|
Post by Vĩnh Long on Aug 22, 2013 3:50:53 GMT 9
Cần cho lập thêm các đảng đối lập với đảng Cộng sản Việt NamLê Hiếu Đằng Ông Lê Hiếu Đằng Trong bài viết mang tựa đề đơn sơ là « Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh » đăng trên mạng Bauxite ngày hôm nay 12/08/2013, luật gia Lê Hiếu Đằng đã nói lên những trăn trở của mình về vấn đề đa nguyên đa đảng, về vấn đề độc lập, tự do dân chủ và hạnh phúc … Bài viết trong những ngày thập tử nhất sinh tại bệnh viện của vị luật gia nguyên là Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, lại mang đầy chất lửa, đầy tính chiến đấu. Đặc biệt ông đã mạnh dạn đặt vấn đề thành lập các đảng đối lập, chẳng hạn một đảng dân chủ xã hội, thay vì đảng Cộng sản độc quyền như hiện nay. Ông thách thức bất kỳ lãnh đạo nào trong bộ máy của đảng Cộng sản trả lời ông một cách công khai về vấn đề trên. RFI Việt ngữ đã trao đổi với luật gia Lê Hiếu Đằng hôm nay. RFI : Kính chào luật gia Lê Hiếu Đằng, chúc mừng ông đã phục hồi được phần nào sức khỏe. Thưa ông, vì sao ông đã mạnh mẽ đặt lại vấn đề đa đảng tại Việt Nam? Luật gia Lê Hiếu Đằng: Trong đề nghị của 72 nhân sĩ trí thức đã nói về vấn đề này một cách tế nhị. Nhưng sau khi bản dự thảo được trình Quốc hội lần thứ tư – do quá tệ nên mới có phản ứng – cũng trong số 72 người thì có 40 người ký phản đối lại bản dự thảo đó, thì nói rõ về đa nguyên đa đảng. Còn bài của tôi, tôi phân tích theo quan điểm Mác-Lênin thôi. Mình học abc chủ nghĩa Mác-Lênin thì cũng biết rồi : cơ sở hạ tầng quyết định thượng tầng kiến trúc. Cơ sở hạ tầng gồm năm thành phần kinh tế, nhiều giai cấp, nhưng thượng tầng kiến trúc chỉ có một thì sao ? Vô lý, cái này nó phản lại, dù cho chủ nghĩa Mác-Lênin bây giờ cũng đã lạc hậu về nhiều vấn đề rồi, người ta cũng từ bỏ rồi. Nhưng nếu mà dựa vào thì rõ ràng mấy ổng nói lấy được, nói một cách không có lý luận gì. Thành ra tôi mới thách. Thách mấy vị, nhất là ông trưởng ban Tuyên huấn vừa là chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương tranh luận công khai, một cách minh bạch. Đừng có chơi kiểu « bỏ bóng đá người ». Thật ra đa nguyên đa đảng tất yếu phải đến thôi. Ngay tình hình Campuchia hay là Nga cũng vậy. Tất nhiên có một thời gian sẽ hơi lộn xộn, đó là cái giá phải trả. Nhưng mà sau đó sẽ ổn định, thành một nước dân chủ, thì như vậy sẽ tốt đẹp cho cả dân tộc. Đó là cái lối ra tôi cho là duy nhất của dân tộc, chứ không thể nào khác hết. Vì nếu mà không dân chủ, không thực hiện được chế độ dân chủ cộng hòa với tam quyền phân lập thì làm sao chống tham nhũng. Làm sao có được một Hiến pháp mới phù hợp với người dân, do dân quyết định. Nói chung tất cả những vấn đề này là abc của thế giới rồi. Bởi vì thế giới người ta phải đấu tranh bằng máu và nước mắt thì mới làm nên bản Tuyên ngôn Nhân quyền, và nhiều vấn đề khác. Thành ra tôi thấy đây là tất yếu thôi. Tôi nói công khai minh bạch, và hơn nữa vấn đề đa đảng đó là chủ trương của đảng Cộng sản thôi. Cho đến bây giờ tôi hỏi các luật sư và luật gia – bản thân tôi cũng là luật gia – thì tôi thấy là chưa có văn bản pháp lý nào cấm việc đa nguyên đa đảng cả. Mà theo nguyên tắc luật pháp, không cấm là người dân có quyền thực hiện. Vì vậy tôi nghĩ cái việc, ví dụ thành lập một đảng dân chủ xã hội – sở dĩ tôi nêu vấn đề này, vì dân chủ xã hội bây giờ là khuynh hướng chung của các nước tiến bộ. Nó hạn chế những mặt tiêu cực của chủ nghĩa tư bản. Đây là khuynh hướng tiến bộ, do vậy nó có một hệ thống thế giới để hỗ trợ cho mình. Như vậy mình nên theo cái giòng đó. Trong cuốn « Mao Trạch Đông ngàn năm công tội » ông đại tá nói thời kỳ Mao già rồi cũng nghiêng về khuynh hướng dân chủ xã hội của Đệ nhị Quốc tế, rồi bản thân ông cũng đề nghị như vậy. Bây giờ nhiều nhân sĩ trí thức ở trong nước, cũng như ở nước Pháp nơi cô đang định cư, là cái nôi của yếu tố xã hội. Nhiều trí thức trước đây cũng có thời say mê chủ nghĩa cộng sản thì bây giờ người ta từ bỏ hết. Bây giờ người ta đấu tranh cho nhân quyền, dân quyền và vấn đề môi trường, đó mới thực sự là cuộc đấu tranh vì con người và cho con người. Do đó tôi nghĩ nên thành lập một cái đảng như vậy. Mà nó có điểm tích cực là trở thành một đảng đối lập, thành một kháng thể trong một cơ thể lành mạnh. Chứ nếu trong cơ thể mà không có kháng thể thì nó trở thành một con bệnh SIDA, khó mà giải quyết được, ngồi chờ chết thôi. RFI : Dạ như vậy đảng Cộng sản sẽ phải chấp nhận cái thách thức là sẽ phải cạnh tranh với các đảng đối lập khác? Đúng. Tức là đảng Cộng sản phải tự mình thấy rằng, nói thật, chưa có một thế lực chính trị nào lớn hơn đảng Cộng sản cả. Thành ra nếu anh tranh cử một cách bình đẳng, thì vẫn có thể thắng lớn trong các cuộc bầu cử. Bởi vì ở Campuchia, tuy bây giờ Sam Rainsy có nhích lên, nhưng mà không phải là đa số. Hay là ở (Việt Nam) mình chẳng hạn, tôi cho rằng vài ba chục năm nữa đảng Cộng sản vẫn là một thế lực chính trị lớn, không một lực lượng nào có thể tranh chấp được. Nhưng mà những đảng nhỏ ra đời sau sẽ trở thành lực lượng đối lập. Đó là một sự kềm hãm, một cái thắng đối với đảng cầm quyền. Như vậy qua cuộc bầu cử bình đẳng mà nếu đảng Cộng sản thắng thì càng có uy tín – dân người ta ủy nhiệm cho anh như vậy. Chứ bây giờ nói là lịch sử thế này thế kia nên bây giờ dân ủy nhiệm, thì tôi cho là không đúng, mà phải nhìn thông qua một cuộc bầu cử bình đẳng, được quốc tế giám sát như đang rất phổ thông hiện nay. Tôi nghĩ đó là xu thế phát triển tất yếu của loài người, và không thể đảo ngược được. Tôi chịu trách nhiệm khi phát biểu về những điều đó. Còn ai muốn làm gì tôi thì làm thôi ! Tôi sẵn sàng, không có vấn đề gì cả. Bởi vì mình ở tuổi này rồi, thì cái chết thật là hy sinh, phải có ý nghĩa ! Tôi nghĩ như vậy. RFI: Ông có viết là nhiều đảng viên đang muốn ra khỏi đảng, và đặt vấn đề tại sao không tuyên bố tập thể như vậy và thành lập một đảng mới. Điều này có vẻ là ảo tưởng trong xã hội Việt Nam hiện nay? Không, qua tiếp xúc nhiều thì đây là ý tưởng của nhiều người. Có nhiều người cũng đến gặp tôi và chán nản đòi ra khỏi đảng. Hoặc là (giấy chuyển) sinh hoạt đảng thì đem về không đưa cho địa phương mà bỏ vào ngăn kéo, coi như không sinh hoạt đảng nữa. Như vậy tại sao khi vào đảng thì (công khai), bây giờ anh nên công khai, tuyên bố đàng hoàng vì sao tôi ra khỏi đảng. Vì đảng này bây giờ họ đã phản bội lại những mục đích ban đầu về việc xây dựng một xã hội tốt đẹp, thực hiện lý tưởng mà một thời trai trẻ mình đã đổ biết bao xương máu mới giành được. Bây giờ như vậy thì mình tuyên bố công khai ra khỏi đảng, chuyện đó cũng bình thường. Mà không phải ảo tưởng đâu. Nếu cần thiết thì sẽ có nhiều đảng viên đồng tình với việc làm đó, nên tôi mới đề nghị như vậy. Và đã ra khỏi đảng thì phải thành lập một đảng mới. Tôi nghĩ đó là điều tất yếu. RFI: Nhưng sau nhiều thập kỷ đã quen chấp hành lệnh trên, Việt Nam dường như đang thiếu vắng những khuôn mặt lãnh tụ xứng tầm? Đúng. Nói chung là bây giờ đảng Cộng sản Việt Nam thiếu hẳn một lãnh tụ, hoặc là một vài người lãnh tụ có uy tín. Lãnh tụ là gì ? Thật ra đâu phải mình đòi hỏi gì cao. Vấn đề ở chỗ là phải đặt lợi ích đất nước, lợi ích Tổ quốc lên trên. Và nếu anh thể hiện được ý chí, nguyện vọng của quần chúng, thì lúc đó anh trở thành người lãnh đạo của dân, lãnh tụ của quần chúng. Chứ bây giờ anh vì lợi ích gọi là « đảng còn thì ta còn », hay « chế độ còn thì ta còn », mà chẳng nghĩ gì tới tình hình đất nước…Thực tế bây giờ đảng và chủ nghĩa Mác-Lênin đang trở thành một sự ngăn trở. Ví dụ ở Việt Nam đã gần bốn mươi năm thống nhất rồi. Lẽ ra với thời gian đó, nước người ta đã cất cánh từ lâu, công nghiệp phát triển rồi thế này thế kia…Nhưng bây giờ tình hình lại rất là bê bối. Đường sá tai nạn giao thông liên tục, rồi đạo đức xuống cấp. Tôi thấy trong y tế, cái vụ xét nghiệm ở Hà Nội ghê gớm thật ! Nó xuống cấp đến độ như vậy. Rồi giáo dục cũng vậy, cứ lò mò mãi không thấy lổi ra. Có thể nói là xuống cấp một cách toàn diện, khủng hoảng toàn diện ! Còn tất nhiên khi chấp nhận kinh tế thị trường thì nó tự điều chỉnh và có phát triển một hướng nhất định. Nhất là khi phát triển nóng do đất đai, do nạn tham ô…đủ thứ chuyện, rồi chia phần lại cho những người khác, thì có một bộ phận dân cư khá lên. Nhưng đại bộ phận dân chúng nhất là công nhân và nông dân thì bây giờ vẫn sống rất là khổ sở. Tất cả những cái đó tôi cho là trách nhiệm của chính quyền rất lớn. Anh gần như buông thả tất cả. Buông thả từ chỗ để cho Trung Quốc hoành hành ở Biển Đông như vậy, rồi vào Việt Nam, các miền rừng núi, và ngay cả đồng bằng sông Cửu Long cũng là Trung Quốc. Tôi nghĩ là hiểm họa bị xâm lược, tức là độc lập dân tộc bị đe dọa rất lớn. Những mục tiêu thời trai trẻ chúng tôi đấu tranh hiện nay đang bị phản bội lại. Do đó chúng tôi không thể nào ngồi yên để mà nhìn những gì mình đã đổ xương máu, đồng bào chiến sĩ mình đã đổ xương đổ máu… mà phải đứng lên đấu tranh để bảo vệ, bất chấp mọi hy sinh gian khổ. RFI: Theo ông thì vì sao Việt Nam không có được bao nhiêu chính khách vừa có bản lĩnh vừa có tư cách? Vì sao mà không có những chính khách, chính trị gia kiểu như (bà Aung San Suu Kyi) ở Miến Điện, hay là ông Mandela chẳng hạn? Một lãnh tụ của quần chúng, mấy chục năm tù tội, nhưng người ta chỉ làm một nhiệm kỳ, xong rồi giao cho người khác. Tôi nghĩ là do nền độc tài toàn trị nó ngăn cấm tất cả mọi cái, nhất là các quyền tự do. Vì vậy mà ai cũng sợ hãi cả. Do đó bây giờ nếu có những chính sách thì tôi biết rằng ở miền Bắc cũng như miền Nam có những con người rất tâm huyết, có kiến thức. Họ thật sự là những chính khách, nhưng họ vẫn còn rụt rè thôi. Thành ra trong những bài nói, tôi bảo là không có gì mà rụt rè. Hãy dấn thân đi! Trước đây có những vấn đề sống còn của đất nước, do tình hình thế giới và trong nước cũng vậy, mình nhận thức không đúng và mình ảo tưởng chạy theo chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội. Thế thì bây giờ tình hình thế giới và trong nước đã thay đổi. Bây giờ mình tự nhận thức lại hành động – hành động một cách cương quyết, chứ không thể cứ chần chừ. Từ cái hành động đó thì sẽ xuất hiện những chính khách, những thủ lãnh chính trị. Tôi nghĩ là hoàn toàn có khả năng đó. Và những người này trong các cuộc bầu cử tự do họ sẽ được dân tín nhiệm. Đó là con đường phát triển của một xã hội dân chủ và tiến bộ. RFI: Vừa ra khỏi một cơn bệnh nặng, nhưng những khát vọng của ông đối với đất nước không bị nguội lạnh mà chừng như lại cháy bỏng hơn. Ông có buồn lòng khi sau mỗi lần trả lời phỏng vấn, thỉnh thoảng lại có những lời bình chỉ trích khoảng thời gian hoạt động trước 1975 của ông cũng như bạn bè ông trong phong trào sinh viên thời đó? Nằm trong bệnh viện, như đã trình bày trong bài, tôi đã suy nghĩ, đọc một số bài báo rồi các nhà văn, nhất là những nhà văn quân đội như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu. Rồi qua chuyến đi của ông Chủ tịch nước Tư Sang, ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, tôi thấy có nhiều cái mình phải nói, và nói thẳng. Để cho các vị – nếu dùng chữ mở mắt thì hơi quá – nhưng mà để cho các vị ý thức được nên chọn lựa con đường nào cho dân tộc, để làm cho đất nước phát triển chứ không thể cứ trì trệ mãi như thế này. Không thể vì đảng, vì chế độ mà để đất nước như thế. Thành ra cuối cùng tôi nói một số trải nghiệm của tôi, là để chứng tỏ rằng chế độ toàn trị người ta chỉ đặt đảng lên trên Tổ quốc và đất nước. Cách đặt vấn đề như vậy hoàn toàn không được. Còn bây giờ có nhiều người cứ nói đúng sai trong quá khứ. Bây giờ tranh luận cái đó để làm gì? Trong khi phải đoàn kết lại với nhau, vì mục tiêu chung là xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh – trong đó có vấn đề tự do. Các quyền tự do của công dân phải được khôi phục lại, chứ không thể nào bị tước đoạt. Cần phải đoàn kết nhau lại, để từ chỗ nhận thức lại phải cùng nhau hành động, đấu tranh cho một đất nước Việt Nam như vậy mới là đúng. Chứ còn anh nói trước kia bên này đúng, bên kia là sai…có thể nói lúc đó một bộ phận loài người cũng đương có những cái ảo tưởng như vậy. Thành ra việc đó hãy để cho lịch sử phán xét, con cháu ngày sau sẽ phán xét. Cái gì đúng, sai thì những thế hệ sau sẽ nhận định. Còn bây giờ trước mắt phải cùng nhau đấu tranh để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. RFI: Xin chân thành cảm ơn luật gia Lê Hiếu Đằng, Phó chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thụy My ********************************************** Suy nghĩ của một người ngoài đảng về đa nguyên đa đảng ở Việt NamTôi sinh năm Nhâm ngọ 1942, tức là, cho đến lúc này (2013) đã hơn 70 năm sống trong chế độ toàn trị của một đảng độc quyền lãnh đạo đất nước. Ông nội tôi là thư ký (bưu chính) riêng cho Toàn quyền Đông Dương. Vậy mà năm 1946, nội tôi đã đem cả đại gia đình theo cụ Hồ, đi tản cư lên Phú Thọ kháng chiến chống Pháp. Sau hòa bình 1954, Pháp tuyên bố, ai xuống Hải Phòng, dù là đi kháng chiến, chính phủ Pháp vẫn trả đủ lương hưu 8 năm gián đoạn. Nhiều người khuyên ông nội tôi nên đi, vì đó là tiền nợ của Pháp đối với công chức đã phục vụ chính quyền Pháp…Nhưng ông nội tôi nói: nước nhà độc lập rồi, dù ăn cháo cũng sướng, không cần đi! Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa lúc đó, rõ ràng đồng nghĩa với dân tộc độc lập. Rõ ràng, Đảng Cộng sản (lúc đó mang tên Đảng Lao động) đồng nghĩa với chính nghĩa: Đảng có chính danh để cai trị đất nước. Sẽ có người đặt câu hỏi, có lẽ trường hợp của ông nội tôi là cá biệt? Xin hỏi lại: vậy những nhà trí thức lỗi lạc Việt Nam lúc đó như Nguyễn Hữu Thọ, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Khắc Viện…và hàng triệu nông dân, công nhân, nhà buôn khác đã theo tiếng gọi của cụ Hồ đi kháng chiến thì có là cá biệt không? Sau hòa bình 1954, mỗi khi lễ, tết, gia đình họ Lê Phú nhà tôi đoàn tụ thì nhìn trước nhìn sau đâu cũng thấy đảng viên. Có lẽ, chỉ có mấy cái cột nhà và tôi là ngoài đảng! Tôi thừa biết, sống trong một xã hội đảng trị, đảng cầm quyền tuyệt đối, ai đứng ngoài đảng thì không có quyền gì cả. Và đương nhiên đã không có quyền thì không có gì cả! Khi Liên Xô tiến hành cải tổ, có một nhà tư bản Mỹ sang nghiên cứu đất nước của Cách mạng tháng 10, ông ta nói: ở nước Mỹ, có tiền là có tất cả còn ở Liên Xô thì có quyền là có tất cả! Vì thế, ở xã hội miền Bắc Việt Nam trước năm 1975 và sau này cũng thế, hầu như ai cũng muốn vào đảng để “có tất cả!” Ở cơ quan tôi làm việc, có vị lãnh đạo khuyên tôi nên tham gia sinh hoạt cảm tình đảng để rồi vào đảng. Tôi thành thật nói với vị lãnh đạo đáng kính đó thế này: anh thấy đấy, đến cậu lái xe ở cơ quan cũng phấn đấu vào đảng để được làm tổ trưởng tổ lái xe. Vậy không lẽ tôi không muốn làm trưởng phòng, trưởng ban biên tập, làm giám đốc…để tết đến cả phòng, cả ban, cả cơ quan ai ai cũng có quà tết cho lãnh đạo…mà vợ con tôi cũng giống như vợ con người khác. Tết đều muốn có quà, muốn chồng có lương cao, đi làm có xe đưa, xe đón!!! Nghe xong vị lãnh đạo đó …yên lặng không nói gì nữa! Đấy là tôi trả lời cho qua chuyện. Mà nguyên nhân sâu xa khiến tôi không vào đảng vì tôi đã sớm nhận ra, xã hội đảng trị là một xã hội độc thoại, không có chân lý. Nhìn lại lịch sử, xã hội phong kiến Trung Quốc và Việt Nam trong mấy nghìn năm bị cái vòng kim cô của Khổng Giáo nhốt chặt vào tư tưởng “phò chính thống” (Nguyễn Kiến Giang). Bàn dân thiên hạ cũng như tầng lớp nho sỹ trí thức chỉ biết vâng lời người trên. Người ta đi học là để làm quan, để được quỳ lậy trước ngai vàng. Chỉ có bề trên đúng. Không được cãi lại bề trên. Xã hội phong kiến đó lại được tiếp nối bằng chế độ đảng trị với khẩu hiệu “tập trung dân chủ”, thì cái vòng kim cô độc thoại ấy càng siết chặt hơn bao giờ hết. Tập trung dân chủ là một trò bịp, là dân chủ với một số người lãnh đạo chóp bu, áp đặt cho kẻ dưới. Đại hội đảng nhiệm kỳ nào cũng nêu khẩu hiệu “dân chủ”. Nhưng nhân sự của ban chấp hành mới lại do một nhóm người ở ban chấp hành cũ “giới thiệu”. Mà đã được “giới thiệu” thì coi như đã trúng cử. Vì thế đến đại hội 10, ông Võ Văn Kiệt đã nêu ý kiến: đại hội quyết định số phận của đảng, chứ không phải ban chấp hành cũ quyết định số phận của đại hội. Ý kiến của ông Kiệt như “nước đổ lá khoai”. Ở Trung Quốc, tướng Lưu Á Châu nổi tiếng, có kể câu chuyện đại ý như sau: khi ông ta theo học một lớp chính trị, thấy thầy nói không đúng. Trò Lưu Á Châu phát biểu phản bác lại ý của thầy. Nghe xong ông thầy nói lớn: ai cho phép anh cãi lại tôi? Thế là đã rõ. Ông tướng họ Lưu chỉ muốn nêu lên cái câu nói của ông thầy là “tại sao anh dám cãi lại tôi?” chứ ông thầy không hỏi “vì sao anh lại nói như thế?” Trong tư duy cố hữu của ông thầy, bất cứ anh nói gì (không kể đúng, sai) tôi không cần biết. Chỉ có một nguyên tắc là không được “cãi lại tôi”. Thế thôi. Không được cãi lại thầy, cãi lại bề trên, đó là cái lô-gích từ nghìn xưa của tư duy phong kiến Khổng-Mạnh được nhân lên gấp ngàn lần trong xã hội đảng trị. Trong khi đó, ở phương Tây, hàng trăm năm trước Công nguyên nhà triết học lừng danh Aristote đã tuyên bố: Platon là thầy tôi, nhưng chân lý còn quý hơn thầy! Tư duy “chân lý quý hơn thầy” đã đưa xã hội phương Tây đến văn minh. Còn tư duy “không được cãi lại tôi” đã dìm xã hội phương Đông trong mê muội mấy nghìn năm. Từ lúc còn mài đũng quần trên ghế nhà trường phổ thông, nhờ đọc sách triết học, tôi đã ngưỡng mộ Aristote nên đi theo con đường đối thoại, xa lánh những người độc thoại. Vì thế, tôi đã nhiều lần từ chối vào đảng độc thoại này. Tôi nhớ vào cuối năm 1978, tại nhà hát lớn Hà Nội đã diễn ra hội nghị khoa học kỹ thuật toàn quốc. Với nhiệm vụ là phóng viên Đài Truyền hình trung ương ( nay là Đài THVN), tôi đến dự để đưa tin. Khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến, cả đại hội đã đứng dậy vỗ tay theo kiểu đại hội (tức là vỗ tay vang dậy, theo nhịp). Ông Thủ tướng đã chỉ đạo, Việt Nam làm khoa học theo cách của Việt Nam, là đi tắt đón đầu như Cù Chính Lan (cắt rừng mà đón đầu xe tăng để đánh)…Ông tuyên bố thật hùng hồn: Việt Nam sẽ đi tắt, đón đầu, đuổi kịp và vượt phương Tây trong vòng mươi, mười lăm, hai mươi năm… Cả hội trường lại vỗ tay rào rào….duy chỉ có một đại biểu nữ lên diễn đàn nói trái ý Thủ tướng. Chị ở Tổng cục khai hoang. Khi thấy trái ý mình, là người ngồi chủ trì hội nghị, Thủ tướng liền rung chuông …chị vẫn nói…lại rung chuông, chị quay hẳn về phía chủ tịch đoàn dõng dạc: chính phủ giao kế hoạch khai hoang rộng đến 50 vạn ha thì phải nói dài….lại rung chuông…Nhưng chị vẫn nói cho hết ý của mình mới chịu xuống. Đến giờ giải lao, mọi người vây quanh chị. Có người nói: chị gan quá, Thủ tướng rung chuông nhiều lần mà không chịu xuống. Chị nói: các anh là đàn ông nên nhiều tham vọng. Tôi là phụ nữ không có tham vọng gì nên tôi phải nói thẳng nói thật! Chị đã chửi thẳng vào mặt đám trí thức “phò chính thống” để kiếm danh vị, kiếm cái ghế, kiếm miếng ăn. Năm 1996, tôi lại gặp ông Phạm Văn Đồng ở tỉnh ủy Hậu Giang , tức là 18 năm sau ngày ông phát biểu chỉ đạo Hội nghị khoa học toàn quốc ở Hà Nội ( chỉ còn 2 năm nữa là hết hạn Việt Nam đi tắt đón đầu, đuổi kịp và vượt phương Tây). Lúc ấy ông đang ngồi cạnh ông Nguyễn Hà Phan, trên mặt là chiếc kính đen khá to, tôi định vào gặp và nhắc ông câu chuyện “ đuổi kịp và vượt phương Tây” năm nào, xem ông trả lời ra sao? Nhưng thấy ông ngồi bất động như một pho tượng…nên tôi lặng lẽ đi giật lùi. Đất nước được lãnh đạo bởi những con người mắc bệnh kiêu ngạo cộng sản, chủ quan hết sức vô lối và hoang đường như thế…nhưng không hề có đối thoại, đối lập trong tranh biện để tìm ra chân lý, tìm ra hướng đi nên ngày càng lạc lõng, càng lụi bại. Lạc hậu còn mong có ngày tiến bộ chứ lạc lõng thì vô phương! Đến bây giờ thì nền độc lập dân tộc mà chúng ta có ngày hôm nay, nhân dân ta đã phải giành lấy bằng núi sông xương máu, cũng đang bị anh bạn 16 chữ vàng và 4 tốt đe dọa hàng ngày hàng giờ. Nanh vuốt của anh bạn 4 tốt đang ngày càng cắm sâu vào cơ thể Việt Nam. Nọc độc của nó đang phân hủy từng tế bào Việt Nam bằng hàng giả, hàng độc. Nguy cơ Bắc thuộc đã rõ như ban ngày. Bây giờ thì đất nước của chúng ta rừng đã phá hết. Rừng đầu nguồn thì cho Trung Quốc thuê dài hạn 50 năm. Tài nguyên dưới lòng đất đã khai thác cạn kiệt. Biển thì thỏa thuận để Trung Quốc cùng khai thác và đánh cá chung. Mái nhà của đất nước là Tây Nguyên thì Trung Quốc đã ngồi chễm trệ trên đó. Kinh tế quốc doanh là chủ đạo thì đã sụp đổ tan tành với các tập đoàn Vinashine, Vinalines, Than và Khoáng sản…Kinh tế tư nhân cũng đang phá sản. Sự suy thoái đạo đức, tham nhũng, hối lộ “sờ đâu cũng thấy, nhìn đâu cũng có” như ông TBT Nguyễn Phú Trọng đã thừa nhận. Cả xã hội lấy dối trá làm lẽ sống. Lãnh đạo thì “nói dối lem lẻm, nói dối lỳ lợm, nói dối không biết xấu hổ, nói dối không biết khiếp sợ” (Nguyễn Khải- Đi tìm cái tôi đã mất). Bây giờ đã là 35 năm so với cái hạn định 20 năm của người đứng đầu chính phủ “đuổi kịp và vượt phương Tây” chẳng thấy đâu mà thực tế thì còn tụt hậu xa so với các nước trong khu vực. Chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước đứng bên bờ vực thẳm. Vụ nhân bản xét nghiệm ở bệnh viện Hoài Đức Hà Nội vừa qua là một báo hiệu sự suy thoái đạo đức, lương tâm của con người trong chế độ XHCN đã đến điểm đỉnh, vượt ra ngoài sức tưởng tượng của nhân loại lương thiện. Nguyên nhân của tất cả nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên của đất nước hôm nay là chế độ độc thoại, là sự cai trị độc tài của một đảng, một mình một chợ, vừa đá banh vừa thổi còi. Những thiết chế dân chủ mà loài người đã đi hàng ngàn năm để tìm thấy và có được như quốc hội dân bầu, pháp luật độc lập, báo chí tự do…thì ở xã hội toàn trị như Trung Quốc và Việt Nam chỉ là những trò hề, là sự lừa gạt trắng trợn. Từ chỗ đang là chính danh, nay đảng cầm quyền đã mất hết tính chính danh, chỉ còn có thể cai trị bằng dùi cui, roi điện, nhà tù để “đá câu giờ” và tồn tại. Chính quyền của đảng đã phải dùng đến lũ côn đồ đội lốt “thương binh”, “quần chúng tự phát” để hỗ trợ công an đàn áp dân chủ, khủng bố quần chúng đòi dân sinh…. Trong bối cảnh ấy, sự ra đời của một đảng đối lập, lại do chính những người đảng viên trung kiên tách ra thành lập, chủ trương đối thoại ôn hòa là một phúc lớn cho đảng đương cầm quyền. Từ nay, đảng độc thoại có một lực lượng kiềm chế, uốn nắn những sai lầm. Từ nay trong ngôi nhà độc thoại, xưa nay không ai rửa mặt, thì nay có một cái gương to để người ta nhìn thấy vết nhọ trên mặt mình mà lau rửa. Cuộc tập dượt dân chủ này không dễ dàng nhưng hòa bình để cạnh tranh. Nếu thắng, đảng cầm quyền có chính danh để tiếp tục cầm quyền sau một cuộc bầu bán dân chủ trong cả nước. Nếu không thắng thì chí ít cũng là rút lui trong danh dự để tiếp tục thi đua hòa bình trong một nhiệm kỳ khác. Tiến sỹ Nguyễn Xuân Tụ ( Hà Sỹ Phu) có nói một câu đầy ấn tượng: con đỉa là một con vật đơn bào. Nó tồn tại từ thời hồng hoang của lịch sử đến nay. Nhưng chỉ tồn tại trong cống rãnh. Muốn nên người, nó phải là một con vật đa bào. Là một người ngoài đảng, một công dân, tôi mừng cho đất nước, mừng cho đảng cầm quyền có lối ra khỏi cảnh lạc lõng mà lối ra ấy chính là sự ra đời của một tổ chức ôn hòa, một đảng có cùng “lý lịch” với đảng cầm quyền…Cầu mong cho tương lai tươi sáng của đất nước ! Sài Gòn 8/2013 Lê Phú Khải
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Aug 22, 2013 3:57:38 GMT 9
Lê Hiếu Đằng: Những điều nói rõ thêm…Sau khi bài viết Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh của tôi và bài viết Phá xiềng của nhà báo Hồ Ngọc Nhuận đăng tải trên các trang mạng, một số bạn bè, đồng đội, nhân sĩ trí thức, nhà báo…, hoặc qua điện thoại hoặc gặp trực tiếp tôi đặt một số vấn đề, khiến tôi thấy cần làm rõ thêm về những suy nghĩ của mình. Trong tình hình đặc biệt cần có những biện pháp đặc biệt, những liệu pháp “sốc” để đẩy nhanh quá trình phát triển theo chiều hướng dân chủ, tiến bộ để hội nhập thực sự vào dòng chảy hiện nay trên thế giới. Tôi còn nhớ cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói ý này trong một cuộc gặp gỡ với một số nhân sĩ, trí thức và anh em trong phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh trước năm 1975, được thường xuyên tổ chức vào ngày 30 tháng 4 hàng năm – ngày mà theo cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt “có triệu người vui, có triệu người buồn”. Thế thì tình hình đặc biệt hiện nay là gì? Có thể nói một cách khái quát là Việt Nam đang rơi vào một cuộc tổng khủng hoảng sâu sắc và toàn diện trên tất cả các lãnh vực mà nhiều chuyên gia, nhiều nhân sĩ, trí thức, nhà báo trong cũng như ở nước ngoài đã phân tích. Tôi chỉ xin nêu một số tình hình sau đây. Nền kinh tế của chúng ta đang trên bờ vực thẳm do nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân chủ yếu là do sự lãnh đạo và điều hành yếu kém của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đặc biệt, những tập đoàn, những nhóm lợi ích đang càng ngày lũng đoạn, chi phối nhà nước một cách nghiêm trọng; tệ nạn tham nhũng, lãng phí tràn lan không thể nào ngăn chận, làm thất thoát không biết bao nhiêu của cải, tài sản của nhân dân. Về vấn đề này, nhiều bài báo, nhiều phát biểu của các chuyên gia kinh tế trong nước và ở nước ngoài đã phân tích một cách sâu sắc với những cứ liệu cụ thể, tôi không nói gì thêm. Đạo đức xã hội, trong đó những giá trị truyền thống của dân tộc, của gia đình bị xoáy mòn dữ dội trước lối sống thực dụng, giả dối, chạy theo chức vụ, đồng tiền của đông đảo cán bộ, đảng viên và một bộ phận nhân dân. Đặc biệt hai lãnh vực liên quan đến sự hình thành nhân cách và thể chất con người là giáo dục và y tế ngày càng bị thương mại hóa một cách tàn nhẫn, nên đã xuống cấp nghiêm trọng và toàn diện, không phương cứu chữa. Sự phân hóa xã hội giàu nghèo ngày càng dữ dội. Một bộ phận nhỏ giàu lên nhờ tham nhũng, buôn lậu, mua quan bán tước. Còn đại bộ phận nhân dân, nhất là nông dân, công nhân, những người lao động, cuộc sống vô cùng khó khăn, mất đất mất nhà, phải ly hương khắp nơi, đôi lúc phải cho con em đi lao động nước ngoài như một lối thoát cho gia đình. Thậm chí một số nữ thanh niên rơi vào những địa ngục lao động tình dục đầy thương tâm, mất đi phẩm giá, danh dự của những công dân Việt Nam mà nhà nước phải có trách nhiệm bảo hộ. Đảng Cộng sản Việt Nam đang rơi vào tình trạng khủng hoảng về lý luận và đường lối nghiêm trọng, với một nền “chính trị cường quyền” – chữ mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ám chỉ đường lối chính trị của Trung Quốc hiện nay nhưng đau xót thay, lại được áp dụng triệt để cho nhân dân Việt Nam. Vì vậy Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng xa dân, mất lòng dân, không có khả năng tự điều chỉnh, thay đổi. Với kinh nghiệm của một người hoạt động trong hệ thống chính trị hiện nay dưới sự lãnh đạo “toàn diện và tuyệt đối” của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhiều năm, tôi xin chứng minh khả năng tự điều chỉnh, thay đổi của Đảng Cộng sản Việt Nam là không có, hoặc nếu có thì phải có những điều kiện nhất định. - Lúc tôi còn là Phó Chủ tịch thường trực và là Ủy viên Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP HCM, có buổi làm việc với ông Lê Quang Đạo, lúc đó là Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ông Phạm Văn Kiết (Năm Vận), Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký của Mặt trận Trung ương. Trong cuộc họp, hai ông đặt vấn đề: Trong hệ thống chính trị hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức chính trị xã hội rộng lớn bao gồm nhiều giai cấp, nhiều tôn giáo, dân tộc (theo điều lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) cần phải giữ vai trò “đối trọng” để giám sát chính quyền, ngăn chận khuynh hướng độc đoán, bè phái, tham nhũng. Hai vị nói rất say sưa về vấn đề này. Tôi và các vị trong Đảng đoàn và Ban Thường trực Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP HCM rất phấn khích, đồng tình. Nhưng một thời gian sau, được biết chủ trương về vai trò “đối trọng” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã bị phê phán kịch liệt và có lệnh không được phép nhắc lại nữa. Ông Lê Quang Đạo cũng được cho về nghỉ vì đã dám có chủ trương nói trên. - Cách đây vài năm, lúc ông Phạm Thế Duyệt, nguyên Thường trực Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, làm Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cũng có một đề án “Về vai trò giám sát và phản biện xã hội Việt Nam” gởi qua Ban Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng đề án này cũng bị xếp xó cùng với luật lập hội… - Gần đây nhất là qua việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đề nghị 7 điểm và bản dự thảo một hiến pháp mới, Hiến pháp năm 2013 của 72 nhân sĩ trí thức của cả nước đã được hàng vạn người ký tên đồng tình ủng hộ và những ý kiến có thể gọi là “tiến bộ” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội đồng chính phủ đều bị lờ đi và dự thảo lần thứ tư trình trước Quốc hội vừa rồi có những điều còn lạc hậu thụt lùi hơn cả Hiến pháp năm 1992, nhất là quyền sở hữu đất đai, vấn đề lực lượng vũ trang. Về bản dự thảo lần thứ tư này, 40 vị nhân sĩ trí thức đã ra tuyên bố phê phán thẳng thừng, không còn nói một cách tế nhị như trong đề nghị 7 điểm, mà nói thẳng phải bỏ điều 4 Hiến pháp, phải thực hiện chủ trương đa nguyên đa đảng, phải thay đổi thể chế, v.v. Phải nói đây là những ý kiến quyết liệt nhất từ trước đến giờ của các nhân sĩ trí thức trong cả nước. Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không nghe, như trước đây họ đã không nghe những ý kiến tiến bộ và rất xây dựng của những người đã từng đảm đương những trọng trách trong Đảng và nhà nước như Trung tướng Trần Độ, Trung tướng Đặng Quốc Bảo, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị và nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, và nhiều người nữa. Họ dùng phương châm làm ngơ, không nghe, không thấy để tiếp tục củng cố Đảng, ngỏ hầu “một mình một chợ” muốn làm gì thì làm, đưa đất nước đến bờ vực thẳm. - Ngoài những sự kiện trên, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam là tạo ra một tầng lớp cán bộ, một loại “giai cấp mới” với nhiều đặc quyền đặc lợi để vì lợi ích cá nhân và gia đình mà sống chết bảo vệ chế độ. Chủ trương phát triển Đảng trong trường học là minh chứng cho việc này. Cho phát triển Đảng trong các trường trung học, đại học sẽ phá vỡ môi trường sư phạm, làm xấu đi quan hệ giữa thầy và trò. Trong một trường học, một lớp học thầy ngoài Đảng còn trò là đảng viên thì còn thể thống gì trong quan hệ giữa thầy và trò. Đoàn Thanh niên Cộng sản là lực lượng “kềm kẹp” học sinh sinh viên mà việc một số sinh viên trường Đại học Luật lập blog “Bảo vệ công lý cho Đoàn Văn Vươn” bị Đoàn Thanh niên Cộng sản của trường này dùng nhiều biện pháp ngăn cản, đe dọa là một ví dụ. Hoặc hiện nay con đường tiến thân của thanh niên để leo nên những nấc thang quyền lực, nấc thang xã hội là về phường xã công tác, vo tròn, luồn cúi, vân vân, dạ dạ để được kết nạp vào Đảng – bước đầu tiên để họ tiến thân vào nấc thang danh vọng. Họ biết rằng trong chế độ hiện nay không đảng viên là không được cất nhắc đảm nhận những chức vụ quan trọng cho họ có quyền hành để nhận quà cáp, hối lộ. Nhiều quan chức giữ vai trò chủ chốt trong chính quyền của TP HCM hiện nay là từ con đường này mà đi lên. Vì vậy trình độ của họ rất kém, thiếu hẳn văn hóa cơ bản, chẳng biết gì về xã hội nhân sự, xã hội công dân, tuyên ngôn Nhân Quyền và các nền văn hóa, triết học của thế giới, nền tảng của tri thức nhân loại hiện nay. - Điều nghiêm trọng hiện nay là nền Độc lập Dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ mà đồng bào, chiến sĩ chúng ta qua nhiều thế hệ đã hy sinh biết bao xương máu mới giành lấy được, nay bị đe dọa nghiêm trọng bởi nhà cầm quyền Bắc Kinh mà bản chất bành trướng, xâm lược không hề thay đổi. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhượng bộ nhiều trong hội nghị Thành Đô năm 1990. Đây là cơ sở cho chánh quyền Bắc Kinh mưu toan độc chiếm Biển Đông, thực tế là đã chiếm hẳn Hoàng Sa và một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của chúng ta và nay vẫn tiếp tục ngang ngược bắt bớ, truy đuổi cướp bóc ngư dân của chúng ta đang đánh bắt trong những ngư trường truyền thống. Thật là khó hiểu khi Đảng và nhà nước Việt Nam cho Trung Quốc triển khai lực lượng, tuy gọi là dân sự dưới chiêu bài các dự án kinh tế, ở các vùng chiến lược trọng điểm như Tây Nguyên, các vùng rừng núi phía Bắc, miền Trung và đến cả Cà Mau của đồng bằng sông Cửu Long. Họ biến những khu vực đó thành vùng riêng của họ, không cho người Việt Nam bén mảng vào. Một khi có biến, “đạo quân thứ 5” này sẽ là một lực lượng làm chúng ta không kịp trở tay mà kinh nghiệm trong những ngày đầu cuộc xâm lược của bành trướng Bắc Kinh năm 1979 ở các tỉnh biên giới phía Bắc là những kinh nghiệm đầy máu và nước mắt của cán chiến sĩ, đồng bào ta. Càng khó hiểu hơn khi Đảng và nhà nước Việt Nam lại cấm hoặc lờ đi trong một thời gian rất dài việc tổ chức các ngày tưởng niệm những người đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ tổ quốc này. Những điều nêu trên chứng minh rằng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đã không còn là đảng cách mạng như trước đây nữa, mà đang trở thành yếu tố ngăn cản sự phát triển của đất nước, đưa đất nước chúng ta vào một cuộc tổng khủng hoảng toàn diện chưa có lối ra. Gần 40 năm là thời gian quá đủ cho một nước “cất cánh” như các nước trong khu vực. Chủ trương đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản và chủ nghĩa lý lịch cùng với việc không thực tâm thực hiện chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc, làm hạn chế sức mạnh đoàn kết dân tộc, một yếu tố cực kỳ quan trọng để phát triển đất nước cũng như để chống lại sự bành trướng của bọn xâm lược Bắc Kinh. Tôi và nhiều bạn bè đồng đội khác cho rằng nguyên nhân chính là vai trò độc đảng của Đảng Cộng sản, không có những lực lượng xã hội khác thực sự làm đối lập, đối trọng để giám sát, ngăn chận sự lạm quyền, lộng quyền và các chủ trương chính sách của Đảng Cộng sản đi ngược lại lợi ích của quần chúng, của đất nước. Vì vậy đã đến lúc phải đẩy mạnh sự phát triển của xã hội dân sự, xã hội công dân, trong đó có các tổ chức chính trị độc lập và cùng tồn tại với Đảng Cộng sản và đấu tranh qua các cuộc bầu cử công khai hợp pháp có sự quan sát của quốc tế. Sự ra đời của Đảng Dân chủ Xã hội hay một đảng hợp pháp nào đó là lẽ đương nhiên, phù hợp với sự phát triển hiện nay của một nước dân chủ thực sự. Đây là biện pháp đặc biệt để giải quyết một tình hình đặc biệt dù cho có gây “sốc” đối với đảng cầm quyền hiện nay. Việc rời bỏ hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam của nhiều đảng viên vừa qua cũng như hiện nay là để không còn ràng buộc gì nữa với 19 điều cấm đảng viên, tước đoạt một số quyền công dân cơ bản, mà Đảng Cộng sản đã tùy tiện đặt ra, để trở thành những công dân tự do. Sau năm 1975 trong giới công giáo có một bài hát rất hay “Trước khi là người công giáo tôi đã là người Việt Nam”. Trước khi trở thành đảng viên Cộng sản, chúng tôi là người Việt Nam. Dù quá khứ như thế nào, khuynh hướng ra sao, chúng ta đều là người Việt Nam, đều có chung một mục đích là đấu tranh để xây dựng một nước VIỆT NAM ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC. Vậy tình hình đã chín muồi để đặt vấn đề này chưa? Một số người đặt vấn đề với tôi như vậy. Tôi và nhiều người nữa thấy tình hình đã chín muồi, khẩn cấp lắm rồi, nếu không tích cực giải quyết thì Việt Nam sẽ rơi vào cuộc tổng khủng hoảng triền miên, không loại trừ nguy cơ sụp đổ, nhất là trước áp lực ngày càng nặng nề của Trung Quốc, một nước láng giềng rất tráo trở, muốn biến nước ta thành một bộ phận, hoàn toàn phụ thuộc họ. Đây là nguy cơ thực sự. Còn giải thiết rằng tình hình chưa chín muồi thì lại càng phải đấu tranh để nhanh chóng thay đổi thể chế, từ chế độ độc tài toàn trị sang chế độ Dân chủ Cộng hòa, phát triển xã hội dân chủ, xã hội công dân với những lực lượng chính trị độc lập để qui tụ quần chúng ngõ hầu đấu tranh kềm chế, giám sát đảng cầm quyền một cách có hiệu quả. Nếu chưa chín muồi thì chúng ta chủ động làm cho nó chín muồi, chứ chẳng lẽ khoanh tay thụ động ngồi chờ cho nó chín muồi sao? Không thể có thái độ ngồi chờ sung rụng như vậy được. Chúng ta đã ngủ một giấc ngủ dài, làm ngơ trước những cái ác, cái xấu, cái bất công. Trước nỗi khổ của những người dân mất tự do, mất nhà, mất đất, chúng ta phải thức tỉnh, không thể chần chừ được nữa. Để đất nước rơi vào tình hình hiện nay có phần trách nhiệm của giới “sĩ phu”. Vậy đã đến lúc giới sĩ phu trong cả nước phải lãnh trách nhiệm đứng lên, dõng dạc và hiên ngang đi đầu trong cuộc đấu tranh này. Chẳng lẽ chúng ta không thấy xấu hổ trước tấm gương sinh viên Phương Uyên, người con gái 21 tuổi trong phiên xử của tòa án phúc thẩm tại Long An vừa qua hay sao? Trước áp lực của xã hội, của quần chúng, tòa án phúc thẩm buộc phải xem xét lại bản án và Phương Uyên được trả tự do ngay tại tòa. Đây là một kết quả ngoạn mục, ít ai nghĩ đến. Nếu chúng ta cứ thụ động ngồi chờ cho tình hình chín muồi thì chắn hẳn bản án sẽ khác đi. Bất cứ cuộc đấu tranh nào, qui luật chung là đều có những “đột phát khẩu” để phá rào cho quần chúng tiến lên. Sẽ có hy sinh mất mát nhưng chúng ta phải chấp nhận. Một vấn đề nữa là quá trình ra đời và phát triển một tổ chức chính trị, kể cả một đảng chính trị, không thể một ngày một bữa mà có ngay. Đọc bài viết Phá xiềng của nhà báo Hồ Ngọc Nhuận, nhiều người hỏi là Đảng Dân chủ Xã hội đã có trên thực tế chưa. Thực ra bài viết của nhà báo Hồ Ngọc Nhuận chỉ nêu ra một ý tưởng để mọi người cùng suy nghĩ. Chứ thực ra việc thành lập một tổ chức chính trị nào, kể cả Đảng Dân chủ Xã hội, đều phải theo một qui trình nhất định. Chúng ta chủ trương đây là một việc làm công khai, hợp pháp nên trước tiên phải thành lập một ban vận động để sơ thảo cương lĩnh, điều lệ để có cơ sở cho các tầng lớp nhân dân hiểu rõ tổ chức này như thế nào, đường hướng ra sao để ủng hộ hoặc không ủng hộ và cũng là cơ sở khi đăng ký với chánh quyền để họ xem đây có phải là một tổ chức khủng bố, phản động, như ngôn ngữ hiện nay họ thường dùng, hay không hay đây là một tổ chức có đường hướng tuy khác với Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng không có gì đi ngược lại lợi ích của đất nước, của dân tộc, có thể cùng song song tồn tại với Đảng Cộng sản và các tổ chức chính trị khác. Chủ trương của chúng ta là hòa bất bạo động, chống lại các hành động quá khích, khủng bố, vũ trang lật đổ. Chúng tôi tin rằng việc làm đúng đắn của chúng ta sẽ được sự ủng hộ của đông đảo các tầng lớp quần chúng, tuy bây giờ là đa số “thầm lặng”, những đến một lúc nào đó có điều kiện sẽ trở thành một lực lượng đấu tranh hùng hậu để xây dựng một nước VIỆT NAM HÒA BÌNH, ĐỘC LẬP, THỐNG NHẤT, TIẾN BỘ XÃ HỘI VÀ VĂN MINH, một khát vọng sâu xa mà nhiều thế hệ cha ông chúng ta đã mơ ước. Cho nên đây là một quá trình vận động. Hiện nay chúng ta đang trong quá trình vận động. Những điều tôi viết trong bài này cũng như bài Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh là lời tâm huyết mà tôi đem cả tim óc để bộc bạch cho bạn bè, đồng đội và những người đã cùng nhau chiến đấu trước hoặc hiện nay, cũng như những người chưa quen biết trong và ngoài nước. Bệnh tôi chưa biết sẽ diễn biến ra sao, nhưng tôi hạnh phúc được nhiều người – kể cả có vị lãnh đạo cao của Đảng, Nhà nước – thăm hỏi, chăm sóc, có người còn cho những loại thuốc quý. Trong tình hình bất an hiện nay, nếu biết đâu tôi bị một tai nạn nào đó thì xin mọi người xem đây như những gì tôi để lại cho những người thân trong gia đình, những người mà tôi thương yêu, cho bạn bè, đồng đội và cho đời. Đó là tâm nguyện của tôi, rất mong mọi người hiểu cho. Sài Gòn, ngày 18 tháng 8 năm 2013 Lê Hiếu Đằng ******************************************* Một chiếc xe benKhi bệnh tật người ta thường yếu đuối. Ông Lê Hiếu Đằng lại khác. Trong “những ngày nằm bệnh” vừa qua, nhân vật này bỗng chợt cảm thấy có sự “thôi thúc … phải thanh toán, tính sổ lại tất cả…những trải nghiệm cay đắng mà” mình “cùng nhiều bạn bè nữa trong phong trào học sinh sinh viên trước 1975 đã chịu đựng… sau hơn 45 năm chiến đấu trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam, với 45 tuổi Đảng.” Tuổi đảng của Lê Hiếu Đằng, rõ ràng, không ngắn. Tuổi đời của ông chắc chắn, cũng hơi dài. Và những trải nghiệm cay đắng, tất nhiên, không ít. Qua hàng chục trang giấy ghi lại những “suy nghĩ miên man” của Lê Hiếu Đằng, tuy thế, độc giả vẫn tìm được “một kỷ niệm” mà ông mô tả là “khó quên” và (tương đối) cũng … ngọt ngào: “…tôi đã từng tham gia phong trào đấu tranh Sinh viên học sinh Huế lúc còn học đệ nhị, đệ nhất Quốc học Huế và đã từng bị bắt giam ở lao Thừa Phủ Huế gần một năm với Lý Thiện Sanh (nay là bác sĩ định cư ở Úc). Vì chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó nghĩ tôi là thành viên của Đoàn TN nhân dân Cách mạng Miền Nam. Nhắc đến đây tôi có một kỷ niệm khó quên: ba tôi và mẹ Lý Thiện Sanh nóng lòng vì đã đến kì thi Tú tài II nhưng chúng tôi vẫn bị nhốt trong tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú họa xin hai chúng tôi ra thi. Thế mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải quyết cho ra thi.” Cách “giải quyết” của “chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó” thiệt là dễ dãi, và hơi thiếu tinh thần pháp trị. Cái “truyền thống nhân trị” này kéo dài (lai rai) suốt thời ông Diệm qua tới thời ông Thiệu, ở miền Nam. Ngày 26 tháng 10 năm 1966, ông Trần Minh Tiết – Bộ Trưởng Tư Pháp của thời Đệ Nhị Cộng Hòa – ra lệnh thả ông Trần Kim Tuyến dù điều này không được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tán thành. Không riêng gì Nguyễn Văn Thiệu mà cả Nguyễn Khánh (trước đó) cũng muốn bắt giam ông Tuyến – một nhân vật thực sự nguy hiểm cho bất cứ chế độ nào mà ông ta không cộng tác. Tuy nhiên, cả hai đều không làm được điều này giản dị chỉ vì nó … vi hiến. Là nhân vật quan trọng thứ III của chế độ cũ, không phải là lý do để (đương nhiên) phải vào tù nếu không có bằng chứng buộc tội: “Ông Trần Minh Tiết chiếu theo biên bản phiên họp nội các, ra lệnh thả ông Tuyến. Giám đốc Chí Hòa là đại tá Luyến cũng quen biết ông Tuyến nên bảo bà Tuyến: - Đúng ra, khi có lệnh tha của tòa, tôi phải đưa ông bác sĩ trả lại cho công an làm thủ tục, rồi mới cho về. Nhưng vì ông đang đau, bà cứ lãnh về đi…” (Vĩnh Phúc. Những Huyền Thoại Và Sự Thực Về Chế Độ Ngô Đình Diệm. Văn Nghệ, Westminster, CA:1998). Cách hành xử của Nhà Nước Pháp Quyền Cách Mạng thì có phần (hơi) khác – theo như lời tường thuật của người tù Kiều Duy Vĩnh: “Mẹ tôi đến Bộ Công An ở phố Trần Bình Trọng hỏi về anh con bị tù. Gác cửa không cho vào. Nhưng từ nhà tôi ở chợ Hôm ra hồ Thiền Quang chưa đến 1 km nên hầu như liên tục khi nào mẹ tôi đi đâu là mẹ tôi lại tạt vào Bộ Công An quấy rầy họ. Đến nỗi người thường trực cứ trông thấy mẹ tôi là tránh mặt không tiếp. Mẹ tôi cứ đến hỏi. Hỏi mãi. Riết rồi họ phải trả lời. Nhưng cũng mất hơn 3 năm họ mới cho mẹ tôi cái địa chỉ trại tù Cổng Trời: Công Trường 75A Hà Nội. Mẹ tôi lại hỏi tiếp: Thế cái công trường này nó ở chỗ nào ở cái đất Hà Nội này? Họ bảo họ không biết…” Thiệt là “hết biết” luôn nhưng chưa đến nỗi “hết thuốc, nếu so với một trường hợp bất nhẫn hơn nhiều của một người tù khác: “So với Kiều Duy Vĩnh thì người tù Lưu Nam còn bi thảm hơn, ông không bao giờ được gặp mặt gia đình cho tới khi chết mặc dù con cái hết lòng tìm kiếm. Con trai của ông là ông Lưu Đức Tâm kể: “Ông bố ở trại giam Quyết Tiến ở Hà Giang, còn gọi là trại giam Cổng Trời. Trong 10 năm đó gia đình không có tin tức gì thì dẫu biết cũng không thể đi thăm được. Cho đến năm 1961 gia đình nhận được một bức thư của ông cụ gửi về nên mới biết ở trại đó. Lúc bấy giờ gia đình cũng không có điều kiện để ra đi thăm được bởi vì mẹ ở nhà ốm đau bệnh tật, con cái thì còn nhỏ thành ra không đi thăm được, cho nên có gửi lên cho ông bố một ít quà qua cái địa chỉ đó. Gửi bằng con đường bưu điện nhưng không biết ông cụ có nhận được hay không, tới năm 1962 thì ông cụ mất…” (Trại Giam Cổng Trời, Mặc Lâm, RFA). Cách quản lý tù nhân của chính phủ ta, xem ra, rất tiện. Cứ nhốt kín vào một chỗ, và nhốt cho tới chết luôn rồi bó chiếu mang chôn là kể như … xong! Chỉ có điều phiền là hết thế hệ này qua thế hệ khác, dân Việt vẫn cứ hàng hàng lớp lớp lần lượt và tiếp nối đi tù. Và những người tù hôm nay, xem chừng, khó bị “chôn” hơn, cũng như khó “cải tạo” hơn nhiều – theo như tin vừa loan của BBC: “Vợ một tù chính trị nói chồng bà tố giác một số phạm nhân tại trại giam Nam Hà bị biệt giam vì phản đối ban quản lý trại ‘đánh bị thương một thanh niên Công giáo’. Vợ ông Vi Đức Hồi, bà Hoàng Thị Tươi, nói trong chuyến thăm nuôi chồng tại trại Nam Hà ngày 14/8, bà được ông Hồi cho biết ông đang bị biệt giam cùng với hai người nữa là thanh niên Công giáo bị tuyên án hồi tháng 1/2013… Bà cũng thuật lại lời ông Hồi cho hay lý do Lê Văn Sơn bị cán bộ trại giam ‘đánh bị thương ở chân’ là vì ‘không chào cán bộ trong một lần sinh hoạt.’ Ông Vi Đức Hồi, 56 tuổi, đã từng gia nhập Đảng Cộng sản năm 1980 và từng là Giám đốc trường Đảng huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn. Từ năm 2006, ông đã bắt đầu viết nhiều bài báo chỉ trích Đảng – ban đầu bằng bút danh, sau đó dùng tên thật khi ông bị khai trừ khỏi đảng năm 2007.” Tưởng cũng nên nói thêm là sau khi bị khai trừ, ông Vi Đức Hồi còn bị cô lập bởi một “Thông Báo Đặc Biệt” như sau: “Để ngăn chặn, đập tan mọi âm mưu ‘diễn biến hoà bình’của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, Huyện uỷ yêu cầu các Chi, Đảng bộ trực thuộc Huyện uỷ phải quán triệt đầy đủ cho toàn thể Cán bộ, Đảng viên và quần chúng Nhân dân trong Chi, Đảng bộ mình,Cơ quan, Đơn vị và Địa phương mình hãy nêu cao cảnh giác cách mạng,kiên quyết không mưu kẻ địch, đồng thời cắt đứt mọi quan hệ, giao tiếp với Vi đức Hồi, mặt khác theo rõi, giám sát mọi hoạt động của Vi đức Hồi, khi phát hiện có vấn đề khả nghi, trình báo cho cơ quan Công an hoặc Chính quyền Địa phương kịp thời để có biện pháp xử lý.” Dù đã “quán triệt đảng viên và quần chúng nhân dân …cắt đứt mọi liên hệ .. theo rõi, giám sát, trình báo để kịp thời có biện pháp xử lý” nhưng (ngó bộ) vẫn chưa được yên tâm cho lắm nên Đảng bắt luôn ông Vi Đức Hồi – vào ngày 27/10/2010 – để bỏ vô tù. Ba năm sau, sau khi đã bị giam cầm – vẫn theo như nguồn tin thượng dẫn – ông Vi Đức Hồi lại còn bị mang đi biệt giam (riêng một nơi thật kín) cho nó chắc ăn … hơn nữa. Ở một xứ sở mà chỉ do “xây xát nhẹ của một chiếc xe ben” có thể làm vỡ nguyên cả một cái đập nước khổng lồ thì mọi sự lo âu, lo ngại, lo sợ, và run sợ của giới cầm quyền (dù có lố bịch cỡ nào chăng nữa) đều có lý do để biện minh . Đó là nỗi lo sợ của “một con bệnh SIDA” – theo như (nguyên văn) cách ví von của ông Lê Hiếu Đằng, trong bài viết nêu trên. Qua diễn đàn Bauxite Việt Nam, đọc được vào hôm 16 tháng 8 vừa qua, ông Hồ Ngọc Nhuận – một người đồng thời và đồng cảnh với ông Lê Hiếu Đằng – lại còn vừa cho biết thêm: “Một chính đảng mới đang được vận động hình thành, với tên gọi tạm là Đảng Dân chủ Xã hội, do ông Lê Hiếu Đằng, một đảng viên cộng sản với 45 tuổi đảng, khởi xướng. Sẽ có hàng trăm, và rồi đây hàng ngàn đảng viên cộng sản đồng loạt khước từ độc tài toàn trị, thành lập chính đảng mới để đấu tranh công khai với Đảng Cộng sản cầm quyền. Đảng mới Dân chủ Xã hội là một đột phá khẩu lịch sử, cho nước tràn bờ, cho muôn người Việt Nam đứng dậy phá xiềng, vươn vai thành Phù Đổng, chống lại nội tặc, ngoại thù, cứu nước cứu dân và cứu cả chính mình.” Cái xe ben của Lê Hiếu Đằng có thể “đột phá khẩu lịch sử, cho nước tràn bờ” hay không là chuyện mà một thằng (nát rượu) cỡ tôi – dù cho ăn kẹo – cũng không dám lạm bàn. Tôi có cái tật (lớn) là đôi khi vừa cầm chai vừa cầm bút. Rượu vào lời ra nên hay viết lòng vòng. Chớ nói gần nói xa chả qua nói thiệt: dù có rất muộn màng chăng nữa, mọi nỗ lực của ông Lê Hiếu Đằng – cùng tất cả những vị đồng hội đồng thuyền – đều đáng được tuyên dương và trân trọng. Tưởng Năng Tiến Sẽ có hàng trăm, và rồi đây hàng ngàn đảng viên cộng sản đồng loạt khước từ độc tài toàn trị, thành lập chính đảng mới để đấu tranh công khai với Đảng Cộng sản cầm quyền. Hồ Ngọc Nhuận Ông Lê Hiếu Đằng ****************************** Đàng hoàng hơnHồ Ngọc Nhuận Trên thế giới ai cũng biết : một nền dân chủ pháp trị đích thực, với một Nhà nước pháp quyền đích thực, là một nền dân chủ đặt luật pháp lên trên hết, trên mọi người và trên mọi quyền bính, tất nhiên và trước hết là trên người lãnh đạo cầm quyền, vì phải làm gương. Trừ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, vì Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo ở đây tự vẽ ra Hiến pháp, cầm điều 4 HP làm bùa chủ đạo, để ngồi xổm trên luật pháp. Trong một nền dân chủ pháp trị ai cũng biết : “ Điều gì luật pháp không cấm thì người dân có quyền làm ”. Nhưng trước hết, người dân còn phải làm những điều luật pháp kêu làm. Như làm ăn thì luật pháp kêu phải đóng thuế. Làm trai thì luật pháp kêu phải thi hành nghĩa vụ quân sự. Làm người chiến sĩ trong quân đội thì phải trung thành với Tổ quốc… Ở đâu cũng vậy. Nhưng ở Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì có khác. Ở đây đi lính, nhất là ở cấp chỉ huy, thì phải trung thành với Đảng lãnh đạo. Còn luật pháp vẽ ra để đó chớ không hẳn để thi hành. Hay chỉ thi hành theo các Ban Chỉ đạo của Đảng, có mặt ở mọi cấp mọi nơi, trước hết là ở ngành Tư pháp, đặc biệt tập trung trong tay Ban Nội chính của Đảng, từ trung ương đến cơ sở, để tập trung chỉ đạo không chỉ các bộ phận có liên quan như công an, giám sát hay tòa án, mà cả từng vụ án lớn nhỏ. Với những bản án đã được định sẵn. Như về báo chí, miệng thì nói tự do báo chí, luật thì viết báo chí tự do, nhưng đốt đuốc cũng không tìm đâu ra một tờ báo tư nhân, mà toàn là báo của các ban ngành đoàn thể của Đảng và Nhà nước, từ trung ương đến các địa phương. Đứng đầu mỗi tờ báo, mỗi Ban Biên tập báo phải là một đảng viên Cộng sản, có mấy trăm tờ báo là có mấy trăm đảng viên Tổng Biên tập, có bao nhiêu Ban Biên tập là có bấy nhiêu đảng viên trưởng ban, dù là báo cho trẻ con hay người lớn, dù là báo chí văn hóa văn nghệ, thể thao du lịch, làm ruộng,làm ăn buôn bán, hay vui chơi giải trí… Chưa kể hàng trăm đảng viên lớn nhỏ khác trong hàng ngũ các báo. Tất cả làm thành hội nhà báo, chia thành nhiều phân hội nhà báo, đứng đầu là những ông bà đảng viên Cộng sản có vai vế nhất. Còn báo nói và báo hình, đương nhiên cũng là thành viên của Hội Nhà báo, nhưng là thành viên công cụ chuyên chính hàng đầu của Đảng. Báo chí tự do ở đây là như vậy đó, có thêm mấy chữ “xã hội chủ nghĩa” hay không cũng vậy. Ở đây luật viết tự do lập hội, nhưng từ hội to hội nhỏ, cả hội làm vườn, nuôi chim nuôi cá, hay hội người mù, người già, người khuyết tật, hay hội đi chơi đi bộ… phần lớn cũng phải do một đảng viên Cộng sản đứng đầu làm hội trưởng. Có ông đảng viên “cỡ bự”, đi đứng đã khó huống hồ chạy bộ, nhưng cũng là hội trưởng hội điền kinh. Ở đây, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, trên mọi lãnh vực, là “nói một đường làm một nẻo”. Ở đây Quốc hội, được nói, được viết là nơi đại biểu cho quyền làm chủ của nhân dân, nhưng được Đảng Cộng sản chia nhau làm chủ rất kỹ. Tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội phải là đảng viên. Có đảng viên được cơ cấu chánh thức để được đắc cử, có đảng viên được cơ cấu để lót đường, không chịu cũng phải chịu, không được chạy, không được la, bởi ai biểu làm đảng viên. Các đảng viên lót đường này ngày càng cần, vì các ứng cử viên “tự ứng cử” ngày càng thưa, sau khi bị nhiều áp lực phải tự rút. Phải có đảng viên ứng cử thuộc loại lót đường vì phải có ít nhất hai ứng cử viên cho một ghế đại biểu, hay ba ứng cử viên cho hai ghế đại biểu. Để “coi cho được”, mà vẫn có phiếu “tập trung”. Không như “thuở ban đầu không cần e ấp ấy”, chỉ một ứng cử viên duy nhất cho một ghế đại biểu, để có phiếu tuyệt đối tập trung, nhưng mà “coi không được”. Số ứng cử viên “tự ứng cử”, tức không do Đảng Cộng sản đề cử, thường rất ít ỏi, lại bắt phải qua hai nấc lựa chọn sơ khởi là ở tổ dân phố nơi mình ở, và ở cơ quan nơi mình làm việc. Như vậy người dân hai nơi đó được biến thành cử tri hạng nhất được quyền “tín nhiệm” hay “không tín nhiệm” trước đa số các cử tri khác dựa vào mấy “tiêu chuẩn của người đại biểu Quốc hội” được ghi trong luật bầu cử, như “phải trung thành với Tổ Quốc”, “phải tôn trọng luật pháp”, hay “ phải sâu sát với cử tri”… Đó là những tiêu chuẩn phổ quát cơ bản mà mọi công dân bình thường lương thiện đều đạt, trước khi có những bằng chứng cụ thể ngược lại, chớ không riêng gì của các đại biểu Quốc hội. Còn tiêu chuẩn “sâu sát với cử tri” thì người tự ứng cử đương nhiên phải đạt hơn ai hết, bởi có ai sâu sát hơn khi nhà người ta đang ở đó, khi người ta đang làm việc ở đó? Những điều luật mị dân hết chê nổi. Vậy mà số ứng cử viên “tự ứng cử” cứ rụng như sung bị sâu. Trước hết là tự rút, vì không chịu nổi chuyện nhà chuyện cửa, chuyện con chuyện cái, có khi là chuyện con chó của nhà mình bị người ta đưa ra làm đề tài mổ xẻ… khi bị tổ chức đưa ra bình chọn ở tổ dân phố. Nếu không tự rút thì cũng có người của Mặt trận đến vận động, áp lực để rút. Nút chặn then chốt là Mặt trận mà luật bầu cử viết hẳn là có quyền lựa chọn trước khi đưa ra cho cử tri bầu cử – một Mặt trận mà một 100% thường trực lãnh đạo, từ cấp trên đến cấp dưới là đảng viên Cộng sản. Kèm bên là một Đảng Đoàn Mặt Trận. Kèm trên là một Ban Dân vận Mặt trận. Rồi Đảng ủy Khối, Đảng ủy cơ quan…cho tới Đảng ủy thành, Đảng ủy tỉnh, Đảng ủy trung ương… Tất cả gộp lại làm thành một “thiên la địa võng” để chận bất cứ ai không là người của Đảng, không do Đảng cắt cử, để Đảng tha hồ một mình một chợ ở Quốc hội. Cái Quốc hội “một mình Đảng một chợ” đó được tổ chức như một “Đại hội các loại cán bộ, viên chức của Đảng và Nhà nước”. Trong đó có nhiều hạng, trên hết là hạng đại biểu là thành viên Bộ Chánh trị, hay ủy viên Trung ương Đảng, chót hết là lưa thưa vài cụ thuộc vài tôn giáo lớn được cơ cấu vô Quốc hội để làm đại biểu danh dự. Ngồi yên đó để vỗ yên đồng đạo và bá tánh. Các thành viên của cái “Đại hội các loại cán bộ viên chức của Đảng và Nhà nước”, được gọi là Quốc hội đó, tất nhiên là không phân chia theo từng khối nhóm đại biểu cho các nhóm quyền lợi hay khuynh hướng chánh trị ngoài xã hôi, mà được phân ra từng đoàn theo các tỉnh thành nơi họ cư trú, ứng cử và đắc cử. Trưởng đoàn đại biểu, nếu không là người đứng đầu đảng hay chánh quyền, thì cũng là một đảng viên có vai vế nhất nhì trong Đảng ở địa phương, để phát ngôn, phát biểu thay đoàn hay chỉ định người phát biểu ở các diễn đàn Quốc hội, hay khi tiếp xúc cử tri được tổ chức định kỳ một năm vài lần. Không ai được phép xé rào, và trên thực tế chưa thấy ai dám xé rào… Với một Quốc hội như vậy, độc có tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội là đảng viên của một độc đảng, tổ chức có hạng bậc trên dưới chặt chẽ, với kỷ luật thép của Đảng Cộng sản, thì thảo luận ở Quốc hội là gì? Với kỷ luật thép của Đảng, khi một chỉ thị nghị quyết của Đảng đã được ban ra thì mọi phê bình đối với quyết định đó đều bị coi là phá hoại chệch hướng. Các quyết định của Đảng thường là áp đặt từ trên xuống, đặc biệt từ một nhóm nhỏ gọi là Bộ Chánh trị, có khi chỉ từ vài người có thế lực trong Bộ Chánh trị. Vì vậy đại bộ phận các đảng viên có nói gì, bàn gì, cũng không hề ảnh hưởng gì đến quyết định của lãnh đạo Đảng, mà lãnh đạo Đảng cũng không hề biết, không cần biết tâm tư ý kiến của quần chúng đảng viên. Càng không cần biết tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Một Quốc hội như vậy thường được gọi là một “hòm thư”. Nhưng “hòm thư” ở đây bị rỗng, vì nguyện vọng nhân dân đã bị chận từ ngoài cổng. Hoặc bị công an rượt đuổi từ ngoài đường, tận cổng các tòa án. Trong tình hình như vậy mà lãnh đạo Đảng, cũng là lãnh đạo Quốc hội, lãnh đạo Chánh phủ, ký kết với bất kỳ ai, cả với Bắc Kinh hay với quỷ, bất cứ thứ gì rồi đưa ra cho các đại biểu Quốc hội thông qua thì có trời mà biết đó là cái gì… Tôi là một thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 1975 đến nay tổng cộng là 38 năm. Trong đó có 24 năm, từ 1975 đến 1999, là không có luật, và 14 năm, từ ngày 12 thang 6 năm 1999 đến nay, là có luật, gọi là “Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Nên tôi xin nói một chút về Luật Mặt trận. Mặc dầu có Luật Mặt trận hay không có Luật Mặt trận thì cũng vậy thôi, cũng không ai thấy Mặt trận làm gì cho dân, ngoài việc cũng có một guồng máy đồ sộ từ trung ương đến địa phương cơ sở, song song với guồng máy đồ sộ của Nhà nước, song song với guồng máy đồ sộ của Đảng, cùng chia nhau xài chung ngân sách nhà nước, tức từ tiền thuế của nhân dân, để cùng làm nhiều việc của các hội đoàn xã hội từ thiện tư nhân, ngoài các việc do Đảng và Nhà nước giao, như lập hồ sơ và sàng lọc các ứng cử viên vào Quốc hội hay các Hội đồng. Và Ban Thường trực Trung ương Mặt trận thì định kỳ ngồi ký các văn kiện gọi là “liên tịch” với Chánh phủ để định kỳ tổ chức mần liên tịch tiếp. Còn về “nhiệm vụ chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân” như được ghi ở Điều 2 của Luật Mặt trận thì không ai thấy “mặt ông Mặt trận” ở đâu hết, khi nông dân nhiều nơi bị cướp ruộng kêu cứu, khi công nhân nhiều nơi bị hà hiếp đình công “la làng”, khi người dân kêu gọi biểu tình chống bọn bành trướng Bắc Kinh cướp đảo, rượt bắt ngư dân nước ta, hay khi thanh niên sinh viên học sinh yêu nước đấu tranh bị đàn áp. Hay về “nhiệm vụ giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước” cũng được ghi hẳn hòi ở Điều 2 của Luật Mặt trận, cũng không ai thấy tổ chức Mặt trận giám sát được gì từ mấy chục năm nay. Nếu đã giám sát được ai hay chút gì, trong 38 năm qua, thì đâu đến nỗi ông Tổng Bí thư Đảng lãnh đạo cầm quyền phải “ngậm ngùi”, hay ông Chủ tịch nước phải ngập ngừng không thể nói ra, trước những sai phạm to đùng nào đó trong giới lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nứớc? Tại sao Mặt Trận lại cứ ngó lơ trước những nhiệm vụ của mình được ghi rành rành trong Luật Mặt trận? Bởi khi khơi khơi nêu hết nhiệm vụ này đến nhiệm vụ khác, mà không giao quyền, không giao phương tiện, thể hiện bằng luật pháp, để thi hành nhiệm vụ, thì chỉ để chơi thôi. Cả khi nêu lên quyền này quyền khác mà không có phương tiện luật pháp đi kèm để thực thi thì cũng như vô quyền. Như những quyền tự do cơ bản của người dân được ghi trong Hiến pháp mà không pháp chế hóa để bảo đảm thi hành thì coi như treo đó để phỉnh người dân mà thôi. Không chỉ phỉnh mà còn ngăn chận, bao vây, đàn áp, như khi người dân sử dụng quyền biểu tình hợp pháp bất bạo động để chống bành trướng Bắc Kinh. Mặt trận còn làm ngơ một điều cơ bản nữa mà Luật Mặt trận ngay từ điều 1 đã kêu làm. Tức là “phát huy quyền làm chủ của nhân dân… để góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Nhưng điều đặc biệt quan trọng nhất là người ta đã nuốt dần lời hứa “Đánh thắng giặc ta sẽ xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, tốt đẹp hơn”. Mà chỉ nghe thấy kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội, rồi theo định hướng xã hội chủ nghĩa… Cả hai thứ đều không hề thấy ở đâu, cả ở nơi mà cái nôi xã hội chủ nghĩa cũng đã bị vất từ lâu, trừ vài nơi người dân vừa bị đeo gông vừa hô khẩu hiệu “hoan hô lãnh tụ cha, lãnh tụ con, lãnh tụ cháu nội”. Bởi không thể xây dựng tốt đẹp hơn, nếu không xây dựng đàng hoàng hơn. Và xây dựng đất nước đàng hoàng hơn là xây dựng một nền dân chủ đích thực, tức một hệ thống chánh trị tôn trọng sự công chính trong cạnh tranh quyền lực, tôn trọng tiếng nói, dư luận, tôn trọng phán quyết tối hậu của người dân bằng lá phiếu để có sự luân chuyển hay thay đổi quyền hành trong hòa bình, tôn trọng sự khác biệt chính kiến, sự khác biệt của người khác, có văn hóa tranh luận. Bịt miệng, chụp mũ, trù úm, đàn áp… là tiếp tục không đàng hoàng, là làm ngược, là phản lại chính ông cha mình…Không thể có xây dựng đàng hoàng mà bóp chết tự do. Khởi xướng, hay kêu gọi xây dựng dân chủ có đối lập, trong một xã hội dân sự tôn trọng quyền con người, có tình người, chính là tiếp nối lời kêu gọi xây dựng đất nước đàng hoàng hơn. Đó không chỉ đơn thuần là một tổ chức chính đảng. Đó trước tiên là tinh thần dấn thân nhập cuộc, mở ra một con đường cho dân tộc thoát khỏi vòng xoáy của một hệ thống quyền lực luôn đe dọa mọi ý chí độc lập bằng bạo lực, sớm muộn sẽ đưa đất nước xuống hố diệt vong. Đó là một phong trào tập hợp mọi nỗ lực thiện chí muốn cống hiến cho đại cuộc, vì một nền dân chủ tự do độc lập thật sự cho Tổ quốc, cho nhân dân. Từng sống qua mấy chế độ khác nhau của miền Nam, từng biết qua ít nhiều vài chế độ dân chủ đây đó gần xa, tôi không hề có ảo tưởng về một chế độ dân chủ tuyệt đối, một hệ thống chánh trị tuyệt hảo ở bất cứ đâu. Nhưng không thể không có tiếng la báo động trước sự mất còn của đất nước. Một hệ thống ngày càng chồng chất những cái không lương thiện, lại thêm lồng ghép với những nhen nhóm xã hội đen tối, kể cả mafia, ở đâu đó, là một vòng xoáy tàn khốc khó thoát đối với mọi người, mọi dân tộc. Cái hệ thống của những điều không đàng hoàng gần như toàn diện hiện nay, nếu không sớm được thay đổi bằng một hệ thống dân chủ đích thực, sớm muộn sẽ đưa đất nước đến hố diệt vong, chắc chắn sẽ sớm đưa đến mất nước vào tay bành trướng Trung Quốc. Cái đáng sợ nhất là nó đánh mất linh hồn con người, linh hồn Việt Nam. Đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, dân tộc Việt Nam thân yêu của chúng ta đã chịu nhiều “cải biến” quá rồi, đã đổ nhiều máu và nước mắt quá rồi. Và thế giới, trong đó có dân ta, đã kinh qua đủ thứ cách mạng rồi. Nên không có cách nào khác, nếu muốn sống còn, là tổ chức hợp tác bình đẳng giữa những con người tự do biết tôn trọng lẫn nhau./. 26-8-2013 H. N. N. NGUỒN : bản do tác giả gửi ngày 28.8.13
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2013 4:44:21 GMT 9
Trần Độ Thư gửi anh Lữ PhươngDiễn Đàn : Nhân ngày giỗ tướng Trần Độ cách đây không lâu, tiếp theo đó lại có những đề xuất chính trị của Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận; một cuộc thảo luận về dân chủ đa nguyên đang dấy lên. Chúng tôi vừa được nhà nghiên cứu Lữ Phương gửi đến hai tài liệu : "một của Trần Độ đã mất và một của Nguyễn Kiến Giang đang xoay xở khó khăn trên giường bệnh." như sự góp lời đối thoại trước thời gian, trên những nền gốc tinh thần... Cùng với tài liệu này chúng tôi cũng phát hành "Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam" của Nguyễn Kiến Giang Dien Dan ForumTết Tân Tỵ ngày 5 tháng giêng, (ngày 28.1.2001) Nhân dịp Tết, tôi lục các bài viết cũ, đọc lại chơi, tiện thể lục được bức thư anh viết cho tôi từ đầu năm 1999, sau khi anh đã đọc xong 2 bài bút ký "Một Cái Nhìn Trở Lại" của tôi, và biết tin tôi đã bị (hay được) khai trừ. Ngay từ trang đầu của thư anh, tôi thấy anh đã hiểu rõ tâm can tôi. Anh viết rằng: "Nếu có một cái gì đó có ý nghĩa mà Đảng cho anh, thì đó là cái lý tưởng cực kỳ tươi đẹp để anh đi vào tù đày và chết chóc thôi. Anh có bảo vệ Đảng thì cũng chỉ bảo vệ cái lý tưởng đã trả bằng máu ấy. Chính là với lý tưởng ấy, thái độ của anh là nhất quán trước sau. Trước đây Đảng có một thời đẹp đẽ thì bây giờ anh muốn Đảng giữ gìn mãi mãi điều đẹp đẽ ấy”. Anh đã nói rất trúng tâm tư của tôi. Tôi không có điều kiện để nghiên cứu sâu vào các vấn đề lý thuyết, tuy rằng tôi cũng đọc được và được nghe giảng khá nhiều nhưng tôi chỉ “vận dụng những ý tưởng có trong sách vào cuộc đời”, và nhìn vào thực tiễn của cuộc đời mà suy ngẫm. Tôi đọc lại bút ký của tôi, tôi lại càng thấy rõ té ra hơn chục năm nay, có thể cả mấy chục năm nay, tôi cứ trăn trở chỉ có một điều, và vẫn cứ tiếp tục trăn trở về cái điều đó, càng ngày càng sâu sắc, càng ngày càng day dứt đau đớn. Cái điều đó tôi đã khái quát vào bốn câu mà anh có nhắc đến: Những mơ xoá ác ở trên đời Ta phó thân ta với đất trời Ác xoá đi thay bằng Cực Thiện Tháng ngày biến hoá, Ác luân hồi. Với tâm trạng ấy tôi rất tâm đắc với mấy câu trong bài thơ "Cay đắng thay” của Bùi Minh Quốc. Cái guồng máy nhục mạ con người Mang bộ mặt hiền lành của người cuốc đất …………. Cay đắng thay Mỉa mai thay Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt Lại đúc nên chính bộ máy này. Tôi cứ nghiền ngẫm mãi cái cay đắng và mỉa mai đó và ngày ngày, tháng ngày đau khổ về cái cay đắng ấy. Không biết đã bao nhiêu lần, tôi muốn giải đáp mấy câu hỏi ... cay đắng ấy: Cuộc cách mạng ở Việt Nam, rút cục đã xoá được cái gì, đập tan được cái gì ? và đã lập nên được cái gì, xây dựng được cái gì ? Rõ ràng ta đã xoá được cuộc đời nô lệ mất nước, nhục nhã. Đời sống nhân dân giảm được đói nghèo dốt nát. Mới giảm được thôi, chứ chưa thoát được hẳn đói nghèo và "dốt nát", nghĩa là ta còn quá lạc hậu. Ta đã đập tan được bộ máy đàn áp, nô dịch, bóc lột, xoá được nỗi nhục mất nước và ta đã xây dựng được một bộ máy như thế nào? và một xã hội như thế nào? Những tiêu ngữ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, Dân chủ Cộng hoà, và mục tiêu một nước độc lập, thống nhất, hoà bình, dân chủ giàu mạnh, đã thực hiện được đến đâu Trong các mục tiêu lý tưởng của ta thì lý tưởng lớn nhất, tha thiết nhất, bao trùm nhất là tự do dân chủ. Nhưng hiện nay, ta đã có một bộ máy nhà nước có mấy đặc điểm: To lớn, cồng kềnh, chồng chéo và do đó ít hiệu quả, nhiều mặt bất lực. Làm được một số việc xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nhưng quá kém trong việc đưa đất nước phát triển nhanh. Đất nước ngày càng phát triển chậm chạp và tụt hậu xa so với các nước láng giềng trong khu vực. Nổi bật lên là một bộ máy độc đoán, độc tài toàn trị, đàn áp thẳng tay các ý kiến khác. Có một đội ngũ “lưỡi gỗ” rất đông đảo, chuyên “ngụy biện”, “nói lấy được”, “nói bừa bãi”, “trắng trợn” bất chấp lẽ phải, đạo lý và cả luật pháp, và có lúc dùng nhiều thủ đoạn như "lưu manh". Trong khi ấy, bộ máy đã tạo nên một xã hội không có tự do dân chủ, đầy tệ nạn tham nhũng, đầy tệ nạn xã hội, làm tất cả mọi người trong xã hội không lúc nào được yên tâm và thường xuyên lo lắng, sợ hãi. Đó, ta đã xây dựng nên một bộ máy như vậy và một xã hội như vậy đó. Bao nhiêu những điều tốt đẹp xuất hiện sau cách mạng tháng Tám, ta tưởng nó sẽ mở rộng và nâng cao thì nay tình hình lại phát triển ngược lại. Từ một Đảng chịu gian khổ hy sinh để giải phóng nhân dân, nay trở thành một Đảng cầm quyền xa rời nhân dân, cai trị nhân dân, bắt nhân dân phải sống hết thảy theo ý của Đảng: nhân dân bị tước hết mọi quyền tự do dân chủ. Tất cả quyền và lợi trong xã hội, thâu tóm trong tay Đảng và cụ thể là trong tay một nhóm đảng viên có địa vị ở các cấp. Đảng tự do yêu cầu dân đóng góp và tự do sử dụng mọi sự đóng góp của dân, không có tổ chức và lực lượng nào giám sát và kiềm chế. Đảng nói những lời hay, làm ra Hiến pháp và luật pháp có nhiều điều hợp lý, nhưng bộ máy của Đảng đều làm ngược lại Hiến pháp và luật pháp, bất chấp đạo lý. Đảng còn làm ngược lại cả Điều lệ của chính mình như tự nhiên đẻ ra chế độ cố vấn; Bộ chính trị và Trung ương quyết định những điều cấm đoán đảng viên ngoài quy định của Điều lệ như là tước cả quyền công dân của đảng viên. Đảng luôn tạo ra một không khí khủng bố đối với bất cứ ai có chính kiến độc lập, làm cho xã hội khô cằn, Đảng bưng bít và cấm tất cả những ý kiến dồi dào phong phú để đưa đất nước tiến lên. Thế là Đảng đã tạo ra ở Việt Nam một xã hội đầy tham nhũng, phản dân chủ (vì độc tài độc đoán và toàn trị), đầy dối trá lừa bịp (vì nói một đàng làm một nẻo), đầy thủ đoạn (nịnh nhau, hất nhau và hại nhau). Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, ở bất cứ người nào, ta cũng nghe thấy được những lời phàn nàn về sự không dân chủ, tàn bạo, lừa bịp, dối trá; về những hiện tượng lưu manh, hãnh tiến. Trong bút ký của tôi, tôi đã nói nhiều lần. Trước 1945, xã hội ta có một bộ máy của thực dân phong kiến có đủ các đặc điểm của sự tàn bạo, dã man, của sự vơ vét, bóc lột và xa hoa hưởng thụ, của sự lừa bịp, dối trá, thủ đoạn đểu giả. Tôi “trọn tuổi xuân hiến dâng cuồng nhiệt” để tham gia đập tan bộ máy đó và tích cực tham gia xây dựng bộ máy mới, mà ngày nay ta gọi là "của dân, do dân, vì dân", có những nét đẹp như trong những ngày đầu sau cách mạng tháng Tám 1945 và một xã hội, mọi người thương yêu nhau, tôn trọng nhau. Tôi đã mơ ước hững nét đẹp ấy sẽ được mở rộng và nâng cao tạo nên một xã hội lý tưởng. Nhưng rồi ….. Cái không giống với mơ ước thì nhiều và những cái giống với cái đã được đánh đổ thì lại càng ngày càng nhiều. Và những gì trước đây ta khinh bỉ, chửi rủa và chống phá thì ngày nay những cái đó lại xuất hiện nhiều và ngày càng nâng cao. Như vậy là ta lại xây nên chính cái mà ta đã đập tan. Ta đã làm cho xã hội hiện nay lại có đủ các đặc điểm của bộ máy ta đã đập tan, của cái xã hội ta đã phá bỏ. * Bộ máy cai trị bây giờ ngày đêm chỉ lo xây dựng bộ máy tuyên truyền, lo cổ động rầm rộ, dùng những "lưỡi gỗ" xây dựng và truyền lan các thứ "lý luận" "nói lấy được", dùng mọi thủ đoạn lừa bịp, dối trá, nguỵ biện để nhằm một mục đích duy nhất là duy trì và giữ vững bộ máy cai trị mà họ gọi là "sự lãnh đạo của Đảng”. Suốt năm suốt tháng họ tổ chức đủ thứ đại hội, kỷ niệm, lễ hội…để làm cho mọi người đều thấy đang sống trên những thắng lợi, và mọi thắng lợi từ trước đến nay đều do bộ máy này tạo nên, dân phải biết ơn bộ máy này. Tất cả những ý nghĩ, tư tưởng chệch chút ít so với tư tưởng chính thống đều bị kết tội “chống đối” nặng nề. Do đó, trong thực tế bộ máy này là bộ máy phá dân chủ, phá dân chủ một cách trắng trợn, tinh vi và tàn bạo. * 5.2.2001 Như thế là tôi cũng như anh, ta đứng trước một sự biến động, một sự biến chuyển và biến dạng, là một Đảng từ một tổ chức gồm những con người chịu hy sinh gian khổ, phấn đấu để đập tan một bộ máy thống trị gian ác, giải phóng nhân dân, rồi sau khi đập tan được bộ máy ấy thì lại trở thành một bộ máy cai trị, thống trị nhân dân. Nói thật gọn, là từ người giải phóng biến thành kẻ thống trị. Khi là người giải phóng thì mọi nguyện vọng, mục tiêu, tâm lý và tình cảm là của người giải phóng, và khi là kẻ thống trị thì sẽ có đầy đủ nguyện vọng, mục tiêu, tình cảm và tâm lý của kẻ thống trị. Đó là "cố giữ vững địa vị thống trị của mình", tình hình ấy hình như không phải của riêng Việt Nam. Đó là một biến chuyển tất yếu. Xem ra không ai cố ý, không ai có ý kiến trong việc này, không ai (kể cả những người chủ chốt) tự giác được trong quá trình chuyển biến này, tất cả đều bị cuốn vào sự vận hành của một cỗ máy khổng lồ. Vậy đâu là nguồn gốc của sự biến chuyển này. Có thể nói sự chuyển biến này có nhiều nguồn gốc: Có nguồn gốc thứ nhất là từ ở những học thuyết. Rõ nhất là học thuyết về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Học thuyết này được người vận dụng nó đưa tới những chủ nghĩa kinh khủng như “chủ nghĩa thành phần”, “chủ nghĩa công nông”, “chủ nghĩa lý lịch” … Các thứ chủ nghĩa ấy làm cho học thuyết giai cấp bị méo mó thành bất nhân bất nghĩa. Ta có thể tin một cách chắc chắn rằng nếu Mác và Lênin (là những trí thức lớn) còn sống đến bây giờ thì các ông tổ đó cũng không thể chấp nhận các thứ chủ nghĩa “vô học” đó. Học thuyết ấy bị méo mó ngày càng lớn, càng cực đoan, nó thành ra kiểu Mao-ít, cao hơn nữa là kiểu Pôn Pốt. và trở thành những tội phạm ghê tởm của loài người. May mà Việt Nam ta chưa đi tới chỗ đó. Còn nhiều vấn đề học thuyết khác, nhiều cách lý giải những khái niệm không theo kịp sự biến đổi tiến bộ của nhân loại, vì không theo kịp mà thành ra sai lầm, thiếu sót. Những khái niệm cơ bản như “lao động”, “bóc lột”, “sở hữu” … cứ bị quan niệm như cũ, như thế tất phải đưa tới những cách xử lý cứng nhắc, không đúng và nhiều tai hại. Phải thấy rõ rằng những đầu óc giáo điều đáng ghê tởm biết là chừng nào! Về nguyên lý tổ chức của Đảng. Khi cần tổ chức Đảng thành một Đảng chiến đấu thì cần có những nguyên lý tổ chức thích hợp với hoàn cảnh chiến tranh và cách mạng. Những nguyên lý ấy không thể thích hợp với thời hoà bình xây dựng. Nhưng khốn thay, vẫn không có sự phân tích lại để điều chỉnh cho hợp lý. Vì vậy Đảng cộng sản Việt Nam vẫn cứ như mắc trong mớ bòng bong những mâu thuẫn khi đề ra yêu cầu cho đảng viên của Đảng: lúc thì đảng viên phải làm giàu để làm gương cho mọi người, và cũng để bảo đảm cho cuộc sống gia đình, lúc thì lại cấm đảng viên làm kinh tế tư nhân. Cho nên có những đảng viên làm kinh tế đã phải thốt lên: "Tôi phải ra khỏi Đảng thôi". Cái kiểu gò bó bảo thủ, giáo điều tạo nên một lớp người khá đông đảo chỉ biết “ngu trung” (nghĩa là trung thành một cách ngu xuẩn), mất hết óc xét đoán để tìm hiểu thực tiễn đời sống mới đang tiến triển mạnh mẽ, làm cho cả Đảng bị rơi vào trạng thái tê liệt, tư duy ngày càng xa cuộc sống và do đó càng xa dân. Xa dân mà lại cai trị dân thì ngày càng đối lập với dân. Nguồn gốc thứ hai của tình hình biến đổi xã hội, đó là vai trò của những người có trách nhiệm chủ chốt. Những người này càng về sau càng là những người ít học, lại ít được tôi luyện, thành ra những người thô sơ đơn giản. Những người đó có trách nhiệm lớn, nhưng lại vẫn mang đủ trong mình bản tính tiêu cực của người bình thường: hám lợi, hám danh, thích quyền, ích kỷ vv… Vì thế, những người đó trở thành thủ phạm của mọi tội lỗi: dốt nát, quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết, bè phái. Đó là những tội không sao xoá bỏ được, chỉ có ngày càng nặng thêm, và kết cục là toàn bộ cơ chế quyền lực không có một sức mạnh nào làm phanh hãm và giám sát nó. Sức mạnh giám sát ấy chỉ có thể là sức mạnh của một chế độ dân chủ. Dân chủ phải là vấn đề của một chế độ, chứ không phải chỉ là mấy cái công tác lặt vặt như “dân chủ cơ sở”, “lấy ý kiến việc nọ việc kia”, “ghi điều nọ điều kia vào Hiến pháp, nghị quyết và luật pháp” v. v… Ta không thể mơ tưởng có những ông Thánh để thực hiện những học thuyết và nguyên lý. Rút cục thì vẫn là những con người trần tục phải thực hiện các học thuyết ấy, mà con người trần tục thì có đầy đủ những “cái trần tục”, làm hỏng học thuyết. Phải có một chế độ, một cơ chế, một chiến lược dân chủ, có tác dụng hạn chế các tệ nạn quan liêu độc đoán và tuỳ tiện. Sự vận dụng các nguyên lý của học thuyết và của tổ chức, tuỳ thuộc vào cá tính của những con người chủ chốt. Người lãnh đạo như Hồ Chí Minh vận dụng các nguyên lý của học thuyết và nguyên tắc tổ chức có lẽ sẽ mang lại những hệ quả kém xấu hơn. Ngược lại những người không đủ trình độ và nhiều ham muốn cá nhân sẽ đưa đến những hậu quả ngày càng tệ hại. Nguồn gốc là ở “trình độ” cộng với lòng “ham muốn quyền và lợi” của cá nhân, hai cái đó có lẽ là nguyên nhân quan trọng nhất. Những tình trạng yếu kém và khuyết điểm trong quản lý, cai trị và tình trạng xã hội không tốt đẹp. Không thể tìm nguyên nhân gần được, mà phải tìm từ nguồn gốc xa, ở chỗ Đảng đã xây dựng nên một thể chế phản dân chủ và trọng quyền lực. Những câu chữ tốt đẹp như “nhà nước của dân, vì dân, do dân” và “cán bộ nhà nước phải là đầy tớ trung thành của nhân dân” chỉ còn là những câu nói mỉa mai, những cái màn mỏng manh che giấu các thói hám quyền tham lợi, chia chác và giành giật nhau ghế ngồi và danh vị. Thật ra, cuộc cách mạng với những lý tưởng cao đẹp của nó đã bị phản bội. Trốtsky là người đã nhận ra điều này ở Liên xô từ năm 1936. Tôi cũng dần dần thấy ra điều này từ vài chục năm nay. Tôi không thể trung thành với sự biến dạng này. Tôi vẫn cầu mong Đảng này tự phê bình mà nhận ra sự thật. Như thế tốt cho Đảng, và quan trọng hơn là tốt cho đất nước. Nhưng tôi lại cũng thấy rằng cái Đảng này, với thể chế và trình độ của nó hiện nay, không thể, không dám, và không muốn tự phê bình. Cuộc vận động chỉnh đốn Đảng có tự phê bình chỉ là một sự “gãi ghẻ” thôi. Tôi không thể không trung thành với lý tưởng tốt đẹp của thời tuổi trẻ, thời Đảng là người giải phóng. Phải chăng quy luật của lịch sử các triều đại là cứ lúc bắt đầu thì nhiều tốt đẹp, tiến bộ thông minh, sáng suốt ? Thế rồi có những thắng lợi được ca ngợi nhưng dần dần cứ sa sút, kém cỏi, dốt nát, sa đoạ, xuống cấp dần, đi đến phản bội. Cái triều đại Đảng cộng sản này cũng đang thế chăng ? Đảng cộng sản cứ để mình bị sa vào cái quy luật suy thoái ấy hay muốn cứu mình thoát khỏi sự suy thoái ? Ngày nay Đảng này muốn bước ra khỏi con đường phản bội cách mạng thì phải: 1. Xác định cho đúng vị trí khiêm tốn của mình là một bộ phận của dân tộc, thực hiện lãnh đạo đất nước bằng cách tôn trọng tất cả mọi người, nhất là những người trí thức, những người tài năng có chính kiến độc lập. 2. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, thực thi đầy đủ các quyền dân chủ, đặc biệt là dân chủ về tự do ngôn luận và tự do bầu cử, nhân dân được tự do làm ăn. 3. Phải để cho mọi tổ chức, từ Chính phủ, Quốc hội, Toà án, cho đến các tổ chức xã hội như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức của nó có quyền độc lập quyết định những vấn đề và hoạt động của mình. Phải để cho công dân, nhất là thanh niên, được suy nghĩ độc lập, có tư cách độc lập. Muốn thế phải xoá bỏ quyền lực của cơ quan tư tưởng và văn hoá của Đảng, thu hẹp quy mô, ảnh hưởng và định chức năng rõ rệt của các lực lượng Công an. Nhà nước phải được chỉnh huấn về tư tưởng và tác phong “đầy tớ của nhân dân” Đảng phải tách khỏi nhà nước, không làm những việc thay cho nhà nước, thay Chính phủ, Quốc hội phải được thành lập bởi những người thực sự có đức, có tài và do dân thực sự lựa chọn vô tư, không có bất cứ sự “sắp xếp” và “hiệp thương” nào. 4. Cụ thể là phải sửa ngay Luật báo chí, xuất bản, công nhận quyền có báo và xuất bản tư nhân. Các báo chí có quyền độc lập của mình, không chịu sự “chỉ đạo” và kiểm soát của bất cứ cơ quan nào. 21.2.2001 Đúng như anh nói, tôi có một quãng đời tươi đẹp, sống với những lý tưởng cao thượng, tốt đẹp và ở trong một Đảng cũng rất cao đẹp. Và tôi mong muốn cho những cao đẹp đó cứ tiếp tục mãi mãi và ngày càng cao lên. Nhưng thực tiễn cuộc sống lại diễn ra ngược lại. Đảng cộng sản từ một Đảng người-giải-phóng đã trở thành một Đảng cai trị, thực hiện một nền thống trị không dân chủ và phản dân chủ. Đảng thực hiện độc tài và toàn trị. Đảng thực hiện đúng cái mà Đảng đã từng phê phán, đó là chế độ Đảng trị. Có người không thích chữ Đảng trị, nhưng chữ đó chỉ là phản ảnh và diễn tả đúng cái thực trạng mà Đảng đã tạo ra, không hơn không kém. Đảng đang thực hiện một nền thống trị khe khắt, kiểm tra từng người trong toàn xã hội, kiểm soát và can thiệp mọi chi tiết trong cuộc sống của xã hội, và điều dã man và tàn bạo nhất là độc tài về ý thức hệ. Bất cứ một khác biệt nào đều bị quy vào là chống đối, là phản động, là tội phạm. Hệ quả của chế độ này là trong xã hội không ai dám nói khác, không ai dám có ý nghĩ khác, hoặc ít nhất thì dù có nghĩ một đàng cũng phải nói một nẻo. Như vậy, xã hội bao trùm một sự giả dối, lừa bịp, bao trùm một sự sợ hãi, bao trùm một sự tê liệt, về tư duy và cả về tình cảm. Đã có một xã hội và một chế độ, mà tôi biết có người đã khái quát (chưa thật đúng nhưng cũng không sai). Lưu manh hoá xã hội Bần cùng hoá nhân dân Nô lệ hoá con người Bình quân hoá cá tính. Như vậy, văn hoá chỉ còn ngày càng tàn tạ và hư hỏng. Buồn thay! Điều đó không chỉ có tai hại trước mắt, mà còn có tác hại làm suy thoái đời sống tinh thần của cả một dân tộc, một giống nòi. Thực ra, chắc chắn giống nòi sẽ không để cho có sự sa sút và suy thoái ấy. Nhưng cái chế độ thống trị của Đảng cộng sản đẻ ra hậu quả như thế. Đảng không nhận ra điều này mà tự đổi mới, tự cách mạng, tôn trọng chế độ dân chủ và sinh hoạt dân chủ thì Đảng sẽ bị giống nòi và dân tộc loại trừ, Đảng không thể cứ ngoan cố và đi sâu vào vũng lầy tội ác được. Đảng đã từng coi quyền lợi dân tộc và đất nước cao hơn sinh mệnh của mình, chính vì vậy mà Đảng làm cho dân tộc thắng lợi. Thế mà ngày nay, Đảng lại coi sinh mệnh và vai trò của mình quan trọng hơn cả sự phát triển của đất nước, hơn cả cuộc sống của nhân dân, hơn cả sự nghèo khổ và tụt hậu của đất nước. Chắc chắn là Đảng sẽ đi vào ngõ cụt của sự tàn lụi. Tôi nhìn thấy rõ điều này, tôi lo và buồn cho Đảng nhiều. Đảng đã phản lại cả nguyên lý của Mác và của Lênin. Lênin chuẩn bị cho nhà nước đi đến chỗ tiêu vong, để nhân dân tự tổ chức quản lý. Còn Đảng cộng sản Việt Nam thì ngày càng tăng cường mở rộng quyền lực của nhà nước và bó khuôn tất cả nhân dân vào khuôn phép và ý nghĩ của mình, làm cái việc triệt tiêu mọi sức sống tinh thần của xã hội. Anh có chia sẻ với tôi nỗi buồn và lo ấy không 13.3.2001 Có người nói: Đảng là một dòng nước chảy, cái dòng nước Cách mạng Tháng 8 và kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã chảy ra biển Đông mất rồi. Giữa hai bờ của Đảng hiện nay là dòng nước khác, những người lớn tuổi chúng ta chỉ có thể trung thành với cái dòng nước “ngày xưa” ấy. Tôi thấy hình ảnh ấy khá đúng. Tôi vẫn không ân hận gì về tuổi trẻ và lý tưởng của tuổi trẻ, tôi vẫn tự hào với lý tưởng đó và tôi thấy tôi vẫn trung thành với lý tưởng đó, cũng như tôi tự hào và trung thành với cái Đảng của thời xưa mà có người gọi là Đảng của Hồ Chí Minh. Tôi không phân vân chút nào với cái lòng trung thành và tự hào ấy. Tôi cho rằng bất kể sau này ai viết lịch sử Việt Nam thế nào cũng không thể không có những trang đẹp nói về quãng 30 năm và 70 năm ấy. Còn ngày nay thì cứ phải trăn trở day dứt với hiện tình, không thể nào yên được. Cũng có người trách tôi là sao không đưa ra được một đường hướng gì, có những biện pháp gì để khắc phục tình hình ngày nay mà đưa đất nước phát triển mạnh mẽ lên. Còn nói về những mất dân chủ và những tệ nạn khác thì mọi người biết cả rồi, mọi người đều “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Ai đó mà cứ mong có người nào đó đưa ra được một đường hướng và những biện pháp nào có hiệu lực ngay để tác động vào tình hình đất nướcthì đó cũng là một điều ảo tưởng. Tôi cũng đã được nghe và đọc nhiều những ý kiến đề nghị với Đại hội IX. Tôi thấy rất nhiều ý kiến hay, nhưng ngay như riêng tôi muốn chấp nhận một ý kiến nào cũng khó lắm. Mỗi ý kiến đều có những điều phải trao đổi lại. Tôi vẫn mơ ước có một sinh hoạt dân chủ thực sự, gạt bỏ mọi cấm kỵ, mọi khuôn phép, bỏ qua những gì gọi là “vấn đề nguyên tắc” mà tổ chức nhiều cuộc hội thảo nghe hết những ý kiến ngược nhau rồi tổ chức tranh luận. Cuộc phát biểu và tranh luận phải được tổ chức trên các báo, phải cho xuất hiện những tờ báo độc lập có những cây bút độc lập đề xuất và tranh luận. Có những cuộc tranh luận công khai và độc lập trên truyền hình. Làm như vậy để cả nước nghe, cả nước bộc lộ ý kiến của mình. Tôi thấy rõ như bản thân tôi, tôi có nhiều nhận xét về tình hình, nhưng tôi thấy có những người có những nhận xét hay hơn tôi và tôi cũng thấy rõ có nhiều nhận xét khác nhau thì thế nào cũng tìm ra được một đường lối, một chiến lược cho đất nước đi lên, và chắc chắn nó sẽ hay hơn nhiều cái văn kiện Đại hội IX mà báo chí đang làm rùm beng. Tôi tin là như thế, anh Lữ Phương ạ! Trần Độ (Nhật ký Rồng Rắn, Phần II, Chương 3)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 4, 2013 5:30:35 GMT 9
Vài ý kiến về đề xuất thành lập một đảng chính trị mới cho Việt Nam
Lữ Phương
Việc thành lập một đảng chính trị mới đang nói tới ở đây là một đảng giả định, mang tên “ Đảng Dân Chủ Xã hội ” do Lê Hiếu Đằng đề xuất. Anh Đằng là một cán bộ đã 45 tuổi Đảng, hoạt động ở các đô thị miền Nam trong thời kỳ chiến tranh “ chống Mỹ ”, sau 1975 từng đảm nhận vai trò lãnh đạo trong Mặt Trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh suốt một thời gian dài. Đề xuất của anh đã làm dấy lên trong dư luận trong và ngoài nước một không khí tranh cãi sôi nổi, hào hứng, quyết liệt ít thấy. Là chỗ quen biết anh Đằng, sau khi theo dõi những cuộc tranh luận nói trên, tôi xin được góp thêm với công luận mấy ý kiến sau đây :
*
1. Điều tôi có thể khẳng định đầu tiên là đề xuất ấy chỉ là ý kiến đột xuất của riêng Lê Hiếu Đằng khi anh đối mặt với căn bệnh ngặt nghèo mà mình vướng phải, từ đó nẩy ra ý định nhìn lại cả một đời hoạt động đã qua và đã bày tỏ những dằn vặt cá nhân của mình về những hoạt động đó trong bài Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh. Khi bài này xuất hiện trên một trang mạng lập tức được anh Hồ Ngọc Nhuận – một nhà báo cũng là một nhân sĩ ngoài Đảng, thuộc “ lực lượng thứ ba ” đối lập với chính quyền Sài Gòn trước đây, sau 1975 đã cùng hoạt động với anh Đằng trong ban lãnh đạo Mặt trận Thành phố Hồ Chí Minh – lên tiếng tán thưởng bằng một bài viết hết sức nhiệt tình mang tên Phá Xiềng.
Sau bài viết đó của anh Nhuận, đây đó đã phát sinh dư luận cho rằng việc thành lập một đảng mới đối lập, đương đầu với Đảng Cộng sản đã là một thực tế đang được xúc tiến và xúc tiến bởi một nhóm người đang nuôi tham vọng nào đó về chính trị. Nhưng theo chỗ tôi biết thì trên thực tế chưa hề có một cá nhân nào hoặc một nhóm người nào đó thực sự có ý định kết tập nhau lại để bắt tay vào việc hình thành ra cái đảng chính trị này cả. Tất cả chỉ mới manh nha trong sự gợi ý từ bài viết của anh Đằng và riêng anh Đằng cũng cho biết, ngay cả khi có điều kiện để hiện thực hoá ý tưởng ấy thì trong tình trạng bệnh tật không biết đi đến đâu hiện nay, anh cũng không thể nào đứng ra đảm đương được. Anh Đằng không ngây thơ đến nỗi không hiểu tính chất đầy khó khăn và phức tạp của một dự án chính trị như vậy.
2. Qua việc tiếp xúc trực tiếp với anh và những văn bản mà anh đã công bố, tôi có thể khẳng định thêm rằng khi gợi ra vấn đề “ đa đảng ” nói trên, anh Đằng không hề đề ra mục tiêu lật đổ hay thay thế Đảng cộng sản đang lãnh đạo nhà nước và xã hội Việt Nam. Động lực thực sự của anh là muốn đưa ra một giải pháp thiết thực, góp phần dân chủ hoá đời sống chính trị của đất nước, từ đó cùng góp sức với Đảng cộng sản, tìm kiếm những giải pháp phù hợp thực tế để mau chóng đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Suy nghĩ này của anh thật ra không có gì mới mẻ vì đã được nhiều nhân vật hoạt động và một số nhà nghiên cứu (kể cả những người trong Đảng) nói tới từ lâu, quan trọng nhất là chỉ ra được nguyên nhân mọi sai lầm lặp đi lặp lại của Đảng cộng sản cầm quyền: đó là việc Đảng đã coi cái ý thức hệ Mác-Lênin của riêng mình như chân lý duy nhất đúng, ép buộc toàn xã hội phải thừa nhận, căn cứ vào đó thiết lập quyền độc tôn lãnh đạo, không màng đến phản ứng của cuộc sống thực tiễn, nguyện vọng của đông đảo nhân dân.
Tất cả mọi sự phản biện dai dẳng đưa đến những đề xuất tìm kiếm một giải pháp điều chỉnh lại hướng đi cho đất nước cũng xuất phát từ đó : trong thời kỳ mới này, Việt Nam cần phải chuyển mình sang thể chế dân chủ để hình thành một tập hợp dân tộc đồng thuận, trong và ngoài nước, dựa trên đó cùng nhau tìm ra những giải pháp thoát khỏi được sự bế tắc bấy lâu nay. Trong ý hướng dân chủ hoá đời sống chính trị đó, vấn đề kiểm soát quyền lực – cụ thể là không để nhà nước dùng sự độc tôn quyền lực triệt tiêu sự sống độc lập của xã hội công dân, kết quả là biến sự độc tôn đó thành chỗ dựa cho các tập đoàn lợi ích cấu kết với nhau để thao túng nhà nước – đã được đặt ra ngày càng gay gắt, dưới nhiều hình thức, từ việc lên tiếng của những cá nhân đến những kiến nghị tập thể mở rộng cho nhiều người tham gia.
3. Vấn đề “ đa đảng ” mà Lê Hiếu Đằng nêu ra chỉ nhắc lại những suy nghĩ chung nẩy sinh từ quá trình thảo luận tìm kiếm con đường dân chủ hoá cho Việt Nam, diễn ra cả hơn hai thập kỷ đã qua. Và không phải chỉ như vậy vì có lúc các ý tưởng ấy đã thể hiện trong thực tế, cụ thể qua sự xuất hiện công khai một số đảng chính trị mà thách thức rất đáng chú ý là việc ông Hoàng Minh Chính một cựu đảng viên đứng ra “ phục hồi ” một đảng ra đời vào thời kỳ cách mạng 1945 mệnh danh là Đảng Dân Chủ. Gọi là “ phục hồi ” một đảng cũ (thực chất là do Đảng Cộng sản chủ động lập ra) nhưng trong khi đó ông Chính lại dời vị trí nội địa của nó ra hải ngoại để một số nhân vật bên ngoài chi phối, vì thế nỗ lực của ông đã không giữ được tính chính danh cần phải có để có thể hoạt động, nhất là không đủ thực lực để vượt qua được sự trấn áp của Đảng cộng sản.
Đảng chính trị mang tên “ Dân chủ Xã hội ” do Lê Hiếu Đằng đề xuất đã đi theo một hướng hoàn toàn khác : là kết quả của cuộc vận động trong nước nhưng không ra đời một cách tự phát từ cuộc sống xã hội mà lại bắt nguồn từ nội bộ Đảng cộng sản, cụ thể từ sáng kiến của những đảng viên bất đồng, xin ra khỏi Đảng với một số lượng tương đối nào đó để có thể khởi xướng và thành lập. Thực chất của cái thực thể chính trị được Lê Hiếu Đằng đề xuất đã bộc lộ rõ trong điều kiện giả định đó : Đảng Dân chủ Xã hội sẽ không thể nào trở thành hiện thực nếu chưa có đủ số đảng viên cộng sản ly khai cần thiết. Vì thế sẽ là tất nhiên khi thấy anh Đằng chưa nói gì đến cương lĩnh, tổ chức, điều lệ của đảng, và cũng là tất nhiên nữa khi chúng ta chưa thấy có dấu hiệu nào cho biết đã có một sự chuẩn bị tối thiểu để làm việc đó. Câu hỏi về sự chín muồi hay chưa của tình hình để sự đề xuất này có thể đi vào thực tế thiết tưởng cũng không có ý nghĩa bao nhiêu.
Vì thế, muốn nhìn ra cho rõ hình hài của cái thực thể chính trị mới này tôi thấy không dễ. Tuy vậy nếu cố gắng đi sâu vào những gì Lê Hiếu Đằng gợi ra qua các bài viết của anh, chúng ta vẫn có thể hình dung ra được đôi nét rất khái quát của nó. Khác hẳn về phương pháp hoạt động với Đảng cộng sản, đó là điều rõ ràng nhất : nếu một bên là chuyên chính, dựa vào đường lối từ bên trên để “ cải tạo ” bên dưới, buộc bên dưới phải vâng phục (cộng sản) thì một bên sẽ là dựa vào bên dưới – Lê Hiếu Đằng nói đến nhiều lần cái “ xã hội dân sự ” đang lớn mạnh – để hoạt động, lấy nguyện vọng của bên dưới hình thành đường lối, căn cứ vào đó tạo ra áp lực tác động lên trên, buộc Đảng cộng sản phải tiến hành những cải cách căn bản và thiết thực (dân chủ xã hội).
