|
Post by Vĩnh Long on Jan 29, 2014 5:29:40 GMT 9
Nấm Linh Chi Có Phải Là Thần Dược Để Trị Bệnh Ung Thư?Tác giả : Nguyễn thượng Chánh, DVM Từ nhiều năm qua, nấm lim xanh hay nấm linh chi (Ganoderma lucidum) được bà con bên nhà đồn đại nhiều và ca tụng như một thần dược để bồi dưỡng sức khỏe và phòng trị nhiều thứ bệnh tật mà đặc biệt nhứt là bệnh ung thư. * * * Nấm linh chi có nhiều thứ hạng. Loại cao cấp, giá trên trời dưới đất là linh chi Nhật Bản, Đại Hàn, Trung Quốc, Đài Loan, HongKong…bán dưới dạng khô, bột, viên con nhộng, trà, v.v… Nấm linh chi được một số quốc gia Á châu gầy trồng theo lối kỹ nghệ. Nấm Linh chi (Lingzhi hay Reishi) (Photo internet) Nấm linh chi là nấm gì? (theo quyển Natural Medicines Comprehensive Database Sixth Edition- sách tham khảo của dược sĩ Hoa Kỳ và Canada): Reishi Mushroom- trang 1089 -1090 Nấm linh chi (Ganoderma lucidum) còn có tên là Ling Zhi, Reishi… *Tính an toàn(safety): uống đúng liều lượng *Công dụng (use for): tăng cường sức miễn dịch, giảm áp huyết, giảm cholesterol, trị và ngừa nhiễm virus và ung thư (treating and preventing viral infections and tumors), trị các bệnh cảm nhiễm, bệnh tim mạch, hen suyễn và bệnh về phế quản (asthma and bronchial diseases). Cũng được dùng để giảm stress, bổ thận, trị viêm gan và bệnh gan (hepatitis and liver disease), hổ trợ sức khỏe trong trường hợp bệnh Sida, hóa trị (chemotherapy), trị mỏi mệt, mất ngủ, loét bao tử (gastric ulcers) và trường hợp đau nhức do dời ăn (herpes zoster pain). Uống chung với một số dược thảo khác để trị cancer tiền liệt tuyến (Prostate). * Hiệu lực (effectiveness): Còn thiếu thông tin đáng tin cậy về sự hiệu nghiệm của nấm linh chi trong trị liệu. * Phản ứng phụ (adverse reactions) - Nấm linh chi làm khô miệng, khô cuống họng, và vùng mũi, gây ngứa ngáy, ợ chua (stomach upset), chảy máu cam, phân có máu nếu sử dụng nấm linh chi trong thời gian từ 3 đến 6 tháng. *Tương tác với các loại dược thảo khác (Interactions with herbs & other dietary supplements) - Uống nấm linh chi đồng thời với các loại thuốc thiên nhiên có tính kháng đông (anticoagulant) hay chống kết tụ tiểu cầu (antiplatelet), trên lý thuyết có thể làm gia tăng nguy cơ xuất huyết. Các dược thảo có thể là angelica (bạch chỉ), anise (hồi), clove (đinh hương), boldo, capsicum (ớt), celery (cần Tây), chamomile, feverfew (Cúc thanh nhiệt?), garlic (tỏi), ginger (gừng), ginkgo (bạch quả), Panax ginseng (nhân sâm), horseradish (loại moutarde, wasabi), licorice (cam thảo), papain (enzyme từ đu đủ), tumeric (nghệ), v.v… - Uống đồng thời với các dược thảo có tính làm hạ áp huyết (herbs/supplements with hypotensive activity): trên lý thuyết có thể làm tăng nguy cơ giảm áp huyết. Các dược thảo có thể là black cohosh (Rễ rắn đen), celery seed, Panax ginseng (nhân sâm), v.v.. Celery seed -- called apio in Spanish, ajmoda in Hindi, sedano in Italian and kan-tsai in Chinese -- is not actually the seed of the leafy celery stalks that garnish those Bloody Marys, though it has the same ancestry. The seed comes from Apium graveolens, a marsh plant called smallage or wild celery, grown primarily in India but also in China, France, and California. *Tương tác với thuốc Tây (Interactions with drugs) - Với các loại thuốc kháng đông /chống kết tụ tiểu cầu (Anticoagulants/ Antiplatelet drugs): nấm linh chi có thể làm gia tăng nguy cơ xuất huyết, bầm dưới da. Đó có thể là Aspirin, Clopidogrel (Plavix), Voltaren, Ibuprofen (Advil, Motrin), Naproxen (anaprox), héparin, warfarin (Coumadin) vv… - Với các loại thuốc chống cao máu (antihypertensive drugs):sử dụng chung với các thuốc vừa kể, trên lý thuyết nấm linh chi làm mức giảm áp huyết trầm trọng hơn rất nhiều... Các thuốc đó có thể là catopril (Capoten), enalapril (Vasotec), diltiazem (Cardizem), amlodipine (Norvasc) hydrochlorothiazide (HydroDiuril), furosemide (Lasix), v.v… *Liều lượng sử dụng: uống từ 1.5-gr/ngày nấm linh chi khô, 1-1.5g/ngày bột linh chi, hoặc 1ml/ngày rượu nấm linh chi (tincture), có thể sử dụng linh chi như một loại trà. Nấm linh chi qua cái nhìn của Đông y và giới thuốc thiên nhiên Hầu như đa số giới thuốc thiên nhiên thì đề cao nấm linh chi lên tận mây xanh. Uống cho bổ cho khỏe và phòng trị được đũ thứ bệnh. Theo quảng cáo, nấm linh chi là một thần dược. Nhưng theo Chủ tịch hội Đông y Việt Nam, Bs Nguyễn Xuân Hướng, thì nấm linh chi chỉ là thuốc bổ và có tính làm cho mát (thanh nhiệt) chớ không phải là một loại thuốc để chữa trị ung thư. "…Theo Thầy thuốc ưu tú Nguyễn Xuân Hướng (Chủ tịch Hội đông y Việt Nam), gần đây, nấm linh chi được quảng cáo là dược thảo siêu hạng cho sức khoẻ con người, kể cả trẻ em và người lớn. Nhiều người nói, dùng linh chi thường xuyên rất tốt cho hệ tuần hoàn, giúp ổn định huyết áp, lọc sạch máu, giảm mệt mỏi, hỗ trợ thần kinh, chống đau đầu, đau người, giúp điều hoà kinh nguyệt, giúp da dẻ hồng hào... Đặc biệt, nấm linh chi còn có tác dụng kìm hãm sự phát triển của tế bào ung thư, bảo vệ gan. Trên các diễn đàn, cũng rất người đưa ra những đánh giá của mình về công dụng kỳ diệu của linh chi, thậm chí có người còn khẳng định nhờ uống linh chi thường xuyên mà người thân của họ đã khỏi bệnh ung thư? … …Vì thế, theo BS Hướng, nếu có điều kiện thì trà, nước cốt linh chi thì rất tốt cho sức khoẻ, do tính chất thanh nhiệt của loại nấm này. "Tuy nhiên, cần khẳng định lại, đó là linh chi chỉ có tác dụng làm chè thanh nhiệt, còn không hề có công dụng chữa bệnh như quảng cáo. Trong đông y chỉ dùng một tỉ lệ rất ít linh chi trong đơn thuốc. Do vậy, người dân không nên nhẹ dạ tin vào quảng cáo. Tốt nhất, hãy tham khảo ý kiến của thầy thuốc đông y khi dùng linh chi cũng như bất cứ vị thảo dược nào", BS Hướng đưa ra lời khuyên".(Ngưng trích: Bs Nguyễn Xuân hướng-Bệnh ung thư vòm họng có thể chữa khỏi nhờ nấm linh chi không?). Ngồi trước máy tính, tìm hiểu về nấm linh chi... Theo Ts Nguyễn Văn Hiếu "Trao đổi với Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hiếu, Phó Trưởng Khoa - Khoa Khoa học Trường Đại học Nông lâm, Giám đốc Dự án www.linhchinonglam.com Linh Chi Nông Lâm về giá trị khoa học thực sự của Nấm Linh Chi trong việc điều trị bệnh, Ông cho biết: "…Linh Chi đã được nghiên cứu, nuôi trồng và chế biến, dùng để bồi bổ sức khoẻ và điều trị một số bệnh như: Huyết áp, tim mạch,tiểu đường, gút (gout), thiểu năng tuần hoàn não, chống mỡ máu, suy nhược cơ thể,suy nhược thần kinh, bệnh gan, thận, đặc biệt thành phần polysarccharides có tác dụng khống chế sự phát triển của các tế bào bất thường (tác nhân gây ung thư, ung bướu) nên Linh Chi còn được sử dụng trong việc ngăn ngừa ung thư, ung bướu và hỗ trợ điều trị sau hóa trị, xạ trị…(Ngưng trích- Dân Trí-Sự thật giá trị khoa học của nấm linh chi, TS Nguyễn Văn Hiếu) Nấm Linh Chi qua cái nhìn của Tây Y Ngược lại, Tây y cũng có thực hiện nhiều khảo cứu về nấm linh chi và kết quả đã được đăng tải trong một số tập chí chuyên môn… Kết quả khảo cứu mặc dù có phần khích lệ nhưng các nhà khoa học vẫn còn hoài nghi và đề nghị cần phải thực hiện thêm nhiều khảo cứu hơn nữa… Một số khảo cứu tại các đại học trên thế giới Dưới đây là một vài khảo cứu (trong phòng thí nghiệm, in vitro) về tính kháng tế bào ung thư của nấm linh chi. Nói chung cho đến hôm nay chưa có một khảo cứu khoa học đáng tinh cậy nào, khẳng định việc nấm linh chi có thể trị dứt được bênh ung thư cả. 1) Ganoderma lucidum (Reishi mushroom) for cancer treatment. Jin X, Ruiz Beguerie J, Sze DM, Chan GC. School of Public Health, University of Sydney, Sydney, Australia. jwjxz@hotmail.com. www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/22696372Our review did not find sufficient evidence to justify the use of G. lucidum as a first-line treatment for cancer. It remains uncertain whether G. lucidum helps prolong long-term cancer survival. However, G. lucidumcould be administered as an alternative adjunct to conventional treatment in consideration of its potential of enhancing tumour response and stimulating host immunity.. Future studies should put emphasis on the improvement in methodological quality and further clinical research on the effect of G. lucidum on cancer long-term survival are needed. An update to this review will be performed every two years. 2) Ganoderma lucidum (Reishi) in cancer treatment. Sliva D. Cancer Research Laboratory, Methodist Research Institute, Indianapolis, IN 46202, USA. www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/14713328... Ganoderma lucidum also suppressed cell adhesion and cell migration of highly invasive breast and prostate cancer cells, suggesting its potency to reduce tumor invasiveness. Thus, Ganoderma lucidum clearly demonstrates anticancer activity in experiments with cancer cells and has possible therapeutic potential as a dietary supplement for an alternative therapy for breast and prostate cancer. However, because of the availability of Ganoderma lucidum from different sources, it is advisable to test its biologic activity. 3) Ganoderma lucidum inhibits proliferation of human breast cancer cells by down-regulation of estrogen receptor and NF-kappaB signaling. Jiang J, Slivova V, Sliva D. Cancer Research Laboratory, Methodist Research Institute, Indianapolis, IN 46202, USA. www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/16865287…Collectively, these results suggest that G. lucidum inhibits proliferation of human breast cancer cells and contain biologically active compounds with specificity against estrogen receptor and NF-kappaB signaling, and implicate G. lucidum as a suitable herb for chemoprevention and chemotherapy of breast cancer. 4) Anti-tumor and immunoregulatory activities of Ganoderma lucidum and its possible mechanisms. Lin ZB, Zhang HN. Department of Pharmacology, School of Basic Medical Sciences, Peking University Health Science Center, Beijing, China www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/15525457Ganoderma lucidum (G lucidum) is a medicinal fungus with a variety of biological activities. It has long been used as a folk remedy for promotion of health and longevity in China and other oriental countries. The most attractive character of this kind of medicinal fungus is its immunomodulatory and anti-tumor activities….. Recent studies also showed that the alcohol extract or the triterpene fraction of G lucidum possessed anti-tumor effect, which seemed to be related to the cytotoxic activity against tumor cells directly. Preliminary study indicated that antiangiogenic effect may be involved antitumor activity of G lucidum 5) Leukemia Research-Ganoderma lucidum in cancer research reishi.setamed.com/articulos/art14.pdfIn conclusion, although the data from the recent studies demonstrating the effect of G. Lucidum on the molecular level are promising, preclinical and clinical studies withG. Lucidum are necessary for the validation of this natural product in the preventionand/or therapy of cancer. 6) Anticancer effects of Ganoderma lucidum: a review of scientific evidence. Yuen JW, Gohel MD. www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/16351502Nutr Cancer. 2005 Department of Health Technology and Informatics, The Hong Kong Polytechnic University, Kowloon, SAR, China. ". Thus far there has been no report of human trials using lingzhi as a direct anticancer agent, despite some evidence showing the usage of lingzhi as a potential supplement to cancer patients.. Lingzhi or its products can be classified as an anticancer agent when current and more direct scientific evidence becomes available. Kết luận Nấm linh chi có tính ức chế một vài loại tế bào ung thư và tăng cường sức miễn dịch mà thôi. Có thể dùng đồng thời với lối chữa trị u Mỹ để hỗ trợ sức khỏe. Tác giả không tìm được một tài liệu khoa học nào đáng tin cậy của u Mỹ nói đến việc sử dụng nấm linh chi để chữa trị ung thư cả. Kết quả khảo cứu cho thấy nhiều hứa hẹn nhưng cần phải có thêm nhiều thí nghiệm tiền lâm sàng (preclinical studies) và lâm sàng (clinical studies). Tham khảo - Natural Medicines Comprehensive Database Sixth Edition- Ganoderma lucidum naturaldatabase.therapeuticresearch.com/nd/Search.aspx?cs=&s=nd&pt=100&id=905- Nguyễn Thượng Chánh- Có bệnh thì vái tứ phương vietbao.com/D_1-2_2-282_4-185954/- Dân Trí-Nấm lim xanh - phương thuốc quý hỗ trợ điều trị bệnh nan y dantri.com.vn/tu-van/nam-lim-xanh-phuong-thuoc-quy-ho-tro-dieu-tri-benh-nan-y-573219.htm- TS Nguyễn Văn Hiếu-Sự thật giá trị khoa học của nấm linh chi dantri.com.vn/tu-van/su-that-gia-tri-khoa-hoc-cua-nam-linh-chi-772189.htm- Bs Nguyễn Xuân Hướng-Bệnh ung thư vòm họng có thể chữa khỏi nhờ nấm linh chi không? www.chuakhoiungthu.com/2012/03/benh-ung-thu-vom-hong-co-chua-khoi-nho.htmlVideo: Ganoderma Technologically Computerized Greenhouse Farm (Sản xuất nấm linh chi tại Đài Loan) Video:Dược Thảo - Lợi Ích của nấm Linh Chi ************************* Công dụng của Nấm Linh Chi1. Những thành phần hoạt động của Linh Chi là gì? 2. Có phản ứng phụ nào không? 3. Tôi có thể dùng nấm Linh Chi với các thứ thuốc khác được không? 4. Sau bao lâu có thể thấy được công hiệu của nấm Linh Chi? 5. Có phải nấm Linh Chi tốt cho mọi lứa tuổi? 6. Hướng dẫn sử dụng nấm Linh Chi? 7. Có sự khác biệt nào giữa nấm Linh Chi đen và nấm Linh Chi đỏ? 8. Có phải chỉ nên dùng nấm Linh chi khi bị bịnh không? 9. Ngoài việc dùng nấm Linh Chi, còn cách nào thêm để giử gìn sức khỏe không? 10. Tinh chất rút từ nấm Linh Chi khác với nấm Linh Chi tự nhiên thế nào? 11. Nấm Linh Chi khác nấm thường thế nào? 12. Nấm Linh Chi được trồng như thế nào? 13. Nấm Linh Chi có những lợi ích gì? 1. Những thành phần hoạt động của Linh Chi là gì? Các nhà nghiên cứu xác nhận rằng các polysaccharicdes dễ tan trong nước có rất nhiều trong nấm Linh Chi có tác dụng chống ung thư, rối loạn miễn dịch và làm chống cao huyết áp. Thành phần quan trọng khác là triterpenes, còn được gọi là ganoderic acids giúp giảm nhẹ các dị ứng bằng cách ức chế sự phóng thích histamine của cơ thể, đẩy mạnh sự hấp thụ oxy và làm tăng sự hoạt động của gan. 2. Có phản ứng phụ nào không? Không. Theo văn học cổ, nấm Linh Chi được coi là dược thảo siêu hạng. Dược thảo siêu hạng là những dược thảo mà con người có thể dùng lâu dài với số lượng lớn mà vô hại. Sau 2000 năm, qua sách vở và qua các cuộc nghiên cứu, vẫn không có tác dụng phụ nào được báo cáo. Tuy nhiên, những người quá nhạy cảm cũng có thể gặp một vài triệu chứng như cảm thấy hơi khó tiêu, chóng mặt, hay ngứa ngoài da trong thời gian đầu dùng nấm Linh Chi. Tình trạng nầy xảy ra do phản ứng mạnh của cơ thể bài tiết những chất độc có từ thức ăn và chứng tỏ tác dụng tốt của nấm Linh Chi. Những người này sẽ trở lại bình thường sau một thời gian. Hơn nữa, trong American Herbal Pharmacopoeia® chuyên khảo cứu về nấm Linh Chi, Linh Chi được xếp hạng như sau: “Hạng nhất: dược thảo rất an toàn nếu được dùng thích đáng. Không có phản ứng phụ. Một vài người nhạy cảm sử dụng nấm Linh Chi báo cáo bị hơi khó tiêu và ngứa ngoài da, nhưng những triệu chứng này biến mất sau một thời gian ngắn.” 3. Tôi có thể dùng nấm Linh Chi với các thứ thuốc khác được không? Được. Nấm Linh Chi là dược chất thiên nhiên bổ sung cho sức khỏe. Không có điều chống chỉ định qua 2000 năm nghiên cứu. Tuy nhiên, cẩn thận khi dùng đối với những bệnh nhân được ghép nội tạng và đang dùng thuốc chống miễn dịch. Tốt nhất là hỏi ý kiến thấy thuốc trước khi dùng bất cứ một dược thảo bổ sung nào. Có thể vào website: Pharmasave – Library: Lucid Ganoderma Mushroom để biết thêm chi tiết. 4. Sau bao lâu có thể thấy được công hiệu của nấm Linh Chi? Thay đổi tùy theo mỗi cá nhân. Thông thường, người ta có thể nhận thấy sự công hiệu từ 10 ngày cho tới 2 tuần sau khi dùng nấm Linh Chi. Và nếu được dùng liên tiếp trong 2 tháng, quý vị sẽ cảm nhận đươc kết quả tuyệt vời của nấm Linh Chi. 5. Có phải nấm Linh Chi tốt cho mọi lứa tuổi? Đúng. Linh Chi là dược thảo bổ sung cho sức khỏe có tác dụng tốt cho mọi lứa tuổi, kể cả trẻ em và phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, tốt hơn hết là hỏi ý kiến thầy thuốc trước khi dùng. 6. Hướng dẫn sử dụng nấm Linh Chi? 7. Có sự khác biệt nào giữa nấm Linh Chi đen và nấm Linh Chi đỏ? Chỉ có 6 loại nấm Linh Chi được nghiên cứu tường tận về khả năng trị liệu của chúng, đó là: nấm Linh Chi đỏ, đen, xanh da trời, trắng, vàng và tím. Trong 6 loại nầy, nấm Linh Chi đen và đỏ được coi là có tác dụng trị liệu tốt nhất, và được dùng nhiều nhất trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên, nấm Linh Chi đỏ được chứng minh là tốt nhất cho sức khỏe vì nó thúc đẩy sự làm việc của hệ thống miễn dịch, làm tăng sự hoạt động của cơ thể và chống lão hóa. Nấm Linh Chi đen thường được bán trong các tiệm thuốc đông dược. Loại nấm nầy có nhiều kích cỡ. Thường các tay nấm trưởng thành có đường kính 6 inches, nhưng cũng có những tay nấm có đường kính đến 10 inches. Phần lớn các sản phẩm được giới thiệu là “từ thiên nhiên” được làm bằng nấm Linh Chi đen. Mặc dù được coi như là một dược thảo bổ dưỡng, nấm Linh Chi đen không có giá trị bằng nấm Linh Chi đỏ vì nó không chứa nhiều polysaccharides bằng nấm Linh Chi đỏ. 8. Có phải chỉ nên dùng nấm Linh chi khi bị bệnh không? Không. Nấm Linh Chi có thể được dùng bất cứ lúc nào kể cả khi không bị bệnh. Điều lợi ích nhất của nấm Linh Chi là nâng đỡ và kiến tạo hệ thống miễn dịch. Vì vậy, nấm Linh Chi rất có lợi cho một người khỏe mạnh. 9. Ngoài việc dùng nấm Linh Chi, còn cách nào thêm để giữ gìn sức khỏe không? Các nhà dinh dưỡng khuyên ta nên làm những điều sau đây: * Hạn chế dùng đường tinh luyện. Thay thế bằng mật ong nguyên chất hay đường từ trái cây. * Tránh dùng thực phẩm chế biến (thí dụ như đồ hộp, mì ăn liền, nước ngọt…) * Ăn thực phẩm tươi, mỗi thứ một ít từ các nhóm thực phẩm chính để có được sự quân bình. Kể cả rau tươi, nhất là những loại có cả thân, lá, và củ. * Uống nhiều nước. Uống được 8 ly nước 1 ngày sẽ phòng ngừa được sự mất nước của tế bào, kích thích sự trao đổi dưỡng chất và do đó giúp cơ thể thải các chất độc dễ dàng hơn. 10. Tinh chất chiết từ nấm Linh Chi khác với nấm Linh Chi tự nhiên thế nào? Các chất bổ dưỡng giá trị có từ nấm Linh Chi tự nhiên rất thấp và cơ thể chúng ta rất khó hấp thụ nếu không được chế biến. Khi xưa, nấm Linh chi đỏ khô được xắt nhỏ, nấu sôi trong nước rồi được dùng như trà hay súp. Ngày nay, các dược chất tuyệt hảo có trong nấm Linh Chi được chiết từ các máy móc tối tân ở Nhật. Tại đây, nấm Linh Chi tự nhiên được đun nấu nhiều lần dưới áp suất cao và trong môi trường vệ sinh để lấy được tinh chất tốt nhất, giúp cơ thể hấp thụ dể dàng. Phần lớn các sản phẩm của nấm Linh Chi có trên thị trường được làm từ thân nấm Linh Chi tán thành bột, cho nên cơ thể chúng ta rất khó hấp thụ, làm giảm giá trị của dược thảo. 11. Nấm Linh Chi khác nấm thường thế nào? Trong khi các loại nấm khác như nutsake, maitake, cordyceps, …đều cùng có tác dụng thúc đẩy sự hoạt động của hệ thống miễn dịch, nấm Linh Chi là loại nấm được dùng từ rất xa xưa và được ghi nhận có công hiệu trong việc điều trị rất nhiều chứng bệnh. Khác với các loại nấm khác, nấm Linh chi đỏ chứa nhiều dược chất phức tạp như triterpenes (garnoderic acid) thành ra nấm Linh Chi đỏ có vị đắng. 12. Nấm Linh Chi được trồng như thế nào? Để cho việc trồng Linh Chi thu được kết quả tốt, những điều quan trọng sau đây cần lưu ý: * Cũng như tất cả các loại nấm khác, Linh Chi cần phải có một môi trường sinh trưởng đầy đủ độ ẩm. * Linh Chi, nhất là Linh Chi Đỏ phải hội đủ 4 điều kiện: Nhiệt kỳ, hàn kỳ, quang kỳ, và âm kỳ. Để hoàn