|
Post by Can Tho on Jun 30, 2015 10:22:07 GMT 9
Thứ Năm, ngày 05 tháng 7 năm 2012Những Tố Hữu đang sẵn sàng “tố tả”Nhật Bình baomai.blogspot.com/2014/05/boi-canh-vi-sao-vn-than-phuc-tq.html Tố Hữu (1920-2002), quan chức cao cấp một thời trong đảng CSVN, được lịch sử cận đại biết đến qua những bài thơ ca tụng các lãnh tụ cộng sản cực kỳ lố bịch và ca ngợi quan hệ Việt Trung tới mức mù quáng; nhưng lịch sử còn ghi nhận về ông qua hình ảnh một “hung thần văn nghệ”. Trong các đợt thanh trừng giới văn nghệ sĩ, đặc biệt trong thập niên 50 và 60 với các vụ Nhân Văn Giai Phẩm và cái đuôi kéo dài lê thê của nó, ông Tố Hữu gào thét đẩy hàng trăm văn nghệ sĩ ra sân đấu tố; đẩy hàng ngàn đồng nghiệp, thân nhân, và những người vô tình bị liên lụy vào tù ngục - nhiều người chết rũ trong tù; và đày đọa mấy đời con cháu họ. Tuy nhiên, chưa bao giờ người ta nghe ông Tố Hữu thú nhận sai lầm hay hối hận gì về những điều ông đã làm. Gần cuối đời, ông chỉ đơn giản bảo vài nhà báo rằng ông bị “hiểu lầm”. (Tố Hữu, hung thần đấu tố hàng trămvăn nghệ sĩ chân chính) “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ, Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong, Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng, Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt Hầu hết các hung thần từng có thời hét ra lửa khác đều hành xử như Tố Hữu, nghĩa là nhất định “sống làm bậy, chết đem theo”. Chính vì thế mà dư luận khá ngạc nhiên trước hiện tượng “lương tâm chợt tỉnh” của một số quan chức đang giữ hoặc vừa bước xuống khỏi những chức vụ cao cấp trong đảng và nhà nước. Nhưng trước khi phân tích hiện tượng “lương tâm chợt tỉnh” gần đây, có lẽ cũng cần nói thêm cho công bằng. Thật ra cũng đã từng có một số trường hợp hiếm hoi trong lịch sử đảng CSVN. Đó là những đảng viên cao cấp, khi còn đang là “con cưng” của chế độ, đã can đảm nói lên tiếng nói lương tâm của họ trước vận mạng đất nước. Những người này dám chấp nhận mọi hậu quả lên chính mình và gia đình mình, từ cách chức, cô lập, đến tù tội và ngay cả đột tử. Một vài trường hợp lớn và tiêu biểu như ông Trần Xuân Bách (1924-2006) từng giữ chức ủy viên Bộ chính trị. Vào cuối thập niên 80, khi Liên Xô và các nước cộng sản Đông Âu sụp đổ, ông mạnh dạn đề nghị một hướng đi mới cho đất nước, không theo lối mòn cộng sản nữa nhưng từng bước tiến đến dân chủ đa nguyên. Ông lập tức bị trừng phạt, bị tước mọi chức vụ, và bị sỉ nhục cho tới tận ngày nay. Một trường hợp khác là cố Trung tướng Trần Độ (1923-2002). Trong thời gian lãnh đạo Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, ông đã nói: “Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết”. Ông khởi động cuộc tranh luận trên cả nước về mục tiêu của văn học nghệ thuật. Ông bị tước mọi chức vụ và bị khai trừ khỏi đảng tháng 1/1999, bị canh phòng nghiêm ngặt cho đến chết, và bị làm nhục ngay trong tang lễ của ông. Có thể nói ngay những quan chức “lương tâm chợt tỉnh” gần đây không thuộc loại người can đảm này. Những “lương tâm chợt tỉnh” gần đây cũng không thuộc loại cán bộ cao cấp dám ghi lại cho lịch sử những sự thật kinh hoàng đằng sau các chính sách của lãnh đạo đảng hay dám phân tích tận gốc rễ các quốc nạn hiện nay. Một vài trường hợp lớn và tiêu biểu như ông Trần Quang Cơ, một viên chức ngoại giao cao cấp, đã âm thầm ghi lại tập hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ” bao gồm nhiều sự kiện ngoại giao. Đặc biệt nghiêm trọng là cuộc hội nghị Thành Đô năm 1990, nơi mà lãnh đạo đảng CSVN ký kết sẵn sàng ngả bán chủ quyền đất nước để giữ ghế cai trị. Tại đây, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, cấp trên của ông Trần Quang Cơ, và cũng là người bị cấm vào phòng họp vì không chịu đồng ý cùng bán nước với các lãnh đạo gốc Việt khác, đã đau lòng cảnh báo: “Một thời kỳ Bắc thuộc mới bắt đầu.” Sau đó, ông Trần Quang Cơ từ chối không nhận chức bộ trưởng ngoại giao mà Bộ Chính Trị vừa tước khỏi tay ông Thạch để trừng phạt. Ông Trần Quang Cơ cũng tự ý xin ra khỏi Ban chấp hành Trung ương đảng. Một trường hợp khác là ông Nguyễn Văn An. Ông An từng giữ chức vụ Ủy viên Bộ Chính Trị, Trưởng ban Tổ Chức Trung ương, Chủ tịch Quốc hội. Với những kiến thức sâu rộng về cơ chế, nhân sự, và vận hành của đảng, ông dám phân tích các quốc nạn hiện nay, đặc biệt là nạn tham nhũng, và đi đến nhận định không thể nào giải quyết nổi vì chúng đều phát xuất từ chính thể chế cai trị hiện nay. Ông gọi đó là các "lỗi hệ thống" với hàm ý để người nghe tự rút ra kết luận. Đó là không thể giải quyết các quốc nạn nếu không thay thế toàn bộ "hệ thống" hiện nay. Ô. Trần Xuân Bách - Ô. Trần Quang Cơ - Ô. Nguyễn Văn An Hoàn toàn khác với 2 loại người nêu trên, những quan chức “lương tâm chợt tỉnh” gần đây chỉ đơn thuần chối phăng tất cả những gì họ vừa mới làm hoặc vừa ra lệnh cho người khác làm và trút hết trách nhiệm lên kẻ khác. Thử nhìn lại vài thí dụ điển hình. Cựu Bộ trưởng Thông tin Truyền thông Lê Doãn Hợp với thành tích hơn 5 năm dài (2006-2011) trừng trị bất kỳ ký giả nào trong làng “báo lề phải” dám đào xới sự thật có liên quan đến lãnh đạo đảng; ra hàng loạt lệnh cấm báo chí về những chủ đề nhạy cảm, từ Năm Cam, PMU đến thảm trạng “nước lạ” xâm lược; và vô số các hành vi bóp nghẹt thông tin, bao che lãnh đạo khác. Bỗng nhiên hôm 21/6/2012, ông Hợp cãi phăng trên trang báo VietnamNet rằng: "Tôi xin khẳng định ngay là không có vùng cấm nào đối với báo chí, chỉ có báo chí ngại không vào mà thành vùng cấm” — nghĩa là không những ông Hợp chẳng hề bóp cổ báo chí mà trách nhiệm sinh ra vùng cấm đó còn là lỗi của hơn 1 vạn ký giả quá nhút nhát chứ không phải trách nhiệm của ông. Nếu thế thì chẳng hiểu ai đã trừng phạt những ký giả “không nhút nhát” như Kim Hạnh, Lan Anh, Đoan Trang, Nguyễn Việt Chiến, Nguyễn Văn Hải, v.v.... Và dĩ nhiên vụ bỏ tù ký giả Hoàng Khương, đánh bầm dập nhà báo Nguyễn Ngọc Năm và Hán Phi Long, cũng như cả 700 báo đài không nghe không biết gì về các cuộc biểu tình ngày 1/7/2012, v.v... đều là trách nhiệm của Bộ trưởng 4T mới Nguyễn Bắc Son. Khi công luận sôi sục về vụ xe ủi xập nhà gia đình anh Đoàn Văn Vươn nằm bên ngoài khu vực cưỡng chế tại Tiên Lãng, Đỗ Trung Thoại, phó chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng thử đổ tội cho “ nhân dân bức xúc phá nhà anh Vươn” nhưng chỉ làm dân chúng tức thêm. Ông Thoại liền hướng các ký giả về phía giám đốc công an Đỗ Hữu Ca, người chỉ huy các lực lượng võ trang "đánh đẹp" ngày hôm đó. Ông Ca liền khẳng định ngôi nhà 2 tầng của anh Vươn chỉ là “cái chòi trông cá, không phải là nhà”. Công luận càng chửi rủa thậm tệ. Ông Ca liền chuyển trách nhiệm xuống chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng là Lê Văn Hiền và phó chủ tịch Nguyễn Văn Khanh. Và 2 cán bộ này cũng bị ném vào tù trước khi có thể truyền dần trách nhiệm xuống tới "cậu đánh máy". Đỗ Hữu Ca Đỗ Trung Thoại Tương tự như vậy, đại tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng công an, trong buổi trả lời chất vấn của quốc hội ngày 14/6 đã khẳng định không chút hổ thẹn rằng: “Công an không phải là lực lượng cưỡng chế giải phóng mặt bằng. Công an chỉ xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ trong những vụ cưỡng chế.” Hóa ra hàng ngàn những người mặc đồng phục dàn hàng ngang đánh dân bằng dùi cui và bắn lựu đạn cay vào đám đông mà phim ảnh ghi nhận được ở Văn Giang đều không nhằm mục tiêu cưỡng chế giải phóng mặt bằng mà chỉ đánh chơi thôi. Còn các kẻ mặc thường phục đánh đập tàn nhẫn cả các phụ nữ và ký giả mới là lực lượng giải phóng mặt bằng. Nhưng hễ người dân nào chống cự lại đám người mặc thường phục cầm gậy gộc, dao búa này liền bị công an xử lý vì có hành vi chống người thi hành công vụ. Tóm tắt lại, theo tướng Quang, việc đánh dân, đánh nhà báo ở Văn Giang là trách niệm của các quan chức tỉnh Hưng Yên, chứ không phải trách nhiệm của công an, và lại càng không phải trách nhiệm của tướng Quang. Nguyễn Đức Nhanh Trần Đại Quang Thuộc cấp của tướng Quang là trung tướng Nguyễn Đức Nhanh, giám đốc công an Thành phố Hà Nội, còn chối mạnh và hăng hơn nữa. Trước ống kính của báo chí, tướng Nhanh khẳng định biểu tình là hành động yêu nước, vì thế không có chuyện công an trấn áp người biểu tình. Đến khi xuất hiện đoạn phim thu cảnh đại úy công an Phạm Hải Minh đạp lên mặt một người biểu tình ngày 17/7/2011, ông Nhanh chối ngay đó là phim giả. Và chỉ khi công luận phê phán quá mạnh, tướng Nhanh mới cho biết đại úy Minh đang bị "điều tra". Đại úy Minh cũng bị đưa đi biệt tăm trước khi có thể thanh minh với công luận "em chỉ làm theo lệnh trên".... Công an đủ loại lại đánh, đạp, vật, bẻ tay, bóp cổ, đẩy dân lên xe trong các lần biểu tình sau đó. Nhưng theo tướng Nhanh, dĩ nhiên, đó chỉ là "dân chúng tự phát" vì họ không mặc đồng phục, không dùng xe buýt có in dấu hiệu của công an, và chỉ chở đến các đồn để nhờ công an khuyên bảo người biểu tình. Và còn nhiều thí dụ khác nữa. Rõ ràng hiện nay, các quan chức càng lớn càng không muốn để tên của họ bị rơi vào sổ đen của những kẻ vi phạm nhân quyền trầm trọng. Họ cố nói to trước công luận sự “vô can” của họ trong những hành động tồi tệ đối với người dân trong thời gian qua. Họ muốn chuyển trách nhiệm về những vụ việc do chính họ gây ra cho người khác, ngành khác để chạy tội. Vì trong thâm tâm, họ đều biết ngày phải trả lời trước tòa án nhân dân và thế giới về những hành động của mình sẽ đến. Mặc dù đang nắm quyền lực trong tay nhưng họ đã thấy thấp thoáng cái bóng của Cách Mạng Hoa Lài từ Bắc Phi, Trung Đông đang từ từ tiến tới phần đất Á Châu, đặc biệt với những đổi thay ở Miến Điện. Hiển nhiên quan chức nào cũng nghĩ đến đường trốn ra nước ngoài. Tuy nhiên, không phải quan chức nào cũng có đủ điều kiện để sống mãn đời ở ngoại quốc và cũng không phải nước nào cũng sẵn sàng chứa chấp các “tội phạm chống nhân loại” trong thế giới ngày nay. Các lãnh đạo Việt Nam đều biết rất rõ số phận của những kẻ từng hét ra lửa, từng nắm quyền sinh sát cả hàng trăm triệu con người trong tay, như Ben Ali của Tunisia, Mubarak của Ai Cập, Saleh của Yemen, Gaddhafi của Libya và sắp tới đây Assad của Syria, cùng với đám đàn em hung hãn của họ. Nếu những quan chức ở thượng tầng còn lo ngại và đang tìm mọi cách xóa sạch hồ sơ như vậy, thử hỏi những cán bộ cấp trung và thấp, những người không có đường chạy, có nên tiếp tục nợ thêm máu nhân dân không? Đặc biệt trong hàng ngũ công an, liệu cán bộ cấp trung và thấp có nên cứ tiếp tục làm công cụ tay sai, thi hành những chỉ thị miệng “ác ôn” của cấp trên truyền xuống không — những chỉ thị mà lãnh đạo sẽ sẵn sàng chối bỏ trách nhiệm và đổ vấy cho cấp dưới? Và càng thấp trong hệ thống, các chiến sĩ công an càng cần biết rằng trên cả thế giới ngày nay, chứ không riêng gì ở Việt Nam, các tòa án công lý đúng nghĩa đã từ lâu không còn chấp nhận kiểu ngụy biện “chỉ vì theo lệnh trên” ********************************************************************************************************************************************* vanviet.info/van-de-hom-nay/nhat-dinh-khng-chiu-hoc/Trang bìa tập san Tự Do Diễn Đàn(Th. 12/1956) có đăng bài tham luận của Ls. Nguyễn Mạnh Tường. Tập san này bị cấm ấn hành Đến bây giờ mà ở diễn đàn Quốc hội còn khối ông nghị, trong đó có cả những người có bằng tiến sĩ luật (!) chưa chịu chấp nhận nguyên tắc “suy đoán vô tội” và do đó phản đối “quyền im lặng”, thậm chí dựng đứng rằng “quy định quyền im lặng là diễn biến hòa bình, chống lại nhân dân” (1), như thể dứ dứ điều 88 bộ luật Hình sự để đe dọa cả Quốc hội. Trên thực tế, “suy đoán có tội” là phổ biến dựa trên lối nghĩ “bắt lầm còn hơn bỏ sót”. Và lối nghĩ này ác thay lại không hiếm trong lực lượng thực thi pháp luật. Không phải ngẫu nhiên mà đại biểu là tướng lĩnh công an đều không muốn luật quy định “quyền im lặng” (2). Người ta muốn thuận lợi về phía mình: Điều tra mà bắt nghi can phải khai thì dễ hơn nhiều so với việc nghi can có quyền không khai. Cách nghĩ đó không đặt lên hàng đầu nguyên tắc “tránh oan sai”. Đại biểu Lê Thị Nga đã nói thẳng: “[Q]uyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình là quyền tự bảo vệ, thực chất là một phần quan trọng của quyền bào chữa. Đây là một phương thức tự bảo vệ đơn sơ nhất, nhưng khả thi nhất cho người dân dù ở trình độ nhận thức pháp luật thấp nhất trước sự đối diện với cán bộ điều tra được đào tạo bài bản về thủ pháp điều tra, dày dạn nghiệp vụ thẩm vấn. Thực hiện quyền này còn giúp giảm tối đa oan, sai.” Và: “Việc dùng mọi biện pháp (kể cả vũ lực) buộc nghi can phải khai nhận tội mà mình không thực hiện, sau đó hợp thức hóa, ngụy tạo chứng cứ khác cho phù hợp với diễn biến lời nhận tội, rồi lấy đó làm chứng cứ để buộc tội trước tòa là nguyên nhân gốc rễ của những vụ án oan chấn động dư luận vừa qua“.(3) Không chấp nhận “quyền im lặng”, là lạc hậu với thế giới đã đành, mà còn lạc hậu đối với chính ta nữa. Sáu mươi năm trước, trong tham luận đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30.10.1956, có nhan đề “Qua sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo“, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã trình bày vấn đề này một cách không thể nào sáng rõ hơn, thuyết phục hơn: “Ta muốn gì? Tìm kẻ thù của nông dân, của cách mạng để tiêu diệt nó. Nhưng đồng thời nếu ta biết lo xa, nhìn xa, ta cũng không quên rằng công lý của cách mạng, muốn bảo toàn được uy tín và thắng lợi của cách mạng, phải biết đánh đúng địch. Khi đưa ra khẩu hiệu “thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch” thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa. Muốn chứng minh điều này ta chỉ cần nhìn thực tế: kết quả sai lầm ta đã phạm khi thực hiện khẩu hiệu này rất tổn thiệt cho uy tín của cách mạng và cho bản thân bao nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không phải đó là phản lại cách mạng thì là gì? Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: “Thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan”. Thế ta có lo ngại rằng 10 địch sót không? Không, vì ta nắm chính quyền, vì cách mạng ta đã thành công. Như vậy kẻ thù của cách mạng chẳng sớm thì chậm, nhất định hoặc cải thiện, giác ngộ, hoặc lọt vào lưới của ta. Khẩu hiệu này lợi ở chỗ: không một người oan nào bị kết án. Do đó, không có các kết quả cực kỳ tai hại diễn ra hiện thời.” (4) Cái day dứt là: Vì sao mà có nhiều bài học ta học mãi vẫn không thuộc? Hay vấn đề thật ra là: Ta nhất định không chịu học! Trong một thể chế mà “chính quyền là của dân, do dân và vì dân” chỉ thuần là khẩu hiệu, thì chính quyền đánh mất khả năng học bài học lịch sử để sửa chữa sao cho xã hội từng ngày dân chủ hơn, công bằng hơn, văn minh hơn. Trong thể chế đó, “ông chủ” ngang nhiên tuyên bố với “đầy tớ”: “Tao không sửa! Mày làm gì tao?”. Cho nên, chỉ khi xã hội bị dồn ép đến mức dọa “bùng nổ”, chứ không còn có thể chịu đựng theo kiểu “cúi mong thánh đế hồi tâm”, “đầy tớ” mới quáng quàng thay đổi. Lúc đó, đất nước đã bị trả giá quá đắt. Vả chăng, biện pháp cứu vãn, trong lúc khẩn cấp, ban đầu thường chỉ vá víu, chứ không căn cơ. Và sau khi đã tạm thoát nạn, mỉa mai là “đầy tớ” lại tự ca tụng (và bắt tất cả “ông chủ” phải ca tụng) tài năng lãnh đạo của mình. Những quyết sách như “khoán hộ”, “năm thành phần kinh tế”, “kinh tế thị trường”, v.v. và v.v. chẳng phải là chứng cứ thuyết phục hay sao? ======== (1) phapluattp.vn/…/quy-dinh-quyen-im-lang-la-dien-bien-…(2) tuoitre.vn/…/cac-tuong-cong-an-khong-muo…/753072.html(3) tuoitre.vn/…/quyen-im-lang-va-suy-doan-v…/763185.html(4) www.viet-studies.info/NM…/NMTuong_CaiCachRuongDat.htm
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 4, 2015 7:03:33 GMT 9
Suy tư Trần Quang Cơ Những đêm ít ngủ, nằm nghĩ ngợi miên man, hết chuyện gần đến chuyện xa, từ vấn đề hẹp đến vấn đề rộng. Nghĩ về bản thân, về gia đình, rồi nghĩ về xã hội, đến hiện tình đối ngoại của nước mình. Tâm tư suy nghĩ đó là những suy tư cuối năm, và có lẽ cũng là những suy tư cuối đời của tôi. Viết cô đọng lại trong ít dòng dưới đây. 1. Nghĩ về bản thân: Sang tháng sau, tôi đã bước vào tuổi 83 (tuổi ta gọi là 84). 83 năm thật là dài mà cũng thật là ngắn. Biết bao kỷ niệm tích tụ lại trong “83 x 365” ngày đó. Nhớ nhớ quên quên. Vui buồn lẫn lộn. Biết bao biến cố đã xảy ra trên thế giới, trong xã hội, trong gia đình cũng như với bản thân mình trong thời gian hơn tám thập kỷ đó… Như có sự trùng hợp, vào những năm đầu đời và những năm cuối đời của tôi đều đã có những biến cố đau buồn xảy ra làm biến đổi cuộc đời tôi. Hồi tôi mới 4, 5 tuổi, mẹ tôi rồi bố tôi kế tiếp nhau qua đời. Phút chốc tôi đã trở thành đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cuộc đời tôi tưởng như vô vọng, vì bố mẹ tôi khá đông con, 9 người cả trai lẫn gái, tôi lại là con út, mà gia đình tôi của ăn thì có, của để thì không. Nay bố mẹ chết đi, lấy gì để nuôi nhau. Trong hòan cảnh khó khăn đó, ba người anh lớn của tôi đã đứng ra gánh vác trọng trách đó. Anh cả tôi lúc đó mới 22 tuổi, anh thứ hai 18 tuổi, anh thứ ba 16 tuổi. Cứ như thế, tôi đã được các anh thay cha mẹ nuôi cho ăn học, khôn lớn lên thành người. Và Cách mạng tháng 8.1945 đã “đổi đời” cho tôi. Còn biến cố cuối đời của tôi là vào giữa năm 1998, sau khi tôi vừa nghỉ hưu, một cơn đột quỵ do tai biến mạch máu não đã khiến tôi trở thành một kẻ tàn phế! Di chứng của tai biến mạch máu não 3, 4 năm gần đây càng phát triển theo hướng xấu đi nhanh chóng: từ chỗ tập tễnh đi lại bằng ba-toong, nay chân tay bên phải gần như bại liệt, rất khó cử động. Nhất là chân, từ đầu gối trở xuống, khiến cho việc đi lại, tự di chuyển khá vất vả. Đứng không vững, di chuyển vài bước là phải nhờ đến cái “gậy càng cua” làm bằng nhôm, hình vành móng ngựa có 4 chân của con mua cho. Bởi vì tôi tự đi không nổi, dễ bị ngã, mà ngã thì không tự mình đứng dậy ngay được. Buồn nhất là tay phải không cầm nổi cây bút để viết. Khi ăn phải dùng thìa vì không cầm được đũa . Mắt mờ đi nhiều, thị lực chỉ còn 1/10, xem báo phải dùng kính “lúp”. Cố đọc một bài báo hay bằng kính lúp xong là mệt. Tóm lại, những việc rất đơn giản đối với một người già có sức khỏe bình thường thì với tôi lúc này lại rất khó khăn vất vả. Tuy nhiên tôi cũng tự an ủi mình, dù sao bệnh này cũng chưa ảnh hưởng tới bộ phận não chỉ huy trí nhớ và tư duy vẫn còn hoạt động bình thường, tuy có bị ảnh hưởng đôi chút như nói năng, diễn đạt ý nghĩ của mình ra lời nói không còn mạch lạc, nhạy bén như trước nữa. Điều quan trọng nhất là cuối cùng tôi vẫn luốn giữ được tinh thần lạc quan. Nói đúng ra là biết an phận, biết chấp nhận tình trạng tàn phế của bản thân lúc này một cách “biết điều”. Có những lúc trượt chân suýt ngã hay quên lãng một cái gì, phải lê chân đi lại vất vả, cũng chỉ bật cười một mình hay lẩm bẩm tự mắng mình. Ưa nghe nhạc nhẹ, êm êm trước khi ngủ. Tất nhiên vẫn không sao tránh khỏi có những phút nghĩ ngợi buồn phiền. Nhưng với tình trạng sức khỏe như hiện nay mà không bi quan ủ rũ thì cũng là tốt rồi . 2. Nghĩ về gia đình: Nói chung là ổn. Vì về mặt kinh tế và mặt tinh thần không có gì đáng than phiền. May mắn nhất cho tôi là có vợ làm chỗ dựa khá vững chắc, về cả tinh thần lẫn vật chất, lúc này. Thật lòng mà nói, từ trước tới nay, mọi việc trong nhà, tôi gần như đều phó thác cho vợ. Từ việc nuôi dậy con cái đến việc quán xuyến gia đình, đối xử với họ hàng ngoại cũng như nội, đối với bà con hàng xóm láng giềng, nhất nhất đều do vợ tôi lo liệu tất tần tật và làm thật chu đáo, đối xử với mọi người rất có tình người. Tôi có 3 con. Một gái, hai trai. Cả 3 đứa con đều đã khôn lớn và thành đạt cả rồi, không có khó khăn về kinh tế, sống lành mạnh cả. Tất cả những điều đó đều do công lao của vợ tôi cả . Công bằng mà nói, ngày nay, thời “gạo châu củi quế” này, chỉ trông vào đông lương hưu của cả 2 vợ chồng thì làm sao sống nổi. Vậy mà gia đình tôi vẫn thuộc loại “phong lưu”. Ấy là nhờ vợ tôi đã biết tính trước lo sau cho cả gia đình. 3. Suy tư về xã hội: Quả thực tôi đang suy nghĩ nhiều về vấn đề công bằng xã hội, điều mà từ khi biết nghĩ tôi luôn cho là nhất thiết phải có trong một xã hội tốt đẹp. Tôi không hề nghĩ đến chuyện “cào bằng” tất cả, mà chỉ nghĩ rằng cái tốt phải thắng cái xấu, người giỏi phải giữ vị trí quan trọng hơn người dốt, người trung thực phải thắng kẻ cơ hội lừa lọc. Hiện tại những điều đó hình như đang diễn ra ngược lại trong xã hội ta. Có phải suy nghĩ đó của tôi có quá lý tưởng hóa cuộc đời không? Tôi cũng không quá bận tâm đến những chuyện như “lâm tặc”, “cát tặc”, “đinh tặc”, ... Tôi cho rằng thằng “tặc” ghê gớm nhất, cái ung nhọt lớn nhất và cũng là nhức nhối nhất trong xã hội ta hiện nay là “tặc” tham ô, nhũng nhiễu dân thường đã lan tràn từ trên xuống dưới khiến cho không thể có công bằng trong xã hội. Thật khác với tình hình xã hội ta ngày trước. Trước đây, nước ta tuy có khó khăn nhiều bề, nhưng trong sạch. Ngày nay, tham nhũng đẻ ra tham nhũng. Tham nhũng bây giờ được xem như một cách “đầu tư” rất thịnh hành, vì thu lợi nhuận cao và nhanh nhất. Những kẻ có quyền thế, hoặc là những tên cơ hội hay nhiều tiền của, chúng thường là những kẻ “thiếu tài nhưng nhiều mánh khóe, nhiều tiền”. Chúng bỏ tiền ra “mua quan”. Tiền bỏ ra càng nhiều tự khắc “mua” được chức vụ càng cao, béo bở, rồi lập tức sử dụng cái quyền lực mới “mua” được ấy để thu lại số vốn đã “đầu tư” và thu lãi ngay bằng cách “bán chức”. Cứ như thế tạo ra tầng tầng lớp lớp “tham nhũng”. Lũ ròi bọ “tham nhũng” sinh đẻ ra nhanh như cỏ dại. Thử hỏi: vì sao giá nhà, đất đang “nóng” mà hiện nay lại “đóng băng”? Đó là vì lúc này là thời gian mà những ai có chức, có quyền đều phải tạm thời “im hơi, lặng tiếng” cho đến khi các “ghế” quan chức từ phường xã, quận huyện, tỉnh thành cho đến trung ương đã được chia chác xong thì tự khắc giá nhà đất sẽ lại “nóng” lên ngay. Người ta cứ nói “chống tham nhũng”. Nhưng diệt sao được “tổ mối tham nhũng” khi những con “mối chúa” còn bình an vô sự, ăn no béo mầm! Loại “tham nhũng chúa” có vỏ bọc dầy lắm, có đủ dây rợ dọc ngang, khó gỡ cho ra đầu mối. Quá lắm thì chúng dùng đến nước cờ “thí tốt”, đổ hết tội lên đầu bọn “tham nhũng tép riu”, còn chúng thì vẫn thơm tho sạch sẽ! Do đó, khoảng cách giữa giàu - nghèo, giữa thành thị và nông thôn càng ngày càng lớn, xã hội càng bị phân hóa một cách nguy hiểm, những tệ nạn xã hội lan tràn hơn lúc nào hết. Lòng tin của người dân đang bị sói mòn đi, mà khi đã mất lòng tin của dân thì xã hội sẽ mất ổn định. 4. Suy tư về tình hình đối ngoại của nước ta: Trước hết cần suy nghĩ xem nước ta hiện đang ở trong bối cảnh quốc tế ra sao, có những thuận lợi và khó khăn gì phải xử lý. Vấn đế này có liên quan, trực tiếp hay gián tiếp, đến Việt Nam, đến vận mệnh của đất nước, đến lợi ích chính đáng của dân tộc ta. Tình hình thế giới lúc này đã chuyển biên khác thời kỳ mà tôi viết “Hồi ức và Suy nghĩ” vào cuối thế kỷ thứ 20. Sau khi Liên Xô tan vỡ, “trật tự thế giới 2 cực” không còn, Hoa Kỳ trở thành siêu cường duy nhất. Có một thời gian cục diện thế giới có hình thái “một siêu đa cường”. Do chính sách đối ngoại sai lầm của chính quyền Bush cha và Bush con, của đảng Cộng hòa, rồi đến cuộc suy thoái tòan cầu khiến cho vị thế của Mỹ bị sa sút trông thấy. Về quân sự thì sa lầy ở Iraq, rồi Afghanistan, về kinh tế thì cuộc suy thoái toàn cầu làm cho chính quyền đảng Dân chủ mới lên của Barak Obama lao đao. Hơn thế nữa, Mỹ còn là đối tượng chính của các tổ chức Hồi giáo cực đoan. Trong khi đó Trung Quốc nổi hẳn lên về kinh tế, đứng hàng thứ 2 thế giới, vượt Nhật và chỉ sau Mỹ. Nhờ đó, Trung Quốc đã tranh thủ tăng cường nhanh chóng về mặt quân sự, nhất là về hải quân. Tất nhiên tham vọng bành trướng Đại Hán cũng từ đó mà phát triển mạnh. Hiện nay Trung Quốc đã gần như ngang hàng với Mỹ trong vai trò quyết định nhiều vấn đề quan trọng của thế giới. Tôi cho rằng ý đồ của nhóm lãnh đạo ở Trung Nam Hải là muốn nhân cơ hội này, thừa thắng từng bước vươn lên thành siêu cường số 1 thế giới, vượt lên trên cả Mỹ, với ý đồ tạo lập ra một “trật tự thế giới mang màu sắc Trung Quốc”. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng Trung Quốc chỉ có thể gây khó khăn cho Mỹ trong lĩnh vực kinh tế, chứ trên các lĩnh vực khác khó có thể vượt Mỹ, nhất là về khoa nọc kỹ thuật. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc hết sức lắt léo. Đối với các cường quốc như Mỹ, Nhật, Liên minh Châu Âu, Nga, Ấn Độ, họ vừa hợp tác vừa kiềm chế bằng mọi thủ đoạn. Như trong các vấn đề Triều Tiên, Iran, Iraq, Afghanistan, họ luôn có thái độ lững lờ nước đôi. Bề ngoài thì ra vẻ hợp tác để cố gắng giải quyết các vấn đề này, song bên trong lại gần như ngấm ngầm khuyến khích các đối tượng đó khiến cho các đối thủ của mình, nhất là Mỹ, luôn phải lo đối phó với đủ loại thách thức, không thể phát triển lên được. Như việc CHDCND Triều Tiên đang cố chế tạo ra vũ khí hạt nhân, uy hiếp trực tiếp các đồng minh của Mỹ (Nhật Bản, Hàn Quốc). Tuy Trung Quốc là thành viên của nhóm 6 nước lớn lo việc đàm phán với Triều Tiên để thuyết phục nước này từ bỏ ý định trở thành một cường quốc hạt nhân. Song ai cũng biết là Triều Tiên hiện chỉ còn một đồng minh gần gũi là Trung Quốc, và có lẽ về mặt nào đó phụ thuộc vào Trung Quốc. Vậy liệu hiện tượng Triều Tiên vẫn kiên trì lập trường của mình có phải có tác động của Trung Quốc hay không? Với Nga cũng vậy, Trung Quốc và Nga hiện nay có vẻ ăn ý với nhau về việc ngăn Hội đồng Bảo an LHQ thông qua nghị quyết trừng phạt Iran về việc Iran tiếp tục chế tạo vũ khí hạt nhân, nhưng thực ra 2 nước này vẫn dè chừng nhau. Trong thế kỷ trước, cuộc tranh giành quyết liệt giữa Liên Xô và Trung Quốc về vai trò lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới, rồi đến các vụ xung đột biên giới Trung - Xô những năm 1960, cả hai đều không dễ quên đâu. Trrước mắt trọng điểm bành trướng của Trung Quốc là Việt Nam. Hướng bành trướng của Trung Quốc là xuống phía Nam, mà Việt Nam lại là chướng ngại vật lớn cản trở tham vọng bành trớng đó nên Trung Quốc đang có kế hoạch thôn tính Việt Nam bằng mọi thủ đoạn. Họ tiến hành cái tôi tạm gọi là “thôn tính mềm”, không gây ầm ĩ như cuọc chiến tranh chớp nhóang tháng 2/1979, mà dùng những thủ đọan hiểm độc hơn nhiều: đó là vừa dùng sức mạnh quân sự để uy hiếp trắng trợn, vừa dùng tiền tài mua chuộc; vừa phá từ trong phá ra, vừa bao vây từ ngoài lấn vào. Bao vây tứ phía. Trước hết là phía Đông. Tham vọng của Trung Quốc là làm chủ cả Biển Đông. Muốn thế trước hết phải uy hiếp và khống chế Việt Nam là nước có bờ biển thông ra Biển Đông dài nhất. Từ ngòai xa, họ xâm chiếm các quần đảo Hòang Sa, Trường Sa của ta. Đến gần, trong vịnh Bắc Bộ, họ ngang nhiên vạch ra vùng “lưỡi bò”, nói đó là thuộc lãnh hải Trung Quốc, nhất là từ phía Đông. Biển Đông là miếng mồi ngon mà trước mắt Trung Quốc đang muốn “ăn sống nuốt tươi” vì nhược điểm lớn của họ là rất thiếu nguồn nhiên liệu để phát triển. Mà thềm lục địa của Việt Nam trông ra Biển Đông lại rất dài và rất nhiều nguồn dầu khí có trữ lượng rất lớn chưa được khai thác. Còn trên bộ, phía Tây nước ta đã bị người anh em “4 tốt” dễ dàng cắm chốt vào vùng Tây Nguyên của ta bằng cách đầu tư và đưa người sang khai thác quặng bô-xít và chế biến nhôm. Như thế, họ vừa chiếm lĩnh được một địa bàn chiến lược, từ đó khống chế được cả 3 nước Đông Dương, vừa thực hiện chính sách thu gom tài nguyên thiên nhiên trên thế giới, như họ đang làm ở châu Phi, để tích trữ, coi đó sẽ là một thứ vũ khí lợi hại để uy hiếp về mặt kinh tế các đối thủ sau này. Nên biết rằng Trung Quốc không thiếu những mỏ quặng bô-xít để chế ra nhôm, nhưng họ để dự trữ và bảo vệ môi trường nước họ nên họ để dành chưa đụng đến. Phía Nam, Trung Quốc đang đe dọa nguồn sống của dân ta ở tòan bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng cách xây đập làm nhà máy thủy điện lớn, ngăn nguồn nước ngọt ngay từ thượng lưu sông này. Còn phía Bắc, họ gặm đất đai nước ta từng mảng như Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, ... Thật sót sa khi ta không còn có thể nói là “Đất nước Việt Nam trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu” nữa, mà có lẽ phải nói là “từ các cột mốc phân biên giới Việt Nam với Trung Quốc đến mũi Cà Mâu”! Đau hơn nữa, mới đây, ngày 17/2/2009, họ đã trâng tráo tổ chức lễ kỷ niêm 30 năm của cuộc vũ trang xâm nhập vào vùng biên giới nước ta hồi tháng 2 năm 1979 mà họ mệnh danh là “cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam”. Họ còn làm lễ tưởng niệm những tên giặc đă chết khi xâm lấn đất ta. Trong khi đó hàng vạn liệt sĩ của ta hy sinh trong khi anh dũng chống quân xâm lược “đại Hán thế kỷ 21” thì âm thầm nằm đó, không một cơ quan truyền thông nào của ta nhắc tới, hoăc có nghĩ tới mà không dám nói ra, vì sợ “ảnh hưởng đến đại cục” ?!? Không chỉ dừng lại ở đó, Trung Quốc còn đang dùng nhiều thủ đoạn để xâm nhập sâu vào Lào và Campuchia, nhằm bao vây cô lập Việt Nam. Ngay đầu năm 2011, có tin Trung Quốc vừa tung tiền ra để thuê của Lào một khu đất nông nghiệp trong 75 năm để xây dựng ở đó một thành phố cho người Trung Quốc di cư sang sống dài hạn ở đó. Còn ở Campuchia, Trung Quốc bây giờ dùng bọn Sam Rainsy thay Khơ me đỏ để gây hận thù giữa nhân dân Campuchia và Việt Nam. Bọn này phá cột mốc phân đường biên giới VN-CPC và phá quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Đồng thời Trung Quốc cũng vẫn len lỏi gây ảnh hưởng trong bộ máy chính quyền của Thủ tướng Hun Sen . Còn bên trong nước ta, họ dùng chiến thuật hiểm độc, chiến thuật “con mối”, cứ lặng lẽ mà đục ruỗng nước ta bằng nhiều thủ đoạn, như mua chuộc và tha hóa cán bộ ta, ... rồi cuối cùng thì nuốt chửng, mà ta lúc này (như trên đã nói) với tệ tham nhũng hòanh hành khắp nơi – không loại trừ có bàn tay của Trung Quốc - đã như một khúc gỗ mục. Êm ái như vậy nên dù gần đây ta đã đẩy mạnh chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, ta không còn cô lập như trước, ta có nhiều bạn hơn. Việc ta tăng cường lực lượng hải quân, không quân để lo bảo vệ vùng biển và hải đảo của ta, cũng như tăng cường quan hệ với thế giới bên ngoài, nhất là với các cường quốc như Nga, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản. Đó là những bước đi tuy hơi chậm nhưng còn phù hợp với tình hình. Việc ta tăng cường sức mạnh quân sự, chủ yếu về hải quân, không quân, tuy so với Trung Quốc chẳng bõ bèn gì, nhưng cũng biểu lộ được quyết tâm chống trả của ta nếu đối phương gây hấn. Còn việc ta tăng cường quan hệ ngoại giao với quốc tế làm cho thế giới quan tâm đến Việt Nam hơn, song trong trường hợp mà kẻ thù nham hiểm chỉ dùng thủ đọan “xâm lược ngấm ngầm”, không lộ rõ không biểu hiện là Việt Nam bị “ngọai xâm” thì các nước có cảm tình với ta sẽ không có lý do gì để can thiệp cả. Còn ở Biển Đông, Trung Quốc hết sức chống việc quốc tế hóa vấn đề để ngăn không cho Mỹ nhảy vào. Họ cũng không muốn phải đối phó với 10 nước Asean. Trung Quốc khăng khăng phải đàm phán giải quyết những tranh chấp trên Biển Đông bằng đàm phán song phương vì tách từng từng chiếc đũa một thì dễ bẻ gẫy hơn. Vì vậy ta thấy rõ yêu cầu chiến lược của Mỹ ở Biển Đông và đáp ứng hợp tác với Mỹ về mặt quốc phòng, cũng như gắn bó chặt chẽ với các nước thành viên khác trong Asean là một bước đi cần thiết, đúng hướng. Tuy nhiên tôi cho rằng rút cục chỉ có chính nhân dân ta mới thực sự cứu được nước ta thôi. Nhưng trên dưới phải một lòng, như thời Hội nghị Diên Hồng ngày xưa. Đảng phải dựa vào Dân, Dân vững lòng tin cậy vào Đảng thì dân tộc ta mới thực sự có sức mạnh để bảo vệ đất nước. Tiếc thay hiện nay điều đó còn là sự mong đợi của chúng ta. Trong thời chiến, quân sự là mặt trận chính để bảo vệ Tổ quốc. Còn trong thời bình như hiện nay thì thực sự ngoại giao phải là mặt trận hàng đầu có nhiệm vụ bảo vệ đất nước, bảo vệ quyền lợi chính đáng của dân tộc. Vì chỉ trong bối cảnh hòa bình, ngoại giao mới sẵn đất dụng võ. Mục tiêu chính của ta thời gian này là Hòa bình để Phát triển. Nhờ triển khai mạnh chính sách ngoại giao đa phương hóa - đa dạng hóa việc kết bạn bè nên vị thế nước ta ở châu Á và cả trên thế giớí lúc này đã tăng lên rõ rệt, bạn bè quốc tế của ta đông hơn lúc nào hết. Đó là điểm sáng trong lúc này vì đó chính là điều khiến cho kẻ thù phài kiêng nể, khi nghĩ tới chuyện tiếp tục “lấy thịt đè người”, cậy mình là nước lớn uy hiếp ta. Ta sẵn sảng hợp tác hữu nghị với các nước, song có hợp tác cũng phải có đấu tranh. Với Mỹ cũng vậy, ta mong muốn tăng cường hợp tác về nhiều mặt nhưng vẫn cần đấu tranh về vấn đề nào trái với lợi ích của ta, như vấn đề chất độc da cam. Với Trung Quốc cũng vậy, ta không thể nên chỉ quá nặng về hợp tác và nhân nhượng để thiên hạ đánh giá là ươn hèn, mà nhẹ mặt đấu tranh. Tháng Chạp năm Canh Dần 2010 T.Q.C. Viet-studies nhận được ngày 30-6-15 ***************************************************************************************************************** TẠI SAO PHẢI CẮT XÉN? Viet-studies xin đăng dưới đây bản gốc bài “Trần Quang Cơ với quan hệ Việt – Mỹ” của Đinh Hoàng Thắng (tựa đề do chính tác giả đặt). Bản này đã được gửi cho Vietnamnet, và được đăng với tựa đề do tòa soạn Vietnamnet đặt: "Ông Trần Quang Cơ: Người thúc đẩy bình thường hóa Việt- Mỹ" (http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/247889/ong-tran-quang-co--nguoi-thuc-day-binh-thuong-hoa-viet--my.html) So sánh bản trên VNN (đã được tòa soạn "biên tập") với bản gốc (viet-studies tô vàng những chỗ bị cắt bỏ hoặc thay đổi), có thể thấy vài sự vênh nhau như sau (1) Tên và nội dung bài viết đề cập đến công lao Trần Quang Cơ đối với toàn bộ vấn đề Việt – Mỹ chứ không chỉ bó hẹp vào mỗi một khâu “bình thường hóa quan hệ”. Tại sao lại phải “ăn bớt” công lao của cụ như thế? (2) Bỏ đoạn Mãi tới năm 2009, nhân dịp 30 năm cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, ông mới “bật mí” cái triết lý sống còn về an ninh quốc gia với truyền thông: “Trong cái thế anh nằm ngay cạnh nước lớn, nước khổng lồ, mà không có bạn thì anh sẽ bị ép”. Tại sao VNN lại bỏ đoạn này? Có phải vì VNN không muốn ai nhắc lại cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc và dấu nhẹm luôn cả cái kế sách mà Trần Quang Cơ tâm đắc? (3) VNN lại bỏ luôn cả ý “phi ý thức hệ” trên sap-pô bài của Đinh Hoàng Thắng và cuốn Hồi ký của cụ (chú thích [5]). Vì sao? (4) Đặc biệt hơn, VNN thay hai cái subtitles để giảm nhẹ hai nội dung bản gốc muốn nhấn mạnh. (a) Thay subtitle thứ nhất là bỏ luôn cả sự tiếc nuối của cụ Cơ, mà tác giả đã hàm ý an ủi cụ, “Muộn còn hơn không”. Thay subtitle thứ hai làm thay đổi hoàn toàn thông điệp của cả người đã khuất lẫn tác giả ĐHT. Câu cuối cùng bài viết trích tâm sự cụ Cơ “Tiếc thay hiện nay điều đó còn là sự mong đợi của chúng ta” bị VNN “quên” hay “cố cắt bỏ”; thành ra tâm sự của cụ Cơ (trên bản của VNN) trở thành một thông điệp sáo rỗng, một lời khuyên chung chung. Trong khi đó, với câu kết này (trên bản gốc), cụ Trần Quang Cơ đã đưa ra một cảnh báo mạnh mẽ và nghiêm trọng về quan hệ hiện nay giữa đảng và dân. Bái phục các biên tập viên của VNN/TVN, phân ưu với cụ Cơ, gia quyến và tác giả! Trần Quang Cơ với quan hệ Việt - Mỹ Đinh Hoàng Thắng Bản lĩnh Trần Quang Cơ từ trong sâu thẳm luôn chủ trương xây dựng một nền ngoại giao phi ý thức hệ, vì lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo vệ đến cùng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Bang giao Việt – Mỹ hiện nay đã và đang phát triển vượt bậc. Nhất là xét trong bối cảnh lần đầu tiên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng chuẩn bị thăm chính thức Hoa Kỳ vào đầu tháng 7 này. Nền ngoại giao “Đổi mới” với phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” đã được khởi động vào thời điểm then chốt năm 1991 (Đại hội 7 ĐCS). Chính cái “nhân” gieo thuở ấy đã mang lại mùa gặt hứa hẹn hôm nay. Tuy nhiên, hàng thập kỷ sau này khi nhìn lại, cựu Ủy viên TƯ Đảng, Thứ trưởng Thứ nhất Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ vẫn cảm thấy có phần tiếc nuối. Theo ông, những việc cần thiết làm với Mỹ, trên thực tế chúng ta đã tiến hành, nhưng “chậm trễ tới cả mười năm”[1]. Muộn còn hơn khôngGiờ thì đã quá muộn để có thể hỏi trực tiếp cựu Thứ trưởng Thứ nhất Trần Quang Cơ về cách ông tính như thế nào để đưa ra chỉ dấu cho thấy, chúng ta triển khai một kế sách về an ninh quốc gia quan trọng dường ấy mà để muộn mất cả chục năm. Chúng ta rất muốn hỏi ông nguyên nhân tại sao. Không phải để quy trách nhiệm, mà cái chính là để rút bài học cho hiện tại và cho tương lai. Kế sách ấy, hồi bấy giờ chắc chắn đóng dấu “Tuyệt Mật” và hầu như khả năng các nhà báo tiếp cận tài liệu chắc bằng “không”. Mãi tới năm 2009, nhân dịp 30 năm cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, ông mới “bật mí” cái triết lý sống còn về an ninh quốc gia với truyền thông: “Trong cái thế anh nằm ngay cạnh nước lớn, nước khổng lồ, mà không có bạn thì anh sẽ bị ép”[2]. Và cũng trong năm 2009 ấy, khi được hỏi, nếu nghĩ lại, ông có thấy trước đây những cơ hội nào bị bỏ lỡ, những điều gì Việt Nam có thể làm khác không, ông Cơ đã thẳng thắn: “Tôi thấy điều có thể làm khác là phải đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế sớm hơn. Trước Đại hội Đổi mới (năm 1986), Việt Nam đã quá phụ thuộc vào ý thức hệ mà không đa phương hóa được quan hệ”[3]. Quả thật, ngay từ rất sớm, ông Trần Quang Cơ đã có cái nhìn rất tỉnh táo khi cho rằng, một nước Việt Nam đổi mới, độc lập với các nước lớn, cải thiện quan hệ và hoà nhập với các đồng minh của Mỹ ở Đông Nam Á là phù hợp với lợi ích của Mỹ về hoà bình, ổn định, nhằm duy trì ảnh hưởng của Mỹ và hạn chế các thách thức nổi lên đối với vị trí của Mỹ ở khu vực. Ông Cơ cũng đã phân tích các mối tương tác tạo nên vị thế của Việt Nam trong quan hệ với Mỹ. Ông cho rằng, tuy không có một vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, nhưng Việt Nam vẫn là một nhân tố mà Mỹ không thể không tính đến trong chiến lược của Washington ở Châu Á–TBD và Đông Nam Á. Hơn nữa, về kinh tế Mỹ có lợi ích tranh thủ thị trường và nguồn nguyên liệu của Việt Nam. Mỹ không muốn vắng mặt trong khi các đối thủ của Mỹ đi mạnh vào thị trường Việt Nam. Rất nhiều suy tư và đánh giá của ông Trần Quang Cơ đã được thể hiện trong cuốn hồi ký của mình cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tại một hội thảo gần đây về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, nguyên Đại sứ đầu tiên của nước ta tại Mỹ Lê Bàng đã đề nghị việc ghi nhận công lao của của một số cá nhân trong việc thúc đẩy, đàm phán bình thường hoá quan hệ với Mỹ mà trước nay chưa được nhắc đến nhiều trong đó có Thứ trưởng Trần Quang Cơ, Thứ trưởng Lê Mai...[4] Vẫn là sự mong đợiLà chuyên gia loại một, ngay từ những ngày đầu, ông Trần Quang Cơ đã giữ cương vị nòng cốt trong hầu hết các giai đoạn quan trọng nhất của ngành ngoại giao vào những năm từ 1960 đến 1980 của thế kỷ trước. Với tư cách là một chuyên viên cao cấp về Mỹ, ông đã tham gia với vai trò là một trong những cán bộ lãnh đạo các đơn vị chuyên trách, tham mưu về giải pháp phục vụ cho cuộc hòa đàm Paris, sau đó trực tiếp tham gia đoàn đàm phán cả công khai lẫn bí mật (Kết thúc vào tháng 1/1973). Mấy năm về sau, trong chiều hướng đi tìm những đối thoại thẳng thắn giữa các cựu thù, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara đã đề nghị các học giả và các nhà lãnh đạo cuộc “chiến tranh Việt Nam” (theo cách nói của người Mỹ), cùng ngồi xuống duyệt lại những quyết định trong chính sách để hiểu rõ hơn, nhưng đặc biệt là để rút tỉa những kinh nghiệm lịch sử cho toàn cầu thông qua “bài học Việt Nam”. Sáu hội nghị như thế đã diễn ra tại Hà Nội từ tháng 11/1995 đến tháng 2/1998. Hội nghị thứ 7 diễn ra tại Viện Rockefeller ở Bellagio, Italy. Ông Trần Quang Cơ, ông Nguyễn Cơ Thạch và một số học giả, tướng lĩnh và cựu lãnh đạo CHXHCN Việt Nam đã tham dự chuỗi hội nghị ma-ra-tông này, mà quan trọng nhất là hai hội nghị chính vào tháng 6/1997 và tháng 2/1998. Cả ông Cơ lẫn ông Thạch đã có những đóng góp đáng kể vào quá trình hàn gắn quan hệ Việt – Mỹ. Nhưng có lẽ liên quan đến các diễn tiến phức tạp hơn trong quan hệ với Mỹ và các nước lớn khác là giai đoạn đầy năng động và sáng tạo của ngoại giao Việt Nam vào cuối những năm 1980, đầu những năm 1990. Ông Trần Quang Cơ lúc ấy đã là thành viên ban lãnh đạo của Bộ Ngoại giao, cùng với tân Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, Thứ trưởng Trần Quang Cơ luôn chủ động đề xuất các ý kiến dựa trên những đánh giá tỉnh táo, những trăn trở về quyền lợi của đất nước, thấm nhuần tinh thần độc lập, tự chủ trong tư duy cũng như trong tác phong lãnh đạo. Liên quan đến công tác nghiên cứu chiến lược cũng như các hành vi mang tính động thái, ông Trần Quang Cơ luôn có cách nhìn “cân bằng và đối trọng”. Trong quan hệ với Mỹ, ông chủ trương phải tăng cường hợp tác trên nhiều mặt nhưng vẫn cần đấu tranh khi nẩy sinh vấn đề trái với lợi ích của ta. (Ví dụ như vấn đề chất độc da cam chẳng hạn). Với Trung Quốc cũng vậy, ông thường nhắc không thể quá nặng về hợp tác và nhân nhượng để bị đánh giá là ta thúc thủ, coi nhẹ mặt đấu tranh[5]. Viết những dòng này nhân ngày tiễn ông Trần Quang Cơ đi xa, lớp hậu sinh chúng ta hẳn không quên một trong những dòng tâm sự cuối cùng của ông: “Rút cục chỉ có chính nhân dân ta mới thực sự cứu được nước ta thôi. Nhưng trên dưới phải một lòng, như thời Hội nghị Diên Hồng ngày xưa. Đảng phải dựa vào Dân, Dân vững lòng tin cậy vào Đảng thì dân tộc ta mới thực sự có sức mạnh để bảo vệ đất nước. Tiếc thay hiện nay điều đó còn là sự mong đợi của chúng ta”[6]./. (Hà Nội ngày 1/7/2015, viết nhân Tang Lễ cựu Thứ trưởng Thứ nhất Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ) [1] www.bbc.co.uk/vietnamese/lg/vietnam/2009/02/090220_tranquangco_tc2.shtml [2] www.bbc.co.uk/vietnamese/lg/vietnam/2009/02/090220_tranquangco_tc2.shtml[3] www.bbc.co.uk/vietnamese/lg/vietnam/2009/02/090220_tranquangco_tc2.shtml[4] www.thanhnien.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/co-thu-truong-ngoai-giao-tran-quang-co-mot-long-vi-to-quoc-579208.html[5] “ Hồi ức và suy nghĩ”: www.truyen-thong.org/so14/so14.html[6] Những dòng này được lưu lại trong một bài viết có tên là “Suy tư”, ghi dưới là “tháng Chạp năm 2010” mà ông Cơ đã chuyển cho ông Nguyễn Vĩnh, nguyên Tổng Biên tập báo Quốc Tế. Viet-studies nhận được ngày 1-7-15 từ một thân hữu
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 4, 2015 7:21:37 GMT 9
Mùa Đông 2004 & Mùa Thu 2005
Hồi ức và suy nghĩ của cán bộ xã hội chủ nghĩa
Tập hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ (1920–) lưu chuyển trong nước từ đầu năm 2003. Tác giả nguyên là Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao, thành viên Đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Hội nghị Paris (68–73) về Việt Nam.
Trước khi làm việc tại Bộ Ngoại Giao (1954), Trần Quang Cơ là sĩ quan quân đội nhân dân giảng dạy tại trường Cao Đẳng Ngoại Giao. Ông là cán bộ ngoại giao suốt 44 năm (54–97) – 1964 làm bí thư thứ nhất ở Đại Sứ Quán Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Indonesia – 1966 Trần Quang Cơ trở lại Hà Nội, 1976 phụ trách Vụ Bắc Mỹ rồi chuyển sang vụ Âu Châu trước khi sang làm Đại Sứ tại Thái Lan vào năm 1982. Được đưa vào Trung ương đảng cộng sản Việt Nam từ 1986; ròng rã 12 năm kể từ 1979, ông Trần Quang Cơ tham gia các cuộc thương lượng nhằm giải quyết chiến tranh tại Cambodia. Sau chiến tranh Việt Nam, ông tham gia cuộc đàm phán bình thường hoá quan hệ với ba nước Hoa Kỳ, Liên Xô, và Trung Quốc. Tháng hai 1991, ông xin rút ra khỏi danh sách đề cử vào Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Việt Nam khóa VII nhưng không được chấp thuận. Tháng bẩy cùng năm ông gặp Tổng Bí Thư Đỗ Mười xin không nhận chức bộ trưởng ngoại giao thay thế ông Nguyễn Cơ Thạch. Cuối năm 1993, ở Hội nghị giữa nhiệm kỳ, ông tự ý xin rút khỏi Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.
Trong chiều hướng đi tìm những đối thoại thẳng thắn giữa cựu thù, McNamara đề nghị những học giả và cựu lãnh đạo cuộc chiến hai bên cộng sản Việt Nam và Hoa Kỳ cùng ngồi xuống duyệt lại những quyết định trong cuộc chiến nhằm hiểu rõ để khả dĩ rút được những kinh nghiệm lịch sử, thực dụng cho toàn cầu qua “bài học Việt Nam”. Sáu hội nghị như trên đã diễn ra tại Hà Nội từ tháng 11, 1995 đến tháng 2, 1998;Hội nghị thứ 7 thực hiện tại Viện Rockefeller ở Bellagio, Italy.
Ông Trần Quang Cơ, Nguyễn Cơ Thạch và một số học giả, tướng lãnh và cựu lãnh đạo CHXHCN Việt Nam đã tham dự chuỗi hội nghị này, quan trọng nhất là hai hội nghị chính vào tháng 6, 1997 và tháng 2, 1998.
Tập tài liệu này ghi lại nhiều dữ kiện quan trọng về quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa lớn nhỏ, với Hoa Kỳ và khối ASEAN cũng như những tranh chấp trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam.
Ghi lại những thông tin nổi cộm về các vấn đề của Việt Nam cận đại sau hơn bốn mươi năm mắt thấy tai nghe – được giữ kín–mật, chưa bao giờ phổ biến – cùng với những suy nghĩ của một cán bộ cộng sản trung kiên, tập hồi ký này sẽ phần nào giúp các nhà quan sát, những người cầm bút, thêm tài liệu phân tích cục diện Việt Nam những năm sau cuộc nội chiến và những tháng ngày trước mặt.
Dù ở ngàn năm trước hay ngay thời đương đại, quan hệ Việt– Trung lúc nào cũng là nỗi quan ngại của người Việt Nam, nhất là trước những mất mát, thiệt hại, đe dọa lớn đến chủ quyền và tài nguyên Việt Nam trong những năm gần đây dọc đường biên giới phía Bắc cũng như ở Vịnh Bắc Việt và cả vùng Biển Đông của Tổ Quốc; tập tài liệu này chỉ rõ một số hệ quả của tư duy và cách ứng xử của những người có trách nhiệm an dân bảo quốc trong những thập niên cận đại. Đấy là những bài học quý giá cho tất cả mọi người Việt quan tâm đến vận mệnh dân tộc.
Phụ đính, mục lục, tất cả những cước chú và chú thích ở tập tài liệu nhằm giúp người đọc dễ hiểu hơn và để tra cứu thêm khi cần.
Trần Giao Thủy ****************************************************************************************************** Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ
Trong 44 năm (1954–1997) làm ngoại giao, trải qua những giai đoạn khác nhau. Bản thân chứng kiến và tham gia nhiều sự kiện ngoại giao đáng ghi nhớ của thời kỳ kháng chiến và của thời kỳ hậu chiến như cuộc đàm phán hoà bình với Mỹ ở Pa–ri (1968–1973), đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Sở dĩ tôi chọn quãng thời gian (1975–1993) để viết ký ức này vì nó chứa đựng nhiều diễn biến khúc mắc tế nhị về đối ngoại. Nhất là trong quan hệ của ta với ba nước lớn, dễ bị vô tình hay cố ý làm “rơi rụng” để cho lịch sử được “tròn trĩnh”, khiến cho việc đánh giá và rút bài học bị sai lệch. Và đây cũng là giai đoạn mà mối quan hệ của ta với các nước lớn có những điều đáng phải băn khoăn suy nghĩ, không những cho hiện tại mà có thể cho cả tương lai.
Bối cảnh quốc tế lúc này rất phức tạp, chiến tranh lạnh đã đi vào giai đoạn cuối. Cả 3 nước lớn Liên Xô, Mỹ, Trung Quốc đều có những chuyển đổi về chiến lược, từ chỗ đối đầu quyết liệt với nhau chuyển sang hoà hoãn tay đôi rồi tay ba. Cục diện chính trị luôn biến đổi ở Châu Á Thái Bình Dương tác động trực tiếp đến tiểu khu vực Đông Nam Á và nước Việt Nam ta. Khu vực Đông Nam Á lúc này cũng đang trong quá trình chuyển đổi từ đối đầu sang quan hệ đối thoại giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN. Hoàn cảnh này đúng ra đòi hỏi Việt Nam phải mạnh dạn sớm đổi mới tư duy về đối ngoại để có được một đường lối phù hợp với thực tiễn khách quan nhằm thoát ra khỏi thế cô lập, hoà nhập được với đà phát triển chung của khu vực và thế giới. Nhưng không! Tư duy chính trị xơ cứng đã giam giữ nước ta trong cảnh khó khăn một thời gian dài. Chính vì thế ngoại giao quãng thời gian này đã để lại trong tôi nhiều băn khoăn suy nghĩ về cái đúng cái sai, cái nên làm và cái không nên làm. Tôi nghĩ rằng nếu nghiên cứu một cách trung thực và có trách nhiệm những sự kiện của giai đoạn lịch sử này thì từ đây có thể rút ra những bài học bổ ích và đích đáng cho ngoại giao ta hiện tại và tương lai với mục đích tôi cho là đảm bảo được lợi ích của dân tộc trong mọi trường hợp.
Vì vậy tài liệu này tôi viết làm 2 phần: Hồi ức và Suy nghĩ. Phần Hồi ức cố gắng ghi lại một cách khách quan và trung thực diễn biến của các sự kiện trong thời gian 1975–1993 trên cơ sở những tư liệu và nhật ký công tác còn lưu giữ được. Còn phần Suy nghĩ dành cho những ý nghĩ của riêng tôi, những điều trăn trở của tôi khi nghiền ngẫm lại các sự việc đã trải qua. Những ý nghĩ hoàn toàn theo chủ quan, có thể sai có thể đúng.
23.1.2001
Bản thảo này đã được bổ sung và hoàn chỉnh ngày 22.05.2003
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 4, 2015 7:25:17 GMT 9
Việt Nam trong thập niên 70 của thế kỷ 20
Nước Việt Nam ta trong những năm 70 của thế kỷ 20 đã trải qua những sự kiện to lớn: Hiệp định Pa–ri[1] 1973 về Việt Nam kết thúc cuộc đàm phán “ma–ra–tông[2]” 1968–1973 giữa VN và Mỹ, toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 đã đưa Việt Nam tới đỉnh cao của giải phóng dân tộc và uy tín của quốc tế. Thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ không chỉ là một tác nhân đưa đến những thay đổi rất quan trọng trong chiến lược của các nước lớn mà còn làm chuyển đổi cục diện chính trị khu vực Đông Nam Á. Nể sợ sức mạnh quân sự và ý chí kiên cường của Việt Nam, mặt khác lo ngại mối đe dọa từ nước Trung Hoa khổng lồ tăng lên một khi Mỹ rút khỏi Đông Nam Á, đồng thời lại có yêu cầu phát triển kinh tế, các nước ASEAN[3] sốt sắng bình thường hoá và cải thiện quan hệ với Việt Nam; tổ chức liên minh quân sự SEATO[4] tan rã; xu hướng hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á phát triển. Sau khi bị “gáo nước lạnh” ở Việt Nam, Mỹ lo tháo chạy khỏi Đông Nam Á, song lại sợ tạo ra một “khoảng trống” có lợi cho các đối thủ của mình. Một mặt sợ Liên Xô thừa thế mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á và thế giới, mặt khác lo Trung Quốc phát huy vai trò nước lớn Châu Á để lấp chỗ “hổng” đó nên Mỹ vừa tìm cách khai thác mâu thuẫn Xô–Trung vừa muốn có một nước Việt Nam độc lập cả với Trung Quốc lẫn Liên Xô để duy trì thế cân bằng chiến lược giữa 3 nước lớn trong khu vực Châu Á–Thái Bình Dương.
Trong tập “Tài liệu Lầu Năm Góc” (Pentagone Papers[5]) của Mỹ có viết: “Báo cáo của đại sứ Mỹ tại Anh gửi Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 1.3.1967 ghi lại một cuộc đối thoại ngắn giữa ngoại trưởng Anh Brown[6] và ngoại trưởng Ba Lan Rapacki[7] tại Luân đôn ngày 22.2.1967. Khi Brown hỏi nhận định của Rapacki về mức độ thế lực của Kossyguine[8] (thủ tướng Liên Xô lúc đó) đối với Hà Nội. Rapacki Trả lời: “Không kém của ông đối với Hà Nội”. Và khi Brown hỏi: “Giữa Trung Quốc và Liên Xô nước nào có nhiều ảnh hưởng hơn đối với Hà Nội?”. Rapacki Trả lời: “Bắc Việt Nam”. Đường lối độc lập tự chủ của Việt Nam thể hiện rõ nét trong suốt thời gian đàm phán với Mỹ ở Pa–ri.
Sau cuộc đàm phán với Mỹ ở Pa–ri năm 1973 tôi được đề bạt làm vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ nên có đầy đủ điều kiện trực tiếp theo dõi và xử lý mối quan hệ của nước ta với Mỹ sau chiến tranh.
Vào quãng hơn một tháng sau khi giải phóng miền Nam, ta có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp miệng “Lãnh đạo VNDCCH tán thành có quan hệ tốt trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Trên tinh thần đó, phía VN đã tự kiềm chế trong khi giải phóng, tạo cơ hội cho người Mỹ không bị cản trở trong việc tiến hành di tản nhân viên của họ. Phía VN đã cố gắng làm mọi sự cần thiết để không làm xấu đi quan hệ với Mỹ trong tương lai. Không có sự thù địch đối với Mỹ ở Việt Nam và VN cũng không muốn thấy như vậy ở phía Mỹ”.
Ngày 12.6.75, Mỹ gửi đến Sứ quán ta ở Pa–ri bức thông điệp đáp lại: “Về nguyên tắc, Mỹ không thù hằn gì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Đề nghị trên cơ sở đó tiến hành bất cứ quan hệ nào giữa hai bên (procced on this basis in any relations between the two sides). Mỹ sẵn sàng nghe bất cứ gợi ý nào mà phía VNDCCH có thể muốn đưa ra”. Thông điệp này do Sứ quán Mỹ ở Pa–ri gửi tới Sứ quán ta, nội dung không nói rõ là của Bộ Ngoại giao Mỹ hay của cấp nào.
Ngày 11.7.75, ta gửi thông điệp cho Mỹ, chủ yếu nhắc lại đoạn nói về Mỹ trong Báo cáo của Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh[9] đọc trước Quốc hội ngày 4.6.75: “Việc Chính phủ Hoa Kỳ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, từ bỏ hoàn toàn sự can thiệp vào công việc nội bộ miền Nam Việt Nam, làm nghĩa vụ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh ở cả hai miền Việt Nam, sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ bình thường giữa VNDCCH và Hoa Kỳ theo tinh thần Điều 22[10] Hiệp định Pa–ri về Việt Nam.”
Cuộc tiếp xúc đầu tiên sau chiến tranh giữa ta và Mỹ diễn ra tại Pa–ri ngày 10.7 ở cấp bí thư thứ nhất đại sứ quán (Đỗ Thanh–Pratt) chủ yếu bàn về vấn đề MIA[11], cụ thể phía Mỹ xin được trao trả một số hài cốt phi công Mỹ bị bắn rơi ở miền Bắc. Đến cuộc gặp tiếp theo ngày 5.9.75, cũng vẫn phía Đỗ Thanh và Pratt, ta đồng ý sẽ giao cho Mỹ 3 bộ hài cốt “giặc lái”. Song mãi tới tháng 12 ta mới cho phép một đoàn 4 hạ nghị sĩ Mỹ do Chủ tịch Ủy ban POW/MIA[12] G.V. Montgomery dẫn đầu vào Hà Nội nhận. Đoàn này đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp.
Sang năm 1976, Mỹ lại thông qua Liên Xô thăm dò việc tiếp xúc với ta, song khẳng định sẽ không thực hiện điều 21[13] của Hiệp định Pa–ri. Công hàm ngày 26.3.76 của Henry Kissinger–lúc này là ngoại trưởng–gửi ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh cảm ơn ta đã đón tiếp đoàn Montgomery và sẵn sàng mở cuộc thảo luận về việc thiết lập mối quan hệ mới giữa hai nước. “I believe that the interests of peace and security will benefit from placing the past behind us and developing the basis for a new relationship between our two countries”. Ngày 30.4 bộ trưởng ngoại giao ta gửi công hàm trả lời, nêu lại những vấn đề tồn tại giữa 2 nước (vấn đề bồi thường chiến tranh và vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh), trên cơ sở giải quyết 2 vấn đề đó sẽ bình thường hoá quan hệ với Mỹ theo quy định của Điều 22 Hiệp định Pa–ri. Ta sẵn sàng xem xét đề nghị cụ thể của Mỹ về việc mở thương lượng giữa hai bên. Ta sẽ có trả lời không để quá lâu, song sẽ không trước khi Quốc hội Mỹ bàn về việc bỏ cấm vận đối với Việt Nam. Gần như đồng thời với việc G. Ford[14] bác kiến nghị của Quốc hội Mỹ yêu cầu tạm ngừng trong 6 tháng lệnh cấm vận buôn bán với Việt Nam. Bộ ngoại giao Mỹ gửi thông điệp khẳng định sẵn sàng sớm có thảo luận với VN, song nhận xét quan điểm ta đặt thương lượng trên cơ sở “selective application of past agreements” là không đem lại kết quả xây dựng; vấn đề “full accounting” về MIA sẽ là một trong những vấn đề hàng đầu của Mỹ, chỉ khi nào vấn đề này được giải quyết “một cách cơ bản” (substantially) mới có thể có tiến bộ thật sự tới bình thường hóa quan hệ giữa hai nước chúng ta. Đề nghị VN xem lại một cuộc họp bàn về các vấn đề tồn tại là có bổ ích hay không?
Tình hình nhùng nhằng như vậy kéo dài cho tới khi Jimmy Carter[15] trúng cử tổng thống thay Gerald Ford năm 1977. Chính quyền mới của đảng Dân chủ có quan điểm chiến lược khác và thái độ đối với Việt Nam mềm mỏng hơn. Nguyên nhân quan trọng khiến chính quyền Carter quan tâm ngay từ đầu đến việc thiết lập mối quan hệ mới với Việt Nam là lợi ích chiến lược của Mỹ ở khu vực châu Á Thái Bình Dương. Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc, Andrew Young, đã nói rõ điều đó: “Chúng tôi coi Việt Nam như một Nam Tư ở Châu Á. Không phải là bộ phận của Trung Quốc hay của Liên Xô, mà là một nước độc lập. Một nước Việt Nam mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ” (tháng 1/1977).
Ngày 6/1/1977, thông qua Liên Xô, Mỹ lại đưa ra một kế hoạch 3 bước về bình thường hóa quan hệ với Việt Nam:
1)Việt Nam cho biết tin về những “người Mỹ mất tích trong chiến tranh” (MIA). 2)Mỹ chấp nhận Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc và sẵn sàng lập quan hệ ngoại giao đầy đủ, cũng như bắt đầu buôn bán với Việt Nam. 3)Mỹ có thể đóng góp khôi phục lại Việt Nam bằng cách phát triển buôn bán, cung cấp thiết bị và các hình thức hợp tác kinh tế khác.
Ngày 3/3/1977 chính quyền Carter quyết định nới lỏng một phần cấm vận đối với ta, cho phép tàu thuỷ và máy bay nước khác chở hàng sang Việt Nam được ghé các cảng và sân bay của Mỹ để lấy nhiên liệu (nhưng vẫn cấm người Mỹ buôn bán với Việt Nam, cấm tàu Mỹ đến Việt Nam, cấm tàu và máy bay Việt Nam đến cảng và sân bay Mỹ). Ngày 9/3/1977 Mỹ cho phép công dân Mỹ được đi thăm Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên, CPC[16] kể từ ngày 18/3/1977.
Đến giữa tháng 3, ta nhận tiếp đón Leonard Woodthingy[17], đặc phái viên của tổng thống Mỹ Carter, sang Việt Nam. Ngày 17/3/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tiếp L. Woodthingy và 4 thành viên – trong đó có Thượng nghị sĩ Mansfield tại Chủ tịch phủ ở Hà Nội. Ngày hôm đó, đoàn Mỹ cũng đã đến chào Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh.
Sau chuyến đi thăm mở đường này, hai bên đã thỏa thuận mở cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ tại Pa–ri. Đoàn ta lúc đó do Thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền dẫn đầu, thành viên có tôi, vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ, anh Vũ Hoàng, vụ trưởng Vụ Lãnh sự và mấy cán bộ Vụ Bắc Mỹ: a. Bùi Xuân Ninh, Cương, Lê Mai. Anh Lê Mai khi đó là cán bộ Vụ Bắc Mỹ, làm phiên dịch cho trưởng đoàn. Sứ quán ta ở Pháp có anh Đỗ Thanh, bí thư thứ nhất và anh Nguyễn Thiện Căn, tuỳ viên báo chí, tham gia đoàn. Phía Mỹ do R.Holbrooke làm trưởng đoàn. Cuộc đàm phán diễn ra khá lâu, phải qua 3 vòng đàm phán trong tháng 5, tháng 6 và tháng 12 năm 1977. Địa điểm luân phiên ở đại sứ quán ta và đại sứ quán Mỹ tại Pháp. Trong đàm phán vòng 1 (ngày 3–4/5/1977), lập trường của Mỹ là hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ ngay và vô điều kiện, còn những vấn đề khác giữa hai bên để lại giải quyết sau; Mỹ sẽ không cản Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Còn về điều 21 (của Hiệp định Pa–ri về VN), Mỹ có khó khăn về pháp luật nên không thực hiện được, hứa sẽ thực hiện khi đã có quan hệ, bỏ cấm vận buôn bán và xét viện trợ nhân đạo. Theo chỉ thị đã nhận trước khi đi, ta kiên quyết đòi phải giải quyết “cả gói” 3 vấn đề: ta và Mỹ bình thường hoá quan hệ (bao gồm cả việc bỏ cấm vận và lập quan hệ ngoại giao đầy đủ), ta giúp Mỹ giải quyết vấn đề MIA và Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô–la cho Việt Nam như đã hứa hẹn trước đây. Trở ngại lớn nhất cho việc bình thường hoá quan hệ là việc ta đòi Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô–la cho ta vì Quốc hội Mỹ khi đó dứt khoát không chấp nhận viện trợ làm điều kiện cho việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Ngày 2–3/6, đàm phán vòng 2, Mỹ nêu lại các đề nghị hồi tháng 5. Ngày 19/7/1977, tại Hội Đồng Bảo An LHQ, Mỹ rút bỏ việc phủ quyết Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Sau vòng 2, anh Phan Hiền đã phải bay về Hà Nội báo cáo và xin chỉ thị, thực chất là đề nghị trên nên có thái độ thực tế và đối sách mềm dẻo hơn, nhưng nghe nói cả 4 vị lãnh đạo chủ chốt[18] của ta lúc đó đều nhất trí lập trường trên. Trước đòi hỏi kiên quyết của ta, tại vòng 3 (19–20/12/1978), Mỹ đề nghị nếu chưa thoả thuận được về việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ thì có thể lập Phòng Quyền lợi (Interest section) ở thủ đô hai nước, nhưng như vậy thì chưa bỏ cấm vận được. Sau khi có Phòng Quyền lợi thì sẽ tuỳ tình hình mà xét bỏ cấm vận, song ta vẫn giữ lập trường cứng nhắc đòi giải quyết “cả gói” 3 vấn đề.
Rõ ràng năm 1977 chính quyền Carter thực sự muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và năm 1977 đã có khả năng thực tế để ta bình thường hóa quan hệ với Mỹ nhưng ta đã bỏ qua. Trong khi đó, theo sự xúi dục của Bắc Kinh, chính quyền Polpot bắt đầu chiến tranh biên giới từ ngày 20 tháng 4 và đơn phương cắt đứt quan hệ ngoại giao với ta ngày 31.12.1977.
Từ đầu năm 1978, quan hệ giữa 3 nước lớn Mỹ–Xô–Trung bắt đầu chuyển từ hình thái đối đầu từng đôi một sang hình thái Mỹ–Trung câu kết chống Liên Xô. Liên Xô nhân thế yếu của Mỹ sau thảm bại ở Việt Nam ra sức tăng cường ảnh hưởng ở Á–Phi và Mỹ la tinh bằng học thuyết “chủ quyền hạn chế” của Brejnev[19]. Tại Châu Á, Liên Xô đưa quân vào Afghanistan (1979), đồng thời thực hiện chính sách bao vây Trung Quốc. Cũng từ năm 1978, Mỹ đẩy nhanh quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (từ tháng 2/1978), khi Kissinger đi thăm Bắc Kinh, TQ[20] và Mỹ đã ký thoả thuận lập Cơ quan liên lạc ở thủ đô 2 nước với quy chế như một sứ quán. Nước cờ “chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô” của cố vấn an ninh quốc gia Z. Brzezinski[21] đã dần dần lấn lướt chủ trương của ngoại trưởng Cyrus Vance và R. Holbrooke là “thúc đẩy song song việc cải thiện quan hệ với Việt Nam và Trung Quốc”. Ngày 23/8/78, trong lúc Mỹ đàm phán về bình thường hoá quan hệ với ta ở Pa–ri, ngoại trưởng Mỹ C. Vance đã đi thăm Bắc Kinh. Cho đến khi Đặng Tiểu Bình[22] tuyên bố “Trung Quốc là NATO phương Đông” và “Việt Nam là Cuba phương Đông” (19/5/1978) và Brzezinski đi thăm Trung Quốc (20/5/1978) thì chính quyền Carter đã chọn con đường bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và gác sang bên việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.
Ngày 21 tháng 8 năm 1978 Quốc hội Mỹ còn cử một đoàn 7 hạ nghị sĩ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hoà, do hạ nghị sĩ Dân chủ G.V. Montgomery, chủ tịch Ủy ban POW/MIA, dẫn đầu sang Việt Nam chủ yếu để trao đổi với thứ trưởng Phan Hiền về vấn đề tìm kiếm “người Mỹ mất tích trong chiến tranh” (MIA). Ta đã trao trả cho Mỹ một số bộ hài cốt để tỏ thiện chí hợp tác trong vấn đề MIA. Và theo yêu cầu của họ, tôi đã dẫn đoàn Montgomery đi miền Nam, thăm thánh thất Cao Đài và một trại người Campuchia tị nạn chiến tranh ở biên giới Tây Ninh. Đây là lần đầu tiên ta cho phép một đoàn Mỹ chính thức thăm thành phố Hồ Chí Minh kể từ khi giải phóng miền Nam.
Sau đó chừng một tháng, tôi sang Nữu–ước[23] để tiếp tục cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Cuộc đàm phán vòng 4 về bình thường hoá quan hệ Việt Nam–Mỹ không kéo dài nhiều năm 1977 ở Pa–ri. Lần này trưởng đoàn đàm phán của ta là thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch[24]. Còn phía Mỹ vẫn là R. Holbrooke. Đến lúc này khi ta quyết định rút bỏ đòi hỏi “Mỹ phải bồi thường chiến tranh – viện trợ 3,2 tỷ đô–la – mới bình thường hoá quan hệ” và nhận công thức “bình thường hoá quan hệ không điều kiện” của Mỹ thì đã muộn. Sở dĩ Mỹ tiếp tục đàm phán vấn đề bình thường hoá với ta lúc đó là chỉ nhằm làm Việt Nam chập chững trong quan hệ với Liên Xô và trong vấn đề Campuchia, trong khi đó Mỹ đã chuyển hướng sang phía Trung Quốc. R. Holbrooke nói với ta: Mỹ coi trọng Châu Á; Mỹ cần bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Nhưng Mỹ lo ngại Liên Xô đặt căn cứ ở Cam Ranh.
Trong khi chờ đợi phía Mỹ trả lời dứt khoát về vấn đề bình thường hoá quan hệ, khoảng hạ tuần tháng 11, anh Thạch về Hà Nội trước, còn tôi vẫn ở lại Nữu ước để giữ cầu. Ngày 30/11/1978, R. Oakley[25], trợ lý ngoại trưởng Mỹ, trả lời sự thúc dục của tôi, còn nói: Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ 3 vấn đề CPC, Hiệp ước Việt–Xô và vấn đề người di tản. Rồi họ trao cho tôi tấm ảnh toà nhà của sứ quán ngay trên đường R. ở Hoa–thịnh–đốn[26], nói là sẽ trao trả ta toà nhà đó làm trụ sở đại sứ quán, yêu cầu ta cung cấp sơ đồ ngôi nhà cũ của tổng lãnh sự quán Mỹ tại đường Tràng Thi (?) Hà Nội.
Tôi ở lại Nữu ước mãi tới cuối tháng 1/1979, sau khi ta đưa quân vào Campuchia giúp bạn đánh đuổi Polpot giải phóng Nông–Pênh[27]. “Các cuộc nói chuyện Mỹ–Việt Nam về bình thường hoá đã tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam” (Cyrus Vance 9/1/1979). Tôi nghĩ, thực ra Mỹ đã quyết định dứt bỏ quá trình đàm phán bình thường hoá quan hệ với ta từ khi ta tham gia khối COMECON[28] và ký Hiệp ước hữu nghị với Liên Xô (3/11/1978), để bắt tay với Trung Quốc chống Liên Xô ở Châu Á–Thái Bình Dương.
Việc Đặng Tiểu Bình đi thăm Mỹ (29–30/1/1979) đánh dấu việc bình thường hoá quan hệ Mỹ–Trung Quốc, cũng là chính thức xếp lại việc bình thường hoá quan hệ Việt Nam–Mỹ tới 17 năm sau. Trong khi gặp Carter ở Hoa–thịnh–đốn, Đặng Tiểu Bình đã tỏ ý sẽ tiến công vào Việt Nam và không gặp phải phản ứng bất lợi nào từ phía Mỹ. Theo Brzezinski, trong cuộc hội đàm với Carter hôm 29/1, Đặng yêu cầu có sự cộng tác giữa Mỹ và TQ để chống Liên Xô. Còn Carter có phần thận trọng hơn, đồng ý có những cuộc tham khảo chặt chẽ giữa hai nước để chặn chủ nghĩa bành trướng của LX nhưng thận trọng tránh đề cập tới đề nghị của Đặng. Sau đó, ngày 26/2/1979, Carter có nêu 6 nguyên tắc xử sự khi Trung Quốc xâm lăng Việt Nam: Mỹ không can thiệp trực tiếp; khuyến khích các bên tự kiềm chế; Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam, cuộc xung đột không đe dọa lợi ích trước mắt của Mỹ; không đặt lại vấn đề bình thường hoá với Trung Quốc; quyền lợi đồng minh của Mỹ không bị đe dọa. Cũng từ đó, cuộc xung đột CPC và quan hệ với Việt Nam đã được đặt trong khuôn khổ của mối quan giữa 3 nước lớn Mỹ–Xô–Trung. Và cũng từ đó Mỹ gắn vấn đề quan hệ Mỹ–Việt Nam với quá trình giải quyết vấn đề CPC.
Là nhân chứng lịch sử và cũng là người trực tiếp tham gia các hoạt động ngoại giao này với tư cách là vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ Bộ ngoại giao, trực tiếp tham gia đoàn đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ ở Pa–ri năm 1977 rồi ở Nữu ước năm 1978, tôi thật sự đau xót vì ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hoà bình để tập trung phát triển đất nước sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực. Trong tập hồi ký của mình (From Third world to First[29]–Từ thế giới thứ ba đến thế giới thứ nhất). Lý Quang Diệu[30] đã nhận xét: “Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Băng–cốc[31]. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”.
Việc ta từ chối lời đề nghị “bình thường hoá quan hệ không điều kiện” của Mỹ, làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ chức khu vực này, theo tôi, đã đưa lại những hệ quả vô cùng tai hại cho nhân dân và đất nước ta. Liệu Trung Quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt chủng Polpot khiêu khích ta và có dám đánh ta năm 1979 nếu như Việt Nam sau Chiến thắng 1975 có một chiến lược “thêm bạn–bớt thù” thực sự cầu thị hơn? Việc bình thường hoá quan hệ với Mỹ và việc gia nhập khối ASEAN mãi ngót 20 năm sau (1995) ta mới thực hiện được một cách khá chật vật.
Theo tôi, tư duy đối ngoại có phần cứng nhắc của ta lúc ấy quả đã không theo kịp bước chuyển biến của chính trị thế giới thể hiện qua sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn sau sự kiện Việt Nam 1975, để dám có những quyết sách linh hoạt kịp thời đem lại lợi ích to lớn lâu dài cho dân tộc ta. Ngược lại, việc ta bỏ lỡ cơ hội bình thường hoá quan hệ với Mỹ lúc này đã khiến Việt Nam gần như đơn độc trước một Trung Quốc đầy tham vọng.
Còn với Trung Quốc, sau khi có Hiệp định Pa–ri 1973, Trung Quốc có lợi ích duy trì nguyên trạng ở Đông Dương, nhất là việc Việt Nam chia cắt thành hai miền dưới hai chế độ chính trị khác nhau là phù hợp với ý đồ lâu dài của họ ở Đông Nam Á. Sau khi đi thăm Trung Quốc về, thượng nghị sĩ Mỹ K. Mansfield báo cáo trước Quốc hội Mỹ (1/2/1975): Trung Quốc tán thành để hai nước Việt Nam tiếp tục tồn tại. Trung Quốc cho rằng một nước Campuchia thống nhất, trung lập là điều chủ yếu trong một Đông Dương ổn định.
Từ 1973, đã xảy ra những va chạm ở biên giới Việt–Trung. Năm 1974, Trung Quốc chiếm ngon lành nốt phần còn lại ở quần đảo Hoàng Sa của ta. Có người cho rằng chỉ sau khi ta ngả hẳn theo Liên Xô thì Trung Quốc mới chống ta. Song sự thật là các hoạt động thù địch của Trung Quốc đối với Việt Nam đã xảy ra từ trước khi Việt Nam tham gia khối SEV[32] (tháng 6/1978) và ký Hiệp ước hữu nghị với Liên Xô (tháng 11/1978). Tháng 12 năm 1975, sau khi thăm Trung Quốc qua Pa–ri, H. Kissinger nói: Mỹ đang tính toán việc sử dụng Trung Quốc để hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam ở khu vực.
Nét đặc trưng của giai đoạn 1975–78 là Campuchia trở thành tiêu điểm của sự đối đầu giữa một bên là Trung Quốc và một bên là Việt Nam được Liên Xô ủng hộ. Sự đối đầu ấy trở thành xung đột quân sự ngay từ tháng 5/1975 và phát triển lên thành cuộc chiến tranh biên giới Tây–Nam nước ta. Trong khi trả lời phỏng vấn, ngày 8/1/1978 tôi đã nhận định: Điều lý thú đây là trường hợp đầu tiên của một cuộc chiến tranh qua tay người khác giữa Liên Xô và Trung Quốc; xung đột giữa Việt Nam được Liên Xô ủng hộ và CPC được Trung Quốc ủng hộ.
Như vậy chỉ qua 4 năm sau khi giải phóng được đất nước, ta lại bị xô đẩy vào cuộc chiến thảm khốc ở Campuchia, đối đầu ngay với Trung Quốc, kẻ đã từng là đồng minh chiến lược của ta trong 30 năm chiến đấu chống xâm lược phương Tây. Sau hai cuộc kháng chiến gian khổ, dân ta mới chỉ được hưởng mùi vị của chiến thắng và hoà bình êm ả chưa đầy 5 năm. Vết thương chiến tranh chưa lành thì đã lâm vào cảnh nửa hoà bình nửa chiến tranh. Chiến tranh chống Mỹ tuy gian khổ khốc liệt song Việt Nam còn có được mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ, còn trong cuộc chiến đấu chống diệt chủng Polpot thì Việt Nam hầu như hoàn toàn cô lập. Các nước cùng khu vực lo sợ Việt Nam sau khi “hạ xong” Campuchia sẽ phát huy sức mạnh quân sự ra cả Đông Nam Á. Còn Trung Quốc ra sức vu khống “Việt Nam xâm lược Campuchia và có mưu đồ lập “Liên bang Đông Dương” để làm chủ cả Lào lẫn Campuchia, xoá mờ tính chất “chống diệt chủng” của việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia.
Cũng thời gian này, do những khó khăn kinh tế–xã hội chồng chất của thời kỳ chiến tranh chưa được tháo gỡ, lại bị bao vây cấm vận bên ngoài nên trong nước đã nảy sinh ra tình trạng “vượt biên” trốn ra nước ngoài của một bộ phận dân chúng ở cả miền Nam lẫn miền Bắc, tạo thêm gánh nặng về đối ngoại cho ta, bôi đen thêm hình ảnh Việt Nam trên quốc tế. Vấn đề Campuchia và vấn đề “thuyền nhân” (boat people) lúc đó quả là hai gánh nặng trên mặt trận đối ngoại của ta trong thập niên 80 của thế kỷ 20.
Nửa cuối của thập kỷ 70 này là thời gian ta chồng chất nhiều sai lầm về đối ngoại nhất trong suốt lịch sử dựng nước sau cách mạng (từ 1945 đến nay):
- Ta không khôn ngoan duy trì mối quan hệ cân bằng với Trung Quốc và Liên Xô, nhân tố cực kỳ quan trọng đảm bảo thắng lợi của ta trong kháng chiến chống Mỹ. - Bỏ lỡ cơ hội bình thường hoá quan hệ với Mỹ, năm 1977, khi chính quyền Carter đã chủ động đề nghị hai bên bình thường hoá quan hệ không điều kiện. - Đánh giá sai và không gia nhập khối ASEAN ngay từ 1976 khi cả 6 nước này đều mong muốn ta tham gia vì lợi ích của mỗi một quốc gia và của chung khu vực. - Dính líu sâu và lâu vào vấn đề Campuchia.
Những sai lầm này có hệ quả liên quan chặt chẽ với nhau, gây thiệt hại lớn cho ta về đối ngoại, về an ninh quốc phòng, về phát triển kinh tế trong một thời gian dài.
[1]Paris [2]Marathon [3] The Association of Southeast Asian Nations, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [4] Southeast Asia Treaty Organization [5]The Pentagon Papers (1971), the New York Times Ed. [6] George Alfred George–Brown, Baron George–Brown (11.8.1966–16.3.1968) – Từ chức vì nghiện rượu [7] Adam Rapacki, Ngoại trưởng Poland 1956–1968 (+1970) [8] Kosygin, Alexei Nikolayevich , 1904–80, Thủ tướng USSR (1964–80) dưới thời Leonid Brezhnev [9] 1910–1985, Đại diện VNDCCH ký Hiệp Định Paris 1973 Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam – 27.01.1973, Paris Chương VIII – Điều 22 [13] Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam – 27.01.1973, Paris Hoa Kỳ mong rằng Hiệp định này sẽ mang lại một thời kỳ hoà giải với Việt Nam dân chủ cộng hoà cũng như với tất cả các dân tộc Đông dương. Theo chính sách truyền thống của mình, Hoà Kỳ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng sau chiến tranh ở Việt Nam dân chủ cộng hoà và toàn Đông Dương. [14] Gerald Rudolph Ford, (14.7.1913–), tên Leslie Lynch King, Jr. khi mới chào đời, đổi tên và lấy họ của cha kế. Tổng Thống thứ 38 của Hoa Kỳ (1974–1977) [15] James Earl Carter, Jr. (1.10.1924–) Tổng Thống thứ 39 của Hoa Kỳ (1977–1981) [16] Kampuchea (Cambodia) [17] (15.2.1911–18.1.2001) Chủ tịch Công Đoàn UAW (1970–77), Đại sứ đầu tiên của Hoa Kỳ tại Beijing [18] Lãnh đạo bộ chính trị ĐCSVN (1977): Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ [19] Leonid Ilyich Brezhnev (1906–1982) [20] Trung Quốc [21] Zbigniew Brzezinski (28.3.1928–) Warsaw, Poland, trở thành công dân Canada, rồi công dân Hoa Kỳ (1958); cố vấn cho các chính phủ của đảng Dân Chủ từ những năm 60; Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của TT Carter [22] Deng Xiaoping (1905–1997), cha đẻ của “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” tại Trung Quốc vào cuối thập niên 70 [23]New York [24] Tên thật là Phạm Văn Chương (1920–1998), thư ký riêng của Võ Nguyên Giáp (1945–49); Tổng Giám Đốc ở Bộ ngoại giao (1954); Tổng Lãnh Sự tại India (1959) vào Trung ương đảng từ 1976, Thứ trưởng thứ nhất (1979), Bộ trưởng Ngoại Giao từ 1986 đến khi “về hưu” năm 1991. [25] Robert B. Oakley, Deputy Assistant Secretary of State for East Asia and the Pacific (2.1977) [26]Washington D.C. [27] Phnom Penh, thủ đô Cambodia [28] The Council for Mutual Economic Assistance [29] From Third World to First: The Singapore Story, 1965–2000, Lee Kwan Yew, HarperCollins, 10.1.2000 [30] Lee Kwan Yew, Thủ tướng đầu tiên của Singapore sau ngày độc lập (1959–1990) [31] Bangkok, thủ đô Thailand [32] SEV, Hội đồng hỗ trợ kinh tế (COMECON, CMEA, CEMA: Cuuncil for Mutual ECONomic assistance)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 4, 2015 7:26:50 GMT 9
Một nhiệm kỳ đại sứ không tẻ nhạt.
Tháng 10.1982, tôi được bổ nhiệm đi làm đại sứ tại Vương quốc Thái Lan[1]–một điểm tiên tiến của mặt trận đối ngoại thời kỳ ấy vì chính quyền Thái Lan lúc đó gắn bó rất chặt với Trung Quốc trong việc nuôi dưỡng bè lũ diệt chủng Polpot chống Việt Nam. Không thể nói nhiệm kỳ đại sứ của tôi ở Thái Lan khi đó là bình lặng hay tẻ nhạt. Hầu như không có tháng nào là không có những đám đông biểu tình trước sứ quán hò hét phản đối Việt Nam “xâm lược” Campuchia, xâm phạm lãnh thổ Thái. Thông thường những hoạt động này trở nên náo nhiệt vào đầu mùa khô hàng năm, cùng lúc với các hoạt động quân sự bắt đầu trên biên giới CPC–Thái. Đám “biểu tình” – có khi là dân “xám–ló” (loại xe xích–lô máy của Thái), có khi là tổ chức dân vệ Thái, có khi là đám người Việt phản động ở mấy tỉnh Đông Bắc–thường tụ tập trong công viên Lum–pi–ni[2] ở gần đại sứ quán ta trên đường Oai–rơ–lét (Wireless Road[3]), để nhận tiền “biểu tình phí”.
Báo chí Thái Lan hồi đó hình như rất khoái theo dõi phản ánh các hoạt động của đại sứ Việt Nam, đặc biệt là những khi có cuộc gặp gỡ không lấy gì làm vui vẻ giữa Bộ Ngoại giao Thái Lan và đại sứ Việt Nam. Phải nói rằng nhiệt độ không khí “chuyện trò” giữa tôi với các vị quan chức, ngoại giao Thái phản ánh khá trung thành cường độ chiến sự ở vùng biên giới Campuchia–Thái Lan. Tôi không thể nào quên lời phát biểu đầy phẫn nộ của ngài Tư lệnh lục quân đầy quyền uy Ac–thit Khăm–lang–ẹc[4] với báo chí: “Chẳng cần có đại sứ Việt Nam ở Thái Lan nữa”, sau khi tôi đã lịch sự nhưng kiên quyết từ chối nhận hai bức công hàm phản đối của ngoại trưởng Thái. Bức công hàm ngày 17.4.1983 của Thái phản đối quân đội Việt Nam bắn rơi chiếc máy bay trinh sát L19 làm chết viên phi công lái máy bay đó, và sau đó lại bắn hỏng một chiếc trực thăng của quân đội Thái. Còn công hàm ngày 1.5.1984 phản đối quân đội Việt Nam “pháo kích vào lãnh thổ Thái” thuộc tỉnh Surin làm chết và bị thương một số dân làng. Tuyên bố giận dữ của tướng Ac–thit đã được phụ hoạ bởi một số báo Thái, trong đó tờ nhật báo tiếng Anh “Daily News” (Tin tức hàng ngày) có xã luận viết: “Chính phủ (Thái Lan) cần yêu cầu Việt Nam thay ngay đại sứ của họ ở Băng–cốc để phản đối việc ông này đã từ chối nhận công hàm phản kháng của Thái”. Sự việc đó xảy ra vào thời gian đầu mùa khô 1984–1985, lúc quân tình nguyện Việt Nam mở chiến dịch đánh thẳng vào vùng “đất thành” và xoá sạch các căn cứ của 3 phái Khơ–me phản động nằm trên đường biên giới Campuchia–Thái Lan và cắm sâu vào đất Thái Lan. Cũng thời gian đó đã xảy ra những vụ tập kích và pháo kích của quân Trung Quốc vào mấy tỉnh biên giới phía Bắc nước ta để phối hợp cứu nguy cho bọn diệt chủng Polpot ở mặt trận phía Tây nước ta.
Thông qua báo chí Thái, tôi cũng đã có dịp làm cho nhân dân Thái Lan rõ sự thật về vấn đề Campuchia trong khi trả lời phỏng vấn của tờ Kledlap (Bí Quyết) ngày 15.4.1984:
Hỏi: Ngài có tán thành ý kiến cho rằng chiến tranh CPC là cuộc xung đột giữa Liên Xô–VN một bên với Trung Quốc–Khơ–me đỏ một bên, còn ASEAN và các bên khác chỉ đóng vai trò phụ? Nếu đúng như vậy, Ngài có ý kiến thế nào về sáng kiến của ông Adam Malik[5] về đàm phán Liên Xô–Việt Nam–Trung Quốc để giải quyết vấn đề CPC?
T.L: Thực chất của cái gọi là vấn đề CPC hiện nay là việc Trung Quốc sử dụng một trong những công cụ đắc lực nhất và cũng là thô bạo nhất của họ để can thiệp và đe dọa an ninh của các nước Đông Dương, trước hết là Campuchia. Nếu cho rằng đây là xung đột giữa Liên Xô–Việt Nam với Trung Quốc–Khơ–me đỏ thì là mắc bẫy Trung Quốc cả, đều là sai lầm nguy hiểm. Vì như thế sẽ không thấy được mối đe dọa lớn đối với an ninh của tất cả các khu vực này là chủ nghĩa bành trướng và bá quyền Trung Quốc. Liên Xô trước đến nay chỉ giúp nhân dân 3 nước Đông Dương bảo vệ độc lập và xây dựng hoà bình đất nước mình, không đe dọa ai cả. Vì vậy, xin miễn phát biểu về ý kiến của ông Adam Malik ở đây.
Hỏi: Chiến tranh (ở CPC) kéo dài sẽ ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam và ASEAN, không rõ ai sẽ chịu đựng được lâu hơn ai?
T.L: Tôi nghĩ rằng không nên đặt vấn đề như vậy, vì sẽ trúng hiểm kế của Bắc Kinh. Thủ đoạn lớn của họ trong chính trị quốc tế xưa nay vẫn là “ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”. Nước chúng ta không lớn như họ, vì vậy ta cần phải thông minh hơn họ, ít nhất cũng không mắc mưu họ. Lợi ích của nhân dân các nước Đông Nam Á không cho phép chúng ta kéo dài tình hình đối đầu hiện nay để cho các nước khác đứng ngoài hưởng lợi.
Trong chuyến đi Inđônêxia[6] tháng 3 vừa qua của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, Việt Nam và Inđônêxia đã nhất trí nhận định là để tình hình tiếp tục như hiện nay là có hại cho các nước trong khu vực trong cố gắng xây dựng nền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân mình. Hai bên đã thừa nhận là giải quyết được tình hình này sẽ có lợi cho tất cả các nước Đông Nam Á. Nếu không sẽ chỉ có lợi cho các bên thứ ba.
Hỏi: Không rõ Ngài có thể khẳng định được hay không rằng trong tình hình hiện nay quân VN sẽ không tràn qua biên giới Thái Lan.
T.L: Về điều này chúng tôi có thể đảm bảo chắc chắn rằng chúng tôi không xâm phạm lãnh thổ của Thái Lan.
Hỏi: Nhưng chính quyền và quân đội Thái Lan đã vạch rõ điều đã xảy ra. Một số phóng viên nước ngoài cũng đưa tin này.
T.L: Xin khẳng định lại rằng trong đợt tấn công bọn Khơ–me đỏ vừa qua, bọn này đã chạy vào lãnh thổ Thái Lan. Lực lượng của chúng tôi đã dừng lại ở biên giới chứ không xâm phạm lãnh thổ Thái Lan, mặc dù phía Thái Lan đã tạo điều kiện cho bọn này chạy sang. Về tin nói rằng bắt được tù binh Việt Nam, có xác binh sĩ và xe tăng Việt Nam trong đất Thái Lan là hoàn toàn bịa đặt.
Hỏi: Ngài Tư Lệnh tối cao kiêm Tư Lệnh Lục quân (Ac–thit Khăm–lăng–ẹc) đã đưa ra tin này
T.L: Chính Ngài Tư Lệnh tối cao quân đội khẳng định tin nói rằng quân đội Thái Lan đã sử dụng máy bay A.37 ném bom phá hủy kho vũ khí của Khơ–me đỏ, cũng chưa rõ kho này nằm trên đất Thái hay trên đất CPC. Trong khi chiến sự đang xảy ra ở biên giới, quân đội Thái Lan đã không tạo điều kiện cho phóng viên nước ngoài vào làm tin ở khu vực đó. Nhiều phóng viên nước ngoài rất bất bình về việc này và nói rằng quân đội Thái Lan đưa tin rất lộn xộn, hôm nay nói thế này, ngày mai lại nói thế kia, không thống nhất. Ví dụ như lúc đầu nói bắt được 40 tù binh VN, sau đó nói là bắt được 41 người, tiếp đó nói chỉ bắt được 6 người, còn là người Khơ–me.
Hỏi: Không rõ Việt Nam sẽ có biện pháp sớm chấm dứt chiến sự như thế nào?
T.L: Theo ý kiến riêng tôi, nếu chiến sự lần này chấm dứt càng sớm sẽ càng có lợi cho các bên. Trước hết chúng tôi muốn giữ gìn mối quan hệ, muốn làm cho biên giới Thái Lan–Campuchia có hoà bình ổn định và muốn cho Việt Nam và Thái Lan sớm có quan hệ hữu nghị. Chúng tôi không muốn chiến tranh kéo dài, nhưng cũng không sợ chiến tranh kéo dài.
Hỏi: Vấn đề không an toàn hiện nay là quân đội VN đã áp sát biên giới Thái Lan. Nếu ở vào cương vị Thái Lan thì VN cũng sẽ cảm thấy mình không an toàn nếu như có lực lượng nước ngoài xâm phạm như vậy. Đây là điều suy nghĩ hiện nay của Thái Lan.
T.L: Nếu như các ông theo dõi kỹ vấn đề thì các ông sẽ thấy không phải là gì mới mẻ cả. Chúng tôi đã nhiều lần đưa ra nhiều sáng kiến: từ năm 1980 chúng tôi đã đề nghị xây dựng khu an toàn dọc biên giới Thái Lan–CPC nhằm đảm bảo an ninh ở khu vực này, để làm cho phía Thái Lan khỏi lo ngại việc quân đội VN có mặt ở CPC. Nhiệm vụ của quân đội VN ở CPC chỉ nhằm tiêu diệt lực lượng Polpot. Chúng tôi đã nhiều lần tuyên bố quân đội VN sẽ rút ngay khi nguy cơ đe dọa từ Trung Quốc đã chấm dứt.
Khi cho in bài phỏng vấn này, Ban biên tập đã tự ý cắt bỏ không dùng trả lời của tôi nói về bằng chứng quân đội Thái đã giúp quân Polpot và đã xâm phạm lãnh thổ CPC.
Trong khi Việt Nam tiếp tục sa lầy vào Campuchia thì ba nước lớn trong tam giác chiến lược Mỹ–Xô–Trung lại có sự điều chỉnh chiến lược để tập trung vào phát triển kinh tế, đi vào xu thế hoà hoãn nhằm vừa tranh thủ vừa đấu tranh kiềm chế lẫn nhau. Vấn đề Campuchia bắt đầu được đưa vào chương trình nghị sự của các cuộc đàm phán từng cặp một giữa ba nước lớn. Ngay từ khi Trung–Xô khởi đầu quá trình đàm phán bình thường hoá quan hệ giữa hai bên, tháng 10.1982 ở Bắc Kinh, Trung Quốc đã nêu “3 trở ngại” cho việc bình thường hoá quan hệ Trung–Xô là xung đột biên giới Trung–Xô, vấn đề Campuchia, vấn đề Afghanistan, và trao bản yêu sách 5 điểm về vấn đề Campuchia cho Liên Xô:
a) Liên Xô chấm dứt ủng hộ Việt Nam xâm lược Campuchia.
b) Việt Nam tuyên bố rút hết quân khỏi Campuchia. Đàm phán bình thường hoá quan hệ Trung–Việt sẽ bắt đầu sau khi những đơn vị quân VN đầu tiên rút.
c) Trung Quốc có những biện pháp cải thiện quan hệ với Liên Xô.
d) Lập chính phủ liên hiệp CPC đại diện cho tất cả các phe phái ở Campuchia (điều này có nghĩa là hợp thức hóa phái Polpot diệt chủng).
e) Bảo đảm quốc tế cho một nước CPC độc lập và không liên kết.
Đến ngày 1.3.1983, Trung Quốc đưa ra công khai 5 điểm trên. Thực ra lúc đó Trung Quốc đưa ra lập trường 5 điểm giải quyết vấn đề Campuchia chủ yếu để làm con bài mặc cả với Liên Xô, và gây sức ép với Mỹ và ASEAN chứ chưa định giải quyết vì Trung Quốc cho rằng ghìm chân Việt Nam ở Campuchia càng lâu càng có lợi cho họ. Thời gian tôi làm đại sứ Việt Nam ở Thái Lan thì đại sứ Trung Quốc ở Thái Lan là Trương Đức Duy, với Trương Thanh là tham tán. Những nhân vật này tôi lại gặp lại sau này khi đàm phán với Trung Quốc về bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Thời gian làm đại sứ ở Bangkok cũng đã giúp tôi tìm hiểu được thêm về ý đồ lâu dài của Trung Quốc ở Đông Nam Á và trong vấn đề Campuchia.
Vấn đề Hoa kiều cũng là một đặc điểm mà Trung Quốc muốn khai thác để hòng giành thêm lợi thế chính trị và kinh tế ở Đông Nam Á. Số lượng người Hoa ở Thái Lan cũng như các nước ĐNÁ khác đều khá lớn và nắm vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nhưng ở các nơi khác cộng đồng người Hoa thường tách biệt riêng ra còn ở Thái họ hầu như đã đồng hóa với dân địa phương. Rất khó phân biệt người Thái gốc Hoa với người bản địa, nhất là trong tầng lớp trung lưu trở lên, kể cả trong hoàng tộc.
Trong khi đó, người Việt ở Thái Lan lại chịu một số phận hẩm hiu hơn nhiều. Ta quen gọi là Việt kiều Thái Lan, nhưng chính quyền Thái Lan chỉ coi họ là những người “tị nạn bất hợp pháp” của nước Việt Nam cộng sản, không coi là ngoại kiều (không được cấp giấy “tàng–dạo” – giấy chứng nhận là ngoại kiều) cũng không được nhập quốc tịch Thái. Vì vậy nên hàng chục vạn người Việt mặc dù đã làm ăn sinh sống trên đất Thái hàng chục năm vẫn bị “quản thúc” ở mấy tỉnh miền Đông Bắc Thái Lan. Phải xin giấy phép của chính quyền Thái nếu muốn ra khỏi nơi mình cư trú, cũng như nếu muốn đến sứ quán ở Băng–cốc những dịp Tết Nguyên đán hay ngày Quốc khánh. Ngược lại đại sứ ta cũng không thể tới những tỉnh có đông người Việt ở Đông Bắc để thăm hỏi bà con kiều bào mình. Người tiền nhiệm tôi, anh Hoàng Bảo Sơn, trước khi kết thúc nhiệm kỳ đại sứ đã đặt vấn đề với Bộ Ngoại giao Thái Lan xin được đi Đông Bắc thăm và chào từ biệt kiều bào và đã nhận được câu trả lời rất chi là “ngoại giao”: không đảm bảo an toàn trên đường đi. Để vượt qua sự ngăn cản đó đến với kiều bào, ngày tháng 6 năm 1985, không báo trước cho Bộ Ngoại giao Thái nhưng có thông báo với ban đại diện Việt kiều tỉnh, tôi cùng mấy anh em trong bộ phận lãnh sự đáp máy bay nội địa đi thẳng đến Ubon Thani, tỉnh có đông Việt kiều nhất vùng Đông Bắc. Đến nơi bà con Việt kiều ở Ubon và các tỉnh lân cận tổ chức đón tiếp cực kỳ nhiệt tình, bộc lộ tình cảm khát khao với quê hương đất nước. Nhưng đồng thời, chính quyền và công an tỉnh cũng không kém phần quan tâm đến chúng tôi. Họ chất vấn tôi ngay khi vào phòng khách sạn: vì sao ngài đại sứ đi không báo cho Bộ Ngoại Giao? Ngài đến Ubon có việc gì? Đã dự kiến trước tình huống này, tôi thản nhiên đáp: Tôi nhận được thiếp báo cưới con cháu gái hơi chậm nên vội đi. Hơn nữa đây là chuyện riêng tư gia đình nên không muốn các ngài bận tâm đến. Đại khái câu chuyện trao đi đổi lại lúc đầu có vẻ căng thẳng nhưng đã kết thúc khá êm thấm. Cuối cùng họ chỉ yêu cầu mỗi khi đại sứ đi đâu xin cho hai xe mô tô đi trước và một xe ô tô công an đi sau hộ tống. Và buổi lễ cưới hôm sau được biến thành một cuộc mít–tinh lớn tổ chức ở ngoài trời chiếm cả một đường phố lớn để đông đảo Việt kiều được tham dự. Sự kiện này là một kỷ niệm khó quên của tôi ở Thái Lan.
Tháng 10 năm 1986, vừa tròn 4 năm ở Thái, tôi kết thúc nhiệm kỳ đại sứ, rời Bangkok về Hà Nội. Ngay sau khi về nước, tôi được giao nhiệm vụ nghiên cứu giúp bạn Lào trong cuộc đàm phán với Trung Quốc vào cuối năm 1986 theo yêu cầu của Bộ Ngoại Giao Lào. Tôi đã sang Vientiane[7] 3 lần trong mấy tháng 10, 11 và 12.1986 để trao đổi ý kiến với bạn trong việc chuẩn bị nội dung chính trị và kế hoạch tiến hành cuộc đàm phán. Việc Trung Quốc đáp ứng khá nhanh lời tuyên bố của ngoại trưởng Lào–trong bản tuyên bố của Hội nghị bộ trưởng ngoại giao 3 nước Đông Dương lần thứ 13 (tháng 8/1986)–trong khi họ vẫn từ chối đàm phán bình thường hoá quan hệ với VN, nhằm chia rẽ ba nước Đông Dương; âm mưu bình thường hoá quan hệ riêng rẽ với Lào, cải thiện quan hệ với Liên Xô và Đông Âu để gây sức ép với ta trong vấn đề Campuchia. Vì vậy, trong đàm phán, Trung Quốc muốn kéo Lào đi vào bàn các vấn đề cụ thể thuộc quan hệ song phương hai nước. Cụ thể TQ nêu 4 vấn đề: lập lại quan hệ ngoại giao cấp đại sứ, quan hệ mậu dịch, thỏa thuận những điểm tồn tại về biên giới, nhân dân vùng biên hai bên qua lại tự do. Còn phía Lào nêu lại 3 vấn đề: tình hình căng thẳng ở biên giới Lào–TQ, TQ nuôi dưỡng bọn Lào lưu vong, giải quyết với cả 3 nước Đông Dương. Theo chủ trương đã nhất trí với ta là “không giải quyết gì, chủ yếu để thăm dò đối phương và giữ cầu để tiếp tục đàm phán”. Lào kéo Trung Quốc phải đi vào bàn những vấn đề có tính chất nguyên tắc và phải đề cập đến những vấn đề mà Bắc Kinh muốn lẩn tránh như vấn đề Campuchia, vấn đề quan hệ Trung Quốc–Việt Nam. Qua đàm phán chính thức cũng như qua những cuộc trao đổi riêng, ta đã hiểu rõ thêm được về ý đồ của Trung Quốc đối với khu vực này. Lúc này Trung Quốc tuy chưa thay đổi chính sách đối với Đông Dương–Đông Nam Á, song có khó khăn thúc bách về thời gian. Trước mắt họ muốn nắn gân cốt ta, muốn thăm dò mức độ đoàn kết nhất trí giữa Việt Nam–Lào–Campuchia, nhất là về vấn đề Campuchia. Thứ trưởng ngoại giao Lưu Thuật Khanh[8], trưởng đoàn đàm phán Trung Quốc, coi vấn đề Campuchia không liên quan gì tới Lào cũng như tới quan hệ Trung Quốc–Lào, nhưng đồng thời lại có ý qua Lào thăm dò ý đồ của ta trong vấn đề Campuchia.
Cuộc đàm phán không đem lại kết quả. Lưu mời Lào sang Bắc Kinh bàn tiếp. Đối với tôi đây cũng là một dịp bản thân tôi được bổ sung thêm hiểu biết về chính sách của TQ đối với Đông Dương và dụng ý xấu xa của họ khi tiếp tục tung ra luận điệu “Việt Nam mưu đồ thiết lập Liên bang Đông Dương”.