Khác nhau về phương pháp hoạt động nhưng xét về mặt mục tiêu, hai thực thể chính trị ấy vẫn có thể gặp nhau trên những định hướng lý thuyết khả dĩ về một mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống : hạn chế sự bóc lột mù quáng và vô độ của chủ nghĩa tư bản, đề cao quyền sở hữu về sức lao động của những người công nhân, bảo vệ môi trường tự nhiên, lành mạnh hoá môi trường văn hoá xã hội… Với những tương đồng giả định đó, nếu ra đời được, Đảng Dân Chủ Xã hội sẽ đảm nhận một chức năng đặc biệt trong mô hình “ lưỡng đảng ” kiểu Việt Nam, ở đó Đảng cộng sản vẫn là chủ thể lãnh đạo còn Đảng Dân chủ Xã hội sẽ giữ vai trò của một lực lượng “ đối trọng hợp pháp ”, không hoàn toàn là một thứ đảng bù nhìn vuốt đuôi (như ở Trung quốc) nhưng cũng không phải là một đảng chống đối nhằm “ giải thể ” Đảng cộng sản để thay thế như người ta có thể tưởng tượng ra.
4. Nhìn chung lại, tôi thấy đề xuất thành lập Đảng Dân chủ Xã hội của Lê Hiếu Đằng đã đặt nền trên mấy nhận định sau đây :
Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản hiện nay đã tỏ ra hoàn toàn bất lực trong công cuộc phát triển lành mạnh của đất nước, vì vậy đang đưa dân tộc vào một cuộc khủng hoảng xã hội trầm trọng, có nguy cơ để mất chủ quyền vào thế lực bành trướng phương Bắc.
Tình trạng đó được quy về phương thức lãnh đạo chuyên chính của Đảng cộng sản với một đường lối áp đặt, xa rời thực tế, mất lòng dân, cho nên biện pháp dân chủ hoá sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là điều kiện cấp bách để giải quyết cuộc khủng hoảng nói trên.
Trong tình thế cực đoan như hiện nay, sự ra đời của một đảng mới gần gũi với Đảng cộng sản về mục tiêu nhưng khác về phương pháp là phương thức tốt nhất, để vừa dân chủ hoá thể chế chính trị ở Việt Nam, vừa tạo ra một môi trường cạnh tranh thúc đẩy Đảng cộng sản tự dân chủ hoá và canh tân.
Qua sự tìm hiểu như trên, giả sử như tiếp cận được gần đúng suy nghĩ của Lê Hiếu Đằng, nếu bỏ qua một số biểu đạt có tính chất cảm tính vì những bức xúc đặc biệt của anh, tôi cho rằng những suy nghĩ ấy cần được đón nhận một cách thiện chí vì bản thân cái phần cốt lõi trong bài viết của anh đã bắt nguồn từ một thiện chí không thể không ghi nhận. Những anh em quen biết anh Đằng lâu năm đều nhận thấy anh thuộc loại đảng viên ít chịu khoan nhượng trước những sai trái, cho nên hoạt động trong một môi trường phải tận mắt chứng kiến quá nhiều những điều đi ngược lại lý tưởng ban đầu của anh, nghiêm trọng, dai dẳng đến phi lý, anh không thể không tiếp nối những người đi trước (như tướng Trần Độ đã mất), lên tiếng phê phán những sai trái ấy với tinh thần trách nhiệm cao nhất của một đảng viên mà cũng là của một công dân. Gọi anh là kẻ “ phản bội ”, “ chuyển hệ ” hoặc theo đuôi các “ thế lực thù địch ”, xuyên tạc tư tưởng để bôi nhọ nhân thân của anh v.v… là những quy kết đầy ác ý.
Còn về vấn đề “ đa đảng ” mà anh xới lên, như đã nói ở trên, thật sự đó vẫn chỉ là một đề xuất giả định, đúng hơn là một khuyến cáo có tính chất định hướng cho Đảng cộng sản – chứ không phải cho những thực thể chính trị khác – mà anh vẫn còn là một thành phần, mục đích không có gì khác hơn là thúc đẩy sự canh tân thể chế, vì lợi ích của dân tộc mà cũng là vì Đảng của anh. Vốn là một khuyến cáo công khai đề xuất trực tiếp, nếu không đồng ý với anh thì điều quan trọng nhất để những nhà lãnh đạo Đảng ứng phó là chỉ đạo những nhà lý luận của mình, dưới hình thức một cuộc đối thoại cũng công khai, minh bạch trả lời từng điểm một các vấn đề đã được nêu ra, nhân dịp này thành thật công bố đường lối giải quyết những khó khăn hiện nay của Đảng (nhất là với chủ nghĩa bành trướng phương Bắc), không phải chỉ với riêng anh mà với cả đông đảo những người thuộc nhiều thế hệ khác nhau, đã nghĩ như anh và tạo ra động lực để anh bộc lộ. Không làm như vậy mà lại né tránh các vấn đề đó, trong khi đó lại cho mở ra chiến dịch công kích anh hết sức thô bạo – cơ sở lập luận không dựa vào đâu ngoài những công thức tuyên truyền xa rời thực tế (như tính chất “ khoa học ” của chủ nghĩa Mác-Lênin, sự chọn lựa của Đảng và của nhân dân là một, cổ vũ đa đảng là làm rối loạn xã hội v.v…), đương nhiên coi đó như những chân lý quyền uy, không cần thuyết phục – những nhà lý luận của Đảng đã không gặt hái được gì ngoài những chống trả quyết liệt của nhiều xu hướng phản biện khác nhau.
5. Để giữ tính chất nghiêm túc cho đề xuất của Lê Hiếu Đằng, thiết nghĩ chúng ta cần vượt lên cuộc tranh cãi ồn ào đang diễn ra để tìm hiểu thêm vấn đề này theo một viễn cảnh chuyển đổi xã hội rộng lớn hơn mà ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra ngày càng rõ ràng, đặc biệt là những ý hướng canh tân mạnh mẽ xuất phát từ trong nội bộ Đảng cộng sản. Trong xu thế ấy, việc đề xuất công khai và trực tiếp của Lê Hiếu Đằng về vấn đề “ đa đảng ” là một đột biến quan trọng, có khả năng mở ra một hướng mới cho quá trình đấu tranh trong nội bộ Đảng về sự cần thiết phải có những chuyển hoá triệt để về lãnh đạo : cuộc đấu tranh dân chủ hoá đời sống chính trị của đất nước từ nay trở đi sẽ không chỉ giới hạn trong việc “ phản biện ” trên lời nói về những chính sách sai lầm của Đảng mà cần tranh đấu tạo ra một định chế phân tán quyền lực để ngăn chặn những sai lầm ấy một cách có hiệu lực. Việc kiểm soát quyền lực này không đụng chạm tới cương lĩnh của Đảng cộng sản (đó là chuyện nội bộ của những người cộng sản) mà chỉ đặt vấn đề thiết lập một định chế mới để buộc Đảng cộng sản phải tuân thủ những quy định dân chủ về “ kiểm soát và cân bằng quyền lực ” khi đem cương lĩnh của mình ra thực hiện.
Trước một xu thế như vậy, sự phản ứng ứng quyết liệt của một số cán bộ Đảng, quen bám víu (một cách lén lút) vào thứ lý luận giáo điều về “ chuyên chính vô sản ”, dứt khoát không chia quyền với bất cứ ai, là hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng nhìn vào lịch sử của phong trào cộng sản thế giới, người ta nhận thấy quan niệm ấy không phải lúc nào cũng được áp dụng một cách tuyệt đối, máy móc, nhất là trong những tình thế khó khăn cần linh động nhân nhượng để đừng mất tất cả (“dĩ nhất biến ứng vạn biến” như Hồ Chí Minh hay nói) : việc Đảng cộng sản Đông Dương, cuối năm 1945 ra thông báo căn cứ vào “tình hình thế giới và hoàn cảnh trong nước” bấy giờ để tự giải tán là một thí dụ. Trong những tình hình như vậy, vấn đề “ đa đảng ” không còn là một khái niệm thiêng liêng, một nguyên tắc bất dịch mà là một công cụ trong đấu tranh, cần phải được sử dụng để bảo vệ mục đích theo đuổi của mình. Vấn đề thành công hay thất bại trong trong việc quyết định này hoàn toàn tuỳ thuộc vào bản lĩnh của những người có đảm lược sử dụng công cụ đó.
Ngay trong điều kiện đã giành thắng lợi rồi mà muốn bảo vệ quyền lực một cách lâu bền, công cụ đó vẫn không thể tiên quyết coi như một cấm kị. Thực tế cho chúng ta biết có khá nhiều hình thức “ đa đảng ” đã được những đảng cầm quyền sử dụng có lợi cho mình. Có thể cho phép một loạt đảng “ hiệp thương ” tồn tại để làm “ kiểng ” cho chế độ một đảng độc tài. Cũng có trường hợp các đảng gọi là “ đối lập trung thành ” được luật pháp cho hoạt động công khai nhưng trên thực tế đã bị đảng cầm quyền khống chế (một cách hợp pháp và cả bất hợp pháp) để duy trì quyền lãnh đạo thống trị của mình. Cũng có trường hợp công cụ đa đảng được dùng trong thể chế “ đa nguyên đa đảng ” ở đó các đảng đối lập, vì một lý do văn hoá, lịch sử nào đó, luôn chiếm vị trí thiểu số, nhưng cũng có những trường hợp được sử dụng trong thể chế “ nhất nguyên đa đảng ”, ở đó chỉ có hai đảng thay nhau cầm quyền bằng những phương pháp khác nhau nhưng có cùng mục đích bảo vệ những giá trị chung của một chế độ cả hai đều chia sẻ. Trước thực tế phức tạp của cuộc đấu tranh quyền lực, việc tuyệt đối hoá một quan niệm “ độc đảng ” có nội dung nào đó để duy trì sự độc tôn quyền lực cho Đảng của mình trong mọi trường hợp là một thái độ không thực tế. Nhất là lại thuần tuý bằng trấn áp và bạo lực thì không những không thực tế mà còn nguy hiểm : đảng chính trị đó chỉ tích tụ những toan tính bạo lực ngược chiều, trước sau gì cũng “ quỵ sụm ” hoặc bị đánh đổ bằng con đường bạo lực do mình tạo ra.
*
Sẽ là một thiếu sót nếu bài này chấm dứt mà không có vài lời sau đây xin thưa cùng những người quen hay không quen đã bày tỏ thái độ đồng tình, cổ vũ đề xuất của Lê Hiếu Đằng : a) Đề xuất của anh chỉ là một khuyến cáo với Đảng cộng sản. Tán thành nhưng xem đây chỉ như một sáng kiến “ cải lương ”, “ thoả hiệp ” hoặc “ ảo tưởng ” cũng không sao, nhưng đừng quên rằng đây là một hình thức tranh đấu mới nẩy sinh từ bên trong hàng ngũ những người cộng sản trước tình thế mới. b) Thực chất của đề xuất đó là chuyển hoá thể chế chuyên chính sang dân chủ pháp quyền, ở đó hình thức đa đảng là một công cụ đấu tranh thực hiện bằng phương pháp nội tại của những người cộng sản bất đồng. Cần xuất hiện những suy nghĩ khác có nội dung phù hợp với những bước đi thích hợp hơn. c) Công việc cực kỳ khó khăn, xin đừng quá bồng bột coi đề xuất này như một thứ phép màu mang đến khả năng chấm dứt ngay được di sản nặng nề của độc tài, chia rẽ, hận thù do quá khứ để lại. Cũng đừng quên trong chính trị, vấn đề “ đa đảng ” chỉ là một công cụ đấu tranh : viễn cảnh về một xã hội mà công cụ đó cần vượt qua và nhắm tới mới là mục tiêu quan trọng hơn.
2-9-2013
Lữ Phương
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 5, 2013 8:32:21 GMT 9
Hãy để ước nguyện Lê Hiếu Đằng thành hiện thực
Tôi đã từng viết bài xiển dương những đảng viên Cộng sản phản tỉnh: Trần Dộ, Trần Xuân Bách, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Vi Đức Hồi, Vũ Cao Quận, Tô Hải, Bùi Minh Quốc, Trần Mạnh Hảo, Trần Đại Sơn, Trần Lâm, Trần Nhơn, Phạm Đình Trọng ….Họ đều từng là những chiến sỹ Cộng sản kiên trung và cùng chiến tuyến với tôi qua mấy cuộc chiến: chống Pháp, chống Mỹ, chống Trung Quốc. Sự trân quý tương tự cũng từng được dành cho Lữ Phương, Mai Thái Lĩnh, và nay là Lê Hiếu Đằng, khi tôi được đọc những dòng huyết lệ của ông viết từ giường bệnh. Sự phản tỉnh của Lê Hiếu Đằng muộn mằn hơn nhưng hơi thở hắt ra từ một người đang lâm bệnh hiểm nghèo, nghe như “Tiếng chim hót trong bụi mận gai”, có sức lay động lòng người rất đáng kể, đặc biệt là trong tình hình hiện nay. Tôi vừa quý trọng vừa cảm thương Lê Hiếu Đằng. Ông còn trẻ hơn tôi gần chục tuổi, nhưng lẽ nào …! Dẫu sao, trong cái bụi mận gai bệnh tật hiểm nghèo, ông cũng đã cố rướn mình hót tiếng hót rất hay. Tôi cứ nghĩ mọi người đều có khả năng thẩm âm tối thiểu để lắng nghe, để thưởng thức, để thấu hiểu được, ngõ hầu nếu không đồng thanh tương ứng mà cùng kêu gọi “Phá xiềng” như Hồ Ngọc Nhuận thì chí ít cũng ngỏ lời an ủi, góp liều thuốc tinh thần chung sức cùng y tế vực Lê Hiếu Đằng dậy mà chung lưng gánh trách nhiệm thực hiện hoài bão ông đề xướng. Trớ trêu thay, tiếng hót thành tha ấy tuồng như đang bị chìm lấp trong ầm ĩ, nhao nhao những điều ong tiếng ve! Dẫu biết khả năng thuyết giải rất không đáng kể, bài viết này, may chăng, mong được chia sẻ cùng luật gia Lê Hiếu Đằng – một người bệnh đang sống rất mạnh mẽ, rất ngoan cường. Trong nhao nhao, ầm ĩ những điều ong tiếng ve kia, ngạc nhiên thay, không chỉ có tiếng của bọn bồi bút, của những kẻ đâm thuê chém mướn “chống diễn biến hòa bình” … mà cả những “ngài” nhân danh “dân chủ”, “chống Cộng”! Những chiến sỹ tuyên giáo của Đảng, kể cả loại như giáo sư Vũ Minh Giang, nhà báo Trọng Đức … thì vì cái bệnh nói lấy được, nói không biết xấu hổ trước thực tiễn nên khó bề lọt tai, tuy nhiên, cái sự nhộn nhạo xô bồ, giả thực giả hư của đám người nhân danh “dân chủ”, “chống cộng” kia thì hiệu quả phá đám đôi khi nguy hại hơn nhiều. Nói chung, lý lẽ của họ chẳng có gì đáng nghe. Điều rất đáng phàn nàn là vì “cùn” nên họ đành chơi trò “bỏ bóng đá người” . Sao cứ phải ỷ eo lôi mãi chuyện lý lịch cổ xưa ra để chì chiết con người! Ông Lê Hiếu Đằng – xưa là Phó Tổng thư ký Uỷ ban Trung Ương Liên Minh các Lực lượng Dân tộc Dân Chủ và Hoà Bình Việt Nam, chống Mỹ, chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa ngay giữa Sàigòn với ông Lê Hiếu Đằng nay, Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam thp HCM mà lại bất tuân chủ trương đường lối của ĐCSVN – đều xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân rất trong sáng, rất vị tha, rất cương cường. Con người ấy khả kính lắm chứ. Phải dũng cảm và chân thành mà nhận rằng hầu hết tất cả chúng ta, trong đó có tôi và quý vị nói chung đều có tội đối với dân tộc, với đất nước; đều đã lầm lỗi. Lầm lỗi do tự lầm lẫn. Lầm lỗi do bị lường gạt. Người Cộng sản từng lầm lỗi. Người Chống Cộng cũng từng lầm lỗi. Trớ trêu sao, ta lầm lỗi chính vì ta yêu nước. Càng trớ trêu hơn khi lầm lỗi nặng hơn, tội lớn hơn lại gây bởi những người có tấm lòng yêu nước thiết tha hơn. Làm sao có thể nghi ngờ lòng yêu nước thương nòi, ý chí chống cường quyền, mưu cầu độc lập của tuyệt đại đa số những người đã giơ nắm tay gầy guộc tuyên thệ dưới lá cờ búa liềm trước năm 1945. Khi ấy (và chỉ khi ấy), họ theo Mac-Lenin chủ yếu vì mục tiêu giành độc lập dân tộc, chống áp bức, bất công. Họ không mưu tính thấp hèn, cũng không dốt nát. Dốt nát sao được với những cái đầu như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Tạ Quang Bửu, Trần Dần …. Ông Đặng Văn Âu kể rằng: “Khi tôi gọi điện thoại về Việt Nam cho bác sĩ Nguyễn Khắc Viện để hỏi tại sao một người thông minh lỗi lạc như anh mà đi theo Đảng cộng sản, một đảng đã đấu tố thân phụ anh cho đến chết, ông đáp: “Vì mình chống bọn Thực dân, vì mình quá khao khát độc lập tự do nên mình ngây thơ” ”. Cho nên tôi thật ngạc nhiên khi thấy một số người dám lớn tiếng chê bai, thậm chí rủa xả tất cả những người từng theo Cộng sản. Họ thật hợm hĩnh, thật hàm hồ!. Tôi rất đồng ý với Tổng Bí thư ĐCS Tiệp Khắc Milovan Djilas khi ông nói: “20 tuổi mà không theo Cộng Sản, là không có trái tim, 40 tuổi mà không từ bỏ Cộng Sản là không có cái đầu”. Không phải tất cả, nhưng nghĩ rằng nhiều người đã không theo Cộng sản chỉ vi không có trái tim. Tôi chưa từng là đảng viên ĐCS không phải vì tôi sáng suốt mà chỉ vì tôi không được Đảng kết nạp. Tôi đã từng uống nước căng bụng, mượn chiếc giây lưng to bản để đủ cân tuyển đi bộ đội chống Pháp, đã từng có thơ đăng trong tuyển tập thơ Chống Mỹ, đã từng phấn đấu đến mức được cơ sở đề nghị phong Anh hùng Lao động … nhưng không được kết nạp Đảng chỉ vì lý lịch gia điình (Ba tôi là nhân viên cơ quan USAID của Hoa Kỳ, ba em trai tôi đều là lính Việt Nam Cộng hòa). Dẫu vậy tôi vẫn tin vào lương tri của chủ nghĩa xã hội, mãi cho đến năm 1980, khi tôi được đến một nước tư bản để dự Hội thảo Quốc tế về Cổ Địa Từ học, và nhất là đến năm 1989, khi tôi được đến Washington để trình bầy một báo cáo tại Hội nghị Địa chất Quốc tế lần thứ 28. Lời kêu gọi thành lập Đảng Dân chủ Xã hội của ông Lê Hiếu Đằng đã hợp thời chưa? Hợp thời và rất cần thiết. Từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến nay, nhiều Hội đoàn, Đảng đối lập đã tuyên bố thành lập trong nước nhưng đều bị bóp chết từ trong trứng hoặc chỉ sống vật vờ, nhưng nay tình hình đã có nhiều yếu tố của “đêm trước”. Những sai lầm của chủ trương, đường lối ĐCSVN đã tích tạo nên nguy cơ bùng nổ xã hội. Nạn tham nhũng đục khoét tâm can mọi người. Chính sách ruộng đất phản hiện thực đang đẩy hàng đoàn nông dân ngày tiếp ngày kéo nhau đi biểu tình. Doanh nghiệp thoi thóp. Thanh niên, trí thức bị đẩy vào đường cùng càng sục sôi bức bối trước những bất công ngày càng phơi bầy nhức nhối. Nhờ internet, giác ngộ xã hội được bừng thức. Những bức xúc xã hội đang trở thành bức xúc chính trị. Những phản ứng tự phát đang mang yếu tố tự giác. Giới trẻ tham gia vào các hoạt động chính trị-xã hội với nhiều sáng kiến “thiên biến vạn hóa” đang mặc nhiên thiết lập xã hội công dân. Đặc biệt là tình trạng lãnh đạo Đảng đã phân hóa và đang trở nên rối ren, thối nát. Đảng không chỉ đối lập với nhân dân mà còn vô trách nhiệm với Tổ Quốc. Làm sao có thể chấp nhận được một ông Chủ tịch Quốc hội dám lấp liếm trước Quốc hội rằng “Biển Đông không có gì mới” trong khi Trung Quốc đã thành lập thành phố Tam Sa và xua đuổi, bắt bớ giết chóc ngư phủ Việt Nam ngay trên lãnh hải của ta. Làm sao có thể chấp nhận một ông Tổng Bí thư chủ trương mời công an Trung Quốc vào Việt Nam để “giữ gìn ổn định trong nước của mình” (chữ trong văn bản ký kết giữa TBT Nguyễn Phú Trọng với Hồ Cẩm Đào). Đã phát hiện được gián điệp Trung Quốc nhan nhản khắp hang cùng ngõ hẻm. Người ta còn ngờ rằng nội ứng Trung Quốc nằm ngay trong cơ quan đầu não của Đảng như những biểu hiện đã thấy. Câu khẩu hiệu “Tổ quốc hay là chết” trong tình hình này phải được hiểu là “Đa đảng hay là chết”. Tổ quốc sẽ chết vì suy thoái toàn diện, vì tham nhũng …, và, cay đắng hơn, vì chui vào ách đô hộ của Trung Quốc nếu luẩn quẩn mãi trong những chủ trương đường lối tăm tối của ĐCSVN. Sẽ có người hỏi vì sao câu khẩu hiệu không phải là “ĐCSVN phải chết để Tổ quốc được sống”. Câu khẩu hiệu đó không nên nêu lên trong lúc này vì hai lý do: Một là, chưa thể thực hiện được. Cho đến hiện nay chưa có tổ chức nào, lực lượng nào lật đổ được và thay thế được ĐCSVN, ngoại trừ, chính những người trong bộ phận lãnh đạo của ĐCSVN. Hai là, câu khẩu hiệu ấy bộc lộ tính phản dân chủ. Tại sao nhất thiết phải có mày không tao? Tại sao cứ tao sống thì mày phải chết? Tại sao vướng vất mãi tinh thần “Đường vinh quang xây xác thù” thật ghê rợn!. Ngay ở những nước dân chủ lâu đời ĐCS vẫn cứ được tồn tại đấy chứ. Có sợ Đảng cuội, đối lập cuội không? (Chữ cuội ở đây được hiểu là cơ sở cứu hộ của ĐCSVN) Mấy chữ “Đảng cuội”, “Đối lập cuội” chẳng qua do mấy ông bà “Dân chủ cuội”, “Chống Cộng cuội” nặn ra để khích bác nhau, vùi dập nhau. Trong thực tế mấy thập kỷ qua, ai có thể chứng minh một cách đứng đắn ông/bà A,B, tổ chức/hội đoàn X,Y nào là đối lập cuội không? Nếu Đảng của ông Lê Hiếu Đằng có là do ông S, ông D nào đó xui lập ra thì vẫn nên ủng hộ. Nếu chưa được là Hai thì Một Phẩy đứng bên Một cũng là “đa” rồi. Chỉ Một thì cứ là Một mãi nhưng có Một Phẩy thì rất dễ chuyển hóa thành Hai, thành Ba … Chính tôi đã từng thành khẩn khuyến nghị ĐCSVN nên chủ động thiết lập đa đảng bằng cách cho hình thành một vài đảng anh em của ĐCSVN kiểu như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội trước đây để tạo trạng thái cạnh tranh thân ái, lành mạnh, tránh sát phạt, đổ máu. Có người phê phán đó là đường lối cải lương, nhưng hãy nhớ lại, trước đây cụ Phan Châu Trinh cũng đã từng bị những người Cộng sản phê phán là cải lương. Hẳn là, đối với những người Cộng sản, chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, “ỷ Pháp giành độc lập” lúc bấy giờ cũng chướng tai, cũng gây phẫn nộ như chủ trương “khuyến ĐCSVN thực hiện đa đảng” đối với những người chống Cộng mù quáng, chống Cộng bạt mạng ngày nay vậy. Nhưng, thử tưởng tượng xem, nếu dân tộc được dắt dẫn theo con đường Phan Châu Trinh thì ngày nay sẽ thế nào. Chắc chắn đã không có cảnh núi xương sông máu mà ít ra Việt Nam sẽ không phải đối mặt với sự tác oai tác quái của Trung Quốc như đang thấy. Bởi vậy, tôi nhiệt liệt hoan nghênh ông Lê Hiếu Đằng và thành tâm chúc ông mau phục hồi sức khỏe để thực hiện ước nguyện cao cả của ông. Thúc giục một người bệnh dốc sức cho việc chung đôi khi là vô nhân đạo nhưng tôi hy vọng đấy cũng sẽ là một phương thuốc tinh thần kích thích nội năng để rồi ông có thể vượt qua và sẽ được ban thưởng xứng đáng. Đề nghị ông hãy mau liên kết với nhiều thành phần, nhiều cá nhân không chỉ trong mà cả ngoài Đảng, đặc biệt là giới trẻ để gấp rút hình thành tổ chức và sớm công bố được bản cương lĩnh của đảng Xã hội Dân chủ Việt Nam trên cơ sở tham khảo các văn bản của “Phong trào Con đường Việt Nam” ở trong nước và của “Tập hợp Dân chủ Đa nguyên” ở ngoài nước. Hà Nội 28 tháng 8 năm 2013 Nguyễn Thanh Giang
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 17, 2013 9:13:53 GMT 9
Góp phần giải mã hiện tượng Lê Hiếu Đằng Tiêu Dao Bảo Cự, 16.09.2013 Thời gian gần đây có một số “hiện tượng” mang sắc thái chính trị đáng cho mọi người quan tâm: Huy Đức xuất bản cuốn sách “Bên thắng cuộc” bạch hóa một giai đoạn lịch sử Việt Nam, Nguyễn Đắc Kiên gay gắt phê phán trực tiếp Tổng bí thư Đảng Cộng Sản, Nguyễn Phương Uyên tuyên bố quan điểm chính trị chống đảng trước tòa án, hoạt động của Mạng lưới blogger với Tuyên ngôn 258 tố cáo với thế giới điều luật phản dân chủ của luật hình sự… và gần đây nhất là hiện tượng Lê Hiếu Đằng. Những hiện tượng này không phải “đột xuất” mà có nhưng chính là sự tiếp nối của quá trình đấu tranh dân chủ hóa đất nước của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là trí thức, qua mấy thập niên và cũng ghi dấu mở đầu cho một giai đoạn mới, trong đó điều nổi bật là một số người đã vượt qua nỗi sợ hãi do chế độ độc tài toàn trị áp đặt nặng nề lên toàn xã hội, nói lên chính kiến của mình ngược với quan điểm chính thống của chế độ. Cũng đã gần một tháng trôi qua từ khi Lê Hiếu Đằng công bố bài viết “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” (17/8/2013), dư luận phản hồi từ nhiều phía đã phân tích, ủng hộ, phê phán bài viết cũng như tác giả, lại một lần nữa làm lộ rõ các loại “lập trường chính trị” trước hiện tình đất nước. Tuy nhiên trừ một số ít bài (như bài viết của Lữ Phương) nêu vấn đề một cách khách quan, sát thực tiễn, phần lớn các bài viết từ hai cực chính trị, tạm gọi là “chống cộng triệt để” và “cộng sản bảo thủ” đều không căn cứ vào bản chất của sự việc mà chỉ áp đặt cách suy luận và diễn dịch theo quan điểm chính trị của mình. Từ đó gán cho Lê Hiếu Đằng những gì ông không hề có như cò mồi lừa bịp của đảng, cơ hội chủ nghĩa… hay ngược lại như phản bội chống đảng, bị thế lực thù địch giật dây… Thật đơn giản và rõ ràng khi người ta biết và chịu nhìn vào chính bản thân bài viết, ngay từ tựa đề “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh”. Trong những ngày nằm bệnh Lê Hiếu Đằng có thời gian suy nghĩ để “tính sổ” đời mình, một việc quá tự nhiên và thông thường. Hồi tưởng về thời tuổi trẻ và quá trình cuộc sống, đấu tranh qua hai chế độ với những kỷ niệm và nhận thức qua mỗi thời kỳ, ray rứt về hiện tình đất nước dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản và một vài gợi ý để tìm lối thoát cho đất nước. Với ý tưởng chân thành, hành văn mộc mạc, đề cập nhiều vấn đề, đây là bài viết của một người đang nằm bệnh có tính cách tự sự chứ không phải chính luận hay cương lĩnh. Sao có thể đòi hỏi những gì không thể có qua một bài viết trong hoàn cảnh này. Bài viết chứng tỏ tác giả là một con người có trải nghiệm thực tiễn, suy nghĩ tự do và tinh thần phản kháng. Mấy năm gần đây, Lê Hiếu Đằng nổi lên như một “nhân vật phản biện” với các bài viết, các cuộc trả lời phỏng vấn và cả việc tham gia biểu tình chống Trung Quốc xâm lược. Đối với những người có hiểu biết về ông, thực ra Lê Hiếu Đằng đã nổi tiếng phản biện từ nhiều năm trước trong các hoạt động ở guồng máy chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh (mà ông đã có nhắc tới vài việc trong bài viết “Suy nghĩ…”) và điều này cũng là sự tiếp diễn của tinh thần đấu tranh và ý thức dấn thân thời trai trẻ. Đó không gì khác hơn là lòng yêu nước, tinh thần phản kháng trước bất công áp bức của rất nhiều thế hệ người Việt Nam. Bài viết của Lê Hiếu Đằng có nhiều chi tiết dễ gây tranh luận nhưng điểm nút tạo ra cơn sốt chính là lời kêu gọi tập thể từ bỏ đảng Cộng sản và thành lập một đảng mới. Về đảng mới này ông chỉ viết “chẳng hạn như đảng Dân chủ Xã hội”. Rõ ràng đây chỉ là một gợi ý đầu tiên. Có thể sự gợi ý này bắt nguồn từ mấy nguyên nhân mà ông và bạn bè hay một số trí thức đã từng suy nghĩ : Đã từng có hai đảng Dân chủ và Xã hội hoạt động song song với đảng Cộng sản (cho dù chỉ là đảng cây cảnh); gốc gác của dân chủ xã hội cũng có chung cội nguồn với chủ nghĩa xã hội của cộng sản nên những đảng viên Cộng sản dễ chấp nhận; sự ưu việt hiện nay của các chế độ dân chủ xã hội, đặc biệt ở các quốc gia Bắc Âu đã được thừa nhận và có sức thuyết phục đối với toàn thế giới. Chỉ là một gợi ý, làm sao có thể đòi hỏi ông phải nêu cương lĩnh của đảng hay định hướng gì khác trong một bài viết tự sự khi đang nằm bệnh. Ông cũng không khẳng định đây là đảng mới duy nhất mà chỉ là thí dụ cho sự đối lập chính trị để kềm chế sự độc tài toàn trị của đảng Cộng sản. Dĩ nhiên Lê Hiếu Đằng không còn ủng hộ đảng Cộng sản khi ông kêu gọi từ bỏ đảng nhưng ông cũng không kêu gọi lật đổ đảng Cộng sản. Đây không phải là thái độ lập lờ mà là căn cứ vào thực tiễn, không duy ý chí. Đảng CS còn tồn tại được bao lâu là điều không ai có thể nói trước chính xác nhưng thực tế là họ đang cầm quyền với một thế lực hùng mạnh, một bộ máy có mạng lưới rộng khắp, số đảng viên và những người ủng hộ chiếm thành phần không nhỏ trong dân số. Dĩ nhiên dù hùng mạnh tới đâu cũng có ngày sụp đổ như lịch sử của các đế quốc và các chế độ độc tài của loài người đã cho thấy. Giả thiết ngay cả khi đảng bị lật đổ, nghĩa là không còn nắm chính quyền, thì số đảng viên và những người ủng hộ họ vẫn còn đó như một thực thể chính trị. Trong công cuộc dân chủ hóa đất nước, thoát khỏi nạn độc tài toàn trị, như một ước mơ của đại bộ phận dân tộc, có nhiều cách nghĩ và phương thức để giải quyến nan đề này. Lê Hiếu Đằng chọn phương thức hình thành sức mạnh đối lập để chuyển hóa một cách hòa bình chứ không bạo loạn lật đổ. Không ai có thể đoan quyết phương thức nào là duy nhất đúng và lựa chọn là quyền của mỗi người. Nếu cùng một mục đích, các phương thức khác nhau có thể hỗ trợ cho nhau để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Lê Hiếu Đằng chỉ gợi ý chứ không phải tuyện bố tự mình đứng ra thành lập đảng mới. Ông chưa chuẩn bị sẵn sàng cho điều này. Việc thành lập đảng mới chỉ có thể được thực hiện khi có rất nhiều người tán thành, liên lạc với nhau và cùng chung tay hành động. Thời gian sẽ trả lời cho điều này. Nếu việc này được thực hiện, hay sẽ gợi mở cho việc hình thành các tổ chức và hoạt động khác của xã hội dân sự, đây sẽ là một đóng góp đáng kể vào việc tạo nên sức mạnh đối lập với chế độ toàn trị. Trong việc dân chủ hóa chế độ và dân chủ hóa đất nước, những người cộng sản cấp tiến có thể đóng một vai trò đáng kể. Tuy nhiên lại có người nói cộng sản không thể thay đổi, chỉ có thể xóa bỏ. Đây cũng là vấn đề cần thảo luận. Trước đây khi những người cộng sản nói về cộng sản, người ta thường trích dẫn các “ông Tây cộng sản râu dài râu ngắn”. Bây giờ những người chống cộng lại trích dẫn các ông Tây khác, cộng sản cũng như không cộng sản. Các kiểu trích dẫn này thực chất cũng không khác mấy với các kiểu “Tử viết” (Khổng tử nói rằng) thời phong kiến, phần nào mang tính chất nô lệ về tư tưởng. Dĩ nhiên những tư tưởng lớn đáng cho mọi người suy gẫm nhưng không phải tất cả đều là chân lý phổ quát. Một tư tưởng cần hiểu trong bối cảnh của nó và khi áp dụng cần so sánh, đối chiếu với thực tiễn. Từ đó trở lại với câu hỏi cộng sản có thể thay đổi không? Cộng sản từ Karl Marx đến Lenine, Staline, Khrutchov rồi Gorbachov, Eltsine có gì khác biệt và thay đổi? Cộng sản từ ước mơ thế giới đại đồng đến “chủ nghĩa xét lại hiện đại” rồi đế quốc cộng sản Nga, đế quốc cộng sản Tàu, chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung Quốc có gì thay đổi? Cộng sản Việt Nam từ kinh tế tập thể sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thay đổi không? Người vạch trần rõ ràng nhất “bản chất phản động” của chủ nghĩa cộng sản trong tác phẩm “Giai cấp mới” có phải là Milovan Djilas, một lãnh tụ cộng sản cấp cao, Phó tổng thống nước Nam Tư? Người góp phần quyết định làm sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới có phải là hai tay cộng sản gộc Gorbachov và Eltsine? Những công thần cộng sản kiên định như Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Nguyễn Hộ cuối đời đã khước từ chủ nghĩa cộng sản, những đảng viên cộng sản nhiệt thành cũ và mới đã quyết định từ bỏ đảng như Huỳnh Nhật Tấn, Huỳnh Nhật Hải, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Chí Đức có phải đã thay đổi? Đó là nói cộng sản một cách chung chung chứ đúng ra phải phân tích một cách rạch ròi về lý tưởng cộng sản, chủ nghĩa cộng sản, chế độ cộng sản, đảng cộng sản, đảng viên cộng sản ở từng quốc gia, từng thời kỳ mới có thể kết luận cộng sản có thay đổi hay không. Sự vật trên đời này chẳng có gì không thay đổi sao lại khẳng quyết cộng sản không thể thay đổi trong khi thực tế đã không là như thế. Xóa bỏ được cộng sản là điều tốt nhưng khi không hoặc chưa xóa bỏ được thì làm cho nó thay đổi hướng về điều thiện phải chăng là việc cũng nên làm? Đó không phải là thỏa hiệp với cái ác mà chính là hóa giải cái ác một cách hòa bình. Vấn đề trung tâm của đất nước ta là dân chủ hóa, thoát khỏi độc tài toàn trị. Chế độ này do đảng cộng sản cai trị nhưng thực ra hiện nay chất cộng sản còn rất ít, chỉ là một bộ máy thống trị hà khắc của những kẻ nắm quyền lực muốn “muôn năm trường trị” để trục lợi cho cá nhân và phe nhóm. Những người nắm quyền lực thống trị kiểu này không phải chỉ có cộng sản. Các “lãnh tụ độc tài” ở các nước Bắc Phi và Trung Đông đã và đang bị lật đổ gần đây đều từng là anh hùng dân tộc được nhân dân ủng hộ và tôn vinh nhưng về sau trở thành tội đồ dân tộc. Có người đã nói đại ý khi quyền lực tuyệt đối, tha hóa cũng tuyệt đối. Và lòng tham của con người là vô đáy, bất kể cộng sản hay tư bản. Chuyện “lương khủng” (lương một năm của giám đốc bằng 83 năm của nhân viên bình thường) của mấy công ty nhà nước ở TP/HCM vừa được phát hiện gợi nhớ đến chuyện các ông trùm ngân hàng gây ra khủng hoảng kinh tế ở Mỹ mấy năm trước khi ngân hàng phá sản còn tự thưởng cho mình hàng triệu đô la. Một số công ty tư bản nước ngoài hối lộ cho quan chức Việt Nam để trúng thầu, các công ty khác trốn thuế, gây ô nhiễm mội trường để tăng lợi nhuận và một viên chức Tòa Lãnh sự Mỹ ở Sài Gòn cũng nhận hối lộ hàng triệu đô la để cấp visa lậu vào nước Mỹ. Chế độ nào cũng có kẻ xấu. Việc cần làm là xây dựng một chế độ chính trị pháp trị thực sự có cơ chế hãm để ngăn chặn lạm dụng và lòng tham cá nhân. Trên thế giới có nhiều mô hình nhưng không có mô hình nào là tuyệt đối hoàn hảo và còn cần phải phù hợp với đặc điểm riêng của từng dân tộc, không thể bắt chước một cách máy móc. Với Việt Nam để tiến đến đó sẽ phải qua những bước nào? Chuyển hóa, diễn biến hòa bình hay bạo loạn lật đổ? Cách mạng nhung, cách mạng hoa lài hay diễn biến từ thượng tầng? Có nhiều phương thức nhưng chắc chắn điều tốt nhất là không hay ít tốn xương máu, không gây nội chiến, không kéo dài thù hận. Lê Hiếu Đằng chọn điều này nên ông đã đưa ra gợi ý thành lập đảng mới để đối lập với đảng cộng sản. Dĩ nhiên việc này không phải là lối thoát duy nhất cho tình hình và chưa biết lúc nào có thể được thực hiện nhưng đó là một gợi ý tốt và khả thi, ít ra đối với những đảng viên cộng sản cấp tiến, khi họ có đủ nhiệt tình, dũng cảm và số đông cần thiết. Gợi ý này cũng có thể “kích hoạt” hình thành các tổ chức xã hội dân sự để từng bước xây dựng xã hội công dân có khả năng kháng cự lại những lạm dụng của nhà cầm quyền. Trong ba bài viết của Nguyễn Minh Cần nhân chuyện Lê Hiếu Đằng (Chuyện dài ra Đảng và đa đảng), tác giả có trích câu nói của Viện sĩ Andrei Sakharov khi trả lời phỏng vấn các phóng viên nước ngoài trong thời kỳ đen tối của phong trào dissident dưới chế độ toàn trị Liên Xô: “Giới trí thức biết làm gì? Họ chỉ biết làm một việc là xây dựng lý tưởng, cứ để cho mỗi người làm được điều gì anh ta có thể làm được”. Suy nghĩ một lúc, ông nói thêm: “Nên biết rằng những con chuột chũi đào hang ngầm dưới đất có thể làm sụp đổ những thành trì lịch sử”. Điều này có lẽ thật đúng cho Lê Hiếu Đằng và những trí thức có tâm huyết với đất nước như ông. Không thể đòi hỏi nhiều hơn vì chuyện đất nước là trách nhiệm của toàn xã hội, không của riêng ai. Biến cố mới nhất (ngày 9/11/2013) là vụ Ông Đặng Ngọc Viết xông vào trụ sở Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Thái Bình dùng súng bắn vào 5 cán bộ Trung tâm Phát triển Quỹ đất, làm hai người chết, sau đó tự sát. Nguyên nhân là do việc thu hồi đất, giải tỏa, đền bù không được đáp ứng thỏa đáng. Đây là sự phản kháng quyết liệt trong bước đường cùng, gióng lên một hồi chuông báo tử cho chính nạn nhân và cả chính sách thất nhân tâm của nhà cầm quyền. (Trong cùng thời gian này, hàng ngàn thanh niên nam nữ háo hức mong đợi gặp “Trai đẹp Ả Rập bị trục xuất” và đã đội mưa hàng giờ liền dưới sân khấu ngoài trời để chờ xem chàng trai đẹp người mẫu này xuất hiện chừng 10 phút ướm thử chiếc áo???!!!) Có lẽ đã đến lúc những người cộng sản phải nghĩ đến khẩu hiệu “thay đổi hay là chết”. Tuy nhiên người dân không chỉ trông chờ vào sự thay đổi tự thân của nhà cầm quyền mà người dân cũng phải “thay đổi hay là chết”. Nếu đại bộ phận nhân dân cứ thờ ơ, vô cảm hay cúi đầu chấp nhận những bất công áp bức đè lên số phận mình thì không ai có thể cứu được. Đà lạt 15/9/2013 T.D.B.C.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 17, 2013 9:21:41 GMT 9
Đa đảng kiểu Trung Quốc: giải pháp tạm thời cho Việt Nam? Việt Nguyễn 11.09.2013
Dư luận gần đây nổi sóng với ý tưởng thành lập Đảng Dân Chủ Xã Hội của ông Lê Hiếu Đằng. Đảng phái phi cộng sản tồn tại ngay trong lòng chế độ cộng sản không phải là chuyện vô tiền khoáng hậu. Đó là điều đã từng xảy ra tại Việt Nam (VN) và vẫn đang tiếp diễn ở Trung Quốc (TQ). VN có những ký ức không thể gọi là ngọt ngào khi áp dụng chính sách của “ông anh” láng giềng. Nhưng liệu mô hình đa đảng “made in China” có thể giúp phần nào “dung hoà được lợi ích giữa đảng và dân tộc”? Không có ông vua “quang vinh muôn năm” nào tự nguyện rời bỏ ngai vàng, nhưng hãy là những thần dân tỉnh táo và thức thời. Đủ loại đảng phái Có thể nhiều người ngạc nhiên khi biết hiện nay ở TQ ngoài Đảng Cộng Sản còn có 8 đảng phái phi cộng sản khác đang hoạt động hợp pháp. Trong bài viết ngày 14/3/2013, thời báo Hoàn Cầu cũng phải thừa nhận về sự “nổi tiếng khiêm tốn” của những đảng này “không nhiều người biết đến sự tồn tại của các đảng chính trị hợp pháp khác ngoài Đảng Cộng Sản Trung Quốc ở đại lục. Chỉ vài người có thể nêu tên được tất cả 8 đảng đó, gọi chung là “các đảng dân chủ”. Đây là những đảng được thành lập trong thời kỳ nội chiến với phe Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch bao gồm (kèm theo năm thành lập): 1) Ủy ban Cách mạng Quốc Dân Đảng (1948), 2) Liên đoàn Dân chủ Trung Quốc (1941), 3) Hội Kiến thiết Dân tộc Dân chủ Trung Quốc (1945), 4) Hội Thúc đẩy Phát triển Dân chủ Trung Quốc (1945), 5) Đảng Dân chủ Công Nông Trung Quốc (1930), 6) Chí công Đảng (1925), 7) Hội Cửu Tam (1944), và 8) Liên đoàn Tự trị Dân chủ Đài Loan (1947). Khác với VN, những đảng phi cộng sản tại TQ vẫn “không chịu” tự giải tán sau khi đã “hoàn thành sứ mạng lịch sử”. Ngược lại họ vẫn phát triển rất mạnh…về số lượng. Tính đến năm 2012, các đảng dân chủ có khoảng 850.000 đảng viên, bằng 24% so với số đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Số lượng đảng viên tham gia chính quyền ngày càng tăng. Thống kê cho biết đến cuối năm 2010, có khoảng 32.000 đảng viên các đảng dân chủ đang nắm giữ các chức vụ cao cấp trong ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp. Năm 2007, Wang Gang - đảng viên Chí Công Đảng- được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Khoa học & Công nghệ. Cùng với Bộ trưởng Y Tế Chen Zhu, Wang Gang trở thành một trong những bộ trưởng ngoài Đảng Cộng Sản đầu tiên tại TQ kể từ những năm 1970. Đảng viên các đảng dân chủ đa phần là những nhân sĩ, trí thức và không phải ai cũng có thể dễ dàng gia nhập đảng. Có đảng yêu cầu người gia nhập phải có trình độ thạc sĩ, phó giáo sư hoặc có đóng góp lớn trong lĩnh vực mình đang làm và phải được 2 đảng viên khác giới thiệu. Ngoài ra, một yêu cầu có vẻ còn “khó khăn” hơn. Đó là những người muốn gia nhập các đảng dân chủ phải có…lý tưởng cộng sản. Thời Báo Hoàn Cầu trích lời Shi Zhongyan – đảng viên Ủy ban Cách mạng Quốc Dân Đảng – cho biết: “Khi chúng tôi xem xét liệu một người nào đó có đủ phẩm chất để gia nhập đảng hay không, thì đó phải là người tin tưởng vào chủ nghĩa cộng sản”. Tuy nhiên, bài báo trên tờ The Diplomat ngày 28/12/2012 lại cho thấy một động cơ hoàn toàn trái ngược: “điều bí mật mà ai cũng biết là người ta gia nhập các đảng phi cộng sản chỉ để được thăng chức”. Với những nhân sĩ, trí thức không muốn gia nhập Đảng Cộng Sản, thì việc tham gia các đảng dân chủ có vẻ là lựa chọn thức thời. Nhưng không phải trí thức nào cũng nghĩ như vậy. Tờ The New York Times ngày 12/3/2013 trích lời luật sư Liu Minh, 33 tuổi, tại tỉnh Hồ Nam cho biết anh muốn tham gia hoạt động chính trị nhưng tránh gia nhập Đảng Cộng Sản “vì tôi muốn lương tâm mình trong sạch”. Anh cũng không mặn mà với việc tham gia đảng phái phi cộng sản để thực hiện ý tưởng cải cách tư pháp của mình, anh nói “tôi có cảm giác mình chỉ là một tiếng nói lạc lỏng giữa rừng hoang”. Cộng đồng mạng gần đây trên trang Weibo cũng tỏ ra bức xúc về tính minh bạch liên quan đến ngân sách giành cho các đảng này. Vài người phàn nàn rằng trong khi họ đã đóng thuế để “nuôi” Đảng Cộng Sản thì tại sao họ lại phải “nuôi” thêm 8 đảng kia nữa? Đa đảng dưới sự lãnh đạo của một đảng Trong khi mục tiêu tối thượng của bất kỳ đảng chính trị nào cũng là trở thành đảng cầm quyền, thì mục tiêu của các đảng dân chủ lại khá “lạ lẫm”, đó là ủng hộ quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng Sản. Họ “tự nguyện” chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và không cho rằng việc trở thành đảng đối lập là “cần thiết”. Vậy mô hình này là gì? Độc đảng trong đa đảng? hay đa đảng nhưng vẫn độc đảng? Các nhà nghiên cứu có thể hơi nhức đầu trong việc phân loại mô hình chính trị TQ. Nhưng Bắc Kinh vẫn có cách để gọi tên cho đúng “bản chất sự việc”. Đây là Chế độ hợp tác đa đảng và Chính trị hiệp thương dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc – một chế độ chính trị cơ bản của TQ. Theo đó các đảng dân chủ có chức năng (i) tham gia chính quyền nhà nước, (ii) tham gia hiệp thương về các phương châm chính sách lớn (iii) tuyển chọn lãnh đạo nhà nước, và (iv) tham gia quản lý công việc xây dựng và thi hành phương châm, chính sách, pháp luật Nhà nước. Các đảng dân chủ cũng có ghế trong những cơ quan quyền lực cao nhất như Quốc Vụ Viện (chính phủ), Hội nghị Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (quốc hội) và Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân TQ. Về nguyên tắc, Đảng Cộng Sản phải tham khảo ý kiến với các đảng dân chủ trước khi đưa ra những quyết sách quan trọng. Tuy nhiên, độ hoành tráng về chức vụ mà các đảng dân chủ đang nắm giữ không thể khoả lấp được một thực tế: đây là những đảng gần như không có thực quyền. Vai trò giám sát, phản biện đối với đường lối chính sách do Đảng Cộng Sản đưa ra là rất mờ nhạt. Tháng 1/2013, Tân Hoa Xã dẫn lời ông Tập Cận Bình khuyến khích các đảng dân chủ nên mạnh dạn hơn trong việc góp ý với Đảng Cộng Sản, ông nói “người ngoài Đảng Cộng Sản hãy dũng cảm nói lên sự thật, cả những lời nghịch nhĩ”. Nhưng điều này dường như vẫn chưa làm an lòng những đảng phái khác. Chen Changzhi, chủ tịch Hội Kiến thiết Dân tộc Dân chủ Trung Quốc, nói ông tán thành ý kiến cho rằng các đảng phi cộng sản nên nói lên nói lên sự thật “nhưng những chỉ trích đưa ra cần phải thực tế và ở mức độ vừa phải”. Lý giải cho sự rụt rè này, giáo sư Zhu Shihai thuộc Viện Nghiên cứu CNXH Trung ương TQ nói “Thật khó để trông đợi họ đưa ra ý kiến khác biệt vì họ đứng cùng phe với đảng cầm quyền. Nếu họ đưa ra những chỉ trích thẳng thắng công khai, họ sẽ bị xem là “vô lễ” và “bất lịch sự”. Không phải đảng đối lập, không có thực quyền nhưng vẫn tồn tại. Có lẻ bản thân sự tồn tại của các đảng dân chủ TQ cho đến ngày nay đã là một ân huệ lớn (nếu so với những gì đã xảy ra tại VN). Và đương nhiên, khi bạn đã nhận được ân huệ thì không bao giờ bạn dám “vô lễ” hay “bất lịch sự” với những người đã ban phát nó cho mình. Muốn đi Mẹc hay cuốc bộ dài dài? Mô hình đa đảng tại TQ khá giống với đặc trưng hàng hoá mà họ sản xuất: mẩu mã hấp dẫn nhưng chất lượng bằng không. Bắc Kinh vẫn còn cần đến sự hiện diện của 8 đảng phái này. Nó giúp họ vừa kiểm soát giới trí thức trong nước, vừa tạo được bộ mặt “sáng sủa” hơn khi đối diện với chỉ trích nhân quyền từ bên ngoài. Tại Việt Nam, đề xuất thành lập đảng của ông Lê Hiếu Đằng đang vấp phải sự phản kháng quyết liệt từ chính quyền, đặc biệt là những nhà lý luận Mác Xít. Dường như họ quên rằng chính đồng minh ý thức hệ của mình đang để cho không những một mà còn đến tám đảng phái khác hoạt động một cách hợp pháp. Đương nhiên họ cũng hiểu ông Lê Hiếu Đằng không hề muốn xài hàng TQ, mà là hàng rin thật sự, một đảng đối lập thật sự. Nhưng việc xem xét mô hình TQ (vốn được xem là hình mẩu) để giải quyết áp lực đòi dân chủ trong nước có thể là cần thiết trong giai đoạn này. Điều quan trọng là phải thoát khỏi nổi ám ảnh: bất kỳ đảng phái nào được thành lập ngoài Đảng Cộng Sản cũng đều là đảng phản động. Phía những người ủng hộ ông Lê Hiếu Đằng có thể cười lăn cười bò với ý tưởng đem mô hình đa đảng “made in China” vào VN. Nhưng hãy nhìn vào thực tế chính trị trong nước. Việc thành lập một đảng phái mới để “ăn thua đủ” với Đảng Cộng Sản Việt Nam lúc này gần như là không tưởng. Những đảng dân chủ tại TQ không có thực quyền nhưng chí ít đó cũng là bước khởi đầu quan trọng cho sự lớn mạnh sau này (khi thời cơ đến). Và quan trọng hơn, đây có lẻ là giải pháp khả dĩ nhất mà chính quyền sẽ chấp nhận – một giải pháp đã được Bắc Kinh đóng mộc. Dân chủ là một hành trình dài đầy chông gai và đôi khi bạn cần phải “hối lộ” cảnh sát giao thông chút ít để tiến nhanh hơn. Người Phương Tây thường nói: better than nothing (Có còn hơn không). Khi bạn chưa đủ tiền để tậu con Mercedes hay Lexus, bạn hãy nghĩ đến việc dùng tạm chiếc Wave Tàu rẻ tiền. Nó vẫn tốt hơn so với việc bạn ròng rã cuốc bộ trên hành trình xa dịu vợi để rồi “trong giấc mơ tôi vẫn hằng mơ..” Nguồn Blog Quê Choa
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 24, 2013 5:46:10 GMT 9
Văn Quang– Viết từ Sài Gòn
Cây thông lớn nhất thế giới tại Rio de Janeiro, Brazil đã lên đèn, bừng sáng với hơn ba triệu bóng đèn, mở màn cho mùa lễ hội. Vào những ngày đầu tháng 12 này, chắc chắn bạn đọc khắp nơi, từ trong nước đến ngoài nước đã và đang chuẩn bị cho hai Lễ Giáng Sinh và Năm Mới. Hầu như ai cũng cảm thấy một chút tất bật trong mọi việc và một chút xao xuyến vừa chợt đến trong tâm tư. Mỗi người, mỗi nhà đều có những kỷ niệm vui buồn của riêng mình.
Ở Saigon cũng vậy, không khí lễ hội đang rộn ràng khắp nơi, ở các đường phố lớn, đi đâu cũng thấy hình ảnh quen thuộc của lễ hội nhưng lại rất mới mẻ với những vật dụng trang trí vừa hoàn thành hay còn chút xíu dang dở. Từ các thương xá, các siêu thị, các khách sạn lớn nhỏ cho đến tư thất các đại gia đều được trang hoàng lộng lẫy mà không nhuốm một màu sắc chính trị nào, không khẩu hiệu, không cờ quạt, không “muôn năm”… Lòng người cảm thấy thanh thản hơn.
Ban trẻ có những cảm nghĩ và hoạt động hơi khác với cánh già chúng tôi. Ở đây tôi chỉ muốn chia sẻ đôi điều về những suy nghĩ ấy của mấy người bạn già, rất riêng tư nhưng có lẽ lại là một phần những suy nghĩ chung.
Cuộc hội ngộ cuối năm hay cuối cùng
Ngay từ cuối năm ngoái, tháng 12 năm 2012, tôi đã “liều mạng” về thăm quê hương, nơi tôi sinh ra và lớn lên, tôi cũng nói rõ là “Về quê lấn cuối” và tôi đã “tâm sự” với bạn đọc về chuyến đi cứ như “Kinh Kha sang Tần” này. Có lẽ nhiều ông bà bạn già cũng đã làm việc này như thực hiện một tâm nguyện cuối đời.
Năm nay đến lượt ông bà Nguyễn Thế Tuất Hải từ Hawai về VN và ông cũng tuyên bố “đây là lần cuối tôi về thăm quê đấy các cụ ạ.” Những năm trước mỗi lần về thăm VN còn có 2 cặp nữa đi cùng là Huy Sơn và Đặng Văn Nhâm, nhưng năm nay thì hai “cặp” kia không còn sức bước lên máy bay nữa. Cứ mỗi năm một mất mát dần.
Ông bà Hải cũng phải cố gắng lắm mới “liều mạng” leo lên máy bay được. Ông còn nhiều anh chị em nội ngoại, bạn bè từ Hà Nội đến Saigon và ở các tỉnh lẻ. Nhưng ông chỉ “lết” được đến Hà Nội rồi vào đến Sài Gòn đi thăm nội ngoại tận mấy vùng quê là ông giơ tay hàng, không đi thêm được nữa, đành gửi cái “meo” xin lỗi những bà con anh em ở tình xa như Đà Lạt, Nha Trang, đã hẹn mà không đến được.