thành chu kỳ CO2 (hữu cơ) và O2 (Oxy) hầu có thể tăng trưởng, và hàm chứa cao độ dược liệu. * Được biết núi Phú Sĩ của Nhật Bản là nơi thích nghi nhất cho việc trồng nấm Linh Chi, vì mùa Đông có tuyết rơi, mùa hè trên 70 độ F, đêm hoàn toàn tối và ngày có đủ ánh sáng cho chu trình phát triển của Linh Chi. * Vì thế Linh Chi của Nhật Bản có giá trị Dược liệu cao nhất. 13. Nấm Linh Chi có những lợi ích gì? Những tác dụng sau đây được in trong tạp chí Cancer Research UK dưới tựa đề: Medicinal mushrooms: their therapeutic properties and current medical usage with special emphasis on cancer treatments. Bảng dược tính của tinh chất trích từ nấm Linh Chi: * Trị đau nhức. * Chống dị ứng. * Phòng ngừa viêm cuống phổi. * Kháng viêm. * Kháng khuẩn, chẳng hạn như vi khuẩn staphylococca, streptococci, bacillus pneumoniae. (Có thể do tính tăng cường hoạt động của hệ thống miễn dịch.) * Kháng độc tố, nhờ vào tính đào thải đuợc gốc tự do. * Chống ung thư. * Kháng siêu vi. * Làm giảm huyết áp. * Trợ tim, làm hạ cholesterol, làm giảm xơ cứng thành động mạch. * Giúp thư giãn thần kinh, làm giảm ảnh hưởng của caffeine và làm thư giãn bắp thịt. * Long đàm (nghiên cứu ở chuột). * Chống HIV. * Làm tăng cường hoạt động của nang thượng thận. Dược tính này có được nhờ hoạt tính của: * Beta và hetero-beta-glucans (chống ung thư, kích thích hoạt động của hệ thống miễn dịch). * Ling Zhi-8 protein (chống dị ứng, điều chỉnh hệ thống miễn dịch). * Garnodermic acids – triterpenes (kháng dị ứng, làm hạ cholesterol và làm hạ huyết áp) Nguồn: Dược thảo Tre Xanh **************************************************************** Nấm linh chi cách dùng và tác dụng? Linh Chi Ngoại sử chép rằng trong một tiệc tân niên đãi các sứ thần ngoại quốc, Từ Hi Thái Hậu nhà Thanh đã tổ chức một bữa ăn gồm tổng cộng 365 món, kéo dài bảy ngày đêm, mỗi ngày có một món đặc biệt. Bảy món cho bảy ngày là Linh Chi, tượng tinh, sơn dương trùng, chuột bạch bao tử, óc khỉ, trứng công, và nhũ trư (heo sữa). Bữa tiệc kéo dài từ sáng mồng một đến mồng bảy tháng giêng. Những món ăn đãi thực khách dĩ nhiên là cầu kỳ không phải chỉ vì bào chế công phu mà còn cả tìm tòi, săn bắt hay nuôi dưỡng rất kỹ lưỡng. Thế nhưng Linh Chi là cái gì mà được đưa lên hàng đầu trong danh sách của thực đơn 365 món? Phải chăng đó là những cái nấm màu đen sì, bóng nhẫy mà chúng ta vẫn thấy người ta để hàng rổ trong các tiệm thuốc bắc ở Nam Cali? Lẽ đâu Linh Chi lại dễ dàng đến thế. Không, chính loại nấm đó tên gọi Linh Chi, là dược thảo đứng đầu trong Thần Nông Bản Thảo Kinh. Bản Thảo Kinh tên nguyên thủy là Thần Nông Bản Thảo Kinh, được hình thành vào khoảng cuối đời Ðông Hán, là của người sau thác danh họ Thần Nông sáng tác. Tác phẩm này tập hợp những kinh nghiệm về dược vật từ đời Hán trở về trước, tất cả 365 loại, trong đó thực vật chiếm đa số (252 vị), kế là động vật (67 vị) và sau cùng là khoáng thạch (46 vị) và có thể coi là cuốn sách về dược học đầu tiên của Trung Hoa. Cuốn kinh này chia các vị thuốc ra làm ba loại, thượng, trung và hạ phẩm. Linh Chi là dược loại đứng đầu của thượng phẩm, trên cả nhân sâm, là một dược thảo được xem là kỳ diệu, có rất nhiều hiệu năng, dùng lâu không hại, có thể giúp người ta diên niên trường thọ. Thời trước chỉ có vua chúa và vương hầu biết tới chứ người bình dân thì chỉ nghe mà không mấy khi được gặp. Cây nấm đó còn mang nhiều huyền thoại còn lạ lùng hơn cả nhân sâm. Người ta bảo rằng nấm này chỉ mọc tại những khu rừng hoang vu, vào thời điểm nhất định, mà không phải là người có duyên phận lớn thì không gặp được. Những khối ngọc tạc theo hình chiếc nấm này gọi là ngọc như ý, tượng trưng cho sống lâu, ta thấy nơi tay các tiên ông trong tranh cổ. Linh Chi đã được biết từ nhiều ngàn năm trước. Tần Thủy Hoàng muốn kiếm những cây nấm này nên sai đạo sĩ Từ Phúc đem 1500 đồng nam, 1500 đồng nữ dong thuyền ra Ðông Hải tìm thuốc trường sinh. Phái đoàn đó ra đi mà không thấy trở về, không biết vì mất tích ngoài biển cả hay vì không kiếm ra nên sợ không dám về phục mệnh. Có thuyết cho rằng họ đã định cư trên quần đảo Phù Tang và là tổ tiên của người Nhật hiện nay. Trong lịch sử không biết bao nhiêu người đã tìm cách gây giống và trồng loại nấm này nhưng đều thất bại. Mãi tới năm 1971, hai nhà bác học người Nhật tên là Yukio Naoi và Zenzaburo Kasai, giáo sư của phân khoa nông nghiệp, đại học Kyoto mới thành công trong việc gây giống và người ta mới sản xuất được vị thuốc này một cách qui mô. Từ đó Linh Chi được trồng và sử dụng trong việc bào chế chứ không chỉ là huyền thoại. Hiện nay, thế giới hàng năm sản xuất vào khoảng 4,300 tấn, trong đó riêng Trung Hoa trồng khoảng 3000 tấn còn lại là các quốc gia Ðại Hàn, Ðài Loan, Nhật Bản, Thái Lan, Hoa Kỳ, Malaysia, Việt Nam, Indonesia và Sri Lanka. Nhật Bản tuy tìm ra cách trồng nhưng nay chỉ sản xuất khoảng 500 tấn mỗi năm, đứng sau Trung Hoa. Kỹ nghệ trồng Linh Chi ngày càng phát triển, và tại Việt Nam nhiều nhà nông nghiệp học cũng đã nghiên cứu và thiết lập một trại trồng và bào chế Linh Chi ở Saigon từ năm 1987. Linh Chi, viết theo kiểu phiên âm Trung Hoa Lingzhi hay Lingchih, tên Nhật reishi, tên khoa học ganoderma lucidum, là một loại nấm thuộc họ đa khổng (polyporaceae), thường mọc trên những cây mục. Thời xưa người ta chỉ có thể tìm thấy nấm trong rừng, trên những núi cao chứ không cách gì gây giống được. Có sách lại nói là Linh Chi chỉ tìm thấy ở phía tây núi Thái Hàng. Chính vì thế mà cây nấm này càng mang nhiều truyện thần kỳ. Trong truyện Bạch Xà tinhụ, Linh Chi có tác dụng cải tử hoàn sinh, làm cho người chết có thể sống lại được. Vì chưng người ta còn gọi là Linh Chi thảo nên nhiều tác giả đã cho rằng đây là một loại cây cỏ. Thực ra, như trên đã nói, Linh Chi là một loại nấm. Trong thiên nhiên, nấm này thường chỉ có nơi rừng rậm, ít ánh sáng và độ ẩm cao. Những cây thường có Linh Chi là cây mận, dẻ (pasania), và guercus serrata. Tuy nhiên trong hàng vạn cây già, chỉ có độ hai ba cây có Linh Chi. Vì thế nấm này rất hiếm trong dạng thiên nhiên. Hơn thế nữa, nấm tìm được thường không mấy khi nguyên vẹn mà hay bị sâu bọ cắn nát. Vỏ ngoài của Linh Chi rất cứng, nên việc nẩy mầm càng thêm khó khăn và việc tìm được cây nấm trở thành huyền thoại. Khi may mắn kiếm được, người ta thường phải dấu cả người thân và coi như một gia bảo. Mỗi khi kiếm được loại nấm này, cả vùng đó mở hội ăn mừng và lập tức loại dược thảo quí dược này được đem tiến cung. Linh Chi càng huyền bí khi người ta còn đặt cho nó cái tên vạn niên Linh Chi, cho rằng ai ăn được nó sẽ trường sinh bất tử. Tuy nhiên phần chúng ta nhìn thấy ở cây nấm chỉ là bộ phận nổi, vì chính cây nấm là phần nằm ngầm trong thớ gỗ, có tên khuẩn ti thể (mycelium), là những đường dây chằng chịt, giống như rễ cây có nhiệm vụ hút chất bổ nuôi thân. Và khi nào điều kiện còn thuận tiện, phần ngầm này tiếp tục phát triển và nẩy ra những cánh nấm. Những cây nấm này là một bộ phận tái biến chế (recyclers) quan trọng trong thiên nhiên vì nó làm gia tăng tieán trình hủ nát của thảo mộc, góp một phần quan trọng vào môi trường chúng ta đang sống. Những cây cỏ sẽ biến thành mùn nuôi sống các cây khác. Không có những cây nấm, thế giới sẽ chỉ là một bãi rác khổng lồ, chất đầy những vật liệu chết, mà phải mất một thời gian rất lâu mới tiêu đi được. Linh Chi có nhiều hình dạng khác biệt, có cái hình nấm nhưng mũ nấm không tròn mà nhăn nheo, có thứ giống như trái thận, có thứ lại hình giống như sừng hươu. Theo Thần Nông Bản Thảo có 6 loại Linh Chi, mỗi loại có một công năng đặc biệt. - Thanh chi (xanh) vị toan bình, giúp cho mắt sáng, bổ can khí, giúp cho an thần, nhân thứ, dùng lâu sẽ thân thể nhẹ nhàng, thoải mái. - Xích chi (đỏ), vị đắng, chủ vị, ích tâm khí, tăng trí tuệ. - Hắc chi (đen) ích thận khí, khiến cho đầu óc tinh tường. - Bạch chi (trắng) ích phế khí, làm cho trí nhớ dai. - Hoàng chi (vàng) ích tì khí, an thần, trung hòa. - Tử chi (tím đỏ) bảo thần, ích tinh, làm cứng gân cốt, da tươi đẹp. Cả sáu loại đều có công năng giúp người ta thân thể khinh linh, tiêu sái, trẻ mãi không già, trường thọ. Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân viết là "dùng lâu, người nhẹ nhàng, không già, sống lâu như thần tiên". Nói chung, Linh Chi bổ đủ ngũ tạng, nhưng mỗi loại bổ một khác. Tuy nhiên những biện biệt trong Thần Nông Bản Thảo xem ra chỉ thuần lý, dựa trên ngũ hành, ngũ sắc để luận hơn là được thử nghiệm thực tế. Màu xanh thuộc mộc, chủ can nên thanh chi bổ gan, màu trắng thuộc kim, chủ phế nên bạch chi bổ phổi, màu đen thuộc thủy, chủ thận nên bổ thận, màu vàng thuộc thổ, chủ tì vị nên bổ tì. Những tác dụng và hậu quả đều do đó hệ luận đó mà ra. Gần đây khi tìm được cách gây giống, những khoa học gia Nhật Bản chứng minh được rằng những cây nấm màu sắc khác nhau không phải vì khác loại mà chỉ vì môi trường và điều kiện sinh hoạt khác nhau. Thay đổi điều kiện người ta có thể có được đủ sáu loại từ cùng một giống. Công dụng của Linh Chi Theo giáo sư Hiroshi Hikino, một bác học chuyên về dược thảo thì Linh Chi là một trong những vị thuốc bổ quan trọng nhất trong Ðông y. Các thầy thuốc đã dùng Linh Chi trong các chứng mệt mỏi, suy nhược, tiểu đường, các chứng bệnh về gan, và nhiều chứng thuộc hệ thống đề kháng của cơ thể. Theo Lý Thời Trân trong Bản Thảo Cương Muc thì Linh Chi có tác dụng bổ tâm khí, chữa các chứng nhói ngực. Hiện nay, Linh Chi được dùng để giảm áp huyết, kích thích sự làm việc của gan, tẩy máu, và giúp cơ thể chống lại các chứng lao lực quá độ. Trong một mức độ nào đó, Linh Chi có tác dụng giải độc trong cơ thể. Ngoài ra Linh Chi còn được dùng để chữa bệnh mất ngủ, lở dạ dày, tê thấp, suyễn, sưng cổ họng. Người ta cũng không thấy có phản ứng phụ hay tác dụng xấu nào khi dùng lâu. Người Trung Hoa hiện nay còn dùng Linh Chi để cho da mặt thêm mịn, có lẽ là do các chất hormone trong loại nấm này. Nhiều y gia Nhật Bản lại dùng Linh Chi trong các loại thuốc trị rụng tóc. Vì tác dụng bổ khí và làm tăng hệ thống miễn nhiễm của cơ thể, người ta còn dùng Linh Chi để phụ với các loại thuốc trị ung thư. Bác sĩ Fukumi Morishige, một chuyên gia giải phẫu tim đang nghiên cứu công dụng của Linh Chi trong việc trị bệnh ung thư tại viện Linus Pauling Institute of Science & Medicine, Hoa Kỳ, cho biết là dùng Linh Chi chung với sinh tố C liều lượng lớn (megadose) có tác dụng mạnh hơn vì sinh tố C giúp cho việc hấp thụ dược tính của Linh Chi. Nhiều trường hợp chữa lành hay thuyên giảm bệnh đã được bác sĩ Morishige trình bày trên các tập san y học. Những công dụng của Linh Chi vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, dùng đơn lẻ hay dùng chung với các loại dược thảo khác. Hầu như Linh Chi có thể dùng để chữa rất nhiều chứng bệnh khác nhau nên người ta đã đặt cho cái tên nấm trường sinh. Ở Trung Hoa, Linh Chi được trồng chính yếu tại mười khu vực, bao gồm vùng ngoại ô Bắc Kinh, Tứ Xuyên, Thiết Kim, và An Huy. Người Tàu thường trồng nấm trong bao vinyl để sản xuất qui mô, cho số lượng nhiều. Họ cũng còn theo phương pháp trồng trên gỗ của Nhật nhưng không thông dụng lắm. Trên thế giới, người Trung Hoa vẫn là sắc dân chủ yếu tiêu thụ các sản phẩm về Linh Chi. Hiện nay trên thị trường có bán đủ loại từ nấm nguyên dạng đến bột, capsule, hay gói trà, hoặc ngâm trong rượu. Ngoài ra họ còn dùng Linh Chi trong các loại thức ăn. Trong vòng năm mươi năm qua, con người đã tìm ra được những loại thuốc có sức đề kháng cao với vi trùng từ một số cây nấm hay mốc trong đó có những loại trụ sinh đầu tiên như penicilin, tetracycline, aureomycin. Kỹ nghệ trồng nấm cung cấp cho chúng ta một số thực phẩm dồi dào chất đạm và sinh tố. Việc trồng nấm để làm thuốc cũng ngày càng tinh vi. Chính nhờ đó người ta đã phục hồi lại được một vị thuốc mà chỉ hai mươi năm trước còn là huyền thoại vì chỉ nghe mà không mấy ai được thấy bao giờ.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 29, 2014 5:34:35 GMT 9
Dâm hương hoắc chuyên trị liệt dươngTheo các tài liệu cổ, dược liệu dâm dương hoắc có vị cay, đắng, tính ấm, có tác dụng bổ can, thận, kích thích sinh dục, trợ dương, mạnh gân xương, ích tinh, trừ thấp, chuyên trị bệnh liệt dương. Dâm dương hoắc tên khoa học (Epimadium sp). Đó là một cây thảo, sống nhiều năm, cao 30-40cm. Thân rễ cứng có nhiều rễ con, lá kép mọc từ gốc, gồm 3 lá chét dài 4-9cm, hình tim có 2 tai lệch nhau, đầu thuôn nhọn sắc, mép có lông nhỏ; Cuống lá mảnh dài khoảng 15cm; hoa gồm 8 lá đài xếp thành 2 vòng, lá đài ở vòng ngoài nhỏ, mặt ngoài có đốm tím, lá đài ở vòng trong màu trắng giống như cánh hoa; cánh hoa màu trắng. Quả hạch hình trứng có nhiều hạt. Bộ phận dùng làm thuốc của dâm dương hoắc là thân, cành và lá, thu hái vào tháng 6-7 lúc cây mọc xanh tốt và trời râm mát, cắt bỏ rễ, rửa sạch, phơi hay sấy khô. Dùng sống hoặc chế biến như sau: Mỡ dê (250g) thái nhỏ, đun chảy, vớt bỏ tóp, cho dâm dương hoắc (1kg) đã thái nhỏ vào, đảo đều cho dược liệu thấm hết mỡ. Để nguội mà dùng. Có thể dùng dâm dương hoắc trong những trường hợp sau: - Chữa liệt dương, di tinh: Bài 1: Dâm dương hoắc 12g, ba kích 16g, sa sâm 16g, thỏ ty tử 12g, nhục thung dung 12g, cẩu kỷ 12g, đỗ trọng 8g, dương quy 8g, cam thảo 6g, đại táo 3 quả. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, ngâm với 1 lít rượu 35-40 độ (càng lâu càng tốt) uống trong vòng 1 tuần lễ, ngày 2 lần, mỗi lần 15ml. Hoặc sắc với uống trong 3 ngày. Bài 2. Dâm dương hoắc 60g, con ngài tằm đực 100g, kim anh 50g, ba kích 50g, thục địa 40g, sơn thù du 30g, ngưu tất 30g, khởi tử 20g, lá hẹ 20g. Tất cả thái nhỏ phơi khô, ngâm với 2 lít rượu cồn 40 độ, thêm 40g đường kính. Ngày uống 3 lần mỗi lần 30ml trước hai bữa ăn chính và khi đi ngủ. Bài 3. Dâm dương hoắc 60g, phục linh 30g, đại táo 9 quả. Ba thứ hấp chín, phơi khô làm như vậy 3 lần. Sau đó thái nhỏ các dược liệu, ngâm với 2 bát rượu trắng và 100g mật ong. Đậy kín (tốt nhất là dùng lọ rộng miệng có nút mài). Để 1 tháng rồi lấy ra uống, mỗi ngày 2-3 chén nhỏ. Dùng liền 3 tháng. Nếu sắc uống thì dùng dược liệu ít hơn. Bài 4. Dâm dương hoắc 120g, tiêu mao 100g, ngũ gia bì 100g, nhãn bỏ hạt 100 quả. Ngâm rượu trắng 1,5-2 lít trong 20 ngày. Ngày 2 lần, mỗi lần uống 20-30ml. Bài 5. Dâm dương hoắc 10g, cam thảo 4g, gừng sống 3 lát, sắc với 200ml nước còn 50ml uống 1 lần trong ngày. Bài 6. Dâm dương hoắc 12g, dương vật và tinh hoàn dê 30g, tiêu mao 16g bạch trật lô 16g, ngâm rượu uống. - Chữa xuất tinh sớm, lưng gối đau mỏi, đái rắt: Dâm dương hoắc, phá cố chỉ, thục địa, hoài sơn, ngưu tất, hồ lô ba, thỏ ty tử, ba kích thiên, ích trí nhân, phục linh, sơn thù nhục, mỗi vị 500g, trầm hương 60g, nhục thung dung 250g, lộc hươu 500g. Tất cả phơi khô, nghiền nhỏ, rây bột mịn, trộn với mật làm thành viên bằng hạt đậu, mỗi lần uống 10g. Ngày 2 lần. - Thuốc bổ thận cho người cao tuổi: Dâm dương hoắc, tiền mao, tang thầm, tử hà xa, hoài sơn, thỏ ty tử, hoàng linh, thục địa mỗi vị 15g, sơn thù nhục 12g, thận dê 2 quả. Tất cả thái nhỏ, nấu nhừ, ăn cả cái lẫn nước làm 2-3 lần trong ngày. - Chữa thận dương suy yếu, phong thấp, tỳ thống: Dâm dương hoắc 100g, rượu trắng 500ml. Thái nhỏ dược liệu, bọc trong vải gạc, ngâm rượu trong 2 tuần. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 10ml. Nguồn Suckhoe&doisong ******************************************************** Chữa tiêu chảy bằng vị thuốc từ cây simCây sim là loại cây nhỏ chỉ cao 1-2m, mọc hoang rất nhiều ở vùng rừng núi, nhất là những nơi đồi trọc miền trung du. Cây thường xanh, lá đối nhau, hình bầu dục dài 3-6cm, hoa 5 cánh sắc đỏ, quả hình tròn lúc chín màu tím sẫm có vị ngọt và thơm. Toàn bộ cây sim đều được dùng làm thuốc: rễ chữa bệnh đau tim, lá chỉ đau, tán nhiệt độc, cầm huyết, rút mủ, sinh da non; quả ăn được, làm rượu bổ; nụ chữa tiêu chảy. Làm thuốc bổ: Quả sim dùng để ăn; hoặc để chế rượu như rượu nho, có màu rất đẹp, dùng để uống. Một số nơi còn dùng quả sim chín đồ lên như đồ xôi, rồi phơi khô để dành dùng dần. Phụ nữ sau khi sinh thiếu máu, hoặc người bệnh ốm lâu ngày bị suy nhược cơ thể, thì dùng khoảng 40g sắc uống. Một phương thuốc khác thì đem sắc chung quả sim khô với đậu đen, sâm đại hành, lá dâu non (3 thứ đã sao kỹ) làm thuốc bổ uống bồi dưỡng cơ thể. Chữa tiêu chảy: Ở miền núi và trung du nước ta, nhân dân vẫn thường dùng búp và lá sim non mỗi ngày 20-30 búp dưới dạng thuốc sắc chữa tiêu chảy, hoặc đi lỵ. Một số nơi còn dùng búp sim phối hợp với búp ổi (hoặc vỏ ổi giộp), riềng, chữa tiêu chảy rất có hiệu quả. Ngoài ra, người ta còn lấy quả và lá sim tươi giã nát đắp vào nơi bị đau. Hoặc dùng lá sim sắc lấy nước dùng rửa vết thương, vết loét ở ngoài da cho mau lành. BS. Vũ Nguyên Khiết ********************************************* Gai tầm xoọng: Vị thuốc chữa phong thấpCây gai tầm xoọng có tên khác là độc lực, quýt gai, quýt rừng, cam trời. Thuộc họ Rutaceae. Cây bụi nhỏ, lá mọc so le, thân có gai dài, lá dày cứng có tinh dầu. Hoa màu trắng, quả tròn khi chín có màu đen. Toàn cây có tinh dầu thơm mùi quýt. Quả xanh chứa chất nhầy. Các bộ phận khác có vị đắng, the, mùi thơm, tính ấm, không độc. Ở nông thôn mỗi khi luộc ốc, người ta dùng gai của cây này để khêu ruột ốc. Vì loại gai này dài sắc và có độ cứng thích hợp. Toàn cây được dùng làm thuốc. Theo y học cổ truyền, gai tầm xoọng là vị thuốc chữa phong thấp. Dùng toàn cây thái nhỏ sao vàng hạ thổ sắc uống. Kết quả rất tốt cho nên đã được truyền cho nhau, nó trở thành phương thuốc quý trong dân gian. Ngoài công dụng đó ra, gai tầm xoọng còn có tác dụng chữa ho, chữa rắn cắn, chữa sâu răng, làm tan được huyết bầm huyết ứ, thông hoạt kinh lạc, trừ tà, giảm đau nhức... Theo kinh nghiệm cây này dùng tươi tốt hơn dùng khô. Có thể dùng độc vị hoặc phối hợp cùng những vị khác thành bài. Điều trị phong tê thấp thì kết hợp với tục đoạn, thổ phục linh, ngải diệp. Điều trị ho đau họng, kết hợp với cát cánh, trần bì, tang diệp. Chống viêm tiêu ứ thì kết hợp với bồ công anh, hồng hoa, tô mộc... Một số ứng dụng trên lâm sàng: Các khớp sưng đau, đi lại khó khăn, toàn thân mệt mỏi: gai tầm xoọng 25g sao vàng hạ thổ, sắc uống. Hoặc gai tầm xoọng 16g, thổ phục linh 16g, tục đoạn 12g, ngải diệp 12g, đương quy 12g, kê huyết đằng 12g, thiên niên kiện 10g, quế 6g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần/ngày. Cần gia giảm theo chứng trạng của người bệnh: - Đau lâu ngày, cơ thể gầy yếu da xanh, gia đẳng sâm 16g, bạch truật 12g, hoài sơn 16g, liên nhục 16g, đại táo 12g. - Đau ngực khó thở, gia hắc táo nhân 16g, lạc tiên 16g, hạt muồng (sao) 16g. - Ăn uống kém, tiêu hóa trì trệ, gia bạch truật 12g, trần bì 12g, biển đậu 16g. Đau vai cổ, một bên cánh tay khó cử động: gai tầm xoọng sao vàng hạ thổ 20g, nam tục đoạn 20g, tang chi 12g, rễ cúc tần 12g, kinh giới 12g, quế 10g, thiên niên kiện 10g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Có thể kết hợp với bài thuốc chườm: ngải diệp 50g, rễ lá lốt 15g. Hai thứ sao rượu, gói vào miếng vải, chườm tại chỗ. Khi thuốc nguội, sao lại và chườm tiếp. Khớp gối đau nhức, có biểu hiện xơ cứng, hạn chế vận động: gai tầm xoọng sao vàng hạ thổ 20g, cát căn 16g, huyết đằng 12g, đương quy 12g, tục đoạn 12g, phòng phong 12g, tế tân 10g, quế 10g, đơn hoa 12g, chích thảo 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Công dụng: trừ thấp giảm đau, thông kinh hoạt lạc. Nếu bệnh nhân là người cao tuổi, ít ngủ, gia hắc táo nhân 16g, hạt muồng (sao) 12g, bạch linh 12g. Ho hen, khó thở, đau họng mắc đờm: gai tầm xoọng (sao vàng hạ thổ) 16g, cát cánh 12g, trần bì 12g, mạch môn 12g, đại táo 6 quả, tang bạch bì 16g, hoàng kỳ 12g, mơ muối 12g, cam thảo 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Kiêng