|
Post by Can Tho on Dec 23, 2017 3:09:49 GMT 9
Người Tị Nạn và Việt KiềuSaturday, January 31, 2015 Sau năm 1975, người Việt Nam bỏ nước ra đi tị nạn đã bị Cộng Sản gọi bằng những danh từ khác nhau. Những danh từ nầy mang những hậu ý chính trị gian xảo, do đó việc tìm hiểu ý nghĩa chính xác những danh từ nầy thật cần thiết để chúng ta sử dụng chính xác trong từng trường hợp. Người tị nạn. Khi vào cưỡng chiếm đất miền Nam, cưỡng đoạt tài sản dân miền Nam, Cộng Sản đã gọi tất cả dân miền Nam là bọn Mỹ Ngụy. Đối với người dân có cơ may vượt thoát được bằng những cuộc vựơt biển, vượt biên để xin tị nạn ở các xứ tự do, cộng sản dùng nhiều danh từ thô tục để điểm mặt người tị nạn. Trước tiên, trong một hội nghị với các cán bộ tại Hà nội năm 1975, Trần Phương, Chủ nhiệm Ủy Ban Khoa học Xã hội đã ví von một cách tục tĩu dân miền Nam là những con điếm cho Mỹ làm tình để đổi lấy viện trợ. Cùng trong tư tưởng dâm ô ấy, Lê Duẩn mạt sát những người di tản là một bọn ma-cô, đĩ điếm, Phạm văn Đồng chửi người ra đi là bọn phản quốc, và các nhà báo nhà văn cộng sản, kể cả bọn cộng sản 30 cũng chửi hùa theo là những đồ rác rưởi trôi dạt khắp năm châu bốn bể. cặn bả xã hội, trây lười lao động, chạy theo bơ thừa sửa cặn » . Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế còn hằn học hơn khi tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn năm 1993 tại Amsterdam: Những người di tản đáng bị chặt đầu. Nhưng chẳng bao lâu, Cộng Sản hiện nguyên hình là bọn gian manh. Năm 1990, khi Cộng Sản bắt đầu nhận tiền của người tị nạn gởi về, bọn đĩ điếm được cộng sản «nâng cấp» lên là Việt kiều, và ân tình hơn, Đỗ Mười tuyên bố Việt Kiều là những khúc ruột ở bên ngoài ngàn dặm của dân tộc. Tưởng cần hiểu từ nguyên chữ Việt kiều để thấy rõ thâm ý của Cộng Sản. «Kiều» chữ Hán có nghĩa là ở nhờ, ở làng khác hay nước khác được dùng làm tỉnh từ cho những danh từ như «kiều dân» là người sống ở ngoài lãnh thổ mà người đó đã được sinh ra, «kiều bào» là đồng bào ở nước ngoài. Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, người Hoa sống ở VN được gọi là Hoa Kiều và chế độ Hà Nội gọi những người Việt sống ở nước ngoài và ủng hộ họ là «Việt kiều yêu nước». Người Việt bỏ xứ ra đi tị nạn không phải là Việt kiều, kiều bào, vì những người nầy đã không chấp nhận chế độ Cộng Sản, đã sinh cơ lập nghiệp vĩnh viễn trên một quốc gia khác, đã có quốc tịch của một quốc gia khác. Gọi người tị nạn là Việt kiều, Cộng Sản có gian ý là muốn «tóm thâu» cái khối chất xám nầy là «con dân» của họ, còn đặt dưới quyền sinh sát của họ. Nghị định số 78/2009/NĐ ngày 22/09/2009 về luật quốc tịch xác định rõ quan niệm nầy, theo đó bao giờ người mang quốc tịch VN chưa được chính phủ VN cho phéptừ bỏ quốc tịch, người ấy vẫn còn quốc tịch VN dù rằng người ấy đã có quốc tịch Mỹ, Canada, Úc…Càng lộng ngôn và ngang ngược hơn, với con cháu của người Việt tị nạn, dù sinh ra và lớn lên tại các quốc gia của ông cha họ đã định cư, cộng sản cũng xem những người nầy vẫn có quốc tịch Việt Nam nếu chưa phép làm đơn xin bỏ quốc tịch và chưa được chính phủ VN chấp thuận. Về điểm nầy, chúng ta thấy rõ chánh sách trơ tráo, đánh lận con đen của Cộng Sản. Theo điều 13, khoản 2, Luật Quốc tịch sửa đổi năm 2008 , «Người VN định cư ở nước ngoài vẫn có quốc tịch VN. Sau 5 năm từ khi luật nầy có hiệu lực, kiều bào phải đến cơ quan đại diện của chính phủ VN tại nước ngoài để đăng ký xin giữ quốc tịch, nếu không, sau ngày 1/7/2014 sẽ mất quốc tịch». Sau 5 năm, chỉ có khoảng 6000 người ghi tên xin giữ quốc tịch. Trái với dự tính vì số người xin giữ quốc tịch quá ít, tháng 7/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký luật gia hạn cho người muốn giữ quốc tịch thêm 5 năm nữa, tức là sẽ chấm dứt ngày 1/7/2019. Ngôn từ Cộng Sản thật lươn lẹo, lật lọng. Cho đến ngày 1/7/2019, người Việt ở hải ngoại mặc nhiên vẫn còn quốc tịch VN, vẫn bị chi phối bởi Luật quốc tịch VN giải thích «rộng rãi» theo luật rừng. Chính bà Ngô Bá Thành, chuyên viên xách động xuống đường thời VNCH, được CS phong cho chức Chủ nhiệm Ủy Ban Pháp Luật của Quốc Hội đã ví von : Việt Nam có một rừng luật và áp dụng luật rừng. Và cho đến đầu năm 2014, chính phủ VN vẫn còn khư khư giữ quan niệm cha chú nầy với người Việt tị nạn. Trong bài huấn từ của Nguyễn Thanh Sơn, Thứ Trưởng Bộ Ngoại giao đặc trách Cục Người Việt nước ngoài đã nhắn nhủ cho phái đoàn «Việt Kiều yêu nước» về quê ăn Tết, ông nhắc lại lời của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt 20 năm trước như sau : «Cộng đồng người Việt ra đi sau chiến tranh và định cư ở nước ngoài rất đặc thù, không giống các cộng đồng ngoại kiều khác. Những thuyền nhân ra đi đa số là vì mục tiêu kinh tế chứ không phải mục đích chính trị. Có bộ phận những người ra đi sau cuộc chiến tranh mang theo tư tưởng hận thù của những người thua trận và được tuyên truyền rất nhiều điều ghê sợ không có thực về chủ nghĩa cộng sản ... Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị đã khẳng định rõ chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước, coi cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của dân tộc Việt Nam, tức là những người máu mủ ruột thịt thực sự, không phân biệt đó là thành phần nào, đó là ai. (Xuân quê hương 2014 – danlambao 3/2/2014). Đối với những Việt Kiều yêu nước, Cộng Sản muốn gọi tên gì thì cứ gọi và sai bảo điều gì thì cứ làm. Nhưng đối với người Việt tị nạn Cộng Sản, họ không phải là Việt kiều mà là người Mỹ, người Canadiens, người Pháp, người Úc, người Đức gốc Việt… Phải gọi chính danh như vậy và phải tôn trọng quyền chọn lựa của họ là không chấp nhận chế độ cộng sản. Việt Kiều và Nghị Quyết 36. Không người Việt tị nạn nào ngu xuẩn tự xưng mình là Việt kiều, nếu có, đó là những Việt kiều yêu nước. Tưởng cần biết qua lai lịch của những Việt kiều yêu nước nầy. Đa số những Việt Kiều nầy là những sinh viên xuất ngoại du học từ thời Việt Nam Cộng Hòa nhờ học bổng của Plan Colombo hay các quốc gia Âu Mỹ. Từ cuối năm 1970, một số con em của những người có thế lực, nhà giàu cũng được xuất ngoại tự túc. Những sinh viên có học bổng sau khi hết học bổng không chịu về nước vì sợ đi quân dịch, nên tìm cách ở lại tại các quốc gia đã du học một cách bất hợp pháp. Phương thức thông thường là kết hôn với người dân sở tại để có quốc tịch, và để biện minh cho hành động hèn nhát, họ chạy theo các phong trào sinh viên phản chiến ở Pháp, Mỹ, Canada để chống chiến tranh Việt Nam mà theo họ là do Mỹ và chế độ quân phiệt miền Nam chủ động. Họ được cộng sản lợi dụng để tuyên truyền và được phong danh hiệu là Việt kiều yêu nước. Sau 1975, nhiều đám sinh viên phản chiến phản quốc nầy từ Nhựt, Âu châu, Mỹ chạy sang Canada xin tị nạn cùng lúc với thân nhân của họ vừa di tản đến. Họ trương cờ đỏ sao vàng ở những tụ điểm của họ, một số xin về nước để lấy uy với bạn bè, nhưng chính phủ cộng sản lạnh lùng với họ, có khi còn bắt họ bởi lẽ cộng sản dư biết những Việt kiều yêu nước nầy chỉ là bọn hèn, theo đóm ăn tàn. Từ cuối thập niên 1990 xuất hiện thêm một số Việt kiều yêu nước già, nguyên gốc là HO, có học và vô học, vì không hội nhập được vào xã hội định cư nên đi đi về về Việt Nam để sống với tiền xã hội của quốc gia định cư, một số khác thất nghiệp muốn về VN để kiếm việc, làm ăn buôn bán. Để đạt được ý định, họ lập công với cộng sản bằng những mưu chước hèn hạ, phản bội lại đồng hương và đồng đội họ, xâm nhập vào các hội đoàn, cơ quan ngôn luận để quấy phá. Nghị Quyết 36 nhờ sự tiếp tay của những Việt Kiều trở cờ phản bội nầy. Nhiều người Việt tị nạn không biết hay xem thường những tác hại của Nghị Quyết 36 viện lẽ không làm chính trị. Ban hành vào tháng 3 năm 2004, Nghị Quyết 36 nhằm mục đích chiêu dụ người Việt ở hải ngoại về nước và đem tài sản về nước để gọi là đầu tư, đồng thời tìm cách khống chế lực lượng người Việt ngoài nước. Nói chung, Nghị Quyết 36 có thể tóm lược trong 5 điểm: - Giúp người tị nạn trong việc sinh sống - Giúp người tị nạn đoàn kết lẫn nhau -Thu góp tiền bạc và chất xám - Biện pháp đối với các thành phần chống lại chánh phủ và Đảng ở hải ngoại - Tổ chức văn hóa vận và tình báo ở hải ngoại Nhận định từng điểm, NQ 36 mang bản chất gian xảo, trịch thượng . Làm sao CS có khả năng và uy tín giúp người Việt hải ngoại trong cuộc sinh sống trong khi họ đã đẩy đa số người dân trong nước đến chổ bần cùng và mất cả đạo lý, và càng tệ hại hơn, họ xuất cảng tệ trạng ăn cắp tràn lan tại những nơi mà cán bộ của họ đi qua, làm xấu xa dân tộc. Tại Nhật, Mã Lai, Thụy Điễn, nhiều cửa hàng treo bảng hiệu : Cảnh cáo Ăn cắp vặt, No dogs, no Vietnamese. Họ nói giúp người tị nạn đoàn kết với nhau, nhưng thực sự họ đưa công an và Việt kiều yêu nước xâm nhập các đoàn thể để gây đố kỵ, đánh phá nhau. Chuyện thu góp tài sản thì quá rõ, từ việc gởi tiền đến Việt kiều du lịch mang về nước tiêu xài cung cấp cho cộng sản 12% GDP, duy chỉ có chuyện thu góp chất xám là một cuộc thảm bại . Một số tác hại của NQ 36 đã thấy rõ trong một số công tác chiến lược như sau: - Trường dạy tiếng Việt và sinh hoạt tập thể cho thanh thiếu nhi là lò huấn luyện, tuyên truyền Tại những nơi có đông đảo người Việt, cán bộ cộng sản chủ động hay hợp tác với các đoàn thể, tư nhân mở trường dạy tiếng Việt, đưa sách báo từ VN sang, hay soạn sách theo quan điểm tuyên truyền cho cộng sản. Những buổi sinh hoạt tập thể là những cơ hội thuận lợi để cán bộ hay thầy cô thân cộng rỉ tai, hướng dẫn những măng non theo tư tưởng cộng sản. Tùy mức độ ảnh hưởng, chính sách văn hóa vận nầy tạo một tư tưởng chống đối của giới trẻ với ông cha trong công cuộc chống cộng. Trong đại hội «Tổng kết 10 năm thực hiện NQ36 và công tác đối với người Việt nước ngoài» ngày 22 tháng 5, 2014, Thứ Trưởng Giáo Dục Trần Quang Quý đã có chỉ thị rõ rệt «…Cần sớm có quy chế về việc dạy tiếng Việt cho người Việt nước ngoài, đặc biệt thế hệ thứ ba, thứ tư để việc kết nối giao lưu được thuận lợi…» - Xâm nhập các cơ quan truyền thông Cộng Sản đã tung ra hàng triệu mỹ kim để thành lập, hùn vốn để mua chuộc các cơ sở truyền thông ở hải ngoại, bề mặt chửi bới Cộng Sản linh tinh, nhưng thỉnh thoảng gài vào những bản tin, bài viết vận động chính trị chiến lược có lợi cho cộng sản. Trong bản tổng kết Hội nghị Người Việt nước ngoài lần thứ hai từ ngày 27-29 tháng 09 năm 2012 ở TP Hồ Chí Minh, Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài đã nói rõ chương trình hành động: «Tăng cường công tác thông tin đối ngoại , tăng cường đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt ở nước ngoài như đài phát thanh, TV, báo chí, thông qua tổ chức các buổi giao lưu văn hóa, nghệ thuật, triễn lãm tranh ảnh về đất nước, các hoạt động từ thiện, du lịch, sinh hoạt khoa học, sinh hoạt các nhóm trong cộng đồng người Việt hải ngoại…» Khuynh đảo, lừa gạt, xảo trá là sở trường của Cộng Sản. Chúng áp dụng kỹ chiến thuật tuyên truyền của Goebbels (Bộ Trưởng Thông tin Tuyên truyển của Đức Quốc Xã) : Nhắc đi nhắc lại hoài một sự việc không đúng sự thật, ban đầu người ta không tin, lần lần người ta bán tin bán nghi sau cùng người ta tin là sự thật. Internet và báo chí là những phương tiện hữu hiệu dể chúng bôi lọ những người quốc gia tranh đấu chân chính, làm yếu đi lực lượng chống cộng. để từ đó chúng đưa người của chúng vào các hội đoàn. Nhiều tổ chức tranh đấu chính trị đã bị chẻ làm đôi, làm ba và khi các cộng đồng hay tổ chức này bị chúng đánh cho yếu đi hay tan vỡ thì chúng dùng tiền để mua chuộc đám Việt kiều - Việt gian nhảy ra làm bình phong cho chúng hoạt động. Mặc dù chúng dùng mọi mưu chước nhưng cho đến nay, chúng vẫn không thành công lắm trong công tác vận động quần chúng ở Bắc Mỹ, Úc và vài quốc gia ở Tây Âu. Nhưng Cộng Sản có hai bộ mặt chồng chéo nhau : dịu ngọt và bạo lực. Tạp chí Cộng Sản gần đây đã viết: «…Tính đến nay, có hơn 100 tổ chức chính trị phản động người VN ở hải ngoại đang nuôi chí phục thù nhằm thực hiện ý đồ đen tối phục quốc. Cầm đầu các hội, các nhóm trên là những phần tử cực đoan, từng là ngụy quân ngụy quyền cũ, có nhiều nợ máu với cách mạng. Chúng đã, đang móc nối, cấu kết chặt chẻ với nhau và với bọn phản động trong nước để hoạt động chống phá cách mạng nước ta …» (TCCS. Phát huy vai trò của Cộng đồng tapchicongsan.orgvn ngày 28/05/2013) Chánh sách vừa chiêu dụ vừa khủng bố của Cộng Sản đã có tác dụng phần nào trên các vùng đất có người Việt định cư ở Bắc Âu và Đông Âu, nơi có đông đảo người lao động xuát khẩu, di dân bất hợp pháp và du sinh. Trong thập niên qua, các tòa đại sứ hay lãnh sự Cộng sản đã nỗ lực thiết lập 13 cộng đồng người Việt theo chủ trương của NQ 36: «… Nếu chúng ta phát huy cao độ các lợi thế của các lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài để phân hóa, cô lập các lực lượng phản động thì chúng ta có thể hạn chế một cách hiệu quả, thiết thực các thế lực thù địch…». Mười ba cộng đồng cộng sản nầy là : 4 tại các quốc gia trước đây là cộng sản (Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga, Đông Đức), 4 tại các quốc gia có nhiều lao động xuất khẩu (Hàn Quốc, Đài Loan, Qatar, Angola), 5 tại các quốc gia ít có người tị nạn (Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Sĩ – ( chú thích: tại Thụy Sĩ còn có một cộng đồng chống Cộng của người Việt tị nạn). Các chủ tịch các cộng đồng nầy là người cộng sản, chỉ làm bù nhìn, việc điều khiển Cộng Đồng do sứ quán hay tòa lãnh sự đảm nhiệm theo quyết định Q12 năm 2008 (Mobiliser les Vietnamiens à l’étranger, p.50). Ngày 18 tháng 8 , 2014, Trung ương đảng đã tổ chức một cuộc «mạn đàm» tại Praha (Tiệp Khắc) qui tụ những nhân vật cao cấp của Bộ Chính Trị từ trong nước và các đại sứ, đại diện 14 cộng đồng người Việt ở Đông Âu, Bắc Âu , kể cả Thụy Sĩ, Anh, Bỉ để «trao đổi công tác xây dựng tổ chức, vận động quần chúng, lôi cuốn giới trẻ tham gia và phát huy các sinh hoạt cộng đồng» - Gởi sư quốc doanh ra hải ngoại lập chùa, tu viện Chùa là nơi gia đình người Việt tị nạn gặp nhau để lễ Phật, niệm kinh, và còn là nơi sinh hoạt xã hội, văn hóa. Biết như vậy, Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài đã ký kết với Hòa Thượng Thích Thanh Tứ (Tứ chớ không phải Thích Thanh Từ) Phó Chủ tịch Hội Đồng Trị sự Giáo Hội Phật giáo VN ngày 16 /07/2009 một văn kiện nhằm «phối hợp cộng tác phât sự ở nước ngoài, mở rộng quan hệ, hoạt động của giáo hội sang các nước có đông kiều bào sinh sống». Từ mươi năm nay, tại hải ngoại có nhiều chùa, tu viện được thành lập, mà sinh hoạt chùa không theo truyền thống tôn nghiêm của Phật pháp. Những ngôi chùa nầy tổ chức đại nhạc hội, du lịch, thi hoa hậu và nhiều sinh hoạt của đời thường. Một số thầy chùa, sư nữ gốc là công an, tác phong không phù hợp với người tu hành, làm người phật tử chân chính chán ngán. Ngôi chùa trở nên cơ sở kinh tài cho cá nhân và đảng, sư quốc doanh làm công tác báo cáo, tuyên truyền cho chế độ. Nghị Quyết 36 đã làm tổn hại rất nhiều đời sống tâm linh của người tị nạn. Người Việt ở hải ngoại Ngoài ra, chúng ta thường có thói quen gọi chúng ta thuộc cộng đồng người Việt hải ngoại (diaspora) mà Cộng Sản gọi là người Việt nước ngoài. Nếu từ ngữ nầy đúng với tất cả các sắc tộc khác nhưng đối với người Việt, có khi không đúng hẳn bởi lẽ trong số người Việt hải ngoại lại có thêm những người không phải là người tị nạn. Đó là những người xuất khẩu lao động, di dân kinh tế hợp pháp và bất hợp pháp, các du học sinh thân cộng hay theo Cộng. Hiểu như vậy, sự chính xác của từ ngữ sử dụng cần phân biệt theo nội dung và hoàn cảnh. Bảng 1- Tổng số người Việt tị nạn Cộng Sản ở hải ngoại Quốc gia Số người Nguồn Hoa Kỳ 1 548 450 US Census 2010 Úc 233 390 Census Explorer 2011 Canada 220 420 Canada Census 2011 Pháp 200 000 Các nhà biên khảo ở Pháp Đức 125 000 Wikipedia và một số nguồn liệu Anh 65 000 UK Census 2011& phỏng định Tây/Bắc Âu 100 000 Các nguồn từ địa phương Tổng cộng 2 492 260 Nguồn: Lâm Vĩnh Bình. Giá Tự Do Bảng 2- Số người Việt xuất khẩu lao động, du sinh, định cư hợp pháp và bất hợp pháp tại hải ngoại (Việt Kiều) Đông Âu Số người Á Châu Số người Nga 46 000 Đài Loan 180 000 Tiệp Khắc 50 000 Hàn Quốc 120 000 Ba Lan 20 000 Mã Lai 85 000 UKraine 10 000 Trung Quốc 30 000 Slovakia 5 000 Nhựt 38 000 Áo 5 000 Cambốt 600 000 Hungary 4 000 Thái Lan 100 000 Azerbeijan 10 000 Trung Đông 10 000 Lào 20 000 Angola 40 000 Bangladesh 27 000 Cộng 200 000 Cộng 1 200 000 Tổng cộng : 1 400 000 Nguồn : - Người Việt ờ nước ngoài - Wikipedia, - Migration Policy Institute. - World Facts Book Chú thích : Bảng thống kê trên, tuy xuất xứ từ các cơ quan thẩm quyền nhưng chỉ là những con số ước lượng gồm có: - 700 000 người Việt ở Cambốt, Thái Lan và Lào là người Việt đã sống lâu đời nhiều thế hệ tại các quốc gia nầy, đại đa số đã nhập tịch. Về người Việt ở Cambot, số thống kê chỉ là phỏng định vì quốc gia nầy không có thống kê. Theo Wikipedia, và World Facts Book, người Cambốt gốc Việt chiếm 5% dân số tức khoảng 600 000 người. Bertrand Didier trong bài Vietnamiens au Cambodgevà Annuska Derks trong A picture of the Vietnamese in Cambodia trình bày chi tiết các giai đoạn di cư, định cư, diện mạo của người Việt ở Cambốt (có thể đọc online). Migration Policy Institute thiết lập thống kê người di dân VN (immigrants) vào tháng 9 năm 2013 dựa vào ước lượng của United Nations Population Division công bố một con số thấp hơn chỉ gồm người di cư xuất khẩu lao động: Cambot: 37 000, Lào: 11 000, Thái Lan: 6000. - 700 000 người ở Đài Loan, Hàn Quốc, Mã Lai, Nhựt, Trung Quốc, Đông Âu , Nga, Bangladesh, Trung Đông và Phi Châu. Dân số VN tại các quốc gia nầy thuộc nhiều diện khác nhau: - một số là cư dân hợp pháp phần lớn là phụ nữ lấy chồng người Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mã Lai và những du học sinh tại các quốc gia Đông Âu, Nga, được nhập tịch tại các quốc gia nầy - một số là người xuất khẩu lao động và cư dân bất hợp pháp. Như vậy tổng số người Việt ở hải ngoại là : - Người tị nạn Cộng sản: 2.500 000 người (số tròn) Bảng 1 - Người Việt di cư kinh tế, xuất khẩu lao động, du học sinh, định cư bất hợp pháp: 1 400 000 người Bảng 2 Tổng cộng số người Việt ở hải ngoại: 3 900 000 người. Một cách dễ nhớ: 4 triệu người. Nguồn : Lâm Vĩnh Bình, Giá Tự Do Về tổng số người Việt ở hải ngoại, thống kê của nhiều người viết, ngay cả những nhà nghiên cứu khoa bảng thường có khuynh hướng khuếch đại con số, bởi lẽ thay vì sử dụng thống kê chính thức của các quốc gia sở tại, họ lại sử dụng những thống kê của Cục Người Việt nước ngoài của Cộng Sản mà bản chất là gian dối, thiếu chính xác. Đan kể như luận án tiến sĩ : Mobiliser les Vietnamiens de l’étranger : enjeux, stratégies et effets d’un nationalisme transnational của Christophe Vigne do Institut de recherche sur l’Asie du Sud-Est contemporaine (IRASEC) xuất bản năm 2012 cho biết là người Việt ở hải ngoại là 4.3 triệu người trong đó người Việt ở Mỹ là 2.2 triệu (thay vì 1.5 triệu) và ở Canada là 250 000 (thay vì 220 000). «Le RSVN estime à environ 4.3 M le nombre de Vietnamiens résidents à l’étranger. La communauté vietnamienne des États-Unis est de loin la plus nombreuse avec 2.2M de personnes. Environ 250 000 Viet Kieu vivent au Canada, 120 000 en Allemagne et 60 000 en Russie…(p. 13). Kết luận Chúng tôi vừa phân tích hai từ ngữ người tị nạn và Việt kiều để phân biệt hoàn cảnh lúc ra đi và vị trí chính trị đối với chế độ cộng sản. Tuy nhiên, khi phải nhắc đến một từ ngữ khác có chữ kiều là kiều hối (mà cộng sản dùng thay cho danh từ ngoại tệ), cái biên giới giữa người tị nạn và Việt Kiều như không còn nữa bởi cả hai đều dùng kiều hối để nuôi dưỡng và củng cố chế độ trong nước. Thật vậy, kể từ khi Clinton bắt tay với VN năm 1995, người Việt tị nạn về nước ào ạt vì đủ thứ lý do, thăm gia đình, du lịch, du hí… Thật là khó hiểu khi nhiều người đã ra đi tìm cái sống trong cái chết để vượt biển, vượt biên sau những ngày đói rách, khổ nhục hay bị lao tù, và trên đất mới, sau đó cũng không bao lâu, họ lại quay trở về để tiếp tục luồn cúi, nịnh bợ công an, cán bộ phường xã, những người trước đó không lâu là kẻ thù của họ. Vui thú, vinh quang gì? Cứ mỗi lần Tết đến, có khoảng nửa triệu người về VN ăn Tết, mỗi người mang về VN để chi tiêu trung bình khoảng 4000 mỹ kim, như vậy Cộng sản có được dễ dàng ít nhất 2 tỷ mỹ kim kiều hối chỉ trong hai tháng. Ngoài ra, việc gởi tiền về VN triền miên từ 40 năm nay để nói là giúp đỡ thân nhân cũng là hiện tượng cần suy nghĩ, bởi lẽ chính số kiều hối khổng lồ nầy đã nuôi dưỡng, củng cố chế độ và duy trì một lớp thân nhân ỷ lại lười biếng, thỏa hiệp với công an để được dễ dàng trong cuộc sống. Dưới lăng kính nầy, người tị nạn có khác gì những Việt kiều yêu nước hay xuất khẩu lao động thân cộng? Theo Viện Nghiên cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương (Central Institute for Economic Management CIEM), « tính từ năm 1991 đến 2013, lượng kiều hốigởi về hơn 90 tỷ mỹ kim, là chiếc phao cứu tinh cho nhiều doanh nghiệp và là nguồn tài chính quan trọng cho quốc gia. Số tiền trên không kể đến 28% «kiều hối chui» không qua đường dây chính thức và những khoản tiền tiêu khi Việt kiều về thăm nhà. Chỉ năm 2013, số kiều hối gởi về là 11 tỷ. Mỹ là quốc gia chuyển kiều hối về VN nhiều nhất (57% trong tổng số kiều hối chính thức), kế đó là Úc (khoảng 9%), Canada (8%), Đức (6%), Pháp (4%) . Kiều hối là nguồn vốn thứ hai tại VN sau FDI (chú thích của người viết: Foreign Direct Investment là tiền ngoại quốc đem vào VN đầu tư) giúp tăng tiết kiệm, đầu tư, giảm nợ, cải tiến bảng xếp hạng tín nhiệm quốc gia, giúp ổn định tỉ giá, cán cân thanh toán và tăng dự trử ngoại hối . Tóm lại, kiều hối dùng để trả sinh hoạt hằng ngày, đầu tư vào sản xuất kinh doanh và trả nợ». (Cứu tinh của nền kinh tế VN /Alan Phan - ngày 18/12/2014.) Thông tin trên phát xuất từ một cơ quan kinh tế chiến lược đầu não của cộng sản đã cho thấy không phải là nhóm Việt kiều Đông Âu, hay nói chung những Việt kiều thân Cộng đã gởi tiền về nước để nuôi chế độ mà chính đa số làngười tị nạn. Chỉ tại 5 quốc gia có đông đảo người tị nạn, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã đóng góp hàng năm cho cộng sản VN 84% ngoại tệ. Có gì phi lý hơn, khi người Việt ở Mỹ, Úc, Canada, Pháp, Tây Đức là thành trì chống Việt Cộng, nhưng đồng thời cũng là đại ngân hàng tài trợ cho Việt Cộng. Giải quyết cái phi lý nầy phải là chuyện số một phải làm, tuy đã muộn màng lắm rồi, trước khi nói đến những chuyện tranh đấu khác. Lâm Văn Bé Bất ngờ Việt Cộng cho phát hành "Người tị nạn" của người Mỹ gốc Việtvietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1149227&stc=1&d=1513613781Tác phẩm "Người tị nạn" của nhà văn Mỹ gốc Việt đoạt giải Pulitzer 2016 được chuyển ngữ tiếng Việt và phát hành tại Việt Nam vào cuối tháng 12 này Quá bất ngờ và bàng hoàng với cuốn sách đoạt giải Pulitzer 2016 của một người tị nạn gốc Việt - tác giả Viet Thanh Nguyen - sẽ được chuyển ngữ và phát hành tại VN. Đây có lẽ là tin đặc biệt nhất, vui nhất cho người Việt tại hải ngoại. Bài viết sâu sắc, chân thực chắc chắn nhiều người Việt sẽ đón đợi cuốn sách này. Người tị nạn (The Refugees) là tác phẩm đầu tiên của Viet Thanh Nguyen (Nguyễn Thanh Việt) – người Mỹ gốc Việt đầu tiên đoạt giải Pulitzer, được dịch và xuất bản tại Việt Nam và đề “tặng những người tị nạn, ở bất cứ đâu”. Tập truyện ngắn gây ấn tượng mạnh bởi sự hư cấu mà chân thực của nó như đánh giá của New York Times: “Những câu chuyện về người tị nan Việt Nam như ma thuật bất biến… Một tập truyện siêu phàm… Giọng văn khiêm tốn, chi tiết và phong cách tự sự thẳng thừng hoàn toàn thích hợp với những cuộc đời thường dân âm thầm được mô tả trong truyện… Vặn nhỏ âm lượng, chúng ta áp tai vào, lắng nghe những người tị nạn nói để thấu hiểu họ”. vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1149228&stc=1&d=1513613781Tác giả Nguyễn Thanh Việt, chủ nhân giải Pulitzer 2016 hạng mục Tiểu thuyết - Ảnh: FB nhân vật Mở đầu cuốn sách là những day dứt về một quá khứ đầy ám ảnh “Tôi viết sách này cho những hồn ma vốn là nhóm duy nhất ở với thời gian bởi vì họ ở ngoài thời gian” (Roberto Bolafio, Antwerp). “Những thứ ám ảnh bạn không phải là những ký ức của bạn Không phải những điều bạn đã viết ra Mà là những điều bạn đã quên, bạn phải quên Những điều bạn phải tiếp tục quên suốt cả đời mình”. (James Fenton, A German Requiem) Như tựa đề tập truyện cho thấy, các truyện trong tập đều xoay quanh những người tị nạn, trong đó có tác giả và gia đình. Tị nạn, nếu hiểu theo một nghĩa rộng rãi, là việc rời nơi mình đang sống để tránh một tai họa nào đó. Nó có thể là thiên tai (bão lụt, hạn hán, nạn đói do mất mùa...) mà cũng có thể là nhân tai, do con người gây ra cho nhau (chiến tranh, thảm họa môi trường, áp bức tôn giáo hay chính trị...) rồi bây giờ còn có khái niệm tị nạn giáo dục nữa. Dù vì lý do gì, người tị nạn cũng phải sống và tập hòa nhập vào môi trường mới trong khi mang nặng mặc cảm của kẻ sống bám cho tới ngày họ có thể đứng trên đôi chân của mình. Nguyễn Thanh Việt kể rằng ông và người tị nạn nói chung có một “cảm giác xa lạ, luôn sống hai đời sống, một trong nền văn hóa lớn hơn mà bạn đang cố hòa nhập, và một gần với bản chất hơn khi ở trong cộng đồng của mình và nói thứ tiếng của mình”. Tựa như hai chị em cùng cha khác mẹ trong truyện Tổ quốc nhưng được ông bố đặt tên giống nhau. Cô chị là ngưòi tị nạn ở Mỹ còn cô em lớn lên ở Việt Nam sau chiến tranh. Hai chị em gặp nhau khi cô chị về thăm tổ quốc. Họ là hai mà tưởng như cùng thân phận: một người là của quá khứ sống ở xứ người và một là hiện tại sống ở xứ mình. THE-REFUGEES-NGUYEN-VIET-THANH-NEW-HARDCOVER-BOOKhttp://vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1149229&stc=1&d=1513613781 Tác phẩm "Người tị nạn". Phiên bản Việt Ngữ Tác phẩm của nhà văn, xét cho cùng, cũng chỉ là sản phẩm hư cấu. Nhà văn không có trách nhiệm phải khẳng định sự việc hay con người nào đó là đúng hay sai, tốt hay xấu. Họ chỉ kể những câu chuyện nhưng có thể từ nhiều góc nhìn, cho ta nhiều cách hiểu cuộc đời hơn. Họ có thể mượn chất liệu trong đời của họ hoặc đời của người khác, hoặc hoàn toàn tưởng tượng, nên việc đánh giá họ về các phương diện khác ngoài tài năng văn chương, như quan điểm sống, nhân sinh quan hay thế giới quan... đều không có cơ sở. Nguyễn Thanh Việt kể những chuyện về cuộc sống và tâm tình của người tị nạn. Qua truyện của ông, ta có thể biết được một cách nhìn mới, và có cơ hội suy nghĩ về những chuyện mà trước đây ta chưa từng nghĩ. Ông không phải là sử gia, nên tác phẩm của ông không nhất thiết phải phản ảnh thực trạng của người tị nạn hay trở thành tiếng nói đại diện cho họ. Nguyễn Thanh Việt (bút danh Viet Thanh Nguyen) – nhà văn người Mỹ gốc Việt đầu tiên đoạt giải Pulitzer và nhiều giải thưởng khác của các Hiệp hội văn học cho sự nghiệp sáng tác của mình. Viet Thanh Nguyen (tên tạm gọi theo tiếng Việt là Nguyễn Thanh Việt) người Mỹ gốc Việt đầu tiên nhận giải Pulitzer văn học (2016) cho tiểu thuyết đầu tay The Sympathizer (Cảm tình viên). Tiếp theo đó, tập tiểu luận Nothing Ever Dies (Chưa có gì từng chết) của ông lọt vào chung khảo giải National Book Critics Circle Award cùng năm. Đầu năm 2017, tập truyện ngắn The Refugees (Người tị nạn) ra đời đánh dấu hành trình hai mươi năm tập tành làm nhà văn. Sau khi nhận giải Pulitzer, Nguyễn Thanh Việt được giới truyền thông săn đón. Ông được mời thuyết giảng, đọc sách, ký tặng ở nhiều nơi trên khắp nước Mỹ, đôi khi ở châu Âu; tham gia trả lời phóng vấn thường xuyên và trở thành nhà phê bình uy tín trên New York Times, Los Angeles Times… Trong các bài báo và phỏng vấn gần đây, ông đều phân biệt rạch ròi giữa di cư và tị nạn. Là một người tị nạn ở Mỹ, ông nói, thì rất không-giống-người Mỹ, và hoàn toàn mâu thuẫn với “giấc mơ Mỹ”. Nhiều người cho rằng thật bất khả để người Mỹ trở thành người tị nạn, mặc dù không có gì lạ khi người tị nạn trở thành người Mỹ. Một người tị nạn đi kèm nỗi sợ, thất bại và khinh thị. Do đó, ông mong muốn có thể nhân bản hóa họ qua những câu chuyện, ngõ hầu giúp người Mỹ có thể chấp nhận và đón nhận những người tị nạn. Trả lời phỏng vấn Jeffrey Brown của PBS, Nguyễn Thanh Việt nhấn mạnh rằng theo ông, nhiệm vụ của nhà văn là phóng chiếu những gì đang diễn ra trong đời sống hiện nay vào tác phẩm. Vấn đề di cư – tị nạn không hẳn chỉ là vấn đề của một nước Mỹ dưới thời ông Trump, mà còn là điều khẩn thiết của châu Âu và nhiều nơi trên thế giới. Sinh ra ở Việt Nam, nhưng lớn lên ở Mỹ, ông luôn cảm thấy mình như một điệp viên hai mang. Lúc ở nhà với cha mẹ, ông là điệp viên của nước Mỹ bên ngoài; lúc ở ngoài, ông là điệp viên của cộng đồng người Việt tị nạn. Tuy nhiên, đứng giữa hai thế giới này, ông chủ động chọn một góc nhìn độc lập để có thể soi chiếu một cách khách quan nhất. Không chỉ vậy, Nguyễn Thanh Việt luôn sẵn lòng để không an vị, không bằng lòng, và luôn trăn trở, từ đó ông hy vọng có thể hiểu được tận cùng căn nguyên và tâm tính của một cộng đồng tị nạn trong lòng nước Mỹ để phản chiếu một cách chính xác trên trang viết. Người tị nạn (The Refugees) là cuốn sách mới nhất của Viet Thanh Nguyen, phát hành đầu năm 2017, được Nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Phương Nam Book dịch và xuất bản tại Việt Nam vào tháng 12. 2017. ~~~~~~~~~~~ Tài liệu liên quan: - 'Người tị nạn' - một dẫn nhập vào văn chương Viet Thanh Nguyen - Phát hành sách 'Người tị nạn' của nhà văn gốc Việt đoạt giải Pulitzer - Người Tị Nạn và Việt Kiều - Lâm Văn Bé
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 10:12:50 GMT 9
Cựu đại tá Lê Trọng NghĩaCựu đại tá Lê Trọng Nghĩa từ trần Theo tin BBC ngày 22.2.2015, ông Lê Trọng Nghĩa, cựu thư ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cựu Cục trưởng Cục Tình báo Bộ Tổng tham mưu vừa qua đời hôm 22/2/2015, hưởng thọ 93 tuổi. Bản tin của BBC nhắc lại một số thông tin về việc ông bị bắt trong vụ 'án xét lại chống Đảng' và bị giam và cải tạo lao động từ năm 1968-1976, và trích dẫn một vài câu trong bản "Di chúc" của ông mà đài này nói đã nhận được. Còn đây là vài dòng"status" trên trang Faceboook của nhà báo Huy Đức hôm nay: LTN Một công thần đồng thời cũng là nạn nhân của Chế độ, đại tá Lê Trọng Nghĩa, Cục trưởng Quân Báo, vừa từ trần. Ông Nghĩa bị bắt vào ngày 6-1-1968 khi Mậu Thân sắp bắt đầu. Ông Nghĩa cùng với gần 30 nhân vật thân cận với Tướng Giáp bị Lê Đức Thọ bắt trong Chiến dịch Mậu Thân, khi cả Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đều tin rằng có thể "giải phóng miền Nam" mà không cần Hồ, không cần Giáp (Hồ Chí Minh được đưa đi "nghỉ ngơi" ở Bắc Kinh từ tháng 9-1967; Võ Nguyễn Giáp bị đưa đi "chữa bệnh" ở Hungary từ tháng 7-1967). Cũng như đại tá Lê Trọng Nghĩa, nhiều tướng, tá bị bắt là những người đã đóng vai trò quyết định trong việc lên kế hoạch tác chiến cho Mậu Thân như: Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh (bị giam tại gia); đại tá Chánh văn phòng BQP Lê Minh Nghĩa; đại tá Chánh văn phòng Quân ủy Nguyễn Văn Hiếu (bị đưa ra khỏi Hà Nội); đại tá Cục trưởng tác chiến Đỗ Đức Kiên... Những người tuy không tham gia Mậu Thân nhưng cũng đang giữ các trọng trách ở Hà Nội và được coi là "thân" Tướng Giáp như thiếu tướng Đặng Kim Giang, PGĐ nxb Sự Thật Nguyễn Kiến Giang, TBT báo QĐND Hoàng Thế Dũng... cũng đã bị bắt. Tất cả đều chưa được giải oan tuy nhiều người sau đó có được bố trí công tác hoặc khôi phục chế độ trừ đại tá Lê Trọng Nghĩa. Lê Trọng Nghĩa là một trong ba người lãnh đạo "cướp chính quyền" ở Hà Nội khi Hồ Chí Minh đang họp ở Tân Trào. Khác với các sĩ tướng tá "phò" Lê Đức Thọ, thường xuất thân từ tầng lớp nông dân, ít chữ, nhóm thân cận với Tướng Giáp đều là trí thức. Đại tá Lê Trọng Nghĩa học luật, giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp. Ông là một người mưu lược và có một trí nhớ siêu việt. Ông giữ được sự minh mẫn cho tới những ngày cuối đời. Đại tá Lê Trọng Nghĩa là trực ban tác chiến ở Tổng hành dinh trong ngày Tướng Trần Quý Hai ra lệnh tấn công tàu Maddox theo chủ trương của Lê Duẩn. Đại tá Nghĩa coi quyết định này của Lê Duẩn là một Tuyền Bố Chiến Tranh Trực Tiếp Với Mỹ. Ông là một trong những nhân chứng quan trọng nhất của Sách Bên Thắng Cuộc. Xin vĩnh biệt ông. Xin chia buồn cùng gia đình họa sĩ Nguyễn Thanh Bình. Huy Đức Lịch sử sẽ thực hiện sự nghiêm minh để trả về cho anh sự tôn vinh một nhân cách cao thượng và quả cảm Tương Lai Hình ông Lê Trọng Nghĩa lúc còn trẻ, do người thân gửi tặng Tôi là một kẻ hậu sinh, đàn em của Anh, được tiếp xúc với anh rất ít, nhưng Anh là một trong những con người chân chính đã để lại trong tôi sự kính phục và yêu mến. Ấn tượng về đôi mắt rực sáng trong cái nhìn đôn hậu của Anh đã chìm sâu trong ký ức tôi, giục giã tôi và cũng đang day dứt tâm hồn tôi. Sáng nay, 23.2.2015, đang xúc động với hình ảnh Nguyễn Thái Bình trên VTV1 trong chủ đề quê hương với người Việt Nam ở nước ngoài, bồi hồi nhìn lại hình ảnh những người bạn quý mến Ngô Thanh Nhàn, Ngô Vĩnh Long kể lại kỷ niệm về Nguyễn Thái Bình, người thanh niên quả cảm bị giết hại năm 23 tuổi, và nay đang là tên một đường phố tại Quận I, Sài Gòn, một chương trình khá nhất của truyền hình Tết vì được xây dựng công phu và có hồn vì có sự chân thật của tình người, thì cháu tôi gọi: "Cậu ơi, bác Lê Trọng Nghĩa mất rồi, đài BBC vừa đưa". Càng bàng hoàng hơn khi cháu tôi day dứt :"quả là đã định làm gì thì phải làm ngay, chỉ chậm một tí là là phải ân hận, sau buổi trao đổi với Cậu, cháu đã định đến thăm bác Nghĩa ngay đế cám ơn bác ấy đã kể cho cháu nghe về nhiều kỷ niệm với Ba cháu, nhưng chần chừ đợi có sách đã, để hôm nay cầm cuốn sách định đến tặng bác ấy thì không kịp nữa rồi". Nỗi day dứt ấy cũng là nỗi day dứt của chính tôi. Nếu người thanh niên trí thức học ở Mỹ được phong anh hùng vì tinh thần yêu nước và hành động quả cảm đấu tranh lên án cuộc chiến tranh đẫm máu của Mỹ tại Việt Nam ngay trên đất nước Mỹ và đã bị bắn chết rồi vứt xác trên phi trường Tân Sơn Nhất ngày 2.7.1972, thì cũng bằng tuổi ấy, người thanh niên Lê Trọng Nghĩa là uỷ viên uỷ ban Khởi nghĩa ở Hà Nội những ngày trước Cách mạng Tháng 8.1945, từng là đại biểu Quốc hội khóa I, là Chánh văn phòng Quân uỷ TƯ, Bộ Quốc phòng và Cục trưởng Cục tình báo Bộ Tổng tham mưu, Bí thư Đảng uỷ Bộ tổng tham mưu và rồi bị tù 9 năm về "Vụ án xét lại", một nghi án đen tối đáng xấu hổ và nhục nhã trong lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam mà chính những người trong cuộc của thời điểm ấy đã công khai lên tiếng. Thế rồi, hôm nay người ta long trọng và xúc động tri ân một người xứng đáng được tri ân đồng thời lại im ắng, một sự im ắng đáng xấu hổ, của sự ra đi của một con người cũng rất đáng được tri ân vì sự cống hiến, vì bản lĩnh và nhân cách cao thượng của một người chiến sĩ quả cảm và kiên cường từng đi tiên phong trong Cách mạng Tháng 8 và trong kháng chiến chống ngoại xâm. Nhói trong tim tôi lời cảnh báo của Martin Luther King :“Trong thế giới này, chúng ta không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà còn cả vì sự im lặng đáng sợ của người tốt.” Lần gặp cuối cùng Hôm ấy, hình như hôm 12.9.2014, tôi bỏ một buổi đại hội Mặt Trận Tổ quốc tại Hà Nội đến anh Nghĩa theo lời mời của anh qua điện thoại. Anh có vẻ hơi sốt ruột. Vì theo lịch hẹn giữa anh với anh Việt Phương và tôi, phải sáng chủ nhật, 14.9, trước khi bay về Sài Gòn chuyến tối, chúng tôi mới đến anh. Ông già 92 tuổi phải lần từng bước bốn tầng cầu thang tối om để xuống mở cửa cho tôi, cho dù tôi đã hết sức ngăn. Mở được cửa rồi, anh xua xua tay ra hiệu tôi đừng hỏi, ý chừng phải để cho anh thở, lấy lại sức đã. Ngồi ngay tại đấy nói chuyện được vài câu, anh lại xua tay "phải lên phòng tôi thôi". Lại hổn hển từng bước leo lên bốn tầng lầu. Chỉ tay mời tôi ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường, anh lại xua xua tay làm hiệu đừng hỏi, để cho anh thở, lấy lại sức đã. Ấy thế mà khi đã vào guồng, như được tiếp thêm sức từ những hồi ức mà anh muốn kể cho tôi, tôi cố ngăn vì sợ anh mệt thì anh xua tay cười hiền hậu "để mình nói, cũng chẳng có nhiều dịp nữa đâu, mình dặn Việt Phuơng là nếu Tương Lai ra Hà Nội thì cố đến ngay nhà mình mà, nhiều chuyện cần nói lắm, mình biết cậu cũng chẳng ở lâu được"! Tôi day dứt vì chính nụ cười hiền hậu và gửi gắm ấy của Anh, và sự day dứt đã thành nỗi đau trong tim tôi lúc này đây anh Nghĩa ơi. Biết tôi có nhiều suy tư qua tiểu luận nghiên cứu mà tôi đã có dịp gửi nhờ anh xem và góp phần chỉnh sửa cách đây đã lâu, trong đó có một kiến nghị là hãy trở lại với tên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh với cách mạng Tháng 8.1945 và Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945 thay vì giữ cái tên nước vô nghĩa như đang dùng, anh dành nhiều thì giờ nói kỹ hơn những điều anh đã viết về những sự kiện lịch sử mà anh là một trong những nhân chứng của thời "tiền khởi nghĩa Tháng 8. 1945". Trong đó, anh đặc biệt nhấn mạnh đến truyền thống quật cường và tinh thần yêu nước của người Việt Nam, của thanh niên Hà Nội lúc bấy giờ, những tổng kết nhằm quy thắng lợi của CMT8 và khởi nghĩa giành chính quyền về cho "Chủ nghĩa Mác Lênin" là khiên cưỡng và "vơ vào" rất vô lối chứ hồi ấy chúng tôi nào có biết Mác Lê là gì đâu. Anh kể một số sự kiện để chứng minh cho nhận định trên, nói về những con người cụ thể đã phân công nhau làm những gì. Giọng anh trở nên chùng xuống khi trả lời câu hỏi của tôi về chuyện anh đến Bộ chỉ huy quân Nhật ở Đồn Thuỷ để nói rõ lực lượng khởi nghĩa không tấn công lực lượng Nhật đã đầu hàng Đồng minh mà chỉ cốt giành chính quyền. Anh không muốn nói nhiều về kết quả có được trong cuộc đấu tranh khôn khéo ấy do anh đại diện cho uỷ ban khởi nghĩa, đã khiến quân Nhật rút về trại và không can thiệp vào cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, tránh đổ máu vô ích. Rồi hào hứng trở lại khi anh nói về những chuyện lý thú, sống động về tính sáng tạo và thông minh của những chàng thanh niên Hà Nội trong cuộc thử lửa cũng như những ngờ nghệch đáng yêu của họ khi đi vào cuộc chiến đấu mà như đi vào ngày hội. Thấy trên giường của anh có quyền "Đèn Cù" của Trần Đĩnh in theo khổ lớn đang đọc dở , tôi hỏi nhận xét của anh, điều mà tôi đã hẹn trước qua điện thoại, anh xua tay. "Chưa đọc. mà cũng ngại đọc. Đấy, mới tới trang 18, chẳng biết anh nào ở Bộ Ngoại giao in ra rồi gửi cho tôi. Thì cứ viết ra đi đã cũng có cái hay, còn tùy thuộc vào cái tâm của người viết. Hãy để cho lịch sử trả lời đúng, sai, hay, dở. Tôi đọc được 18 trang rồi vứt đó nên chưa trả lời câu hỏi của anh được. Anh đặt ra những vấn đề rất trúng, nhưng thôi hẹn lần sau. Tôi phải đọc cái đã, nhưng mệt quá rồi". Và anh bắt sang chuyện anh muốn hỏi tôi về cuốn sách tôi viết đã lâu xoay quanh chủ đề "Gia đình Việt Nam" và "Nghiên cứu xã hội học về gia đình". Tôi có cảm tưởng anh đang muốn trao đổi kỹ về đề tài này trong những lời tâm sự của anh, nhưng chắc do ước lượng về thời gian, anh tự chuyển sang những câu hỏi khác về công việc tôi đang làm. Cứ thế, tôi có cảm tưởng người ngồi trên giường trước mặt tôi không còn là ông già 91 tuổi vừa hụt hơi lúc nãy, giọng anh khỏe khoắn, trầm hùng khi nói về những suy ngẫm, những phân tích sống động, trầm tĩnh và sâu lắng về những sự kiện lịch sử. Đặc biệt, anh không mảy may nhắc đến những oan khuất mà anh phải chịu đựng, không chỉ 9 năm tù đày mà rồi gia đình và bản thân anh hiện nay. Thấy tôi tế nhị khơi gợi đến chuyện này, anh cười "thì tôi đã nói với anh hôm ở nhà anh Văn rồi còn gì?". Chuyện ở nhà 'anh Văn' Đó là câu chuyện cách nay đã hơn bốn năm. Hôm ấy tôi từ thành phố Hồ Chí Minh bay ra để đến dự cuộc họp mặt thân mật mừng thọ 99 tuổi Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ngồi cạnh anh, tôi có ghé vào tai "Anh phải viết lại đi. Rồi các anh lần lượt ra đi cả, quãng trống của lịch sử sẽ khó có ai lấp đầy được." "Mà phải để cho lịch sử biểu tỏ sự công minh của nó, còn để cho các thế hệ sau này hiểu được về cha anh họ chứ. Anh ngại viết thì cứ nói vào máy, tôi sẽ nhờ học trò tôi làm việc này, gỡ băng ra, anh xem lại, nếu anh thấy cần, tôi tình nguyện biên tập chỉnh sửa lại cho anh." "Nhưng phải nhanh lên, vì cũng chẳng biết thế nào mà tính trước được đâu, chưa chừng tôi 'đi trước' cả anh và anh Việt Phương biết đâu, mặc dầu tôi thua anh một giáp đấy". Từ phải sang, các ông Lê Trọng Nghĩa, Tương Lai, Việt Phương và Nguyễn Văn Hiếu tại cuộc mừng thọ 99 tuổi của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp Anh chỉ cười, không trả lời. Gần cuối buổi, anh đột nhiên kéo tay tôi, chỉ một người đang đứng gần cửa ra vào: "Này, TL, nếu muốn viết thì anh viết về anh ấy thì hay hơn, một "nhân chứng sống" và cũng "thời sự" hơn đấy". Câu chuyện sẽ quá dài nếu tôi kể sâu hơn về người mà anh muốn tôi viết. Hơn nữa, tính "thời sự" mà anh muốn nói thì cuộc sống đã nói hay hơn gấp triệu triệu lần những cây bút tài ba nhất, nhạy bén nhất chỉ hai năm sau ngày anh nói với tôi. Vả chăng, tôi đâu phải là một nhà báo, tôi cũng chẳng phải là nhà văn. Tôi chỉ là người muốn ghi chép lại những sự kiện lịch sử, và Anh chính là một "hiện tượng lịch sử đích thực". Anh là một nỗi đau của lịch sử. Đúng hơn, nỗi đau của những người dám dấn thân vì nghĩa lớn của đất nước, vì nghĩa cả giải phóng dân tộc để giải phóng con người, xây dựng một xã hội nhằm thể hiện mục tiêu cao cả : "sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" đã bị người ta phản bội nhân danh chính những điều đẹp đẽ ấy. Phản bội một cách trắng trợn và đáng ghê tởm, hay phản bội bởi những sự lừa mị, ngu dân với những lời đường mật cửa miệng lươn lẹo, cũng đều là sự phản bội. Nạn nhân của 'phản bội' Và anh là nạn nhân tiêu biểu của sự phản bội ấy. Người ta nói với anh chỉ cần gật đầu thừa nhận một câu chuyện bịa đặt nhằm một mục đích chính trị bẩn thỉu, thì anh sẽ được trả tự do và dễ dàng bước lên những bậc thang danh vọng, vì anh đã từng giữ nhiều trọng trách mà những thuộc cấp đứng dưới anh rất xa nay đã ngất nghểu trên những cái ghế cao quyền thế, danh vọng, bổng lộc. Nhưng anh đã nhã nhặn rồi phẫn nộ từ chối. Lương tâm của người chiến sĩ dám xả thân vì ngĩa lớn không cho phép anh phản bội chính mình, phản bội đồng chí, đồng đội mình. Một cái lắc đầu có sức nặng của một quả núi sừng sững trước bão táp cuồng nộ của bạo lực và mua chuộc. Những người từng chứng kiến bi kịch của anh đã kể lại cho chúng tôi nghe về bản lĩnh và phẩm cách của anh. Và, anh Nghĩa ơi, cái chuyện về tính "thời sự" mà anh nhắc tôi hôm ấy thì như tôi vừa nói, cuộc sống đã thực thi sứ mệnh tuyệt vời của nó bằng việc tiễn đưa vị lão tướng huyền thoại nằm ngoài mọi kịch bản soạn sẵn và những toan tính ở nhiều góc độ. Anh là người Thư ký tuyệt vời nhất của vị lão tướng huyền thoại ấy, cũng là người xứng đáng nhất trong dòng người bất tận xếp hàng thắp nén hương tiễn biệt người thủ trưởng mà anh hết lòng yêu kính và kiên cường bảo vệ. Họ tự nguyện đứng xếp hàng để được biểu tỏ tấm lòng thành kính tri ân, nhớ thương một con người đã góp phần viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc, nay đã đi vào lịch sử. Phải chăng con đường ngoằn nghoèo người xếp hàng kia cũng đang là biểu tượng một nét dáng của lịch sử? Lịch sử đang đi những bước chậm rãi nhưng chất chứa nhiều tiềm ẩn khó lường anh Nghĩa ạ. Nếu lịch sử là con người nhân với thời gian, thì sự sòng phẳng của lịch sử chính là ánh phản chiếu của lòng dân tôn vinh những người đã góp phần làm nên lịch sử. Vị “tư lệnh của các tư lệnh, chính uỷ của các chính uỷ” mà có lúc người ta cố tình lảng tránh những oan khuất, vô tình hay hữu ý toa rập cho toan tính bẩn thỉu nhằm che lấp sự thật lịch sử. Nhưng lịch sử sớm muộn cũng thực hiện sứ mệnh công minh của nó là trả về những giá trị đích thực đã từng bị vùi lấp. Và lòng dân đã thực thi sứ mệnh ấy của lịch sử. Chính vì thế, lịch sử rồi cũng đang làm và sẽ làm điều ấy với Lê Trọng Nghĩa, người Thư ký kiên cường, Cục trưởng Cục quân báo, Chánh Văn phòng Quân uỷ Trung ương, gắn bó mật thiết với sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cho đến giờ phút này báo chí chính thống trong nước đã dành việc đưa tin Lê Trọng Nghĩa từ biệt thế giới này cho đài BBC để rồi cũng sẽ có lúc những người chủ trương sự im lặng đáng ngờ này sẽ phải trả giá đắt. Trước hết là phải gánh chịu thêm sự phẫn nộ và khinh miệt của lòng dân và công luận. Thì cũng giống như dạo nào người ta phải gọi những tàu ăn cướp của Trung Quốc đâm chìm tàu cá của ngư dân ta trên vùng hải phận thuộc chủ quyền của ta là "tàu lạ", để rồi bây giờ cũng có chút bẽ bàng với dân và với thế giới khi gọi đúng tên người "bạn vàng 16 chữ và bốn tốt" là bọn Trung Quốc xâm lược. Công luận và lòng dân đã quá hiểu rõ chuyện "tàu lạ" và bụng dạ thì quen với việc không dám đối mặt với sự thật và cũng không dám chịu trách nhiệm cần phải ứng xử kịp thời trước những tình huống đòi hỏi một nhãn quan chính trị sáng suốt và bắt kịp mạch đập của cuộc sống với tâm trạng của người dân. Kịp thời phục hồi danh dự cho một chiến sĩ kiên cường, một nhân cách cao thượng, một người bị oan khuất song vẫn tràn đầy nhiệt huyết với nước với dân, là một hành vi chính trị và phục hồi đạo lý có ý nghĩa gấp vạn lần những lời nói sáo rỗng và hành động mỵ dân mà người ta đã quá nhàm chán. Không sớm thì muộn, việc đó cũng phải làm. Bài học về lòng dân đưa tang và tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một bài học đắt giá cho những ai muốn học tập ông cha trong việc thực hiện chính sách thân dân, điểm tựa vững chắc nhất của một đường lối dựng nước, cứu nước, giữ nước và xây dựng nền thịnh trị của một đất nước. Nén nỗi day dứt, tôi cố viết vài dòng về anh, nhưng sao con chữ cứ nhảy múa vòng vèo không diễn đạt được tâm trạng của mình. Thôi đành tự an ủi “vọt từ suối phun ra là nước, chảy từ mạch máu ra đều là máu”, tôi viết trong nỗi đau thương nhớ Anh, anh Lê Trọng Nghĩa ơi, nụ cười thanh thản và điềm đạm của anh đang giục giã chúng tôi, những người quý trọng, thương mến anh và nguyện theo gương Anh. Tương Lai