[1]Thailand [2] Lumpini Park: công viên ngay trung tâm th? dô Bangkok [3] Phía tây của công viên Lumpini [4]Arthit Kamlangek, Tướng Tổng tư lệnh quân đội và Tư lệnh tối cao Lục Quân hoàng gia Thailand đến 1986 [5] Phó Tổng Thống Indonesia từ 1978–1983 (1917–1984) [6] Indonesia [7] Vientiane, thủ đô Laos
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 4, 2015 7:30:33 GMT 9
Đại hội “đổi mới”
Đại hội VI, mệnh danh là Đại hội “đổi mới” của Việt Nam, thực chất bắt đầu từ đổi mới tư duy kinh tế mà đi tới đổi mới tư duy đối ngoại. Đại hội diễn ra trong bối cảnh xu hướng hoà bình ổn định trên thế giới đang phát triển, các nước lớn đi sâu vào quan hệ hoà hoãn từng cặp Mỹ–Xô, Mỹ–Trung và Xô–Trung. Không phải ngẫu nhiên mà Nghị quyết 32 BCT ngày 9.7.1986 quy định cần đạt giải pháp chính trị vấn đề Campuchia và đi vào bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (“giải pháp vấn đề Campuchia phải giữ vững thành quả cách mạng Campuchia, giữ vững đoàn kết 3 nước Đông Dương”) lại ra đời ít ngày trước bài diễn văn của Gorbachov[1] ở Vladivostok[2] (28.7.1986) trong đó Gorbachov công bố những nét lớn trong chính sách đối ngoại mới của Liên Xô đối với Châu Á–Thái Bình Dương: xích gần lại với Trung Quốc, giải quyết “3 trở ngại” mà Trung Quốc nêu ra (rút quân khỏi Afhganistan, chấm dứt xung đột biên giới Trung–Xô, giải quyết vấn đề Campuchia). Gorbachov tuyên bố: Vấn đề Campuchia không thể giải quyết ở các thủ đô xa xôi, kể cả ở Liên Hiệp Quốc, phải giải quyết giữa Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa láng giềng.
Cũng trong những năm 1986–1988, cuộc khủng hoảng kinh tế–xã hội ở nước ta lên tới đỉnh cao. Trước thúc bách của hoàn cảnh thế giới và trong nước như vậy, về đối ngoại, Đảng đã quyết định chuyển sang một giai đoạn đấu tranh mới trong cùng tồn tại hoà bình với Trung Quốc, ASEAN, Mỹ để nhanh chóng phục hồi kinh tế, phát triển trong hoà bình. Giai đoạn đấu tranh nhằm giành thắng lợi hoàn toàn cho cách mạng CPC với ảo tưởng “tình hình không thể đảo ngược” (irreversible) đã kết thúc và ta phải chấp nhận thực tế đấu tranh từng bước để đạt một giải pháp chính trị cho vấn đề CPC.
Sau khi được đắc cử (không phải qua ứng cử ở một đảng bộ địa phương) đi dự Đại hội VI (tháng 12.1986), tôi được bầu vào Trung ương khóa 6. Rồi đến tháng 1.1987 nhận chức thứ trưởng Bộ Ngoại giao, chuyên trách vấn đề giải pháp Campuchia.
Ngày 09.4.1987, để giúp Bộ Chính trị xúc tiến việc thực hiện Nghị quyết 32 BCT và Nghị quyết về đối ngoại của Đại hội VI. Bộ Ngoại giao đã ra quyết định thành lập Tổ nghiên cứu nội bộ lấy ký hiệu là CP87 với nhiệm vụ:
- Nghiên cứu chủ trương giải quyết các vấn đề bình thường hoá quan hệ với TQ, vấn đề Campuchia và hoà bình ở Đông Nam Á; chuẩn bị các phương án đấu tranh trước, trong và sau khi có giải pháp;
- Nghiên cứu các diễn đàn có thể tác động tích cực tới phương hướng đó;
- Nghiên cứu nội dung phối hợp hoạt động với Liên Xô, Lào, Campuchia theo phương hướng đó.
Bộ phận thường trực CP87 gồm có: Trần Quang Cơ, phụ trách chung, Đặng Nghiêm Hoành (vụ trưởng Vụ Tổng hợp đối ngoại) tổ phó, Nguyễn Phượng Vũ (vụ trưởng Vụ Trung Quốc), Trần Xuân Mận (vụ trưởng Vụ Á châu II). Các thành viên không thường trực của CP87 có: anh Đặng Nghiêm Bái (vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ), anh Tạ Hữu Canh (vụ trưởng Vụ Liên Xô), anh Nguyễn Can (vụ trưởng Vụ Á châu III), anh Trịnh Xuân Lãng (vụ trưởng Vụ Báo chí), … Là thứ trưởng chuyên trách vấn đề Campuchia, tôi có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo CP87.
Bộ Ngoại giao CHND Campuchia cũng thành lập bộ phận B1 có thứ trưởng Ngoại giao Dith Munty, Sok An, Chom Prasit … làm đối tác của CP87.
[1] Liu Huaqiu (1939–) [2] Gorbachev, Mikhail Sergeevich (2.3.1981–), Chủ tịch Union of Soviet Socialist Republics (USSR) [3] Vladivostok, căn cứ hải quân Nga cách biên giới TQ 100km đối diện đảo Honshu bên kia biển Nhật Bản
********************************************************************** CP87 và 3 tầng quan hệ của vấn đề Campuchia Trước tình hình quốc tế và khu vực ngày càng rối rắm phức tạp, vấn đề CPC đã được quốc tế hoá cao, chúng tôi không thể không cùng nhau rà lại những nhân tố cơ bản trước khi đưa ra những phương án giải quyết. Qua phân tích tình hình, chúng tôi thấy việc giải quyết vấn đề CPC nay đã quốc tế hoá cao nằm trong lợi ích không những phe phái CPC mà còn đụng đến lợi ích của các nước trong khu vực và chịu ảnh hưởng tính toán chiến lược của các nước lớn trên thế giới nữa. Cho nên những lực lượng trực tiếp can dự vào việc giải quyết vấn đề Campuchia có thể phân thành 3 tầng: Tầng 1 gồm 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An, chủ yếu là ba nước lớn: Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ. Tầng 2 gồm các nước Đông Nam Á, chủ yếu là Việt Nam và Thái Lan. Tầng 3 là các bên Campuchia gồm Nhà nước Campuchia (SOC[1]) và 3 phái trong cái gọi là “Campuchia Dân Chủ”. Thoạt nhìn tưởng chừng như các phe phái CPC và những nước kế cận phải giữ vai trò quyết định vấn đề CPC vì có lợi ích “sát sườn”[2]. Nhưng nếu suy xét thật thấu đáo thì mới thấy giữ vai trò quyết định lại là các nước lớn. Việc nghiên cứu giải pháp của chúng tôi tất nhiên phải tập trung vào theo dõi sát những nhân tố trực tiếp trong tầng thứ ba, nhưng không thể bỏ sót những động thái trong mối quan hệ giữa các nước thuộc tầng thứ nhất.
Để có được phương hướng hành động giữa lúc nhiều nhận thức về đối ngoại của ta khi đó còn trong tình trạng tranh tối tranh sáng, chúng tôi đã tổ chức những buổi thảo luận trong nội bộ CP87 với tinh thần tự do tư tưởng để có thể nhìn thấy được thực chất của sự việc. Trong lúc nhận thức con người về thế giới bên ngoài còn bị chi phối bởi cảm tính mạnh hơn lý trí, người ta dễ xem nhẹ thực chất vấn đề mà hướng theo những hiện tượng nhất thời. Sau sự kiện Trường Sa 1988 mà hải quân Trung Quốc đã gây tổn thất khá nặng cho hải quân ta và việc Trung Quốc tiếp tục gây căng thẳng trong quan hệ với ta, bác bỏ các đề nghị của ta cải thiện quan hệ giữa hai nước, trong nội bộ ta đã xuất hiện những ý kiến khác nhau. Không khí chung lúc đầu là không thuận lợi cho việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc theo tinh thần Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị. Ta nhìn mặt bành trướng bá quyền của Trung Quốc đậm nét hơn mặt xã hội chủ nghĩa. Nhiều ý kiến cho rằng trong khi Trung Quốc đang chống ta trong vấn đề Campuchia và tìm cách lấn chiếm biên giới hải đảo của ta, việc ta quyết định rút quân khỏi Campuchia, sửa Lời nói đầu của Điều lệ Đảng là hữu khuynh trong quan hệ với Trung Quốc. Chủ trương của Bộ Chính trị về giảm tuyên truyền chống Trung Quốc cũng không được thực hiện đầy đủ. Ngày 20.5.1987, với tinh thần thực sự cầu thị, Bộ Ngoại Giao làm tờ trình lên Bộ Chính trị kiến nghị sửa Lời nói đầu của Hiến pháp, bỏ chỗ nói Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất như đã sửa Điều lệ Đảng, mãi tới 26.8.1988 Quốc Hội mới có nghị quyết thông qua việc sửa này. Có người còn nói mỉa: có phải Ngoại giao định quỳ gối trước Trung Quốc không”. Nhưng rồi sang năm 1989, khi bắt đầu cuộc khủng hoảng trong phe xã hội chủ nghĩa, một số ngành trong Trung Ương ta và ngay trong Bộ Chính trị lại xuất hiện những ý kiến khác nhau về đánh giá sự kiện Thiên An Môn cũng như đánh giá tình hình Liên Xô–Đông Âu. Lúc này luận điểm được dùng lại là: “dù bành trướng thế nào Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa”.
Tôi và anh em trong bộ phận thường trực CP87 đã mất khá nhiều thời giờ tranh luận về thực chất Trung Quốc là xã hội chủ nghĩa hay bành trướng bá quyền? mặt nào là chính trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc? “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” cụ thể là gì? Trung Quốc muốn gì trong vấn đề Campuchia? muốn gì khi nuôi dưỡng bè lũ Khơ–me đỏ chống Việt Nam? ý đồ của Trung Quốc đối với Việt Nam?
Chúng tôi thấy rằng: Trung Quốc ngày nay có hai mặt, mặt xã hội chủ nghĩa và mặt bành trướng bá quyền. Tính chất xã hội chủ nghĩa thể hiện tương đối rõ nét hơn về chính sách đối nội, ở cơ cấu xã hội, cơ cấu kinh tế của họ. Còn đường lối đối ngoại của Trung Quốc lại mang tính chất cổ truyền của họ là bành trướng bá quyền. Cái bất biến của Trung Quốc là tham vọng bá quyền. Nhưng những cái mà Trung Quốc sử dụng làm công cụ để thực hiện chính sách đó lại là “vạn biến”. Tùy theo lợi ích của họ trong từng lúc mà một nước nào đó có thể được Trung Quốc coi là bạn hay là thù. Tại Đông Nam Á, khi Trung Quốc muốn chống hay gây sức ép với chính quyền tư sản các nước này thì họ lập ra, hoặc giúp đỡ lập ra các đảng cộng sản Mao–it[3] ở Thái Lan, Miến Điện[4], Mã–lai[5], v.v…; khi Trung Quốc thấy cần tranh thủ các chính quyền tư sản khu vực này thì ta đã thấy các đảng cộng sản đó lần lượt tiêu tan để phục vụ cho mục đích của Trung Quốc. Rồi sau sự kiện Thiên An Môn[6], để xoa dịu phản ứng của Mỹ và phương Tây, Trung Quốc hy sinh nốt Đảng Cộng sản Mã–lai theo lệnh của Bắc Kinh, tổng bí thư đảng này là Trần Bình gốc Trung Quốc, đã ra ký kết đầu hàng chính quyền Ma–lay–xia và giải tán đảng Cộng sản.
Trường hợp Khơ–me đỏ sau này cũng vậy, theo tờ “Ý thức Khơ–me[7]“ ngày 17/10/2000 dưới đầu đề “Trung Quốc giết Pôn Pốt[8] để đe dọa những chỉ huy Khơ–me đỏ còn lại buộc trở về với Hun–xen[9] viết “Sau khi đi gặp Sứ quán Trung Quốc tại Bangkok, Pôn Pốt chết không phải do bệnh tật cũng không phải do Hun–xen mà chết do thuốc độc của Trung Quốc (?). Bởi vì Trung Quốc vận động các chỉ huy Khơ–me đỏ trở về với chế độ của Thủ tướng Hun–xen không được nên đã giết Pôn Pốt để đe dọa những chỉ huy Khơ–me đỏ khác… Sở dĩ Trung Quốc muốn các chỉ huy Khơ–me đỏ trở về với Hun–xen vì TQ đã chọn Hun–xen làm con bài có lợi về chính trị cho họ sau khi Pôn Pốt không còn ý nghĩa đối với họ nữa”.
Trong lịch sử 50 năm của nước C.H.N.D. Trung Hoa thì có hơn 30 năm Trung Quốc hết chống Liên Xô lại chống Việt Nam. Trên cơ sở đó, tôi hoài nghi là liệu có thể đứng trên lý tưởng chung xã hội chủ nghĩa để tranh thủ Trung Quốc được chăng?
Trong khi nghiên cứu ý đồ Trung Quốc đối với Việt Nam và trong vấn đề Campuchia, chúng tôi đã thử liệt kê những thay đổi trong lập trường của Trung Quốc về việc nối lại đàm phán bình thường hoá quan hệ với ta trong thời gian 1980–1988. Kết quả cho thấy là từ khi Trung Quốc đơn phương chấm dứt vòng 2 đàm phán Việt –Trung về bình thường hoá quan hệ hai nước vào ngày 8.3.1980, Trung Quốc đã luôn luôn nâng cao điều kiện nối lại đàm phán với Việt Nam:
A (1980–9/1985) Trung Quốc đòi ta rút hết quân khỏi CPC thì sẵn sàng nối lại đàm phán
- Tháng 10.1982, tại vòng 1 đàm phán Xô–Trung, Trung Quốc trao cho Liên Xô bản đề nghị 5 điểm về vấn đề Campuchia trong đó điểm 2 nói: Việt Nam tuyên bố rút hoàn toàn. Trung Quốc sẽ tiến hành tham khảo với Việt Nam về bình thường hoá quan hệ hai nước ngay sau khi Việt Nam rút những đơn vị đầu tiên. Tháng 3.1983, Trung Quốc đưa ra công khai đề nghị này.
- Sau chiến dịch pháo kích và tập kích quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới miền Bắc nước ta kéo dài 3 tháng (tháng 4–6.1984), Trung Quốc tuyên bố: chỉ cần Việt Nam hứa rút quân khỏi Campuchia thì hai bên sẽ mở đàm phán.
B Từ tháng 9/1985 đến cuối năm 1985 khi ta tuyên bố sẽ rút hết quân khỏi Campuchia trong năm 1990, Trung Quốc lại không nói “sẵn sàng đàm phán” với ta nữa, mà chỉ nói sẽ nói chuyện qua đại sứ hai bên.
- Ngày 6.9.1985, đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội gửi công hàm trả lời công hàm ngày 21.8.85 của Bộ Ngoại Giao trong đó nói: “Việt Nam tuyên bố thời gian rút quân kéo dài đến 1990 và đặt điều kiện vô lý cho việc rút quân, như vậy là chưa có thiện chí. Đàm phán giữa hai nước với bất cứ hình thức nào cũng khó đạt kết quả. Nếu Việt Nam có vấn đề gì cần nói thì cứ chuyển qua đại sứ hai bên”.
C Từ cuối 1985 đến tháng 3.1986, Trung Quốc một mặt vẫn đòi ta cam kết rút quân nhưng đưa thêm điều kiện là nếu Việt Nam không loại trừ lực lượng Polpot thì Trung Quốc sẽ đàm phán ngay với Việt Nam.
- Ngày 18.12.1985, lãnh tụ Rumani Ceausescu[10] sau khi thăm Trung Quốc thông báo với anh Hoàng Tùng để chuyển Tổng Bí Thư Lê Duẩn: “Trung Quốc sẽ đàm phán ngay với Việt Nam, nếu Việt Nam đồng ý không loại trừ lực lượng Polpot. Đàm phán sẽ bắt đầu trong khi Việt Nam chưa rút hết quân khỏi Campuchia, song cần cam kết rút hết”.
D Từ tháng 3.1986 (khi 3 phái Khơ–me phản động đưa đề nghị 8 điểm) đến nay (6.1987) Trung Quốc đòi Việt Nam rút hết quân nhưng đòi Việt Nam nói chuyện với “Chính phủ liên hiệp CPC dân chủ” và với Sihanouk, còn Trung Quốc chỉ đàm phán trực tiếp với Việt Nam sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết theo cách của Trung Quốc.
- Ngày 25.8.1986, thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Lưu Thuật Khanh nói với vụ phó Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại Giao ta Vũ Thuần: Trung Quốc không thể thay mặt Campuchia để bàn với Việt Nam vấn đề Campuchia được, Việt Nam phải bàn với Campuchia Dân chủ.
- Tháng 10.1986, TBT Hồ Diệu Bang[11] nói với Honecker[12] đang thăm Trung Quốc “Lúc đầu Trung Quốc nghĩ có thể đàm phán (với Việt Nam) trước, rút quân sau. Nhưng sau tính lại nhiều lần, Trung Quốc quyết định Việt Nam phải rút quân trước, sau đó mới đàm phán. Đây là phương án tốt nhất, nếu không sẽ tác động không tốt tới ASEAN và 3 phái (Sihanouk, Son San[13] và Khơ–me đỏ)”.
- Ngày 14.5.1987, Đặng Tiểu Bình tiếp Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc De Cuellar và nhờ ông ta chuyển cho ta một “thông điệp miệng” (message oral): chỉ khi nào vấn đề Campuchia được giải quyết theo cách này (Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, lập chính phủ liên hiệp 4 bên gồm Sihanouk, Son San Khieu Samphon[14], Heng Xamrin[15]; do Sihanouk đứng đầu) thì Trung Quốc mới đàm phán trực tiếp với Việt Nam. Đàm phán như vậy sẽ bao gồm cả vấn đề bình thường hoá quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Còn trước đó thì mọi cuộc đàm phán trực tiếp đều không thể có được.
Như vậy là từ sau khi đơn phương cắt đứt cuộc đàm phán (sau khi Trung Quốc gây chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2/1979, ta đã có 2 vòng đàm phán với Trung Quốc: vòng 1 từ 18/4 đến 18/5/1979 tại Hà Nội; vòng 2 từ 28/6/79 đến 6/3/80 tại Bắc Kinh) từ năm 1980 đến cuối năm 1988, đã ngót hai chục lần Việt Nam gửi thư hoặc công hàm cho Trung Quốc đề nghị nối lại đàm phán nhưng đều bị Trung Quốc bác với lý do này hoặc lý do khác. Và Trung Quốc nâng cao dần điều kiện lên (tựu chung là về quân sự đòi Việt Nam rút quân, về chính trị đòi Việt Nam chấp nhận việc lập chính phủ liên hiệp ở Campuchia, bao gồm cả Khơ–me đỏ). Trong khi thoái thác đàm phán với ta, Trung Quốc xúc tiến đàm phán bình thường hoá quan hệ với Liên Xô (từ tháng 10.1982) và với Lào (từ cuối 1986) để cô lập và ép Việt Nam. Đặc biệt là thông qua đàm phán với Liên Xô. Sau khi Gorbachov lên làm tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô (11/3/1985). Xô–Trung bắt đầu bàn đến vấn đề Campuchia trong vòng đàm phán thứ 7 ở Bắc Kinh (4–20/10/1985), Trung Quốc thể hiện ngay thái độ làm cao, không nói đến đàm phán với Việt Nam nữa để gia tăng sức ép đối với Việt Nam về vấn đề Campuchia. Trong vòng 10 đàm phán Xô–Trung ở Mạc–tư–khoa (7.2.1987), Trung Quốc nêu lại “3 trở ngại” trong việc bình thường quan hệ với Liên Xô mà trở ngại lớn nhất là việc Việt Nam xâm lược Campuchia. Và cũng từ đó, các lần gặp gỡ Xô–Trung đều tập trung bàn vấn đề Campuchia và công khai hoá điều đó.
[1] State of Cambodia [2] “vested interest” [3] Maoist [4] Myanmar [5] Malaysia [6] Quảng trường Tiananmen nơi hang ngàn thanh niên thiếu nữ TQ bị quân đội nhân dân đàn áp trong cuộc vận động đòi tự do dân chủ từ tháng 4 đến tháng 6.1989 [7] Moneakseka Khmer (Khmer Conscience) [8] Pol Pot, lãnh tụ Khmers Đỏ [9] Samdech Hun Sen [10] Nicolae Andruta Ceausescu (26.1.1918–25.12.1989). Nicolae cùng vợ là Elena (thành viên BCT đảng CS Romania) bị bắt và xử bắn sau cuộc cách mạng lật đổ chế độ độc tài và đảng CS Romania. [11] Tổng Bí Thư (1980–1987) Hu Yaobang (1915–15.4.1989) [12] Erich Honecker (August 25, 1912 – May 29, 1994), [13] Son Sann (5.10.1911, Phnom Penh, Cambodia—19.12. 2000, Paris, France) – Lãnh tụ MTGPQGND Khmer (KPNLF) [14] Khieu Samphan (27.7.1931–) Tổng Tư Lệnh QĐ Khmer Đỏ, Quốc Trưởng Cambodia (14.4.1976–7.1.1979) [15] Heng Samrin – Quốc Trưởng Cambodia (1979–1991)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 4, 2015 8:49:16 GMT 9
Từ chống diệt chủng đến “giải pháp đỏ”?Rõ ràng Trung Quốc mưu dùng vấn đề Campuchia để cải thiện thế đứng trong quan hệ với các nước lớn, trước hết là trong quan hệ Trung–Xô và quan hệ Trung–Mỹ. Còn Gorbachov cũng sẵn sàng dùng món quà Campuchia để sớm gặp được Đặng, cải thiện quan hệ với Trung Quốc nhằm tác động đến quan hệ Mỹ–Xô. Chính trong bối cảnh đó, đã ra đời cái gọi là “giải pháp đỏ”, xuất phát từ ý tưởng của Gorbachov muốn vấn đề Campuchia được giải quyết giữa hai nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Trung Quốc cho nên định gán ghép hai lực lượng cộng sản Khơ–me thù địch. Khơ–me đỏ của Polpot Ieng Sary[1] thân Bắc Kinh và Nhà nước Campuchia thân Hà Nội, bắt tay nhau dưới cái mũ “hoà hợp dân tộc”. Đầu tháng 3.1987, ngoại trưởng Liên Xô Shevardnadzé[2] đến Nông Pênh trong chuyến đi thăm 3 nước Đông Dương. Sau cuộc gặp Shevardnadzé, Hun–xen nói với anh Đỗ Chính, trưởng đoàn chuyên gia Việt Nam ở Campuchia là: Liên Xô có vẻ muốn thúc giục giải quyết nhanh vấn đề Campuchia cũng như vấn đề Afghanistan. Liên Xô chắc đã chuẩn bị một công thức giải pháp chính trị ở Campuchia nhưng gặn hỏi không nói, chắc Liên Xô sẽ nêu trong cuộc gặp Gorbachov–Nguyễn Văn Linh ở Mạc–tư–khoa (tháng 5/1987). Shevardnadzé nói đến hoà hợp dân tộc Campuchia và hỏi ai trong Khơ–me đỏ còn có thể dùng được? Hun–xen liên hệ chuyện này với phát biểu của Gorbachov ở Vladivodstock (28/7/1986) và cho rằng có thể Liên Xô nghĩ đến chuyện khuyến khích hai phái cộng sản CPC dàn xếp với nhau. Khi thuật lại lời Shevardnadzé khuyên CPC thúc đẩy mạnh hoà hợp dân tộc, Hun–xen nói: Chúng nó mà về thì chúng sẽ làm thịt những người tích cực, trước hết là bọn chúng ta. Sau cuộc họp BCT 7/3/1987, Lê Đức Thọ sang trao đổi với BCT Lào, rồi đến cuối tháng 4/1987 Lê Đức Thọ lại cùng Lê Đức Anh bay sang Campuchia họp với những người lãnh đạo Nông–pênh bàn việc thúc đẩy giải pháp chính trị Campuchia và quan hệ với Trung Quốc, trong đoàn có tôi và anh Trần Xuân Mận của CP87. Anh Lê Đức Thọ khi đó đã đưa ra gợi ý “giải pháp đỏ”. Bản thân tôi lần đầu mới được biết tường tận về cái gọi là “giải pháp đỏ”. Nói gọn lại, “giải pháp đỏ” là một sản phẩm của mộng tưởng giải quyết cuộc xung đột CPC bằng cách hoà giải Nông–Pênh với bọn diệt chủng Polpot và lập nên một nước CPC xã hội chủ nghĩa vừa làm vừa lòng Trung Quốc vừa hợp ý của lãnh đạo ta. Trong thâm tâm chúng tôi–những anh em CP87 đều thấy không thể chấp nhận được cái “sáng kiến” kỳ quái này. Phần vì quá ghê tởm với tội ác của bọn Khơ–me đối với nhân dân CPC cũng như đối với nhân dân ta để có thể nghĩ đến chuyện hợp tác với chúng phần vì nghĩ rằng khó có khả năng thực hiện được trò chơi nguy hiểm này. Quả nhiên lãnh đạo Nông–Pênh đã đón nhận những gợi ý này với một thái độ lạnh nhạt. Họ chủ trương “ăn cả” bằng một giải pháp quân sự coi Khơ–me đỏ lẫn Xi–ha–núc và Son San đều là đối thủ phải loại trừ. Nhưng với sức ép của hai đồng minh chính–Liên Xô và Việt Nam–trong cuộc họp giữa các bên Campuchia, Giacácta[3], Hun–xen đã thử tiếp xúc với Khiêu Samphon song tên đầu sỏ Khơ–me đỏ này chỉ đáp bằng thái độ khinh miệt. Ngày 30.7.1988, trong buổi thông báo kết quả cuộc Họp không chính thức ở Jakarta lần 1 (JIM1[4]) cho đại sứ, đại biểu các nước xã hội chủ nghĩa ở Phnôm Pênh, khi đại sứ CHDC Đức hỏi khả năng lôi kéo Khiêu Samphon và những nhân vật ôn hoà của Khơ–me đỏ, Hun–xen nói: bọn thú chứ không phải là người. Cứ để chúng trong rừng, không có chúng, ta cũng giải quyết được. Chúng không thay đổi. Nhân dân Campuchia không chấp nhận chúng. Chúng tôi rất hiểu Khơ–me đỏ. Mong các đồng chí hiểu cho bọn này không chơi được. Nếu chỉ riêng Campuchia thôi thì Campuchia không cần Khơ–me đỏ. Nhưng Campuchia liên quan đến các nước xung quanh mà Việt Nam lại cần bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc nên chúng tôi chấp nhận chúng về chính trị … Tôi cho rằng cứ để chúng (Khơ–me đỏ) ở ngoài rừng, không sao cả! Thái Lan đã trung lập thì CPC tranh thủ Sihanouk, Son San để đánh Khơ–me đỏ. Ngày 12/10/1989, tâm sự với đại sứ Ngô Điền, sau khi phê phán Liên Xô nhượng bộ Trung Quốc, ép Campuchia thỏa hiệp với Trung Quốc và Khơ–me đỏ, đánh đồng “tội phạm với phạm nhân” không tôn trọng các nước bạn, Hun–xen nói: “Việt Nam cũng có đồng chí nói phải nhượng bộ cái gì đó giữ thể diện cho Bắc Kinh. Năm 1987 tôi cũng đã tính đến giải pháp đó. Bọn Khơ–me đỏ, trừ số đầu sỏ, có thể tham gia, chúng phải xin lỗi nhân dân rồi hòa hợp dân tộc. Nay tôi đã suy nghĩ nhiều, tiếp xúc với dân ở nhiều nơi, trực tiếp gặp bọn Khiêu Samphon, tôi nhận thức rõ là dứt khoát không chơi với bọn này được, phải giải tán lực lượng của chúng”. Tháng giêng 1989, Hun–xen xuất bản cuốn sách “Campuchia–con đường 10 năm”, có dành một đoạn dài nói về giải pháp đỏ, phê phán những suy nghĩ về giải pháp đỏ, cho quan điểm đó là “sai lầm và nguy hiểm”, là “điều phi lý và trái đạo đức khi đánh đồng bọn tội phạm Polpot với nạn nhân của chúng”, rồi kết luận “giải pháp đỏ là con đường nguy hiểm rất lớn cho nhân dân Campuchia. Nó không thể nào hình thành được, bởi vì chúng tôi không “đỏ” như người ta hiểu là có thể hoà đồng vào cái “đỏ” của bọn Polpot được”. Những ai đã có sáng kiến nghĩ ra (cho đến nay tôi cũng chưa biết được chính xác ai là tác giả của cái quái thai này: Liên Xô? Việt Nam? hay Hun–xen? Có điều chắc là lãnh đạo VN trong suốt thời kỳ 1987 1991 vẫn coi đó là nước bài hay) hay tán thưởng “giải pháp đỏ” chắc cho rằng giải quyết vấn đề Campuchia theo cách đó sẽ làm hài lòng Trung Quốc. Nhưng thực ra cái sáng kiến này chẳng hợp với đường lối “tranh thủ phương Tây vì mục tiêu “4 hiện đại”[5] của Đặng Tiểu Bình chút nào mà lại gây thêm sự nghi ngại của Nhà nước Campuchia đối với ta, mà chính Trung Quốc đã đem chuyện này nói với Mỹ và các nước phương Tây để chứng tỏ rằng Việt Nam luôn có thủ đoạn lắt léo, là một đối tượng đàm phán không đáng tin cậy, bên ngoài thì hô to “chống diệt chủng” bên trong thì ép Nông Pênh thỏa hiệp với bọn Polpot. Thật đáng tiếc, ảo tưởng về “giải pháp đỏ” này vẫn còn đeo đuổi khá lâu trong các tính toán của ta về vấn đề Campuchia, thậm chí cả sau khi Trung Quốc đã nói thẳng với ta trong cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô[6] là họ không thể nuốt nổi “món quà” đó! [1] Ngoại Trưởng Khmer Đỏ (1976–1979) [2] Eduard Amvrosiyevich Shevardnadze, Ngoại trưởng Soviet Union dưới thời Mikhail Sergeyevich Gorbachev [3] Jakarta [4] Jakarta Informal Meeting 1 [5] “Four Modernisations” Bốn hiện đại hoá là chủ trương của Thủ Tướng Chu Ân Lai (Zhou Enlai) trước khi qua đời: Công nghệ, Nông nghiệp, Khoa học, Quân sự. [6] Chengdu, thủ phủ của Sichuan (Tứ Xuyên) *************************************************************************************** Một bước tự cởi trói: đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ .Trong khi họp CP87 sáng 14.5.1987, chúng tôi thảo luận sôi nổi làm sao giành lại thế chủ động trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Anh Thạch có ý kiến: “Không nhất thiết ta chỉ làm với Trung Quốc. Phải thấy là ba nước lớn Mỹ–Xô–Trung đang chụm lại với nhau trao đổi về cái khung giải pháp. Cần nhớ kinh nghiệm những năm 1954, 1973, TQ vẫn phải tiếp tục lợi dụng mâu thuẫn Mỹ–Xô, Trung–Xô không thể giải quyết với nhau qua đầu Mỹ, phải thỏa thuận cả với Mỹ. Cho nên ta chỉ húc đầu vào một con đường nói chuyện với Trung Quốc là không đúng”. Bản thân tôi rất tâm đắc suy nghĩ đó. Lâu nay tôi thường cảm thấy ta chịu lệ thuộc hơi nhiều vào anh cả Liên Xô, anh hai Trung Quốc trong tư duy và hành động nên đã tự hạn chế mình trong hoạt động đối ngoại trên thế giới và ở khu vực Đông Nam Á. Muốn Trung Quốc mềm đi, phải cho thấy ta ngày càng nhiều bạn. Ngược lại nếu ta chỉ thấy có Trung Quốc thôi và nếu Trung Quốc thấy ta yếu và đơn độc thì họ sẽ rất cứng rắn với ta. Chính vì vậy mà Trung Quốc đã buộc ta phải có hết nhượng bộ nọ đến nhượng bộ kia. Mặt khác, Gorbachov vì lợi ích nước lớn không rõ vô tình hay hữu ý đã giam Việt Nam vào cái khung “phải giải quyết vấn đề Campuchia với Trung Quốc”. Phải nói rằng với nếp suy nghĩ quá thiên lệch, quá cứng nhắc về “hai phe” lúc đó, chỉ riêng nghĩ đến chuyện quan hệ với các nước phương Tây đã gần như một điều húy kỵ, nên việc Ngoại giao đề cập đến mở rộng tiếp xúc hợp tác ra ngoài thế giới xã hội chủ nghĩa gần như là chuyện động trời. Người ta chấp nhận nó không phải dễ dàng. Tư tưởng đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ đối ngoại đã đến với ta hơi chậm nhưng chưa muộn. Theo hướng đó, ta đã nghiên cứu và mở đợt tấn công ngoại giao tháng 6–8/1987 với đặc điểm: - không tấn công về nội dung giải pháp như mọi khi, mà tấn công về cơ chế giải quyết vấn đề; - thăm dò tất cả các diễn đàn có thể đưa đến giải pháp, tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp tất cả các đối phương (Trung Quốc, ASEAN, Mỹ); - phối hợp tốt với việc Campuchia ra “Tuyên bố về chính sách hoà hợp dân tộc”. Đợt tấn công đã đem lại những kết quả mong muốn, làm bộc lộ hai xu hướng đi ngược chiều nhau trong hàng ngũ đối phương, những mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương đã nổ ra một cách công khai gay gắt (giữa Trung Quốc với ASEAN, Mỹ, Sihanouk; trong nội bộ ASEAN; trong nội bộ 3 phái “Campuchia Dân Chủ”). Trong xu thế đối thoại đang được đẩy mạnh giữa Xô–Mỹ, thông cáo 29/7/1987 của cuộc gặp giữa Việt Nam (Nguyễn Cơ Thạch) và Inđônêxia (Mochtar[1]), đại diện cho hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN, thoả thuận dùng hình thức tổ chức “thingytail party” để họp với các bên Campuchia bàn vấn đề Campuchia gắn với vấn đề Đông Nam Á, việc Việt Nam công bố đợt rút quân 1987 có mời quan sát viên nước ngoài đã làm chuyển động tình hình. Mỹ cử đặc phái viên của tổng thống đến Việt Nam, Sihanouk tuyên bố tạm thôi chức chủ tịch Campuchia Dân chủ và sẵn sàng gặp Hun–xen. Tất cả những động thái đó đã tạo ra khả năng thực tế phá vỡ bế tắc vấn đề Campuchia đã kéo dài hơn 8 năm qua. Trung Quốc buộc phải tính toán lại, họ không còn khả năng khống chế ASEAN cũng như Sihanouk. Về phía các nước ASEAN, điều khiến họ lo ngại Việt Nam nhất trong vấn đề Campuchia là việc Việt Nam đưa quân sang CPC nay đang được gỡ bỏ. Các diễn đàn mới về vấn đề Campuchia được mở ra khiến cho sức ép của Trung Quốc đối với Việt Nam bị hạn chế lại. Trong hoà hoãn giữa ba nước lớn, vai trò Trung Quốc lúc này vẫn lép nhất, hoà hoãn Xô–Mỹ phát triển mạnh nhất. Xô–Mỹ đã thỏa thuận giải quyết vấn đề Afghanistan là một vấn đề châu Á mà không có vai trò của Trung Quốc. Trung Quốc lo ngại với cái đà đó Xô–Mỹ rồi sẽ giải quyết các vấn đề Châu Á khác như vấn đề Campuchia mà cũng không có vai trò Trung Quốc. Trung Quốc muốn giữ vai trò một trong ba nước lớn giải quyết vấn đề Campuchia. Như thế sẽ lợi cho Trung Quốc hơn là để vấn đề Campuchia được giải quyết giữa người CPC, giữa ASEAN–Đông Dương, hay giữa Trung Quốc–Việt Nam. Vì vậy Trung Quốc chống lại thỏa thuận Việt Nam–Inđônêxia 29.7.1987 ở thành phố HCM, ra sức phá diễn đàn Hun–xen–Sihanouk, đòi Việt Nam đàm phán với Sihanouk, hỗ trợ Thái Lan gây xung đột biên giới Thái–Lào, gây ra xung đột với hải quân ta ở Trường Sa (3–4.1988). Trong tình hình đó, Việt Nam và CHND Campuchia đã công bố đợt rút quân tình nguyện Việt Nam lần thứ 7 khỏi Campuchia trong năm 1988. Đây là đợt rút quân lớn nhất từ khi ta bắt đầu rút quân 1982. Việc này đã làm tăng thêm khó khăn lúng túng cho Trung Quốc vì dư luận quốc tế lại bắt đầu tập trung hướng về vấn đề xử lý bọn diệt chủng Polpot, đồng thời làm tăng sự thúc bách sớm có một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia trước khi Việt Nam rút hết quân vào năm 1990 như đã tuyên bố. [1] Mochtar Kusumaatmadja, ngoại trưởng Indonesia, chủ tịch Ủy ban thường trực của ASEAN (12.1978) ************************************************************* Trung Quốc uốn mình để thích nghi với thế cựcNgày 6.12.1988, sau chuyến đi Liên Xô của ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham[1], Liên Xô đã thông báo lại cho ta là “các phát biểu của Tiền về vấn đề Campuchia đã có thay đổi chừng nào, chứng tỏ Bắc Kinh đang dần dần nhận thức thấy việc đạt giải pháp cho vấn đề Campuchia kịch bản của Trung Quốc là không thực tế và Trung Quốc đang từ bỏ đường lối kéo dài cuộc xung đột. Về giải pháp, Trung Quốc đồng ý với Liên Xô là việc rút quân Việt Nam là một bộ phận trong giải pháp; về các vấn đề nội bộ của Campuchia, Trung Quốc cho rằng “phải được giải quyết bởi bản thân nhân dân Campuchia trên cơ sở hoà hợp dân tộc, không có sự can thiệp từ bên ngoài”. Song Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường cũ về việc lập chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu, giảm dần đi đến giải tán quân đội của cả 4 bên Campuchia; thực chất là xoá nguyên trạng ở Campuchia. Ngày 24.12.1988, trả lời thư ngày 15/12 của Bộ trưởng ngoại giao ta, phía Trung Quốc mời một thứ trưởng ngoại giao Việt Nam tới Bắc Kinh để trao đổi ý kiến giữa thứ trưởng ngoại giao hai nước chuẩn bị cho cuộc gặp cấp ngoại trưởng Trung–Việt. Sau 10 năm đối đầu gay gắt và sau 8 năm một mực từ chối đàm phán với ta, đây là lần đầu Trung Quốc nhận đàm phán với Việt Nam về vấn đề Campuchia và về bình thường hoá quan hệ hai nước, thực hiện bước chuyển sách lược ở Đông Nam Á phục vụ cho việc chuyển chiến lược chung của Trung Quốc trên thế giới và trong quan hệ với Xô, Mỹ. Sự điều chỉnh chiến lược này đã được xác định tại Hội nghị Bộ Chính Trị ĐCS Trung Quốc ở Bắc Đới Hà tháng 9 năm 1988, và được công khai hoá tại Quốc hội Trung Quốc tháng 3/1989. Sự điều chỉnh chiến lược lần này diễn ra trong tình hình thế giới cũng như tình hình Đông Nam Á và Campuchia đã có những thay đổi to lớn, đặc biệt từ năm 1987. Quan hệ Xô–Mỹ từ năm 1987 đã được cải thiện nhiều, hình thành thế hai cực giải quyết công việc thế giới và cả châu Á. Trung Quốc không còn lợi dụng được mâu thuẫn Xô–Mỹ như trước; đồng thời quan hệ Trung–Xô cải thiện chậm so với quan hệ Mỹ–Xô, làm cho vị trí của Trung Quốc bị yếu trong quan hệ giữa ba nước lớn. Mặt khác việc Xô–Mỹ giảm cam kết quân sự ở bên ngoài đã thúc đẩy xu thế độc lập của các nước khác, làm tăng xu hướng hợp tác khu vực để giải quyết các vấn đề khu vực. Quan hệ giữa các nước Đông Nam Á từ năm 1987 đã từ tình trạng đối đầu chuyển từng bước sang vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình. Các cuộc họp JIM1 và JIM2 (Jakarta Informal Meeting) đã giải quyết được mặt quốc tế của vấn đề CPC và tạo khuôn khổ hợp tác giữa hai nhóm nước ở Đông Nam Á để giải quyết các vấn đề khu vực. Đặc biệt chính quyền Chaticha ở Thái Lan lúc này quyết tâm tách khỏi chính sách đối đầu của Trung Quốc ở Đông Nam Á, thực hiện chính sách “biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường”. Trong tình hình đó, việc Trung Quốc tiếp tục chính sách gây căng thẳng trên đất liền và trên biển ở khu vực này chỉ làm tăng mối lo ngại đối với nguy cơ bá quyền của Trung Quốc. Với việc quân Việt Nam đã rút 3 phần tư và sẽ rút hết vào tháng 9/1989, cốt lõi của vấn đề Campuchia không còn là vấn đề rút quân Việt Nam nữa mà trở thành vấn đề làm sao loại trừ chế độ diệt chủng Polpot. Những biến đổi to lớn này buộc Trung Quốc phải chuyển từ chỗ kéo dài đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Liên Xô để lợi dụng mâu thuẫn Xô–Mỹ và tranh thủ vốn và kỹ thuật của Mỹ sang xúc tiến bình thường hoá toàn diện quan hệ với Liên Xô, giữ cân bằng giữa quan hệ của họ với Xô và với Mỹ, đồng thời từng bước cải thiện quan hệ với các nước láng giềng để tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc cải thiện thế của Trung Quốc trên thế giới và châu Á. Tháng 1/1989, ta nối lại đàm phán với Trung Quốc để cố gắng bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc đồng thời khẳng định thái độ ủng hộ Nhà nước Campuchia giữ vững thành quả cách mạng. Ngày 5/1/1989, TBT Nguyễn Văn Linh dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao của Việt Nam sang Nông Pênh dự lễ kỷ niệm 10 năm thành lập Cộng Hoà Nhân Dân Campuchia. Ngay chiều hôm đó (16 giờ) TBT Nguyễn Văn Linh đã có cuộc hội đàm với Heng Somrin tại Hoàng Cung. Heng Somrin thông báo: “Bộ Chính trị (CPC) đã nhất trí sẽ tiếp tục tấn công ngoại giao trên cơ sở rút quân Việt Nam đồng thời với việc ngăn chặn viện trợ quân sự nước ngoài giúp bọn Khơ–me đối địch, chấm dứt mọi sự can thiệp vào cách mạng CPC … tạo điều kiện thuận lợi cho hoà đàm Việt Nam–Trung Quốc, Liên Xô–Trung Quốc, đẩy mạnh thương thuyết CPC–Thái Lan. Chúng ta phải có một lịch rút quân mới, trong đó nếu có một giải pháp chính trị, ta sẽ tuyên bố rút hết (quân Việt Nam) không chậm quá tháng 9/1990. Nếu Việt Nam đồng ý, sẽ tuyên bố trong diễn văn của tôi và của đồng chí ngày mai”. Nguyễn Văn Linh tán thành và đề nghị thông báo lại cho Liên Xô và Lào biết. Ngay chiều tối hôm đó anh Linh đã bảo tôi sửa lại bài diễn văn của anh theo như hai bên đã thoả thuận. Sáng 6/1/1989, trong buổi mit–ting[2] long trọng. Tổng bí thư Heng Somrin tuyên bố: CPC và VN đã thỏa thuận là nếu có giải pháp chính trị thì quân VN sẽ rút hết, chậm nhất là vào tháng 9/1990. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cũng tuyên bố: VN hoàn toàn nhất trí với CPC sẽ rút toàn bộ quân VN còn lại vào cuối tháng 9/1990. Việc rút hết quân phải song song với việc chấm dứt viện trợ của nước ngoài, chấm dứt việc sử dụng lãnh thổ nước ngoài chống CPC, tiến hành dưới sự kiểm soát quốc tế. Qua những cuộc trao đổi giữa ta với bạn, là một thành viên trong đoàn Việt Nam, tôi đã dự cảm chừng nào những khó khăn khi đi sâu vào giải pháp. Lãnh đạo CPC có phần quá tự tin, muốn ta hoàn toàn ủng hộ bạn ăn cả; còn ta lại thiên về giải quyết vấn đề CPC một cách thuận lợi cho cải thiện quan hệ Việt–Trung. Trong nửa đầu năm 1989, đã có hai vòng đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao giữa ta với Trung Quốc (Đinh Nho Liêm và Lưu Thuật Khanh) tại Bắc Kinh. Vòng đầu (16 19.1.1989). Trung Quốc chỉ trao đổi lướt qua về quan hệ hai nước rồi lại tập trung đàm phán vấn đề Campuchia. Hai bên thoả thuận tương đối nhanh mấy vấn đề về mặt quốc tế của giải pháp CPC (rút quân VN, giám sát quốc tế, chấm dứt viện trợ quân sự, tổng tuyển cử). Hai bên đồng ý thúc đẩy các bên CPC thương lượng để sớm đạt giải pháp CPC. TQ cho là mặt quốc tế cơ bản đã xong, muốn ta thỏa thuận hướng giải quyết mặt nội bộ của giải pháp CPC, chủ yếu là hai vấn đề chính quyền và vấn đề quân đội của các bên CPC trong thời kỳ qúa độ (thời gian ngừng bắn cho đến tổng tuyển cử); cho nên có thảo luận và đạt kết quả này thì mới có giải pháp, nếu không thì mặt quốc tế có thỏa thuận cũng không giải quyết được và khó bàn quan hệ hai nước. Lập trường của ta là của vấn đề nội bộ Campuchia phải do các bên Campuchia giải quyết. Đáng chú ý là Tiền Kỳ Tham khi tiếp Đinh Nho Liêm có nói: “4 nước Trung Quốc, Liên Xô, Việt Nam, Thái Lan là những nước có liên quan trực tiếp, có trách nhiệm về vấn đề CPC cần thỏa thuận với nhau về chính quyền lâm thời 4 bên Campuchia trong thời kỳ quá độ thì mới giải quyết được vấn đề Campuchia”. Họ nói đã bàn với Liên Xô và Liên Xô đã nhất trí nguyên tắc này. Ngày 11/2/1989, BCT họp bàn đề án đấu tranh về vấn đề CPC theo hướng: - tách và giải quyết từng bước mặt quốc tế và mặt nội bộ của vấn đề Campuchia; - gắn việc giải quyết vấn đề CPC với yêu cầu kiến lập hoà bình ở Đông Nam Á; - triển khai các diễn đàn: Việt–Trung (vòng 2), JIM2, 4 bên CPC, Thái–SOC, Việt –Thái, Việt–Mỹ; Trên tinh thần đó, ngày 15/2/1989, tôi cùng mấy cán bộ CP87 bay đi Gia–các–ta họp Nhóm Làm việc (Working Group) để chuẩn bị cho cuộc họp JIM 2 (19–21/2/1989) với các thành phần cũng như JIM1 các bên CPC, Việt Nam, Lào và 6 nước ASEAN. Hội nghị khẳng định lại kết quả đạt được năm trước JIM 1(25 28/7/1988) và nhất trí là vấn đề CPC phải được giải quyết bằng một giải pháp chính trị góp phần vào việc thiết lập có chủ quyền, hoà bình, trung lập và không liên kết trên cơ sở quyền tự quyết và hoà hợp dân tộc. Hội nghị nhất trí cần triệu tập Hội nghị quốc tế về CPC để bàn và đi đến một giải pháp chính trị toàn diện, công bằng và hợp lý cho vấn đề CPC. Ngày 14.3.1989 BCT họp quyết định rút hết quân khỏi CPC vào cuối tháng 9/1989 và thúc đẩy diễn đàn Hun–xen–Sihanouk. Sang vòng 2 (8–10.5.1989) vẫn tại Bắc Kinh, cuộc đàm phán vấp ngay vào hai tảng đá lớn vấn đề diệt chủng và việc xử lý các vấn đề nội bộ của CPC. Phía Trung Quốc đòi ta thỏa thuận về nguyên tắc hai vấn đề thuộc mặt nội bộ CPC: lập chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu, đóng kết và giảm quân đội của 4 bên CPC. Đàm phán kết thúc mà không đi đến kết quả gì. Phía TQ đề nghị tạm thời chưa tính đến đàm phán vòng 3. Tiền Kỳ Tham nói với Đinh Nho Liêm rồi sau đó công bố: bình thường hoá quan hệ hai nước chỉ có thể thực hiện sau khi vấn đề CPC đã được giải quyết, không phải là trước đó. Sau này Trung Quốc đã nói toạc ra rằng: Việt Nam không những phải rút hết quân khỏi Campuchia mà còn có trách nhiệm giải quyết những hậu quả của việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia, cụ thể là xoá chính quyền và quân đội CHND CPC đã được hình thành sau khi quân Việt Nam vào Nông Pênh đánh đuổi bọn Polpot. Việc Trung Quốc nối lại đàm phán với Việt Nam lúc này, mà phía Trung Quốc gọi là gặp gỡ nội bộ, theo tôi, mục đích chính là để biểu diễn cho thế giới thấy là TQ đã nắm con chủ bài giảiquyết vấn đề CPC. [1] Qian Qichen (1928–) Phó Thủ Tướng Quốc vụ viện từ 1993, ủy viên của Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng CS Trung Quốc khóa 14 (1992–97) và 15 (1997–2002). Không còn là ủy viên trung ương đảng CSTQ khóa 16 (2002–) www.chinavitae.com/biography_display.php?id=414[2] Meeting
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 4, 2015 8:55:15 GMT 9
Hiệp 1 của Hội nghị quốc tế Pa–ri về CampuchiaHai tháng sau, Hội nghị quốc tế Pa –ri về Campuchia (30/7–30/8/1989) tuy chưa kết thúc được nhưng có thể nói đã mở ra giai đoạn kết thúc vấn đề CPC. Sau JIM, đây là cuộc hội nghị quốc tế đầu tiên bàn về vấn đề CPC. Hội nghị tiến hành ngoài khuôn khổ của Liên Hiệp Quốc tuy có mặt DeCuellar[1], tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, và bộ trưởng ngoại giao 5 nước thành viên Hội Đồng Bảo An. Tổng thư ký LHQ dự hội nghị chỉ với tư cách một thành viên của hội nghị. Trong hội nghị này, lần đầu các bên Campuchia đối địch ngồi sát cạnh nhau, dứơi một cái biển ghi tên chung là Campuchia. Ngoài đại diện của 4 phái CPC: Hun–xen (CHND CPC[2]), Khieu Samphon (Khơ–me đỏ), Ranarit[3] (phái Sihanouk), Son Sonbert (con Son San), có các đoàn đại biểu của 17 nước do bộ trưởng ngoại giao dẫn đầu: Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, Nhật, Úc, Ấn Độ, Canada, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Inđônêxia, Singapore, Malaysia, Philipin[4], Brunei, Phong trào Không Liên Kết do ngoại trưởng Zimbawe đại diện. Ngoại trưởng Pháp Roland Dumas và ngoại trưởng Inđônêxia Ali Alatas là đồng chủ tịch hội nghị. Sáng 28/7, tôi cùng đại bộ phận đoàn ta tới Pa–ri. Đoàn có các anh Lê Mai, Đặng Nghiêm Hoành, Ngô Điền, Hà Văn Lâu, Trần Huy Chương, Lê Công Phụng, Huỳnh Anh Dũng, chị Tôn Nữ Thị Ninh, Thiếu tướng Phi Long được Bộ Quốc Phòng cử đi tham gia đoàn. Ngày 29/7 anh Nguyễn Cơ Thạch đến nơi. Hội nghị khai mạc chiều 30/7/89. Thành phần hội nghị tuy đông nhưng không có lợi cho ta, song ta đến hội nghị với thế mạnh của Tuyên bố rút hết quân vào cuối tháng 9/89 mà CHND CPC vẫn tỏ ra vững vàng tự tin. Ngay từ đầu Hội nghị đã vạch ra chương trình phải họp cả tháng từ 30/7–30/8/90 vì vấn đề rất phức tạp mà lập trường giải pháp của các bên lại còn khá xa nhau. Suốt thời gian hội nghị nổi cộm lên hai vấn đề lớn: - loại trừ hay chấp nhận bọn diệt chủng Polpot. - duy trì hay xoá bỏ nguyên trạng chính trị và quân sự ở CPC. Cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trong suốt quá trình hội nghị. Đối phương dùng áp lực của 5 nước lớn và đa số trong hội nghị đòi áp đặt việc lập Chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu và đòi lập bộ máy kiểm soát quốc tế của LHQ. Còn phía ta đòi loại trừ bọn diệt chủng Polpot, đòi tôn trọng nguyên tắc nước ngoài không được can thiệp vào công việc nội bộ Campuchia, tôn trọng nguyên trạng ở Campuchia có 2 chính quyền, tôn trọng quyền của nhân dân Campuchia tự quyết định chế độ chính trị của mình và lập chính phủ của mình, thông qua tổng tuyển cử tự do. Phía ta chấp nhận sự đóng góp của LHQ nếu LHQ chấm dứt những nghị quyết thiên vị, ủng hộ 1 bên chống 1 bên . Phát biểu của ta tại phiên họp toàn thể tập trung lên án diệt chủng Polpot, khẳng định kết luận của JIM về 2 vấn đề then chốt (rút quân VN và lên án diệt chủng) và nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ CPC, đề cao vị trí của Nhà nước CPC. Các ngoại trưởng chỉ dự các phiên họp toàn thể hội nghị trong 3 ngày đầu và 2 ngày cuối của hội nghị, còn phần lớn thời gian dành cho các buổi họp các ủy ban 1 (về kiểm soát quốc tế), ủy ban 2 (về bảo đảm quy chế), uỷ ban 3 (về người tị nạn và vấn đề tái thiết CPC), ủy ban ad hoc (gồm các bên CPC để bàn các vấn đề thuộc nội bộ CPC) và ủy ban Phối hợp, có nhiệm vụ thảo luận thực chất nội dung của giải pháp. Cũng trong thời gian này, ta tranh thủ tiếp xúc riêng các đoàn. Ngày 3/8, thứ trưởng ngoại giao Liên Xô Rogatchev cho biết: phái đoàn Trung Quốc Lưu Thuật Khanh nói do không có thời gian nên Tiền Kỳ Tham không gặp được đồng chí Nguyễn Cơ Thạch; nhưng Tiền lại nói nếu đồng chí Trần Quang Cơ yêu cầu thì có thể gặp (?). Hôm sau Lưu Thuật Khanh lại nhắn qua Rogatchev: chưa thấy đồng chí Cơ yêu cầu gặp, nếu yêu cầu thì sẽ nhận lời. Đến sáng 7/8, ta đặt vấn đề với phía Trung Quốc: Nguyễn Cơ Thạch và Trần Quang Cơ đề nghị gặp quyền trưởng đoàn TQ Lưu Thuật Khanh (Tiền Kỳ Tham về nước) để trao đổi ý kiến. Lưu Thuật Khanh nhận lời ngay. Cuộc gặp diễn ra tại sứ quán TQ ở Pa–ri ngay 4 giờ chiều ngày hôm đó. Thái độ của Lưu tỏ ra nhã nhặn tuy lập trường TQ chưa có gì khác. Lưu nói nếu VN đồng ý có chính phủ lâm thời 4 bên CPC (tức là có cả Khơ–me đỏ như một thành viên ngang với 3 bên kia) thì vấn đề CPC coi như giải quyết, và thanh minh là Trung Quốc không muốn phía 3 phái chiếm ¾ chiếc bánh, chỉ cần có sự tham gia của cả 4 bên CPC, còn chia phần như thế nào là tuỳ họ. Nếu chỉ 2 bên, 3 bên thì không thực tế và không chấp nhận được. Lưu đề nghị ta không dùng từ “diệt chủng”, vấn đề diệt chủng là việc nội bộ CPC, do họ tự giải quyết. Sở dĩ Trung Quốc đến Hội nghị Pa–ri trong khi chưa sẵn sàng giải quyết vấn đề CPC là vì họ đang cố gắng gỡ thế cô lập sau sự kiện Thiên An Môn và trong lúc nội bộ họ vẫn đấu tranh gay gắt về các vấn đề đối nội và đối ngoại. Trung Quốc bất chấp tình hình thực tế, đưa ra đòi hỏi rất cao là xoá nguyên trạng ở Campuchia trước tổng tuyển cử, chia xẻ quyền lực cho 4 phái, làm suy yếu cách mạng Campuchia, chia rẽ 3 nước Đông Dương, Mỹ, phương Tây, ASEAN mâu thuẫn với Trung Quốc về vấn đề Campuchia, và có lợi ích không làm xấu thêm quan hệ với Trung Quốc. Chiều 10/8, trợ lý ngoại trưởng Mỹ Lambertson[5] cùng 4 người trong đoàn Mỹ tới phòng làm việc của đoàn ta ở Trung tâm hội nghị Kléber, yêu cầu gặp tôi để trao đổi về vấn đề CPC. Tôi cùng anh Lê Mai đã tiếp họ trong 1 tiếng. Họ trình bày quan điểm của Mỹ về vấn đề CPC; cần có giải pháp toàn bộ, không nhận giải pháp bộ phận; có sự chia sẻ quyền lực thật sự cho các phái Khơ–me không cộng sản và trao thực quyền cho Sihanouk chứ không phải tượng trưng, mong VN tác động để Hun–xen mềm dẻo hơn. Về vấn đề diệt chủng và Khơ–me đỏ, họ vẫn giữ lối nói nước đôi. Họ nói đến triển vọng quan hệ tốt giữa Mỹ và VN, nhưng không quên vấn đề MIA. Ngày 11/8/90 anh Thạch về nước, đến 25/8 mới trở lại. Tuy là có tranh cãi với đoàn TQ trong các buổi họp chung như đã thoả thuận với Lưu Thuật Khanh nhưng trong buổi họp ủy ban 1 (Ủy ban về kiểm soát quốc tế) ngày 16/8 bàn vấn đề diệt chủng, sau khi tôi phát biểu lên án Khơ–me đỏ, vạch tội ác diệt chủng, đại biểu Trung Quốc đã phản bác: Việt Nam đòi kết tội diệt chủng là để che dấu hành động xâm lược, thoái thác trách nhiệm viện cớ chống diệt chủng để đưa quân trở lại Campuchia; kết tội diệt chủng thì Khơ–me đỏ sẽ không được tham gia chính quyền, sẽ vào rừng tiếp tục đánh nhau, do đó sẽ không có hoà bình ở Campuchia và đổ tội cho Việt Nam sẽ phải chịu trách nhiệm về thành công hay thất bại của hội nghị. Tôi không thể không phát biểu đập lại các luận điệu đó, khẳng định phải giải quyết vấn đề ngăn chặn diệt chủng mới giải quyết được các vấn đề khác. Tôi vạch rõ sự thật lịch sử là những năm 1975–78 là thời gian cho bọn diệt chủng Polpot hoành hành thì VN không có mặt ở CPC, lúc đó chỉ có cố vấn Trung Quốc mà thôi. Sau phát biểu của ta về vấn đề diệt chủng, trừ Trung Quốc và Singapore, không còn ai nói “génocide” (diệt chủng), Sihanouk tuyên bố không cho Khơ–me đỏ đại diện cho 3 phái, các ủy ban đều phải ghi nhận và bàn vấn đề diệt chủng, những kẻ đòi không dùng từ “diệt chủng” cũng phải nhận sự tàn bạo của Khơ–me đỏ. Ngày 29/8/1989, theo chương trình đã định, các ngoại trưởng, trừ ngoại trưởng Mỹ và ngoại trưởng Trung Quốc, trở lại Pa–ri để kết thúc họp phiên kết thúc Hội nghị. Ngày 30/8 sau khi trao đổi với ta đồng chủ tịch hội nghị về dự thảo tuyên bố của Hội nghị quốc tế, anh Thạch chờ ở phòng họp đến giờ trưa, vì tình hình sức khoẻ phải trở về sứ quán để nghỉ. Ta báo Ban Thư Ký hội nghị là thứ trưởng Trần Quang Cơ sẽ là quyền trưởng đoàn Việt Nam dự phiên họp cấp bộ trưởng bế mạc hội nghị. Cuộc họp hẹp không chính thức ở cấp bộ trưởng bắt đầu từ khoảng 14 giờ kéo dài gần 1 tiếng. Vì là họp hẹp, mỗi đoàn chỉ có 2 người dự, nên chỉ có tôi và anh Lê Mai trong phòng họp. Cuộc họp này chủ yếu tranh cãi về điều bổ sung vào dự thảo Tuyên bố hội nghị của trưởng đoàn Canada dựa theo ý của Trung Quốc, mang hàm ý phủ nhận kết luận của JIM về 2 vấn đề then chốt của giải pháp. Do chưa hiểu hết ý đồ của đối phương, anh Hun–xen đã phát biểu chấp thuận bổ sung này. Để tránh chỗ sơ hở này và không để đối phương có thể khai thác sự khác nhau giữa ta và CPC, tôi đã yêu cầu chủ tịch cuộc họp ngừng cuộc họp ít phút để trao đổi riêng giữa 3 đoàn VN, CPC và Lào. Sau khi phân tích để bạn thấy được ý định nguy hiểm của đối phương trong điểm bổ sung này, tôi đề nghị cả 3 đoàn gặp 2 đồng chủ tịch yêu cầu sửa lại bổ sung này, không để cho đối phương có thể lợi dụng câu chữ mập mờ để nói là Hội nghị Quốc tế Pa–ri đã phủ nhận kết luận của JIM về chống diệt chủng. Sau khi dự thảo Tuyên bố của hội nghị được thông qua, mới đi vào phiên họp chính thức để bế mạc Hội nghị sau một tháng làm việc liên tục. Tuyên bố chung ngắn gọn của Hội nghị Quốc tế Pa–ri về Campuchia ghi nhận Hội nghị này là một bước tiến có ý nghĩa. Hội nghị tạm ngừng, kêu gọi các bên CPC và các nước có liên quan tiếp tục cố gắng để đi tới một giải pháp toàn bộ. Kết quả rất hạn chế của Hội nghị phản ánh tính chất vô cùng phức tạp của vấn đề CPC. Việc VN rút hết quân vào tháng 9/89 và triển vọng Nhà Nước CPC vẫn đứng vững đã thúc ép đối phương phải có hội nghị này, song chưa tới mức họ phải chấp nhận nguyên trạng chính trị quân sự ở CPC. Hội nghị kết thúc một giai đoạn đấu tranh và mở ra giai đoạn đấu ttranh mới về vấn đề CPC trong tình hình VN đã rút hết quân ở CPC nhưng vấn đề CPC vẫn chưa có giải pháp. Ngày 5/10/1989, trong khi đã trả lời phỏng vấn báo chí, tôi đã nói về nguyên nhân khiến Hội nghị quốc tế Pa–ri chưa thành công, như sau: “Ngay từ những ngày đầu, dư luận trong và ngoài Hội nghị đều đã thấy vật cản chính và duy nhất cho khả năng tiến triển của Hội nghị là nhóm đại diện của Polpot được sự khuyến khích và phụ họa chủ yếu của một số nước vì lợi ích riêng tư của họ. Càng về cuối Hội nghị, điều này càng thành sự thực hiển nhiên. “Để lấp liếm trách nhiệm, họ đã vu khống Việt Nam và Nhà Nước Campuchia quá cứng rắn khiến Hội nghị bế tắc. “Làm sao chúng tôi có thể đi đến thoả thuận được trong khi đối phương ngoan cố tới mức tự mâu thuẫn một cách trắng trợn trong lập trường cũng như các lập luận của họ? Họ nói tôn trọng nguyên tắc chủ quyền của nhân dân Campuchia nhưng họ lại đòi phải để các nước ngoài tham gia giải quyết các vấn đề Campuchia, lại áp đặt cho nhân dân Campuchia phải chấp nhận một chính phủ phải theo hình thái họ định ra trước; họ nói họ vô cùng phản đối tội ác giết người của bọn Polpot nhưng họ lại đòi hợp pháp hoá tổ chức diệt chủng và đòi chúng được chia quyền cai trị đất nước Campuchia. “Cộng đồng quốc tế có trách nhiệm loại trừ hiểm họa diệt chủng này. Đặc biệt là những nước xưa nay lớn tiếng đòi Việt Nam rút quân trong khi đó lại lẫn tránh lên án diệt chủng, thì nay đến lượt họ phải có trách nhiệm ngăn diệt chủng gây nội chiến ở Campuchia. “Về triển vọng quan hệ giữa các nước khu vực với đà tiến triển của vấn đề CPC còn tuỳ thuộc các nhân tố chủ quan cũng như khách quan, trong đó có khả năng của ta chuyển hoá các nhân tố khách quan có lợi hơn cho việc thực hiện mục tiêu của ta. Chẳng hạn như khả năng thực hiện phương châm “thêm bạn bớt thù” trong đối ngoại đòi hỏi có được một ý niệm rộng rãi hơn về bạn. Tất nhiên mở rộng việc kết bạn không có nghĩa là thủ tiêu đấu tranh và phải trên cơ sở bảo vệ tốt lợi ích an ninh quốc gia của ta”. Cũng nên biết đối với vấn đề diệt chủng ở Campuchia, Liên Xô vì lợi ích chiến lược của mình nên chủ trương hầu như không khác gì Trung Quốc. Trong cuộc gặp anh Nguyễn Văn Linh ở Hà Nội tối 5/9/1989, Heng Samrin cho biết anh vừa đi nghỉ ở Liên Xô về và kể rằng: “Trước khi đi, tôi nêu yêu cầu được gặp Gorbachov để thông báo tình hình Campuchia và trao đổi một số vấn đề Liên Xô đồng ý. Nhưng khi đến Liên Xô, đồng chí Gobachov không gặp tôi mà để đồng chí ủy viên dự khuyết Bộ Chính Trị, phó chủ tịch Xô Viết tối cao gặp. Tôi hiểu rằng vì Hội nghị quốc tế ở Pa–ri chưa có kết quả gì nên Gorbachov không gặp tôi. Trong khi gặp tôi phía Liên Xô nói thẳng là chúng tôi phải chấp nhận lập chính phủ liên hiệp 4 bên, cho cả Khơ–me đỏ vào và để Sihanouk làm chủ tịch. Chính phủ đó và Sihanouk có thực quyền, Liên Xô giải thích là trong Khơ–me đỏ chỉ có Polpot và vài người theo Polpot là xấu thôi, còn lại thì Nông Pênh nên chấp nhận cho họ tham gia chính phủ. Lập trường này của Liên Xô, chúng tôi không đồng ý”. Vậy là đến lúc này cả Liên Xô lẫn Trung Quốc vì lợi ích của mình cùng nhất trí trong hành động dùng sức ép nước lớn can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm chủ quyền Campuchia. [1] Javier Perez de Cuellar, Tổng thư ký thứ 5 của Liên Hiệp Quốc [2] People's Republic of Kampuchea [3] Samdech Krom Preah Norodom Ranaridth [4] The Philippines [5] Lambertson, David F., Deputy Assistant Secretary, Bureau of East Asian and Pacific Affairs, Department of State **************************************************************************************** Đặng Tiểu Bình tiếp Kaysone Phomvihan[1] để nói với Việt NamNhững biến động lớn trong tình hình thế giới bên ngoài lúc này đã tác động mạnh mẽ tới suy nghĩ của lãnh đạo ta về phương hướng chiến lược đối ngoại. Cuộc khủng hoảng chính trị tại nhiều nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa đã bùng nổ từ năm 1989 và đang có chiều hướng lan rộng ra. Tháng 6/1989 xảy ra vụ Thiên An Môn ở Trung Quốc. Cũng trong năm 1989, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu như CHDC Đức, Ba Lan, Ru–ma–ni, Hung, Tiệp, Hà Lan[2] đều đã sụp đổ. Đầu tháng 10/1989, TBT Nguyễn Văn Linh đi dự kỷ niệm 40 năm Quốc Khánh CHDC Đức, khi về đến Hà Nội thì bức tường Berlin đổ, Honecker bị lật. Lãnh tụ Ru–ma–ni Ceaucescu, người mà khi ở Berlin anh Linh xem ra tâm đầu ý hợp trong việc bàn chuyện tâm huyết cứu vãn sự nghiệp xã hội chủ nghĩa thế giới đang lâm nguy, vừa chân ướt chân ráo về đến Bucarest thì bị truy bắt. Với “tư duy mới” của Gorbachov, tình hình Liên Xô ngày càng trở nên lộn xộn. Trước tình hình ấy, trong nội bộ lãnh đạo ta đã nảy sinh những ý kiến khác biệt trong nhận định về sự kiện Thiên An Môn cũng như về những biến đổi dồn dập tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô. Nổi lên là ý kiến nhấn mạnh mặt xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc, phải bằng mọi giá bắt tay ngay sau Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, để chống Mỹ và các thế lực đế quốc khác. Chính điều đó đã tạo nên bước ngoặt khá đột ngột trong thái độ của ta đối với Trung Quốc. Suy nghĩ đơn giản của ta là không có lý gì Việt Nam lại ngủng ngỉnh với Trung Quốc trong khi Liên Xô đã bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (tháng 5/1989). Lào cũng đã thoả thuận trao đổi đại sứ trở lại với Trung Quốc và bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, đánh dấu bằng cuộc đi thăm chính thức Trung Quốc của Kayson Phomvihan, tổng bí thư Đảng NDCM Lào, tháng 10/1989. Chính là thông qua cuộc nói chuyện với Kayson ngày 7/10/89 mà Đặng Tiểu Bình đã bộc lộ rõ phần nào những tính toán sâu xa của mình đối với Việt Nam: phân hoá Việt –Lào, Việt–CPC, Việt–Xô và phân hoá cả nội bộ Việt Nam. Đặng nói với Kayson rằng Việt Nam đã có biểu hiện chống Trung Quốc từ khi Hồ Chí Minh còn sống; rằng sau khi thắng Mỹ, Lê Duẩn trở mặt chống Trung Quốc, xâm lược Campuchia, Việt Nam đi theo Liên Xô, đưa quân vào Campuchia, nên mới có chuyện Trung Quốc đánh Việt Nam. Lúc đầu Trung Quốc cho là vì Brejnev xúi giục nên Việt Nam xâm lược Campuchia, nhưng chính là do Việt Nam có ý đồ lập Liên bang Đông Dương, không muốn Lào, Campuchia độc lập. Việt Nam chống Trung Quốc vì Trung Quốc là trở ngại cho việc lập Liên bang Đông Dương …Trong khi không tiếc lời phê phán Lê Duẩn, Đặng đã hết lời ca ngợi Nguyễn Văn Linh; Đặng kể lại khi làm tổng bí thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc, năm 1963, đã tổ chức đưa Nguyễn Văn Linh từ miền Nam sang Hồng Kông để đi thăm Bắc Kinh gặp nhau, khen anh Linh là “người tốt, sáng suốt và có tài”; nhờ Kayson chuyển lời hỏi thăm anh Linh; khuyên Nguyễn Văn Linh nên giải quyết dứt khoát vấn đề Campuchia, nếu làm được việc này thì sẽ khôi phục được uy tín của Việt Nam. Cho đây là việc Việt Nam phải làm, vì những gì Việt Nam đang làm là sai lầm; mong muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam trước khi ông ta nghỉ hưu… Về điều kiện bình thường hoá quan hệ Trung–Việt, Đặng nhấn mạnh Việt Nam phải rút hết quân, rút triệt để, rút thật sự khỏi CPC thì sẽ có bình thường hoá quan hệ (tuy lúc đó ta đã kết thúc đợt rút quân cuối cùng khỏi CPC từ ngày 26/9/1989). Theo thông báo của đại sứ Lào tại Trung Quốc, trong 70 phút nói chuyện với Kayson, Đặng nói về Việt Nam và quan hệ Trung–Việt tới 60 phút. Ngày 21/10/1989 BCT ta đã họp để nhận định về phát biểu của Đặng Tiểu Bình khi tiếp Kayson. Cuộc họp đã đi đến kết luận: trong lúc Trung Quốc đang còn găng với ta, ta cần có thái độ kiên trì và thích đáng, không cay cú, không chọc tức nhưng cũng không tỏ ra nhún quá. Cần tiếp tục thực hiện đường lối Đại hội VI và Nghị quyết 13 của Bộ Chính Trị, cần thấy cả mặt xã hội chủ nghĩa và mặt bá quyền nước lớn của Trung Quốc. Trong khi cố kéo Trung Quốc, ta cần đồng thời hoạt động trên nhiều hướng; củng cố đoàn kết chặt chẽ với Lào, phân hoá Mỹ, phương Tây, ASEAN với Trung Quốc. Theo phương đó, ngày 6/11/1989, anh Thạch đã chuyển qua đại sứ Trung Quốc thông điệp miệng của TBT Nguyễn Văn Linh gửi Đặng Tiểu Bình, ngỏ ý mong sớm có bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ba ngày sau, anh Thạch lại gửi thư cho Tiền Kỳ Tham nhắc lại thông điệp ngày 6/11 và đề nghị: phía Việt Nam sẵn sàng gặp lại phía Trung Quốc ở cấp bộ trưởng hoặc thứ trưởng ngoại giao tại Hà Nội hoặc Bắc Kinh trong tháng 12/1989. Nhưng Trung Quốc không trả lời thông điệp của Tổng bí thư ta lẫn thư của anh Thạch. Mãi đến ngày 12/1/1990, đại sứ Trung Quốc mới gặp anh Thạch chuyển thông điệp miệng của phía Trung Quốc trả lời TBT Nguyễn Văn Linh, vẫn đặt điều kiện cho việc nối lại đàm phán với ta: “Đồng chí Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo khác của Trung Quốc chân thành mong muốn sớm bình thường hoá quan hệ Trung–Việt. Vấn đề Campuchia là nguyên nhân chủ yếu làm cho quan hệ hai nước xấu đi đến nay chưa được cải thiện. Việc khôi phục quan hệ hữu nghị giữa hai nước chưa có thể cải thiện nếu bỏ qua vấn đề CPC. Đồng chí Đặng Tiểu Bình có nêu ra là việc Việt Nam rút quân sạch sẽ, triệt để và việc CPC lập Chính phủ Liên hiệp Lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu là hai vấn đề hạt nhân thiết thực cần đồng thời giải quyết. Phía Trung Quốc sẵn sàng suy xét đề nghị của VN về việc mở vòng thương lượng mới ở cấp thứ trưởng, nếu Việt Nam chấp nhận một cơ chế giám sát quốc tế do Liên Hiệp Quốc chủ trì có 4 bên CPC tham gia để kiểm chứng việc rút quân VN và lập chính phủ 4 bên do Sihanouk đứng đầu trong thời kỳ quá độ”. Từ 26/2 đến 1/3/1990 tại thủ đô Inđônêxia đã họp Hội nghị không chính thức về CPC (IMC–Informal Meeting on Campuchia). Dự họp ngoài các bên CPC, VN, Lào và 6 nước ASEAN (như họp JIM, còn có thêm đại diện Tổng thư ký LHQ Pháp và Ô–tra–lia[3]). Hội nghị không ra được tuyên bố chung vì Khơ–me đã dùng quyền phủ quyết. Ngày 8/3/1990, cố vấn Lê Đức Thọ cho gọi tôi và anh Đinh Nho Liêm đến nhà riêng ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân nói mấy ý kiến về vấn đề CPC: cần có chuyển hướng chiến lược trong đấu tranh về vấn đề CPC. Phải giải quyết với TQ, nếu không thì không giải quyết được vấn đề CPC. Không thể gạt Khơ–me đỏ. Cần mềm dẻo về vấn đề diệt chủng, có thể nói không để trở lại chính sách sai lầm trong quá khứ. Không chấp nhận LHQ tổ chức tổng tuyển cử. Cần nêu phương án lập chính phủ liên hiệp lâm thời hai bên bốn phái để tổ chức tổng tuyển cử ở CPC. Phải giải quyết một bước cơ bản vấn đề CPC trước Đại hội VII để khai thông những vấn đề khác. Hai hôm sau anh lại nói với Nguyễn Cơ Thạch những ý đó. Đến ngày 3/4/1990, Trung Quốc đột nhiên lại biểu thị hoan nghênh việc thứ trưởng Đinh Nho Liêm đến Bắc Kinh “kiểm tra sứ quán” và công bố tin Trung Quốc sẽ đàm phán với thứ trưởng ngoại giao Việt Nam về vấn đề Campuchia. Lúc này CP87 đã giải thể. Các thành viên thường trực của CP87 đều đã được bổ nhiệm đi nhận trọng trách ở nước ngoài. Anh Đặng Nghiêm Hoành đã nhận quyết định đi đại sứ ở Trung Quốc. Anh Trần Xuân Mận nhận chức đại sứ ở An–giê–ri[4]. Anh Nguyễn Phượng Vũ trên đường đi nhận chức đại sứ ở Phi–li–pin, đã chết trong tai nạn máy bay trên bầu trời Thái Lan. Thay vào đó, Bộ Ngoại Giao đã lập Nhóm ad hoc về giải pháp Campuchia với nhiệm vụ cụ thể hơn vì vấn đề CPC đã đến lúc phải giải quyết. Nhóm vẫn do tôi phụ trách, có các anh Trần Huy Chương, Lê Công Phụng, Huỳnh Anh Dũng, Nguyễn Can tham gia. Nhóm Nghiên cứu giải pháp Campuchia chúng tôi nhận định có mấy lý do đã khiến Trung Quốc mềm mỏng hơn trong thái độ đối với Việt Nam về vấn đề CPC: - quan hệ Mỹ–Xô đang có chuyển động mạnh. Chỉ trong vòng 6 tháng, từ tháng 12/1989 đến tháng 5/1990, đã có 2 cuộc gặp cấp cao Xô–Mỹ. Trong khi đó quan hệ của Trung Quốc với Mỹ và các nước phương Tây chậm khôi phục sau vụ Thiên An Môn. - giữa Trung Quốc với Mỹ, phương Tây đang nảy sinh những mâu thuẫn về vấn đề Campuchia, chủ yếu trong vấn đề đối xử với Khơ–me đỏ. Trong các cuộc họp 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An tháng 2 và tháng 3/1990, Trung Quốc ở thế bị cô lập đã buộc phải có nhân nhượng và phải chấp nhận vai trò của Liên Hiệp Quốc. - đàm phán Sihanouk–Hun–xen có tiến triển. Ngày 9/4/1990 Sihanouk có phần nhượng bộ khi đưa ra 9 điểm giải pháp, nhận lập Hội Đồng Dân Tộc Tối Cao (Supreme National Council–SNC) gồm số đại diện bằng nhau của hai chính phủ, 6 của Chính phủ Nông Pênh và 6 của Chính phủ Campuchia Dân Chủ như đề nghị của Hun–xen; không đòi hỏi giải tán Nhà Nước Campuchia (SOC), tuy đòi thực quyền cai quản Campuchia trong thời kỳ quá độ phải là cơ cấu quyền lực của Liên Hiệp Quốc. Ngày 10/4 BCT họp bàn đề án đấu tranh sách lược về vấn đề CPC do Bộ NG[5] dự thảo: dùng công thức LHQ để nói về vấn đề diệt chủng và cho Khơ–me đỏ vào chính phủ liên hiệp CPC, nhận vai trò Sihanouk, lập chính phủ liên hiệp để tổ chức tổng tuyển cử… Đại đa số BCT đồng ý. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên còn nhấn vào âm mưu của đế quốc Mỹ sau cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu, VN và TQ cần liên kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội và cùng tác động để có một nước CPC thân thiện với TQ và VN và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, coi đó là lợi ích chung của TQ và VN. Riêng Nguyễn Cơ Thạch nói rõ quan điểm của Ngoại Giao là cần tranh thủ TQ, song đồng thời phải chuẩn bị có 3 khả năng về thái độ của TQ: - khả năng 1: TQ cùng ta bảo vệ chủ nghĩa xã hội. - khả năng 2: TQ cấu kết với Mỹ chống ta như trước. - khả năng 3: TQ vừa bình thường hoá quan hệ với ta, vừa tranh thủ Mỹ, phương Tây là chính. Lúc đó tôi có cảm giác nhiều ủy viên BCT không tán thành quan điểm này vì đã có định hướng cùng TQ bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc. Ngày 16–17/1/1990, thực hiện quyết định của Bộ Chính Trị theo hướng sớm làm lành với Bắc Kinh, anh Nguyễn Cơ Thạch đi Nông Pênh gặp 4 người chủ chốt trong BCT Campuchia: Heng Somrin, Chia Xira[6], Hun–xen và Sor Kheng[7] để cố thuyết phục bạn nên tính tới bước sách lược về vấn đề diệt chủng và không gạt Khơ–me đỏ, nhưng phía Campuchia không đồng ý vì tỏ ra muốn giữ đường lối độc lập trong việc giải quyết vấn đề Campuchia, không muốn ta đàm phán với Trung Quốc về các vấn đề nội bộ của Campuchia. Bạn tỏ ra rất găng về vấn đề diệt chủng, nói nếu bộ ta sẽ không còn vũ khí gì chống các luận điểm của đối phương vu cáo “Việt Nam xâm lược Campuchia”, “chính quyền Nông Pênh do Việt Nam dựng lên”. Hơn nữa chính lúc này phương Tây đang khơi lên vấn đề lên án diệt chủng. Ngày 2/5/90 với danh nghĩa “đi kiểm tra sứ quán”, anh Đinh Nho Liêm đến Bắc Kinh để có cuộc “trao đổi ý kiến không chính thức” với Trung Quốc. Lần này đối tác không phải thứ trưởng Lưu Thuật Khanh mà là trợ lý bộ trưởng Từ Đôn Tín[8]. Phụ tá cho anh Liêm là anh Đặng Nghiêm Hoành lúc này đã là đại sứ Việt Nam ở Trung Quốc. Cuộc đàm phán không có mấy tiến triển về thực chất. Về bình thường hoá quan hệ hai nước, phía Trung Quốc không mặn mà gì với gợi ý của ta về việc xích lại gần hơn nữa giữa hai nước xã hội chủ nghĩa để cứu vãn sự nghiệp xã hội chủ nghĩa chung trên thế giới đang lâm nguy. Trung Quốc chỉ đặt quan hệ với Việt Nam trong khuôn khổ chung sống hoà bình như các nước láng giềng khác. Lần này phía Trung Quốc đi vào những vấn đề thuần tuý nội bộ của Campuchia, đòi ta đàm phán về vi phạm quyền lực của Hội đồng dân tộc tối cao Campuchia (SNC) và về việc xử lý quân đội 4 bên Campuchia. Về vấn đề chính quyền Campuchia trong thời kỳ quá độ (từ khi Việt Nam rút hết quân đến khi tổng tuyển cử), Từ nói Trung Quốc thấy tốt nhất là lập một chính phủ liên hiệp 4 bên–gọi là Hội đồng dân tộc tối cao cũng được–bằng không thì phải chọn phương án giao quyền cho Liên Hiệp Quốc. Chính quyền thời kỳ quá độ này phải bao gồm cả 4 bên Campuchia (với hàm ý Khơ–me đỏ được chính thức coi là 1 bên tham chính) mới thể hiện được tinh thần hoà giải dân tộc. Nếu các đồng chí thấy nói 4 bên có khó khăn thì nói là “các bên Campuchia” cũng được, không gạt một bên nào, không bên nào nắm độc quyền. (Trong buổi làm việc với anh Đặng Nghiêm Hoành sáng 4/5, Vụ phó Trương Thanh cũng nhắc lại ý này: Hội đồng này bao gồm đại diện của 2 chính phủ, 4 bên hay các bên Campuchia đều được). Từ nói: nếu so sánh giữa phương án chính thức liên hiệp lâm thời đỏ, Trung Quốc đề ra và phương án Liên Hiệp Quốc quản lý thì chúng tôi vẫn thấy phương án của TQ là tốt hơn. Về vấn đề diệt chủng, Từ nói có ý đe dọa là nếu cứ khẳng định Khơ–me đỏ phạm tội thì phía bên kia sẽ nói Việt Nam là xâm lược và Nông Pênh là ngụy quyền, cho nên không nên nói đến vấn đề đó nữa. Trong đàm phán, phía Trung Quốc để lộ rõ ý đồ muốn Hội đồng Dân tộc tối cao thực tế sẽ thay thế Chính phủ Nông Pênh; còn quân đội của “4 bên” Campuchia phải tập kết vào những địa điểm được chỉ định rồi giải pháp toàn bộ; ít nhất là lúc đầu giảm quân số tới mức tối đa, mục đích là tước bỏ thế mạnh cả về chính quyền lẫn về lực lượng vũ trang của Nhà Nước Campuchia. Cách làm của Trung Quốc đúng là “một mũi tên bắn hai đích”, vừa xoá sạch thành quả cách mạng Campuchia vừa phân hoá quan hệ Việt Nam–Campuchia. Để tránh đi ngay vào chuyện hóc búa này, anh Liêm nói sẽ đem hai vấn đề này về bàn nghiên cứu thêm rồi sẽ phát biểu. Đồng thời theo chỉ thị trên, ta đã nhận Việt Nam không nói đến từ “diệt chủng” nữa và sẽ tìm một công thức khác thích hợp để nói về vấn đề đó. Phía Trung Quốc còn đề nghị lãnh đạo Việt Nam nên gặp Sihanouk như Sihanouk đã ngỏ ý để “tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy giải pháp”. Đáng suy nghĩ là Từ Đôn Tín đã gợi ý là sau khi Việt Nam và Trung Quốc nhất trí được về giải pháp Campuchia thì 3 nước Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan sẽ họp lại. Điều này chúng tỏ là Thái Lan giữ một vai trò không nhỏ trong việc cùng Trung Quốc nuôi dưỡng Khơ–me đỏ và làm chảy máu Việt Nam bằng vấn đề CPC. Phần vì tình thế thúc bách đẩy nhanh giải pháp Campuchia, phần vì hài lòng với cuộc gặp này, Tiền Kỳ Tham đồng ý đầu tháng 6 sẽ cử Từ Đôn Tín sang Hà Nội với danh nghĩa “khách của đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội” để tiếp tục trao đổi ý kiến với ta. Đây là lần đầu tiên trong 10 năm qua phía Trung Quốc nhận sang Hà Nội đàm phán với ta, trong khi tuyệt đại đa số các đợt đàm phán Việt–Trung đều tiến hành ở Bắc Kinh. Động thái này đã được lãnh đạo ta hiểu như một cử chỉ thiện chí đặc biệt của Trung Quốc đối với Việt Nam. [1] (13.12.1920, Naseng – 21.11.1992, Vientiane) mẹ người Laos, bố Việt Nam, Kaysone học luật tại Hà Nội, trở về làm lãnh tụ Pathet Lao. 1975 lật đổ chính phủ hoàng gia Laos. Thủ tướng CHDCND Laos (1975–91), Chủ tịch (1991–92) – "Kaysone Phomvihan." Britannica Concise Encyclopedia. 2004. Encyclopædia Britannica Premium Service. 29 Jan. 2004 www.britannica.com/ebc/article?eu=394304. [2] Biên tập gạch ngang [3] Australia [4] Algérie [5] Ngoại Giao [6] Semdech Chea Sim, Kampuchean People's Revolutionary Party. Đến 1991, thay Heng Samrin là chủ tịch đảng với tên mới là Đảng Nhân Dân Cambodia (Cambodian People's Party, CPP) [7] Sar Kheng, Phó Thủ tướng kiêm đồng Bộ trưởng nội vụ chính phủ Cambodia [8] Xu Dunxin (1934–), Thứ trưởng ngoại giao (1991–1993); Thành viên Ủy Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân Trung Quốc (1998–2003) ***************************************************************************************** Thuốc đắng nhưng không dã được tậtSáng 30/5/1990, Bộ Chính trị họp bàn về đàm phán với Trung Quốc, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thông báo với Bộ Chính trị về cuộc họp với 2 tổng bí thư đảng Lào và đảng Campuchia ngày 20–21/5, nói ra dự định sẽ gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Cố vấn Phạm Văn Đồng và một số trong BCT tỏ ý phải thận trọng trong xử sự với Trung Quốc. Anh Tô[1] nói: Mấy nghìn năm Trung Quốc vẫn là Trung Quốc, không nên cả tin. Ta cần thăm dò thúc đẩy nhưng phải cảnh giác đừng để hớ. Đỗ Mười cũng khuyên anh Linh không nên gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín trước cuộc đàm phán. Nhưng Lê Đức Anh lại tỏ ra đồng tình với dự định của anh Linh, cho rằng phải thăm dò và phân tích chiến lược của Trung Quốc, xử lý mối quan hệ của 3 nước lớn và 5 nước thường trực HĐBA, tranh thủ thế giới thứ ba, ủng hộ các nước xã hội chủ nghĩa. Đa số trong BCT đều cho rằng không nên nói đến “giải pháp đỏ” với Trung Quốc nữa. Cuối cùng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh kết luận lại là anh sẽ chỉ gặp đại sứ Trung Quốc, còn không gặp Từ Đôn Tín; về phía lãnh đạo ta, chỉ có anh Thạch tiếp Từ. Nguyễn Văn Linh còn nói khi gặp Trương Đức Duy anh sẽ chỉ nói về hợp tác hai nước và đề nghị gặp cấp cao, không nói đến “giải pháp đỏ”. Nhưng trên thực tế trong cuộc gặp đại sứ TQ vài hôm sau, Nguyễn Văn Linh đã lại nêu vấn đề đó. Ngày 5/6/90, vài ngày trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, TBT Nguyễn Văn Linh đã mời đại sứ Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh trở lại Hà Nội) đến Nhà khách Trung ương Đảng nói chuyện thân mật. Đây cũng là lần đầu tiên trong 10 năm, tổng bí thư Đảng ta tiếp đại sứ Trung Quốc để tỏ sự trọng thị đối với Bắc Kinh. Trong cuộc gặp, như để chấp nhận lời phê bình của Đặng (nói qua Kayson), Nguyễn Văn Linh nói “Trong quan hệ hai nước, 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa”. Anh sốt sắng ngỏ ý muốn sang gặp lãnh đạo TQ để “bàn vấn đề bảo vệ Chủ nghĩa xã hội” vì “đế quốc đang âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội … chúng âm mưu diễn biến hoà bình, mỗi đảng phải tự lực chống lại. Liên Xô là thành trì xã hội chủ nghĩa, nhưng lại đang có nhiều vấn đề. Chúng tôi muốn cùng các người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội… Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lãnh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay… Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác–Lênin”. Về vấn đề Campuchia, anh Linh đã gợi ý dùng “giải pháp đỏ” để giải quyết: “Không có lý gì những người cộng sản lại không thể bàn với những người cộng sản được”, “họ gặp Sihanouk còn được huống chi là gặp lại nhau”. Sáng 6/6/1990, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh lại gặp riêng và mời cơm đại sứ Trương Đức Duy. Cuộc gặp riêng chỉ giữa hai người. Trương Đức Duy vốn là thông dịch rất thạo tiếng Việt nên không cần có người làm phiên dịch. Nội dung cuộc gặp này mãi đến ngày 19 tháng 6 trong cuộc họp BCT để đánh giá cuộc đàm phán 11–13/6 giữa tôi và Từ Đôn Tín, Lê Đức Anh mới nói là đã gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ý mà anh Linh đã nói với đại sứ Trung Quốc hôm trước (gặp cấp cao hai nước; hai nước đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội; hai nhóm cộng sản Khơ–me nên nói chuyện với nhau). Nhưng trước đó, từ ngày 6/6, phía Trung Quốc (tham tán Lý Gia Trung và Bí thư thứ nhất Hồ Càn Văn) đã cho ta biết nội dung câu chuyện giữa Lê Đức Anh và Trương Đức Duy. Còn Đại sứ Trung Quốc cho anh Ngô Tất Tố, vụ trưởng Vụ Trung Quốc, biết là trong cuộc gặp ông ta ngày 6/6, anh Lê Đức Anh đã nói khá cụ thể về “giải pháp đỏ”: Sihanouk sẽ chỉ đóng vai trò tượng trưng, danh dự, còn lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là lực lượng Heng Somrin và lực lượng Polpot. Trung Quốc và Việt Nam sẽ bàn với bạn Campuchia của mình, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn đề. Địa điểm gặp nhau có thể ở Việt Nam, có thể ở Trung Quốc, nhưng ở Trung Quốc là tốt hơn cả. Đây là gặp nhau bên trong, còn bên ngoài hoạt động ngoại giao vẫn bình thường… Ngày xưa Polpot là bạn chiến đấu của tôi … Theo Hồ Càn Văn, ngày 23/5/90 Cục trưởng Cục Đối Ngoại Bộ Quốc Phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh đã mời Tuỳ viên quân sự Trung Quốc Triệu Nhuệ đến để thông báo là TBT Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Lê Đức Anh sẽ tiếp Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Chính những động thái bất thường và vượt ra ngoài khuôn khổ ngoại giao này của ta đã làm cho Trung Quốc hiểu rằng nội bộ Việt Nam đã có sự phân hoá và vai trò của Bộ Ngoại giao không còn như trước. Ngày 8/6/1990, khi được biết là lần này tôi sẽ là người đứng ra thay anh Đinh Nho Liêm đàm phán với Từ Đôn Tín, Bộ trưởng Quốc Phòng Lê Đức Anh còn điện thoại dặn tôi tránh chủ động nói đến “giải pháp đỏ”: Việc hai bên đỏ tiếp xúc với nhau là chuyện lâu dài, cần cho ổn định lâu dài. Trung Quốc sẽ tác động với phía CPC thân Trung Quốc, ta sẽ tác động với phía CPC thân với ta để hai bên kiềm chế việc thù địch nhau. Việc này phải có thời gian, không thể đòi họ trả lời ngay. Đừng thúc họ, cứ để họ chủ động, khi nào trả lời được thì họ trả lời … Phải rất bí mật. Lộ ra rất nguy hiểm. Chỉ nói khi gặp riêng chứ không nói khi đàm phán. Việc anh Nguyễn Văn Linh đặt vấn đề với đại sứ Trương Đức Duy nói sẵn sàng đi TQ gặp cấp cao nhất, cũng không nên hỏi lại nếu họ chưa nói tới. Những lời dặn dò này đối với tôi thực ra là không cần thiết, không phải vì tôi sẵn ý thức bảo mật cao, mà bởi vì ngay từ đầu tôi đã khó chịu với cái ý nghĩa gọi là “giải pháp đỏ”, với ý nghĩa bắt tay với bọn diệt chủng–dù chỉ là gián tiếp–để làm vừa lòng Trung Quốc. Nhưng sự việc trở nên phức tạp khi trưa ngày 11/6/1990 sau đàm phán phiên đầu với Từ Đôn Tín, tôi về Bộ Ngoại Giao hồi báo lại với anh Thạch lúc này đang họp Hội nghị ngoại giao đánh giá tình hình Đông Âu–Liên Xô. Anh Thạch liền gạn hỏi tôi có nói với Từ về “giải pháp đỏ” không. Tôi nói: đồng chí Lê Đức Anh đã dặn phải thận trọng tránh nói đến vấn đề đó khi đàm phán. Anh Thạch vặn lại: Vậy đồng chí nghe theo ý kiến bộ trưởng Quốc phòng hay ý kiến bộ trưởng Ngoại giao. Tôi đáp: Là cán bộ ngoại giao tôi sẵn sàng chấp hành ý kiến anh, với sự hiểu biết rằng anh nói với tư cách là ủy viên Bộ chính trị. Lúc ấy tôi thật bất ngờ trước phản ứng của anh Thạch, nhưng đồng thời cũng cảm nhận được vết rạn nứt trong BCT đã khá sâu. Phía Trung Quốc tất nhiên không để lọt hiện tượng này vì chính họ đang muốn tác động vào nội bộ ta. Chính thái độ quá đặc biệt, quá nhún mình và cũng quá sơ hở của lãnh đạo ta ngày 5 và 6/6/1990 đã gây khó khăn không nhỏ cho ngoại giao ta trong đợt đàm phán này. Ngay từ hôm đầu đến Hà Nội và trong suốt mấy ngày đàm phán, Từ Đôn Tín luôn dở giọng cao ngạo, dùng uy lực của chính lãnh đạo ta để gây sức ép với cán bộ ngoại giao ta. Ngay trong lời đáp từ tại buổi tiệc của tôi chiêu đãi đoàn TQ tối 9/6/1990, Từ đã nói: “Sau khi nghe đại sứ Trương Đức Duy báo cáo lại, tôi càng tăng thêm lòng tin tưởng, tôi tin rằng đồng chí thứ trưởng Trần Quang Cơ và các đồng chí lãnh đạo Việt Nam, cụ thể hóa vào cuộc trao đổi với chúng tôi để chúng ta nhanh chóng giải quyết xong vấn đề”. Vào phiên đàm phán đầu tiên, sáng 11/6/1990, Từ đã tìm cách ghim lại những điểm có lợi cho Trung Quốc hoặc ít nhất cũng hợp với ý đồ của họ bằng cách nêu ra 5 nhận thức chung rất bổ ích mà hai bên đã đạt được trong cuộc gặp ở Bắc Kinh đầu tháng 5/1990: 1 Hai bên đều cho rằng vấn đề Campuchia cần đạt được một giải pháp toàn diện, công bằng và hợp lý. 2 Phía Việt Nam bày tỏ đã rút hết quân khỏi Campuchia, chấp nhận sự kiểm chứng của Liên Hiệp Quốc và cam kết sẽ không quay lại Campuchia. 3 Hai bên đều cho rằng, trong thời kỳ quá độ ở Campuchia sau khi Việt Nam rút hết quân, chấm dứt viện trợ bên ngoài và thực hiện ngừng bắn, cần thành lập Hội đồng toàn quốc tối cao. Về nguyên tắc hai bên chúng ta đều tán thành Hội đồng toàn quốc tối cao phải là cơ cấu quyền lực có thực quyền, cònviệc tổ chức Hội đồng đó thế nào, ý kiến của hai bên cơ bản nhất trí với nhau. Ứng cử viên của Hội đồng đó cụ thể là ai thì phải do các bên Campuchia lựa chọn. Trung Quốc, Việt Nam tôn trọng sự lựa chọn đó. Chúng ta tán thành Hội đồng toàn quốc tối cao không loại trừ bất cứ bên nào, cũng không để bên nào nắm độc quyền. Về Hoàng thân Sihanouk, hai bên đều chủ trương Hoàng thân Sihanouk làm Chủ tịch Hội đồng toàn quốc tối cao. 4 Vấn đề quân sự trong thời kỳ quá độ, hai bên đều cho rằng để tránh xảy ra nội chiến và giữ hoà bình ở Campuchia, cần có sự sắp xếp thoả đáng quân đội 4 bên Campuchia. Dĩ nhiên sắp xếp như thế nào, hai bên chúng ta cần bàn thêm. 5 Còn một điểm nữa, các đồng chí Việt Nam bày tỏ từ nay về sau sẽ không nhắc đến vấn đề diệt chủng, kể cả trong các văn kiện quốc tế cũng không nêu nữa. Vì vậy Từ đề nghị tập trung bàn hai điểm tồn tại của lần gặp trước là vấn đề phạm vi quyền lực của Hội đồng Dân tộc Tối cao Campuchia và vấn đề lực lượng vũ trang của các bên Campuchia trong thời kỳ quá độ. Trong 3 ngày đàm phán, mỗi khi phía Trung Quốc thấy ta không chấp nhận yêu sách vô lý của họ về hai vấn đề thuộc nội bộ CPC này, nhất là khi ta kiên trì công thức “hai bên Campuchia”– tức là hai chính phủ Nông Pênh và chính phủ Campuchia Dân chủ – hoặc có thể nói 2 bên Campuchia, nhưng dứt khoát bác công thức “4 bên Campuchia” của họ mang hàm ý chấp nhận vai trò hợp pháp của bọn Khơ–me đỏ, thì Từ lại lên giọng chê trách tôi làm trái ngược ý kiến của lãnh đạo VN, với lập luận là lãnh đạo Việt Nam đã đưa ra ý “hợp tác giữa 2 phái cộng sản Khơ–me” tức là nhận từ “4 bên CPC” (có nghĩa là đưa Khơ–me đỏ lên ngang với Chính phủ Nông Pênh) và nhắc đến thoả thuận Tokyo, Từ nói: “Phát biểu của các đồng chí không nên trái ngược với các đồng chí lãnh đạo Việt Nam. Ý kiến của Bộ Ngoại Giao nên nhất trí với ý của lãnh đạo cấp cao, không nên có hai tiếng nói trái ngược”. Tôi phải đưa Từ trở về vị trí của y: “Đồng chí có thể yên tâm, không cần lo hộ, chúng tôi là Bộ Ngoại Giao có tiếng nói khác Trung ương. Đảng chúng tôi nhất trí từ trên xuống do Bộ Ngoại Giao là một bộ phận chịu sự lãnh đạo chặt chẽ của Bộ Chính Trị chúng tôi”. Về vấn đề Hội đồng Dân tộc Tối cao Campuchia, Trung Quốc kiên trì 3 điểm: - HĐDTTC (SNC) phải là cơ quan chính quyền tối cao hợp pháp duy nhất đại diện cho độc lập, chủ quyền, thống nhất của Campuchia. Về mặt đối ngoại, đại diện cho Campuchia trên quốc tế, giữ ghế cho Campuchia ở Liên Hiệp Quốc; về mặt đối nội, thực hiện quyền lập pháp và quản lý hành chính, trực tiếp nắm các ngành quan trọng ảnh hưởng đến tổng tuyển cử tự do, công bằng gồm quốc phòng, ngoại giao, nội vụ, tuyên truyền, tài chính (với hiểu biết là xoá 5 bộ này của chính quyền Nông Pênh). - Không loại bên nào (tức là không loại Khơ–me đỏ), không bên nào độc quyền. Thành phần, số lượng do 4 bên Campuchia bàn bạc và quyết định. Sihanouk làm chủ tịch HĐDTTC (thực chất là bác bỏ Thông cáo chung Tokyo đã thỏa thuận là Hội đồng gồm 12 người, chia đều cho 2 bên, mỗi bên 6 người). Tôi khẳng định HĐDTTC có trách nhiệm và quyền lực trong việc thực hiện các hiệp định được ký kết về Campuchia, về hoà giải dân tộc và về tổng tuyển cử; hai chính quyền hiện tồn tại không được làm việc gì cản trở trách nhiệm và quyền lực trên đây của HĐDTTC. Còn việc các bên Campuchia chấp nhận ý kiến của Trung Quốc đến đâu là quyền của các bên Campuchia, Việt Nam và Trung Quốc không thể thay các bên Campuchia sắp đặt việc nội bộ của Campuchia. Về vấn đề lực lượng vũ trang, Trung Quốc đòi ghi vào biên bản thỏa thuận: quân đội của 4 bên Campuchia phải tập kết vào những địa điểm do ủy ban giám sát của Liên Hiệp Quốc chỉ định. Còn việc giảm quân hay thực hiện các nguyên tắc trên sẽ do các bên Campuchia thỏa thuận với nhau. Như để thuyết phục ta chấp nhận lập trường của họ, Từ đưa ra dự kiến của Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia theo 5 bước: - Trung–Việt đạt được thoả thuận về giải pháp vấn đề Campuchia và ghi nhận lại bằng một biên bản nội bộ; - Họp ngoại trưởng 5 nước Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia, Lào và ra tuyên bố chung; - Họp hội nghị có tính chất khu vực giữa 5 nước trên và 4 bên Campuchia; - Họp 5 nước Hội Đồng Bảo An với 4 bên Campuchia; - Họp Hội nghị quốc tế Pa–ri về Campuchia. Từ nói chỉ trao đổi nội bộ với ta dự kiến này ở đây, không nói với 4 nước ủy viên thường trực Hội Đồng Bảo An, cũng không nói với Liên Xô để tránh sự quấy nhiễu của bên ngoài. Tôi tránh bình luận cụ thể, chỉ nói đây là một gợi ý thú vị, rất đáng suy nghĩ, song cần làm sao cho bước khởi động của chúng ta ở đây có kết quả thì toàn bộ kế hoạch mới có khả năng triển khai được. Chiều ngày 12/6/1990, thực hiện yêu cầu của phía Trung Quốc, đã có cuộc họp hẹp giữa hai trưởng đoàn. Qua đó Từ nhờ tôi chuyển tới lãnh đạo VN trả lời của lãnh đạo Trung Quốc về những ý kiến mà Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã nói với đại sứ Trung Quốc ngày 5 và 6/6/1990: “Lãnh đạo Trung Quốc rất coi trọng quan hệ Trung–Việt. Lãnh đạo Trung Quốc cũng rất coi trọng những ý kiến Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và đồng chí Lê Đức Anh đã nói với đại sứ Trương Đức Duy. Phía Trung Quốc cho rằng quan hệ Trung–Việt sớm muộn cũng sẽ bình thường hóa. Hai bên đều cần cùng nhau cố gắng để thực hiện.Vấn đề Campuchia, cuộc chiến tranh Campuchia đã kéo dài hơn 10 năm. Đây là vấn đề toàn thế giới quan tâm, các nước trong khu vực, nhất là ASEAN, cũng rất quan tâm. Đối với hai nước Trung Quốc và Việt Nam, nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết hiện nay là trên cơ sở những nhận thức chung đã đạt được, tiếp tục trao đổi ý kiến về hai vấn đề tồn tại (vấn đề quyền lực của Hội đồng tối cao và việc xử lý quân đội của các bên CPC), làm sao cho có tiến triển về hai vấn đề này. Nếu được như vậy, chúng ta sẽ góp phần vào việc thực sự giải quyết vấn đề Campuchia. Bước đi này là hết sức quan trọng. Chỉ có đi xong bước này, chúng ta mới có thể suy nghĩ đến những bước sau. Cũng có nghĩa là chỉ có đi xong bước này lãnh đạo Trung Quốc mới suy nghĩ về việc gặp cấp cao và việc thúc đẩy hai phái cộng sản Khơ–me đỏ hoà giải với nhau. Giải quyết xong 2 điểm tồn tại đó để có được giải pháp toàn bộ, không nên vượt qua vấn đề Campuchia. Giải quyết xong vấn đề Campuchia thì các bước tiếp theo về gặp gỡ cấp cao và bình thường hoá quan hệ giữa hai nước sẽ dễ giải quyết. Ngay sau đó, tôi sang gặp thủ tướng Đỗ Mười báo cáo tình hình cuộc đàm phán để chuẩn bị cho việc anh ấy tiếp Từ Đôn Tín chiều hôm sau như đã dự định. Tôi nói: chỉ với việc anh Linh và anh Lê Đức Anh gặp Trương Đức Duy trước khi Từ Đôn Tín tới Hà Nội đã làm cho phía Trung Quốc lên giọng trong đàm phán, nay nếu anh Linh hoặc anh Mười lại tiếp hắn nữa thì rất không nên. Nghe tôi trình bày xong, Đỗ Mười bảo sở dĩ anh nghĩ đến chuyện gặp Từ là vì sáng 10/6/1990 Lê Đức Anh đến yêu cầu Đỗ Mười gặp Từ. Nay như vậy thì không cần gặp nữa. Đỗ Mười bảo tôi cùng đi ngay sang báo cáo sự tình với TBT Nguyễn Văn Linh vì anh Linh cũng dự định tiếp Từ. Sau khi nghe tôi trình bày, có một phút lặng đi, tôi nghĩ bụng Tổng bí thư chắc bị bất ngờ về những câu trả lời quá ư lạnh nhạt của lãnh đạo Trung Quốc đối với những điều tâm huyết mà anh và Lê Đức Anh đã thổ lộ với đại sứ Trương Đức Duy. Rồi anh Linh cho ý kiến là trong tình hình này anh Mười hoặc một cấp cao khác của ta không cần tiếp Từ Đôn Tín nữa. Ba ngày đàm phán với Từ nói chung là căng nhưng giông tố chỉ nổ ra khi Từ Đôn Tín đến chào Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch chiều 13.6.1990 trước khi đoàn Trung Quốc rời Hà Nội. Ngay từ đầu, không khí trò chuyện đã không lấy gì làm mặn mà lắm. Nhưng đến khi Từ nói: “Các đồng chí nói chúng ta nên khuyên hai phái cộng sản Campuchia hòa giải với nhau nhưng lại không chấp nhận có “4 bên” Campuchia. Chúng tôi không thể hiểu được trong hai giọng nói đó cái nào là thật cái nào là giả. Nghe tiếng nói này thì tiếng nói kia là giả dối, nghe tiếng nói kia thì tiếng nói này là giả dối. Mong rằng sau này các đồng chí không nên làm như vậy”, anh Thạch đã phản ứng mạnh: “Chúng tôi không đòi các đồng chí nói chỉ có hai bên Campuchia; các đồng chí cũng không thể đòi chúng tôi nói 4 bên. Chúng tôi nói các bên, không loại bỏ bên nào là đủ rồi. Nếu nói khác đi là chống lại Hội nghị Tokyo. Tôi nói thật, dùng thủ đoạn xuyên tạc thì rất khó đàm phán … Tôi rất trọng đồng chí nhưng rất không hài lòng với những điều đồng chí nói vì đồng chí có những xuyên tạc. Như thế rất khó đàm phán”. Cuộc nói chuyện kết thúc bằng câu “Chào Ngài” của Từ Đôn Tín. Và anh Thạch cũng đáp lại bằng từ đó thay vào từ “đồng chí”.1... Tôi không có mặt trong buổi anh Thạch tiếp Từ Đôn Tín nhưng khi nghe kể lại chuyện đó tôi không hề ngạc nhiên. Tôi nhớ như in cái giọng ngạo mạn kiểu “sứ giả thiên triều” của Từ trong buổi gặp ngày 13/6/90: Lần này tôi sang Hà Nội chủ yếu để bàn với các đồng chí Việt Nam về vấn đề Campuchia, đồng thời cũng xem xét nguyện vọng của các đồng chí, chúng tôi đã chuẩn bị ý kiến về quan hệ hai nước Trung Quốc–Việt Nam. Khi nói “nguyện vọng của các đồng chí” là Từ muốn nói đến những điều mà anh Linh và anh Anh đã nói với đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy ngày 5 và 6/6/1990. Đây là cuộc đàm phán giữa hai quốc gia bình đẳng, làm sao Trung Quốc có thể nói đến chuyện “xem xét nguyện vọng” của lãnh đạo Việt Nam được thêm vào đó; tâm trạng Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch trong những ngày này lại đang nặng trĩu những suy tư khác. Sau khi xảy ra va chạm giữa Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch và trưởng đoàn TQ Từ Đôn Tín, sức ép vào nội bộ ta càng mạnh hơn; suốt nửa cuối 1990 đến đầu 1991, TQ phớt lờ Bộ Ngoại Giao, chỉ làm việc với Ban Đối ngoại; ngoại trưởng Tiền Kỳ Tham từ chối gặp Nguyễn Cơ Thạch tại kỳ họp Đại hội đồng LHQ ở Nữu–ước tháng 9/1990. Trước đó, ý đồ TQ phân hoá nội bộ ta đã bộc lộ rõ: muốn ta phải thay đổi bộ trưởng ngoại giao. Liều thuốc của thầy Tàu bốc cho ta thật là đắng, thế nhưng đâu có dã được tật! [1] Phạm Văn Đồng *********************************************************************************************** BCT đánh giá cuộc đàm phán tháng 6/1990Ngày 19/6/1990 Bộ Chính Trị đã họp để đánh giá cuộc đàm phán. Rất tiếc không hiểu vì sao ngay sáng hôm họp BCT anh Linh lại đi vào Thành phố Hồ Chí Minh và nhắn qua anh Nguyễn Thanh Bình đề nghị BCT cứ họp nhưng chưa bàn về phương hướng tới. Là người trực tiếp đàm phán với TQ, tôi đã trình bày trước BCT bản báo cáo của Bộ Ngoại Giao trong đó có nhận định về ý đồ của Trung Quốc qua cuộc đàm phán này: * Ý đồ Trung Quốc về vấn đề quan hệ với Việt Nam và về vấn đề Campuchia; qua cuộc gặp này đã bộc lộ rõ. Chiến lược của Trung Quốc là đặt ưu tiên cao nhất vào việc tranh thủ Mỹ, phương Tây, ASEAN để phục vụ mục tiêu “4 hiện đại hoá”. Chính sách đối với Việt Nam, cũng như với Liên Xô và các nước khác đều phải phục tùng lợi ích tối cao này, không được gây nên bất kỳ ảnh hưởng xấu nào trong quan hệ của Trung Quốc với Mỹ, phương Tây, ASEAN. Chính vì vậy Trung Quốc đã không đáp ứng những đề nghị mà TBT Nguyễn Văn Linh và anh Lê Đức Anh nói với đại sứ Trung Quốc trước cuộc đàm phán này: a về việc ta đề nghị gặp cấp cao nhất của 2 nước càng sớm càng tốt, Trung Quốc trả lời chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia thì lãnh đạo Trung Quốc mới suy nghĩ đến việc này cũng như mới có thể bàn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước. b về việc ta đề nghị hai nước đoàn kết để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, họ nói rõ họ coi quan hệ với Việt Nam sau này cũng chỉ nằm trong phạm vi quan hệ giữa hai nước láng giềng, trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Họ còn nói quan hệ Việt Nam–Trung Quốc không thể làm cho Mỹ và ASEAN lo ngại. c về việc ta đề nghị hai nước cùng thúc đẩy 2 phái cộng sản Khơ–me hoà giải với nhau, họ cũng chỉ trả lời là giải quyết xong vấn đề Campuchia thì lãnh đạo Trung Quốc sẽ tính về việc này. Thực chất phương án giải quyết vấn đề Campuchia của Trung Quốc là nhằm xoá đi chính quyền và lực lượng quân sự của Nhà Nước Campuchia để giao thực quyền cho Hội Đồng Dân Tộc Tối Cao do Sihanouk chủ trì. Hai chính quyền hiện nay–Nhà Nước Campuchia và Campuchia Dân Chủ–đều do hai lực lượng cộng sản kiểm soát là chính, và các lực lượng quân sự Campuchia mạnh nhất cũng là của hai nhóm cộng sản Khơ–me. Trung Quốc đòi cho quân sự của Liên Hiệp Quốc hỗ trợ hoặc đòi để Liên Hiệp Quốc cai trị hoàn toàn Campuchia. Để thực hiện tính toán chiến lược của họ, Trung Quốc sẵn sàng ngả theo phương án của Mỹ và phương Tây, trái với suy tính của ta. * Trung Quốc không đáp ứng các đề nghị của lãnh đạo ta, đồng thời họ lại đánh giá sai lầm là Việt Nam yếu, có nhiều khó khăn do tình hình bản thân VN và do tác động của tình hình Liên Xô, Đông Âu nên quá lo sợ bị đế quốc diễn biến hoà bình như đối với các nước Đông Âu, do đó Việt Nam rất cần Trung Quốc. Vì vậy họ đã lợi dụng lòng khát khao hợp tác với Trung Quốc của lãnh đạo ta để gây sức ép mạnh với ta trong đàm phán. Đồng thời, từ khi có cuộc gặp không chính thức với ta ở Bắc Kinh cho đến nay, Trung Quốc không ngừng đưa tin về các hoạt động của Trung Quốc ở Trường Sa và Hoàng Sa với ý đồ vừa gây sức ép với ta vừa làm cho Mỹ, ASEAN yên tâm là quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam chẳng phải có sự ưu ái gì hơn mối quan hệ của Trung Quốc với các nước Đông Nam Á khác. * Trung Quốc ép ta chấp nhận lập trường của họ về 2 vấn đề thuộc phạm vi nội bộ Campuchia còn nhằm mục đích chia rẽ ta với bạn CPC, sau khi Trung Quốc đã cố gắng tranh thủ Lào, nhằm tách Lào khỏi Việt Nam và Liên Xô. * Trung Quốc không hài lòng về Thông cáo chung Tokyo vì nó đề cao vai trò Nhật ở Châu Á đồng thời xoá bỏ vai trò Khơ–me đỏ, con chủ bài của Trung Quốc trong vấn đề Campuchia… ngày 4 và 5/6/1990 ở Tokyo đã có cuộc họp giữa các bên Campuchia và đã ra được Thông cáo chung Hun–xen–Sihanouk thỏa thuận một cuộc ngừng bắn tự nguyện đồng thời với việc lập ra Hội Đồng Dân Tộc Tối Cao gồm số người của 2 bên ngang nhau (6+6), nhưng Trung Quốc không dám công khai phản đối nên cố kéo ta cùng có lập trường khác với Thông cáo Tokyo. * Trung Quốc đưa ra dự kiến giải quyết vấn đề Campuchia theo 5 bước nhằm giành cho Trung Quốc vai trò trung tâm và chủ động trong cả quá trình giải quyết vấn đề CPC, qua đó khẳng định các vấn đề Châu Á không thể chỉ Mỹ và Liên Xô giải quyết mà không có Trung Quốc. Trung Quốc xem đàm phán với ta là bước mở đầu có tính quyết định của “kế hoạch 5 bước” để giải quyết vấn đề Campuchia, vì Trung Quốc cho rằng Liên Xô không ép được Việt Nam, chỉ có Trung Quốc dùng đòn bẩyvề bình thường hoá quan hệ với Việt Nam mới ép được Việt Nam xoá bỏ hoặc hạn chế đến mức thấp nhất chính quyền Nông Pênh. * Trong quan hệ với ta, Trung Quốc luôn có hai giới hạn: một đàng là Trung Quốc muốn không làm gì với Việt Nam gây ảnh hưởng bất lợi đến quan hệ với Mỹ, phương Tây, ASEAN; một đàng là Trung Quốc cũng không muốn tỏ ra quá căng với Việt Nam làm cho vấn đề Campuchia không thể sớm giải quyết được, đồng thời duy trì quan hệ căng thẳng với Việt Nam không phù hợp với lợi ích Trung Quốc lúc này là tạo hoàn cảnh quốc tế thuận lợi cho việc ổn định nội bộ thực hiện “4 hiện đại”. Nghe xong bản báo cáo và kiến nghị của Bộ Ngoại Giao, BCT chưa có ý kiến ngay mà bàn tới diễn biến của cuộc đàm phán vừa qua. Về vụ to tiếng giữa anh Thạch và Từ Đôn Tín chiều 13/6, anh Đào Duy Tùng nói “Cần phải nói lại mạnh mới được”. Còn anh Đồng Sĩ Nguyên nói: “Nếu anh không phản ứng mạnh thì chúng tôi không thể hiểu nổi”. Về việc anh Lê Đức Anh và anh Linh gặp Trương Đức Duy trước khi ta và Trung Quốc đàm phán, anh Tô phát biểu: “Trong cuộc họp BCT bàn về đàm phán với Trung Quốc, tôi đã nói 3 lần là không được hớ phải rất thận trọng với trung Quốc. Đằng này anh lại ngửa bài trước để họ biết hết và kết quả là điều đã xảy ra. Trung Quốc họ nghĩ theo kiểu Đại Hán của họ và kết quả là họ ép mình. Ngoại giao như đánh bài phải giữ thế, không phải lúc nào cũng lật hết lá bài ra. Không thể đưa ngực ra cho nó biết”. Khi anh Lê Đức Anh nói có ý thanh minh sở dĩ anh nói “giải pháp đỏ” với đại sứ Trung Quốc là vì Campuchia nhờ ta thăm dò Trung Quốc, anh Võ Văn Kiệt nói: “Nhưng ta thăm dò thật thà quá! Anh Võ Chí Công nói: “Trung Quốc lấy lợi ích dân tộc của họ là chính, không phải theo lợi ích quốc tế của xã hội chủ nghĩa. Họ khác ta. Dù ta có muốn hợp tác họ cũng không chịu đâu. Anh Lê Đức Thọ, ngày 12/6, khi nghe báo cáo nội dung trả lời của Trung Quốc về các đề nghị của anh Nguyễn Văn Linh và anh Lê Đức Anh, đã có ý kiến: “Việc anh Nguyễn Văn Linh và anh Lê Đức Anh gặp đại sứ Trung Quốc đã làm cho Trung Quốc cứng lên. Đáng lẽ không nên gặp”. (Anh Lê Đức Thọ lúc này đang ốm nặng, nằm ở nhà). Ngày 12/6, khi dặn dò anh Đặng Nghiêm Hoành, đại sứ ta ở TQ, anh Lê Đức Anh lại nói: “Anh Linh nói chuyện với Trương Đức Duy cũng có đôi chỗ thật lòng quá. Nhưng cũng không phải vì thế mà nó cho là mình yếu” (?). Tôi nghĩ, xét cho cùng nội bộ ta lúc này đã có hai cách đánh giá về Trung Quốc, cũng như có hai cách đánh giá về cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và Liên Xô nên đã có hai cách xử sự khác nhau. Từ Đôn Tín nói ta có “hai tiếng nói trái ngược”, “không biết cái nào giả, cái nào thật” và khuyên Bộ Ngoại Giao nên nhất trí với ý kiến của lãnh đạo cấp cao”, như thế có nghĩa là Trung Quốc đã biết nội bộ ta đã có kẽ hở mà họ không dại gì bỏ qua không lợi dụng để giành lợi cho họ. Ngày 25/6/1990 TBT Nguyễn Văn Linh từ Thành phố Hồ Chí Minh điện ra cho Bộ Chính Trị tôi đã đọc biên bản cuộc họp BCT 19/6/1990, có một số ý kiến sẽ phát biểu sau. Anh không đồng ý thông báo cho Trung ương và các cấp ủy về điều tối mật (tức là những điều Lê Đức Anh đã nói với Trương Đức Duy ngày 6/6/1990 mà chỉ thông báo rằng cuộc họp Việt–Trung vừa qua không có kết quả là do Trung Quốc phá. Ngoại giao cần có cách giải thích cho dư luận theo hướng trên. Ngoại giao theo dõi khi Trung Quốc lộ ra những điều mà ta lấy tình bạn nói với họ thì phủ nhận ngay, không để chậm. Đợt đàm phán tháng 6/1990 không kết quả, nhưng TQ không cắt cầu như các lần trước mà để thực hiện ý đồ… đại sự! Như vậy, sau khi đàm phán thất bại đã có hàng loạt hành động tiến hành song song; hai bên vừa tiếp tục nói chuyện với nhau, vừa công kích nhau trên mặt trận dư luận. Để giành chủ động trong việc tranh thủ dư luận quốc tế, ngày 21/6/1990, dưới hình thức trả lời phỏng vấn của Việt Nam Thông Tấn Xã, tôi đã nêu rõ nguyên nhân khiến cuộc nói chuyện với TQ không tiến triển được chỉ vì VN kiên quyết tuân thủ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ CPC, cản trở chính cho giải pháp CPC là việc Trung Quốc vẫn cố bám giữ bọn diệt chủng Polpot. Song điều khiến Trung Quốc cay cú nhất là tôi đã vạch “Trung Quốc không tán thành Thông cáo chung Tokyo nhưng không muốn đơn phương một mình chống lại. Họ muốn Việt Nam và Trung Quốc cùng có một lập trường trái với Thông cáo chung Tokyo”. Vì vậy ngay sau đó, tờ Nhân Dân Nhật Báo Bắc Kinh ngày 5/7/1990 đã có ngay bài “Kế hoạch một hòn đá ném hai đích của Hà Nội” của Thái Tích Mai, Tân Hoa Xã, phản ứng ngay về bài đó, nói Trần Quang Cơ định “dụ dẫn nhân dân thế giới vào cái bẫy của họ bằng hàng loạt sách lược một hòn đá nhằm hai cái đích”. Ý đồ thứ nhất của Hà Nội là thông qua việc ngừng bắn tại chỗ để che đậy về việc quân đội VN vẫn có mặt ở CPC. Ý đồ thứ 2 của Hà Nội là thành lập HĐDTTC trong khuôn khổ Nông Pênh. Ý đồ thứ 3 là lấy cuộc đối thoại giữa hai chính quyền thay thế nguyên tắc 4 bên. Hiểm độc nhất là Trung Quốc đã thông báo khá rộng rãi với các nước những điều Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh nói riêng với Trương Đức Duy về “giải pháp đỏ” và đoàn kết xã hội chủ nghĩa nhằm gây ấn tượng xấu về ta đối với các nước quan tâm đến vấn đề CPC, kể cả Liên Xô và các nước bạn khác của ta. Sáng 26/6/1990, đại sứ CHLB Đức khi gặp Vụ Châu Âu II BNG[1] ta cho biết là ngày 22/6 Trung Quốc đã thông báo cho đại sứ các nước Thị trường chung Châu Âu ở Bắc Kinh nội dung cuộc hội đàm giữa Từ Đôn Tín và tôi, và đưa ra kết luận: Việt Nam là những người rất xảo trá, rất xấu xa và rất cứng rắn. Họ chỉ muốn Hun–xen độc quyền. Họ không chịu nhân nhượng bất cứ điều gì… Ông Nguyễn Cơ Thạch là người xảo quyệt, rất cứng rắn và căm thù Trung Quốc cao độ. Tuy nhiên, theo chủ trương kiên trì thúc đẩy bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích chiến lược của ta, trong thời gian này hàng tuần tôi vẫn gặp trao đổi ý kiến với đại sứ Trung Quốc để giữ cầu. [1] Bộ Ngoại Giao
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 4, 2015 9:00:18 GMT 9
Một sự chọn lựa thiếu khôn ngoan
Trong cuộc gặp tôi ngày 25/6/1990 ở Bộ Ngoại Giao, không hiểu sao Trương Đức Duy đã đọc lại toàn văn trả lời của lãnh đạo Trung Quốc gửi lãnh đạo Việt Nam và nói là bản này “chính xác hơn” (so với bản mà Từ Đôn Tín đã chuyển ngày 12.6) (?), trong đó đoạn cuối về CPC đã sửa lại là: “Vấn đề Campuchia đã kéo dài 11 năm, trở thành vấn đề quốc tế trọng đại mà cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước ASEAN , rất chú trọng. Chúng tôi cho rằng việc này cần làm gấp. Trước mắt là hai bên Trung Quốc–Việt Nam nên đi đến thỏa thuận càng sớm càng tốt về một số mặt quan trọng trong giải pháp chính trị về vấn đề CPC để thúc đẩy và tăng cường hơn tiến trình giải quyết toàn diện vấn đề CPC. Bước này đi tốt thì có lợi cho việc suy tính những vấn đề của bước sau và tạo điều kiện cần thiết cho cuộc gặp cấp cao Trung Quốc–Việt Nam, và tạo sự hoà giải nội bộ Campuchia”. Thực ra nội dung không có gì khác, chỉ là lời lẽ được sửa lại cho bớt giọng xấc xược ngạo mạn.