cua ốc, cá tươi, thịt gà. Ho kéo dài do biến chứng của cảm cúm: gai tầm xoọng 16g, tế tân 12g, kinh giới 12g, mạch môn 16g, cát cánh 12g, bách bộ 12g, trần bì 12g, thục địa 12g, huyền sâm 10g, xa tiền thảo 16g, rau má 20g, lá xương sông 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Trẻ em ho gà: gai tầm xoọng (dùng lá) 6g, hoa đu đủ đực 6g, cát cánh 6g, lá tía tô 6g, trần bì 6g, tang bạch bì 6g. Đổ nước 300ml, sắc lấy 100ml, chia 3 – 4 lần cho trẻ uống trong ngày. Ho khan do phế nhiệt: gai tầm 16g, thiên môn 12g, tang diệp 20g, xa tiền thảo 20g, lá xương sông 20g, lá đinh lăng 20g, rau má 24g, bạch linh 10g, mơ muối 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Phụ nữ bị bế kinh: đau bụng dữ dội, bụng dưới căng đầy, da mặt nóng nổi mụn: gai tầm xoọng (sao vàng hạ thổ) 24g, ích mẫu 16g, đương quy 12g, tô mộc 16g, trạch lan 16g, đan sâm 16g, kê huyết đằng 12g, hương phụ 12g, quế 8g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Uống nóng. Lương y Trịnh Văn Sỹ ************************************************* Không dễ làm bạn với bạch quảBạch quả (Ginkgo biloba) là dược liệu quý đã được sử dụng từ rất lâu đời và hiện được sử dụng rộng rãi trên thế giới Hiện nay với những kỹ thuật tiên tiến trong ngành công nghiệp dược, bạch quả được bào chế dưới dạng viên nén tiện lợi cho việc sử dụng. Tại hầu hết các nước phương Tây như Mỹ, Úc, Ginkgo biloba được bán rộng rãi, không cần toa bác sĩ nên nhiều người Việt khi đến đó đã mua về làm quà cho người nhà. Ginkgo biloba có những tác dụng gì thì người ta đã chứng minh rằng nó tăng tuần hoàn máu tới não và toàn bộ hệ thống mạch máu của cơ thể. Tuần hoàn máu tốt là một việc vô cùng quan trọng cho sức khỏe. Ginkgo biloba chứa hai nhóm chất có hoạt tính là nhóm Flavonoids và nhóm Terpenelactones (bao gồm ginkgolides A, B và C, bilobalide, quecertin, kaempferol). Những nhóm hóa chất này sẽ giúp cơ thể chống lại các gốc tự do, kiểm soát quá trình viêm nhiễm. Một trong những lợi ích nữa của Ginkgo biloba là có thể củng cố chức năng não, cải thiện trí nhớ, chống lại những mệt mỏi tinh thần, cũng có thể kiểm soát sự chuyển hóa của cholesterol thành những mảng vữa bám vào thành mạch máu. Cho dù có nhiều lợi ích cho sức khỏe, tuy nhiên người sử dụng phải lưu ý là Ginkgo biloba vẫn có thể gây ra một số tác dụng phụ, nhất là với những người bị rối loạn tuần hoàn máu và những người đang sử dụng thuốc chống đông (ví dụ như Aspirin). Ginkgo biloba cũng có thể gây tác động bất lợi lên bộ máy tiêu hóa cũng như gây những cơn đau đầu. Cũng không nên dùng Ginkgo biloba nếu đang sử dụng những loại thuốc kháng trầm cảm vì sẽ gây nên sự tương tác thuốc nguy hiểm. Ginkgo biloba làm tăng khả năng xuất huyết, vì vậy những bệnh nhân có vấn đề về đông máu, máu khó đông... thì không nên dùng. Phụ nữ có thai cũng được khuyến cáo không nên sử dụng. Trong khi sử dụng Ginkgo biloba, nếu gặp những tác dụng phụ như nhức đầu, hiếu động bất thường, tiêu chảy, ói mửa, buồn nôn thì cần phải giảm liều dùng ngay. Nếu sau khi đã giảm liều dùng mà những tác dụng phụ kể trên vẫn còn thì cần phải ngưng sử dụng ngay. Liều dùng Ginkgo biloba cũng chỉ được đề nghị hằng ngày là từ 40 mg đến 200 mg mà thôi. Xem ra không phải ai cũng có thể làm bạn với Ginkgo biloba, nên nếu tặng cho ai thì cũng nên gửi kèm cho họ những lưu ý tối thiểu nói trên Nguồn Bacsi,com
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 29, 2014 5:42:45 GMT 9
Nấm hương - Hoàng hậu thực vậtNấm hương được mệnh danh là "hoàng hậu thực vật", là "vua của các loại rau" (can thái chi vương) vì nấm hương là loại thực vật giàu protein nhất (12 - 14g protein/100g nấm hương khô, nhiều hơn bất cứ loại rau nào và có thể so sánh với lượng protein trong thịt). Gọi là nấm hương vì loại nấm này có mùi hương rất hấp dẫn. Ngoài ra nấm hương còn được gọi là nấm đông cô, hương cô, hương tím, hương tẩm... Nấm hương và tác dụng chữa bệnh Sách Đông y viết về nấm hương vị ngọt tính bình, có công dụng bổ tỳ, ích khí, dưỡng huyết, hòa huyết, tiêu đờm. Công dụng chữa bệnh của nấm hương đã được biết đến ở Trung Quốc từ thời Xuân thu. Ngày nay các nhà khoa học đã khẳng định: nấm hương có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể, ức chế tế bào ung thư, hạ huyết áp, giảm cholesterol máu, phòng ngừa sỏi thận và sỏi tiết niệu, trợ giúp tiêu hoá... Vì vậy đây được coi là thực phẩm cho những người bị thiếu máu do thiếu sắt, cao huyết áp, tiểu đường, rối loạn lipid máu, trẻ em suy dinh dưỡng... Tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể Các polysaccharide trong nấm hương có khả năng hoạt hoá miễn dịch tế bào, thúc đẩy quá trình sinh trưởng và phát triển của tế bào lympho, kích hoạt tế bào lympho T và lympho B - những tế bào đóng vai trò chính trong việc bảo vệ cơ thể. Nấm hương được coi là thực phẩm cho những người bị thiếu máu do thiếu sắt, cao huyết áp, tiểu đường, trẻ em suy dinh dưỡng Kháng khuẩn và vi rút Các nhà khoa học Mỹ và Nhật Bản đã chứng minh chất lenti-nan trong nấm hương có khả năng kháng khuẩn, kháng vi rút, kháng nấm bệnh và ký sinh trùng. Đặc biệt lenti-nan làm giảm mạnh sự suy sụp khi trị liệu hoá chất cho chuột gây lao phổi thực nghiệm, chống lại sự xâm nhiễm của vi rút viêm não VSV, vi rút Abelson, Schistosoma man - soni và S.japonicum, chống bội nhiễm khuẩn ở các bệnh nhân AIDS. Chống ung thư Các công ty của Nhật như Công ty Ajinomoto, Yamanouchi đã từ sợi nấm hương bào chế ra lentinan như là một dược phẩm chống ung thư, đặc biệt trong điều trị ung thu dạ dày cho hiệu quả cao. Đặc biệt lentinan đã được kiểm tra kỹ về hoạt tính chống ung thư cho kết quả là chất này hầu như không có tác dụng phụ, do đó được áp dụng như một trị liệu pháp có hiệu quả cao cho các bệnh nhân ung thư. Ngay cả trong những trường hợp ung thư đường dạ dày - ruột đến giai đoạn 3, kết quả vẫn rất khả quan. Giảm Cholesterol Các nhà khoa học đã chứng minh nấm hương có khả năng làm giảm mức cholesterol và các lipid trung tính trong máu. Chính vì vậy, nấm hương được sử dụng để điều trị các bệnh về tim mạch. Nấm hương có tác dụng điều chỉnh rối loạn lipid máu, làm hạ lượng cholesterol, triglycerid và beta-lipoprotein trong huyết thanh, vì vậy có tác dụng điều tiết công năng tim mạch, làm tăng lưu lượng máu động mạch vành, hạ thấp oxy tiêu thụ và cải thiện tình trạng thiếu máu cơ tim. Giải độc và bảo vệ tế bào gan Kết quả nghiên cứu cho thấy nấm hương có khả năng làm giảm thiểu tác hại của các chất như carbon tetrachlorid, thioacetamide và prednisone đối với tế bào gan, làm tăng hàm lượng glucogen trong gan và hạ thấp men gan. Nấm hương có tác dụng giải độc và bảo vệ tế bào gan rất tốt. Thanh trừ các gốc tự do và chống lão hoá Gốc tự do là các sản phẩm có hại của quá trình chuyển hoá tế bào. Nấm hương có tác dụng thanh trừ các sản phẩm này, làm giảm chất mỡ trong cơ thể, từ đó có khả năng làm chậm quá trình lão hóa và kéo dài tuổi thọ ************************** Nấm đầu khỉLà loại Nấm dược liệu quý chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng (Amino axit amin, đường, Lipit, nguyên tố khoáng, Vitamin) và các chất có hoạt tính sinh học như (các hợp chất Hericenone) có tác dụng tốt đối với hệ thống thần kinh trong chống bệnh Elzheimer. Dùng để ăn, nâng cao sức khoẻ, ngăn ngừa và phòng chống khối u. - Nấm đầu khỉ có tác dụng ức chế sự phát triển của khối u, chống vi khuẩn gây viêm loét dạ dầy, ung - thư dạ dầy do (Helicobacter pylori) - Giảm thấp nhất tác hại của xạ trị và hoá trị liệu trong điều trị ung thư. - Tăng hệ thống miễn dịch và chống mệt mỏi (anti-fatigues), tăng cường sinh lực đối với nam giới. - Có thể sử dụng trong chống bệnh viêm dạ dày và đại tràng mãn tính. Đặc biệt chống hệ thống u đường tiêu hoá. *********************** Nấm đồng tiềnLà loại dược liệu quý ăn ngon cung cấp các yếu tố cần thiết cho cơ thể và có tác dụng phòng chống bệnh. Trong quả thể nấm hoặc sinh khối nấm Đồng Tiền chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng và các chất có hoạt tính sinh học (Amino axit amin, đường, Lipit, nguyên tố khoáng, Vitamin, Enzym, chứa chất kháng sinh Flammulin, Polysaccharid...) Ngăn ngừa bệnh huyết áp, tim mạch. Chịu được khả năng thiếu oxy, ức chế khối u 81,1%. Hạn chế thấp nhất tác hại của xạ trị và hoá trị liệu. Có tác dụng rất tốt đối với các bệnh nhân bị tiểu đường. Chống nhồi máu cơ tim. Tăng khả năng miễn dịch cho cơ thể. *********************************** Nấm vân chiLà loại Nấm dược liệu có giá trị trong phòng chống bệnh. Nấm Vân Chi từ lâu đã được người dân Trung Quốc và nhiều nước khác nuôi trồng, sử dụng với tên thương mại là Copolang. Hoạt tính chống u đạt 77,5%. Đặc biệt tác dụng phòng chống với các loại ung thư: Đường hô hấp, đường tiêu hóa, ung thư vú ung thư buồng trứng và ung thư tử cung. Ngoài ra vân chi còn có tác dụng chống virut viêm gan B mãn tính, tăng hệ thống miễn dịch của cơ thể. Vị của vân chi: Ngọt dịu dàng Có 2 loại sản phẩm được lưu hành: Vân chi quả thể và vân chi sinh khối. Dạng quả thể Vân Chi thì dùng đun nước uống. Dạng sinh khối sợi thì có thể uống trực tiếp. Dạng quả thể vân chi: Cánh mỏng, quả nhỏ, có các vân trên mũ nấm. Loài nấm này đã và đang được nhiều nước trên thế giới biết đến và tin dùng trong phòng chống bệnh, đặc biệt là ung thư. *********************************** Nấm rơmNấm rơm tên khoa học là volvariella volvaceae, chứa nhiều vitamin A, B1, B2, PP, D, E, riêng vitamin C chiếm đến 160mg/100gr. Ngoài ra, nấm rơm còn chứa 7 loại a-xít amin mà cơ thể không tổng hợp được. Nhờ đó, nấm rơm là món ăn trị nhiều bệnh như: -Yếu sinh lý, di-hượt tinh: dùng 50gr nấm rơm, 50gr dền cơm, 2 miếng đậu hũ tươi, 50gr tôm bạc nấu trong 250ml, ăn 3 lần/ngày. -Người cao tuổi mất sức: 200gr nấm rơm búp, 5 quả táo ta, nấu trong 350ml nước còn 150ml, trước khi ăn thêm 3gr gừng, ăn 3 lần/ngày. -Gan nhiễm mỡ, khí huyết kém khó ngủ: xào 100gr nấm rơm với 5 trứng cút, ăn vào buổi tối, ăn liền 15 ngày. Chú ý nấm rơm hàn mát, thịnh âm nên dùng thêm sả, gừng, tiêu, ớt sẽ tăng dược tính. BACSI.com ******************************** Những vị thuốc giúp tĩnh tâm an thầnTâm, là một tạng, đứng đầu trong "Ngũ tạng: Tâm, can, tỳ phế, thận". Chức năng hoạt động của tâm mà tốt thì mọi hoạt động của tinh thần cũng tốt. Y học cổ truyền, coi tạng tâm là "quân chủ", đóng vai trò quan trọng trong mọi hoạt động sống của con người. Do đó, khi trị bệnh, trước hết người ta phải nghĩ đến tạng tâm: "tiên trị tâm". Điều này muốn đề cập đến, trước hết người bệnh phải an tâm, tin tưởng vào phương pháp điều trị và thuốc men trong điều trị. Do "tiên trị tâm", cho nên cũng cần phải quan tâm đến những chức năng khác do tạng tâm quản lý: "tâm chủ huyết mạch", tâm quản lý về "huyết" và "mạch". Huyết phải đầy đủ, mạch phải thông suốt thì cơ thể mới khỏe mạnh được. Sau đây xin giới thiệu một số vị thuốc điển hình. Những vị thuốc giúp cho trí nhớ minh mẫn Nhân sâm, vị thuốc với công năng "Ích khí, ích huyết, sinh tân, định thần ích trí...", giúp cho tâm thần minh mẫn, khỏe mạnh. Tuy nhiên, dễ gây mất ngủ, khi uống vào ban tối. Có thể thái lát mỏng, hãm vào nước sôi, nhiều lần, uông, ngày 4 - 6g. hoặc ngâm vào rượu 30-35%, khoảng 2-3 tuần, uống ngày 1-2 lần, mỗi lần 15-20ml. Không nên dùng cho những người huyết áp tăng. Viễn chí, làm cho trí nhớ bền, chống bệnh đãng trí, hay quên. Cũng cần biết thêm, thành phần chính của vị thuốc, là các hợp chất saponin. Do đó, tốt để trừ đờm, trị ho, song lại tăng co bóp cơ trơn tử cung. Do vậy, có thai không được dùng. Thường dùng viễn chí với cam thảo. Để trị chứng tim hồi hộp, lo sợ, nói mê sảng, có thể dùng phương viễn chí thang: Viễn chí, nhân sâm, bạch thược, đương quy, mạch môn, cam thảo, mỗi thứ 4g, bạch phục linh 6g, sắc uống, ngày một thang. Long nhãn vừa bổ huyết, lại an thần ích trí, được dùng khi trí nhớ suy giảm, hay quên, huyết hư, khó ngủ, hay lo âu, phiền muộn. Có thể dùng phương với long nhãn, phục thần, hoàng kỳ, mỗi thứ 30g, nhân sâm, mộc hương, mỗi thứ 15g, hắc táo nhân, đương quy, viễn chí, mỗi thứ 3g, cam thảo 8g. Ngày một thang, dưới dạng thuốc sắc. (Nhãn Lòng )Lạc tiên Những vị thuốc giúp ngủ ngon Lá vông (vông nem) lấy lá vông bánh tẻ, tước bỏ cuống và gân lá, rửa sạch sắc uống, ngày 2-4 g, trị các chứng khó ngủ, mất ngủ. Thận trọng với trường hợp dạ dày bị loét. Ngải tượng: Ngải tượng có tác dụng an thần, gây ngủ, hạ huyết áp, hạ nhiệt khi sốt... Tác dụng này là do thành phần ancaloid: L-Tetrahydropalmatin đưa lại, được dùng trong các trường hợp mất ngủ thường xuyên, ho hen, sốt, lỵ, đau bụng, có thể dùng dưới dạng thuốc sắc, hay bột, với liều 6 - 10g/ngày. Lạc tiên: Dùng bộ phận trên mặt đất, cắt thành từng đoạn 5 - 7cm, rửa sạch, phơi khô. Sao vàng. Sắc uống, ngày 8 - 12g để trị các trường hợp mất ngủ, hoặc tim hồi hộp, tâm phiền muộn, người bứt dứt, khó chịu. Một số bài thuốc Thiên vương bổ tâm đan: Đan sâm, đảng sâm, huyền sâm, viễn chí, cát cánh , bạch linh, mỗi vị 20g, hắc táo nhân, bá tử nhân, ngũ vị tử, mạch môn, thiên môn, đương quy, mỗi vị 40g, sinh địa 160g, dùng dưới dạng thuốc hoàn, ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 8-10g, trị các chứng tim loạn nhịp, tinh thần bất an, mất ngủ, khó ngủ, trí nhớ giảm, hay quên, cơ thể suy nhược. Toan táo nhân thang: Hắc táo nhân, bạch linh, mỗi vị 12g, tri mẫu, xuyên khung, mỗi vị 8g, cam thảo 4g, ngày một thang dưới dạng thuốc sắc, trị chứng tinh thần bất an, âm hư, ho, đờm, mất ngủ, khó ngủ. Tuy nhiên, thuốc hỗ trợ sức khỏe tâm thần tốt nhất cho mỗi người chúng ta, không cái gì khác, tốt hơn là chính bản thân từng người, tự tìm thấy trong cuộc sống của mình; đó là niềm tin yêu vào cuộc sống, tránh những stress về tâm lý và không quên tập luyện thể dục, thể thao hàng ngày. Nguồn 123SUCKHOE.COM
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 29, 2014 5:47:27 GMT 9
Các thảo dược cải lão hoàn đồngViệc lựa chọn thực phẩm tác động rất lớn đến sức khỏe và tuổi thọ con người. Từ xưa, các thầy thuốc đã chú tâm tìm kiếm những loại cây cỏ giúp đẩy lùi tuổi tác, khiến con người trẻ lâu hơn. Khoa học ngày nay chứng minh, một số loại thảo dược có khả năng đó. Lão hóa là một hiện tượng tự nhiên, không tránh được. Nhưng quá trình này rất khác nhau về thời gian và cách biểu hiện ở mỗi người. Có những người chưa nhiều tuổi nhưng cơ thể đã lão suy, lại có người sống đã lâu nhưng ,thân thể vẫn tráng kiện, tóc vẫn xanh. Bằng một lối sống tích cực và sử dụng thức ăn, dược phẩm hợp lý, con người có thể can thiệp vào quá trình lão hoá để nó đến chậm hơn. Trong kho tàng Đông dược có rất nhiều cây cỏ được xem là thuốc trường sinh, cải lão hoàn đồng, bao gồm: 1. Sâm: Có 5 loại là nhân sâm, sa sâm, huyền sâm, đan sâm và tử sâm; mỗi loại bổ cho một số tạng phủ. Danh y Đào Hoằng Cảnh (452-536) cho rằng nhân sâm có tác dụng an thần, giảm xúc động và hồi hộp, làm sáng mắt, thanh thần, gia tăng trí năng, dùng lâu sẽ giúp tăng tuổi thọ. Lương y Tôn Tư Mạo (thế kỷ thứ 7) dùng nhân sâm để chữa chứng lãnh cảm hoặc hỗ trợ cho cô dâu bị thẹn thùng trong đêm tân hôn. Một cuốn kinh cổ Ấn Độ viết: "Nhân sâm làm nẩy mầm hạt giống mà người đàn ông gieo vào người đàn bà, để sinh ra đứa con trai có sức khỏe như bò mộng. Dược vật này đem đến cho con người sinh lực". 2. Hoa: Cánh hoa đào của mùa xuân sau khi rụng được dùng làm phấn dưỡng da. Hoa cúc giúp mát gan tiêu độc, tiêu những mầm mụn trên da. Hoa sen giúp an định thần kinh. Hoa hòe làm bền chắc thành mạch, tránh những mảng xơ vữa... 3. Trái cây: Tương truyền, Dương Quý Phi nhờ ăn quả lệ chi (vải)mà giữ được làn da đẹp và nhan sắc làm say lòng người. Nhiều loại trái cây là những vị thuốc không thể thiếu trong việc bồi bổ, tăng cường sức khỏe như táo, sơn tra, bí đao, thanh trà, nhãn, mè... Từ những huyền thoại và kinh nghiệm lưu truyền trong dân gian, các nhà khoa học đã nghiên cứu và khẳng định tác dụng chữa bệnh của nhiều loại thảo dược: 1. Trà: Trà xanh hay trà đen (trà ướp, trà tẩm) đều có tác dụng tốt cho sức khỏe khi dùng đều đặn mỗi ngày. Trà chứa các Polyphenol có tác dụng chống oxy hóa, loại trừ các gốc tự do là mầm mống gây hại đến các axit nhân của tế bào. Chính các gốc tự do này là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại bệnh tật mạn tính và sự lão hóa nhanh. 2. Nhân sâm: Có khả năng kích thích miễn dịch tế bào. Nó giúp cải thiện khả năng đáp ứng miễn dịch của các đại thực bào ở bệnh nhân viêm phế quản mạn tính, có vai trò trong việc ngăn ngừa và điều trị các rối loạn đường hô hấp. Dịch chiết nhân sâm có tác dụng hạ đường huyết trong bệnh tiểu đường. Loại thảo dược này cũng có tác dụng cải thiện tuần hoàn não và tác động tốt ở nhóm người lão hóa sớm. 3. Trái nhàu: Cung cấp nhiều dưỡng chất và giúp các thuốc khác tăng thêm tính hiệu quả. Trong trái nhàu có serotonin, rất cần thiết cho hoạt động tế bào; nếu thiếu chất này, tế bào sẽ thoái hóa dần. 4. Các loại hạt: Lạc, đậu nành, rau xanh, hạt hướng dương, hạt bí, hạt mè... có nhiều vitamin E. Đây là chất giúp tăng cường hệ thống miễn dịch, bảo vệ cơ thể an toàn trước dịch cúm, giảm bớt tác hại của khói thuốc lá... 5. Các loại rau củ quả: Chứa những thành phần hợp chất hữu cơ như Flavon, vitamin C, vitamin E..., có tác dụng chống lão hóa tế bào, giúp tăng cường tuổi thọ và phòng chống các bệnh nội khoa mạn tính, ung thư... Tốt nhất là các loại rau quả có màu đậm như nho đỏ, nho đen, rau xanh, bí đỏ, củ dền, cà rốt, cà chua, hạt hướng dương... TS Nguyễn Thị Bay ***************************************************** Nhân sâmY học cổ truyền đã biết đến công dụng của nhân sâm từ nhiều ngàn năm nay. Những công dụng ấy được công bố, áp dụng lâm sàng một cách định tính. Nhưng ít ai biết, thực ra các nhà khoa học từ giữa thế kỷ trước, với những thiết bị, khoa học công nghệ đương đại đã cố gắng nghiên cứu về loài thuốc quý - nhân sâm để có kết quả định lượng đầy thuyết phục. Nhân sâm có nhiều tác dụng Nhân sâm có tác dụng gia tăng quá trình ức chế và hưng phấn vỏ não, làm phục hồi bình thường khi hai quá trình này bị rối loạn, saponin trong nhân sâm chỉ với một lượng nhỏ, chủ yếu dùng để làm hưng phấn trung khu thần kinh, còn với lượng lớn có tác dụng ức chế. Nhân sâm có tác dụng tăng sức lao động trí óc và chân tay, chống mỏi mệt, làm tăng hiệu suất hoạt động tư duy và thể lực. Nó có thể chống lão hóa, cải thiện chức năng của não ở người lớn tuổi, tăng khả năng tập trung trí tuệ, tăng trí nhớ. Nhân sâm giúp cơ thể tăng khả năng thích nghi, phòng vệ đối với những kích thích có hại. Nó vừa làm hồi phục huyết áp ở cơ thể choáng do mất máu, vừa có thể làm hạ huyết áp ở người huyết áp cao, chống ACTH làm tuyến thượng thận phì đại, chống corticoid làm teo thượng thận. Nhân sâm vừa có thể làm hạ đường huyết cao do ăn uống, vừa có thể nâng cao trạng thái đường huyết hạ do insulin gây nên. Nhân sâm tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, tăng cường khả năng thực bào của hệ tế bào võng nội bì, tăng hiệu suất chuyển hóa của tế bào “lâm ba” và globulin IgM, do đó, nâng cao tính miễn dịch của cơ thể. Lượng ít dịch nhân sâm làm tăng lực co bóp tim của nhiều loài động vật, nếu nồng độ cao thì giảm lực co bóp tim (trên thực nghiệm). Đối với động vật suy tuần hoàn cấp do mất máu nhiều, nhân sâm làm tăng cường độ và tần số co bóp của tim; đối với suy tim, tác dụng tăng cường tim của thuốc càng rõ. Nhân sâm còn có tác dụng hưng phấn vỏ tuyến thượng thận. Một nhóm nghiên cứu cho rằng, cơ chế là do thông qua vùng dưới đồi và tuyến yên tiết ra chất ACTH làm tăng cAMP của vỏ tuyến thượng thận. Thân và lá của nhân sâm cũng có tác dụng hưng phấn hệ tuyến yên - vỏ tuyến thượng