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 10:17:53 GMT 9
Phản biện bài viết của GS Trần Chung Ngọc về Bên thắng cuộcFebruary 27, 2013 Tôi đọc Bên thắng cuộc từ khi nó mới được xuất bản, thú thực là không quá xúc động như nhiều độc giả khác vì tôi vốn là người giữ được bình tĩnh và thông tin trong cả 2 tập sách không phải là quá mới đối với tôi. Sau 1 thời gian theo dõi trên mạng thì thấy nhóm độc giả xúc động chia làm 2 thái cực, 1 là khen hết lời, 2 là "cực lực phản đối". Nhóm phản đối chia làm 2 loại, loại 1 là chống cộng cực đoan, loại 2 là thân cộng sản (CS). Họ đều cho là cuốn sách có cái nhìn thiên lệch về phía CS hoặc "Mỹ Ngụy", thật kỳ lạ! Vậy thực chất nội dung quyển sách là thân ai và chống ai? Theo quan điểm cá nhân của tôi thì nó chả thân ai cũng chả chống ai, nghĩa là trung lập. Bởi vì, chỉ khi đứng ở giữa thì nó mới bị cả 2 phía đều cho là thiên lệch. Trong số các bài phản biện cuốn sách, có bài viết của GS Trần Chung Ngọc là gây sự chú ý của nhiều người, 1 phần bởi vì ông vốn xuất thân từ chế độ VNCH nhưng hiện nay lại có tư tưởng thân CS. Các bài phản biện khác từ phía "báo chí cách mạng" trong nước, hay từ cộng đồng người Việt chống cộng cực đoan thì tôi không đánh giá cao, vì họ đều có tư tưởng cực đoan hay động cơ viết bài phản biện để ăn lương, mà đã cực đoan hay ăn lương thì suy nghĩ, đánh giá không còn tính khách quan nữa. Sau khi đọc bài viết của ông Ngọc sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5554 tôi có vài ý kiến như sau, vừa đồng ý, vừa chưa đồng ý. Sau khi đọc qua 1 số bài viết của tác giả Trần Chung Ngọc (TCN) trên trang sachhiem.net tôi rút ra 1 nhận xét chung là GS hay có cách viết hết sức công phu, rất nhiều dẫn chứng, viện dẫn rất nhiều sách vở của các ông Tây bà đầm, mà tác giả hay gọi là "Các vị khoa bảng". Các vị này không phải ai cũng có cơ hội, điều kiện kiểm chứng xem họ là ai, tư tưởng thế nào, thân thế sự nghiệp ra sao và những điều họ nói ra (để GS dẫn chứng) có đáng tin không. Tôi vốn xuất thân khoa học tự nhiên nên trọng logic trong tranh luận hơn là dẫn chứng tràn lan mà thiếu lý luận. Chắc vì dẫn chứng nhiều quá nên các bài viết của GS trên sachhiem.net đều rất nhiều màu sắc, kiểu chữ, đậm nhạt, nghiêng, gạch chân, bôi màu...để cho độc giả dễ phân biệt và thú thực là xem rất chóng mặt. Cách viết trên, gọi 1 cách nôm na, là tung hỏa mù. Bài phản biện Bên thắng cuộc (BTC) không nằm ngoài nhận xét trên. Vì vậy, tôi xin phép lọc ra ngoài phần viết lan man, bên lề, nhận xét những nhận xét khác nhận xét về BTC, "Những thắc mắc của tôi (TCN)" (thắc mắc để đấy thì để làm gì?). Rất tiếc là nội dung "bên lề", do tác giả điểm tin này lại dài gấp 2-3 lần nhận xét do chính tác giả viết. Vì thế mà tôi khá là nhàn hạ khi đánh giá những nhận xét của TCN. TCN đánh giá BTC là "sáo ngữ, trống rỗng", cũng có phần đúng, nhưng chính vì điều đó làm quyển sách bớt khô khan và không giống 1 cuốn sách lịch sử, mang tính văn học và bình dân hơn. Cũng có thể do Huy Đức (HĐ) xuất thân là nhà báo nên mới có lối viết sử "không chuyên nghiệp" như vậy. Đấy là hình thức trình bày, không quá quan trọng, còn nội dung mà TCN phản biện thì thật hài hước và thiếu logic trầm trọng khi ông viết: " Nhưng hình như chẳng cần phải đầu hàng Mỹ mà ngày nay ở Việt Nam người ta cũng có đủ thứ, người ta chẳng còn đi xe đò Phi Long mà đi xe đò Hyundai, Mercedes có máy lạnh, chẳng những đeo nhẫn vàng mà còn đeo nhẫn kim cương, chẳng còn mấy người đi xe đạp bóng lộn mà đi xe mô-tô Dream nọ Dream kia, chẳng còn đi taxi Renault 4 cọc cà cọc cạch, mà đi Nissan, Toyota v…v…, tư nhân chẳng còn đi xe Simca 9 hay Peugeot 203 hay La Dalat mà đi Nissan, Toyota, Lexus, Infinity, chẳng còn nghe Akai hay radio cassettes đã bị phế thải từ lâu, thay vào đó là những DVD players, TV LCD, Computers, Tablets, Iphone, Ipad v...v… " TCN so sánh những sản phẩm từ trước năm 75 với những sản phẩm của năm 2013! Lẽ ra ông phải hiểu là khi người dân Sài Gòn đi xe Renault, Peugeot 203...thì dân Bangkok, Seoul có lẽ còn đang đi xe gắn máy hoặc cũng chỉ như vậy là cùng. Còn hiện nay ở VN, nếu muốn đi xe Lexus thì dân VN phải bỏ ra số tiền gấp 3 lần dân Hàn Quốc, Thái Lan trong khi thu nhập chỉ bằng 1/10-1/20 (xin lỗi GS, tôi không có thời gian Google con số chính xác, đại để là chênh lệch giàu nghèo quá lớn). Ông phản biện HĐ là SG giàu nhờ viện trợ Mỹ (tóm lại là như thế) nhưng ông lờ đi VN nghèo đi so với các nước khác là do chế độ CS cai trị. Ông ngụy biện khi đưa ra hình ảnh tuyệt đối là VN giàu gấp 100-1000 lần thời trước năm 75 nhưng lại lờ đi hệ quy chiếu với các nước trên thế giới trong khi điều đó mới là quan trọng. Vậy nếu VNCH còn tồn tại thì nó có thể giàu gấp 2000-5000 lần trước 75 thì sao? Thực tế như ông đã thấy, sau 10 năm điều hành đất nước, chế độ mới lại bắt đầu làm lại, nhưng không đầy đủ, những gì mà chế độ cũ đã làm. Như vậy là phát minh lại cái bánh xe và giải thiết trên của tôi rõ ràng là dễ xảy ra. Tương tự trên, ông thật ngây thơ khi tự hào, tự tin khi cho là VN đã phát triển cơ sở hạ tầng vượt bậc, tôn giáo được tự do phát triển, linh mục được tự do chửi bậy, luật sư được tự do kiện thủ tướng mà lờ đi là có mấy ông luật sư vì kiện cáo, đòi tự do ngôn luận mà bị đi tù, linh mục, giáo dân vì đấu tranh cho tự do tôn giáo mà đi tù nốt, báo chí thì không có tư nhân, dân biểu tình chống ngoại xâm thì bị nhốt vào nhà thương điên; hạ tầng thì sập sệ, cầu đường thì đắt nhất thế giới nhưng không chỗ nào không lún nứt. Trong khi đó, với chế độ Ngô Đình Diệm, bị coi là độc tài nhất VNCH, thì người dân vẫn có quyền biểu tình, báo chí tư nhân vẫn tồn tại. Vừa rồi là ông mới nhận xét và đây là nhận xét thêm. Tôi không hiểu cách bố cục bài viết kiểu khoa bảng nó phải thế hay sao? Đây là phần bắt đầu nhiều xanh đỏ, in nghiêng, gạch chân, viết đậm, có lẽ mới là phần bút chiến của ông chăng?! Ông phản biện "... tất cả những lý luận thuộc loại “because” hay “par ce que”, hay những tệ đoan xã hội ngày nay, hay đường lối chính trị quốc gia ngày nay v..v.. đều không xứng hợp với chủ đề." Và tôi cũng xin học tập ông để phản biện là những "Chuyện ngoài lề" của ông như: " [Chuyện ngoài lề: Đại tá Harry G. Summers bắt đầu cuốn sách "Chiến Lược" bằng cách tường thuật một cuộc trao đổi với một Đại tá của Miền Bắc Việt Nam "Ông bạn có biết rằng bạn không bao giờ đánh bại chúng tôi trên chiến trường". Đại tá của Miền Bắc Việt Nam suy nghĩ nhận xét này một hồi, rồi đáp: "Có thể là như vậy", "nhưng nó cũng không có gì liên quan" (John Carlos Rowe & Rick Berg, Chiến tranh Việt Nam và Văn hóa Mỹ, Columbia University Press, New York, 1991, p. 69) John Carlos Rowe & Rick Berg, The Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New York, 1991, p. 69: Colonel Harry G. Summers begins his book “On Strategy” by reporting an exchange he had with a North Vietnamese Colonel: “You know you never defeated us on the battlefield,” said the American colonel. The North Vietnamese colonel pondered his remark a moment. “That may be so,” he replied, “but it is also irrelevant”] Ai muốn tin hay không tin là quyền của họ. Nhưng sự kiện là, miền Bắc đã thực hiện được mục đích thống nhất đất nước của họ. Và thực tế là, họ thực hiện được như vậy là vì có sự đóng góp không ít của người dân miền Nam. Không phải tất cả người dân miền Nam đều muốn đất nước chia cắt vĩnh viễn, không phải tất cả đều mong muốn sống dưới chế độ Thiệu, Kỳ, một chế độ mà thực chất chỉ là tiếp nối của chính sách can thiệp của Mỹ vào Việt Nam, một chế độ mà vị Tổng Thống tuyên bố ngay ngày hôm sau Hiệp Định được ký kết: “Thấy CS ở đâu là bắn bỏ ngay, thấy ai tuyên truyền cho CS cũng bắn bỏ ngay” [Marilyn B. Young, The Vietnam Wars: 1945-1990, p. 279] và vào đầu năm 1975: “Còn viện trợ Mỹ thì còn đánh, cắt viện trợ thì chỉ trong ba ngày là tôi ra khỏi Dinh Độc Lập”, và Phó Tổng Thống thì tuyên bố ”Chúng ta chỉ là những lính đánh thuê”.. Cũng đều không xứng hợp và cần thiết với chủ đề. Bởi vì, HĐ viết: "Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 – ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc." Từ "giải phóng" ở vế đầu thì tất nhiên ai cũng hiểu như ông hiểu mà không cần phải viết thêm đoạn lê thê bên trên. Từ "giải phóng" ở vế sau muốn nói lên 1 điều đơn giản chính miền Nam đã giải phóng miền Bắc, 1 phần, khỏi tư tưởng giáo điều của chủ nghĩa Mác với nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp; giải phóng người dân miền Bắc khỏi thứ nghệ thuật vị nhân sinh độc quyền (nghệ thuật tuyên truyền, văn chương cách mạng) để đến với nghệ thuật vị nghệ thuật. HĐ đã viết là nhiều người tin là miền Bắc giải phóng miền Nam và ngược lại, điều đó có nghĩa là có 2 luồng suy nghĩ đối nghịch, thực tế theo tôi là đúng như vậy, còn ông thì nhất định cho là chỉ có 1 chiều giải phóng mà thôi. Thực tế, sau "giải phóng" thì người dân Bắc mới được dân Nam dạy cho nhiều thứ văn minh như HĐ đã dẫn (may ra được 1/10 thực tế), đấy chính là nghĩa ẩn dụ của từ "giải phóng" chứ còn gì. Tôi không nghĩ là ông không thể hiểu điều đó mà do ông cố tình không hiểu. Từ "giải phóng" ở vế đầu là nghĩa đen còn từ "giải phóng" ở vế sau là nghĩa bóng. Đoạn ông phê phán HĐ " Có vẻ như tác giả không có mấy ý niệm về thời gian, thế nào là trước hay sau." nếu xét logic thuần túy thì đúng, nhưng tôi đánh giá là vặt vãnh. Bởi vì, đúng là tập 1 BTC chủ yếu nói về những gì xảy ra sau ngày 30-4-75, các mốc thời gian trước đó chỉ là các nội dung mang tính dẫn nhập hay chú thích, không phải nội dung chính. Giống như nếu viết sách Lịch sử cận đại thì làm sao tránh khỏi những chú thích, dẫn nhập (nêu nguyên nhân) từ những thời kỳ trước đó. TCN thật cảm tính và thô thiển khi cho rằng: "Cho nên, theo ý tôi, cả một Chương I dài về ngày 30-4, tôi có thể rút gọn lại thành một câu: Ngày 30-4-1975, xe tăng của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam tiến vào Sài Gòn, húc đổ cửa sắt Dinh Độc Lập. Ông Tổng Thống cuối cùng của Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa, Dương Văn Minh, đầu hàng. Chiến tranh cuối cùng chấm dứt. Nước nhà thống nhất. Chấm Hết." Chỉ vì lý do là HĐ không được chứng kiến trực tiếp các sự kiện mà HĐ viết. Nếu rút gọn như ông thì làm gì còn tác phẩm, bài viết gì nữa. Tôi cũng có thể rút gọn cả bài viết phản biện của ông thành 1 đoạn, chẳng hạn"HĐ là 1 đứa trẻ không biết gì, viết ra những điều không kiểm chứng được, sai bét. BTC là quyển sách vô giá trị", chả ai đánh giá cao 1 bài viết chỉ có như vậy. Đoạn ông phê bình HĐ về cách trình bày không theo đúng kiểu học thuật của các "Nhà khoa bảng" tôi thấy rất đúng nhưng hơi khắt khe. Vì BTC không phải là 1 tác phẩm khoa học. Với cá nhân tôi cũng như đa số độc giả, cũng không phải là nhà sử học, thì việc đọc cách trình bày của HĐ cũng không thấy có vấn đề gì ghê gớm. Về những lời cảm ơn thì tôi không quan tâm, còn các chú thích thì tôi có thể xác thực thêm bằng Google, nếu muốn. Kết luận, tôi thấy ông và những "thế lực thù địch" của HĐ đều không phê phán gì đáng kể nội dung quyển tập 2 Quyền bính, phải chăng quyển đó có nội dung chính xác hơn, trình bày chuẩn mực hơn? Tôi vốn là 1 tay viết nghiệp dư nêu nếu trình bày có điều gì không giống các "Nhà khoa bảng" thì mong ông bỏ quá cho. Thú thực là tôi cũng chỉ đọc có 1/3 bài viết của ông mà đã viết bài phản biện thế này. Giao Luu
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 10:23:39 GMT 9
Sách Bên Thắng CuộcVì sao tôi viết?December 6, 2012 at 9:10am Osin Huy Đức www.facebook.com/BenThangCuocBook/?hc_ref=ARTPmmdfrHTgxorLKIIy3T833Swhcds6iBXOQB4wy2McscjOCvMKMyelsMcJhRIAUfI&fref=nf Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ, nhất là một quá khứ mà chúng ta can dự và có phần cộng đồng trách nhiệm. Cuốn sách này bắt đầu bằng những câu chuyện xảy ra trong ngày 30-4-1975. Ngày mà tôi, một cậu bé mười ba, trước giờ học chiều, đang vật nhau ven đồi thì nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải phóng”. Thay vì tiếp tục ăn thua, chúng tôi buông nhau ra. Miền Nam, theo như những bài học của chúng tôi, sẽ chấm dứt “20 năm rên xiết lầm than”. Trong cái thời khắc lịch sử ấy, trong đầu tôi, một sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý nghĩ: Phải nhanh chóng vào Nam để giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối. Nhưng hình ảnh miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời làng quê nghèo đói của mình. Trên quốc lộ Một bắt đầu xuất hiện những chiếc xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi đu ngoài cánh cửa gần như chỉ trong một giây trước khi chiếc xe rú ga vọt đi. Hàng chục năm sau, tôi vẫn nhớ hai chữ “chạy suốt” bay bướm, sặc sỡ sơn hai bên thành xe. Cho tới lúc ấy thứ tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết trên những băng khẩu hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ. Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa - biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe - buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn. Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh... được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày[1], Thép Đã Tôi Thế Đấy[2]… Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi. Tôi vẫn ở lại miền Bắc, chứng kiến thanh niên quê tôi đắp đập, đào kênh trong những năm “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Chứng kiến khát vọng “thay trời, đổi đất sắp đặt lại giang san” của những người vừa chiến thắng trong cuộc chiến ở miền Nam... Chứng kiến cũng những con kênh đó không những vô dụng với chủ nghĩa xã hội mà còn gây úng lụt quê tôi mỗi mùa mưa tới. Năm 1983, tôi có một năm huấn luyện ở Sài Gòn trước khi được đưa tới Campuchia làm chuyên gia quân sự. Trong một năm ấy, hai cô em gái của Trần Ngọc Phong[3], một người bạn học chung ở trường sỹ quan, hàng tuần mang tới cho tôi bốn, năm cuốn sách. Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh”. Những năm ấy, góc phố nào cũng có mấy bác xích lô, vừa mỏi mòn đợi khách vừa kín đáo đọc sách. Nhiều người trong số họ mới ở trong các trại cải tạo trở về. Tôi bắt đầu tìm hiểu Sài Gòn từ câu chuyện của những bác xích lô quen như vậy… Mùa Hè năm 1997, một nhóm phóng viên vì nhiều lý do phải rời khỏi tờ báo Tuổi Trẻ như Đoàn Khắc Xuyên, Đặng Tâm Chánh, Đỗ Trung Quân, Huỳnh Thanh Diệu, Nguyễn Tuấn Khanh, Huy Đức… Chúng tôi thường xuyên gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi với các đồng nghiệp như Thúy Nga, Minh Hiền, Thế Thanh, Cam Ly, Phan Xuân Loan… Thế Thanh lúc ấy cũng vừa bị buộc thôi chức Tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành Phố, và cũng như Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ Kim Hạnh trước đó, chị không được tiếp tục nghề báo mà mình yêu thích. Chúng tôi nói rất nhiều về thế sự, về những gì xảy ra trên thế giới và ở đất nước mình. Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu nói đó của Tuấn Khanh, nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách. Rất nhiều thế hệ, kể cả con em của những người đã từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, sau ngày 30-4-1975, cũng trở thành sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhiều người không biết một cách chắc chắn điều gì đã thực sự xảy ra thậm chí với ngay chính cha mẹ mình. Không chỉ thường dân, cho đến đầu thập niên 1980, nhiều chính sách làm thay đổi số phận của hàng triệu sinh linh như “Phương án II”[4], như “Z 30”[5] cũng chỉ được quyết định bởi một vài cá nhân, nhiều người là ủy viên Bộ chính trị cũng không được biết. Nội bộ người Việt Nam đã có nhiều đụng độ, tranh cãi không cần thiết vì chỉ có thể tiếp cận với lịch sử qua những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền. Không chỉ các thường dân, tôi tin, những người cộng sản có lương tri cũng sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm. Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc. Hãy để cho các nhà kinh tế chính trị học và các nhà xã hội học nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng lịch sử này. Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ bắt đầu kể những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày 30-4: cải tạo; đánh tư sản; đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975, nói về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc. Tư liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm, và trong vòng ba năm (từ tháng 8-2009 đến tháng 8-2012) tôi đã dành toàn bộ thời gian của mình để viết. Bản thảo cuốn sách đã được gửi tới một số thân hữu và một số nhà sử học, trong đó có 5 nhà sử học của Mỹ chuyên nghiên cứu về Việt Nam. Sau khi sửa chữa, bổ sung, tháng 11-2012, bản thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một số nhà xuất bản trong nước, tuy nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất bản tiếng Việt có uy tín tại Mỹ và Pháp đồng ý in, nhưng để lãnh trách nhiệm cá nhân và giữ cho cuốn sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa cuốn sách này đến tay bạn đọc. Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Tuy tác giả có những cơ hội quý giá để tiếp cận với các nhân chứng và những thông tin quan trọng, cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, chắc chắn sẽ còn được bổ sung khi một số tài liệu được Hà Nội công bố. Hy vọng bạn đọc sẽ giúp tôi hoàn thiện nó trong những lần xuất bản sau. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc. Sài Gòn - Boston (2009-2012) [1] Tiểu thuyết cách mạng của Trung Quốc. [2] Tiểu thuyết cách mạng của Liên Xô. [3] Đạo diễn điện ảnh. [4] Tổ chức cho người Hoa nộp vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979). [5] Cải tạo những người giàu lên bất thường (1983). Sách Bên Thắng Cuộc Về chi tiết "7 viên tướng Hàn Quốc" xin đọc lại (Footnote 431, Quyền Bính, trang 276, bản mới): Theo ông Trần Tam Giáp, thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng (viết trong cuốn Lê Đức Thọ, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2011), cho đến thập niên 1980, Việt Nam vẫn còn giữ bảy viên tướng của Hàn Quốc bị bắt giữ trong ngày 30-4-1975, ông Giáp viết: “Chủ trương của ta là tạo điều kiện cho Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên trong cuộc đàm phán với Cộng hoà Triều Tiên để Chính phủ ta thả bảy viên tướng của Hàn Quốc về nước. Lúc đó hai bên đàm phán ở New Dehli, Ấn Độ, tại Đại sứ quán Việt nam. Sau nhiều năm, hai bên không đi đến thoả thuận nào do Hàn Quốc không đáp ứng đòi hỏi của Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên mà họ cho là quá cao. Qua cuộc trao đổi với Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đồng chí Lê Đức Thọ cho biết số tướng lĩnh này tuổi đã cao, điều kiện giam giữ của ta không đảm bảo, sức khỏe của họ giảm sút, nếu tính mạng họ có vấn đề gì nảy sinh thì sẽ rất khó cho ta. Sau đó, ta đã giao cho Bộ ngoại giao gợi ý bạn (Cộng Hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên) nên có phương án hợp lý hợp tình. Bạn đòi giao số này cho họ nhưng ta không nhất trí. Lúc đó có sự vận động của Chính phủ Thuỵ Điển, qua Đại sứ Oberg chuyển thư cho Tổng thống Pak Chung Hy thỉnh cầu Chính phủ ta (trong số này có người là bạn thân hoặc gia đình của Tổng thống). Thủ tướng Phạm Văn Đồng và đồng chí Lê Đức Thọ đã thảo luận với nhau nhiều lần, bàn nhiều khía cạnh và cuối cùng đã đi đến kết luận là thả tự do số tướng lĩnh này vì lý do nhân đạo. Đây là một quyết định không dễ dàng khi đưa ra Bộ Chính trị quyết định. Cuối cùng, qua trung gian của Chính phủ Thuỵ Điển, một chuyên cơ đã được phép đến Hà Nội nhận số tướng lĩnh nói trên. Phía Hàn Quốc rất cảm kích và đánh giá cao quyết định của ta, họ tỏ ý muốn viện trợ kinh tế xứng đáng cho ta”. Tuy nhiên, theo một nhà Việt Nam học người Hàn Quốc, giáo sư Bae Yang Soo (Bùi Lương Tú), thì chỉ có 3 nhà ngoại giao Hàn Quốc ( 1 công sứ, 2 lãnh sự) bị giữ và cả ba đã được thả vào tháng 4 năm 1980. Ông công sứ đó là tướng còn 2 vị lãnh sự không phải là quân nhân. Bên thắng cuộc – gã khổng lồ cô đơnTháng Bảy 14, 2014 BenThangCuoc_Cover1. Một bộ sách đồ sộ. Không phải ở độ dày ngàn trang mà vì dung lượng thông tin liên quan đến lịch sử đất nước trong 30 năm sau ngày “Bắc Nam liền một dải”. Đất nước sau chiến tranh với quá nhiều những biến cố quan trọng được lèo lái bởi các nhà lãnh đạo mà mỗi vị đều tự nhận mình là đồ đệ chân truyền của “cha già dân tộc”. Đất nước với vô số những số phận cả hai phía, bị “cuốn theo chiều gió”, những thường dân và viên chức, các nhà kinh tế và thương gia, các nhà thơ và tướng lĩnh… Những ai đi qua thời hậu chiến có chút ưu tư về cuộc sống đều nhìn thấy hình ảnh của bản thân và thời đại hiện lên trong cuốn sách. Quen thuộc mà vẫn mới lạ, mới lạ cả với những kẻ “trong cuộc”. Hàng ngàn cuộc phỏng vấn, hàng trăm cuốn sách từ cả hai phía được tham khảo khiến cuốn sách gây cảm giác đáng tin cậy. Cảm giác có được từ trang đầu tiên đến hết bộ sách. Người đọc hiểu rằng mình đang cầm trên tay không phải cuốn tiểu thuyết hồi kí hay ký sự, ở đó tác giả buộc phải “xây dựng” những nhân vật và sự kiện để kết nối, tạo ra những cao trào để chứng minh những luận đề quen thuộc kiểu ta thắng địch thua, khó khăn tạm thời, nâng cao cảnh giác, chính nghĩa phi nghĩa, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của XYZ nào đó. Tất nhiên thông tin chỉ là vật liệu, việc lựa chọn dẫn chứng, sắp xếp xung quanh một sự kiện đòi hỏi bản lĩnh nghề nghiệp cao cường của người viết. Những va đập của các thông tin từ nhiều góc độ tùy vào vị trí người trong cuộc khiến những trang sách sống động và ngổn ngang như cuộc đời thực. Huy Đức vẽ nên những kí họa chân dung đặc sắc. Hàng trăm kí họa vẽ nên gương mặt, tính cách, số phận của những nhân vật quan trọng của thời đương đại. 2. Những nhận xét ngắn gọn, bao quát, xác thực và sâu sắc một cách đáng khâm phục. Sự thô mộc, rộng lớn, đa chiều của cuộc sống được Huy Đức đúc kết thành những mệnh đề điềm tĩnh. Hàng tấn quặng sự kiện cuộc sống được tinh chiết thành những dòng “phóng xạ”. Những mệnh đề xứng đáng làm ý tưởng tạo cho những luận án của sinh viên các trường Xã hội và Nhân văn. Một ví dụ, trong phần mở đầu chương viết về tướng Giáp có hai câu: “Trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông”. 3. Huy Đức chọn cho mình vị trí nào khi viết BTC khi trong cuộc đời thực anh là người của bên thắng cuộc? Tác giả xác tín một cách đàng hoàng khi dành trang đầu bộ sách dẫn hai câu thơ của Nguyễn Duy “Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh/ Bên nào thắng thì nhân dân vẫn bại”. Nhân dân trong thân phận yếu ớt, mong manh và vĩnh cửu. Nhân dân khi “suy cho cùng” đi đến bản chất một cách rốt ráo. Nhân dân không phải khái niệm đầy sức quyến rũ, mê hoặc làm mê man lòng tự mãn, cũng không phải mù mờ trừu tượng như trong “lời Bác dạy”. Bác dạy đồng bào “cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, Bác dạy quân đội “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh”, Bác dạy công an “với nhân dân phải kính trọng lễ phép”. Nhân dân trong thực tế và trong lời “Người dạy” khác nhau một cách trớ trêu. Xác định chỗ đứng với nhân dân (không viết hoa) như vậy thì không thể khác được “Đã đi với nhân dân/ Thì thơ không thể khác/ Dân máu lệ khốn cùng/Thơ chết áo đắp mặt!”. Dấn thân theo cách này, BTC gây nên sự đánh giá nhiều chiều của cả bên thắng cuộc cũng như bên thua cuộc là điều “hoàn toàn tự nhiên”, dễ hiểu. 4. BTC là một người khổng lồ cô đơn. Viết về Việt Nam sau chiến tranh, khó có cuốn nào đủ sức vóc để sánh vai cùng BTC. Trong vài chục năm tới, với sự chăm sóc nhiệt tình của “trên” với ngành xuất bản và báo chí, việc nhà văn nhà báo nào đó đẻ được vài cuốn sách làm anh em với BTC là một ước mơ quá lãng mạn. Gã khổng lồ này cô đơn trên chính quê hương của mình. Gã không có hộ khẩu, cũng chẳng được cấp chứng minh thư để sống hợp pháp với cuộc đời. BTC xứng đáng được đưa vào giảng dạy trong các trường báo chí và lịch sử như những dẫn chứng về bút pháp tảng băng chìm của Hemingway, về thái độ dấn thân một cách quả cảm, dù vậy, khả năng để gã được thừa nhận trên quê hương thật mịt mù. Lúc BTC xuất hiện trên giang hồ, tác giả đang ở Mỹ, nhiều nhà báo trong nước đã nói xa nói gần về sự quay lưng và vô ơn của tác giả trước những thành tựu vĩ đại của cách mạng. Nhân cách tác giả được đưa ra xem xét, kẻ bồi bút là một trong nhiều quy kết. Bây giờ thì Huy Đức đã về nước, để làm một kẻ thất nghiệp. Dù gì đi nữa, gã khổng lồ mang tên BTC vẫn cứ lừng lững đi đến tương lai và kể cho hậu thế nghe những câu chuyện đau thương của đất nước này. BTC kể về những con người có danh và vô danh như họ từng sống, kể về những đau thương của một thời mà đáng ra có thể tránh được. Hậu thế sẽ học được bài học mà cha ông chúng phải trả bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của hàng triệu người. BTC biết hậu thế thông minh, công bằng và có trách nhiệm. BTC tặng họ những đường link và những gợi mở cô đúc. Tự họ sẽ tìm hiểu, sẽ phân loại vàng thau theo cách riêng mà không cần đến bất kỳ sự chăm sóc hay định hướng nào. 5. Người viết bài này cứ loay hoay, nghĩ mãi vẫn không tìm được chìa khóa giải mã cái tựa “Bên thắng cuộc” của bộ sách. Hàng chục năm sau chiến tranh, bên thắng cuộc nhận được nhiều những sự “khai sáng” từ bên thua cuộc. Rõ nhất là những thành quả trong tư duy kinh tế, điều hành xã hội, giáo dục, báo chí, xuất bản. Khúc khải hoàn của “bên thắng cuộc” sao chất chứa quá nhiều đắng cay và chua chát!
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:29:10 GMT 9
Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954CHƯƠNG 1 Chu Ân Lai đến Genève Chu Ân Lai đã tới, mang theo phong thái của một Trung Quốc mới. Mặt hồ Leman xanh biếc tựa như một con mắt mở to tròn trên mảnh đất Tây Âu, dồn mọi sự tập trung chú ý vào những gì sắp xảy ra xung quanh nó. “Bàn đàm phán của thế giới” – Genève - liệu ngươi có thể giải quyết được hai vấn đề khó khăn đang được đặt trên mình không? Thứ Bảy, ngày 23/4/1954, thành phố Genève của Thụy Sĩ tràn ngập sắc xuân, đâu đâu cũng là một màu xanh mơn mởn. Đây quả là một mảnh đất xinh đẹp tuyệt vời. Hồ Leman nước xanh biếc tựa như một con mắt mở to tròn trên đất Tây Âu, đang dồn mọi sự tập trung chú ý vào những gì sắp xảy ra xung quanh mình. Mấy ngày hôm nay, sân bay Genève đặc biệt nhộn nhịp, hàng loạt máy bay từ năm châu bốn biển liên tiếp hạ cánh, đưa các vị đại biểu của các nước cùng hơn một nghìn phóng viên báo chí tới thành phố xinh đẹp vốn được mệnh danh là “Bàn đàm phán của thế giới” này. Còn hai ngày nữa, từ ngày 26/4, sẽ diễn ra hội nghị Genève bàn về vấn đề Triều Tiên và vấn đề Đông Dương. Các chính trị gia từ hơn 20 nước và khu vực sẽ hội tụ tại đây, thông qua thương lượng để giải quyết hai cuộc chiến tranh lớn trên thế giới, đem lại hòa bình cho Triều Tiên và Đông Dương (chủ yếu là Việt Nam). Điều quan trọng hơn là Chu Ân Lai sẽ là đại diện cho nước Trung Quốc mới cùng với đại biểu của Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp tham gia toàn bộ quá trình hội nghị. Đây là lần đầu tiên kể từ sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, lãnh đạo của năm nước lớn cùng ngồi vào bàn đàm phán với nhau. Hai giờ chiều, ông Phùng Huyền, 39 tuổi, Công sứ Trung Quốc tại Thụy Sĩ cùng phái đoàn đến sân bay Genève. Cùng ông đến sân bay có Tổng lãnh sự Trung Quốc tại Genève Ôn Bằng Cửu, các nhân viên lãnh sự quán và cả Bí thư trưởng của đoàn đại biểu Trung Quốc Vương Bỉnh Nam, người đã đến Genève trước đó. Tại sân bay, Phùng Huyền gặp Cục trưởng Cục hành chính Chính phủ liên bang Thụy Sĩ Airfreid Qindeer và Phó Thị trưởng Genève Aibert Dujun. Đến sân bay đón Chu Ân Lai còn có Bộ trưởng Ngoại giao Triều Tiên, tướng Nam Il [Nam Nhật], cùng các đại biểu Triều Tiên Bạch Nam Vân, Kỳ Thạch Phúc và cố vấn Trương Xuân Sơn, những người đã đến Genève từ ngày 23 tháng Tư. Ngoài ra, công sứ một số nước Đông Âu tại Genève như Tiệp Khắc, Hungary cũng ra sân bay nghênh đón. 10 giờ sáng hôm qua Nam Il bay từ Berlin sang Genève. Hôm qua, sân bay không đông như hôm nay. Trong chiến tranh Triều Tiên, Nam Il là Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân (QĐND), sau đó là trưởng đoàn đại biểu Triều – Trung tại cuộc đàm phán ở Bàn Môn Điếm [Panmunjeom]. Khi xuống đến sân bay, Nam Il đã đảo mắt nhìn quanh dường như muốn tìm kiếm một quang cảnh quen thuộc, cứ mỗi khi xuất hiện là rất đông phóng viên xúm tới chụp ảnh. Thế nhưng lần này đã không diễn ra quang cảnh như ông mong muốn. Tại sân bay chỉ có vài phóng viên, dường như không có ai nhận ra Nam Il. Ông lên chiếc ô tô nhỏ đã đợi sẵn đi về nơi nghỉ. Nhưng hôm nay đã khác hẳn. Từ hôm nay, đại biểu của năm cường quốc bắt đầu đến Genève. Nhân viên lễ tân Bộ Ngoại giao Thụy Sĩ đông kín sân bay. Công sứ Trung Quốc Phùng Huyền đã quen mọi người và bày tỏ cảm ơn với sự đón tiếp của các quan chức lễ tân Thụy Sĩ. Con người thư sinh Phùng Huyền là một nhà cách mạng nòi. Ông là người Võ Tiến, tỉnh Giang Tô, sinh tháng 5 năm 1915. Năm 16 tuổi đã tham gia đội thiếu niên cộng sản. Thời thanh niên từng lãnh đạo công nhân xe điện ở Cáp Nhĩ Tân bãi công. Năm 1933, khi 18 tuổi, Phùng Huyền đã sang Liên Xô học tại Học viện Lenin, đến năm 1936 được kết nạp vào ĐCS Trung Quốc, cùng năm đó về Tân Cương đảm nhận chức Trưởng ban chính trị tiểu đoàn tân binh ở Urumqi. Năm 1940 đến Diên An, tham gia vào Ban xã hội trung ương ĐCS do Lý Khắc Nông lãnh đạo, phụ trách công tác liên lạc quốc tế. Năm 1946 giữ chức Chủ nhiệm văn phòng đoàn đại biểu ĐCS Trung Quốc thuộc Phòng điều quân Bắc Bình [Bắc Kinh]. Sau khi nội chiến bùng nổ dữ dội, ông chuyển công tác đến vùng Đông Bắc, khi nước Trung Quốc mới được thành lập, giữ chức Cục trưởng Cục liên lạc thành phố Thiên Tân thuộc Ban liên lạc quân uỷ trung ương. Tháng 10/1950, Phùng Huyền được điều động sang Bộ Ngoại giao, lúc đó vừa mới được thành lập, trở thành vị công sứ đầu tiên của nước Trung Quốc mới tại Liên bang Thụy Sĩ. Vừa chuyển về Bộ Ngoại giao, Phùng Huyền đã ra nước ngoài nhận nhiệm vụ. Trước khi rời tổ quốc, đích thân Chu Ân Lai gặp gỡ tất cả nhân viên sứ quán, nói với mọi người rằng “Phùng Huyền là đại diện của nước Trung Hoa mới, là đại diện của Chủ tịch Mao Trạch Đông, là lãnh đạo của tất cả các đồng chí, và mỗi người trong các đồng chí đều là sứ giả của nước Trung Hoa mới, mỗi lời nói, hành động của các đồng chí đều phản ánh hình tượng của nhân dân Trung Quốc đang vươn dậy”. Sứ quán tại Thụy Sĩ là một trong những cơ quan ngoại giao ở nước ngoài đầu tiên được thiết lập sau khi nhà nước Trung Hoa mới ra đời, đồng thời là sứ quán đầu tiên của Trung Quốc tại Tây Âu. Khi đó, các nước láng giềng của Thụy Sĩ như Pháp, Italia, Bỉ, Anh v.v. vẫn chưa thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Sứ quán Trung Quốc tại Thụy Sĩ do vậy giữ vai trò “lô cốt đầu cầu” cắm vào Tây Âu, như vậy có thể hiểu vai trò và nhiệm vụ của Phùng Huyền không nhẹ chút nào. Từ tháng 3/1954, Phùng Huyền dốc hết sức cho công tác chuẩn bị cho hội nghị Genève, chỉ để vài nhân viên lại Bern, còn toàn bộ lực lượng cốt cán đều được đưa tới Genève. Khi đó, Trung Quốc đã mở Tổng lãnh sự quán tại Genève và Ôn Bằng Cửu được cử làm Tổng lãnh sự. Ông đã mất nhiều công sức để chuẩn bị cho chuyến đi của đoàn đại biểu Trung Quốc. Ba giờ chiều, chiếc máy bay “IL-14” của Liên Xô khởi hành từ Berlin đã hạ cánh xuống sân bay Genève, đoàn đại biểu Trung Quốc đã đến. Khi máy bay đáp xuống đường băng, cả sân bay bắt đầu trở nên náo nhiệt hẳn lên. Hàng trăm phóng viên chen nhau tiến lên, khiến các phóng viên ảnh đứng ở hàng đầu phải kêu lên “Đừng chen lấn nữa”. Trong số các phóng viên, phần nhiều là nhà báo Mỹ, đa số họ đều chưa từng gặp mặt Chu Ân Lai nên nhiều người hỏi “Ai là Chu Ân Lai?” Máy bay đã dừng hẳn, người đầu tiên bước ra khỏi khoang máy bay là Chu Ân Lai. Ông bận một bộ complet màu đen rất vừa vặn, tay phải đặt trên lông mày rất tự nhiên, miệng luôn mỉm cười tỏ ý chào những người đến đón. Bộ mặt tươi cười của ông trông rất tự nhiên, thoải mái, trong lòng chắc chắn tràn đầy tự tin. Trên quãng đường ngồi máy bay từ Moskva sang Đức rồi đến Genève, ông đã tranh thủ thời gian ở độ cao hàng chục km [?] để nghỉ ngơi. Máy bay hạ cánh lập tức tỉnh táo lại, lúc này trông ông rất khoẻ mạnh, đầy sinh lực. Khi ra khỏi khoang máy bay, Chu Ân Lai giơ tay vẫy liên tiếp để chào những người đến đón. Bước sau Chu Ân Lai là Trần Dung dáng vẻ rất chỉnh tề. Bước khỏi khoang máy bay sát ngay sau Chu Ân Lai là Thứ trưởng Ngoại giao, Đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô Trương Văn Thiên. Khi còn trẻ, Trương Văn Thiên đã du học tại Mỹ và Liên Xô, trong một thời gian rất dài đảm nhiệm chức phụ trách tối cao của đảng. Tại hội nghị Tuân Nghĩa trên đường trường chinh của hồng quân, Trương Văn Thiên đã thay đổi lập trường ban đầu, chủ trương để Mao Trạch Đông trở lại lãnh đạo hồng quân. Ông là người có vai trò rất quan trọng trong việc xác định vị trí lãnh tụ của Mao Trạch Đông. Cũng tại hội nghị Tuân Nghĩa, Trương Văn Thiên cũng được lựa chọn làm lãnh đạo chủ chốt của đảng. Nhưng vào cuối thời kỳ kháng chiến, địa vị của Trương Văn Thiên trong đảng bị giảm sút. Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, Trương Văn Thiên chuyển sang hỗ trợ Chu Ân Lai trong công tác ngoại giao. Trong thời gian chuẩn bị cho hội nghị Genève lần này, ông chủ yếu phụ trách trao đổi và điều chỉnh các ý kiến và lập trường giữa hai bên Trung Quốc và Liên Xô. Riêng trong tháng Tư, đã sắp xếp ba lần hội nghị giữa Chu Ân Lai với các nhà lãnh đạo Liên Xô. Đứng bên cạnh Trương Văn Thiên là Thứ trưởng Ngoại giao kiêm Trưởng Ban Liên lạc trung ương Vương Gia Tường. Cũng như Trương Văn Thiên, ông Vương cũng là một trong những lãnh đạo cốt cán của thời kỳ hồng quân. Tại hội nghị Tuân Nghĩa, ông đã hết lòng ủng hộ Mao Trạch Đông, sau đó chủ yếu phụ trách công tác tuyên truyền. Sau khi nước Trung Quốc mới thành lập, ông là Đại sứ Trung Quốc đầu tiên tại Liên Xô. Về nước năm 1951 được cử giữ chức Trưởng Ban liên lạc trung ương, nhiệm vụ cụ thể là phụ trách công tác trợ giúp cho cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam. Từ năm 1950, La Quý Ba đảm nhiệm chức đại diện Ban liên lạc trung ương ĐCS Trung Quốc và Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc, trong một thời gian dài sống và làm việc cùng Hồ Chí Minh tại căn cứ địa cách mạng ở miền Bắc Việt Nam. Rất nhiều chỉ thị đối với La Quý Ba đều do Vương Gia Tường khởi thảo hoặc ký lệnh. Phía sau Vương Gia Tường là Lý Khắc Nông, cũng là một Thứ trưởng Ngoại giao. Ông đã từng tham gia cuộc trường chinh, còn là một nhà hoạch định sách lược hậu trường quan trọng của cuộc đàm phán Bàn Môn Điếm. Trương Văn Thiên, Vương Gia Tường, Lý Khắc Nông là các phó trưởng đoàn của đoàn đại biểu Trung Quốc, là các trợ thủ quan trọng của Chu Ân Lai. Lần này đến Genève, đoàn đại biểu Trung Quốc gồm có hơn 200 người, trong đó tập trung nhân tài tinh anh của ngành ngoại giao của nước Trung Quốc mới. Khi nhớ lại sự kiện này, Kiều Quán Hoa - một trong những thành viên của phái đoàn và sau này từng có thời kỳ làm Bộ trưởng Ngoại giao, đã hài hước nói rằng với một lực lượng phái đoàn đại diện chính phủ hùng hậu như vậy, nước Trung Quốc mới đã lập một kỷ lục về ngoại giao. Chu Ân Lai với nụ cười luôn nở trên môi tiến về phía những quan chức đến đón. Ông giơ tay ra bắt tay các quan chức Thụy Sĩ đang bước tới. Do Chu Ân Lai bước lẫn vào hàng ngũ những người có mặt nên các phóng viên bắt đầu bối rối. Đầu tiên là một nhà báo Mỹ lên tiếng “Ngài Chu Ân Lai, mời ngài tiến gần đến đây hơn và xin nhìn về phía tôi”. Rất lịch sự, Chu Ân Lai ngẩng đầu lên tiến về phía các nhà báo, ánh đèn flash loé sang liên tục chớp lấy hình ảnh của Chu Ân Lai. Bí thư trưởng phái đoàn Trung Quốc Vương Bỉnh Nam và phát ngôn viên báo chí phân phát văn bản bài phát biểu tại sân bay của Chu Ân Lai cho các phóng viên có mặt tại hiện trường. Hội nghị Genève sắp bắt đầu khai mạc. Hội nghị sẽ thảo luận việc giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình cho bán đảo Đông Dương. Hai vấn đề cốt lõi này của châu Á, nếu được giải quyết ổn thỏa sẽ có lợi cho việc bảo đảm hòa bình của châu Á, góp phần làm giảm cục diện căng thẳng của thế giới. Những quốc gia và những người yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới sẽ theo dõi sát sao tiến trình hội nghị Genève, đồng thời hy vọng hội nghị sẽ thành công. Nhân dân Trung Quốc cũng cùng chung ước muốn như vậy đối với hội nghị này. Đoàn đại biểu Trung Quốc tham gia hội nghị với một tinh thần chân thành. Chúng ta tin tưởng rằng những nỗ lực chung của những người tham gia hội nghị cũng như nguyện vọng chung muốn củng cố hòa bình sẽ tạo cơ hội giải quyết tất cả những vấn đề cấp thiết nói trên. Chu Ân Lai với sự tháp tùng của Vương Bỉnh Nam, Phùng Huyền bước vào phòng VIP ở sân bay, ông sẽ cùng với hàng người đón tiếp đứng chờ để đón Ngoại trưởng Liên Xô [Vyacheslav Mikhailovich] Molotov tại sân bay Genève. Lúc này, các nhân viên báo chí của đoàn đại biểu Trung Quốc tại sân bay bắt đầu phát bản “sơ yếu lý lịch của Chu Ân Lai” bằng cả tiếng Trung và tiếng Anh. Bản sơ yếu lý lịch này do Lý Khắc Nông soạn chưa được Chu Ân Lai xem trước nhưng đã được báo cáo với Bộ chính trị Trung ương đảng và đã được thông qua. Sơ yếu lý lịch viết “Chu Ân Lai, sinh năm 1898, nhà hoạt động chính trị, nhà quân sự và ngoại giao kiệt xuất của Trung Quốc, một trong những nhà lãnh đạo và nhà tổ chức xuất sắc của ĐCS Trung Quốc, một trong những chiến hữu thân cận nhất của Mao Trạch Đông…”. Khoảng 30 phút sau khi Chu Ân Lai xuống sân bay, chiếc máy bay IL-14 chở đoàn đại biểu Liên Xô đã bay vào không phận Genève, và Ngoại trưởng Liên Xô cũng đưa theo một đoàn đại biểu hùng hậu, trong đó có Thứ trưởng Ngoại giao còn rất trẻ [Andrei] Gromyko, vốn là một trợ thủ quan trọng của Molotov. Trong đoàn còn có các thành viên quan trọng khác như Thứ trưởng Ngoại giao [Vasili] Kuznetsov, Đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc [Pavel] Yudin, Đại sứ Liên Xô tại Mỹ Chalopin, cùng các đại sứ tại Pháp, Anh, và nhiều quan chức khác của Bộ Ngoại giao. Tại sân bay, Ngoại trưởng Molotov đã có bài phát biểu ngắn, trong đó đoạn gây chú ý là “Không thể không chỉ rõ một thực tế quan trọng rằng tất cả các nước lớn, các đoàn đại biểu của Pháp, Anh, Mỹ, Cộng hòa nhân dân (CHND) Trung Hoa và Liên Xô lần đầu tiên trong nhiều năm trở lại đây cùng tham gia một hội nghị quốc tế”. Ông còn nói “Đoàn đại biểu Liên Xô cho rằng nhanh chóng khôi phục hòa bình ở Đông Dương, bảo đảm quyền lợi dân tộc và tự do cho nhân dân các nước Đông Dương là nhiện vụ quan trọng nhất của hội nghị Genève”. Rất đông người đứng đón Ngoại trưởng Molotov, và điều này với ông không có gì lạ, luôn miệng mỉm cười và liên tục giơ tay vẫy. Tuy nhiên, khi Molotov ngừng cười và giơ tay chào những người đến đón, ông tiến thẳng tới chỗ Chu Ân Lai, hai người cùng nắm tay bước ra khỏi sân bay. Bỗng nhiên, dường như thấy Chu Ân Lai có vẻ rảo bước nhanh hơn, Molotov đưa tay kéo nhẹ một cái, Chu Ân Lai dường như hiểu ý, hai người cùng dừng một lúc trước ống kính máy quay và chụp hình của các phóng viên, để giới báo chí có cơ hội dễ dàng chụp được nhiều hơn. Đoàn đại biểu Liên Xô cùng với đoàn Trung Quốc và Triều Tiên cùng rời sân bay. Phía Liên Xô cung cấp cho đoàn Trung Quốc năm chiếc xe ôtô màu đen, cùng những chiếc của đoàn Liên Xô, mười mấy chiếc xe cùng lăn bánh trên đường phố Genève, thu hút sự chú ý của người dân thành phố. Chu Ân Lai cùng các phó trưởng đoàn Trung Quốc và các trợ thủ quan trọng được xe đưa tới khu biệt thự Le Grand Mont-Fleuri xinh đẹp.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:30:27 GMT 9
CHƯƠNG 2 Tình cảm Le Grand Mont-Fleuri
Nhóm các nhà ngoại giao Trung Quốc được bố trí ở tại khu biệt thự Le Grand Mont-Fleuri xinh đẹp muôn hoa đua nở. Cho dù thế nào đi nữa, điều quan trọng là họ đã đến đây, với mục đích tìm cách chấm dứt cuộc chiến tranh Triều Tiên và Đông Dương, để cho những bông hoa hòa bình mãi mãi được khoe sắc đua hương. Trong số những người đó, Chu Ân Lai là người tất bật bận rộn nhất.
Đến Genève vào lúc chiều tà, Chu Ân Lai đến nghỉ tại khu biệt thự Le Grand Mont-Fleuri nằm bên hồ Leman xinh đẹp. Đây là khu biệt thự gồm hai tòa nhà xinh xắn với những thảm cỏ xanh mượt như nhung, quanh năm hoa nở. Nhà thơ nổi tiếng của Pháp ở thế kỷ XIX, [Alphonse de] Lamartine đã từng ở tại đây. Sau này, Nguyên soái Trần Nghị khi tham gia hội nghị Genève năm 1961 cũng ở tại đây. Cho tới đầu thế kỷ XXI, khu biệt thự này vẫn giữ nguyên được dáng vẻ ban đầu của mình.
Ở Le Grand Mont-Fleuri, Chu Ân Lai rất hài lòng với khung cảnh xinh đẹp nơi đây. Ông cùng với Trương Văn Thiên, vợ chồng Lưu Anh, Vương Gia Tường, Lý Khắc Nông và vợ chồng Chu Trọng ở cùng một tòa nhà. Vương Bỉnh Nam nhắc Chu Ân Lai tranh thủ thời gian nghỉ ngơi, Chu Ân Lai lắc đầu nói “Không nên chỉ lo cho mình tôi, anh nên quan tâm nhiều hơn đến cả mọi người nữa. Lần đầu tiên tới nơi này, nhất định phải sắp xếp cho mọi người sinh hoạt được thoải mái, như vậy mới triển khai tốt công việc”.
Chu Ân Lai đến thăm phòng ở của Trương Văn Thiên và một số thành viên khác của đoàn, sau đó đến thăm phòng khách. Phòng này là do Phùng Huyền, Ôn Bằng Cửu bố trí trưng bày từ trước, cùng thành viên đoàn tiền trạm đến trước xếp đặt. Họ đưa từ trong nước sang những tấm thảm sang trọng, trang nhã, lại còn đem theo một số đồ gốm sứ cổ bày biện rất tinh tế, trên tường còn treo một bức họa của một danh nhân cổ, tạo cho phòng khách một phong cách cổ điển mang đậm nét Trung Quốc. Lúc đó, có người còn nghĩ rằng việc trang trí sắp đặt mang đậm nét văn hóa Trung Quốc còn có tác dụng tốt đối với tiến triển mang tính đột phá trong quan hệ Trung – Anh sau đó một tháng.
Ngoài bốn vị lãnh đạo của đoàn Trung Quốc cùng các tùy tùng, số đại biểu còn lại của đoàn Trung Quốc nghỉ tại khách sạn Le Beau Rivage. Khách sạn này không lớn lắm nhưng là khách sạn có tiếng trong vùng, tương đối cao cấp. Nội thất và trang trí bên trong khách sạn mang phong cách của thế kỷ trước. Đứng trên ban công khách sạn, có thể ngắm được rất rõ hồ Leman. Rất trùng hợp là đoàn đại biểu Anh cũng nghỉ tại khách sạn này.
Các thành viên đoàn đại biểu Trung Quốc khi rảo bước trên các con đường Genève trong lòng tràn ngập niềm tự hào. Họ đại diện cho nước Trung Quốc mới, tham gia hội nghị vì tương lai tốt đẹp của tổ quốc. Có Chu Ân Lai bước phía trước, bản thân điều này đã hình thành một sức mạnh thôi thúc họ.
Đây là lần đầu tiên các quan chức ngoại giao Trung Quốc “xuất quân hùng hậu” như vậy, trong lòng vừa phấn khởi vừa hồi hộp, cũng không tránh khỏi đem đến Genève một số “nét quê mùa”. Thư ký của Trương Văn Thiên, Lý Hối Xuyên sau này có hồi tưởng lại cho biết “Nhớ lại, lúc đó có một số việc làm chưa được sáng suốt lắm. Ví dụ như trang phục cho đoàn đi Genève, nhất loạt đều một màu đen, đến vali của mỗi người cũng đều một màu đen. Đến khách sạn, đáng lý quan chức ngoại giao được phục vụ khách sạn chuyển hành lý đến tận phòng. Nhưng không, chúng tôi ai cũng từ chối, nhất định không rời tay khỏi chiếc va li của mình, sợ rằng có ai đó sẽ nhét thứ gì đó vào vali. Kết quả là mỗi người đều phải tự xách vali lên gác, khiến mọi người trong khách sạn hết sức ngạc nhiên”.
Lần này đến Genève, rất nhiều thứ lỉnh kỉnh được mang theo, thậm chí có cả một miếng đá nghiền để nghiền đậu phụ cho mọi người ăn. Thực ra, lúc đó trong các cửa hàng ở Genève đã có bán máy xay chạy điện, xay đậu làm sữa đậu rất dễ dàng. Tiếc rằng những người phụ trách hậu cần đều không dự kiến được những điều này. Càng ngạc nhiên hơn là đi theo đoàn còn có một vị đảm nhiệm việc “hóa nghiệm”. Người này đem theo rất nhiều chuột bạch, dùng để kiểm tra thức ăn. Chu Ân Lai đã rất phản đối việc này. Ông phê bình “sao lại có thể đưa những thứ như vậy đến Genève được, thật không thể tin nổi, anh đã ra đường mua thức ăn lại còn sợ có người hạ độc giết chết mình à!”. Sau này, sau một vài lần tiến hành kiểm tra hóa nghiệm một số bữa ăn, việc thử nghiệm thức ăn này không được thực hiện nữa.
Ở trong Le Beau Rivage, có thể nói đoàn Trung Quốc được hưởng những tiêu chuẩn sinh hoạt vào loại khá lúc bấy giờ. Theo chỉ thị của Chu Ân Lai, do ở cùng một khách sạn với các đoàn phương Tây, nhất là đoàn Anh, các tiêu chuẩn ăn uống của các thành viên đoàn Trung Quốc gần như tương đương với các đoàn châu Âu. “Họ ăn gì các đồng chí ăn thứ đó, ngoài ra cũng cần cố gắng tiết kiệm”. Đa số thực khách trong khách sạn này đều uống rượu khai vị, thấy vậy Chu Ân Lai nói “Đúng là cũng phải uống một chút, nhưng chỉ uống rượu vang hoặc bia thôi, hoặc uống Jus de raisin cũng được”. Câu này thể hiện sự hiểu biết của Chu Ân Lai đối với văn hóa Pháp. Jus de raisin là nguyên văn tiếng Pháp, chỉ một loại đồ uống từ nho rất phổ biến. Thế là, tất cả thành viên đoàn Trung Quốc khi dùng bữa cũng uống rượu, nhưng không ai gọi loại rượu cao cấp đắt tiền cả. Ngoài việc được bao lo ăn ở, mỗi thành viên được nhận tiền tiêu vặt 8 Franc Thụy Sĩ mỗi ngày. Vào thời điểm đó như vậy đã được coi là rất đáng kể rồi. Ông Quản Chấn Hồ, một thành viên trong đoàn, hồi tưởng nói ở Genève lúc đó, một bữa ăn chính gồm cả đồ uống là 12 Franc. Ông dùng 3 Franc mua thuốc lá là đủ dùng cho cả ngày rồi.
