn Và Tái Lập Hòa Bình có hiệu lực, nhưng ngay sau đó quân cộng sản mở cuộc bao vây tấn công vào đồn Tống Lê Chân trong phạm vi Quân Đoàn III do Biệt Động Quân trú đóng. Lần lượt nhiều đơn vị khác cũng bị chúng tấn công. Đó là sự vi phạm Hiệp Định một cách trắng trợn mà Ban Quân Sự Liên Hợp 4 bên do Hiệp Định Paris qui định cũng không giải quyết được gì cả. Trong một tình hình ngưng bắn nhưng thật sự thì chiến tranh vẫn còn nguyên đó, súng vẫn nổ, người vẫn thương vong, nhưng mức độ viện trợ quân sự đã giảm nhiều. Từ 1.062.000.000 (1 tỷ lẻ 62 triệu) mỹ kim năm tài chánh 1972-1973 xuống còn 700 triệu cho năm tài chánh 1974-1975. Cũng trong năm tài chánh này, lần đầu tiên Cơ Quan Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ (gọi tắt theo tiếng Mỹ là D.A.O.) cho biết ngân khoản viện trợ trong một năm, và là lần đầu tiên cũng là lần duy nhất, cơ quan DAO yêu cầu Tổng Cục Tiếp Vận cho biết quan niệm sử dụng cùng với một kế hoạch chi tiết sử dụng số tiền viện trợ đó. Trước khi đi sâu vào kế hoạch sử dụng 700 triệu mỹ kim viện trợ, tôi xin lướt qua đôi nét về thủ tục viện trợ quân sự để quí vị quí bạn có khái niệm về “đồng đô la viện trợ quân sự” của Hoa Kỳ như thế nào. Cũng xin trình bày rõ thêm, đây không phải là viết theo tài liệu của Hoa Kỳ hay của Việt Nam, mà là tôi căn cứ vào những buổi họp tham mưu của toàn ngành Tiếp Vận mà đúc kết vào đây. Từ khi Hoa Kỳ viện trợ quân sự trực tiếp cho Việt Nam Cộng Hòa chúng ta (1966-1967) đến cuối tài khóa 1973-1974, họ không cho chúng ta biết trước là họ viện trợ cho chúng ta bao nhiêu trong một tài khóa, mà họ căn cứ theo nhu cầu của chúng ta đưa sang và họ xét thấy phù hợp với chính sách của họ là họ cấp, dĩ nhiên là phải thông qua các buổi họp tham mưu chuyên môn giữa Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam. Quân lực Việt Nam nhận viện trợ quân sự trực tiếp từ quân đội Hoa Kỳ chớ không bị ràng buộc bởi đạo luật năm 1961 về viện trợ quân sự ngoại quốc (theo chế độ MDAP), nghĩa là không theo hệ thống Bộ Tổng Tham Mưu lên Bộ Quốc Phòng, rồi sang Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa. Từ Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa chuyển sang Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, lần lượt đến Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, sau đó mới đến Quân chủng liên hệ của Hoa Kỳ. Tôi nói nhận viện trợ trực tiếp (theo chế độ MASF, dịch sang Việt ngữ là Quỹ Viện Trợ Dịch Vụ Quân Sự), có nghĩa là mỗi quân chủng Hải Lục Không Quân của Việt Nam Cộng Hòa, liên hệ trực tiếp với các quân chủng Hải Lục Không Quân của Hoa Kỳ, ngang qua các cố vấn tại các quân chủng để đưa yêu cầu viện trợ. Trong trường hợp này, Bộ Tổng Tham Mưu theo dõi chặt chẻ mọi diễn tiến, nhưng Bộ Quốc Phòng thì không nắm vững như vậy. Bây giờ là công tác tham mưu soạn thảo kế hoạch sử dụng 700 triệu mỹ kim viện trợ quân sự tài khóa 1974-1975. Căn cứ trên quan niệm của Phòng 3/Tổng Tham Mưu, quan niệm của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, là muốn duy trì một khả năng phòng thủ trong phạm vi viện trợ giới hạn, cần: Phải có vũ khí, gồm cả phi cơ với chiến hạm, bom đạn và chất nổ.
Phải di động nhanh, tức là nói đến phương tiện vận chuyển đường bộ, đường thủy, và hàng không, cùng với các loại nhiên liệu thích hợp. Phải duy trì tốt hệ thống chỉ huy liên lạc, tức là máy móc truyền tin vô tuyến lẫn hữu tuyến, diện địa lẫn chiến thuật. Và phải điều trị đúng mức cho thương bệnh binh, vì sau mỗi trận chiến thể nào cũng có tổn thất nhân mạng, cho nên chi tiêu cho các quân y viện cũng là nhu cầu thiết yếu. Quan niệm cũng dứt khoát, không mua thêm bất cứ loại quân dụng chiến tranh nào, mà đặt trọng tâm vào kế hoạch săn nhặt cơ phận từ các quân dụng phế thải cùng chủng loại để tân trang sử dụng. Từ quan niệm căn bản đó, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận điều hợp với các Cục, soạn thảo kế hoạch như thế này: Với nhu cầu thứ nhất là vũ khí thì không cần mua thêm bất cứ loại nào, cần sử dụng tân trang trong số 2 triệu khẩu súng các loại hiện có. Về bom đạn và chất nổ, bản thống kê trong 3 năm trước đó do Sở Đạn Dược của Cục Quân Cụ thiết lập, đã cung cấp một loạt thống kê về mức tiêu thụ trung bình của từng loại vũ khí, từng loại đạn nổ, đạn chiếu sáng, đạn khói, ..v..v.., từng loại bom, và từng loại chất nổ. Nhóm công tác tham mưu của Tổng Cục Tiếp Vận sử dụng những thống kê đó làm căn bản ước tính nhu cầu năm 1974-1975 theo tình hình chiến sự do Phòng Nhì và Phòng Ba/Tổng Tham Mưu ước tính. Xin nhớ rằng trong năm 1971 đến 1973, chiến sự dữ dội nhất là năm 1972, và mức tiêu thụ các loại quân dụng chiến tranh rất cao, với ngân khoản viện trợ quân sự năm đó lên đến 1.062.000.000 mỹ kim, và con số này là cao nhất trong suốt 20 năm Hoa Kỳ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa. Khi chiết tính nhu cầu đạn dược, các sĩ quan tham mưu ngành Tiếp Vận đã phải tính riêng cho loại đạn bắn thẳng như súng trường, súng M16, súng trung liên, đại liên, đến các loại đạn bắn vòng cầu của súng cối, súng đại bác 105 ly, 155 ly, 175 ly, hỏa tiển chống chiến xa, ..v..v... Và rồi mỗi loại phải tính đến đạn chiếu sáng, đạn xuyên phá, đạn khói. Tóm lại là phải tính đến từng chi tiết để mua đúng loại bom đạn thật sự cần thiết, đúng chủng loại vũ khí, đúng số lượng ước tính, và thích hợp với số tiền viện trợ. Đó cũng là phương châm của ngành Tiếp Vận: “Đúng lúc, đúng mức, và đúng chổ”. Không có gì cao siêu trong cách tính này cả, vì nó tương tự những bà nội trợ trước khi đi chợ phải ước tính xem nấu những thức ăn gì, để từ đó mới tính ra là mua những cá những tôm những hành những tỏi, mỗi thứ bao nhiêu để nấu đúng món và đủ cho số khẩu phần trong gia đình thích ứng với hoàn cảnh mới về “kinh tế” của gia đình. Tiếp Vận để duy trì cho một triệu quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, từ dạ dày đến thương tích hay bệnh hoạn, hy sinh hay từ trần, từ khẩu súng viên đạn, đến vận chuyển hay liên lạc, ..v..v.., trong một góc độ nào đó, tương tự như bà nội trợ bảo vệ hạnh phúc gia đình, dĩ nhiên là mức độ phức tạp khác nhau. Áp dụng cách tính như vậy cho nhu cầu duy trì khả năng di động với phương tiện của Lục Quân, là xe vận tải từ 2.5 tấn trở lên, phương tiện của Hải Quân là Giang Vận Đỉnh và Hải Vận Hạm, phương tiện của Không Quân là phi cơ vận tải C47, C130, ..v..v... Chỉ riêng nhu cầu các loại nhiên liệu cho Hải Lục Không Quân đã ngốn hết 80 triệu mỹ kim rồi, nhưng mức chi tiêu này chỉ mới bằng 2/3 chi phí nhiên liệu của tài khoá 1973-1974 thôi. Đối với nhu cầu cơ phận sửa chữa các loại máy truyền tin trong hệ thống liên lạc diện địa cũng như hệ thống liên lạc chiến thuật, cũng theo cách tính trên. Nghĩa là loại nào cần thiết cho hai nhu cầu trên mới đưa vào kế hoạch sử dụng ngân khoản đó. Cơ quan D.A.O. cũng thông báo chánh thức cho Tổng Cục Tiếp Vận biết rằng, chế độ viện trợ quân sự theo “Quỹ Viện Trợ Dịch Vụ Quân Sự” (MASF) sẽ chấm dứt vào cuối tài khóa 1974-1975, sau đó chuyển sang chế độ “Chương Trình Viện Trợ Quân Sự” (MDAP). Họ thông báo để Tổng Cục Tiếp Vận chuẩn bị cho kịp thời gian, vì hệ thống viện trợ này phải theo hệ thống vòng vo cần nhiều thời gian cho hành trình giấy tờ thủ tục, kèm theo một danh sách dài thật dài, ghi rõ từng loại quân dụng với từng số lượng đang sử dụng, tiếp đó là những danh sách cơ phận cần thực hiện cho từng loại quân dụng. Họ chấp nhận món quân dụng nào trong danh mục của Tiếp Vận quản trị, họ mới viện trợ “một đổi một” cũng như cơ phận thay thế nó. “Một đổi một” tức là “mất một cái hoặc phế thải một cái Hoa Kỳ viện trợ lại một cái”, không làm gia tăng thêm khối lượng dụng cụ chiến tranh. Cũng nên nói thêm về sự kiện vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có xin thêm ngân khoản 300.000.000,00 mỹ kim nhưng Quốc Hội Hoa Kỳ không chấp thuận, và có dư luận cho rằng vì không có 300.000.000,00 đó mà chúng ta thua trận! Tôi không rõ việc đó có đúng hay không, nhưng có điều tôi biết là đến tháng 4 năm 1975 thì tài khoá 1974-1975 vẫn còn giá trị. Điều đó có nghĩa là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn nhận viện trợ theo chế độ “Quỹ Viện Trợ Dịch Vụ Quân Sự”, tức là ngân sách Quốc Phòng Hoa Kỳ vẫn viện trợ trực tiếp cho chúng ta nếu họ muốn. Khi Hành Pháp chuyển sang Lập Pháp, nếu chưa có đạo luật hay nguyên tắc nào khác thay đổi sự điều hành “Quỹ Viện Trợ Dịch Vụ Quân Sự” trong hoàn cảnh bất thường đối với Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, tôi nghĩ, đó là cách “giã từ” của Hành Pháp Hoa Kỳ, chớ không phải Hành Pháp không có thẩm quyền viện trợ. Nhắc lại để có thêm chút chuyện xưa thôi, chớ “khi muốn” thì cách nào cũng được, còn “khi không muốn” thì cách nào cũng xong. Chuyện đời thường đã thế, chuyện chính trị thường khi cũng thế, chỉ đôi khi chẳng thế! Ngôn ngữ chính trị là thế! Chẳng hạn như chương trình “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” vậy thôi. Khi mắt xích tại Việt Nam chưa thực hiện được thì chiến lược Domino của Hoa Kỳ trong mục tiêu “be bờ” ngăn chận sự bành trướng của cộng sản quốc tế xuống khu vực Đông Nam Á Châu, từ Đại Hàn Dân Quốc, xuống Nhật Bản, vòng qua Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Phi Luật Tân, ngang qua Việt Nam Cộng Hòa, và dừng lại Thái Lan, xem như chưa hoàn chỉnh. Thế rồi cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, không biết có phải vì Tổng Thống từ chối ý định của Hoa Kỳ thiết lập những căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa hay không, đến cuộc chỉnh lý ngày 30 tháng 1 năm 1964, dẫn đến Thông Điệp của Trung Tướng Nguyễn Khánh với chức năng Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa, yêu cầu các quốc gia đồng minh giúp đỡ Việt Nam Cộng Hòa chống quân cộng sản, mà thật ra Thông Điệp đó chẳng khác chiếc chìa khóa dành riêng cho Hoa Kỳ mở cửa Việt Nam thôi. Từ đó, quân bộ chiến Hoa Kỳ lần lượt thiết lập các căn cứ Chu Lai, Cam Ranh, Plei Ku, An Khê, Đồng Tâm (Mỹ Tho), ..v..v.. cùng chúng ta chiến đấu chống quân cộng sản từ miền Bắc len lỏi xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Đến khi chính trị nội bộ Hoa Kỳ có những biến chuyển không thuận lợi cho chánh phủ liên bang, vì quân đội đã can dự sâu vào cuộc chiến tranh chống cộng sản trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, lúc bấy giờ Hoa Kỳ cho rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đủ mạnh để đương đầu với quân cộng sản của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa miền Bắc, thế là Hoa Kỳ thực hiện chương trình rút quân có tên gọi là “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”. Đích thực của Việt Nam Hóa Chiến Tranh là gì? Đơn giản mà nói, chẳng qua là Hoa Kỳ triệt thoái quân đội về nước mà Hoa Kỳ đã thu được trong thỏa hiệp ngưng bắn Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 là cái màn che chắn danh dự cho Hoa Kỳ rút quân về nước. Còn thật sự cái Hiệp Định đó có phải là danh dự cho cuộc triệt thoái quân đội Hoa Kỳ về nước hay không, lại là chuyện khác! Khi rút quân, Hoa Kỳ để lại cho quân đội chúng ta một khối lượng dụng cụ chiến tranh gồm đại bác 175 ly nòng dài, đại bác phòng không, xe tăng M48, các loại giang tốc đỉnh sử dụng tuần duyên tuần giang, phi cơ vận tải C130, ..v..v.., là những loại thuộc vào hàng cũ kỹ kể cả số lượng nằm hư hỏng -đáng kể là phi cơ các loại- trong các cơ xưỡng chờ sửa chữa, mà nếu chuyển vận trở về Hoa Kỳ không chừng phải tốn một ngân khoản tương đương với trị giá khối dụng cụ này nữa đó. Báo chí của những đồng minh chúng ta, đã thật tàn nhẫn khi nói Việt Nam Hóa Chiến Tranh chẳng qua là “thay đổi màu da trên xác chết!” Chừng như bạn chúng ta cho là Người Lính Việt Nam Cộng Hòa chúng ta chưa bao giờ chết trận, cho mãi đến khi quân đội Hoa Kỳ về nước chúng ta mới bắt đầu chết trận vậy! Bài học cho chúng ta, tôi nghĩ: “Đồng minh là đồng minh, nhưng quyền lợi quốc gia vẫn là trên hết. Vì vậy mà những vị lãnh đạo các cấp từ lập pháp, hành pháp đến quân đội, hành sử chức năng của mình phải xuất phát từ tư tưởng quyền lợi quốc gia Việt Nam hài hòa với văn hoá Việt Nam.” Đó là bài học thật sự cay đắng cho mọi người Việt Nam trong thế hệ đương thời, và là bài học quí báu cho thế hệ mai sau trên chính trường! **********
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 11:39:51 GMT 9
Chương 8 / Những Tháng Cuối Cùng của cuộc chiến 1954-1975 - tám -
Những Tháng Cuối Cùng của cuộc chiến 1954-1975
***** Tỉnh Phước Long thất thủ ngày 7 tháng 1 năm 1975.
Tỉnh Phước Long ở phía Bắc Đông Bắc Sài Gòn, sát biên giới Việt Nam-Cam Bốt, là một trong những tỉnh được thành lập dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong chiến lược phòng thủ quốc gia. Nơi đây là vùng đất chuyển tiếp của địa hình cao nguyên cuối dãy Trường Sơn xuống đồng bằng miền Nam. Vì vậy mà Phước Long núi không cao, rừng không rậm rạp như rừng già Cao Nguyên. Cư dân hầu hết là người miền núi thuộc nhiều bộ tộc khác nhau. Thời thực dân Pháp cai trị, địa phương này có cái tên mà bất cứ người dân bình thường nào cũng khiếp đảm khi nghe đến, đó là trại tù Bà Rá. Sự ra đời của tỉnh Phước Long và tỉnh Bình Long trong phạm vi lãnh thổ Quân Đoàn III/ Quân Khu III, do quan niệm của Tổng Thống Diệm chuẩn bị chống chiến tranh xâm lược của cộng sản miền Bắc dưới tên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Bởi theo Hiệp Định Đình Chiến mà thực dân Pháp, cộng sản Liên Xô, cộng sản Trung Hoa, và cộng sản Việt Nam ký ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Genève, Thụy Sĩ, thì hai năm sau đó -tức năm 1956- sẽ tổng tuyển cử thống nhất Nam Bắc, nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã chánh thức công bố là không chấp nhận tổng tuyển cử vì chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa không ký vào Hiệp Định đó. Mà thật ra, trong tình hình lúc bấy giờ, nếu tổng tuyển cử thì nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có cơ hội chiến thắng trong cuộc bầu cử đó, có nghĩa là khối Tự Do do Hoa Kỳ lãnh đạo nói chung và Việt Nam Cộng Hòa chúng ta nói riêng, bị trúng kế của khối cộng sản do Liên Xô lãnh đạo. Và như vậy, Việt Nam chúng ta từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau sẽ bị cộng sản cai trị bằng chế độ độc tài từ đó. Hẳn là Tổng Thống tin rằng nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam sẽ bắt đầu chiến tranh xâm chiếm Việt Nam Cộng Hòa, mà bước đầu là một lực lượng lên đến hằng chục ngàn cán bộ do chúng cài lại miền Nam bằng cách sống chen lẫn trong gia đình, hay trong đồng bào nông thôn miền Nam khi chúng tập kết chuyển ra Bắc theo Hiệp Định Đình Chiến qui định. Đây sẽ là lực lượng nòng cốt gây chiến trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chúng ta. Mục tiêu thành lập các tỉnh tại những vùng mà trong cuộc chiến tranh giữa Pháp thực dân với Việt Minh cộng sản 1946-1954 mà quân Pháp không kiểm soát được, để có các cơ quan hành chánh lẫn quân sự hoạt động vừa bảo vệ dân vừa ngăn chận quân cộng sản thiết lập hạ tầng cơ sở cho cuộc chiến tranh ước tính là rất có thể sẽ xảy ra. Một đoạn trên quốc lộ 14 từ thị trấn Chơn Thành thuộc tỉnh Bình Long, chạy ngang thị trấn Đồng Xoài -tức quận Đôn Luân- thuộc tỉnh Phước Long lên hướng Đông Bắc sẽ đến tỉnh lỵ Ban Mê Thuột của tỉnh Darlac. Ban Mê Thuột được xem là thủ phủ Cao Nguyên Miền Trung. Từ đây thẳng lên hướng Bắc sẽ đến Plei Ku, và tiếp tục thêm khoảng 40 cây số nữa sẽ đến Kon Tum, tỉnh cuối cùng của quốc lộ 14 trên dãy Trường Sơn. Do vậy mà tỉnh Phước Long có tầm quan trọng về mặt chiến lược quân sự lẫn chính trị trong chiến tranh chống cộng sản, một loại chiến tranh mà nhà cầm quyền không dễ gì nhận ra địch quân vì chúng sống trà trộn trong đồng bào, thậm chí là chúng có thể chen vào trong các cơ quan nữa. Từ khi vùng rừng núi này trở thành tỉnh, dân số gia tăng dần lên với số người từ Sài Gòn cũng như các tỉnh khác đến đây khai phá đất ba-dan trồng các loại cây kỹ nghệ, và buôn bán làm ăn với đồng bào sắc tộc. Tuy chưa phải là nhộn nhịp như các tỉnh vùng đồng bằng Cửu Long hay dọc miền duyên hải, nhưng cũng tạo được bộ mặt đầy đủ của một tỉnh lỵ cũng như các thị trấn quận và xã. Đầu năm 1957, quân cộng sản gài lại trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa -nhiều nhất là các tỉnh cực Nam đồng bằng Cửu Long- bắt đầu quấy rối trên toàn lãnh thổ. Lúc ấy, tỉnh Phước Long cũng trong tình trạng như vậy. Những năm đầu, hoạt động của cộng sản tập trung vào phạm vi kinh tài và đấu tranh chính trị với những cuộc biểu tình lẻ tẻ ở nông thôn, hoặc vùng ngoại ô các thị trấn hay tỉnh lỵ, phản đối những cuộc hành quân bình định, hoặc yêu sách những tên cộng sản bị bắt. Cuối năm 1960, quân cộng sản bắt đầu hoạt động với lực lượng du kích cấp Trung Đội trang bị thô sơ, và từng bước chúng tiến lên hoạt động cấp Đại Đội. Trong những năm 60, lực lượng cấp Trung Đoàn, rồi Sư Đoàn, được cộng sản Liên Xô và cộng sản Trung Hoa trang bị nhiều loại dụng cụ chiến tranh được xem là thế hệ mới. Từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phía Bắc vĩ tuyến 17, luồn theo dãy Trường Sơn xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, và thực hiện những trận đánh cấp Trung Đoàn vào đầu những năm 70. Cho đến tháng 3 năm 1973, lực lượng cộng sản quanh quẩn trong vùng rừng núi của Phước Long và các tỉnh lân cận lên đến cấp Sư Đoàn, nhưng chưa làm gì được Phước Long. Rồi ngay sau ngày Hiệp Định Paris (tháng 3 năm1973) có hiệu lực, quân cộng sản vẫn tiếp tục chiến tranh, có nghĩa là chúng ngang nhiên vi phạm Hiệp Định này. Ngày 13 tháng 12 năm 1974, một đơn vị có thể là cấp Tiểu Đoàn trở lên, tấn công quận lỵ Đôn Luân, vị trí án ngữ quốc lộ 14 lên Ban Mê Thuột hay xuống Bình Long, và liên tỉnh lộ 1 lên Phước Long, bị quân trú phòng đẩy lui. Nhưng cuộc tấn công kế tiếp thì Đôn Luân thất thủ. Sau đó, một lực lượng khác của cộng sản đánh chiếm quận Bố Đức (?) với quận Đức Phong (có thể tôi nhớ không chính xác về tên Quận). Một lực lượng của Sư Đoàn 5 Bộ Binh được Bộ Tổng Tham Mưu điều động tăng cường tỉnh lỵ, trong khi yểm trợ hỏa lực không quân được tập trung cho Phước Long, kể cả điều động từ Sư Đoàn 4 Không Quân ở Cần Thơ tăng cường. Cuộc tiếp tế cho các đơn vị hành chánh, quân sự, lẫn đồng bào trong tỉnh lỵ trở nên khó khăn, thậm chí là rất khó khăn vì quân cộng sản sử dụng nhiều lực lượng nhỏ phục kích nhiều ngày mà chúng gọi là “đóng chốt” tại các đoạn đường hiểm trở dọc theo đường liên tỉnh số 1 dẫn lên tỉnh lỵ. Tình trạng này làm cho công tác chuyển vận các loại tiếp liệu bằng đường bộ không sử dụng được, trong khi tiếp tế bằng phi cơ rất hạn chế từ sau khi Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam theo qui định trong Hiệp Định Paris. Trong cùng thời gian, quân cộng sản pháo kích mạnh vào phi trường Lai Khê -nơi hoạt động rộn rịp của Sư Đoàn 5 Bộ Binh tiếp viện Phước Long- và phi trường Sông Bé, tỉnh lỵ Phước Long. Ngày 24 tháng 12 năm 1974, chiếc trực thăng Chinook 47 chở chuyên viên từ Sài Gòn lên tỉnh lỵ Phước Long sửa chữa chiếc phi cơ vận tải C.130 bị hư đang nằm tại phi trường ngoại ô tỉnh lỵ, sau khi chở tiếp tế thực phẩm và nhiên liệu đến nơi. Lượt về, chiếc Chinook 47 đã bị hỏa lực phòng không của quân cộng sản bắn hạ sau khi cất cánh chưa đầy 5 phút. Các phi tuần khu trục phản lực A.37 được điều động từ Sư Đoàn 4 Không Quân ở Cần Thơ lên tăng cường yểm trợ hỏa lực cho lực lượng phòng thủ Phước Long, một trong số các phi công phản lực A.37 -Thiếu Tá Trần Quốc Tuấn- đã nói với tôi rằng: “… Em chưa bao giờ gặp hỏa lực phòng không dày đặc bố trí chung quanh tỉnh lỵ Phước Long. Phải nói rằng, một lưới lửa đỏ cả một vùng rộng lớn đã gây trở ngại đáng kể cho các phi tuần khu trục yểm trợ Phước Long …” Ngay ngày đầu năm 1975, quân cộng sản pháo kích khá mạnh vào căn cứ không quân Biên Hòa, để ngăn chận những phi tuần khu trục của Sư Đoàn 3 Không Quân cất cánh yểm trợ Phước Long. Cũng trong những ngày đầu năm 1975, các đơn vị cộng sản gia tăng áp lực chung quanh tỉnh lỵ với lực lượng ghi nhận là cấp Sư Đoàn, đặc biệt sự ghi nhận về lực lượng phòng không của chúng rất mạnh. Đang trong tình hình hết sức nguy hiểm cho lực lượng trú phòng, thì sự bất đồng quan niệm hành quân giải tỏa Phước Long giữa Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Quân Đoàn III/Quân Khu III, với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong phiên họp tại Phủ Tổng Thống, Trung Tướng Đống xin tăng cường lực lượng tổng trừ bị nhưng không được chấp thuận. Xin nói thêm, lực lượng tổng trừ bị dưới quyền điều động của Bộ Tổng Tham Mưu, gồm: Sư Đoàn Nhẩy Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, và Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân. Sự bất đồng quan điểm này, tôi nghĩ, không phải là vấn đề lớn đến nỗi gây bất bình cho Trung Tướng Dư Quốc Đống. Ông từng là Tư Lệnh Sư Đoàn Nhẩy Dù, từng được Bộ Tổng Tham Mưu tăng cường cho Quân Đoàn I, Quân Đoàn II, trong những tình hình chiến sự tại đó, chắc ông dễ dàng thông cảm với Bộ Tổng Tham Mưu khi sử dụng lực lượng tổng trừ bị. Về phía Quân Đoàn III, xin thì ông cứ xin, nhưng còn chấp thuận hay không còn phải tùy thuộc tình hình khắp các Quân Đoàn mà chỉ Bộ Tổng Tham Mưu mới nắm vững. Trong thời gian Phước Long bị tấn công gần như toàn tỉnh, thì tình hình tại Quân Đoàn I và Quân Đoàn II cũng không phải là yên tỉnh, và cho dù có yên tỉnh đi nữa thì Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu là cơ quan có trách nhiệm cập nhật hoá “bản nghiên cứu và ước tính tình báo” cung cấp thường xuyên cho vị Tổng Tham Mưu Trưởng về tình hình tại các vùng lãnh thổ các Quân Đoàn trách nhiệm. Nghĩa là vị Tổng Tham Mưu Trưởng, lúc nào cũng theo dõi thấu hiểu tình hình quân sự khắp nơi trên lãnh thổ. Chỉ nhìn từ bên ngoài thôi, lực lượng trú phòng vùng giới tuyến phải luôn luôn trong thế sẳn sàng chống trả những cuộc tấn công của một lực lượng cộng sản nhất thiết là mạnh hơn các vùng lãnh thổ khác, vì bất cứ lúc nào chúng cũng có thể từ bên trên vĩ tuyến 17 xua quân tràn xuống tấn công chúng ta. Có lẽ vì vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu tăng cường dài hạn cho Quân Đoàn I, cả lực lượng của Sư Đoàn Nhẩy Dù lẫn Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, trong khi Phước Long bị mất một số Quận nhưng vẫn không đưa ra quyết định rút một phần lực lượng tổng trừ bị từ Quân Đoàn I về tăng viện cho Quân Đoàn III, ắt phải có nguyên nhân chính đáng, trừ khi có nguyên nhân sâu xa nào đó đằng sau quyết định của Tổng Thống không chấp thuận đề nghị của Trung Tướng Tư lệnh Quân Đoàn III. Theo lời của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu nói lại trong buổi họp tham mưu của Tổng Cục Tiếp Vận, thì Trung Tướng Dư Quốc Đống xin từ chức ngay trong buổi họp tại Phủ Tổng Thống, nhưng Tổng Thống không chấp thuận. Lý do mà Trung Tướng Đống xin từ chức, theo lời của cựu Đại Tướng Cao Văn Viên thì sau khi trình bày tình hình quân sự tại Phước Long là ông xin từ chức ngay vì ông tự thấy không đủ khả năng. Vậy, sự thật là Trung Tướng Đống xin từ chức trước khi hay sau khi Tổng Thống không chấp thuận tăng cường lực lượng cho Phước Long theo đề nghị của Trung Tướng Dư Quốc Đống? Nếu Trung Tướng Dư Quốc Đống xin từ chức trước khi Tổng Thống không chấp thuận tăng cường lực lượng giải tỏa áp lực cộng sản tại Phước Long, thì tại sao ông không từ chức trước khi Phước Long thật sự bị áp lực của quân cộng sản mà chờ đến lúc Phước Long nguy ngập mới xin từ chức với lý do không đủ khả năng giải quyết tình hình trong vùng trách nhiệm? Chẳng lẽ ông sợ chiến trường Phước Long? Còn nếu Trung Tướng Dư Quốc Đống xin từ chức vì không được Tổng Thống tăng cường lực lượng, tôi nghĩ, cũng không nên. Tại sao? Tại vì có thêm quân thì tiếp tục làm Tư Lệnh, không có thêm quân thì xin nghỉ, mà là xin nghỉ trong khi Phước Long với hằng chục ngàn quân lẫn dân, viên chức lẫn cán bộ các ngành, đang trong tình trạng gần như hấp hối, nỡ lòng nào xin từ chức để không còn trách nhiệm với hằng chục ngàn con người bằng xương bằng thịt mà ít ra trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III, ông đã có đôi ba lần được Họ đón tiếp để nghe ông ban những huấn lệnh! Xin nhắc lại là tôi rất ngưỡng mộ Trung Tướng Dư Quốc Đống, lúc ông là Chuẩn Tướng, thành viên trong Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt họp ngày 8 và 9 tháng 7 năm 1966 tại Bộ Tổng Tham Mưu, để giải quyết 5 vị Tướng liên quan đến sự kiện khủng hoảng miền Trung từ ngày 9 tháng 3 (1966) đến 15 tháng 5 năm 1966. Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống đã dõng dạc nhận mình là người bỏ phiếu trắng, có nghĩa là riêng ông không chống lại Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi dù ông công nhận Trung Tướng Thi đã có lời phát biểu cũng như những hành động sai trái trong sự kiện khủng hoảng đó. Lý do mà ông trình bày vì ông kính trọng Trung Tướng Thi là bậc Thầy của ông. Đồng thời ông xin Hội Đồng quyết định về chức vụ Tư Lệnh Nhẩy Dù của ông. Nhưng sao bây giờ lại như vậy? Chẳng lẽ một vị Tướng, lại là vị Tướng trong binh chủng Nhẩy Dù mà sợ trận chiến Phước Long này sao? Hay là đằng sau của lời xin từ chức của ông, có điều gì uẫn khúc? Tôi nghĩ, cho dù Tổng Thống có chấp thuận hay không chấp thuận về đề nghị của ông xin tăng viện cho Phước Long, ông cũng không nên từ chức. Nói cho cùng, cho dẫu trận chiến Phước Long có đưa ông vào ngõ cụt, ông vẫn phải dấn thân. Đơn giản, vì ông là Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn III, mà một phần lãnh thổ trách nhiệm của ông đang trong tình thế nguy ngập! Đến ngày 7 tháng 1 năm 1975, toàn tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản! Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù là một trong những đơn vị rất tinh nhuệ của quân đội, đã phải băng rừng tháo chạy với tổn thất khá nặng, vì được Bộ Tổng Tham Mưu tăng cường vào lúc tỉnh lỵ lâm nguy nhất. Với lại cho dù thiện chiến đến đâu đi nữa, thì quân số của Liên Đoàn đặc biệt này cũng không sao chống nỗi một địch quân đông vào khoảng 2 Sư Đoàn, cho nên trong trường hợp này sự thất bại trong nhiệm vụ của Liên Đoàn là điều không thể tránh được. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy trưởng, đặc biệt nổi danh trong trận chiến khốc liệt mùa hè 1972 trong nhiệm vụ phòng thủ tỉnh lỵ An Lộc thuộc tỉnh Bình Long. Hồi ấy, báo chí gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa 1972” để chỉ 3 mặt trận chính: Đông Hà/Quảng Trị, Tân Cảnh/Kon Tum, Lộc Ninh với An Lộc/Bình Long, và mặt trận phụ là Hà Tiên/Kiên Giang. Cả 3 mặt trận chính đều do những Sư Đoàn quân chính qui của cộng sản từ lãnh thổ nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trên miền Bắc tràn xuống tấn công. Trận chiến “mùa hè 1972” này làm tôi nhớ lại vào những năm cuối của thập niên 50, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang từ cấp Tiểu Đoàn là cao nhất, được tổ chức lên đến cấp Trung Đoàn, Sư Đoàn, rồi Quân Đoàn. Trang bị thống nhất với toàn bộ dụng cụ chiến tranh do Hoa Kỳ cung cấp. Lúc bấy giờ là năm 1958, sau khi tôi học xong khóa Đại Đội Trưởng tại chi nhánh Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt trở về Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 35/Sư Đoàn Khinh Chiến 12 đồn trú ở Catecka, cách thị xã Plei Ku khoảng 8 cây số về phía Nam. Lại dự khóa huấn luyện bổ túc Đại Đội Trưởng tại Kon Tum do Ban Cố Vấn Sư Đoàn Khinh Chiến 12 tổ chức trong 3 tháng. Xong khóa học, tôi chuyển lên Bộ Chỉ huy Trung Đoàn 35, giữ chức Trưởng Ban 3 kiêm Trưởng Ban 5 Trung Đoàn. Toàn bộ Sư Đoàn Khinh Chiến 12 gồm Trung Đoàn 34, Trung Đoàn 35, và Trung Đoàn 36, cùng các đơn vị yểm trợ đang trong giai đoạn cuối của chương trình huấn luyện, và chuẩn bị vào chương trình hành quân thao dượt để Bộ Tổng Tham Mưu trắc nghiệm kết quả huấn luyện. Cuộc hành quân thao dượt diễn ra trong phạm vi tỉnh Kon Tum theo quốc lộ 14 xuống Plei Ku, với tình hình giả định là vào thời gian nào đó, quân cộng sản từ bên trên vĩ tuyến 17 mở cuộc tấn công vào Việt Nam Cộng Hòa với 2 mặt trận chính: mặt trận thứ nhất là vượt sông Bến Hải tấn công vào Đông Hà và Quảng Trị, mặt trận thứ hai là từ lãnh thổ Cam Bốt -sườn Tây Việt Nam- tấn công vào Dak To và Kon Tum. Trung Đoàn 34 và Trung Đoàn 35 Bộ Binh, có nhiệm vụ “trì hoản chiến” từ mặt trận Kon Tum xuống Plei Ku trong khi chờ lực lượng tổng trừ bị tăng cường phản công. Còn Trung Đoàn 36 Bộ Binh là lực lượng trừ bị của Sư Đoàn. Lúc ấy, các sĩ quan tham mưu chúng tôi cho rằng, quan niệm về một tình hình giả định như vậy là không thực tế với chiến trường Việt Nam, vì sở trường của quân cộng sản là đánh du kích, có quá lắm là lên đến vận động chiến cấp Trung Đoàn thôi. Nhưng 14 năm sau, tức năm 1972, chiến trường đã diễn ra gần đúng như tình hình giả định trong cuộc hành quân thao dượt của Sư Đoàn Khinh Chiến 12 vào năm 1958 vậy. Trở lại tình hình hậu Phước Long! Trong buổi chiều cùng ngày 7 tháng 1 năm 1975, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, mời tất cả các đơn vị trưởng trong phạm vi Quân Trấn Sài Gòn và vùng phụ cận đến câu lạc bộ/Bộ Tổng Tham Mưu, để nghe ông tóm tắt diễn biến tình hình toàn tỉnh Phước Long, và ông nói rằng: sự thất thủ của tỉnh này -Trung Tướng Khuyên không nói là điều may, mà ông nói- là giảm đi cái ung nhọt trên cơ thể, vì với khả năng không vận hiện này mà chiến trường Phước Long cần đến thì Bộ Tổng Tham Mưu không thể thỏa mãn nỗi. Câu kết của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, đã làm cho cả hội trường gần như đồng thanh “ồ” lên một tiếng, và tiếp đến là những âm thanh xì xào mà tôi chắc là các cử tọa đang bất mãn về lời sau cùng của Trung Tướng Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu. Chính bản thân tôi cũng nhận thấy Trung Tướng Khuyên đã không chuẩn bị trước cho buổi họp này, nên đã nói một câu tuy ngắn ngủi nhưng làm đau lòng những chiến sĩ trú phòng cũng như tiếp viện Phước Long còn sống sót, và làm tổn thương vong linh những chiến sĩ đã ngã xuống cho sự sống còn của Phước Long! Xin nói thêm rằng, ngoài 4 năm phục vụ trong văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, tôi có gần 7 năm phục vụ dưới quyền trực tiếp của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, thường khi bàn thảo với ông về những quan niệm cùng những kế hoạch cải tiến ngành Tiếp Vận, và qua đó, tôi nhận thấy Trung Tướng Đồng Văn Khuyên là vị Tướng rất có kinh nghiệm trong nhiều lãnh vực hoạt động của quân đội, và một số lãnh vực về kinh tế. Mỗi khi ông đề cập đến vấn đề nào thì ông diễn đạt được những gì ông nghĩ, nhưng có điều là ông nghĩ đến đâu trình bày đến đó chớ không hoàn toàn tuần tự từ A đến Z, nói chung là không mạch lạc. Ông vừa có kinh nghiệm và vừa có nét nhìn xa về tương lai của quân đội, nhưng là nghiêng về quản trị con người, quản trị hành chánh, quản trị tiếp vận, hơn là về chiến lược chiến thuật. Chẳng hạn như chương trình cải tổ sâu rộng về tổ chức và điều hành trong toàn ngành Tiếp Vận trong năm 1973-1974, ông đã dám nghĩ và dám làm trong hoàn cảnh vừa tái tổ chức vừa yểm trợ, và bước đầu được đánh giá là thành công. Nét nhìn xa của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên được thể hiện trong Quỹ Tương Trợ Và Tiết Kiệm Quân Nhân, mà tôi trình bày ở một đoạn trong chương bảy. Vì Trung Tướng Khuyên nghĩ sao thì nói vậy, nói một cách chân thành về những điều mà ông nghĩ, nên tôi và những sĩ quan tham mưu trong Tổng Cục Tiếp Vận có mặt lúc bấy giờ, hiểu và thông cảm về câu nói mà lẽ ra ông không nên nói, cho dẫu điều ông nói có là sự thật đối với khả năng của Bộ Tổng Tham Mưu cũng vậy. Tôi có nghe nói đến “chứng lapsus” và được giải thích rằng, khi người nào có chứng này thì trong những lúc bất chợt “lời nói thường là không đúng như điều đang nghĩ trong đầu”. Không biết có phải Trung Tướng Đồng Văn Khuyên trong trường hợp này vào buổi chiều ngày 7 tháng 1 năm 1975 trong câu lạc bộ Bộ Tổng Tham Mưu hay không? Đúng là khả năng chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị suy giảm, nhưng không phải suy giảm đơn thuần do tinh thần chiến đấu của Quân Nhân, mà do những nguyên nhân khách quan, trước mắt là khối lượng dụng cụ chiến tranh vào hàng tối tân do 500.000 quân Đồng Minh sử dụng, đã bị Hiệp Định Paris đẩy ra khỏi chiến trường Việt Nam. Đó là khối hỏa lực mà quân cộng sản từng khiếp đảm, bỗng dưng không còn nữa! Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang đánh giặc theo “kiểu nhà giàu” hay ít ra cũng là “dựa hơi nhà giàu”, nay đánh nhau theo “kiểu nhà nghèo” thì ảnh hưởng đến tinh thần Quân Nhân là điều khó tránh khỏi! Phải chi những vị lãnh đạo của chúng ta -nhất là thời Trung Tướng Nguyễn Khánh 1964- có bản lãnh chính trị vững vàng, biết đâu có thể đã thuyết phục được đồng minh Hoa Kỳ, thay vì đưa quân sang Việt Nam thì họ nhiệt tình giúp chúng ta các loại chiến cụ để chính chúng ta chiến đấu cho đất nước chúng ta, thì chính nghĩa trọn vẹn trong tay chúng ta. Trong trường hợp đó, rất có thể không có cái “Hiệp Định Paris 1973 kỳ cục”, cùng với “sự bảo đảm cũng kỳ cục” của 13 quốc gia và tổ chức Liên Hiệp Quốc, chỉ nhằm hỗ trợ cho quân cộng sản đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng ta. Đó là một thứ bảo đảm không công bằng, bởi vì khi quân cộng sản vi phạm Hiệp Định, thậm chí khi chúng xua quân chính qui từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tràn xuống vĩ tuyến 17 đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, cũng chẳng có thành viên nào trong con số 13 thành viên đó phản đối cả! Sau đó, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn thay thế Trung Tướng Dư Quốc Đống, trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, tháng 12 năm 1974, bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân Đoàn II cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, vì theo Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, Trung Tướng Toàn bị tố cáo tham nhũng. Trước đó, trong thời gian giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh đồn trú tại Quảng Ngãi, Trung Tướng Toàn đã bị báo chí nói đến như là một Tướng Lãnh có quá nhiều tai tiếng không tốt. Nhưng sau khi rời khỏi Sư Đoàn 2 Bộ Binh, ông được Tổng Thống cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Plei Ku. Sau khi bàn giao Quân Đoàn II, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn nhận chức Chỉ Huy Trưởng Binh Chủng Thiết Giáp. Và tháng 2 năm 1975, từ Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp, ông nhận chức Tư lệnh Quân Đoàn III.
*****
Tỉnh Darlac thất thủ ngày 13 tháng 3 năm 1975.
Tết Nguyên Đán đầu năm 1975, quân nhân và công chức nghỉ chiều Ba Mươi Tết và trọn ngày Mồng Một Tết, thay vì nghỉ 3 ngày rưỡi như mọi năm, vì tình hình nghiêm trọng sau khi toàn tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản ngày 7 tháng 1 năm 1975. Trưa Mồng Hai Tết, nếu như ngày thường thì rất đông sĩ quan nhà xa dùng cơm trưa tại câu lạc bộ Bộ Tổng Tham Mưu. Nhưng bữa ăn trưa hôm nay, chỉ có Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, tôi -lúc bấy giờ là Tham Mưu Trưởng/Tổng Cục Tiếp Vận- và Thiếu Tá Nguyễn Văn Tấn, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Khuyên. Vì dù cho tình hình có thế nào đi nữa, trong mái ấm gia đình vẫn còn hương vị ngày Xuân, nên hầu hết các sĩ quan về nhà dùng cơm với gia đình. Với nét mặt thật buồn, Trung Tướng Khuyên lên tiếng phá tan sự yên ắng trong khoảng không gian trống rỗng của câu lạc bộ:
“Tôi nghĩ, chắc mình mất nước thật quá anh!
“Tại sao Trung Tướng nghĩ vậy?
“Anh nghĩ coi, có vấn đề hạ tuổi hoãn dịch trong các tôn giáo để có thêm một số thanh niên nhập ngũ, mà Thủ Tướng trình lên Tổng Thống, rồi Tổng Thống đẩy xuống Thủ Tướng, không vị nào dám nhận trách nhiệm vì sợ đụng chạm đến tôn giáo”.
Ngưng một lúc, ông tiếp với giọng thật nhỏ:
“Đã không đặt vấn đề thì không nói làm chi, mà khi đã thành vần đề thì phải thực hiện đến nơi đến chốn vì là vấn đề quốc gia mà, chớ dở dang như vậy chỉ làm mất uy tín của người lãnh đạo thôi”.
Khi nêu câu hỏi với Trung Tướng Khuyên là tôi muốn nghe ông giải thích thêm, chớ thật ra thì trong một chừng mực nhất định, tôi hiểu được câu ông nói. Chuyện như thế này: Nhân lễ Giáng Sinh, tối 24 tháng 12 năm 1974, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên tổ chức bữa ăn thật đơn giản ở phòng trên lầu của câu lạc bộ/Bộ Tổng Tham Mưu, với các thực khách sau đây: Trung Tướng Đồng Văn Khuyên và phu nhân. Thiếu Tướng Smith, Trưởng Cơ Quan Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Việt Nam. Thực chất thì cơ quan này thay thế Bộ Tư Lệnh Viện trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) trong một quyền hạn thu hẹp. Y sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục Trưởng Cục Quân Y. Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, Cục Trưởng Cục Công Binh. Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó Tổng Cục Tiếp Vận, và phu nhân. Đại Tá Pelosky, Phụ Tá của Thiếu Tướng Smith về Tiếp Vận. Tôi, Đại Tá Phạm Bá Hoa, Tham Mưu Trưởng/Tổng Cục Tiếp Vận. Và Trung Tá Nguyễn Đình Bá, chánh văn phòng của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Thiếu Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng (Pentagon) Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300.000.000 (300 triệu) mỹ kim để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40.000 sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ”. Những lời nói ngắn ngủi này của một vị Tướng tuy không có hào quang của một nhân vật quyền lực như Thống Tướng William C. Westmoreland trước đây, nhưng là nhân vật tiêu biểu cho tiếng nói của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Việt Nam chúng ta lúc ấy. Và lời nói này, tôi nghĩ, không có cách hiểu nào khác, ngoài cách hiểu là cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của chúng ta sắp kết thúc, và kết thúc với ý nghĩa thua trận! Vì nếu không thua trận thì làm gì có kế hoạch di tản sĩ quan và gia đình sang Hoa Kỳ! Đột ngột quá chăng? Có thể là với Hoa Kỳ, hay nói chung là với thế giới dân chủ tự do lẫn thế giới cộng sản độc tài, thì không có gì đột ngột cả vì họ là người ngoài cuộc. Có tốt lắm thì họ cũng chỉ nói lời thương hại hoặc lời “phân ưu” trong một bài diễn văn nào đó, cho cái dân tộc bất hạnh này mà thỉnh thoảng họ nói Việt Nam Cộng Hòa là tiền đồn trắc nghiệm chiến tranh ý thức hệ, hoặc chúng ta là tiền đồn chống cộng sản cho họ thôi! Nhưng với tôi quả là đột ngột, dù tôi có nghe những tin loan tãi đáng buồn trên làn sóng đài phát thanh BBC qua chương trình Việt ngữ! Rất có thể là tôi quá chủ quan khi tin rằng, chiến tranh đang trong giai đoạn khốc liệt nhưng phần đất tự do này không thể vào tay chế độ cộng sản độc tài được. Tại sao tôi chủ quan như vậy? Đơn giản chỉ vì tôi tin rằng cuộc chiến đấu của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta là cuộc chiến đấu có chính nghĩa, mà chính nghĩa thì không thể thua được! Lúc bấy giờ, rõ ràng là tôi không thực tế khi tôi là một trong số rất ít cử tọa ngồi nghe “diễn giả Smith” truyền đạt một câu ngắn ngủi trong bữa ăn đêm Giáng Sinh năm 1974, nó chẳng có ý nghĩa gì về tôn giáo, nhưng rất có ý nghĩa về cuộc chiến tranh mà chúng ta buộc phải lâm trận! Tôi hỏi:
“Chẳng lẽ đất nước mình đến hồi mạt vận sao! Có lúc nào Trung Tướng nghĩ như vậy không?
“Không đâu anh. Thật ra có lúc tôi cũng nghĩ như anh, nhưng cuối cùng tôi bác bỏ ý nghĩ đó, vì dù sao thì mình cũng có một quân đội chống cộng sản triệt để mà anh”.
Vì ông nghĩ như vậy, nên khi thấy một việc nhỏ tuy rất tế nhị mà Thủ Tướng với Tổng Thống là hai vị lãnh đạo cao nhất nước với đầy quyền lực trong tay, nhưng không vị nào dám nhận trách nhiệm, nên Trung Tướng Khuyên mới thốt lên câu nói như một lời than bất lực của chính ông, và hàm ý cho số phận một quốc gia: Việt Nam Cộng Hòa!
Cũng trong bữa ăn trưa Mồng Hai Tết này, Trung Tướng Khuyên nhắc tôi ráng điều động và đôn đốc Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (đồn trú tại Qui Nhơn), vận chuyển hàng tiếp liệu lên Plei Ku chuẩn bị chống trả cuộc tấn công của quân cộng sản thường khi là vào mùa hè.
Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đang thực hiện kế hoạch vận chuyển các loại hàng tiếp liệu loại 1, loại 3, và loại 5, từ Qui Nhơn lên dự trữ ở Plei Ku và Kon Tum. Các loại hàng tiếp liệu trong quân đội do ngành Tiếp Vận quản trị, chia làm 5 loại:
Loại 1, là lương thực thực phẩm cho người và thú vật (quân khuyển = chó trận) Loại 2, là quân dụng trang bị cho tất cả các đơn vị quân chủng, binh chủng, binh sở, và các cơ quan phòng sở tham mưu, như: quân xa, vũ khí bắn thẳng, vũ khí bắn vòng cầu, xe tăng thiết giáp, xe đào đất ủi đất, chiến hạm, phi cơ, máy móc văn phòng, bàn ghế, ..v..v.. có ghi trong bảng cấp số của từng đơn vị cũng như cơ quan phòng sở. Loại 3, là các loại nhiên liệu và các loại dầu mở bôi trơn. Loại 4, là những gì thuộc về vật liệu xây dựng và vật liệu phòng thủ. Và loại 5, là các loại bom đạn và chất nổ. Số lượng dự trữ dự trù cho 20.000 quân trú phòng Plei Ku và Kon Tum chiến đấu trong 30 ngày không cần tiếp tế. Đó là dự trù cho một tình hình tệ hại là không tái tiếp tế được, chớ thật ra trong kế hoạch của Tổng Cục Tiếp Vận có dự liệu khi chiến trận xảy ra thì từ ngày thứ 3, mà trong tham mưu quân sự gọi là ngày N + 2, bắt đầu tái tiếp tế bằng không vận để bổ sung mực độ dự trữ cho lực lượng phòng thủ. Khi mất Phước Long, Trung Tướng Khuyên ước tính thời gian quân cộng sản mở cuộc tấn công vào Plei Ku và Kon Tum, có thể sớm hơn ước tính của Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu. Vì vậy mà ông cho tăng cường thêm quân xa ra Qui Nhơn để Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận có thêm khả năng vận chuyển. Hằng ngày, từng đoàn quân xa hằng trăm chiếc hạng nhẹ và hạng trung, lăn bánh trên quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn với Plei Ku - Kon Tum, và ngược lại. Những ngày sau đó, tôi thường thảo luận với Trung Tướng Đồng Văn Khuyên trong những bữa ăn trưa tại câu lạc bộ, và câu chuyện chỉ xoay quanh nguồn tin từ Thiếu Tướng Smith, hòa trong những tin chiến sự ngày càng nghiêm trọng. Ban Mê Thuột là thủ phủ Cao Nguyên Miền Trung. Từ đây, theo quốc lộ 14 về hướng Bắc khoảng 170 cây số sẽ đến Plei Ku, một thị trấn đất đỏ ba-dan, và tiếp tục hành trình thêm khoảng 40 cây số nữa sẽ đến Kon Tum, một thị trấn toàn cát trắng. Cũng từ Ban Mê Thuột, theo quốc lộ 14 xuôi hướng Tây Nam, sẽ đến thị trấn Chơn Thành thuộc tỉnh Bình Long rồi theo quốc lộ 13 về đến Sài Gòn. Nếu từ Ban Mê Thuột, theo quốc lộ 21 về hướng Đông vượt đèo M'Drak sẽ xuống quốc lộ 1, rẽ phải sẽ đến Nha Trang và vào Sài Gòn, còn rẽ trái sẽ ra Tuy Hòa, Qui Nhơn, Quảng Ngãi, Đà Nẳng, rồi Huế, Quảng trị. Ngay trong thành phố Ban Mê Thuột và phi trường Phụng Dực, có Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, các đơn vị yểm trợ, và Trung Đoàn 53 Bộ Binh đồn trú. Phần còn lại của Sư Đoàn 23 đang bảo vệ Kon Tum và Plei Ku. Ban Mê Thuột trong phạm trách nhiệm yểm trợ của Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận, và Bộ Chỉ Huy này đồn trú tại bán đảo Cam Ranh, một bán đảo nổi tiếng trên thế giới từ đầu thế kỷ 20 khi Hạm Đội của Nga chạy trốn sự truy lùng của Hạm Đội Nhật Bản. Trưa ngày 9 tháng 3 năm 1975, Đại Úy Chỉ Huy Trưởng Kho Đạn ở ngoại ô Ban Mê Thuột điện thoại tôi:
“Thưa Đại Tá, theo lệnh khẩn cấp của Phòng 4/Quân Đoàn II (đồn trú ở Plei Ku), tôi phải cấp phát giải tỏa toàn bộ số đạn dự trữ trong kho vì tình hình rất nghiêm trọng, và có thể sẽ bị quân cộng sản tấn công trong đêm nay. Chúng tôi sẽ cấp phát tối đa cho các đơn vị đồn trú trong và ngoài thị xã theo khả năng mà họ tiếp nhận được. Xin trình Đại Tá rõ”.
“Anh em cố gắng công tác khẩn cấp này và mong anh em hoàn thành nhiệm vụ”.
Sở dĩ Quân Đoàn II ra lệnh trực tiếp là vì các kho dự trữ của ngành Tiếp Vận tại các địa phương chịu sự chỉ huy của hai hệ thống: Dưới quyền của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận về hành chánh và chuyên môn của ngành, trong khi Quân Đoàn chỉ huy về mặt yểm trợ tác chiến.
Trình Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó Tổng Cục Tiếp Vận xong, tôi liên lạc sang Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu được biết, theo nguồn tin khả tín thì lực lượng cộng sản xuất hiện chung quanh Ban Mê Thuột vào khoảng 2 Sư Đoàn, với một đơn vị Pháo Binh có thể lên đến cấp Sư Đoàn, và chúng có khả năng tấn công trong thời gian sớm nhất, nghĩa là có thể ngay trong đêm nay. Đại Tá Loan và tôi, lo ngại về các cuộc tấn công của quân cộng sản vào các tỉnh Cao Nguyên trong khi chúng tôi chưa hoàn tất mức độ dự trữ các loại hàng tiếp liệu cho Plei Ku và Kon Tum như lệnh của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ban hành. Trong lúc này, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, được phép của Tổng Thống đã đưa thân phụ của ông sang Tokyo trị ung thư cổ, và Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tổng Cục Trưởng. Sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, khi vào đến văn phòng thì điện thoai reo liên hồi:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Lễ đây anh. Tôi mới nghe nói là Ban Mê Thuột bị mất liên lạc hữu tuyến lẫn vô tuyến từ giữa đêm qua. Đâu anh xem lại có phải vậy không?
Đó là Đại Tá Trần Văn Lễ, Chỉ Huy Trưởng Trường Tiếp Vận, đồn trú trong căn cứ Long Bình, Biên Hòa.
Tôi gọi khắp các cơ quan phòng sở trong Bộ Tổng Tham Mưu, không cơ quan nào liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở Ban Mê Thuột cả. Chợt nhớ ra bên Sở Liên Lạc có căn cứ của đơn vị Lôi Hổ trên đó để hoạt động dọc biên giới Việt Nam-Cam Bốt, có thể còn giữ liên lạc được. Và đúng như vậy, Trung Tá Trần Đắc Trân, điện thoại gọi tôi sang để nói chuyện trực tiếp với nhân viên của Sở Liên Lạc trên đó. Trình Đại Tá Loan xong là tôi chạy sang anh Trân ngay. Tôi hỏi:
“Chào anh. Anh đang ở đâu đó?
“Em đang ẩn trú ở đầu phi trường nhỏ trong thành phố Ban Mê Thuột. Chung quanh em tiếng súng nổ dữ lắm và xe tăng của tụi nó (quân cộng sản) đã vào đến cuối sân bay rồi Đại Tá ơi!
“Theo anh thì tụi nó đã vào trung tâm thành phố chưa?
“Xe tăng của nó tấn công kho đạn đêm qua, và tụi nó tiến vào thành phố rồi. Khu vực Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn (23 Bộ Binh) và bên Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu đều có tiếng súng dữ lắm. Em chưa rõ lắm, nhưng em nghĩ là bị tụi nó chiếm hết rồi. Bây giờ em phải rút ra ngoại ô. Chào Đại Tá”.
“Cám ơn anh, và cầu nguyện cho anh cùng các bạn vượt thoát bình an. Chào anh và các bạn”.
Trở về Tổng Cục Tiếp Vận trình lại Đại Tá Loan. Đại Tá Loan gọi ra Cam Ranh nói chuyện với Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận, nhưng không thu thập được tin tức gì khả quan cả. Bên hệ thống Viba của Hành Chánh và Bưu Điện, cũng không liên lạc được với Ban Mê Thuột.
Tôi gọi lên Quân Đoàn II nói chuyện với Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn, được biết Quân Đoàn II đã cho phi cơ không thám trên không phận ngoại ô Ban Mê Thuột chớ không vào sâu bên trong được vì hỏa lực phòng không của quân cộng sản mạnh lắm, nên những tin tức ghi nhận cũng không giúp được gì cho Quân Đoàn khả dĩ có đủ dữ kiện nhận định tình hình một cách rõ nét, để có phản ứng thích nghi. Trong khi đó, Quân Đoàn II sử dụng phi cơ chiến đấu của Sư Đoàn 2 Không Quân và Sư Đoàn 6 Không Quân, oanh kích dữ dội vào quân cộng sản ven ngoại ô Ban Mê Thuột, nhưng cũng không vào không phận trung tâm thành phố để oanh kích các mục tiêu trong thành phố, do hỏa lực phòng không của địch như những lưới lửa đan chéo cả không phận Ban Mê Thuột.
Sư Đoàn 23 Bộ Binh, có 2 Trung Đoàn hoạt động trên Kon Tum, và 1 Trung Đoàn giữ phi trường Phụng Dực, nên sự chống trả yếu ớt của lực lượng phòng thủ Ban Mê Thuột chỉ gồm những đơn vị yểm trợ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và các đơn vị Địa Phương Quân Nghĩa Quân của Tiểu Khu, trong khi lực lượng tăng viện của Quân Đoàn trực thăng vận xuống giải tỏa, nhưng bị hỏa lực phòng không của cộng sản ngăn chận từ bên ngoài thành phố, không chống nỗi quân cộng sản quá đông tràn ngập chiến trường! Những trận đánh riêng lẽ -vì không có vị chỉ huy thống nhất- chẳng thể nào đảo ngược được tình thế, để rồi đến ngày 13 tháng 3 năm 1975, Ban Mê Thuột và toàn tỉnh Darlac vào tay quân cộng sản! Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, hai tỉnh đã vào tay quân cộng sản!
*****
Rút bỏ Cao Nguyên ngày 17 tháng 3 năm 1975. Lúc bấy giờ các vị lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo quân đội, và vài cấp chỉ huy liên quan đến những phản ứng sau đó, là: (1) Tổng Thống: Nguyễn Văn Thiệu (Trung Tướng). (2) Thủ Tướng: Trần Thiện Khiêm (Đại Tướng). (3) Tổng Tham Mưu Trưởng: Đại Tướng Cao Văn Viên. (4) Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Ông được phép đưa thân phụ sang Tokyo chữa bệnh ung thư, nên ông vắng mặt trong những ngày đầu cuộc rút quân. (5) Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú. (6) Tư Lệnh hành quân triệt thoái: Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất. (7) Xử lý thường vụ Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Đại Tá Phạm Kỳ Loan. (8) Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại Tá Bửu Khương. (9) Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lý. (10) Tôi, Đại Tá Phạm Bá Hoa, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Ngày 14/3/1975, một buổi họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng không rõ nội dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột. Rất tiếc là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên chưa về, nên tôi với Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, không biết gì hơn. Ngày 15/3/1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Có ai ngồi gần anh không?
“Dạ không, thưa Đại Tướng”.
Đó là Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông tiếp:
“Tuyệt đối là anh không cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi hành”.
“Vâng, tôi rõ thưa Đại Tướng”.
“Tổng Cục Tiếp Vận có bao nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng?
“Thông thường thì sử dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp tối cần thiết có thể sử dụng được 8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ hỏi bên Không Quân và sẽ trình lại Đại Tướng con số chính xác hơn, thưa Đại Tướng”. “Thôi được. Điều cần thiết là anh phải sử dụng tối đa vì đây là nhu cầu khẩn cấp. Anh liên lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ cần bao nhiêu chiếc thì cho họ bấy nhiêu, còn sử dụng vào công tác gì thì tùy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày mai. Anh rõ chưa?
“Thưa Đại Tướng, tôi rõ”.
“Phần anh, anh chuyển các quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn đem về đâu thì tùy anh”.
“Vâng. Tôi thi hành, thưa Đại Tướng”.
Tôi thuật lại cho Đại Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn tôi, đều không ước tính được là chuyện gì sắp xảy ra mà chúng tôi không được phép biết. Nếu chuẩn bị đánh nhau với quân cộng sản thì tại sao không để quân dụng lại thay thế số tổn thất? Nếu không đánh nhau,..... mà không đánh nhau là thế nào? Thật không hiểu nỗi! Tổ chức một quân đội, phải có hai yếu tố chính, là "con người và quân dụng". Quân dụng do ngành Tiếp Vận quản trị. Những gì trang bị cho mỗi quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, từ dinh dưỡng đến điều trị khi bị thương hay đau yếu, vấn đề mai táng và nghĩa trang, rồi doanh trại, phương tiện di chuyển, rồi súng đạn, xe tăng thiết giáp, đại bác hỏa tiển,...... đều là nhiệm vụ của ngành Tiếp Vận. Ấy vậy mà Tiếp Vận lại không được quyền biết đến kế hoạch hành quân, ít nhất là đối với lệnh vừa rồi của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ! Trong quân đội, chỉ có Trung Tướng Đỗ Cao Trí và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, là hai vị Tư Lệnh đại đơn vị đặt Tiếp vận vào đúng vị trí của ngành này mà thôi. Điển hình là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đầu năm 1970 khi soạn kế hoạch hành quân sang lãnh thổ Cambodia tấn công các kho dự trữ tiếp vận của quân cộng sản sát biên giới Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung Tướng Trí nêu câu hỏi với Trung Tá Trương Bảy (sau này là Chuẩn Tướng Cảnh Sát) Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận: "Theo kế hoạch hành quân đã trình bày, Tiếp Vận có chuẩn bị kịp không? Nếu không, Quân Đoàn sẽ lùi ngày lại".
Khi vị Tư Lệnh hỏi như vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách mấy cũng phải thực hiện cho xong chớ đâu thể xin lùi ngày được. Đằng nào cũng phải vất vả, nhưng vất vả mà được biết đến vẫn vui lòng hơn.
Đầu tháng 12 năm 1974, trước khi lên Plei Ku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú điện thoại tôi:
“Anh Hoa à, tôi sắp sửa lên Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung Úy Thiêm một tuần để nó lên đó chọn hướng đặt bàn giấy giùm tôi nghe anh”.
“Vâng. Tôi sẽ nói với anh Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực tiếp với anh ấy về những chi tiết cần thiết”.
Lúc bấy giờ tôi là Cục Trưởng Cục Mãi Dịch (đồn trú ở Sài Gòn). Trong đơn vị tôi có Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm được nhiều người cho là giỏi tướng số, tử vi, và chữ ký. Và sau 5 ngày công tác riêng cho Thiếu Tướng Phú ở Plei Ku trở về, Trung úy Thiêm nói với tôi:
“Thưa Đại Tá, tôi thấy vận số của Thiếu Tướng Phú hết rồi, nhiều lắm cũng chỉ tính bằng tháng chớ không tính bằng năm đâu”.
“Anh có nói gì với Thiếu Tướng Phú không?
“Dạ không. Vì sợ Thiếu Tướng mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có cách gì giải được, thà không nói vẫn hơn”.
“Nghĩ như anh cũng phải”.
(Năm 2004, khi sang Sydney, Australia, tôi có gặp cựu Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm, đang là Giám Đốc một Công Ty của Hoa Kỳ tại Sydney). Tôi với anh thường liên lạc thăm hỏi nhau qua e-mail)
Tôi nhớ, có một hôm Trung Tướng Đồng Văn Khuyên nói với tôi rằng, "Thiếu Tướng Phú tuổi con rắn, nên Tổng Thống cử lên Quân Đoàn II vì rắn thích hợp với núi rừng". Thật sự có thích hợp hay không, tôi nghĩ, quí vị đã rõ.
Trở lại lệnh của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên Plei Ku liên lạc với Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II:
“Tôi Hoa đây anh Lý. Tôi được lệnh cấp C.130 cho anh nhưng không được biết là Quân Đoàn sử dụng vào công tác gì. Vậy anh có thể cho tôi biết để tôi tiện sắp xếp phi cơ theo đúng nhu cầu của anh không? Vì chắc anh cũng biết là số phi cơ khả dụng của chúng tôi giới hạn lắm”.
“Anh cứ đưa lên đây cho tôi, còn sử dụng vào công tác gì thì không thể nói được đâu”. Lời của Đại Tá Lý.
“Đành vậy. Nhưng anh cần bao nhiêu chiếc? Cần vào lúc nào? Và chuyển vận từ đâu tới đâu?
“Anh có bao nhiêu chiếc thì đưa lên tôi bấy nhiêu kể từ sáng mai (16/3/1975). Không trình có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc Sàigòn”.
“Sao lại là có thể mà không rõ nơi đến?
“Tôi không thể cho anh biết đâu”.
“Vậy thì như thế này. Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi 2 chiếc kế tiếp túc trực tại phi trường Tân Sơn Nhất và anh cần là cất cánh ngay, vì một lúc anh đâu sử dụng được 4 chiếc. Được không?
“Được. 8 giờ sáng mai anh cho có mặt tại phi trường Cù Hanh nghe”.
“Xong. Mình thỏa thuận như vậy”.
Tôi trình Đại Tá Loan là vẫn không biết được gì thêm ở Quân Đoàn II. Tôi cũng nêu thắc mắc với Đại Tá Loan, là tại sao Đại Tá Lý nói “không trình có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc Sài Gòn, mà không xác định điểm đến một cách rõ ràng”. Điều này hẳn có gì bí ẩn bên trong. Đại Tá Phạm Kỳ Loan điện thoại hỏi Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết lộ điều gì. Bên Không Quân xác nhận là có thể sử dụng tối đa 9 chiếc C.130, nhưng sau khi sử dụng như vậy thì các nhu cầu tiếp theo không thể thực hiện được ít nhất là một tuần vì phải tu bổ lại. Bộ Chỉ Huy Không Chiến, cơ quan điều động phi cơ, đồng ý về thỏa thuận giữa tôi với Đại Tá Lê Khắc Lý, nghĩa là 2 chiếc C130 cất cánh lên Pleiku thì 2 chiếc kế tiếp túc trực tại căn cứ Tân Sơn Nhất. Sáng ngày 16/3/1975, điện thoại reo: “Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Bộ Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ C.130 đang trên không phận phi trường Cù Hanh (Plei Ku), cho biết là không thể nào đáp xuống phi trường được, vì người ta đông không thể tưởng tượng nỗi. Chẳng biết là chuyện gì xảy ra vì không liên lạc được dưới đất. Và hai chiếc C.130 đang chờ lệnh Đại Tá”.
“Anh chuyển đến Trưởng phi cơ là hãy chờ tôi vài phút để tôi liên lạc với Quân Đoàn II xem tình hình ra sao”.
Gọi Quân Đoàn II, và tôi nói chuyện với Đại Tá Lý:
“Phi cơ tôi đang trên không phận của anh đó, nhưng không thể đáp được. Nếu anh muốn họ đáp xuống thì anh phải giải tỏa sân bay giùm đi. Nếu chậm quá thì họ sẽ về lại Sài Gòn đó. Mà chuyện gì xảy ra vậy Anh?
“Tại vì người ta tranh nhau chờ lên phi cơ mới có chuyện tràn ngập đường băng như vậy. Để tôi cho Quân Cảnh giải tỏa, anh bảo phi cơ đáp xuống cho tôi đi”.
“Thì phi hành đoàn đang chờ đường băng trống là đáp xuống, trừ khi anh không giải tỏa nỗi. Anh nhớ ưu tiên cho anh Liên Đoàn Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi ở Plei Ku, chở một số kiện hàng quan trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha Trang à nghe”.
Tôi lại nhờ Bộ Chỉ Huy Không Chiến chuyển đến phi hành đoàn C130. Và sau đó, phi cơ đáp xuống được tuy rất khó khăn vì đông nghẹt người là người hai bên đường băng. Để rồi một hình ảnh hỗn loạn chưa từng thấy -theo lời thuật của Trưởng phi cơ- là cả một rừng người chen lấn xô đẩy, thậm chí đạp lên nhau để tranh lên phi cơ, và hết sức khó khăn đến độ nguy hiểm, phi hành đoàn mới cho phi cơ cất cánh được. Hóa ra là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chuyển xuống Nha Trang. Tôi trình ngay cho Đại Tá Loan vì ước tính là sắp đánh nhau với quân cộng sản rồi. Ước tính này không phải là vô căn cứ, bởi vì cộng sản đã chiếm Ban Mê Thuột, thủ phủ Cao Nguyên, bây giờ chúng tấn công vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II (ở Plei Ku) cũng là điều xảy ra trong quân sự thôi. Nhưng chúng tôi nhầm ... Vì sáng ngày 17/3/1975, trong lúc 2 chiếc C130 trên không phận Plei Ku thì điện thoại nhà tôi reo, hôm nay là chủ nhật nên tôi đi làm muộn:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Bộ Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là toàn thị xã Plei Ku hôm nay không có bóng một sinh vật nào cả, và bây giờ phi hành đoàn xin phép về lại căn cứ”.
“Anh hỏi lại phi hành đoàn giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như vậy thì tôi đồng ý phi cơ quay về. Xin nhớ, đây là trách nhiệm rất quan trọng nghe anh”.
Tôi điện thoại qua nhà Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngay sau đó Đại Tá Loan liên lạc Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ (Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu) nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ được một giọt thông tin nào về tình hình đó cả. Tôi và Đại Tá Loan tức lắm, nhưng chúng tôi không có cách nào khác vì Trung Tướng Đồng Văn Khuyên đi Tokyo chưa về. Có vẻ như chúng tôi bị coi như là những sĩ quan không đáng tin cậy thì phải, ít nhất cũng là không được tin cậy trong cuộc hành quân này, dù rằng Đại Tá Loan đang là cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận với gần 100.000 quân nhân công chức chuyên ngành, và quản trị một khối lượng dụng cụ chiến tranh trên dưới 7 tỉ mỹ kim! Tất cả các hệ thống liên lạc truyền tin bằng vô tuyến lẫn hữu tuyến của quân đội, cũng như hệ thống liên lạc bên hành chánh, đều không liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở Plei Ku cả. Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận ở Qui nhơn, cũng không có tin tức gì khá hơn trong khi đoàn quân xa hơn 100 chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải (Qui Nhơn) vẫn còn kẹt trên Plei Ku vì quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn - Plei Ku bị quân cộng sản chiếm giữ nhiều chặng. Một tình hình không thể hiểu nỗi ít nhất là đối với ngành Tiếp Vận chúng tôi. Không biết tại sao lúc ấy chúng tôi không nghĩ đến giả thuyết nào khác, chẳng hạn như Quân Đoàn II vờ rút quân ra ngoài để thành phố bỏ ngỏ cho quân cộng sản tiến vào, rồi bất thình lình quật lại tấn công chúng ngay trong thành phố. Còn về giả thuyết rút bỏ Cao Nguyên thì nhất thiết không thể có trong tư tưởng của bất cứ sĩ quan nào chớ chẳng riêng gì chúng tôi. Cho dù một giả thuyết như vậy thôi cũng không có trong hàng sĩ quan cấp dưới, nhưng nó lại là một kế hoạch thật sự của vị lãnh đạo đất nước 20.000.000 dân, trong đó có một quân đội hơn 1.000.000 người! Cả hai chúng tôi -Đại Tá Loan và tôi- không thông báo tình hình tệ hại đó cho bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi hết sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói chung và số phận của anh em trong ngành Tiếp Vận ở Plei Ku và Kon Tum nói riêng, vì chúng tôi không có bất cứ một thông tin nào về tình hình đó, kể cả nguồn cung cấp chính xác nhất là vị Tướng Trưởng Phòng 3 ngang hàng với cơ quan chúng tôi, và vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp trên của chúng tôi cũng vậy. Chiều 18/3/1975, điện thoại reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Khương đây anh Hoa”. Đó là Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đồn trú tại Qui Nhơn.
“Anh có tin gì về anh em mình trên Plei Ku chưa?
“Liên Đoàn 2 Vận Tải mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị kẹt trên Plei Ku rồi anh. Đoàn xe này đang cùng với hằng ngàn quân xa và dân xa rút bỏ Plei Ku và Kon Tum, đang di chuyển trên đường liên tỉnh số 7 để xuống Tuy Hòa. Toàn bộ lực lượng gồm nhiều đơn vị chiến đấu, cùng với Pháo Binh, Thiết Giáp, bị sa lầy sau khi vượt qua Cheo Reo. Phần thì đường hư cầu sập làm nhiều chiến xa M.48 và pháo binh 175 ly cơ động xuống hố, gây tổn thất rất nặng cho cả quân đội lẫn dân sự, nhưng chưa thấy phản ứng của Quân Đoàn. Anh em mất tinh thần lắm anh ơi!
“Được rồi. Bảo vệ đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy Hòa, chắc chắn là trách nhiệm của Quân Đoàn. Bây giờ anh nên chuẩn bị tổ chức nhiều toán do một sĩ quan của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận chỉ huy và đặt tại Tuy Hòa, mỗi toán phụ trách một công tác, để khi đoàn quân xuống đến Tuy Hòa thì cấp phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà không cần theo thủ tục tiếp liệu thông thường, chỉ cần viết tay và ký nhận là đủ. Hàng mang theo cấp phát là: Lương khô đủ ăn 3 ngày, 1 bộ quần áo trận, đổ đầy xăng dầu cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y thì cấp thuốc cho các bệnh thông thường và cấp cứu đầu tiên. Anh thấy được không?
“Được anh. Để tôi lo”.
“Anh nói Liên Đoàn 2 Vận Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ tin tức gì về đoàn quân này thì anh cho tôi biết ngay nghe anh Khương”. Sở dĩ có đoàn xe hằng trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là vì sau khi Phước Long mất, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực hiện kế hoạch chuyển tiếp liệu loại 1 (lương thực thực phẩm), loại 3 (nhiên liệu), loại 5 (đạn dược chất nổ), lên Plei Ku dự trữ cho 20.000 quân phòng thủ trong 30 ngày mới bổ sung. Do vậy mà hằng ngày đoàn xe cả trăm chiếc đi đi về về giữa Qui Nhơn với Plei Ku để vận chuyển tiếp liệu từ Qui Nhơn lên Plei Ku. Tôi sang văn phòng Đại Tá Loan, và sau khi trình cho anh xong, tôi điện thoại lên văn phòng Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng: “Tôi Hoa đây anh Nguyện (Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn phòng), anh cho tôi trình vấn đề gấp với Đại Tướng”.
“Anh chờ tôi một chút”.
“Tôi đây”.
“Thưa Đại Tướng, tôi Hoa đây”.
“Có việc gì vậy?
“Thưa Đại Tướng, cách đây vài phút, Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, cho tôi biết về đoàn quân rút bỏ Plei Ku và Kon Tum đang bị sa lầy ... (tôi thuật lại chi tiết mà tôi với Đại Tá Khương đã nói với nhau).
“Anh có chắc là đúng như vậy không?
“Từ chỗ đoàn xe bị kẹt đến Đại Tá Khương như thế nào thì tôi không dám chắc, nhưng từ Đại Tá Khương đến tôi là hoàn toàn chính xác, thưa Đại Tướng”.
“Thôi được. Anh đừng nói với ai nữa nghe”.
“Vâng”.
Đại Tá Loan và tôi đều ngẩn ngơ về câu sau cùng của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Chúng tôi ngẩn ngơ vì không hiểu tại sao tình hình đến như vậy mà vẫn muốn giấu kín chúng tôi nữa! Vài phút sau đó, Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, điện thoại tôi:
“Cưng ơi (Chuẩn Tướng Thọ thường gọi tôi như vậy), cưng có liên lạc với đoàn xe trên đường số 7 hả?”
“Tôi không trực tiếp liên lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng tôi đã liên lạc được với đoàn xe chở tiếp liệu lên Plei Ku và bị kẹt trên đó, nay thì cùng trong đoàn quân sa lầy mà vừa rồi tôi đã trình Đại Tướng”.
“Có. Đại Tướng mới gọi anh đây. Cưng cứ biết vậy thôi nghe”.
Cũng lại giấu nhau!
Tôi có biết chút ít về đường liên tỉnh số 7 này, từ đoạn Plei Ku vào đến Cheo Reo và xuống đến Cung Sơn. Vì cuối năm 1955 -lúc bấy giờ tôi là Thiếu Úy, Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân- toàn bộ Tiểu Đoàn chúng tôi từ Vĩnh Long, cùng với Tiểu Đoàn 507 Khinh Quân, và Tiểu Đoàn 527 Khinh Quân từ Trà Vinh, di chuyển lên Cao Nguyên và đồn trú tại Cheo Reo, để thành lập Trung Đoàn 35 Bộ Binh trong hệ thống tổ chức Sư Đoàn 12 Khinh Chiến. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đồn trú tại Plei Ku. Các Tiểu Đoàn được cấp phiên hiệu như sau: Tiểu Đoàn 507 thành Tiểu Đoàn 1/35, Tiểu Đoàn 510 chúng tôi thành Tiểu Đoàn 2/35, và Tiểu Đoàn 527 thành Tiểu Đoàn 3/35. Vì các đơn vị yểm trợ tiếp liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở Plei Ku, nên chúng tôi thường xuyên đi lại giữa Cheo Reo với Plei Ku bằng đường liên tỉnh số 7 và một đoạn quốc lộ 14. Sở dĩ đoạn đường từ ngã ba quốc lộ 14 với liên tỉnh lộ 7 -tên địa phương là Mỹ Thạch- vào đến Cheo Reo còn sử dụng được, là vì trong chiến tranh giữa thực dân Pháp với cộng sản 1946-1954 (lúc đó Cộng sản núp dưới tên Việt Minh), Cheo Reo là cứ điểm quân sự của Pháp, nên đường này được tu bổ vì nó là "con đường huyết mạch" của cứ điểm. Còn đoạn từ Cheo Reo xuống Cung Sơn và Tuy Hoà, quân đội Pháp không sử dụng nên không tu bổ gì cả. Khi Trung Đoàn chúng tôi đến Cheo Reo, xác những chiếc thiết giáp của Pháp còn ngổn ngang tại đó, còn chiếc cầu bắc ngang Sông Ba thì tồi tệ hơn bất cứ chiếc cầu tồi tệ nào. Thuở ấy "rất là hoà bình", nên chúng tôi thường đi săn trên đường từ Cheo Reo xuống đến Cung Sơn, chỉ cần thận trọng một chút thì xe jeep vẫn bò qua chiếc cầu tồi tệ ấy được. Trên đoạn đường này, chiếc xe jeep của chúng tôi chỉ gọi là "bò" chớ không thể gọi là chạy được vì mặt đường giữa vùng rừng già heo hút này hầu như không còn gì để gọi là con đường nữa. Giữa năm 1969, lúc ấy tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn Văn Là, đến thăm các đơn vị tại Cheo Reo và các quận lân cận, con đường bên kia Sông Ba được tu bổ đôi chút. Và nếu đoạn đường tiếp nối xuống Cung Sơn để ra Tuy Hoà (tỉnh Phú Yên) không được tu bổ thường xuyên, mà Quân Đoàn II quyết định sử dụng cho đoàn quân hơn 10.000 người cùng với trên dưới 2.000 quân xa, dân xa, và chiến xa hạng nặng triệt thoái, quả là tạo được bất ngờ đối với địch, nhưng phải nói là quá liều lĩnh! Bất ngờ, nhưng con đường có sử dụng được hay không, lại là vấn đề trước mặt của Quân Đoàn II nói chung, và của bộ chỉ huy hành quân cuộc hành quân lui binh này nói riêng. Chiều tối hôm sau thì Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật Bản) về đến. Sau khi nghe chúng tôi trình bày về tình hình từ ngày ông vắng mặt đến nay, ông nói sáng mai sẽ trình diện Tổng Thống với Đại Tướng, chắc là sẽ có tin tức rõ ràng hơn. Và đây là những tin tức đó:
"... Sau khi mất Ban Mê Thuột, áp lực của quân cộng sản rất mạnh. Tổng Thống nhận định là không đủ khả năng bảo vệ toàn bộ Cao Nguyên trong khi Ban Mê Thuột cần giữ hơn là Plei ku với Kon Tum, vì vậy mà Tổng Thống trong buổi họp tại Cam Ranh, đã quyết định rút bỏ Plei Ku, Kon Tum, Phú Bổn, để đem lực lượng về phản công lấy lại Ban Mê Thuột. Tổng Thống giao cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, nhiệm vụ thực hiện cuộc hành quân triệt thoái khỏi 3 tỉnh đó, nhưng phải giữ bí mật tối đa và bảo vệ toàn vẹn lực lượng. Thiếu Tướng Phú trình kế hoạch là rút theo đường liên tỉnh số 7, dù rằng con đường này không sử dụng từ lâu nhưng đạt được yếu tố bất ngờ đối với lực lượng cộng sản. Với đề nghị của Thiếu Tướng Phú, Tổng Thống thăng cấp Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất. Lúc đầu, Tổng Thống không đồng ý, nhưng Thiếu Tướng Phú cố lặp lại đề nghị, và sau cùng thì Tổng Thống chấp thuận. Lúc bấy giờ, Đại Tá Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/Quân Đoàn II. Khi mang cấp bậc Chuẩn Tướng, ông được Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn giao phó trách nhiệm Tư Lệnh cuộc hành quân lui binh”.
Hết giờ buổi chiều khá lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận chỉ còn nhân viên trực hoạt động. Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn phòng (ông ngồi ở văn phòng Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, trên tòa nhà chánh), và ông đưa tôi xem một xấp không ảnh (ảnh chụp từ trên phi cơ) đã được giải đoán đầy đủ. Toàn bộ xấp không ảnh cho thấy đoàn xe không phải theo một hình dài mà là một hình gần như tròn, vì khi phần đi đầu bị kẹt thì những chiếc sau cứ lấn qua bên trái hay bên phải với hy vọng tìm được lối đi, nhưng càng lấn vào rừng thì càng không lối thoát, và cứ như thế mà cả đoàn xe quá nhiều đó đã tạo nên dáng như vậy. Ghi chú bên cạnh những khoanh tròn bằng ngòi bút của chuyên viên giải đoán không ảnh, có gần 800 xe đã bị thiêu hủy. Nếu như giải đoán viên không ảnh chính xác hay ít ra cũng gần như vậy, thì chỉ mới 4 ngày dấn thân vào đường liên tỉnh số 7 mà số xe bị tổn thất trên dưới 1/3 trong tổng số xe các loại, quả là rất nặng. Trong số tổn thất đó có Tiểu Đoàn Pháo Binh 175 ly cơ động và Trung Đoàn Chiến Xa hạng nặng M48". Đây là hai loại vũ khí mới được Hoa Kỳ viện trợ năm 1973 bằng cách các đơn vị pháo binh và chiến xa của họ chỉ rút người về nước và để toàn bộ chiến cụ đó lại cho quân đội chúng ta. Với chiến xa M48, nó là loại vũ khí đã cũ, thậm chí là quá cũ đối với Hoa Kỳ, nhưng với chúng ta nó là loại mới! Những bài học chiến thuật trong trường Võ Bị cũng như trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của Pháp và là tiền thân của trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, hay lui binh) là nhiều hiểm nguy hơn các cuộc hành quân khác, vì đơn vị "đưa lưng" về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt lại là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiền tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học "lui binh" là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được Không Quân quan sát và yểm trợ hỏa lực nữa. Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân cộng sản liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hòa thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống, chết vì cướp giật, ..v..v... Rút bỏ 3 tỉnh Cao Nguyên là Plei Ku, Kon Tum, và Phú Bổn, những tưởng bảo toàn được lực lượng gồm một phần của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh, Truyền Tin, và các ngành khác, để phản công chiếm lại thủ phủ Ban Mê Thuột, nhưng rồi toàn bộ Cao Nguyên miền Trung bỗng dưng rơi vào tay quân cộng sản một cách nhẹ nhàng. Tôi nói "bỗng dưng", vì rút bỏ Plei Ku từ đêm thứ bảy 16 rạng ngày chủ nhật 17 tháng 3 năm 1975, mà đến 3 giờ 15 phút chiều thứ tư 20/3/75 tín hiệu Truyền Tin tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II mới ngưng hoạt động. Đại Tá Cục Trưởng Cục Truyền Tin nói với tôi như vậy. Điều này có thể là lúc đó quân cộng sản mới đến và phá hủy máy móc hoặc tắt máy, cũng có thể là quân cộng sản chưa chiếm nhưng vì máy phát điện hết nhiên liệu nên cả hệ thống đều ngưng hoạt động. Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa, rõ ràng là quân cộng sản mà mình tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vây Plei Ku, nhưng thật ra chúng còn ở tận đâu đâu nên mãi 4 ngày sau -đó là thời gian sớm nhất- chúng mới vào chiếm Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, trong khi những Sư Đoàn của chúng ở càng xa Plei Ku về hướng Nam và Đông Nam thì khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoái hơn, do dó mà thiệt hại của đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong 20 năm chiến tranh! Một thất bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng, nhất là những người cầm súng dưới quyền chỉ huy của vị Tư Lệnh đã từng xông pha trận mạc! Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, khi còn là sĩ quan cấp Úy cấp Tá trong hàng ngũ quân đội Liên Hiệp Pháp lẫn trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã có tiếng là cấp chỉ huy can đảm, không lùi bước bất kể chiến trận gay go nghiêng ngã như thế nào. Nay, với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, liệu có phải là hơi quá tầm lãnh đạo chỉ huy của ông không? Hay là quyền lực hoặc khả năng của ông bị điều gì đó giới hạn? Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã tự tử ngay ngày 30 tháng 4 năm 1975. Với chiếc xe đạp mới toanh, tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn) vào sáng sớm ngày 2 tháng 5 năm 1975, trước quan tài ông, đứng nghiêm khá lâu, nhìn chung quanh trước khi đưa tay lên ngang trán chào ông đúng tác phong một sĩ quan cấp dưới. Tôi chào tiễn biệt Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tiễn biệt Ông vào cõi vĩnh hằng giữa hoàn cảnh đau thương của đất nước, dân tộc! Năm 1960, trong thời gian tôi học tại Trường Đại Học Quân Sự, tôi đọc được một tập tài liệu, có nhận định rằng: "Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm giữ được Cao Nguyên miền Trung, người đó sẽ nắm phần chiến thắng". Chắc chắn rằng, những vị Tướng của chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội đều biết tài liệu đó, nhưng có thể các vị bị chính trị đẩy Cao Nguyên ra khỏi tầm tay chăng?
*****
Việt Nam Cộng Hòa chúng ta đã thu ngắn theo chiều Bắc Nam!
Ngược dòng thời gian, thượng tuần tháng 5/1954, Điện Biên Phủ do 13.000 quân của Pháp trấn giữ, đã thất thủ làm rúng động toàn bộ quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương, rúng động cả nước Pháp, và hiển nhiên là sự thất trận này đã đưa nước Pháp đến tình trạng phải rời khỏi Đông Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Hơn 20 năm sau -tháng 3/1975- toàn bộ Cao Nguyên miền Trung vào tay quân cộng sản, làm rúng động toàn quân và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa. Và liệu sự thất bại này có phải là nguyên nhân dẫn đến toàn bộ Việt Nam Cộng Hòa vào tay quân cộng sản từ ngày cuối tháng 4/1975 không? Dù gì đi nữa thì sự thể đã là như vậy rồi! Tình trạng hỗn loạn bi đát trong cuộc hành quân lui binh trên đường liên tỉnh số 7, nếu chưa phải là nguyên nhân chính, cũng là khởi đầu cho sự hỗn loạn trong các cuộc hành quân lui binh của Quân Đoàn I, và các Sư đoàn 1, 2, 3, 22, 23 Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Hải Quân, Không Quân, dọc các tỉnh duyên hải từ Quảng Trị , Huế, Đà Nẳng, đến Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Cam Ranh. Trước ngày cuối tháng 3/1975, từ Quảng Trị đến Cam Ranh đều bỏ ngỏ. Tôi nói "bỏ ngỏ" vì không có Tiểu Khu nào hay Trung Đoàn, Sư Đoàn nào, phòng thủ chống lại quân cộng sản, hoặc nếu có chống trả như Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại sườn Tây Đà Nẳng cũng chỉ trong thời gian ngắn ngủi là rút lui, còn lại là rút đi trước khi quân cộng sản đến! Trong số những vị Tướng Tư Lệnh đại đơn vị thuộc Quân Đoàn I và Quân Đoàn II rút khỏi vùng trách nhiệm của những vị đó, tôi luôn tự hỏi về thái độ của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân khu I. Tôi được tiếp xúc với ông qua những công tác "dự phòng chống đảo chánh" từ năm 1965 khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhẩy Dù. Chính vì hiểu ông mà tôi tự hỏi như vậy. Bởi trong cuộc tấn công của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Huế và nhất là trong khuôn viên thành nội, nơi có bản doanh cùng một số đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh đồn trú, đã bị quân cộng sản chiếm giữ trong 3 tuần lễ. Lúc bấy giờ, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng (cấp bậc lúc ấy) là Tư Lệnh Sư Đoàn này. Cuộc phản công chiếm lại từng khu vực trong thành nội Huế rất cam go với tổn thất khá nặng, Chuẩn Tướng Trưởng đã chứng tỏ quyết tâm tiêu diệt quân cộng sản hay ít nhất cũng phải đánh bật chúng ra khỏi Huế trong thời gian ngắn nhất, khi ông đứng nghiêm chỉnh ở chân cột cờ với lễ phục và huy chương biểu tượng cho các chiến công của ông, Chuẩn Tướng Trưởng đã kêu gọi quyết tâm của quân sĩ dưới quyền ông hãy vì danh dự và trách nhiệm đối với tổ quốc dân tộc. Qua lời kêu gọi đầy trách nhiệm cùng với nhiệt tâm của ông, chính là quyết tâm của vị Tư Lệnh cùng quân sĩ chiến đấu, đã thúc đẩy cuộc phản công của Sư Đoàn đến chiến thắng vẻ vang. Đành rằng trong cuộc hành quân phản công này, có sự chiến đấu yểm trợ của quân lực Hoa Kỳ, nhưng Sư Đoàn 1 Bộ Binh Việt Nam vẫn là lực lượng chính. “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đã thăng cấp) đang là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Quân khu IV vùng đồng bằng Cửu Long, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và tức tốc lên phi cơ ra Đà Nẳng nhận chức. Một vị Tướng như thế, tôi nghĩ, ông không thể để Đà Nẳng vào tay quân cộng sản gần như êm thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng gốc là binh chủng Nhẩy Dù, và binh chủng này là một trong những binh chủng rất lì với chiến trận. Nhưng sự thể đã diễn ra như vậy, ắt phải có điều gì đằng sau quyết định rút bỏ thành phố cảng quan trọng của miền Trung. Và chỉ có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng mới có thể hiểu đến tận cùng điều ấy mà thôi. Xin mở ngoặc. Tối ngày 6/9/2003, khi vợ chồng tôi dự tiệc cưới tại Washington DC, chúng tôi ngồi chung bàn với cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, và cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi có ý định hỏi Trung Tướng Trưởng về điều thắc mắc của tôi, nhưng vì cựu Phó Đề Đốc Thoại lại đưa vấn đề cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 hỏi tôi nên mãi nói chuyện với ông, để rồi cuối cùng không còn thì giờ xin lời tâm sự từ cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Và đóng ngoặc. Hai chục năm sau năm 1975. Ngày 14/1/1995, tôi gặp anh Nguyễn Thành Trí trong chợ Hong Kong ở Houston, bạn tôi. Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và Sư Đoàn này đặt dưới quyền sử dụng dài hạn của Quân Đoàn I từ sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Xin mời quí vị lui lại 20 năm trước, và xin quí vị cứ tưởng như chúng ta đang sống lại những ngày cuối tháng 3 năm 1975 tại Đà Nẳng, lúc ấy bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở khu vực Non Nước, để nghe anh kể lại một góc nhỏ trong cuộc triệt thoái khỏi Đà Nẳng: ''Khoảng 5 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn công vào Sư Đoàn 3 Bộ Binh ở sườn Tây Đà Nẳng, và chỉ chống trả trong thời gian ngắn là Sư Đoàn 3 Bộ Binh rút lui, tạo khoảng trống bên sườn của Thủy Quân Lục Chiến, và các đơn vị co về bản doanh Sư Đoàn (Thủy Quân Lục Chiến). Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, đã rời khỏi Sư Đoàn và lên chiến hạm của Hải Quân (Việt Nam) từ lúc chiều. Nhưng trước khi đi ông có đến gặp Trung Tướng Ngô Quang Trưởng xin quyết định vì tình hình rất nghiêm trọng, nhưng Trung Tướng Trưởng không nói gì cả. Khi đến bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn, có cả ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cùng đi với Thiếu Tướng Lân. Ông Tổng Lãnh Sự có mang theo máy vô tuyến cầm tay loại nhỏ, chốc chốc ông ta thông báo vị trí của ông với ai ở đâu đó mà tôi (tức cựu Đại Tá Trí) không rõ. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân nói với tôi rằng: Ông Tổng Lãnh Sự khuyên ổng (tức Thiếu Tướng Lân) nên bảo toàn lực lượng, nhưng Thiếu Tướng Lân không nói điều này với Trung Tướng Trưởng.