thận. Nhân sâm còn có tác dụng kích thích hormon sinh dục nam cũng như nữ. Nó cũng có tác dụng hạ đường huyết. Đối với thực nghiệm, đường huyết cao ở chó, thuốc có tác dụng cải thiện trạng thái chung và hạ đường huyết. Saponin nhân sâm làm tăng chuyển hóa lipid, tăng cường sự hợp thành sinh vật học cholesterol và lipoprotein trong gan chuột cống thực nghiệm. Nhưng lúc gây mô hình cholesterol cao trên động vật thì nhân sâm có tác dụng làm hạ. Theo các thí nghiệm, nhân sâm có thể ngăn ngừa sự phát sinh cholesterol cao ở thỏ, vì vậy mà ngăn ngừa được sự hình thành xơ vữa động mạch. Nhân sâm có khả năng làm giảm tác hại của chất phóng xạ. Saponin trong nhân sâm Rh2 có tác dụng ức chế sự sinh trưởng của tế bào ung thư. Khi nghiên cứu trên thỏ và chuột cho thấy, nhân sâm có tác dụng bảo vệ gan, gia tăng chức năng giải độc của gan. Nhân sâm còn có tác dụng nâng cao thị lực và làm tăng khả năng thích nghi của thị giác đối với bóng tối. Độc tính của nhân sâm: nếu tiêm thuốc vào dưới da chuột nhắt thì liều độc cấp LD50 là 16,5 ml/kg. Cho chuột nhắt uống nhân sâm theo liều lượng 100, 250, 500 mg/kg liên tục trong 1 tháng và theo dõi nhiễm độc bán cấp không thấy gì thay đổi khác thường. Một nghiên cứu khoa học đã tiến hành tiêm vào dưới da chuột nhắt 1 ml dung dịch nhân sâm nồng độ 20%, kết quả cho thấy, sau 10 - 12 giờ chuột chết với trạng thái mất sắc, nhưng cho uống thì độc tính rất ít. Sau đây là kết quả nghiên cứu dược lý của nhân sâm theo “Những cây thuốc và vị thuốc quý”. Tác dụng trên hệ thần kinh: từ xưa tại Trung Quốc, người ta đã biết làm thí nghiệm để kiểm chứng tác dụng làm giảm mệt của nhân sâm, Lý Thời Trân trong sách “Bản thảo cương mục” (thế kỷ 16) có ghi: cho hai người cùng chạy, một người ngậm nhân sâm, một người không, sau khi chạy độ 3 - 5 dặm, người không ngậm nhân sâm thở mạnh, còn người ngậm nhân sâm thở bình thường. Trong các năm 1949 - 1951, tại Nga, GS. Abramova làm thí nghiệm theo phương pháp: cho chuột nhắt lội nước và nhận thấy: nhân sâm có tác dụng làm đỡ mệt. Năm 1947, GS. Lazarev đã nghiên cứu và kết luận, nhân sâm có tác dụng làm hưng phấn thần kinh trung ương, dùng với liều điều trị có thể làm đỡ mệt. Năm 1955, Drake theo phương pháp của GS. Zacuxov đã chứng minh, với liều điều trị của nhân sâm có khả năng rút ngắn thời kỳ phản xạ tiềm phục của thần kinh và làm nhanh chuyển động của thần kinh, nhưng liều cao quá có thể gây hiện tượng quá trấn tĩnh. Tác dụng trên huyết áp và tim: các nhà nghiên cứu Nga đã nghiên cứu nước sắc và cồn nhân sâm và kết luận, tác dụng của dung dịch nước và dung dịch rượu của nhân sâm như sau: dùng dung dịch 5%, 10% và 20% nhân sâm tiêm vào tĩnh mạch thỏ và mèo thấy tác dụng hạ huyết áp, nồng độ càng cao tác dụng ức chế trên tim càng mạnh, nhưng nếu nồng độ thấp thì co bóp tim mạch và số lần co bóp càng tăng. Do đó, họ đã kết luận, nhân sâm có hai hướng tác dụng trên thần kinh thực vật, liều nhỏ tác dụng như thần kinh giao cảm, liều lớn có tác dụng như thần kinh phế vị. Tác dụng trên hệ hô hấp: năm 1947, GS. Burkrat và GS. Xakxopov đã cho biết: dùng 0,3 - 0,5 ml dung dịch nhân sâm 20% tiêm vào tĩnh mạch mèo, kết quả cho thấy, nhân sâm làm hưng phấn hô hấp. Một số nhà nghiên cứu Nhật Bản và Trung Quốc trước đó đã thử nghiệm tiêm vào tĩnh mạch thỏ chất ginsenin: liều nhỏ làm tăng hô hấp, liều cao có tác dụng ngược lại, nếu tiêm acid panax hay chất panaxen cũng thấy tác dụng như vậy. Tác dụng đối với chuyển hóa cơ bản: năm 1922, các nhà khoa học Nhật Bản đã nghiên cứu tác dụng của bột nhân sâm và chất tan trong cồn của nhân sâm (uống và tiêm) đối với bệnh đường huyết cao trên thỏ, kết quả: nhân sâm có tác dụng rõ rệt làm hạ đường huyết. Năm 1954 và 1956, một số tác giả Trung Quốc cũng xác nhận tác dụng hạ đường huyết của nhân sâm. Trên lâm sàng, BS. Khâu Trần Ba (năm 1955) nhận thấy, nếu dùng nhân sâm chung với insulin thì thời gian hạ đường được kéo dài và chữa được bệnh. Tác dụng đối với sự sinh trưởng của động vật: cho uống hoặc tiêm thuốc bào chế bằng nhân sâm, hay các chất lấy từ nhân sâm trên một số động vật, so sánh với số không dùng nhân sâm, thấy trọng lượng con vật tăng lên, thời gian giao cấu của chúng kéo dài, hiện tượng tình dục xuất hiện rõ rệt. Tác dụng đối với sức chống đỡ bệnh tật: những thí nghiệm của GS. Daugolnikov (1950 - 1952), GS. Brekman, GS. Phruentov (1954 - 1957) và GS. Abramow (1953) cho biết, nhân sâm có tác dụng tăng sức đề kháng của động vật đối với bệnh tật. Nhân sâm có tác dụng phòng chữa bệnh loét dạ dày và viêm cơ tim trên thực nghiệm. Ứng dụng lâm sàng Dùng nhân sâm điều trị cấp cứu trong trường hợp bệnh nguy kịch: khí thoát, chân tay lạnh, tự ra mồ hôi, mạch trầm vi tế hoặc trường hợp chảy máu nhiều, gây choáng (suy tuần hoàn cấp), dùng nhân sâm để ích khí cứu thoát, hồi dương cứu nghịch, tùy tình hình chọn các bài: Độc sâm thang: nhân sâm 4 - 12 g, chưng cách thủy cho uống, nên uống nhiều lần. Sâm phụ thang: nhân sâm 3 - 6 g, phụ tử chế 4 - 16 g, sắc uống 6 lần. Đối với trường hợp dương hư chân tay lạnh (choáng trụy tim mạch) cần thực hiện đông, tây y kết hợp cấp cứu. Cấp cứu trẻ sơ sinh trạng thái nguy kịch: mỗi ngày dùng nhân sâm xắt mỏng 3 - 5 g (tương đương 1 g/kg cân nặng/ngày) cho nước 40 - 50 ml chưng 30 phút, uống cứ 3 giờ 1 lần (nhỏ giọt vào miệng), mỗi lần 5 ml, 1 liệu trình 4 - 6 ngày, dài là 10 ngày có phối hợp tây y cấp cứu, thử nghiệm theo dõi 10 ca đều khỏi. Thường sau 2 - 3 lần uống nhân sâm, các triệu chứng đều được cải thiện trên lâm sàng. Dùng hồng sâm 30 g sắc nước cho uống liên tục đồng thời châm bách hội, hai kim hướng trước sau, cấp cứu 10 ca choáng do mất máu có tác dụng nâng huyết áp. Dùng nhân sâm, mạch môn, ngũ vị chế thành thuốc tiêm sinh mạch (hàm lượng mỗi ml có 0,57 g thuốc sống), mỗi lần tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch 2 - 4 ml có kết quả tốt đối với nhồi máu cơ tim và choáng do tim. Trị chứng rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy kéo dài do tỳ vị hư nhược: dùng phối hợp với bạch truật, bạch linh. Tứ quân tử thang: nhân sâm 4 g, bạch truật 12 g, bạch linh 12 g, cam thảo 4 g, sắc uống. Trị các loại bệnh phổi: như hen phế quản, viêm phế quản mạn tính, tâm phế mạn, dùng bài nhân sâm định suyễn thang: nhân sâm 8 g (gói sắc riêng), thục địa 20 g, thục phụ phiến 12 g, hồ đào nhục 16 g, tắc kè 8 g, ngũ vị tử 8 g, sắc uống. Nhân sâm hồ đào thang: nhân sâm 4 g, hồ đào nhục 12 g, sắc uống trị chứng hư suyễn. Trị bệnh cảm ở người vốn khí hư: dùng bài sâm tô ẩm (cục phương): nhân sâm 4 g (sắc riêng), tô diệp 12 g, phục linh 12 g, cát căn 12 g, tiền hồ 4 g, bán hạ (gừng chế) 4 g, trần bì 4 g, chỉ xác 4 g, cát cánh 4 g, mộc hương 3 g (cho sau), cam thảo 3 g, sinh khương 3 lát, đại táo 2 quả, sắc uống nóng cho ra mồ hôi. Trị chứng thiếu máu: dùng các bài bổ huyết như tứ vật thang, đương quy bổ huyết thang, gia thêm nhân sâm kết quả tốt hơn. Trị tiểu đường: thường dùng các thuốc tư âm bổ thận như: thục địa, kỷ tử, thiên môn, sơn thù nhục, dùng bài tiêu khát ẩm: cát lâm sâm 8 g (sắc riêng), thục địa 24 g, kỷ tử 16 g, thiên môn đông 12 g, sơn thù nhục 12 g, trạch tả 16 g, sắc uống. Dùng độc vị nhân sâm uống: theo một nghiên cứu dùng cao lỏng nhân sâm mỗi lần uống 0,5 ml, ngày 2 lần, liệu trình tùy tình hình bệnh, nếu bệnh nhẹ kết quả rõ, có thể làm hạ đường huyết 40 - 50 mg%, ngưng thuốc có thể kéo dài thời gian ổn định trên 2 tuần, đối với thể trung bình tác dụng hạ đường huyết không rõ, nhưng triệu chứng chung được cải thiện như khát nước giảm, đỡ mệt mỏi. Trị liệt dương: một nghiên cứu đã dùng nhân sâm trị 27 bệnh nhân, chức năng tình dục được hồi phục hoàn toàn ở 15 bệnh nhân, 9 bệnh nhân chuyển biến tốt, 3 bệnh nhân không kết quả. Ngoài ra, có thể dùng uống nước chiết xuất 500 mg mỗi ngày để trị các trường hợp: liệt dương, tảo tiết, phóng tinh yếu, tình dục giảm, đều có kết quả nhất định. Trị cao huyết áp và xơ vữa động mạch: các nhà khoa học Nga dùng cồn 20% nhân sâm, mỗi lần 20 giọt điều trị cho nhiều bệnh nhân, ngày 2 lần, đối với các chứng huyết áp cao, xơ vữa động mạch, đau thắt tim, thần kinh tim và hở van tim, đều có kết quả nhất định như cảm giác dễ chịu, bớt khó thở, bớt đau thắt tim, bớt đau đầu, ngủ tốt, điện áp sóng T và R được nâng cao. Ngưng thuốc 6 - 9 tháng, bệnh tình vẫn ổn định. Nhân sâm có tác dụng làm giảm mỡ trong máu ở người già, nhất là đối với triglycerid, 80% người được thử nghiệm cảm thấy thể lực và trí lực đều tăng, 54% mất ngủ được cải thiện, 40% chứng tinh thần trầm cảm giảm, rối loạn sắc tố da ở người già được cải thiện, bớt rụng tóc. Dùng trị chứng suy thượng thận ( addison ): do nhân sâm có tác dụng kháng lợi niệu, nên ảnh hưởng tới chuyển hóa của nước muối như hormon vỏ thượng thận gluco-corticoid. Theo báo cáo của Vương Bản Tường, theo dõi 18 ca, bệnh nhân addison được cho uống cồn chiết xuất thân lá nhân sâm 20% (tương đương 0,5 g thuốc sống/ml); liều 20 - 30 ml, mỗi ngày uống 3 lần và tăng dần liều đến 150 - 300 ml mỗi ngày. Liệu trình bình quân 121 ngày. Sau điều trị, bệnh nhân lên cân, huyết áp được nâng lên, lực nắm bàn tay mạnh hơn, đường huyết lên, natri huyết thanh tăng. Thử nghiệm nước corticoid và ACTH đều được cải thiện, giảm lắng đọng sắc tố ở da, đối với bệnh nhân sớm và ở giai đoạn bù trừ có kết quả tốt, có thể hồi phục khả năng bù trừ, cần dùng kết hợp với corticoid có giảm liều. Dùng trị tỳ hư trẻ em: theo báo cáo của Từ Hỷ Mai, dùng hồng sâm chữa cho 10 trẻ em nằm viện có các triệu chứng đần độn, ra mồ hôi, sắc mặt tái nhợt, vàng bủng. Điều trị theo phác đồ chung, dùng hồng sâm theo liều: trẻ dưới 3 tuổi: hồng sâm 3 g sắc được 30 ml; trẻ trên 3 tuổi: sắc lấy 60 ml dùng thêm đường mía, chia 2 lần uống trong ngày, một liệu trình 7 - 14 ngày. Thuốc có tác dụng làm trẻ ăn ngon, hết mồ hôi, lên cân, sắc mặt tươi hơn. Trị bệnh động mạch vành: theo báo cáo của BS. Dụ Hương Quần, dùng hồng sâm chế thành dịch, tiêm hàm lượng 200 mg/2 ml/ống; dùng 6 - 10 ml thuốc trộn với 40 ml gluco 10% tiêm tĩnh mạch, ngày 1 - 2 lần. Tác giả theo dõi 31 ca: đau thắt tim có kết quả 93,54%, điện tâm đồ được cải thiện Trị chứng giảm bạch cầu: chiết xuất saponin từ thân, rễ, lá nhân sâm chế thành viên, mỗi lần dùng 50 - 100 mg, ngày uống 2 - 3 lần. Một thử nghiệm trị 38 ca hạ bạch cầu do hóa liệu, tỷ lệ kết quả 87%, trên súc vật thực nghiệm cũng chứng minh thuốc có tác dụng tăng bạch cầu rõ rệt và có khả năng kích thích. Trị viêm gan cấp: theo báo cáo của các nhà khoa học Nga, uống cao lỏng nhân sâm có khả năng làm cho chức năng gan hồi phục nhanh hơn và làm giảm khả năng bệnh chuyển thành mạn tính. ************************************************** Cải thiện suy giảm tình dục bằng.. nhân sâmDù muốn hay không đến một độ tuổi nào đó khó ai có thể tránh khỏi tình trạng suy giảm tình dục. Lúc này, người ta trở nên dửng dưng với chuyện "chăn gối", cảm giác ham muốn mất đi hoặc suy giảm một cách tệ hại, theo đó sự khoái cảm cũng không còn mãnh liệt như thời trẻ. Nhiều khi cơ thể còn xuất hiện kèm theo các triệu chứng xuống sức một cách vô cớ, lưng đau gối mỏi, đầu choáng mắt hoa, tai ù tai điếc, tay chân lạnh lẽo, sức làm việc giảm sút... Trong y học cổ truyền, trạng thái này được chia làm nhiều thể bệnh khác nhau nhưng chủ yếu là thuộc phạm vi Thận dương hư nhược với phương pháp điều trị là phải làm ôn ấm tạng thận bằng các thuốc có tác dụng bổ khí, bổ dương, trong đó không thể thiếu vai trò của nhân sâm. Nhưng cách dùng vị thuốc quý giá này như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất thì không phải ai cũng tường tận. Bài viết này xin được giới thiệu với bạn đọc một số phương cách cụ thê. Cách 1: Nhân sâm 6g, nhung hươu 6g, nhục quế 6g, hoàng kỳ 30g, kỷ tử 10g, thục địa 10g, sơn thù nhục 10g, ba kích 10g, dương khởi thạch 10g, dâm dương hoắc 15g, cam thảo sao 3g. Nhân sâm và nhung hươu sấy khô tán bột, chia uống 2 lần sáng chiều với nước ấm; các vị thuốc khác cho vào sắc kỹ lấy nước cốt, chia uống 2 lần trong ngày. Đây là một nghiệm phương cận đại, có công dụng bổ thận ích tinh, thích hợp cho nhữmg người bị suy giảm tình dục có kèm theo các triệu chứng như tai ù, sức nghe giảm, hay hoa mắt chóng mặt, dễ mệt mỏi, sắc mặt nhợt, lưng gối đau mỏi... Cách 2: Nhân sâm, nhục quế, bạch thược, cam thảo sao, hoàng kỳ, đương quy, xuyên khung, bạch truật, bạch linh, thục địa, liều lượng mỗi vị như nhau. Tất cả đem sấy khô tán bột, đựng trong lọ kín dùng dần. Mỗi ngày uống 15g, chia làm hai lần khi bụng đói với nước sắc của 2 quả đại táo và 3 lát gừng tươi. Đây là một cổ phương có công dụng ích khí dưỡng huyết, ôn dương bổ tinh, dùng thích hợp cho người bị suy giảm tình dục có kèm theo các triệu chứng mệt mỏi như mất sức, sắc mặt nhợt nhạt, hay có cảm giác khó thở, hoa mắt chóng mặt, dễ hồi hộp, ăn kém, đại tiện lỏng loãng... Cách 3: Nhân sâm 30g, bạch linh 30g, bạch thược 30g, nhục quế 30g, bạch truật 30g, ngũ gia bì 30g, cam thảo sao 15g, bào khương 6g. Tất cả sấy khô tán bột, đựng trong lọ kín dùng dần. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 6g khi bụng đói với nước sắc đại táo 3 quả và gừng tươi 2 lát. Đây là cổ phương được ghi trong sách Thái bình thánh huệ phương, có công dụng ích khí ôn trung, dùng thích hợp cho những người bị suy giảm tình dục có kèm theo các triệu chứng mệt mỏi do lao lực quá độ, lưng gối đau mỏi, tứ chi gầy yếu, hay đau bụng dưới, ngủ kém hay mê mộng.... Cách 4: Nhân sâm 50g, nhung hươu 50g, ba kích 50g, phúc bồn tử 50g, dâm dương hoắc 50g. Tất cả sấy khô tán bột, đựng trong lọ kín dùng dần. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 6g với nước muối nhạt. Công dụng: bổ thận trợ dương, dùng cho người bị suy giảm tình dục có kèm theo các triệu chứng lưng gối đau mỏi, đầu choáng mắt hoa, tinh thần bạc nhược, sắc mặt trắng nhợt, sợ lạnh, chân tay lạnh lẽo, ăn kém, đại tiện lỏng loãng... Cách 5: Nhân sâm 30g, viễn chí 60g, sinh toan táo nhân 60g, đương quy 60g, bạch thược 60g, bạch linh 120g, thỏ ty tử 120g, thạch xương bồ 50g, bạch truật 90g, hoài sơn 90g, thần khúc 90g, quất hồng 40g, sa nhân 75g, sài hồ 15g, cam thảo sao 10g. Tất cả sấy khô tán bột, đựng trong lọ kín dùng dần. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 10g với nước ấm khi bụng đói. Đây là một cổ phương được ghi trong sách Biện chứng lục, có công dụng dưỡng tâm kiện tỳ, bổ ích khí huyết, cố thận khí, dùng thích hợp cho người bị suy giảm tình dục có kèm theo các triệu chứng như tảo tiết hoặc di tinh, đầu choáng mắt hoa, mệt như mất sức, hay hồi hộp trống ngực, có cảm giác khó thở, ăn kém, mất ngủ... Cách 6: Nhân sâm 50g, nhung hươu 50g, thục địa 300g, quy bản 300g, hà thủ ô chế 200g, đỗ trọng 200g, tử hà xa 250g, dâm dương hoắc 100g. Tất cả sấy khô tán bột, đựng trong lọ kín dùng dần. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 5g khi bụng đói với nước sôi để nguội. Công dụng: tráng dương tư thận, bổ khí dưỡng huyết, dùng thích hợp cho người bị suy giảm tình dục có kèm theo các triệu chứng lưng gối đau mỏi, tinh dịch lạnh loãng, đầu choáng mắt hoa, tinh thần mỏi mệt, di tinh, liệt dương... Cách 7: Nhân sâm 3g, chim sẻ 2 con, phúc bồn tử 10g, thỏ ty tử 10g, kỷ tử 10g, ngũ vị tử 5g, gạo tẻ 100g, gừng tươi và gia vị vừa đủ. Chim sẻ làm thịt bỏ lông và nội tạng, đem nấu với gạo và gừng tươi thành cháo; các vị thuốc khác sấy khô tán thành bột rồi hoà với cháo, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Đây là một bài thuốc dân gian có công dụng tráng dương bổ thận, trong đó chim sẻ có công năng tráng dương và nâng cao năng lực tình dục; nhân sâm, phúc bồn tử, thỏ ty tử, ngũ vị tử và kỷ tử có tác dụng bổ thận ích tinh. Công thức này rất thích hợp cho những người bị suy giảm tình dục có kèm theo các triệu chứng mệt mỏi nhiều, lưng gối đau mỏi, đầu choáng mắt hoa, xuất tinh sớm... Nhìn chung, các bài thuốc nêu trên đều khá đơn giản, dễ kiếm, dễ dùng và rẻ tiền. Các vị thuốc nên mua tại các cơ sở đông dược có uy tín và có tư cách pháp nhân. Cần lưu ý là: tất cả các công thức này chỉ nên dùng cho người bị suy giảm tình dục thuộc thể Thận dương hư nhược, còn với thể Thận âm hư nhược biểu hiện bằng các triệu chứng như môi khô miệng khát, lòng bàn tay bàn chân nóng, trong ngực bồn chồn không yên, đại tiện táo kết, tiểu tiện vàng đỏ... thì không được dùng. Nguồn 123Suckhoe.com ************************************** Nhân sâm với mật ong chữa liệt dươngSử dụng nhân sâm với mật ong là dạng phối ngũ khá độc đáo mà nhiều người chưa được biết, KH&ĐS xin giới thiệu để độc giả có thể tham khảo. Công thức 1 : Nhân sâm 500g, mật ong 250g, nhân sâm thái vụn sắc kỹ 3 lần, sau đó bỏ bã, hoà với mật ong rồi cô đặc thành dạng cao đặc, đựng trong lọ kín dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 15g. Công dụng : diên niên ích thọ, rất thích hợp cho người già cần bồi bổ sức khoẻ để kéo dài tuổi thọ. Công thức 2 : Nhân sâm 3g, mật ong 15g, nhân sâm thái vụn sắc kỹ lấy chừng 200 ml (bã thuốc có thể nhai nuốt), sau đó cho mật ong vào hoà đều, chia uống vài lần trong ngày. Công dụng : bổ khí, tráng dương, diên niên ích thọ, dùng làm thuốc bồi bổ cho những người suy nhược cơ thể, nam giới liệt dương, suy giảm khả năng tình dục, xuất tinh sớm, di tinh... Công thức 3 : Nhân sâm tươi 30g, sữa bò 150g, lê tươi 500g, mật ong 120g. Nhân sâm thái vụn, sắc kỹ 3 lần, bỏ bã lấy nước cốt ; lê gọt vỏ bỏ hạt, rửa sạch, ép lấy nước ; đổ mật ong, sữa bò, nước lê và dịch chiết sâm và nồi, cô bằng lửa nhỏ thành dạng cao đặc, đựng trong lọ kín dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 20g. Công dụng : bổ khí dương âm, thanh phế nhuận táo, dùng đặc biệt tốt cho những người bị bệnh đường hô hấp thể Khí âm lưỡng hư biểu hiện bằng các triệu chứng mệt như mất sức, khó thở, dễ bị cảm mạo, hay vã mồ hôi, ho khan ít đờm, môi khô miệng khát, hoa mắt chóng mặt, hay có cảm giác sốt về chiều, lòng bàn tay bàn chân nóng, tai ù tai điếc, đại tiện táo... Công thức 4 : Nhân sâm 5g, hạch đào nhân 50g, mật ong 300g. Nhân sâm thái vụn, hạnh đào nhân sao thơm tán vụn, hai thứ đem sắc thật kỹ lấy nước rồi hoà với mật ong, cô bằng lửa nhỏ thành dạng cao đặc, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 10g với nước ấm. Công dụng : bổ nguyên dương, làm đen râu tóc, phòng chống rụng tóc, chuyên dùng bồi bổ cho những người thể lực suy yếu, thị lực giảm sút, râu tóc sớm bạc, rụng tóc nhiều... Công thức 5 : Nhân sâm 100g, can khương 100g, cam thảo 150g, bạch truật 150g, phụ tử chế 100g, mật ong 650g. Các vị thuốc sấy khô, tán bột, luyện với mật ong thành viên hoàn, mỗi viên nặng 7g, uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 1 viên với nước ấm. Công dụng : đại bổ nguyên khí, ôn vị tán hàn, chuyên dùng bồi bổ và trị liệu cho những người bị bệnh lý dạ dày đại tràng thuộc thể hư hàn biểu hiện bằng các triệu chứng , mệt như mất sức, bụng lạnh đau âm ỉ, chườm nóng thì đỡ đau, buồn nôn và nôn ra nước trong, đại tiện lỏng nát, sợ lạnh, tay chân lạnh, sắc mặt nhợt nhạt, chất lưỡi nhợt... Công thức 6 : Nhân sâm 30g, sinh địa tươi 320g, bạch linh 60g, mật ong 400g. Nhân sâm và bạch linh sấy khô tán bột, sinh địa rửa sạch, giã nát, ép lấy nước, sau đó cho tất cả vào nồi cô bằng lửa nhỏ thành dạng cao đặc, đựng trong lọ kín dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 10g. Công dụng : tư âm nhuận phế, ích khí bổ tỳ, chuyên dùng để bồi bổ cho những người bị bệnh đường hô hấp, suy nhược thần kinh, thiểu năng tuần hoàn não, di tinh, liệt dương thuộc thể Khí âm lưỡng hư. Công thức 7 : Nhân sâm tươi (loại được bảo quản trong túi nilon đã hút chân không) 30g, mật ong lượng vừa đủ. Nhân sâm giã nát, ép