Những điều mới lạ trong lần đầu đến Genève đã để lại cho Lưu Gia Kiệt, một thành viên đồng hành với Quản Chấn Hồ, những ấn tượng khó phai. Trong khách sạn Le Beau Rivage, mỗi thành viên đoàn Trung Quốc được ở một phòng, bữa sáng được phục vụ đẩy xe mang tới từng phòng. Đây là phương thức phục vụ thuộc dạng cao cấp trong ngành khách sạn phương Tây, nhưng với Lưu Gia Kiệt thì là lần đầu tiên được biết tới. Khi đó, trong lòng anh thanh niên 26 tuổi này tràn ngập tinh thần “người vô sản thiên hạ một nhà”, nhìn thấy bữa sáng thịnh soạn trên xe đẩy, còn người phục vụ thì chu đáo lịch sự, anh buộc miệng nhiệt tình nói “Lại đây, chúng ta cùng ngồi ăn cho vui”. Không ngờ câu nói này khiến người phục vụ kinh ngạc ngỡ ngàng, giơ hai tay lên nói bằng tiếng Anh “Không, không! Điều này là không thể được” khiến Lưu Gia Kiệt sợ một phen.
Những điều kỳ thú, mới lạ với họ không chỉ có vậy. Quản Chấn Hồ, Lưu Gia Kiệt do Tôn Phương phụ trách, phiên dịch các điện văn của các hãng thông tấn nước ngoài, văn phòng làm việc trong thành phố, cách khách sạn khoảng mười phút đi xe, vì vậy thuê một chiếc xe du lịch cứ đúng giờ đến đón. Lái xe là một người trung niên rất nho nhã. Một lần, khi xe đang chạy, lái xe bỗng phanh gấp, đỗ xe giữa đường lớn tiếng mắng mỏ. Hóa ra, có một con chim sẻ bị xe cán chết nằm bên đường, máu me be bét. Người lái xe giọng trách móc “sao ai lại vô tâm như thế chứ, nhìn thấy chim sẻ chết mà bỏ mặc, lại còn cán qua cán lại làm bẩn hết mặt đường”. Vừa nói ông vừa quét dọn mặt đường. Những phóng viên Trung Quốc ngồi trong xe thấy buồn cười quá, nghĩ đầu óc người lái xe chắc là có vấn đề. Đến tận sau những năm 70 của thế kỷ XX, họ mới hiểu ra rằng ý thức bảo vệ môi trường của người dân Genève đã có từ rất lâu.
Ở trong phòng chính tầng một biệt thự Le Grand Mont-Fleuri, mờ sáng Chu Ân Lai đã tỉnh giấc. Ông sinh hoạt rất có kỷ luật. Ngủ dậy đánh răng rồi cạo râu. Mỗi ngày làm việc của Chu Ân Lai đều bắt đầu như vậy.
Những ngày đầu mới đến Genève, chỉnh sửa kỹ các bài phát biểu của Chu Ân Lai trong từng trường hợp là nhiệm vụ quan trọng của các “cây bút”, vì vậy nhóm khởi thảo văn kiện được thành lập với sự tham gia của Kiều Quán Hoa, Trần Gia Khang, Di Hương, Hà Phương… Trước hội nghị, nhóm này đã soạn thảo không ít những phát biểu dự định đưa ra tại hội nghị. Nhưng khi đến Genève, sau khi đã nắm bắt được thêm nhiều tình hình, Chu Ân Lai thường xuyên nảy sinh những suy nghĩ mới, thế là việc chỉnh sửa câu chữ những bài phát biểu trở thành chuyện thường ngày. Vì vậy, Kiều Quán Hoa, Hà Phương và Di Hương thường phải đi ngủ rất muộn. Họ thường nói đùa với nhau “Chỉ cần hội nghị Genève không khai mạc, các văn bản phát biểu sẽ phải chỉnh sửa mãi mãi”. Đợi Chu Ân Lai sửa xong bản thảo, thường Hà Phương hoặc Di Hương đưa bản thảo đến cho nhân viên đánh máy. Lúc đó chưa có máy tính, đánh máy tiếng Trung là một công việc chuyên môn hóa rất cao. Để bảo đảm công tác in ấn đánh máy văn kiện quan trọng của đoàn Trung Quốc, Bộ Ngoại giao đã chọn và cử hai nữ đánh máy giỏi và trẻ trung là Sử Hoa và Lưu Lan Vân đi cùng đoàn đến Genève. Họ thường làm việc vào buổi tối, đánh máy vừa nhanh vừa rõ ràng. Những bản thảo văn kiện được Chu Ân Lai chỉnh sửa xong trước khi đi ngủ đến sáng đều được các cô đánh máy xong xuôi.
Chu Ân Lai thường xem xong mấy bản văn kiện khẩn cấp mới đến nhà ăn ở góc tầng một để ăn sáng. Lúc này, Trương Văn Thiên, vợ chồng Vương Gia Tường và Lý Khắc Nông cũng đều đã đứng đó chờ Chu Ân Lai.
Ở Genève, buổi sáng đôi khi có thời gian rảnh rỗi, sau bữa sáng, Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên, Vương Gia Tường, Lý Khắc Nông thường thích dạo bộ trên bãi cỏ xanh mướt mượt như nhung. Nếu cần bàn bạc công việc, Lưu Anh và Chu Trọng Lệ sẽ biết ý rời đi chỗ khác.
Sau khi đoàn Trung Quốc đến ở Le Grant Mond-Fleuri, vị khách đến thăm đầu tiên là Molotov. Dường như muốn truyền kinh nghiệm cho Chu Ân Lai, Molotov nhắc nhở cần đề phòng những đối tượng xấu đặt thiết bị nghe trộm trong khu biệt thự. Sau khi ra về, Molotov phái ngay nhân viên chuyên môn đến kiểm tra kỹ lưỡng trong khu biệt thự. Hai vị chuyên gia phản gián Liên Xô nói với Vương Bỉnh Nam rằng nhiều khả năng có hiện tượng khu biệt thự bị đặt thiết bị nghe trộm, nên khi ở trong phòng không nên đàm luận các việc cơ mật.
Vì vậy, mỗi khi có việc cần bàn bạc với Trương Văn Thiên, Vương Gia Tường và Lý Khắc Nông, nếu vào ban ngày, Chu Ân Lai đều kéo mọi người ra bãi cỏ bàn bạc. Các bãi cỏ trong khu biệt thự Le Grand Mond-Fleuri được cắt tỉa hết sức công phu, trong vườn còn có một góc trồng rất nhiều cây dâu tây. Khi đàm luận hưng phấn, Trương Văn Thiên hứng khởi với tay hái hai trái dâu bỏ vào miệng. Sau khi tới Genève, cả Chu Ân Lai và Trương Văn Thiên đều nhiều lần nhấn mạnh rằng cần cố gắng giành được thành công tại hội nghị, tinh thần chung là đình chỉ chống đối vũ trang quy mô lớn, hướng tới cùng tồn tại hòa bình. Trương Văn Thiên cho rằng bán đảo Triều Tiên không nên tiếp tục chiến tranh nữa, cần củng cố kết quả của hiệp định đình chiến. Về cuộc chiến Đông Dương cũng cần cố gắng đạt được hòa bình, sau đó, trên cơ sở hòa bình bắt đầu phát triển kinh tế, thông qua cạnh tranh trong hòa bình để cuối cùng quyết định chế độ xã hội nào ưu việt hơn.
Trương Văn Thiên là trợ thủ chính của Chu Ân Lai trong việc soạn thảo các văn kiện phát biểu. Trước đây, Trương đã từng du học ở Mỹ, từng viết tiểu thuyết, vào dạng văn hay chữ tốt. Khi ở căn cứ cách mạng tại Giang Tây và Thiểm Bắc, Trương là lãnh đạo cốt cán của đảng. Tháng 1/1941, Trương rời Diên An đến Thiểm Bắc, không tiếp tục đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo ở trung ương nữa. Tại đại hội đảng lần thứ 7, Trương vẫn được bầu làm uỷ viên Bộ chính trị. Nhưng từ lúc đó, trên thực tế Trương dần dần rời khỏi cơ quan quyết sách của trung ương. Sau khi kháng chiến chống Nhật thành công, Trương một lần nữa rời khỏi Diên An về vùng Đông Bắc, giữ chức Bí thư tỉnh uỷ Hợp Giang. Đến năm 1949, về làm Bí thư tỉnh uỷ Liêu Đông.
Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, Trương nhận lệnh về thủ đô, tháng 1/1950 được cử làm Đại diện Trung Quốc đầu tiên tại Liên hiệp quốc (LHQ). Do vấn đề vị trí của Trung Quốc tại LHQ chưa được giải quyết, nên Trương chưa đến nhận chức. Đến tháng Tư/1951, Trương thay Vương Gia Tường làm Đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô. Hội nghị Genève đối với Trương lại là một cơ hội nữa. Trung ương đảng cử Trương làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, trợ giúp Chu Ân Lai cố gắng đạt được những kết quả tích cực tại hội nghị Genève. Đối với sứ mệnh này, tự trong đáy lòng Trương Văn Thiên hết sức đồng lòng.
Trải qua cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài cộng với những kinh nghiệm sau thời kỳ kiến quốc, Trương Văn Thiên lúc này đã trở thành một chính trị gia có tư tưởng hết sức sâu rộng. Về quan hệ đối ngoại, Trương dần dần đã hình thành một tư duy hoàn chỉnh. Từ năm 1951, ông đã chủ trương cố gắng nhanh chóng chấm dứt cuộc chiến ở Triều Tiên, cho rằng như vậy sẽ tốt cho cả hai bên. Tư tưởng chủ đạo của ông là cố gắng thông qua đình chiến ở Triều Tiên làm giảm cục diện căng thẳng của thế giới. Về đối ngoại, ông chủ trương thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ với Anh. Đối với hội nghị Genève, ông giữ một thái độ rất tích cực, cho rằng “cuộc chiến tranh Triều Tiên đã qua rồi, giờ đến lúc tháo gỡ các nút thắt”. Về tư tưởng ngoại giao, Chu Ân Lai và Trương Văn Thiên tương đối hợp nhau, vì thế khi tới Genève thường xuyên trao đổi với nhau.
Nhằm mục địch đạt kết quả tốt tại hội nghị Genève, Trương Văn Thiên đã có quá trình chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Ông biết rõ rằng những kiến thức Trung Quốc thu thập được về quốc tế còn hạn hẹp, kinh nghiệm lại càng không có, vì vậy nhất thiết phải thận trọng. Thư ký của ông, Lý Hối Xuyên, cũng cho rằng thiếu kiến thức về lĩnh vực quốc tế là vấn đề phổ biến thường gặp với những nhà trận mạc phương Đông. Tóm lại là, từ nhỏ tới lớn, các loại sách ông đọc không phải ít, nhưng cho tới khi diễn ra hội nghị Genève, không ít thành viên trong đoàn đại biểu Trung Quốc vẫn không biết được rằng Đông Dương gồm 3 quốc gia hay chỉ có một quốc gia. Thậm chí có người còn tưởng rằng cả ba nước Đông Dương đều nói tiếng Việt Nam.
Về vấn đề Triều Tiên cũng có những vấn đề tương tự. Thời gian chuẩn bị hội nghị Genève, một vị tham tán Đại sứ quán Triều Tiên tại Liên Xô đã đến Đại sứ quán Trung Quốc tìm Lý Hối Xuyên, nói rằng Thủ tướng Kim Nhật Thành biết tiếng Trung, họ cũng có người biết tiếng Anh, các lưu học sinh Triều Tiên tại Liên Xô thì đều biết tiếng Nga, tiếng Pháp cũng có vài người biết, nhưng giờ chuẩn bị tham gia hội nghị Genève rồi, không có ai biết tiếng Thụy Sĩ cả, hỏi xem các đồng chí Trung Quốc có cách nào không?
“ Hóa ra chuyện là vậy” – Lý Hối Xuyên thở phào, cho vị tham tán biết Thụy Sĩ không có ngôn ngữ riêng, ngôn ngữ chính thức là tiếng Pháp. Lúc này vị tham tán mới như trút được gánh nặng trở về.
Trong số cán bộ tại Đại sứ quán Trung Quốc ở Liên Xô, Trương Văn Thiên chọn được Lý Hối Xuyên, vợ chồng Chu Nghiễn và Hà Phương để tham gia vào công tác của đoàn chuẩn bị cho hội nghị Genève. Họ đều đến Genève trước Trương Văn Thiên hai ngày.
Vương Gia Tường là một nhà lãnh đạo có phong cách học giả, những kinh nghiệm cũng như phương thức tư duy của ông có rất nhiều điểm giống với Trương Văn Thiên. Sau hội nghị Tuân Nghĩa năm 1935, Vương cùng Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai hợp thành “Nhóm chỉ huy quân sự trung ương ba người”, phụ trách công tác chỉ huy hoạt động của hồng quân. Từ đó trở về sau, trong một thời gian tương đối dài, Vương là thành viên ban lãnh đạo hạt nhân của trung ương ĐCS Trung Quốc. Vương thừa nhận địa vị lãnh đạo của Mao Trạch Đông, sau những thay đổi ở Diên An đã dần rời khỏi ban lãnh đạo cấp cao của trung ương, tại Đại hội 7 được bầu làm uỷ viên dự khuyết trung ương, kháng chiến thắng lợi ông lên Đông Bắc tạo lập căn cứ cách mạng mới. Tại hội nghị trung ương lần thứ 2 khóa 7 (năm 1949), trở thành uỷ viên trung ương. Sau khi Trung Quốc mới được thành lập, Vương Gia Tường là vị Đại sứ đầu tiên của nước Trung Quốc mới. Ngay trong tháng 10 năm 1949 khi nước CHND Trung Hoa được thành lập, Vương Gia Tường đã tới Moskva nhận nhiệm vụ. Đến đầu năm 1951, ông về nước giữ chức Bộ trưởng liên lạc đầu tiên. Trải qua những tháng năm chiến tranh và hòa bình, Vương Gia Tường đã trở thành một con người điềm tĩnh và thận trọng, tư tưởng của ông cũng dần sâu sắc hơn, đối với các vấn đề quan hệ quốc tế, ông có rất nhiều suy nghĩ phù hợp với thực tế, và cũng có tư tưởng ngoại giao tương đối ăn ý với Chu Ân Lai. Lần này đến Genève có vợ ông là Chu Trọng Lệ đi cùng. Chu Trọng Lệ rất yêu quý biệt thự Le Grand Mond-Fleuri, đã đã viết một đoạn hồi ký rất đẹp như sau:
Thành phố Genève vào tháng tư, hoa nở rộ khắp nơi, cây cối xanh tươi, cảnh sắc đẹp tuyệt vời. Do không phải chứng kiến sự thảm khốc của hai cuộc đại chiến thế giới, nên cuộc sống của người dân Thụy Sĩ rất sung túc, khắp nơi toát lên vẻ thanh bình, một không khí thật yên tĩnh.
Đoàn đại biểu Trung Quốc “hạ cánh” tại một tòa nhà đa giác theo phong cách châu Âu nằm giữa một khu vườn rộng, trong vườn hoa hồng nở rộ, còn trên cây anh đào đã chín sẫm.
Phòng chính giữa ở tầng một là phòng tiếp khách, phòng làm việc và phòng ngủ của Thủ tướng Chu Ân Lai. Phòng ăn nằm ở một đầu hồi. Tôi và Gia Tường ở một phòng lớn trên tầng hai, thiết bị nội thất và vệ sinh đều rất tốt. Một ngày ba bữa, chúng tôi đều ngồi ăn cùng bàn với Thủ tướng. Các món ăn ở đây đều theo phong cách ẩm thực Pháp. Ẩm thực Pháp được coi là bậc nhất châu Âu, bánh mỳ vàng ươm, thơm lừng, rất ngon miệng, các loại món ăn cũng rất đa dạng. Không ngờ ở giữa châu Âu này, chúng tôi lại được ăn những món ở miền Nam Trung Quốc mới có như món giá đậu. Thủ tướng Chu Ân Lai vừa ăn cơm vừa ăn cả những món mỳ, bánh chiên vừng cũng là món khoái khẩu của ông. Bữa sáng thường có món bánh nướng thơm phức nóng hôi hổi, còn sau các bữa chính thường có hoa quả tráng miệng.
Ở đây có một loại cam hình hơi dài, hai đầu nhọn, màu vàng ươm, gọi là cam Italia, vừa đẹp lại vừa ngon. Một hôm sau bữa ăn, Thủ tướng Chu Ân Lai cầm một quả đưa cho tôi nói “Cam này rất ngon”.
Tôi giơ tay ra đỡ lấy nhưng lại cất lại vào đĩa.
“Tại sao cô không ăn?” - Thủ tướng hỏi
Tôi chỉ vào Gia Tường nói “Dạ dày em và anh ấy giống nhau, sau bữa ăn không được ăn những thức lạnh”.
“À, hai người đúng là một đôi rồi”.
Buổi chiều, chúng tôi ở bên ngoài trở về, thấy một đĩa cam Italia đặt trên bàn trong phòng. Chúng tôi lập tức biết rằng đây là do Thủ tướng bảo người mang tới. “Gia Tường, anh nhìn xem, cam đã được mang tới tận phòng mình rồi, Thủ tướng Chu thật là quan tâm tới chúng mình chu đáo quá”. Nghe tôi nói vậy, Gia Tường cũng gật gật đầu nói “Thủ tướng lúc nào cũng rất quan tâm đến các đồng chí của mình, dù là với các lãnh đạo trung ương, hay với người lái xe, nhân viên phục vụ, Thủ tướng đều quan tâm rất tỉ mỉ chu đáo.
Ông là một nhà chính trị, quân sự, lại vừa là một “quản gia tốt”, một con người như vậy thật hiếm có trên đời”.
Các thư ký của Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên, Vương Gia Tường đều nhận thấy rằng khi mới tới Genève, tâm lý của Chu Ân Lai rất căng thẳng hồi hộp, bất cứ việc gì dù lớn dù nhỏ ông đều quan tâm để mắt tới. Ông vẫn chưa phán đoán rõ được ý đồ chính của các đối thủ trong đàm phán, lo ngại rằng Mỹ và Anh sẽ can thiệp vũ trang vào cuộc chiến tranh Đông Dương, dùng không quân để giải cứu quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ. Nếu điều này xảy ra, vấn đề Triều Tiên và Đông Dương rất khó có thế tiếp tục đàm phán. Vì vậy, những vấn đề như tại hội nghị Genève cần đàm phán thế nào, đàm phán những gì… được Chu Ân Lai cân nhắc kỹ càng. Trong bàn cờ thế giới phức tạp và đầy mâu thuẫn, Chu Ân Lai đặc biệt quan tâm đến quân đồng minh, cố gắng hết sức để tranh thủ được tất cả mọi lực lượng. Khi vừa tới Genève, một tin tức quan trọng từ Ấn Độ đã khiến Chu Ân Lai rất vui mừng.
Đó là ngày 21/4, tức là hai ngày sau khi Chu Ân Lai gặp Đại sứ Ấn Độ tại Trung Quốc trước khi lên đường đi Genève, Thủ tướng Ấn Độ [Jawaharlal] Nehru tuyên bố trước nghị viện liên bang rằng Chính phủ Ấn Độ không cho phép không quân Mỹ chuyên chở binh sĩ Pháp bay qua không phận Ấn Độ để đến tham gia cuộc chiến tranh Đông Dương.
Ngày 24/4, Nehru lại phát biểu trước quốc hội về vấn đề Đông Dương. Ông nêu rõ “Xét về nguyên nhân cũng như tính chất cơ bản của các xung đột ở Đông Dương, đây vẫn là cuộc kháng chiến chống lại chủ nghĩa thực dân…”. Tuyên bố của Nehru bày tỏ hy vọng hội nghị Genève sẽ giúp mang lại hòa bình cho Đông Dương. Vì vậy, Nehru đưa ra một bản hy vọng sáu điểm, là: hy vọng thông qua thương lượng hòa bình để giải quyết vấn đề, hy vọng xem xét vấn đề “đình chiến”, tuyên bố độc lập hoàn toàn cho Đông Dương, các quốc gia liên quan cam kết không can thiệp, kêu gọi LHQ giữ vai trò trong vấn đề hòa bình của Đông Dương.
Ở Genève, sau khi biết tin về phát biểu của Nehru, ngày 25/4, Chu Ân Lai gửi điện về Bộ Ngoại giao và Trưởng Ban Tuyên truyền Trung ương Lục Định Nhất, đề nghị “Nhân dân nhật báo” đăng phát biểu trên của Nehru về vấn đề Đông Dương. “Nhân dân nhật báo” y lệnh cho đăng vào số ngày 26/4.
Đối với hội nghị Genève, Chu Ân Lai có một chủ trương chính, đó là về vấn đề Triều Tiên, ít nhất cần duy trì được sự ổn định của “giới tuyến 38”, trên cơ sở đó đấu tranh yêu cầu quân đội Mỹ rút khỏi bán đảo Triều Tiên; về vấn đề Đông Dương, tiền đề lớn nhất là đấu tranh thực hiện hòa bình, tạm thời phân định giới tuyến hai miền Nam Bắc, đồng thời cố gắng đưa đường giới tuyến này dịch sâu vào phía Nam chừng nào tốt chừng đó, để cục diện có lợi cho lực lượng của Hồ Chí Minh.
Hai ngày 25-26/4, Chu Ân Lai cùng Molotov và Nam Il hội ý trước và nhất trí, sau khi các đoàn đại biểu tại hội nghị Genève phát biểu xong, Nam Il sẽ đại diện cho phe phương Đông phát biểu trước, đề nghị hòa bình, thống nhất cho bán đảo Triều Tiên, yêu cầu tất cả quân đội nước ngoài rút khỏi bán đảo, yêu cầu các quốc gia chủ chốt đã tham gia vào vấn đề Triều Tiên cam kết bảo đảm thúc đẩy thực hiện phương án hòa bình, thống nhất cho bán đảo Triều Tiên. Sau đó Chu Ân Lai, Molotov lần lượt phát biểu, ủng hộ chủ trương của phái đoàn Triều Tiên.
Đối với gốc rễ của vấn đề Triều Tiên, Chu Ân Lai nắm rất rõ và sâu.
Triều Tiên là một quốc gia độc lập, có chung biên giới với vùng Đông Bắc Trung Quốc, trong lịch sử từng được coi là nước chư hầu phải triều cống cho các hoàng đế Trung Quốc. Năm 1894 bùng nổ cuộc “chiến tranh Giáp Ngọ” giữa Trung Quốc và Nhật Bản, sau khi Trung Quốc thua, Nhật Bản dần dần xâm chiếm toàn bộ Triều Tiên. Năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng quân đồng minh, quân Liên Xô và quân Mỹ tiến vào bán đảo Triều Tiên từ hai hướng Nam và Bắc. Theo hiệp định giữa hai bên, lấy vĩ tuyến 38 độ Bắc làm giới tuyến, quân Liên Xô sẽ đóng ở phía Bắc giới tuyến, quân Mỹ chiếm lĩnh miền Nam. Ngày 15/8/1948, miền Nam thành lập nước Đại Hàn Dân quốc do Lý Thừa Vãn [Lee Seungman] làm tổng thống. Ngày 9/9 cùng năm đó, Bình Nhưỡng thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Triều Tiên do Kim Nhật Thành [Kim Il-sung] làm thủ tướng.
Cuối năm 1948, quân Liên Xô rút khỏi Bắc Triều Tiên. Tháng 6/1949, quân Mỹ cũng rút khỏi Nam Triều Tiên. Sau khi quân đội nước ngoài rút đi, tranh chấp Nam - Bắc Triều trở thành vấn đề nội bộ. Sau đó, cả hai miền Nam Bắc đều tiến hành chuẩn bị chiến tranh. Ở miền Nam, được sự hỗ trợ của Mỹ, Đại Hàn Dân quốc đã thiết lập được đội quân 98 nghìn người chia thành 8 sư đoàn, sở hữu một số máy bay hạng nhẹ. Ở miền Bắc, Kim Nhật Thành được sự hỗ trợ của Liên Xô đã thành lập một lực lượng gồm 12 sư đoàn bộ binh với tổng quân số khoảng 150 nghìn người, ngoài ra còn có lực lượng bộ đội xe tăng. Việc xây dựng lực lượng chuẩn bị cho chiến tranh của hai miền Nam Bắc cuối cùng đã dẫn đến một cuộc nội chiến quy mô lớn.
Ngày 25/6/1950, cuộc chiến tranh Triều Tiên đột ngột bùng nổ.
QĐND Triều Tiên trong một thời gian rất ngắn đã đánh bại quân Nam Triều, ba ngày sau khi cuộc chiến khai nổ ra đã đánh chiếm được Seoul, sau đó tiếp tục đẩy lùi quân Nam Triều Tiên cùng cả quân Mỹ tham chiến xuống phía Nam và chỉ còn chiếm 8% diện tích Triều Tiên.
Ngày 27 tháng 6, Mỹ tuyên bố tham gia chiến tranh Triều Tiên, thành lập “quân đội LHQ” bao gồm binh sĩ 16 nước tham gia, khiến cuộc chiến tranh Triều Tiên bị quốc tế hóa. Ngày 15 tháng 9, quân đội Mỹ bắt đầu đổ bộ lên Incheon [Nhân Xuyên] ở miền Trung bán đảo Triều Tiên, cắt đứt đoàn quân Nam Tiến của QĐND Triều Tiên, lúc đó đã tiến hẳn sang phía miền Nam, gây tổn thất nặng nề cho quân đội Bắc Triều Tiên. Quân đội phải rút lui lên phía Bắc. Quân Mỹ và quân Nam Triều Tiên đuổi lên phía Bắc, vượt qua vĩ tuyến 38, chiếm Bình Nhưỡng. Kim Nhật Thành cầu viện lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông.
Mao Trạch Đông quyết định cử “chí nguyện quân” tham gia chiến tranh Triều Tiên, đánh lui quân Mỹ. Đội chí nguyện quân do Bành Đức Hoài làm Tư lệnh gồm 280 nghìn quân đã bí mật xuất quân tối 19/10/1950 tiến sang Triều Tiên.
Ngày 25 tháng 10, tại khu vực Vân Tỉnh, cách sông Áp Lục [Amnokkang] trên biên giới Trung - Triều khoảng 50 km về phía Nam, chí nguyện quân Trung Quốc đối mặt với quân Nam Triều Tiên và đã đánh bại lực lượng này, cuộc chiến tranh “giúp Triều kháng Mỹ” đã bắt đầu như vậy. Từ thời điểm đó đến tháng 6/1951, cuộc chiến giữa hai bên do quân đội Mỹ và Trung Quốc làm chủ lực đã tiến hành năm trận đánh lớn, trong đó quân Trung Quốc thắng ba trận đầu, đẩy mặt trận đến gần vĩ tuyền 37 độ Bắc. Sau đó quân Mỹ điều chỉnh binh lực và chiến thuật đã giành được thế thượng phong ở hai trận sau, đẩy chiến tuyến lùi trở lại vĩ tuyến 38.
Từ đó hai bên ở thế giằng co trong thời gian dài, vừa tiến hành đàm phán rất gian nan, vừa nhiều lần giao đấu trên chiến trường.
Ngày 27/7/1953, các bên tham chiến ký hiệp định đình chiến, mặt trận về cơ bản trở lại trạng thái khi cuộc chiến bắt đầu.
Chiến tranh Triều Tiên là trận chiến đầu tiên sau đại chiến thế giới thứ hai bị phủ bóng đen bởi vũ khí hạt nhân, nhưng cuối cùng không bị biến thành một cuộc chiến tranh quốc tế quy mô lớn sử dụng vũ khí hạt nhân. Từ ngày chiến tranh bùng nổ 25/6/1950 đến ngày 27/7/1953, cuộc chiến trải qua ba năm một tháng, các bên tham chiến đều đầu tư binh lực và tài lực rất lớn.
Trong thời gian xảy ra chiến tranh, “đội quân LHQ” do quân đội 16 nước hợp thành và Mỹ đứng đầu đã tác chiến trên lãnh thổ Triều Triên. Trong đó quân đội Mỹ chiếm tới hơn 90% binh lực của lực lượng này. Mỹ áp dụng phương thức luân chuyển quân, thời điểm triển khai quân đông nhất tại Triều Tiên lên tới 540.000 người, trong đó bộ binh là 340.000, tổng cộng có tới 1,2 triệu binh sĩ Mỹ từng tham chiến tại Triều Tiên.
Trung Quốc cũng thực hiện cơ chế luân chuyển quân, thời điểm đông quân nhất là 1,35 triệu người (mùa xuân năm 1953), tổng cộng đã có 79 sư đoàn bộ binh thuộc 25 lữ đoàn quân dã chiến cùng với 16 sư đoàn pháo binh, 10 sư thiết giáp, 12 sư không quân, 10 trung đoàn xe tăng, tổng cộng 2,4 triệu binh sĩ đã tham gia cuộc chiến tranh Triều Tiên.
Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, cả quân đội Mỹ và Trung Quốc đều bị thương vong rất lớn. Khoảng 33.000 vạn quân Mỹ đã chết trận, 20.600 người chết do thương tật hoặc sự cố, tổng cộng là 54.200 người chết, 103.000 người bị thương nặng. Trong cuộc chiến, quân Mỹ đã sử dụng nhiều loại vũ khí mới (trừ vũ khí nguyên tử), tiêu tốn vật tư chiến tranh 23 triệu tấn, trong đó tiêu hao đạn dược là 3,30 triệu tấn, gần bằng một nửa con số 6,90 triệu tấn đạn dược Mỹ đã sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ thứ hai.
Quân đội Trung Quốc có 114.000 binh sĩ tử trận, 21.600 người chết do bị thương quá nặng, tổng cộng ước tính có khoảng 148.400 người chết. Các bệnh viện đã phải tiếp nhận tới 383.000 lượt thương binh. Vì vậy, các nhà sử học chiến tranh cho rằng quân đội Trung Quốc đã tổn thất tới 366.000 quân trong cuộc chiến tranh Triều Tiên; tổng cộng tiêu hao vật tư cho chiến tranh là 5,60 triệu tấn, trong đó đạn dược là 250.000 tấn. Trong khi đó, trong cả ba trận đánh lớn của Quân Giải phóng Trung Quốc từ mùa thu năm 1948 đến đầu năm 1949, là các trận Liêu Thẩm, Hoài Hải và Bình Tân, tổng cộng chỉ dùng 20.000 tấn đạn dược. Điều này chứng tỏ tiêu hao đạn dược của quân đội Trung Quốc trong chiến tranh Triều Tiên là kỷ lục.
Tất nhiên, tổn thất lớn nhất thuộc về hai miền Nam-Bắc Triều Tiên. Nhưng những hậu quả mà chiến tranh để lại không chỉ dừng lại đó. Đối với Trung Quốc, có hai vấn đề quan tâm lớn nhất là: thứ nhất, yêu cầu quân đội nước ngoài rút hoàn toàn khỏi Triều Tiên, loại bỏ những nguy cơ chiến tranh đối với vùng Đông Bắc Trung Quốc, để Triều Tiên mưu cầu thống nhất trong điều kiện không có sự can thiệp của nước ngoài. Trung Quốc không hy vọng chiến tranh Triều Tiên tái bùng phát với quy mô lớn một lần nữa. Hai là, vẫn còn một lực lượng chí nguyện quân chưa trở về Trung Quốc đại lục. Nếu có thể đưa họ trở về, sẽ có lợi về mặt chính trị.
Chu Ân Lai quyết định hợp tác với phía Liên Xô để trước hết ổn định được vấn đề Triều Tiên. Sau khi đến Genève, Trưởng đoàn đại biểu Liên Xô Molotov là người đầu tiên đến gặp Chu Ân Lai. Chu Ân Lai rất tôn trọng vị Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô có tính cách cứng rắn như gang thép này. Trên thực tế, việc Trung Quốc tham gia Hội nghị Genève lần này không thể tách rời những cố gắng của Molotov.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:32:19 GMT 9
CHƯƠNG 3 Từ “Ba vòng tròn” đến “Năm nước lớn”
Nhà ngoại giao Molotov nổi tiếng với biệt danh “Búa sắt” đã dùng ý chí kiên cường để làm chủ bàn cờ. Hội nghị Genève là điểm sáng cuối cùng trong sự nghiệp ngoại giao của ông. Vậy một “Búa sắt” suốt đời phấn đấu có đập tan được “Ba vòng tròn lớn” do Thủ tướng Anh [Winston] Churchill đã ra sức tạo nên? Đây quả là một dấu hỏi lớn.
Các nhân vật tập trung đông đảo tại Genève đều là những nhà ngoại giao hàng đầu của thế giới. Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Molotov đặc biệt thu hút sự chú ý. Ông sinh năm 1890 trong một gia đình nhân viên bình thường, là người cùng làng với nhà cách mạng nổi tiếng của Nga Likiov, nhiều hơn Chu Ân Lai 8 tuổi. Khi còn nhỏ, ông được hưởng một nền giáo dục rất tốt. Thành tích học tập của Molotov không có gì đặc biệt, nổi trội.
Thời trung học, ông tham gia một nhóm học về Chủ nghĩa Marx. Năm 16 tuổi, ông gia nhập Đảng Xã hội dân chủ Nga. Tháng Tư/1909, trước khi tốt nghiệp trung học phổ thông, Molotov bị bắt và phải sống cuộc sống tù ngục trong hai năm. Cuộc sống giam cầm đã làm thay đổi hoàn toàn con người ông. Trong thời gian này, ông đã đọc số lượng lớn các tác phẩm của Marx, Engels và Lenin, từ đó trở thành một nhà cách mạng kiên định. Mãn hạn tù, Molotov vào học khoa đóng tàu thuộc Học viện Công nghiệp Saint Petersburg, sau đó chuyển sang khoa Kinh tế, đồng thời tham gia công tác tại báo “Tia lửa” [Iskra] của lực lượng Bolshevik. Năm 1912, khi tờ Sự Thật ra đời, ông đảm nhiệm chức Uỷ viên biên tập kiêm Thư ký tòa soạn, dùng nhiều bút danh, viết rất nhiều bài trên báo, sau đó dùng bút danh Molotov, có nghĩa là Búa sắt.
Vị trí quan trọng của Saint Petersburg giúp cho địa vị của Molotov trở nên quan trọng hơn. Cách mạng tháng Mười năm 1917 lật đổ chế độ Sa Hoàng, Molotov tham gia hội đồng Xôviết Petrograd. Ngày 10 tháng 10, dưới sự chủ trì của Lenin, đảng Bolshevik thông qua nghị quyết tiến hành khởi nghĩa vũ trang. Molotov ủng hộ luận điểm của Lenin về “Chủ nghĩa xã hội có thể giành thắng lợi đầu tiên tại một nước” được bầu làm uỷ viên Hội đồng quân sự cách mạng Petrograd, tham gia công tác lãnh đạo Cách mạng tháng Mười.
Sau Cách mạng tháng Mười, Molotov liên tục được giao đảm nhiệm các trọng trách, tại đại hội ĐCS Liên Xô lần thứ 10 được bầu làm uỷ viên dự khuyết Bộ chính trị, đến năm 1926 trở thành uỷ viên Bộ chính trị. Từ năm 1928-1930, Molotov giữ chức Bí thư thành uỷ Moskva, thuộc vào tầng lớp lãnh đạo hạt nhân của Liên Xô, thể hiện tài năng nổi bật cả về chính trị lẫn quản lý hành chính.
Cũng vào quãng thời gian này, Molotov cũng đã gặp được tình yêu của mình. Nhưng cuộc hôn nhân giữa ông với người vợ đầu là Lixetova chỉ kéo dài một thời gian ngắn. Sau khi hai người ly hôn, bà Lixetova tái hôn với S. Nikin, sau này là một nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng ở Liên Xô, có quan niệm trái ngược với Molotov.
Năm 1921, Molotov, lúc này đã là Bí thư trung ương ĐCS Liên Xô, đã có “tiếng sét ái tình” với Bộ trưởng Phụ nữ Ucraina Paulina Zhemchuzina. Lúc đó Polina mới ngoài 20 tuổi, coi Molotov là bậc cách mạng tiền bối. Khi tham gia Đại hội đại biểu phụ nữ Liên Xô, Polina đã lâm bệnh phải nằm viện. Molotov với tư cách là thủ trưởng của đại hội đã vào bệnh viện thăm hỏi một lần trên danh nghĩa công việc. Trong mắt Polina lúc này là một Molotov đầy nho nhã, cởi mở, khắc hẳn với hình ảnh của ông ở trên đoàn chủ tịch. Tóm lại là, sau khi bình phục xuất viện, Polina đã không trở về Ucraina mà ở lại Moskva kết hôn cùng Molotov.
Sau khi loại bỏ được nguy cơ từ sự can thiệp của các thế lực nước ngoài, thập niên 30 của thế kỷ XX là những năm tháng đấu tranh quyết liệt trong nội bộ ĐCS Liên Xô, xuất hiện sự tranh đấu tàn khốc giữa phe phái do [Iosif Vissarionovich] Stalin đứng đấu với một số phái không cùng quan điểm. Rất nhiều nhân vật đầu não của các phe phái, trong đó nhiều người là lãnh đạo quan trọng từ thời kỳ đầu cách mạng của đảng có nhiều cống hiến lớn trong cuộc Cách mạng tháng Mười, cũng đều bị xử bắn. Trong cuộc đấu tranh nội bộ này, Molotov đứng về phe Stalin. Sau này, Molotov bị chỉ trích rằng ông phải chịu trách nhiệm trong hàng loạt vụ “đại thanh lọc”. Năm 1937, có một thời gian Molotov bị Stalin nghi ngờ, nhưng sau đó đã thoát hỏi “tình thế nguy hiểm”, trở lại hàng ngũ Bộ chính trị công tác, và bản thân cũng tham gia phong trào “tiễu phản”. Kết quả, đợt hoạt động đó đã gây ra một loạt “vụ án oan”. Địa vị của Molotov trong đảng không ngừng được gia tăng, trở thành nhân vật thứ hai của Liên Xô lúc bấy giờ, chỉ đứng sau Stalin.
Từ đầu thập niên 30, Molotov giữ chức Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô. Ngày 3/5/1939, Molotov thay [Maxim] Litvinov giữ chức Uỷ viên nhân dân [Bộ trưởng] Bộ, Ngoại giao. Lý do chính của sự thay đổi này không phải vì Stalin không còn tín nhiệm Litvinov nữa mà vì nguy cơ cuộc đại chiến thế giới thứ hai đã ở ngay trước mắt, [Adolf] Hitler đã điều binh đi khắp nơi; tại hội nghị Munich, hai nước Anh và Pháp đã lộ rõ ý đồ để các quốc gia Đông Âu làm vật hy sinh, nỗ lực hết sức để hướng các mũi tấn công của Đức quốc xã sang phía Đông. An ninh quốc gia của Liên Xô đang bị đe dọa nghiêm trọng. Stalin muốn Molotov dồn hết sức lực, tài năng vào công tác ngoại giao. Và rút khỏi phong trào đẫm máu “tiễu phản” đã là một việc may mắn đối với Molotov.
Thời gian đầu đảm nhiệm chức Bộ trưởng Ngoại giao, Molotov hy vọng cùng với Anh và Pháp tạo dựng một chiến tuyến thống nhất để chống Đức quốc xã, dự định xây dựng hiệp ước phòng vệ chung giữa ba nước. Ngoài ra, Liên Xô và Đức cũng tiến hành tiếp xúc bí mật, nhằm trì hoãn hoặc thậm chí loại bỏ nguy cơ Đức tấn công Đông Âu. Từ tháng 3-5/1939, các văn kiện ngoại giao qua lại giữa Đức và Liên Xô rất tấp nập, hai bên thăm dò lẫn nhau và thăm dò xem liệu có khả năng ký kết một thỏa thuận song phương “không xâm phạm lẫn nhau”. Đề nghị này do Liên Xô đề xuất.
Tháng 8/1939, Ngoại trưởng Đức [Joachim von] Ribbentrop thông báo cho phía Liên Xô rằng nước Đức có thiện cảm với Liên Xô, từ vùng biển Baltic đến Biển Đen không có vấn đề gì, nhưng còn về Ba Lan, Đức hy vọng Liên Xô hiểu cho quyết định của Đức. Và dưới một tiền đề như vậy, một bản thỏa thuận kỳ lạ trong lịch sử ngoại giao giữa hai bên địch thủ không đội trời chung đã nhanh chóng ra đời.
Ngày 14/8/1939, Ngoại trưởng Đức chỉ thị cho Schellenberg, đại sứ tại Liên Xô gặp Molotov, đề nghị đẩy nhanh tốc độ đàm phán tiến tới hiệp định nói trên, đồng thời yêu cầu Liên Xô đồng ý để Ngoại trưởng Đức sớm tới thăm Moskva để ký kết.
Molotov lập tức hoan nghênh mong muốn của Đức được cải thiện quan hệ với Liên Xô, hết sức ủng hộ việc Ngoại trưởng Đức muốn sang thăm Moskva. Ba ngày sau, đại sứ [Walter] Schellenberg một lần nữa đến gặp Molotov, nêu ra những ý kiến bổ sung của phía Đức với hy vọng Liên Xô càng yên tâm hơn và một lần nữa nhắc tới đề xuất để Ngoại trưởng Ribbentrop thăm Liên Xô.
Molotov nói với đại sứ Đức, việc cải thiện quan hệ Liên Xô - Đức có thể chia thành hai bước, thứ nhất hai bên ký một hiệp định về thương mại và vay vốn, bước thứ hai mới ký tiếp hiệp định không xâm phạm lẫn nhau. Tuy nhiên, ngoại trưởng Đức có thể không cần đích thân đến Moskva.
Trong tiến trình đàm phán Liên Xô - Đức ở giai đoạn này, các thủ đoạn và tiết tấu đàm phán của Molotov rất chậm rãi khiến Ngoại trưởng Đức cảm thấy rất khó chịu. Nhưng không ngờ, Stalin bỗng nhiên can thiệp vào đàm phán, yêu cầu Molotov nhanh chóng ký với Đức hiệp định không xâm phạm lẫn nhau. Stalin dự cảm rằng trong tương lai Đức sẽ tấn công Liên Xô, song Liên Xô vẫn chưa chuẩn bị tốt công tác phản công, cần có biện pháp trì hoãn kế hoạch tấn công của kẻ địch.
Theo lệnh Stalin, ngày 19 tháng 8, Molotov thông báo với đại sứ Schellenberg rằng Chính phủ Liên Xô đã đồng ý mời Ngoại trưởng Ribbentrop sang thăm Moskva một tuần sau khi hai nước ký hiệp định thương mại, và đến lúc đó hai bên sẽ ký thỏa thuận không xâm phạm lẫn nhau. Molotov cũng trao cho Schellenberg dự thảo thỏa thuận này do Liên Xô soạn thảo.
Biết tin về câu trả lời trên của Liên Xô, Hitler như “vớ được vàng”. Nhưng vấn đề là Liên Xô mời Ngoại trưởng Ribbentrop sang thăm vào ngày 26 hoặc 27 tháng 8, mà quân đội Đức đã quyết định nổ súng tấn công Ba Lan ngày 1 tháng 9. Nếu thời gian ký thỏa thuận và thời điểm khai chiến sát nhau quá sẽ không có lợi cho Đức. Hitler đích thân viết thư gửi Stalin cho biết hoàn toàn chấp nhận dự thảo thỏa thuận mà Liên Xô đưa ra, và hy vọng ngày 22 hoặc muộn nhất là 23 tháng 8, Ngoại trưởng Ribbentrop có thể sang thăm Moskva và ký văn kiện này. Bức thư mật có đóng dấu khẩn cấp này được chuyển đến Moskva vào ngày 20/8.
Chưa đầy 24 giờ sau, Đức đã nhận được câu trả lời của Stalin: đồng ý với yêu cầu của Hitler. Hitler hết sức vui mừng chỉ thị Ribbentrop dẫn đầu đoàn Đức đi Moskva trước ngày 22 tháng 8. Đêm 23 tháng 8, trước sự chứng kiến của Stalin, hiệp định không xâm phạm lẫn nhau giữa Liên Xô và Đức đã được ký kết. Trước khi chiến tranh mở màn, Hitler đã đạt được điều mà hắn ta muốn: khi Ba Lan bị xâm lược, nếu Anh và Pháp xuất binh cứu viện, Liên Xô sẽ án binh bất động, không tham gia đồng minh với Anh-Pháp.
Liên Xô được bảo đảm rằng: nếu Ba Lan bị xâm chiếm, phía Đông Ba Lan (gồm các khu vực lấy các sông Narev, Vistula và San là ranh giới) sẽ thuộc phạm vi kiểm soát của Liên Xô. Ngoài ra, các nước nhỏ ở biển Baltic cũng được đưa vào phạm vi quản lý của Liên Xô. Những điều kiện nói trên được Liên Xô và Đức lúc đó tuyệt đối giữ bí mật.
Quân đội Đức xâm lược Ba Lan. Mặc dù từ tháng 9, hai nước Anh và Pháp cũng đã tuyên chiến với Đức, nhưng Liên Xô vẫn án binh bất động. Stalin và Molotov hy vọng với hình thức này thì “ngư ông sẽ đắc lợi”. Họ cho rằng làm như vậy phù hợp với lợi ích quốc gia, và cho rằng đây là thắng lợi của ngoại giao Liên Xô. Nhưng các nhà lịch sử lại cho rằng thỏa thuận này không đếm xỉa gì tới lợi ích dân tộc của Ba Lan, không tôn trọng chủ quyền của các quốc gia ven biển Baltic, và nếu xét từ góc độ luật pháp quốc tế, hiệp định này cũng có nhiều vấn đề nghi vấn. Mặt khác, việc ký thỏa thuận này ở mức độ nào đó đã làm Stalin bị “mê muội”, khiến ông không có chuẩn bị đầy đủ cho chiến tranh, do đó khi chiến tranh Đức – Liên Xô bùng phát tháng 6 năm 1941, phía Liên Xô không tránh khỏi “trở tay không kịp”. Còn Molotov qua chiến dịch ngoại giao lần này đã trở nên hết sức nổi bật, trở thành nhân sĩ nổi tiếng trong làng ngoại giao quốc tế.
Ngày 22/6/1941, Hitler phá hủy thỏa thuận không xâm lược lẫn nhau với Liên Xô, đội quân Đức quốc xã hơn 8 triệu người đã tấn công Liên Xô. Đúng ngày bùng phát chiến tranh, theo lệnh của Stalin, Molotov đã có bài phát biểu qua truyền thanh tới toàn thể nhân dân Liên Xô, tuyên bố chiến tranh đã bắt đầu, hiệu triệu nhân dân Xô viết đoàn kết lại đánh đuổi quân xâm lược. Ngày hôm đó, giọng nói trầm ấm, kiên định của Molotov đã được truyền đi khắp lãnh thổ Liên Xô: “Sự nghiệp của chúng ta là chính nghĩa, kẻ thù nhất định sẽ thất bại, chiến thắng tất yếu sẽ thuộc về chúng ta!”.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Molotov là trợ thủ chính trị quan trọng nhất của Stalin, phụ trách công tác ngoại giao, đảm nhiệm việc liên lạc và đàm phán với lãnh đạo Anh, Mỹ và các nước khác, có nhiều nỗ lực đóng góp ngoại giao cho việc mở ra một mặt trận thứ hai ở châu Âu. Tháng 5-6/1942, Molotov đã đi thăm London và Washington. Tại London, Molotov đã cùng Ngoại trưởng Anh [Anthony] Eden ký hiệp định “đồng minh trong cuộc chiến tranh chống Đức quốc xã và hợp tác hỗ trợ lẫn nhau sau chiến tranh”. Hiệp định nêu rõ quân đội đồng minh Anh, Mỹ vào một thời điểm thích hợp sẽ mở mặt trận lớn thứ hai ở Tây Âu để đánh quân Đức. Sau đó, Molotov đến Washington gặp Tổng thống Mỹ [Franklin D.] Roosevelt, được Mỹ cam kết ủng hộ mở mặt trận thứ hai.
Ngày 19/10/1943, Molotov cùng Ngoại trưởng Mỹ và Anh tiến hành hội nghị tại Moskva, cuối cùng đạt được thỏa thuận về mở mặt trận thứ hai tại châu Âu, xác định đến mùa Xuân 1944, quân đội Mỹ-Anh sẽ đổ bộ lên bờ biển phía Bắc nước Pháp. Các bên cũng thảo luận việc tổ chức hội nghị thượng đỉnh ba bên Liên Xô – Anh và Mỹ, cũng như những vấn đề thế giới hậu chiến tranh. Molotov cũng từng tháp tùng Stalin tham gia các hội nghị ở Tehran, Yalta và Boston [?].
Năm 1945, Molotov nhiều lần đến New York tham gia sáng kiến thành lập LHQ. Liên Xô là một trong năm nước uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an, nhưng tại LHQ, Liên Xô thường xuyên ở thế thiểu số. Molotov thường xuyên sử dụng quyền phủ quyết của Liên Xô tại Hội đồng Bảo an. Trong các hoạt động ngoại giao với phương Tây, nhất là với Mỹ, Molotov luôn có thái độ cứng rắn, được giới ngoại giao quốc tế gọi là “Mr. No” và “nhà ngoại giao mặt thép”.
Các thành viên đoàn đại biểu Trung Quốc do Chu Ân Lai dẫn đầu đến Genève đều hết sức tôn trọng Molotov. Họ đều cho rằng Molotov là một “nguyên lão của Cách mạng tháng Mười”, là nhà cách mạng lão thành chỉ đứng thứ hai sau Stalin. Đối với những sai lầm nghiêm trọng của Molotov trong chiến dịch “đại thanh lọc” những năm 30, giới lãnh đạo Trung Quốc được biết rất ít. Thời kỳ đó, ĐCS Trung Quốc đang tập trung thiết lập căn cứ địa cách mạng ở miền Nam, trải qua cuộc trường chinh hai vạn rưỡi dặm đường, đấu tranh ác liệt để thiết lập căn cứ địa Thiểm Bắc. Ngược lại, sau khi bùng phát cuộc chiến tranh vệ quốc, Liên Xô đã đảm đương sứ mệnh là quân chủ lực trong cuộc chiến tranh chống phát-xít Đức, sau chiến tranh lại đưa quân vào Đông Bắc Trung Quốc, có công lao đóng góp tiêu diệt đội quân Quan Đông Nhật Bản, tất cả những điều này được quân dân Trung Quốc biết rất rõ. Trong giai đoạn lịch sử này, Molotov đại diện cho Liên Xô đã tiến hành hàng loạt hoạt động quốc tế, do đó tên tuổi ông rất thân quen với các nhà sáng lập nước Trung Hoa mới.
Molotov kiên định chủ trương khi tiến hành hội nghị năm nước lớn, nhất thiết phải có Trung Quốc tham gia, và ông đã nỗ lực vì mục tiêu này.
Nói đến hội nghị Genève, nhất định phải nhắc lại hội nghị Berlin tháng 1 năm 1954. Hội nghị này được phát triển từ ý tưởng sau đại chiến thế giới thứ hai sẽ khôi phục lại địa vị trong lý luận “Ba vòng tròn lớn” của chính trị gia lão luyện của Anh Churchill.
Tháng 10 năm 1951, nhà chính trị Churchill, 77 tuổi, một lần nữa trúng cử Thủ tướng Anh. Xuất phát từ kinh nghiệm lãnh đạo nước Anh trong đại chiến thế giới thứ hai, Churchill đề xuất tổ chức hội nghị ba nước lớn Tây Âu để thống nhất lập trường của Anh, Pháp và Mỹ.
Tình hình Châu Âu sau chiến tranh thế giới đã thay đổi nhiều, đế quốc Anh không còn giữ được sự hùng mạnh như trước nữa, các phong trào giải phóng dân tộc tại các nước thuộc địa bùng lên mạnh mẽ. Trước một thế giới như vậy, Churchill đã đưa ra khái niệm “ngoại giao ba vòng tròn”. Ngày 9/10/1948, tại đại hội thường niên của đảng Bảo thủ Anh, Churchill đã trình bày ý tưởng “ba vòng tròn lớn”. Ông nói: “Khi tôi nhìn vào tương lai của đất nước, tôi cảm thấy tại một quốc gia tự do và dân chủ tồn tại ba vòng tròn lớn… Thứ nhất, tất nhiên là tất cả những gì nằm trong Liên hiệp Anh và đế quốc Anh. Thứ hai là đất nước chúng ta, Canada và các vùng lãnh thổ tự trị khác trong Liên hiệp Anh, cùng với Mỹ - là một thế giới Anh ngữ có vai trò rất quan trọng. Thứ ba chính là một châu Âu liên minh lại. Ba vòng tròn lớn đó cùng tồn tại một lúc, nếu chúng kết nối với nhau, thì sẽ không có bất cứ lực lượng nào, thậm chí một liên kết lực lượng nào có thể lật đổ chúng, hoặc dám thách thức với chúng”. Churchill cho rằng trong ba vòng tròn là liên minh Anh với Mỹ, Anh với châu Âu và Anh quốc với các nước trong liên hiệp Anh, và bao giờ nước Anh cũng giữ vai trò quan trọng.
Tại châu Âu hòa giải với Pháp và Đức, khôi phục thế cân bằng của châu lục; duy trì mối quan hệ đặc biệt với Mỹ, lợi dụng sức mạnh của Mỹ để đối phó với Liên Xô; Cố gắng gìn giữ vị trí cường quốc của nước Anh, đó là các điểm cơ bản trong chính sách đối ngoại của Churchill.
Với Liên Xô vừa phải giữ thế cân bằng đối kháng, lại vừa phải thương lượng rất nhiều vấn đề quốc tế quan trọng. Ba cường quốc Tây Âu thấy rằng, sau thế chiến thứ hai, mọi vấn đề quan trọng của thế giới đều cần phải đàm phán với Liên Xô. Đề xuất tiến hành “hội nghị bốn nước lớn” lúc được nhắc đến lúc không. Bước sang thập niên 50, Ngoại trưởng Liên Xô Molotov nhiều lần phát biểu tổ chức hội nghị bốn nước lớn là chưa đủ, mà cần đưa thêm nước Trung Hoa mới. Tuy nhiên, đề xuất này đã bị Mỹ, nước đang tham gia cuộc chiến tranh Triều Tiên và phải chiến đấu ác liệt với chí nguyện quân Trung Quốc, kiên quyết phản đối. Do đó, hội nghị năm nước lớn không thể thực hiện được.
Tháng 3 năm 1953, sau khi Stalin qua đời, Churchill tuyên bố dự định tổ chức hội nghị cấp cao “bốn nước lớn” vào tháng 5 hoặc tháng 6, nhưng Liên Xô không nhất trí.
Ngày 17 tháng 6, Berlin và một số thành phố của Đông Đức xảy ra biểu tình phản đối Liên Xô, Liên Xô lập tức tăng cường sức mạnh quân sự tại Đông Đức. Sau khi thảo luận, ngoại trưởng ba nước Anh, Pháp và Mỹ đề nghị Liên Xô cùng tham gia hội nghị bốn bên vào mùa thu cùng năm để thảo luận vấn đề thống nhất nước Đức.
Ngày 23 tháng 6, Churchill vừa chủ trì tiệc chiêu đãi Thủ tướng Italia trở về phòng khách thì bị trúng gió nhẹ, bị liệt nửa người. Trong thời gian Churchill điều trị bệnh, đề nghị trên chỉ còn cách tạm thời “nằm yên”. Mùa thu năm đó, sức khoẻ Churchill khôi phục rõ rệt, ông đề nghị tổ chức hội nghị thượng đỉnh ba bên Anh, Pháp và Mỹ.
Ban đầu, Pháp tỏ ra không hề hồ hởi với các hội nghị ba nước lớn, 4 hay năm nước lớn cũng vậy. Nguyên nhân chính là vì Tổng thống Pháp không được tham gia các hội nghị các nước lớn trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, do đó có một cảm giác lạnh lùng, thờ ơ khó tả đối với hội nghị thượng đỉnh các nước lớn. Sự thờ ơ của Pháp đã khiến đề nghị của Churchill bị gác lại.
Sau một thời gian có nhiều biến động chính trị kể từ sau khi Stalin qua đời, tình hình chính trị của Liên Xô đã dần ổn định trở lại, và ở một mức độ nào đó, đã điều chỉnh chính sách ngoại giao của Stalin, trước tiên là trong vấn đề Triều Tiên. Tháng 7 năm đó, chiến tranh Triều Tiên đã chấm dứt.
Ngày 4 tháng 8, Bộ Ngoại giao Liên Xô mời đại sứ Anh tại Liên Xô tới cho biết Liên Xô hy vọng các nước lớn phương Tây đồng ý tổ chức một hội nghị các nước lớn có sự tham gia của cả Trung Quốc trong vòng tháng 6, để thảo luận các vấn đề quốc tế, đặc biệt là vấn đề thống nhất nước Đức và thống nhất Triều Tiên. Ngày 28/9/1953, Liên Xô một lần nữa đề xuất với Mỹ, Anh và Pháp việc tổ chức hội nghị “năm nước lớn” có sự tham gia của cả Trung Quốc, thảo luận giải pháp làm giảm cẳng thẳng cục diện quốc tế. Ngày 8/10, Chu Ân Lai tuyên bố ủng hộ đề xuất của Liên Xô.
Trước đề nghị của Liên Xô, ngoại trưởng ba nước Mỹ, Anh và Pháp đã tiến hành một loạt cuộc trao đổi.
Ngoại trưởng Anh Eden sau một thời gian dài điều trị bệnh, ngày 5 tháng 10 vừa mới bình phục đã trở lại với công việc ở London. Ngày 16 tháng 10, các ngoại trưỏng Mỹ và Pháp đến London gặp Eden. Ba vị quan chức này dự định mời Liên Xô cùng tham gia để cùng thảo luận vấn đề thống nhất nước Đức.
Sau khi ký hiệp định đình chiến tại Triều Tiên ngày 27 tháng 7, Liên Xô và Trung Quốc đều nhất trí rằng cần giải quyết hòa bình hai cuộc chiến tranh ở châu Á. Lãnh đạo mới của Liên Xô là [Georgy] Malenkov chủ trương thông qua đình chiến và đàm phán hòa bình để giải quyết vấn đề chiến tranh, sau đó tiến hành cạnh tranh kinh tế với phương Tây. Hạ tuần tháng 11, Liên Xô đề nghị tổ chức hội nghị ngoại trưởng bốn nước lớn tại Berlin vào tháng 1 năm 1954 để thảo luận các vấn đề của châu Âu. Ngoài ra, Liên Xô cũng đề nghị tổ chức một hội nghị quốc tế để bàn vấn đề viễn Đông, trong đó bao gồm cả vấn đề hòa bình cho Đông Dương. Đúng vào thời điểm này, Hồ Chí Minh đã có bài trả lời phỏng vấn phóng viên Thụy Điển đăng trên tờ “Tin nhanh” của Thụy Điển, trong đó bày tỏ hy vọng vấn đề Đông Dương được giải quyết bằng giải pháp chính trị.