Ngày 2/8/90. trước khi họp BCT, Tổng bí thư hỏi Nguyễn Cơ Thạch có nên nhắc lại TQ về gặp cấp cao và nói “giải pháp đỏ”. Vào cuộc họp, Thạch nói TQ đã 3 lần bác bỏ “giải pháp đỏ”. Anh Võ Chí Công nói thêm: đó chỉ là ảo tưởng, ngây thơ.
Trong cuộc gặp Trương ngày 5/8/1990, tôi đã nêu lại những điểm mà hai bên đã có được sự nhất trí và những điểm tồn tại về vấn đề CPC, đồng thời nói rõ lập trường của VN về vấn đề vai trò LHQ và về việc lập HĐDTTC CPC. Tôi nhấn mạnh lập trường nguyên tắc của VN là công việc nội bộ của CPC chỉ có thể do người CPC quyết định. Trương Đức Duy đồng ý là những vấn đề nội bộ CPC phải thuộc chủ quyền của CPC, nhưng lại cho rằng nếu không có sự can thiệp của bên ngoài thì sẽ khó có được giải pháp toàn diện. Qua trao đổi, đại sứ TQ đã phải thừa nhận là các nước khác có thể bàn nhưng phải là người CPC quyết định thì mới thực hiện được. Về quan hệ hai nước, Trương đọc bản viết sẵn: “Chúng tôi cho rằng hiện nay tình hình quốc tế chuyển biến rất nhanh, không chờ đợi chúng ta. Mong phía VN nắm vững thời cơ, sớm hạ quyết tâm, có quyết sách loại trừ chướng ngại, tạo điều kiện cho việc sớm bình thường hoá quan hệ hai nước”, và nói thêm “Trung Quốc coi trọng quan hệ TQ–VN nhưng phải làm từng bước một”..
Đến cuộc gặp ngày 13/8/90, theo lời dặn của TBT Nguyễn Văn Linh trong cuộc họp BCT 12/8, sau khi tỏ ý hoan nghênh tuyên bố của Lý Bằng[1] ở Singapo 12/8 (“Trung Quốc hy vọng sắp tới đây sẽ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và sẽ bàn bạc với Việt Nam những vấn đề có tranh chấp như quần đảo Trường Sa”), tôi nói: Lãnh đạo chúng tôi rất vui mừng vì hai bên có suy nghĩ gặp nhau, chúng tôi cho rằng hai nước chúng ta cần có sự hợp tác với nhau trước mắt cũng như lâu dài, về những vấn đề cụ thể như vấn đề Campuchia cũng như các vấn đề rộng lớn hơn mà hai nước cùng có sự quan tâm giống nhau. Trương Đức Duy trình bày 7 điểm lập trường của TQ về vấn đề CPC, trong đó có việc lập HĐDTTC gồm 4 bên CPC do Sihanouk đứng đầu, thành phần và số lượng do các bên CPC quyết định, và là cơ chế hợp pháp duy nhất. Các điểm khác không có gì mới. Để gây tác động làm giảm sức ép của Trung Quốc; tôi đã thông báo cho TQ cuộc nói chuyện giữa ta và Mỹ tại Nữu Ước ngày 6/8/1990 về vấn đề CPC (trong cuộc gặp này Mỹ chủ yếu thăm dò, vận động ta chấp nhận 2 văn kiện của P5[2] về giải pháp CPC), VN và Mỹ sẽ còn tiếp tục nói chuyện.
Tháng 8/1990, tình hình quốc tế cũng như vấn đề CPC tiếp tục diễn biến phức tạp. Từ đầu 1990 mở đầu thời kỳ hoà hoãn giữa 3 nước lớn, đồng thời 3 nước lớn bắt đầu dùng cơ chế 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An (P5) giải quyết vấn đề CPC cũng như vấn đề vùng Vịnh. Từ khi Việt Nam rút hết quân khỏi CPC và càng đi gần vào giải pháp thì lợi ích của CPC và của ta càng kênh nhau lớn. Chúngta đứng trước tình hình 5 nước lớn quyết tâm đạt thỏa thuận về một giải pháp chính trị về vấn đề CPC. Còn CPC lại đang trước một tình thế tiến hoá lưỡng nan: khó kéo dài nội chiến vì khó khăn kinh tế chính trị trong nước và trên thế giới, mà đi vào giải pháp chính trị thì lo thất bại trong tuyển cử. Mặt khác, thái độ của Mỹ có đổi khác: ngày 18/7/1990 ngoại trưởng James Baker tuyên bố Mỹ thôi không công nhận CPC Dân Chủ (tức chính quyền 3 phái do Sihanouk đứng đầu), lên án Khơ–me đỏ, nhận đối thoại với VN qua phái đoàn ở Nữu–ước. Ngày 6/8/1990, ta với Mỹ tiếp xúc ở Nữu–ước, Mỹ chủ yếu thăm dò thái độ ta về văn kiện khung của LHQ về giải pháp CPC.
Ngày 8/8/1990 Bộ Ngoại Giao trình BCT đề án về vấn đề CPC theo hướng phân rõ mặt quốc tế và mặt nội bộ của giải pháp. Về mặt quốc tế, góp ý với bạn nên đồng ý phương án của P5, còn mặt nội bộ phải do bạn CPC quyết định, ta tôn trọng.
Chiều 8/8/1990, tôi đến gặp Cố vấn Phạm Văn Đồng xin ý kiến về đề án này. Anh nói: Tình hình hiện nay tạo cơ hội thuận lợi cho giải pháp CPC. Cần tận dụng cơ hội mới này trong khi ta còn sử dụng được. Phải dám chơi với Liên Hiệp Quốc, với Hội Đồng Bảo An, với Mỹ và phương Tây. Cần tranh thủ nhân tố Mỹ trong tình hình mới… Đề án về lý thuyết thì tốt nhưng làm sao thực hiện được… Không nên đặt yêu cầu quá cao “giữ vững thành quả cách mạng (CPC)”… Đi vào tổng tuyển cử bạn giành được 50% là lý tưởng…
Ngày 12/8/1990, Bộ Chính trị họp về đề án CPC của Bộ Ngoại giao. Sau khi thảo luận, anh Linh kết luận: Với Mỹ, ta tiếp tục đối thoại như BCT đã cho ý kiến; với TQ, trong cuộc gặp 13/8 (giữa tôi và Trương Đức Duy), ta nên nói là 2 nước XHCN Việt Nam và Trung Quốc nên hợp tác giải quyết vấn đề CPC để có một nước CPC hữu nghị với các nước láng giềng, trước hết là Việt Nam, Trung Quốc, Lào. Ta không nói VN và TQ là hai nước xã hội chủ nghĩa cần đoàn kết chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Nhưng rồi cuộc gặp Thành Đô đã làm lãnh đạo Việt Nam xa rời quan điểm thực tế này mà ngả hẳn theo Trung Quốc, thậm chí còn định ép Nông Pênh chấp nhận đòi hỏi quá đáng của Bắc Kinh về vấn đề HĐDTTC CPC.
[1] Li Peng (1929–) quê ở Thành Đô, Tứ Xuyên, con nuôi của Zhou Enlai từ 3 tuổi khi cha bị Quốc Dân Đảng giết ở Hải Nam. Thủ tướng (1988–1998). [2] Canada, Colombia, Ethiopia, Finland, Malaysia (1.1989- 12.1990) ************************************************************** Cuộc gặp cấp cao Việt–Trung tại Thành Đô 3–4/9/90
Ngày 29/8/1990, đại sứ Trương Đức Duy xin gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười chuyển thông điệp của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân[1] và Thủ tướng Lý Bằng mời TBT Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày 3/9/90 để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước. Trương nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp anh Tô. Trung Quốc còn lấy cớ ở Bắc Kinh đang bận chuẩn bị tổ chức ASIAD[2] (Á Vận hội) nên không gặp cấp cao Việt Nam ở thủ đô Bắc Kinh được vì khó giữ được bí mật, mà gặp ở Thành Đô.
Đây quả là một sự chuyển biến đột ngột của phía Trung Quốc. Trước đây Trung Quốc nói rằng chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia mới gặp cấp cao ta và mới bàn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước. Năm ngày trước–ngày 24/8/1990–Trung Quốc còn bác bỏ việc gặp cấp cao, nay lại mời ta gặp cấp cao trong một thời hạn rất gấp và đồng ý cấp cao sẽ nói chuyện về cả hai vấn đề CPC và vấn đề bình thường hoá quan hệ.
Thái độ “thiện chí” gấp gáp như vậy của Bắc Kinh không phải là tự nhiên mà có. Nó có những nguyên nhân sâu xa và nhân tố bức bách:
a) tất cả những hoạt động đối ngoại và đối nội của Trung Quốc trong hơn 10 năm qua khẳng định chiến lược nhất quán của họ là kiên quyết thực hiện “4 hiện đại”, biến Trung Quốc thành một cường quốc hàng đầu trên thế giới, đồng thời xác định vị trí nước lớn của mình trước hết ở Đông Nam Á và châu Á–Thái Bình Dương. Vì lợi ích chiến lược đó, Trung Quốc kiên trì tranh thủ Mỹ, Nhật, phương Tây, đồng thời bình thường hoá quan hệ với Liên Xô. Nhưng sau hơn 10 năm cải cách và mở cửa, tình hình chính trị, xã hội và kinh tế của Trung Quốc rất khó khăn. Sau sự kiện Thiên An Môn, mục tiêu chiến lược đó đang bị đe dọa nghiêm trọng. Về đối ngoại, bị Mỹ, Nhật và phương Tây thi hành cấm vận. Trong khi đó, quá trình cải thiện quan hệ Mỹ–Xô tiến triển rất nhanh và rất sâu. Xô–Mỹ hợp tác chặt chẽ giải quyết các vấn đề thế giới và khu vực không kể đến vai trò của Trung Quốc. Ngay trong vấn đề Campuchia, vai trò Trung Quốc cũng bị lấn át (Xô–Mỹ tiếp xúc trao đổi chặt chẽ về vấn đề CPC; cuộc gặp Sihanouk–Hun–xen ở Tokyo là do sự dàn xếp của Mỹ, Nhật và Thái, ngoài ý muốn của Trung Quốc). Phương Tây tiếp tục đòi Trung Quốc thực hiện dân chủ và giải quyết vấn đề CPC trên cơ sở kiềm chế Khơ–me đỏ. b) chuyến đi Đông Nam Á của Lý Bằng (6–13/8/1990) nằm trong yêu cầu chiến lược của Trung Quốc tranh thủ hoàn cảnh quốc tế hoà bình để thực hiện “4 hiện đại”, diễn ra trong bối cảnh liên minh mà Trung Quốc xây dựng ở Đông Nam Á trong 10 năm qua để chống Việt Nam đang tan vỡ sau khi Việt Nam rút quân khỏi CPC và sau khi Mỹ đã điều chỉnh chính sách. Cuộc đi thăm của Lý đã bộc lộ những điểm đồng và bất đồng giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Các nước ASEAN vẫn rất lo ngại ý đồ bành trướng của Trung Quốc. Trung Quốc buộc phải cam kết nội bộ các nước trong khu vực không ủng hộ các đảng cộng sản và vấn đề Hoa kiều, tuyên bố sẵn sàng thương lượng và hợp tác về vấn đề Trường Sa. Tiếp tục đối đầu với Việt Nam không còn phù hợp với chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc lúc này nữa. c) sau khi Việt Nam đã hoàn tất việc rút quân khỏi CPC, các nước phương Tây, Mỹ, Nhật, ASEAN đi vào cải thiện quan hệ với ta theo hướng không có lợi cho tính toán của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Trước tình hình đó, Trung Quốc không muốn chậm chân. d) về thời điểm: trong cuộc họp ngày 27 và 28/8/1990 tại Nữu ước, 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An đã thoả thuận văn kiện khung về giải pháp toàn bộ cho vấn đề Campuchia (gồm 5 vấn đề: lực lượng vũ trang CPC, tổng tuyển cử dưới sự bảo trợ của LHQ, nhân quyền và bảo đảm quốc tế đối với thể chế tương lai của Campuchia). Văn kiện về nhân quyền không đề cập trực tiếp đến vấn đề diệt chủng, chỉ nói CPC sẽ không trở lại chính sách và hành động trong quá khứ. Còn Trung Quốc buộc phải nhân nhượng không còn đòi lập chính phủ liên hiệp 4 bên ngang nhau, phải chấp nhận vai trò lớn của Liên Hiệp Quốc. Năm nước thường trực HĐBA/LHQ thỏa thuận lịch giải quyết vấn đề CPC: trong tuần từ 3/9 đến 9/9 họp các bên CPC ở Gia–các–ta để lập HĐDTTC trước phiên họp Đại hội đồng LHQ, tiếp đó họp mở rộng với các nước trong khu vực (có TQ), đến khoảng tháng 10 11 năm 1990 họp ủy ban Phối hợp Hội nghị Pa–ri về CPC để soạn thảo Hiệp định trên cơ sở văn kiện khung do 5 nước vạch ra; các ngoại trưởng ký Hiệp định; 15 nước trong Hội Đồng Bảo An thông qua, Trung Quốc đặt cuộc gặp cấp cao Trung–Việt trong cái khung thời gian này. Tuy nhiên Bắc Kinh dấu không cho ta biết gì về những thỏa thuận giữa họ và các nước lớn trong HĐBA, mặt khác cũng giữ kín việc hẹn gặp ta ở Thành Đô vì không muốn làm cho phương Tây và ASEAN lo ngại khả năng đoàn kết và hợp tác giữa Trung Quốc và Việt Nam. Ngày 30/8/1990, Bộ Chính Trị họp bàn về việc gặp lãnh đạo Trung Quốc. Anh Linh nêu ý kiến sẽ bàn hợp tác với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc, và hợp tác giữa Nông Pênh và Khơ–me đỏ để giải quyết vấn đề Campuchia, mặc dù trước đó Bộ Ngoại giao đã trình bày đề án nêu rõ là rất ít có khả năng thực hiện phương án này vì phương hướng chiến lược của TQ vẫn là tranh thủ phương Tây phục vụ “4 hiện đại”. Anh Lê Đức Anh bổ sung ý anh Linh: Phải nói về hoà hợp dân tộc thực sự ở Campuchia. Nếu không có Polpot thì vẫn tiếp tục chiến tranh. Anh Võ Chí Công không đồng ý, nói: Trung Quốc sẽ không nghe ta về hợp tác bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc muốn tranh thủ phương Tây. Anh Thạch cảnh giác: Vẫn có 3 khả năng về quan hệ giữa ta và Trung Quốc, không phải chỉ là khả năng tốt cả. Dự kiến Trung Quốc sẽ nêu công thức “HĐDTTC 6+2+2+2” để nhấn rõ là có 4 bên Campuchia. (trong đó Khơ–me đỏ là 1 bên), xoá vấn đề diệt chủng… Sự thực này cho thấy Trung Quốc còn đòi cao hơn thế!
Ngày 2/9/90, ba đồng chí lãnh đạo cấp cao của ta đến Thành Đô đúng hẹn. Tháp tùng có Hồng Hà chánh văn phòng Trung Ương, Hoàng Bích Sơn trưởng ban Đối ngoại, và Đinh Nho Liêm thứ trưởng ngoại giao. Đáng chú ý trong đoàn không có bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch.
Sau 2 ngày nói chuyện (3–4/9/90), kết quả được ghi lại trong một văn bản gọi là “Biên bản tóm tắt” gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8 điểm đó, chúng tôi nhận thấy có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện quan hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ của Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong 7 điểm về Campuchia, 2 điểm là những điểm có tính chất chung về mặt quốc tế mà 2 bên không còn tranh cãi (giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề CPC; rút hết quân Việt Nam ở Campuchia có kiểm chứng), còn 5 điểm thì hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc. Không có điểm nào theo yêu cầu của ta cả. Trong bản thỏa thuận, vấn đề nổi cộm nhất là điểm 5 về việc thành lập Hội Đồng Dân Tộc Tối Cao CPC. Lãnh đạo ta đã thỏa thuận dễ dàng, không do dự (?), công thức “6+2+2+2+1” (phía Nông Pênh 6 người, phía “3 phái” 7 người: 2 của Khơ–me đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk và bản thân Sihanouk) mà Từ Đôn Tín vừa đưa ra ở Hà Nội và bị tôi bác. Công thức này bất lợi cho Nông Pênh, khác với công thức “6+6” hay “6+2+2+2”, tức là hai bên có số người ngang nhau, mà Sihanouk và Hun–xen đã thỏa thuận ở Tokyo.
Về sáng kiến “giải pháp đỏ” cho vấn đề Campuchia mà lãnh đạo ta đưa ra, tưởng như phía Trung Quốc sẽ nhiệt tình hoan nghênh, song Lý Bằng đã bác đi: “Các đồng chí nói cần thực hiện 2 đảng cộng sản hợp tác với nhau để phát huy hơn nữa. Tôi đồng ý một phần và không đồng ý một phần. Bốn bên Campuchia xét về lực lượng quân sự và chính quyền, mạnh nhất là hai đảng cộng sản, có vai trò nhiều hơn. Nhưng phần tôi không đồng ý là ở Campuchia không chỉ có hai đảng cộng sản mà còn có các thế lực khác là lực lượng của Sihanouk và lực lượng của Son San. Lực lượng của họ không lớn lắm nhưng họ được quốc tế ủng hộ. Bài xích họ thì cô lập Hội Đồng Dân Tộc Tối Cao, không thể đoàn kết Campuchia. Cần phải để cho hai bên kia phát huy tác dụng ở Campuchia”. Và Giang Trạch Dân cũng nói thêm: “Các nước phương Tây rất chú ý tới quan hệ của chúng ta. Các đồng chí đến đây, cho đến nay các nước không ai biết, cũng không cho các bên Campuchia biết. Chúng tôi cảnh giác vấn đề này. Họ cho rằng Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc xã hội chủ nghĩa đều do đảng cộng sản lãnh đạo, hợp với nhau bàn cái gì đây? Vì vậy chúng tôi giữ kín chuyện này. Tình hình quốc tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản bắt tay nhau là sách lược không lợi cho chúng ta”.
[1] Jiang Zemin (1926–), TBT đảng CSTQ (1989–2002), Chủ tịch nước (1993–2003), Chủ tịch Quân Ủy Trung Ương (1989–2004) [2] XI Asian Games 1990 Beijing (china), do hội đồng đại hội thể thao Á Châu tổ chức, 6122 lực sĩ từ 37 quốc gia tham dự 29 bộ môn. ***************************************************************************************** Thành Đô là thành công hay là thất bại của ta?
Ngay sau khi ở Thành Đô về, ngày 5/9/1990 anh Linh và anh Mười, có thêm anh Thạch và anh Lê Đức Anh đã bay sang Nông Pênh thông báo lại nội dung cuộc gặp cấp cao Việt–Trung với BCT Campuchia. Để thêm sức thuyết phục Nông Pênh nhận Thỏa thuận Thành Đô, anh Linh nói với lãnh đạo Campuchia: “Phải thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc “. Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”
Nhưng câu trả lời của Heng Somrin thay mặt cho lãnh đạo CPC, vẫn là: “Phải giữ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta. Những vấn đề nội bộ liên quan đến chủ quyền CPC phải do các bên CPC giải quyết”. Về “giải pháp đỏ”, Nông Pênh nhận định ý đồ của Trung Quốc không muốn 2 phái cộng sản ở Campuchia hợp tác với nhau gây phức tạp cho quan hệ của họ với Sihanouk và với phương Tây. Vì vậy chúng tôi thấy rằng khó có thể thực hiện giải pháp đỏ vì giải pháp đỏ trái với lợi ích của TQ. Mặc dù ban lãnh đạo Campuchia đã xác định rõ thái độ như vậy, song Lê Đức Anh vẫn cứ cố thuyết phục bạn: Ta nói giải pháp đỏ nhưng là giải pháp hồng, vừa xanh vừa đỏ.
Trước mắt không làm được nhưng phải kiên trì. Ta làm bằng nhiều con đường, làm bằng thực tế. Các đồng chí cần tìm nhiều con đường tiếp xúc với Khơ–me đỏ. Vấn đề tranh thủ Khơ–me đỏ là vấn đề sách lược mang tính chiến lược… Nên kiên trì tìm cách liên minh với Trung Quốc kéo Khơ–me đỏ trở về … Ta đừng nói với Trung Quốc là làm giải pháp đỏ, nhưng ta thực hiện giải pháp đỏ. Có đỏ có xanh, nhưng thực tế là hợp tác 2 lực lượng cộng sản. Nguyễn Văn Linh bồi thêm: Xin các đồng chí chú ý lợi dụng mâu thuẫn, đừng bỏ lỡ thời cơ, TQ muốn đi với Mỹ, nhưng Mỹ ép TQ nên TQ cũng muốn có quan hệ tốt với Lào, Việt Nam và Campuchia. Nếu ta có sách lược tốt thì ta có giải pháp đỏ.
Theo báo cáo của Đại sứ Ngô Điền, thái độ của bạn CPC đối với ta từ sau Thành Đô đổi khác. Về công khai, bạn cố tránh tỏ ra bị lệ thuộc vào Việt Nam. Trên cơ sở tính toán về lợi ích của mình, bạn tự quyết định lấy đối sách, không trao đổi trước với ta, hoặc quyết định khác với sự gợi ý của ta trên nhiều việc.
Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã bị mắc lỡm với Trung Quốc ít nhất trên 3 điểm:
* Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề CPC và vấn đề bình thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn đề Campuchia, còn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia thì mới nói đến chuyện bình thường hoá quan hệ hai nước; * Trung Quốc nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp Cố vấn Phạm Văn Đồng, nhưng đó chỉ là cái “mồi” để kéo anh Đồng tham gia gặp gỡ cấp cao. * Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng ngay sau cuộc gặp hầu như tất cả các nước đã được phía Trung Quốc trực tiếp hay gián tiếp thông báo nội dung chi tiết bản Thoả thuận Thành Đô theo hướng bất lợi cho ta.
Ngày 7/9/90 BCT đã họp thảo luận về kết quả cuộc gặp cấp cao Việt–Trung và cuộc gặp cấp cao Việt–CPC sau đó, và quyết định ngay hôm sau Đỗ Mười gặp đại sứ TQ thông báo lại lập trường của Nhà Nước CPC; đồng thời thông báo với Liên Xô, Lào như đã thông báo với CPC. Nếu có ai hỏi về công thức 6+2+2+2+1, nói không biết.
Báo Bangkok Post ngày 19/9/90 trong bài của Chuchart Kangwaan đã công khai hoá bản Thỏa thuận Thành Đô, viết rõ Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc về thành phần HĐDTTC của Campuchia gồm 6 người của Nhà nước Campuchia, 2 của Khơ–me đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk. Thành viên thứ 13 là Hoàng thân Sihanouk giữ chức chủ tịch Hội đồng. Còn Lý Bằng trong khi trả lời phỏng vấn của Paisai Sricharatchang, phóng viên tờ Bangkok Post tại Bắc Kinh, ngày 24/10/1990, đã xác nhận có một cuộc gặp bí mật giữa lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam hồi đầu tháng 9 và cho biết kết quả cuộc gặp đã được phản ánh qua cuộc họp giữa các bên Campuchia ngày 10/9/90 tại Jakarta. Trong khi nói không biết chắc phía Việt Nam đã cố gắng thuyết phục Nông Pênh đến đâu, Lý nhận định là Hà Nội chắc chưa làm đủ mức. Điều đó có thể thấy được qua việc Nông Pênh đã có “một thái độ thiếu hợp tác (uncooperative)”.
Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ Chủ nghĩa xã hội, thay thế Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm họa “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm “giải pháp đỏ”, v.v…
Sau Thành Đô, trong Bộ Chính trị đã có nhiều ý kiến bàn cãi về chuyến đi này. Song mãi đến trước Đại hội VII, khi BCT họp (15–17/5/1991) thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình thế giới và về việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới”, cuộc gặp cấp cao Việt Nam–Trung Quốc ở Thành Đô mới lại được đề cập tới khi dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại giao có câu “có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia”. Cuộc họp này có mặt đầy đủ tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, cố vấn Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công, các ủy viên BCT Đỗ Mười, Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh Bình.
Anh Tô nói: Có thời giờ và có cơ hội đem ra kiểm điểm những việc vừa qua để nhận định sâu hơn thì tốt thôi. Sau chuyến đi Thành Đô, tôi vẫn ân hận về thái độ của mình. Nói là tự kiểm điểm thì đây là tự kiểm điểm. Tôi ân hận ở hai chỗ. Lúc ở Thành Đô, khi bàn đến vấn đề Campuchia, người nói trước là anh Linh. Anh Linh nói đến phương án hoà giải dân tộc Campuchia. Sau đó Lý Bằng trình bày phương án “6+2+2+2+1” mà Từ Đôn Tín khi đàm phán với anh Cơ ở Hà Nội đã ép ta nhận song ta bác. Anh Linh đã đồng ý (nói không có vấn đề). Lúc đó có lẽ do thấy thái độ của tôi, Giang mời tôi nói. Tôi nói tôi không nghĩ phương án 13 này là hay, ý tôi nói là không công bằng… Tôi ân hận là lẽ ra sau đó đoàn ta nên hội ý lại sau bữa tiệc buổi tối. Nhưng tôi không nghĩ ra, chỉ phân vân. Sáng sớm hôm sau, mấy anh em bên Ban Đối Ngoại và anh Hồng Hà nói nhỏ với tôi là cốt sao tranh thủ được nguyên tắc “consensus”, còn con số không quan trọng. Tôi nghe hơi yên tâm, nhưng vẫn nghĩ có hội ý vẫn hơn. Sau đó, Trung Quốc đưa ký bản Thoả thuận có nói đến con số 13… Tôi phân vân muốn được biết nội dung trước khi ta hạ bút ký. Nếu như đoàn ta trao đổi với nhau sau phiên họp đầu, sau khi Lý Bằng đưa ra công thức 6+2+2+2+1 thì có thể ta có cách bàn thêm với họ. Hai là trước khi ký văn bản do chuyên viên hai bên thỏa thuận, các đồng chí lãnh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể thêm bớt gì trước khi ký. Nghĩ lại, khi họ mời tổng bí thư, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ta sang gặp tổng bí thư và chủ tịch Quốc vụ viện, họ lại mời thêm tôi. Tôi khá bất ngờ, không chuẩn bị kỹ. Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng cơ hội lớn nên đi. Nhưng đi để rồi ký một văn bản mà ta không lường trước hậu quả về phản ứng của bạn CPC, rất gay gắt. Tôi hiểu là bạn khá bất bình, thậm chí là uất nhau. Cho là ta làm sau lưng, có hại cho người ta.
Anh Linh: Anh Tô nhớ lại xem. Không phải tôi đồng ý, tôi chỉ nói ta nghiên cứu xem xét và cuối cùng đặt vấn đề thông báo lại Campuchia… Bây giờ tôi vẫn nghĩ thế là đúng. Tôi không thấy ân hận về việc mình chấp nhận phương án 13… Vấn đề Campuchia dính đến Trung Quốc và Mỹ. Phải tính đến chiến lược và sách lược. Phải tiếp tục làm việc với Campuchia về chiến lược, phải có nhiều biện pháp làm cho bạn thấy âm mưu của đế quốc Mỹ chống phá chủ nghĩa xã hội ở Châu Á, cả ở Cuba. Nó đã phá Trung Quốc qua vụ Thiên An Môn rồi, nay chyển sang phá ta… Trung Quốc muốn thông qua Khơ–me đỏ nắm Campuchia. Song dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa.
Anh Thạch: …Về chuyện Thành Đô, Trung Quốc đã đưa cả băng ghi âm cuộc nói chuyện với lãnh đạo ta ở Thành Đô cho Nông Pênh, Hun–xen nói là trong biên bản viết là hai bên đồng ý thông báo cho Campuchia phương án 6+2+2+2+1, nhưng băng ghi âm lại ghi rõ là anh Linh nói “Không có vấn đề gì”. Tôi xin trình bày để các anh hiểu nguyên do con số 13 là từ đâu? Tại Tokyo tháng 6/1990, Sihanouk và Hun–xen đã thỏa thuận thành phần SNC gồm 2 bên ngang nhau = 6+6. Từ Đôn Tín sang Hà Nội, ép ta nhận công thức 6+2+2+2+1 không được. Đến cuộc gặp Thành Đô, Trung Quốc lại đưa ra. Khi ta sang Nông Pênh để thuyết phục bạn nhận con số 13 với nguyên tắc làm việc theo “consensus” trong SNC, anh Hun–xen nói riêng với tôi: chúng tôi thắng mà phải nhận số người ít hơn bên kia (bên ta 6, bên kia 7) thì mang tiếng là Campuchia bị Việt Nam và Trung Quốc ép. Như vậy dù là “consensus” cũng không thể thuyết phục nhân dân Campuchia được. Chỉ có thể nhận 12 hoặc 14 thành viên trong Hội đồng Dân tộc Tối cao. Phải nói là Nông Pênh thắc mắc nhiều với ta. Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ đều cho ta biết là Trung Quốc đã thông báo cho họ đầy đủ về Thoả thuận Thành Đô, và nói họ là lãnh đạo Việt Nam không đáng tin cậy, Trung Quốc đã sử dụng Thành Đô để phá quan hệ của ta với các nước và chia rẽ nội bộ ta.
Hôm sau, BCT họp tiếp, anh Mười nói: Ta tán thành Sihanouk làm chủ tịch Hội đồng Dân tộc Tối cao, Hun–xen làm phó chủ tịch, lấy nhất trí trong Hội đồng Dân tộc Tối cao làm nguyên tắc. Đây không phải là một nhân nhượng… Nếu có anh Thạch đi Thành Đô thì tốt hơn…
Anh Tô: Vấn đề chủ yếu không phải là thái độ của ta ở Thành Đô như anh Mười nói, mà là kết quả và tác động đến bạn Campuchia đánh giá ta như thế nào? ở Thành Đô điều ta làm có thể chứng minh được, nhưng Campuchia cho là ta giải quyết trên lưng họ. Vì vậy mà tôi ân hận. Tôi ân hận về sau này sẽ để lại hậu quả.
Anh Mười: …Với tinh thần một người cộng sản, tôi cho là ta không sai. Bạn Campuchia nghĩ gì ta là quyền của họ. Với tinh thần một người cộng sản, ta không bao giờ vi phạm chủ quyền của Campuchia.
Anh Thạch: Họp Bộ Chính trị để kiểm điểm, tôi xin được nói thẳng. Có phải khi đi Thành Đô, anh Đỗ Mười có nói với tôi là hai ông anh nhận hơi sớm. Anh Linh nhận công thức 13 và anh Tô “consensus” (nguyên tắc nhất trí).
Anh Võ Văn Kiệt: Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp Đặng thì anh Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi xót xa khi biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lý, không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.
Vốn là người điềm đạm, song anh Tô có lúc đã phải phát biểu: Mình hớ, mình dại rồi mà cũng còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay không thì không sao. Cùng lắm là nói cái lý đó, nhưng tôi không nghĩ như vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy.
Thỏa thuận Việt Nam–Trung Quốc ở Thành Đô đúng như anh Tô lo ngại đã để lại một ấn tượng không dễ quên đối với Nông Pênh. Trong phiên họp Quốc hội Campuchia ngày 28/2/1991, Hun–xen phát biểu: “Như các đại biểu đã biết, vấn đề Hội đồng Dân tộc Tối cao này rất phức tạp chúng ta phải đấu tranh khắc phục và làm thất bại âm mưu của kẻ thù nhưng bọn ủng hộ chúng không ít đâu. Mặc dù Hội đồng đã được thành lập trên cơ sở 2 bên bình đẳng nhưng người ta vẫn muốn biến nó thành 4 bên theo công thức 6+2+2+2+1, và vấn đề chủ tịch làm cho Hội đồng không hoạt động được”.
Tôi còn nhớ khi tiếp tôi ở Nông Pênh, ngày 28/9/1990, Hun–xen đã có những ý khá mạnh khi nói về thoả thuận Thành Đô: Khi gặp Sok An ở Băng Cốc hôm 17/9, TQ dọa và đòi SNC phải công nhận công thức mà VN và TQ đã thỏa thuận. Nhưng Nông Pênh độc lập. Sok An đã nói rất đúng khi trả lời TQ là ý này là của VN không phải của Nông Pênh.
Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9/1990 hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của ta, trái lại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng trái lại thỏa thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và do đó chậm việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố.
Việc ta đề nghị hợp tác với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc Mỹ, thực hiện giải pháp đỏ ở Campuchia là không phù hợp với Nghị Quyết 13 của Bộ Chính Trị mà còn gây khó khăn cho ta trong việc đa dạng hóa quan hệ với các đối tượng khác như Mỹ, phương Tây, ASEAN và tác động không thuận lợi đến quan hệ giữa ta và đồng minh, nhất là quan hệ với Liên Xô và Campuchia. Trung Quốc một mặt bác bỏ những đề nghị đó của ta, nhưng mặt khác lại dùng ngay những đề nghị đó để bôi xấu ta với các nước khác nhằm tiếp tục cô lập ta, gây sức ép với ta và Campuchia.
Cùng với việc ta thúc ép Nông Pênh đi vào giải pháp đỏ, việc ta thỏa thuận với Trung Quốc về công thức HĐDTTC tại Thành Đô là không phù hợp với nguyên tắc nhất quán của Đảng ta là không can thiệp và không quyết định các vấn đề nội bộ của Campuchia, làm tăng mối nghi ngờ vốn có của bạn Campuchia đối với ta, đi ngược lại chủ trương tăng cường và củng cố mối quan hệ của ta với Campuchia và Lào.
************************************************** Ai là người đáng lý ra phải nhớ dai?
Sau cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô, yêu sách chính của Trung Quốc đối với ta trong vấn đề Campuchia tập trung chủ yếu vào việc đòi ta thực hiện thỏa thuận Thành Đô, tác động với Nông Pênh theo hướng: nhận bầu Sihanouk làm chủ tịch Hội đồng Dân tộc Tối cao (Supreme National Council) gồm 13 thành viên của 4 bên Campuchia; chấp nhận văn kiện của 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An về vấn đề Campuchia.
6 giờ sáng ngày 9/9/1990, đại sứ Trung Quốc đến Ban Đối Ngoại (chứ không đến Bộ Ngoại giao) gặp Hồng Hà trao thông điệp báo các bên CPC sẽ họp ngày 10/9 tại Gia–các–ta để bàn việc lập HĐDTTC và nhấn mạnh yêu cầu phía Việt Nam tác động theo hướng đã thoả thuận tại Thành Đô. Ngay sau đó BCT đã họp trao đổi về thông điệp đó và quyết định cử tôi đi Gia–các–ta. Trong cuộc họp này BCT đã quyết định từ nay các tiếp xúc đối ngoại về mặt Nhà Nước đều phải qua Bộ Ngoại Giao và phải báo cáo trước với anh Thạch và Bộ Trưởng Quốc Phòng Lê Đức Anh (?) vì cách làm của đại sứ Trung Quốc phớt lờ Bộ Ngoại Giao một cách quá lộ liễu.
Trưa ngày 9/9/1990 tôi cùng anh Huỳnh Anh Dũng đáp máy bay qua đường Bangkok sang thủ đô Inđônêxia để theo dõi cuộc họp của các bên Campuchia bàn về việc thành lập HĐDTTC. Không có “cẩm nang” nào kèm theo chỉ thị đó cả, chỉ có lời dặn ngắn gọn của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh là cố lập được HĐDTTC. Chiều tối 10/9/1990, vừa chân ướt chân ráo từ sân bay về đến sứ quán ta ở Gia–các–ta, tôi đã nhận được một cú điện thoại từ sứ quán Trung Quốc gọi tới. Trương Thanh gọi điện thoại đến nói lời chào từ biệt tôi trước khi rời Gia–các–ta và cảm ơn tôi đã tác động tích cực khiến cho cuộc họp các bên Campuchia tối nay đạt được một số kết quả (?). Tôi trả lời là tôi không dám nhận sự biểu dương đó, nếu như cuộc họp có kết quả tốt thì đó là do thiện chí của Nhà Nước Campuchia.
Chả là lúc tôi xuống sân bay Gia–các– ta cũng là lúc cuộc họp giữa các bên CPC vừa bế mạc sau khi đã thoả thuận lập HĐDTTC gồm 12 thành viên, chức chủ tịch còn để trống và tuần tới sẽ họp phiên đầu ở Bangkok để giải quyết nốt vấn đề chủ tịch HĐDTTC. Bản Tuyên bố chung của cuộc họp có ghi “Các bên CPC chấp nhận toàn bộ văn kiện khung của P5 làm cơ sở để giải quyết cuộc xung đột CPC”. Tôi nghĩ bụng Bộ Chính Trị bảo tôi sang Gia–các–ta có thể là một tác động sách lược để tỏ ra với Trung Quốc là ta đang tích cực thực hiện thỏa thuận Thành Đô. Còn Trương Thanh gọi điện cảm ơn tôi thực ra cũng là một sự vỗ về của Trung Quốc để khuyến khích tôi tiếp tục cố gắng thực hiện thỏa thuận Thành Đô. Nhưng sự khuyến khích đó lại có tác dụng trái ngược lại, làm thức tỉnh cái con người bướng bỉnh trong tôi. Từ đầu, tôi và số anh em chuyên nghiên cứu vấn đề Campuchia và quan hệ với Trung Quốc trong Bộ Ngoại giao đã rất không thông với Thỏa thuận Thành Đô vì nhiều lẽ, nay tôi càng thấy mình không thể hành động trái với điều mình cho là lẽ phải.
Ngày 13/9/1990 tôi lại được trong nước chỉ thị đi thẳng từ Jakarta sang Bangkok để theo dõi phiên họp đầu tiên của SNC ở đó. Sáng 14/9/1990 Bí thư thường trực Bộ Ngoại Giao Thái Kasem mời tôi tới Bộ Ngoại Giao Thái Lan nói chuyện. Chủ đề câu chuyện vẫn là vấn đề Campuchia, Kasem hỏi dò tôi về thoả thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc về cơ chế SNC. Tôi trả lời đó chỉ là những tin đồn không căn cứ, không nên tin. Trưa hôm đó, Sok An, thứ trưởng ngoại giao Campuchia, tìm đến gặp tôi. Anh hỏi ý kiến tôi về cuộc họp SNC ở Bangkok sắp tới, thái độ ta nên như thế nào nếu đối phương đòi đưa Sihanouk làm chủ tịch SNC và là thành viên thứ 13 của SNC? Tôi gợi ý cần giữ vững nguyên tắc hai bên ngang nhau. Để tỏ thiện chí, một lần nữa, ta có thể nhận cho đối phương thêm 1 người nhưng bên ta cũng phải thêm 1 người (mỗi bên 7 người). Không 12 thì 14 chứ không nhận 13. Sau đó tôi lại được anh Sok An cho biết là Kraisak, con trai Thủ tướng Chatichai và là thành viên trong nhóm cố vấn của thủ tướng Thái, đã bảo anh rằng ông ta được Bộ Ngoại Giao Thái thông báo là Việt Nam cũng ủng hộ việc lập SNC với 13 thành viên do Sihanouk đứng đầu. Tôi nói với Sok An đấy là điều bịa đặt và tôi sẽ gặp Kraisak để nói lại.
Chiều hôm đó khi gặp Kraisak, tôi đã nói khá thẳng rằng: “Không thể coi ông Sihanouk là ông chủ ở Campuchia, là vua đứng trên tất cả. Vấn đề thành phần cũng như chức chủ tịch Hội đồng Dân tộc Tối cao phải do người Campuchia quyết định. Việt Nam và Trung Quốc không có quyền bỏ phiếu về vấn đề đó”. Sau đó Kraisak đã kể lại cho cả Kasem. Kết quả là cuộc họp Hội đồng Dân tộc Tối cao Campuchia (SNC) phiên đầu tiên ngày 17/9/1990 tại Bangkok đã tan vỡ vì Hun–xen không chấp nhận công thức “6+2+2+2+1”, cự tuyệt bầu Sihanouk làm chủ tịch với tư cách là thành viên thứ 13 của HĐDTTC. Hẳn TQ đã gán trách nhiệm, hoặc ít nhất cũng là một phần trách nhiệm về thất bại đó cho tôi.
Hạ tuần tháng 9/1990, Trung Quốc đón Phó thủ tướng Võ Nguyên Giáp thăm Trung Quốc và dự lễ khai mạc Á Vận Hội (ASIAD) 11 với tư cách là “khách mời đặc biệt của Chính phủ Trung Quốc” (tuy nhiên báo chí TQ vẫn đưa tin việc TQ mời Võ Nguyên Giáp là theo yêu cầu của ta, dù rằng ngày 1/9/1990 khi tiếp đoàn cấp cao ta ở Thành Đô chính GiangTrạch Dân đã nói sẽ mời anh Giáp dự khai mạc ASIAD như một cử chỉ thiện chí của họ). Ngày 24/9/1990 khi tiếp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng Lý Bằng có nói: “Sau cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô, cuộc họp Jakarta kết quả tốt, đã ra được tuyên bố lập HĐDTTC 13 người. Song đến khi họp HĐDTTC ở Bangkok thì không tốt. Xin nói thẳng thẳn với đồng chí là chúng tôi thấy Thứ trưởng Trần Quang Cơ có tác dụng xấu trong việc này. Khi Kasem hỏi có thực sự giữa Việt Nam và Trung Quốc đã đi đến thoả thuận lập SNC gồm 13 người hay không? Trần Quang Cơ đã đáp rằng hoàn toàn không có việc đó, đó hoàn toàn là những điều dối trá. Chúng tôi không hiểu tại sao Thứ trưởng Trần Quang Cơ lại nói nhữnglời như vậy, hoàn toàn truyền đạt thông tin không đúng đâu”. Anh Giáp đáp: “Khi về tôi sẽ hỏi lại về phát biểu của đồng chí Cơ. Nếu có như vậy thì đấy không phải là ý kiến của Trung Ương chúng tôi. Tôi không biết việc này vì tôi không phụ trách công tác ngoại giao”.
Tiện đây tôi thấy cũng nên ghi lại một chuyện có thể giúp cho chúng ta hiểu thêm đặc điểm của người Trung Quốc: sau khi đến Bắc Kinh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có đề nghị gặp một số tướng lĩnh cao cấp trong quân đội Trung Quốc như Dương Đắc Chí (Dương là tổng chỉ huy cuộc chiến tranh đánh Việt Nam năm 1979). Nhưng Dương nói một cách bực tức: “Đời nào tôi lại gặp ông ta. Mồ của các cán bộ chiến sĩ ta còn chưa xanh cỏ!” Ngày 1/10/90 Dương cùng một số tướng lĩnh khác còn gọi điện thoại thăm hỏi động viên sĩ quan binh lính ở Vân Nam, Quảng Tây. Nhà văn quân đội Lý Tôn Bảo, tác giả cuốn “Vòng hoa dưới chân núi cao” viết về cuộc tấn công vào Việt Nam tháng 2 năm 1979, phát biểu: “Xem tin Lý Bằng tiếp Võ Nguyên Giáp mà trong lòng tôi cảm thấy bứt rứt. Giờ đây chúng ta phải xem xét lại xem có nên gây ra cuộc chiến tranh đó không? Chẳng những phần lớn sĩ quan binh lính dưới đơn vị không thông mà ngaycả một số tướng lĩnh cao cấp cũng không thông nổi”.
Tư liệu trên đây tôi lấy ở bài “Võ Nguyên Giáp thăm Bắc Kinh gây chấn động” của Quan Nghiệp Thành đăng trên báo “Tranh Minh” xuất bản ở Hồng Kông tháng 11/1990. Từ đó đến nay, tôi vẫn phân vân mãi là người Việt Nam và người Trung Quốc đáng lý ra ai là người phải nhớ dai hơn về sự kiện tháng 2 năm 1979?
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 4, 2015 9:16:53 GMT 9
Đại hội VII và cái giá phải trả cho việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc.
Từ 17 đến 27/6/1991 ĐCS VN họp Đại hội lần thứ 7 đưa lại nhiều thay đổi quan trọng về nhân sự: Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư; Lê Đức Anh nay nghiễm nhiên giữ vị trí thứ 2 trong Đảng, ủy viên thường trực Bộ Chính trị kiêm bí thư trung ương phụ trách cả 3 khối quốc phòng–an ninh–ngoại giao; Võ Văn Kiệt được giới thiệu với Nhà Nước cử làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Đào Duy Tùng thường trực Ban bí thư. Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng nắm bộ phận thường trực của Bộ Chính trị và của Ban Bí thư. Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị gạt ra khỏi chức ủy viên Trung ương. Còn Nguyễn Cơ Thạch bị bật ra khỏi Bộ Chính trị và chuẩn bị thôi chức bộ trưởng Bộ Ngoại giao… (Thực ra những thay đổi về nhân sự trong Bộ Chính trị đã được quyết định từ tháng 5 và Trung Quốc đã biết). Dư luận quốc tế xôn sao cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là “vật tế thần” trong việc Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng đó mới chỉ là một cách nói đơn giản vì vấn đề không chỉ là bình thường hoá quan hệ mà là phụ thuộc hoá quan hệ.
Trước hết vấn đề đặt ra là ai sẽ thay anh Thạch giữ chức bộ trưởng ngoại giao? Từ đầu tháng 7, tôi đã nhiều lần được triệu tập lên gặp TBT Đỗ Mười và Trưởng ban Tổ chức trung ương Lê Phước Thọ (người thay Nguyễn Đức Tâm), để được thông báo và đã thông về dự định đưa tôi làm bộ trưởng ngoại giao. Sáng ngày 10/7/91, thấy tôi từ chối, Đỗ Mười đã hiểu lầm tưởng tôi không nhận vì chưa được vào Bộ Chính trị như Bùi Thiện Ngộ (người thay Mai Chí Thọ làm bộ trưởng bộ Nội Vụ) nên hứa sẽ giải quyết chuyện đó sau. Tôi nói chỉ vì lý do “sức khoẻ” mà tôi không nhận. “45 năm nay tôi liên tục công tác, cố gắng làm tốt các công việc được giao, không từ nan. Song lần này không thể nhận. Tôi chỉ có nguyện vọng là làm nốt công việc thứ trưởng ngoại giao. Đề nghị các anh quyết định theo phương án chúng tôi đề nghị ngày hôm qua: cử anh Vũ Oanh hay anh Vũ Khoan. Nhân đây tôi xin phản ánh tư tưởng chung của anh em cán bộ nhân viên Bộ Ngoại giao là có sự đối xử chưa công bằng với Ngoại giao”.
Vì sao tôi được người ta chọn để thay Nguyễn Cơ Thạch tuy biết rõ tôi đồng quan điểm chính trị với anh Thạch? Tôi nghĩ có 2 lý do: một là che đậy ý nghĩa chính trị của việc sa thải Nguyễn Cơ Thạch; hai là cơ chế mới về đối ngoại sau Đại hội VII có khả năng vô hiệu hoá hoàn toàn mọi chủ trương và hành động sai khác với quan điểm của mấy vị trong Ban Thường Trực BCT mới.
Mọi vấn đề quan trọng về đối ngoại của Nhà Nước đều do Hồng Hà, bí thư T.Ư. Phụ trách đối ngoại, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê Đức Anh và tất nhiên được sự tán thưởng của TBT Đỗ Mười, quyết định. Những phần công việc xưa nay vốn do Bộ Ngoại giao đảm nhiệm nay đều do Hồng Hà và Ban Đối Ngoại chủ trì. Một thí dụ điển hình về vì ý đồ cá nhân họ sẵn sàng bỏ qua danh dự và quốc thể: ngày 5/8/91, giữa cuộc họp Hội đồng bộ trưởng, Hồng Hà tuyên bố: Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (đại sứ TQ), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh”. (Lê Đức Anh cho biết khi ở TQ, Ban Đối Ngoại TQ Chu Lương có đề nghị: vì lý do kỹ thuật (?) quan hệ giữa hai đảng xin làm qua Trương Đức Duy). Hôm sau, Hồng Hà với tư cách trưởng ban đối ngoại tiếp đại sứ CPC Ouch Borith, đã thông báo: Theo sự phân công của Bộ Chính trị VN, từ nay đồng chí Lê Đức Anh và đ/c Hồng Hà sẽ phụ trách thảo luận giải pháp CPC và các vấn đề liên quan. Nếu lãnh đạo CPC muốn bàn các vấn đề trên thì đề nghị quan hệ và thảo luận trực tiếp với 2 đồng chí đó.g
Sau khi tôi được miễn, đã có một cuộc vận động khá sôi nổi về chức bộ trưởng ngoại giao. Những tên tuổi như Vũ Oanh, Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Nguyễn Dy Niên, Vũ Khoan… được nói tới. Cuối cùng, Nguyễn Mạnh Cầm (lúc đó đang là đại sứ ta ở Liên Xô) được chọn, mặc dù khi đó anh còn rất lưỡng lự.
Ngày 9/7/91, vừa được bàn làm tổng bí thư, Đỗ Mười gặp đại sứ TQ Trương Đức Duy tỏ ý muốn cử đặc phái viên đi Bắc Kinh để thông báo về Đại hội VII và trao đổi về quan hệ giữa hai nước. Trước đó ít ngày–ngày 11/6/91–Bộ Ngoại Giao ta cũng đã gặp đại sứ Trung Quốc đề nghị mở lại đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao hai nước. Ngày 17/7, Trung Quốc trả lời đồng ý gặp cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh từ 5/8 đến 10/8. Hai ngày sau, Trung Quốc trả lời đồng ý việc ta cử đặc phái viên gặp lãnh đạo Trung Quốc, nhưng lại sắp xếp sau cuộc gặp đặc phái viên trước cuộc gặp thứ trưởng ngoại giao. Việc làm trên cho thấy một mặt Trung Quốc muốn gặp ta ở cả hai cấp, mặt khác muốn dùng những thỏa thuận với cấp đặc phái viên để ép ta trong cuộc gặp cấp thứ trưởng ngoại giao. Để đề cao công việc này, phía Trung Quốc đã đề nghị thay chữ “đặc phái viên” thành “đoàn Đại diện đặc biệt của Ban chấp hành Trung Ương Đảng cộng sản Việt Nam” tuy Đoàn chỉ có 2 thành viên là Lê Đức Anh và Hồng Hà. Hồng Hà lúc đó là bí thư T.Ư. phụ trách đối ngoại. Phụ tá đoàn là Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại của Đảng. Tôi nhớ khi đó Bộ Ngoại Giao có đề nghị có một thứ trưởng ngoại giao là ủy viên Trung Ương đi với đoàn để nắm tình hình vận dụng vào cuộc đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao ngay sau đó, nhưng đề nghị không được chấp nhận. Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Đặng Nghiêm Hoành cũng không được tham dự các hoạt động của đoàn, trong khi đó đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, Trương Đức Duy, lại có mặt trong mọi hoạt động chính thức của đoàn tại Trung Quốc.5
Ngày 28/7/91, đoàn đã đến Bắc Kinh và trong mấy ngày sau đó đã gặp Kiều Thạch, Lý Bằng, Giang Trạch Dân thông báo khá chi tiết về Đại hội VII (những ý kiến khác nhau, quá trình thảo luận, tranh luận và việc biểu quyết những vấn đề quan trọng trong Đại hội; và cơ cấu nhân sự của Ban Chấp hành Trung Ương…) Giang Trạch Dân và Lý Bằng tỏ ra quan tâm đến việc Việt Nam sẽ có ngoại trưởng mới (thay Nguyễn Cơ Thạch) trong kỳ họp Quốc hội tháng 8/1991. Giang tỏ ý hài lòng “Từ đáy lòng mình, tôi hết sức hoan nghênh kết quả Đại hội VII của các đồng chí Việt Nam”.
Đặc biệt mặc dù chuyến đi có mục đích gặp lãnh đạo Trung Quốc thông báo về Đại hội VII và bàn quan hệ hai nước, nhưng Lê Đức Anh và Hồng Hà đã chủ động xin gặp Từ Đôn Tín tới 2 lần, chiều 29/7/ và tối 31/7 để tạ lỗi (?). Mở đầu cuộc gặp chiều 29/7, Lê Đức Anh đã nói: “Năm ngoái khi đồng chí Từ Đôn Tín sang Việt Nam đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm do phía chúng tôi gây ra (!) Đồng chí Nguyễn Văn Linh và chúng tôi khi biết việc này, chúng tôi không vui lắm. Hôm nay gặp đồng chí, tôi nói tình cảm của đồng chí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và của tôi … Tình hình trục trặc trong quan hệ là một việc đau lòng, nhất là giữa những người cộng sản. Khúc nhạc cũ đã qua rồi, mong các đồng chí yên tâm”. Còn Từ thì cũng mượn dịp này để than phiền về đại sứ Đặng Nghiêm Hoành: “Một năm nay đồng chí ấy không gặp tôi, trừ khi gặp ở các cuộc chiêu đãi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp đồng chí Hoành kể từ tháng 6 năm ngoái” (sự thực là phía Trung Quốc đã có thành kiến với anh Hoành từ trong cuộc đàm phán tháng 6/1990 ở Hà Nội). Từ không quên nhắc đến điều kiện không thể thiếu để có thể bình thường hoá quan hệ với Việt Nam: “Tôi rất hoan nghênh đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà là từ nay không nói diệt chủng nữa. Khi về Hà Nội nếu gặp Campuchia đề nghị các đồng chí cũng nói ý này… Nếu các đồng chí lãnh đạo Việt Nam sang Trung Quốc mà cái đuôi Campuchia vẫn còn thì chúng tôi khó nói với nhân dân. Mong vấn đề Campuchia được giải quyết thì khi bình thường hoá quan hệ với chúng tôi có thể ăn nói với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới”.
Để dọn đường cho cuộc gặp cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh tháng 8/1991, tối 31/7 Hồng Hà vẫn bảo với Từ Đôn Tín: “Đồng chí Lê Đức Anh và tôi sẽ làm việc trực tiếp với thứ trưởng Nguyễn Dy Niên (người được chỉ định đi đàm phán với Trung Quốc chỉ vì chưa có “tiền sử” với Trung Quốc) trước khi đồng chí ấy đi Trung Quốc. Chúng tôi phải báo cáo với Bộ Chính trị để có ý kiến chỉ đạo không những cả về nội dung mà cả về tinh thần và thái độ làm việc. Tinh thần của chúng tôi là phấn đấu làm cho cuộc gặp thành công”. Sau khi đã cam kết từ nay không nói đến vấn đề diệt chủng nữa, Hồng Hà hỏi Từ: “Tôi muốn hỏi đồng chí ngoài vấn đề diệt chủng, còn hai vấn đề gai góc là vấn đề quân đội các bên Campuchia và vai trò Liên Hiệp Quốc thì phương hướng giải quyết nên thế nào, để chúng tôi có thể góp phần làm cho cuộc gặp thứ trưởng Việt–Trung ở Bắc Kinh sắp tới đạt kết quả tốt”. Xin ý kiến đối phương về hướng giải quyết vấn đề đàm phán trước khi đàm phán, thật là chuyện có một không hai trong lịch sử ngoại giao!
Sau khi ở Trung Quốc về, ngày 4/8/1991, Lê Đức Anh và Hồng Hà gặp tôi và Nguyễn Dy Niên tại Văn phòng Trung Ương Đảng để chuẩn bị cho Niên đi đàm phán với Trung Quốc. Sau khi anh Niên đọc bản đề án của Bộ Ngoại giao, tôi nói: “Anh Hoành (đại sứ ta ở TQ) vừa điện về, phía TQ thông báo có 3 buổi làm việc nhưng họ nói có thể làm một buổi là xong. Chắc chắn Từ Đôn Tín sẽ đưa văn bản buộc chúng ta phải thoả thuận. Nếu ta nhận, họ sẽ xì ra cho các nước PS, ASEAN và bạn CPC. Ta sẽ bị vào thế phản bội đồng minh, phản bội bạn bè. Nếu ta đòi sửa văn bản của TQ thì sẽ không ra được văn bản, sẽ thất bại. Chúng tôi đã xem lại biên bản thấy TQ gắn rất chặt vấn đề CPC, với việc bình thường hoá quan hệ, vẫn coi CPC là điều kiện. TQ rất khôn, khi gặp cấp cao chỉ tập trung vào vấn đề quan hệ hai nước, còn cái xương để lại. Gặm cái xương này, chúng ta phải giải quyết vấn đề có tính nguyên tắc. Ta quyết tâm bình thường hoá với TQ nhưng không được phá quan hệ với CPC và không được để thế giới thấy anh Việt Nam là người tráo trở”. Biết tôi quá gai góc, không chịu chấp nhận ý đồ thỏa hiệp vô nguyên tắc với TQ, Lê Đức Anh và Hồng Hà chỉ nói chung chung về chuyến đi Bắc Kinh vừa qua. Hồng Hà nói: Tinh thần tôi nắm được là ý Trương Đức Duy và Từ Đôn Tín đều lo cuộc gặp thứ trưởng thất bại. Không biết đồng chí thứ trưởng nào gặp tôi có nắm được tinh thần này không?” Tôi liền bảo: “Như vậy càng rõ là họ có yêu cầu cao nên họ sợ ta không thể chấp nhận được”, Hồng Hà: “Tôi hiểu họ muốn bình thường hoá quan hệ là chính nên họ lo”. Tôi đáp: Về mặt này thì phải nói là Việt Nam lo hơn vì Việt Nam muốn bình thường hóa quan hệ với TQ hơn”. Vào cuối buổi họp, Hồng Hà nói: Chuyến đi của anh Niên là thuận lợi, sau chuyến đi của anh Lê Đức Anh. Anh Niên cũng là nhân vật mới, không có “tiền sử”. Khi nhắc đến tháng 6/90 họ rất cay cú. Lê Đức Anh thêm vào: Sau tháng 6/90 lại có phát biểu với báo chí của hai bên nên càng tích tụ thêm, găng thêm. (ý nói đến lần đàm phán tháng 6/90 giữa tôi và Từ Đôn Tìn). Và đến chiều, khi họp Thường trực Bộ Chính trị bàn về việc đàm phán với TQ, họ triệu tập anh Niên, không triệu tập tôi.e
Được biết trong cuộc họp này TBT Đỗ Mười đã khẳng định là không nên vì vấn đề Campuchia mà cản trở việc bình thường hoá quan hệ của ta với Trung Quốc. Về vấn đề CPC, họ chỉ thị cho Niên thỏa thuận với phía TQ:
a) không nói vấn đề diệt chủng. Lê Đức Anh nói phải dứt khoát thôi vấn đề diệt chủng. Và TBT Đỗ Mười nhấn thêm: Nếu nói vấn đề diệt chủng tức là đồng minh với Mỹ chống Trung Quốc (!) b) nâng cao vai trò HĐDTTC, hạ thấp vai trò LHQ. c) giảm quân các bên CPC 50%.
Để đảm bảo cuộc đàm phán không đi chệch khỏi quỹ đạo đã dàn xếp trước với Trung Quốc, Hồng Hà còn để Trịnh Ngọc Phái, phó ban Đối ngoại, ở lại Bắc Kinh để tham gia đoàn đàm phán, thực chất để giám sát Nguyễn Dy Niên theo đúng những điều họ đã thoả thuận trước với Trung Quốc. Ngày 10/8/1991, sau khi cái gọi là cuộc đàm phán này đạt kết quả đúng ý Trung Quốc (hoan nghênh Sihanouk giữ chức chủ tịch HĐDTTC, ủng hộ văn kiện khung của LHQ về giải pháp CPC… ) vào đúng ngày Quốc Hội Việt Nam thông qua việc bổ nhiệm Nguyễn Mạnh Cầm thay Nguyễn Cơ Thạch làm bộ trưởng Ngoại Giao. Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham nhận tiếp Nguyễn Dy Niên và ngỏ lời mời ban ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm ngày 10/9/1991 thăm Trung Quốc để chuẩn bị cho cuộc gặp cấp cao Trung–Việt ở Bắc Kinh.
Ta đã dự kiến sau cuộc đàm phán ở Bắc Kinh sẽ sang Nông Pênh thông báo cho bạn CPC, nhưng tối 18/8/1991 Hồng Hà gọi điện chỉ thị: Theo ý kiến đồng chí Lê Đức Anh, anh Niên không phải đi CPC thông báo với bạn nữa và cũng không thông báo cho bất cứ ai về cuộc đàm phán ở Bắc Kinh vừa qua (mặc dù phía TQ đã thông báo cho các nước ASEAN và các nước phương Tây rồi). Và còn nói thêm: Từ nay trở đi, trên giấy trắng mực đen đừng ghi ý đồ của Trung Quốc nữa (?) vì vấn đề này BCT đã nắm rồi.
Nói chung, từ sau Đại hội VII, tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam–Trung Quốc như cỗ máy đã được tra dầu đầy đủ, diễn biến chơn chu theo trình tự đã định. Ngày 5 đến 10/11/91, sau khi Hiệp Định về Campuchia được ký kết ở Pa–ri, TBT Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức CHND Trung Hoa để hoàn thành việc bình thường hoá mối quan hệ bị trục trặc lớn từ tháng 2/1979. Nhưng trong khi lãnh đạo ta ôm kỳ vọng cùng TQ “bảo vệ xã hội chủ nghĩa chống đế quốc” thì họ đã xác định quan hệ với ta là “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đấu” (thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau). TQ nói thế song luôn luôn lấy thế nước lớn để lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải ta, và hiểm độc nhất là không ngừng tác động vào nội bộ ta.
******************************************* Hiệp 2 của Hội nghị quốc tế về Campuchia.
Với đà tiến triển nhanh chóng qua các cuộc họp SNC tại Jakarta (6/91), Bắc Kinh, Pattaya (Thái Lan) và Nữu ước (9/91), 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An quyết tâm quyết nhanh gọn vấn đề Campuchia làm đà giải quyết các cuộc xung đột khu vực khác, đặc biệt là Trung Đông. Cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều có lợi ích đồng tình với phương Tây–chủ yếu là Mỹ–gạt nốt những vướng mắc cuối cùng trong việc thông qua các văn bản dự thảo Hiệp định 28/11/1990 của P5.
Cuối tháng 9/1991, tôi dẫn đầu đoàn đại biểu nước ta đi Nữu Ước dự khoá họp thứ 46 Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Khác với năm 1988, khi tôi đại diện Việt Nam dự Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc khoá thứ 43, lần này vấn đề CPC đã đi sát đến giải pháp. Trong thời gian ở Nữu Ước, tôi đã tranh thủ tiếp xúc với anh Hun–xen họp SNC ở đó để tìm hiểu thái độ bạn đối với dự thảo Hiệp định. Tôi được biết ngày 21/9/91, Nhà Nước Campuchia cuối cùng cũng đã buông thả rất nhanh tất cả các điểm yêu cầu sửa dự thảo Hiệp định. Như vậy, chỉ còn lại một mình Việt Nam là nước duy nhất đòi bổ sung dự thảo về 4 điểm liên quan đến Việt Nam. Tôi vội thông báo tình hình này về nước để nhà sớm có quyết sách thích đáng cho đoàn đại biểu ta đi dự Hội nghị quốc tế Pa–ri về Campuchia. Ngày 13/10/1991 bộ phận thường trực và sau đó các đồng chí khác trong BCT đã thông qua chủ trương Việt Nam tham gia ký kết Hiệp định với 2 phương án đấu tranh về 4 điểm bổ sung của ta. Sáng 14/10, anh Võ Văn Kiệt đã gặp tôi ở Văn phòng Hội đồng bộ trưởng để cho ý kiến về 2 văn bản do Bộ Ngoại Giao chuẩn bị cho cuộc họp về vấn đề Campuchia ở Pa–ri . Sau khi nghe tôi trình bày, anh Kiệt tán thành Tờ trình BCT về phương án đấu tranh của ta tại Hội nghị quốc tế Pa–ri, và góp ý nên sửa lại 2 chỗ trong bản dự thảo Tuyên bố Chính phủ.g
Ngày 16/10, trên đường đi Pa–ri, tôi được điện của Bộ báo cho biết cả Levitte, thứ trưởng ngoại giao Pháp và Từ Đôn Tín, lúc này đã là thứ trưởng ngoại giao, đều muốn gặp tôi sớm, trước ngày họp Uỷ ban Phối hợp của Hội nghị. Trên cơ sở phán đoán là cả hai đều muốn gặp để thương lượng và thúc đẩy Việt Nam rút các yêu cầu sửa đổi dự thảo Hiệp định để bảo đảm cho cuộc họp Uỷ ban Phối hợp khỏi gặp trắc trở, tôi đã quyết định gặp Levitte trước, sau đó mới gặp Từ. Suy nghĩ của tôi là: Pháp là nước đồng chủ tịch đăng cai hội nghị, rất muốn hội nghị đạt kết quả, đề cao được vai trò Pháp trên quốc tế, đồng thời gặp Pháp trước sẽ tỏ được thiện chí và tính độc lập của ta, nếu gặp Trung Quốc trước gặp Pháp sau thì sẽ chịu tiếng bị sức ép của Trung Quốc mà phải nhượng bộ.
Ngày 18/10, ngay sau khi đến Pa–ri, tôi đã gặp Levitte thảo luận. Đúng như đã phán đoán, Pháp tha thiết mong Việt Nam có thái độ mềm dẻo đối với dự thảo Hiệp định. Cuối cùng, để tỏ thiện chí, tôi đã thỏa thuận với Pháp về cách làm như sau: trong báo cáo của Tổng thư ký LHQ trước Hội đồng Bảo an sẽ có giải thích những điểm mà Việt Nam yêu cầu làm rõ. Và ngay trong cuộc họp UB phối hợp ngày 21/10/91, trong bản trình bày của Phó tổng thư ký LHQ Ahmed Rafeuddin cũng phải nêu đầy đủ giải thích này, đồng thời Levitte nhân danh chủ tịch Uỷ ban sẽ tuyên bố hoan nghênh thiện chí hợp tác của Việt Nam đã thôi không đưa các bổ sung dự thảo Hiệp định nữa vì đã có những giải thích thích đáng của Phó tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Tôi cũng thỏa thuận với Levitte sẽ có cuộc gặp tay ba với Ahmed thoả thuận cuối cùng.
Hôm sau, tôi gặp Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Từ Đôn Tín. Từ cũng có mục đích thu phục ta thôi không đưa các yêu cầu bổ sung nữa, nói nếu Việt Nam đưa bổ sung thì các nước khác đòi bổ sung để cân bằng lại. Mỹ sẽ đòi hoãn việc ký kết và đổ trách nhiệm cho Việt Nam.
Ngày 20/10/1991, như đã thỏa thuận với Pháp, ngay sau khi Phó tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đến Pa–ri, đã có cuộc họp tay ba giữa Việt Nam, Pháp, và Phó tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ahmed thoả thuận cách làm như ta đã bàn với Pháp hôm 18/10 và cho trợ lý của ông ta ghi lại các câu chữ yêu cầu nói rõ khi ông giải thích về mấy điểm bổ sung của ta. Như vậy, thực chất là đã vượt mức yêu cầu của ta, nhưng để giữ cao giá, tôi nói sơ bộ thỏa thuận như vậy, song tôi còn phải xin chỉ thị Hà Nội: khẳng định lại trong sáng 21/10 trước khi bắt đầu họp Uỷ ban Phối hợp.
Sáng 21/10/1991, khi đoàn Việt Nam đến Trung tâm Hội nghị quốc tế Kléber, có một đoàn của đoàn Trung Quốc ra mời tôi gặp Từ Đôn Tín có việc gấp cần trao đổi trước khi họp. Từ yêu cầu riêng tôi nói chuyện bằng tiếng Tàu không qua phiên dịch, cho biết Mỹ định đưa bổ sung vào Hiệp định một đoạn lên án diệt chủng và yêu cầu tôi cho biết ý kiến. Tôi Trả lời: chuyện này bây giờ chủ yếu là vấn đề của người Campuchia, nên để các bên Campuchia có ý kiến. Còn quan điểm của Việt Nam là đến nay không nên để bất cứ một vấn đề nào gây trở ngại cho việc ký kết. Từ xem ra hài lòng về cách tỏ thái độ của ta. Nhưng cuối cùng hình như đã có sự thỏa hiệp giữa Mỹ và Trung Quốc, Mỹ rút bỏ từ “diệt chủng” trong đoạn bổ sung và chỉ nói chung chung về “nhân quyền” và các quyền tự do cơ bản của Campuchia cần được các nước tôn trọng.
Sau đó đã tiến hành phiên họp thứ 8 của Uỷ ban Phối hợp của Hội nghị quốc tế Pa–ri (PICC[1]) để thông qua lần cuối các văn kiện đưa ra Hội nghị cấp bộ trưởng. Sự việc đã diễn ra hoàn thành đúng như đã thoả thuận giữa ta với Pháp và Tổng thư ký LHQ. Sau lời khai mạc của hai đồng chủ tịch Pháp và Inđônêxia, Phó tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ahmed đọc bản trình bày tình hình chuẩn bị trong việc thi hành Hiệp định sẽ được ký kết và đọc đầy đủ những lời giải thích về 4 điểm mà ta yêu cầu họ (việc đưa trở lại hay đưa quân của bất cứ nước ngoài nào vào Campuchia sẽ là vi phạm Hiệp định; thông tin cần cung cấp cho UNTAC chỉ liên quan đến các lực lượng nước ngoài còn có mặt ở Campuchia khi ký kết Hiệp định này; sự có mặt của sĩ quan liên lạc UNTAC ở thủ đô Việt Nam, Lào và Thái Lan không có hàm ý mở rộng quyền hạn UNTAC sang các nước láng giềng của Campuchia… phải tôn trọng đầy đủ chủ quyền của các nước này). Đáp lại, tôi đã phát biểu hoan nghênh và ghi nhận những lời giải thích của Phó tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, Levitte, đồng chủ tịch cuộc họp, biểu thị cảm ơn Việt Nam, thiện chí hợp tác.t
Kết quả cả 4 văn kiện để ký kết đều đã được nhất trí thông qua trong UB Phối hợp, không tranh cãi nào về thực chất cả, kể cả những vấn đề ta đã dự phòng như vấn đề tù binh, Việt kiều ở Campuchia, biên giới Việt Nam–Campuchia... đều không có đoàn nào nêu ra. Giờ đây chỉ còn là các việc ký kết Hiệp định của anh Nguyễn Mạnh Cầm tối 23/10/1991.
Sáng 22/10/1991, Đài RFI[2] (Pháp) đã xin gặp tôi và đặt Câu hỏi: Ông tới Pa–ri với tư cách đại diện của Việt Nam tham dự Hội nghị hoà bình về Campuchia, và hôm qua ông đã tham gia thông qua văn bản cuối cùng của Hiệp định hoà bình. Trước hết xin ông cho biết cảm tưởng về việc ký kết văn bản này, khi mà sau mười mấy năm chiến tranh ác liệt, nay ở Campuchia đã có hoà bình thực sự? Câu trả lời của tôi lúc đó là: “Cảm tưởng của tôi đối với việc một hai ngày nữa sẽ ký kết Hiệp định hoà bình về Campuchia là cảm tưởng của một người sau nhiều ngày luồn rừng leo núi đã tới được quãng đường rộng rãi thảnh thơi, và cũng là cảm tưởng của một người qua nhiều ngày đi trên sa mạc sắp đến trạm nghỉ. Tất nhiên đây không phải là trạm nghỉ cuối cùng, mà là nghỉ để tiếp tục một chặng đường mới với những thử thách mới, nhưng chắc chắn có nhiều điều hứa hẹn tốt đẹp hơn”.
[1] 1991 Paris International Conference on Cambodia [2] Radio France Internationale ************************************************************** Kết thúc một chặng đường nhưng lịch sử chưa sang trang
Sau 12 năm dòng dã, đối với chúng ta, vấn đề Campuchia coi như đã kết thúc và đã trở thành một hồ sơ của bộ phận lưu trữ trong Bộ Ngoại Giao Việt Nam. Nhưng những bài học của 12 năm ấy vẫn còn đó, vẫn còn có nhiều tính chất thời sự, nhất là bài học về chính sách và thái độ cư xử với các nước lớn.
Tiếp sau việc vấn đề Campuchia được giải quyết là việc thực hiện bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Theo thỏa thuận giữa hai bên, ngày 5.11.1991, tổng bí thư Đỗ Mười và thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có cuộc đi thăm chính thức nước CHND Trung Hoa, đánh dấu sự bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. “Quan hệ Việt–Trung tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau… Quan hệ Việt–Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại quan hệ những năm 50–60…”
Tuy nhiên sau khi bình thường hoá quan hệ, lại dồn dập diễn ra những sự kiện xấu trên nhiều mặt quan hệ giữa hai nước, tập trung gay gắt nhất là các vấn đề liên quan đến lãnh thổ trên bộ vùng biên giới (Hà Giang tháng 2, 3, 4/92; vụ nối lại đường xe lửa Liên vận ở Đồng Đăng, Lạng Sơn tháng 12/91, 4, 5/92; Lục Lâm, Quảng Ninh tháng 5/92) và tranh chấp biển đảo mà đỉnh cao là vụ Trung Quốc công khai hoá việc ký kết hợp đồng thăm dò khai thác dầu khí với Công ty Năng lượng Mỹ Crestone tại một vùng rộng lớn trên thềm lục địa của Việt Nam (bãi Tư Chính).
Vì sao Trung Quốc tăng cường lấn ép ta vào thời điểm này? Vì Trung Quốc cho rằng tình hình lúc đó đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện yêu cầu tăng thế và lực (xây dựng hải quân nhanh, nổ thử bom 1000–kilotons, thi hành chiến lược “biên giới mềm”) nhằm tạo cho mình một vị thế đỡ bất lợi so với Mỹ và các nước lớn khác, trong đó có ý đồ gấp rút biến biển Nam Trung Hoa thành vùng biển độc chiếm của Trung Quốc, từ đó khống chế toàn bộ vùng Đông Nam Á:
1. Trật tự thế giới cũ không còn, trật tự thế giới mới chưa hình thành. Các đối thủ chính của Trung Quốc ở Châu Á–Thái Bình Dương đều đang gặp khó khăn. Liên Xô vừa tan rã, Liên bang Nga trước mắt chưa phải là thách thức đáng kể. Mỹ đang giảm bớt sự có mặt về quân sự ở Châu Á–Thái Bình Dương tránh can thiệp nếu lợi ích của Mỹ và đồng minh không bị đụng đến.: 2. Đông Nam Á mới bắt đầu quá trình nối lại các quan hệ giao lưu giữa hai nhóm nước đối đầu cũ. Triển vọng liên kết hay nhất thể hoá Đông Nam Á, bất lợi đối với ý đồ bá quyền của Trung Quốc, đang còn có những trở ngại (nghi ngờ nhau do khác ý thức hệ, va chạm lợi ích, ý đồ của Thái Lan đối với Lào, Campuchia) đòi hỏi thời gian khắc phục. Trung Quốc muốn tranh thủ thời gian này để cản phá xu thế hợp tác khu vực giữa Đông Dương chủ yếu là Việt Nam, và ASEAN, tạo ra một tập hợp lực lượng thân Trung Quốc ở Đông Nam Á (quân phiệt Thái, quân phiệt Myanmar, Khơ–me đỏ ở CPC và Lào nếu có thể) để khuất phục Việt Nam. 3. Bản thân Việt Nam còn đang lúng túng về những vấn đề chiến lược (vấn đề đồng minh, vấn đề tập hợp lực lượng, vấn đề bạn–thù) trong tình hình mới sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ với Mỹ chưa bình thường hóa, Trung Quốc muốn đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên thế mạnh.
Vì vậy Trung Quốc nhẩn nha trong các bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, vừa tạo bề ngoài thân mật gắn bó Trung–Việt, vừa xiết chặt bên trong, giành lợi thế cho mình trên mọi lĩnh vực quan hệ. Cả hai mặt đều nhằm mục tiêu khẳng định Việt Nam–Đông Dương là thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc, muốn tách Việt Nam khỏi Đông Nam Á và thế giới bên ngoài.
Ngày 29/11/1993, tại cuộc họp Trung ương thứ 6 khoá VII để nhận định tình hình và bàn về phương hướng tới, dự tính trước việc tôi sẽ xin rút khỏi Trung ương, tôi đã tranh thủ nói rõ quan điểm của tôi trước phiên họp toàn thể Trung ương dưới dạng trình bày những suy nghĩ của mình về “Thời cơ và Thách thức”. Tôi cho rằng cục diện mới lúc này có mặt thuận lợi là làm nảy sinh những xu thế phù hợp với yêu cầu mở cửa, hoà nhập vào đời sống kinh tế–chính trị quốc tế của ta, đang tạo nên thời cơ thực hiện mục tiêu hoà bình và phát triển của nước ta. Đó là:
1. Ngày 29/11/1993, tại cuộc họp Trung ương thứ 6 khoá VII để nhận định tình hình và bàn về phương hướng tới, dự tính trước việc tôi sẽ xin rút khỏi Trung ương, tôi đã tranh thủ nói rõ quan điểm của tôi trước phiên họp toàn thể Trung ương dưới dạng trình bày những suy nghĩ của mình về “Thời cơ và Thách thức”. Tôi cho rằng cục diện mới lúc này có mặt thuận lợi là làm nảy sinh những xu thế phù hợp với yêu cầu mở cửa, hoà nhập vào đời sống kinh tế–chính trị quốc tế của ta, đang tạo nên thời cơ thực hiện mục tiêu hoà bình và phát triển của nước ta. Đó là: 2. xu thế đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, tăng cường ngoại giao đa phương do nhu cầu đẩy mạnh giao lưu kinh tế và an ninh tập thể. 3. xu thế giữ hoà bình ổn định thế giới và khu vực nhằm đảm bảo môi trường quốc tế thuận lợi cho tập trung phát triển kinh tế. 4. xu thế liên kết khu vực kinh tế và an ninh khu vực.
Đồng thời, cũng có những thách thức lớn đối với an ninh và phát triển của ta, cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài:
a) thách thức bên trong là tệ nạn tham ô và nhũng nhiễu đang hủy hoại sức đề kháng vật chất cũng như tinh thần của dân tộc ta, làm giảm hẳn khả năng chống đỡ của ta đối với các thách thức bên ngoài b) diễn biến hoà bình–một dạng biểu hiện của mâu thuẫn Đông–Tây sau chiến tranh lạnh. c) Bá quyền bành trướng. Nguy hiểm không kém diễn biến hoà bình, ở sát nách ta, thể hiện lúc mềm lúc cứng dễ gây mơ hồ mất cảnh giác (điểm này trong hội nghị hầu như không có ý kiến nào đề cập tới vì ngại đụng TQ, tuy là nói trong nội bộ). d) Tình hình Campuchia còn đầy bất trắc với Khơ–me đỏ, cộng với chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người Campuchia.
Trên cơ sở nhận định về thời cơ và nguy cơ như vậy, tôi đã đưa ra kiến nghị:
1. Cần nhìn tổng thể tình hình khách quan và chủ quan, đối chiếu các thách thức với khả năng các mặt của ta để chọn cách xử lý sát thực tế, vừa sức. 2. Trước hết xử lý thách thức nào trong tầm tay của ta, tập trung chống tham nhũng để bảo tồn và tăng cường sức đề kháng phòng ngừa thách thức bên ngoài. 3. Ưu tiên cho liên kết khu vực (Đông Nam Á). Liên kết không phải để đối đầu chống nước nào. 4. Đối với các nước lớn, hữu hảo không đối đầu nước nào, nhưng đều phải giữ khoảng cách nhất định. 5. Song song với việc kết bạn, không lơ là việc đấu tranh khi cần thiết. Song luôn luôn giữ giới hạn không gây nguy cơ mất ổn định khu vực. 6. Tránh không làm gì có thể dồn hai hoặc ba đối thủ câu kết lại với nhau chống ta. 7. Những ý kiến trên đây có thể dùng làm đoạn kết cho phần hồi ức này của tôi, vì phản ánh đầy đủ quan điểm của tôi và cho đến nay (1999) xem ra nó chưa phải là đã lỗi thời. Trước đấy ngày 14/6/1993, theo yêu cầu của Thường trực Bộ Chính trị, tôi đã viết và ngày 20/6/1991 đã gửi các đồng chí Thường trực BCT tài liệu “Những thách thức đối với an ninh và phát triển của ta. Một số kiến nghị đối sách” (xem phụ lục Hồi ức), thẳng thắn nêu ý kiến của mình về mấy vấn đề lớn: những thách thức, đe dọa đối với an ninh và phát triển của có thể xuất xứ từ đâu, dưới những dạng nào.
******************************************* Những thách thức đối với an ninh và phát triển của ta Một số kiến nghị đối sách (Viết theo yêu cầu của Thường trực Bộ Chính trị và đã gửi các đồng chí Thường trực BCT ngày 20.6.1993)
Những biến đổi lớn trong chính trị thế giới những năm gần đây cũng như những biến đổi lớn của tình hình kinh tế thế giới và những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã tác động tổng hợp vào sự hình thành cục diện chiến lược ngày nay với những xu thế mới ngày càng thể hiện rõ nét.
Bối cảnh chung này đã thúc đẩy tất cả các nước lớn nhỏ, đã phát triển hay đang phát triển phải điều chỉnh lại chiến lược, điều chỉnh lại thứ tự ưu tiên các mục tiêu chiến lược của mình sao cho phù hợp đặc điểm tình hình thế giới mới và những xu thế chung hiện nay.
Một vấn đề lớn đặt ra cho mỗi nước là sớm xác định được những cơ hội và nhất là những thách thức trở ngại cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược của mình. Đối với ta, trong khi phấn đấu thực hiện mục tiêu chiến lược là sớm đưa đất nước “ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế–xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển với nhịp độ mới vào đầu thế kỷ 21” để bảo đảm hoà bình và ổn định chúng ta cần tìm ra được câu trả lời cho những vấn đề cấp bách là: hiện nay về mặt đối ngoại đất nước ta đang đứng trước những thách thức, đe dọa chủ yếu gì? có thể từ đâu đến và dưới dạng nào? Đâu là mối đe dọa trực tiếp nhất, thúc bách nhất cần đối phó? Phương hướng xử lý, trong đó có vấn đề tập hợp lực lượng để đối phó với những đe dọa, thách thức đó sao cho phù hợp với khả năng còn rất hạn chế về mọi mặt của ta? ************************************************ Những thách thức đe dọa an ninh và phát triển của ta có thể xuất xứ từ đâu và dưới những dạng nào?
Hơn 2 năm qua kể từ Đại hội Đảng lần thứ 7, trên cơ sở những thành tựu trong công cuộc Đổi mới trong nước, việc triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá quan hệ theo hướng “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, chúng ta đã cải thiện một bước đáng kể vị trí nước ta trên quốc tế. Quan trọng nhất là ta đã phá được một bước quan trọng thế bị cô lập về chính trị trong môi trường quốc tế, thuận lợi hơn cho việc giữ vững hoà bình và đẩy mạnh phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, trong tình hình quan hệ đối ngoại của ta đã bị đảo lộn ghê gớm với sự tan rã của hệ thống các nước bạn bè ở Liên Xô và Đông Âu thì những kết quả này mới chỉ là bước đầu và chưa thật vững chắc. Về chính trị, ta chưa tạo được một hậu thuẫn quốc tế thay thế chừng nào cho những chỗ dựa truyền thống mà ta vừa mất đi. Về kinh tế, đất nước ta còn ở tình trạng lạc hậu về kinh tế, KHKT so với nhiều nước trong khu vực và chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế–xã hội. Ngày nay quan hệ giữa ta và các nước chủ yếu dựa trên cơ sở lợi ích tương đồng, trên từng mặt, từng vấn đề; hoàn toàn khác với phương thức tập hợp lực lượng truyền thống trước đây và đối với bất cứ đối tác nào cũng đều có hai mặt hợp tác và đấu tranh rất phức tạp. Trong khi đó, những đe dọa thách thức đã và đang nảy sinh từ những phía khác nhau, trước mắt và trong tương lai gần.
Trên cơ sở dự báo chiến lược, những đối tượng chính trước mắt hoặc sau này có thể tạo nên những đe dọa thách thức chủ yếu đối với sự nghiệp an ninh và phát triển của ta là: Trung Quốc, Mỹ, Nhật và Thái Lan.
Sau đây là những dạng thách thức đe dọa mà mỗi đối tượng có thể gây ra đối với ta:
1. Trung Quốc: Sau hơn 1 năm bình thường hoá, quan hệ Việt–Trung có nhiều mặt được thúc đẩy như trao đổi đoàn qua lại, mở một số cửa khẩu, buôn bán biên giới… Song mặt tiêu cực và hạn chế đang nổi lên, nhiều hiệp định đã ký kết và nhiều thỏa thuận ở cấp cao chưa được thực hiện. Đặc biệt từ đầu năm 1993, TQ dùng nhiều biện pháp tổng hợp để tăng sức ép và tạo thêm nhiều khó khăn cho ta, gây tình hình không ổn định cho ta cả bên trong lẫn bên ngoài nhằm làm chậm đà phát triển kinh tế của ta và kìm hãm việc mở rộng quan hệ đối ngoại của ta trước hết là ở khu vực ĐNÁ và Châu Á–TBD. Những thách thức và đe dọa của Trung Quốc đối với ta đang được thể hiện ngày càng rõ nét dưới các dạng chính sau đây: a. Xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ta trên bộ và trên biển: trong khi trên bộ, TQ không có dấu hiệu nào muốn giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lại còn làm xấu thêm tình hình (xâm canh xâm cư, xây kè cống làm thay đổi dòng chảy các sông suối biên giới có lợi cho TQ, lấn sang phía ta) thì trên biển TQ liên tiếp có những bước leo thang nghiêm trọng từ tranh chấp ngoài biển Đông, TQ đã từng bước ngày càng lấn sâu vào thềm lục địa, ngay trong khu vực ta đã phân lô ký kết với các công ty nước ngoài và đang thăm dò khai thác dầu khí (đầu tháng 5/93 TQ cho tàu “FENDOU 4” vào thăm dò địa chấn ở khu vực lô 6 nằm sâu trong thềm lục địa của ta) bộc lộ ý đồ biến một số khu vực trong thềm lục địa của ta thành vùng tranh chấp, đang chuẩn bị dư luận để đưa đảo Bạch Long Vĩ vào diện tranh chấp. b. Phá môi trường quốc tế hòa bình ổn định của VN với những hoạt động: ở CPC, thông qua Khơ–me đỏ khuấy động vấn đề người VN ở CPC đồng thời làm cho tình hình CPC khó đi vào ổ định; lôi kéo 3 nước (Thái, Miến, Lào) thành một cụm liên kết kinh tế ở ĐNÁ lục địa thượng lưu sông Mê Kông gắn với TQ, tách rời VN, khủng hoảng biển Đông kéo dài cũng có tác động phá môi trường phát triển của VN. c. Gây mất ổn định chính trị, kinh tế bên trong VN: nêu trở lại “vấn đề người Hoa”, đẩy số người Hoa đã bỏ về TQ từ những năm 78,79 trở lại VN; thông qua Khơ–me đỏ dồn đuổi Việt kiều ở CPC về nước; gây sức ép với Hồng Kông đưa toàn bộ số thuyền nhân ở đó về VN trước năm 1997; để hàng lậu từ TQ tuồn vào VN qua con đường tiểu ngạch bán hàng vào VN với giá rất rẻ gây rối loạn thị trường, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất ở nước ta. d. Kìm hãm phát triển kinh tế đối ngoại của VN: tiếp tục bắt giữ tàu thuyền của ta (số lượng nhiều hơn 1992: 28 chiếc); chống việc ICAO[1] trả lại vùng FIR Hồ Chí Minh cho VN.
2. Mỹ có thể thách thức đe dọa an ninh và phát triển của VN qua các dạng:
a. Mỹ là nước lớn duy nhất hiện nay chưa bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và còn tiếp tục chính sách cấm vận gây trở ngại cho các tổ chức quốc tế (Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới … ) và các nước khác trong việc viện trợ tài chính và hợp tác với ta phát triển kinh tế. b. Tiến hành diễn biến hoà bình: thông qua những cái gọi là đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền ép ta đa nguyên, đa đảng; kích động các vấn đề tôn giáo, dân tộc thiểu số để gây tình hình phức tạp làm mất ổn định chống ta. c. Nuôi dưỡng những phần tử phản động hoặc thoái hoá biến chất còn lại ở VN và các lực lượng phản động người Việt đang ở nước ngoài khi có điều kiện thuận lợi thì gây bạo loạn, lật đổ như đã làm ở một số nước.
3. Nhật Bản trước mắt là một đối tượng hợp tác chính của ta để thực hiện yêu cầu phát triển nhanh kinh tế VN, song ta vẫn phải dự phòng về lâu dài những khả năng xấu từ phía Nhật:
- Trước hết là cùng với việc tăng cường đầu tư viện trợ, Nhật sẽ từng bước thao túng kinh tế VN và đưa VN và cả ĐNÁ vào quĩ đạo Nhật Bản phục vụ cho tham vọng bá quyền khu vực và thế giới của Nhật Bản về kinh tế cũng như về chính trị. - Mặt khác, cùng với tham vọng về chính trị và kinh tế được thực hiện từng bước, chủ nghĩa quân phiệt Nhật có thể được phục hồi nhằm trở thành 1 siêu cường toàn diện ở khu vực và trên thế giới. Nguy cơ này sẽ có hậu quả trực tiếp tới khu vực Đông Á trong đó có VN.
4. Thái Lan hiện là một bộ phận của ASEAN mà ta đang tích cực tranh thủ hợp tác cả về kinh tế lẫn chính trị. Nhưng chủ nghĩa “Đại Thái” xưa nay là nguy cơ truyền thống đối với an ninh và phát triển của VN, hiện vẫn tồn tại và đầy tham vọng. Thái luôn coi VN là một đối thủ tiềm tàng về kinh tế cũng như về chính trị. Vì vậy thách thức của Thái đối với ta có thể đến từ hai phía:
- Về kinh tế, Thái có lợi ích kiềm chế nhịp độ phát triển của VN (vấn đề Uỷ ban Mê Kông, FIR[2] Hồ Chí Minh), đồng thời tận dụng được VN như một thị trường tiêu thụ hàng Thái và một nguồn cung cấp nguyên liệu (lâm sản, hải sản, khoáng sản). - Về chính trị, quân sự Thái có lợi ích biến Lào và CPC từ những đồng minh của VN thành vùng chịu ảnh hưởng Thái nhiều hơn. Đồng thời Thái vẫn có thể cung cấp căn cứ địa cho các lực lượng phản động VN thâm nhập phá hoại nội địa ta
[1] International Civil Aviation Organization (Tổ chức hàng không dân sự quốc tế) [2] HCM Flight information regions (Phía Nam đảo Hải Nam ) ********************************************************* Nguy cơ lớn nhất và thúc bách nhất đe dọa an ninh và phát triển của ta là từ đâu?
Trong 4 đối tượng có thể tạo nên nguy cơ đe dọa ta, có những nước lớn cỡ toàn cầu hoặc khu vực như Mỹ, TQ, Nhật; riêng Thái Lan là nước ngang tầm với ta nên mức độ thách thức đối với ta không so được với các nước lớn. Trong các dạng thách thức khác nhau của cả 4 đối tượng, có nhiều điều mới trên cơ sở giả định hoặc dự phòng để cảnh giác, song có những điều đang là hiện thực, đang là những vấn đề thực tế và thúc bách đặt ra trước mắt ta. Vì vậy với khả năng rất hạn hẹp về mọi mặt của ta, ta cần phân biệt rõ đâu là nguy cơ lớn nhất trực tiếp đe dọa những lợi ích sống còn của dân tộc VN để tập trung trí lực và vận dụng cao độ sách lược đối ngoại đối phó lại. Trước hết chắc chắn đó không phải là Nhật hay Thái Lan. Đó chỉ có thể là Mỹ hay TQ .
1 Chiến lược của Mỹ và ý đồ của Mỹ đối với VN:
Sau sự tan rã của LX và sự kết thúc chiến tranh lạnh, Mỹ gặp phải nhiều thách thức hơn là cơ hội. Thách thức bởi những vấn đề kinh tế–xã hội cấp bách trong nước, thách thức bởi những đối thủ vốn là đồng minh cũ của Mỹ trong chiến tranh lạnh như Nhật, EC. Vì vậy mục tiêu chiến lược của Mỹ phải điều chỉnh lại một cách thực tế và khiêm tốn hơn: cố gắng duy trì vị trí số một trên thế giới và ở Châu Á–TBD, hiện đang trở thành vũ đài chính của thế giới. Trước thách thức ngày càng lớn của các trung tâm kinh tế phương Tây, việc xoá CNXH ở Châu Á chưa phải là ưu tiên hàng đầu của Mỹ hiện nay. Khoảng cách về so sánh lực lượng giữa Mỹ và các cường quốc khác không còn quá lớn như trước để thực hiện được mục tiêu chiến lược, phương hướng của Mỹ chủ yếu là tạo một cân bằng lực lượng giữa các đối thủ có tiềm năng đe dọa vị trí số một thế giới của Mỹ, dùng đối thủ này kiềm chế đối thủ kia, thông qua hợp tác để kiềm chế các đối thủ, tăng cường vai trò các thể chế quốc tế (như LHQ) trong việc xử lý các xung đột khu vực, tạo thành một thế ổn định chung có lợi cho Mỹ. Mỹ đang cô lập nên trật tự khu vực mới trên cơ sở tam giác chiến lược mới Mỹ–Nhật–Trung thay cho tam giác Mỹ–Xô–Trung ngày trước, trong đó Mỹ vừa tranh thủ và hợp tác với TQ mà chủ yếu là với Nhật, vừa cảnh giác kiềm chế cả hai, chủ yếu là TQ. Riêng với TQ, Mỹ rất coi trọng vai trò của đất nước có hơn 1 tỷ dân này trong kế hoạch tạo lập một trật tự quốc tế mới. Mỹ cần thúc đẩy và tranh thủ sự hợp tác của TQ trong nhiều vấn đề nhất là trong việc xử lý các cuộc xung đột khu vực . Mỹ không thể khuyến khích hoặc làm ngơ để TQ tự do bành trướng xuống ĐNÁ. Trong chiến lược Châu Á–TBD của Mỹ, chính quyền Clinton đã tỏ ra coi trọng vai trò ĐNÁ hơn trước. Có thể vì đây là một vùng khá năng động về phát triển kinh tế, đồng thời lại có một cơ chế tiểu khu vực có sức sống và gắn bó với lợi ích kinh tế của Mỹ. Song mặt khác vì đây là hướng bung ra của TQ trong ý đồ lấp “khoảng trống quyền lực” sau khi LX tan rã và Mỹ thu bớt sự có mặt quân sự ở ĐNÁ. Lợi ích của Mỹ là tạo ra được ở đây một ĐNÁ ổn định và đủ mạnh để cản bước TQ trong chiến lược “biên giới mềm” và “mở rộng không gian sinh tồn”. Ý đồ của Mỹ là từng bước thúc đẩy việc mở rộng ASEAN thành một tổ chức chung cho cả 10 nước ĐNÁ, có khả năng trở thành một đối trọng đáng kể đối với TQ bảo đảm ổn định khu vực. Trong kế hoạch tạo lập một cơ chế an ninh khu vực của Châu Á–TBD, Mỹ, Nhật và phương Tây nói chung đều đã lấy ASEAN làm cốt lõi về tổ chức. Hội nghị thường niên giữa ASEAN và 6 nước đối tác đang trở thành diễn đàn trao đổi về an ninh khu vực Châu Á–TBD. Nga cũng tỏ thái độ ủng hộ phương hướng này. Riêng TQ không mặn mà. Vậy có khả năng Mỹ đồng tình hay câu kết với TQ chống VN không? Trước đây Mỹ và TQ hợp lực chống VN trong vấn đề CPC là vì cả 2 cùng có yêu cầu chung là đánh vào LX và xoá bỏ ảnh hưởng của LX ở ĐNÁ. Nay LX đã sụp đổ, thế chiến lược ở Châu Á–TBD đã thay đổi, nếu Mỹ lại đi với TQ chống VN thì chẳng khác gì là đẩy VN vào tình thế hoặc chủ động liên minh với TQ hoặc phải khuất phục trước sức mạnh của TQ, từ đó tạo điều kiện cho TQ từng bước khống chế cả ĐNÁ một cách dễ dàng và nhanh chóng trở thành một trong những đối thủ đe dọa vị trí số 1 của Mỹ trên toàn cầu. Điều này hoàn toàn ngược lại mục tiêu chiến lược của Mỹ. Mặt khác, một nước VN đổi mới, độc lập với Nga, TQ, cũng như không chịu sự chi phối của Nhật, cải thiện quan hệ và hoà nhập với các đồng minh của Mỹ ở ĐNÁ là phù hợp với lợi ích của Mỹ về hoà bình, ổn định, nhằm duy trì ảnh hưởng của Mỹ và hạn chế các thách thức nổi lên đối với vị trí của Mỹ ở khu vực. VN tuy không có một vị trí quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, nhưng VN vẫn là một nhân tố mà Mỹ không thể không tính đến trong chiến lược của Mỹ ở Châu Á–TBD và ĐNÁ. Hơn nữa về kinh tế Mỹ có lợi ích tranh thủ thị trường và nguồn nguyên liệu của VN. Mỹ không muốn vắng mặt trong khi các đối thủ của Mỹ đi mạnh vào thị trường VN. Bên cạnh những lợi ích có phần nào trùng hợp với ta như trên, mặt tiêu cực trong chính sách của Mỹ đối với ta không nhỏ. Mỹ không thể từ bỏ ý đồ diễn biến hoà bình với ta. Tuy nhiên Mỹ có làm được hay không chủ yếu còn tuỳ thuộc vào khả năng giữ vững ổn định chính trị trong nước của ta, tức là tuỳ thuộc vào bản lĩnh chính trị của Đảng ta và sự vững vàng cảnh giác của cán bộ và nhân dân ta và sự gắn bó giữa dân với Đảng. Ở đây nhân tố vững mạnh bên trong có ý nghĩa quyết định. Thắng lợi của công cuộc Đổi mới, sự ổn định về kinh tế–xã hội ở nước tavà việc không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng trong quá trình đa dạng hoá và mở rộng quan hệ quốc tế sẽ là đảm bảo tốt nhất hạn chế tác động của mọi thủ đoạn diễn biến hoà bình. Mặt khác cũng phải thấy rõ không phải Mỹ tập trung chống phá VN với bất cứ giá nào vì Mỹ có những ưu tiên chiến lược lớn hơn và hơn nữa hiện nay Mỹ là đang có những lợi ích trùng hợp với ta ở khu vực mà ta có thể tranh thủ lợi dụng để phục vụ hữu hiệu cho mục tiêu chiến lược của ta. 2. Chiến lược của TQ và ý đồ TQ đối với VN:
Trái với Mỹ, TQ thấy ở những biến đổi lớn trong cục diện thế giới ngày nay, một “cơ hội ngàn năm có một”. Đối với TQ cơ hội đang tăng lên, còn thách thức giảm đi. Trong khi Mỹ cảm thấy cần co bớt lại để củng cố và phòng ngự là chính thì TQ nuôi tham vọng lớn là muốn vươn lên trở thành 1 cực trong trật tự thế giới đa cực mới. Trong khi hiện đại hoá trên 4 mặt vẫn là cứu cánh chính để thực hiện mục tiêu đó, TQ không ngừng tranh thủ mọi cơ hội có được để thực hiện kế hoạch bành trướng, gây mất ổn định cho nước khác hoặc lợi dụng tình trạng mất ổn định của nước khác (CPC, Myanmar) để mưu lợi cho mình. Do hiện nay thế cũng như lực chưa đủ mạnh, nên họ thực hiện ý đồ một cách tính toán thận trọng tuỳ theo diễn biến của tình hình khu vực, phản ứng của các đối thủ và thực lực của chính họ. Trước mắt TQ đang ra sức thực hiện ý đồ nhanh chóng trở thành 1 cường quốc ở Châu Á–TBD, có địa vị ngang hàng với Mỹ, Nhật ở khu vực này. TQ đặt mục tiêu lấn chiếm toàn bộ biển Đông ở vị trí ưu tiên hàng đầu. TQ coi trọng vị trí chiến lược của biển Đông vì kiểm soát được biển Đông tức là khống chế được cả ĐNÁ và cả con đường giao lưu huyết mạch từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương, và cũng là khu vực giàu tài nguyên nhất là dầu khí (trữ lượng dầu ở khu vực này ngang Vịnh Ba Tư[1]) mà TQ đang cần để đẩy nhanh tốc độ phát triển. Đáng chú ý là trong khi TQ mở một chiến dịch hoạt động ngoại giao rộng lớn nhằm tranh thủ tăng cường quan hệ hợp tác phát triển với tất cả các nước công nghiệp hoá phương Tây, tranh thủ các nước đang phát triển và không liên kết hòng khôi phục vai trò lãnh đạo thế giới thứ ba, cải thiện quan hệ với các nước láng giềng cùng chung biên giới, đặc biệt là gần đây tăng cường lôi kéo các nước khu vực ĐNÁ để phá thế “quần lang đấu hổ”, thì TQ luôn tập trung mũi nhọn gây sức ép và lấn dần VN trên mọi vấn đề, mặc dù ta đã dùng đủ phương sách để tỏ thái độ cầu hoà và hữu hảo với họ. Phải chăng vì TQ cho rằng VN là điểm yếu và dễ tính để lấn nhất lúc này (khó về quân sự, nghèo về kinh tế, đơn độc về chính trị) mà lại chiếm một vị trí chiến lược quan trọng ở ĐNÁ và là trở ngại lớn nhất cho kế hoạch biển Đông của TQ. Những hoạt động bất lợi đối với VN của TQ sẽ không dừng lại ở trạng thái hiện nay mà sẽ còn được tiếp tục đẩy tới vì TQ cho rằng tình thế hiện tại đang rất thuận lợi cho việc TQ lấn ép VN mà chỉ gặp phải phản ứng quốc tế ở mức thấp nhất vì Mỹ chưa bỏ cấm vận VN; quan hệ hợp tác, đầu tư giữa các nước và VN còn chưa phát triển; vấn đề CPC đang còn thu hút nhiều sự chú ý của dư luận quốc tế; cơ chế an ninh khu vực Châu Á–TBD chưa hình thành. TQ đặt năm 1997 thành một mốc thời gian quan trọng trong quá trình xây dựng sức mạnh mọi mặt của TQ: năm 1997 là năm TQ thu hồi Hồng Kông và cũng có thể là năm thực hiện một bước kế hoạch hình thành “vành đai kinh tế Đại Trung Hoa” bao quanh ĐNÁ; năm 1997 là năm quân đội TQ sẽ được trang bị hàng không mẫu hạm và các trang bị tối tân khác, đặc biệt về hải không quân để có thể vươn ra khắp biển Đông; có tin TQ đang cố rút ngắn mục tiêu của năm 2000 xuống năm 1997 sẽ tăng tổng sản phẩm quốc dân lên gấp 4 lần. Sức ép của TQ đối với ta sẽphát triển thuận chiều với sự phát triển các mặt của TQ.. 3. Những phân tích tình hình trên đây có thể dẫn đến kết luận:
Trước mắt cũng như trong tương lai dư báo được, TQ là nguồn xuất xứ chính của những thách thức đe dọa đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cũng như đối với an ninh và phát triển của VN. Những thách thức đe dọa trên nhiều mặt của TQ đối với ta đều đang là những vấn đề hiện thực, đang xảy ra và ta đang phải xử lý, khác với những thách thức đe dọa của các đối tượng khác, kể cả Mỹ, có phần nào còn là giả định và dự phòng. Nhưng mâu thuẫn và lợi ích trên các mặt giữa ta với TQ có nhiều hơn đối với các đối tượng khác.