lấy nước rồi hoà với mật ong, chia uống 2 lần trong ngày, bã có thể hãm nước sôi uống thay trà. Công dụng : đại bổ nguyên khí, nhuận táo sinh tân, thường được dùng làm nước uống tăng lực cho những người có thể chất suy nhược. Công thức này cũng có thể gia thêm lê 1 quả, táo (loại to nhập từ Trung Quốc) 1 quả, cà rốt 1 củ, tất cả rửa sạch, ép lấy nước uống để làm đồ giải khát, tăng lực và cải thiện làn da cho phụ nữ. Nhân sâm có nhiều loại khác nhau tuỳ theo nơi khai thác, nguồn gốc địa lý và cách chế biến. Cho đến nay, sâm Triều Tiên (Cao Ly sâm) vẫn được coi là tốt hơn cả, trong đó Hồng sâm (loại to nặng trên 37g, cắt bỏ rễ râu, chế biến sao tẩm với các phụ gia khác rồi đem chưng cách thuỷ, sấy khô và đóng vào hộp gỗ) là tuyệt vời nhất. (Theo KH&ĐS) ******************************************** Huyền sâm trị sốt xuất huyếtGọi huyền sâm vì vị thuốc này giống sâm có màu đen (huyền là đen). Tên khoa học là Sorophularia buergeriana Miq, thuộc họ hoa mõm chó. Huyền sâm (Radix Sorophulariae) là rễ phơi hay sấy khô của cây bắc huyền sâm. Cây bắc huyền sâm là một loại thảo cao khoảng 1,50m, thân vuông màu xanh có rãnh dọc, 4 góc hơi phồng lồi ra, lá hình trứng, mọc đối chữ thập, đầu lá nhọn, mép có răng cưa nhỏ và đều, cuống ngắn, phiến lá dài. Lá phía dưới to hơn, cuống dài hơn, lá phía trên hơi nhỏ, cuống ngắn hơn... Hoa tự mọc thành chùm, cuống ngắn trông như bông, nở ngọn hay đầu cành. Hoa hình ống, hơi phình ở giữa, thắt ở phía trên, mép có 5 cánh, với 1 cánh cao hơn, mọc thành tán, hoa màu tím hoặc màu vàng nhạt, quả màu xanh, khi chín màu đen, chứa nhiều hạt đen. Huyền sâm có vị đắng, ngọt hơi mặn, tính hơi lạnh, vào 2 kinh Phế và Thận. Theo tài liệu cổ: huyền sâm có tác dụng tư âm, giáng hỏa, giải độc hòa ban, thanh hầu chỉ thống, nhuyễn kiên tán kết, giải khát trừ phiền, nhuận táo hoạt trường. Dùng chữa các bệnh như: phiền khát, cuồng điên, yết hầu sưng đau, ung thũng, tràng nhạc, táo bón, mất ngủ, ôn dịch phát ban, bướu cổ, tăng thêm tinh dịch, hạ sốt, các bệnh thời khí ôn dịch, sưng viêm, các bệnh xuất huyết, mụn nhọt, sưng lở. Huyền sâm được dùng làm thuốc mạnh tim, giảm sốt, chống viêm cổ họng viêm amiđan, lở loét trong miệng. Liều dùng 10-12g dưới dạng thuốc sắc. Người tỳ hư tiết tả không dùng được. Một số bài thuốc có huyền sâm: - Chữa viêm họng, viêm amiđan: Huyền sâm 10g, cam thảo 3g, cát cánh 5g; mạch môn 8g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày và làm nước súc miệng. - Trị phát ban, họng đau: Huyền sâm, thăng ma, cam thảo mỗi thứ đều 20g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, uống ấm sau khi ăn 30 phút. - Trị ban chẩn, sốt cao mê sảng: Nhiệt tà nhập huyết làm sốt cao mê sảng, ban chẩn nổi lờ mờ, lưỡi khô đỏ. Cần thanh dinh thấu nhiệt, giải độc dưỡng âm. Dùng “Thanh dinh thang”: Huyền sâm 12g, tê giác 12g, mạch môn 12g, kim ngân hoa 12g, hoàng liên 6g, sinh địa 20g, đan sâm 8g, đọt tre 8g, liên kiều 8g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày. - Trị viêm hạch, lao hạch, lao màng bụng: Huyền sâm 20g, nghệ đen 10g, xạ can 10g, bồ công anh 8g, mộc thông 8g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia uống 2 lần. - Trị loa lịch: Huyền sâm 20g, bối mẫu 12g, liên kiều 12g, qua lâu căn 12g, bạc hà 10g, hạ khô thảo 12g, cam thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần. - Trị tiểu tràng sán khí: Huyền sâm 100g, (sao) nghiền nhỏ hòa với nước cơm tán nhuyễn làm viên bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 6g lúc đói với rượu (hoặc nước nguội hòa rượu – dùng cho phụ nữ và trẻ em). - Trị kinh phong trẻ em: Huyền sâm 8g, mạch môn 4g, sinh địa 8g, câu đằng 6g, cúc hoa 6g, cam thảo bắc 4g. Nước sắc như trên uống 2 lần trong ngày. - Trị sốt xuất huyết có choáng: Huyền sâm 20g, cỏ nhọ nồi 10g, chi tử 10g, sinh địa 15g, kim ngân hoa 10g, hoàng đằng 15g, quy vĩ 10g. Nước sắc như trên, uống ngày 2 lần. - Trị nhọt độc có vết rò, hang hốc: Huyền sâm ngâm rượu uống mỗi ngày 1 ly nhỏ sau khi ăn. - Trị tam tiêu tích nhiệt: Huyền sâm 12g, hoàng liên 8g, đại hoàng 8g, nước 400ml, sắc còn 150ml, uống ngày 2 lần. Hoặc mỗi vị đều 40g, tán mịn luyện với mật ong, viên bằng hạt ngô, mỗi lần uống 30-40 viên với nước ấm. - Trị viêm tắc tĩnh mạch tay chân (chứng thoát thư): Huyền sâm 24g, đương quy 10g, cam thảo 10g, huyết giác 10g, ngưu tất 10g, nước 600ml, sắc còn 200ml, uống ngày 2 lần. Theo SK&ĐS
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 29, 2014 6:07:26 GMT 9
10 thứ rau quả giúp trẻ lâuCà chua là một trong những thực phẩm giúp trẻ lâuSự kỳ diệu của các loại rau quả là đem đến cho các bạn gái sức khoẻ và tuổi trẻ bằng các loại vitamin tự nhiên. Chúng khiến cho quá trình lão hoá của bạn chậm lại và khiến cơ làn da luôn mịn màng, nếp nhăn biến mất và vóc dáng cân đối, nhanh nhẹn. Có ít nhất 10 loại rau quả đem đến điều kỳ diệu ấy 1. Bắp cải: Nhất là cải thảo, chứa những chất chống bệnh dạ dày và ung thứ vú. Khi ăn, không nên nấu nhừ. 2. Cà chua: Chứa chất lycopene, duy trì sự năng động cả về tinh thần lẫn thể chất. Có thể ăn cà chua sống, cà chua nấu, hoặc nước cốt cà chua đều rất tốt vì chất lycopene không bị phân hủy khi chế biến. 3. Rau dền: Chứa chất lutein chống lão hóa, đồng thời có cả acid folic giúp hoạt động của não và mạch máu. 4. Cải xanh: Có thể giảm nguy cơ ung thư bởi có chứa rất nhiều chất chống lại các hóa chất hữu cơ gốc tự do. 5. Cà rốt: Chứa nhiều beta carotene là chất miễn dịch rất tốt. 6. Súp lơ: Có chất ngăn chặn sự rối loạn hormone ở phụ nữ, tránh dẫn đến bệnh ung thư vú. 7. Hành tây và tỏi: Chứa nhiều chất quercetin giữ không cho lượng cholesrol tấn công mạch máu. 8. Quả bơ: Với chất gultahione "làm sạch" lượng chất béo bị ôxy hóa trong ruột. 9. Cam, quýt, chanh, bưởi: Cũng có rất nhiều chất chống ôxy hóa như gultahione... 10. Nho: Nhất là loại nho tím, chứa nhiều trong vỏ và hạt chất quercetin. Chất này giúp điều chỉnh nồng độ cholesterol và chống hiện tượng máu dồn cục. Nguồn Ykhoa ****************************** 10 loại độc dược dùng để cứu người Trong thiên nhiên, một số loài sinh vật có chứa chất kịch độc, có thể gây nguy hại cho sức khỏe, tính mạng của con người. Thế nhưng với tài trí của các nhà y học, nhiều trong số chất độc này đã "cải tà quy chính" trở thành thuốc chữa những chứng bệnh nan y, cứu người. Cựa lúa mạch Nhân loại đã trải qua một chặng đường lịch sử lâu dài trong việc dính dáng đến cựa lúa mạch, đây là một loài nấm sống ký sinh trên thân cây lúa mạch. Chất độc từ cựa lúa mạch có khả năng gây nên chứng ảo giác, không kiểm soát được các hành vi, chấn động và thậm chí gây chết người. Các triệu chứng ngộ độc cựa lúa mạch khác bao gồm co thắt tử cung, buồn nôn, tai biến mạch máu và bất tỉnh nhân sự. Người bị ngộ độc nấm trên cựa lúa mạch có nguy cơ sẽ bị cắt cụt chi. Kể từ thời Trung Cổ, người ta sử dụng các liều lượng thuốc đặc chế từ cựa lúa mạch để làm ngừng hẳn chứng chảy máu cho sản phụ sau khi sinh. Chất độc alkaloid từ cựa lúa mạch có chứa thành phần caffeine và ergotamine hay ergoline dùng để điều trị chứng đau nửa đầu. Chất độc từ cựa lúa mạch còn được dùng để trị chứng bệnh Parkinson. Ngoài ra chất độc từ cựa lúa mạch còn tạo ra dạng bệnh dịch hạch từng tấn công châu Âu vào thập niên năm 1500. Nhện đen Chilê Các nhà lý sinh từ Đại học Buffalo, New York, Mỹ đã sử dụng một chất đạm từ nọc độc của loài nhện đen Chilê vốn có khả năng gây nên các căn bệnh tim mạch dẫn đến tử vong ở người. Các bức vách bao quanh các tế bào của bạn có những ống nhỏ xíu sẽ mở ra khi tế bào được kéo căng ra. Trong số các chức năng của cơ thể bạn, những chiếc ống này có nhiệm vụ co giãn các cơ tim. Khi các ống này giãn ra quá rộng, nó sẽ chuyển hoá một lượng lớn các iôn vào trong tế bào. Những iôn thêm vào này sẽ phá huỷ khu vực tim. Chất đạm từ nọc độc của loài nhện đen Chilê có khả năng bó chặt các ống dẫn này, gây nên biến chứng tim mạch. Bò cạp vàng Các nhà nghiên cứu tại Transmolecular Corporation ở Cambridge, đã phân ly một chất đạm có trong nọc độc của loài bò cạp vàng Israel. Chất đạm này có khả năng bó chặt các tế bào ung thư tìm thấy trong gliomas, một dạng ung thư não được xem là rất khó điều trị hiện nay. Các nhà nghiên cứu cũng đã sáng chế ra một dạng chất đạm nhân tạo mang iôn phóng xạ. Khi đi vào trong máu, chất đạm nhân tạo sẽ tiêu diệt các tế bào glioma và “cột chặt” chúng lại, thực hiện các hiệu ứng phóng xạ. Hiệu ứng phóng xạ sẽ tiêu hủy các tế bào ung thư não, kết thúc quá trình điều trị. Cà độc dược Atropine là một chất độc được chiết xuất từ cây cà độc dược. Chất độc atropine còn được sử dụng trong việc điều trị chứng bệnh Bradycardia (một chứng trụy tim cực kỳ nguy hiểm). Hoạt động của độc chất atropine còn tác động lên hệ thần kinh gây nên các triệu chứng như nhễu nước bọt, đổ mồ hôi và ảnh hưởng đến tuyến nước nhày. Chất độc atropine còn được sử dụng trong việc điều trị chứng Hyperhidrosis và phòng ngừa hữu hiệu chứng đột qụy tim mạch. Bởi vì tính hữu dụng trong y học mà chất độc atropine còn được xem là hạt nhân cốt lõi trong “Danh sách các loại thuốc cần thiết” của Tổ chức Y tế Thế giới, rất cần thiết cho hệ thống chăm sóc y tế cơ bản. Cây độc cần Độc cần là một trong những loại độc dược phổ biến nhất, chất độc quan trọng nhất trong cây độc cần là coniine, có cấu trúc hoá học tương tự như nicotine. Coniine là một chất độc thần kinh, ảnh hưởng của nó là phá hủy cơ chế làm việc của hệ thống thần kinh trung ương, gây độc cho cả người và các loại gia súc. Coniine có thể gây chết người bằng cách làm tê cứng khả năng hoạt động của các cơ bắp tương tự như nhựa độc cây Cura. Các cơ hô hấp sẽ ngừng hoạt động gây nên cái chết do thiếu hụt ôxi ở tim và não. Cái chết diễn ra từ từ trong khoảng thời gian từ 48 đến 72 giờ đồng hồ sau đó. Người lớn chỉ cần ăn hơn 100 mg chất coniine (tương đương từ 6 đến 8 lá độc cần tươi, hoặc một liều nhỏ hạt hoặc rễ cây) là có thể chết bất đắc kỳ tử. Mặc dù được xem là Cây tử thần nhưng chất độc của cây độc cần còn được y học sử dụng để điều chế ra thuốc giảm đau cũng như dùng làm thuốc trị các chứng co thắt. Các thầy thuốc người Hy Lạp và Ba Tư đã sử dụng cây độc cần để trị các chứng viêm khớp. Rắn hổ mang Nọc độc của rắn hổ mang được ước tính rằng với một liều lượng tương đương 100 mg đã đạt đến mức tử vong. Tuy vậy, nọc độc của loài rắn hổ mang còn có một chất đạm gọi là “Contortrostatin” có khả năng ngừng sự tăng trưởng của các tế bào ung thư và có thể ngăn cản khả năng lây lan của các khối u sang các vị trí khác. Trong tương lai gần, chất độc Contortrostatin đang được hy vọng là chất chống ung thư rất hiệu quả. Cây mao địa hoàng Có nhiều giống khác nhau, nhưng tựu chung các cây mao địa hoàng tồn tại một vài chất độc chết người ảnh hưởng trực tiếp đến tim mạch. Vì vậy, mao địa hoàng được loài người đặt cho nhiều cái tên rất ấn tượng như Chuông gọi hồn, Găng tay phù thủy... Toàn bộ thân cây đều hiện diện các chất độc (bao gồm cả rễ và hạt), nhưng phần lá mọc trên thân cây là có uy lực giết người ghê gớm. Độc chất của cây mao địa hoàng còn được gọi là “Digitalin”, có khả năng gia tăng sự co giãn của tim và là một chất chống lại chứng loạn nhịp tim, đặc biệt là triệu chứng tim đập không đều, thường là đập rất nhanh. Ốc nón Những loài ốc nón có kích thước từ trung bình đến rất to, nó là những động vật săn mồi đáng gờm trong lòng đại dương. Loài ốc này săn mồi và giữ chặt con mồi bằng cách sử dụng một bộ răng sắc kèm theo tuyến nọc cực độc có khả năng hủy hoại hệ thần kinh của con mồi, miệng của ốc này có cơ chế hoạt động giống như một mũi lao. Loài ốc nón này cũng làm cho con người phát ngán vì những cú đâm vào da gây nhức nhối không thể tả. Cú chích của các con ốc nón nhỏ thì không đáng ngại như cú chích của loài ong, nhưng cú chích của một vài con ốc nón loại lớn như loài ốc nón nhiệt đới có thể gây nguy hiểm đến tính mạng cho con người. Nọc độc của một số loài ốc nón như ốc nón ma thuật, ốc nón Conus có công hiệu mạnh 1000 lần, có khả năng dùng thay thế cho morphine. Nọc độc của loài ốc nón được dùng để điều trị căn bệnh Alzheimer, bệnh Parkinson và chứng bệnh động kinh. Warfarin Warfarin là thuốc chống đông tụ, lúc đầu nó được quảng cáo là thuốc trừ sâu có tác dụng diệt chuột, thứ thuốc này còn có sự hiện diện của một số chất độc mà tiêu biểu là chất độc brodifacoum. Cách đây vài năm, warfarin dùng để phòng ngừa chứng huyết khối và sự tắc mạch máu. Warfarin được sử dụng làm thuốc vào đầu thập niên năm 1950 và đến ngày hôm nay nó vẫn có hiệu lực. Warfarin được đại đa số dân cư khu vực Bắc Mỹ sử dụng làm thuốc chống đông. ********************* Thanh nhiệt Chứng thử nhiệt do thời tiết nắng nóng, làm cho cơ thể vã mồ hôi, miệng khát, chán ăn, tiểu ít, sốt. Vào mùa nắng nóng, có thể chế biến những thức uống thanh nhiệt để giải thử (nắng), phòng ngừa một số bệnh thường gặp do nắng nóng như trúng nắng, tiêu chảy... Có thể dùng một số thức uống với cách chế biến đơn giản như dưới đây: Lá sen Cam thảo Kim ngân hoa 1. Trà lá sen - đậu ván: Nguyên liệu gồm một chiếc lá sen, đậu ván 30g. Đậu ván ngâm nước 20 phút, cùng với lá sen đổ 3 chén nước, sắc còn 1 chén, dùng uống thay trà trong ngày. Thức uống này giúp thanh nhiệt, chữa chứng cảm do trúng nắng - người có triệu chứng mệt mỏi nặng nề, tức ngực buồn nôn, miệng khô, họng khô. 2. Trà lá sen - kim ngân: Nguyên liệu gồm kim ngân hoa 15g, lá sen 10g, vỏ xanh dưa hấu 20g, thanh hao 10g, lá tre 10g. Cách nấu: Đổ 3 chén nước sắc còn 1 chén, uống lúc nước ấm trong ngày, giúp thanh thử tiết nhiệt, chữa trị thử nhiệt bên trong cơ thể gây phát sốt, ít mồ hôi, mặt đỏ, nặng đầu. 3. Trà sâm - mạch tiêu thử: Nguyên liệu gồm thái tử sâm 10g, mạch đông 10g, lá tre 6g, lá sen nửa tấm, xác ve sầu 6g. Đổ 4 chén nước, thêm chà là 3 quả, sắc còn 2 chén, dùng uống thay trà nhiều lần. Hoặc bỏ lá tre, thêm bí đao 250g, dưa hấu 250g, thịt nạc heo 150g, nấu thành món canh. Ngày một lượng như thế, giúp dưỡng âm thanh nhiệt, thoái hư nhiệt. Chữa trị cho trẻ vào mùa nóng phát sốt không giảm, miệng khát thích uống nhiều, ít mồ hôi hoặc không mồ hôi, lòng bàn tay chân nóng. 4. Trà thanh thử ích khí: Nguyên liệu gồm thái tử sâm 20g, mạch đông 15g, lá tre 10g, cuống sen 10g, thạch hộc 10g. Cách làm: đổ 5 chén nước, sắc còn 2 chén, dùng uống thay trà nhiều lần, ngày 1 thang, công hiệu thanh điều thử nhiệt, ích khí sinh tân. Chữa trị chứng phát sốt do nắng nóng làm mất thể dịch, miệng khô tâm phiền, vã mồ hôi không cầm, thở ngắn, mệt mỏi. 5. Trà cam thảo: Nguyên liệu gồm cam thảo 5g, hoạt thạch 5g, thanh hao 5g, lá sen nửa tấm. Cách làm: cho tất cả nguyên liệu vào bình, chế nước sôi để hãm, dùng uống thay trà. Công hiệu: thanh nhiệt giải độc, lợi thấp tiêu thử, dùng thích hợp cho người lớn lẫn trẻ em dự phòng trúng nắng. 6. Trà tiêu thử: Nguyên liệu: kim ngân hoa 5g, hoắc hương 5g, sinh địa 5g. Cách làm: cho tất cả vào bình, chế nước sôi để hãm, dùng uống thay trà. Công hiệu: thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng khu thử, dự phòng trúng nắng, cảm nắng. 7. Trà cúc hoa: Nguyên liệu: cúc hoa 5g, kim ngân hoa 5g, dã cúc hoa 5g. Cách làm: cho tất cả vào bình, chế nước sôi để hãm, dùng uống thay trà. Công hiệu: thanh nhiệt giải độc, bình can sáng mắt, giúp giải nhiệt, sáng mắt, chống nắng, thích hợp dùng cho nữ. Nguồn ThanhNien
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 29, 2014 6:11:10 GMT 9
Dùng hoa phòng, chống bệnh trĩTrong y học cổ truyền, bệnh trĩ thuộc phạm vi chứng trĩ hạ, gây nên bởi nhiều nguyên nhân khác nhau và các biện pháp trị liệu cũng hết sức phong phú, trong đó có một phương thức rất độc đáo là dùng các loại hoa để chữa trị, được gọi là trĩ hoa liệu pháp. Một vài ví dụ dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu biết thêm về vấn đề này. Bài 1: Hoa hòe tươi 50g, thịt lợn nạc 120g, gia vị vừa đủ. Thịt lợn rửa sạch, thái miếng, ướp gia vị rồi đem hầm với hoa hoè, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: tư âm nhuận táo, lương huyết chỉ huyết, dùng để chữa trĩ xuất huyết do nhiệt thịnh. Bài 2: Cúc hoa 120g, đường đỏ 120g. Hai thứ đem hấp cách thuỷ với 2 bát nước rồi chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: hoạt huyết tiêu thũng, dùng để chữa trĩ mới bị sưng đau. Bài 3: Hoa hoè 60g sắc kỹ lấy nước, chia 2/3 uống và 1/3 dùng để ngâm rửa hậu môn, mỗi ngày 1 thang. Công dụng: thanh nhiệt tả hỏa, lương huyết chỉ huyết, dùng để chữa trĩ sa ra ngoài, sưng đau. Bài 4: Hoa hoè 50g, hoa kinh giới 50g, hai thứ đem sấy khô, tán bột, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g với nước cơm hoặc nước cháo. Công dụng: thanh nhiệt tán phong, lương huyết chỉ huyết, dùng để chữa trĩ viêm loét chảy máu, sa niêm mạc trực tràng xuất huyết. Bài 5: Hoa mào gà 10g, phượng nhãn thảo 10g. Hai thứ đem sắc lấy nước ngâm rửa hậu môn, mỗi ngày 2 lần. Công dụng: thanh nhiệt lương huyết, tiêu thũng, dùng để chữa trĩ viêm loét, sưng nề quanh hậu môn. Bài 6: Hoa lăng tiêu 100g sấy khô tán bột, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g với nước cháo gạo nếp. Công dụng: lương huyết tán ứ, dùng để chữa trĩ nội xuất huyết, nứt kẽ hậu môn. Bài 7: Hoa sơn trà 15g, hoa hòe 15g. Hai thứ đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày, mỗi ngày dùng 1 thang, hãm uống nhiều lần. Công dụng: thanh nhiệt lương huyết, tán ứ chỉ huyết, dùng để chữa trĩ xuất huyết. Bài 8: Hoa mướp 20g, hoa hòe 10. Hai thứ đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày, mỗi ngày dùng 1 thang, hãm uống vài ba lần. Công dụng: tiêu thũng tán ứ, lương huyết chỉ huyết, dùng để chữa trĩ xuất huyết. Búi trĩ thò ra ngoài (phải). Bài 9: Hoa mướp lượng vừa đủ, rửa sạch, giã nát rồi đắp vào hậu môn. Công dụng: thanh nhiệt giải độc, lương huyết, dùng để chữa trĩ sa. Bài 10: Hoa sắn dây 6g, bột hồ tiêu 3g. Đem hoa sắn dây sấy khô, tán bột rồi trộn đều với bột hồ tiêu, chia uống làm 2 lần trong ngày. Công dụng: thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng chỉ thống, dùng để chữa trĩ sưng đau. Bài 11: Hoa bọ mẩy 50g, ruột già lợn 300g. Ruột lợn làm sạch, thái khúc rồi đem hầm với hoa bọ mẩy. Khi chín, bỏ hoa, chế đủ gia vị, ăn cái uống nước. Công dụng: nhuận tràng, bổ huyết, hòa huyết, dùng để chữa trĩ xuất huyết. Bài 12: Hoa sơn trà 100g sấy khô, tán thành bột mịn, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 6g với nước ấm. Công dụng: tiêu thũng tán ứ, lương huyết chỉ huyết, dùng để chữa trĩ xuất huyết. Bài 13: Hoa hòe tươi 250g, thịt gà 150g, cà chua 25g, tỏi 25g, lòng trắng trứng gà 1 quả, bột mỳ, rau mùi, giấm, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Hoa hòe rửa sạch, chần qua nước sôi, để ráo nước; thịt gà loại bỏ gân thái chỉ rồi đem ướp với gia vị, lòng trắng trứng và bột mỳ; rau thơm thái nhỏ, cà chua thái chỉ. Đổ dầu thực vật vào chảo, đun nóng già rồi cho thịt gà, hoa hòe vào đảo đều, khi gần chín cho cà chua vào đun thêm một lát là được, đổ ra đĩa, rải rau mùi lên trên, ăn nóng. Công dụng: tư âm ích khí, lương huyết giáng áp, dùng để chữa trĩ xuất huyết, đau mắt đỏ, tăng huyết áp. Bài 14: Hoa hòe tươi 250g, trứng gà 3 quả, thịt hun khói 20g, hạt đậu Hà Lan luộc chín, hành củ, mỡ lợn và gia vị vừa đủ. Hoa hòe rửa sạch, chần qua nước sôi, để ráo nước; thịt hun khói thái vụn; trứng gà đập ra bát, cho gia vị, thịt hun khói và hoa hòe vào quấy đều. Đặt chảo lên bếp, bỏ mỡ lợn vào đun nóng và phi hành cho thơm rồi cho trứng gà và hoa hòe vào tráng chín, ăn nóng. Công dụng: tư âm nhuận táo, lương huyết chỉ huyết, dùng để chữa trĩ xuất huyết. Nguồn 123SUCKHOE.COM/
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 3, 2014 18:11:12 GMT 9