Chính phủ Pháp đang tìm cơ hội để giải quyết vấn đề Đông Dương thông qua thương lượng. Cuối tháng 11 năm 1953, thái độ của Pháp đối với các hội nghị bốn-năm nước lớn đã thay đổi 180 độ, trở nên tích cực hơn. Pháp hưởng ứng đề nghị của Molotov, biểu thị sẵn sàng tham gia các hội nghị như hội nghị Berlin. Pháp còn thông báo cho Mỹ và Anh kế hoạch riêng của mình, đồng thời hy vọng tổ chức một hội nghị cấp cao ba bên trước để thống nhất lập trường.
Thương lượng gì với Liên Xô? Đàm phán như thế nào? Lãnh đạo ba nước Anh, Pháp, Mỹ quyết định tổ chức hội nghị tại quần đảo Bermuda trên Đại Tây Dương để thảo luận trước. Ngày 4/12, do Thủ tướng [Joseph] Laniel bị ốm, Ngoại trưởng [Georges] Bidault đại diện cho Chính phủ Pháp đã đến quần đảo Bermuda, cùng Tổng thống Mỹ [Dwight D.] Eisenhower, Ngoại trưởng Mỹ [John Foster] Dulles, Thủ tướng Anh Churchill và Ngoại trưởng Eden tiến hành hội nghị.
Tại hội nghị ở Bermuda, vấn đề Trung Quốc là nhạy cảm nhất. Điều Mỹ quan tâm là nếu tổ chức hội nghị năm bên có sự tham gia của Trung Quốc liệu có nghĩa là chính thức công nhận Trung Quốc? Anh có xu hướng như vậy và Pháp cũng không phản đối. Tuy nhiên, Eisenhower cùng Ngoại trưởng Dulles kiên quyết phản đối.
Mỹ và Anh cũng ý thức được rằng Pháp hy vọng thông qua đàm phán để giải quyết vấn đề Đông Dương. Sau này Anh đã công khai bày tỏ tán thành và Mỹ không còn cách nào khác là nhượng bộ. Hội nghị Bermuda đưa ra quyết định chấp nhận đề nghị của Liên Xô, tổ chức hội nghị bốn bên ở Berlin.
Ngày 23/1/1954, trong một cuộc hội ý riêng Ngoại trưởng Pháp Bidault đã yêu cầu Dulles chấp nhận hình thức tổ chức hội nghị 5 bên để giải quyết vấn đề Đông Dương. Đối với các vấn đề khác, Dulles không có ý kiến gì, nhưng riêng vấn đề “địa vị năm nước lớn” của Trung Quốc thì không thể chấp nhận. Còn Eden lại có thể chấp nhận khái niệm này, vì Anh là cường quốc phương Tây duy nhất duy trì quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Trước khi đến hội nghị Berlin, Churchill cũng chỉ thị cho Eden trong thời gian diễn ra hội nghị, chú ý tiếp xúc nhiều với Molotov, tìm hiểu ý đồ ngoại giao của phe phương Đông.
Hội nghị bốn nước lớn đã được tổ chức vào ngày 25/1/1954 tại Berlin. Đây là lần đầu tiên kể từ sau thế chiến thứ hai, ngoại trưởng bốn nước đồng minh lớn ngồi lại bàn đàm phán. Pháp đã có những chuẩn bị gấp rút cho hội nghị, trong đó có cả bản kế hoạch Navarre mang tên “Hành động Atlante” phát động chiến dịch càn quét tại miền Nam Việt Nam với sự tham gia của 15 tiểu đoàn quân.
Ngoại trưởng Anh Eden đã có những phán đoán về phương châm của Liên Xô tại hội nghị Berlin, cho rằng ý đồ của Liên Xô chủ yếu gồm hai điểm:
Thúc đẩy Mỹ rút quân khỏi châu Âu, làm suy yếu tổng thể lực lượng của châu Âu;
Phản đối gia tăng sức mạnh của Đức, đồng thời không để Đức tham gia liên minh Tây Âu.
Tại hội nghị Berlin, lập trường của Anh, Pháp và Mỹ đối với vấn đề Đức hoàn toàn trái người với Liên Xô, mong muốn thúc đẩy hết sức việc nước Đức thống nhất, để đưa Đức vào quỹ đạo Tây Âu. Phản đối khả năng Liên Xô có thể đề nghị nước Đức trung lập, hoặc duy trì hiện trạng bốn nước lớn chiếm đóng. Tại hội nghị, ba nước này muốn ký kết một thỏa thuận “Hòa bình cho nước Đức”, đưa ra điều kiện khiến Đông Đức thoát khỏi sự khống chế của Liên Xô.
Về vấn đề nước Đức, lập trường của hai bên phương Đông và phương Tây không bao giờ có thể thống nhất. Hội nghị thảo luận vấn đề nước Đức trước, các nhà đàm phán lập tức rơi vào khó khăn. Lập trường của hai bên quá khác biệt, thảo luận năm ngày liên tục mà không có kết quả. Hội nghị chuyển sang thảo luận vấn đề châu Á, đây chính là điều Pháp hết sức mong muốn.
Molotov phát biểu cho rằng khi thảo luận các vấn đề ở Viễn Đông, nhất thiết phải có Trung Quốc tham gia hội nghị, Bidault cũng có cùng ý kiến như vậy. Molotov nói ngài Dulles có thể nhân cơ hội này gặp mặt Chu Ân Lai.
Vừa nghe nói vậy, Dulles đã đứng bật dậy lạnh lùng nói: “Chu Ân Lai là ai? Ông ta tham gia phe của chúng ta thì sẽ khiến những điều không thể giữa phương Đông và phương Tây trở thành có thể sao? Ông ta chỉ là một nhà lãnh đạo lên nắm quyền chính ở Trung Quốc đại lục dựa vào chiến tranh đổ máu”. Đối với Chu Ân Lai, Dulles đã nghe danh từ lâu, ông ta vẫn kịch liệt phản đối Trung Quốc tham dự hội nghị.
Molotov nói Trung Quốc đã trở thành lực lượng quan trọng trong cục diện chính trị thế giới, các hội nghị quốc tế quan trọng nhằm giải quyết các vấn đề châu Á nhất thiết phải có Trung Quốc tham gia. Ông cho rằng mặc dù vấn đề Berlin nhất thời chưa thể đàm phán có kết quả, nhưng các bên cần kiên nhẫn chờ đợi thời cơ chín muồi, vì dù sao các bên không có mâu thuẫn đổ máu trong vấn đề này nên vẫn có thể chờ đợi. Còn tình hình đình chiến ở Triều Triên vẫn chưa ổn định, nếu giải quyết không tốt, có khả năng lại bùng phát xung đột. Và đặc biệt là cuộc chiến tranh Đông Dương đã leo thang thành một cuộc chiến quy mô lớn, mỗi giờ mỗi phút đều có đổ máu. Vì vậy, chính phủ Liên Xô đề nghị tổ chức hội nghị năm bên gồm Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp và cả Trung Quốc, nhằm trước tiên giải quyết các vấn đề cấp bách như vấn đề Triều Tiên và Đông Dương, tìm kiếm biện pháp làm giảm căng thẳng tại các khu vực này.
Eden gửi điện cho Churchill, đề nghị Chính phủ Anh chấp nhận đề xuất của Liên Xô. Eden cho rằng đưa các vấn đề Triều Tiên và Đông Dương ra bàn luận tại hội nghị năm bên sẽ tốt hơn nhiều đưa ra thảo luận tại LHQ. Bức điện của Eden viết:
Chí ít, làm như vậy chúng ta sẽ trực tiếp giải quyết vấn đề chứ không phải cùng thảo luận suông với các quốc gia khác tuy số lượng nhiều và rất muốn thảo luận nhưng lại không muốn gánh vác trách nhiệm. Chúng ta cũng nên thông qua hình thức như vậy để giải quyết vấn đề thái độ của Nga, mà đây chính là trở ngại cho cuộc đàm phán Bàn Môn Điếm, vì rõ ràng họ đáng là một trong năm cường quốc cùng ngồi thảo luận vấn đề Triều Tiên. Nếu chúng ta có thể đưa ra một thời hạn chấp nhận được cho hội nghị năm bên, mà họ trước sau nhất quyết từ chối giải quyết vấn đề Đức và Áo, chúng ta có thể khiến nước Nga rơi vào tình thế khó khăn.
Tất nhiên, nhân tố quan trọng ở đây là thái độ của Mỹ. Trước mắt, Mỹ phản đối mạnh mẽ việc coi Trung Quốc là một trong năm nước lớn, tôi hiểu nguyên nhân chủ yếu là do Mỹ không muốn công nhận Trung Quốc có quyền tham gia các vấn đề quốc tế. Nhưng tôi cho rằng, nếu trong một hội nghị như vậy, chúng ta chỉ giới hạn chương trình nghị sự vào các vấn đề Viễn Đông, các trở ngại có thể bị xóa bỏ đáng kể. Vì Dulles cũng đã nói Mỹ không công nhận Trung Quốc nhưng không cản trở đàm phán với Trung Quốc. Trên thực tế, Mỹ đã cùng đàm phán với Trung Quốc ở Bàn Môn Điếm rồi.1
Churchill nhận được điện báo của Eden, lập tức triệu tập cuộc họp nội các. Ông ủng hộ quan điểm của Eden, đồng thời hy vọng Eden có thể thuyết phục được Dulles.
Ngày 26 tháng 1, Dulles có cuộc gặp kín với Eden và Bidault, nêu rõ Mỹ không muốn tham dự một hội nghị năm bên như vậy, nhưng không phản đối thảo luận vấn đề Triều Tiên với Trung Quốc. Dulles cũng tỏ ra hoài nghi rằng liệu đã đến thời điểm chín muồi để giải quyết vấn đề Đông Dương hay chưa?
Eden nói với Dulles: “Việc này có một tia cơ hội”
Molotov cũng có suy nghĩ chỉ giới hạn thảo luận vấn đề Viễn Đông.
Ngày 28 tháng 1, Eden cùng Dulles và Bidault lại gặp nhau lần nữa. Nước Pháp đang gặp khó khăn nên Bidault không thể im lặng tiếp nữa, phát biểu nêu rõ “Chính phủ Pháp hy vọng nỗ lực hết sức để khôi phục hòa bình, vì vậy nước Pháp không chút do dự tuyên bố rằng từ nay trở đi, mỗi giờ mỗi phút Chính phủ Pháp đều sẵn sàng nắm bắt các thời cơ để cùng liên bang (tức ba nước Đông Dương) tiến hành thương lượng để đem lại hòa bình cho Đông Dương. Vì vậy, bất kỳ một cuộc hội đàm nào có thể đem lại tiến triển và cuối cùng là hòa bình đều đáng được hoan nghênh”.2
Trong cuộc gặp trên, Bidault còn nhấn mạnh Pháp sẵn sàng đàm phán với bất kỳ quốc gia nào có nguyện vọng giải quyết các vấn đề mâu thuẫn ở châu Á. Pháp từ chối đàm phán trực tiếp với Hồ Chí Minh theo đề xuất của Liên Xô, nhưng đồng ý gặp Trung Quốc.
Ngày 6 tháng 2, Dulles đưa ra một tuyên bố mập mờ: trong bất cứ trường hợp nào, Chính phủ Mỹ sẽ đều không thông qua việc tổ chức “hội nghị năm nước lớn”, đặc biệt là có sự tham gia của CHND Trung Hoa, để thương lượng giải quyết vận mệnh thế giới. Tuy nhiên, tiếp đó Dulles lại chuyển giọng nói ông chuẩn bị đàm phán với từng vấn đề cụ thể. Dulles đồng ý rằng khi xem xét vấn đề Triều Tiên nhất thiết phải mời đại biểu Trung Quốc và Nam - Bắc Triều tham gia. Ông nói như vậy không có nghĩa là về mặt ngoại giao đã công nhận họ. Vì vậy, chỉ cần Trung Quốc bày tỏ sẵn sàng giải quyết các vấn đề châu Á, nước đề xuất hội nghị sẽ xác định thời gian và địa điểm tiến hành hội nghị.
Phát biểu trên của Dulles cho thấy lập trường của Mỹ đã bắt đầu dao động. Eden lập tức thông báo động thái này cho Churchill: “Hiện nay, chúng ta cần cùng với Mỹ và Pháp soạn thảo một đề án nhằm xác định thời gian chính xác tổ chức hội nghị. Tôi cho rằng chúng ta có thể đạt được những tiến triển trong các vấn đề nan giải. Không nghi ngờ gì rằng chúng ta sẽ gặp phải vô số những khó khăn ẩn chứa, nhưng chúng ta quyết sẽ không “lật thuyền”.
Ngày 11 tháng 2, cuối cùng Mỹ, Anh và Pháp đã đạt được nhất trí: năm nước lớn cùng với hai miền Nam - Bắc Triều cùng tiến hành hội nghị thảo luận vấn đề Triều Tiên. Năm nước lớn còn thảo luận vấn đề Đông Dương. Sau đó, đã diễn biến thành năm nước lớn cùng tất cả các nước tham gia chiến tranh Triều Tiên cùng thảo luận vấn đề Triều Tiên. Ngoại trưởng Pháp đề nghị hội nghị về vấn đề Triều Tiên sẽ tổ chức tại Genève vào ngày 15 tháng Tư, sau đó, trên cơ sở là vấn đề Triều Tiên đạt được tiến triển tích cực, sẽ tiến hành hội nghị về Đông Dương.
Molotov lập tức đặt câu hỏi tại sao hội nghị về Đông Dương lại phải chờ hội nghị Triều Tiên đạt được tiến triển mới tổ chức, giữa hai vấn đề này có mối quan hệ tất yếu sao? Ngoại trưởng Pháp bèn lựa lời nói vấn đề thời gian tiến hành hội nghị về Đông Dương vẫn có thể bàn bạc. Ngày 17 tháng 2, hội nghị ngoại trưởng bốn nước do Eden làm chủ tịch hội nghị cuối cùng đạt được nhất trí. Ngày 18 tháng 2, hội nghị ra thông cáo tuyên bố tiến hành hội nghị tại Genève vào ngày 26 tháng Tư, thảo luận vấn đề Triều Tiên. Hội nghị sẽ gồm các thành viên tham dự là đại biểu của nước CHND Trung Hoa, đại diện Nam - Bắc Triều cùng các nước có quân đội vũ trang tham gia chiến tranh Triều Tiên đồng thời có mong muốn tham gia hội nghị.
Về nội dung các vấn đề Đông Dương, thông cáo cho biết: Hội nghị Genève cũng sẽ “thảo luận việc khôi phục hòa bình ở Đông Dương, trước mắt sẽ mời Liên Xô, Mỹ, Pháp, Anh, CHND Trung Hoa và đại biểu các nước khác có liên quan tham gia. Các bên đạt được nhận thức chung rằng mặc dù được mời tham gia hoặc tổ chức các hội nghị nói trên, đều không được cho rằng bất cứ tình huống nào chưa được công nhận về mặt ngoại giao có nghĩa là đã được công nhận về mặt ngoại giao”.
Thực ra, ban đầu Molotov kiên quyết yêu cầu xóa bỏ phần nội dung trong thông cáo nói về “công nhận ngoại giao”, tuy nhiên người đích thân soạn thảo đoạn văn này là Dulles đã kiên quyết từ chối, cho tới phút chót Molotov mới chịu nhượng bộ.
Về ý nghĩa của hội nghị Berlin, khi đó có một nhà chính trị đã nêu ra rất rõ. Ông là lãnh đạo quân đội kháng chiến Pháp trong thế chiến thứ hai - Tướng Charles De Gaulle (1890-1970). Khi đó ông đã rút lui khỏi chính trường, tạm thời về “ở ẩn” và dốc tâm trí sức lực viết cuốn “Hồi ức chiến tranh”. Ông không bao giờ lơi là sự quan tâm đối với đời sống chính trị, thường xuyên trở về văn phòng ở Paris gặp gỡ nhiều nhân vật, trao đổi ý kiến, lập trường. Chiều 21/1/1954, tại Paris, De Gaulle đã gặp phóng viên quốc tế nổi tiếng của tờ “New York Time” C. Sulzberger. Hai bên chuyện trò trong hơn một giờ đồng hồ. Sulzberger sinh năm 1912, tốt nghiệp Đại học Havard, năm 1933 bắt đầu sự nghiệp báo chí. Trước thế chiến thứ hai về tờ “New York Time” làm việc, phụ trách báo cáo các vấn đề quốc tế, trở thành một nhân vật rất có ảnh hưởng, có rất nhiều tác phẩm báo chí. De Gaulle đã bày tỏ suy nghĩ của mình về hội nghị Berlin với Sulzberger.
Theo ghi chép của phóng viên này, khi hai người nói đến vấn đề Đông Dương, De Gaulle đã nói “Ngoài việc rút quân khỏi Đông Dương hoặc duy trì cục diện hiện nay, tôi không thấy có con đường nào khác. Muốn giải quyết vấn đề quân sự, cần thực thi một biện pháp mới, đưa ra những nỗ lực mới. Nhưng nước Pháp không muốn đưa ra những nỗ lực như vậy. Ở Đông Dương, chúng ta không có lợi ích thực sự và trực tiếp. Cuộc chiến tranh ở đó hiện nay chỉ là một cuộc chiến nhằm giữ thể diện. Nhưng thực ra, đối với thể diện của nước Pháp cũng không có mấy lợi ích. Vấn đề Đông dương ngày càng thuộc về lợi ích quốc tế, còn lợi ích của Pháp ngày càng ít đi. Ở Đông Dương chỉ có hai chính quyền đương cục là Pháp và Hồ Chí Minh. Chỉ có hai mà thôi, không có chính quyền nào khác. Các vương triều Bảo Đại, Campuchia, Lào đều không có tác dụng gì. Bọn họ chỉ là hư danh, chỉ có Hồ Chí Minh là thực thể. Ông ta đại diện cho độc lập, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa cộng sản và cả châu Á. Pháp cũng là một thực thể, đại diện cho phương Tây. Hiện nay, tại quốc gia đó nhà đương cục Pháp cũng không còn tồn tại nữa. Tất cả đều đã từ bỏ rồi. Vì vậy, người Pháp buộc phải rút đi. Họ chịu gánh đủ rồi thì phải rút ra. Chúng ta không khỏi cảm thấy rất nuối tiếc, nhưng dù gì vẫn phải rút đi. Năm 1863, Napoleon đệ tam tiến đánh Mexico, ông ta ủng hộ Maximilian I3, nhưng vấp phải sự phản đối của các nước châu Mỹ, ông ta buộc phải rút lui. Giờ đây vấn đề Đông Dương không khác gì thời gian đó.
Sulzberger hỏi De Gaulle liệu hội nghị Berlin khai mạc vào tuần tới sẽ đạt được kết quả gì? De Gaulle trả lời:
Tôi cho rằng với tình hình hiện nay, phương Đông và phương Tây không thể đạt được sự hiểu biết và nhượng bộ thực sự nào. Tuy nhiên, tôi cảm thấy, ở mỗi một thời kỳ,hai bên đều có thể cùng tồn tại, đồng thời đẩy mạnh hợp tác thương mại. Dù là Mỹ hay Nga giờ đây đều không muốn đánh nhau. Vì vậy, chiến tranh Lạnh không thể tiếp tục kéo dài. Chiến tranh Lạnh tiêu tốn quá nhiều. Nó đã tạo gánh nặng cho cả ngân sách quốc gia, hoạt động của các doanh nghiệp lẫn cả về mặt tinh thần. Nếu mọi người không muốn bước từ chiến tranh Lạnh sang chiến tranh Nóng, vậy thì chiến tranh Lạnh sẽ không thể tiếp tục mãi được. Cho dù không thể ký kết được hiệp định nào, vẫn có thể có những biện pháp giải quyết tạm thời. Những biện pháp như vậy sẽ giúp tạo ra càng nhiều cơ hội giao lưu, như du lịch, du học, giao lưu thể thao và buôn bán hang hóa, đồng thời có thể duy trì trong một thời gian tương đối dài. Sau Hội nghị Berlin có thể tổ chức rất nhiều hội nghị khác. Một dạng làm dịu cục diện, một loại biện pháp giải quyết tạm thời đã được bắt đầu. Trước mắt, các nguy cơ chiến tranh ngày càng ít đi. Bước ngoặt mang tính quyết định của vấn đề Triều Tiên là cuộc tranh luận giữa [Douglas] McArthur với [Harry S.] Truman. Điều này cho thấy nước Mỹ không cần chiến tranh. Truman phản đối đề nghị tấn công Trung Quốc của McArthur, như vậy đã loại bỏ khả năng chiến tranh. Người Anh muốn buôn bán với người Nga. Người Pháp hy vọng có sự điều chỉnh ở Đông Dương”.4
De Gaulle đưa ra kết luận của mình: “Đó không phải là nhượng bộ, đó là hòa bình của vũ trang”.
Mặc dù hội nghị Berlin đã đạt được nhất trí, nhưng thái độ của Trung Quốc có ý nghĩa rất quan trọng.
1 Sir Anthony Eden, Full Circle London: Cassell & Co., Ltd., 1960, tr. 87-88.
2 John Prados, The Sky Would Fall: Operation Vulture: the US bombing mission in Indochina 1954, New York, 1983.
3 “Quốc vương” mà Pháp áp đặt cho Mexico, chú thích của tác giả (TG).
4 C. Sulzberger, Bốn mươi năm sóng gió bảy đại châu, Thiên Tân Nhân dân Xuất bản Xã (XBX), 1979, tr. 248-250.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:33:51 GMT 9
CHƯƠNG 4 Tính toán của phương Đông
Bên Tây Hồ ở Hàng Châu, Mao Trạch Đông “lên cao nhìn xa”. Nơi rừng sâu của Việt Nam, Hồ Chí Minh dốc sức suy xét. Phạm Văn Đồng vượt ngàn dặm lên phương Bắc, phối hợp xác định phương châm. Vi Quốc Thanh, La Quý Ba tính toán chuẩn bị, với quyết tâm nhất định thành công. Chiến dịch Điện Biên Phủ sẽ quyết định vận mệnh của dân tộc Việt Nam. Đàm phán Genève liệu sẽ đưa thần số phận đi đến đâu?
Bên Tây Hồ ở Hàng Châu, Mao Trạch Đông theo dõi kết quả hội nghị Berlin.
Ngày 24/12/1953, Mao Trạch Đông dẫn đầu nhóm soạn thảo Hiến pháp đến Hàng Châu. Người phụ trách chính của nhóm này là Trần Bá Đạt, Hồ Kiều Mộc và Điền Gia Anh. Từ thời điểm này đến ngày 17/3/1954, Mao Trạch Đông và nhóm soạn thảo Hiến pháp chủ yếu ở tại Hàng Châu.
Lưu Trang nguyên là biệt thự trang viên của Lưu Học Tuần - cử nhân cuối đời Thanh. Năm xưa, họ Lưu cho xây dựng trang viên này đã vận dụng nhiều điểm đặc sắc trong kiến trúc vườn cây vùng Quảng Đông, thể hiện không ít kỳ hoa dị thảo của vùng phương Nam. Mao Trạch Đông rất thích khu vườn của Lưu Trang cũng như phong cảnh ở xung quanh. Đến đây, ngoài công việc hàng ngày, Mao Trạch Đông thường tản bộ khắp nơi, hầu như đặt chân đến hết các địa điểm ở xung quanh.
Đứng trên cao có thể bao quát được xa, kết quả hội nghị Berlin vô cùng quan trọng. Mao Trạch Đông luôn giữ liên hệ chặt chẽ với Bắc Kinh, liên tục nắm bắt tiến triển của mọi động thái.
Sau khi hội nghị Berlin ra thông cáo, Liên Xô gấp rút thông báo tình hình hội nghị cho phía Trung Quốc, chủ trương để Trung Quốc không những tham gia hội nghị Genève, mà còn có thể phát huy được tác dụng tích cực tại hội nghị.
Ngay khi còn ở Berlin, Molotov đã truyền đạt ý kiến của phía Trung Quốc cho Dulles: Trung Quốc sẵn sàng nỗ lực giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương, song vai trò của phía Trung Quốc cũng chỉ có hạn, bởi lẽ chiến tranh Đông Dương đã diễn ra một thời gian dài trước khi nước Trung Hoa mới được thành lập.
Giữa Hàng Châu và Bắc Kinh liên tục có các cuộc trao đổi “đường dây nóng” giữa Mao Trạch Đông với Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai, để kịp thời hội ý. Họ đồng ý với quan điểm của Liên Xô, cho rằng Trung Quốc tham gia hội nghị Genève sẽ rất có lợi. Đây sẽ là lần đầu tiên kể từ sau khi thành lập nước Trung Hoa mới, đặc biệt là sau khi xảy ra chiến tranh Triều Tiên, Trung Quốc tham gia một hội nghị lớn được cả thế giới quan tâm theo dõi, như vậy sẽ rất có lợi trong việc đề cao địa vị quốc tế của Trung Quốc. Nếu đàm phán tiến triển tốt, có thể giải quyết một số vấn đề quốc tế, còn nếu không thành công cũng có thể tuyên truyền chủ trương của Trung Quốc trên chính trường quốc tế.
Mao Trạch Đông uỷ nhiệm Chu Ân Lai nghiên cứu về hội nghị Genève và đề xuất ý kiến. Trên thực tế, khi vừa nhận được thông báo của Liên Xô về hội nghị Genève, Chu Ân Lai đã nghiêng theo hướng tham gia hội nghị.
Ngày 27/2/1954, Chu Ân Lại gặp đại sứ Ấn Độ tại Trung Quốc, phát biểu quan điểm về hội nghị Genève. Chu Ân Lai nói, hội nghị Berlin do bốn nước lớn tổ chức chưa thể coi là hoàn toàn như ý, vì các bên chưa đạt được thỏa thuận về vấn đề quan trọng của châu Âu. Nhưng hội nghị Berlin cũng có một chút “thu hoạch”, đó là quyết định tổ chức hội nghị Genève, lấy các vấn đề cụ thể ở Viễn Đông để giải quyết các vấn đề cấp bách của quốc tế, nhất là vấn đề hòa bình của Viễn Đông. Ngoài ra, nguyên tắc dùng phương pháp thương lượng để giải quyết các tranh chấp quốc tế cũng được đẩy mạnh một bước. Khôi phục hòa bình cho Việt Nam mấu chốt nằm ở Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ liên tục gia tăng can thiệp quân sự với Việt Nam, điều này không có lợi cho hòa bình.
Cùng ngày, Chu Ân Lai triệu tập một cuộc họp thảo luận công tác chuẩn bị cho hội nghị Genève. Tại cuộc họp, Chu Ân Lai đưa ra chỉ thị hai điểm:
Hội nghị Genève có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp làm giảm căng thẳng trong cục diện quốc tế, Trung Quốc cần tích cực tham gia.
Vì chính phủ Mỹ sẽ tìm mọi cách gây trở ngại, nên khả năng giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên dự kiến sẽ khó đạt được tiến bộ lớn, song chung ta sẽ vẫn nỗ lực đấu tranh giải quyết một số vấn đề.
Hạ tuần tháng 2, Chu Ân Lai chấp bút thảo phương án chuẩn bị tham gia hội nghị Genève. Ngày 2/1, tại hội nghị Ban Bí thư trung ương, Chu Ân Lai đã trình bày “Ý kiến sơ bộ về những đánh giá đối với hội nghị Genève và công tác chuẩn bị” (sau đây gọi tắt là “Ý kiến sơ bộ”). Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Trần Vân đã tham gia cuộc họp này.
“Ý kiến sơ bộ” cho rằng: “Việc đạt được nhất trí tổ chức hội nghị Genève là một thành công rất lớn của đoàn đại biểu Liên Xô tại hội nghị ngoại trưởng ở Berlin. Chỉ riêng việc CHND Trung Hoa tham dự hội nghị cũng đã giúp một bước cho việc làm giảm căng thẳng cục diện quốc tế”.
“Ý kiến sơ bộ” đề xuất: “Các tập đoàn đế quốc chủ nghĩa, nhất là Chính phủ Mỹ, cố tình hạ thấp ý nghĩa tác dụng của hội nghị Genève, và dự báo rằng hội nghị Genève cũng sẽ giống như hội nghị Berlin khi thảo luận vấn đề Đức và Áo, sẽ không đạt được bất cứ kết quả gì. Tuy nhiên, quan điểm của ba nước Mỹ, Anh và Pháp trong vấn đề Triều Tiên cũng như nhiều vấn đề quốc tế khác chưa phải đã hoàn toàn thống nhất, mà có nhiều mâu thuẫn lớn. Những khó khăn nội bộ của họ cũng rất lớn”.
Chu Ân Lai cho rằng: “Chúng ta nên có phương châm tích cực tham gia hội nghị Genève, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao quốc tế, phá vỡ sự phong tỏa cấm vận cũng như chính sách huy động quân đội chuẩn bị chiến tranh của đế quốc Mỹ, nhằm thúc đẩy làm giảm căng thẳng trong cục diện quốc tế”. Kết luận của Chu Ân Lai là:
Tại hội nghị Genève, cho dù Mỹ có cố gắng tìm mọi cách cản trở việc đạt được một hiệp định có lợi cho sự nghiệp hòa bình, chúng ta vẫn sẽ nỗ lực hết sức để đạt được sự nhất trí và một thỏa thuận nào đó nhằm giải quyết vấn đề, thậm chí là một thỏa thuận tạm thời hoặc thỏa thuận riêng biệt, nhằm tạo thuận lợi cho việc mở ra con đường hiệp thương giữa các nước lớn để giải quyết các tranh chấp quốc tế.1
“Ý kiến sơ bộ” còn nêu rõ đoàn đại biểu Trung Quốc tham gia hội nghị Genève gồm có Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên, Vương Gia Tường, Lý Khắc Nông và một vị Thứ trưởng Bộ Thương mại. Lý Khắc Nông, Chương Hán Phu và Lý Sơ Lê phụ trách công tác chuẩn bị cụ thể.
Hội nghị Ban Bí thư Trung ương nhất trí với “Ý kiến sơ bộ” của Chu Ân Lai, quyết định ngay ngày hôm sau sẽ lấy danh nghĩa Chính phủ Trung Quốc gửi điện cho Chính phủ Liên Xô, thông báo Trung Quốc nhận lời mời do Liên Xô gửi theo tinh thần của hội nghị Berlin, “đồng ý cử đại biểu toàn quyền tham dự hội nghị Genève”.
Ngày diễn ra cuộc họp (2 tháng 3), Trung ương ĐCS Trung Quốc cũng gửi điện cho trung ương Đảng Lao động (ĐLĐ) Việt Nam, thông báo rằng Trung Quốc và Liên Xô đều nhận định việc tổ chức hội nghị Genève sẽ có lợi cho Việt Nam, hy vọng ĐLĐ Việt Nam tổ chức đoàn ba nước Đông Dương tham gia hội nghị và chuẩn bị tài liệu, tập trung nỗ lực lên các phương án đàm phán.
Bức điện do Chu Ân Lai soạn có viết:
Đối với cục diện quốc tế cũng như tình hình quân sự Việt Nam hiện nay, tiến hành đấu tranh ngoại giao sẽ có lợi cho Việt Nam, bất luận hội nghị Genève có kết quả thế nào, chúng ta đều nên tích cực tham gia…Vì vậy, hy vọng các đồng chí nên nhanh chóng tiến hành công tác chuẩn bị; lập đoàn đại biểu tham gia, thu thập các tài liệu liên quan, lên các phương án đàm phán khác nhau…Nếu muốn đình chiến, tốt nhất nên có một giới tuyến tương đối cố định, có thể bảo đảm được một khu vực tương đối hoàn chỉnh. Trên thực tế, giới tuyến đình chiến hôm nay có thể trở thành ranh giới chia cắt trong ngày mai, vì vậy đây là một vấn đề tương đối quan trọng, hơn nữa cũng cần cân nhắc hướng phát triển sau này. Việc xác định giới tuyến tại đâu, tại vĩ độ bao nhiêu cần phải xem xét từ hai vấn đề: thứ nhất là phải có lợi cho Việt Nam, thứ hai là xem kẻ thù có thể chấp nhận hay không. Đường giới tuyến này càng xuống phía Nam càng tốt. Có thể tham khảo vĩ tuyến 16 độ Bắc.2
Qua đó có thể thấy Chu Ân Lai là người đầu tiên đề xuất việc lấy mô hình Triều Tiên để đưa ra phương án phân chia Việt Nam. Dự án này với kết quả thực tế sau này rất sát nhau.
Trong bức điện, Chu Ân Lai mời Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng Tư để bàn bạc cụ thể về hội nghị Genève. Ngày 6 và 10 tháng 3, Chu Ân Lai hai lần hội kiến tướng Triều Tiên Nam Il tại Bắc Kinh, thảo luận các vấn đề của hội nghị Genève.
Chu Ân Lai đã gửi điện báo cáo với Mao Trạch Đông, đang ở Hàng Châu, về phương châm tổng thể đã được xác định là Trung Quốc sẽ tham gia hội nghị Genève, lập tức được Mao Trạch Đông phê chuẩn. Ngay trước đó một ngày, Mao Trạch Đông đích thân gửi điện sang Triều Tiên, chỉ thị: “Để chuẩn bị tham gia hội nghị Genève, đồng ý với ý kiến của đồng chí Lý Khắc Nông, để các đồng chí Kiều Quán Hoa và Hoàng Hoa lập tức trở về Bắc Kinh tham gia công tác chuẩn bị cho hội nghị. Các đồng chí này khi qua Bình Nhưỡng cần báo cáo công tác với Thủ tướng Triều Tiên Kim (Nhật Thành) và thỉnh thị ý kiến”.3
Tâm lý của Mao Trạch Đông tương đối thoải mái, ngày đó rỗi rãi, ông lấy bút viết thư gửi Bí thư Điền Gia Anh, giao Điền một số công việc:
Đồng chí Gia Anh
Thư của Dương tiên sinh4 nhờ anh sao chuyển cho Dương Khai Trí tiên sinh ở Trường Sa (Anh của Dương Khai Tuệ), hỏi xem nội dung thư có đúng sự thật không, tôi hoàn toàn không nhớ gì nữa.
Năm nay gửi cho họ Dương 12 triệu đồng tiến trợ cấp. Trợ cấp 6 tháng đầu năm 6 triệu đồng xin gửi trước, nhờ anh làm giúp.
Nữ sĩ Lý Thục Nhất là người nhà của đồng chí Liễu Trực Tuần (liệt sĩ) ở Trường Sa, làm nghề dạy học, rất vất vả nên khó có thể tiếp tục. Có người nhờ tôi giới thiệu nữ sĩ đến làm nhân viên Viện văn học-lịch sử, nhưng ở đó chọn người rất khắt khe, tôi đã giới thiệu mấy người rồi đều không được nhận nên không tiện giới thiệu nữa. Tôi muốn giúp nữ sĩ một chút tiền từ tiền nhuận bút của tôi, không biết nữ sĩ có nhận sự giúp đỡ này không. Nữ sĩ là bạn thân của Dương Khai Tuệ, việc giúp đỡ cũng là đúng lẽ. Nhờ anh nói Dương Khai Trí hỏi nữ sĩ giúp xem ý thế nào.5
Mao Trạch Đông
Ngày 2 tháng 3
Khi Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai quyết tâm tham gia hội nghị Genève, cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp của Việt Nam đang diễn ra hết sức ác liệt. QĐND Việt Nam với binh lực bốn sư đoàn bộ binh, một sư pháo-công binh, tổng cộng hơn bốn vạn quân đang bao vây hơn một vạn quân Pháp ở Điện Biên Phủ, chuẩn bị tổng tấn công. Khói lửa ác liệt ở Điện Biên Phủ đang là tâm điểm chú ý của thế giới. Chu Ân Lai biết rất rõ nắm được ưu thế trên chiến trường sẽ có ý nghĩa như thế nào tại bàn đàm phán sắp bắt đầu. Ông ra lệnh Bộ tổng tham mưu chỉ thị trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại tiền tuyến Điện Biên Phủ Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh phải làm sao để Việt Nam đánh tốt vài trận, phối hợp với bàn đàm phán ở Genève.
Ngày 3/3, Ban tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng gửi điện cho Vi Quốc Thanh, chuyển chỉ thị của Chu Ân Lai:
Hội nghị Genève sẽ thảo luận vấn đề Việt Nam. Chu Ân Lai chỉ thị: để giành thế chủ động về ngoại giao, trước hội nghị Genève, Việt Nam tổ chức vài trận đánh thắng lợi. Vì vậy, các đồng chí nghiên cứu xem, trong thời điểm hiện nay, liệu có khả năng chắc chắn đánh bại quân địch ở Điện Biên Phủ? Hoặc theo điện chỉ thị của Quân uỷ Trung ương ngày 9/2, triệt để tiêu diệt quân địch tại khu vực giữa sông Nậm Ô [Rốn ?] và sông Hồng, giải phóng khu vực đó, khai thông liên lạc giữa nước ta với Lào; Đồng thời tại Trung - Hạ Lào hoặc khu vực Liên khu Năm phát động tấn công phối hợp. Xin cho ý kiến để chúng tôi tiện xem xét và báo cáo Quân uỷ Trung ương.
Về việc tổ chức đoàn đại biểu tham dự hội nghị Genève, ĐLĐ Việt Nam do Hồ Chí Minh đứng đầu có thái độ rất tích cực. Sau khi nhận được điện báo của Trung ương ĐCS Trung Quốc, ngày 5 tháng 3, Trung ương ĐLĐ Việt Nam tổ chức hội nghị Bộ chính trị lâm thời, thảo luận sơ bộ vấn đề tham gia hội nghị Genève cũng như đề nghị của phía Trung Quốc. Trong quá trình thảo luận, vấn đề khó khăn nhất là việc xác định giới tuyến đình chiến, hội nghị không đạt được nhất trí trong vấn đề này.
Dưới sự chủ trì của Phạm Văn Đồng, đoàn đại biểu Việt Nam xác định một số phương án.
Thứ nhất là “đình chiến tại chỗ”. Phương án này xem ra đơn giản rõ ràng rồi, hơn nữa phía Việt Nam có thể kiểm soát hơn 3/5 diện tích lãnh thổ. Song như vậy sẽ dẫn đến tranh cãi gay gắt giữa hai bên Pháp - Việt. Xem xét sâu sắc hơn, nếu như vậy, những khu vực do Việt Nam kiểm soát sẽ không có nhiều thành phố lớn, không có đồng bằng lớn, không có hải cảng và cũng không có các cơ sở công nghiệp tương đối hoàn chỉnh. Để bù đắp những bất lợi này, biện pháp duy nhất chỉ có thể là yêu cầu Pháp đồng ý tiến hành tổng tuyển cử ngay một thời gian không lâu sau đó. Phía Việt Nam đã từng thắng lợi trong một cuộc tổng tuyển cử trước đó. Với uy tín của Hồ Chủ tịch trong dân chúng Việt Nam, nhiều khả năng sẽ nắm chắc phần thắng trong cuộc bầu cử tiếp theo. Tuy nhiên, làm như vậy cũng có những nhân tố không thể dự đoán trước được, đó là dân số khu vực do đối phương quản lý tương đối nhiều, rất sợ xảy ra biến cố, và nhất là lo ngại nảy sinh những phức tạp do can thiệp của nước ngoài.
Phương án thứ hai là dùng phương thức giới tuyến Nam - Bắc tương tự trong đình chiến ở Triều Tiên. Như vậy sẽ dẫn đến cục diện Nam Bắc đối đầu, và điểm khó khăn nữa là sẽ xác định giới tuyến ở đâu. Phía Việt Nam muốn lấy vĩ tuyến 15 độ Bắc làm giới tuyến, quân đội hai bên tập kết hoàn toàn ở hai bờ giới tuyến này, sau đó tiến tới đấu tranh thống nhất đất nước. Vấn đề là nếu lấy vĩ tuyến 15 làm giới tuyến, 2/3 lãnh thổ Việt Nam sẽ do Việt Minh kiểm soát, đối thủ liệu có nhượng bộ hay không?
Sau khi nghe Phạm Văn Đồng báo cáo, Hồ Chí Minh vẫn thấy khó đưa ra quyết định. Ông yêu cầu Phạm Văn Đồng chủ trì một cuộc họp nữa để tiếp tục nghiên cứu, đồng thời nghe ý kiến của cố vấn Trung Quốc. Tuy nhiên, việc Chính phủ Việt Nam sẽ tham gia hội nghị Genève đã được hoàn toàn xác định.
Ngày 6/3/1954, Phó trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam Kiều Hiểu Quang gửi điện về trung ương, báo cáo những vấn đề sắp xếp của cuộc họp Bộ chính trị Trung ương ĐLĐ Việt Nam đối với hội nghị Genève. Nội dung bức điện như sau:
Kính gửi Trung ương:
Ngày 5 tháng 3, Bộ chính trị Trung ương ĐLĐ Việt Nam tiến hành hội nghị lâm thời, sơ bộ thảo luận “Ý kiến sơ bộ về việc tham gia hội nghị Genève” của Trung ương ĐCS Trung Quốc. Họ đã thảo luận từng vấn đề trong bức điện, đồng thời tiến hành chuẩn bị. Về việc tổ chức phái đoàn Việt Nam, ý kiến sơ bộ sẽ gồm Phạm Văn Đồng, một đại sứ hoặc tại Trung Quốc hoặc tại Liên xô, Uỷ viên quốc phòng Tạ Quang Bửu, phía Lào dự kiến chọn một bộ trưởng hoặc 2 thứ trưởng, Campuchia cũng sẽ xem xét cử 1-2 người, đồng thời gửi điện trưng cầu ý kiến của họ và chuẩn bị tài liệu. Vấn đề tuyên truyền đối nội, đối ngoại cũng phân công người phụ trách. Đối với hiệp định ngày 6 và ngày 14/9/1946, quyết định nghiên cứu lại và giao cho Phạm Văn Đồng phụ trách. Về quan hệ với Pháp, vấn đề Pháp rút quân, vấn đề bầu cử tự do đều nhận định rằng khó khăn không lớn. Khó khăn duy nhất và lớn nhất là xác định giới tuyến đình chiến, không biết quyết định ra sao. Có người đề xuất khôi phục vị trí trước cuộc chiến, nhưng sau khi xem xét nhận thấy không thể đề xuất như vậy, vì như vậy thì các vùng Lạng Sơn, Nam Định, Hà Nội và Sơn La đều thuộc về quân địch, mặc dù khu vực Trung Nam bộ có rộng hơn, nhưng cũng không hợp lý. Họ cho rằng đây là vấn đế lớn nhất, khó nhất trong đàm phán. Lần thảo luận này chưa có kết luận gì (quyết định để bộ phận quân sự đưa ra phương án rồi nghiên cứu tiếp).
Trong phát biểu của mỗi đồng chí trong hội nghị này, đa số đều bám theo tinh thần của bức điện do ĐCS Trung Quốc gửi tới nhấn mạnh trước mắt cần dồn trọng tâm vào việc chỉ đạo chiến tranh và hoàn thành cải cách ruộng đất.
Nhiều vấn đề còn cần tiếp tục nghiên cứu nhiều lần. Hồ Chí Minh chỉ thị triệu tập một kỳ họp Quốc hội vào trung tuần tháng 3, dự định cuối tháng 3 đi Bắc Kinh.
Ngày 13 tháng 3, đúng vào ngày quân đội Việt Nam phát lệnh tấn công Điện Biên Phủ, Bộ Chính trị ĐLĐ Việt Nam một lần nữa tiến hành hội nghị thảo luận vấn đề tham gia hội nghị Genève. Phạm Văn Đồng phát biểu đầu tiên và đưa ra ba phương án đối với vấn đề đình chiến:
Ngừng chiến, Pháp rút quân về vị trí trước chiến tranh;
Đình chiến trước, sau đó tiến hành một số điều chỉnh đối với hiện trạng quân sự;
Đình chiến trước, sau đó phân định giới tuyến, mỗi bên rút về khu vực mình kiểm soát.
Đối với ba phương án trên, trong số các uỷ viên Bộ chính trị, chỉ có Nguyễn Chí Thanh tỏ rõ thái độ. Ông tán thành phương án ba, đồng thời cho rằng đường ranh giới tạm thời càng lùi xuống phía Nam càng tốt. Hồ Chí Minh cũng dường như nghiêng về phương án phân chia Nam - Bắc. Nhưng đại đa số nghiêng về phương án một và hai, chủ yếu là vì không muốn từ bỏ căn cứ ở miền Trung và miền Nam.
Tổng kết kết quả hội nghị, Hồ Chí Minh nói vấn đề đình chiến rất phức tạp, chúng ta chiến đấu từng ấy năm, đã học được việc đánh địch, nhưng chưa học được việc ngừng đánh. Đối với vấn đề đình chiến ra sao, cần phải lắng nghe ý kiến của các chuyên gia cố vấn Trung Quốc.
Ngày 21 tháng 3, Bộ chính trị Trung ương ĐLĐ Việt Nam một lần nữa tiến hành hội nghị thảo luận vấn đề hội nghị Genève, Kiều Hiểu Quang đã tham dự.
Hội nghị lần này đã xác định phương châm tổng quát của phái đoàn Việt Nam là: phải thực hiện độc lập, thống nhất và hòa bình cho Việt Nam. Do đó, quân đội nước ngoài phải rút khỏi Đông Dương. Từ thực tiễn xác định các điểm quan trọng của phương châm là: đình chiến, rút quân và tổng tuyển cử. Nếu tiến hành tổng tuyển cử, các uỷ viên Bộ Chính trị cho rằng khả năng giành thắng lợi là rất lớn. Nếu đối phương không chấp nhận tuyển cử và rút quân, thì giới tuyến đình chiến phân định càng về phía Nam các có lợi. Cụ thể, giới tuyến sẽ được xác định tại đâu sẽ dự theo tiến triển của tình hình để quyết định.
Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh chỉ định Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đảm nhiệm chức Trưởng đoàn Việt Nam tham dự hội nghị Genève.
Phạm Văn Đồng là một nhà cách mạng rất lão luyện. Sinh năm 1906, khi còn đi học, sự kiện chính quyền thực dân Pháp bức hại hai nhà trí thức yêu nước Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu đã gây ảnh hưởng rất sâu sắc đối với ông. Năm 1925, Phạm Văn Đồng lúc đó 19 tuổi đã tham gia phong trào bãi khóa của học sinh. Năm sau, ông liên lạc với được với tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo, và đến Quảng Châu học tập một thời gian ngắn. Đầu năm 1927 ông trở về Sài Gòn dạy học, đồng thời phát động thành lập hội liên hiệp học sinh sinh viên Sài Gòn. Đầu năm 1929, Phạm Văn Đồng được bầu làm uỷ viên Thanh niên cách mạng đồng chí hội phân hội Nam Kỳ, tháng 5 cùng năm đó, được bầu làm uỷ viên tổng hội toàn quốc. Song chỉ hai tháng sau ông bị bắt, bị giam tại Côn Đảo, đến tận năm 1936 mới được thả.
Năm 1940, Phạm Văn Đồng cùng Võ Nguyên Giáp bí mật sang Trung Quốc, trực tiếp chịu sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Tháng 5 năm 1940, theo sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng trở về Cao Bằng tổ chức thành lập Việt Nam Đồng minh hội. Sau Cách mạng tháng Tám, Phạm Văn Đồng giữ chức Bộ trưởng Tài chính trong chính phủ lâm thời. Tháng 5 năm 1946, ông tham gia đoàn đại biểu Việt Nam sang Pháp. Tháng 6, ông đảm nhiệm chức Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam đàm phán với Chính phủ Pháp.
Tháng 12 năm 1946 cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam bùng nổ, Phạm Văn Đồng làm đặc phái viên Trung ương ĐCS Đông Dương tại Trung bộ Việt Nam. Ngày 8/8/1948, ông được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ. Tháng 2/1951, tại đại hội thành lập ĐLĐ Việt Nam, Phạm Văn Đồng được bầu làm uỷ viên ban chấp hành trung ương. Trong cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài, Phạm Văn Đồng dần dần trở thành một trong những lãnh đạo chủ chốt của đảng, mọi ý kiến của ông đều rất được Hồ Chí Minh coi trọng. Lần này, Hồ Chí Minh muốn Phạm Văn Đồng đến Bắc Kinh trước, hỏi ý kiến trung ương ĐCS Trung Quốc.
Phạm Văn Đồng gánh vác trọng trách, trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc La Quý Ba cũng hỗ trợ ông tiến hành các công tác chuẩn bị. Thời đó, quan hệ giữa Phạm Văn Đồng và La Quý Ba vô cùng mật thiết. Khi thành lập phái đoàn Việt Nam, Phạm Văn Đồng nói với La Quý Ba: “Đồng chí Quý này, trong phái đoàn Việt Nam chúng tôi còn có một đồng chí Trung Quốc”.
La Quý Ba rất ngạc nhiên hỏi “Là ai vậy?”
Phạm Văn Đồng cho biết ông đã lựa chọn được từ lâu nhân vật này rồi. Ông nói muốn nhờ phiên dịch viên tiếng Việt của La Quý Ba là Văn Trang tham gia công tác của phái đoàn Việt Nam. Nghe thấy vậy, La Quý Ba trầm ngâm.
Trong đoàn cố vấn Trung Quốc, tài năng ngôn ngữ của Văn Trang đã được công nhận rõ ràng. Anh tên thật là Thư Thủ Huấn, sinh năm 1922, người Nga Khánh, Vân Nam, từ rất trẻ đã tham gia phong trào học sinh tiến bộ. Khi còn học tại Đại học Vân Nam, tháng 7 năm 1946, anh đã được kết nạp đảng, sau đó được bầu làm Chủ tịch Hội sinh viên Vân Nam, là một trong ba lãnh đạo của liên hội sinh viên Côn Minh thời bấy giờ. Tốt nghiệp, lo ngại nhân thân anh có thể đã bị lộ, tổ chức ĐCS Trung Quốc điều anh sang Việt Nam, xem xét tình hình thực tế để có thể tổ chức lực lượng vũ trang tại khu vực biên giới Trung - Việt.
Mùa Thu năm 1947, Văn Trang và vợ mới cưới là Diệp Tinh (tên thật là Dương Nguyệt Tinh) rời Côn Minh, đi bộ ba tháng ròng đến tỉnh Lào Cai của Việt Nam. Trong thời gian chờ đợi phân công nhiệm vụ, Văn Trang vốn đã thạo tiếng Anh và tiếng Pháp bắt đầu học tiếng Việt. Bản thân anh cũng không ngờ chỉ trong vòng ba tháng, tiếng Việt của anh đã tiến bộ rõ rệt, khiến anh có niềm tin vững chắc sẽ nhuần nhuyễn thêm một ngoại ngữ mới.
Do tình hình khu vực biên giới phức tạp, được sự giúp đỡ của ĐCS Đông Dương, Văn Trang và Diệp Tinh đã tiến về phía Nam đến tỉnh Phú Thọ. Tại đó, Văn Trang gặp Chủ nhiệm uỷ ban Hoa Kiều Việt Nam Lý Ban, và được mời tham gia công tác trong uỷ ban Hoa Kiều do Lý Ban lãnh đạo. Mùa Xuân 1948, được Lý Ban sắp xếp, Hồ Chí Minh đã gặp Văn Trang, hỏi han tình hình học tiếng Việt của anh. Lúc gặp mặt, Hồ Chí Minh chủ động bắt tay Văn Trang, thái độ hòa nhã hỏi: “Người anh em, đã biết nói tiếng Việt chưa?”
“Có biết đôi chút”.
“Vậy thì tốt, hoan nghênh anh đến Việt Nam công tác. Làm việc tại Việt Nam thì phải biết tiếng Việt” - Hồ Chí Minh nghiêm túc nói “Cần tiếp tục củng cố tình đoàn kết giữa nhân dân hai nước Việt – Trung, cùng đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Anh mới đến Việt Nam chưa lâu, cần chú ý tìm hiểu tình hình, đồng thời cũng cần nỗ lực học tiếng Việt. Anh học rất nhanh, nhưng chưa chuẩn lắm, vẫn cần cố gắng nhiều hơn”.
Được sự động viên của Hồ Chí Minh, Văn Trang càng tự giác học tiếng Việt, tiến bộ rất nhanh. Đầu năm 1950, La Quý Ba đến Việt Nam, Văn Trang lập tức trở thành phiên dịch viên chính của ông.
Đứng trước hội nghị Genève muôn vàn khó khăn như vậy, Phạm Văn Đồng và La Quý Ba đều biết rằng công tác phiên dịch Việt – Trung vô cùng quan trọng. La Quý Ba đồng ý với yêu cầu của Phạm Văn Đồng, gọi Văn Trang đến thông báo: “Hiện các đồng chí Việt Nam muốn cậu cùng họ đi Genève, chủ yếu phối hợp với công việc của Phạm Văn Đồng. Tôi đã đồng ý rồi, cậu chuẩn bị đi, đến lúc đó chúng tôi sẽ đến đón cậu”.
Văn Trang vô cùng ngạc nhiên. Vốn dĩ, khi quân đội Việt Nam phát lệnh tấn công Điện Biên Phủ, anh rất muốn có cơ hội đến nơi tiền tuyến Điện Biên Phủ, đích thân tham gia chiến đầu. Bây giờ lại điều anh đến tận châu Âu cách xa hẳn chiến trường.
Nhưng ngạc nhiên chỉ trong chốc lát, Văn Trang lập tức tiếp nhận nhiệm vụ. Tận 40 năm sau, vị giáo sư Văn Trang thông thạo tiếng Việt vẫn nói với tác giả cuốn sách này: “Nghĩ lại việc được cùng phái đoàn Việt Nam tham gia hội nghị Genève - thật như là nằm mơ”.6
Sau khi Hồ Chí Minh phê chuẩn, phái đoàn Việt Nam tham gia hội nghị Genève đã được thành lập. Phó Thủ tướng phụ trách công tác tài chính kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng được cử làm trưởng đoàn, các thành viên chủ chốt trong đoàn còn có: Bộ trưởng Thương nghiệp Phan Anh, Thứ trưởng bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng bộ Tư pháp Trần Công Tường, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Hoàng Văn Hoan.
Các nhân viên phái đoàn Việt Nam đã hết sức khẩn trương chuẩn bị cho hội nghị Genève đang đến gần. Văn Trang cũng là một trong số đó, đọc tài liệu, dịch những tài liệu chỉ định. Phía Việt Nam chuẩn bị cho anh một cuốn hộ chiếu Việt Nam, trong đó sử dụng tên tiếng Việt anh dùng tạm thời lúc đó là Võ Nam. Văn Trang trở thành một người Trung Quốc trong phái đoàn Việt Nam tham gia hội nghị Genève. Không có điều gì có thể thể hiện rõ hơn mức độ thân mật trong quan hệ Trung - Việt.
Giữa tháng 3, nắng vàng rải khắp vùng rừng núi miền Bắc Việt Nam. Trong rừng sâu, bên ngôi nhà nhỏ, Hồ Chí Minh, 64 tuổi, trong bộ quần áo vải trông rất phấn khởi. Sự vui vẻ của ông đã truyền sang tất cả mọi người ở căn cứ địa. Trước đó không lâu, những phát biểu của Hồ Chí Minh trong cuộc trả lời tờ Tin nhanh của Thụy Điển đã gây ảnh hưởng rất tốt trên quốc tế, giúp Việt Nam giành được quyền chủ động về ngoại giao. Những tin tức từ Điện Biên Phủ truyền về càng khiến Hồ Chí Minh lộ rõ niềm vui. Vài ngày nữa, ông sẽ đi Bắc Kinh, cùng thảo luận với các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc vấn đề hội nghị Genève, ngoài ra cũng bàn bạc những ảnh hưởng đối với toàn bộ cục diện Đông Dương sau khi kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ năm 1950, hầu như cứ gặp thời điểm quan trọng mang tính thay đổi đại cục, Hồ Chí Minh đều đi Bắc Kinh, cùng với ĐCS Trung Quốc hội ý đối sách. Và lần này, ông đi mà trong lòng càng yên tâm hơn.
Trước khi xuất phát, Hồ Chí Minh đã gặp phóng viên nổi tiếng Australia W. Burchett vừa từ Bắc Kinh tới. Về cuộc gặp này, Burchett đã có đoạn ghi chép hết sức sinh động:
Tiếng máy ầm ầm của một chiếc máy bay rền vang đâu đó trên cao, nó không có cơ hội nhìn thấy ngôi làng nhỏ gồm hơn mười gian nhà dựng bằng tre nứa và lợp lá cọ này. Cây cối trong làng đã bị chặt không ít, nhưng những tán cây cổ thụ cao lớn cùng nhiều cây khác trong rừng vẫn đan xen kết chặt với nhau đủ tạo thành lớp màn che phủ dầy đặc, tựa như tấm lưới tự nhiên bảo vệ ngôi làng nhỏ trong rừng. Một chiếc máy có thể lượn qua lượn lại trên bầu trời xanh cách lớp tán cây vài mét trong vòng cả giờ cũng không thể phát hiện được những vật ở bên dưới mặt đất.
Hồ Chí Minh đặt trên cái bàn tre nhỏ giữa ông với Burchett một cái mũ cũng được đan bằng nan tre. Đó là mũ Hồ Chí Minh hay đội khi đi gặp bộ đội hoặc nông dân.
Burchett hỏi “Tại sao truyền hình Pháp ra rả suốt về Điện Biện Phủ vậy, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”
“Đây chính là Điện Biên Phủ” - Hồ Chí Minh không nhanh cũng không chậm trả lời bằng tiếng Anh, vừa nói vừa lật chiếc mũ trên bàn. “Ở đây đều là các mỏm núi” - vừa nói vừa dùng ngón tay gầy guộc đưa theo vành mũ minh họa nói “và cũng là nơi chúng tôi đang đóng quân”.