[1] Persian gulf giữa Saudi Arabia, United Emirates và Iran . ********************************** Kiến nghị đối sách
1. Xét về so sánh lực lượng giữa Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam là nước nhỏ so với TQ là nước lớn, trọng lượng và ảnh hưởng chính trị rộng lớn hơn ta nhiều đẩy mạnh phát triển kinh tế, để cải thiện thế chính trị của ta trong cuộc đấu tranh nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp với TQ để bảo vệ lợi ích chính đáng của ta.
Vì bên cạnh những chỗ mạnh so với ta, trên mặt trận đối ngoại TQ có những điểm yếu cơ bản mà ta có thể và cần biết cách khai thác để hạn chế TQ trong chính sách lấn ép ta trên nhiều mặt. Những điểm yếu đó là
a) Để thực hiện ưu tiên tối cao là đẩy nhanh hiện đại, TQ cần Mỹ hơn là Mỹ cần TQ. Do đó tuy giữa Mỹ–TQ có đấu tranh và thoả hiệp, nhưng rõ ràng TQ ngại phản ứng của Mỹ, không dám thách thức Mỹ trong khi thế và lực của TQ còn có hạn. Thế giới cũng như các nước khu vực đều coi Mỹ là đối trọng có hiệu quả nhất trong việc kiềm chế TQ. Cũng vì thế TQ rất không muốn Mỹ cải thiện quan hệ và đi tới bình thường hoá quan hệ với VN. b) Trong lúc chưa xây dựng được lực lượng kinh tế cũng như quân sự đủ mạnh, TQ rất ngại các khu vực ĐNÁ–đối tượng bành trướng trước mặt của TQ–liên kết với nhau, đặc biệt là giữa ASEAN và VN, thành thể “quần lang đấu hổ” chống lại nguy cơ chung. Chính vì vậy mà TQ đang tìm mọi cách lôi kéo phân hoá ĐNÁ thành những mảnh riêng biệt, thậm chí có thể chống đối nhau. c) Trước xu thế mạnh mẽ của chung trên thế giới và trong khu vực muốn có ổn định để tập trung ganh đua phát triển kinh tế, TQ rất ngại bị dư luận quốc tế, trước hết là dư luận khu vực, coi là “nhân tố gây mất ổn định” ở Châu Á–TBD và thế giới . Cuộc vận động của Mỹ, Nhật, nhất là ASEAN, nhằm từng bước thúc đẩy việc hình thành một diễn đàn và tiến tới một cơ chế về an ninh tập thể khu vực Châu Á–TBD hiện nay chính là nhằm kiềm chế TQ.
2. Để có thể tận dụng những điểm yếu của TQ vào việc cải thiện thế chính trị trong cuộc đấu tranh không cân sức này, ta nhất thiết cần phải chọn lựa và hình thành một chiến lược đối ngoại hết sức linh hoạt phù hợp với chiều hướng diễn biến chung của chính trị và kinh tế thế giới, thích ứng với những đặc điểm lớn của cục diện quốc tế hiện đại. Cuộc đấu tranh chống lại những thách thức đe dọa của đối tượng đặc biệt này là một nhiệm vụ hết sức thúc bách, đòi hỏi những biện pháp tổng hợp song diễn ra trên mặt trận ngoại giao là chính.
Với sự kết thúc trạng thái thế giới phân thành 2 cực đối đấu nhau, do tính tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nước trên toàn cầu và trong mỗi khu vực, việc không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá để hoà nhập vào đời sống chung của cộng đồng quốc tế là rất quan trọng cả về chính trị lẫn kinh tế. Đồng thời trong bối cảnh quốc tế hiện nay, an ninh của một nước tuỳ thuộc rất lớn và trước hết vào mối quan hệ quốc tế và khu vực của ta vừa qua cho thấy việc xử lý tốt mối quan hệ với các nước lớn là cực kỳ quan trọng đối với lợi ích an ninh và phát triển của nước ta. Kinh nghiệm xương máu của dân tộc ta trong những thập kỷ qua cho thấy cần có chính sách quan hệ cân bằng giữa các nước lớn, và tuyệt đối không để bên ngoài hiểu là VN có ý đồ đi với nước lớn này chống nước nọ, gắn lợi ích của ta với lợi ích an ninh và phát triển của các nước láng giềng trong khu vực để tạo cho nước ta một thế quốc tế thuận lợi hơn.
3. Những trọng điểm trong chiến lược đối ngoại của ta phải là các nước lớn trong tam giác chiến lược Châu Á–TBD và khối các nước ASEAN, những nhân tố có khả năng tác động nhiều tới TQ.
a) Với Mỹ:
Quan hệ với Mỹ là một bộ phận quan trọng chính sách đa dạng hoá quan hệ đối ngoại của ta. Hiện nay Mỹ là nhân tố duy nhất có khả năng làm đối trọng và kiềm chế TQ, do đó ta cần kiên trì và quyết tâm kéo Mỹ đi vào bình thường hoá quan hệ. Kéo Mỹ vào để Mỹ có lợi ích trực tiếp ở VN, nhất là lợi ích trong lĩnh vực dầu khí ngoài khơi VN, khiến Mỹ không thể làm ngơ trước tình hình “bất ổn định” do TQ khiêu khích, xâm lấn gây ra. Một nhà nghiên cứu Mỹ về Châu Á đã đánh giá “một dàn khoan của Công ty Mobil Oil (Mỹ) ở biển Đông có giá trị ngang với cả một Hạm đội 7”. Thúc đẩy bình thường hoá quan hệ với Mỹ trước hết là việc bỏ cấm vận có ý nghĩa rất quan trọng đối với yêu cầu an ninh, ổn định và phát triển kinh tế của ta, giúp ta cải thiện với các đối tượng khác và tạo thêm điều kiện thuận lợi cho ta đối phó với các thách thức hiện nay. Triển khai mạnh mẽ quan hệ với Mỹ cũng như với các đối tượng khác không phải để tạo một tập hợp lực lượng chống TQ vì điều đó trái với phương châm đối ngoại “làm bạn với tất cả” của ta, cũng không phù hợp với các tính toán chiến lược của Mỹ cũng như của các nước khác. Việc ta xin giữ hoà khí với TQ vừa có quan hệ bình thường với Mỹ và thúc đẩy quan hệ với Nhật, phương Tây và ASEAN và các nước khác sẽ tạo ra cho ta thế mạnh trong quan hệ cân bằng với các đối tượng. Trong tình hình hiện nay việc hợp tác giải quyết tốt vấn đề POW/MIA là khâu thiết yếu để tháo gỡ trở ngại cho quan hệ Việt–Mỹ. Đồng thời đẩy mạnh công tác vận động trong nội bộ Mỹ (lobby) với khẩu hiệu có tính sách lược để tranh thủ dư luận Mỹ thúc đẩy Mỹ sớm bỏ cấm vận, thu hút các công ty Mỹ vào làm ăn ở VN vừa tạo áp lực vừa tạo điều kiện cho chính quyền Mỹ đi vào bình thường hoá với ta sớm nhất. Mặt khác ta cần quan tâm có chủ trương, chính sách và biện pháp thích đáng để vô hiệu hoá ý đồ của Mỹ và các nước phương Tây dùng vấn đề “dân chủ, nhân quyền” để gây sức ép với ta. Song song với các bước cải thiện quan hệ VN và Mỹ, cần kết hợp mở rộng đường lối “hoà hợp dân tộc” bằng những chính sách cụ thể đối với Việt kiều ở Mỹ và các nước khác nhằm chuyển họ thành những lực lượng mạnh mẽ hỗ trợ cho công cuộc hiện đại hoá nền kinh tế và KHKT[1] của nước nhà. Việc làm mày tất nhiên sẽ tác động trở lại đối với việc tăng cường quan hệ hợp tác của ta với Mỹ và các nước có người Việt sinh sống.
b) Với ASEAN:
ASEAN hiện được coi là tổ chức khu vực có sức sống mạnh nhất mà các nước lớn, trong đó có TQ, phải tính đến trong chính sách Châu Á–TBD của họ. Giữa ta và các nước ASEAN có nguyện vọng chung là hoà bình, ổn định và phát triển, đồng thời cùng phải lo đối phó với thách thức bên ngoài, từ TQ và Nhật Bản. Tăng cường hợp các khu vực vừa phù hợp với xu thế hiện nay vừa tạo thế cho ta trong quan hệ với các nước lớn ngoài khu vực, nhất là TQ. Để thúc đẩy quan hệ này, ngoài việc tăng cường quan hệ song phương bằng các biện pháp xây dựng lòng tin, cần sớm gạt những tồn tại trong quan hệ tay đôi giữa ta và một số nước ASEAN qua việc hợp tác giải quyết vấn đề vùng chống lấn với Inđônêxia, Malaysia, Thái Lan…, cần có các bước đi mạnh mẽ tham gia các cơ chế hợp tác khu vực vì an ninh và phát triển phù hợp với khả năng và lợi ích của ta; đặc biệt là cần tích cực tham gia quá trình trao đổi về cơ cấu an ninh khu vực và sớm tham gia ASEAN. Nói chung, ta cần tích cực chủ động tăng cường các điểm đồng giữa ta và các nước ASEAN, xử lý khéo léo những khác biệt.
c) Với các nước và các đối tượng khác, đặc biệt là với Nhật Bản, Nga, Cộng đồng Châu Âu… nbsp; Ta cần tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác về nhiều mặt nhằm tận dụng tối đa khả năng hợp tác kinh tế, KHKT, kinh nghiệm quản lý của các nước này cho các công cuộc phát triển đất nước và qua đó góp phần tạo thế cân bằng lực lượng có lợi ích cho ta ở khu vực, tranh thủ tập hợp dư luận rộng rãi hỗ trợ cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của ta, tạo nên một mạng lưới lợi ích kinh tế–chính trị che chắn thêm cho ta trước mưu đồ xâm lấn của TQ.
d) Với TQ: - Bình thường hoá với TQ là một yêu cầu chiến lược của ta. Do TQ thi hành chính sách 2 mặt nên đối sách của ta cũng gồm 2 mặt vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa chủ động thúc đẩy quan hệ trên cơ sở những thoả thuận đã đạt được, vừa kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đồng thời giữ vững phươn châm không để trở lại tình trạng đối đầu với TQ cũng như không đặt các nước trước sự lựa chọn hoặc VN hoặc TQ. Biện pháp tối ưu lúc này là chủ động tạo nên cục diện các nước lớn và ASEAN có lợi ích kinh tế, an ninh ngày càng lớn trong quan hệ với VN. Cục diện đó cộng với sự lớn mạnh càng nhanh càng tốt của bản thân chúng ta sẽ là sự răn đe có hiệu quả nhất đối với mọi hoạt động lấn chiếm của TQ. - Kiên quyết đấu tranh hạn chế ý đồ lấn chiếm của TQ ở biển Đông, đặc biệt ở vùng thềm lục địa của ta; áp dụng các biện pháp khôn khéo nhưng có hiệu quả ngăn chặn hoạt động của TQ mà không dẫn đến đối đầu về quân sự. - Xúc tiến việc xác định phạm vi của quần đảo Trường Sa để xem xét khái niệm “khai thác chung”, phá ý đồ TQ lợi dụng vấn đề này chia rẽ phân hoá giữa ta và ASEAN. - Chuẩn bị khả năng đưa ra toà án quốc tế hoặc trọng tài quốc tế vấn đề Trung Quốc vi phạm thềm lục địa của ta. - Đến một lúc nào đó ta nên tính đến khả năng mở cảng Cam Ranh thành một thương cảng cho các tàu quốc tế ra vào, kể cả tàu Mỹ, tạo sự có mặt của nhiều quốc gia ở khu vực biển Đông, ngăn ý đồ độc chiếm của một nước. Song tất nhiên ta phải có chính sách và luật pháp chặt chẽ để bảo đảm chủ quyền và an ninh quốc gia
Ngày 14 tháng 6 năm 1993. Trần Quang Cơ
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 9, 2015 7:51:50 GMT 9
1969: Chu Ân Lai và Khang Sinh bàn luận với phái đoàn Trung ương Cục miền NamBắc Kinh, ngày 12 tháng 4 năm 1969 Chu Ân Lai: Tôi đã rõ tình hình hiện nay. Tôi cũng nhìn thấy quyết tâm của các ông chiến đấu cho đến khi Hoa Kỳ và quân đội Sài Gòn bị đánh bại. Chúng tôi rất vui mừng về điều đó. Nixon đang đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng ông ta vẫn còn cứng đầu trong việc thúc đẩy chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Mao Chủ tịch đã từng nói với Hồ Chủ tịch và các nhà lãnh đạo Việt Nam: “Hiện vẫn còn hàng trăm ngàn lính Mỹ ở Việt Nam và họ sẽ không rút lui cho đến khi họ bị đánh bại“. Do đó, đồng chí Kháng Sinh và tôi muốn biết nhiều hơn về tình hình ở miền Nam Việt Nam, những khó khăn mà các ông đang đối mặt, và các biện pháp mà các ông đang áp dụng để chúng tôi có thể đáp ứng đầy đủ các khó khăn của các ông. Khang Sinh: Chúng tôi cũng có thể cung cấp kinh nghiệm của chúng tôi trong chiến đấu, sản xuất, và vận chuyển. Chu Ân Lai: Tôi phải nói thẳng với các ông rằng, các ông đã gửi nhiều người ra nước ngoài nghiên cứu các chuyên ngành khác nhau. Sau đó, sẽ khó khăn khi trình độ công nghệ và suy nghĩ khác nhau, gây ra các vấn đề phức tạp. Như đồng chí Hoàng Văn Thái đã nói, việc cung cấp đạn dược sẽ rất khó khăn nếu các ông sử dụng các loại vũ khí khác nhau. Chúng tôi nghĩ rằng, sau khi giành được chiến thắng, nếu được trang bị tư duy chính trị tốt, sinh viên có thể được đào tạo về kỹ thuật trong nửa năm. Trước đó, chúng tôi đã phải đối mặt cùng vấn đề như thế. Chúng tôi dựa vào các nước khác, đặc biệt là Liên Xô. Khi Liên Xô cắt viện trợ, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn. Kháng Sinh: Hiện nay, các ông có khoảng 6.000 sinh viên tại Trung Quốc. Nếu các sinh viên này ở Việt Nam, có thể được chia thành 10 đơn vị chiến đấu. Sẽ tốt hơn không? Chu Ân Lai: Các ông gửi họ ra nước ngoài trong hai hoặc ba năm. Khi họ trở về, cuộc chiến chưa kết thúc. Cho nên kiến thức mà họ có, sẽ không được sử dụng và sẽ bị quên dần. Chúng tôi có cùng khó khăn như thế. Sau Cách mạng Văn hóa, một số thành phần trí thức không còn sáng tạo nữa, họ không hấp thụ bất cứ điều gì mới, cả ý thức hệ lẫn công nghệ. Các ông đã thông báo với chúng tôi về những khó khăn hiện tại cũng như kinh nghiệm quý báu của các ông. Kinh nghiệm này đáng để chúng tôi học tập. Chúng tôi làm theo điều mà Mao Chủ tịch đã nói với Hồ Chủ tịch: tất cả các kế hoạch và chính sách cần được quyết định bởi các đồng chí ở miền Nam dựa trên thực tế ở đó. Các ông thường nhấn mạnh nguyên tắc độc lập, tự chủ. Chúng tôi đã được Mao Chủ tịch dạy các nguyên tắc này từ [thời] nội chiến [Trung Quốc]. Kháng Sinh: Các chính sách mà Đảng Lao Động và Trung ương Cục miền Nam đề xuất, dựa trên những điều kiện thực tế, chắc chắn đúng nhất. Lần cuối cùng, sau khi đồng chí Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) nói với chúng tôi về tình hình ở miền Nam Việt Nam, chúng tôi đề nghị các ông nên tiến hành các cuộc chiến quy mô lớn. Bây giờ, sau khi chúng tôi có thời gian để xem xét, chúng tôi nghĩ rằng đề nghị này không khả thi. Do đó, các ông nên thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc độc lập và tự chủ trong cuộc chiến tranh kéo dài. Chu Ân Lai: Hôm nay, tôi muốn hỏi các ông một câu hỏi. Tình hình sẽ diễn tiến như thế nào khi các ông vừa đánh vừa đàm? Nixon hiện đang đối mặt với những khó khăn nội bộ mà ông ta kế thừa từ Johnson. Và cũng có những khó khăn bên ngoài. Ông ta không thừa nhận bất kỳ lời hứa nào mà ông ta đã hứa trong chiến dịch tranh cử. Một số nhà tư bản Mỹ đã đến miền Nam Việt Nam chỉ để nhận ra rằng chẳng những không có được lợi, [mà] cả vốn cũng có thể bị mất. Tình hình sẽ khác nếu tất cả đều khai thác những khó khăn có thể nhìn thấy này. Tuy nhiên, một số [nước] đang giúp đỡ Nixon. Tôi không nói đế quốc Anh, hay đảng Dân chủ Mỹ, mà là những người xét lại của Liên Xô. Tôi không nói về vấn đề Việt Nam và [bây giờ] trở lại vấn đề Trung Đông. Nixon muốn giải quyết vấn đề Trung Đông. Một hội nghị bốn cường quốc do những người xét lại của Liên Xô đề xuất và Pháp hỗ trợ, hiện đang diễn ra tại Liên Hiệp Quốc. Kế hoạch 6 điểm do Mỹ đề xuất đã được Liên Xô hỗ trợ, trong khi các nước Ả Rập đang giữ quan điểm khác nhau. Cùng lúc, Liên Xô, thông qua vua Hussein của Jordan, đưa ra một đề nghị 6 điểm với các yêu cầu ít hơn các yêu cầu của Mỹ. Kế hoạch 6 điểm của Mỹ là một điều tồi tệ. Tuy nhiên, kế hoạch của Liên Xô / Jordan còn tệ hơn. Nó buộc các nước Ả rập công nhận sự tồn tại của các vùng chiếm đóng. Bằng cách này, các lực lượng Palestine sẽ bị cách ly và một số căn cứ của họ dọc bờ sông Jordan sẽ bị mất. Liên Xô cũng can thiệp vào công việc nội bộ của các nước Ả Rập. Syria là một ví dụ. Syria muốn có một số thay đổi trong chính phủ liên minh, nhưng Liên Xô cho biết sẽ cắt giảm viện trợ, do đó buộc Syria lắng nghe điều Liên Xô đã nói và để giữ nguyên hiện trạng. Tình trạng tương tự có thể được thấy ở các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất. Các nước khác như Algeria và Morocco được sử dụng để chống lại Israel. Tuy nhiên, sau khi [Chủ tịch Liên Xô Nikolai] Podgornyi đến thăm và hứa viện trợ cho họ, những nước này đã thay đổi lập trường, hỗ trợ các kế hoạch 6 điểm của Mỹ. Những người xét lại của Liên Xô đang làm điều đó để chia sẻ ảnh hưởng lợi ích từ dầu hỏa ở Trung Đông và Bắc Phi với Mỹ và Anh. Liên Xô thì gần Địa Trung Hải. Họ đã xin vào cảng Alexandria ở Ai Cập và bây giờ muốn được vào các cảng ở Algeria. Tại sao một nước xã hội chủ nghĩa lại có một chính sách đế quốc như thế? Rõ ràng là Liên Xô không còn là một nước xã hội chủ nghĩa có thể giúp phong trào giải phóng dân tộc. Thay vào đó, Liên Xô đang bán đứng quyền lợi của các nước trong phong trào. Khái niệm về “đế quốc xã hội chủ nghĩa” của Lenin đã xuất hiện ở Liên Xô trong chính sách xét lại của họ. Ở Tiệp Khắc, [Alexander] Dubček đã được [Gustav] Husák thay thế và [Josef] Smrkovsky đã bị cách chức khỏi Đoàn Chủ tịch. Điều này đã tạo ra một tiền lệ, cho phép một nước xã hội chủ nghĩa can thiệp vào công việc của một nước xã hội chủ nghĩa khác. Liên Xô dụ Mông Cổ vào Hiệp ước Warsaw. Trước đây, Tiệp Khắc và Romania đã phản đối. Nhưng bây giờ, Tiệp Khắc đã thất bại. Mông Cổ thực tế đã vào hiệp ước. Trong một thời gian ngắn, Bắc Triều Tiên cũng sẽ tham gia. Có hai mục tiêu trong chính sách của những người xét lại sử dụng trong các nước này. Một là để đe dọa Trung Quốc và hai là là để thỏa hiệp với các nước phương Tây. Kết quả là, đã có một số phản ứng từ NATO đối với những tiến triển của Hiệp ước Warsaw. Ngọc Thu trích dịch từ “77 cuộc đàm thoại giữa lãnh đạo Trung Quốc và nước ngoài trong chiến tranh Đông Dương năm 1964-1977”. ———————————– Bản tiếng Anh: ZHOU ENLAI’S AND KANG SHENG’S COMMENTS TO A COSVN DELEGATION Beijing, 12 April 1969 Zhou Enlai: I am clear about the situation now. I also see your determination to fight until the US and the Saigon troops are defeated. We are happy about that. Nixon is facing a lot of difficulties, but he is still stubborn in promoting neocolonialism in South Vietnam. Chairman Mao once said to President Ho and other Vietnamese leaders: “There are still hundreds of thousands of US troops in Vietnam and they will not withdraw until they are defeated.” Comrade Kang Sheng and I therefore wish to know more about the situation in South Vietnam, the difficulties you are facing, and the measures you are adopting so that we can respond fully to your problems. Kang Sheng: We can also offer our experience in fighting, producing, and transporting. Zhou Enlai: I have to tell you straight that you have sent many people abroad to study various subjects. Later, it will be difficult as the levels of technology and thinking will differ, thus causing complications. As comrade Hoang Van Thai has said, the supply of ammunition will be difficult if you use various types of weapons. We think that after victory is gained, if well-equipped with political thinking, students can be trained in technology in half a year. Earlier, we faced the same problem. We relied on other countries, especially the Soviet Union. When the Soviets cut their aid, we had a lot of difficulties. Kang Sheng: At present, you have about 6,000 students in China. If they are in Vietnam, they can be grouped into 10 combat units. Will it be better? Zhou Enlai: You send them abroad for two or three years. When they return, the war is not over. So the knowledge they have will not be used and will be forgotten gradually. We have the same problem. After the Cultural Revolution, a number of members of the intelligentsia are not creative anymore; they are not absorbing anything new, neither ideologically nor technologically. You have informed us about the present difficulties as well as your valuable experience. This experience is worthy for us to study. We follow what Chairman Mao told President Ho: all the plans and policies should be decided by the comrades in the South based on the reality there. You often stress the principles of self-reliance, independence. We have been taught these principles by chairman Mao since the [time of] the [Chinese] civil war. Kang Sheng: The policy that the Lao Dong and COSVN propose, based on the actual conditions, are certainly most correct. The last time, after comrade Nguyen Van Linh [Muoi Cuc] had told us about the situation in South Vietnam, we suggested that you should conduct large-scale battles. Now, after we have had time to consider, we think that this suggestion is not feasible. Therefore, you should strictly follow the principles of independence and self-reliance in the protracted war. Zhou Enlai: Today, I would like to ask you a question. How will the situation proceed when you are both fighting and negotiating? Nixon is now facing those internal difficulties he inherited from Johnson. And also external difficulties. He has not realized any promise he made during the election campaign. Some American capitalists have come to South Vietnam only to realize that not only can no benefit be gained, [but] capital can also be lost. The situation will be different if all are exploiting these visible difficulties. Yet, some are even lending Nixon a helping hand. I am not talking about the British imperialists, nor the American Democrats, but the Soviet revisionists. Let me not talk about the Vietnam question and [now] turn to the Middle East. Nixon wanted to solve the Middle East question. A four-power conference proposed by the Soviet revisionists and supported by France is now taking place at the United Nations. The 6-point plan proposed by the US has been supported by the Soviet Union while the Arab countries are holding a different view. At the same time, the Soviet Union—through King Hussein of Jordan—put forth a 6-point proposal with the demands being less than those [made] by the US. The US 6-point plan is a bad one. Yet, the Soviet/Jordanian plan is worse. It forces the Arab countries to recognize the existence of the occupied zones. In this way, the Palestinian forces will be isolated and some bases of theirs along the banks of the Jordan river will be lost. The Soviets also interfere in the internal affairs of the Arab countries. Syria is a case in point. Syria wants to have some changes in its coalition government, but the Soviets said it would cut its aid, thus forcing Syria to listen to what the Soviets had said and to retain the status-quo. The same situation can be seen in the United Arab Emirates. Other countries like Algeria and Morocco used to oppose Israel. However, after [Soviet President Nikolai] Podgornyi visited and promised aid to them, these countries changed their position, supporting the US 6-point plan. The Soviet revisionists are doing that in order to share influence and the benefit from oil in the Middle East and North Africa with the US and Britain. The Soviet Union is close to the Mediterranean. It has asked for access to the port of Alexandria in Egypt and now wants to have access to seaports in Algeria. Why can a socialist country have such an imperialist policy? It is clear that the Soviet Union is no longer a socialist country which would help the national liberation movement. Instead, the Soviets are selling out the interests of the countries in the movement. Lenin’s concept of “socialist imperialism” has emerged in the Soviet Union in its revisionist policy. In Czechoslovakia, [Alexander] Dubcek has been replaced by [Gustav] Husak and [Josef] Smrkovsky has been removed from the Presidium. This has created a precedent that allows a socialist country to intervene into another socialist country’s affairs. The Soviets are luring Mongolia into the Warsaw Pact. Before, Czechoslovakia and Romania were opposing them. But now, Czechoslovakia has failed. Mongolia has in effect entered the pact. In a short time, North Korea will also join. There are two objectives in the policy of the revisionists to use these countries. One is to threaten China and the other is to compromise with the Western countries. As a result, there has been some response from NATO to the moves by the Warsaw Pact. ——————————————- Note: Vietnamese Workers’ Party Central Committee Office for South Vietnam *********************************** 29-04-1968: Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Khang Sinh và Phạm Văn ĐồngCWIHP Mô tả: Thảo luận về phong trào cộng sản quốc tế và các nguyên nhân có thể có thể mang lại sụp đổ. Chu Ân Lai: Trong thời gian dài, Hoa Kỳ nửa bao vây Trung Quốc. Bây giờ Liên Xô cũng bao vây Trung Quốc. Sự bao vây đang tiến tới toàn diện, ngoại trừ [phần] Việt Nam. Phạm Văn Đồng: Tất cả chúng ta quyết tâm hơn để đánh bại đế quốc Mỹ trong lãnh thổ Việt Nam. Chu Ân Lai: Đó là lý do tại sao chúng tôi hỗ trợ các ông. Phạm Văn Đồng: Chiến thắng của chúng tôi sẽ có tác động tích cực ở châu Á. Chiến thắng của chúng tôi sẽ mang lại những kết quả không lường trước được. Chu Ân Lai: Các ông nên nghĩ theo cách đó. Phạm Văn Đồng: Các đồng chí Liên Xô đã lắng nghe chúng tôi với lòng nhiệt huyết. Họ muốn biết tình hình cũng như kinh nghiệm của chúng tôi. Lúc đó, đồng chí Nguyễn Đôn (2) thông báo cho đồng chí [Ngoại trưởng Liên Xô, Andrei] Gromyko về một số vấn đề quốc phòng. Các đồng chí Liên Xô hết lòng ủng hộ chúng tôi và họ cũng bày tỏ sự ủng hộ đối với thắng lợi hoàn toàn của chúng tôi. Tuy nhiên, họ đã nói rằng sẽ có hy sinh nhiều hơn kể từ khi những trận đánh quy mô lớn xảy ra. Chúng tôi trả lời rằng sẽ không thể tránh khỏi khó khăn. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ chuẩn bị nhiều hơn cho các trận chiến quy mô lớn lẫn khó khăn. Chắc chắn chúng tôi sẽ giành chiến thắng. Khang Sinh: Đại Cách mạng Văn hóa bắt nguồn từ ý tưởng đấu tranh giai cấp vẫn còn tồn tại trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Ý tưởng này vừa là lý thuyết lẫn thực tiễn. Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, ngay cả ở Liên bang Xô Viết – quê hương của Lenin – Đảng Bolshevik đã theo chủ nghĩa xét lại. Kinh nghiệm của chúng tôi hơn 20 năm qua trong việc xây dựng một chế độ độc tài vô sản, và đặc biệt là các sự cố gần đây ở Đông Âu, nơi chủ nghĩa tự do tư sản và chủ nghĩa tư bản được phục hồi (3) cũng đặt câu hỏi về cách thức tiến hành một cuộc cách mạng trong bối cảnh chế độ độc tài vô sản và trong điều kiện xã hội chủ nghĩa. Để giải quyết vấn đề này, Mao Chủ tịch khởi xướng Đại Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc. Mao Chủ tịch đưa ra một kế hoạch ba năm, bắt đầu từ tháng 6 năm 1966. Nhiệm vụ của năm đầu là huy động nhân dân, [của] năm thứ hai là giành chiến thắng quan trọng và [của] năm cuối cùng là kết luận về cuộc cách mạng. Về một cuộc cách mạng lớn như thế này, ba năm không phải là thời gian dài. Hơn nữa, theo Mao Chủ tịch, Đại Cách mạng không chỉ bao gồm một hoặc hai cuộc cách mạng nhỏ hơn. Bây giờ tôi nói về giai đoạn chuẩn bị từ tháng 12 năm 1965 đến tháng 6 năm 1966. [Giai đoạn này bao gồm] việc chuẩn bị sẵn sàng về quan điểm và suy nghĩ. Trong giai đoạn này, chúng tôi vạch trần Bành Chân, La Thụy Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn (4). Cũng trong giai đoạn này, chúng tôi phát hành hai tài liệu quan trọng: quyết định tháng 2 năm 1966 của đồng chí Lâm Bưu trao quyền cho đồng chí Giang Thanh triệu tập hội nghị Hoạt động Văn hóa của Lực lượng Vũ trang và tuyên bố ngày 16 tháng 5 về cuộc họp Bộ Chính trị mở rộng. Tài liệu sau (tức tuyên bố ngày 16 tháng 5) có ý nghĩa lịch sử to lớn, đặt nền tảng lý thuyết cho cuộc cách mạng bắt đầu. Hồ Chủ tịch có một bản sao của bản tuyên bố trước khi nó được công bố. Để tôi nói về tội phản động của Bành Chân, La Thụy Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn. Một lần, khi Bành Chân bị bắt, ông ta thú nhận với Tưởng Giới Thạch. Không những ông ta một kẻ phản bội, mà ông ta còn tiếp tục quan hệ với các đặc vụ của Tưởng. Cha vợ của ông ta là một kẻ đại phản bội. Lời thú tội của Bành Chân dẫn đến việc bắt giữ nhiều đảng viên ĐCS Trung Quốc. Ông ta đã lợi dụng tình hình bí mật để che giấu tội ác của mình. La Thụy Khanh là một đảng viên ĐCSTQ giả, như ông ta đã tự thú nhận sau này, rằng ông ta chưa bao giờ được nhận vào đảng. Ông ta cũng thú nhận rằng, ông ta ở Vũ Hán, học tại một trường quân sự, nhưng ông ta đã không tham gia cuộc khởi nghĩa Nam Xương. Năm 1929, ông ta ở Thượng Hải, tự xưng là đảng viên ĐCSTQ. Hồ sơ quá khứ của ông ta được tiết lộ trong cuộc Cách mạng Văn hóa. Chúng tôi cũng biết rằng, khi ông ta đang làm việc tại Bộ Nội vụ, ông ta đã sử dụng công tác phản gián để ăn cắp tài liệu bí mật quốc gia và gửi cho kẻ thù. Tôi chỉ đưa ra hai trường hợp: ông ta báo cáo với kẻ thù về chuyến tham quan của Mao Chủ tịch tới Liên Xô năm 1949-1950 và một trong những chuyến viếng thăm của đồng chí Phạm Văn Đồng đến Trung Quốc. Lục Định Nhất tham gia cuộc cách mạng với thái độ tiêu cực và các động cơ mánh khóe gian lận. Năm 1930, ông ta trở lại Trung Quốc, khôi phục các mối quan hệ với bạn bè cũ của mình trong Quốc Dân đảng. Trong thời kỳ hợp tác giữa ĐCSTQ và Quốc Dân đảng chống lại Nhật năm 1937, ông ta làm việc tại văn phòng ĐCS Trung Quốc tại Nam Ninh và bảo vệ quyền lợi của gia đình ông ta, có nguồn gốc phong kiến và tư bản. Hồng vệ binh khám xét nhà của ông ta và tìm thấy tài liệu về những hành động này. Vì vậy, ông ta không thể không thú nhận rằng, ông ta là chỉ điểm của Quốc Dân đảng từ năm 1930. Dương Thượng Côn đã gửi nhiều tài liệu cho những người xét lại ở Liên Xô. Trong giai đoạn chuẩn bị, ngoài việc vạch trần những người này, chúng tôi cũng có những người về mặt tâm lý sẵn sàng và đặt cơ sở lý thuyết cho Đại Cách mạng Văn hóa bắt đầu. Chu Ân Lai: Trong Hội nghị Bộ Chính trị tháng 5 năm 1966, đồng chí Lâm Bưu đã đọc một báo cáo xuất sắc, phân tích các đặc điểm của thời kỳ Mao Trạch Đông và tập trung vào quan điểm sau đây: tất cả các cuộc đấu tranh nhằm mục đích cướp chính quyền và củng cố quyền lực. Báo cáo này không chỉ vạch trần bốn người kia mà còn ngụ ý chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ, chưa từng công bố tư tưởng Mao Trạch Đông. Tôi đã gửi báo cáo của đồng chí Lâm Bưu cho các đồng chí Việt Nam. Khang Sinh: Ngày 16 tháng 5 năm 1966, Mao Chủ tịch nhấn mạnh: những kẻ xét lại, những kẻ phản động, và những kẻ phản bội đang lẫn trốn trong chúng ta và đang có được lòng tin của bạn bè chúng ta. Lúc đó, nhiều cán bộ không hiểu điều mà Mao Chủ tịch nói thực sự có nghĩa là gì, nghĩ rằng sự ám chỉ đó là La [Thụy Khanh] và Bành [Chân]. Nhưng thực ra, Bành Chân đã bị vạch trần. Không ai dám nghĩ những kẻ phản bội là những người trong chúng ta. Chu Ân Lai: Tuy nhiên, đồng chí Mao đã nghĩ điều này. Khang Sinh: Trong báo cáo của mình, đồng chí Lâm Bưu có một câu nói nổi tiếng: “Cả nước sẽ đứng lên để đối đầu với bất kỳ ai chống lại Mao Chủ tịch và chính sách của chế độ độc tài vô sản“. Trong khoảng thời gian từ tháng 6 năm 1966 và tháng 1 năm 1967, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình đã bị vạch trần như là [thành phần] chủ nghĩa tư bản và phản động. Ngày 1 tháng 6 năm 1966, Chủ tịch Mao quyết định xuất bản báo tường của Đại học Bắc Kinh trên cả nước, đốt lên ngọn đuốc cho Đại Cách mạng Văn hóa. Sau đó ông gửi một lá thư hỗ trợ Hồng Vệ binh, do đó giúp phong trào Hồng vệ binh phát triển trên cả nước. Sau ngày 13 tháng 8, Chủ tịch Mao tiếp đón đại diện của Hồng Vệ binh 8 lần. Sau đó, Hội nghị lần thứ 11 đã chỉ trích chính sách phản động của Lưu [Thiếu Kỳ] và Đặng [Tiểu Bình] và thông qua bản tuyên ngôn 16 điểm về Đại Cách mạng Văn hóa và phát hành một tuyên bố của Hội nghị này. Mao Chủ tịch đã viết một bài báo có tựa đề “Nã pháo vào bộ tư lệnh”. Tháng 11 năm 1966, một hội nghị khác được Uỷ ban Trung ương triệu tập tiếp tục chỉ trích Lưu [Thiếu Kỳ] và Đặng [Tiểu Bình] và mở rộng cuộc vận động chống Khrushchev tại Trung Quốc. Lúc đó, chính sách cách mạng của Mao Chủ tịch đã thành công và những gương mặt phản cách mạng ẩn giấu một thời gian dài của Lưu [Thiếu Kỳ] và Đặng [Tiểu Bình] đã bị vạch trần. Hồng vệ binh xem xét các tài liệu của Pháp và Quốc Dân đảng và phát hiện ra rằng, năm 1925, Lưu [Thiếu Kỳ] đã đầu hàng kẻ thù. Năm 1927, Lưu [Thiếu Kỳ] đã ra lệnh cho các công nhân Vũ Hán buông vũ khí đầu hàng chính phủ Quốc Dân đảng. Theo các tài liệu Nhật, Lưu [Thiếu Kỳ] đầu hàng Nhật năm 1929 ở Mãn Châu và như tài liệu ngân hàng cho thấy, từ năm 1936, Lưu đã nhận tiền của Quốc Dân đảng. Còn có một điểm khác mà chúng tôi muốn đưa ra: vợ của Lưu Thiếu Kỳ – Vương Quang Mỹ – là một đặc vụ của tình báo Mỹ. Tôi còn nhớ vụ chỉ trích La Thụy Khanh, nói rằng kẻ thù, vì chúng ta thiếu cảnh giác, có thể gửi xe tăng vào giường của chúng ta – xe tăng là tiếng lóng chỉ người vợ. Lý do tôi nói thế là vì, cuộc hôn nhân của La [Thụy Khanh] với đặc vụ Nhật Bản, lúc cô ta bị phơi bày đã phải bỏ chạy. Lúc đó xe tăng của La còn nhỏ. Bây giờ trên giường của Lưu Thiếu Kỳ có một xe tăng Trung Quốc lớn và tinh vi do Mỹ gửi tới. Về phần mình, rõ ràng Đặng Tiểu Bình là một người đào ngũ trong cuộc nội chiến. Ông ta cũng phản đối những tư tưởng của Mao Trạch Đông một cách nhất quán. Ông ta đã cố cản trở Mao Chủ tịch và gửi các thành viên của gia đình ông ta cũng như các thành phần xấu tới Đảng. Chúng tôi đã phát hiện ra các Khrushchev của Trung Quốc đã ẩn nấp trong chúng ta. Trường Đảng và các chi nhánh ở cấp huyện và tỉnh đã có trong 18 năm qua, đại diện cho một pháo đài ngoan cố chống lại tư tưởng Mao Trạch Đông. Lưu Thiếu Kỳ kiểm soát trường Đảng từ năm 1948 cho đến Cách mạng Văn hóa, sử dụng trường học để trao đổi tài liệu tình báo với Liên Xô. Chu Ân Lai: Trong thời gian từ tháng 9 năm 1967 đến nay, Mao Chủ tịch nói rằng một chiến thắng toàn diện đã đạt được. Trong thời kỳ này, chúng tôi đã đấu tranh với ai? Những kẻ phản động còn lại trong hàng ngũ của chúng tôi. Nhưng nói chung, chính sách cách mạng của Mao Chủ tịch đã giành được thắng lợi to lớn và các chính sách phản động đã bị sụp đổ. Ủy ban cách mạng đã được thành lập ở tất cả mọi nơi, ngoại trừ 8 tỉnh. Thực tế đã chứng minh sự thành công trong chính sách của Mao Chủ tịch. Những kẻ phản bội, những kẻ đào ngũ trong đảng, đã bị phơi bày, trình độ giáo dục của người dân và cán bộ đã được nâng lên, và các đảng viên đã được tinh lọc và hiện nay tương đối tinh khiết. Tại Đại hội Đảng lần thứ 7, Lưu Thiếu Kỳ đọc một báo cáo về tình trạng của đảng, trong đó có một phần dành cho tư tưởng của Mao Trạch Đông. Thực ra, có người đã viết phần này cho ông ta và ông ta đã sử dụng phần này để đánh lừa các đảng viên ĐCSTQ và Trung ương để chiếm được lòng tin của đảng. Sau Đại hội, ông Lưu không bao giờ đề cập đến tư tưởng của Mao Trạch Đông nữa, và ông ta đã không sử dụng tư tưởng Mao Trạch Đông để chỉ trích cuốn sách “Về sự tiến bộ của đảng viên“. Ngược lại, ông sử dụng cuốn sách đó để chống lại tư tưởng Mao Trạch Đông. Đồng chí Lâm Bưu đã viết nhiều công trình ủng hộ tư tưởng Mao Trạch Đông. Nhưng là một người khiêm tốn, ông ấy không công bố công khai. Đồng chí Lâm Bưu đã trải qua các thử nghiệm về cuộc đấu tranh kéo dài. 40 năm đã trôi qua kể từ cuộc họp đầu tiên của ông (Lâm Bưu) với Chủ tịch Mao. Ông ấy đã chứng tỏ mình là một đồng chí trong tay của Mao Chủ tịch. Khang Sinh: Sau khi giải phóng dân tộc, Lưu Thiếu Kỳ đã đi đến Thiên Tân và đọc một bài phát biểu, nói rằng nền tảng công nghệ Trung Quốc thì yếu kém, thậm chí không bằng thời Sa hoàng. Thậm chí ông ta còn nói rằng, khai thác tư bản chẳng những không sai, mà còn có ích. Về mặt lý thuyết, Lưu là hậu duệ của Bernstein, Kautsky, Bukharin và Khrushchev. Ở Trung Quốc, chúng tôi có những người giống như vậy, cụ thể là Cù Thu Bạch, Trần Độc Tú, Lý Lập Tam, Vương Minh, Trương Quốc Đào, và Lưu Thiếu Kỳ. Lý thuyết của họ rất có hại cho phong trào cộng sản quốc tế. —————————————— Ghi chú: 1. Phái đoàn của đảng và nhà nước Việt Nam đã đến Bắc Kinh sau chuyến thăm Liên Xô. Trung tướng Nguyễn Đôn 2. Nguyễn (Văn) Đôn (1918- ) là người miền Nam (sinh tại Quảng Ngãi). Ông là chỉ huy và cán bộ chính trị Liên khu V (phía Nam miền Trung Việt Nam) cho đến năm 1967, và sau đó đóng vai trò quan trọng ở Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tham mưu trưởng. Dường như bị mất ảnh hưởng vào năm 1976. 3. Có thể ám chỉ đến các phong trào cải cách ở Tiệp Khắc (Mùa Xuân Praha – “Prague Spring”) và có thể Ba Lan, nơi chính quyền gần đây đã bắt đầu một cuộc đàn áp những người bất đồng chính kiến. 4. Trước khi bị thanh trừng cuối năm 1965, Dương Thượng Côn là ủy viên dự khuyết Ban Bí thư Trung ương ĐCSTQ và là Giám đốc Phòng Hành chính Trung ương của Trung ương ĐCSTQ. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034CCE3-96B6-175C-9E12DD9BF25BB21B&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29************************************************ 17-04-1968: Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn ĐồngCWIHP Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng 17-04-1968 Mô tả: Chu Ân Lai nhấn mạnh đến chiến thắng vĩ đại, nói với Phạm Văn Đồng rằng ông ta phải sẵn sàng chiến đấu trong ba năm tới. Chu Ân Lai: Các ông phải chuẩn bị chiến đấu trong hai hay ba năm tới, cụ thể là những năm 1968, 1969 và 1970. Đồng chí Mao nói rằng vấn đề không phải là thành công hay thất bại, cũng không phải là thành công lớn hay nhỏ, mà vấn đề là làm cách nào để các ông giành được chiến thắng vĩ đại. Đây là thời điểm chín mùi cho các ông giành thắng lợi hoàn toàn. Nhiệm vụ đó là nguyên nhân về sự cần thiết của các trận đánh quy mô lớn. www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034CCC4-96B6-175C-9E7935247F02CC38&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29—— CWIHP Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng 19-04-1968 Mô tả: Chu Ân Lai phê phán gay gắt Việt Nam về việc dường như là quá hòa giải trong các cuộc đàm phán và để mất cơ hội có thể có được lập trường mạnh mẽ hơn chống lại Hoa Kỳ. Chu Ân Lai: Theo chúng tôi, hiện nay các ông chấp nhận đề nghị của Johnson về việc Mỹ ngưng ném bom có giới hạn ở miền Bắc, không tốt về thời gian và không thuận lợi. Chúng tôi khẳng định cách nhìn này. Về Johnson, hiện tại là câu hỏi làm thế nào để tồn tại trong năm bầu cử, làm thế nào để tránh trách nhiệm về cuộc chiến thất bại. Ông ta cũng muốn được xem như là một người của “hòa bình” cũng như muốn vượt qua những khó khăn hiện tại, bên trong lẫn bên ngoài. Đây là những mục tiêu của ông ta và những tính toán của ông ta không [thích hợp] cho bất kỳ kết quả cụ thể nào cho cuộc họp. Tuyên bố của đồng chí Nguyễn Duy Trinh ngày 28 tháng 1 năm ngoái (1967), có một số ảnh hưởng trên trường quốc tế. Không những ở các nước châu Phi và châu Á, mà còn ở một số nước phương Tây và Bắc Âu. Các nước này hiểu rằng, ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc là điều kiện tiên quyết cho đàm phán. Như vậy, tuyên bố được hỗ trợ không những của người dân trên thế giới, mà còn của một số chính phủ phương Tây, gồm cả chính phủ De Gaulle. Vì vậy, khi Johnson đã phải đối mặt với thời điểm khó khăn nhất – tôi đã không đề cập đến phong trào bùng nổ của người Mỹ da đen – các ông đã chấp nhận đề nghị của ông ta. Hành động này làm nhân dân thế giới thất vọng. Các nhóm ủng hộ Mỹ rất vui mừng. Các nước châu Phi và châu Á, vốn hỗ trợ yêu cầu của các ông về việc chấm dứt ném bom hoàn toàn, thì ngạc nhiên. Một số nước phương Tây cũng ngạc nhiên, trong đó có Pháp. Các ông đã chấp nhận ngừng ném bom một phần, và sau đó chấp nhận nơi đàm phán không phải là Phnom Penh. Do đó, các ông đã thỏa hiệp hai lần. Các ông không chủ động, mà ngược lại, các ông đang đánh mất thế chủ động. Các ông đã nhanh chóng chấp nhận Warsaw là nơi hội họp, và làm như vậy, các ông đã không tạo thêm khó khăn cho Johnson, mà thực ra, các ông đã giúp ông ta. Cho nên bây giờ Johnson đòi hỏi thêm: ông ta đề nghị một danh sách 15 địa điểm họp. Rusk cũng đã đề cập đến danh sách này, mà không đề cập đến bất kỳ nơi nào ở Đông Âu hay Phnom Penh. Tôi không muốn nói rằng Phnom Penh nhất thiết là nơi thích hợp, nhưng một khi các ông đề cập đến Phnom Penh, các ông phải khăng khăng đòi nó. Bởi vì các ông đã thỏa hiệp từ lập trường [ngưng ném bom] hoàn toàn cho đến một phần, bây giờ các ông phải giữ Phnom Penh [là nơi họp mặt]. Đánh giá của chúng tôi rằng, hai thỏa hiệp này đã giảm sự cứng rắn của tuyên bố ngày 28 tháng 1. Từ kinh nghiệm của chúng tôi, chúng tôi thấy rằng các cuộc đàm phán phải bắt đầu khi chúng ta có lập trường mạnh mẽ hơn, không phải một lập trường yếu. Johnson không xem xét các cuộc đàm phán, các cuộc họp, hoặc mối liên hệ sẽ mang lại kết quả nào. Đối với ông ta, hiện nay, mở ra các mối liên hệ là đại diện cho vốn quý. Hoặc các ông có kế hoạch cản trở cuộc họp khi nó được triệu tập hay không? Nếu vậy, tại sao các ông chấp nhận ngừng ném bom một phần? Nếu họ không có kế hoạch cản trở cuộc họp thì sao? Chúng tôi không hiểu toàn bộ kế hoạch của các ông. Chúng tôi cũng không tin các kế hoạch khác đã được báo chí phương Tây đề cập. Đáng lý, có một kế hoạch khả thi. Phạm Văn Đồng: Kế hoạch gì? Chu Ân Lai: Như tôi đã nói, các ông phải yêu cầu chấm dứt ném bom hoàn toàn thì mới bắt đầu liên lạc. Nhưng bây giờ, liên lạc sẽ bắt đầu khi chấm dứt [ném bom] một phần. Trước đây, Hoa Kỳ nói rằng họ sẽ đến bất cứ nơi đâu để gặp các ông. Nhưng khi các ông đề nghị Phnom Penh, thì họ đã không chấp nhận. Sau đó, các ông đề nghị Warsaw. Tôi đoán rằng Hoa Kỳ sẽ chọn Warsaw, nhưng họ dùng kế hoãn binh, đề nghị 15 địa điểm khác, đợi cho các ông đề nghị một nơi khác thì cuối cùng chấp nhận Warsaw. Khi gặp các ông ở Warsaw, họ có thể đề nghị để đổi lấy việc Mỹ ngưng ném bom hoàn toàn, các ông phải ngưng giúp đỡ miền Nam, điều này dĩ nhiên các ông sẽ không chấp nhận. Sau đó có thể họ đề cập đến việc hỗ trợ gián tiếp từ miền Bắc. Một ngày nọ, đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói [miền Bắc] sẽ gửi vũ khí và ngưng gửi người vào Nam. Phạm Văn Đồng: Không, tôi chưa bao giờ nói thế, chưa bao giờ, chưa bao giờ. (Hai bên tranh luận về điểm này và cuối cùng là Chu Ân Lai đồng ý rằng sự hiểu lầm là do dịch sai). Phạm Văn Đồng: Tôi muốn nói thêm một điểm: đó là chúng tôi gửi người dân và quân đội vào miền Nam, cho thấy toàn bộ đất nước chúng tôi sẽ chống lại Hoa Kỳ. Ý chí này của chúng tôi giống như sắt, đá, không thể lay chuyển được. Chúng tôi đã phải đối mặt với một số thời điểm vô cùng khó khăn và các ông cũng đã quan ngại cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi quyết tâm tiến lên phía trước, không bao giờ cho phép rút lui. Toàn bộ đất nước chúng tôi đang chiến đấu chống Mỹ đến thắng lợi cuối cùng. Toàn bộ 31 triệu người Việt Nam đang đấu tranh để giành chiến thắng cuối cùng. Bởi vì các ông nghe nhầm, chúng tôi phải nói với các ông một lần nữa. Chu Ân Lai: Đối với miền Bắc, Mỹ ném bom và phong toả là hành vi xâm lược. Có lẽ vì thông dịch tệ, có một điều tôi vẫn chưa rõ: Hoa Kỳ yêu cầu chấm dứt hỗ trợ gián tiếp [miền Nam] và các ông chấp nhận ngừng ném bom một phần [miền Bắc]. Đó có phải là cách thừa nhận rằng các ông đang hỗ trợ miền Nam một cách gián tiếp? Khang Sinh: Điều này đã được lặp đi lặp lại trong các tuyên bố ngày 1 tháng 1, ngày 8 và ngày 12 tháng 12. Phạm Văn Đồng: Tôi không biết ông muốn nói gì khi nhắc tới sự giúp đỡ gián tiếp miền Nam? (Hai bên lại tranh luận về điểm này và phía Trung Quốc đưa ra cụm từ giảm leo thang). Phạm Văn Đồng: Có phải ông muốn nói tới việc giảm leo thang trong việc hỗ trợ miền Nam? Chu Ân Lai: Đúng vậy. Phạm Văn Đồng: Tôi muốn nói cho các ông biết chiến lược lớn của chúng tôi áp dụng trong cuộc chiến chống Mỹ. Chúng tôi đã nói với các ông về điều đó từ cuối năm 1966. Chiến lược này được thể hiện trong khẩu hiệu sau đây: bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam … Chúng tôi chia nó thành hai khía cạnh, hoặc hai bước, hai giai đoạn, nhằm từng bước đánh bại Mỹ. Chúng tôi vẫn theo chiến lược này …. Bây giờ, tôi trở lại câu hỏi của các ông, về việc liệu chúng tôi có đang giảm leo thang. Nếu giảm leo thang được hiểu là bớt chiến đấu, câu trả lời tuyệt đối là không. Nếu giảm leo thang được hiểu là thỏa hiệp, câu trả lời là không, chúng tôi không suy nghĩ và hành động theo cách đó. Ngược lại, tất cả chúng tôi tấn công nhiều hơn, sử dụng các chiến thuật ngoại giao, dồn họ vào góc tường, vận động dư luận thế giới chống lại kẻ thù. Bây giờ là lúc chúng tôi leo thang và thắng kẻ thù, không phải lúc giảm leo thang. Chu Ân Lai: Trong phạm vi miền Nam, từ chiến đấu quy mô nhỏ hiện nay, các ông tiến hành chiến đấu quy mô lớn, có nghĩa là các ông leo thang. Nhưng đối với miền Bắc, từ yêu cầu chấm dứt ném bom hoàn toàn, đến chấp nhận việc chấm dứt một phần, các ông có thể xem đó là sự leo thang như thế nào? (Phạm Văn Đồng mỉm cười.) Chu Ân Lai: Ngày nọ, các ông chấp nhận đánh giá của chúng tôi rằng Hoa Kỳ sẽ tập trung lực lượng ném bom khu vực giữa vĩ tuyến 17 và 20, do đó gây khó khăn cho chúng ta. Hơn nữa họ có thể tiếp tục ném bom bất kỳ lúc nào họ muốn, ngay cả khi họ đã liên lạc với các ông. Bất cứ khi nào các ông không trả lời [các yêu cầu của họ], họ sẽ tiếp tục ném bom. Tuy nhiên, ý kiến trên thế giới đã hỗ trợ yêu cầu của các ông về việc chấm dứt ném bom hoàn toàn. Tóm lại, chúng tôi vẫn cho rằng tuyên bố của các ông đã giúp Johnson. Chúng tôi đang nói chuyện với các ông về vấn đề này một cách thẳng thắn. … Các đồng chí Việt Nam nói rằng, chính sách của các ông là dồn lực lượng Hoa Kỳ vào một góc. Nếu các ông muốn làm như vậy, các ông nên yêu cầu chấm dứt ném bom hoàn toàn khi họ đề nghị ngừng ném bom một phần …. Các ông chấp nhận ngừng ném bom một phần và sau đó chấp nhận họp, có nghĩa là một sự thỏa hiệp so với lập trường trước đó. Ý kiến của công luận thế giới cũng nhận ra điều đó. Hay các ông vẫn đòi hoặc là Warsaw hay Phnom Penh sẽ là nơi họp và sau đó trở nên bế tắc nếu họ không đáp ứng? Vậy mục đích của các ông trong việc chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ là gì? Đối với Mỹ, họ tính toán rằng họ sẽ cố gắng kéo dài quá trình đàm phán một khi bắt đầu. Chúng tôi đưa ra giả thuyết tình hình như sau: các ông sẽ đòi chấm dứt ném bom hoàn toàn, giữ vừng lập trường 4 hoặc 5 điểm, sau đó Harriman sẽ không phản đối hoàn toàn, kéo dài thời gian và đưa thêm một số điều kiện. Khi các ông từ chối, quá trình sẽ được kéo dài. Khi các ông gây cản trở cuộc họp, họ sẽ không [gây trở ngại]. Họ kéo dài, do đó đạt được mục tiêu giải quyết những khó khăn của họ trong cuộc bầu cử năm nay. Vì vậy, các ông giúp họ rất nhiều. Tình hình sắp tới sẽ chứng minh sự phán đoán này. Chúng tôi tin sự phán đoán của chúng tôi, đó không phải sự phán đoán của cá nhân tôi, mà là sự phán đoán của Trung ương [Đảng] của chúng tôi. Các ông nói rằng các ông không có bất kỳ ảo tưởng nào. Đối với dư luận thế giới, các ông đã thỏa hiệp. Về đấu tranh ngoại giao của các ông, các ông có lập trường thụ động. Các ông có thể nghi ngờ đánh giá của chúng tôi, nhưng các ông sẽ thấy rõ ràng khi các cuộc đàm phán bắt đầu. … Tuy nhiên, yếu tố quan trọng là chính cuộc chiến tranh. Chiến thắng được quyết định bởi chiến tranh. Nhưng trong phạm vi đàm phán, chúng tôi vẫn giữ quan điểm của chúng tôi, đó là các ông mất thế chủ động và rơi vào thế thụ động. Các ông đã khẳng định trong tuyên bố ngày 28 tháng 1, chúng ta sẽ dồn họ vào một góc, Johnson sẽ đối mặt với nhiều khó khăn hơn, cả trong lẫn ngoài. Johnson đã ở trong góc tường, thậm chí không có tuyên bố ngày 3 tháng 4. Bây giờ các ông nên phân tích hậu quả của các mối liên lạc. Tôi nghĩ rằng, chắc chắn họ sẽ chấp nhận Warsaw hay Phnom Penh, nhưng với một số điều kiện. Họ cố ý đề cập đến 15 địa điểm khác. Nhưng đó chỉ là chiến thuật của họ trước khi nhận [một trong những đề nghị về địa điểm họp của các ông]. Tóm lại, tuyên bố của các ông là một thỏa hiệp. Nếu các ông không thể nhìn thấy hậu quả bây giờ, các ông sẽ nhìn thấy sau này. Phạm Văn Đồng: Ông đã nêu ý kiến một cách xây dựng, và chúng tôi nên chú ý đến ý kiến đó nhiều hơn. Bởi vì, cuối cùng tất cả chúng tôi là những người chiến đấu chống Mỹ và đánh bại họ. Chúng tôi phải chịu trách nhiệm cho hai hoạt động quân sự và ngoại giao. Cảm ơn ý kiến của các ông rất nhiều. Chúng tôi sẽ xem xét nó để thực hiện tốt hơn cho chiến thắng chống Mỹ của chúng tôi. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034CCD3-96B6-175C-9ADB6C82F64A30AD&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 9, 2015 8:02:59 GMT 9
Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn ĐồngCWIHP 13-04-1968 Mô tả: Chu Ân Lai thảo luận với Phạm Văn Đồng về việc Việt Nam nên hành động như thế nào khi đối mặt với bất ổn của Mỹ ở trong nước Mỹ và các cuộc đàm phán ở Việt Nam. Chu Ân Lai: … Theo lập trường trước đó của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt), nếu Mỹ không ngừng ném bom hoàn toàn và vô điều kiện, không thể có bất kỳ cuộc nói chuyện nào (1). Nhưng tuyên bố ngày 3 tháng 4 của Chính phủ Bắc Việt là một bất ngờ không chỉ cho người dân thế giới, mà còn bất ngờ ngay cả với các đối thủ của Johnson. Tuy nhiên, trong tuyên bố của các ông, các ông chỉ sử dụng từ “liên hệ”. Các ông đã có các mối liên hệ bí mật trước khi hạn chế ném bom. Bây giờ với tuyên bố này, các ông đã công khai các mối liên hệ kia. Và, đối với nhân dân thế giới, đó là sự thỏa hiệp của các ông phần nào, và giúp Mỹ giải quyết các khó khăn của họ. Bộ Chính Trị (Khóa III) quyết định mở chiến dịch tết Mậu Thân. Ảnh minh họa từ Việt Báo Sau các cuộc tấn công Tết Mậu Thân, Hoa Kỳ đã cố gắng che giấu những khó khăn của họ. Sau khi [tướng Earle] Wheeler đến thăm Sài Gòn, ông ta trở về Washington và nói chuyện với Tổng thống Johnson và [tướng William] Westmoreland. Họ đã phải thừa nhận những khó khăn… Westmoreland lúc đó xin thêm 200.000 quân nhưng Quốc hội Hoa Kỳ và chính phủ từ chối … Các cuộc bầu cử sơ sơ bộ ở một số tiểu bang cho thấy, số phiếu dành cho Johnson đã giảm chỉ còn 38%. Điều đó đã chứng minh rằng chính sách xâm lược của Johnson là thất bại. Khắp thế giới, mọi người yêu cầu Johnson ngừng đánh bom. Tất cả chúng ta đều biết điều này, ngay cả De Gaulle cũng đã thừa nhận. Và cuộc khủng hoảng đồng đô la cũng đã xảy ra vào thời điểm đó. Chỉ có một điều chúng ta đã không đoán trước, đó là vụ giết [lãnh đạo dân quyền Martin] Luther King ngày 4 tháng 4, một ngày sau khi các ông đưa ra tuyên bố. Nếu tuyên bố của các ông đưa ra một hoặc hai ngày sau, vụ giết người có thể đã bị dừng lại. Cũng giống như Gandhi của Ấn Độ, Luther King chủ trương chính sách bất bạo động. Ngay cả một người như ông ta còn bị giết chết, nói gì đến những người da đen khác. Điều này giải thích sự phát triển của phong trào người Mỹ da đen, lan rộng đến hơn 100 thành phố. Do đó, Johnson đã phải hủy bỏ chuyến đi đến Honolulu cũng như hoãn việc triển khai thêm 10.000 quân ở miền Nam [Việt Nam] … Trong tình hình quốc tế này, cuộc khủng hoảng tiền tệ trở nên tồi tệ hơn, dẫn đến bế tắt. Hồi cuối tháng 3 năm 1968, Mỹ tổ chức cuộc họp ANZUS ở Wellington, [Tân Tây Lan]. Johnson đã dự định đến đó, nhưng ông ta đã không thể đến. Rusk đã đi thế [ông ta]. Ở đó, Mỹ yêu cầu các đồng minh gửi thêm quân đến Việt Nam nhưng đã không giành được sự hỗ trợ của họ. Thậm chí Mỹ còn yêu cầu Tưởng Giới Thạch rút 7 sư đoàn của ông ta từ Jinmen-Mazu [Quemoy-Matsu], và gửi ít nhất 2 sư đoàn đến Việt Nam. Tưởng không chấp nhận và yêu cầu đại sứ của ông ta ở Washington trì hoãn việc thể hiện lập trường. Các đề nghị tăng thêm quân, tăng thuế, và tăng chi tiêu cho cuộc chiến Việt Nam đã không được Quốc hội Hoa Kỳ chấp nhận. Trong hoàn cảnh này, Johnson buộc phải đưa ra tuyên bố ngày 31 tháng 3. Đó là một âm mưu độc ác và dối trá. Thực ra, ông ta không muốn từ bỏ cuộc chiến. Tuyên bố chỉ là một phương tiện để họ vượt qua thời điểm khó khăn này. Và Johnson thậm chí còn tuyên bố rằng ông ta không nên tái tranh cử. Đó cũng là cách thức quen thuộc được sử dụng trong lịch sử chiến dịch tranh cử của tổng thống Mỹ … Nhưng hóa ra tuyên bố ngày 3 tháng 4 của các ông giúp giải quyết khó khăn của ông ta. Tình hình đã được thay đổi. Tác động của nó có thể là tạm thời, nhưng bất lợi. Khang Sinh: Số phiếu dự đoán bầu cho Johnson tăng từ 38% lên 57%. Chu Ân Lai: (tiếp tục) Vì vậy, nhiều người không hiểu tại sao các đồng chí Việt Nam đã quá vội vã trong việc đưa ra tuyên bố này … Đó là ý kiến của người dân trên thế giới. Trong mắt của người dân thế giới, các ông đã thỏa hiệp hai lần. Trong tuyên bố của mình, Johnson sử dụng từ “cuộc họp” nhẹ hơn từ “liên hệ”. Ông ta cũng nói rằng, Hoa Kỳ có thể đi đến bất kỳ nơi nào để họp. Ông ta đã chỉ định [Averell] Harriman làm việc này… Sau đó, các ông đề nghị ở Phnom Penh. Đó là một chiến thuật tốt vì các ông có thể giành được cảm tình của Sihanouk và đặt Hoa Kỳ vào tình thế khó khăn. Khi Hoa Kỳ từ chối, một lần nữa các ông thỏa hiệp mà không tranh luận. Dĩ nhiên, rất đúng khi các ông từ chối năm địa điểm ở châu Á mà Hoa Kỳ đề nghị. Sau đó, các ông đề nghị Warsaw. Chúng tôi hiểu rằng đề nghị của các ông dựa trên thực tế các cuộc đàm phán Trung – Mỹ cũng đã được tổ chức ở đó. Các ông đã bổ nhiệm đồng chí Hà Văn Lâu (2) tham dự cuộc họp nhưng một lần nữa Hoa Kỳ lại bác bỏ đề nghị này. Tình hình cho thấy các đồng chí Việt Nam dễ dàng thỏa hiệp. Không thể ngăn nhân dân thế giới nghĩ rằng các ông đang phải đối mặt với một số khó khăn trong công cuộc đấu tranh của các ông. Các ông đã thay đổi lập trường, đã làm tăng số phiếu dự định bầu cho Johnson, tăng giá cổ phiếu ở New York, và giảm giá vàng ở thị trường tự do … Vì vậy, bây giờ các ông đã tạo điều kiện cho họ sử dụng chính sách hai mang. Trong hoàn cảnh này, họ không bỏ bom toàn bộ lãnh thổ Bắc Việt, nhưng vẫn tiếp tục ném bom phía Bắc (sic: rõ ràng phải là miền Nam) của vĩ tuyến 20 và cùng lúc kéo dài các cuộc đàm phán. Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào kinh nghiệm chiến đấu của các ông. Nhưng ở một mức độ nào đó, chúng tôi có nhiều kinh nghiệm hơn các ông khi tiến hành các cuộc đàm phán với Mỹ. Tôi đã nói nhiều lần hồi năm ngoái và cách đây hai năm, rằng các cuộc đàm phán có thể diễn ra trong chiến tranh. Tại một thời điểm nhất định, các cuộc đàm phán có thể bắt đầu. Đồng chí Mao Trạch Đông cũng nhắc nhở đồng chí Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng về đàm phán, nhưng với một lập trường mạnh mẽ hơn. Nhưng với tuyên bố của các ông, cho thấy rằng lập trường của các ông bây giờ yếu hơn, không phải mạnh hơn. Vì lợi ích mối quan hệ của hai đảng mà chúng tôi sử dụng mọi cơ hội để nhắc nhở các ông về vấn đề này. Và khi chúng tôi nói với các ông điều này, chúng tôi nói cho các ông biết tất cả những điều mà chúng tôi nghĩ. ————————————————— Ghi chú: 1. Ngày 31 tháng 3, Tổng thống Johnson tuyên bố chấm dứt một phần ném bom của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam và ý định của ông sẽ không tái tranh cử. Bắc Việt đã trả lời vào ngày 3 tháng 4, tuyên bố sẵn sàng mở các mối liên lạc với Mỹ. 2. Hà Văn Lâu: đại tá QĐND Việt Nam, thành viên của phái đoàn Việt Nam đến Hội nghị Geneva năm 1954. Dẫn đầu phái đoàn Liên lạc QĐND VN đến Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám sát ở Việt Nam 1954-1973. Đại diện Bắc Việt tại Tòa án tội phạm chiến tranh quốc tế Russell ở Copenhagen năm 1967 và là thành viên của phái đoàn Bắc Việt tại các cuộc đàm phán hòa bình Paris 1968-1970. Sau tiếp tục phục vụ như đại sứ ở Cuba, Liên Hiệp Quốc, Pháp, và như Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034CCB4-96B6-175C-9714D9C4E8278C7F&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29******************************************* Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Trần Nghị, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên GiápCWIHP 12-04-1967 Mô tả: Chu Ân Lai bàn về đấu tranh giai cấp hiện tại ở Trung Quốc. Chu Ân Lai (1898- 1976). Ảnh On the net Chu Ân Lai: … Trong mười năm qua, chúng tôi đã tiến hành một cuộc chiến tranh khác, một cuộc chiến không đổ máu: đấu tranh giai cấp. Nhưng thực tế là, trong số các tướng tá của chúng tôi, có một số người, [mặc dù] không phải tất cả, biết rất rõ làm thế nào để tiến hành một cuộc chiến tranh đẫm máu, [nhưng] bây giờ không biết làm cách nào để tiến hành một cuộc chiến không đổ máu. Thậm chí họ coi thường quần chúng. Một ngày nọ, khi chúng tôi đang ở trên máy bay, tôi đã nói với ông rằng, cách mạng văn hóa của chúng tôi lần này là nhằm lật đổ một nhóm người cầm quyền trong đảng, những người muốn đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Các mạng văn hóa cũng nhằm tiêu diệt các lực lượng cũ, văn hóa cũ, hệ tư tưởng cũ, phong tục tạp quán cũ, đã không còn phù hợp với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong một bài phát biểu hồi năm ngoái, đồng chí Lâm Bưu nói: Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải tiêu diệt “quyền sở hữu tư nhân” của giai cấp tư sản, xây dựng “quyền sở hữu công cộng” của giai cấp vô sản. Vì vậy, để giới thiệu về hệ thống “sở hữu công cộng”, các ông dựa vào ai? Dựa vào kinh nghiệm 17 năm sau giải phóng, đồng chí Mao Trạch Đông cho rằng, sau khi cướp chính quyền, giai cấp vô sản sẽ loại bỏ các “quyền sở hữu tư nhân” của giai cấp tư sản. Nhưng quá trình này sẽ bị bỏ dở nửa chừng nếu dựa vào phương thức lãnh đạo “từ trên xuống”. Như tôi đã nói với các ông, trong xã hội chúng tôi, “sở hữu tư nhân” vẫn còn tồn tại. Nó tồn tại không chỉ do ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản quốc tế, mà còn do thực tế là trong nước có những tàn tích của giai cấp tư sản, của chế độ phong kiến, và các nhà tư bản mới nổi lên, những tay đầu cơ, những kẻ tham ô… Một nhân tố lớn hơn là ở nông thôn, có một số lớn nông dân thuộc giai cấu tiểu tư sản. Họ là tiểu tư sản không những trong suy nghĩ, mà còn qua hành động của họ. Và vẫn còn tồn tại quyền sở hữu tư nhân, đất đai do tư nhân làm chủ, thị trường tự do, tự do buôn bán. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản có thể tái phát bất cứ lúc nào. Hơn nữa, ở Trung Quốc các tàn dư và ảnh hưởng hàng ngàn năm của chế độ phong kiến và chủ nghĩa tư bản có mặt khắp mọi nơi. Như đồng chí Mao đã nói, nếu cây chổi không tốt, bụi bậm không bị quét sạch, và ngay cả khi nó bị quét, thì cũng sẽ có bụi mới. Tất cả các yếu tố nói trên là mảnh đất màu mỡ cho sự phục hồi của chủ nghĩa tư bản và sự xuất hiện của chủ nghĩa xét lại. Trong 17 năm qua, chúng tôi đã đấu tranh chống lại “ba chống” (chống đảng, chống dân, chống CNXH: ND), và bây giờ có ba chống mới. Chúng tôi đã cải tạo các nhà tư bản, nhưng bây giờ trong đảng của chúng tôi, có những nhà tư bản mới. Chúng tôi đã chỉ trích những người cánh hữu, nhưng bây giờ có những người cánh hữu mới trong đảng của chúng tôi. Những người cầm quyền trong đảng đi theo con đường tư bản chủ nghĩa đã bị truất phế. Hiện có các phần tử mới trong số cầm quyền, một lần nữa đi theo con đường tư bản. Chúng tôi định đi thăm Sashi. Nhưng vì thời tiết xấu, chúng tôi đã phải hủy bỏ chuyến đi. Bây giờ, cũng tốt nếu ông có thể đi thăm Đại Trại. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, đồng chí Trần Vĩnh Quý (1) đứng vững lập trường vì ông ấy luôn tôn trọng “quyền sở hữu công cộng”. Đó là một trong những đặc điểm của Đại Trại. Đại Trại không phát triển về công nghệ, nhưng phát triển các hoạt động chính trị. Đội ngũ sản xuất do đồng chí Trần Vĩnh Quý dẫn đầu trong 14 năm qua chỉ vay tiền nhà nước một lần vào năm 1953. Nhưng đã trả lại tiền vay ngay trong năm sau. Đại Trại đã không xin cứu trợ thiên tai từ nhà nước mặc dù bị ảnh hưởng nghiêm trọng do thiên tai. Nhóm sản xuất không quá 400 người. Các điều kiện tự nhiên ở đó không tốt. Nhưng mỗi năm, Đại Trại đóng góp từ 100 đến 150 tấn lương thực cho nhà nước. Nếu hình mẫu này nhân lên toàn quốc, hàng năm nhà nước sẽ có khoảng 4 tỷ tấn lương thực. Điểm đặc trưng nhất của Đại Trại đó là, nó đã phá hủy các khái niệm về chủ nghĩa tư nhân và duy trì chủ nghĩa công xã theo tư tưởng Mao Trạch Đông. Đây là một ví dụ. Đồng chí Mao hỏi tôi liệu thật như vậy không. Tôi trả lời có. Sau đó đồng chí Mao đến thăm Đại Trại và thừa nhận những gì Đại Trại đã làm. Trong một đơn vị sản xuất như Đại Trại, có từ 300 đến 1000 lao động, vấn đề quyền sở hữu tư nhân và công cộng vẫn còn tồn tại và đặt ra những vấn đề phức tạp. Vì vậy, ông có thể hình dung phạm vi của vấn đề trên toàn quốc, có khoảng 800.000 – 900.000 đơn vị sản xuất. Có khoảng 200 hộ gia đình trong mỗi đơn vị sản xuất, và khoảng 160 triệu hộ gia đình trên cả nước. Cũng có một số lớn nhà máy ở các thành phố. Vì vậy, nếu không có một phong trào quần chúng, trong đó có người dân tham gia, không có cách nào để xác định ai là người chấp nhận con đường tư bản chủ nghĩa, ai là nhà tư bản. Chúng ta phải dựa vào các lực lượng nào để huy động nông dân và công nhân? Nếu chúng ta dựa vào các thành viên của Đảng và Liên đoàn Thanh niên, họ sẽ sử dụng các cơ chế của hệ thống thứ bậc. Và làm như vậy, các quan chức có thể che giấu những việc làm sai trái của nhau, do đó các mục tiêu chỉ đạt được một nửa. Trần Nghị: Và nếu các quan chức xấu này không bị phát hiện và bị lật đổ, họ sẽ hình thành một tập đoàn những con người xấu xa mới. ……. Chu Ân Lai: Vì vậy, chúng ta giải quyết vấn đề bằng cách huy động sinh viên và thanh niên. Họ năng nổ và dễ tiếp thu các tư tưởng của Mao Trạch Đông. Ngày 1 tháng 6 năm 1966, đồng chí Mao cho phát hành bài viết của ông trên báo chữ to, thuộc Đại học Bắc Kinh, nên đã huy động học sinh và thanh thiếu niên cả nước. Sáng kiến này của đồng chí Mao đã được sự chấp thuận của Ủy ban Trung ương. Nhưng đồng chí Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình vẫn duy trì cách làm việc cũ. Họ đã gửi các đơn vị công tác xuống các tỉnh. Kết quả là gì? Tại những nơi mà các lãnh đạo đã bị nhân dân sa thải, các đơn vị làm việc nắm quyền kiểm soát tất cả mọi thứ, mà không biết ai là người tốt, ai là người xấu trong số các quan chức bị sa thải. Hơn nữa, các đơn vị làm việc lặp đi lặp lại một cách làm việc cũ, chẳng hạn như từ chối dựa vào nhân dân. Người dân không đồng ý, nhưng bị các đơn vị làm việc áp bức, những người này nói rằng, chống lại họ là chống lại Ủy ban Trung ương và Mao Chủ tịch. Vì vậy, phản đối càng gia tăng quyết liệt hơn. Do đó, tình hình là quần chúng – nghe theo lời kêu gọi của Mao Chủ tịch– đã đứng lên, nhưng cùng lúc, lãnh đạo mới, thay thế chính đảng, đã đàn áp họ. Ở cấp trung ương, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình chịu trách nhiệm. Họ đàn áp dân chúng, chia dân thành ba loại: tả khuynh, trung dung và hữu khuynh. Bất cứ ai phê bình các đơn vị làm việc đều thuộc nhóm hữu khuynh, nghĩa là, phản động, do đó bị sách nhiễu, thậm chí bị bỏ tù. Chưa đầy hai tuần sau khi áp dụng phương pháp của các đơn vị làm việc, trên cả nước xuất hiện một phong trào phản đối những điều đồng chí Mao đề xuất ban đầu. Trong tháng 6 và tháng 7, chưa đầy 50 ngày, đã có đàn áp ở tất cả các trường học và trường đại học, chống lại những người chỉ trích lãnh đạo. Tình trạng này xác nhận điều mà Mao Chủ tịch đã nói những năm trước: những sai lầm của ai đó ở cấp Trung ương mắc phải, có thể trở thành sai lầm của cả nước do cơ chế phân cấp cho phép sự phục tùng mù quáng. Điều này cũng giúp giải thích tại sao Khrushchev có thể nắm chính quyền ở Liên Xô. Khi đồng chí Mao biết được tình hình này, ngay lập tức ông trở về Bắc Kinh. Và sau khi điều tra cho thấy những gì đang diễn ra một cách rõ ràng, ông đã quyết định rút các đơn vị làm việc và khởi động một cuộc cách mạng văn hóa từ dưới lên trên để cho quần chúng tự giải phóng chính họ. Ông triệu tập Hội nghị lần thứ 11 với sự tham dự của tất cả những người đứng đầu tỉnh ủy. Hội nghị này đã chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình về những sai lầm của họ. Liên quan đến Hội nghị này, đồng chí Mao đã cho phát hành một bài viết báo chữ to, và đồng chí Trần Bá Đạt (2) đọc báo cáo, Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị được mở rộng. Không có biện pháp nào khác được thực hiện. Quyết định 16 điểm và một tuyên bố về Hội nghị sau đó đã được ban hành. Ngày 18 tháng 8 năm 1966 đồng chí Mao đón tiếp các đại diện của Hồng vệ binh. Sau những sự kiện này, phong trào Hồng vệ binh phát triển trên cả nước, đầu tiên trong các trường học và các trường đại học, sau đó lan ra trên toàn xã hội. Lúc đó, lãnh đạo các cấp thụ động. Hầu hết các Bí thư Đảng ủy trong tất cả 28 tỉnh, thành phố thường tham gia vào các cuộc cách mạng và chiến tranh. Họ thường dựa vào dân. Nhưng sau khi hòa bình lập lại, sau khi họ lên nắm quyền, họ e ngại người dân. Trần Nghị: Khi người dân chỉ trích họ, họ đàn áp nhân dân. Chu Ân Lai: Khi chưa nắm quyền thì họ dựa vào nhân dân. Nhưng khi họ lên nắm quyền, họ biến thành quyền của riêng họ và họ sợ bị chỉ trích, bị mất quyền. Trong tháng 8 và tháng 9, Đảng ủy thuộc các cấp tỉnh, thành phố đã bị Hồng vệ binh tấn công. Tổng Bí thư ở các cấp, ở mức độ khác nhau, đều rất sợ. Vi Quốc Thanh (3): Tất cả đều sợ hãi. Chu Ân Lai: Điều này cho thấy, họ cảm thấy cách mạng hóa cuộc sống của người khác thì dễ dàng, nhưng khó hủy bỏ tư nhân hóa các đặc quyền của họ. Tháng 10 năm 1966, Ủy ban Trung ương đã triệu tập một cuộc họp khác. Câu hỏi bây giờ đã rõ ràng dựa trên các vấn đề lý thuyết. Cuộc họp toàn thể trước đó chỉ đề cập đến một cuộc đấu tranh giữa hai phe. Nhưng tại cuộc họp này, hai phe đã được xác định, một bên là phe cách mạng và vô sản và phe kia là phản động và tư bản. Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, các phe phái khác nhau, dù là tư sản hay vô sản, vẫn có thể có đế quốc là kẻ thù chung. Nhưng hiện nay, trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, các phe khác nhau, thiếu vắng một kẻ thù chung, một cách tự nhiên trở thành đối kháng. Hồng vệ binh cảm thấy dễ dàng hấp thụ tư tưởng của Mao Trạch Đông và phe cách mạng – vô sản, nên họ chỉ trích phe phản động – tư bản. Trong khi đó, một nhóm nhỏ các nhà lãnh đạo ở cấp bộ và tỉnh, tổ chức các lực lượng riêng để tự bảo vệ. Các đơn vị này là đơn vị bán quân sự (nửa quân sự) giữa các nhóm công nhân và bảo thủ trong số các sinh viên. Đồng chí Mao đã đề cập đến họ. Các nhà lãnh đạo này phải sử dụng đến chủ nghĩa vật chất, mua người khác bằng tiền và cùng lúc tạo ra những khó khăn về kinh tế, kịch liệt phản đối phe cách mạng vô sản. Hồng vệ binh bảo vệ các phe đúng đắn một cách mạnh mẽ, giới thiệu phong trào của họ tới toàn xã hội, đặc biệt tới các văn phòng chính phủ và tới các vùng nông thôn và họ nhận được sự ủng hộ của dân chúng. Như đồng chí Mao Trạch Đông đã đề cập, các lực lượng cách mạng ở Thượng Hải phát triển từ năm 2000 [người] thành một triệu. Họ sau đó chuyển sang giai đoạn thứ hai: cướp chính quyền. Phong trào càng đi sâu hơn, thì càng có nhiều các nhà lãnh đạo tư bản bị cô lập. Từ đầu năm nay, mục tiêu của cuộc đấu tranh là cướp chính quyền, bằng cách kết hợp các lực lượng nhân dân cách mạng, cán bộ cách mạng, và đại diện các lực lượng vũ trang. Họ tố cáo bất kỳ mối quan hệ nào với các nhà lãnh đạo tư bản chủ nghĩa, thành lập các ủy ban cách mạng, các chính phủ lâm thời, trong các văn phòng chính phủ và các nhà máy. Vùng nông thôn đang bận rộn với sản xuất nông nghiệp, do đó, việc cướp chính quyền chưa bắt đầu. Đồng chí Mao, các đồng chí khác, và tôi tin rằng, Đại Cách mạng Văn hóa trước tiên phải dựa vào quần chúng, vì sau 17 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, họ đã được giáo dục, trình độ kiến thức đã được nâng cao và tuyệt đại đa số chấp nhận con đường chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, chúng tôi tin rằng Quân Giải phóng [Nhân dân] sẽ hỗ trợ chúng ta, bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa và cuộc cách mạng vì họ là con cái của người dân và họ được giáo dục bằng tư tưởng Mao Trạch Đông. Chúng tôi cũng tin rằng đa số các cán bộ của chúng tôi tương đối tốt. Cuối cùng, chúng tôi sẽ có thể đoàn kết hơn 95% cán bộ và nhân dân chúng tôi. Dĩ nhiên, cần thời gian để tiêu diệt “chủ nghĩa cá nhân” và thiết lập “chủ nghĩa công xã” và tạo ra đại đoàn kết. Điều này cũng phải được thực hiện nhiều lần và không chắc là thuận buồm xuôi gió. Đó là lý do tại sao đồng chí Mao tiên đoán rằng xu hướng chính của phong trào sẽ rõ ràng giữa tháng 2 và tháng 5 trong năm nay và kết quả của phong trào sẽ được nhìn thấy giữa tháng 2 và tháng 4 năm tới. Trước hết, chúng ta phải hiểu rằng một khi quần chúng được giáo dục và giác ngộ, một khi họ được trang bị những tư tưởng của Mao Trạch Đông, sức mạnh của họ là vô hạn. Chỉ riêng năm ngoái, sản lượng sản xuất rất cao, vượt quá định mức tiêu chuẩn, đặc biệt trong nông nghiệp, công nghiệp và giao thông vận tải. Các hoạt động trong năm nay tập trung vào việc nắm quyền và tình hình sẽ phức tạp hơn. Một mặt, chủ nghĩa bè phái có thể thấy trong các tổ chức quần chúng, do đó khó khăn hơn để đạt được sự thống nhất cao. Và mặt khác, các cán bộ cách mạng, những người bị lên án thuộc tư bản chủ nghĩa và đứng về phía người dân, giờ muốn quay trở lại chức vụ của họ trước đây. Chúng tôi không thể khôi phục các chức vụ của họ, bởi vì nếu chúng tôi làm như vậy, thực tế là chúng tôi khôi phục lại hệ thống cũ. Do đó chúng tôi phải đấu tranh với cả hai xu hướng. Võ Nguyên Giáp: Hai xu hướng đó là gì? Li Fuxian: Một là xác nhận hoàn toàn và hai là từ chối hoàn toàn. Chu Ân Lai: Một xu hướng trong quần chúng là tán thành việc từ chối hoàn toàn. Họ cho rằng tất cả mọi thứ thuộc hệ thống cũ cần bị phá bỏ. Và xu hướng khác trong các cán bộ là ủng hộ xác nhận hoàn toàn, phục hồi toàn bộ, và liên minh tất cả. Còn có một vấn đề quan trọng, cụ thể là vai trò của các lực lượng vũ trang. Các lực lượng vũ trang phải giúp đỡ người dân trong sản xuất và cách mạng, giúp họ giành chính quyền. Thêm vào đó, các lực lượng vũ trang phải cung cấp huấn luyện quân sự trong các trường học, văn phòng, và các nhà máy. Do đó, nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang rất nặng nề. Đã có các cuộc họp của các lực lượng vũ trang, và một số cuộc họp đang diễn ra để thảo luận về những nhiệm vụ đó. Chúng tôi thấy có nhiều khó khăn. Tuy nhiên, chúng tôi cũng tin rằng những khó khăn này có thể được khắc phục bằng cách vận động nhân dân. Trọng tâm của công tác vận động là tuyên truyền sự khác nhau giữa hai phe, cụ thể là phe cách mạng vô sản và phe tư bản phản động. Để tuyên truyền, chúng ta phải nêu gương. Kể từ khi chúng tôi nói chuyện với Hồ Chủ tịch ở Hàng Châu hồi tháng 5 và tháng 6 năm ngoái (1966) và đặc biệt là sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 hồi tháng 8 năm ngoái, tình hình đã thay đổi nhiều, với những diễn biến lớn. Phong trào này đã phát triển theo chiều sâu, công chúng đã được huy động, một số điển hình đã được nghiên cứu, và bản chất của các vấn đề đã được giải quyết. Chúng tôi đã đưa ra trường hợp của Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, đặc biệt là các hồ sơ về những sai lầm của Lưu Thiếu Kỳ trong quá khứ, để công chúng chú ý. Trong 20 năm qua, những suy nghĩ của Lưu Thiếu Kỳ đã trở thành phản động. Các công trình mà ông ta đã viết, những tài liệu mà ông ta khởi xướng, tất cả đều cho thấy ông ta phản đối đường lối của Đảng và chống lại tư tưởng của Mao Trạch Đông. Tôi đã nói với các ông một số vấn đề này trên máy bay. Lưu [Thiếu Kỳ] cũng phạm phải những sai lầm trong quan hệ quốc tế. Thực tế, ông ta đã tiến hành chính sách một quốc gia lớn, một đảng lớn, mặc dù qua lời nói, ông ta giả vờ chống đối chính sách này. Các ông có thể cảm nhận và phát hiện sai lầm này trong chuyến thăm Việt Nam của ông ta hồi năm 1963. Dưới sự lãnh đạo của Lưu [Thiếu Kỳ], Bành Chân và Đặng Tiểu Bình cũng có hành vi này, và họ không tôn trọng sự bình đẳng giữa các đảng anh em. Chúng tôi chưa tìm thấy hết tất cả các lỗi lầm cụ thể của họ. Nhưng những sai lầm của Lưu [Thiếu Kỳ] hiện nay đã rõ. Ông ta đang thực hiện chủ nghĩa Sô Vanh trong quan hệ với các đảng anh em và chủ nghĩa bại trận trong quan hệ với Sukarno. Các ví dụ về những sai lầm loại này rất nhiều. Vấn đề là: những sai lầm này sẽ ảnh hưởng đến uy tín và sự lãnh đạo của đảng chúng tôi? Câu trả lời của chúng tôi là không. Phát hiện những sai lầm và loại bỏ chúng sẽ làm cho đảng mạnh hơn. Và chúng tôi thấy rõ hơn rằng người dân đại diện cho một lực lượng sáng tạo. Chúng tôi muốn nói với các ông một vấn đề khác mà chúng tôi hiện đang đối mặt. Trước khi lên nắm quyền, đảng của chúng tôi đã hoạt động trong các môi trường khác nhau và các đảng viên đã được tuyển dụng từ các nguồn khác nhau. Do đó, khó phát hiện những kẻ phản bội trong nội bộ đảng. Sau khi chiến thắng, dưới sự lãnh đạo của Lưu [Thiếu Kỳ] và Đặng [Tiểu Bình], các cơ quan tổ chức đảng còn e ngại sàng lọc các cán bộ của chúng tôi. Bây giờ, khi các Hồng vệ binh đã được huy động, nhiều tài liệu đã được tìm thấy, liên quan đến hành vi của nhiều cán bộ trong quá khứ. Một số nhà lãnh đạo phải được thay thế bởi vì các lỗi lầm trong quá khứ của họ. Một câu hỏi được đặt ra: kiểm tra quá khứ sẽ cản trở sự phát triển của đảng? Câu trả lời của chúng tôi là không, cho thấy, đảng có một chính sách đúng để vận động nhân dân. Như ông đã biết, một khi người dân tham gia chiến tranh nhân dân, sẽ tiến hành cuộc cách mạng, quét đi tàn dư của hệ thống cũ, ngăn chặn chủ nghĩa xét lại ra đời và ngăn chặn chủ nghĩa tư bản hồi phục. Lịch sử ĐCS Trung Quốc đã chứng minh điều này. Các nhà lãnh đạo hư hỏng của ĐCS Trung Quốc trước đây đã không ngăn được sự thành công của Cách mạng Trung Quốc. Người sáng lập ĐCSTQ, ông Trần Độc Tú (4), sau này trở thành một người theo phái Troskist và là kẻ phản bội. Sau đó, Cù Thu Bạch (5) rời khỏi đảng khi ông ta bị bắt và bị giam ở Giang Tây. Hướng Thiên Phát (Xiang Zhongfa) (6) và Lý Lập Tam (7) cũng mắc sai lầm: người đầu (Hướng Thiên Phát) đã phản bội đảng, nhưng cuối cùng đã bị kẻ thù giết chết, và người sau (Lý Lập Tam) vẫn giữ quan điểm không đúng đắn. Vương Minh (8) là tệ nhất. Ông ta hiện đang cư trú tại Moscow và được Liên Xô sử dụng tấn công Trung Quốc. Trước khi đào ngũ, Vương Minh đã viết các bài báo chống ĐCS Trung Quốc dưới một bút danh. Trương Văn Điền (Zhang Wentian) (9) cũng là một trường hợp có liên quan: sau Hội nghị Tuân Nghĩa (ngày 15-18 tháng 1 năm 1935], đồng chí Mao nên được bầu vào chức vụ chủ tịch ĐCSTQ. Nhưng là một người khiêm tốn, đồng chí Mao đề nghị Trương vào chức chủ tịch. Trương đã nắm giữ chức vụ này trong 10 năm cho đến Quốc hội lần thứ 7, bầu đồng chí Mao vào chức vụ đó. Năm 1959, Trương tham gia vào nhóm chống Đảng, gồm Bành Đức Hoài và Hoàng Khắc Thành (10). Ba mươi hai năm trong lịch sử 45 năm của ĐCS Trung Quốc, tức là trước hội nghị Tuân Nghĩa, ĐCSTQ đã bị các nhà lãnh đạo sai lầm dẫn dắt. Tuy nhiên, Cách mạng Trung Quốc đã thành công. Tình hình đã khác dưới sự lãnh đạo của đồng chí Mao Trạch Đông và đồng chí Lâm Bưu là người kế nhiệm. Trong một bối cảnh lớn hơn, phong trào Cộng sản quốc tế kể từ khi Marx, Engels, và Lenin cũng đã bị các nhà lãnh đạo sai lầm dẫn dắt. Tuy nhiên, thực tế này đã không ngăn các đảng cách mạng phát triển. Do đó, yếu tố quyết định là chính sách đúng đắn của mỗi bên, như trong chiến tranh nhân dân của các ông. Cách mạng xã hội chủ nghĩa của chúng tôi được thực hiện trong trường hợp không đổ máu, cũng đã chứng minh điều này. ———————————————– Ghi chú: 1. Trần Vĩnh Quý: là một nông dân từ Đại Trại, một ngôi làng miền núi cằn cỗi và nghèo nàn ở tỉnh Sơn Tây. Trong thập niên 1960, Đại Trại và Trần Vĩnh Quý trở thành mô hình của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Trung Quốc ở nông thôn. Sau này ông Trần trở thành ủy viên Bộ Chính trị ĐCSTQ và là Phó Thủ tướng Trung Quốc. 2. Trần Bá Đạt: là người đứng đầu “Nhóm Cách mạng văn hóa”, và là ủy viên Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị ĐCSTQ. 3. Vi Quốc Thanh: lúc đó là người đứng đầu Ủy ban Cách mạng Trung Quốc tỉnh Quảng Tây, giáp biên giới Việt Nam. Đầu thập niên 1950, ông đứng đầu nhóm quân đội Trung Quốc cố vấn cho Việt Nam. 4. Trần Độc Tú: là một trong những người sáng lập đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng sau đó bị trục xuất khỏi đảng vì “những sai lầm hữu khuynh” của ông. 5. Cù Thu Bạch: là lãnh đạo ĐCSTQ cuối thập niên 1920, đã phạm “những sai lầm tả khuynh”. 6. Hướng Thiên Phát: được bầu làm Tổng Bí thư ĐCSTQ năm 1928 phần lớn là nhờ lý lịch công nhân của ông. Sau bị Quốc Dân đảng bắt và xử tử. 7. Lý Lập Tam: là một lãnh đạo ĐCSTQ đã phạm “những sai lầm tả khuynh” đầu thập niên 1930. 8. Vương Minh: còn gọi là Trần Thiệu Vũ, là lãnh đạo ĐCSTQ, từng lãnh đạo Đảng sau khi trở về từ Moscow vào đầu thập niên 1930. Theo lịch sử chính thức của ĐCSTQ, ông đã phạm cả hai đều sai lầm “tả khuynh” và “hữu khuynh”. 9. Trương Văn Điền: là một cựu lãnh đạo ĐCSTQ đã bị thanh trừng cùng với Bành Hoài Đức năm 1959. 10. Hoàng Khắc Thành: là Tham Mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc trước khi bị thanh trừng cùng với Bành Hoài Đức vào năm 1959. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C9E5-96B6-175C-9744AB37C5B35708&sort=Subject&item=Chinese%20Communist%20Party,%20CCP ************************************* Thảo luận giữa Mao Trạch Đông, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên GiápVõ Nguyên Giáp CWIHP 11-04-1967 Mô tả: Mao Trạch Đông khuyến khích Phạm Văn Đồng tiếp tục chiến đấu và ca ngợi Việt Nam về khả năng phục hồi, không những trong cuộc chiến chống lại người Mỹ, mà còn chống Pháp và Nhật. Phạm Văn Đồng: Chúng tôi rất vui khi thấy Mao Chủ tịch khỏe mạnh. Mao Trạch Đông: Chỉ bình thường, không khỏe lắm … Trong tất cả các ông ở đây, có ai từ miền Nam không? Võ Nguyên Giáp: Đồng chí Phạm Văn Đồng là người miền Nam. Phạm Văn Đồng: Quê tôi ở tỉnh Quảng Ngãi [miền Trung Việt Nam], nơi mà mọi người đang chiến đấu dữ dội chống lại kẻ thù. Võ Nguyên Giáp: Chỉ trong một năm, người dân Quảng Ngãi bắn rơi gần 100 máy bay trực thăng. Họ đang chiến đấu rất ác liệt để chống lại quân đội bù nhìn, quân Mỹ và Nam Hàn. Mao Trạch Đông: Khi các ông chiến đấu, các ông có được kinh nghiệm, các ông hiểu được quy luật. Nếu các ông không chiến đấu các ông sẽ không có được kinh nghiệm, sẽ không biết được quy luật … Nhiều hay ít, nó tương tự như kháng chiến chống Pháp của các ông. Phạm Văn Đồng: Hiện tại, chúng tôi chiến đấu tốt hơn và trận chiến hiện nay thì khốc liệt hơn. Mao Trạch Đông: Vì vậy, tôi mới nói bây giờ các ông biết quy luật. Phạm Văn Đồng: Chúng tôi mới bắt đầu có được như vậy. Mao Trạch Đông: Vấn đề dĩ nhiên là trong quá trình tiến triển, những thay đổi có thể xảy ra. Những năm khó khăn nhất là 1956-1959 … Năm 1960 có một số thay đổi thuận lợi. Từ 1960-1961, các lực lượng vũ trang vẫn còn nhỏ. Nhưng trong năm 1963 và 1964, tình hình đã thay đổi. Và bây giờ, năm 1965 và 1966, các ông đã hiểu rõ quy luật hơn, dựa trên kinh nghiệm chiến đấu chống Pháp, Nhật, và hiện nay là quân đội Mỹ. Các ông cũng đã chiến đấu chống Nhật, phải không? Võ Nguyên Giáp: Có, chúng tôi đã chống Nhật nhưng không nhiều, chỉ trong một cuộc chiến tranh du kích với quy mô nhỏ. Trong cuộc chiến của chúng tôi chống lại người Mỹ, chúng tôi luôn nhớ lời của các ông: cố gắng bảo tồn và phát triển lực lượng, vững chắc tiến về phía trước. Mao Trạch Đông: Chúng tôi có một câu châm ngôn: “nếu bạn giữ cho núi được xanh, bạn sẽ không bao giờ phải lo thiếu củi“, Hoa Kỳ sợ chiến thuật của các ông. Họ mong các ông sẽ đưa các lực lượng bình thường ra chiến đấu, để họ có thể tiêu diệt các lực lượng chính của các ông. Nhưng các ông đã không bị lừa. Chiến đấu một cuộc chiến tranh tiêu hao giống như đang ăn: [cách tốt nhất] là không cắn một miếng quá lớn. Chiến đấu với quân đội Hoa Kỳ, các ông có thể cắn một miếng cỡ như một trung đội, một đại đội, hoặc một tiểu đoàn. Đối với quân đội chế độ bù nhìn, các ông có thể cắn cỡ một trung đoàn. Nghĩa là chiến đấu tương tự như đang ăn, các ông nên cắn một miếng sau một miếng khác. Sau cùng, chiến đấu không phải là một nhiệm vụ quá khó. Cách tiến hành cũng tương tự như cách các ông ăn. … Người ta nói với tôi rằng các ông muốn xây một đường sắt 100 km mới, các đối tác Trung Quốc của chúng tôi đồng ý giúp các ông? Chu Ân Lai: Chúng tôi đã thảo luận về vấn đề này. Một số người sẽ được gửi [tới Việt Nam] để thực hiện một nghiên cứu khả thi. Mao Trạch Đông: Không quá dài, ngắn hơn khoảng cách từ Bắc Kinh tới Thiên Tân. Phạm Văn Đồng: Chúng tôi sẽ thực hiện các nghiên cứu khả thi cùng với các đồng chí Trung Quốc. Mao Trạch Đông: Được rồi, vì lợi ích chiến tranh. Còn vấn đề cung cấp lương thực thì sao? Chu Ân Lai: Chúng tôi đã trao đổi với đồng chí Lý Tiên Niệm (1). Chúng tôi sẽ cung cấp 100.000 tấn gạo, 50.000 tấn ngô. Phạm Văn Đồng: Nên chỉ trong năm nay, Trung Quốc đã giúp Việt Nam khoảng 500.000 tấn lương thực. Sự giúp đỡ này là rất lớn. Mao Trạch Đông: Chúng tôi có thể giúp các ông. Năm ngoái chúng tôi được mùa. Phạm Văn Đồng: Cảm ơn Mao Chủ tịch. Mao Trạch Đông: Nếu ông muốn nói lời cảm ơn, ông nên nói với nông dân chúng tôi … Sau này, khi ông ăn tối với đồng chí Chu, ông có thể hỏi đồng chí Vĩ Quốc Thanh về việc đồng chí ấy đã bị Hồng Vệ binh chỉ trích như thế nào. Tôi biết đồng chí Vĩ vì đồng chí ấy thường xuyên thăm và báo cáo cho tôi khi đồng chí ấy trở lại từ các chuyến làm việc ở Việt Nam. Ai hiện là đại sứ mới của Việt Nam [tại Bắc Kinh]? Chu Ân Lai: Đồng chí Ngô Minh Loan (2). Mao Trạch Đông: [Loan] thuộc nhân vật [Trung Quốc] nào? Chu Duy Quần: Giống chim Phượng Hoàng. Mao Trạch Đông: loại chim này rất mạnh. Phạm Văn Đồng: Đồng chí Loan sẽ cố gắng hết sức để tiếp tục công việc của đồng chí Trần Tử Bình (3), nghĩa là, tăng cường tình hữu nghị giữa hai nước. Mao Trạch Đông: Tôi lấy làm tiếc vì đồng chí Trần Tử Bình qua đời. Phạm Văn Đồng: Chúng tôi cũng rất đau buồn về chuyện này. Mao Trạch Đông: Ông ấy bị bệnh gì vậy? Phạm Văn Đồng: Cùng loại bệnh mà ông ấy bị trước và sau khi trở về nhà, ổng quá bận rộn. Võ Nguyên Giáp: Ông ấy qua đời sau khi bị cảm nặng. Ổng ở cùng bệnh viện với Đại sứ Chu Kỳ Vân. Chu Duy Quần: Bệnh viện Hữu nghị. Tôi cũng bị cao huyết áp. Phạm Văn Đồng: Hôm nay, chúng tôi thực hiện chuyến viếng thăm đáp lễ với các ông, Mao Chủ tịch, Phó Chủ tịch Lâm [Bưu] và các đồng chí khác. Một lần nữa, cảm ơn các ông rất nhiều. … Mao Trạch Đông: Các ông đã dũng cảm chiến đấu ở cả hai miền Nam Bắc. Phạm Văn Đồng: Đó là vì chúng tôi đang học tư duy quân sự của Mao Chủ tịch. Mao Trạch Đông: Không nhất thiết như vậy. Không có nó, các ông vẫn có thể giành được chiến thắng. Trong quá khứ, các ông chiến đấu chống Nhật, Pháp. Bây giờ các ông đang chiến đấu chống Mỹ. Phạm Văn Đồng: Cám ơn chính sách quân sự của Đảng chúng ta và cũng cám ơn tư duy quân sự của Mao Trạch Đông. … Võ Nguyên Giáp: Tôi còn nhớ, một thời trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đồng chí Chu đã gửi Hồ Chủ tịch một bức điện như thế này: “Bây giờ không phải là thời điểm thích hợp để có một giải pháp hòa bình. Ông nên tiếp tục chiến đấu”. [Ghi chú: ông Giáp đề cập đến cuối năm 1949 hoặc tháng 1 năm 1950]. Chu Ân Lai: Vào thời điểm đó, Pháp sắp công nhận chúng tôi. Nhưng vì chúng tôi công nhận Việt Nam, họ đã phớt lờ chúng tôi. Như Lênin đã dạy, các nước lớn có trách nhiệm khuyến khích cuộc cách mạng thế giới. Lúc đó cuộc cách mạng thắng lợi tại Nga, nên Lênin nghĩ tới Trung Quốc và Ấn Độ. Bây giờ, mong muốn của Lênin đã có được phân nửa: cuộc cách mạng Trung Quốc đã thành công. Tuy nhiên, thực tế chưa phát triển theo cách mà mọi người muốn. Một số nước nhỏ hơn đã có được chiến thắng trước đó. Chiến thắng tại Triều Tiên có được theo sau chiến thắng ở Việt Nam. —————————————— Ghi chú: 1. Lý Tiên Niệm là Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, và là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính của Trung Quốc. 2. Ngô Minh Loan là Ủy viên dự khuyết Đảng Lao Đông Việt Nam từ năm 1960-1976, và là Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh từ năm 1967-1969. Đã từng giữ chức Thứ trưởng Bộ Công Cghiệp nhẹ từ năm 1959-1967. Năm 1968, viếng thăm Pakistan như là “đặc phái viên” và đã hội đàm với Tổng thống Ayub Khan. Từ năm 1969-1971 Bộ trưởng Bộ Lương thực và Thực phẩm, giữ chức Bộ trưởng đến năm 1976. 3. Trần Tử Bình (bí danh Phạm Văn Phu) (1907-1967), thành viên lâu đời của Đảng Cộng sản Đông Dương, Tổng Thanh tra Quân đội Nhân dân Việt Nam trong ba năm thời Chiến tranh Đông Dương. Trần Tử Bình kế nhiệm Hoàng Văn Hoan làm đại sứ Bắc Việt tại Trung Quốc từ năm 1957 và phục vụ cho đến khi mất năm 1967; Ngô Minh Loan thay thế. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C9C6-96B6-175C-96D86CF8502CADDD&sort=Collection&item=The%20Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29———————————————————– CWIHP Chu Ân Lai nói chuyện với Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp 11-04-1967 Trung Quốc có một câu châm ngôn nổi tiếng: chỗ đánh dấu 90 dặm là nửa chặng đường của cuộc hành trình dài 100 dặm. Có nghĩa là du khách đã đi được 90 dặm và còn 10 dặm nữa là xong. Nhưng 10 dặm còn lại là chặng đường khó khăn nhất cho người lữ hành. Leo núi cũng tương tự như vậy. Ví dụ như leo núi Hy Mã Lạp Sơn, đoạn cuối cùng là khó khăn nhất. Chúng tôi tin rằng, chắc chắn các ông sẽ giành thắng lợi cuối cùng. Chúng tôi sẽ vận động nhân dân cả thế giới hỗ trợ các ông giành chiến thắng. Tuy nhiên, Liên Xô chắc chắn muốn các ông dừng lại nửa chừng. Họ đã làm như vậy dưới thời Stalin. Sau khi Nhật đầu hàng năm 1945, Hoa Kỳ hỗ trợ Tưởng Giới Thạch. Lúc đó, Liên Xô chịu tổn thất lớn trong chiến tranh. Họ đã ký kết thỏa thuận Yalta, chia khu vực ảnh hưởng với Hoa Kỳ. Thoả thuận Yalta là sai. Về chiến thuật, thỏa thuận này hợp lý, nhưng về chính sách, thì không đúng. Việc cho nổ hai quả bom nguyên tử đặc biệt đã gây sốc cho Liên Xô. Liên Xô đã sẵn sàng ký một thỏa thuận với Tưởng Giới Thạch, công nhận thực tế rằng Hoa Kỳ có phạm vi ảnh hưởng lớn nhất ở Trung Quốc. Ngược lại, Liên bang Xô viết muốn duy trì lợi ích đặc biệt của Nga ở vùng Đông Bắc và Tân Cương và bảo vệ nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ. Lúc đó, Stalin đánh điện cho đồng chí Mao Trạch Đông, nói rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc nên hợp tác với Quốc Dân đảng thay vì bắt đầu một cuộc nội chiến và rằng nếu Đảng Cộng sản Trung Quốc phát động nội chiến, đất nước Trung Quốc sẽ bị hủy hoại. Rõ ràng là Liên Xô đã bị bom nguyên tử đe dọa. Chúng tôi nói rằng Stalin vẫn còn xứng đáng là một người Marxist-Leninist, vì ông ta có khả năng nhận ra lỗi lầm của mình. Sau khi giải phóng Thượng Hải, Lưu Thiếu Kỳ đến Moscow, nơi Stalin đã tự phê bình một cách âm thầm. Ông ta hỏi liệu bức điện tín ông gửi đến đồng chí Mao Trạch Đông hồi tháng 8 năm 1945 có làm suy yếu tiến trình chiến tranh giải phóng của Trung Quốc hay không. Lưu Thiếu Kỳ trả lời là không. Chắc chắn là không. Một lần, trong một bữa tiệc, Stalin đã nâng cốc, tuyên bố rằng ông ta đã già và rất sợ, sau khi chết những người đồng chí này (nói với Voroshilov, Molotov, Khrushchev và những người đang có mặt) sẽ sợ chủ nghĩa đế quốc. Bây giờ chúng ta có thể thấy rằng những tiên đoán của Stalin đã chứng minh đúng sự thật. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034F877-96B6-175C-9AD7AA9CD813D0AA&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 9, 2015 8:05:41 GMT 9
Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Lê Duẩn, P.V Đồng, V.N.Giáp, MaoHai vị lãnh tụ CWIHP 23-03-1966 Mô tả: Chu Ân Lai cảnh báo Lê Duẩn, chống lại sự giúp đỡ của Liên Xô.Chu Ân Lai: Hiện nay, người dân Việt Nam đang đi đầu trong cuộc đấu tranh chống Mỹ. Máu của nhân dân Việt Nam đã đổ ra cho cách mạng Việt Nam cũng như cho công cuộc cách mạng thế giới. Việt Nam là nước đi đầu, đại diện cho công cuộc cách mạng của nhân dân trên thế giới. … Chu Ân Lai: Đã có một số thay đổi đáng kể từ năm ngoái khi miền Bắc Việt Nam bắt đầu các cuộc đàm phán với Mỹ. Chúng tôi nên nói thẳng cho ông biết rằng những thay đổi bắt đầu từ khi lãnh đạo mới của Xô Viết lên nắm quyền, đặc biệt là sau chuyến thăm của Kosygin tới Vietnam (2). Sau khi Kosygin từ Hà Nội trở về, Liên Xô sử dụng viện trợ của họ cho Việt Nam để lấy lòng tin của các ông một cách gian dối. Mục đích của họ là làm cho mối quan hệ Việt – Trung gặp trở ngại, để chia rẽ giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhằm tiếp tục kiểm soát Việt Nam để cải thiện mối quan hệ của họ với Mỹ và cản trở cuộc đấu tranh và công cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam. Chu Ân Lai: Có nhiều tranh cãi liên quan đến các yêu cầu của Việt Nam về các phi công tình nguyện viên từ các nước xã hội chủ nghĩa. Các ông sẽ gặp rắc rối. Liên Xô có thể tiết lộ bí mật cho kẻ thù. Do đó chúng tôi nghĩ rằng các hoạt động chung giữa những người tình nguyện là không thể được. Hơn nữa, ngay cả khi những người tình nguyện này chịu nghe theo lệnh của các ông, những người Xô-viết sẽ luôn có ý kiến trái ngược nhau. Cái lợi mà các ông nhận được từ các phi công Liên Xô không đủ đền bù thiệt hại do họ gây ra. Chu Ân Lai: Liên quan đến việc thành lập mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, chúng tôi muốn các mối liên hệ song phương hoặc đa phương. Điều đó tốt bởi vì chúng ta có thể thảo luận chi tiết. Chúng tôi cho rằng việc phản đối Mỹ nhất thiết phải đi đôi với việc chống chủ nghĩa xét lại. Hai điều này không thể tách rời nhau. Nếu không, không thể giáo dục mọi người. ———————————————— Ghi chú: 1. Phái đoàn Việt Nam do Lê Duẩn dẫn đầu, viếng thăm Trung Quốc từ ngày 22 đến ngày 25 tháng 3 năm 1966. 2. Thủ tướng Liên xô, Aleksei Kosygin, viếng thăm Việt Nam từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 2 năm 1965. Ngọc Thu dịch từ: wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C8BC-96B6-175C-9C840B7B07032AC8&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29——————————————————– Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng 07-04-1967 Mô tả: Đề nghị của Liên Xô gia tăng viện trợ cho Việt Nam, qua ngả Trung Quốc. Phạm Văn Đồng: Các đề nghị của [Liên Xô] là: (1) Trung Quốc tăng hạn ngạch cho các lô hàng viện trợ của Liên Xô giúp [Việt Nam] qua ngả Trung Quốc từ 10.000-30.000 tấn một tháng. Nếu cần, Liên Xô sẽ gửi một số đầu máy xe lửa tới Trung Quốc. (2) Trung Quốc dành riêng 2 hoặc 3 cảng ở miền Nam để giao hàng viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam. Nếu cần nhiều thiết bị hơn cho các cảng này, Liên Xô sẽ trả tất cả chi phí (*). (*) Chu Ân Lai có trả lời vấn đề này trong buổi thảo luận ngày 10-04-1967. www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C90B-96B6-175C-99AC279EB3E972CE&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29————————————————————— Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp (1) 07-04-1967 Mô tả: Chu Ân Lai nhận xét về tính cách quân sự của Mỹ. Chu Ân Lai: Kinh nghiệm và truyền thống Mỹ dựa trên cuộc chiến giành độc lập, mà họ đã chiến đấu 190 năm trước. Cũng có cuộc nội chiến cách nay gần 100 năm. Suốt thời Đệ nhất và Đệ nhị Thế chiến, họ đạt nhiều [chiến thắng] ở giai đoạn cuối. Trong Đệ nhị Thế chiến, Hoa Kỳ đã đổ bộ [vào châu Âu] vào lúc Hitler đã suy yếu đáng kể. Họ sử dụng nhiều pháo binh, như thể họ đang tiến hành tập trận. Người chỉ huy ở mặt trận phía Tây lúc đó là Eisenhower, và tham mưu trưởng Quân đội Hoa Kỳ là [tướng George C.] Marshall. Marshall rất tự hào về kế hoạch đổ bộ dài hàng trăm trang. Có lần tôi hỏi ông ta đã đọc bản kế hoạch đó chưa. Ông ta nói rằng ông ta chỉ đọc đề cương. Mỗi phần [đề cương], ông ta chỉ đọc phần có liên quan đến ông ta. ——————————————— Ghi chú: 1. Võ Nguyên Giáp (1912 -) là người thành lập đơn vị đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào năm 1944 và giữ chức Tổng Tư lệnh trong suốt chiến tranh Đông Dương. Suốt thập niên 1960 và gần suốt thập niên 1970 ông là Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, và Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Văn Tiến Dũng được cho là đã thay thế ông làm Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng Tư lệnh vào năm 1980, nhưng theo từ điển quân đội, xuất bản năm 1996 tại Hà Nội nói rằng, ông Dũng đã thay thế [ông Giáp] từ đầu năm 1978. Nếu điều này chính xác, thì ông Giáp không chịu trách nhiệm về quyết định xâm chiếm Campuchia, hoặc bảo vệ Việt Nam chống lại cuộc tấn công của Trung Quốc năm 1979. Ông Giáp vẫn còn trong Bộ Chính trị Đảng CSVN cho đến năm 1982 và còn chức ủy viên Trung ương Đảng cho đến năm 1991. 2. Đây là cuộc họp thứ ba giữa phái đoàn Trung Quốc và Việt Nam, trong cuộc họp này, Võ Nguyên Giáp đã mô tả tình hình quân sự ở Việt Nam và mục tiêu chiến lược của Mỹ. Hai cuộc họp đầu tiên được tổ chức từ 11:30 sáng (không rõ kết thúc lúc mấy giờ) và từ 3:30-06:30 chiều ngày 29 tháng 3 năm 1967. Phái đoàn Việt Nam đã đi thăm Liên Xô và sau đó trở về Bắc Kinh. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C8FB-96B6-175C-951A62A3007D715E&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29—————————————————- Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp (2) 07-04-1967 Mô tả: Chu Ân Lai củng cố cam kết của ông ta và của Trung Quốc đối với cuộc chiến tại Việt Nam, mặc dù ông ta gần bảy mươi tuổi. Phạm Văn Đồng: Một số chiến lược chúng tôi đang áp dụng ở chiến trường miền Nam Việt Nam là làm theo những điều các ông đề nghị với chúng tôi trong quá khứ. Điều này cho thấy chiến lược quân sự của chúng tôi, cũng như của các ông, là đúng đắn, và cũng có những diễn biến mới. Chu Ân Lai: Không chỉ có các chiến lược của các ông có những diễn biến mới, mà còn có những sáng tạo mới. Những người đến muộn trở thành người tới trước. Đây là điều Chủ tịch đã nói. Tôi viết cho các ông vài lời: những người đến muộn trở thành người đến đầu tiên. … Chúng tôi đã không đánh một cuộc chiến nào trong suốt 14 năm. Cả ba chúng tôi đã già rồi. Tôi gần bảy mươi tuổi rồi. Đồng chí Diệp Kiếm Anh (2) bảy mươi tuổi rồi. Đồng chí Trần Nghị thì sáu mươi bảy tuổi. Chúng tôi vẫn muốn đánh, nhưng chúng tôi không còn nhiều thời gian. Diệp Kiếm Anh: Đó là quy luật của tự nhiên. Chu Ân Lai: Mặc dù tôi đã già, nhưng tham vọng của tôi vẫn còn đó. Nếu cuộc chiến ở miền Nam không kết thúc trong năm tới, tôi sẽ đến thăm các ông và quan sát xung quanh. Diệp Kiếm Anh: Con ngựa già ở trong chuồng vẫn mơ đến những thành tích anh hùng; trái tim của một người anh hùng lúc tuổi già của ông ấy kiên cường hơn bao giờ hết. Chu Ân Lai: Chủ tịch Mao đã trích dẫn những [lời này] từ một bài thơ của Tào Tháo (3) trong một bức thư gửi cho đồng chí Vương Quan Lan (4). Một nhân vật lịch sử trong thời kỳ phong kiến vẫn có khát vọng của mình, còn chúng ta, những người vô sản, thì sao? ————————————————- Ghi chú: 1. Đây là cuộc họp thứ tư giữa phái đoàn Trung Quốc và Việt Nam. Võ Nguyên Giáp bắt đầu cuộc họp bằng cách tiếp tục giới thiệu về tình hình quân sự ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam và chiến lược của Việt Nam. 2. Diệp Kiếm Anh: là phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương ĐCS Trung Quốc và là ủy viên Bộ Chính trị Đảng CSTQ. 3. Tào Tháo: là một chính trị gia và là lãnh chúa thời Tam quốc của Trung Quốc (thế kỷ thứ 2-3). 4. Vương Quan Lan: là Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phó GĐ Sở Nông thôn? (deputy head of the Rural Affairs Department) thuộc Trung ương ĐCS TQ. Ông bị bệnh tật kinh niên hồi thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, và Mao đã viết một lá thư khuyên ông ta nên kiên nhẫn trong việc đối phó với bệnh tật của mình. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C91A-96B6-175C-97ED4A394C2DB247&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29——————————————————————- Thảo luận giữa Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng 10-04-1967 Mô tả: Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông giải quyết vấn đề khó khăn của Trung Quốc – Hồng vệ binh. Chu Ân Lai: Đa số Hồng vệ binh Trung Quốc đã vượt biên giới vào Việt Nam, là tốt. Họ đã đến Việt Nam bởi vì họ muốn chiến đấu chống Mỹ. Nhưng họ đã không tôn trọng các quy tắc của hai nước chúng ta, nên gây một số chuyện phức tạp. Chúng tôi xin lỗi các ông về vấn đề này. Mao Trạch Đông: Một số Hồng vệ binh không biết biên giới quốc gia có nghĩa là gì. Trong số những người đến Việt Nam, hầu hết đến từ Giang Tây, một số người đến từ Vân Nam. Các ông không cần phải đề phòng họ. Chỉ cần giải thích với họ và sau đó giao họ lại cho chúng tôi. www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C997-96B6-175C-9BA29FE67E819753&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29————————————————– Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng 10-04-1967 Mô tả: Chu Ân Lai thảo luận việc mở rộng chiến tranh Việt Nam, cũng như phát triển mặt trận mới ở Campuchia; cũng có một cuộc thảo luận về Hoàng thân Sihanouk và Lon Nol. Chu Ân Lai: … Về việc vận chuyển hàng quá cảnh, thỏa thuận hạn ngạch là 10.000 tấn một tháng. Bây giờ, họ muốn tăng lên 30 ngàn. Tuy nhiên, họ không đề cập đến mặt hàng cụ thể nào, nên chúng tôi không muốn trả lời đề nghị một cách rõ ràng… Về các mặt hàng quân sự của Liên Xô, Liên Xô nên thông báo trước cho Việt Nam, và Việt Nam sẽ xem xét liệu lợi ích có phù hợp và hiệu quả hay không. Có nghĩa là các ông sẽ không lấy hết tất cả mọi thứ. Lúc đó, các ông sẽ thông báo cho chúng tôi [số lượng]. Cuối cùng, chúng tôi sẽ phải kiểm tra. Nếu đúng, chúng tôi sẽ tăng hạn ngạch. Hiện cảng Hải Phòng không bị phong tỏa. Do đó, việc sử dụng các cảng của Trung Quốc chưa được xét đến. Liên Xô đã từng nói rằng, Hoa Kỳ sẽ không tấn công tàu của Liên Xô. Tất nhiên, trong trường hợp cảng Hải Phòng bị phong tỏa, và không còn có cảng nào khác có thể cập bến ở Việt Nam, các chuyến hàng nước ngoài đến Việt Nam sẽ phải được vận chuyển qua các cảng của Trung Quốc. Chúng tôi có một thỏa thuận cho dự phòng này. Về ích lợi của các cảng Trung Quốc đối với hàng viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam, chúng tôi sẽ cân nhắc tình hình và hoàn cảnh thực tế và sau đó thương lượng một thỏa thuận khác. Liên Xô muốn vào các cảng của Trung Quốc không chỉ vì các lô hàng viện trợ cho Việt Nam, mà còn có các động cơ khác sau này. …… Chu Ân Lai: Có một mặt trận khác là Campuchia. Campuchia thì gắn liền với nước Pháp như Lào và miền Nam Việt Nam gắn với Mỹ. Pháp đã xác định không bỏ mặc Campuchia. Đôi khi Sihanouk chửi chúng tôi vì bực tức, điều đó dễ hiểu. Chúng tôi phải giành cho được sự cảm thông của ông ta, nhưng cùng lúc, chúng ta phải hiểu bản chất của ông ta. Mối liên hệ như thế này: bởi vì Pháp sẽ không bỏ mặc Campuchia, thì Campuchia cũng sẽ không bỏ mặc chúng ta. Nếu Campuchia làm như thế, sẽ mâu thuẫn với chính phủ liên minh ở miền Nam Việt Nam, trong đó phe thân Pháp sẽ được mời dự phần. Và nếu quan hệ Campuchia với Trung Quốc xấu đi, ảnh hưởng của Pháp ở vùng Viễn Đông sẽ tiếp tục giảm, do đó vị thế của Pháp trong quan hệ với Mỹ bị suy yếu. Khả năng để Mỹ để mở một mặt trận khác ở Campuchia là không lớn. Vì vậy, gây áp lực lên Campuchia có thể làm cho họ đồng ý với các chính sách của chúng ta. Gần đây, Thủ tướng Úc, [Harold Holt], thăm Campuchia. Ông ấy hỏi Sihanouk rằng Campuchia có giúp Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam hay không. Sihanouk không hoàn toàn phủ nhận điều [này], nói rằng ông ấy giúp một chút trong vấn đề vận chuyển. Tôi biết Sihanouk hơn 10 năm nay và thấy rằng ông ta khôn hơn Sukarno (1). Có lẽ Sukarno sợ phong trào nhân dân, nhưng Sihanouk thì không sợ. Khả năng giành được sự cảm thông của Sihanouk thì rất tốt. Tuy nhiên, cùng lúc chúng ta phải cân nhắc khả năng phong tỏa. Vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng việc vận chuyển trang thiết bị trong mùa mưa này không chỉ cho năm nay, mà nên vận chuyển cho nhu cầu năm tới. Chúng tôi luôn luôn khai thác các cơ hội khi có sẵn. Võ Nguyên Giáp: Hiện Mỹ muốn sử dụng phe thân Mỹ tại Campuchia để tiến hành phá hoại và đảo chánh. Ông có ý kiến gì về vấn đề này? Chu Ân Lai: Chúng ta không loại trừ khả năng đảo chính. Sihanouk cũng giống như Sukarno đến mức ông ta trấn áp tất cả các mâu thuẫn để nắm giữ quyền lực. Tuy nhiên, ông ta không giống Ne Win (2) người kiểm soát các lực lượng vũ trang. Cùng lúc, Ne Win ngày càng quan trọng đối với các phe phái ở Miến Điện, và vì thế càng không được lòng dân. Tôi đã nói chuyện với ông ta nhiều lần về chiến lược cầm quyền, khuyên ông ấy giới hạn số đối thủ. Những gì tôi biết về ông ta qua U Thant (3) đó là ông ta dễ lĩnh hội từ người Mỹ, nhưng người Anh và người Pháp thì ở một mức độ thấp hơn. Ông ấy cũng duy trì quan hệ với Trung Quốc và Liên Xô. Phạm Văn Đồng: Còn tình trạng nội chiến ở Miến Điện? Chu Ân Lai: Các phong trào cách mạng ở đó không phát triển nhanh và có một số thay đổi trong chính sách của Đảng. Điều kiện và tình hình ở đó thì tốt, nhưng tôi không hiểu tại sao cuộc cách mạng đã không phát triển. Phạm Văn Đồng: Ông nghĩ sao về Lon Nol? (4) Chu Ân Lai: Ông ta không đáng tin cậy. Phạm Văn Đồng: Ông ta đã dùng những lời lẽ tốt đẹp để nói về Trung Quốc với chúng tôi. Chu Ân Lai: Ông ta cũng đã nói như thế với chúng tôi. Ông ta cũng nói rằng ông ta có mang dòng máu Trung Quốc. Phoumi Nousavan (5) cũng nói rằng ông ta có dòng máu Trung Quốc. Nhưng máu của họ là máu phong kiến, tư bản. Trần Nghị: Lon Nol là người ủng hộ Mỹ. Sihanouk cũng biết điều này. Chu Ân Lai: Một lần, Lon Nol đến thăm Trung Quốc và ông ta để lại một số ấn tượng. Nếu chúng ta chi tiền cho ông ta, ông ta có thể bị lợi dụng một thời gian. Mẹ của Sihanouk cũng đang làm chính trị, cái cách mà một số hoàng hậu Trung Quốc đã làm. Hai mẹ con đối nghịch với nhau. Nhưng họ cũng lợi dụng lẫn nhau. Bất lợi của Sihanouk đó là, không giống như Ne Win, ông ta không kiểm soát các lực lượng vũ trang. … Chu Ân Lai: Theo như đánh giá của chúng tôi về triển vọng của cuộc chiến, chúng tôi thực sự cần xem xét hai hoặc ba khả năng. Trước tiên, cuộc chiến tranh có thể tiếp tục và thậm chí có thể mở rộng hơn nữa. Nguyên tắc của chiến tranh không thể quyết định bởi lòng người, không phải bởi kẻ thù, cũng không phải bởi chúng ta. Chiến tranh có nguyên tắc riêng của nó. Ngay cả khi kẻ thù muốn dừng lại, cũng rất khó để cho họ dừng. Vì vậy, khi chúng tôi đánh giá triển vọng của cuộc chiến, chúng ta nên chuẩn bị cho việc tiếp tục và mở rộng hơn nữa. Một khả năng khác là kẻ thù có thể phong tỏa bờ biển. Nếu ông ta bắt đầu phong tỏa toàn bộ, có nghĩa là đang chuẩn bị cho việc mở rộng chiến tranh, một cuộc chiến toàn diện. Nhưng nếu kẻ thù sử dụng một cuộc phong tỏa để buộc các ông phải thỏa hiệp và nếu các ông từ chối thỏa hiệp, thi ông ta sẽ làm gì? Ông ta phải làm một cái gì đó như là bám sát. Không đơn giản cho ông ta tiến hành phong tỏa toàn bộ dọc bờ biển, bởi điều này cần triển khai nhiều tàu. Hành động này rất lớn, và sẽ gây nhiều căng thẳng trong quan hệ của ông ta với các nước khác. Khả năng thứ ba, như hai ông đã đề cập, đó là mùa khô năm tới sẽ là thời điểm quan trọng, và có thể đánh bại đối phương, buộc ông ta phải nhận lấy sự thất bại của mình và rút khỏi Việt Nam. Có thể nào cuộc chiến sẽ không kết thúc, cũng không mở rộng, mà sẽ tiếp tục như hiện nay? Điều này không thể. Sớm hay muộn, cuộc chiến tranh sẽ kết thúc, chỉ là vấn đề thời gian. Không thể nào cuộc chiến tranh sẽ được kéo dài như thế này, không thắng cũng không bại (nguyên văn: không chết cũng không sống). Đối với câu hỏi về đấu tranh chính trị, không có gì nghi ngờ về đấu tranh chính trị nên tiếp tục trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Chiến tranh là sự tiếp tục về chính trị dưới hình thức cao nhất, do vậy, không thể tiến hành cuộc chiến tranh mà không tiến hành đấu tranh chính trị. Để tăng cường tuyên truyền quốc tế, để chiến thắng sự cảm thông, để làm suy yếu và chia rẽ kẻ thù, và để tận dụng sự sa sút của kẻ thù, là tất cả các hình thức khác nhau về đấu tranh chính trị. Các ông đã làm điều này trong quá khứ. Các ông nên tiếp tục làm điều này trong tương lai. ——————————————– Ghi chú: 1. Sukarno: (1901-1970) Chủ tịch nước Cộng hòa Indonesia 1945-1967. Bị mất quyền vào tay Tổng Suharto trong một cuộc đảo chính quân sự hồi tháng 10 năm 1965. 2. Ne Win: (1911-2002) tướng Miến Điện, người đứng đầu nước Miến Điện (Myanmar) từ năm 1962-1981. 3. U Thant: (1909-1974) Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc năm 1962-1971. 4. Lon Nol: (1913-1985) Tướng trong Quân đội Campuchia, Thủ tướng từ năm 1966 đến tháng 4 năm 1967. Trở lại nắm quyền trong chính phủ hồi tháng 4 năm 1968, đầu tiên là Bộ trưởng Quốc phòng và sau đó là quyền Thủ tướng. Bổ nhiệm làm thủ tướng vào tháng 8 năm 1969. Nắm quyền trong một cuộc đảo chính vào ngày 18 tháng 3 năm 1970, trong khi Sihanouk ở nước ngoài. Lon Nol là Tổng thống Cộng hòa Khmer 1972-1975. 5. Phoumi Nousavan: tướng Lào, một người mạnh mẽ, thuộc cánh hữu trong chính phủ từ 1960-1965. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C9A7-96B6-175C-9171AB983FB3D783&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29———————– CWIHP Chu Ân Lai của Nói chuyện với Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp 10-04-1967 Khi xem xét viễn cảnh cuộc chiến, chúng ta nên có hai hoặc ba khả năng. Một khả năng là cuộc chiến sẽ tiếp tục và mở rộng. Luật của chiến tranh thường không do ý muốn của người dân quyết định, không phải do ý muốn chúng ta, cũng không theo ý muốn của kẻ thù. Chiến tranh có luật lệ riêng của nó. Ngay cả khi kẻ thù muốn chấm dứt chiến tranh cũng không thể được. Do đó, vì lợi ích tương lai, chúng ta phải chuẩn bị tiếp tục cuộc chiến và chuẩn bị mở rộng chiến tranh. Một khả năng khác là kẻ thù sẽ phong tỏa bờ biển. Nếu kẻ thù tiến hành phong tỏa toàn bộ, thì rất có thể họ có ý định mở rộng chiến sự vào một cuộc chiến tranh tổng lực. Nếu kẻ thù chỉ muốn buộc các ông thỏa hiệp bằng cách phong tỏa bờ biển của các ông và nếu các ông từ chối thỏa hiệp, thì kẻ thù sẽ làm gì? Kẻ thù phải có một kế hoạch tiếp theo. Việc phong tỏa toàn bộ bờ biển sẽ không là một vấn đề đơn giản. Sẽ liên quan đến việc triển khai nhiều hạm đội. Sẽ là một hoạt động lớn. Sẽ gây căng thẳng đến mối quan hệ của kẻ thù với các nước khác. Khả năng thứ ba là điều mà hai ông vừa đề cập đến: thời điểm quan trọng sẽ là mùa khô năm tới. Các ông có thể đánh bại kẻ thù, buộc họ phải thừa nhận sự thất bại và rút khỏi Việt Nam. Về khả năng chiến tranh không kết thúc nhưng cũng không mở rộng mà chỉ đơn giản là tiếp diễn, điều đó không thể xảy ra được. Cuộc chiến tranh chắc chắn sẽ kết thúc và vấn đề là khi nào. Cuộc chiến không thể nào cứ tiếp diễn mãi mãi mà không có kết quả. Liên quan đến vấn đề đấu tranh chính trị, rõ ràng là đấu tranh chính trị nên được thực hiện bất cứ lúc nào. Chiến tranh là hình thức cao nhất của sự phát triển đấu tranh chính trị. Không thể có chiến tranh mà không liên quan đến đấu tranh chính trị. Những việc như tăng cường tuyên truyền quốc tế, chiến thắng sự cảm thông, làm suy yếu và chia rẽ kẻ thù và khai thác các mâu thuẫn giữa kẻ thù, tất cả thuộc loại đấu tranh chính trị. Các ông đã làm được những điều này trong quá khứ và các ông phải tiếp tục làm như vậy trong tương lai. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034F896-96B6-175C-9D0CCF66EA64268E&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29******************************************* Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Khang Sinh, Lê Duẩn và Nguyễn Duy TrinhCWIHP 13-04-1966 Mô tả: Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam, trong khi chỉ ra [những điểm] có vẻ ngờ vực từ phía Việt Nam; Việt Nam dựa vào sự hỗ trợ của Trung Quốc.Đặng Tiểu Bình: Các ông đã nói về sự thật cũng như đề cập đến sự công bằng. Vậy các ông vẫn còn sợ cái gì? Tại sao các ông lại sợ không làm vừa lòng Liên Xô, vậy còn Trung Quốc thì sao? Tôi muốn nói thẳng với các ông những điều hiện tại tôi cảm nhận: các đồng chí Việt Nam có những suy nghĩ khác về phương pháp giúp đỡ của chúng tôi, nhưng mà các ông chưa nói với chúng tôi. Tôi nhớ đồng chí Mao phê bình chúng tôi, các viên chức Trung Quốc tham dự buổi nói chuyện giữa đồng chí Mao Trạch Đông và đồng chí Lê Duẩn tại Beidaihe (2) – về việc “quá nhiệt tình” đối với đòi hỏi của Việt Nam. Bây giờ chúng tôi thấy đồng chí Mao nhìn xa trông rộng. Lê Duẩn: Bây giờ, khi các ông nói lại điều này lần nữa, chúng tôi đã rõ. Tại thời điểm đó tôi không hiểu những gì đồng chí Mao nói bởi vì thông dịch quá tệ. Đặng Tiểu Bình: Chúng tôi hiểu rằng đồng chí Mao phê bình chúng tôi, đó là đồng chí Chu Ân Lai, tôi và những người khác. Dĩ nhiên, không có nghĩa là đồng chí Mao không làm hết sức mình để giúp đỡ Việt Nam. Với các ông đã quá rõ là chúng tôi đáp ứng mọi yêu cầu của các ông bởi vì nằm trong khả năng của chúng tôi. Bây giờ, có vẻ như đồng chí Mao Trạch Đông nhìn xa trông rộng trong vấn đề này. Trong những năm gần đây, chúng tôi có kinh nghiệm trong các mối quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Sự thật là sự quá nhiệt tình của chúng tôi đã gây nghi ngờ cho các đồng chí Việt Nam? Hiện chúng tôi có 130.000 người đang ở nước các ông. Việc xây dựng [căn cứ] quân sự ở Đông Bắc cũng như xây dựng tuyến đường sắt là các dự án mà chúng tôi đề xuất, và hơn nữa, chúng tôi đã gửi hàng chục ngàn quân lính tới biên giới. Chúng tôi cũng đã thảo luận khả năng chiến đấu chung bất cứ khi nào cuộc chiến bùng nổ. Các ông có nghi ngờ chúng tôi vì chúng tôi quá nhiệt tình hay không? Người Trung Quốc có muốn kiểm soát Việt Nam hay không? Chúng tôi muốn nói thẳng cho các ông biết rằng chúng tôi không hề có ý định đó. Ở đây, chúng tôi không cần bất kỳ cuộc đàm phán ngoại giao nào. Nếu chúng tôi mắc phải sai lầm đã làm cho các ông nghi ngờ, có nghĩa là đồng chí Mao thật sự nhìn xa trông rộng. Hơn nữa, hiện nay nhiều người làm cho Trung Quốc bị mang tiếng: Khrushchev (*) là người theo chủ nghĩa xét lại, và Trung Quốc thì theo chủ nghĩa giáo điều và mạo hiểm. Vì vậy, chúng tôi hy vọng trong vấn đề này, nếu các ông có bất kỳ vấn đề gì, làm ơn nói thẳng cho chúng tôi biết. Thái độ của chúng tôi cho đến nay và từ bây giờ sẽ là: các ông đang ở tiền tuyến còn chúng tôi đang ở hậu phương. Chúng tôi đáp ứng mọi yêu cầu của các ông trong khả năng của chúng tôi. Nhưng chúng ta không nên có quá nhiều nhiệt tình. Việc xây dựng các đảo phía Đông Bắc đã hoàn thành. Hai bên đã thảo luận việc xây dựng dọc bờ biển sẽ do những người lính trong quân đội của chúng tôi thực hiện. Gần đây, đồng chí Văn Tiến Dũng (3) đề nghị sau khi hoàn thành việc xây dựng ở phía Đông Bắc, binh lính của chúng tôi sẽ giúp các ông xây dựng các địa điểm pháo binh ở vùng trung tâm đồng bằng. Chúng tôi vẫn chưa trả lời. Bây giờ tôi đặt một câu hỏi để các ông cân nhắc: các ông có cần những người lính trong quân đội chúng tôi làm điều đó hay không? Chu Ân Lai: [Đề nghị về] việc xây dựng 45 địa điểm pháo binh gần các vị trí tên lửa của Liên Xô. Đặng Tiểu Bình: Chúng tôi không biết liệu có tốt cho mối quan hệ giữa hai đảng và hai nước hay không khi chúng tôi đã gửi 100.000 quân đến Việt Nam. Cá nhân, tôi nghĩ sẽ tốt hơn cho những người lính trong quân đội của chúng tôi trở về nhà ngay sau khi họ hoàn thành công việc. Về vấn đề này, chúng tôi không có bất kỳ ý định xấu nào, nhưng kết quả không phải là điều mà cả hai nước muốn. Cách đây không lâu, có một chuyện đã xảy ra mà chúng tôi nghĩ không phải là ngẫu nhiên: Trên đường đến Hòn Gai để lấy than đá, một con tàu Trung Quốc đã không được phép cập cảng. Nó đã ở ngoài khơi 4 ngày. Yêu cầu để gọi vào bờ bị từ chối. Con tàu này đang thi hành nhiệm vụ theo một thỏa thuận thương mại, không phải là một tàu chiến. Lê Duẩn: Chúng tôi không biết điều này. Đặng Tiểu Bình: Bộ ngoại giao của chúng tôi đã gửi một thư báo cho các ông, nhưng chính phủ Việt Nam vẫn chưa trả lời. Những chuyện như thế này chưa từng xảy ra trong 10 năm qua. Chu Ân Lai: Ngay cả tàu Trung Quốc yêu cầu được vào cảng Việt Nam trốn máy bay Mỹ, để được cung cấp nước ngọt và gọi điện thoại cũng bị từ chối. Một trong những cán bộ của chúng tôi, người phụ trách việc mua bán với nước ngoài, sau đó đã thảo luận với các nhà chức trách ở cảng nhiều lần, và sau đó con tàu mới có thể vào cảng của các ông. Các đồng chí phụ trách cảng Cẩm Phả thậm chí nói: đây là chủ quyền của chúng tôi, các ông chỉ có thể vào khi được phép. Khi đó, chúng tôi nói rằng tất cả các tàu và máy bay của Việt Nam có thể vào các cảng và sân bay của Trung Quốc bất cứ lúc nào nếu bị máy bay Mỹ truy đuổi. Đặng Tiểu Bình: Bây giờ, tôi muốn nói về một khía cạnh khác trong mối quan hệ giữa hai đảng và hai nước. Trong số 100.000 lính Trung Quốc, những người hiện đang ở nước các ông, có thể có người nào đó làm sai. Và về phía các ông, cũng có thể có những người muốn sử dụng những sự cố này để gây chia rẽ giữa hai đảng và hai nước. Chúng ta nên thẳng thắn nói về vấn đề này bây giờ bởi vì điều này không chỉ là mảng tối, mà còn gây thiệt hại cho quan hệ của chúng ta. Nó không chỉ là những vấn đề liên quan đến sự đánh giá của chúng tôi về sự trợ giúp của Liên Xô. Các ông có nghi ngờ Trung Quốc giúp Việt Nam vì mục đích riêng? Chúng tôi hy vọng rằng các ông có thể nói trực tiếp cho chúng tôi biết nếu các ông muốn chúng tôi giúp đỡ. Vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng. Chúng tôi sẽ rút quân ngay lập tức. Chúng tôi có rất nhiều điều cần làm ở Trung Quốc. Và những người lính trong quân đội đóng quân dọc theo biên giới sẽ được lệnh quay trở về đại lục (4). Lê Duẩn: Tôi xin trình bày một số ý. Khó khăn là sự phán đoán của chúng ta khác nhau. Theo kinh nghiệm trong Đảng của chúng tôi cho thấy, cần có thời gian để làm cho các ý kiến khác nhau đi đến sự đồng thuận. Chúng ta không nói chuyện công khai về các ý kiến khác nhau giữa chúng ta. Chúng tôi chắc rằng sự hỗ trợ của Liên Xô cho Việt Nam một phần là chân thành, cho nên chúng tôi không hỏi liệu Liên Xô sẽ bán đứng Việt Nam, cũng như chúng tôi không nói Liên Xô vu cáo Trung Quốc trong vấn đề vận chuyển viện trợ của Liên Xô. Bởi vì chúng tôi biết rằng nếu chúng tôi nói điều này, vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn. Đó là do hoàn cảnh của chúng tôi. Vấn đề chính là đánh giá Liên Xô như thế nào. Các ông đang nói Liên Xô đang bán đứng Việt Nam, nhưng chúng tôi không nghĩ như vậy. Tất cả các vấn đề khác bắt nguồn từ sự phán đoán này. Liên quan đến sự trợ giúp của Trung Quốc cho Việt Nam, chúng tôi hiểu rất rõ và chúng tôi không có bất kỳ mối quan ngại về điều đó. Bây giờ đang có hơn 100.000 quân lính của quân đội Trung Quốc tại Việt Nam, nhưng chúng tôi nghĩ rằng bất cứ khi nào có chuyện nghiêm trọng xảy ra, có thể cần hơn 500.000 lính. Đây là sự hỗ trợ từ một đất nước anh em. Chúng tôi nghĩ rằng là một đất nước xã hội chủ nghĩa anh em, các ông có thể làm điều đó, các ông có thể giúp chúng tôi như thế. Tôi đã có một cuộc tranh cãi với Khrushchev về một vấn đề tương tự. Khrushchev nói rằng người Việt Nam ủng hộ Trung Quốc sở hữu bom nguyên tử để Trung Quốc có thể tấn công Liên Xô. Tôi nói rằng điều đó không đúng sự thật, Trung Quốc sẽ không bao giờ tấn công Liên Xô. Hôm nay, tôi nói rằng sự đánh giá của một đất nước xã hội chủ nghĩa đối với một đất nước xã hội chủ nghĩa khác phải dựa trên chủ nghĩa quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp của chúng tôi, [nếu] cuộc cách mạng Trung Quốc không thành công, thì cách mạng Việt Nam khó có thể thành công. Chúng tôi cần sự hỗ trợ từ tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng tôi chắc rằng sự hỗ trợ của Trung Quốc là trực tiếp và rộng rãi nhất. Như các ông đã nói, mỗi quốc gia nên tự bảo vệ mình nhưng họ cũng nên dựa vào sự trợ giúp quốc tế. Vì vậy, chúng tôi không bao giờ nghĩ rằng sự nhiệt tình của các ông có thể gây nguy hại trong bất kỳ tình huống nào. Ngược lại, các ông càng nhiệt tình sẽ càng có lợi cho chúng tôi. Sự giúp đỡ nhiệt tình của các ông có thể giúp chúng tôi đỡ hy sinh 2-3 triệu người. Đây là một vấn đề quan trọng. Chúng tôi đánh giá cao sự nhiệt tình của các ông. Một đất nước nhỏ như Việt Nam rất cần sự trợ giúp quốc tế. Sự trợ giúp này tiết kiệm cho chúng tôi rất nhiều xương máu. Sách "sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" do NXV Sự thật phát hành năm 1979. Hình chụp lại từ blog Đinh Tấn Lực". Các mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ tồn tại không chỉ trong cuộc chiến tranh chống Mỹ mà còn trong tương lai lâu dài ở phía trước. Ngay cả khi Trung Quốc không giúp chúng tôi nhiều, chúng tôi vẫn muốn duy trì mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc, vì điều này bảo đảm cho sự sống còn của đất nước chúng tôi. Đối với Liên Xô, chúng tôi vẫn duy trì mối quan hệ tốt đẹp với họ. Nhưng chúng tôi cũng chỉ trích Liên Xô nếu họ tiếp nhận những lời chỉ trích của chúng tôi. Trong quan hệ giữa hai đảng chúng ta, chúng tôi cảm thấy tốt hơn khi có nhiều sự đồng thuận và chúng tôi lo ngại nhiều hơn khi có ít sự đồng thuận. Chúng tôi quan tâm không chỉ về sự trợ giúp của các ông mà còn quan tâm đến một vấn đề quan trọng hơn, đó là quan hệ giữa hai nước. Ủy ban Thường vụ Trung ương Đảng của chúng tôi luôn luôn nghĩ đến việc làm thế nào để tăng cường quan hệ hữu nghị giữa hai đảng và hai nước. Về sự cố tàu Trung Quốc gặp khó khăn khi vào cảng Việt Nam, tôi không biết vấn đề này. Chúng tôi không quan tâm đến 130.000 quân lính của các ông ở đất nước chúng tôi, thì tại sao chúng tôi lại quan tâm đến một con tàu? Nếu đó là sai lầm của người phụ trách cảng, người này cũng có thể là một viên chức tiêu cực cố gây kích động. Hoặc sai lầm của người này có thể được những kẻ khiêu khích khác sử dụng. Đó là một sai lầm cá nhân. Điều chúng tôi nghĩ về Trung Quốc không bao giờ thay đổi. Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi cần phải có một nghĩa vụ đối với các ông và đối với phong trào Cộng sản quốc tế. Chúng tôi tiếp tục đấu tranh chống Mỹ cho đến thắng lợi cuối cùng. Chúng tôi vẫn giữ vững tinh thần quốc tế vô sản. Vì lợi ích của phong trào cộng sản quốc tế và tinh thần quốc tế, chẳng có vấn đề gì nếu quá trình phát triển xã hội chủ nghĩa ở miền Nam Việt Nam kéo dài trong 30-40 năm. Tôi muốn nói thêm một số ý kiến riêng của tôi. Hiện nay, có một phong trào cải cách tương đối mạnh mẽ trên thế giới, không chỉ ở Tây Âu mà còn ở Đông Âu và Liên Xô. Nhiều quốc gia áp dụng một trong hai con đường: chủ nghĩa cải cách hay chủ nghĩa phát xít, là những nước bị giai cấp tư sản cai trị. Vì vậy, tôi nghĩ rằng nên có một số nước cách mạng như Trung Quốc để đối phó với các nước cải cách, chỉ trích họ, và đồng thời hợp tác với họ, để đưa họ vào con đường cách mạng. Họ là những nhà cải cách, do đó một mặt, họ phản cách mạng, đó là lý do tại sao chúng ta nên phê bình họ. Nhưng mặt khác, họ chống đế quốc, đó là lý do tại sao chúng ta có thể hợp tác với họ. Trong lịch sử cách mạng Trung Quốc, các ông đã làm điều tương tự. Đồng chí Mao Trạch Đông đã cùng với Tưởng Giới Thạch thành lập Mặt trận Thống nhất chống Nhật. Vì vậy, ý kiến cá nhân tôi là, Trung Quốc, trong khi giữ nguyên các biểu ngữ cách mạng, nên hợp tác với các quốc gia cải cách để giúp họ thực hiện cuộc cách mạng. Đây là phán đoán cũng như chính sách của chúng tôi. Điều này không nhất thiết đúng, nhưng đó là cam kết chân thành của chúng tôi với cách mạng. Dĩ nhiên, vấn đề này rất phức tạp. Như các ông đã nói rằng, ngay cả trong một đảng cũng có ba thành phần: hữu khuynh, trung dung và tả khuynh, nên tình hình nằm trong một phong trào cộng sản lớn. Sự khác biệt trong phán đoán mang lại những khó khăn, cần có thời gian để giải quyết. Cần có thêm nhiều mối liên hệ để đạt được sự đồng thuận về nhận thức. Mối quan tâm của chúng tôi không phải là Trung Quốc đang cố gắng kiểm soát Việt Nam. Nếu Trung Quốc không phải là một đất nước xã hội chủ nghĩa thì chúng tôi thực sự quan ngại. [Chúng tôi tin rằng] các đồng chí Trung Quốc đến để giúp chúng tôi là vì chủ nghĩa quốc tế vô sản. ………. Đặng Tiểu Bình: Câu hỏi về “sự nhiệt tình”, làm ơn hiểu thêm yêu cầu của Mao Chủ tịch muốn nói đến thực tế mối quan hệ giữa hai nước và hai đảng không đơn giản. Mối quan hệ giữa các đồng chí cũng không đơn giản. —————————————————- Ghi chú: 1. Khang Sinh: lúc đó là ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Đảng Cộng sản và là Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong giai đoạn đầu Cách mạng Văn hóa, ông ta sớm trở thành Ủy viên Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc và là cố vấn cho “Nhóm Cách mạng Văn hóa,” cơ quan hàng đầu trong cuộc Cách mạng Văn hóa. 2. Beidaihe: là một nơi tham quan ven biển phía Đông Bắc của Bắc Kinh, nơi các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc thường xuyên nghỉ mát và có các cuộc họp quan trọng trong mùa hè. 3. Văn Tiến Dũng (1917 -) (**) là nhân vật lãnh đạo thứ hai trong quân đội Bắc Việt, sau tướng Võ Nguyên Giáp. Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam năm 1953-1978, chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1974-1975. Ông còn là ủy viên Bộ chính trị từ năm 1972-86, Phó Bộ trưởng cho đến khi trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa XHCN Việt Nam từ năm 1978-1980. Nghỉ hưu năm 1986. 4. Trong một cuộc trò chuyện riêng cùng ngày, Chu Ân Lai nói: “Sau khi Kosygin (***) đến thăm Việt Nam và hứa sẽ giúp đỡ Việt Nam, chúng tôi có những bất đồng mới với Liên Xô về yêu cầu của họ sử dụng hai sân bay của chúng tôi và đề nghị của họ vận chuyển vũ khí tới Việt Nam. Các ông ca ngợi Liên Xô giúp viện trợ rất nhiều cho các ông thì được. Nhưng mà các ông đề cập điều đó cùng với viện trợ của Trung Quốc là một sự xúc phạm đến chúng tôi”. Đặng Tiểu Bình nói thêm, “Vì vậy, từ bây giờ, các ông không nên nhắc đến sự viện trợ của Trung Quốc chung với sự viện trợ của Liên Xô”. —————————————————– Phụ chú: (*) Khrushchev: tức Nikita Sergeyevich Khrushchyov, là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, kế vị Stalin sau khi Stalin mất năm 1953. Khrushchev cũng giữ chức thủ tướng cùng với chức TBT từ năm 1958-1964. Đến năm 1964 Khrushchev bị chính những người đồng chí của mình hạ bệ, kể từ đó cho đến những năm còn lại của cuộc đời, Khrushchev luôn bị cơ quan tình báo KGB giám sát chặt chẽ. (**) Bài nói chuyện này có từ năm 1966, lúc đó Văn Tiến Dũng còn sống, do đó người ghi chú bản chính không ghi năm mất của Văn Tiến Dũng là 2002. (***) Kosygin: tức Aleksei Nikolayevich Kosygin là Thủ tướng Liên Xô từ năm 1964-1980, dưới thời Tổng bí thư Leonid Brezhnev. Bản Anh ngữ: www.wilsoncenter.org
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 9, 2015 8:14:10 GMT 9
Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn ĐồngLời người dịch: Các tài liệu này, có khi dài 1 trang, cũng có khi dài gần 20 trang. Nhưng các thông tin trong đó đều có liên quan với nhau và liên quan tới vai trò của Liên Xô, Trung Quốc trong cuộc chiến VN, cũng như VN “đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại”. Tất cả các bài này có liên quan đến âm mưu của TQ thôn tính VN, khi Mao Trạch Đông tuyên bố hồi tháng 8 năm 1965, tại cuộc họp Bộ Chính trị BCH Trung ương ĐCS Trung Quốc: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, gồm cả miền Nam Việt Nam, Thailand, Miến Điện, Malaysia, Singapore… Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy”. Theo ông Ilya Guiduk, nhà sử học người Nga, cho biết, số tài liệu này xuất phát từ cơ quan lưu trữ hồ sơ của Liên Xô. Khi Liên Xô sụp đổ, Nga đã tạo điều kiện cho các tổ chức khoa học tiếp xúc các tài liệu này. Trung tâm lưu trữ hồ sơ hiện hành (tên sau khi Liên Xô sụp đổ) đã ký thoả thuận với Trung tâm Wilson (và Viện hàn lâm khoa học Nga), cho phép các cơ quan này tiếp cận các tài liệu. Họ đã phân loại số tài liệu này và dịch ra tiếng Anh. —————————————————-“Cold War International History Project” – CWIHP 09-10-1965 Mô tả: Chu Ân Lai nói với Phạm Văn Đồng không hỗ trợ ý kiến về các tình nguyện viên Liên Xô đến Việt Nam và thảo luận về sự tham gia của Campuchia trong chiến tranh.Chu Ân Lai: … Trong thời kỳ Khrushchev nắm quyền, Liên Xô không thể chia rẽ chúng ta vì Khrushchev đã không giúp các ông nhiều. Bây giờ Liên Xô đang giúp các ông. Nhưng sự giúp đỡ của họ không phải thật lòng. Mỹ rất thích điều này. Tôi muốn nói cho ông biết ý kiến của tôi. Tốt hơn là không cần sự trợ giúp của Liên Xô. Đây có thể là ý kiến của những người cánh tả quá khích. Tuy nhiên, đó là ý của tôi, không phải của Trung ương Đảng CSTQ. … Bây giờ, vấn đề các tình nguyện viên quốc tế đến Việt Nam sẽ rất phức tạp. Nhưng như ông đã đề cập đến vấn đề này, chúng ta sẽ thảo luận và lúc đó ông có thể đưa ra quyết định của mình. Như ông hỏi ý kiến của tôi, tôi muốn nói với ông một điều sau đây: Tôi không ủng hộ ý kiến về các tình nguyện viên của Liên Xô đến Việt Nam, tôi cũng không [hỗ trợ] sự viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam. Tôi nghĩ không có viện trợ thì tốt hơn. Đó là ý kiến của riêng tôi, không phải ý kiến của Trung ương Đảng. Đồng chí Peng Zhen và La Ruiqing (2) có mặt ở đây hôm nay cũng đồng ý với tôi. [Đối với] Việt Nam, chúng tôi luôn muốn giúp đỡ. Trong tâm trí của chúng tôi, suy nghĩ của chúng tôi, chúng tôi không bao giờ nghĩ đến việc bán đứng Việt Nam. Nhưng chúng tôi luôn sợ những người theo chủ nghĩa xét lại đứng giữa chúng ta (3). Chu Ân Lai: … chiến tranh đã mở rộng ra ở miền Bắc Việt Nam. Do đó, Lào và Campuchia không thể không tham gia. Sihanouk hiểu điều đó. Khi chúng tôi đang đi tham quan ở Dương Tử, tôi hỏi ông ấy, làm thế nào đối phó với tình trạng này và liệu ông ấy có cần vũ khí hay không. Hiện nay, Trung Quốc đã cung cấp cho Campuchia 28.000 khẩu vũ khí. Sihanouk nói với tôi rằng số lượng này đủ để trang bị cho các lực lượng thường xuyên và cấp tỉnh của Campuchia và rằng tất cả vũ khí của Mỹ đã được thay thế. Tôi cũng hỏi ông ta xem liệu ông ta có cần thêm vũ khí không. Sihanouk trả lời rằng, bởi vì ông ấy không có đủ khả năng để gia tăng quân số, các loại vũ khí này đã đủ. Ông ấy chỉ yêu cầu máy bay chống pháo và vũ khí chống tăng. Đó là những gì ông ấy trả lời câu hỏi của tôi về vũ khí. Ông ấy cũng nói thêm rằng nếu chiến tranh bùng nổ, ông ấy sẽ rời khỏi Phnom Penh, đến các vùng nông thôn, nơi ông ấy đã xây dựng các căn cứ. Năm ngoái, Chủ tịch Lưu [Thiếu Kỳ] nói với Sihanouk: “đánh nhau quy mô lớn ở nước ông không bằng [đánh nhau] ở biên giới của chúng tôi”. Nếu Hoa Kỳ tấn công dọc biên giới Trung Quốc, Trung Quốc sẽ đưa các lực lượng tới đó, do vậy, làm giảm gánh nặng cho Campuchia. Bây giờ Sihanouk đã hiểu và chuẩn bị để về nông thôn và để lấy lại các vùng thành thị khi có điều kiện thuận lợi. Đó là những gì ông ấy nghĩ. Tuy nhiên, liệu các cán bộ của ông ta có thể thực hiện chính sách này hay không, lại là chuyện khác. Những thay đổi về tình hình này cho thấy, rằng Sihanouk đã chuẩn bị để hành động trong trường hợp có một cuộc xâm lược của Mỹ. Hiện nay, Sihanouk hỗ trợ mạnh mẽ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, bởi vì ông ta biết rằng các ông càng chiến đấu chống Mỹ thì dân Campuchia càng bớt gặp khó khăn hơn. Hơn nữa, Sihanouk hiểu rằng ông ta cần Trung Quốc. Nhưng cùng lúc, Sihanouk không muốn đứng về phía bên nào, bởi vì ông ta sợ mất sự hỗ trợ của Pháp, làm mất vị trí trung lập của ông ta. Ít ra, những gì ông ta nói cho thấy, ông ta có vẻ suy nghĩ và hiểu được tính logic của chiến tranh: nếu Hoa Kỳ mở rộng chiến tranh tới Bắc Việt, thì Hoa Kỳ sẽ mở rộng khắp nơi Đông Dương (4). —————————————– Ghi chú: 1. Phạm Văn Đồng nói chuyện với Chu Ân Lai tại Bắc Kinh trước khi ông ta đi thăm Moscow. Đây là cuộc họp thứ ba của phái đoàn Việt Nam tại Bắc Kinh. 2. Luo Ruiqing là Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng và là Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc cho đến khi bị thanh trừng vào tháng 12 năm 1965. 3. Trong cuộc hội đàm tổ chức tại Quảng Đông, ngày 8 tháng 11 năm 1965, Chu Ân Lai nói với Hồ Chí Minh rằng, “Mục đích của Liên Xô viện trợ cho Việt Nam là: (a) để cô lập Trung Quốc (b) cải thiện quan hệ Xô-Mỹ, (c) tiến hành các hoạt động lật đổ cũng như hành vi phá hoại, gây khó khăn cho Trung Quốc, và cũng có thể cho Việt Nam”. 4. Buổi nói chuyện này được xem như mối quan hệ tam giác giữa ĐCS Trung Quốc, Việt Nam, và Campuchia. Pol Pot (1923-1998) trở thành Tổng Bí thư Đảng Lao động Campuchia hồi năm 1963 (sau đó đổi tên thành Đảng Cộng sản Campuchia, và nói chung được gọi là Khơ-me đỏ), đã đến Hà Nội vào tháng 6 năm 1965 và đi đến Bắc Kinh vào cuối năm 1965. Ông ta đã gặp các nhà lãnh đạo đảng lỗi lạc của hai nước. Các bất đồng nghiêm trọng đã nảy sinh giữa ông ta và Lê Duẩn ở Hà Nội: Xem thên Thomas Engelbert và Christopher E. Goscha, “Falling Out Of Touch: Một nghiên cứu chính sách Cộng sản Việt Nam về một phong trào Cộng sản Campuchia đang trỗi dậy, 1930-1975” (Clayton, Victoria, Australia: Đại học Monash , 1995); và David Chandler, “Brother Number One: Tiểu sử chính trị của Pol Pot” (Boulder, CO: Westview, 1992), trang 73-77. Trong giai đoạn này, Pol Pot muốn đấu tranh vũ trang ở Campuchia, nhưng tại thời điểm này cả Việt Nam và Trung Quốc luôn muốn tránh bất kỳ cuộc đấu tranh nào chống lại Sihanouk. Họ muốn thấy Sihanouk tiếp tục chính sách trung lập của ông ta hơn, và nếu Hoa Kỳ can thiệp vào Campuchia, họ hy vọng rằng Sihanouk và những người cộng sản Campuchia sẽ tham gia lực lượng. Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng và Hoàng TùngCWIHP Mô tả: Chu Ân Lai đề nghị gửi thêm quân nhân vào Việt Nam, ông ta cũng chỉ trích báo chí Việt Nam viết về các cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc trong lịch sử.Chu Ân Lai: Còn về vấn đề thực tế báo chí Việt Nam thời gian gần đây đã đưa một số tài liệu về các cuộc xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Quốc chống lại Việt Nam thì sao? Hoàng Tùng (1920-2010) Hoàng Tùng: Không có tài liệu báo chí nào như thế. Tuy nhiên, một số viện nghiên cứu đang làm nghiên cứu về chủ đề lịch sử đó. Chu Ân Lai: Nhưng các ông đang nghiên cứu vấn đề này trong khi các ông đang tranh đấu chống lại Hoa Kỳ. [Các ông muốn] ám chỉ cái gì? … Chu Ân Lai: Chúng ta nên tận dụng con đường bộ cũng như tuyến đường biển qua ngả Campuchia. Tuy nhiên, tốt nhất là đường mòn Hồ Chí Minh, con đường chạy qua Lào vào miền Nam Việt Nam. Và chúng ta cũng nên tìm những con đường khác. Chúng tôi đồng ý điều mà các ông yêu cầu [liên quan tới] quân tiếp viện của chúng tôi về phòng không, để bảo vệ đường sắt, đường bộ của chúng tôi, và sự giúp đỡ của chúng tôi để xây dựng các con đường giao thông. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng có những hạn chế về điều đó. Lực lượng này không phải là quân tình nguyện chiến đấu của chúng tôi. Họ là lực lượng hậu cần. Do đó, chúng ta có thể từ chối yêu cầu của một số nước gửi quân tình nguyện đến Việt Nam, [nói] rằng các tình nguyện Trung Quốc đã có mặt ở Việt Nam. Nếu nói rằng đã có quân tình nguyện Trung Quốc tại miền Bắc Việt Nam, thì Cuba, Algeria, và Liên Xô, vv…có thể yêu cầu phải có quân tình nguyện của họ tại Việt Nam. Chu Ân Lai: … chiến lược đã được xác định: tiến hành một cuộc chiến kéo dài ở miền Nam, ngăn chặn các cuộc chiến mở rộng ra miền Bắc và sang Trung Quốc … ý kiến cơ bản của tôi là chúng ta nên kiên nhẫn. Kiên nhẫn đồng nghĩa với chiến thắng. Kiên nhẫn có thể gây nhiều khó khăn hơn, đau khổ hơn cho các ông. Tuy nhiên, trời, đất sẽ không sụp đổ và con người không thể bị tận diệt hoàn toàn. Vì vậy, kiên nhẫn có thể được đền bù bằng chiến thắng, làm thay đổi lịch sử, khuyến khích các nước châu Á, châu Phi, và châu Mỹ Latinh, và làm giảm tầm quan trọng của đế quốc Mỹ. Chúng tôi đề nghị gửi một số nhân viên quân sự Trung Quốc phục vụ trong đội ngũ cán bộ chỉ huy, hậu cần, hóa học, kỹ thuật, các lực lượng huấn luyện chính trị, tổng số sẽ là 100 người, được tổ chức thành 4 hoặc 5 nhóm, đến miền Nam Việt Nam. Họ có thể đi xa tới tỉnh [Bình] Trị Thiên, Tây Nguyên, các vùng ngoại ô Sài Gòn, hoặc tới trung tâm vùng đồng bằng sông Cửu Long. ————————————————- Ghi chú: 1. Hoàng Tùng (1920-2010), Giám đốc Nhà Xuất bản Sự Thật của Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP) trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Là Tổng Biên tập báo Nhân Dân (People’s Daily) từ năm 1951-1982 (có nguồn ghi từ năm 1954-1982: ND), từ năm 1960 là Phó và sau này là Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương Đảng Lao Động VN. Nghỉ hưu vào cuối thập niên 1980. Bản Anh ngữ: www.wilsoncenter.org ********************** Tiếp tục các thảo luận giữa Lưu Thiếu Kỳ, Lê Duẩn, Mao và Hoàng Văn Hoan Lời người dịch: Các tài liệu này, có khi dài 1 trang, cũng có khi dài gần 20 trang. Nhưng các thông tin trong đó đều có liên quan với nhau và liên quan tới vai trò của Liên Xô, Trung Quốc trong cuộc chiến VN, cũng như VN “đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại”. Tất cả các bài này có liên quan đến âm mưu của TQ thôn tính VN, khi Mao Trạch Đông tuyên bố hồi tháng 8 năm 1965, tại cuộc họp Bộ Chính trị BCH Trung ương ĐCS Trung Quốc: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, gồm cả miền Nam Việt Nam, Thailand, Miến Điện, Malaysia, Singapore… Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy”. Theo ông Ilya Guiduk, nhà sử học người Nga, cho biết, số tài liệu này xuất phát từ cơ quan lưu trữ hồ sơ của Liên Xô. Khi Liên Xô sụp đổ, Nga đã tạo điều kiện cho các tổ chức khoa học tiếp xúc các tài liệu này. Trung tâm lưu trữ hồ sơ hiện hành (tên sau khi Liên Xô sụp đổ) đã ký thoả thuận với Trung tâm Wilson (và Viện hàn lâm khoa học Nga), cho phép các cơ quan này tiếp cận các tài liệu. Họ đã phân loại số tài liệu này và dịch ra tiếng Anh. ———————————————————- CWIHP Lê Duẩn (1907- 1986) 1- Thảo luận giữa Lưu Thiếu Kỳ và Lê Duẩn 08-04-1965 Mô tả: Trung Quốc cung cấp dịch vụ quân sự cho Việt Nam với điều kiện Việt Nam mời họ trước. Việt Nam chấp nhận. Lê Duẩn: Chúng tôi muốn có một số phi công tình nguyện, lính tình nguyện… và các tình nguyện viên khác, gồm cả các đơn vị kỹ thuật cầu đường. Lưu Thiếu Kỳ: Chính sách của chúng tôi là, chúng tôi sẽ làm hết sức mình để hỗ trợ các ông. Chúng tôi sẽ cung cấp bất cứ điều gì các ông cần và chúng tôi đang ở trong vị thế cung cấp … Nếu các ông không mời chúng tôi, chúng tôi sẽ không đến, và nếu các ông mời một đơn vị quân đội của chúng tôi, chúng tôi sẽ gửi đơn vị đó tới các ông. Thế chủ động sẽ hoàn toàn thuộc về các ông. Lê Duẩn: Chúng tôi muốn các phi công tình nguyện Trung Quốc giữ vai trò ở bốn khía cạnh: (1) hạn chế các vụ đánh bom của Mỹ vào các khu vực phía Nam vĩ tuyến 19 hoặc 20; (2) bảo vệ sự an toàn cho Hà Nội, (3) bảo vệ một số đường giao thông chính, và (4) nâng cao tinh thần nhân dân Việt Nam. —————————————— Ghi chú: 1. Cùng ngày, Bắc Việt ban hành thể thức bốn điểm hòa bình để đáp lại tuyên bố của Tổng thống Johnson sẵn sàng cho “các cuộc thảo luận vô điều kiện”. Bản tiếng Anh: www.wilsoncenter.org——————————– [b ]2- Thảo luận giữa Mao Trạch Đông và Hoàng Văn Hoan[/b] 16-07-1965 Mô tả: Mao Trạch Đông khuyên Hoàng Văn Hoan leo thang [chiến tranh] mà không cần do dự, khi chiến tranh đã bắt đầu như thế.Mao Trạch Đông: … Tất cả chúng ta đều tin tưởng vào Hiệp Định Genève, nhưng kẻ thù đã không tôn trọng. Sau khi các ông tập hợp quân đội, họ bắt đầu giết người. Họ giết người ở miền Nam để dạy cho những người này một bài học. Lúc đầu, phương châm của chúng ta chủ yếu là đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự chỉ là thứ yếu. Sau đó, đấu tranh chính trị và quân sự như nhau. Và sau này là đấu tranh quân sự sẽ là chính, đấu tranh chính trị sẽ hỗ trợ cho đấu tranh quân sự. Do vậy, chúng ta cũng leo thang từng bước. Lúc đầu, chúng ta tiêu diệt một trung đội và sau đó một đại đội. Sau đó chúng ta tiêu diệt một tiểu đoàn và một hoặc hai trung đoàn. Bằng cách đó, chúng ta có thể tiêu diệt 4-5 tiểu đoàn trong mỗi chiến dịch. Chúng ta nên leo thang và chúng ta nên biết leo thang từng bước bằng cách nào. ————————————————- Ghi chú: 1. Hoàng Văn Hoan đứng đầu đoàn đại biểu Quốc hội Bắc Việt tới Trung Quốc. ************************************ Thảo luận giữa Mao Trạch Đông và Phạm Văn Đồng“Cold War International History Project” – CWIHP Mô tả: Mao Trạch Đông tư vấn cho Phạm Văn Đồng về cách xử lý cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam và bảo vệ miền Bắc Việt Nam.Mao Trạch Đông và Phạm Văn Đồng (1), Hoàng Văn Hoan (2) Bắc Kinh, 05 tháng 10 năm 1964, từ 7-7:50 (chiều?) Mao Trạch Đông: Theo đồng chí Lê Duẩn (3), các ông đã có kế hoạch điều động một sư đoàn [vào Nam]. Có lẽ các ông chưa gửi sư đoàn đó đi (4). Thời điểm nào các ông nên gửi đi thì rất quan trọng. Liệu Hoa Kỳ sẽ tấn công miền Bắc hay không, họ vẫn chưa đưa ra quyết định. Bây giờ, ngay cả Hoa Kỳ vẫn chưa có quan điểm trong việc giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam. Nếu họ tấn công miền Bắc, [có thể họ cần phải] đánh trong một trăm năm, và họ sẽ bị mắc kẹt ở đó. Vì vậy, cần phải xem xét cẩn thận. Người Mỹ đã đưa ra các tuyên bố đáng sợ. Họ tuyên bố rằng họ sẽ chạy theo [các ông], và sẽ đuổi đất nước các ông, và họ sẽ tấn công lực lượng không quân của chúng tôi. Theo tôi, những lời lẽ này có nghĩa là họ không muốn chúng tôi đánh cuộc chiến lớn, và rằng [họ không muốn] lực lượng không quân của chúng tôi tấn công các tàu chiến của họ. Nếu [chúng ta] không tấn công tàu chiến của họ, họ sẽ không chạy theo các ông. Có phải đó là những điều họ muốn nói? Người Mỹ đang che giấu điều gì đó. Phạm Văn Đồng: Đây cũng là suy nghĩ của chúng tôi. Hoa Kỳ đang đối mặt với nhiều khó khăn, và không phải dễ dàng để họ mở rộng chiến tranh. Vì vậy, điều mà chúng tôi cân nhắc đó là chúng ta nên cố gắng hạn chế cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam trong phạm vi chiến tranh đặc biệt, và phải cố gắng để đánh bại kẻ thù trong phạm vi chiến tranh đặc biệt. Chúng ta nên cố gắng hết sức không để cho đế quốc Mỹ biến cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam thành cuộc chiến giới hạn, và cố gắng hết sức không để cho cuộc chiến mở rộng ra miền Bắc Việt Nam. Chúng ta phải chấp nhận một chiến lược rất khéo léo, và không nên kích động họ (Hoa Kỳ). Bộ Chính trị của chúng tôi đã ra quyết định về vấn đề này, và hôm nay tôi xin báo cáo với Mao Chủ tịch. Chúng tôi tin rằng điều này là hoàn toàn khả thi. Mao Trạch Đông: Vâng. Phạm Văn Đồng: Nếu Hoa Kỳ dám bắt đầu một cuộc chiến tranh giới hạn, chúng tôi sẽ đánh lại và sẽ giành chiến thắng. Mao Trạch Đông: Vâng, các ông có thể giành chiến thắng (5). Chế độ bù nhìn miền Nam Việt Nam có vài trăm ngàn quân. Các ông có thể chiến đấu chống lại họ, các ông có thể loại bỏ một nửa, và các ông có thể loại bỏ tất cả. [Các ông] dư sức thực hiện nhiệm vụ này. Hoa Kỳ không thể gửi nhiều quân đến miền Nam Việt Nam. Mỹ có tổng cộng 18 sư đoàn. Họ phải giữ một nửa, tức là chín sư đoàn ở nhà, và có thể gửi ra nước ngoài chín sư đoàn. Trong các sư đoàn này, một nửa ở châu Âu, và một nửa ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Và họ có nhiều đơn vị đóng quân ở châu Á [hơn những nơi khác trong khu vực], cụ thể là ba sư đoàn. Một ở Nam Hàn, một ở Hawaii, và sư đoàn thứ ba thì ở nơi nào không rõ ràng. Họ cũng chưa có tới một sư đoàn thủy quân lục chiến ở Okinawa, Nhật Bản. Hiện tất cả lính Mỹ ở miền Nam Việt Nam thuộc về hải quân, và họ là đơn vị thuộc hệ thống hải quân. Theo hải quân Hoa Kỳ, họ đã đưa thêm tàu vào Tây Thái Bình Dương nhiều hơn ở châu Âu. Ở Địa Trung Hải, có Đệ lục Hạm đội, ở đây (Thái Bình Dương) có Đệ thất Hạm đội. Họ đã triển khai bốn tàu sân bay gần các ông, nhưng họ đã bị các ông xua đuổi. …. Mao Trạch Đông: Nếu người Mỹ dám chấp nhận rủi ro để đưa chiến tranh vào miền Bắc, cuộc xâm lược này cần được xử lý như thế nào? Tôi đã thảo luận vấn đề này với đồng chí Lê Duẩn. Dĩ nhiên, [trước tiên] cần xây dựng các công trình phòng thủ dọc theo bờ biển. Cách tốt nhất là xây dựng các công trình phòng thủ như những công trình mà [chúng tôi đã xây dựng] trong cuộc chiến Triều Tiên, để các ông có thể ngăn chặn kẻ thù xâm nhập vào bên trong đất liền. Tuy nhiên, thứ hai, nếu Mỹ quyết tâm xâm chiếm đất liền, các ông có thể để cho họ làm chuyện đó. Các ông nên chú ý đến chiến lược của mình. Các ông không nên để lực lượng chính tham gia một cuộc đối đầu với họ, và phải duy trì lực lượng chính của các ông. Ý kiến của tôi là, nếu núi xanh còn đó, các ông lo gì chuyện thiếu củi? Phạm Văn Đồng: Đồng chí Lê Duẩn đã báo cáo ý kiến của Mao Chủ tịch với Uỷ viên [BCH] Trung ương của chúng tôi. Chúng tôi tiến hành đánh giá tổng thể tình hình ở miền Nam và miền Bắc, và ý kiến của chúng tôi giống như ý kiến của Mao Chủ tịch. Ở miền Nam Việt Nam, chúng tôi nên tích cực đấu tranh chống lại [kẻ thù], và ở Bắc Việt Nam, chúng tôi nên chuẩn bị [cho kẻ thù leo thang chiến tranh]. Nhưng chúng tôi cũng nên thận trọng. Mao Trạch Đông: ý kiến của chúng tôi cũng giống vậy. Một số người khác nói rằng chúng ta đang tham chiến. Thực tế là, chúng tôi đang thận trọng. Nhưng có thể nói [rằng chúng ta đang tham chiến]. …. Mao Trạch Đông: Các ông càng đánh bại họ một cách triệt để, họ càng cảm thấy thoải mái hơn. Ví dụ như, các ông đánh bại người Pháp, và họ sẵn sàng đàm phán với các ông. Người Algérie đánh bại người Pháp, và Pháp sẵn sàng đi đến hòa bình với Algeria. [Thực tế] chứng minh rằng, các ông càng đánh bại họ, thì họ càng cảm thấy thoải mái hơn. …. Mao Trạch Đông: Có đúng là ông được mời tham dự các cuộc họp ở Hội đồng Bảo an [LHQ]? Chu Ân Lai: Điều này vẫn còn bí mật. Lời mời đã được U Thant (6) thực hiện. Mao Trạch Đông: Và U Thant đã mời qua ai? Chu Ân Lai: Liên Xô. Mao Trạch Đông: Vậy Liên Xô là trung gian. Phạm Văn Đồng: Theo Đại sứ Liên Xô tại Việt Nam, một mặt, họ đã gặp U Thant, và mặt khác họ đã gặp [Ngoại trưởng Mỹ Dean] Rusk. Mao Trạch Đông: Không hẳn là một điều tệ hại để thương lượng. Ông có đủ khả năng để đàm phán. Một vấn đề khác là liệu việc đàm phán sẽ thành công hay không. Chúng ta cũng có đủ trình độ để thương lượng [với người Mỹ]. Chúng ta đang đàm phán với Mỹ về vấn đề Đài Loan, và các cuộc đàm phán Trung – Mỹ cấp đại sứ hiện đang chuẩn bị ở Warsaw. Các cuộc đàm phán đã kéo dài hơn chín năm. Chu Ân Lai: Hơn 120 cuộc họp đã được tổ chức. Mao Trạch Đông: Các cuộc đàm phán sẽ tiếp tục. Một lần, trong một cuộc họp tại Geneva, họ không muốn tiếp tục đàm phán. Họ rút những người đại diện, chỉ để lại một người ở đó phụ trách vấn đề truyền thông và liên lạc. Chúng tôi đã cho họ một đòn bằng cách gửi họ một lá thư, ra thời hạn cho họ gửi đại diện trở lại. Họ đã quay trở lại đàm phán sau đó, nhưng họ đã không trở lại đúng hạn chúng tôi đưa ra, họ đã trở lại trễ vài ngày. Họ nói rằng đó là tối hậu thư của chúng ta. Vào thời gian đó, một số người của chúng ta tin rằng, chúng ta không nên ra thời hạn cho họ, cũng không nên đưa ra tuyên bố gay gắt, và rằng làm như vậy đã trở thành tối hậu thư. Nhưng chúng ta đã làm, và người Mỹ đã [trở lại đàm phán]. ———————————————— Ghi chú: 1. Phạm Văn Đồng (1906 – 2000), thành viên lâu năm của Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP), làm việc gần gũi với Hồ Chí Minh và là Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt) cho đến năm 1980 (từ năm 1976, trở thành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). 2. Hoàng Văn Hoan (1905-1991), thành viên lâu năm của ĐCS Đông Dương và là ủy viên Bộ Chính trị Đảng Lao Động VN từ năm 1960-1976. Hoan là cầu nối quan trọng giữa Bắc Việt và Trung Quốc, đại sứ Bắc Kinh năm 1950-1957; dẫn đầu nhiều đoàn đại biểu đến Trung Quốc như Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Bắc Việt vào thập niên 1960. Bị mất ảnh hưởng sau cái chết của Hồ Chí Minh vào tháng 9 năm 1969. Năm 1973, một lần nữa Hoan đến Trung Quốc sắp xếp cho chuyến thăm [Trung Quốc] của Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng. Ông đã đào thoát sang Trung Quốc hồi tháng 7 năm 1979. Năm 1986, ông xuất bản cuốn hồi ký của mình (Giọt nước trong biển cả), đã đưa ra một cái nhìn thoáng qua, hiếm hoi về cuộc sống bên trong của các ủy viên ĐCS Đông Dương/ Đảng Lao Động Việt Nam. 3. Lê Duẩn (1908-1986): Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (khu vực phía Nam), sau đó là Trung ương Cục miền Nam thời Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Gửi thư cho các lãnh đạo đảng phản đối Hiệp định Geneve năm 1954. Từ 1956, quyền Tổng Bí thư Đảng Lao Động Việt Nam. (Hồ Chí Minh chính thức làm Tổng Bí thư). Từ năm 1957-1959, là người cho trở lại các cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Từ năm 1960 đến khi mất năm 1986, Lê Duẩn là Tổng Bí thư Đảng Lao Động Việt Nam (năm 1976 đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam). 4. Ngay sau sự cố Vịnh Bắc Bộ, Lê Duẩn đến thăm Bắc Kinh và gặp Mao vào ngày 13 tháng 8 năm 1964. Hai lãnh đạo trao đổi các báo cáo tình báo về hai sự kiện. Lê Duẩn xác nhận với Mao rằng sự cố đầu tiên (ngày 2 tháng 8) là kết quả của các quyết định do người chỉ huy Việt Nam thực hiện tại hiện trường, và Mao Trạch Đông nói với Lê Duẩn rằng, theo thông tin tình báo Bắc Kinh đã nhận được, sự cố thứ hai vào ngày 4 tháng 8 “không phải là một cuộc tấn công có chủ ý của người Mỹ”, nhưng gây ra bởi “phán đoán sai lầm của người Mỹ, dựa trên thông tin sai”. Có cảm giác triển vọng về cuộc chiến sẽ được mở rộng vào miền Bắc Việt Nam, Mao nghĩ rằng “có vẻ như người Mỹ không muốn chiến tranh, các ông không muốn chiến tranh, và chúng tôi không nhất thiết muốn chiến tranh”, và rằng “vì không ai muốn có một cuộc chiến, chiến tranh sẽ không xảy ra”. Lê Duẩn đã nói với Mao rằng “sự hỗ trợ từ Trung Quốc là không thể thiếu, nó thực sự có liên quan đến số phận của quê hương của chúng tôi… Những người theo chủ nghĩa xét lại của Liên Xô muốn làm cho chúng ta mặc cả, điều này đã rõ ràng”. Ghi chú của người biên tập: Trong một số chú thích cuối trang chúng tôi có thêm thông tin bổ sung từ các nguồn tài liệu giống như các tài liệu của họ. 5. Ngày 22 tháng 1, năm 1965, Chu Ân Lai nói với một phái đoàn quân sự Việt Nam: “Theo như cuộc chiến tranh ở Việt Nam, chúng ta nên liên tục loại bỏ các lực lượng chính của kẻ thù khi họ ra ngoài để tiến hành các hoạt động càn quét, do đó khả năng chiến đấu của lực lượng kẻ thù sẽ bị suy yếu, trong khi quân đội của chúng ta sẽ được củng cố. Chúng ta nên cố gắng tiêu diệt hầu hết các chiến lược ấp của kẻ thù vào cuối năm nay. Nếu điều này được thực hiện, ngoài sự phá sản chính trị của kẻ thù, có khả năng chiến thắng sẽ đến sớm hơn mong đợi ban đầu của chúng ta”. 6. U Thant (1909-1974): Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc từ năm 1962-1971.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 9, 2015 8:21:58 GMT 9
Thảo luận giữa Mao Trạch Đông và Hồ Chí MinhLời người dịch: Các tài liệu này, có khi dài 1 trang, cũng có khi dài gần 20 trang. Nhưng các thông tin trong đó đều có liên quan với nhau và liên quan tới vai trò của Liên Xô, Trung Quốc trong cuộc chiến VN, cũng như VN “đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại”. Tất cả các bài này có liên quan đến âm mưu của TQ thôn tính VN, khi Mao Trạch Đông tuyên bố hồi tháng 8 năm 1965, tại cuộc họp Bộ Chính trị BCH Trung ương ĐCS Trung Quốc: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, gồm cả miền Nam Việt Nam, Thailand, Miến Điện, Malaysia, Singapore… Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy”. Theo ông Ilya Guiduk, nhà sử học người Nga, cho biết, số tài liệu này xuất phát từ cơ quan lưu trữ hồ sơ của Liên Xô. Khi Liên Xô sụp đổ, Nga đã tạo điều kiện cho các tổ chức khoa học tiếp xúc các tài liệu này. Trung tâm lưu trữ hồ sơ hiện hành (tên sau khi Liên Xô sụp đổ) đã ký thoả thuận với Trung tâm Wilson (và Viện hàn lâm khoa học Nga), cho phép các cơ quan này tiếp cận các tài liệu. Họ đã phân loại số tài liệu này và dịch ra tiếng Anh. ——————————————————- “Cold War International History Project” – CWIHP Chủ tịch Hồ: Chúng tôi phải cố gắng xây dựng đường giao thông mới. Chúng tôi đã thảo luận với đồng chí Tao Zhu (1) về vấn đề này. Nếu Trung Quốc có thể giúp chúng tôi xây dựng một số tuyến đường ở miền Bắc, gần biên giới với Trung Quốc, chúng tôi sẽ gửi các lực lượng để dành cho công việc này ở miền Nam. Mao Trạch Đông: Đó là một chính sách hay. Tao Zhu: Tôi đã báo cáo điều đó qua điện thoại với đồng chí Chu Ân Lai. Ông ấy nói: Trung Quốc có thể làm điều đó. Hồ Chủ tịch: Trước hết, chúng tôi cần Trung Quốc giúp chúng tôi xây dựng 6 tuyến đường từ các khu vực biên giới. Những con đường này chạy về phía Nam, đi qua phía sau của chúng tôi. Và trong tương lai nó sẽ được kết nối với phía trước. Hiện tại, chúng tôi có 30 ngàn người xây dựng các tuyến đường này. Nếu Trung Quốc giúp chúng tôi, những người này sẽ được gửi vào Nam. Đồng thời chúng tôi phải giúp đỡ các đồng chí Lào để xây dựng các tuyến đường từ đường Samneua đến Xiengkhoang và từ Xiengkhoang đến Hạ Lào, và đến miền Nam Việt Nam. Mao Trạch Đông: Vì chúng tôi sẽ đánh những trận đánh quy mô lớn trong tương lai, sẽ rất tốt nếu chúng tôi xây dựng các tuyến đường tới Thái Lan … Hồ Chủ tịch: Nếu Mao Chủ tịch đồng ý, Trung Quốc sẽ giúp chúng tôi, chúng tôi sẽ gửi người của chúng tôi vào Nam. Mao Trạch Đông: Chúng tôi đồng ý theo yêu cầu của ông. Chúng tôi sẽ làm điều đó. Không có vấn đề gì (2). ——————————————- Ghi chú: 1. Tao Zhu là Ủy viên Bộ Chính trị và Bí thư Thứ nhất Trung ương ĐCS Trung Hoa – Cục Hoa Nam. Sau này, ông ta bị thanh lọc trong cuộc Cách mạng Văn hóa. 2. Tại Hà Nội vào ngày 13, Tao Zhu đã nói với ông Hồ rằng “Trung ương Đảng và Chủ tịch Mao đã đưa bốn tỉnh biên giới của chúng tôi chịu trách nhiệm làm hậu phương trực tiếp cho Việt Nam. Dĩ nhiên, toàn bộ Trung Quốc là hậu phương của Việt Nam. Nhưng bốn tỉnh này đại diện trực tiếp”. ********************** Thảo luận giữa Kiều Quán Hoa, Thứ trưởng Ngoại giao TQ và Đại sứ VN Ngô Minh LoanCold War International History Project”- CWIHP Ngày 05-13-1967 Mô tả: Kiều Quán Hoa không đồng ý về kế hoạch chuyển máy bay của Liên Xô qua Việt Nam bằng đường hàng không thay vì bằng đường xe lửa. Kiều Quán Hoa: Tôi có một vấn đề cần thảo luận với đồng chí đại sứ. Đây là một vấn đề cụ thể liên quan đến viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam. Ngày 6 tháng 5 năm 1967, chúng tôi được đồng chí Thứ trưởng Nghiêm Bá Đức (1) và đồng chí Phạm Thanh Hà (2) thông báo ở Hà Nội và Bắc Kinh rằng, tháng 5 và tháng 6 năm 1967, Liên Xô sẽ cung cấp cho Việt Nam 24 máy bay Mig-17 và Mig-21 (12 máy bay mỗi loại) và chúng tôi cũng được yêu cầu giúp vận chuyển những máy bay này đi qua ngõ Trung Quốc. Ngày 9 tháng 5 năm 1967, đồng chí Phạm Thanh Hà chính thức thông báo với Ủy ban Kinh tế Đối ngoại của chúng tôi là, 24 máy bay này sẽ được vận chuyển bằng đường xe lửa. Sẽ có hai chuyến hàng, mỗi chuyến có thể chở 12 máy bay. Tuy nhiên, cùng vấn đề này, phía Liên Xô thông báo cho chúng tôi khác đi: ngày 8 tháng 5, họ yêu cầu máy bay AN-12 của họ chở 24 máy bay này đi qua vùng trời của Trung Quốc trong khoảng thời gian 10 ngày, từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 24 tháng 5 năm 1967. Ngày 9 tháng 5 năm 1967, đồng chí Nghiêm Bá Đức tại Hà Nội đề xuất kế hoạch vận chuyển bằng đường hàng không. Lãnh đạo của chúng tôi đặt nặng vấn đề này trong chương trình nghị sự. Chúng tôi đã nghiên cứu yêu cầu của cả hai phía Việt Nam và Liên Xô rất cẩn thận. Thay mặt chính phủ Trung Quốc, tôi muốn thông báo cho đồng chí đại sứ, rằng chúng tôi đồng ý với kế hoạch đề xuất của đồng chí Phạm Thanh Hà về việc vận chuyển 24 máy bay bằng đường xe lửa, chứ không phải bằng kế hoạch vận chuyển bằng đường hàng không. Việc vận chuyển bằng đường hàng không 24 máy bay này là một vấn đề quan trọng. Như đồng chí Đại sứ đã biết, ý kiến của chúng tôi từ lâu khác với ý kiến của phía Liên Xô. Từ đầu năm 1965, khi viện trợ của Liên Xô bắt đầu đến Việt Nam, nhiều lần Liên Xô đề nghị chuyển hàng đến Việt Nam bằng đường hàng không, qua vùng trời của Trung Quốc. Nói chung, chúng tôi không đồng ý với ý kiến đó. Trước đây, Việt Nam cũng không đồng ý vận chuyển bằng đường hàng không, bởi vì các ông hiểu lập trường của chúng tôi [về vấn đề này]. Lần này, tôi muốn nói rõ ràng hơn với các đồng chí Việt Nam về lý do tại sao Liên Xô muốn vận chuyển hàng viện trợ cho Việt Nam bằng phương pháp này. Trong vài năm qua, bằng cách sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng của mình, Liên Xô đã và đang cố gắng công bố công khai số hàng viện trợ với quy mô lớn cho Việt Nam. Chúng tôi cho rằng Liên Xô cố ý làm như vậy để cho Hoa Kỳ biết về khoản viện trợ quy mô lớn của Liên Xô cho Việt Nam và làm như vậy, Liên Xô tiết lộ một số bí mật cho phía Mỹ. Trong vài năm qua, chúng tôi giúp Việt Nam vận chuyển hàng viện trợ bằng tàu hỏa, rất an toàn và kịp thời. Phía Việt Nam cũng đã rất hài lòng. Vậy tại sao lần này Liên Xô đòi vận chuyển bằng đường hàng không? Nếu Liên Xô phải sử dụng đến việc vận chuyển bằng đường hàng không với quy mô lớn, máy bay do thám Mỹ – vốn luôn bay trên bầu trời Trung Quốc – sẽ phát hiện ra ngay, sau khi máy bay của Liên Xô cất cánh khỏi Irkutsk. Lập trường của chúng tôi về vấn đề này rõ ràng đối với Việt Nam: làm như vậy, Liên Xô muốn khoe khoang với Hoa Kỳ [về khoản viện trợ cho Việt Nam], công khai tiết lộ bí mật quân sự cho kẻ thù. Họ cũng sử dụng viện trợ cho Việt Nam để kiểm soát tình hình và hợp tác với Mỹ, để buộc Việt Nam phải chấp nhận đàm phán hòa bình. Báo chí phương Tây thậm chí còn nói rằng Liên Xô tăng cường viện trợ cho Việt Nam để tạo ra tình trạng đối đầu trực tiếp giữa Liên Xô – Mỹ, điều này sẽ dọn đường cho thỏa hiệp. Tôi đưa nhận xét của chúng tôi về vấn đề này để cho các ông hiểu rõ lập trường của chúng tôi. Tuy nhiên, chúng tôi không có ý định áp đặt nó lên các ông. Tóm lại, chúng tôi cho rằng: (1) đề nghị của Liên Xô về vận chuyển bằng đường hàng không là có ý xấu và là một âm mưu, (2) việc vận chuyển những chiếc máy bay này là một hành động quân sự lớn, nhưng Liên Xô đã không tham khảo ý kiến với chúng tôi và buộc chúng tôi phải chấp nhận. Điều này không có gì khác hơn là thái độ của người theo chủ nghĩa Sô vanh. Ghi chú: 1. Nghiêm Bá Đức, Thứ trưởng Bộ Ngoại thương VN Dân chủ Cộng hòa từ năm 1954, thành viên của đoàn đại biểu kinh tế đến Liên Xô và Đông Âu giữa năm 1965 và 1975. Sau đó làm cố vấn kinh tế tại Lào. 2. Phạm Thanh Hà là sĩ quan hậu cần quân sự của Quân đội Nhân dân Việt Nam, là người dẫn đầu phái đoàn viện trợ quân sự của Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh từ năm 1965-1973. *************************************************** Liên Xô viện trợ cho Việt NamTác giả: Albert Parry. Ngọc Thu chuyển ngữ Bài viết này đã được viết lại từ bản gốc, do báo THE REPORTER đăng ngày 12 tháng 1 năm 1967. Bản quyền © 1967 thuộc The Reporter Magazine Company. Tiến sĩ Parry là giáo sư về Văn minh và Ngôn ngữ Nga và là Chủ tịch Khoa Nghiên cứu Nga tại Đại học Colgate, Hamilton, New York. Ông là tác giả của quyển sách Russia’s Rockets and Missiles and The New Class Divided: Khoa học và Công nghệ chống lại Chủ nghĩa Cộng sản.Mùa hè năm ngoái, [phóng viên] Ivan Shchedrov của báo Pravda đi cùng với một đơn vị Việt Cộng khi tìm cách đi qua khu rừng ở miền Nam, Việt Nam, khoảng 35 dặm về phía tây bắc Sài Gòn. Ông đã viết trên báo Pravda về kinh nghiệm của mình mặc dù không tiết lộ nhiều sự kiện quan trọng. Gần đây, hai nhà quay phim truyền hình người Liên Xô, Oleg Artseulov và Vladimir Komarov, trở về từ miền Nam, Việt Nam, nơi mà họ đã sống và đi lại hàng tuần với các du kích quân của vùng đầm lầy và ruộng lúa thuộc Đồng bằng sông Cửu Long. Tháng 9 năm 1966, báo Komsomolskaya Pravda (báo khổ nhỏ của Nga, khác với báo Pravda: ND) đăng bốn bài viết dài về cuộc phiêu lưu của Artseulov. Vào cuối tháng 10 và đầu tháng 11, Komarov đã viết về những ấn tượng của ông ở miền Nam Việt Nam trên báo Izvestiya. Đánh giá về 16 bức ảnh được đăng lại trên hai tờ báo, tất cả đều thú vị và đầy sức thuyết phục mặc dù hơi tối, hai người Liên Xô đã cung cấp nhiều hình ảnh đáng chú ý. Sự hiện diện của Liên Xô Từ những tin tức như thế mà người ta có cảm giác về sự hiện diện của Liên Xô ngày càng gia tăng tại Việt Nam. Những bức ảnh có thể cho ra những mẩu thông tin, một số ngẫu nhiên và rải rác tuy không đáng kể, trên báo chí Liên Xô và Đông Âu khác, việc giám sát các bài viết về các chương trình phát sóng thường xuyên gây ngạc nhiên về chủ đề bắt nguồn từ các đài phát thanh Đông Âu; và các tin tức về chủ đề đó đã đến với chúng tôi từ hàng loạt các nhà ngoại giao không cộng sản, những người lính, thủy thủ, phóng viên, du khách, và các nhà quan sát khác ở Đông Nam Á. Và một điều rõ ràng là: Liên Xô đang đẩy mạnh viện trợ cho Việt Nam. Cái giá đưa hàng viện trợ vào trong nước (Bắc Việt) là cả một vấn đề đối với Liên Xô. Liên Xô ngày càng gia tăng việc gửi hàng bằng đường biển, dài 7.500 dặm, từ Đông Âu thay vì dựa vào sự hợp tác không rõ ràng của Trung Quốc, qua việc cho phép người và trang thiết bị vận chuyển bằng đường bộ. Mãi cho đến gần đây, trong khi phần lớn hàng viện trợ của Liên Xô vẫn được chuyển bằng đường sắt và xe tải qua ngả Trung Cộng, mỗi cuộc đột kích của Mỹ trên các con lộ ở Việt Nam từ biên giới Trung Quốc hướng về phía Nam, đã cho Bắc Kinh thêm một lý do để ngăn chặn hoặc làm chậm các chuyến hàng của Liên Xô, sau đó [Trung Quốc] đổ lỗi cho Liên Xô về việc cung cấp nhỏ giọt và chậm chạp. Mục tiêu hàng đầu của Bắc Kinh là buộc Moscow gia tăng viện trợ bằng đường biển và do đó gây ra sự phong tỏa của Mỹ về giao thông đường biển của Liên Xô cũng như các cuộc tấn công của Mỹ vào cảng Hải Phòng. Với diễn biến như thế, Trung Quốc hy vọng sẽ dẫn đến sự tuyệt giao giữa Moscow và Washington. Không phong tỏa Mặc dù một số người trong Quốc hội Mỹ và những người Mỹ khác luôn bực tức, cho đến nay vẫn chưa có sự phong tỏa. Nhưng Hoa Kỳ đã bắt đầu ném bom ở vùng ngoại ô Hải Phòng, và vỏ bom và đạn của Mỹ đã rơi gần những con tàu của Liên Xô: vài thủy thủ Liên Xô đã bị thương. Ngoài ra, các đơn vị hải quân Mỹ liên tục theo dõi và truy vấn, bằng xêmapho (semaphore), các con tàu cộng sản trên đường đến Việt Nam. Tuy nhiên, dù có một vài ghi nhận về sự bực tức trong phản đối ngoại giao, nhưng Liên Xô an tâm rằng, Hoa Kỳ không sử dụng đến bất cứ biện pháp nghiêm ngặt nào trên biển và hàng không như cuộc khủng hoảng Cuba năm 1962, và họ (Liên Xô) tiếp tục gia tăng sự tiếp tế cho Bắc Việt bằng đường biển. Nói chung, người ta không biết rằng Trung Quốc cũng có giao thương bằng đường biển như vậy với Bắc Việt. Hồi giữa tháng 8 năm 1966, tin tức từ Hong Kong cho thấy, cái gọi là giao thông xã hội chủ nghĩa đi vào Hải Phòng, trung bình mỗi tháng gồm có từ 10-15 tàu Trung Cộng (Red China), ngoài 6-8 tàu của Liên Xô và 5 tàu từ các nước Đông Âu, mỗi tàu chở từ 6.000 đến 10.000 tấn hàng. Tuy nhiên, Chính phủ Liên Xô tuyên bố rằng, phần lớn giao thông bằng đường biển là đi đến Hải Phòng. Tháng 8 năm ngoái, Liên Xô tuyên bố, hơn phân nửa trong tất cả các con tàu lúc đó đi vào Hải Phòng là tàu đăng ký từ Liên Xô. “Odessa-Mamma”, là tên gọi trìu mến mà Liên Xô gọi bến cảng, là nơi quan trọng nhất của tất cả sự vận chuyển này. Một bản tin bằng tiếng Anh phát đi từ Moscow đến Nam Á vào ngày 23 tháng 12 năm 1965, đã hoan hỉ: “Odessa là cảng lớn nhất trên Biển Đen. Tuyến đường bận rộn nhất của nó là tuyến đường đi đến Hải Phòng. Một đoàn tàu lớn chở hàng liên tục miệt mài trên tuyến đường này”. Khi đế chế phương Đông kết thúc, cảng Vladivostok cũng đóng một vai trò quan trọng. Tinh thần của những công nhân bốc vác địa phương được giữ vững bằng các cuộc biểu tình thường xuyên. Hỗ trợ thủy thủ Liên Xô Các tuyên bố chính thức của Liên Xô ca ngợi thủy thủ Liên Xô đã giúp đỡ các công nhân bốc xếp ở cảng Bắc Việt, bốc dỡ hàng trên tàu xong trong thời gian kỷ lục. Tuy nhiên, có thể phỏng đoán rằng, một phần của sự hăm hở của thủy thủ trong việc giúp đỡ này bắt nguồn từ mong muốn giảm bớt thời gian nguy hiểm của họ ở tại các cảng Bắc Việt. Báo cáo không chính thức từ các cảng Liên Xô có khuynh hướng xác nhận điều này. Không chỉ vì lý do an toàn, mà còn vì lý do tinh thần chiến đấu của các thủy thủ dường như được tham gia vào thực tế, theo đó một số tàu Liên Xô được công bố là đi đến các nước Mỹ Latin, cho đến khi những con tàu này đi tới Địa Trung Hải, nơi mà các thủy thủ đoàn được báo cho biết rằng, lộ trình đã được thay đổi từ Havana đến Hải Phòng. Các tuyến đường bộ đi ngang qua Trung Quốc không bị bỏ mặc, ngay cả khi không còn vận chuyển hàng viện trợ của Liên Xô nhiều như trước đây. Lịch sử tranh chấp vũ khí của Liên Xô mang đầy màu sắc. Đầu năm 1965, Hà Nội cấp bách yêu cầu Moscow giúp hệ thống phòng không. Hồ Chí Minh không chỉ muốn có súng không mà thôi, ông ta còn muốn có tên lửa đất đối không. Tháng 2 năm 1965, Liên Xô đồng ý gửi các chuyến hàng quan trọng đầu tiên về vũ khí và các nhóm kỹ thuật viên, với điều kiện Trung Quốc cấp phép cho số hàng này đi qua. Trung Quốc yêu cầu được phép kiểm tra. Liên Xô đồng ý, nhưng bắt đầu phàn nàn rằng Trung Quốc làm mất nhiều thời gian. Trung Quốc phản đối rằng Liên Xô gửi viện trợ quân sự và nhân viên của Liên Xô đi qua đất của Trung Quốc với sự vận chuyển nhanh nhất có thể, nhưng các trang thiết bị của Liên Xô gửi đến Việt Nam hoặc đã lỗi thời hoặc bị hư hỏng mà không xài được. Trang thiết bị bị sao chép Liên Xô bị [Trung Quốc] cáo buộc dùng số hàng viện trợ này cho Việt Nam như một dịp thuận tiện để loại bỏ các trang thiết bị hư hỏng trong kho của họ. Moscow đáp trả lại rằng, Trung Quốc thường tự động lấy đi các vũ khí tốt nhất của Liên Xô chuyển tới Hà Nội. Một người thạo tin ở Washington nói rằng đa số các hàng của Liên Xô bị chậm trễ là do Trung Quốc thực hiện việc copy, thay vì giữ lại các linh kiện trang thiết bị nào đó. Ông cho biết: “Một số trường hợp, các thiết bị của Liên Xô thực sự bị hư hỏng. Nó bị hư hỏng là do các chuyên gia Trung Quốc, những người không có chuyên môn. Họ không biết cách lắp ráp lại các trang thiết bị của Liên Xô bằng cách nào, sau khi tháo ra để sao chép”. Tháng 3 năm 1966, đáp trả những lời cáo buộc của Trung Quốc, rằng Liên Xô giúp cho Hà Nội quá ít, lãnh đạo Moscow đã gửi một lá thư bí mật tới tất cả các nước cộng sản anh em. Cẩn thận rò rỉ thông tin ra thế giới bên ngoài, thông qua những người cộng sản Đông Đức, bức thư nhấn mạnh rằng, trong năm 1965, Bắc Việt đã nhận được các thiết bị quân sự vũ khí từ Liên Xô trị giá 555 triệu đô la. Danh sách bao gồm, lắp đặt hệ thống tên lửa và súng phòng không, máy bay MIG và máy bay khác, xe tăng, pháo binh chống tàu, và tàu chiến nhỏ. Ngày 21 tháng 4 năm 1966, Nguyên soái Rodion Y. Malinovsky, Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô, đã phát biểu công khai, qua đó một lần nữa, ông cáo buộc Cộng sản Trung Quốc cản trở viện trợ của Liên Xô trên tuyến đường bộ đến Bắc Việt. Trong một bài đáp trả đầy phẫn nộ hôm 3 tháng 5, Bộ Ngoại giao Bắc Kinh tuyên bố rằng, từ tháng 2 năm 1965 khi xung đột ở Việt Nam lần đầu tiên gia tăng nghiêm trọng, cho tới cuối năm đó, Liên Xô đã chuyển cho Hà Nội qua ngã Trung Quốc tổng cộng 43.000 tấn thiết bị chiến tranh, một số lượng nhỏ nhặt, với quan điểm đầy khinh miệt của Bắc Kinh. Bắc Kinh nhấn mạnh rằng họ đã giúp đỡ, không phải cản trở, viện trợ của Liên Xô. Hơn nữa, Trung Quốc tuyên bố rằng trong một thời điểm, Trung Quốc đã cung cấp 1.780 xe vận tải hàng hóa Trung Quốc, trong đó Liên Xô chỉ sử dụng 556 chiếc. Sự thật có lẽ là các tuyến đường sắt và đường xe tải Trung Quốc thường không tương xứng để chịu đựng sức nặng của các chuyến hàng của Liên Xô. Những chiếc xe vận tải hàng hóa bị dằn rất dữ; xe lửa thì nhỏ và chậm. Hơn nữa, việc thay đổi khoảng cách chiều rộng đường ray từ Liên Xô và phía ngoài Mông Cổ từ 5 feet cho tới Trung Quốc còn 4 feet 8,5 inch và sau đó thậm chí lòng đường ở miền Bắc Việt Nam còn hẹp hơn, liên quan đến việc nâng và chuyển dịch thân xe rất nhiều. Tuy nhiên, Trung Quốc đã cố gắng đối phó với các vấn đề: đó là những người lính làm đường sắt, làm việc cật lực và có kỷ luật cao được gửi tới [chính phủ] Hồ Chí Minh, giữ phần phía Việt Nam về các tuyến đường tiếp tế phải đối mặt với các cuộc tấn công của Mỹ. Họ là những người lính xây dựng bình thường, trong bộ đồng phục, cơ cấu trong các đơn vị, nhưng không vũ trang. Họ sửa các tuyến đường và cầu, xây dựng các tuyến đường thay thế. Tin tức cho biết, một số được bố trí ở đường băng nhỏ gần biên giới. Một số đội pháo phòng không bảo vệ các trung tâm giao thông chính của Bắc Việt, nhưng thường công việc này là một đặc quyền bảo vệ với sự đố kỵ của người Việt. Tháng 7 năm ngoái, các quan chức ở Washington ước tính, lượng người xây dựng đường Trung Quốc như thế từ 30.000 đến 40.000 người. Hồi tháng 8, dự đoán đã lên đến 50.000 và trong tháng 12 lên đến 100.000 người (trong khi số người Việt bận rộn làm đường là ¼ triệu). Vận chuyển bằng đường hàng không Dĩ nhiên, có cách thứ ba để gửi viện trợ cho Hà Nội: bằng đường hàng không. Nhưng làm điều này có nghĩa là những chiếc bay máy bay chở hàng của Liên Xô bay qua Trung Quốc, và Bắc Kinh không không hề thích điều này. Họ khăng khăng đòi phải có giấy phép riêng cho từng chuyến bay, thay vì phát hành một giấy phép cho tất cả các chuyến bay. Và như vậy, đường biển càng trở thành giải pháp. Máy bay trinh sát của Mỹ bay qua Hải Phòng đã chụp được ảnh về nhiều hàng viện trợ chưa được bốc dỡ trên tàu Liên Xô, không chỉ máy móc bình thường, mà còn có cả tên lửa và thiết bị phóng tên lửa, cũng như súng phòng không. Kể từ mùa thu năm 1965, số lượng súng phòng không ở Bắc Việt đã tăng từ 1.500 cho tới ít nhất 5.000 khẩu; một nguồn tin không chính thức ở Washington ước tính con số vào khoảng 7.000 khẩu súng. Vào mùa thu năm 1956, Bắc Việt chỉ có bốn khẩu đội pháo tên lửa đất đối không. Đến đầu tháng 10 năm 1966, con số này đã tăng lên đến 25 hoặc 30, mỗi khẩu có sáu dàn phóng. Lúc đó, có khoảng 130 địa điểm mà các khẩu đội pháo này có thể hoạt động, với 20% khẩu đội pháo hoạt động bất kỳ thời điểm nào. Một điều thú vị là chương trình phát thanh trong nước bằng tiếng Séc, phần lớn đã dành hết cho các vấn đề quân sự tại Việt Nam, bị theo dõi ở phương Tây khi nó vượt ra khỏi Praha hôm 29 tháng 7 vừa qua. Các sĩ quan Séc khi được hỏi, cho thấy họ không hài lòng về cộng sản địa phương qua việc điều khiển tên lửa đất đối không ở Việt Nam. Một câu hỏi là: Có sự tồn tại hệ thống phòng không thiếu hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn máy bay Mỹ ném bom ở Bắc Việt, và các nước xã hội chủ nghĩa [dĩ nhiên là muốn nói tới Tiệp Khắc] muốn nói như thế? Đáp lời, Trung tá Vladimir Novak, thuộc Học viện Quân sự Séc, trấn an thính giả rằng, một cách tự nhiên, tên lửa phòng không và radar của Séc tốt hơn. Ông ta giải thích: Đó là vì [vũ khí] phòng thủ của chúng tôi được những người đã trải qua nhiều năm đào tạo điều khiển và cũng bởi vì chúng tôi có một hệ thống cảnh báo hoàn hảo trên mặt đất từ lâu đời. Điều này, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có. Tôi không muốn nói rằng, có rất ít máy bay Mỹ bị bắn hạ. Hàng chục chiếc đã bị bắn rơi. Nhiều chiếc khác đã bị pháo binh bắn hạ và một số bằng máy bay. Lý do là tên lửa đòi hỏi nhiều năm kinh nghiệm và huấn luyện. Thật là sai lầm khi cho rằng sự ra đời của tên lửa có nghĩa là sự kết thúc của pháo phòng không. Tên lửa thì quá đắt tiền và tốn kém khi sử dụng chỉ để chống lại bất kỳ loại máy bay nào. Chúng được sử dụng để chống lại loại máy bay có mang bom đặc biệt nguy hiểm hoặc tấn công các mục tiêu rất quan trọng. Vì lý do này, nó không thể được xem là sẽ thay đổi đáng kể, ngay cả trong tương lai – rằng tên lửa sẽ trở thành [vũ khí] phòng thủ duy nhất, chống lại các cuộc không kích. Tên lửa đúng hơn là trường hợp ngoại lệ … Như vậy, thông qua Praha, chúng ta thu thập thêm một điều là, Liên Xô không muốn leo thang trong chiến tranh Việt Nam nếu họ có sự chọn lựa khác, và chắc chắn không phải bằng cách gửi số lượng tên lửa đất đối không lớn hơn nhiều so với số đã có ở đó (Việt Nam), cũng không phải bằng cách đào tạo số lượng lớn sĩ quan và binh lính Bắc Việt để vận hành các máy tính và bệ phóng. Những người phóng tên lửa Liên Xô Ở Washington, người ta tin rằng, một số nhân viên quân sự Liên Xô đã được phân công có mặt tại những chỗ phóng tên lửa đất đối không ở Bắc Việt, có thể đã bị thương hoặc thậm chí bị giết chết từ khi họ phục vụ bên cạnh các học sinh bản xứ trong điều kiện chiến đấu. Các chuyên gia Liên Xô đào tạo sinh viên ở Hà Nội hoặc gần Hà Nội, sau đó cùng đi với các sinh viên này đến các trạm chiến đấu thực tế để xem cách thực hành như thế nào dưới hỏa lực. Có thêm huấn luyện viên đi theo ra hiện trường, do đó, hầu như không thể tránh khỏi việc các sĩ quan và binh sĩ Liên Xô thực sự ở vị trí điều khiển màn hình radar và các thiết bị phóng tên lửa, ít nhất trong giai đoạn đầu hướng dẫn. Theo báo Krasnaya Zvezda (Red Star), một ngày làm việc của những người phóng tên lửa Liên Xô ở Việt Nam chính thức kéo dài 13 giờ – còn không chính thức thì lâu hơn. Thời gian làm thêm được dành để “tham vấn cá nhân” giữa các giáo viên Liên Xô và những sinh viên của họ. Lúc đầu, vấn đề là một số chiến sĩ trẻ Việt Nam hóa ra không chỉ thiếu kiến thức kỹ thuật cần thiết để điều khiển radar và bắn tên lửa, mà còn thiếu cả kiến thức về “giáo dục phổ thông,” như những người Liên Xô nhẹ nhàng đánh giá. Và như vậy, những giờ rảnh rỗi được sử dụng để dạy những sinh viên người Việt: toán, hóa, và các yếu tố về “công nghệ điện”. Nhóm đã có các nhân viên gốc Việt nói tiếng Nga, nhưng nhiều giáo viên và học sinh “làm việc bằng một thứ ngôn ngữ riêng – hỗn hợp kỳ diệu giữa các từ tiếng Nga và tiếng Việt với các thuật ngữ kỹ thuật”. Cả hai bộ phận của nhóm học cách để hiểu nhau rất tốt, phóng viên báo Krasnaya Zvezda cho biết. Huấn luyện ở Liên Xô Phần lớn việc huấn luyện của Liên Xô cho các học viên Việt Nam diễn ra trong điều kiện an toàn hơn: ở Liên Xô. Con số kỷ lục tuyệt đối gây ấn tượng. Theo Đài phát thanh Moscow, trong chương trình phát thanh bằng tiếng Quan thoại ở Trung Quốc, hôm 15 tháng 3 năm 1966, đã tự hào rằng, vào thời điểm đó, có gần 3.000 thanh niên và thiếu nữ trẻ Việt Nam được học tại Liên Xô, và rằng trong khi tổng số 2.300 chuyên gia Liên Xô làm việc ở Bắc Việt trong những năm 1955-1964, có 4.500 chuyên gia Việt Nam được đào tạo tại các trường cao đẳng và đại học Liên Xô, tính đến mùa xuân năm 1966. Trong mùa hè và mùa thu năm 1966, những người Việt Nam này, gồm những người ghi danh vào học tại Trường Kỹ thuật Hàng hải cao cấp ở Odessa, đào tạo thành thuyền trưởng và kỹ sư cho Hạm đội Bắc Việt. Không phải Liên Xô để mặc cho Trung Quốc là nước duy nhất bảo trợ việc xây dựng đường sắt Việt Nam: trong số những người mới đến Moscow thời gian gần đây, là một nhóm thanh niên và thiếu nữ trẻ Bắc Việt học tại Viện Kỹ thuật Giao thông vận tải Đường sắt. Khóa học kéo dài sáu năm, và người ta cho rằng dự án này thể hiện các kế hoạch tầm xa của Liên Xô về việc viện trợ cho Hà Nội. Nhưng lịch sử cộng sản có đầy rẫy những trường hợp tốt nghiệp khẩn cấp một thời gian dài trước ngày dự định của các chuyên gia. Những sinh viên trẻ này có thể bay trở về nhà bất cứ ngày nào. Trường hợp huấn luyện quan trọng nhất liên quan đến các học viên sĩ quan hàng không Bắc Việt, hiện đang được các cựu chiến binh Không quân Xô Viết huấn luyện bay những chiếc máy bay siêu âm MIG-21. Một nhóm học viên sĩ quan kế tục một nhóm khác tại lễ tốt nghiệp gần Rostov-on-Don, ở Trường Không quân Xô viết Bataisk. Những bức ảnh thường và những hình ảnh chuyển động được công bố ở Liên Xô cho thấy, các học viên Bắc Việt thông minh và được cho ăn uống đầy đủ, trong bộ đồng phục khi họ tuần hành hoặc nghe giảng bài. Những gương mặt và hình dáng trẻ trung, nhưng một báo cáo chính thức của Liên Xô cho biết, có ít nhất một số học viên đang được huấn luyện để trở thành những chiến binh chiến đấu trong rừng, là những người ở độ tuổi 30. Nhu cầu về các học viên bay là cấp thiết, nếu chúng ta tin rằng, theo ước tính của phương Tây vào giữa tháng 10, lực lượng không quân của [chính phủ] Hồ Chí Minh lúc đó có khoảng 50 chiếc MIG-15 và MIG-17 hoặc cũ hơn, và 20 chiếc MIG-21, nhưng Liên Xô chuẩn bị gia tăng thêm số lượng máy bay mô hình mới. Thật vậy, vào giữa tháng 12, tình báo phương Tây đưa ra ước tính không chính thức về số lượng máy bay MIG, ở Việt Nam có từ 180 hoặc thậm chí 200 chiếc, loại mới nhất là loại có cánh hình tam giác vuốt về phía sau, MIG-21C và MIG-21D. Các phiên dịch viên cũng rất cần để đi cùng với các giảng viên Liên Xô. Một bộ phim Liên Xô mới trình chiếu cho thấy, một giảng viên quân sự Xô Viết dạy cho các học viên sĩ quan không quân Bắc Việt, mà không có bất kỳ trợ giúp nào từ các phiên dịch. Điều này có nghĩa là, hoặc có ít nhất một trong các giảng viên nói tiếng Việt thông thạo, hoặc một số sinh viên học tiếng Nga rất nhanh. Khi Moscow gửi các chuyên gia tới Việt Nam để giúp những người bản xứ các vấn đề về quân sự và hòa bình, dĩ nhiên, điều họ đạt được là, thực tế các chuyên gia này trở về nhà với kiến thức mở rộng bao la về Việt Nam. Về một điểm không mới nhưng có giá trị là những người Liên Xô học về Việt Nam, cách thức và ngôn ngữ hồi thập niên 40 và 50, và những người, thật ra là các cựu chiến binh chiến đấu trong rừng trong khoảng thời gian đó. Những kẻ đào ngũ Đó là người đàn ông tên là Platon Skrzhinsky, 44 tuổi và là người gốc Ukraine hiện đang cư ngụ tại Moscow. Sau Đệ nhị Thế chiến, ông gia nhập vào Quân đoàn Ngoại giao Pháp. Nhưng khi Pháp chuyển đơn vị của ông đến Sài Gòn, Skrzhinsky lên kế hoạch đào tẩu. Mất một năm để ông ấy thiết lập liên lạc với các du kích quân. Trong hàng ngũ Việt Minh mới, ông đã tìm thấy những người đào ngũ khác từ đội quân Pháp: một người Áo, hai người Đức, và một số người Algérie. Ông ta nhận được cái tên Việt Nam: Than (Thành?), có nghĩa là “Người trung thành”. Ông kết hôn với một cô gái địa phương, và họ đã có một em bé. Năm 1950, ông chỉ huy một đơn vị pháo binh du kích. Ông trở lại Moscow vào năm 1955 cùng với đứa con gái sáu tuổi gốc Việt của mình. Trong gần 10 năm qua, ông được thuê làm biên tập viên cho Đài phát thanh Moscow, có thể giúp những chương trình phát thanh bằng tiếng Việt ở Đông Nam Á. Những người hiện sống sót trong những lần đào ngũ như thế, từ Quân đoàn Ngoại giao Pháp, gồm một người Ba Lan, một người Séc, và một người Đông Đức. Hầu hết nhóm người lãng mạn này có thể vẫn còn được sử dụng cho bất kỳ điều gì, từ huấn luyện, tư vấn, hoặc yêu cầu phiên dịch ở những nước mà họ đang sống có liên quan đến Việt Nam. Trong số “những nước dân chủ nhân dân” đóng góp cho [chính phủ] Hồ Chí Minh hiện nay, Đông Đức có thể là nước đóng góp tích cực nhất. Viện trợ quân sự từ chính phủ Walter Ulbricht, gồm các thiết bị vũ khí và điện tử đặc biệt, được thiết kế để chịu đựng được khí hậu nhiệt đới. Thêm nữa, sự hỗ trợ bao gồm xe máy và xe đạp được xem là rất quan trọng cho dịch vụ đưa tin trên đường phố bị chiến tranh tàn phá ở Bắc Việt, nơi xe ô-tô không thể lưu thông dễ dàng. Tháng 9 năm ngoái, hội nhà văn tại Đông Đức đã gây quỹ để mua một ngàn chiếc xe đạp làm quà tặng cho Hà Nội. Số tiền này có từ việc để dành một tỷ lệ phần trăm tiền thù lao của các nhà văn. Việc tiếp tế y tế cho [chính phủ] Hồ Chí Minh, dường như phần lớn đến từ Đông Đức, và một trăm bác sĩ Đông Đức được báo cáo là đang phục vụ ở Bắc Việt. Ngoài con số 800 người Xô Viết được báo cáo là đã có mặt ở Bắc Việt để làm nhiệm vụ phòng không, một số viên chức Đông Đức và những người đàn ông được đồn đại rằng, họ được dùng để huấn luyện việc sử dụng tên lửa của Bắc Việt. Về hàng hoá và vốn liếng viện trợ không trực tiếp liên quan đến các loại trang thiết bị sử dụng trong chiến tranh, chính phủ Ulbricht được cho là đã chuyển giao cho [chính phủ] Hồ Chí Minh từ tháng 6 năm 1965 đến tháng 10 năm 1966 tổng trị giá bốn triệu đô la. Viện trợ kinh tế Tuy nhiên, viện trợ kinh tế và thương mại lớn nhất của khối [XHCN] cho Hà Nội, dĩ nhiên là Liên Xô. Tại một cuộc họp thượng đỉnh ở Moscow hồi giữa tháng 10 năm 1966, Liên Xô và tám nước đồng minh của họ đã đồng ý cung cấp khoảng một tỷ đô la bổ sung cho việc giúp đỡ Hà Nội trang thiết bị và tiền bạc, trong số đó, có 800 triệu đô la đến từ Liên Xô. Đóng góp từ những nước khác điển hình là Ba Lan, cam kết 30 triệu đô la. Các thoả thuận khéo léo của Liên Xô để giúp Bắc Việt, bắt đầu từ giữa thập niên 50, ngay sau khi hiệp định Geneva phân chia đất nước, với thoả thuận “tam giác” quan trọng. Trong thoả thuận này, Miến Điện trả cho sự gắn bó với Liên Xô, bằng cách chuyển 160.000 tấn gạo đến Hải Phòng, do đó, theo đánh giá của ông Bernard B. Fall, cứu Bắc Việt khỏi bị đói. Người kỹ sư Liên Xô đầu tiên đến nhà máy xi măng Hải Phòng hồi tháng 9 năm 1955, và ông ta chính là người đã chỉ cho những người bản xứ cách đào bới các máy móc mà người Pháp đã chôn cất khi họ rút lui. Trong tháng 11 năm đó, mẻ xi măng đầu tiên được sản xuất, và đến năm 1958 sản lượng tăng gấp đôi so với thời Pháp. Mùa hè năm 1966, mặc dù bị các cuộc tấn công ném bom của Mỹ, Liên Xô tuyên bố rằng sản lượng đã tăng nhiều gấp ba lần. Mặc dù rất khó có được con số chính xác, người ta ước tính rằng, trong 10 năm qua, [từ năm 1954 đến] năm 1964, Liên Xô viện trợ kinh tế cho Bắc Việt tổng cộng khoảng 350 triệu đô la. Vào năm 1963-1964, có hơi bị chùn lại, khi Nikita S. Khrushchev dường như đã từ chức khi thấy đất nước rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc (năm 1955-1964, Trung Quốc viện trợ kinh tế cho Bắc Việt lên tới khoảng 450 triệu USD). Mối quan tâm của Liên Xô đã trở lại Tuy nhiên, những người kế nhiệm Khrushchev đã làm sống lại mối quan tâm của Liên Xô đối với [chính phủ] Hồ Chí Minh. Xuất khẩu của Nga sang Bắc Việt đã tăng từ 47,6 triệu đô la năm 1964 lên tới hơn 74,8 triệu đô la vào năm 1965, dĩ nhiên, con số này cộng thêm vào số vũ khí trị giá 555 triệu đô la đã được gửi [tới Bắc Việt] chỉ trong năm 1965. Các con số trong năm 1966 hứa hẹn sẽ còn cao hơn. Vào ngày 21 tháng 6 năm 1965, trong chương trình phát thanh tiếng Đức tại nước Đức, Đài phát thanh Moscow tuyên bố rằng, các quỹ [viện trợ] mà Bắc Việt lúc đó đã được nhận được từ tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, gần phân nửa đến từ Liên Xô. Bản tin phát thanh cho biết, một phần ba trong tổng số viện trợ này của Liên Xô là viện trợ không hoàn lại. Khoảng 50 xí nghiệp công nghệ lúc đó được xây dựng hoặc xây dựng lại nhờ sự trợ giúp kỹ thuật của Liên Xô. Các nhà máy do Liên Xô hỗ trợ đã sản xuất tất cả các các loại khoáng chất (apatite) và phân bón (superphosphate) ở Bắc Việt, khoảng 90% trữ lượng than đá, và hơn một nửa các cụng cụ máy móc. Sức mạnh, khai thác, kỹ thuật, và các ngành công nghệ kỹ thuật của đất nước, tất cả đã được các nhà tài trợ và các cố vấn Liên Xô giúp đỡ hoặc điều hành. Từ các nguồn thông tin khác của Liên Xô, chúng ta biết rằng, bộ phận kinh tế của Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội có trách nhiệm coi sóc tất cả sự viện trợ này. Họ tuyên bố rằng, thiết bị máy móc dụng cụ ở Hà Nội, gồm 14 mẫu, toàn bộ được trang bị bằng thiết bị của Liên Xô. Bốn mươi kỹ sư và kỹ thuật viên Liên Xô đang trợ giúp công trình xây dựng nhà máy thủy điện Thác Bà. Một sự cân bằng tế nhị Bất cứ sự kiện và con số nào phía Liên Xô chính thức tiết lộ về sự viện trợ của họ cho Bắc Việt được đưa ra trước công chúng không những để chế nhạo Hoa Kỳ, mà còn để gây ấn tượng với Bắc Kinh – và thậm chí [với mục đích] lớn hơn nữa là để phản bác lại các nước còn lại trong thế giới cộng sản, rằng Trung Quốc cáo buộc Moscow không giúp đủ cho Hà Nội. Bất cứ nơi nào có thể, Moscow trích dẫn các nguyên tắc chung có khuynh hướng cao hơn là những khó khăn về chi tiết. Và điều này không chỉ vì lý do an ninh, mà chắc chắn còn có lý do không muốn chọc giận Hoa Kỳ nhiều quá. Tuy nhiên, về phần mình, Moscow không lập lờ trong cuộc xung đột, ngay cả khi chuyển giao số lượng vũ khí, họ cũng gửi bằng cách rất thận trọng. Rõ ràng, Liên Xô không muốn Hoa Kỳ hay Trung Quốc giành chiến thắng. Mà Liên Xô chỉ không muốn có chiến tranh thế giới thứ ba từ kết quả của cuộc chiến tại Việt Nam. Do vậy, lượng vũ khí của Liên Xô chỉ gia tăng sau khi Hoa Kỳ leo thang sự tham gia bằng cách này hay cách khác, như họ đã làm hồi tháng 2 năm 1965 bằng cách tấn công vào Bắc Việt, và mùa hè vừa qua bằng cách đánh vào những nơi lắp đặt các hệ thống máy móc ở Hải Phòng và Hà Nội một cách trực tiếp hơn. Lời lẽ chính thức của Liên Xô và các nước đồng minh Đông Âu, đề nghị gửi quân tình nguyện đến chiến đấu ở Bắc Việt, nhưng Hà Nội đã lịch sự từ chối lời đề nghị và cám ơn. Khả năng có thể là do lo ngại một sự leo thang chiến tranh khác, nên thực tế, Moscow đã kiềm chế sự giúp đỡ như thế, và rằng, vì lý do tuyên truyền và ngoại giao, giữa Moscow và Hà Nội đã thoả thuận sự giả vờ về lời đề nghị và từ chối sẽ được tiếp tục, mặc dù không quá ồn ào hoặc lặp đi lặp lại nhiều lần. Một đại tá Mỹ thông thạo tình hình, nhận định như sau: Hà Nội muốn nhận tất cả các quân tình nguyện kia nhưng không dám yêu cầu. Vì nếu yêu cầu Nga và các đồng minh, Hà Nội cũng sẽ phải mời Trung Quốc, và Hà Nội muốn tránh điều này. Việc chịu đựng những người Trung Quốc không có súng đến xây dựng đường sắt là một vấn đề, nhưng vấn đề sẽ hoàn toàn khác, khi để cho toàn bộ quân đội Trung Quốc có trang bị vũ khí [đến giúp]. Không, không thể ở miền Bắc Việt Nam. Các viên chức Mỹ am hiểu tình hình cảm thấy rằng, Hà Nội không sợ Liên Xô, ngay cả Liên Xô có trang bị vũ khí khi đến [miền Bắc]. Và có lẽ như thế này, bởi vì Hà Nội biết rằng Moscow chưa sẵn sàng gửi những người lính vũ trang đi rất xa, tới nơi có nhiều rủi ro làm cho các cuộc xung đột lớn hơn. Thật vậy, Moscow có thể trở lại thái độ của mình hồi thời kỳ đầu tháng 10 năm 1964, ngay cả trong các vấn đề kinh tế. Đầu tư của Liên Xô gia tăng và đang phát triển ở Bắc Việt có thể bị chấm dứt nếu mọi thứ ở Đông Nam Á yên ổn, chẳng hạn như Trung Quốc cần thư giãn trong giai đoạn hậu Mao Trạch Đông và sự thích nghi với những người có thể kế nhiệm Mao hiểu biết hơn. Một nhà quan sát ở Washington phỏng đoán: Nếu điều này xảy ra, những người kế thừa Khrushchev có thể tin rằng, dường như khi Khrushchev đã làm, rằng cuối cùng thì Bắc Việt ở quá xa Nga, và tại sao không thỏa thuận với Bắc Kinh, chẳng hạn như trao đổi nhà máy thiết bị tuyệt vời kia ở Hà Nội để lấy số bất động sản mà họ ao ước ở gần nhà hơn, như Tân Cương chẳng hạn? Nguồn: Báo The Reporter: calldp.leavenworth.army.mil/eng_mr/txts/VOL47/00000006/art2.pdf
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 9, 2015 8:41:10 GMT 9