Ông Hải xuất thân từ một phóng viên tiền tuyến lăn lóc trên nhiều chiến trường từ những năm 60. Sau đó ông giải ngũ, cộng tác với các đài Phát Thanh VOF và Mẹ VN, rồi tháng 4-75, ông nhanh chân “biến” sang Hoa kỳ, chọn ngay được nơi nghỉ mát lý tưởng của thế giới là Hawai để định cư cho tới nay. Bạn bè của ông ở Saigon cũng mất mát nhiều, chỉ còn có Kim đầu bạc, chị Tâm Vấn và tôi. Chúng tôi chỉ có thì giờ gặp nhau được một lần ở một nhà hàng thuộc loại cửa kính máy lạnh, nhưng giá cả lại rất “bình dân” mới mở cửa, nằm ngay trên đường Nguyễn Thiện Thuật.
Kinh nghiệm của tôi là không tội vạ gì đến những tiệm nổi tiếng cho chúng chém. Đến đó thức ăn chưa chắc đã ngon hơn, chưa chắc đã được tiếp đón chu đáo hơn, khách khứa xô bồ, mà giá cả luôn ở trên trời chỉ vì có “cái tiếng.” Thà đến mấy nhà hàng loại “tầm tầm” vừa rẻ vừa ngon. Bữa ăn gồm 7 người, ăn đủ bốn món với trà hoa cúc mật ong mà chỉ phải trả 800 ngàn VN (bằng 40 USD). Nếu ăn uống ở một quán “nổi tiếng,” chắc chắn giá sẽ gấp đôi gấp ba.
Kim đầu bạc, tôi và Thế Hải đều ở tuổi Quý Dậu (1933) vừa bằng tuổi nhau, cái tuổi “chân trước chân sau,” một chân ở 80 còn một chân bước sang tuổi 81. Còn chị Tâm Vấn thì cũng gọi là “đồng trang lứa,” nhưng nói về phụ nữ không ai dại gì khai rõ tuổi.
Hầu như vào cái tuổi này, không ai nói trước được điều gì. Hôm nay còn khỏe, ngày mai lăn đùng ra chẳng còn biết ai vào ai, chẳng còn lo trời trăng gì nữa.
Vì thế nên ai cũng chuẩn bị “tư thế sẵn sàng” để không còn vướng mắc bất cứ thứ gì cho đến ngày cuối cuộc đời. Chúng tôi cũng nói về những thứ chuyện ấy một cách thản nhiên như chuyện một chuyện vui, song điều bùi ngùi nhất là mọi người đều biết rất rõ, đây là lần gặp nhau cuối cùng, sẽ chẳng bao giờ còn một buổi nào hội ngộ đầy đủ như thế này nữa.
Dù cho chị Tâm Vấn, tôi và Kim đầu bạc và cùng ở Saigon nhưng cũng rất ít có dịp gặp nhau. Nói đến Kim đầu bạc ở Sài Gòn, dân chơi tennis nào cũng biết, trước và sau năm 1975, ông vẫn là huấn luyện viên tennis. Sau này, nhiều ông “cán” thích văn minh nên cũng học chơi môn thể thao nhuốm màu “quý sờ tộc” này, chỉ đứng sau chơi gôn. Vì thế nên ông có khá nhiều học trò là những quan chức khá lớn ở thành phố.
Cùng ở Sài Gòn nhưng cũng ít gặp
Về chị Tâm Vấn, lâu nay chị rời bỏ sân khấu ca nhạc và cũng ít giao thiệp với giới báo chí, tôi ít có dịp gặp chị hơn. Có thể nhiều bạn đọc, nhiều khán giả vẫn thỉnh thoảng nghe chị hát một vài bài ở đâu đó hoặc trên youtube do bạn bè gửi nên ít biết về chị. Hôm nay tôi gửi đến bạn đọc vài dòng sơ lược về Tâm Vấn, nữ danh ca một thời xa xưa.
Tôi nhớ lần gặp chị vào năm 1972, chị vào đài Phát Thanh Quân Đội (ĐPT QĐ), mượn phòng vi âm của Đài cùng một số anh em nhạc sĩ để làm một cuốn băng ghi lại những bài hát chị yêu thích để làm kỷ niệm. Tôi tự thấy có bổn phận phải làm việc này giúp chị. Bởi với tất cả những ca nhạc sĩ đã cống hiến cho nghệ thuật, mang tiếng hát, niềm vui đến với mọi người, trong đó có anh em quân nhân và gia đình họ, nhất là những nghệ sĩ đã từng cộng tác thường xuyên với Đài PT QĐ thì bổn phận của chúng tôi là phải nhớ đến công lao của những nghệ sĩ này. Chị đã có một buổi ghi âm cùng với những anh em nghệ sĩ của Đài thường cộng tác với chị từ xưa. Đó cũng là lý do khiến chị muốn ghi âm tại đài PT QĐ chứ không thiếu gì những studio tư nhân và các Đài PT khác sẵn sàng mời chị.
Từ ngày ấy đến nay đã là hơn 40 năm rồi, trải qua bao thăng trầm, mỗi người một công việc nên ít có dịp gặp nhau. Tôi mới gặp lại chị vào ngày cuối năm vừa qua.
Đệ nhất danh ca Bắc Hà
Thật ra, tôi biết chị từ hơn nửa thế kỷ trước, vào năm 1952. Chị là ca sĩ miền Bắc từ những năm 1945-53 tại Hà Nội, cùng thời với những Minh Đỗ, Ngọc Bảo, Quách Đàm. Hồi đó mấy tờ báo như Tia Sáng, Giang Sơn... gọi chị là Đế Nhất danh ca Bắc Hà.
Phan Nghị, Thanh Nam, Huy Quang là ban bè rất thân cũng thường gọi chị như thế. Chị trẻ đẹp và có thể gọi là một thiếu nữ rất hấp dẫn.
Một trong những đóa hoa tươi tắn trong làng ca nhạc của đất Thăng Long ngàn năm văn vật. Chị vui tính, dễ thân gần hơn các ca sĩ khác. Giọng hát của chị rõ ràng, khỏe mạnh, luyến láy nhẹ nhàng, truyền cảm sâu sắc. Chị cố tránh cái tiếng mà người ta gọi là làm duyên õng ẹo.
Một thời gian sau đó, tháng 2 năm 1953, chị bỏ Hà Nội vào Sài Gòn sinh sống. Tuy vậy, trên các sân khấu ca nhạc của Sài Gòn hồi đó rất ít khi chị công tác với một show nào và dường như chị cũng không cộng tác thường xuyên với các phòng trà ca nhạc. Chị thường hát trên hầu hết các Đài phát thanh.
Vào tháng 10 năm 2013 vừa qua, chị đã làm một chuyến Mỹ du lần thứ hai, thăm con cái bạn bè khắp nơi. Không ầm ỹ nhưng bạn bè cũ mới, những nghệ sĩ thuộc lớp sau vẫn nhiệt tình tìm đến thăm hỏi và chị cũng đi đến nhiều tiểu bang để được tay bắt mặt mừng với bạn cũ. Có lẽ Tâm Vân là một nữ danh ca thời xa xưa còn sót lại, tuy đã có tuổi nhưng rất nhanh nhẹn và khỏe mạnh. Chị vẫn còn hứng thú đi du lịch khắp nơi.
Gặp Tâm Vấn, tôi rất bất ngờ vì tiếng cười lanh lảnh và tiếng nói rành rọt chẳng khác gì thuở xa xưa. Chị kể khi ở Mỹ, có điện thoại cho Thái Thanh nhưng dường như Thái Thanh không còn nhận ra Tâm Vấn. Nỗi buồn của chị cũng như tôi, bây giờ nhìn lại những người quen biết chúng tôi ngày xưa chẳng còn bao nhiêu.
Một đời tôi hát
Chị tặng chúng tôi một cái CD mới mang tên “MỘT ĐỜI TÔI HÁT.” Chị nói không hề biết trước có cái CD này. Bất ngờ Thanh Trang mang đến tặng chị 100 bản, có lẽ trích trong những cassette cũ và CD của chị. Sau đó, con chị làm thêm 500 bản nữa mới đủ tặng bạn bè, không hề được bán ra thị trường.
CD gồm phần đầu là lời giới thiệu ca sĩ Tâm Vấn của Thanh Trang trên đài PT VOA ngày 02-10-2013. Phần thứ hai là 12 bài hát rất xưa, rất... Tâm Vấn, không thể lẫn được. Gồm một số bài quen thuộc như Nỗi Lòng, Thu Tàn, Gái Xuân, Giáo Đường In bóng, Dứt Đường Tơ, Duyên Thề... và vài bài rất ít khán giả biết như “Hà Nội 49,” “Một đời tôi hát.”
Chất giọng của chị vẫn mượt mà, rất trẻ trung như hồi nào. Tôi không biết trong đó có bài nào chị hát ở phòng vi âm Đài PT QĐ không. Thật ra đó chưa phải là tất cả những gì của cả “một đời tôi hát.” Chị còn hát nhiều hơn thế và hay hơn thế, nhất là với những người nay đã lớn tuổi, nghe càng “thấm.”
Cuộc đời ca hát của chị đánh dấu bằng một show đặc biệt do các bạn ở Mỹ tổ chức, kỷ niệm 80 năm ca hát của chị, gồm 20 năm Hà Nội và 60 năm Sài Gòn. Có lẽ ở VN ít có ca sĩ nào có số năm sống với ca hát lâu đời thế. Trong show kỷ niệm đó, chị vẫn đứng trên sân khấu hát, tưởng như chẳng có gì thay đổi trong tiếng hát và trong tâm hồn chị.
Một buổi hội ngộ cuối năm hay cuối đời của những người bạn già? Còn được gặp nhau là còn may mắn. Như thế cũng là mãn nguyện lắm rồi.
Hai hôm sau, cũng trong quán ăn đó, tôi ngồi ăn cùng với gia đình, bên cạnh là bàn vài cậu bạn cũng ăn trưa gọi là “cơm trưa văn phòng.” Ở dãy phố Nguyễn Thiện Thuật này có nhiều chi nhánh các ngân hàng. Ở cuối con phố, sát đường Điện Biên Phủ, trước kia là cây xăng, mấy năm sau này có tòa bulding, mặt tiền là một ngân hàng thuộc loại lớn nhất VN và trên những tầng lầu có vài chục văn phòng của các công ty lớn nhỏ.
Thế nên có khá nhiều nhân viên văn phòng dùng cơm trưa tại đây với cái giá rất “khuyến mãi” là 32 ngàn đồng VN một bữa (bằng $1.5 USD). Những cô cậu ăn mặc rất chững chạc, đẹp trai, xinh gái nói chuyện trẻ trung, nhã nhặn, thông minh.
Câu chuyện vui mà tôi nghe được khá thú vị. Bàn đó có 5 người, 3 cậu, 2 cô. Một anh có vẻ láu cá nhất, ra câu hỏi “Hôm nay các cậu nghe câu nói nào của sếp là hay nhất trong năm, câu nào dở nhất?.” Một cậu nhanh nhẹn trả lời “Hay nhất là câu Tháng này có thể có lương tháng 13, còn dở nhất là câu năm tới có thể giảm bớt một số nhân viên.”
Một cậu lắc đầu phản đối: Tớ thấy câu nào cũng dở vì có thêm hai tiếng “có thể.” Câu có thể có lương tháng 13 phải nói là chắc chắn sẽ có, còn câu năm sau cho nghỉ việc phải nói là sẽ không có ai bị mời về quê bắt cua.”
Các cậu cười rộ nhưng cũng thoáng một nét băn khoăn.
Câu nói hay nhất trong năm
Cậu vừa ra câu hỏi lại nói tiếp, “Đây là câu đố vui có thưởng,” cả bọn nhao nhao “thưởng cái gì?” – “Một chầu cà phê chiều.” – Câu hỏi đưa ra là “Sắp hết năm rồi, thử tính lại có câu nói nào hay nhất trong năm?. Tớ nói thêm: Câu nói trong gần đây thôi của giới quan chức và ở giữa Quốc Hội VN.”
Các cô cậu nhíu mày vừa ăn vừa suy nghĩ. Một cậu than “Các ông đại biểu thì bố nào cũng nói nhiều quá, làm sao tổng kết hết được.” Tất cả đều “suy tư” khá gay go. Có vài ý kiến cho rằng câu hay nhất về vụ tù oan, về vụ xả đập làm chết dân phải bỏ tù những anh xả nước và v và nhưng cậu ra câu đố vẫn lắc đầu.
Một lúc sau anh ta mới bật mí thêm, “Một câu nói rất hay, rất đúng nói lên toàn bộ sự thật và cũng rất ngắn gọn. Chỉ có 9 từ thôi.” Nhiều cậu mắt sáng rỡ tưởng rằng giải đáp ngay được, nhưng rồi lai chau mày ngồi yên. Chỉ một phút sau, một cô trẻ nhất và cũng xinh nhất ngồi bấm đốt ngón tay rồi reo lên, “Tớ biết rồi. Đó là câu người ta ăn của dân không từ thứ gì. Đúng 9 chữ nhé. Câu nói của bà Nguyễn Thị Đoan Phó chủ tịch nước đã nói trước Quốc Hội VN.”
Cả bàn vỗ tay ca ngợi và anh ra câu đố đành cúi đầu “Hân hạnh mời em chầu cà phê chiều nay.”
Chuyện kỳ cục nhất thế kỷ
Cô vừa giải được câu đố bèn nghĩ ra một câu hỏi khác. Em cũng xin thưởng một chầu trà hoa cúc mật ong nếu anh nào trả lời đúng câu hỏi của em. Thế này nhé, chuyện nào là chuyện kỳ cục nhất ở VN năm nay? Có thể là chuyện kỳ cục nhất thế kỷ đấy.
Các cậu lại suy nghĩ toát mồ hôi. Lại có nhiều ý kiến đóng góp, có cậu nói đó là chuyện 230kg heroin gồm 600 bánh chui qua cửa khẩu Tân Sơn Nhất rất ngon lành, đúng là con voi chui qua lỗ kim. Cô nhiều tuổi hơn và cũng mũm mĩm duyên dáng, mỉm cười góp ý kiến giá gas tăng sốc chưa từng có, càng lời càng tăng, chỉ có dân chết. Một anh phản đối ngay: Chưa bằng chuyện ông sư hổ mang Sophia ở Trà Vinh, giết người tình rồi chôn xác gần chùa.
Cô gái ra câu đố vẫn lắc đầu, rồi tiết lộ thêm, “Cũng ngắn gọn thôi, chỉ có 11 từ là xong câu chuyện.” Một cậu lại ngồi lẩm nhẩm không cần bấm đốt ngón tay, có lẽ nghề của cậu là làm kế toán. Cậu buông đũa, đứng lên nói rành rọt:
Đó là chuyện, “Đàn bà Bình Định chụp quần lên đầu ông chánh án. Đúng 11 từ nhé.” Cô gái lúc này đành chịu thầy, “Đúng là chuyện đó, một chuyện ly kỳ nhất trong năm phải không? Lịch sử tòa án VN chưa bao giờ có chuyện này.”
Cả bọn gật gù khen hay.
Các cô cậu không kể rõ chi tiết nhưng tôi biết chuyện này, đúng là thứ chuyện kỳ cục nhất trong năm, xin kể lại sơ lược:
Nữ võ sư trùm quần lên đầu chánh án tại tòa
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định vừa hoàn tất cáo trạng, tống đạt cho bị can là bà Nguyễn Thị Xuân Đào, nhà ở đường Tô Hiến Thành, phường Quang Trung, TP Quy Nhơn, Bình Định. Bà Đào bị truy tố vì tội làm nhục người khác theo Điều 121 Bộ luật Hình sự.
Bà Nguyễn Thị Xuân Đào là đương sự (bị đơn) trong một vụ án tranh chấp quyền sở hữu tài sản, bồi thường thiệt hại và đòi lại tài sản đang được Tòa án TP Quy Nhơn thụ lý. Trong lúc tòa đang giải quyết thì cuối tháng 8-2013, bà Đào chuyển nhượng đất và nhà cho người khác.
Ngay khi nhận đơn yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án TP Quy Nhơn ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên tài sản đang tranh chấp.
Do không bán được nhà đất nên bà Đào đến Tòa án nhân dân TP Quy Nhơn để gặp thẩm phán. Tại đây, do thẩm phán thụ lý sự việc đi vắng nên bà Đào được ông Trương Quốc Dũng, Chánh án, mời vào phòng làm việc và giải thích về việc kê biên.
Bà Đào cho rằng ông Dũng chỉ thị cho cấp dưới làm thiệt hại cho mình, như thế là có dấu hiệu tiêu cực (ăn hối lộ của người khác) nên bà Đào tức tối, lấy một chiếc quần đen bằng vải thun, loại dành cho phụ nữ, bất ngờ trùm xuống đầu ông chánh án.
Mọi việc càng trở nên phức tạp và khôi hài hơn nữa khi bà Đào lôi ông chánh án Dũng ra ngoài hành lang và la to cho... cả làng cả nước cùng biết.
Chiều 25/11 vừa qua, Tòa án tỉnh Bình Định mở phiên xét xử vụ này. Tuy nhiên, do người bị hại và các nhân chứng đều vắng mặt nên phiên tòa phải tạm hoãn.
Chưa biết vụ án sẽ được xử ra sao, tất nhiên lỗi thuộc về phần nữ võ sư rồi và chắc chắn bà Đào đã chuẩn bị sẵn từ trước nên mới có cái quần đen để sẵn trong bóp khi đến gặp chánh án và bà cũng thừa biết như vậy là phạm tội, nhưng bà vẫn làm. Chẳng qua đây chỉ là một vụ “tức nước vỡ bờ” thôi, nó cũng nằm trong cái “hội chứng tự xử.” Người dân chỉ còn phản ứng đó để cho “giải phóng” nỗi giận hờn. Bởi chỉ cần nhìn ngay trong tuần vừa qua đã có vài vụ quan tòa bị tóm vì nhận tiền hối lộ để “chạy án.” Mời bạn xem qua 2 bản tin thời sự nóng hổi trong tuần này. Xin rút gọn:
Thẩm phán bị tố cáo nhận hối lộ nhưng... phản phé
Ông Đồng Xuân Thép ở TP Hải Phòng, đã có đơn tố cáo ông Ngô Văn Anh, Chánh Tòa Kinh tế ép ông đưa hối lộ 130 triệu đồng để giải quyết khiếu kiện. Ông Thép đã đưa tiền cho ông Ngô Văn Anh với lời hứa là sẽ nhận được kết quả xét xử có lợi cho mình.
Tuy nhiên sau đó ông Ngô Văn Anh vẫn xử vụ việc bất lợi cho ông Thép mặc dù đã nhận đủ tiền “bôi trơn.” Ông Thép đã gửi đơn tố cáo ông Anh kèm theo bản ghi âm các cuộc “thương lượng” giữa ông ông Anh.
Theo tố cáo của ông Thép thì sau khi tòa xét xử, ngày 2/8/2013 ông Thép đã đến Tòa án TP Hải Phòng gặp ông Anh để đòi lại 130 triệu đồng tiền “bôi trơn.” Tại đây, ông Thép đã yêu cầu ông thẩm phán này giải thích rõ "tại sao các ông lại xét xử sai trái như vậy?.” Ông Anh cho biết, “phải xét xử như vậy vì bị ông H. (Phó Chánh án TA thành phố) ép!.” Sau đó ông Anh đã trả lại 50 triệu đồng, 80 triệu đồng còn sẽ đòi lại từ ông H và 30 triệu đồng từ ông Kh. bên Viện kiểm sát để trả lại cho ông. Theo nội dung đơn tố của ông Thép thì ông Ngô Văn Anh nói là có chia cho ông Khanh 30 triệu trong tổng số 130 triệu nhận của ông Thép. Vậy là cà ông tòa và ông kiểm sát đều ăn hối lộ.
Không đồng tình với kết quả xét xử của bản án sơ thẩm xử ngày 22/7/2013, ông Thép đã kháng cáo lên tòa phúc thẩm Tòa tối cáo. Cùng với việc kháng cáo, ông Thép đã khởi kiện ông Anh về tội ép mình đưa hối lộ trước đó.
Tòa án Hải Phòng đang thụ lý việc này. Quan tòa có đi tù không, còn phải đợi.
Chánh án ‘ăn tham quá’ bị khởi tố
Ngày 25/11, Cảnh sát đã bắt khẩn cấp ông Phan Văn Quang - Chánh án Tòa án Nhân Dân huyện Nam Đàn khi ông này đang nhận hối lộ 20 triệu đồng của bị can L.V.V. (ở xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn). Cơ quan điều tra cho hay, V. là người đánh bạc đã bị Công an huyện Nam Đàn khởi tố và truy tố trước đó.
Gần ngày chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, ông Quang đã điện thoại với gia đình bị can V. “gợi ý” nếu muốn giảm án thì nộp 20 triệu đồng. Sau khi nhận được lời “đề nghị,” gia đình bị can V. đã báo cáo tới cơ quan chức năng.
Khoảng 14h30, như đã hẹn, khi bị can V. đem 20 triệu đồng đến phòng và khi ông Quang vừa nhận tiền thì bị các trinh sát ập vào bắt quả tang.
Đó mới chỉ là hai vụ trong hàng ngàn vụ như thế nữa vẫn nằm trong bong tối.
Ba hình ảnh đáng sợ nhất
Những kiểu người dân bị các quan tòa hành và buộc phải đưa hối lộ đã trở thành chuyện hàng ngày ở huyện. Đụng đến tòa là mất tiền, anh tố cáo cũng như anh bị cáo. Tòa cũng là thứ đáng sợ như sợ vào bệnh viện công và đến bất cứ cơ quan nào xin cho bất cứ việc gì. Đó là ba hình ảnh đáng sợ nhất của người dân VN hiện nay.
Mong rằng bước sang năm 2014, sẽ không có cảnh quá kỳ cục này diễn ra ở những nơi đang lẽ phải coi là nơi tôn nghiêm. Một kiểu “tự xử” vừa được “phát minh” trong những ngày cuối năm nay. Kiểu này tuy phạm pháp nhưng có mang lại hiệu quả hơn những biện pháp chống tham nhũng khác không?
Văn Quang (6-12-2013)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 24, 2013 5:48:07 GMT 9
Đè đầu bóp cổ dân đúng nghĩa đen Văn Quang – Viết từ Sài Gòn Những hình ảnh “phản cảm” cuối năm đang loan truyền ầm ỹ trên báo và trong các quán cà phê từ vỉa hè đến cà phê cao cấp, cà phê cá độ bóng đá trong kỳ Seagames 27 này là chuyện xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật giữa thành phố Sài Gòn. Gọi là “phản cảm” theo chữ nghĩa của báo chí và của giới truyền thông ở VN thường dùng, thật ra nếu nhìn vào từng chuyện và từng hình ảnh thì người ta phải gọi một số từ ngữ bình dân quen thuộc khác như “tàn nhẫn, dã man, ác ôn, côn đồ...” Nếu bạn nhìn thấy những hình ảnh sau đây, bạn cũng sẽ phải thốt lên một từ ngữ khác chứ không chỉ gọi... chung chung là “phản cảm” được nữa. Một kiểu đè đầu bóp cổ dân giữa đường phố Kiểu đè đầu bóp cổ dân ở đây là nghĩa đen, không còn là nghĩa bóng. Đó là kiểu của các ông được gọi là “lực lượng dân phòng” thuộc phường 25, quận Bình Thạnh, Sài Gòn vừa “phát minh” ra. Hầu như tất cả các báo ở VN, từ báo mạng đến báo lớn, báo nhỏ và kể cả báo Công An Thành Phố cũng đã đăng tải nguồn tin cùng những hình ảnh này. Nạn nhân là một anh nông dân chính hiệu, đã bị lực lượng dân phòng khóa tay, đè đầu, bóp cổ đưa lên xe và tịch thu hàng hóa. Có hàng ngàn lời bình, không còn là nỗi “bức xúc” mà là những lời lẽ từ trong đáy lòng vô cùng cay đắng, phẫn uất của độc giả khắp nơi. Chuyện xảy vào buổi sáng ngày 6 tháng 12 vừa qua, tại khu chợ nằm trên đường D1 thuộc phường 25, quận Bình Thạnh, Sài Gòn. Toàn bộ câu chuyện được người dân trình báo đến nhà chức trách địa phương và họ cũng tự quay clip gửi cho các báo. Theo những người dân chứng kiến sự việc kể lại, sáng đó anh Tình đang đứng tại khu vực chợ với xe ba gác có chứa rau củ quả để bán – Đây là khu chợ được gọi là “chợ tự phát,” tức là chợ do những người dân thấy thuận tiện thì tự họp lại buôn bán với nhau, không phải là chợ chính thức do địa phương cai quản. Lúc này có gần chục người thuộc các lực lượng dân phòng, trật tự đô thị, bảo vệ dân phố... đi kiểm tra, dọn dẹp lòng lề đường, có lẽ để đón Giáng Sinh 2013 và Năm Mới 2014. Chạy loạn hè phố Lúc này anh Tình chưa kịp đẩy xe rau củ quả chạy đi thì bị lực lượng trên chặn lại để xét hỏi và có thể tịch thu – ở đây lại gọi chung chung là “xử lý.”– Đấy là nhiệm vụ và trở thành cái quyền hành lớn của các anh dân phòng được phường xã giao cho. Người dân khắp TP đã từng chứng kiến những cảnh mấy bà, mấy chú bán hàng trên các hè phố, thấy bóng dân phòng đến như thấy tử thần, bèn ôm đồ đạc chạy nháo nhào hơn là chạy giặc, chạy cướp. Có bà lề mề, ôm thúng rau, vài chục cành hoa, lúng túng với mẹt hoa quả, rớt tùm lum trên hè phố mà không dám quay đầu lại nhặt. Đó là những món hàng vừa hái trong vườn nhà hoặc mua của hàng xóm, mang bán, kiếm chút tiền đong gạo cho con. Họ không có tiền thuê hè phố của đám anh chị hoặc không có tiền nộp thuế cho bọn “bảo kê” nên cứ đành ngồi bán liều ở hè phố, có khi bán theo kiểu “di động,” nay bán hè này, mai kiếm hè khác. Khi bị bắt về phường có nghĩa là toàn gia bữa đó sẽ nhịn đói, chỉ còn biết khóc lóc, lạy lục, van xin cũng không xong. Tôi đã từng chứng kiến rất nhiều cảnh “chạy loạn hè phố” như thế. Nhìn những bác nhà quê lam lũ khốn khổ cắm đầu chạy thục mạng, mặt mũi tái xanh, thở không ra hơi, quả thật trong lòng cảm thấy bất nhẫn lắm. Có lẽ những người dân quanh đó cũng mang cái cảm giác ấy mà không nói ra được, không làm gì được. Bị dân phòng đánh tơi tả vì tội bán hàng rong Trở lại chuyện anh Tình bị dân phòng chặn bắt và bị đánh. Nạn nhân được xác định là anh Trịnh Xuân Tình (34 tuổi, quê Thanh Hóa, tạm trú ở tỉnh Bình Dương), là người bán rau quả dạo. Chiều 6/12 vừa qua, sau khi bán dạo khắp các ngõ hẻm, anh Tình chạy xe đến khu “chợ tự phát” tại Cư xá 30/4, phường 25, quận Bình Thạnh và dừng xe trước nhà số 11B5 để bán. Đến 16g30 thì có một nhóm gần 10 người mặc đồ cơ quan trật tự đô thị, dân phòng của UBND phường 25, quận Bình Thạnh đi xe công vụ đến khu vực trên dọn dẹp lòng lề đường. Nhiều người ngồi buôn bán nháo nhào gom hàng hóa tháo chạy, anh Tình chưa kịp rời đi thì có khoảng 5-6 người đến vây kín. Những người chứng kiến cho biết, lúc tổ công tác của phường 25 lập biên bản, yêu cầu anh Tình đưa chiếc xe rau củ quả buôn bán về trụ sở UBND phường để “xét xử.” Tuy nhiên anh Tình không đồng ý nên đôi bênxảy ra cãi cọ. Những người trong tổ công tác đã dùng tay đánh anh Tình làm anh này té lăn xuống đường. Sau đó, năm sáu anh dân phòng xông vào "đánh hội đồng.” Thậm chí họ còn dùng còng số 8 còng tay anh Tình rồi tiếp tục đánh, dùng roi điện dí vào người nạn nhân 4 lần. Sau khi đánh anh Tình bò lê bò càng, nhóm các ông “cán bộ chức năng” còn thúc ép anh này lên xe để đưa đi. Không đồng ý với cách hành xử như vậy, anh Tình kháng cự nhưng vẫn bị tóm cổ, thậm chí bị còng tay, đè đầu, bóp cổ, đưa lên xe của đoàn công tác. Lúc này, trước sự kháng cự của anh Tình, lực lượng chức năng liền đánh tiếp người bán hàng rong đến ngất xỉu. Khi anh Tình ngất xỉu, họ bỏ mặc nạn nhân nằm lê lết trên đường với 2 tay bị còng ra phía sau. Rất nhiều người dân chứng kiếnthấy cảnh tàn bạo này đã la lối phản đối quyết liệt, xông vào can ngăn nhưng không thể ngăn được “lực lượng chức năng” quá hùng hậu và hung dữ.Một số người đành dùng điện thoại di động ghi lại sự việc. Sự việc giằng co diễn ra khá lâu người dân mới trình báo lên công an phường 25. Khi quan chức phường đến nơi thì người bán hàng rong mới được “giải cứu” và đưa đến Bệnh viện Gia Định cấp cứu. Chiếc xe ba gác dùng để mưu sinh và toàn bộ trái cây trị giá chừng 1 triệu đồng trên xe của anh Tình đã bị thu giữ. Bất chấp hoàn cảnh của người lao động nghèo Hiện nay anh Tình đã được người thân đưa về nhà trọ ở Bình Dương để chăm sóc. Tuy nhiên, người nhà anh Tình cho biết, sức khỏe của anh có chiều hướng xấu đi. Ngay trong đêm, anh Lê Văn Trường (em vợ anh Tình) đã có đơn tường trình toàn bộ sự việc anh Tình bị đánh đến cơ quan chức năng để mong muốn làm rõ. Những người dân chứng kiến sự việc cho biết, họ rất phẫn nộ trước cách hành xử côn đồ của một số cán bộ phường trong sự việc này và đã đứng tên ký xác nhận trong đơn với người nhà nạn nhân gửi đến chính quyền. Đến khoảng 9 giờ đêm 6/12, người nhà anh Tình tìm đến bệnh viện và đưa anh về nhà, vì không có tiền nên không dám nằm lại điều trị vết thương. Sáng 7/12 anh Tình phải vay mượn 200 ngàn đồng đi mua thuốc uống vì thấy đau. Hiện tại trên lưng anh Tình vẫn còn nhiều vết thương bầm tím do bị lực lượng trật tự đô thị, dân phòng đánh chiều hôm trước. Được biết hoàn cảnh của anh Tình rất khó khăn. Hằng ngày anh Tình thức dậy từ 4 giờ sáng chạy xe ra chợ Đầu Mối Thủ Đức lấy trái cây rồi đi bán dạo khắp thành phố Sài Gòn để mưu sinh. Ông chủ tịch phường hay người dân làm chứng bịa đặt? Ngày 9/12 ông Nguyễn Văn Quý - Chủ tịch UBND P.25, Q.Bình Thạnh đã có văn bản báo cáo Quận ủy, UBND Q. Bình Thạnh về sự việc. Trong báo cáo, ông Quý nêu: “Tổ công tác phường đã lập biên bản tạm giữ phương tiện và mời ông Tình về trụ sở UBND làm việc. Lúc này ông Tình có uống rượu say, nhảy vào đạp ngã xe gắn máy ra đường, dùng chân đá vào người của tổ công tác... “Trước thái độ chống đối của ông Tình, tổ công tác đã dùng còng số 8 còng tay ông Tình lại và đưa lên xe của UBND phường...” Văn bản của ông Quý đề cập. “Khi lên xe ông Tình nhảy xuống đất và cố tình nằm ra đường ăn vạ và có dấu hiệu bị trúng gió. Công an phường đã phối hợp kêu taxi đưa ông Tình vào khoa cấp cứu của bệnh viện Nhân dân Gia Định để khám.” Trong khi đó, như trên đã nói, có nhiều lá đơn của những người dân, đa số là dân buôn gánh bán bưng ở khu chợ tạm cư xá 30/4 đều xác nhận: họ là nhân chứng trực tiếp chứng kiến lực lượng của UBND P.25 hành hung ông Tình đến ngất xỉu. Những người làm chứng cho rằng ông Tình bị bóp cổ, còng tay, đánh vào mặt, bóp hầu, chích roi điện đến ngất xỉu... chứ không ngất vì trúng gió như ông chủ tịch UBND phường nhận định. Chỉ cần nghe ông chủ tịch Phường trả lời, ai cũng có thể thấy ông đang mưu toan che đậy, bênh vực cho những hành động của đám dân phòng mà hàng trăm lời phát biểu của người dân gọi là “côn đồ.” Vậy ông chủ tịch phường bịa đặt hay những người dân làm chứng bịa đặt? Được biết hiện công an P.25, Q. Bình Thạnh đang lập hồ sơ điều tra về việc này. Lời kể của vợ chồng nạn nhân Chiều 8.12, Phóng viên báo Thanh Niên đã tìm gặp anh Tình tại thị xã Dĩ An, Bình Dương để nghe anh tường thuật chi tiết sự việc anh bị đánh. Nằm trên giường với những vết bầm tím, anh Tình gắng gượng thuật lại câu chuyện. Như mọi ngày, 2 giờ sáng ngày 6.12, anh Tình lên chợ đầu mối Thủ Đức (Sài Gòn) lấy hàng rồi bắt đầu rong ruổi đi bán. Đến trưa, anh với mấy người bạn cùng nhau lên chợ Văn Thánh cũ. Vừa đến chợ không được bao lâu, lực lượng đô thị đến, tất cả đều hốt hoảng bỏ chạy. Còn anh đứng ở đầu đường nên không chạy kịp. Anh Tình kể lại, “Lúc đó đô thị đến đòi mang xe tôi về phường. Tôi giật xe lại, rồi cố năn nỉ, van xin họ, nhưng không được. Đôi bên giằng co rồi cả nhóm lao vào đánh tôi. Đến lúc đó thì tôi không còn nhớ gì nữa.” Nhiều người chứng kiến sự việc cho biết cả nhóm người lao vào đánh, đấm, kè cổ, và dùng cả dùi cui điện để khống chế anh Tình. Sau khi anh Tình bị đánh và còng tay thì nhóm người này bỏ anh nằm bất động dưới đất gần cả tiếng đồng hồ. Sau đó anh Tình được một người trong lực lượng của phường đưa lên taxi, chở tới Bệnh viện Gia Định cấp cứu. Bệnh viện chẩn đoán ‘say rượu’ Chị Thương (vợ anh Tình) cho biết, “Lúc đó tôi đang làm ở công ty thì nhận được tin. Tôi hoảng sợ không muốn làm việc nữa. Lập tức tôi một mình chạy lên bệnh viện để xem tình hình của chồng.” Cũng theo chị Thương khi đến bệnh viện, chị thật sự bất bình khi nghe bác sĩ nói “Người ta nói thấy anh ấy say rượu nằm ở ngoài đường nên thương tình mang vào.” Cũng vì lý do đó mà các bác sĩ đo nồng độ cồn, truyền nước cho anh Tình và chẩn đoán... “say rượu.” Chắc chắn đây là lời khai của các ông cán bộ phường khi mang anh Tình đang bất tỉnh vào bệnh viện. Không lý lại khai với bệnh viện là bị dân phòng phường đánh bỏ mặc giữa đường. Phải tìm cách “chạy tội” cho “anh em nhà” ngay từ đầu. Mấy vụ này, các ông cán bộ phường đều kinh nghiệm đầy mình nên thông minh hơn tiến sĩ. Chị Thương bất bình, “Bác sĩ bảo tôi ra đóng tiền viện phí (gần 100 ngàn đồng) thì tôi ra đóng chứ không để ý tới tờ giấy khám bệnh. Sau đó tôi nhìn lại thì thấy trong phần chẩn đoán chỉ ghi có mỗi chữ “say rượu.” Rõ ràng là chồng tôi bị người ta đánh, sao lại chẩn đoán say rượu?” Chị Thương trình bày rõ ràng với bác sĩ và vị bác sĩ này thu lại tờ giấy, cấp một tờ giấy khác, ghi trong phần chẩn đoán, “Chấn thương phần mềm.” Nói về việc “bỏ trốn” khỏi bệnh viện, anh Tình cho biết, “Khi đó bác sĩ kê đơn thuốc rồi bảo vợ tôi ra đóng tiền viện phí, tôi cứ tưởng như vậy là xong rồi, nên mới cùng vợ ra về, chứ tôi không bỏ trốn.” Về đến nhà lúc nửa đêm, đến sáng hôm sau (7.12), anh Tình thấy đau nhói khắp người nên mới đến Phòng khám đa khoa Ngọc Hồng (Dĩ An, Bình Dương) khám lại. Tại đây các bác sĩ cũng chẩn đoán anh bị chấn thương phần mềm. Theo ghi nhận của phóng viên, hiện tại trên người anh Tình có nhiều vết bầm tím, ở cổ tay có hai vết cứa mà theo anh đó là do vết cắt từ còng số 8. Vậy mà ông chủ tịch Phường lại bào chữa là anh Tình say rượu trúng gió nên nằm dưới đất. Vậy là anh Tình tự còng tay mình? Tiền đâu đi kiện... củ khoai Từ trước tới nay, không có một người hàng rong nào đủ sức, đủ thời gian để “bắt đền” nếu chiếc xe hàng của họ bị trật tự đô thị bắt về phường và nó đã bị ném bể nát khi họ quăng nó lên xe. Sẽ không một người hàng rong nào - như anh Tình - biết phải làm gì sau khi ngất xỉu - ngoài việc nhanh chân rời khỏi bệnh viện vì họ thừa biết không có đồng nào trả đủ thứ tiền gọi là “viện phí.” Và ở vào trường hợp của anh Tình thì chẳng có tiền đâu đi kiện và có thể là kiện cáo “ông Phường” như thế thì chẳng khác nào kiện củ khoai. Nhưng có rất nhiều người dân đã làm đơn chứng thực toàn bộ sự việc và họ sẵn sàng đứng ra làm chứng. Lác đác trên mạng cũng có một số độc giả đề nghị nhà báo cho biết địa chỉ của anh Tình để giúp đỡ. Nhưng giúp đỡ người cơ nhỡ và giúp người đi kiện “ông nhà nước” lại là chuyện khác hẳn. Cần có thời gian, cần rủng rỉnh mới đi kiện được, dù cho có một ông luật sư nào đó cãi cho không, nhưng liệu các thư ký tòa, các quan tòa có “tha không” cho không? Mời bạn đọc lời bình của một người dân trên báo Dân Trí: Bạn Hải Yến: damhaiyen2013@gmail.com viết, “Tôi đã có lần chứng kiến mấy ‘bác’ dân phòng ít học xông vào giằng co, đạp đổ xe hàng của anh bán ổi rong, kết quả là 2 sọt ổi Đông Dư đổ tung tóe ra giữa đường. Mặc kệ cho dân lên tiếng phản ứng hành vi côn đồ, họ vẫn quyết tâm bắt xe của anh bán ổi. Cũng thấy rõ là chẳng phải để dẹp lấn chiếm vỉa hè đâu (các ổng mà làm đúng trách nhiệm thì đã tốt), chỉ để phạt người ta rồi lấy tiền chia nhau. Tôi nói vậy là có căn cứ, bởi đã có lần tôi nhờ người bạn chở từ chỗ làm ra bến xe chỉ chừng 200m, sơ suất không đội mũ. Thế mà mấy ‘bác’ ở đâu đã nhảy xổ ra chặn đầu xe như sợ chúng tôi bốc hơi, dong như giải tù binh về trụ sở bắt nộp phạt. Họ bắt tôi kí vào giấy tờ (cho hợp lệ nhưng thực ra tờ giấy đó chẳng có tý giá trị gì), khi tôi đòi mang giấy đó lên kho bạc nộp tiền thì họ không đồng ý. Chẳng qua là họ làm trò để nhét tiền vào túi riêng thôi. Trước cổng công ty tôi cũng có dãy hàng hoa quả bán rong, bán nước lấn chiếm vỉa hè, lòng đường nên đã kẹt đường lại càng kẹt hơn. Nhưng ngày nào xe dân phòng đi qua cũng chỉ gọi là nhắc nhở xua đuổi cho lấy lệ, chắc là ‘há miệng mắc quai’? Được nộp tiền hàng tháng hết rồi... Nhưng ‘bức xúc’ cũng chỉ để đấy, vì dân thấp cổ bé họng nói sao lại được với chính quyền.” Chủ tịch xã ‘chỉ đạo’ phá ruộng dân Trên đây chỉ là một số hình ảnh quá đau lòng cho những cái được gọi là lập lại trật tự hè phố trong những ngày cuối năm này ở thành phố. Còn ở nông thôn, ngoài những vụ kiện cáo vì bị các quan làng quan xã xử ép, chiếm đất, mới đây cũng những ông “kẹ” miệt vườn lại vừa có hành động kỳ lạ “tàn sát lúa” của dân. Sự việc xảy ra vào khoảng 8 giờ sáng ngày 27/11, khi đoàn cán bộ xã Tùng Lộc gồm Chủ tịch xã, Bí thư cùng đại diện các ban ngành đoàn thể xã đi ra cánh đồng Nhà Hường để dùng cào phá mạ của nhà nông dân Nguyễn Chỉ Nhụ (64 tuổi, ở xóm 2 Bắc Tân Dân). Ngay lúc đó, chủ ruộng mạ và một số nông dân đang có mặt trên cánh đồng đã phản đối và chạy đến ngăn cản, có người quá phẫn nộ đã bốc bùn dưới ruộng ném và dùng thau múc nước hắt vào đoàn cán bộ. Ông Nhụ cho biết, nguyên nhân ruộng mạ bị cán bộ phá là vì ông gieo giống lúa 1820, loại giống lúa này xã đã cấm không cho nông dân đưa vào sản xuất. Trong khi đó, ông Nhụ cho biết, loại giống 1820 mà ông đã gieo mạ vẫn cho năng suất cao, trung bình 3.5 tạ/sào. Còn một số giống lúa khác, trong đó có giống mới Ấn Độ mà xã đang vận động làm thì mùa vụ trước năng suất thấp, trung bình chỉ được 1.8 tạ/sào. Ngoài ra, để làm giống Ấn Độ, người dân phải mua từ nguồn giống của xã với giá 91,000đ/1 gói 0.8 kg là quá cao. Nhiều nông dân có mặt đều khẳng định sẽ tiếp tục gieo mạ để cấy giống lúa 1820 vào vụ mùa này, vì năng suất rất cao, gạo lại bán được giá. Một nông dân đã lên tiếng, “Ai đời cán bộ lại tập trung lực lượng đi phá mạ của dân. Có luật nào cho phép như thế không?" Câu hỏi này xin dành cho Bộ Nông Nghiệp VN trả lời. Từ thành phố đến nông thôn, người dân VN còn phải chịu biết bao điều cay đắng, bất công nữa mà đành câm miệng hến! Người dân chỉ còn nhờ vào sự xét xử công minh của chính quyền. Còn nhiều vụ khác như dân phòng liên quan đến các vụ đánh chết người từng xảy ra ở Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Nghệ An. Các vụ án này cho thấy, dân phòng quá lạm quyền và đến lúc phải có biện pháp mạnh để chấn chỉnh. Bước sang năm 2014, nhà nước VN sẽ làm gì để ngăn chặn tình trạng này cho người dân được nhờ? Xin đừng đưa ra những “đề án trên trời, cuộc đời dưới đất,” hãy giải quyết những chuyện rất nhỏ nhưng thật ra đó lại là một thực tế rất lớn, ảnh hưởng đến đời sống của toàn xã hội. Đừng hỏi tại sao niềm tin và đạo đức ngày một xói mòn. Văn Quang
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 24, 2013 5:50:00 GMT 9
Đi du lịch VN coi chừng bị chặt chém Văn Quang – Viết từ Sài Gòn
Tôi không rõ bạn đọc bài này vào ngày nào, trước năm 2013 hay đầu năm 2014, nhưng dù vào thời gian nào trên đây, cũng chưa đến Tết Nguyên Đán, xin gọi nôm na là “Tết Ta,” Trong khoảng thời gian từ “Tết Tây” đến “Tết Ta” cách nhau đúng một tháng, rất có thể một số bạn đọc hoặc có người nhà, bạn bè về VN thăm nhà, ít có bạn về VN du lịch bởi bạn ở nước ngoài thiếu gì chỗ để đi du lịch. Cho nên hầu hết người nước ngoài gốc Việt về VN làm những cuộc viếng thăm không thể không có. Ví như các con tôi, không thể không về thăm bố. Ví như có cha mẹ, anh em đau ốm hoặc “ra đi,” không thể không về. Tuy nhiên khi đến VN, bạn vẫn có thì giờ đi thăm thú một vài nơi, đi tìm lại những kỷ niệm vàng son một thời xa xưa. Những điều tôi sẽ tường thuật với bạn đọc trong bài này chỉ có ý nhắc nhở bạn về những điều đã và đang xảy ra mà các bạn cần đề phòng trong dịp “Tết Ta” này nếu có việc phải về VN. Tôi không có ý nói xấu xã hội mà tôi đang sống. Tôi chỉ nhặt ra những “hạt sạn,” những “bụi bẩn” làm xấu mặt con người và làm hình ảnh xã hội VN trở nên bất an với toàn thể du khách. Hy vọng từ mỗi con người đến những cơ quan có trách nhiệm với văn hóa dân tộc nhìn rõ từng vấn đề kịp thời chấn chỉnh, đừng để mọi người dân VN cùng chịu cảnh “mất mặt” như thế nữa.
An toàn để lên hàng đầu Tôi dùng chữ “chặt chém” trên đây không có nghĩa đen là du khách bị mang ra chặt chém… thành từng mảnh mà chỉ là bị tính giá “cắt cổ” ở mọi nơi, mọi lúc với mọi mánh khóe mà bạn không ngờ tới. Từ khi mua vé du lịch đến khi mua bán ở vỉa hè và ngay cả trong các cửa hàng, nhất là hàng ăn uống, hàng bán đồ kỷ niệm…. Nhưng trước hết và trên hết vẫn là chuyện an toàn cho bản thân mình khi đi trên hè phố, ở khách sạn… Bởi ở những mơi đó bạn dễ bị lừa, bị cướp giật, bị hành hung và bị đủ thứ phiền toái nếu không đề phòng cẩn thận. Bài học những năm trước đến nay vẫn còn nguyên giá trị, năm nay còn đáng sợ hơn bởi kinh tế suy thoái, thất nghiệp ngày càng nhiều nên sự liều lĩnh gia tăng, sự “liều mạng cùi” của bọn lang thang đói rách kinh niên, còn ghê gớm hơn, đó là những con nghiện ma túy đến cơn vật vã thì bất cứ chuyện gì cũng dám làm, không sợ cảnh sát, không sợ đám đông, không sợ ai cả vì giản dị là chúng không sợ chết. Bạn đã từng biết những cô gái đi xe gắn máy loại sang bị côn đồ chặt luôn cánh tay để cướp xe; người đứng đổ xăng giữa chốn đông người, tiền để trong cóp xe cũng bị giựt nhanh như điện. Tôi có ông bà bạn từ nước ngoài về ghé thăm nhà. Bà xã ông đã cố gắng “cải trang” thành bà già nhà quê, xách túi quà cho bà con bằng cái bao ni lông đen ngòm để chứng tỏ đó chỉ là gói hàng tầm thường. Còn ông chồng thì mặc chiếc áo blouson rộng thùng thình trong khi trời nắng nóng. Lúc vào nhà rồi, cần gọi điện thoại, ông mới móc chiếc tablet từ túi áo trong ra dùng. Các thứ vật dụng lỉnh kỉnh như đồng hồ đắt tiền cũng được giấu trong đó. Nhìn có vẻ khôi hài, nhưng tôi hiểu đó là sự cẩn thận không bao giờ thừa. Tôi đề nghị các bạn cũng nên cẩn thận như thế mỗi khi đi trên hè phố từ Sài Gòn đến Hà Nội và ở tất cả những thành phố lớn cùng những địa danh du lịch ở VN.
Hãy cẩn thận khi bị dàn cảnh gây gổ giữa đường Đây là một “chiêu” không mới nhưng vẫn thường xảy ra. Nếu bỗng dưng bạn bị một anh hay cô nào đó đi xe đụng vào người chút xíu hoặc cũng có thể là đang cùng đi trên hè phố, tức khắc bạn bị ngay “đối phương” la ó ầm ỹ, dùng những lời lẽ tục tĩu côn đồ gây sự. Trò đểu này bây giờ thành rất thông dụng. Bạn nóng máu cãi lại là có chuyện ngay. Đó là một kiểu ăn vạ rồi bọn đàn anh đàn em xông đến trấn lột “con mồi” đã bị theo dõi từ trước mà không hề hay biết. Bạn hãy bình tĩnh mỉm cười và cho họ biết “Tôi biết mánh lới của các anh rồi, để tôi gọi cảnh sát đến phân xử.” Cho nên trong máy điện thoại của bạn luôn có số của cảnh sát kể cả cảnh sát cấp cứu. Đây là vài số bạn nên có: Số113: Lực lượng cảnh sát phản ứng nhanh – Số điện thoại113là số điện thoại gọi miễn phí. Có thể quay số113từ bất kỳ máy điện thoại nào. Số114: Số khẩn chữa cháy hay khi cần cứu hộ cứu nạn Chỉ như thế may ra bạn mới có hy vọng thoát ra khỏi bàn tay những kẻ gây sự giả vờ để cướp đoạt tài sản, bạn dằng co sẽ nguy hiểm đến tính mạng là điều rất có thể sẽ xảy ra. Trường hợp bạn chưa kịp gọi cảnh sát thì cố tránh xung đột cãi cọ, hãy để chúng “hoành hành” rồi ngay sau đó vừa tri hô vừa gọi số 113 là tốt nhất.
Đề phòng trộm cắp Bạn Chiến trên VNExpress kể: Có một câu chuyện hài thế này, một nhà khoa học phát minh ra chiếc máy bắt trộm. Mọi người đều nghi ngờ về hiệu quả của chiếc máy, nhà khoa học bèn mang nó đi thử. Đầu tiên, ông mang nó qua Singapore. Trong một ngày chiếc máy bắt được 5 tên trộm. Sau đó ông mang máy qua Trung Quốc, kết quả thật tuyệt vời, chiếc máy bắt được 100 tên trộm. Cuối cùng, nhà khoa hoc mang chiếc máy thần kỳ sang Việt Nam. Đến cuối ngày mọi người ra kiểm tra xem máy bắt được bao nhiêu tên trộm thì... chiếc máy thần kỳ đã bị trộm lấy mất từ lúc nào không hay! Chỉ là chuyện khôi hài nhưng nhắc nhở bạn cần đề phòng, ngay cả khi để hành lý bên chỗ ngồi. Chỉ cần sơ sảy một chút thôi, hành lý của bạn sẽ “biến mất.” Bạn cần thực hiện đúng câu “vật bất ly thân,” nhất là khi bạn vào mua hàng, móc bóp trả tiền là có thể đã bị theo dõi hoặc bị giật như cảnh người mua xăng, để tiền trong cóp xe, mở cóp ra lấy tiền là bị giật ngay và kẻ cướp phóng mất dạng. Mời bạn đọc vài thủ đoạn của kẻ cắp ngày nay giữa Hà Nội Những chiêu “độc” táo tợn Ở Hà Nội mới xuất hiện "chiêu cướp" rất táo tợn. Có phụ nữ đi xe máy dừng đèn đỏ ở ngã tư vào 8g sáng bị một thanh niên nhảy phắt lên yên xe phía sau gí dao khống chế. Hắn yêu cầu nạn nhân đến khu vực ít người qua lại rồi cướp tài sản, sau đó chuồn mất dạng. Ngoài các thủ đoạn trên, một số tên cướp còn theo dõi những cô gái đi rút tiền ở máy ATM. Một tối tháng 9, chị Lan vừa rời máy ATM ở quận Thanh Xuân- Hà Nội, ngồi sau xe máy của bạn trai đi về hướng cầu vượt Ngã Tư Sở thì bị nam thanh niên áp sát. Bị hắn giật mất chiếc túi, chị Lan chỉ kịp ứ ớ la “cướp, cướp,” Cậu bạn đuổi theo, nhưng tên cướp đã mất dạng giữa dòng xe cộ đông đúc...
Bị cướp ngay khi ngồi trong xe hơi Một nữ độc giả kể lại: Khi chị dừng xe vì đèn đỏ ở ngã tư Phạm Ngọc Thạch - Chùa Bộc, một người đàn ông đi đến mở cửa trước xe chị (vì sơ ý không chốt trong). Hắn hành động thản nhiên như người chồng mở xe của vợ để lấy đồ để quên. Chị kể, “Mình bất ngờ, chưa kịp định thần thì thấy túi xách để cạnh ghế lái đã nằm trong tay hắn. Theo phản xạ, mình kéo tay giật lại, nhưng không kịp. Thế là mất tiêu cả số tiền vừa lãnh ở ngân hàng trả lương cho nhân viên.” Một điều tra viên CA cho biết tình trạng cướp giật tại Hà Nội vẫn là vấn nạn “nổi cộm” với thủ đoạn ngày càng tinh vi và táo tợn. Các tên cướp không chỉ gây án trên đoạn đường vắng mà ra tay ngay cả trên các phố đông người. Cảnh sát mới có khuyến cáo, không nên đeo vàng, hay trang sức để lộ liễu khiến kẻ gian nảy lòng tham. Đặc biệt, không nên nghe điện thoại khi đang chạy xe vì dễ mất tập trung, không quan sát được xung quanh. Tất nhiên bạn không bao giờ trưng diện những món trang sức “hàng hiệu,” cần đi ăn cưới, dự tiệc, bạn hãy cất kỹ, chỉ đeo nó khi đến nơi hẹn. Tuy nhiên có một điều khó xử là bạn đang đi đường, nghe điện thoại reo. Bọn cướp giật rất thích điện thoại của các ông bà “Việt kiều,” hầu hết là loại đặt tiền và là hàng thật chính hiệu chứ không phải hàng nhái của Trung Quốc, chúng đã nhiều phen cướp phải loại ĐT nhái này, đó là lý do chúng theo khách nước ngoài khi nói chuyện trên đường phố. Hạn chế những cuộc gọi càng ít càng tốt. Nếu cần trả lời gấp, bạn nên đứng vào trong một cửa hàng, hoặc đứng trong một góc khuất và để ý những người quanh bạn. Phương tiện tốt nhất để di chuyển ở các thành phố là xe taxi.
Đi taxi cũng coi chừng taxi lừa, taxi ‘dù’
Ngay từ khi xuống đến phi trường, bạn sẽ phải “đối đầu” với nhiều chuyện phức tạp. Tôi bỏ qua không nói đến chuyện khách “Việt kiều” bỏ ra $10 USD hay hơn nữa để qua “cửa ải” trong và ngoài phi trường. Đó là thứ chuyện từ “muôn năm cũ” nhưng vẫn còn diễn ra… bình thường cho đến nay. Tôi chỉ nói đền về nạn bắt chẹt khách khi bạn gọi taxi. Vừa ra đến nơi đón khách quốc tế hoặc nội địa của sân bay Nội Bài hay Tân Sơn Nhất du khách sẽ gặp rất nhiều “cò” taxi trà trộn giả vờ đón khách đi theo đoàn, khách của công ty để mời khách đi về nội thành. Nếu đi taxi có tên tuổi, niêm yết giá rõ ràng, mức giá đi từ sân bay Nội Bài đến nội thành khoảng từ 300-340 ngàn đồng/chuyến. Nhưng đám “cò” sẽ chào khách với giá rẻ hơn với lý do, tiện một công đi đón đoàn nhưng thừa xe nên chỉ lấy từ 200- 250 ngàn đồng/chuyến. Có khách đi về phố Thái Hà, bị xin thêm từ 100-150 ngàn đồng vịn vào lý do phải vào ngõ sâu và đây không phải nội thành?! “Kinh nghiệm bắt khách” của đám taxi dù này sẽ nhằm vào những “con mồi” là khách nói giọng tỉnh khác, khách nước ngoài ham rẻ, khi khách đã vào xe, sẽ tùy tình hình để bắt chẹt.
Điển hình là sự việc giữa tháng 8-2013, một nữ du khách người Mỹ đi taxi từ sân bay Nội Bài đến Hà Nội đã bị tài xế ép rút 4 triệu đồng ($190 đô) tại cây ATM. Sau ít ngày, cũng một nữ du khách bị hai thanh niên cầm biển đón khách chờ sẵn đưa lên xe về nội thành, trên đường đi, họ bắt cô rút $600 USD từ cây ATM để trả tiền xe. Đã lên tới cả trăm trường hợp môi giới, dẫn khách bị phát hiện, bàn giao cho CA nhưng một thời gian sau lại quay trở lại hoạt động như thường!