''Khoảng nửa đêm 28 rạng 29 tháng 3 năm 1975, có tiếng động cơ trực thăng xuống bãi đáp bên cạnh, sĩ quan trực chạy ra đón và hướng dẫn phái đoàn vào bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, gồm các vị: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Khánh (tôi không biết họ) Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân (đồn trú tại Đà Nẳng), Đại Tá Phước (cũng không biết họ) Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51/Sư Đoàn 1 Không Quân, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh/Thị Trưởng Thừa Thiên/Huế, và Đại Úy sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Trưởng. Tại bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, sau khi Trung Tướng Trưởng liên lạc với các đơn vị và được biết đã rút lui an toàn (tức bỏ Đà Nẳng), Trung Tướng Trưởng nói với các sĩ quan cùng đi theo ông:
“Bây giờ thì các anh hãy tự thoát, còn tôi , tôi đi theo Thủy Quân Lục Chiến”.
''Trung Tướng Trưởng vừa nói xong thì gần như cùng một lúc, Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, Đại Tá Duệ, cùng chào Trung Tướng Trưởng và lên trực thăng cất cánh ngay.
''Khoảng 6 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975, sĩ quan trực vào trình tôi là chiến hạm đang tiến vào để đón các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Tôi đến trình Trung Tướng Trưởng:
“Thưa Trung Tướng, tôi không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm đang chờ đón tôi và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Vậy Trung Tướng nên đi với chúng tôi ngay bây giờ, thưa Trung Tướng”.
''Sau một lúc chần chừ như có ý không muốn rời Đà Nẳng, ông đứng dậy cùng đi với tôi. Nhưng vì chiến hạm không vào sát bờ được, cũng không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến hạm, nên tất cả đều lội nước, và khi mực nước lên đến ngực cũng là lúc trèo lên tàu. Sau khi mọi người lên chiến hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá Hường (Nguyễn Xuân Hường), Tư Lệnh Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đã có mặt trên tàu. Chiến hạm lui ra khơi nhưng chưa chạy, có vẻ như chờ lệnh hay chờ ai đó.
''Vài tiếng đồng hồ sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan rời khỏi bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đêm qua, đã quay trở lại, không rõ là do thời tiết xấu hay vì lý do gì đó, cả ba vị là Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, với Đại Tá Duệ, cùng lội nước ra chiến hạm. Vẫn là chiến hạm đang có Trung Tướng Trưởng trên đó. Tôi thấy sự chia tay đêm qua sao mà thản nhiên quá, thản nhiên đến mức không có vẻ gì có chút tình cảm đọng lại trong giây phút chia tay đó làm tôi cảm thấy khó chịu. (lời của Phạm Bá Hoa: Thuật chuyện đến đây đôi mắt anh Trí đỏ hoe, chực phát khóc! Rõ ràng là anh đang xúc động!)
Sau phút im lặng vì xúc động, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí kể tiếp:
''Tôi nhờ ông Hạm Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía trước hầu tránh cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trông thấy e không đẹp lòng nhau. Mãi đến quá trưa, chiến hạm mới rời vùng biển Đà Nẳng và trực chỉ Cam Ranh. Giữa chiến hạm với Bộ Tư Lệnh Hải Quân giữ liên lạc vô tuyến chặt chẻ, nên khi chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh thì nhận được công điện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Theo đó, Tổng Thống ra lệnh cho tất cả lên bờ, chỉ riêng Trung Tướng Trưởng vẫn ở trên chiến hạm và về Sài Gòn ngay. Tôi thắc mắc nếu muốn Trung Tướng Trưởng về Sài Gòn ngay thì tại sao Tổng Thống hay Bộ Tổng Tham Mưu không cho phi cơ ra Cam Ranh đón mà lại bảo đi bằng tàu? Lúc đó Trung Tướng Trưởng nói là ông đi theo Thủy Quân Lục Chiến chớ không về Sài Gòn. Đến khi Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, từ Nha Trang vào Cam Ranh khuyên Trung Tướng Trưởng nên về Sài Gòn theo lệnh Tổng Thống. Sau đó, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I đã theo chiến hạm về Sài Gòn''.
Đến đây là hết lời kể của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
Với lời thuật trên đây của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, tôi nghĩ rằng: rất có thể là các vị Tư Lệnh đại đơn vị tại Quân Đoàn I, từ binh chủng Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng Hải Quân, Không Quân, và cũng có thể ngay cả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I nữa, đã nhận được lời khuyên “bảo toàn lực lượng” như Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đã nhận của ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cũng nên? Và không chừng chiến hạm vào gần bờ để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng từ “lời khuyên” của ông Tổng Lãnh Sự nữa chăng! Vì rõ ràng là cựu Đại Tá Trí không hề biết lệnh xuất phát từ đâu mà. Và phải chăng với “lời khuyên” đó đã dẫn đến các vị Tư Lệnh có quân có quyền trong tay lần lượt rời khỏi đơn vị hoặc chỉ huy đơn vị triệt thoái? Điều này tôi không rõ, nhưng có điều quí vị đều rõ là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Đà Nẳng đã vào tay quân cộng sản quá dễ như khi vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Plei Ku vậy! Bây giờ xin mời quí vị nhìn vào đoàn người đông đảo đã “bỏ của chạy lấy người” được các loại tàu quân sự lẫn tàu hàng hải, tàu của Việt Nam lẫn thương thuyền ngoại quốc thuê mướn, vận chuyển đồng bào từ Huế, Đà Nẳng, và các tỉnh dọc duyên hải xuôi Nam, và đưa ra đảo Phú Quốc tạm trú. Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang mà tỉnh lỵ là Rạch Giá, nằm ngay cửa ngỏ vịnh Thái Lan. Số đồng bào chạy loạn này do Bộ Xã Hội phụ trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải quyết chung. Bộ Xã Hội yêu cầu Tổng Cục Tiếp Vận giúp họ tiếp tế mỗi ngày 20.000 phần cơm vắt và phi cơ đưa ra Phú Quốc cung cấp cho đồng bào. Trung Tướng Đồng Văn Khuyên bảo tôi lo giúp Bộ Xã Hội. Tôi điện thoại lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm này:
“Hoa đây Anh. Có việc này xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay được”. Xin lỗi quí vị, tôi xưng hô như vậy với Thiếu Tướng Trần Bá Di, vì chúng tôi thân nhau từ lâu.
“Việc gì mà coi bộ quan trọng vậy anh?
“Tại Phú Quốc hiện có khoảng 20.000 đồng bào của các tỉnh miền Trung chạy vào tạm trú, bên Bộ Xã Hội nhờ quân đội nấu cơm, vắt lại từng vắt, và dùng phi cơ quân sự đưa ra Phú Quốc cho đồng bào. Chuyện này là chuyện hằng ngày nghe Anh. Gạo thì Bộ Xã Hội cung cấp. Anh liệu Trung Tâm có thể giúp bằng cách nấu cơm, vắt lại, cho vô thùng và đưa ra phi trường được không? Dĩ nhiên là chúng tôi lo phi cơ”.
“Được chớ. Chuyện chung mà. Nhưng chừng nào tụi tui nấu?
“Ngay hôm nay, để mai là chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đội nhận giúp. Vậy Anh cho mượn gạo hôm nay nghe, ngày mai chúng tôi chở gạo đến Anh đủ một tuần, sau đó mình tính tiếp”.
“Được. Tôi cho nấu ngay. Khi xong, tôi cho anh hay”.
“Cám ơn Anh rất nhiều”.
“Cái gì mà cám ơn. Mỗi người mỗi đơn vị góp một tay vào trách nhiệm chung chớ! Trong khi vịnh Cam Ranh bỏ ngỏ, thì tại Biên Hòa, nơi có bản doanh của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn gấp rút tổ chức Bộ Tư Lệnh Tiền Phương, và Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi tình nguyện nhận trách nhiệm chỉ huy Bộ Tư Lệnh này. Ngay sau đó, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương/Quân Đoàn III di chuyển ra Phan Rang, đặt bản doanh ngay trong căn cứ Sư Đoàn 6 Không Quân tại phi trường Bửu Sơn (Phan Rang hay là Ninh Thuận), với nhiệm vụ tổ chức và chỉ huy tuyến phòng thủ tại đây. Phải nhận rằng, sự kiện Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi nhận chức vụ này trong một tình hình hết sức nguy hiểm, vì Phan Rang phút chốc trở thành tuyến đầu trước áp lực của quân cộng sản đang trên đà thắng thế, là một hành động xứng đáng được tuyên dương. Trung Tướng Nghi ngang hàng với Trung Tướng Toàn, mà ông chấp nhận dưới quyền Trung Tướng Toàn, quả là ông hành động vì sự lâm nguy của tổ quốc. Tôi nói “quân cộng sản 0đang trên đà thắng thế”, nhưng không phải chúng thắng thế do thắng trận, mà chúng thắng thế vì các đại đơn vị của chúng ta lần lượt rút bỏ tuyến phòng thủ trước khi quân cộng sản đến. Còn tại sao các đại đơn vị rút bỏ như vậy, tôi nghĩ, chỉ có quí vị Tư Lệnh các đại đơn vị đó mới giải thích được. Nhưng có lẽ không nên loại trừ giả thuyết về nguyên nhân “bảo toàn lực lượng” tương tự như lời của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân -Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến- nói với Đại Tá Nguyễn Thành Trí -Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến- là ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng đã khuyên ông (tức Thiếu Tướng Lân) như vậy. Lực lượng dưới quyền Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi thật là phức tạp, vì lực lượng còn lại của Sư Đoàn 2 Bộ Binh, Sư Đoàn Nhẩy Dù, và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến quá mệt mỏi, trong khi tái trang bị cũng như những nhu cầu tiếp liệu khác chưa hoàn chỉnh. Điển hình là Sư Đoàn 2 Bộ Binh từ Quảng Ngãi, và Sư Đoàn 22 Bộ Binh từ Qui Nhơn, triệt thoái về Vũng Tàu- Bà Rịa, Tổng Cục Tiếp Vận đưa quân trang quân dụng từ Sài Gòn ra tái trang bị theo tiêu chuẩn: “Mỗi Sư Đoàn tổ chức 2 Trung Đoàn (thay vì 3), mỗi Trung Đoàn tổ chức 2 Tiểu Đoàn (thay vì 3), Pháo Binh Sư Đoàn tổ chức 2 Tiểu Đoàn (thay vì 3), mỗi Tiểu Đoàn Pháo Binh tổ chức 2 Pháo Đội (thay vì 3), mỗi Thiết Đoàn Kỵ Binh tổ chức 2 Chi Đoàn (thay vì 3)”. Tất cả chỉ vì không đủ quân số, cũng không đủ quân trang quân dụng, vì số lượng quân trang quân dụng tồn trữ là dành cho nhu cầu thay thế chớ không dự trù để trang bị cấp đại đơn vị. Chỉ có các đơn vị của Thủy Quân Lục Chiến là được Sư Đoàn này bổ sung quân số tương đối đầy đủ bằng số tân binh vừa huấn luyện xong. Sau khi tái tổ chức, tuy vẫn còn danh hiệu Tiểu Đoàn, Trung Đoàn, Sư Đoàn, nhưng tổ chức đơn vị, trang bị, cộng với tinh thần, phải công nhận là sức chiến đấu các đơn vị chắc chắn sẽ sút giảm nghiêm trọng! Tái tổ chức và trang bị xong, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh tức tốc chuyển quân ra Phan Rang, trong khi Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh chuyển quân theo quốc lộ 4 xuống trấn giữ Tân An. Quốc lộ nối liền Sài Gòn với các tỉnh đồng bằng Cửu Long. Và rồi tuyến đầu Phan Rang thất thủ. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư Lệnh chiến trường, và Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân, cùng nhiều sĩ quan trực thuộc bị bắt làm tù binh. Tiếp đó là Đà Lạt, Lâm Đồng, Bình thuận (tức Phan Thiết), và Bình Tuy (tức Hàm Tân), đều bỏ ngỏ, lui về Vũng Tàu và thủ đô Sài Gòn. Sư Đoàn 25 Bộ Binh của Thiếu Tướng Lý Tòng Bá, từ Tây Ninh cũng lui về căn cứ Củ Chi, sát nách Sài Gòn. Ngay trước ngày rút bỏ Nha Trang, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, chỉ thị tôi gấp rút nghiên cứu tái tổ chức toàn ngành Tiếp Vận và phối trí từ vĩ tuyến 13 (trên địa thế là Phan Rang) trở xuống. Với lệnh này, tôi hiểu là lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn lại từ Phan Rang xuống đến Cà Mau, ra Phú Quốc và Côn Sơn! Tôi chỉ kịp trình bản phác thảo kế hoạch thì Phan Rang thất thủ, và nhiệm vụ nghiên cứu chấm dứt từ đó. Xin nhắc lại là lúc bấy giờ có dư luận về một áp lực từ phía ngoại quốc, buộc Việt Nam Cộng Hòa cắt phần trên vĩ tuyến 13 đến vĩ tuyến 17 giao cho tổ chức gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch. Mặt Trận này là tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản Việt Nam và khai sinh vào cuối năm 1960 trong khu rừng già biên giới Việt Nam-Cam Bốt. Như vậy, dư luận đó không phải là không có cơ sở. Lui xuống tuyến Xuân Lộc. Tại đây, Sư Đoàn 18 Bộ Binh do Thiếu Tướng Lê Minh Đảo giữ chức Tư Lệnh, ước tính khoảng 2 Sư Đoàn quân cộng sản mở cuộc tấn công vào Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Rất có thể là chúng cứ tưởng “chẻ tre” như từ sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) xuống đến đây, nhưng chẳng may cho chúng là sức kháng cự mãnh liệt của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, cộng với quyết định sử dụng bom CBU -loại bom hút hết dưỡng khí trong một đường kính nhất định và những ai trong khu vực đó đều không có dưỡng khí để thở- và loại bom 10 tấn dùng khai phá bãi đáp cho trực thăng giữa rừng già, đã gây thiệt hại nặng nề cho quân cộng sản. Thiệt hại đến mức chúng phải rời mục tiêu Sư Đoàn 18 Bộ Binh để vòng xuống tấn công Biên Hòa. Sau đó, Sư Đoàn 18 Bộ Binh được lệnh Quân Đoàn III rút về trấn giữ căn cứ Long Bình. Về phía Tiếp Vận. Từ sau ngày mất Cao Nguyên đến lúc này, toàn bộ các kho của toàn ngành Tiếp Vận từ Huế vào đến Cam Ranh, hầu như nguyên vẹn khi những đoàn quân triệt thoái, vì Tổng Cục Tiếp Vận không nhận được bất cứ một mệnh lệnh nào phải phá hủy các kho tồn trữ trước khi các đại đơn vị rút lui cả. Mà thật ra nếu có lệnh cũng không chắc là các đơn vị trách nhiệm có đủ thì giờ để phá, vi hầu hết là rút lui trong hỗn loạn chớ có kế hoạch gì đâu mà phá hủy!
**********
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 12:01:11 GMT 9
Chương 9 / Những Ngày Cuối Cùng. (ngày 21/4 đến 28/4/1975) - chín - Những Ngày Cuối Cùng. (ngày 21/4 đến 28/4/1975) ***** Tổng Thống Thiệu từ chức. Trong chính trị, không thiếu những cái khôi hài, nhưng khôi hài trong cái gọi là Hoa Kỳ vẫn tiếp tục viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa vào cái lúc mà chính Hoa Kỳ muốn “con bệnh Việt Nam mau được tẩn liệm”, quả là khôi hài đến rơi nước mắt! Đó là những ngày hạ tuần tháng 4 năm 1975, có những chuyến phi cơ vận tải C.130 và C.141 lác đác đáp phi trường Tân Sơn Nhất, mang theo một số đại bác 105 ly đã dùng rồi, một số mũ sắt không đồng bộ, nghĩa là chỉ có mũ nhựa bên trong mà không có mũ sắt bên ngoài, vài trăm túi cứu thương cá nhân,..... mà báo chí gọi là Hoa Kỳ vẫn viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa! Thật là tội nghiệp cho chữ nghĩa! Thật ra, đó chỉ là những chuyến phi cơ đến Sài Gòn với nhiệm vụ chính là chuyên chở những tài liệu và máy móc quan trọng của Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam. Trong khi Việt Nam cần ngay trước mắt 300.000.000,00 mỹ kim bổ sung nhu cầu duy trì khả năng chiến đấu, thì phái đoàn này rồi phái đoàn khác của Hoa Kỳ lần lượt đến Việt Nam gọi là cứu xét để viện trợ, nhưng dường như họ muốn đến tận xứ sở bất hạnh này để xem chương chiến tranh ý thức hệ giữa cộng sản với tự do bao giờ thì bắt đầu xếp vào quá khứ, khi họ đặt những câu hỏi chẳng thiện cảm chút nào trong lúc họ xem "trưng bày" tại võ đình trường Bộ Tổng Tham Mưu, một số vũ khí tịch thu của quân cộng sản. Mà thật ra các giới chức Việt Nam cũng thừa hiểu là họ không có ý tích cực nào trong mục đích nghiên cứu thời sự cho vấn đề viện trợ bổ sung cả, nên Bộ Tổng Tham Mưu cũng chỉ trưng bày một số vũ khí tịch thu của quân cộng sản từ những chiến trường trước chớ không phải từ chiến trường nóng hổi mới đây. Xin nói thêm rằng, trong tài khóa 1974-1975, Hoa Kỳ viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa 700.000.000,00 mỹ kim, và đây là lần đầu tiên họ cho biết số ngân khoản viện trợ cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời họ yêu cầu cung cấp cho họ kế hoạch nhận viện, gồm những loại quân dụng nào? Loại đạn nào? Bao nhiêu? ..v..v.. Và Tổng Cục Tiếp Vận đã cung cấp kế hoạch đó cho họ. Sau khi Phước Long vào tay quân cộng sản, một phiên họp mật được tổ chức tại phòng họp số 2 của Bộ Tổng Tham Mưu, thường gọi là phòng họp "Tân Sinh Nông Thôn". Tham dự, về phía Việt Nam có: (1) Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. (2) Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, với 5 sĩ quan tham mưu của Phòng 3. (3) Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó Tổng Cục Tiếp Vận. (4) Tôi, Đại Tá Phạm Bá Hoa, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, và 3 sĩ quan nữa của bộ tham mưu chúng tôi. Phía Hoa Kỳ tham dự, có: (1) Thiếu Tướng Smith, Trưởng Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Việt Nam. (2) Đại Tá Pelosky, Phụ Tá Thiếu Tướng Smith về Tiếp Vận, và 2 sĩ quan tham mưu của họ. Mục đích buổi họp là Văn phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ -chớ không phải do Bộ Tổng Tham Mưu- trình bày kế hoạch tái tổ chức Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (!) với quân số 472.000 người, và Hoa Kỳ dự trù viện trợ duy trì đội quân này mỗi năm là 600.000.000,00 mỹ kim. Họ yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nghiên cứu lại các bảng cấp số của từng loại đơn vị để quân số tham gia tác chiến được 65%. Tất nhiên là buổi họp còn thảo luận nhiều chi tiết nữa. Xin được nhấn mạnh là họ đã có kế hoạch rút chân ra khỏi Việt Nam trước một tình hình cực kỳ nguy hiểm -bằng chứng là lời của Thiếu Tướng Smith đã nói trong bữa ăn tối nhân Giáng Sinh năm 1974- mà họ lại ra cái điều vẫn quan tâm đến tương lai Việt Nam khi họ đưa ra kế hoạch tái tổ chức quân đội, nghiên cứu kế hoạch viện trợ bổ sung. Ngôn ngữ chính trị là như vậy đó! Nói vậy, nhưng không nhất thiết là như vậy đâu, mà tùy thuộc nhiều yếu tố khác nhau để hiểu loại ngôn ngữ này. Đành rằng, những đòi hỏi cấp bách trong nội bộ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ kết thúc sự can dự của Hoa Kỳ vào chiến tranh chống cộng sản tại Việt Nam, cho nên từ lời nói ngoại giao đến hành động cũng ngoại giao của Hoa Kỳ, chỉ là chuyện đầu môi chót lưỡi của những nhà chính trị cũng như quân sự thôi. Thủ đoạn của những nhà chính trị là điều cần thiết trong phòng thủ hay tấn công đối phương, thậm chí sử dụng ngay cả các quốc gia đồng minh nữa, nhưng thủ đoạn mà Hoa Kỳ sử dụng đối với Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, một quốc gia mà Hoa Kỳ thừa nhận là tuyến đầu chống cộng sản quốc tế tại Đông Nam Á Châu, quả là thiếu liêm sĩ trong lãnh đạo! Tôi nghĩ, đây là bài học lãnh đạo mà thế hệ chúng ta không bao giờ quên, bởi vì nó cay đắng quá, bi thảm quá! Và những thế hệ sau chúng ta, nên gìn giữ bài học chứa đựng quá nhiều xương máu của dân tộc trong hành trang vào đời, để nghiền ngẫm mà phục vụ nguyện vọng toàn dân dù ở bất cứ cương vị nào trong xã hội. Xin mời quí vị quí bạn rời khỏi cái phòng họp gần suốt buổi sáng, nơi ẩn chứa một không khí đầy dối trá trong chính trị lẫn quân sự từ một cường quốc “đồng minh”, để nhìn vào một thực tại bi thảm của chúng ta! Với những cuộc rút lui hỗn loạn của Quân Đoàn I, Quân Đoàn II, và phần lớn của Quân Đoàn III, trong khi toàn lãnh thổ Quân Đoàn IV gồm 16 tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, chưa có những trận đánh quan trọng nào, và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV, đã ra lệnh báo động cho Sư Đoàn 7 Bộ Binh, Sư Đoàn 9 Bộ Binh, Sư Đoàn 21 Bộ Binh, Sư Đoàn 4 Không Quân, cùng với Hải Quân, và các đơn vị tác chiến khác -kể cả Địa Phương Quân Nghĩa Quân- sẳn sàng chống trả các cuộc tấn công của quân cộng sản. Và cũng đến lúc này (20/4/1975), chưa thấy chỉ dấu nào về một thảm trạng rút lui hay bỏ chạy trong phạm vi Quân Đoàn IV cả. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, vốn dĩ là mẫu người hiền hòa nhưng rất cương quyết. Ông rất quan tâm và chăm sóc đời sống của quân nhân thuộc quyền. Tư cách và uy tín của ông, hoàn toàn chinh phục được những vị Tướng Lãnh và quân nhân thuộc quyền. Tổ Quốc đang trong cảnh mất mát suy tàn, với vô vàn đau thương cho tất cả các tầng lớp trong xã hội, nhất là đối với những gia đình từ các tỉnh Cao Nguyên và Duyên Hải miền Trung, đã bỏ của chạy lấy người vào sống nhờ sống tạm trên phần đất mong manh còn lại này, thì tình hình chính trị nội bộ lại lung lay tận gốc rễ. Những tin đồn đoán nào là Đại Tướng Dương Văn Minh đảo chánh, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảo chánh, nào là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị áp lực từ chức, ..v..v.. được truyền đi từ người này sang người khác, nhưng thật sự thì chẳng mấy ai biết những tin đó xuất phát từ đâu cả. Thông thường thì những loại tin như vậy cũng không phải hoàn toàn vô căn cứ, nếu nó xảy ra thì trở thành sự thật nhưng nếu nó không xảy ra thì xếp vào loại câu chuyện làm quà hoặc câu chuyện lúc trà dư tửu hậu để tỏ ra mình nắm vững thời cuộc. Trong loạt tin đồn đoán lần này, có một tin xảy ra đúng như vậy, đó là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vị Tổng Thống thứ nhì của Việt Nam Cộng Hòa và là Tổng Thống thứ nhất của nền đệ nhị Cộng Hòa, tuyên bố từ chức vào tối 21 tháng 4 năm 1975, sau khi ông mạnh mẽ cáo giác Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh Việt Nam (!) Và ông cũng tuyên bố rằng: "Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu bên cạnh anh em chiến sĩ”. Ý nói là Trung Tướng (Thiệu) sẽ tiếp tục phục vụ trong hàng ngũ quân đội. Trước đó, ngày 4/4/1975, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đã từ chức và bàn giao chức vụ Thủ Tướng cho Dân Biểu Nguyễn Bá Cẩn, đương nhiệm Chủ Tịch Hạ Nghị Viện. Dân Biểu Nguyễn Bá Cẩn chỉ ngồi ghế Thủ Tướng có 20 ngày là từ chức (23/4/1975) có vẻ như chuẩn bị chạy khỏi Việt Nam! Lúc bấy giờ có dư luận cho rằng, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đang được quân đội ủng hộ để trong một tình huống nào đó sẽ thay thế Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vì quân đội đang bị Tổng Thống Thiệu đưa chính trị vào “cướp quyền” lãnh đạo của các cấp chỉ huy, và đó là lý do Tổng Thống Thiệu cách chức Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm dưới hình thức từ chức. Về phần tôi, tôi không thu thập được gì trong các cơ quan phòng sở tại Bộ Tổng Tham Mưu về điều đồn đoán này, nhưng tôi tin là có điều gì đó tựa như “cơm không lành canh không ngọt” giữa Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu với Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm. Xin nhắc lại. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm lưu vong từ ngày 7 tháng 10 năm 1964, sau đó giữ chức Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ. Chuyển sang nhiệm sở tại Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) từ tháng 10 năm 1965. Đến tháng 5 năm 1968, về Việt Nam giữ chức Tổng Trưởng Nội Vụ. Đầu năm 1969, giữ chức Phó Thủ Tướng. Và đến đầu tháng 9 năm 1969, thay giáo sư Trần Văn Hương trong chức vụ Thủ Tướng. Rồi khi Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ bị cách chức Tổng Trưởng Quốc Phòng năm 1972 vì vụ Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm kiêm nhiệm thêm chức vụ này. Trong những năm chiến tranh chưa đến hồi khốc liệt và được viện trợ đầy đủ, Tổng Thống, Thủ Tướng, sát cánh với quân đội và toàn dân chiến đấu chống cộng sản, nhưng khi tổ quốc thật sự lâm nguy thì hai vị lãnh đạo cao nhất nước, đã kế tiếp nhau chuyển giao chức vụ cho hai vị khác trước cơn dầu sôi lửa bỏng của đất nước nhỏ bé và bất hạnh triền miên này! Sau đó, hai vị đã âm thầm bỏ tổ quốc Việt Nam, nơi mà quí vị được sinh ra và lớn lên. Quí vị bỏ quân lực Việt Nam Cộng Hòa, một quân đội đã từng đưa quí vị lên tột đỉnh quyền uy danh vọng. Và quí vị bỏ gần 20 triệu đồng bào mà chính Họ đã từng bỏ phiếu bầu một trong hai vị vào chức vụ Tổng Thống trong hai nhiệm kỳ để lo bảo vệ đất nước, lo chăm sóc người dân. Nói chung là quí vị bỏ lại đằng sau tất cả, để rồi quí vị lặng lẽ rời khỏi Việt Nam trong đêm tối trước ngày dân tộc Việt Nam bị cộng sản độc tài cai trị! Còn gì để nói đây! Nếu sau này quí vị có nói gì với dân tộc Viêt Nam khốn khổ này, xin quí vị đừng nói rằng quí vị từ chức chỉ vì Hoa Kỳ không còn viện trợ nên không đủ phương tiện để tiếp tục chống cộng sản nữa! Tôi nghĩ, quí vị đừng nói gì cả thì vấn đề sẽ không tệ thêm, vì quí vị là những người lãnh đạo quốc gia! Theo đúng Hiến Pháp, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đã tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống hai ngày sau đó. Và trên làn sóng đài phát thanh Hà Nội, cộng sản nêu yêu sách và có vẻ như Hoa Kỳ đồng lỏa với họ để gây áp lực buộc tân Tổng Thống Trần Văn Hương giao chức vụ này cho nhân vật không dự liệu trong Hiến Pháp 1967. Đó là Đại Tướng Dương Văn Minh. Và điều lạ là Đại Tướng Minh sẳn sàng nhận chức Tổng Thống không hợp hiến từ tay Tổng Thống hợp hiến Trần Văn Hương. Tân Tổng Thống Trần Văn Hương là một nhà giáo mẫu mực, liêm khiết, một nhà chính trị với tất cả nhiệt tình vì quốc gia dân tộc, và là một nhà lãnh đạo rất bình tỉnh thận trọng. Ông yêu cầu triệu tập Quốc Hội để có quyết định và ông sẽ tôn trọng quyết định đó. Điều này cho thấy Tổng Thống Trần Văn Hương không tham quyền cố vị, nhưng ông không thể tự mình chuyển giao chức vụ như vậy được, vì Hiến Pháp không dự liệu điều khoản nào cho trường hợp tương tự.
*****
Tổng Thống Hương bàn giao cho Đại Tướng Minh.
Đêm 28 tháng 4 năm 1975, trong khi đường phố thủ đô đông nghẹt đồng bào bồng bế di tản về đây từ các tỉnh đã vào tay cộng sản, Quốc Hội lưỡng viện đã họp và quyết định Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ này cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Quyết định này hẳn là hợp "khẩu vị chính trị" nên các vị lãnh đạo quyền uy thi hành ngay. Hoa Kỳ cũng không có ý kiến gì khác. Nước Pháp đã thua trận trước đối thủ Việt Minh cộng sản được đánh dấu bởi Hiệp Định Đình Chiến ký ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại thành phố Genève, Thụy Sĩ. Sau đó đoàn cố vấn Hoa Kỳ vào Việt Nam thì quân đội Pháp triệt thoái toàn bộ khỏi Việt Nam trong những tháng đầu năm 1956. Đến đầu năm 1964, quí vị Tướng Lãnh Việt Nam có khuynh hướng thân Pháp đều bị gạt khỏi vai trò lãnh đạo quân đội từ sau cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 thành công. Và bây giờ, trong tình thế Hoa Kỳ đang như "thua trận" trước đối thủ Việt Nam cộng sản, nước Pháp muốn đưa ảnh hưởng của họ trở lại chính trường Việt Nam với bước đầu là đảm nhiệm "vai trò con thoi" giữa tân Tổng Thống sắp nhận chức Dương Văn Minh với cộng sản Hà Nội. Người thay mặt nước Pháp tại Việt Nam Cộng Hoà trong vai trò đi tìm một giải pháp chính trị khả dĩ hai bên có thể chấp nhận được là Ông Đại sứ Mérillon. Nhưng đến sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, mới vở lẽ rằng, nước Pháp đã bị cộng sản Hà Nội lừa, vì họ nhất quyết đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chớ không nhằm mục đích tìm giải pháp gì cả. Những toan tính đầu môi của Hà Nội là loại chính sách "ngoại giao hàng tôm hàng cá" mà họ thường áp dụng trong bang giao quốc tế, ấy vậy mà nước Pháp -một trong những cường quốc Âu Châu- bị họ qua mặt dễ dàng. Đó là "một cái tát đau" mà cộng sản Việt Nam tặng Pháp quốc. Liệu có nên chia xẻ "cái đau" ấy với cường quốc Âu Châu này đã hơn 80 năm đô hộ Việt Nam mình hay không? Chiều 28 tháng 4 năm 1975, buổi lễ giao và nhận chức Tổng Thống giữa Giáo sư và là nhà chính trị lão thành Trần Văn Hương với Đại Tướng Dương Văn Minh, diễn ra trong không khí hỗn loạn trên đường phố thủ đô và không khí trầm lắng ngay trong Phủ Tổng Thống. Vị Tổng Thống 7 ngày Trần Văn Hương giới thiệu tân Tổng Thống Dương Văn Minh như là một người rất can đảm khi nhận chức vụ này, trong khi tân Tổng Thống Dương Văn Minh rất thận trọng chưa dám hứa là sẽ làm được gì, nhưng ông tin là ông có khả năng thương thuyết với Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam để thành lập chánh phủ liên hiệp, đem lại hòa bình cho quốc gia dân tộc. "Chánh phủ liên hiệp" được hiểu là chánh phủ quốc gia và cộng sản. Tổng Thống Dương Văn Minh không nói đến nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội, mà ông chỉ nói là sẽ thương thuyết với Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch. Tôi nghĩ, đó là cách dùng chữ của Tổng Thống Dương Văn Minh, nhưng bất cứ người dân nào cũng hiểu rằng, ông Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ hay Thủ Tướng Huỳnh Tấn Phát của cái Mặt Trận đó cũng chỉ là những cái loa của cộng sản Hà Nội thôi. Cho nên Cộng Hòa Miền Nam hay Cộng Sản Miền Bắc, cũng là cộng sản. Cũng trong lễ bàn giao này, cựu Tổng Thống Trần Văn Hương đã nói một cách dõng dạc và rõ ràng rằng: "Tôi xin hứa với tất cả anh em ở trong trong quân đội là ngày nào anh em còn chiến đấu, tôi luôn luôn đứng bên cạnh anh em, và ngày nào chẳng may mà đất nước không còn, thì cái nắm xương khô của tôi sẽ nằm bên cạnh đống xương của tất cả anh em chiến sĩ. Đó là cái nguyện vọng tha thiết của tôi, suốt cả đời tôi…” Vị giáo sư mẫu mực và là nhà chính trị lão thành Trần Văn Hương, đã giữ đúng lời nói của mình. Vì sau cùng, ông đã chết ngay trên quê hương Việt Nam giữa muôn vàn đau khổ của đồng bào dưới chế dộ cộng sản độc tài nghiệt ngã! Vị giáo sư già đó: ông Trần Văn Hương, xứng đáng được chúng ta ngã mũ cúi chào một cách trân trọng. Từ nơi hải ngoại nửa vòng trái đất xa xôi, xin gởi về một nén hương nhờ cắm trước mộ Giáo Sư Trần Văn Hương, với lời nguyện hương linh Ông siêu thoát nhẹ nhàng . . . Về lời nói đầu tiên của tân Tổng Thống Dương Văn Minh, thì bất cứ người dân bình thường nào cũng hiểu rằng, kế hoạch hòa bình của ông nếu được cộng sản Hà Nội chấp nhận, chẳng qua là họ chấp nhận đầu hàng theo từng bước. Bước đầu là hòa giải hòa hợp và chỉ cần bước kế tiếp là toàn cõi Việt Nam trở thành cộng sản thôi. Nhưng nói đi cũng nên nghĩ lại, là biết đâu, nếu như "thời cơ" của ông đến thì ông cũng làm nên chuyện vĩ đại lắm chớ. Nhận xét và suy nghĩ của tôi, Đại Tướng Dương Văn Minh là một nhân vật dễ tạo cảm tình với nhiều người nhiều giới, nhưng là nhân vật không thích hợp với vai trò lãnh đạo chính trị, lại càng không thích hợp với một tình thế như vậy, vì ông không phải là người tháo vát, nhanh nhẹn, và dũng lược.
***** Di tản!
Tối 23 tháng 4 năm 1975, Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó Tổng Cục Tiếp Vận, điện thoại đến nhà tôi, ông nói:
“Đại Tá Pelosky, yêu cầu các sĩ quan Tổng Cục đưa tên gia đình sang bên đó (tức Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ=DAO) để ghi vào danh sách chuyến bay, và gia đình có thể rời Việt Nam vào tối mai hoặc đêm sau đó. Sĩ quan sẽ đi sau. Vậy anh liên lạc đưa danh sách gia đình ngay trong đêm nay cho tôi hoặc đưa thẳng cho Đại Tá Pelosky cũng được”.
Tuy đã biết về lời của Tướng Smith, cùng theo dõi chặt chẻ tình hình chiến sự và tình hình chính trị quốc nội quốc ngoại, nhưng tôi vẫn cảm thấy tin này quá đột ngột, tôi đáp:
“Đây là vấn đề rất quan trọng đối với cuộc sống gia đình tôi và ảnh hưởng đến thân quyến tôi nữa, nên tôi cần thảo luận với gia đình mới quyết định được anh à. Nghĩa là tôi chưa thể trả lời trong đêm nay, và dù sao thì tôi cũng cám ơn anh”.
Thế là từ đêm hôm sau, những gia đình của các sĩ quan trong ngành lần lượt lên phi cơ Hoa Kỳ rời Sài Gòn để đến đảo Guam tạm trú, chờ làm thủ tục và cũng là chờ người thân đến trước khi vào lục địa Hoa Kỳ định cư. Tôi xin nói thêm rằng, không phải gia đình của tất cả sĩ quan trong ngành Tiếp Vận đều ra đi, vì lệnh này không được phổ biến cho nên sĩ quan nào biết thì liên lạc với các sĩ quan trách nhiệm của Tổng Cục Tiếp Vận, các vị này giới thiệu với Đại Tá Pelosky và được ghi vào danh sách lên phi cơ rời Việt Nam vào đêm sau đó. Sáng 24 tháng 4 năm 1975, tôi lên văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, ông nói:
“Gia đình tôi không đi mặc dù danh sách đã đưa cho Đại Tá Pelosky rồi”.
“Sao vậy Trung Tướng?
“Anh nghĩ coi, gia đình tôi đâu có tiền, sang bên đó làm sao mà sống. Với lại tình hình quốc gia như thế này mà lại tính chuyện ra đi thì còn mặt mũi gì nữa!
Ngưng một lúc, ông tiếp:
“Mất nước đến nơi mà các ông cứ tranh nhau chức vụ quyền hành (ý nói đến chức vụ Tổng Thống!) Buồn quá!
“Tôi thì chưa tính gì (Thật ra tôi giấu Trung Tướng Khuyên), nhưng nếu Trung Tướng có tính đi thì nên cho gia đình đi ngay kẻo muộn, vì gia đình các anh đơn vị trưởng và các anh Chánh Sở tại Tổng Cục Tiếp Vận mình đã đi rồi”.
“Tôi cũng chưa dứt khoát”. Lời của Trung Tướng Khuyên.
Nói thì nói vậy, nhưng đêm sau đó -25 tháng 4 năm 1975- gia đình của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên cũng lên đường đi Guam. Theo lời Trung Tướng Khuyên thì Thiếu Tướng Smith thúc giục ông đưa gia đình đi càng sớm càng tốt. Thật ra thì hành khách trên các phi cơ C130 và C141 rời phi trường Tân Sơn Nhất vào mỗi tối kể từ 24 tháng 4 năm 1975, không phải chỉ có gia đình sĩ quan mà còn có mặt của nhiều người nhiều giới trong xã hội nữa, vì bất cứ ai có bạn bè quen biết với Đại Tá Pelosky, thì họ giới thiệu hay gởi gắm không có gì khó khăn cả. Từ ngày bắt đầu di tản với những chuyến bay đêm, thì mỗi sáng tôi đều lên văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, thảo luận về chiến sự và thời sự trong tính cách tâm tình hơn là ra lệnh và nhận lệnh giữa Tổng Cục Trưởng với Tham Mưu Trưởng Tổng Cục. Tấm bản đồ trên vách trái bàn giấy của ông, những ước hiệu hình dáng như cái phong bì màu đỏ tượng trưng đơn vị cộng sản bao quanh Sài Gòn, và tương tự như vậy nhưng màu xanh lá cây tượng trưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phòng thủ thủ đô, thì màu đỏ nhiều hơn màu xanh. Thật ra đó chưa chắc là thực lực của quân cộng sản đến như thế, bởi chúng thường ngụy tạo bằng các sóng truyền tin loại trang bị cho đại đơn vị đặt ở đâu đó, để các sóng tình báo kỹ thuật của mình ghi nhận và ghi lên bản đồ vị trí các đại đơn vị của chúng. Trong số lực lượng cộng sản do Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu ghi nhận trên bản đồ, có thể một số là có thật, số khác rất có thể là chúng ngụy tạo thêm. Tôi nhận định như vậy, vì phi đoàn tình báo kỹ thuật của Phòng 7/Bộ Tổng Tham Mưu đã từng ghi nhận và phát giác sự kiện này. Lệnh di tản không cho phổ biến đã gây nhiều phẫn nộ ngay trong hàng sĩ quan cao cấp đang phục vụ trong Quân Trấn Sài Gòn, và nhiều vị trong số này đều cho là Bộ Tổng Tham Mưu tắc trách, hoặc có ý gì khác. Tắc trách thì chắc chắn là không, nhưng có ý gì khác hay không thì tôi không rõ, nhưng hiển nhiên là có lời nặng tiếng nhẹ đối với Tổng Cục Tiếp Vận. Chẳng hạn như Y Sĩ Đại Tá Hoàng Cơ Lân, Chỉ Huy Trưởng Trường Quân Y là trường hợp điển hình khi ông đẩy cửa thật mạnh và sừng sững trước mặt tôi:
“Tại sao Đại Tá không thông báo cho chúng tôi biết kế hoạch di tản? Như vậy là ý gì?
“Anh đừng nóng, tôi trả lời anh đây. Chúng tôi không thông báo cho bất cứ ai, vì đó là lệnh mà chúng tôi cũng chỉ là cấp thừa hành thôi. Ngoài ra, không có ý gì hết. Bây giờ xin anh cho biết là anh cần gì?
“Tôi cần đưa gia đình di tản”.
“Có gì khó đâu mà anh phải to tiếng. Mời anh sang gặp Đại Tá Tổng Cục Phó để cung cấp danh sách, và tối mai là gia đình anh đi thôi”.
Trong tuần lễ cuối cùng của tháng 4 năm 1975, trên đường về nhà dùng cơm chiều để rồi vào ngủ đêm trong Tổng Cục Tiếp Vận, tôi sử dụng đường Cách Mạng 1/11, chuyển sang đường Hiền Vương và thẳng đường Trần Quốc Toản về cư xá Bắc Hải (cũng gọi là cư xá sĩ quan Chí Hòa). Nhìn đường phố thủ đô chưa đến nỗi gọi là hỗn loạn nhưng cũng không xa ý nghĩa đó bao nhiêu. Tiếng động cơ và tiếng còi inh ỏi của các loại xe, chen lẫn trong âm thanh của những đoàn người ngược xuôi giữa khói mù thải ra từ các xe lớn nhỏ, hòa vào bụi bậm phố phường, đã tạo nên một hình ảnh bi thảm của chiến tranh! Trong những đoàn người từ các tỉnh chạy về đây, người thì tìm nơi cư trú, kẻ tìm phương tiện chạy xa thêm nữa. Các đơn vị quân đội cũng tán loạn, dân không hẳn là dân mà lính cũng không hoàn toàn là lính. Quân phục không nghiêm chỉnh, súng đạn thì kẻ còn người mất, không biết cấp chỉ huy ở đâu mà tìm. Mặt khác, còn phải tìm thân nhân thất lạc sau cuộc di tản đầy hiểm nguy gian khổ! Trông nét thảm thương của các đồng đội, tôi mới thấy tôi còn nhiều may mắn hơn các bạn ấy. Nhưng tôi không làm được gì cả! Vào phi trường Tân Sơn Nhất để tìm giúp gia đình người bạn và trao bức thư vì anh ấy không vào được, tôi lại chứng kiến cảnh tượng chia tay chưa biết ngày gặp lại thật là xót xa thương cảm! Đó là những người chờ lên phi cơ mà hầu hết là phụ nữ và trẻ con. Tiếng trẻ con khóc đòi ăn, la đòi bú, những đứa khác thì chạy nhảy rất ngây thơ đến tội nghiệp! Người lớn thì kẻ ngồi người đứng, ưu tư, lo lắng, thậm chí đôi mắt đỏ hoe, và chốc chốc nhìn ra hướng cổng phi trường như mong ngóng người thân trong những giờ còn lại trên phần đất quê hương trước khi "di tản" sang Hoa Kỳ, một đất nước xa xôi đến nửa vòng trái đất! Bên cạnh hình ảnh đau thương đó, nhiều xe du lịch đậu sát lề đường hay trên sân cỏ, và trong số đó có những chiếc xe có sẳn chìa khoá cùng với thẻ chủ quyền có kèm theo mảnh giấy của chủ nhân: "Tặng xe này cho bạn nào ngồi vào tay lái. Xin chào". Tôi đã nhìn vào một chiếc xe như vậy. Trong khi bên ngoài cổng, một dòng xe xếp hàng từ cổng phi trường dài gần đến cổng Bộ Tổng Tham Mưu. Từng gia đình tụm năm tụm bảy trên chiếc chiếu nhỏ hoặc tấm vải trắng dưới cái nắng gay gắt của Sài Gòn tháng tư, và bên cạnh là những thức ăn nước uống ngổn nga, đó là cảnh chạy trốn thảm họa cộng sản! Xuống bến Bạch Đằng, nơi có những thương thuyền ngoại quốc lẫn thương thuyền Việt Nam sắp sửa kéo neo, cũng cái cảnh nhốn nháo, vội vã, tiếng gọi ơi ới với tiếng la tiếng khóc của trẻ con, và cả tiếng gào thét giữa người đi kẻ ở, ai ai cũng vội vã, cũng hấp tấp, sao mà bi thảm đến như vậy! Trong thế kỷ 20 này, người dân sinh sống miền Bắc đã một lần chạy trốn thảm họa cộng sản hồi năm 1954-1955. Giờ đây -20 năm sau- lại một lần nữa, hằng chục ngàn người trong số đó cùng với nhiều chục ngàn người sinh sống miền Nam, đã và đang tìm cách chạy khỏi vòng tay cai trị của cộng sản. Nhưng lần này, họ phải chạy đến một nơi ngôn ngữ bất đồng, văn hoá khác biệt, phong tục tập quán hoàn toàn xa lạ. Nói chung là rất nhiều nỗi lo chồng chất phía trước, nhưng vấn đề cấp bách là phải chạy khỏi nơi đây rồi mọi việc sẽ bắt đầu . . . Tổ quốc tôi, đất nước tôi, dân tộc tôi, đến thời mạt vận rồi sao!
Sau ngày cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm lên phi cơ sang Đài Bắc (Đài Loan), đến Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng một quân đội hơn 1.100.000 người, cũng lên phi cơ rời bỏ Việt Nam! Ông ra đi trong khi Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đang quần thảo với khoảng 2 Sư Đoàn quân cộng sản tại Xuân Lộc và chung quanh. Với những tổn thất nặng nề nhưng quân cộng sản không hạ nỗi Sư Đoàn 18, nên chúng rời chiến trường Xuân Lộc để chuyển quân xuống tấn công căn cứ Sư Đoàn 3 Không Quân tại Biên Hòa. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Không Quân từ Đà Nẳng, Sư Đoàn 2 Không Quân từ Plei Ku, Sư Đoàn 6 Không Quân từ Qui Nhơn và Nha Trang, tập trung về căn cứ Không Quân Biên Hòa, lại chuyển xuống Sư Đoàn 4 Không Quân ở Cần Thơ, sau khi tham gia đánh chận lực lượng bộ binh và phòng không của địch. Chiều 28 tháng 4 năm 1975, Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn phòng. Đúng lúc ông bận điện thoại, tôi đứng cửa sổ văn phòng, nhìn toàn cảnh khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, theo con đường chánh về phía phải là ra cổng số 1 tại giao lộ Võ Tánh nối dài với đường Cách Mạng 1/11, về phía trái là cổng số 3 ra đường Võ Di Nguy. Ngay trước tòa nhà chánh là võ đình trường rộng lớn, uy nghi, chính giữa là cột cờ cao vời vợi với lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ đang tung bay trong gió. Vẫn những tòa nhà 2 tầng khang trang với dáng vấp kiến trúc Châu Âu, dùng làm văn phòng cho các Tổng Cục và Phòng Sở của Bộ Tổng Tham Mưu. Vẫn những hàng cây trang điểm màu xanh, cũng là buồng phổi của căn cứ quân sự đầu não mà tôi nhìn thấy gần như liên tục hơn 12 năm qua. Vẫn những chiếc quân xa trên những con đường ngang dọc đầy bóng mát. Và vẫn thấp thoáng những quân nhân qua lại giữa các tòa nhà, nhưng tôi tưởng như mình đang trơ trọi giữa khoảng trống mênh mông của một nghĩa trang chiến tranh nào đó! Vì rằng những vị Tướng Lãnh cùng nhiều sĩ quan cao cấp của cơ quan đầu não này đã ra đi, số còn lại cũng đang nói chuyện ra đi, chẳng còn ai nói đến chuyện chiến đấu nữa! Cho đến lúc này thì hầu hết những vị đầy quyền lực của chúng tôi nơi đây, đã cao bay (trực thăng) xa chạy (ra Hạm Đội 7 Hoa Kỳ) hết rồi! Phải chăng, đây là giờ hấp hối của Bộ Tổng Tham Mưu, cơ quan đầu não của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa? Ôi! Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một quân lực vì lý tưởng tự do mà chiến đấu, nhưng lại bất hạnh bởi những vị lãnh đạo quyền lực đã không thi hành trách nhiệm khi tổ quốc thật sự lâm nguy!
*****
Trước giờ thứ 25.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, ngay trước khi tuyên bố từ chức Tổng Thống vào đêm 21 tháng 4 năm 1975, đã “cáo buộc” Hoa Kỳ phản bội đồng minh Việt Nam, bỏ rơi Việt Nam, ... và ông hy vọng sự từ chức của ông, Việt Nam Cộng Hòa sẽ được Hoa Kỳ tái viện trợ quân sự ... Qua hệ thống truyền thông công cộng trong nước cũng như trên thế giới trong những tháng đầu năm 1975, và đặc biệt là trong 2 tháng cuối cùng của cuộc chiến, họ cung cấp cho khán thính giả trên toàn thế giới -trong đó có chúng ta- hiểu rằng, Hoa Kỳ đang lật trang cuối cùng về sự can dự của họ vào cuộc chiến tranh giữa tự do với độc tài trên lãnh thổ Việt Nam, trong ý nghĩa bại trận về phía Việt Nam Cộng Hòa chúng ta. Thế mà Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại “hy vọng” Mỹ sẽ vẫn tiếp tục viện trợ quân sự sau khi ông từ chức! Chắc chắn là Tổng Thống Thiệu thừa hiểu điều đó hơn ai hết, vì ông là Tổng Thống cho dù Tổng Thống cũng chỉ là một con người, nhưng nhất thiết con người Tổng Thống phải hơn hẳn những người khác chớ, nếu không như vậy thì hóa ra “đồng hạng” sao! Vậy, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã vì lý do gì đó như bị một áp lực từ hậu trường chính trị chẳng hạn, nên ông đưa ra lời cáo buộc để sang tay cho vị kế nhiệm khi thấy con đường chiến đấu phía trước đầy chông gai nguy hiểm, rồi ung dung bỏ chạy và lại là chạy sớm ra ngoại quốc nữa chớ! Chẳng lẽ Tổng Thống Thiệu nói là bị Mỹ áp lực mà ông phải từ chức thì nghe không ổn, vì ông là Tổng Thống, là vị lãnh đạo quyền lực và quyền uy nhất nước! Nhưng nếu thật sự ông nghĩ hay ông tuyên bố như vậy, thì liệu trong 10 năm trên ngôi vị lãnh đạo quốc gia, có phải thật sự ông người lãnh đạo đất nước Việt Nam hay Hoa Kỳ là người lãnh đạo? Hay là ông chạy trốn trách nhiệm? Vì 10 năm trị vì với đầy đủ quyền lực và quyền uy của một Tổng Thống, chính Tổng Thống chớ không phải Hoa Kỳ đã bao lần ra lệnh cho đơn vị này, chỉ thị đơn vị kia, cổ vũ tại các quân trường, hô hào tại các diễn đàn quan trọng, đều trong nỗ lực khuyến khích thúc đẩy mọi người -nhất là quân nhân- hãy hi sinh thân mình bảo vệ tổ quốc. Vậy mà, khi tổ quốc thật sự lâm nguy thì ông quên hết các mệnh lệnh của ông, của vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội mà ông đã từng dõng dạc tuyên bố, để rồi ông lặng lẽ để lại đằng sau tất cả những gì không phải của ông và gia đình ông! Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng từng tuyên bố rằng: “Đất nước còn thì còn tất cả, đất nước mất thì mất tất cả”. Lời của Tổng Thống rất đúng, và đúng với tất cả công dân Việt Nam Cộng Hòa, ngoại trừ ông và những vị lãnh đạo đầy quyền lực cùng những vị có quân có quyền đã bỏ chạy là không đúng. Vì các vị có mất gì đâu dù rằng đất nước mất! Nhà ở của quí vị là các dinh thự thuộc tài sản quốc gia, xe đi của quí vị hằng ngày cũng là tài sản quốc gia, cơ sở kinh doanh của quí vị cầm chắc là không do đồng lương thật sự của quí vị tạo nên, vườn tược đất đai đồn điền cũng thế, gia đình và thân nhân cùng chạy theo quí vị, thậm chí có thân nhân của ít nhất là một trong số quí vị chạy ra ngoại quốc bằng Hàng Không Việt Nam do ngân sách quốc gia đài thọ nữa chớ! Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, trong phiên lưỡng viện Quốc Hội ngay trong cuộc tổng công kích của quân cộng sản vào dịp Tết Mậu Thân đầu năm 1968, đã tuyên bố: “Đồng bào đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỷ những gì cộng sản làm”. Lời của Tổng Thống hoàn toàn đúng. Vì một trong những bản chất của cộng sản là dối trá, họ chỉ có tuyên truyền chớ không có thông tin, thành ra những gì cộng sản nói đều là tuyên truyền cả, mà đã là tuyên truyền thì có gì là thật đâu. Nhưng tối 21 tháng 4 năm 1975, ngay sau khi tuyên bố từ chức Tổng Thống, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu có nói với đồng bào với quân đội rằng “ . Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ”. Được hiểu là Trung Tướng sẽ trở về hàng ngũ quân đội chiến đấu. Nhưng mấy ngày sau đó, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đã bỏ chạy! Vậy, riêng trường hợp này thôi, liệu đồng bào và quân đội có nên nhìn kỷ hành động của Trung Tướng hơn là nghe Trung Tướng nói không? Đến vị lãnh đạo quốc gia hàng thứ hai là Đại Tướng Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm. Vị Thủ Tướng 5 năm rưỡi, đó là thời gian chỉ đứng sau thời gian của Tổng Thống Ngô Đình Diệm kiêm nhiệm. Cả hai thời gian này cộng lại là 15 năm, và hơn 5 năm còn lại lần lượt chuyền tay nhau giữa 9 vị. Nếu chia đều thì mỗi vị chỉ có mấy tháng cầm quyền chơi! Tôi nói “cầm quyền chơi” là vì chỉ có mấy tháng thì mỗi vị Thủ Tướng chỉ kịp duyệt qua công tác của các Bộ trong chánh phủ là hết thời gian rồi, đâu còn thì giờ để soạn thảo những kế hoạch, những dự án, những mục tiêu quốc gia, nói chung là sách lược quốc gia để phục vụ dân tộc. Đầu năm 1970, bà Trần Thiện Khiêm, trong cuộc đàm thoại hơn nửa tiếng đồng hồ, bà thuật cho tôi nghe câu chuyện thật ngắn với nội dung như sau: “.. Trên chuyến bay Sài Gòn-Đà Lạt mà trên phi cơ chỉ có gia đình Tổng Thống Thiệu và gia đình Đại Tướng Khiêm. Tổng Thống Thiệu mời Đại Tướng Khiêm giữ chức Thủ Tướng, bà Khiêm hơi to tiếng khi hỏi lại Tổng Thống Thiệu rằng: Tổng Thống biết anh Khiêm không thích làm chính trị mà còn kêu làm Thủ Tướng, có phải là Tổng Thống muốn anh Khiêm ngồi đó để Tổng Thống làm gì thì làm không? Tổng Thống Thiệu gạt ngang: Chuyện của đàn ông, bà biết gì mà nói”. Riêng về chuyện kể ngắn ngủi này chỉ có thế, nhưng tôi muốn lặp lại ở đây để có thêm một chứng minh về con người của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm như tôi đã nhận định hồi năm 1964 trước khi ông cùng gia đình lưu vong. Theo lời bà Khiêm trên đây thì Đại Tướng Khiêm vẫn là con người không thích dấn thân vào chính trị, mà Thủ Tướng là chức vụ chính trị cấp quốc gia. Điều này lại nhắc tôi liên tưởng đến vụ đảo chánh ngày 19 tháng 2 năm 1965 do Thiếu Tướng Lâm Văn Phát lãnh đạo, và Trung Tá Lê Hoàng Thao chỉ huy một Trung Đoàn của Sư Đoàn 25 Bộ Binh vào chiếm Bộ Tổng Tham Mưu, ông nói với tôi là có Trung Tá Phạm Ngọc Thảo (cộng sản hồi chánh, nhưng không rõ là hồi chánh giả hay hồi chánh thiệt) từ tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ -lúc đó đại sứ là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm- về tham gia, nếu thành công thì Đại Tướng Khiêm trở về cầm quyền. Tôi rất nghi ngờ lời nói của Trung Tá Lê Hoàng Thao. Cũng có thể là tôi chủ quan chăng, nhưng tôi vẫn giữ nguyên cách nhìn của tôi như vậy. Với nét nhìn của tôi, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm không phải là con người chính trị, cũng không thích dấn thân vào chính trị, nhưng lại giữ chức vụ chính trị mà là chức vụ trên nguyên tắc chỉ dưới quyền Tổng Thống thôi, cho nên hơn 5 năm trong ngôi vị Thủ Tướng, ông không có gì xuất sắc về mặt lãnh đạo với chức vụ khá nhiều quyền lực trong tay, dù rằng về phong cách và cá tính thì ông vẫn là người chinh phục được cảm tình của nhiều giới trong xã hội. Nhưng chẳng lẽ con người chính trị trong chức Thủ Tướng chỉ cần trang bị ngần đó thôi sao! Và rồi ông cũng đi ngoại quốc cùng chuyến phi cơ với Trung Tướng Thiệu, cũng là chuyện bình thường, vì ông đã bàn giao chức Thủ Tướng 3 tuần trước đó. Thưa quí vị quí bạn, Xin mở ngoặc. Tháng 7 năm 2009, tôi nhận được bản sao hai thư viết tay dưới đây do người bạn trẻ Chấn Võ, từ New York gởi tặng trên e-mail. Nội dung thư viết tay được viết lại dưới đây cho dễ đọc: Quyết định: (1) Nay đề cử cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm đại diện Tổng Thống VNCH (Việt Nam Cộng Hòa) đến Đài Bắc để phân ưu cùng Chánh Phủ và Nhân Dân THDQ (Trung Hoa Dân Quốc) nhân dịp Tổng Thống Tưởng Giới Thạch tạ thế. (2) Sau đó, hai vị trên được đề cử tiếp tục viếng thăm các quốc gia trên thế giới xét cần thiết trong vòng 6 tháng để làm sáng tỏ thiện chí hòa bình của VNCH, đồng thời vận động các Chánh Phủ và Nhân Dân các Quốc Gia để hỗ trợ lập trường hòa bình của Chánh Phủ và Nhân Dân ta. Chương trình thăm viếng sẽ do hai vị tùy nghi quyết định thể theo sự thuận lợi của tình hình đối với các quốc gia đó. (3) Yêu cầu Bộ Ngoại Giao chỉ thị các Tòa Đại Sứ VNCH yểm trợ cần thiết để nguyên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và nguyên Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm cùng phái đoàn chu toàn nhiệm vụ giao phó. (4) Chi phí công tác do Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc Phòng đài thọ (Quyết định đến chữ thọ là hết bản văn, nhưng lại có nét chữ khác thêm vào ..) trong khuôn khổ được luật lệ ấn định. (Suy đoán 8 chữ thêm vào với nét đậm là của Tổng Thống Hương). Sài Gòn, ngày 25 tháng 4, 1975. Dưới đây là viết lại thư viết tay của nguyên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho dễ đọc: Sài Gòn, 25/4/75. Kính trình Tổng Thống Trần Văn Hương. Thưa Cụ, Để thực hiện công tác Cụ giao phó, tôi kính xin Cụ chấp thuận cho những sĩ quan sau đây gọi là thành phần tối thiểu cần thiết để giúp tôi, đi theo tôi trong suốt thời gian công du: (1) Đại Tá Võ Văn Cầm. (2) Đại Tá Nguyễn Văn Đức. (3) Đại Tá Nhan Văn Thiệt. (4) Đại Tá Trần Thanh Điền. (5) Trung Tá Tôn Thất Ái Chiêu. (6) Bác sĩ Thiếu Tá Hồ Vương Minh. (7) Đại Úy Nguyễn Phú Hải. (8) Và phục dịch viên (tên) Nghị. Ngoài ra, cựu Thủ Tướng Đại Tướng Trần Thiện Khiêm cũng cần đem theo những sĩ quan và dân sự sau đây: (1) Trung Tá Đặng Văn Châu. (2) Thiếu Tá Đinh Sơn Thông. (3) Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận. (4) Và ông Đặng Vũ. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm nhờ tôi trình Cụ chấp thuận. Kính chào Tổng Thống. (ký tên Thiệu) Xin nhấn mạnh. Cả hai văn kiện đều viết tay, trên cùng một mẫu giấy trên bàn viết của Tổng Thống Thiệu, trong cùng ngày 25/04/1975. Theo nội dung trong e-mail cho biết thì văn kiện quyết định của Tổng Thống Hương do Đại Tá Võ Văn Cầm viết và Tổng Thống Hương chỉ ghi thêm dòng chữ “trong khuôn khổ được luật lệ ấn định” ngay sau chữ đài thọ. Đại Tá Võ Văn Cầm là chánh văn phòng của Tổng Thống Thiệu, Anh định cư ở San Francisco (California) và đã từ trần tại đó. Văn kiện đơn xin của nguyên Tổng Thống Thiệu viết trên giấy in sẳn có tiêu đề “Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa” ngay dưới quốc huy có quốc kỳ VNCH. Có thêm chữ “Cựu” viết tay ngay trước chữ “Tổng Thống ...” Có lẽ giấy in sẳn tiêu đề loại khổ nhỏ nên dưới tên “Bác sĩ Thiếu Tá Hồ Vương Minh ..” có viết tay “-2-“ tức là sang trang 2. Với hai văn kiện viết tay trên đây, quí vị có nhận ra hai vị nguyên Tổng Thống và nguyên Thủ Tướng muốn “chứng minh” là hai vị đi công tác ngoại quốc chớ không phải bỏ nước bỏ dân bỏ quân để chạy! Thêm nữa, theo văn kiện của Tổng Thống Hương thì phái đoàn 14 người đều do ngân sách Quốc Phòng và Ngoại Giao đài thọ, nhưng không biết quí vị có kịp lãnh phụ cấp công du hay không vì lúc ấy quân cộng sản áp sát sài Gòn rồi! Xin đóng ngoặc và tiếp tục đến vị lãnh đạo quân đội. Khi Đại Tướng Cao Văn Viên rời Việt Nam, trên bàn giấy của Ông tại Bộ Tổng Tham Mưu có văn kiện do Tổng Thống Trần Văn Hương ký cho Ông giải ngũ. Điều này được hiểu là Đại Tướng Viên rời khỏi Việt Nam với tư cách một cựu Tướng Lãnh chớ không phải một Tướng Lãnh đương nhiệm chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Xin mở ngoặc. Ngày 18 tháng 5 năm 2005, tôi có dịp dùng cơm với cựu Trung Tá (?) Trịnh Bá Lộc, sĩ quan tùy viên của Đại Tướng Dương Văn Minh đến giờ phút đầu hàng, anh Lộc thuật cho tôi và các bạn tại bàn ăn cùng nghe. “Đơn xin giải ngũ của Đại Tướng Cao Văn Viên viết bằng tay, không hiểu vì sao mà đơn đó được chuyển từ văn phòng Tổng Thống Trần Văn Hương sang văn phòng Đại Tướng Dương Văn Minh để hỏi ý kiến. Và bút phê của Đại Tướng Minh: Thuận”. Vào đầu tháng 3 năm 2006, ông Lâm Lễ Trinh (LLT)-Bộ Trưởng Nội Vụ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm- phổ biến trên NET bài mạn đàm có thu thanh với cựu Đại Tướng Cao Văn Viên từ hạ tuần tháng 12 năm 2004. Trong đó có đoạn liên quan đến trường hợp ông rời khỏi Việt Nam mà ông cho là tôi viết không đúng. Năm 2004, cựu Đại Tướng Viên có tặng tôi quyển sách để tôi theo đó mà sửa lại, nhưng tôi không làm theo ý của Ông vì tôi không đồng ý cách biện minh của ông. Đây là một đoạn trích nguyên văn và nguyên chữ trong bài viết của ông Lâm Lễ Trinh, liên quan đến cựu Đại Tướng Cao Văn Viên và tôi: Ông LLT. “Nơi trang 428-429 của hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng” (nxb Xuân Thu,1989), tướng Trần Văn Đôn viết: “Có lần ông Thiệu than phiền ông Cao Văn Viên không làm việc nhiều .. .Ông Thiệu nhờ tôi nói với Đại tướng Viên, Tổng Tham Mưu trưởng, về việc ông này cứ ở mãi Tổng Tham mưu làm việc, không chịu đi ra ngoài, ông Viên trả lời: Tôi đã xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp nhận nên tôi cứ ở văn phòng làm việc mà thôi!” “Mặt khác, trong quyển hồi ký “Đôi dòng ghi nhớ “ nêu trên, cựu đại tá Phạm Bá Hoa cũng có nhận xét rằng trong gần 9 năm rưỡi giữ chức Tổng Tham Mưu trưởng - chức vụ quan trọng bậc nhất trong Quân đội - anh đã nhiệt tình hoạt động 7 năm đầu nhưng hai năm sau cùng, vị “Nguyên soái” của Quân đội Miền Nam không cáng đáng hết trách nhiệm, đến văn phòng cho có lệ, tập luyện yoga và đi học lấy bằng cử nhân văn khoa ngoài giờ làm việc. Mong anh đại tướng vui lòng, nếu tiện, giải thích thái độ. Ông CVV. “ Tôi sẵn sàng trả lời. Trước khi cuộc đàm phán tại Paris tiến đến giai đoạn kết thúc năm 1973, tình hình quân sự thêm căng thẳng. Tổng thống Thiệu, với tư cách Tổng tư lệnh Quân đội, tập trung hết quyền bính trong tay, cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại Dinh Độc lập để liên lạc thẳng với các quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh vùng và ra lệnh trực tiếp hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu lần hồi bị dồn vào vai trò tuân hành và thị chứng. Bộ Quốc phòng chỉ còn là hộp thơ giữa Tổng thống và Bộ Tổng tham mưu. Vì không có điều kiện làm việc được như trước, tôi đã năm, sáu lần vô đơn xin từ chức. Ông Thiệu yêu cầu tôi nán lại, đợi người thay thế nhưng ông không quyết định. Tôi không có quyền bỏ ra đi một cách vô trách nhiệm. Tuy nhiên khi Tổng thống Trần Văn Hương nhường ghế cho tướng Dương Văn Minh tháng 4.1975, tôi cương quyết xin giải ngũ vì tôi không phục ông Minh từ lâu, tôi từng là nạn nhân của ông Minh. TT Hương chấp nhận đơn của tôi. Ngày 27.4.1975, tôi rời Sài Gòn trong tình trạng cựu Tướng Lãnh. Ông LLT: Việc Tổng thống Thiệu tóm hết quyền bính trong tay, qua mặt Quốc hội và Tối cao Pháp viện, một mình quyết định bỏ Cao Nguyên và Miền Trung là điều có lợi hay hại? Trong quyển hồi ký “Đôi dòng ghi nhớ “ (1994, trang 191-215), cựu Chánh văn phòng của anh là đại tá Phạm Bá Hoa có kể lại cuộc rút quân bi thảm của tướng Phạm Văn Phú theo đường số 7 và nhắc lại hai khẩu lệnh của anh bằng điện thoại cho đương sự ngàỵ 15 và 18.3.1975 bảo gởi phi cơ vận tải C130 cho Quân đoàn 2 và chở các quân dụng đắt tiền khỏi Pleiku “mà không cho biết lý do”. Ông Hoa than phiền Tổng Cục Tiếp vận, thuộc bộ Tổng Tham mưu, không hề được thông báo về tình hình suy sụp ở Cao Nguyên. Anh nghĩ sao về lời than phiền này? Ông CVV: Tất nhiên không có lợi. Một cá nhân không thể quyết định đơn phương vận mạng của Đất nước. Ông Phạm Bá Hoa trình bày không đúng về một số sự kiện trong quyển hồi ký mà tôi đã nhận được. Tôi có gởi cho y một bổn The Final Collapse được bổ túc để làm sáng tỏ vấn đề nhưng không thấy y nói gì. Phạm vi cuộc mạn đàm hôm nay không cho phép đi sâu vào chi tiết. Xin để dịp khác. Hết phần trích dẫn và đóng ngoặc. Cựu Đại Tướng Viên trả lời không đúng câu hỏi của ông Lâm Lễ Trinh riêng về phần tôi. Thưa quí vị quí bạn, Khi đứng trước cựu Đại Tướng Cao Văn Viên, về tình cảm riêng tư, tôi giữ đúng vị trí một “sĩ quan đàn em” như trong thời gian Đại Tướng cử tôi giữ chức chánh văn phòng, nhưng về trách nhiệm trong quân đội thì tôi nhìn vị Tổng Tham Mưu Trưởng của tôi theo cách khác. Thật sự thì năm 2003, cựu Đại Tướng Viên có nói với người bạn thân của tôi như là cách ông nhắn gởi đến tôi, theo đó Ông muốn tôi viết lại nội dung “Ông rời khỏi Việt Nam với tư cách một cựu Tướng Lãnh” chớ không như tôi đã viết là “Ông bỏ lại đằng sau tất cả để ra đi”. Tôi không đồng ý, vì nhìn sâu vào sự kiện tôi thấy đó không phải là nguyên nhân của sự thật. Đại Tướng Viên nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng ngày 15 tháng 10 năm 1965, đến ngày 28 tháng 4 năm 1975 Ông rời khỏi Việt Nam. Trong hai năm sau cùng của hơn 9 năm rưỡi trong chức vụ đứng đầu quân đội, Đại Tướng tự lái trực thăng đi làm. Tôi muốn nhấn mạnh điểm này để thấy quyền lực của vị Tổng Tham Mưu Trưởng. Nhưng khi đất nước thật sự lâm nguy thì Ông xin giải ngũ, với lý do đơn giản là Ông không phục Đại Tướng Dương Văn Minh sắp sửa nhận chức Tổng Thống. Giữa trách nhiệm lãnh đạo quân đội đang chiến đấu chống quân cộng sản ngay trong sân nhà, với lý do không phục vị Tổng Thống tương lai. Một bên là quốc gia đại sự, một bên là chuyện cá nhân, xin hỏi “bên nào là cốt lõi của lựa chọn?” Mà nghĩ cho cùng, giả như Đại Tướng Minh có nói bóng gió xa xôi là ông sẽ ám hại Đại Tướng Viên đi nữa, tôi nghĩ, Đại Tướng Viên cũng không thể vì đó mà xin giải ngũ, bởi Ông đang là Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng của một quân đội hơn một triệu quân, mà lúc ấy quân cộng sản đang sát nách thủ đô Sài Gòn. Cái lý do đơn giản mà cựu Đại Tướng Viên trả lời ông Lâm Lễ Trinh trong đơn xin giải ngũ, thật sự không có khả năng thuyết phục được độc giả nói chung, và Người Lính Việt Nam Cộng Hòa nói riêng. (*) Tôi lại nhớ đến ngày 30 tháng 4 năm 1999, trong cuộc phỏng vấn của đài phát thanh Little Saigon (Nam California) do xướng ngôn viên Việt Dũng phụ trách hôm ấy, khi hỏi cảm nghĩ về ngày 30 tháng 4 thì cựu Đại Tướng Viên trả lời, tôi không nhớ nguyên văn nhưng ý như thế này: “Khi dự đại hội cựu quân nhân tại Dallas, Đại Tướng Viên có nói với cử tọa rằng, quốc gia hưng vong thất phu hữu trách. Mất nước là trách nhiệm chung của mọi người mà Ông là một trong số đó, sao lại đổ trách nhiệm cho Ông?” Nghe xong tôi quá đổi ngạc nhiên. Ngạc nhiên, vì đâu có người dân nào có quyền hạn như Đại Tướng, cũng không có vị Tướng nào đương nhiệm trong quân đội mà có quyền hạn như Đại Tướng cả, ..v..v.. nhưng trách nhiệm sao lại chia đều như vậy! Quí vị quí bạn nghĩ sao?
(*) : Thật ra đây là chổ thiếu sót , hay cảm tính cá nhân ,mà ông Phạm B Hoa đã không nhận xét đúng tình hình lúc đó. Thời đệ II Cộng Hòa ,quyền hạn của Đ.T Viên đã chỉ như một viên chức hành chánh , tất cả việc điều động về quân sự đều do Phủ Tổng Thống ra lệnh hết , nên ông Đ T Viên đã nhiều lần xin từ nhiệm với T T Thiệu nhưng không được chuẩn thuận , nên khi T Th Thiệu từ chức, ông Viên có hứa ở lại làm việc với Ông T V Hương với điều kiện nếu phải trao quyền lại cho ông D V Minh thì phải cho ông từ nhiệm vì ông biết rất rõ việc ông DV Minh với tính tư thù nhỏ nhen ích kỷ cá nhân sẽ không tha chết cho ông lần thứ hai. Đúng như dự đoán của ông Cao Văn Viên , theo lời tiết lộ của một sỉ quan cao cấp , trong ngày tang lễ ông Cao V Viên sau này thì ngay khi vừa nhậm chức " Tổng Thống " thì lệnh của ông Minh là phải bắt ngay một số sỉ quan VNCH có tinh thần chống cộng cao độ ( để dâng công với CS ? , hay trả thù cá nhân vì hiềm khích ?, hay lệnh của thế lực ngầm nào? hoặc tất cả? ) trong đó đứng đầu sổ là Đại Tướng Cao Văn Viên , thiệt là may mắn cho ông Viên và những sỉ quan cao cấp khác của quân đội VNCH , nếu CS vô chậm hơn và ông Minh nắm quyền lâu hơn thì sẽ có rất nhiều cái chết của sỉ quan VNCH do bàn tay " hiền lành " với kẻ thù và tàn nhẩn với quốc gia của ông đại tướng dương văn minh " .
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 12:18:49 GMT 9
Chương 10 / Giờ Thứ 25 - mười - Giờ Thứ 25 ***** Từ sau ngày Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, hằng ngày, trước đầu giờ và sau cuối giờ làm việc, tôi thường lên văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên để theo dõi và trao đổi tình hình. Qua câu chuyện trao đổi mang tính cách tâm tình với nhau hơn là Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu ra lệnh cho Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Xin mời quí vị quí bạn vui lòng trở lại ngày 27 tháng 4 năm 1975 trước khi vào giờ thứ 25. Tại tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, đã hết giờ làm việc buổi chiều từ lâu, tôi vẫn còn ngồi trong văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, nghe ông tâm sự:
“Anh biết không, Thiếu Tướng Smith nói với tôi là cấp chỉ huy của ông ta từ Pentagon (lầu năm góc, tức Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) nói ổng đang ủng hộ một Trung Tướng cộng sản ngay tại Sài Gòn”.
“Ông ta muốn ám chỉ Trung Tướng phải không?
“Tôi cũng nghĩ vậy”.
“Trung Tướng có nói gì không?
“Không”.
“Đến lúc này, Trung Tướng có quyết định ra đi chưa?
Tôi hỏi như vậy là vì lúc sáng, Y Sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục Trưởng Cục Quân Y, lên hỏi thăm tình hình, Trung Tướng Khuyên yêu cầu Chuẩn Tướng Thanh cho ông 2 chai thuốc độc, và tôi cũng xin 2 chai (1 chai để trong túi và 1 chai trong cặp xách tay). Khi ông xin thuốc độc, điều đó cho thấy có thể là ông không bỏ chạy, hoặc xin thì xin nhưng chạy vẫn chạy. Nhưng tôi nghĩ, ít ra thì Trung Tướng Khuyên đang có hai giải pháp trong đầu. Im lặng một lúc, chừng như ông đang xúc động nên lời nói của ông thật nhỏ:
“Tôi đã hứa với ổng (tức Thiếu Tướng Smith), vì tôi cảm thấy sẽ không an toàn nếu như tôi khước từ di tản”.
“Thiếu Tướng Smith có nói bao giờ thì đi không, thưa Trung Tướng?
“Ổng được lệnh từ Pentagon là sẽ đưa tôi đi”.
“Thiếu Tướng Smith có nói là sẽ đi vào lúc nào không Trung Tướng?
Trung Tướng Khuyên buông thỏng: “Giờ thứ 25”.
“Ổng có nói với Trung Tướng giờ đó là giờ nào không?
“Giờ đó sẽ được quyết định từ Pentagon”.
Sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Dương Văn Minh cho phổ biến bản tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn, theo đó thì Tổng Thống yêu cầu Hoa Kỳ lập tức rút toàn bộ các cơ quan và nhân viên Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam Cộng Hòa trong vòng 24 tiếng đồng hồ..
Ngay sau bản tin ngắn ngủi nhưng rất quan trọng đó, từng đoàn trực thăng của Hải Quân Hoa Kỳ vào Sài Gòn, chuyên chở những người "di tản" ra Hạm Đội 7 ngoài khơi Vũng Tàu. Bãi đáp chính của trực thăng là khu vực Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ ở Tân Sơn Nhất, và bãi đáp trên sân thượng tòa đại sứ Hoa Kỳ, tọa lạc bên trái đại lộ Thống Nhất (từ Dinh Độc Lập nhìn về hướng Thảo Cầm Viên).
Tôi xin dừng ở đây để thuật tiếp phần cuối của câu chuyện ngắn (phần đầu tôi đã thuật trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963) do cựu Đại Tá Nguyễn Linh Chiêu kể cho các bạn trong bữa ăn tại nhà ông ở Orange County, Nam California, vào ngày 15 tháng 11 năm 1991. Hôm ấy, tôi là một thực khách trong số đó. Chuyện mà cựu Đại Tá Chiêu kể lại là nhân chuyến ông sang Paris đầu năm 1991, ông có mời cựu Tổng Thống Dương Văn Minh và cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn dùng cơm, để giúp giải tỏa mối bất hòa giữa hai vị mà cả hai vị đều là bạn thâm giao của cựu Đại Tá Chiêu. Trong toàn bộ câu chuyện ngắn đó có đoạn cựu Đại Tá Chiêu hỏi cựu Tổng Thống Dương Văn Minh:
“Tại sao anh mới nhận chức Tổng Thống mà anh ra lệnh đuổi Mỹ về nước?
"Moa" không đuổi Mỹ. Bản văn đuổi Mỹ là do Đại Sứ Martin (Hoa Kỳ) đưa cho "Moi" và yêu cầu "Moi" phổ biến”.
Phần cuối câu chuyện chỉ có thế, nhưng nó cho thấy Hoa Kỳ đã "an bài chiến tranh chống cộng của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta" đến tận cùng chi tiết. Vì vậy mà chúng ta không ngạc nhiên khi bản văn "đuổi Mỹ" vừa phát đi trên làn sóng đài phát thanh Sài Gòn, thì từng đoàn trực thăng Hoa Kỳ thuộc Hạm Đội 7 của họ từ ngoài khơi Thái Bình Dương, ào ào vào Sài Gòn, cứ như các trực thăng đó túc trực ứng chiến trên đường bay của Hàng Không Mẫu Hạm vậy. Thậm chí đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhất và tòa đại sứ từ nửa đêm 28 rạng 29 tháng 4 năm 1975, để bảo vệ cuộc vận chuyển di tản. Các sự kiện đó đã xác định rõ ràng chớ không phải ngẫu nhiên. Ngôn ngữ chính trị là như vậy mà. Nghe vậy, nhưng không phải vậy, mà đôi khi cũng có thể là như vậy. Vẫn sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, như những ngày trước đó, tôi lên văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên để theo dõi tình hình, vẫn chưa nghe ông nói gì về giờ thứ 25 mặc dù Tổng Thống đã chánh thức yêu cầu Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam Cộng Hòa trong vòng 24 tiếng đồng hồ! Trở về văn phòng, đứng ở lan can ngay trước văn phòng tôi, nhìn sang bãi đáp bên kia hàng rào kẽm gai ngăn cách giữa khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu với một góc của khuôn viên phi trường Tân Sơn Nhất. Từng chiếc trực thăng hạ cánh rồi cất cánh với đầy người chen chúc bên trong, một vài chiếc có cả người còn tòn teng ở càng chân trực thăng chớ chưa vào được bên trong. Lúc ấy tôi liên tưởng đến tấm ảnh với ghi chú ngắn trên những nhật báo phát hành tại Sài Gòn ngày 18 và 19 tháng 4 năm 1975. Tấm ảnh đó chụp lúc những giới chức của quốc gia Cam Bốt, đang chen lấn lên trực thăng Hoa Kỳ để di tản khỏi quê hương của họ, vì quân cộng sản đang tiến chiếm thủ đô Nam Vang (Phnom Penh). Nghĩa là họ thua trận trước Việt Nam Cộng Hòa, nhưng họ hơn ta ở điểm là họ còn chống giữ thủ đô Nam Vang được vài tuần. Câu ghi chú rằng: "Những người Cao Miên đứng bên ngoài rào, trông họ rất thản nhiên khi nhìn cái cảnh trốn chạy của những người từng lãnh đạo đất nước họ ...". Thật lòng mà nói, lúc ấy không biết tôi đang nghĩ gì và phải làm gì khi trông thấy cảnh tượng như vậy diễn ra ngay trước mắt! Có vẻ như tôi chưa sẳn sàng chấp nhận hình ảnh đó là sự thật trong cuộc đời, mặc dù nó đang xảy ra trước mắt tôi! Không biết có phải là khi một người có những suy tư lo nghĩ trong một mức độ nào đó thì họ còn kiểm soát được, có nghĩa là họ vẫn còn suy tư lo nghĩ, nhưng khi điều suy tư lo nghĩ vượt quá mức kiểm soát thì họ trở nên bình thản trước sự việc chăng? Nếu trong khoa tâm lý và khoa dịch lý có nói đến trường hợp như vậy, thì tôi đang trong tình trạng vượt quá mức kiểm soát đó. Đứng nhìn cấp trên tôi và nhiều đồng đội tôi đang bỏ chạy mà tôi không biết mìnhi đang nghĩ gì và phải làm gì nữa! Trong khi cảnh di tản bằng trực thăng trong khuôn viên phi trường Tân Sơn Nhất ở phần đối diện với khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu vẫn diễn tiến, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên đẩy cửa vào phòng tôi, nhưng tôi bận điện thoại cung cấp nhiên liệu cho Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh đã từ Biên Hòa rút về Gò Vấp. Thấy tôi bận, ông quay trở ra và sang phòng vệ sinh. Điện thoại xong, tôi ra đứng cạnh lan can chờ ông. Dĩ nhiên là khi trở ra, Trung Tướng Khuyên trông thấy tôi, ông đi ngang tôi, rồi đi thẳng đến xe Jeep cách tôi chừng 5 bước. Ông lên xe, ngồi xuống, nhìn thẳng phía trước như có gì thu hút ông, và im lặng. Chưa bao giờ tôi thấy thái độ của ông như vậy, do vậy mà tôi nghĩ: "Phải chăng giờ thứ 25 bắt đầu?". Ông không nói một tiếng nào trong khoảng 5 phút. Ông ra hiệu bằng tay, anh Hạ Sĩ Quan tài xế cho xe lăn bánh. Tôi đứng thẳng người, đưa tay lên trán, chào ông, rồi khoa tay từ biệt để ông hiểu là tôi đoán được chuyện gì đang xảy ra. Nếu tôi không lầm, Trung Tướng Khuyên sẽ rất xúc động nếu như ông nói với tôi bất cứ lời nào, vì vậy mà tôi không chút phiền muộn đối với Trung Tướng Đồng Văn Khuyên cho dù ông đã không một lời từ biệt, một lời từ biệt với biết bao nguy hiểm cho người đi lẫn người chưa đi! Lúc đó là 11 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, và tôi xem đây là giây đầu tiên trong 3.600 giây của Giờ Thứ 25! Khoảng hai tiếng đồng hồ sau đó, Thiếu Tá Tấn, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, điện thoại tôi:
“Trình Đại Tá, Trung Tướng đã vào gặp Thiếu Tướng Smith rồi”.
“Anh đang ở đâu vậy?
“Tôi đang ở nhà tôi”.
“Ủa, anh không đi sao?
“Dạ không Đại Tá”.
“Anh có thể cho tôi biết là sau khi rời chỗ tôi thì Trung Tướng đi những đâu không?
“Rời văn phòng Đại Tá, Trung Tướng hướng dẫn tài xế lái xe trên nhiều con đường trong Tổng Tham Mưu, rồi ra cổng số 3 (cổng số 3 ra đường Võ di Nguy) và quanh vào cổng sau phi trường. Tại đây có sĩ quan tùy viên của Thiếu Tướng Smith đón và hướng dẫn vào. Đi được một khoảng thì lính gác Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ gọi tôi lại, bảo tôi tháo khẩu súng lục để lại cổng. Đi bộ vào đến Văn phòng Tùy Viên Quốc Phòng thì Thiếu Tướng Smith đứng chờ ở đó, cả hai ông vào văn phòng, tôi chào Trung Tướng rồi trở về nhà”.
“Anh trông thấy nhiều người trong đó chớ? “Đông lắm Đại Tá ơi! Đông nghẹt người lận”. “Cám ơn anh, và mong là anh em mình còn liên lạc nhau được ngày nào mừng ngày ấy thôi. Chào anh nhé”.
Vậy là, quí vị lãnh đạo nước Việt Mam Cộng Hòa vừa bàn giao chức vụ lãnh đạo quốc gia lẫn quí vị đương kiêm chức vụ lãnh đạo quân đội, đã lần lượt rời bỏ quê hương và dân tộc gần như theo hệ thống quân giai cho dù là hệ thống quân giai ngẫu nhiên cũng vậy: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, vị Tướng đã hai lần đặt tay lên Hiến Pháp tuyên thệ "bảo vệ quốc gia dân tộc, bảo vệ Hiến Pháp" khi nhận chức Tổng Thống và Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội, lên phi cơ đi ngoại quốc! Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, hơn 5 năm trong chức vụ Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, lên phi cơ đi ngoại quốc! Đại Tướng Cao Văn Viên, vị Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 15 tháng 10 năm 1965, lên phi cơ đi ngoại quốc! Đầu giờ thứ 25, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, cũng lên phi cơ đi ngoại quốc! Và khi vị Tổng Tham Mưu Trưởng và Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, rời bỏ chức vụ để đi ngoại quốc, thì quí vị Tướng Lãnh cùng nhiều vị Trưởng Phòng của Bộ Tổng Tham Mưu, cũng ra đi! Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lúc 12 giờ trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975, không còn một vị nào có thẩm quyền quyết định bất cứ vấn đề gì hết, ngay cả công tác phòng thủ trại Trần Hưng Đạo -tức Bộ Tổng Tham Mưu- cũng không ai trách nhiệm. Quân nhân và công chức quốc phòng của Bộ Tổng Tham Mưu trên dưới 2.000 người, không còn cấp chỉ huy, nên đành phải quyết định: Tự động tan hàng! Tôi điện thoại cho Đại Tá Nguyễn Hồng Đài (con rể của Tổng Thống Dương Văn Minh), nguyên là Chánh Sở Kế Hoạch/ Tổng Cục Tiếp Vận biệt phái về Phủ Tổng Thống:
“Anh Đài. Anh vui lòng trình với Tổng Thống là cho đến lúc này, trong Bộ Tổng Tham Mưu không còn vị Tướng Lãnh nào hết, cũng không ai trách nhiệm bảo vệ bản doanh Tổng Tham Mưu nữa. Tôi trình xin Tổng Thống cử người vào chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng và Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Nếu hôm nay không có vị nào vào đây thì bộ tham mưu nhẹ của Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi sẽ sang Biệt Khu Thủ Đô làm việc, vì khách hàng mà tôi yểm trợ chỉ còn Biệt Khu Thủ Đô và một phần lực lượng của Quân Đoàn III thôi”.
“Được rồi, tôi trình "Ông Già" ngay và sau đó sẽ điện thoại anh”.
Một lúc sau, Đại Tá Đài gọi tôi:
“Ông Già" cho biết, lúc 3 giờ chiều nay sẽ có phái đoàn Tướng Lãnh vào nhận chức trong Bộ Tổng Tham Mưu. Anh yên tâm”.
Lúc 2 giờ chiều 29 tháng 4 năm 1975, tôi mời các vị Cục Trưởng Cục Phó, Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân, Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận, Chỉ Huy Trưởng Trường Tiếp Vận, đến họp gấp. Kiểm điểm lại chỉ còn Cục Trưởng Cục Quân Y (Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh), Cục Trưởng Cục Quân Vận (Đại Tá Nguyễn Tử Khanh), Cục Phó Cục Quân Nhu, Cục Phó Cục Công Binh, Cục Phó Cục Quân Cụ, Cục Phó Cục Truyền Tin, Cục Phó Cục Quân Tiếp Vụ, và Cục Phó Cục Mãi Dịch. Tôi vào đề ngay: “Trong trách nhiệm Tham Mưu Trưởng/Tổng Cục Tiếp Vận, tôi xin thông báo đến quí vị và các bạn về tình hình chung và tình hình nội bộ Tiếp Vận của mình. Về tình hình chung, hiện nay theo Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu thì có khoảng 10 sư đoàn quân cộng sản bao quanh Sài Gòn và chúng đang áp sát ven ngoại ô. Điều đó cho phép dự đoán là chúng có thể tấn công chúng ta bất cứ lúc nào mà chúng cho là thuận lợi. Về lực lượng phòng thủ của ta thì không có đơn vị nào nguyên vẹn, kể cả Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Ngay cả Sư Đoàn 106 Biệt Động Quân mới thành lập với Đại Tá Nguyễn Văn Lộc giữ chức Tư Lệnh, Đại Tá Vũ Phi Hùng làm Tư Lệnh Phó, và Đại Tá Cao Văn Ủy làm Tham Mưu Trưởng, cũng chỉ là sự kết hợp gấp rút các Liên Đoàn Biệt Động Quân cùng với vài đơn vị Pháo Binh và Thiết Giáp còn lại thôi. Về nội bộ Tiếp Vận, thì Trung Tướng Tổng Cục Trưởng và gần hết các sĩ quan cao cấp trong Tổng Cục Tiếp Vận, đã tự động rời khỏi nhiệm sở rồi. Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân và Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận, cũng thế. Còn tại các Cục, tôi nghĩ là các bạn biết rõ hơn tôi. Thông báo một tình hình như vậy, tôi muốn quí vị và các bạn tùy nghi vì tôi không có thẩm quyền về bất cứ vấn đề gì vượt quá trách nhiệm và quyền hạn của người Tham Mưu Trưởng Tổng Cục. Tôi có bấy nhiêu lời, và nếu không có điều gì cần hỏi, tôi xin chào quí vị, chào các bạn, vì trong chúng ta không ai biết được những gì sẽ chợt đến với mình trong những ngày tháng sắp tới - Sở dĩ phải nói lời chào ngay vì tôi thấy Đại Tá Nguyễn Tử Khanh có vẻ như muốn rời phòng họp. Quả thật, hơn tiếng đồng hồ sau đó, Đại Tá Cao Văn Phước, Cục Phó Cục Quân Vận cho tôi biết là Đại Tá Khanh đã vội vã xuống Giang Đoàn Vận Tải và đi rồi. Lúc 3 giờ chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, Trung Tướng Vînh Lộc -đã một thời là Tư Lệnh Quân Đoàn II, rồi Chỉ Huy Trưởng Trường Cao Đẳng Quốc Phòng- vào nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Cùng lúc, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhận chức Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu. Và một vài Đại Tá nhận chức Trưởng Phòng. Đại Tá Nguyễn Khắc Tuân, chánh văn phòng Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Đại Tá Tuân gọi tôi lên trình diện Trung Tướng tân Tổng Tham Mưu Trưởng:
“Chào Trung Tướng”.