HCM tại ĐH Đảng 1951: “Đó là chủ nghĩa của 3 ông kia kìa”Lời dẫn: Tư liệu hiếm dưới đây có lẽ chưa bao giờ được công bố. Đó là một bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ hai tại Việt Bắc vào tháng 3 năm 1951, do một phóng viên của tờ Học tập liên khu 4 ghi lại nguyên văn.[1] Tại Đại hội này, Đảng Lao động Việt Nam ra công khai sau 6 năm nấp dưới tên gọi “Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác”. Bài diễn văn thú vị này cho ta thấy Chủ tịch là một nhà cách mạng, một chính trị gia, và một nhà tuyên truyền lão luyện. Một nhà cách mạng có niềm tin ngây thơ nhưng sâu sắc rằng lý thuyết cách mạng của các “ông thầy” của mình có quyền lực vạn năng. Một chính trị gia qua thủ đoạn tâng bốc các “ông anh” (trong khán giả chắc chắn có sứ thần của các “ông anh” gửi đến. “Ông anh” Stalin lờ tịt các bức điện khẩn xin giúp đỡ của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1945. Mãi đến tháng 1 năm 1950 Chủ tịch phải lặn lội giữa mùa đông băng giá bí mật đến Mạc Tư Khoa và qua sự bảo lãnh của “ông anh” Mao Trạch Đông và có lẽ cả “ông anh” Thorez, thì “ông anh” Stalin mới tiếp đón và công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[2] Nhưng ở Đại hội, Chủ tịch vẫn phải khen nức nở chứ không có một lời oán hận). Và cuối cùng, Chủ tịch cho thấy mình là một nhà tuyên truyền lão luyện qua kỹ thuật động viên quần chúng song vẫn khéo léo biến tất cả công lao xương máu của quần chúng thành công lao của chủ thuyết của mình, và qua đó, công lao của mình và đảng mình (vì mình và đảng mình nhập khẩu chủ thuyết ấy từ Âu châu). Phản ứng của quần chúng ở cuối bài nói (hô to “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!”) cho thấy kỹ thuật dẫn dắt người nghe của Chủ tịch đã thành công. Vũ Tường, Đại học Oregon—–—————————- HỌC TẬP — Nội san Đảng Bộ Liên Khu Bốn (Chỉ lưu hành Trong Nội Bộ) Số 35, Năm thứ tư, Tháng 4 – 1951, trang 1-8LỜI HỒ CHỦ-TỊCH TRONG ĐẠI HỘI TOÀN ĐẢNG (Sau khi đồng chí Võ-nguyên-Giáp báo cáo xong vấn đề quân sự, Hồ-Chủ-tịch lên diễn đàn, giữa những tràng pháo tay). Hồ-Chủ-tịch nói. Các đồng chí, Vừa nghe báo cáo của đồng chí Giáp, các đồng chí thấy – và trước khi nghe cũng đã thấy – Quân đội ta từ chỗ yếu tiến đến chỗ mạnh, từ chỗ nhỏ tiến đến chỗ to, từ không thắng tiến đến thắng, từ thắng ít đến thắng nhiều, rồi từ thắng nhiều tiến đến thắng lợi hoàn toàn (Đại hội vỗ tay). Đó là vì đâu? Là vì trong chính trị, cũng như trong mọi mặt công tác khác, Đảng ta có một chủ nghĩa cách mạng nhất, sáng suốt nhất, đó là chủ nghĩa của ba ông kia kìa: Hồ Chí Minh. Ảnh tư liêu, nguồn Google. (Hồ-Chủ-tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung 3 vị lãnh tụ: Marx, Engels, Lénine) (Đại hội vỗ tay vang dậy) Đó là nhờ chúng ta, toàn giai cấp lao động thế giới, toàn quân đội nhân dân thế giới có một ông Tổng tổng tư lệnh là ông kia kìa. (Hồ-Chủ-Tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung đồng chí: STALINE) (Đại hội vỗ tay dậy vang và cùng đứng dậy hô lớn) (Đồng chí Staline muôn năm!) Chắc ít người biết mà có lẽ cũng không ai ngờ. Ông ở cách xa đây mấy muôn dặm, mà ông theo dõi cuộc kháng chiến của ta, của Triều-tiên, của Mã-lai và cuộc đấu tranh của các nước Đông-nam Á. Ông cảm động khi nghe kể lại những cử chỉ chiến đấu anh dũng của một chiến sĩ Thổ khi giết giặc lập công như thế nào. Vì vậy có thể nói tuy ông ở xa nhưng tinh thần của ông và hiểu biết của ông ở với chúng ta. (Đại hội vỗ tay dài) Chúng ta lại nhờ có ông anh này: (Hồ-Chủ-Tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung đồng chí: MAO-TRẠCH-ĐÔNG) – (Đại hội vỗ tay vang dậy – và đứng dậy hô lớn Đồng chí Mao-Trạch-Đông muôn năm!) Ông Mao ở cách đây mấy nghìn dặm. Còn ông Staline thì xa những muôn dặm… Ông theo rõi từng bước cuộc chiến đấu cách mạng của chúng ta. Như lúc quân đội và nhân dân ta giải phóng biên giới, như lúc chúng ta mở chiến dịch Trung-du có thể đêm ông không ngủ mà chờ tin tức… (Đại hội có tiếng tấm tắc) … Có ông thầy, ông anh như thế nên quân đội ta, quân đội Việt-Mên-Lào, từ chỗ nhỏ đến chỗ lớn, từ chỗ yếu đến chỗ mạnh, từ không thắng đến thắng hoàn toàn. Cũng vì chủ nghĩa quốc tế, cũng chủ nghĩa Marx – Engels – Lenine – Staline, mà đến ông anh kia … (Hồ-Chủ-tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung đồng chí Thorez và nói tiếp… là ông THOREZ …) (Đại hội vỗ tay vang dậy – và đứng dậy hô lớn: Đồng chí Thorez muôn năm! Muôn năm!) … Ông lãnh đạo đảng Pháp, đảng đàn anh … vì do được đảng Pháp lãnh đạo, nhân dân lao động ở Pháp kiên quyết bảo vệ hòa bình thế giới, tranh đấu chống chiến tranh thuộc địa, ủng hộ cuộc kháng chiến của chúng ta, chống lại chiến tranh thực dân. Như hôm nọ, tôi đã nói về đồng chí Henri M…,[3] một sĩ quan trong hải quân của thực dân, mà đi phát truyền đơn ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt nam, khuyên thanh niên Pháp và bộ đội Pháp từ chối, phản đối không qua đánh Việt nam. Lại có những công nhân như Raymone Dieu, khi thực dân Pháp chở khí giới từ một ga xe lửa đến bến tàu để rồi đưa qua Việt nam. Cô Raymone nằm ngang ra giữa đường sắt để ngăn chuyến xe ấy. Và do cử chỉ cao xa này mà toàn dân xứ ấy kéo ra chặn cả đoàn xe lại. (Đại hội vỗ tay hoan hô nhiệt liệt và hô lớn: Hoan hô tinh thần của Henri M… và Raymone Dieu!) Đó là nhờ nhân dân lao động Pháp đã thấm nhuần tinh thần Marx – Engels –Lénine – Staline. Chẳng những nhân dân lao động Pháp có rất đông những người như thế, mà vừa rồi đây lại có tin hàng trăm người lãnh đạo công giáo – khai hội nghị chống chiến tranh thực dân ở Việt nam và ủng hộ cuộc kháng chiến của dân tộc Việt nam. (Đại hội vỗ tay vang dậy – và đứng dậy hô lớn: Đảng cộng sản Pháp muôn năm! Muôn năm!) Có thể nói cái tinh thần, cái chủ nghĩa của đồng chí Staline đã thấm nhuần vào dân công giáo và đấu tranh giành một phần nào “lời nói” của ông Pope. (Đại hội vỗ tay, ngồi) Vừa đây có một giám mục đứng ra kêu gọi con chiên đấu tranh cho hòa bình. Thì ra, tinh thần của đồng chí Staline đã đi vào địa bàn của giáo hoàng. Đây là ở phương tây. Còn ở phương Đông thì như thế nào? Do chỗ đảng Trung Quốc đã thấm nhuần chủ nghĩa Marx – Lénine nên đã áp dụng chủ nghĩa Marx – Lénine thích hợp với hoàn cảnh Trung Quốc. Do chỗ đảng ta đã thấm nhuần chủ nghĩa Marx – Lénine, thấm nhuần tinh thần ấy lực lượng ấy, mà làm thấm nhuần đến cả quân đội ta, thấm nhuần đến nhân dân ta. Nếu không thấm nhuần như thế, thì sao lại có bộ đội nhịn đói hơn 4 ngày, vẫn cứ bám lấy giặc mà đánh và đánh thắng giặc! (Đại hội vỗ tay dài) Thì sao có những cử chỉ oanh liệt như ở một trận đánh nọ có chiến sĩ bị thương ở tay nói với người bên cạnh “Cậu chặt tay cho mình cái” vì thấy cánh tay gãy vướng, chặt đi cho dễ đánh, thế rồi lại cứ xung phong? Nếu không thấm nhuần chủ nghĩa Marx – Lénine thì làm sao có được những cử chỉ oanh liệt như thế? (Đại hội vỗ tay) Nếu không có chủ nghĩa Marx – Lénine kinh qua đảng ta thấm nhuần đến nhân dân, thì sao có những chị em phụ nữ Mán, Thổ, Mèo ban ngày thì mưa ướt, đường trơn vẫn hăng hái đi tải đồ cho bộ đội, tối đến đường trơn, ở giữa rừng không có chỗ ngủ, phải dựa lưng vào nhau mà ngồi qua đêm, để sáng sớm lại vui vẻ đi vận tải đồ cho bộ đội? Nếu không có tinh thần Marx – Lénine thấm nhuần qua Đảng ta đến dân ta, thì sao có những cử chỉ cảm động như thế? Đó là những vô danh anh hùng. Dân tộc ta là dân tộc anh hùng. (Đại hội vỗ tay vang dậy) Chẳng những đồng bào ở ngoài, mà ngay đồng bào trong vùng tạm bị chiếm cũng hết sức ủng hộ ta. Tôi vừa nhận được bức thư của một bà ở ngoại thành, một bà hơn năm mươi tuổi, đây tôi đọc để dẫn chứng – (Còn nhiều bức thư khác nữa, nhưng bức thư này vừa tiếp được, tiện đây đưa ra đọc) – Bà có một đứa con chín tuổi, bà nói sự độc ác của bọn giặc Pháp, sự cực khổ của đồng bào trong vùng tạm bị chiếm. Bà viết: “Tôi già sống trong hoàn rất cực khổ, thế nhưng mà tôi luôn luôn mong mỏi, tin tưởng bộ đội ta sẽ tổng phản công để đuổi lũ giặc Tây hung ác, đưa dân chúng đến cảnh tượng hòa bình.” Có một cháu bé 16 tuổi cũng viết thư như thế, kể nỗi khổ cực: “Cháu luôn luôn nhớ Bác, luôn luôn nhớ chính phủ. Dầu cực khổ mấy, lúc nào cháu cũng cố gắng học tập, nghe theo như lời Bác dạy, một lòng trung thành với chính phủ. Cháu cố gắng học tập, để xứng đáng là một đứa cháu của Bác và sau này trở thành người dân xứng đáng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.” (Đại hội vỗ tay dài) Thế là do chủ nghĩa Marx – Lénine đã thấm nhuần qua đảng ta, qua dân ta, nên chúng ta nhất định sẽ thắng lợi. (Đại hội vỗ tay rất lâu) Bây giờ tôi qua điểm khác. Nói đến quân đội ta, quân đội anh dũng Việt-Mên-Lào, chúng ta phải nhớ đến đoạn đầu, những người đầu. Trước hết nhớ đến những chiến sĩ Nam bộ lấy gậy tầm vông đập vào đầu thực dân Pháp. (Đại hội vỗ tay lớn) Đây tôi cũng sung sướng giới thiệu với các đồng chí một du kích viên đầu tiên, khi mới tổ chức đội du kích đầu tiên, chỉ có 12 người: 10 nam 2 nữ. Trong những đồng chí ấy thì đây có Lê quảng Ba (Hồ Chủ tịch nhìn quanh đại hội, và hỏi Lê quảng Ba đâu? Đứng lên nào) (Đồng chí Lê quảng Ba đứng dậy. Cả đại hội hướng về phía đồng chí ấy, vỗ tay hoan hô vang dậy) Và tôi giới thiệu một tư lệnh viên đầu tiên trong thời kỳ du kích Bắc sơn – Chắc các cô, các chú cũng đã biết cả – là chú này … (Hồ Chủ tịch ngoảnh về phía chủ tịch đoàn và chỉ đồng chí Chu văn Tấn hiện đang làm chủ tịch buổi họp) – chú Chu văn Tấn! (Đồng chí Tấn đứng dậy. Đại hội vỗ tay hoan hô vang dậy). Từ 12 người ấy mà tiến lên, rồi dần dần thành đội tuyên truyền xung phong, rồi đổi ra là Nam tiến, đổi là Giải phóng quân, đổi ra là Vệ quốc đoàn. Người tổng chỉ huy đầu tiên đội Nam tiến là … (Hồ Chủ tịch chỉ đồng chí Võ nguyên Giáp ngồi ở hàng ghế đầu và nói mạnh rằng: Võ nguyên Giáp đây này! (Đồng chí Giáp đứng dậy. Đại hội vỗ tay hoan hô vang dậy.) Còn những chiến sĩ gậy tầm vông nam bộ ở đây có nhiều! Từ chú du kích viên, rồi đến chú tư lệnh, rồi đến chú Tổng chỉ huy đầu tiên, đều là con của Đảng cả. (Đại hội vỗ tay rất mạnh, rất dài.) Hồi bấy giờ từ 12 đội viên du kích đầu tiên mà bây giờ ta có – có thể nói, Một triệu hai, tính cả dân quân, bộ đội địa phương, bộ đội chính quy. Từ 12 “vawis” (?)[4] (Đại hội cười) bây giờ sinh nở ra một triệu hai trăm ngàn vắt … (Hồ chủ tịch vừa nói vừa gõ tay lên bàn). (Đại hội vỗ tay vang dậy.) (Giữa những tràng vỗ tay tiếng nói của Hồ Chủ tịch nổi bật lên …) Đấy chính là nhờ chủ nghĩa Marx – Lénine. (Đại hội càng vỗ tay nhiệt liệt.) Bây giờ tôi qua điểm thứ ba. Đảng ta, – Nhiêm vụ Đảng ta cũng như nhiệm vụ các đảng đàn anh ta, Đảng Bolchévik, Đảng cộng sản Trung hoa, trong lúc chiến đấu bằng chính trị đã đều chiến đấu bằng quân sự. Như trước kia, trong đại chiến thứ hai – không nói đến thời kỳ cách mạng ở Xô-liên, cũng kháng chiến, kiến quốc như mới đây ở Trung quốc, là đánh Tưởng mà Tưởng do Mỹ giật mũi — , là kháng chiến chống đế quốc Mỹ, mà cũng là vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Các Đảng đàn anh ta đề ra kháng chiến đệ nhất, thắng lợi đệ nhất. Ta cũng đề ra kháng chiến đệ nhất, thắng lợi đệ nhất, vì kháng chiến thắng lợi thì các việc khác giải quyết mới dễ dàng. Thế nên, chúng ta nói, kháng chiến trên hết, thắng lợi trước hết. Muốn kháng chiến trên hết, thắng lợi trước hết, chúng ta phải học kinh nghiệm của các Đảng anh em ta. Như chú Hai vừa kể, có lần bên Xô-liên, đảng Bolchévik động viên đến 1/5 số đảng viên, nhưng chú nói còn ít đấy chứ có chỗ động viên đến 50% lúc chiến đấu gay go. Đảng Cộng sản Trung hoa cũng động viên hầu hết các đảng viên vào bộ đội, lúc lên đường vạn lý trường chinh. Đảng ta có bảy, tám mươi vạn. Rồi đây trung ương mới sẽ có chỉ thị về việc này, – Ít ra cũng phải động viên một vạn Đảng viên. Không kể số đảng viên hiện đã ở trong quân đội trực tiếp vào công việc kháng chiến. (Đại hội vỗ tay, hoan hô nhiều lắm) Với chủ nghĩa như thế, với Ông thày, Ông anh như thế, với lòng trung thành và kiên quyết của nhân dân ta, của Đảng ta, nhất định chúng ta thắng lợi. (Hồ Chủ-tịch bước xuống diễn đàn. Đại hội đứng dậy vỗ tay vang dậy và hô lớn nhiều lần: Hồ Chí Minh Muôn năm! Muôn năm!) Nguồn: TalawasBlog ——————————————————— Ghi chú: [1] Chúng tôi cũng đánh máy đúng theo nguyên bản, kể cả những chữ in đậm và chữ cái. [2] Xem Ilya Gaiduk, Confronting Vietnam: Soviet Policy toward the Indochina Conflict, 1954-1963 (Washington, DC: Woodrow Wilson Center, 2003). [3] Bản chụp tên bị nhòe. [4] Bản chụp mờ, không nhận ra chữ gì. **************************************************************** Sáng kiến mới góp ý với Đảng và Nhà Nước của các cụ đảng viên Đảng Lao Động xưaĐàn Chim Việt: Gần đây, rất nhiều các góp ý của các cựu quân nhân, các đảng viên lão thành cách mạng, các lão tướng… với nhiều vấn đề của đất nước. Đại tướng Võ Nguyên Giáp 3 lần viết thư cho chính phủ và quốc hội về vấn đề Bauxite, ông cũng lên tiếng về Tổng cục II. Hai ông tướng Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh lên tiếng trước việc các địa phương cho thuê rừng đầu nguồn. Rồi cả một trang mạng Bauxite được lập ra để trí thức góp ý và phản biện trước nhiều vấn đề của đất nước. Nhạc sĩ Tô Hải được biết đến nhiều với Hồi Ký “Một thằng hèn” và gần đây, nhiều bài viết khác của ông cũng được dư luận quan tâm. Không phải vấn đề nào cũng được lãnh đạo lắng nghe hay muốn nghe nhưng ngày nay, với phương tiện là Internet, các góp ý này nhanh chóng được chuyển tải tới các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước. ——————————————————— Tô Hải Theo blog Tô Hải Sau khi bài “gửi các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng-Nhà-Nước” của tôi được gửi lên mạng (vì chẳng biết gửi đi đâu mà khỏi bị vứt vào sọt rác?), tôi không ngờ đã được nhiều người góp ý. Khen cũng có mà chê tôi là “lẩm cẩm” cũng có. Đa số thi cho là “tôi đùa dai không đúng chỗ, đúng lúc! Một số thì chửi tôi là: “Lại bầy trò cứu “Đảng ngày nay” ra khỏi bước chân tội lỗi của Đảng ngày xưa”(?!?) Cho tới hôm qua, nhân ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên, tôi hân hạnh được gặp ba cấp tá về hưu và một nhà báo đều cùng cựu chiến binh đồi Him Lam còn sống sót đến thăm vì nghe thấy tôi có mòi sắp về chầu tiên tổ nên lại thăm người thồông chí cũ… Nào ngờ, cuộc viếng thăm lại trở thành một cuộc luận bàn về thời thế! Đặc biệt là chuyện “Làm gì để Đảng-Nhà-Nước ‘ta’ đổi mới hơn nữa, dân chủ hơn nữa để nhân dân ta củng cố thêm niềm tin vào tương lai giầu mạnh, dân chủ công bằng và văn minh?!” Tất cả 4 lão già đều chăm chú vào bài “Sự phát triển về nhận thức của Đảng ta từ cương lĩnh năm 1991”của ông Nguyễn Phú Trọng, người được cho là tiến sỹ lý luận số 1 của Đảng, người đã tập hợp được cả trăm tiến sỹ của Đảng để đẻ ra cái cương lĩnh 1991 nói trên. Lần này, với bài mới toe của ông Trọng, lũ già chúng tôi còn thấy có nhiều điều đặc biệt “mạnh mẽ” hơn. Đó là ông đã công khai lên án “những người xưa”của Đảng ông là “ấu trĩ, là “đơn giản”, là “coi thường những thành tựu của chủ nghĩa tư bản”(!!!). Ông còn vạch ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn phải kinh qua “thời kỳ quá độ” kéo dài… (bao nhiêu năm thì ông không nói, nhưng chúng tôi cứ cho là 100 năm đi vì chẳng lẽ chủ nghĩa tư bản VN mới hình thành đã đánh đổ ngay sao được)… Có lắm ý kiến về cái chuyện “quá độ” này…. Cũng có cụ cho là: Có thể đây là một kiểu “Perestoika và Glasnost chính là để có nhiều chủ nghĩa xã hội hơn” của Gorbachev trong những ngày đầu “Đổi Mới” mà sơ xảy một chút trong lời ăn tiếng nói có thể mất mạng như chơi! Cho đến một ngày khi Gorbachev tuyên bố thẳng thừng “Cả cuộc đời tôi hiến dâng cho chủ nghĩa CS chỉ là nói dối và nói dối” thì người ta mới rõ những lời ông ta nói lúc chưa hợp thời thế là… Lời nói dối cuối cùng! Chẳng biết ông Trọng có được một tí phần trăm nào cái đầu và cái gan của ông Goobachev không, chứ riêng việc dám gọi những gì các bậc cha chú ông là những nhà lãnh đạo giản đơn và ấu trĩ thì cũng là một bước… thí mạng cùi rồi! Vì thế anh em tôi mới lại nhiệt tình đóng góp thêm cho văn kiện đại hội XI những ý kiến xây dựng thiệt thà như sau: NHẤT NGUYÊN CHẾ NGAY HAI TỔ CHÚC ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC Đã từ lâu nay, cái nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý” đã để lộ ra rất nhiều điều “nói dzậy mà không phải dzậy” rồi. Những chuyện “trên bảo dưới không nghe”, ”trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” cũng do cái nguyên tắc rất mù mờ và khó hiểu này. Ông Bộ Chính Trị có thể to hơn ông Bộ Trưởng. Ông Tỉnh Ủy có thề hạ lệnh khác với ông chủ tịch Ủy Ban. Ông Trưởng Ban (Tuyên Giáo chẳng hạn)có thể uốn nắn, ra chỉ thị cho ông Bộ Văn Hóa, Thông Tin, Truyền Thông… Thật là diệu vợi!Và đây cũng là cai yếu điểm để “kẻ xấu và các lực lượng thù địch” rêu rao là Đảng ngồi trên Chính Phủ” hoặc Đảng là “siêu chính phủ”! Chẳng lẽ cứ giữ ý giữ tứ mãi mà không thực hiện ngay lời dặn trong di chúc bác Hồ là “Đảng ta là Đảng cầm quyền” hay sao? Vả lại trong nước cũng như trên thế giới ai chả biết cái chuyện này rồi mà cứ phải nửa úp nủa mở mãi. Bởi vậy chúng tôi kiến nghị: Kể từ Đại Hội XI, Đảng và Chính Phủ nên sát nhập thành Một. Mọi cơ quan, tổ chức, và nhân sự từ Trung Ương tới cơ sở đều được nhất nguyên chế. Tổng bí thư kiêm luôn chủ tịch nước Các Trưởng Ban bên Đảng sang nắm ngay các Bộ mà mình có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra, lãnh đạo… Các chức danh chủ tịch tủ tỉnh, thành phố đến phường xã cũng thế… Làm được điều này có muôn vàn cái lợi mà cái lợi trước mắt cho nhân dân là… Giảm được biên chế !Mọi việc nước sẽ được giải quyết nhanh chóng, tập trung không cần phải họp bàn, nghị quyết, từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, rồi còn phải triển khai, họp bàn, quán triệt… mất thời gian, lớ thời cơ như trước. Một cái lợi to lớn nữa là giảm hẳn chi tiêu cho ngân sách nhà nước mà lâu nay chẳng ai biết nó chiếm mất bao nhiêu % Gi-đi-pi nữa. Tổng bí thư ăn lương và hưởng mọi tiêu chuẩn của chủ tịch nước. Trưởng ban Tổ Chức hưởng mọi tiêu chuẩn của Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ,… Bí Thư Tỉnh Ủy ăn lương Chủ Tịch Tỉnh và cứ thế… cho đến cơ sở. Riêng cái chuyện tiết kiệm chỗ làm việc gọi là trụ sở của các cơ quan Đảng qua việc Nhất nguyên chế này sẽ thừa ra không biết bao nhiêu là nhà cửa, hội trường, xe cộ dành cho bệnh viện trường học lúc nào cũng khó khăn, thiếu thốn cơ sở vật chất… Còn đối ngoại thì chắc chắn khối nước được… thở phào vì cứ phải năm nay khi đón ông Tổng Bí Thu cũng phải làm quốc lễ ”dàn quân, bắn đại bác, chào quốc kỳ… sang năm đón Chủ tịch nuớc cũng phải làm quốc lễ y như mới có ông đứng đầu nhà nước Việt Nam mới vậy. Hơn thế nữa, với việc nhất nguyên chế này, các Đảng Viên được giao trọng trách nắm chính quyền không thể là những người “không đủ tài đức và trí tuệ”, những phần tử cơ hội, tham nhũng (nhận định của ông Lê Khả Phiêu), phải biết nói và làm, chứ không cứ chỉ đạo chung chung như cũ nữa (tiêu chuẩn để chọn lựa mà các ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang… đã đi khắp nơi chỉ đạo đại hội cơ sở lần này.) Cuối cùng, để bổ xung cho sáng kiến của tôi, có nhiều sáng kiến rất hay nhưng… khó thực hiện nên tôi chỉ xin đưa ra những ý kiến khả thi như sau : a-/ Với đường lối kinh tế-văn hóa xã hội hiện nay, - không còn lấy bọn tư bản, địa chủ là đối tượng cách mạng phải tiêu diệt - không còn giai cấp công nhân là tiền phong, nông dân là quân chủ lực - không còn coi trí thức, văn nghệ sỹ là loại đối tượng đầu tiên phải “đào tận gốc, trốc tận rễ” mà hàng loạt những hành sử sửa sai cho các bậc tiền bối bằng cách trao giải, tái bản, phục hồi danh dự và tác phẩm của những kẻ “do ấu trĩ” đã đưa họ vào tù, vào trại cải tạo bằng cách khi chết cho họ vào nằm nhà tang lễ quốc gia v.v… Đảng-Nhà Nước hoàn toàn có thể thay đổi điều lệ Đảng bằng cách phát triển Đảng đại trà trong mọi thành phần xã hội… Làm sao trong 1 tháng, một năm Đảng-Nhà-Nước có thêm chí ít… 30 triệu hoặc 50 triệu đảng viên ở khắp nơi. 3 triệu hiện nay là quá ít so với 8o triệu dân để có thể nói “Đảng của toàn dân” hoặc “Toàn dân thiết tha đi theo Đảng” một cách danh chính ngôn thuận được. Những đại gia, những tỷ phú, những nhà khoa học, văn nghệ sỹ, trí thức quốc nội hay quốc ngoại, ai muốn vào Đảng để phục vụ Nhân Dân đều được phép vào Đảng miễn là có hai người giới thiệu… Lúc bấy giờ, xem ai còn chống Đảng nữa không nào? Riêng về cái tên Đảng hay tên Nhà nuớc có nên đổi hay không thì cũng có nhiều ý kiến… Nhưng theo tôi, Đảng hay Nhà Nước cộng sản hay không thì cả thế giới ai cũng đã rõ. Cái câu “Cái áo không làm nên ông thầy tu”, những người như ông Lê Phú Trọng thừa biết nên làm gì? Khi nào? Nên hay không nên? Bởi vậy sau khi đưa ra một loạt cái tên… này nọ, chúng tôi thấy nên kết luận: “Thôi! Cứ chờ xem Đại Hội tới họ làm gì?” Thế mới biết mấy lão già ngoài bát tuần này vẫn còn nhiệt tình góp ý và vẫn sống trong hy vọng đấy chứ? Tô Hải, 84 tuôỉ nguyên Đảng viên, nạn nhân cái “thời ấu trĩ”, chắp… keyboard!nhưng… xin lỗi! tôi già rồi xin đừng giới thiệu tôi vào “Đảng kiểu mới” nữa! **************************************** Có nên từ bỏ “Chủ nghĩa Mác-Lê” hay không?Phóng viên Mặc Lâm Đài RFA Mới đây, thêm một đảng viên lên tiếng phản đối việc chính phủ Việt Nam tiếp tục sử dụng cụm từ “Chủ nghĩa Mác-Lênin” trong khi vận hành nền kinh tế đặc thù của chủ nghĩa Tư bản. Quan điểm mới TS Đỗ Xuân Thọ, một đảng viên kỳ cựu và là người đưa ra ý kiến này cho rằng nếu không mạnh dạn từ bỏ học thuyết này thì nhà nước đang trực tiếp làm cho nội bộ Đảng phân hóa và tiếp tay với tình trạng tham nhũng hiện nay. Mặc Lâm có cuộc phỏng vấn đặc biệt với TS Thọ, để biết thêm những quan điểm của ông về vấn đề này. Mặc Lâm: Thưa ông, chúng tôi được biết ông có một bài viết phân tích về việc nên từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin để thay vào đó là chủ nghĩa Dân Tộc, thưa sau khi bài viết được phổ biến thì ông có nhận được phản hồi nào từ phía chính quyền hay không ạ? TS Đỗ Xuân Thọ: Tất cả các đồng chí trong Viện đều là những người đồng đội của tôi, kể cả những đồng chí đã cùng chiến đấu ở Quảng Trị cùng với tôi hồi xưa, mấy bác ở phường đến đây họ đều khuyên là phải ngừng lại bởi vì là có một số người đã đăng trên mạng và có những lời bình luận không được hay lắm. Thực ra là tôi tranh luận với các bác thì các bác hiểu rõ cái lập luận của tôi rồi cho nên tôi không trình bày một cách kỹ lưỡng, tôi bị một khuyết điểm là lẽ ra là có thể được bảo lưu ý kiến cho đến tận Ban chấp hành Trung ương, nhưng không được tung trên mạng. Họ phê bình cái chuyện đó. Nếu mà Đảng không lấy chủ nghĩa Dân tộc làm nền tảng tư tưởng thì cái chủ nghĩa Mác-Lênin sẽ bằm nát Đảng lại. Với những mũi nhọn tấn công từ phía ngoài, nó chỉ cần đánh vào cộng sản và đánh tham nhũng là tan Đảng rồi. Mặc Lâm: Trước tinh thần đó thì ông có bảo lưu ý kiến của mình hay không? TS Đỗ Xuân Thọ: Quan điểm của tôi rất là trong sáng. Tôi 56 tuổi rồi, tôi không có một ý định làm quan, làm chức gì cả. Bố tôi cũng là người nuôi các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, rồi nói chung là tôi không nhờ vả, không cậy thần cậy thế gì cả. Tôi đi bộ đội về rồi tôi phục viên, tôi vào đại học rồi cố gắng học lên tiến sĩ. Nói chung là tất cả mọi cái tôi đều hết sức cố gắng nhưng mà một cái điều không thể nào rứt ra được là lúc nào tôi cũng nghĩ về đất nước. TS Đỗ Xuân Thọ Mặc Lâm: Ông vừa nói là rất quan tâm về đất nước, ông có thể cho biết cụ thể hơn những quan tâm đó là gì ạ? TS Đỗ Xuân Thọ: Tôi nghĩ đến vấn đề đất nước hàng chục năm nay rồi. Cái lần Đại hội đảng lần thứ 10 tôi cũng đã viết một bức thư lên Ban chấp hành Trung ương Đảng là hãy loại bỏ tính giai cấp ra khỏi nội hàm khái niệm đảng, mà thay vào đó là tính Dân Tộc, và cũng đổi tên đảng là Đảng Lao động Việt Nam, nhưng mà đảng nghe có một nửa thôi, họ đã phải chỉnh lại, tất nhiên không phải chỉ có mình tôi. Họ phải chỉnh lại cái điều lệ đảng là: Đảng CSVN là đội quân tiên phong của dân tộc Việt Nam, của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời họ phải nèo vào một câu như thế. Hồi đầu tiên thì tôi uất ức, cái thời sống ở thời bao cấp ghê gớm, chẳng hạn như là những cái người mà về sau này tôi nghĩ ngay cả Khrushev, Honecker ở Đức, rất nhiều người còn lầm tưởng đấy là cái chủ nghĩa tuyệt vời nhất có thể xây dựng được một cái xã hội tốt đẹp, cho nên họ mới làm như thế. Đúng là cũng đáng trách thật nhưng mà tôi không thù hận gì nữa, nhưng bây giờ tôi có thể bỏ qua và thông cảm được. Quan điểm của tôi, nếu mà Đảng không lấy chủ nghĩa dân tộc làm nền tảng tư tưởng thì cái chủ nghĩa Mác-Lênin sẽ bằm nát Đảng lại. Với những mũi nhọn tấn công từ phía ngoài, nó chỉ cần đánh vào cộng sản và đánh tham nhũng là chết rồi, là tan Đảng rồi. Tôi là người không chủ trương đa đảng, vì đa đảng lúc này là nội chiến ngay, tôi nghĩ là như thế. Chuyện nội bộ Đảng Mặc Lâm: Ông từng cho rằng chính chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm mất tình đoàn kết trong nội bộ Đảng, ông có thể giải thích thêm được hay không ạ? TS Đỗ Xuân Thọ: Mất đoàn kết là như thế này: Thực chất công cuộc đổi mới là chúng ta dám phá bỏ những luận điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin, đó là đấu tranh giai cấp, toàn bộ Mác là muốn giai cấp công nông là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, thì cái đó là chúng ta phản bội lại chủ nghĩa Mác-Lênin trong cái thời đổi mới này, cho nên mới được như ngày hôm nay. Thế thì cái công cuộc đổi mới đang được tiến hành, tức là chúng ta càng phát triển cái nền kinh tế nói là kinh tế xã hội chủ nghĩa nhưng mà thực chất là kinh tế tư bản chủ nghĩa, có nghĩa là càng đổi mới thì càng phá bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, thế mà cái chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn được ghi vào điều lệ là nền tảng tư tưởng, vì thế cho nên là có một cái mâu thuẫn đảng bị chia ra làm ít nhất là có hai phe: phe thứ nhất bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, phe thứ hai là không quan tâm đến sự thắng thua của chủ nghĩa Mác-Lênin mà tất cả vì dân giàu nước mạnh, tất cả vì dân tộc và ái quyền lợi kinh tế nữa chứ. Và ngoài ra nó còn bị thọc từ bên ngoài vào bởi những cái bọn phản động sẽ tấn công vào những cái thứ mà chúng ta đang làm trái chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúng nó đang hô hào công nông kiện cáo đấu tranh, chúng nó làm đúng chủ nghĩa Mác-Lênin đấy. Chúng nó làm như thế coi như là trong đảng bị phân rã ngay. Tôi có thể khẳng định là ngay trong Bộ Chính Trị đã có sự phân rã nếu như chúng ta còn giữ chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng. Chủ nghĩa Mác-Lênin này nó làm cho chúng ta nhầm lẫn giữa ý thức hệ và dân tộc, ý thức dân tộc và ý thức hệ tư tưởng. Mặc Lâm: Vừa mới đây Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tuyên bố là Việt Nam tiếp tục tiến theo con đường phát triển lên chủ nghĩa xã hội trong đó mô hình kinh tế thị trường vẫn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy đề nghị của ông sẽ đi ngược lại với lời tuyên bố này hay sao ạ? TS Đỗ Xuân Thọ: Tôi nghĩ là cái khẩu hiệu “xã hội chủ nghĩa” nó rất mù mờ. Tôi là một trong những người đưa ra đầu tiên cái khẩu hiệu là “tất cả vì dân giàu nước mạnh”, về sau này họ mới thêm là “xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Đấy là mục tiêu của dân tộc ta, chứ còn tôi không tán thành cái mục tiêu “xã hội chủ nghĩa”. Tất nhiên là tôi sẽ bảo lưu ý kiến đến Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Thực chất khi mà Đảng hỏi ý kiến thì tôi sẽ phát biểu ý kiến đó lại một lần nữa, và nếu mà có thể đối thoại được với TBT Nông Đức Mạnh thì tôi cũng sẽ nói như nói với anh vậy thôi. Tuy nhiên, tôi là một đảng viên cho nên khi mà ý kiến của tôi vẫn chưa được tán thành thì tôi vẫn chấp hành tuyệt đối những nghị quyết của Đảng. Tôi chỉ quan tâm đến sự hùng mạnh của dân tộc Việt Nam, chứ nếu mà theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì là còn phải quan tâm đến cả giai cấp công nông và Mỹ, Pháp nữa cơ, lo cho họ thất nghiệp. Nói thật với anh là tôi chỉ lo cho dân tộc Việt Nam. Mặc Lâm: Xin cám ơn ông. Trên đây là cuộc phỏng vấn TS Đỗ Xuân Thọ về một số ý kiến của ông có liên quan đến vấn đề từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lê. Chúng tôi xin nhắc lại ý kiến của TS Thọ không nhất thiết phản ảnh quan điểm của Đài Á Châu Tụ Do, xin cám ơn quý vị.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 9, 2015 8:54:21 GMT 9
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa?!1. Làm Người không ai không có Tổ Quốc. Là Người Việt Nam chúng ta có chung một Tổ Quốc Việt Nam. -Tổ quốc trên hết!Được sinh ra làm người ai cũng có một gia đình, một đất nước, một quê hương. Dòng đời cứ trôi đi, hết lớp này qua lớp khác, hết thế hệ này đến thế hệ khác, từ ngàn xưa cho đến ngày nay và mãi ngàn sau. Cuộc sống xã hội – con người qua đi nhưng tâm thức, tâm linh cuộc sống dân tộc vẫn mãi còn, thấm đẩm vào tình cảm, tâm hồn cuộc sống mỗi con người, gia đình, xã hội đất nước, quê hương và hình thành nên những tình cảm thiêng liêng của người cùng chung nguồn cội, gìn giữ nó như của báu, gia bảo… Là Người, người Việt Nam ai chẵng có một dòng họ, một làng quê, nơi “chôn nhau, cắt rốn” của mình. Là người Việt Nam ai chẵng tự hào mình là người Việt Nam; tự hào truyền thống lịch sử đấu tranh bất khuất của dân tộc hơn 4 nghìn năm trước kẻ thù phương Bắc; tự hào ta vẫn là người Việt Nam chứ chẵng phải là Tàu, Tây…. Đất nước ta còn, Dân tộc ta còn. Nhân dân ta còn và không bị đồng hóa dù bởi “Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu. Một trăm năm nô lệ giặc Tây”, nhưng hôm nay, đất nước của “thời đại Hồ Chí Minh quang vinh”(!); thời đại Việt Nam có “tổ quốc xã hội chủ nghĩa”(!), niềm tự hào của người Việt Nam ta có còn?! Hỏi để mà trả lời! Nhưng ta tin rằng- Nhân dân, đất nước Việt Nam ta vẫn mãi trường tồn cùng thế giới, nhân loại dù có kẻ rắp tâm bội phản vì quyền lợi riêng của tập đoàn, phe phái, làm tay sai cho kẻ thù truyền kiếp Bắc triều muốn tiêu diệt, đồng hóa con người, dân tộc Việt Nam ta chính trên đất nước ta! Chúng là kẻ bội phản. Chúng không có Tổ, có Tông. Chúng là kẻ vô Tổ quốc, phản bội Tổ quốc nhưng lại nhân danh một tổ quốc vĩ đại đi giải phóng loài người, đưa nhân loại đến “thiên đàng” mà những hành động diệt chủng, diệt văn hóa, diệt văn minh nhân loại…của chúng đã phơi bày trước thế giới trong thế kỷ qua và vẫn còn tiếp diễn ngày nay…. Làm người có Tổ quốc – Tổ quốc Việt Nam nên người Việt Nam chúng ta, có lẽ, không ai không gắn bó mình với cội rễ đất nước, quê hương, với những tình cảm thiêng liêng về cội nguồn dân tộc; luôn tự hào về đất nước, tổ quốc mình mà cha ông bao đời đã dựng xây, gìn giữ. Dù người VN hiện nay đang sống hay không sống trên quê Cha, đất Tổ nhưng Tổ quốc VN vẫn luôn là tình cảm, máu thịt, không ai có thể cắt chia, và trong tim, không ai không nổi nhớ! Không có Tổ Tiên ngàn đời, không có Tổ quốc Việt Nam, không có máu xương, mồ hôi, nước mắt cha ông nghìn đời bồi đắp, giữ gìn từng tấc đất của Tổ Quốc thì sẽ không có con người, đất nước Việt Nam hôm nay, dù hôm nay thân thể VN đầy lỡ loét bởi những vật thể ký sinh, đau nhức vì những ung bướu … Tổ Quốc Việt Nam của con người Việt Nam. Đất nước Việt Nam là của mỗi con dân Việt Nam; của 99 con voi luôn quay đầu về đất Tổ nhưng lại có một con bất nghĩa, phản phúc bị chém đầu…. 2. Khi đất nước Việt Nam chìm trong màn đêm nô lệ, mất nước; mỗi con tim Việt Nam – 99 con voi đã luôn cùng thao thức với núi sông. Cũng có kẻ tự hào làm một trong 99 con Voi, muốn giành lấy tự do cho nhân dân, độc lập cho đất nước nhưng tư tưởng, tâm địa lại muốn tiêu diệt đi “trí, phú, địa hào…”., muốn diệt đi những con người tinh hoa của xã hội, đất nước, những con người giữ gìn, lưu truyền tinh hoa văn hóa dân tộc cho muôn đời Tổ Quốc Việt Nam. Lợi dụng tình cảm thiêng liêng của 99 con voi luôn quay đầu về đất Tổ, yêu nước, thương nòi, biến tình cảm thiêng liêng của mỗi con người Việt Nam đối với Tổ Quốc để “yêu” một Tổ Quốc “vô tổ quốc” dị biệt, mất gốc, ngoại lai, vô nhân, vô tính…với danh xưng mỹ miều- “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”! Một con Voi bất nghĩa không thể bắt buộc 99 con Voi kia phải sống làm người bất nghĩa, bất trung, phản bội Tổ Tông, quê hương, đất nước. Người VN Yêu nước là yêu Tổ Quốc, giang sơn VN, đất nước từ các Vua Hùng dựng nước chứ đâu phải là “tổ quốc XHCN” của mấy chục năm qua… Đảng CS nhân danh là đảng của giai cấp công nhân, đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản với lý tưởng, ước mơ về một Thiên đàng mà chính họ cũng không vẽ nên được (!) và con đường họ đi lại dẫm đạp lên xương máu, mồ hôi, nước mắt của chính nhân dân, dân tộc mình. Với người cộng sản – “bốn phương vô sản một nhà” mà “Công nhân không có tổ quốc” (Tuyên ngôn ĐCS) thì người CS làm gì có Tổ Quốc(!) nhưng họ lại nhân danh một tổ quốc-“tổ quốc XHCN”! Phải chăng trong dân tộc, đất nước VN ta lại có hai Tổ Quốc, hai chủ thể Tổ Quốc ?!.- Tổ Quốc Việt Nam với nhân dân VN là chủ thể và “tổ quốc XHCN” chủ thể là đảng CSVN!? Tổ quốc XHCN chỉ là Tổ quốc của những người không có Tổ quốc!. Kẻ không có Tổ quốc, quê hương làm sao có thể sống thành Người! -“Tổ quốc XHCN” của đảng CS là tổ quốc nào? Nhân dân – 99 con voi có nghĩa, luôn quay về, giữ gìn đất Tổ, có cùng chung một Tổ Quốc, không bao giờ phản bội Tổ Quốc; chỉ có một con Voi lạc loài, phản bội Tổ quốc mới không chịu “quay đầu”! Tổ quốc “XHCN” có hay không? Nó ở đâu? Vì sao đảng CS bắt nhân dân VN phải “yêu”? Phải chăng, “Tổ quốc XHCN” ấy có cùng chung tổ quốc của “hệ thống XHCN”, tổ quốc Liên bang CHXHCN Xô Viết mà người CSVN đã hết mình yêu thương -“Thương cha, thương mẹ, thương chồng/Thương mình thương một, thương Ông thương mười”!? (Thơ Tố Hữu). Cái Liên Bang ấy, cái hệ thống ấy ở Đông Âu đã đổ sập rồi vì nó là sản phẩm của chế độ Stalin mà chế độ “ Quốc Xã và chế độ Stalin. Hai chế độ này đã thực hiện các cuộc diệt chủng, các tội ác chiến tranh, tội ác chống loài người, vi phạm nghiêm trọng quyền con người …” như nghị quyết của Nghị viện các quốc gia thuộc tổ chức An Ninh Và Hợp Tác Châu Âu (ANVHTCA) vừa qua đã lên án? Nhân dân những đất nước ấy hiện nay đang dần trở lại cuộc sống làm người với đầy đủ nhân tính, nhân quyền, dân chủ để gột rửa cái chất dơ, sự bẫn thỉu mà xác chết của chủ nghĩa xã hội đang còn tan rửa làm vấy bẩn trong xã hội chúng ta. Phải chăng chúng cùng chung tổ quốc “XHCN Cuba, Bắc Triều Tiên” với chế độ “đảng chủ XHCN” cha truyền, con nối; anh truyền cho em; kìm hãm dân tộc, đất nước, nhân dân vào sự nghèo đói, Phong kiến còn hơn cả sự thối nát của chế độ Phong kiến! Hay “tổ quốc XHCN” ấy cùng chung “tổ quốc XHCN Trung Hoa vĩ đại” mà các triều đạI phong kiến của đất nước, dân tộc ấy cả hàng nghìn năm qua luôn âm mưu xâm lược, muốn thôn tính nước ta, biến nước ta thành chư hầu, quận huyện, nay được kẻ có cùng chung “tổ quốc XHCN” tô đỏ đậm màu với “16 chữ vàng”?!…”Tổ quốc” ấy phải chăng là “tổ quốc” – “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” mà đảng CS nhân danh là đảng của giai cấp vô sản, “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động” nhưng chính bản thân những kẻ nhân danh ấy có ai là “vô sản”, là “công nhân” hay tất cả đã là “tư sản đỏ”, hàng ngày hàng giờ áp bức, bóc lột giai cấp công nhân, nông dân, người lao động để làm giàu cho chính mình? Tổ quốc XHCN ấy không bao giờ hòa hợp, là Một với Tổ quốc Việt Nam! 3.Đảng Công sản Việt Nam từ khi “cướp chính quyền” cho đến nay luôn nhân danh người yêu nước, dùng sức mạnh bạo lực “chuyên chính “ của đảng CS giương cao ngọn cờ Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội! “Độc lập dân tộc” nhân dân VN phải trả bằng máu để hôm nay nuôi những kẻ phản bội, dối trá… Đối với đảng CS “độc lập” chỉ là sự độc chiếm, độc tôn, độc quyền làm chủ nhân ông xã hội; nắm quyền lực và không chia xẻ quyền lực cho bất cứ ai, kể cả với nhân dân. Bằng quyền lực của hệ thống chuyên chính buộc nhân dân phải “yêu đảng”,yêu “tổ quốc XHCN”. “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”; là “yêu đảng”, bảo vệ sự độc quyền lãnh đạo của đảng CS. Đảng CS đã cưỡng bức giáo dục các thế hệ nhân dân VN, cả từ lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng- “Sẳn sàng” ”Vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì lý tưởng của Bác Hồ vĩ đại!” ( Khẩu hiệu hành động của Đội Thiếu niên Tiền phong HCM). Đảng CS đã chiếm đoạt Tổ quốc của nhân dân VN; đánh tráo Tổ quốc VN thành “tổ quốc XHCN” của mình; tự đồng hóa mình thành dân tộc, đứng trên cả Tổ Quốc VN. Yêu “tổ quốc XHCN” là yêu đảng, yêu chủ nghĩa xã hội; là tuyệt đối tin tưởng vào đảng CS, vào chủ nghĩa, hệ tư tưởng, “lãnh tụ” của đảng và biến lãnh tụ thành “Cha già dân tộc”; là phục tùng tuyệt đối những chủ trương, đường lối mà đảng CS vạch ra..Đảng CS là tuyệt đối! Kỷ luật đảng còn cao hơn cả luật pháp. Không ai được quyền đụng đến đảng(!!!). Ai không tin, không yêu, dù là phản biện “chủ thuyết”, chủ trương, đường lối, nghị quyết của đảng là chống lại đảng, vi phạm điều 88 BLHS vì “ tội tuyền truyền chống nhà nước…” là “phản bội tổ quốc”!… – “Yêu nước là yêu CHXH”, là “yêu tổ quốc VN XHCN” nên hơn 3 triệu thanh niên Việt Nam đã phải chết oan uổng trong cuộc chiến vừa qua mà sự đối xử với con người còn sống đến hôm nay cho ta thấy bản chất của họ như thế nào; là thành tích “kéo lùi lịch sử” để đưa đất nước VN ngày càng tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới; là tiêu diệt đi bản sắc truyền thống đạo đức, văn hóa, tâm linh của dân tộc VN; tàn phá môi trường, tài nguyên đất nước ; biến tình cảm con người VN dần trở thành chai lỳ, vô cảm trước vận mệnh của dân tộc, đất nước…”Hỡi ôi con cháu Bác Hồ!!! Nước mất chẳng khóc, khóc Mai Cồ phương xa”…”Yêu tổ quốc XHCN” với tình “hữu nghị”, “núi liền núi, sông liền sông”; “16 chữ vàng”…với nhiều “ân nghĩa” nên đảng CS đã im lăng, đồng lõa, đồng tình, nối giáo cho bọn xâm lược, “rước giặc vào nhà”, dâng đất đai, bờ cõi, biên giới hải đảo, Hoàng Sa, Trường Sa cho kẻ cùng chung ” tổ quốc XHCN” phương Bắc; đàn áp những con dân VN yêu nước, bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam, xuống đường biểu tình thể hiện chủ quyền VN đối với Hoàng Sa – Trường Sa; Khiếp hèn để cho bọn giặc “đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ.”(Hịch Tướng sỹ), ung dung nhởn nhơ, trịch thượng làm chủ nhân ông trên đất nước VN; để “Tàu…lạ” hung hăng bắn giết ngư dân VN trên vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia; bất chấp pháp luật và lòng dân, lợi ích muôn đời con cháu mai sau, dối trá, tráo trở, cuồng điên “đồng thuận”, “lách luật” để khai thác bauxite Tây nguyên Việt Nam bằng mọi giá không màng đến an ninh quốc gia, sự tồn vong của dân tộc, đất nước trước âm mưu xâm lược của kẻ thù truyền kiếp; lại cấu kết nhau ra sức vơ vét, làm giàu bằng mọi thủ đoạn, kể cả bằng Luật pháp và công cụ “chuyên chính” để tham nhũng; dung túng cho bọn tham nhũng, bất lương, không còn liêm sỹ nhưng những cái loa to, loa nhỏ từ mọi nguồn, mọi công suất luôn hô hào vì nhân dân, đất nước; chà đạp lòng yêu nước, mọi quyền tự do, dân chủ của tuổi trẻ và nhân dân VN… Thật đúng là: Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế Gây thù kết oán trải mấy mươi năm Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị Nặng thuế khóa sạch không đầm núi. (Nguyễn Trãi-Bình Ngô Đại Cáo) Đảng CS đã chỉ vì “tổ quốc XHCN” mà cấu kết với ngoại bang, không đứng về phía lợi ích dân tộc, không vì nhân dân, đất nước, Tổ Quốc VN; tất cả chỉ vì lợi ích riêng của mình, vì quyền thống trị của mình với toàn xã hội mà những “nổi ngán ngẩm thường ngày”(!) – nhân dân hàng ngày phải cắn răng cam chịu… Một dân tộc, đất nước không thể có hai “Tổ Quốc”! Nhân dân VN chỉ có một Tổ Quốc VN. Kẻ ngoại bang nào đụng đến mỗI tấc đất, ngọn cây, rặng tre, bụi lúa, con sông; đụng đến biên giới, biển, hải đảo, Trường Sa- Hoàng Sa, đất, trời của đất nước VN là đụng đến Tổ quốc VN. Tổ quốc là của nhân dân. Nhân dân muôn đời vẫn là người giữ nước và bảo vệ Tổ quốc. Kẻ không đứng cùng lợi ích của nhân dân, không vì Tổ quốc VN sẽ không còn là người Việt Nam; chúng là kẻ phản bội Tổ quốc và không có quyền đại diện cho dân tộc, đất nước Việt Nam trong bất cứ tình huống nào. Kẻ ấy là ai? tôn thờ tổ quốc nào? Ai là kẻ phản động? Ai bán nước? Ai chống lại nhân dân, phản bội Tổ Quốc VN? Tất cả đã phơi bày… Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi! Lòng người đều căm giận, Trời đất chẳng dung tha; (Nguyễn Trãi-Bình Ngô Đại Cáo) Hỡi Một con Voi kia hãy quay đầu về núi Tổ. Một bọc trăm con của Mẹ Âu Cơ xưa nay vẫn một lòng, mãi mãi vì Mẹ VN. Hãy quay về, quay về, tất cả hãy vì Một Tổ Quốc Việt Nam! Mao va VN đã sử dụng năm thủ đoạn kể sau để khống chế chặt chẽ xã hội dưới tay mình.Thủ đoạn thứ nhất – Chế độ hộ khẩu Chế độ hộ khẩu kiểu Trung Quốc phân tách thành thị và nông thôn. Nông dân suốt đời bị cầm cố ở nông thôn, các hộ dân quê không có cách nào để dời lên thành phố. Không có hộ khẩu thành phố thì không có chỗ làm, không có hộ khẩu thành phố thì không có phân phối lương thực, không có hộ khẩu thành phố không những không làm được bất cứ việc gì mà chính ra là không thể sinh tồn. Dân thành phố cũng bị cầm cố tại chính nơi cư trú của mình. Việc chuyển chỗ ở giữa các thành phố cũng vì chế độ hộ khẩu mà chịu sự khống chế hoàn toàn. Chế độ hộ khẩu đó dẫn đến vấn đề bất bình đẳng về mức sống, việc làm, đi học giữa nông thôn và thành phố. Vậy nhưng chỗ giống nhau về quyền lợi chính trị mà dân nông thôn và dân thành phố được hưởng đều là “không có gì”. Chế độ hộ khẩu Trung Quốc còn có một công năng khác, đó là thông qua hộ khẩu cưỡng chế những ai không phục tùng hay có kiến giải độc lập về nông thôn tiếp thu giáo dục lao động cải tạo. Sự khác biệt giữa thành phố và nông thôn kiểu như thế hoàn toàn là do con người tạo nên. Những ai có hiểu biết về thời kì lịch sử đó đều thấy rõ như thế Thủ đoạn thứ hai – Chế độ tem phiếu phân phối Mao Trạch Đông dùng chế độ phân phối tem phiếu để nắm chặt trong tay mình nguồn nhu yếu phẩm phục vụ đời sống nhân sinh. Bất cứ một số lượng tiêu dùng nhu yếu phẩm nào cần thiết cho sinh hoạt đều được phân phối, người dân không thể tự do có được các nhu yếu phẩm đó. Khi mua lương thực không những cần có sổ mà còn cần cả tem phiếu, có tiền cũng không mua được định mức quy định theo tháng. Điều cần phải chỉ rõ là, phiếu lương thực còn chia thành loại phiếu thông dụng toàn quốc, loại phiếu dùng ở địa phương các tỉnh và loại phiếu dùng cho các thành phố. Trừ loại phiếu lương thực thông dụng toàn quốc ra, hai loại sau chỉ có thể dùng trong phạm vi các tỉnh các thành phố. Người ta không thể xoay trở được nếu như không có phiếu lương thực. Chỉ riêng với chế độ phiếu lương thực đã có thể khống chế được quyền tự do hành động của dân chúng. Nhưng chế độ phân phối của Mao gồm một nội dung hết sức rộng rãi. Tất cả đều được phân phối theo phiếu – có phiếu dầu ăn, phiếu vải, phiếu trứng, phiếu đường, phiếu thịt, phiếu máy khâu, phiếu xe đạp,… Đến tết có phiếu hàng tết.Đủ loại tem phiếu quán xuyến toàn bộ đời sống người dân Trung Quốc. Thủ đoạn thứ ba – Chế độ hồ sơ lí lịch Chế độ hồ sơ lí lịch không xa lạ đối với mỗi người dân Trung Quốc. Cho dù anh học ở trường, công tác ở các đơn vị cơ quan hay về hưu ở nhà (về hưu hồ sơ lí lịch được chuyển về khối phố hoặc công xã nơi đương sự sinh sống). Hồ sơ lí lịch theo liền với từng người cho đến hết đời. Chức năng của chế độ hồ sơ lí lịch không thua kém gì một sự theo dõi ngầm của cơ quan công an. Trường học và cơ quan sẽ ghi vào hồ sơ nếu đương sự bị kỉ luật. Những nhận xét hay giới thiệu mà chính đương sự không được đọc thấy hay không được chính đương sự xác nhận cũng được phê viết vào hồ sơ lí lịch. Tính cách tiêu cực hay tích cực của những lời phê đó ảnh hưởng đến đến cuộc sống giữa xã hội của chủ nhân bộ hồ sơ. Những ai có dũng cảm phàn nàn, nêu ý kiến hay phát ngôn trái lạ đều bị ghi vào trong hồ sơ lí lịch. Còn như việc sẽ chịu xử lí như thế nào thì chỉ còn trông chờ vào may rủi. Chế độ hồ sơ lí lịch phi nhân tính đó trên thực tế đã tước đi quyền tự do ngôn luận. Thủ đoạn thứ tư – Chế độ giáo dục lao động cải tạo Giáo dục lao động cải tạo được nói là một loại xử phạt hành chính nhưng trên thực tế rất gống với xử phạt hình sự. Chế độ giáo dục lao động có tính tùy tiện, nó có thể do một đơn vị cơ quan quyết định. Như thế chế độ giáo dục lao động khiến cho các cơ quan đơn vị trở nên rất gần với một cấp tư pháp nhưng tùy tiện và vô pháp luật. Mặc dù nói là xử phạt hành chính và được gọi là “trị bệnh cứu người” nhưng những người bị bắt đi lao động không những mất quyền tự do nhân thân đồng thời họ cũng trở thành “tiện dân” của xã hội và chịu sự kì thị. Nghiêm trọng hơn là khi mãn hạn lao-giáo rồi người ta vẫn có thể cưỡng chế người bị giáo dục bằng lao động đó ở làm việc tại chỗ. Trên thực tế đó là một thứ tù không kì hạn, suốt đời bị giam thân cảnh tù, mất hẳn tự do. Việc có thể tùy ý thực hiện chế độ lao-giáo đối với dân chúng là biểu hiện của sự khủng bố chính trị thời Mao. Thủ đoạn thứ năm – Chế độ cơ quan đơn vị Dưới thời Mao, “cơ quan/đơn vị” trên thực tế chính là chỗ để khống chế cá nhân. Quyền tự do theo đuổi nghề nghiệp bị tước bỏ, tất cả mọi người đều nhận công tác theo sự sắp xếp của nhà nước. Người ta không có quyền chọn công việc và cũng không có quyền từ chối công việc được phân công. Nhà nước không cho phép tùy ý từ chức hay đổi công tác. Mỗi một người suốt đời làm việc ở những vị trí công tác đã được phân công. Tiền lương do nhà nước quy định. Tình trạng đi làm cả đời không có tăng lương là rất nổi bật. Một khi anh rời khỏi đơn vị hoặc bị đơn vị khai trừ đồng nghĩa với việc hoặc là anh đã ra khỏi cái xã hội mà Mao đang khống chế hoặc là anh bị cái xã hội đó khai trừ. Anh sẽ lâm cảnh đường cùng, mất hết nền tảng sinh hoạt. Trong cái chế độ cơ quan-đơn vị đó, để sinh tồn kiếm sống nuôi gia đình anh chỉ có thể phục tùng và phục tùng. Nhân dân Trung Quốc không có tội và cũng không có trách nhiệm về Cách mạng Văn hóa.Thời đại Mao Trạch Đông chính là dùng những thủ đoạn như thế để khống chế toàn bộ xã hội Trung Quốc. Cộng thêm vào đó là hết cuộc vận động chính trị trị này đến cuộc vận động chính trị kia. Tất cả khiến cho nhân dân Trung Quốc thực không có lấy một cơ hội nào để thở lấy hơi nữa. Cách mạng Văn hóa trong suốt quá trình của nó xem ra rất là hỗn loạn nhưng cả xã hội vẫn được khống chế chặt trong tay Mao. Mà Cách mạng Văn hóa là một cuộc vận động chính trị nhằm giải quyết chuyện người thừa kế quyền lực. Nói cách khác Mao phát động Cách mạng văn hóa là nhằm mục đích biến giang sơn của một đảng thành giang sơn của một nhà, chuẩn bị cho Giang Thanh tiếp nối quyền hành[7] (Xem Lưu Thông, “Mục đích của Cách mạng Văn hóa – Xác lập người thừa kế quyền hành”). Trong Cách mạng Văn hóa, từ trên xuống dưới, từ trong đảng đến người ngoài đảng tất cả đều bị cuốn vào trong đó. Người bị cuốn vào không biết nguyên do sự việc nhưng kẻ phát động thì từng bước hướng cuộc vận động đi đến mục tiêu đã dự định trước. Nhiều lãnh đạo cấp cao bị cuốn vào mà không sao hiểu được nguyên do, họ lại còn đứng đó hô hào học tập. Họ cảm thấy chuyện dường như là “cách mạng gặp phải vấn đề mới”. Nhiều lãnh đạo bị lôi ra phê đấu bắt đầu công việc tự kiểm thảo đi kiểm thảo lại. Mao Trạch Đông bày đặt mê hồn trận, khiến cho đám đông những là “đối tượng của cách mạng” từ to đến nhỏ không biết phải như thế nào cho phải, suốt này hoảng hốt giữa rầm trời tiếng hô khẩu hiệu và tiếng hô đả đảo. Trong một không khí khủng bố chính trị như thế, quần chúng dân đen không chút quyền hành sống khác gì chết. Họ đến nói năng cũng phải giữ mồm, không cẩn thận là bị hàng xóm thậm chí chính vợ (chồng) con cái mình phản ánh, tố giác nghiencuulichsu.com/2013/11/06/cach-mang-van-hoa-la-toi-cua-ai/Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó (Báo cáo của Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương (BCHTW) Đảng cộng sản Liên Xô (ĐCSLX), N.S. Khrushov tại phiên họp kín đại hội ĐCSLX lần thứ XX ngày 25 tháng Hai năm 1956) Thưa các đồng chí! Trong báo cáo của BCHTW tại đại hội lần thứ XX, trong hàng loạt tham luận của các đại biểu đại hội, cũng như trong các kì hội nghị toàn thể BCHTW ĐCSLX trước đây, đã đề cập nhiều về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả tai hại của nó. Sau khi Stalin mất, BCHTW đã nghiêm khắc và từng bước tiến hành kiểm điểm việc đề cao vai trò của một cá nhân, biến cá nhân đó thành kẻ siêu phàm với những phẩm chất siêu nhiên, tương tự như thần thánh, là điều không thể chấp nhận được và xa lạ với tinh thần học thuyết Marx-Lenin. Một con người dường như biết hết tất cả, nhìn thấy hết tất cả, suy nghĩ thay cho mọi người, có thể làm được tất cả và không hề sai lầm trong mọi hành động. Nhiều năm nay, trong chúng ta vẫn tồn tại sự tôn sùng cho khái niệm về một con người như thế, nói một cách cụ thể, chính là về Stalin. Bản báo cáo này không nhằm mục đích đánh giá toàn diện thân thế và sự nghiệp của Stalin. Công trạng của Stalin đã được trình bày đầy đủ trong nhiều sách vở, báo chí và các nghiên cứu, ngay từ sinh thời Stalin. Vai trò của Stalin trong việc chuẩn bị và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong nội chiến, trong giai đoạn đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được toàn thể mọi người biết rất rõ. Giờ đây, chúng ta đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với hiện tại và tương lai của đảng ta - đó là sự sùng bái cá nhân Stalin đã được hình thành từng bước như thế nào, và trong một giai đoạn nhất định, đã trở thành nguồn gốc của hàng loạt vi phạm to lớn và đặc biệt nghiêm trọng những nguyên tắc đảng, nền dân chủ của đảng, nền pháp chế cách mạng. Vì lẽ, không phải ai cũng thấy rõ những hậu quả của tệ sùng bái cá nhân trong thực tiễn, những thiệt hại nghiêm trọng do việc vi phạm nguyên tắc lãnh đạo tập thể của đảng và sự tập trung quyền lực lớn lao, không giới hạn trong tay một cá nhân, cho nên BCHTW nhận thấy cần thiết phải báo cáo trước đại hội ĐCSLX lần thứ XX những tư liệu về vấn đề này. Trước hết, xin phép nhắc các đồng chí là các nhà kinh điển của học thuyết Marx-Lenin đã từng nghiêm khắc phê phán mọi biểu hiện của sự sùng bái cá nhân. Trong thư gửi nhà hoạt động chính trị người Đức Wilhelm Blos, Marx đã tuyên bố: "... Trong thời kì hoạt động của Quốc tế cộng sản, ác cảm với mọi hiện tượng sùng bái cá nhân đã khiến tôi không bao giờ cho công bố rất nhiều thư từ đã làm tôi bực mình vì trong đó chỉ tán dương công trạng của tôi, được gửi đến từ nhiều nước; thậm chí tôi không bao giờ trả lời, chẳng lẽ đáp lại bằng những lời quở trách. Lần đầu tiên Engels và tôi gia nhập hội những người cộng sản bí mật với điều kiện phải xóa bỏ trong điều lệ hết thảy những gì tạo điều kiện cho sự sùng bái uy quyền một cách mê muội (sau này, Lassalle đã hành động hoàn toàn ngược lại)" (Marx & Engels toàn tập, tập XXVI, trang 487-488). Ít lâu sau, Engels viết: "Cả Marx và tôi đều luôn chống lại mọi sự biểu dương công khai liên quan đến những cá nhân riêng lẻ, ngoại trừ trường hợp có mục đích cao cả; và nhất là chúng tôi chống lại những biểu dương đối với cá nhân chúng tôi, ngay lúc sinh thời". (Marx & Engels toàn tập, tập XXVIII, trang 385). Mọi người đều biết đức tính khiêm tốn vĩ đại của thiên tài cách mạng Vladimir Ilich Lenin. Lenin luôn nhấn mạnh và đề cao vai trò của nhân dân, như những người sáng tạo lịch sử, vai trò lãnh đạo và tổ chức của đảng như một cơ thể sống, độc lập, vai trò của BCHTW. Chủ nghĩa Marx không phủ nhận vai trò của những lãnh tụ giai cấp công nhân trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng. Đánh giá cao vai trò của những người lãnh đạo và tổ chức quần chúng, Lenin đồng thời đả phá thẳng tay mọi biểu hiện sùng bái cá nhân, đấu tranh không khoan nhượng với mọi quan điểm cách mạng xã hội xa lạ với học thuyết Mac-xit về "anh hùng" và "quần chúng", chống lại mọi ý đồ đưa "anh hùng" đối lập với quần chúng, với nhân dân. Lenin dạy rằng sức mạnh của đảng nằm trong mối quan hệ không tách rời với quần chúng, rằng đằng sau đảng là nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân, trí thức. Lenin nói: "Chỉ có kẻ nào tin tưởng ở nhân dân, chỉ có kẻ nào đắm mình trong nguồn sáng tạo sinh động của nhân dân, kẻ ấy mới có thể chiến thắng và giữ vững được chính quyền" (Lenin toàn tập, tập 26, trang 259). Lenin tự hào nói về đảng cộng sản của những người bôn-sê-vich, như là người lãnh đạo và người thầy của nhân dân, Lenin kêu gọi đưa mọi vấn đề quan trọng ra bàn luận trước những công nhân giác ngộ và trước đảng của mình; người tuyên bố: "Chúng ta tin tưởng vào đảng, chúng ta thấy trong đó khối óc, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta" (Lenin toàn tập, tập 25, trang 239). Lenin kiên quyết chống lại mọi mưu toan làm giảm hoặc làm suy yếu vai trò lãnh đạo của đảng trong hệ thống nhà nước Sô-viết. Người thiết lập những nguyên tắc bôn-sê-vich cho sự lãnh đạo của đảng và những quy tắc sinh hoạt đảng, người nhấn mạnh lãnh đạo tập thể là nguyên tắc cao nhất trong sự lãnh đạo của đảng. Ngay trong những năm trước cách mạng, Lenin vẫn gọi BCHTW là tập thể của những lãnh đạo, người bảo vệ và diễn giải những nguyên tắc của đảng. Lênin đã chỉ ra: "Trong khoảng thời gian giữa hai kì đại hội, BCHTW diễn giải những nguyên tắc của đảng" (Lenin toàn tập, tập 13, trang 116). Nhấn mạnh vai trò và quyền hạn của BCHTW, Vladimir Ilich nêu rõ: "BCHTW của chúng ta đã hình thành một nhóm vô cùng tập trung và có uy tín cao..." (Lenin toàn tập, tập 33, trang 443) Hồi sinh thời Lenin, BCHTW là biểu hiện chân chính cho sự lãnh đạo tập thể của đảng và đất nước. Là một chiến sĩ cách mạng Mac-xit, không bao giờ khoan nhượng trong những vấn đề mang tính nguyên tắc, song Lenin không bao giờ ép buộc các đồng chí phải phục tùng quan điểm của mình. Người thuyết phục, kiên nhẫn giải thích ý kiến của mình cho các đồng chí. Lenin luôn nghiêm khắc theo dõi việc thực hiện những quy tắc sinh hoạt đảng, tuân thủ điều lệ đảng, kịp thời triệu tập đại hội đảng và hội nghị toàn thể BCHTW. Bên cạnh những cống hiến vĩ đại cho thắng lợi của giai cấp công nhân và nông dân lao động, cho thắng lợi của đảng ta và sự vận dụng tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản khoa học vào thực tiễn, sự sáng suốt của Lenin còn thể hiện trong việc người đã kịp thời phát hiện những phẩm chất tiêu cực của Stalin, mà sau này đã dẫn đến những hậu quả rất nặng nề. Lo ngại cho tương lai của đảng và nhà nước Sô-viết, V.I. Lenin đã nhận xét hoàn toàn đúng đắn tính cách của Stalin, đồng thời đề ra việc cần phải xem xét vấn đề chuyển Stalin khỏi chức vụ tổng bí thư, bởi Stalin là người quá thô lỗ, không quan tâm đúng mức đến các đồng chí, tính nết thất thường và lạm dụng quyền lực. Tháng 12-1922, trong thư gửi đại hội đảng thường kì Vladimir Ilich đã viết: "Từ khi nắm trọng trách tổng bí thư đảng, đồng chí Stalin đã thâu tóm vào tay mình quyền lực vô hạn mà tôi không dám chắc đồng chí sẽ đủ thận trọng để sử dụng quyền lực này". Bức thư đó - một văn kiện chính trị đặc biệt quan trọng, được biết đến trong lịch sử đảng dưới cái tên "Di chúc" của Lênin - đã được gửi đến các đại biểu của đại hội lần thứ XX kì này. Các đồng chí đã đọc nó và nhiều khả năng sẽ còn đọc đi đọc lại nhiều lần. Các đồng chí hãy lưu ý đến những lời lẽ đơn giản của Lenin trong đó thể hiện mối quan tâm của người về đảng, về nhân dân, về nhà nước và đường lối chính trị của đảng trong giai đoạn tiếp theo. Vladimir Ilich nói: "Stalin là người quá thô lỗ và nhược điểm này hoàn toàn có thể chịu đựng được trong quan hệ giữa chúng ta, những người cộng sản, song không thể chấp nhận được trên cương vị tổng bí thư đảng. Vì thế, tôi đề nghị các đồng chí hãy suy nghĩ về biện pháp thuyên chuyển Stalin khỏi trọng trách này và đề cử vào vị trí đó một đồng chí khác, với những phẩm chất ưu tú hơn so với Stalin, cụ thể là kiên nhẫn hơn, trung thực hơn, nhã nhặn hơn, chu đáo với đồng chí hơn, ít thất thường hơn v.v..." Văn kiện đó của Lenin đã được công bố cho các đại biểu đại hội lần thứ XIII, và khi đó các đại biểu đã thảo luận về vấn đề chuyển Stalin khỏi chức vụ tổng bí thư. Tuy nhiên, các đại biểu đã biểu quyết duy trì Stalin ở cương vị ấy, hi vọng Stalin sẽ chú ý đến những nhận xét mang tính phê bình của Vladimir Ilich và biết khắc phục những nhược điểm đã khiến Lenin đặc biệt lo ngại. Thưa các đồng chí! Cần phải báo cáo đại hội về hai tài liệu mới bổ sung cho đánh giá của Lenin về tính cách của Stalin, mà người đã nêu rõ trong Di chúc của mình. Những tài liệu đó là thư của Nadezhda Konstantinovna Krupskaya gửi cho Kamenev, khi đó đứng đầu Bộ Chính trị, và thư riêng của Vladimir Ilich Lenin gửi Stalin. Tôi xin đọc các tài liệu nói trên: 1. Thư của Krupskaya: "Lev Borisych, chỉ vì một lá thư ngắn mà bác sĩ đã cho phép Vladimir Ilich đọc cho tôi viết, ngày hôm qua Stalin đã hành xử một cách thô bạo nhất đối với tôi. Tôi là thành viên của đảng không phải mới chỉ một ngày. Trong suốt 30 năm, tôi chưa hề nghe một đồng chí nào có một lời nào thô lỗ với tôi, mối quan tâm về đảng cũng như về Ilich của tôi hoàn toàn không kém hơn so với Stalin. Lúc này, tôi cần tự chủ cực độ. Điều gì có thể và điều gì không thể nói với Ilich, tôi là người hiểu rõ hơn mọi bác sĩ, bởi vì tôi biết điều gì làm người quan ngại, điều gì không, trong mọi trường hợp, còn rõ hơn Stalin. Tôi viết thư này đến đồng chí và đồng chí Grigory - là những đồng chí gần gũi nhất của Ilich - và tôi đề nghị bảo vệ tôi khỏi sự can thiệp thô bạo vào đời tư của tôi, những mắng chửi và đe dọa vô liêm sỉ. Tôi không mảy may nghi ngờ về cái quyết định thống nhất của ủy ban kiểm tra mà Stalin đem ra để dọa dẫm tôi, nhưng tôi chẳng còn sức lực và thời gian đâu mà dành cho cái trò cãi vã ngu xuẩn này. Tôi cũng là người và thần kinh của tôi đã căng thẳng đến mức tới hạn. N. Crupskaya". Nadezhda Konstantinovna viết bức thư này vào ngày 23-12-1922. Hai tháng rưỡi sau, tháng 3-1923, Vladimir Ilich Lenin gửi đến Stalin bức thư sau: 2. Thư của Lenin. "Kính gửi đồng chí Stalin, sao gửi đồng chí Kamenev và Zinovyev. Đồng chí Stalin kính mến, Đồng chí đã hành xử thô lỗ khi gọi điện để mắng chửi vợ tôi. Mặc dù vợ tôi đã đồng ý với đồng chí sẽ bỏ qua chuyện này, tuy nhiên, sự việc là hai đồng chí Zinovyev và Kamenev đã biết chuyện này qua vợ tôi. Tôi không có ý định bỏ qua một cách dễ dàng những hành động chống lại tôi, và chẳng cần nói ra, thì những gì chống lại vợ tôi cũng coi như chống lại tôi. Vì thế, tôi yêu cầu đồng chí cân nhắc việc rút lại những lời đã nói và có lời xin lỗi, hoặc đoạn tuyệt mọi quan hệ giữa chúng ta (Xôn xao trong phòng họp). Kính thư. Lenin, 5-3-1923". Thưa các đồng chí! Tôi xin miễn bình luận những tài liệu nói trên. Tự thân nó đã nói lên tất cả. Nếu như Stalin đã có thể hành xử như thế ngay từ sinh thời Lenin, đặc biệt là cư xử như thế với Nadezhda Konstantinovna Krupskaya, người mà đảng ta ai cũng biết rõ và đánh giá cao như người bạn trung thành của Lenin, một chiến sĩ tích cực đấu tranh vì sự nghiệp của đảng ta ngay từ thời mới khai sinh, thì có thể hình dung thái độ của Stalin đối với những người khác. Những phẩm chất tiêu cực ấy của Stalin ngày càng phát triển đến mức hoàn toàn không thể chịu đựng nổi trong những năm cuối đời của đồng chí ấy. Những sự kiện xảy ra sau này đã chứng tỏ mối quan ngại của Lenin hoàn toàn có cơ sở: trong giai đoạn đầu sau khi Lenin qua đời, Stalin còn chú trọng đến những chỉ thị của Lenin, nhưng càng về sau Stalin càng không thèm đếm xỉa đến những khuyến cáo của Vladimir Ilich. Nếu phân tích thực tiễn lãnh đạo đảng và đất nước của Stalin, suy gẫm về toàn bộ những gì Stalin đã vi phạm, chúng ta càng khẳng định những lo ngại của Lenin vô cùng đúng đắn. Các phẩm chất tiêu cực của Stalin, chỉ mới hình thành hồi sinh thời Lenin, vào những năm cuối cùng đã phát triển thành sự lạm dụng nghiêm trọng quyền lực tập trung trong tay Stalin, là nguyên nhân của những tổn thất không sao kể xiết cho đảng ta. Chúng ta cần nghiêm túc xem xét và phân tích một cách đúng đắn vấn đề này, nhằm loại bỏ mọi khả năng tái diễn dưới bất kì hình thức nào những việc tương tự đã xảy ra dưới thời Stalin, một người đã thể hiện tinh thần hoàn toàn bất phục tùng tính tập thể trong lãnh đạo và trong công việc, đã sử dụng bạo lực trắng trợn để đàn áp không những đối với những quan điểm đối lập, mà còn đối với tất cả những gì bị coi là không phù hợp với quan điểm của mình, do tính khí thất thường và độc đoán. Stalin không dùng phương pháp thuyết phục, giải thích, hợp tác kiên nhẫn, mà dùng biện pháp áp đặt quan điểm của mình, đòi hỏi mọi người phải phục tùng vô điều kiện. Ai dám chống lại và tìm cách chứng tỏ quan điểm của mình, sự đúng đắn của minh, kẻ đó sẽ bị loại trừ khỏi tập thể lãnh đạo và sau đó sẽ bị hủy diệt về mặt tinh thần và thể xác. Điều này đặc biệt nghiêm trọng vào thời kì sau đại hội lần thứ XVII, khi rất nhiều nhà hoạt động xuất sắc trung thực của đảng, trung thành với sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản, và hàng loạt các đảng viên nòng cốt đã là nạn nhân của sự bạo ngược của Stalin. Phải nói rằng, đảng đã tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại phe Trotskist, hữu khuynh và tư sản quốc gia, đã đập tan về mặt tư tưởng mọi kẻ thù của chủ nghĩa Lenin. Cuộc đấu tranh tư tưởng này đã thành công, từ đó đảng ta ngày càng được củng cố và tôi luyện. Và trong đó Stalin đã đóng một vai trò tích cực. Đảng đã tiến hành cuộc đấu tranh tư tưởng chính trị quyết liệt chống lại những kẻ trong hàng ngũ đảng tuyên truyền các tư tưởng phi Lenin, đi theo đường lối chính trị thù địch chống lại đảng và sự nghiệp chủ nghĩa xã hội. Đó là cuộc tranh đấu bền bỉ, khó khăn, song vô cùng cần thiết, bởi lập trường chính trị của bè lũ Trotskist-Zinovyev cũng như Bukharin, về bản chất dẫn đến tái lập chủ nghĩa tư bản và đầu hàng tư sản thế giới. Chúng ta thử tưởng tượng, nếu như vào thời kì 1928-1929, đường lối chính trị của bọn hữu khuynh, chủ trương thuyết "ưu tiên phát triển công nghiệp nhẹ ", hướng về bọn địa chủ, v.v... thắng thế thì kết quả sẽ ra sao? Ngày nay, chúng ta làm gì có được nền công nghiệp nặng lớn mạnh, làm gì có được các hợp tác xã, chúng ta bị yếu thế và bị giải giáp trước sự bao vây của chủ nghĩa tư bản. Đó là lí do vì sao đảng đã tiến hành đấu tranh không khoan nhượng từ quan điểm ý thức hệ, giải thích cho tất cả đảng viên và quần chúng ngoài đảng hiểu rõ tác hại và mức độ nguy hiểm của những quan điểm phi Lenin của phe đối lập Trotskist và bọn hữu khuynh cơ hội. Và nhiệm vụ trọng đại trong việc diễn giải đường lối của đảng đã gặt hái được những thành quả: phe Trotskist, phe hữu khuynh cơ hội đã bị cô lập về chính trị, đại đa số đảng viên ủng hộ đường lối của Lenin, và đảng đã thành công trong việc thúc đẩy và tổ chức nhân dân lao động vận dụng vào thực tiễn đường lối của Lenin và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cần lưu ý tình huống, ngay trong giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc đấu tranh về ý thức hệ chống lại phe Trotskist, Zinovyev, Bukharin và các phái khác, đảng không áp dụng biện pháp đàn áp đối với chúng. Cuộc đấu tranh diễn ra trên cơ sở ý thức hệ. Nhưng vài năm sau, khi chủ nghĩa xã hội cơ bản đã được xây dựng ở nước ta, khi các giai cấp bóc lột cơ bản đã bị xóa sạch, khi cơ cấu xã hội Sô-viết đã thay đổi tận gốc rễ, khi nền tảng xã hội cho sự ra đời những đảng phái, những khuynh hướng và các nhóm chính trị phản động giảm thiểu đến mức tối đa, khi những đối thù tư tưởng của đảng đã bị đập tan về mặt chính trị từ nhiều năm về trước - khi ấy, những cuộc đàn áp lại bắt đầu được khơi dậy. Chính trong giai đoạn này (1936-1937-1938) đã xảy ra tình trạng đàn áp hàng loạt bằng công cụ bộ máy nhà nước, lúc đầu để chống lại kẻ thù của chủ nghĩa Lenin - bọn Trostskist, Zinovyev, Bukharin, những kẻ đã bị đảng đánh bại về mặt chính trị từ lâu; nhưng về sau là để đàn áp nhiều người cộng sản chân chính, những cán bộ đảng từng mang trên vai gánh nặng của cuộc nội chiến, của những năm đầu khó khăn nhất trong thời kỳ công nghiệp hóa, tập thể hóa, những người đã tích cực đấu tranh chống bọn Trostkist và hữu khuynh để bảo vệ đường lối Lê-nin-nit của đảng. Stalin đề xướng khái niệm "kẻ thù của nhân dân". Thuật ngữ này lập tức loại trừ sự cần thiết phải chứng minh những sai lầm về tư tưởng của từng cá nhân hay đoàn thể bất đồng chính kiến. Nó tạo điều kiện cho việc phá vỡ mọi chuẩn mực của nền pháp chế cách mạng, áp dụng những biện pháp đàn áp tàn bạo nhất với bất kì ai không đồng tình với Stalin trong bất kì vấn đề nào, với những người bị nghi ngờ có ý đồ, cũng như với những người bị vu khống là có ý đồ chuẩn bị các hoạt động thù địch. Khái niệm "kẻ thù của nhân dân" về bản chất đã loại bỏ khả năng tiến hành bất kì một cuộc đấu tranh tư tưởng nào, hoặc ngăn cản người khác không được phát biểu ý kiến về một vấn đề nhất định, kể cả những vấn đề có giá trị thực tiễn. Trái ngược với mọi chuẩn mực của khoa học pháp lí hiện đại, bằng chứng chủ yếu và duy nhất để buộc tội, theo thực tế hồ sơ, chỉ dựa vào lời "thú tội" của bị cáo, trong khi đó kết quả thẩm tra sau này đã cho thấy, bằng biện pháp nhục hình tra tấn, người ta đã cưỡng bức bị cáo phải nói lời "thú tội". Điều này dẫn đến sự vi phạm nghiêm trọng pháp chế cách mạng, và nhiều người hoàn toàn vô tội, trong quá khứ từng bảo vệ đường lối của đảng, đã trở thành nạn nhân. Phải nói rằng ngay cả đối với những người trước kia đã từng chống lại đường lối của đảng, thường thì cũng không có đầy đủ cơ sở để tiêu diệt họ. Và cái công thức "kẻ thù của nhân dân" đã được áp dụng để làm luận cứ sát hại những người này. Một thực tế là nhiều người bị thanh trừng như kẻ thù của đảng và nhân dân trước đây đã từng cộng tác với Lenin. Một số người trong đó, hồi sinh thời Lenin, đã từng phạm những sai lầm, nhưng Lenin, dẹp bỏ mọi định kiến, vẫn sử dụng họ, cố gắng uốn nắn, giúp họ sửa chữa sai lầm và tìm mọi cách giữ họ lại trong hàng ngũ đảng, thuyết phục họ đi theo lẽ phải của mình. Liên quan đến vấn đề này, mời các đại biểu đại hội tham khảo nội dung một bức thư chưa được công bố, do V.I. Lenin gửi Bộ Chính trị BCHTW vào tháng 10-1920. Xác định nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra, Lenin nói ủy ban này phải thực sự là một "cơ quan biểu tượng cho lương tri của đảng và của giai cấp vô sản". "Gánh vác nhiệm vụ hết sức đặc biệt, Ủy ban Kiểm tra cần quan tâm đến từng cá nhân, thậm chí phải coi mình như một liều thuốc chữa bệnh đối với các đại diện phe đối lập, những người bị khủng hoảng tinh thần sau những thất bại của họ trong Sô-viết hay trong đảng. Cần phải cố gắng an ủi họ, giải thích cho họ hiểu vấn đề trên tình đồng chí, tìm cho họ (tránh hình thức ra lệnh) một công tác phù hợp với tính cách tâm lí của họ, phải tư vấn và chỉ thị về vấn đề này cho Ban Tổ chức Trung ương v.v..." Mọi người chúng ta đều biết Lenin không có thái độ khoan nhượng với những đối thủ về ý thức hệ của chủ nghĩa Mac-xit, với những ai đi sai đường lối đúng đắn của đảng. Đồng thời, theo tài liệu được trích dẫn nói trên, trong thực tế lãnh đạo đảng, Lenin đòi hỏi đảng phải quan tâm sâu sắc với những ai còn do dự hoặc chưa đồng tình với đường lối của đảng, nhưng sau này có thể quay lại với đường lối của đảng. Lenin khuyên nhủ phải kiên nhẫn cải tạo những người này, tránh áp dụng những biện pháp cực đoan. Sự sáng suốt của Lenin trong quan hệ với con người đã thể hiện rất rõ trong công tác với các cán bộ đảng. Cách tiếp cận với con người hoàn toàn trái ngược chính là tính cách đặc trưng của Stalin. Cách thức của Lenin - kiên nhẫn cộng tác, kiên trì và nhẹ nhàng cải tạo, thuyết phục không áp dụng cưỡng chế mà tác động tư tưởng thông qua tập thể đảng - hoàn toàn xa lạ với Stalin. Stalin đã bác bỏ phương pháp thuyết phục và giáo dục của Lenin, chuyển từ hình thức đấu tranh tư tưởng và sang biện pháp cưỡng chế hành chính, đàn áp và khủng bố hàng loạt. Thông qua bộ máy cơ quan an ninh, Stalin ngày càng lộng hành trên diện rộng và liên tục kéo dài, thường xuyên chà đạp lên mọi chuẩn mực đạo lí và luật pháp Sô-viết. Sự chuyên quyền của một cá nhân đã lôi kéo và cho phép sự chuyên quyền của những kẻ khác. Những vụ bắt bớ và lưu đày hàng nhiều ngàn con người, hành quyết không cần xét xử tại tòa án và không qua điều tra thông thường đã tạo nên tâm trạng bất an, sợ hãi, thậm chí khiếp đảm cho mọi người. Điều này, không những không củng cố sự đoàn kết trong hàng ngũ đảng và mọi tầng lớp nhân dân lao động; trái lại, còn dẫn đến việc thủ tiêu và khai trừ khỏi đảng nhiều cán bộ trung kiên, chỉ vì họ không được lòng Stalin. Đảng ta đã tiến hành cuộc đấu tranh để vận dụng vào thực tiễn những kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lenin. Đây là cuộc đấu tranh về ý thức hệ. Nếu như trong cuộc đấu tranh này, phương pháp tiếp cận của Lenin được thực hiện, sự phối hợp hài hòa của tính nguyên tắc và mối quan tâm chăm sóc con người, nguyện vọng không bị gạt bỏ, không loại bỏ con người mà tìm cách lôi kéo họ về phía ta, có lẽ chúng ta đã không gặp phải sự vi phạm thô bạo nền pháp chế cách mạng như thế, sự áp dụng các phương pháp khủng bố đối với hàng vạn con người như thế. Lẽ ra, những biện pháp cực đoan chỉ được áp dụng đối với những kẻ thực sự có tội ác chống phá chế độ Sô-viết. Chúng ta hãy tham khảo một vài sự kiện lịch sử. Trong những ngày trước cách mạng tháng Mười, hai ủy viên BCHTW đảng bôn-sê-vich, Kamenev và Zinovyev đã phản đối kế hoạch khởi nghĩa vũ trang của Lenin. Ngoài ra, ngày 18-10 họ lại đăng trên tờ "Cuộc sống mới" của phái men-sê-vich tuyên bố của họ về việc đảng bôn-sê-vich đang chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang mà họ coi là hành động phiêu lưu mạo hiểm. Kamenev và Zinovyev đã tiết lộ cho kẻ thù nghị quyết của BCHTW về cuộc khởi nghĩa, về việc tổ chức khởi nghĩa trong thời gian rất gần. Đó là hành động phản bội lại sự nghiệp của đảng, sự nghiệp cách mạng. Về vấn đề này, Lenin đã viết: "Kamenev và Zinovyev đã trao cho Rodzianko và Kerensky nghị quyết của BCHTW về khởi nghĩa vũ trang..." (Lenin toàn tập, tập 26, trang 194). Người đã đề nghị BCHTW khai trừ Kamenev và Zinovyev ra khỏi đảng. Nhưng sau thành công của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại, ta đều biết Kamenev và Zinovyev vẫn được giữ các chức vụ lãnh đạo. Lenin đã đưa họ vào những cương vị ấy để họ hoàn thành những nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà đảng giao phó, tham gia tích cực vào công tác lãnh đạo các tổ chức đảng và Sô-viết. Zinovyev và Kamenev, hồi sinh thời Lenin, còn phạm hàng loạt sai lầm khác không kém phần nghiêm trọng. Trong Di chúc của mình, Lênin đã nhắc nhở "biến cố tháng Mười của Zinovyev và Kamenev tất nhiên không phải là tình cờ". Tuy vậy, Lenin không đặt vấn đề bắt giam họ và tất nhiên, lại càng không có chuyện xử bắn họ. Hoặc ví dụ về phe Trotskist. Ngày nay, sau một giai đoạn lịch sử tương đối dài, chúng ta có thể hoàn toàn bình tĩnh nói về cuộc đấu tranh chống phe Trotskist và có thể phân tích vấn đề một cách khách quan. Không thể liệt những người xung quanh Trotsky vào thành phần tư sản. Một phần trong số họ là đảng viên trí thức và một số khác là đảng viên công nhân. Có thể nêu tên hàng loạt những người, đã từng trong phe Trotskist, nhưng trước và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười, họ đã tham gia tích cực vào phong trào công nhân, và sau đó còn đấu tranh củng cố thành quả cách mạng vĩ đại này. Nhiều người trong số họ đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa Trotsky và quay lại lập trường Lenin. Thử hỏi có cần thiết phải tiêu diệt họ hay không? Chúng ta tin chắc nếu Lenin còn sống, tuyệt đối những biện pháp cực đoan không bao giờ được áp dụng. Đấy chỉ là một vài sự kiện lịch sử. Phải chăng có thể nói Lenin đã không kiên quyết áp dụng những biện pháp cứng rắn nhất đối với kẻ thù cách mạng, khi quả thực điều đó là cần thiết? Không, không ai có thể nói thế. Vladimir Ilich đòi hỏi không được thỏa hiệp với kẻ thù của cách mạng và của giai cấp công nhân, và khi cần thiết, sẽ thẳng tay áp dụng những biện pháp cứng rắn không khoan nhượng. Hãy nhớ lại Lenin đã chiến đấu như thế nào với bọn cách mạng xã hội khi chúng tổ chức nổi dậy chống chính quyền Sô-viết, hay với phong trào phản cách mạng năm 1918 của bọn địa chủ; khi đó, Lenin đã không ngần ngại áp dụng những biện pháp cứng rắn nhất đối với kẻ thù. Nhưng Lenin chỉ dùng các biện pháp này để chống lại những kẻ thù giai cấp thực sự, không phải đối với những người lầm đường lạc lối, còn có thể cải tạo bằng giáo dục tư tưởng, thậm chí sau đó còn có thể đặt họ vào các cương vị lãnh đạo. Lenin chỉ sử dụng những biện pháp nghiêm khắc trong những trường hợp cần thiết nhất, khi giai cấp bóc lột còn tồn tại và điên cuồng chống phá cách mạng, khi cuộc đấu tranh "một mất một còn" không thể nào tránh khỏi những hình thức gay gắt nhất, kể cả nội chiến. Ngược lại, Stalin đã áp dụng những biện pháp cực đoan, đàn áp hàng loạt khi cách mạng đã thắng lợi, khi nhà nước Sô-viết đã được củng cố, khi giai cấp bóc lột đã bị xóa sạch, khi quan hệ xã hội chủ nghĩa đã bén rễ ở mọi ngành của nền kinh tế quốc dân, khi đảng ta đã vững mạnh về phương diện chính trị, phát triển về số lượng và được tôi luyện về ý thức hệ. Rõ ràng, trong hàng loạt các trường hợp, Stalin đã bộc lộ tính cách thiếu kiên nhẫn, thô lỗ, lạm dụng quyền lực. Thay vì chứng tỏ đường lối chính trị đúng đắn của mình và động viên quần chúng, Stalin lại chọn phương cách đàn áp và thủ tiêu, không chỉ với kẻ thù thực sự mà còn đối với những người không hề có một tội ác nào chống lại đảng hay chính quyền Sô-viết. Không hề có một chút sáng suốt nào ngoài sự biểu hiện quyền lực thô bạo mà trước đây V.I. Lenin đã từng quan ngại. Thời gian gần đây, đặc biệt là sau khi băng nhóm Beria bị vạch mặt, BCHTW đã xem xét lại hàng loạt hồ sơ mà bọn chúng đã ngụy tạo ra. Kết quả đã phát hiện một bức tranh kinh hoàng của thể chế chuyên quyền, liên quan mật thiết đến hành động sai trái của Stalin. Các sự kiện đã chứng tỏ, khi sử dụng quyền lực vô hạn của mình, Stalin đã nhân danh BCHTW mà không hỏi ý kiến các ủy viên BCHTW, thậm chí, không hỏi ý kiến các ủy viên Bộ Chính trị, thường xuyên không cho họ biết về những quyết định cá nhân về các vấn đề vô cùng hệ trọng của đảng và của nhà nước. Xem xét vấn đề sùng bái cá nhân, trước hết chúng ta cần làm rõ nó gây tổn thất cho đảng ta đến mức nào. Vladimir Ilich Lenin luôn nhấn mạnh vai trò và tầm quan trọng của đảng trong việc lãnh đạo nhà nước xã hội chủ nghĩa của công nhân và nông dân, coi đó là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nêu rõ trọng trách của đảng bôn-sê-vich, là đảng lãnh đạo nhà nước Sô-viết, Lenin kêu gọi triệt để tuân thủ quy tắc sinh hoạt đảng, thực hiện nguyên tắc tập thể trong lãnh đạo đảng và nhà nước. Sự lãnh đạo tập thể xuất phát từ bản chất của đảng ta, được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Lenin nói: "Điều này có nghĩa là tất cả mọi vấn đề của đảng, trực tiếp hoặc thông qua những người đại diện, đều phải do mọi đảng viên thực hiện, không trừ một ai, trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi; trong đó, tất cả những cá nhân có chức vụ, những tập thể lãnh đạo, những cơ quan đảng đều được bầu chọn, được báo cáo thông qua, có thể thay thế". (Lenin toàn tập, tập 11, trang 396.) Mọi người đều biết, bản thân Lenin luôn nêu tấm gương triệt để tuân thủ những nguyên tắc nói trên. Lenin không tự mình quyết định bất kỳ một vấn đề quan trọng nào mà không bàn bạc và không nhận được sự đồng tình của đa số các ủy viên BCHTW hay Bộ Chính trị. Trong thời kỳ khó khăn nhất của đảng ta và của đất nước, Lenin cho rằng cần thiết phải triệu tập định kì đại hội, hội nghị của đảng, hội nghị toàn thể BCHTW để thảo luận những vấn đề quan trọng nhất và thông qua những nghị quyết được tập thể lãnh đạo soạn thảo và xem xét. Chẳng hạn, chúng ta hãy nhớ lại năm 1918, khi đất nước bị hiểm họa tư bản nước ngoài can thiệp. Trong điều kiện ấy, đại hội lần thứ VII được triệu tập để thảo luận một vấn đề sống còn và cấp bách - vấn đề hòa bình. Năm 1919, vào thời điểm khốc liệt của cuộc nội chiến, đại hội lần thứ VIII được triệu tập để thông qua cương lĩnh mới của đảng, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng như vấn đề liên quan đến quần chúng nông dân, về xây dựng lực lượng Hồng quân, về vai trò lãnh đạo của đảng trong các Sô-viết, về cải thiện thành phần xã hội của đảng v.v... Năm 1920, đại hội lần thứ IX được triệu tập để xác định nhiệm vụ của đảng và đất nước trong xây dựng kinh tế. Năm 1921 tại đại hội lần thứ X đã thông qua chính sách kinh tế mới do Lenin khởi thảo và nghị quyết có tầm quan trọng lịch sử "Về sự thống nhất của đảng". Hồi sinh thời Lenin, các đại hội của đảng đều được triệu tập định kì, tại mỗi thời điểm bước ngoặt của quá trình phát triển đảng và đất nước, Lenin nhận thấy tuyệt đối cần thiết phải thảo luận rộng rãi trong toàn đảng về các vấn đề gốc rễ của chính sách đối nội và đối ngoại, vấn đề xây dựng đảng và nhà nước. Một điều rất đặc trưng là những bài báo, những thư từ và ghi chép cuối đời của Lenin đều hướng về đại hội đảng như cơ quan tối cao của đảng. Trong thời gian giữa hai kì đại hội, BCHTW là tập thể lãnh đạo lãnh đạo có uy tín nhất, triệt để tuân thủ những nguyên tắc của đảng và vận dụng chính sách của đảng vào hiện thực. Đảng đã hoạt động như thế trong thời kì Lenin còn sống. Phải chăng những nguyên tắc thiêng liêng của đảng vẫn còn được tuân thủ sau khi Lenin mất đi? Nếu như trong những năm đầu sau khi Lenin mất, các kì đại hội và hội nghị toàn thể BCHTW vẫn còn được triệu tập tương đối đều đặn, thì sau này, khi Stalin bắt đầu ngày càng lạm dụng quyền lực, những nguyên tắc đó bị vi phạm trắng trợn. Điều này đặc biệt rõ rệt trong 15 năm cuối đời của Stalin. Chẳng lẽ có thể coi là sự kiện bình thường khi đại hội XVIII và đại hội XIX được triệu tập cách nhau 13 năm, trong khoảng thời gian ấy đảng và đất nước ta đã trải qua biết bao nhiêu biến cố? Những sự kiện đó đòi hỏi đảng phải thông qua những nghị quyết về vấn đề quốc phòng trong chiến tranh vệ quốc và vấn đề xây dựng đất nước thời bình trong những năm sau chiến tranh. Vậy mà, ngay cả khi chiến tranh đã kết thúc, hơn bảy năm sau mới có một đại hội đảng được triệu tập. Hội nghị toàn thể BCHTW thì hầu như không được tiến hành. Đủ cơ sở để nói rằng trong những năm xảy ra chiến tranh vệ quốc, thực tế không một hội nghị toàn thể BCHTW nào được triệu tập. Đúng hơn, đã có ý định triệu tập hội nghị toàn thể BCHTW vào tháng 10-1941, khi các ủy viên BCHTW được mời về Moskva từ mọi miền đất nước. Trong hai ngày họ chờ đợi hội nghị khai mạc, nhưng chỉ hoài công. Stalin thậm chí không muốn gặp gỡ và trao đổi ý kiến với các ủy viên BCHTW. Thực tế này chứng tỏ trong những tháng đầu xảy ra chiến tranh, Stalin đã có tâm trạng nao núng và cũng chứng tỏ Stalin vô cùng trịch thượng và khinh thường các ủy viên BCHTW. Thực tế này đã phản ảnh việc Stalin không thèm đếm xỉa đến quy tắc sinh hoạt đảng, chà đạp lên những nguyên tắc Lê-nin-nit trong lãnh đạo tập thể của đảng. Sự chuyên quyền của Stalin đối với đảng, đối với BCHTW đã biểu lộ hoàn toàn rõ rệt sau đại hội lần thứ XVII của đảng vào năm 1934. Thu thập được nhiều số liệu chứng tỏ sự chuyên quyền trắng trợn đối với các cán bộ đảng, BCHTW đã lập ra một ủy ban, hoạt động dưới sự kiểm soát của Đoàn chủ tịch BCHTW, nhằm nghiên cứu những nguyên nhân đã gây nên các vụ đàn áp hàng loạt đối với đa số thành viên chính thức và dự khuyết của BCHTW do đại hội nghị lần thứ XVII bầu ra. Ủy ban này, trong quá trình tiếp cận một số lượng lớn tài liệu trong kho lưu trữ của Ủy ban nhân dân đặc trách nội vụ (NKVD) và các tư liệu khác, đã phát hiện nhiều sự kiện làm giả hồ sơ chống lại người cộng sản, những buộc tội dối trá, vi phạm trắng trợn pháp chế xã hội chủ nghĩa, hậu quả là nhiều người vô tội bị sát hại. Rõ ràng, nhiều cán bộ của đảng, của Sô-viết, của các ngành kinh tế, bị cáo buộc là "kẻ thù của nhân dân" trong những năm 1937-1938, thực ra chưa bao giờ là kẻ thù, là gián điệp, là kẻ phá hoại v.v... mà bản chất là những người cộng sản chân chính bị vu khống, và thường thì, do không chịu nổi những đòn tra tấn dã man thú vật, đã tự gán cho mình (theo lệnh của an ninh điều tra chuyên làm hồ sơ giả) những tội tày đình và vô lí nhất. Ủy ban đã đệ trình Đoàn chủ tịch BCHTW bộ tài liệu đồ sộ về các vụ đàn áp hàng loạt đối với các đại biểu đại hội lần thứ XVII và các ủy viên BCHTW do đại hội đó bầu ra. Đoàn chủ tịch BCHTW đã xem xét tư liệu trên. Điều tra cho thấy 98 người trong số 139 ủy viên chính thức và dự khuyết BCHTW do đại hội lần thứ XVII bầu ra, nghĩa là tỉ lệ 70%, đã bị bắt giam và bị xử bắn (phần lớn vào những năm 1937-1938). (Xôn xao công phẫn trong phòng họp.) Thử xem thành phần đại biểu đại hội lần thứ XVII gồm những ai? Được biết 80% đại biểu có quyền biểu quyết tại đại hội lần thứ XVII đã gia nhập đảng vào những năm hoạt động cách mạng bí mật và trong thời kì nội chiến, nghĩa là trước năm 1920. Về thành phần xã hội, số lượng cơ bản đại biểu đại hội (60% số đại biểu có quyền bỏ phiếu) là công nhân. Vì thế hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi một đại hội với thành phần như thế lại có thể bầu ra BCHTW mà đa số ủy viên là kẻ thù của đảng! Chỉ có thể là do hậu quả của việc các chiến sĩ cộng sản trung kiên bị vu khống dựa trên những lời buộc tội bịa đặt, khiến pháp chế cách mạng bị chà đạp một cách quái gở, 70% ủy viên chính thức và dự khuyết của BCHTW do đại hội lần thứ XVII bầu ra bị tố cáo là kẻ thù của đảng và của nhân dân! Không chỉ những ủy viên BCHTW, mà đa số đại biểu đại hội lần thứ XVII cũng chịu chung số phận như thế. Trong số 1966 đại biểu chính thức có quyền biểu quyết, 1108 người - nghĩa là hơn một nửa số đại biểu - bị bắt và bị kết tội phản cách mạng. Chỉ cần một sự kiện cũng đủ nói lên tính chất phi lí, man rợ, mâu thuẫn với mọi suy nghĩ lành mạnh của những cáo buộc về tội "phản cách mạng", giờ đây mới được làm sáng tỏ, được gán cho đa số đại biểu đại hội lần thứ XVII. (Xôn xao phẫn nộ trong phòng họp.) Cần ghi nhớ, đại hội lần thứ XVII đã đi vào lịch sử như một "đại hội của những người chiến thắng". Các đại biểu được bầu chọn đi dự đại hội là những thành viên tích cực của công cuộc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhiều người trong số họ đã đấu tranh quên mình cho sự nghiệp của đảng trong những năm trước cách mạng, trong hoạt động bí mật và ngoài mặt trận trong thời nội chiến, họ đã anh dũng chiến đấu với kẻ thù và nhiều lần đối mặt với cái chết mà không hề nao núng. Làm sao có thể tin được những con người như thế lại là những "kẻ hai mặt", đứng vào hàng ngũ kẻ thù của phe chủ nghĩa xã hội, vào cái thời kì mà phe Zinovyev, Trotskist, hữu khuynh đã bị đập tan về mặt chính trị, vào cái thời kì sau thắng lợi vĩ đại của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa? Đó là hậu quả của việc Stalin đã lạm dụng quyền lực, áp dụng biện pháp khủng bố hàng loạt đối với các cán bộ đảng. Vì sao đàn áp hàng loạt đối với những đảng viên tích cực ngày càng mạnh mẽ hơn sau đại hội đảng lần thứ XVII? Bởi vì trong thời kì đó, Stalin đã tự đặt mình lên địa vị tối cao trước đảng và nhân dân, hoàn toàn không đếm xỉa gì đến BCHTW hay đảng nữa. Thời kì trước đại hội lần thứ XVII, Stalin còn tôn trọng ý kiến tập thể, nhưng sau khi phe Trotskist, Zinovyev, Bukharin đã bị đập tan hoàn toàn về mặt chính trị, khi sự đoàn kết của đảng, đoàn kết của nhân dân đã được củng cố nhờ cuộc đấu tranh này đã đạt được thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, thì Stalin ngày càng không thèm đếm xỉa đến các ủy viên BCHTW, thậm chí các ủy viên Bộ Chính trị. Stalin cho rằng từ nay tự mình có thể định đoạt được tất cả mọi việc và những người còn lại chỉ cần đến như những "bù nhìn" mà thôi, và đối xử với mọi người như thể họ chỉ có mỗi một nhiệm vụ là tuân lệnh và tán dương mình. Sau vụ ám sát dã man S.M. Kirov, những cuộc đàn áp hàng loạt và những vi phạm trắng trợn pháp chế xã hội chủ nghĩa bắt đầu diễn ra. Tối ngày 1-12-1934, theo sáng kiến của Stalin (không có quyết định của Bộ Chính trị - chỉ lấy ý kiến Bộ Chính trị một cách hình thức sau đó hai ngày), bí thư Đoàn chủ tịch BCHTW Enukidze đã ký một nghị quyết như sau: "1) Các cơ quan điều tra phải xúc tiến hồ sơ đối với những kẻ bị kết tội chuẩn bị hoặc tiến hành các hành động khủng bố; 2) Các cơ quan tư pháp không được trì hoãn việc thi hành các án tử hình vì cớ muốn xét lại để ân xá đối với những bị cáo thuộc loại này, bởi Đoàn chủ tịch BCHTW Liên Xô sẽ không chấp nhận việc xem xét đơn ân xá như thế; 3) Các cơ quan của Ủy ban nhân dân đặc trách nội vụ phải thi hành tức khắc các bản án tử hình đối với can phạm thuộc loại nói trên". Nghị quyết này là cơ sở của hàng loạt vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong nhiều hồ sơ điều tra ngụy tạo, các bị cáo bị buộc tội "chuẩn bị" những hành động khủng bố; nghị quyết nói trên đã loại bỏ mọi khả năng thẩm tra lại hồ sơ, cho dù trước tòa họ đã chối bỏ những lời "thú tội" do bị ép cung và đã phủ nhận một cách xác đáng mọi cáo buộc về tội danh của họ. Phải nói rằng tới nay, trong tình huống liên quan đến vụ ám sát đồng chí Kirov ẩn chứa nhiều điều khó hiểu và bí mật, đòi hỏi phải điều tra thật kĩ càng. Có cơ sở để nghĩ là Nikolaev - kẻ ám sát Kirov - đã được một trong những người bảo vệ Kirov tiếp tay. Một tháng rưỡi trước ngày xảy ra vụ ám sát, Nikolaev bị bắt vì có hành động "khả nghi", nhưng sau đó được thả ra, thậm chí cũng không bị khám xét gì cả. Đặc biệt đáng nghi ngờ hơn nữa là chuyện một Chekist, thuộc đội bảo vệ Kirov, bị "tai nạn" xe chết trên đường đi lấy khẩu cung ngày 2-12-1934, trong khi những người áp giải cùng xe lại không hề hấn gì! Sau vụ ám sát Kirov, những cán bộ lãnh đạo NKVD thành phố Leningrad bị cách chức và bị xử rất nhẹ, nhưng đến năm 1937 họ đều bị xử bắn. Có thể giả thiết, người ta đã xử bắn họ sau đó hòng xóa sạch mọi dấu vế
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 21, 2015 9:20:02 GMT 9
Nhìn về Địa lý-Chính Việt Nam
Để hiểu tại sao có cuộc chiến tranh Đông Dương thứ Ba giữa các nước cùng hệ tư tưởng Cộng sản, một học giả Tây phương đặt lại cách nhìn về Địa lý-Chính Việt Nam DanchimViet.Info