Vào đến nội thành, muốn di chuyển đi chỗ này chỗ kia, khách du lịch phải dùng taxi hoặc xích lô. Dư luận vẫn còn nóng chuyện 3 du khách người Pháp bị tài xế taxi, nhân viên khách sạn trên phố cổ Hà Nội lừa đảo, dọa giết, hay một du khách đi xích lô 1.5km phải trả 1.3 triệu đồng ($62 đô).
Taxi ‘dù’ Sai Gòn còn ‘ác’ hơn
Tình trạng taxi dù chặt chém khách, nhất là người nước ngoài đang ngày càng trở nên thường xuyên hơn. Taxi “dù” là loại xe có “nhãn mác” của một công ty lớn nhưng là nhãn hiệu giả. Thú thật với bạn, tôi là người địa phương đi taxi thường xuyên nhưng cũng khó phân biệt được đâu là thật, đâu là giả, đâu là taxi xịn, đâu là taxi “dù,” taxi nào là taxi “nhái.”
Với khách du lịch nước ngoài và kể cả người ở các tỉnh khác không thể phân biệt được các logo nhái, số điện thoại nhái, kiểu đồng phục của tài xế taxi. Khi kéo được khách lên xe rồi, các lái xe taxi dù tha hồ chặt chém, móc túi trước sự bất lực của hành khách. Cãi nhau với chúng là có cả bọn kéo đến vây kín đe dọa.
Vào tối ngày 25/6/2012, 2 du khách người Tây Ban Nha là Jose Angel Matas và Raquel Rvis đón 1 chiếc taxi ở khu vực chợ Bến Thành (Quận 1) để đi đến chợ Nguyễn Thái Bình (Quận 1). Khoảng cách giữa 2 địa điểm chỉ gần 1km.
Khi đến nơi, người tài xế taxi đã yêu cầu 2 vị khách này phải trả số tiền là 394,500 đồng ($19) đúng theo số tiền đã hiện trên đồng hồ bên trong xe taxi này. Khi nêu lên sự thắc mắc vì số tiền cước quá cao, mà khoảng cách lại quá gần, người tài xế đã không thể giải thích gì cho vị khách này.
Sau đó, để cho rõ ràng hơn, tài xế taxi còn lấy ra 1 biên lai của Mai Linh taxi để ghi ra số tiền, đưa cho 2 vị khách theo đúng số tiền đã nói lúc ban đầu. Hai vị khách đành ngậm ngùi đưa số tiền 400.000 đồng cho người tài xế bất lương nói trên. Vì du khách dọa sẽ báo Công an với hành vi của người tài xế, nên đã được "thương tình" trả lại 200.000 đồng.
Trước đó, ông Jorenson (49 tuổi, quốc tịch Úc) đón một chiếc taxi mang nhãn hiệu giống như của hãng Sài Gòn tourist từ bến tàu cánh ngầm trên đường Tôn Đức Thắng, Quận 1 (Sài Gòn) về sân bay Tân Sơn Nhất với quãng đường hơn 6 km.
Khi tới nơi, ông bị tài xế đòi lấy 6 triệu đồng. Biết bị chém nhưng nhìn vẻ mặt dữ tợn của gã tài xế và đến giờ phải lên máy bay, ông phải vét sạch túi lấy 2 triệu đồng và hơn 100 đô la Úc để trả.
Vào bất kỳ hàng nào cũng nên hỏi giá trước khi ăn
Đến chuyện vào các hàng ăn càng dễ bị chặt chém hơn. Một khách du lịch từ Sài Gòn ra Hà Nội, đã phải trả hóa đơn cho 4 con ghẹ bé bằng bàn tay kèm hai chai bia tại một quán hải sản vỉa hè phố cổ với giá gần 2 triệu đồng ($95) mà chỉ biết ngậm ngùi rút ví vì... quên không hỏi giá trước khi ăn.
Du khách xa lạ, hỏi đường mấy anh xe ôm, bà bán hàng nước, chị bán rong là y như rằng phải mặc cả tiền nong mới chỉ đường. Vị khách này khi hỏi anh xe ôm xem quán bún đậu mắm tôm nào ngon ở gần nhất thì bị yêu cầu, “Chi hai chục ngàn sẽ chỉ rõ ràng bằng bản đồ.” Có nơi khách phải mua hàng mới được chỉ đường.
Ở nhiều nơi du khách nước ngoài chạy thục mạng vì bị “nữ quái” đeo bám xin xỏ, mời mọc, quyết không tha du khách nào ghé thăm.
Bi hài đến nỗi, một đoàn du khách người Đức đã phải tìm cách chạy thục mạng sang đường để tránh khỏi sự đeo bám của đội quân bán hàng rong.
Đấy là chuyện Hà Nội, còn Sài Gòn cũng không thiếu những trò bẫy khách
Hàng rong ‘bẫy’ du khách ở Sài Gòn
Nạn chặt chém, chèo kéo, đeo bám du khách hoạt động một cách ngang nhiên ở trung tâm TP Sài Gòn, Hòn ngọc của Viễn Đông. Tôi chỉ nêu vài chuyện điển hình. Chỉ cần dạo quanh các con đường gần bưu điện thành phố, hội trường Thống Nhất... khách sẽ nhanh chóng sập bẫy.
Thậm chí mua một trái dừa bên vỉa hè cũng bị tính giá 200 ngàn đồng, trong khi bình thường, một trái dừa tươi bán ở vỉa hè có giá cao lắm 25,000 đồng.
Hình ảnh đôi quang gánh con con vài nải chuối, miếng dứa… mang nét độc đáo rất Việt Nam được nhiều du khách yêu thích. Nhưng vì yêu thích, nhiều vị muốn được gánh thử, chụp ảnh lưu niệm, bị tính giá $10 - $20 USD, sau đó các “gánh” này thoải mái “chặt chém” với giá bán một nải chuối, một túi vài miếng dứa lên tới cả vài trăm ngàn đồng khiến du khách nhăn mặt ngỡ ngàng mà vẫn phải trả đủ.
Nạn ‘chặt chém’ điên đảo ở các di tích Huế, Nha Trang Vũng Tàu, Bãi Cháy…
Thật ra những kiểu chặt chém du khách ở hầu hết mọi nơi đều có cùng một “phiên bản” giống nhau. Ở Huế, các khu di tích được coi là linh hồn của văn hóa dân tộc, bãi biển Nha Trang - Vũng Tàu – Hạ Long là những nơi nổi tiếng về cảnh đẹp của đất nước cũng không thoát cảnh này.
Đi thăm Lăng Khải Định giữa cái nắng chang chang 39-40 độ C, nhiều du khách đã tấp vào quán giải khát đơn sơ, tranh tre mái lá ngay dưới chân lăng, trước khi leo hàng trăm bậc thang bỏng rát, uống 4 chai nước ngọt, 7 chiếc kem socola ốc quế. Khi tính tiền, chị chủ hàng hét: 360.000 đồng.
Ngay gần đó, chị bán nón, mũ phục vụ du khách cũng hét giá cao ngất ngưởng và miễn mặc cả: nón Huế bằng lá dừa mỏng manh một lớp không quai 40,000 đồng/chiếc; mũ lá 20,000 đồng/chiếc; mũ tắc kè hẹp vành 50,000 đồng/chiếc. Trong khi đó, những dân bản địa mua nón Huế một lớp 18,000 đồng/chiếc; mũ lá 8,000 đồng/chiếc; mũ tắc kè hẹp vành là 20,000 đồng/chiếc.
Đến Nha Trang thuê khách sạn vào hàng ăn bạn hãy coi chừng giá cả
Một thí dụ như giá phòng niêm yết chỉ từ 70,000-200,000 đồng nhưng khách sạn thu của khách 700,000 đồng/phòng. Phòng không đạt chất lượng, máy lạnh không lạnh, nước yếu, không đảm bảo vệ sinh… khách yêu cầu sửa chữa hoặc đổi phòng nhưng không được đáp ứng.
Khi khách trả phòng để đi thuê khách sạn khác thì bị ép trả tiền 2 ngày trong khi khách mới ở 1 đêm… Không chỉ vậy, khi khách báo cơ quan Công an còn bị nhân viên khách sạn lớn tiếng đe dọa…, đó là sự việc xảy ra vào sáng ngày 7-8 tại khách sạn Thanh Thủy (số 96B Trần Phú, Nha Trang, Khánh Hòa). Các báo đã có nhiều thông tin rợn người, tại Bãi Cháy, Đà Lạt, Nha Trang đã có nơi du khách bị đánh đến ngất xỉu. Nạn chặt chém ở Vũng Tàu đã khá nổi tiếng ngay cả với những du khách trong nước. Sở Công Thương Tỉnh Bà Rịa-Vũng đã phải cho niêm yết “sổ đen” tên 7 cửa hàng giá cả bất thường, giá trên trời giá dưới… địa ngục. Trong đó có cửa hàng Hiệp Ký.
Món ăn ở VN niễm độc hàng loạt
Sau cùng, xin bàn đến các loại đồ ăn thức uống ở VN vào lúc này. Đây là “báo động của cac cơ quan chức năng,” Tôi xin tóm tắt rất ngắn gọn, còn ăn hay không, tùy bạn.
- Nem chua, giò chả, pa tê không đạt chất lượng
- Bên cạnh các loại gia súc, gia cầm không bảo đảm an toàn thực phẩm liên tiếp đưa vào Sài Gòn để tiêu thụ thì các loại thực phẩm khác phục vụ cho nhu cầu Tết như bánh kẹo, mứt, hạt dưa,… kém chất lượng cũng chen vào tràn lan và công khai tại các chợ.
- Các mẫu xét nghiệm sản phẩm rau quả, phát hiện hàn the, một loại hóa chất không được phép sử dụng trong thực phẩm. Riêng các sản phẩm thịt nguội có đến 5 mẫu không đạt, trong đó một mẫu patê không đạt về chỉ tiêu natri benzoat; hai mẫu giò chả, hai mẫu nem chua không đạt về chỉ tiêu natri benzoat và polyphosphate.
- Mứt dừa làm từ dừa phế thải, ômai lẫn trong khói bụi
- Thịt ngựa giả thịt bò ở châu Âu
- Bún, phở chứa chất tẩy trắng huỳnh quang
- Trà chanh, nước mía vỉa hè nhiễm khuẩn, độc tố kim loại
- Phù phép thịt heo thối thành thịt bò khô…
Trên đây chỉ là những sự việc đáng buồn không chỉ cho ngành du lịch VN mà người VN nào cũng cảm thấy đau lòng. Dường như thời đại này “văn hóa xấu hổ” không còn chỗ đứng.
Văn Quang
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 8, 2014 10:13:01 GMT 9
Chấn chỉnh rồi cũng y chang muôn năm cũ
Văn Quang – Viết từ sài Gòn Sau những ngày nghỉ Tết khá dài, người dân Việt đã bắt đầu lao vào cuộc sống thường nhật. Đó là những người lao động thật sự sống bằng công sức của mình, ngày nào có việc làm, có đổ mồ hôi thì có cơm ăn. Còn những ông bà cô cậu công tư chức, hầu như vẫn còn “tà tà” đến sở để chúc tết lần nữa và ăn tân niên. Cuối tháng vẫn có lương thì tội gì không bám vào “ngày rộng tháng dài” để dưỡng sức cho tiêu bớt “thịt mỡ dưa hành” tích tụ lại sau ba ngày Tết. Cái không khí uể oải ấy kéo dài chưa biết đến bao giờ. Có lẽ phải đến hết “tháng Giêng là tháng ăn chơi.” Năm nay chưa biết nền kinh tế sẽ leo dốc hay xuống dốc, lạm phát sẽ ở con số nào. Không ai có thể dự đoán nổi nền kinh tế này với những khó khăn chồng chất từ năm này kéo sang năm khác. Nó cũng giống như những món nợ xấu của ngân hàng, những vụ án tham nhũng còn đọng lại, thu hồi được bao nhiêu tài sản hay “đồng bạc biết đi,” nó chạy sang nước ngoài hết rồi. Những ngày đầu năm, các sự kiện được thông tin rầm rộ trên hầu hết các phương tiện truyền thông hầu hết chẳng có gì mới mẻ. Lại những lễ hội lớn nhỏ. Từ Chùa Hương đến các đền chùa Bà Chúa Kho, Chùa Bái Đình, Núi Yên Tử, Hội Lim, Phủ Dầy… từ Nam chí Bắc, có hàng trăm lễ hội. Nếu kể cả lễ hội riêng của địa phương có thể lên đến hàng ngàn. Báo nào cũng la làng, thất kinh vì những cảnh buôn thần bán thánh, báng bổ thần linh, nhét tiền vào các pho tượng, cúng lễ liên miên, khấn thuê vái mướn, cờ bạc trá hình, đủ trò chặt chém khách thập phương, từ việc gửi xe đến chuyện ăn uống, thứ nào cũng đắt gấp ba gấp bốn ngày thường. Thật ra, đây vẫn chỉ là những trò đã có từ “muôn năm cũ.” Năm nào cũng la làng, cũng hứa hẹn “chấn chỉnh” rồi không làm gì cả, mọi chuyện vẫn cứ hồn nhiên diễn ra như xưa, nói không ngoa là còn hơn xưa về mọi mặt. Mê tín ngày càng nặng Dường như cái mức độ mê tín cứ ngày một tăng thêm. Không còn biết tin vào cái gì, không tin ở chính mình, người ta tin vào Thần Thánh. Thần tài, thần lộc, thần tình duyên, thần may mắn, ông tổ cờ bạc, bà tổ nhà chứa… Vị nào cũng linh cả. Ngay cả những vị quan chức, lập trường vững như bàn thạch, sách dạy “duy vật bất duy tâm” thuộc làu làu như cháo chảy, bây giờ lại quay ra tin vào Thần Thánh. Nếu không thì sao lại có hàng loạt xe biển xanh – tức là xe của công sở – nghênh ngang ở mọi lễ hội, mọi đền chùa. Mặc dù trước Tết đã có lệnh cấm dùng xe công đi lễ chùa, cấm biếu xén quà cáp cho các “sếp.” Năm nào cũng có lệnh cấm, nhưng chẳng năm nào được thi hành, cảnh sát giao thông cũng làm lơ. Còn cái vụ quà cáp biếu xén đều xảy ra trong “tình thân mật” và kín đáo nên chẳng biết năm nay bớt hay tăng bao nhiêu phần trăm? Chỉ sợ vụ này sẽ “tăng vọt” hơn mọi năm vì năm nay có cái lệnh “tinh giản biên chế,” sẽ có 100,000 ông công chức nhà nước bị “tinh giản.” Nói gọn lại là bắt đầu từ năm nay đến năm 2020, sẽ cho về vườn hàng loạt công chức “sáng cắp ô đi tối cắp về.” Tất nhiên nhiều ông run, dù anh có tài nhưng lỡ cấp trên… đánh giá lầm thì cũng bị về đuổi gà cho vợ. Phải để cấp trên chú ý đến mình, dù không là tài năng thì cũng là “thân tình.” Tôi sẽ đề cập đến chi tiết cái lệnh này trong phần sau. Trở lại với lễ hội, các quan ông quan bà, cậu ấm cô chiêu đi xe nhà nước, súng sính dâng mâm lễ vật vài triệu đồng lên các ban thờ với hy vọng năm nay bố sẽ được thăng quan tiến chức, mua thêm vài căn nhà mặt phố, tình duyên sẽ gặp toàn đại gia, Tây hay Ta hay Đại Hàn, Đài Loan đều OK, miễn là có nhà vài trăm tỉ cho em khoe với bà con. Buôn thần bán thánh kiểu này chắc chắn lời gấp trăm lần chơi cổ phiếu và những phi vụ làm ăn khác. Những chuyện vặt ngàn năm cũ Quan đã thế thì người dân còn tin vào đâu hơn là bói toán, tướng số, các loại sách tử vi, coi ngày tốt tháng tốt, xem chỉ tay bán đầy ở các cửa chùa, cửa đền. Mang vài chục ngàn gửi Bà Chúa Kho kiếm lời bạc tỉ sướng hơn là gửi tiền ở ngân hàng, lời chưa chắc đã bù lỗ lạm phát, nay không chế lãi suất, mai hạ bớt rồi gửi kiểu gửi cho cô Huyền Như ở Vietinbank lại mất trắng. Thế nên tệ nạn mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh có nói đi nói lại, có “chấn chỉnh” từ năm này qua năm khác cũng “rứa” thôi. Ở các nơi thờ tự chỉ thấy bảng không nên khấn thuê vái thuê mà không thấy bảng cấm đút tiền vào tượng Phật. Trong khi người ta thành khẩn dúi tiền vào tay Phật, thì lại vô cùng thờ ơ với hàng dài người ăn xin ngồi ngay lối đi vào chùa. Cái nghịch cảnh ấy vô tư diễn ra trước nơi được coi là Thánh Thiện. Năm nay có cái mới là dân đổi tiền lẻ làm ăn phát đạt hơn mọi năm vì nhà nước không in tiền lẻ. Người đổi tiền đứng hiên ngang cầm tập tiền lẻ đon đả mời chào khách hành hương mua tiền lẻ. Tiền 10,000 đổi lấy 8,000 đồng, thậm chí là 10,000 đổi lấy 5,000 đồng cũng đông khách. Một số người dân thành phố chọn mua tờ 2 đô la để lì xì con cháu cho ra vẻ là gia đình “văn minh văn hóa thời a còng!” Còn chuyện tàu xe nhồi nhét khách, chiếc xe chỉ có 42 chỗ mà nhét tới 85 người. Rồi tai nạn trong những ngày nghỉ Tết Giáp Ngọ, đã xảy ra 338 tai nạn, làm chết 286 người và bị thương 324 người. Thực phẩm thì lên giá vù vù, hàng giả, hàng nhái, thịt thối, cá chết, rau bẩn không thể kiểm soát được. Tóm lại có vô số chuyện “muôn năm cũ” cứ lặp đi lặp lại y chang năm trước, tốn không biết bao nhiêu tỉ đồng vào những trò như thế. Cam đoan với các cụ năm sau sẽ chẳng khác gì năm nay. Về mặt chi tiêu sinh hoạt của đa số người dân trong những ngày đầu năm nay rất yếu. Bởi dân cạn tiền, siết chặt chi tiêu. Nhiều cửa hàng và doanh nghiệp đã mở hàng đầu năm. Dù đã có hàng loạt các chương trình khuyến mãi, tặng quà nhưng đều có chung nỗi buồn là sức mua yếu kém. Khi người dân cạn tiền, chi tiêu ít thì doanh nghiệp nào cũng khó có thể tăng trưởng. Một trăm ngàn công chức sẽ bị… về vườn Đó là nói theo kiểu người bình dân ngồi khề khà chuyện đầu năm. Đó cũng là “nét mới” đang làm dư luận sôi nổi bàn tán ở mọi nơi mọi chỗ. Nhưng tất nhiên là những ông ngồi quán cà phê, chưa từng có hân hạnh được làm công chức hay làm quan, dù quan lớn hay nhỏ thì mọi phát ngôn chỉ là “tán dóc.” Câu chuyện “nghiêm trọng” nhất là ở các công sở, trong các công ty vốn nhà nước hay nói “túm lại” là những ông bà lâu nay ăn lương nhà nước. Ông nào cũng thấy mình có liên quan đến chính sách này. Từ ông có tài đến ông “dựa hơi” đều lo như nhau. Bởi anh có tài mà cấp trên không ưa thì cũng bị “cho ngươi lui.” Anh dựa hơi, sợ bị đồng chí đồng nghiệp tố cáo chứng nọ tật kia cũng có thể bị về vườn. Thành phần không lo hay tỏ ra không cần lo, là thành phần con ông cháu cha (bây giờ gọi là CCCC – con cháu các cụ). Tuy nhiên, có anh vẫn lo vì chẳng biết cái ghế của các cụ còn vững hay đang lung lay. Cái thời buổi “năm cha ba mẹ” này với những loại thông tin tùm lum chưa biết ngày nào có thằng dân oan nó liều mạng tố cáo là đi đứt. Tôi xin tóm tắt những ý chính trong cái đề nghị cắt giảm 100 ngàn công chức này. Theo dự thảo nghị định của chính phủ về chính sách “tinh giản biên chế” mà Bộ Nội Vụ vừa công bố, trong số lượng dự kiến giảm biên chế này có khoảng 80% giải quyết nghỉ hưu trước tuổi và 20% giải quyết thôi việc.
Những thành phần nào bị cho về vườn
- Ngoài các trường hợp tinh giản biên chế theo nghị định cũ, gồm những người chưa đạt trình độ đào tạo theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ, dự thảo nghị định mới bổ sung một số trường hợp vào đối tượng “cho ra khỏi bộ máy.”
- Đó là những người có chuyên ngành đào tạo không phù hợp với vị trí việc làm hiện đang đảm nhiệm nhưng không thể bố trí việc làm khác.
- Những người hai năm liên tiếp qua phân loại, đánh giá bị xếp vào mức hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực, hoặc hai năm liên tiếp, trong đó có 1 năm hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực và một năm không hoàn thành nhiệm vụ nhưng không thể bố trí việc làm khác phù hợp. Như vậy nhằm đưa ra khỏi bộ máy những người năng lực yếu kém.
- Một loại nữa là những người đại diện theo ủy quyền đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước, nay doanh nghiệp đó không còn phần vốn nhà nước nhưng không bố trí được vào vị trí công tác mới.
- Thời hạn tinh giản biên chế này được cho là phù hợp với lộ trình sắp xếp tổ chức bộ máy trong chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2014-2020, đề án đẩy mạnh cải cách chế độ công chức, công vụ.
- Theo lộ trình cải cách tiền lương, dự trù mức lương tối thiểu sẽ tăng hằng năm, do vậy dự trù kinh phí bình quân cho một người nghỉ hưu trước tuổi khoảng 75 triệu đồng, một người thôi việc khoảng 90 triệu đồng. Dự trù tổng kinh phí thực hiện chính sách tinh giản biên chế số cán bộ, công chức, viên chức nói trên trong sáu năm khoảng 8.000 tỉ đồng.
Đáng lẽ phải làm lâu rồi
Nói thẳng ra người dân nào cũng thấy sự cắt giảm này là vô cùng cần thiết. Nhà nước hay đúng hơn người dân lao động đầu tắt mặt tối không thể cõng trên lưng một loại người “ăn không ngồi rồi,” sáng xỉa răng chiều gãi ngứa giữa cơ quan.
Có phải bây giờ nhà nước mới nhận ra cái gánh nặng cực kỳ tai hại và vô cùng chướng tai gai mắt này không? Thật ra chuyện này chẳng có gì mới. Cái tin 30% công chức “sáng cắp ô đi” đã có từ lâu rồi. Ai cũng biết, nhà nước cũng biết nhưng… chưa làm gì cả thôi. Bây giờ mới làm là… hơi bị muộn. (Nói theo kiểu người Hà Nội có nghĩa là quá muộn). Nhưng (lại nói theo “sách vở”) muộn còn hơn không.
Bạn Hữu Trần viết trên VNNet:
Đúng ra phải làm lâu rồi chứ còn nói gì nữa. Làm sao mà không còn tình trạng công chức đi uống cà phê buổi sáng tới 9h, buổi chiều tới 14h mới vào làm việc và công việc cho họ làm liên tục là được. Chứ còn hiện nay làm thì ít mà chơi thì nhiều, không giảm biên chế mau mau thì để ở đó làm gì cho loạn tổ chức Ông nào lo hơn?
Ngay sau khi cái “dự thảo nghị định” này đưa ra đúng vào dịp giáp Tết Nguyên Đán khiến nhiều ông nhiều bà, nhiều gia đình công chức ăn tết mất ngon hoặc ít nhất làm những chuyến du lịch, du hí không còn trọn vẹn hào hứng như mấy năm trước.
Có thể thấy nguồn dư luận chính là sự lo ngại về việc đánh giá ông công chức nào làm được việc, ông nào đáng bị cho nghỉ việc. Sự đánh giá sẽ vô cùng khó khăn. Con người VN vốn giàu tình cảm ngay cả trong công việc, thế nên “tài” và “tình” là hai thứ không thể đi song song khi thật sự muốn đánh giá một người khác. Phải tách bạch ra đó là hai thứ riêng biệt. Liệu có mấy ai học được người xưa “việc quan anh cứ luật công anh làm.”
Có độc giả nói “Tuyển vào ồ ạt, giờ lại tìm cách cho ra,” đề nghị đầu tiên là giải quyết những đối tượng tuyển dụng sai.
Nói như độc giả Bùi Đán, câu chuyện công chức nơi thừa nơi thiếu vẫn là đề tài “biết rồi khổ lắm nói mãi.” Thừa công chức “cắp ô,” thiếu người làm việc. Giảm ai và ai giảm khi con ông cháu cha, phe cánh và “chạy” khi thi tuyển vẫn đang yên vị.
Độc giả Hùng Nhân lại lo, làm không khéo thì đến năm 2020 khi giảm được 100,000 công chức, lại có 100,000 con ông cháu cha sẽ được nhận vào làm công chức!
Đồng quan điểm với Bùi Đán, độc giả Phạm Thị Xuân Khải nhận định, việc tinh giản biên chế không khó đến nỗi không thể làm được. “Vấn đề là có quyết tâm làm hay không, nói nhiều làm ít làm sao dân tin khi mà 32 người dân còng lưng nuôi 1 công chức, trong đó có bao nhiêu người sáng cắp ô đi tối cắp về.”
Lại còn những ông, những bà lâu nay không là công chức nhưng lại được cái may mắn là làm ở các công ty vốn nhà nước. Không là công chức mà đôi khi còn “cha chú” hơn cả công chức. Tiền nhà nước, mặc sức tung hoành, có lỗ thì dân chịu, từ quan đến lính cứ bình chân như vại, cứ lương thưởng hậu hĩnh như không có chuyện gì xảy ra. Năm nay nhiều công ty nhà nước sẽ cổ phần hóa, rút vốn hoặc đóng cửa, thế là hụt giò. Các ông này lo hơn cả vì chắc chắn tinh giản sẽ thất nghiệp. Ngoại trừ khi là CCCC, hoặc chạy chọt ngay từ bây giờ, tìm chỗ “lui binh” về “ăn ké” ở một cơ quan nào đó, làm tạm chân coi kho, bảo vệ hay bưng bê cũng được, cho có đất dung thân.
Công chức toàn là có ‘phả hệ, tiền tệ, quan hệ, đồ đệ’
Trong dư luận xã hội đã đề cập đến cách tuyển dụng theo tổng kết dân gian là căn cứ vào “phả hệ, tiền tệ, quan hệ, đồ đệ, trí tuệ....” Với cách tuyển dụng công chức như thế thì việc “thải” họ ra sẽ vô cùng khó khăn. Phả hệ gồm cả lý lịch ba đời, những liên quan họ hàng chằng chịt phải “sạch,” như kiểu con vua thì lại làm vua, con anh sãi chùa lại quét lá đa. Dù anh có tài mà “phả hệ không tốt” vẫn không bao giờ được tuyển. Chỉ những anh chi tiền chạy chọt, quan hệ họ hàng, chủ tớ với các quan to mới đủ điều kiện vào làm công chức. Còn trí tuệ chỉ là thứ đứng hàng chót. Như thế thì thử hỏi việc tinh giản liệu có thành công không?
Nhiều độc giả tính nhẩm có thể giảm gấp đôi con số 100 ngàn công chức nếu giảm luôn ở các “ban bệ” linh tinh khác, như các tổ chức chính trị, đoàn thể (cũng ăn lương biên chế): Con số thực sự là bao nhiêu?
Thứ trưởng Bộ Nội Vụ Trần Anh Tuấn đã nói với báo chí: Việc tinh giản biên chế được thực hiện đồng thời trong các cơ quan của đảng, nhà nước, tổ chức chính trị xã hội từ trung ương đến địa phương, cấp xã và trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
Về cán bộ cấp xã? Việt Nam có 11,148 xã, phường. Theo một số báo chí, biên chế xã, phường có khoảng 257,000 (theo thống kê của Một Thế Giới, ngày 7-2-2014).
Từ những con số thống kê nói trên sẽ cho thấy rất rõ, liệu có thể thực sự tinh giản được hết không? Và tinh giản bao nhiêu cho đủ?
Bộ Nội Vụ cần mạnh dạn đi sâu phân tích tìm ra nguyên nhân nào dẫn đến biên chế ngày càng phình ra như “u bướu ung thư,” để chữa cái đang xảy ra, đồng thời chữa cái nguyên nhân tạo ra u bướu thì mới thực hiện nổi ý định ban đầu là giảm 100,000 biên chế (mặc dù nếu đi sâu phân tích thống kê thì con số này chỉ như muối bỏ biển).
‘Không cúi không quỳ’ sẽ bị sa thải
Nhắc đến chuyện người có tâm và người có tầm (có tài), không ít độc giả lo sức ép tinh giản biên chế có thể dẫn đến những “biểu hiện tiêu cực” trong khi thực hiện. Nói rõ hơn là sẽ phát sinh chuyện chạy chọt, người có quyền quyết định sẽ giàu lên nhanh chóng. Do hiện tượng bè phái, nhóm lợi ích, nhóm gia đình trong cơ quan hành chính mà không ít cán bộ có trình độ bị bố trí ít việc, việc vớ vẩn hoặc sai chuyên môn.... Liệu họ có vì thế mà trở thành đối tượng cho về hưu non?
Độc giả Nguyen Anh lại nghĩ: Nhiều cán bộ, có cả cán bộ lãnh đạo, làm việc không hiệu quả, nhưng đến cuối năm vì bệnh thành tích nên họ vẫn được bầu là lao động xuất sắc, là chiến sĩ thi đua - những người như thế có bao giờ bị tinh giản được.
Nhìn vào thực tế bộ máy, độc giả độc giả Hoàng Văn lo những người có trình độ, tài giỏi, thẳng thắn, không luồn lách, “không cúi không quỳ” sẽ bị sa thải.
Độc giả Cố Nhân bi quan hơn khi dự liệu sẽ có “một trận chạy,” làm cho những người có quyền quyết định sẽ “giàu lên.”
Nếu để tình trạng đó xảy ra, sau tinh giản biên chế số lượng còn lại vẫn không đáp ứng về năng lực, không hoàn thành được nhiệm vụ để rồi lại phải tuyển mới vào nhiều hơn, độc giả Thien Doan cảnh báo về cái vòng luẩn quẩn của bộ máy hành chính.
Bạn Nguyen Dung vẽ ra một hình ảnh cụ thể thực tế hơn ở một công sở: Thủ trưởng gọi nhân viên, “Nầy nhé, chính sách giảm biên chế cơ quan kỳ nầy ban lãnh đạo có ý kiến đề cập đến chú đấy nhé!” Nhân viên biết điều thì ...!!! Như thế thì các Sếp tha hồ chọn lựa người ở lại .
Do đó, “quan trọng nhất là phải minh bạch và người có quyền không được vụ lợi” - như độc giả Thanh Mai nhấn mạnh, nếu không, đây sẽ chỉ là một chương trình “đầu voi đuôi chuột.” Trong “trận chiến tấn công vào biên chế” còn vô số chuyện để bàn.
Người dân tự hỏi lần này ai thắng, ai thua? Phe CCCC thắng thì kể như mọi chuyện huề cả làng. Đừng để dự thảo nghị định thành một thứ chuyện dù có “chấn chỉnh” nhưng rồi vẫn y chang muôn năm cũ!
Văn Quang (14-2-2014)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 8, 2014 10:19:15 GMT 9
Hối lộ $1 triệu cho ai, để làm gì? Văn Quang – Viết từ Sài Gòn Bà Trương Mỹ Lan, chủ tịch tập đoàn Vạn Thịnh Phát Khu cảng Nhà Rồng - Khánh Hội thuộc Cảng Sài Gòn. Phối cảnh khu Cảng Nhà Rồng Vào những ngày đầu năm, các sinh hoạt đã trở lại bình thường. Tất nhiên những vụ “đại án” sẽ lại tiếp tục xét xử. Câu chuyện mà người dân bàn tán trong lúc “trà dư tửu hậu” thăm viếng nhau, ngồi tâm sự ba ngày Tết vẫn là hậu quả sau khi tuyên án Huyền Như phải bồi thường 4.000 tỉ ($190 triệu Mỹ kim) cho các người bị hại chứ không phải Vietinbank. (Tôi đã tường thuật trong số trước). Hầu như ai cũng có tí tiền gửi ngân hàng nên họ trở nên hoài nghi, lo lắng. Có người không biết ngân hàng mình gửi tiền có phải là “vốn của nhà nước không.” Nếu thế thì phải xét lại việc chọn lựa gửi tiền vào đâu. Hầu như khi mang tiền đi gửi chẳng ai chú ý đến việc này. Bây giờ họ mới quýnh quáng đi hỏi bà con anh em hoặc vào net tìm kiếm thông tin. Phải chăng họ đang đắn đo có nên gửi ở ngân hàng vốn nhà nước không? Sau đó vẫn lại là vụ xử hai anh em Dương Chí Dũng, dư luận của người dân VN vẫn không ngớt bàn tán và đặt dấu hỏi về những gì sẽ xảy ra. Người ta không “thắc mắc” hay “bức xúc” gì về bản án đã tuyên như vụ Huyền Như mà lại muốn biết tại sao có người lại mang tới một triệu USD đi hối lộ, hối lộ cho ai, để làm gì? Ai sẽ điều tra ông Trưởng ban điều tra của Bộ CA? Có những câu hỏi không phải chỉ để hỏi nhau mà chính là hỏi những vị có thẩm quyền cầm cây nẩy mực ở những cấp cao hơn bởi người bị Dương Chí Dũng tố cáo là một vị thứ trưởng Bộ Công An đương quyền và là Trưởng ban chuyên án điều tra các sai phạm tại Vinalines. Vập cấp nào có quyền điều tra và xét xử vụ này? Qua báo chí, người ta cũng đã thấy được những câu trả lời khá rõ ràng. Đó là Viện Kiểm Sát tối cao đồng thời Ban Nội chính tham gia điều tra lời khai của Dương Chí Dũng. Ông Phạm Anh Tuấn, Phó ban Nội chính Trung ương cho biết, sẽ thành lập tổ công tác liên ngành để điều tra lời khai của Dương Chí Dũng về người mật báo cho mình cũng như thông tin đưa tiền cho một Thứ trưởng. Ông Tuấn cho biết: Tòa án Hà Nội đã giao cho Viện Kiểm Sát Nhân Dân (VKSND) thành phố điều tra vì đây là cơ quan duy trì thực hành công tố tại tòa theo quy định của pháp luật. Sau khi được giao, Viện KSND Hà Nội phải báo cáo Viện KSND Tối cao. Mà việc này lại do Cơ quan An ninh Điều tra (Bộ Công an) đang điều tra nên chắc rằng tới đây sẽ phải thành lập tổ công tác liên ngành hỗn hợp tham gia điều tra. Ông nói, “Việc thành lập tổ công tác liên ngành hỗn hợp nhằm tránh trường hợp “chuyện trong nhà.” Cụ thể thế nào trong vài ngày tới sẽ có quyết định cuối cùng. Và người dân hy vọng lần này cuộc điều tra cũng sẽ “không có vùng cấm.” Bất cứ anh là ai cũng sẽ được điều tra đến nơi đến chốn, mọi người đều “bình đẳng trước pháp luật.” Như thế không có chuyện nể nang hoặc “chìm xuồng.” Đó là câu trả lời dứt khoát của người thay mặt “nhà nước.” Tuy nhiên người dân vốn chỉ mong nhìn thấy kết quả cụ thể nên họ muốn được nhìn thấy những bước tiến rõ ràng của cuộc điều tra đúng người, đúng tội, không lọt tội phạm nào và cũng không để ai bị oan sai như những vụ án trước. Lý do ‘lót đường’ bằng $1 triệu USD Một câu hỏi khác mà rất nhiều người chưa rõ. Đó là lời khai của Dương Chí Dũng. Ngoài việc đút tiền cho các cán bộ cấp cao để thoát tội trong phi vụ ụ nổi 83M, Dương Chí Dũng còn khai nhận 20 tỉ đồng (1 triệu USD) để được làm dự án chuyển đổi công năng Cảng Sài Gòn của Tập đoàn Vạn Thịnh Phát (TP.Sài Gòn) do bà Trương Mỹ Lan làm chủ tịch. Tại tòa, Dương Chí Dũng đã khai nhận như sau, “Chị Lan nhờ chuyển cho một người khác. Khi chị Lan điện thoại cho tôi, chị Lan bảo là: Sẽ có người ở Hà Nội chuyển cho anh, khi gặp người đó thì anh đừng trao đổi số tiền này để đưa cho ai, hoặc làm gì. Chị còn dặn tôi như thế. Và anh Tiệp là người đưa cho tôi. Tức là có 2 người biết việc, chứ không phải mình tôi.” Đồng thời, Dương Chí Dũng còn nói rõ thêm, thông qua sự giới thiệu của ông Lê Công Minh, Tổng giám đốc Cảng Sài Gòn, Dũng mới quen biết và hợp tác với bà Trương Mỹ Lan. Sau khi người của bà Lan tại Hà Nội đưa tiền đến, ông Dũng đã chuyển cho ông Ngọ. Vậy tại sao phải đưa một số tiền lớn như thế để làm gì? Trên thực tế, dự án chuyển đổi công năng liên quan do ai quản lý, điều phối vận hành với chức năng, nhiệm vụ, mục đích gì? Ông Thứ Trưởng Bộ Công an không có quyền thay đổi công năng một bến cảng không thuộc quyền điều hành của ông. Vậy số tiền 1 triệu USD đó phải được chuyển đến một nhân vật khác có đầy đủ quyền hành làm việc này. Vị đó là ai? Theo tìm hiểu của chúng tôi, dự án chuyển đổi công năng Cảng Sài Gòn có tên gọi đầy đủ là “Đề án di dời cảng Sài Gòn ra Hiệp Phước và chuyển đổi công năng khu cảng Nhà Rồng – Khánh Hội (Q.4, TP Sài Gòn). Đề án này của công ty một thành viên Cảng Sài Gòn – Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam và do công ty này quy hoạch, đầu tư xây dựng, thực hiện theo quy định của Nhà nước và của TP.Sài Gòn. Mong chiếm quyền sở hữu khu đất vàng Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn, mục đích của việc di dời để đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa vận tải biển tại khu vực đồng thời bảo đảm điều kiện hoạt động ổn định và phát triển của cảng Hiệp Phước. Theo đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ 1/2000 định hướng không gian kiến trúc khu vực bờ Tây sông Sài Gòn (trong đó có khu cảng Nhà Rồng - Khánh Hội của Cảng Sài Gòn), sau khi chuyển đổi công năng, khu cảng Nhà Rồng - Khánh Hội sẽ trở thành khu vực giáo dục, cao ốc văn phòng, trung tâm thương mại, giải trí, khách sạn, khu dân cư, khu phức hợp ga tàu khách quốc tế, quảng trường, cây xanh, phố đi bộ… Như thế rõ ràng đây là “khu đất vàng,” có vị trí đắc địa, nằm trong tầm ngắm của nhiều tập đoàn bất động sản. Nếu bà Trương Mỹ Lan có bỏ ra 20 tỉ đồng đưa cho ông Dương Chí Dũng cũng không nằm ngoài mục đích giành quyền sở hữu khu đất này. Đó là “một khu đất vàng” công ty lớn nào cũng mơ ước. Con gà đẻ ra hàng trăm quả trứng vàng mỗi ngày. Chính vì lẽ đó bà Trương Mỹ Lan mới lót đường “chạy chọt” với khoản tiền lớn như thế. Ở VN ít có vụ nào “khủng” như vụ này. Chắc chắn nó còn dây dưa đến rất nhiều cơ quan, nhiều nhân vật tầm cỡ khác nữa. Tuy nhiên, đến nay, dự án chuyển đổi công năng tại khu cảng Nhà Rồng - Khánh Hội đã hoàn tất, trong đó không có sự tham gia của Tập đoàn Vạn Thịnh Phát. Phía Cảng Sài Gòn nhấn mạnh, lời khai của Dương Chí Dũng về mối quan hệ với bà Trương Mỹ Lan - Chủ tịch Tập đoàn Vạn Thịnh Phát trong dự án chuyển đổi công năng khu cảng Nhà Rồng - Khánh Hội chỉ là mối quan hệ cá nhân, hoàn toàn không liên quan, không ảnh hưởng đến việc lựa chọn đối tác tham gia dự án của Cảng Sài Gòn. Một hệ thống mưu mẹo loanh quanh Sau khi báo chí đưa tin danh tính các quan chức Bộ Công An có liên quan đến vụ án tham nhũng Vinalines, nhiều người trong dư luận bày tỏ ý kiến “bức xúc” với những lời khai liên quan đến những con số của khoản hối lộ đó mà nhiều người cho là “lùng bùng lỗ tai” hay “không thể tin được.” Có người còn so sánh việc dân phải lo chạy ăn từng bữa trong khi các quan chức sử dụng hàng trăm, thậm chí hàng triệu đô-la Mỹ để làm “quà biếu” ngay trên đất nước Việt Nam. Có dư luận còn cho rằng rất có thể còn nhiều vụ hối lộ “khủng” như thế hay hơn thế mà mọi việc trót lọt nên không bị “khui ra” trước công luận hoặc chưa bị khui ra hay không thể khui ra. Trong khi đó, một luồng dư luận khác tỏ ra hoàn toàn không ngạc nhiên, trái lại hoài nghi về diễn tiến mới của vụ án. Một trong những trí thức phản biện nổi tiếng tại Việt Nam, nhà giáo Phạm Toàn, cho rằng lời khai của ông Dương Chí Dũng có thể là do tác động về mặt tâm lý trong lúc tuyệt vọng, nhưng cũng có thể là điều mà ông gọi là “hệ thống mưu mẹo loanh quanh.” Ông nói, “Một hệ thống mưu mẹo gì đấy mà cuối cùng nó lại bảo vệ nhau, có khi nó lại ra nước ngoài một cách trot lọt bởi vì cái vòi bạch tuộc mafia của những nhóm lợi ích bây giờ cấu kết với nhau quá chặt. Tóm lại chả có gì đáng tin cậy là có thật ở Việt Nam cả. Có một điều duy nhất có thật là không ai còn tin gì đang là có thật ở đất nước mình nữa.” Một số cư dân mạng còn dự đoán trước các kịch bản kết cục có thể diễn ra từ kinh nghiệm của nhiều vụ án lớn trước đây như “xử lý nội bộ,” cách chức, cho hưởng án treo đối với quan chức cấp cao có tội, hoặc “tự vẫn” trong nhà giam đối với kẻ tiết lộ bí mật. Lần này,Thủ tướng chính phủ VN cũng đã có những chỉ thị dứt khoát về vần đề chống tham nhũng và thu hồi tài sản của bọn tham nhũng. Tuy nhiên chỉ thị vẫn còn là chỉ thị, điều quan trọng hơn là ngay trong những vụ đại án như thế này, sự thực hiện những chỉ thị đó ra sao. Người dân đang chờ một vụ án nghiêm minh, lấy lại được niềm tin bấy lâu nay cứ ngày một bào mòn đến độ không còn ai dám tin vào việc bài trừ tham nhũng nữa. Nhà nước và nhân dận cùng chịu thua cả sao? Hãy cho người dân một niềm tin, ít ra cũng là một chút an ủi. Tập đoàn tư nhân giàu ‘kinh khủng’ Nguồn tin “lo lót 1 triệu USD” của Tập đoàn Vạn Thịnh Phát (TP.Sài Gòn) do bà Trương Mỹ Lan làm chủ tịch khiến nhiều người giật mình và chính bản thân tôi, người viết bài này, khi tìm hiểu về sự giàu sang của tập đoàn này cũng “há mồm” vì không thể ngờ ở VN lại có một gia đình giàu sang đến cỡ đó, không thể hiểu nổi trong vài chục năm gọi là “đổi mới,” họ làm gì mà giàu có đến như thế được? Cứ như cái máy in tiền. Không biết ở VN còn bao nhiêu gia đình giàu như thế nữa? Tôi chịu thua. Mời bạn đọc ghé mắt nhìn qua cái gia tài “khiêm nhường” của tập đoàn này. Một tập đoàn không phải của nhà nước, cũng không phải của một quan chức nào. Ít ra là đến lúc này người ta chưa tìm được sự liên quan nào với các quan chức lớn hay nhỏ hoặc của một công ty nước ngoài. Đó là một công ty tư nhân VN. Tập đoàn Vạn Thịnh Phát giàu đến cỡ nào? Vạn Thịnh Phát được xếp vào hàng những công ty gia đình lớn và bí ẩn nhất Việt Nam. Thông tin về những người chủ đều chỉ có một vài dòng ngắn gọn trên website và gần như không tiếp xúc với giới truyền thông. Những thông tin giới thiệu trên trang web cho thấy, tập đoàn Vạn Thịnh Phát thành lập năm 1992 với tiền thân là Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Vạn Thịnh Phát. Ban đầu, doanh nghiệp này chuyên hoạt động trong lĩnh vực thương mại và kinh doanh nhà hàng - khách sạn, nhưng sau đó, Vạn Thịnh Phát kinh doanh trên nhiều lĩnh vực liên quan đến bất động sản với vốn điều lệ 12.800 tỷ đồng. Độ giàu có của Tập đoàn này có thể được thể hiện qua một số bất động sản được điểm tên dưới đây. Rất tiếc bài báo có hạn nên tôi chỉ nêu sơ lược vài nét chính những dinh cơ đồ sộ đó, không thể diễn tả rõ chi tiết hơn. Mỗi dinh cơ này cũng có già vài trăm tỉ đồng. 1 - Cao ốc căn hộ dịch vụ cao cấp Sherwood Residence Địa chỉ: 127 đường Pasteur, quận 3, TP.Sài Gòn Sherwood Residence là loại cao ốc căn phòng du lịch, có 240 căn (trong đó có 12 căn penthouse) được trang bị nội thất và nhiều tiện ích sinh hoạt, giải trí phục vụ suốt ngày đêm. 2 - Trung tâm Dịch vụ văn phòng Vạn Thịnh Phát Địa chỉ: 8 đại lộ Nguyễn Huệ, quận 1, TP.Sài Gòn Là cao ốc văn phòng 15 tầng tọa lạc ở khu vực sấm uất nhất của trung tâm thành phố, luôn đạt 100% công suất mặt bằng cho thuê. 3- Khách sạn Thương mại An Đông Địa chỉ: 18 đường An Dương Vương, quận 5, TP.Sài Gòn Là khách sạn đầu tiên do tư nhân Việt Nam đầu tư và quản lý, đạt tiêu chuẩn 5 sao của Tổng cục Du lịch Việt Nam, gồm 400 phòng lưu trú, 1 trung tâm thương mại, các nhà hàng đặc sắc, phòng hội nghị có sức chứa đến 1.800 người và nhiều tiện nghi giải trí. 4 - Trung tâm thương mại Thuận Kiều Địa chỉ: 190 đường Hồng Bàng, quận 5, TP.Sài Gòn 5 - Khu dân cư Bonville Land Địa điểm: Khu 9B - Đô thị mới Nam thành phố, huyện Bình Chánh, TP.Sài Gòn Diện tích: 56,293 m2 Đây là khu dân cư hiện đại bao gồm 114 căn nhà phố liên kế, 312 căn nhà cao cấp và một trường học hòa với khu công viên cây xanh. 6 - Khu dân cư cao cấp Sterling Residence Địa điểm: Khu 6A - Đô thị mới Nam thành phố, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, TP.HCM. Diện tích: 264.633 m2 7 - Khu đô thị mới ở Nam thành phố Gồm các chung cư cao tầng, khu nhà liên kế, khu biệt thự sang trọng, trường học và các công trình tiện ích công cộng giữa vùng đất ven sông. 8- Khu thể dục thể thao Olympia Field Địa điểm: Khu 5.1 - Đô thị mới Nam thành phố, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, TP.Sài Gòn. Diện tích: 12,5 ha. Là một khu phức hợp các công trình phục vụ nhu cầu rèn luyện thân thể của cư dân và thi đấu thể thao cấp quốc gia, bao gồm sân vận động, nhà thi đấu, trung tâm hội nghị, khách sạn và các tiện ích công cộng. 9- Khu căn hộ cao cấp Lambert Residence Địa chỉ: 220-220A đường Pasteur, quận 3, TP.Sài Gòn. Diện tích: 2.523,4 m2 Cao ốc căn phòng cao cấp 16 tầng tọa lạc tại khu cư trú của ngoại giao đoàn. 10- Cao ốc Harmony Point Địa chỉ: 147bis đường Nguyễn Tất Thành, quận 4, TP.Sài Gòn. Diện tích: 10.220 m2 Một công trình phức hợp 35 tầng gồm các chức năng văn phòng, thương mại và căn hộ bên bờ sông Sài Gòn với tầm nhìn rộng sang khu đô thị mới Thủ Thiêm. 11 - Cao ốc căn hộ Elegance Residence Địa chỉ: 8 đường Hưng Long, quận 10, TP.Sài Gòn. Diện tích: 1.814 m2 Cao ốc căn hộ 15 tầng đầy đủ tiện nghi và dịch vụ. 12- Khu phức hợp An Đông 2 Địa chỉ: 100 đường Hùng Vương, quận 5, TP.Sài Gòn. Diện tích: 7.798 m2 Một công trình có chức năng văn phòng và thương mại tại trung tâm quận 5 13- Khu công viên mũi đèn đỏ và nhà ở đô thị Sài gòn Peninsula Địa điểm: phường Phú Thuận, quận 7, TP.Sài Gòn. Diện tích: 1.177.881 m2 Một khu đô thị bao gồm công viên chuyên đề, cụm dân cư (biệt thự cao cấp và cao ốc căn hộ), các tòa nhà văn phòng, khách sạn sang trọng, trung tâm mua sắm, quảng trường, bến tàu khách du lịch quốc tế và nhiều công trình tiện ích công cộng. 14- Khu dân cư L'amour Villas Địa điểm: Khu 5.2 - Đô thị mới Nam thành phố, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, TP.Sài Gòn. Diện tích: 4.7 ha Khu dân cư sang trọng ven sông bao gồm các biệt thự cao cấp, nhà liên kế vườn, khách sạn quốc tế và nhà trẻ. 15- Cao ốc Times Square Địa chỉ: 22-36 đại lộ Nguyễn Huệ & 57-69F đường Đồng Khởi, quận 1, TP.Sài Gòn. Diện tích: 4.573 m2. Đây chính là nơi mà nam nghệ sĩ Thanh Bùi đã tổ chức lễ kết hôn với 35 triệu/bàn tiệc với cô dâu của gia tộc danh giá này. Quả thật với 15 địa chỉ trên đây đủ sức so sánh với những ông hoàng xứ dầu hỏa. Còn xe cộ, nhà riêng, nhà con, nhà cháu, của chìm của kín khác làm sao biết hết được. Ban đã thấy hoa mắt chưa? - Ban PHẠM LONG viết trên báo Tuổi trẻ: Phi lý Có một tình tiết trong lời khai của Dương Chí Dũng vô lý. Một triệu đôla mà bà Lan, công ty Vạn Thịnh Phát nhờ hối lộ cho ông Ngọ chẳng vì mục đích gì cả. Ông Ngọ không phụ trách xét duyệt việc chuyển công năng cảng Sài Gòn thì hà cớ gì phải hối lộ ông ta. Số tiền đó có thể không phải của ông Ngọ, phải chăng ông Ngọ nhận giúp 1 ai khác? Câu hỏi chưa được trả lời. Văn Quang (8-2-2014)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2014 6:36:05 GMT 9