Cách trị yếu sinh lý tại nhà cho nam giớiTrong quan hệ tình dục, đôi khi có những trục trặc mà ta không biết cách nào giải quyết. Xin giới thiệu một số bài thuốc bổ dưỡng có tác dụng chữa yếu sinh lý để các bạn tham khảo: Bài 1:Bằng lá hẹ Hẹ là một loại rau ăn quen thuộc với nhiều cách chế biến đơn giản như ăn sống, xào, nấu canh…Bên cạnh đó hẹ rất tốt cho sức khỏe, đặc biệt hẹ còn dùng để chữa yếu sinh lý cho đàn ông. Các thành phần có trong lá hẹ là các loại đường (fructose, glucose, lactose, sucrose) và các loại hợp chất khác như sulfide, odorin, aliin, methylaliin, linalool, proteine, carbohydrate, chất xơ, carotene, vitamine C… có tác dụng rất tốt cho sức khoẻ. Cách dùng: Lá hẹ tươi rửa sạch, giã lấy nước, uống ngày 2 lần trong một tuần. Lá hẹ xào cùng tôm nõn tươi, ăn với cơm. Lá hẹ nấu với gan dê không chỉ bổ dương mà còn có tác dụng làm sáng mắt. Lá hẹ xào lươn: Lươn lọc bỏ xương cắt khúc xào cùng gia vị, gừng, tỏi, khi cạn cho lá hẹ cắt đoạn, xào thêm 5 phút, ăn nóng. Lợi ích của hẹ đối với sức khỏe Tiêu hoá kém: Hẹ có tính ấm, đặc biệt tốt cho dạ dày, giúp cơ thể tiêu hoá thức ăn nhanh. Không chỉ ngăn ngừa các triệu chứng táo bón, ăn nhiều hẹ còn giúp ngăn ngừa ung thư ruột kết và chữa các triệu chứng khó chịu của bệnh đại tràng. Giảm mỡ máu: Hẹ có tác dụng lưu thông máu, giải độc, còn giúp cơ thể giảm mỡ máy cũng như phòng ngừa và điều trị các bệnh tim mạch vành, thiếu máu, xơ cứng động mạch. Chán ăn: Ăn nhiều rau hẹ, lá hẹ đều tốt cho sức khoẻ của phụ nữ, trẻ em, người già đặc biệt là phụ nữ đang mang thai bởi có tác dụng kích thích khẩu vị, chống chán ăn, tăng cảm giác ngon miệng. Kháng viêm: Trong lá hẹ có chứa allicin, một loại dầu lưu huỳnh có tác dụng diệt khuẩn, chống viêm rất tốt. Nhất là khi bạn gặp các vết thương ngoài da, ăn nhiều lá hẹ rất mau lành. Hen suyễn: Hẹ rất giàu vitamin A, ăn nhiều rau hẹ không chỉ tốt cho làn da, thị lực và phổi, mà còn giảm nguy cơ bị cảm lạnh, giảm các triệu chứng bệnh hen suyễn… Chữa đau lưng, đau thận. Bài 2: Rễ cau (loại rễ màu trắng mọc lộ trên mặt đất) 20 – 30g, thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày. Rễ cau giúp chữa bệnh yếu sinh lý rất tốt. Hoặc: rễ cau 8g phối hợp với ba kích 20g, thục địa 20g, hoài sơn 20g, sâm bố chính 40g, quế thanh 8g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sao vàng (trừ quế), tán nhỏ, rây bột mịn, trộn với mật hoặc sirô làm thành viên to bằng quả táo.Ngày uống 5 viên trước khi đi ngủ.Dùng liền trong 1 tháng. Bài 3: Sâm cau 10g; sâm bố chính, trâu cổ, kỷ tử, ngưu tất, tục đoạn, thạch hộc, hoài sơn, cáp giới, mỗi vị 12g; cam thảo nam, ngũ gia bì, mỗi vị 8g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc uống ngày 1 thang. Hoặc: sâm cau 20g; ba kích, phá cố chỉ, hồ đào nhục, thục địa, mỗi vị 16g; hồi hương 4g. Sắc uống ngày 1 thang. Bài 4: Hoài sơn 16g, sơn thù 12g, đan bì 10g, trạch tả 12g, thục địa 16g, khiếm thực 12g, thạch hộc 12g, bạch phục linh 12g, hoàng liên 10g, chi tử 12g, cỏ mực 16g, lạc tiên 16g, phục thần 10g, đại táo 10g, hắc táo nhân 16g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.Uống 10 – 15 ngày.Kiêng các chất cay nóng. Công dụng: bài này dùng thích hợp cho quý ông mắc chứng âm hư, tâm hỏa cang thịnh với biểu hiện: đau váng đầu, người nóng, giấc ngủ chập chờn, miệng khô họng ráo, mệt mỏi, ăn uống chậm tiêu, táo bón, người gầy, chân tay thiếu lực, ngủ hay mơ, dễ xuất tinh… Bài 5: Ba kích 16g, tơ hồng xanh 16g, thục địa 16g, đỗ trọng 10g, cẩu tích 10g, ngũ gia bì 12g, phá cố chỉ 6g, mẫu lệ 16g, quế 8g, phụ tử 8g, sinh khương 4g, sâm bố chính 16g, hoài sơn 16g, sơn thù 12g, hà thủ ô chế 10g, cam thảo 10g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần. Công dụng: bổ dương, dùng cho người đau lưng mỏi gối, chân tay lạnh, đoản hơi, xuất tinh không kiểm soát, liệt dương, lạnh bụng đi ngoài phân lỏng, người suy nhược dẫn đến không giao hợp được. Bài 6: Hoài sơn 16g, liên nhục 16g, bán hạ 10g, hậu phác 12g, thần khúc 10g, bạch truật 16g, lương khương 12g, ngũ gia bì 12g, đinh lăng 16g, đương quy 16g, quế nhục 8g, sinh khương 4g, cam thảo 12g, trần bì 10g, đỗ trọng 10g, phòng sâm 16g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần. Công dụng: bổ tỳ dương. Dùng cho những người tỳ vị hư hàn, tiêu hóa kém, cơ thể xanh xao, thiếu dinh dưỡng, lạnh bụng, đại tiện lỏng, cơ bắp yếu mềm, niêm mạc nhợt nhạt, dương sự yếu kém, liệt dương, xuất tinh sớm hoặc tảo tiết. . Ngoài ra có thể dùng một số loại thuốc hay các thực phẩm chức năng đặc biệt,một trong những lại thuốc giúp hạn chế xuất tính sớm cũng như tăng cường sinh lý như Khang Dược,Trùng Tảo Hoạt Lực,Lộc Cường Thận - có thể dùng cho người mắc bệnh xuất tinh sớm. Có nghiên cứu cho thấy yếu sinh lý còn là do di truyền, không phải chỉ là yếu tố tâm lý.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 3, 2014 18:14:16 GMT 9
Giá đỗ – thần dược sinh sản của nam giớiNhững chàng đang bị hiếm muộn nhớ đừng bỏ qua giá đỗ nhé! Tôi biết được những người hiếm con (cả nam lẫn nữ) ăn nhiều rau giá sống sẽ rất tốt, nhưng liều lượng ăn như thế nào thì hợp lý và nếu ăn quá nhiều sẽ xảy ra những hậu quả ra sao? Phương Hà – Phú Thọ Trả lời: Giá đỗ thuộc nhóm rau mầm làm từ các loại đỗ: đỗ xanh, đỗ đỏ, đỗ vàng (đỗ tương), đỗ đen, đỗ nâu (đậu phộng). Giá của loại đỗ nào sẽ mang phần bản chất của loại đỗ sinh ra nó. Nói chung giá đỗ bổ hơn hạt đỗ về cả chất và lượng và đó là một trong những điều kỳ diệu của giá. Qua quy trình ngâm ủ, giá sẽ có hàm lượng protein, acid amin và vitamin C cao hơn. Giá đỗ ăn bao nhiêu mới có tác dụng cho sinh sản Giá đỗ xanh: Là loại giá đỗ được dùng nhiều nhất trong ẩm thực và làm thuốc. Theo cổ văn thì giá đỗ xanh dùng an toàn hơn cả, vì dễ tiêu và chữa được nhiều bệnh hơn, đặc biệt là tính chất giải độc đa năng nội ngoại sinh có nguồn gốc khác nhau, kể cả thạch tín là một khoáng vật rất độc. Giá đỗ xanh có đủ các chất dinh dưỡng, nhiều vitamin C và E, lượng calo thấp. Giá thường được dùng cho người bị viêm thanh quản mất tiếng, vận động thể thao bị mỏi cơ, người béo phì, đái tháo đường, bệnh tim mạch, cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, cholesterol máu cao, hiếm muộn, dễ xảy thai. Các công dụng của giá đỗ: Dễ tiêu, giải độc, tăng cường hormone, chữa nhiều bệnh. Trước hết là giảm béo. Tiếp đến là các bệnh tim mạch, huyết áp, cholesterol máu cao, ung thư, thoái hóa khớp, parkinson, alzheimer… Giá đỗ có đủ chất dinh dưỡng, giàu protein (ngang với sữa) nhưng lượng calo lại rất thấp, nhiều vitamin: đặc biệt là kẽm, omega3, vitamin B2, Vitamin C, vitamin B12, … Đỗ sau khi ngâm thành giá thì giá trị dinh dưỡng tăng cao: Vitamin B2 tăng 2-4 lần, caroten tăng 2 lần, vitamin C tăng 40 lần, vitamin B12 tăng 10 lần. Do đó, nó có khả năng khử gốc tự do, chống ôxy hóa, phòng chống viêm, ung thư, đặc biệt là ung thư vú. Vitamin E giúp thụ thai, chữa hiếm con, hạn chế phát triển bệnh Parkinson, chống xơ vữa mạch máu, yếu sinh lý. bác sĩ Nguyễn Quang đang tư vấn cho bệnh nhân. Riêng đối với vấn đề vô sinh nam giới, tác dụng của các thành phần trong giá đỗ lên chức năng sinh sản của nam giới như sau: Đối với nam giới, chất bổ dưỡng quan trọng để gia tăng khả năng sinh sản là vitamin C và kẽm. Vitamin C là chất chống oxy hóa có mặt trong huyết tương của tinh trùng, giúp tinh trùng không bị vón cục và dính kết, vì vậy làm tăng cơ hội thụ thai Vitamin B12 tham gia vào sự trưởng thành của tế bào và tổng hợp DNA, là một trong những vitamin cần phải quan tâm nhất trong vô sinh. Thiếu hụt vitamin B12 làm giảm tính di động và số lượng tinh trùng. Vitamin E giúp cải thiện sức khỏe chung của tinh trùng. Tinh trùng có thể bị tổn thương bởi các gốc tự do. Vitamin E và vitamin C là những chất chống oxy hóa (antioxidant) có vai trò làm giảm số lượng các gốc tự do. Các a xít béo Omega: Các a xít béo omega 3 và omega 6 có thể giúp cải thiện màng tinh trùng và giúp điều trị vô sinh nam Tuy giá đỗ rất bổ, nhưng cần rửa kỹ giá đỗ trước khi sử dụng, mọi người không nên ăn quá 550 g giá sống mỗi ngày, do có thể có cả chất độc trong giá sống. Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Quang
|
|
|
Post by nguyendonganh on Feb 5, 2014 18:13:06 GMT 9
Chữa bệnh gout bằng cải bẹ xanhCải bẹ xanh được các chuyên gia dinh dưỡng khuyên dùng vì có nhiều lợi ích đối với sức khỏe cũng như có tác dụng phòng chống bệnh tật. Từ xưa đến nay cải bẹ xanh là loại rau rất phổ biến trong các bữa ăn gia đình. Thế nhưng không mấy ai biết được những tác dụng chữa bệnh thần kỳ từ loại rau này. Cải bẹ xanh có vị cay, đăng đắng (thường được gọi là cải đắng), lá có màu xanh đậm hoặc xanh nõn chuối. Cải bẹ xanh thường dùng để nấu canh, hay cuốn bánh xèo với rau xà lách. Cải bẹ xanh Theo Đông y cải bẹ xanh có vị cay, tính ôn, có tác dụng giải cảm hàn, thông đàm, lợi khí... Trong cải bẹ xanh có chứa rất nhiều các loại vitamin A, B, C, K, axit nicotic, catoten, abumin... Cải bẹ xanh được các chuyên gia dinh dưỡng khuyên dùng vì có nhiều lợi ích đối với sức khỏe cũng như có tác dụng phòng chống bệnh tật. Dưới đây là một số công dụng từ lá cải bẹ xanh: Chống lão hóa da Với những thực phẩm rau có màu xanh đậm như cải bẹ xanh thì hàm lượng vitamin càng cao, giàu chất chống oxy hóa và axit folic cần thiết cho tế bào máu, giúp da dẻ hồng hào, tươi tắn. Vì vậy mỗi ngày dùng từ 200 – 300 gr rau cải bẹ xanh trong khẩu phần ăn sẽ giữ được sự tươi trẻ. Ngoài ra, cải bẹ xanh còn dùng để chữa “phạm phòng” cho quý ông. Chữa bệnh gout bằng cải bẹ xanh Bệnh gout hình thành do một chế độ dinh dưỡng nhiều thực phẩm giàu năng lượng nhất là ăn các loại thịt, tim, gan, lòng hay các loại hải sản. Nam giới ở độ tuổi trưởng thành dễ mắc phải bệnh gout, tuổi càng cao tỉ lệ mắc bệnh này càng nhiều hơn (trên 65 tuổi). Ngoài chế độ dinh dưỡng tránh những thực phẩm giàu purin có trong nội tạng động vật và hải sản, bệnh nhân mắc bệnh gout còn được khuyên dùng nhiều rau xanh, những loại có tác dụng thải ra ngoài chất axit uric gây bệnh. Các bà nội trợ có thể lưu ý cách chế biến sau: dùng cải bẹ xanh nấu và uống mỗi ngày thay nước. Nhờ uống loại nước này đều đặn có tác dụng giúp thải ra ngoài chất axit uric, phòng trừ bệnh gout rất hiệu quả. Trị viêm họng với cải bẹ xanh Phần thân và lá của cải bẹ xanh dùng làm rau ăn, bên cạnh đó phần hạt có tác dụng tích cực trong việc chữa bệnh: viêm họng, ho hen, mụn nhọt, trĩ, các chứng phong hàn… Có thể sử dụng hạt cải bẹ xanh để chữa bệnh bằng cách tán nhuyễn sau đó cho vào một ít nước, khuấy cho đến khi thấy sền sệt, dùng đắp vào phần hầu, băng lại sẽ thấy hiệu quả và giảm đau họng ngay. Ngoài ra, hạt cải bẹ xanh còn dùng để chữa trị các chứng đau lưng, đau xương sống, bệnh tiêu chảy... Với cải bẹ xanh khi luộc nên cho nước nhiều, thêm muối, để lửa lớn nước sôi già mới thả rau cải vào. Vớt ra nên xả với nước lạnh để giữ độ giòn của rau. (Theo Bếp gia đình)
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:39:32 GMT 9
Hạt Chia trong việc trị bệnh
Vietsciences- Trường Xuân
Lịch sử phát triển của hạt Chia:
Năm 1994 đánh dấu một biến cố lạ lùng nhất trong lịch sự thể thao đường trường ở Mỹ. Vào năm đó tại Mỹ có tổ chức giải chạy đua siêu Marathon (Ultramarathon) gian khổ nhất thế giới tức là giải 100 cao nhất của tiểu bang Colorado. Giải này được thành lập vào năm 1982 do nhà thám hiểm Ken Chlouber bày ra để thử thách mức chịu đựng tối đa của chặng đường kéo dài 100 dặm và ở trên độ cao 1000 bộ và qua nhiều con đèo dốc hết sức nguy hiểm, khó khăn. Chỉ có những thể thao gia có một thể chất cực kỳ dai sức mới có thể tham dự và được yểm trợ bởi một toán chuyên viên đặc biệt nhất với những phương tiện tối tân. Ngay cả những siêu lực sĩ như (người thắng giải Ultramarathon 300 dặm tại California) hoặc cũng không chịu nỗi sau thử thách lần đầu tiên.
Nói chung giải Leadville 100 có thể ví như chạy 4 khúc marathon (26 dặm) liên tục trong đó 2 khúc chạy trong đêm tối, leo 26 con đèo cao và ở trên một cao độ mà các phi cơ phải được pressurized. Vì thế chỉ những lực sĩ có một thể chất vô cùng sắc thép mới dám tham dự giải Leadville 100 và phần thưởng chẳng có gì ngoài một chiếc thắt lưng bằng bạc mà thôi. Họ chạy Leadville 100 vì lý do yêu chạy bộ ngoài ra không vì một lý do nào khác!
Vào năm 1994, nhà thám hiểm Rick Fisher có sáng kiến mời 5 người thổ dân da đỏ thuộc bộ lạc Tarahumara tham dự giải Leadville 100. Những người này sống trong rặng núi occidental sau khi đất đai của họ bị người Mễ và Tây Ban Nha chiếm mất.
Ken trước đó đã sang thám hiểm vùng này và thấy tại đây có một bộ lạc da đỏ vẫn còn sống trong thời kỳ sơ khai và có lệ hay chạy đua đường trường mà không hề mệt mỏi. Ken có sáng kiến mời họ tham dự giải Leadville 100 để so sánh họ với những lực sĩ tài giỏi của nước Mỹ.
Từ trước đến nay trong nhiều lần giải nhất đều về tay nữ lực sĩ Ann Treason nhờ được tập luyện vô cùng kỹ lượng. Những năm 1994 đã có sự xuất hiện của 5 người da đỏ từ Mexico, ăn mặc lạ lùng với áo choàng trên vai và chân đi đôi dép râu làm bằng vỏ xe như dép Bình Trị Thiên.
Kết quả là trong 5 giải đầu thì nhóm Tarahumara chiếm 3 và người đoạt giải nhất là một người Tarahumara đã 55 tuổi, trong khi Ann Treason chiếm hạng nhì. Sau đó những người Tarahumara không tham dự Leadville 100 nữa và trở về đời sống bình thường của họ…
Ký giả Christopher Mcdougall của hãng AP và chủ biên của tạp chí Men’s Health đã sang tận nơi nghiên cứu bí quyết của người Tarahumara và ông đã viết lại đời sống bí hiểm của những “siêu nhân” này như thế nào và nhờ thế ông đã tìm ra được một loại thực phẩm sẽ làm đảo lộn phép dinh dưỡng tại Mỹ trong những năm tới mà ông viết trong cuốn sách best seller “Born to run”…
Hạt Chia, thuốc trường sinh bất lão
Từ hơn 25 năm qua, y học Mỹ đã đạt nhiều tiến bộ trong việc đi tìm nguyên nhân của những chứng bệnh gây tử vong là bệnh đau tim và bệnh ung thư.
Ai cũng biết là tập thể dục đều đặn, tinh thần thoải mái ổn định là tốt nhưng tất cả đều đồng ý là dinh dưỡng đúng phép là quan trọng nhất! Nhưng hiện nay các thống kê đều không lấy gì làm khả quan vì 60% dân chúng Mỹ bị béo mập, 30% mập phì (mập bệnh-morbid obesity), mỗi năm 1.5 triệu người bị một cơn đau tim, nước Mỹ dẫn đầu thế giới về ung thư ruột già (colorectal cancer) và cơn khủng hoảng kinh tế hiện nay cũng do những nguyên nhân kể trên mà ra.
Trong khi đó thì một khảo cứu của Y sư đoàn AMA năm 1961 cho biết là 97% các trường hợp sơ cứng động mạch vành có thể tránh được nhờ dinh dưỡng đúng phép. Nước Mỹ tiêu xài nhiều nhất thế giới về y tế nhưng đứng hàng thứ 37 về chất lượng vì nạn mập phì quá cao và nan giải
Những cuộc khảo sát tiếp theo trên người dân Tarahumara cho thấy là bí quyết của họ là hay ăn một loại hạt mang tên là Chia mỗi khi họ chạy đua đường trường. Lịch sử ghi lại là hạt Chia trước đây được coi là nòng cốt của nền văn minh Aztec và Maya và là thực phẩm chính của những chiến sĩ ra trận…Nhiều người chỉ cần ăn một nắm hạt Chia cũng đủ sức đi bộ hàng chục cây số mà không biết mệt…
Gần đây hạt Chia cũng được phổ biến trên chương trình Oprah bởi BS. tim mạch Mehmet Oz và BS Andrew Weil chuyên về tuổi thọ cùng khen ngợi hạt Chia là một thuốc rất tốt để phòng những cứng bệnh nan y hiện nay đang lan tràn ở Mỹ.
Chia là gì?
Chia là một loại thảo mộc đã được người Aztec, Maya thuần hóa cả ngàn năm về trước và đem trồng làm thực phẩm dành riêng cho các chiến sĩ ra trận hoặc phải đi làm công tác ở xa. Chia có tên khoa học là Salvia Hispaniola thuộc loại Lamiaceae tức cùng loại với các loại thảo mộc dùng làm gia vị như: húng quế, bạc hà (mint). Hạt Chia rất nhỏ trong giống như các hạt mè hoặc hạt é (basil).Loại húng quế (Ocimum basilicum) cũng được dùng trong nước uống tại các nước Đông Nam Á tức là nước hạt é (basil seed).
Những thí nghiệm sơ khởi cho thấy là hạt Chia khi được pha với nước thì có thể nở lớn gấp 12 lần và tạo nên một lớp gel mềm do chất xơ hòa tan. Nhờ lớp gel nên chất đường trong bao tử được thấm chậm và đều hơn nên có chỉ số glyxemic index thấp, giúp tránh được bệnh tiểu đường. Nhờ chất gel nên việc biến dưỡng của chất đường điều hòa hơn và giúp cho việc điều trị tiểu đường tốt hơn và tránh được bệnh mập phì. Nhiều người sau khi uống một ly nước pha 1 muỗng lớn hạt Chia thì không bị đói cả nữa ngày.
Nhờ có nhiều chất xơ hòa tan và không hòa tan nên hạt Chia giúp tránh được nhiều chứng bệnh đường ruột, kể cả ung thư ruột già.
Về chất đạm protein thì hạt Chia có khá nhiều và dễ tiêu hơn là protein từ thịt ra và giúp cơ thể phục hồi mỏi mệt hay sau khi bị thương hoặc giúp cho phụ nữ có nhiều sữa. Đặc biệt nhất là hạt Chia có nồng độ lipid rất cao, nhất là loại lipid Omega 3, gấp 3 lần hơn những loại hạt khác như hạt Gai (flax seed) hay lấy ra từ cá hồi (Salmon). Chia cũng có nhiều chất linolein acid, rất quan trọng cho việc biến dưỡng của protein và các hormone trong cơ thể.
Ngoài ra còn một số khoáng chất quan trọng như Calcium, Boron và nhiều loại hóa chất gọi là Triglyceride chuỗi dài chống lại bệnh đau tim nhờ bảo vệ các thành động mạch.
Một lợi điểm của hạt Chia là dễ sử dụng. Chỉ cần pha một muỗng lớn với nước cam, chanh hay sữa đậu nành rồi để khoảng 30 phút thì hạt sẽ nở ra trông giống như nước hạt é, cùng giống với Chia. Hiện nay chưa có khảo cứu về công dụng của nước hạt é nhưng có lẽ cũng có một vài lợi điểm giống như hạt Chia.
Có rất nhiều cách để dùng hạt Chia được mô tả như rắc trên Salad, rắc trên thực phẩm cho trẻ em, pha với yogurt, sherbet hay với bánh ngọt, bánh mì.
BS William Anderson và Wayne Coates (Đại học Arizona) sau khi nghiên cứu tường tận về lịch sử cũng như công dụng của hạt Chia đều công nhận là loại thực phẩm này sẽ là 1 trong những thức ăn quý giá nhất trong tương lai.
Hiện nay các hãng chế biến thực phẩm “health food” như Akins, GNC cũng đang chế biến hạt Chia thành các loại “energy bar” để bán trên thị trường cho những người quan tâm đến sức khỏe bản thân chống lại những chứng bệnh mãn tính ở Mỹ.
Trong khi đó thì tại những bộ lạc da đỏ như Apache, Navajo, Pima…tại Arizona thì tình trạng mập phì đã lên tới mức khủng khiếp ví dụ như bộ lạc Pima có tỉ lệ bị tiểu đường cao nhất thế giới với 90% bị bệnh ở những người trên 50 tuổi. Nguyên do chỉ vì họ đã bị tiêm nhiễm lối ẩm thực quá dư thừa của nếp sống “văn minh” cơ khí ở Mỹ trong thời đại cao kỹ.
Bộ lạc Tarahumara nhờ sống biệt lập trong khu vực Copper Canyon thuộc rặng núi Sierra Madre xa cách với thế giới bên ngoài nên vẫn duy trì nếp sống lành mạnh đã có từ ngàn xưa như chạy bộ đường trường và dinh dưỡng bằng hạt Chia nên đã tránh được tai họa kể trên…trước khi họ bị tiêm nhiễm bởi những thói xấu do du khách đem lại!
Kinh nghiệm bản thân
Bản thân tôi đã dùng hạt Chia trên 2 tháng nay thì thấy hiệu quả tốt: việc đi cầu mỗi buổi sáng khi thức dậy rất nhuận trường, và gần như đi sạch ruột vì hột Chia có chất trơn (như hột é từ cây rau quế). Hạt Chia nở to và thấm tất cả nước vào nên mặc dầu tôi ăn với sữa đậu nành 2 cup nước mà không bị bàng quang (bọng đái) làm phiền trong việc đi tiểu, đây là điểm then chốt để có cơ hội uống nhiều nước mà không bị đầy bụng và hối hả đi tiểu, do đó giúp thận bớt làm việc
Tôi cũng có giới thiệu cho nhiều người bị bệnh tiểu đường thấy rất hay và người cao máu uống hột Chia xong khoảng 1 giờ đo máu thấy áp huyết xuống thấp hơn
Cách dùng hạt Chia thế nào?
Có rất nhiều cách để dùng hạt Chia như rắc trên Salad, rắc trên thực phẩm cho trẻ em, pha với yogurt, sherbet hay với bánh ngọt.
Chỉ cần pha một muỗng lớn với nước cam, chanh hay sữa đậu nành rồi để lâu 30 phút thì hạt sẽ nở ra trông giống như nước hạt é, cùng giống với Chia.