Nói tới đây, Hồ Chí Minh chỉ vào trong lòng mũ. “Phía dưới là thung lũng Điện Biên Phủ, người Pháp ở đó, họ không thể ra được. Có thể sẽ cần một thời gian tương đối dài, nhưng họ sẽ không thể ra được”. Đó chính là niềm tin của Hồ Chí Minh. Từ ngày 20/11/1953 khi quân Pháp đổ bộ xuống Điện Biên Phủ, quân đội Việt Nam đã chớp ngay lấy cơ hội ngàn vàng đó, điều động tất các các sư đoàn cơ động chiến lược lập tức Tây tiến, bao vây hơn một vạn quân Pháp trong vòng 4 tháng, đồng thời vận chuyển trọng pháo do Trung Quốc viện trợ lên Điện Biên Phủ. Ngoài ra, được Trung Quốc trang bị, hai tiểu đoàn pháo cao xạ 37 ly cũng đã được đưa đến Điện Biên Phủ. Như vậy, lính Pháp có lắp cánh cũng không thể bay thoát.
Ngày 23/3/1954, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng dẫn theo hai tùy tùng đến Bằng Tường, Quảng Tây, sau đó lên xe lửa đi Bắc Kinh.
1 Kim Xung Cập (chủ biên), Truyện Chu Ân Lai, Trung ương Văn hiến XBX, 1998, tr. 154-155.
2 Cuộc đời Thủ tướng Chu Ân Lai, Nhân dân XBX, 1997, tr. 74-75.
3 Trích “Điện báo cử Kiều Quán Hoa, Hoàng Hoa về Bắc Kinh tham gia công tác chuẩn bị hội nghị Genève”, “Các văn kiện của Mao Trạch Đông kể từ khi lập quốc” – Trung ương Văn hiến XBX, 1990.
4 Dương Tú Sinh, người Trường Sa - Hồ Nam, là anh họ Dương Khai Tuệ, vợ trước của Mao Trạch Đông, TG.
5 Tuyển tập các bức thư của Mao Trạch Đông, Nhân dân XBX, 1983.
6 TG phỏng vấn Văn Trang tại Bắc Kinh tháng 2/1990; tham khảo phát biểu của Văn Trang được Viện nghiên cứu các vấn đề quốc tế Vân Nam biên tập xuất bản “Vấn đề quốc tế’ (1991) và “Bên cạnh Hồ Chí Minh” (1992).
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:37:03 GMT 9
CHƯƠNG 5 Dốc sức lên kế hoạch
Trạm công tác của bộ Ngoại giao Trung Quốc được thiết lập ở châu Âu trước đó nay phải chuyển đến Genève. Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh bay đi bay lại Moskva để cùng bàn bạc nghiên cứu kỹ các phương án tại hội nghị Genève. La Quý Ba lưu lại Việt Bắc, giúp Hồ Chí Minh vạch kế hoạch. Trận chiến Điện Biên Phủ đang ác liệt, Bành Đức Hoài ý chí như gang thép, vững chắc như núi Thái Sơn.
Đầu tháng 3 năm 1954, Bộ Ngoại giao phái người đầu tiên đi Genève – Bí thư thứ nhất Vụ báo chí Bộ Ngoại giao Tôn Phương. Ông đã công tác 3 năm ở Đông Âu, nhiệm vụ là thu thập tổng hợp tình hình các nước châu Âu. Ở vào thời kỳ đầu của nước CHND Trung Hoa, sứ mệnh của Tôn Phương là hết sức đặc biệt.
Tôn Phương cho rằng sứ mệnh đầu tiên của ông ở nước ngoài có quan hệ với Kiều Quán Hoa. Không lâu sau khi thành lập nước, người phụ trách Vụ báo chí quốc tế Bộ Ngoại giao Kiều Quán Hoa hỏi Chu Ân Lai: “Hiểu biết của chúng ta về thế giới bên ngoài còn quá ít, quá cũ”. Chu Ân Lai đồng ý với suy nghĩ của Kiều Quán Hoa, quyết định để Bộ Ngoại giao cử người chuyên phụ trách công việc này. Vì vậy, Tôn Phương nhận lệnh đến thủ đô Praha của Tiệp Khắc thu thập các thông tin về Trung Quốc trên báo chí phương Tây, cũng như các tin tức báo cáo đáng để lãnh đạo Trung Quốc quan tâm, kịp thời báo về Bắc Kinh.
Tháng Tư/1951, Tôn Phương đến Praha, đăng ký mua báo chí, đơn thương độc mã bắt đầu công việc.
Tôn Phương sinh năm 1918 trong một gia đình giàu có ở Thiên Tân, tốt nghiệp trung học Nam Khai, sau đó theo anh họ tham gia phong trào kháng Nhật. Sau khi kháng chiến chống Nhật bùng nổ, ông vào học tại [đại học] Liên đại Tây Nam, năm 1938 vào đảng. Năm 1940, ông vào căn cứ địa kháng Nhật Hồ Bắc, tham gia công tác bảo vệ và tình báo. Năm 1945 sau khi kháng chiến thành công, Tôn Phương nhận lệnh đến Bắc Kinh tham gia Cục Điều động quân đội, với danh nghĩa là thư ký của Diệp Kiếm Anh. Kết thúc công việc ở Cục này, ông cùng Lý Khắc Nông về Diên An, sau đó lại chuyển tới Hà Bắc. Tháng 2/1948, ông kết hôn với con gái Lý Khắc Nông Lý Băng. Sau ngày lập quốc, Tôn Phương là một trong những cán bộ được đưa về Bộ Ngoại giao.
Trong số các quốc gia Đông Âu lúc bấy giờ, môi trường chính trị của Tiệp Khắc tương đối dễ dàng, không bị hạn chế trong việc đặt mua báo chí phương Tây, báo chuyển đến cũng kịp thời, các báo của Anh và Pháp có thể cách một ngày là nhận được. Tôn Phương rất giỏi tiếng Anh, ông đọc các báo và tạp chí, chọn ra các nội dung có liên quan tới Trung Quốc, cũng như các báo cáo, bình luận liên quan các sự kiện lớn của thế giới, rồi dịch lại và cố gắng gửi về Bộ Ngoại giao trong thời gian nhanh nhất. Báo chí các thứ tiếng khác thì mời những cộng tác viên tại chỗ hợp tác.
Những báo cáo Tôn Phương gửi về lập tức được các lãnh đạo Bộ Ngoại giao quan tâm. Vụ trưởng vụ báo chí Bộ Ngoại giao (ban đầu gọi là vụ tình báo) nhận xét ông làm việc rất tốt. Được cấp trên phê chuẩn, năm đó, Tôn Phương được phái đến Đông Berlin, tại đây việc thu thập báo chí lại càng dễ dàng hơn. Tôn Phương được bổ nhiệm chức bí thư thứ nhất, công việc hàng ngày là báo cáo với đại sứ Trung Quốc tại CHDC Đức Cơ Bằng Phi. Lúc này, trong nước đã tổ chức các nhân viên trợ giúp cho Tôn Phương, lượng công việc của nhóm phiên dịch tài liệu nước ngoài ngày càng lớn. Từ đây, người phụ trách Tân Hoa xã cũng đã có sáng kiến, các tài liệu dịch của nhóm Tôn Phương gửi về có lúc đề là “tin tức số này”, được đăng tải trên các tài liệu nội bộ.
Sau khi Tôn Phương đến Genève không lâu, Ngô Văn Đào cũng từ trong nước sang, lấy danh nghĩa là phóng viên Nhân dân Nhật báo để triển khai công việc.
Ngô Văn Đào là nhân vật phụ trách báo chí đầu tiên được ĐCS Trung Quốc phái ra nước ngoài công tác. Ông tốt nghiệp Đại học Bắc Kinh khoa ngoại văn năm 1937, cùng năm đó đến Diên An, công tác tại Ban tuyên giáo, sau đó chuyển sang Nhật báo Giải phóng. Từ năm 1941, ông giữ chức Phó Tổng giám đốc Tân Hoa xã trong một thời gian dài. Kháng chiến chống Nhật thành công, ông trở thành phụ trách tổng phân xã Đông Bắc của Tân Hoa xã.
Thời kỳ đầu chiến tranh giải phóng, trung ương ĐCS Trung Quốc đã tập trung cho công tác chuẩn bị thiết lập chính quyền toàn quốc sau này. Thái Sướng sau khi tham gia hội nghị phụ nữ quốc tế năm 1947, trở về đã đề nghị trung ương đảng nên đặt cơ cấu ra nước ngoài nhằm tăng cường các mối quan hệ quốc tế. Đề nghị này được tiếp nhận. Năm 1947, quân Cộng sản và quân Quốc dân đảng giao chiến ở Đông Bắc, Ngô Văn Đào được lệnh cùng với đoàn đại biểu do Trần Gia Khang dẫn đầu xuất ngoại, đến Praha thiết lập phân xã Tân Hoa xã. Đây là phân xã nước ngoài đầu tiên của Tân Hoa xã. Ngô Văn Đào giữ chức trưởng phân xã.
Năm 1953, Ngô Văn Đào nhận lệnh về nước, giữ chức Phó Giám đốc Nhà xuất bản Ngoại văn, hỗ trợ cho Giám đốc Sư Triết điều hành công việc. Sau khi Sư Triết tập trung vào việc chuẩn bị cho hội nghị Genève, Ngô Văn Đào lại bị điều động, ông được cho là một người làm báo lão luyện, có nhiều kinh nghiệm trong công tác quốc tế, vì vậy được cử đi Genève sớm.
Đến Genève gặp Tôn Phương, hai người đặt mua khối lượng lớn báo chí, còn thuê ba chiếc máy chuyên dụng thu tin quốc tế, ngày đêm không ngừng thu nhận tin tức.
Ngày 9 tháng 3, đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô Trương Văn Thiên gặp Molotov, thông báo ý kiến của ba nước Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam đều đồng ý tham gia hội nghị Genève. Molotov cho rằng, ba bên cùng nhất trí ý kiến là một việc tốt, ông sẽ tiếp tục nghiên cứu thêm và biểu thị hoan nghênh 3 đoàn đại biểu Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam đến Moskva vào đầu tháng Tư, và cho rằng tốt nhất Chu Ân Lai nên đến Moskva trước.
Molotov cho Trương Văn Thiên biết phía Liên Xô đã bắt đầu công tác chuẩn bị cho hội nghị. Thứ trưởng Ngoại giao Gromyko cùng Vụ trưởng vụ Đông Nam Á [K. V.] Novikov cũng đã tham gia. Cả Liên Xô và Trung Quốc đều cần nhất trí cao độ trong việc chuẩn bị cho hội nghị. Lúc đó, phương châm của Liên Xô là dẫn dắt Trung Quốc vào xã hội quốc tế, để Liên Xô không bị rơi vào thế “độc quân tác chiến” trên võ đài chính trị thế giới. Từ tháng 3, đại sứ Liên Xô tại Anh và Pháp liên tục tiến hành các “chiến dịch ngoại giao”, ngầm để cho Anh và Pháp hiểu rằng việc đồng ý đàm phán với Trung Quốc tại Genève sẽ thu được lợi ích.
Khi Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam tiến hành chuẩn bị cho hội nghị, QĐND Việt Nam dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp đã mở đợt tấn công lớn vào quân Pháp đang bị bao vây ở Điện Biên Phủ. Từ khi mở màn ngày 13 tháng 3, cuộc tấn công đã tiến triển thuận lợi. Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc do Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh đứng đầu cũng đã hỗ trợ Tổng quân uỷ quân đội Việt Nam vạch kế hoạch chi tiết cho chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng thời đưa ra những ý kiến chỉ huy rõ ràng tại chiến trường. Trung Quốc đã cung cấp cho quân đội Việt Nam tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ đầy đủ đạn dược, ngoài ra, 1/3 nhu cầu lương thực của tiền tuyến Điện Biên Phủ là được vận chuyển từ Vân Nam sang.
Tại căn cứ địa Việt Bắc, đoàn cố vấn chính trị Trung Quốc do La Quý Ba dẫn đầu đã trợ giúp Trung ương ĐLĐ Việt Nam do Hồ Chí Minh dẫn đầu vạch ra các chính sách, phương châm. Cố vấn kinh tế của Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam điều chỉnh các hoạt động kinh tế - tiền tệ của căn cứ địa. Từ đầu tháng 3, La Quý Ba và Kiều Hiểu Quang thường xuyên cùng với Phạm Văn Đồng bàn bạc việc tham gia hội nghị Genève.
La Quý Ba là thế hệ nhà ngoại giao đầu tiên của nước Trung Quốc mới. Ông sinh năm 1907 tại huyện Nam Khang, tỉnh Giang Tây, tháng Tư năm 1926 tham gia cách mạng. Sau khi đại cách mạng thất bại, ông đã tổ chức bạo động vũ trang nông dân tại quê nhà, sau đó tham gia hồng quân công nông, còn rất trẻ đã là quân đoàn trưởng rồi chính uỷ quân đoàn. Ông đã trải qua cuộc trường chinh, từng giữ nhiệm vụ cảnh vệ cho hội nghị Tuân Nghĩa.
Trong kháng chiến chống Nhật, ông có thời gian dài tham gia đấu tranh tại căn cứ địa Tây bắc Sơn Tây, trong chiến tranh giải phóng giữ chức Tư lệnh kiêm chính uỷ quân khu miền Trung Sơn Tây. Sau thành lập nước, La Quý Ba giữ chức Chủ nhiệm văn phòng quân uỷ trung ương. Tháng 1 năm 1950, Hồ Chí Minh bí mật thăm Trung Quốc và đề nghị trung ương ĐCS Trung Quốc giúp đỡ. Lưu Thiếu Kỳ cử La Quý Ba làm đại diện liên lạc của trung ương đảng bí mật đi Việt Nam. Căn cứ vào các báo cáo của La Quý Ba sau khi sang Việt Nam, Trần Canh cũng bí mật sang Việt Nam, giúp đỡ phía Việt Nam tiến hành chiến dịch biên giới vô cùng quan trọng.
Sau chiến dịch biên giới, Hồ Chí Minh, lúc này đã có quan hệ hữu nghị với La Quý Ba, đã gửi điện cho trung ương ĐCS Trung Quốc, yêu cầu để La Quý Ba lưu lại Việt Nam, tiếp tục làm cố vấn cho trung ương ĐLĐ Việt Nam, đồng thời đề nghị Mao Trạch Đông phê chuẩn điều động vợ La Quý Ba là Lý Hàm Trân sang Việt Nam công tác. Mao Trạch Đông đã đồng ý và phê chuẩn Lý Hàm Trân sang Việt Nam tham gia đoàn công tác cố vấn chính trị.
Trong cả thời gian kháng chiến chống Pháp, La Quý Ba đã làm việc cùng Hồ Chí Minh, vì vậy, khi Chu Ân Lai bắt tay chuẩn bị cho hội nghị Genève, La Quý Ba là người đương nhiên được đưa vào phái đoàn Trung Quốc tham gia hội nghị. Ngày 22/3/1954, Trung ương ĐCS Trung Quốc gửi điện đến Cục Tây Nam để chuyển cho La Quý Ba: “Đồng chí Đinh (tức Hồ Chí Minh) sẽ đến Bắc Kinh vào khoảng ngày 27 tháng 3 để cùng với chúng ta nghiên cứu việc chuẩn bị cho hội nghị Genève. Trung ương quyết định đồng chí cùng tham gia công việc này. Đề nghị trở về Bắc Kinh trước ngày 27 tháng 3”. Vì lý do này nên La Quý Ba không được đồng hành cùng Hồ Chí Minh. Hơn một tuần sau, vào ngày 31 tháng 3, trung ương lại gửi điện cho La Quý Ba: “Trung ương quyết định đồng chí là thành viên phái đoàn dự hội nghị Genève. Nếu không có gì trở ngại đối với việc điều trị của đồng chí, hy vọng đồng chí có thể sớm về nước, để làm tốt công tác chuẩn bị”.
Nhằm vào đúng ngày 28 tháng 3 La Quý Ba bị ốm, suốt ngày sốt cao, khiến các bác sĩ cả Việt Nam và Trung Quốc ở căn cứ Việt Bắc hết sức lo lắng. Đến ngày 3 tháng Tư bệnh tình có thuyên giảm, La Quý Ba báo cáo với Bắc Kinh rằng nếu không có diễn biến nào khác, ông chuẩn bị trở về Bắc Kinh trước ngày 10 tháng Tư.
Lúc này, Hồ Chí Minh đã tới Bắc Kinh. Ngày 1 tháng Tư, Chu Ân Lai, Vương Gia Tường, Sư Triết và Hồ Chí Minh cùng trên một máy bay đi Moskva. Mục đích của chuyến đi là nghe ý kiến của ban lãnh đạo Liên Xô về hội nghị Genève và phối hợp lập trường.
Đúng ngày xuất phát, Chu Ân Lai gửi điện cho Tổng biên tập Báo Nhân Đạo của Pháp chúc mừng kỷ niệm 50 năm thành lập báo. Bức điện viết “Nhân dân Trung Quốc vốn đang nỗ lực kiến thiết hòa bình sẽ kiến quyết phản đối chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Chúng tôi nhất quán chủ trương dùng phương thức hòa bình để giải quyết mọi tranh chấp quốc tế, đồng thời chủ trương nhân dân các nước dưới các chế độ xã hội khác nhau, trong đó có nhân dân Trung Quốc và nhân dân Pháp, đều cần cùng tồn tại hòa bình”. Đây chính là lời kêu gọi của Chu Ân Lai với nhân dân Pháp.
Khi đến Moskva, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh tham gia hội nghị bàn tròn do Tổng bí thư trung ương ĐCS Liên Xô [Nikita] Khrushev chủ trì, các lãnh đạo khác của Liên Xô như Malenkov, Molotov, [Mikhail] Suslov… cũng tham dự hội nghị. Về phía Trung Quốc còn có đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô Trương Văn Thiên.
Trước tiên, Chu Ân Lai trình bày tình hình chuẩn bị của Trung Quốc cho hội nghị Genève. Ông nói: “Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam tham dự hội nghị quốc tế này là một sự kiện rất đặc biệt, là một thắng lợi của chúng ta. Nếu chúng ta lợi dụng rất tốt cơ hội tham dự hội nghị lần này, nêu rõ những nguyên tắc lập trường đối với các vấn đề quốc tế, đồng thời có sự giải thích và làm rõ một số vấn đề liên quan, hoặc có thể giải quyết một số vấn đề, thì sẽ có những thu hoạch còn lớn hơn”.
Chu Ân Lai nói với Khrushev rằng do hai phe lớn trên thế giới hiện nay đều có ý muốn ngừng đối kháng vũ trang, vì vậy việc giải quyết một số vấn đề, như vấn đề Đông Dương, là có khả năng, cần phải nỗ lực đấu tranh.
Chu Ân Lai nêu rõ: “Đây là lần đầu tiên Trung Quốc tham gia một hội nghị như vậy, nên thiếu kiến thức và kinh nghiệm đấu tranh quốc tế, do đó Trung Quốc và Liên Xô cần giữ liên hệ chặt chẽ, thường xuyên trao đổi ý kiến, thông tin tình báo, hiệp đồng hành động”.
Khrushev trình bày quan điểm về hội nghị Genève. Ông nói: “Đây tuy là một hội nghị quốc tế có ý nghĩa chính trị, song không nên đặt quá nhiều hy vọng vào hội nghị này, cũng không nên kỳ vọng nó sẽ giải quyết được nhiều vấn đề có khả năng hội nghị này cơ bản không giải quyết được vấn đề gì, cũng rất khó dự báo trước được kết cục”. Ý kiến này của Khrushev rõ ràng là trái ngược với suy nghĩ của Chu Ân Lai.
Tuy nhiên, khi Khrushev chuyển chủ đề, ý kiến lại phụ họa với Chu Ân Lai. Ông nói: “Chúng ta lại cân nhắc từ góc độ khác. Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam cùng tham gia hội nghị, đúng như đồng chí Chu Ân Lai đã nói, rõ ràng không phải là một việc bình thường, mà là một thắng lợi. Chúng lợi dụng cơ hội của hội nghị quốc tế lần này, nêu rõ nguyên tắc lập trường cũng như phương châm chính sách đối với tất cả các vấn đề, làm rõ một số vấn đề liên quan, đó là một sự thu hoạch. Nếu công việc tiến triển thuận lợi, có thể nêu rõ và giải quyết một số vấn đề, như vậy đã là những thu hoạch có ích rồi. Không thể ôm hy vọng quá lớn về hội nghị, song cũng nên tranh thủ đạt được kết quả nào đó. Điều này là có thể được, chứ không phải không tưởng, chủ nghĩa đế quốc cũng đang gặp khó khăn”.
Chu Ân Lai nói, có một điểm nhỏ đáng chú ý khi Trung Quốc tham gia hội nghị Genève, đó là những vấn đề mà hội nghị sẽ giải quyết là vấn đề Triều Tiên và Đông Dương, tuy có mối quan hệ lợi hại thiết thân với Trung Quốc, nhưng lại không phải là vấn đề của chính Trung Quốc, do đó cần hết sức thận trọng. Việc tổ chức hội nghị là kết quả của sự thương lượng giữa Liên Xô và ba nước lớn Tây Âu, về bối cảnh của hội nghị, Trung Quốc không nắm rõ lắm, hy vọng Bộ Ngoại giao Liên Xô giới thiệu rõ hơn với Trung Quốc.
Trước đề nghị của Chu Ân Lai, Molotov đã giới thiệu tình hình chuẩn bị cho hội nghị Genève của Liên Xô. Ông nói: “Trong đấu tranh quốc tế cũng như các trường hợp ngoại giao, rất khó dự liệu được vấn đề gì, đặc biệt là không thể sắp đặt mọi thứ theo kế hoạch và phương châm mà mình đã định. Vì vậy, đối với bất kỳ vấn đề gì, đều không nên cho rằng sẽ phát triển theo hướng mình suy nghĩ hoặc mong muốn, cho dù với một vấn đề nào đó, chúng đã đã có trước suy tính, giả thiết, yêu cầu hoặc nguyện vọng. Vì vậy, trước mỗi việc chúng ta chỉ nên có một mục đích chung muốn đạt đến. Tất nhiên, chúng ta cũng cần phải có lập trường, thái độ và nguyên tắc rõ ràng của riêng mình, nhưng đồng thời cũng cần phải có tính linh hoạt cao, có khả năng dự kiến và cơ động. Có như vậy, chúng ta mới có thể làm được ở mức tốt nhất, mới đạt được mục đích mong muốn. Tóm lại, cần phải vừa đi vừa nghe ngóng, tùy cơ ứng biến, tìm được đối sách, linh hoạt ứng dụng”.1
Chu Ân Lai ở lại Moskva 3 ngày rồi trở về Bắc Kinh, báo cáo với Mao Trạch Đông tình hình chuẩn bị của hai bên Trung Quốc và Liên Xô đối với hội nghị Genève. Mao Trạch Đông rất hài lòng với báo cáo của Chu Ân Lai, đồng thời hoàn toàn có niềm tin với hội nghị sắp tới. Ông và Chu Ân Lai đều hy vọng trong thời gian diễn ra hội nghị, hoặc tốt nhất là trước khi khai mạc hội nghị, quân đội Việt Nam có thể đánh thắng tại Điện Biên Phủ. Nếu quả đúng như vậy, sẽ giúp phe phương Đông chiếm được vị trí rất có lợi tại bàn đàm phán. Mao Trạch Đông đồng ý để Chu Ân Lai một lần nữa đi Moskva tiếp tục bạn bạc với lãnh đạo Liên Xô.
Ngày 6 tháng Tư, Chu Ân Lai một lần nữa đi Moskva, cùng với các nhà lãnh đạo Liên Xô đi sâu xác định phương châm, đối sách của hai bên cũng như các hoạt động phối hợp về ngoại giao.
Từ khi Stalin qua đời tháng 3 năm 1953 đến năm 1956 là thời gian quan hệ mật thiết nhất giữa hai ĐCS Trung Quốc và Liên Xô. Trung Quốc hy vọng với sự giúp đỡ của Liên Xô sẽ đẩy nhanh xây dựng kinh tế, từng bước và tiến tới tích cực tham gia các công việc quốc tế; Các nhà lãnh đạo mới của Trung ương ĐCS Liên Xô thì hết sức hy vọng giành được sự ủng hộ của Trung Quốc, nhằm củng cố địa vị lãnh đạo của mình ở trong nước cũng trong phe phương Đông.
Ngày 7 tháng Tư, Chu Ân Lai và Molotov tiến hành hội đàm, hai bên nhất trí để phía Liên Xô soạn thảo phương án cụ thể cho các cuộc đàm phán ở Genève. Molotov giới thiệu công tác chuẩn bị của phía Liên Xô, cho biết phái đoàn Liên Xô sẽ bao gồm các nhân tài trong nhiều lĩnh vực, và hy vọng Trung Quốc hết sức chú ý cho điểm này.
Chu Ân Lai nói rõ với Molotov rằng Trung Quốc hết sức coi trọng hội nghị này, tranh thủ lợi dụng hội nghị để mở ra cục diện ngoại giao, vì vậy cũng sẽ tổ chức một phái đoàn tương đối lớn hội tụ rất nhiều nhân tài.
Ngày 9 tháng Tư, Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên, Vương Gia Tường và Hồ Chí Minh cùng với Malenkov, Khrushev, Molotov và Suslov tiến hành thảo luận về vấn đề Việt Nam. Trong hội đàm, phía Liên Xô bày tỏ tán thành “Ý kiến về phương châm chiến lược đối với Đông Dương” do Trung Quốc và Việt Nam đưa ra.
Chu Ân Lai nói trong vấn đề Đông Dương cần có sự đề phòng trước, nếu đề xuất việc cần phải có giới tuyến đình chiến, giới tuyến này xác định ở vĩ độ bao nhiêu sẽ có lợi cho phía Việt Nam lại vừa để đối phương có thể chấp nhận, cần nghiên cứu hết sức thận trọng. Chúng tôi cho rằng giới tuyến này càng nằm sâu về phía Nam càng tốt. Vĩ tuyến 16 độ Bắc có thể được coi là một trong những phương án để xem xét.
Phía Liên Xô cho biết về vấn đề này sẽ tuyệt đối tôn trọng ý kiến của phía Trung Quốc và Việt Nam.
Do cuộc thảo luận ban ngày đạt được nhất trí cao, nên buổi dạ tiệc tối hôm đó không khí rất náo nhiệt. Khrushev, Malenkov, Molotov và nhiều nhà lãnh đạo khác của Liên Xô đều không ngừng chúc rượu Chu Ân Lai. Chu Ân Lai thấy thịnh tình khó từ chối, nên hầu như không khước từ một ai.
Tửu lượng của Chu Ân Lai tương đối khá, tửu lượng của các nhà lãnh đạo Liên Xô cũng hết sức đáng khâm phục, kết quả là Chu Ân Lai uống quá nhiều, vừa kết thúc chiêu đãi ra khỏi cửa đã bị ói ra hết. Đây là sự việc rất hiếm gặp trong cuộc đời của Chu Ân Lai.
Molotov và đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô Trương Văn Thiên cùng đưa Chu Ân Lai về nơi nghỉ là nhà số 8 phố Ostrovskaia. Molotov luôn miệng nói “Đây quả là lỗi của chúng tôi, không chăm sóc đồng chí được tốt, chúng tôi rất ái ngại. Đây đúng là một bài học kinh nghiệm đối với chúng tôi, mọi trách nhiệm đều thuộc về chúng tôi hết”.
Đầu óc Chu Ân Lai vẫn vô cùng tỉnh táo, liên tục tỏ lời xin lỗi với Molotov.2
Sáng sớm hôm sau, Chu Ân Lai tỉnh rượu, lòng vô cùng lo lắng vì sự việc “quá chén” tối hôm trước. Ông vốn dự định ngày 10 tháng Tư lên máy bay về Bắc Kinh, nhưng do sức khỏe không tốt nên đành lùi lại một ngày. Lần say rượu này đã nhắc nhở Chu Ân Lai cẩn thận hơn. Trong tiến trình hội nghị Genève sau đó, ông đã tham gia biết bao nhiêu yến tiệc, song không bao giờ lặp lại sơ suất nào như vậy.
Ngày 12 tháng Tư, Chu Ân Lai, Vương Gia Tường và Hồ Chí Minh lên máy bay về Bắc Kinh. Những cuộc thương lượng liên tục trong đầu tháng Tư đã giúp Trung Quốc và Liên Xô hiểu rõ về nhau hơn, thống nhất được quan điểm trong các vấn đề. Thư ký của Trương Văn Thiên lúc đó là Lý Hối Xuyên nhớ lại thời kỳ này nói: “Đối với các phương án cho hội nghị Genève, giữa Trung Quốc và Liên Xô có một điểm không thống nhất ý kiến, chủ yếu là do lúc đầu Liên Xô dự định ủng hộ Đông Dương trở thành “khu vực trung lập vĩnh viễn”, các nước lớn sẽ bảo đảm điều này. Nhưng Chu Ân Lai không đồng ý, cho rằng làm gì có sự trung lập vĩnh viễn, không thể có chuyện đó. Qua nỗ lực cố gắng, Trung Quốc đã khiến Liên Xô từ bỏ chủ trương này. Trước ngày khai mạc hội nghị, tôi nghe Chu Ân Lai nói dự định khi hội nghị đề cập vấn đề này, chúng ta sẽ loại bỏ hai từ “vĩnh viễn”.3
Lần này từ Moskva trở về Bắc Kinh, tính đến tính chất phức tạp của hội nghị Genève, Chu Ân Lai lại có suy nghĩ khác về việc La Quý Ba có tham gia hội nghị hay không. Giữa tháng Tư, ông gửi điện cho La Quý Ba nói hãy cứ yên tâm dưỡng bệnh, cố gắng tiếp tục công tác tại Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam đánh thắng trận Điện Biên Phủ, để tạo thế hỗ trợ cho đàm phán ở Genève. Ngày 13 tháng Tư, Chu Ân Lai điện thoại cho Lý Khắc Nông, lần cuối cùng thảo luận vấn đề thành phần phái đoàn dự hội nghị. Chu Ân Lai thông báo trung ương đã quyết định để La Quý Ba không tham dự hội nghị nữa.
Quả nhiên, La Quý Ba lưu lại căn cứ địa của Việt Nam đã phát huy tác dụng rất lớn, góp phần thúc đẩy hội nghị Genève từ một phương diện khác. Ngày 2/11/1995, La Quý Ba do bệnh nặng đã qua đời ở Bắc Kinh, thọ 88 tuổi. Trước khi quả tim ngừng đập, với nghị lực kiên cường, ông đã hoàn thành hồi ký dài, phần nội dung có liên quan hội nghị Genève là một chương quan trọng trong cuốn sách này.
Theo đề nghị của Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông đã phê chuẩn thành phần phái đoàn Trung Quốc tham dự hội nghị Genève.
Trưởng đoàn: Chu Ân Lai (Thủ tướng Quốc vụ viện kiêm Bộ trưởng Ngoại giao).
Đại biểu:
Trương Văn Thiên (Thứ trưởng Ngoại giao, đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô)
Vương Gia Tường (Thứ trưởng Ngoại giao, Trưởng Ban liên lạc trung ương ĐCS Trung Quốc)
Lý Khắc Nông (Thứ trưởng Ngoại giao)
Bí thư trưởng: Vương Bỉnh Nam (Chủ nhiệm Văn phòng Bộ Ngoại giao)
Cố vấn (10 người):
Lôi Nhiệm Dân (Thứ trưởng Bộ Ngoại thương)
Sư Triết (Cục trưởng Cục Biên dịch Trung ương)
Kiều Quán Hoa (Phó chủ nhiệm Uỷ ban chính sách Bộ Ngoại giao)
Hoàng Hoa (Giám đốc Sở ngoại vụ Thượng Hải)
Trần Gia Khang (Vụ trưởng Vụ châu Á Bộ Ngoại giao)
Hà Bách Niên (Vụ trưởng Vụ Mỹ-Australia, Bộ Ngoại giao)
Hoạn Hương (Vụ trưởng Vụ Âu – Phi Bộ Ngoại giao)
Long Bành (Vụ trưởng Vụ báo chí Bộ Ngoại giao)
Lôi Anh Phu (Phó trưởng Ban tác chiến Bộ Tổng tham mưu)
Vương Trác Như (Vụ trưởng Vụ lễ tân Bộ Ngoại giao).
Ngày 14/4, Bí thư trưởng chính phủ nhân dân trung ương Lâm Bác Lương thông báo cho Chu Ân Lai rằng Chủ tịch Mao Trạch Đông đã có quyết định cuối cùng, cử ông làm trưởng đoàn đại biểu CHND Trung Hoa tham gia hội nghị Genève; Trương Văn Thiên, Vương Gia Tường và Lý Khắc Nông là đại biểu, và chỉ thị, đợi đến khi hội đồng chính phủ nhân dân trung ương tiến hành họp mới chính thức giao nhiệm vụ và tiến hành các thủ tục quyết định. Qua đó có thể thấy Mao Trạch Đông đã cân nhắc rất kỹ việc Trung Quốc tham gia hội nghị.
Cùng ngày, sau khi được Mao Trạch Đông phê chuẩn, uỷ viên Bộ Chính trị trung ương, đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô Trương Văn Thiên được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Ngoại giao (kiêm nhiệm chức đại sứ). Vì vậy, việc chuẩn bị cho hội nghị Genève sắp khai mạc là việc quan trọng đầu tiên của Trương Văn Thiên trên cương vị Thứ trưởng Ngoại giao.
Trong tháng 3 và tháng Tư, Chu Ân Lai đã đích thân thụ ý, chỉnh sửa và thẩm định các dự án của hội nghị Genève: “Ý kiến sơ bộ về phương án hòa bình thống nhất Triều Tiên”, “Ý kiến sơ bộ về giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương”, cùng các bài phát biểu khi tới sân bay Genève, phát biểu về vấn đề Triều Tiên và Đông Dương tại hội nghị.
Ban đầu, Bộ Ngoại giao đã chuẩn bị tài liệu viết cho Chu Ân Lai về 8 chuyên đề, là: Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản, Đài Loan, căn cứ quân sự của Mỹ, cấm vận, quyền đại biểu tại LHQ, cắt giảm quân sự và năng lượng nguyên tử.
Chu Ân Lai lại bổ sung thêm 7 chuyên đề yêu cầu Bộ Ngoại giao chuẩn bị, là: ngoại thương Trung Quốc, quan hệ văn hóa đối ngoại của Trung Quốc, quan hệ Trung Quốc – Liên Xô, quan hệ giữa Trung Quốc với các quốc gia Đông Nam Á, quan hệ giữa Trung Quốc với Anh, Pháp và các nước đàm phán thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ Trung - Mỹ và vấn đề xây dựng đất nước.
Ngày 12 tháng Tư, khi Chu Ân Lai trở về Bắc Kinh cũng đúng là thời điểm chiến trường Điện Biên Phủ gay go ác liệt nhất. Quân Pháp bị vây chặt trong thung lũng Điện Biên Phủ đang điên cuồng tập trung lực lượng tinh nhuệ quyết đấu với quân Việt Nam hòng cứu vãn tình thế thất bại. Trong một trận giao chiến ác liệt, trung đoàn chủ lực 102 của sư đoàn chủ lực 308 bị tổn thất nặng nề ở vùng núi phía đông Điện Biên Phủ.
Tin tức của cuộc huyết chiến ở phía Đông Điện Biên Phủ lập tức được báo cáo về Bắc Kinh và chuyển đến cho lãnh đạo quân uỷ trung ương và Bộ trưởng Quốc phòng Bành Đức Hoài. Sự việc nói trên khiến cho ban chỉ huy tiền tuyến của quân đội Việt Nam có phần hơi hoài nghi về lực lượng của mình, và đã gửi điện cho phía Trung Quốc, hy vọng Trung Quốc cử các chỉ huy các cấp đến Điện Biên Phủ, tham gia chỉ huy tác chiến tại đây. Bức điện còn nêu rõ hy vọng quân giải phóng Trung Quốc phái bộ đội tinh nhuệ đến tham gia chiến đấu tại Điện Biên Phủ.
Phía Trung Quốc đã nhiều lần nói rõ với Việt Nam rằng Trung Quốc hoàn toàn ủng hộ chiến dịch Điện Biên Phủ, cung cấp cho Việt Nam mọi hỗ trợ có thể, nhưng có một điều là không thể trực tiếp xuất binh tham chiến tại Điện Biên Phủ. Thế nhưng, giờ đây phía Việt Nam một lần nữa đề cập đến việc muốn Trung Quốc xuất binh, Bành Đức Hoài đã trả lời ra sao?
Trong những ngày xuân trong sáng này, thư ký quân sự Hứa Chi Thiện, người đã ở bên cạnh Bành Đức Hoài suốt nhiều năm và theo Bành Đức Hoài sang Triều Tiên từ khi cuộc chiến tranh Triều Tiên mới bùng phát, lại chuẩn bị rời xa Bành Đức Hoài để đi học tập chuyên tu tại Học viện quân sự. Đúng lúc Hứa Chi Thiện chuẩn bị đến từ biệt Bành Đức Hoài, bức điện mà Tổng quân uỷ Việt Nam gửi cho Trung Quốc đề nghị tiếp tục chi viện chiến dịch Điện Biên Phủ đã nằm trong tay Hứa Chi Thiện và do ông cầm đến để Bành Đức Hoài xem xét.
Bước vào Vĩnh Phúc đường trong Trung Nam Hải, Hứa Chi Thiện đã trao bức điện quan trọng này đến tận tay Bành Đức Hoài, cho Bành Đức Hoài biết đây là điện khẩn. Nói xong ông quay ra, trong lòng bỗng có cảm giác rất lưu luyến, không muốn rời xa Bành Đức Hoài, rời xa Vĩnh Phúc đường đã rất đỗi thân quen với mình. Và ông dừng lại.
Bức điện không dài, Bành Đức Hoài một loáng đã đọc xong. Ông ngẩng đầu gọi Hứa Chi Thiện đang trực bước ra ngoài: “Tiểu Hứa, anh xem, họ đã gửi điện tới, họ chiến đấu rất gian khổ tại Điện Biên Phủ, muốn chúng ta xuất quân chi viện. Họ có ý như vậy, theo anh chúng ta nên giải quyết thế nào?”
Nói xong, Bành Đức Hoài nhìn vào Hứa Chi Thiện.
Trước mặt các quan chức quân sự cấp dưới, Bành Đức Hoài thường rất nghiêm khắc, nghiêm khắc đến nỗi khiến cả các thượng tướng hay trung tướng đều phải e ngại. Thực ra, đó chỉ là một mặt trong tính cách của Bành Đức Hoài. Nếu không phải trên chiến trương, khi ông ở bên cạnh các cộng sự, nhất là khi nói chuyện với các chiến sĩ bình thường, Bành Đức Hoài rất thân thiện, cởi mở. Cớ được không khí hòa nhã và thẳng thắn như vậy, khi được hỏi, các thư ký của Bành Đức Hoài luôn luôn nói thẳng không vòng vo.
Hứa Chi Thiện suy nghĩ giây lát rồi trả lời: “Tôi cho rằng chiến dịch Điện Biên Phủ nên để bộ đội Việt Nam đánh và hoàn thành. Chúng ta dù sao vẫn là hai quốc gia, chúng ta không nên lộ diện trực tiếp chỉ huy chiến dịch này, càng không nên phái binh sĩ đi đánh, mà chỉ có thể đưa ra ý kiến về việc đánh thế nào, đánh ra sao thôi. Bộ đội Việt Nam cũng đã chiến đấu mấy năm rồi, nhất là thời điểm trước chiến dịch Điện Biên Phủ, họ đánh cũng tương đối khá, đã có một số kinh nghiệm, có khả năng tiếp tục chiến đấu, vì vậy chúng ta không cần xuất quân”.
Bành Đức Hoài nghe vậy rất hài lòng, nói: “Trả lời rất tốt, rất đúng, đúng là như vậy”.
Nói xong, Bành Đức Hoài cầm bút, đích thân viết một bức điện ngắn gọn trả lời, sau đó lập tức chỉ thị Hứa Chi Thiện mang điện đến cho Mao Trạch Đông. Bức điện có nội dung, cần phải chuẩn bị đầy đủ kỹ càng cho chiến dịch Điện Biên Phủ, việc tổ chức và chỉ huy chiến dịch vẫn phải do phía Việt Nam đảm nhiệm, chúng ta không thể thay thế được.
Mao Trạch Đông nhận điện xong lập tức phê chuẩn.
1 Lý Liên Khánh, Những năm tháng nóng lạnh: chìm nổi trong quan hệ Trung – Xô, Thế giới Tri thức XBX, 1999, tr. 177-178.
2 Sư Triết, Đỉnh cao và đáy khe, Hồng kỳ XBX, 1992, tr. 127-129.
3 TG phỏng vấn Lý Hối Xuyên tại Bắc Kinh ngày 15/1/1996.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:46:46 GMT 9
CHƯƠNG 6 - Nhân tài hội tụ trong đoàn đại biểu Trung Quốc
CHƯƠNG 6 Nhân tài hội tụ trong đoàn đại biểu Trung Quốc
Những mảnh đất vàng, đất đen, đất đỏ của Trung Quốc đã thai nghén trong nó hàng nghìn năm văn minh lịch sử. Hoàng Hà, Trường Giang đều cuồn cuộn chảy dòng chảy trí tuệ, năm này qua năm khác đã nuôi dưỡng những tâm hồn con cháu Viêm hoàng. Đoàn đại biểu Trung Quốc đã hội tụ được một loạt các nhân tài ưu tú. Chu Ân Lai - lúc đó là Thủ tướng Trung Quốc - tự hào nói về chất lượng của đoàn đại biểu lần này: “Đây giống như một vở diễn lớn của Mai Lan Phương1, mỗi một người là một bộ phận kỳ hoàn hảo, tạo nên một khối thống nhất mạnh mẽ.”
Vương Bỉnh Nam - Chánh văn phòng Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhận mệnh lệnh của Chu Ân Lai tổ chức các nhóm tham gia đoàn đại biểu Trung Quốc. Khi báo cáo với Chu Ân Lai về ý nghĩa trọng đại của chuyến đi Genève lần này, Vương Bỉnh Nam nói rằng “đây là lần đầu tiên chúng ta tham gia hội nghị quốc tế lớn kể từ sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập. Vì vậy nên cử nhiều người tham gia, và phải bao gồm các chuyên gia trên mọi lĩnh vực. Một là để mở rộng nhu cầu công việc, hai là tạo cơ hội tốt để mọi người biết thế nào là đấu tranh ngoại giao trên trường quốc tế.
Chu Ân Lai đồng ý với ý kiến của Vương Bỉnh Nam. Lúc đó, khi biết đoàn đại biểu của Liên Xô gồm hơn 200 thành viên tham gia, Chu Ân Lai nói: “đoàn đại biểu của chúng ta có thể đi 200 người”.
Vương Bỉnh Nam đã lập danh sách các thành viên tham gia để khi Chu Ân Lai xem xét, nhìn vào bản danh sách, từ đáy lòng ông có thể tự hào vì người thuộc cấp của mình có thể tập hợp được nhiều nhân tài ưu tú như vậy.
Những mảnh đất vàng, đất đen, đất đỏ của Trung Quốc đã thai nghén trong nó hàng nghìn năm văn minh lịch sử. Hoàng Hà, Trường Giang đều cuồn cuộn chảy dòng chảy trí tuệ, năm này qua năm khác đã nuôi dưỡng những tâm hồn con cháu Viêm Hoàng, làm cả thế giới phải kinh ngạc về trí tuệ cũng như lực lượng của họ. Trên mảnh đất này, một khi gột rửa được hết những vết bẩn trong lịch sử các vương triều phong kiến, xây dựng được một cơ chế xã hội hoàn toàn mới, tràn đầy sức sống, thì Trung Quốc sẽ đi lên con đường huy hoàng, ngẩng cao đầu trước các dân tộc trên thế giới. Nếu như những bậc tiền bối trong lịch sử cũng được xem qua bản danh sách này, họ cũng sẽ có những cảm xúc giống như Chu Ân Lai.
Đầu tiên hãy xem Bí thư trưởng, đoàn đại biểu Vương Bỉnh Nam là ai.
Vương Bỉnh Nam (1908-1988), sinh ra trong một gia đình giàu có tại huyện Càn thuộc tỉnh Thiểm Tây, sớm tham gia cách mạng. Năm 1925, Vương Bỉnh Nam tham gia Đoàn Thanh Niên Cộng sản Trung Quốc. Năm 1926, gia nhập ĐCS Trung Quốc và tiến hành các hoạt động xây dựng đảng tại các huyện Càn và Thuần Hóa. Năm 1929, ông là lưu học sinh Nhật Bản. Năm 1931, dưới sự giúp đỡ của Dương Hổ Thành, ông đi du học tại Đức. Khi là lưu học sinh tại Đức, ông đã đảm nhiệm chức Thư ký ban tiếng Trung Quốc của ĐCS Đức, và kết hôn với một phụ nữ người Đức. Năm 1936, ông về nước làm việc cùng Dương Hổ Thành tại đạo quân thứ 17. Trong “sự biến Tây An” xảy ra không lâu sau đó, ông đã giúp Chu Ân Lai làm rất nhiều việc, phát huy tác dụng tích cực.
Sau khi cuộc chiến chống Nhật nổ ra, Chu Ân Lai với vai trò là đại biểu ĐCS Trung Quốc thường trú tại khu giải phóng, và phụ trách công việc của Cục miền Nam - ĐCS Trung Quốc, thì Vương Bỉnh Nam đều là trợ thủ của Chu Ân Lai. Năm 1938, Cục miền Nam thành lập “Tổ tuyên truyền đối ngoại”, do Vương Bỉnh Nam trực tiếp phụ trách, thành viên gồm có: người vợ mang quốc tịch Đức- Vương Anna của Vương Bỉnh Nam, nhà văn Tất Sóc Vọng, Hứa Mạnh Hùng.v.v. Các thành viên của tổ tuyên truyền này đều thông thạo tiếng Anh, nhiệm vụ chủ yếu khi mới hoạt động là dịch các văn kiện của Mao Trạch Đông, như “Bàn về đánh lâu dài”, cùng những thông cáo đối ngoại của trung ương ĐCS Trung Quốc.
Năm 1939, Diệp Kiếm Anh thay mặt Cục miền Nam tuyên bố thành lập “tổ đối ngoại” của ĐCS Trung Quốc. Vương Bỉnh Nam làm tổ trưởng, Trần Gia Khang là tổ phó, thành viên gồm có: Kiều Quan Hoa, Cung Bành, Lý Thiếu Thạch, Chương Văn Tấn, Lưu Quang, Trần Khiết.v.v. Tổ đối ngoại này triển khai công tác dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chu Ân Lai.
Sau khi kháng chiến thắng lợi, khi Mao Trạch Đông đến Trùng Khánh đàm phán thì Vương Bỉnh Nam đã từng làm thư ký cho ông. Sau khi nội chiến nổ ra trên diện rộng, Vương Bỉnh Nam trở về khu giải phóng, đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ nhiệm Vụ Đối ngoại - Trung ương ĐCS Trung Quốc. Sau khi thành lập nước CHND Trung Hoa, Bộ Ngoại giao được thành lập. Vương Bỉnh Nam được cử làm Chánh Văn phòng Bộ ngoại giao. Đầu năm 1954, Vương Bỉnh Nam làm Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao kiêm Chánh văn phòng.
Công tác chuẩn bị cho hội nghị Genève rất phức tạp, khối lượng công việc lớn, nên Vương Bỉnh Nam vô cùng bận rộn. Ông tổ chức xây dựng các chế độ và công việc cho đoàn đại biểu, sắp xếp các thành viên của các tổ, chuẩn bị các tài liệu về tất cả những lĩnh vực mà hội nghị sẽ đề cập đến. Kể cả việc các thành viên đoàn đại biểu mặc gì đi tham gia hội nghị cũng được ông tính đến. Về việc này, còn có một câu chuyện rất thú vị. Vương Bỉnh Nam thấy rằng khi đã tham gia hội nghị quốc tế thì trang phục của đoàn đại biểu Trung Quốc nhất định phải trang trọng và nghiêm túc, nên ông đã chọn loại vải màu đen, may cho mỗi người một bộ trang phục kiểu “Trung Sơn”. Đến Genève, khi các thành viên của đoàn đại biểu Trung Quốc tập trung đi trên phố, mọi người đi trên đường ai nấy đều đứng nghiêm, bỏ mũ cúi chào họ, khiến các đại biểu Trung Quốc rất ngạc nhiên. Sau đó mới biết rằng, ở Thụy Sĩ, chỉ có mục sư mới mặc bộ đồ đen từ đầu đến chân trong ngày thường, người Genève vì thế tưởng những người Trung Quốc này là những mục sư đi truyền giáo. Mấy chục năm sau, khi Vương Bỉnh Nam nhớ lại đã viết rằng: “Đây tuy là chuyện nhỏ, nhưng cũng cho thấy rõ chúng ta lần đầu bước ra trường quốc tế còn có rất nhiều điều phải học hỏi.”2
Vương Bỉnh Nam xem xét tỉ mỉ đến các vấn đề như thế không phải là không có lý do, Chu Ân Lai còn thường xem xét tỉ mỉ hơn. Ông dặn dò Vương Bỉnh Nam phải sắp xếp hai đầu bếp giỏi trong đoàn đại biểu để trong thời gian Hội nghị Genève ông phải tiếp khách và giao lưu bè bạn.
Chu Ân Lai rất thích uống một chút rượu. Ông dặn Vương Bỉnh Nam và Vương Trác Như phụ trách lễ tân mang theo một ít rượu Mao Đài, Quý Châu, để người châu Âu có thể thử được “ngọc trong rượu Trung Quốc”. Chu Ân Lai thậm chí còn không quên dặn dò mang theo chè uống. Ông yêu cầu mang thêm một ít “Bích Loa Xuân” mới hái ở Đông Sơn, bên bờ Thái Hồ tại Tô Châu, để hương thơm nho nhã của nó có thể bay đến Genève xa xôi.
Khi tham gia hội nghị quốc tế thì vấn đề phiên dịch là vô cùng quan trọng. Vương Bỉnh Nam không lo về phiên dịch cả tiếng Anh lẫn tiếng Nga. Hai thứ tiếng này nhân tài vô cùng nhiều. Hai anh em Phổ Thọ Xương và Phổ Sơn đều đi du học ở Mỹ về, nói tiếng Anh lưu loát, trơn tru, không có gì để thắc mắc. Hơn nữa, ngoài lãnh đạo đoàn đại biểu Trương Văn Thiên còn có Hoàng Hoa, Cung Bành và Chương Văn Tấn cũng có thể tự mình phiên dịch.
Lần này, còn có một thanh niên tham gia công tác phiên dịch cho đoàn đại biểu là Ký Triều Chú. Lúc đó ông vẫn chưa có tên tuổi gì, về sau ông trở thành nhà phiên dịch tiếng Anh xuất sắc nhất Trung Quốc. Từ năm 1992 đến năm 1996 ông giữ chức Phó Tổng thư ký LHQ.
Ký Triều Chú sinh năm 1929 trong một gia đình giàu có ở Sơn Tây. Cha ông là Ký Cống Tuyền, cũng là một nhân vật nổi tiếng ở tỉnh Thiểm Tây. Ký Cống Tuyền sớm đã đi du học ở Nhật, đạt được học vị cử nhân Luật trường đại học Minh Trị. Sau khi về nước, ông từng làm việc ở Bộ Giáo dục của Chính phủ Bắc Dương. Lãnh đạo cấp trên của ông lúc đó chính là đại văn hào Lỗ Tấn. Ký Cống Tuyền làm việc ở Bắc Kinh không lâu thì trở về Sơn Tây, đảm nhiệm giáo viên chính trường Luật tại tỉnh, sau đó là hiệu trưởng, rồi làm Giám đốc Sở Giáo dục tỉnh Sơn Tây. Trước khi chiến tranh chống Nhật nổ ra, Ký Cống Tuyền đưa vợ và con trai sang Mỹ. Năm đó, Ký Triều Chú 9 tuổi. Năm 1940, Ký Cống Tuyền và Đường Minh Chiếu cùng sáng lập ra “Nhật báo Hoa kiều hàng tuần” tại Mỹ. Ký Cống Tuyền là Tổng biên tập.
Tại New York, Ký Triều Chú đã học xong bậc tiểu học và trung học, sau đó thi vào Đại học Havard học chuyên khoa hóa. Lúc còn nhỏ, sở thích của ông rất nhiều, đã từng chuyên tâm vào khảo cổ học, sau đó lại chuyển sang lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật. Nhưng cha ông, Ký Công Tuyền, lại luôn muốn con trai mình học ngành khai thác khoáng sản, về sau trở về Sơn Tây khai khoáng. Lệnh cha không thể trái, Ký Triều Chú chọn hóa học, lý do vì ngành khai thác khoáng sản không thể tách rời hóa học, nên Ký Triều Chú chỉ có thể chọn như vậy.
Ký Triều Chú học được hai năm ở Đại học Havard thì chiến tranh Triều Tiên nổ ra. Ký Cống Tuyền lo sợ phát sinh bất trắc không trở về nước được nên nhanh chóng đưa cả nhà về nước. Sau khi về nước, Ký Cống Tuyền làm Ủy viên chuyên môn Ủy ban pháp chế của chính phủ trung ương, sau đó ông trở về Sơn Tây làm Ủy viên chính quyền nhân dân tỉnh, năm 1967 thì mất. Ký Triều Chú sau khi về nước tiếp tục theo đuổi “giấc mộng hóa học” ở Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh.
Đàm phán đình chiến Triều Tiên cần gấp nhân tài tiếng Anh. Ký Triều Chú một lòng tận tâm báo quốc, trở thành nhân viên tốc ký tiếng Anh cho đoàn đại biểu đàm phán của quân tình nguyện Trung Quốc đến Triều Tiên. Trong quá trình đàm phán gay cấn, năng lực tiếng Anh của ông nhanh chóng được bộc lộ. Lần này, tham gia hội nghị Genève, Chu Ân Lai điện báo gọi Hoàng Hoa và Kiều Quan Hoa trở về. Ký Triều Chú cũng đến Bắc Kinh để tham gia công tác chuẩn bị cho hội nghị Genève.
Tiếng Anh sử dụng rộng rãi, người học rất nhiều, tự nhiên sẽ xuất hiện nhân tài, Vương Bỉnh Nam tất có tính toán.
Thế còn phiên dịch tiếng Nga thì sao? Nhà cách mạng lão thành Sư Triết là phiên dịch tiếng Nga đầu ngành, không có gì phải tranh cãi. Ông sinh năm 1905, sau đó làm việc 15 năm tại Liên Xô, trước và sau khi nước Trung Quốc mới ra đời thì các cuộc hội đàm quan trọng giữa hai nước Trung Quốc – Liên Xô đều do ông làm phiên dịch. Các phiên dịch viên tiếng Nga một thời như Lý Việt Nhiên, Phương Tổ An đã tỏ ra tương đối xuất sắc, tương lai sẽ có đất dụng võ. Ngoài ra, còn có con gái liệt sĩ Âu Dương Phi từ nhỏ đã sống ở Moskva. Bà thông thạo tiếng Nga như người Nga nói tiếng mẹ đẻ. Vương Bỉnh Nam đặc biệt quan tâm chính là phiên dịch tiếng Pháp, vì Genève là khu vực nói tiếng Pháp. Lần này đi là muốn giao lưu với người Pháp, nên nhất thiết phải có người thông thạo tiếng Pháp.
Nhân viên Bộ Ngoại giao tiến cử với Vương Bỉnh Nam một số người, trong đó có Đồng Ninh Xuyên, hiện đang làm việc tại Ban thư ký Hội nghị hòa bình thế giới ở Tiệp Khắc; giáo sư Trân Định Dân, Khoa tiếng Pháp Đại học Bắc Kinh, và Viên Bảo Hoa hiện đang công tác ở Bộ ngoại giao vừa đi du học Pháp về không lâu. Ngoài ra, còn có thanh niên Trương Tích Xương vừa tốt nghiệp đại học, là phiên dịch tiếng Pháp chủ yếu.
Tiếng Pháp của cả bốn người đều rất xuất sắc. Vấn đề chỉ là chọn ai làm phiên dịch chính? Vương Bỉnh Nam nói, vấn đề này cũng không khó, chỉ cần kiểm tra là biết. Vì thế, Vương Bỉnh Nam đích thân chủ trì, mời hai người Lăng Kỳ Hàn, Mạnh Cúc Như đã từng làm việc tại đại sứ quán Dân Quốc tại Pháp tham gia khởi nghĩa trở về, nói tiếng Pháp cực giỏi tham gia ban giám khảo. Ngoài ra, còn có một quan chức tại Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc cùng làm giám khảo, dùng tiếng Pháp kiểm tra luân phiên bốn người, gồm dịch nói, dịch viết và dùng tiếng Pháp trả lời các câu hỏi. Kiểm tra hết một ngày tròn, Vương Bỉnh Nam sau đó nói với Đổng Ninh Xuyên: “ông đã được chọn làm phiên dịch chính cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nên phải chuẩn bị tốt. Nhiệm vụ phiên dịch lần này rất quan trọng, nhất định phải tận tâm tận lực. Những vị khác cũng đi Genève, nhưng khi phiên dịch thì ông là phiên dịch chính.
Đổng Ninh Xuyên dáng vẻ tao nhã lịch sự, ông là người Đại Lý - tỉnh Vân Nam, sinh năm 1919. Từ nhỏ, Đổng Ninh Xuyên học ở quê hương Đại Lý, sau đó học tiếp lên trung học tiếng Pháp ở Côn Minh (thủ phủ Vân Nam), sau khi tốt nghiệp, ông được học bổng học tiếp tại trường trung học Bảo hộ ở Hà Nội - Việt Nam. Ở đây, từ học tập đến sinh hoạt đều dùng tiếng Pháp.