Nguyễn Hữu Cầu - Người lính VNCH tôi không thể quên!Video cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Hữu Cầu tại bệnh viện vào lúc 6 giờ sáng ngày 24/03/2014. Trương Minh Đức (Danlambao) - Ông Nguyễn Hữu Cầu là một người lính QLVNCH mà tôi không thể nào quên, năm 1983 tôi chỉ vừa 23 tuổi đã từng đến tham dự “phiên tòa” tại một rạp hát chiếu bóng có tên là Châu Văn nằm giữa trung tâm thị xã Rạch Giá - tỉnh Kiên Giang. Bên ngoài “phiên tòa” rất đông người đến xem phiên xét xử kỳ quái của tòa án cộng sản lúc bấy giờ. Tôi còn nhớ rất rõ phía sau rạp hát để làm phiên tòa này, có một ngôi chùa xung quanh có trồng hàng cây được người dân trèo lên chật kín để xem... Khi chiếc xe tù áp giải những người “phản cách mạng” được chuyển đến. Mọi người hết sức ngỡ ngàng khi nhận ra đó là những vị bác sĩ trong khoa phẫu thuật tại bệnh viện đa khoa tỉnh Kiên Giang. Một người được cho là nhân vật chính trong vụ án này là Đại uý QLVNCH Nguyễn Hữu Cầu, ông Nguyễn Hữu Cầu bị cái “tòa án” độc tài của CSVN buộc tội là sáng tác nhạc, làm thơ cho các bác sĩ trong kíp phẫu thuật nghe và hát dẫn đến hậu quả là gây ra cái chết những cán bộ công an trong những khoa phẫu thuật trong quá khứ... Tòa còn cáo buộc ông Cầu đã dùng nhạc “ru ngủ” các bác sĩ có tính chất “phản động”, bản án sơ thẩm người ít nhất cũng trên 10 năm đến 20 năm chỉ vì nghe và hát nhạc của ông Nguyễn Hữu Cầu... riêng ông Nguyễn Hữu Cầu bị tuyên án tử hình. Ông Cầu kháng án lên tòa án tối cao, cũng may là ông đã gặp được một vị luật sư có lương tâm bào chữa cho ông, nên bản án được giảm xuống còn chung thân. Theo thời điểm vào thập niên 90 thì tù chung thân nếu không được giảm thì ở tối đa cũng chỉ là 20 năm. Nhưng vì sao mà ông Cầu phải ở đến 32 năm mới được thả!? Hai vấn đề chính mà tôi biết được là ông Nguyễn Hữu Cầu luôn khẳng định là ông không có tội, đồng thời cũng liên tục gởi 500 lá đơn trong mấy chục năm qua yêu cầu xem xét lại vụ án và không chấp nhận cho mình là có tội, vì ngồi tù quá lâu nên ông từng chứng kiến các giám thị trại giam đã hành hạ tù nhân, buôn bán ma tuý trong trại giam, làm hàng giả v.v... cũng là nguyên nhân thứ hai để ông Cầu không bao giờ có ngày về. Từ trung ương của ĐCSVN cho đến những tên cai tù rất tin tưởng là Ông Nguyễn Hữu Cầu sẽ chết dần mòn trong nhà tù trại Z30A Xuân Lộc - Đồng Nai. Tháng 07 - 2008, tôi bị tòa án tỉnh Kiên Giang “xử” phiên phúc thẩm y án là 5 năm tù giam, khi xe đặc chủng của trại giam Kiên Giang chuyển tôi đi trong đêm từ Kiên Giang đưa tôi đến khu giam riêng phân trại 2 trại Z30A - Xuân Lộc, lúc đến khu giam riêng đã gần 10 giờ sáng. Người tù đầu tiên mà tôi gặp là một ông đã rụng hết răng (ông Cầu). Ông rất niềm nở xách tiếp các đồ dùng cá nhân của tôi vào buồng giam và sau đó thì các anh em khác cũng ra tiếp chuyện hỏi thăm... khi giới thiệu đến ông lớn tuổi nhất mà tôi đã gặp đầu tiên và ở lâu tù nhất có tên là Nguyễn Hữu Cầu, khi nghe tên ông tôi bật cả người... tôi sợ có sự nhầm lẫn và hỏi lại ông lần nữa có phải vụ án của ông xử vào năm 1983 tại Kiên Giang? Ông nói đúng rồi... lúc bấy giờ tai tôi ù đi và cảm thấy rất thương xót cho ông, tôi nói với ông Cầu là chắc ông có từng ở chung với tù nhân Trần Tấn Sang? ông Cầu nói Sang đã ở chung phòng với tôi nhiều năm liền với mức án 17 năm, tôi nói ông Sang là cậu ruột của tôi trước đây trong tổ chức Liên Tôn, ông Sang cũng thường nhắc và kể chuyện về tính khẳng khái của ông Cầu cho tôi nghe.... cũng từ đó tôi và ông Cầu một già, một trẻ xưng với nhau là đồng hương, nhiều anh em ở chung cũng thường nói.. từ khi có tôi vào đến nay thì ông Cầu đã vui hẳn lên! Những ngày đầu khi gặp được ông Nguyễn Hữu Cầu thì tôi càng nhận ra thêm chính sách độc ác của cộng sản đối với những người lính trong chế độ Cộng Hòa, lúc còn ở ngoài tôi có đọc được bản tin của nhà báo Nguyễn Khắc Toàn nói về người tù Trương Văn Sương và nay tôi lại phát hiện thêm một người lính VNCH là đại uý Nguyễn Hữu Cầu đã bị giam hàng chục năm mà không nghe ai nhắc đến!!! Lần thăm nuôi đầu tiên tại trại Z30A - Xuân Lộc tôi đã thông tin ngay cho vợ của tôi biết là có ở chung với ông Cầu cùng quê, trong lúc nói tôi cũng cho vợ tôi biết về tình trạng của ông Cầu và đến tháng sau khi gặp lại vợ tôi trong kỳ thăm nuôi tôi được biết là thông tin của ông đã được chuyển cho các Anh Chị Em bên ngoài... mỗi lần thăm nuôi tôi chỉ kỳ vọng là có những thông tin về ông, để cơ may có thể cứu ông ra khỏi nhà tù độc ác này. Bắt đầu từ 2010 thì thông tin về ông Cầu đã lan tỏa đến nhiều kênh truyền thông, các tổ chức nhân quyền... mặc dù tôi còn ở trong tù nhưng luôn kỳ vọng cho ông Cầu ra càng sớm càng tốt vì ông đã quá nhiều bệnh tật, mắt mù 80%, răng còn chỉ 1 chiếc... tôi rất mong khi thấy ngày kêu tên ông Cầu ra khỏi trại giam... nhưng rồi tháng 03 / 2010 tôi bị chuyển sang một trại khác cách đó 30 km. Cùng lúc ấy anh Nguyễn Bắc Truyển cũng vừa hết hạn tù, tôi luôn tin chắc là Bắc Truyển sẽ là người ra ngoài kêu gọi sự trả tự do cho ông Cầu, mọi việc diễn ra như tôi đã nghĩ... Khi tôi đã hết án 05 năm trở về... cũng không thấy ông Cầu được thả? mặc dù Anh Chị Em và các tổ chức Nhân Quyền Quốc Tế liên tục lên tiếng... Tết 2014 vừa qua tôi cũng kỳ vọng vào lời hứa của CSVN là sẽ thả ông Nguyễn Hữu Cầu trước tết... nhưng rồi lời hứa ấy để lại sự buồn bã cho những ngày Xuân mong đợi! Tối ngày 22/03/2014 lúc 21 giờ đêm bất ngờ cả nhà anh Bích hay tin cha mình được xe công an trại giam đưa về tận nhà tại huyện U Minh Thượng - Kiên Giang để trả tự do, cả nhà đoàn tụ sau hơn 1/ 3 thế kỷ... niềm vui chưa trọn vẹn... 24 giờ sau ông Nguyễn Hữu Cầu bị lên cơn đau tim và thiếu máu não do hơn 10 chứng bệnh ở trong tù còn để lại trong cơ thể gầy yếu của ông. Anh Bích phải chuyển ông Cầu đến Bệnh viện tỉnh để cấp cứu!!... sau khi vào được 6 đơn vị máu ông Cầu có đỡ hơn và đã ăn được ít cháo. Lúc 04 giờ sáng ngày 24/03/2014 tôi đến bệnh viện để thăm ông và có cuộc thăm hỏi trao đổi trực tiếp đầu tiên sau nhiều năm xa cách. Trương Minh Đức danlambaovn.blogspot.com Tù nhân thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu đã về nhàCTV Danlambao - Lúc 21 giờ tối ngày 21/3/2014, ông Nguyễn Hữu Cầu đã về đến nhà sau quãng thời ngồi tù tổng cộng là 37 năm chỉ vì một tội danh mang tên “phá hoại” và “phản cách mạng”. Trưa ngày 22/3, con trai ông Nguyễn Hữu Cầu là anh Trần Ngọc Bích đã xác nhận thông tin này với Danlambao. Anh Bích cho biết: “Ba về đến nhà lúc 9 giờ đêm hôm thứ sáu, xe của trại giam đưa ba về.” “Gia đình đang đưa ba đến bệnh viện để truyền nước. Tại vì hồi hôm ba bị đưa về đường xa, nên sáng giờ ba mặt mày xây xẩm, với lại ba bị bệnh tim”, anh Bích cho biết. Anh Nguyễn Bắc Truyển, một cựu tù nhân lương tâm từng ở tù chung với ông Nguyễn Hữu Cầu tại trại giam Xuân Lộc (Đồng Nai) chia sẻ trên facebook: “Theo bác sỹ bệnh viện huyện U Minh Thượng, ông Nguyễn Hữu Cầu phải nhập viện để điều trị bệnh tim và thiếu máu nghiêm trọng. Hiện nay, ông đang nhập viện tại bệnh viện Đa Khoa Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Anh em thân hữu đề nghị ông nên lên Sài Gòn để anh em dễ chăm sóc cho ông hơn.” Năm nay ông Nguyễn Hữu Cầu đã 69 tuổi, trong đó thời gian ngồi tù tổng cộng là 37 năm. Trở về nhà sau hơn nửa đời người bị đày đọa trong ngục tối cộng sản, ông Nguyễn Hữu Cầu chỉ còn lại một tinh thần mạnh mẽ trong tấm thân gày gò, già yếu với 8-9 thứ bệnh trong người. “Hôm bữa, cách đây 10 ngày, thì bệnh mắt, bệnh thiếu máu não, rồi bệnh đau bao tử, xuất huyết đường ruật, mắt tôi bị nhức... Nói tóm lại là 10 thứ bệnh đã khám, đã có giấy chứng.” 'Không xin đặc xá' Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo tự do Trương Minh Đức (là người cũng từng ở tù chung tại trại giam Xuân Lộc), ông Nguyễn Hữu Cầu trả lời bằng một giọng nói rắn rỏi, pha lẫn chút hài hước của một người dân Nam Bộ: "Tui là Nguyễn Hữu Cầu, người tù đã ở 32 năm, chính xác là 31 năm 9 tháng đây. Còn 5 năm đầu tù 'cải tạo' thì bỏ nó qua, để chồng vô thì nó nhiều quá, ớn quá". Trong lời kể của mình, người cựu đại úy địa phương quân quân của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn toát lên một sự cương nghị hiếm thấy khi nói về việc công an trại giam đề nghị ông làm lá đơn 'xin đặc xá'" "Sau tết họ kêu lên làm việc, họ nói tôi làm đơn xin đặc xá. Tôi nói, hồi đó giờ tôi không có truyền thống làm đơn xin đặc xá. Lúc đó đang bệnh, mà 8-9 thứ bệnh, ở trại nói điều kiện là phải làm đơn đặc xá mới cho ra ngoài chữa bệnh". Quyết định đặc xá đối với ông được chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký vào ngày 10/3. Tuy nhiên, phải 10 ngày sau CA trại giam Z30A Xuân Lộc mới chịu trả tự do cho ông về nhà. Ông Nguyễn Hữu Cầu rời khỏi trại giam lúc 9h30 sáng ngày 20/3/2014. Đến 21 giờ tối cùng ngày thì được xe trại giam đưa về nhà con trai tại ấp An Hòa, xã An Minh Bắc, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang. Cảm nghĩ đối với những giọt máu... Được xem là một trong những tù nhân lương tâm bị kết án lâu nhất thế giới, ông Nguyễn Hữu Cầu nói rằng bản thân ông biết được rằng nhiều tổ chức nhân quyền đã vận động cho ông, thậm chí "một số cán bộ cũng kêu ra nói riêng". Về cảm nghĩ đầu tiên sau khi ra tù và được trở về cùng người thân, ông Nguyễn Hữu Cầu chia sẻ: "Tôi về tới gia đình, cảm nghĩ đối với giọt máu, những người thân thương, sau một thời gian dài... Thì mình cũng..." "...Nói hơi ruột thịt... nhưng mà lấy lại tinh thần, rồi mình nghĩ tới những anh em còn ở trong nữa." Dù đang bệnh nặng, nhưng ông Cầu cho biết sẽ dự định đi Hà Nội trong thời gian tới để tiếp tục đòi công lý. Ông nói: "đối với tôi nó phải rạch ròi, những cái lần tôi nói về mười mấy vụ án do một số giám thị và cán bộ trong trại thì tôi phải chứng minh với chủ tịch nước, ông tổng bí thư, ông thủ tướng rằng tôi là người nói đúng. Bữa nay, cái số hồ sơ trại gom lại trả cho tôi. Ngày hôm qua tôi nói “nếu mấy ông tịch thu là tôi xé giấy đặc xá liền”. Do đó, họ trả tất cả những hồ sơ cho tôi, để tôi làm căn cứ pháp lý. Chứ mình không có nói bừa bãi được." Ông Nguyễn Hữu Cầu sinh năm 1945, từng là một đại úy địa phương quân của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau năm 1975, ông bị đi tù 'cải tạo' 5 năm từ năm 1975 cho đến 1981. Năm 1982, ông Nguyễn Hữu Cầu bị bắt giam vì đã can đảm tố cáo tội ác tày đình của nhiều quan chức cộng sản tại tỉnh Kiên Giang như: tham nhũng, giết người, buôn bán ma túy, hãm hiếp phụ nữ... Ông Nguyễn Hữu Cầu bị kết án tử hình trong phiên tòa sơ thẩm tại Kiên Giang, sau đến phiên phúc thẩm thì bản án giảm còn tù chung thân. Cũng cần nói thêm, ông Nguyễn Hữu Cầu bị bắt và tuyên án dựa theo một pháp lệnh có tên "Pháp lệnh Trừng trị các tội phản cách mạng" do ông Trường Chinh và Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua năm 1967. Đây có thể xem là một văn bản luật tàn ác và rừng rú nhất trong lịch sử nhân loại, 'pháp lệnh' này từng được áp dụng để bỏ tù vô số những người dân Việt Nam chỉ vì khác ý kiến với đảng cộng sản. CTV Danlambao Thăm anh Nguyễn Hữu CầuMục sư Thân Văn Trường - Mục sư Phạm Ngọc Thạch và tôi (Mục sư Thân Văn Trường) đã tới bệnh viện Bình An, nằm trên đường Nguyễn Trung Trực, TP. Rạch Giá vào 16h ngày 25/3/2014, để thăm cựu tù lương tâm Nguyễn Hữu Cầu. Cùng ngồi với chúng tôi bên anh Cầu là nhiều cán bộ an ninh mặc thường phục, nhưng theo lời giới thiệu của anh Cầu, các cháu CA đây là người nhà! Anh Cầu rất vui mừng tiếp rước chúng tôi, đang khi anh truyền nước biển. Anh Cầu đại úy, tôi thiếu úy, dù anh Quốc gia, còn tôi Việt cộng, nhưng tôi nói vui vậy anh là "sếp" của tôi, hôm nay tới thăm sếp tạm tai qua, nạn khỏi. Chúng tôi cùng cả cười trong niềm vui hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc. Thay mặt 3 triệu bộ đội miền bắc, tôi thành thật xin lỗi anh Cầu, về tai nạn gần 40 năm ngồi tù của anh. Anh Cầu kể cho chúng tôi, lệnh đặc xá của anh, là thừa lệnh chủ tịch Trương Tấn Sang, khi ông gọi về từ Nhật, để dọn đường cho VN vào TPP. Chúng tôi xin phép chụp chung vài tấm hình kỷ niệm sự đoàn tụ kẻ Bắc, người Nam và được cả nhà anh cầu vui vẻ đồng ý. Nhưng chưa kịp bấm máy, thì y tá đến cấm chụp làm tình hình căng thẳng. Nhóm an ninh và bác sĩ quây lại vào hùa cấm. Anh Thư (con gái anh Cầu) lớn tiếng phản đối lệnh cấm chụp hình bằng miệng. Và rồi có vẻ như tốp an ninh biết sợ và phần nào hiểu được nỗi bức xúc của thân nhân người tù xuyên thế kỉ, họ đành lòng vậy cho chúng tôi chụp một kiểu. Một viên an ninh trẻ trai và mang kính như sinh viên, lân la tiếp cận cuốn Kinh Thánh tôi vừa tặng anh Cầu. Chúng tôi cho an ninh biết họ tên mình, dù các anh khiếm nhã tiếp cận chúng tôi mà không hề giới thiệu danh tánh. Mục sư Thạch cũng tặng cho 2 viên an ninh sách Jesus và khuyên lơn các anh an ninh sớm tin nhận Chúa. Anh Cầu hát tặng chúng tôi một Linh khúc do anh sáng tác trong tù. Dù không nhạc đệm, nhưng anh hát bằng cả tấm lòng, làm chúng tôi xúc động muốn khóc. Chúng tôi cầu nguyện cho anh chia tay vì muốn để anh được nghỉ ngơi. Dù gặp anh rất ít ỏi lại trong hoàn cảnh an ninh vây hãm, nhưng chúng tôi rất thỏa lòng vì chiến cuộc qua đi đã lâu mà nay anh em kẻ bắc, người nam mới được bắt tay nhau. Chúng tôi tiếp tục cầu nguyện cho anh và gia đình kinh nghiệm hạnh phúc đoàn viên. Rạch giá, ngày 25/3/2014 Mục sư Thân Văn Trường ********************* Y Kien: Trả lời•Chia sẻ › Người ở trong tù : Trong những năm đầu sau biến cố 30.4. Đã có hàng loạt những vụ bắt bớ xét xử và không xét xử vô tội vạ các thành phần Quân Cán Chính của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Tỉnh Kiên Giang là nơi có mức độ xãy ra dày nhất. Những án tử hình được thi hành vừa công khai vừa bí mật đã giết chết trung tá Trương Cuội, trung úy Nguyễn Anh Hùng, dân biểu Bùi Nhựt Nghĩa, Trung sĩ 1 CSQG Lầm Thành Sơn... Bức tử trung úy Võ Minh Hiền, trung tá Lâm Quang Tấn (em ruột đại tá Lâm Quang Phòng), thượng sĩ CSQG Danh Ky. đại dức Danh Bao, Phó đốc sự Lê Hiền Lương... Bắn chết thiếu úy Lâm Châu Hiền, trung úy Phan Trường Chiến, Thượng sĩ Nguyễn văn Quận khi đang cải tạo... Giam giữ không xét xử không xét xử hàng ngàn người trong điều kiện khắc nghiệt trong đó có linh mục Nguyễn Bà Lộc, Chu văn Chí, Võ Thành Năng, Nguyễn Đình Khuyến, Nguyễn Thượng Uyển và các chủng sinh trong vụ gây nổ tại chủng viện Theresa. đại đức Công Sa Phanh, dân biểu Danh Thu.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2014 7:27:30 GMT 9
Đâu là nơi duy nhất người Việt Nam không bị kinh bỉ.Khánh Hưng Nhân đọc bài viết của một người Nhật nhận xét về người Trung Quốc mà phần bình luận đăng trên Bauxite Việt Nam có liên hệ với đặc tính của người Việt Nam hiện nay, tôi muốn góp nhặt mấy mẩu chuyện tai nghe mắt thấy sau đây.Năm 2006, một công ty của người gốc Việt ở Mỹ thuê tôi về Việt Nam làm một nghiên cứu cho một dự án đầu tư kinh tế. Vài người quen đưa tôi đi làm việc với chính quyền một vài tỉnh để tìm hiểu các kế hoạch kinh tế của địa phương. Đi đến đâu, tôi cũng nhận được một lời khuyên tương tự là, tôi nên đưa theo một người Mỹ trắng, dù người đó là một nhân viên bảo vệ hay là một lao công cho công ty tôi ở Mỹ, miễn sao người đó nói “xí bô xí ba” gì đó, rồi tôi dịch ra tiếng Việt, thì tôi mới được tiếp đón nồng hậu và nhiệt tình! Trở lại thành phố Sài Gòn, gặp một cậu “Việt kiều” 26 tuổi, sinh ở Mỹ, tốt nghiệp Cao học Anh ngữ tại Đại học Los Angeles (UCLA). Với nguyện vọng tha thiết được làm việc tại Việt Nam, cậu xin vào dạy tại một trung tâm Anh ngữ trực thuộc một trường Đại học lớn của Việt Nam. Ở đây, người ta trả lương theo giờ cho cậu ít hơn ba lần so với mấy người Tây ba lô. Họ nói, cho dù anh có trình độ và khả năng hơn hẳn mấy người Tây đó, nhưng vì anh là người “gốc Việt” nên không có… giá cao! Bản thân tôi, trong một lần trú tại một khách sạn của công ty Du lịch Tp Hồ Chí Minh, có hôm tôi gọi tiếp tân yêu cầu cử người giúp sửa đường dây internet, gọi đến lần thư ba vẫn chỉ hứa hẹn. Sau đó, khi tôi gọi và nói chuyện bằng tiếng Anh, thì cô tiếp tân rối rít “Yes, sir” và vài phút sau, một nhân viên xuất hiện! Tương tự, vài lần đi máy bay Vietnam Airlines từ Đài Loan về Việt Nam, tôi đã rút được kinh nghiệm là phải sử dụng tiếng Anh nếu muốn được phục vụ tốt và lịch sự! Hết biết! Người Việt tự kỳ thị nhau và bị kỳ thị ngay chính ở Việt Nam! Thế còn người nước ngoài, họ nghĩ gì về Việt Nam? Một người tôi quen, là cán bộ lãnh đạo của một cơ quan văn hóa thành phố Hồ Chí Minh. Trong một bữa “nhậu,” ông ấy vừa nhai ngồm ngoàm cái đùi ếch, vừa thuyết trình với anh bạn người Mỹ bên cạnh tôi (tất nhiên tôi là thông dịch viên bất đắc dĩ), rằng Việt Nam tuy còn nghèo nhưng nhờ có độc lập nên giữ được phẩm giá. Ông lấy ví dụ, vừa rồi, trong một chuyến du lịch ở Mỹ, trong lúc ông bị lạc khi tham quan Hollywood, ông đã được hai viên cảnh sát Mỹ “hết sức lể phép, trân trọng, và nhiệt tình” giúp ông tìm đường. Họ luôn gọi ông bằng “sir,” tức là “ngài.” Ông kết luận, vì họ biết ông là cán bộ của Việt Nam, nên họ đã đối xử với ông một cách trọng thị như vậy! Anh chàng Mỹ ngồi bên cạnh tôi tròn mắt và… không nói gì cả! Nghe ông cán bộ này nói, tôi nhớ lại ba câu chuyện: Năm 2005, tôi đưa cậu con trai 4 tuổi, trên đường về thăm Việt Nam, ghé lại tham quan và nghỉ ngơi ở Nhật ba ngày. Chúng tôi trú tại một khách sạn ở Tokyo. Thấy hai cha con chúng tôi trao đổi qua lại bằng tiếng Anh, hầu như tất cả nhân viên làm việc ở đây đều cư xử với chúng tôi một cách hết sức thân tình và trân trọng. Họ nghĩ chúng tôi là người Mỹ gốc Nhật. Thế nhưng, khi nghe tôi cải chính lại là người Việt Nam, thì thái độ họ thay đổi hẳn! Một anh bạn tôi là một nhà giáo và một nhà báo nghiệp dư ở vùng Vịnh San Francisco kể rằng: Trong chuyến đi du lịch vùng Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga… anh luôn gặp rắc rối vì cái hộ chiếu Việt Nam của vợ anh. Lúc nào vào ra cửa khẩu của các nước này, thì cả đoàn du lịch 20 người có passport Mỹ đều cho qua một cách thoải mái, chỉ duy nhất vợ anh với hộ chiếu Việt Nam là bị tách ra vào phòng riêng xét hỏi. Lần nào anh cũng phải viết giấy bảo lãnh! Mà mấy nước này vốn là “anh em xã hội chủ nghĩa” của Việt Nam mấy năm trước đây! Chuyện thứ ba, trong một lần du lịch tại Jakarta, Indonesia, tôi đi với một người bạn địa phương vào một câu lạc bộ khiêu vũ (dancing). Mấy cô vũ nữ nghe tôi nói chuyện bằng tiếng Anh thì vồ vập và tò ra rất tình cảm. Thế nhưng, khi nghe tôi nói là “người Việt Nam”, thì mấy cô dần dần lảng ra! Trời, ngay cả mấy cô… bán hoa mà cũng… đối với người Việt Nam như vậy! Tôi định kể cho ông bạn cán bộ nghe ba câu chuyện này, nhưng lại thôi vì e là ông cũng không hiểu, và nếu hiểu ra thì không khéo ông lại qui cho tôi tội “theo đuôi đế quốc, xúc phạm dân tộc” thì mệt lắm! Còn người Việt Nam xem người ngoại quốc thế nào? Vợ chồng người bạn khác của tôi tại Hà Nội đều là “trí thức”, thuộc gia đình quyền thế và khá giả tham vấn tôi về kế hoạch mở một trường Mẫu giáo cao cấp, trong đó có qui định là chỉ nhận con em của người nước ngoài da trắng. Tôi hỏi lại vài lần chữ “da trắng” và xin được giải thích thêm. Họ nói rằng, ở Việt Nam đã có hai trường như vậy và đã tồn tại nhiều năm (?!), nói rõ là chỉ nhận học sinh người “da trắng.” Người ngoại quốc mà da màu cũng không được, thậm chí ngay cả con cái cán bộ Việt Nam cao cấp hoặc đại gia cũng không được nhận. Vợ chồng anh bạn này khẳng định, tiền bạc chỉ là một vấn đề nhỏ, điều anh chị muốn là thể hiện “đẳng cấp” của anh chị, và của cơ sở do anh chị thành lập! Tôi sống ở Mỹ, một đất nước do người da trắng thành lập và xây dựng nên, thế nhưng trên cả nước Mỹ, không nơi nào có một trường học với qui định như vậy cả! Nếu ai đó ở Mỹ mà có cái ý tưởng như vậy, thì có lẽ trước khi bị lôi ra tòa án cho phá sản, chắc chắn là sẽ bị dư luận ném xuống loại “đẳng cấp” man rợ! Tôi không biết thật sự ở Việt Nam đang có kiểu trường “quốc tế” như vậy không, nhưng chỉ riêng thái độ tận tụy phục vụ người “da trắng” của hai vị trí thức trẻ và quyền lực Hà Nội cũng đủ để nhận ra một thế hệ “quí tộc” Việt vô cùng… quái đản! Kề lại những câu chuyện này, một người bạn của tôi nói rằng, trên thế giới hiện nay chỉ có duy nhất một nơi mà người Việt Nam không bị khinh rẻ, đó là nước Mỹ! Thật mỉa mai, nhưng đó là sự thật! Tôi sống ở Việt Nam 30 năm, 15 năm ở Mỹ, và đi đây đó khoảng chục nước, tôi công nhận điều anh bạn này nói. Ít ra, đây cũng là điều an ủi cho những kẻ “tha hương” – người Việt ở Mỹ như chúng tôi. Và đó cũng là lý do, mà tôi đã bỏ ý định trở lại quê hương Việt Nam sau khi học hành xong ở Mỹ, như kế hoạch của tôi ngày ra đi! Nguồn Blog Bà Đầm Xòe
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2014 7:35:40 GMT 9
Giáo giởTưởng Năng Tiến Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường.Nguyễn Chí Thiện Tôi chào đời tại Sài Gòn, và vô cùng hãnh diện về nơi sinh trưởng của mình. Chính Từ thành phố này Người đã ra đi. Nói thế nghe (chừng) hơi nịnh. Không dám nịnh đâu. Thường dân cỡ tôi làm sao mà với cao dữ vậy. Hơn nữa, trong “zụ” này, trong môi trường XHCN thì đâu có bao giờ thiếu những thiên tài. Không tin, và nếu rảnh xin (ghé qua wikipedia) đọc chơi vài câu cho biết: Khi tôi còn là hạt bụi Người đã lên tàu đi xa Hay: Ôi sáng xuân nay, Xuân 41 Trắng rừng biên giới nở hoa mơ Bác về… Im lặng. Con chim hót Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ… Chuyện xưa (như thế) đã đành nhưng hai phần ba thế kỷ sau vẫn còn có người “ngơ ngẩn” về chuyến xuất dương (tìm đường cứu nước) của Bác: Đó là cuộc ra đi một mình, giữa bốn biển năm châu, giữa đại dương sóng cả… Sau sáu năm trên khắp các lục địa anh mới về Paris… Ở Paris, kể từ 1919, khi trình Hội Quốc Liên (tức Liên Hiệp Quốc bây giờ) bản Yêu sách tám điểm của nhân dân Việt Nam, dưới tên ký Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn đã bắt đầu một sự nghiệp viết nhằm lên án chủ nghĩa thực dân, cảnh tỉnh thế giới phương Tây, thức tỉnh thế giới thuộc địa. Một sự nghiệp viết gắn bó và phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc kể từ Bản yêu sách tám điểm – 1919, qua Tuyên ngôn độc lập – 1945, đến Di chúc – 1969 có độ dài 50 năm. GS Phong Lê viết những dòng chữ (hơi lủng củng) ghi trên, tại Huế, vào hôm 26 tháng 5 năm 2011. Hai năm sau, vào hôm 26 tháng 9 năm 2013, từ Luân Đôn, BBC loan tin: Việt Nam vẫn còn thiếu nhiều tư liệu về cố lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhất là trong thời kỳ ông hoạt động ở hải ngoại… Trao đổi với BBC hôm 23/9/2013 từ Hà Nội, ông Hiển (phó giáo sư sử học Vũ Quang Hiển – ghi chú của tnt) cho rằng nhiều tư liệu có thể đang được lưu trữ ở các trung tâm lưu trữ hải ngoại, hoặc cần tới sự hợp tác của giới học giả quốc tế như ở Pháp, Nga, Trung Quốc. Giời ạ, đâu có “cần tới sự hợp tác của giới học giả quốc tế như ở Pháp, Nga, Trung Quốc…” làm chi cho thêm phiền. Giới học giả Việt Nam (Trần Quốc Vượng, Nguyễn Thế Anh, Vũ Ngự Chiêu…) đã trưng dẫn “nhiều tư liệu về cố lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhất là trong thời kỳ ông hoạt động ở hải ngoại…” – từ lâu – nhưng nó không “khớp” với sử (riêng) của Đảng và tự truyện của Bác nên đều bị phớt lờ hết ráo. Cái kim (nhỏ xíu) trong bọc còn giấu không được hoài thì nói chi đến tiểu sử của một con người (vỹ đại) cỡ bác Hồ. Và nói đâu xa xôi, ngay trên một trang web rất bình thường (Sức khoẻ và Đời sống – Cơ quan ngôn luận của Bộ Y tế) ở trong nước cũng đã có người “khẳng định” – một cách rất tế nhị, từ năm 2007 – rằng Bác không có dính dáng gì (nhiều) đến bản “Yêu sách của nhân dân Việt Nam”: … Phan Văn Trường là người soạn thảo Yêu sách và trên thực tế văn bản này mang đậm dấu ấn của ông với nhãn quan của một nhà luật học. Thực vậy, Điểm 2 nêu rõ: ‘Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam’; hay Điểm 7 ‘Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật’. Như vậy có đủ cơ sở để khẳng định rằng tiến sĩ luật học Phan Văn Trường là kiến trúc sư của Yêu sách của nhân dân Việt Nam, một sự kiện tạo nên bước ngoặt trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20. Tế nhị là một đức tính mà rất ít người sở đắc. Tác giả những dòng chữ sau đây – rõ ràng – không có được cái đức tính (dễ thương) này: Tiểu sử Hồ Chí Minh là một bí mật. Chỗ nào ông muốn viết (hoặc sai người viết), chỗ nào giấu đi hoặc thêm thắt vào, đều có chủ đích rõ ràng. Và ông không hề ngần ngại nhận mình là tác giả những bài viết và những công trình không phải của ông. Trong phạm vi khảo luận này… chỉ chú ý đến thời kỳ Nguyễn Tất Thành ở Pháp, từ 1919 đến1923. Thời gian này, ông tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và chính những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc đã xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh… Tất Thành chỉ là người được nhóm An Nam Yêu Nước chỉ định đem bản Thỉnh nguyện thư của người An Nam đến Hội nghị Hoà bình Versaillles.(Thụy Khuê. Nhân văn Giai phẩm & Vấn đề Nguyễn Ái Quốc. Tiếng Quê Hương: Virginia 2012, 458 – 470) Những vụ trộm cắp (lặt vặt) cỡ này, nói nào ngay, không hiếm trong cuộc đời hoạt động của bác Hồ hay bác Tôn nên đâu có chi quan trọng lắm để mà phải làm rầm rĩ. Ông Hà Sĩ Phu nghĩ một cách khoáng đạt hơn rằng: “… điều quan trọng đối với xã hội không phải ở chỗ quan điểm ấy là của ai, mà ở chỗ quan điểm tiến bộ ấy được thực hiện như thế nào.” Ý niệm rất nới này cũng được GS Vũ Quang Hiển nhiệt liệt tán đồng – theo như bản tin (thượng dẫn) của BBC: Nguồn gốc ở đâu, chuyện đời tư, chuyện cá nhân không quan trọng, mà cái quan trọng là ở sự nghiệp, mỗi con người đều có những nét riêng, thậm chí nét khuất trong đời tư, nhưng điểm quan trọng nhất là sự nghiệp mà họ theo đuổi. Thôi thì cứ bỏ qua vài “nét khuất trong đời tư” của Bác, cứ giả dụ chính ổng (chớ còn ai nữa) là tác giả bản Thỉnh nguyện thư của người An Nam đi. Vậy thử nhìn xem: Bác, và các đồng chí lãnh đạo (từ khi giành được chính quyền về tay nhân dân đến nay) đã thực hiện 8 điểm yêu sách này ra sao: Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị; Cải cách nền pháp lí Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm pháp lí như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn những tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam; Tự do báo chí và tự do ngôn luận; Tự do lập hội và hội họp; Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; Tự do họp tập, thành lập các trường kĩ thuật tại tất cả các tỉnh cho người bản xứ; Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được nguyện vọng của người bản xứ. Tuần tự xét hết tám điểm kể trên chắc phải tới Tết, hay không chừng (dám) tới chết luôn. Xin chỉ xem qua một điểm – điểm thứ nhất thôi – cho nó lẹ rồi đi ngủ: Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị. Không dám ân xá đâu. Từ ngữ này (e) không có trong tự điển của nước VNDCCH hay CHXHCNVN, nơi mà trại lính trại tù người đi không ngớt (người về thưa thớt năm ba) và mọi công dân đều có thể là một người tù ngoại trú, hay dự khuyết. Coi: chỉ trong một tuần lễ, tuần thứ ba của tháng 10 năm 2013 thôi, công luận đã ghi nhận những sự kiện (dồn dập) như sau – xin ghi lại theo thứ tự thời gian: Ngày 13 tháng 10 blogger Phạm Thanh Nghiên gửi đi một bức thư ngăn ngắn: Kính gửi quý vị lá đơn của bà Nguyễn Thị Nga gửi trại giam số 6, Nghệ An, đề nghị cho chồng bà là nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa được đi chữa bệnh. Nhưng thay vì giải quyết yêu cầu chính đáng của bà thì chính quyền đã bí mật chuyển nhà văn NXN đến trại An Điềm, Đà Nẵng. Đây là một hành động rất không minh bạch và có thể coi như một tội ác. Không chỉ đối với nhà văn mà đối với gia đình, việc thăm nuôi sẽ rất khó khăn, tốn kém về tài chính cũng như về sức khỏe. Theo mong muốn của bà Nga, là phổ biến lá đơn (đã gửi ngay cho trại 6 khi viết) rộng rãi trên mạng. Bà cũng bày tỏ mong muốn được công luận, các tổ chức nhân quyền quan tâm đến trường hợp của chồng bà, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhất là kể từ khi khi ông bất chấp nguy hiểm, báo tin chuyện ông Điếu Cày tuyệt thực ra ngoài, ông luôn bị trù dập. Xin thay mặt bà Nguyễn Thị Nga, gửi lời cảm ơn tới quý vị. Ngày 17 tháng 10, RFA loan tin: Mục sư Nguyễn Công Chính thường xuyên bị đánh đập trong tù. Mục sư Tin lành Lutheran Nguyễn Công Chính, người bị kết án 11 năm tù giam với cáo buộc có những hoạt động chia rẽ sự đoàn kết dân tội, nói xấu chính quyền, thường xuyên bị đánh đập trong tù vì không chịu nhận tội. Cùng ngày, theo FB của An Đỗ Nguyễn: Sáng nay, 17/10/2013, tại bệnh viện 30/4 Bộ Công an đã xảy ra một cuộc trấn áp của lực lượng an ninh, công an, dân phòng đối với gia đình thầy giáo Đinh Đăng Định. Phía lực lượng an ninh viện lý do là cô con gái của thầy Định chụp hình, quay phim để bắt vợ con thầy về đồn công an làm việc. Tuy nhiên, vợ con thầy đã chứng minh cho lực lượng an ninh thấy rằng điện thoại của họ chỉ có chức năng nghe gọi, nhắn tin, không có khả năng quay phim, chụp hình. Sau đó, phía an ninh yêu cầu gia đình thầy xuất trình giấy CMND và một mực cưỡng ép về gia đình về đồn làm việc. Ngày 18 tháng 10, blogger Nguyễn Bắc Truyển viết trên facebook: Tù nhân chính trị tuyệt thực. Tin từ gia đình cho biết, hai tù nhân chính trị, Đoàn Huy Chương và Sơn Nguyễn Thanh Điền đã tuyệt thực 3 ngày nay để phản đối chính sách giam giữ khắc nghiệt của trại giam Xuân Lộc (Đồng Nai). Sơn Nguyễn Thanh Điền, bị bắt năm 2000, án 17 năm. Đoàn Huy Chương bị bắt năm 2010, án 7 năm. Cả hai tù nhân chính trị đang bị giam tại phân trại số 2, trại giam Xuân Lộc. Trại giam Xuân Lộc, nơi giam giữ hàng trăm tù nhân chính trị. Vừa qua trại giam Xuân Lộc đã chuyển 05 tù nhân chính trị đi trại giam Xuyên Mộc (Bà Rịa – Vũng Tàu) vì cho rằng 05 tù nhân chính trị có liên quan đến vụ nổi loạn tại phân trại số 1, trại giam Xuân Lộc vào sáng ngày 30/6/2013. 05 tù nhân chính trị là Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Phan Ngọc Tuấn, Huỳnh Anh Trí và Nguyễn Ngọc Cường. Mặc dù, lãnh đạo Tổng cục Trại giam và trại giam Xuân Lộc khẳng định trên báo chí rằng các tù nhân chính trị không có liên quan vụ nổi loạn của tù thường phạm. Tuy nhiên, tối ngày 30/6/2013, 05 tù nhân bị chuyển trại, sau đó họ bị biệt giam, cùm chân tại trại giam Xuyên Mộc. Đầu tháng 10/2013, hai nữ tù nhân chính trị đang trong mang trọng bệnh là Mai Thị Dung và Đỗ Thị Minh Hạnh đã bị chuyển đi bằng xe tù trên quãng đường dài gần 2.000 km đến trại giam Thanh Xuân (Hà Nội), tay chân bị còng, bà Dung đang tuyệt thực. Chuyến đi dài đã làm hai nữ tù nhân kiệt sức và ngất xỉu nhiều lần. Việc giam giữ khắc nghiệt, giam xa gia đình… là biện pháp vô nhân đạo mà trong Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền, công ước quốc tế về quyền Dân sự và Chính trị đã cấm áp dụng. Việt Nam đã tham gia hai công ước này và chuẩn bị ký công ước chống tra tấn tù nhân vào cuối năm 2013. Nhiêu đó thôi đủ thấy sự nghiệp của Bác (nói riêng) và của cả Đảng (nói chung) không chỉ là một con số không, mà là một con số trừ âm không nhỏ: Ôi, thằng Tây mà trước kia người dân không tiếc máu xương đánh đuổi Nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng Nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng Mà bàn tay tên cai trị thực dân hóa ra êm ả! Nguyễn Chí Thiện
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 1, 2014 4:56:19 GMT 9
TOÀN VĂN Ý KIẾN: CẢI CÁCH TOÀN DIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Lời giới thiệu: Xin trân trọng giới thiệu các bạn vài ý kiến của chúng tôi về hiện tình đất nước, và suy nghĩ về sự phát triển trong tương lai. Những ý kiến và suy nghĩ này đã được Gs Trần Văn Thọ khởi xướng và soạn ra lần đầu cách đây khoảng 3 tháng. Bản thảo đã qua rất nhiều lần bổ sung và chỉnh sửa, để đi đến sự đồng thuận và dung hòa những khác biệt về quan điểm và cách nhìn giữa chúng tôi. Những ý kiến và suy nghĩ được trình bày trong bài này đã được gửi cho giới lãnh đạo trong Đảng, Chính phủ, và Quốc hội. Mới đây, một số báo cũng đề cập đến một số khía cạnh trong bản ý kiến của chúng tôi. Hôm nay, chúng tôi chính thức công bố để chia sẻ cùng các bạn quan tâm.
Xin nói ngay và nhấn mạnh rằng đây không phải là bản kiến nghị, mà là một bản phân tích. Chúng tôi phân tích những diễn biến trong thời gian qua liên quan đến kinh tế, đối ngoại, giáo dục, khoa học, y tế, và văn hóa. Từ những kết quả phân tích, chúng tôi xác định một số nguyên nhân chủ yếu, và phát biểu một số suy nghĩ về định hướng phát huy những thế mạnh và khắc phục những yếu kém trong tương lai, nhằm đưa đất nước tiến vào một thời kì phát triển mới. Cố nhiên, những lĩnh vực chúng tôi chọn để phân tích và phát biểu có thể không đầy đủ, hoặc những nhận xét của chúng tôi không có gì “mới”, nhưng đây là một nỗ lực tập thể nhằm hệ thống hóa, bổ sung và làm mới những gì các lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhân sĩ và trí thức đã phát biểu trong quá khứ.
Chúng tôi nghĩ rằng là người Việt không ai mà không muốn đất nước mình phát triển nhanh và bền vững. Nhưng nhìn qua các nước chung quanh có cùng văn hóa và điều kiện phát triển, chúng ta phải chạnh lòng thú nhận rằng những thành tựu đạt được trong thời gian qua ở nước ta chưa tương xứng với tiềm năng của dân tộc, và nhất là chưa tương xứng với sự hi sinh to lớn của hàng triệu người trong hai cuộc chiến vừa qua. Chúng tôi hi vọng rằng những phân tích và suy nghĩ trình bày trong bài này sẽ giúp cho mỗi chúng ta nhìn lại để — nói như lời kết của bản ý kiến là — “mở ra con đường mới để dân tộc tiến nhanh về phía trước, để đất nước phát triển nhanh chóng, giàu mạnh và tự chủ.” Nguyễn Văn Tuấn =================== Ý kiến: Cải cách toàn diện để phát triển đất nước Các tác giả: Hồ Tú Bảo, Nguyễn Tiến Dũng, Trần Hữu Dũng, Giáp Văn Dương, Nguyễn Ngọc Giao, Ngô Vĩnh Long, Vĩnh Sính, Nguyễn Minh Thọ, Trần Văn Thọ, Cao Huy Thuần, Nguyễn Văn Tuấn, Hà Dương Tường, Vũ Quang Việt, Phạm Xuân Yêm
Nội dung Tóm tắt Mở đầu Việt Nam nhìn từ thế giới bên ngoài Việt Nam hiện nay: thực trạng và nguyên nhân Cải cách vì một nước Việt Nam giàu mạnh và tự chủ Kết luận Tóm tắt: Việt Nam chúng ta đang đứng trước một khúc ngoặt lịch sử. Theo dõi những diễn tiến của xã hội Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần đây, chúng tôi thật sự lo âu về tương lai của đất nước. Bản ý kiến này không nêu lại những thành tựu Việt Nam đã đạt được, mà tập trung vào vấn đề nội lực Việt Nam đang suy yếu: Kinh tế bấp bênh, giáo dục và y tế xuống cấp, khoa học và công nghệ non yếu, đạo đức xã hội suy thoái, tham nhũng tràn lan, bộ máy nhà nước nhiều bất cập. Trong lúc đó, kinh tế ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc và đe dọa về an ninh từ nước láng giềng phương Bắc ngày càng rõ nét.
Năm 2008 lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam vượt qua ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị trí của nước thu nhập thấp. Nhưng ta đã mất gần 35 năm kể từ khi đất nước thống nhất, nếu kể từ khi đổi mới cũng gần một thế hệ mới đạt được thành quả còn khiêm tốn này. Trong cùng thời gian đó, nhiều nước ở châu Á đã đạt thành quả được cả thế giới ngưỡng mộ. So với các nước trong vùng và trên thế giới có cùng điều kiện phát triển trước đây, nước ta hiện nay vẫn còn ở vị trí rất thấp trong hầu hết mọi lĩnh vực, từ kinh tế, giáo dục đến khoa học. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra vẫn còn rất xa. Hiện nay chưa có dấu hiệu cho thấy Việt Nam có thể đạt mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020.
Khi phân tích vấn đề, chúng tôi thấy có hai nguyên nhân sâu xa, liên quan đến thể chế nói chung, và cơ chế tuyển chọn người lãnh đạo và quản lý nhà nước nói riêng.
Thứ nhất, thể chế còn thiếu dân chủ. Có thể nói rằng thể chế hiện nay là di sản của thời chiến tranh, bao cấp và chủ nghĩa xã hội kiểu Lênin-Stalin, với đặc điểm cơ bản là hạn chế dân chủ, hạn chế tự do tư tưởng, thiếu tinh thần thượng tôn pháp luật. Hệ quả là xã hội suy giảm tính năng động và hiệu quả, hạn chế sáng tạo trong khoa học và giáo dục, không chống được suy thoái giá trị đạo đức và văn hóa, bất công và cách biệt xã hội tăng lên, và không khuyến khích việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển. Chế độ tiền lương bất hợp lí trong cơ chế “xin cho” đã đẩy nhiều công chức vào con đường tham nhũng, và làm cho nhiều nhà giáo, bác sĩ, nhà khoa học,… không chuyên tâm với nghề nghiệp và không giữ được đức tính cao đẹp vốn có từ xưa. Hoàn toàn đáng lo ngại khi thể chế hiện nay đang hạn chế sức mạnh của đất nước và làm lung lay nền tảng của xã hội.
Thứ hai, là hệ quả của nguyên nhân thứ nhất, trong thành phần lãnh đạo đất nước chưa có nhiều người tài giỏi, bản lĩnh, chịu trách nhiệm cao và quy tụ được bên mình những trí thức và cộng sự chân chính. Từ trung ương đến địa phương, nhiều quan chức thiếu cả năng lực và đạo đức cần thiết. Tình trạng bằng cấp giả và chạy chức chạy quyền đã trở thành vấn nạn nhức nhối. Việc lợi dụng vị trí công quyền để trục lợi cá nhân đang là hiện tượng phổ biến ở nhiều cán bộ nhà nước.
Theo chúng tôi, phải có một cuộc cải cách mang tính cách mạng về thể chế mới giải quyết được hai vấn đề này. Chúng tôi nghĩ rằng trách nhiệm này trước hết thuộc về đảng cầm quyền và trên thực tế hiện nay cũng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới đảm nhận được vai trò này.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị Đảng Cộng sản Việt Nam xem xét thực hiện 8 điểm sau:
1. Kiên quyết xây dựng nhà nước dân chủ pháp quyền.
Không có ai và tổ chức nào đứng trên và đứng ngoài pháp luật. Để thực hiện được điều này, cần triệt để tôn trọng Hiến pháp và đảm bảo sự thực thi Hiến pháp theo tinh thần hiến pháp là trên hết. Đồng thời, cần có cơ chế kiểm soát quyền lực, cần có hệ thống tòa án độc lập để chế tài được các hành vi lạm dụng quyền hành, tham nhũng, làm giàu bất chính và ức hiếp dân chúng.
Triệt để dân chủ hóa, đúng như mục tiêu mà Hiến pháp đề ra. Đảng cần chứng minh bằng hành động thực tế rằng đó không phải là khẩu hiệu mà chính là thao thức thường xuyên của lãnh đạo, của các cơ quan công quyền. Để thực hiện dân chủ trong khuôn khổ pháp lý hiện nay, cần thật sự triển khai và áp dụng nội dung của Hiến pháp. Trước hết, phải thật sự tôn trọng các quyền mà Hiến pháp đã ghi rõ, đặc biệt là quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, và được quyền lập hội, quyền biểu tình trong khuôn khổ pháp luật, và quyền bình đẳng trước pháp luật.
Pháp luật nhằm bảo đảm quyền tự do của người này không xâm phạm đến quyền tự do của người khác chứ không phải nhằm hạn chế hoặc triệt tiêu tự do. Tất nhiên, tự do cá nhân phải tôn trọng lợi ích tập thể, nhưng không nên viện lợi ích tập thể với mục đích triệt tiêu tự do. Cụm từ “theo quy định của pháp luật” phải được hiểu trong tinh thần đó để các quyền được Hiến pháp công nhận có giá trị thực sự chứ không phải chỉ có tính cách lý thuyết. Hiện nay, không thiếu thí dụ luật được viết nhằm hạn chế quyền công dân được ghi trên Hiến pháp. Thí dụ điển hình là luật bầu cử và Quyết định 97. Luật bầu cử hạn chế quyền ứng cử của công dân vì đòi hỏi người tự ứng cử phải được Mặt trận Tổ quốc thông qua. Quyết định 97 của Thủ tướng nhằm hạn chế quyền phản biện chính sách của trí thức. Thật ra, tất cả các quyền của công dân đều đã nằm trong Hiến pháp Việt Nam, chỉ cần triển khai và thật sự áp dụng.
Cần bảo đảm nền móng của dân chủ: đó là tự do ngôn luận. Quyền tự do ngôn luận mà Hiến pháp đã ghi rõ cần đi vào thực chất với việc bảo đảm tính công khai và minh bạch của các hoạt động công quyền và quyền tranh luận của xã hội và công dân đối với những hoạt động đó. Những hạn chế cần thiết của tự do ngôn luận, như các bí mật quốc gia (thuộc phạm vi hình sự) hay bí mật kinh doanh, đời tư của công dân (dân sự), phải được ghi rõ trong các đạo luật (được quốc hội thông qua) chứ không phải là qua các nghị định, quyết định của hành pháp.
2. Tiếp thu các tư tưởng tiến bộ nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Không nên tự ràng buộc vào một ý thức hệ duy nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh nếu chỉ biết học thuyết Mác-Lênin, không tiếp thu mọi tư tưởng tiến bộ của thế giới thì đã không viết được bản Tuyên ngôn độc lập gói ghém những giá trị phổ quát của nhân loại. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là rất hợp lòng dân. Các hệ tư tưởng là công cụ nhằm giúp đạt mục tiêu trên. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy một xã hội muốn phát triển cần có tự do tư tưởng và tự do ngôn luận do đó cần thoát khỏi sự ràng buộc vào một ý thức hệ duy nhất. Ra khỏi sự ràng buộc vào ý thức hệ đó cũng sẽ cho thấy Việt Nam độc lập với Trung Quốc về mặt tư tưởng và đi trước Trung Quốc về cải cách thể chế.
3. Xây dựng một nhà nước vững mạnh bằng cách minh bạch hóa việc bổ nhiệm các chức vụ cao cấp, thực hiện việc tuyển chọn công chức theo qui trình khách quan dựa trên khả năng, cải cách chế độ tiền lương cho hợp lý.
Nêu cao trách nhiệm cá nhân trong hệ thống công quyền. Tất cả công chức và người lãnh đạo trong hệ thống nhà nước phải chịu trách nhiệm cá nhân về nhiệm vụ của mình, không được ẩn náu dưới danh nghĩa trách nhiệm tập thể. Cơ chế tập trung dân chủ khi đem áp dụng trong việc điều hành chính phủ đã bị nhiều người lợi dụng để bao biện cho thói vô trách nhiệm, ỷ lại, đổ lỗi cho tập thể, cơ hội, bè phái, “cha chung không ai khóc”. Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế tách bạch sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước để tránh sự chồng chéo, áp đặt, kém hiệu quả.
Minh bạch hóa trong bổ nhiệm tất cả các chức vụ, kể cả vị trí cao cấp. Tạo cơ chế công khai và dân chủ hóa để có thể tuyển chọn những nhà lãnh đạo tài đức và đáp ứng được đòi hỏi của dân tộc, được dân tin tưởng và được thế giới nể trọng. Không nên tiếp tục cách làm hiện nay là dàn xếp trong nội bộ Đảng rồi đưa ra Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm. Những người đủ tài đức nhưng không phải đảng viên cũng cần được xem xét bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng. Chính phủ Hồ Chí Minh sau Cách mạng Tháng tám cũng đã có phương châm này.
Xây dựng bộ máy công chức làm việc có trách nhiệm và hiệu quả, và có cơ chế tuyển chọn khách quan dựa trên tài năng chuyên môn. Hiệu suất của bộ máy công quyền là điều kiện tối cần thiết để kinh tế, giáo dục, văn hóa phát triển nhanh và lành mạnh. Cho nên, việc tuyển chọn công chức phải dựa trên tiêu chí chuyên môn và đạo đức, độc lập với quan điểm chính trị ở nhiều loại công việc.
Cải cách chế độ tiền lương nhằm bảo đảm người công chức có thể sống bằng đồng lương của mình. Công chức phải được bảo đảm sống bằng đồng lương để tập trung vào công việc. Chế độ tiền lương cần hợp lí và phù hợp với khả năng, cống hiến thực của công chức để có thể thu hút được những người có khả năng nhất trong xã hội vào bộ máy công quyền. Đây là một trong những vấn đề cốt lõi cần đặt thành mục tiêu ưu tiên phải thực hiện ngay.
4. Phát triển kinh tế theo hướng bền vững trong đó ưu tiên hàng đầu là tạo công ăn việc làm và nhanh chóng cải cách việc điều hành và quản lý doanh nghiệp quốc doanh trong đó có các tập đoàn kinh tế.
Về việc phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động cần được đặt thành ưu tiên hàng đầu. Để phát triển bền vững và hướng tới toàn dụng lao động cần đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng ngày càng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và chú trọng phát triển nông thôn.
Đề nghị lập một hội đồng tư vấn chiến lược phát triển để giúp chính phủ vạch ra chiến lược phát triển có trọng điểm, không dàn trải và dẫm chân lên nhau, kết hợp thỏa đáng lợi ích quốc gia và lợi ích vùng nhằm phát triển nền kinh tế có chất lượng. Hội đồng này tập trung những chuyên gia có trình độ, có chức năng xây dựng và giám sát việc thi hành chiến lược phát triển với đủ thẩm quyền và chế độ đãi ngộ thích hợp. Bộ phận này phải được đặt trên tất cả các bộ ngành liên quan tới lĩnh vực kinh tế, đứng đầu là Thủ tướng hoặc Phó thủ tướng thường trực, có những chuyên viên tài năng, có cơ chế tiếp thu ý kiến của giới doanh nhân và trí thức. Bộ phận chuyên trách này sẽ có tiếng nói quan trọng trong việc quyết định các dự án lớn, trong quy hoạch phát triển và xây dựng kết cấu hạ tầng.
Cải cách chế độ sở hữu ruộng đất và tạo cơ hội có việc làm ngoài nông nghiệp là hai trụ cột để nâng cao mức sống của người dân ở nông thôn. Cần có chiến lược về đất đai, qui hoạch rõ rệt các vùng chuyên canh nông nghiệp và vùng có thể phát triển công nghiệp, cải cách để xác định rõ đâu là đất tư hữu và đâu là đất công hữu, tiến tới xóa bỏ hẳn chính sách coi đất đai là sở hữu toàn dân như hiện nay. Tư hữu hóa sẽ là cơ sở để giải quyết việc tập trung ruộng đất manh mún hiện nay để thực hiện sản xuất lớn nông nghiệp và phục vụ công nghiệp hóa nông thôn. Mặt khác, như nhiều người đã chỉ ra, đất đai là một nguồn tham nhũng rất lớn, gây hàng ngàn vụ khiếu kiện của dân trong những năm qua, tệ nạn này sẽ được hạn chế rất nhiều nếu người dân trên nguyên tắc được toàn quyền sở hữu (thay vì chỉ có quyền sử dụng) đất đai của mình.
Cần xóa bỏ chế độ hộ khẩu để người dân khi đến đô thị làm việc có thể yên tâm với cuộc sống ở đó và không cần giữ lại quyền sử dụng đất ở nông thôn.
Cần nhanh chóng cải cách việc điều hành và quản lý doanh nghiệp quốc doanh đặc biệt là các tập đoàn kinh tế. Thời gian qua tập đoàn kinh tế đã trở thành nơi hội tụ của các nhóm lợi ích và người có quyền chức, gây ra bất ổn cho nền kinh tế và tình trạng tham nhũng bành trướng. Vì thế, cần đặt các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, trong khung pháp lý chung của luật pháp; xóa bỏ việc hành pháp trực tiếp lãnh đạo kinh doanh và thay vào đó là Hội đồng quản trị độc lập có nhiệm kỳ, do Quốc hội hay Hội đồng Nhân dân bổ nhiệm, nhằm tránh biến tập đoàn thành một phần của các nhóm lợi ích. Ngoài ra, cần xóa bỏ các ưu đãi đặc biệt (về tín dụng, thuế, bảo lãnh nợ,…) cho doanh nghiệp quốc doanh; và không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh.
5. Ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa và đạo đức xã hội.
Văn hóa và đạo đức xã hội đang xuống cấp nghiêm trọng. Kỷ cương phép nước và nhân phẩm của con người đang bị coi thường. Chưa bao giờ cái xấu, cái giả và cái ác, biểu hiện ở nhiều dạng nhiều mặt, lại xuất hiện nhiều như bây giờ. Các giá trị văn hóa tốt đẹp của nhân loại chưa kịp nuôi dưỡng và bén rễ thì đã bị những cái xấu, cái giả lấn át. Thói háo danh, hình thức phô trương, mê tín dị đoan lại càng được dịp lên ngôi. Vì thế, cần quảng bá, khuyến khích những giá trị văn hóa tiến bộ của nhân loại như tự do, bình đẳng, bác ái, pháp quyền… và khôi phục những tinh hoa văn hóa truyền thống để làm nền tảng cho mọi sinh hoạt của xã hội. Cần nghiêm khắc xử lý cán bộ ở các cấp cao khi có hiện tượng sai phạm đạo đức để làm gương. Đặc biệt quan trọng là việc sử dụng hiệu quả vai trò tích cực của công luận để phê phán và ngăn chặn sự suy thoái của đạo đức và văn hóa.
6. Thực sự làm cho giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Nguồn lực lớn nhất của Việt Nam là con người. Vì thế, chiến lược phát triển cần phải xây dựng theo hướng chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực ngày càng có kỹ năng và khả năng làm chủ công nghệ cao. Chiến lược phát triển cũng cần phải vì cuộc sống của đại đa số dân chúng nhiều hơn nữa. Do đó, phải có biện pháp hiệu quả nhằm cụ thể hóa các chính sách về giáo dục, khoa học và công nghệ. Đồng thời, lãnh đạo phải cho thấy quyết tâm chăm lo sức khỏe của người dân qua các cải cách về y tế.
Cần tránh chính trị hóa học đường. Thay vào đó, cần giáo dục đạo đức, khích lệ tinh thần yêu nước, trách nhiệm công dân, và ý chí phấn đấu của tuổi trẻ. Điều tối quan trọng là cần đảm bảo tự do học thuật, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo. Do tầm quan trọng và tình hình ngày càng xuống cấp của giáo dục, chúng tôi đề nghị Thủ tướng trực tiếp chịu trách nhiệm về giáo dục, cụ thể là chỉ đạo nội dung cải cách, theo sát việc triển khai các chiến lược, chính sách, và chịu trách nhiệm về kết quả của các cải cách lớn.
7. Thực hiện đoàn kết dân tộc
Chấp nhận và dung hòa với những người bất đồng chính kiến nhưng cùng mục tiêu phát triển đất nước. Đặc biệt trước những diễn biến phức tạp và nguy hiểm ở biển Đông, hòa hợp hòa giải dân tộc cũng có nghĩa là cổ vũ lòng yêu nước của mọi người dân không phân biệt chính kiến, quá khứ. Chúng tôi đặc biệt đề nghị nên có hình thức ghi nhận và biểu dương sự dũng cảm hy sinh của những quân nhân Việt Nam Cộng hòa bảo vệ Hoàng Sa năm 1974.
8. Triển khai một đường lối ngoại giao độc lập, dựa trên một thể chế dân chủ, chú trọng hơn đến quan hệ chiến lược với ASEAN và Hoa Kỳ, trong khi tiếp tục coi trọng quan hệ hữu nghị và bình đẳng với Trung Quốc.
Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc cần được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn bình đẳng, nhưng không xem đó là quan hệ đặc biệt, càng không thể coi đó là đồng chí tốt. Việt Nam không thể “hợp tác toàn diện” với một nước lớn và mạnh hơn mình hàng chục lần và có những quan hệ phức tạp về lịch sử và địa chính trị, nhất là đang thể hiện rõ tham vọng và đã có những hành động bành trướng, xâm hại chủ quyền và an ninh quốc gia của Việt Nam.
Về Biển Đông, Quốc hội Việt Nam cần ra một tuyên cáo đặc biệt về Công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, khẳng định đó không phải là sự thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ là thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan. Tuyên cáo này vừa để làm rõ quan điểm của Việt Nam trước dư luận quốc tế, vừa xóa bỏ những ngờ vực của không ít người Việt Nam ở trong và ngoài nước, góp phần tăng thêm tình đoàn kết dân tộc trước hiểm họa ngoại xâm.