Một số món ăn với Chia seeds:
Anh em có thể trộn hạt Chia với trái cây để ăn chung, không thì trộn chung nước trái cây cũng ok: nước bạc hà
Chia và sữa:
Hạt Chia là một thực phẩm rất quan trọng, là loại hạt có nhiều chất dinh dưỡng tốt cho sức khoẻ của chúng ta. Ngày xưa được coi là một loại thực phẩm quý giá ở Nam Mỹ và ngày nay nó còn được xem như là một người bạn thân thiết với tất cả mọi người.
Theo những sách sử ghi lại thì hạt Chia là một loại thực phẩm mà người dân da đỏ ở Mexico đã biết đến và sử dụng từ hàng ngàn năm trước. Thời bấy giờ tuy kiến thức khoa học của con người chưa cao bao nhiêu, nhưng đối với những người sử dụng loại hạt này thì họ biết được rất ích lợi cho sức kkhoẻ của con người.
Những sắc dân sống tại vùng Tây Nam châu Mỹ đã biết sử dụng hạt Chia cùng với những loại ngũ cốc khác như ngô, đậu…trong những bữa ăn hàng ngày. Đối với những người này họ trân trọng hạt Chia đến độ dùng nó như một phẩm vật để tế lễ thần linh, hay thậm chí có nơi còn dùng nó như vật trao đổi hàng hóa thay thế như đồng tiền ngày nay.
Cũng theo lịch sử của người Aztec, thì ngày xưa những chiến binh của họ trên đường chinh chiến, họ chỉ sống nhờ vào những loại hạt này mà thôi. Người thổ dân da đỏ ở Nam Mỹ những khi bị buộc phải dong ruổi trên những hành trình dài, trước lúc lên đường họ chỉ cần ăn một muỗng hạt Chia là đủ.
Chia seeds là hạt được lấy từ cây Chia. Là một loại hột ngũ cốc, hột nhỏ giống như hột é. Hột có thể có dưới 2 dạng chính là màu đen và màu trắng, xen lẫn một số rất ít dưới dạng màu vàng hoặc nâu. Tuy nhiên thành phần bổ dưỡng không có gì khác biệt. Hiện nay đa số người ta có khuynh hướng sử dụng hạt Chia đen nhiều hơn. Tuy gọi là hạt Chia đen nhưng trong đó có khoảng từ 10%-15 % pha trộn hạt trắng và nâu.
Điểm đặc biệt của hạt Chia là nó rất dễ sử dụng. Chúng ta có thể trộn chung loại hạt này với bất kỳ thức ăn bình thường nào của mình, thí dụ như trong món rau salad, trong yogurt, trong bánh mì, các món tráng miệng….hay với bất kỳ món ăn nào cũng được. Ăn hạt Chia không cần phải xay nát.
Khoa học ngày nay đã xác nhận về những câu chuyện các chiến binh Aztecs đã nhờ hạt Chia mà đủ sức chinh phục các nơi là hoàn toàn đúng, vì Chia được xem là một loại hạt có chất bổ dưỡng vô song (the superfoods on the planet)
Thành phần bổ dưỡng thì trong hạt Chia có chất béo Omega 3 chiếm khoảng từ 62-63%, lượng calcium có trong hạt Chia cũng cao gấp 5 lần so với sữa, và người ta tính được cứ 100 hạt Chia có đến 500mg calcium. Thành phần protein có từ 20-25%, trong đó bao gồm đủ tất cả mọi loại acid amino. Hạt Chia là một loại thực phẩm có tính kháng viêm rất cao. Chia rất thích hợp cho người già yếu và trẻ em, nhờ có nhiều khoáng chất như Postassium, Phosphorous, đồng, kẽm, sắt cộng với nhiều chất chống lão hóa tức là chất Antioxidant. Trong hạt Chia còn có loại chất béo không no (unsaturated fat), có omega 6, đây là thứ rất cần cho bộ não, rất ít có trong những loại thực phẩm sử dụng hàng ngày của chúng ta.
Khoa học đã chứng minh một vài lợi ích thấy rõ của hạt Chia như sau:
1. Giúp cho các bắp thịt và các mô trong cơ thể trở nên cứng cáp và mạnh mẻ hơn
2. Ăn hạt Chia người ta đỡ thấy thèm ngọt và nhờ vậy sẽ ổn định được lượng đường trong cơ thể, do đó rất lý tưởng đối với những người bị bênh tiểu đường.
3. Hạt Chia rất dễ tiêu hóa và hấp thụ do trong hạt có nhiều chất xơ. Nó giúp cho các hoạt động của ruột được dễ dàng và nhờ nó giúp tẩy được cholesterol dính lại ở thành ruột, đồng thời chống được bệnh táo bón.
4. Rất tốt trong việc phòng chống các bệnh về tim mạch do hàm lượng omega 3 rất cao
Ngoài ra hạt Chia còn giúp cho những ai muốn sụt cân, là trước khi ăn cơm nên uống 1 ly hạt Chia khoảng 2 đến 3 muỗng cà phê, sẽ có cảm giác no và nhờ vậy sẽ ăn ít lại và chẳng bao lâu sẽ đạt được kết quả mong muốn.
Trong hạt Chia có một chất chống lão hóa và chống viêm tự nhiên rất quan trọng đó là chất Quercetin. Gần đây các nhà nghiên cứu thuộc trường đại học South Carolina đã chứng minh được chất này có khả năng gia tăng đáng kể sức chịu đựng của con người, cũng như làm gia tăng tối đa lượng Oxygen có trong máu, giúp cho những người tuy không có rèn luyện nhiều về thể chất cũng cảm thấy dẻo dai hơn lúc bình thường. Mặc dù người ta vẫn thường nói là không thể có một thứ gì có thể thay thế được cho việc tập thể dục mỗi ngày. Thế nhưng rõ ràng là chất Quercetin có thể làm giảm bớt sự mệt mỏi. Và nếu đặt trường hợp chất này có trong những người siêng năng tập thể dục thì lợi ích sẽ được tăng gấp đôi. Bên cạnh đó chất chống lão hóa (Antioxidant) có rất nhiều trong hạt Chia đen, được cho là có ích cho những người cao tuổi để trung hòa những phân tử độc hại (free radicals) do các loại thực phẩm khác sản sinh ra trong cơ thể
Về liều lượng ở hạt Chia, ăn vào người như thế nào được cho là đủ. Tất nhiên điều này tùy thuộc vào thể trọng của cơ thể từng người.Tuy nhiên các nhà dinh dưỡng học khuyên chúng ta là nếu chỉ ăn để giữ cho người được khỏe mạnh thì dùng một lượng chừng 10-20 gram mỗi ngày là đủ, tức là vào khoảng 2-4 muỗng cà phê. Đối với những người uống hạt Chia vì những lý do khác như muốn sụt cân chẳng hạn thì họ phải dùng một lượng nhiều hơn. Mặc dù người ta biết là hạt Chia rất an toàn và không có một giới hạn nào nhất định cả, vì nó coi như là một loại ngũ cốc, là loại thực phẩm. Nhưng chúng ta cũng không nên quá lạm dụng vào hạt này để đạt kết quả nhanh chóng, tốt nhất là dùng đều đặn mỗi ngày với một liều lượng thích hợp.
Về lợi ích của hạt Chia thì đối với riêng từng người, cơ thể mỗi người hấp thu hạt này hoàn toàn khác nhau. Tùy theo cơ thể chuyển hóa nhanh hay chậm, người ta sẽ cảm thấy sự khác biệt đối với sức khỏe của mình sau khi ăn hạt Chia. Có người cơ thể có khả năng chuyển hóa nhanh thì họ thấy những sự khác biệt trong khoảng từ 10-15 ngày. Trong khi ở những người chậm hơn thì sự khác biệt này có khi chỉ bắt đầu cảm nhận được từ 3-4 tuần. Theo các nhà dinh dưỡng học thì người ta có thể đo lường xem lượng Chia thế nào cho là đủ cho mình, bằng cách là nếu thấy đã dùng Chia mà không hề thấy có sự thay đổi nào trong người thì cứ tăng thêm mỗi lần khoảng 5 gram, cho đến khi nào thấy được những điều sau đây:
1. Trong người cảm thấy khoẻ mạnh, có nhiều năng lực hơn trước
2. Sức tập trung vào bất cứ gì cũng tốt hơn
3. Những đau nhức tự nhiên trong người nay bỗng biến mất hết
4. Trong người cảm thấy sảng khoái, minh mẫn, vui vẻ và yêu đời
Thì khi ấy chúng ta biết chắc là lượng Chia mà chúng ta đang dùng là đủ và cứ tiếp tục giữ nguyên như
Trong khi đó thì một khảo cứu của Y si đoàn AMA năm 1961 cho biết là 97 % các trường hợp sơ cứng động mạch vành có thể tránh đuợc nhờ dinh dưỡng đúng phép. Nước Mỹ tiêu xài nhiều nhất thế giới về y tế nhưng đứng hàng thứ 37 về chất luợng chỉ vì nạn mập phì quá cao và nan giải. Những cuộc khảo sát tiếp theo trên người dânTarahumara cho thấy là bí quyết của họ là họ hay ăn một loại hạt mang tên là Chia mỗi khi họ chạy đua đường trường. Lịch sử ghi lại là hạt Chia trước đây đuợc coi là nòng cốt của nền văn minh Aztec và Maya và là thực phẩm chính của những chiến sĩ khi ra trận.. Nhiều người chỉ cần ăn 1 nắm hạt Chia cũng đủ sức đi bộ hàng chục cây số mà không biết mệt.. Gần đây hạt Chia cững đuợc phổ biến trên chuong trình Oprah bởi BS tim mạch Mehmet Oz và BS chuyên về tuổi thọ cùng khen ngợi hạt Chia là một môn thuốc rất tốt để phòng những chứng bệnh nan y hiện nay đang lan tràn ở Mỹ Những món ăn, thức uống ngon và bổ dưỡng với hạt Chia
Món ngon cùng hạt Chia , Hạt Chia là một loại thực phẩm rất tốt cho sức khỏe, và bởi vì nó là thực phẩm nên chúng ta vó thể thưởng thức với nhiều cách khác nhau và dất dễ dùng. Hạt Chia trông giống như hạt é, hạt vừng, nếu nếm thử thì thấy không có mùi vị gì, tuy nhiên cũng nhờ đặc điểm này mà có thể trộn hạt Chia vào rất nhiều loại nước uống, yaourt, salad… vẫn không làm thay đổi hương vị gốc của món chính. Trong bài này viết rõ hơn về cách sử dụng hạt Chia, cách bảo quản cũng như những “thực đơn” thông dụng để dùng hạt Chia hàng ngày mà không ngán. Cách dùng và liều dùng Mỗi ngày dùng 1 đến 2 muỗng cafe hạt Chia trộn vào các món ăn, thức uống sẽ giúp giữ gìn và cải thiện sức khỏe cả về thể lực lẫn trí lực. Cần lưu ý là hạt Chia cũng tạo cảm giác no nên với người cần giảm cân thì nên dùng trước bữa ăn, còn người muốn tăng cân hay trẻ em độ tuổi phát triển thì nên dùng sau bữa ăn để không ảnh hưởng đến khẩu phần. Nên bảo quản hạt Chia ở nơi khô thoáng, mát mẻ giống như các loại hạt ngũ cốc. Nếu bạn dùng gói lớn, có thể cho vào một lọ lớn để dành, cùng một lọ nhỏ ăn dần và khi nào hết lại cho thêm vào. Những món ăn, thức uống ngon và bổ dưỡng với hạt Chia Có rất nhiều cách để trộn hạt Chia hoặc bột Chia vào các món ăn, thức uống. Dưới đây là một số món thông dụng: 1. Nước hạt Chia : Cách dễ dàng và nhanh nhất là cho 1 muỗng hạt Chia vào 1 ly nước và khuấy đều từ 30 đến 60 giây. Sau khi khuấy, CHIA hấp thu nước và mềm ra, lúc này bạn có thể uống. Làm tương tự với bất kỳ loại nước trái cây đóng sẵn hoặc nước trái cây ép.
Dùng 1 cái phễu để trên miệng chai, cho hạt CHIA vào, vặn nắp lắc đều. Bạn có thể uống chai nước CHIA này khi ở ngoài trời, đi làm hoặc đi học. 2. Nước trái cây hạt chia: cho 1 muỗng hạt Chia vào ly nước trái cây như nước táo, bưởi, cam…, khuấy đều, để trong tủ lạnh 15 phút rồi… ực ực. 3. Sinh tố hạt Chia: cho 1-2 muỗng hạt Chia vào ly sinh tố, trộn đều, để 15 phút rồi thêm đá bào và xơi. x 4. Cà phê/ca cao hạt Chia: dù uống nóng hay lạnh, bạn đều có thể cho hạt Chia vào món uống yêu thích và để khoảng 15 phút. 5. Yaourt – nước quả hạt Chia: 80ml nước ép hoa quả (táo, lựu, xoài, cam, mơ…) + 1 muỗng xúp hạt Chia => chờ 15 phút để tạo gel. Sau đó trộn đều nước gel hạt Chia này với một hũ yaourt trắng, đảm bảo sẽ rất ngon. Đây cũng là một món ngon miệng và bổ dưỡng cho các bé. Cũng có thể làm gel hạt Chia để sẵn trong tủ lạnh, mỗi lần dùng xúc 2 muỗng trộn vào kem, yaourt, váng sữa…, rất là ngon mà không phải chờ đợi gì. Cách làm rất đơn giản giống như trong clip lấy từ youtube:
Nước chanh và hạt chia Chuẩn bị: 1 chén nước nhỏ, hạt CHIA, 1 trái chanh, đường. Cho 1 muỗng canh hạt CHIA vào chén nước. Dùng muỗng khuấy nhẹ nhàng để các hạt không dính lại với nhau. Để yên trong vòng 10 phút. Thêm 2 muỗng café nước chanh tươi và 2 thìa café đường, trộn đều và dùng. Có thể chuẩn bị ly nước chanh đường rồi cho hỗn hợp CHIA gel vào uống.
6. Bánh hạt Chia: xay hạt Chia (hoặc mua bột hạt Chia) trộn vào hỗn hợp bột mì, trứng, sữa… để làm bánh.
7. Thịt nướng hạt Chia: trộn vài muỗng hạt Chia vào nước sốt ướp thịt và quét lên thịt trước khi nướng.
8. Trứng chiên hạt Chia: trứng + chút rau hẹ hoặc bina thái nhuyễn + 2muỗng hạt Chia đánh tan đều rồi đem chiên.
9. Xúp hạt Chia: cho 2-3 muỗng hạt chia vào các loại xúp vừa nấu.
10. Salad hạt Chia: trộn 2-3 muỗng hạt Chia vào món salad và đảo đều.
Các tin khác Thông tin
Lợi ích của CHIA VTV2 Giới thiệu và tư vấn về Hạt Chia - BS Lê Thị Hải , Viện dinh dưỡng quốc gia Hạt CHIA Thuốc quý từ thiên nhiên tốt cho sức khỏe Hạt Chia trong việc trị bệnh - BS Trường Xuân
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 27, 2014 16:31:00 GMT 9
MỘT VÀI DƯỢC THẢO THƯỜNG DÙNGBs Nguyễn Ý Đức Hiện nay, phong trào dùng cây cỏ thiên nhiên với mục đích chữa bệnh đang gia tăng trong dân chúng. Có người dùng theo lời giới thiệu của bạn bè. Có người vì bệnh không chữa được bằng tây y, đã đi tìm thầy thuốc cổ truyền. Nhưng cỏ cây dù thiên nhiên, có loại an toàn, công hiệu, cũng có loại không có công dụng gì, đôi khi nguy hiểm vì tác dụng phụ. Nên nếu đã dùng, thì ta cần biết qua về thảo chất, về dược tính của cỏ cây đó. Trong bài này, dựa vào các tài liệu đáng tin cậy, chúng tôi xin trình bầy đặc tính mấy món dược thảo đang rất phổ thông, mà có thể một số quý vị đang dùng. 1- Ginkgo Bilobạ- Việt Nam ta goị là cây gỗ Bạch Quả, cao tới 30 thước, lá hình cái quạt, hạt giống như qủa trứng. Hạt và lá được dùng làm thuốc. Cây Ginkgo đã mọc ở Trung Hoa từ nhiều triệu năm, nhập cảnh Âu châu năm 1730, vào Hoa Kỳ năm 1784. Hiện nay, cây được trồng nhiều ở miền Đông Nam nước Pháp, ở Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Hạt Gingo đã được người Trung Hoa dùng để trị bệnh từ năm 2800 trước Thiên Chúa. Từ hơn 20 năm nay, lá Ginkgo rất thông dụng trên thị trường dược thảo và đã có nhiều cuộc nghiên cứu khoa học về công dụng trị bệnh, nhất là ở nước Đức. Ginkgo chứa nhiều dược chất có tác dụng làm dãn động mạch, khiến máu lưu thông dễ dàng, được dùng trị các trường hợp giảm tuần hoàn ở não bộ, nhất là người cao tuổi, ở tai, rối loạn tuần hoàn ngoại vi. Nhiều thử nghiệm đã xác nhận công dụng trị liệu của Bạch Qủa trong chứng sa sút trí tuệ, bệnh Alzheimer, nâng cao khả năng nhận thức, trí nhớ và giao tế trong đời sống hàng ngày. Ginkgo làm giảm chứng đau bắp chân khi đi bộ lâu do tuần hoàn ngoại vi kém. Bạch qủa hiện cũng đang được thử nghiệm để trị sự rối loạn tình dục gây ra do vài loại thuốc trị trầm cảm. Trong các chứng nhức đầu, ù tai, chóng mặt, đổi tính, cáu gắt, ngủ gật, u buồn của tuổi già, Ginkgo cũng có công hiệu. Ginkgo còn được coi như một chất chống oxy hoá ( anti- oxidant ), được dùng để trì hoãn sự lão hóa. Bên Nhật, người ta còn dùng Ginkgo để trị bệnh ung thư, bệnh hư giác mạc, bệnh thiếu chú ý ( Attention Deficit Disorder ) của người lớn. Hiện nay, hình thức Ginkgo thường dùng là chất chiết ( G.B.extract) rút ra từ lá khô, do công ty Willmar Schwabe, Đức quốc, sản xuất đầu tiên và phổ biến trên thị trường. Phân lượng dùng là 40-80mg, ba lần trong ngày, và dùng liên tục trong 4-6 tuần lễ. Tác dụng phụ thường nhẹ xẩy ra trong mấy ngày đầu khi mới dùng thuốc, gồm có buồn nôn, ói mửa, tiêu chẩy, chóng mặt, nhức đầu. Không nên dùng Bạch Qủa khi đang uống thuốc chống đông máu như Warfarin, Aspirin. 2-St John Wort.- Tên khoa học là Hypericum perforatum, thường được biết qua tên St John Wort vì loại cây này nở hoa mầu vàng rất đẹp vào ngày kỷ niệm sinh nhật Thánh St John the Baptist, 24 tháng Sáu mỗi năm. Cây có nguồn gốc ở Âu Châu từ thời kỳ trung cổ, nay được trồng khắp nơi trên thế giới. Vào thời Trung cổ, SJW đã được dùng để trừ ma qủy, làm trong sạch không khí, khiến được mùa ngũ cốc khi đốt trên ngọn lửa vào đêm trước lễ St John. Dân chúng cũng tin là nằm ngủ trên một cành SJW trước ngày sinh nhật Ông Thánh này thì sẽ được bình an suốt năm. Từ nhiều thế kỷ trước, nó được coi như có thể chữa được bệnh u sầu, nhiễm độc tiểu tiện, tiêu trừ vi trùng, mau lành vết thương ngoài da. SJW được Hippocrates, Dioscorides giới thiệu, rồi bị rơi vào lãng quên cho đến vài chục năm mới đây, một loại trà từ cây này được tung ra thị trường quảng cáo là trị được trầm cảm, lo âu. Đại học Duke được Viện Quốc Gia Bệnh Tâm Thần trợ cấp trên 4 triệu đồng để thực hiện dự án 3 năm nghiên cứu sự an toàn và công hiệu của SJW trong việc trị bệnh u sầu. Tại Âu Châu, nhất là bên Đức, SJW được các bác sĩ biên toa cho bệnh nhân 7 lần nhiều hơn thuốc Prozac; được mệnh danh là Prozac Thiên Nhiên và được xếp hạng có công dụng trung bình, giữa hai loại âu dược trị trầm cảm chính hiện có. Ở Hoa Kỳ SJW hiện rất được nhiều ngưòi dùng để chữa trầm cảm, vì được coi là an toàn, công hiệu, rẻ tiền, và không cần toa bác sĩ. Mới đây, SJW được các chuyên viên về bệnh AIDS của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ để tâm nghiên cứu vì một dược chất của cây này có tác dụng vào một vài loại siêu vi trùng, trong đó HIV. Phân lượng thường dùng là 300mg, 3 lần mỗi ngày, trong 8-10 tuần lễ. Tác dụng phụ của nó ít hơn tác dụng phụ của một vài âu dược trị trầm cảm, như ngứa, mệt mỏi, lên kí, nhức đầu, đau bụng nhất là mẫn cảm của da ( cháy da) khi đi ra ngoài nắng. Ở thú vật, SJW có tác dụng vào tử cung, nên khi có thai, ta cần cẩn thận khi dùng thuốc này. Chưa có bằng chứng tác dụng tương quan giữa SJW với các âu dược khác. Tuy nhiên nếu đang uống âu dược trị trầm cảm thì nên cho bác sĩ hay khi dùng dược thảo St John. 3-Saw Palmettọ- Trong tương lai gần đây, Saw palmetto có hy vọng là dược thảo đầu tiên được chứng nhận là có công dụng trị một bệnh đặc biệt. Cơ quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ dang cứu xét đơn xin xác nhận giá trị cuả SJW để trị trầm cảm, Ginkgo Biloba để trị rối loạn trí tuệ và Saw Palmetto, trị xưng nhiếp hộ tuyến. Đây là một loại cây cọ cao từ 1 tới 3 thước, lá rộng tới gần một thước, mọc trên bãi cát từ miền Nam Carolina tới Florida, Texas. Vào mùa xuân, cây nở rộ hoa mầu trắng, trái của nó bắt đầu chín mọng từ mùa Hạ sang mùa Thu. Thổ dân lục địa Mỹ Châu đã dùng trái cây cọ này để ăn và trị vài chứng rối loạn tiểu tiện đàn ông từ năm 1700. Trong nửa đầu của thế này, nó còn được dùng cho tới năm 1950 thì bị loại ra khỏi danh sách của National Formulary Hoa Kỳ, trong khi đó thì ở Âu châu nó vẫn còn rất phổ thông. Trái Saw Palmetto có tác dụng ức chế nam kích thích tố testosterone, giảm sưng và viêm của tế bào và được dùng nhiều ở Âu châu để trị chứng sưng không ung thư nhiếp hộ tuyến. Tại Đức, cơ quan y tế đã chấp thuận cho bán một dược phẩm tinh chế hoà tan trong mỡ của cây cọ này. Tập san y học của Hiệp Hội Y Sĩ Hoa Kỳ, số tháng 9 năm 1998, lần đầu tiên đã để ý và nêu ra nhiều cuộc nghiên cứu trên khắp thế giới về công dụng của Saw Palmetto trong việc trị sưng nhiếp tuyến. Phí tổn mỗi ngày cho dược thảo này từ 25 tới 50 mỹ kim, trong khi âu dược thì tốn tới 200 mỹ kim. Theo Physicians Desk Reference for Herbal Medecines, Saw Palmetto được dùng trong giai đoạn đầu của sưng nhiếp hộ tuyến lành. Tác dụng phụ rất ít như vài rối loạn về tiêu hoá (ói mửa, đau bụng nhẹ ). Mồi ngày uống từ 1 tới 2 gờ ram. Một điểm quan trọng là, nhiều người vì dùng thuốc này mà không đi khám bác sĩ để xác định tính lành- dữ của sưng nhiếp hộ tuyến. Nên khi khám phá ra thì ung thư bộ phận này đã đi tới giai đoạn bất khả trị. 4- Ephedrạ- Họ Ephedra, ta gọi là Ma Hoàng, gồm có nhiều loại, mọc ở Châu Âu, Trung Hoa, và đã được dùng làm thuốc chữa bệnh ở Trung Hoa từ trên 5000 năm. Dược chất chính cuả Ma Hoàng là chất Ephedrine đã được nhà hoá học Nhật Bản N. Nagai phân tích từ năm 1887. Đến năm 1924, giáo sư K.K. Chen ở Đại học Bắc Kinh công bố đặc tính trị liệu cuả Ephedrine trong các bệnh suyễn, nghẹt mũi, kích thích thần kinh. Ephedrine làm thư dãn ống phổi, khiến không khí lưu thông dễ dàng, đồng thời làm tăng huyết áp, tăng nhịp tim. Ở Việt Nam, Ma Hoàng được nhập cảng từ Trung Hoa và được dùng để trị các bệnh như ngoại cảm phong hàn, ho hen. Hiện nay, ở Mỹ, thuốc có chất Ephedrine được quảng cáo có công dụng trong việc làm giảm kí, mà nhà sản xuất gọi là herbal phen-phen, thay thế cho âu dược Pondimin, Redux hiện đã bị cấm bán vì nhiều tác dụng phụ nguy hiểm. Vì có tính kích thích thần kinh , làm sảng khoái, nên nhiều tay nghiền cần sa, ma túy cũng dùng Ephedra để yêu đời hơn. Một số lực sĩ đã lạm dụng thuốc này để có bắp thịt nở nang. Ephedra có nhiều tác dụng phụ như làm mất ngủ, nhức đầu, nóng nẩy, cao huyết áp, sạn thận, kinh phong, rối loạn nhịp tim, kích thích não và tim, đôi khi đưa tới tử vong. Do đó, cơ quan FDA rất quan tâm tới dược thảo này và đề nghị giới hạn phân lượng dùng mỗi ngày không quá 24mg. 5- Họ Aloe- Nhiều gia đình ta ở trong bếp đôi khi thấy có trồng một chậu nhỏ cây Aloe, vừa làm cảnh vừa dùng lá nó để đắp lên vết phỏng da xẩy ra trong khi nấu nướng. Loại cây này có nguồn gốc ở Đông Nam Châu Phi, đã có tài liệu ghi nhận công dụng trị bệnh từ năm 1750 TTC. Người dân Ai Cập dùng trị da nhiễm trùng từ 550 TTC. Danh Mục Dược