“Chào anh. Những vị Tướng cầm quyền đã chạy hết rồi. Bây giờ chúng mình hãy cùng nhau cố gắng nhiệm vụ trọng đại của Quốc Gia. Vào giờ phút lâm nguy này mới thấy được giá trị của mỗi người như thế nào đối với Tổ Quốc”.
“Thưa Trung Tướng, giờ này tôi có mặt ở đây và đang trình diện Trung Tướng, trong khi các cấp chỉ huy trên tôi đã rời khỏi nhiệm sở, và các cấp chỉ huy dưới tôi cũng vậy, có nghĩa là tôi vẫn tiếp tục trách nhiệm của tôi, thưa Trung Tướng”.
“Nhiệm vụ yểm trợ Tiếp Vận cho các đơn vị phòng thủ Sài Gòn, tôi trông cậy vào anh”.
“Vâng. Tôi đã và đang làm tất cả những gì thuộc về trách nhiệm của tôi, và tôi vẫn tiếp tục như vậy. Và nếu không có vị nào khác thì xin Trung Tướng cử Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức vào chức vụ Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, vì tôi được biết Chuẩn Tướng Chức sẳn sàng nhận chức vụ này, thưa Trung Tướng”.
“Anh sẽ có vị Tổng Cục Trưởng ngay hôm nay”.
“Vâng. Chào Trung Tướng”. Lúc 5 giờ chiều 29 tháng 4 năm 1975, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, trước là Cục Trưởng Cục Công Binh, kế đến là biệt phái sang phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách khẩn hoang lập ấp, đến nhận chức Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Một chức vụ mà Chuẩn Tướng Chức đã hơn một lần tự ông đề nghị thẳng với Trung Tướng Khuyên đề nghị lên cấp trên bổ nhậm ông vào đó. Chuẩn Tướng Chức, trong thời gian sinh hoạt trong "Nhóm Đời Mới" -tôi cũng là một thành viên trong Nhóm- của cụ Trần Văn Ân, có lần nói với tôi rằng "lên đến Tướng là phải hoạt động chính trị và ông cũng nói thẳng là ông muốn nắm giữ chức vụ cao hơn là Cục Trưởng nếu vẫn phục vụ trong quân đội, vì ông tự thấy khả năng của ông như vậy, và đó mới là tương lai sự nghiệp của ông. Chuẩn Tướng Chức là người rất hoạt động, khi ông tham gia công tác với đơn vị Công Binh của ông thì ông làm nhiệt tình như bất cứ người lính Công Binh nào, và trong những trường hợp như vậy ông rất thích được phóng viên báo chí tiếp xúc. Chuẩn Tướng Chức là mẫu người rất nhiệt tình trong trách nhiệm, và ông cũng rất muốn được xuất hiện trong sinh hoạt chính trường. Tôi trình bày tình hình chung và tình hình riêng của ngành Tiếp Vận như đã cung cấp cho các vị chỉ huy Tiếp Vận trong buổi họp ngắn ngủi lúc 2 giờ, và tình hình yểm trợ Tiếp Vận cho các đơn vị chiến đấu. Chuẩn Tướng Chức viết tay lệnh bổ nhiệm Đại Tá Trần Văn Lễ (đang là Chỉ Huy Trưởng Trường Tiếp Vận) trở lại chức vụ Cục Trưởng Cục Quân Tiếp Vụ. Các vị Cục Trưởng đã bỏ nhiệm sở thì ông cử các vị Cục Phó giữ chức Quyền Cục Trưởng.
“Bây giờ xin phép anh tôi về nhà dùng cơm rồi trở lại ngay. Trong thời gian đó nếu có đơn vị nào xin yểm trợ thì anh bảo họ điện thoại cho tôi và tôi giải quyết”.
“Được rồi, anh về đi. Anh có cần xe mở đường không vì đường phố đông nghẹt người với xe cộ đó?
“Cám ơn anh. Không cần đâu anh”.
Không chỉ là đường phố đông nghẹt người mà là hỗn loạn chưa từng thấy! Áng chừng 6 cây số mà phải gần 2 tiếng đồng hồ tôi mới về đến nhà. Dọc đường, tiếng gọi nhau chạy loạn vang vang cả một quảng dài, đúng là "loạn thì lạc!". Trời tối hẳn, những chiếc trực thăng Hoa Kỳ thả "hỏa châu" chiếu sáng liên tục, để từng đoàn trực thăng phụ trách "di tản" thi hành nhiệm vụ. Nhiều phi tuần khu trục phản lực cũng của Hoa Kỳ, gào thét trên không phận thủ đô để sẳn sàng tấn công các đơn vị cộng sản nếu như trực thăng vận tải của họ bị bắn hạ, trong khi đạn phòng không của cộng sản tua tủa vọt lên khoảng không gian bé nhỏ vừa tối lại vừa sáng! Trong những năm chiến tranh dữ dội, nhất là trong trận chiến "mùa hè đỏ lửa năm 1972", ngày cũng như đêm, người dân Sài Gòn rất quen với tiếng động cơ phản lực chiến đấu, từng đôi từng đoàn, xé không gian lên đường đánh địch bằng hỏa lực mãnh liệt mà nó được các nhà chế tạo Hoa Kỳ nghiên cứu trang bị, và quen đến mức nếu như vắng âm thanh đó thì người dân cho là chuyện không bình thường. Bẳng đi một thời gian khá lâu, đêm nay, âm thanh đó trở lại, nhưng là trở lại để đánh dấu một tình huống bi thảm của dân tộc Việt Nam sau hai thập niên chiến đấu vì Dân Chủ Tự Do! Cơm xong tôi ra xe, nhưng đến 10 giờ đêm mà vẫn chưa ra đến đường Tô Hiến Thành mặc dù chỉ cách nhà tôi hơn 100 thước. Chừng như tất cả mọi người đều đổ xô ra khỏi nhà để tìm đường sống vậy! Tôi xuống xe và chen nhau từng bước giữa khối người là người mới trở vào được trong khu cư xá do các thanh niên trong cư xá canh gác bảo vệ, vì ngay ngoài cổng trước của cư xá đã có vài nhà bị cướp giật rồi. Tôi điện thoại sang Tổng Cục Tiếp Vận:
“Chào anh Chức, Hoa đây anh. Bây giờ tôi không có cách nào ra ngoài cư xá được vì hỗn loạn đến mức không sao tưởng tượng nỗi. Anh cho phép tôi ở nhà, tất cả điện thoại về nhu cầu Tiếp Vận anh chuyển sang cho tôi và tôi giải quyết ngay. Công việc của Tổng Cục mình bây giờ thu gọn lắm rồi anh. Hàng tiếp liệu cho các đơn vị chỉ gồm nhiên liệu và đạn dược, tôi cho lên xe sẳn sàng tại các kho để cung cấp thật nhanh theo yêu cầu. Anh an tâm”.
“Được rồi. Có gì tôi gọi anh”.
Vài trái đạn đại bác của quân cộng sản đã nổ bên ngoài khuôn viên cư xá nhưng chưa gây thiệt hại quan trọng nào. Phi trường Tân Sơn Nhất chắc là bị pháo kích nhiều, vì tôi nghe tiếng đại bác nổ liên hồi ở hướng đó. Trong cư xá có 1 đại đội Nhẩy Dù từ trên căn cứ Hoàng Hoa Thám (đầu phi trường Tân Sơn Nhất phía Hóc Môn) rút về đây, và cư dân an lòng đôi chút vì có lực lượng phòng thủ.
Gần nửa đêm, Đại Tá Trương Đình Liệu, Chỉ Huy Trưởng Tổng Kho Long Bình, điện thoại tôi:
“Trình anh là tôi đã cho triệt thoái toàn bộ về đây rồi. Chờ lệnh Tổng Cục hoài không thấy, đến khi các đơn vị trong căn cứ Long Bình rút lui, tôi liền cho anh em theo họ”.
“Anh hành động đúng thôi. Chuẩn Tướng Chức nhận chức Tổng Cục Trưởng lúc chiều, ông ấy không ra lệnh thì tôi làm gì được. Về yểm trợ thì tôi lo được, nhưng ra lệnh rút lui thì tôi đâu có thẩm quyền. Anh hiểu tôi rồi hén”.
Khoảng 2 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, điện thoại (nhà tôi) reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Trung Tướng Lộc đây anh. Lúc nảy, Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh có xin tiếp tế xăng và đạn, không biết là họ liên lạc với anh chưa?
“Chuẩn Tướng (Lê Trung Tường) Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn III có gọi tôi, và tôi đã cung cấp rồi, thưa Trung Tướng”.
“Cố gắng nghe anh Hoa”.
“Vâng. Tôi đã trình bày với Trung Tướng chiều qua rồi, tôi vẫn thi hành nhiệm vụ của tôi cho đến khi nào tôi không thể tiếp tục được nữa, thưa Trung Tướng”.
Khoảng 3 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Thiếu Tá Ông Kim Miêng, chánh văn phòng Tổng Cục Phó, và từ chiều qua là chánh văn phòng Tổng Cục Trưởng, từ văn phòng Tổng Cục Tiếp Vận điện thoại tôi:
“Thưa Đại Tá, Chuẩn Tướng Chức đã lên xe đi rồi”.
“Chuẩn Tướng đi một mình hay đi với ai vậy anh?
“Dạ đi một mình. Chuẩn Tướng đi mà không xách cái cặp theo, và cũng không cho xe hộ tống (xe có còi hụ mà chiều qua ông mang đến) theo nữa”. “Thôi được. Sáng sáng một chút, tôi tìm cách đến Tổng Cục hẳn hay” Tiếp đó điện thoại lại reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Đài đây anh (Đại Tá Nguyễn Hồng Đài). Lúc 10 giờ sáng nay (tức 30/4/1975) "Ông Già" sẽ công bố giải pháp chính trị, anh theo dõi trên đài phát thanh Sài Gòn nghe”.
“Nhưng mà nội dung giải pháp là gì?
“Trung lập, như tôi nói với anh đó”.
“Vậy là tôi chuẩn bị. Cám ơn anh”.
Đến đây tôi xin mở ngoặc để nói đến 2 điều cho vấn đề được rõ thêm.
Điều thứ nhất. Khoảng năm 1998, tôi có dịp gặp anh Nguyễn Hồng Đài tại thành phố Houston, tiểu bang Texas. Sau khi thăm hỏi nhau, anh xác nhận lời anh đã nói với tôi là đúng như trong quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ, nhưng về thời gian thì sai. Anh nói không phải rạng sáng 30 tháng 4 mà là rạng sáng 29 tháng 4, vì tối 29 tháng 4 anh đang trên tàu ra biển. Trí nhớ của tôi vẫn ghi nhận lời anh nói vào rạng sáng 30 tháng 4, vì đây là đêm đầu tiên tôi “bị” ngủ tại nhà sau 3 tuần cắm trại ngủ tại văn phòng tôi (Tổng Cục Tiếp Vận) trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu, và tôi tiếp chuyện điện thoại với anh lúc tôi từ cửa sổ nhà tôi nhìn lên bầu trời với những âm thanh gào thét của những chiếc phản lực cơ Hoa Kỳ bao vùng yểm trợ cho trực thăng đưa người di tản. Vì vậy tôi vẫn viết lại đây theo trí nhớ của tôi. Và điều thứ hai. Khi tôi nói "tôi chuẩn bị", tức là tôi chuẩn bị rời khỏi Việt Nam ngay sau khi Tổng Thống Minh tuyên bố trung lập. Nghĩa là tôi và gia đình dự trù rời khỏi Việt Nam nhưng không đi trước khi có giải pháp chính trị, mà ra đi trong lúc giao thời dù chỉ trong ngắn ngủi. Chúng tôi dự trù 6 gia đình, trong số này có 2 gia đình thuộc phi hành đoàn C130, dùng chiếc C130 sang Singapore để đi Australia, vì tôi được sự giúp đỡ của người bạn gốc Trung Hoa trong công ty INTRACO tại Singapore, nối liên lạc với cơ quan ngoại giao Australia tại đó và đã được đồng ý. Xin đóng ngoặc. Vừa mờ sáng là tôi lên xe. Hướng ngã tư Bảy Hiền -nơi trở thành tiền tuyến- có nhiều tiếng súng trường và tiểu liên, nên không có người đi lại bao nhiêu, và tôi cho xe chạy ngang chợ ông Tạ rồi rẽ sang Võ Tánh nối dài. Quân cộng sản chưa xuống đến ngã tư Bảy Hiền, và tôi an toàn đến Tổng Tham Mưu. Đến, nhưng không được phép vào. Chuyện như thế này: Trung Tá Tòng, Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Bộ Tổng Tham Mưu đã tháp tùng Đại Tướng Cao Văn Viên đi ngoại quốc từ mấy ngày trước, và Trung Tướng Vĩnh Lộc cử Đại Tá Trần Văn Thăng -sĩ quan An ninh quân đội- giữ chức Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đang khuyết. Đại Tá Thăng ra lệnh cho toán Quân Cảnh gác cổng số 1 Bộ Tổng Tham Mưu, không cho bất cứ ai vào nếu không có thẻ an ninh do Sĩ quan an ninh Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đã cấp. Tôi có thẻ, nhưng không bao giờ mang trên túi áo mà là để trong cặp xách tay, và cái cặp thì tối qua tôi vẫn để trên bàn viết ở văn phòng. Tôi làm như vậy là vì tất cả những quân nhân trách nhiệm ở cổng gác này, không ai là xa lạ với tôi cả. Sĩ quan Quân Cảnh nói:
“Đại Tá thông cảm, vì lệnh của Đại Tá Thăng như vậy nên tôi phải thi hành”.
“Tôi hiểu. Bây giờ Đại Tá Thăng ở đâu vậy anh?
“Dạ Đại Tá Thăng dường như lên văn phòng Trung Tướng rồi Đại Tá”.
“Thôi được. Chốc nữa Đại Tá Thăng về lại văn phòng, anh nói là tôi không có mang theo thẻ an ninh nên không vào được, và tôi sang Biệt Khu Thủ Đô làm việc ở đó. Cám ơn anh nghe”.
“Đại Tá thông cảm cho tôi nghe Đại Tá”.
“Nếu tôi là anh, tôi cũng vậy thôi mà. Anh đừng bận tâm. Tôi đi đây”.
Đạn đại bác của quân cộng sản nổ nhiều ở Tân Sơn Nhất và bắt đầu nổ trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu trong lúc tôi đang nói chuyện với anh sĩ quan Quân Cảnh. Chúng tôi phải nép vào thân cây trước văn phòng Tổng Hành Dinh. Sang trại Lê văn Duyệt, tôi ngồi tạm trong văn phòng Đại Tá Ngô Văn Minh, Tham Mưu Trưởng Biệt Khu Thủ Đô. Tôi báo cho Thiếu Tá Ông Kim Miêng bên Tổng Cục Tiếp Vận biết vị trí của tôi và dặn anh chuyển tất cả điện thoại sang tôi nếu có ai gọi. Trung Tướng Vĩnh Lộc điện thoại cho tôi, ông đồng ý tôi ngồi ở Biệt Khu Thủ Đô điều hành công tác yểm trợ Tiếp Vận. Và ông cho biết là ông phải xuống dinh Độc Lập để dự lễ ra mắt chánh phủ lúc 9 giờ (sáng). Sau đó tôi mới biết là Trung Tướng Vĩnh Lộc cũng bỏ chạy như những vị Tướng đã bỏ chạy, mà chiều hôm qua, khi ông ra lệnh cho tôi ráng lo về Tiếp Vận, ông đã khá nặng lời với các vị ấy. Nhưng nghĩ cho cùng, Trung Tướng Vĩnh Lộc chỉ ngồi ghế Tổng Tham Mưu Trưởng vỏn vẹn có 18 tiếng đồng hồ, và là 18 tiếng đồng hồ cuối cùng của cuộc chiến 20 năm 9 tháng 10 ngày -tôi nghĩ- ông không phải là vị Tổng Tham Mưu Trưởng góp phần trách nhiệm về cái chết tức tưởi của một quân đội hơn 1.000.000 người! Tại Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh (có biệt danh là Minh đờn), Tư Lệnh, đã bỏ chạy rồi. Thiếu Tướng Lâm Văn Phát -người đảo chánh Trung Tướng Khánh ngày 19 tháng 2 năm 1965 thất bại- được Tổng Thống Dương Văn Minh cử giữ chức Tư Lệnh Biệt Khu. Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, giữ chức Tư Lệnh Phó. Thiếu Tướng Phát từ sáng sớm đã lên trực thăng quan sát tình hình, vừa đáp xuống là ông gọi Tư Lệnh Không Quân cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích quân cộng sản đang quanh quẩn dọc con đường từ phía trên ngã tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn. Vị Tư Lệnh Không Quân lúc bấy giờ là Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Tần, vì Trung Tướng Trần Văn Minh (không phải là Trung Tướng Minh đã giữ chức Quyền Tổng Tư Lệnh quân lực sau khi Đại Tướng Nguyễn Khánh lưu vong), Tư Lệnh Không Quân đã cao bay xa chạy rồi. Và Bộ Tư Lệnh Không Quân cùng các phi đoàn còn lại, từ căn cứ Sư Đoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất và căn cứ Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Hòa, rút xuống căn cứ Sư Đoàn 4 Không Quân tại Trà Nóc, cách Cần Thơ khoảng 7 cây số. Tôi nói "các phi đoàn còn lại", là vì đã có nhiều phi công lái hằng trăm phi cơ các loại bay qua căn cứ Utapao của không quân Hoa Kỳ, về phía đông nam thủ đô Bangkok của Vương quốc Thái Lan, di tản. Thiếu Tướng Lâm Văn Phát vừa đáp xuống sân Bộ Tư Lệnh, Chuẩn Tướng Lê Văn Thân bảo Đại Tá Ngô Văn Minh ghi lên bản đồ mà ông đang cầm trên tay, vị trí của các đơn vị bạn để ông bay quan sát và hướng dẫn các phi tuần khu trục tấn công các đơn vị địch. Khoảng một tiếng đồng hồ sau đó, chiếc trực thăng trở về nhưng không có Chuẩn Tướng Thân. Tôi hỏi ngay:
“Chuẩn Tướng Thân đâu rồi các bạn?-
“Chuẩn Tướng bảo tôi đáp xuống Cần Giờ, ổng xuống đó rồi bảo tôi về đi”.
“Vậy là Chuẩn Tướng Thân cũng chạy rồi”.
(Sáu tháng sau đó, tôi gặp lại Chuẩn Tướng Thân trong cùng trại tập trung Tam Hiệp, Biên Hòa, trại này người địa phương còn gọi là trại Suối Máu nữa) Đại Tá Ngô Văn Minh từ trong Trung Tâm Hành Quân gọi tôi:
“Anh Hoa, anh nói chuyện với Lê Minh Đảo không? Hắn đang ở đầu máy bên kia nè”.
Đó là Thiếu Tướng (mới thăng cấp chưa kịp tổ chức lễ gắn cấp hiệu 2 sao) Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đã quần thảo với 2 sư đoàn quân cộng sản ở Xuân Lộc và gây cho chúng tổn thất rất nặng. Vì áp lực của chúng quá mạnh, nên Quân Đoàn III cho lệnh lui về căn cứ Long Bình.
“Chào anh Đảo, Hoa đây. Anh đang ở đâu vậy?
“Tôi ở chỗ "nhà máy xi măng Hà Tiên" và đang tìm xuồng qua sông. Tụi cộng sản nó đuổi theo sau lưng tôi nè. Hết rồi anh ơi!
“Dù gì thì anh đã đánh nhau với tụi nó một trận ngon lành, anh oai hơn nhiều vị Tư Lệnh khác mà”.
“Sao anh ở chỗ anh Minh?
“(Tôi mượn câu của anh để trả lời anh) "Hết rồi anh ơi"! Vì chỉ còn yểm trợ cho Biệt Khu thôi, và giờ này thì còn đơn vị nào nữa đâu. Thôi, chúc anh may mắn nghe, và mong rằng chúng mình vẫn còn gặp lại nhau là mừng rồi”.
Sau đó -tức sau giờ Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố buông súng và bàn giao- Thiếu Tướng Lê Minh Đảo dùng giấy tờ giả xuống Rạch Giá để hy vọng vượt thoát ra Hạm Đội 7 Hoa Kỳ, nhưng anh đã không thực hiện được và trở về nhà trong cùng cư xá với tôi. Sau này, có những năm chúng tôi ở tù chung trong một trại nhưng khác buồng giam.
Lúc 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4 năm 1975, từ máy thu thanh trong phòng Đại Tá Ngô Văn Minh, có âm thanh "... ông nói đi...., nhanh lên,.... chờ gì nữa,....". Một giọng nói gần như quát: "Ông tuyên bố nhanh lên..." Và đại ý lời của Tổng Thống Dương Văn Minh như là một mệnh lệnh đối với quân đội ".... các đơn vị không được nổ súng, ở yên tại chỗ và bàn giao cho lực lượng giải phóng...". Đối với phía cộng sản, ông yêu cầu đừng nổ súng và ông hứa sẽ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự. Tôi xem đây là giây thứ 3.600, giây cuối cùng của giờ thứ 25, giờ cuối cùng của ngày thứ 7.583, và là ngày cuối cùng của một giai đoạn chiến đấu bảo vệ tự do dân chủ! Thế là hết !!!
Tôi lặng lẽ rời nơi đây, theo đường Lê Văn Duyệt, rẽ sang đường Trần Quốc Toản, ép bên phải để ghé vào Cục Mãi Dịch, chào các cộng sự viên cũ của tôi. Trung Tá Nguyễn Văn Thình, Cục Phó, hỏi tôi cách bàn giao ra sao? Tôi bảo: “Không bàn giao gì cả, các bạn nào muốn lấy gì thì lấy rồi thản nhiên ra về, ai muốn vào đây làm gì mặc họ”. Dọc đường về nhà, những nơi mà tôi vừa đi qua, có biết bao bộ đồ trận -những bộ quân phục từng là biểu tượng quân phong quân kỷ của quân nhân- những mũ những giày, vất vưỡng ngỗn ngang trên đường phố. Trong dòng người ngược xuôi vội vã, có rất nhiều người quần đùi áo lót mà tôi tin đó là những đồng đội của tôi tạm thời lẩn tránh bọn cộng sản. (Hình ảnh này là một phần trong bản nhạc ''Như Lá Chết Cành Khô'' do cựu Đại Tá Phan Văn Minh -đã một thời là Đổng Lý Văn Phòng của Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ- sáng tác trong thời gian bị giam ở trại tập trung Hà Tây, tỉnh Hà Sơn Bình). Quân cộng sản chưa thật sự có mặt trong thành phố, nhưng những tốp thanh niên nam nữ đeo băng tay đỏ với súng M16 trên tay và ngồi xe jeep chạy đó đây trong trên đường phố Sài Gòn. Đó là những bọn mà chúng tôi gọi là "cộng sản 30 tháng 4". Dù trong một tầm nhìn hạn hẹp đó, tưởng cũng đủ nói lên một cảnh tượng trong biết bao cảnh tượng đau thương ngập tràn trái tim Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vì chưa tròn trách nhiệm với dân với nước! Chốc chốc tôi sờ vào chai độc dược trong túi, dự định của tôi khi xin Y sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh là tôi sẽ sử dụng nếu như tôi bị cộng sản bắt hoặc chưa bắt nhưng chúng sỉ nhục tôi. Nhưng, chiều hôm ấy, tôi đã ném nó vào thùng rác và với khẩu súng lục 9 ly (do ông Johnson, trưởng toán tình báo vùng đồng bằng Cửu Long tặng tôi tại Cần Thơ năm 1968) vào cái giếng ngay sau nhà cô tôi ở đường Thành Thái, sau khi vợ tôi ngồi dưới chân tôi vừa khóc vừa nói như van lơn: "Anh ơi, trong mọi trường hợp, anh đừng bỏ em và các con nghe anh!". Tôi tin là vợ tôi không biết gì về chai độc dược trong túi tôi, nhưng có lẽ do cảm tính đặc biệt của người vợ thấu hiểu tính chồng trong hoàn cảnh nghiệt ngã mà nói với chồng bằng cả tâm hồn người vợ người mẹ! Hơn một tiếng đồng hồ sau lời tuyên bố đầu hàng (không nổ súng có nghĩa là đầu hàng rồi!) của Tổng Thống Dương Văn Minh, đơn vị Thiết Giáp đầu tiên của cộng sản mới vào dinh Độc Lập. Và từ giờ đó, Việt Nam Cộng Hòa chúng ta bị nhà cầm quyền nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cai trị! Trong lúc trên dưới 200.000 quân của Quân Đoàn IV, chưa một trận đánh quan trọng nào, cũng chưa một vị Tư Lệnh nào bỏ chạy, đã phải buông súng đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống Dương văn Minh! Trước đó, khi cuộc chiến chưa ngừng tiếng súng, có những vị Tướng đầy quyền lực, đã thật sự bỏ chạy ra nước ngoài. Và giờ đây, cuộc chiến thật sự đã tàn, và tàn trong ý nghĩa thua trận, bại trận, hay đầu hàng, hiểu thế nào cũng thế thôi. Nhưng trong cảnh bại trận này, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, xuất hiện Những Vị Tướng Thật Sự Là Những Anh Hùng không kém những vị Anh Hùng trong lịch sử đã tuẫn tiết khi thành thất thủ. Đó là hành động tự sát ngay nơi nhiệm sở chớ không chấp nhận đầu hàng, của: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV. (Cần Thơ)
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV. Chuẩn Tướng Hưng đã được vinh danh "Anh Hùng An Lộc" trong mùa hè đỏ lửa 1972 ở chiến trường An Lộc, tỉnh Bình Long. (Cần Thơ)
Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. (Mỹ Tho)
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh (Lai Khê, Bình Dương).
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, tự tử tại nhà vì tên tuổi Quân Đoàn II đã bị chôn theo những nấm mồ vô danh trên đường liên tỉnh số 7 từ giữa tháng 3 năm 1975 rồi.
Ngoài ra, còn biết bao Quân Nhân thuộc các Quân Chủng, Binh Chủng, Binh Sở, Cảnh Sát, Viên Chức Hành Chánh các ngành, đã tuẫn tiết! Đó là "Những Anh Hùng Vô Danh" rất đáng cho chúng ta trân trọng. Vào những ngày 30 tháng 4, tôi nghĩ, chúng ta nên dành vài chục giây đồng hồ, đứng hay ngồi ở đâu đó cũng được, cúi đầu, im lặng, để tưởng nhớ những vị Anh Hùng của chúng ta, những người đã cùng chúng ta cầm súng chống quân cộng sản xâm lược, nhưng vào giờ phút kết thúc bi thảm cuộc chiến đấu của chúng ta, thì những vị đó đã can đảm thực hiện tròn vẹn lời thề trước bàn thờ Tổ Quốc trong ngày tốt nghiệp trường võ bị: "... Quyết hy sinh thân mình để bảo vệ Tổ Quốc Dân Tộc ..." Và theo tôi, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, là người rất xứng đáng được vinh danh "Anh Hùng Xuân Lộc" trong trận đánh sau cùng. Thiếu Tướng Đảo, dù bản doanh kế cận thủ đô Sài Gòn nhưng không bỏ chạy, mà trái lại, ông là vị Tư Lệnh duy nhất trong 3 Quân Đoàn, đã chống trả mãnh liệt và gây tổn thất nặng nề cho 2 Sư Đoàn quân cộng sản tấn công Xuân Lộc (thuộc tỉnh Long Khánh). Và Sư Đoàn 18 Bộ Binh chỉ rút lui khi có lệnh của Quân Đoàn III. Một giai đoạn lịch sử do Tổng Thống Dương Văn Minh -vị Tổng Thống có nhiệm kỳ chỉ hơn 40 tiếng đồng hồ- vừa sang trang! Dân Tộc Việt Nam, từ nay dưới sự thống trị của cộng sản độc tài nghiệt ngã! Quê hương Việt Nam chúng ta, dân tộc Việt Nam chúng ta, sao mà bi thảm đến như vậy! sao mà bất hạnh đến như vậy!
**********
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 12:19:35 GMT 9
Thay lời kết Thay lời kết ***** Thưa quí vị, quí bạn, Những ngày cuối Tháng Tư, thường gợi lại trong mỗi người Việt Nam Cộng Hòa cũ, nhất là những cựu quân nhân chúng ta, dấu ấn sâu đậm nhất trong đời quân ngũ. Những ngày đó thật là ngắn ngủi đối với lịch sử, nhưng là những ngày mà thế hệ chúng ta đã để lại một vệt đen trong dòng lịch sử đương đại. “Vệt đen đó” có thật sự là do lỗi lầm của chúng ta hay không, còn phải chờ lịch sử phán xét, nhưng có điều chắc chắn là chúng ta phải chia phần gánh vác trách nhiệm chưa tròn của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa! Cuộc chiến tranh chống cộng sản để bảo vệ tổ quốc Việt Nam, thật sự là tôi không rõ bắt đầu từ lúc nào. Tính từ ngày ngưng bắn theo Hiệp Định Đình Chiến ký tại Genève, Thụy Sĩ, ngày 20 tháng 7 năm 1954, hay tính từ năm thứ 3 sau đó? Sở dĩ tôi nêu câu tự hỏi “tính từ năm thứ ba”, là vì Hiệp Định dự liệu 2 năm sau đó sẽ tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc. Với lại 2 năm dự liệu trong Hiệp Định, cộng sản chưa có hoạt động công khai nào nên xem như thanh bình. Do sự phản đối của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa chống lại cuộc bầu cử đã nói trong Hiệp Định, vì chánh phủ không ký vào đó nên không chấp nhận sự ràng buộc phải thi hành. Thế là cộng sản công khai gây chiến ngay từ năm thứ ba, tức năm 1957. Năm 1964, Bộ Tổng Tham Mưu có ban hành một văn kiện, theo đó thì cuộc chiến tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1960. Thật ra nội dung này không có tính cách xác định chiến tranh bắt đầu từ ngày đó, mà nhằm có một định điểm tương đối về thời gian để ấn định niên hiệu trên cuống huy chương “Chiến Dịch Bội Tinh”. Chiến Dịch Bội Tinh trên ngực áo của hầu hết quân nhân có một hoặc hai niên hiệu: Niên hiệu 1945-1954 đối với những quân nhân phục vụ từ trước đến khi kết thúc cuộc chiến đó. Và niên hiệu thứ hai mới có số “1960-.......” đối với những quân nhân mới vào quân đội sau ngày đình chiến tháng 7 năm 1954. Và niên hiệu thứ hai này mới có 4 số đầu. Tôi nghĩ, một triệu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có mặt trên quê hương Việt Nam đến lúc 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng ta tự động ghi lên niên hiệu 4 số kế tiếp là “1975”. Không cần ghi lên cuống huy chương có nền xanh trắng, mà chúng ta chỉ cần ghi vào ký ức chúng ta là đủ. Tôi cũng nghĩ rằng, chúng ta nên thực hiện thêm niên hiệu thứ ba với 4 số đầu là “1976-......”, vì tuy chúng ta thua trận với ít chất là 222.809 người vào tù, hằng trăm ngàn đồng đội khác lẩn trốn hay đang sống khổ đau dưới chế độ độc tài của cộng sản ngay trên quê hương Việt Nam, và hằng triệu người gồm đồng bào đồng đội vượt thoát tìm tự do khắp năm châu bốn biển, ước lượng khoảng 3.000.000 người. Nhưng những hành động của tất cả chúng ta bằng cách này hay cách khác, đều thể hiện ý nghĩa của một cuộc chiến tranh khác trong mục đích tiếp tục chống nhóm lãnh đạo cộng sản độc tài cũng như chồng bất cứ chế độ độc tài nào khác trên đất nước Việt Nam. Tôi muốn nói đến năm 1975 một cuộc chiến kết thúc, năm 1976 một cuộc chiến khác bắt đầu. Và cuộc chiến đó đến nay là năm 2007, vẫn đang tiếp diễn và ngày càng quyết liệt. Chỉ khác cuộc chiến 1954-1975, thay vì vũ khí là súng đạn, thì cuộc chiến cho tự do dân chủ trên quê hương Việt Nam này với vũ khí chính trị, nhân quyền, kinh tế, giáo dục, nói chung vũ khí trong cuộc chiến hiện nay là một tổng hợp mọi sinh hoạt quốc gia. Vậy, chiến tranh bắt đầu từ ngày nào? Theo tôi, tôi tính từ ngày 20 tháng 7 năm 1954, là ngày ký Hiệp Định Đình Chiến tại Genève, vì cộng sản đã từ đó bắt đầu thực hiện kế hoạch để lại hằng chục ngàn cán bộ các loại của chúng ở lại nam vĩ tuyến 17 khi chúng “tập kết” (danh từ dùng trong Hiệp Định) ra bắc vĩ tuyến 17. Như vậy, về phía cộng sản thì họ bắt đầu ngay từ ngày ấy cho một cuộc chiến kế tiếp sau cuộc chiến 1945-1954. Và nếu tính từ đó, thì chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc của chúng ta đến ngày “thua trận cuối cùng trong một giai đoạn chiến đấu” từ ngày 20 tháng 7 năm 1954 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, là 20 năm 9 tháng 10 ngày, hay là 7.583 ngày! Chức vụ Tổng Thống. Với thời gian hơn 20 năm không phải là dài đối với lịch sử, nhưng trong thời gian đó, Việt Nam Cộng Hòa chúng ta lần lượt do 7 vị Tổng Thống hay Quốc Trưởng lãnh đạo, là: Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng là Thủ Tướng hơn 9 năm. Quốc Trưởng Dương Văn Minh 3 tháng. Quốc Trưởng Nguyễn Khánh 9 tháng. Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu 8 tháng. Quốc Trưởng rồi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gần 10 năm. Tổng Thống Trần Văn Hương 7 ngày. Sau cùng là Tổng Thống Dương Văn Minh không do dân bầu, chưa được 2 ngày. Tổng Thống Thiệu -tính cả thời gian giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia- gần 10 năm, là người trị vì lâu nhất, và vị có nhiệm kỳ ngắn nhất là Tổng Thống Dương Văn Minh chỉ vừa hơn 40 tiếng đồng hồ. Ông là vị Tướng can đảm nhất khi tình nguyện nhận chức Tổng Thống, nhưng ông cũng là vị Tướng nhục nhã nhất khi tuyên bố đầu hàng cộng sản. Nhưng không biết người dân Việt Nam Cộng Hòa chúng ta nói chung và thị dân Sài Gòn nói riêng, có nên cám ơn ông hay không, vì “nhờ” ông đầu hàng mà Sài Gòn không bị tàn phá bởi hỏa tiển và đạn đại bác của cộng sản? Nhưng chẳng lẽ ông “tình nguyện” giành chức Tổng Thống để đầu hàng sao? Nếu mục đích chỉ có như vậy thì đâu cần đến vị Tướng mà lại là Tướng 4 sao nữa chớ! Chắc không phải vậy. Nhưng điều nhục nhã đó đã xảy ra như vậy, biết giải thích sao đây! Chức vụ Thủ Tướng. Đây là cấp lãnh đạo quốc gia hàng thứ hai, đã lần lượt qua tay 11 vị, là: Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ. Thủ Tướng Nguyễn Khánh (kiêm nhiệm). Thủ Tướng Trần Văn Hương (lần 1). Thủ Tướng Phan Huy Quát. Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc. Thủ Tướng Trần Văn Hương (lần 2). Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm. Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn. Sau cùng là Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu chưa kịp trình diện chánh phủ thì Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng! Người “trị vì” lâu nhất là Thủ Tướng Ngô Đình Diệm hơn 9 năm, và vị có nhiệm kỳ ngắn nhất là Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu. Chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Với chức vụ này, lần lượt do 10 vị sau đây, là: Tổng Thống Ngô Đình Diệm kiêm nhiệm. Trung Tướng Trần Văn Đôn (lần 1). Trung Tướng rồi Đại Tướng Trần Thiện Khiêm (lần 1). Trung Tướng Nguyễn Khánh. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Thiếu Tướng rồi Trung Tướng Nguyễn Hữu Có. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm (lần 2) kiêm nhiệm. Trung Tướng Trần Văn Đôn (lần 2). Sau cùng là giáo sư Bùi Tường Huân trong nội các của Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu chưa kịp trình diện. Chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng. Có 9 vị lần lượt giữ chức Tổng Tham Mưu Trưởng hay tương đương, là: Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh. Thiếu Tướng rồi Trung Tướng rồi Đại Tướng Lê Văn Tỵ. Khi lâm trọng bệnh, Trung Tướng Khánh nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Cách Mạng hành sử chức năng Quốc Trưởng, đã gắn cấp bậc Thống Tướng 5 sao tại giường bệnh trước khi ông từ trần. Trung Tướng Trần Văn Đôn kiêm nhiệm. Trung Tướng rồi Đại Tướng Trần Thiện Khiêm kiêm nhiệm. Trung Tướng rồi Đại Tướng Nguyễn Khánh kiêm nhiệm. Trung Tướng Trần Văn Minh. Thiếu Tướng rồi Trung Tướng Nguyễn Hữu Có kiêm nhiệm. Thiếu Tướng rồi Trung Tướng rồi Đại Tướng (4 sao) Cao Văn Viên. Sau cùng là Trung Tướng Vĩnh Lộc. Chức “nguyên soái” này trong tay Đại Tướng Cao Văn Viên là lâu nhất, đến 9 năm rưỡi, và Trung Tướng Vĩnh Lộc là vị Tổng Tham Mưu Trưởng có thời gian ngắn nhất, chỉ 18 tiếng đồng hồ! Hoạt động của quân cộng sản. Trong thời gian từ giữa năm 1954 đến cuối năm 1959 (4 năm rưởi), hoạt động của cộng sản chỉ trong phạm vi chính trị với những cuộc biểu tình quanh quẩn các thị trấn nhỏ, và hoạt động kinh tài vùng nông thôn (cưỡng bách dân đóng thuế), cứ xem như là thời gian hòa bình tương đối. Từ đầu năm 1960 đến cuối năm 1964 (5 năm), cộng sản mở rộng sang hoạt động quân sự từ cấp Tiểu Đội, dần lên cấp Trung Đội, Đại Đội, và lác đác có vài trận đánh đến cấp Tiểu Đoàn. Tất cả chỉ trong hình thái chiến tranh du kích. Từ đầu năm 1965, vừa áp dụng du kích chiến và vừa chuyển sang hình thái vận động chiến với cấp Trung Đoàn. Từ năm 1966, quân lực Việt Nam Cộng Hòa và quân lực Đồng Minh, bắt đầu đánh nhau với quân chính qui cộng sản cấp Sư Đoàn từ lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của họ xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chúng ta theo hành lang dãy Trường Sơn. Và 2 tháng sau cùng của cuộc chiến hơn 20 năm, cộng sản đã điều động cấp Quân Đoàn tấn công vào thủ đô Sài Gòn, nơi tập trung toàn bộ cơ quan đầu não của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta. Có điều không rõ là tổ chức của quân cộng sản có đúng theo tổ chức cấp Quân Đoàn hay không, hay chỉ vài Trung Đoàn với một Sư Đoàn cũng thuộc loại gán ghép là họ gọi Quân Đoàn để “hù dọa” chúng ta chăng? Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ 150.000 người vào năm 1956, với trang bị các loại vũ khí do Pháp và Mỹ sản xuất từ trước và trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ 2, với tổ chức đơn vị chỉ đến cấp Tiểu Đoàn. Mười năm sau đó -tức năm 1966- quân số tăng lên đến 733.252 người, không còn sử dụng các loại vũ khí do Pháp sản xuất nữa, nhưng nhìn chung thì trang bị cũng chưa được cải tiến bao nhiêu, vì mọi quân dụng đều do Hoa Kỳ sản xuất từ trong đệ nhị thế chiến. Theo đà bành trướng chiến tranh của quân cộng sản, quân đội phải phát triển lên đến 1.100.000 quân vào giữa năm 1974, và được trang bị các loại vũ khí do Hoa Kỳ sản xuất, trong đó có một số loại vũ khí thuộc thế hệ mới, thậm chí còn trong thời kỳ trắc nghiệm nữa. Về tổ chức. Các đơn vị từ cấp Tiểu Đoàn được phát triển lên cấp Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn, với đầy đủ các quân chủng tác chiến, các binh chủng tác chiến lẫn yểm trợ tác chiến, và các binh sở chuyên môn yểm trợ hành chánh tài chánh, hành chánh nhân viên, hành chánh tiếp vận. Về quản trị con người. Từ làm bằng tay xem từng hồ sơ phiếu, từng bước tiến lên quản trị bằng máy điện toán IBM 360/20 rồi 360/40, do Trung Tâm Điện Toán Nhân Viên trực thuộc Phòng Tổng Quản Trị/Bộ Tổng Tham Mưu trách nhiệm . Về quản trị quân dụng. Cũng từ công tác làm bằng tay đã tiến lên sử dụng máy điện toán IBM 360/40 và sau cùng là máy IBM 360/50, do Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận trực thuộc Tổng Cục Tiếp Vận trách nhiệm. Đây là loại máy được xem là tối tấn nhất đối với quân đội các quốc gia vùng Đông Nam Á, mà hội nghị Tiếp Vận các quốc gia vùng tây Thái Bình Dương tại Okinawa vào tháng 10 năm 1971 đã đánh giá như vậy. Về huấn luyện. Một hệ thống quân trường gồm các Trung Tâm Huấn Luyện, các Trường Chuyên Môn, các Trường Võ Bị, Trường Chỉ Huy Tham Mưu, Trường Hải Quân, Trường Không Quân, và cao hơn hết là Trường Cao Đẳng Quốc Phòng, có nhiệm vụ huấn luyện căn bản, và từng bước nâng cao trình độ huấn luyện từ người quân nhân có cấp bậc thấp nhất đến sĩ quan các cấp và Tướng Lãnh. Nhiều vị Tướng và cấp Đại Tá đã theo học các lớp Quản Trị Quốc Phòng tại Mỹ. Nhiều sĩ quan tham mưu và sĩ quan các binh chủng binh sở, được đào tạo các trường tại Pháp và các quốc gia thuộc địa của Pháp từ trước năm 1954, về sau du học Hoa Kỳ. Đặc biệt là Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt với chương trình 4 năm, đào tạo đội ngũ sĩ quan có khả năng lãnh đạo các ngành sinh hoạt quốc gia trong tương lai, sau thời gian gạn lọc qua kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm tham mưu, và nhất là kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy quân đội ở các cấp đơn vị. Tuy chưa phải là hoàn hảo, nhưng tất cả những khả năng đó gộp lại, đã tạo cho quân đội một sức mạnh dũng mảnh về vật chất lẫn tinh thần, mà chính quân cộng sản -qua các tài liệu tịch thu được- phải thừa nhận là họ dễ dàng chấp nhận đánh nhau với quân đội Hoa Kỳ hơn là đương đầu với quân lực Việt Nam Cộng Hòa, dù rằng hỏa lực của Hoa Kỳ là cực kỳ mạnh. Về phí tổn chiến tranh. Ngân sách quốc phòng tiêu tốn xấp xỉ con số 3.000 tỉ bạc Việt Nam, và phần Hoa Kỳ viện trợ quân sự tính thành tiền cũng khoảng 8 tỉ mỹ kim. Cũng nên nói thêm rằng, trong ngân sách quốc phòng Việt Nam, phần viện trợ của Hoa Kỳ chiếm 25% và được gọi là “viện trợ chung đậu”. Phần viện trợ này phân phối rải rác trong các chương của ngân sách, nghĩa là nó hòa trong các chi tiêu chớ không phải viện trợ chỉ để trả lương (vì không ít người lầm tưởng như vậy). Riêng phần quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, Thái Lan, Phi Luật Tân, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), con số chi tiêu lến đến 104 tỉ mỹ kim (theo tài liệu của Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Hòa đầu năm 1973, nhưng họ nói là chưa chính xác). Một quân đội phát triển theo nhu cầu chiến trường. Với một hệ thống tổ chức chặt chẻ từ hạ tầng đến thượng tầng, và luôn có những biến cải thích nghi với tình thế, dù chưa phải là hoàn thiện. Với tài liệu và phương pháp huấn luyện dựa theo Hoa Kỳ nặng về kỹ thuật, theo kinh nghiệm chiến tranh du kích do Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của quân đội Pháp đúc kết, và tài liệu do Tổng Cục Quân Huấn/Bộ Tổng Tham Mưu cùng các quân trường sáng tạo qua kinh nghiệm thực tiển chiến trường. Với nổ lực áp dụng khoa học kỹ thuật và sử dụng phương tiện tân tiến vào công tác quản trị con người, quản trị quân dụng một cách nhanh chóng và chính xác. Với một phí tổn gồm của Việt Nam Cộng Hòa lẫn của Hoa Kỳ là hết sức lớn lao, và nhất là với một tinh thần phục vụ quân đội, một tinh thần chiến đấu dũng cảm của “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, cùng với tinh thần chống cộng quyết liệt của các viên chức hành chánh, cán bộ, và nhân dân. Ấy vậy mà Việt Nam Cộng Hòa chúng ta thua trận sau hơn 20 năm chống giữ! Trách nhiệm mất nước do đâu? Do tập thể quân đội, do cấp lãnh đạo quốc gia, cấp lãnh đạo quân đội, hay là do tất cả gộp lại? Và liệu Hoa Kỳ có phần trách nhiệm trong này không? Tôi nghĩ, rất có thể là quí vị quí bạn đồng ý với tôi rằng, chúng ta chiến đấu chống cộng sản là chiến đấu cho dân tộc Việt Nam chúng ta, chiến đấu để bảo vệ tổ quốc Việt Nam chúng ta, chớ không phải chúng ta chiến đấu cho Hoa Kỳ hay cho bất cứ quốc gia nào khác. Vì vậy mà tôi không nghĩ đến trách nhiệm của Hoa Kỳ trong sự thua trận của chúng ta. Khi khẳng định điều đó tôi vẫn hiểu rằng, quân đội Hoa Kỳ thiết lập căn cứ quân sự trên đất nước chúng ta và tham chiến bên cạnh chúng ta, là để chứng tỏ rằng họ chiến đấu ngăn chận sự bành trướng ý thức hệ cộng sản, đó là thế giới đối nghịch với thế giới tự do mà Hoa Kỳ là nước lãnh đạo, chớ không thuần nhất là họ chiến đấu cho riêng quốc gia chúng ta đâu. Xin nhớ rằng, trong bang giao quốc tế không có vấn đề tình cảm, mà tất cả vì quyền lợi của quốc gia, ngoại trừ các quốc gia cộng sản chỉ phục vụ cho quyền lợi của đảng họ. Tôi vẫn hiểu rằng, thực trạng của Việt Nam chúng ta từ năm 1954, nếu không có viện trợ của Hoa Kỳ thì cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc của chúng ta chắc chắn là vô vàn khó khăn. Nhưng đã nói đi thì cũng nên nghĩ lại, đó là ở vào bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ, một bối cảnh chia ra 2 khối trong một thế giới: một bên là dân chủ tự do do Hoa Kỳ lãnh đạo, và một bên là cộng sản độc tài do Nga Sô lãnh đạo. Cả hai cường quốc này đều sử dụng các quốc gia nhỏ chịu ảnh hưởng của họ vào mục tiêu chiến lược trải rộng tầm ảnh hưởng của họ bao trùm thế giới, hay ít ra cũng là phần lớn thế giới. Với bối cảnh như vậy, sự kiện quân lực Hoa Kỳ chiến đấu chống cộng sản trên đất nước Đại Hàn, trên eo biển Đài Loan, trên đất nước Việt Nam chúng ta, cũng là sự kiện mà Hoa Kỳ phải làm, vì tất cả đều nằm trong mục tiêu chiến lược của họ. Vì thế mà tôi vừa cảm ơn chánh phủ và nhân dân Hoa Kỳ, vừa rút lại lời cảm ơn đó chỉ riêng với các vị lãnh đạo Hoa Kỳ, vì các vị lãnh đạo hiệp chủng quốc đã khống chế quá mức các vị lãnh đạo của chúng ta. Vậy mà, quí vị lãnh đạo của chúng ta dắt díu nhau lên phi cơ bay ra ngoại quốc bỏ lại sau lưng một quê hương, một dân tộc, một quân đội mà quí vị đã bao nhiêu lần ra lệnh cho chúng tôi qua những cách khác nhau, tựu trung bảo Người Lính phải bảo vệ tổ quổc bảo vệ dân tộc cho dẫu phải hi sinh! Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu bỏ chạy ra ngoại quốc với tư cách hai vị đương quyền đi công du trong 6 tháng tại bất cứ quốc gia nào, và mọi chi phí do ngân sách quốc gia đài thọ! Vậy là, cuối cùng của cuộc chiến 20 năm, quí vị vẫn hưởng bỗng lộc của quốc gia mặc cho 18 triệu dân chìm sâu trong sự cai trị nghiệt ngã của cộng sản, mà trong đó có 1.000.000 Quân Nhân đã góp phần đưa quí vị lên đỉnh cao của quyền lực một thời! Thật là đau lòng, đến nay đã 34 năm lưu vong, chưa một vị lãnh đạo đầy quyền lực nào của chúng ta thuở ấy, dám nhận trách nhiệm với lịch sử cả. Trái lại, vẫn cho rằng “mất nước là tại Mỹ bỏ rơi!” Tất nhiên là trong hoàn cảnh sống trên đất người, không ai có thẩm quyền gắn trách nhiệm sụp đổ ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho vị này hay vị khác, vì trên vị quyền lực này có vị quyền lực khác, và cứ như thế. Nhưng chia đều trách nhiệm một cách bình quân như cựu Đại Tướng Cao Văn Viên, tôi e không hợp lẽ công bằng, bởi vì trách nhiệm phải cân bằng với quyền lực trong mọi chức vụ. Chữ “trách nhiệm” mà tôi dùng ở đây, là cột chặt trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Dân Tộc trong lãnh vực quân sự mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chưa tròn. Trong lịch sử, cũng có những tiền nhân bị mất nước, nhưng cái nhục của thế hệ chúng ta là mất nước không phải vì đánh nhau thua trận, mà vì lý do nào đó, hay vì trách nhiệm của giới chức nào, tập thể nào, hay là tất cả gộp lại, chúng ta phải chờ lịch sử soi sáng qua từng góc cạnh của những vị lãnh đạo, từng góc cạnh của bối cảnh quốc gia quốc tế liên quan. Nhưng nếu quí vị lãnh đạo nói rằng, “chế độ tự do của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta sụp đổ là do Hoa Kỳ”, liệu chúng ta có còn nhân cách khi đứng trước quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ tung bay trong gió hay khi đứng trước bàn thờ tổ quốc dù chưa phải là trên quê hương Việt Nam không? Bởi vì, đất nước là đất nước Việt Nam, dân tộc là dân tộc Việt Nam, các vị lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội đều là Việt Nam, tất cả quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đều là Việt Nam, lúc hi sinh vì Tổ Quốc Việt Nam, vì Dân Tộc Việt Nam, được nằm trong quan tài Việt Nam, được nghe lời nguyện bằng tiếng Việt Nam, và ngàn đời được yên nghỉ trong lòng đất Việt Nam, thì đối với lịch sử, chúng ta không thể trốn tránh trách nhiệm đã để đất nước vào tay cộng sản độc tài! Chữ “trách nhiệm” mà tôi dùng ở đây, là trách nhiệm của tất cả những vị thuộc hàng lãnh đạo bất kỳ lãnh vực nào trong hệ thống tổ chức và quản trị xã hội, đặc biệt là lãnh vực chính trị và quân sự. Trong bang giao quốc tế, không có vấn đề tình cảm mà chỉ có quyền lợi quốc gia. Hoa Kỳ giúp chúng ta là do quyền lợi của Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam cũng do quyền lợi của họ, vấn đề là “khả năng và bản lãnh” của những vị lãnh đạo trong mọi hoàn cảnh đất nước, sẽ tạo thế đứng cho những vị đó trong lịch sử: Hoặc được người đời vinh danh hay bị người đời nguyền rủa, lưu mãi trong sử sách, truyền mãi trong dân gian! Bởi, khi quí vị lãnh đạo hiệu triệu đồng bào cũng như lúc quí vị ra lệnh cho cấp dưới, quí vị đều nhân danh chức vụ của quí vị chớ quí vị đâu có nói thay mặt cho Hoa Kỳ, đến khi thua trận thì quí vị lại nói là do Hoa Kỳ! Thế hệ chúng ta, đã thừa hưởng một giang sơn gấm vóc, một truyền thống hào hùng của những bậc tiền nhân lừng danh thế giới trong hành trình mở nước và giữ nước, một nền văn hoá dân tộc trải dài nhiều ngàn năm trong lịch sử, trong đó con người được trân trọng. Đến lượt chúng ta, chúng ta chiến đấu giữ nước và phát triển đất nước, nhưng đã để đất nước vào tay chế độ cộng sản độc tài, một chế độ tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại! Tuy nhóm lãnh đạo cộng sản cũng là người cùng chủng tộc, nhưng họ rập khuôn theo cộng sản quốc tế mà cai trị dân tộc với những chính sách độc tài nghiệt ngã! Và thật sự là họ đã tàn bạo hơn quân xâm lược Trung Hoa phong kiến, và nghiệt ngã hơn thời bị thực dân Pháp cai trị! Theo quí vị, thế hệ chúng ta vừa để lại những gì cho thế hệ tiếp nối chúng ta, và những thế hệ sau nữa? Phải chăng là “kinh nghiệm từ một chế độ tự do sụp đổ”, một kinh nghiệm luôn giằng xé chúng ta trong quảng đời còn lại! Từ góc độ đạo lý mà soi rọi vào thảm cảnh chúng ta, phải chăng là chúng ta bị trừng phạt “từ đâu đó”, vì chúng ta không thực hiện tròn vẹn lời thề trước bàn thờ Tổ Quốc trong những buổi lễ tốt nghiệp tại các trường quân sự! Bởi thế mà hằng trăm ngàn đồng đội khi đặt chân lên đất nước Hiệp Chủng Quôc Hoa Kỳ đã bị cái “sốc” khi bước vào một xã hội rất thực tế, thực tế đến độ tàn nhẫn của cuộc sống với biết bao gian truân của người lưu vong! Trong khi ít nhất cũng hơn hai trăm ngàn đồng đội chúng tôi, gồm: quân nhân, viên chức, cán bộ, các vị dân cử, các nhà kinh doanh sản xuất, các vị hoạt động chính trị, bị cộng sản lưu đày trong các nhà tù, vợ con bị đày đọa trong các khu kinh tế mới mà thực chất là những nơi lưu đày, tài sản thì bị chúng tịch thu. Với quí vị lãnh đạo cũng như quí vị có quân có quyền đã bỏ chạy trước ngày sụp đổ, quí vị có biết là “Những Người Lính Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi”, hằng mấy ngàn thương phế binh đã bị quân cộng sản quăng ra khỏi các Tổng Y Viện và quân y viện, hằng trăm ngàn nhà cửa bị cộng sản cướp, xe cộ bị cộng sản đoạt, nhiều chục ngàn gia đình trong số chúng tôi bị cộng sản lùa vợ con vào những nơi mà chúng gọi là “khu kinh tế mới”, hoặc đi lấy chồng vì không nơi nương tựa! Bản thân chúng tôi ít nhất cũng hơn 200.000 người bị lùa vào giam giữ nghiệt ngã trong hơn 200 trại tập trung của cộng sản, đã có nhiều ngàn đồng đội đồng tù của chúng tôi đã bỏ xác trong các vùng sình lầy sông rạch miền Nam, trong các vùng rừng núi hoang vu miền Trung, miền Bắc, đến tận trại tập trung Cổng Trời sát biên giới Việt Nam-Trung Hoa cộng sản! Nghĩa là chúng tôi mất tất cả, đúng như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã tiên liệu một cách chính xác “Đất nước mất là mất tất cả!”. Xin thưa, đoạn trên đây tôi không có ý phiền trách bất cứ vị nào, mà tôi chỉ muốn nói đến một góc nhỏ của sự thật hòa trong nhận thức của một sĩ quan tham dự suốt chiều dài cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ 1954-1975! Tôi quan niệm, nói sự thật không phải là nói xấu, cho dẫu sự thật đó có đắng cay đến mấy cũng vậy. Xin quí vị vui lòng chấp nhận, vì lịch sử phải trung thực, và lịch sử không thể thiếu trong hành trang vào đời của những thế hệ sau chúng ta trên đường phục vụ quê hương dân tộc. ***** Thưa quí vị quí bạn, Ký ức tôi còn lưu lại ngần ấy sự kiện cùng với nét nhìn của tôi trong những biến cố chính trị đã xảy ra từ đêm “thiết quân luật” 20 tháng 8 năm 1963, được gói ghém trong quyển sách này mà quí vị quí bạn vừa đọc qua. Tôi không có kết luận về trách nhiệm do đâu hay do ai mà chế độ tự do của Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì thiết nghĩ, phải trông chờ vào các sử gia mới có điều kiện thu thập tài liệu tạo thành dòng lịch sử đương đại, và dòng lịch sử đó có khả năng nói với thế hệ mai sau về những gì mà chúng ta đã nghĩ, đã làm, và kết quả. Nhưng, trong khi chờ đợi sự phán xét của lịch sử, tôi nghĩ, tất cả chúng ta “Những Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, cho dù diễn giải như thế nào đi nữa, cũng phải thừa nhận là chúng ta có chung trách nhiệm về ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà tổ quốc Việt Nam chúng ta bị cộng sản đánh chiếm và dân tộc Việt Nam bị cai trị bởi chế độ độc tài tàn bạo, do chúng ta chưa tròn trách nhiệm! Chúng ta hãy can đảm mà nhận trách nhiệm đó, vì có như vậy, chúng ta mới vơi bớt nỗi giày vò trong trái tim “Người Lính thua trận cuối cùng!” Nhận trách nhiệm không chỉ là lời nói suông, mà tùy mỗi hoàn cảnh của chúng ta và bằng cách này hay cách khác, góp phần xây dựng Cộng Đồng Việt Nam tị nạn chúng ta có một sức mạnh tập thể, và góp phần trực tiếp hay gián tiếp vào công cuộc dân chủ hóa chế độ chính trị trên quê hương Việt Nam. Phần quan trọng khác, là hỗ trợ và khuyến khích con cháu chúng ta trau dồi kiến thức khoa học kỹ thuật, và rèn luyện nghị lực với một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Từ sức mạnh đó, tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại có khả năng góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng một xã hội dân chủ pháp trị trên quê hương Việt Nam bền vững trong mục tiêu phục vụ nguyện vọng toàn dân. Và tôi xin hết lời. Houston, Teaxs, Hoa Kỳ. Viết xong ngày 15 tháng 8 năm 1994. Cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa Bổ túc lần 1, mùa Thu 1995. Bổ túc lần 2, mùa Thu 1998. Bổ túc lần 3, mùa Đông 2001-2002. Bổ túc lần 4, mùa Đông 2003-2004. Bổ túc lần 5, mùa Đông 2005-2006. Bổ túc lần 6, mùa Xuân 2007. Bổ túc lần 7, mùa Thu 2009. Bổ túc lần 8, mùa Đông 2010-2011.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 12:22:06 GMT 9
Phụ Bản A: / Góp ý bài viết của tác giả Trần Ngọc Giang. Phụ bản: A: Góp ý với bài viết của Trần Ngọc Giang. B: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa C. Chân dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa. D: Chân dung Người Vợ Lính Việt Nam Cộng Hòa. E: Nhận xét của một số độc giả. Đôi dòng vế tác giả.
Phụ Bản A: Góp ý bài viết của tác giả Trần Ngọc Giang. *****
TƯỚNG TRẦN THIỆN KHIÊM, CƠN LỐC RỐI LOẠN ĐỆ NHẤT & ĐỆ NHỊ CỘNG HÒA VIỆT NAM Tác Giả: Trần Ngọc Giang
Tôi, Phạm Bá Hoa, xin phép tác giả Trần Ngọc Giang. Vì có nhiều bạn chuyển đến tôi bài viết của tác giả, kèm theo câu tóm tắt chung là “muốn tôi cho biết ý kiến”. Lúc đầu, tôi có trả lời rất vắn tắt riêng cho 4 bạn, nhưng vì càng nhiều bạn chuyển bài này đến tôi và muốn biêt ý kiến, nên tôi thấy cần trình bày chi tiết thêm vào từng đoạn thích hợp trong bài viết của tác giả để tiện trả lời chung. Vào đầu bài: “Cơn Lốc Rối Loạn Đệ Nhất Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam”, tác giả có ý như “trần tình” với người đọc với dòng chữ “... sau nhiều lần suy nghĩ, trăn trở vẫn phải cầm viết hầu phơi bày một sự thật để phần nào giúp các sử gia sau này có những sự kiện quan trọng đưa vào dòng định mệnh của Lịch Sử Việt Nam”. Cũng vì vậy, một lần nữa, tôi xin phép tác giả để viết lại những lệnh mà tôi nhận, những việc mà tôi làm, những gì mà mắt tôi thấy trực tiếp, tai tôi nghe trực tiếp, cùng nét nhìn của tôi từ những điều đó và từ những dòng chữ của tác giả, còn đánh giá như thế nào xin tùy quí vi hữu, quí độc giả. Xin thưa, trong cuộc đảo chánh 1/11/1963, tôi là Đại Úy chánh văn phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Trong bài này, phần chữ nghiêng tôi viết và save dưới dạng pdf. Kể từ biến cố lịch sử năm 1975 đến nay đã có nhiều sách báo, đoàn thể, tôn giáo cũng như hầu hết đồng bào Việt Nam đều quy trách những nhà lãnh tụ miền Nam như Tổng Thống Diệm, Tướng Minh, Đôn, Thiệu, Kỳ v.v...đều là những người đã một phần chịu trách nhiệm để cộng sản thôn tính miền Nam. Sự quy trách này trên bình diện chính trị, truyền thông đương nhiên không ai phủ nhận, nhưng trên phương diện lịch sử thì thật là phiến diện. Do đó, tiện giả sau nhiều lần suy nghĩ, trăn trở vẫn phải cầm cây viết hầu phơi bày một sự thật để phần nào giúp các sử gia sau này có những sự kiện quan trọng đưa vào dòng định mệnh của lịch sử Việt Nam. Ngược dốc thời gian năm 1958, Đại Tá Trần Thiện Khiêm là một trong những sĩ quan được Tổng thống Diệm ưa thích, vì vậy Đại Tá Khiêm đã được bổ nhiệm Tư lệnh Sư đoàn 4 Bộ Binh. Thời gian này Đại Tá Khiêm có hai người bạn thân nhất là Đại Tá Nguyễn Khánh và Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu. Bất cứ cuối tuần nào, Đại Tá Khiêm đều lái xe đến thăm Đại Tá Khánh tại đồn điền trà J'Ring, sau đó 2 người kéo lên Đà Lạt thăm Trung Tá Thiệu đương là Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Quốc Gia/Đà Lạt. Tôi không biết Thiếu Tướng Khiêm thân với Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu từ lúc nào, mà tôi chỉ biết -theo lời của bà Trần Thiện Khiêm- Đại Tướng Khiêm, Đại Tướng Nguyễn Khánh, và Đại Tướng Cao Văn Viên, thân nhau khi 3 vị cùng là Đại Úy và cùng chiến đấu trong quân đội Liên Hiệp Pháp tại mặt trận Na Sản trên đất Lào Năm 1960 trong vụ đảo chánh do Trung Tá Vương Văn Đông cầm đầu bị thất bại, bởi Đại Tá Khiêm Tư lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh từ miền Tây kéo về giải cứu Tổng Thống Diệm, và kể từ đó, Đại Tá Khiêm được Tổng Thống Diệm tín cẩn tuyệt đối. Tthăng cấp Thiếu Tướng và được bổ nhiệm Tham Mưu Trưởng Liên Quân Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. (1) Sau khi Đại Tá Nguyễn Chánh Thi thất bại cuộc đảo chánh 11/11/1960, Đại Tá Khiêm gọi tôi đến gặp ông tại Bộ TTM -lúc ấy tôi đang học lớp tham mưu tại trường đại học quân sự đồn trú trong khuôn viên trại Trần Hưng Đạo, tức Bộ Tổng Tham Mưu. Trước khi đi học, tôi là Trưởng Ban Hành Quân Phòng 3/Sư Đoàn 21 Bộ Binh (SĐ21BB)- Đại Tá Khiêm chỉ nói: “Ông Khánh sẽ cho di chuyển trường đại học lên Đà Lạt. Phần chú, mãn khóa là chú về lại Phòng 3 Sư Đoàn, tôi có công việc cho chú”. Ngày hôm sau, Đại Tá Khiêm trở về Quân Khu 5 đồn trú tại Cần Thơ, ông vẫn kiêm nhiệm Tư Lệnh SĐ21BB đồn trú tại Sa Đéc. Tháng 4/1962, giải thể các Quân Khu, trong khi các Quân Đoàn Sư Đoàn được trao thêm nhận trách nhiệm an ninh lãnh thổ với danh xưng kèm theo là Vùng Chiến Thuật, Khu Chiến Thuật. Đại Tá Khiêm vẫn là Tư Lệnh SĐ21BB/Khu Chiến Thuật Hậu Giang, và SĐ21BB di chuyển từ Sa Đéc sang Cần Thơ. Ngày 6/12/1962, Đại Tá Khiêm thăng cấp Thiếu Tướng, được cử giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân/Bộ Tổng Tham Mưu, và ông nhận chức ngày 17/12/1962. Lúc ấy tôi là Đại Úy chánh văn phòng Tư Lệnh SĐ21BB, tôi cũng được lệnh thuyên chuyển đến bộ TTM, và Thiếu Tướng Khiêm cử tôi giữ chức chánh văn phòng TMT Liên Quân cũng từ ngày ấy (17/12/1962). Danh xưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mới sử dụng từ 1/4/1964 thời Trung Tướng Nguyễn Khánh, sau văn kiện hệ thống hóa “QLVNCH gồm: Hải Quân, Không Quân, Lục Quân, Địa Phương Quân & Nghĩa Quân” (2) Trong cuộc sống nhất là trong sinh hoạt chính trị, tôi không tin là có sự “tín cẩn tuyệt đồi”, vì thật ra không có gì tuyệt đối trong đời sống chúng ta cả. Sau khi nắm chức vụ trên và nhất là được sự tin tưởng của Tổng Thống, Thiếu Tướng Khiêm đã đề cử Trung Tá Thiệu làm Tư Lệnh Sư đoàn 5 BB và Thiếu Tướng Khánh làm Tư Lệnh Vùng 2 Chiến Thuật. Tóm lại, tất cả các chức vụ quan trọng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào thới điểm này, nếu có sự đề bạt của Thiếu Tướng Khiêm chắc chắn sẽ được Tổng Thống Diệm chấp thuận, ngoài ra TT Khiêm hơn hẳn các tướng lãnh khác là được cả ông Cố vấn Ngô Đình Nhu mến phục. Bởi vậy tiếng nói của Thiếu Tướng Khiêm với hai nhân vật then chốt của nền Đệ Nhất Cộng Hòa có một tác dụng gần như tuyệt đối, các tướng lãnh và Tư Lệnh quân binh chủng trong QLVNCH biết như vậy nên mọi lệnh của TT Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân đưa ra đều được thi hành đầy đủ, chính xác. (1) Thiếu Tướng Khánh bàn giao chức vụ Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu cho Thiếu Tướng Khiêm trước khi ông đi Pleiku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn 2/Vùng 2 Chiến Thuật. Như vậy, tôi nghĩ, không phải Thiếu Tướng Khiêm đề cử Thiếu Tướng Khánh sau khi Thiếu Tướng Khiêm nhận chức. Chức TMT Liên Quân là chức vụ mới thiết lập và Thiếu Tướng Khiêm là người đầu tiên nhân chức vụ này. (2) Có phải Thiếu Tướng Khiêm đề cử Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Tư Lệnh SĐ5BB hay không, điều này tôi không biết. (3) Các đơn vị thi hành lệnh của Bộ TTM ngang qua TMT Liên Quân ký thừa lệnh Tổng Tham Mưu Trưởng là hành động bình thường trong quân đội. Từ trước tới nay đã có nhiều sử gia và nhân vật chính trị đề cập đến cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963, nhưng nhiều sự kiện vẫn còn thiếu sót và không chính xác vì chưa ai nêu đúng nhân vật chủ chốt, hầu hết đều cho rằng các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính là những nhân tố chính. Nhưng mặt trái bên trong hậu trường thì không phải vậy, Trung Tướng Đôn mặc dù là Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng nhưng không được các Tư Lệnh quân binh chủng tin tưởng, Tướng Minh không có thực lực trong tay, còn lại Tướng Đính chỉ trong phạm vi Tổng Trấn Sài Gòn mà thôi. Đầu tháng 3/2007 trong lúc nói chuyện với cựu Đại Tướng Khiêm sau khi đón ông và gia đình từ phi trường IAH sau chuyến du lịch Pháp quốc trở về Houston, nhân lúc vui vẻ, tôi hỏi: “Thưa anh Tư, hồi đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, bắt đầu từ phía Hoa Kỳ hay từ phía Việt Nam mình anh Tư?” “Từ phía Hoa Kỳ”. “Vậy ai là người nối vào Việt Nam mình anh Tư?” “Ông S.”. “Ông ấy nối vào ai vậy anh Tư?” “Nối vào anh, nhưng anh thấy việc lớn quá nên giới thiệu với Trung Tướng Minh (Dương Văn)”. Cựu Đại Tướng Khiêm có nói tên đầy đủ của người Mỹ này, nhưng ông không muốn tôi nêu tên ông ấy dù ông S. đã chết rồi. Trong năm 1963, tôi có dịp nói chuyện với ông S. này trong những lúc ngồi chờ vào gặp Thiếu Tướng Khiêm. Ông ta trong ngành tình báo, nói tiếng Pháp sành sỏi. Với những gì tôi biết, Thiếu Tướng Khiêm là một trong những vị quan trọng trong cuộc đảo chánh chớ không phải là “nhân vật chủ chốt”. Trong một đoạn bên dưới, tôi trình bày rõ hơn về điểm này. Đến đây tiện giả xin trình bày diễn tiến cuộc đảo chánh 1/11/1963 để quý vị độc giả có thể thấu hiểu ai là người đã soạn thảo, móc nối và thi hành kế hoạch đảo chánh. Khoảng đầu tháng 10/1963 Thiếu Tướng Khiêm gọi Thiếu Tá Giang lên văn phòng cho biết sẽ có đảo chánh để lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa vì Thiếu Tướng Khiêm được biết ông Ngô Đình Nhu đã có liên lạc với phía Việt Cộng. Đến đây tiện giả xin mở dấu ngoặc. Sở dĩ Thiếu Tướng Khiêm tiết lộ cuộc đảo chánh cho Thiếu Tá Giang vì Thiếu Tá Giang đã từng là Chánh Văn phòng của Thiếu Tướng Khiêm, và ngay sau nhậm chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân, Thiếu Tướng Khiêm đã yêu cầu Nha An ninh quân đội đưa Thiếu Tá Giang sang giữ chức vụ Trưởng phòng An Ninh quân đội Bộ Tổng Tham mưu. (1) Nếu tôi nhớ không lầm, lúc đảo chánh 1/11/1963, tác giả là Đại Úy chớ chưa là Thiếu Tá. Tôi còn nhớ văn phòng của tác giả trong Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu, building bên trái từ cổng số 1 vào. Tác giả có trách nhiệm xét cấp “Thẻ” ra vào cổng Tổng Tham Mưu cho quân nhân viên chức phục vụ trong khuôn viên Bộ TTM. Tôi cũng được cấp thẻ đó. Tác giả nói đầu tháng 10/1963, Thiếu Tướng Khiêm gọi tác giả lên văn phòng cho biết có đảo chánh, nhưng những gì tôi biết thì những buổi họp tối mật giữa Thiếu Tướng Khiêm với các vị đảo chánh là từ trung tuần tháng 10/1963. Chứng minh: Khoảng 17 hay 18/10/1963, Thiếu Tướng Khiêm bắt đầu có những lần rời khỏi nhà ban đêm (sau đảo chánh tôi mới biết là ông đến nhà Thiếu Tướng TT Đính) mà không cho xe hộ tống theo sau, cho phép suy đoán là chuyện đảo chánh được thảo luận từ đó. (2) Về phần tôi, 7 giờ sáng 1/11/1963 (hôm ấy là lễ Các Thánh Tử Đạo) Thiếu Tướng Khiêm gọi tôi đến nhà ông, sau khi ngồi ở góc sân mà từ đó nhìn thấy chung quanh để biết chắc là không ai nghe thấy, trước khi ra lệnh ông nói thế này” “Đây là chuyện tối mật, chú không được nói với bất cứ ai kể cả vợ chú và chú Có, nếu bị tiết lộ thì chú đứt đầu trước tôi.” Chú Có mà Thiếu Tướng Khiêm nói ở đây là Trung Úy Nguyễn Hữu Có, sĩ quan tùy viên của ông. Tôi nghĩ, nếu tác giả được tín cẩn đến mức được Thiếu Tướng Khiêm cho biết trước đảo chánh một tháng, ắt hẳn tác giả phải là nhân vật rất quan trọng trong cuộc đảo chánh 1/11/1963, nhưng trong thực tế chừng như không phải vậy, vì tôi không nhận thấy “người thật việc thật” liên quan đến cuộc đảo chánh. Tôi nói “rất quan trọng” vì đây là hành động ảnh hưởng trực tiếp đến binh nghiệp và mạng sống của những vị tham gia đảo chánh. Hơn ai hết, ngành an ninh biết rõ điều này ít nhất là sau vụ 11/11/1960. (3) Những gì ở Sư Đoàn 4 Dã Chiến liên quan đến tác giả, tôi có nghe Trung Úy Nguyễn Hữu Có -sĩ quan tùy viên lúc ấy- nói lại, nhưng vì chưa đủ lý lẽ để tôi tin nên tôi xem như không biết gì hết. Ngày 20/10/1963 Thiếu Tướng Khiêm chỉ thị Thiếu Tá Giang qua gặp Đại Tá Đỗ Mậu, Giám đốc Nha An Ninh quân đội để cho Đại Tá Mậu biết là ông Cố vấn Ngô Đình Nhu vừa ra lệnh cho Thiếu Tướng Khiêm tạm giữ Đại Tá Mậu vì ông này đang vận động đảo chánh; và Thiếu Tướng Khiêm dặn Thiếu Tá Giang nói với Đại Tá Mậu tạm thời lánh mặt để Thiếu Tướng Khiêm dễ dàng trình lên ông Cố vấn. Cũng trong thời gian này, Thiếu Tướng Khiêm tiết lộ với Thiếu Tá Giang về phía tướng lãnh, Thiếu Tướng Khiêm đã tranh thủ được hầu hết, chỉ còn có Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Vùng 4 là chưa hội ý, riêng Tướng Khánh và Đại Tá Thiệu hoàn toàn đồng ý với Thiếu Tướng Khiêm. Ngoài ra, các Tư Lệnh quân binh chủng đã có hứa là sẽ sát cánh với Thiếu Tướng Khiêm. Nói tóm lại, việc vận động, tổ chức, cũng như hoàn tất kế hoạch đảo chánh hầu như do Thiếu Tướng Khiêm chủ động vì chỉ có Tướng Khiêm hội đủ mọi yếu tố để cho các tướng lãnh và Tư Lệnh quân binh chủng tin tưởng. (1) Những ngày cuối tháng 10/1963, một buổi tối sau khi Thiếu Tướng Khiêm ra khỏi nhà một lúc, Trung Tá Phạm Thư Đường -chánh văn phòng ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu- điện thoại tôi, hỏi TT Khiêm đi đâu và tôi trả lời TT Khiêm vừa đi đâu đó tôi không biết. Trung Tá Đường nói lệnh của ông Cố Vấn bảo tôi trình với Thiếu Tướng Khiêm là sau giờ làm việc không nên ra khỏi nhà, vì lúc này bọn đặc công Việt Cộng tìm ám sát các Tướng Lãnh. Điều này cho thấy ông Cố Vấn Nhu theo dõi hoạt động của Thiếu Tướng Khiêm (và có thể những vị khác nữa) chớ không phải lòng tín cẩn. Tôi chứng minh thêm. Tháng 4/1962, khi ông Cố Vấn xuống Vĩnh Long quan sát trắc nghiệm Ấp Chiến Lược, Đại Tá Khiêm -Tư Lệnh SĐ21BB/Khu Chiến Thuật Hậu Giang- có mặt tại phi trường nhỏ đón ông Cố Vấn, nhưng khi lên xe đi thăm ACL thì Đại Tá Khiêm vẫn ngồi trên xe của ông chớ không đi theo phái đoàn. Trung Tá Lê Văn Phước -Tỉnh Trưởng Vĩnh Long- đến tận xe mời Đại Tá Khiêm cùng ngồi xe với ông Cố Vấn, Đại Tá Khiêm nói: “Anh đưa ông Cố Vấn đi thăm ÂCL, tôi vào nhà anh ngồi chờ”. Sở dĩ tôi nghe được câu trả lời và nhìn thấy thái độ của Đại Tá Khiêm, vì tôi vừa là chánh văn phòng Tư Lệnh SĐ21BB vừa trách nhiệm theo dõi trắc nghiệm ACL tại các tỉnh Hậu Giang, và lúc ấy tôi đứng cạnh Đại Tá Khiêm. (2) Trong quân sự, lệnh phải “ngắn gọn, rõ ràng, chính xác”. Ở đây, Thiếu Tướng Khiêm ra lệnh cho tác giả bảo Đại Tá Đỗ Mậu “tạm thời lánh mặt” dường như lệnh này không rõ nghĩa. Xin thưa, mỗi lần Thiếu Tướng Khiêm ra lệnh cho tôi, bao giờ ông cũng hỏi: “Chú có gì cần hỏi không?” Trường hợp tôi hiểu không rõ là tôi hỏi lại ngay. Với lệnh bảo Đại Tá Đỗ Mậu “tạm thời lánh mặt” phải hiểu thế nào để chuyển lệnh cho đúng? (3) Chính tôi điện thoại liên lạc Thiếu Tướng Khánh (ở Pleiku) nhưng ông không nhận điện thoại, mãi đến gần sáng 2/11/1963 ông mới lên tiếng ủng hộ đảo chánh, chứng tỏ Thiếu Tướng Khánh không tham dự từ đầu, vì nếu tham dự từ đầu thì Thiếu Tướng Khiêm đâu cần ra lệnh cho tôi điện thoại hỏi TT Khánh. Sáng sớm ngày 31/10/1963, Thiếu Tướng Khiêm gọi Thiếu Tá Giang lên văn phòng; khi Thiếu Tá Giang bước vào thì thấy Đại Tá Nguyễn Hữu Có ở đó, Thiếu Tướng Khiêm chỉ thị cho Thiếu Tá Giang cầm công điện hỏa tốc đi cùng với Đại Tá Có xuống Mỹ Tho để Đại Tá Đạm -Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB- bàn giao cho Đại Tá Có. Sở dĩ Thiếu Tướng Khiêm ra lệnh cho Thiếu Tá Giang đi với Đại Tá Có là để Đại Tá Đạm tin tưởng là lệnh thật do chính Thiếu Tướng Tham Mưu Trưởng ký vì Đại Tá Đạm từng biết sự thân cận giữa Thiếu Tướng Khiêm và Thiếu Tá Giang. (1) Vào thời gian ấy, cử vào chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn phải là Sắc Lệnh của Tổng Thống, đâu thể nào chỉ do một công điện mà là công điện của vị Tham Mưu Trưởng Liên Quân lại đủ thẩm quyền thay cho một Sắc Lệnh? Thêm nữa, những tài liệu thuộc loại mật và tối mật trong văn phòng TMT Liên Quân, hoàn toàn do tôi đánh máy, cho số, vào phong bì, dán kín mới gởi, cũng như lưu giữ trong tủ sắt ngay sau lưng tôi, không một sĩ quan nào có trách nhiệm này. Nhưng tôi hoàn toàn không biết gì về công điện mà tác giả nói ở trên. (2) Tôi có chút thắc mắc: “Tại sao phải có mặt tác giả bên cạnh Đại Tá Nguyễn Hữu Có để chứng minh công điện đó là thật”. Như vậy phải hiều rằng, nếu không có tác giả thì Đại Tá Có chẳng có giá trị gi hết, nếu không nói lúc ấy “Đại Tá Có chỉ là cái bóng của tác giả”. Với lại những gì tôi biết về Đại Tá Đạm, ông là người rất chính chắn bình tỉnh trong mọi vấn đề, nên tôi tự hỏi: Chẳng lẽ Đại Tá Đạm biết tác giả được sự tín cấn của Thiếu Tướng Khiêm đến mức chỉ cần sự có mặt của tác giả đã đủ để ông tin tưởng cái lệnh tối mật đó là thật sự của Thiếu Tướng Khiêm? Chẳng lẽ Đại Tá Đạm lại chấp nhận cái công điện đó của vị TMT Liên Quân có thẩm quyền thay cho Sắc Lệnh của Tổng Thống? Dù gì thì trên quyền của TMT Liên Quân còn có Trung Tướng Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng nữa mà. Phải chăng tác giả hàm ý tác giả là biểu tượng của Thiếu Tướng Khiêm do tác giả từng là chánh văn phòng của Đại Tá Khiêm khi ông giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Dã Chiến đồn trú tại Biên Hòa. (tùy theo thời gian, tôi dùng cấp bậc đúng vào lúc ấy) Đến 11 giờ sáng cùng ngày Thiếu Tá Giang trở về Bộ Tổng Tham Mưu và được Thiếu Tướng Khiêm cho biết đúng 12 giờ trưa Thiếu Tướng Khiêm sẽ chủ tọa buổi họp các Tư Lệnh quân binh chủng, và sau buổi họp nếu ai chống lại đảo chánh thì Thiếu Tá Giang phải giữ lại trong phòng họp Bộ Tổng Tham Mưu chờ lệnh của Thiếu Tướng Khiêm. Buổi họp vừa chấm dứt; trong lúc lộn xộn thì Đại úy Nhung sĩ quan cận vệ của Trung Tướng Minh tự ý bắt Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực lượng đặc biệt dẫn đi đâu không rõ, sau đó Đại úy Nhung trở lại định bắt Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù và ông Lê Văn Tư, Giám đốc Cảnh sát Đô Thành, nhưng Thiếu Tá Giang đã ngăn chặn kịp thời. Đại úy Nhung báo lên Trung Tướng Minh và Trung Tướng đến hỏi lý do cản trở Đại úy Nhung thì Thiếu Tá Giang trả lời là thi hành lệnh Tướng Khiêm. (1) Ngày 31/10/1963, hoàn toàn không có buổi họp nào tại Bộ TTM do TT Khiêm chủ tọa cả. (2) Ngày 1/11/1963, lúc 7 giờ sáng (hôm ấy nghỉ lễ buổi sáng), Thiếu Tướng Khiêm đưa tôi hai danh sách và ra lệnh: Thứ nhất. Mời quí vị trong danh sách 1 đến câu lạc bộ Bộ TTM trước 12 giờ để dùng cơm, thật ra là buổi họp của những vị tham gia đảo chánh trước khi lên phòng làm việc của Thiếu Tướng Khiêm. (2) Mời quí vị trong danh sách 2 đến họp tại phòng họp số 1 (tầng 1 tòa nhà chánh) và yêu cầu có mặt trước lúc 1 giờ trưa, thật ra là cầm chân trong phòng họp. Trong danh sách thứ nhì, không có tên bất cứ vị nào bên hành chánh như tác giả đã viết. Tôi chắc rằng, tác giả không biết 2 danh sách mà tôi vừa nói. Đúng 1 giờ trưa, tôi có trách nhiệm đóng cửa lại và cho Quân Cảnh gác, không một ai trong số đó được ra vào. Lúc ấy tác giả không phải là thành viên của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, cũng không phải là sĩ quan thừa hành của bất cứ vị nào trong đó, tôi nghĩ, tác giả làm sao ngăn chận Đại Úy Nhung là người nhận lệnh của Trung Tướng Chủ Tịch Hội Đồng. Thật ra -theo lời của cựu Đại Tướng Cao Văn Viên- nói với tôi trong bữa ăn tại nhà anh chị Lý Thanh Tâm ở Virginia trưa ngày 6/9/2003, chính Thiếu Tướng Đính bảo Đại Úy Nhung tháo còng ra (lúc ấy mới còng 1 tay). (3) Tôi ngạc nhiên ở điểm, tác giả không phải là Trung Tướng Minh, cũng không phải là Đại Úy Nhung, làm sao biết được Đại Úy Nhung “tự ý” bắt Đại Tá Tung? Sự kiện mà tác giả nêu lên là sự kiện lịch sử, vì vậy mà sự suy đoán nhất là suy đoán theo chủ quan, tôi nghĩ là nên tránh. (4) Nhẩy Dù lúc ấy là Lữ Đoàn chớ chưa là Sư Đoàn. (5) Ngay Đại Tá Nguyễn Đức Thắng Trưởng Phòng 3 TTM, Đại Tá Đặng Văn Quang Trưởng Phòng 4 TTM, cũng không vào được, tác giả làm sao vào bản doanh HĐQNCM để nhận lệnh của Thiếu Tướng Khiêm. Xin mời đọc thêm đoạn cựu Đại Tướng Khiêm từ Virginia điện thoại tôi ở Houston vào tối 21/10/2003 (bên dưới) để nhận ra điều mà tác giả nói Thiếu Tướng Khiêm ra lệnh cho tác giả ngăn chận hành động Đại Úy Nhung, “điều đó có thể có hay không”. Khoảng 2 giờ trưa ngày 31/10/63 Đại Úy Lê Quang Triệu, em ruột của Đại Tá Tung dẫn 1 đại đội lực lượng đặc biệt cùng với 4 chiến xa đến cổng Bộ Tổng Tham mưu để hỏi tình trạng Đại Tá Tung, ngay khi đó Đại Úy Nhung chạy ra gặp Đại Úy Triệu và yêu cầu Đại Úy vào trình diện Thiếu Tướng Khiêm, Đại Úy Triệu nghe lệnh trình diện Thiếu Tướng Khiêm nên Đại Úy không nghi ngờ gì, do đó mới bị chết thảm. Ngày 31/10/1963, không có chuyện Đại Úy Triệu đẫn quân đến hỏi tình trạng Đại Tá Tung. Với lại dưới quyền Đại Úy Triệu làm gi có chiến xa. Khi tiếng súng đảo chánh nổ trưa 31/10/1963, Thiếu Tướng Khiêm đã chủ động qua các diễn trình như: Ngày 31/10/1963, đâu có cuộc đảo chánh nào mà nổ súng. Đảo chánh ngày 1/11/1963, ngày này không phải riêng Việt Nam mình mà nhiều quốc gia trên thế giới đều biết, nhưng theo tài liệu của tác giả là ngày 30/10/1963. Viết nhầm con số chăng? Tôi e không phải, vì ngày 1 chỉ có một con số nhưng tác giả lại gõ vào số 3 trước rồi đến số 1. Còn con số tháng 10 khác xa với con số tháng 11. Muốn viết số 11 thì gõ hai lần số 1 tận cùng bên trái, nếu gõ nhầm số thứ nhì phải là số 2 hay số 3, chớ đâu thể nào gõ nhầm vào số 0 ở gần tận cùng bên phải của hàng số. Nếu được tác giả giải thích điều này thì rõ nghĩa. - Ra lệnh cho Đại Tá Có điều động Sư Đoàn 7 ngăn chặn lực lượng tiếp viện từ Vùng 4 Chiến Thuật. Lệnh của HĐQNCM (không phải lệnh của Thiếu Tướng Khiêm) cử Đại Tá Nguyễn Hữu Có xuống SĐ7BB (Mỹ Tho) khống chế Đại Tá Đạm án binh bất động. BTL Quân Đoàn 4 tại Cần Thơ và SĐ9BB đồn trú tại Sa Đéc, hai đại đơn vị này cũng bị khống chế án binh bất động như vậy. - Lệnh cho Đại Tá Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 điều quân về Sài Gòn để làm chủ lực tấn công Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống và Dinh Gia Long. - Cô lập tất cả Tư lệnh Quân binh chủng nào xét ra chống lại cuộc đảo chánh. Lúc 1 giờ trưa, tôi xuống lầu chuyển lệnh cho Quân Cảnh đóng cửa phòng họp số 1, và hai Quân Cảnh đứng gác. Tôi thấy tận mắt để biết chắc là lệnh đã được thi hành, rồi trở lên văn phòng trình Thiếu Tướng Khiêm. - Ra lệnh cho Tướng Khánh, Tư Lệnh Vùng 2 và Tướng Trí Vùng 1 Chiến Thuật thi hành những biện pháp cần thiết. Tối 1/11/1963, tôi điện thoại lên Quân Đoàn 2 để chuyển lời của Thiếu Tướng Khiêm hỏi Thiếu Tướng Khánh có ủng hộ hay không, nhưng Thiếu Tướng Khánh không nhận điện thoại. Như vậy, Thiếu Tướng Khánh không được biết cuộc đảo chánh ít nhất cho đến sau 1 giờ trưa (giờ G của cuộc đảo chánh). Trường hợp Thiếu Tướng Đỗ Cao Trí có công điện ủng hộ ngay sau 1 giờ trưa ngày 1/11/1963. Tôi có trách nhiệm nhận các công điện do Truyền Tin Bộ Tổng Tham Mưu đưa đến và mang vào trình Thiếu Tướng Khiêm, cũng có nghĩa là trình cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Ngay sau đó, những công điện ủng hộ được chuyển sang đài phát thanh để phát trên làn sóng. Tôi cũng được lệnh bảo Truyền Tin Bộ TTM “chận bắt” tất cả công điện gởi về Phủ Tổng Thống và trình ngay vào Hội Đồng. - Riêng các Tướng Minh, Đôn, Kim, Nghiêm, Xuân v.v...có mặt tại Tòa nhà chánh bộ Tổng Tham Mưu chỉ có tính cách phụ giúp hơn là thực quyền, vì tất cả mọi lệnh và điều hành đảo chánh đều diễn ra trong phòng làm việc của tướng Khiêm. Tôi có mặt trong văn phòng từ sáng sớm ngày 1/11/1963 liên tục ngày đêm đến chiều ngày 3/11/1963 mới về nhà, tôi không thấy tác giả có mặt trong phòng Thiếu Tướng TMT Liên Quân, tức bản doanh của HĐQNCM. Đúng là mọi diễn biến đều diễn ra trong phòng làm việc của Thiếu Tướng Khiêm và điều này trong Bộ TTM ai cũng biết cả, nhưng thực quyền thì không phải vậy. Bằng chứng. Khoảng 5 giờ chiều 1/11/1963, khi tôi vào cầm ống nói điện thoại đưa Thiếu Tướng Khiêm và mời ông tiêp chuyện với Tổng Thống, Thiếu Tướng Khiêm chưa kịp phản ứng thì Trung Tướng Minh giựt ống nói trên tay tôi và nói chuyện với Tổng Thống. Vài phút sau đó, cũng điện thoại từ Đại Úy Bằng, sĩ quan tùy viên của Tổng Thống, yêu cầu tôi mời Thiếu Tướng Khiêm tiếp chuyện với Tổng Thống, nhưng Trung Tướng Minh cũng giựt ống nói và đặt xuống máy chớ không nói chuyện. Thiếu Tướng Khiêm với thái độ bình thản, im lặng. Thêm nữa, lúc 7 giờ tối, Trung Tướng Minh gọi các vị vào họp, lúc ấy có thêm Trung Tá Đỗ Khắc Mai (Không Quân) mới đến. Trung Tướng Minh ra lệnh: “Đến 7 giờ sáng mai (2/11/1963) nếu dinh Gia Long chưa đầu hàng, Không Quân cho nhiều phi tuần khu trục đánh bom, sau đó Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp tấn công vào .....” Chỉ vài sự kiện đó thôi, tôi nghĩ, cũng đủ cho thấy vị nào thực sự nắm quyền.