Cần đoàn kết với Philippines, Malaysia và Brunei trong việc chống lại tuyên bố “Đường Lưỡi Bò” của Trung Quốc. Chúng tôi đề nghị Việt Nam đưa ra đề án với ASEAN đặt tên vùng biển Đông nước ta (mà Trung Quốc và nhiều nước gọi là biển Nam Trung Hoa) là Biển Đông Nam Á.
Trước bước ngoặt lịch sử của đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam mang một trách nhiệm nặng nề đối với tiền đồ dân tộc. Chúng tôi mong thấy một cuộc cách mạng mới về thể chế để Việt Nam có thể phát triển thành một nước giàu mạnh và tự chủ.
A. Mở đầu
Việt Nam chúng ta đang đứng ở đâu trên bản đồ kinh tế và trên cục diện chính trị của khu vực và thế giới? Đất nước chúng ta sẽ thụt lùi về nhiều mặt, hay là sẽ phát triển mạnh mẽ, bền vững, đáp ứng khát vọng của dân tộc là mong thấy một nước Việt Nam giàu mạnh, phát triển hài hòa với thiên nhiên và xã hội, chia sẻ được những giá trị phổ quát của thế giới văn minh và giữ vững độc lập về kinh tế, chính trị, văn hóa? Nền tảng xã hội, văn hóa, giáo dục và thể chế của ta hiện nay có tạo đủ những điều kiện cơ bản để đất nước phát triển theo hướng tích cực không?
Theo dõi những diễn tiến của xã hội Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần đây, chúng tôi thật sự lo âu khi thử trả lời những câu hỏi nêu trên.
Từ gần 20 năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra mục tiêu phát triển đất nước là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là mục tiêu đúng đắn, có giá trị phổ quát và nước nào cũng muốn nhắm tới. Thế nhưng, hiện thực cho thấy Việt Nam không luôn tiến được theo hướng đó, nếu không nói là trên nhiều mặt Việt Nam đã đi ngược lại. Một bộ phận nhỏ giàu một cách bất hợp pháp, sinh hoạt xa hoa trong khi đa số dân chúng hằng ngày phải vật lộn với cơm áo, với chi phí cho giáo dục, y tế trong cơn lạm phát. Tham nhũng ngày càng trầm trọng, len lách vào mọi ngõ ngách của xã hội làm ảnh hưởng đến ý chí phấn đấu, tinh thần hướng thượng của người dân, và ngày càng có nhiều trường hợp công chức làm mất thể diện quốc gia. Bộ máy công quyền ở các cấp nổi lên quá nhiều người thiếu cả tài lẫn đức đến nỗi một lãnh đạo cấp cao của Đảng phải thừa nhận là bây giờ có quá nhiều “sâu”. Do tham nhũng, thiếu người tài đức gánh vác việc nước nên bộ máy nhà nước có nhiều bất cập. Tiếng nói của trí thức, của các nhà báo chân chính ngày càng mất hiệu quả. Đạo đức xã hội xuống cấp trầm trọng, bắt đầu lan tràn vào cả trong học đường, trong viện nghiên cứu khoa học, là những nơi lẽ ra phải đi đầu về đạo đức.
Năm 1996 Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa, chủ trương phấn đấu làm cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Từ đó đến nay đã 15 năm, đã đi gần 2/3 đoạn đường dự định mà cái đích còn quá xa vời. Việt Nam chưa có được một ngành công nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới. Chúng ta chủ yếu vẫn còn xuất khẩu hàng công nghiệp gia công, dùng nhiều lao động giản đơn và tùy thuộc sản phẩm trung gian nhập khẩu. Doanh nghiệp nhà nước nhất là tập đoàn kinh tế được dành mọi ưu đãi về vốn và đất nhưng cho đến nay chẳng những không đóng được vai trò chủ đạo như nhà nước chủ trương mà còn gây ra gánh nặng nợ nần và bất ổn cho toàn nền kinh tế.
Nền kinh tế yếu cùng với bộ máy nhà nước nhiều bất cập đã đưa đến một hậu quả nghiêm trọng là Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc. Về kinh tế thì đã quá rõ: Hàng công nghiệp của Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam, nhập siêu từ Trung Quốc cao ở mức dị thường, vừa gây bất ổn kinh tế vĩ mô vừa cản trở khả năng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của Việt Nam. Doanh nghiệp Trung Quốc chiếm phần lớn các gói thầu xây dựng, mua quyền sử dụng lâu dài rừng và bờ biển Việt Nam, đưa lao động vào Việt Nam dưới nhiều hình thức – kể cả bất hợp pháp – và nhiều nơi hình thành cộng đồng người Hoa mới… Về chính trị và tư tưởng, tuy không rõ ràng và dễ nhận biết như trong kinh tế, nhưng sự phụ thuộc là có. Cũng vì gắn bó với Trung Quốc về ý thức hệ, về thể chế chính trị mà ta không triển khai được đường lối ngoại giao khôn ngoan hiệu quả, không tận dụng được sức mạnh thời đại để làm cho dân giàu nước mạnh. Chẳng những thế, lệ thuộc về kinh tế và ngoại giao sẽ dễ dàng dẫn đến việc mất chủ quyền. Điều này đưa đến một thực tế nghiêm trọng: An ninh quốc gia bị đe dọa!
Từ tháng 5 năm nay (2011), vấn đề biển Đông trở nên nổi cộm. Ảnh hưởng của Trung Quốc đến an ninh của ta đã thấy rõ. Thật ra, chuyện Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông lần này không đáng lo bằng sự thâm nhập của họ ngày càng mạnh và sâu vào kinh tế, chính trị và văn hóa của ta. Khi kinh tế ta yếu, bộ máy nhà nước yếu, nền tảng đạo đức xã hội lung lay, Trung Quốc có thể thực hiện được mục tiêu biến Việt Nam thành một nước lệ thuộc toàn diện vào họ.
Chúng tôi, những người có tên trong danh sách dưới đây, vô cùng lo lắng, bức xúc trước nguy cơ Việt Nam bị thụt lùi trong tiến trình phát triển của thế giới mà hậu quả là Việt Nam có thể mất độc lập và tự chủ dưới hình thức này hay hình thức khác. Để tránh nguy cơ này, Đảng Cộng sản Việt Nam, với trọng trách đối với tiền đồ của đất nước, cần cải cách và triệt để đổi mới thể chế, nhằm củng cố và phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc, tận dụng thời cơ quốc tế, để mở ra con đường phát triển mới cho đất nước. Những nhận định về thực trạng và đề nghị cải cách dưới đây là xuất phát từ bức xúc về nguy cơ hiện nay đối với Việt Nam và ước vọng của chúng tôi về một nước Việt Nam thực sự giàu mạnh, văn minh và tự chủ. Chúng tôi tin rằng, đây cũng chính là ước vọng của toàn dân Việt Nam nói chung.
B. Việt Nam nhìn từ thế giới bên ngoài
Nhìn kinh tế thế giới trong nửa thế kỷ gần đây ta thấy nhiều nước, nhất là những nước ở châu Á, đã phát triển nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước đi trước, thậm chí có nước đã tiến lên ngang hàng với các nước tiên tiến. Có mấy khi chúng ta xét xem một cách khách quan, nghiêm túc những yếu tố cơ bản, những đặc trưng chung nhất làm cho các nước ấy thành công? Cho đến nay, Việt Nam có nghiên cứu kinh nghiệm các nước nhưng chủ yếu là những chính sách, chiến lược cụ thể, còn những yếu tố thuộc nền tảng thể chế và xã hội, nền tảng văn hóa, giáo dục…, tức là những tiền đề để cho các chính sách, chiến lược cụ thể ấy thành công, thì hầu như không được chú trọng nghiên cứu, hoặc có nghiên cứu nhưng không được thực thi, áp dụng.
Ta thử lấy trường hợp Hàn Quốc làm thí dụ: Hàn Quốc vào đầu thập niên 1960 là nước kém phát triển nhưng sau đó vượt qua giai đoạn phát triển ban đầu và thành công trong giai đoạn phát triển bền vững, trở thành nước tiên tiến trong thời gian rất ngắn. Quá trình công nghiệp hóa của nước này bắt đầu từ năm 1961 nhưng chỉ sau một thế hệ, Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp phát triển đáng kể trên thế giới và đến năm 1996 được kết nạp vào Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) là tổ chức của các nước tiên tiến. Từ một nước nhận viện trợ nhiều vào các thập niên 1960 và 1970, Hàn Quốc bắt đầu chuyển sang vị trí của nước đi viện trợ từ cuối thập niên 1980. Hiện nay, nhiều công ty của Hàn Quốc trong các ngành công nghệ cao như điện tử, xe hơi đã vươn lên hàng đầu thế giới.
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu về sự thành công của Hàn Quốc ta có thể nêu lên mấy nguyên nhân chính. Thứ nhất là tố chất của người lãnh đạo. Đó là những nhà chính trị mà tinh thần yêu nước vượt qua những niềm tin ý thức hệ, luôn trăn trở về con đường đưa đất nước đuổi kịp các nước tiên tiến. Họ cũng là những người thức thời, biết học hỏi ở đâu, tham khảo thể chế, cơ chế nào và du nhập công nghệ gì để phát triển nhanh. Và họ cũng biết rằng để xây dựng chiến lược phát triển trên cơ sở hiểu rõ nội lực và ngoại lực không thể không dựa vào người tài thật sự. Bởi vậy, chung quanh lãnh đạo toàn người tài giỏi, nhất là nhiều người đã du học và làm việc ở các nước tiên tiến. Thứ hai, với ý thức rằng bộ máy hành chính mạnh, hiệu suất cao mới vạch ra được các chính sách cụ thể và thực thi có hiệu quả các chính sách ấy, Hàn Quốc từ rất sớm đã có cơ chế thi tuyển công chức nghiêm ngặt để có được đội ngũ quan chức tài giỏi, mang trong mình sứ mệnh lo việc nước. Thứ ba, trong quá trình phát triển, Hàn Quốc xây dựng được quan hệ lành mạnh, hiệu quả giữa nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước yểm trợ để doanh nghiệp vươn ra thị trường thế giới nhưng có cơ chế để doanh nghiệp không ỷ lại vào nhà nước như buộc doanh nghiệp phải có thành quả xuất khẩu mới tiếp tục được hỗ trợ. Thứ tư, giáo dục, nghiên cứu khoa học và công nghệ được quan tâm hàng đầu. Vào giữa thập niên 1980, nghĩa là chỉ sau khoảng 25 năm từ khi bắt đầu quá trình phát triển, Hàn Quốc đã có những đại học, những viện nghiên cứu đạt chất lượng thuộc đẳng cấp quốc tế.
Những đặc trưng trên hầu như xuyên suốt trong quá trình phát triển, kể cả giai đoạn đầu, dưới thể chế độc tài chính trị (1961-1987). Hàn Quốc không phải không có tham nhũng, nhưng không tràn lan trong xã hội mà chỉ giới hạn ở một vài chính trị gia và một số ít tập đoàn kinh tế. Đặc biệt hầu như không có hiện tượng bòn rút của công, rút ruột công trình xây dựng, càng không dám lạm dụng, lãng phí tiền viện trợ.
Trong 50 năm qua, những nền kinh tế khác tại châu Á phát triển nhanh trong thời gian dài như Đài Loan, Malaysia, Thái Lan cũng đều có những đặc trưng giống Hàn Quốc, tuy nội dung chi tiết có khác và thành quả ít ấn tượng hơn.
Bây giờ nhìn lại trường hợp Việt Nam. Năm 2008, lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam vượt qua ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị trí của nước thu nhập thấp theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới. Nhưng ta đã mất gần 35 năm kể từ khi đất nước thống nhất, nếu kể từ khi đổi mới cũng gần một thế hệ mới đạt được thành quả khiêm tốn đó. Mặt khác, cơ chế, chính sách trong thời gian qua, đặc biệt trong 4-5 năm gần đây, đã làm cho kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào vốn, hiệu quả đầu tư giảm và kéo theo lạm phát, lãng phí. Chất lượng phát triển cũng giảm nghiêm trọng: môi trường xuống cấp, phân hóa giàu nghèo tăng nhanh. Từ thành quả khiêm tốn và chất lượng phát triển thấp này, liệu từ nay Việt Nam có thể bắt đầu giai đoạn phát triển bền vững và kéo dài trong nhiều thập niên để thực sự có dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, có vị trí xứng đáng trong khu vực châu Á và trên thế giới?
Cũng theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới, tính theo giá năm 2009, thu nhập đầu người 4.000 USD là cái mốc của nước thu nhập trung bình cao và 12.000 USD là mốc vượt lên hàng các nước thu nhập cao. Ở châu Á, Hàn Quốc từ một nước nghèo đã vươn lên hàng các nước thu nhập cao chỉ trong 4 thập niên (thu nhập đầu người năm 2009 là 17.000 USD). Malaysia (7.000 USD) và Thái Lan (4.000 USD) đang nỗ lực tạo điều kiện để trở thành nước tiên tiến, có thu nhập cao trong vòng hai thập niên tới.
Chỉ kể từ thời kỳ sau đổi mới, Việt Nam đã nhận viện trợ gần 20 năm rồi mà chưa thấy lãnh đạo Việt Nam đưa ra kế hoạch tới bao giờ sẽ không còn nhận viện trợ. Ngược lại, ở Hội nghị các nhà tài trợ mới đây, chính phủ còn nhấn mạnh Việt Nam vẫn là nước nghèo, cần thế giới tiếp tục quan tâm, giúp đỡ! Sang Seoul gặp sinh viên ta đang du học ở đấy sẽ nghe họ buồn rầu nói về hình ảnh Việt Nam tại Hàn Quốc. Trong khoảng 95.000 người Việt Nam tại đây thì 60.000 là lao động xuất khẩu và 30.000 là phụ nữ sang lấy chồng vì lý do kinh tế. Vậy thì hình ảnh Việt Nam ở đây làm sao tốt được? Trí thức nước ngoài hiện nay khi nói về Việt Nam ít có ai lạc quan về tương lai kinh tế nước ta. Đó là họ mới chỉ thấy tình trạng tham nhũng, trình độ của quan chức mà họ tiếp xúc và những chính sách bất cập mà họ thấy được.
Phân tích trong phần tiếp theo cho thấy thực trạng đáng lo ngại về kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học & công nghệ và đối ngoại, cũng như những nguyên nhân chính đã đưa đến trình trạng đó.
C. Việt Nam hiện nay: Thực trạng và nguyên nhân
Phân tích hiện trạng Việt Nam, chúng tôi thấy có quá nhiều vấn đề đang làm cho nền tảng xã hội bị lung lay, đất nước suy yếu. Hầu hết những vấn đề đó bắt nguồn từ thể chế và cơ chế.
1. Về kinh tế
Hiện nay trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam tuy hàng công nghiệp chiếm khoảng 60% nhưng chủ yếu vẫn là những ngành dùng nhiều lao động giản đơn. Thêm vào đó, sản xuất các mặt hàng này phải phụ thuộc vào nguyên liệu và sản phẩm trung gian nhập khẩu. Các loại máy móc, những sản phẩm có hàm lượng kỹ năng lao động cao chỉ chiếm khoảng 10% tổng xuất khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nông sản, nguyên liệu. Từ năm 2002 nhập siêu của Việt Nam tăng nhanh và gần đây khuynh hướng này càng mạnh hơn. Nhập siêu quá lớn đang gây ra bất ổn vĩ mô.
Trong 5 năm qua, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã đi theo hướng hầu như mở toang cửa nền kinh tế mà không kèm theo việc thiết lập một hệ thống pháp lý cần thiết nhằm giám sát các mặt trái của nền kinh tế thị trường. Kết quả là Việt Nam đã vô tình xây dựng và củng cố một nền kinh tế tư bản hoang dã phục vụ các nhóm lợi ích (nhất là các tập đoàn kinh tế), phá hoại tài nguyên thiên nhiên, bòn rút của công làm giàu cho cá nhân trong khi lao động chân chính phải khổ sở với đồng lương thấp trước sự leo thang của vật giá.
Từ năm 2006 Việt Nam cho phép lập các tập đoàn kinh tế nhưng không đi kèm quy định giám sát cần thiết cũng như điều kiện buộc phải xác lập hệ thống quản lý doanh nghiệp, minh định rõ trách nhiệm và quyền hạn của lãnh đạo công ty. Điều này đã đưa đến hậu quả nghiêm trọng, trở thành một trong những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng hiện nay. Sự đổ vỡ của Vinashin cho thấy bản chất của các tập đoàn kinh tế.
Chính sách phân quyền xuống địa phương đã không phát huy được sức sáng tạo và cạnh tranh để phát triển mà ngược lại, mở cửa cho những người có chức có quyền ở địa phương lợi dụng cơ hội đào khoét tài nguyên đất nước để làm giàu cá nhân, kể cả việc giao đất và tài nguyên cho nước ngoài khai thác ở những nơi trọng yếu về an ninh và quốc phòng. Luật Đất đai coi đất đai là sở hữu công, do đó dành cho chính quyền quyền thu hồi đất của bất cứ ai. Luật lại giao quyền này cho Ủy ban Nhân dân ở mọi cấp, xuống tận cấp quận, huyện, với giá do chính Ủy ban Nhân dân quyết định nhằm mục đích “phát triển kinh tế”. Đây chính là lý do nhiều đất đai mầu mỡ của nhân dân bị thu hồi để làm khu phát triển công nghiệp, sân gôn, hay xây nhà kinh doanh. Do được phân quyền, nhiều địa phương giao đất rừng, hầm mỏ cho công ty Trung Quốc khai thác trong 50 năm, kể cả những vùng nhạy cảm về an ninh mà trung ương không biết. Ngoài ra, tình trạng thu hồi đất có tính cách cưỡng chế đã giải thích tại sao có quá nhiều vụ dân oan liên quan đến đất đai.
Chính sách phân quyền hoàn toàn hợp lý để tạo sự chủ động, sáng tạo cũng như nhằm giải quyết các vấn đề riêng của địa phương, kể cả tạo cạnh tranh giữa địa phương này và địa phương khác. Nhưng thực tế các yếu tố tích cực đó đã không phát huy tác dụng, ngược lại chỉ làm nảy sinh các mặt tiêu cực. Tại sao như vậy? Đó là do năng lực yếu kém và thiếu tinh thần trách nhiệm của nhiều lãnh đạo địa phương như sẽ nói dưới đây.
Quy hoạch phát triển cũng là vấn đề đáng lo ngại của ta. Nhìn chung, cho đến nay quy hoạch nặng tính chất áp đặt, nóng vội, duy ý chí, thiếu thiết kế tổng thể và nhiều khi thiếu tính chuyên nghiệp. Những yếu kém này thể hiện ở nhiều lĩnh vực. Trong phát triển đô thị thì đó là việc quy hoạch vội vã, thiếu khoa học dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông liên tục và kéo dài, ngập úng do mưa, đào đường, đắp đường, chắn lô cốt … ở khắp mọi nơi. Trong đầu tư thì đó là tình trạng đầu tư theo phong trào, tràn lan kém hiệu quả như việc đầu tư trong nhiều dự án về kết cấu hạ tầng, về nhiều dự án phát triển công nghiệp và dịch vụ kém hiệu quả. Việc quy hoạch phát triển yếu kém dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên cạn kiệt, ồ ạt, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà không tính đến hiệu quả lâu dài; không xét đầy đủ đến tất cả các khía cạnh liên quan đến hiệu quả kinh tế, văn hóa, môi trường, v.v. Nhiều cảnh quan thiên nhiên và di tích văn hóa bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đặc biệt môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Điển hình của việc này là nhiều dòng sông đã và đang bị các công ty đua nhau “bức tử”. Nguồn nước sinh hoạt, nước trong các ao hồ từ các thành phố lớn đến nông thôn cũng bị ô nhiễm ở rất nhiều nơi. Chính do ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, ở nhiều vùng đã xuất hiện những “làng ung thư”. Điều này gióng lên hồi chuông cảnh báo cấp bách và đòi hỏi chính quyền phải có những biện pháp mạnh mẽ hơn nữa trong việc bảo vệ môi trường và chất lượng nguồn nước. Ngoài ra, ô nhiễm không khí cũng ở trạng thái báo động và ô nhiễm ở các làng nghề cũng ở mức nguy hiểm.
Nguyên nhân của tình trạng này là do thiếu nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của quy hoạch, do khả năng hạn chế của chính quyền địa phương, và không loại trừ những toan tính tư lợi hoặc lợi ích cục bộ của những người có trách nhiệm.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình hình kinh tế như hiện nay? Chúng tôi cho là có ba nguyên nhân sâu xa.
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì phương châm xây dựng “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” trong đó chủ trương vai trò chủ đạo của sở hữu nhà nước, của kinh tế nhà nước. Từ khi có phương châm này (1991), do sự thuyết phục của những người có tư tưởng cải cách, nội dung có thay đổi một phần nhưng cái cốt lõi vẫn giữ nguyên mà hiện thân của nó là các tập đoàn kinh tế do nhà nước lập ra. Nhiều tập đoàn kết nối với một số lãnh đạo làm thành những nhóm lợi ích chi phối chính sách kinh tế. Khi có sai phạm các lãnh đạo đó bám theo phương châm nói trên của Đảng để trốn trách nhiệm.
Thứ hai, trong cơ quan nhà nước, trách nhiệm cá nhân không rõ ràng và thiếu động cơ để quan chức, lãnh đạo các bộ phấn đấu để bộ mình giải quyết các vấn đề lớn của đất nước. Ngược lại, ta thấy nhiều trường hợp họ chạy theo những hoạt động ngoài công việc mình phụ trách, lãng phí thì giờ và công quỹ. Có bộ trưởng phụ trách kinh tế trong lúc kinh tế khủng hoảng lại dành thời gian hướng dẫn nghiên cứu sinh viết luận án tiến sĩ, vốn là việc của giáo sư đại học. Có cục trưởng phụ trách vấn đề giá cả trong lúc lạm phát người dân khốn đốn lại bỏ đi đóng phim! Suốt trong hơn 10 năm qua, ai cũng thấy rõ công nghiệp Việt Nam thiếu sức cạnh tranh, hàng hóa của Trung Quốc ào ạt tràn vào nước ta, doanh nghiệp nhỏ và vừa không phát triển được, v.v. Cũng đã có rất nhiều đề án, chiến lược được trí thức trong và ngoài nước đưa ra, kể cả phân tích của học giả nước ngoài và các cơ quan quốc tế, nhưng tất cả đều bị xếp lại, không được chuyển thành chính sách để thực hiện.
Thứ ba, một phần liên quan đến vấn đề thứ hai vừa đề cập, trình độ, năng lực, tư cách của rất nhiều quan chức các cấp ở trung ương và địa phương không đạt yêu cầu. Rất tiếc chúng ta chưa chứng kiến những hình tượng lý tưởng của nhà cầm quyền “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”, còn người ngược lại thì quá nhiều. Trong cơn bão giá làm dân chúng điêu đứng mà trách nhiệm chính ở những bộ liên quan, nhưng tiền mua xe hơi của quan chức cao cấp được tăng lên và được giải thích đó là chính sách đối phó với giá cả leo thang! Thí dụ tương tự về sự vô cảm, vô trách nhiệm của quan chức thì quá nhiều. Hậu quả tiêu cực của chính sách phân quyền đã nói phần lớn là do trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn và tư chất đạo đức của các chức trách địa phương. Chúng ta nghe nhiều về các hiện tượng tiêu cực ở địa phương hơn là những điển hình tiên tiến, ít thấy những lãnh đạo dấn thân vì dân giàu nước mạnh ở địa phương mình. Hiện tượng đưa người thân quen vào bộ máy công quyền rồi trang bị thêm bằng cấp đạt được bằng con đường bất minh cũng làm suy yếu bộ máy hành chính ở rất nhiều nơi
2. Về văn hóa
Văn hóa, đạo đức xã hội đang suy thoái trầm trọng. Chưa khi nào tin tức về tệ nạn xã hội lại có mật độ dày đặc như hiện nay. Dường như, cái xấu và cái ác đang hoành hành ngoài xã hội và tràn lên mặt báo mỗi ngày. Kỷ cương, phép nước bị coi thường, tính tự giác tôn trọng pháp luật và các quy ước xã hội và văn hóa rất thấp. Mê tín dị đoan lên ngôi, không chỉ ở tầng lớp đại chúng mà ngay ở cả một số cán bộ cao cấp ở các cơ quan công quyền. Hiện tượng “buôn thần bán thánh” trở thành phổ biến. Những chuẩn mực về văn hóa, những giá trị phổ quát như chân-thiện-mỹ đã bị sự giả dối, cái xấu và cái ác bóp nghẹt không nhân nhượng.
Hệ quả của điều này là các thang giá trị trong xã hội bị đảo lộn. Sự tự trọng, danh dự đã bị sự giảo hoạt, gian dối lấn át. Người ta sẵn sàng làm đồ giả để dâng cúng Quốc tổ, Quốc mẫu; sẵn sàng tranh cướp trong các lễ hội hoa; sẵn sàng túc trực chen lấn xô đẩy đến hỗn loạn trong lễ hội phát ấn.
Chưa bao giờ, nhân phẩm của con người có thể bị xúc phạm dễ dàng và tính mạng của con người có thể bị coi rẻ như vậy. Những vụ đánh giết nhau với hung khí xảy ra thường xuyên, nhiều khi chỉ vì những nguyên nhân không đâu. Không chỉ giữa những người dân bình thường với nhau, mà còn cả giữa đại diện của cơ quan công quyền với dân chúng. Vốn văn hóa dân tộc trở nên mỏng manh hơn bao giờ hết trước sự tấn công của văn hóa ngoại, đặc biệt là văn hóa Trung Quốc dưới mọi hình thức, thể loại.
Một điều hết sức đáng băn khoăn là thế hệ thanh thiếu niên đang lớn lên trong một môi trường thiếu hình mẫu cá nhân về lý tưởng và đạo đức, do vậy dễ quen một cách tự nhiên với các thói xấu như quay cóp, gian lận thi cử, đạo văn, hối lộ… Tính vị kỷ được đề cao, đi liền cùng sự thờ ơ với các vấn đề của xã hội, của đất nước.
Nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng suy thoái đạo đức, văn hóa này là sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan chức năng; sự băng hoại, tha hóa của nhiều công chức qua việc tham nhũng và hối lộ; và sự kiểm soát báo chí và truyền thông, – vũ khí mạnh nhất để chống lại tham nhũng, bất công, giả dối, ác độc – đã làm cho công luận bị hạn chế và vô hiệu hóa.
3. Về giáo dục
Giáo dục là vấn đề được toàn xã hội Việt Nam quan tâm nhất từ nhiều năm nay. Từ cuối thập niên 1990 nhà nước đã đưa giáo dục lên quốc sách hàng đầu, nhưng thực tế thì tình hình giáo dục ngày càng tụt hậu, sa sút, nhất là trong những năm gần đây. Một vài điểm nổi bật dễ thấy của giáo dục Việt Nam trong những năm qua như sau.
Một là chất lượng đào tạo sút kém, từ bậc phổ thông đến đại học và càng lên cao chất lượng càng yếu. Nhìn tổng thể, giáo dục Việt Nam chưa đào tạo đủ những người có kiến thức và năng lực để đáp ứng nhu cầu của phát triển đất nước. Nhân lực đào tạo ra ở cuối bậc đại học, cao đẳng và dạy nghề còn ở khoảng cách xa với đòi hỏi thực tế của các ngành nghề và xã hội.
Hai là hệ thống giáo dục phổ thông gây ra nhiều hiện tượng làm bức xúc trong xã hội như tổ chức quá nhiều kỳ thi, lãng phí sức người, sức của; dạy thêm, học thêm tràn lan; chương trình giáo dục và sách giáo khoa luôn thay đổi nhưng chất lượng không được cải thiện. Ngoài ra, bệnh thành tích và các tệ nạn tham nhũng trong giáo dục hết sức phổ biến.
Ba là giáo dục đại học có chất lượng nói chung còn thấp, gần đây lại phát triển hỗn loạn với nhiều trường tư chạy theo lợi nhuận lại được cấp phép bừa bãi, không đáp ứng một quy hoạch có cân nhắc nào. Tình trạng nói trên dẫn đến hiện tượng “tị nạn giáo dục”, khi những người giàu có ở Việt Nam, kể cả các quan chức trong Đảng và chính phủ, đều tìm cách cho con em ra nước ngoài học, thậm chí từ cấp phổ thông.
Bốn là bằng cấp trở thành mục đích, là cứu cánh của cả xã hội, và các tệ nạn học vẹt, học tủ, bằng giả, gian lận trong thi cử, … không hề được bài trừ một cách kiên quyết. Nhiều quan chức bị tố cáo trên báo chí về việc dùng bằng giả hay gian lận thi cử rồi cũng được bỏ qua, thậm chí được bổ nhiệm chức vị cao hơn. Hiện tượng mua bằng, sao chép luận án, thuê viết luận án, v.v. đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức học đường nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Năm là chế độ phong chức danh phó giáo sư và giáo sư ở đại học còn nhiều bất cập. Các tiêu chuẩn phong chức danh hiện nay không khuyến khích nhà giáo đại học hướng đến những nghiên cứu khoa học đích thực, có ý nghĩa mà thường làm những việc để dễ có “điểm” theo quy định không đâu có của việc phong chức danh. Ngoài ra, các chức danh này lẽ ra chỉ dành cho người giảng dạy đại học hoặc nghiên cứu khoa học, nay được phong ở nhiều ngành cho nhiều người vốn không có vị trí giảng dạy đại học hay nghiên cứu ở cơ quan khoa học, làm cho nhiều quan chức hành chính nhảy vào tham gia công việc của đại học một cách không thích đáng.
Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng sa sút của giáo dục đã được bàn luận rộng rãi, chúng tôi cho rằng các nguyên nhân sau đây là chính yếu.
Một là giáo dục của Việt Nam trong những năm qua thiếu một tầm nhìn chiến lược tổng thể; thiếu kiên quyết theo đuổi một triết lý giáo dục xác định; thiếu kế hoạch đồng bộ từ cơ cấu tổ chức đến triển khai các hoạt động giáo dục; ở rất nhiều nơi, sự cứng nhắc và áp đặt của hệ thống chính trị đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động giáo dục. Thêm nữa là nội dung giáo dục nặng nề, phương pháp dạy và học lạc hậu, chậm đổi mới; và trên hết là thiếu những người lãnh đạo ngành giỏi cùng một đội ngũ quản lý giáo dục hiệu quả. Những cố gắng thay đổi của ngành giáo dục trong những năm qua thường mang tính vụn vặt, chắp vá, nhiều khi do quyết định vội vã của một vài cá nhân và càng làm tình hình thêm rối.
Hai là lương của giáo viên quá thấp làm họ không thể vô tư toàn tâm toàn ý với công việc. Do giáo viên phải tự bươn chải trong một xã hội cha mẹ sẵn sàng làm mọi việc cho sự học của con cái, nhiều tiêu cực đã nảy sinh, ảnh hưởng đến tư cách và hình ảnh người thầy, vốn là điều kiện tiên quyết cho thành bại của giáo dục.
4. Về y tế
Tình trạng bệnh tật và y tế của nước ta thật hết sức đáng lo.
Số người chết vì tai nạn giao thông làm nhức nhối xã hội, nhưng nguyên nhân tử vong trong các bệnh viêm phổi, viêm họng, viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp, tiêu chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn, cúm, sốt rét còn cao hơn nhiều. Mẫu số chung của các bệnh này là tình trạng thiếu dinh dưỡng vì nghèo khó, là môi trường bị ô nhiễm trầm trọng, là sự bất cập trong chính sách về y tế và thiếu đạo đức nghề nghiệp của người thầy thuốc.
Dịch vụ y tế ở Việt Nam có phát triển trong những năm vừa qua (số lượng cán bộ nhà nước làm về y tế tăng xấp xỉ 40% trong giai đoạn 1995-2009, và có thêm nhiều cơ sở y tế tư nhân xuất hiện), nhưng tình trạng quá tải ở các bệnh viện công, với hiện tượng 2-3 người phải nằm chung một giường bệnh ở nhiều nơi, không giảm đi mà thậm chí có phần tăng lên. Lý do là, tuy dịch vụ y tế tăng lên, nhưng bệnh tật ở Việt Nam còn tăng nhanh hơn. Ví dụ, nếu năm 2000 cứ 100 nghìn người có 242 ca ung thư, thì đến năm 2010 con số này đã tăng lên thành 315 ca, so với trung bình trên thế giới là dưới 200 ca. Nếu như trong giai đoạn 2002-2006 cứ 100 người thì có 9 lượt nhập viện trong năm, thì đến năm 2009 con số đó đã tăng hơn 30% thành 12 lượt nhập viện, thuộc loại cao nhất trên thế giới. Tỷ lệ bệnh tật tăng nhanh là cái giá mà Việt Nam đang phải trả cho kiểu phát triển kinh tế thiếu bền vững, thói làm ăn giả dối dẫn đến môi trường bị ô nhiễm và thực phẩm độc hại.
Tương tự như đối với ngành giáo dục, nhà nước ở trung ương và địa phương chưa chú tâm đầu tư đúng mức đến ngành y tế, trong khi tiếp tục lãng phí trong việc xây dựng nhiều công trình không hoặc chưa cần thiết. Tỷ lệ chi phí mà nhân dân phải tự bỏ ra cho dịch vụ y tế tăng lên nhanh. Nhiều người nghèo có bệnh không được nhập viện, hay phải trốn viện vì không có tiền đóng viện phí. Lương chính thức trả cho các y bác sĩ không đủ sống và không xứng đáng với địa vị của họ. Những điều này góp phần làm cho các tệ nạn tiêu cực, sự suy đồi về đạo đức lan tràn vào trong ngành y tế. Người thầy giáo và người thầy thuốc vốn là những người được xã hội ta tôn trọng từ xưa, nhưng sự suy thoái về đạo đức đã làm phai nhạt đi truyền thống tốt đẹp này.
5. Về khoa học và công nghệ
Có thể nói những đặc điểm chính của khoa học và công nghệ (KH&CN) Việt Nam trong mấy chục năm qua là sự đóng góp còn rất hạn chế của KH&CN vào công cuộc phát triển đất nước; lực lượng làm KH&CN được đào tạo nhiều nhưng không làm việc hiệu quả; các chính sách và cách thức tổ chức hoạt động KH&CN còn nhiều bất cập.
Có thể tóm tắt những điểm nổi bật của bức tranh tổng quát về tình trạng khoa học và công nghệ của Việt Nam hiện nay, như sau:
Thứ nhất, có thể nói hoạt động nghiên cứu và ứng dụng KH&CN ở Việt Nam còn mờ nhạt: hoạt động nghiên cứu KH&CN có chất lượng thấp và KH&CN chưa có những đóng góp xứng đáng cho sự phát triển đất nước.
Chất lượng thấp này có thể thấy rõ qua các thước đo khách quan như số lượng các công trình công bố trên các tập san khoa học quốc tế uy tín và số bằng phát minh sáng chế. Trong 10 năm qua, số lượng công bố của các nhà khoa học Việt Nam chỉ bằng 1/3 của Thái Lan và 2/5 của Malaysia. Hơn nữa, ở nhiều lĩnh vực, phần lớn những nghiên cứu này là do hợp tác với nước ngoài, tức còn phụ thuộc vào “ngoại lực” quá nhiều. Trong giai đoạn 2000-2007, các nhà khoa học Việt Nam chỉ đăng kí được 19 bằng phát minh, trong khi cùng thời gian này Malaysia có 901 bằng phát minh. Thái Lan (310), Philippines (256) và Indonesia (85) cũng đều có số bằng phát minh nhiều hơn Việt Nam nhiều lần.
Ứng dụng và sáng tạo KH&CN trong sự phát triển của Việt Nam còn mờ nhạt, chưa tương xứng với lực lượng đông đảo cán bộ KH&CN được đào tạo và chưa đáp ứng được đòi hỏi của xã hội. Kinh phí đầu tư, chính sách và cách quản lý chưa cho thấy KH&CN khó có thể trở thành yếu tố quyết định để Việt Nam thoát ra khỏi nhóm quốc gia chủ yếu chỉ sản xuất sản phẩm đơn giản hay gia công hàng hóa. Hiện tại, phần lớn doanh nghiệp làm ăn chưa dựa trên KH&CN và hầu hết không có liên kết chặt chẽ với các cơ sở KH&CN.
Thứ hai là số người được đào tạo để hoạt động KH&CN tuy rất đông với nhiều bằng cấp, nhưng phần lớn không thật sự hoạt động KH&CN, mà lay lắt hoặc “chân trong chân ngoài” với danh nghĩa làm KH&CN.
Có thể nêu ra một số nguyên nhân chính của tình trạng trên:
Một là, Việt Nam thiếu một chiến lược KH&CN thích hợp nên chưa xác định được lộ trình của KH&CN, và tập trung vào những hướng quan trọng rất cần cho phát triển đất nước và có thể tạo ra thành quả ý nghĩa. Hạn chế này có phần do việc thiếu các chuyên gia đầu đàn ở mức độ am hiểu sâu sắc lĩnh vực chuyên môn, có kinh nghiệm và uy tín quốc tế, có thể lãnh đạo được những tập thể khoa học. Một nguyên nhân của tình trạng trên là: Tuy số lượng cán bộ KH&CN của ta được đào tạo nhiều, nhưng hầu hết chỉ ở mức vừa xong giai đoạn học việc (như có bằng tiến sĩ mới là xong giai đoạn học để thành người làm nghiên cứu), thường không được rèn luyện thêm trong môi trường KH&CN phát triển để thành nhà khoa học trưởng thành.
Hai là, các nhà khoa học Việt Nam chưa có được môi trường KH&CN thích hợp để có thể làm việc và sáng tạo. Môi trường này gồm ba yếu tố cơ bản: điều kiện làm việc đủ tốt, lương đủ sống để tập trung cho công việc, các chính sách hợp lý có tác dụng kích thích tinh thần sáng tạo, dấn thân vì khoa học. Điều kiện làm việc ở phần lớn các đại học và các viện nghiên cứu của Việt Nam nói chung còn thiếu thốn, chưa đủ để tiến hành nhiều đề tài quan trọng và tiên tiến trong khoa học. Một số nơi có trang thiết bị tốt, lại không giải quyết được vấn đề tiền lương. Tiền lương của người làm khoa học thấp vừa ảnh hưởng đến nội dung, chất lượng nghiên cứu vừa gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực, người có năng lực nghiên cứu cũng không chuyên tâm với nghề mà phải xoay xở tìm thêm thu nhập ngoài lương.
Nhiều chính sách và cách quản lý đề tài KH&CN chưa hợp lý cũng góp phần làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của nghiên cứu. Thí dụ tiêu biểu như cách tổ chức đề tài khoa học còn nặng tính xin-cho, làm nhiều người làm nghiên cứu mất nhiều thì giờ chạy dự án; việc tuyển chọn và nghiệm thu đề tài thiếu nghiêm túc nên rất nhiều đề tài không có ý nghĩa và giá trị khoa học. Những quy định, tiêu chuẩn hiện nay về việc phong các chức danh giáo sư, phó giáo sư không khuyến khích các nhà khoa học hướng đến những nghiên cứu quan trọng và thách thức, có giá trị khoa học cao hoặc cần cho sự phát triển, mà dễ hướng đến những nghiên cứu dễ làm, những nơi dễ công bố để có đủ “điểm” thỏa mãn các tiêu chuẩn phong chức danh, vốn không có ở bất kỳ nước nào khác. Đây thật sự là những điều rất không hợp lý đã được nhiều nhà khoa học góp ý gần hai chục năm, nhưng không được thay đổi.
Người làm nghiên cứu trong ngành khoa học xã hội còn luôn nỗi ám ảnh sợ “chệch hướng”, mất lập trường, nên nói chung sáng tạo bị hạn chế, khoảng cách so với cộng đồng khoa học thế giới càng lớn. Ngoài ra, ngược với yêu cầu rất cao về sự bình đẳng, sự tự do tư duy của môi trường khoa học, việc mất dân chủ ở các cơ quan khoa học thường rất lớn, nhiều trường hợp nội bộ mâu thuẫn, giành giật địa vị, hoàn toàn không xứng đáng với phẩm vị của người làm khoa học.
6. Về quan hệ đối ngoại
Sau khi gia nhập ASEAN và bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Việt Nam mở rộng quan hệ ngoại giao, kinh tế và giao lưu văn hóa với hầu hết các nước. Sau năm 2000, quan hệ đó được đẩy mạnh thêm một bước bằng Hiệp định thương mại Việt Mỹ và gia nhập WTO. Cùng với trào lưu toàn cầu hóa, kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ vào dòng chảy của thế giới, các quan hệ đối ngoại khác cũng nhộn nhịp hơn trước.
Có thể ghi nhận nhiều mặt tích cực của hiện tượng đó. Chẳng hạn xuất khẩu sang thị trường lớn nhất thế giới (Mỹ) được đẩy mạnh, cơ hội du học của sinh viên Việt Nam tăng nhanh, giành được vị trí trong các tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN, APEC, WTO. Nhưng nhìn kỹ ta thấy những mặt tiêu cực lớn hơn nhiều, rất đáng lo ngại.
Theo chúng tôi, so với thời mới đổi mới, mở cửa (đầu thập niên 1990), hình ảnh Việt Nam trên thế giới xấu đi nhiều. Tham nhũng lan ra cả trong các quan hệ quốc tế. Chỉ kể những sự kiện lớn (như dự án ODA của Nhật, vụ in tiền polymer ở Úc,…) cũng thấy thể diện đất nước bị tổn thương nhiều. Các vụ nhỏ hơn thì nhiều vô kể, chỉ cần gặp những doanh nhân nước ngoài có kinh nghiệm làm việc ở Việt Nam là biết rõ. Điều đáng nói là nhà nước Việt Nam đã không có thái độ thích đáng, không xử lý nghiêm những sự kiện bị nước ngoài chỉ trích. Điển hình là vụ in tiền polymer, báo chí nước ngoài nhiều lần nêu tên thật của cựu thống đốc ngân hàng nhà nước mà cả đương sự và chính phủ đều giữ im lặng. Là người Việt Nam có ý thức dân tộc ai cũng thấy hổ thẹn về sự kiện này.
Nhìn sang lĩnh vực đầu tư nước ngoài, ta thấy nổi bật lên sự hiện diện rất lớn của Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và gần đây là Trung Quốc. So với các nước tiên tiến như Mỹ, Nhật, Pháp,.. thì những nước mới nổi, mới phát triển chưa có nhiều những công ty đa quốc gia tầm cỡ; chưa có công nghệ cao; chưa coi trọng sự minh bạch, hoạt động đúng theo luật và nhất là giữ thanh danh đã được xác lập của mình. Không ít trường hợp các công ty của những nước mới nổi tạo những quan hệ bất chính với quan chức nhà nước Việt Nam, nhất là với chính quyền địa phương, để được cấp các dự án béo bở. Chúng tôi rất lo ngại khi thấy nhà nước Việt Nam quá dễ dãi để cho tư bản nước ngoài đầu tư ồ ạt vào việc xây dựng các khu nhà ở quy mô lớn, các khu du lịch, sân gôn, v.v. và hình thành những cộng đồng người Hàn, người Hoa trên đất nước mình. Trong khi giới doanh nhân trong nước còn non yếu, chưa có khả năng làm chủ đất nước và cuộc sống của tuyệt đại đa số người dân còn nhiều khó khăn, liệu có nên để cho nước ngoài xây dựng những vùng đặc biệt như vậy? Trong nhiều năm qua, đầu tư nước ngoài triển khai ồ ạt ở Việt Nam mà cơ cấu công nghiệp không chuyển dịch lên cao hơn, không tạo ra được những mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao.
Trong chiều hướng chung ấy, quan hệ với Trung Quốc là đáng lo nhất. Đầu tư của Trung Quốc chưa nhiều bằng những nước nói trên nhưng sự hiện diện của Trung Quốc trong những hình thái khác đang làm Việt Nam mất dần chủ quyền trong nhiều lĩnh vực. Nếu tình hình hiện tại không thay đổi thì đầu tư trực tiếp từ Trung Quốc sẽ tăng nhanh, không bao lâu sẽ chiếm vị trí số một tại Việt Nam.
Hiện nay, quan hệ ngoại thương Việt Trung gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô của Việt Nam, tiềm ẩn nguy cơ về an ninh kinh tế và gây khó khăn trên con đường công nghiệp hóa của ta. Mậu dịch giữa hai nước tăng nhanh từ năm 2000 nhưng ngày càng mất quân bình. Do nhập khẩu tăng nhanh, nhập siêu của Việt Nam đối với Trung Quốc ngày càng mở rộng. Hiện nay nhập siêu của Việt Nam đối với thế giới chủ yếu là nhập siêu với Trung Quốc.
Nhìn cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc ta thấy nguyên liệu và nông sản phẩm chiếm vị trí áp đảo. Cơ cấu này hầu như không thay đổi trong 10 năm qua. Nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc thì hầu hết là hàng công nghiệp. Các loại máy móc và các sản phẩm trung gian như sắt thép, thậm chí các loại vải để dệt may là những mặt hàng nhập khẩu chính. Theo Hiệp định thương mại ASEAN – Trung Quốc, đến năm 2015 Việt Nam sẽ bãi bỏ hàng rào quan thuế trên hầu hết các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, tình hình sẽ càng bi đát hơn nữa. Con đường công nghiệp hóa của Việt Nam sẽ rất khó khăn. Nhưng chính phủ Việt Nam không thấy nguy cơ đó dù đã được trí thức trong và ngoài nước cảnh báo nhiều lần. Ngược lại nhà nước còn cho tiến hành khai thác bô-xit để xuất khẩu sang Trung Quốc làm cho cơ cấu ngoại thương hiện nay đã bất lợi càng trở nên bất lợi hơn. Cần nói thêm rằng tính chất của ngoại thương Việt Trung hiện nay là quan hệ của một nước tiên tiến với một nước chậm phát triển. Tính chất này vừa tạo ra khó khăn cho kinh tế Việt Nam vừa làm hình ảnh Việt Nam trên thế giới xấu đi nhiều.
Thách thức từ Trung Quốc không chỉ trong ngoại thương. Các công ty Trung Quốc thắng thầu phần lớn các dự án trọng điểm quốc gia của Việt Nam. Trung Quốc với lối làm ăn không minh bạch, sẵn sàng mua chuộc, lại quả, nên dễ thắng phần lớn các gói thầu lớn ở Việt Nam. Theo ước tính, Trung Quốc chiếm khoảng 50% giá trị thầu trong vòng 10 năm nay, đặc biệt Trung Quốc thắng thầu tới 90% các dự án trọng điểm về điện, dầu khí, viễn thông, cơ khí, hóa chất và 100% dự án khai khoáng. Trong việc thực hiện các dự án này, Trung Quốc đưa nhiều lao động đi theo, kể cả các hình thức bất hợp pháp, thậm chí hình thành những khu cư trú đặc biệt cho người Hoa. Ngoài ra, nhiều chính quyền địa phương còn cho công ty Trung Quốc thuê rừng, thuê bờ biển hàng nửa thế kỷ, kể cả những nơi nhạy cảm nhìn từ góc độ an ninh quốc gia.
Một vấn đề nữa là Việt Nam ngày càng vay nợ từ Trung Quốc. Theo số liệu chính thức của Bộ Tài chính Việt Nam, nợ từ Trung Quốc tăng rất nhanh, gấp 10 lần trong 4 năm gần đây (1,4 tỉ USD năm 2009). Nếu khuynh hướng này tiếp tục, chẳng bao lâu Trung Quốc sẽ trở thành chủ nợ lớn nhất và lớn áp đảo đối với Việt Nam.
Quan hệ Việt Trung cũng ảnh hưởng nhiều đến đường lối đối ngoại của Việt Nam. Vấn đề này sẽ được bàn riêng trong một mục ở phần D.
Trong thời đại hội nhập, quan hệ đối ngoại của Việt Nam như được trình bày trên đây hoàn toàn không lành mạnh, ảnh hưởng đến con đường phát triển sắp tới của Việt Nam và tiềm ẩn nguy cơ mất chủ quyền. Yếu tố nào gây ra tình trạng đáng lo này? Có thể kể hai nguyên nhân chính:
Thứ nhất, nội lực của Việt Nam quá yếu nên khi hội nhập với thế giới không hoặc ít tranh thủ được thời cơ từ ngoại lực để phát triển, ngược lại bị ngoại lực chi phối. Thị trường Trung Quốc lớn và rộng nhưng hàng hóa của Việt Nam không chen vào được. Nội lực yếu vì sao? Vì trình độ của nhiều lãnh đạo và quan chức có hạn, không ít trường hợp họ không vì dân vì nước mà vì lợi ích riêng, sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho nước ngoài dù thấy bất lợi cho xã hội, cho đất nước. Mở tung cửa thị trường cho hàng hóa và tư bản nước ngoài mà không định hướng để phát triển những ngành mới và có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, không đi kèm các luật lệ, quy định cần thiết để giám sát cũng là một biểu hiệu yếu kém của nội lực.
Thứ hai, trong lúc nội lực của Việt Nam còn quá yếu, quan hệ “đặc biệt” với Trung Quốc càng làm cho Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào nước này. Kinh tế Trung Quốc lớn, mạnh áp đảo, phát triển nhanh, và lại ở cận kề Việt Nam, trong khi kinh tế Việt Nam nhỏ yếu, phát triển chậm hơn mà Việt Nam lại sẵn sàng đồng ý “hợp tác toàn diện” (4 trong 16 chữ vàng), tạo mọi điều kiện để hợp tác toàn diện thì dẫn đến kết quả như đã thấy.
7. Tổng kết: Đâu là những nguyên nhân sâu xa?
Trên đây chúng tôi đã điểm qua thực trạng kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học và đối ngoại của Việt Nam hiện nay và trình bày một số nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng đó. Nổi lên trên hết là hai nguyên nhân cơ bản, chung cho tất cả các mặt của xã hội:
Thứ nhất, thể chế còn thiếu dân chủ. Có thể nói rằng thể chế hiện nay là di sản của thời chiến tranh, bao cấp và chủ nghĩa xã hội kiểu Lênin-Stalin, với đặc điểm cơ bản là hạn chế dân chủ, hạn chế tự do tư tưởng, thiếu tinh thần thượng tôn pháp luật. Hệ quả là xã hội suy giảm tính năng động và hiệu quả, hạn chế sáng tạo trong khoa học và giáo dục, không chống được suy thoái giá trị đạo đức và văn hóa, bất công và cách biệt xã hội tăng lên, và không khuyến khích việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển. Chế độ tiền lương bất hợp lí trong cơ chế “xin cho” đã đẩy nhiều công chức vào con đường tham nhũng, và làm cho nhiều nhà giáo, bác sĩ, nhà khoa học, … không chuyên tâm với nghề nghiệp và không giữ được đức tính cao đẹp vốn có từ xưa. Hoàn toàn đáng lo ngại khi thể chế hiện nay đang hạn chế sức mạnh của đất nước và làm lung lay nền tảng của xã hội.
Thứ hai, là hệ quả của nguyên nhân thứ nhất, trong thành phần lãnh đạo đất nước chưa có nhiều người tài giỏi, bản lĩnh, chịu trách nhiệm cao và quy tụ được bên mình những trí thức và cộng sự chân chính. Từ trung ương đến địa phương, nhiều quan chức thiếu cả năng lực và đạo đức cần thiết. Tình trạng bằng cấp giả và chạy chức chạy quyền đã trở thành vấn nạn nhức nhối. Việc lợi dụng vị trí công quyền để trục lợi cá nhân đang là hiện tượng phổ biến ở nhiều cán bộ nhà nước. D. Cải cách vì một nước Việt Nam giàu mạnh và tự chủ 1. Cải cách thể chế là quan trọng nhất
Có thể nói Việt Nam chúng ta đang đứng trước một bước ngoặt lịch sử. Phải có cuộc cách mạng về thể chế mới tránh được nguy cơ này và đưa đất nước phát triển bền vững. Ai sẽ đảm nhận cuộc cách mạng mới này và nội dung cốt lõi của cuộc cách mạng là gì?
Chúng tôi cho rằng ở thời điểm này chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới thực hiện được cuộc cách mạng này. Đảng Cộng sản Việt Nam cần tự thay đổi để lãnh đạo dân tộc bước vào một thời đại mới, thời đại củng cố và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc để đất nước trở nên giàu mạnh, tự chủ. Đó cũng chính là sức mạnh to lớn mà Đảng cộng sản Việt Nam (trước đây là Đảng Lao động Việt Nam) đã phát huy, đã phấn đấu, hy sinh trong suốt lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Cuộc cách mạng thể chế này, theo chúng tôi, bao gồm những khía cạnh sau:
Thứ nhất, không áp đặt một hệ tư tưởng, một ý thức hệ duy nhất vào thể chế chính trị, vào đời sống của dân, vào các hoạt động kinh tế – giáo dục – văn hóa – báo chí, để tạo điều kiện cho người dân, nhất là giới trẻ tiếp cận được những tinh hoa, những tiến bộ của thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh nếu chỉ biết Mác-Lênin, không tiếp thu mọi tư tưởng tiến bộ của thế giới thì đã không viết được bản Tuyên ngôn độc lập gói ghém những giá trị phổ quát của nhân loại. Trên thực tế, chính Đảng Cộng sản đã từ bỏ nhiều khẩu hiệu phi lý một thời đã được cường điệu. Chẳng hạn “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” từng là một trong những khẩu hiệu được phổ biến rộng rãi (sau năm 1975) nhưng đã dần dần biến mất. Đó là một sự thay đổi tích cực cần ghi nhận. Mong rằng Đảng Cộng sản tiến thêm một bước tránh dùng các cụm từ như “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” để các thế lực bảo thủ vì lợi ích riêng không thể dựa vào đó để làm cho đất nước trì trệ, lạc hậu. Chúng tôi cho rằng Đảng Cộng sản chỉ giữ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là hợp lòng dân.
Ra khỏi sự ràng buộc vào một ý thức hệ cũng sẽ giúp cho Việt Nam độc lập với Trung Quốc về mặt này và đi trước Trung Quốc về cải cách thể chế. Làm được điều này, Đảng Cộng sản vừa được lòng dân vừa tạo được uy tín trên thế giới.
Thứ hai, phải triệt để thực hiện dân chủ, đúng như quy định của Hiến pháp và đúng như trong Cương lĩnh mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra. Đảng phải làm thế nào để nhân dân thấy rằng đó không phải là khẩu hiệu mà chính là khát khao, trăn trở thường xuyên của lãnh đạo, của nhà cầm quyền để mọi người dân thật sự được tham gia bàn bạc và quyết định việc chung. Để thực hiện dân chủ trong khuôn khổ pháp lý hiện nay, chỉ cần triển khai và thật sự áp dụng nội dung của Hiến pháp.
Trước hết, phải thực sự tôn trọng các quyền mà Hiến pháp đã ghi rõ, đặc biệt là quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và quyền bình đẳng trước pháp luật. Đầu tiên là quyền tự do báo chí. Muốn biết một nước có dân chủ hay không, chỉ cần nhìn tình trạng báo chí là thấy. Mà tình trạng báo chí trong nước ta thì nhân dân thấy rõ là chưa làm được nhiệm vụ thông tin trung thực và soi sáng được dư luận. Tiếp theo là quyền bình đẳng trước pháp luật. Bình đẳng trước pháp luật có nghĩa rằng luật pháp là ở trên cao nhất, tối thượng, ai cũng ngang nhau và đều ở dưới pháp luật. Vậy mà nhân dân thấy quá nhiều người có quyền chức tự cho mình quyền đứng cao hơn người khác, thậm chí cao hơn cả pháp luật. Như vậy là ta chưa tiến được bước nào, thậm chí còn đi lùi, trên con đường “nhà nước pháp quyền” mà chính Hiến pháp đã đề xuất. Bình đẳng trước pháp luật bao hàm bình đẳng trước công vụ như một hệ quả tất nhiên. Do đó, những phân biệt đối xử như lý lịch, đảng viên hay không, đều là trái với Hiến pháp. Bình đẳng trước công vụ, ai cũng có quyền bầu cử, ứng cử như nhau, ai cũng phải được tuyển dụng vào các cơ quan hành chính trên cơ sở duy nhất là năng lực và tinh thần trách nhiệm. Chỉ với biện pháp đó, thực hiện triệt để, nền hành chính của ta, từ trung ương đến địa phương, mới có thể tuyển dụng được người tài giỏi xứng đáng.
Thứ hai, triệt để tôn trọng nguyên tắc “Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất”. Đảng Cộng sản phải thực sự thực hiện nguyên tắc đó để làm nhân dân tin rằng lá phiếu của mình chắc chắn góp phần vào việc xây dựng một cơ quan xứng đáng là đại diện toàn dân.