Khoa Hoa Kỳ năm 1820 đã ghi công dụng của Aloe vera và từ năm 1920 đã được trồng để dùng trong dược phòng. Từ lá Aloe, người ta lấy ra được một chất gel để dùng ngoài da và chất nước vắt để giúp nhuận tràng, chữa lở bao tử. Gel Aloe làm vết thương mau lành bằng cách làm co vết thương và tăng tiết chất collagen, nên được dùng khi bị phỏng da, chầy da. Mới đây nó cũng được dùng để trị bệnh vẩy nến da (Psoriasis) và làm tăng cường tính miễn nhiễm của cơ thể. Trên thị trường, gel Aloe được giới thiệu như có công hiệu làm mềm da, sạch da, chống ngứa, diệt trùng, làm da tăng trưởng mau, đôi khi trị cả da dị ứng với lá thường xuân (poison ivy). Bên Nhật, Aloe còn được dùng để trị bệnh ung thư do khả năng chống viêm và chặn tăng trưởng tế bào ung thư. Kết qủa nghiên cứu tại University of Maryland cho thấy Aloe có thể diệt siêu vi trùng bệnh mụn giộp ( herpes ) và vài loại trùng bệnh cúm, trong khi đó , thử nghiệm tại University of Missouri cho thấy Aloe gel có thể dùng để ngừa thụ thai. Aloe kích thích tuỵ tạng bài tiết Insulin, nên đang có nghiên cứu dùng Aloe để trị bệnh tiểu đường. Kết luận Kỹ nghệ bào chế dược thảo ở khắp nơi trên thế giới hiện giờ đang rất phát triển để đáp ứng nhu cầu của người dân. Các nhà sản xuất cũng đang tranh đấu để dược thảo của họ sớm được đối xử công bằng như âu dược chứ không phải chỉ là thực phẩm phụ như hiện nay. Triển vọng đó chắc cũng không còn quá xa, vì ngay tại Mỹ, Quốc Hội cũng như Hiệp Hội Y Sĩ Hoa Kỳ đã quan tâm tới vấn đề dược thảo và các phương pháp trị liệu không chính thống mỗi ngày một phổ thông này. Điều trị tiểu đường hiệu quả bằng: búp ổi, lá sa kê và đậu bắp Bài thuốc nam điều trị bệnh tiểu đường dưới đây được đúc kết theo kinh nghiệm dân gian và được người dân sử dụng có hiệu quả. Trong kinh nghiệm dân gian, nhân dân ta có nhiều bài thuốc nam điều trị các bệnh lý nội khoa mãn tính có tác dụng tốt, lại tránh được những tác dụng phụ. Trong đó có bài thuốc nam điều trị bệnh tiểu đường. Hiện ở Quy Nhơn (Bình Định) có nhiều bệnh nhân bệnh tiểu đường đang sử dụng có kết quả bài thuốc nam sau đây. 1. Lá sa kê úa vàng rụng xuống đất (không dùng lá sa kê tươi đang ở trên cành) Lá sa kê có tên khoa học là Artocarpus incia L, thuộc họ Dâu tằm Moraceae, cây thân gỗ cao 10-12m có thể cao 15m, tán lá rất đẹp, phiến lá to, dài 30-50cm, rộng 10-12cm. Cụm hoa đực có hình chùy và chỉ có một nhụy, cũng có khi hoa đực tụ họp giống như đuôi con sóc dài 20cm. Cụm hoa cái hình cầu hoặc hình ống. Qủa sa kê rất to, giống như quả mít tố nữ, hình tròn hoặc hình trứng, đường kính 10-20cm, vỏ màu xanh lục hoặc màu vàng nhạt, thịt quả rất nạc trắng và chứa nhiều bột. Qủa sa kê mọc thành từng chùm vài ba quả không có hạt, nhưng cũng có quả có hạt chìm trong thịt quả. Cây sa kê chịu đất khô ẩm, các tỉnh phía Nam nước ta nhân dân trồng nhiều sa kê vừa thu quả để ăn vừa làm cây cảnh che mát trong vườn nhà. Qủa sa kê thường chế biến các món ăn như thái lát nhỏ rán với mỡ, bơ ăn thom ngon như bánh mỳ, còn dùng hầm nấu ca ri, bột sa kê làm bánh pho mát, bánh ngọt, nấu với tôm cá, với gạo ăn có chất dinh dưỡng cao. 2. Quả đậu bắp còn có tên mướp tây Tên khoa hoc là Abelmoschusesculentus, một loại cây thân mềm sống khoảng một năm, cao 1-2m, thân hình trụ có nhiều lông và nhám. Cây có nhiều cành vươn thẳng lên cao, không xòe ngang, lá mọc so le, hình chân vịt, chia 5 thùy hẹp, xẻ đến phần nửa. Hoa 5 cánh màu vàng mọc ở hai kẽ lá, có màu đỏ ở giữa quả hình thoi, dài 10-12cm, đầu quả vót nhọn. Đậu bắp luộc chín vừa hoặc rửa sạch ngâm nước muối 09% ăn sống, nấu canh chua, xào nấu chung với giá đậu xanh, dưa leo … 3. Ổi, búp ổi Còn có tên gọi là phan thạch lựu, có tên khoa học là Psidum guajava. L, thuộc họ Sim Myrtaceae. Ổi chịu đất khô, cát sỏi, đồi núi, ổi cũng thường mọc hoang ở triền đồi núi. Trong điều trị thường dùng ổi còn xanh, chát tốt cho tiêu hóa thể lỏng, ổi chín có tác dụng nhuận trường, thịt quả ổi chứa nhiều vitamin có tác dụng ngăn ngừa cảm cúm, sốt siêu vi, cải thiện cấu trúc da tốt hơn… Trong điều trị bệnh nhân đái tháo đường dùng 3 thứ trên theo công thức: - Lá sa kê vàng rụng tách khỏi cây 100 gam - Đậu bắp 100 gam - Búp ổi tươi 20 gam Ba thứ trên cho vào nồi hoặc ấm đất nấu với 2 lít nước đun lửa than còn lại 500 ml chia uống thường xuyên trong ngày. Ngoài ra, với bệnh tiểu đường phải thực hiện tốt chế độ ăn uống hàng ngày như mỗi bữa ăn chỉ cần một bát cơm và hai bát rau, phải kiêng khem các thức ăn giàu tinh bột như bánh mỳ, khoai lang, khoai mỳ, nên ăn bánh tráng và bún tươi thay cơm càng tốt. T.H
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 27, 2014 16:41:06 GMT 9
8 thực phẩm giúp tăng cường sức mạnh trí não1. Nghệ Trong nghệ có chứa một chất gọi là curcumin, một loại chất có khả năng tăng cường trí nhớ, làm chậm tiến triển của bệnh Alzheimer và kích thích các tế bào thần kinh và quá trình tạo ra các tế bào não mới. Nghiên cứu cho thấy chất curcumin cũng có thể làm sạch mảng amyloid não bộ và các chất thải trong não được cho là một nguyên nhân của bệnh Alzheimer và làm dịu chứng viêm tế bào não và dây thần kinh. 2. Cần tây Cần tây là một trong những thực phẩm có chứa hợp chất luteolin nên có tác dụng giảm nguy cơ mất trí nhớ do tuổi tác. Lý do: luteolin có tác dụng làm dịu các chứng viêm trong não. Theo các chuyên gia sức khỏe thì chứng viêm này chính là nguyên nhân chính gây ra thoái hóa thần kinh. Bằng cách ức chế sự hoạt động của các cytokine (là các protein hay glycoprotein không phải kháng thể được sản xuất và phóng thích bởi các tế bào bạch cầu viêm và một số tế bào khác không phải bạch cầu), luteolin giúp ngăn chặn một chu kỳ thay đổi thoái hóa ở não. Ngoài ra bạn cũng có thể tìm thấy luteolin ở ớt và cà rốt. 3. Súp lơ xanh và súp lơ trắng Các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu về vai trò của choline đối với sự phát triển của não bộ, và chỉ ra rằng choline có tiềm năng thúc đẩy sự tăng trưởng của tế bào não mới và các liên kết thần kinh. Hơn nữa, bổ sung choline trước khi sinh xuất hiện sẽ làm tăng trí thông minh của trẻ sau này, trong khi thiếu hụt chất choline có liên quan tới dị tật ống thần kinh. Ở người trưởng thành, choline giúp hệ thần kinh khỏe mạnh, giữ cho trí não sắc bén và duy trì khả năng nhớ lâu. Gan bò là nguồn cung cấp choline tốt nhất với 473mg/140g. Súp lơ xanh và súp lơ trắng chứa lượng choline tương ứng là 182mg và 177mg. Ngoài ra, súp lơ xanh còn chứa nhiều vitamin K, cũng có hiệu quả đáng kể trong việc cải thiện trí não. 4. Quả óc chó Axit béo omega-3 được coi là có tác dụng bảo vệ não bộ nhờ nó góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy chức năng dẫn truyền thần kinh. Người cao tuổi mà trong máu chứa hàm lượng omega-3 cao, đặc biệt là DHA, sẽ có trí nhớ và kỹ năng nhận thức tốt hơn những người thường. Omega-3 còn giúp cho trái tim khỏe mạnh, giúp bảo vệ động mạch và lưu thông máu tốt, góp phần mang lại lợi ích cho não. Trong khi cá hồi là một trong những nổi tiếng nhất và giàu omega-3 nhất, đó không phải là một thực phẩm nên ăn mỗi ngày do hàm lượng thủy ngân. Tuy nhiên bạn có thể thay thế bằng quả óc như một loại đồ ăn vặt. Quả óc chó cũng chứa vitamin B6 giúp bảo vệ bộ nhớ của chúng ta. 5. Cua Đây là một loại thực phẩm ngon miệng bổ dưỡng mà bạn nên thưởng thức. Trong cua rất giàu phenylalanine, một axit amin cần thiết để tạo nên dopamine, chất dẫn truyền thần kinh quan trọng trong não, cũng như adrenaline và noradrenaline giúp kích thích não bộ và hormon tuyến giáp. Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy phenylalanine rất có hiệu quả trong cuộc chiến chống căn bệnh Parkinson. Nhiều loại cá và hải sản khác cũng rất giàu phenylalanine. 6. Đậu răng ngựa (chickpea) Loại đậu này được xem là nguồn cung cấp magiê phong phú mà lại cực dễ tìm kiếm. Magiê đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các thụ thể tế bào não và tăng tốc độ truyền dẫn thông tin lên não. Magiê cũng làm thư giãn mạch máu, cho phép lượng máu cần thiết lưu thông để nuôi não. 7. Ngũ cốc nguyên cám Đây là một trong những nguồn thực phẩm tốt nhất cung cấp thiamine – còn được gọi là vitamin B1, và pyridoxine – còn được gọi là vitamin B6, cả hai đều có mối liên hệ với các chức năng của não. Thiếu hụt thiamine gây ra một dạng bệnh mất trí nhớ, đó là lý do tại sao các nhà khoa học đang nghiên cứu khả năng bổ sung thiamine nhằm giúp ngăn ngừa hoặc làm chậm sự phát triển của bệnh Alzheimer và chứng mất trí. Trong khi đó, pyridoxine đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động dẫn truyền thần kinh, và do đó tăng cường trí nhớ và nhận thức. Thiamin và pyridoxine tốt nhất là trong ngũ cốc nguyên cám. Ngoài ra, bạn có thể tìm thấy những chất này trong nhiều loại thực phẩm khác, bao gồm chuối, đậu đen, đậu lăng, trứng, thịt lợn, hạt hướng dương. 8. Quả việt quất Một chế độ ăn nhiều quả việt quất sẽ đem lại khả năng học tập nhanh hơn, suy nghĩ sắc bén hơn, và cải thiện trí nhớ tốt hơn. Và các nhà khoa học cũng chứng minh sức mạnh chống oxy hóa của quả việt quất để xóa các gốc tự do và làm giảm căng thẳng gây thoái hóa thần kinh.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 14, 2014 5:06:48 GMT 9
Dưới Con Mắt Người Việt Thì Thực Phẩm Nào Trong Mâm Cơm Cũng Là Thần Dược (Có Khi Giúp Hốt Bạc Triệu)
Bây giờ chúng ta thử điểm mặt những thứ mà người Việt chúng ta tự bày ra, hay bắt chước người Mỹ hoặc người Tàu mà bày ra. Nhìn chung thì thấy hầu như mọi thứ thực phẩm chung quanh ta đều được email và webpage ca tụng đưa lên mây xanh là thần dược.
Trước tiên nhàu Noni vang bóng một thời, người bày ra nó đã hốt nhiều chục triệu bạc xong lặn mất. Kế đó là nước măng cụt (của Mỹ và Việt Nam), bây giờ lặn mất chỉ còn chút tiếng vang. Kế nữa là Canh Dưỡng Sinh, trị bá chứng kể cả ung thư, được phe ta uống như điên trong thời gian chừng sáu tháng rồi thị tịt ngòi. Rồi thì dưa chuột, rồi thì lá đu đủ, rồi thì mãng cầu xiêm, mãng cầu ta trị ung thư. Hai thứ sau nầy đang phất cờ tiến mạnh vào niềm tin của bà con ta. Đã có bán viên mãng cầu, đã có người bán lá đu đủ qua Internet. Lá đu đủ cái chưa ăn khách bèn chế ra rằng lá đu đủ đực mới nên thuốc. Chắc chừng năm sau sập tiệm, nhưng không sao vì mấy vị nhanh tay chế viên mãng cầu, nước mãng cầu cũng kiếm được hàng triệu đô rồi.
Hiện nay thì dầu dừa được ca ngợi, (do công ty Tây Mỹ bày bán kiểu bán mỡ rắn thời nẩm), có một vị MTC suyết chết vì nó, vị nầy ở Hố Nai. Đài TV CBN (The Christian Broadcasting Network, là cải) quảng cáo nó như điên, mới nhìn thoáng tưởng là CBS (CBS Broadcasting Inc =đài có uy tín)
Hiện giờ thì trái sung, cây bồ công anh, trước đó thì kim thất tai (sao bây giờ ít nghe nói tới coi ai đã dùng và kết quả ra sao). Hiện cũng đang hoành hành là cây lượt vàng, trước đây là cây cần tây (email subject: Cần tây.. ai mà ngờ...) trị ung thư, nay cây cần tây lặn mất rồi.
Vài năm trước thì trà xanh là thần dược, mọi loại trà khác là tiên dược. Chắc những vị uống trà ngừa và trị bịnh hiện nằm nhà thương hay sao (tôi nói ẩu) nên nay đã hết hơi sức để vuốt đuôi ca ngợi theo gian thương Trung Hoa. Ngày nay được biết người ta né trà rồi, lý do là thuôc trừ sâu và đủ thứ hương thơm hóa chất vô danh ướp vào trong đó, kể cả trà ước xác chết cũng được bán ta cho bà con ghiền thưởng thức (chuyện nầy nói thật có thật, không có nói ẩu đâu).
Sau khi chê trà thì bà con ta sang ca ngợi cà phê. Hình như trong tâm trí một số phe ta phải có cái gì đó ca ngợi mới sống được chăng. Thưa cà phê thì có chút ít tác dụng tốt cho cơ thể, nhưng hột cà phê rang lên khét nghẹt đen thui là sinh ra chất gây ung thư (thịt, cá, cơm, đường... khét cũng vậy). Hiện hột gà được một vị tung lên tới mây xanh (kết quả là thống kê vừa công bố những vị nam giới ăn 7 trứng gà hay hơn mỗi tuần thì chết sớm hơn những vị không ăn, tin thật, sao không thấy thống kê nói nữ giới ăn trứng gà có giãm thọ hay không).
Còn gì nữa, cà chua, cây xã, xoài, trái chuối chín rục đều trị được ung thư. Chắc mấy tiệm bán chuối chế ra chuyện để tiêu thụ chuối chín thâm đen cho khỏi bỏ thùng rác. Trước đó một chút thì nước chanh giết tế bảo ung thư, có người sáng sớm uống nước một trái chanh (tôi e rồi đây bao tử tiêu tùng). Trước nước chanh trị ung thư thì là giấm táo và mật ong. Hiện giờ thì mật ong và bột quế. Cũng đang có phong trào củ cải trắng, chanh và nghệ trị ung thư. Hiện nay chanh giây bán ngoài chợ khá mắc tiền vì người ta tin rằng uống nó có lợi nhiều mặt.
Hiện giờ thì hột đậu đỏ đang được phong lên làm thần dược trị đái đường. "Đái ngoài đường" hiện là bịnh hết thuốc chửa tại Việt Nam, lẽ nào đậu đỏ trị được. Còn tại Mỹ nầy thì người Việt đang bảo nhau mua củ hành Tây, mỗi phòng bỏ vài củ trên bàn là siêu vi cảm cúm trong mùa lạnh hết hồn chạy mất. Nói chung thì bất cứ rau trái nào trước mặt các bạn trên mâm cơm, đều được một số người Việt đề cao là thần dược trị ung thư hay trị được những thứ bịnh mà Tây y còn đang vật lộn. Quên nữa còn gạo đen (gạo nhum theo dân Gò công gọi) được cho là gạo của vua chúa, cũng được đề cao trị ung thư và bịnh ngặt. Trước đó gạo lứt được tâng lên làm thần dược, nay thì gạo lức rang pha nước uống là thần dược trị đau đầu gối. Gạo lức được dân BBC gọi là gạo nâu đó nghe bà con (vì Mỹ gọi gạo lức là brown rice).
Thưa quí bạn, những thứ được kể bên trên là tôi chợt nhớ ra, chắc mới liệt kê được chừng phân nửa mà thôi. Hôm nào tôi ghi lại coi tất cả mọi thứ thực phẩm chúng ta ăn coi có món nào không phải là thần dược hay không.
Huỳnh Chiếu Đẳng
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 14, 2014 6:19:07 GMT 9
Coconut Oil Touted as Alzheimer's Remedy. - Dầu Dừa chữa bệnh Alzheimer (bệnh suy giảm trí nhớ sớm) Phương cách điều trị hữu hiệu bệnh Alzheimer (Mất Trí Nhớ) có khả năng đang nằm trên kệ bếp nấu ăn nhà bạn. Các nhà nghiên cứu đang khám phá ra hiệu quả của dầu dừa trong việc chống lại sự suy thoái của hệ thần kinh. Thỉnh thoảng tôi nhận được chứng từ của những người xác nhận rằng dầu dừa giúp họ hay thân nhân họ vượt qua những vấn đề về hệ thần kinh như bệnh Parkinson (tay chân run rẩy), bệnh Đa xơ cứng (multiple sclerosis), bệnh Tự kỉ (autism), chứng Mất trí (dementia), bệnh Động kinh (epilepsy), và những loại bệnh cảm xúc khác. Trong những bệnh này, hiệu quả của acid béo trong dầu dừa trên bệnh động kinh là được nghiên cứu và có chứng từ, có văn kiện đầy đủ nhất. 1/. Nghiên cứu mới về bệnh Alzheimer đã chứng minh rằng dầu dừa có thể là cách điều trị thay thế tốt nhất cho bệnh không chữa trị được này. Gần đây, tôi nhận được một bản sao của thư được gửi đến Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện Sandra Day O’Connor và những thành viên khác của Nhóm Nghiên Cứu Alzheimer. Tôi muốn chia sẻ một vài nội dung trong lá thư này với bạn. Lá thư này do Mary T. Newport, MD, giám đốc khoa nghiên cứu về trẻ sơ sinh tại Spring Hill Regional Hospital ở Florida viết. Khoảng 5 năm trước, chồng bác sĩ Newport là Steve bắt đầu có dấu hiệu của bệnh Alzheimer. Lúc đó Steve 53 tuổi. Bệnh ngày càng nặng hơn. Ông sống ở nhà dưới sự chăm sóc của vợ. Bác sĩ Newport được biết đã có vài nghiên cứu trên hai loại thuốc để phục hồi trí nhớ cho người bi bệnh Alzheimer. Một trong hai loại thuốc là Ketasyn có nhiều triển vọng. Trong những nghiên cứu ban đầu, thời hạn 45 ngày, những người bệnh Alzheimer biểu lộ sự tiến triển chung trong khả năng phục hồi trí tuệ. Có vài tiến triển được nhận thấy chỉ sau một liều thuốc. Thành phần tích cực trong thuốc Ketasyn là triglycerides chuỗi trung bình [Medium-chain triglycerides (MCTs)], được trích chiết từ dầu dừa. Vì Ketasyn vẫn chưa được FDA chấp thuận cho điều trị Alzheimer, mà dầu dừa thì sẵn có ở thị trường, bác sĩ Newport đi mua một lọ dầu dừa. Liều lượng triglycerides chuỗi trung bình hàng ngày trong nghiên cứu tương đương với 2,5 muỗng canh dầu dừa (40ml). Bác sĩ Newport nói: "Tôi bắt đầu cho 2,5 muỗng canh dầu dừa vào cháo lúa mạch (oatmeal) của chồng tôi. Trong vòng vài ngày đã có sự tiến triển khá rõ nơi dáng đi, nơi khả năng nói chuyện, tính khôi hài của anh trở lại. Lập tức anh nhớ lại ngày tháng và các mùa trong năm, điều mà anh không nhớ nổi khi được nghe lập đi lập lại lúc trước. Anh thực tập tốt những việc mà anh muốn hoàn thành trong khóa luyện tập hàng ngày. Những tiến bộ trong thời gian ngắn thế này đã làm cả hai chúng tôi phấn khởi. Anh biết rằng anh đang bị “bệnh quên” và hoàn toàn ủng hộ cũng như thưởng thức những món ăn mới của chúng tôi. Ở bệnh viện nơi bác sĩ Newport làm việc có nhiều y tá từ Phi Luật Tân đến. Các cô bạn y tá Phi Luật Tân cho tôi biết rằng ở nước họ, cũng như các nước Á Châu khác, dừa và dầu dừa có nhiều, được dùng cơ bản hàng ngày, rất ít người bị bệnh Alzheimer. 2/. Làm cách nào mà chất béo chuỗi trung bình nơi dầu dừa lại có thể ngăn ngừa bệnh Alzheimer? Medium-chain triglyceride - Wikipedia, the free encyclopedia Trong quá trình tiêu hóa, chất béo chuỗi trung bình được phân tách thành các acid béo chuỗi trung bình, nhiều acid béo được chuyển thành ketones. Mô thần kinh, kể cả não, lấy năng lượng nhờ đường glucose. Khi thực phẩm bị gìới hạn (do ăn uống không đủ số và chất) nên không đủ đường glucose, lúc đó cơ thể chuyển chất béo thành ketones hầu tiếp tế năng lượng cần thiết để não hoạt động chính xác. Glucose cần insulin để tiến vào trong tế bào. Khi tế bào trở nên đề kháng với insulin vì lý do nào đó như viêm mãn tính chẳng hạn, thì đường glucose không thể vào tế bào được. Nếu viêm ảnh hưởng trên mô thần kinh, tế bào thần kinh trở nên đề kháng insulin. Vì vậy não không thể nhận được glucose nó cần và các tế bào thần kinh suy thoái rồi chết, dẫn đến những bệnh thần kinh như Alzheimer, bệnh Parkinson, bệnh Huntington, và các bệnh thần kinh khác. Ketones không đòi sự trợ giúp của insulin để vào tế bào. Vì thế ketones có thể cung cấp chất dinh dưỡng và năng lượng cần thiết cho tế bào. Khi não bị bệnh do thiếu chất dinh dưỡng sẽ nhận năng lượng cần thiết từ ketones do cơ thể sản xuất ra từ việc ăn uống dầu dừa. Những loại dầu ăn và mỡ động vật khác không thể chuyển đổi sang ketones được trừ phi tình trạng đói ăn xảy ra trong thời gian dài. Các nhà nghiên cứu khám phá việc dùng triglycerides chuỗi trung bình để chữa trị các bệnh về thần kinh trong một số năm rồi, nhưng sự hiểu biết này đã không được tận dụng để phát triển cách điều trị cho bệnh Alzheimer và các bệnh thần kinh khác. Triglycerides chuỗi trung bình và dầu dừa là những sản phẩm thiên nhiên, không cần bằng sáng chế, do đó các nhà sản xuất thuốc không mấy chú trọng đến việc nghiên cứu khả năng trị liệu của chúng (do không có lợi về mặt kinh tế). Bác sĩ Newport tiếc là không biết về dầu dừa sớm hơn để bác sĩ có thể chữa trị cho chồng chị từ đầu. Nếu dùng dầu dừa chữa cho chồng từ lúc bắt đầu có triệu chứng quên, bác sĩ tin rằng trí óc của chồng đã không suy thoái trầm trọng. Thực sự hiện nay, nhờ dầu dừa, Steve có thể ghi nhớ lại mọi khả năng trí tuệ của anh. Bác sĩ Newport viết một lá thư tới những nhân vật chủ chốt khẩn xin họ "Chú ý đến việc nghiên cứu và phổ biến để quần chúng biết được khám phá này hầu giúp cho những ai mang bệnh được lợi ích của nó”. Ngoài Thẩm Phán O’Conner, Dr. Bruce Fife, lá thư còn được gởi đến Thượng Nghị Sĩ Hillary Clinton, Dr. Steven K. Galson, chủ bút phần y học của báo New York Times và Washington Post, và nhiều chính khách có thế lực khác. Cuộc vận động của Dr. Newport có đem đến nhận thức lớn hơn về những lợi ích của dầu dừa cho sức khỏe không? Chỉ có thời gian mới trả lời được. Bài viết của Bác sỹ - Tiến sỹ Bruce Fife ? (Kim Tuyến chuyển ngữ)
|
|