Tiếng chuông của chiếc điện thoại được reo đúng 3 giờ 17 phút, Thiếu Tướng Khiêm nghe, đầu giây bên kia người đối thoại không ai khác là Tổng Thống Diệm. Sau cuộc điện đàm, Thiếu Tướng Khiêm quay qua tướng Minh, Đôn nói "Tổng thống nói với các tướng lãnh đến dinh Gia Long nói chuyện. Moi trả lời để hội ý rồi sẽ trình lại Tổng Thống sau" nhưng sau đó tướng Minh, Đôn, Kim và cả Khiêm không đồng ý đến gặp Tổng Thống Diệm. Tuy nhiên khoảng 4 giờ.30 chiều 31/10/63, Thiếu Tướng Khiêm tự ý điện thoại cho Tổng Thống Diệm với đề nghị đưa Tổng Thống cùng toàn thể gia đình ông Nhu ra ngoại quốc với sự bảo đảm an ninh do chính Thiếu Tướng Khiêm hứa. Khoảng 6 giờ chiều, Tổng Thống Diệm gọi cho Tướng Khiêm để cho biết là T.T. đồng ý đề nghị nói trên, nhưng khi tướng Khiêm hội ý với tướng Minh, Đôn, Kim, thì tướng Minh nói ngay "Giờ này quá trễ rồi, chúng ta cứ tiếp tục". Qua các cuộc điện đàm kể từ lúc tiếng súng bắt đầu nổ cho đến khi Tổng Thống Diệm chạy đến nhà thờ Cha Tam, Tổng Thống Diệm chỉ có gọi điện thoại cho Thiếu Tướng Khiêm mà thôi. Trong Bộ TTM vào ngày 31/10/1963, tình hình vẫn bình thường như những ngày trước đó. Chuyện mà tác giả nói ở đây, tôi không biết xảy ra ở đâu. Cứ cho rằng cuộc đảo chánh diễn ra ngày 31/10/1963 như tác giả viết, vậy thì lúc 3 giờ 17 phút, lúc 4 giờ 30 phút, và khoảng 6 giờ chiều mà tác giả viết trong tài liệu, liệu tác giả có mặt trong phòng Thiếu Tướng Khiêm vào những lúc ấy hay không mà viết rất rõ giờ phút? Về phần tôi, tôi thấy tận mắt Trung Tướng Minh cầm ống nói nói chuyện với Tổng Thống khoảng 5 giờ chiều và tôi nghe tận tai Trung Tướng Minh thuật lại cuộc nói chuyện đó với các vị ngồi trong phòng Thiếu Tướng Khiêm lúc ấy, nhưng không phải ngày 31/10/1963 mà là ngày 1/11/1963. Đây là vấn đề lịch sử, mà lịch sử phải là khách quan, trung thực! Đọc hết đoạn trên chắc độc giả đã nhận ra vai trò của tướng Khiêm từ tiền đảo chánh đến khi cuộc cách mạng 1/11/1963 thành công, nếu tướng Khiêm không được Tổng Thống Diệm tin dùng, nếu không có sự hợp tác với tướng Minh, Đôn v.v...chắc chắn là cuộc đảo chánh không thể xảy ra được vì trên cương vị Tham Mưu Trưởng Liên Quân lại được sự tín cẩn của Tổng Thống, vì vậy các Tư lệnh Quân Binh Chủng đã không có phản ứng nên cách mạng 1/11/1963 mới thành công một cách dễ dàng. Ngược lại nếu tướng Minh, Đôn, Đính ra lệnh cho các đơn vị, chắc chắn sẽ bị chống đối hoặc không thi hành, nhất là 2 lực lượng nồng cốt do chính Thiếu Tướng Khiêm điều động với SĐ7 có nhiệm vụ ngăn chặn tiếp cứu của Vùng 4, và Sư Đoàn 5 chủ yếu tấn công Lữ Đoàn Liên Binh phòng thủ phủ Tổng Thống với dinh Gia Long. Thưa quí vi hữu và quí độc giả, sau 12 năm 3 tháng bị nhốt trong 4 trai tập trung của cộng sản tại miền Nam và miền Bắc, tôi đến Hoa Kỳ ngày 5/4/1991 trong đợt HO5. Sau mấy năm làm nhiều việc khác nhau, cuộc sống ổn định. Năm 2003, tôi lên Virginia thăm cựu Đại Tướng Khiêm và cựu Đại Tướng Viên. Sau đó, thỉnh thoảng điện thoại qua lại. Tối 21/10/2003, cựu Đại Tướng Khiêm từ Virginia điện thoại tôi ở Houston, ông nói một số điểm liên quan đến cuộc đảo chánh 1/11/1963. Đây là vài điềm trong số đó: “Trước ngày đảo chánh, Anh (tức cựu Đại Tướng Khiêm) nói như một điều kiện liên quan đến Tổng Thống Diệm rằng: “Phải để Tổng Thống bình yên và xuất ngoại”. Lúc đó Trung Tướng Dương Văn Minh đồng ý, Thiếu Tướng Lê Văn Kim cũng đồng ý. Sở dĩ Anh nói với Trung Tướng Minh và Thiếu Tướng Kim, vì hai ông này là hai nhóm riêng chớ không phải là một nhóm đâu nghe chú. Khi biết ông Diệm cùng với ông Nhu bị giết, Đại Tá Quyền (Hồ Tấn Quyền) bị giết, Đại Tá Tung (Lê Quang Tung) cũng bị giết, đến em của ông Tung là Lê Quang Triệu cũng bị lừa rồi giết chết. Ông Viên (Cao Văn Viên) thì bị còng tay. Họ hành động lén nên Anh với chú có hay biết gì đâu. Mấy ổng ngồi bên phòng của Đại Tướng Tỵ quyết định với nhau. (Lúc ấy Đại Tướng Tỵ dưỡng bệnh ngoài Vũng Tàu, Trung Tướng Trần Văn Đôn Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng). Ngưng một chút, ông tiếp: “Chú thấy chưa? Nhóm ông Minh với nhóm ông Kim độc ác quá! Ông Diệm gọi điện thoại bảo cho xe đến đón, tức là ổng đầu hàng rồi, tại sao lại giết người đầu hàng? Trước đó, ông Minh ông Kim đồng ý với Anh là để ông Diệm bình yên và lưu vong, tại sao lại giết? Cho nên từ đó Anh bất mãn với ông Minh ông Kim”. Với lời của cựu Đại Tướng Khiêm trên đây, cho thấy lúc ấy ông trong thế bị động, cho nên không hay biết gì về Đại Tá Tung bị đưa ra khỏi phòng họp số 1, Đại Tá Viên bị còng tay, thì làm sao ông ra lệnh cho tác giả ngăn chận hành động của Đại Úy Nhung như tác giả viết ở một đoạn bên trên. Sau cuộc cách mạng 1/11/1963 thành công vai trò nổi bật là những tướng Minh, Đôn, Kim, Đính, Xuân. Riêng tướng Khiêm với chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng hữu danh vô thực, ngoài ra tiếng nói của tướng Khiêm trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng hầu như bị lãng quên, do đó cuộc Chỉnh Lý mới bùng nổ mà nguyên nhân chính là do sự bất mãn của tướng Khiêm. (1) Chiều ngày 2/11/1963, Thiều Tưóng Khiêm thăng cấp Trung Tướng (cùng với nhiều vị khác nữa) và vẫn giữ chức Tham Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Chức Tổng Trưởng Quốc Phòng là Trung Tướng Đôn nắm giữ. Hai chức vụ mà tôi vừa nói là chính xác, vì tôi vẫn là chánh văn phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân mà lúc ấy vẫn là Trung Tướng Khiêm. (2) Ngày 1/1/1964, bàn giao chức TMT Liên Quân cho Trung Tướng Lê Văn Kim, và ngay chiều hôm ấy sang nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn 3/Vùng 3 Chiến Thuật. Cả hai cuộc bàn giao không có vị nào chủ tọa, mà chỉ có 2 vị “bên giao bên nhận” và các sĩ quan tham mưu liên hệ. Tôi và các sĩ quan cùng nhân viên văn phòng TMT Liên Quân đều thuyên chuyển sang Quân Đoàn 3, cộng thêm Đại Úy Nguyễn Văn Tuấn (về sau anh Tuấn là Đại Tá Giám Đốc Nha An Ninh Hành Chánh khi Đại Tướng Khiêm giữ chức Tổng Trưởng Nội Vụ). Tôi nghĩ, tác giả được tín cẩn đến mức được Thiếu Tướng Khiêm cho biết trước một tháng về cuộc đảo chánh 1/11/1963, nhưng tiếc là tác giả không biết gì về chức vụ của Trung Tướng Khiêm sau cuộc đảo chánh. Mời quí vi xem lại đoạn trên để thấy cựu Đại Tướng Khiêm thố lộ một chút tâm trạng của ông sau ngày 1/11/1963. (2) Nếu chỉ cho rằng, vì Trung Tướng Khiêm bất mãn do chức Tổng Trưởng Quốc Phòng hữu danh vô thực, tại sao trong bản doanh của các vị Chỉnh Lý ngày 30/1/1964 có mặt một viên chức tình báo Hoa Kỳ? (viên chức này khác với viên chức Hoa Kỳ trong cuộc đảo chánh 1/11/1963). Chẳng lẽ Hoa Kỳ chỉ đơn thuần ủng hộ sự bất mãn của Trung Tướng Khiêm mà không có quyền lợi của Hoa Kỳ? Người tổ chức, thảo kế hoạch do tướng Khiêm chủ động với sự trợ giúp của tướng Khánh và tướng Thiệu cùng 1 số đông các Tư lệnh quân binh chủng. Tuy nhiên vì sở trường của tướng Khiêm là không bao giờ muốn lộ mặt nên tướng Khánh được tướng Khiêm chỉ định coi như lãnh đạo cuộc Chỉnh Lý. Trên thực tế, tướng Khánh không có thực lực, không được ai tin tưởng cho nên nếu không có tướng Khiêm đẩy ra sân khấu chắc chắn không bao giờ tướng Khánh mơ tưởng được làm Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân, Thủ Tướng v.v... Đến đây tác giả viết đến cuộc chỉnh lý ngày 30/1/1964. Lúc bấy giờ Trung Tướng Khiêm Tư Lệnh Quân Đoàn 3/Vùng 3 Chiến Thuật, Trung Tướng Khánh Tư Lệnh Quân Đoàn 1/Vùng 1 Chiến Thuật. Xin nhắc lại, sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, nhiều vị Tướng Lãnh thăng cấp và giữ chức vụ mới. Trong số đó, HĐQNCM cử Trung Tướng Trí Tư Lệnh QĐ1/V1CT đồn trú ở Đà Nẳng, Trung Tướng Khánh Tư Lệnh QĐ2/V2CT đồn trú ở Pleiku, hai vị hoán chuyển chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn. Cũng lúc ấy, tôi là Thiếu Tá, chánh văn phòng Tư Lệnh QĐ3/V3CT. Từ giữa tháng 1/1964, Trung Tướng Khiêm với Trung Tướng Khánh thường liên lạc nhau bằng điện thoại, đôi khi dùng tiếng Pháp. Chiểu ngày 26 hoặc 27/1/1964, Trung Tướng Khiêm bảo tôi lái xe của ông lên phi trường nhưng bên bãi đáp quân sự đón Trung Tướng Khánh. Đừng cho ai biết tin này. Những đêm sau đó, 2 vị cùng ngồi chung xe đi đâu đó, tương tự như trước ngày 1/11/1963 vậy. Ngày 29/1/1964, sau giờ làm việc chiều về nhà (thuở ấy là việc từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều), Trung Tướng Khiêm gọi tôi đến tư dinh và cho biết: “Tôi, Trung Tướng Khánh, và Đại Tá Viên, lật đổ nhóm ông Minh ông Đôn, vì các ông này có kế hoạch đưa Việt Nam đến trung lập. Sau giờ này, chú đưa xe truyền tin hành quân của Quân Đoàn về đậu sau nhà chú. Đích thân chú liên lạc với Thiếu Tướng Thiệu và Thiếu Tướng Có, khi liên lạc được rồi phải giữ máy thường trực cho tôi. Công tác này chú phải xong trước 2 giờ sáng. Đúng 3 giờ sáng, chú có mặt tại tại cổng số 1, đón Đại Tá Viên vào nhà Trung Tướng Khánh (bên phải sau khi vào cổng sổ 1) và hướng dẫn Tiểu Đoàn Dù bố trí chung quanh tòa nhà chánh. Phần an ninh trại Trần Hưng Đạo, chú với Trung Tá Luông lo như lần trước. Chú còn gì cần hỏi thêm không?” Tôi không có gì phải hỏi. Cuối cùng, ông bảo tôi chỉnh lại đồng hồ theo đồng hồ của ông. Và rồi Chỉnh Lý (tôi vẫn gọi đảo chánh) thành công. Khoảng 12 giờ trưa 30/1/1964, Sau một lúc thảo luận với viên chức Hoa Kỳ đã có mặt từ sớm, Trung Tướng Khánh mời Trung Tướng Khiêm và Đại Tá Viên vào bàn họp. Một số sĩ quan quan tâm hay hiếu kỳ, đang đứng lóng ngóng trong nhà để theo dõi tin tức, được mời ra sân, đang có khá đông sĩ quan các quân binh chủng và một số phóng viên báo chí. Lúc bấy giờ trong nhà Trung Tướng Khánh, ngoài 3 vị tại bàn họp, chỉ còn người Việt Nam có vẻ là thân tín của Trung Tướng Khánh, một viên chức Hoa Kỳ, và tôi. Trung Tướng Khánh lên tiếng trước như là người chủ tọa: “Thôi, mọi việc xong rồi. Bây giờ thì anh Khiêm làm đi”. Trung Tướng Khiêm xoay qua Đại Tá Viên, vừa cười vừa nói: “Phần tôi đến đây là đủ rồi. Tôi không thích chính trị đâu, hay là anh Viên nhận đi”. Đại Tá Viên với nụ cười không hết miệng như lúc nào: “Thôi. Hai anh tính với nhau đi, ai làm cũng được mà. Tôi không thích lao vào chính trị. Phần tôi đến đây là xong. Tôi muốn ở Lữ Đoàn Dù với anh em”. Trung Tướng Khánh cười cười: “Các "toa" không nhận thì "moa" đành nhận thôi”. Mục tiêu của cuộc chỉnh lý không ngoài mục đích của tướng Khiêm là vô hiệu hóa hết quyền hành các tướng Minh, Đôn, Kim v.v...để trả thù lại sự vô ơn của các tướng đối với tướng Khiêm sau cách mạng 1/11/1963, và luôn thể đưa những người bạn thân nhất nắm chính quyền là tướng Khánh, tướng Thiệu v.v... Do đó ngay khi cuộc Chỉnh Lý thành công, tướng Khiêm không muốn ở vị thế lãnh đạo nên đẩy tướng Khánh ra thay thế tướng Minh, đưa tướng Thiệu nắm chức Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. Sau Chỉnh Lý, Trung Tướng Khánh nhận chức Chủ Tịch HĐQNCM hành sử chức năng Quốc Trưởng, Trung Tướng Khiêm nhận chức Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Thiệu nhận chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Lúc ấy danh xưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chưa có, và danh xưng này đến ngày 1/4/1964 mới sử dụng do văn kiện của Trung Tướng Nguyễn Khánh nhân danh Quốc Trưởng ban hành. Nhưng khi tam đầu chế Minh, Khánh, Khiêm thành hình thì tướng Khánh ham quyền lực, quên đi người đã gây dựng sự nghiệp cho mình là tướng Khiêm, nên tướng Khánh một mặt củng cố uy quyền, mặt khác loại bỏ những người thân cận của tướng Khiêm. Tiện giả còn nhớ câu của tướng Khánh nói với tướng Khiêm khi tướng Khánh tống tướng Khiêm đi làm Đại Sứ tại Đài Loan như sau: "Anh phải dời VN trong vòng 48 tiếng, nếu không tôi sẽ không bảo đảm tính mạng của anh". (1) Có tổ chức “tam đầu chế” vì theo các tổ chức chính trị mít tinh biểu tình “cáo giác” Hiến Chương Vũng Tàu là sản phẩm của Trung Tướng Khánh phảng phất tính độc tài. Trung Tướng Khánh đưa ra “sáng kiến” kết hợp Đại Tướng Khiêm (thăng cấp trước ngày ban hành Hiến Chương), Trung Tướng Minh, và Trung Tướng Khánh vào tổ chức này, nhưng quyền hành vẫn trong tay Trung Tướng Khánh. (2) Ngày 13/9/1964, Trung Tướng Dương Văn Đức, Tư Lệnh QĐ4/V4CT cùng Đại Tá Tồn Tư Lênh SĐ7BB, thực hiện cuộc Biểu Dương Lực Lượng cảnh cáo Trung Tướng Khánh. Có lẽ khi hoàn thành công tác cảnh cáo nên viên chức tình báo Hoa Kỳ ra lệnh rút quân về Mỹ Tho và Cần Thơ. Trung Tướng Khánh buộc Đại Tướng Khiêm lưu vong vì ông cho rằng Đại Tướng Khiêm đứng sau lưng những vụ xáo trộn chống đối ông. Trong bữa ăn trưa ngày 30/9/1964 tại tư dinh Đại Tướng Khiêm do Trung Tướng Khánh bắt buộc, chỉ có Đại Tướng Khiêm & phu nhân, và Trung Tướng Khánh. Nhóm an ninh của Đại Tướng Khiêm -có tôi- và nhóm cận vệ của Trung Tướng Khánh gần như ghìm nhau chung quanh bên ngoài. Sau khi Trung Tướng Khánh ra về, tôi hỏi: “Thưa Đại Tướng, điều gì xảy ra mà Trung Tướng Khánh to tiếng vậy Đại Tướng? “Ông Khánh "muốn" (hàm chứa ý nghĩa một mệnh lệnh) tôi phải ra ngoại quốc, nếu không thì tánh mạng tôi khó an toàn”. “Đại Tướng nghĩ sao? “Tôi quyết định đi. Chú lo thủ tục cho tôi và gia đình tôi càng sớm càng tốt. Chú với chú Châu, nếu được thì cùng đi với gia đình tôi”. Tôi thắc mắc: Lúc ấy tác giả đứng đâu mà nghe câu ấy? (3) Đại Tướng Khiêm lưu vong dưới danh nghĩa đi cám ơn các quốc gia Âu Châu đã ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa chống cộng sản chớ không phải đi làm Đại Sứ ở Đài Loan như tác giả viết trong tài liệu. Thật ra, Đại Tướng Khiêm giữ chức Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ, sau đó mới chuyển sang Đài Loan, và từ Đài Loan về nước tham gia chánh phủ. Mặc dù sau khi tướng Khánh loại được tướng Khiêm, nhưng từ Đài Loan tướng Khiêm vẫn âm thầm tổ chức để lật đổ tướng Khánh, do đó mới có những cuộc binh biến xảy ra liên miên cầm đầu bởi tướng Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát, Đại Tá Tồn, Trang v.v... Tuy nhiên, tướng Khiêm ít nhất vẫn được người bạn trả ơn đàng hoàng là tướng Thiệu, vì ngay khi tướng Thiệu đắc cử Tổng Thống thì tướng Khiêm, đương kim Đại sứ Hoa Kỳ được gọi về giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội Vụ và sau đó là Thủ Tướng cho đến sát biến cố 4/1975.
(1) Xin lặp lại. Biểu Dương Lực Lượng do Trung Tướng Dương Văn Đức thực hiện dẫn đến trường hợp Đại Tướng Khiêm lưu vong, chớ không phải Đại Tướng Khiêm từ Đài Loan điều khiễn cuộc Biểu Dương Lực Lượng. (2) Cuộc đảo chánh ngày 19/2/1965 do Thiếu Tướng Lâm Văn Phát lãnh đạo để lật đổ Trung Tướng Khánh, nhưng bị Hội Đồng Quân Đội (đã cải danh từ HĐQNCM) buộc rút quân về căn cứ, đồng thời HĐQĐ buộc Trung Tướng Khánh lưu vong với chút an ủi là Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu thăng cấp Đại Tướng cho Trung Tướng Khánh. Xin nói thêm. Trong cuộc điện đàm tối 21/10/2003, có đoạn liên quan. Sau khi ông hỏi tôi những chi tiết trong cuộc đảo chánh này, tôi liền hỏi lại ông: “Thưa anh Tư, xin anh cho biết vụ Thiếu Tướng Phát đảo chánh ngày 19/2/1965, theo lời Trung Tá Lê Hoàng Thao nói thì Trung Tá Phạm Ngọc Thảo từ Hoa Kỳ về tham gia, nếu thành công thì anh Tư về cầm quyền. Điều đó có đúng không?” Cựu Đại Tướng Khiêm trả lời: “Bây giờ chú hỏi Anh mới biết là tại sao lúc đó mấy anh nhà báo của Mỹ nhất là tờ Washington Post theo phỏng vấn Anh về cuộc đảo chánh đó. Anh trả lời là Anh không biết gì hết, và đang chờ tin tức từ Việt Nam. Còn cái vụ ông Thảo về Việt Nam là do ông Khánh (Trung Tướng Khánh) gởi công điện gọi ông Thảo về gấp đó mà không nói lý do. Sau đó Anh mới biết ông Khánh phái người chận bắt ông Thảo đem đi giết, nên người đó giúp ông Thảo chạy trốn. Về sau, bị nhóm nào đó bắt được và giết chết”. Rồi ông nói tiếp: “Chú có biết là tại sao ông Phát đảo chánh ông Khánh bị thất bại, mà ông Khánh lại lưu vong hông? Ông Phát thua thì phải rồi, còn ông Khánh tại sao thua? Hồi ông Khánh qua ở đây với Anh (Đại Tướng Khánh có đến nhà Đại Tướng Khiêm khi ông Khiêm giữ chức Đại Sứ tại Hoa Kỳ), Anh có hỏi ổng: “Tại sao ông Phát thua mà Anh cũng thua nữa? Ông Khánh “cười cười mà không trả lời”. Im lặng một lúc, cựu Đại Tướng Khiêm nói tiếp: “Anh có gặp Thiếu Tướng Phát khi ổng qua Mỹ này, Anh hỏi ổng tại sao ổng đảo chánh hồi năm 1965. Ông Phát trả lời thật ngắn là “Mỹ xúi”. Anh thấy chuyện đời mà buồn! Chú có biết là Anh (tức cựu Đại Tướng Khiêm), ông Khánh, ông Đức (Dương Văn), và ông Phát, bốn đứa Anh cùng học một khoá không? Vậy mà khi lên Tướng lại quay mặt đánh nhau! Chú có thấy chính trị nó làm mất tình cảm giữa anh em bè bạn với nhau không!” Xuyên qua những sụ kiện trình bày trên, tiện giả chỉ với mục đích duy nhất là đóng góp nhỏ nhoi vào kho tàng lịch sử biến động nhất của 2 nền Cộng Hòa mà tiện giả nghĩ rằng, nhân vật Trần Thiện Khiêm dù muốn dù không đã nắm giữ một vai trò tích cực có tính cách xoay chuyển cục diện của miền Nam v.v... Tôi không có ý kiến. Tiện giả cũng nghĩ rằng nếu không có Trần Thiện Khiêm sẽ không có đảo chánh 1/11/1963, không có chỗ cho vai trò của tướng Khánh trên sân khấu chính trị "cải lương" nhất trong giòng lịch sử Việt, và chắc chắn sẽ không có một Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống nền Đệ nhị Cộng Hòa, người phải chịu hoàn toàn trách nhiệm làm tan rã QĐVNCH trong một thời gian kỷ lục cũng như đau khổ, tủi nhục cho hàng triệu gia đình Việt Nam. Xin nhớ rằng, theo lời của cựu Đại Tướng Khiêm thì cuộc đảo chánh 1/11/1963 bắt nguồn từ ông S. viên chức tình báo Hoa Kỳ tại VNCH, chớ không phải tự ông tổ chức (mời xem lại trang 2 bên trên). Trong cuộc Chỉnh Lý 30/1/1964, cũng có một viên chức tình báo Hoa Kỳ bên cạnh các vị lãnh đạo Chỉnh Lý. Đến đây xin hết phần góp ý của Phạm Bá Hoa. Xín cám ơn quí vi hữu và quí độc giả. Ngày 11 tháng 11 năm 2009
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 12:22:53 GMT 9
Phụ bản B Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ***** Là một quân nhân dù trên cổ không còn mang “tấm thẻ bài” ghi tên Phạm Bá Hoa, loại máu O, nhưng vẫn còn nhớ số quân 50A/400.005, tôi xin góp phần ôn lại chuyện hôm qua về quân đội mà tôi đã phục vụ 20 năm 11 tháng 18 ngày. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có sức mạnh của một lịch sử hào hùng, với dũng khí của một dân tộc vẻ vang, xông pha trận mạc bằng lý tưởng tự do dân chủ, trong mục đích phục vụ nguyện vọng toàn dân, bao gồm các quyền tự do căn bản và quyền mưu tìm hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình, và quê hương Việt Nam sẽ trở nên hùng mạnh. Nhưng, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị “bức tử” từ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Bài này góp phần “ôn lại chuyện hôm qua”. Ôn lại chuyện hôm qua, không phải để hoài niệm hay luyến tiếc bất cứ điều gì, mà để xác định đúng một chế độ phục vụ nguyện vọng người dân, để khẳng định một lập trường chính trị, để góp phần ung đúc ý chí dấn thân trong công cuộc dân chủ hóa chế độ chính trị trên quê hương Việt Nam. 1950-1954: Giai đoạn hình thành Trong cuộc chiến tranh giữa quân Pháp thực dân với Việt Minh cộng sản (1946-1954), Quốc Hội Pháp thông qua đạo luật vào tháng 5 năm 1950, thành lập quân đội Việt Nam với 60.000 quân, với danh xưng “Quân Đội Quốc Gia Việt Nam” trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp Nhưng đến ngày 01/05/1952, văn kiện thành lập Bộ Tổng Tham Mưu mới chánh thức ban hành do Quốc Trưởng Bảo Đại ký, và vị Tổng Tham Mưu Trưởng đầu tiên là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh. Bản doanh Bộ Tổng Tham Mưu tọa lạc trên đại lộ Trần Hưng Đạo, Quận 5 Sài Gòn.
Trước khi thành lập Bộ Tổng Tham Mưu, đã có một số đơn vị được thành lập, tuy là đơn vị Việt Nam nhưng do sĩ quan Pháp chỉ huy:
“Trường Sĩ Quan Việt Nam” tại Huế 1948, sau 2 khóa đào tạo sĩ quan đã chuyển lên Đà Lạt tiếp nhận Trường Võ Bị Liên Quân Đặc Biệt của Pháp, và đổi tên là "Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt". Đầu những năm 1960, trường này cải tổ chương trình huấn luyện với thời gian đào tạo sĩ quan hiện dịch lên đến 4 năm, và đổi tên là “Trường Võ Bị Quốc Gia”. “Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức” và “Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định”, văn kiện thành lập từ ngày 24/12/1950, nhưng đến những tháng cuối năm 1951 mới bắt đầu khai giảng khóa đầu tiên. Trường Nam Định chỉ đào tạo khóa duy nhất rồi đóng cửa. Trong năm 1951, các đơn vị đầu tiên và thấp nhất được thành lập, là: Thiết Giáp. Truyền Tin. Quân Vận. Nhẩy Dù. Công Binh. Pháo Binh. Trong khi trên chiến trường, hoạt động quân sự của Việt Minh cộng sản, với sự yểm trợ tối đa của Trung Hoa cộng sản, làm cho bộ tư lệnh viễn chinh Pháp ngày càng bối rối bởi những trận đánh với cấp bộ đại đoàn, một loại đơn vị chiến thuật trên cấp trung đoàn nhưng dưới cấp sư đoàn. Một căn cứ kiên cố bậc nhất của Pháp tại chiến trường Đông Dương với gần 13.000 quân trú phòng, được xây dựng trong vùng lòng chảo Điện Biên Phủ, gần biên giới Lào. Mục tiêu là nhử các đơn vị lớn của Việt Minh cộng sản đến để Pháp dùng hỏa lực pháo binh và không quân tiêu diệt. Nhưng, sau 3 tháng đánh nhau dữ dội với những tổn thất nặng nề cho cả hai bên, ngày 07/05/1954, quân trú phòng Pháp đầu hàng. Sự kiện này đã dẫn đến Hiệp Định đình chiến ngày 20/07/1954 tại Genève, Thụy Sĩ, chia Việt Nam thành hai quốc gia: Từ vĩ tuyến 17 trở lên phía bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do cộng sản cai trị, từ vĩ tuyến 17 trở xuống phía nam, là nước Quốc Gia Việt Nam theo chế độ tự do. Hiệp định đó không có chữ ký của Việt Nam và Hoa Kỳ. Lúc bấy giờ, dưới Quốc Trưởng Bảo Đại có chánh phủ do Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Biết bao vấn đề khó khăn khi đất nước chỉ còn lại từ vĩ tuyến 17 trở xuống, trong đó công tác định cư cho gần 1.000.000 đồng bào miền Bắc thoát khỏi chế độ cộng sản vào Nam tìm tự do, là một trong những mục tiêu lớn của chánh phủ mới nhận trách nhiệm ngày 07/07/1954, vỏn vẹn chỉ hai tuần lễ trước đó.
Vào cuối giai đoạn này, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam có:
Lục Quân: Bộ Tổng Tham Mưu và một số cơ quan phòng sở trực thuộc. Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, đào tạo sĩ quan hiện dịch. Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Trường Hạ Sĩ Quan tại các Quân Khu. Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, đào tạo chiến binh. 67 Tiểu Đoàn Bộ Binh. 5 Tiểu Đoàn Pháo Binh. Liên Đoàn Nhẩy Dù với 5 Tiểu Đoàn. Trung Đoàn Thiết Giáp. 6 Đại Đội Truyền Tin. 6 Đại Đội Công Binh. 6 Đại Đội Quân Vận.
Không Quân: 2 Phi Đoàn Quan Sát Trợ Chiến, trang bị phi cơ Morane. Trước cuối năm 1954, nhận thêm 39 phi cơ quan sát và phi cơ vận tải do Mỹ viện trợ ngang qua trung gian của Pháp.
Hải Quân: 3 Hải Đoàn Xung Phong, trang bị loại giang đỉnh LCM và LCVP. 3 Liên Đoàn Tuần Giang. Và một lực lượng com-măng-đô. Tuy không thuộc Hải Quân, nhưng khi chuyển vào Nam thì sáp nhập vào một tổ chức có tên là "Hải Quân Bộ Binh". Binh chủng này là tiền thân của "Thủy Quân Lục Chiến" thành lập tháng 05/1955. 1955-1967, giai đoạn phát triển lần 1. Ngày 23/10/1955, cuộc trưng cầu dân ý với kết quả là Quốc Trưởng Bảo Đại bị truất phế. Ngày 26/10/1955, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố "Việt Nam là một nước Cộng Hòa", gọi ngắn gọn là "Việt Nam Cộng Hòa" và ông trở thành Tổng Thống từ ngày đó. Từ ngày 26/10/1955, tiêu đề trên công văn quân sự ghi là "Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa". Để kịp thời chống lại nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do họ cài lại hằng chục ngàn đảng viên cộng sản trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa khi họ chuyển từ Nam ra Bắc. Hiệp Định Đình Chiến có điều khoản qui định, lực lượng của cộng sản tại miền Nam tập trung lại rồi chuyển ra miền Bắc (Hiệp Định qui định, cộng sản miền Bắc chuyển lực luợng trong Nam ra Bắc). Một kế hoạch tái tổ chức toàn bộ quân đội được thực hiện ngay trong năm 1955. Lúc ấy, tổ chức đơn vị cao nhất chỉ là cấp Tiểu Đoàn, được tổ chức thành Trung, Sư Đoàn, và Quân Đoàn, với dụng cụ chiến tranh do Hoa Kỳ viện trợ. Đầu năm 1956, toàn bộ quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam. Bản doanh Bộ Tổng Tham Mưu, từ Quận 5 chuyển đến địa điểm mới gần phi trường Tân Sơn Nhất thuộc Quận Phú Nhuận (tỉnh Gia Định), trước đó là bản doanh của Bộ Tư Lệnh Viễn Chinh Pháp. Doanh trại này rất khang trang, bề thế, có tên là “Trại Trần Hưng Đạo”, tọa lạc trên đường Võ Tánh nối dài. Cuộc cải tổ bước đầu hoàn tất, với 4 Sư Đoàn Dã Chiến (1, 2, 3, 4) và 6 Sư Đoàn Khinh Chiến (11,12, 13, 14, 15, 16). Sự khác biệt giữa hai loại Sư Đoàn này là vấn đề trang bị. Sư Đoàn Khinh Chiến với quân số khoảng 6.500 và trang bị nhẹ, trong khi Sư Đoàn Dã Chiến với quân số khoảng 10.000 và trang bị nặng. Cuộc cải tổ sang bước thứ hai. 10 Sư Đoàn đó tổ chức lại thành 7 Sư Đoàn Bộ Binh (1, 2, 5, 7, 21, 22, 23) Loại Sư Đoàn này thống nhất về tổ chức lẫn trang bị, với quân số mỗi Sư Đoàn khoảng 10.500 quân, có đủ các đơn vị binh chủng yểm trợ trực thuộc: Quân Vận, Quân Nhu, Quân Cụ, Quân Y, Cộng Binh, Truyền Tin, Pháo Binh, Thiết Giáp. Lần lượt theo thời gian, thành lập thêm 3 Sư Đoàn Bộ Binh (9, 25, 18) và phát triển Lữ Đoàn Nhẩy Dù với Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lên cấp Sư Đoàn. Trong giai đoạn này, nhiều cuộc đảo chánh quân sự xảy ra đã ảnh hưởng đến nhiệm vụ quân sự của quân đội, và trong một mức độ nào đó, đã ảnh hưởng đến sự phân hóa ở cấp lãnh đạo cao nhất. Tháng 4 năm 1964, Trung Tướng Nguyễn Khánh (cầm quyền sau cuộc đảo chánh ngày 30/1/1964), đã hệ thống hóa tổ chức quân đội với danh xưng “Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa” bao gồm: Hải Quân, Lục Quân, Không Quân, và Địa Phương Quân Nghĩa Quân. Do lời kêu gọi của Trung Tướng Nguyễn Khánh, các quốc gia Đồng Minh gồm Hoa Kỳ, Đại Hàn (S. Korea), Thái Lan, Australia, New Zealand, Phi Luật Tân, đưa quân đến giúp Việt Nam chống cộng sản. Quân đội đông nhất là Hoa Kỳ với hơn 500.000 quân. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào cuối giai đoạn 1955-1967, như sau: Bộ Tổng Tham Mưu với các cơ quan phòng sở trực thuộc.
Lục Quân: 4 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn (I, II, III, IV) với các đơn vị yểm trợ trực thuộc. 10 Sư Đoàn Bộ Binh (1, 2, 5, 7, 9, 18, 21, 22, 23, 25). Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (tổng trừ bị). Sư Đoàn Nhẩy Dù và Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù là đơn vị tổng trừ bị. Lực Lượng Đặc Biệt. Lực lượng Biệt Động Quân. Nha Kỹ Thuật (đơn vị đặc biệt). 4 Trung Đoàn Thiết Kỵ (không kể các Thiết Đoàn trong tổ chức Sư Đoàn Bộ Binh). 11 Tiểu Đoàn Pháo Binh 155 ly và 1 Tiểu Đoàn 155 ly (không kể các Tiểu Đoàn Pháo Binh trong tổ chức Sư Đoàn). Tổng Cục Tiếp Vận với 8 ngành chuyên môn Quân Y, Quân Nhu, Quân Cụ, Quân Vận, Quân Tiếp Vụ, Mãi Dịch, Công Binh, Truyền Tin, và 5 Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận địa phương. Tổng Cục Quân Huấn với các quân trường đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan, đào tạo chuyên viên cho các binh chủng binh sở, và các trung tâm huấn luyện đào tạo chiến binh. 44 Tiểu Khu với lực lượng Địa Phương Quân Nghĩa Quân, và Pháo Binh diện địa và Quân Y diện địa.
Không Quân: Bộ Tư Lệnh Không Quân với các cơ quan trực thuộc. Không Đoàn 41 tại Đà Nẳng. Không Đoàn 62 tại Plei Ku. Không Đoàn 23 tại Biên Hòa. Không Đoàn 33 tại Tân Sơn Nhất. Không Đoàn 74 tại Cần Thơ. Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo.
Hải Quân: Bộ Tư Lệnh Hải Quân với các cơ quan trực thuộc. Lực Lượng Giang Lực và Hải Lực, được trang bị 64 chiến hạn và 303 chiến đỉnh. Các Bộ Tư Lệnh Hải Lực, Giang Lực cấp Vùng. Hải Quân Công Xưởng.
1968-1975, giai đoạn phát triển cao điểm. Sau cuộc tổng tấn công của quân cộng sản vào hầu hết các tỉnh lỵ trên toàn quốc đầu năm 1968 nhân Tết Nguyên Đán Mậu Thân, Hoa Kỳ cung cấp một số loại vũ khí mới cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, như: Súng trường M16, súng đại liên M60, súng phóng lựu M79, súng chống chiến xa M72, … Lúc ấy gọi là “tối tân hóa quân dụng”. Thành lập thên Sư Đoàn 3 Bộ Binh. Do thỏa Ước Chấm Dứt Chiến Tranh và Lập Lại Hòa Bình, ký ngày 27 tháng 1 năm 1973 tại Paris, toàn bộ quân đội Đồng Minh rút khỏi Việt Nam Cộng Hòa. Quân đội Hoa Kỳ để lại hầu hết vũ khí giúp quân lực Việt Nam Cộng Hòa gia tăng quân số, khả dĩ lấp vào khoảng trống do quân đội Đồng Minh rút về nước. Lúc ấy gọi là “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào đầu năm 1975, với quân số gần 1.100.000 người trong hệ thống tổ chức như sau: Cơ quan trung ương. Bộ Tổng Tham Mưu với đầy đủ các cơ quan, binh chủng, binh sở trong hệ thống quản trị hành chánh, nhân viên, huấn luyện, chiến tranh chính trị, tiếp vận. Riêng ngành Tiếp Vận có khả năng sửa chữa và tân trang toàn bộ quân dụng chung, do Lục Quân Công Xưởng, các Căn Cứ Quân Nhu, Công Binh, Đạn Dược, Truyền Tin, Tồn Trữ Sửa Chữa Dù, và các Trung Tâm Bảo Toàn quân dụng trách nhiệm. Quân dụng chung, là những loại quân dụng trang bị cho Lục Quân nhưng Hải Quân và Không Quân có sử dụng. Về huấn luyện. Trường Cao Đẳng Quốc Phòng trực thuộc Bộ Quốc Phòng, đào tạo sĩ quan, tướng lãnh, và viên chức hành chánh, có kiến thức lãnh đạo các ngày sinh hoạt quốc gia. Trong quân đội, một hệ thống trường quân sự, gồm: Trường Chỉ Huy Tham Mưu, đào tạo cấp chỉ huy Quân Đoàn, Sư Đoàn, Trung Đoàn, và sĩ quan tham mưu các cấp. Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, với chương trình 4 năm, đào tạo sĩ quan hiện dịch có kiến thức căn bản trong các ngành sinh hoạt quốc gia. Trường Bộ Binh Thủ Đức (về sau là Long Thành), đào tạo sĩ quan trừ bị, có kiến thức căn bản bộ binh, và đào tạo chỉ huy cấp Đại Đội, cấp Tiểu Đoàn. Trường Hải Quân và Trường Không Quân, đào tạo sĩ quan và chuyên viên cho quân chủng. Trường Chỉ Huy Tham Mưu trung cấp Không Quân, đào tạo sĩ quan tham mưu cho quân chủng. Trường Đồng Đế, đào tạo hạ sĩ quan. Từ năm 1968, trợ giúp Trường Thủ Đức, đào tạo sĩ quan trừ bị cho nhu cầu phát triển quân đội do lệnh tổng động viên. Trường Tiếp Vận, Trường Quân Y, Quân Cụ, Quân Nhu, Quân Vận, Truyền Tin, Công Binh, Pháo Binh, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Hành Cháh Tài Chánh, đào tạo các sĩ quan chuyên môn cho binh chủng binh sở liên hệ. Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, đào tạo chiến binh. Các Trung Tâm Huấn Luyện cấp Quân Khu, đào tạo chiến binh, và tái huấn luyện cấp đơn vị. Trung Tâm Huấn Luyện Nhẩy Dù, và Trung Tâm Huấn Luyện Thủy Quân Lục Chiến (Đồng Ba Thìn), đào tạo chuyên môn cho binh chung. Về quản trị. Trung Tâm Điện Toán Bộ Quốc Phòng, với dàn máy IBM 360/40, quản trị toàn bộ tài chánh, nhất là ngân sách quốc phòng. Trung Tâm Điện Toán Nhân Viên/ Bộ Tổng Tham Mưu, với dàn máy IBM 360/40, quản trị toàn bộ quân nhân. Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận/Tổng Cục Tiếp Vận, với dàn máy IBM 360/50, quản trị toàn bộ quân dụng chung. Trung Tâm Điện Toán Không Quân, quản trị toàn bộ quân dụng của quân chủng, ngoại trừ quân dụng chung. Trung Tâm Điện Toán Hải Quân, quản trị toàn bộ quân dụng của quân chủng, ngoại trừ quân dụng chung. Về trang bị tổng quát. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được trang bị:
Hơn 2.000.000 khẩu súng cầm tay. 1.200 xe chạy xích, kể cả chiến xa M48. Hơn 1.000 khẩu đại bác, từ 105 ly, 155 ly, đến 175 ly nòng dài cơ động. Hơn 40.000 xe chạy bánh. 1.600 chiến hạm chiến đỉnh. Hơn 2.000 phi cơ các loại, từ cánh quạt, trực thăng, đến phản lực.
Về tổ chức:
Bộ Tổng Tham Mưu với các cơ quan trực thuộc, kể cả hệ thống quân trường.
Lục Quân. Quân số chủ lực quân là 450.367 người, và tổ chức tổng quát như sau:
4 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn và các đơn vị yểm trợ trực thuộc. 11 Sư Đoàn Bộ Binh (SĐ 1, 2, 3, 5, 7, 9, 18, 21, 22, 23, và SĐ25BB). 1 Sư Đoàn Nhẩy Dù. 1 Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. 1 Liên Đoàn Biệt Cách Dù. Hơn 20 Liên Đoàn Biệt Động Quân. 4 Lữ Đoàn Kỵ Binh Thiết Giáp biệt lập (Không kể trong mỗi Sư Đoàn Bộ Binh có 1 Thiết Đoàn Kỵ Binh). Lực Lượng Lôi Hổ và Biệt Hải.
Các đơn vị Pháo Binh biệt lập trang bị đại bác 105 lý, 155 ly, 175 ly, và súng phòng không. (Không kể trong tổ chức mỗi Sư Đoàn có 3 Tiểu Đoàn 105 ly và 1 Tiểu Đoàn 155 ly)
Tổng Cục Tiếp Vận: (1) Các Cục Quân Cụ, Quân Nhu, Quân Y, Quân Vận, Quân Tiếp Vụ, Truyền Tin, Mãi Dịch. (2) Các đơn vị chuyên môn: Trường Tiếp Vận, Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận, Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân, Căn Cứ Chuyển Vận. (3) Các Căn Cứ Tồn Trữ & Bảo Trì: Căn Cứ Truyền Tin, Căn Cứ Công Binh, Căn Cứ Đạn Dược, Căn Cứ Nhiên Liệu, Căn Cứ Thực Phẩm & Quân Trang. (4) Tôn trữ & Tân Trang: Tổng Kho Long Bình, Lục Quân Công Xưởng.
Quân số Địa Phương Quân & Nghĩa Quân là 533.000 người.
Vào những ngày cuối tháng 04/1975, Sư Đoàn 106 Biệt Động Quân được thành lập gấp rút để phòng thủ Phú Lâm, cửa ngõ vào thủ đô Sài Gòn từ hướng tây nam.
Không Quân. Quân số hơn 61.453 và tổ chức tổng quát như sau:
Bộ Tư Lệnh với các đơn vị yểm trợ trực thuộc. 5 Sư Đoàn tác chiến. 1 Sư Đoàn vận tải. 1 Không Đoàn Tân Trang Chế Tạo.
Chỉ trong năm 1973, tiếp nhận hơn 900 phi cơ, gồm: 560 trực thăng, 230 khu trục, 100 vận tải, và các loại khác. Trong tổ chức 6 Sư đoàn không quân, có số lượng các phi đoàn như sau: 20 phi đoàn khu trục, trang bị khoảng 550 phi cơ. 23 phi đoàn trực thăng, trang bị khoảng 1000 phi cơ. 8 phi đoàn quan sát, trang bị khoảng 200 phi cơ. 9 phi đoàn vận tải, trang bị khoảng 150 phi cơ. Và 4 phi đoàn hỏa long, trang bị phi cơ AC119 nhưng không rõ số lượng. Ngoài ra còn có các Phi Đoàn đặc biệt. Hải Quân. Quân số hơn 40.931 và tổ chức tổng quát như sau:
Bộ Tư Lệnh và các đơn vị yểm trợ trực thuộc. Giang Lực với 14 Giang Đoàn, trang bị chiến đỉnh các loại. Hải Lực với 1 Hạm Đội, trang bị tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu trục hạm, trợ chiến hạm, giang pháo hạm, tuần duyên hạm, dương vận hạm, hải vận hạm, và giang vận hạm.
Liên Đoàn Người Nhái. Hải Quân Công Xưởng. ******
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 12:23:44 GMT 9
Phụ bản C Chân Dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa ***** Người Lính Việt Nam Cộng Hòa thi hành bổn phận công dân, từ vĩ tuyến 17 xuống tận Mũi Cà Mau, từ duyên hải quanh năm sóng vỗ đến rừng già heo hút đội sương, từ Cao Nguyên rậm rạp xuống đồng bằng sông rạch Cửu Long, mời quí bạn lần theo dấu chân để đến, và nhận ra Chân Dung Những Người Lính ấy, sau khi có khái niệm về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hơn 20 năm chiến đấu dũng cảm chống lại cuộc xâm lăng của nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tạo nhiều chiến tích vẻ vang. Có thể nhận định mà không sợ sai lầm rằng, thế giới chỉ biết thành tích của chúng ta qua hai trận chiến điển hình, là cuộc phản công toàn diện trong cuộc “tổng công kích” của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, và cuộc phản công đánh bại 3 trục tấn công do lãnh đạo nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ Hà Nội, xua quân chính qui vượt vĩ tuyến 17 trực diện tấn công Việt Nam Cộng Hòa vào mùa hè 1972, thường gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Chớ họ không thể hiểu được những chiến thắng với biết bao trận chiến đơn lẻ xảy ra hằng ngày hằng đêm, đánh nhau từng người, từng tổ, từng tiểu đội, trung đội, của Bộ Binh, của Địa Phương Quân Nghĩa Quân, trong nội địa lãnh thổ, những chiến thắng của "lực lượng Dân Sự Chiến Đấu", của "Lực Lượng Đặc Biệt", của những "Toán Lôi Hổ", của "Liên Đoàn Biệt Cách Dù", ..v..v.. trong những cánh rừng già hoang dã dọc biên giới Việt Nam-Cam Bốt. Nơi mà quân chính qui cộng sản từ miền bắc, theo hành lang biên giới mà chúng gọi là "đường Trường Sơn", xâm nhập lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Họ cũng không thể hiểu chiều sâu những trận chiến thầm lặng với sắc thái du kích mà Người Lính Việt Nam Cộng Hòa phải đối phó. Phải rình mò tìm địch mà đánh. Bất ngờ gặp nhau là đánh. Đánh nhau bất luận bao nhiêu tay súng, bất kể ngày đêm, bất cứ nơi nào. Chiến trường không chỉ là trận tuyến trong chiến tranh qui ước, mà chiến trường diễn ra ngay trong nhà, ngoài ngõ, chiến trường là bụi chuối trong vườn, là đám bắp trong rẫy, là ruộng lúa đồng sâu. Chiến trường cũng là góc núi, bụi cây, là rừng rậm cao nguyên, là bãi lầy đất Mũi (Cà Mau), là "biển cạn" Tháp Mười. Từng góc phố, căn nhà, từng con đường trong thành phố, từng bến đậu phi cơ hay nơi tàu cặp bến, đâu đâu cũng là chiến trường của quân cộng sản trong mục đích xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa. Nói chung là người ngoại quốc, cho dù là những phóng viên hay những nhà lãnh đạo chính trị, họ không thể nào hiểu được những chiến thuật trên chiến trường Việt Nam và cách vận dụng chiến thuật đó của "Người Lính Việt Nam Cộng Hòa", trong khi 500.000 quân Đồng Minh rất khó thích ứng với cuộc chiến mà bản chất của nó là "chiến tranh tổng thể" trên chiến trường Việt Nam chúng ta, bởi họ không thấu đáo nền văn hoá Việt Nam nên chưa hiểu được Người Lính Việt Nam Cộng Hòa. Vậy, “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa là ai?” “Họ”, là những nông dân chất phác hiền hòa, là những ngư dân miền duyên hải quanh năm sóng vỗ, là những công nhân nơi thành phố, là những học sinh tốt nghiệp trung học, là những sinh viên hay đã tốt nghiệp đại học, là những viên chức cán bộ đam mê đời sống quân ngũ, là những người chuyên môn trong các ngành nghề tự do. “Họ”, theo tiếng gọi quốc gia, tình nguyện vào các trường quân sự. "Họ", tuân lệnh chánh phủ, trình diện các trường quân sự. "Họ", là quân nhân hiện dịch, là quân nhân trừ bị, là quân nhân đồng hoá, là những nữ quân nhân. "Họ", là những chuyên viên, những chiến binh, những hạ sĩ quan, sĩ quan, tướng lãnh. "Họ" có mặt trong các quân chủng, binh chủng, binh sở, các cơ quan tham mưu, quân trường. Khi tổ quốc lâm nguy, "Họ" phụng sự tổ quốc, phục vụ dân tộc. Tất cả được gọi một cách thân thương trìu mến là "Người Lính Việt Nam Cộng Hòa", những người lính trong một hệ thống tổ chức chặt chẻ, kỷ luật nghiêm minh là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa: Là Người Lính Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, ngày đêm quanh năm suốt tháng hơn 20 năm ròng rã, âm thầm, lặng lẽ, trấn giữ hệ thống giao thông và bảo vệ hạ tầng cơ sở. Là Người Lính Lực Lượng Đặc Biệt, Biệt Cách Dù, lặn lội vùng biên giới hoang vu để ngăn chận quân thù. Là lực lượng Giang Lực, canh giữ trên khắp miền sông rạch. Là Người Lính Không Quân, từ trên không đánh xuống. Là Người Lính Nhẩy Dù, từ trên không xuống đánh. Là Người Lính Hải Quân, từ ngoài biển đánh vào. Là Người Lính Thủy Quân Lục Chiến, từ ngoài biển vào đánh. Là Người Lính Bộ Binh, Người Lính Biệt Động Quân, đánh địch ngay trên bờ nam Bến Hải trong tầm đạn quân thù. Đánh địch dọc biên giới Tây Nguyên núi rừng rậm rạp. Đánh địch trên chót Mũi Cà Mau quanh năm ngập nước, trên biển cạn Tháp Mười, trong Rừng Sát sình lầy gai gốc, giữa đồng bằng trù phú Cửu Long. Đánh địch để giành lại từng góc phố của thủ đô, từng ngôi nhà giữa cố đô cổ kính, từng bờ tường của cổ thành Quảng Trị. "Họ" miệt mài với chiến trận, và mệt nhoài sau chiến trận. "Họ" đã đánh địch đến giây phút cuối cùng! Và "Họ", xứng danh là "Người Lính Việt Nam Cộng Hòa". Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, đã anh dũng hi sinh nhưng không được yên bình vĩnh cữu trong các nghĩa trang mà tổ quốc ghi công, vì quân cộng sản đào mồ cuốc mả. Là những chiến sĩ đã để lại một phần thân thể góp phần gìn giữ giang sơn, nhưng bị kẻ thù nhục mạ đọa đày. Là những quân nhân có vầng trán nhăn nheo với mái tóc già nua trước tuổi. Là những người tù chính trị bị cộng sản lưu đày trong các trại tập trung nghiệt ngã trên khắp miền quê hương đất nước, gánh phân người làm phân bón rau xanh, khiêng nước tiểu tưới lên hoa màu, nhưng "Họ" chỉ được ăn những cọng rau do phân và nước tiểu của "Họ" mà vươn lên. Để rồi nhiều người trong số "Họ", đã chết trong đau thương, đói khổ, nhọc nhằn!
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, khi rời đất nước lưu vong với hai bàn tay trắng, chỉ còn lại tình thương của vợ của con, của đồng hương đồng đội, che chở cho nhau nơi xứ người xa lạ.
Đó, là "chân dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa", mà người phương Tây chưa thể nào nhận ra được. Bởi, họ chưa hiểu được chiều sâu của lịch sử và văn hoá Việt Nam, họ chưa hiểu được chiều sâu tính chất tráo trở lật lọng với bản chất độc tài tàn bạo của cộng sản Việt Nam, họ cũng chưa hiểu được chiều sâu của cuộc chiến tranh tự vệ về phía chúng ta. Do vậy mà người phương Tây chưa thể đánh giá được chiều sâu của cuộc chiến trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Một cuộc chiến mà trong đó, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xua quân vượt biên giới xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa. Không thể nói khác được, dù cùng chủng tộc, nhưng hai quốc gia đều được thế giới công nhận với những tòa đại sứ thiết lập trên lãnh thổ mỗi quốc gia. Quân của quốc gia này sang đánh chiếm quốc gia kia, ngoài chữ "xâm lăng" ra, không có chữ nào khác để chỉ hành động đó cả. Những ngôn từ mà cộng sản sử dụng để nói đến cuộc chiến này, đều là những dối trá đánh lừa dư luận quốc nội lẫn quốc tế, ngụy trang mục tiêu chiến lược của họ. "Người Lính Việt Nam Cộng Hòa", hình thành "Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa". Một quân lực hình thành trong chinh chiến, rèn luyện trong chiến chinh, nhanh chóng trưởng thành trong chiến trận. Và từ trong chiến trận, đã tạo nên những chiến tích vang danh, những anh hùng được toàn dân ngưỡng mộ. Vào giờ thứ 25 của một giai đoạn chiến đấu, vẫn tạo thêm những anh hùng cho lịch sử đương đại của tổ quốc, “thành mất chết theo thành”. Vì vậy: ''Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa rất xứng đáng được vinh danh, dù ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã bị bức tử sau hơn 20 năm dũng cảm chiến đấu tự vệ, nhưng đã thể hiện cao nhất về khả năng và tinh thần chiến đấu nối tiếp dòng lịch sử vẻ vang của tổ quốc, thể hiện vẹn tròn đạo nghĩa và truyền thống bất khuất kiêu hùng của dân tộc Việt Nam”.
********
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 12:24:25 GMT 9
Phụ bản D Chân Dung Người Vợ Lính Việt Nam Cộng Hòa ***** Trong cuộc sống, sự thành công hay thất bại nào cũng có cái giá của nó. Trong chiến tranh cũng vậy, cái giá của những chiến tích lừng danh mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) phải trả, là những đồng đội đã hi sinh, những đồng đội khác đã để lại một phần thân thể trên khắp miền đất nước, và hệ lụy dài lâu là những đứa trẻ vĩnh viễn xa cha, những người vợ vĩnh viễn xa chồng! Người quân nhân hi sinh vì tổ quốc, là sự hi sinh cao cả mà tổ quốc mãi mãi ghi công. Nhưng, hình ảnh người quả phụ, với một nửa tâm hồn, một nửa con tim, một nửa phần hơi thở, theo chồng lên đài tổ quốc ghi công, và những nửa còn lại có trách nhiệm trang bị cho các con một hành trang vào đời, phải được thừa nhận là sự hi sinh không kém phần cao cả như người chồng dũng cảm nơi chiến trường, rất xứng đáng được kính trọng. Cũng trong chiến tranh, chồng ở chiến trường, vợ ở nhà quán xuyến công việc gia đình mà công việc gia đình nhiều đến nỗi có những việc chưa kịp đặt tên, nhưng tất cả đều là việc. Chăm sóc các con, chăm sóc tình thân gia đình quyến thuộc, chăm sóc tình bạn bè bằng hữu. Để rồi, những giờ phút yên tỉnh về đêm khi các con chìm trong giấc ngủ, mơ màng nghĩ đến chồng nơi chốn xa xôi, hay đang trong chiến trường khốc liệt, với bao khắc khoải lo âu, sầu muộn! Rồi chiến tranh chấm dứt trong nỗi nghẹn ngào uất hận, bởi đây là cuộc chiến mà cuối cùng “bị chấm dứt để thua trận”! Sau lời tuyên bố của vị Tổng Thống cuối cùng, hàng trăm ngàn đồng bào, quân nhân, viên chức, cán bộ, bỏ của chạy lấy người, tị nạn trên đất Mỹ. Với những thành phần tương tự như vậy gồm 222.809 người, lũ lượt bị lừa vào 200 trại tù trên khắp miền đất nước. Người 5 năm, 10 năm, 15 năm, thậm chí 17 năm ròng rã, do lòng thù hận tột cùng của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Hằng trăm ngàn gia đình di tản ra ngoại quốc, cũng như hằng chục triệu gia đình còn lại trên quê hương, tất cả đều hụt hẫng. Hụt hẫng vì cuộc sống trên đất người với biết bao xa lạ trong một xã hội kỹ nghệ mà bước đầu chưa thể hội nhập. Hụt hẫng vì phút chốc, từ chế độ tự do bị đẩy vào chế độ độc tài trên toàn cõi nước Việt Nam! Cảnh đời thứ nhất. Trong cuộc đời tị nạn, vợ chồng con cháu có cơ hội bên nhau, cùng chia xẻ khổ đau, cùng gánh vác nhọc nhằn, cùng nhận chung nỗi nhục! Nỗi nhục phải rời khỏi quê hương trong thân phận lưu vong! Với những bà vợ chúng ta, vốn sinh ra và trưởng thành trong xã hội nông nghiệp, nay phải cùng chồng từng bước hội nhập vào xã hội kỹ nghệ nơi định cư, đã phải đêm đêm đếm bước từ bến xe công cộng về nhà trong màn tuyết lạnh sau những giờ nhọc nhằn nơi hãng xưởng. Lạnh đến nỗi không biết giọt nước lăn trên má là nước mắt, hay mảnh tuyết vừa tan! Cảnh đời thứ hai. Trong xã hội mà kẻ thắng trận đầy lòng thù hận, thì gia đình ly tán, sự sống bị bóp nghẹt đến tận cùng của khổ đau, của nước mắt bởi chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng! Cái chế độ mà những người lãnh đạo luôn miệng huênh hoang là "dân chủ gấp trăm lần dân chủ tư bản", lại bắt mọi người phải sống trong nỗi sợ hãi triền miên với những đôi mắt rình rập quanh năm suốt tháng! Cảnh đời thứ ba. Riêng với những bà vợ ở lại mà chồng đã vào tù, còn tệ hơn nhiều so với hai cảnh đời nói trên. Hằng ngày phải đối phó với bọn cầm quyền địa phương, cái bọn mà đầu óc toàn đất sét và rác rưởi, chỉ biết đàn áp để cướp đoạt. Đồng thời phải chăm lo cuộc sống các con từng ngày, lo nuôi chồng từng tháng! Và những bà vợ chúng ta, hải ngoại hay trong nước, thật sự là Những Người Đàn Bà Việt Nam rất can đảm khi phải chịu đựng và vượt qua nỗi đau nỗi nhục đó! Đau đến nỗi không còn nước mắt để khóc, nhục đến nỗi chẳng còn lời để than! Nếu đem so sánh giữa hai cảnh đời trong nước với ngoài nước, thử hỏi: "Ai đau hơn ai và ai nhục hơn ai?" Với tôi, không ai đau hơn ai, cũng không ai nhục hơn ai! Vì nỗi đau nào cũng có cái đau riêng của nó, nỗi nhục nào cũng có cái nhục riêng của nó! Xin những ông chồng diểm phúc, hãy nhìn lại đôi nét về hình ảnh Những Bà Vợ Chúng Ta trong cuộc sống khổ đau thầm lặng đó, mà người viết được những bà vợ trong cuộc kể lại: Một cảnh đau thương. Một bà vợ cùng con cầm giấy phép “gánh gạo” nuôi chồng trên đất Bắc. Ba ngày đi, ba ngày về, 2 tiếng đồng hồ gặp gở! Khi trở về cư xá Bắc Hải, nhà bị niêm phong với dòng chữ "nhà vắng chủ". Đau đớn biết bao! Xót xa biết dường nào! Bỗng dưng nhà bị mất! Bà gục đầu vào cửa! Bà cùng gia đình định cư tại Houston, Texas từ tháng 4 năm 1991. Một cảnh đau thương khác. Một bà vợ đã bao nhiêu lần bị công an Phường ra lệnh đi khu kinh tế mới, nhưng bà vẫn không đi. Chúng hành hạ bằng cách gọi bà đến văn phòng, bảo ngồi đó từ đầu giờ đến cuối giờ, ngày nào cũng vậy, và ròng rã 6 tháng như vậy. Một hôm, chúng bảo đưa giấy tờ nhà để giải quyết. Khi chụp được hồ sơ, lập tức tên công an ra lệnh trong vòng 24 tiếng đồng hồ bà phải ra khỏi nhà. "Ôi! Còn nỗi đau nào cao hơn nỗi đau này trong cảnh đời thua trận!" Bà xiêu vẹo trên đường về nhà cách đó mấy dãy nhà liên kế cũng trong cư xá Bắc Hải, và gục ngã ngay trước nhà! Bà cùng gia đình định cư vùng bắc California từ năm 1993, nhưng chồng đã qua đời vào năm 2003. Một cảnh đau thương khác nữa. Một bà vợ có chồng bị giam trên đất Bắc hằng chục năm trời, bỗng dưng mất liên lạc. Bà lặn lội khắp các cơ quan tại Sài Gòn, Hà Nội, tốn kém, mệt nhọc, nhưng hoàn toàn bặt tin. Nỗi buồn đến với bà quá sức chịu đựng của người phụ nữ tuổi 50, mà có lúc bà cảm thấy như mình đang bên bờ vực thẳm, rồi ngã dần xuống...... Bà bị tai biến mạch máu não, nằm bất động một chỗ. Nhiều tháng sau đó, bất ngờ, người nhà của bà nhận được giấy cho phép bà thăm chồng. Trại tù chỉ cách nhà vỏn vẹn 1 cây số (khám Chí Hòa). Bạn bè khiêng bà đến nhà tù. Cả hai “chồng đứng đó vợ liệt toàn thân”, chỉ biết nhìn nhau, òa khóc...! Khóc cho mình! Khóc cho cuộc đời! Phải chăng, mọi khổ đau trên cõi đời này đang bao quanh hai con người đau khổ đó? Không. Không chỉ có vậy. Mà là tất cả những bà vợ có chồng bị cộng sản giam giữ trong tù, tiêu biểu qua 3 cảnh đời trên đây trong hàng vạn cảnh đời trên đất nước Việt Nam, đều trong nỗi khổ tột cùng đó! Tình trạng bại liệt đó theo Bà cùng chồng định cư tại Houston, nhưng rồi Bà đã từ trần năm 2004! Sài Gòn-Hà Nội 1.736 cây số, xe lửa tốc hành chạy 72 tiếng đồng hồ, tức 3 ngày 3 đêm. Mỗi người chỉ được mang theo 20 kí lô lên xe lửa, mang nhiều hơn số đó phải hối lộ cho một loạt nhân viên từ cổng vào cho đến nhân viên trên xe lửa. Hành lý ngổn ngang cả trên lối đi giữa toa xe. Ban ngày cũng phải lách từng bước chân vào chỗ trống. Còn ban đêm, thật khó mà tưởng tượng! Hai băng ngồi đối diện, một băng 3 người. Hai băng phía bên kia lối đi, mỗi băng 2 người ngồi. Hai đầu trên của hai băng 6 người, máng được 3 cái võng cho 3 người, 1 người nằm co quắp trên sàn xe đen đúa nhầy nhụa giữa 2 băng đối diện, và 2 người còn lại cũng nằm co quắp trên 2 băng ngồi. Nếu nhìn toàn cảnh của toa xe sẽ thấy, băng ngồi đầy người nằm, những chiếc võng bé xíu che kín trên đầu băng, cả lối đi vốn dĩ đã nhỏ hẹp cũng đầy người nằm chen lẫn trong đống hành lý thật hổn độn. Những bà vợ thăm chồng, mang theo hằng trăm kí lô, biết bao là nhọc nhằn gian khổ! Giả thử, nếu những ông chồng chứng kiến những hành khách nằm cong queo trong cái gọi là chiếc võng kia, hay co quắp giữa những gói quà đầy ấp tình thương trên sàn xe nhớp nhúa đó, là những bà vợ của mình, liệu có cầm được nước mắt không? Nghe nói lại, nghe thuật lại, ông chồng nào cũng đớn đau thương cảm cho tình cảnh những bà vợ quanh năm gánh gạo nuôi chồng! Nhưng không có đớn đau thương cảm nào có thể đem cân bằng nỗi đớn đau thương cảm của những bà vợ trọn tình vẹn nghĩa như vậy được cả! Tôi hình dung những bà vợ chúng ta qua hình ảnh trên đây mà chính tôi trông thấy khi tôi ra trại tập trung cùng với 90 “bạn đồng tù”, từ Nam Định về Sài Gòn bằng xe lửa đúng 72 tiếng đồng hồ hồi tháng 9 năm 1987. Trên đây là một cố gắng dựng lại hình ảnh "Những Bà Vợ Chúng Ta", nếu không rõ nét thì ít ra cũng là những nét chính của hình ảnh ấy, qua sự kết nối bốn hợp phần sau đây: Hai hợp phần trong chiến tranh, là những bà vợ mà chồng đã hy sinh, và những bà vợ mà chồng đang chiến đấu. Hai hợp phần sau chiến tranh, là những bà vợ cùng chồng con di tản ngoại quốc, và những bà vợ ở lại Việt Nam, vừa nuôi con trong một xã hội đầy hận thù và kỳ thị, vừa nuôi chồng trong những trại tập trung nghiệt ngã! Những cảnh đời bi thương, những khổ đau sầu muộn, những nước mắt, mồ hôi, được khơi lên từ những góc cạnh li ti trong hằng vạn hằng vạn cảnh đời như vậy, mà Những Bà Vợ Chúng Ta đã chịu đựng trong những năm dài thật dài! Quyển Chân Trời Dâu Bể của Giao Chỉ, kể chuyện trên đất Mỹ, và quyển Giữa Dòng Nghịch Lũ của Duy Năng, kể chuyện trên quê hương Việt Nam. Hai tác phẩm này trong một mức độ nào đó, có thể xem là tiêu biểu cho rất nhiều tác phẩm dưới dạng chuyện kể thật bình thường, nhưng ôm ấp biết bao xót xa thương cảm cho thân phận người phụ nữ Việt Nam sau ngày thua trận, dù sống trong hai xã hội cách nhau nửa vòng trái đất. Với tác phẩm của Duy Năng, người kể chuyện là bà Hàng Phụng Hà. Bà là một trong số hằng trăm ngàn bà vợ thăm nuôi chồng trong tù. Ở phần kết, bà nói: "... Các anh trong tù, khổ về vật chất và đau về tinh thần đến vạn lần, điều đó chúng tôi biết. Nhưng, chúng tôi -những bà vợ của các anh- đau khổ gấp ngàn cái vạn lần của các anh nữa, các anh có biết không? Tôi không đề cao một bà vợ nào, mà tôi đề cao tất cả những bà vợ thăm nuôi chồng trong các trại tù cải tạo. Bởi vì: Họ, đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam. Họ, rất xứng đáng được các anh kính trọng. Và Họ, chính là Vợ của các Anh". Vì vậy mà một số bạn đồng tù chúng tôi trong trại tập trung, đã không quá lời khi nói với nhau rằng: "Ra tù, chúng ta phải cõng vợ chúng ta đi vòng quanh trái đất, để đền bù đôi chút về sức chịu đựng biết bao nhọc nhằn gian khổ đã nuôi các con và nuôi chúng mình. Bây giờ nhìn lại, trong một ý nghĩa nào đó, những cựu tù nhân chính trị chúng ta, đã cõng vợ đi được nửa vòng trái đất rồi. Đến ngày Việt Nam thật sự tự do dân chủ, chúng ta sẽ cõng vợ trở về quê hương là trọn vòng trái đất như đã tự hứa, phải không quí vị? Với nét chân dung đó, tôi quả quyết rằng, Những Bà Vợ Chúng Ta rất xứng đáng được vinh danh. Và nếu quí đồng đội và quí vị đồng hương đồng ý với tôi, chúng ta cùng nói to lên rằng: “Chúng ta cùng vinh danh Những Bà Vợ Chúng Ta là những người đàn bà cao cả, rất xứng đáng được kính trọng. Bởi, trong hoàn cảnh nghiệt ngã của chế độ độc tài cộng sản, nhưng đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam, cùng lúc, chu toàn thiên chức làm Mẹ, và tròn bổn phận làm Con”. Vinh danh bằng những tiếng nói ân tình bên tai vợ, trao tặng vợ một bông hồng thật đẹp, hôn vợ những nụ hôn thật dài. Điều đó luôn nhắc nhở người chồng trong cuộc sống thường ngày, phải thể hiện lòng hiểu biết vợ mình nhiều hơn, cảm thông vợ mình nhiều hơn, rồi quàng tay vào lưng vợ mình chặt hơn, để cùng nhau đi suốt chiều dài còn lại trong cuộc sống lứa đôi thật mặn nồng, như chưa bao giờ mặn nồng đến như vậy. Trường hợp vì lý do gì đó mà bạn đang sống một mình, xin bạn hãy gắn bông hồng màu đỏ lên nơi nào mà khi nằm nghỉ bạn đều trông thấy, để trao tặng vợ khi đoàn tụ bên nhau. Hoặc sự trông thấy đó, sẽ giúp bạn có được những giây phút sống lại những năm tháng mặn nồng trong tình yêu vợ chồng thuở chung chăn chung gối, thuở mà hai người dùng chung một tên
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 12:25:32 GMT 9
Phụ bản E Nhận xét của một số độc giả ***** Nhà văn Giao Chỉ, San Jose: Tôi đọc một đêm hết cuốn sách. Lôi cuốn lắm. Anh nhớ khá nhiều chi tiết và viết rất tự chế mà lẽ ra còn phê bình hơn thế nữa. Văn Học Giai Phẩm số Xuân 1995, Nam California: Tác giả là một nhân chứng đáng tin cậy của những biến chuyển hậu trường chính trị miền Nam. Bằng trí nhớ, tác giả kể lại những chuyện tai nghe mắt thấy trong đời quân ngũ của mình, và kể một cách dung dị, chân thành, không đề cao mình cũng không bôi nhọ người khác. Đây là một chứng liệu tốt cho những người muốn viết sử Việt Nam. Thế Kỷ 21 số Xuân 1995, Nam California: Đôi Dòng Ghi Nhớ, văn không luộm thuộm như tác giả tự khiêm. Ông nói thẳng vào sự kiện, không rào đón, không kỹ thuật, cũng không trau chuốt lời văn của mình, nhưng đó chính là văn phong của ông mà tôi nghĩ ông có được là nhờ vài chục năm trong quân đội với những văn thư lời lẽ xuông đuột thẳng tắp như lính so hàng. Đài phát thanh VOVN/Houston, Texas: Sở dĩ chúng tôi chọn đọc quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ trong chương trình Lật Trang Sử Cũ, vì tác giả không hoạt động chính trị mà ông là một quân nhân nhà nghề, Do đó, chúng tôi hy vọng lời thuật của ông sẽ khách quan hơn những cuốn hồi ký đã phát hành tại hải ngoại. Giai Phẩm Quốc Dân số Xuân 1995, Houston, Texas: Từng giữ nhiều chức vụ chánh văn phòng của nhiều nhân vật cao cấp, tác giả cung cấp khá nhiều chi tiết phía sau sân khấu chính trị miền Nam. Giáo sư Đàm Quang Hưng, Houston, Texas: Tác giả rất khách quan nên mức độ trung thực đáng được tin cậy. Lời văn nhẹ nhàng như hơi thở. Ông không đề cao mình, cũng không chỉ trích người khác. Luật sư Ngô Hữu Liễn, Houston, Texas: Sự kiện rất thực và lời văn cũng rất thực. Rất cần thiết với các sử gia. Cựu Trung Tá Bùi Công Minh, Washington DC: Tác giả rất khiêm nhường. Lời văn trong sáng và chân thực. Tài liệu lịch sử rất quý. Nhà báo Vương Mai Thảo, Houston, Texas: Tác giả cống hiến rất nhiều dữ kiện cho những nhà viết sử. Cựu Đại Tá Huỳnh Thanh Sơn, Pasadena, California: Một cuốn sách sống thật với tài liệu lịch sử mà không ai có được. Cựu Đại Tá Bùi Văn Mạnh, Frankfurt, Đức Quốc: Rất hoan nghênh việc làm của anh. Phải nói thẳng như vậy mới thật sự góp phần làm sáng tỏ khả năng, bản lãnh, và trách nhiệm của những nhân vật lãnh đạo đất nước. Nhà báo Phạm Hậu, Seattle, tiểu bang Washington: Xem văn biết người. Anh viết rất thành thật, công bằng, và tâm huyết. Anh là người nhớ được nhiều điều quan trọng và là người nhiệt tình với đất nước. Tôi thích nhất là đoạn so sánh giữa 5 vị Tổng Tham Mưu Trưởng, vì rất khách quan. Nhà báo Yên Mô, San Jose, Bắc California: Tác giả là một trong các sĩ quan đã ở lại làm việc đến giờ phút cuối cùng của tháng 4/1975. Ông có cơ hội làm việc thân cận với các Tướng Lãnh, có khả năng tham mưu và hành chánh, với một trí nhớ rất tốt, và là một sĩ quan tham mưu cao cấp đầy tinh thần trách nhiệm. Ông Nguyễn Năng Thỏa, Virginia. Tuổi trẻ rất cần những cuốn sách như cuốn Đôi Dòng Ghi Nhớ của ông Phạm Bá Hoa. Kỹ sư Lê Thành Nhân, Austin, Teaxs. Tôi đọc liên tục từ đầu đến cuối một cách thích thú. Anh kể chuyện như thật với lời văn chân thành và tin tưởng. Cuốn sách có tính cách nhật ký nhưng là một sử liệu vô cùng quí giá. Giáo sư Ngô Quốc Tượng, Nam California: Anh kể chuyện với tâm hồn trong sáng, với lời lẽ mộc mạc, càng đọc càng thấy giá trị của cuốn sách. Cựu Đại Tá Nguyễn Hồng Đài, Paris, Pháp quốc (con rể của cựu Tổng Thống Dương Văn Minh): Tôi đã xem nhiều cuốn hồi ký xuất bản tại hải ngoại, và tôi vắn tắt với Anh rằng: Anh là người cầm bút liêm sỉ nhất. Nhà văn Đặng Trần Huân, Nam California: Tác giả Đôi Dòng Ghi Nhớ khá thành thật. Ông không khoe khoang, không phô trương, khá nhũn nhặn, và dè dặt trong phán xét. Hiếm có một cuốn sách như vậy. Đây là cuốn sách đáng đọc. Cựu Đốc sự hành chánh Nguyễn Văn Cường, Oklahoma: Cuốn sách xứng đáng được trân trọng trong mỗi gia đình tị nạn. Tôi mua nhiều cuốn tặng bạn bè sau khi xem bài nhận xét của nhà văn Đặng Trần Huân. Tiến sĩ Lê Duy Cấn, Ottawa, Canada: Tác phẩm Đôi Dòng Ghi Nhớ đã đóng góp đáng kể vào việc làm sáng tỏ một cách trung thực trong một giai đoạn lịch sử đầy biến cố của nước nhà. Bác sĩ Tôn Thất Sơn, Na Uy: Đọc xong bài hồi ký Rút Quân Trên Đường Số 7, tim tôi muốn chảy máu, mắt tôi mờ đi với chút nước mắt còn sót lại . . . Nhà văn Diệu Tần, Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, San Jose: Đây là chiến sử và là sử liệu quí giá. Cám ơn Anh. Bác Sĩ Nguyễn Phước Bảo Quý, Australia: Tài liệu có tính cách lịch sử mà tuổi trẻ rất cần. Dược sĩ Hồ Duy Thiện (không rõ ở đâu) Tôi đọc say sưa và đã đọc lại nhiều để thấu hiểu một số dữ kiện. Đây là tập tài liệu vô cùng quí giá cho những lớp người đi sau như chúng tôi. Khác với lời lẽ rất khiêm nhường, tôi tin rằng tài liệu này còn quí giá hơn những sử liệu hay sách vở xuất bản từ sau ngày 01/11/1963.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 20, 2014 8:51:08 GMT 9