Trong kháng chiến chống Nhật, ông trở về Đại Lý-Vân Nam, chú tâm học tiếng Pháp và tiếng Anh tại trường Đại học Hoa Trung. Sau khi kháng chiến thắng lợi, ông thi được học bổng du học nước ngoài, vào học viện chính trị Pháp ở Paris. Đây là học viện nổi tiếng được thành lập trong thời kỳ chế độ cộng hòa thứ 3 của Pháp, sau này là nơi các Tổng thống [Valéry Giscard] d’Estaing và [Jacques René] Chirac từng học tập. Không lâu sau, Đổng Ninh Xuyên chuyển đến Đại học Paris. Năm 1949, ông làm luận văn “Chính sách của Pháp đối với Trung Quốc trong thời Thái Bình Thiên Quốc” đã đạt được học vị thạc sĩ.
Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, Đổng Ninh Xuyên tiến bộ không ngừng và được chọn là Chủ tịch Hội du học sinh Trung Quốc tại Pháp. Trong lần tham gia Đại hội học sinh thế giới tại Praha, Phó Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc Ngô Học Khiêm gặp được Đổng Ninh Xuyên và khuyên ông về nước làm việc. Tháng 1 năm 1951, Đổng Ninh Xuyên về nước từ Hồng Kông. Không lâu sau, ông làm việc trong đoàn đại biểu Trung Quốc tại Ban thư ký Hội nghị hòa bình thế giới ở Praha. Tiếng Pháp của ông vốn đã tốt, nay được làm việc trong môi trường tiếng Pháp nên càng được nâng cao.
Đổng Ninh Xuyên khi được biết sẽ là phiên dịch cho Thủ tướng Chu Ân Lai thì rất vui mừng, kỳ vọng sẽ được diện kiến Thủ tướng trong một ngày không xa. Thế nhưng suốt bốn tháng liền ông vẫn chưa có cơ hội vì Chu Ân Lai quá bận rộn, từ ngày 1 đến ngày 20 tháng Tư, ông đã bay ba lần từ Bắc Kinh đến Moskva.
Do hội nghị Genève có liên quan đến vấn đề Đông Dương, nên Chu Ân Lai và Vương Bỉnh Nam đặc biệt quan tâm đến vấn đề Việt Nam. Nhà lão thành cách mạng Trương Dực được bổ nhiệm làm người phụ trách “Tổ Việt Nam”.
Trương Dực được coi là “người thông thạo Việt Nam”. Ông sinh năm 1913 trong một gia đình Hoa kiều ở miền Nam Việt Nam. Năm 1922, ông trở về Trung Quốc để học tập. Năm 1934, tham gia cách mạng. Những năm 30 của thế kỷ XX, ông học khoa Văn - Đại học Trung Quốc ở Bắc Bình, năm 1938 thì vào Đ[CS]ảng. Cùng năm, ông chuyển đến Thượng Hải. Ở Thượng Hải, Trương Dực không may bị nhiễm bệnh phổi, phải đến Sơn Đầu ở Quảng Đông để dưỡng bệnh.
Do cuộc chiến chống Nhật ngày càng đến gần, sức khỏe của Trương Dực lại rất yếu, nên khi được Bí thư Thành ủy Sơn Đầu phê chuẩn, ông quay trở lại miền Nam Việt Nam để dưỡng sức. Tại Sài Gòn-Việt Nam (nay là thành phố Hồ Chí Minh), Trương Dực đã tham gia cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân Pháp của người dân miền Nam Việt Nam, từng giữ chức Chủ nhiệm Tổng hội liên hợp giải phóng Hoa kiều ở miền Nam Việt Nam và làm việc nhiều với lãnh đạo miền Nam là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, vì thế nên rất thân quen.
Thời kỳ sau kháng chiến chống Nhật, Trương Dực đã liên hệ với Trung ương Cục miền Nam, thường xuyên nhận chỉ thị từ người phụ trách Cục Miền Nam, mở rộng công tác Hoa kiều. Sau Chiến tranh thế giới thứ thứ 2, thực dân Pháp trở lại Việt Nam. Chiến tranh chống Pháp của người Việt Nam được mở ra toàn diện. Trương Dực cùng với Trung ương Cục miền Nam - ĐCS Việt Nam duy trì chiến tranh du kích. Năm 1951, Ban liên lạc - Trung ương ĐCS Trung Quốc được thành lập, Vương Gia Tường đảm nhiệm Trưởng ban nhiệm kỳ I. Trương Dực được lệnh trở về nước, đảm nhiệm chức Trưởng phòng, Phòng Việt Nam thuộc Ban liên lạc - Trung ương ĐCS Trung Quốc. Các đồng chí làm việc trong Tổ Việt Nam ai cũng biết tiếng Việt. Họ và La Quý Ba - lãnh đạo đoàn cố vấn chính trị, cùng Vi Quốc Thanh - lãnh đạo đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc - luôn duy trì mối quan hệ mật thiết với nhau, nắm vững tình hình Việt Nam.
Từ năm 1950, mỗi năm Hồ Chí Minh đều đến Trung Quốc, cùng thảo luận tình hình, đề ra phương châm, chính sách với lãnh đạo trung ương ĐCS Trung Quốc, Trương Dực là phiên dịch chính của Hồ Chí Minh và nhân viên của đoàn. Khi nghiên cứu các vấn đề Việt Nam, Chu Ân Lai luôn đặc biệt chú ý đến ý kiến của Trương Dực.
Mấy chục năm sau, khi Trương Dực hồi tưởng lại chuyện này đã không kìm được cảm xúc mà nói với nhà báo rằng: “Đoàn đại biểu này đúng là nhân tài vô kể, tôi vừa nhìn danh sách nhân viên phiên dịch là đã nhận ra ngay.”
Ngày 2 tháng Tư, ba mươi thành viên đoàn đại biểu Việt Nam tham gia Hội nghị Genève đã khởi hành đi Bắc Kinh. Họ đến Bắc Kinh để may trang phục. Khi mọi người vừa đến thì thợ may Thiên Kinh ở tiệm may âu phục “Hồng Đô” nổi tiếng tại Thượng Hải đã đợi sẵn để đo trang phục, may cho mỗi người hai bộ Âu phục. Những con người vừa đi ra khỏi vùng rừng núi nhiệt đới trong chố lát đã thay đổ hình dạng.
Văn Trang lần đầu tiên đến Bắc Kinh, thủ đô Trung Quốc mới không khỏi làm ông cảm thấy mới mẻ và phấn chấn. Theo phân công, ngoài nhiệm vụ phiên dịch thì nhiệm vụ chủ yếu của ông là phụ trách việc liên lạc giữa đoàn đại biểu Việt Nam với đoàn đại biểu Trung Quốc và Liên Xô. Lúc đó, Văn Trang đặc biệt quan tâm xem đoàn đại biểu Trung Quốc đang làm gì, vừa đi nghe ngóng đã được biết họ đang “đại luyện binh”.
Thì ra, để lần ra quân này thu được thắng lợi, các tổ được phân chia theo chuyên ngành đang tiến hành diễn tập theo hình thức mô phỏng. Tổ phiên dịch chủ yếu là tiến hành dịch mô phỏng, tổ tin tức thì lại mô phỏng các cuộc họp báo. Hoàng Hoa là người phát ngôn báo chí của đoàn. Cung Bành là trợ lý chính cho ông. Tại lễ đường Bộ ngoại giao, họ đã ba lần tiến hành lần họp báo mô phỏng. Họ tập hợp các nhà báo hiểu tiếng Anh trong Tân Hoa Xã, Nhân dân nhật báo, cố hết sức đưa ra các câu hỏi hóc búa, thậm chí cả các vấn đề mang tính khiêu khích. Phó Trưởng ban Quốc tế Tân Hoa Xã Lý Thận Chi đã thảo ra hơn trăm vấn đề cùng các câu trả lời. Hoàng Hoa và Cung Bành đều là những người kinh qua trận mạc nhiều năm mà cũng không dám sơ suất, luyện tập rất nghiêm túc. Lý Thận Chi là trợ lý của người phát ngôn, nên mô phỏng việc trả lời các câu hỏi của các nhà báo trong buổi chiêu đãi. Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Chương Hán Phu cùng một số người khác làm bình luận viên tại cuộc họp. Có lần ông bình luận, nói: “trong cuộc họp báo hôm nay, trợ lý người phát ngôn quá sôi nổi, khiến Lý Thận Chi giật mình, lập tức tự cảnh cáo phải biết kiềm chế một chút.”
Đối với giai đoạn công tác chuẩn bị trước hội nghị diễn ra rất căng thẳng này, Sư Triết hồi tưởng lại rất rõ rằng Đặng Dĩnh Siêu [vợ Chu Ân Lai] đặc biệt quan tâm đến việc liệu sức khỏe của Chu Ân Lai có chịu được gánh nặng của công việc của hội nghị hay không. Trước khi đi, Sư Triết với tư cách là cố vấn đoàn đại biểu đến chào từ biệt Đặng Dĩnh Siêu. Bà đã dặn dò, những ngày này, Thủ tướng tương đối lao lực, có khi còn chảy máu cam, vậy nên nhắc nhở mọi người chú ý chăm sóc đến sức khỏe của Thủ tướng sau khi đến Genève, không nên để ông quá lao lực. Sư Triết gật đầu liên tục, song trong lòng ông biết, không ai có thể khuyên Chu Ân Lai ngừng làm việc.
Chu Ân Lai lại càng quan tâm đến trợ thủ của mình. Sắp đến ngày xuất phát, ông bảo thư ký Mã Liệt gọi phiên dịch tiếng Nga mới nổi danh là Lý Việt Nhiên đến, nói với ông: “lần này đi Genève phải qua Liên Xô, dừng ở Moskva mấy ngày. Sức khỏe của Lý Khắc Nông không tốt, không thể ngồi máy bay đường dài, nên để ông ngồi tàu hỏa đến Irkutsk đợi chúng ta, sau khi gặp nhau sẽ bay đến Moskva. Vậy nên phiền đồng chí cùng ngồi tàu hỏa với Lý Khắc Nông đến Irkutsk, trên đường tiện chăm sóc nhau.” Vì thế, Lý Khắc Nông đã mang theo mấy trợ thủ rời khỏi Bắc Kinh trước.
Ngày 12 tháng Tư, Chu Ân Lai sau khi từ Liên Xô trở lại Bắc Kinh, đích thân chủ trì hội nghị toàn thể các thành viên đoàn đại biểu, nõi rõ ý nghĩa quan trọng của hội nghị Genève lần này. Ông yêu cầu tất cả mọi người phải đồng tâm hiệp lực, làm tốt công tác chuẩn bị, trong hội nghị quốc tế quan trọng lần này phải đạt được kết quả tích cực. Tất cả mọi người không kể chức vụ cao thấp đều phải tuân thủ nghiêm ngặt chế độ và kỷ luật của đoàn đại biểu, không được vi phạm. Chu Ân Lai tự hào nói đến chất lượng của đoàn đại biểu lần này: “Đây giống như một vở diễn lớn của Mai Lan Phương, mỗi một vai diễn phải là một bộ phận trọn vẹn, hợp thành một tổng thể toàn diện.”
Lúc này, danh sách thành viên đoàn đại biểu đã được đưa ra, phong phú đa dạng; đoàn đại biểu được chia làm sáu tổ: tổ về vấn đề Triều Tiên, tổ về vấn đề Việt Nam, vấn đề tổng hợp, tổ tin tức tuyên truyền, tổ thư ký và tổ giao tiếp hành chính, trong đó có thêm năm phiên dịch tiếng Nga, bốn phiên dịch tiếng Anh, bốn phiên dịch tiếng Pháp, ngoài ra còn có đầu bếp, lái xe, tổng cộng là 185 người, cộng thêm 29 nhà báo. Vậy là tổng số thành viên đoàn đại biểu là 214 người.
Ngày 17 tháng Tư, những người phụ trách phía Triều Tiên tham gia đoàn đại biểu đi dự hội nghị Genève là Nam Il, Bạch Nam Vân, Kỳ Thạch Phúc và Trương Xuân đã đến Bắc Kinh. Ngay tối hôm đó, Chu Ân Lai, Kiều Quan Hoa đã đến thăm hỏi, trao đổi ý kiến.
Nam Il nói với Chu Ân Lai: “sự nghiệp thống nhất Triều Tiên từ nay về sau chia làm hai phần là đấu tranh trong nước và đấu tranh nước ngoài. Triều Tiên phải cố gắng hết sức để tham gia vào các tổ chức quốc tế có thể tham gia”. Ông còn nói, việc thống nhất Triều Tiên không phải là việc một sớm một chiều có thể thực hiện được.
Chu Ân Lai gật đầu nói: “Chúng tôi cũng đang nghĩ cách giải quyết vấn đề này. Cục diện Triều Tiên đối lập đã lâu, những hoạt động trên trường quốc tế có thể phát sinh những thay đổi, ví dụ như cả hai miền Bắc, Nam đều gia nhập LHQ.”
Về điểm này, Nam Il không biểu lộ thái độ gì, tình hình phát triển sau này đã chứng minh, dự báo của Chu Ân Lai là chính xác.
Chu Ân Lai thông báo với Nam Il: “Trung ương ĐCS Trung Quốc đã có những thảo luận bước đầu về Hội nghị Berlin diễn ra hồi đầu năm và Hội nghị Genève sắp tới, nhưng vẫn chưa cụ thể. Phán đoán chung là: đối với Hội nghị Genève, nước Mỹ sẽ dùng phương châm phá hoại, khiến hội nghị không đạt được kết quả, mà phương châm của chúng ta là tận dụng hết khả năng có thể để khi hội nghị vừa mở ra là đã đạt được thỏa thuận nhất định. Hội nghị Genève vốn chỉ giới hạn trong vấn đề Triều Tiên và vấn đề Đông Dương. Nếu có thể, chúng ta sẽ nêu ra vấn đề hòa bình châu Á, ví dụ như vấn đề Đài Loan và Nhật Bản. Như vậy, vấn đề Triều Tiên vẫn chủ yếu là do các đồng chí Triều Tiên phát biểu. Căn cứ vào phân tích tình thế, chúng ta nên sáng tạo điều kiện lập lại hòa bình thống nhất Triều Tiên, và đưa ra phương án hòa bình thống nhất Triều Tiên. Nhưng khả năng kết quả của việc tranh thủ này chính là có thể đạt được hiệp định hòa bình trên những vấn đề cụ thể. Lần trước, khi Thủ tướng Kim Nhật Thành nói về vấn đề hội nghị chính trị này, thì Mao Chủ tịch đã nói đến điểm này”.
Chu Ân Lai còn nói: “phương án hòa bình thống nhất tốt nhất là khi hội nghị vừa bắt đầu thì đề cập ngay đến vấn đề Triều Tiên. Nếu phương án này không được, thì phải chuẩn bị phương án hai, phương án ba, để thể hiện chúng ta rất tích cực giải quyết vấn đề Triều Tiên.”
Chu Ân Lai cho rằng, qua nỗ lực, trong hội nghị Genève lần này, có thể sẽ có ba vấn đề sẽ đạt được hiệp định tạm thời:
tất cả quân đội nước ngoài trong thời gian nhất định phải rút khỏi Triều Tiên, bao gồm việc chúng ta rút về bên này sông Áp Lục.
khi chưa đạt được hiệp định thống nhất hòa bình Triều Tiên thì phải duy trì hiện trạng Triều Tiên.
khôi phục thông thương Nam-Bắc Triều Tiên.
Đương nhiên, cũng phải chuẩn bị, có thể không đạt được bất kỳ hiệp định nào.
Ngày 19 tháng Tư, Tân Hoa Xã tuyên bố Chủ tịch Mao Trạch Đông giao nhiệm vụ Chủ tịch đoàn đại biểu Trung Quốc tham gia Hội nghị Genève cho Chu Ân Lai. Trương Văn Thiên, Vương Gia Tường, Lý Khắc Nông là đại biểu.
Cùng ngày, lúc 4h50 phút chiều, Chu Ân Lai đã tiếp Đại sứ Ấn Độ tại Trung Quốc là [Nedyam] Raghavan tại phòng Tây Hoa, Trung Nam Hải, nói rõ quan điểm của Trung Quốc về tình hình châu Á và Hội nghị Genève. Thì ra, thái độ của Thủ tướng Ấn Độ Nerhu đã thu hút sự chú ý của Chu Ân Lai. Ngày 8 tháng Tư, Thủ tướng Ấn Độ Nerhu đã phát biểu tại Quốc hội, yêu cầu “không qua bỏ phiếu công dân”, tức là muốn Pháp trả lại những vùng đất còn chiếm đóng cho Ấn Độ. Ông nói, điều này đã được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân Ấn Độ. Những vùng bị chiếm đóng này nên lập tức trả về cho Ấn Độ. Những thủ tục chuyển giao về mặt pháp luật sẽ được thực hiện ngay sau khi vấn đề này được giải quyết. Chính phủ Ấn Độ đồng ý đàm phán với chính phủ Pháp về vấn đề này. Đến ngày 17 tháng Tư, tình hình đã tiến thêm được một bước. Ở thủ đô New Delhi của Ấn Độ, Thứ trưởng Ngoại giao Ấn Độ [Anil K] Chanda tại Quốc hội đã tuyên đọc quan điểm của Nerhu đối với thông cáo chung tại Hội nghị Ngoại trưởng hai nước Anh - Mỹ ở London. Nerhu tỏ thái độ với mong muốn của hai nước Anh, Mỹ về việc muốn thành lập một tổ chức giống tổ chức liên minh Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương tại Đông Nam Á rằng: hai nước Anh, Mỹ chưa hề trao đổi việc này với Ấn Độ. Nerhu chỉ ra rằng, lập trường của Ấn Độ không thay đổi, Ấn Độ vẫn kiến nghị đình chiến ở Đông Dương, và cho rằng chỉ có như vậy mới “có thể mở ra con đường tiến thêm một bước trong đàm phán.”
Thái độ của Chính phủ Ấn Độ rõ ràng có lợi cho phe phương Đông. Chu Ân Lai nói với Đại sứ Ấn Độ: không nên để hội nghị Genève thất bại, nhưng nước Mỹ hiện nay rõ ràng là muốn Hội nghị Genève không đạt được bất kỳ hiệp định nào, đặc biệt là Mỹ đang uy hiếp Pháp, khiến Pháp không thể đạt được hiệp định về vấn đề Đông Dương.
Chu Ân Lai nói đến vấn đề Triều Tiên, vấn đề trọng tâm của hội nghị Genève: Triều Tiên tuy đã đình chiến, nhưng vẫn nên tiến thêm một bước để củng cố hòa bình tại đây, rút tất cả quân nước ngoài, dùng phương pháp hòa bình để Triều Tiên được thống nhất. Nhưng nước Mỹ lại muốn tạo nên cục diện xấu về vấn đề Triều Tiên, trước khi Hội nghị Genève khai mạc, đã lan truyền thông tin rằng hội nghị sẽ không đạt được bất kỳ tiến triển gì. Rõ ràng là Mỹ muốn tạo ra cục diện xấu vì muốn tiếp tục chiếm lĩnh Đài Loan, vũ trang Nhật, duy trì cục diện căng thẳng tại Viễn Đông.
Chu Ân Lai chuyển hướng vấn đề, nói về vấn đề Đông Dương: Triều Tiên đã ở vào thế khó thay đổi, muốn đánh trở lại cũng không phải dễ, vì thế Mỹ nhất định phải tìm một chiến trường nóng khác, đó chính là Đông Dương. Giả sử mặt trận Đông Dương có thể đình chiến, khôi phục hòa bình tại đây, thì Mỹ sẽ không thể tìm được tiếp một nơi nào có thể gây chiến tại châu Á. Vì vậy, mục đích của Mỹ chính là tìm cách không thể đình chiến ở Đông Dương, ngăn trở việc ký kết hiệp định về vấn đề này ở hội nghị Genève.
Đối với quan hệ hai nước Mỹ và Pháp, cách nhìn của Chu Ân Lai là: Chính phủ Mỹ muốn gây sức ép với Pháp, “liên minh hành động” của Dulles cũng chính là nhằm vào Pháp. Mỹ lo sợ hai bên giao chiến ở Đông Dương sẽ đạt được hiệp định. Nhưng tại nước Pháp, tức là tại quốc hội, tiếng gọi hòa bình cũng rất lớn, vì vậy, ngoài Dulles ra thì Nixon cũng sẽ đứng ra phát biểu. Chu Ân Lai nói, giả sử quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội Mỹ tiến vào tiếp quản, mục đích chính của Mỹ chính là Trung Đông và Cận Đông, họ muốn lợi dụng vấn đề Đông Dương để có âm mưu còn lớn hơn.
Chu Ân Lai hy vọng Đại sứ Ấn Độ có thể truyền đạt những lời của ông đến Thủ tướng Nerhu, và hy vọng Ấn Độ có thể phát huy được tác dụng tích cực trong vấn đề Đông Dương.3
Nói chuyện xong với Đại sứ Ấn Độ, nhưng công việc của Chu Ân Lai còn lâu mới kết thúc. Ngày 20 tháng Tư, ông triệu tập toàn thể thành viên đoàn đại biểu Trung Quốc tham gia Hội nghị Genève lại, làm cuộc tổng động viên lần cuối trước khi lên đường.
Đối với cục diện quốc tế thời kỳ đầu những năm 50 của thế kỷ XX, một năm trước đó Chu Ân Lai đã có nhận thức sâu sắc - mâu thuẫn chủ yếu của quốc tế chính là vấn đề chiến tranh và hòa bình. Cách đây gần một năm, ngày 5 tháng 6 năm 1953, tại hội nghị công tác đối ngoại, Chu Ân Lai đã có một báo cáo với các quan chức ngành ngoại giao, chỉ ra rằng: “chiến tranh Triều Tiên đã kéo dài ba năm, trong đó đàm phán cũng đã hai năm. Chiến tranh Triều Tiên là dạng chiến tranh cục bộ, nhưng ý nghĩa của cuộc chiến tranh này lại mang tầm thế giới. Nó đã giải thích được nhiều chuyện mà chúng ta không hiểu rõ được về vấn đề quốc tế.”
Chu Ân Lai hỏi các nhà ngoại giao, mâu thuẫn chủ yếu của thế giới là gì? “Sự đối lập giữa hai phe lớn đương nhiên là cơ bản, nhưng cuối cùng thì biểu hiện cụ thể ở vấn đề gì? Sự đối lập giữa Mỹ và Liên Xô đã căng thẳng tới đỉnh điểm chưa? Không phải, mâu thuẫn trước mắt chủ yếu biểu hiện ở bốn phương diện là: giữa chiến tranh và hòa bình, giữa dân chủ và phản dân chủ, giữa chủ nghĩa đế quốc và thuộc địa, giữa các nước chủ nghĩa đế quốc với nhau.”4
Đối mặt với Hội nghị Genève sắp diễn ra, tư tưởng của Chu Ân Lai đã sâu sắc hơn một bước so với năm ngoái. Ông nói với mọi người rằng tình thế ngoại giao của nước Trung Quốc mới là rất tốt. Trung Quốc đã và đang thiết lập quan hệ ngoại giao với 25 quốc gia với khoảng một tỷ người. Chuyến đi Genève lần này, chúng ta phải mở ra cục diện ngoại giao mới. “Nhưng, có một điểm không giống trước kia” - Chu Ân Lai nhắc nhở mọi người: trước đây chúng ta đã có kinh nghiệm đàm phán trong nước, đã có kinh nghiệm tranh cãi với Mỹ, nhưng đó là “vở diễn” nhỏ, không có trời đất pháp luật gì, cái gì cũng không sợ, thất bại cũng chỉ có thế thôi. Có nghĩa là, khi đó chúng ta tiến hành đàm phán ở phạm vi nhỏ, có gì nói nấy. Bây giờ không như thế nữa, Trung Quốc là một nước lớn, đến Genève chính là tham gia một hội nghị quốc tế chính thức. Chúng ta đứng trên vũ đài quốc tế, vì thế phải hát kịch văn. Trong kịch văn phải có kịch võ, nhưng nói tóm lại là kịch chính quy, kịch võ đài. Có mấy nước anh em cũng tham gia, nên chúng ta phải phối hợp, nếu có thắc mắc gì cũng đều phải hợp tác, đều là lần hát kịch đầu tiên, vì thế vẫn là tinh thần học hỏi là chính. Chu Ân Lai nói rất phấn chấn: “chúng ta nhất định phải diễn tốt vở kịch này.”
Đến đây, công tác chuẩn bị trong nước cho việc tham gia Hội nghị Genève kết thúc. Thành viên đoàn đại biểu chia ra đi tàu và máy bay qua Liên Xô để đến Genève. Trương Văn Thiên đợi Chu Ân Lai ở Moskva để cùng đến Genève.
Sáng sớm 20 tháng Tư, Chu Ân Lai cùng phái đoàn rời Bắc Kinh. Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam cùng bay đến Moskva. Ngồi cùng máy bay còn có Đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc Yudin. Ra sân bay tiễn đoàn có Lưu Thiếu Kỳ, Tống Khánh Linh, Lý Tế Thâm, Đổng Tất Võ, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình, Tập Trọng Huân, Bành Chân, Lý Phú Xuân, Đặng Tử Khôi, Diệp Quý Tráng, Lục Định Nhất, Túc Dụ, Tiêu Hoa, Lại Nhược Ngu, Hồ Diệu Bang, Đặng Dĩnh Siêu, Liêu Thừa Chí, Lý Đức Toàn, Chương Hán Phu, Ngũ Tu Quyền, Quách Mạt Nhược, Hoàng Viêm Bồi, Trình Tiềm, Thẩm Quân Nho, Trần Thúc Thông, Mã Dần Sơ, Chương Bá Quân, Trần Thiệu Tiên, La Long Cơ, Chương Nãi Khí, Thiệu Lực Tử, Hứa Đức Hoành.
Ngày 21 tháng Tư, Nhân Dân nhật báo đã đăng bài xã luận “Giành lấy sứ mệnh củng cố hòa bình châu Á và thế giới”.
Ý nghĩa trọng đại của Hội nghị Genève là ở chỗ: tất cả các quốc gia tham gia hội nghị, đặc biệt là giữa các nước lớn có trách nhiệm đặc biệt trong sự nghiệp bảo vệ hòa bình thế giới, phải tận dụng hết khả năng để đạt được hiệp định dựa trên lợi ích thiết thân của các nước châu Á cùng lợi ích đối với hòa bình thế giới trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Vì vậy, tiêu chí của Hội nghị Genève là các nước lớn lấy phương thức hiệp thương để giải quyết các tranh chấp quốc tế, cùng nỗ lực bảo vệ hòa bình và an ninh thế giới.
Ngày phái đoàn khởi hành, trấn thủ Hoa Đông là khai quốc Nguyên soái Trần Nghị không thể đến Bắc Kinh đã đưa bút viết bài từ “Mãn Giang Hồng - tiễn Thủ tướng Chu Ân Lai đi Genève”, đại để nội dung như sau:
Ngừng chiến tại Triều Tiên
Nay lại báo tin mừng đến Việt Nam
Việc trong khu vực
Nông lâm khôi phục
Càng thịnh công nghiệp
Kinh tế quốc doanh bừng bừng lên
Công xưởng mọc lên ầm ầm
Không bao năm
Diện mạo thay đổi
Trung Quốc mới
Bàn Môn Điếm
Thương lượng chưa dứt
Genève
Bàn việc lớn
Lời lẽ đanh thép
Nghị luận trên đài
Bất kể sài lang nhiều mưu kế
Ta vẫn tuân thủ nguyên tắc
Xem ta công thủ thế mạnh
Đoạt toàn thắng.
1 Nghệ sĩ Kinh kịch lừng danh Trung Quốc.
2 Vương Bỉnh Nam, Điểm lại 9 năm đàm phán Trung - Mỹ, Thế giới Tri thức XBX, 1985, tr. 6.
3 Đại sự ký hoạt động ngoại giao của Chu Ân Lai giai đoạn 1949-1975, Thế giới Tri thức XBX, 1993, tr. 58.
4 Văn tuyển Ngoại giao của Chu Ân Lai, Trung ương Văn hiến XBX, 1990, tr.58-59.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:48:21 GMT 9
CHƯƠNG 7 Đàm phán hay oanh tạc
Mạo hiểm mở rộng quy mô chiến tranh, máy bay Mỹ có ý định oanh tạc quân Việt Nam tại Điện Biên Phủ. Một số nhà chính trị Mỹ đương nhiên phải lựa chọn trong tình hình vô cùng nguy cấp. Đàm phán hay là oanh tạc? Câu hỏi lạnh lùng được đặt ra trên bàn làm việc tại số 10 đường Downing. Vào phút chót, Churchill và Eden vẫn chọn giải pháp ngoại giao ở Genève. Điều này cũng khiến Dulles không thể không đi về hướng hồ Leman.
Ngày 10/10/1954, khi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai vẫn còn đang trên đường từ Bắc Kinh đến Moskva, thì Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles đã đáp máy bay từ Washington đến London để gặp lãnh đạo nước Anh, thương lượng về lập trường của hai bên tại Hội nghị Genève.
Đang ở “ngàn trượng cao”, vẻ mặt của Foster Dulles buồn bã và nghiêm trọng, không thể đoán biết. Tính cách Foster Dulles sống nội tâm, trên vũ đài ngoại giao quốc tế thường được gọi là người có văn hóa giáo dục nhưng cũng lạnh lùng khốc liệt. Ông rất tự tin về những chính sách ngoại giao của mình. Cho dù như thế, kết quả của nỗ lực ngoại giao đến Anh và Pháp như thế nào, chính ông cũng không dám chắc.
John Foster Dulles sinh ngày 25/2/1888 tại thủ đô Washington, Mỹ, trong một gia đình mục sư. Năm 1905 thi vào đại học Princeton. Năm 1907, vì nói lưu loát tiếng Pháp, Dulles lúc đó 19 tuổi đã được chọn tham gia Hội nghị quốc tế La Hay (The Hague) lần 2, đảm nhiệm chức Thư ký đoàn đại biểu Chính phủ triều Thanh Trung Quốc, giúp đỡ xử lý các vấn đề lễ tân và phiên dịch. Hội nghị La Hay đã bước đầu giúp Dulles đi theo con đường ngoại giao, cũng là lần đầu tiếp xúc với các vấn đề về Trung Quốc. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời của ông ta.
Năm 1908-1909, khi Dulles đang theo học Thạc sĩ triết học, ông đã có hứng thú với luật pháp, sau đó lại đến Học viện Sorbon tại Paris, Pháp, để học luật quốc tế. Học xong về nước, Dulles trở lại Washington, tiếp tục học tại Học viện luật đại học George Washington. Đến năm 1911, ông ta đỗ cử nhân luật, sau đó trải qua cuộc thi tư cách luật sư toàn nước Mỹ, đã trở thành luật sư.
Sự nghiệp chính trị của Foster Dulles có thể nói là rất thuận buồm xuôi gió. Năm 1917, Dulles được tổng thống [Woodrow] Wilson cử đến Panama và Costa Rica thực hiện sứ mệnh ngoại giao. Sau đó không lâu, ông được đề bạt làm thượng tá hải quân, khi chiến tranh thì lại làm ở Cục thương vụ, đảm nhiệm vai trò tình báo quân sự trên phương diện kinh tế. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ thứ nhất kết thúc năm 1918, Dulles với tư cách là cố vấn đoàn đại biểu Mỹ đã đi Paris để tham gia hội nghị hòa bình. Năm 1919, sau khi hòa ước Versailles được ký kết, ông đảm nhiệm vai trò đại diện Mỹ trong Ủy ban bồi thường sau chiến tranh.
Những năm 20 của thế kỷ XX, Dulles lại trở lại với nghề luật sư và rất nhanh chóng trở thành một trong những luật sư quốc tế nổi tiếng nhất nước Mỹ, đồng thời ông đảm nhiệm cố vấn tài chính cho Chính phủ Anh và Pháp. Thu nhập cá nhân được liệt vào một trong mười luật sư có thu nhập cao nhất thế giới.
Năm 1939, Dulles xuất bản cuốn sách “Chiến tranh, hòa bình và những thay đổi”. Tác giả sau khi nghiên cứu nguyên nhân gây ra chiến tranh và những nỗ lực của con người chống lại chiến tranh, đã đưa ra kết luận: cách thành công để thoát khỏi chiến tranh nhất thiết phải là biện pháp có thể chuyển thành “diễn biến hòa bình”. Quan điểm này đã gây được sự chú ý của giới nhân sĩ chính trị cao cấp Mỹ. Năm 1944, Dulles trở thành Thống đốc bang New York. Từ tháng Tư đến tháng 6 năm 1945, ông chủ trì Đại hội sáng lập LHQ tại San Francisco, và được cử làm cố vấn đoàn đại biểu Mỹ.
Năm 1949, do nghị sĩ bang New York là Robert Wagner xin từ chức sau khi bị bệnh lâu ngày, Dulles đã trở thành nghị sĩ Quốc hội bổ khuyết vào ghế của Wagner. Ông ta đã từ bỏ sự nghiệp luật sư của mình để chuyên tâm theo đuổi sự nghiệp chính trị. Không lâu sau, cuốn sách nổi tiếng “Chiến tranh và hòa bình” lại ra đời. Quyển sách này đã cho thấy Dulles phản đối một cách cực đoan tư tưởng triết học và chính trị của chủ nghĩa cộng sản. Ông ta cho rằng Liên Xô là kẻ thù lớn nhất của thế giới phương Tây, chủ trương “ ngăn chặn” thế tiến công của Liên Xô.
Dù xét từ khía cạnh nào thì Dulles cũng đều là nhân vật nổi bật trên chính trường Mỹ. Ngày 21/1/1953, tân Tổng thống Mỹ Eisenhower đã bổ nhiệm ông làm ngoại trưởng. Eisenhower và Dulles tuy có hoàn cảnh xuất thân khác nhau, trải qua những thăng trầm khác nhau, tính tình hoàn toàn đối lập, song Dulles lại được Eisenhower tin tưởng. Dulles tự nói rằng mình đã nghiên cứu rất tỉ mỉ sâu sắc luật quốc tế, dù đao to búa lớn thế nào cũng không vượt ra khỏi luật. Mọi người không thể đoán biết được rằng, ông tuyệt đối trung thành với tổng thống, luôn luôn thông báo trước những buổi diễn thuyết quan trọng hay những cuộc gặp quan trọng của mình cho tổng thống, để tổng thống đưa ra những quyết định cuối cùng. Vì thế, mọi người thường đặt câu hỏi rằng không biết trong những chính sách ngoại giao của Mỹ thì có bao nhiêu là của Dulles, bao nhiêu là của Eisenhower?
Sau khi đảm nhiệm chức vụ Ngoại trưởng, Dulles trở thành người cổ vũ tích cực cho “chiến tranh lạnh”, ra sức chủ trương những thủ đoạn tiến công phi vũ trang như phong tỏa kinh tế, cô lập chính trị đối với phe Liên Xô để tiến hành “ngăn chặn”. Năm 1954, tư tưởng “báo thù trên quy mô lớn” của Dulles dần dần hình thành, chủ trương ở tất cả các nơi trên thế giới, cứ phàm là nơi Liên Xô tiến công thì phải công kích lại, “làm cho những kẻ xâm lược tiềm ẩn biết rõ rằng xâm lược chính là đạt được không bằng mất đi”.
Về vấn đề Đông Dương, quan điểm trên của Dulles được thể hiện rất rõ ràng. Đối với việc có nên sử dụng vũ lực hay không, ông còn đi xa hơn cả Eisenhower. Quan điểm này giống với quan điểm của [Arthur] Redford là Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng, thuộc “phái diều hâu”.
Ngày 11 tháng Tư, Dulles đến London, ngay tối hôm đó sau bữa ăn tối, ông ta đã có cuộc hội đàm với Ngoại trưởng Anh Eden tại Đại sứ quán Mỹ ở Anh. Eden tỏ ra như trong lòng có gai đâm. Trước đó, ngày 5 tháng Tư Churchill đã nhận được thư của Eisenhower. Eden thông báo cho Đại sứ Anh tại Mỹ là Roger Makins rằng không được phát tán thông tin về vấn đề nước Anh có tham gia “Liên minh hành động” hay không.
Eden đã nhận ra được xuất phát điểm của nhân vật thuộc phái diều hâu Mỹ là muốn đe dọa gây chiến tranh với Trung Quốc để bắt Trung Quốc ngừng việc viện trợ cho Việt Nam. Eden cho rằng giả thiết này vốn không có căn cứ. Nếu nước Mỹ sử dụng không quân để can thiệp vào chiến dịch Điện Biên Phủ, thậm chí oanh tạc sân bay quân dụng miền Nam Trung Quốc, có thể sẽ đạt được tác dụng uy hiếp nào đó, nhưng còn lâu mới đạt được việc ngăn chặn Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam mà có khi còn ngược lại. Eden khẳng định rằng, nếu việc uy hiếp quân sự Trung Quốc không thành, thì “liên minh quân sự” chỉ có hai con đường có thể đi: một là bỏ qua và không vẻ vang gì; hai là phát động chiến tranh trên quy mô lớn với Trung Quốc.
Eden cho rằng: “đối với Trung Quốc, một là thực hiện phong tỏa, hai là oanh tạc đường giao thông trong và ngoài Trung Quốc, cả hai phương án này đang được Mỹ xem xét. Nhưng kết quả nghiên cứu của các tham mưu quân đội Anh là: nếu tiến hành can thiệp quân sự, nếu so sánh với tình hình chiến tranh Triều Tiên, thì hiệu quả không có gì lạc quan. Ngược lại, làm như vậy sẽ tạo cho Trung Quốc cái cớ để lãnh đạo Trung Quốc đạt được điều ước hòa hảo với Liên Xô, dẫn đến sự can dự của Liên Xô, từ đó sẽ gây nên chiến tranh thế giới. Vì thế, không thể để quân đội Anh tham gia vào chiến tranh ở Đông Dương. Thời cơ để tiến hành chiến tranh cảnh cáo Trung Quốc còn lâu mới chín muồi. Nước Anh nếu có thể xúc tiến đàm phán ở Hội nghị Genève, để đạt được một hiệp định phân trị Việt Nam, thì so với kết quả nếu tiến hành can thiệp quân sự còn tốt hơn rất nhiều. Kết luận của Eden rất rõ ràng.
Sau khi đến London, Dulles nói với Eden rằng sự ủng hộ đối với Pháp không duy trì được nữa, cả về chính trị và quân sự đều không duy trì được. Nếu mất Đông Dương, thì tiếp theo đó Thái Lan cũng sẽ chịu ảnh hưởng, sau đó là Malaysia, Miến Điện [Burma, nay là Myanmar], Indonesia theo hiệu ứng dây chuyền. Hiện tại, chiến dịch Điện Biên Phủ đã đi vào giai đoạn cuối, quân đội Mỹ cho rằng cơ hội thành công của Pháp tại Điện Biên Phủ rất nhỏ. Can thiệp phi quân sự không thể làm thay đổi tình thế. Vì vậy, nước Mỹ đặc biệt hi vọng Anh ủng hộ các chính sách Đông Nam Á của Mỹ, Anh sẽ tích cực tham gia SEATO đang được lên kế hoạch thành lập, và phát huy tác dụng của mình. Thứ hai, Mỹ hi vọng Anh ủng hộ thái độ của Mỹ đối với chiến tranh Điện Biên Phủ, ủng hộ Mỹ một khi quyết định sử dụng chính sách can thiệp quân sự thì sẽ duy trì “liên minh hành động” với Mỹ. Tức là, Mỹ đã chuẩn bị sử dụng cả không quân và hải quân để tiến hành oanh toạc quy mô lớn nhằm vào các trận địa của quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ. Nước Anh tốt nhất là có thể cử một bộ phận không quân tham gia, cho dù chỉ là mang tính tượng trưng.
Dulles nhấn mạnh, chuyện này một mình nước Mỹ làm không được, nhất thiết phải có điều kiện tiên quyết là hai nước tham gia. Một là Pháp cho Đông Dương độc lập thật sự, hai là Anh phải tham gia. Chỉ cần Anh đồng ý, Quốc hội Mỹ sẽ đồng ý cho tổng thống tiến hành can thiệp quân sự trực tiếp vào Đông Nam Á.
Trả lời của Eden vẫn rất điềm tĩnh nho nhã. Eden nói ông vẫn còn nghi ngờ rằng Quốc hội Mỹ có đồng ý phái quân tiến đánh Việt Nam sau khi vừa đình chiến ở Triều Tiên? Nước Anh rất có hứng thú với SEATO, nhưng không cho rằng tất cả các quốc gia ở Đông Nam Á đều có hứng thú với nó. Ví dụ như: Ấn Độ, Pakistan, Miến Điện đều chưa nhất thiết phải tham gia SEATO.
Thứ hai, Eden cho rằng, một khi tiến đánh Điện Biên Phủ, sử dụng hải quân, không quân rồi, ai có thể đảm bảo rằng chiến tranh chỉ hạn chế tại đó mà không điều động thêm bộ binh?.
Eden thẳng thắn nói với Dulles, đe dọa quân sự không giúp gì cho việc giải quyết vấn đề Đông Dương, vì thế sẽ vô tác dụng. Ông nói: “Tôi không thấy được có bất kỳ đe dọa nào có thể làm cho Trung Quốc nhẫn nhục phục tùng, mà từ bỏ liên minh với Việt Nam”. Vì thế, Anh không thể tiếp nhận kiến nghị thành lập liên minh Anh, Pháp, Mỹ do Mỹ đề xuất để giải quyết vấn đề Đông Dương. Anh cũng sẽ không xem xét đến hành động quân sự trong vấn đề Đông Dương. Eden nói thêm với Dulles rằng những điều ông nói ở trên không chỉ là ý kiến của riêng ông, mà là ý kiến nhất trí của kỳ họp Nội các Anh hồi đầu tuần. Kỳ họp cho rằng trước mắt, nên tránh tất cả những đối kháng quân sự giữa phương Đông và phương Tây.
Dulles trả lời rằng bản thân ông cho rằng Đông Dương là nơi có thể can thiệp vũ trang, Quốc hội Mỹ có thể sẽ trao quyền cho tổng thống sử dụng hải quân và không quân, thậm chí cả lục quân để tiến vào Đông Dương, tiền đề chỉ là nước Anh có đồng ý cùng tham gia hay không.
Eden nói ông khó có thể tin hai điểm mà Dulles nói. Các tham mưu trưởng quân đội Anh đều nói với ông, chỉ dùng không quân và hải quân tiến vào chiến trường Việt Nam cũng không giải quyết được vấn đề. Eden nhấn mạnh, dư luận cho rằng trước khi hội nghị Genève diễn ra thì không thể để chiến tranh leo thang.
Ngày 12, Dulles và Eden hội đàm một ngày, đến chiều tối đã ký được một tuyên bố liên minh. Dulles cuối cùng cũng đã thuyết phục được Anh tham gia nhiều hơn vào các hoạt động nhằm thành lập SEATO, “xây dựng một liên minh phòng thủ”.
Ngày 13, Dulles bay sang Paris. Pháp tuy rất hy vọng có thể nhanh chóng giải quyết vấn đề Đông Dương, nhưng cũng không hứng thú với đề xuất liên minh do Dulles đưa ra. Nội các Pháp đã quyết định, về vấn đề “ liên minh” thì phải xem xét kết quả của Hội nghị Genève. Pháp cũng bi quan về khả năng Anh có thể tham gia “liên minh hành động”. Ngoại trưởng hai nước Pháp, Mỹ đã liên tiếp đàm phán hai ngày nhưng không đạt được kết quả. Dulles lập tức bay về Mỹ.
Tại chiến trường Điện Biên Phủ ở Việt Nam, hơn 10.000 quân Pháp đã bị 40.000 quân Việt Nam bao vây chặt. Do sân bay Điện Biên Phủ hoàn toàn nằm trong phạm vi bị trọng pháo của quân đội Việt Nam trực tiếp khống chế uy hiếp, nên việc quân Pháp tìm cách thoát khỏi thế bao vây tại Điện Biên Phủ bằng đường không từ lâu đã không thể thực hiện được. Nhưng tìm đường rút lui trên bộ lại càng không có khả năng, vì tất cả các vùng đất xung quanh đã bị quân Việt Nam khống chế, địa thế toàn núi cao trùng điệp nên quân tiếp viện cũng không thể ứng cứu. Điện Biên Phủ ngay từ đầu đã là nước cờ chết của [Henri] Navarre - Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp.
Bắt đầu từ giữa tháng Tư, không quân Mỹ trực tiếp can dự vào chiến dịch Điện Biên Phủ. 24 máy bay vận tải C-19 của quân Mỹ hầu như ngày nào cũng bay từ Hà Nội đến Điện Biên Phủ tiếp viện từ trên không. Ngoài ra, còn một số máy bay ném bom B-26 do phi công Mỹ lái đã oanh tạc trận địa quân Việt Nam tại Điện Biên Phủ. Những phi công này, núp bóng “dân thường”, được điều từ Đài Loan sang chiến trường Việt Nam, nhưng trên thực tế họ hoàn toàn là binh lính.
Do được điều động, nên đại đa số quân nhân Mỹ không hiểu tiếng Pháp, mà những người nói được tiếng Anh trong quân đội Pháp lại ít như sao buổi sớm. Tại chiến trường Điện Biên Phủ, vấn đề giao lưu ngôn ngữ giữa Pháp và Mỹ là trở ngại lớn. Quân Mỹ thả dù vào Điện Biên Phủ không nghe hiểu những điều động và sắp xếp của chỉ huy chiến trường Pháp, đành phải dựa vào bản đồ hoặc phán đoán của mình để tiếp tế bằng hàng không. Rất nhiều đồ tiếp tế rơi vào trận địa quân Việt Nam nằm ngoài vòng vây trận tuyến. 12 giờ ngày 12 tháng Tư, một máy bay ném bom B-26 do một phi công Mỹ lái đã thả năm quả bom vào trận địa phòng ngự của Pháp, phá tan tành trận địa. Cùng ngày, lúc 2 giờ 25 phút chiều, một máy bay ném bom của Mỹ lại thả bom bên ngoài sân bay Điện Biên Phủ, làm rất nhiều quân Pháp thiệt mạng, và hơn 1.000 quả đạn pháo 105mm nổ tung.1
Trong Chính phủ Mỹ, vẫn có nhiều người ủng hộ Dulles, đứng đầu là Phó Tổng thống [Richard] Nixon. Ngày 16/4, Nixon đã tham gia bữa tiệc của Hiệp hội các nhà biên tập báo chí Mỹ và phát biểu. Ông nói: “người Việt Nam2 thiếu khả năng khống chế cuộc chiến tranh này. Bọn họ đến bản thân còn không kiểm soát được. Nếu Pháp rút quân khỏi đó, thì không đầy một tháng, Việt Nam sẽ rơi vào tay cộng sản”. Nixon cho rằng muốn huấn luyện quân đội Nam Việt thì cần phải có thời gian, nước xa không thể cứu được lửa gần. Vậy phải làm thế nào? Thứ nhất, đây không chỉ là vấn đề vật chất, tình hình đã khác so với 4 tháng trước. Hiện tại cần nhiều quân hơn nữa chiến đấu ở đó. Vấn đề là số quân này lấy từ đâu? Pháp thì không được rồi. Họ đã ngán đến tận cổ cuộc chiến tranh này, cũng giống như chúng ta đối với Triều Tiên.” Nixon chỉ ra rằng, Mỹ nên tham gia Hội nghị Genève, từ đó thay thế Pháp tham gia “công việc” ở Đông Dương.
Có đến mức phải dùng đến quân đội hay không? Nixon nói: “Dư luận cho rằng Mỹ không nên điều quân đội tới đó, nhưng nếu chính phủ cho rằng không thể tránh khỏi việc điều động quân tới đó thì chính phủ sẽ nhìn thẳng vào hiện thực, phải điều quân.”
Những phát biểu này lập tức làm dấy lên làn sóng lớn. Các nghị sĩ quốc hội liên tiếp đưa ra các chất vấn. Ngày 17, Eisenhower đang ở Georgia yêu cầu thư ký báo chí của ông là [James C.] Hagerty liên lạc với Thứ trưởng ngoại giao [Bedell] Smith, yêu cầu Smith truyền đạt đến Nixon rằng: Phó Tổng thống không có quyền nói như vậy.
Sau khi Dulles vội vàng về nước, ngày 20 tháng Tư ông ta cho mời các đại sứ Australia, Anh, Pháp, Canada, Lào, New Zeland, Philippines, Thái Lan và Chính phủ Bảo Đại - Việt Nam đến thương lượng về “liên minh hành động”. Đối với việc này, Thủ tướng Anh Churchill và Phó Thủ tướng Eden nhất trí chỉ thị Đại sứ Anh tại Mỹ là Roger Makins không được tham gia hội nghị. Do thiếu vị trí của Anh nên hội nghị đại sứ 8 nước không thành.
Như vậy là Dulles đành phải tham gia Hội nghị Genève. Ngày 23 tháng Tư, Dulles cùng Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng, Thượng tướng hải quân Redford bay đến Pháp, để tham gia Hội nghị Bộ trưởng Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) tại đây. Dulles dừng lại ở Pháp 3 ngày, sau đó trực tiếp đi Genève.
Ngay ngày đầu đến Paris, Dulles đã hội kiến Ngoại trưởng Australia [Richard] Casey đang thăm Pháp. Dulles vừa mới gặp mặt đã nói với Casey rằng, tình hình Đông Dương rất nguy cấp, sức chống cự của Pháp không lâu nữa sẽ hết. Dulles yêu cầu Australia và Anh ủng hộ Mỹ, nếu có thể tham gia “liên minh hành động” là tốt nhất. Nhà ngoại giao lão thành Casey tỏ rõ rằng, nhìn chung ông ủng hộ nước Mỹ, nhưng đối với các chính sách châu Á, Thái Bình Dương thì còn có cách nghĩ riêng của mình.
Sáng 24, Dulles hội đàm với Bidault, cuộc hội đàm bắt đầu không lâu thì Bidault đưa cho Dulles một bản điện báo vừa mới đến của Navarre. Ý kiến của Navarre là nếu không có sự viện trợ trực tiếp của không quân với số lượng lớn thì Điện Biên Phủ chắc chắn không thể cố thủ được. Nếu quân đội Việt Nam chiếm được Điện Biên Phủ, thì “ngoảnh mặt một cái”, trước khi mùa mưa đến sẽ uy hiếp vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Bidault nói, nếu rơi vào tình huống đó, nước Pháp buộc phải tìm cách đình chiến nhanh chóng ở Đông Dương, dù chỉ là đình chiến tạm thời. Còn nước Mỹ có thể thay đổi quyết định ngày 5 tháng Tư hay không, để một khi ngừng chiến không được thì vào giờ phút mấu chốt đó có thể sử dụng không quân để giúp đỡ quân viễn chinh Pháp?
Dulles biểu thị, chuyện này đối với phía Mỹ không quá khó khăn. Quan trọng là thuyết phục được Anh phối hợp nhất trí cùng với Mỹ, chỉ có như vậy quốc hội Mỹ mới có thể phê chuẩn.
Chiều cùng ngày, lúc 3h30, tại Đại sứ quán Pháp ở Mỹ, Dulles và Redford gặp mặt Eden vừa từ London bay tới.
Dulles nói với Eden: quân Pháp tại Điện Biên Phủ không thể cố thủ được nữa, trừ phi Anh, Mỹ liên minh hành động, nếu không nước Pháp sẽ phải thỏa hiệp. Tiếp đó, Dulles đưa ra điện báo cầu cứu từ Sài Gòn của Navarre - Tư lệnh quân viễn chinh Pháp, đọc một lượt cho Eden nghe. Dulles nhấn mạnh thêm lần nữa, nhiều khả năng Điện Biên Phủ chỉ có thể cố thủ thêm ba hoặc bốn ngày nữa. Trong tình hình này, nếu Anh đồng ý cùng hành động với Mỹ, Tổng thống Eisenhower sẽ tìm được sự phê chuẩn của quốc hội Mỹ cho sử dụng lực lượng không quân. Đương nhiên, “tiền đề là liên minh hành động”.
Eden hỏi, cụ thể mà nói, nước Mỹ hy vọng đạt được gì ở Anh?
Redford đáp rằng, cần phải hiệp đồng quân sự nhanh chóng, ông kiến nghị nước Anh phái một hạm đội tàu chiến hướng về vịnh Bắc Bộ.
Eden chỉ ra cho Dulles và Redford thấy rằng, về thái độ của Pháp, giữa những điều mà Chính phủ Mỹ nói và thái độ của Chính phủ Pháp đã thể hiện nhiều lần với Anh là không giống nhau. Ấn tượng của Anh là Pháp vẫn còn có thể tiếp tục duy trì sự hiện diện ở Đông Dương. Ông khẳng định với hai vị khách Mỹ rằng, dựa vào lập trường kiên định của Anh, ông không thể phản hồi lập tức về London những vấn đề Đông Dương đã được thảo luận với Churchill. Đồng thời ông cho rằng, “việc đề xuất đưa không quân vào can thiệp không thể thay đổi được cục diện ở đó.”
Tiếp đó, Eden hỏi, nước Mỹ có cách nhìn như thế nào về ảnh hưởng của Trung Quốc với tình hình Đông Dương?
Redford nói, nếu không quân Mỹ tham gia chiến tranh Đông Dương, Trung Quốc cũng sẽ không tham gia vào cuộc chiến này, vì khả năng tác chiến của không quân Trung Quốc còn rất thấp. Còn về lực lượng lục quân thì cho đến này vẫn không thấy quân đội Trung Quốc ở Đông Dương. Ông còn nói, nếu không quân Mỹ tiến vào Đông Dương, Liên Xô cũng sẽ không hành động, vì hiện nay họ không muốn lại tiếp tục tham gia một lần đại chiến thế giới.
Eden hỏi Redford: “Có phải ông đã có phương án cụ thể?”
Redford trả lời: “chi viện không thể kéo dài”. Tốt nhất là nước Anh nên tham gia, phái không quân của mình từ Malaysia sang Đông Dương. Vì một khi Điện Biên Phủ thất thủ, thì sau vài ngày tình hình Đông Dương cũng sẽ khó có thể thu xếp được, ý chí đánh Pháp của các dân tộc sẽ lên đến cao trào.
Eden nói: “Nước Pháp từ trước đến nay chưa nói với chúng tôi rằng tình hình lại tuyệt vọng như vậy. Ngược lại, sáng sớm nay tôi nhận được báo cáo của Đại sứ Anh tại Mỹ nói Chính phủ Pháp thông báo với ông rằng, tình hình Điện Biên Phủ rất nguy cấp, nhưng quân đội vẫn cố thủ đến cùng. Như vậy, tướng Redford, ông có cho rằng liên minh hành động không quân Anh-Mỹ sẽ phát huy được tác dụng quyết định, giải cứu được Điện Biên Phủ hay không? Nếu làm như vậy, Trung Quốc sẽ có phản ứng như thế nào? Lúc này, xin lưu ý rằng điều ước hữu nghị giữa hai nước Liên Xô Trung Quốc vẫn tồn tại. Vì thế, vẫn còn tồn tại một khả năng như thế này: tức là nếu chúng ta đánh vào Đông Dương, có thể sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến tranh có quy mô lớn hơn.”
Redford đáp: “Tôi cho rằng Trung Quốc sẽ không tham gia chiến tranh Đông Dương. Nếu không quân Trung Quốc tham gia, không quân Mỹ sẽ oanh tạc sân bay của họ.”
Eden nói rõ rằng Mỹ thiếu sức thuyết phục về ý tưởng sử dụng quân sự một cách giới hạn để tấn công. Kinh nghiệm cho thấy, chỉ cần có hành động không quân trên quy mô lớn, thì chiến tranh mặt đất cũng sẽ theo đó mà tiếp diễn, quy mô chiến tranh sẽ không thể khống chế được.
Ngoại trưởng hai nước Mỹ, Anh không có trở ngại gì về ngôn ngữ nên nói rất nhanh, chỉ cần 30 phút là đã thảo luận xong. Tiếp ngay sau đó là hội đàm ba nước Mỹ, Anh, Pháp.
Dulles phát biểu trước tiên: “Hiện tại là thời điểm vô cùng quan trọng, cấp thiết. Tóm lại là nếu Điện Biên Phủ thất thủ, Chính phủ Pháp nên dùng chính sách gì với Đông Dương? Tiếp đó, ông đọc bức điện báo vừa nhận được từ Eisenhower, kèm theo điện báo là thư của Thủ tướng Pháp, yêu cầu Chính phủ Pháp tuyên bố công khai rằng cho dù Điện Biên Phủ thất thủ thì nước Pháp cũng sẽ đánh tiếp ở Đông Dương.
Dulles nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của Điện Biên Phủ, cho rằng một khi thất thủ, sẽ làm thay đổi tình thế tại miền Bắc Việt Nam. Về ý kiến của thủ tướng Pháp và của cá nhân, Bidault nói cả hai người đều hy vọng sẽ đánh tiếp. Nhưng ông không thể bảo đảm sự phản ứng của cả nước Pháp đối với việc này. Tại thời điểm cấp thiết này, ông trịnh trọng yêu cầu hai nước Anh, Mỹ nỗ lực hợp tác, sử dụng tất cả các biện pháp có thể để cứu vãn cục diện nguy cấp ở Điện Biên Phủ. Nếu không, lợi ích của “thế giới tự do” sẽ bị tổn hại.
Khi nói những lời này, giọng nói của Bidault đã lạc đi.
Eden ý thức được rằng đây là thời khắc đưa ra những quyết sách quan trọng. Ông tóm tắt lại những lời mà vừa nãy đã nói với Dulles. Sau đó biểu thị nhượng bộ. Sự tình đã đi đến thời điểm cấp thiết như vậy, ông sẽ thay đổi kế hoạch, lập tức trở về London để báo cáo với Churchill. Đề nghị Dulles và Bidault đợi hồi âm.