Tạp chí Hérodote xuất bản ở Paris, trong số đặt biệt chuyên đề Việt Nam tháng Sáu năm 2015, có in một bài của một tác giả người Mỹ, Christopher Goscha, Giáo sư Đại học Montréal Canada, với đầu đề: “The Geopolitics of Vietnam in a Eurasian context: the Third Indochina War and its Lessons for Today? ” (Địa lý-Chính Việt Nam trong bối cảnh Á-Âu: cuộc chiến tranh Đông dương thứ Ba và những bài học nào cần được rút tỉa cho ngày nay?). Trong bài viết này, ông Christopher Goscha nói cần phải bỏ cái nhìn Âu-Mỹ để có một cái nhìn toàn diện hơn về địa lý-chính Việt Nam trong bối cảnh Á-Âu để hiểu vì sao lần đầu tiên trong lịch sử thế giới có một cuộc chiến tranh, mà ông gọi là Chiến tranh Đông Dương thứ Ba, giữa các nước cùng một hệ tư tưởng cộng sản. Christopher Goscha còn đi xa hơn nữa khi khẳng định chiến tranh Đông Dương thứ Ba năm 1979 đã làm rạn nứt, đưa đến sụp đổ khối cộng sản, và kết liễu chiến tranh Lạnh giữa Tây phương và khối Cộng sản chứ không phải khối cộng sản chỉ tan vỡ 10 năm sau, khi bức tường Berlin sụp đổ. Tôi xin trình bày dưới đây những đoạn chính trong bài viết của ông Goscha. Những tiểu đề là do tôi tự đặt ra, phỏng theo những tiểu đề trong bài của Goscha. Những câu trong dấu ngoặc là những câu của tác giả tôi dịch nguyên văn. Trước hết tôi cũng xin nhắc qua tiểu sử của ông Christopher Goscha: C. Goscha bắt đầu học về ngành ngoại giao ở đại học Georgetown Washington D.C. Sau đó, ông qua Úc làm thạc sĩ ở đại học Canberra năm 1991. Sau cùng, ông qua Paris học Cao học và làm luận án tiến sĩ ở đại học Sorbonne với đề tài: ” Chiến tranh Pháp-Việt trong bối cảnh Á đông “. Ông sống nhiều năm làm khảo cứu ở bán đảo Đông dương, đặc biệt là ở Thái Lan, Lào và Việt Nam. Từ 1995, ông xuất bản chừng 12 cuốn sách về Việt Nam và Đông Nam Á. Hiện ông đang soạn thảo một cuốn lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại. Không thể hiểu vì sao có chiến tranh Đông dương thứ Ba nếu chỉ căn cứ vào những nhận thức quá Âu-Mỹ (Tây phương) về địa lý-chính Việt Nam Ông Goscha gọi những người Mỹ chống sự can thiệp của Mỹ trong những cuộc chiến tranh Đông dương ngay từ năm 1850, là những người theo trường phái “chính thống”, đối lâp với những người “xét lại”, ủng hộ Ronald Reagan trong những năm 80, cho sự can thiệp của Mỹ là đúng. Theo ông Goscha, những người chính thống chỉ biết nhìn địa lý-chính Việt Nam với cặp mắt của người Âu Mỹ: “Những người gọi là thuộc trường phái chính thống Mỹ chống đối mãnh liệt sự can thiệp của Mỹ vào những cuộc chiến tranh Đông dương. Đối với những người này, địa lý-chính Việt Nam không đủ quan trọng để hợp pháp hóa sự can thiệp và cho sở dĩ có cuộc can thiệp của Mỹ ở Đông dương từ năm 1950 là vì tham vọng kinh tế của đế quốc Mỹ. Chịu ảnh hưởng của William Appleman Williams trong cuốn The tragedy of American Diplomacy (Thảm kịch ngoại giao Mỹ), coi những chiến lược của Mỹ chỉ có mục đích chế ngự kinh tế hoàn cầu và đã gây ra chiến tranh lạnh (chứ không phải Stalin). Những người theo ông này còn muốn chứng minh chính sự bành trướng không ngừng của đế quốc Mỹ đã là nguyên nhân của cuộc chiến tranh Việt Nam… Nếu những chỉ trích (của những người này) có thể đúng với hai cuộc chiến tranh Đông dương đầu tiên (1946-1954 ; 1954-1975), khó mà những “người chính thống” không gặp vấn đề nếu phải giải thích vì sao có cuộc chiến tranh Đông dương thứ Ba (1979-1991). Trong cuộc chiến tranh này, chỉ có những nước cộng sản Á-Âu chống đối nhau… “… Những người chính thống này không biết cách tiếp cận với lịch sử toàn diện và vẫn cứ muốn phân tích thế giới theo những từ ngữ của Tây phương…. Chỉ có thể giải thích được cái ca Chiến tranh Đông dương thứ Ba bằng cách đặt lại cho đúng trung tâm địa lý-chính Việt Nam trong bối cảnh Á-Âu… Trái với lập luận của những người chính thống, Việt Nam từ trước tới nay vẫn rất quan trọng trong địa lý-chính thế giới: vì vị trí của VN trên lục địa Á-Âu và vì địa thế VN ngó ra biển Đông… Cuộc chiến tranh thứ Ba Đông dương, được tiếp cận từ cái khung Á-Âu, sẽ cho chúng ta hiểu nhiều hơn tại sao một nước nhỏ bé như vậy mà có thể quá quan trọng, không những đối với Mỹ mà còn đối với Nga, với Tàu, với Nhật và ngay cả với Ấn độ… ” … Tôi cũng muốn chứng minh hiện giờ là những sự đổ gẫy trong lòng khối cộng sản Á-Âu (Lời người dịch: Sở dĩ tôi dịch “Eurasia” Á-Âu là theo nghĩa địa lý- chính: chỉ khối cộng sản ngày trước gồm Đông Âu dưới sự chi phối của Liên Xô và Á châu cộng sản dưới ảnh hưởng của Trung cộng, khác biệt với Tây Âu và Bắc Mỹ, được gọi chung là Tây phương) được thành lập từ năm 1950 đã kết hợp với nhau trong những năm 1970, tạo ra hai mảng nứt lớn: Mảng thứ nhất giữa Trung quốc và Liên Xô ỏ miền Tây Á-Âu. Mảng thứ hai giữa Khờme đỏ và Việt Nam ở châu thổ sông Cửu Long. Hai mảng nứt đó đều có nguồn gốc từ sự bất đồng về chú quyền quốc gia trong khung cảnh mà đáng lẽ ra là của một cộng đồng siêu quốc gia, đi từ sông Elbe đến biển Đông. Làm sao mà những sự bất đồng đó lại có thể gây bão táp trên những phòng tuyến quốc gia quá khích và kết hợp với nhau trong một bối cảnh địa lý chính Á-Âu? Đó là những câu hỏi cơ bản nếu ngày nay người ta muốn hiểu vì sao có cuộc chiến tranh giữa cộng sản với nhau. Thử trở về dĩ vãng để hiểu làm cách nào mà Việt Nam cộng sản trong Đông dương lại trở thành một lò thuốc súng trong cuộc chiến chống Trung Quốc; Chính cuộc chiến này đã kết liễu chiến tranh lạnh (giữa hai khối cộng sản và tự do) năm 1979, chứ không phải bức tường Berlin 10 năm sau. Điều đó cũng cho phép chúng ta hiểu vì sao Việt Nam, cho tới ngày nay, lại quan trọng như vậy, trong hoàn cảnh địa lý-chính quốc tế bị ngự trị bởi ba chứ không phải là một “đế quốc… ” CSVN coi Đông Dương là sân sau của mình: Bất đồng với Khờme đỏ về chủ quyền quốc gia Theo ông Goscha, CSVN muốn thay người Pháp để thành lập một Đông Dương cộng sản, dưới sự chi phối của CSVN: “… Trong Hội nghị Geneve 1954, CSVN biểu lộ công khai sự cố gắng của mình trong ý định tạo lập những quốc gia anh em ở Cambốt và Lào. Pháp, được sự hỗ trợ của Mỹ và Anh, từ chối không thừa nhận sự hiện hữu của những “chính phủ kháng chiến” này, được tạo ra từ năm 1950 dưới sự lãnh đạo của chính bản thân Hồ Chí Minh… Hai loại quốc gia liên kết xuất hiện trong chiến tranh Đông Dương thứ Nhất: Một loại dưới sự chỉ huy của Pháp. Một loại dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh… “Hiệp ước đình chiến được ký tháng Bẩy 1954, không những đòi hỏi VNDCCH phải rút hết cán bộ ra khỏi vỹ tuyến số 17 mà còn phải rút ra khỏi Cambốt. Chỉ ở Lào là Hiệp định Đình chiến cho phép Pathet Lào được tập kết ở hai tỉnh sát biên giới VNDCCH. CSVN tức khắc gửi cả trăm cố vấn đến giúp Pathet Lào tạo lập một nước, một quân đội và, năm 1955, đảng Cộng sản Lào. Đồng thời cũng cả trăm sinh viên Lào, công chức, cán bộ và sĩ quan Lào được đem về Việt Nam để giáo dục lại. Nói tóm lại, Hồ bảo tồn sự hiện hữu của cái gọi là quốc gia liên kết Lào của mình khi đào tạo lớp quan liêu ưu tú và lớp quân nhân Lào mới. “Ở Cambốt, trái lại, HĐ Geneve cho phép một toán cộng sản, dưới quyền điều khiển của một người có tên là Saloth Sar, được biết nhiều hơn dưới tên Pol Pot, thành lập một chính phủ và một quân đội kháng chiến, không liên kết, hoàn toàn tự do, không bị sự kiểm sát của Việt Nam. Sihanouk gọi những người cộng sản này là Khờme đỏ. Khác với Pathet Lào, Khờme đỏ coi những lãnh đạo Việt Nam, những phần tử theo Việt Nam và ngay cả Sihanouk, là những mối đe dọa cho nước của mình… “Ngày 17-4-75 đảng của Pol Pot nắm quyền ở Pnom Pêng. Pol Pot tiếp tục coi CSVN là mối đe dọa thường xuyên cho nền độc lập của Cambốt… ” Sự bất hòa giữa Trung quốc và Liên Xô và sự sụp đổ của thế giói cộng sản Á-Âu “… Ngay từ năm 1956, khi Khrouchtchev tẩy trừ Stalin, khối cộng sản đã bắt đàu bị rạn nứt trầm trọng. Sau đó ít lâu, những vấn đề mà Liên Sô gặp phải ở Ba Lan và nhất là ở Hung, đã là những tiếng còi báo động réo vào tai Mao Trạch Đông… Nhưng sự biến lớn nhất là khi Liên Sô xâm nhập Tiệp Khắc tháng Tám năm 1968. Biến cố này đã cắt ra làm 2 mảnh ở ngay chính giữa, khối cộng sản Á-Âu và đặt hai nước mạnh nhất bên bờ một cuộc chiến tranh. Tình thế trở thành xấu đến độ mà tháng Ba 1969, quân đội Trung cộng và Nga sô đã xung đột nhau, tuy ngắn hạn nhưng rất dữ dội, với võ khí hạt nhân được dàn trước mặt nhau, ở dọc biên giới giữa 2 nước xuyên qua Trung Á… “… Mao ngưng ngay Cách mạng văn hóa và cho phép mở cuộc hiệp thương với Mỹ… Nixon và Kissinger thấy vì quyền lợi của Mỹ, phải giúp Tàu đẩy lui ảnh hưởng của Liên Sô ở mọi qui mô và tìm cách khai thác sự chia rẽ giữa cộng sản với nhau để chấm dứt chiến tranh Việt Nam…. Cái bước quẹo lịch sử trong sự giao thiệp Mỹ-Tàu đã ảnh hưởng đến sự giao thiệp Việt-Trung và Việt- Mên. Cần phải nhấn mạnh: Prague là một biến cố cộng sản, không những ở Âu châu mà còn ở Á châu và người Việt Nam đã không chóng thì chầy, nhận được cú đập lại (contrecoup).” Chiến tranh Đông Dương thứ Ba Chiến tranh Đông Dương thứ Ba bắt đầu từ ngày 17-2-1979 khi Tàu cho quân tràn qua biên giói phía Bắc Việt Nam sau khi nhận được “những hình ảnh vệ tinh của Mỹ trấn an là quân đội Liên Sô sẽ không mở một mặt trận chiến tranh Á-Âu thứ hai ở phía Bắc Trung quốc” Theo Goscha, sở dĩ có chiến tranh Đông Dương thứ Ba là vì Tàu sợ bành trướng Việt Nam chiếm hết Đông Dương, tạo ra những nước “anh em” phụ thuộc mình, thực hiện ý định của Hồ Chí Minh từ năm 1950, và nhân cơ hội đuổi Khờme đỏ tới sát biên giới Thái Lan, có tham vọng xâm chiếm Thái Lan để gồm Thái Lan vào Đông Dương rộng lớn theo nghĩa địa lý-chính: “Jimmy Carter chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô ở Á Đông. Bị đơn độc, Hà Nội ký hiệp ước hỗ trợ phòng vệ với Moscou tháng 11 năm 1978 trước khi đem quân đi đánh Khờme đỏ. Làm chuyện như vậy, CSVN tự tạo cho Trung quốc mối lo sợ là CSVN sẽ dâng Đông Dương cho Liên Xô và chuyện Đặng Tiểu Bình cho Việt Nam một bài học, vì đã xâm chiếm Cambốt, không nhằm Việt Nam mà nhằm Liên Sô. Khi đuổi được Khờme đỏ ra đến biên giới Thái Lan, Hà Nội thực hiện ý định của Hồ Chí Minh từ năm 1950 là thành lập những chính phủ kháng chiến liên kết…. Quân đội Trung Quốc bị hao tổn năng nề khi muốn cho Việt Nam một bài học, và hải quân Tàu đã hoàn toàn không xứng với cái tên của mình, không ngăn cản được sự bành trướng, nhờ có vịnh Cam Ranh, của hải quân Liên Sô ở biển Đông. Trung quốc bị mất mặt cả ở trên mặt đất lẫn ở trên mặt biển. Đó là một bài học cho Tàu rút tỉa từ chiến tranh Đông dương thứ Ba.” “Nhưng trên mặt trận ngoại giao và kinh tế, Đặng Tiểu Bình đã làm Moscou và Hà Nội bị thất bại nặng nề. Được sự hỗ trợ của Mỹ, Thái Lan và Nhật, Đặng kéo được các lãnh đạo Asean về phía mình, duy trì được Khờme đỏ ở biên giơi Thái Lan-Cambốt và ở Đại hội đồng Liên hiệp quốc, Ở Á đông, cô lập hóa được Liên Sô và Việt Nam. Đồng thời Đặng Tiểu Bình cũng gấp rút canh tân Trung quốc, nhờ dựa vào một vùng (Đông Nam Á) năng động nhất thế giới trong khi mà kẻ địch của mình (VN và Liên Sô) bị cấm cửa. “Tuy ở thời buổi đó chả ai nhận thấy, nhưng rõ ràng là thế giới cộng sản đã sập đổ từ năm 1979. Cũng không lạ gì sự sập đổ đó xẩy ra ở Đông dương và cũng không là một sự tình cờ vì Đông dương là chỗ giao nhau của mọi bất hòa: bất hòa Tàu-Liên Sô, bất hòa Việt-Mên, và từ những năm 1970, những mối bất hòa Tàu-Việt đã xuyên qua ngôi nhà cộng sản để đụng chạm nhau, đối đầu nhau. Sự những mối bất hòa đó chụm lại với nhau đã, lần đầu tiên trong lịch sử, đưa tới một cuộc chiến tranh giữa cộng sản với nhau. Và có sự ngược đời là Bắc Kinh và Washington liên kết với nhau để ngăn chặn Liên Sô. Trái với tình trạng năm 1950, sự đối đầu Âu -Á không nằm giữa hai khối “tư bản” và “cộng sản” nữa: Khối này không còn hiện hữu. Sự đối đầu cũng không còn dính dáng gì với ý thức hệ, một thành phần cốt yếu trong định nghĩa của chiến tranh lạnh. Sự chấm dứt chiến tranh lạnh, vì vậy, không phải chỉ bắt đầu từ năm 1989 với sự sụp đổ của bức tường Berlin, theo cách nhìn Tây Âu, mà bắt đầu ở Á-Âu năm 1979 với cuộc chiến tranh Đông dương thứ Ba. ” Việt Nam: nơi mà những đế quốc trên thế giới đụng chạm nhau “Nếu chỉ vì vấn đề muốn kiểm sát địa lý-chính Á-Âu mà đã có chiến tranh Đông dương thứ Ba, thì vấn đề muốn làm chủ biển Đông cũng được đặt ra cùng một lúc. Cần phải nhớ là, khi Liên Sô thay Mỹ ở vịnh Cam Ranh năm 1979, Liên Sô đã có được con đường chiến lược sinh tử, dẫn đến những biển phía Nam Trung Hoa cho tới tận eo biển Malacca… Hậu quả của cuộc chiến tranh Đ.D III là, không những ở lục địa Á-Âu, mà chạy ra tới tận biển, cả ba khổng lồ Trung quốc, Liên Sô và Mỹ – cả ba đều cùng có một cơ cấu đế quốc khổng lồ – đều cùng khẳng định sự có mặt của mình. Một sự kiện mà trong quá khứ chưa bao giờ xẩy ra. Vì chỉ biết tập trung cái nhìn vào “đế quốc Mỹ”, những người chính thống đã không thấy có hai đế quốc Á-Âu khác, và không thấy hai đế quốc này đã đụng chạm nhau một cách chưa từng thấy ở Á châu. “Việt Nam, ở giữa ngã ba của sự cạnh tranh hàng hải giữa những Quốc gia-đế quốc này, đã phải trả giá rất đắt khi Napoléon III và các đô đốc của mình chinh phục Nam Kỳ ở thế kỷ thứ XIX. Cũng đừng quên là hải quân Nga đã dùng vịnh Cam Ranh trước khi bị thua Nhật một cách nhục nhã ở Đối Mã năm 1905. Cũng từ Cam Ranh mà quân Nhật đánh Đông Nam Á năm 1942 sau khi dội bom Pearl Harbour…. “Cần tránh cái nhìn từ Âu-Mỹ của trường phái Chính thống để có thể thấy những kịch bản khác, những khung cảnh không-thời gian khác, những địa-lịch sử khác. Cần phải dám khẳng định là chiến tranh Đ.D III đã làm cho chúng ta hiểu hơn địa lý-chính Á đông hiện đại mà trong đó Việt Nam vẫn tiếp tục giữ vị trí then chốt… Washington cũng rất canh trừng sự trỗi lên hiện thời của hải quân TQ, nên trau dồi những mối dây liên lạc với đủ mọi nước Á đông trong đó có Việt Nam và cùng tập trận với các nước này. Và cũng có thể, ngoài TQ ra, chính quyền Mỹ cũng nhằm hải quân Nga?… “Vì ở đúng chỗ giao nhau giữa ba cường quốc, vịnh Cam Ranh rất quan trọng trong sự tính toán chiến lược từ Âu sang Á. Poutine nối kết lại với Việt Nam cũng có mục đích, không những để thăm dò ảnh hưởng Mỹ ở phía Đông, mà cũng muốn để ngăn chặn sự bành trướng của hải quân TQ. Nga giúp Việt Nam phát triển hạm đội tàu ngầm là để đổi lại hải quân Nga có quyền đi lại tự do ở vịnh Cam Ranh… “Người Việt Nam cũng nên nhớ lại cái tai hại của những móc nối nước nọ nước kia giữa Á và Âu trong chiến tranh Đ.D III để tránh không liên kết với bất cứ một siêu cường nào. Qua cuộc chiến tranh này, người cộng sản Việt Nam cũng đã rút tỉa được một bài học rất quan trọng là sự cần thiết phải xiết chặc mối quan hệ bằng hữu và an ninh với Lào và Cambốt. Sự đó có nghĩa là phải ngăn cản những cảm tính chống Việt Nam ở Lào và nhất là ở Pnom Pênh, nơi mà những cảm tính này được thả lỏng… Tuy vậy, mặc dầu đã rút khỏi Cambốt từ năm 1988, Việt Nam vẫn không chịu cho chìm xuồng cái chính sách liên kết Đông dương ngày xưa. Đây là một việc rất tế nhị: vì nếu sự giao thiệp giữa Việt Nam và Cambốt xuống dốc (tất cả mọi sự đều có thể xẩy ra ở trên phần này của trái đất), thì một cuộc đối chọi nhau rất rộng lớn có thể xẩy ra”
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 3, 2015 1:10:41 GMT 9
Vinh Danh Cách Mạng
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vinh Danh Cách Mạng “Cách mạng cũng hay đấy chứ! Đem mà cách cái mạng mẹ kiếp của lũ chúng nó đi.” (AQ chính truyện, Lỗ Tấn)
Tôi đọc Thư Gửi Bạn Ta của Bùi Bảo Trúc hàng ngày. Bữa rồi, trên Thời Báo ông đặt một câu hỏi (“cách mạng gì mà kỳ quá vậy?”) sau khi xem “một bản tin rất kỳ lạ” từ trong nước: “Tờ Pháp Luật ở trong nước vừa đăng một bản tin rất kỳ lạ: một thanh niên ở tỉnh Quảng Nam, sau một chầu ăn nhậu với bạn bè, đã xông vào một cư xá, định hiếp dâm một cô giáo, nhưng bị cô giáo chống cự dữ dội nên đương sự không thực hiện được ý định… “Đương sự sau đó bị bắt giữ, bị truy tố ra tòa và bị tòa phạt 3 năm tù. Đương sự kháng cáo, xin được giảm án và tòa sau khi xét lại hồ sơ, đã giảm bản án 3 năm tù xuống còn 2 năm… lý do… vì gia đình của Sơn ‘có công với cách mạng.’ “Cách mạng gì mà kỳ quá vậy?” Trong khi cả nước đang nô nức chuẩn bị kỷ niệm cuộc Cách Mạng Tháng Tám, và chào mừng ngày Quốc khánh 2 tháng 9 mà cái ông ký giả này lại đi hỏi ngang một câu (nghe) “kỳ quá vậy” khiến cho ai cũng phải cảm thấy – ít/nhiều – ái ngại. Nhưng khách quan mà nói thì cái vẫn thường được mệnh danh, hay giả danh, là cách mạng (ở ta) quả nhiên có kỳ cục thiệt, và kỳ cục lắm, ở khắp mọi mặt – chớ chả riêng chi cái “khâu” pháp luật. Cũng trên tờ Thời Báo, số thượng dẫn, nhà báo Đoàn Dự còn sưu tập được đôi điều kỳ cục (khác) về cách mưu sinh bằng …“nghề bán máu.” Xin trích dẫn một đoạn ngắn: “Cùng đường mới phải đến đây… Đó là câu nói của một người đàn ông đội cái mũ cáu bẩn, ngồi lúp xúp trên hành lang để chờ đến lượt mình. Ông cho biết ông quê ở ngoài Bắc (Nam Định), gia đình vào đây bốn người gồm hai vợ chồng ông và hai đứa con lớn, còn hai đứa nhỏ thì gửi bà nội ở ngoài quê, đi học. “Cả gia đình thuê một căn nhà nhỏ xíu có gác gỗ ở Thủ Đức. Hai con đi làm công nhân, vợ chồng ông bán rau cỏ ở chợ, chắt chiu sống cũng tạm được. Nhưng đùng một cái, vợ ông bị bệnh ung thư vú, tiền dành dụm cũng hết, bà nội ở quê gọi điện thoại vào giục gửi tiền ra nuôi hai đứa nhỏ. Bí quá, ông đành giấu vợ con, lên Sài Gòn tìm đến Bệnh viện Chợ Rẫy hỏi thủ tục để xin bán máu. “Phía sau ông là một cô gái mảnh dẻ, có vẻ như sinh viên nhưng nước da men mét có lẽ do thiếu ăn, cũng đang hỏi han về giá cả bán máu … “Giá 250cc máu là 140,000 đồng, nhưng thực ra họ không được hưởng toàn bộ số tiền đó. Anh Nguyễn Văn Hùng, người vừa đi bán máu về, giải thích: ‘Chúng tôi phải chi riêng cho các nhân viên giám định để họ viết giấy chứng nhận mình đủ sức khỏe, máu tốt, không có bệnh cần phải đề phòng. Ngoài ra, còn tiền ăn uống, tàu xe đi về v.v.. Thế nên mỗi 250cc máu chúng tôi chỉ còn lại được khoảng 90,000 đồng là cùng.’” Ôi tưởng gì chớ tiền “bôi trơn” thì ở đâu mà chả mất. Không mất thêm tiền “cò” đã là may rồi. Và ở xứ mình thì bán máu – xưa nay – vốn chỉ là chuyện nhỏ, và chuyện thường ngày vẫn xảy ra ở huyện: “Túng thiếu. Mà phải có tiền. Phải sống. Đang loay hoay với kế mưu sinh thì Dương Tường đến. Nào ai ngờ được chính anh chàng lơ ngơ này lại là người giải quyết cho Mặc Lân vấn đề cực kì khó khăn ấy: Đi bán máu… “Lân mừng như người chết đuối vớ được cọc… Tiền tính theo cc còn tem phiếu thì đồng loạt. Mỗi người được lĩnh tem 2 cân đường, 4 cân đậu phụ, 2 kí thịt, 2 hộp sữa. Thế là mất đi một ít màu nhưng túi nằng nặng tiền và tem phiếu. Cho nên những ngày đi bán máu rất vui… “Bán máu êm ả là thế mà nhiều lúc vẫn giật mình. Ví như đang ngồi nhìn cả vào người y tá chờ gọi tên mình thì người ấy bỗng bật ra những cái tên bất ngờ nhất: “Chính Yên! “Phan Kế Bảo! … “Phương Nam! “Toàn những người quen. Toàn những trí thức. Ngượng nghịu nhìn nhau. Rồi cũng quen dần. Lương thiện thì rõ ràng là lương thiện rồi. Nhưng nó tố cáo bước đường cùng.” (Bùi Ngọc Tấn. “Thời Gian Gấp Ruổi“. Viết về bè bạn. Fall Church, Virginia: Tiếng Quê Hương, 2006). Ngoài “những cái tên bất ngờ” kể trên, còn có điều bất ngờ hơn nữa mà rất ít ai để ý: nếu tính từ thời của nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tới cái “cô gái rất mảnh dẻ có vẻ như sinh viên” đã có mấy thế hệ người Việt bị dồn đến “bước đường cùng” như thế? Cách mạng gì mà kỳ quá vậy? Nó không chỉ kỳ ở cái chuyện bán máu mà còn kỳ ở nhiều vụ đổ máu tùm lum nữa kìa. Xin đơn cử một thí dụ, qua lời giới thiệu trên trang pro&contra về tác phẩm (Luật Hiến Pháp và Chính Trị Học) của cố giáo sư Nguyễn Văn Bông:
GS Nguyễn Văn Bông năm 1967 “Cuốn sách này sẽ còn phải chờ một thời gian dài, trước khi lại được xuất bản tại Việt Nam. Vì hai lẽ: "Thứ nhất, vì bản thân nội dung của nó. Ra đời gần một nửa thế kỉ trước tại miền Nam Việt Nam thời Đệ Nhị Cộng Hòa, nền tảng lí thuyết tổ chức một nhà nước dân chủ và pháp quyền mà nó trình bày đối lập sâu sắc với mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa với độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản trước sau vẫn tồn tại trong thực tế và vẫn chế ngự tư duy chính thống. "Thứ hai, tác giả của nó không phải ai khác, chính là Giáo sư Nguyễn Văn Bông, người bị chính quyền cách mạng ám sát ngày 10-11-1971. Lí do để ở thời điểm ấy, Hà Nội quyết định duyệt lệnh giết một giáo sư luật, Viện trưởng Viện Quốc Gia Hành Chánh tại Sài Gòn, gần đây được bạch hóa trên báo chí Việt Nam với một sự thản nhiên đến lạnh người… "Trong danh sách những nhân vật xuất chúng bị chính quyền cộng sản ám sát hoặc trừ khử trong bóng tối, Nguyễn Văn Bông có nhiều điểm tương đồng với Phạm Quỳnh. Họ đều là những trí tuệ hiếm có, những trí thức có tầm vóc và ảnh hưởng lớn, dấn thân trong trường chính trị cho một nước Việt Nam mới, song họ đều khước từ lựa chọn chủ nghĩa cộng sản…” (x-cafevn.org/forum ) Cách “ám sát” giáo sư Nguyễn Văn Bông, tuy thế, “văn minh” hơn thấy rõ nếu so với kiểu “trừ khử” học giả Phạm Quỳnh của… chính quyền cách mạng: “Thầy tôi bị giết trước, bị đánh vào đầu bằng xẻng, cuốc, sau đó còn bị bắn bồi thêm 3 phát đạn… Cụ Khôi cũng bị bắn 3 phát… ông Huân hoảng sợ, vùng chạy thì bị bắt lại và bị bắn một phát ngay vào đầu… Cả 3 thi hài bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất.” (Phạm Tuân. Cái chết của cụ Phạm Quỳnh. Gió O). Đã có bao nhiêu “thi hài bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất” (y như thế) trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc, và trong cuộc thảm sát vào năm Mậu Thân - ở miền Trung? Thêm bao nhiêu (triệu) thi hài khác nữa được vùi lấp qua loa, ở cả ba miền, trong hai cuộc kháng chiến (rất thần thánh và cũng rất không cần thiết) vừa qua? Đó là chưa kể vô số những xác người đã vùi sâu trong lòng đại dương, khi đang trốn chạy khỏi (cái) thiên đường cách mạng! Đ… mẹ, cách mạng gì mà kỳ quá vậy? Đã thế, theo lời của blogger Bùi Tín: “Giáo sư Hoàng Xuân Phú lại có một khám phá động trời. Trên blog Quê Choa, ông khẳng định Đảng Cộng Sản đã vi phạm luật lệ do chính mình đề ra, suốt 68 năm nắm chính quyền, là một đảng chính trị, Đảng CS chưa hề có giấy xin phép, đăng ký hoạt động, cũng chưa được chính quyền cấp giấy khai sinh và quy định thể lệ hoạt động cho nó. “Cả khi nó tự giải thể (giả vờ) và đổi tên gọi - Đảng CS Đông Dương, Đảng Lao Động VN, rồi Đảng CSVN - nó cũng không xin phép, đăng ký với chính quyền, có nghĩa là nó chưa hề thực thi thủ tục luật pháp. Nó là một tổ chức không hợp lệ. Trên thực tế và theo quan điểm luật học, Đảng CS vẫn là một đảng phi pháp, không chính danh.” Hay nói một cách lãng mạn và nhẹ nhàng hơn, theo ngôn ngữ thi ca của nhà thơ Bùi Hoàng Tám, đây là một cách… vin danh: “Việc một đại gia đập bỏ ngôi biệt thự cổ trong khuôn viên trị giá 137 tỉ đồng trong sự nuối tiếc chưa kịp nguôi ngoai của nhiều người thì lại có tin, chiếc giường… trị giá 6 tỉ đồng của đại gia Lê Ân đã về đến Việt Nam. “Đó là một trong số 60 chiếc giường thương hiệu Royal Bed của hãng Savoir Beds (Anh), dựa trên thiết kế đặc biệt giành riêng cho Hoàng gia Anh giai đoạn 1640 - 1740. Số giường này được làm để kỷ niệm 60 năm Nữ hoàng Anh Elizabeth tại vị. “‘Tôi tìm cách đặt mua không phải để ngủ mà để thế giới biết rằng Việt Nam cũng có nhiều đại gia lắm tiền,’ông Ân nói… “Còn nhiều việc có thể ‘nhân danh đất nước’ mà có lẽ ông Ân chưa biết, ví như hiện có hàng trăm người Việt Nam lao động bất hợp pháp ở Nga bị bắt giữ đang sống trong cảnh khốn khổ, không có tiền mua vé máy bay về quê. Nếu vì danh dự của đất nước, ông hãy bỏ tiền mua vé cho họ. Khi đó thì ông cứ thoải mái nhân danh tình yêu đồng bào, lòng tự trọng quốc gia hay… gì gì đó. “Thậm chí, ông có thể giúp các cháu học sinh một vài chiếc cầu tại quê hương Quảng Nam của ông như cầu Dân trí tại Phú Mưa hay cây cầu Dân trí giúp các em đi học hàng ngày vừa khởi công ở Hậu Giang nhờ sự đóng góp cúa các nhà hảo tâm cả nước. “Còn việc mua giường, nó có gì đó càng thô thiển khi liên tưởng tới việc đất nước được ‘vinh danh’ nhờ… cái giường ngủ của đại gia Lê Ân. Mua giường để vợ chồng ngủ mà cũng ‘vin danh’ đất nước thì quả thật, đất nước bị đem ra lạm dụng đến mức như một sự xúc phạm!” Phải chi ngay khi những kẻ “vinh danh cách mạng” để lạm dụng và xúc phạm đất nước Việt Nam mà chúng cũng bị chỉ mặt đặt tên ngay tức khắc, như ông Lê Ân hôm nay thì đỡ cho cái xứ sở này biết mấy. Từ đó đến nay đã gần hai phần ba thế kỷ trôi qua, thời gian đủ dài để mọi người dân bị “nhồi sọ” nhuần nhuyễn hai chữ “cách mạng” nên đều (hồn nhiên) gọi bọn cướp ngày bằng mỹ từ này: cách mạng tháng tám, cách mạng mùa thu, chính quyền cách mạng, chính phủ cách mạng, chủ nghĩa cách mạng, văn hoá cách mạng, văn công cách mạng, anh hùng cách mạng, truyền thống cách mạng, sách báo cách mạng, thơ văn cách mạng … Bao giờ mà lũ “ngụy cách mạng” chưa bị điểm đúng mặt, gọi đúng tên (ác độc, bất nhân, bất tín, bất nghĩa, nói một đằng làm một nẻo, vừa đánh trống vừa ăn cướp) thì chúng vẫn còn có thể tác yêu tác quái – ở đất nước này. (tnt)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 3, 2015 1:22:37 GMT 9
Lời thề bốn không ngày 2/9
Trong lễ ra mắt chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh (HCM) đưa ra lời thề hết sức long trọng. Trước khi đề cập đến lời thề ngày 2-9-1945 của HCM, xin sơ lược tiến trình cướp chính quyền của HCM và Mặt trận Việt Minh (VM). 1.- MẶT TRẬN VIỆT MINH Việt Minh là tên tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội do Hồ Học Lãm thành lập ở Trung Hoa năm 1936. Hồ Học Lãm có bí danh là Hồ Chí Minh, già yếu, ít hoạt động nên nhóm cộng sản Việt Nam (CSVN) ở Trung Hoa chiếm dụng danh xưng của hội nầy năm 1940. (Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, hồi ký, Portland, Oregan: Nhóm Tìm Hiểu Lịch Sử, 1991, tr. 134.) Lúc đó, nhân cơ hội Quốc-Cộng Trung Hoa liên kết lần thứ 2 từ 22-9-1937 để chống Nhật, đảng Cộng Sản Trung Hoa (CSTH) hoạt động công khai trở lại. Vào mùa thu 1938, Liên Xô gởi Nguyễn Ái Quốc (NAQ) đến Diên An (Yan An), phía bắc tỉnh Thiểm Tây (Shaan Xi), nơi đặt bộ chỉ huy đảng CSTH. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, University of North Carolina Press, 2000, tr. 11.) Đầu năm 1939, NAQ xuống Hoa Nam (miền nam Trung Hoa) với bí danh mới là Hồ Quang. (Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người & huyền thoại, tập II: 1925-1945, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1993,tt. 176-178.) Từ đây, Hồ Quang bắt liên lạc và hoạt động với cơ sở hải ngoại của đảng CSĐD do Phùng Chí Kiên phụ trách. (Phùng Chí Kiên là bí danh của Mạch Văn Liệu.) Năm 1941, Hồ Quang (NAQ), với bí danh khác là Già Thu, về Việt Nam, sống ở Pắc Bó (Cao Bằng), tổ chức Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng CSĐD lần thứ 8 từ 10 đến 19-5-1941, lập Mặt trận Việt Minh ở trong nước. Sau đó, Hồ Quang trở qua Trung Hoa , chiếm dụng luôn bí danh Hồ Chí Minh của Hồ Học Lãm từ tháng 8-1942. Hồ Chí Minh (NAQ) bị bắt tại trấn Thiên Bảo (Quảng Tây) ngày 29-8-1942 và được tha ngày 10-9-1943. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 168, và Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người & huyền thoại, tập II,sđd. tt. 278, 283.) Gốc là một điệp viên cộng sản quốc tế, Hồ Chí Minh (NAQ, Hồ Quang) gia nhập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Cách, để do thám. Việt Cách là một tổ chức chính trị Việt Nam tại Trung Hoa theo chủ nghĩa dân tộc, được chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng (THQDĐ) hỗ trợ. Với sự đồng ý và giúp đỡ của tướng Tiêu Văn (THQDĐ), Hồ Chí Minh (HCM) đem 22 cán bộ, rời Liễu Châu (Quảng Tây) ngày 8-9-1944, về tới Pắc Bó (châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng) vào gần cuối tháng đó. “Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên là Đỗ Thị Lạc là người sau có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Về sau, thấy người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 75.) Tuy trở về với tư cách là thành viên của Việt Cách, HCM chỉ hoạt động cho mục đích của VM cộng sản. Từ đây, HCM chỉ huy VM và trực tiếp chỉ huy luôn đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD). Một trong những việc làm đầu tiên của HCM là ra lệnh cho Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, và mở rộng lực lượng du kích VM ở các vùng rừng núi Việt Bắc. Đội nầy ra mắt ngày 22-12-1944 tại châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, gồm 34 người. Đây là tổ chức tiền thân của quân đội VM cộng sản. Hồ Chí Minh thông báo cho các đồng chí của ông biết rằng thời cơ đang đến, nên gấp rút chuẩn bị hành động. Tháng 11-1944, một trung uý phi công Mỹ lâm nạn ở biên giới Việt Hoa, bị VM bắt, và HCM đưa qua Côn Minh trả lại cho quân đội Mỹ. Hồ Chí Minh bắt đầu làm quen với người Mỹ, và sau đó hợp tác với nhân viên tình báo O.S.S. (Office of Strategic Services) của Mỹ từ đầu 1945. Khoảng giữa tháng 4-1945, HCM cùng hai nhân viên vô tuyến của O.S.S. về vùng viên giới Hoa Việt ở Cao Bằng. Tháng 5-1945, HCM chuyển đến hoạt động ở Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Từ đây, Tân Trào trở thành thủ phủ của vùng VM. Ngày 16-7-1945, A. Patti gởi một toán tình báo hỗn hợp do thiếu tá Allison K. Thomas chỉ huy, gồm 6 người (2 Mỹ, 2 Pháp và 2 Việt trong quân đội Pháp), nhảy dù xuống làng Kim Lộng (Tân Trào, Tuyên Quang). (Archimedes L. A. Patti, Why Viet Nam?, California: University of California Press, Berkely, 1980, tr. 127.) Do tin tức tình báo từ phía O.S.S. Mỹ và cả phía CS, HCM biết chắc chắn Nhật sẽ sụp đổ sau khi bị Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử ngày 6 và 9-8-1945, nên HCM triệu tập Đại hội đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) ở Tân Trào từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945, lập “Uỷ Ban Khởi Nghĩa Toàn Quốc” và ra quân lệnh số 1, phát động cuộc tổng khởi nghĩa, cướp chính quyền ở khắp các tỉnh trong nước. Lúc đó, đảng CSĐD do HCM lãnh đạo, chưa có Bộ chính trị, chỉ có Ban chấp hành trung ương đảng, khoảng dưới 20 người, tổng bí thư là Đặng Xuân Khu, bí danh là Trường Chinh. Số đảng viên khoảng từ 2,000 đến 5,000 người. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 182.) Sau hội nghị của đảng CSĐD, HCM tổ chức “Đại hội đại biểu quốc dân” ngày 16-8-1945, cũng tại Tân Trào, gồm khoảng 60 đại biểu, mà VM nói là đại diện các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các sắc dân trên toàn quốc. Do HCM sắp đặt, Đại hội tuyên bố tán thành chủ trương phát động tổng khởi nghĩa của đảng CSĐD, và thành lập “Uỷ Ban Dân Tộc Giải Phóng Việt Nam”, tự xem là có tính cách như Chính phủ Cách mạng Lâm thời. 2.- VIỆT MINH CƯỚP CHÍNH QUYỀN Ở HÀ NỘI Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng ngày 14-8-1945. Tại Đông Dương, bộ tham mưu Quân đoàn 38 của Nhật đóng ở Hà Nội. Người Nhật chủ trương rằng quân đội Nhật bại trận, nhưng sẽ không nhượng chỗ cho quân Đồng minh thắng trận, mà chỉ nhượng cho những ai có khả năng tiếp tục nhiệm vụ lịch sử của Nhật, là giải phóng châu Á ra khỏi tay thực dân da trắng. (Philippe Devillers, sđd. tr. 136.) Vì vậy, khi Nhật Bản đầu hàng, quân đội Nhật tại Đông Dương hạ võ khí, rút lui vào các căn cứ quân sự, chờ ngày bị giải giới, để cho người Việt tự do hoạt động trước khi quân Đồng minh có mặt. Trong khi đó, chính phủ Trần Trọng Kim (TTK) không có bộ Quốc phòng, không có lực lượng võ trang để giữ gìn an ninh, trật tự và bảo vệ chế độ. Các cơ quan hành chánh theo truyền thống cũ từ thời Pháp thuộc, chỉ có một số lính lệ hoặc bảo an binh giữ trật tự các cơ quan, không được trang bị đầy đủ, có tính cách hình thức hoặc lễ nghi. Thời gian nầy không có lực lượng Pháp hay Nhật, cũng không có lực lượng chính phủ, là cơ hội thuận tiện cho lực lượng VM tung hoành, không bị ai ngăn chận. Đây là một trong những lý do giải thích vì sao chỉ với một lực lượng nhỏ khoảng dưới 5,000 đảng viên, mà VM cướp được chính quyền. Trong lúc tình hình Hà Nội và miền Bắc xáo trộn, chính phủ TTK ở Huế cử bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn ra Bắc, thay mặt chính phủ giải quyết tại chỗ những vấn đề khẩn cấp. Sau khi gặp các yếu nhân Hà Nội, Hoàng Xuân Hãn gởi điện về Huế, đề nghị lập một cơ cấu chính trị mới gọi là Uỷ ban Giám đốc Chính trị miền Bắc (Comité directeur de la politique du Nord). Ngày 16-8-1945, chính phủ TTK đề cử thành phần Ủy ban nầy như sau: Nguyễn Xuân Chữ (chủ tịch) và bốn uỷ viên là Phan Kế Toại, Trần Văn Lai, Đặng Thai Mai, Nguyễn Tường Long. Tuy nhiên, ngoài bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, bốn uỷ viên kia đều vắng mặt. (Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1996, tr. 280.) Lý do là vì VM đã tung cán bộ đe dọa từng người. Phan Kế Toại không xuất hiện (có thể đã theo VM, con là Phan Kế Bảo, một cán bộ VM), Trần Văn Lai bận việc ở tòa đô trưởng, Đặng Thai Mai hoàn toàn không ra mặt, Nguyễn Tường Long bị bệnh chưa làm việc được. Ngày 17-8-1945, Tổng Hội Công Chức do chính quyền TTK thành lập, tổ chức cuộc mít-tinh tại Nhà hát lớn Hà Nội, nhằm ủng hộ chính phủ TTK. Trong khi các diễn giả của Tổng Hội Công Chức đang nói chuyện ở Nhà hát lớn, thì một người nào đó (chắc chắn là cán bộ VM) ở trên lầu Nhà hát lớn quăng xuống một lá cờ đỏ sao vàng của VM. Thế là cán bộ VM chụp lấy thời cơ, biến cuộc mít-tinh của Tổng Hội Công Chức thành cuộc biểu tình tuần hành, quay qua ủng hộ mặt trận VM. (Theo lời kể của một số người ngày nay lớn tuổi, đã từng tham dự cuộc mít-tinh ngày 17-8-1945 tại Hà Nội.) Ngày 19-8-1945, VM tiếp tục tổ chức biểu tình, chiếm Bắc bộ phủ (phủ toàn quyền Pháp cũ), cướp chính quyền Hà Nội. Việt Minh làm chủ được Hà Nội từ ngày 20-8-1945, nhưng những cuộc bạo động vẫn tiếp diễn. Bạo động bắt nguồn từ cả hai phía: Bạo động của VM tiêu diệt những phần tử đối kháng; bạo động của những đảng phái quốc gia đối lập chống lại VM. Ngày 21-8-1945, VM vận động các đoàn thể họp mít-tinh tại Hà Nội, lập ra một kiến nghị gồm ba điểm: 1) Yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và giao quyền cho một chính phủ lâm thời do Mặt trận VM thành lập. 2) Yêu cầu Mặt trận VM thảo luận với các đảng phái khác để thành lập chính phủ lâm thời. 3) Yêu cầu tất cả các đảng phái, các tầng lớp dân chúng ủng hộ chính phủ lâm thời để củng cố nền độc lập quốc gia. Bản kiến nghị nầy được chuyển bằng điện tín về Huế. (Philippe Devillers, sđd. tr. 137.) 3.- VUA BẢO ĐẠI THOÁI VỊ Sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng và VM lộng hành, đại sứ Nhật ở Huế là Massayuki Yokoyama đến gặp vua Bảo Đại, đề nghị vua Bảo Đại dùng lực lượng của Nhật tiêu diệt VM. Vua Bảo Đại từ chối đề nghị nầy để tránh nội chiến có thể xảy ra. (Theo lời kể với người viết tại Sài Gòn năm 1993 của ông Phan Văn Vỹ. Vào năm 1945, ông Vỹ là đệ nhị đẳng thị vệ của vua Bảo Đại. Ông cho biết ông là người trực gác buổi tối khi Yokoyama đến gặp vua Bảo Đại và chính ông đã đánh thức và báo tin với nhà vua, để nhà vua ra tiếp khách.) Người Nhật còn đề nghị với thủ tướng TTK. Sau đây là lời trong hồi ký của TTK: “Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: “Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn có thể giữ trật tự”. Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Đồng minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà”. Tôi từ chối không nhận.” (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb Vĩnh Sơn, 1969, tr. 93.) Vua Bảo Đại quay qua các nước Tây phương, viết thư gởi tổng thống Hoa Kỳ là Harry Truman và thủ tướng lâm thời Pháp là Charles de Gaulle, thống chế Tưởng Giới Thạch, quốc vương Anh, kêu gọi trao trả độc lập lại cho Việt Nam, đừng tái lập nền cai trị Pháp dưới bất cứ một hình thức nào. Các nước Tây phương chuẩn bị kế hoạch riêng nên đều im lặng và không trả lời thư của vua Bảo Đại. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Xuân Thu, 1990, tt. 177-179; và David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power, University of California Press, 1995, tr. 361.) Trong lúc vua Bảo Đại lúng túng, chính phủ TTK xin từ chức ngày 20-8-1945. Ngày 21-8, vua Bảo Đại lại nhận được điện tín từ Hà Nội của VM yêu cầu nhà vua từ chức. Trần Trọng Kim khuyên nhà vua giao quyền cho VM. (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tt. 92-93.) Bên cạnh vua Bảo Đại, lúc đó viên tổng lý văn phòng (thư ký của vua) là Phạm Khắc Hòe đã trở mặt với hoàng gia, ngầm theo VM, hết sức hù dọa nhà vua và hoàng gia. Vua Bảo Đại cảm thấy vừa lo sợ, vừa cô đơn và bị bỏ rơi (Bảo Đại, sđd. tr. 184.) Vua Bảo Đại cô thế, lại không biết lai lịch HCM và VM. Cũng như nhiều người Việt lúc đó, nhà vua lầm tưởng rằng HCM và VM là những người yêu nước, được quần chúng ủng hộ, và được cả các nước Đồng minh giúp đỡ (theo lời tuyên truyền của VM), nên cuối cùng nhà vua quyết định từ chức, giao quyền cho HCM và VM. Ngày 25-8-1945, vua Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị và thông báo cho đại diện VM ở Huế biết. Chiếu thoái vị được niêm yết ở Phu Văn Lâu, nơi công bố các chiếu dụ, mệnh lệnh của nhà vua, kết quả thi Hội và thi Đình. Sau đó lễ thoái vị diễn ra ngày 30-8 tại Ngọ môn, Huế. (Ngọ môn là cửa chính nhìn về hướng nam của hoàng thành.) Nhà vua trao bảo kiếm và quốc ấn, tượng trưng uy quyền của triều đình nhà Nguyễn, cho phái đoàn đại diện VM từ Hà Nội vào là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận. Chiếc ấn mà vua Bảo Đại trao lúc đó là “Hoàng đế chi bảo”, bằng vàng ròng, nặng khoảng 10,5 Kg. (Võ Hương An, Trong ngõ ngách sử Việt, California: Nxb. Nam Việt, 2014, tr. 171.) 4.- LỜI THỀ BỐN KHÔNG Sau lễ thoái vị của vua Bảo Đại tại Huế ngày 30-8, thì tại Hà Nội, HCM gấp rút ra mắt chính phủ lâm thời VNDCCH ngày 2-9-1945, tại bãi Cột Cờ (Rond point Puginier), mới được chính phủ TTK đổi tên thành công viên Ba Đình từ đầu tháng 8-1945. Hồ Chí Minh gấp rút ra mắt chính phủ mới nhằm tạo thế hợp pháp chính thống liên tục từ chế độ cũ qua chế độ mới. Hơn nữa, phải chăng HCM chọn ngày nầy vì 2-9, hiểu một nghĩa khác là ngày có 2 số 9, theo câu “cửu cửu càn khôn dĩ định” trong Sấm Trạng Trình? Mở đầu buổi lễ, HCM đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, rồi HCM mạnh mẽ hô to các lời thề gồm có hai phần: “Lời thề của chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” và “Lời thề của Quốc dân”. Sau đây là nguyên văn “Lời thề của chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”: “Chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do Quốc dân đại biểu đại hội cử lên, xin thề rằng: Chúng tôi sẽ kiên quyết lĩnh đạo toàn dân giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc và thực hiện bản chương trình của Việt Minh, đang mang lại tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Trong lúc giữ nền độc lập, chúng tôi quyết vượt mọi khó khăn, nguy hiểm dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ.” Lời thề của Quốc dân, cũng do Hồ Chí Minh đọc: “Chúng tôi, toàn thể dân Việt Nam xin thề: kiên quyết một lòng ủng hộ Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ủng hộ chủ tịch Hồ Chí Minh. Xin thề! Chúng tôi xin thề cùng chính phủ giữ quyền độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chống mọi mưu mô xâm lược, dù có phải chết cũng cam lòng. Xin thề! Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp.” (Tô Tử Hạ và nhiều tác giả, 60 năm chính phủ Việt Nam [sách song ngữ Việt-Anh], Hà Nội: Nxb.Thông Tấn, 2005, tr. 26.) Tuy thề thốt quyết tử, “chúng tôi quyết vượt mọi khó khăn, nguy hiểm dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ”, và cương quyết thực hiện bốn không: “không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp”, nhưng khi Pháp đem quân từ Nam ra Bắc đe dọa, HCM sợ Pháp tấn công và lật đổ thì HCM, VM và đảng CS chẳng những mất độc quyền chính trị, mà có thể còn bị tiêu diệt, nên HCM vội vàng nuốt lời thề. Nguyên theo tối hậu thư Potsdam, sau khi Nhật đầu hàng, quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng vào Đông Dương giải giới quân đội Nhật ở bắc vĩ tuyến 16, còn quân Anh giải giới quân đội Nhật ở nam vĩ tuyến 16. Pháp lợi dụng thời cơ tái chiếm Đông Dương. Đầu tháng 10-1945, chính phủ Pháp bổ nhiệm Jean Saiteny làm Đại diện chính phủ Pháp tại Bắc Kỳ. Sainteny gặp HCM lần đầu ngày 15-10-1945 và lần thứ hai ngày 1-12-1945. Sau hai cuộc gặp mặt, người Pháp bí mật giao cho HCM ngày 7-12-1945, một bản dự thảo hiệp ước giữa hai bên để VM nghiên cứu. Trong khi đó, đô đốc D’Argenlieu, cao uỷ Pháp tại Đông Dương, đến Sài Gòn ngày 30-10-1945. Ngày 27-2-1946, đô đốc D’Argenlieu phát động cuộc hành quân Bentré, chuyển 21,000 quân từ miền Nam ra Hải Phòng, để tái chiếm Bắc Kỳ. Pháp muốn sớm chiếm lại Bắc Kỳ trước khi nhà cầm quyền VM được củng cố và trước khi mùa mưa đến ở đất Bắc từ tháng 5 hằng năm. (Stein Tonnesson, “La paix imposée par la Chine: l’accord Franco-vietnamien du 6 mars 1946”, Les Cahiers de l’Institut D’Histoire Du Temps Présent, Paris: Charles-Robert Ageron và Philippe Devillers chủ biên, số 34, tháng 6-1996, tt. 36-38.) Tại Hà Nội, được tin hạm đội Pháp xuất hiện ở ngoài khơi Hải Phòng vào chiều ngày 5-3-1946 và chuẩn bị đổ bộ vào sáng ngày hôm sau (6-3-1946), HCM vội báo cho Jean Sainteny biết là ông ta đồng ý ký hiệp ước với Pháp, mà Pháp đã bí mật giao bản dự thảo ngày 7-12-1945 (đã viết ở trên). Vào chiều ngày 6-3-1946, tại số 38 đường Lý Thái Tổ, Hà Nội, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp kháng chiến, HCM ký thỏa ước Sơ bộ với Pháp. Cùng ký văn kiện nầy, ngoài HCM, còn có Vũ Hồng Khanh (lãnh tụ VNQDĐ), phó chủ tịch Quân sự uỷ viên hội của chính phủ. Đại diện chính phủ Pháp là Jean Sainteny. Thỏa ước nầy gồm 2 điều chính: 1) Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 2) Việt Nam sẵn sàng tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa để giải giáp quân đội Nhật. Tuy HCM ký thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946 với Jean Sainteny ở Hà Nội, nhưng Jean Cédile, đại diện Pháp tại nam Đông Dương, tuyên bố rằng thỏa ước nầy chỉ có giá trị ở miền bắc, và không có giá trị ở miền nam vĩ tuyến 16. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập A: 1939-1946, Houston: Nxb Văn Hóa, 1996, tr. 319.) Điều đó có nghĩa là lúc đó, Pháp chưa chịu để miền Nam tái sáp nhập vào Việt Nam. Ngoài ra, bên cạnh thỏa ước Sơ bộ, cũng trong ngày 6-3-1946, hai bên ký một phụ ước quân sự, minh định hoạt động quân đội mỗi bên. Theo điều 1 của phụ ước nầy, VM đồng ý để quân đội Pháp thay quân đội Trung Hoa ở phía bắc vĩ tuyến 16, nghĩa là quân đội Trung Hoa sẽ rời khỏi Việt Nam, dầu Việt Nam không ký kết thỏa ước với Trung Hoa. Lực lượng Pháp lên đến 15,000 quân. KẾT LUẬN Như thế HCM và VM không chống Pháp khi Pháp trở lại Việt Nam như lời thề mạnh mẽ ngày 2-9, mà VM lại ký thỏa ước hợp thức hóa chính thức sự hiện diện của quân đội Pháp tại Việt Nam. Hơn nữa, sợ thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946 chưa đủ hiệu lực, cần phải được một cấp bậc cao hơn thừa nhận, HCM còn qua tận Paris, xin ký thêm bản Tạm ước hay Đường lối sống (Modus Vivendi) ngày 14-9-1946 với bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại là Marius Moutet, gồm 14 điều khoản, theo đó VM để cho Pháp tái tục các hoạt động kinh tế, tài chính, giao thông, văn hóa trên toàn quốc Việt Nam, hai bên sẽ nghiên cứu về tương lai ngoại giao Việt Nam và vấn đề Nam Kỳ,. Bản Tạm ước có hiệu lực kể từ 30-10-1946. Những hành động nầy phản bội hoàn toàn lời thề bốn không của HCM, quyết liệt chống Pháp trong buổi lễ trình diện chính phủ vào ngày 2-9-1945. Từ không nay thành có; chẳng những bốn có, mà Pháp có tất cả những điều Pháp muốn khi trở lại Việt Nam. Hồ Chí Minh đúng là tên ĐẠI BỊP CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM. Bịp ngay cả trong lời thề thiêng liêng trước Dân tộc và Tổ quốc. (Toronto, 02-09-2015) Trần Gia Phụng
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 6, 2015 4:17:45 GMT 9
Đẽo chân Bác Hồ cho vừa giày Thủ tướngẢnh mang tính minh họa Người ta có câu thành ngữ “Gọt chân cho vừa giày” để chỉ sự vụng chèo khéo trống của ai đó khi muốn lấp liếm một việc gì. Và không khó để hiểu câu thành ngữ này, nếu chúng ta hiểu rằng thay vì chọn giày cho vừa đôi đôi chân của mình, thì người ta lại chọn cách gọt chân, với hy vọng làm sao cho nó vừa với đôi giày. Đây là một việc hài hước và khó tin. Vậy mà chuyện này lại xảy ra đối với Bác Hồ – vị lãnh tụ kính yêu của nhiều người Việt nam, mà người “đẽo chân Bác” không phải ai xa lạ. Đó là ông TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), kiêm Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn Cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ. Xin thưa cho rõ, ông TS. Vũ Tiến Lộc đã đẽo “tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Marx-Lenin” cho vừa đôi giày “Kinh tế thị trường hoàn chỉnh” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chuyện đẽo chân Bác HồTrong bài viết “Chủ tịch VCCI:”90 năm trước, Bác Hồ đã định hướng nền kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường“, báo Infonet online cho biết, tại hội nghị giao ban doanh nghiệp ngày 25/8/2015 tại Đà Nẵng, Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc nêu rõ: “90 năm trước, Bác Hồ đã nói nền kinh tế Việt Nam phải là nền kinh tế nhiều thành phần. Mà nền kinh tế nhiều thành phần có nghĩa là nền kinh tế thị trường!”". Theo đó, khi đặt vấn đề nguyên tắc của kinh tế thị trường hoàn chỉnh như vậy có trái với tư duy của Đảng, Nhà nước và những giá trị đặc thù của Việt Nam từ trước đến nay hay không? Ông Vũ Tiến Lộc đã thừa nhận đây là câu hỏi băn khoăn của rất nhiều người, vì nó liên quan đến đường lối của Đảng CSVN và Chủ nghĩa Marx-Lenin. Và ông Vũ Tiến Lộc khẳng định rằng: “Khi nghiên cứu vấn đề này, tôi đã rất bất ngờ và nói với các chuyên gia Mỹ: Các vị thử xem, lý thuyết kinh tế thị trường các vị đang làm hiện nay có khác gì với tư tưởng Hồ Chí Minh hay không? Chả khác gì cả. Tư tưởng kinh tế của Bác Hồ là tư tưởng hàng đầu của nền kinh tế thị trường hiện đại, không hề thua kém kinh tế thị trường của Harvard hay các trường đại học nào khác!” Chuyện như đùa ấy hình như còn chưa đủ, ông Chủ tịch VCCI còn dẫn chứng cho rằng, “… năm 1925, lúc thành lập “Thanh niên Cách mạng đồng chí hội”, trong điều lệ của tổ chức tiền thân của Đảng này, nền kinh tế Việt Nam tương lai mà Bác Hồ định hướng là nền kinh tế thực hiện theo chính sách kinh tế mới của Lê Nin. Và đó là nền kinh tế nhiều thành phần.” Ông còn nêu rõ: “90 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói nền kinh tế Việt Nam phải là nền kinh tế nhiều thành phần. Mà nền kinh tế nhiều thành phần có nghĩa là nền kinh tế thị trường!”. Để củng cố cho luận điểm của mình, ông Vũ Tiến Lộc còn nêu thêm rằng, sau Cách mạng tháng Tám, Bác Hồ từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội và ở tại số nhà 48 Hàng Ngang của một nhà tư sản dân tộc là ông Trịnh Văn Bô và bà Hoàng Thị Minh Hồ. Tại đây Bác đã viết bản “Tuyên ngôn độc lập” và Thường vụ TƯ Đảng họp cũng họp ở đây, để thông qua bản tuyên ngôn độc lập. Đó là những căn cứ để ông Chủ tịch VCCI khẳng định rằng lâu nay bác Hồ là người có xu hướng thân phương Tây. Ông Vũ Tiến Lộc nhận định: “Bác ở nhà của doanh nhân và đứng bên cạnh người Mỹ. Những người Mỹ là người nước ngoài duy nhất có mặt bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những ngày chuẩn bị Quốc khánh 2/9. Trong bản “Tuyên ngôn độc lập” Bác viết tại nhà của doanh nhân và đọc tại Quảng trường Ba Đình, những câu đầu tiên của Bác là trích từ Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Bác hội nhập như thế, Bác chấp nhận những giá trị của phương Tây, luật pháp của phương Tây vào luật pháp Việt Nam. Bác là người đầu tiên hội nhập ở Việt Nam!”. Không chỉ dừng lại ở đó, ông Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc còn nhận định rằng, Bác Hồ luôn có thiện cảm với giới doanh nhân Việt Nam, mà bằng chứng theo ông Vũ Tiến Lộc thì “Không phải công nhân, không phải nông dân… mà khách đầu tiên, giới đầu tiên Bác cần phải gặp trên cương vị Chủ tịch nước chính là doanh nhân, là các nhà tư sản dân tộc. Bác trông cậy ở họ và họ cũng đã đáp ứng niềm tin của Bác; riêng doanh nhân Hoàng Thị Minh Hồ và Trịnh Văn Bô đã đóng góp 5.000 lượng vàng.” Kết thúc phần phát biểu, ông Vũ Tiến Lộc đã khẳng định: “Trở lại với tư tưởng của Bác về kinh tế thị trường thì hoàn toàn trùng khớp với những khái niệm về kinh tế thị trường hiện đại. Trong những năm qua, vì nhiều lý do mà chúng ta không thực hiện được đúng những chỉ dẫn của Bác. Còn bây giờ, khi nói chúng ta đổi mới, thực ra là quá trình trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh. Công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam xét trên một góc độ nào đó là sự trở lại với tư tưởng của Bác Hồ!” Kinh tế thị trường là kẻ thù của BácMột trong những nguyên tắc cơ bản nhất trong kinh tế học của Chủ nghĩa Marx-Lenine và cũng là mục tiêu cuối cùng của các cuộc cách mạng do các đảng Cộng sản lãnh đạo, là tiến tới công hữu hóa toàn bộ tư liệu sản xuất của quốc gia, trở thành thuộc sở hữu toàn dân. Nghĩa là xóa bỏ kinh tế tư nhân để duy trì một thành phần kinh tế duy nhất: Kinh tế tập thể. Đây cũng là nội dung chính của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đường lối của Đảng CSVN từ trước cho đến nay luôn luôn kiên định với con đường Chủ nghĩa Xã hội, lấy Chủ nghĩa Marx-Lenin làm nền tảng tư tưởng mà giai cấp nông dân và công nhân là lực lượng nòng cốt. Mọi biểu hiện lệch lạc trong việc vận dụng Chủ nghĩa Marx – Lenine đều bị coi là xét lại (trước kia) hay diễn biến và tự chuyển hóa (ngày nay). Đây là những kẻ thù nguy hiểm, ảnh hưởng đến sự tồn vông của Đảng CSVN. Ngay từ ngày đầu thành lập, luận cương 1930 của Tổng BT Đảng CS Đông Dương Trần Phú đã để ra chính sách “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc, trốc tận rễ”. Rồi đến cuộc Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam vào những năm 1953–1956. Cải cách ruộng đất tịch thu tài sản, đất đai của những người giàu và chia cho bần, cố nông, thông qua việc đấu tố và xử tội họ. Tiếp sau đó là các cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh tại miền Bắc sau năm 1954 và miền Nam sau năm 1975 để xóa bỏ nền kinh tế tư bản, nguồn gốc của sự bóc lột. Những “kỳ tích” kể trên như Cải cách Ruộng đất, Nhân Văn giai phẩm, Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, nền kinh tế tem phiếu thời còn bao cấp v.v… mà đến nay nhắc lại người ta vẫn toát mồ hôi vì sự ác độc khủng khiếp một thời. Đây là hậu quả của việc Bác Hồ đưa vào và áp dụng Chủ nghĩa Marx-Lenin ở Việt Nam. Điều đó đã gây biết bao nhiêu tai họa cho dân tộc này. Và chỉ đến năm 1986, khi cả nước đã đứng bên bờ vực chết đói thì Đảng CSVN buộc phải khởi xướng việc cải cách kinh tế để chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp theo mô hình Cộng sản, sang nền Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Mà cái đuôi “định hướng XHCN” được cho là sự sáng tạo của Đảng CSVN, nhằm khẳng định họ không đi chệch con đường XHCN. Cần phải nhắc lại, trong Cương lĩnh Đại Hội Đảng CSVN lần thứ XI, đã khẳng định: “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Điều đó cũng hoàn toàn phù hợp với Hiến pháp Việt nam Sửa đổi năm 2013, quy định về chế độ kinh tế đó là “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.”. Xin hỏi, đây là những biểu hiện đúng của một nền Kinh tế thị trường hoàn chỉnh hay sao? Bác Hồ đối xử với Doanh nhân thế nào?Nói đến Cải cách Ruộng đất thì không thể không nhắc tới bà Nguyễn Thị Năm hay Cát Hanh Long, đây là một địa chủ có công đóng góp tài sản cho Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. Đây có lẽ là bài học điển hình cho việc Bác Hồ đối xử với Doanh nhân nước Việt. Theo các tài liệu lưu trữ cho biết, trước Cách mạng tháng Tám, gia đình bà Nguyễn Thị Năm từng ủng hộ Việt Minh 20.000 đồng bạc Đông Dương (tương đương bảy trăm lạng vàng) và sau đó giúp đỡ nhiều vật dụng, thóc gạo, y tế và nhà cửa. Khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức “Tuần lễ vàng”, bà đóng góp hơn 100 lạng vàng. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, bà Nguyễn Thị Năm đã có hai con trai đi theo kháng chiến và nhiều cán bộ cách mạng quan trọng như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh… từng được bà nuôi ăn và giúp đỡ. Tuy vậy, khi Cuộc cải cách ruộng đất, những hành động yêu nước của Nguyễn Thị Năm bị cho là “giả dối nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại.” và bà trở thành địa chủ đầu tiên bị đem ra “xử lý” với tội danh “tư sản địa chủ cường hào gian ác”. Trong bài viết “Địa chủ ác ghê” của C.B trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 có kể tội bà là “Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người…Giết chết 14 nông dân, Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân…”. Cũng theo đó, Nguyễn Thị Năm đã “thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến” và cũng theo đó thì Nguyễn Thị Năm “không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác”. Và theo tác giả Trần Đĩnh viết trong hồi ký Đèn cù cho biết, lúc bấy giờ ông là phóng viên báo Nhân Dân được Trường Chinh cử viết bài tường thuật về vụ đấu tố; theo Trần Đĩnh thì Hồ Chí Minh đã bịt râu và Trường Chinh thì đeo kính râm bí mật tới dự vụ đấu tố bà Nguyễn Thị Năm. Đồng thời ông Trần Đĩnh cũng khẳng định rằng, ông Hồ Chí Minh là tác giả bài báo kí tên C.B có nghĩa là “Của Bác” trên tờ Nhân dân để kết tội bà Năm. Không biết ông TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và bạn đọc nghĩ gì về việc này? Tại sao lại có chuyện như vậy? Cần khẳng định, nền kinh tế Việt nam hiện nay không phải là một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh như các quốc gia khác, là điều gây rất nhiều hạn chế trong việc hội nhập của Việt nam vào nền kinh tế thế giới. Đó là lý do rõ nhất vì sao Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng luôn đề nghị các nước phát triển Âu-Mỹ công nhận kinh tế Việt nam là một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh với đặc trưng cơ bản nhất của nó là kinh tế tư nhân sẽ nắm vai trò chủ đạo. Trong nhiều năm trở lại đây, trái lại với quan điểm của Đảng về vấn đề kinh tế, người đứng đầu chính phủ là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã luôn chủ trương cần phải xây dựng một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa. Cụ thể là, ngày 26/3/2015 vừa qua, phát biểu tại buổi chủ trì hội nghị giao ban về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế, đồng thời yêu cầu đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu khối doanh nghiệp nhà nước. Theo Thủ tướng, doanh nghiệp tư nhân là một động lực hết sức quan trọng, cần phải cổ phần hóa nhanh để “toàn dân làm kinh tế”, đáng chú ý, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định và cho rằng: “Không có toàn dân làm kinh tế thì không có thắng lợi được đâu. Phải coi doanh nghiệp tư nhân là một động lực. Đây là của nhân dân chúng ta, không ai thay nhân dân được hết. Về phần Nhà nước là tạo điều kiện, hạ tầng, ban hành luật lệ”. Mới đây nhất, một trong những nội dung quan trọng được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề cập tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11/2015 là việc cổ phần hoá, tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Tại cuộc họp này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ đạo: “Doanh nghiệp Nhà nước tập trung đẩy mạnh tiến độ lên, cái nào tư nhân mua được mà họ quản lý tốt thì các đồng chí bán luôn đi để chúng ta thu hồi vốn đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết, quan trọng khác, nhất là đầu tư vào hạ tầng để tạo điều kiện cho phát phát triển, đây cũng là đúng theo định hướng của Trung ương”. Song nếu biết, ông TS. Vũ Tiến Lộc, ngoài chức vụ Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), thì ông còn kiêm Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn Cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ. Thì việc ông Vũ Tiến Lộc, đã sử dụng diễn đàn giao ban doanh nghiệp ngày 25/8/2015 tại Đà Nẵng, để nhét chữ vào miệng Bác Hồ để phụ họa cho chủ trương đưa nền kinh tế Việt nam trở thành một nền Kinh tế thị trường hoàn chỉnh của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì là điều dễ hiểu. Cho dù nó là một điều bi hài không thể kể hết, dù rằng cái gọi là Chủ nghĩa Marx-Lenine và Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn sờ sờ ra đó. Thay cho lời kếtDù rằng quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và coi kinh tế tư nhân chiếm vai trò chủ đạo thực chất là việc làm theo quá trình ngược lại với mục tiêu của Chủ nghĩa Mark-Lenin, nghĩa là mang toàn bộ sở hữu nhà nước chuyển giao ngược lại cho tư nhân. Đó có thể coi là sự phản bội ghê gớm đối với học thuyết kinh tế của Chủ nghĩa Marx – Lenine, vi phạm đường lối của Đảng và đồng thời là chủ trương vi phạm Hiến pháp Việt nam của Chính phủ. Nhưng bây giờ các nhà lãnh đạo Việt nam lại công khai khẳng định đó là quan điểm của ông Hồ Chí Minh, từ trước đến nay. Nghĩa là ông Hồ Chí Minh luôn có quan điểm trái ngược với Chủ nghĩa Mark-Lenin mà cả cuộc đời của ông đã theo đuổi. Và hình như người ta quên rằng, ông Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Ai có thể sai, nhưng các đồng chí Stalin và Mao Trạch Đông thì không bao giờ sai”. Khi viết đến đây, bất chợt nghĩ đến mẩu tin mới trên VnExprees: “Chủ tịch xã khai nhiều tuổi hơn mẹ để nhận huân chương“, theo đó do không có thành tích trong kháng chiến, nhưng ông Đoàn Quốc Dũng (59 tuổi, nguyên Chủ tịch UBND xã Phước Ninh, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam) đã tự khai man thành tích, nhận mình sinh năm 1932 (lớn hơn mẹ ruột 3 tuổi) để được nhận Huân chương Kháng chiến hạng Ba. Nếu đem ra so với những phát biểu của ông Vũ Tiến Lộc về vấn đề “Bác Hồ đã định hướng nền kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường” thì việc ăn gian tuổi của ông Chủ tịch xã có lẽ sẽ không bi hài, như chuyện lãnh đạo nhà nước công khai nhét chữ vào mồm lãnh tụ kính yêu của họ. Đáng lo là vì, đây là những chuyện hết sức phổ biến và thịnh hành thời nhà Sản, khi mà vấn đề liên quan đến đường lối của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh mà họ cũng bất chấp sự thật để xuyên tạc, nhằm phục vụ cho lợi ích của một cá nhân. Ngày 03/12/2015 Kami (RFA)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2015 4:11:20 GMT 9
Kết thúc ảo tưởng: Việt Nam chọn con đường hòa giải với Trung Quốc thay vì quan hệ đối tác hay liên kết chính trị
“Một trong những mục tiêu của việc tiết lộ cuộc đàm phán được cho là bí mật, là để dựng nên một hình ảnh về một Việt Nam dối trá, không đáng tin cậy cho đồng minh [của Việt Nam] biết, và để gieo sự bất hòa trong giới lãnh đạo Việt Nam. Về vấn đề này, Trung Quốc đã thành công: trong một cuộc họp bộ chính trị giữa tháng 5 năm 1991, Phạm Văn Đồng đã bày tỏ sự hối tiếc vì bị ép buộc phải ủng hộ một chính sách thiếu khôn ngoan. Đỗ Mười cũng lấy làm tiếc về kết cuộc, với lý do là điều đó sẽ làm cho Việt Nam trở thành một người bạn không đáng tin cậy trong con mắt các đối tác. Nguyễn Cơ Thạch cũng nói với lãnh đạo đảng, ông Linh, rằng ông đã phạm một sai lầm nghiêm trọng”. ____ Viet-studies Tác giả: David W.P. Elliot Người dịch: Trần Văn Minh 23-12-2015
Trích dẫn từ sách “Thế giới thay đổi: Sự chuyển tiếp của Việt Nam từ chiến tranh lạnh sang Toàn Cầu Hóa”. NXB University Press năm 2012. Trích dẫn các trang từ 112-116. . Một phần trong Chương 4: Quan hệ đối tác thay đổi trong một thế giới thay đổi (1990-1991) Trong suốt mùa hè năm 1990, những thay đổi được tác động bởi các sự kiện của năm trước bắt đầu chuyển đổi các động lực ngoại giao quốc tế. Hồi ký của Trần Quang Cơ về giai đoạn quyết định trong việc bình thường hóa quan hệ Việt – Trung minh họa đầy đủ cuộc chuyển hóa này. Khi bộ chính trị vẫn tiếp tục tranh luận về việc có nên thử thương lượng với Trung Quốc dựa trên ý thức hệ chung (“giải pháp đỏ”) hay tham gia vào các hoạt động ngoại giao nhiều bất ngờ hơn với Liên Hiệp Quốc, trong đó cũng bao gồm Hoa Kỳ và ASEAN. Ông Cơ hỏi ý kiến ông Phạm Văn Đồng, lúc đó là “cố vấn” cho giới lãnh đạo hàng đầu. Ông Đồng nói với ông Cơ vào đầu tháng 8 năm 1990, “Chúng ta phải dám chơi trò chơi với Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Bảo an, với Mỹ và châu Âu. Chúng ta cần phải tận dụng yếu tố Mỹ trong tình hình mới… Kế hoạch này rất hay về mặt lý thuyết, nhưng điểm mấu chốt là làm thế nào để thực hiện nó… Chúng ta không nên đưa ra những yêu cầu quá cao [như] ‘giữ vững thành quả của cách mạng (Campuchia)’. Nếu bạn bè của chúng ta có thể nhận được 50% trong một cuộc tổng tuyển cử, đó sẽ là điều lý tưởng”. . Không lâu sau buổi trò chuyện này, Trung Quốc đưa ra lời mời gặp khẩn cấp và bất ngờ đến Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười (chẳng bao lâu nữa sẽ thay thế Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư) và Phạm Văn Đồng tại Thành Đô xa xôi (người Trung Quốc nói điều này cần thiết để bảo mật) để bắt tay vào nỗ lực giải quyết vấn đề Campuchia và tiến tới bước đột phá trong việc bình thường hóa quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Điều này đến một cách bất ngờ, bởi vì cho đến lúc đó, Trung Quốc vẫn kiên quyết khẳng định rằng vấn đề Campuchia sẽ phải được giải quyết theo yêu cầu của họ trước khi có thể thương lượng việc bình thường hóa. . Phân tích của ông Trần Quang Cơ là Trung Quốc hiện phải thay đổi lập trường bởi vì phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu của họ, [sự phát triển kinh tế] đã bị cản trở bởi các biện pháp trừng phạt được áp đặt sau Thiên An Môn. Ngoại giao tăng tốc của các các bên khác (trong đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản, và ASEAN) và sự loại bỏ yếu tố chính đã thống nhất lập trường của Trung Quốc với ASEAN (sự chiếm đóng Cambodia của Việt Nam), cùng với các mối quan tâm của ASEAN về mưu đồ của Trung Quốc trong khu vực, đang đe dọa khả năng của Trung Quốc trong việc kiểm soát kết quả việc giải quyết vấn đề Campuchia – vì thế đưa tới ý muốn mau chóng thương lượng với Việt Nam. . Nguyễn Văn Linh và Phạm Văn Đồng đã dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam để gặp người Trung Quốc tại Thành Đô vào đầu tháng 9 năm 1990, trong đó đáng chú ý là, không có Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, mà Bắc Kinh coi là chống Trung Quốc quá mức. Trong các cuộc họp Bộ Chính trị, ông Thạch đã bày tỏ sự phản đối của ông đối với cả “giải pháp đỏ” ở Campuchia lẫn đánh cược toàn bộ con bài ngoại giao của Hà Nội lên lợi ích được cho là chung giữa Việt Nam và Trung Quốc vào việc tham gia lực lượng để “cứu chủ nghĩa xã hội”, như ông Nguyễn Văn Linh và một số lãnh đạo bộ chính trị khác chủ trương. Vị thế của ông Thạch đã bị suy yếu bởi ông không trưng ra được bất kỳ kết quả nào trong việc chơi “con bài Mỹ”. Cuối cùng, giới lãnh đạo đảng quyết định loại ông Thạch lớn tiếng chống Trung Quốc ra ngoài để xoa dịu Bắc Kinh. . Mặc dù có những dấu hiệu mơ hồ từ phía Trung Quốc về việc Đặng Tiểu Bình có thể tham dự các cuộc họp ở Thành Đô (là điều đã thuyết phục Phạm Văn Đồng đến dự và làm tăng thêm tính kỳ cựu và uy tín của ông trong dịp này), nhưng không thấy Đặng đâu cả, và Giang Trạch Dân cùng với Lý Bằng đại diện cho Trung Quốc. Võ Văn Kiệt sau đó kết luận, đây là một sự cố ý xúc phạm Việt Nam, và rằng phái đoàn “đã rơi vào bẫy” bằng cách gửi đi một nhà lãnh đạo cấp cao mà không có sự đáp trả tương ứng của phía Trung Quốc. Khi đó phái đoàn Việt Nam nhanh chóng phát hiện ra rằng Trung Quốc không quan tâm đến “giải pháp đỏ” hoặc bất kỳ một liên minh ý thức hệ nào với Việt Nam. “Trong tình hình quốc tế hiện nay, nếu hai đảng cộng sản cùng bắt tay, điều này sẽ không có lợi cho cả hai chúng ta”, Việt Nam được cho biết như thế. Sự miễn cưỡng đối với liên kết ý thức hệ bằng cách nuôi dưỡng mối quan hệ đảng với đảng giữa các phe phái cộng sản đối nghịch tại Campuchia đã không ngăn cản Trung Quốc trong việc đánh lừa Bộ Ngoại giao chống Trung Quốc của Việt Nam và thực hiện liên lạc ngoại giao thông qua Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, mặc dù sự nhấn mạnh của Trung Quốc về việc giữ quan hệ với Việt Nam chủ yếu trên cơ sở quốc gia với quốc gia (không theo ý thức hệ) cho thấy rằng ngoại giao nên được thực hiện thông qua sự giao tiếp giữa chính phủ với chính phủ, chứ không phải là kênh đảng với đảng. Điều này tiếp theo cho thấy rằng, Trung Quốc sẽ yêu cầu liên kết đảng với đảng chỉ khi nào phù hợp với lợi ích riêng của họ, và họ vẫn tiếp tục chống lại lời kêu gọi của Việt Nam để thay thế Liên Xô như là “bức tường thành của xã hội chủ nghĩa” trong một thế giới đang thay đổi. . Gọi hội nghị Thành Đô là một thất bại ngoại giao của Việt Nam, ông Trần Quang Cơ nói rằng, lời giải thích chính là Việt Nam đã tự lừa dối mình bằng cách bám víu vào sự tin tưởng rằng Trung Quốc quan tâm đến một liên minh ý thức hệ để tự vệ chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của đế quốc, để tận diệt các nước cộng sản còn lại. Sự thất bại của các nỗ lực không thành với “giải pháp đỏ” là một bước quan trọng trong sự lụi tàn tất yếu của sức mạnh bóng ma “diễn biến hòa bình”, được giới bảo thủ ở Việt Nam vịn vào như một lý do để chống lại việc thỏa thuận với các lực lượng tích hợp của hệ thống toàn cầu hóa hậu chiến tranh lạnh. . Bồi thêm sự xúc phạm vào vết thương, những cuốn băng do Trung Quốc vui vẻ tiết lộ về cuộc thảo luận với các nhà lãnh đạo Việt Nam qua việc đồng ý về một ưu thế cho các lực lượng chống Hun Sen trong một liên minh chính quyền; thực ra là bán đứng đồng minh chính của Việt Nam ở Campuchia, là lực lượng thắng thế tại Campuchia thời bấy giờ; cho chính Hun Sen, cũng như một loạt các bên khác. Một trong những mục tiêu của việc tiết lộ cuộc đàm phán được cho là bí mật, là để dựng nên một hình ảnh về một Việt Nam dối trá, không đáng tin cậy cho đồng minh [của Việt Nam] biết, và để gieo sự bất hòa trong giới lãnh đạo Việt Nam. Về vấn đề này, Trung Quốc đã thành công: trong một cuộc họp bộ chính trị giữa tháng 5 năm 1991, Phạm Văn Đồng đã bày tỏ sự hối tiếc vì bị ép buộc phải ủng hộ một chính sách thiếu khôn ngoan. Đỗ Mười cũng lấy làm tiếc về kết cuộc, với lý do là điều đó sẽ làm cho Việt Nam trở thành một người bạn không đáng tin cậy trong con mắt các đối tác. Nguyễn Cơ Thạch cũng nói với lãnh đạo đảng, ông Linh, rằng ông đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. . Vào ngày 2 tháng 9 năm 1990, ngày quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, một ngày trước khi khai mạc cuộc đàm phán bí mật giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Thành Đô, địa chỉ chính của ông Đỗ Mười ở cho dịp này đã thừa nhận rằng cú điện thoại của Lý Bằng nói “hai người hàng xóm” (không phải “hai đồng chí” ) khôi phục quan hệ bình thường và tìm kiếm một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Ông Mười nhớ lại sự hỗ trợ của Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam trong cuộc đấu tranh vũ trang, và nói rằng: “Hôm nay, trong nhiệm vụ ‘đổi mới’ đất nước của chúng ta, sự hỗ trợ của bạn bè quốc tế sẽ có một ý nghĩa rất lớn”. Một cách hiểu điều này là, Việt Nam báo hiệu rằng họ đang chuyển từ tư thế địa chính trị trên bàn cờ thế giới sang phát triển kinh tế; trong đó bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sẽ có lợi, nhưng không quan trọng như mọi khi trong lĩnh vực chiến lược. Trong phần đầu bài phát biểu, Đỗ Mười nói: “Tình hình quốc tế đang tiến triển một cách rất phức tạp. Cuộc khủng hoảng ở các nước XHCN Đông Âu là vô cùng nghiêm trọng, và sẽ có tác động không phải là không đáng kể vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các lực lượng đối phương đang tiến hành nhiều hoạt động phá hoại sự phát triển và bảo vệ Tổ Quốc của nhân dân ta”. . Thêm một chỉ dấu cho thấy, các lãnh đạo Việt Nam đang thay đổi quan điểm của họ về bản chất của các mối quan hệ quốc tế, Đỗ Mười đã phác thảo đề cương rộng lớn về những gì sẽ được biết đến như là “toàn cầu hóa”. “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ và xu thế của toàn cầu hóa kinh tế đang đưa đến cho dân chúng trên thế giới nhiều khả năng tuyệt vời để phát triển”. Nhận thức rằng, “nhiều sai lầm đã phạm phải” trong chính sách kinh tế “trong nhiều năm qua”, ông Mười nói rằng: “Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với thực tế là mức sống và trình độ phát triển của nhân dân ta quá thấp. Đó là một tình huống căng thẳng và một thách thức lớn cho nhân dân ta”. . Động lực cho sự nhượng bộ ở Thành Đô vì lợi ích của việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc là cả chính sách thực dụng (bù lại cho sự mất mát hỗ trợ của Liên Xô và cúi chào trước thực tế về vị thế chiến lược gia tăng của Trung Quốc) lẫn ý thức hệ (bảo tồn và củng cố một số cốt lõi nhỏ nhoi các nước cộng sản còn lại). Bài diễn văn của Đỗ Mười vào tháng 9 năm 1990, là sự mở rộng thêm diễn văn của ông hồi tháng 12 năm 1989 (được thảo luận trong chương 3), cũng chỉ ra rằng Việt Nam đang cố gắng hiểu rõ ý nghĩa của kỷ nguyên mới trong quan hệ quốc tế, trong đó không phải chính sách thực dụng cũng không phải yếu tố ý thức hệ, sẽ có tính quyết định trong việc giải quyết các vấn đề cấp bách nhất của Việt Nam: sự lạc hậu về kinh tế của mình. Tuy nhiên vào thời điểm đó, việc truất bỏ vấn đề Campuchia nan giải và tìm kiếm một thỏa hiệp với Trung Quốc để cho phép Việt Nam tập trung vào phát triển kinh tế là điều cần thiết. . Mặc dù đoàn Việt Nam đến Thành Đô đã có sự nhượng bộ lớn về việc đồng ý với đề nghị của Trung Quốc, có thể làm nghiêng cơ chế cai trị được đề nghị tại Campuchia về phía các đối thủ của Hun Sen, Nguyễn Văn Linh và lãnh đạo quân đội Lê Đức Anh đã bay sang Phnom Penh và cố gắng thuyết phục bạn hàng Hun Sen Campuchia của họ đồng ý hợp tác với lực lượng Pol Pot, bởi vì khung cảnh lớn là các đế quốc đang cố gắng tiêu diệt xã hội chủ nghĩa, và người Campuchia có thể làm phần của họ để cứu CNXH bằng cách đạt được sự hòa giải giữa cộng sản Hun Sen và Khmer Đỏ. Nguyễn Văn Linh đã nói với các lãnh đạo Campuchia, “ ‘Chúng ta phải thấy rằng cũng có những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và các đế quốc về vấn đề Campuchia. Chúng ta phải có một chiến lược để khai thác những mâu thuẫn này. Đừng tranh cãi với Trung Quốc tới mức đẩy họ đứng về phía với các đế quốc’. Lê Đức Anh giải thích thêm lập luận này: ‘Người Mỹ và phương Tây muốn có một cái cớ để loại bỏ chủ nghĩa cộng sản. Họ đang loại bỏ chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu. Họ đã loan báo rằng họ sẽ loại bỏ chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng họ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Chúng ta phải tìm kiếm đồng minh. Đồng minh đó là Trung Quốc’.” Giải pháp đỏ vẫn tồn tại trong tâm trí của các nhà lãnh đạo quân sự và đảng của Việt Nam, nhưng không có sự hỗ trợ của Trung Quốc giải pháp đỏ phải cam chịu thất bại. . Giải pháp đỏ cũng làm đồng minh Campuchia của Việt Nam xa lánh. Đại sứ Việt Nam tường thuật rằng sau cuộc họp này, thái độ của Hun Sen đối với Việt Nam thay đổi; mà cuối cùng dẫn đến cảnh tượng được mô tả ở trên về vị đại sứ Việt Nam Ngô Diên “cô đơn” bị buộc phải chứng kiến sự giải tán của Đảng Cộng sản Campuchia. Kết cục là một Việt Nam không có nước cộng sản đỡ đầu và không có bạn hàng cộng sản. Trần Quang Cơ có lẽ không phải là người duy nhất kết luận rằng cuộc họp Thành Đô là một “vết nhơ trong ngoại giao của Việt Nam”. Không những Việt Nam tiết lộ mong muốn theo đuổi một chính sách lỗi thời về tình đoàn kết ý thức hệ với Trung Quốc, mà sự tiết lộ tinh quái của Trung Quốc về sự thất bại của Việt Nam để đạt được “giải pháp đỏ” và sự phản bội đồng minh của họ làm suy yếu nỗ lực của Việt Nam để đa dạng hóa chính sách đối ngoại của mình và đạt được nhiều khoảng trống hơn để hoạt động. . Lập trường của Trung Quốc đã làm cho sự kiện này trở thành lựa chọn ngoại giao khả thi duy nhất cho sự lệ thuộc toàn bộ của Việt Nam vào Trung Quốc. Ngay cả tường thuật rất thành thực của Trần Quang Cơ về cuộc họp Thành Đô giữa các lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc cũng không đề cập đến một đề nghị (được biết) của Trung Quốc, đi xa hơn vấn đề Campuchia. Một tờ báo của Anh tường thuật rằng, các nguồn tin tình báo Tây Phương cho rằng Trung Quốc đã đề nghị thay thế hàng hóa mà Liên Xô không còn khả năng cung cấp, trả lại một phần đáng kể quần đảo Trường Sa (một khu vực có trữ lượng dầu tiềm năng). “Đổi lại sự giúp đỡ của mình, Trung Quốc đã yêu cầu Hà Nội ‘cộng tác’ – nói cách khác là lệ thuộc – chính sách ngoại giao của mình với chính sách của Bắc Kinh. Một nguồn tin tình báo ở Bangkok cho biết: ‘Các chính sách rất gần nhau. Và đó là những gì thực sự làm tôi ngạc nhiên, chứ không phải là sự từ chối cuối cùng của họ. Củ cà rốt cho Hà Nội rất lớn, và họ đã phải suy nghĩ lâu dài và kỹ lưỡng trước khi từ chối toàn bộ. Điều đó cho thấy người Việt Nam tuyệt vọng thế nào”. Thực ra, tình hình chiến lược tồi tệ của Việt Nam chẳng bao lâu sẽ dẫn họ đến việc chấp nhận một cách miễn cưỡng vai trò lệ thuộc mà Trung Quốc đòi hỏi; thậm chí chẳng có củ cà rốt nào .
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 27, 2015 12:48:14 GMT 9
Thư Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị 20 năm trước
Hà Nội, ngày 9 tháng 8 năm 1995
Kính gửi BỘ CHÍNH TRỊ
Sau đợt thảo luận tháng 6 vừa qua trong Bộ Chính trị xây dựng các văn kiện chuẩn bị Đại hội VIII, đồng chí Tổng bí thư đã kết luận còn một số vấn đề và quan điểm lớn cần tổ chức nghiên cứu và thảo luận sâu hơn nữa. Tôi tán thành kết luận này và xin trình bày một số ý kiến về 4 vấn đề.
1. Đánh giá tình hình, cục diện thế giới ngày nay
Nhận thức của chúng ta về tình hình, cục diện thế giới này nay quyết định đánh giá của chúng ta về thời cơ và thách thức.
Đặc điểm cần nhấn mạnh là: Trong thế giới ngày nay, không phải mâu thuẫn đối kháng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc, mà trước hết là tính chất đa dạng đa cực trở thành nhân tố nổi trội nhất chi phối những mâu thuẫn và sự vận động của các mối quan hệ giữa mọi quốc gia trên thế giới. Và cũng khác với trước, ngày nay lợi ích quốc gia, lợi ích khu vực, những lợi ích toàn cầu khác (ví dụ hoà bình, vấn đề môi trường, vấn đề phát triển, tính chất toàn cầu hoá ngày càng sâu sắc của sự phát triển lực lượng sản xuất...) đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc phát triển những mâu thuẫn cũng như trong việc tạo ra những tập hợp lực lượng mới ngày nay trên thế giới. Nhiều mâu thuẫn khác đã từng tồn tại trong thời kỳ thế giới còn chia thành hai phe – kể cả mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa xã hội – có thể tiếp tục còn tồn tại, song chịu sự chi phối ngày càng lớn hơn bởi những mâu thuẫn khác và do đó không còn có thể giữ vai trò như cũ.
Không thấy hết đặc điểm quan trọng nói trên, không thể cắt nghĩa được việc Việt Nam trở thành thành viên ASEAN, ký kết hiệp định khung với EU (Liên hiệp châu Âu, chú thích của DĐ), tạo lập ra được quan hệ quốc tế ngày càng rộng rãi và giành lấy vị trí quốc tế ngày càng thuận lợi hơn trước giữa lúc hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại được nữa. Cần nhấn mạnh đây là chiến công có ý nghĩa chiến lược và xoay chuyển hẳn tình thế của đường lối đối ngoại Đại hội VII – xuất phát từ những nhận thức mới và chính xác về cục diện thế giới ngày nay. Bây giờ, lợi ích của Việt Nam là phát huy hơn nữa đường lối ấy. Đồng thời cũng phải tỉnh táo đánh giá những thách thức và sức ép mới do ta gia nhập ASEAN, hợp tác với EU, bình thường hoá quan hệ với Mỹ...
Ngày nay, Mỹ và các thế lực phản động khác không thể giương ngọn cờ chống cộng để tranh thủ dư luận và tập hợp lực lượng chống lại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam như trước được nữa. Vì ngọn cờ này đã hết phép mê hoặc, chúng phải chuyển sang ngọn cờ dân chủ và nhân quyền. Song ngay cả ý đồ muốn thủ tiêu nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực đế quốc và phản động cũng phải được đánh giá dưới ánh sáng của cục diện quốc tế mới – đặc biệt là trong mối tương quan giữa các nước lớn, các “trung tâm”, các “cực” đang hình thành ngày càng rõ nét.
Để có cơ sở phân tích mối tương quan vừa nói tới bên trên, chúng ta có hàng loạt những sự kiện quan trọng kể từ khi cục diện quốc tế bắt đầu chuyển sang thời kỳ mới, đó là: chiến tranh Iraq, sự tập hợp lực lượng và thái độ các nước lớn chung quanh việc chống Việt Nam trong vấn đề Campuchia, giải pháp hoà bình giữa Palestine và Israel, hoà giải ở Nam Phi, nội chiến ở Nam Tư cũ (Bosnia, Herzegovina), sự tranh chấp ở Trường Sa và thái độ các loại nước khác nhau chung quanh vấn đề này, sự phát triển các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam trong 10 năm qua, triển vọng bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ, vai trò ngày càng quan trọng của ASEAN, tiếng nói của các nước nhỏ ngày càng có nhiều trọng lượng hơn trước, xu thế tập hợp các tổ chức kinh tế khu vực, vai trò ngày càng tăng của Liên hiệp quốc song song với hiện tượng những siêu cường ngày càng khó thao túng Liên hiệp quốc như thời kỳ chiến tranh lạnh, vân vân...
Chúng ta cũng cần phân tích sâu những mâu thuẫn mới và sự tập hợp lực lượng mới đang diễn ra trong quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới, tạo ra cho mỗi nước những cơ hội và thách thức mới khó lường hết được.
Trước hết đó là những mâu thuẫn và lợi ích của các quốc gia – bao gồm cả sự cạnh tranh gay gắt, xung đột lợi ích quốc gia, yêu cầu hợp tác, những thách thức tác động vào mọi quốc gia do sự phát triển của lực lượng sản xuất và những biến động trong kinh tế thế giới, sự hình thành những liên kết kinh tế khu vực, những thách thức mới trên các lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã hội do quá trình hoà nhập và giao lưu kinh tế ngày càng sâu rộng giữa các quốc gia, những chính sách và thủ đoạn của các quốc gia và các thế lực thù nghịch nhau sử dụng những yếu tố mới này để chi phối, đối phó hoặc loại bỏ nhau... Không xử lý được tình hình mới này, không một quốc gia nào có thể đứng vững được.
Cũng cần đánh giá thực chất quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Sự thật hiện nay là 4 nước xã hội chủ nghĩa tuy có những mối quan hệ với nhau ở mức độ nhất định, song không thể hành động và không có giá trị trên trường quốc tế như một lực lượng kinh tế và chính trị thống nhất. Nói riêng về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên thì tính chất quốc gia lấn át (nếu chưa muốn nói là loại bỏ) tính chất xã hội chủ nghĩa trong những mối quan hệ giữa những nước này. Thậm chí trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc tồn tại không ít điểm nóng. Thuần tuý nói về chủ nghĩa xã hội thì cả 4 nước xã hội chủ nghĩa còn lại đều nói còn đang phải tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi con đường riêng phù hợp của từng nước.
Cũng không thể xem xét sự phục hồi ở mức độ nào đấy của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế – kể cả ở những nước Liên Xô Đông Âu cũ, có cùng một chất lượng và cũng một giá trị cộng sản chủ nghĩa như trước kia. Chủ nghĩa xã hội dân chủ và nhiều quan điểm pha trộn khác đang tác động mạnh mẽ vào trào lưu này. Nghĩa là sự phục hồi này chưa mang lại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế sức nặng chính trị vốn có trước đây.
Song có một thực tế khách quan khác rất quan trọng cần được mổ xẻ nghiên cứu. Đó là, bất chấp những biến động nghiêm trọng của hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo ngày càng được củng cố và đứng trước những triển vọng to lớn. Cục diện quốc tế ngày nay có những đặc điểm gì, cho phép vận dụng đường lối nào và có thể khai thác những yếu tố gì đã giúp cho Đảng ta xoay chuyển được tình hình; tìm ra được hướng đi mới và tạo khả năng giành thời cơ để đi lên như vậy?
Điều hiển nhiên là trên thế giới tiếng nói ủng hộ hay đồng tình với yêu cầu ổn định chính trị của Việt Nam ngày càng mạnh, sự chấp nhận trên thế giới đối với chế độ chính trị một đảng của Việt Nam cũng đang tăng lên – mặc dầu lúc này lúc khác vấn đề dân chủ và nhân quyền được sử dụng như một phương tiện chính trị đối phó với chúng ta. Hơn thế nữa, đang có một xu thế ngày càng mạnh trên thế giới hoan nghênh, cổ vũ sự phát triển năng động và vai trò tích cực của Việt Nam trên trường quốc tế. Nếu như trong tương lai gần đây, chúng ta thực hiện được dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, nước Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sẽ lại một lần nữa giành được trái tim của các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới – một sự tập hợp lực lượng mới, như Đảng ta và nhân dân ta đã từng thực hiện được trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Bởi vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh là khát vọng của nhân dân ta, đồng thời cũng là mong muốn của nhiều nước đang phát triển và các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới. Những lý luận hoặc mô hình này mô hình khác về xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vừa qua có thể thất bại, nhưng xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa chân chính vẫn là khát vọng của nhân dân lao động toàn thế giới. Xem xét thế giới như vậy, mặt trận của Việt Nam tập hợp lực lượng trên thế giới ngày nay vẫn có triển vọng ngày càng mở rộng. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào đường lối của Đảng ta và phẩm chất cách mạng của chúng ta.
Tất cả phải đưa lên bàn cân, để có thể nhận định, phán đoán tình hình một cách đúng đắn, xác định chính xác nhiệm vụ phải thực hiện, để lo thu xếp huy động thực lực bên trong, tập hợp lực lượng bên ngoài và bài binh bố trận như thế nào để thắng bằng được trong keo vật mới này ?
Với đánh giá tình hình theo cách nhìn mới, có thể nói, sau một nửa thế kỷ phấn đấu đầy hy sinh gian khổ kể từ Cách mạng tháng Tám, bây giờ chúng ta mới cùng một lúc có được điều kiện bên trong tốt nhất và bối cảnh quốc tế bên ngoài thuận lợi nhất cho phép đặt ra được và thực hiện được dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, đáp ứng được đòi hỏi phải vươn ra thế giới bên ngoài để tồn tại và phát triển, để lấy lại thời gian đã mất và đuổi kịp các nước chung quanh. Có thể nói, đất nước đang đứng trước cơ hội chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta !
Đảng ta lãnh sứ mệnh lịch sử trước dân tộc là không được bỏ lỡ cơ hội này. Đây chính là nhiệm vụ của Đại hội VIII. Cũng có thể nói rằng, rụt rè bỏ lỡ cơ hội này, sẽ là thảm hoạ cho đất nước, Đảng ta sẽ đứng trước nguy cơ bị tước quyền lãnh đạo – chỉ vì không đáp ứng được đòi hỏi phát triển của đất nước. Xin nhấn mạnh rằng sau gần 200 năm kể từ khi kinh tế thế giới đi vào thời đại công nghiệp hoá, dân tộc Việt Nam ta bây giờ mới có lại một cơ hội như vậy. Chúng ta không được và không có quyền để bất kỳ một vướng mắc nào ngăn cản nhân dân ta nắm lấy cơ hội này. Sự tồn vong của đất nước phải được xem xét trên tất cả.
2. Vấn đề 'chệch hướng' hay không 'chệch hướng'?
Đề tài này đang được thảo luận rất sôi nổi trong Đảng và trong cả nước, chắc chắn còn phải mất nhiều công sức để đi tới những kết luận có sức thuyết phục hơn.
Về lý luận sẽ bàn sau.
Về thực tiễn, phải chăng có thể căn cứ vào những tiêu chí cơ bản nhất sau đây để làm rõ định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là :
– Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh,
– Phát triển gắn liền với giữ gìn độc lập, chủ quyền và bản sắc văn hoá của dân tộc,
– Phát triển gắn liền với phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường,
– Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân có hiệu lực,
– Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn bộ quá trình phát triển nói trên của đất nước.
Một vấn đề rất khó ở đây là sự tách bạch đúng đắn giữa mục tiêu và phương tiện thực hiện mục tiêu. Có làm tốt được việc này, mới xác định rõ được chệch hướng hay không chệch hướng.
Ví dụ, nếu chúng ta cho rằng kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo là một tiêu chí của định hướng xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh rằng đó là mục tiêu phấn đấu của chúng ta, của dân tộc ta, thì điều này hoàn toàn không đúng. Thực ra vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh chỉ là một trong nhiều điều kiện quan trọng, đồng thời cũng là một trong nhiều phương tiện quan trọng cần phải có để thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghệ thuật lãnh đạo đất nước ở đây là phải xử lý hài hoà mối quan hệ giữa việc phát huy vai trò kinh tế quốc doanh và việc thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển, với đích cuối cùng là bảo đảm thực hiện được 5 tiêu chí nói trên.
Chúng ta nhất trí rằng con đường xây dựng xã hội đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chưa có tiền lệ chính vì lẽ này: phải luôn tránh công thức hoá, phải bám lấy kết quả tổng thể trong việc thực hiện những tiêu chí lớn để soi rọi lại xem có chệch hướng hay không chệch hướng.
Ví dụ có đồng chí nói biểu hiện của chệch hướng là quốc doanh không làm chủ được lưu thông phân phối, tư thương hầu như chi phối thương nghiệp. Một biểu hiện khác của chệch hướng – cũng theo cách nhìn nhận như vậy – là trong giao thông vận tải, tỷ lệ xe tư nhân chiếm quá cao...
Cũng những sự việc nói trên đúng ra phải được đánh giá hoàn toàn ngược lại.
Sự thật là đường lối đổi mới đã tạo ta được một cơ chế kinh tế cho phép huy động mọi tiềm năng trong xã hội nhờ đó đã xử lý có thể nói khá thành công vấn đề lưu thông hàng hoá và giao thông vận tải. Về phương diện này, chúng ta đã thành công rất xa so với thời kỳ còn cơ chế kinh tế bao cấp. Bây giờ hàng hoá đi và về hầu như mọi miền đất nước, nhân dân trong cả nước đi lại dễ dàng hơn trước nhiều lần. Cũng nhờ đó, đời sống được cải thiện rõ rệt, nền sản xuất hàng hoá tăng trưởng nhanh. Chúng ta thử hình dung sự phát triển này đã huy động được biết bao nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội, đã tạo ra biết bao công ăn việc làm mới cho người dân trong cả nước mà khu vực kinh tế nhà nước không thể lo xuể. Những năm trước khi thực hiện đổi mới, chúng ta đã có kinh nghiệm nếu không có sự phát triển này thì kinh tế tiêu điều và ách tắc như thế nào! Nếu coi sự phát triển này là chệch hướng, có nghĩa là chúng ta phải đem kinh tế quốc doanh ra đối lập lại với sự phát triển này, đối lập với tất cả những người lao động đang bỏ của và công sức để tạo ra sự phát triển như hiện nay.
Đương nhiên tình hình lưu thông phân phối và giao thông vận tải hiện nay chưa phải thật hoàn hảo. Song, không thể giải quyết những vấn đề ta gọi là “tranh mua tranh bán”, vấn đề đầu cơ, tai nạn giao thông... bằng cách mở rộng mạng lưới quốc doanh trong những lãnh vực này. Đấy không phải là giải pháp. Trong những năm của cơ chế kinh tế cũ, quốc doanh đã hầu như nắm toàn bộ các lãnh vực này và chúng ta đã biết kết quả. Ngày nay không ít xí nghiệp, đơn vị quốc doanh làm ăn trái với pháp luật, số lượng phương tiện giao thông vận tải của quốc doanh – trong đó có xe của đơn vị quân đội – tham gia buôn lậu khá lớn... Vì vậy, giải pháp cho những vấn đề này là phải tiếp tục hoàn thiện thị trường, tăng cường chất lượng bộ máy nhà nước trong quản lý kinh tế, kiện toàn và tiếp tục phát triển các hệ thống tài chính, luật pháp, những chính sách ưu đãi, hỗ trợ đúng hướng..., chứ không phải giao cho quốc doanh “nắm” tất cả.
Cũng có ý kiến nói chệch hướng trong vấn đề hợp tác xã.
Cần phải nói thẳng thắn mô hình hợp tác xã cũ không còn thích ứng với sự phát triển của kinh tế hộ và những đòi hỏi trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay của đất nước. Kết thúc sự tồn tại của mô hình này trong lĩnh vực nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là tất yếu. Thật ra kinh tế hộ trong nông lâm nghiệp, thuỷ sản, những người sản xuất tiểu thủ công nghiệp và không ít những người buôn bán nhỏ, sản xuất nhỏ đang rất cần một loại hình hợp tác xã mới có thể hỗ trợ thiết thực cho họ. Khuyết điểm của chúng ta là chưa đáp ứng được đòi hỏi mới này. Trong khi đó, các hộ kinh tế này đang tự phải tổ chức với nhau những hình thức hợp tác thiên hình vạn trạng và ở những mức độ rất khác nhau, nơi thành công, nơi thất bại và không ít những kinh nghiệm đáng được nghiên cứu cho việc xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới thích hợp. Khư khư giữ mô hình hợp tác xã cũ sẽ lại thất bại. (Vừa qua, tôi đến thăm nông trường Sông Hậu. Thực chất đó không còn là một nông trường theo nghĩa xưa nay chúng ta vẫn hiểu. Đó chính là một mô hình hợp tác xã kiểu mới như chúng ta vẫn thường thấy ở các nước công nghiệp. Đây chính là mô hình cần được nghiên cứu).
Song nguy cơ chệch hướng đang ẩn náu trong nhiều hiện tượng kinh tế xã hội khác cần được chú ý xử lý thoả đáng. Đó là tình trạng làm ăn trái pháp luật, tham nhũng, tiêu cực đang trở thành “quốc nạn”, bao gồm cả những thói xấu như cục bộ, cửa quyền, tính vô chính phủ, cát cứ, tiêu xài lãng phí và ăn cắp của công... Những hiện tượng này đang làm giảm hiệu lực pháp luật và các hệ thống quản lý kinh tế (vĩ mô và vi mô) của nhà nước, gây nhiều thiệt hại kinh tế nghiêm trọng, kể cả trong liên doanh với nước ngoài; kích thích kinh tế ngầm và các mafia, tăng thêm những căng thẳng trên các vấn đề như khoảng cách thu nhập, sự phân hoá và tệ nạn xã hội (đặc biệt là những tệ nạn nghiện hút, cờ bạc, mãi dâm), vấn đề công bằng và công lý, v.v... Sẽ là sai lầm, nếu đem tất cả những phát triển không lành mạnh này đổ lỗi cho cơ chế thị trường. Kết luận như vậy sẽ chỉ còn có cách là xoá bỏ cơ chế kinh tế thị trường, một điều ai cũng thấy là vô lý, và những hiện tượng xấu ấy sẽ không vì thế tự nhiên biến mất (đành rằng cơ chế thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần tự nó cũng đặt ra nhiều vấn đề mới phải xử lý).
Để những hiện tượng xấu này tiếp tục phát triển, sẽ có nghĩa nhà nước mất dần khả năng kiểm soát, sự trong sạch và vững mạnh của chế độ chính trị giảm sút, lòng dân phân tán, định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ chỉ còn là khẩu hiệu trống rỗng. Chệch hướng và diễn biến hoà bình sẽ có thêm mảnh đất màu mỡ để bung ra. Trên phương diện này, rõ ràng hậu quả của những yếu kém trong năng lực quản lý nhà nước chưa được đánh giá đúng mức. Chỗ nào chúng ta cũng có đảng viên, cán bộ, song tình trạng tiêu cực vẫn có xu hướng phát triển. Đảng và các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền các cấp, các đoàn thể, các ngành phải làm gì?
Một vấn đề không thể tránh né là chúng ta thừa nhận sự phát triển của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đến mức độ nào để khỏi chệch hướng?
Đề nghị cần trao đổi kỹ vấn đề này.
Chúng ta đang đứng trước đòi hỏi khách quan là nước ta phải giàu lên càng nhanh càng tốt, để có sức cạnh tranh và có lực thu hút mọi nguồn vào từ bên ngoài để giữ được độc lập tự chủ trong mở rộng, hợp tác và phát triển. Chúng ta phải ráo riết tăng mạnh cường độ tích tụ vốn để có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã từng kéo dài hàng trăm năm trong lịch sử các nước công nghiệp xuống còn vài ba thập kỷ như một số “con rồng” ở châu Á đã thực hiện. Không làm được như vậy sẽ mất thời cơ và mất tất cả. Chính đấy là những đòi hỏi ràng buộc chúng ta trong khi xử lý vấn đề phát triển các thành phần kinh tế.
Hơn thế nữa, chúng ta còn phải đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sao cho trong vòng mươi, mười lăm năm tới chỉ còn trên 1/3 lao động cả nước làm nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP phải giảm xuống mức thấp trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Không đạt được yêu cầu này, sẽ tăng thêm nguy cơ bần cùng hoá (bởi vì trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, tài nguyên đất đai, rừng núi và ven biển đã được khai thác hầu như ở mức độ quá tải bằng công nghệ thủ công và lạc hậu), hoàn toàn không thể nói tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong mở rộng liên doanh với nước ngoài, phần góp vốn của phía ta hiện nay thường chỉ đạt 20 - 30 % giá trị công trình, vì làm chưa tốt việc huy động các nguồn lực trong nước, phía ta rất thiệt thòi v.v...
Như vậy phải chăng câu trả lời sẽ là: Để đáp ứng những đòi hỏi vô cùng bức xúc của phát triển, chúng ta chủ trương trong khi đối xử bình đẳng với tất cả các thành phần kinh tế, chúng ta chấp nhận không đặt ra cho các thành phần kinh tế bất kỳ giới hạn phát triển nào, miễn là sự phát triển ấy cân đối hài hoà, ổn định, nằm trong khuôn khổ của luật pháp, nhà nước kiểm soát được và đáp ứng tối đa những tiêu chí lớn chúng ta đã xác định cho định hướng xã hội chủ nghĩa?
Nếu chấp nhận đạo lý vừa trình bày trên, sẽ có nhiều vấn đề hệ trọng phải xem xét lại trong việc hoạch định đường lối và chính sách. Có thể chính đạo lý này sẽ thống nhất ý chí toàn dân tộc trước vận mệnh mới của đất nước, tạo ra động lực không gì khuất phục được cho một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, độc lập và bất khả xâm phạm với bất kỳ sức ép bên ngoài nào. Song nhằm đạt được mục tiêu này, năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội trở thành một trong những tiền đề quyết định – và đây lại chính là điều chúng ta thiếu nhất. Xử lý thành công yêu cầu này là nhiệm vụ chính trị rất quan trọng của Đảng ta hiện nay.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có phải ưu tiên phát triển thành phần kinh tế quốc doanh hay không?
Như đã trình bày, Đảng ta lựa chọn quan điểm đối xử bình đẳng các thành phần kinh tế. Lợi ích lâu dài của đất nước đòi hỏi phải quán triệt và kiên trì quan điểm này. Trừ một số lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc phòng và phát triển cơ sở hạ tầng (bao gồm cả về mặt xã hội), không nên và không thể đặt vấn đề “ưu tiên” KTQD, hay giao cho KTQD nhiệm vụ “nắm” một thứ gì đó như chúng ta thường làm trong cơ chế quản lý cũ.
Nhưng kinh tế quốc doanh thật sự đang có nhiều vấn đề quan trọng khác chưa được quan tâm đúng mức.
Điều đáng lưu ý nhất là kinh tế quốc doanh nhìn chung chưa đem lại hiệu quả mong muốn lớn nhất cho nền kinh tế quốc dân xứng đáng với vai trò, vị trí và vốn liếng nó nắm trong tay. Đối với chế độ chính trị của nước ta, kinh tế quốc doanh là lực lượng kinh tế quan trọng nhất trong việc thực hiện đường lối, chủ trương kinh tế và phát triển đất nước của Đảng. Chúng ta còn phải làm nhiều việc để cho KTQD trở thành đội quân chủ lực mở đường cho kinh tế nước ta đi lên, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, làm chỗ dựa và có khả năng hạn chế bớt rủi ro cho kinh tế cả nước, tạo ra những tập đoàn mạnh trong cạnh tranh với bên ngoài. Cũng phải từ quan điểm vừa trình bày mà xem xét, bố trí KTQD vào đâu, làm việc gì, với phương thức nào là có lợi nhất. Ngoài ra cần làm cho KTQD trở thành yếu tố năng động trong hệ thống điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Sự thực là năng suất lao động và hiệu quả của từng đồng vốn trong KTQD (ở đây không kể những đơn vị kinh tế phải làm công ích xã hội hoặc phát triển cơ sở hạ tầng) nhìn chung còn thấp so với vốn của các thành phần kinh tế khác trong xã hội. Tình trạng thất thoát và lợi dụng vốn quốc doanh còn ở mức nghiêm trọng. Hơn nữa, việc sắp xếp và cơ cấu lại KTQD, cổ phần hoá, xây dựng các liên kết liên doanh còn rất chật vật, có nhiều sức tiêu cực chống lại. Ngoài ra chúng ta hiện nay mới chỉ quan tâm đến xử lý tính hiệu quả của các xí nghiệp, song chưa có sự quan tâm thoả đáng đến vấn đề chuyển đổi các xí nghiệp để huy động vốn quốc doanh tập trung vào những ngành nghề có thể chi phối sự phát triển kinh tế của cả nước, việc sắp xếp lại và giải thể những xí nghiệp không có hiệu quả kinh tế đáng kể, thực hiện chưa tốt nên chưa tạo ra chuyển biến mới.
Tóm lại, để góp phần giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi bức xúc là phải nâng cao tính hiệu quả của kinh tế quốc doanh, nhằm làm cho nó chiếm một vai trò chủ đạo trong thị trường nước ta chứ không phải là giành cho nó quyền “nắm” thứ này thứ khác.
3. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước
Đã có nhiều cuộc trao đổi về nhà nước pháp quyền. Tôi không đi vào lý luận của vấn đề này, mà muốn nhấn mạnh yêu cầu bức xúc phải nâng cao năng lực quản lý nhà nước, với nhận thức cho rằng yếu kém hiện nay của chúng ta trong nhiệm vụ quản lý nhà nước đang thách thức rất nghiêm trọng khả năng vươn lên của nước ta.
Trước hết, sống và làm việc theo pháp luật trở thành đòi hỏi ngày càng bức thiết của cuộc sống và sự nghiệp phát triển đất nước ta.
Đòi hỏi tất yếu và không thể tranh cãi được này đang làm cho chúng ta lo lắng. Bởi vì một mặt, sự phát triển luật pháp và năng lực thi hành luật pháp chưa theo kịp đà phát triển của đất nước và xã hội ta hiện nay. Mặt khác, tình trạng sống và làm ăn trái phép với pháp luật chưa có xu thế giảm.