Bảo Đại: Tối cao cố vấn của ông Hồ [1] BaoDai Sau 25 năm im hơi lặng tiếng, đầu năm 1980, cựu hoàng Bảo Đại cho xuất bản cuốn hồi ký viết bằng tiếng Pháp Le Dragon d’Annam (Rồng Nam), kể lại cuộc đời mình từ khi sinh ra ở Huế cho đến năm 1956, khi bị ông Diệm truất phế. Phần đặc sắc nhất trong cuốn sách là phần kể lại thời gian ông Bảo Đại được ông Hồ phong làm cố vấn tối cao, sống ở Hà Nội sau khi thoái vị cho đến khi theo một phái đoàn của ông Hồ qua Tàu rồi đi Hồng Kông. Những sự kiện liên quan đến ông Hồ được ông Bảo Đại kể lại trong phần này chứng tỏ Bảo Đại cũng như hầu hết người dân Việt thời đó, đều bị ông Hồ mê hoặc khi ông hô hai câu thần chú “Độc Lập”, “Thống Nhất”. Tôi xin trích dịch những đoạn chính trong phần này và tiếp theo, xin đưa ra một vài bình luận. Cuộc Cách Mạng Việt Minh “…. Phụ tá tổng trưởng bộ Thanh niên (Phan Anh, trong chính phủ Trần Trọng Kim) Tạ Quang Bửu, là người cho tôi biết có một nhóm kháng chiến được thành lập ở miền thượng du, vùng Cao Bằng có tên là ” Liên đoàn Việt Minh “. Linh hồn nhóm này là Võ Nguyên Giáp, được Tạ Quang Bửu nói đến với đầy nhiệt tình. Sau những cuộc hành quân du kích chống Nhật, “Việt Minh” bắt liên lạc được với đồng minh Trung Hoa và Mỹ đồng thời với cả Pháp và ngay cả với Khâm sai của tôi ở Bắc bộ là Phan Kế Toại. Nhưng tôi cũng không liên lạc được với Phan Kế Toại nên không có sự khẳng định cùa ông ấy (tr 113) “… Có rất nhiều tin xấu đến tai tôi. Nguyễn Văn Sâm, người đại diện của tôi ở Sài Gòn chưa thấy tới nhiệm sở. Nghe đồn ông ấy bị ám sát sau khi rời khỏi Huế. Ai đã giết ông ấy? … Ở Hà Nội cũng đang xẩy ra những biến cố rất quan trọng. Ngay sau khi Nhật đầu hàng, có những toán xung phong dưới quyền Võ Nguyên Giáp đột nhập vào thành phố và mở cửa nhà tù dưới cặp mắt thản nhiên của Nhật Bản. Ngày 17-8, dưới sự xúi giục của những toán này, có cuộc biểu tình tụ tập 20 ngàn người trước Nhà Hát Lớn. Mọi người đều hô to “Độc lập” và trương cờ mới màu đỏ sao vàng, mà có người nói là do Kampetai (Mật vụ Nhật) đặt ra… Cờ Đế quốc Việt Nam bị giựt xuống… ” Ngày hôm sau, khâm sai của tôi, phải bỏ nhiệm sở và được thay thế bằng một Ủy Ban chỉ đạo lâm thời… vô danh. Ngày 19, toán xung phong “Việt Minh” được tăng cường bởi một đám đông vừa đi vừa la hét, chiếm đóng các công thự : tòa Thống sứ, Tòa án, Kho bạc, trường Đại học và các trường trung học… không những quân đội Nhật có phận sự duy trì kỷ luật, không có phản ứng mà còn mở kho súng phân phát cho lính vệ binh Đông Dương (Lính Khố đỏ); ” Những tin tức đó bị ít nhiều xuyên tạc khi đến tai tôi. Về tình hình Nam Kỳ thì còn thiếu chính xác hơn nữa. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, thủ lãnh “Thanh niên Tiền phong “, hình như từ ngày 15-8 đã đứng đầu một Mặt trận Quốc gia trước khi thành lập một Ủy ban hành pháp lâm thời đặt trụ sở tại dinh Thống đốc dưới sự chủ tọa của một người tên là Trần Văn Giầu mà theo Tạ Quang Bửu, người thông tin cho tôi, là người thuộc về Việt Minh. Cũng như ở Hà Nội, Nhật cũng không có phản ứng gì ở Sài Gòn… ” Cái quan trọng hơn hết cả là ở chỗ nào cũng có những cuộc ám sát và sự mất tích, đặc biệt là những nhân vật quốc gia. ” Ngay ở Huế cũng có những truyền đơn được phân phát. Và có những nhóm không biết nghe lệnh từ đâu, tụ họp và di chuyển trong thành phố, tới tận sát Thành nội. ” Ngày 22-8, đại tá chỉ huy quân đội Nhật ở Huế tới xin triều kiến và nói với tôi là theo lệnh của Chỉ huy Đồng Minh, quân đội Nhật đã bố trí xong hệ thống bảo vệ an ninh thành nội và mọi người trong Thành. Đường từ cầu Tràng Tiền ra cũng như tất cả những lối vào Thành đã bị chắn. Tôi cực lực phản đối quyết định này và nói : “tôi tuyệt đối khước từ sự bảo vệ của ông. Tôi ra lệnh cho ông bãi bỏ hệ thống phòng vệ vì tôi không muốn một quân đội ngoại quốc làm đổ máu dân tộc tôi. (tr 117) ” Để chắc chắn là lệnh của tôi được thi hành, tôi trao cho ông ta một công hàm có dấu ấn của tôi, trút cho ông trách nhiệm phải duy trì trật tự quanh Thành nội.Tôi ghi thêm là phải mở lại tất cả mọi cửa vào Thành để mọi người tự do ra vào như thường lệ. ” Sau đó ít lâu, giám đốc Bưu điện Huế xin được gặp tôi . Ông ta đưa cho tôi một điện tín nhận được từ Hà Nội. Nội dung bức điện tín : ” Trước lòng quyết tâm của toàn thể dân tộc sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nền độc lập quốc gia, chúng tôi kính cẩn xin Hoàng thương làm một cử chỉ lịch sừ là trao quyền lại “. Điện tín này được ký bởi ” Ủy ban Nhân dân Cứu quốc đại diện mọi đảng phái và mọi tầng lớp nhân dân “. Nhưng không có tên ai. “… Sáng ngày 23 chung quanh tôi đều trống không. Từ ông Trần Trọng Kim tới mọi tổng trưởng, chả ông nào có mặt. Chỉ còn người em họ là hoàng thân Vĩnh Cẩn ở cạnh tôi. ” Những lời tâm sự của Tạ Quang Bửu trở lại trong trí tôi : Cái Mặt trận Việt Nam Độc Lập Đồng minh Hội” là cái gì để có thể động viên quần chúng, thực hiện những ước vọng của đám đông và bây giờ lại bảo tôi phải làm gì? “Tôi không biết ai là những thủ lãnh. Vậy mà những người này lại có những tiếp xúc với Đồng Minh Trung Hoa, Mỹ, Pháp, khi mà những lời kêu gọi tôi gửi cho Tổng thống Truman, Thống chế Tưởng Giới Thạch, Anh hoàng và tướng de Gaulle đều không được trả lời… Những lãnh tụ này có súng ống, có phương tiện, nắm được chính quyền dễ dàng trong khi tôi sống trơ trọi trong một kinh thành đã chết. Sự thành công dễ dàng của các lãnh tụ này phải chăng là đó là dấu hiệu họ đã nhận được mệnh trời? Quần chúng có một bản năng rất là chắc chắn. Bản năng này, trong những giờ phút lịch sử, luôn luôn đưa họ tới những người đã nhận được sứ mệnh phải dẫn dắt họ. Đã đến lúc tôi phải có một sự lựa chọn để dung hòa số phận của tôi với số phận của dân tộc tôi… là tôi phải ra đi. “Nhưng ai là người tiếp nhận sự ra đi của tôi? “Tôi bảo người em họ Vĩnh Cẩn và Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hòe ra ngoài thành Nội hỏi tin tức về Việt Minh. Cả hai trở về chả biết chi cả. Tôi đành đánh đại một bức điện tín gửi trống không ” Ủy ban Nhân dân Cứu quốc ” ở Hà Nội. Tôi viết : “Để trả lời kêu gọi của Ủy ban, tôi sẵn sàng tự rút lui. Trong giờ phút quyết định của lịch sử đất nước, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh hết mọi sự để có thể thực hiện được sự hợp quần. Tôi xin những người cầm đầu Ủy ban mau vào Huế để tôi trao lại quyền hành”. “Ngay trong đêm hôm đó, với sự giúp đỡ của Vĩnh Cẩn, tôi thảo bản chiếu Thoái vị. “Sáng ngày 25-8, có hai đặc phái viên, đại diện “Việt Nam Độc lập Đồng minh” từ Hà Nội vào : Trần Huy Liệu, trưởng phái đoàn, là phó chủ tịch Ủy ban. Một người gầy gò trông rất thảm hại, đeo kính đen để giấu cặp mắt lé. Người đi cùng là Cù Huy Cận, trông cũng quá tầm thường. Tôi hơi thất vọng. “Trần Huy Liệu đưa cho tôi một giấy Ủy quyền có mang chữ ký không rõ là của ai. Ông tuyên bố một cách rất long trọng: – Nhân danh nhân dân Việt Nam, cụ Hồ Chí Minh, chủ tịch Ủy ban Giải phóng, cho chúng tôi cái danh dự đến Ngài để tiếp nhận quyền hành. ” Đó là lần đầu tiên tôi nghe đến tên Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi đưa bản chiếu thoái vị. Trần Huy Liệu đọc bản chiếu cùng với Cù Huy Cận rồi 2 người nói riêng với nhau trước khi quay lại nói: – Thưa Ngài, nhân danh nhân dân Việt Nam chúng tôi chấp nhận hoàn toàn bản chiếu này. Nhưng chúng tôi cũng xin đề nghị với Ngài là nên tổ chức một nghi lễ vắn tắt để trong buổi lễ Ngài đọc bản chiếu trước công chúng. – Ngay buổi chiều hôm đó, trước vài ngàn người mặc triều phục được tụ tập vội vã trước cửa Ngọ Môn, tôi đọc bản chiếu cuối cùng của triều Nguyễn đề ngày 25-8-1945. Vua Bảo Đại (bên phải) “Bản chiếu bắt đầu bằng: Để toàn dân Việt Nam có hạnh phúc! Để Việt Nam có được độc lập! Trẫm tuyên bố sẵn sàng hi sinh mọi sự… ” Và kết luận bằng: “Trẫm thích được làm công dân một nước độc lập hơn làm vua một nước bị trị ” Hoan hô Việt Nam độc lập! Hoan hô nước Cộng hòa Dân chủ! “… Trong một bầu không khí ngượng ngập, tôi đưa chiếc ấn tượng trưng quyền hành cho Trần Huy Liệu. “… Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tiễn tôi ra khỏi cửa. Trước khi chia tay, người đại diện Ủy ban Giải phóng nói với tôi : – Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn mời ngài ra Hà Nội để cùng thiết lập những thể chế cộng hòa. – Tôi trả lời : Thưa ông trưởng phái đoàn, tôi xin ông cho tôi gửi lời cám ơn Hồ chủ tịch và sẽ không quên ra Hà Nội theo lời mời của Chủ tịch. “… Trở thành công dân Vĩnh Thụy từ khi thoái vị, tôi không có việc chi làm ở Huế. Tôi quyết định theo lời mời của Hồ Chí Minh ra Hà Nội. (tr 121) Cố vấn Tối cao của Chính phủ ” ngày 6-9 tôi tới Hà Nội. Tôi được ở căn nhà của thị trưởng Hà Nội cũ, đường Gambetta ( Hoàng Diệu? ). Sau khi tắm rửa, tôi đi đến Bắc bộ Phủ (dinh Thống sứ cũ) để dự bữa ăn buổi tối được tổ chức để đãi tôi. ” Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng bộ Nội vụ đón tiếp tôi và khi ra ngồi bàn, đưa tôi tới trình diện Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa mới tới. Ông bắt tay tôi một cách thân mật, cám ơn tôi đã tự rút lui và nói thêm: – Chúng ta sẽ cùng nhau làm việc cho nền độc lập của đất nước. ” Ngày hôm sau 11 giờ tôi gặp lại Hồ Chí Minh và nói chuyện riêng với nhau. Thái độ của ông khác hẳn với ngày hôm qua; Ông đối với tôi có vẻ kính trọng và xưng hô với tôi như ở trong cung điện khi dùng chữ Ngài tương đương với chữ Sire trong tiếng Pháp, gần như thiếu một điều là xin lỗi đã lên nắm quyền: – Thưa Ngài, chúng tôi không có liên quan gì đến bức điện mà ngài nhận được ở Huế đòi ngài phải thoái vị. Riêng về phần tôi, như khi tôi đã nói ngày 22-8, tôi muốn ngài vẫn đứng đầu nước và cử tôi làm thủ tướng chính phủ mới. Tôi không tán thành những kẻ đã làm áp lực với ngài để ngài phải thoái vị. – Tôi cũng trả lời với cùng một lễ độ khi dùng danh từ tôn kính là Cụ (Vénérable) và cam đoan là tôi chỉ muốn làm một người công dân thường để chung sức xây dựng một nước Việt Nam mới, thống nhất và độc lập. “Hồ Chí Minh có vẻ yên tâm và đưa ra một bức tranh đầy phấn khởi, khác hẳn với sự dè dặt trong những câu nói lần trước: – Tất cả những giấc mơ của ta đang được thực hiện cùng một lúc. Không những thống nhất và độc lập sắp được Đồng Minh chính thức công nhận mà chiến tranh kết liễu, Nhật bản đầu hàng cũng cho phép chúng ta tiến tới một chế độ được toàn dân ủng hộ muôn người như một. Trong chế độ này mỗi người chúng ta đều có một tương lai kỳ diệu. Độc Lập, trở thành một Từ ngữ biểu tượng của đất nước , mãnh liệt như làn sóng thủy triều dâng lên từ đáy biển cả, khiến không có công cuộc nào mà chúng ta không thực hiện được… “Trong cái áo varơ cổ cao đã sờn rách, với đôi giày săng đan thô lỗ và bộ râu lơ thơ, Hồ Chí Minh giống một nhà tu khổ hạnh đồng thời cũng giống một nhà nho Việt Nam thời xưa được đào tạo trong nền văn hóa Trung Hoa, thiên về thi tứ, văn chương triết học hơn là về hoạt động chính trị. “Có sự ngược lại là từ thân hình mảnh khảnh, yếu ớt và từ cặp mắt sáng ngời như đang lên cơn sốt, thoát ra một niềm tin truyền cảm rất khắc phục, đồng thời cũng tỏa ra một sự thanh thản rất ấn tượng. Những câu nói của ông Hồ đều có dấu ấn của một ý nghĩa sâu xa về con người, của một sự chối bỏ mọi bạo động. Ông Hồ hoàn toàn có ý thức về những thực tại và nhưng tất yếu của Việt Nam. Ông cũng biết chiều hướng biến chuyển lịch sử dựa vào sự tự học và sự hiểu biết tất nhiên về thế giới Âu Tây cũng như thế giới Trung Hoa và thế giới Nga (tr129). “Sau hơn một giờ nói chuyện, ông Hồ kết luận: – Tôi yêu cầu ngài tham dự những buổi họp của hội đồng các bộ trưởng và nhận chức vụ Cố vấn tối cao của chính phủ. “Yêu cầu này làm tôi bất ngờ. Tôi thật không bao giờ nghĩ sự góp phần kiến tạo một nước Việt Nam mới của tôi dưới hình thức này. Nhưng khi nghe ông nói, không thể chối cãi được ông Hồ là người muốn độc lập và thống nhất một cách cuồng nhiệt, nên tôi nhận lời (tr 130). ” Hội đồng bộ trưởng họp mỗi tuần một lần. Ngày 8-9 tôi dự phiên họp lần đầu tiên.. “… Thật ra hội đồng gồm 3 nhóm. Nhóm cố cựu gồm những người theo chủ tịch Hồ Chí Minh từ thuở ban đầu như Trần Huy Liệu. Những người này sống lâu năm ở Nga, ở Trung Quốc hay biết nhau trong tù. Những người này chống Pháp kịch liệt. Nhóm thứ hai gồm những người gọi là giáo sư trường Thăng Long, một trường tư về Luật (thật ra chỉ là một trường trung học) ở Hà Nội mà những nhân vật trong ban giảng huấn đều thuộc thành phần đại trí thức rất hiểu biết về chính trị. Trong số những người này có Võ Nguyên Giáp. Cũng có những người là cựu cán bộ của đảng Cộng sản được hợp pháp hóa khi Mặt trận Bình Dân lên nắm quyền ở Pháp như Phạm Văn Đồng. Những người này đều có văn hóa Pháp, thông minh và có óc cởi mở. Tuy chống đối kịch liệt chủ nghĩa thực dân, tranh đấu hăng say cho nền độc lập, những người này không muốn đoạn tuyệt với nước Pháp. Sau cùng là những người gọi là những người “ngả theo”, như Dương Đức Hiền, cựu chủ tịch Tổng hội sinh viên Hà Nội, hay Nguyễn Mạnh Hà, cầm đầu Thanh niên hoạt động Công giáo. Đa số những người này đều là kỹ thuật viên xuất thân từ những Trường Lớn của Pháp nhưng không được (Pháp) dùng đúng với bằng cấp và khả năng của mình. “Hồ Chí Minh ngồi ở một đầu bàn và tôi được ngồi đối diện ở đầu kia. “… Tôi cũng lần lần khám phá ra bộ mặt thật của Hồ Chí Minh: Có một ngày, trong buổi họp Hội đồng có cuộc bàn cãi khá sôi nổi giữa Hồ chủ tịch và Vũ Trọng Khánh, bộ trưởng bộ Tư pháp ngồi bên phải cạnh tôi. Sau buổi họp Vũ Trọng Khánh đưa cho tôi một cuốn sách nhỏ và nói với tôi: – Ngài có vẻ ngạc nhiên về phản ứng của vị chủ tịch chúng ta. Đọc cuốn sách này ngài sẽ hiểu rõ hơn. Tôi nhìn cái tít “Cuộc đời Nguyễn Ái Quốc” do A. Marty, trùm mật thám của Phủ Toàn quyền thảo. – Ai là Nguyễn Ái Quốc? Khánh nhìn tôi rồi đưa đầu về phía Hồ chủ tịch đúng vào lúc ông đi gần chúng tôi để ra khỏi phòng họp. Ngạc nhiên vì điệu bộ chúng tôi, ông lướt mắt nhìn cuốn sách rồi nhún vai, nhếch mép cười một cách hóm hỉnh, bước ra khỏi phòng họp không nói một lời. ” Về đến nhà, tôi vội vã đọc cuốn sách. Nguyễn Ái Quốc chỉ là một tên trong số cả mấy chục tên khác trong cuộc đời phiêu bạt trước khi trở thành Hồ Chí Minh… Cuốn sách của Marty ngưng lại ở đoạn này. Giáp là người kể tiếp cho tôi từ khi ông Hồ trở về nước năm 1941 và thành lập Việt Minh ngày 19-5 ở Cao Bằng. “… Sự giao thiệp của tôi với các “đồng sự” rất là tốt đẹp. Nếu tôi gọi là các anh thì họ đều gọi tôi với cái tít Ngài. Hồ Chí Minh muốn mọi người phải xưng hô như vậy. Tôi đặc biệt gắn bó với Vũ Trọng Khánh. Ông ta có vẻ trơ trọi vì không nằm trong đảng… ” … Tôi nhận được tin Phạm Quỳnh, cựu thủ tướng của tôi, bị bắt, cũng như Ngô Đình Khôi, anh của Ngô Đình Diệm và người con là Ngô Đình Huân, thư ký riêng của đại sứ Yokoyama. Tôi can thiệp với Hồ Chí Minh: – Thưa cụ, ai cũng muốn giúp cụ mà tôi là người đầu tiên. Xin cụ rộng lượng. Khi cụ mới cầm quyền cụ thả hết mọi người tù. Xin cụ ra lệnh thả những người bị bắt từ khi đó. – Thưa ngài, không thể được, dân sẽ không hiểu. – Ít ra cụ cũng thả những người cộng sự của tôi. Họ không có trách nhiệm gì cả. – Tôi hứa với ngài tôi sẽ lo chuyện đó. Thật ra cả hai, Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi bị giết ngay từ đầu mà ông Hồ không biết. (tr 134) ” … Giữa chúng tôi ( Bảo Đại và ông Hồ ) hoàn toàn có sự thông cảm. Trong những buổi đàm đạo, không bao giờ đả động gì đến những vấn đề về hệ tư tưởng. Chúng tôi cùng đi với nhau đến gặp Sainteny, người thay Messmer làm ủy viên Cộng hòa Pháp ở Bắc bộ. Chúng tôi cũng đi gặp người Mỹ và những phái viên của họ : Lansdale và thiếu tá Patti và sau này là tướng Gallagher. Tôi thấy Hồ Chí Minh nói tiếng Anh khá được. “… Trong những cuộc đi gặp như vậy tôi luôn luôn được đẩy đi trước, khiến tôi phải nói: thưa chủ tịch tôi chỉ là cố vấn. Trái lại trong những buổi họp và biểu tình, tôi chỉ được ngồi bên phải. Sau tôi mới hiểu đó chỉ là những thủ đoạn. Chính phủ được chấp nhận nhưng không được công nhận bởi Đồng Minh. Sự có mặt của tôi cho chính phủ có bộ mặt hợp pháp hơn và tôi chỉ là bảo lãnh. (tr 135) Trung Quốc xâm nhập “… Toán lính đầu tiên tới Hà Nội ngày 9-9-45. Sau đó là tràn ngập lính Tàu. Tất cả là 3 quân đoàn chừng 80 ngàn người, không kể bọn tùy tùng và bầu đoàn thê tử nhào xuống Bắc Việt như những đám cào cào châu chấu. Tới với danh nghĩa bảo vệ độc lập cho Việt Nam, tụi lính Tàu này cư xử như những kẻ xâm lược. Đối với đám quân này, gồm những lính Vân Nam và Quảng Đông, Bắc Việt là một xứ thần tiên. ” Ngay khi tới Hà Nội ngày 18-9, tướng Lư Hán, chỉ huy trưởng, đã chiếm tòa nhà Puginier làm chỗ ở, đuổi phái bộ Sainteny ra ngoài. Lư Hán đòi tôi cho tiếp kiến, chứng tỏ Trung Quốc cố ý không biết Hồ Chí Minh. Tôi trả lời là tôi sẽ tới chào nhưng cuộc viếng thăm phải theo đúng nghi thức và chủ tịch chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh là người tiếp kiến. Đồng thời tôi cũng báo cho ông Hồ. Một thỏa thuận được tìm thấy nhanh chóng : Hồ Chí Minh tiếp tướng Lư Hán với sự hiện diện của tôi trong một biệt thự được trưng dụng. Như vậy cuộc thăm viếng không có tính cách chính thức. ” … Cùng đi theo đoàn quân Tàu là một đám các nhà chính trị thuộc các đảng phái quốc gia trốn từ trước qua Tàu được Quốc Dân Đảng cho tị nạn. Các lãnh tụ VNQDD và Đồng Minh Hội nhất quyết lấy lại ưu thế.. Được che chở bởi các tướng lãnh và những cơ quan tình báo Trung Hoa dưới quyền tướng Tiêu Văn, những người quốc gia này vội vã tước súng ống và thay thế những ủy ban nhân dân (Việt Minh) được Hồ Chí Minh thiết lập ở các tỉnh. (tr 138) ” Tình thế mỗi ngày một trở nên khó khăn với Hồ Chí Minh.. Biết đời sống bị đe dọa, mỗi đêm ông ngủ một chỗ khác. Ông vẫn tin tôi nên chỉ mình tôi biết ông ngủ đêm nào ở đâu… ” Chủ tịch cũng có vẻ bận tâm về sức khỏe của tôi và những quan hệ bạn bè của tôi. Biết là tôi hay được các bạn bè mời ăn tối, ông khuyên tôi như một người cha là phải coi chừng khi giao thiệp với đàn bà gặp ở những bữa ăn đó “… Tôi không dễ bị mắc lừa về thái độ (của ông Hồ) đối với tôi. Nhưng hồi đó tôi không thấy ông biểu lộ một con người cứng rắn, khắc nghiệt, như sau này. ” Đối với tôi, ông (Hồ) là người rất gắn bó với nền độc lập nước nhà; Những điều ông nói tôi đều thấy hợp với nhãn quan của tôi. Không cần biết quá khứ và phương pháp hành động của ông, với tất cả sự trung trực của tôi, tôi ủng hộ ông. ” Nói cho thật, tôi thích tư thế của ông (Hồ) hơn những lãnh tụ quốc gia, thật sự chỉ là bù nhìn của bọn Tàu. Trong sự hỗn độn tôi thấy Hồ chí Minh vẫn giữ được trầm tĩnh. – Một buổi chiều Hồ chí Minh nói với tôi : Ngài thấy không, tôi rất thất vọng về thái độ của Đồng Minh : Tôi tưởng được Nga ưu đãi. Rút cục họ chả làm gì cho chúng ta cả. Họ cũng chả thèm gửi qua đây một quan sát viên. Họ hoàn toàn lãnh đạm với vấn đề Đông Dương. Còn người Anh thì chả cần nói, chỉ cần nhìn thái độ của họ ở miền Nam Việt Nam. Họ đã thiên về Pháp và giúp Pháp tiêu diệt đồng bào ta đang tranh đấu giành độc lập. Còn người Mỹ thì ngài đã cùng tôi gặp họ. Khi tôi rời Trung Quốc, đại diện của họ có hứa hẹn với tôi và cam đoan với tôi. Để làm vui lòng họ, tôi để trong Lời nói đầu của Hiến Pháp tuyên ngôn độc lập hệt như tuyên ngôn của Jefferson năm 1776. Chúng ta được những gì? một con số không… Họ chỉ lo thay thế người Pháp và vì vậy họ cạnh tranh với Tàu. Gallagher đã nhận lời làm trung gian giữa chúng ta và bộ Ngoại giao Mỹ và đưa ra những đòi hỏi của chúng ta. Nhưng để đổi lại, ông ta đòi được tự do tổ chức lại nền kinh tế của ta, thật ra chỉ muốn nền kinh tế của ta phụ thuộc họ. Đó là những nhà tư bản, có tư bản trong máu rồi ! đối với họ chỉ có business… Bữa nọ chúng ta khám phá ra là ban điều tra của họ tới hỏi cung những tù binh Nhật, không phải để biết những tội ác chiến tranh của Kampetai mà để biết những cơ sở của cửa khẩu Hải Phòng. Về phần bọn Tàu, thì ngài thấy…cả nước Tàu là một cái bụng đói ! Quốc Dân Đảng chỉ là những tên trộm bợm, những đám diều hâu. Chỉ một người mà ta có thể dùng được, đó là Tiêu Văn (Siao Wen). Đó là một đứa vô lại rất tốn tiền cho chúng ta, nhưng biết được thứ chúng ta muốn và những “combin” của hắn có thể sài được; Nhưng tôi cũng nghi ngờ hắn có thể trở mặt lúc nào không hay. Khi mới tới đây hắn chơi lá bài VNQDĐ, bây giờ hắn gật đầu mỉm cười với ta. Mai mốt biết hắn cười với ai ?… Nghĩ đi nghĩ lại, chắc chỉ còn có Pháp… (tr 140) ” Tôi không thể nén được ngạc nhiên trước cái kết luận như vậy nhưng nó hoàn toàn lô gíc. “Hồ Chí Minh cho tôi thấy một lần nữa cái tài biết che giấu của ông. Ở Việt Nam công giáo chỉ là một thiểu số nhưng là một lực lượng năng động. 2 triệu tín đồ dính chặc với linh mục của họ. Ngay từ khởi đầu, Hồ Chí Minh đã tìm cách được lòng họ. Không thể không có ẩn ý khi chọn ngày 2-9 lễ Thánh Tử đạo Annam làm ngày Quốc khánh. Ông cũng đưa vào chính phủ Nguyễn Mạnh Hà khi học ở Paris là một thủ lãnh thanh niên Công giáo hoạt động xã hội và là con rể Georges Maranne, thượng nghị sĩ cộng sản quận Seine. “Ngày 23-9 Nguyễn Mạnh Hà tổ chức một míting lớn ở Hà Nội tụ tập nhiều ngàn giáo dân để biểu lộ tinh thần ái quốc và sự tin tưởng vào chủ tịch Hồ Chí Minh. ” Cũng trong bầu không khí đó, lễ tấn phong Giám mục Lê Hữu Từ được sủa soạn ở Phát Diệm. Hồ Chí Minh yêu cầu tôi thay mặt ông dự lễ vì bị mắt kẹt ở Hà Nội ngày 28-9, tướng Lư Hán đến để chính thức tiếp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật. “Nhưng ngày hôm trước, chủ tịch nói với tôi: – Thưa Ngài, quân đội Pháp đã gần như dẹp yên kháng chiến Nam bộ. Sớm muộn gì bọn chúng cũng sẽ đổ bộ ở đây. Cần phải tránh không rơi vào tay chúng. Ngài là biểu tượng của nền độc lập Việt Nam. Ngài nên lợi dụng đi Phát Diệm để lánh xa Hà Nội. – Tôi hỏi thế cụ thì sao? – Ồ ! với tôi đường lối đã vạch sẵn. ” Bữa sau tôi đi Phát Diệm cùng với Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng bộ Nội vụ. Giám mục Lê Hữu Từ thuộc dòng tu kín (trappiste) là một nhân vật rất lạ lùng. Người bé nhỏ gầy đét trong bộ áo trắng dòng tu rộng thùng thình, cặp mắt sáng ngời lại sáng hơn nữa vì 2 lưỡng quyền nhô cao. Ông nổi tiếng trong dòng tu vì tài điều động công việc và rất biết rõ những mưu mẹo thương thuyết mặc cả.. Buổi lễ dưới quyền chủ tọa của giám mục Hà Nội là Nguyễn Bá Tòng. Giáp được Hồ Chí Minh ủy thác là mời tân giám mục Lê Hữu Từ làm cố vấn tôn giáo cho chính phủ. Đức cha Lê Hữu Từ nhận lời ngay tức khắc. (tr 141) ” Sau buổi lễ Giáp trở lại Hà Nội còn tôi đi Sầm Sơn, một bãi biẻn nghỉ mát ở gần Thanh Hóa. “… Vào khoảng giữa tháng 12, một đại biểu Ủy ban tỉnh Thanh hóa đến gặp tôi và nhân danh chính phủ mời tôi ra ứng cử đại biểu Quốc hội. Tôi nhận lời về mặt nguyên tắc và nhắc lại là tôi muốn trở về Hà Nội. Ông này hỏi tôi: – Thưa ngài; ngài muốn ra ứng cử dưới danh hiệu nào? – Dưới danh hiệu đảng Cộng sản. Tôi trả lời với chút châm biếm trước một câu hỏi như vậy. – Không thể được thưa ngài, ông ta trả lời một cách rất nghiêm túc : Đảng Cộng sản Đông Dương đã được giải tán theo quyết định của Ủy ban Trung ương ngày 11-11. Tôi làm sao biết được những gì xẩy ra ở Hà Nội từ ngày tôi đi khỏi. – Vậy thi ghi tên tôi là một người cộng hòa. ” Trong 3 tuần tôi không nhận được tin tức gì. Đúng ngày 7-1 có một phái đoàn đến báo tin tôi đã trúng cử vào Quốc hội và cuộc bầu cử đã diễn ra ngày hôm qua. Tôi được bầu đại biểu tỉnh Thanh Hóa với 92% số phiếu. Mọi người đều chúc tụng tôi. Còn tôi thì không biết ngày bầu cử và tất nhiên là tôi cũng chưa đi bầu. (tr 145) ” Nhưng bây giờ tôi đã là đại biểu Quốc hội. Tôi nhờ phái đoàn nói với Ủy ban Thanh Hóa là tôi muốn trở về Hà Nội càng sớm càng hay và xin cung cấp săng cho xe tôi. 8 ngày sau, mọi chuyện đều xếp đặt xong xuôi và tôi rời bỏ Sầm Sơn trở về Hà Nội, lòng nhẹ nhõm.” (Còn tiếp)
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 20, 2014 8:54:17 GMT 9
Bảo Đại: Tối cao cố vấn của ông Hồ [2] Tiếp theo phần I Hồ Chí Minh và Bảo Đại www.qdnd.vnĐại biểu Quốc Hội Lập Hiến “Ngay chiều hôm ấy, tôi trở về chỗ ở của tôi , đại lộ Hoàng Diệu Hà Nội. Từ khi tôi đi khỏi Hà Nội cách đây 3 thấng, tình hình biến chuyển rất nhiều. Ngày 19-11 Tiêu Văn triệu tập các đảng phái bắt phải thỏa thuận với nhau và quân đội của 3 đảng phải xáp nhập với nhau để chỉ còn 1 quân đội duy nhất. “Trước những thủ đoạn chính trị của Tàu, Hồ Chí Minh chỉ còn mối bận tâm duy nhất là làm sao vứt bỏ được sự hiện diện của Tàu ở Bắc Việt. Ông sẵn sàng thân thiện lại với người Pháp. Ông biết đầu tháng 1 Pháp có cử đặc phái viên tới Trùng Khánh điều đình với Tưởng Giới Thạch để quân đội Pháp thay thế quân đội Trung Hoa. Ông đợi đúng ngày bầu cử Quốc hội 6-1, làm một bản tuyên bố được báo chí Pháp đăng lại, trong đó ông nói : ” Chúng tôi không thù hận gì với nước Pháp và dân tộc Pháp mà chúng tôi khâm phục. Chúng tôi không muốn cắt đứt những mối giây liên lạc đã gắn chặt hai dân tộc chúng ta… ” “… Tháng 11-45 Cao Ủy Pháp ở Sài Gòn đưa ra sắc lệnh rút hết những tờ giấy bạc 500 được in dưới thời Nhật Bản chiếm đóng. Nhưng quân đội Tàu ngay khi mới tới đã thâu cướp được rất nhiều giấy bạc 500 nên đã thương lượng được với Pháp là sắc lệnh này không có hiệu lực ở phía Bắc vĩ tuyến thứ 16… Khi từ Sầm Sơn trở về, tôi không có một đồng xu dính túi vì tuy được nuôi ăn cho ở nhưng không có một đồng lương nào. Tôi viết thư xin mẹ tôi chút tiền thì mẹ tôi hồi âm bằng 2 tờ giấy 500 trứ danh đó. Tôi đưa cho Phạm Văn Đồng, bộ trưởng bộ tài chánh nhờ ông đổi giùm. Ngày hôm sau người ta đem lại cho tôi một phong bì trong đó có 2000 đồng. Tôi tưởng là đưa lộn nên đi tới bộ Tài Chính để trả lại Phạm Văn Đồng. PVĐ nói với tôi: – Không có lộn đâu – Sao! Tôi đưa một ngàn đồng mà được đưa lại tới 2000 đồng. Ông làm tài chính như vậy thì còn lâu Việt Nam mới lấy lại được thăng bằng kinh tế. – Nét mặt không chút xao động, Phạm Văn Đồng trả lời tôi: Tôi biết rõ tình trạng tài chính của ngài. Đây là một đặc ân tôi làm cho ngài. “Một buổi tối, Hồ Chí Minh chìa cho tôi một tờ giấy và nói với tôi: – Thưa ngài, trong thời gian ngài vắng mặt (ở Sầm Sơn),tôi có nhân danh ngài gửi cho Pháp một thông điệp. Tôi đọc : ” Thông điệp của Hoàng thân Vĩnh Thụy, cựu Hoàng đế Việt Nam, gửi nước Pháp…. Ký tên : Hoàng thân Vĩnh Thụy cựu Hoàng đế Bảo Đại, cố vấn chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. (tr148) “… Chính phủ cử Giáp đi thanh tra các tỉnh cho đến tận biên giới Nam bộ với tư cách bộ trưởng bộ Nội vụ. Tôi xin đi cùng nhưng không được chấp thuận. Giáp nói với tôi: – Một tuần nữa tôi trở về tôi sẽ báo cáo với ngài những gì tôi thấy được. “Một tuần sau khi tôi đang ăn trưa thì Giáp tới và nói: – Tôi vừa về sau cuộc tuần tra. – Mời anh ngồi cùng ăn, tôi nói. Giáp có vẻ tư lự cúi đầu ăn không nhìn tôi. Giáp thường ngày đã ít cởi mở nhưng bữa nay bộ mặt còn có vẻ rầu rĩ hơn. Tôi để cho ông ta ngồi ăn không nói câu gì. Sau bữa ăn tôi mới hỏi: – Thế nào? – Phải thực tế, mặt vẫn cúi gầm. – Anh muốn nói gì? – Cái tôi muốn nói, là mình phải thích nghi với thằng Pháp. – Không lẽ nào mình lại trở về với cuộc bảo hộ. – Có thể chứ, nếu cần thiết. – Tôi không hiểu nổi các anh nữa. Tôi chấp nhận độc lập với thằng Nhật. Tôi thoái vị. Tôi ra đi để nhường chỗ cho các anh, nay các anh lại muốn quay trở về với quá khứ. – Mình biết làm thế nào bây giờ? Ở miền Nam tụi Pháp nó đã phá tan bộ máy của chúng ta phải mất bao công mới xây dựng được. Nó đã lấy lại hết. Chả bao lâu nữa nó sẽ đổ bộ ở đây. Chúng ta làm thế nào để chống lại được? Chúng ta có quân đội nhưng không có đạn dược… “Được thỏa tấm lòng, Giáp kể lại cuộc hành trình… (tr 149) “Vài ngày sau, tôi mới hiểu sự bối rối của Hồ Chí Minh và ê kíp của ông. Tôi biết giữa Chủ tịch đi cùng với Giáp và Sainteny có một cuộc hội đàm lâu dài về vấn đề sự trở lại của người Pháp và vấn đề phân chia chủ quyền. ” Độc Lập ” còn có nghĩa gì nữa không ? Mặc dầu còn giũ được uy quyền, sự thay đổi thái độ của ông Hồ gặp một sự chống đối mạnh mẽ. Sự chống đối này được sự hỗ trợ của Tàu và của những đảng mà Tàu thao túng : Đại Việt, VNQDD, Đồng Minh… Tất cả đều đồng thanh đòi ” chính phủ Việt gian” phải ra đi vì đã bán rẻ nền độc lập. Tôi biết các đảng phái này có bàn bạc với nhau về tôi. “Ngày 27-1, 7 giờ sáng, điện thoại reo trong căn hộ tôi đường Hoàng Diệu. Hồ Chí Minh kêu tôi: – Tôi có thể tới thăm ngài ngay tức khắc được không? Tôi trả lời được và ngay phút sau ông đã tới. Ông có vẻ rất xuống tinh thần và ốm yếu hơn thường lệ. Ngay khi vào, ông nói ngay: – Thưa ngài, tôi không biết làm sao nữa. Tình hình quá nguy kịch. Tôi biết rõ người Pháp sẽ không thương thuyết với tôi. Tôi không được lòng tin cậy của Đồng Minh. Tất cả đều thấy tôi ” đỏ ” quá. Tôi xin ngài hi sinh lần thứ hai : lấy lại quyền hành. – Tôi trả lời: tôi đã bỏ quyền hành và không có ý lấy lại nó. Cụ biết, tôi không có tham vọng chính trị và tôi đã tự đặt mình trong cái nhiệm vụ phải phục vụ một cách trung trực chính phủ Cộng hòa. –Tôi để lại chỗ cho ngài, ông nhấn mạnh một lần nữa, tôi sẽ là cố vấn của ngài. – Nhưng ai sẽ trao quyền cho tôi? – Ngài sẽ được Quốc hội tấn phong như trong mọi chế độ dân chủ. – Tôi có được thành lập chính phủ như tôi muốn hay tôi phải lấy lại những bạn hữu của cụ? – Ngài được tự do hoàn toàn, muốn lấy ai thì lấy. – Nếu cụ thấy quyền lợi và độc lập của đất nước đòi hỏi như vậy thì tôi sẽ không lẩn tránh. Nhưng tôi xin cụ một chút thời gian để suy nghĩ và hỏi ý kiến các bạn bè của tôi. (tr 150) ” Ngay tức khắc tôi điện thoại cho Nguyễn Xuân Hà ( Nguyễn Xuân Chữ? ) và Trần Trọng Kim và tôi nói: – Tôi có một đề nghị quan trọng muốn đưa ra bàn với các ông. Nhờ 2 ông triệu tập bạn bè, tôi sẽ đến gặp. ” Đúng 8 giờ 30, tôi tới. Tôi kể với họ về cuộc gặp gỡ với Hồ Chí Minh và đề nghị của ông Hồ. Tôi hỏi họ: – Các ông có nghĩ đó là cái bẫy không? ” Mọi người đều không tin và Trần Trọng Kim nói rõ thêm: – Ai cũng biết là Việt Minh có liên lạc thường xuyên với Sainteny và một thỏa ước với Pháp đang được sửa soạn. Nếu Hồ Chí Minh không thiết tha ký nó thì đề nghị của ông Hồ là thành thực. Theo tôi ngài nên nhận lời. “Khoảng lúc 10 giờ, Hồ Chí Minh lại gọi tôi nữa và hối thúc tôi nhận lời. – Ngài đã gặp bạn hữu của ngài chưa ? Xin ngài đừng mất thì giờ và đến Quốc Hội càng sớm càng hay. “Đúng 12 giờ trưa, tôi gọi điện thoại ông Hồ và nói tôi nhận lời. “Trước đó tôi biết là một người thân tôi có tiếp xúc với thiếu tá Buckley, người của Tình báo Mỹ OSS. Ông này không ngạc nhiên về đề nghị của Chủ tịch và hứa hẹn người Mỹ sẽ đứng trung lập vì là chuyện nội bộ của Việt Nam. “Điện thoại lại reo đúng 13 giờ. Hồ Chí Minh yêu cầu tôi tới gặp. Khi tới, tôi thấy rõ ràng ông đã thay đổi thái độ. Ông có vẻ đã trấn tĩnh lại, nói hơi ngượng ngùng: – Thưa ngài, xin ngài quên đi chuyện buổi sáng nay. Tôi không có quyền từ bỏ nhiệm vụ vì tình thế khó khăn. Trao lại quyền hành cho ngài bây giờ là tôi phản bội. Tôi xin lỗi đã biểu lộ sự yếu đuối vì đã nghĩ trong những hoàn cảnh khó khăn này lại muốn trút mọi trách nhiệm lên ngài. Sở dĩ tôi nghĩ ra đi là vì các đảng quốc gia chống đối thỏa ước mà chúng tôi đang sửa soạn với người Pháp. “Chuyện gì đã xẩy ra giữa 10 giờ và 13 giờ? “Tôi không nghĩ sự quay ngoặt của ông Hồ là do được Moscou cam đoan hỗ trợ qua phái đoàn Ba Lan, đại diện Liên Xô ở Hà Nội. Đúng hơn là vì tướng Tiêu Văn, bị thuyết phục bởi những ” lí lẽ (vàng) kêu lẻng xẻng “(dịch chữ Pháp arguments sonnants et trébuchants) được Việt Minh tung ra, nên đã nhờ chủ tướng của mình là Lư Hán làm áp lực xuống những người quốc gia – đặc biệt là VNQDD – để những người này chịu tham gia chính phủ. Như vậy nhũng người này phải chia trách nhiệm ký thỏa ước với Pháp và Việt Minh không phải chỉ một mình vác gánh trước công luận. (tr 151) “Bắt đầu từ đó, Hồ Chí Minh yêu cầu tôi cùng làm việc để thảo bản thỏa ước trứ danh đó (Hiệp định Sơ bộ 6-3). Chúng tôi gặp nhau mỗi buổi tối trong một tuần. Theo ông Hồ, nhờ thỏa thuận với Pháp, sẽ tống khứ được bọn Tàu. Đó là mục tiêu chính của ông Hồ : loại Tàu ra để Pháp vào thay thế. Nhưng đồng thời cũng thao túng Tàu để Pháp chậm đến và đòi Pháp phải đưa ra tối đa những bảo đảm. Thời gian ở Trung Quốc và Hồng Kông năm 1946 “… Hồ Chí Minh, vừa mới được sự thỏa thuận của tất cả các đảng phái cho Pháp trở lại, không muốn để sơ sót một thứ gì nên quyết định gửi một phái đoàn đi gặp thống chế Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh. Ông gọi tôi đến và yêu cầu tôi, với tư cách là cố vấn tối cao của chính phủ, dẫn đầu phái đoàn này mà thành phần là đủ mọi xu hướng. Ông có cảm tưởng là những tướng lãnh Trung Hoa đã phản ông nên hi vọng với sự hiện diện của tôi, và trong phái đoàn có nhiều thành phần, sẽ làm thống chế có thiện cảm với chính phủ lâm thời hơn. Nhưng Trùng Khánh vừa mới thỏa thuận cho Pháp đổ bộ – Người báo tin này cho Hồ Chí Minh là Sainteny – Và hơn nữa, Tưởng Giới Thạch vẫn chưa công nhận chính phủ của chúng ta. Trong điều kiện này tôi thấy không nên nhận nhiệm vụ. Tôi giảng giải với Hồ Chủ tịch: – Chuyện này hơi bất trắc. Căn cứ vào chuyện vừa mới có sự thỏa thuận giữa Trùng Khánh và Pháp, nếu Tưởng Giới Thạch không tiếp tôi thì cụ với tôi đều mất mặt. ” Hồ Chí Minh cũng thấy đúng; nhưng vẫn giữ ý định gửi một phái đoàn gặp Tưởng Giới Thạch mà không có tôi. ” Hôm sau, tôi vừa mới ra khỏi nhà thì gặp một tướng Trung Hoa ở cạnh nhà tôi cùng đường Hoàng Diệu. Ông ta có vẻ biết đề nghị của Hồ Chí Minh với tôi nên đột ngột hỏi: – Thưa ngài, ngài không muốn qua Trung Quốc? Thật là đáng tiếc, ngài nên lợi dụng cơ hội này, dù chỉ là để đi du lịch nước tôi… Rồi ông ta nói , nửa bỡn cợt, nửa nghiêm trang: – Với lũ điên , không biết cái chi có thể xẩy đến! “Cái câu cuối cùng này khiến tôi nghĩ không phải ông ta gặp tôi tình cờ mà là có ý đưa cho tôi lời mời của Tưởng Giới Thạch. “… Hôm sau tôi đến Phủ Thủ tướng (Bắc bộ phủ) gặp Hồ Chí Minh và nói: “Cụ không cần tôi ở đây? Đã có Giáp và Đồng. Cho tôi đi qua Trung Quốc du lịch. – Ngài có thể đi thanh thản, ông Hồ trả lời với vẻ bằng lòng. Ngài đừng lo ngại gì cả. “… Tôi đi cùng với phái đoàn gồm 6 người : 4 đại diện Việt Minh, 2 VNQDD. (tr 153) ” Ngày 16-3-46, tôi rời Hà Nội. Chiếc máy bay DC-3 cho chúng tôi đi theo có chừng một tá sĩ quan Tàu và chở đầy những hòm lớn, chắc là đồ ăn cắp. Tụi nhà binh này này ngồi chỗ tốt nhất trong khi phái đoàn tôi bị đẩy xuống ngồi phía dưới gần những thùng hàng. Tôi không quen biết người nào trong số những người cùng đi với tôi, trừ một người tôi trông mặt hơi quen quen. Tất cả đều đi máy bay lần đầu nên không giấu được sự lo sợ… Sau 3 giờ bay, máy bay hạ cánh xuống phi trường Côn Minh nằm ở độ cao 2000 mét. Máy bay của chúng tôi không đi xa hơn được nữa. Chúng tôi phải đợi một tuần sau mới có máy bay đi Trùng Khánh nên ngày 23 mới tới. Chúng tôi ở khách sạn ” Bốn mùa ” lớn nhất thành phố. Tôi được ở một phòng rộng rãi còn 6 người đồng hành phải chia nhau 3 phòng tồi tàn. ” Hai ngày hôm sau, tổng thư ký của Quốc Dân Đảng đưa cho tôi giấy mời dự bữa ăn tối. Giấy chỉ mời hoàng đế Bảo Đại mà không đả động gì đến phái đoàn. Một xe đến đón tôi ở khách sạn. Chan, thư ký QDD tới đón tôi. Ông này là cựu sinh viên trường Dòng Tên Rạng Đông Thượng Hải nên nói rất giỏi tiếng Pháp. “… Tưởng Giới Thạch rất lịch thiệp. Suốt bữa ăn ông tỏ ra rất am tường về tình hình Việt Nam. Chan làm thông ngôn cho tôi. ” Trong suốt thời gian đó, phái đoàn phải chờ hoài mà không được tiếp. Người trưởng đoàn nhờ tôi can thiệp để được Tưởng Giới Thạch cho tiếp kiến. Tôi cố thuyết phục Chan, thư ký Quốc Dân Đảng: – Sự đoàn kết quốc gia đã được thực hiện ở Việt Nam. Phái đoàn đi cùng với tôi gồm những người đại diện 2 đảng lớn đang nắm quyền. Tất cả đều là những người bạn của Trung Quốc. – Thưa ngài, Chan trả lời tôi, trong phái đoàn có những người cộng sản và những người cộng sản không thể nào là bạn của Trung Quốc được… ” út cục, sau nhiều ngày chờ đợi phái đoàn cũng được tiếp. Nhưng để không có tính cách chính thức, phái đoàn được tiếp trong một ngôi chùa cổ ở ngoài thành phố. “Phái đoàn trở về hoàn toàn thất vọng. Tưởng Giới Thạch chỉ để đủ thời giờ cho phái đoàn đọc thông điệp của chủ tịch Hồ Chí Minh. Rồi, sau lời cám ơn cụt ngủn, Tưởng Giới Thạch tuyên bố là Trung Quốc, nhờ góp phần vào sự chiến thắng của Đồng Minh, đã có một chỗ ngồi giữa ” Tứ cường “, muốn quanh biên giới chỉ có những nước bạn. “Vài ngày sau, tướng Marshall, thay thế tướng Hurley, muốn gặp tôi. Tôi tới gặp ông ở văn phòng. Ông rất chú ý đến Việt Nam và muốn chính tôi kể lại cuộc cách mạng đã xẩy ra như sao khiến Việt Minh nắm được quyền hành.. Tôi nhắc lại những biến cố xẩy ra hồi tháng Tám và tháng Chín năm ngoái và nhấn mạnh vào điểm là không có những xung đột và không có khó khăn gì trong sự thay đổi quyền hành ở Hà Nội. Tôi cũng nói là tôi đã tự rút lui để không có đổ máu. Tôi cũng nhấn mạnh vào sự hòa hợp trong tân chính phủ do Hồ Chí Minh thành lập và sự ông quyết tâm thực hiện độc lập và thống nhất, hai khát vọng mà cả dân tộc Việt Nam cùng chia sẻ. ” Tướng Marshall có nhiệm vụ hòa giải Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông, đặt tôi câu hỏi: – Ngài nghĩ thế nào về Quốc Dân Đảng? – Thưa Đại tướng, tôi biết rất ít và không rõ nhiều để có thể có một phán đoán có giá trị. Nhưng tôi thấy những thủ đoạn, những mưu toan của các tướng lãnh và của những người của họ ở Bắc Việt ngay khi họ mới tới, thì tôi thấy chả có gì là sáng láng. Tôi sợ cả Trung Quốc đều như vậy. “Chúng tôi chia tay nhau sau câu nói này. “Nhiệm vụ thất bại, phái đoàn sửa soạn trở về Hà Nội. Tôi quyết định cùng trở về. Ngày 15-4, máy bay xuống Côn Minh. May mắn hơn khi đi, chúng tôi có ngay máy bay đi Hà Nội. Khi chúng tôi sắp lên máy bay thì có người đưa cho tôi tin nhắn của Hồ Chí Minh: ” Thưa ngài, mọi sự ở đây đều tốt đẹp, xin ngài cứ thư thả ở lại. Vả lại, sự hiện diện của ngài ở Trung Quốc rất hữu ích cho chúng ta. Đừng ngại ngùng gì cả. Khi nào tôi thấy là ngài cần về, tôi sẽ báo. Xin ngài nghỉ ngơi cho khỏe để còn làm nhiều nhiệm vụ đang chờ đợi chúng ta. Ôm hôn thân ái. Ký : Hồ Chí Minh. (tr 156) ” Chủ tịch không muốn tôi trở về. Tôi chào từ biệt phái đoàn. Khi máy bay chỉ còn là một chấm nhỏ ở chân trời, tôi đứng một mình trong căn cứ cũ của không quân Mỹ. Ngồi trên bậc cầu thang của phi trường, tôi điểm lại tình hình : không những tôi trơ trọi một thân một mình mà còn hoàn toàn cùng quẫn, không có một đồng xu dính túi. Vali của tôi nằm trong hầm để đồ của máy bay, khiến tôi không có quần áo để thay và cũng không có giấy tờ hay hộ chiếu… Tôi đọc lại câu ” Ôm hôn thân ái ” của Hồ Chí Minh mà không thể không mỉm cười : Thật là một đại kịch gia ! Khi thì săn sóc như một người cha, khi thì đầy trìu mến, ân cần, biết lợi dụng cái giáng điệu mảnh dẻ yếu ớt của mình, khi thì tỏ ra đầy uy quyền. Thật là không thiếu trào phúng… Tất cả ai gần ông lúc ban đầu đều bị nhầm, bị lừa … Người Mỹ, Sainteny, và chính tôi đây… Thật ra sự hiện diện của tôi làm ông vướng víu. Đó là lí do tôi phải đi Sầm Sơn và bây giờ là tôi phải lưu vong. “Khi tôi đang trầm mình trong suy nghĩ thì có người tiến lại gần tôi. Một người Trung Hoa mặc âu phục bằng trạc tuổi tôi. Ông ta cười và hỏi tôi: – Ông biết nói tiếng Pháp? – Rất mừng có người nói chuyện, tôi trả lời: Biết chứ. – Tôi tên là Yu, cựu luật sư ở Paris. –Tôi cũng học ở Pháp, tên tôi là Vĩnh, sinh ở Việt Nam. Tôi đi du lịch qua đây bị lỡ máy bay. – Ông ở đâu ? Thấy tôi lúng túng, ông ta hiểu tình trạng của tôi và không ngần ngừ đề nghị: Ông đến ở nhà tôi. Tôi là con cựu thị trưởng thành phố này. Cha tôi mới mất cách đây ít lâu, vì vậy tôi phải về. Nhà tôi khá rộng, ông ở thoải mái. ” … Nhờ sự rộng lượng của chủ nhà, tôi sắm được quần áo trong một cửa hàng bán quần áo cũ của quân đội Mỹ. Tôi liền thay bộ đồ mới mua được. Tôi ngạc nhiên trên đường về thấy lính tráng Tàu chào tôi. Khi về đến nhà tôi mới hiểu là tôi mặc quân phục của đại tá không quân Mỹ. Cả nhà đều cười ran và chúc mừng tôi đã lên chức. ” Có một bữa chúng tôi vào ăn ở một quán thì thấy một thanh niên vòng tay kính cẩn chào: – Thưa Hoàng thượng, ngài còn sống? ” Đó là một thanh niên Việt Nam thuộc Đoàn Thanh niên của Phan Anh nên có dịp thấy tôi khi đi theo Phan Anh vào thành nội. Trước sự ngạc nhiên của Yu tôi phải giảng nghĩa vì sao tôi phải giấu tên. Không những Yu không bực mình mà còn mời Bùi Minh (Bùi Tường Minh?) ăn cùng. Minh nói phải trốn khỏi Hà Nội vì hoạt động trong đảng Đại Việt… “… Với 2 người con của tướng Long Vân, thống đốc tỉnh Vân Nam, cả 2 đều tốt nghiệp Saint Cyr, tôi cũng cho biết tung tích của tôi và chúng tôi họp thành một nhóm bạn hữu rất vui vẻ. “… Tôi không nhận được tin tức gì ở Hà Nội mặc đầu tôi có cho Hồ Chí Minh biết chỗ tôi cư ngụ. Bây giờ tôi biết chắc chắn là ông Hồ không muốn có sự hiện diện của tôi ở Việt Nam. “… Tháng 9 tôi nhận được lời mời của Chan, Tổng thư ký Quốc Dân Đảng tới Trùng Khánh.. Lạ thay Yu cũng nhận được lời mời tương tự. Yu không tỏ vẻ ngạc nhiên vì cùng học với Chan ở trường Rạng Đông Thượng Hải và thỉnh thoảng cũng được gọi về thủ đô. Yu xin đi cùng, tôi nhận lời và 2 ngày sau chúng tôi lấy máy bay đi Trùng Khánh. ” Chan muốn mời tôi đến nhà ở, tôi cám ơn và nói thích trở lại khách sạn “Bốn Mùa” hơn. Tôi lợi dụng sự rảnh rỗi để tiếp tục đọc về Trung Quốc và đi đánh quần vợt lại. ” Đầu tháng Tám, Quốc Dân Đảng báo cho tôi là có một người đồng hương sắp tới. Hơi ngạc nhiên tôi tơi phi trường đón. Anh ta chừng 30 tuổi, hình dạng không phải là một người Việt thuần túy. “Khi ngồi trong xe anh ta nói: – Tôi là đại tá tình báo của quân đội Thiên hoàng, tôi có phận sự theo dõi những hành vi của Quốc Dân Đảng. Tôi sinh ở Nhật, cha Nhật mẹ Việt. Tôi được gửi tới ngài với danh nghĩa là thư ký của ngài; Chuyện khá tức cười, tôi không nín được đặt câu hỏi: – Tôi tưởng là những sĩ quan cao cấp Nhật đều tự sát theo truyền thống võ sĩ đạo. Tại sao ông không làm? – Thưa ngài, những sĩ quan tình báo nhận được lệnh cấm làm hara-kiri. Họ phải tiếp tục sống và làm việc cho tương lai của Đế quốc Mặt trời. Khi tôi làm song phận sự, tôi sẽ trở về Sài Gòn theo ngả Manille và đầu hàng quân đội Anh. Bắt đầu từ ngày đó, anh ta không rời tôi nửa bước. “Chan, tôi gặp luôn luôn, nói với tôi là Tưởng Thống chế sắp rời đô xuống Nam Kinh, rất hân hạnh mời tôi tới Nam Kinh. “Cuối tháng Tám Tưởng Giới Thạch xuống Nam kinh. Người thư ký ” trung thành ” của tôi cũng biến mất sau khi làm xong phận sự. Yu cũng theo chính phủ bỏ Trùng Khánh và nài nỉ tôi đi cùng. Tôi không muốn chút nào đi Nam kinh vì ngán thấu cổ cái bẩn thỉu của nước Tàu và thật sụ là sợ cô độc. Tôi kiếm một nơi ẩn trú đồng thời cũng là trung tâm. Tại sao không là Hồng Kông ? Yu đề nghị cùng đi với tôi vài ngày. “8 ngày sau, ngày 15-9 chúng tôi bay đến Hồng Kông. (tr 161) “.. Chúng tôi giữ 2 phòng ở một khách sạn hạng thường bên Cửu Long. Sau 2 tuần du lịch, Yu trở về Nam Kinh, hơi thất vọng vì tôi không đi cùng, nhưng cam đoan với tôi là sẽ được Tưởng Giới Thạch đón tiếp nếu tôi đổi ý. “…Tôi lại sống cô độc với chút đô la HK trong túi Yu đưa cho tôi. Chỉ ít lâu sau tiền hết, tôi phải tìm cách sinh sống. Trong khi chờ đợi tôi đi dạo. Phần nhiều là đi bộ, hay đi xe buýt. Nhưng tôi cảm thấy hoàn toàn tự do. Lần đầu tiên trong đời tôi có cảm giác như vậy. Trong một bữa đi tản bộ, tình cờ tôi thấy trước một tòa nhà có bản đề “Ngân Hàng Đông Dương”. ” Sau một chút ngần ngừ và cũng không biết tại sao tôi bước vào. Thật tôi đúng vào ngày gặp may ! Khi vào đại sảnh, tôi thấy ông Gany, Tổng giám đốc Ngân hàng Đông Nam Á. Ông nhận ra tôi tức khắc, rất ngạc nhiên và nói ông mới tới Hồng Kông thanh tra và hỏi thăm tình cảnh tôi. Nói vắn tắt tôi kể cho ông trường hợp nào tôi tới Hồng Kông và tôi không có tiền. Tôi muốn ông ấy ứng ra cho tôi một chút. Ngay tức khắc ông ấy đưa cho tôi chừng 2000 đô la HK. Vài ngày sau, cũng tình cờ tôi được biết hội Truyền đạo Công giáo Pháp ở Nước ngoài. Hội này bằng lòng cho tôi vay một số tiền được bảo đảm bằng tài sản của hoàng gia. Tôi không còn phải lo thiếu tiền nữa và tôi dọn tới khách sạn Gloucester ở trên đường Queen’s Road… “… Cũng ở khách sạn này, vào khoảng giữa tháng 11, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tới gặp tôi. Ông là giấm đốc những đoàn thanh niên Nam bộ dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, rồi làm bộ trưởng không bộ nào của chính phủ Lâm thời tháng Tâm năm 1945 và bây giờ ông là đổng lý văn phòng của Hồ Chí Minh. – Thưa ngài, tôi từ Quảng Châu tới. Tôi được cụ Chủ tịch sai tôi đưa tin và gửi lời chào thân ái, đồng thời cũng xin ngài nhận vật này: Từ trong cập ông lấy ra một cái tráp trong đó có nhiều nén vàng. Với số vàng này tôi có thể sống được 2 tháng. – Nhờ ông cám ơn Hồ chủ tịch. Nhưng cho tôi biết hành trình qua Pháp của Hồ Chủ tịch. – Hồ Chủ tịch tới Pháp ngày 21-10… Một chính phủ mới “Đoàn kết quốc gia” được thành lập. Hồ Chủ tịch vẫn kiêm nhiệm bộ trưởng bộ Ngoại giao. Giáp là bộ trưởng bộ Quốc phòng và Phạm Văn Đồng vẫn giữ bộ kinh tế… Và chủ tịch vẫn muốn ngài làm cố vấn tối cao cho chính phủ. – Xin ông cám ơn giùm tôi về sự tin cậy của chủ tịch. Kể cho tôi những gì đã xẩy ra từ khi tôi đi Trung Quốc. – Ngài đã biết là, để thi hành Thỏa ước 6-3, người Pháp đã trở lại…. Chủ tịch đã gặp tướng Leclerc ở Hà Nội và Leclerc đã ưng thuận chính phủ chúng ta đi Paris để cụ thể hóa nền độc lập và sự thống nhất nước nhà.. Một buổi hội đàm đã diễn ra tại Đà Lạt ngày 17-4 để sửa soạn cuộc hành trình. Nguyễn Tường Tam sẽ dẫn đầu phái đoàn , chung quanh có Giáp, Vũ Trọng Khánh, Hoàng Xuân Hãn, Cù Huy Cận… Cũng có những người đại diện miền Nam. Rất mau chóng, các đại biểu ta thấy ngay là người Pháp không thành thật. Những gì là sự thật ở Hà Nội không còn như vậy ở Sài Gòn … Cuộc bàn cãi ở Đà Lạt kéo dài đến tận ngày 11-5. Mặc dầu người Pháp không thật lòng, Chủ tịch đã đi Pháp ngày 31-5, hi vọng vào sự gặp gỡ với chính phủ Pháp. Nhưng khi tới Pháp thì chính phủ đổ, Pháp không còn chính phủ nữa. ! Nghiêm trọng hơn hết là ngay sau ngày Chủ tịch đi Pháp, hôm 1-6, người Pháp thành lập ở Sài Gòn một chính phủ lâm thời Nam Kỳ với bác sĩ Thinh đứng đầu. Đó là chứng cớ sự gian dối của người Pháp…. Sau một tháng rưỡi chờ đợi, Hồ chủ tịch quyết định trở về nước. Tuy vậy, để chứng minh lòng thành thật và sự rộng lượng của dân tộc Việt Nam, trước khi rời Pháp Chủ tịch đã ưng thuận ký với tổng trưởng Marius Moutet một bản đồng tuyên ngôn thiết lập giữa Việt Nam và Pháp, một Modus vivendi (Tạm ước). “… Tôi cám ơn bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã thuyết trình và nói: – Tôi thấy bản Tạm ước trù liệu có thể đến tháng 1- 47 sẽ tiếp tục lại những cuộc bàn cãi đã bị bỏ dở ở Hội nghị Fontainebleau. Bởi vậy tôi muốn ông nói lại với Hồ chủ tịch là tôi muốn trở về Hà Nội vào lúc đó. – Thưa ngài, tôi nghĩ là Chủ tịch muốn ngài ở lại Hồng Kông trong thời gian đó, vì Hồng Kông là địa điểm quan sát tốt nhất. Dầu sao chăng nữa, Chủ tịch dặn ngài phải coi chừng bọn Pháp và những tụi Việt gian đựợc Pháp dùng để thi hành những thủ đoạn của nó.(tr 166) ” Đối với tôi, chuyện đã rõ ràng, Hồ Chí Minh không muốn tôi : Ông đã đẩy tôi đi khi người Pháp trở lại và giữ tôi ở xa trong khi có Hội nghị Đà Lạt và Fontainebleau. Ông không muốn có sự hiện diện của tôi ở Hà Nội nếu cuộc thương thuyết với người Pháp bắt đầu lại. ” Vài ngày sau, gần như cả một phái đoàn tới khách sạn Gloucester xin được tôi tiếp kiến. Từ Quảng Châu tới là 3 thủ lãnh quốc gia, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam: VNQDD. Nguyễn Hải Thần: Đồng Minh Hội. Những người này đã trốn khỏi Hà Nội từ tháng 7 để tránh bị Giáp truy hại trong lúc Hồ Chí Minh vắng mặt. Nối tiếp sau đó là Trần Trọng Kim, cũng từ Quảng Châu tới. Trần Trọng Kim hỏi tôi: – Thưa ngài, ngài tính thế nào? – Tôi đợi Hồ Chí Minh gọi tôi về. – Xin ngài đừng về Hà Nội, nguy hiểm lắm. Tại sao ngài không đi Nam Kinh với Quốc Dân Đảng theo lời mời của Tưởng Giới Thạch? – Không, tôi không đi Nam Kinh. Quốc Dân Đảng coi như là sắp tiêu tan rồi. Tưởng Giới Thạch không chống lại được áp lực của cộng sản đâu và chẳng chóng thì chày, Mao Trạch Đông sẽ toàn thắng… “… Tôi được giấy triệu tập của An ninh Anh. Gặp Cảnh sát trưởng người Anh, tôi hỏi lí do. Ông ta nói : Từ ngày ngài tới Hồng Kông tháng Mười năm ngoái, ngài thay đổi nhiều khách sạn. Chúng tôi biết ngài là ai ngay từ đầu. Tôi nhận được lệnh phải bảo đảm an ninh cho ngài. Chúng tôi dành cho ngài một cái biệt thự ở Repulsion Bay. Hai cảnh sát Trung Hoa mặc thường phục sẽ túc trực bên ngài. “… Từ khi tôi đến ở Repulssion Bay trên đảo Victoria, biệt thự của tôi trở thành một cục nam châm thu hút khách viếng thăm. Có những khách tới để đặt trước chỗ ngồi, có những khách tới để dò dẫm cho Pháp hay cho nước ngoài khác… Tôi không có ảo tưởng gì khi bỗng nhiên nhận được sự quan tâm của nhiều người : bác sĩ Phan Huy Đán, luật sư Đinh Xuân Quảng, cả 2 thuộc đảng Xã hội, VNQDD có Trần Văn Tuyên, rồi bác sĩ Lê Văn Hoạch, phó thủ tướng chính phủ Nam Kỳ, rồi Ngô Đình Diệm mà tôi nghi là con mắt của Mỹ…(tr 171) “… Ngày Toàn quốc Kháng chiến 19-12 đã đẩy Việt Minh vào một cuộc chiến tranh du kích. Theo tôi đó là cái lầm lớn nhất. Nhưng ai là người chịu trách nhiệm? ” Giáp chắc chắn là có một phần khi sửa soạn cuộc Tổng tấn công. Nhưng hình như phút cuối cùng Giáp hủy lệnh đánh. Cuộc tổng tấn công đã phá hoại đường lối chính trị được ấn định từ trước và đã đưa đến một cuộc chiến tranh quá lâu dài. “Nếu không có ngày 19-12-1946 thì gì đã có thể xẩy ra ở Việt Nam? (tr 172) Vài bình luận về những sự kiện kể trong những đoạn dịch 1) Bảo Đại cũng như hầu hết mọi người thời ấy, chỉ nghe đồn chứ không biết Việt Minh là gì, Hồ Chí Minh là ai. Người biết nhiều về Việt Minh nhất là Tạ Quang Bửu khi nói với Bảo Đại về Võ Nguyên Giáp ở Hà Nội và Trần Văn Giầu ở Sài Gòn. Nhưng ở Huế là ai? Ông Phạm khắc Hòe, ngự tiền văn phòng của Bảo Đại, được sai ra ngoài Thành Nội hỏi tin tức ai là người của Việt Minh, trở về tay không. Dễ hiểu : Việt Minh chánh cống còn ở Hà Nội, chưa kịp vào Huế. Người Việt Minh chánh cống đầu tiên vào Huế là Trần Huy Liệu mà nếu xét kỹ lí lịch thì cũng chỉ là cựu VNQDD trở cờ. Cù Huy Cận chỉ là kẻ theo đuôi. 2) Bảo Đại dù tây học, nhưng cũng như đa số người dân hồi ấy, vẫn còn mê tín, tin là ông Hồ có được mệnh trời. Hai câu sấm Trạng Trình “Bao giờ sen mọc biển Đông (Nhật), cha con nhà Nguyễn bế bồng nhau đi”, được giảng là nhằm triều đại nhà Nguyễn và “Đụn sơn phân giới… Nam đàn sinh thánh”, được cho là ứng vào Hồ Chí Minh. Những đồn đại về cụ Hồ mắt sáng như sao, có 2 con ngươi… đã áp đảo tinh thần ông Bảo Đại, khiến ông tự thấy phải thoái vị để theo đúng mệnh trời. (tr119) 3) Ngay khi mới gặp ông Hồ ở Hà Nội, Bảo Đại đã bị ông Hồ mê hoặc như cả triệu người dân Việt thời ấy. Gặp ông Hồ lần đầu tiên, Bảo Đại đã có ấn tượng tốt vì phong độ nửa đạo sĩ nửa nhà nho của ông Hồ. Nhưng cũng như 99% dân chúng Việt Nam thời đó, Bảo Đại đã bị ông Hồ mê hoặc vì 2 chữ Độc Lập và Thống Nhất. Ai cũng như ai đều cho Độc Lập là Tất cả: là thoát khỏi vòng bị trị, là tự do, là thống nhất, là Bác Hồ, là Nguyễn Ái Quốc, là kháng chiến theo con đường cộng sản. Cả triệu người Việt Nam nghe theo tiếng hô Độc lập của Bác để bị dẫn vào con đường này rồi đi lần lần tới cộng sản. 4) Bảo Đại không có thiện cảm với những người quốc gia Được mục kích những cảnh hỗn loạn ở Hà Nội gây ra bởi những đám quân Tàu, Bảo Đại ghét lây những người quốc gia vì những người này đã theo quân đội Tàu trở về Việt Nam, mặc dù trong số những người này có người muốn tôn ông làm minh chủ để đối lại với Hồ Chí Minh. 5) Bảo Đại chỉ là phát ngôn viên của ông Hồ Mang tiếng là cố vấn tối cao, không thấy Bảo Đại đưa ra ý kiến nào trong suốt thời gian làm cố vấn. Trái lại, những thông điệp gửi cho các lãnh đạo nước ngoài, tuy mang tên Bảo Đại, nhưng đều do ông Hồ tự thảo. Và khi đi cùng với ông Hồ gặp đại diện các nước Đồng Minh, những lời tuyên bố của ông Bảo Đại cũng chỉ là những lời đã được ông Hồ mướm trước. Ông Hồ chỉ dùng Bảo Đại như một phát ngôn viên và như một nhân chứng để khẳng định với Đồng Minh là Bảo Đại đã tự trao quyền hành chứ không có sự cướp đoạt quyền hành. Tuy vậy ông Hồ vẫn luôn luôn nghi ngờ Bảo Đại nên không bao giờ để cho đi một mình. Bảo Đại trái lại vẫn luôn luôn tin tưởng vào ông Hồ, luôn luôn tỏ ra trung trực với ông Hồ, ngay cả khi đã biết chắc mình đã bị bỏ rơi. Chứng cớ là khi Phạm Ngọc Thạch tới Hồng Kông đưa cho mấy nén vàng, vẫn một mực hỏi khi nào được ông Hồ gọi về. Thế mới biết sức hấp dẫn của ông Hồ mạnh đến chừng nào! 6) Đề nghị Bảo Đại thay mình là một mánh khóe của ông Hồ khi bị chống đối về dự định ký với Pháp cho Pháp trở lại Việt Nam Đề nghị này được Bảo Đại kể lại trong cuốn ” Rồng Nam ” (tr 150 ). Tôi không thấy có tài liệu nào nói đến. Có nhiều người cho là ông Bảo Đại bịa ra. Tôi, ngược lại, tin là có thật vì lí do sau đây: Để nắm trọn quyền hành trong tay, ông Hồ phải tìm cách gạt những đảng phái quốc gia ra ngoài. Muốn vậy, phải làm sao đuổi được bọn Tàu ra khỏi nước, khiến các lãnh tụ quốc gia từ trước tới nay vẫn dựa vào Tàu, nếu không muốn bị thủ tiêu, chỉ còn cách bám theo Tàu, trốn khỏi Việt Nam. Vấn đề là quân đội Tàu lấy danh nghĩa là được lệnh Đồng Minh vào Bắc Việt để giải giới quân đội Nhật, sẽ ở ỳ không bao giờ chịu về. Muốn đuổi Tàu ra khỏi nước, chỉ có cách là điều đình với Pháp, đem Pháp vào thay thế Tàu. Nhưng làm như vậy ông Hồ sẽ mất mặt với toàn dân và Việt Minh sẽ mất chính nghĩa giành độc lập. Các đảng phái Quốc gia, vì sự sống còn của mình, sẽ nhao nhao chống đối, sẽ giành được chính nghĩa, huy động toàn dân đánh Pháp với súng ống của quân Tàu giải giới Nhật để lại. Lực lượng Việt Minh hồi ấy thật ra cũng chả mạnh hơn gì các đảng phái quốc gia tuy được phóng đại vì khéo tuyên truyền, sẽ chỉ còn cách chạy ra khỏi nước. Nhưng đi đâu ? Tàu Mao thì còn quá xa ! Không có lẽ lại trốn qua Pháp, nương tựa vào đảng Cộng sản Pháp ? Ông Hồ thấy chỉ còn một giải pháp là đưa Bảo Đại lên thay mình. Tất nhiên là Bảo Đại sẽ chỉ là chủ tịch bù nhìn với một nội các bù nhìn, còn mọi quyền hành thật sự vẫn nằm trong tay “Cố vấn” Hồ Chí Minh. Trách nhiệm về chuyện ký với Tây, đem Tây trở lại sẽ đổ lên đầu ông Bảo Đại hết ! Ngoài ra, một khi ông Bảo Đại đã dính với ông Hồ, các đảng phái quốc gia cũng không còn có thể tôn ông làm minh chủ thay thế ông Hồ trước mặt toàn dân được.. Ông Bảo Đại mãi về sau mới hiểu lí do vì sao có sự thay đổi của ông Hồ : Với vàng bạc của “Tuần lễ vàng”, ông Hồ đã đút lót tướng Tiêu Văn để viên tướng này nói với chủ tướng của mình là tướng Lư Hán làm áp lực với các lãnh tụ quốc gia, đặc biệt là VNQDD, tham gia chính phủ Hồ Chí Minh và cùng ký thỏa ước với Pháp. Không biết các lãnh tụ này được Tiêu Văn thí cho bao nhiêu cây vàng. Nhưng đã tự đào hố chôn mình. Và ông Hồ thấy “Giải pháp Bảo Đại ” của mình không cần thiết nữa! Nhưng ông Bảo Đại vẫn bị ông Hồ gài vào cái bẫy ” Thỏa ước 6-3 ” khi được ông Hồ cho cái hân hạnh mỗi tối cùng ông thảo cái bản thỏa ước này. Lịch sử khó mà kết tội ông Hồ đã đem Tây vào vì tự ông Bảo Đại đưa ra chứng cớ là đã cùng ông Hồ thảo bản Thỏa ước và các đảng Quốc gia cũng há miệng mắc quai vì bản Thỏa ước có chữ ký của Vũ Hồng Khanh. 7) Còn một nghi vấn nữa: Bảo Đại, sau khi tham dự phái đoàn đi gặp Tưởng Giới Thạch, đã cố ý ở lại hay bị ông Hồ bỏ rơi? Có nhiều người cho là Bảo Đại đã lợi dụng tham gia phái đoàn qua Tàu, trốn ở lại. Tôi thì nghĩ ông Bảo Đại đã bị ông Hồ vắt chanh bỏ vỏ: - Nếu thật sự ông Bảo Đại muốn ở lại thì ngay khi gặp Tưởng Giới Thạch đã xin ở lại, đã không can thiệp để phái đoàn của ông Hồ được Tưởng Giới Thạch tiếp. Và nhất là khi gặp tướng Marshall, đã không khẳng định chính phủ Hồ Chí Minh là chính phủ đoàn kết quốc gia được Hồ Chí Minh thành lập với ý chí thực hiện độc lập và thống nhất, hai khát vọng của dân tộc Việt Nam và đã không nói xấu chế độ Quốc dân đảng Tàu. - Nếu thật sự muốn ở lại thì sao sau hơn 3 tuần ở Trùng Khánh (Từ 23-3 đến 15-4 ), lại theo phái đoàn đi Côn Minh để đổi máy bay trở về Hà Nội - Chuyện sắp lên máy bay trở về Hà Nội thì nhận được tin nhắn của ông Hồ nói ở lại, cũng khả tín. Chắc chắn là tin nhắn này đã được ông Hồ viết từ trước và đưa cho một người thân tín trong phái đoàn để phút cuối cùng mới đưa cho ông Bảo Đại, gây bất ngờ để ông Bảo Đại không kịp phản ứng, không kịp nghĩ đến vợ con còn ở Việt Nam, quần áo không có, một xu dính túi cũng không. Chẳng qua là ông Hồ, sau khi đã lợi dụng đến tận cùng ông Bảo Đại để làm lá chắn cho mình trước mặt Đồng Minh và đã ký được thỏa ước đem quân Pháp vào thay thế quân Tàu, thì thấy đã đến lúc vứt vỏ vì đã vắt hết chanh. Kết luận Ông Hồ đã 2 lần lầm lỡ: Lần thứ Nhất: Ngay từ đầu năm 1946, để đuổi Tàu Quốc, ông Hồ đã đề nghị Bảo Đại thay mình làm chủ tịch nước, điều đình với Pháp để Pháp thay thế Tàu rồi lại trở mặt! Hậu quả : 8 năm chiến tranh chống Pháp cho Tàu và đất nước bị chia đôi. Lần thứ Hai nặng hơn nhiều: Đẩy Bảo Đại ra khỏi nước. Nếu còn giữ Bảo Đại trong nước thì năm 1950 khi Mao chiến thắng tới sát biên giới, để tránh phải phụ thuộc Tàu Cộng, ông Hồ đã có thể lấy lại cái “giải pháp Bảo Đại” năm 1946 của mình. Không những đã rút ngắn chiến tranh Việt Pháp được 4 năm, mà cái quan trọng hơn hết là sẽ không có cuộc nội chiến kéo dài thêm 20 năm với 4 triệu người chết, với hậu quả là đất nước ngày nay thuộc quỹ đạo Tàu không biết bao giờ mới thoát khỏi! Đó là cái tội lớn nhất của ông Hồ đối với lịch sử. Phong Uyên
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 16, 2016 4:41:52 GMT 9
VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội-1979
Phụ trách bản đưa in: Phạm Xuyên, Nguyễn Hanh Trình bày bìa: Nghiêm Xuân Thành In 5.100 cuốn, khổ 12,5x19 tại Nhà máy in Tiến bộ-Hà Nội. Số in 528, Số XB 15/79 Xong ngày 15 tháng 4 năm 1979. Nộp lưu chiểu tháng 4-1979 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền. Đường biên giới Việt Nam và Trung Quốc đã hình thành rõ rệt trong nhiều thế kỷ trước. Đã nhiều lần trong lịch sử, nước ta đã cử các sứ bộ sang Trung Quốc họp hoặc hội nghị với Trung Quốc (như hai cuộc Hội nghị Vĩnh Bình giữa nhà Lý và nhà Tống năm 1033 và năm 1084 ) để ấn định biên cương. Đến thế kỷ thứ XIX đế quốc Pháp thiết lập chế độ thực dân ở nước ta, Chính phủ Pháp nhân danh Việt Nam và triều đình nhà Thanh ký các Công ước 1887, 1895 giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam và Trung Quốc, chính thức công nhận đường biên giới đó. Đồng thời đường biên giới đó được cụ thể hoá bằng 310 cột mốc quốc giới, trên thực địa đã có phần lợi cho phía Trung Quốc. Mặc dù vậy, để xây dựng biên giới hữu nghị lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc vì lợi ích của cả hai dân tộc, tháng 12 năm 1957, Ban Chấp hành trung ương Đảng ta đã đề nghị nguyên tắc giữ nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại, mọi vấn đề biên giới và lãnh thổ phải do hai Chính phủ quyết định, mọi vấn đề tranh chấp có thể xảy ra về biên giới và lãnh thổ cần được giải quyết bằng thương lượng hoà bình. Tháng 4 năm 1958 phía Trung Quốc trả lời đồng ý với đề nghị của Đảng ta. Nhưng trong thực tế, thái độ của phía Trung Quốc trái ngược hẳn. Thi hành chính sách bành trướng đại dân tộc và học đòi thái độ hống hách đè nén các dân tộc, các nước láng giềng của các triều đại phong kiến trước đây, nhà cầm quyền Bắc Kinh trong nhiều năm nay đã gây ra bao nhiêu vụ khiêu khích biên giới, lấn chiếm đất đai của Việt Nam, phá hoại hai cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1974 và năm 1977-1978 để giải quyết vấn đề biên giới. Ngày 17 tháng 2 năm 1979 họ lại phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, ồ ạt tiến đánh 6 tỉnh của Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc với 60 vạn quân. Để giúp bạn đọc hiểu được thực chất của vấn đề biên giới Việt –Trung, thấy rõ thiện chí của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta, thái độ phản trắc của những người cầm quyền Trung Quốc, Nhà xuất bản Sự Thật xuất bản cuốn sách này. Cuốn sách gồm toàn bộ bản “ Bị vong lục của Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc nhà cầm quyền Trung Quốc gây khiêu khích, xâm lấn lãnh thổ Việt nam ở vùng biên giới” công bố ngày 15 tháng 3 năm 1979 tại Hà Nội. Chúng tôi chú thích thêm một số điểm ở cuối sách để bạn đọc tham khảo. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 3 năm 1979 NHÀ XUẤT BẢN SỰ THẬT
******************************************
VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC I- Sự hình thành biên giới lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc và sự thoả thuận năm 1957-1958 về biên giới giữa hai nước. 1-- Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng giáp giới nhau trên đất liền và trên biển (vịnh Bắc Bộ). Đường biên giới giữa hai nước đã được hình thành qua quá trình lịch sử lâu dài. Trước khi bị Pháp áp đặt chế độ thực dân, Việt Nam đã là một nước độc lập có chủ quyền, có đường biên giới rõ rệt, ổn định với Trung Quốc. Cách đây gần 100 năm, Chính phủ Pháp và triều đình nhà Thanh Trung Quốc đã ký kết các Công ước 1887-1895 giải quyết vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, chính thức công nhận về cơ bản đường biên giới vốn có đó. Việc hoạch định biên giới đã được hai bên cùng tiến hành theo từng đoạn từ tháng 1 năm 1886 đến tháng 3 năm 1887; ngày 26 tháng 6 năm 1887 hai Chính phủ nói trên đã ký Công ước hoạch định biên giới tại Bắc Kinh. Điều 1 của Công ước này đã hoạch định đoạn biên giới giữa Việt Nam với các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và một phần tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Điều 2 của Công ước đã hoạch định biên giới trong vịnh Bắc Bộ và đoạn biên giới giữa Việt Nam và phần còn lại của tỉnh Vân Nam cho đến Sông Đà. Chính phủ Pháp và triều đình nhà Thanh lại ký tại Bắc Kinh Công ước ngày 20 tháng 6 năm 1895 bổ sung cho Công ước năm 1887 nói rõ thêm về đoạn biên giới giữa Việt Nam và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) 1. Việc cắm mốc đã được tiến hành từ đầu năm 1890 đến tháng 6 năm 1897. Hệ thống mốc giới gồm trên 310 mốc đã cụ thể hoá đường biên giới trên thực địa; nói chung các mốc giới đó còn tồn tại cho đến ngày nay. Thực tế, từ ngày ký các Công ước, các chính quyền kế tiếp nhau ở hai bên đều thực hiện chủ quyền trong vùng đất và phần vịnh Bắc Bộ do đường biên giới phân định. Tuy nhiên các chính quyền phản động của Trung Quốc từ 1949 về trước cũng đã lấn chiếm trên 60 điểm của Việt Nam. Như vậy, đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc chạy suốt trên đất liền và trong vịnh Bắc Bộ đã được hoạch định rõ ràng trong các Công ước ký kết giữa Chính phủ Pháp và triều đình nhà Thanh trong những năm 1887-1895 và đã được chính thức cắm mốc ( trên đất liền). Đó là một đường biên giới hoàn chỉnh cả trên trên đất và trong vịnh Bắc Bộ, có cơ sở lịch sử trong đời sống chính trị lâu đời của hai dân tộc, có giá trị pháp lý quốc tế vững chắc, có đầy đủ yếu tố thực tế để nhìn nhận tại thực địa. Qua các văn kiện trao đổi, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần xác nhận đường biên giới lịch sử đó. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cuộc đàm phán và ký kết Công ước hoạch định biên giới đã được tiến hành song song với việc đàm phán ký kết Công ước về thương mại giữa Pháp và nhà Thanh. Triều đình nhà Thanh ra sức liên kết hai vấn đề này để gây sức ép với Pháp. Trong quá trình thương lượng, vì mục đích sớm mở rộng buôn bán với Trung Quốc, thành lập các lãnh sự quán Pháp trên đất Trung Quốc và nhanh chóng thực hiện kế hoạch bình định Việt Nam, Pháp đã cắt nhượng cho nhà Thanh mũi Bắc Luân, vùng Giang Bình, tổng Tu Long và một số nơi khác, làm thiệt hại cho nhân dân Việt Nam. 2--Mặc dù vậy, tháng 11 năm 1957, Ban Chấp hành trung ương Đảng Lao Động Việt Nam ( tức Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay) đã nêu với phía Trung Quốc: hai bên giữ nguyên trạng 2 đường biên giới do lịch sử để lại, vấn đề quốc giới là vấn đề quan trọng nên cần được giải quyết theo những nguyên tắc pháp lý đang có hoặc được xác định lại và phải do Chính phủ hai nước quyết định, mọi tranh chấp có thể xảy ra về biên giới, lãnh thổ cần được giải quyết bằng thương lượng. Đây là một chủ trương đúng đắn, hợp tình hợp lý, phù hợp với thực tế lịch sử và luật pháp quốc tế. Tháng 4 năm 1958, Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý với đề nghị của phía Việt Nam. Sự thoả thuận nói trên của hai Đảng có ý nghĩa nguyên tắc và thực tiễn to lớn vì không những để giải quyết các vấn đề bất đồng về biên giới và lãnh thổ mà còn để xây dựng đường biên giới hữu nghị lâu dài giữa hai nước. Đó là những ý nghĩ chân thành và lòng mong muốn thật sự của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam, cho nên phía Việt Nam luôn luôn triệt để tôn trọng sự thoả thuận giữa hai Trung ương Đảng. Nhưng thái độ của phía Trung Quốc lại trái ngược hẳn, họ vi phạm ngày càng nghiêm trọng sự thoả thuận đó và không tôn trọng nguyên tắc giữ nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại và đã lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở 90 điểm trên toàn tuyến biên giới Việt Trung từ 1949 đến nay.
II- Tình hình Trung quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay. Trong một phần tư thế kỷ vừa qua, nhà cầm quyền Trung Quốc đã lần lượt lấn chiếm hết khu vực này đến khu vực khác của Việt nam, từ khu vực nhỏ hẹp đến khu vực to lớn, từ khu vực quan trọng về quân sự đến khu vực quan trọng về kinh tế. Họ đã dùng đủ mọi thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn xấu xa mà các chế độ phản động của Trung Quốc trước kia không dùng. 1--Từ xâm canh, xâm cư đến xâm chiếm đất. Lợi dụng đặc điểm là núi sông hai nước ở nhiều nơi liền một dải, nhân dân hai bên biên giới vốn có quan hệ họ hàng, dân tộc, phía Trung Quốc đã đưa dân họ vào những vùng lãnh thổ Việt Nam để làm ruộng, làm nương rồi định cư những người dân đó ở luôn chỗ có ruộng nương, cuối cùng nhà cầm quyền Trung Quốc ngang ngược coi những khu vực đó là lãnh thổ Trung Quốc. + Khu vực Trình Tường thuộc tỉnh Quảng Ninh là một thí dụ điển hình cho kiểu lấn chiếm đó. Khu vực này được các văn bản và các bản đồ hoạch định và cắm mốc xác định rõ ràng là thuộc lãnh thổ Việt Nam: đường biên giới lịch sử tại đây đi qua một dãy núi cao, chỉ rõ làng Trình Tường và vùng chung quanh là lãnh thổ Việt Nam. Trên thực tế, trong bao nhiêu đời qua, những người dân Trình Tường, những người Trung Quốc sang quá canh ở Trình Tường đều đóng thuế cho nhà đương cục Việt Nam. Nhưng từ năm 1956 phía Trung Quốc tìm cách nắm số dân Trung Quốc sang làm ăn ở Trình Tường bằng cách cung cấp cho họ các loại tem phiếu mua đường, vải và nhiều hàng khác, đưa họ vào công xã Đồng Tâm thuộc huyện Đông Hưng, khu tự trị Choang-Quảng Tây. Nhà đương cục Trung Quốc nghiễm nhiên biến một vùng lãnh thổ Việt Nam dài 6 km, sâu hơn 1,3 km thành sở hữu tập thể của một công xã Trung Quốc, thành lãnh thổ Trung Quốc. Từ đó, họ đuổi những người Việt Nam đã nhiều đời nay làm ăn sinh sống ở Trình Tường đi nơi khác, đặt đường dây điện thoại, tự cho phép đi tuần tra khu vực này, đơn phương sửa lại đường biên giới sang đồi Khâu Thúc của Việt Nam. Tiếp đó họ đã gây ra rất nhiều vụ hành hung, bắt cóc công an vũ trang Việt Nam đi tuần tra theo đường biên giới lịch sử và họ phá hoại hoa màu của nhân dân địa phương. Trình Tường không phải là một trường hợp riêng lẻ, còn đến trên 40 điểm khác mà phía Trung Quốc tranh lấn với thủ đoạn tương tự như xã Thanh Loa, huyện Cao Lộc (mốc 25, 26, 27) ở Lạng Sơn, Khăm Khau (mốc 17-19) ở Cao Bằng, Tà Lùng, Làn Phù Phìn, Minh Tân (mốc 14) ở Hà Tuyên, khu vực xã Nặm Chay (mốc 2-3) ở Hoàng Liên nSơn với chiều dài hơn 4 km, sâu hơn 1 km, diện tích hơn 300 ha. Có thể nói đây là một kiểu chiếm đất một cách êm lặng. 2--Lợi dụng việc xây dựng các công trình hữu nghị để đẩy lùi biên giới sâu vào lãnh thổ Việt Nam. Năm 1955, tại khu vực Hữu Nghị Quan, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới Việt-Trung đến Yên Viên gần Hà Nội, lợi dụng lòng tin của Việt nam, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt Trung sâu trong lãnh thổ Việt nam trên 300 m so với đường biên giới lịch sử, coi điểm nối ray là điểm mà đường biên giới giữa hai nước đi qua. Ngày 31 tháng 12 năm 1974, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã đề nghị Chính phủ hai nước giao cho ngành đường sắt hai bên điều chỉnh lại điểm nối ray cho phù hợp với đường biên giới lịch sử nhưng họ một mực khước từ bằng cách hẹn đến khi hai bên bàn toàn bộ vấn đề biên giới thì sẽ xem xét. Cho đến nay họ vẫn trắng trợn nguỵ biện rằng khu vực hơn 300 m đường sắt đó là đất Trung Quốc với lập luận rằng “ không thể có đường sắt của nước này đặt trên lãnh thổ nước khác”. Cũng tại khu vực này, phía Trung Quốc đã ủi nát mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100 m trên đường quốc lộ để xoá vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột kilômét số 0 đường bộ sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100 m, coi đó là vị trí đường quốc giới giữa hai nước ở khu vực này. Như vậy họ đã lấn chiếm một khu vực liên hoàn từ đường sắt sang đường bộ thuộc xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn của Việt nam dài 3,1 km và vào sâu đất Việt Nam 0,5 km. Năm 1975 tại khu vực mốc 23 (xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn) họ định diễn lại thủ đoạn tương tự khi hai bên phối hợp đặt đường ống dẫn dầu chạy qua biên giớ, phía Việt Nam đề nghị đặt điểm nối ống dẫn dầu đúng đường biên giới, họ đã từ chối, do đó bỏ dở công trình này. Khi xây dựng các công trình cầu cống trên sông suối biên giới, phía Trung Quốc cũng lợi dụng việc thiết kế kỹ thuật là thay đổi dòng chảy của sông suối về phía Việt nam để nhận đường biên giới có lợi cho phía Trung Quốc. Cầu ngầm Hoành Mô thuộc tỉnh Quảng Ninh được Trung Quốc giúp xây dựng vào năm 1968. Một thời gian dài sau khi cầu được xây dựng xong, hai bên vẫn tôn trọng đường biên giới ở giữa cầu, vật liệu dự trữ để sửa chữa cầu sau này cũng được đặt ở mỗi bên với số lượng bằng nhau tính theo đường biên giới giữa cầu. Nhưng do Trung Quốc có sẵn ý đồ chỉ xây một cống nước chảy nằm sát bờ Việt nam nên lưu lượng dòng chảy đã chuyển hẳn sang phía Việt Nam, từ đó phía Trung Quốc dịch đường biên giới trên cầu quá sang đất Việt Nam. Thủ đoạn như vậy cũng được thực hiện đối với cầu Pò Hèn (Quảng Ninh), đập Ái Cảnh (Cao Bằng), cầu Ba Nậm Cúm ( Lai Châu)…
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 16, 2016 4:46:55 GMT 9
3--Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam. Trên đoạn biên giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi, phía Trung Quốc đã tự tiện mở rộng xây dựng các công trình để từng bước xâm lấn đất. Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 20 tháng 2 năm 1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc. Các thị trấn Ái Điểm (đối diện với Chi Ma, Lạng Sơn), Bình Mãng (đối diện Sóc Giang, Cao Bằng) vốn đã nằm sát các mốc giới 43 và 114 lại ngày càng được phía Trung Quốc mở rộng ra lấn sang đất Việt Nam từ hàng chục đến hàng trăm mét với công trình, nhà cửa, trường học, khu phố… Bằng cách tổ chức lâm trường, trồng cây gây rừng, làm đường chắn lửa, đặt hệ thống điện cao thế, điện thoại lấn vào lãnh thổ Việt Nam, Trung Quốc đã biến nhiều vùng đất khác của Việt Nam thành đất của Trung Quốc.
4-- Từ mượn đất của Việt Nam đến biến thành lãnh thổ của Trung Quốc. Ở một số địa phương do địa hình phức tạp, điều kiện sinh hoạt của dân cư Trung Quốc gặp khó khăn, theo yêu cầu của phía Trung Quốc, Việt Nam đã cho phía Trung Quốc mượn đường đi lại, cho dùng mỏ nước, cho chăn trâu, lấy củi, đặt mồ mả…trên đất Việt Nam. Nhưng lợi dụng thiện chí đó của Việt Nam, họ đã dần dần mặc nhiên coi những vùng đất mượn này là đất Trung Quốc. Khu vực Phia Un (mốc 94-95) thuộc huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng là điển hình cho kiểu lấn chiếm này. Tại đây, mới đầu phía Trung Quốc mượn con đường mòn rồi tự ý mở rộng mặt đường để ô tô đi lại được vào khu vực mỏ của Trung Quốc, đặt đường dây điện, đưa dân đến ở ngày càng đông, lập làng bản mới. Dựa vào “ thực tế” đó, từ 1956 họ không thừa nhận đường biên giới lịch sử chạy trên đỉnh núi Phia Un mà đòi biên giới chạy xa về phía nam con đường, sâu vào đất Việt Nam trên 500 mét. Lý lẽ của họ là nếu không phải đất của Trung Quốc sao họ lại có thể làm đường ô tô, đặt đường điện thoại được…Nguyên nhân chủ yếu của việc họ lấn chiếm là vì khu vực Phia Un có mỏ măng gan.
5--Xê dịch và xuyên tạc pháp lý các mốc quốc giới để sửa đổi đường biên giới. Ngoài việc lợi dụng một số mốc giới đã bị Trung Quốc xê dịch từ trước sai với nguyên trạng đường biên giới lịch sử để chiếm giữ trái phép đất Việt Nam, nay phía Trung Quốc cũng tự ý di chuyển mốc ở một số nơi hoặc lén lút đập phá, thủ tiêu các mốc không có lợi cho họ như ở khu vực Chi Ma (Lạng Sơn), khu vực mốc 136 ở Cao Bằng…Đối với những trường hợp như vậy, họ đều khước từ đề nghị của phía Việt Nam về việc hai bên cùng điều tra và lập biên bản xác nhận. Ngay tại một số nơi mà vị trí mốc giới đặt đúng với đường biên giới lịch sử, họ cũng tìm cách xuyên tạc đường biên giới đã rõ ràng chạy giữa hai mốc như khu vực Kùm Mu-Kim Ngân-Mẫu Sơn (mốc 41, 42, 43) ở Lạng Sơn dài trên 9 km, sâu vào đất Việt Nam 2,5 km, diện tích gần 1000 ha, khu vực Nà Pảng-Kéo Trình (mốc 29, 30, 31) ở Cao Bằng dài 6,45 km sâu vào đất Việt Nam 1,3 km, diện tích gần 200 ha. 6-- Làm đường biên giới lấn sang đất Việt Nam Để chuẩn bị cho các cuộc tấn công xâm lược Việt Nam, liên tiếp trong nhiều năm trước, phía Trung Quốc đã thực hiện kế hoạch làm đường biên giới quy mô lớn nấp dưới danh nghĩa là để “ cơ giớ hoá nông nghiệp”. Đặc biệt là từ năm 1974 tại đây, họ đã mở ồ ạt những chiến dịch làm đường, có nơi huy động một lúc 8.000 người vào công việc này. Trong khi làm các đường đó, họ đã phá di tích về đường biên giới lịch sử, nhiều nơi họ đã lấn vào lãnh thổ Việt Nam, chỉ tính từ tháng 10 năm 1976 đến năm 1977, bằng việc làm đường biên giới họ đã lấn vào đất Việt Nam hàng chục điểm, có điểm diện tích rộng trên 32 ha, sâu vào đất Việt Nam trên 1 km như khu vực giữa mốc 63-65 thuộc huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng hay khu vực giữa mốc 1-2 Cao Ma Pờ thuộc tỉnh Hà Tuyên dài 4 km, sâu vào đất Việt Nam 2 km. 7-- Lợi dụng việc vẽ bản đồ giúp Việt Nam để chuyển dịch đường biên giới. Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong.
8-- Dùng lực lượng vũ trang uy hiếp và đóng chốt để chiếm đất. Trên một số địa bàn quan trọng, phía Trung Quốc trắng trợn dùng lực lượng vũ trang để cố đạt tới mục đích xâm lấn lãnh thổ. Tại khu vực Trà Mần-Suối Lũng (mốc 136-137) thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng, năm 1953 Trung Quốc đã cho một số hộ dân Trung Quốc sang xâm cư ở cùng với dân của Việt Nam; sau đó họ tiếp tục đưa dân sang thêm hình thành ba xóm với 16 hộ, 100 khẩu mà họ đặt tên là Si Lũng theo tên một làng của Trung Quốc gần đó. Tuy thế cho đến năm 1957 phía Trung Quốc vẫn thừa nhận khu vực này là đất của Việt Nam. Từ năm 1967 trở đi, họ tiến hành việc dựng trường học, bắc dây truyền thanh, đào hố khai thác than chì rồi ngang nhiên cắm cờ biểu thị chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Tháng 6 năm 1976 họ đã trắng trợn đưa lực lượng vũ trang đến đóng chốt để đàn áp quần chúng đấu tranh và ngăn cản việc tuần tra của Việt nam vào khu vực này, chiếm hẳn một vùng đất Việt Nam trên 3,2 km có mỏ than chì. Ở khu vực giữa mốc 2-3 thuộc xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Hoàng Liên Sơn cũng xảy ra tình hình như vậy. Năm 1967-1968, nhiều hộ người Mèo thuộc huyện Mã Quan, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc chạy sang định cư ở đây. Phía Việt Nam đã yêu cầu phía Trung Quốc đưa số dân đó trở về Trung Quốc, nhưng họ đã làm ngơ, lại tiếp tục tăng số dân lên đến 36 hộ gồm 152 người, vào vùng này thu thuế, phát phiếu vải cho dân, đặt tên cho xóm dân Mèo này là “ Sìn Sài Thàng”, tên của một bản Trung Quốc ở bên kia biên giới cách khu vực này 3 km. Mặc dù phía Việt Nam đã nhiều lần kháng nghị, họ vẫn không rút số dân đó đi, trái lại, đầu năm 1976 còn đưa lực lượng vũ trang vào đóng chốt chiếm giữ. Nay họ đã lập thêm đường dây điện thoại, loa phóng thanh, dựng trường học, tổ chức đội sản xuất , coi là lãnh thổ Trung Quốc.
9-- Đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Quần đảo Hoàng Sa ( mà Trung Quốc gọi là Tây Sa) cách Đà Nẵng khoảng 120 hải lý về phía đông. Phía Việt Nam có đầy đủ tài liệu để chứng minh rằng quần đảo này cũng như quần đảo Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Nam Sa) ở phía nam là lãnh thổ Việt nam. Từ lâu, nhân dân Việt nam đã phát hiện và khai thác quần đảo Hoàng Sa, nhà Nguyễn đã chính thức thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo đó. Sau khi thiết lập chế độ bảo hộ nước Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX, Pháp nhân danh nước Việt Nam đã lập tại quần đảo đó hai đơn vị hành chính, một trạm khí tượng mà các số liệu được cung cấp liên tục trong mấy chục năm cho Tổ chức Khí tượng thế giới (OMM) dưới ký hiệu Hoàng Sa (Pattle). Việt Nam đã lên tục thực hiện chủ quyền của mình đối với quần đảo này. Vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa là rõ ràng và không thể chối cãi. Nhưng sau khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam theo các quy định của Hiệp định Pa-ri ngày 27 tháng 1 năm 1973, và nhân lúc nhân dân Việt Nam đang đẩy mạnh cuộc đấu tranh để giải phóng miền nam Việt Nam và nguỵ quyền miền nam sắp sụp đổ, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã trắng trợn dùng lực lượng vũ trang chiếm quần đảo Hoàng Sa. Cách họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa vẫn là cách họ đã dùng để lấn chiếm đất đai của các nước láng giềng, nhưng với một sự phản bội hèn hạ vì họ luôn khoe khoang là “hậu phương đáng tin cậy của nhân dân Việt Nam anh em”. Đại để sự kiện diễn biến như sau: - Ngày 26 tháng 12 năm 1973, Bộ Ngoại giao Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông báo cho Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa biết ý định của mình sẽ tiến hành thăm dò dầu lửa trong vịnh Bắc Bộ và đề nghị hai nước tiến hành đàm phán để xác định chính thức biên giới giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ. - Ngày 11 tháng 1 năm 1974, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố quần đảo Tây Sa (tức là Hoàng Sa của Việt Nam), quần đảo Nam Sa ( tức là Trường Sa của Việt Nam) là lãnh thổ của Trung Quốc và không cho ai xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của Trung Quốc. - Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Chính phủ Trung Quốc trả lời phía Việt Nam, đại ý nói: đồng ý đề nghị đàm phán về vịnh Bắc Bộ, nhưng không đồng ý cho nước thứ ba vào thăm dò, khai thác vịnh Bắc Bộ, thực tế là họ ngăn cản Việt Nam hợp tác với Nhật Bản, Pháp, Ý trong việc thăm dò, khai thác thềm lục địa Việt Nam trong vịnh Bắc Bộ. - Ngày 19 tháng 1 năm 1974, với một lực lượng lớn hải quân và không quân, Trung Quốc tiến đánh quân đội của chính quyền Sài Gòn đóng ở quần đảo Hoàng Sa và họ gọi cuộc hành quân xâm lược quần đảo này là “cuộc phản công tự vệ” Từ năm 1973 về trước, phía Trung Quốc đã lấn chiếm, gây khiêu khích ở nhiều nơi trên biên giới Việt-Trung. Từ khi họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, các sự kiện biên giới do họ gây ra, các vụ lấn chiếm đất đai Việt Nam ngày càng tăng: Năm 1974: 179 vụ Năm 1975: 294 vụ Năm 1976: 812 vụ Năm 1977: 873 vụ Năm 1978: 2175 vụ.