Thứ ba, bảo đảm có hệ thống tòa án độc lập là sự phân quyền vô cùng quan trọng. Để có được sự độc lập và bảo đảm khả năng chuyên môn về luật pháp, các thẩm phán cần phải được tuyển dụng như công chức, được bổ nhiệm theo một quy chế riêng có mục đích bảo vệ tính độc lập của họ. Thẩm phán ở cấp cao có trách nhiệm bổ nhiệm thẩm phán cấp dưới, cần có nhiệm kỳ dài, chỉ bị truất quyền giữa nhiệm kỳ nếu vi phạm luật pháp.
Cần nhấn mạnh điều này: Nếu Đảng đứng trên hiến pháp và quyết định thay cho Quốc hội và tòa án thì tình trạng mãi kéo dài như hiện giờ: Nhiều sai phạm lớn của cán bộ, đảng viên chỉ được xử lý nội bộ, được bao che, nên không phòng chống được tham nhũng, và kết quả là mất lòng dân và bộ máy nhà nước kém hiệu lực.
Thứ tư, cần tạo cơ chế công khai, minh bạch, thực sự dân chủ, trước hết là trong Đảng để có thể chọn lựa và làm xuất hiện những nhà lãnh đạo xứng tầm với trí tuệ của dân tộc, được dân tin tưởng và được thế giới kính trọng. Không nên tiếp tục cách làm hiện nay là dàn xếp trong nội bộ Đảng rồi đưa ra Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm.
Chúng tôi thẳng thắn nêu những vấn đề này chỉ với mong muốn Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là tổ chức lãnh đạo đất nước, không bị trói buộc bởi những giáo điều, những mô hình đã bị thực tế lịch sử loại bỏ. Những giấc mơ, những lý tưởng tốt đẹp cần được chứng minh từng bước bằng thực tế, bằng kết quả hiện thực chứ không chỉ bằng duy ý chí, và bị lợi dụng bởi một nhóm người cầm quyền, dùng giáo điều, dùng khẩu hiệu để củng cố quyền lực và lợi ích phe nhóm mà hậu quả là đất nước tụt hậu và tha hóa…
Nếu bốn điểm nói trên được thực hiện, dân chúng sẽ tin tưởng ở Đảng Cộng sản, tin tưởng ở người lãnh đạo và hy vọng về một đất nước tốt đẹp hơn. Do đó dân chúng nếu có bất mãn và phê phán lãnh đạo hay quan chức thì chỉ là đối với cá nhân chứ không phải đối với Đảng Cộng sản. Ngược lại, dân chúng được tự do sử dụng các quyền chính đáng của mình thì chính là giúp Đảng phát hiện ra những người không đủ tư chất đảm trách công việc lãnh đạo hay quản lý. Thực hiện dân chủ cũng là biện pháp hữu hiệu để phòng chống tham nhũng.
Ngoài ra, Đảng Cộng sản cần quan tâm hơn đến vấn đề đoàn kết dân tộc. Nếu những điểm nói trên được thực hiện thì kết quả là gắn bó được dân với Đảng và thực hiện được đoàn kết. Tuy nhiên, cần đưa ra các chính sách cụ thể, chẳng hạn nghiêm cấm việc lạm dụng quyền lực để đề bạt người thân, có quy chế luật lệ nghiêm khắc để xử lý các trường hợp sai phạm. Việc cất nhắc, đề bạt không dựa trên lý lịch chính trị mà theo năng lực và tư chất đạo đức. Đảng và Nhà nước cần nghiêm chỉnh thực hiện chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc đối với cựu quan chức và quân nhân của chế độ cũ ở Miền Nam, nhất là trong bối cảnh cần đoàn kết dân tộc trước yêu cầu tăng nội lực để phát triển đất nước và trước nguy cơ ngoại xâm. Đặc biệt trong tình hình phức tạp ở biển Đông, để cổ vũ lòng yêu nước của mọi người dân không phân biệt chính kiến, quá khứ, chúng tôi đề nghị nên có hình thức biểu dương sự dũng cảm hy sinh của quân đội Việt Nam Cộng hòa ở Hoàng Sa năm 1974.
Trong việc thúc đẩy sự hòa giải và hòa hợp dân tộc, cần có biện pháp hữu hiệu để người Việt ở nước ngoài hợp tác với các cơ sở trong nước, nhất là trong nghiên cứu khoa học, trong giáo dục và phát triển kinh tế, để cùng làm cho đất nước giàu mạnh.
2. Củng cố bộ máy nhà nước.
Một chính phủ mạnh và hiệu quả là điều kiện tối cần thiết để kinh tế phát triển nhanh và có chất lượng cao. Để củng cố bộ máy nhà nước, cần cải cách chế độ tiền lương và thực hiện việc thi tuyển quan chức. Đây là vấn đề cốt lõi của nhiều vấn đề.
Cải cách chế độ tiền lương là một việc tuy khó nhưng cấp bách và không thể trì hoãn, vì nếu không sẽ không thể giải quyết được vấn đề nào khác. Thiết nghĩ, đây là vấn đề nan giải nhưng không hẳn là không có giải pháp nếu nhà nước thực lòng quyết tâm. Trước mắt, chúng tôi đề khởi một số nội dung cải cách như sau:
Thứ nhất, hiện tượng phổ biến hiện nay là tiền lương chỉ chiếm một phần nhỏ trong thu nhập của quan chức, công chức, thầy giáo, v.v.. Do đó, trước tiên phải minh bạch hóa các nguồn thu nhập này và lần lượt đưa vào lương.
Thứ hai, cải cách thuế để tăng thu ngân sách. Đặc biệt cần đánh thuế lưu thông bất động sản, đánh thuế suất cao đối với những người sở hữu nhiều bất động sản, và đánh thuế thừa kế tài sản.
Thứ ba, tăng tỉ lệ tiền lương trong tổng thu ngân sách. Trước mắt giảm tỉ lệ đầu tư công lấy từ ngân sách, hoãn những dự án đầu tư lớn cần nhiều vốn nhưng chưa thật cần thiết..
Thứ tư, tinh giảm bộ máy công quyền ở trung ương và địa phương.
Chúng tôi đề nghị nhà nước lập ra ngay một ban chuyên trách về cải cách tiền lương gồm các chuyên gia kinh tế, tài chính, hành chánh. Ban chuyên trách này sẽ khẩn trương nghiên cứu, xem xét 4 nội dung cải cách nói trên, để trong thời gian ngắn đưa ra đề án cải cách khả thi.
Quan chức, công chức phải là những người được tuyển chọn nghiêm túc qua các kỳ thi định kỳ và cuộc sống của họ và gia đình họ phải được bảo đảm bằng tiền lương. Tiền lương cũng phải đủ sức hấp dẫn người có năng lực vào bộ máy công quyền. Nội dung các kỳ thi tuyển cho quan chức cấp trung trở xuống cũng cần chú trọng trình độ văn hóa và sự hiểu biết về luật pháp và cơ cấu hành chánh. Quan chức cấp trung ương, cũng với nội dung ấy nhưng ở trình độ cao cấp hơn và thêm các chuyên môn cần thiết. Trình độ văn hóa và sự khó khăn phải vượt qua các cửa thi tuyển sẽ nâng cao khí khái và lòng tự trọng của quan chức, tránh hoặc giảm được tệ nạn tham nhũng. Việc thi tuyển quan chức còn có tác dụng tạo niềm tin và động lực học tập trong giới trẻ vì ai cũng có cơ hội bình đẳng thi thố tài năng cho việc nước. Chế độ tiền lương và việc thi tuyển quan chức cần được thực hiện trong vòng 3-4 năm tới.
3. Về chiến lược, chính sách phát triển kinh tế
Đây là vấn đề khá rộng và lớn, ở đây chỉ xin nói đến mấy điểm chúng tôi cho là quan trọng nhất. Nguồn lực lớn nhất của Việt Nam là con người. Chiến lược phát triển phải vì cuộc sống của đại đa số dân chúng và chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực ngày càng có kỹ năng cao qua giáo dục và đào tạo, qua khả năng làm chủ công nghệ.
Hiện nay xuất khẩu lao động và phụ nữ lấy chồng nước ngoài vì lý do kinh tế đang là hiện tượng làm bức xúc người dân và ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên thế giới. Chúng tôi đề nghị nhà nước đưa ra mục tiêu đến năm 2020 phải thực hiện toàn dụng lao động, không còn ai phải miễn cưỡng ra nước ngoài chỉ vì sinh kế.
Để phát triển bền vững và hướng tới toàn dụng lao động cần đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng ngày càng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và chú trọng phát triển nông thôn. Cho đến nay trí thức trong và ngoài nước đã đề xuất nhiều chiến lược, chính sách về các vấn đề này nhưng không được nhà nước quan tâm thực hiện. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi đề nghị nhà nước cần tập trung những chuyên gia có trình độ, thành lập một bộ phận chuyên trách để xây dựng và giám sát việc thi hành chiến lược phát triển với đủ thẩm quyền và chế độ đãi ngộ thích hợp. Bộ phận này phải được đặt trên tất cả các bộ ngành liên quan tới lĩnh vực kinh tế, đứng đầu là Thủ tướng hoặc Phó thủ tướng thường trực, có những chuyên viên tài năng, có cơ chế tiếp thu ý kiến của giới doanh nhân và trí thức. Việt Nam hiện nay cũng có những cơ quan như Bộ Kế hoạch & Đầu tư hay Bộ Công thương nhưng quyền hạn liên quan tới vấn đề này bị phân tán, ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ với cơ quan hay doanh nghiệp nhà nước, vì vậy thường khó có thể đề xuất được những chính sách hiệu quả, hoặc do phải cân nhắc lợi ích của quá nhiều đối tượng nên những nội dung thống nhất được cũng mang tính thỏa hiệp, chung chung.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng, chúng tôi đề nghị hoãn kế hoạch xây dựng đường sắt cao tốc vì chưa cần thiết, tốn kém lớn và đã được chứng minh bằng các phân tích khoa học là không có hiệu quả. Thay vào đó, cần tu bổ nâng cấp đường sắt Thống Nhất, mở rộng mạng lưới đường sắt phổ thông đến vùng đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Bắc, đồng thời xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam và xây dựng các tỉnh lộ, huyện lộ nối nông thôn với đường sắt và đường cao tốc này, nhất là nối nông thôn với các đô thị gần đường cao tốc. Kết cấu hạ tầng như vậy mới thúc đẩy công nghiệp hóa nông thôn.
Liên quan đến phát triển nông thôn, việc cải cách chế độ hạn điền, tư hữu hóa sở hữu ruộng đất cần được đẩy mạnh. Chế độ hộ khẩu đã được cải thiện nhiều nhưng mỗi đô thị lại có các quy chế riêng, cần cải cách theo hướng tự do hóa việc thay đổi chỗ ở hơn nữa để người dân khi đến đô thị làm việc có thể yên tâm với cuộc sống ở đó và không cần giữ lại quyền sử dụng đất ở nông thôn. Với sự phân tán, manh mún của ruộng đất hiện nay, việc tăng năng suất nông nghiệp gặp khó khăn. Tăng năng suất nông nghiệp và công nghiệp hóa nông thôn là hai trụ cột để nâng cao mức sống của người dân ở nông thôn nói riêng và phát triển kinh tế nói chung.
Đối với hoạt động của doanh nghiệp, thị trường lao động hiện nay có vấn đề không ăn khớp giữa cung và cầu: Ở các khu công nghiệp tại các thành phố lớn bắt đầu có hiện tượng thiếu lao động, doanh nghiệp khó tuyển dụng số lao động cần thiết, mặc dù ở nông thôn vẫn còn lao động dư thừa. Nguyên nhân là do thị trường lao động chưa phát triển, cung và cầu không gặp nhau. Một nguyên nhân nữa là chất lượng lao động (trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, khả năng tiếp thu tri thức về hoạt động của doanh nghiệp,…) không đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Biện pháp để cung cấp lao động một cách ổn định phải bao gồm chính sách ngắn hạn (phát triển thị trường lao động) và chính sách trung dài hạn (nâng cao chất lượng lao động, tăng cường giáo dục nghề nghiệp). Chính quyền địa phương ở nông thôn cần tích cực hơn nữa trong lĩnh vực này.
Nhà nước cần lắng nghe chuyên gia, trí thức về việc quyết định các dự án lớn. Đặc biệt, chúng tôi đề nghị tạm ngưng kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận vì những lý do chúng ta đã biết và các chuyên gia của ta cũng đã có những phân tích cho thấy dự án này quá tốn kém và chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn. Nhiều người trong chúng tôi cũng đã đề nghị ngưng kế hoạch khai thác bô-xit ở Tây nguyên vì các lý do về môi trường, an ninh, hiệu quả kinh tế, và sự lệ thuộc vào nước ngoài.
Vấn đề cuối cùng là cải cách doanh nghiệp quốc doanh trong đó có các tập đoàn. Cần đặt các doanh nghiệp đó trong khung cảnh chung của luật pháp, xóa bỏ việc để hành pháp trực tiếp lãnh đạo kinh doanh – dù dưới dạng Thủ tướng quản hay Bộ trưởng quản – và thay vào đó là Hội đồng quản trị độc lập và có nhiệm kỳ, do Quốc hội hay Hội đồng Nhân dân bổ nhiệm, nhằm hạn chế sự thao túng của các nhóm lợi ích. Doanh nghiệp quốc doanh dùng tiền của dân và nhằm phục vụ dân, do đó phải có tiếng nói của đại diện nhân dân. Hội đồng quản trị có đại diện của dân do các tổ chức hội chuyên nghiệp và Mặt trận Tổ quốc đề cử, có đại diện của người tiêu dùng chính do các ngành sử dụng đề cử, có các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp do các hội chuyên gia đề cử. Hội đồng quản trị sẽ bổ nhiệm chủ tịch công ty hay tập đoàn. Để cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả và thực sự phục vụ nhân dân thì phải có các tổ chức chỉ đạo, kiểm tra nghiêm túc. Ngoài ra, số lượng doanh nghiệp phải hạn chế, không thể để cho chính quyền các cấp tự do lập ra như hiện nay. Đặc biệt, phải công khai, minh bạch trong việc cấp vốn, việc cấp và sử dụng các nguồn lực quốc gia cho các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài những trường hợp đặc biệt ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước đã được công khai, minh bạch, chính sách cần bảo đảm công bằng cơ hội, bảo đảm hiệu quả sử dụng và không phân biệt giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt giữa các công ty, kiểm soát và hạn chế việc hỗ trợ các nguồn lực quốc gia theo kiểu chủ nghĩa tư bản thân hữu.
4. Về văn hóa, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học và công nghệ
Chúng tôi có mấy đề nghị cụ thể sau:
a) Cần có chính sách ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa và đạo đức xã hội. Tăng cường quảng bá và khuyến khích những giá trị phổ quát, tiến bộ của nhân loại như tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ, quyền con người,… Đồng thời, phục hồi những giá trị văn hóa truyền thống tích cực để làm nền tảng cho các ứng xử văn hóa, các chuẩn mực đạo đức trong sinh hoạt xã hội. Song song với việc này cần tích cực bảo tồn các di tích văn hóa, lịch sử của dân tộc và ngăn chặn sự xâm thực không chọn lọc của văn hóa ngoại lai, đặc biệt là từ Trung Quốc.
b) Cần giảm các hình thức thi đua, tuyên dương, trao huân chương như hiện nay: Các cơ quan, các đoàn thể tổ chức quá nhiều lễ kỷ niệm những mốc hoạt động (20 năm, 30 năm, v.v.) và vận động để được nhận huân chương. Đây là hình thức tốn kém thì giờ, ngân sách mà không có hiệu quả, chưa kể đến những tiêu cực trong quá trình xin-cho vốn rất phổ biến. Phong trào học tập đạo đức Hồ Chí Minh cũng không thật sự hiệu quả vì dân chúng thấy tình trạng tham nhũng ngày càng trầm trọng, người cần học tập đạo đức Hồ Chí Minh (cần kiệm liêm chính chí công vô tư, …) trước hết phải là những người ở cấp lãnh đạo và quản lý nhà nước. Tổ chức học tập nghị quyết của Đảng sau các kỳ đại hội như cách làm hiện nay cũng tốn kém và làm ảnh hưởng đến việc quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương. Thay vào đó nên áp dụng các hình thức khác thích hợp và ít tốn kém thì giờ, ngân sách.
c) Việc cải tổ giáo dục được bàn quá nhiều trong thời gian qua nhưng không đưa lại kết quả. Do tầm quan trọng và tình hình ngày càng xuống cấp của giáo dục, chúng tôi đề nghị Thủ tướng trực tiếp chịu trách nhiệm về giáo dục, cụ thể là chỉ đạo nội dung cải cách, theo sát việc triển khai các chiến lược, chính sách, và chịu trách nhiệm về kết quả của các cải cách lớn.
Một trong những nội dung cải cách cấp bách phải là nâng cao vị thế của người thầy, bắt đầu từ đồng lương đủ sống và nuôi gia đình. Từ đó tiến đến việc thiết lập lại sự trung thực trong học tập và thi cử, trả lại tính trong sáng của tuổi trẻ cho học trò, tạo điều kiện cho những tài năng nảy nở.
Một nội dung nữa là tôn trọng quyền tự do học thuật và tư tưởng ở đại học cũng như trong các hoạt động trí thức, văn hoá nghệ thuật, tạo ra sức thu hút đối với tuổi trẻ và qua đó giúp thế hệ trẻ có động lực phấn đấu mạnh mẽ, có ý thức công dân cao và hoài bão phát triển đất nước. Nhân đây chúng tôi cũng đề nghị Thủ tướng hủy bỏ Quyết định 97 đòi hỏi trí thức chỉ được góp ý riêng với các cơ quan có thẩm quyền.
d) Cụ thể hóa các biện pháp làm cho giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Triệt để thực hiện miễn phí bậc tiểu học và trung học cơ sở (chậm nhất là đến năm 2015) và trung học phổ thông (đến năm 2020). Song song với việc nâng cấp các đại học đang có, cần có ngay kế hoạch xây dựng một hoặc hai đại học chất lượng cao, trong đó nội dung giảng dạy, cơ chế quản lý, và trình độ giáo sư cũng như tiêu chuẩn đãi ngộ tương đương với các đại học tiên tiến ở châu Á. Về các đại học và trường cao đẳng ngoài công lập, cần có biện pháp chấn chỉnh giải quyết ngay những nơi không đủ chất lượng và có quy chế để ngăn ngừa hiện tượng kinh doanh giáo dục hiện nay. Ngoài ra, cần ban hành các sắc thuế khuyến khích doanh nghiệp và những cá nhân có tài sản đóng góp vô vị lợi (chủ yếu là tặng không) cho sự nghiệp giáo dục. Những vấn đề này cũng cần có kế hoạch thực hiện cụ thể trước năm 2015.
Cần tăng cường mở rộng và xây dựng thêm các trường, các khoa liên quan khoa học tự nhiên và công nghệ, xây dựng nhiều trường cao đẳng công nghệ để cung cấp đủ lao động cho công nghiệp hoá trong giai đoạn tới. Hiện nay, một mặt, trong nhiều ngành, sinh viên tốt nghiệp ra truờng không có việc làm, trong khi một số ngành về công nghệ tin học, điện tử, hoá học, kế toán, nông cơ, v.v.. thì nguồn cung cấp thiếu hoặc không đủ chất lượng. Chính sách sắp tới cần chú trọng đầu tư xây dựng thêm các ngành ở các lĩnh vực này và cải thiện chương trình, nội dung giảng dạy để nâng cao chất lượng. Mặt khác, nhu cầu về lao động có trình độ trung cấp và cao đẳng kỹ thuật, cao đẳng kế toán,… đang và sẽ tăng nhanh nhưng khả năng cung cấp còn rất hạn chế. Tâm lý coi thường bậc trung cấp và cao đẳng trong xã hội Việt Nam rất lớn. Cần có chính sách khuyến khích học tập trong các bậc học này, chẳng hạn tăng cường chế độ cấp học bổng và quan tâm giới thiệu việc làm cho học viên sau khi ra trường. Tóm lại, cần đổi mới thể chế giáo dục và đào tạo hiện nay mới có thể thực hiện toàn dụng lao động và đẩy mạnh công nghiệp hoá trong thập niên 2010.
Nhiều cải cách trong giáo dục cũng nên được áp dụng trong y tế: tăng đầu tư xây dựng bệnh viện, xây dựng các cơ sở y tế ở nông thôn và phổ cập bảo hiểm y tế để người nghèo có thể tiếp cận dịch vụ y tế với phụ phí thấp. Nên có chính sách miễn phí khám bệnh và phí nhập viện cho người dân nghèo hoặc cận nghèo.
e) Tăng cường đầu tư và cải thiện việc sử dụng ngân sách cho nghiên cứu khoa học: Một trong những lý do thành quả nghiên cứu khoa học của ta còn khiêm tốn là do thiếu đầu tư. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ năm 2006 chẳng hạn chỉ có 428 triệu USD, chiếm khoảng 0,17% GDP. Trong cùng năm, Thái Lan đầu tư 1,79 tỉ USD (0,3% GDP) và Malaysia 1,54 tỉ (0,5% GDP). Đáng chú ý là Trung Quốc đầu tư 1,4% GDP cho khoa học và công nghệ trong năm 2010 và đặt mục tiêu đầu tư 4% GDP vào năm 2015. Ngân sách đầu tư cho khoa học công nghệ ở Việt Nam có đặc tính là tập trung vào việc xây dựng cơ sở vật chất thay vì chi tiêu cho việc thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học. Ngoài việc tăng đầu tư, cần phải xem xét lại việc sử dụng ngân sách khoa học. Theo cách làm hiện nay thì chúng ta có thể có những thiết bị khoa học tinh vi, nhưng không có người sử dụng hiệu quả những thiết bị này. Trong thực tế, tình trạng “thiết bị trùm chăn” đó đã trở nên phổ biến. Như đã phân tích ở trên, nền khoa học nước ta hiện nay còn lệ thuộc quá lớn vào các đồng nghiệp nước ngoài vì thiếu chuyên gia có trình độ cao. Do đó, thay vì đầu tư xây thêm phòng thí nghiệm, cần chú trọng đầu tư vào đào tạo chuyên gia có trình độ chuyên sâu.
Chẳng những cần tăng đầu tư cho khoa học và công nghệ, chúng ta cần phải cải cách hệ thống phân phối ngân sách cho nghiên cứu khoa học và quản lý khoa học. Hiện nay, các đề tài nghiên cứu cơ bản ở cấp nhà nước do các nhà khoa học xây dựng đã được quản lý khá tốt bởi Quỹ KH&CN quốc gia (Nafosted). Nhưng với các loại đề tài nghiên cứu ứng dụng và phát triển sản xuất ở các cấp – do cơ quan chủ quản ra đề tài, kêu gọi các nhà nghiên cứu nộp đơn xin và các cơ quan chủ quản xét duyệt và thẩm định – lại chưa có sự tham gia đúng mức của các nhà chuyên môn. Vì lý do này nhiều đề tài nghiên cứu của các bộ ngành, địa phương đề ra không theo kịp trào lưu và định hướng của khoa học quốc tế và nhu cầu thực tế.
5. Chiến lược đối ngoại
Trong chiến lược đối ngoại của Việt Nam hiện nay, Trung Quốc, Mỹ và ASEAN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
“Đường lối ngoại giao của Việt Nam là thân thiện với mọi nước”: nguyên tắc đó luôn luôn là lý tưởng. Nhưng lý tưởng đó cũng luôn luôn va chạm với một thực tế mà không nước nào tránh khỏi: đó là thực tế chiến lược mà vị trí địa dư là yếu tố then chốt.
Chẳng hạn quan hệ của ta với Trung Quốc. Dù Việt Nam muốn chân thành làm bạn với Trung Quốc đến đâu đi nữa, vị trí địa dư của Việt Nam cũng bắt buộc ta phải đồng thời nhìn Trung Quốc như một vấn đề an ninh cốt tủy và thường xuyên. Không việc gì ta phải giấu diếm quan tâm sinh tồn đó bằng 16 chữ vàng. Càng giấu, ngôn từ và hành động ngoại giao của ta lại càng để lộ yếu kém, sợ hãi, khiếp nhược. Chỉ bằng cách nói thẳng với Trung Quốc: “Nam quốc sơn hà nam đế cư”, ta mới có thể làm bạn với Trung Quốc trên một vị thế không phải là khúm núm, thần phục. Ngày xưa, chỉ có ta với Trung Quốc thôi, ngoài trứng với đá không có ai khác, vậy mà tổ tiên ta vẫn có thể hiên ngang nói thẳng như thế, huống hồ bây giờ, thế giới đổi khác, quan hệ chiến lược có thể mở rộng với nhiều nước khác, cho phép Việt Nam lập hàng rào chiến lược bằng những quan hệ đặc biệt với nhiều nước.
Trung Quốc chắc phải hiểu cái thế tất yếu đó của Việt Nam. Cho nên họ vừa dụ dỗ, vừa uy hiếp để Việt Nam không thiết lập quan hệ đặc biệt với Mỹ và ngay cả không mơ tưởng đến một sách lược cân bằng lực lượng như nhiều nước trong khối ASEAN công khai áp dụng. Việt Nam có gì khác với các nước ASEAN khác khiến Trung Quốc có thể uy hiếp được? Không phải vì cái vị thế “núi liền núi sông liền sông” trong địa dư mà chính vì “núi liền núi sông liền sông” trong tư tưởng. Chẳng có ai phản đối: văn hóa Trung Quốc đã từng sáng chói cả một vùng trời Đông Á, ta chịu ảnh hưởng không phải là chuyện lạ, chuyện dở. Chuyện dở là chịu ảnh hưởng mà không biết sáng tạo như Nhật Bản. Chuyện dở là chịu ảnh hưởng đến cái mức phải làm cho giống nguyên bản để khỏi bị xem là man di. Từ trong tư tưởng, Trung Quốc đã là cái khuôn để rập theo. Họ Khổng giáo thế nào, ta Khổng giáo thế ấy. Họ Mao, ta cũng đã từng Mao. Họ đang là gì, ta cũng đang thế ấy. Suốt cả thế giới châu Á, có lẽ ngoài Việt Nam và Bắc Triều Tiên, không có nước nào làm cái bóng dưới mặt trời tư tưởng của họ. Trung Quốc biết rõ như thế, việc gì họ chẳng nắm cái điểm yếu đó để dụ và đe? Họ biết rõ ta sẽ không nghĩ đến cái thế cân bằng lực lượng, vì từ trong tư tưởng ta đã không có ý niệm cân bằng, đã lựa chọn nghiêng về một phía, đã nhượng bộ họ trên khắp lĩnh vực.
Họ lại còn tha hồ nắm cái điểm yếu đó vì biết chắc rằng không ai muốn sát cánh với ta thực sự khi quan hệ thân sơ của ta không rõ ràng. Về ngoại giao, dĩ nhiên ta cần giao hảo thân thiết với Trung Quốc như với Nhật, với ASEAN, nhưng về chiến lược, cả lịch sử lẫn thực tế ngày nay không cho phép ta xây dựng an ninh trường kỳ trên tư tưởng trụ cốt “Trung Quốc là bạn đặc biệt”. Ta không minh bạch trên điểm đó, ai sẽ tin ta? Ai sẽ liên minh chiến lược với ta để ngăn chận kẻ mà ta vẫn nhận là “bạn đặc biệt”? Thế nhưng trên thực tế ta lại không thể minh bạch được vì một đằng quyền lợi quốc gia đòi hỏi ta phải cảnh giác Trung Quốc, một đằng tư tưởng chính thống lại xem Trung Quốc là bạn đặc biệt. Mâu thuẫn đó phải chấm dứt thì quan hệ chiến lược mới phân minh.
Vậy ai là đồng minh chiến lược với ta? Đồng minh ở đây không có nghĩa là gia nhập vào một liên minh quân sự mà bao gồm các trường hợp những nước có cùng quan tâm chiến lược trong các quan hệ ngoại giao. Trong định nghĩa rộng đó, thực tế ngày nay cho thấy dù muốn dù không chỉ có Hoa Kỳ mới có thể trở thành đối tác chiến lược của Việt Nam trong việc thiết lập thế cân bằng lực lượng để ta giữ nước. Câu hỏi duy nhất còn có thể đặt ra là: nước Mỹ có sát cánh với ta để cùng ta bảo vệ những quyền lợi thiết thân nhất của ta? Cụ thể, nước Mỹ có thể cùng ta ngăn chận bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông?
Nước Mỹ không dại gì trả lời câu hỏi đó rành rọt và công khai. Câu hỏi đó, chính ta phải trả lời, và chỉ ta mới trả lời rành rọt được mà thôi. Nếu ta làm cho người Mỹ thấy rằng quyền lợi của họ và quyền lợi của ta là một, không những chỉ trên Biển Đông mà cả trong chiến lược lâu dài của họ ở Đông Á và cả Á châu thì hai nước sẽ sát cánh với nhau. Hơn nữa, nếu ta giúp củng cố các thể chế ASEAN để vừa tăng đoàn kết và ổn định trong khu vực vừa tạo cho Mỹ cơ hội vận động nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới ủng hộ sự hiện diện của Mỹ tại Đông Nam Á thì ta lại càng thắt chặt quyền lợi của Mỹ với quyền lợi của ta hơn.
Nhưng quyền lợi mà thôi chưa đủ để xây dựng một quan hệ chiến lược bền vững, trường kỳ. Bởi vì đe dọa của Trung Quốc là trường kỳ, giải pháp đối phó cũng phải trường kỳ để quan hệ đồng minh (theo nghĩa rộng nói trên) không phải là quan hệ giai đoạn, chiến thuật. Cái gì tạo ra chất lượng cho một quan hệ chiến lược bền vững? Địa-chính trị ngày nay nói rõ: tư tưởng, văn hóa là yếu tố chiến lược cùng với vị trí địa dư. Chính thể dân chủ ở Đài Loan là yếu tố chiến lược gắn kết thêm với yếu tố quyền lợi trong quan hệ giữa Mỹ và xứ ấy. Nước Nhật quân phiệt phải dứt khoát viết lại hiến pháp để trở thành đồng minh chiến lược bền vững nhất của Mỹ trên thế giới. Do đó, cải cách thể chế theo hướng dân chủ hóa như đã trình bày ở trên ngoài mục đích tăng nội lực còn là điều kiện để mở rộng chiến lược ngoại giao.
Ai cũng biết: thực chất của ý thức hệ hiện nay ở Trung Quốc là chủ nghĩa dân tộc nước lớn. Dưới lớp áo xã hội chủ nghĩa, trái tim của Trung Quốc ra lệnh cho dân tộc họ phải trả thù nhục nhã của thế kỷ 19, nhanh chóng chiếm lĩnh địa vị đại cường, ngự trị như bá chủ trên vùng Đông Á. Làm sao ta đồng chí với họ được? Ngược lại, đó là tư tưởng mà ta phải triệt để chống như một đe dọa đè nặng trên sự sống còn của dân tộc. Tư tưởng chính trị của Việt Nam là tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng trên quan tâm duy nhất là độc lập của dân tộc. Vì độc lập, ta phải đoàn kết dân tộc, lấy đoàn kết làm tư tưởng, lấy dân tộc làm mục tiêu chứ không phải một lý thuyết nào xa lạ với thực tế mà người dân đang thấy trước mắt. Vì yếu tố tư tưởng quan trọng như vậy, chúng tôi đề nghị Việt Nam hãy dứt khoát cắt rốn tư tưởng với Trung Quốc. Ta đã có một Hồ Chí Minh đặt nền móng dân chủ cho một nước Việt Nam độc lập khác hẳn nền móng mà Mao đã đặt cho Trung Quốc năm 1954. Ta đã lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm tư tưởng chỉ đạo. Tư tưởng độc lập đó cần phải được vun xới sâu hơn trong bối cảnh ngày nay. Cần suy nghĩ rằng: một phần lớn tư tưởng đó đã được thoát thai từ tình trạng chiến tranh, hết chiến tranh thuộc địa đến chiến tranh chia cắt trong một thế giới chia hai theo lằn ranh ý thức hệ. Bây giờ nước ta không còn chiến tranh nữa, đã bắt đầu phát triển lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lại hội nhập vào một thế giới hoàn toàn đổi khác trong đó ý thức hệ tranh chấp ngày xưa đã biến mất rồi. Bối cảnh hoàn toàn đổi khác, tất nhiên tư tưởng của lãnh tụ cũng phải được hiểu theo một tinh thần mới, phải được chắt lọc lại, chỗ nào là tinh túy trường kỳ, chỗ nào là chiến thuật giai đoạn, chỗ nào thích hợp cho dân chủ ngày nay, chỗ nào đã đáp ứng xong rồi những nhu cầu trong quá khứ. Toàn dân sẽ tham gia thực hiện nền móng dân chủ mà lãnh tụ đã đặt viên gạch đầu tiên từ thuở khai sinh nhà nước. Ngôi nhà sẽ xây kết hợp hài hòa tư tưởng Hồ Chí Minh với những tư tưởng dân chủ của thế giới, vạch ra một mô hình dân chủ thích hợp với hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam. Mô hình đó cũng sẽ không chối bỏ nguyên tắc căn bản của chính thể hiện nay là “đảng lãnh đạo”. Vấn đề là phải thiết lập cho kỳ được dân chủ thật sự trong đảng và định nghĩa lại cho minh bạch thế nào là “lãnh đạo” theo ý kiến của toàn dân.
Không khó khăn gì để thể chế hóa hai vấn đề đó. Nhân dân và trí thức Việt Nam không thiếu óc sáng tạo. Thách thức là có ý muốn hay không. Từ lâu, vấn đề đã được đặt ra, nhưng chẳng bao giờ giải quyết. Thời cuộc ngày nay không cho phép trì hoãn nữa. Không những lòng tin của nhân dân có hạn mà an ninh của đất nước bắt buộc phải thế. Đe dọa từ phương Bắc buộc ta phải từ giã con đường cụt trong tư tưởng. Hoặc ta không có đồng minh, hoặc có đồng minh thì phải minh bạch, không ai hứng đạn cho ta nếu không tin ta.
Tất nhiên ai cũng có thể chất vấn: đồng minh (trong ý nghĩa cùng một quan tâm chiến lược) với Mỹ, ta có mất độc lập chăng? Trong lịch sử thế giới từ sau 1945, có hai kinh nghiệm đồng minh trong đó một bên là siêu cường, một bên là nước bại trận, mất cả chủ quyền, mất cả tiềm năng kinh tế, mất cả quân đội: đó là nước Đức và nước Nhật. Cả hai nước đều trở thành cường quốc. Nước Đức liên minh chiến lược với Mỹ nhưng không mất độc lập ngoại giao với Liên Xô. Nước Nhật liên minh với Mỹ nhưng không mất độc lập ngoại giao với Trung Quốc. Quan hệ chiến lược có ảnh hưởng trên quan hệ ngoại giao, nhưng không trùng hợp. Ngay cả Hàn Quốc, liên minh với Mỹ, họ có mất độc lập ngoại giao với ai đâu?
Tại sao họ không mất? Tại vì hai lẽ. Thứ nhất, họ biết vận dụng nội lực, xây dựng ở bên trong một thể chế lành mạnh, hữu hiệu, đưa đất nước họ từ tình trạng lệ thuộc, độc tài, lên tình trạng dân chủ, cường quốc. Sức mạnh bên trong là yếu tố không thể không có để độc lập với thế giới. Chính vì vậy mà toàn thể nhân dân ta khát vọng một cải cách toàn diện để lãnh đạo cùng với toàn dân đưa đất nước lên địa vị độc lập, độc lập với Trung Quốc, dĩ nhiên, và độc lập với cả Mỹ.
Thứ hai, họ biết vận dụng thời cuộc quốc tế để không trở thành chư hầu của một cực. Hiện nay, ai cũng tưởng chừng như Mỹ và Tây Âu đang trên đà đi xuống, Trung Quốc đang ở thế thượng phong bất khả cưỡng. Đúng vậy. Nhưng tình hình đó lại có một mặt tích cực khác cho ta mà chính ta cần phải thấy rõ: cái thế thượng phong trịch thượng, ngạo mạn, thủ đoạn của Trung Quốc hiện nay là vấn đề của cả thế giới dân chủ, hòa bình, tự do, chứ không phải riêng gì của ta. Việt Nam đang có một cái thế rất lớn, lớn hơn cả thời 1945, là đứng chung với cả thế giới đó trong một mặt trận chung. Chúng tôi nói “đồng minh” hoặc “quan tâm chiến lược” là nói trong ý nghĩa đó. Việt Nam “đồng minh” với cả thế giới đó chứ không phải với riêng ai. Việt Nam “đồng minh” với cả những lực lượng tiến bộ, dân chủ, trong lòng xã hội Trung Quốc. Vấn đề là ta có đủ quyết tâm làm như thế hay không, thế giới có xem ta như vậy hay không mà thôi. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở, là quốc sách để cứu nước, chưa bao giờ có.
Việt Nam sẽ không bao giờ là chư hầu của ai nếu ta vận dụng được sức lực của toàn dân. Chọn dân tộc và chọn thế giới dân chủ, hòa bình, tự do, tôn trọng môi trường thì mới thoát ra được cái ách của Trung Quốc, hiện nay và mai sau.
Dĩ nhiên, dù đẩy mạnh quan hệ với Mỹ, ta vẫn coi trọng quan hệ với Trung Quốc trên nguyên tắc bình đẳng. Vì là láng giềng gần, sự giao lưu mật thiết giữa các tầng lớp dân chúng, nhất là giữa giới trí thức và lớp trẻ để tạo sự tương kính, hiểu biết nhau. Đó cũng là yếu tố góp phần gìn giữ hòa bình. Tuy nhiên, Việt Nam là nước nhỏ hơn nhiều về nhiều mặt, không thể theo phương châm “hợp tác toàn diện”, mà phải chọn lựa lĩnh vực và mức độ.
Riêng về vấn đề Biển Đông, chúng tôi có hai đề nghị: Một là, Quốc hội Việt Nam cần ra một tuyên cáo, một nghị quyết đặc biệt về Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, khẳng định đó không phải là sự thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ là thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan. Trung Quốc đã phản bội Việt Nam khi dùng công hàm đó để chủ trương chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa. Tuyên cáo này vừa để thanh minh trước dư luận quốc tế vừa xóa bỏ những ngờ vực trong không ít người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng thêm tình đoàn kết dân tộc trước hiểm họa ngoại xâm. Thứ hai, trên thực tế Việt Nam không làm chủ hết cả quần đảo Trường Sa nên cần đoàn kết với Philippines, Malaysia và Brunei trong việc gìn giữ quần đảo này và chống lại Đường Lưỡi Bò của Trung Quốc. Chúng tôi đề nghị Việt Nam chủ động đưa ra đề án với ASEAN đặt tên Biển Đông nước ta (mà Trung Quốc và nhiều nước khác gọi là biển Nam Trung Hoa) là Biển Đông Nam Á.
E. Kết luận Trên đây là phân tích sơ lược về thực trạng của Việt Nam và đại cương về các giải pháp nhằm cải cách toàn diện để phát triển đất nước. Những nội dung chi tiết hơn không được đề cập để tránh loãng thông tin. Tuy nhiên, qua đó cũng có thể rút ra kết luận:
Việt Nam chúng ta đang đứng trước một khúc ngoặt lịch sử. Kinh tế, văn hóa giáo dục, khoa học đều suy thoái, nền tảng đạo đức xã hội lung lay và trên nhiều mặt ngày càng lệ thuộc vào nước láng giềng phương Bắc. Vì thế, Đảng Cộng sản Việt Nam cần làm một cuộc cách mạng mới để cứu đất nước khỏi nguy cơ này và mở ra con đường mới để dân tộc tiến nhanh về phía trước, để đất nước phát triển nhanh chóng, giàu mạnh và tự chủ. Cốt lõi của cuộc cách mạng mới là dứt khoát từ bỏ sự ràng buộc của một chủ nghĩa, một học thuyết đã không còn sức sống ở cả Việt Nam và trên thế giới. Gắn chặt với học thuyết ấy, chủ nghĩa ấy cũng làm nước ta ngày càng lệ thuộc vào quỹ đạo của phương Bắc ngày càng nặng.
Trí tuệ, khí khái, bản lĩnh và lòng yêu nước của tiền nhân ta là những bài học vô cùng phong phú, quý giá. Bây giờ là lúc phải học lại, học hơn nữa tầm nhìn chiến lược “khoan thư sức dân” của Trần Hưng Đạo, “khai dân trí, chấn dân khí” của Phan Châu Trinh, tư tưởng dân chủ, đoàn kết dân tộc và tinh thần học tập phóng khoáng của Hồ Chí Minh. Và hơn bao giờ hết chúng ta phải kế thừa khí phách Nguyễn Trãi “… Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương, tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có”.
Mong rằng với sự sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước chúng ta sẽ nhanh chóng ra khỏi thời kỳ khó khăn nghiêm trọng hiện nay và bước vào một kỷ nguyên phát triển mới./.
Đồng ký tên:
Hồ Tú Bảo, Giáo sư Tin học, Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến Nhật Bản, Nhật Bản. Nguyễn Tiến Dũng, Giáo sư Toán học, Đại học Toulouse, Pháp. Trần Hữu Dũng, Giáo sư Kinh tế học, Đại học Wright State, Hoa Kỳ. Giáp Văn Dương, Nhà nghiên cứu (Vật lý), Đại học Quốc gia Singapore. Nguyễn Ngọc Giao, Nhà báo, nguyên Giảng viên Toán, Đại học Paris VII, Pháp. Ngô Vĩnh Long, Giáo sư Sử học, Đại học Maine, Hoa Kỳ. Vĩnh Sính, Giáo sư danh dự (Sử học), Đại học Alberta, Canada. Nguyễn Minh Thọ, Giáo sư Hóa học, Đại học Leuven, Bỉ. Trần Văn Thọ, Giáo sư Kinh tế học, Đại học Waseda, Nhật Bản. Cao Huy Thuần, Giáo sư danh dự (Chính trị học), Đại học Picardie, Pháp. Nguyễn Văn Tuấn, Giáo sư Y khoa, Đại học New South Wales, Úc. Hà Dương Tường, Giáo sư danh dự (Toán học), Đại học Công nghệ Compiègne, Pháp. Vũ Quang Việt, Chuyên gia tư vấn Thống kê Kinh tế cho Liên Hiệp Quốc, Myanmar, Philippines và Lào; nguyên chuyên viên cao cấp Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ. Phạm Xuân Yêm, Nguyên Giám đốc nghiên cứu Vật lý, Đại học Paris VI và Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học, Pháp.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 5, 2015 17:24:22 GMT 9
Trộm cắp từ sân bay đến thành phốVăn Quang - Viết từ Sài Gòn Có hai nguyên nhân “đáng sợ” nhất của thời đại kinh tế suy thoái và đạo đức băng hoại cùng bọn quan lại tham nhũng, đó là nạn mại dâm và trộm cướp hoành hành ở khắp nơi. Kỳ trước tôi đã tường thuật với bạn đọc về tệ nạn mại dâm ở TP Sài Gòn. Kỳ này tôi tường thuật về nạn trộm cắp ngay tại Sân bay Tân Sơn Nhất và giữa Sài Gòn. Đã hơn một lần tôi kể với bạn đọc về những điều trái tai gai mắt ở sân bay Tân Sơn Nhất, một sân bay lớn nhất nước và lưu ý du khách nào đến Sài Gòn cũng phải đề phòng tệ nạn này. Nhất là chuyện tham nhũng, chuyện vòi tiền của các “quan chức” làm việc trực tiếp với khách. Thế nhưng vở kịch nhơ bẩn đó vẫn cứ diễn ra hàng ngày, hàng giờ trước mắt thiên hạ, rồi đến chuyện ăn cắp hành lý của khách đi máy bay. Cho đến nay cũng chẳng thay đổi được gì. Cho nên sân bay này, năm nay vẫn được “vinh dự” xếp vào loại Tệ Nhất Châu Á. Sân bay Tân Sơn Nhất đã được nâng cấp cuối năm 2014 song vẫn bị xếp hạng tệ nhất châu Á. Khi đến sân bay TSN phải cẩn thận giữ tài sản có giá trị Theo bảng xếp hạng năm 2015 của trang web The Guide to Sleeping in Airports, Tân Sơn Nhất được xếp hạng đứng thứ tư trong danh sách sân bay tệ nhất châu Á. Năm 2014, sân bay này cũng bị liệt vào danh sách tệ nhất do trang web trên bình chọn. Tức là hai năm liền đều tệ như nhau. Ngoài ra, hành khách còn phàn nàn tín hiệu wifi kém, phòng vệ sinh bẩn và hạn chế lựa chọn trong các nhà hàng. Lời khuyên được trang web đưa ra là “Nếu ghé qua Tân Sơn Nhất, hành khách nên cẩn thận giữ tài sản có giá trị và cầm một số tiền nhỏ trên tay.” Người VN nào chẳng xấu hổ khi đọc bản tin này được loan truyền khắp thế giới. Thật ra đã nhiều lần từ ông Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải họp các quan chức đầu ngành tại sân bay để “dằn mặt” và điều chỉnh tình trạng này. Quan nào cũng nhận một tí khuyết điểm, xin cấp tốc chấn chỉnh ngay. Lần này cũng vậy, khi nhận được bản tin đáng xấu hổ kia, Giám đốc Cảng Hàng Không Quốc Tế Tân Sơn Nhất Đặng Tuấn Tú thừa nhận một số đánh giá của website về chất lượng phục vụ ở sân bay này là đúng, chẳng hạn như chất lượng wifi, đặc biệt là ở ga quốc tế. Ông hứa: "Chúng tôi sẽ chọn nhà cung cấp khác và chắc chắn từ đây đến cuối năm vấn đề này sẽ được khắc phục." 8 năm nữa mới khắc phục được Ngoài ra, Giám đốc Cảng Hàng Không Quốc Tế Tân Sơn Nhất cũng thừa nhận một số dịch vụ tại sân bay còn chưa tốt như: dịch vụ taxi vẫn còn lộn xộn; bãi giữ xe máy nhiều lúc phải ngưng nhận; thái độ của nhân viên sân bay, nhân viên các hãng chưa đúng mực. Ông Tú cũng cho biết thêm, từ đầu năm đến nay sân bay Tân Sơn Nhấtđã đón hơn 21.7 triệu lượt hành khách. Dự tính đến cuối năm, số lượt khách đạt 26 triệu lượt, vượt quá quy hoạch của nhà ga. Với tốc độ tăng trưởng này, chỉ hai năm nữa Tân Sơn Nhất sẽ đón trên 30 triệu lượt khách. Ông nói: "Sẽ phải tiếp tục chịu đựng cảnh quá tải này ít nhất tám năm nữa trước khi sân bay Long Thành đưa vào sử dụng. Với điều kiện như thế này, chúng tôi cố gắng duy trì chất lượng dịch vụ ở mức có thể đáp ứng nhu cầu. Ưu tiên hàng đầu là bảo đảm an ninh an toàn, dành những tiện ích cộng cộng theo tiêu chí cho phép." Về nạn tham nhũng, phiền hà hành khách để kiếm tiền cũng vậy. Mười năm trước đã đặt ra và các quan cũng hứa khắc phục. Nhưng mọi chuyện vẫn êm ru bà rù, bởi tệ nạn này có cả một đường dây từ dưới lên trên, ai “khắc phục” ai đây?! Lại cái bài ca muôn thuở ở đâu cũng gặp “chúng tôi sẽ cho điều tra và xử lý nghiêm, không dung túng cho tiếu cực.” Một băng cướp “nhí” vừa bị bắt Vậy xin hỏi các quan ở sân bay Tân Sơn Nhất từ bao năm nay, các ông đã điều tra được những vụ tham nhũng và nhũng nhiễu khách hàng nào? Chẳng thấy các ông báo cáo cho nhân dân được biết. Ngay trong thành phố tình trạng trộm cướp càng trầm trọng Cũng đã hơn một lần tôi tường thuật những vu “Cướp Sài Gòn.” Nhưng cho đến nay tình trạng cướp giật trở nên tinh vi và liều lĩnh hơn. Thậm chí tiền của cất trong két sắt cũng bị kẻ trộm phá két lấy hết. Nhất là các vụ trộm cướp ngày nay lại có những đứa trẻ mới 12, 13 tuổi và có cả những ông bà già sáu bảy chục tuổi cũng dàn cảnh để ăn cướp. Tình hình quả thật đáng báo động đỏ khiến người dân khiếp sợ. Ở đâu cũng mất an ninh. Tính mạng và tài sản có thể mất bất cứ lúc nào. Băng cướp 10-15 tuổi sẵn sàng đâm, chém du khách ở trung tâm Sài Gòn Nhóm cướp quy tụ gần chục người, có tuổi đời chỉ từ 10 đến 15 tuổi, gồm: H.H.L (14 tuổi), P.N.T (13 tuổi), N.H.T (12 tuổi), N.C.T, V.T.K, L.V.T.H (đều 15 tuổi). Ngoài ra, còn có các tên “nhí” khác đã bỏ trốn và đang bị công an truy lùng. Trong băng cướp nhí này, tỏ ra “số má, lì lợm” nhất đám là N.H.T. Nghi can này nói với phóng viên khi đang bị giữ ở trụ sở công an rằng “có sức chơi thì có sức chịu chứ sợ gì”! Nhóm cướp này bị Công an Q.1 bắt quả tang vào rạng sáng 27-10 khi vừa dùng dao tấn công một cặp tình nhân đang ngồi hóng mát ở khu vực bờ kè kênh Tàu Hủ trên đại lộ Võ Văn Kiệt, P. Nguyễn Thái Bình, Q. 1 để cướp một điện thoại di động và 2 triệu đồng. Công an Q. 1 cho biết thêm: Đây cũng là nhóm cướp đã chém trọng thương một du khách người Đức, anh Sepastian Gretz tại bờ kè kênh Tàu Hủ, P. Nguyễn Thái Bình, Q.1, cướp 600.000 đồng, một ĐTDĐ và một ống kính máy ảnh vào rạng 19/10. May mà công an điều tra ra, trả lại tiền tài vật dụng cho du khách. Ra tay tàn bạo, không hề sợ hãi Công an cho biết thêm chi tiết rợn người: Anh Sepastian Gretz bị nhóm cướp đâm chém gần chục nhát chưa kể phải chịu thêm nhiều cú đập chí mạng bằng gậy và gạch ở đầu. Anh này sau đó được người dân và công an chuyển vào bệnh viện cấp cứu kịp thời, hiện đã xuất viện. Kẻ ra tay tàn bạo nhất trong vụ này cũng chính là N.H.T. mới 12 tuổi khai nhận chính mình là kẻ trực tiếp dùng dao kề vào cổ của nam du khách, sau đó đâm nạn nhân gần chục nhát trước khi đồng bọn bồi thêm những khúc cây, cục gạch vào đầu cho đến khi anh Sepastian Gretz bất tỉnh mới buông tay. Khi cả nhóm bị bắt vào buồng giam, chúng không hề sợ hãi. Buổi ngày 28/10 phóng viên báo Thanh Niên ghé trụ sở công an P. Nguyễn Thái Bình - nơi đang giữ các nghi can trong băng cướp nhí. Anh kể: Tại đây, chúng tôi nhìn thấy có sáu thiếu niên, trong đó có một bé gái hơn 10 tuổi liên quan đến sự việc cũng bị giữ để lấy lời khai. Cả sáu em, đứa nằm dưới nền nhà, đứa ngồi tựa lưng vào tường trong căn phòng chừng 10 mét vuông đã được chốt chặt bởi một ổ khoá. Trông mặt mày các em hốc hác nhưng tất cả đều vui vẻ, cười nói chuyện trò rôm rả. Cả băng vô tư cười nói huyên thuyên và chẳng màng để ý đến mọi thứ xung quanh hay có chút biểu hiện gì bày tỏ sự ăn năn, sợ sệt về tội lỗi mà chính mình gây ra cách đó vài giờ. Cả sáu em cho biết tất cả đều đã nghỉ học, trong đó có hai em học đến lớp 5, một em học lớp 4, một em học lớp 3 và số còn lại chưa một lần được đến trường. Các em cho biết trước khi đi cướp, cả chúng lang bạt khắp nơi và làm đủ mọi việc để kiếm sống nhưng không có được nhiều tiền lại vất vả nên quy tụ bạn bè thành lập băng nhóm chuyển sang “nghề cướp.” Vợ chồng già 70 tuổi dàn cảnh ăn vạ chàng trai đi xe SH Một bạn đọc kể lại câu chuyện hi hữu giữa thành phố: Những chiêu lừa ngoạn mục mà tôi gặp ở thành phố này không hiếm, nhưng có những điều nếu không chứng kiến, có lẽ bạn sẽ chẳng bao giờ tin là nó có thật. Câu chuyện tôi kể ra đây có lẽ sẽ khiến các bạn lắc đầu ngao ngán vì không ngờ, bất kể tuổi tác nào người ta cũng đều có những thủ đoạn lừa đảo khác nhau. Hôm ấy, khoảng 7 giờ tối tôi mới đi làm về. Trên đoạn đường Nguyễn Hữu Thọ (đoạn siêu thị Lotte, Quận 7), trời hơi mưa lất phất, người cũng thưa thớt hơn, tôi đã chứng kiến một cảnh tượng khiến tôi thật sự cảm thấy xấu hổ, xấu hổ thay cho họ - những con người đáng lẽ ra phải được người khác tôn trọng về bề dày tuổi tác. Đi phía trước tôi là một anh chàng chạy chiếc xe SH khá sành điệu, bảnh trai. Không như những cậu thanh niên choai choai phóng nhanh, rú ga, nẹt pô âm ĩ, anh ta đi rất từ tốn và luôn đi sát vào trong lề đường. Đi cách anh chàng kia không xa là một đôi vợ chồng già chạy chiếc xe honda Dream. Nhìn qua, tôi nghĩ họ khoảng tầm chưa tới 70 tuổi, họ đi rất nhanh và luôn cố vượt mặt tôi để leo đến gần vị trí chiếc xe SH kia. Thủ đoạn ăn vạ bất ngờ Thế rồi, cứ thế cụ ông lao lên phía trên. Ông quay lại dặn cụ bà rằng: "Ôm cho chặt.” Vừa dứt lời, cụ ông tông vào đuôi chiếc SH kia, loạng choạng, họ ngã nhào xuống đất. Ngay lập tức, cụ bà la lối om sòm, cụ ông hét toáng lên: "Ối bà con ơi, tôi bị xe tông gần chết rồi.” Chứng kiến cảnh ấy, tôi biết ngay là dàn cảnh anh vạ. Rõ ràng, cú va chạm kia, người đi xe SH không hề có lỗi, anh ta đi trước rất từ tốn, hai vợ chồng cụ ông kia cố tình đâm vào đuôi xe của anh ta. Khi họ vừa ngã xuống, một người đàn ông đi chiếc Sirius vượt lên, dừng xe lại túm cổ áo anh chàng đi xe SH kia định đánh và bắt anh ta đền tiền vì gây tai nạn. Anh chàng kia không kịp nói gì đã bị anh ta chặn họng, cụ ông cụ bà kia thì cứ rên la như thể nặng lắm. Thấy vậy, anh chàng kia đành phải đưa cho cặp vợ chồng già kia một số tiền, tôi không biết bao nhiêu, tuy nhiên, tôi vừa lên tiếng định nói thì ngay lập tức đằng sau có kẻ đánh mạnh vào xe tôi và nói: "Đi đi, giang hồ đấy, lo chuyện bao đồng nó đánh cho.” Tên túm cổ anh SH kia chỉ vào mặt tôi và dằn mặt, đồng thời mấy kẻ khác cố đẩy tôi đi thật nhanh. Thật không ngờ, một cặp vợ chồng đã vào cái tuổi gần 70 lại có thể nghĩ ra những kiểu ăn vạ, đòi tiền trắng trợn một cách đáng xấu hổ như vậy. Đúng là cuộc sống này thật khó lường, chuyện lừa đảo nào cũng có thể xảy ra và có lẽ ra đường bây giờ trở thành nỗi ám ảnh với nhiều người chúng ta. Những cảnh ăn cắp vặt Tôi chỉ tường thuật vài chuyện lớn, còn ăn cắp, ăn cướp vặt diễn ra hàng ngày hàng giờ trên tất cả các các đường phố, dù là phố đông người. Chẳng thiếu gì những cô gái đang phóng xe gắn máy bị bọn cướp bám theo xà vào cướp dây chuyền, cướp điện thoại, cướp bất cứ thứ gì đeo trên xe. Ngay ở cổng bệnh viện giữa quận 5, một bà cũng bị 10 tên dàn cảnh cướp mất chiếc dây chuyền bạch kim, trị giá khoảng 5 triệu đồng. Còn ở ngay giữa TP Hà Nội, bạn hãy nhìn bất kỳ cái gì để trước cửa cũng phải khóa chặt, ngay cả tấm sắt nhỏ dùng làm lối dẫn xe máy lên hiên cũng phải khóa, tấm bảng hiệu của nhà nước cũng được khóa cẩn thận. Bạn đã thấy tình hình an ninh ở VN ngày nay như thế nào. Hết thuốc chữa! Văn Quang (20-11-2015)
|
|