Có thể nói chúng ta đã làm rất nhiều việc để tiếp tục phát triển hệ thống luật pháp, kết hợp với tăng cường các tổ chức thi hành luật pháp, nhưng kết quả chưa như mong đợi. Ngay bây giờ, tình trạng bất cập của bộ máy nhà nước và những vấn đề nóng bỏng trong đời sống kinh tế xã hội đã ở mức báo động.
An ninh kinh tế, an ninh chính trị và an ninh xã hội đều có nhiều vấn đề đáng lo ngại do buông lỏng quản lý nhà nước. Chưa có thể nói chúng ta đã tạo ra được một môi trường kinh tế xã hội thông suốt, minh bạch rõ ràng cho từng người dân có thể an tâm làm ăn và được bảo hộ chu toàn trong làm ăn. Chúng ta chưa có một môi trường như vậy cho sự quản lý có hiệu quả của nhà nước.
Giới đầu tư và kinh doanh nước ngoài, mặc dù đánh giá rất cao sự ổn định chính trị và tiềm năng kinh tế của nước ta, nhưng còn e ngại rất nhiều về môi trường làm ăn ở nước ta. Không thay đổi căn bản tình hình này, ngay sự kiểm soát của nhà nước ta đối với mọi quá trình diễn biến trong xã hội nước ta sẽ ngày càng có nhiều hiện tượng “tuột tay”, “chệch hướng”.
Hãy thử mổ xẻ tình trạng tham nhũng, tình trạng buôn lậu, trốn thuế, tình trạng móc ngoặc ở trong nước, hoặc với nước ngoài trong kinh tế, tình trạng chồng chéo ách tắc trong điều hành và quản lý đất nước, rừng núi tài nguyên bị tàn phá trong thời bình, môi trường tự nhiên đang bị xâm phạm nghiêm trọng, cơ sở hạ tầng nhiều nơi không được gìn giữ, tình trạng dân kêu oan khiếu nại..., chúng ta sẽ có được những thước đo khá chính xác về mức độ báo động này. Một trong những nguyên nhân chính là những yếu kém trong nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Phải chăng cho đến nay mọi cố gắng của chúng ta trên mặt trận này còn rất chắp vá, thiếu đồng bộ và chưa đụng chạm vào những khâu cơ bản nhất – nghĩa là chưa trúng vào những “nút” cần bấm để thay đổi hẳn tình thế? Xin nhắc lại rằng trong những năm trước Đại hội VI và sau đó một ít, chúng ta loay hoay mãi trong việc ổn định giá cả và chống lạm phát nhưng không kết quả, phải chờ cho đến khi thiết lập được cơ chế kinh tế trên cơ sở thừa nhận giá thị trường, chúng ta mới xoay chuyển được tình hình và đạt kết quả. Như vậy có việc phải đi tìm những cái “nút” để xử lý ?
Nói một cách khái quát, để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, chúng ta phải làm cùng một lúc và trong cùng một tổng thể những chủ trương chính sách hài hoà cả 3 việc lớn: kiện toàn bộ máy nhà nước, kiện toàn hệ thống điều hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô, hoàn thiện và phát triển thị trường. Nghĩa là việc tăng cường cơ sở quyền lực của luật pháp phải gắn liền với việc nâng cao khả năng điều hành và việc tạo môi trường kinh tế xã hội thuận lợi cho sự hoạt động hữu hiệu của bộ máy nhà nước.
Về kiện toàn bộ máy nhà nước
Có thể nói rằng hệ thống luật pháp và bộ máy nhà nước của chúng ta được chú ý củng cố và phát triển, song hiệu lực của hệ thống bộ máy nhà nước và năng lực của cán bộ viên chức còn nhiều mặt không đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ. Một hiện tượng rất nghiêm trọng khác là nhiều cơ quan thuộc bộ máy quản lý nhà nước sa đà vào các công việc kinh doanh và những sự vụ của cơ chế “chủ quản”, sao nhãng chức năng chủ yếu là quản lý nhà nước trong lĩnh vực của mình.
Nói về hệ thống, điều quan trọng nhất là phải làm cho bộ máy nhà nước vận hành hoàn toàn trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật với những chức năng và kỹ năng ngày càng hoàn thiện, có quyền lực thực chất và hiệu lực mạnh trong toàn bộ lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Đi vào thời bình xây dựng đất nước và khuyến khích sự năng động của các thành phần kinh tế cũng như của từng thành viên trong xã hội, càng đòi hỏi phải có một hệ thống nhà nước như vậy, với yêu cầu phát huy được mọi tiềm năng nhưng nhà nước vẫn kiểm soát đầy đủ. Đã đến lúc bộ máy quản lý nhà nước các ngành các cấp phải đoạn tuyệt với cơ chế “chủ quản” và với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào, phải được cải cách để làm đúng chức năng quản lý nhà nước. Phải xem đó là nội dung chủ yếu của nhiệm vụ cải cách hành chính.
Chúng ta cần sớm khắc phục những ảnh hưởng còn lại của phương thức điều hành đất nước trong thời chiến với những đặc điểm như: cơ chế chính uỷ, quyền lực quyết định tại chỗ, tính chất địa phương, cơ cấu bộ máy sắp xếp cán bộ theo yêu cầu chính trị, bộ máy của Đảng song trùng và trên thực tế là có những việc đứng trên hoặc làm thay bộ máy chính quyền, cơ chế trách nhiệm không rõ ràng và sự yếu kém về nghiệp vụ do vận dụng nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách v.v...
Cũng có thể nói một cách khái quát: phải đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền với mục đích nâng cao hơn nữa năng lực quản lý nhà nước của toàn bộ hệ thống bộ máy quyền lực, đồng thời tạo mọi điều kiện cần thiết cho việc bảo đảm thực hiện Hiến pháp, pháp luật và các chủ trương chính sách của Đảng. Yêu cầu này đòi hỏi phải nâng cao khả năng nghiệp vụ và phẩm chất chính trị của các cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ viên chức trong bộ máy quyền lực nhà nước ở trong tất cả các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hơn bao giờ hết phải nâng cao hơn nữa chất lượng thể chế hoá, chính quy hoá đối với bộ máy chính quyền, cơ chế làm việc và đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước. Đây là đòi hỏi tất yếu bảo đảm thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng trong quá trình phát triển ngày càng cao của đất nước. Tình trạng hiện nay là không ít những chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng và luật lệ của nhà nước không thi hành được, nguyên nhân chính là thiếu yếu tố quyết định vừa nói trên.
Một hướng khác trong đẩy mạnh cải cách hành chính là nên sớm từng bước thực hiện chế độ đào tạo, bổ nhiệm, bãi chức đối với cán bộ viên chức trong hệ thống hành pháp bao gồm cả những chức vụ chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, quận, huyện, phường xã. Đồng thời cần tăng cường quyền lực và khả năng hoạt động hữu hiệu của các cơ quan dân cử bao gồm Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp với nội dung: chú trọng tăng cường khả năng và quyền lực lập pháp của Quốc hội; tăng cường quyền lực và khả năng giám sát của hội đồng nhân dân. Không nên nhầm lẫn coi hội đồng nhân dân là những cấp “lập pháp” địa phương dưới Quốc hội. Cả nước chỉ có một cơ quan duy nhất có tính năng và quyền lực lập pháp là quốc hội.
Nêu lên một sơ đồ về tổ chức của Đảng hiện nay đan xen vào hệ thống bộ máy nhà nước, chúng ta sẽ thấy nhiều tầng, nhiều cấp chồng chéo – trên thực tế là làm giảm bớt sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực của bộ máy nhà nước.
Cần xác định rõ các tổ chức cơ sở Đảng trong các bộ máy nhà nước nói trên (Quốc hội, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân các cấp) có nhiệm vụ chính trị hàng đầu là làm cho cơ quan của Đảng bộ mình làm tròn chức năng quyền hạn Nhà nước được giao. Các tổ chức cơ sở Đảng không làm thay, không quyết định thay. Các tổ chức cơ sở Đảng vì vậy cần được đổi mới và tổ chức lại một cách khoa học, cần được kiện toàn phù hợp với nhiệm vụ chính trị mới này. Công tác Đảng cần làm tốt hơn nữa nhiệm vụ giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ viên chức để đưa vào những cương vị thích hợp qua quy chế đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm, bãi miễn và sa thải rất nghiêm ngặt của hệ thống chính quyền.
Quan điểm cần thông suốt là hệ thống bộ máy quản lý nhà nước mạnh, chủ trương chính sách của Đảng mới được thực thi đầy đủ, và như vậy Đảng mới mạnh. Đây còn là phương thức khắc phục tình trạng lộng quyền, coi thường pháp luật, mất dân chủ, mất đoàn kết, bản vị, cục bộ... khá phổ biến ở một số đảng bộ cơ sở hoặc một số cấp uỷ.
Về kiện toàn hệ thống điều hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô
Điểm mới ở đây là coi nhiệm vụ này là một vế không thể thiếu được trong nâng cao năng lực quản lý nhà nước. Bởi vì quyền lực của nhà nước chúng ta sẽ không còn hiệu lực nếu như nhà nước đó không có trong tay hệ thống điều hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô có hiệu quả. Có lẽ vì thiếu điều kiện này, việc quản lý nhà nước của chúng ta còn nhiều sơ hở, vừa tăng thêm tính quan liêu, đồng thời vừa kém hiệu quả.
Trong tình hình phải vận dụng cơ chế kinh tế thị trường, phát huy mọi thành phần kinh tế trong xã hội và mở rộng kinh tế đối ngoại, luật pháp và các quy chế thường không đủ linh hoạt, không phát triển kịp hoặc không bao trùm hết được mọi vấn đề, lại càng đòi hỏi phải kiện toàn hệ thống điều hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô.
Yêu cầu nói trên đòi hỏi :
– Phải tích cực phát triển hệ thống các luật pháp trong đó gấp rút nhất là Luật dân sự (đang soạn thảo) và Luật thương mại.
– Phát triển và hoàn thiện hệ thống tài chính tiền tệ – bao gồm cải tổ lại hệ thống thuế và các sắc thuế, hệ thống kiểm toán, kế toán, mở mang thị trường tài chính tiền tệ (hệ thống ngân hàng thương mại, các thị trường cổ phần, tín phiếu, chứng khoán...).
– Hoàn thiện thị trường để tăng thêm khả năng làm chủ cơ chế thị trường.
Điều đáng lưu ý ở đây là Đảng ta ít nhiều còn coi những nhiệm vụ nói trên như một loại công tác sự nghiệp đơn thuần, nghĩa là chưa coi đó là một nhiệm vụ chính trị phải quyết tâm thực hiện. Thậm chí còn có ý kiến coi đó là những vấn đề thuộc về kinh tế tư bản chủ nghĩa! Đồng thời cũng phải thẳng thắn nhận xét rằng một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên trong các ngành luật pháp, tài chính, tiền tệ và trong hàng ngũ quản lý kinh tế, quản lý xí nghiệp có những nhận thức và hành động không đúng trong cơ chế thị trường do nhà nước ta quản lý.
Cần nhấn mạnh rằng muốn thực hiện phát triển kinh tế có định hướng, bắt buộc phải có hệ thống điều hành và kiểm soát này, nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa càng đòi hỏi như vậy! Nếu không, tính chất tự phát, vô chính phủ và những hệ quả xấu khác của kinh tế thị trường là không thể kiểm soát được.
Về hoàn thiện và phát triển thị trường
Đây cũng là một vấn đề cần nhấn mạnh và cần được thực hiện gắn liền với quá trình tăng cường quản lý nhà nước, nhằm tạo thêm một tiền đề kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng để thực thi mọi luật pháp và thể chế của nhà nước.
Yêu cầu tối thượng của vấn đề này là cuối cùng, mọi hoạt động kinh tế của bất kỳ ai trong xã hội nước ta đều chịu sự cọ xát, sàng lọc của một thị trường rõ ràng, lành mạnh, được nhà nước kiểm soát, dẫn dắt bằng luật pháp, bằng các chế tài và bằng các biện pháp khuyến khích. Một nền kinh tế mạnh đòi hỏi phải có một thị trường hạn chế được xuống mức thấp nhất các hiện tượng đầu cơ, cửa quyền, độc quyền, kinh tế ngầm, các mafia, sàng lọc các hoạt động kinh tế kém hiệu quả, cung cấp những tín nhiệm hữu ích cho mọi quyết định của từng thành viên kinh tế trong xã hội, có khả năng huy động mạnh mẽ nguồn lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Với ý nghĩa nói trên, càng kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa càng phải hoàn thiện và phát triển thị trường, càng phải đẩy mọi hoạt động kinh tế của toàn xã hội ra thị trường, không thể có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào (trừ một số hoạt động kinh tế phục vụ sự nghiệp, hạ tầng cơ sở, an ninh quốc phòng). Cũng vì lẽ này cần sớm xoá bỏ sự phân biệt hoặc sự hình thành các loại hình như: kinh tế dân sự, kinh tế đoàn thể, kinh tế Đảng, kinh tế các lực lượng vũ trang v.v...
Không có một thị trường và một chính sách về thị trường như vậy, sự kiểm soát của nhà nước sẽ kém hiệu quả, nguy cơ chệch hướng sẽ tăng lên, và kinh tế sẽ sớm đi vào trì trệ, ách tắc.
Đương nhiên yêu cầu về thị trường nêu trên đòi hỏi phải có bộ máy hành chính có năng lực, hệ thống luật pháp ngày càng hoàn thiện và hệ thống các chính sách điều hoà điều tiết đủ sức duy trì sự phát triển cân bằng ổn định, bảo đảm phát triển phúc lợi xã hội. Mang danh là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước ta càng phải thực hiện tốt những đòi hỏi này.
Với tinh thần và nội dung vừa trình bày, chúng ta nên coi ba khâu công tác nói trên (kiện toàn bộ máy nhà nước, kiện toàn cơ chế điều hành vĩ mô, phát triển thị trường) là một tổng thể hữu cơ của nhiệm vụ tăng cường năng lực quản lý nhà nước.
4. Xây dựng Đảng
Có thể nói dự thảo báo cáo đánh giá khá đầy đủ những ưu điểm lớn trong nhiệm vụ cực kỳ hệ trọng là xây dựng Đảng. Cần nhấn mạnh bản lĩnh của Đảng ta trước hết thể hiện qua sự vững vàng trước những biến động sâu sắc trên thế giới trong hai thập kỷ vừa qua và những thành tựu giành được trong sự nghiệp đổi mới. Cần khẳng định điều này để tự tin, để nâng cao hơn nữa ý chí cách mạng và tinh thần đổi mới.
Song chúng ta đang đứng trước thực tế là tính tiền phong chiến đấu của đảng viên và của các tổ chức cơ sở của Đảng có nhiều mặt giảm sút, thậm chí yếu kém. Nhiều đảng viên không còn vai trò gương mẫu, nhiều tổ chức cơ sở Đảng chỉ hoạt động hình thức, hoặc tê liệt, thoái hoá. Quan hệ giữa Đảng và dân ngày càng có nhiều vấn đề. Chỗ nào cũng có đảng viên, song tình trạng bê bối, tiêu cực ở các ngành, các địa phương khá phổ biến.
Những hiện tượng này đang thách thức trực tiếp vai trò lãnh đạo của Đảng.
Đại hội VIII cần đem lại một động lực mới thực sự thúc đẩy sự chỉnh đốn và khả năng tự đổi mới của Đảng. Bên cạnh việc rèn luyện ý chí cách mạng, cần đặc biệt phát huy dân chủ trong Đảng, để đẩy mạnh đấu tranh chống những thoái hoá, để phát huy sức sống mới và trí tuệ mới của toàn Đảng, đặc biệt là để có cơ sở vững chắc cho sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng và trong mọi cấp uỷ.
Dưới đây xin nêu lên một số vấn đề đáng lưu ý nhất trong nhiệm vụ xây dựng Đảng :
a) Xây dựng Đảng về đường lối
Có thể nói đây là nhiệm vụ hàng đầu. Có đường lối đúng sẽ có tất cả. Không nên tiếp tục cách suy nghĩ chỉ đơn thuần quy mọi nhiệm vụ, mọi mục tiêu không thực hiện được hoặc thực hiện không tốt cho việc thực hiện đường lối chưa tốt.
Hơn thế nữa, cách mạng Việt Nam đang chuyển sang một giai đoạn mới, diễn ra trong một bối cảnh quốc tế hoàn toàn thay đổi so với thời kỳ còn tồn tại hệ thống xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng ta bắt buộc phải đề ra đường lối mới thích hợp. Trước hết là dựa trên cơ sở nhận định tình hình mới, Đảng ta cần xác định chính xác những nhiệm vụ phải thực hiện, tính toán việc huy động lực lượng và tổ chức thực hiện, xác định những thách thức phải vượt qua.
Thực ra chúng ta đã bắt đầu công việc này và đề ra đường lối đổi mới. Sắp tới chúng ta phải tập trung nhiều công sức cho việc tạo ra động lực phát triển từ bên trong của đất nước.
Vì lẽ đó, đổi mới chỉ là bước đầu của quá trình xây dựng một đường lối mới phù hợp.
Trước mắt, có thể nói khái quát: mục tiêu chiến lược của chúng ta là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
Chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 27, 2016 7:07:53 GMT 9
Lê Duẩn Và Trung Cộng 1979, Và 1952-79
Stein Tonnesson
Chuyển Dịch: Nguyễn Phượng Hoàng
Bài viết "Chứng Cớ Mới Về Trung Cộng, Đông Nam Á, và Chiến Tranh Việt Nam", tường trình tại buổi Hội Thảo Quốc Tế, Hồng Kông, ngày 11-12 tháng 1 năm 2000* bởi ông Stein Tonnesson, Trung Tâm Phát Triển và Môi Sinh, Viện Đại Học Olso.
* Tác giả chân thành cảm ơn ông Christopher E. Goscha đã cung cấp tập tài liệu của Lê Duẩn và đã tốn rất nhiều công lao để dịch tập tài liệu này. Tác giả cũng xin thành thật cáo lỗi với ông Chris Goscha vì đã viết Lời Giới Thiệu quá chậm trễ đến nỗi ông Chris không có cả cơ hội để đọc và cho ý kiến trước khi Lời Giới Thiệu được gửi tới Hồng Kông (ngày 5 tháng 1, 2000).
Đây là Lời Giới Thiệu của một tập tài liệu được viết năm 1979 bởi Lê Duẩn, Tổng Thư Ký của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đầu đề của tập tài liệu là Quan Hệ Trung Quốc và Việt Nam Trong Thời Kỳ 1952-79. Christopher E. Goscha đã tìm được tập tài liệu này tại Thư Viện Quân Đội ở Hà Nội, sao tay lại, và dịch sơ qua tiếng Anh. Những tờ giấy viết tay của Goscha, và những lời chú thích bằng tiếng Anh được đính kèm theo bài viết này. (Bản dịch hãy còn là bản nháp sơ thảo và không nên được trích dẫn.)
Tập tài liệu của Lê Duẩn không đề ngày, và tên của tác giả chỉ được viết là "Đồng Chí B". Tuy nhiên nội dung của bài viết cho thấy bài này được viết năm 1979, có lẽ trong thời gian Trung Cộng xâm lăng miền Bắc Việt Nam trong tháng 2, 1979, và sự xuất bản cuốn bạch thư của Việt Nam về sự quan hệ giữa Trung Cộng và Việt Nam ngày 4 tháng 10 cùng năm (1). Hình như là tập tài liệu này được viết ngay sau khi Đặng Tiểu Bình quyết định ngày 15 tháng 3 năm 1979, rút quân đội Trung Cộng về, sau cuộc xua quân vào mạn bắc Việt Nam để trừng phạt Việt Nam; nhưng trước cuộc đào tẩu qua Trung Cộng của nhà cựu lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam Hoàng Văn Hoan trong tháng 7, 1979.
Làm thế nào chúng tôi biết rằng người viết tập tài liệu này là Lê Duẩn? Trong tập tài liệu, "đồng chí B" cho biết là trong một cuộc họp của Bộ Chính Trị của Đảng Lao Động Việt Nam (ĐLĐVN, tên của Đảng CSVN từ 1951 tới 1976) ông ta được gọi là Anh Ba (Brother Number Three), bí danh mà chúng tôi biết Lê Duẩn dùng. Tập tài liệu này cũng thường nói đến những buổi họp cao cấp giữa các nhà lãnh đạo Trung Cộng và Việt Nam mà tác giả (được nhắc đến trong tập tài liệu này là T, trong tiếng Việt là tôi) đại diện phía Việt Nam có đầy đủ thẩm quyền và ít người khác ngoài Lê Duẩn đã có thể làm những điều đó.
Tập tài liệu có thể được các sử gia dùng để phân tích: a) Những tư tưởng và thái độ của Lê Duẩn, b) tình trạng của nhóm xã hội chủ nghĩa năm 1979, c) hồ sơ về những quan hệ của Lê Duẩn với Trung Cộng trong thời kỳ 1952-79.
Từ quan điểm của một học giả, cách an toàn nhất là dùng tập tài liệu này cho mục đích thứ nhất và thứ nhì vì tập tài liệu có thể được dùng để khai thác như một vật cổ, một bản viết còn lại của quá khứ mà các sử gia đang tìm kiếm để tái tạo lại. Như thế, nó sẽ cho thấy những quan niệm và thái độ của nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Việt Nam trong năm khủng hoảng 1979, và một vài phương diện về hiện trạng của phía bên xã hội chủ nghĩa trong thời điểm sôi động đó. Nếu dùng tập tài liệu này như nguồn tài liệu chính về mối quan hệ giữa Lê Duẩn và Trung Cộng (chủ đề được trình bầy trong tập tài liệu) trước đó thì sẽ có vấn đề, vì những gì Lê Duẩn nói, năm 1979, là trong những cơn giận dữ. Vì thế ông ta có khuynh hướng bóp méo sự thật, có lẽ ngay cả việc nói sạo nữa. Vì liên quan đến những sự kiện xẩy ra trong thời kỳ 1952-79, tập tài liệu vì vậy phải được sử dụng một cách tối ư cẩn thận, và được dùng để đối chứng với những tài liệu khác hiện đang có. Hai nguồn tài liệu giống như vậy, kết quả của những cơn giận dữ, là hai cuốn bạch thư xuất bản bởi Việt Nam và Trung Cộng ở cuối năm 1979. Một nguồn tài liệu thứ ba, với hàng loạt các tài liệu tiếp theo từ những năm 1964-77, là một bản nghiên cứu xuất bản bởi ủy ban Dự Án Lịch Sử Chiến Tranh Lạnh Quốc Tế năm 1998: 77 Cuộc Đàm Luận Giữa Trung Cộng và Những Nhà Lãnh Đạo Ngoại Quốc Về Những Cuộc Chiến Tại Đông Dương, 1964-1977 (hiệu đính bởi một nhóm sử gia quốc tế: Odd Arne Westad, Chen Jian, Stein Tunnesson, Nguyễn Vũ Tùng and James G. Hershberg). Sự sưu tầm này bao gồm 77 văn bản của những cuộc đàm luận - hay những đoạn trích - giữa Trung Cộng, Việt Nam và những nhà lãnh đạo khác trong thời kỳ 1964-77 (giả định là được viết xuống ngay sau mỗi cuộc đàm luận, thu gộp, trích đoạn và có thể sửa lại ở những giai đoạn sau đó). Bộ sưu tập bao gồm nhiều cuộc đàm luận mà Lê Duẩn có tham dự. Những nhà hiệu đính 77 cuộc đàm luận này cho biết rằng những bản tường trình sau buổi họp được thu thập từ "những tài liệu văn khố, những tài liệu nội bộ của Đảng Cộng Sản, và những sách vở ấn bản không ngăn cấm và bị ngăn cấm ở Trung Cộng và những quốc gia khác" (nhấn mạnh ở đây). (3) Những nhà hiệu đính không cho biết văn bản buổi họp nào được viết, được trích đoạn và thu gộp ở Trung Cộng và văn bản buổi họp nào ở "những quốc gia khác". Nó cũng là một điều hữu lý khi một số các văn bản của buổi đàm luận đã được dùng như những tài liệu chính trong việc sửa soạn cho cuốn bạch thư năm 1979, ít nhất cũng ở phía Trung Cộng. Điều này có nghĩa những tài liệu vừa mới được nhắc qua không phải là không liên quan với nhau. Sự kiện này và nguồn gốc không được rõ ràng lắm của 77 văn bản đàm luận có nghĩa chúng phải được dùng một cách cẩn trọng. Nhiệm vụ chính của chúng có lẽ là để cho thấy những điều gì mà các sử gia nên tìm tòi khi được cho phép vào các văn khố của Đảng Cộng Sản Trung Cộng và Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thái Độ Của Lê Duẩn
Tập tài liệu này đã cho người ta thấy gì về thái độ của Lê Duẩn? Điểm nổi bật nhất của tập tài liệu là nó được trình bầy một cách thẳng thừng và theo cách của một cá nhân. Đây không phải là một tập tài liệu như những tài liệu bình thường của Đảng khi mà những thái độ và những cảm quan cá nhân thường bị bao phủ bởi những lời nhai đi nhai lại thường thấy (4). Lê Duẩn có vẻ như rất tự tin khi nói chuyện với các nhà lãnh đạo khác của Đảng để biện hộ cho những hành động của ông ta khi đối đầu với Trung Cộng, và để đảm bảo sự tiếp tục ủng hộ khi đối kháng lại áp lực của Trung Cộng, có thể phải chống trả một cuộc đại chiến mới. Lê Duẩn tự xưng là "tôi", nói rõ những người nào phía bên Trung Cộng trong phòng họp bằng tên, và bày tỏ cảm tưởng của ông ta về họ Mao, họ Chu, họ Đặng và những nhà lãnh đạo khác của Trung Cộng. Tác giả rất thích dùng từ "tôi", và dùng nó ngay cả khi nói về những buổi trò chuyện của ông ta với Hồ Chí Minh. Đây là một điều ngạc nhiên vì xưng "tôi" khi nói chuyện với "bác" thường được coi như là kiêu ngạo. Chữ dùng đúng nhất phải là "cháu". Trong suốt tập tài liệu, Lê Duẩn là người làm mọi chuyện. Văn phong theo lối nói. Giống như là tập tài liệu đã được kể cho người nào, rồi sau đó được đánh máy lại và cất trong thư viện Quân Đội.
Mặc dù tập tài liệu có lối nói thẳng thừng mới mẻ, nhưng có một điều mà tác giả hầu như không đề cập đến. Ông ta không nói một cách cởi mở về những chia rẽ nội bộ giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam. Chỉ có hai nhà lãnh đạo Việt Nam được nhắc tới qua tên là Hồ Chí Minh và Nguyễn Chí Thanh, cả hai chẳng ai sống năm 1979 cả. Không một chữ nào nói về Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Xuân Thủy, Hoàng Văn Hoan hay bất cứ một người nào có một vai trò quan trọng trong mối quan hệ xảo trá của Hà Nội với Bắc Kinh (Hanoi's tortuous relation with Beijing). Sự bất đồng ý kiến trong nội bộ chỉ được nhắc đến một lần. Lê Duẩn tuyên bố là mọi người trong Bộ Chính Trị luôn luôn đồng tâm nhất trí, nhưng chỉ có một người đặt vấn đề với Bộ Chính Trị, đặt câu hỏi tại sao Lê Duẩn lại nói về nhu cầu không phải sợ Trung Cộng. Trong trường hợp đó, theo Lê Duẩn thuật lại, người dám đứng lên ủng hộ Anh Ba là Nguyễn Chí Thanh (vị tư lệnh quân đội Miền Nam Việt Nam, người được coi là ủng hộ những quan điểm của Trung Cộng trước khi chết một cách bất ngờ năm 1967). Người "đồng chí" hỏi câu hỏi quan trọng đó chắc chắn là Hoàng Văn Hoan, và sự kiện ông ta không được nói đến qua tên cho thấy rằng tập tài liệu này đã được viết (hay có lẽ được kể) trước khi người đảng viên lão thành này bỏ trốn qua Trung Cộng tháng 7 năm 1979.
Để có một nền tảng căn bản phân tích tập tài liệu Lê Duẩn, chúng ta trước hết phải đặt cơ sở trên những gì được biết về cuộc đời và sự nghiệp của ông ta (1907-86). Ông ta sinh ở Quảng Trị, Miền Trung Việt Nam, và đảng nghiệp của ông ta dựa trên sự nghiệp chính trị trong Miền Nam Việt Nam. Năm 1920, ông ta là một phu đường rầy, gia nhập Đảng Cộng Sản Đông Dương trong những năm tháng thành lập 1930, và ở tù Pháp từ năm 1931 đến năm 1936. Trong thời kỳ Mặt Trận Bình Dân ở Pháp, ông ta được thả tự do để làm chính trị và tháng 3 năm 1938 trở thành Ủy Viên Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương (6). Năm 1940, ông ta lại bị bắt (cùng với Phạm Hùng và Nguyễn Duy Trinh) và cùng chung nhóm lãnh đạo bị Pháp nhốt ở đảo Côn Sơn trong những năm chiến tranh 1941-1945 (7). Ông ta được thả năm 1945 và trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương thứ nhất, ông ta ở chức vụ Bí Thư Đảng Ủy Nam Bộ (từ năm 1954 Cục Trung Ương Miền Nam Việt Nam), với Lê Đức Thọ là đồng chí thân cận nhất của ông ta. Sau Hiệp Định Geneva năm 1954, ông ta được biết đến qua vụ gửi một bức thư tới các nhà lãnh đạo Đảng để bầy tỏ sự bất đồng ý với Hiệp Định. Năm 1957, sau khi Trường Chinh bị mất chức Tổng Bí Thư Đảng Lao Động Việt Nam và Chủ Tịch Nhà Nước Hồ Chí Minh đảm nhận luôn chức lãnh đạo Đảng, Lê Duẩn được triệu về Hà Nội và được tạm thời đảm nhận chức Tổng Bí Thư. Ông ta là người chính, trong những năm 1975-59, cổ động đấu tranh võ lực ở Miền Nam Việt Nam, và được sự ủng hộ của Liên Sô và Trung Cộng cho chính sách đó. Quyết định của Hội Nghị Trung Ương Đảng thứ 15 tháng 1 năm 1959 đi đến đấu tranh tích cực ở Miền Nam là một sự thắng lợi rõ ràng cho Lê Duẩn, và ở Đại Hội lần 3 Đảng Lao Động Việt Nam năm 1960, ông ta được bầu làm Tổng Bí Thư. Mất hơn 15 năm trước khi Đại Hội Đảng lần 4 được tổ chức năm 1976, và Lê Duẩn chết khi còn tại chức, nửa năm trước Đại Hội 6 năm 1986. Lê Duẩn rõ ràng là người lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam thứ hai nắm hầu hết các quyền lực trong thế kỷ 20 sau Hồ Chí Minh, cha đẻ Đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1930, Chủ Tịch Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1945, và chết năm 1969.
Lê Duẩn phải được xưng tụng như là một nhà lãnh đạo Cộng Sản bản xứ. Ông ta chưa bao giờ, không như Hồ Chí Minh, đi khắp thế giới lúc còn trẻ. Ông ta chưa bao giờ, không như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Hoan, sát cánh làm việc với Hồ Chí Minh thành lập mặt trận Việt Minh và Quân Đội Giải Phóng Quốc Gia dọc biên giới Trung Hoa trong suốt thời gian Đệ Nhị Thế Chiến. Ông ta cũng không thuộc phe cánh Trường Chinh, người thiết lập ban bí thư vùng bắc của Đảng Cộng Sản Đông Dương từ năm 1940 cho tới năm 1945, Cách Mạng Tháng Tám. Quyết định của Hồ Chí Minh trao chức lãnh đạo Đảng cho Lê Duẩn năm 1957-1960, và ủng hộ ông ta trong cuộc bầu cử 1960, phải được hiểu như là một cách để đảm bảo sự đoàn kết quốc gia. Ở thời gian mà nước Việt Nam bị chia đôi, và nhiều cán bộ Miền Nam được tập kết ra Bắc, cách hay nhất để bảo đảm Đảng Lao Động Việt Nam cho tất cả người Việt Nam, là đưa một người lãnh đạo Miền Nam lên lãnh đạo toàn Đảng. Giả định đây chính là động lực thúc đẩy đưa đến sự lựa chọn của Hồ Chí Minh. Mối liên hệ giữa Hồ Chí Minh và Lê Duẩn chưa bao giờ được coi là nồng ấm như sự liên hệ giữa "Bác" và những người cháu khác của Bác trong đảng (8).
Tập tài liệu năm 1979 của Lê Duẩn cho thấy rằng ông ta đã pha trộn một niềm tự hào dân tộc cao độ với tư tưởng là người Việt Nam, một dân tộc chuyên đấu tranh, đang đóng vai trò tiên phong của cuộc đấu tranh cách mạng thế giới. Tập tài liệu không cho thấy niềm hâm mộ hay kính phục một dân tộc nào khác ngoài dân tộc Việt Nam, mà chỉ thuần một tư tưởng cho những cuộc tranh đấu cho quốc gia độc lập, cho tất cả mọi dân tộc, lớn hay nhỏ. Niềm tự hào của ông ta lộ rõ trong đoạn văn đầu tiên, khi ông ta nói rằng sau khi "chúng ta" đánh bại người Mỹ, không một đế quốc quyền lực nào dám đánh "chúng ta" nữa. Chỉ có vài tên phản động Trung Quốc "nghĩ là chúng có thể". Cụm từ "chúng ta" ở đây mang ý nghĩa chúng ta là một nước.
Niềm kiêu hãnh của Lê Duẩn nằm trong luân lý đạo đức tự nhiên, và điểm phân loại căn bản trong luân lý trời đất của ông ta là giữa niềm sợ hãi và lòng can đảm. Ông ta có vẻ như khinh bỉ những người không "dám" chiến đấu. Nếu không có người Việt Nam, ông ta tuyên bố, chẳng có ai dám đánh nhau với người Mỹ cả, vì trong lúc người Việt Nam đánh nhau với người Mỹ, cả thế giới lại "sợ" người Mỹ. Cũng cùng một niềm kiêu hãnh đó lộ rõ trong lời thuật lại của Lê Duẩn khi kể lại một buổi tiếp xúc với Chu Ân Lai ở Hà Nội, ngay sau khi Chu Ân Lai gặp gỡ Kissinger ở Bắc Kinh. Lê Duẩn nói ông ta bảo ông Chu là với một hiệp ước mới giữa người Trung Quốc và người Mỹ, Nixon sẽ đánh "tôi" mạnh hơn nữa, nhưng "tôi không hề sợ tí nào." Sau đó trong tập tài liệu ông ta lại tuyên bố là "Chỉ có nước Việt Nam là không sợ nước Mỹ." Ông ta cũng chỉ rõ những người sợ là ai. Người đầu tiên sợ người Mỹ là họ Mao, ông ta tuyên bố. Câu nói nổi tiếng "cọp giấy" không thấy có trong tập tài liệu này. Họ Mao là người lúc nào cũng sợ người Mỹ, khuyên người Việt Nam không nên đánh nhau với người Mỹ, và từ chối không ủng hộ nếu điều này có thể đưa đến việc rủi người Mỹ trả thù lại Trung Cộng. Khi Trung Cộng can thiệp vào ở Đại Hàn, đó không phải là một dấu hiệu can đảm mà chỉ là để bảo vệ quyền lợi của họ.
Lòng hâm mộ sự can đảm của Lê Duẩn lên đến cao độ khi đọc câu sau đây: "Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta có chính nghĩa. Anh ta, ta cũng không sợ. Bạn, ta cũng không sợ. Kẻ thù không sợ, đã đánh rồi. Mình là con người; mình chẳng sợ ai cả. Mình độc lập. Cả thế giới biết ta độc lập."
Ở điểm căn bản của ông ta về sự khác biệt giữa lòng can đảm và sự sợ hãi, Lê Duẩn tuyến bố, là điều khác biệt căn bản giữa chiến lược quân sự của Mao và chiến lược mà người Việt Nam theo đuổi. Chiến lược của Mao ở thế thủ, chiến lược của người Việt Nam ở thế công. Người Việt Nam chưa học được một điều gì về chiến lược quân sự ở người Trung Quốc cả. Trung Quốc lúc nào cũng yếu hèn. Họ hầu như chẳng dám đánh người Nhật. Sau chuyến viếng thăm Trung Cộng đầu tiên (ông ta nói là xẩy ra trong năm 1952), Hồ Chí Minh hỏi ông ta đã thấy gì. Hai điều, ông ta trả lời: "Việt Nam rất can đảm và họ chẳng can đảm tí nào." kể từ ngày đó trở đi, Lê Duẩn đã hiểu điều khác biệt căn bản giữa người Trung Quốc và người Việt Nam: "Chúng ta khác họ hoàn toàn. Trong mỗi người Việt Nam có một tinh thần hào hùng, và vì vậy chúng ta không bao giờ có thế thủ. Mọi người đều quyết chiến."
Trong tập tài liệu cũng thấy Lê Duẩn tỏ ra kính trọng hay cảm thông Liên Sô hơn là Trung Cộng, mặc dù không phải lo lắng nhiều về người Nga. Ông ta phiền trách về sự chia rẽ giữa người Trung Cộng và người Nga, và lý do của sự than phiền là điều đó đã làm thế đứng của người Mỹ ở Việt Nam mạnh hơn. Ông ta cũng than phiền là ông ta phải giải thích quá nhiều điều với Trung Cộng, phải qua đó "một năm hai lần". Và tiếp lời là ông ta không bị như thế với người Nga, và vì vậy ông ta không phải thông báo với họ: "Với người Nga, tôi đã không nói bất cứ một điều gì cả.... Tôi chỉ nói một cách đại khái." (9)
Một phương diện quan trọng khác trong tư tưởng của Lê Duẩn là ý thức hệ của ông ta đưa đến sự phân biệt một bên là "dân tộc Trung Quốc", một bên là những người Trung Quốc phản động. Như là đã thấy trước đây, ông ta không có lòng quý mến người Tầu, nói một cách tổng quát, nhưng ông ta cũng không muốn đổ lỗi cho cả dân tộc Trung Quốc vì những chính sách gây hấn của những người lãnh đạo của họ: "Chúng ta chỉ muốn nói đến họ là một tập đoàn (clique). Chúng ta không nói đến tổ quốc của họ. Chúng ta không nói người Trung Quốc xấu với chúng ta. Chúng ta nói đó là tập đoàn phản động Bắc Kinh (We say that it is the reactionary Beijing clique)."
Lê Duẩn cũng phân biệt các cá nhân phía bên Trung Cộng, và tiêu chuẩn phán đoán người được dựa trên mức độ hiểu biết về Việt Nam. Người ít hiểu biết nhất là ông Chủ Tịch Mao, người mà Lê Duẩn có vẻ hoàn toàn không thích một chút nào cả: "... một người không thể nói chuyện được, một người với con tim Đại Hán và người muốn thôn tính Đông Nam Á chính là Mao." Ông ta thích Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình nhiều hơn. Lê Duẩn tuyên bố là Chu Ân Lai đã đồng ý, trong thập niên 60, về nhu cầu cần thiết để có một mặt trận đoàn kết giữa các nước xã hội để yểm trợ cuộc tranh đấu ở Việt Nam, nhưng mà họ Mao lại nói điều đó không thể được. Họ Chu đã giúp cho Lê Duẩn thấu hiểu những gì đang xẩy ra ở Trung Cộng, và đã xếp đặt để viện trợ nhiều cho Việt Nam: "Tôi biết ơn ông ấy." Hứa Quốc Phong không hiểu Việt Nam, nhưng Đặng Tiểu Bình đã cho thấy hiểu rõ Việt Nam hơn. Đây là một điều khá ngạc nhiên vì chúng ta biết từ 77 Cuộc Đàm Luận họ Đặng là người nhận lãnh trách nhiệm về những vấn đề liên hệ Việt Nam-Trung Quốc một cách trực tiếp. Lê Duẩn có lẽ thích thẳng thắn, nói đốp chát hơn là lối nói loanh quanh tránh né của họ Hứa và lối nói chuyện độc đoán kỳ quặc của họ Mao. Lòng ái mộ họ Đặng của Lê Duẩn được chứng nhận ở một nguồn tài liệu khác. Tháng 10 năm 1977, ông ta nói với vị Đại Sứ Nga ở Hà Nội là Hứa Quốc Phong là một trong những người lãnh đạo Trung Cộng "không hiểu chúng tôi", nhưng Đặng Tiểu Bình "đối xử với Việt Nam với một sự thông hiểu rộng lớn." Trong thời gian đó, Lê Duẩn đã tiên đoán là Đặng Tiểu Bình sẽ thắng cuộc tranh giành quyền lực và điều này sẽ đưa đến sự phát triển mối liên hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam (10)
Năm 1979 mà Lê Duẩn hãy còn thái độ thân thiện với họ Đặng là một điều đáng ngạc nhiên trên cái nhìn là chính họ Đặng là người ra lệnh xâm lăng miền bắc Việt Nam. Lê Duẩn tuyên bố là họ Đặng thực tâm chúc mừng người Việt Nam năm 1975, khi Việt Nam thắng cuộc tranh đấu thống nhất tổ quốc, trong khi đó có một số các nhà lãnh đạo Trung Cộng hãy còn giữ lòng căm hận. Và năm 1977, họ Đặng đồng ý với Lê Duẩn về nhu cầu bắt đầu điều đình về những vấn đề ranh giới. Lê Duẩn nghĩ là họ Đặng đang bị áp lực bởi những người lãnh đạo Trung Cộng khác, thiếu hiểu biết hơn, và ông ta đã phải chứng tỏ bằng cách hủy bỏ liên hệ với Việt Nam để tránh bị buộc tội là xét lại: "... bây giờ ông ta xuẩn động và ngu. Bởi vì ông ấy muốn chứng tỏ rằng ông ấy không phải là kẻ xét lại, ông ấy đã đánh Việt Nam nặng hơn. Ông ta để mặc chúng nó tấn công Việt Nam". (11)
Phương diện cuối cùng về thái độ của Lê Duẩn được chỉ ra ở đây là sự trung thành với chủ nghĩa quốc tế của ông ta. Điều này có vẻ như kỳ lạ trong quan điểm hầu như hạn hẹp của ông ta chỉ về chủ tính tổ quốc, nhưng ông ta hiểu, Việt Nam là nước tiên phong trong toàn thế giới tranh đấu cho sự giải phóng tổ quốc. Điều này không giống như ngày xưa, ông ta nói, khi Việt Nam đứng một mình chống trả Trung Quốc. Hiện tại, cả thế giới đan kết với nhau một cách chặt chẽ: "... đây là thời gian mà mọi người muốn độc lập tự do. Tất cả nhân loại hiện tại thì như thế này... làm hại Việt Nam là làm hại nhân loại, một vết thương tới nền độc lập và tự do... Việt Nam là một quốc gia biểu hiệu cho độc lập và tự do."
1979
Điều hữu dụng kế tiếp của tập tài liệu là nó soi sáng một vài trường hợp trong năm mà nó được viết. Năm 1979 đánh dấu điểm thay đổi chính trong lịch sử của phong trào cộng sản quốc tế. Vào khoảng năm 1977-78, nó ở thời kỳ tột cùng của quyền lực với khoảng 30 chính quyền Marxist trên thế giới. Một số các sự kiện xẩy ra trong 2 năm tới đã đưa chủ nghĩa xã hội quốc tế cùng nhau gây ra một cuộc khủng hoảng làm giảm thiểu con số của chính quyền Marxist xuống còn 5 trong mười hai năm sau đó (Trung Cộng, Bắc Hàn, Lào, Việt Nam và Cuba). Các sự kiện xẩy ra trong năm 1979-80 không chỉ những bao gồm cuộc xâm lăng Việt Nam qua Cam Bốt, cuộc xua quân để trừng phạt Việt Nam của Trung Cộng, và sự hiện hữu của hải quân Nga trên vùng biển Nam Hải, mà cả sự bầu Hồng Y Karkow lên ngôi vị Đức Giáo Hoàng và sự thành lập phong trào Đoàn Kết ở Ba Lan, sự loại bỏ nền nông nghiệp tập trung và sự bắt đầu những năng lực của thị trường Trung Quốc, sự thành lập thế đồng minh Hoa Kỳ-Trung Quốc ở Đông Nam Á, sự thành lập một thể chế Hồi Giáo chống Cộng Sản ở Ba Tư, cuộc khủng hoảng ở A Phú Hãn đưa đến sự xâm lăng của Sô Viết tháng 12 năm 1979, và sự phá bỏ nhiều chế độ Marxist mới thành lập ở Phi Châu bởi những cuộc nổi dậy chống Cộng Sản. Điều này có nghĩa rõ ràng là vũ khí du kích đã được xoay lại trở thành "cuộc chiến tranh cường độ thấp", chống thẳng vào các chế độ xã hội chủ nghĩa. "Đảo Ngược Việt Nam" đã được tạo lập ở Cam Bốt, A Phú Hãn, Angola, Ethiopia và những nơi khác; chế độ Sô Viết của Leonid Brezhnev đã nhận quá nhiều trách nhiệm quốc tế để đi vào chu kỳ cổ điển của một nền kinh tế quá lực.
Năm 1979, dĩ nhiên, không phản Lê Duẩn hay bất cứ một nhà lãnh đạo cộng sản nào đã có thể thấy những gì sắp sửa xẩy ra. Họ quen thuộc với những sự thành công, và hãy còn sâu đậm trong sự tin tưởng ở điều cơ bản của chủ thuyết Marxist là chủ nghĩa xã hội là giai đoạn cấp tiến hơn chủ thuyết tư bản trong tiến trình phát triển của nhân loại. Cuốn Bạch Thư xuất bản bởi Bộ Ngoại Giao Việt Nam hôm tháng 10, 1979 tuyên bố rằng "các lực lượng cách mạng ngày hôm nay đã tăng trưởng, và đang ở vị thế thích ứng nhất" (12). Sự chiến thắng của cuộc cách mạng Việt Nam hãy còn mới trong tâm trí họ, và theo sau đó là sự thành lập các chế độ xã hội tại các thuộc địa cũ của bồ Đào Nha ở Phi Châu. Đế quốc Mỹ ngày càng chìm sâu trong một cuộc khủng hoảng toàn diện và không thể cứu được, như cuốn bạch thư tuyên bố, và đã không thể giữ vị thế vững mạnh rõ ràng của mình ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ Châu (13). Các nhà lãnh đạo Sô Viết và Việt Nam không một chút nghi ngờ, cho rằng vấn đề ở Cam Bốt và A Phú Hãn, sự bắt đầu những năng lực của thị trường Trung Quốc, và Trung Quốc về cùng phe với Hoa Kỳ, chỉ là sự thối lui tạm thời của một cuộc tiến triển toàn phần mà chắc chắn sẽ khiến các lực lượng xã hội trên toàn thế giới mạnh hơn. Cho đến mãi giữa thập niên 80, các nhà lãnh đạo chủ nghĩa xã hội mới bắt đầu nhận thức được rằng đường hướng của nền chính trị toàn cầu đã quay lại chống chủ nghĩa xã hội.
Tập tài liệu của Lê Duẩn đã cho thấy sự lượng định gì của các nhà lãnh đạo Việt Nam về tình trạng tổng quát năm 1979, và họ trông mong gì ở tương lai? Nó cho thấy những nhà lãnh đạo Hà Nội đang sửa soạn một cuộc chiến tranh với Trung Cộng, và Lê Duẩn tin tưởng là Việt Nam có thể chống trả được cuộc chiến đó vì phần lớn quân đội Trung Cộng sẽ bị bắt buộc đóng quân dọc theo biên giới nước Sô Viết. Lê Duẩn đã chuẩn bị cho các đồng chí của mình một cuộc toàn quốc trường kỳ kháng chiến, và xem Việt Nam đang đóng một vai trò quan trọng trong việc chống đỡ cho toàn cõi Đông Dương trong việc chống trả mộng bành trướng của Trung Cộng. Ông ta dự định những tỉnh theo truyền thống là nơi giữ vững Đảng Cộng Sản Đông Dương ở vùng trung bắc là những tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, và Thanh Hóa (những tỉnh mà phần lớn những nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam từ đó xuất thân), là những căn cứ hậu cần cho cuộc đấu tranh ở miền bắc: "Trong một tương lai gần, chúng ta sẽ đánh nhau với Trung Quốc. Chúng ta nhất định thắng," Lê Duẩn tuyên bố, và điều này (hầu như có lẽ) sau sự kết thúc cuộc xua quân trừng phạt của Trung Cộng. Để làm tăng thêm lòng quyết tâm của mình và các đồng chí, Lê Duẩn dùng niềm tự hào về đất nước chuyên đấu tranh của mình: "... thật ra nếu một quốc gia khác đánh nhau với họ, không rõ là họ sẽ thắng như vầy... chúng ta chưa bao giờ trốn chạy trách nhiệm lịch sử của chúng ta... Bằng cách bảo vệ nền độc lập, nước Việt Nam cũng đang bảo vệ nền độc lập của các quốc gia vùng Đông Nam Á. Nước Việt Nam nhất định không cho phép Trung Quốc trở thành một quốc gia bá chủ. Cuộc chiến vừa rồi chỉ là một hiệp... nếu chúng mang 1 hay 2 triệu quân để đánh chúng ta, chúng ta chẳng sợ. Chúng ta vừa mới đối đầu với 600.000 quân, và, nếu, trong tương lai gần đây, chúng ta phải đánh nhau với 2 triệu quân, chẳng có cái gì ngại cả. Chúng ta không sợ. Chúng ta sẽ biến mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một bãi chiến trường. Chúng ta có đủ người. Chúng ta có thể đánh chúng bằng nhiều cách... Chúng ta có thể mang 2 hay 3 quân đoàn đánh dữ dội một cách bất ngờ; làm chúng nao núng, để bảo vệ đất nước ta. Muốn vậy, mỗi người lính phải cho ra một người lính, mỗi tiểu đội phải ra một tiểu đội.
Có vẻ Đặng Tiểu Bình đã tính toán một cách khôn ngoan, hôm tháng 3 năm 1979, khi ông ta quyết định rút quân về, để cho người Khờ Me Đỏ đánh nhau với Việt Nam, còn Trung Cộng thì chú tâm vào những thành quả kinh tế.
Hồ Sơ Về Sự Liên Hệ Của Lê Duẩn Với Trung Cộng
Điều hữu dụng thứ ba, điều khó khăn nhất, mà chúng ta có thể dựa trên tập tài liệu của Lê Duẩn như một nguồn liệu để biết mối tương giao của tác giả với các nhà lãnh đạo Trung Cộng trong toàn thời kỳ từ năm 1952 cho tới năm 1979. Vì do thiếu sót những tài liệu khả tín, đây chỉ là sự thử nghiệm mà ta không nên vẽ ra những ảo tưởng về mức độ chính xác của những gì Lê Duẩn nói.
Lê Duẩn nói rằng ông ta lần đầu tiên viếng thăm Trung Cộng để chữa bệnh năm 1952. Theo lời kể của ông ta thì ông ta ngạc nhiên bởi sự thật là vùng mà ông ta đến thăm viếng (có lẽ Quảng Tây hay Quảng Đông) đã không có bất cứ một cuộc chiến tranh du kích nào để chống trả lại người Nhật trong thời gian Nhật Bản chiếm đóng mặc dù rất đông dân. Sự kiện này được dùng trong tập tài liệu để đưa ra sự khác biệt căn bản giữa lòng can đảm của người Việt Nam và lòng nhát nhúa của người Tầu. Lê Duẩn tuyên bố là Hồ Chí Minh xác nhận ấn tượng này. Câu chuyện này có lẽ nói lên phần nhiều về thái độ của Lê Duẩn ở năm 1979 hơn là ấn tượng thật sự của ông ta lúc đó. Chúng ta không cả biết từ bất cứ tài liệu nào khác nói là ông ta đã có qua Trung Quốc hay không.
Những gì ông ta nói về phản ứng của mình qua hiệp định Geneva năm 1954 thì tin được hơn. Trong thời gian đó, ông ta cầm đầu Liên Khu ở phía miền nam Việt Nam, không có lý do gì để nghi ngờ sự bực dọc của ông ta khi phải nói những đồng chí của mình không được đấu tranh quân sự và quay qua đấu tranh chính trị hay tập kết ra bắc qua vĩ tuyến 17. Trong tập tài liệu 1979 của mình, ông ta tuyên bố đã có lúc tức giận dữ dội trước mặt Chu Ân Lai (có lẽ là hôm 13 tháng 7 năm 1971) khi họ Chu đến Hà Nội để giải thích về cuộc trăng mật của Trung Cộng và Hoa Kỳ. Lê Duẩn bèn nói về cảm tưởng của mình ở năm 1954 khi ông ta ở Hậu Nghĩa (tây bắc của Sài Gòn, nơi mà hệ thống địa đạo nổi tiếng Củ Chi sau này được tạo dựng). Và ông ta nói họ Chu đã xin lỗi, công nhận lỗi lầm của mình (14).
Tuy nhiên điểm không chắc chắn là nếu ông ta đổ lỗi cho Trung Cộng đã làm điều sai lầm năm 1954, trong thời gian đó, các nhà lãnh đạo Trung Cộng, Liên Sô và bắc Việt Nam cùng nhau mạnh mẽ ủng hộ hiệp định này, và Lê Duẩn như thế nên đổ lỗi cho chính các nhà lãnh đạo quốc gia của mình cho điều sai lầm đó. Có lẽ khoảng thời gian khá lâu sau này, trước khi Lê Duẩn khám phá ra vai trò quan trọng của Chu Ân Lai trong sự ép buộc các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải chấp nhận vĩ tuyến 17 là làn ranh chia đôi giữa miền nam và miền bắc Việt Nam. Người nói cho ông ta biết điều này có lẽ là ông Phạm Văn Đồng, người cầm đầu phái đoàn Việt Nam tại Geneva (15).
Thời kỳ tạo thái độ bất mãn của Lê Duẩn với Trung Cộng có lẽ ở vào cuối thập niên 50 khi ông ta cầm đầu nỗ lực tìm sự ủng hộ của người Nga và Trung Cộng trong việc tái lập cuộc tranh đấu võ trang ở miền nam Việt Nam. Ở thời gian đó, họ Mao đang hô hào Bước Nhẩy Vọt Vĩ Đại và đã đẩy đất nước vào cơn khủng hoảng khiến không thể hoàn thành nhiệm vụ quốc tế. Lê Duẩn chắc chắn là đã thấy điều này.
Trong tập tài liệu 1979 của mình, ông ta đã quay lại nhiều lần về cách thức làm sao Chu Ân Lai và họ Mao đã cố cản trở người Việt Nam quay lại cuộc chiến võ trang ở Miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ông ta không nhắc đến sự kiện là Liên Sô cũng đã ủng hộ hiệp định Geneva và không khuyến khích Cộng Sản Việt Nam đừng làm những gì có thể khiến người Pháp và Miền Nam Việt Nam được đễ dàng hơn để khỏi phải chú ý đến bổn phận của họ. (16)
Tập tài liệu của Lê Duẩn không phải không có những điều tự mâu thuẫn. Mới đầu, ông ta nói họ Chu có nói đánh hay không đánh là do người Việt Nam quyết định. Sau đó ông ta lại buộc tội họ Chu là đã "áp lực chúng tôi ngưng chiến đấu". Lời nói đầu thì trùng hợp với lời kết luận của học giả Chen Jian: "... các nhà lãnh đạo Bắc Kinh không ngăn chận mà cũng chẳng khuyến khích những nỗ lực của Hà Nội trong việc "giải phóng" Miền Nam bằng quân sự cho tới năm 1962." (17) Lời nói thứ hai có vẻ không được tin tưởng mấy. Lê Duẩn cũng tuyên bố là ông ta đã không nghe lời khuyên của Trung Cộng và bắt đầu xây dựng những lực lượng vũ trang ở Miền Nam Việt Nam: "... chúng tôi không đồng tâm. Chúng tôi bắt đầu và tự phát triển các lực lượng của mình." Chỉ khi mà "chúng tôi đã bát đầu đánh trận lúc đó họ mới cho phép chúng tôi đánh." Những gì, để có lợi cho mình, mà Lê Duẩn đã không nhắc đến là những quan điểm dị biệt giữa các cán bộ gốc Miền nam và một số các nhà lãnh đạo Miền Bắc.
Cho tới năm 1963-64, Lê Duẩn đổi ngược tình thế. Trung Cộng không còn bị cáo buộc là cố ngăn chặn lòng ham muốn chiến đấu của người Việt Nam nữa, mà thay vào đó chính họ lại lộ diện, xây cất đường xá để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trải rộng quyền lực của Trung Cộng vào vùng Đông Nam Á, và gửi quân sang để bắt đầu chế ngự Việt Nam. Thủ phạm chính là họ Mao.
Chúng ta biết tới ba trường hợp mà Lê Duẩn đã gặp họ Mao. Lần gặp đầu tiên trong năm 1963 ở Wuhan nơi mà họ Mao (theo cuốn bạch thư của người Việt Nam) đã tiếp một phái đoàn của Đảng lao Động Việt Nam. Trong buổi họp đó, Lê Duẩn nói là đã hiểu ý định thật sự của họ Mao và đã cảnh cáo ông ta là Việt Nam có thể đánh bại các lực lượng Trung Cộng dễ dàng. Họ Mao đã cố tình hỏi Lê Duẩn: "Đồng chí , có đúng là dân tộc ông đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?" Lê Duẩn nói: "Đúng như vậy." "Lại một lần nữa, có đúng không, đồng chí, là các ông đã đánh bại quân nhà Thanh?" Lê Duẩn trả lời: "Đúng như vậy." Họ Mao nói: "Và cả quân nhà Minh nữa?" Tới lúc đó Lê Duẩn nói là đã cộng thêm vào một cách thẳng thừng: "Đúng, và cả quân đội của anh nữa. Tôi đã đánh bại cả anh nữa (hay có lẽ "và tôi có thể đánh bại cả anh nữa") Anh có biết điều đó không?" "Tôi đã nói chuyện với Mao Trạch Đông như thế", Lê Duẩn biện minh, và ông ta nói: "Có, có!"
Đây là cuộc đối thoại gài nhau để mà diễn dịch. Một mặt có vẻ đúng là họ Mao đã hỏi những câu hỏi được nói đến. Họ Mao thích trêu cợt người khác như vậy. Nhưng khó có thể tin là Lê Duẩn đã thách đố họ Mao thẳng thừng như thế. (18) Từ 77 Cuộc Đàm Luận chúng ta biết rằng Lê Duẩn trong hai cuộc họp kế tiếp với họ Mao (13/8/64 và 11/5/70) đã giống như người hầu tớ đứng cười sung sướng trước mặt chủ. Năm 1964, ông ta nói rằng "yểm trợ từ Trung Quốc thì không thể thiếu" và "những người Nga xét lại muốn dùng chúng tôi để trả giá". Năm 1970, ông ta xin họ Mao những chỉ thị, và miêu tả sự thành công của Việt Nam tới độ "chúng tôi đã thi hành 3 điều chỉ thị mà Chủ Tịch Mao trao cho chúng tôi trong quá khứ", chỉ thị đầu tiên là "không sợ, chúng ta không nên sợ kẻ thù". (19) Lê Duẩn trong cuốn 77 Cuộc Đàm Luận là một người khác hoàn toàn không giống như người được kể ở năm 1979, nhưng con người ta khi nhớ về hành động của mình thì thường khác xa những gì người khác thấy lúc đó.
Có một điểm khác biệt lớn lao giữa những gì Lê Duẩn (và cuốn bạch thư Việt Nam) nói về sự liên hệ Việt Nam-Trung Cộng trong những năm 1963-65, và những gì Trung Cộng nói. Theo Lê Duẩn kể, họ Mao là người muốn xây đường xá vào Việt Nam, và muốn gửi quân đội qua, trong khi đó Lê Duẩn chỉ muốn trợ giúp về hiện vật. Theo tất cả những lời kể dựa trên các nguồn tin của Trung Cộng thì sự yêu cầu giúp đỡ xây đường xá và gửi quân tình nguyện qua là từ phía Việt Nam, và được thỉnh cầu bởi Lê Duẩn và Hồ Chí Minh (20) Điều này cũng đã được công nhận trong một số đàm luận trong cuốn 77 Cuộc Đàm Luận. Lê Duẩn tuyên bố: "Tôi chỉ hỏi họ gửi người, nhưng họ mang theo cả súng và đạn dược", không có vẻ phù hợp với những chứng cớ. Sau khi các đơn vị quân đội chống phòng không Trung Cộng đến Việt Nam, song le, tình trạng căng thẳng đã biểu lộ giữa hai phía, và sau khi Kosygin của nước Nga đồng ý viện trợ lớn lao cho Việt Nam tháng 2 năm 1965, vị thế Việt Nam đã trở nên độc lập hơn. Giọng điệu trong cuốn 77 Cuộc Đàm Luận thay đổi rõ ràng từ lúc đó trở đi.
Những gì Lê Duẩn nói từ cuối thập niên 60 và thập niên 70 trùng hợp với những gì Trung Cộng nói. Năm 1969, Lê Duẩn nói đã triệu tập những cán bộ quân sự để cảnh cáo họ là Trung Quốc đã bắt tay với đế quốc Mỹ, và họ phải nghiên cứu vấn đề này, có nghĩa họ phải sửa soạn cho những xung đột trong tương lai với Trung Quốc. Quan tâm về đường lối mới của Trung Cộng với Mỹ, Lê Duẩn kết tội y như cuốn bạch thư Việt Nam: "Trong suốt thời gian đó, Trung Quốc đã công bố (với Hoa Kỳ): "Nếu anh không đánh tôi, tôi sẽ không đánh anh." Vì vậy họ đã để người Mỹ ở một vị thế mạnh hơn ở Việt Nam. Điều này dĩ nhiên là hữu lý. Trung Cộng đã nhấn mạnh quyền lợi to lớn của họ qua sự thiệt hại của Miền Bắc Việt Nam.
Điều ngụy biện nổi bật trong tập tài liệu của Lê Duẩn là cuộc đối thoại mà ông ta nói xẩy giữa ông ta và Chu Ân Lai ở Hà Nội (có lẽ vào khoảng tháng 11 năm 1971). Trước khi Nixon qua Trung Cộng, Lê Duẩn kể, mục đích của ông ta là gỡ rối quan hệ giữa Hoa kỳ và Việt Nam qua sự giúp đỡ của Trung Cộng, trong khi đó lôi kéo Trung Cộng theo Hoa Kỳ trong vấn đề ngoại giao quốc tế. Nghe nói thì Chu Ân Lai nói với Lê Duẩn: "Trong lúc này, Nixon đến thăm tôi, chính là để bàn về vấn đề Việt Nam, vì vậy tôi phải đến gặp đồng chí để trao đổi quan điểm."
Theo lời Lê Duẩn thì ông ta trả lời: "Đồng chí có thể nói bất cứ điều gì đồng chí thích, nhưng tôi sẽ không nghe theo. Đồng chí là người Trung Quốc, tôi là người Việt Nam. Việt Nam là của tôi; không phải của đồng chí." Một lần nữa, Lê Duẩn nói đã nói chuyện một cách hằn học với người Trung Cộng trong cuộc họp với mình. Lần này có thể tin được. Nói chuyện một cách hằn học với Chu Ân Lai ở Hà Nội năm 1971 thì dễ hơn là nói với họ Mao ở Wuhan năm 1963. Đó là điều lý thú để xem nếu bản tường trình buổi họp tháng 11 năm 1971 của họ Chu ở Hà Nội có nhắc đến lòng quốc gia cương trực của Lê Duẩn.
Lời nói về nhu cầu tìm tòi các văn kiện
Trong suốt thập niên 90, liên hệ Việt Nam-Trung Cộng tiến triển rất khả quan. Năm 1979 là năm tồi tệ nhất, và Trung Cộng và Việt Nam hãy còn thù địch nhau qua suốt thập niên 80 với quân đội đông đảo của hai bên dọc biên giới, không đường hỏa xa, mọi đường xá bị đóng. Liên hệ ngoại giao từ từ tiến triển ở giữa thập niên 80, và Việt Nam rút quân ở Cam Bốt về năm 1989 đánh dấu một bước tiến dài, mở đường cho bình thường hóa liên hệ ngoại giao năm 1991. Ngày Ba Mươi Tết năm 1999 (dương lịch), hai vị bộ trưởng ngoại giao đã ký một hiệp định về biên giới ở Hà Nội, và họ giờ đây quyết ý phân vẽ lại những vùng biển ở vịnh Bắc Việt trước cuối năm 2000 (Trung Cộng và Việt Nam đã họp để cố giải quyết vấn đề này, cả hai bên đều công bố đã gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp về hải phận, nhưng Hoàng Sa và Trường Sa thì Trung Cộng vẫn khư khư bảo là của mình. - Nguyễn Phượng Hoàng). Điều này đã hoàn tất công tác mà Lê Duẩn và Đặng Tiểu Bình đề ra cho chính họ năm 1977, lúc đó không có một chút hy vọng gì cả. Đường hỏa xa bây giờ đã được mở lại, và buôn bán dọc biên giới phát triển lớn mạnh. Liên hệ giữa hai nước, giữa hai đảng và giữa hai quân đội ngày càng trở nên thường xuyên hơn, và những tỉnh biên giới đóng một vai trò quan trọng trong việc kết chặt văn hóa và phát triển thương mại. Các lãnh vực nghiên cứu của người Việt Nam và Trung Cộng cũng đã trao đổi với nhau. Điều này có thể thấy ở buổi Hội Thảo Nghiên Cứu Việt Nam thật quy mô ở Hà Nội năm 1988, nơi mà các nhà khoa học xã hội Việt Nam và Trung Cộng bàn luận cả những vấn đề có tính cách thuyết phục (như vấn đề gốc gác của những người sống dọc biên giới giữa hai nước) ngay trước mặt những nhà nghiên cứu ngoại quốc.
Điều này có nghĩa gì cho việc nghiên cứu lịch sử hiện đại về mối liên hệ Việt Nam và Trung Cộng? Khi hai quốc gia phát triển sự liên hệ tốt đẹp, điều này thông thường bao gồm những nghiên cứu về những khó khăn của họ trong quá khứ. Những nhà sử học Việt Nam và Trung Cộng sẽ làm sao để nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề lịch sử về sự liên hệ? Có một cách là mỗi quốc gia tự viết những nghiên cứu riêng của mình, các nhà sử học Trung Cộng tìm tòi ở văn khố Trung Cộng và viết sách tiếng Tầu về Chính Sách của Trung Cộng với Việt Nam, và những nhà nghiên cứu Việt Nam tìm tòi trong các văn khố Việt Nam để viết những sách Việt Nam về những khó khăn của Việt Nam với người hàng xóm to lớn phương bắc. Một cách khác là tiến trình song phương với các nhà sử học Việt Nam và Trung Cộng làm việc với nhau để tìm hiểu lịch sử mối liên hệ của hai nước, và cùng phát hành chung những sử liệu, hay nhất là bằng cả hai thứ tiếng. Điều này có thể thực hiện dưới một hình thức cao cấp, theo cách kín, với các sử gia tin tưởng của cả hai bên tạo thành một ủy ban liên hợp và có đặc quyền tra cứu các tài liệu đã được các nhà lãnh đạo của cả hai đảng cho phép, hay nó có thể thực hiện dưới một hình thức cởi mở hơn (21). Cách thứ ba là một tiến trình học thức mở rộng, tất cả các học giả nghiên cứu vấn đề đều được phép sử dụng những nguồn tài liệu của Việt Nam và Trung Cộng, và một số các sách hay các bài viết thi đua được xuất bản bằng tiếng Việt, Tầu, Anh và các ngôn ngữ khác.
Cả ba cách thức trên được đề ra dựa trên sự giả định là chính quyền Việt Nam và Trung Cộng ngày nay đã trở nên tự tin hơn ngày trước, không còn sợ hãi các cuộc nghiên cứu độc lập, và cho phép sử dụng những nguồn sử liệu then chốt. Hiện tại lúc này, bầu không khí trí thức của cả hai nước hình như khô cứng hơn. Điều này có thể kéo dài tình trạng kỳ quái hiện tại là những học giả ở bên ngoài Việt Nam và Trung Cộng lại có thể sử dụng những nguồn liệu tốt hơn những người bạn đồng nghiệp ở trong nước, và được tự do viết và xuất bản những gì họ muốn. Cách duy nhất để đảm bảo những học giả trong nước Việt Nam và Trung Cộng có thể đóng một vai trò hữu hiệu khi nghiên cứu lịch sử về quan hệ hỗ tương của hai nước là cho phép một bầu không khí trí thức mới, cởi mở hơn với các nguồn liệu được công khai hóa, các buổi thảo luận liên hợp và khuyến khích các cuộc nghiên cứu có tính cách học hỏi.
Tài Liệu Tham Khảo Và Chú Thích:
(1) Sự Thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua [The Truth concerning Vietnamese-Chinese Relations over the Past 30 Years], Hanoi: Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1979. Cuốn Bạch Thư cũng được phát hành bằng ngoại ngữ, và kể từ lúc này chúng tôi tham khảo bằng ấn bản tiếng Pháp La vérité sur les relations Vietnamo-Chinoises durant les trente dernières années, Hanoi, Ministères des Affaires Etrangères, 1979.
(2) Cuốn Bạch Thư của Việt Nam đã được trả đũa bởi một cuốn tương tự được phát hành bởi Trung Cộng: On the Vietnamese Foreign Ministry's White Book Concerning Viet Nam-China Relations, Beijing: Foreign Languages Press, 1979. Theo sự đáp lời của Trung Cộng thì cuốn bạch thư của Việt Nam là một sự cố gắng để "bóp méo, phá rối và ngụy tạo lịch sử trong nỗ lực làm đảo lộn lịch sử giữa hai nước là 30 năm kết chặt tình hữu nghị và cộng tác trở thành điều là Trung Cộng đã cố gắng để kìm chế Việt Nam" (trang 2-3). Không may thay, Trung Cộng thấy rằng những điều "sạo sự" của Việt Nam thì "không đáng để phản luận lại từng điều một". Vì vậy cuốn bạch thư của Trung Cộng có ít chi tiết và ít điều thích thú cho các sử gia hơn là cuốn bạch thư của Việt Nam.
(3) Odd Arne Westad, Chen Jian, Stein Tonnesson, Nguyễn Vũ Tùng và james G. Hershberg (eds), 77 Cuộc Đối Thoại Giữa Trung Cộng và Những Nhà Lãnh Đạo Ngoại Quốc Về Những Cuộc Chiến Tại Đông Dương, 1964-1977, trang 6 (Lời Tựa của Chủ Bút).
(4) Một cuốn sách hữu ích, nghiên cứu tỉ mỉ về những bài luận thuyết của các viên chức Việt Nam, bao gồm cả những bài viết của Lê Duẩn, có thể được thấy qua Eero palmujoki, Revolutionary Pragmatism and Formal Marxism-Leninism. An Analysis of Vietnam's Foreign-Policy Argumentation from the Fall of Saigon to the Collapse of the Socialist World System, Tampere (PhD dissertation), 1995. Bài nghiên cứu bao gồm một số các tài liệu trước cả năm 1975.
(5) Sự kiêu ngạo của Lê Duẩn trong tập tài liệu này có thể được coi như là đã chứng minh đúng một số điều buộc tội của Bùi Tín trong cuốn Following Ho Chi Minh. Memoirs of a North Vietnamese Colonel, London: Hurst, 1995. (See esp. p. 66.). Bùi Tín cũng nói rằng "Lê Duẩn rất hiếm khi viết bất cứ điều gì xuống giấy. Ông ta nói những gì trong đầu ngay lúc đó. Ông ta bị nói cà lăm rất nặng và rất khó nghe. Đó là điều ai cũng cảm thấy. Tất cả mọi người trở nên mệt mỏi để cố gắng hiểu xem ông ấy đang nói cái gì vì lối nói chuyện không văn phạm của ông ấy." (trang 105).
(6) William J. Duiker, The Communist Road to Power in Vietnam, Boulder CO: Westview, 1996 (2nd ed.), p. 385, note 4.
(7) Ralph B. Smith, "Appendix: The Vietnam Workers' Party and its Leaders", An International History of the Vietnam War, vol. 1 (London: Macmillan, 1983), pp. 263-271.
(8) Ralph B. Smith còn tuyên bố xa hơn nữa là Hồ Chí Minh và Lê Duẩn là hai kẻ đối đầu. R.B. Smith, An International History of the Vietnam War, vol. 1, p. 129. Pierre Asselin cũng tuyên bố tương tự như vậy, biện chứng rằng vào năm 1965, Hồ Chí Minh đã (cũng bởi vì sức khoẻ ngày càng suy kém) "bị cố ý và có mục đích cho đứng ngoài lề." Pierre Asselin, "Le Duan and the Creation of an Independent Vietnamese State", unpublished paper presented at the International Conference on Vietnamese Studies in Hanoi, July 1998, p. 2. Bùi Tín (thần tượng là Tướng Giáp) tuyên bố rằng Lê Đức Thọ, Lê Duẩn và Phạm Hùng "đã liên tục cố gắng vô hiệu hóa Hồ Chí Minh" và Phạm Văn Đồng trong nỗ lực tranh đấu của họ để làm giảm thiểu vai trò và uy tín của Tướng Giáp. Bui Tin, Following Ho Chi Minh, p. 32.
(9) Pierre Asselin tuyên bố rằng Lê Duẩn "là một thí dụ điển hình là người Việt Nam không kính phục cả hai nước đàn anh" (Nga và Trung Cộng), và sau khi ông ta mất năm 1986 đã mở cửa cho mối liên hệ gia tăng giữa nước Việt Nam không chỉ với Trung Cộng mà ngay cả với Liên Bang Sô Viết. Pierre Asselin, "Le Duan and the Creation...", p. 8. Điều này có vẻ thổi phồng quá đáng trong quan điểm nước Việt Nam dựa vào Liên Bang Sô Viết một các nặng nề giữa khoảng thời gian 1978 và 1986, tuy nhiên nếu có mộ tí sự thật nào thì văn khố Nga sẽ cho thấy.
(10) Stephen J. Morris, Why Vietnam Invaded Cambodia. Political Culture and the Causes of War, Stanford CA: Stanford University Press, 1999, p. 181. Morris tìm được tài liệu này trong văn khố của nước Nga.
(11) Có lẽ có một số điều đúng với ấn tượng của Lê Duẩn. Mặc dù đích thân Đặng Tiểu Bình ra lệnh cho Trung Cộng "tự vệ phản công" chống Việt Nam, nhưng cũng chính ông ta là người làm thất bại cuộc hành quân tháng Ba, sau khi Trung Cộng tổn thất hơn 30 ngàn tử vong. Và họ Đặng đã bị chỉ trích sau đó là đã không bẻ gẫy được ngón tay của Việt Nam, chỉ làm đau họ một chút thôi. Xem Richard Baum, Burying Mao. Chinese Politics in the Age of Deng Xiaoping, Princeton NJ: Princeton University Press, 1994, p. 80.
(12) "Aujourd'hui, les forces révolutionnaires ont grandi et occupent une position des plus favorables." La vérité sur les relations Vietnamo-Chinoises, op.cit. p. 58.
(13) Ibid.
(14) Trong cuốn 77 Cuộc Đàm Luận có những đoạn trích từ những bản tường trình buổi họp của 3 buổi tiếp xúc giữa Chu Ân Lai và Lê Duẩn năm 1971 (7 tháng 3 ở Hà Nội, 13 tháng 7 ở Hà Nội, và tháng 11 ở Bác Kinh). Không có đoạn trích dẫn nào có nói về hiệp định Geneva, nhưng cả hai họ Mao và họ Chu trước đó đã thú nhận khi nói chuyện với Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đó là điều sai lầm ở Geneva.
(15) See François Joyaux, La Chine et le règlement du premier conflit d'Indochine, Genève 1954, Paris: Publications de la Sorbonne, 1979.
(16) See Ilya V. Gaiduk, The Soviet Union and the Vietnam War, Chicago: Ivan R. Dee, 1996; and Mari Olsen, Solidarity and National Revolution. The Soviet Union and the Vietnamese Communists 1954-1960, Oslo: Institutt for Forsvarsstudier 4/1997.
(17) Chen Jian, "China's Involvement in the Vietnam War, 1964-69", The China Quarterly, no. 142, June 1995, pp. 356-387 (p. 357).
(18) Theo Bùi Tín, Lê Duẩn nói với người viết về tiểu sử cuộc đời của ông ta trong một cuộc phỏng vấn năm 1983 rằng ông ta giỏi hơn Bác Hồ. Họ Hồ lúc nào cũng "vâng, dạ" với bất cứ điều gì Stalin và họ Mao nói với ông ta. "Còn tôi, tôi đà dám tranh luận với Khrushchev và họ Mao." Bùi Tín, Following Ho Chi Minh, p. 43.
(19) 77 Conversations, pp. 74 (note 117), 163-164.
(20) Chen Jian, "China's Involvement... ", pp. 368-369. See also 77 Conversations, p. 85, Lê Duẩn nói với Liu Shaoqi hôm 8 tháng 4 năm 1965: "Chúng tôi muốn có một số phi công tình nguyện, lính tình nguyện... và những người tình nguyện khác, bao gồm những đơn vị xây cất đường xá và cầu."
(21) Một sự hợp tác cởi mở giữa các nhà sử học Na Uy và Thụy Sĩ đã được khởi đầu để sửa soạn cho cuộc kỷ niệm 100 năm tách rời liên bang Thụy Sĩ-Na Uy trong năm 2005.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 9, 2016 4:35:23 GMT 9
“Sấm Trạng Trình” nói gì về sự sụp đổ của nhà Sản?1- Phụ nữ, mỗi tháng, họ hành kinh 1 lần. Cộng sản, cứ 5 năm, Đại hội Đảng 1 đận. Đận sau, bao giờ cũng hoành tráng hơn, so với đận trước. Kể cả, cái bánh vẽ. Chỉ có mỗi 1 thứ, không bao giờ thay đổi. Đó là, “Báo cáo Chính trị của Đại hội”. Báo cáo nào, rồi cũng vẫn “kiên định chủ nghĩa Mác – Lê”. Kèm theo tí dưa góp, “Tư tưởng Hồ Chí Minh”. Xem lắm, thấy nhàm. Nhàm đến mức, Báo cáo Chính trị của Đại hội này, chỉ cần sửa vài từ, là có thể, dùng cho Đại hội sau. Đến kì hành kinh, à quên, đến kì Đại hội Đảng các cấp, chỉ có mỗi một vấn đề khiến người ta tò mò: Dân Việt, sẽ bị kẻ nào cai trị trong 5 năm tới. Và, sau bao lâu nữa, chúng sẽ giúp Việt Nam, soán được cái ngôi đội sổ của thiên hạ. Đại hội lần thứ 12 vừa rồi, chẳng phải là ngoại lệ. Phần lớn thời gian của nó, được dùng cho việc đấu đá và tranh giành ngôi vị. Đó là kì Đại hội, chỉ của riêng 2 ông: Phú Trọng và Tấn Dũng. Trước khi bước vào Đại hội, nhiều người bán nhà, để đặt cửa Tấn Dũng. Chẳng phải, họ yêu quí ông ta. Chỉ vì, thế và lực của ông ta, quá mạnh. Chỉ những kẻ xổng chuồng ở trại “Tâm thần Trâu quỳ” ra, mới cổ vũ cho Phú Trọng. Một cái anh chàng, văn dốt – võ nhát. Cả đời, chỉ biết đánh võ mồm. Nói gì, cũng sai – làm gì, cũng hỏng. Sức thì yếu – tuổi lại phá khung. Kết cục, đảo lộn hoàn toàn. Phi lí, đến mức cùng cực. Sau Đại hội, ối kẻ bị vỡ tim mà chết. Giải thích cho cái sự thành công của Phú Trọng, thiên hạ, đưa ra 3 giả thuyết: Một là, mả bố nhà Phú Trọng, táng được vào Hàm Rồng – Hai là, Phú Trọng giả “lú”. Nhưng thật ra, ông ta thông minh tuyệt đỉnh – Ba là, Trung cộng chống lưng và thổi đít ông lên. Ai cũng cố sống – cố chết, bảo vệ cho bằng được, cái quan điểm riêng của mình. Thế nên, những cuộc tranh luận về đề tài đó, không bao giờ chấm dứt và bất phân thắng bại. Cho đến 1 ngày đẹp trời, hiền triết Nguyễn Khắc Mai, đưa ra 1 đôi câu đối (đồn rằng, đó là sấm của Trạng Trình). Bấy giờ, thiên hạ mới ngã ngửa người: Tất cả, là mệnh Trời và sự sụp đổ của nhà Sản, không những chỉ là tất yếu, mà nó còn xảy ra trong 1 tương lai hết sức gần. Nguyên văn, đôi câu đối: 秉 燭 無 明 光 自 滅 重 銀 薄 福 產 必 亡 Bỉnh chúc vô minh quang tự diệt. Trọng ngân bạc phúc sản tất vong.Dịch đôi câu đối này, theo cái nghĩa thông thường, nhiều người đã làm. Mình không dám, “vẽ rắn – thêm chân”. Chỉ xin, được nói đôi ba điều, về cái ẩn ý đằng sau của nó: – Vế thứ nhất: Ai cũng biết, khi dầu hết – bấc sẽ tàn. Ngọn đèn nào, cũng tắt. Bóng đêm, sẽ ập tới. CNCS, cũng vậy. Giờ đây, nó đã phá sản hoàn toàn, về mặt Lý luận. “Kinh tế thị trường”, thì được pha với “định hướng XHCN”. Để, làm thành 1 nồi lẩu thập cẩm. Mà mùi vị của nó, khắm vô cùng. Đổ đi, thì tiếc. Còn ăn vào, bụng sẽ trương phềnh lên. Chế độ “người bóc lột người” của cái bon Thực dân – Phong kiến thối nát, đã bị đập tan. Thế vào đó, cũng vẫn chỉ là chế độ “người bóc lột người”. Có điều, tỉ lần, độc ác và man rợ hơn. Một ông Vua, bị đánh đổ. Thế vào đó, là cả 1 lũ ngợm người. Chúng làm “Vua tập thể”… Nói tất cả những thứ đó, chỉ để minh chứng 1 điều: Nguồn nhiên liệu, để giúp thắp sáng lên cái lí tưởng CS, đã không còn. Lãnh đạo CS, toàn những kẻ không có Tâm – chẳng đủ Tầm. Bởi thế, chẳng thể đưa được cái mớ Lí thuyết ma mọi CS vào thực tiễn: Bấc, đã bị thối. Bấc thối, không thể dẫn dầu. Đã thế, dầu cặn lại còn bị pha trôn với rất nhiều nước lã. Ngọn đèn CS, vẫn còn cháy, đã là 1 kì công của Tạo hóa. Nhưng cái sự leo lét của nó, chắc cũng chẳng còn kéo dài được bao lâu. Bởi, ở phía chân trời, cơn báo táp Dân chủ đã xuất hiện và đang sầm sập kéo về. Sinh khí tràn trề, sẽ quét sạch bầu không khí ô nhiễm và hắc ám. Ngày tàn của Đảng CS, đã đến. – Vế thứ 2: Những người Cộng sản, sinh ra trong nghèo khó và thất học. Do đó, không hiểu Đạo lý. Chúng luôn tối mắt – tối mũi trước đồng tiền. Chỉ cần có tiền, dẫu có phải hủy diệt môi trường – dẫu có phải hủy hoại giống nòi – dẫu có phải thiêu rụi cả non sông gấm vóc Việt nam, chúng cũng chẳng từ. Ngày đêm, chúng chỉ ngồi nghĩ ra những mưu ma – chước quỷ. Cốt sao, cướp sạch được mọi thứ của thiên hạ. Từ Chính quyền – của nổi – của chìm – thuế má, cho tới quyền của con người. Tàn ác và man dại, còn hơn cả bầy cầm thú. Của phi nghĩa, chẳng bền – Bọn bạc phúc, sao có thể ổn cố được. Bởi thế, tương lai của nhà Sản, đã được Trạng Trình đóng đinh trong có mỗi 1 chữ. Đó là, “vong”. 2- Có lần, một độc giả hỏi mình: “Bác nói, chế độ CS, nhất định sẽ sụp đổ. Nhưng liệu bác có nói được, khi nào thì nó sụp đổ hay không?”. Mình thưa với bác ấy: “Chế độ CS, chúng hoàn toàn đi ngược với tất cả những qui luật của Tự nhiên và Xã hội. Bởi vậy, sự sụp đổ của nó, là 1 điều chắc chắn. Tôi không phải là nhà Tiên tri. Bởi thế, không thể biết được chính xác, bao giờ thì nó sẽ sụp đổ. Nhưng có một vĩ nhân, sống cách đây trên 5 trăm năm, đã đưa ra dự đoán về sự kiện này. Mời bác, tìm đọc đôi câu đối của Trạng Trình. Nó đang được lan truyền rất nhanh, trong các tầng lớp Nhân dân. Khảo cổ – nghiệm kim, người ta đều thấy: Trạng Trình, liệu việc như Thần. Nếu lần này cũng ứng nghiệm, thì nhà Sản, không sống sót được qua khóa 12”. Bác ấy hỏi: “Tại sao?”. Xin thưa: Câu sấm này của Trạng Trình, chứa ẩn 1 điều hết sức kì diệu: Có đủ mặt, cả tứ trụ Triều đình nhà Sản: Quang – Trọng – Ngân – Phúc. Ở đó, không có 1 chữ nào, có tên là Dũng cả. Từ cái chi tiết này, có thể khẳng định: Kì vừa rồi, Dũng trượt. Chẳng phải, vì ông ta kém cạnh Phú Trọng. Dũng trượt, là do mệnh Trời. Còn cái câu “sản tất vong”, có thể hiểu là: Khi lãnh đạo chủ chốt của nhà Sản, hội tụ đủ cả 4 nhân vật có tên trong đôi vế đó, thời khắc cáo chung của nó, đã đến. Sợ thiên hạ chưa tin, Trạng Trình, còn nhấn kép vào cái sự kiện này. Bằng cách, hai chữ cuối của 2 vế: bên này, ông để chữ “diệt” – bên kia, ông để chữ “vong”. Ngụ ý, chạy đằng nào, chúng mày cũng phải chết. Bác ấy, chẳng chịu: “Đó chỉ là sự suy diễn, sao có thể đáng tin. Thực tế, Đảng CS, đang ở trong thời kì mạnh nhất. Nó không thể đổ sập, trong một vài năm tới được”. Mình thưa lại: – Tất cả mọi triệu chứng, đều cho thấy: Ngày mà Đảng CS Việt nam, sẽ nằm đúng vị trí của nó, ở trong cái đống rác của Lịch sử, đã kề cận lắm rồi. Thiên ương và Nhân tai, đang diễn ra hết sức dồn dập và hết sức nghiêm trọng. Kinh tế, suy thoái – Dân chúng, bất an – Cán bộ, biến chất. Giữa thanh thiên – bạch nhật, chúng thản nhiên vác dao – vác súng, xông vào tận trụ sở làm việc, để thanh toán lẫn nhau. Cái độc ác và cái giả dối, đang trắng trợn lên ngôi. Trong khi, Đảng CS cầm quyền, vô kế khả thi, để dẫn dắt Đất nước, thoát ra ngoài những cuộc khủng hoảng đó. Không những thế, họ còn cố tình làm cho nó trầm trọng thêm. Cùng 1 lúc, họ gây thù – chuốc oán với dân chúng, thông qua việc bóp nghẹt Tự do – Dân chủ và mưu sinh của họ. Đồng thời, gây thù – chuốc oán với chính những cộng sự của mình, thông qua chiêu bài “chống tham nhũng”. Mà thực tế, chỉ là tranh quyền – đoạt vị và thâu tóm tiền bạc của nhau. Cả Xã hội, đã đến lúc loạn hết cả lên. Mọi thứ, đã nằm ngoài tầm kiểm soát của Đảng. Đảng CS Việt nam, đã vỡ trận. Thiên – Địa – Nhân, đã cùng đặt thời gian. Để, đếm ngược. 3- Đến đây, lại xuất hiện 1 câu hỏi nan giải. Nếu, Trạng Trình đã biết trước, sẽ có 1 thế lực đủ mạnh, để lật nhào được chế độ CS. Thì, ông dự đoán: ai sẽ là “người cầm cái”, trong cái gọi là cuộc Cách mạng ấy? – Chế độ CS, đã dùng bạo lực, để cướp Chính quyền. Đó là 1 sự thực, không thể chối cãi. “Sinh nghề – tử nghiệp”. Chúng sẽ chết, trong bạo lực. Điều đó, vô nghi. Bạo lực này, có thể, xuất phát từ quần chúng. Cũng có thể, được sinh ra, ngay trong nội bộ của chúng. Hoặc, đồng thời cả hai nhân tố đó. Không có chuyện, chúng chết, do quân đội nước ngoài đổ bộ vào và tiêu diệt chúng. Như, sự việc đã từng xảy ra, ở Campuchia hoặc Iraq. Suốt bảy chục năm có dư, phải sống dưới ách cai trị tàn bạo của CS. Người dân Việt nam, đã quá hiểu bộ mặt thật của chúng. Chúng đàn áp người dân, khiến họ không thể mở miệng – không thể ngóc đầu. Chúng bóc lột họ, đến tận xương – tận tủy. Ai cũng căm ghét chúng và ai cũng muốn tiễn chúng, về với cái Tổ tiên Mác – Lê nhà chúng nó. Tuy vậy, họ vẫn chưa tập hợp được, trong một cái Mặt trận rộng rãi, có tổ chức chặt chẽ và có sự chỉ huy thống nhất. Do đó, dẫu có đông, cũng không mạnh. Họ, lại chưa được luyện tập, một cách thường xuyên. Quan trọng nhất, họ vẫn sợ CS. Họ biết, chúng rất tàn bạo. Nói theo cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng sẵn sàng, “tắm tất cả những cuộc xuống đường của Nhân dân ta, trong bể máu”. Do đó, sẽ là ảo tưởng, nếu nghĩ rằng: những cuộc xuống đường một cách ôn hòa và lẻ tẻ như hiện nay, có thể lật đổ được chế độ CS. Nguyễn Phú Trọng, quá hiểu điều đó. Ông biết, cái Đảng đểu của ông, rồi sẽ bị đổ. Bởi chính những thế lực, nằm ngay trong nội bộ của nó. Chính vì vậy, ông phải nhanh chóng thâu tóm quyền lực. Để tự mình, giữ được cái thể chế thối nát này, ít nhất, cho đến hết cái thế kỉ thứ 21. Hệ quả, tất cả những thế lực trong Đảng, dám cả gan ngáng chân ông, đều phải bị tiêu diệt. Nhưng, đó chỉ là sự giãy giụa trong cơn tuyệt vọng của 1 kẻ cuồng tín và giáo điều. Xưa – nay, có ai “bẻ nạng – chống Trời” mà đã thành công? a- Binh pháp Tôn tử, có câu: 主孰有道. Chủ thục hữu Đạo. Nghĩa là, bên nào có chính nghĩa, bên đó có nhiều cơ hội để giành phần thắng. Trong cuộc đấu đá nội bộ lần này, tất cả các phe phái, đều không vì quyền lợi của Nhân dân và của Đất nước. Do đó, chúng không được sự ủng hộ của Nhân dân. Tuy nhiên, cái phe bảo thủ của Phú Trọng, luôn kiên định chủ nghĩa Mác – Lê, cộng với xu thế ngả Tàu, sẽ làm mất lòng dân nhiều hơn. Chỉ cần, phe kia tung ra được bằng chứng khả tín. Phe bảo thủ, khó lòng mà chống đỡ. Chuyện đó, nào có khó gì. Bằng chứng, đầy. Mật ước Thành đô, chẳng hạn. Đó là lí do thứ nhất, khiến phe Trọng tất bại. b- Muốn “đội đá – vá trời”, trước hết. phải kiểm đếm lực lượng. Chí ít, trong tay phải có đủ cả 2 thứ, đó là quân và tiền. Đây toàn là những thứ, mà Trọng không có. Thân, là Bí thư Quân ủy Trung ương, cộng thêm, tay đàn em thân tín nắm Bộ Quốc phòng. Điều đó, hoàn toàn không đồng nghĩa với việc, đã nắm chắc Quân cán. Ai “lương tướng” – ai “bẩn tướng”, Trọng sao biết được. Mảng kinh tế, xưa nay, cũng lại do Dũng nắm. Những tử huyệt của nó, nằm ở đâu, Dũng biết. Muốn phá Trong, dễ ợt. “Trong tay sẵn có đồng tiền/ Nói quấy nói quá, chúng nghe rầm rầm”. Trong cái cuộc chiến sinh – tử này, Trọng chỉ nắm chắc trong tay, có đúng 1 thứ. Đó là, bọn Tuyên giáo. Bọn này, mồm cá ngão. Cả đời, chỉ biết ăn tục và nói phét. “Tiếng hát” của chúng, dẫu có hay, cũng chẳng thể “làm cho giặc điếc tai”. Có thực, mới vực được Đạo. Đó là lí do thứ hai, khiến phe Trọng nhất định bại. c- Sách Lục thao, thiên Quân thế chép rằng: 无恐惧,无犹豫。用兵之害,犹豫最大. Vô khủng cụ, vô do dự. Dụng binh chi hại, do dự tối đại. Tạm dịch: Không được sợ sệt, không được do dự. Trong tất cả những tai hại của việc dụng binh, do dự đứng đầu. Khốn nỗi, đây lại là sở trường của Trọng. Muốn diệt chuột, nhưng ông ta lại sợ vỡ bình. Chống tham nhũng, lúc thế yếu, chỉ muốn dùng vũ khí phê bình và tự phê bình. Khi đã “lên hương”, lại ti toe, muốn dùng đại bác và hỏa tiễn xuyên lục địa. Kế hay – mẹo hiểm, dẫu có bày ra với những thằng cha ba phải và nhút nhát, phỏng có ích gì. Viên Thiệu, há chẳng phải tấm gương tày liếp đó sao? Tầm như Trọng, diệt ruồi cũng khó. Sao dám uống thuốc liều, để cưỡi lên lưng cọp. Đó là lí do thứ 3 khiến phe Trọng tất bại. d- “Yếu, đừng đứng ra trước gió”. Vừa mới ốm dây, đang còn phải ăn trả bữa. Thế mà, Trọng dám cả gan vác đinh ba, bổ cùng 1 lúc vào cả ba bốn con cọp. Ông muốn: loại Quang – sờ đít Thăng – xách tai Hoàng và mục tiêu cuối cùng, tóm gáy cừu thù Tấn Dũng. Trong câu Sấm của Trạng Trình, xin độc giả, hãy để ý kĩ đến 1 điểm khác thường: Tứ trụ, được chia ra làm 2 mảng và cho vào cả 2 vế. Có điều, 2 mảng ấy, không quân bình. Quang được tách ra, để đứng riêng ở 1 vế. Ba tay còn lại, chung nhau 1 cái chuồng. Trong cái chuồng ấy, Trọng và Ngân dính với nhau, làm thành 1 cặp đôi hoàn chỉnh. Bỏ chữ Trọng, chữ Ngân ở đây, chẳng có ý nghĩa gì và ngược lại. Riêng Phúc, hình như, chưa được sự tín nhiệm tuyết đối. Do đó, tuy là đồng bọn và được đồng sàng. Nhưng quan hệ với đôi kia, vẫn bị lép vế và chỉ được đứng ở hạng chầu rìa. Một khi, đã là câu đối, 2 cái vế của nó, phải đối nhau chan chat. Từ cái logic hình thức đó, mà suy ra rằng: Quang, hoàn toàn đối nghịch với 3 tay kia. Thực tế diễn ra, cũng gần đúng như vậy. Chỉ cần, xét trên vài luận điểm: – Trong phiên tòa xét xử Dương Chí Dũng, ông ta khai ra những chi tiết, có liên quan tới Trần Đại Quang. Những chi tiết này, hoàn toàn bất lợi cho ngài Chủ tịch. Bởi thế, ngay lập tức, Chí Dũng đã bị quan tòa bịt miệng. Tuy vậy, không hiểu sao, cái Video clip ấy, lại bị rò rỉ ra bên ngoài. Phiên tòa ấy, chỉ có 2 loại người được vào: Công an và Tuyên giáo. Lộ ra ngoài, chẳng có loại thứ 3. Công an, dẫu cho ăn gan hùm, cũng không dám tố Thủ trưởng của mình. Do đó, có thể kết luận, 1 cách hết sức chắc chắn: Chính bọn Tuyên giáo lẻo mép, đã cố tình tiết lộ chi tiết này. Tuyên giáo, là con đẻ của đứa nào và tại sao, chúng lại làm như thế? Câu trả lời, xin nhường cho độc giả. – Cái màn kia, tuy đê hèn và hiểm độc. Nhưng chưa đủ sức, đánh gục được Đại Quang. Lý do, tướng Phạm Quý Ngọ, nhân chứng duy nhất trong vụ này, “đang sống, bỗng đột ngột, chuyển sang từ trần”. Người chết, hết chuyện. Nghi án, đã được đóng lại vĩnh viễn. Cay cú, Trọng bày keo khác. Ông cho ban hành riêng, cái Thông báo số 13- TB/TW. Thông báo này, xác quyết: “Tuổi của đảng viên, xác định theo tuổi khai trong hồ sơ lý lịch gốc”. Đến nước này, Đại Quang hết đỡ. Quá lứa – nhỡ thì. Chỉ một hai năm nữa, Quang sẽ phải “ô tô ma tích”, cắp đít về hưu. Cùng với vết nhơ, khai man Lí lịch. Trong khi, Trọng lại có “miễn chiến bài”, về cái chuyện tuổi tác. Chưa kể đến chuyện, Trọng còn lần mò, để chen chân ngồi vào Đảng ủy Công an Trung ương. Chút quyền lực cuối cùng của Quang, cũng chẳng còn. Ông ta, trở thành dạng “hữu danh – vô thực”. Phú Trọng, quá giỏi. Ép Quang, hơn ép giò. Quang đã về rồi, khác gì, con rắn mới lột. Đánh kiểu gì, chẳng chết. Hai tay còn lại, không ai đủ trình và chẳng ai dám mơ, tới cái chân Tổng Bí thư. Trọng, “đành” phải lỗi hẹn, để ôm trọng trách hết khóa. Đó là lí do cơ bản nhất, khiến Trọng phải loại cho bằng được Đại Quang. Để, giữ vững ngôi vị, “tay tham nhũng quyền lực số một của Việt nam”. – Tất nhiên, Đại Quang có thể khoanh tay, ngồi chờ người ta nện mình hay không, lại là chuyện khác. Xét về trình độ và bản lĩnh, ông ta, đều vượt trội, so với cái tay gà mờ Phú Trọng. Con người kín đáo và chuyên làm nghề An ninh như ông ta, một khi đã hành động, ít khi, để lại dấu vết. Trịnh Xuân Thanh, chỉ là khúc nhạc dạo đầu. Kịch hay, đang còn ở phía trước. Nguyễn Tấn Dũng, cũng là tay sừng sỏ có tiếng. Ông ta, đã từng, làm cho Trọng phải nức nở trước bàn dân thiên hạ. Bây giờ, mất sạch quyền hành. “Hổ xuống đồng bằng, bị chó khinh”. Đòn thù, nếu có giáng xuống ông ta, cũng là điều dễ hiểu. Nhưng còn Đinh La Thăng, ông ta có tội tình gì, khiến cho Phú Trọng phải lao tâm – khổ tứ? Câu trả lời, hết sức đơn giản: Đây là tay tham nhũng và làm thất thoát rất nhiều tiền bạc của Nhân dân và Đất nước. Quan trọng hơn, y rất giàu. “Đánh con – kể tội”. Dân, thì được hả lòng. Còn phe bảo thủ, thu tiền về cả mớ. “Nhất tiễn – song điểu”. Ngu gì, mà không làm. Xưa, Võ Tòng ở bên Tàu, là 1 dũng sĩ. Cùng bất đắc dĩ, mới phải đánh nhau tay không, với chỉ 1 con hổ. Nay, thư sinh Phú Trọng, dám tay không, xông vào giữa đàn hổ. Ngưỡng mộ, vô cùng. Đó là lí do thứ 4, khiến phe Trọng tất bại. Chừng ấy thứ, cũng thừa đủ, để Phú Trọng thân bại – danh liệt. Kể thêm nữa, làm gì. Chỉ biết rằng, cuộc giải phẫu mới bắt đầu. Nhưng mọi thứ, đã rối tinh – rối mù. Còn nội bộ, đã hoảng loạn hết cả lên. Bởi, đố tìm thấy ông cán bộ CS nào, liêm khiết. Các phe phái, đã buộc phải phân hóa – đã buộc phải co cụm – đã buộc phải sắm sửa khí giới và tất cả nín thở, đợi Trọng, sờ đến phao câu của mình. “Long tranh – hổ đấu” lần này, sẽ phơi bày tất cả những cái thối tha của cái Đảng CS đểu. Kết thúc cuộc chiến, ngôi nhà CS, sẽ bị phá tan hoang. Kẻ thắng cuộc, không thể dựng lại thể chế CS được nữa. “Đắm đò – giặt mẹt”. Họ sẽ phải lưu tên mình trong Lịch sử, bằng cách khác. Tỷ như, cách mà Yeltsin đã làm ở nước Nga, hoặc cách mà Thein Sein vĩ đại đã làm ở Miến điện. Bởi, chỉ có dùng cách đó, sự mất mát của họ, mới không nhiều. Nếu không muốn nói, là ngược lại. Người đó, không thể là Phú Trọng, Vậy, Trạng Trình nhắm ai? 4- Đọc đến câu “Quang tự diệt”, chắc chẳng có ai hiểu 1 cách thô thiển rằng: Nếu bị Trọng ép, Quang sẽ “học tập và làm theo tấm gương” của xạ thủ Đỗ Cường Minh. Không, ngàn vạn lần, không có chuyện đó. Con tắc kè hoa, khi gặp nạn. Giữa cái sống và cái chết đang cận kề, nó chọn cách làm rụng đuôi của mình và tháo chạy. Những đối thủ của Trọng, cũng thế. Khi bị dồn vào tử địa, họ chỉ có 2 cách lựa chọn: Một là, bị Trọng khai trừ ra khỏi Đảng và bị điệu ra Tòa án của Trọng. Hai là, tự đoạn tuyệt với cái Lý tưởng CS đểu của mình và quay về với Nhân dân. Khôn ngoan, không ai chọn phương án một. Do đó, lời Sấm của Trạng Trình, phải hiểu là: Nếu bị ép vào tử địa, Đại Quang, sẽ chọn phương án 2. Sau đó, tập hợp lực lượng, để dọn dẹp sạch sẽ cái bãi rác, có tên là CS. Mở đường và đảm bảo cho cái lộ trình Dân chủ hóa ở Việt nam, được diễn ra trong Hòa bình. Máu của con dân Đất Việt, sẽ bị đổ ra 1 cách ít nhất. Còn ông, sẽ ghi tên mình vào Lịch sử, như một “Thein Sein của Việt nam”. 5- Đến đây, bác độc giả cười rũ rượi: “Đó là câu chuyện hoang đường và nhảm nhí nhất, mà trong đời, tôi đã nghe được”. Mình thản nhiên: – Lịch sử, đã ghi nhận những chuyện hoang đường và nhảm nhí, còn hơn thế nhiều. Chỉ xin, nêu vài dẫn chứng: Cho đến cuối những năm 80 của thế kỉ trước, ai nói rằng: “Liên xô, thành trì của phe XHCN, sẽ sụp đổ hoàn toàn vào năm 1991”, người đó, chắc chắn, bị coi là kẻ hoang tưởng. Trước Đại hội lần thứ 12 của Đảng CS, ai nói rẳng: “Nguyễn Phú Trọng trúng Tổng Bí thư”, người đó, chắc chắn, bị coi là kẻ thần kinh. Euro 2004, ai nói rằng: “Hy lạp, sẽ là đội vô địch”, kẻ đó, chắc chắn, sẽ bị coi là người ngoài hành tinh. Bác ấy đờ đẫn, như vừa bị trúng phong. Lát sau, lắp bắp hỏi: “Này, cái lão Dân già. Thiên cơ, bất khả lậu. Sao, lão cứ phèng phèng nói ra, như thế? Đã dám nói thế, sao không nói nốt: Bao giờ, thì thiên hạ thái bình?”. Mình cười: “Tôi chỉ là người hát rong. Bác và bà con, chấp làm gì. Trong bài Thử luận Sấm Trạng Trình (Trang Bùi Văn Bồng Ngày 25 – 9 – 2016), tác giả Minh Lê, đưa ra dự đoán: Thân – Dậu niên lai, kiến thái bình. Nghĩa là, nhà Sản sẽ ngắc ngoải vào năm Bính Thân (2016) và không sống được quá năm Đinh Dậu (2017) đâu. Tôi và bác, hãy ráng chờ”. Nguyễn Tiến Dân @ DanChimViet TBT Nguyễn Phú Trọng truy quét “lợi ích nhóm” cũ để hình thành “nhóm lợi ích” mới?Nguyên Nghĩa Đến nay, xem ra kế hoạch “tái cấu trúc” của ông TBT Nguyễn Phú Trọng đề ra đã bước sang năm thứ 6, nhưng vẫn giậm chân tại chỗ… Để trả lời câu hỏi nêu trên, mời quí vị duyệt lại các diễn biến trong quá khứ, kể từ ngày ông Nguyễn Phú Trọng nhậm chức Tổng Bí thư Đảng CSVN nhiệm kỳ đầu (19/1/2011). Trước tiên là bài “Phát biểu của Tổng Bí thư bế mạc Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.” (ngày 10/10/2011) Sau 8 tháng 21 ngày nhậm chức, ông Nguyễn Phú Trọng hô hào tái cấu trúc 3 lãnh vực… tái cấu trúc? tái cơ câu? Nguồn: OntheNet “[…] Trong 5 năm tới, cần tập trung vào 3 lĩnh vực quan trọng nhất: Tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước. […] Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách đầu tư phải có tầm nhìn xa, không bị “tư duy nhiệm kỳ”, tư tưởng cục bộ, bệnh thành tích, chủ quan duy ý chí hay “lợi ích nhóm” chi phối.” (Xin nhấn mạnh: Ông Nguyễn Phú Trọng nhậm chức Tổng Bí thư ngày 19 tháng 1 năm 2011, tức là cách nay đã 6 năm.)(1) Nhưng ông Nguyễn Phú Trọng lại sợ kế hoạch tái cấu trúc đầu tư, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước bị “các nhóm lợi ích chi phối”, nên… Dư luận cho rằng ông Tân Tổng Bí thư và phe cánh ông ta đã “bật đèn xanh” cho báo chí phơi bày các sự thất bại của Tổng Bí thư tiền nhiệm (Nông Đức Mạnh) và đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đầy quyền lực… Để hỗ trợ cho sự nhận xét trên, xin mời quí vị đọc lại các bản tin liệt kê dưới đây: Báo cáo của Sứ quán Anh tại Hà Nội, tháng 6, 2012: “…Việt Nam có nguy cơ đối diện với sự tồi tệ nhất; doanh nghiệp Nhà nước hoạt động không hiệu quả cả trong việc chiếm lĩnh thị trường nội địa. They have interest groups strong enough to resist reform (Có các nhóm lợi ích đủ mạnh để chống lại sự cải tổ.)”(2)Đài BBC, 21/9/2012: “Việc Chính phủ cho phép các tập đoàn Nhà nước đầu tư đa ngành trong phương hướng phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010, kèm theo việc bơm tín dụng rẻ tràn lan vào các Doanh nghiệp Nhà nước khiến các doanh nghiệp này bành trướng, mở rộng sang các ngành vốn thiếu kinh nghiệm. Điều này không những làm thất thoát vốn, phát sinh những khoản nợ, nợ xấu khổng lồ mà còn ảnh hưởng đến độ tín nhiệm chung của doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời gây e ngại cho giới đầu tư nước ngoài. Trong lúc đó, sự ưu ái mà Nhà nước dành cho các doanh nghiệp Nhà nước đã tạo ra các nhóm lợi ích đủ mạnh để chống lại sự cải tổ, bản báo cáo của Sứ quán Anh nhận xét.”(3)Thông tấn xã AFP ngày 3/10/2012, bài mang tựa đề “Vietnam PM’s future uncertain as communists meet” “[…] Observers say Dung’s rivals, notably Communist Party Secretary General Nguyen Phu Trong and President Truong Tan Sang, appear to want Dung to pay for his failures. With Vietnam’s economy facing such deep-seated economic problems, the risk of an escalating power struggle between the PM and President Truong Tan Sang that could result in the ousting of the PM and his political allies is increasing.”
“Tương lai của Thủ tướng Việt Nam bấp bênh khi Đảng Cộng sản họp đại hội. […] Các quan sát viên nói rằng những đối thủ của Nguyễn Tấn Dũng, quan trọng hơn cả là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Nhà nước Trương Tấn Sang, cho thấy họ muốn ông Dũng phải trả cái giá cho những sự sai phạm của ông ta. Với nền kinh tế của Việt Nam đang gặp phải các vấn đề về kinh tế đã ăn sâu mọc rễ, nguy cơ sẽ càng tăng thêm về một sự tranh giành quyền lực gay gắt giữa Thủ tướng Dũng và Chủ tịch Nhà nước Trương Tấn Sang mà có thể đưa tới hậu quả là hất ghế Thủ tướng Dũng và phe phái của ông ta.)”(4)VTV ngày 8/10/2012, tựa đề “Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trao đổi về vấn đề lợi ích nhóm”: “[…] Lợi ích nhóm là rào cản lớn nhất trong quá trình tái cơ cấu. Nó có thể thao túng ngân hàng và ảnh hưởng đến cả hệ thống.”(5)Đài BBC ngày 10/10/2012: “[…] Ông Dũng cũng bị gán cho có liên hệ với sai phạm ở các doanh nghiệp Nhà nước đang kẹt cứng về tài chính. […] Ông Sang đã công khai phản đối lại chủ nghĩa bè phái. Trước khi diễn ra Hội nghị Trung ương, ông đã đổ lỗi những vấn đề hiện tại của Việt Nam cho sự suy thoái đạo đức chính trị.”(6)Tuy nhiên phe cánh của ông Nguyễn Tấn Dũng còn mạnh và dư luận cho rằng đằng sau ông Dũng còn bóng dáng của ông cựu TBT Nông Đức Mạnh, nhất là nhờ việc ông Dũng, mà theo báo chí nêu trên thì… “Khu vực DNNN được dành nhiều sự ưu đãi, nên đã nẩy sinh ra các nhóm lợi ích đủ mạnh để chống lại sự cải tổ” của ông Tân TBT Nguyễn Phú Trọng đòi hỏi phải tái cấu trúc 3 lãnh vực béo bở nhất.
Chẳng những không kỷ luật được “đồng chí X” mà ngay cả việc đưa hai ông Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị cũng thất bại. Vấn đề được báo chí loan tải việc BCH Trung ương 6 bác bỏ đề nghị của Bộ Chính trị muốn kỷ luật “đồng chí X” vì bị cho là yếu kém trong việc quản lý kinh tế, ngân sách thâm thủng.(7)Thua keo này, bày keo khác Để ngăn chặn ảnh hưởng của ông Nguyễn Tấn Dũng, phe cánh của Tân TBT Nguyễn Phú Trọng đã tiến hành từng bước như sau. Trước tiên, TBT Nguyễn Phú Trọng ký Quyết định số 158-QĐ/TW, ngày 28/12/2012 của Bộ Chính trị về việc thành lập Ban Nội chính Trung ương phòng, chống tham nhũng. Điều 3 của Quyết định này: “chuyển giao tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, viên chức Vụ Nội chính, Vụ Pháp luật của Văn phòng Trung ương Đảng và Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng về Ban Nội chính Trung ương…”(8)
(Xin nhấn mạnh là: Trước đây, Ban chỉ đạo Trung ương này đã từng được Quốc hội lập ra, bằng Nghị Quyết thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng, Chống Tham nhũng, ngày 08.09.2006, do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng làm Trưởng Ban chỉ đạo.)(9)Hai năm sau, phe cánh ông TBT Nguyễn Phú Trọng nhận thấy ảnh hưởng của ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng với Trung ương Đảng XI còn mạnh và ông Nguyễn Tấn Dũng còn muốn… “hi sinh” nữa để làm Tổng Bí thư, nên ông Trọng phải ra luật lệ mới ban hành để chặn đường ông Dũng bằng Quyết định số 244-QĐ/TW ngày 9/6/2014 của BCH TW v/v Quy chế bầu cử trong Đảng; trong đó có đoạn ghi rằng: “Ở các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do Bộ Chính trị đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của Bộ Chính trị.”(10)Đến nay, xem ra kế hoạch “tái cấu trúc” của ông TBT Nguyễn Phú Trọng đề ra đã bước sang năm thứ 6, nhưng vẫn giậm chân tại chỗ… Vì vậy dư luận trong nước nghi ngờ và đặt câu hỏi là: Liệu ông Nguyễn Phú Trọng có thật sự “truy quét” tận gốc “lợi ích nhóm”, hay đây chỉ là “nước cờ” để hình thành “nhóm lợi ích mới”? 30/9/2016 Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net” Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline hiệu đính và minh hoạ. (1) baodientu.chinhphu.vn/Uploaded_VGP/thukybientap/20111010/phat%20bieu%20cua%20TBT1.htm(2) webarchive.nationalarchives.gov.uk/20140403154217/http:/www.ukti.gov.uk/export/countries/asiapacific/southeastasia/vietnam/premiumcontent/321840.html(3) www.bbc.com/vietnamese/business/2012/09/120921_chaebol_viet_failure.shtml(4) www.bangkokpost.com/print/315274/(5) vtv.vn/trong-nuoc/video-thong-doc-nhnn-trao-doi-ve-van-de-loi-ich-nhom–10684.htmVideo clip ở link nói trên đã bị xóa, nhưng thay vào đó có thể đọc tại link này: kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/ebank/ngan-hang/thong-doc-tuyen-chien-voi-loi-ich-nhom-ngan-hang-2723029.html(6) www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2012/10/121010_quanlambao_tension_signaling.shtml(7) news.zing.vn/bai-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-tai-be-mac-hoi-nghi-bch-tw-dang-post279243.html(8) thuvienphapluat.vn/van- ban/Bo-may-hanh-chinh/Quyet-di nh-158-QD-TW-nam-2012-thanh-la p-Ban-Noi-chinh-Trung-uong-164 151.aspx (8) vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&mode=detail&document_id=16315(10) moj.gov.vn/daihoidaibie u/Pages/van-ban-cua-dang-uy-kh oi.aspx?ItemID=8
|
|