******************************** III- Hai cuộc đàm phán giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc để giải quyết những vấn đề biên giới giữa hai nước. Năm 1957-1958 hai bên thoả thuận cùng với việc giữ nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại sẽ tiến hành các cuộc hội đàm cấp tỉnh để giải quyết những vấn đề cụ thể thuộc về dân sinh và trật tự trị an ở vùng biên giới hai nước. Từ đó đã có nhiều cuộc họp giữa các địa phương và đã đi đến một số quy định về việc đi lại, buôn bán, thăm hỏi…giữa nhân dân các tỉnh biên giới. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề lãnh thổ phải do Chính phủ hai nước tiến hành đàm phán. Vì vậy đã có hai cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao năm 1974 và năm 1977-1978. Cuộc đàm phán lần thứ nhất: Nhằm phục vụ công cuộc xây dựng đất nước, ngày 26 tháng 12 năm 1973, Chính phủ Việt Nam đã đề nghị với Chính phủ Trung Quốc mở cuộc đàm phán giữa hai Chính phủ để xác định chính thức đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ. Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Chính phủ Trung Quốc nhận lời đàm phán nhưng đòi không được tiến hành công tác thăm dò trong một khu vực hình chữ nhật giữa vĩ tuyến 18 độ-20 độ, kinh tuyến 107 độ-108 độ và “không để nước thứ ba vào thăm dò vịnh Bắc Bộ” với mục đích ngăn cản Việt Nam khai thác những tài nguyên của mình trong thềm lục địa Việt Nam. Ngày 15 tháng 8 năm 1974 cuộc đàm phán được tiến hành ở Bắc Kinh. Công ước Pháp-Thanh 1887, Điều 2 đã nói rõ: Kinh tuyến Pa-ri 105 độ 43’ kinh độ đông ( nghĩa là kinh tuyến Grin-uých 108 độ 03’13’’) là đường biên giới giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ. Phía Việt nam sẵn sàng bàn với phía Trung Quốc để xác định về cửa vịnh Bắc Bộ, từ đó đi đến xác định chính thức đường biên giới trong vịnh. Phía Trung Quốc hoàn toàn phủ nhận Điều 2 của Công ước 1887, không coi đường kinh tuyến nói trên là đường biên giới, một mực nói rằng trong vịnh Bắc Bộ xưa nay chưa hề có đường biên giới, nay hai nước phải bàn bạc để phân chia. Mặc dù phía Việt Nam tuyên bố sẵn sàng nghe ý kiến của phía Trung Quốc, nhưng họ chỉ nói một cách chung chung là nếu theo đường kinh tuyến đó thì họ “được phần nhỏ quá, còn phía Việt Nam được phần lớn quá”, cho nên phải “phân chia công bằng, hợp lý”, nhưng họ cũng không chịu đưa ra một phương án nào cụ thể, cố tình kéo dài cuộc đàm phán. Cuối tháng 11 năm 1974 cuộc đàm phán phải tạm ngừng. Cuộc đàm phán lần thứ hai. Ngày 18 tháng 3 năm 1975, Chính phủ Trung Quốc đề nghị với Chính phủ Việt Nam mở cuộc đàm phán giữa hai Chính phủ về vấn đề biên giới trên bộ giữa hai nước vào năm 1975. Ngày 12 tháng 4 năm 1975, Chính phủ Việt Nam trả lời đồng ý về nguyên tắc, nhưng vì trước mắt đang bận nhiều việc do sự phát triển của tình hình giải phóng miền nam Việt Nam nên Chính phủ Việt Nam đề nghị lùi cuộc đàm phán vào một thời gian thích hợp. Trong lúc chờ đợi, phía Việt Nam đề nghị hai bên mở lại các cuộc hội đàm giữa các tỉnh biên giới, nhưng những cuộc đàm phán này cũng không đưa lại kết quả gì, trong khi đó phía Trung Quốc ngày càng tăng cường vi phạm và khiêu khích ở biên giới Việt Nam-Trung Quốc. Ngày 7 tháng 10 năm 1977, cuộc đàm phán bắt đầu tại Bắc Kinh giữa đại biểu Chính phủ Việt Nam và đại biểu Chính phủ Trung Quốc để giải quyết những vấn đề về biên giới trên bộ và trong vịnh Bắc Bộ. Phía Việt Nam một lần nữa khẳng định hai bên cần triệt để tôn trọng Công ước 1887 và 1895 về đường biên giới trên bộ và trên biển, vì vậy cần bàn về về toàn bộ đường biên giới. Phía Trung Quốc một mực chỉ muốn bàn vấn đề biên giới trên bộ. Cuộc đàm phán gặp khó khăn. Để đưa cuộc đàm phán tiến lên, phía Việt Nam đồng ý bàn vấn đề biên giới trên bộ trước, vấn đề biên giới trong vịnh Bắc Bộ sau. Nhưng phía Trung Quốc vẫn không chịu bàn. Họ đòi phía Việt Nam phải từ bỏ quan điểm cho rằng trong vịnh Bắc Bộ đã có đường biên giới thì họ mới bàn vấn đề biên giới trên bộ. Để tìm lối thoát, phía Việt Nam lại đề nghị hai bên đi ngay vào bàn vấn đề biên giới trên bộ, còn bất đồng về vịnh Bắc Bộ mỗi bên giữ ý kiến của mình và sẽ bàn sau. Trên cơ sở những đề nghị của Việt Nam và những đề nghị của Trung Quốc, phía Việt Nam đã đưa ra một bản dự thảo Hiệp định về đường biên giới quốc gia trên bộ giữa hai nước để hai bên cùng bàn bạc. Toàn văn bản dự thảo Hiệp định như sau:
DỰ THẢO HIỆP ĐỊNH VỀ ĐƯỜNG BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRÊN BỘ GIỮA NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG HOÀ NHÂN DÂN TRUNG HOA Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Xuất phát từ lòng mong muốn không ngừng củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và tình hữu nghị vĩ đại truyền thống trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc; Nhằm mục đích xây dựng đường biên giới hữu nghị lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc, phù hợp với nguyện vọng tha thiết và lợi ích cơ bản của nhân dân hai nước; Trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, hoàn toàn bình đẳng với nhau và trên nguyên tắc tôn trọng đường biên giới do lịch sử để lại; Đã thoả thuận những điều sau đây: Điều 1 Hai bên chính thức xác nhận đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được hoạch định và cắm mốc theo các văn kiện về biên giới ký kết giữa Chính phủ Cộng hoà Pháp và Chính phủ nhà Thanh Trung Quốc là đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Các văn kiện biên giới đó gồm có: Công ước về hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ký ngày 26 tháng 6 năm 1887, với các biên bản và bản đồ hoạch định kèm theo. Công ước bổ sung Công ước về hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ngày 26 tháng 6 năm 1887, ký ngày 20 tháng 6 năm 1895 với các biên bản và bản đồ hoạch định kèm theo Các biên bản và bản đồ cắm mốc thực hiện hai Công ước nói trên ký kết từ ngày 15 tháng 4 năm 1890 đến ngày 13 tháng 6 năm 1897, ngày hoàn thành việc cắm mốc đoạn đường biên giới giữa Bắc Kỳ (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Trong các điều khoản sau đây, các văn kiện về biên giới nói trên được gọi tắt là “ Công ước 1887 và Công ước 1895” Điều 2 Hai bên cam kết tôn trọng đường biên giới quốc gia giữa hai nước nói ở điều 1. Những vùng đất nào do bên này quản lý vượt quá đường biên giới nói ở Điều 1 thì nay trả lại cho bên kia. Điều 3 Đường biên giới quốc gia giữa hai nước nói ở Điều 1 nói chung là rõ. Trường hợp có một số ít nơi trên đường biên giới sau khi hai bên đã cùng nhau đối chiếu, nghiên cứu nhiều lần theo đúng các quy định của Công ước 1887 và Công ước 1895 mà vẫn không xác định được là thuộc về bên nào, thì hai bên sẽ qua khảo sát thực địa, hiệp thương hữu nghị giải quyết theo nguyên tắc công bằng hợp lý . Điều 4 1-- Đối với những nơi đường biên giới đi trên sông, suối, cũng như đối với các cù lao, bãi nổi trên các sông, suối biên giới đó và trường hợp các sông suối biên giới đổi dòng vì nguyên nhân thiên nhiên, hai bên triệt để tuân theo các quy định của Công ước 1887 và Công ước 1895 liên quan đến đường biên giới trên các sông, suối đó. 2-- Không kể đường biên giới trên sông, suối biên giới theo các quy định của Công ước 1887 và Công ước 1895 như thế nào, đường biên giới trên các cầu bắc qua các sông, suối đó đều đi qua chính giữa cầu. Điều 5 Trong thời hạn một năm, sau khi quyết định của Uỷ ban liên hợp nói ở Điều 7 dưới đây về từng đoạn đường biên giới được hai Chính phủ chuẩn y, dân ở vùng đất mà bên này trả lại cho bên kia sẽ trở về sinh sống ở nước mà mình mang quốc tịch. Trường hợp có người muốn ở lại thì trong thời hạn đó họ phải đăng ký với chính quyền địa phương để trở thành công dân của bên được trả vùng đất. Điều 6 Mỗi bên không để dân của mình vượt đường biên giới sang quá canh và làm ăn trái phép tại những vùng đất thuộc lãnh thổ bên kia. Ở những vùng đất trả lại cho nhau, sẽ chấm dứt quá canh ngay sau khi quyết định của Uỷ ban liên hợp nói ở Điều 7 dưới đây về từng đoạn đường biên giới được hai Chính phủ chuẩn y. Người có hoa màu làm trên đất quá canh chưa thu hoạch sẽ được phép sang chăm nom cho đến lúc thu hoạch xong, và phải tuân theo mọi luật lệ của nước sở tại. Điều 7 Sau khi Hiệp định này có hiệu lực, hai bên thành lập Uỷ ban liên hợp biên giới Việt nam-Trung Quốc (goị tắt là Uỷ ban liên hợp) gồm số đại biểu hai bên bằng nhau. Uỷ ban liên hợp căn cứ vào các điều khoản của Hiệp định này thực hiện nhiệm vụ sau đây: 1-- Xác định cụ thể trên thực địa toàn bộ đường biên giới quốc gia trên bộ giữa hai nước theo Điều 1 của Hiệp định này; 2-- Giải quyết trên thực địa những nơi trên đường biên giới nói trong Điều 2 và Điều 3 của Hiệp định này. Các quyết định của Uỷ ban liên hợp về từng đoạn đường biên giới phải được hai bên chuẩn y; 3-- Giải quyết những vấn đề liên quan đến việc bên này trả lại những vùng đất cho bên kia; 4-- Kiểm tra và xác nhận vị trí của các mốc quốc giới theo Công ước 1887 và Công ước 1895, đặt lại những mốc quốc giới không ở đúng vị trí theo các Công ước nói trên và đặt thêm các mốc quốc giới bổ sung ở những nơi hai bên thấy cần thiết, giải quyết các vấn đề liên quan đến việc tu bổ các mốc quốc giới;
5-- Soạn thảo Nghị định thư xác định trên thực địa đường biên giới quốc gia trên bộ giữa hai nước, vẽ bản đồ đường biên giới đó có ghi tỉ mỉ vị trí đường biên giới và vị trí các mốc quốc giới; Uỷ ban liên hợp bắt đầu hoạt động ngay sau khi được thành lập và kết thúc nhiệm vụ sau khi Nghị định thư nói trên được ký kết. Điều 8 Nghị định thư với bản đồ kèm theo nói ở Điều 7, đoạn 5 sẽ do hai Chính phủ ký kết và sẽ là một bộ phận cấu thành của Hiệp định này. Điều 9 Hiệp định này sẽ được phê chuẩn và có hiệu lực kể từ ngày trao đổi văn kiện phê chuẩn. Sau khi Hiệp định này có hiệu lực và Nghị định thư nói ở Điều 7, đoạn 5 của Hiệp định được ký kết, mọi Công ước, văn kiện có liên quan đến đường biên giới trên bộ giữa hai nước lập tức mất giá trị. Làm tại……….ngày………tháng………năm……….thành hai bản bằng tiếng Việt Nam và tiếng Trung Quốc, cả hai văn bản Việt Nam và Trung Quốc đều có giá trị như nhau. THAY MẶT CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THAY MẶT CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ NHÂN DÂN TRUNG HOA Phía Trung Quốc đã từ chối xem xét bản dự thảo Hiệp định đó. Họ đưa ra một đề nghị khác, thực chất là đề nghị cũ của họ được sửa đổi. Ý đồ của họ là nhằm duy trì hiện trạng biên giới (không phải nguyên trạng đường biên giới lịch sử) nhằm giữ những chỗ họ lấn chiếm và sửa lại nhiều chỗ có lợi cho họ. Cuộc đàm phán kéo dài, dây dưa đến mười tháng không đi đến kết quả. Ngay trong khi phía Trung Quốc tăng cường khiêu khích ở biên giới , gây ra vụ người Hoa, cắt viện trợ cho Việt Nam, phía Việt Nam vẫn kiên trì tiếp tục nói chuyện. Nhưng cuối cùng không đi đến kết quả gì, vì tình hình chứng tỏ là phía Việt Nam càng thiện chí thì phía Trung Quốc càng lấn tới. Họ ngoan cố thực hiện dã tâm bành trướng nước lớn của họ, cho nên họ không chịu đáp ứng một điều kiện nào do phía Việt Nam đưa ra. Cuộc đàm phán về biên giới bị thất bại, trách nhiệm hoàn toàn thuộc về phía Trung Quốc.
IV- Tình hình Trung Quốc gây khiêu khích, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam từ năm 1978 đến nay Từ đầu năm 1978 đến ngày 17 tháng 2 năm 1979, ngày mà nhà cầm quyền Bắc Kinh đưa quân ồ ạt xâm lược Việt Nam, một mặt họ làm bế tắc cuộc đàm phán về biên giới, mặt khác họ công khai thực hiện chính sách điên cuồng chống Việt Nam. Nói riêng về khu vực biên giới, nhà cầm quyền Bắc Kinh leo thang dùng vũ lực, tăng cường khiêu khích xâm phạm biên giới, chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam. Từ đầu năm 1978 đến khoảng tháng 8 năm 1978, nhà cầm quyền Bắc Kinh dùng dụ dỗ, cưỡng ép người Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam, chủ yếu là tại các tỉnh biên giới, chạy về Trung Quốc hòng gây rối loạn về chính trị, xã hội và kinh tế cho Việt Nam khi đó đang phải giải quyết hậu quả nặng nề của những thiên tai chưa từng thấy ở Việt Nam trong vòng 100 năm qua, đồng thời họ chuẩn bị một số tay chân cần thiết cho các cuộc hành quân xâm lược sau này. Với những thủ đoạn thâm độc đó, họ đã lôi kéo khoảng 170.000 người Hoa về Trung Quốc. Thâm độc hơn cả là họ thình lình đóng cửa biên giới trong lúc dòng người Hoa đang ùn ùn đổ về Trung Quốc, để kiếm cớ xúi giục những người đó chống lại nhà đương cục Việt Nam. Đó là tình hình họ đã gây ra ở cầu biên giới Bắc Luân (thuộc tỉnh Quảng Ninh), ở cửa khẩu Hữu nghị quan (thuộc tỉnh Lạng Sơn), trong lúc người Hoa ùn tắc lại, họ cho bọn tay sai kết hợp với một bọn côn đồ hành hung, gây hỗn loạn ngày 8 tháng 8 năm 1978 ở cầu Bắc Luân, ngày 25 tháng 8 năm 1978 ở Hữu nghị quan, làm chết hai cán bộ và công an biên phòng của Việt Nam và 25 người khác bị thương. - Nhà cầm quyền Bắc Kinh ồ ạt đưa quân đội (bộ binh, thiết giáp, không quân, pháo binh) áp sát biên giới, xây dựng công sự, bố trí trận địa trên các điểm cao suốt dọc biên giới, đưa thường dân Trung Quốc ở vùng biên giới vào sâu nội địa. Trong lúc đó, bộ máy tuyên truyền đồ sộ của Bắc Kinh vu cáo Việt Nam “xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc” và Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, bất chấp các nguyên tắc của Liên hợp quốc, lên tiếng đe doạ “dạy cho Việt Nam một bài học”, “trừng phạt Việt Nam”. - Các lực lượng vũ trang của Trung Quốc liên tiếp xâm nhập lãnh thổ Việt Nam, phá các hàng rào dây thép gai, các bãi mìn và các công trình phòng thủ khác của phía Việt Nam. - Đột nhập lãnh thổ Việt Nam để tập kích các trạm gác của dân quân và của công an biên phòng Việt Nam, bắn lén, bắt cóc người của Việt Nam đưa về Trung Quốc. Một vài thí dụ: + Ngày 13 tháng 10 năm 1978, lực lượng vũ trang Trung Quốc vào sâu đất Việt Nam tại xã Pha Long, huyện Mường Khương, tỉnh Hoàng Liên Sơn, phục kích một tổ công tác đang làm nhiệm vụ, bắn chết hai chiến sĩ công an biên phòng, bắt anh Nguyễn Đình Ấm đưa về Trung Quốc, + Ngày 1 tháng 11 năm 1978, ở đồi Chông Mu thuộc tỉnh Cao Bằng, hàng trăm lính với hơn 1.000 dân binh Trung Quốc tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, nổ súng tiến công một tổ dân quân Việt Nam đang làm nhiệm vụ trên đất Việt Nam, + Ngày 23 tháng 12 năm 1978, lực lượng vũ trang Trung Quốc vượt biên giới sang tập kích một tổ dân quân Việt nam đang làm nhiệm vụ trên đất Việt Nam tại khu vực mốc 2 (thuộc Bình Nhi, tỉnh Lạng Sơn), bắt đưa về Trung Quốc 4 người. Những vụ khiêu khích tương tự phải tính hàng trăm trên toàn tuyến biên giới. Kể từ đầu năm 1979, các cuộc khiêu khích của phía Trung Quốc được tiến hành với một qui mô ngày càng lớn, với những lực lượng vũ trang ngày càng đông hơn: Dùng súng lớn (từ đại liên, súng cối 82 đến DKZ75 và 85) từ đất Trung Quốc trắng trợn bắn sang đất Việt Nam, có khi bắn từng đợt, có khi bắn liên tiếp nhiều ngày, mục tiêu của họ là người dân thường đang đi trên đường, các làng bản, các khu phố của các thị trấn, các công trường, lâm trường, nông trường v..v..Dưới đây là một vài thí dụ: + Ngày 14 tháng 1 năm 1979 bắn vào thôn Phai Lầu, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh, + Cùng ngày, bắn vào các phố chính của thị xã Lao Cai, tỉnh Hoàng Liên Sơn đang lúc đông người qua lại. +Ngày 2 tháng 2 năm 1979 bắn vào nhà máy đường Phục Hoà và xóm Hưng Long, xã Quy Thuận, huyện Quảng Hoà, tỉnh Cao Bằng, + Từ ngày 10 tháng 1 năm 1979 đến ngày 25 tháng 1 năm 1979, liên tục dùng súng bộ binh các loại và súng cối 82 bắn vào đồn biên phòng Việt Nam ở Trà Lĩnh thuộc tỉnh Cao Bằng, - Dùng lực lượng bộ binh lớn có hoả lực mạnh yểm trợ tiến công và lấn chiếm một số vùng đất của Việt Nam. Một vài thí dụ: + Ngày 10 tháng 2 năm 1979, hơn một tiểu đoàn quân chính quy Trung Quốc tiến vào đất Việt Nam hơn 2 km đánh chiếm các trạm gác của dân quân xã Thanh Loà, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, + Ngày 11 tháng 2 năm 1979, một đại đội quân chính quy Trung Quốc vào đánh chiếm khu vực Hang Nà-Cốc Pheo thuộc xã Cấn Yên, huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng, + Ngày 15 tháng 2 năm 1979, một đại đội quân chính quy Trung Quốc vượt biên giới sang đánh chiếm bản Nà Ke, xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, Tất cả những hành động khiêu khích ngang ngược ngày càng nghiêm trọng của phía Trung Quốc từ trước đến nay, nhất là từ năm 1978, không nhằm mục đích nào khác là ráo riết chuẩn bị cuộc chiến tranh xâm lược chống nhân dân Việt Nam. Thực tế đã xác minh điều đó: Từ rạng sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, nhà cầm quyền Bắc Kinh phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam với 60 vạn quân gồm 11 quân đoàn và nhiều sư đoàn độc lập (trong đó có một số sư đoàn sơn cước chủ yếu gồm những người trước đây đã sang vùng biên giới làm đường giúp Việt Nam và những người Hoa trước đây đã ở Việt Nam), hơn 500 xe tăng và thiết giáp, hơn 700 máy bay các loại. Ngay ngày đầu, gần 20 sư đoàn bộ binh Trung Quốc đồng thời tiến đánh sáu tỉnh của Việt Nam giáp với Trung Quốc: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu. Do bị thất bại trước những đòn giáng trả nặng nề của nhân dân Việt Nam, bị dư luận toàn thế giới lên án mạnh mẽ và nhân dân Trung Quốc phản đối, nhà cầm quyền Bắc Kinh mấy ngày gần đây đang phải rút quân đội của họ về nước. Từ khi bắt đầu xâm lược Việt Nam, đi đến đâu, quân xâm lược Trung Quốc cũng bắn bừa bãi, đốt phá, cướp của, hãm hiếp phụ nữ và giết người không ghê tay bằng những cách cực kỳ dã man. Chúng dùng báng súng đập vỡ sọ, đâm người bằng lưỡi lê, chém đầu chặt người ra thành từng khúc, ném lựu đận vào hầm trú ẩn, tập trung người rồi xả súng bắn. Số đông người bị giết hại là người già, phụ nữ và trẻ em. Ở Cao Lâu, Văn Lãng (Lạng Sơn) chúng xé xác em Vi Việt Lương, học sinh lớp 4 ra làm nhiều mảnh, lôi 7 em bé đang ngủ ra bắn rồi chặt từng khúc vứt ra sân. Ở xã Thanh Loà (Lạng Sơn), bốn tên lính Trung Quốc bắt cô giáo cấp 1 người dân tộc Tày mang lên đồi hãm hiếp rồi xả súng bắn chết. Ở xí nghiệp gạch ngói xã Quang Kíu, huyện Bát Xát (Hoàng Liên Sơn), chúng xả súng B40 giết hết nam công nhân, còn nữ công nhân thì hãm hiếp rồi đưa về Trung Quốc. Đặc biệt nghiêm trọng là ở chợ huyện Bát Xát (Hoàng Liên Sơn), chúng chặt đầu, mổ bụng gần 100 em nhỏ, vứt xác nằm ngổn ngang. Trong quá trình rút về nước một cách chậm chạp, quân Trung Quốc xâm lược vẫn tiếp tục gây nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam. Chúng bắn pháo, dùng thuốc nổ phá huỷ tất cả những gì còn lại, các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng và thị xã Lao Cai đã bị triệt phá; chúng còn gài lại nhiều mìn ở khắp nơi, thậm chí bỏ thuốc độc xuống giếng nước làm cho một số dân thường bị thương vong hoặc ngộ độc.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 16, 2016 4:49:01 GMT 9
V- Con đường đúng đắn để giải quyết các vấn đề về biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. 1-- Thực tế trình bày ở các phần trên đã chỉ rõ ràng: - Giữa Việt Nam và Trung Quốc từ lâu đã hình thành một biên giới lịch sử và biên giới đó đã được các Công ước năm 1887 và 1895 hoạch định, tiếp đó được cắm mốc rõ ràng trên suốt hơn 1.400 km trên đất liền. - Phía Trung Quốc vi phạm sự thoả thuận giữa hai nước về việc giữ nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại, đã hàng nghìn lần xâm phạm biên giới, chủ quyền, lãnh thổ của nước Việt Nam trong suốt 21 năm qua. - Phía Trung Quốc đã cố tình làm bế tắc các cuộc đàm phán về vấn đề biên giới giữa hai nước, ngày càng tăng cường khiêu khích vũ trang nước Việt Nam và ngày 17 tháng 2 năm 1979 đã đưa quân ồ ạt xâm lược Việt Nam. Để che giấu quy mô của cuộc chiến tranh, lừa gạt nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới, nhà cầm quyền Trung Quốc đã nói láo một cách hèn hạ rằng phía Việt Nam đã “khiêu khích”, “xâm lược”, khiến Trung Quốc phải “phản công tự vệ”. Cũng như khi họ xâm lược Ấn Độ năm 1962, lúc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974, phía Trung Quốc từng đã nói là “phản công tự vệ”. Khi những nhà cầm quyền Bắc Kinh nói “phản công tự vệ” chính là họ đang hành động như bọn xâm lược. Nhà cầm quyền Bắc Kinh còn nói đây chỉ là một cuộc “chiến tranh hạn chế” tiến hành với “những lực lượng biên phòng”. Sự thật rõ ràng là họ tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhằm thôn tính Việt Nam, mở đầu với sự tham gia của hàng chục sư đoàn quân chính quy, bằng số quân Mỹ cao nhất lúc Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Nhân dân khắp năm châu, chính phủ nhiều nước kể cả những bạn bè của Đặng Tiểu Bình ở phương Tây đều gọi đây là cuộc xâm lược của Trung Quốc chống Việt Nam. Người dân thường Trung Quốc cũng bắt đầu thức tỉnh về cuộc phiêu lưu mà các nhà cầm quyền Trung Quốc đang đẩy đất nước họ đi tới với những những hậu quả không thể lường hết được. Vì sao những người cầm quyền Trung Quốc lại tiến hành xâm lược Việt Nam mặc dù điều đó lột trần bộ mặt thật bành trướng đại dân tộc, bộ mặt xâm lược của họ? Nguồn gốc của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam hiện nay hiện nay là chính sách của những người cầm quyền Trung Quốc nhằm làm cho Việt nam suy yếu hơn, hòng buộc Việt Nam phải khuất phục và phụ thuộc Trung Quốc, đồng thời nhằm thôn tính Lào và Campuchia để biến bán đảo Đông Dương thành bàn đạp của họ để thực hiện chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc của họ ở Đông Nam Á. Họ đã thất bại liên tiếp trong việc dùng bè lũ PônPốt-Iêng Xary đánh Việt Nam từ phía Tây Nam, gây khiêu khích vũ trang và tăng cường sức ép quân sự từ phía bắc, dùng người Hoa để phá rối và gây bạo loạn bên trong, lợi dụng lúc Việt Nam bị khó khăn về kinh tế và lôi kéo các nước cắt cắt viện trợ hòng bóp nghẹt Việt Nam. Họ còn đóng cửa ba lãnh sự quán của Việt Nam ở Côn Minh, Nam Ninh, Quảng Châu, cắt đường tàu liên vận quốc tế, huỷ bỏ Hiệp định về miễn thị thực cho cán bộ hai nước hòng che dấu việc tiến công quân sự chống nước Việt Nam. Cuối cùng, những người cầm quyền Trung Quốc liều lĩnh tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Tiến đánh tất cả sáu tỉnh biên giới phía bắc của Việt Nam, họ còn mưu toan sửa đổi đường biên giới, tức là giữ chặt những chỗ họ đã lấn chiếm trước đây, đồng thời lấn chiếm thêm những chỗ khác. Chính họ đã trắng trợn nói lên điều đó khi họ nói quân Trung Quốc sẽ rút về bên kia “đường biên giới mà Trung Quốc công nhận”. Theo tin đầu tiên, họ đã cho chuyển sâu về phía Việt Nam mốc số 41 và mốc số 45 ở khu vực Chi Ma (tỉnh Lạng Sơn). Mặc dù vậy, họ thường xuyên tuyên bố: “ Trung Quốc không lấy một tấc đất của ai!”. Lập trường của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được nêu rõ trong Công hàm ngày 2 tháng 3 nămm 1979 gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc: những người cầm quyền Trung Quốc đã gây chiến tranh xâm lược Việt Nam thì họ phải vĩnh viễn chấm dứt xâm lược; phải rút ngay, rút hết, rút không điều kiện quân đội của họ về phía bên kia đường biên giới do lịch sử để alị như hai bên đã thoả thuận; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngày 6 tháng 3 năm 1979, phía Việt Nam đã tuyên bố: “ Nếu Trung Quốc thật sự rút toàn bộ quân của họ khỏi lãnh thổ Việt Nam như họ đã tuyên bố, thì sau khi quân Trung Quốc rút hết về bên kia đường biên giới lịch sử đã được hai bên thoả thuận tôn trọng, phía Việt nam sẵn sàng đàm phán ngay với phía Trung Quốc ở cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao về việc khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước. Địa điểm và thời gian sẽ do hai bên thoả thuận” Nếu những người cầm quyền Trung Quốc tiếp tục chính sách xâm lược chống Việt Nam thì quân và dân Việt Nam sẽ dùng quyền tự vệ thiêng liêng, kiên quyết chiến đấu chống xâm lược để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Nhân dân Việt Nam quyết tiếp tục làm hết sức mình gìn giữ tình hữu nghị truyền thống với nhân dân Trung Quốc. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiên quyết đòi nhà cầm quyền Trung Quốc: 1-- Vĩnh viễn chấm dứt xâm lược, phải rút ngay, rút không điều kiện quân đội của họ về nước; chấm dứt mọi hành động tội ác đối với nhân dân Việt nam; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; tôn trọng đường biên giới do lịch sử để lại như hai bên đã thoả thuận; phải chấm dứt ngay việc dời cột mốc biên giới và những hành động khác nhằm thay đổi đường biên giới đó. 2-- Cùng phía Việt Nam sớm mở cuộc thương lượng nêu trong Công hàm ngày 15 tháng 3 năm 1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhằm đem lại hoà bình và ổn định ở vùng biên giới giữa hai nước, khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước. Nhân dân và Chính phủ Việt Nam tin chắc rằng các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các nước trong Phong trào không liên kết, các nước độc lập dân tộc, các nước bè bạn và nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới sẽ tăng cường đoàn kết, ủng hộ Việt Nam vì độc lập, hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á và thế giới. HẾT
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 9, 2016 5:18:40 GMT 9
Suu TamTạp chí Đại Học“Uống nước nhớ nguồn… Đi tìm nguồn gốc dân tộc, đó là bổn phận chung, bổn phận của mọi người, cũng như của tác giả bài nầy. Bổn phận đó là một việc hiếu đối với tiền bối, và còn là một việc trung với Tổ quốc, vì càng biết rõ nguồn gốc, người dân càng yêu nước hơn.” — Nguyễn Phương, “Tiến trình hình thành của dân tộc Việt Nam”, Tạp Chí Đại Học, Số 32, Tháng 4, 1963, trang 153-219. Quá trình tiến hóa và sự lan rộng của nhân bản Việt Nam (Viet Nam clone), gốc ở Tp Hồ Chí Minhn, lan sang các thành phố khác ở Việt Nam. Nguồn: Holt KE, et al. “Tracking the establishment of local endemic populations of an emergent enteric pathogen ”, PNAS 2013 Quá trình tiến hóa và sự lan rộng của dòng hoá Việt Nam (Viet Nam clone), gốc ở Tp Hồ Chí Minhn, lan sang các thành phố khác ở Việt Nam. Nguồn: Holt KE, et al. “Tracking the establishment of local endemic populations of an emergent enteric pathogen ”, PNAS 2013 onedrive.live.com/view.aspx?cid=1d7880ade8d1ea1a&id=documents&resid=1D7880ADE8D1EA1A%21158&app=WordPdf&authkey=AE5wK_zc4Zhrds8&
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 17, 2019 4:32:51 GMT 9
Người Mỹ không nên quên các bài học sống động của
ngày 30 tháng tư năm 1975 và chiến tranh Việt Nam John Andrews Đỗ Kim Thêm dịch Ba cuốn sách gần đây về chiến tranh Việt Nam đã làm sáng tỏ về một lĩnh vực thường được đề cập tới, cho thấy rằng sự thất bại của Hoa Kỳ cách đây nửa thế kỷ vẫn còn nhiều điều để dạy cho chúng ta. Nhưng các chuyên gia về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đã cho thấy là họ không có khả năng quan tâm đến những bài học đúng đắn. John Kerry, một cựu chiến binh Hải quân đuợc ân thương huy chương, đã hỏi Ủy ban Đối ngoại Thượng viện vào tháng 4 năm 1971 rằng: "Làm thế nào để qúy vị hỏi được một người cuối cùng tử trận tại Việt Nam. Làm thế nào qúy vị hỏi họ chết như thế nào cho chuyện sai lầm?". Đó là một câu hỏi hay và một số trong những người tham gia vào các cuộc chiến hiện nay ở Afghanistan, Iraq, Syria và các nơi khác có thể ngạc nhiên cho các vấn đề tương tự Tất nhiên, Kerry đã tiếp tục trở thành Thượng Nghị sĩ, đồng thời là ứng cử viên Tổng thống thuộc Đảng Dân chủ vào năm 2004 và giữ chức Ngoại trưởng trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Barack Obama. Trong vai trò Ngoại trưởng, Kerry nỗ lực trong ám ảnh, nhưng cuối cùng là vô ích, để giải quyết các cuộc xung đột cực kỳ khó khăn của Trung Đông và gây thêm những ác mộng. Sau đó, chuyện thật kỳ lạ là Kerry rất ít được đề cập đến trong ba cuốn sách tuyệt vời viết về câu chuyện của người Mỹ ở Việt Nam của Max Hasting và nhà sử học Liên Hằng Nguyễn về cuộc chiến của Hà Nội, nhưng Kerry không xuất hiện trong sách The Road Not Taken của nhà báo Max Boot,. Tuy nhiên, như Kerry, Hastings và Boots nhìn chiến tranh Việt Nam rõ như là một sai lầm về sự liên hệ lâu dài cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, ít nhất là trong việc thực thi. Trong phần cuối của cuốn sách với đầy đủ các chi tiết về cuộc chiến, Hastings trích dẫn lời của Walt Boomer, một cựu chiến binh Việt Nam, người sau này lãnh đạo Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ trong chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (1990-1991): "Tất cả liên hệ đến chuyện gì? Điều gây phiền nảo cho tôi là chúng ta đã không học được nhiều. Nếu đã học đuợc, thì chúng ta sẽ không xâm chiếm Iraq." Hy vọng nhiều hơn ý nghĩaKhi George W. Bush ra lệnh xâm chiếm Iraq vào năm 2003, chính quyền Bush minh định là tiêu diệt chế độ Saddam Hussein và đã kềt thúc chỉ sau 21 ngày chiến đấu quy mô. Chuyện thắng trận trở thành dể dàng. Sau sự chia cắt Đông Dương thuộc Pháp tại Hội nghị Genève 1954, ở Việt Nam thảm kịch đã diễn ra trong màn đầu. Sau cùng, một cuộc điều động chính thức các lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ tại Việt Nam lần đầu tiên đã không diễn ra, mãi cho đến tháng 3 năm 1965, khi khoảng 3.500 lính Thuỷ quân Lục chiến đổ bộ vào bãi biển gần Đà Nẵng, nơi họ phối hợp với 23.000 "Cố vấn" quân sự Mỹ đang hỗ trợ cho quân đội miền Nam Việt Nam. Sau đó, Tướng Hoa Kỳ William Westmoreland hứa hẹn là chiến thắng sắp xảy ra thì những cuộc tấn công đẫm máu gây cho các lực lượng Nam Việt Nam và Hoa Kỳ biến nó thành lời nhạo báng và tạo ra chiến thắng quyết định cho Việt Cộng và Quân đội Nhân dân Việt Nam của ông Hồ Chí Minh. Ngay cả Tướng Westmoreland có thể không tin điều đó. Hastings nhấn mạnh những phát hiện binh pháp của Ngũ Giác Đài vào năm 1963 như sau: SIGMA I chỉ ra cho các nhà lãnh đạo quân sự Hoa Kỳ rằng chiến thắng sẽ cần nửa triệu lính Mỹ; một cuộc thao diễn tiếp theo sẽ kiểm tra vềcác lựa chọn cho quyết định một cuộc không chiến; SIGMA II kết luận rằng không có một cuộc không tập nào sẽ làm lay chuyển được đường lối của Hà Nội." Tuy nhiên, những cân nhắc về mặt chiến lược trong thời Chiến tranh Lạnh đã gây cho sự can dự của Mỹ vào Đông Dương là không thể tránh khỏi, bắt đầu từ việc cấp quân viện cho Pháp, Hastings ghi nhận rằng điều này đã xảy ra, mặc dù thực tế là "Cuối tháng 10 năm 1951, nó đã trở thành hiển nhiên đối với các quan sát viên khách quan, Pháp không có triển vọng thực tế nắm được Đông Dương.“ Các ý kiến vẫn còn khác nhau về việc ông Hồ Chí Minh là người đầu tiên và trước hết là người theo chủ nghĩa dân tộc hay Cộng sản. Nhưng, dù sao đi nữa, sau Chiến tranh Triều Tiên và sự trỗi dậy của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, Hoa Kỳ có nhiều lý do để lo lắng rằng khi bị bao vây bởi các cuộc nổi dậy của Cộng sản, các nước châu Á có thể sụp đổ giống như các quân cờ dominos nếu không có Mỹ hỗ trợ. Bên cạnh đó, đối với các giới nắm quyền chính trị và quân sự ở Washington, DC, chiến thắng các phong trào du kích được trang bị tệ hại của Việt Nam, Việt Minh và sau đó là Việt Cộng, dường như có sác xuất cao hơn là thất bại, vì tình hình là người Anh trước đó đã tiến hành thành công một chiến dịch chống lại phong trào giành độc lập của Cộng sản Mã Lai. Tuy nhiên, về sau khi nhìn lại vần đề, có ít nhiều ngạc nhiên khi thấy rẳng người Pháp và người Mỹ đã bị đánh bại tại Việt Nam. Như nhiều tác giả trước đây đã chỉ ra, những nỗ lực của phương Tây chống lại phiên bản chủ nghĩa dân tộc Việt Nam của ông Hồ Chí Minh, về mặt cơ bản, là sai lầm. Một vấn đề trọng đại là các chính phủ liên tiếp của Nam Việt Nam đã tham nhũng và không hiệu năng trong vô vọng. Người miền Nam và giới lãnh đạo quân sự của họ đơn giản là không thể so tương xứng với khả năng kháng cự và tinh thần quyết tâm của lực lượng mang dép râu của ông Hồ Chí Minh. Không nơi nào rõ ràng hơn là thất bại thảm hại của Pháp tại Điện Biên Phủ trong năm 1954 và chiến thắng không đáng gọi là thắng vì tổn thất qúa nặng nề của Mỹ tại Khe Sanh trong năm 1968, (Pyrrhic victory). Ngay sau trận Khe Sanh, Cộng sản bắt đầu cuộc tấn công Tết, trong đó lực lượng Bắc Việt và Việt Cộng phải chịu tổn thất lớn hơn phe miền Nam và Mỹ, chuyện không nghi ngờ gì. Tuy nhiên, một loạt các cuôc đột kích kéo dài 9 tháng, bắt đầu với hơn 100 mục tiêu vào Nam Việt Nam, đó là một bước ngoặt và qua tiến trình chiến cuộc, số lượng chịu đựng của Mỹ vuợt xa quá xa những gì mà nguời ta suy đoán qua việc đếm các xác chết. Lạm dụng ma túy lan tràn và các sĩ quan không được lòng dân sống trong nỗi sợ hãi liên tục bị "mưu sát" bởi đồng đội. Như một vị tướng Hoa Kỳ nói với Hastings: "Chúng tôi đã đến Hàn Quốc với một đội quân tệ hại và tôi luyện thành với một đội quân tinh nhuệ; chúng tôi đã vào Việt Nam với một đội quân quy mô và kết thúc với một đội quân khiếp sợ." Tâm trí và bản ngãCó thể liệu là cuộc chiến đã chuyển biến khác đi không? Trong phần tiểu sử của Edward Lansdale, một sĩ quan Không quân Hoa Kỳ và nhân viên của CIA chống các hoạt động nổi dậy, Boat đặt tầm quan trọng của việc Mỹ không chiến thắng vì không thu phục "trái tim và khối óc". Là một chuyên viên vể quảng cáo gây được thiện cảm, Lansdale đã khởi đầu binh nghiệp trong các cuộc hành quân tâm lý chiến ở Philippines, nơi ông đã thành công trong việc phát triển mối quan hệ chân thành với người dân địa phương. Với sự hỗ trợ của người Philippines, Lansdale đã giúp đánh bại cuộc nổi loạn của Cộng sản Huk và dàn dựng để cho Ramon Magsaysay, người bạn của ông, vào chức vụ tổng thống của đất nước. Tuy nhiên, Lansdale mất tinh thần thường xuyên vì những phuơng pháp thực hiện được ở Philippines gần như không có hiệu quả ở Việt Nam. Dù Lansdale đã có thể "gần gủi" với người Việt, (ông qúa thân thiết với ông Ngô Đình Diệm, Tổng thống Nam Việt Nam) nhưng hoàn toàn lạc lối khi điều hướng trong mê cung chính trị và quan liêu của nước Mỹ, có thể là ở Washington, DC hoặc Sài Gòn. Về phần mình, Hastings không quá ngưỡng mộ Lansdale như Boot. Để chỉ ra cho độc giả biết Lansdale nhận định tình hình tại Việt Nam và vai trò của Lansdale trong đó như thế nào, Hastings trích ra một đoạn trong điện văn mà Lansdale gửi cho Tướng Maxwell Taylor, Cố vấn Quân sự của Tổng thống John F. Kennedy, vào năm 1961 như sau: “Người Việt là dân tộc có khả năng và nghị lực. Hiện nay, dường như họ không là chính họ. Họ sẽ mất đất nước nếu một số tia lửa không làm cho họ bắt được ngọn lửa để đấu tranh giành chiến thắng trong cuộc chiến này. Sự châm ngòi cũng có thể là đặt cho đúng người Mỹ vào đúng trong lĩnh vực của chính phủ Việt Nam để hướng dẫn hoạt động. Đối với công việc này, người Mỹ cần có tài năng và cảm xúc.“ Điều rõ ràng là Lansdale là một trong những người Mỹ như vậy, đó là lý do tại sao Lansdale thường được coi là con người mẫu mực cho Graham Greene trong tác phẩm The Quiet American (Greene phủ nhận điều này) và Eugene Burthingy và William Lederer trong tác phẩm The Ugly American. Không còn nghi ngờ gì nữa là đã có và vẫn còn những người Mỹ có năng khiếu tương tự như vậy đang cố gắng gây ảnh hưởng đến chính sách ở Afghanistan và Trung Đông. Nhưng tài năng và lòng trắc ẩn không đảm bảo cho hiệu quả. Khi Boot làm rõ là hầu hết các sáng kiến lý tưởng của Lansdale đã bị phá sản, đáng chú ý là Chiến dịch Mongoose năm 1961 để lật đổ nhà lãnh đạo Cuba Fidel Castro sau thảm họa Vịnh Con Heo. So Lansdale với Lawrence của Á Rập, Boot cho rằng: “Giống như người tiền nhiệm có tính khí lập dị và nổi loạn của mình, người có giấc mơ về tinh thần đoàn kết của Ả Rập bị đế quốc Anh và Pháp khuất phục, Lansdale kết thúc thời của mình với ám ảnh của cảm giác thất bại.“ Hình cảnh toàn vẹn hơnThành qủa của Hastings và Boot là cả hai ý thức được môi trường địa chính trị rộng lớn hơn mà trong đó chiến tranh Việt Nam diễn ra, từ sự chia rẽ Nga-Hoa vào cuối những năm 1950 cho đến các hội nghị thượng đỉnh lịch sử của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon với nhà lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev và Mao Trạch Đông trong năm 1972. Cũng tương tự như vậy, hai tác giả có khả năng giải thích những chuyển biến quan trọng trong nền nội chính của Hoa Kỳ, trong đó có vụ ám sát Kennedy vào năm 1963, giết chết những người phản chiến biểu tình của Vệ binh Quốc gia Ohio tại Đại học Kent vào năm 1970 và vụ bê bối Watergate năm 1972 và hậu quả của nó. Ai chịu trách nhiệm cho những gì mà Hastings và Boot gọi là bi kịch? Cả hai quy trách cho Robert McNamara, Cựu Chủ tịch Doanh nghiệp Ford Motor Company, người từng giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ từ năm 1961 đến năm 1968. Một mục tiêu chỉ trích khác trong cả hai cuốn sách là Henry Kissinger, người từng là Cố vấn An ninh Quốc gia và Ngoại trưởng dưới thời Nixon. Dù Kissinger đã ra lệnh ném bom trừng phạt ở Campuchia và Lào, hai nước láng giềng, nhưng dù sao, Kissinger vẫn đoạt giải Nobel Hòa bình cho vai trò của mình trong Hiệp định Hòa bình Paris vào năm 1973 (đối tác của ông là Lê Đức Thọ cũng được trao giải, nhưng không nhận). Tuy nhiên, một trong số ba cuốn sách đang được đề cập, thì Cuộc Chiến tranh của Hà Nội của Nguyễn Liên Hằng tóm luợc toàn cảnh rõ ràng nhất về cuộc xung đột. Sinh ra ở Hà Nội chỉ năm tháng trước khi Sài Gòn sụp đổ và gia đình cô trốn sang phương Tây, Nguyễn dựa hầu hết vào các tài liệu văn khố và của các quan chức Bắc Việt để đưa ra một viễn cảnh gần như luôn bị bỏ sót trong các cuốn sách của các tác giả phương Tây. Thí dụ như Nguyễn cho chúng ta thấy rằng trong khi ông Hồ Chí Minh vẫn là một nhân vật huyền thoại trong Việt Nam đương đại, ông Hồ đã bị Lê Duẩn, Tổng Bí thư của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, loại trừ từ lâu trước cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân. Cũng theo cách tương tự, Lê Duẩn cũng tàn nhẫn đoạt quyền của Tướng Võ Nguyên Giáp, bậc thầy mưu luợc của Việt Nam trong cuộc chiến chống Pháp. Trong khi Tương Giáp chủ trương một chiến lược hoà dịu và và chiến thuật du kích, Lê Duẩn kiên quyết cho một chiến lược mang tên là Tổng tiến công và nổi dậy, liên quan đến các cuộc tấn công trực tiếp vào các thành phố miền Nam Việt Nam. Như ngày nay chúng ta đã biết, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng đã thành công trong việc tạo ra việc đè bẹp ý chí của Mỹ để tiếp tục cuộc chiến. Nhưng chiến lược đã dẫn đến thương vong to tát đáng kể cho quân đội Bắc Việt và những người ủng hộ họ. Như Hastings chỉ ra, trên thực tế, có thể Bắc Việt Nam là một quốc gia cai trị bằng công an, không giống như các quyền tự do dành cho người miền Nam dưới sự giám sát của người Mỹ. Một lợi thế khác cho Lê Duẩn là khi nắm được quyền lực gần như tuyệt đối với các ủy viên khác trong Bộ Chính trị, ông có thể theo đuổi một phương sách tham vọng hơn trong binh pháp du kích so với Mao và các nhà lãnh đạo nổi dậy khác đã khai triển trước ông. Đầu tiên, Mao kêu gọi xây dựng sự hỗ trợ của dân chúng ở các vùng nông thôn, sau đó là các cuộc tấn công du kích và khủng bố chống lại kẻ thù, sự tham gia trực tiếp chỉ dành cho giai đoạn cuối của cuộc xung đột, nếu có. Học thuyết của ông đã được Taliban chứng minh là có hiệu quả. Sau 18 năm tránh sự can dự trực tiếp với các lực lượng liên minh, giờ đây họ là mối đe dọa ngày càng tăng đối với chính phủ do Mỹ hậu thuẫn ở Kabul. Ngược lại, Nhà nước Hồi giáo (ISIS) đã chọn đối đầu trực diện với quân đội chính quy của phương Tây và Trung Đông và họ bị đánh bại trong thời gian tương đối ngắn Thiển cận dai dẳngSau khi cải cách Đổi mới vào cuối những năm 1980, Việt Nam Cộng sản đã trở thành một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á và là địa điểm chào đón cho du khách Mỹ đến. Chuyện rõ ràng là ngay cả những ký ức khủng khiếp cũng có thể phai mờ theo thời gian. Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ phải để các ký ức này hoàn toàn xoá mờ. Chiến tranh Việt Nam đã cướp đi hơn 58.000 sinh mạng của quân nhân Hoa Kỳ và từ hai triệu đến sáu triệu người Việt Nam. Các cuộc chiến của Mỹ ở Afghanistan và Trung Đông đã dẫn đến cái chết của ít hơn 8.000 người Mỹ. Sự khác biệt có thể được giải thích bởi một số yếu tố, bao gồm những cải tiến phi thường trong quân y và trị liệu phục hồi sau đó. Tuy nhiên, về mặt tài chính, các cuộc chiến tranh trong thế kỷ XXI của Mỹ có giá gần gấp 2,5 lần so với sự tham chiến tại Việt Nam. Nhưng vấn đề các lỗi lầm do Lansdale nhận ra được tiếp tục lập lại, thậm chí tệ hại nhiều hơn nửa. Chẳng hạn như sau khi Saddam thất thủ, Paul Bremer, Phối hợp viên cho Liên minh Lâm thời Hoa Kỳ ở Iraq đã phân hoá các lực lượng vũ trang Iraq một cách kiêu ngạo và cấm đoán các thành viên của Đảng Baath trong cơ quan dân sự. Do đó, Iraq rơi vào cuộc nội chiến trong hai tông phái Shia và Sunni, Iran nổi lên như là một lãnh chúa địa phương của Iraq và thành viên của một số nhà lãnh đạo quân sự thuộc Đảng Baath bị lật đổ đã tiếp tục giúp đỡ thành lập Nhà nước Hồi giáo (ISIS). Về phần mình, Boot cho rằng: "Một trong những thất bại nặng nề của chính sách đối ngoại của Mỹ sau ngày 11/9 là không có khả năng đối phó thích ứng với Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai và Thủ tướng Iraq Nouri al-Maliki. Dù được chính quyền George W. Bush thiết lập, cả hai đã phát triển hoàn toàn xa lạ với Hoa Kỳ đến nỗi nhiều người ở Washington đã coi họ là trở ngại chính cho thành công của Mỹ. Thất bại ở Afghanistan gây hoang mang đặc biệt. Gần hai thập niên sau cuộc xâm lược của Hoa Kỳ, vẫn còn 14.000 quân nhân Hoa Kỳ đóng quân ở đó. Trong khi Tổng thống Mỹ Donald Trump đã hứa sẽ đưa họ hồi hương, chính quyền Mỹ cũng đang chuẩn bị trao một vùng lãnh thổ đáng kể cho phe Taliban, họ đang hoạt động ở khoảng 70% trong đất nước, mặc dù có vũ khí kém hơn. Thời hậu hậu cảnh Việt NamVề sự thất vọng của Mỹ ở Afghanistan và Trung Đông sẽ có ý nghĩa gì cho tương lai là không có gì để nói. Cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Madeleine Albright từng mô tả Hoa Kỳ là quốc gia cần thiết trên thế giới. Điều này sẽ còn tiếp tục? Chủ thuyết cô lập luôn luôn là gánh nặng gây ra định kỳ cho nền chính trị Mỹ. Sau cuộc chiến chống khủng bố Hồi giáo trên toàn cầu của Tổng thống Bush, Obama đã thực hiện một phương sách dè dặt hơn đối với các cuộc phiêu lưu ra nước ngoài. Như một cố vấn của Obama đã đặt vấn đề một cách nổi tiếng, cách của chính quyền ở Libya sau Mùa Xuân Ả Rập là một cuộc diển tập theo cách chỉ đạo từ phía sau. Hiện nay, đối với việc hoạch định chính sách đối ngoại, Tổng thống Trump đã đưa ra một cách thuần túy dựa trên tinh thần giao dịch thương mại, mà hiển nhiên là nhường quyền kiểm soát Trung Đông cho Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran. Ngày nay, các cuộc xung đột hầu như không tương đồng với chiến tranh Việt Nam. Những người lính Mỹ ở Việt Nam là những người đã bị động viên quân dịch theo luật định; những đơn vị quân đội ở Afghanistan và Iraq do nhập ngũ do tự nguyện và thường được hưởng sự hỗ trợ của cộng luận Mỹ. Nhưng sự hỗ trợ đó là cho công vụ của họ, không phải cho chính các cuộc chiến này. Thực ra, nhưng cuộc thăm dò công luận gần đây cho thấy là hiện nay phần lớn người Mỹ ủng hộ việc rút hoàn toàn quân đội Mỹ ra khỏi Afghanistan. Khi các cuộc chiến của Mỹ ở hải ngoại trở nên không còn được yêu chuộng ở trong nước, các cuộc chiền phải được kết thúc, ngay cả khi điều đó có nghĩa là thừa nhận thất bại. Đó là bài học còn lại của Việt Nam. Sách tham khảo:Max Hastings, Vietnam: An Epic Tragedy, 1945-1975, Harper, 2018. Max Boot, The Road Not Taken: Edward Lansdale and the American Tragedy in Vietnam, Liveright, 2018. Lien-Hang T. Nguyen, Hanoi’s War: An International History of the War for Peace in Vietnam, University of North Carolina Press, 2016 (Paperback). Nguyên tác: The Living Lessons of Vietnam. John Andrews, Cựu Biên tập viên và Phóng viên nước ngoài của The Economist, tác giả của The World in Conflict: Understanding the World’s Troublespots. Tựa đề bản dịch là của người dịch. www.project-syndicate.org/onpoint/the-living-lessons-of-vietnam-by-john-andrews-1-2017-08 *** Phụ chú của người dịch: Người Việt đừng quên ý nghĩa của ngày 30 tháng 4 năm 1975 và chiến tranh Việt Nam Khi điểm sách mới viết về chiến tranh Việt Nam, John Andrews muốn cảnh báo cho chính giới Mỹ là cần phải quan tâm đến bài học Việt Nam để thực thi một chính sách ngoại giao cho phù hợp hợn trong thời đại mới. Thực ra, John Andrews không mang đến một nội dung mới cho độc giả, vì đã có vô số các tác giả khác đã đề cập tương tự trước đây. Vì là người ngoại cuộc, nên khi nhận định, tác giả có một sồ hạn chế nhất định mà người Việt cần phân biệt khác hơn và cũng không nên quên các bài học lịch sử này cho chính người trong cuộc. 1.Trận Khe SanhTác giả xem Khe Sanh là Pyrrhic victory, nghĩa là chiến thắng không đáng gọi là thắng vì tổn thất quá nặng nề cho Mỹ, đây là một nhận định sai lạc. Khe Sanh là một trận giao chiến ác liệt với cấp số sư đoàn, hoả lực pháo binh hùng hậu, thiết giáp tối tân và không kích quy mô nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Trước các phản pháo liên tục của Mỹ, các binh sĩ của QĐNDVN phải rút khỏi Khe Sanh, nhưng từ bên kia biên giới Lào, họ tiếp tục pháo kích. Cuối cùng, ngày 6 tháng Bảy năm 1968 lính Mỹ rời Khe Sanh, chỉ còn hành quân lưu động và tiếp tục ném bom. Khe Sanh thành vùng oanh kích tự do vì không còn giá trị phòng thủ chiến lược. Đến năm 1971, căn cứ Khe Sanh mới được QLVNCH sử dụng lại. Các con số thương vong do hai phiá đưa ra là không chính xác, vì họ xem tuyên truyền chính trị vẫn là quan trọng hơn quân sự. Phe thắng cuộc ước tính sau 170 ngày chiến đấu đã loại khỏi vòng chiến đấu 11.900 tên địch, bắn rơi 480 máy bay, 120 xe quân sự, thu và phá hủy hàng trăm khẩu pháo, trong khi Hoa Kỳ nói là sau 77 ngày trực chiến đã giết tới 15 nghìn người. Hiện nay, không ai có thể kiểm chứng được là ai thắng và ai thua, mà các giải mật cũng không thể soi sáng. 2. Trận Điện Biên PhủTác giả cho rằng: "Không nơi nào rõ ràng hơn là thất bại thảm hại của Pháp tại Điện Biên Phủ trong năm 1954", nhưng Tướng Võ Nguyên Giáp có phải là một thiên tải binh lược đáng ca ngợi hay yếu tố sát quân là một thất bại theo binh pháp cổ điển, vấn đề đã được tranh luận nhiều, ở đây không lập lại, đó cũng là một loại Pyrrhic victory mà tác giả không nhận ra. 3 Trận Mậu ThânKhi so sánh về tinh thần chiến đấu của binh sĩ hai phe, tác giả cho là: "Miền Nam không thể so tương xứng với khả năng kháng cự và tinh thần quyết tâm của lực lượng mang dép râu của ông Hồ Chí Minh." Tác giả tự mâu thuẩn khi xác nhận khả năng chiến đấu tinh nhuệ của phiá VNCH trong chiến cuộc Mậu Thân là đã gây tổn thất thảm khốc cho phía MTGPMN, dù bị tấn công toàn diện và bất ngờ. Tướng Trần Văn Trà thú nhận là: “… ta không đánh giá đúng về tương quan lực lượng ta địch cụ thể lúc ấy, không thấy hết khả năng còn lớn của địch và điều kiện còn hạn chế của ta, đề ra yêu cầu quá cao sức thực tế ta có...” Nguyễn Văn Linh cho biết là các cơ sở nội thành bị tiêu diệt và Bộ Chỉ huy phải mất 1 năm 28 ngày mới tới được căn cứ. Cuối tháng 9 năm 1968, CSBV đã ngừng hoạt động và bổ sung không kịp. Giữa năm 1969 lương thực ở Tây nguyên chỉ đủ nuôi bộ đội trong khoảng một tuần, CSBV đã phải điều động một sư đoàn và các đơn vị không tác chiến khác “tập kết lần thứ hai” ra Bắc. Nguyên nhân tổn thất của CSBV là vì dân thành phố miền Nam không nổi dậy mà ủng hộ chính quyền VNCH, phần khác là sự chống trả anh dũng của QLVNCH và tệ hại nhất là các du kích quân không thông thạo địa hình thánh phố. Uy tín chính trị của MTGPMN xuống thảm hại vì thực lực quân sự không còn. Do đó, lập luận đề cao cho lực lượng mang dép râu của tác giả là không thuyết phục. 4 Tổn thất và chiến thắng.Trong lịch sử chiến tranh nhân loại, chưa có một trường hợp nào tương tự xảy ra khi phe thua cuộc tổn thất quá ít: phe thằng cuộc mất khoàng 1 triệu 1 binh sỉ và phe thua cuộc khoàng 225.000. Hơn nữa, Việt Nam đã có nhiều giải pháp khả thi để kết thúc cho cuộc chiến, thay vì phải tiếp tục chết thay cho Liên Xô và Trung Quốc như Lê Duần tự hào. Do đó, ĐCSVN phải trả một cái giá quá đắt về nhân mạng theo ý nghĩa Pyrrhic victory mà tác giả không nhận ra , nhất là khi liều đem sinh mạng 1 triệu 1 binh sĩ để thằng trong chiến tranh, nhưng cuối cùng tìm cách bang giao với Hoa Kỳ trong hoàn cảnh thời bình mà toàn dân và ĐCSVN cùng nhau cam chịu đại bại. 5. Ngày 30 tháng 4 năm 1975Ngày 30 tháng 4 năm 2019 là một ngày để chúng ta nhớ về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và tìm hiểu những gì mà dân tộc đã sống trong 44 năm qua. Bằng kinh nghiệm sống với chế độ và với các sử liệu mới, chúng ta nhận ra rằng ĐCSVN giải phóng cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, ngày miền Nam thoát khỏi chiến tranh cũng là ngày mà miền Bắc hiểu rõ hơn thế nào là hy sinh cho chính nghĩa. Cả nước được giải phóng lại bị hủy diệt trong một hoàn cảnh mới, không phải chỉ là thiệt hại vật chất mà còn tinh thần, khởi đầu cho một tiến trình tương phản phức tạp, một nghịch lý bi đát; thông nhất dân tộc không phải chỉ có vinh quang mà còn là tủi nhục, vì những người thành tâm không có chổ đúng trong lòng dân tộc, như đã hứa hẹn. Từ năm 1975, nếu phe thằng cuộc thức thời biết tận dụng các tiềm lực của phe thua cuộc đúng mức và chuyển hướng đúng lúc, thì nước Việt Nam thống nhất đã có một vận hội mới để xây dựng một quốc gia dân chủ, phú cường và văn minh. Nhưng đến năm 2019, các hy vọng chỉ còn là ảo vọng. Dĩ nhiên, chúng ta không thể thay đổi được ngày 30 tháng 4, ngày đại bại của toàn dân và phải chấp nhận những hậu qủa đã xảy ra. Khi nhìn lại sau 44 năm, chúng ta chỉ thấy một điều hiển nhiên là Đế quốc Mỹ và tay sai hay thế lực thù địch không có đủ khả năng đem đến thảm hoạ cho đất nước như hiện nay, khi vẹn toàn lảnh thổ, chủ quyền dân tộc tự quyết, tự do và bình đẳng cho người dân chỉ là lý thuyết; ngược lại, ô nhục ngoại giao, tham nhũng lên ngôi, khó khăn kinh tế, nợ công tràn ngập, cạn kiệt môi sinh, suy đồi đạo đức, khủng hoảng giáo dục, vi phạm nhân quyền, bất ổn xã hội và đại hoạ diệt vong là thực tế. Trước thực trạng này, chính quyền chỉ còn biết dùng bạo lực trấn áp để bảo vệ cho chế độ, nên không đủ nỗ lực để phát huy dân chủ cho đất nước, đến nay rã rời chân tay vì không bảo vệ nổi, nên kế sách sinh tử cuối cùng là đành phải giao trọn giang sơn cho phương Bắc trước khi tháo chạy. Bằng tỉnh thức tình tự dân tộc, trong hiện tại, không còn ai đủ can đảm đặt ra câu hỏi là ai thằng ai thua, không còn ai cay cú và luôn tìm cách đánh phá đất nước và xuyên tác lịch sử, không còn ai mang tâm trạng thụ hưởng thành quả chiến thắng là ca ngợi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Khi quá khứ không còn, tất cả chúng ta, không phân biệt ai là ai, phải đang sống trong một đất nuớc không có chủ quyền lãnh thổ, một chính trường không còn chính giới, đó là các lý do chính đáng để chúng ta không hân hoan tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, mà cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh và có trách nhiệm hơn cho tương lai, dù là khi nhìn về tương lai, chúng ta càng lo sợ hơn vì không biết đất nước và con người sẽ đi về đâu. 6. Bài học cho người Việt? Trong khi John Andrews cảnh báo các bài học Việt Nam dành cho người Mỹ là vô cùng sống động, vấn đề dành cho người Việt là thương đau hơn. Trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc từ tay thực dân, tình hình Ấn độ khó khăn và phức tạp hơn Việt Nam, tại sao Ấn độ thành công bằng giải pháp bất bạo động, còn Việt Nam thì không? Trong công cuộc đấu tranh chống các phong trào do Cộng sản lảnh đạo tại Nam Dương, Mã Lai, Phillipines và Việt Nam, tất cả đều đẩm máu khốc liệt và có ngoại bang yễm trợ, tại sao các nơi khác thành công trừ miền Nam Việt Nam? Khi Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, Mỹ đã tỉnh thức còn Việt Nam tại sao còn tiếp tục tự nguyện làm nô lệ? Khi Vua Chế Mân dâng hai châu Ô và Lý vào năm 1306 cho nhà Trần và Vương quốc Chiêm thành đã diệt vong, tại sao Việt Nam không có khả năng học tập kinh nghiệm để tránh cảnh lịch sử này lập lại? Đất nước đang nguy cơ hơn bao giờ hết. Đừng nên vọng tưởng là có phép lạ bất chiến tự nhiên thành hay ngư ông thủ lợi xảy ra để thay cho toàn dân, mà chuyển hoá tại Đông Âu và Liên Xô là thí dụ. Chế độ Cộng sản là nguyên nhân cho mọi thãm hoạ hiện nay, sức mạnh của toàn dân sẽ đem lại giải pháp và quyền dân tộc tự quyết là phương tiện. Vấn đề là sự chọn lựa và quyết tâm. Nỗ lực rồi hãy cậy trông. Tỉnh thức thân phận chính trị trong tình tự dân tộc là một hy vọng khởi đầu và cuộc tổng biểu tình ngáy 10 tháng 6 năm 2018 là một tin vui chung cho tinh thần đấu tranh đoàn kết.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 4, 2022 21:57:46 GMT 9
Tỉnh Định-Tường Ngày Xưa Cuộc Đánh Chiếm Mỹ-Tho Năm 1861 Của Quân Pháp - Sự Chống Cự Tận Tâm Của Quân Việt
Tháng năm (ở Bắc nhằm đời Lê-Hi-Tôn năm thứ tư) có quan tổng-binh chính tên là Dương-Nhị hay là Dương-Ngạn-Địch vốn là giặc biển hùng-cứ ở Long-Môn (tỉnh Quảng-Đông). Đến cuối đời Thuận-Trị (Tân-Sửu I66I) tới đầu Khương-Hi (Nhâm-Dần I662) nhà Thanh bên Trung-Hoa, Nhị hay là Địch hiệp với bọn thủy-khấu là Đặng-Diệm, Tây-Bưu, Dương-Tam cướp bốc ghe thuyền qua lại tỉnh Quảng-Đông và Hải-Nam. Khi Địch-Trinh-Trung cùng liên-hiệp với Trịnh-Kinh ở Đài-Loan, họ Dương theo về ; Trịnh-Kinh phong cho Dương chức tổng-binh tại trấn Lễ-Võ, chỉ-huy một mặt bảo-vệ thương thuyền đi lại Nam-Dương và mặt-khác hoạt-động tại bốn huyện Lôi, Liêm, Cao, Quỳnh chờ chực để hưởng ứng với Ngô-Tam-Quế được Thượng-Chỉ-Tín 60 (con của Thượng-Khả-Hỷ quan trấn-thủ Quảng-Đông) ủng hộ ; bọn Quế hoạt-động chánh-trị ở Quảng-Đông, Quảng-Tây. Trịnh-Kinh đau bịnh từ trần, thế-lực Trịnh suy giảm, bọn Địch hay là Nhị như rắn mất đầu, bị nhà Thanh uy-hiếp. Nhị và phó-tướng Hoàng-Tấn cùng tổng-binh trấn-thủ các địa-phương Cao, Lôi, Liêm là Trần-Thắng-Tài tức Trần-Thượng-Xuyên (có tên khác là Trần-Thắng) và phó-tướng Trần-An-Bình đem tất cả binh lực và gia-quyến trên ba ngàn người chở trên năm chiếc thuyền nhập hai hải-cảng Tư-Dung (Tư-Hiền) và Đà-Nẵng đều ở Trung-Việt. Lúc ấy có thơ trần-tình của quan Việt-Nam đệ lên nhà Chúa (Nguyễn-Phúc-Tần, Mậu-Tí I648 – Đinh-Mão I687). Lời lẽ trong thơ rằng : « Gặp dịp ở Bắc-hà hay phiến-động 61 mà quan binh nọ từ xa chạy đến, chưa rõ thật dối thế nào, huống chi chúng họ y-phục khác tiếng nói khác, khó bề tính-dụng dịch sử. Nhưng nay họ bị thế cùng bức, chạy qua đầu nhập, tỏ bày trung-tiết, thì ta vì nghĩa không nên cự tuyệt. Vả lại, ở địa-phương Giản-phố (biệt danh đất Gia-Định khi xưa) đất ruộng phì-nhiêu đến nghìn dặm, Triều-Đình chưa kinh-lý đến, nay nên lấy sức lực của chúng ủy-giao đất ấy chúng ở và khai-khẩn, ấy là một việc mà có ba điều lợi vậy » 62. Sau khi nghe trần-tình chúa Hiền (tên tục của Nguyễn-Phúc-Tần) cho vào ở Thủy-Chân-Lạp. Nhà Chúa cũng hạ dụ cho Vua Chân-Lạp là Nặc-Ông-Non biết, để tiện bề đối đãi cho xứng ngôi bực. Dương-Ngạn-Địch và Trần-Thượng-Xuyên hết lòng tạ ơn, đem binh thuyền trực chỉ vô Nam. Họ Dương và Hoàng-Tấn đến cửa biển Soi-Rạp và Đại-Tiểu hải-môn (thuộc Cù-Úc Mỹ-Tho) rồi trú nơi Mỹ-Tho 63. Trần-Thượng-Xuyên và phó-tướng Trần-An-Bình noi theo đường Cần-Giờ, đồn trú ở Đồng-Nai, chợ Băng-Lăng (Bến Gỗ) 64, gần tỉnh-lỵ Biên-Hòa, lập chợ phố buôn bán thông-thương với người Tàu, Tây-Dương, Nhựt-Bổn, người Chà-Và. Thế là, thình-lình, chúa Hiền tìm được đồng-minh để khai-thác xứ Chân-Lạp nơi người Trung-Hoa. Mỹ-Tho là đất Cù-Úc Mỹ-Tho định-danh của Chơn-Lạp 65. Lúc ấy, chắc chỉ có người Huê-kiều theo Dương-Nhị định-cư ở đất Mỹ-Tho mà thôi, hoặc giả có người Việt thì cũng rất thiểu-số, vì từ Mỹ-Tho lên đến Bến-Lức là đất sở-hữu của Cam-Bốt (tới năm Tân-Hợi I73I hãy còn của vương-quốc nầy) 66. « Dương-Nhị dựng nhà cửa, nhóm dân Hán-Di, kết lập xóm làng, lập ra chín trường biệt-nạp : Qui-An, Qui-Hóa 67, Cảnh-Dương, Yên-Mụ, Quản-Tác, Hoàng-Tích, Tam-Lạch, Bả-Canh, Tân-Thạnh cho dân lập ấp khai-khẩn, lại chia ra làm từng trang trại đều theo bản-nghiệp làm ăn nạp thuế ». 68 Xứ Tầm-Đôn Xoài-Lạp là địa danh của Chân-Lạp dùng để chỉ « châu Định-Viễn, dinh Long-Hồ vẫn thuộc về phủ Gia-Định ». 69 Sau năm Kỷ-Vị I679 chín năm (Mậu-thìn I688) lại có cuộc làm phản của Hoàng-Tấn phó-Tướng của Địch. Địch bị giết, rồi tới Tấn cũng không còn. Năm Giáp-Tuất (I754) nhằm năm thứ I7 của chúa Võ-Vương Nguyễn-Phúc-Khoát, bề tôi là Đạm-Am Nguyễn-Cư-Trinh với Thống-Suất (không biết tên) đem quân dẹp loạn Nặc-Nguyên. Binh Đại-Am đến đâu quân Cam-Bốt đầu hàng đến đó. Nặc-Nguyên chạy trốn gần Vĩnh-Long. Năm Ất-Hợi (I755) Thống-Suất (?) thua ở đất Vô-Tà-Ân (có lẽ vùng Đồng-Tháp) bị Vua giáng chức cho Trương-Phúc-Du thay thế. Đạm-Am dâng sớ tâu với Vua xin hãy áp-dụng chánh-sách « tàm thực » (tằm ăn dâu). Chánh-sách nầy ngoài mặt không thấy nguy-hiểm nhưng bên sâu vô cùng độc hại vì nó lấn đất lần-lần. Trước dưng sớ nầy, nặc-Nguyên xin hiến nạp hai phủ Tầm-Bôn (Tân-An bây giờ) và Lôi-Lạp (Soi-Rạp : Gò-Công bây giờ). Chúa Võ-Vương không ưng, nay được sớ có ý-thức sự lợi của chánh-sách ấy, Chúa chịu ngay. Năm Kỷ-Mão (I759) nhằm năm thứ 22 của Võ-Vương, Vương lại được hiến đất Tầm-Phong-Long (Châu-Đốc và Sa-Đéc). Mãi đến năm Nhâm-Thìn (I772) là năm thứ 8 của Định-Vương Nguyễn-Phúc-Thuấn, « vua sai quan trấn Gia-Định đem đất Mỹ-Tho lập thành Trưởng-Đồn-Đạo, đặt chức Cai-Cơ, Thơ-Ký để cai-trị ». Năm Tân-Dậu (I78I) cải làm Trấn-Định (lúc nầy Nguyễn-Vương là Ánh còn lận-đận về Tây-Sơn). Năm Ất-tị (I785), Chiêu-Tăng và Chiêu-Sương (Văn-hóa Nguyệt-san, số 62 gọi là Trương) vưng lịnh vua Xiêm đem binh ủng-hộ Nguyễn-Ánh hoàn về Việt-Nam. Chúng đi từ Kiên-giang lần lần đến Cần-Thơ, Đông-khẩu-đạo (Sadec) theo giòng Cửu-long rồi đóng ở Trà-Tân. Binh Xiêm vô kỷ-luật đến đâu cướp phá đến đó. Nguyễn-Ánh can-thiệp với Tăng và Sương không công-hiệu, chỉ có lắc đầu than thở thôi. Tướng Tây-Sơn giữ đất Gia-định là Trương-văn-Đa mật-báo các sự ấy về Qui-Nhơn. Tháng tư năm Ất-tị (I785) 70 Nguyễn-Huệ cử 50.000 binh 71 gồm thủy, lục-quân từ Qui-Nhơn vào Gia-Định, đem chiến thuyền thẳng xuống rạch Xoài-Mút và Rạch-gầm (cả thảy thuộc tỉnh Mỹ-Tho) và cho sứ giả đi thương-thuyết với Tăng và Sương. Binh Xiêm đóng ở đồn Trà-Tân (nay còn Rạch Trà-Tân, một chi-lưu mé trái sông Cửu-Long, lối cù-lao Năm Thôn, đồn Trà-Tân chắc ở chỗ hợp-lưu Cửu-Long và rạch Trà-Tân). Rồi sau, binh Nguyễn Huệ nhử Xiêm-quân. Đánh đâu thắng đó, Xiêm binh sinh kiêu, giáp thủy chiến với quân Tây-Sơn, và bị vây khốn do Tây-sơn núp và chặn ở rạch Xoài-Mút và Rạch-Gầm. Thủy-quân Tây-Sơn tấn công ba mặt già quá, Xiêm-quân kéo lên bộ, khoảng giữa hai rạch trên, lục-quân Tây-Sơn mai-phục sẵn, đổ ra đánh vầy một trận thứ nhì, đầu Xiêm-binh rơi rụng như sung chín. Lúc đi năm vạn, khi về chỉ hơn một vạn 72. Nguyễn-Ánh chạy ra đảo Thổ-châu và trở lại bô-bá ở Xiêm-quốc. Năm Minh-Mạng thứ I2 (Tân-Mão I83I) chia đất đai lại mới gọi là tỉnh Định-tường, đặt Tuần-Vũ và Bố-Chánh Án-Sát hai ty. Trước kia huyện Kiến-Hòa (Gò-Công) thuộc Phiên-An năm Tân-Mão (I83I) nay lại thuộc về tỉnh Định-Tường. Năm Minh-Mạng thứ I4 (Quí-Tị I833) Lê-văn-Khôi khởi dấy chiếm thành Mỹ-Tho, sau binh trào Nguyễn khôi-phục đặt thêm huyện Kiến-Đăng (nay là vùng Cái-Bè, Cai-Lậy). Năm Minh-Mạng thứ I9 (Mậu-Tuất I838) đặt phủ Kiến-Tường, bãi bỏ huyện Kiến-Đăng, lại đặt thêm huyện Kiến-Phong (nay là vùng Cái-Thìa, Mỹ-Luông) thuộc phủ Kiến-Tường. Năm Thiệu-Trị ngươn-niên (Tân-Sửu I84I) bỏ huyện. Tân-Hòa (hay là vùng Gò-Công). Huyện nầy lại trở về tỉnh Gia-Định. Từ năm Ất-Sửu I865, nghĩa là năm bắt đầu soạn-thảo bộ Đại-Nam Nhất Thống-Chí (năm Tự-Đức thứ I8) tỉnh Định-Tường chia làm hai phủ : Kiến-An và Kiến-Tường. Phủ Kiến-An gồm có : huyện Kiến-Hưng (có thành-trì Mỹ-tho) huyện Kiến-Hòa (có chợ cũ Mỹ-Tho, Bến-Tranh). Phủ Kiến-Tường gồm có : huyện Kiến-Phong (vùng Cái-Thia, Mỹ-Luông) huyện Kiến-Đăng (vùng Cái-Bè, Cai-Lậy). Nói vậy cũng chưa biết rõ, vì không thấy địa-đồ của Việt. Nhờ căn-cứ theo tấm địa-đồ đề, « Carte générale de la Basse-Cochinchine d’après les travaux exécutés en I859, I860, I86I, I862 et publiés par le Dépôt de la Marine » trong sách. « L’expédition de Cochinchine en I86I » của Léopold Pallu thì hồi Nhâm-Tuất I862 biên giới tỉnh Định-Tường như sau đây : - Đông, từ ngả ba Bảo-Định-Hà (arroyo de la Poste) với sông Vũng-Gù (vaico occidental cho mau hiểu) chạy giọc theo bờ bên mặt Bảo-Định-Hà tới lối nửa sông nầy (theo bề dài) chạy tách ra, gồm Chợ-Gạo xuống tới sông Cửa-Tiểu (lối Vàm Giồng gọi theo bây giờ) ra biển, Cửa Đại và Cửa Ba-Lai ; - Nam, từ cửa Ba-Lai chạy lên theo sông Ba-Lai (lấy bờ bên trái) tới đò Mỹ-Thuận bây giờ ; Năm Gia-Long thứ bảy (Mậu-Thìn I828) cải dinh Trấn-Định làm trấn Định-Tường thuộc thành Gia-Định. - Tây và Tây-Nam, từ bến đò Mỹ-Thuận lên đến Hồng-Ngự (bờ bên trái sông Tiền-Giang), hồi năm I862 gọi lối ấy là Bouthan. - Bắc và Đông-Bắc, từ Hồng-Ngự chạy dài theo địa-giới vương-quốc Cam-Bốt đến nguồn sông Vũng-Gù, từ đó chạy theo bờ bên mặt xuống ngả ba sông nầy với Bảo-Định-Hà. Quí bạn hình-dung thử thì thấy phần đất trên Bắc, Đông-Bắc và Tây-Nam thật rộng, chạy xuống Cửa Tiểu, Cửa Đại và Cửa Ba-Lai hẹp hơn phần đất trên nhiều. Nếu các bạn cho phép thì tôi tưởng tượng lờ-mờ một cái chai chỏng miệng ra Nam-Hải. Rồi cuộc đời tiến-triển không ngừng. Dân Việt vì chậm chơn và vì rất nhiều nguyên-nhơn li-ti mà tôi không kể ra đây chi, nên phải đành nhường bước cho các quốc-gia tân-tiến ở Tây-Dương. Thế là nước Pháp đến và lăm-le nhảy lên ghế chủ-nhơn-ông. Ngày 24 và 25 tháng hai I86I 73 một trận đánh quyết-liệt và quyết-định tương-lai của vương-quốc Việt ở Kỳ-Hòa. Quân Việt thất cơ rút lui, quân Pháp tiến tới. Gia-định bị chiếm, Pháp-quân quây xuống Mỹ-Tho. Có ba đường đi Mỹ-Tho. Ngả thứ nhứt vô sông cửa Tiểu. Ngả thứ nhì xuống Đại Vàm-Cỏ rồi noi theo sông Vũng-Gù (Vàm Cỏ Tây) tới hợp-lưu Bảo-Định-Hà 74 và Vũng-Gù, theo Bảo-Định-Hà (kinh Chợ Gạo) hết kinh nầy là tới thành Mỹ-Tho. Ngả thứ ba cũng vào sông Vũng-Gù qua khỏi hợp-lưu Bảo-Định Hà và Vũng-Gù đến ngã ba sông nầy và kinh Thương-Mãi (không biết hồi I86I gọi là kinh gì nhưng từng chặng tôi thấy sách Abrégé de l’Histoire d’Annam, tác giả : Schreiner, trang I84, gọi là Rạch Chanh, Kinh Bà-Bèo, Rạch Cua và Rạch Ba-Rài tới đây lại lòng sông cạn vì bùn lầy ; cỏ lác, chỉ có ghe nhỏ lưu-thông được mà thôi). Vị-trí chỗ hợp-lưu Kinh nầy và sông Cửa-Tiểu là ở trên thượng-lưu Mỹ-Tho. Muốn tấn-công Mỹ-Tho, chiến-pháp dạy rằng tàu chiến phải noi đường kinh nầy ắt thành-công chắc-chắn và mau lẹ hơn các lộ-trình kia, nhưng vì nó cạn một đoạn khá dài nên không thể dùng cho tàu lưu-thông được. Còn lại hai đường, như ta đã thấy trên kia. Hai chiếc pháo-hạm la Mitraille, l’Alarme và tiểu pháo-hạm số I8, 3I và 20 đều huy-động. Vì Pháp-quân không dò dẫm trước, nên ngày 27, 28, 29, và 30 tháng ba năm I86I 75, hải-quân Trung-Tá Bourdais, chỉ-huy trưởng cuộc xâm-lăng Mỹ-Tho tiến vào kinh Thương-Mãi. Thấy không đến mục tiêu dự-định, Bourdais quay mũi tàu thối lùi và tất cả đều trở ra sông Vũng-Gù và vào Bảo-Định-Hà. Ngày 0I tháng tư I86I 76 đoàn tàu tiến tới, hải-quân Trung-Úy Gardoni, chỉ huy chiếc La Mitraille phá hai chướng-ngại-vật dưới Bảo-Định-Hà. Ngày 02, La Mitraille đi trước theo sau L’Alarme ; La Mitraille mắc cạn, nhưng chừa đủ đường qua cho pháo-hạm I8, 3I và 20. Hai đồn hai bên bắn xuống, pháo-hạm bắn trả lại, chốc lát 2 đồn nín im. Pháp-quân chiếm phá chướng-ngại thứ ba và thứ tư. Ngày 03 tháng tư khi tiến tới, Pháp-quân đụng phải một đồn thứ ba ở mé tả. Chỉ-huy trưởng Việt-binh bị đạn bứt mất một vai lúc mới khởi sự bắn. Chướng-ngại-vật thứ năm gồm có nọc, tre đóng lòng sông, thân cau, xa một chút một ghe chài nhận chìm đựng đầy đất. Khoảng từ chướng-ngại-vật thứ năm đến thứ sáu có hai mươi lăm chiếc bè đặt diêm-sanh và đồ dẫn-hỏa. Ở vị-trí nầy hai ngọn nước sông Vũng-Gù (sông Vàm Cỏ Tây) và Tiền-Giang giao điểm nhau và sình lầy, làm cạn. Chính chiếc ghe chài bị Việt-quân nhận chìm ở đây để làm chướng ngại. Theo tấm lược-đồ « carte pour servir à l’intelligence de l’Expédition contre My-Tho » ở trang II6 của sách Léopold Pallu, Pháp-quân phải ở đây suốt những ngày 03, 04 và 05 tháng tư. Bịnh dịch-tả xuất-hiện ngày 03, kèm theo dịch-tả có bịnh sốt rét và kiết-lỵ. Ngày 04, quân tiến-viện đến dưới thông-báo-hạm L’Echo do Đại-Úy de Vautré chỉ huy. Cũng ngày ấy, Charner sai Du Quilio với năm trăm binh tiếp-viện từ Saigon xuống Bảo-Định-Hà 77. Ngày 05 có pháo-hạm I6, chỉ-huy trưởng Béhic đến tăng cường và pháo-hạm số 22 kéo theo sau đệ-nhị trung-đội và một trung-đội lục-quân thủy-chiến do nhiều tàu nhỏ (chaloupes) chở. Ngày 06, lại có thêm viện-quân do hải-quân Trung-Tá Desvaux điều-động đến. Hải-quân trung-tá Le Couriault du Quilio tới chỗ và Bourdais giao quyền chỉ-huy lại cho người 78. Đã biết trước có đường bộ đi được, người ta chỉ-huy lục-quân noi theo bờ tay trái của Bảo-Định-Hà, chừng đến gần Mỹ-Tho sẽ sang bờ mặt. Cũng ngày 06, phải phá chướng-ngại-vật thứ bảy chắn ngang sông (theo bản lược-đồ đã nói trên). Trên đồn (đồn thứ tư) Việt-quân nhả đạn liên hồi. Tại vị-trí nầy, Việt-quân huy-động tất cả phương-tiện phòng-thủ. Ở sông chướng-ngại-vật khổng-lồ, trên đất mé tả kinh Bảo-Định, lính giàn một mặt trận chắn ngang, từ Bảo-Định-Hà ra lối một ngàn thước, súng ống hẳn hoi. Pháp-quân nghinh chiến, bọn khu-trục ở giữa đi trước, bên mặt có thủy-quân và quân Tây-Ban-Nha, bên trái có lục-quân thủy-chiến. Hai bên bắn nhau. Quân Tây-Ban-Nha, do Trung-Úy Maolini bình-tĩnh bắn trúng đích. Việt-quân núng thế rút lui, bỏ lại những xác của đồng-đội, thay vì đem đi như những lần trước. Phân đôi lục-quân Pháp chiếm đồn. Còn kỳ dư quân-binh đều trờ tới đóng trong làng ở trước đồn, bắt từ Mỹ-Tho lên. Chướng-ngại-vật thứ tám thật lớn lao : ba hàng ghe chài nhận chìm, mỗi một hàng gồm có chín chiếc đầy sình. Khoảng dài độ hơn một ngàn thước đầy dẫy những thân cây cau đứng nằm ngổn-ngang. Hết khoảng nầy là đến đệ-cửu chướng-ngại-vật. Từ chướng-ngại-vật thứ tám, bịnh dịch-tả lại lan qua đám lục-quân khu-trục. Người ta cho đem đi sau hậu-tuyến một trăm năm mươi người mắc bịnh nầy. Hải-quân Trung-Úy Vicaire, chỉ-huy trưởng chiếc tàu La Loire, đậu trên sông Vũng-Gù, thấy năm người hắt hơi cuối cùng trong vài giờ. Ngày 08 vượt qua đệ-cửu chướng-ngại-vật và chiều nầy những pháo-hạm bằng sắt đậu được chỗ của lục-quân đóng trên bờ. Sau vị-trí đệ-cửu chướng-ngại-vật, Bảo-Định-Hà quanh một ngoặc chín mươi độ, rồi bẻ ngoặc thứ hai cũng gần ngần ấy độ, thành thử cũng y như cũ nghĩa là hướng Bắc-Nam song có trịch đường thẳng. Ngày 09 tháng tư I86I, lục-quân đi một khoảng đường dài, còn pháo-hạm tiến mau vì không gặp chướng-ngại. Có lẽ là lính Việt ở làng Mỹ-Tịnh-An (gọi theo I960) mới rút lui đó. Pháp-quân vô chiếm không gặp cuộc kháng-cự nào. Cũng đêm ấy lối II giờ, người Việt dùng hỏa-công đốt tàu của Pháp : hải-quân Trung-Úy Joucla chỉ-huy tàu Echo, hải-quân trung-Úy Desnard, mỗi người bắt được một chiếc ghe chở đầy dầu và cháy sáng rực. Hai người cùng đoàn thủy-thủ xô hai chiếc ghe ấy vào một chi-lưu của Bảo-Định-Hà. Lửa trên hai chiếc ghe ấy mặc sức hoành-hành cháy lan cả thảo-mộc mọc lên lối đó. Ngày I0 tháng tư I86I 79 lối ba giờ chiều, Bourdais được lịnh đi trước với pháo-hạm I8. Một ít lâu sau đồn Việt (đồn thứ năm) xả súng bắn, Pháp-quân bắn trả lại chớ chưa biết đích đồn ở chỗ nào. Thình lình lối bốn trăm thước, trên khúc quanh, mặt đồn ngó ngay. Dưới pháo-hạm nhả đạn lên. Trên đồn bắn ba phát lại : một đến be tàu, một làm một người bị thương, một trúng ngay Bourdais bức trái tim, rứt cánh tay trái của Boudais. Pháo-hạm I8, 3I, I6 và 22 thi nhau bắn. Trên đồn bắn trả, rồi im. Thế quân Việt rút lui, quân Pháp chiếm đồn. Desvaux thay thế Bourdais. Sớm mai, II tháng tư, đại-quân đến đồn ấy. Từ đây, người ta bỏ bờ tả, đi theo quan lộ mé bờ hữu. Pháp-quân được thông-báo là đồn thứ sáu, đồn Tam-léon 80 bỏ trống rồi. Ngày nầy lo tống-táng Bourdais. Ngày I2 tháng tư 81 tất cả đạo binh đều vô đóng ở làng Trung-Lương. Lối II giờ, quân tiền-phong thấy một vừng khói lớn lên cao trước cửa thành Mỹ-Tho. Ngày I3 tháng tư, công binh với thang, bốn trung-đội lục-quân thủy-chiến tiến mau với súng bắn tạc-đạn, mào-đạn, nhưng khi còn chừng một tầm súng thấy cờ Pháp trên thành. Chuyện ấy như vầy : Hồi I0 giờ ngày I0 tháng tư, hải-quân Thiếu-Tướng Page đang án-ngữ ở Biên-Hòa được lịnh di-chuyển về Mỹ-Tho. Page đã chỉ-huy pháo-hạm Fusée, giờ đây có thêm chiếc Lily và Sham-Rock và vô cửa Tiểu sẽ có pháo-hạm La Dragonne làm tiền-phong. Nguyên là Charner luôn luôn được báo tin về lộ-trình, về chướng-ngại, về biến-hóa v.v… của đạo-quân viễn-chinh đánh chiếm các đồn Bảo-Định-Hà. Charner toán biết là ngày I2 tháng tư đạo-binh noi theo đường Bảo-Định-Hà sẽ tới Mỹ-Tho, và đạo thứ nhì do Page chỉ-huy cũng phải đến đó mục-đích tăng-cường đạo quân thứ nhứt và vây hãm có kiến-hiệu hơn hầu chiếm thành-trì mau lẹ. Thế nên ngày tám tháng tư, Charner sai chiếc Lily và Sham-Rock đem thơ cho Page trong đó người nói hai tàu trên mới đi thám-hiểm sông Cửu-Long về và bây giờ giao dưới quyền của Page, để Page chỉ-huy hai tàu ấy xuống Mỹ-Tho cho kịp để công-hãm thành nầy. Do đó mà I0 tháng tư, chiếc Fusée theo sau có Lily và Sham-Rock, tới Cửa Tiểu, tại đây La Dragonne đi tiền-phong. Ngày II và I2, hạm-đội ấy phải đi qua hai chỗ có đóng cừ và đồn ở vị-trí ấy xả súng bắn nôn xuống như mưa đá, nhưng rồi… Pháp-quân cũng qua được và hồi một giờ rưỡi trưa đến đậu cách hai trăm thước đồn Mỹ-Tho. Lính Việt đã rút êm hồi lối ba giờ trước. « Trước khi rút lui các quan Việt truyền cho đốt kho lúa và vài công-thự khác » 82. Lính Pháp do Trung-Úy hạm-đội Desaux (đạo-quân do Page chỉ-huy) vô thành, trong lúc ấy đạo-binh Bảo-Định-Hà còn đóng ở làng Trung-Lương, mãi đến I4 tháng tư đại quân mới vào thành. Chiếm được thành-trì Mỹ-Tho, Pháp nhảy lên ghế chủ-nhơn-ông ba tỉnh miền Đông. Hồi năm I86I, tỉnh Định-Tường là « vựa lúa của vương-quốc Việt-Nam » 83. Như chúng ta thấy ở trước, quân Việt chống cự hết lòng, nào hàn sông, nào chất chướng-ngại-vật, dụng hỏa-công v.v… nhưng vì súng đã cũ, tầm súng bắn ngắn hơn súng Pháp, đại-bác thì nạp ở họng, thay vì nạp hậu như của Pháp, tàu chạy bằng buồm và sức người chèo thay vì tàu Pháp chạy bằng hơi nước, quân giữ thế thủ mà không lối công. So sánh hai bên, chúng ta thấy Việt-quân bại binh là đúng vậy. Vị-trí thành Mỹ-Tho ở chỗ ngả ba Bảo-Định-Hà và Tiền-Giang, bên bờ hữu Bảo-Định-Hà. « Thành-trì là một hình vuông, và có pháo-đài. Những mươn chung-quanh rộng-rãi, đầy nước. Lũy nổi và có bề dày. Tại một vài điểm, có sình lầy làm tăng lực-lượng bảo-vệ nhơn-tạo do thiên-tạo phụ thêm. Súng ống trong thành Mỹ-Tho gồm các súng đại-bác nòng lớn. Thành-trì ấy coi tất cả sông Tiền-Giang và chi-lưu của nó. Vậy nó là một chiến-pháp-điểm quan-trọng » 84. Theo Planche III, Carte pour servir à l’intelligence de l’Expédition contre Mỹ-Tho, trong sách « Histoire de l’Expédition… » trên góc mặt có vẽ thành-trì Mỹ-Tho. Đo theo tỷ-lệ-xích của địa-đồ nhỏ nầy thì thành có lối 500 thước tây bề cạnh, bốn góc có bốn pháo-đài (bastions). Căn-cứ theo sách Đại-Nam Nhất Thống-Chí thì lúc bản-triều « thành Mỹ-Tho xây cất ở gò Kiến-Định, thôn Tân-Lý-Tây (nay tên nầy hãy còn ở lối quận Bến-Tranh) huyện Kiến-Khương (tên cũ của huyện Kiến-An) gọi là Trấn-Định-Đồn, niên-hiệu Gia-Long dời qua thôn Mỹ-Chánh (phải nay là thôn Tân-Mỹ-Chánh ở Chợ Cũ Mỹ-Tho ?) huyện Kiến-Hòa. Năm Minh-Mạng thứ bảy (Bính-Tuất I826) dời đến chỗ đây, đắp thành đất, ở địa-phận thôn Điều-Hòa (tên nầy nay hãy còn) và thôn Bình-Biên (tên nầy nay không thấy) huyện Kiến-Hưng (huyện có tỉnh-lỵ Mỹ-Tho ngày nay) » 85. Đứng về mặt trung-thành thuần-túy với sử-học, tác-giả thấy có bổn-phận là lặp lại bài thất-ngôn bát cú dưới đây. (Theo ý-kiến của tác-giả, đó là kết-quả của sự chế-nhạo không nhằm chỗ của thời-nhơn, vì hồi I86I, dân-tộc Việt ví như những hành-khách trên con tàu sắp đắm, phải mỗi người mỗi phương tìm cách ngăn sự đắm tàu ấy. Nguy cho những ai không lo xa ! Nếu quan trấn-thủ thành Mỹ-Tho là Nguyễn-Công-Nhàn bại binh thì quốc-gia Việt có thiết-thật viễn-ảnh mất tự-chủ, mất tự-do, cả dân-tộc đều đau đớn, thế phải hoặc là khổ-dịch, hoặc là moi gân óc để hiến-kế, đầu nầy tác giả của bài thi sau đây bao biếm giễu cợt). Bài bát-cú như vầy : Có quan hùng dũng Nguyễn-Công-Nhàn, Hùng dũng nhưng mà lại nhát gan. Giặc tới Bến Tranh run lập-cập, Tàu vô Cửa-Tiểu chạy bò càng. Mưu thần trước biết ngang sông chắn, 86 Kế quỷ sau toan đóng củi hàng. 87 Thất-thủ muốn liều cho rõ tiết, Ngặt vì con, vợ bận chưa an. 88 Từ ngày I2 tháng 4 năm I86I đến ngày 3I tháng 4 năm I868 trong thời-gian hơn bảy năm không thấy sử nói có cuộc đánh phá nào tại thành Mytho. Tuy nhiên Pháp-quân phải lo chống với nghĩa-quân nổi dậy chung quanh Mytho. Kịp đến ngày 0I tháng 5 năm I868 89 có xảy ra vụ cướp thành, đốt phá trại lương-thảo do ngươn-soái Than chỉ-huy. Sách Les premières années de la Cochinchine của Paulin Vial không có dấu nên không biết tên như vầy có đúng với người ngoài thật-tế chăng ? « Ngày 0I tháng 5, hồi ba giờ khuya, một lũ cướp 90 lợi dụng tối, leo vào thành Mytho nơi phía Tây-Bắc, và đánh phá những trại lương-thảo vì những trại nầy gần chỗ xuống hơn. Chúng nó hạ-sát người trưởng-kho và làm bị thương ba người tùy thuộc. Chín mươi lăm người lính đồn hấp tấp chạy ra và bắn vào đám cướp, chúng trốn mau lẹ. Đến sáng, người ta gặp trong bụi lùm cách bờ mương hai trăm thước, một sát-nhơn đã gần chết. Người ta tìm những tùng-đảng tứ-hướng và người ta giả-định những người chủ-động trong vụ ám-sát nầy là bốn người bổn-thổ phục-vụ trong kho lương vừa bị đuổi ra. « Vì vòng tường thành rộng quá mà quân-số quá ít ỏi, nên bị cướp, còn châu-thành ngoài, tòa bố và vài căn nhà của vài người Âu ở đều không bị hăm dọa. Người ta tưởng cuộc biến-cố ấy là kết-quả của sự tư-thù, nhưng người ta tỉnh ngộ ngay ». 91 Vụ ấy đứt khoản và tưởng đâu đã chìm lắp dưới toáy thời-gian rồi. Đùng một cái năm Canh-Ngọ I870, đêm thứ bảy 24 tháng chạp 92 nghĩa-quân công hãm đồn Cai-Lậy. Đêm nầy, những người Công-giáo hành-lễ Sanh-Nhựt. Vì cuộc lễ ấy, những Công-chức theo công giáo cả Pháp lẫn Nam đều vắng mặt. Tương kế tựu kế, nghĩa-quân khởi lên đánh phá và đốt nhà để trợ oai. Hai mươi lăm ma-tà, dưới quyền của đội Cơ rút vào đồn và bắn vào đám đông, nhờ vậy mà đẩy lui được cuộc tấn-công. Còn bếp Hựu thì chết vì xa đồn về không kịp. Nghĩa-quân do ngươn-soái Than 93 điều khiển. Hay được tin, Pháp-quân huy-động lính ở bốn địa-điểm để bao vây : Tân-An, My-tho, Gò-Công và Vĩnh-Long, ngoài ra viên thanh-tra ở Cai-Lậy 94 và Lộc ở Cái-Bè đi lùng kiếm. Rồi Pháp-quân lại bắt buộc một ngàn hai trăm người 95 đi theo cuộc tầm kiếm ấy. Vòng vây siết chặt, đến tám ngày sau, nhằm ngày một tháng giêng năm I87I 96 ngươn-soái Than sa lưới với một trăm năm chục du-kích-quân. 97 Chắc ngươn-soái Than bị xử tử ? Rất tiếc thay cho một tướng nghĩa-dõng. Tuy không làm nên việc cả nhưng cũng tỏ tấm can trường cho Pháp-quân biết vậy. * NHỮNG SÁCH, TẠP-CHÍ DÙNG KHẢO-CỨU : 1. Trung-Hoa Sử-Cương, tác-giả Đào-Duy-Anh, nhà xuất-bản : Quan-Hải tùng thư, Huế, I942 (bản giấy bạch). 2. Việt-Nam Sử-Lược của Trần-trọng-Kim, quyển hạ, in lần thứ hai tại Hà-nội, nhà in Vĩnh và Thành, I928. 3. Đại-Nam Nhất Thống-Chí Lục-Tỉnh Nam-Việt, tập Thượng và Hạ, dịch-giả : Tu-Trai Nguyễn-Tạo, cử-nhân Hán-Học, Nha Văn-Hóa, Bộ Quốc-Gia Giáo-Dục xuất bản, I959. 4. Sãi-Vãi, soạn-giả : Lê-Ngọc-Trụ và Phạm-văn-Luật, xuất-bản lần thứ nhứt : Tân-Việt, I950. 5. Bốn Vị Anh-Hùng Kháng-Chiến Miền Nam, quyển I, tác-giả : Thái-Bạch, Sống-Mới, I957. 6. Hai trăm năm dương-lịch và âm-lịch đối-chiếu I780-I980, của Nguyễn-Như-Lân, nhà in Man-Sanh, I96I. 7. Histoire du Cambodge, tác-giả : M. Giteau. 8. Histoire de l’Expédition de Cochinchine en I86I, tác-giả Léopold Pallu, Paris, Librairie L. Hachette et Cie, Boulevard Saint-Germain 77, I864. 9. Abrégé de l’Histoire d’Annam, tác-giả : A. Schreiner, Saigon, deuxième édition, nhà in Coudurier và Montégout, I906. I0. Les premières années de la Conchinchine par Paulin Vial, Tome II, Paris, Challamel Aîné, Libraire-Editeur, 30 rue des Boulangers et 27 rue de la Belle Chasse, I874. II. Văn-Hóa Nguyệt-San số 62, tháng 7 năm I96I bài « Lịch-sử người Hoa-Kiều ở Việt-Nam », tác-giả : Tân-Việt-Điểu, tr. 7I5/29, dòng I6. I2. Báo Đại-Chúng, Xuân Kỷ-Sửu I949 bài « Trận Rạch Gầm » của Lê-Thọ-Xuân. I3. Bulletin des Amis du Vieux-Huế, I9 ème Année No I, Janvier-Mars I932. I4. Văn-Hóa Nguyệt-San số 6I, tháng 6 năm I96I, Bộ Quốc-Gia Giáo-Dục. ĐỊA-ĐỒ I5. Địa-đồ trong sách Histoire de l’Expédition en I86I và ở trang II6 cũng sách ấy (do Viện Khảo-Cổ tàng trữ). I6. Địa-đồ ngoài sau sách Onze mois de sous-préfecture en Basse-Cochinchine, tác-giả : M. Lucien de Grammont, capitaine au 44 ème de ligne Paris, Challamel Aîné, Libraire Editeur, 30 rue des Boulangers, I863 (do Viện Khảo-Cổ tàng trữ). I7. Địa-đồ Hành-Chánh Nam-Phần, tỷ-lệ I/200.000 I960. PHÙ-LANG TRƯƠNG-BÁ-PHÁT Mùa hạ năm Kỷ-Vị (I679) Trích Tạp San Sử Địa số 1
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 3, 2023 19:02:16 GMT 9
40 năm nhìn lại: Bối cảnh lịch sử đưa tới nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại VN This entry was posted on Tháng Năm 4, 2015, in Lịch sử Việt Nam and tagged cộng sản, việt minh, Việt Nam Cộng Hòa, vnch. Bookmark the permalink. 4 bình luận 1499
Thiện Ý*
Một cách tổng quát: Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và cuộc kháng chiến trường kỳ của các thế hệ quốc dân Việt Nam yêu nước nhằm đánh đổ chế độ thuộc địa, giành độc lập, tự chủ cho dân tộc đã là bối cảnh đưa đến cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam, kéo dài nhiều thập niên (1954-1975) đến nay vẫn chưa chấm dứt. Ai cũng biết, cuộc nội chiến ý thức hệ này đã làm phân hóa dân tộc, gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện cho đất nước và di hại lâu dài cho dân tộc Việt Nam như thế nào.