Hội nghị đã kết thúc, Dulles lập tức đi gặp thủ tướng Pháp Laniel. Thủ tướng Laniel nhấn mạnh với Dulles rằng, quân Pháp vẫn cho rằng chỉ cần có viện trợ không quân Mỹ với quy mô lớn là có thể giải cứu Điện Biên Phủ. Hơn nữa, quân chủ lực Việt Nam lại tập trung bên ngoài Điện Biên Phủ. Đây là một cơ hội thuận lợi để đánh bằng không quân.
Sau khi hội kiến với Laniel, Dulles nói với các nhà báo rằng, chính phủ Pháp đã chính thức đề xuất với Mỹ, yêu cầu Mỹ “can thiệp trực tiếp”.
Eden sau khi rời khỏi hội nghị đã gửi điện báo cho Churchill: “Hiện nay đã rất rõ ràng. Chúng ta nhất thiết phải đưa ra một quyết định vô cùng quan trọng, tức là nói với người Mỹ, liệu chúng ta có chuẩn bị cùng họ tham dự hành động quân sự hay không. Sự việc trọng đại, tôi sẽ trở về London tối nay để bàn bạc với các đồng nghiệp.”
10 giờ 20 tối cùng ngày, sau khi đáp máy bay về đến London, Eden đã trực tiếp đi ô tô đến số 10 phố Downing, nơi đặt Văn phòng của Churchill. Trong khi thảo luận, ý kiến của Churchill và Eden vô cùng nhất trí, đều cho rằng nước Anh nên từ chối nghĩa vụ quân sự ở Đông Dương. Ngược lại, phải nghĩ mọi biện pháp để hội nghị Genève sắp diễn ra đạt được thành quả.
Churchill đã lập tức phê chuẩn tám lập trường cơ bản của nước Anh với vấn đề Đông Dương, do Eden vừa nghĩ ra:
“Tuyên bố London” mà hai nước Anh, Mỹ vừa công bố không có nghĩa là nước Anh sẽ lập tức tham gia vào mọi cuộc thương lượng để xem xét khả năng liên minh can thiệp vào chiến tranh Đông Dương.
Trước khi Hội nghị Genève diễn ra, lực lượng vũ trang Anh không gánh vác hành động tại Đông Dương.
Chúng tôi sẽ ủng hộ hết sức về mặt ngoại giao đối với đoàn đại biểu Pháp tại Hội nghị Genève, tranh thủ đạt được một phương án giải quyết thể diện.
Chúng tôi có thể cam kết nếu Hội nghị Genève đạt được một phương án giải quyết, chúng tôi sẽ tham gia các nỗ lực chung để thực hiện hiệp nghị này, và sẽ tham gia liên minh phòng vệ tại Đông Nam Á cùng với Anh, Mỹ như đã trình bày trong “Tuyên bố London”.
Chúng tôi hy vọng hiệp nghị đạt được tại Genève có thể được nhiều nước liên hợp thực hiện, và sẽ ảnh hưởng đến phần lớn khu vực Đông Dương.
Nếu tại Hội nghị Genève không đạt được bất kỳ hiệp nghị nào, chúng tôi sẽ cùng thương lượng với các nước liên minh về các giải pháp liên hợp hành động nên sử dụng.
Hiện tại, chúng tôi không thể đưa ra cam kết, nếu Hội nghị Genève không đạt được hiệp nghị chấm dứt tình trạng đối địch tại Đông Dương, nước Anh sẽ áp dùng biện pháp gì.
Hiện nay chúng tôi phải thương lượng với Chính phủ Mỹ, một khi một phần hay toàn bộ Đông Dương bị mất, cần phải sử dụng các biện pháp bảo vệ các nước Đông Nam Á, trong đó bao gồm Thái Lan và cả Malaysia.3
Ngày 25 tháng Tư là ngày chủ nhật. Khoảng 11 giờ trưa, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Churchill, Nội các Anh họp khẩn cấp, nghe Eden báo cáo tình hình hội đàm với Ngoại trưởng Mỹ và Pháp về các vấn đề Đông Dương và những vấn đề sắp diễn ra tại Hội nghị Genève. Các tướng lĩnh quân đội Anh phát biểu đầu tiên, nhận định rằng Điện Biên Phủ đã không thể cứu được cho dù có tăng thêm bao nhiêu không quân cũng vô ích.
Tiếp đó Eden phát biểu. Ông cho rằng nước Anh nên kiên quyết giữ vững lập trường, tức là, sử dụng hành động quân sự cũng không làm cho Hội nghị Genève có kết quả. Biện pháp có hiệu quả duy nhất là đạt được hiệp định ngừng chiến tại Hội nghị Genève.
Churchill đã kết luận: “Ý kiến của Eden là chính xác.”
Hội nghị nhất trí thông qua nguyên tắc lập trường tám điểm do Eden đưa ra, tuyên bố nước Anh không có ý định tham gia vào bất kỳ hành động quân sự nào tại Đông Dương, cũng không có ý định gánh vác bất kỳ nghĩa vụ quân sự nào trước khi Hội nghị Genève diễn ra. Chỉ có một điểm mà nước Mỹ có thể hy vọng là nước Anh đồng ý tham gia một số hội đàm quân sự để bảo đảm “an ninh” ở Đông Nam Á.
Hoạt động ngoại giao đã đạt đến mức cao trào nhất. Hội nghị kết thúc, Eden trở về phòng làm việc của mình tại Bộ ngoại giao, lúc 2 giờ 20, đại sứ Pháp tại Anh là [René] Massigli đến đưa cho ông một bức thư của Dulles và Bidault. Trong thư nói, Điện Biên Phủ vô cùng nguy cấp, trừ phi không quân Mỹ trong mấy ngày tới oanh tạc trận địa quân Việt Nam với quy mô lớn, nếu không Điện Biên Phủ sẽ thất thủ.
Đại sứ Pháp chỉ ra cho Eden rằng, Chính phủ Mỹ đã đưa ra bản “tuyên bố chung”, dự tính mời Pháp, Anh, Philippines và ba nước Đông Dương cùng ký kết, tuyên bố vì lợi ích chung những quốc gia này đều quan tâm đến tình thế ngày càng xấu đi ở Đông Dương, và sẽ nhất trí sử dụng những hành động quân sự tương ứng. Nếu nước Anh đồng ý ký kết, Tổng thống Mỹ sẽ yêu cầu Quốc hội phê chuẩn trao quyền. Một khi được phê chuẩn, không quân Mỹ sẽ tiến đánh trận địa Điện Biên Phủ ngày 28 tháng Tư.
Đại sứ Pháp nói, nếu Anh từ chối “liên minh hành động”, không cùng Mỹ và Pháp ký kết tuyên bố này, một kết quả có tính tai họa sẽ đến với Pháp.
Trước tình hình cấp bách như vậy, Churchill và Eden lại vội vàng triệu tập cuộc họp Nội các vừa mới giải tán không lâu vào lúc bốn giờ chiều, thảo luận tin tức mà Đại sứ Pháp vừa mang tới. Cuộc họp nhất trí quyết định, từ chối phục tùng nước Mỹ ký bản tuyên bố mà đại sứ Pháp vừa nói, đồng thời yêu cầu Eden trước khi đi dự Hội nghị Genève nói với Dulles và Bidault lập trường rõ ràng của Anh.
Khi Eden đáp máy bay xuất phát thì Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng Mỹ Redford bay từ Pháp đến London, mang theo lời nhắn của Eisenhower đến Churchill. Redford bản thân cũng hy vọng được nói chuyện trực tiếp với Churchill.
Churchill đã gặp Redford, cùng ăn tối. Ông giải thích với Redford rằng: “tình hình xảy ra tại vùng rừng núi Đông Nam Á xa xôi không thể làm ảnh hưởng đến phán đoán của nhân dân Anh một cách dễ dàng như vậy, mặc dù Anh hiểu rất rõ Mỹ có căn cứ quân sự quan trọng tại Đông Nam Á, hơn nữa lại vừa đánh trận với Trung Quốc.” Churchill nói thêm, năm 1947, Anh đã quyết định bỏ đi các vùng thuộc địa mà nước này đã đô hộ hơn 250 năm là Ấn Độ, Miến Điện. Nếu đã như vậy thì Anh tại sao lại ủng hộ nước Pháp tiếp tục chiếm lĩnh Đông Dương?4
Tối hôm đó, Redford mang bộ mặt u ám lên máy bay trở lại Washington.
1 Bernard B. Fall, Hell in a very Small Place – The Siege of Dien Bien Phu, Da Capo Press Inc., tr. 241-242.
2 chỉ miền Nam Việt Nam [Đúng ra là chính quyền Bảo Đại], TG.
3 Sir Anthony Eden, sđd, tr.116-118.
4 John Prados, sđd, tr. 122-126.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:49:19 GMT 9
CHƯƠNG 8 Hai phe lớn đều có nguyện vọng đàm phán
Eden lại đến Genève, chính là vì muốn hoạch định cục diện thế giới mới sau chiến tranh. Hồ Leman vẫn như xưa, nhưng thế giới xung quanh nó đã thay đổi, đối thủ đàm phán cũng thay đổi. Ông hướng mắt đến Vạn Hoa lĩnh [lĩnh=đồi], chú ý đến Thủ tướng Chu Ân Lai, người dẫn đầu đoàn đại biểu Trung Quốc tham dự Hội nghị Genève.
Chiều 25 tháng Tư, sau khi tham gia cuộc họp nội các khẩn cấp, Eden dẫn những trợ lý của mình rời London. Cuộc họp đã giao cho Eden một sứ mệnh - đó là trước khi đến Genève, thông báo cho Ngoại trưởng Pháp Bidault và Quốc vụ khanh Mỹ Dulles lập trường của Chính phủ Anh. Eden có ý không nói thẳng quyết định của chính phủ cho Đại sứ Pháp tại Anh, điều này là muốn ngầm cho Pháp và Mỹ biết rằng: quyết sách chiến lược quan trọng như vậy nên do người đứng đầu chính phủ Mỹ trực tiếp thông báo cho nước Anh.
Tùy tùng của Eden không nhiều, vốn định đáp máy bay của Pháp bay đến Genève. Nhưng không ngờ rằng, Churchill được biết những ngoại trưởng của các nước lớn khác đều đáp chuyên cơ đi Genève, nên lập tức kiên quyết điều một chiếc chuyên cơ không quân hoàng gia để Eden dùng. Phu nhân Eden là Clarissa đã đợi ở Paris để gặp ông, nên đành phải quyết định để chuyên cơ của Eden sẽ đáp tại Orly, cách Paris không xa, để đón bà lên máy bay. Đoàn Eden rời khỏi London lúc sáu giờ.
Trong đoạn đường ngắn ngủi bay đến Genève, Eden nặng nề nghĩ đến sứ mệnh mà mình phải gánh vác lần này, làm ông không thể không thở dài. Genève là thành phố mà thời thanh niên Eden đã nhiều lần đặt chân tới sau khi đi theo con đường chính trị, đặc biệt là trước và sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Eden thường xuyên đến Genève để tham gia hội nghị “Quốc liên” (tiền thân của LHQ). Ông đã từng dốc hết toàn lực tính toán để ngăn chặn chiến tranh thế giới bùng nổ, kết quả không được như mong muốn. Ngược lại, ông phải chứng kiến: quốc vương [Kralj] Aleksandar của Nam Tư bị ám sát, đại chiến thế giới nổ ra, Ý xâm lược Ethiopia, lửa chiến tranh của châu Âu cháy lan ra toàn cầu.
Vật đổi sao dời, năm này qua năm khác, thế là đã bảy năm, Eden lại một lần nữa đến Genève. Sứ mệnh lần này vẫn là để ngừng các cuộc chiến tranh, nhưng sự việc và con người thay đổi, nguyên nhân gây nên chiến tranh và hình thức của nó không còn giống trước. Vẫn là hồ Leman xuân sắc không đổi, vẫn thu hút được vô số người.
Eden thầm tự cầu khấn cho mình: hy vọng vận may sẽ đến. Mấy ngày trước, ông thực sự rất mệt mỏi, trải qua những biến đổi kịch tính về vấn đề Đông Dương, đến nay tạm coi đã ổn. Đối với Hội nghị Genève sắp diễn ra, Eden tràn đầy hy vọng song cũng lại hoài nghi vô cùng. Ông biết rõ rằng muốn hội nghị đạt được kết quả như ý là vô cùng khó khăn. Ông lại là một người vô cùng tự tin với bản thân. Ở vị trí là Ngoại trưởng Anh, ông từng lên xuống liên tục, hiện tại chỉ ở dưới mỗi Thủ tướng Anh. Eden không ngại gian khổ, từ trước đến nay đều tự tin rằng mình là một người có khả năng giải quyết mọi việc, nói chi tới lần này quay lại thành phố hòa bình Genève.
Genève có duyên với Eden. Eden bước lên con đường ngoại giao quốc tế cũng chính từ Genève.
Robert Anthony Eden sinh ngày 12/6/1897 trong một gia đình quý tộc nông thôn ở miền Đông Bắc nước Anh. Lúc nhỏ ông đã có thiên hướng bẩm sinh về ngôn ngữ. Năm 22 tuổi ông vào học tại Viện thần học của trường Đại học Oxford danh tiếng, theo học ngành ngôn ngữ phương Đông, từng theo học và nghiên cứu chuyên ngành tiếng Batư, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Ả Rập. Ông du lịch nước ngoài cũng rất nhiều, tiếng Pháp và tiếng Đức nói cũng tương đối lưu loát.
Khi sắp tốt nghiệp đại học, Eden bắt đầu có hứng thú với chính trị. Sau khi tốt nghiệp, ông càng toàn tâm toàn ý với sự nghiệp này. Kết quả là năm 27 tuổi, ông được bầu làm nghị sĩ Quốc hội. Ông thăng tiến nhanh chóng, khi 34 tuổi, tức năm 1931, lên làm Thứ trưởng Ngoại giao. Sau khi nhậm chức, nhiệm vụ đầu tiên là đến Genève tham gia hội nghị giải trừ quân bị quốc tế một năm sau đó. Mùa thu năm 1932, Eden từ Genève trở về London, ông được cử trả lời chất vấn của Quốc hội Anh về dự thảo công ước của hội nghị giải trừ quân bị. Đối thủ tranh luận của ông chính là Thủ tướng sau này của nước Anh - Winston Churchill. Cuộc tranh luận như địch thủ tương phùng, nước lửa không thể dung hòa. Không ngờ rằng, Churchill sau khi nghe xong giải đáp và biện luận của Eden thì cảm thấy vô cùng hứng khởi, về sau cứ hẹn gặp ông để nói chuyện riêng. Vì thế đã xây dựng được nền tảng hợp tác chính trị với Eden.
Hai năm sau, Eden tham gia nội các ở tuổi 37, nhưng công việc chủ yếu của ông vẫn là lĩnh vực ngoại giao. Ông cho rằng nên cải thiện quan hệ với Liên Xô, củng cố an ninh châu Âu.
Tháng 10 năm 1935, Italia thuộc liên minh Phát xít với Đức tung trên trăm nghìn quân xâm lược Ethiopia. Ngoại trưởng Anh lúc đó là [Samuel] Hoare hợp mưu với Ngoại trưởng Pháp, yêu cầu Ethiopia cắt gần mười nghìn km vuông đất cho Italia. Yêu sách này vừa đưa ra đã gặp phải sự ngăn cản của Nội các và Quốc hội hai nước Anh, Pháp. Hoare phải từ chức năm đó.
Ai sẽ đảm nhiệm chức vụ Ngoại trưởng? Eden được Thủ tướng [Stanley] Baldwin mời đến khu nhà số 10 phố Downing, Thủ tướng hỏi: “Ai thích hợp nhất để làm ngoại trưởng?”
“[Neville] Chamberlain” Eden trả lời.
“Ông ta đã già rồi, không sử dụng nữa.” Baldwin nói.
Eden lại nêu ra vài cái tên, song đều không được thủ tướng gật đầu. Baldwin liền mở cửa sổ nói: “xem ra ông phải đảm nhiệm chức Ngoại trưởng rồi.”
Ngày 25/12/1935, Eden đi ngựa đến nhậm chức. Lúc đó, hai nước Phát xít là Đức và Italia đang nổi lên ở châu Âu. Eden chủ trương xử lý nhưng khổ nỗi trong tay không có kế sách nào hay.
Tháng 5 năm 1937, Chamberlain đảm nhiệm chức Thủ tướng Anh, quan hệ giữa Eden và ông này ngày càng xa cách, sau này trở thành đối lập, thậm chí Eden xin từ chức vào tháng 2 năm tiếp theo.
Phát xít Đức ngày 15/3/1939 xâm lược Tiệp Khắc, tiếp đó ngày 1 tháng 9 xâm lược Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ thứ hai nổ ra trên toàn châu Âu. Ngày 3 tháng 9, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Tháng 5 năm 1940, Chính phủ Chamberlain đổ, Churchill lại ra làm Thủ tướng, Eden lập tức được triệu đến, ông được cử làm Bộ trưởng Quốc phòng, sau đó làm Ngoại trưởng.
Trong thời gian diễn ra đại chiến thế giới lần hai, Eden luôn là trợ thủ quan trọng của Churchill. Ông đã phát huy được vai trò quan trọng của mình trong công tác ngoại giao nhằm thiết lập liên minh với Liên Xô và Mỹ để cùng đánh Đức. Churchill sớm đã xác định, một khi ông gặp bất trắc gì thì Eden sẽ đứng đầu chính phủ mới.
Churchill không ngờ được rằng, chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc, ông lại bị thất cử, [Clement] Attlee thuộc Công đảng đối lập lên nắm quyền. Khi Eden từ chức trở về quê đã nói một câu rằng ông không tin đây là điểm cuối trong sự nghiệp chính trị của ông.
Câu nói này quả nhiên đúng. Tháng 10 năm 1951, đảng Bảo thủ lại thắng cử. Churchill - con sư tử già nước Anh năm đó đã 77 tuổi, lại lên làm Thủ tướng. Eden cũng quay trở lại, lần thứ ba đảm nhiệm chức vụ Ngoại trưởng, kiêm chức Phó thủ tướng. Trên thực tế, ông đã được nhận định sẽ là người kế nhiệm của Thủ tướng Churchill.
Lần này, tình hình thế giới lại có thay đổi lớn. Các phong trào giải phóng dân tộc nổ ra khắp nơi. Các thuộc địa thực dân của Anh trước đây dần dần độc lập. Ánh mặt trời “không bao giờ lặn trên đế quốc [Anh]” đã lặn về đằng Tây, thế bá quyền đã không còn. Eden đã có nhận thức tương đối về vấn đề này. Ông bình tĩnh xử lý một loạt công việc ngoại giao quốc tế, như đồng ý cho Ấn Độ, Miến Điện độc lập v.v.. Nhưng cũng có một số việc ông làm chưa thành công. Tháng 1 năm 1952 ở Ai Cập dấy lên làn sóng phản đối chế độ thực dân và làn sóng đó đã lên tới mức cao trào. Lúc đó, Eden với tư cách thay mặt cho thủ tướng, đã yêu cầu quân đội trấn áp. Nhân dân Ai Cập phản kháng kịch liệt. Tháng 7, một số sĩ quan trẻ trong quân đội Ai Cập đã tiến hành đảo chính, lật đổ vương triều Farouk thân Anh, và tuyên bố Ai Cập trở thành nước cộng hòa. Churchill buộc phải quyết định rút quân khỏi Ai Cập, kết thúc 70 năm thống trị của thực dân Anh tại Ai Cập.
Đầu năm 1953, Eden lâm trọng bệnh, phải đến mùa thu mới đỡ. Lúc đó, ông bắt đầu nghiên cứu tỉ mỉ các vấn đề Đông Dương và nhiều lần thương lượng đối sách với Dulles và Redford. Những cuộc hòa giải ngoại giao kinh hồn táng đởm cuối tháng Tư năm 1954, đã khiến Eden khó tránh khỏi cảm giác sức cùng lực kiệt. Nhưng ông cho rằng chính sách ngoại giao của Anh là chính xác. Nếu tiếp tục chiến tranh ở Đông Dương sẽ không phù hợp với lợi ích quốc gia của Anh, cũng không phù hợp với lợi ích châu Âu. Đình chiến tại Đông Dương đều tốt đối với hai phe lớn trên thế giới.
Lần này đi Genève, ông quyết tâm gặp gỡ thân mật với Thủ tướng mới của Trung Quốc là Chu Ân Lai, và sẽ cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Vì thế, trước khi khởi hành, ông đã lệnh cho đại biện lâm thời Đại sứ quán Anh ở Trung Quốc là [Humphrey] Trevelyan phải đến Thụy Sĩ trước khi hội nghị Genève diễn ra, để tham gia phái đoàn Anh, cùng giao lưu với các quan chức ngoại giao Trung Quốc.
Sau khi bay qua eo biển Manche, Eden dừng lại ở sân bay Orly của Pháp, không chỉ vì phu nhân của mình, mà Ngoại trưởng Pháp Bidault cũng đợi ông ở đó. Eden nói với Bidault rằng nước Anh thực sự không thể ủng hộ việc không quân Mỹ tấn công Điện Biên Phủ. Các tướng lĩnh Anh đã nghiên cứu kỹ tình hình Đông Dương, và cho rằng chiến trường Điện Biên Phủ nhỏ hẹp như vậy, điều kiện khí hậu ở chiến khu cũng vô cùng khắc nghiệt đối với tác chiến không quân, cho dù sử dụng không quân cũng không giải quyết được gì. Vì thế, nước Anh hoàn toàn ủng hộ việc tìm kiếm biện pháp hòa bình để giải quyết vấn đề Đông Dương.
Sau khi nghe xong những lời của Eden, Bidault tuy có buồn nhưng thực ra cũng đã có chuẩn bị tư tưởng từ trước, vì bản thân Bộ Ngoại giao Pháp kỳ thực cũng do dự không quyết có nên cầu cứu nước Mỹ dính líu quân sự với qui mô lớn vào Đông Dương hay không. Nước Pháp luôn coi những công việc tại Đông Dương là công việc thuộc lãnh địa hải ngoại của mình, nên không muốn quốc tế hóa vấn đề Đông Dương. Khi Eden và Bidault trao đổi ý kiến với nhau, thư ký riêng của Eden là Evelyn Shuckburgh có mặt. Ông cho rằng cảm xúc của Bidault vẫn rất lý trí, tuy không tránh khỏi buồn rầu. Sau cuộc đàm thoại ngắn ngủi, Eden tạm biệt “Bidault đáng thương”.
Chuyên cơ không quân hoàng gia lại cất cánh, đưa Eden an toàn đến Genève. Máy bay trước khi đáp xuống có gặp một chút mưa gió nhưng đã mưa tạnh gió yên rất nhanh.
Sau các nghi lễ đón tiếp vô cùng thân tình, Eden đi ô tô đến khách sạn Bolivas. Đây là nơi trước kia ông thường ở tại Genève. Ông vừa mới ổn định chỗ ở thì Dulles đã vội đến hội kiến.
Dulles cũng đến Genève vào ngày 25 tháng Tư, ở tại khách sạn Hoa hồng nổi tiếng (Hotel du Rhone). Dulles không vui chút nào đối với Hội nghị Genève sắp diễn ra. Trước khi đi, ông ta đã nghiên cứu kỹ những thay đổi lớn trong quan hệ Trung-Mỹ những năm trở lại đây, quan hệ Trung Mỹ dưới thời Aitchison phát triển như thế nào, tại sao rơi vào tình trạng lạnh nhạt, trong lòng ông ta nắm tương đối rõ ràng.
Đầu năm 1949, sau khi quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đạt được thắng lợi có tính quyết định trong việc tiêu diệt hơn 1,5 triệu quân Quốc dân Đảng, Chính phủ Mỹ đã bắt đầu xem xét nên đối xử như thế nào với nước Trung Quốc mới.
Tại chính phủ, một số nhà ngoại giao Mỹ chủ trương thừa nhận nước Trung Quốc mới. Trong số đó có Alan Kirk là Đại sứ Mỹ tại Liên Xô, [John Leighton] Stuart là Đại sứ Mỹ tại Nam Kinh, Wesley Jones là tham tán tại Đại sứ quán Mỹ tại Nam Kinh, Edmund Clubb là Tổng lãnh sự Mỹ tại Bắc Bình, Julius Holmes là đại biện lâm thời Mỹ tại Anh. Họ cho rằng chuyện này không nên kéo dài, nên duy trì ngoại giao với Trung Quốc mới, nhanh chóng thiết lập quan hệ ngoại giao, từ đó mà duy trì sự cân bằng nào đó giữa Trung Quốc và Liên Xô.
Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 10 năm 1949, Chính phủ Mỹ yêu cầu 25 vị nhân sĩ thuộc các giới thảo luận những vấn đề về chính sách Viễn đông của Mỹ, trong đó có một vị phản đối công nhận Trung Quốc, còn một người khác cho rằng nên “đợi xem sao đã”. 23 người còn lại đều ủng hộ việc công nhận nước Trung Quốc mới. Khác nhau ở chỗ, có người chủ trương một khi nước Trung Quốc mới tuyên bố thành lập thì lập tức công nhận, có người lại chủ trương phải đợi cho đến khi chính quyền Quốc dân đảng hoàn toàn thất bại ở đại lục, và khi nước Trung Quốc bày tỏ ý muốn đảm nhiệm nghĩa vụ quốc tế thì mới công nhận.
Nhưng trong tầng lớp thống trị Mỹ có một thế lực công kích mãnh liệt Truman, [Clyde] Aitchison “đã để mất Trung Quốc”, yêu cầu chính phủ Mỹ không được thừa nhận nước Trung Quốc mới, và thuyết phục các nước đồng minh “đầu tiên là nước Anh” cũng không thừa nhận nước Trung Quốc mới. Thế lực này tương đối ngoan cố.
Từ tháng 5 năm 1949, Chính phủ Mỹ luôn tỏ rõ với các quốc gia khác rằng Washington không có ý định nhanh chóng công nhận nước Trung Quốc mới, cũng hy vọng các quốc gia đồng minh sẽ thương thảo kỹ với Mỹ trước khi có những hành động công nhận nước Trung Quốc mới. Trên thực tế, Aitchison định cầm trên tay con bài công nhận, đợi đến khi “cát bụi rơi xuống” (tình thế ổn định rõ ràng), khi chính quyền Quốc dân đảng bị đuổi khỏi đại lục, hơn nữa nếu có khả năng bị mất luôn Đài Loan thì sẽ mang con bài đó ra, nhằm đổi lấy một chút “tình cảm tốt” nào đó của Trung Quốc mới. Dựa vào ấn tượng của Ngoại trưởng Anh [Ernest] Bevin sau khi tiếp xúc với Aitchison vào giữa tháng 9 năm 1949, Aitchison đã xem xét rất kỹ việc công nhận nước Trung Quốc mới, nếu không phải xuất phát từ nguyên nhân chính trị trong nước thì ông có khuynh hướng nghiêng theo hướng công nhận Trung Quốc mới. Nhưng dưới sức ép của phe đối lập, Aitchison liên tiếp tung tin nói, ông không chủ trương lập tức công nhận nước Trung Quốc mới.
Đầu năm 1950, Tổng Thư ký LHQ Trygve Lie sau khi Liên Xô tẩy chay hội nghị của Hội đồng Bảo an (HĐBA), đã chuyển sang hy vọng nước Trung Quốc mới có được một ghế trong LHQ. Theo tính toán của Trygve Lie thì lúc đó trong 11 nước tham gia cuộc họp HĐBA LHQ thì có đến năm nước là Liên Xô, Anh, Nam Tư, Na Uy, Ấn Độ đã công nhận nước Trung Quốc mới, ngoài ra có tin Ai Cập cũng sẽ sớm công nhận, như vậy chỉ còn thiếu một phiếu để đạt số phiếu cần thiết là bảy phiếu để biểu quyết vấn đề này. Về sau, khi Trygve Lie tiếp xúc với Ngoại trưởng Pháp [Maurice] Schumann, ông này đã từng bày tỏ rằng nước Pháp có thể sẽ tuyên bố công nhận nước Trung Quốc mới vào đầu tháng 5 hoặc tháng 6.
Trygve Lie căn cứ vào đó mà phân tích rằng Trung Quốc không lâu nữa sẽ có đủ bảy phiếu ủng hộ để vào LHQ. Ông đã hội kiến với Aitchison vào ngày 21/1/1951. Lúc đó, trợ lý Quốc vụ khanh của Mỹ là [Dean] Rusk cũng có mặt. Rusk nói với Trygve Lie rằng, ông dự tính, trong “mấy tuần nữa HĐBA LHQ sẽ có đủ bảy nước thành viên công nhận Chính phủ cộng sản Trung Quốc, lúc đó Trung Quốc sẽ được tham gia LHQ thông qua bỏ phiếu theo trình tự.” Rusk xác nhận với Tổng thư ký LHQ rằng, quyền đại biểu của Trung Quốc tại HĐBA là một vấn đề trình tự.
Liên quan đến vấn đề vị trí của Trung Quốc tại LHQ là các chính sách Đài Loan của Washington. Quay ngược một chút về ngày 26/5/1949, Tưởng Giới Thạch trong trận chiến tại đại lục, sau khi quân bại như núi lở đã đến Đài Loan. Ngày 8 tháng 6, trợ lý vấn đề Viễn Đông thuộc Chính phủ Mỹ là [W. Walton] Butterworth đã chủ trì hội nghị thảo luận vấn đề Đài Loan. Ý kiến của đa số là tình hình Đài Loan cũng như chính quyền này tại đại lục đều “hết thuốc chữa”. Một số lượng lớn nhân viên chính phủ và quân đội tiến vào Đài Loan chỉ có thể dẫn đến sự sụp đổ của hòn đảo nhỏ này. Sự sụp đổ của Đài Loan chỉ còn là vấn đề thời gian, nước Mỹ tốt nhất là nên thoát thân khỏi Đài Loan, nên khoanh tay bàng quan với tình hình ở đó.
Ngày 23/12/1949, Đại sứ của Chính phủ Quốc dân đảng tại Mỹ là Cố Duy Quân yêu cầu Mỹ viện trợ quân sự cho lãnh đạo Đài Loan. Chính phủ Mỹ không có hứng thú với việc này, nên ngày 23 tháng 12 đã phát đi “Văn kiện chính sách tuyên truyền - Đài Loan” liên quan đến những vấn đề Đài Loan. Văn kiện nói rằng, phải đặt ra một sách lược, một khi Đài Loan bị quân đội cộng sản Trung Quốc chiếm đánh thì phải giảm nhẹ những đả kích đối với uy tín của Mỹ, và nhấn mạnh Đài Loan về mặt lịch sử cũng như địa lý là một phần của Trung Quốc.
Ngày 5/1/1950, Tổng thống Mỹ Truman đã lên tiếng phát biểu: Tuyên ngôn Cairo và tuyên ngôn Potsdam đều quy định Đài Loan trả về cho Trung Quốc. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, Tưởng Giới Thạch đã tiếp quản Đài Loan. Trong bốn năm qua, Mỹ và các nước đồng minh đều tiếp nhận quyền lực của Trung Quốc đối với Đài Loan. Truman bày tỏ rằng, nước Mỹ hiện tại không có ý muốn giành đặc quyền hay xây dựng căn cứ quân sự tại Đài Loan, sẽ không sử dụng lực lượng vũ trang để can thiệp tình hình hiện tại.
Chiến tranh Triều Tiên nổ ra đã làm cho những chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc thay đổi rõ rệt. Nước Mỹ không chỉ nhanh chóng tiến vào chiến trường Triều Tiên, mà còn phái Hạm đội Bảy tiến vào eo biển Đài Loan, buộc các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc hủy bỏ kế hoạch tác chiến giải phóng Đài Loan theo như dự tính. Tháng 11 năm 1950, quân Mỹ tiến vào miền Bắc Triều Tiên và tiêu diệt nhiều chí nguyện quân Trung Quốc. Trong phạm vi quốc tế, nước Mỹ đã sử dụng toàn bộ những chính sách thù địch đối với nước Trung Quốc mới, Dulles chính là đại biểu điển hình cho những chính sách thù địch này.
So với Ngoại trưởng Pháp Bidault, Dulles có kinh nghiệm ngoại giao cao hơn một bậc, thể hiện rõ là một tay lão luyện, ông ta cậy mình ở thế nước lớn cường thịnh, có thể vênh mặt sai khiến. Trong thâm tâm, ông ta không hề hy vọng hội nghị Genève sẽ diễn ra như đã định, nhưng cũng không thể không có sự chuẩn bị.
Chính phủ Mỹ rất có kinh nghiệm trong việc xử lý các vấn đề quốc tế, mỗi công việc đều có tính trình tự nghiêm ngặt. Những quan chức và chuyên gia có liên quan đến vấn đề châu Á đã sớm có sự chuẩn bị đối với Hội nghị Genève. Nhóm quan chức này, do người phụ trách các vấn đề Viễn Đông thuộc chính phủ là Butterworth đứng đầu, ngày 22 tháng 3 đã soạn thảo tài liệu “Những lập trường mà Pháp có thể đưa ra tại Hội nghị Genève”. Ngày 24 tháng 3 đã hoàn thành những văn kiện cơ bản là “Những lập trường mà Liên Xô và Trung Quốc có thể sử dụng tại Hội nghị Genève”, và “Lập trường của Mỹ tại Hội nghị Genève”.
Những văn kiện trên nêu phán đoán về lập trường cơ bản của hai nước Liên Xô và Trung Quốc tại Hội nghị Genève là: “Liên Xô cần thời gian để củng cố chính quyền quốc gia về cả mặt chính trị và kinh tế. ĐCS Trung Quốc cũng cần thời gian để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa quy mô lớn, và tránh tất cả những trở ngại có thể xẩy ra làm chậm tiến trình này”. Văn kiện xác định rõ lập trường cơ bản của Mỹ là “trong tiến trình của Hội nghị phải tận dụng tất cả khả năng để Chính phủ Pháp tiếp tục thực hiện “Kế hoạch Navarre”, và thực thi hiệp định được ký giữa Pháp và Mỹ vào tháng 9 năm 1953”; đồng thời, giữ nguyên hiện trạng ở Triều Tiên.
Dù đã có một loạt các văn kiện chuẩn bị, trong lòng Dulles vẫn không yên, song cũng không quá hoang mang.
Buổi chiều sau khi đến Genève, Dulles đã hội kiến Sulzberger của “New York Time”. Hội nghị Genève không thể thiếu Sulzberger. Ông là một nhân vật “bão táp” của diễn đàn quốc tế. Giữa tháng Tư, ông đã đến Paris, ngày 12 tháng Tư đã cùng ăn trưa với Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp [Paul] Ely. Trong tâm trạng đầy mâu thuẫn, Ely nói với Dulles tại bàn tiệc rằng nước Pháp quyết không để mất Điện Biên Phủ. Mảnh đất này không có giá trị gì về quân sự, chỉ có một chút tác dụng quân sự khi ngăn chặn quân Việt Nam tiến vào Lào năm ngoái. Nhưng hiện tại, nó đã trở thành một biểu tượng chính trị vô cùng quan trọng. Vì vậy nên chúng tôi không tiếc bất kì giá nào để bảo vệ nó. Hiện tại, không thể giải cứu Điện Biên Phủ bằng đường bộ.
Tối 14 tháng Tư, Sulzberger đã gặp Dulles khi ông này đang ở thăm Pháp. Dulles vừa uống Whisky pha soda vừa nói: “Khi ở Hội nghị Berlin, chúng tôi đã dự liệu rằng, nếu đưa vấn đề Đông Dương vào chương trình nghị sự của Hội nghị Genève thì sẽ thúc đẩy các ĐCS ở Đông Dương tăng cường các hành động quân sự để gia tăng địa vị đàm phán của mình. Tình hình quả là không ra ngoài dự liệu, họ không tiếc những tổn thất lớn nhất để dốc sức tiến lên.”
Chiều 25 tháng Tư, Dulles và Sulzberger lại gặp mặt nhau tại Genève. Dulles nói với Sulzberger rằng ngoài việc tham chiến, Mỹ đã sử dụng tất cả các chương trình viện trợ để giúp những người Pháp đang chiến đấu gian khổ tại Đông Dương. Trong tương lai trước mắt vẫn chưa dự liệu được rằng Mỹ có nên bước qua giới hạn để tham chiến hay không. Nước Mỹ không hy vọng Đông Dương bị mất, nhưng thực tế là có lúc, có những việc mà chúng tôi không mong muốn lại vẫn cứ xảy ra. Chính sách của Chính phủ Mỹ là tránh giao tranh.1
Miệng thì nói như vậy, nhưng trong lòng Dulles lại hy vọng nước Anh sẽ sử dụng cách làm giống Mỹ, ủng hộ Mỹ can thiệp vũ trang vào Đông Dương. Vì vậy, ông rất nóng ruột chờ cuộc hội kiến với Eden.
Tối đó, trong cuộc hội kiến, Eden đã bình thản thông báo với Dulles kết quả cuộc họp Nội các Anh chiều cùng ngày. Dulles không trả lời tại sao ông ta không trực tiếp thương lượng với Ngoại trưởng Anh về việc này. Ông nói: “Xem ra chúng ta thực sự không cùng chung cơ sở chính trị trong sử dụng quân sự”. Thậm chí ông ta còn nói một câu rằng bản thân ông ta cũng cho rằng oanh tạc với quy mô lớn cũng không cứu được Điện Biên Phủ.
Đêm đã khuya, Thư ký riêng của Eden, là Evelyn Shuckburgh, sau khi tham gia cuộc hội đàm giữa hai Ngoại trưởng Anh, Mỹ đã trở về phòng riêng để viết nhật ký, nêu những ấn tượng của ông đối với cuộc đàm thoại của Dulles:
Dulles trong lòng vẫn không thực sự hy vọng tiến hành oanh tạc, ông ta thừa nhận Điện Biên Phủ cuối cùng cũng sẽ mất.
Ông ta quan tâm đến những ảnh hưởng đối với Pháp trong trường hợp bị mất Điện Biên Phủ.
Ông ta không phản đối xem xét sử dụng biện pháp phân chia giới tuyến nhưng lại cho rằng nếu nước Pháp để mất Điện Biên Phủ thì việc phân chia giới tuyến cũng không biết bàn từ đâu.
Vì vậy, ông ta muốn đem đến cho người Pháp “hy vọng được ủng hộ” để họ có thể đánh tiếp.
Chúng ta nên làm thế nào? Chúng ta đã bảo đảm, nỗ lực đạt được một hiệp định giải quyết vấn đề này.
Liệu chúng ta có nên làm nhiều việc hơn nữa để cổ vũ người Pháp?
Điều này được quyết định bởi việc chúng ta có thể dùng hiệu suất và tốc độ nào để tiếp xúc với người Trung Quốc, để tiến hành đàm phán về vấn đề Đông Dương. Nếu chúng ta có thể bắt đầu đàm phán ngay lập tức, đưa ra phương án, đàm phán nhiều lần phương án này, thậm chí bao gồm cả đe dọa rằng người Mỹ sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân, thì chúng ta có thể hoàn toàn biết được người Trung Quốc rốt cục muốn bàn cái gì.
Đây sẽ là một ván bài Tu-lơ-khơ, chúng ta không thể không cố hết sức để làm cho người Pháp có thể đối mặt được với tất cả.
Trước mắt, đoàn đại biểu Anh nên làm gì? Kết luận của Shuckburgh là:
Căn cứ vào ý của Bidault - bất kể bọn họ thế nào, chúng ta vẫn cần phải xác định rõ ràng lập trường tư tưởng;
Tận dụng hết khả năng để sớm tiến hành thảo luận với người Trung Quốc hoặc người Nga về vấn đề Đông Dương.2
Sự thực là vào lúc này, tại bờ kia của Đại Tây Dương, Tổng thống Mỹ Eisenhower đang cân nhắc khả năng sử dụng không quân để oanh tạc vào trận địa của quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ. Tối 25 tháng Tư, ông ta kết thúc kỳ nghỉ tạm thời tại Kentucky để trở về nhà Trắng. Việc đầu tiên của ông chính là đọc những bản báo cáo vừa được gửi tới từ Paris và London. Eisenhower cảm thấy thất vọng về quyết định của Anh. Nhưng là một chính trị gia, ông vẫn rất bình tĩnh. Ông thừa nhận: “Tôi rất thất vọng, nhưng tôi tin tưởng vào Thủ tướng Churchill và Chính phủ Anh. Vì vậy tôi tiếp nhận quyết định của họ, tin rằng quyết định này là đúng đắn, và nó đã phản ánh được phán đoán chính xác nhất của họ, tức là biện pháp nào là có lợi nhất cho nước Anh. Xét về mặt quan điểm của họ, quyết định đó cũng có lợi nhất cho thế giới tự do.” Căn cứ để Eisenhower đưa ra phán đoán là: cho dù là trong thế giới phương Tây, việc nước Mỹ muốn tìm kiếm những quan điểm ủng hộ sử dụng vũ trang tại Đông Dương cũng không phải là dễ dàng.
Cùng ngày, Ngoại trưởng Australia Casey, khi đó đã đến Genève, cũng đã đưa ra phán đoán riêng của mình về vấn đề mà Eisenhower đang xem xét. Ông viết trong nhật ký rằng: “Tôi cho rằng Mỹ dự định sử dụng hành động quân sự là sai lầm, vì:
Nó không thể ngăn chặn sự thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ.
Không có được sự ủng hộ của LHQ.
Nó sẽ đẩy chúng ta phải hứng chịu sự phản đối của dư luận thế giới, nhất là dư luận châu Á.
Nó sẽ đẩy Australia vào thế đối lập với Trung Quốc mới.
Nó sẽ gây nguy hại cho Hội nghị Genève.
1 C. Sulzberger, sđd, tr. 260-266.
2 E. Shuckburgh, Descent to Suez, Diaries 1951-1956, published by Weidenfeld & Nicolson, London 1986, tr. 176-177.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:50:07 GMT 9
CHƯƠNG 9 Khai mạc Hội nghị Genève
Hội nghị Genève sau bao ngày tháng chờ đợi và chuẩn bị, cuối cùng cũng đã khai mạc, tập hợp những nhà ngoại giao lớn được cả thế giới dõi theo. Năm vị Ngoại trưởng của năm nước lớn tiến vào cung Vạn Quốc [Palais des Nations], sắp xếp lại thế giới nửa sau thế kỷ XX. Chu Ân Lai với bộ mặt mỉm cười chính là nhân vật tiêu điểm của hội nghị lần này. Ngoại trưởng Pháp Bidault lại chính là vị Bộ trưởng Ngoại giao có tâm trạng căng thẳng nhất tại hội nghị hôm nay.
Sáng sớm 26 tháng Tư, ánh dương tưng bừng khắp mọi nơi.
Eden đã trở dậy từ rất sớm. Phòng của ông được đặt ở vị trí tuyệt đẹp. Eden đứng trước cửa sổ, hồ Leman tươi đẹp phản chiếu vào trong mắt ông.
Hồ Leman mặt nước nước trong veo, phẳng lặng như gương. Một dải rừng xanh thẫm bao quanh bờ hồ thành một đường viền rõ rệt, giống như mặt hồ được khảm vào cả rừng hoa xanh ngắt. Đầu bờ hồ có dòng sông nhỏ nước chảy hiền hòa, uốn lượn quanh co, lấp lánh ánh sáng, giống như dải mũ màu bạc được gió thổi bay đi, vươn tới nơi xa.
Một hồ nước xanh biếc, một dòng chảy thanh khiết, một ngọn núi xanh, cảnh sắc quen thuộc trước mặt bỗng làm cho Eden nảy sinh những cảm xúc rất đặc biệt.
Ai ngờ, sau bữa sáng, nhân viên đặc vụ sau bữa ăn sáng đã kiểm tra phòng và nói với Eden rằng không thể đảm bảo an toàn về việc chống nghe trộm tại đây, tốt nhất là không nên tổ chức hội nghị quan trọng tại đây. Đây là chuyện, Eden từ trước tới nay chưa từng gặp phải, đúng là không biết phải làm thế nào. Đoàn đại biểu Anh còn phát hiện ra rằng họ cùng ở một khách sạn với đoàn đại biểu Trung Quốc. Phòng của Eden và phòng của thành viên đoàn đại biểu Trung Quốc rất gần nhau, hai bên thường xuyên giáp mặt nhau tại hành lang, nên ra vào đều không tiện chút nào. Một lần, khi Eden đi vào trong thang máy thì phát hiện ra đã có một người Trung Quốc đứng ở đó. Hai người không chào hỏi nhau, nhưng “bốn mắt nhìn nhau” một lúc.1
Một lần khác, nhân viên đoàn đại biểu Trung Quốc là Lưu Gia Kiệt đứng đợi thang máy cùng Eden. Nhìn thấy Eden đến trước thang máy thì Giám đốc khách sạn liền chạy nhanh tới, cung kính bấm nút thang máy giùm Eden, Lưu Gia Kiệt đứng bên cạnh nhìn Eden rất hiếu kỳ. Eden tất nhiên cũng biết đứng bên cạnh mình là một người Trung quốc, cả hai vẫn không chào hỏi gì nhau. Lưu Gia Kiệt thì không sao nhưng không biết trong lòng Eden có cảm giác gì?2
Eden nhanh chóng nghĩ đến việc chuyển chỗ. Vậy mà khi mới tới Genève, công việc cấp thiết nhất của ông là thống nhất ý kiến của các quốc gia thuộc Liên hiệp Anh. Eden nhận định, không thể để lãng phí thời gian thêm nữa, thời gian không có lợi cho các nước phương Tây vì Điện Biên Phủ đang dần từng ngày một đi đến chỗ bị tiêu diệt. Mỹ thì không ngừng đe dọa sử dụng vũ trang tại Đông Dương. Điều này cũng tạo sự chia rẽ đối với các thành viên.
Buổi trưa, 4 vị ngoại trưởng trong Liên hiệp Anh là Anh, Canada, Australia và New Zeland cùng ngồi ăn trưa. Về vấn đề phản đối Mỹ can thiệp vũ trang vào Đông Dương, cả 4 vị ngoại trưởng đều nhất trí ý kiến, các bên thương lượng và quyết định phản đối đề xuất của Dulles về việc tiến hành Hội nghị ngoại trưởng 10 nước ở Genève (không có Liên Xô và Trung Quốc) để thảo luận vấn đề Đông Dương, càng phản đối việc thành lập “Tổ chức hiệp ước an ninh Đông Nam Á” dựa trên cơ sở này.
Sau bữa trưa, đại biểu 16 nước phương Tây mở một cuộc họp hội ý, trao đổi ý kiến về trình tự hội nghị.
Cùng ngày, tại chiến trường Điện Biên Phủ - Việt Nam xa xôi, thời tiết tốt đẹp, quân Việt Nam không có bất kỳ hành động quân sự nào lớn. Nhưng Tư lệnh quân Pháp - Tướng [Christian] De Castrie lại ý thức được rằng những ngày yên tĩnh như vậy sẽ nhanh chóng kết thúc. Một loạt các đợt tấn công mới của quân Việt Nam đã ở ngay trước mắt. Ông ta ra một mệnh lệnh: để cho lính Lê dương được hưởng một ngày nghỉ ngơi, tổ chức lễ tiếp đón những thành viên mới theo truyền thống.
Cô gái duy nhất của quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ là y tá Geneviève [de Gallard], 28 tuổi, đứng vào hàng những thành viên mới, theo thông lệ của các đội quân nước ngoài, cô nhận anh lính cần vụ của Tham mưu trưởng Vadot làm cha đạo của mình. Khi nghi lễ kết thúc, cô gái trẻ Genevieve cảm thấy tình cảm lẫn lộn, nói với anh lính cần vụ vừa mới quen rằng: “nếu chúng ta còn sống mà ra khỏi đây, bất kể chúng ta có thể gặp lại nhau ở đâu thì tôi đều muốn uống với anh một cốc rượu sâm banh”. Đúng vậy, những ngày mà họ ở bên nhau trên chiến trường chỉ còn được tính bằng đầu ngón tay.
Tại vòng vây bên ngoài Điện Biên Phủ, thống soái quân đội Việt Nam là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, với sự trợ giúp của Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh đã cơ bản hoàn thành việc điều chỉnh binh lực. Ba sư đoàn bộ binh chủ lực Việt Nam đang bao vây chặt trận địa Điện Biên Phủ đều đã được bổ sung binh sĩ mới, quyết định khoảng trước hoặc sau ngày 1 tháng 5 sẽ phát lệnh tổng tiến công. Theo sự sắp xếp của cố vấn hậu cần Trung Quốc, Trung Quốc đã vận chuyển đầy đủ đạn dược đến tiền tuyến Điện Biên Phủ. Những chiến sĩ công binh Trung Quốc được điều đến từ mặt trận Triều Tiên đã giúp các chiến sĩ Việt Nam đào một địa đạo, đi thẳng tới mép ngoài bên dưới lô cốt ở đồi A1, phía đông trận địa quân Pháp. Đồng thời, cho vận chuyển một tấn thuốc nổ đến đây, đợi khi có lệnh tổng tiến công thì phát hỏa. Ngoài ra, một dàn hỏa tiễn sáu nòng do Trung Quốc trang bị cũng được chuyển tới tiền tuyến Điện Biên Phủ, để sư đoàn 312 của quân đội Việt Nam, do cố vấn Trung Quốc Đổng Nhân chỉ huy, đưa vào chiến đấu trong ngày tổng tiến công.
Tình hình Điện Biên Phủ cấp bách như vậy, chả trách Bidault lại căng thẳng đến thế khi vừa tới Genève. Sáng sớm ngày 26 tháng Tư, Ngoại trưởng Bidault, 54 tuổi, đã đáp tàu hỏa từ Pháp đến Genève. Trước hội nghị, do bận việc thuyết phục hai nước Anh và Mỹ can thiệp vũ trang vào Đông Dương, nên sự chuẩn bị của ông đối với hội nghị Genève rất sơ sài. Tất cả các tài liệu đều do cấp dưới viết. Hiện thực đã buộc ông phải tập trung toàn bộ tinh lực đến Genève. Không chỉ là gian khổ khi đối mặt đàm phán với đối thủ chính là Liên Xô và Trung Quốc, cũng không tính tới việc các lãnh đạo Mỹ không vừa ý, mà ngay cả đầu não Chính phủ Sài Gòn Việt Nam là Bảo Đại vào lúc cấp bách này cũng đưa ra cho ông ta những câu hỏi khó. Ngay trước ngày khai mạc hội nghị Genève, Bảo Đại đã thông báo với nước Pháp rằng nếu không thể thỏa mãn những điều kiện của ông ta, như ba nước lớn là Anh, Pháp, Mỹ phải đứng ra mời đại biểu của Chính phủ Bảo Đại tham dự hội nghị, đồng thời bảo đảm một nền độc lập hoàn toàn cho Việt Nam, thì đoàn đại biểu của ông ta sẽ không tham gia hội nghị. Nếu quả đúng như vậy thì loạn quá rồi! Bidault nhất định phải nỗ lực để đoàn đại biểu của Bảo Đại tham gia hội nghị.
Tính sơ qua thì Bidault đã theo nghề chính trị đã được mười năm, vài lần giữ cương vị Bộ trưởng Ngoại giao. Bidault tự cho rằng mình lão luyện trong giải quyết mọi vấn đề khó khăn, nhưng hôm nay tình thế vô cùng phức tạp, Điện Biên Phủ lành ít dữ nhiều. Ông giống như đang dẫm trên thảm bông dày mà không có chỗ dựa nào.
Bidault (5.10.1899 – 27.1.1983) là con trai của một doanh nhân ngành bảo hiểm. Sáu tuổi bắt đầu đi học, từ nhỏ đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của Thiên Chúa giáo, kết quả học tập cũng không tồi, 15 tuổi đã từng thi được một học bổng tương đối lớn.
Chiến tranh thế giới thứ thứ nhất bùng nổ, Bidault có một thời gian ngắn tòng quân. Sau chiến tranh, ông học tiếp đại học, đạt học vị cử nhân lịch sử và địa lý. Tốt nghiệp đại học không lâu, ông làm thầy giáo lịch sử và địa lý cho một trường trung học. Lúc đó Bidault còn rất trẻ, ông thường mang một cặp kính gọng kẹp và một chiếc mũ tròn cứng, dường như là muốn mình trông già đi một chút. Năm 1932, ông sáng lập tờ báo “Bình minh”, đại diện cho quan điểm Thiên Chúa giáo cánh tả. Ông làm việc cho tờ báo đến năm 1939 và đã viết những bài báo có liên quan đến các vấn đề quốc tế.
Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, Bidault lại tòng quân. Năm 1940 bị quân Đức bắt làm tù binh. Năm đó, sau khi được giải cứu, ông lại tham gia phong trào kháng chiến Pháp. Năm 1943, người phụ trách phong trào kháng chiến Pháp là [Jean] Moulin bị mật vụ Gestapo giết hại. Bidault thay thế cương vị của Moulin, trở thành người lãnh đạo chính của phong trào kháng chiến trong nước.
Năm 1944, những hoạt động của Bidault bị mật vụ Gestapo Đức phát hiện. Ông đã nhanh trí trốn được sự vây bắt của mật vụ, sau đó đến Anh tham gia vào Chính phủ Charles De Gaulles. Trong thời gian này ông đã sáng lập đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo. Cuối năm 1944, Bidault trở thành Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ De Gaulles, tháng 12 cùng năm đã thay mặt nước Pháp ký điều ước giữa Liên Xô và Pháp. Năm 1945, ông đại diện cho nước Pháp ký Hiến chương LHQ. Bidault đã có những cống hiến tích cực trong cuộc chiến chống Phát xít, có tiếng nói trong nhân dân cả nước.
Năm 1947-1948, Bidault lại giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao Pháp. Ông ủng hộ sự thống nhất của Đức và châu Âu, ủng hộ “kế hoạch Marshall”. Từ năm 1948, Bidault tích cực tham gia vào các hoạt động của NATO. Năm 1951-1952, Bidault từng chuyển sang làm Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, năm 1953 tiếp tục làm Bộ trưởng Ngoại giao.
Trong thời gian 1944-1954, Bidault hai lần đảm nhiệm chức Thủ tướng chính phủ, tổng cộng được 14 tháng. Ngoài ra còn 4 lần đảm nhiệm Phó Thủ tướng, 2 lần đảm nhiệm Bộ trưởng quốc phòng, 8 lần đảm nhiệm Bộ trưởng Ngoại giao. Ông được ví là “ngài không ngã” xuất sắc trong nội các sau chiến tranh của Pháp.
Trong cuộc sống căng thẳng triền miên, Bidault tôn sùng sự đơn giản. Không tính đến công việc thì ngoài viết lách, ông còn có một sở thích là sưu tập tem.
Ngày 13/71953, ngay trước đêm ngừng chiến tại Triều Tiên, Bidault đã đến Washington để tham gia Hội nghị Ngoại trưởng ba nước Anh, Pháp, Mỹ. Ông nói với các Ngoại trưởng Anh và Mỹ: “Chúng ta sẽ nhanh chóng nhìn thấy chiến tranh kết thúc ở Triều Tiên nhưng sẽ vẫn còn tiếp tục ở Đông Dương. Chính phủ Pháp rất khó chấp nhận hiện thực này nên mong muốn tìm một biện pháp giải quyết khác.” Ông không nêu giải pháp cụ thể, nói một cách chung chung rằng, nếu phải tổ chức hội nghị nào đó để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng trong chiến tranh Triều Tiên thì hội nghị này cũng nên thảo luận đến vấn đề Đông Dương.3
Sau khi đến Genève, Bidault đã đưa ra một tuyên bố đơn giản, ngắn ngọn là yêu cầu quân đội tiền tuyến miền Bắc Việt Nam cho phép quân Pháp được vận chuyển những thương binh bị vây khốn trong Điện Biên Phủ.
Tại Paris, Chính phủ Pháp cũng tiến hành những nỗ lực tương ứng. Thủ tướng Laniel lòng đau như cắt, chỉ muốn tìm mọi cách bảo toàn tính mạng cho số lính Pháp đang bị bao vây tại Điện Biên Phủ. Trưa hôm đó, ông chỉ thị cho Đại sứ Pháp tại Anh Massigli gặp mặt Churchill để đưa ra lời thỉnh cầu cuối cùng. Mục tiêu là: nhất định phải làm cho Thủ tướng Anh hiểu rõ, chỉ cần Anh đồng ý, Mỹ sẽ đồng ý sử dụng không quân oanh tạc QĐND Việt Nam tại Điện Biên Phủ, còn nước Anh không nhất thiết phải điều động binh sĩ của mình.
Churchill túc trí đa mưu đã không gặp mặt Đại sứ Pháp vào tối hôm đó. Điều này là điềm không tốt đối với Chính phủ Pháp.
Cùng ngày, tại Washington, Tổng thống Eisenhower cũng đang dõi theo tình hình ở Genève. Ngày hôm đó, ông đã gặp gỡ với các lãnh đạo Đảng Cộng hòa trong Quốc hội, để đưa ra những phán đoán mới về tình thế ở phương Đông. Ông cho rằng, Điện Biên Phủ giờ đây không khác gì địa ngục. Người Pháp ở đó “lúc lên lúc xuống”, “hôm nay thấy mình là một cường quốc lớn trên thế giới, ngày mai lại đã vì đó mà đau thương khôn xiết.” Tình thế Đông Dương từ trước đến nay chưa bao giờ lại nát bét như vậy, Điện Biên Phủ duy trì không được mấy ngày nữa. Nhưng Eisenhower vẫn kiên trì không thể dụng binh đơn độc đối với Trung Quốc. Ông nói, nếu chúng ta đưa một binh sĩ đến Trung Quốc, thì toàn bộ danh tiếng của chúng ta không chỉ ở châu Á, mà trên toàn thế giới, sẽ bị lung lay. Còn người Anh? Bọn họ sợ rằng một khi can dự vào Đông Dương, thì Trung Quốc sẽ lấy lại Hongkong.
Khi Eisenhower nói những lời này, Phó Tổng thống Nixon cũng có mặt, lấy làm buồn vì những điều đó.