I.- Từ ý thức hệ quốc gia chủ đạo kháng chiến chống thực dân Pháp.
Vào giữa thế kỷ 18, Châu Âu kỹ nghệ hóa cần nhiều nguyên liệu, thị trường tiêu thụ hàng hóa phục vụ cho nhu cầu phát triển chính quốc, các đế quốc đã thi nhau tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược mở rộng thuộc địa. Đế quốc Anh sau khi củng cố quyền thống trị tại Ấn Độ, đã thôn tính Úc Châu, Tân Tây Lan, chuẩn bị thực hiện ý đồ xâm lược Trung Quốc qua cuộc Chiến Tranh Nha Phiến. Trong khi đó, thực dân Pháp đã chiếm Algerie và đang đi tìm căn cứ trên bờ biển Trung Quốc, làm bàn đạp thôn tính các nước trong khu vực.
Ngày 31-8-1858, chiến hạm Pháp đã bắn phá cửa biển Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, để sau đó từng bước thiết lập chế độ thuộc địa tại Việt Nam, bành trướng qua Lào và Kampuchia. Tất nhiên, không phải là dễ dàng khi thực hiện quá trình xâm lược này (1858-1884). Trên thực tế, thực dân Pháp đã phải đương đầu với các cuộc kháng chiến liên tục và đều khắp đất nước của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam.
Trong những ngày đầu, lịch sử Việt Nam ghi nhận có các cuộc nổi dậy của nhân dân Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân và nhiều sĩ phu yêu nước Miền Nam. Tiếp đến là các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp giành độp dưới ngọn cờ “Cần Vương, Văn Thân”, nối tiếp nhau trong nhiều thập niên cuối thế kỷ XIX. Hầu hết các nhà lãnh đạo các phong trào này đều xuất thân trong hàng ngũ quan lại của chế độ quân chủ Việt Nam như Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Cao Thắng, Nguyễn Thiện Thuật…Vì thế ý thức hệ quốc gia chủ đạo kháng chiến giai đọan này là ý thức hệ thần quyền Thiên mệnh của Khổng giáo. Theo đó từ người lãnh đạo đến quần chúng tham gia kháng chiến có chung lý tưởng hy sinh đánh đuổi thực dân Pháp giành lại ngai vàng cho Vua, cho hoàng tộc để tái lập quyền cai trị độc lập tự chủ của người Việt Nam. Bởi vì hệ tư tưởng quân chủ chuyên chế Khổng Mạnh, du nhập từ Trung Quốc, dựa trên thuyết thần quyền Thiên mệnh: Vua là Thiên tử,được Trời trao ban quyền cai trị muôn dân, là chủ đất nước, là biểu tượng quốc gia. Đạo quân thần đã đưa đến hệ quả là lòng “Trung quân, ái quốc”, là trung thành, hy sinh sống chết bảo vệ ngai vàng cho Vua tức là yêu nước vậy…
Bước qua đầu thế kỷ XX, trào lưu tư tưởng dân chủ Tây phương đã thẩm nhập vào Việt Nam và trở thành ý thức hệ thứ hai chủ đạo kháng chiến chống Pháp giành độc lập dân tộc. Những tác phẩm nổi tiếng như “L’Esprit Des Lois”, “Contrat Social” của Montesquieu và J.J Rousseau cũng như những tư tưởng tự do, công bình, bác ái, nhân quyền, và các quyền dân chủ, dân sinh khởi đi từ cuộc Cách Mạng Pháp 1789 đã ảnh hưởng đến chiều hướng đấu tranh của các nhà ái quốc Việt Nam. Thêm vào đó là trào lưu tư tưởng của các nhà dân chủ Trung Hoa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, cùng với một nước Nhật canh tân tiến đến tự cường và trở thành một cường quốc Á Châu cũng đã là những tấm gương sáng có sức thu hút mạnh mẽ giới sĩ phu yêu nước Việt Nam.
Từ đầu thế kỷ XX, lịch sử Việt Nam bắt đầu ghi nhận tư tưởng chủ đạo kháng chiến chống Pháp đi từ trung dung “Nửa quân chủ, nửa dân chủ” đến “dân chủ hoàn toàn”.
Phong trào Đông Du (1906-1908) của Phan Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) của Phan Chu Trinh và Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu… là những phong trào kháng chiến theo chiều hướng trung dung. Theo chiều hướng này, cuộc kháng chiến giành độc lập diễn ra dưới nhiều hình thức, đặt nặng vấn đề giáo dục quần chúng, nâng cao dân trí, cổ vũ lòng yêu nước, chuẩn bị về lâu về dài cho các cuộc khởi nghĩa vũ trang sau này khi đủ thế lực và thời cơ thuận lợi.
Chủ trương của trào lưu kháng chiến này là, sau khi đánh đuổi được thực dân Pháp, sẽ thiết lập một chế độ quân chủ lập hiến kiểu Nhật Bản và một số quốc gia khác trong vùng như Thái Lan, Mã Lai… Ước mơ của các nhà lãnh đạo kháng chiến lúc bấy giờ là giành được độc lập rồi, vẫn giữ lại ngai vàng cho Vua để trọn đạo “quân thần”, đồng thời cũng muốn bảo vệ quyền dân chủ cho nhân dân bằng một bản hiến pháp thành văn. Đây là một chủ trương nhằm dung hòa quyền lợi giữa giai cấp thống trị và nhân dân bị trị, giúp cho các nhà lãnh đạo xuất thân từ “cửa Khổng, sân Trình” cảm thấy an tâm trọn đạo thánh hiền. Nhưng rồi ước mơ này cũng đã không thực hiện được. Các phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng trung dung cũng đã lần lượt bị thất bại, nhường chỗ cho một khuynh hướng tích cực hơn xuất hiện trong hàng ngũ các nhà lãnh đạo theo Tây học.
Điển hình cho khuynh hướng này có Nguyễn Thái Học và các đồng chí của Ông, đã hình thành một chính đảng kiểu Tây phương đầu tiên: Việt Nam Quốc Dân Đảng (1923-1924).Do chịu ảnh hưởng trực tiếp về tư tưởng và tổ chức của Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ trương đấu tranh bằng bạo lực quân sự kết hợp với sức mạnh nổi dậy của quần chúng để giành độc lập dân tộc. Sau đó thiết lập chế độ dân chủ theo mô hình “Tam dân chủ nghĩa” của Tôn Văn và vận dụng nguyên tắc phân quyền của hệ dân chủ Tây phương, để dân chủ, dân quyền được tôn trọng, dân sinh được ấm no, hạnh phúc.
Với lòng yêu nước nồng nàn, bầu nhiệt huyết tuổi trẻ, năm 1930 lãnh tụ Nguyễn Thái học và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa võ trang cướp chính quyền ở Yên Bái. Cuộc khởi nghĩa này đã không thành công, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí của Ông đã hiên ngang bước lên đoạn đầu đài nhận lãnh cái chết anh hùng cho “Tổ quốc quyết sinh”. Mục tiêu và ước mơ tối hậu của các nhà ái quốcViệt Nam tuy chưa thành công, nhưng “đã thành nhân” như lời khẳng định trước đó của lãnh tụ Nguyễn Thái Học.
II.- Đến ý thức hệ cộng sản chủ đạo kháng chiến chống Pháp
Sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng thất bại, thực dân Pháp đã thực hiện các cuộc ruồng bắt và đàn áp dã man các nhà ái quốc việt Nam. Từ đây khuynh hướng đấu tranh giành độc lập theo hệ tư tưởng quân chủ Đông phương và hệ tư tưởng dân chủ Tây phương như tạm thời lắng dịu. Một khuynh hướng đấu tranh chống thực dân Pháp theo hệ tư tưởng Marxism-Leninnism, tức ý thức hệ cộng sản xuất hiện. Khuynh hướng này có mục tiêu tối hậu khác với mục tiêu tối hậu của khuynh hướng chống thực dân Pháp trước đó, gọi chung là ý thức hệ quốc gia. (Quân chủ và dân chủ).
Nghĩa là, nếu khuynh hướng theo ý thức hệ quốc gia có mục tiêu tối hậu của cuộc kháng chiến chống pháp là giành độc lập dân tộc, để sau đó thiết lập một chế độ quân chủ hay quân chủ lập hiến hoặc một chế độc dân chủ đại nghị, thì khuynh hướng theo ý thức hệ cộng sản chỉ coi “giành độc lập” là mục tiêu giai đoạn. Mục tiêu tối hậu của khuynh hướng ý thức hệ cộng sản là đưa đất nước và dân tộc Việt Nam vào hệ thống cộng sản quốc tế để thực hiện chủ nghĩa cộng sản, tiến tới một “Thế giới đại đồng”, không còn biên giới quốc gia, vì sự nghiệp của cộng sản quốc tế (cộng sản hóa toàn cầu).
Lãnh tụ của cuộc kháng chiến chống Pháp theo hệ tư tưởng cộng sản là Nguyễn Tất Thành, tức Nguyễn Ái Quốc hay Hồ Chí Minh.
Theo tài liệu tuyên truyền của Đảng, thì Hồ Chí Minh khởi đầu là người theo chủ nghĩa yêu nước mang ý thức hệ quốc gia trước khi trở thành môn đồ của chủ nghĩa cộng sản. Xuất thân từ một nền giáo dục nửa Nho học, nửa Tây học, biết đọc biết viết, không học vị. Năm 1911 Hồ Chí Minh đã ra khỏi nước, bôn ba nhiều năm ở hải ngoại, nơi các nước đế quốc tư bản cũng như thuộc địa để tìm đường cứu nước… Sau cùng Hồ Chí Minh đã “tìm ra được con đường cứu nước”; rằng “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường Cách mạng vô sản”. Hồ Chí Minhđã vui mừng đến phát khóc và hét to một mình như thế trong nhà trọ ở Paris Pháp quốc, sau khi đọc được tác phẩm kinh điển nổi tiếng của Vladimir Lenin Luận Cương Chính Trị Tháng Tư. Nội dung tác phẩm này viết về vấn đề thuộc địa và các dân tộc bị áp bức. Ông Hồ như được giác ngộ bởi lý tưởng cộng sản và đã gia nhập đảng Cộng Sản Pháp (1920), qua Liên Xô, được giáo dục, đào tạo để trở thành môn đồ trung thành của chủ nghĩa cộng sản.Từ đó ông liên lạc, tuyên truyền, huấn luyện, tuyển chọn, móc nối được một số đồng chí, tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hongkong (3-2-1930).
Theo chính cương và sách lược đấu tranh của Cộng đảng Việt Nam được thông qua trong đại hội thành lập đảng thì có hai mục tiêu đấu tranh trường kỳ: Đánh đuổi thực dân Pháp để giải quyết mâu thuẫn dân tộc (với thực dân Pháp) và cộng sản hóa Việt Nam để giải quyết mâu thuẫn giai cấp ( giữa giai cấp công nhân với tư bản, nông dân với địa chủ, giai cấp thống trị với bị trị…).Để đánh đuổi thực dân Pháp, đảng CS Việt Nam sẽ tiến hành cuộc Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân. Để cộng sản hóa Việt Nam, đảng CS Việt Nam sẽ tiến hành “cách mạng Xã hội chủ nghĩa”. Lực lượng chủ yếu để tiến hành các cuộc cách mạng trước sau này, theo lý luận là giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và nhân dân lao động nghèo, dưới sự lãnh đạo độc tôn của Cộng đảng Việt Nam. Phương thức đấu tranh chủ yếu là “bạo lực cách mạng” (bao gồm bạo lực quân sự kết hợp với bạo lực chính trị), được thực hiện dưới nhiều hình thức: bí mật, công khai, hợp pháp, bán hợp pháp và bất hợp pháp, bằng mọi thủ đoạn cần thiết, để thành đạt mục tiêu theo phương châm “Cứu cánh biện minh cho hành động”.
Trên thực tế, từ ngày thành lập đảng CS Việt Nam, dù có lúc thay tên đổi họ (Đảng Cộng Sản Đông Dương, Đảng Lao Động Việt Nam), thậm chí có lúc do tình hình thực tế đòi hỏi phải tuyên bố tự giải tán, nhưng qua cuộc kháng chiến chống Pháp (1930-1954),cuộc chiến tranh Quốc-Cộng (1954-1975) và qua 40 năm thống trị trên cả nước, Đảng đã thực hiện khá sát chính cương và sách lược trên đây của họ. Thực hiện như thế nào, thành công hay thất bại, thì chính thực tế đã có câu trả lời chân xác cho mọi người.
*Thiện Ý nguyên luật sư tại Sài Gòn trước 1975, hiện là Chủ tịch Câu Lạc bộ Luật khoa Việt Nam ở Houston. ************************ Trần Trọng Kim , Một Cơn Gió Bụi
Trang Văn Việt có một bài viết ngăn ngắn (“Một Cơn Gió Bụi’) nhưng rất súc tích của nhà báo Mạnh Kim. Xin được ghi lại đôi dòng: “Lại thêm một quyển sử bị cấm phát hành. Lần này là ‘Một cơn gió bụi’ của học giả Trần Trọng Kim. Không chỉ là ‘một cơn gió bụi’, hồi ký của Lệ Thần Trần Trọng Kim, một tượng đài văn hóa Việt Nam thế kỷ 20, thật ra là một ‘cơn bão’ xét dưới góc độ kiểm duyệt hiện hành. Nó tiết lộ các chi tiết về ‘một góc đời thường’ Hồ Chí Minh, về vai trò rất ít được biết của Võ Nguyên Giáp, về những ngày tranh giành quyền lực và triệt hạ nhau giữa Việt Minh với các đảng phái đối thủ mà Việt Minh có khi không ngần ngại dùng ‘mền trùm đầu rồi bắt đi mất tích’. Việt Minh, theo miêu tả trong ‘Một cơn gió bụi’, là tổ chức có thủ đoạn chính trị quỷ quyệt bậc nhất giai đoạn lịch sử thập niên 1940.” Cùng lúc, nhà báo Huy Đức cũng có góp đôi lời (nhỏ nhẹ) về sự kiện này: Lý do chính để Cục xuất bản ra lệnh thu hồi Một Cơn Gió Bụi của học giả Trần Trọng Kim là vì “cuốn sách có nhiều chi tiết, đánh giá không phù hợp, không khách quan hoặc chưa được kiểm chứng”. Một cơn gió bụi (Kiến văn lục) là cuốn hồi ký của học giả Trần Trọng Kim (1882-1953), từng được NXB Vĩnh Sơn phát hành năm 1969. Đầu năm 2017 sách được NXB Hội nhà văn và Phương Nam Books phát hành. Sự thật lịch sử là một khối đa diện, không ai có thể tiếp cận hết mọi tiết diện. Nếu sách có những chi tiết “không phù hợp, không khách quan hoặc chưa được kiểm chứng” thì hãy để các nhà sử học khác kiểm chứng, chỉ ra cái sai. Điều quan trọng là những gì cụ Trần Trọng Kim viết trong Một Cơn Gió Bụi đã phải là sự thật hay chưa. Nếu đã là sự thật thì nó luôn phù hợp ở mọi thời đại, chế độ nào thấy một sự thật không phù hợp với mình thì chế độ đó… không phù hợp với thời đại nào của loài người cả. PS: Tôi cực lực phê phán việc biên tập sách nhưng tôi cũng khuyến cáo Cục Xuất bản rằng, lệnh cấm này sẽ khiến người đọc trẻ tìm tới bản in không bị kiểm duyệt của NXB Vĩnh Sơn, bản in mà trong đó có nhiều đoạn rất nhạy cảm đã bị NXB Hội Nhà Văn biên tập. Ví dụ: Trang 75 bản Vĩnh Sơn 1969 có đoạn “Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên Đỗ Thị Lạc là người sau này có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Về sau người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản”. Đoạn này đã bị cắt ở bản Phương Nam in 2017 (trang 80). So với cái tâm, và cái tầm, của nhà xuất bản thì chuyện “cắt xén” vụn vặt kể trên không có chi đáng để phàn nàn; bởi ngoài hai ấn bản thượng dẫn, còn có bản in năm 2015 – do tuần báo Sống phát hành từ California – và hàng chục trang mạng với đường dẫn đến nguyên bản của tác phẩm này. Bức màn sắt đã rớt xuống từ lâu. Đâu có chuyện chi mà dấu được hoài bên trong đó nữa! Wikipedia tiếng Việt, giọng Hà Nội, có ghi lại những câu sau: - Chính phủ Trần Trọng Kim thường được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mô tả trong các tài liệu nghiên cứu chuyên môn trước và sau năm 1975, một cách trực tiếp hay gián tiếp, là bù nhìn của Nhật. - Việc đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại trước sau đều do người Nhật đạo diễn để dẫn dụ ông, chứ bản thân ông tự ý thức bản thân mình bất lực, họ trao quyền cũng chỉ để biến ông thành bù nhìn. - Cái thời độc quyền thông tin đã qua nên cùng với “các tài liệu nghiên cứu chuyên môn” của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, còn có không ít ghi nhận của những vị thức giả khả tín. Xin đơn cử dăm ba để rộng đường dư luận: Lê Xuân Khoa: “Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nội các, bên cạnh công tác khẩn cấp cứu trợ nạn đói ở miền Bắc đã làm ngót hai triệu người thiệt mạng, Chính phủ Trần Trọng Kim đã ấn định một chương trình sáu điểm: 1. Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chánh cho các viên chức Việt Nam. 2. Thâu hồi đất Nam kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp. 3. Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị. 4. Cho phép thành lập các đảng phái chính trị. 5. Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo. 6. Thiết lập các Uỷ ban Tư vấn Quốc gia để soạn thảo Hiến pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành chánh và giáo dục [7]. Chỉ trong thời gian ngắn ngủi bốn tháng (17.4-16.😎 Chính phủ Kim đã thực hiện được gần hết chương trình này.” Trần Văn Chánh: “Về phần Nội các Trần Trọng Kim, mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian chưa đầy 4 tháng (từ 17.4 đến 7.8.1945, nếu tính đến 23.8.1945 khi quyết định xong Chiếu thoái vị thì được 4 tháng 6 ngày, tổng cộng 126 ngày, tương đương 1/3 năm) và làm việc trong những điều kiện vô cùng khó khăn, nhất là khi vẫn bị quân đội Nhật kiềm chế mọi mặt, Nội các đã tỏ ra năng nổ, nhiều thiện chí và cũng đã làm được một số việc đầy ý nghĩa, đáng ghi nhận: – Tháng 6 năm 1945, đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam (bỏ tên Đại Nam, Annam); tạm duy trì bài quốc thiều “Đăng đàn cung”; đổi mới quốc kỳ, thay cờ Long tinh bằng cờ quẻ Ly có nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly màu đỏ thẫm. – Bộ Tiếp tế tập trung cao độ lo việc cứu đói nhưng kết quả rất hạn chế vì phương tiện, nhân lực đều do quân Nhật nắm giữ và nhất là giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển từ Nam ra Bắc đều bị quân Đồng minh cắt đứt. – Thanh trừng quan tham lại nhũng với kết quả hạn chế, vì thời gian ít và điều kiện khó khăn trước mắt về nhân sự chưa cho phép làm mạnh. – Tha thuế thân cho người dân và cho những công chức có thu nhập thấp. Thực hiện sự công bằng về thuế khóa. – Chủ trương tăng lương cho tiểu công chức, bỏ các món chi tiêu huy hoàng vô ích. – Can thiệp với Nhật để từ ngày 9.8.1945 tổng ân xá các tù chính trị, kể cả những người cộng sản đã bị Pháp bắt giam tại các nhà lao và nhà ngục khổ sai. Chủ trương trừng thanh quan lại và bài trừ tệ hối lộ. – Đấu tranh với Nhật đòi lại các công sở và lấy lại được ba thành phố nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng và Ðà Nẵng kể từ ngày 20.7.1945. – Ngày 1.8.1945, Đốc lý Hà Nội Trần Văn Lai cho phá các tượng Pháp ở Hà Nội vốn biểu trưng cho nền thống trị ngoại bang, như tượng Paul Bert, Jean Dupuis, Đầm Xòe ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm Lính Khố xanh, Khố đỏ. – Ngày 14.8.1945, tranh thủ lấy lại Nam Kỳ cho triều đình Huế, thống nhất (về mặt danh nghĩa) đất Nam Kỳ vào đất nước Việt Nam. – Chủ trương cho phép thành lập các đảng phái chính trị. – Về tư pháp, thành lập Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp trên cơ sở thống nhất xứ sở, các quyền tự do chính trị, tôn giáo và nghiệp đoàn. Đạo luật tổ chức nghiệp đoàn đầu tiên ở Việt Nam là do chính phủ Trần Trọng Kím soạn thảo và ban hành ngày 5.7.1945. – Đổi chương trình học tiếng Pháp ở bậc Tiểu học và Trung học sang chương trình tiếng Việt, do Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn chủ trì biên soạn. – Hành chánh được cải tổ với việc dùng chữ Việt trong tất cả các giao dịch của chính phủ ngoại trừ lãnh vực y tế và các văn thư liên lạc với Pháp hoặc với các công ty người Hoa… Phạm Cao Dương: “Bốn tháng đầy rẫy những khó khăn nhưng những thành quả đạt được không phải là không đáng ghi nhận… Vượt qua tất cả mọi khó khăn, Trần Trọng Kim và các cộng sự viên của ông đã vạch ra những mục tiêu và chương trình hành động cụ thể và thực tế, từ những việc làm có tính các tương trưng như đổi quốc hiệu thành Việt Nam, đổi quốc kỳ, duyệt lại quốc ca… đến cứu đói, thu hồi toàn vẹn lãnh thổ, bắt các quan ở các tỉnh phải trực tiếp liên lạc với chính phủ Việt Nam và cấm họ liên lạc trực tiếp với người Nhật như họ vẫn liên lạc với người Pháp trước kia, Việt Nam hóa nền giáo dục, cải tổ thuế má, tư pháp, vận động thanh niên sinh viên và cả quần chúng nói chung tham gia sinh hoạt chánh trị, xã hội, lập các hội đồng tư vấn địa phương và vận dụng mọi khả năng để thực hiện.” Tổng cộng thời gian chấp chính của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, có lẽ, vẫn chưa bằng số giờ mà các ông Thủ Tướng Cộng Sản sau đó ngồi hội họp. Và có lẽ đám người này không họp bàn về chuyện gì khác ngoài việc bán nước hại dân nên chế độ hiện hành càng kéo dài thì quê hương càng lụn bại. Tưởng Năng Tiến
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Feb 17, 2024 11:45:26 GMT 9
Mắt Ếch Và Mắt CáTrần Trung Chính Ếch là một loài động vật lưỡng thê, nghĩa là sống được cả ở dưới nước và trên bờ. Nông dân miền Nam Việt Nam thường ăn thịt ếch như là một nguồn cung cấp chất đạm (proteine) quan trọng tương đương với các loài cá rô, cá lóc, cá sặc, cá trê, cá tra, cá rô phi…Ếch dùng lưỡi dài của nó để cuốn bắt các loài côn trùng nhỏ như ruồi, muỗi, các loại bọ rùa, rầy…nhưng người ta cũng ngạc nhiên xiết bao khi thấy ếch cứ ngồi yên để bị rắn nuốt trọn, giống như là con rắn đã thôi miên được con ếch, bắt con ếch ngồi yên cho rắn xơi mồi ( nếu con ếch dùng đôi chân của nó mà búng mạnh nhẩy ra xa thì có lẽ sác xuất con rắn bắt được nó e rằng không tới 5%). Các nhà động vật học đem mổ xẻ mắt của con ếch, rồi đem nhuộm thì họ nhận ra rằng cặp mắt ếch chỉ có một loại tế bào nhìn được những chuyển động nhanh, trong khi đó những tế bào nhìn được những chuyển động chậm thì hoàn toàn không có : cho nên con ếch nhận ra được những côn trùng nhỏ bay vù vù trước mắt nó và dùng lưỡi bắt gọn những con côn trùng này một cách tài tình. Vì con rắn bò đến con ếch quá chậm nên con ếch không nhìn thấy mối nguy hiểm cận kề để mà nhẩy tránh cho nên bị con rắn diệt gọn. Các nhà phỏng sinh học (bionic technology) đã mô phỏng cấu trúc của mắt ếch để chế tạo ra những camera theo dõi những chuyển động nhanh với vận tốc cao của các phản lực cơ chiến đấu có gia tốc gấp 5-6 lần âm thanh hay các hỏa tiễn có tốc độ di chuyển trên 27,000km /hr (gọi là tốc độ VŨ TRỤ I) hay các hỏa tiễn di chuyển trên 55,000km /hr (gọi là tốc độ VŨ TRỤ II) trong ngành kiểm soát không lưu tại các phi trường hiện đại (dĩ nhiên các chuyên viên điều hành không lưu có máy để convert các chuyển động nhanh xuống còn khoảng 80 hình/phút thì mới xem được) Dân gian Việt Nam mới có câu : “giương mắt ếch ra mà nhìn” để chỉ tình trạng một con người nhìn một vật thể, một sự kiện mà không thấy được cái gì cả . Tại sao cá lia thia, cá cảnh và những cá nhỏ dưới đáy biển sâu cỡ 30-40 meters (là độ sâu mà ánh sáng xuống tới được) lại có rất nhiều màu sắc đẹp đẽ lạ thường ? Đây chỉ là luật bù trừ của tạo hóa thiên nhiên ban cho chúng để mà sinh tồn. Đại đa số các loài cá dữ chỉ nhìn thấy 2 màu đen và trắng mà thôi, cho nên các loài cá có nhiều màu sắc đẹp đẽ đã thoát chết không bị các loài cá dữ bắt được vì các loài cá dữ không trông thấy được các loài cá có màu sắc sặc sỡ thì làm sao mà săn mồi bắt chúng được. Con chó cũng là loại động vật có đôi mắt không phân biệt được màu sắc. Con người toàn bích hơn các sinh vật kia nhiều : người ta không những thấy được những chuyển động nhanh (dĩ nhiên chỉ là tương đối) mà cũng nhìn thấy được cả những chuyển động chậm nữa (tuy rằng có phần boring), người ta cũng nhận ra được rất nhiều màu sắc với độ tinh tế sắc sảo (chả thế mà chỉ có con người mới có họa sĩ). Bằng vào trực giác , ý niệm và tính toán lý luận, người ta còn nhận biết được cả những sự thể hay vật thể hiện hữu mà mắt thường không thể nhận 2 ra được (thí dụ các hạt lượng tử, các virus gây bệnh mà kính hiển vi điện tử phóng đại đến 500,000 lần mà cũng không thấy…) Đó là nói về lĩnh vực vật chất, còn trong lĩnh vực phi vật chất thì sao ? Trong lĩnh vực phi vật chất, con người do tiên kiến cũng có, do ngộ nhận cũng có, do lòng ganh tỵ (hoặc đố kỵ) cũng có, hoặc do lòng thiên vị + vị kỷ cũng có…v..v…khi nhận xét về người khác cũng đem cặp mắt ếch và cặp mắt cá ra nhìn, nên lời phê phán mang nhiều tính chất thiển cận và lố bịch một cách sống sượng trơ trẽn (nói theo kiểu người Huế là “ăn nói phách tấu”). Bọn “tà lọt tay sai” của nhóm tăng lữ Bình Trị Thiên hoạt động có lợi cho Việt Cộng lúc nào cũng xoen xoét mở miệng ra chê bai phe đối nghịch là CẦN LAO CÔNG GIÁO NGÔNG CUỒNG. Theo sự lý luận của tôi, chỉ có ANH HÙNG mới đủ tư cách luận người khác ANH HÙNG, và chỉ có những kẻ NGÔNG CUỒNG mới có đủ tư cách để đánh giá người khác là NGÔNG CUỒNG, do dó từ bài viết này trở đi bọn “tà lọt tay sai” của nhóm tăng lữ Bình Trị Thiên hoạt động có lợi cho Việt Cộng sẽ được minh danh là bọn PHẬT TỬ NGÔNG CUỒNG. Bọn PHẬT TỬ NGÔNG CUỒNG chỉ trích bác sĩ Trần Kim Tuyến, nguyên Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị thời đệ nhất Cộng Hòa (nhiều người hiểu là Trùm Mật Vụ của chế độ Ngô Đình Diệm) là bất tài chỉ dựa vào gốc Công Giáo để làm Trùm Mật Vụ đàn áp dân lành, đưa biệt kích nhảy ra Bắc bao nhiêu là thất bại bấy nhiêu… Có một số dữ kiện về bác sĩ Trần Kim Tuyến cần được nêu ra trong bài viết này để thế hệ hậu duệ nhìn rõ hơn về con người bác sĩ Trần Kim Tuyến (Lời chú thích của người viết : tôi không có ý định chứng minh bất cứ cái gì cho bọn PHẬT TỬ NGÔNG CUỒNG vì bọn chúng chỉ có cặp mắt ếch và cặp mắt cá nên dù có con rắn bò ngay kế bên mà chúng có thấy gì đâu, cũng như bọn cá dữ đi săn mồi chỉ bắt được cá trắng và cá đen chứ không bắt được cá nhiều màu sặc sỡ) : 1/ Khi di cư vào Nam năm 1954, thanh niên Trần Kim Tuyến chưa đậu văn bằng bác sĩ, người ta gọi ông là bác sĩ vì ông đang học năm thứ 6 Đại Học Y Khoa Hà Nội thì chính biến 1945 xảy ra rồi ông bị cuốn theo cơn lốc chính trị và cơn lốc chiến tranh khiến phải bỏ dở việc học. 2/ Là người Công Giáo, bác sĩ Trần Kim Tuyến được 2 thủ lĩnh của khối Công Giáo chống Cộng triệt đề là linh mục Lê Hữu Từ và linh mục Hoàng Quỳnh tiến cử để gặp Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu. Nếu chỉ là Công Giáo không thôi thì làm sao bác sĩ Trần Kim Tuyến lại được giữ một chức vụ rất quan trọng như Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Tri ? Tại sao bác sĩ Trần Kim Tuyến không xin Thủ Tướng Ngô Đình Diệm một học bổng đi Pháp để hoàn tất học trình bác sĩ rồi về mở Clinique tư nhân như bác sĩ Trần Đình Đệ kiếm được nhiều tiền hơn mà lại đỡ rắc rối. Hay là học xong có bằng cấp của Pháp,về nước có thể làm Bộ Trưởng Y Tế sướng hơn rất nhiều. Tại sao bác sĩ Trần kim Tuyến lại đi nhận làm Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị, một chức vụ mà giới khoa bảng không muốn dính dáng vào, vừa không có danh, lại chẳng có tiền, đó là chưa kể đến không có giờ giấc riêng tư cho riêng mình và cho gia đình ? 3/ Thời điểm 1954, 1955, 1956 ngành an ninh tình báo của VNCH phần lớn do Pháp để lại, thực sự mà nói không đủ khả năng để bắt giữ và vô hiệu hóa các hoạt động của Việt Cộng (trà trộn vào những người từ Bắc di cư vào Nam, nhóm nằm vùng ở lại miền Nam không ra Bắc tập kết và nhất là nhóm cán bộ cao cấp của Việt Cộng xâm nhập sau khi phong trào di cư chấm dứt…). 3 Nhiệm vụ của bọn cán bộ Việt Cộng là gây rối loạn xáo trộn xã hội miền Nam để chúng sẽ cướp được chính quyền trong cái gọi là Hiệp Thương Thống Nhất vào năm 1956. Tuy nhiên, sau khi dẹp tan các sứ quân núp dưới danh nghĩa các lực lượng giáo phái võ trang và tàn dư của chính quyền thuộc địa Pháp vào năm 1955, chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bắt giữ được hầu hết các điệp viên Việt Cộng xâm nhập từ miền Bắc cũng như phá tan các hang ổ và cán bộ Việt Cộng gài lại, Tổng Thống Ngô Đình Diệm bác bỏ chuyện Hiệp Thương do Phạm văn Đồng đề nghị. Bọn Việt Cộng không thể kiện chính phủ Ngô Đình Diệm ra tòa án quốc tế La Hayes vì Hiệp Định Geneve năm 1954 chỉ là thỏa ước đình chiến giữa chính phủ Pháp và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không ký vào bản Hiệp Định này. Vả lại điều khoản Hiệp Thương được ký vào Bản Phụ Lục của Hiệp Định Geneve 1954 soạn thảo từ 2 phía Pháp và Việt Minh, ký ngày hôm sau 21 tháng 7 năm 1954 mà lại không có 4 chữ ký của đại diện 4 quốc gia bảo trợ là Anh – Mỹ - Nga- Trung Cộng. Bác sĩ Trần Kim Tuyến có 2 khả năng mà kẻ thù của ông (bao gồm Việt Cộng, các đảng phài chính trị của miền Nam chống đối chế độ Ngô Đình Diệm và một số các lãnh tụ Phật Giáo miền Trung ) không được biết, đó là : A.- Khả năng thứ nhất : Ông là người cực kỳ thông minh, thông hiểu nhiều chuyện ngoài lĩnh vực Y Khoa ẩn dấu dưới bề ngoài giản dị khiêm nhường, ăn nói nhỏ nhẹ, ăn mặc xuềnh xoàng không se sua chưng diện – nếu không muốn nói là ông có vẻ “nhà quê”, có vẻ “ruộng” như ngôn ngữ bình dân bây giờ thường hay sử dụng. Giai đoạn đầu của chính quyền Ngô Đình Diệm, khi mà trí thức miền Nam và trí thức Bắc Kỳ di cư rất ít ai biết đến anh em Thủ Tướng Diệm và cố vấn Nhu, bác sĩ Tuyến là người đi tiếp xúc và chiêu dụ giới trí thức này ra cộng tác với chính phủ Ngô Đình Diệm. Nhiều chính trị gia lão thành (mà bây giờ đã qua đời vì lý do tuổi tác cao) cho hay rằng họ đã cảm thấy họ còn “tháp ngà” nhiều quá ngay trong lĩnh vực chuyên môn của họ khi bác sĩ Tuyến trình bày đến vấn đề thời sự của đất nước, nhưng họ không cảm thấy họ bị nghe lời giảng dạy, và khi cộng tác với bác sĩ Tuyến họ cũng không có cảm giác bị khống chế hay bị sai khiến vì bác sĩ Tuyến không có tham vọng chính trị nên các trí thức này không sợ bị kèn cựa trong giới quan quyền của chính phủ Ngô Đình Diệm. B.- Khả năng thứ hai : Đây là khả năng quan trọng, ngay trong thời chiến tranh Việt – Pháp 1946 – 1954, bác sĩ Trần Kim Tuyến đã tổ chức được mạng lưới tình báo lấy được tin tức tình báo ngay từ trung ương của đảng Cộng Sản Việt Nam. Đầu mối của mạng lưới này là viên chức cao cấp trong ngành tình báo của Việt Cộng (dĩ nhiên không phải là người Công Giáo), là đảng viên nhưng ghét Cộng Sản, hoạt động với bác sĩ Tuyến không vì tiền bạc, không vì gái nên rất kín đáo không bị lộ. Chính vì khả năng đặc biệt này mà Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu giao cho ông giữ chức Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị. Chính mạng lưới tình báo từ ngoài Bắc đã cung cấp tin tức của các tay điệp viên xâm nhập nên Đoàn Công Tác Mật Vụ Miền Trung do ông Dương văn Hiếu đã bắt được Đại Tá Lê Câu, Mười Hướng (sau này lên tới Trung Tướng) và 12 người nữa mà sau này, vào năm 1964, Tống Trưởng Nội Vụ của chính phủ Nguyễn Khánh là Hà Thúc Ký đã vì áp lực của nhà sư Thích Trí Quang cũng như nhận tiền hối lộ của Việt Cộng mà ký giấy thả những cán bộ cao cấp của Việt Cộng ra khỏi nhà giam. Được Hà Thúc Ký thả ra, những cán bộ Việt Cộng này ngay lập tức đã trở về Bắc Việt !!! 4 Vì chỉ có cặp mắt ếch nên bọn PHẬT TỬ NGÔNG CUỒNG đã lớn họng chê bai ông Ngô Đình Nhu và bác sĩ Trần kim Tuyến là dở vì tốn công tốn của huấn luyện các chiến sĩ Biệt Kích nhảy ra Bắc mà không thành công gì cả, nhưng nếu động não một chút và có con mắt của một người có hiểu biết, chúng ta nên hiểu rằng các chuyến nhảy ra Bắc của các chiến sĩ Biệt Kích mà bị thất bại là đều có cân nhắc tính toán kỹ lưỡng, nói thẳng ra là ông Ngô Đình Nhu và bác sĩ Trần Kim Tuyến đã dùng các chiến sĩ Biệt Kích làm mồi nhằm duy trì chức vụ cao cấp của viên chức tình báo an ninh của Việt Cộng để đổi lại phía VNCH chúng ta đã nhận được những tin tức để tóm gọn những cán bộ Việt Cộng xâm nhập cỡ đại tá Lê Câu và Mười Hướng (sau này lên Trung Tướng) chả hạn (như vậy cũng còn lời chán). Về công tác thanh lọc các phần tử nằm vùng do Việt Cộng gài lại, chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã phát động chương trình DIỆT TRỪ SỐT RÉT, đoàn cán bộ của chương trình diệt trừ sốt rét đã dùng thuốc DDT (do Mỹ viện trợ) để đi khắp các vùng nông thôn hẻo lánh xịt thuốc DDT diệt loăng quăng, bọ gậy và lắp đất các ao tù nước đọng (là nơi trứng muỗi sinh sôi nẩy nở). Ngoài ra, đoàn cán bộ diệt trừ sốt rét còn đảm trách luôn công tác kiểm kê dân số và đánh dấu những nơi khả nghi có thể dung chứa Việt Cộng nằm vùng. Đáng lý chương trình DIỆT TRỪ SỐT RÉT phải nằm trong Nha Y Tế Công Cộng thuộc Bộ Y Tế, nhưng vì có công tác chính trị đi kèm nên Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bổ nhiệm Thiếu Tướng Trần Tử Oai phụ trách chương trình này. (Ghi chú của người viết : Năm 1977, trước khi mở chiến dịch “Đánh Tư Sản Mại Bản”, bọn Việt Cộng đã dùng lực lượng Thanh Niên Xung Phong tỏa ra khắp thành phố Sài Gòn để xâm nhập tất cả các gia cư, nhà kho + vựa…để đặt bẫy DIỆT CHUỘT !!! Như vậy, Việt Cộng copy lại bài học của chính quyền Ngô Đình Diệm nhưng tầm vóc nhỏ hơn) Bác sĩ Trần Kim Tuyến rời Việt Nam năm 1962 (không rõ trước hay sau vụ bỏ bom Dinh Độc Lập của Đại Úy Phạm Phú Quốc và Thiếu Úy Nguyễn Văn Cử) đi làm Tổng Lãnh Sự ở Cairo – Ai Cập. Sau 1963, không ai biết ông ở đâu, dường như ông có trở lại Việt Nam vì một đàn anh của tôi là cựu Thiếu Tá Nguyễn Văn Tăng, năm 1973 làm Trưởng F của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Vũng Tàu, nói là có gặp Bác Sĩ Trần Kim Tuyến ở Dalat vào năm 1971. Tuy nhiên, ngày 29 tháng 4 năm 1975, điệp viên nhị trùng Phạm Xuân Ẩn đích thân đưa bác sĩ Trần Kim Tuyến rời Sài Gòn trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng. Khi tôi vượt biên đến Thailand năm 1987, qua một chính khách quen biết và có họ hàng xa với bác sĩ Tuyến, tôi được biết bác sĩ Tuyến định cư ở Anh Quốc. Ông qua đời khoảng năm 1999 – 2000, và không để lại bất cứ một chứng tích gì trong thời gian ông tham dự vào chính trường Việt Nam Cộng Hòa cũng như không bao giờ tuyên bố hay bình luận gì về đệ Nhất Cộng Hòa. Vào những năm đầu thập niên 1960, sau khi chính quyền của Tổng thống Kennedy lên cầm quyền ở Washington D.C., rất nhiều chính khách Hoa Kỳ đã đến thăm Sài Gòn, vừa cả công khai lẫn kín đáo đề nghị Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho phép quân đội Mỹ vào cuộc chiến chống lại Cộng Sản Băc Việt. Như mọi người đều biết, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu cương quyết chống lại đề nghị này. Nhưng dưới nhãn quan chính trị và tình báo, bác sĩ Trần Kim Tuyến cảm thấy có một cái gì đó không được bình thường bởi lẽ những cường quốc như Anh, Mỹ, Nga, Trung Cộng…thường dùng chiến tranh ủy nhiệm (giao cho người địa phương đánh lẫn nhau, chỉ yểm trợ tiền bạc và vũ khí…) để buôn bán vũ khí, để gây ảnh hưởng kinh tế + chính trị chứ không khi nào lại dùng quân đội chính quy của họ để trực tiếp tham chiến. Như vậy, chiêu bài đem quân đội Mỹ vào miền Nam Việt Nam chỉ là lý cớ, chứ mục tiêu chính là ở chỗ khác. 5 Từ năm 1955, sau hội nghị Bandung để thành lập Khối Phi Liên Kết do Nehru của Ấn Độ, Soekarno của Indonesia, Chu Ân Lai của Trung Cộng…khởi xướng, thủa ban đầu định làm đối trọng đứng giữa 2 khối Tư Bản và khối Cộng Sản, nhưng càng về sau Khối Phi Liên Kết càng nghiêng về phía Cộng Sản. Điển hình là nước Indonesia, Đảng Cộng Sản Indonesia - dưới ảnh hưởng của Trung Cộng - hoạt động như một chính đảng, công khai kết nạp đảng viên và bành trướng lớn mạnh tới tầm mức số đảng viên đông đảo đứng hàng thứ ba chì sau Liên Sô và Trung Cộng (người Mỹ xếp đảng Cộng Sản Indonesia lớn nhất trong thế giới không Cộng Sản). Bác sĩ Trần Kim Tuyến phỏng đoán một ngày nào đó, Đảng Cộng Sản Indonesia sẽ cướp chính quyền rồi sẽ hợp đồng với Trung Cộng nhuộm đỏ toàn vùng Đông Nam Á. Vì vậy, quân đội Mỹ cần vào Việt Nam để có chỗ đóng quân và làm bàn đạp chiến đấu với đạo quân Quốc Tế Cộng Sản do Trung Cộng lãnh đạo. Trong khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu cương quyết cản trở sự tham chiến trực tiếp của quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam thì chính phủ Mỹ sẽ bứng bỏ chính quyền Ngô Đình Diệm là điều hiển nhiên sẽ xảy ra. Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người yêu nước thương dân – điều đó rất nhiều người công nhận và kính phục, ông không muốn quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến vì ông sợ chủ quyền quốc gia sẽ bị xâm phạm, chính nghĩa quốc gia sẽ bị sứt mẻ và quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến cũng có nghĩa là chiến tranh sẽ mở rộng toàn diện, dân chúng Việt Nam sẽ khổ sở. Nhưng ông thiển cận và vị kỷ hơi quá, ông quên nguyên tắc thứ tư trong LỤC HÒA của Phật Giáo (Lợi Hòa Đồng Chia), người Mỹ đánh giá toàn thể nước Việt Nam (kể cả 2 miền Nam – Bắc) không đáng giá bằng Indonesia nên mặc dù năm 1954 họ đã ủng hộ ông hết mình, tới năm 1960 họ đành phải bứng bỏ chế độ của ông. Cá nhân và gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm không hiểu những messages của người Mỹ cho nên đã nhận được những hậu quả bi thảm (tương tự như con ếch bị con rắn nuốt chửng vì không thấy được những chuyển động quá chậm của con rắn). Tôi xin đưa ra những dẫn chứng như sau : l) Tiên lễ : người Mỹ yêu cầu Tổng Thống Ngô Đình Diệm tổ chức bầu cử cho chức vụ Tổng Thống ở nhiệm kỳ 2. Tổng Thống Diệm tái đắc cử với trên 80% cử tri ủng hộ, nhưng người Mỹ cho rằng đây là cuộc bầu cử bôi bác nền dân chủ và thiếu công bằng. Bởi vì Tổng Thống Diệm chỉ cho 2 cụ già trên 80 tuổi ra ứng cử, đó là 2 nhà cách mạng : cụ Hồ Nhật Tân và cụ Nguyễn Thế Truyền ( Ghi chú của người viết : tôi đoan chắc là người Việt hải ngoại cỡ 70 tuổi trở lên còn không nhớ tên của 2 ứng cử viên đối lập với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, huống hồ gì những người dưới 70 tuổi lại càng mù tịt. Cụ Hồ Nhật Tân thuộc phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, sang Tàu và sang Nhật Bản du học hồi 1905. Cụ Nguyễn Thế Truyền thuộc phong trào Duy Tân của cụ Phan Chu Trinh, đi du học bên Pháp và có vợ là công chúa vương triều Leopold cùa nước Bỉ. Bản cáo trạng Thực Dân Pháp ký tên Nguyễn Ái Quốc thực tế do 3 người viết, đó là luật sư Phan Văn Trường, cụ Phan Chu Trinh và kỹ sư Nguyễn Thế Truyền.Về sau Hồ chí Minh và guồng máy tuyên truyền của Việt Cộng nhận vơ và cầm nhầm Nguyễn Ái Quốc là bí danh của Hồ chí Minh !!!). Dân chúng bỏ phiếu cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm vì thấy 2 cụ Hồ Nhật Tân và cụ Nguyễn Thế Truyền già cả lụm khụm, họ không tin 2 cụ còn đủ sáng suốt để lãnh đạo đất nước, đó là chưa kể 2 cụ sẵn sàng ra đi sang thế giới bên kia để đoàn tụ với các bậc tiền bối cách mạng mà không cần thông báo trước. 6 Bầu cử không xong, các nhà trí thức khoa bảng nhóm họp ở khách sạn Caravelle ký tên vào Thỉnh Nguyện Thư đòi hỏi cải cách chính trị. Tổng Thống Diệm và Cố Vấn Nhu phớt lờ bản Thỉnh Nguyện Thư này, không chừng 2 ông lại còn cho rằng đám trí thức khoa bảng này ý hẳn muốn apply xin jobs. Những nhân vật ký tên trong bản Thỉnh Nguyện Thư có thể kể : Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán, Nguyễn Tường Tam, Phan Bá Cầm, Trần Văn Hương… 2) Hậu binh : cuộc binh biến ngày 11 tháng 11 năm 1960 chỉ là lời cảnh báo, chứng cớ là toàn thể những sĩ quan cầm đầu cuộc binh biến này đều chạy thoát sang Nam Vang bằng phi cơ C-47 do đại úy Phan Phụng Tiên lái. Luật sư Hoàng Cơ Thụy – một thủ lãnh của Đại Việt Quan Lại – được xem là người giật giây cho cuộc binh biến này, thì được đưa ra khỏi Việt Nam trong valise ngoại giao của Tòa Đại Sứ Pháp !!! Đại Tá Trần Thiện Khiêm – Tư Lệnh Quân Khu 5 dẫn quân của sư đoàn 21 về Sài Gòn cứu giá cho Tổng Thống Diệm, nhưng trước khi xuất quân, Đại Tá Trần Thiện Khiêm có gọi điện thoại hỏi ý kiến của Trùm CIA (tôi không nhớ tên của ông trùm này) thì được ông trùm này trả lời là : “Coup đảo chính này chỉ để dọa Tổng Thống Diệm mà thôi, ông cứ đem quân về Sài Gòn cứu giá, không sao cả”. Phía gia đình Tổng Thống Diệm và khối Cống Giáo hỉ hả vì “ Thiên Chúa đã che chở cho Tổng Thống Diệm” ; rồi chính quyền của ông lại khắt khe hơn trước, mật vụ và cảnh sát lùng bắt các đảng viên của các đảng phái chống lại ông như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Dân Xã Đảng…Tất cả những chính khách ký tên trong tuyên ngôn Caravelle đều bị bắt giam và đưa đi lưu đày ở đảo Côn Sơn. Chuyện bắt bớ này đã đưa tới cuộc oanh tạc Dinh Độc Lập vào ngày 27 tháng 2 năm 1962 của 2 phi công Đại Úy Phạm Phú Quốc và Thiếu Úy Nguyễn Văn Cử, vì thân phụ của Thiếu Úy Nguyễn Văn Cử là ông Nguyễn Văn Lực – một thủ lãnh của Việt Nam Quốc Dân Đảng vừa mới bị Mật Vụ bắt. Cao xạ của Hải Quân từ Bến Bạch Đằng đã bắn rơi phi cơ của Đại Úy Phạm Phú Quốc và ông nhảy dù ra ngoài rồi bị bắt ở gần cầu Bình Lợi. Phi cơ của Thiếu Úy Nguyễn Văn Cử cũng bị trúng đạn cao xạ, nhưng ông rán lết đáp được xuống phi trường Pochentong ở Nam Vang xin tỵ nạn chính trị với chính phủ Cambodia. Cuộc oanh tạc này làm cho một cô con gái nhỏ của ông bà Ngô Đình Nhu bị tử thương, và gia đình Tổng Thống Diệm cũng như khối Công Giáo đã làm lễ “tạ ơn Thiên Chúa” tại khắp các nhà thờ trên toàn quốc. Điều đáng trách ở đây là chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm càng xác tín vững chắc là Thiên Chúa đã an vị cho ông làm “Tổng Thống muôn năm” cho nên không nhượng bộ bất cứ những gì mà người Mỹ khuyến cáo cũng như yêu cầu. Đó là lý do người Mỹ sẽ sử dụng đến phương pháp có bạo lực để bứng bỏ chính quyền Ngô Đình Diệm, sau khi 2 lá bài “Tiên Lễ” và “Hậu Binh” không đem lại kết quả mong muốn. Cho tới giờ này (2010), tất cả những tác giả bênh vực cho chính quyền Ngô Đình Diệm đều oán trách và chửi rủa chính quyền Kennedy đã cố tình hạ bệ chính quyền của Tổng Thống Diệm và ra lệnh sát hại 2 anh em ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu, ấy là vì các tác giả này cũng lại có đôi mắt ếch và đôi mắt cá nên họ không thấy được những khía cạnh khác. Tôi xin đưa những khía cạnh khác như sau : 1.- Hồng Y Giáo Chủ Spellman ( giữ chức Tổng Giám Mục địa phận New York, được người Công Giáo Hoa Kỳ coi là Giáo Hoàng của người Mỹ )là người đã tiến cử và giúp đỡ ông Ngô Đình Diệm trong năm 1953 và 1954 để được chính quyền Tổng Thống Eisenhower yểm trợ về Việt Nam làm Thủ Tướng (sau đó là Tổng Thống). Hồng Y Spellman làm Tổng Tuyên Úy Công Giáo của Quân Đội Hoa Kỳ, nên ông rất có ảnh hưởng đối với các giới chức quân nhân như Đại 7 Tướng Eisenhower chẳng hạn. Hồng Y Spellman lại đã từng làm phép cưới cho John F. Kennedy và Edward Kennedy nên khi John F. Kennedy đắc cử trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ năm 1960, uy thế của Hồng Y Spellman lại càng trở nên lớn lao hơn nữa. Tổng Thống Kennedy là Tổng Thống Công Giáo đầu tiên của Hoa Kỳ, vậy tại sao chính quyền Kennedy không ủng hộ chính quyền Ngô Đình Diệm – cũng là đồng đạo Công Giáo, câu trả lời gần đúng với sự thật nhất là “tất cả vì quyền lợi của Hoa Kỳ”. Người Công Giáo Việt Nam và gia đình Tổng Thống Diệm đã có những suy đoán “trật lất” về Hồng Y Spellman như sau : Hồng Y Spellman được nâng đỡ tối đa của Giáo Hoàng Pio X, Hồng Y Spellman cũng là một cây chi tiền mạnh bạo cho Tòa Thánh Vatican vì giáo phận New York là một giáo phận giàu có nhất của nước Mỹ. Vậy chính quyền Ngô Đình Diệm được Giáo Hội Công Giáo ở Vatican ủng hộ thì đương nhiên Hồng Y Spellman và chính quyền Kennedy phải ủng hộ chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thực tế không phải như vậy, người Mỹ có câu : “ Who pay who command” (dịch ra tiếng Việt có nghĩa là “Ai chi tiền thì người đó sẽ chỉ huy), Hoa Kỳ đang là một siêu cường nên chẳng có lý do gì phải vâng lời Tòa Thánh ở Vatican. Khi thấy chính quyền Kennedy càng ngày càng muốn thay thế Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đích thân Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục xin qua Mỹ để được “vận động” với Hồng Y Spellman, nhưng đều không nhận được sự hồi âm của Hồng Y Spellman. Sự im lặng của Hồng Y Spellman cũng dễ hiểu : người Mỹ rất thực tế họ chỉ muốn “deal” với kẻ đương quyền hay có nhiều triển vọng sắp nắm quyền, họ không muốn phí thời giờ để “deal” với người “sắp bị thay thế” (hay sắp …chết !!!) 2.- Chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho rằng biến động tại Huế nhân ngày Phật Đản năm 1963 là do CIA dàn dựng và một số tăng sĩ Phật Giáo là do Việt Cộng giật giây, điều đó không sai nhưng chưa đủ. Đó chỉ là nguyên nhân gần, nguyên nhân sâu xa là chính sách quá thiên vị Công Giáo và đối xử phân biệt đối với Phật Giáo, thí dụ như cấm các chùa chiền treo cờ Phật Giáo trong Mùa Phật Đản, trong khi các nhà thờ Công Giáo thì treo cờ Giáo Hội La Mã thả dàn (thậm chí có nơi còn không thèm treo cờ quốc gia đi kèm). Tất cả tăng sĩ Phật Giáo và phật tử xuống đường biểu tình phản đối sự đối xử bất công của chính quyền là điều có thực, họ chỉ đòi hỏi sự đối xử công bằng chứ không có ý định lật đổ chính quyền. Chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng có đôi mắt ếch và mắt cá nên cho rằng xuống đường biểu tình của các tăng sĩ Phật Giáo và phật tử là gây rối loạn cho an ninh quốc gia và làm mất uy quyền quốc gia của chính phủ nên bắt bớ giam cầm những người biểu tình; trong khi những nguyện vọng của họ thì không được chính quyền đáp ứng. Do đó, càng đàn áp càng bắt bớ thì lại càng có nhiều cuộc xuống đường hơn trước. Tháng 8/1963, chính phủ Kennedy triệu hồi đại sứ Frederick Nolting về nước và cử đại sứ Henry Cabot Lodge sang thay thế. Ông này là ứng cử viên Phó Tổng Thống của Richard Nixon (đảng Cộng Hòa) trong kỳ tranh cử Tổng Thống hồi năm 1960 với liên danh Kennedy – Johnson (đảng Dân Chủ), năm 1962 ông là đại sứ của Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc khi có vụ rắc rối hỏa tiễn ở Cuba, nhưng ông trở nên khét tiếng vì là “chuyên gia đảo chánh” ở một số nước Á châu và châu Mỹ La tinh !!! Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu có biết thành tích khét tiếng của Đại Sứ Henry Cabot Lodge không ? và có hiểu được lời nhắn khéo của chính phủ Kennedy hay không ? Chắc chắn là biết và hiểu lời nhắn khéo của chính phủ Mỹ, nhưng ông tự cho ông là người chống Cộng mạnh mẽ nhất không ai có thể thay thế vị trí của ông được và ông cũng tự cho rằng sự hiện hữu của ông sẽ ngăn được không cho quân đội Mỹ vào Việt Nam. Khổ nỗi, chống Cộng mạnh 8 mẽ nhất không có nghĩa là chống Cộng hữu hiệu nhất và không có sự hiện hữu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì quân đội Mỹ sẽ vào Việt Nam nhanh hơn. Ngày 21 tháng 8 năm 1963, đại sứ Henry Cabot Lodge đến Sài Gòn để nhận nhiệm vụ thì ngày 20 tháng 8 năm 1963, chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm mở cuộc Tổng Tấn Công tất cả các chùa ở Sài Gòn cũng như mở cuộc Càn Quét bắt giữ một số lớn các sinh viên học sinh phật tử cũng như các vị tăng + ni Phật Giáo, rõ ràng là để “dằn mặt” ông đại sứ Henry Cabot Lodge, tuy nhiên ông đại sứ Lodge “tỉnh bơ” không có vẻ gì là ngán sợ hết cả. 3.- Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê văn Duyệt, gần tòa đại sứ Cambodia và trường trung học tư thục Nguyễn Khuyến của 2 giáo sư Bùi Hữu Đột và Bùi Hữu Sủng, đã gây chấn động lớn trên dư luận Hoa Kỳ và dư luận quốc tế. Cuộc tự thiêu này diễn ra công khai trước ống kính máy quay phim và máy chụp hình của phóng viên quốc tế, cho nên Bà Ngô Đình Nhu có tuyên bố bậy bạ để “bôi bác” sự tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức nhằm “rửa độc ” dư luận Hoa Kỳ, thì cũng chẳng có ai tin bà. 4. Thân phụ và thân mẫu của Bà Ngô Đình Nhu là Luật Sư Trần Văn Chương – đương kim Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ, và Bà Thân Thị Nam Trân – đương kim Quan Sát Viên thường trực của Việt Nam Cộng Hòa tại Cơ Quan Liên Hiệp Quốc, đồng loạt từ chức để phản đối chính sách kỳ thị tôn giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm (Ghi chú của người viết : trước đó, Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu cũng đệ đơn xin từ chức để đi hành hương tại Ấn Độ !!!). Tôi còn nhớ là vào thời điểm đó – 1963, một số tay sai của chế độ Ngô Đình Diệm đã phê phán sự từ chức của 2 Ông Bà Trần Văn Chương và Thân Thị Nam Trân là thái độ của “kẻ ăn cháo đái bát”. Họ còn dè bỉu là có lẽ ông bà Trần Văn Chương muốn nắm chức Thủ Tướng và Phó Thủ Tướng của chính quyền mới, nếu chính phủ Mỹ lật đổ được Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Theo sự nhận xét của riêng tôi, vì làm Đại Sứ lâu năm tại Washington D.C. và thường xuyên đi lại New York nên 2 ông bà hiểu rõ đường lối và chính sách của chính phủ Mỹ cũng như chính 2 ông bà được sự nhờ cậy của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục để sang Hoa Kỳ “vận động” với Hồng Y Spellman mà Hồng y Spellman không thèm trả lời, cho nên 2 ông bà biết rõ kết cuộc của chế độ Ngô Đình Diệm sẽ như thế nào. Khuyên bảo và cố vấn cho chính phủ Ngô Đình Diệm, qua người con gái là bà Trần Lệ Xuân và con rể là ông Ngô Đình Nhu, không được thì chuyện xin từ chức là lẽ đương nhiên. Còn lời dè bỉu của tay sai chế độ càng trở nên vô nghĩa vô lý, vì sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị sụp đổ, 2 ông bà Trần Văn Chương không hề trở lại Việt Nam để tranh dành chức Thủ Tướng của chính phủ mới !! 5.- Ngay sau khi đến Sài Gòn, Đại Sứ Lodge đã vận hành ngay guồng máy đảo chánh để lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm (tôi không nêu chi tiết vì mọi người đã biết việc tổ chức đảo chánh qua các lời kể hoặc qua các hồi ký của các tướng lãnh trực tiếp tham dự). Tôi cũng không biết ai là người kết nạp sĩ quan Trần Thiện Khiêm vào làm việc cho cơ quan CIA và làm việc từ lúc nào ( Đại Tướng Trần Thiện Khiêm mà không tự nói ra những điều này thì chẳng ai có thể biết), nhưng phải công nhận là người kết nạp phải là người có mắt tinh đời và có lẽ rất giỏi về khoa tướng mệnh học nên CIA thành công trong vấn đề tìm ra giải pháp giải quyết vấn nạn chính trị tại Việt Nam. Năm 1960 khi kéo quân của sư đoàn 21 về Sài Gòn cứu giá cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sĩ quan Trần Thiện Khiêm mới chỉ mang cấp bậc Đại Tá, tới năm 1962 ông được 9 vinh thăng lên Thiếu Tướng, mãi tới năm 1963 ông mới đảm trách chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân ở Bộ Tổng Tham Mưu. Ông là người rất kín miệng, không bao giờ tuyên bố bất cứ một điều gì, chậm chạp từ từ nắm giữ vị trí quan trọng trong quân đội, nhưng người ngoài kể cả Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu vẫn coi ông như là một công chức của Bộ Quốc Phòng (Cố vấn Ngô Đình Nhu và Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ để ý đến các Tư Lệnh Lữ Đoàn Dù, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, Tư Lệnh Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Tư Lệnh Không Quân, Tư Lệnh Hải Quân, các Tư Lệnh Vùng 3 và Vùng 4, Các Tư Lệnh các Sư Đoàn Bộ Binh đóng chung quanh Sài Gòn...không ai để ý đến chức không có quân trong tay là chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân). Do đó khi hay tin Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm đứng trong danh sách các tướng cầm đầu cuộc đảo chánh ngày 01 tháng 11 năm 1963, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu bị choáng váng nặng nề. Có một điều ít ai được biết, trong lúc các tướng lãnh họp bàn để quyết định về số phận của anh em Tổng Thống Diệm và cố vấn Nhu, tất cả các tướng đều dơ tay biểu quyết hạ sát chỉ có một mình Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm dơ tay không hạ sát. Đây là khởi đầu cho những rắc rối đến với Tướng Trần Thiện Khiêm và cũng là những rắc rối biến động cho chính trường miền Nam Việt Nam sau khi 2 anh em ông Diệm và Nhu bị hạ sát. 6.- Lòng trung thành tuyệt đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm của Đại Tá Lê Quang Tung và Đại Tá Hồ Tấn Quyền khiến 2 ông bị giết (Thiếu Tá Lê Quang Triệu – em trai của Đại Tá Lê Quang Trung, bị giết ở Văn Phòng Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt vì phe đảo chánh sợ Thiếu Tá Triệu thay quyền Đại Tá Tung điều động Lực Lượng Đặc Biệt chống lại phe đảo chánh). Ở vị thế kẹt, Đại Tá Cao Văn Viên – Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù – chỉ nói ông không chống đối nhưng cũng không ủng hộ, Trung Tướng Dương văn Minh, Thiếu Tướng Lê văn Kim, Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân…định ra lệnh hạ sát luôn Đại Tá Cao Văn Viên, nhưng Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm và Thiếu Tướng Tôn Thất Đính ngăn cản, nên Đại Tá Cao văn Viên chỉ bị cô lập trong Bộ Tổng Tham Mưu mà thôi. 7.- Người Công Giáo và các nhà bình luận bênh vực chế độ Ngô Đình Diệm kết tội chính phủ Mỹ ra lệnh hạ sát 2 anh em ông Diệm và ông Nhu là chỉ đúng 50% sự thật (Ghi chú của người viết : một văn hào Âu Châu – mà tôi không nhớ tên – đã đưa ra một nhận định khá chính xác là “Một nửa ổ bánh mì vẫn là ổ bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì không phải là sự thật ”). Khi rời Washington DC đi Sài Gòn, chắc chắn đại sứ Henry Cabot Lodge đã nắm chắc phương cách giải quyết vấn đề của chính phủ Ngô Đình Diệm với nhiều options đã được dự trù trước (giống như Tào Tháo để lại cẩm nang cho tướng Hạ Hầu Đôn để đối phó với Khổng Minh và Tôn Quyền, lúc hữu sự tướng Hạ Hầu Đôn cứ giở cẩm nang ra mà áp dụng, khòi cần trình báo lôi thôi mất thì giờ mà e rằng không kịp nữa). Năm 2003, khi tôi đọc tài liệu đã được bạch hóa của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ do ông Lâm Lễ Trinh sưu tập và tổng kết trong bài viết có tựa đề “Kỷ Niệm 40 Năm Ngày Lật Đô Chính Phủ Ngô Đình Diệm” (hay đại loại gần giống như thế - vì tôi không nhớ chính xác). Câu nói cuối cùng của đại sứ Lodge với Tổng Thống Diệm vào sáng ngày 02 tháng 11 năm 1963 đại để như sau : “….nếu cần một chỗ để ra đi xuất ngoại, xin Tổng Thống cứ gọi cho tôi; những vấn đề khác xin đừng gọi !!!”. Thật là một lời nhắn rõ ràng, minh bạch và dễ hiểu không cầu kỳ bóng bẩy, như vậy khi Tổng Thống Diệm gọi vào Bộ Tổng Tham Mưu thì các tướng lãnh automatic sử dụng đến option B là điều quá tự nhiên rồi, khỏi cấn thắc mắc ai là người ra lệnh và cũng không 10 cần suy tư là kế hoạch hạ sát Tổng Thống Diệm và cố vấn Nhu là do Trung Tướng Dương văn Minh hay do Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân nghĩ ra. 8.- Trong không khí ngột ngạt của các âm mưu đảo chánh sắp được tiến hành cũng như áp lực uất ức của quần chúng Phật tử càng ngày càng lên cao, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu vẫn có thể đi một nước cờ cao để phá vỡ âm mưu của đại sứ Lodge vừa giữ được thể diện của nhà lãnh đạo quốc gia và nhất là giữ được sinh mệnh an toàn.; đó là : Tổng Thống Ngô Đình Diệm lên đài phát thanh quốc gia tuyên bố chính phủ của ông đã sai lầm trong thời gian vừa qua, một mặt ra lệnh phóng thích tất cả các tăng ni bị bắt trong vụ tranh đấu đòi hỏi đối xử công bằng cho Phật Giáo cũng như phóng thích tất cả sinh viên học sinh và quần chúng Phật tử dính líu tới những cuộc xuống đường biểu tình từ ngày Phật Đản 1963, đem tàu ra đảo Côn Sơn rước tất cả những chính trị gia đối lập (chú ý : không trả tự do cho các phần tử Cộng Sản) về Sài Gòn để cùng với chính phủ lập quốc dân đại hội, tu chính hay soạn thảo hiến pháp mới hầu tổ chức lại một cuộc bầu cử mới (mà ông Ngô Đình Diệm không tái ứng cử). Đó là một sự trao chuyển quyền lực chính trị mà không cần phải đảo chánh đổ máu, lúc đó 2 ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu có muốn ra đi xuất ngoại thì cũng được ra đi thoải mái. Tiếc thay, 2 ông không nghĩ ra được nước cờ này nên đã bị giết thê thảm, tôi nói đáng tiếc vì lẽ ra 2 ông có thể tránh được. 9.- Sau khi 2 anh em ông Diệm và ông Nhu bị giết, trong cương vị Tham Mưu Trưởng Liên Quân, chính Trung Tướng Trần Thiện Khiêm (vừa mới vinh thăng) điều động Đại Tá Cao văn Viên (đang bị giam lỏng trong Bộ Tổng Tham Mưu) trở lại nắm giữ Tư Lệnh Lữ Đoàn Dù. Và thời gian ngắn sau đó, vì đã dơ tay biểu quyết không hạ sát Tổng Thống Diệm, nên Đại Tướng Dương văn Minh ra lệnh cho Trung Tướng Trần văn Đôn – quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, cách chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân của Trung Tướng Trần Thiện Khiêm và bổ nhiệm tướng Trần Thiện Khiêm ra làm Tư Lệnh Quân Đoàn III kiêm Tư Lệnh Vùng III Chiến Thuật. Phải thẳng thắn mà nói rằng Đại Tướng Dương văn Minh quá kém cỏi về mặt chính trị, khi bổ nhiệm cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ làm Thủ Tướng Chính Phủ của chính quyền Cách Mạng, ông đã làm nhiều người thất vọng về tài lãnh đạo của ông nhất là giới tăng sĩ Phật Giáo vừa mới được ông giải thoát ra khỏi nhà tù của chính quyền Ngô Đình Diệm, còn giới chính khách đối lập (vừa mới được chở về từ đảo Côn Sơn) thì thẳng thắn phê bình ông là không biết dùng người vì con người “thư lại” của Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ không thể điều khiển một chính quyền “Cách Mạng”, nhất là quân đội làm cuộc đảo chánh để lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm rồi lại đưa Phó Tổng Thống của chính quyền Ngô Đình Diệm lên làm Thủ Tướng Chinh Phủ, thì rõ ràng Đại Tướng Dương văn Minh làm chuyện “ruồi bu” + nhảm nhí và vô bổ. Qua hồi ký của Trung Tướng Trần văn Đôn, người ta lại nản lòng hơn nữa : làm tới Đại Tướng Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng mà chẳng hề ý thức được “tinh thần trách nhiệm” và “tinh thần cách mạng” gì hết, trong lúc các Tướng hội họp bất kể giờ giấc hành chánh, Tướng Dương văn Minh đến nói nhỏ với Tướng Trần văn Đôn : “…toi ở lại thay moi giải quyết các vấn đề với các anh em, moi phải về vì 5 giờ chiều là tới giờ moi ra sân đánh …tennis !!!”. Chắc chắn trong các Tướng lãnh được chính phủ Hoa Kỳ hậu thuẫn để lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, chỉ có một mình Trung Tướng Trần Thiện Khiêm là biết rõ hậu ý của chính quyền 11 Kennedy, đó là chính phủ kế nhiệm của chính phủ Ngô Đình Diệm phải chính thức có văn thư mời quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam (như đã đề cập ở đoạn trên, quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam Cộng Hòa để chuẩn bị xuất quân đi Indonesia trong trường hợp tối cần thiết, chứ quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam Cộng Hòa không phải để tiến quân vượt vĩ tuyến 17 “giải phóng Bắc Việt” như nhiều người Việt Nam ngộ nhận !!!). Nhưng Tướng Khiêm lại không thể giải thích điều đó cho Tướng Dương văn Minh hiểu. Trong khi công việc chính yếu và cần thiết thì không làm, chính quyền mới dưới sự chỉ đạo của Tướng Dương văn Minh, Tướng Mai Hữu Xuân và Tướng Đỗ Mậu (vừa mới vinh thăng) lại lo đi làm chuyện trả thù cá nhân núp dưới chiêu bài “ Truy Quét Dư Đảng Cần Lao và Tay Sai Ngô Triều”, mà điển hình là cách chức Trung Tướng Trần Thiện Khiêm khỏi vị trí Tham Mưu Trưởng Liên Quân và đẩy ra khỏi Sài Gòn đưa lên Biên Hòa làm Tư Lệnh Quân Đoàn III kiêm Tư Lệnh Vùng III Chiến Thuật. Đây là một sai lầm lớn của Đại Tướng Dương Văn Minh và Trung Tướng Trần Văn Đôn, vì tuy không hiện diện tại Sài Gòn, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm lại có Đại Tá Cao văn Viên – đương kim Tư Lệnh Lữ Đoàn Dù – sẵn sàng trợ giúp. Cuộc chỉnh lý ngày 30 tháng 01 năm 1964 do Trung Tướng Nguyễn Khánh – đương kim Tư Lệnh Quân Đoàn II và Vùng II Chiến Thuật, lãnh đạo về mặt biểu kiến, nhưng mọi người hiểu là do Trung Tướng Trần Thiện Khiêm đạo diễn và tổ chức vì không có một đơn vị nào của Quân Đoàn II có mặt tại Sài Gòn vào thời điểm đó, mà chỉ có duy nhất các đơn vị của Lữ Đoàn Dù làm mũi nhọn chính của cuộc chỉnh lý (ngay cả các đơn vị quân đội của Quân Đoàn III cũng không có). Cuộc chỉnh lý ngày 30 tháng 01 năm 1964 thực chất chỉ là sự trả đũa của Trung Tướng Trần Thiện Khiêm đối với một số tướng lãnh trong ban lãnh đạo của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, để có chính nghĩa và chính danh cho cuộc Chỉnh Lý, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm tung ra tin tức kết tội 5 ông Tướng “mưu toan Trung Lập Hóa Việt Nam Cộng Hòa ” theo đường lối của chính phủ Tổng Thống Charles De Gaulle của nước Pháp. Trung Tướng Nguyễn Khánh đem nhốt 5 ông Tướng này trong biệt thự nghỉ mát của Cựu Hoàng Bảo Đại trên thành phố Dalat, nên báo chí thời đó thường gọi là “các Tướng Dalat” ; đó là Trung Tướng Trần Văn Đôn, Trung Tướng Mai Hữu Xuân, Trung Tướng Tôn Thất Đính, Thiếu Tướng Lê văn Kim, Trung Tướng Nguyễn văn Vỹ . Về sau, cũng chẳng có chứng cớ hữu hiệu nào để chứng tỏ các vị Tướng này theo chủ trương Trung Lập Hóa của Tướng Charles De Gaulle. 10.- Rất có nhiều người thắc mắc là tại sao Tướng Trần Thiện Khiêm không tự mình đứng mũi chịu sào bước ra ánh sáng gánh vác trách nhiệm mà lại chỉ đứng đàng sau điều khiển và giật dây người khác thực hiện mưu đồ của ông, trong khi ông thừa bản lãnh và mưu lược để thực hiện mưu đồ đó. Ông thích như vậy chăng ? Hay là lá số tử vi của ông có sao TUẦN và sao TRIỆT ở cung Mệnh lại thêm có sao PHỤC BINH nên ông không thể làm lãnh đạo được chăng ? Hay là CIA bảo ông không nên chường mặt ra hành động vì chường mặt ra thì chỉ có làm được MỘT mục tiêu, trong khi đứng đàng sau thì có thể làm được NHIỀU mục tiêu trong nhiều thời điểm khác nhau. Câu trả lời hữu lý nhất phải do chính Tướng Trần Thiện Khiêm tiết lộ, mọi phỏng đoán của bất kỳ ai, đều chỉ là đoán mò và rất là khó thuyết phục đối với độc giả hậu bối. 11.- Báo chí thời 1963 – 1964 có nêu thắc mắc là nếu Bác Sĩ Trần Kim Tuyến không đi làm Tổng Lãnh Sự ở Cairo, thì liệu cuộc đảo chánh ngày 01 tháng 11 năm 1963 có dễ dàng thành công hay không ? Tôi lại nêu thắc mắc ở một điểm khác : Bác Sĩ Trần Kim Tuyến đi làm Tổng Lãnh Sự ở Cairo vào năm 1962 là do yêu cầu của CIA để cho Tướng Trần Thiện Khiêm dễ bề hành động ? Hay Bác Sĩ Tuyến biết là không thể khuyến cáo Tổng Thống Diệm và Cố Vấn Nhu 12 thuận theo yêu cầu của chính phủ Mỹ cho nên lánh mặt khỏi Việt Nam để giữ an toàn cho bản thân cũng như duy trì được mạng lưới tình báo ở ngoài Bắc ? (Ghi chú của người viết : nếu không lánh mặt khỏi Việt Nam, thì số mệnh của Bác Sĩ Tuyến chắc chắn cũng giống như số mệnh của Đại Tá Lê Quang Tung và Đại Tá Hồ Tấn Quyền). Về điểm này, có thể nói Bác Sĩ Trần Kim Tuyến đã áp dụng lời dặn dò của Tôn Tử trong quyển sách “Bình Luận Về Nghệ Thuật Chiến Tranh”, đó là : “…làm Tướng biết khéo thua thì sẽ được sinh tồn ”. 12.- Khi mời Trung Tướng Nguyễn Khánh đứng ra lãnh đạo cuộc chỉnh lý ngày 30 tháng 01 năm 1964, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm đã “deal” với Tướng Khánh 3 việc : A/ Tướng Nguyễn Khánh sẽ lên làm Quốc Trưởng. B/ Thủ Tướng Chính Phủ sẽ là Bác Sĩ Nguyên Tôn Hoàn – Xứ Bộ Trưởng Xứ Bộ Miền Nam của Đại Việt Quốc Dân Đảng , thời điểm 1964 đang ở bên Pháp. C/ Trung Tướng Trần Thiện Khiêm sẽ giữ chức vụ Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng (thay thế Trung Tướng Trần văn Đôn) ( Ghi chú của người viết : nhiều đảng viên Đại Việt Quốc Dân Đảng và người ngoài Đảng Đại Việt nghĩ rằng Trung Tướng Trần Thiện Khiêm đang giữ chức Quân Ủy Trung Ương của Đại Việt “dọn cỗ” cho “chef” của mình là Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn làm Thủ Tướng Chính Phủ, nhưng theo ý kiến của riêng tôi, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm không hoàn toàn có hảo ý như vậy. Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn chống đối với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm nên từ năm 1954 ông tỵ nạn ở bên Pháp, về Việt Nam làm Thủ Tướng Chính Phủ vào năm 1964 rõ ràng ông phải trông cậy vào đàn em ở lại Việt Nam tức là chính phủ của Thủ Tướng Nguyễn Tôn Hoàn trông vào sự ủng hộ của Tướng Trần Thiện Khiêm, cho nên Tướng Trần Thiện Khiêm sẽ dễ dàng thuyết phục được ông ký văn thư chính thức mời quân đội Mỹ vào Việt Nam trực tiếp tham chiến chống lại quân Cộng Sản.) 13.- Sau khi cuộc chỉnh lý hoàn tất, Đại Tá Cao văn Viên nói với Trung Tướng Trần Thiện Khiêm là ông không có tham vọng chính trị và chỉ muốn là một quân nhân thuần túy. Tuy nhiên Trung Tướng Nguyễn Khánh thì lại có quá nhiều tham vọng và là một người quỷ quyệt đầy các đòn phép ma giáo. Trong 3 điều giao ước với Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, tướng Nguyễn Khánh không tuân thủ bất cứ điều khoản nào cả : A. Ông lưu giữ Đại Tướng Dương văn Minh trong vai trò Quốc Trưởng (bù nhin). B. Bản thân Tướng Nguyễn Khánh thì giữ chức Thủ Tướng và thành lập chính phủ (có thực quyền hơn nhiều). Khi ra đón bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn từ Pháp về, Tướng Nguyễn Khánh “ban đặc ân” cho bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn “được “ làm Phó Thủ Tướng đặc trách Xây Dựng Nông Thôn. Ở vị thế “há miệng mắc quai”, bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn im lặng rồi sau đó ông bỏ đi hồi nào dân chúng không ai hay biết.!!! C.- Đối với Trung Tướng Trần Thiện Khiêm không những Tướng Nguyễn Khánh không cho làm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng mà lại xuất sự vụ lệnh bổ nhiệm Tướng Trần Thiện Khiêm sang Hoa Kỳ làm Đại Sứ lưu động (một hình thức được coi là “Tống ra khỏi nước cho khuất mắt”) 13 Tuy nhiều đòn phép ma giáo, nhưng Tướng Nguyễn Khánh cũng không có cao kiến chính trị nào đáng kể và ông cũng giống như Tướng Dương văn Minh ở điểm chẳng hề hiểu hậu ý của chính phủ Hoa Kỳ khi hậu thuẫn các Tướng lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm . Người ta thấy Tướng Nguyễn Khánh vuốt ve khối Công Giáo, chiều chuộng khối Phật Giáo để dân chúng của 2 tôn giáo lớn này đừng “làm phiền” đến mưu đồ làm “lãnh tụ ” của ông. Việc cần thiết thì ông không biết làm, thay vào đó sai các sĩ quan thuộc cấp tham khảo bản Hiến Pháp của Hoa Kỳ, bản Hiến Pháp của Đệ Ngũ Cộng Hòa Pháp Quốc và ngay cả bản Hiến Pháp của Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam để tìm cách tự tôn cá nhân Tướng Khánh lên làm Chủ Tịch Việt Nam Cộng Hòa ( Hiến Chương này tướng Nguyễn Khánh cho ra mắt ở Vũng Tàu, nên báo chí thời bấy giờ gọi là Hiến Chương Vũng Tàu) . Hiến Chương Vũng Tàu “chết non” vì vừa được công bố thì cả nước sôi sục lên “Chống Độc Tài Quân Phiệt”. 2 khối Công Giáo và Phật Giáo đang kình chống nhau ở đường phố Sài Gòn thì tạm đình chiến để quay qua chống Tướng Nguyễn Khánh, rồi sinh viên học sinh ồ ạt bãi khóa xuống đường để “biểu tình phản đối”. Trầm trọng hơn nữa là các tướng lãnh và các sĩ quan cao cấp đem binh sĩ về Sài Gòn để “đảo chánh (hụt) “ hay chỉ để “biểu dương lực lượng”, các sĩ quan “vang bóng một thời” có thể kể : Trung Tướng Dương văn Đức, Thiếu Tướng Lâm văn Phát, Đại Tá Phạm Ngọc Thảo, Đại Tá Bùi Dinh, Đại Tá Huỳnh văn Tồn, Đại tá Nhan Minh Trang, Trung Tá Lê Hoàng Thao…v…v… Tướng Nguyễn Khánh quay qua tìm sự hậu thuẫn của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ thì được sự trả lời thẳng thừng của đại sứ Hoa Kỳ (Thống Tướng hồi hưu Maxwell Taylor – nguyên Chủ Tịch Ban Tham Mưu Hỗn Hợp thời Tổng Thống John F. Kennedy thay thế đại sứ Henry Cabot Lodge được về Mỹ an dưỡng vì hoàn tất nhiệm vụ một cách xuất sắc) là : “ You làm bậy thì ráng mà chịu, tôi đã phản đối bản Hiến Chương cả về hình thức lẫn nội dung rồi mà you vẫn không nghe ”. Nổi sùng , tướng Nguyễn Khánh chửi tục Thống Tướng Taylor bằng tiếng Pháp cho sứ giả của Tướng Taylor là Lucien Conein – trùm CIA tại Sài Gòn vào thời điểm đó. Lucien Conein là một người Mỹ gốc Pháp nên hỏi tướng Khánh có nên dịch ra tiếng Anh nguyên con hay không, Tướng Khánh bảo cứ dịch nguyên con, để cho chắc ăn, Lucien Conein viết các tiếng chửi tục của tướng Khánh vào sổ tay rồi đưa cho tướng Khánh confirm, Tướng Khánh gật đầu. Xem thế đủ biết ngày bị buộc phải rời quyền lực của tướng Khánh không còn bao xa nữa. Sau đó chức vụ quyền Quốc Trưởng VNCH được trao lại cho Kỹ Sư Phan Khắc Sửu và ông Trần văn Hương được mời làm Thủ Tướng, và nội các của Thủ Tướng Trần văn Hương ra mắt vào ngày 26 tháng 10 năm 1964. Nhưng Thủ Tướng Trần văn Hương xin từ chức vào cuối tháng giêng năm 1965 và bác sĩ Phan Huy Quát được mời làm Thủ Tướng Chính Phủ, nhậm chức vào ngày 16 tháng 2 năm 1965. Ba ngày sau (tức là ngày 19 tháng 2 năm 1965), Thiếu Tướng Lâm văn Phát và Đại Tá Phạm Ngọc Thảo đem binh sĩ về Sài Gòn nói là “ biếu dương lực lượng” nhưng thực chất là làm áp lực với tân chính phủ để tống khứ Tướng Nguyễn Khánh ra khỏi nước. Quả nhiên ngày 25 tháng 2 năm 1965, tướng Khánh lên đường ra ngoại quốc sau khi nhận được văn thư vinh thăng lên cấp bậc Đại Tướng – do Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu ấn ký, đồng thời cũng nhận được Sự Vụ Lệnh bổ nhiệm tướng Nguyễn Khánh làm Đại Sứ Lưu Động do Thủ Tướng Phan Huy Quát ký. 14.- Có dư luận cho rằng Quân Đội Hoa Kỳ đố bộ vào Đà Nẵng (rõ hơn là đổ bộ vào Chu Lai) trước khi Thủ Tướng Phan Huy Quát ký văn thư chính thức mời quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam 14 trực tiếp chống Cộng (tức là quân đội Hoa Kỳ đặt Thủ Tướng Phan Huy Quát trong tình trạng đã rồi). Nguồn dư luận này rất đáng tin cậy và rất hữu lý vì chỉ một thời gian ngắn sau khi quân đội Hoa Kỳ ồ ạt vào Nam Việt Nam, ở Indonesia đã xảy ra biến động lớn : các sĩ quan “cấp tiến” ( nói rõ hơn là các sĩ quan trong quân đội Indonesia đã gia nhập Đảng Cộng Sản Indonesia) của quân đội Indonesia đem binh lính vào thủ đô Jakarta bắt giữ rồi sát hại Đại Tướng Natution – Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Indonesia cùng một số lớn các tướng lãnh cao cấp khác như Tư Lệnh các Quân Binh Chủng…24 giờ sau, Thiếu Tướng Suharto đảo ngược tình hình, tất cả các sĩ quan “cấp tiến” tham dự cuộc đảo chánh đều bị xử bắn theo quân luật mà không cần phải đem ra tòa thụ lý hay xử án gì cả !!! CIA biết được kế hoạch đảo chánh của các sĩ quan “cấp tiến” trong đó họ bỏ sót Tướng Suharto – thời điểm 1965 chỉ là Tư Lệnh một sư đoàn bộ binh trong 2 sư đoàn trực thuộc Quân Khu Thủ Đô Jakarta. CIA thông báo cho tướng Suharto chuẩn bị sẵn sàng hành động, cho nên phe đảo chánh còn đang bận truy bắt các tướng lãnh khác, thì Thiếu Tướng Suharto và binh sĩ dưới quyền đã bắt giữ được toàn thể các sĩ quan trong nhóm đảo chánh này !!! (dĩ nhiên danh sách người và địa điểm đều do CIA cung cấp) Tướng Suharto và hệ thống an ninh tình báo của Indonesia đã ra tay tàn sát tất cả các đảng viên Đảng Cộng Sản Indonesia từ Tổng Bí Thư Aidit (tôi không nhớ được last name của ông Aidit) cho đến các cán bộ hạ tầng cơ sở, số người bị hạ sát được ước lượng khoảng ½ triệu người chỉ trong vòng 1 tuần lễ. Số người chết được tàu chở ra biển thả xuống các vùng có nhiều cá mập để tránh bị ô nhiễm trên mặt đất và nhất là để xóa sạch các dấu vết. Người Cộng Sản thường nêu ra châm ngôn “Giết lầm hơn bỏ sót” để biện minh cho “bạo lực cách mạng” (kiểu Cộng Sản), tuy thế Tướng Suharto và hệ thống an ninh tình báo của Indonesia lại áp dụng châm ngôn này một cách xuất sắc hơn hẳn 2 đàn anh vĩ đại của thế giới Cộng Sản là Liên Sô và Trung Cộng ! Trong khi thế giới chưa rõ chuyện gì đã xảy ra tại Indonesia, các tay săn tin của các hãng thông tấn Âu Mỹ -vì không có mặt thường xuyên ở Indonesia, vội vã xin giấy phép nhập cảnh vào Indonesia , tức cười là khi các phóng viên Âu Mỹ đến Indonesia thì không thấy cái gọi là dấu vết tàn sát diệt chủng gì hết (làm sao thấy được khi các xác chết bị “cá mập ” thanh toán gọn ghẽ !!). Nói nào ngay, cũng có phóng viên của hãng thông tấn Kyodo – Nhật Bản hiện hữu trong những ngày biến động nhưng có một lý do đặc biệt khiến các phóng viên của hãng Kyodo không dám đi ra ngoài, xa thủ đô Jakarta. Lý do đặc biệt này là : hệ thống an ninh tình báo của Indonesia có bằng chứng là cán bộ ngoại giao của Trung Cộng can dự vào cuộc đảo chánh của các sĩ quan “cấp tiến”, cho nên Tướng Suharto đã cho binh sĩ bao vây cô lập Tòa Đại Sứ, sau đó ông tuyên bố đoạn giao với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, các nhân viên Tòa Đại Sứ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa bắt buộc phải xuống tàu để trở về lục địa Trung Hoa trong vòng 48 giờ. Bên ngoài, dân chúng căm ghét người Hoa vì lý do kinh tế nhiều hơn, nhân dịp này đã tàn sát những người Hoa làm ăn buôn bán giàu có hơn dân bản xứ. Vì người Hoa và người Nhật có nhiều điểm tương đồng, nên Tòa Đại Sứ Nhật tại Jakarta đã ra thông cáo kêu gọi người Nhật không nên ra đường, phải treo cờ Nhật trước nhà, các phóng viên người Nhật phải gắn cờ Nhật trước ngực và sau lưng khi đi làm việc. Thành thử, tuy có phóng viên Nhật mà họ lại không dám đi xa để săn tin, nên cũng chẳng có mấy hình ảnh được ghi nhận (nói theo bài hát của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh là “có cũng như không” ) 15.- Lá bài sử dụng Tướng Suharto để đảo ngược tình hình tại Indonesia được giữ kín hoàn toàn cho đến phút chót, tuy nhiên với quan niệm “an toàn cho các bất định” (hay có thể hiểu là chính phủ Mỹ tự đặt mình trong tình trạng xấu nhất – worst case – là không thể sử dụng được Tướng Suharto vì nhiều lý do khác nhau không tiên liệu trước được) cho nên phải đem “đại quân” vào 15 Việt Nam phòng hờ cho chắc ăn. Khi Tướng Suharto thành công trong việc phá tan Đảng Cộng Sản Indonesia, thì Tổng Thống Johnson lúng túng không biết làm sao rút quân về, phải đợi đến Tổng Thống Richard Nixon với “chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh ” từ 1969 tới 1972 mới đem được binh đội tác chiến trở về (chỉ giữ lại các cố vấn quân sự giống như hồi Tổng Thống John F. Kennedy với 16,000 quân nhân làm công tác cố vấn và huân luyện). Có 2 sự kiện đã xảy ra mà rất ít ai chú ý đến : 15A. Vào thời chiến tranh Triều Tiên, sau khi Đại Tướng Mac Arthur – Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Quốc chiến đấu tại Triều Tiên – quyết định đổ bộ Inchon, đã cắt đứt được đại quân của Kim Nhật Thành, số tù binh Bắc Hàn bị bắt tại Inchon vượt hơn 100,000 người và quân của Kim Nhật Thành bị đẩy lui tới sông Áp Lục (là ranh giới của Bắc Hàn và Trung Hoa), Trung Cộng huy động hơn 01 triệu “chí nguyện quân Trung Hoa” do Nguyên Soái Bành Đức Hoài chỉ huy kéo sang Bắc Hàn đẩy lui quân Liên Hiệp Quốc từ sông Áp Lục xuống tận vĩ tuyến 38. Chiến trận ác liệt như vậy mà Hoa Kỳ chỉ sử dụng có 250,000 quân tác chiến. Trong khi tại chiến trường Nam Việt Nam, bộ đội của Hồ chí Minh và Võ Nguyên Giáp vào thời điểm 1965 có quân số khoảng 200,000 và cường độ giao tranh thì không ác liệt bằng thời chiến tranh Triều Tiên vậy mà quân đội Hoa Kỳ hiện diện tại miền Nam Việt Nam lên tới hơn ½ triệu người cộng thêm với quân đội VNCH và quân đội của Đại Hàn + Thái Lan + Úc + Tân Tây Lan …thì chẳng lẽ chính phủ Hoa Kỳ làm một công việc mà người Việt Nam gọi là “ giết gà mà dùng dao mổ trâu ”hay sao ? 15B. Một tài liệu của phía Bắc Việt đưa ra một phần (chủ đích của phe Lê Duẩn đưa ra tài liệu này với mục đích bôi nhọ thanh danh của Đại Tướng Võ nguyên Giáp) cho biết rằng vào cuối năm 1964 nhận được nhiều tin tức thắng lợi từ chiến trường miền Nam đưa về, Bộ Chính Trị Đảng Lao Động Việt Nam nhóm họp đặc biệt để bàn thảo về công tác “tiếp thu miền Nam”. Thời điểm đó cũng có tin đồn là Mỹ sẽ đem quân tác chiến chính quy vào miền Nam (sau sự kiện chiếc tàu Maddox của Hải Quân Mỹ loan báo là bị tàu của Bắc Việt tấn công tại Vịnh Bắc Việt – 20 năm sau chính phủ Mỹ bạch hóa hồ sơ vụ tàu Maddox thì công luận mới biết là chính phủ Johnson tạo dựng vụ này để có cớ đem quân vào Việt Nam), được hỏi ý kiến, Đại Tướng Võ nguyên Giáp trả lời : “nếu Mỹ đem 10 vạn quân vào miền Nam thì chúng ta khó có cơ hội chiến thắng”. Chính Lê Duẩn chê bai Võ nguyên Giáp là “thằng chết dát” (nói theo giọng miền Nam thì là “thằng chết nhát” ). (Ghi chú của người viết : ông Lê Duẩn là người can đảm hơn Đại Tướng Vỏ nguyên Giáp vì ông ta đã đẩy 3 triệu thanh niên miền Bắc vào chỗ chết mà trong 3 triệu người chết này, không có người nào là con cháu của ông). Điều đáng nói ở đây là Đại Tướng Võ nguyên Giáp quá ngạc nhiên khi Tổng Thống Johnson quyết định đem tới hơn ½ triệu quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam, và cho đến khi chết Tướng Võ Nguyên Giáp cũng chẳng thể hiểu nổi Tổng Thống Johnson và chính phủ Mỹ lại đi làm một chuyện quá sức là phí phạm như vậy ! Đại Tướng Võ nguyên Giáp là người có ăn học nhất trong Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, trải qua kinh nghiệm chiến đấu trực tiếp với người Pháp và người Mỹ mà còn không hiểu được chính phủ Mỹ thì huống hồ gì bọn lãnh đạo i tờ rít khác. 15C. Tất cả những rắc rối của chính trường miền Nam sau cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu trong 2 năm 1964 và 1965 đều do người Mỹ khéo léo, kín đáo xúi bẩy các tướng tá tạm từ bỏ nhiệm vụ hành quân diệt cộng để đem binh sĩ về Sài Gòn tranh dành quyền hành, là một cái bẫy đánh lừa Việt Cộng. Thấy ngon ăn nên các lãnh tụ Bắc Việt xua bộ đội vào miền Nam mở các trận đánh lớn mà phần thương vong và thất bại nghiêng về phía 16 Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, khiến cho dân chúng và giới chính tri sốt ruột cảm thấy có nhu cầu muốn yêu cầu quân đội Hoa Kỳ vào miền Nam Việt Nam giúp đỡ và hỗ trợ. Sau khi Thủ Tướng Phan Huy Quát ký văn thư mời quân đội Hoa Kỳ vào Nam Việt Nam thì mọi cuộc “đảo chính” (gỉa hay thật), “biểu dương lực lượng”…đều không được tòa đại sứ Mỹ ủng hộ, đó là thời kỳ mà 2 tướng Nguyễn văn Thiệu và tướng Nguyễn Cao Kỳ cầm quyền từ ngày 19 tháng 6 năm 1965 trở về sau. Thiếu Tướng Lâm văn Phát đã qua đời ở miền Nam California từ vài năm nay, nhưng khi ông còn sống , có một số người quen hỏi ông là lý do nào mà Thiếu Tướng đem quân từ vùng 4 về Sài Gòn “biểu dương lực lượng” ? Thiếu Tướng Lâm văn Phát cho biết người Mỹ họ yêu cầu ông làm chuyện đó, rồi họ bảo ông rút lui thì ông rút lui, cho nên ông thản nhiên khi Tướng Thiệu và Tướng Kỳ cho ông giải ngũ, không bi phẫn, tức giận và xuống tinh thần như Trung Tướng Dương văn Đức – cựu Tư Lệnh Quân Đoàn IV và vùng IV Chiến Thuật. 16.- Tới năm 1966, ngay tại Trung Hoa Lục Địa biến cố CÁCH MẠNG VĂN HÓA đột nhiên bùng nổ, Chủ Tịch Đảng Cộng Sản Trung Hoa là Mao Trạch Đông đã dùng “Vệ Binh Đỏ” do Tứ Nhân Bang gốc Thượng Hải cầm đầu để thanh trừng phe của Chủ Tịch Nhà Nước là Lưu Thiếu Kỳ ( Chú thích của người viết : Tứ Nhân Bang là 4 người có tên là Giang Thanh, Vương Hồng Văn, Diêu văn Nguyên và Trương xuân Kiều. Sau khi hạ thủ được phe cánh của Lưu Thiếu Kỳ, mãi tới năm 1971, Mao Trạch Đông hạ thủ luôn Lâm Bưu và phe cánh của Lâm Bưu …) Người ta vẫn chưa rõ Mao Trạch Đông căn cứ vào tin tức nào để phát động cuộc Cách Mạng Văn Hóa nhưng điều rõ ràng nhất mà mọi người có thể nhận thấy, đó là Trung Cộng lo đối phó với cuộc tranh chấp quyền lực ngay tại nội địa Trung Hoa, nên cấp lãnh đạo của Trung Cộng phải hủy bỏ chính sách “xuất khẩu chiến tranh giải phóng “ ra khỏi địa bàn các nước Á Phi và Châu Mỹ Latinh. Và nếu các đòn phép và thủ đoạn chính trị được xem là trò chơi của MA và QUỶ, thì người ta cũng có quyền nghi ngờ là có bàn tay của CIA dính líu vào vụ việc này. Biết đâu chừng Bà Nguyễn văn Thiệu và bà Trần Thiện Khiêm nói với các sĩ quan thân cận là Tướng Nguyễn văn Thiệu và Tướng Trần Thiện Khiêm quen biết nhau và giao hảo thân thiện từ hồi 2 ông còn là Thiếu Úy đóng ở căn cứ Nà Sản bên Lào trong đầu thập niên 1950. Nhưng liệu tình thân đó đủ mạnh để Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu – Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, nghe theo lời của Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm làm chuyện “động trời” là đem hết Sư Đoàn 5 về Sài Gòn “đảo chính” Tổng Thống Ngô Đình Diệm.không ?, tôi nghĩ là KHÔNG. Suy đoán ra , Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu chịu sự điều động của Tướng Trần Thiện Khiêm trong biến cố ngày 1 tháng 11 năm 1963 xuất xứ từ một “giới chức cao cấp” của Hoa Kỳ (là ai thì tôi không biết ) Năm 1969, khi Đại Tướng Trần Thiện Khiêm còn đang lông bông ở nước Mỹ, sau khi đẩy lui được phe cánh Tướng Nguyễn Cao Kỳ ra khỏi những vị trí quyền lực quan trọng, chả lẽ Tướng Nguyễn văn Thiệu “ưu ái” nhớ đến “ông bạn thâm tình năm xưa” gọi Tướng Khiêm về Sài Gòn để “chia xẻ quyền lực “ ? Chắc chắn là KHÔNG : Tướng Nguyễn văn Thiệu gọi Tướng Trần Thiện Khiêm về chia xẻ quyền lực vì “giới chức cao cấp” của Hoa Kỳ muốn như vậy, nếu không, chính phủ Hoa Kỳ sẽ rút lại sự ủng hộ Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Những dẫn chứng mà tôi vừa nêu ra là những sự kiện lịch sử có thật chứ không phải là ý kiến phê phán, những dẫn chứng đó xác minh cho người Việt Nam chúng ta (kể cả ở hải ngoại và ở 17 trong nước) rằng Đại Tướng Trần Thiện Khiêm là người được chính phủ Hoa Kỳ tin dùng hơn cả (nhận xét của người viết bài : Đại Tướng Trần Thiện Khiêm xứng đáng với sự tin dùng đó). Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm không xuất hiện công khai, không tuyên bố bất cứ điều gì, không viết sách để biện bạch hay thanh minh bất cứ điều gì…vậy mà cách nay khoảng 2 tháng, ông xuất hiện trước Đại Hội của Tập Thể Chiến Sĩ VNCH và lên Đài Truyền Hình SBTN để cho Việt Dzũng phỏng vấn (có người còn nói : “Đại Tướng Trần Thiện Khiêm mở miệng chịu nói, giống như “cóc mở miệng, ắt là trời sắp mưa ). Tôi xin miễn lập lại những lời “chửi rủa” Tướng Trần Thiện Khiêm vì thực ra từ trước tới nay, Tướng Trần Thiện Khiêm đâu có care những lời chửi rủa (ngay cả những lời khen, Tướng Trần Thiện Khiêm cũng không có ý kiến). Tôi chỉ muốn nói rằng chính trị là một lãnh vực phi vật chất, cho nên chúng ta đừng dùng con mắt vật chất để luận xét vấn đề (thêm nữa, nếu con mắt vật chất lại là Mắt Ếch và Mắt Cá thì thật là tai hại). Dư luận báo chí thì cho rằng, cựu Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình rủ rê Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đi dự Đại Hội Tập Thể Chiến Sĩ để tăng uy thế cho tổ chức này. Theo ý kiến của riêng tôi, cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm chủ động muốn xuất hiện công khai để gửi những lời nhắn nhủ cho các lãnh đạo của Việt Cộng mà chính phủ Hoa Kỳ muốn truyền gởi. Tôi đoán cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm chủ động nhờ cựu Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình giới thiệu ông trước Đại Hội Tập Thê Chiến sĩ vì : @ Cựu Đại Tướng năm nay đã 86 tuổi, người duy nhất còn sống tới ngày hôm nay, một sĩ quan cao cấp đã từng dính líu trực tiếp đến những biến cố chính trị quan trọng từ 1960 đến 1975, cho nên không thể có chuyện muốn nhảy ra để làm “lãnh tụ” (Ở cái tuổi gần 90, chưa nhảy ra được thì đã chết vì lý do tự nhiên) @ Cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm không phải là người muốn “show off” hay “già mà còn ham vui” @ Những lời nói của ông nhắm vào người trong nước và Ban Lãnh Đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam vì 99.9% người Việt Hải Ngoại chỉ “đi” Việt Nam, chứ không thấy ai “về” ở luôn bên Việt Nam (tôi xin dùng định nghĩa ĐI và VỀ của bình luận gia Đinh Từ Thức ). Động lực chính để nắm giữ quyền lực chính trị hay thay đổi quyền lực chính trị phải là người trong nước, người Việt Hải Ngoại chỉ yểm trợ mà thôi . @ Người chiến binh trẻ tuổi nhất của Việt Nam Cộng Hòa vào thời điểm 1975 là 18 tuổi, tức là sinh năm 1957 ; bây giờ là năm 2010 sắp sửa bước qua năm 2011, tức là người chiến binh trẻ tuổi nhất bây giờ cũng được 53 – 54 tuổi, một lứa tuổi theo luật hành chánh VNCH sắp hồi hưu, thì làm gì có thể bỏ tất cả để trở về Việt Nam đấu tranh với Việt Cộng !!! @ Những người phản đối Tướng Trần Thiện Khiêm cho rằng những lời tuyên bố của Tướng Khiêm có vẻ “cầu hòa” với Việt Cộng và muốn hướng Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại “bớt chống Cộng”. Thực tế, người Việt Hải Ngoại biểu tình chống Việt Cộng liên tục suốt 35 năm qua vì họ căm thù Việt Cộng đã gây ra cho chính bản thân và gia đình họ, chứ người Việt Hải Ngoại biểu tình chống Việt Cộng không nghe lời bất kỳ ai cả. Thí dụ : 2 cuộc biểu tình vĩ đại của người Việt Hải Ngoại vào ngày 22 tháng 2 năm 1999 và ngày 26 tháng 2 năm 1999 để chống tên Trần 18 Trường treo cờ Việt Cộng và hình ảnh của tên giặc già Hồ chí Minh, 2 cuộc biểu tình quy tụ mỗi cuộc khoảng 30 đến 40 ngàn người (có đài TV Mỹ quay từ trên trực thăng đàng hoàng), tuy địa điểm biểu tình là thành phố Westminster của Orange County nhưng có cả người Việt ở San Diego County, San Bernadino County, Riverside, Los Angeles County, xa xôi như người Việt ở Sacramento, San Franscisco, San Jose…cũng tham dự. Nên nhớ là tổ chức Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa mãi đến năm 2003 mới được thành lập. Với những dẫn chứng vừa nêu, tôi nghĩ rằng Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đã dùng diễn đàn của tổ chức Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa và dùng buổi phỏng vấn của Việt Dzũng trên đài SBTN như là “hộp thư” để chuyển đạt những lời nhắn gửi của chính phủ Mỹ muốn dùng người Việt Hải Ngoại chuyển cho người Việt trong nước và các đảng viên đảng cướp Việt Cộng. Những lời nhắn gửi thiết thực đó là : I.- Siêu cường Hoa Kỳ đã muốn vào bất kỳ quốc gia nào vì quyền lợi thiết thực của Hoa Kỳ thì không có một thế lực nào có thể ngăn cản nổi. Năm xưa Hoa Kỳ muốn đưa quân vào Việt Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tòa Thánh Vatican chống lại ý muốn này, kết quả chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ và 2 anh em ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị sát hại. Cận đại, Saddam Hussein chống đối việc Hoa Kỳ đem quân vào Irak mặc dù có Pháp, Nga, Trung Cộng và Đức hậu thuẫn cũng không có cản được Hành Pháp Hoa Kỳ ra lệnh xuất quân, kết quả Saddam Hussein bị xử tử. Ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố rõ ràng tại Hà Nội là Hoa Kỳ bảo vệ quyền tự do đi lại tại Biển Đông và Trung Cộng sử dụng sức mạnh quân sự và sức mạnh kinh tế để o ép các quốc gia Đông Nam Á là điều Hoa Kỳ không chấp nhận được. Như vậy anh chàng lãnh đạo nào của Việt Cộng muốn đi theo Trung Cộng để mà cản trở Hoa Ky thì hãy trông gương Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Saddam Hussein. II.- Siêu cường Hoa Kỳ xét thấy quốc gia nào không có lợi cho quyền lợi của Hoa Kỳ thì dù có bị khiêu khích, có bị chọc phá hay năn nỉ thiết tha đi nữa, Hoa Kỳ cũng không thèm vào. Bắc Hàn (với thủ lãnh Chí Phèo Kim Chính Nhật )đã bao lần đe dọa tấn công Nam Hàn, đã hơn 2 lần nổ thử bom nguyên tử chỉ để được nói chuyện tay đôi với Hoa Kỳ mà cũng không được đếm xỉa tới : Hoa Kỳ lập đi lập lại Bắc Hàn phải đi họp Hội Nghị 6 Bên vô điều kiện. Cuba cũng vậy, lúc thì làm mình làm mẩy, lúc thì năn nỉ ỉ ôi, nhưng Hoa Kỳ thì vẫn kiên quyết :” còn Cộng Sản thì còn cấm vận” (và đã cấm vận từ 1959 đến giờ -2010 ). Cả Phi Châu cũng vậy, tàn sát diệt chủng, nội chiến, không có lương thực con người chết đói hàng loạt… nhưng siêu cường Hoa Kỳ vẫn làm lơ như đã từng làm lơ từ trước tới giờ. III.- Siêu cường Hoa Kỳ có sức mạnh tuyệt đối “Muốn vô là vô, Muốn ra là ra” miễn là quyền lợi của Hoa Kỳ không bị sứt mẻ hay nền an ninh của Hoa Kỳ không bị suy suyển. Biến cố 30-4- 1975, mấy anh Việt Cộng cứ khoác lác là “chiến thắng thần thánh”, thì mới đây Cựu Ngoại Trưởng Henry Kissinger tuyên bố : “ Hoa Kỳ muốn rút chân ra khỏi Việt Nam nên bỏ rơi chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, chứ QLVNCH không có lỗi gì cả” Nhiều cựu quân nhân VNCH hể hả vì cho rằng Kissinger đã thú tội, nhưng chẳng có ai nghĩ là Kissinger đã đang “dạy dỗ” bọn lãnh đạo Việt Cộng, dập tắt cái hào quang ảo tưởng mà bọn Việt Cộng tự gắn cho chúng, mục đích của Kissinger cũng ngầm bảo các anh lãnh đạo Việt Cộng mà theo Trung Cộng cản trở Mỹ thì cũng bị tiêu diệt mà thôi, anh nào thuận theo chính sách của Hoa Kỳ thì đất nước còn được Hoa Kỳ viện trợ, cá nhân và con cháu trong gia đình thì còn được qua Mỹ du học và đầu tư làm ăn sinh lợi..v…v.. 19 IV.- Đại Tướng Trần Thiện Khiêm kêu gọi người Việt nhất là giới trẻ góp ý với Đảng Cộng Sản vì Đảng Cộng Sản sắp họp Đại Hội để “họ” lắng nghe ý kiến…Theo tôi, “người Việt nhất là giới trẻ” là nói người Việt trong nước” chứ người Việt Hải Ngoại có nói thì bọn lãnh đạo của Việt Cộng đâu có thèm nghe (bọn Việt Cộng chỉ thích người Việt Hải Ngoại gom tiền đưa cho chúng tiêu xài chứ không muốn nghe những lời đóng góp). Còn giới trẻ của người Việt Hải Ngoại thì không rành tiếng Việt thì biết gì mà đóng góp !!! Đại Tướng Trần Thiện Khiêm muốn nói những người lãnh đạo Việt Cộng nên nghe theo sự đòi hỏi và yêu cầu của người dân trong nước để mà thay đổi vì nếu không thay đổi thì sẽ đến lúc Đảng Cộng Sản và tất cả các đảng viên sẽ nhận lãnh hậu quả như Đảng Cộng Sản Indonesia đã nhận lãnh hậu quả hồi năm 1965. Nếu đồng ý với những nhận xét của tôi trong bài viết này, xin tất cả các quý thân hữu chuyển gửi bài viết này đến tất cả diễn đàn mà quý thân hữu quen biết. Ngay cả không đồng ý, cũng xin viết bài phản bác trong tinh thần đứng đắn và nghiêm chỉnh, nên tránh những bơi móc tiểu tiết kiểu xỏ lá ba que bình dân vô giáo dục để độc giả khỏi phí thì giờ vô bổ. Trân trọng kính chào. San Jose, ngày 22 tháng 11 năm 2010 Trần Trung Chính
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2024 18:33:25 GMT 9
KẺ CẮP GẶP BÀ GIÀ
Trần Trung Chính .
Ngày 27 tháng 11 năm 2023, Henry Kissinger vừa qua đời tại nhà riêng ở tiểu bang Connecticut, hưởng đại thọ 100 tuổi. Khắp nơi trên toàn thế giới đã bày tỏ ý kiến về “thành tích ngoại giao” của ông Henry Kissinger trong thời gian ông làm việc cho chính phủ Hoa Kỳ, đặc biệt từ thời 1968 cho đến khi ông giã từ cuộc đời. Nhất là đối với người Việt Nam thời gian từ 1968 đến 1975, Henry Kissinger bị chê trách nhiều hơn là khen ngợi. Theo ý kiến riêng của người viết những lời phẩm bình của người Việt mang quá nhiều cảm tính mà thiếu đi phần lý trí và thiếu hoàn toàn tính “thực tiễn chính đáng của người Mỹ”. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam cũng như nhiều nhà nghiên cứu của Hoa Kỳ về chiến tranh Việt Nam thường bỏ sót giai đoạn tại sao HK vào Việt Nam và can thiệp vào lúc nào : ngay cả Tổng Thống Richard Nixon khi vận động tranh cử vào năm 1967 cũng chỉ nói : “ mọi công dân Hoa Kỳ đừng đặt nặng vấn đề tại sao HK can thiệp vào VN và can thiệp vào lúc nào mà trọng tâm hiện nay là chúng ta phải làm thế nào để rút ra khỏi vũng lầy VN ”. Quả thực là để giải thích và trình bày vấn đề VN đòi hỏi mất nhiều thời giờ và trình bày rất nhiêu khê mà thời gian vận động tranh cử không cho phép (sau này vào năm 1984, ông Richard Nixon đã soạn quyển sách NO MORE VIETNAM để trình bày vấn đề chiến tranh Việt Nam một cách tỷ mỷ. Sau khi phe Trục (Germany, Italia và Nhật Bản) bị đánh bại, bàn cờ chính trị tại Âu châu có nhiều thay đổi, Liên Sô bành trướng thế lực chính trị của mình bằng cách chiếm giữ các quốc gia Đông Âu và chuyển đổi thể chế chính trị của các quốc gia này sang thể chế độc tài Cộng Sản kiểu Staline, đó là các quốc gia Bulgaria, Poland (Balan), Tiệp Khắc, Hungaria, Đông Đức (riêng nước Áo dưới áp lực của Tổng Thống Harry Truman được giữ trạng thái “trung lập” – coi như một nước đệm giữa Tây Đức và Liên Sô). Liên Sô cũng lăm le chiếm Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp nhưng nước Mỹ giúp đỡ chính quyền của 2 nước này đánh bại 2 đảng Cộng Sản địa
2 phương nên Liên Sô bị bao vây trong lục địa không thể đem hải quân ra Địa Trung Hải để dòm ngó Phi Châu được. (Vị trí địa dư của Thổ Nhĩ Kỳ rất quan trọng vì hải quân Liên Sô từ Hắc Hải muốn đi ra Địa Trung Hải phải đi qua eo biển Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ. Hải quân của Liên Sô cũng không thể sử dụng eo biển Dardanelle của Hy Lạp để vượt biển Egée vào Địa Trung Hải được). Đó là chủ trương “be bờ và ngăn chặn” của Tổng Thống Truman từ 1945 đến 1947 tại Âu Châu và Địa Trung Hải. Hoa Kỳ cũng giúp đỡ các nước Bắc Âu như Denmark, Na Uy, Thụy Điển, và Finland cũng được Hoa Kỳ giúp đỡ về quốc phòng rất mạnh để ngăn chận Liên Sô tại vùng biển Baltic. Còn 3 nước Latvia, Estonia và Lithuania tuy bị Hitler và Staline sát nhập từ hồi 1940, nhưng dưới áp lực của Hoa Kỳ 3 quốc gia này vẫn có ghế đại biểu tại Liên Hiệp Quốc từ 1948 với lý do họ là hội viên thường trực của Hội Quốc Liên từ 1919 !!! Bởi vậy vào năm 1992, khi Liên Sô sụp đổ, họ đương nhiên trở thành hội viên của Liên Hiệp Quốc mà không cần bàn thảo tại Đại Hội Đồng LHQ gì hết. Tại Á châu, Liên Sô tuyên chiến với Nhật 3 ngày trước khi Nhật ký văn kiện đầu hàng với Đại Tướng Mac Arthur trên chiến hạm Missouri, nên hồng quân Liên Sô chỉ giải giới quân Nhật tại Mãn Châu và ½ Triều Tiên về phía Bắc mà thôi. Staline đem toàn bộ chiến lợi phẩm giải giới của 01 triệu quân Nhật đóng tại Mãn Châu giao cho Mao Trạch Đông nên quân của Mao đang từ thế yếu trở thành thế mạnh, quân đội của Mao đã đánh tan 100 sư đoàn của Tưởng Giới Thạch khiến Tưởng Giới Thạch phải bỏ đại lục chạy sang Đài Loan. Tuy vậy khi thành lập Liên Hiệp Quốc và ký Hiến Chương Liên Hiệp Quốc vào năm 1949 tại San Francisco, đại diện cho chiếc ghế của Trung Hoa (kể luôn 5 chiếc ghế thường trực của Hội Đồng Bảo An với quyền tối thượng là quyền PHỦ QUYẾT) vẫn là chữ ký của phái đoàn TRUNG HOA DÂN QUỐC. Khi Mao chiếm được lục địa Trung Hoa, Kim Nhật Thành đang đóng tại Bắc Hàn được Mao chuyển vũ khí đủ để trang bị cho 15-20 sư đoàn bộ binh, y ta xua quân Bắc Hàn tiến đánh Nam Hàn, chính phủ Nam Hàn do Tổng Thống Lý Thừa Vãn lãnh đạo còn quá non yếu, nên phải bỏ chạy về phía nam, chỉ cón 10 cây số nữa là ra biển để lên tàu vượt biển qua Nhật tỵ nạn. Đại Tướng Mac Arthur đang trú đóng tại Nhật Bản đã sử dụng hải quân đổ bộ tại thành phố Inchon (có trị trí địa dư tương tự như thành phố Quy Nhơn của tình Bình Định của Việt Nam) đánh tan 130,000 quân Bắc Hàn và bắt sống hơn 70,000
3 quân Bắc Hàn tại đây. Có lẽ Kim Nhật Thành không biết rằng Đại Tướng Mac Arthur là Toàn Quyền cai trị Nhật Bản và Nam Hàn (là cựu thuộc địa của Nhật Bản trước tháng 8 năm 1945) nên ông sử dụng binh lực của Hoa Kỳ mà không cần xin phép hay trình báo gì cả. Mặt khác quân đội của Bắc Hàn là một đám quân ô hợp chưa bao giờ biết hợp đồng tác chiến giữa bộ binh và hải quân như quân đội Mỹ - Nhật nên mau chóng tan rã tại Inchon. Số còn lại chạy ngược về ranh giới Trung Hoa – Bắc Hàn (tức là sông Áp Lục) khiến Mao Trạch Đông phải cử Nguyên Soái Bành Đức Hoài đem 01 triệu chí nguyện quân sang cứu viện. Chiến thuật “Biển người” của chí nguyện quân Trung Cộng khiến Tướng Mac Arthur phải lui quân và đánh điện xin cầu viện từ Washington D.C. Chính phủ Hoa Kỳ yêu cầu triệu tập Hội Đồng Bảo An và đề xướng các quốc gia hội viên gửi quân đội đến Triều Tiên để duy trì tình trạng an ninh tại nước này (giống như tình trạng hồi 1945 sau khi quân đội Nhật bị giải giới) . Hoa Kỳ góp 250,000 quân, các nước hội viên khác (khoảng 28 quốc gia) góp 30,000 quân. Thí dụ như Thổ Nhĩ Kỳ góp 01 tiểu đoàn bộ binh, nước Pháp góp 2 tiểu đoàn Lê Dương, liên quân New Zealand – Australia góp 2 trung đoàn bộ binh bao gồm cả pháo binh cơ hữu của họ (khoảng 5,000 binh sĩ)...Cuộc biểu quyết được thông qua dễ dàng vì đại biểu của Liên Sô vắng mặt : ngoại trưởng của Liên Sô thời bấy giờ là Molotov chỉ thị cho đại diện của Liên Sô tại Liên Hiệp Quốc phải vắng mặt vì Liên Sô không thể bênh vực cho Trung Cộng và Bắc Hàn là 2 quốc gia tự xưng chưa được quốc gia nào công nhận và cũng chẳng phải là hội viên của Liên Hiệp Quốc. Khi liên quân Hoa Kỳ và LHQ lùi về tới vĩ tuyến 38, tân tư lệnh quân đội Hoa Kỳ là Đại Tướng Rigdway đã thiết lập một firewall (hàng rào lửa) bằng trọng pháo của bộ binh và hải pháo của Hải Quân HK bắn từ 2 phía Đông và Tây của bán đảo Triều Tiên nên bộ binh của Trung Cộng và Bắc Hàn không thể vượt qua. Trung Cộng và Bắc Hàn chịu ký thỏa ước ngưng chiến tại ngôi làng Bàn Môn Điếm (sát cạnh ranh giới tại vỹ tuyến 38 vì chịu tổn thất nhân mạng quá nặng nề : 01 triệu chí nguyện quân của Bành Đức Hoài hồi năm 1950, tới năm 1953 chỉ còn 600,000 quân. Tổng Thống Harry Truman khi cất chức Tư Lệnh của Tướng Mac Arthur hồi năm 1952 bị nhiều dư luận dị nghị, nhưng ông đã quyết định đúng vì ông không muốn Hoa Kỳ sa lầy vào cuộc chiến tại Triều Tiên để rồi Liên Sô chiếm trọn Âu Châu !
4 Trung Cộng mở 2 mặt trận Triều Tiên và Việt Nam chủ yếu là để bành trướng diện địa và muốn trực tiếp đàm phán với Hoa Kỳ nhưng Hoa Kỳ đang ở thế mạnh nên thỏa ước Bàn Môn Điếm chỉ được ký ở một nơi hẻo lánh chứ không được ký ở Paris hay London hoặc Genève như Trung Cộng mong mỏi. Khi vừa chiếm xong lục địa, Mao Trạch Đông chỉ thị cho các tướng lãnh Hồng Quân Trung Hoa giúp đỡ quân đội Việt Minh tấn công quân đội Pháp trú đóng tại Đông Dương. Các chiến dịch hành quân như chiến dịch Biên Giới vào năm 1950 đã khiến quân Pháp mất các cứ điểm Cao Bằng , Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Đông Triều, Móng Cái... Theo sự suy nghĩ riêng của người viết, Mao Trạch Đông và Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Trung Hoa chủ quan nghĩ rằng quân đội Pháp sẽ thua trận vì nước Pháp sau 1945 rất suy yếu không có khả năng chi trả và yểm trợ cho quân đội Pháp tại Đông Dương. Nhưng Mao không hề biết là Hoa Kỳ đã cử một đặc sứ sang Pháp để thuyết phục nước Pháp đừng “bỏ chạy” khỏi Đông Dương. Chính phủ Pháp chấp nhận lời đề nghị này cho nên cuối năm 1951, chính phủ Pháp bổ nhiệm Thống Tướng De Lattre de Tasssigni làm Cao Ủy Đông Dương kiêm nhiệm chức vụ Tư Lệnh quân đội Viễn Chinh Pháp tại Đông Dương. Năm 1951, quân đội Pháp đã có sẵn 40,000 quân đóng tại Đông Dương, Thống Tướng De Lattre de Tassigni phải đem thêm 180,000 quân từ Âu Châu sang Đông Dương. Quân Đội Pháp không thể có số quân nhân tại ngũ lớn lao như vậy nên Thống Tướng De Lattre phải lấy thêm quân của các xứ thuộc địa của Pháp như Maroc, Algeria, Tunisia, Cộng Hòa Trung Phi...và tuyển thêm các tội phạm chiến tranh của chế độ Đức Quốc Xã vào các đơn vị Lê Dương của Pháp. Sang tới Đông Dương, Tướng De Lattre giải vây cho secteur Vĩnh Yên và đẩy lui quân Việt Minh của Võ Nguyên Giáp sang bên kia biên giới Việt Hoa rồi dần dần chiếm lại các vị trí quan trọng dọc theo biên giới Hoa Việt. Sang năm 1952, sau khi liên danh Eisenhower – Richard Nixon nhậm chức, Thống Tướng De Lattre đi Hoa Kỳ hội đàm với các giới chức cao cấp về chính trị và quân sự đồng thời ký kết những văn kiện mà ông chỉ được hứa miệng trước khi đem đại quân sang Đông Dương hồi 1951. Chính phủ Hoa Kỳ nói rõ cho Thống Tướng De Lattre biết là chính phủ Hoa Kỳ viện trợ mọi mặt cho quân đội Pháp chiến đấu tại chiến trường Đông Dương với nhiệm vụ chính là mượn tay của quân đội Pháp đánh cho quân đội Việt Minh tan tác để khi chia đôi Việt Nam (theo thỏa thuận của hội nghị Postdam ký
5 hồi tháng 5/1945), chính quyền miền Nam không Cộng Sản mới không bị quân Việt Minh nuốt chửng. Chính phủ Hoa Kỳ giúp đỡ quân đội Pháp tại Đông Dương không phải để nước Pháp tái chiếm Đông Dương tái lập lại thuộc địa Indochinois như bọn Việt Cộng tuyên truyền. Theo như hồi ký của Đại Tướng Henri Navarre – vị Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Pháp tại Đông Dương, số tiền viện trợ lên tới 8 tỷ dollars chiếm 79% chi phí quốc phòng của nước Pháp trong chiến tranh Đông Dương 1950 -1954 (trích hồi ký của Đại Tướng Henri Navarre viết tai Paris vào năm 1956) Các tướng lãnh của quân đội Pháp không ngu như sự tuyên truyền khoác lác của Việt Cộng khi phẩm bình về sự thành lập của căn cứ Điện Biên Phủ, vì mục đích căn cứ này là “cục đường” nhằm thu hút quân đội VM cố gắng hạ thủ căn cứ này để gây tiếng vang về chính trị cho nên tổn thất về nhân sự của quân đội Việt Minh mới đáng để HK chú ý : ** Lưu ý thứ nhất : Đại Tướng Henri Navarre cũng như nhiều tướng lãnh khác của Pháp phiền trách là HK không sử dụng oanh tạc cơ B-29 để cứu vãn căn cứ Diện Biên Phủ. Phía HK không có ai trả lời hay biện bạch gì về chuyện này, nhưng theo ý kiến của Trung Tá Hồ Văn Thống (khóa 10 Võ Bị Dalat – nguyên chủ sự phòng An Ninh Quân Đội của Quân Khu 1), sau khi căn cứ Điện Biên Phủ thất thủ, quân đội Việt Minh đã bị “chấn thương nặng” phải chờ 10 năm sau tĩnh dưỡng mới có thể tái chiến được. Do đó quân đội Pháp đã hoàn thành được nhiệm vụ được giao nên HK không cần phải bỏ thêm bom đạn vô ích. Ghi chú : Trung Tá Hồ Văn Thống cho biết đây là ý kiến của một giáo sư thỉnh giảng của Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp khi các học viên mổ xẻ về case study Điện Biên Phủ 1954 . Trung Tá Hồ Văn Thống cũng cho biết là 2 căn cứ phụ của Điện Biên Phủ là căn cứ Isabelle và Béatrice, một trong 2 căn cứ phụ này bị tràn ngập, nhưng Bộ Tư Lệnh Quân Đội Pháp ở Hà Nội ném Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù xuống giải vây tái chiếm lại được vì Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù sử dụng tiểu liên MT 3 và tiểu liên Thompson mà quân Việt Minh không có tiểu liên đánh cận chiến nên phải bỏ chạy. Thiếu Tá Bigard là Tiểu Đoàn Trưởng và Trung Úy Phạm Văn Phú là Đại Đội Trưởng, năm 1975 ông Bigard lên Tướng và có chân trong phái bộ quân sự của Pháp vào giờ phút hấp hối của VNCH.
6 ** Lưu ý thứ hai : Đại Tá Lansdale (giám đốc cơ quan CIA sau này) đã tới VN sau khi Thống Tướng De Lattre de Tassigni từ Hoa Kỳ trở lại Đông Dương. Công việc của Đại Tá Landsdale là tiếp xúc, gầy dựng cơ sở cho miền Nam VN như ông tiếp xúc với các giáo phái cõ võ trang như Cao Đài, như Hòa Hảo...chứ ông không hề tiếp xúc và hỗ trợ các đảng phái chính trị có địa bàn hoạt động mạnh tại miền Bắc như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Duy Dân Quốc Dân Đảng... ** Lưu ý thứ ba: Tướng De Castries đánh điện gửi tất cả các đơn vị đồn trú trong căn cứ Điện Biên Phủ, ông ra lệnh “ngưng chiến đấu” chớ không có đánh điện “xin đầu hàng” như bọn Việt Cộng thường hay khoác lác. Nếu VC hay những kẻ “thiên Cộng” cho rằng tôi là “tay sai của đế quốc” thì hãy trưng dẫn bức diện “xin đầu hàng” của Tướng De Casrties !!! Từ trong hầm chỉ huy bước ra ngoài, Tướng De Castries đi đứng bình thường không hề dơ 2 tay lên đầu như những người đầu hàng thật sự (bức hình này vẫn còn lưu trữ trong tài liệu quân sử, nhưng các sử gia của VC không bao giờ trưng ra). ** Lưu ý thứ tư : 2 bộ đội của VC cắm cờ trắng lên nóc hầm chỉ huy của Tướng De Castries chứ không có quân nhân Pháp nào cắm cờ trắng hết cả (tấm hình lưu trữ vẫn còn nằm trong tài liệu quân sử của VM, nhưng hiếm khi được trưng ra) ** Lưu ý thứ năm : căn cứ Điện Biên Phủ thất thủ, nhưng quân đội Pháp không tháo chạy tại các tỉnh thành và các căn cứ khác, và giữ vững toàn trận địa. Điều đó chứng tỏ quân Việt Minh của Võ Nguyên Giáp không còn sức lực để đánh đuổi quân Pháp như vua Quang Trung quét sạch quân nhà Thanh hồi cuối thế kỷ 18 hay oai hùng như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tiêu diệt toàn bộ quân lực Mông Cổ trong trận Bạch Đàng Giang hồi cuối thế kỷ 13 !! ** Lưu ý thứ sáu : Chu Ân Lai bắt buộc Hồ chí Minh và Phạm Văn Đồng phải ký Hiệp Định Genève 1954 vì sau trận chiến Đông Dương, Hoa Kỳ không hề hấn gì, nhưng Hoa Lục thì không đủ tiềm lực kinh tế để “theo đuổi chiến tranh”. Đối với Trung Cộng, phái đoàn ngoại giao của Trung Cộng được 2 cường quốc Anh và Nga
7 mời đến Genève tham dự “hội nghị quốc tế” đã là tiến bộ lớn rồi (Genève quan trọng và uy thế hơn Bàn Môn Điếm gấp trăm lần). ** Lưu ý thứ bảy : trình độc học vấn của Hồ chí Minh và Phạm Văn Đồng quá thấp kém nên nhận thức sai về bối cảnh thế giới và vai trò nhược tiểu của Bắc Việt, tôi căn cứ trên luận điệu tuyên truyền của CSBV từ 1945 đến nay 2024 thì thấy bọn CS tự huyễn hoặc và phóng đại quá trớn thành tích của VC khiến đất nước VN trong 70 năm nay cứ đứng hàng áp chót trong bảng xếp hạng của khoảng 180 nước hội viên của LHQ !!! Sau 1954, chính quyền VNCH lo xây dựng hạ tầng cơ sở như đào tạo giáo dục, phát triển kinh tế, bảo đảm y tế cho toàn dân...thì chính quyền CSBV lại chuẩn bị chiến tranh xâm lược miền Nam qua chiêu bài “Giải Phóng Miền Nam”. Điểm thiếu sót lớn của các lãnh tụ chính trị của miền Nam là không nhìn thấy cái gọi là “địa lý chính trị” và vai trò “điều khiển cuộc cờ tòan cầu của Hoa Kỳ” nên khi nắm được chính quyền thường hay bị lật đổ chứ ít khi được đứng trong vị thế “cộng tác viên lưỡng lợi đồng chia” với (chính quyền ) Hoa Kỳ. Trong 5 năm đầu 1955 – 1960, chính quyền Ngô Đình Diệm được Hoa kỳ giúp đỡ tối đa và cũng đạt được nhiều thành quả thuận lợi, nhưng từ năm 1960 trở đi, chính phủ Hoa Kỳ không còn có mối giao hảo tốt đẹp với chính phủ Ngô Đình Diệm. 50-60 năm sau, tổng kết những phàn nàn trách cứ của cả 2 phía, người ta vẫn không hiểu tại sao Hoa Kỳ gây rối tại chính trường miền Nam VN như vậy, để rồi nhiều quân cán chính VNCH trách cứ là chính HK đã giúp Việt Cộng tiến chiếm VNCH hoặc than vãn là HK không tận tình giúp VNCH như Liên Sô và Trung Cộng đã từng giúp Việt Cộng. Cá nhân người viết thông cảm với những lời trách cứ và than vãn đó nhưng không đồng ý. DIỄN GIẢI THỨ NHẤT : Hoa Kỳ là quốc gia giàu có nhất (hiển nhiên quá không ai tranh cãi) và cũng là quốc gia tốn nhiều tiền nhất để BẢO VỆ các quốc gia khác. Hoa Kỳ giúp VNCH chống lại CSBV đồng thời cũng ngăn chận Trung Cộng xâm chiếm toàn vùng Đông Nam Á. Anh em Tổng Thống Diệm cũng biết CSBV nhận viện trợ của Trung Cộng để thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam nhưng cả 2 ông không đánh giá mức độ nguy hiểm và mức độ quan trọng như các think-tanks của Hoa Kỳ. 2 anh em Tổng Thống Diệm tin rằng “Ấp chiến lược” sẽ loại bỏ du kích
8 địa phương, nhưng các chiến lược gia của HK biết rằng nhờ dãy Trường Sơn , CSBV sẽ đem cả triệu quân vào Nam mà các “Ấp Chiến Lược” không thể chống đỡ. Cả Hồ chí Minh, Võ Nguyên Giáp và toàn thể Bộ Chính Trị VC không biết Hoa Kỳ có vũ khí mới để khắc chế chiến thuật “Biển Người” của quân Trung Cộng, đó là “hàng rào điện tử Mac Namara” và “pháo đài bay B-52”. DIỄN GIẢI THỨ HAI : để có địa bàn cho 2 loại vũ khí giết người hàng loạt vừa nêu trên hoạt động hữu hiệu, Hoa Kỳ đã ký Hiệp Định Genève 1962 để thành lập “ Chính Phủ Liên Hiệp 3 thành phần ở Lào”, cũng có nghĩa là mở cửa biên giới Việt Miên Lào cho phép hàng triệu quân Bắc Việt xâm nhập miền Nam. Chính phủ HK không thể đem quân ra Bắc tiêu diệt quân CSBV được, nhưng diệt quân CSBV trên biên giới 3 nước (Việt – Miên – Lào ) thì rõ rang Hoa Kỳ không tấn công vào một quốc gia có chủ quyền như BV nên về mặt ngoại giao chính thống , chính phủ HK không thể bị kiện cáo. Đó là lý do CSBV dấu nhẹm tất cả những tổn thất nhân mạng cũng như tổn thất về quân trang quân dụng trong suốt thời gian chiến tranh (cho đến bây giờ 2024, CSBV cũng vẫn còn dấu kín các tổn thất) DIỄN GIẢI THỨ BA : Hoa Kỳ đem 550,000 quân vào Việt Nam vào tháng 3 /1965 là để phòng hờ cuộc đảo chính của Đảng Cộng Sản Indonesia, nhưng Tướng Suharto đảo ngược tình hình và chỉ trong 01 tuần có tới hơn nửa triệu đảng viên Đảng Cộng Sản Indonesia bị giết và Trung Cộng bị hoàn đẩy ra khỏi địa bàn Indonesia và Malaysia. DIỄN GIẢI THỨ TƯ : Mối nguy ở Indonesia đã được giải quyết xong nhưng quân đội Hoa Kỳ vẫn còn hơn nửa triệu quân trú đóng tại Nam Việt Nam. Theo như các bình luận gia chính trị thời đó (1965) nghĩ rằng CSBV vẫn còn có khả năng chiếm được miền Nam VN, nhưng theo quan điểm của cá nhân người viết, Hoa Kỳ chưa rút quân ra khỏi vì HK chưa nói chuyện được với Trung Cộng cũng như chưa có một cam kết hay thỏa ước. Tới năm 1966, biến cố Cách Mạng Văn Hóa làm xáo trộn toàn thể Trung Hoa và sau đó chính quyền Mao Trạch Đông mới chính thức từ bỏ vai trò “xuất cảng chiến tranh giải phóng ra toàn thế giới” để lui về quốc nội “chỉnh đốn hàng ngũ”. Rồi cuộc chạm trán giữa quân đội Liên Sô và quân đội Trung Cộng ở biên giới Nga – Hoa vào năm 1969 khiến 2 bên phải dàn quân phòng ngự (mỗi bên dàn trên 55 sư đoàn bộ binh). Lúc này chinh phủ của
9 Tổng Thống Nixon biết nhu cầu của Mao – Chu cần sự hỗ trợ của Hoa Kỳ nên ông ra lệnh cho Henry Kissinger bí mật tiếp xúc. Cuộc tiếp xúc bí mật này đưa tới thành quả vĩ đại là chuyến viếng thăm của Nixon sang Hoa Lục vào năm 1972 mà mọi người đều biết cho nên người viết thấy không cần phải dài dòng lập lại trong bài viết này. Có chăng là phải viết những sự thật mà phía quân dân cán chính VNCH luôn “tự trách mình” và phiền trách các vị lãnh đạo của VNCH (từ Tổng Thống Diệm cho đến Tổng Thống Thiệu) đã thất bại trong việc “bảo vệ” miền Nam VN . Người viết xin nêu một số sự thật như sau : SỰ THẬT THỨ NHẤT : Hồ chí Minh và Đảng CSVN không có thẩm quyền gì trong việc chia đôi đất nước vì 4 đại cường (Hoa Kỳ - Anh – Liên Sô và Trung Hoa Quốc Gia) đã chia sẵn trong Hội Nghị Postdam hồi tháng 5 /1945 rồi (cả nước Pháp cũng không có quyền gì cả). SỰ THẬT THỨ HAI : Hồ chí Minh và Đảng CSVN đánh giá quá cao thế lực của Trung Cộng trong khi bản thân Trung Cộng xin được tiếp xúc với Hoa Kỳ và “phấn đấu” để được Hoa Kỳ thu nhận vào Liên Hiệp Quốc mà không được. Trong khi lại đánh giá HK quá thấp mà không ngờ rằng HK là một quốc gia SIÊU GIÀU, giàu đến nỗi khi lâm nạn không có quốc gia nào có khả năng cứu trợ và HK lại là quốc gia đi trước nhất trong lãnh vực cứu trợ khi các quốc gia khác lâm nạn. SỰ THẬT THỨ BA : Hồ chí Minh và toàn thể Ban Lãnh Đạo của Đảng CSVN trình độ học thức quá thấp kém nên không hiểu biết một chút gì về chính trị thế giới, cho nên đã đưa đất nước tới chỗ tồi tệ và dân chúng bị hy sinh “không cần thiết”. Vì cả Hoa Kỳ và Trung Cộng đều chơi game TAM QUỐC CHÍ TÂN THỜI nên khi 2 đại cường này “thỏa thuận” với nhau để đốn ngã Liên Sô thì họ bỏ mặc VN tự giải quyết với nhau, nghĩa là 2 phe Nam – Bắc VN khôn thì cả 2 miền đều có lợi, còn như “ngu dần” thì ráng mà ôm hận chứ HK và Trung Cộng còn phải lo “đại sự” của họ quan trọng hơn nhiều. Hiện nay Nguyễn Phú Trọng cũng như Phạm Minh Chính cũng không khá gì hơn vì vẫn không hiểu tại sao nước CUBA tới giờ này vẫn bệ rạc mà vẫn tự hào ??
10 SỰ THẬT THỨ TƯ : toàn ban lãnh đạo của Đảng CSVN toàn là một lũ ngu dốt láu cá vặt mà cứ vỗ ngực là “đỉnh cao trí tuệ”. Thí dụ như khi nói về Hiệp Đinh PARIS 1973, luôn tự hào là Kissinger và Nixon không thông minh bằng Lê Đức Thọ vì bị “buộc” phải để quân BV được ở lại miền Nam VN trong khi quân ngoại nhập HK phải rút về nước (thực ra bộ binh HK đã về nước từ cuối năm 1971). Thực tế, cả Nixon và Kissinger biết thừa là BV sẽ tiến chiếm miền Nam, nhưng 2 con cáo già này không nói cho Lê Đức Thọ biết là BV chiếm được miền Nam thì HK sẽ không viện trợ tái thiết 3 tỷ 250 triệu dollars theo quy định của điều khoản 21B của Hiệp Định Paris 1973 (Gần 50 năm sau Đại Thắng Mùa Xuân 1975, CSVN vẫn không dám đòi và HK cũng không chi ra một xu teng nào cả) Khi Kissinger vừa qua đời, trên internet có ai đó vẽ một bức hí họa với 2 khuôn mặt của Lê Đức Thọ tươi cười đón chào Kissinger với lời chú thích từ Lê Đức Thọ như sau : “ Chào ông bạn, lâu ngày chúng ta mới gặp lại, ông có mang gì tặng tôi không ?”. Kissinger đáp trả : “ Sure, tôi có mang cho ông 3 tỷ 250 triệu dollars tiền hàng mã đây, các ông tha hồ mà tiêu dùng đấy nhé”. Câu chuyện vừa kể trên làm tôi nhớ lại mấy câu thơ mà hồi đệ thất 1961, giáo sư Việt Văn Lư Hoàng Tuấn dạy như sau: Bà già ra chợ cầu Bông, Xin bói một quẻ lấy chồng lợi không ? Thầy bói trả lời : Lợi thì có lợi nhưng răng không còn ! Để chấm dứt bài viết này. San José ngày 04 tháng giêng năm 2024 Trần Trung Chính
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2024 18:54:22 GMT 9
P A X A M E R I C A N ATrần Trung Chính . Luận về một đề tài chính trị (người ta thường dùng 2 chữ “chính luận” cho ngắn gọn) bằng tiếng Việt mà lại để tựa bài bằng tiếng La tinh thì có vẻ bất ổn, nhưng tựa đề bằng tiếng La tinh có nghĩa rộng hơn tựa đề bằng tiếng Việt, do vậy độc giả có thể hiểu PAX AMERICANA có nghĩa là “ HÒA BÌNH KIỂU MỸ “, hay “ HÒA BÌNH CỦA NƯỚC MỸ “ , hoặc là “ HÒA BÌNH CHO NƯỚC MỸ” thì cũng không sai với thực tế là mấy ! Trong quá khứ, các nhà sử học đã ghi nhận PAX ROMANA của vùng Địa Trung Hải và PAX SINICA của Trung Hoa lục địa (tôi không bàn thêm về nguồn gốc và diễn biến của 2 biến cố lịch sử này, vì bài viết này không có ý định trở thành một tài liệu giáo khoa về Sử Thế Giới) . Từ 1991, sau khi Liên Sô sụp đổ, đế quốc Cộng Sản tan vỡ, Chiến Tranh Lạnh kết thúc : Hoa Kỳ đương nhiên trở thành siêu cường số một ( hạng nhất ) và duy nhất (chỉ có một) . Tổng Thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ là George H. Bush (thường được các nhà báo gọi là Tổng Thống Bush cha) đã phác họa một học thuyết chính trị (political doctrine) mới,đó là học thuyết TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI, nhưng tôi lại cho rằng học thuyết TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI chỉ là phần nổi (phần biểu kiến) của PAX AMERICANA. Học thuyết này không được người kế nhiệm là Tổng Thống Bill Clinton áp dụng triệt để, một phần vì ông Bill Clinton chưa hiểu gì mấy đến học thuyết này, phần khác Tổng Thống Bill Clinton và đảng Dân Chủ đang là lãnh đạo của Hoa Kỳ (cũng là của thế giới) nhưng chưa ý thức được “vai trò lãnh đạo thế giới” một cách đúng mức ,cho nên về mặt “đối ngoại” Hành Pháp của ông Clinton đã có những bước đi lạng quạng (trộn lẫn với qườ quạng). Từ vai trò của Hoa Kỳ tại vùng “sừng châu Phi” như ở Somalia, Erythrea, Ethiopia…cho đến chiến cuộc ở Bosnia, Nam Tư cũ, rồi ngay cả khi 2 tòa đại sứ của Hoa Kỳ ở Phi Châu bị khủng bố (số thương vong lên đến hàng trăm người) và chiến hạm Cole bị phá hoại tại hải cảng Aden của Nam Yemen, hành pháp Clinton cũng chỉ trả đũa chiếu lệ qua việc cho các tàu hải quân bắn hỏa tiễn Tomahawk vào các vùng rừng núi Afghanistan (không ai biết bọn khủng bố có bị thiệt hại hay không ) . Ý kiến riêng của tôi là Osama Bin Laden và tổ chức al-quaida đã thăm dò phản ứng của chính phủ Bill Clinton, thấy chính phủ Clinton phản ứng yếu ớt và chiếu lệ, cho nên tổ chức khủng bố Hồi Giáo mới tiến hành kế hoạch tấn công triệt hạ nước Mỹ vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 trong nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng Thống George W. Bush. Phản ứng đầu tiên để trả đũa bọn khủng bố Hồi Giáo, Tổng Thống Bush hạ lệnh xuất quân tấn công vào Afghanistan để lật đổ chính chuyền Taliban đã và đang bảo trợ cho al-quaida. Mọi người đều e sợ rằng Hoa Kỳ sẽ rơi vào vũng lầy Afghanistan như Liên Sô trước đó mới 10 năm vì ai cũng biết người Afghanistan hiếu chiến và cuồng tín cực độ, nhưng chỉ trong 3 tuần lễ quân đội Hoa Kỳ đã lật đổ chính 2 quyền Taliban , đuổi các thủ lãnh của Taliban chạy trốn vào vùng rừng núi giáp ranh với Pakistan. Phản ứng thứ hai là quốc hội Hoa Kỳ thông qua luật Patriot Act cho phép Hành Pháp “nghe lén” các phương tiện thông tin của đại chúng để truy tìm những âm mưu khủng bố phá hoại nước Mỹ. Mặt khác thanh lọc những phần tử đáng nghi ngờ không cho nhập cảnh vào nước Mỹ ( thanh lọc ngay từ các tòa đại sứ Mỹ tại các quốc gia khác) đồng thời trục xuất những phần tử có dính líu đến bọn khủng bố Hồi Giáo hiện đang cư ngụ tại Hoa Kỳ. Luật Patriot Act được Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua mà chỉ có 01 phiếu chống của một nữ dân biểu da đen thuộc đơn vị Oakland Bắc Cali (bà này chống cho phải phép vì chẳng lẽ biểu quyết ở xứ dân chủ như Hoa Kỳ mà lại có tới 100% các phiếu thuận thì giống mấy xứ Cộng Sản quá ), tỷ lệ như vậy thì coi như đạt 99.9%, và nói theo kiểu của Việt Cộng : luật Patriot Act được thông qua với “tuyệt đại đa số”các nghị sĩ và dân biểu liên bang Hoa Kỳ. Một bình luận gia chính trị trên đài truyền hình Mỹ (tôi quên mất tên) mà trong cuộc bầu cử năm 2000 đã bênh vực ứng cử viên Al Gore , đã khen Tổng Thống Bush quyết định sáng suốt bằng những lời phát biểu như là : “…cũng may là ông Bush đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ, chứ nếu ông Al Gore đắc cử thì tôi không biết ông Gore phải làm gì trong thời kỳ dầu sôi lửa bỏng như thế này…”. Những chính trị gia người Mỹ cũng khôn lắm, thiếu gì những “đại gia” về Luật mà tại sao họ lại chọn giáo sư Đinh Đồng Phụng Việt làm trưởng nhóm soạn thảo luật Patriot Act ? Câu trả lời là giáo sư Việt không có tham vọng chính trị và cũng không có ý định tranh cử, các ông bà luật gia dù Mỹ trắng hay Mỹ đen cũng đều sợ đứng đầu ủy ban soạn thảo luật Patriot Act sẽ ảnh hưởng bất lợi cho cá nhân họ khi ra tranh cử về sau, cho nên họ đã chọn giáo sư Đinh Việt – một người tỵ nạn Cộng Sản, soạn thảo luật chống khủng bố toàn cầu,gần giống như luật chống Cộng của VNCH ngày xưa vậy !!! Sau khi luật Patriot Act được thông qua, phân khoa Luật của trường Đại Học Luật Khoa của Đại Học Texas “offer” cho ông một ghế Giáo Sư Thực Thụ , giáo sư Đinh Việt liền rời chức Thứ Trưởng Tư Pháp về làm giáo sư tại đại học Texas. Mặc dù ẩn mình trong khu rừng núi giữa biên giới Afghanistan và Pakistan, Osama bin Laden vẫn có khả năng điều khiển hệ thống al-quaida - đã ảnh hưởng và khống chế toàn thể chính quyền các quốc gia Arab và Bắc Phi . Để vô hiệu hóa hiệu năng của hệ thống al-quaida, Tổng Thống George W. Bush quyết định đem đại quân tiến vào Trung Đông. Cho đến nay (2014), người ta cũng chưa hiểu rõ là chỉ với tin tức tình báo chưa rõ rệt (là Saddam Hussein đang thủ đắc vũ khí hóa học có khả năng giết người hàng loạt ) mà Tổng Thống Bush quyết định tấn công Iraq vào năm 2003, để rồi sau đó không tìm ra chứng cớ hữu hiệu nào cả. Tôi không chủ quan khi đưa ra nhận định là : Tổng Thống Bush quyết định đưa đại quân Hoa Kỳ sang Trung Đông với 2 mục đích là giải cứu các chính quyền Trung Đông thoát khỏi sự cướp đoạt chính trị từ tổ chức al-quaida và rồi sau đó dẹp tan tổ chức này. Iraq được chọn làm chiến trường chính vì Saddam Hussein đang có tham vọng làm trùm khối Hồi Giáo Sunni để hình thành đế quốc Hồi Giáo, quân đội Hoa Kỳ trú đóng tại Iraq sẽ là miếng mồi thu hút các chiến binh Hồi Giáo quá khích của toàn vùng Trung Đông tìm đến Iraq để được làm “Thánh Tử Vì Đạo” . Và quân đội Hoa Kỳ với vũ khí hiện đại sẽ giúp những chiến binh Hồi Giáo quá khích mau chóng lên gặp đấng Allah để hưởng trinh tiết của 72 gái còn trinh – (theo như kinh thánh của họ) mà không gặp sự lên án của thế giới vì các Thánh Tử Vì Đạo này không có quốc tịch Iraq !!! Chú thích của người viết : Tổng Thống Bush khi ra Quốc Hội Hoa kỳ đọc bản báo cáo đặc biệt do cựu Ngoại Trưởng James Baker III cầm đầu, ông đã bỏ không đọc 5 trang báo cáo của ủy ban nói về các ông 3 hoàng + các bà công chúa trong vương triều Arab Seoud đã phải đút lót cho tổ chức al-quaida để bọn này để cho họ yên ( mặt khác các ông hoàng +các bà công chúa xứ Arab Seoud cầu viện Hoa Kỳ trừ khử bọn quái ác này - mà họ không có khả năng) . Đó là lý do chính để Tổng Thống Bush đem đại quân qua Trung Đông, chỉ có Saddam Hussein là ngu, mặc dù đại sứ Iraq tại Liên Hiệp Quốc đã báo động cho Saddam là Hoa Kỳ sẽ đem quân qua Iraq là thật chứ không phải là hù dọa, ông đại sứ này khuyến cáo là nên đáp ứng các đòi hỏi của Hoa Kỳ như là cho phái đoàn vào thanh sát các địa điểm tình nghi chứa vũ khí sát hại hàng loạt… Saddam không nghe vì tin tưởng vào 3 đại cường Nga, Trung Cộng, Pháp có quyền phủ quyết tại Hội Đồng Bảo An (khổ nỗi Hoa Kỳ “bypass” không cần họp nên 3 đại cường “bồ tèo” của Saddam không có dịp thi thố “quyền phủ quyết” ), Saddam cũng nghĩ rằng quân lực Iraq dư sức chận đứng quân đội Hoa Kỳ tại biên giới, để rồi sau đó y sẽ bỏ tiền túi vận động kêu gọi bọn phản chiến la gào đòi rút quân như hồi chiến tranh Việt Nam . Khi quân đội Hoa Kỳ chuẩn bị xong, sắp đến giờ G là khởi hành, Saddam loan báo là sẽ đồng ý cho phái đoàn Hoa Kỳ vào Iraq thanh sát các địa điểm bị tình nghi chứa chấp các loại vũ khí tàn sát hàng loạt, thì đã “ too late ”. Trận chiến Iraq hồi năm 2003, quân đội Hoa Kỳ đánh bại quân đội Iraq chỉ trong 3 tuần lễ và một thời gian ngắn sau đó, 2 con trai của Saddam bị giết trước khi Saddam Hussein bị bắt : sau 5 tuần lễ, Tổng Thống George W. Bush tuyên bố trên một chiến hạm đậu ngoài khơi San Diego rằng “các chiến dịch hành quân lớn trên chiến trường Iraq chấm dứt”. Bộ trưởng quốc phòng Donald Rumfield xin từ chức, Tổng Thống Bush yêu cầu ông Rumfield ngồi lại Bộ Quốc Phòng trong khi chờ đợi ông tìm người thay thế. Đa số các nhà bình luận thời sự cho rằng ông Rumsfield xin từ chức vì không thành công trong việc mang lại hòa bình và ổn định cho Iraq, họ bình luận trên những gì mà họ thấy bên ngoài Tòa Bạch Ốc và như chúng ta được biết : những gì thể hiện bên ngoài thì không phải là thực chất bên trong chính sách của chính phủ Mỹ. Ông Rumfield được Tổng Thống Bush khen ngợi vì thành quả trận tấn công Iraq chỉ là kết quả của bài TEST của ông Rumfield đệ trình lên Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ ngay từ thời ông Bush chưa là ứng cử viên được Đảng Cộng Hòa đề cử. Qua chiến thắng tại Iraq, tôi nhận thấy 3 thành quả lớn lao của ông Rumfield : 1/Thành quả thứ nhất : Ông Rumfield đã vận chuyển 183,000 quân nhân Hoa Kỳ tham chiến tại Iraq chỉ trong vòng 72 giờ, ông đã sử dụng tất cả phi cơ vận tải của quân đội để chuyển quân đã đành, mà ông còn trưng dụng tất cả các phi cơ dân dụng của tất cả các hãng máy bay của Hoa kỳ để chuyển quân (trong khi đó chính phủ Hoa Kỳ trả tiền cho các hãng hàng không dân sự để thuê bao các máy bay ngoại quốc chuyên chở hành khách Hoa Kỳ thay thế). Chúng ta nên để ý rằng, chức vụ Chủ Tịch Ban Tham Mưu Liên Quân Hỗn Hợp của Hoa Kỳ (tương đương với chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng của quân đội các quốc gia khác) thông thường do một Đại Tướng Lục Quân hay do một Đô Đốc Hải Quân phụ trách, nhưng trong thời ông Rumfield làm Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, một Đại Tướng Không Quân (tôi không nhớ tên) làm Chủ Tịch Ban Tham Mưu Liên Quân Hỗn Hợp, điều đó cũng có nghĩa là cuộc chiến sắp tới tại Trung Đông , Không Quân Hoa Kỳ sẽ nắm phần trọng trách. 2/Thành quả thứ hai: Sử dụng Không Lực Hoa Kỳ làm mũi nhọn chính - để tránh trở ngại do các quốc gia lân cận của Iraq không cho không lực Hoa Kỳ quá cảnh, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã đặt hàng mua các phi cơ oanh tạc chiến lược bay thẳng từ các căn cứ quân sự ở tiểu bang Arkansas sang Iraq tác chiến (dĩ 4 nhiên phải tiếp tế nhiên liệu trên không từ các phi cơ vận tải C-130 , C-141 và Galaxy C-5 từ đảo Guam trên Thái Bình Dương và đảo San Diego Garcia tại Ấn Độ Dương). 3/Thành quả thứ ba : Phát minh chiến thuật dùng các đơn vị cấp đại đội của Ranger (tương tự như đơn vị Biệt Động Quân của QL/VNCH) và các đơn vị cấp đại đội của Special Force (tương tự như các đơn vị Biệt Kích của Lực Lượng Đặc Biệt của QL/VNCH) dùng trực thăng nhảy vào sau lưng các đại đơn vị của địch để cắt đứt các đường tiếp liệu nước và thực phẩm cũng như vũ khí đạn được của quân địch. Người ta ngạc nhiên vì quân đội Iraq thiện chiến đã “cù cưa” với quân đội Iran suốt 8 năm trời bất phân thắng bại, vậy mà vào năm 2003 các tư lệnh chiến trường của quân đội Iraq lại bỏ chạy hay đầu hàng quá mau chóng như vậy ? Có người còn phỏng đoán rằng CIA đã mua chuộc các tướng lãnh của Iraq rồi hay sao ? Iraq là một xứ sở có nhiều sa mạc lại ít mưa không như miền đồng bằng sông Cửu Long của VNCH, cho nên khi biết đường tiếp viện nước uống bị cắt đứt thì các tướng tư lệnh các sư đoàn bộ binh hay sư đoàn thiết giáp của Iraq phải bỏ chạy hay đầu hàng vì con người có thể nhịn đói 1 tuần hay 10 ngày chứ không thể nhịn khát quá 2 ngày được (trước đó vào năm 1973, trong trận chiến 6 ngày , quân đoàn III và quân đoàn IV của Ai Cập đã phải đầu hàng trên sa mạc Sinai và rồi sau đó hội Hồng Thập Tự Quốc Tế - được sự cho phép của chính phủ Israel – chở nước uống vào sa mạc Sinai tiếp tế cho 2 quân đoàn của Ai Cập ! ). Sự đầu hàng quá mau chóng của lực lượng Iraq đã làm giảm thiếu tối đa thương vong của quân đội Hoa Kỳ đồng thời đã giảm thiểu chiến phí rất nhiều. Về vấn đề quân đội Hoa Kỳ bị thiệt hại do quân du kích đặt bom và tấn công trong đường phố, chúng ta có thể hiểu là các quân nhân tác chiến của Hoa Kỳ không được huấn luyện để đối phó với các vấn đề an ninh trật tự của thành phố, cho nên sau khi các chiến dịch hành quân lớn chấm dứt, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ kêu gọi các quân nhân trừ bị tái nhập ngũ mà đa phần là các quân nhân trừ bị này đang nằm trong lực lượng Cảnh Sát. Ông Rumfield nói với Tổng Thống Bush là ông đã hoàn thành nhiệm vụ của ông, việc kế tiếp của Iraq nằm trong lĩnh vực chính trị và bình định (pacification) , không phải sở trường của ông, và sau này như chúng ta đã thấy : ông Robert Gates – cựu viên chức của cơ quan CIA thay thế ông Rumfield làm Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Khi các chiến dịch hành quân lớn tại Iraq chấm dứt, các cuộc hành quân lớn nhỏ đã được tiến hành tại Arab Seoud , Yemen và một số các quốc gia trong vùng Trung Đông và Bắc Phi mà tổ chức al-quaida có hậu cứ, nhưng điều quan trọng nhất là các ngân hàng của các quốc gia vùng Trung Đông và Bắc Phi đã phải tuân lệnh chính phủ Hoa Kỳ là “freeze” tất cả các accounts của al-quaida và các trương mục tư nhân đứng mũi chịu sào cho al-quaida. Các “Thánh Tử Đạo” lên Thiên Đàng gặp đấng Allah thì còn có người tình nguyện vào điền khuyết, chứ các accounts đang làm business cho al-quaida bị freeze và tiền dollars bị mất thì không thể điền khuyết được, cho nên sau cuộc tấn công của Hoa Kỳ vào Trung Đông thì tổ chức al-quaida không đạt được thành tích nào coi cho được hết cả, giản dị là “NO MONEY, NO ACTION” vậy thôi. Theo nhận xét của tôi, thành quả của chiến dịch “phong tỏa kinh tế” của Hoa Kỳ quan trọng hơn là thành quả đã đưa được khoảng 100,000 “Thánh Tử Vì Đạo” lên Thiên Đàng, dẫn chứng : ngay khi bị hạ sát hồi 2012, lãnh tụ Osama bin Laden của tổ chức al-quaida có trong túi không tới 150 Euro (nên nhớ là trước khi Hoa Kỳ tấn công vào Afghanistan, Osama bin Laden có trong tay hàng trăm triệu dollars ). 5 Ghi chú của người viết : nếu làm một bài tính, cứ mỗi “Thánh Tử Vì Đạo” của Hồi Giáo được “enjoy “với 72 gái còn trinh , thì trong cuộc chiến tại Iraq vào năm 2003 cho đến bây giờ 2014, với hơn 100,000 “Thánh Tử Vì Đạo” lên Thiên Đàng, thì Đấng Allah phải cung cấp 7.2 triệu gái trinh cho các Thánh Tử Vì Đạo này Bởi vậy các họa sĩ chuyên vẽ hí họa ở xứ Đan Mạch nhỏ bé đã có một bức họa vẽ một người đàn ông giống như vị tiên tri Muhammad đang dùng cellulaz phone gọi cho ai đó ở dưới cõi trần – với lời chú thích độc địa như là : “…nói với chúng nó là hãy bớt đánh bom tự sát đi ( nghĩa là- hãy lên thiên đàng chậm chậm lại) , lên nhanh và nhiều quá , làm sao tao “order” gái trinh cho kịp...” Gần đây, tại Iraq phe Sunni và tổ chức ISIL tiến quân nhanh chóng , chiếm được một phần đất của Syria giáp ranh với Iraq cũng như chiếm được một số thành phố quan trọng của Iraq như Mosul, như Tikrit (quê hương của Saddam Hussein ), ngay cả thủ đô Baghdad có nguy cơ bị thất thủ , Thủ Tướng Maliki của phe Shi ‘ite kêu gọi Hoa Kỳ giúp đỡ ; nhưng coi bộ chính phủ Obama ngó lơ, chỉ gửi tới Iraq 300 nhân viên dân sự (có lẽ giúp ích cho việc tình báo và thu thập tin tức) chứ không thể có việc quân đội Hoa Kỳ trở lại Iraq tái chiến dù bất cứ hình thức nào (may ra không lực Hoa Kỳ chỉ sử dụng phi cơ không người lái – drone mà thôi). Những người cực hữu của Hoa Kỳ thì cho rằng Tổng Thống Obama quá yếu, họ la lên rằng chính phủ của Tổng Thống Obama không thật tâm giúp chính quyền Iraq trở thành một chính quyền mạnh có khả năng thống nhất đất nước…bằng cớ là không viện trợ cũng như không huấn luyện quân đội Iraq có khả năng tác chiến cao. Dẫn chứng : phe Sunni và tổ chức ISIL ít quân hơn nhưng những người cầm đầu quân sự của nhóm này đều là những sĩ quan cao cấp của quân đội Iraq dưới thời Saddam, cho nên quân đội Iraq (hiện nay)đông hơn nhưng ô hợp, thiếu trang bị và kỹ thuật chiến đấu kém đã phải bỏ chạy… Theo ý kiến của tôi , Tổng Thống Obama bị trách oan vì những lý do khách quan như sau : Lý do thứ nhất : người Mỹ là tổ sư sáng lập ra hệ điều hành computer (thí dụ như ông Bill Gates của công ty Microsoft) cho nên sáng kiến của ông Gates được chính phủ Mỹ áp dụng trong việc điều hành MỘT TRẬT TỰ TOÀN CẦU. Trong hệ điều hành computer, tất cả các software được download vào máy đều sử dụng chung EXIT PROGRAM : tôi cũng sẽ không giải thích nhiều về chi tiết của EXIT PROGRAM,nhưng để cho dễ hiểu, EXIT PROGRAM giúp cho người sử dụng bước ra khỏi program mình đang làm (thí dụ program thứ nhất ) để access vào program thứ nhì, access vào program thứ ba..v..v..Rồi một lúc nào đó, người sử dụng quay trở lại program thứ nhất mà các data – datum vẫn được save và không cần khởi động lại từ đầu. Chuyện rút quân ra khỏi Iraq đã có từ thời Tổng Thống Bush còn tại chức, do đó đến phiên Tổng Thống Obama là phải hoàn tất, chứ không phải ông Obama thích và muốn “rút quân” theo ý kiến riêng của ông và của Đảng Dân Chủ. Không một chính phủ nào lại muốn chi tiêu chiến tranh (dĩ nhiên là quá tốn kém) cho một cuộc chiến kéo dài vô thời hạn. Lý do thứ hai : Cộng Sản Việt Nam cũng như Trung Cộng và Liên Sô (cũ) thường hay la toáng lên rằng “Đế Quốc Mỹ áp dụng chủ nghĩa thực dân kiểu mới” . Đây chỉ là lối tuyên truyền xảo trá một chiều và cũng là một ngộ nhận sai bét vì rõ ràng khi lên ngôi vị “cường quốc số một”, Hoa Kỳ không đi xâm lăng chiếm hữu bất cứ quốc gia nào để làm thuộc địa cả ! Hoa Kỳ có một sức mạnh ghê gớm mà cha đẻ của chủ nghĩa Cộng Sản là Marx và Engel (cũng như Lenine , Staline và Mao Trạch Đông sau này) không bao giờ nghĩ đến : đó là sức mạnh của người tiêu thụ Hoa Kỳ. Thực tế chúng ta thấy rằng, tất cả các quốc gia –từ các quốc gia tiên tiến đến các quốc gia chậm tiến và kể cả các quốc gia thù nghịch về ý thức hệ với 6 Hoa Kỳ - đều muốn bán hàng cho Hoa Kỳ, bởi vì chỉ có dân chúng Hoa Kỳ mới chịu mua sắm và sẵn sàng mắc nợ credit cards để mua các sản phẩm high-tech và fashion hiện đại. Lý do thứ ba : năm 1974, khi chứng kiến trận tranh tài Vô Địch Bóng Tròn Thế Giới năm 1974 , đội banh của Hòa Lan trình diễn một đấu pháp khác lạ, đó là lối đá banh theo đấu pháp tổng lực , nghĩa là không có hàng tiền đạo, trung vệ hay hậu vệ gì hết. Họ đã tấn công đối phương bằng 10 cầu thủ giữ vai trò tiền đạo và khi kéo về sân nhà phòng thủ tất cả 10 cầu thủ đều là hậu vệ. Trong tất cả những cuộc chiến tranh cận đại, chỉ có Hoa Kỳ mới có khả năng sử dụng CHIẾN TRANH TỔNG LỰC để vô hiệu hóa đối phương, thí dụ khi ban bố tình trạng chiến tranh sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tổng Thống Bush đã vận dụng mọi khả năng của Hoa Kỳ như ngoại giao, tình báo hải ngoại , an ninh nội địa , quân đội, kỹ nghệ tin học, kỹ nghệ chế tạo vũ khí mới (bom áp nhiệt của Kỹ Sư Dương Nguyệt Ánh là một thí dụ), ngân hàng và tiền tệ trở thành vũ khí mà các sách vở của các tổ sư binh gia chiến lược như Tôn Tử và Clausewitz đều chưa nghĩ tới. Tôi phải kể thêm là thị trường chứng khoán cũng là loại vũ khí mới mà chỉ có duy nhất Hoa Kỳ mới có đủ khả năng sử dụng. Dẫn chứng : vài năm trước đây, các nước phương Tây và Hoa Kỳ thường la lên rằng Iran sắp sửa cho nổ quả bom nguyên tử đe dọa nền hòa bình thế giới , Do Thái (Israel) thì lên tiếng là sẽ dùng không quân để oanh tạc các lò nguyên tử trước khi chúng được vận hành để chế bom. Thế rồi, sau đó Iran không thể có máy móc để làm giàu chất plutonium và uranium nên kế hoạch chế bom nguyên tử cũng chỉ là giấy tờ để các nhà đàm phán của các phe “bàn qua tán lại” cho hết thì giờ. Rất ít người biết rằng, kế hoạch chế bom nguyên tử của Iran bị Hoa Kỳ dùng “thị trường chứng khoán ” phá hỏng. Cao điểm của giá dầu thô lúc bấy giờ là suýt soát 140 dollars / một barrel ; tự nhiên không ai biết rõ lý do nào, giá dầu thô lại bị sụt giảm xuống chỉ còn khoảng 40 dollars/ một barrel. Iran và Nga sản xuất khoảng 2 triệu thùng dầu thô mỗi ngày, như vậy mỗi nước mất 200 triệu dollars mỗi ngày và trong vòng một tháng mỗi nước bị mất 6 tỷ dollars . Khoảng thời gian đó, nước Nga đã phải 6-7 lần phá giá đồng bạc và phải lấy số dollars dự trữ để mua nhu yếu phẩm cho dân chúng tiêu dùng. Iran cũng phải làm y hệt như Nga, nghĩa là thay vì có dollars thu lợi từ giá dầu lên cao, thì nay không còn dollars dự trữ để mua trang thiết bị cho các nhà máy làm giàu plutonium và uranium nữa, cho nên trái bom nguyên tử của Iran vẫn còn dậm chân tại các phòng thí nghiệm. Tại sao giá dầu thô lại tăng lên tới 140 dollars / một barrel và tại sao đang từ 140 dollars tại tụt xuống 40 dollars / một barrel Theo sự phỏng đoán có cơ sở của tôi, chính phủ Hoa Kỳ đã dùng thị trường chứng khoán làm vũ khí để ngăn chận tham vọng điên cuồng của các giáo sĩ hệ phái Shi’ite đang lãnh đạo nước Iran. Chính phủ Hoa Kỳ tung tiền thu mua rất nhiều dầu thô, bỏ vào các kho dự trữ ở Texas, New Mexico, Arkansas… cho nên giá dầu thô giá tăng đáng kể (số lượng dự trữ đủ để thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ của Hoa Kỳ trong vòng 6 tháng – nếu xảy ra trường hợp chiến tranh). Giá dầu sụt giảm vì chính phủ Hoa Kỳ đem bán số dầu dự trữ ra thị trường. Rồi khi Iran hết dollars dự trữ, giá dầu thô lại từ từ lên trở lại . Lý do thứ tư : từ thế kỷ thứ bảy – sau khi tiên tri Muhammad qua đời, Hồi giáo bị phân hóa thành 2 hệ phái Sunni và Shi’ite, thù hận chém giết nhau hơn 14 thế kỷ (và cho đến nay – thế kỷ 21 – vẫn còn thù hận chém giết nhau chí chóe). Hoa Kỳ không tạo ra sự thù hận giữa 2 hệ phái của đạo Hồi, cho nên Tổng 7 Thống Bush cũng như Tổng Thống Obama không cảm thấy có trách nhiệm và nghĩa vụ để can ngăn hay làm cảnh sát “giữ gìn hòa bình” cho dân chúng Iraq !! Lý do thứ năm : chính phủ Hoa Kỳ không muốn giúp đỡ chính phủ Iraq hiện nay , vì biết chắc rằng chính phủ của thủ tướng Maliki chỉ là cánh tay nối dài của chính quyền Iran : chính phủ của ông Maliki đã đặt quyền lợi phe nhóm của mình (hệ phái Shi’ite) cân nặng hơn quyền lợi của quốc gia Iraq. Sau cuộc bầu cử quốc hội, phe Shi’ite chiếm đa số nên thủ lãnh của phe Shi’ite được chọn làm Thủ Tướng chính phủ. Hiến Pháp mới của Iraq qui định Phó Thủ Tướng chính phủ là thủ lãnh phe Sunni và Chủ Tịch Quốc Hội là lãnh đạo của sắc tộc Kurd. Trong 8 năm cầm quyền, phe Shi’ite của ông Maliki đã chèn ép người Kirk và trả thù phe Sunni (Phó Thủ Tướng là người phe Sunni bị ông Maliki truy tố tội ủng hộ khủng bố và đã rời Baghda từ lâu, còn Chủ Tịch Quốc Hội là người Kurd thì cũng không còn điều khiển Quốc Hội Iraq nữa vì lý do an ninh cá nhân không được bảo đảm). Quân đội Hoa Kỳ còn hiện diện tại Iraq thì phe Sunni chưa dám làm mạnh, bây giờ Hoa Kỳ đã rút hết quân tác chiến thì phe Sunni chuyển động ngay. Theo ý kiến của tôi : khi người Iraq không biết bảo nhau đoàn kết xây dựng đất nước Iraq, thì Hoa Kỳ chẳng dại gì mất công dạy bảo hay ngăn trở các cuộc nội chiến, do đó tương lai trông thấy được của Iraq là sẽ chia 3 : phía bắc giáp ranh với Thổ Nhĩ Kỳ sẽ là quốc gia của người Kurd, miền Trung Iraq (tiếp giáp với Syria )sẽ là quốc gia của phe Sunni , sau cùng miền Nam (diện tích lớn hơn 2 miền kia, nhiều tài nguyên hơn…lại tiếp giáp với Iran) sẽ là quốc gia của phe Shi’ite. Tôi đã trình bày khái lược (không đi vào chi tiết) những phương tiện mà chính phủ Hoa Kỳ đã sử dụng để thực thi chính sách PAX AMERICANA. Như vậy cứu cánh của PAX AMERICANA là những gì ? Dĩ nhiên sự liệt kê của tôi trong bài viết này sẽ không đầy đủ, mong đợi những ý kiến đóng góp thêm của quý vị độc giả để những người Việt tỵ nạn Cộng Sản chúng ta tự chọn lựa và tự quyết định đứng về chiến tuyến nào trong cuộc đấu tranh một mất một còn giữa cái THIỆN và cái ÁC của loài người. Cứu cánh thứ nhất : PAX AMERICANA phải đem lại hòa bình cho quốc gia Hoa Kỳ và nhân dân Hoa Kỳ. Chiến tranh là điều không hay , không tốt…nhưng nếu không thể tránh khỏi thì bãi chiến trường phải nằm ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ. Dẫn chứng : Thế chiến thứ nhất và thế chiến thứ hai đều xảy ra tại Âu Châu và Đông Nam Á, cho nên khi 2 cuộc thế chiến này chấm dứt, chỉ có một mình Hoa Kỳ là có khả năng tái thiết cho phe thắng trận cũng như 2 quốc gia Đức và Nhật – là 2 quốc gia thua trận (nếu Đây cũng là lý do chính để giải thích tại sao vừa mới bị al-quaida phá hủy Twin Tower ở New York ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tổng Thống Bush mở ngay 2 cuộc chiến tại Afghanistan và Iraq để thu hút các chiến binh Hồi giáo quá khich tập trung vào chiến đấu với đội quân chuyên nghiệp và thiện chiến của Hoa Kỳ thay vì cứ loay hoay ngăn chận bọn phá hoại ngay tại Hoa Kỳ. Và nếu chiến tranh ngay tại nội địa Hoa Kỳ thì tinh thần của dân chúng Hoa Kỳ sẽ bất ổn và hoang mang vô cùng. Cứu cánh thứ hai : PAX AMERICANA phải thể hiện tinh thần THƯỢNG TÔN LUẬT PHÁP của Quốc Gia Hoa Kỳ : ngay từ thời lập quốc, các tổ phụ của Hoa Kỳ đều là những luật sư có tinh thần dân chủ và nhân bản cho nên Hiến Pháp của Hoa Kỳ đứng vững suốt hơn 200 năm nay, chỉ có thêm các tu chính án chứ không sửa đổi hoàn toàn. Đối chiếu với nước Pháp – là nơi cách mạng dân quyền xảy ra năm 1789 (lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế của dòng họ Bourbons), cho đến nay cũng đã phải trải qua 5 nền cộng hòa với những bản hiến pháp khác nhau. Địch thủ chính trị của Hoa Kỳ là Liên Sô (chế độ Cộng Sản) hiện 8 hữu từ năm 1917 đến 1991 cũng thay đổi rất nhiều hiến pháp và bây giờ chả ai thèm nhắc tới tìm hiểu vì chế độ Cộng Sản đã bị vất vào sọt rác Lịch Sử từ hơn 20 năm rồi. Khi Osama bin Laden và tổ chức al-quaida phá sập Twin Tower vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tổng Thống George W. Bush ban hành lệnh WANTED đối với Osama bin Laden có nghĩa là LUẬT PHÁP HOA KỲ truy tố và trừng trị những tên phạm pháp, chứ không phải là người cầm đầu Hành Pháp Hoa Kỳ “nổi giận rồi trả thù cá nhân Osama bin Laden”. Chỉ có tên Việt Cộng đội lốt sư là Nhất Hạnh mới lên tiếng kêu gọi Tổng Thống Bush calm down và nên lắng nghe + thương thuyết với phe Hồi Giáo !!! Nếu nghe lời của tên Việt Cộng đội lốt sư thì xã hội Hoa Kỳ đã tan hoang từ lâu, thí dụ từ 1930 Al Capone hoành hành ở Chicago chả hạn, cảnh sát Hoa Kỳ đâu có ai đi thương thuyết với Al Capone , mà họ tìm cách bắt giữ rồi đưa ra tòa trị tội ông trùm Al Capone, về sau ông trùm Al Capone bị nhốt ở đảo Altracaz rồi bị chết trong nhà tù (bị bệnh giang mai) trong lúc chưa xong án tù. Cứu cánh thứ ba : PAX AMERICANA phải truyền bá tư tưởng dân chủ và giúp đỡ các nước thiết lập chế độ dân chủ. Khi còn trẻ, tôi vẫn nghĩ là cứu cánh thứ ba khó thực hiện và thiếu hiệu quả. Nhưng thuở sinh thời, luật sư Nguyễn Hữu Hiệu đã từng nói với tôi rằng cứu cánh thứ ba mới diệt được những chế độ độc tài và giúp ổn định nền hòa bình thế giới. Gần đây khi quan sát tình hình chính trị các nước Đông Âu, những quốc gia như Ba Lan, Tiệp, Slovakia, Bulgaria, Rumania…các thể chế dân chủ dần dần được hoàn thiện thì chúng ta thấy ít xáo trộn và ít bị rắc rối hơn những xứ Nam Tư cũ,Ukraina gần đây chả hạn. Nói rõ hơn, chính phủ Hoa Kỳ biết rõ Nga và Trung Cộng đã “xuất cảng” chính sách “hối lộ” cho một thiểu số cầm quyền rồi truyền dạy “kỹ thuật tham nhũng” để giữ chặt các nước đàn em cũ trong vòng tay của họ (Việt Nam là một thí dụ điển hình nhất, đã rập khuôn theo mô hình kinh tế của Trung Cộng – để rồi không làm sao thoát khỏi sự kiềm tỏa của Trung Cộng) Cứu cánh thứ tư : PAX AMERICANA phải thể hiện tinh thần hào hiệp , hay giúp đỡ các quốc gia khác thoát khỏi cơn hoạn nạn , nhưng chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ không làm việc theo kiểu “Bồ Tát Cứu Độ Chúng Sinh”. Dẫn chứng : Bắc Hàn không chịu lo trồng trọt sản xuất lương thực nuôi dân mà cứ lo”thử nghiệm hạt nhân” và “bắn thử hỏa tiễn tầm xa” để hù dọa Hoa Kỳ , Nhật Bản và Nam Hàn phải viện trợ cho Bắc Hàn (giống tình trạng “ăn vạ” của nhân vật Chí Phèo trong tiểu thuyết của nhà văn Nam Cao). Năm 2004, tai nạn sóng thần Tsunami chỉ trong không đầy một phút đã giết hơn 200,000 người ở Indonesia (tôi không kể số người chết ở các quốc gia khác), hàng triệu người lâm vào cảnh không còn nhà, không lương thực, không nước uống, không quần áo. Tổng Thống Bush ra lệnh cho hạm đội Thái Bình Dương và hạm đội Ấn Độ Dương đến tiếp cứu Indonesia; khi phóng viên hỏi cảm nghĩ của những người sống sót, đa số phát biểu giống nhau, như là : “…sau cơn hoạn nạn, chúng tôi thấy phi cơ trực thăng của Marines Hoa Kỳ (Thủy Quân Lục Chiến HK) bay trên bầu trời là chúng tôi hò reo vui mừng vì biết chỉ có Hoa Kỳ mới có khả năng và phương tiện . Ngay trong đợt đầu đã có hàng triệu chai nước uống đóng sẵn và hàng triệu gói mì gói phân phối cho những người sống sót. Sự viện trợ nhân đạo như vậy thì không cần bên tiếp nhận hoàn trả, nhưng nếu là những người lương hảo, chính phủ và nhân dân Indonesia không thể xem Hoa Kỳ là “thù nghịch” được. Cứu cánh thứ năm : PAX AMERICANA thể hiện phương cách hành xử của chính phủ Hoa Kỳ đặt căn bản trên lý tưởng và quyền lợi của quốc gia Hoa Kỳ mà không có bất cứ sự ràng buộc hay chỉ đạo từ bất cứ 9 lý thuyết hay tổ chức tôn giáo nào. Những người bạn gốc Công Giáo của tôi thường khoe rằng công lao đánh đổ chế độ Cộng Sản Liên Sô hồi năm 1991 là hoàn toàn do công của Giáo Hoàng John Paul II, tôi cứ để cho họ “tự sướng” , chỉ nói cho họ biết là không có Tổng Thống Reagan thì ước muốn của Giáo Hoàng John Paul II cũng vẫn chỉ là ý nghĩ, không thể chuyển qua giai đoạn “hành động” được. Một số các chiến hữu của tôi thường hay “chửi” ông Henry Kissinger có gốc Do Thái nên hy sinh VNCH, tôi cũng không tranh luận hay biện minh cho ông Kissinger gì cả, chỉ nhắc khéo là “ Hoa Kỳ không có đồng minh muôn thưở, mà cũng chẳng có kẻ thù muôn đời”, bởi vậy nếu quốc gia Do Thái không có “lợi hòa đồng chia” với Hoa Kỳ thì có lẽ dưới áp lực và bị tấn công nhiều lần của các quốc gia Arab xung quanh, quốc gia Do Thái đã biến mất từ lâu rồi. Một số khác (phần lớn là các Phật tử) lại thường hay chỉ trích chính sách “toàn cầu hóa” của chính phủ Hoa Kỳ, họ nghĩ rằng chính sách toàn cầu hóa sẽ làm nhạt đi “tính dân tộc” của các quốc gia khác, nhưng họ quên rằng chính phủ Hoa Kỳ không ép buộc các quốc gia khác “phải” toàn cầu hóa như Hoa Kỳ, mà là các quốc gia khác nếu muốn tiến bộ thì tự động phải “toàn cầu hóa”, thế thôi. Bài viết này không phải để tán tụng nịnh bợ chính phủ Hoa Kỳ hay củng cố đánh bóng những “ưu việt” của quốc gia Hoa Kỳ. Xin hiểu cho nội dung của bài viết này là suy nghĩ của người viết trong khía cạnh “tích cực” của vấn đề “ảnh hưởng của Hoa Kỳ” trên toàn thế giới, tương tự như những phát biểu của một thầy bói sờ vào một bộ phận của con voi, cho nên sự thiếu sót là điều tất yếu. Và người viết mong đợi các suy nghĩ của các quý vị thức giả khác về các khía cạnh khác, không phải để bày tỏ sự hơn thua về kiến thức, mà là để tất cả những người đọc trên các diễn đàn ảo có thêm phần học hỏi và trao đổi. Trân trọng. San Jose ngày 16 tháng 7 năm 2014 TRẦN TRUNG CHÍNH
|
|