Ngày khai mạc hội nghị Genève, có một người cũng cảm thấy căng thẳng giống như Bidault. Đó chính là nhân vật quan trọng trong đoàn đại biểu Mỹ, [U. Alexis] Johnson. Trước đó, ông ta là Đại sứ Mỹ tại Tiệp Khắc, đã từng làm việc tại châu Á, từng tham gia đàm phán tại Bàn Môn Điếm. Đầu tháng 3, Dulles điện lệnh cho ông trở về nước để tham gia công tác chuẩn bị cho hội nghị Genève. Ông cùng các cộng sự đã soạn ra một loạt văn kiện. Sau khi đến Genève, Johnson là người phụ trách công việc hàng ngày của đoàn đại biểu Mỹ, ông được lệnh nhất định phải sắp xếp được một chỗ ngồi tốt cho đại biểu Mỹ Dulles.
Trước ngày khai mạc hội nghị, Dulles hội ý Johnson, chỗ ngồi của ông tại bàn hội nghị không thể gần ghế của Chu Ân Lai. Điều này không khó sắp xếp. Theo dự tính của ban tổ chức hội nghị, chỗ ngồi của các đại biểu sẽ được sắp xếp theo thứ tự chữ cái tiếng Anh. Dulles còn yêu cầu chỗ ngồi của ông không được gần ngay cạnh của bất kỳ quốc gia nào thuộc phe cánh đối địch phương Đông, tốt nhất là để vị trí của đoàn đại biểu Nam Triều Tiên trước ghế của đại biểu Mỹ. Tham gia vào công tác sắp xếp chỗ ngồi có đại biểu Liên Xô không đồng ý với ý kiến này. Họ kiên quyết đòi dựa theo thứ tự chữ cái để sắp xếp các bàn hội nghị thành một vòng tròn lớn. Johnson được lệnh không được nhượng bộ, phải đến trước khai mạc 2 giờ, đại biểu Liên Xô mới nhượng bộ, để đại biểu Mỹ ngồi sau đại biểu Nam Triều Tiên. Lúc đó, Johnson mới thở phào nhẹ nhõm.4
Ba giờ chiều ngày 26/4/1954, hội nghị Genève khai mạc tại hội trường lớn cung Vạn Quốc nổi tiếng, tức tại tòa nhà của hội Quốc Liên (trụ sở liên minh quốc tế sau đại chiến thế giới lần thứ nhất). Các nước tham gia có Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô, hai miền Nam-Bắc Triều Tiên, còn có các nước tham gia “ quân đội LHQ” là Australia, Bỉ, Canada, Colombia, Ethiopia, Hy Lạp, Luxemburg, Hà Lan, New Zeland, Philipines, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ.
Khi đại biểu các nước đi xe đến cung Vạn Quốc, hai bên đường dòng người cũng cuồn cuộn. Người dân Genève vẫy chào các ngoại trưởng của các nước tham gia hội nghị, hoan nghênh những người đến Genève để giải quyết một cách hòa bình các vấn đề chiến tranh.
Các đại biểu trước khi vào chỗ ngồi đã cùng nhau chụp ảnh, sau đó tiến vào phòng hội nghị, đi đến những chỗ đã được chỉ định. Lúc này, các nhà nhiếp ảnh, nhà báo cũng đã vào phòng hội nghị, tận dụng 10 phút ít ỏi trước khi hội nghị chính thức khai mạc để chụp ảnh.
Phòng hội nghị là phòng đẹp nhất trong cung Vạn Quốc, còn được gọi là “phòng Tây Ban Nha”, vì các bức họa lớn trong phòng đều do danh họa nổi tiếng của Tây Ban Nha là Galli vẽ. Năm 1934-1936, Galli đã dùng 2 năm tại phòng vẽ của mình ở Paris để hoàn thành bức họa bất hủ, với hai màu chủ đạo là màu vàng kim và màu nâu sẫm, thể hiện chủ đề: chính nghĩa, sức mạnh, hòa bình, pháp luật và trí tuệ. Dựa theo những quy định bất thành văn của LHQ, nếu là những hội nghị đề cập đến những vấn đề an ninh thế giới, hoặc là những hội nghị khẩn cấp thì đều được tổ chức tại đây.
Vị trí các đại biểu dự Hội nghị Genève được sắp xếp theo thứ tự chữ cái đầu tiên theo tên tiếng Anh của mỗi quốc gia để sắp xếp. Trung Quốc là China, chữ C đầu tiên, ngồi giữa đoàn Trung Quốc và Liên Xô là đoàn Anh. Ngồi tại vị trí của mình, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trung Quốc Chu Ân Lai biểu hiện hoàn toàn tự tin. Bên cạnh ông là Trương Văn Thiên, Vương Gia Tường, phía sau là Lý Khắc Nông, Vương Bỉnh Nam, Sư Triết, Kiều Quán Hoa và những người khác.
Ở đoàn Mỹ, bên cạnh Dulles là [James M.] McCutcheon, L. Brign McBrick, phía sau có: L. Erkene, D. Hassen, [U. Alexis] Johnson.
Bên cạnh Ngoại trưởng Pháp Bidault là trợ lý đắc lực của ông - Đại sứ Pháp tại Thụy Sĩ [Jean] Chauvel, ngoài ra còn có Bulest, d’Marshaly, Bodensy.
Bên cạnh đại biểu Anh Eden là Reading, Alan, Trevelyan, Grahan. Phía sau họ còn có thư ký riêng của Eden là Shuckburgh.
Đoàn đại biểu Liên Xô tham gia hội nghị có: Molotov, Gelamik, Kuznetsov. Ngoài ra còn có Đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc là [Pavel Fyodorovich] Yudin, có Cherubin, Vinogradov, Suzdalf, [Nikolai] Fedorenko, [Leonid] Ilychev, Laffulisif.
Đại biểu Triều Tiên gồm có: Nam Il, cố vấn Bạch Nam Vân, Kỳ Thạch Phúc, Trương Xuân Sơn, Kim Dịch Vĩnh, Kim Minh Cầu, Điền Đông Hạch, Phương Thừa Trực.
Cách chỗ ngồi của đoàn đại biểu Anh khoảng sáu mét về bên trái là hàng ghế của đoàn đại biểu Trung Quốc. “Những người Trung Quốc này đều mặc quần áo giống nhau, đều là áo cao cổ. Chỉ nhìn vào cách ăn mặc của họ thì làm sao nhìn ra được ai là bạn ai là thù?” Shuckburgh ngồi trong đoàn đại biểu Anh lo lắng nói.5
Ngay từ trước hội nghị đã xác định, khi thảo luận vấn đề Triều Tiên sẽ thực hiện phương án “3 chủ tịch”, tức là trưởng đoàn đại biểu ba nước Anh, Thái Lan và Liên Xô sẽ luân phiên chủ trì hội nghị. Chủ tịch điều khiển hội nghị ngày thứ nhất là Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan - Hoàng tử Wan Waithayakon. Ông phát ngôn rất ngắn ngọn bằng tiếng Anh lưu loát của mình. Ông nói: “Tổ quốc tôi là một quốc gia châu Á, mà hội nghị quốc tế lần này là để giải quyết các vấn đề châu Á trong đó bao gồm cả vấn đề Triều Tiên. Vậy nên hội nghị lần này là vô cùng quan trọng đối với châu Á. Sự thực là mọi ánh mắt trên toàn thế giới đang dõi theo hội nghị Genève.” Ông nói, hội nghị lần này sẽ thảo luận vấn đề thống nhất và độc lập ở Triều Tiên trên cơ sở hòa bình, đây chính là một nội dung quan trọng để xoa dịu tình hình căng thẳng trên thế giới và khôi phục lại hòa bình tại một số khu vực khác ở châu Á.
Tiếp đó, Waithayakon dùng tiếng Pháp tuyên đọc điện mừng rất đặc sắc của Chủ tịch Quốc hội liên bang Thụy Sĩ gửi đến:
Liên bang Thụy Sĩ cũng như nhân dân Thụy Sĩ rất vui mừng được chào đón các nhà chính trị của các nước đã đến tham dự Hội nghị Genève hôm nay! Nhân dân Thụy Sĩ chân thành hy vọng quý vị tham gia hội nghị cũng phát hiện ra rằng thời tiết Genève rất tốt, sẽ giúp cho các bạn tìm được tại đây những biện pháp giải quyết khó khăn, từ đó tạo nên nền hòa bình lâu dài và công bằng.
Waithayakon còn tuyên đọc trình tự hội nghị đã được các nước tham gia hội nghị nhất trí:
Ngoài ngày lễ và chủ nhật, hội nghị sẽ bắt đầu vào ba giờ chiều hàng ngày, đến 5 giờ thì nghỉ giải lao, 7 giờ tối kết thúc.
Đại biểu các nước tham dự hội nghị sẽ phát biểu theo thứ tự. 3. Hội nghị lần này sử dụng năm thứ tiếng là tiếng Pháp, Nga, Anh, Trung Quốc và Triều Tiên. Những đại biểu không sử dụng năm thứ tiếng trên để phát biểu thì cần phải mang theo phiên dịch. Đồng thời, quy định hội nghị chỉ giới hạn trong những đại biểu chính thức tham gia, hội nghị tiến hành họp kín.
Ngày đầu tiên của hội nghị diễn ra rất đúng trình tự. 3 giờ 10 phút bắt đầu, 3 giờ 40 phút đã kết thúc. Các đại biểu tham gia hội nghị đứng dậy, lần lượt rút khỏi hội trường. Chính lúc này, Eden đi đến trước mặt Molotov, nhờ Molotov giới thiệu mình với Chu Ân Lai. Molotov vì thế cảm thấy rất vui mừng, đi trước dẫn đường. Chu Ân Lai rất lịch sự bắt tay Eden, đây quả thật là điềm tốt đầu tiên của hội nghị.
Sau hội nghị, Eden và Dulles ngồi ô tô đến biệt thự của Bidault.
Bidault đã nêu ra những khó khăn mà nước Pháp phải đối mặt trong hội nghị Genève. Ông nói, điều ông đặc biệt cảm thấy khó khăn là hội nghị lần này tiến hành song song với chiến tranh đang diễn ra ở Điện Biên Phủ. Kết quả chiến đấu ra sao sẽ ảnh hưởng to lớn đến hội nghị. Nước Pháp đồng ý xem xét tất cả các phương án giải quyết, trong đó bao gồm cả “liên minh phòng thủ, đình chiến, phân chia ranh giới cai trị”.
Eden dùng một giọng điệu khéo léo để chuyển sang vấn đề đình chiến ở Đông Dương. Một tháng trước, Anh cho rằng do tình hình phức tạp rối ren tại chiến trường Việt Nam nên ngừng chiến là rất nguy hiểm, nhưng hiện tại, tình hình đã có sự thay đổi, ông nghĩ rằng, đình chiến sẽ mang lại kết quả tốt.
Dulles nói, đình chiến ở Điện Biên Phủ không khác gì đầu hàng, sẽ gây ra thảm sát đối với những người Pháp ở đó. Tôi hy vọng người Pháp sẽ đánh tiếp.
Bidault nói, xem ra việc đình chiến ngay lập tức ở chiến trường Việt Nam sẽ không đảm bảo an toàn. Ông ta nói với Ngoại trưởng hai nước Anh, Mỹ: Chính phủ Pháp đã trao đổi ý kiến với Navarre, Navarre cho rằng hoặc là đình chiến hoàn toàn hoặc là tăng viện binh cho Đông Dương. Chính phủ Pháp tại Hội nghị Genève không có sự lựa chọn nào khác.
Bidault thông báo Molotov đã bày tỏ với ông rằng, hy vọng ngày mai sẽ sắp xếp hội kiến riêng giữa hai người và ông đã nhận lời với Molotov, hẹn 11 giờ sáng mai hai bên sẽ gặp mặt.
1 Phỏng vấn Quản Chấn Hồ tại Bắc Kinh ngày 5 tháng 3 năm 1998.
2 Phỏng vấn Lưu Gia Kiệt tại Bắc Kinh ngày 6 tháng 3 năm 1998.
3 The Settlemaent of the Indochina War in The foreign Policy of Churchill’s Peacetime Administration 1951-1955, 1988, tr. 237.
4 Johnson U. Alexis, The Right Hand of Power: the Memoirs of an American Diplomat, Paramus NJ USA Prentice-Hall, 1984, tr. 204.
5 Evelyn Shuchkburgh, sđd, tr. 178.
Các
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:51:56 GMT 9
CHƯƠNG 10 Ngày hội nghị đầu tiên – Lời lẽ sắc bén
Churchill ngày một già đi, nhưng những phán đoán, nhận định về tình hình thế giới vẫn rõ ràng chính xác lạ thường. Dòng người ở Genève đông như mắc cửi, tất cả đều hướng về cung Vạn Quốc tráng lệ. Ngoại trưởng hai miền Nam - Bắc Triều Tiên đang ở đó “đấu trận”, làm cho mọi người ngửi thấy cả mùi khói súng của chiến trường Triều Tiên xa xôi.
Ngay sau ngày khai mạc Hội nghị Genève, ngày 27/4, Thủ tướng Anh Churchill, lúc đó đã 80 tuổi, hội kiến Đại sứ Pháp [René] Massigli tại dinh thủ tướng. Đại sứ Pháp vội vàng đưa ra thỉnh cầu Anh ủng hộ “liên minh hành động” của Mỹ, nhằm giải vây cho Điện Biên Phủ. Chỉ cần Điện Biên Phủ còn ở trong tay quân Pháp, thì cục diện trên bàn đàm phán ở Genève của phe phương Tây không khốn đốn đến mức không thể thu xếp. Massigli nhấn mạnh, hiện tại đã là cơ hội cuối cùng.
Churchill đã cắt ngang lời nói của Đại sứ Pháp. Ông dự định sẽ nghe bất kỳ kiến nghị nào khác của Pháp, ngoài kiến nghị sử dụng quân sự. Vị thủ tướng già chậm dãi khen những chiến sĩ Pháp ở Điện Biên Phủ đã ngoan cường chiến đấu, sau đó ông nói rằng rất tiếc là ông không thể giải cứu họ. Churchill nói: lần này Anh không đồng ý với lập trường “liên minh” nhưng không có nghĩa là nước Anh không còn là bạn của hai nước Mỹ, Pháp. Trong nhiều vấn đề trọng đại khác, Mỹ và Anh vẫn không có gì thay đổi. Nhưng nước Anh hiện tại đã nhận định được rằng rất có khả năng vấn đề sẽ được giải quyết tại hội nghị Genève. Ngược lại, oanh tạc bằng không quân sẽ hủy hoại khả năng đạt được hiệp định tại Genève. Chính phủ Anh thấy rất rõ tình hình hiện tại.
Churchill nói rất rõ ràng rằng: “Những chuyện chúng tôi đã quyết định thì sẽ không thay đổi. Đương nhiên, tôi cũng biết có rất nhiều ý kiến phản đối. Nhưng tôi đã bỏ qua và quyết không nhượng bộ.”
Chính trị gia lão thành này an ủi vị Đại sứ Pháp đang lo lắng không yên này rằng: “Nước Anh chúng tôi cũng đang đau đầu vì rất nhiều vấn đề, ví dụ như các vấn đề về Singapore, Hongkong, Thổ Nhĩ Kỳ… cũng tự nhiên như vậy, nước Pháp cũng gặp phải những vấn đề tương tự như Điện Biên Phủ.”
Đến lúc này, lập trường của Anh có thể nói là tương đối rõ ràng. Churchill vẫn chưa yên tâm, ông lại tuyên bố tại cuộc họp Quốc hội Anh chiều hôm đó rằng: “Chính phủ Anh quyết không thực hiện bất kỳ nghĩa vụ quân sự nào trước khi hội nghị Genève đạt được kết quả.” Churchill kêu gọi các nghị sĩ: “Đừng hủy bỏ cơ hội đàm phán! Hãy đặt Hội nghị Genève lên vị trí ưu tiên!” Các nghị sĩ vỗ tay để bày tỏ sự ủng hộ của mình với vị chính trị gia lão thành.
Đã đến nước này, Thủ tướng Pháp Laniel coi như đã hiểu rằng không tập trung sức lực vào Genève là không được nữa rồi. Nhưng, Laniel đã chỉ thị cho Bidault, có vấn đề gì thì chủ yếu là đàm phán với đại biểu Trung Quốc và Liên Xô, tận dụng
hết khả năng tránh đàm phán trực tiếp với đại biểu Hồ Chí Minh.
Buổi sáng ngày mà Churchill hội kiến Đại sứ Pháp, thì tại Genève, Dulles đến gặp Eden tại khách sạn. Vừa gặp mặt Eden, ông ta đã nói: “Tôi muốn thẳng thắn nói về những vấn đề mà chúng ta cùng quan tâm”. Dulles chỉ trích nước Anh đơn phương từ bỏ hiệp định mà hai nước đã ký vào ngày 13 tháng Tư. Nước Anh đang cổ vũ nước Pháp đi theo hướng đình chiến hoàn toàn. Điều này sẽ gây nên một trận thảm họa. Dulles nói: “Điều quan trọng nhất hiện nay là cả hai bên chúng ta đều phải cổ vũ nước Pháp đánh tiếp tại Đông Dương.”
Eden nghe xong những lời nói phẫn nộ đó, liền nói: “Tôi đã thể hiện rõ thái độ của nước Anh với Bidault. Hiện tại, đình chiến có thể đạt được sự đảm bảo an toàn và có thể kiểm soát được tình hình.
Dulles nhắc nhở Eden chú ý rằng nước Mỹ đã có một phương án, chính là thành lập Tổ chức an ninh Đông Nam Á. Trong trường hợp Hội nghị Genève không đạt được kết quả gì, thì sẽ cho phép các quốc gia Đông Dương gia nhập tổ chức này.
Eden nhấn mạnh điều nước Anh lo nhất là nếu dùng quân sự ở Đông Dương, hậu quả còn đáng sợ hơn là ở chiến tranh Triều Tiên. Các quốc gia châu Á không hoan nghênh kết cục này.
Dulles nói, nước Mỹ lo lắng về tình hình châu Á còn hơn nước Anh.
Eden bày tỏ phía Anh cần phải xem có những thực tế nào xảy ra trong quá trình diễn ra hội nghị Genève. Nếu quả đúng Điện Biên Phủ nguy cấp, chúng tôi đương nhiên phải giúp nước Pháp một tay.
Dulles cho biết Mỹ vô cùng lo lắng cho tình hình nước Pháp. Nếu chính phủ Laniel bị lật đổ, phe cánh tả sẽ lên, điều này sẽ làm tăng thêm thế lực cho ĐCS tại Pháp, và cũng ảnh hưởng đến cả Italia.
Câu chuyện đến đây thì Bidault sau khi hội kiến Molotov cũng xuất hiện.
Genève vào tháng Tư gió hòa trời đẹp, xa xa núi xanh biếc, đường phố nhộn nhịp. Sóng biếc dập dờn trên hồ Leman, viền quanh hồ là con đường nhỏ. Đại đa số các ngôi nhà ở đây đều nhỏ nhắn xinh xắn, trước cửa và sau sân nhà là hoa và cây cảnh tốt tươi. Một thành phố cũ được xây dựa lưng vào núi, với những con phố nhỏ hẹp, đường được rải bằng đá cuội. Nhìn ra xa, giáo đường đứng sừng sững cùng những kiến trúc cổ đi liền xung quanh. Hai công viên nổi tiếng, trong đó có Công viên Hoa hồng, trông giống như một viên minh châu bị đứt dây, rơi xuống bên hồ Leman.
Nơi phong cảnh hữu tình này lại không thấy bóng dáng của các trưởng đoàn đoàn đại biểu các nước tham gia hội nghị. Trong hội trường của hội nghị Genève chỉ thấy những lời lẽ đanh thép, không ai chịu nhường ai. Hậu trường ngoại giao cũng đang trong giai đoạn căng thẳng, dường như đấy mới là mấu chốt.
Lúc 11 giờ trưa ngày 27 tháng Tư, bảo vệ báo cáo với Bidault, Ngoại trưởng Liên Xô Molotov đến. Bidault cảm thấy một chút cơ hội sống trong tay rất có thể nằm ở tâm lý cấp bách của đối thủ. Eden đã từng nói với Bidault vào buổi chiều trước hôm khai mạc hội nghị Genève rằng Molotov đã đến hội kiến Ngoại trưởng Anh. Trong cuộc nói chuyện ngắn ngủi, Molotov đã hai lần nhắc đến vấn đề Đông Dương, thể hiện ra sự cấp thiết không bình thường, đây có thể là một điềm tốt.
Quả nhiên, Molotov vừa bước qua cửa đã hỏi trình tự hội đàm các vấn đề Đông Dương được sắp xếp như thế nào?
Bidault nói với Molotov rằng, nước Pháp rất hy vọng có vấn đề gì thì tìm Liên Xô giải quyết, nhiều nhất là thêm Chu Ân Lai của Trung Quốc, chứ không thể cùng đàm phán với đại biểu Việt Nam. Bidault nói, ngoài Ngoại trưởng của năm nước, việc thảo luận các vấn đề Đông Dương còn có sự tham gia của đại diện Chính phủ Bảo Đại Việt Nam, đại biểu Lào và Vương quốc Campuchia.
Đối với đề nghị của Bidault, Molotov không phản đối, nhưng ông đề nghị nên có sự tham gia của đại biểu Chính phủ Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh. Đây là việc đương nhiên.
Bidault không đồng ý, nói rằng chuyện này chỉ cần đàm phán với Liên Xô và Trung Quốc là được, vì đại biểu Hồ Chí Minh hoàn toàn nghe theo hai nước Liên Xô và Trung Quốc.
Molotov không khách khí mà chỉ ra rằng thông cáo của Hội nghị Berlin không quy định rằng tham gia Hội nghị Genève phải có điều kiện tiên quyết nào, thông cáo còn chỉ ra là ngoài năm nước lớn còn nên có đại biểu các quốc gia khác tham gia, điều này đương nhiên bao gồm cả đại biểu của nước Việt Nam DCCH.
Bidault nghẹn lời trong một lúc, nói, sẽ về nghiên cứu vấn đề này. Ông chuyển sang vấn đề khác, trước khi thảo luận danh sách các đại biểu tham gia hội nghị, nhất thiết phải giải quyết việc đưa các thương binh Pháp ra khỏi Điện Biên Phủ. Do pháo cao xạ của bộ đội Việt Nam tấn công quyết liệt, máy bay Pháp ngay từ đầu đã không thể hạ cánh xuống Điện Biên Phủ, khiến các thương binh Pháp bị vây khốn trong đó càng ngày càng nhiều. Đại đa số họ phải chen chúc trong hầm ẩn nấp dưới đất, ô uế không thể chịu được. Trước mắt, chỉ có thể nhờ Liên Xô ra mặt gây sức ép với Hồ Chí Minh để thương binh Pháp được di chuyển ra khỏi Điện Biên Phủ, sau đó sẽ hội đàm cũng không muộn.
Molotov đồng ý rằng vấn đề này có thể cùng được giải quyết với các vấn đề khác. Tổng cộng hai bên nói chuyện 40 phút.
Đội hình đoàn đại biểu bốn nước Trung Quốc, Liên Xô, Anh và Pháp tham gia hội nghị lần này rất lớn, song đoàn đại biểu Mỹ chỉ có chưa đến 50 người. Trưởng đoàn đại biểu Mỹ Dulles kiên quyết ở trong khách sạn, trong tư thế vội đến rồi lại vội đi.
Khi vừa đến Genève, Dulles đã hội kiến Ngoại trưởng Australia Casey. Dulles nói với Casey, ông ta đã hội đàm với Bảo Đại tại Paris ngày 24 tháng Tư, Bảo Đại bày tỏ: dù nước Pháp đánh tiếp tại Việt Nam, sau này cũng sẽ phải bỏ Đông Dương. Ông ta hy vọng Mỹ sẽ lấp vào “chỗ trống” này.
Casey phân tích với Dulles rằng ông đã đoán được tính toán của Eden, trước khi hội nghị Genève diễn ra, Anh sẽ không tham gia vào cuộc xung đột mà Mỹ đơn phương tiến hành tại Đông Dương, nhưng sẽ toàn tâm ủng hộ nước Pháp đạt được một biện pháp giải quyết “thể diện” tại Genève. Casey đề nghị Dulles không nên ngại tiếp xúc với Molotov tại Genève để tìm hiểu con đường giải quyết vấn đề nằm ở đâu.
Sau buổi trưa cùng ngày, Molotov đã đến Tổng lãnh sự Mỹ tại Genève để gặp
Dulles.
Hai người này vốn là đối thủ cũ của nhau, nhưng nói chuyện thẳng thắng rõ ràng. Vừa gặp mặt, Molotov đã trao tận tay Dulles văn bản trả lời của Chính phủ Liên Xô đối với công hàm ngày 29 tháng 3 của Mỹ về vấn đề năng lượng nguyên tử. Văn bản trả lời bằng tiếng Nga này dài tám trang. Molotov mỉm cười nói với Dulles rằng, có thể ngài Ngoại trưởng không thể lập tức trả lời văn bản phúc đáp này, nhưng văn bản này thực sự đã biểu đạt được thái độ của Chính phủ Liên Xô đối với kiến nghị của Tổng thống Eisenhower về vấn đề năng lượng nguyên tử ngày 8 tháng 12 năm ngoái. Molotov nói, nếu ông đã nghiên cứu kỹ vấn đề này thì tôi sẽ sắp xếp một cuộc hội đàm với ông về vấn đề này.
Dulles nói: “Đó là điều đương nhiên, nhưng trước tiên tôi phải dịch văn bản tiếng Nga của ông, sau khi đã đọc xong văn bản này, tôi sẽ trao đổi ý kiến với ông.”
Molotov gật gật đầu đồng ý.
Lúc đó, Dulles nói với Molotov: “Nếu ông không phiền thì tôi có thể nói vài câu về vấn đề Đông Dương không?”.
“Đâu có”, Molotov nói: “Tôi rất hứng thú với chuyện này.”
Dulles nói: Đông Dương đang ở trong tình cảnh vô cùng khó khăn. Về vấn đề Đông Dương mà nói, cả Mỹ và Liên Xô đều không phải là hai bên giao tranh ở đó, nhưng những xung đột ở đó lại có quan hệ mật thiết với Mỹ và Liên Xô. Tôi muốn nhắc nhở ngài Molotov, khi ở hội nghị Berlin, ông đã từng nói ông rất lo lắng những xung đột ở Đông Dương sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Từ đó đến nay tôi luôn rất quan tâm đến vấn đề Đông Dương. Chiến tranh ở đó không ngừng leo thang, Trung Quốc không ngừng viện trợ quân sự cho khu vực đó, làm cho Chính phủ và nhân dân Mỹ vô cùng lo lắng cho tình hình tại đó. Chúng tôi lo ngại ở đó sẽ xảy ra cuộc xâm lược quy mô lớn, tạo thành mối đe dọa nghiêm trọng đến nước Mỹ.
Dulles tiếp tục nói, bản thân ông ta cũng chưa nhìn ra viễn cảnh giải quyết những xung đột nghiêm trọng ở Đông Dương, nhưng hy vọng Molotov có thể tìm được một con đường có hiệu quả giải quyết được vấn đề này. Dulles nói, hai nước Mỹ và Liên Xô nên gia tăng ảnh hưởng của mình để ngăn không cho những xung đột này lan rộng và tiến triển theo hướng dịu dần.
Molotov trả lời, Liên Xô đương nhiên quan tâm đến vấn đề Đông Dương, hy vọng có thể góp sức cho hòa bình ở đó. Nhất định phải suy tính rằng cuộc xung đột ở Đông Dương đã kéo dài tới 8 năm, điều này đòi hỏi chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến tình thế ở đó, và tìm một con đường đi đến hòa bình.
Molotov nói, theo tôi thì bước cần thiết đầu tiên là lắng nghe ý kiến của cả hai bên, và tiến đến hòa giải, vì không một nước nào lại muốn nhìn thấy chiến tranh ở Đông Dương lan rộng. Hai quốc gia cách xa Đông Dương cả ngàn dặm là Liên Xô và Mỹ cũng như vậy thôi.
Molotov nói với Dulles rằng, hy vọng đại biểu Mỹ có thể coi đại cục hòa bình thế giới là vấn đề quan trọng, có thái độ chân thành tại Hội nghị Genève. Ông cho rằng một trong những mấu chốt giải quyết vấn đề này là phải xem Mỹ có thay đổi chính sách với Đông Dương hay không.
Molotov đề cập đến cuộc gặp vừa diễn ra giữa ông và Bidault. Bidault đã chỉ ra những quốc gia sẽ tham gia hội nghị giải quyết vấn đề Đông Dương. Ý kiến của đoàn đại biểu Liên Xô là tham gia hội nghị sẽ bao gồm: Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc, ba nước Đông Dương, và đại biểu Hồ Chí Minh. Ngoài ra, cũng có thể còn yêu cầu thêm một số đại biểu của các quốc gia châu Á tham gia hội nghị, ví dụ như: Ấn Độ rất quan tâm đến vấn đề Đông Dương, cho Ấn Độ tham gia sẽ gây được ảnh hưởng tích cực, nhưng dù sao thì chín đoàn đại biểu đầu tiên phải tham gia hội nghị.
Đến lượt Dulles đưa ra ý kiến của mình. Ông nói, xem ra chín đoàn đại biểu mà ngài vừa nói thực sự là nên tham gia hội nghị. Nhưng, ngoài năm đoàn đại biểu đầu tiên mà ngài nói ra, còn lại ba nước Đông Dương và đại biểu chính quyền Hồ Chí Minh có đủ kinh nghiệm giải quyết các vấn đề quốc tế hay không, thì còn phải xem xét thêm.
Dulles nói, ông ta rất mong muốn trước khi quay trở lại Washington sẽ được biết Molotov với tư cách là đại biểu Liên Xô, đang xem xét vấn đề gì. Ông không rõ vấn đề mà các đại biểu tham gia hội nghị vừa nhắc đến có phải rất nhạy cảm? Cũng có thể sau khi đọc xong văn bản của Chính phủ Liên Xô mà Molotov vừa trao, ông sẽ có cách nghĩ mới, lúc đó sẽ trao đổi ý kiến.
Molotov trả lời: Ông đương nhiên mong muốn trong thời gian hội nghị Genève, những trao đổi ý kiến của ông với đoàn Mỹ không chỉ ở cuộc họp chính thức mà còn có cả trao đổi riêng. Ông mong muốn thấy cả Mỹ và Liên Xô đều phản đối thực thi chính sách chủ nghĩa thực dân kiểu cũ ở Đông Dương. Vì vậy, điều quan trọng là lắng nghe ý kiến của cả hai phía. Ông còn kiến nghị Dulles nên tiếp xúc với Chu Ân Lai.
Dulles nói với Molotov rằng, đối với những vấn đề tại hội nghị Genève, nước Mỹ đã có sẵn phương án.
Sau cuộc nói chuyện kéo dài 30 phút, Molotov xin cáo từ. Ấn tượng của Mỹ về cuộc hội đàm này là: “So với Hội nghị Berlin, tình trạng sức khoẻ của Molotov không còn được như trước. Trước đó không lâu, ông đã một lần bị cảm cúm, sắc mặt xám nhợt, ánh mắt có chút sợ chói. Khi gặp mặt, ông đều rất chân thành nghe từng câu một Dulles. Khi tự mình nói thì rất nghiêm túc, nhưng lại xuất hiện một hai câu thở dài, có khi là hai ba câu. Tay của ông run run trong ống tay áo. Ngoài hai câu nói đùa lúc vừa mới bắt đầu cuộc nói chuyện ra, toàn bộ cuộc nói chuyện đều mang tính hết sức nghiêm túc”.
Cùng ngày, Liên Xô có sự thay đổi về nhân sự. [Kliment Yefremovich] Voroshilov được bầu làm người đứng đầu cao nhất, Malenkov được bầu làm Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, Molotov là Phó Chủ tịch thứ nhất kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, [Nikolai Aleksandrovich] Bulganin và Kaganovich là cũng được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch thứ nhất, lần lượt kiêm nhiệm chức Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Nội vụ. Khrushev với tư cách là Tổng Bí thư ĐCS Liên Xô, đã gia tăng địa vị của mình.
Ba giờ chiều ngày 27 tháng Tư, Hội nghị Genève về vấn đề Triều Tiên chính thức bắt đầu. Ngoại trưởng Liên Xô Molotov đảm nhiệm cương vị Chủ tịch hội nghị. Khi tuyên bố hội nghị bắt đầu, ông căn cứ vào quyền hành của chủ tịch, đã chọn cho mình ba trợ thủ: Gromyko và Fedorenko của Liên Xô và Sư Triết của Trung Quốc.
Hội nghị bắt đầu, đầu tiên Molotov mời Ngoại trưởng Hàn Quốc là Pyun Yung Tai [Cáp Vinh Thái] lên phát biểu.
Pyun Yung Tai, ở độ tuổi 60, kịch liệt công kích Triều Tiên đã phá vỡ sự ổn định của “giới tuyến 38”, chỉ trích Liên Xô là chỗ dựa của “kẻ xâm lược” này. Những lời nói công kích tại hội nghị bắt đầu như thế.
Pyun Yung Tai nói: “Tôi cảm thấy vô cùng đau buồn. Tôi không nghĩ rằng sẽ hội kiến người anh em Bắc Triều Tiên của mình ở một hội nghị quốc tế như thế này, mà anh ta lại ở một phe khác.” Vị ngoại trưởng có tài năng ngôn ngữ siêu phàm này trong lời nói đã liên tiếp dùng những câu tu từ: “Hơn 4.000 năm qua, chúng ta, nhân dân miền Nam và miền Bắc cùng chung một quốc gia, trong người cùng chảy chung một dòng máu, nói cùng một thứ ngôn ngữ, theo đuổi cùng mục đích, còn có tâm lý dân tộc tương đồng và có cùng lợi ích dân tộc, sự tôn nghiêm dân tộc. Trong 40 năm dưới sự thống trị của Nhật Bản, chúng ta giống như một người đồng lòng chống lại sự xâm lược của Nhật, vui buồn cùng nhau. Nhưng hôm nay, Triều Tiên bị phân chia bởi “giới tuyến 38”! Pyun Yung Tai than vãn.
Ngoại trưởng Pyun Yung Tai sinh năm 1892 tại Seoul, Triều Tiên, một đời gắn chặt với văn hóa Trung Quốc. Ông học trung học cơ sở tại Đông Bắc Trung Quốc, sau đó bị gián đoạn phải về nước. Năm 1916, ông lại đến Trung Quốc, học một năm tại Đại học Hiệp Hòa. Từ đó về sau, ông trở về Triều Tiên làm giáo viên tiếng Anh trong 24 năm. Năm 1945, ông trở thành một chính trị gia. Từ năm 1951-1955 ông làm Ngoại trưởng Hàn Quốc.
Pyun Yung Tai không quên công kích Trung Quốc trong lời nói của mình: “ĐCS Trung Quốc coi Liên Xô là “phụ quốc” [nước cha mẹ] của mình mà thần phục, nếu Trung Quốc độc lập thì vì sao họ lại tham gia vào chiến tranh Triều Tiên? Hiện nay, hoàn cảnh của ĐCS Trung Quốc cũng giống như hoàn cảnh của Liên Xô cách đây 20 năm. Nhiệm vụ chính của họ nên là giải quyết các vấn đề trong nước, chứ không phải là mở rộng chủ nghĩa đối kháng với nước ngoài. Hiện nay, Trung Quốc đã trở thành quả bom trong chiến lược chinh phục quốc tế của Liên Xô.”
Kỳ thực, sự hiểu biết của vị ngoại trưởng cao tuổi này đối với những nhà lãnh đạo Trung Quốc là vô cùng ít ỏi. “Nhất biên đảo” [Ngả về một bên] là kế nhất thời của Mao Trạch Đông trong buổi đầu dựng nước. Từ sau hội nghị Tuân Nghĩa trên đường Trường chinh, quan hệ qua lại giữa hai ĐCS Trung Quốc và Liên Xô luôn mang tính độc lập. Trung Quốc luôn tỏ rõ sự phản đối rõ ràng mà vẫn mềm dẻo đối với việc Stalin mấy lần can thiệp vào công việc nội bộ ĐCS Trung Quốc. Mao Trạch Đông - người xây dựng nên đất nước Trung Quốc mới càng tự tin rằng, không lâu nữa, vị thế của Trung Quốc trong những công việc quốc tế sẽ ngang bằng với Liên Xô. Ông quyết không phục tùng những chiến lược của Liên Xô. Ngược lại, Mao Trạch Đông lại mong muốn nhìn thấy địa vị “trung tâm cách mạng” của Trung Quốc.
Những hiểu biết hoang đường của Pyun Yung Tai về lịch sử đương đại của Trung Quốc lại tiếp tục được thể hiện: “Chính ngay trước khi chiến tranh Trung-Nhật kết thúc không lâu, quân xâm lược Nhật Bản không hề cho chiếc máy bay nào oanh tạc Diên An – đây là thủ đô quân Đỏ nằm liền kề khu vực Nhật Bản chiếm lĩnh - mà lại cho hơn nghìn lượt máy bay oanh tạc khu vực cách xa đó cả nghìn dặm. Đó là Trùng Khánh, nằm sâu trong vùng rừng núi. Lý do này rất rõ ràng, đó chính là cộng sản Trung Quốc từ trước đến giờ chưa từng giao chiến với quân Nhật, mà chỉ làm ra vẻ giao chiến với Nhật mà thôi.”
Sự kém hiểu biết về lịch sử nước láng giềng của Pyun Yung Tai đến thế là cùng. Diên An là căn cứ địa của Trung ương ĐCS Trung Quốc trong kháng chiến chống Nhật. Sau khi kháng chiến nổ ra toàn diện, ngày 20/11/1938, hơn mười máy bay quân Nhật đã oanh tạc Diên An lần đầu. Trong hai ngày 20 và 21, máy bay ném bom Nhật đã thả xuống Diên An 159 quả bom, làm 152 quân dân Trung Quốc chết và bị thương, phá hủy 380 ngôi nhà. Rất nhiều trường học bị hủy hoại. Mao Trạch Đông phải tức tốc từ chân núi Phượng Hoàng trong thành Diên An chuyển qua Dương Gia Lĩnh ở ngoại thành. Đến ngày 26/10/1941, Nhật Bản oanh tạc lần cuối thành Diên An. Tổng cộng, máy bay Nhật đã tấn công Diên An 17 lần. Trong thời gian ba năm, Diên An luôn nằm dưới sự uy hiếp của máy bay Nhật.
Luận điệu cơ bản trong phát ngôn của Pyun Yung Tai là muốn Bắc Triều Tiên thừa nhận là “kẻ xâm lược”, muốn quân tình nguyện Trung Quốc rút khỏi Triều Tiên. Ông ta cho rằng “quân LHQ” không nhất thiết phải theo quân Trung Quốc rút khỏi Triều Tiên, Bắc Triều Tiên phải tiến hành bầu cử dưới sự giám sát của LHQ, trong Quốc hội Nam Triều Tiên đã để ra 100 ghế trống, chỉ đợi Bắc Triều Tiên bầu cử và chọn ra các nghị sĩ là được.
Ngoài ra, phát ngôn của Pyun Yung Tai không đề cập đến phương án cụ thể, mà nội dung chính là Trung Quốc trước tiên phải rút quân khỏi Triều Tiên, sau đó là giải quyết vấn đề thống nhất Triều Tiên trong khuôn khổ LHQ.
Sau phát ngôn của Pyun Yung Tai, Ngoại trưởng Bắc Triều Tiên là Đại tướng Nam Il lên bục phát biểu. Nam Il là đại diện hàng đầu của Triều Tiên trong đàm phán đình chiến ở bán đảo Triều Tiên, nên rất có kinh nghiệm, rất tôn trọng Chu Ân Lai. Phát ngôn của ông đều mời Chu Ân Lai xem qua.
Nam Il trong phát ngôn của mình đã thuật lại tình hình phát triển cũng như những vấn đề của Triều Tiên sau chiến tranh đến nay, và cả quan hệ với Liên Xô v.v.. Trọng tâm trong phát ngôn của ông là “thả tù binh, rút quân, tổng tuyển cử”: tức là: “quân LHQ” nhanh chóng giải phóng hơn 48 nghìn tù binh trong chiến tranh Triều Tiên vẫn còn đang bị giam hãm, tất cả quân đội các nước khác phải rút khỏi Triều Tiên trong vòng 6 tháng, sau đó tiến hành tổng tuyển cử toàn dân tộc Triều Tiên. Đây chính là phương án đã được quyết định thông qua thương lượng giữa ba nước Liên Xô, Trung Quốc và Triều Tiên.
Vào đoạn kết của phát ngôn, Nam Il đã đưa ra “phương án khôi phục thống nhất quốc gia Triều Tiên và tiến hành bầu cử tự do toàn Triều Tiên”. Phương án bao gồm ba điểm:
Đề nghị Chính phủ Bắc, Nam Triều Tiên:
tiến hành bầu cử Quốc hội trên toàn bán đảo Triều Tiên, để thành lập một Chính phủ Triều Tiên thống nhất.
Để chuẩn bị cho bầu cử tự do, hai miền Nam, Bắc Triều Tiên tự chọn ra các đại biểu của mình tham gia “Ủy ban liên Triều”.
Ủy ban liên Triều sẽ soạn ra dự thảo luật bầu cử để tránh sức ép của các địa phương và sự can thiệp của nước ngoài.
Ủy ban liên Triều sử dụng những biện pháp khẩn cấp để phát triển mối quan hệ kinh tế và văn hóa của hai miền Nam, Bắc bao gồm: kinh tế, tài chính kế toán, vận tải, quan hệ biên giới song phương, cư dân tự do qua lại và tự do gửi thư, giao lưu khoa học và văn hóa.
Cho rằng tất cả các lực lượng vũ trang nước ngoài nhất thiết phải rút quân trong vòng 6 tháng.
Cho rằng những quốc gia quan tâm đặc biệt tới việc bảo vệ hòa bình khu vực Viễn Đông nhất thiết phải bảo đảm sự phát triển hòa bình của Triều Tiên, và tạo điều kiện để thúc đẩy hòa bình thống nhất của Triều Tiên.
Lập trường của Triều Tiên và Hàn Quốc có khoảng cách rất lớn. Chu Ân Lai ngồi trên hội trường chỉ nghe mà không nói. Thỉnh thoảng, ông quay sang Trương Vấn Thiên, Vương Gia Tương và Lý Khắc Nông nói gì đó.
Sau phát ngôn của hai bên Nam, Bắc Triều Tiên, Ngoại trưởng Colombia [Eduardo Zuleta] Angel lên phát biểu. Ông nêu rõ: “Các nước nhỏ trên thế giới sẽ không có đủ lực lượng vũ trang để tự bảo vệ mình. Vì vậy, họ rất xem trọng luật pháp quốc tế và tích cực ủng hộ những điều khoản có thể đảm bảo an ninh trong luật quốc tế”. Với ý nghĩa này, ông nhấn mạnh vai trò của LHQ, cho rằng bầu cử Triều Tiên nên được tiến hành dưới sự giám sát của LHQ. Angeo đã đưa ra ba nguyên tắc giải quyết vấn đề Triều Tiên:
Hội nghị Genève về vấn đề Triều Tiên cần phải thông qua phương thức hòa bình để tiến xây dựng một nước Triều Tiên thống nhất, độc lập và dân chủ.
Để đạt được mục đích này, nhất thiết phải tiến hành bầu cử tự do để có thể phản ánh rõ nét nguyện vọng của nhân dân.
Bầu cử nhất thiết phải được tiến hành dưới sự giám sát của LHQ.”
Hội nghị họp đến hơn 6 giờ thì kết thúc, đại biểu các nước lần lượt rời khỏi hội trường. Không khí trong ngày đầu làm việc vừa trang trọng vừa căng thẳng. Sự đối địch giữa hai phe Đông, Tây được thể hiện rõ. Trong bầu không khí đối địch này, làm thế nào có thể có được kết quả tích cực tại hội nghị Genève?
Ô tô chở đoàn đại biểu Trung Quốc về nơi ở, trên đường trở về đi qua một viện bảo tàng các dụng cụ cổ. Tại đây, mọi người có thể thấy các đồ gia dụng cổ, tranh thủy tinh màu và binh khí cổ. Viện bảo tàng này được cải tạo từ một kho đạn cũ của quân đội. Hành lang trên mặt tiền viện bảo tàng có đặt ba khẩu pháo cổ, được đúc từ năm 1680. Cách ba khẩu pháo này một con phố là tòa thị chính, nơi đã ký “Công ước Genève” đầu tiên năm 1863, với nội dung khoan hồng các tù binh. Có lẽ cũng vì nguyên nhân này mà rất nhiều người khi đến đây đều cắm một bông hoa tươi vào trong nòng pháo.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:52:48 GMT 9
CHƯƠNG 11 CƠ HỘI BẮT TAY ĐÃ MẤT
Ngày 27 tháng Tư, Dulles và Chu Ân Lai lần lượt phát biểu tại Hội nghị Genève. Đây là “cuộc giao chiến” trực diện đầu tiên của hai Ngoại trưởng Mỹ - Trung tại một hội nghị quốc tế. Mặc dù hai bên đối kháng mỗi người một hướng, nhưng mong muốn của Chu Ân Lai lại là tìm kiếm con đường giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng hòa bình, nên ông sẽ không bỏ qua cơ hội bắt tay đối thủ.
Ngày 28 tháng Tư, bầu trời trong xanh. Dường như tại bất kỳ đâu trong thành phố Genève đều có thể nhìn thấy đài phun nước nhân tạo khổng lồ đang phun những dòng nước cao trên hồ Leman. Đó là đài phun nước được xây dựng vào năm 1891. Khi trời trong xanh không một gợn mây, đài phun nước có thể phun cao đến 140m. Nước hồ khi được phun cao tới đỉnh điểm sẽ trở thành một vòng tròn nước. Dưới ánh sáng mặt trời, vòng tròn đó sẽ tạo thành cầu vồng bảy sắc tỏa sáng. Chu Ân Lai rất thích đài phun nước này. Ngày hôm đó, khi đi ô tô vào thành phố, ông đã dừng lại ngắm đài phun nước khá lâu.
Sáng hôm đó, Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên, Vương Gia Tường, Lý Khắc Nông đã tham quan hội trường diễn ra Hội nghị Genève ở Cung Vạn Quốc. Họ đã từng dự họp tại Cung Vạn Quốc, nhưng do tiến trình của hội nghị đã thu hút toàn bộ sự chú ý nên Chu Ân Lai và đoàn tùy tùng không có ấn tượng lắm với Cung Vạn Quốc cũng như các cảnh vật xung quanh.
Cung Vạn Quốc là một tòa cung điện nguy nga màu vàng kem, nằm trong Công viên Ariane trên một ngọn đồi bên hồ Leman, diện tích cung khoảng 25 hecta. Công viên vốn là gia sản của một dòng họ lâu đời ở đây. Năm 1800 được di chúc tặng lại cho thành phố Genève. Chủ nhân công viên là Gustav đã để lại ba di ngôn: Công viên được đặt tên theo tên mẹ đẻ của ông phải được mở cho công chúng; phần mộ của bản thân ông trong công viên không bị quấy rầy; theo chủ nghĩa lãng mạn truyền thống, công viên phải có chim công. Cả ba điều này đều đã được thực hiện. Ngày 28/4/1919, Hội nghị hòa bình Paris tuyên bố Genève trở thành nơi đặt trụ sở của hội “Quốc liên”. Tin tức được truyền đi, tiếng chuông tại tất cả các giáo đường ở Genève cùng vang lên trong đêm. Mọi người chúc mừng công cuộc xây dựng Genève bước vào giai đoạn mới.
Cung Vạn Quốc được xây dựng từ năm 1929 đến năm 1936, do năm người phụ trách thiết kế. Tòa nhà nằm ngay bờ phải hồ Leman. Trước chiến tranh thế giới thứ hai, nơi đây là vốn là trụ sở hội Quốc liên. Năm 1946, nó trở thành văn phòng của LHQ tại Genève và còn được gọi là tổng hành dinh của LHQ tại châu Âu.
Địa thế của Cung Vạn Quốc rất thoáng đãng, với cỏ xanh bát ngát. Những cây tùng cổ thụ trên trăm năm tuổi tỏa bóng mát rượi. Chính giữa, phía trước tòa nhà là một hồ nước. Hồ được gọi là hồ quyên góp là vì được Cao ủy LHQ về người tị nạn dùng để quyên tiền. Dưới đáy hồ có vô số những đồng tiền xu khác nhau do du khách ném xuống, chúng tỏa ra ánh bạc sáng lấp lánh. Ngay bên trái thảm cỏ xanh, nằm giữa có một quan tài đá nhìn không nổi bật lắm. Đó chính là lăng mộ của Gustav - chủ nhân trước kia của công viên.
Đối với những vết tích lịch sử còn lưu lại của châu Âu, Chu Ân Lai đã xem đặc biệt kỹ. Ông vô cùng yêu quý tổ quốc mình, tràn đầy hy vọng mong muốn đưa nước Trung Quốc mới tiến vào LHQ trong những năm của nửa sau thế kỷ XX. Ông đứng trước đại sảnh tòa nhà Quốc liên, nói với các chiến hữu của mình rằng: hiện nay, LHQ không cho chúng ta gia nhập. Chúng ta không sợ. Chúng ta sớm muộn gì cũng sẽ gia nhập LHQ!
Chu Ân Lai rất hứng thú tham quan, quan sát rất chăm chú. Chính tại trước cửa Cung Vạn Quốc, khi Chu Ân Lai xuống xe đã làm “kinh động” đến mấy nhà báo đang ngả lưng trên bậc thềm để đợi chụp ảnh. Bọn họ nghe thấy tiếng động liền bất dậy, tranh nhau chụp những hoạt động của Chu Ân Lai. Phiên dịch Lý Việt Nhiên phát hiện một nhà báo nghĩ rằng mình đã chụp được những cảnh tốt nên ôm máy ảnh hôn không ngừng, phát ra cả tiếng kêu.
Sáng hôm ấy, Molotov đã hội kiến Bidault tại nơi ở, thảo luận tỉ mỉ trình tự hội nghị thương lượng vấn đề Đông Dương và danh sách các đại biểu tham dự hội nghị.
Đối với Molotov, một trong những mục tiêu quan trọng của đoàn đại biểu Liên Xô tham gia Hội nghị Genève lần này là ngăn chặn nước Pháp, không cho Pháp gia nhập NATO do Mỹ đứng đầu. Liên Xô không mong muốn đối đầu Mỹ cùng lúc trên cả hai chiến trường tại châu Á. Trọng điểm chiến lược của họ trước sau đều là châu Âu. Liên Xô đã thu được không ít lợi lộc từ chiến tranh Triều Tiên, song cũng tiêu hao hàng loạt vật tư cho chiến tranh, nên chỉ có thể tồn tại khả năng là giải quyết một cách hòa bình vấn đề Triều Tiên. Liên Xô mong muốn nắm bắt thật chặt cơ hội này.
Khi ngoại trưởng hai nước gặp mặt, Bidault nói với Molotov rằng, trước khi quyết định đoàn đại biểu nước nào tham gia thảo luận vấn đề Đông Dương, trước tiên phải để cho các thương binh Pháp rút khỏi Điện Biên Phủ, nếu không sẽ là vô nhân đạo, vì tình trạng của các thương binh Pháp trong vòng vây tại Điện Biên Phủ làm người khác phải lo lắng.
Molotov trả lời rằng, ông đồng ý là nên nhanh chóng giải quyết vấn đề đưa thương binh ra khỏi Điện Biên Phủ, và chủ trương đại biểu các nước có liên quan nên lập tức cùng mở cuộc họp thương lượng, càng nhanh càng tốt. Ông nói tiếp, thông cáo của Hội nghị Berlin không quy định điều kiện tiên quyết nào khi tham gia Hội nghị Genève, mà chỉ nêu ra rằng ngoài năm nước lớn, nên có đại biểu các quốc gia khác cùng tham gia. Điều này đương nhiên bao gồm cả đại biểu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (DCCH).
Bidault phút chốc nghẹn lời, nói, vấn đề này còn phải về nghiên cứu.
Thì ra, Thủ tướng Pháp Laniel miệng nói rằng ông đồng ý đàm phán với Hồ Chí Minh, nhưng trong thâm tâm, ông ta không hề muốn tiếp xúc trực tiếp với Hồ Chí Minh, chứ đừng nói đến đàm phán trực tiếp. Laniel lật lọng, chỉ thị cho Bidault chủ yếu nên đàm phán với Liên Xô, thông qua Liên Xô truyền đạt yêu cầu của nước Pháp tới đồng minh của Liên Xô là Việt Nam. Ông cho rằng, Liên Xô lúc này cũng chạy theo nước Pháp trong các vấn đề châu Âu. Laniel và Bidault lại có cùng một cách nghĩ rằng: tại Genève, ngoài việc giao lưu với Molotov, còn phải đàm phán với Trung Quốc, chỉ khi Trung Quốc nhượng bộ trong việc viện trợ Việt Nam thì mới có khả năng giải quyết lần cuối các vấn đề Đông Dương. Nhưng, Bidault tham gia hội nghị mới mấy ngày đều rất thận trọng, ông vẫn chưa thể hiện rõ với Molotov rằng mình muốn tiếp xúc với Chu Ân Lai.
Lúc 3 giờ 5 phút chiều ngày 28 tháng Tư, Hội nghị Genève tiếp tục tiến hành thảo luận vấn đề Triều Tiên, đến lượt Eden làm chủ tịch luân phiên của hội nghị.
Đại biểu Mỹ, Dulles, đã phát biểu rất dài. Ông ta không đưa ra phương án cụ thể để giải quyết vấn đề Triều Tiên, mà quay lại nguyên do của vấn đề Triều Tiên để đả kích phe phương Đông. Ông nói về vấn đề Triều Tiên:
Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, các mối quan hệ tại đây không chỉ là vì Triều Tiên (mặc dù điểm này là quan trọng nhất). Sự tồn tại của các mối quan hệ là quyền uy của LHQ, nhớ được điểm này là rất quan trọng. LHQ gánh trên vai trách nhiệm chủ yếu của mình, đó là để Triều Tiên trở thành một quốc gia tự do và độc lập. LHQ trợ giúp xây dựng nước Đại Hàn Dân Quốc và đã giúp đỡ rất nhiều. Khi kẻ xâm lược uy hiếp đến sự sinh tồn của Đại Hàn Dân Quốc, thì cũng chính LHQ đã kêu gọi các nước thành viên bảo vệ Triều Tiên.
…Đề án của ĐCS Bắc Triều Tiên yêu cầu quân đội nước ngoài tại đó trong vòng sáu tháng phải rút quân khỏi lãnh thổ Triều Tiên. Quân LHQ đã vì nơi này mà đi một đoạn đường dài. Trong khi đó, quân đội Trung Quốc chỉ cần đi vài dặm là đến, nên bọn họ có thể lập tức quay về. Mỹ cũng không muốn để quân của mình lưu lại Triều Tiên vô hạn định, nhưng chúng ta cần phải nhớ bài học rút quân quá sớm ra khỏi Triều Tiên trước kia, chúng ta không mong muốn lịch sử lặp lại. Đối với đề án của Bắc Triều Tiên, nước Mỹ nhất quyết phản đối, vì nó không thể đáp ứng yêu cầu xây dựng một Triều Tiên tự do, thống nhất và độc lập. Vì một Triều Tiên như vậy, mọi người đã phải hy sinh biết bao xương máu, chịu đựng biết bao gian khổ.
Trong ngôn từ của Dulles tràn đầy những từ ngữ chiến tranh lạnh. Những người có chút trải nghiệm là có thể nghe hiểu, sự phân chia Triều Tiên chính là sản phẩm của sự đối kháng giữa Liên Xô và Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ 2. Dulles yêu cầu: đặt vấn đề Triều Tiên vào trong khuôn khổ LHQ để giải quyết; Triều Tiên tiến hành bầu cử dưới sự giám sát của LHQ. Ông ta lấy lý do là Nam Triều Tiên đã từng tiến hành tổng tuyển cử nên yêu cầu LHQ tiếp nhận Hàn Quốc làm nước thành viên.
Sau khi tiếng nói của Dulles vừa ngừng, đại biểu Trung Quốc là Chu Ân Lai lên bục phát biểu. Đây là “cuộc giao tranh” mặt đối mặt lần đầu tiên giữa Ngoại trưởng Trung Quốc mới với Ngoại trưởng của Mỹ. Trước khi diễn ra hội nghị, bài phát biểu này ông đã được cân nhắc rất lâu, gọt giũa từng câu từng chữ. Với giọng nói sang sảng, Chu Ân Lai nói: “Hội nghị Genève mà toàn thể nhân dân thế giới kỳ vọng đã được khai mạc. Mục đích của hội nghị lần này là làm dịu tình hình căng thẳng trên trường quốc tế, củng cố hòa bình thế giới”.
Chu Ân Lai nói: ngoại trưởng năm nước lớn cùng các ngoại trưởng của những quốc gia liên quan “ngồi lại với nhau để thẩm tra và giải quyết những vấn đề bức thiết nhất của châu Á, đây là một hội nghị đầu tiên như vậy. Nhiệm vụ của chúng ta rất phức tạp. Nhưng khi hội nghị này được tổ chức, bản thân nó có nghĩa là khả năng để giải quyết một cách hòa bình các tranh chấp quốc tế đã tăng lên”. Chu Ân Lai nói, phát ngôn vừa rồi của Dulles là không thể chấp nhận, “chủ trương của ông ta hoàn toàn đi ngược lại lợi ích của nhân dân châu Á. Chúng ta tuyệt đối không thể đồng ý”.
Chu Ân Lai nói: “hiện nay, chiến tranh Triều Tiên tuy đã dừng lại, nhưng hòa bình ở Triều Tiên vẫn chưa được củng cố, thống nhất ở Triều Tiên vẫn chưa được thực hiện. Những vấn đề khác liên quan đến vấn đề Triều Tiên vẫn chưa được giải quyết, mà chiến tranh ở Đông Dương vẫn đang tiếp diễn. Nhân dân toàn thế giới đang cảm thấy bất an và hết sức lo lắng trước tình trạng này. Họ hy vọng rằng thông qua hội nghị lần này có thể làm thay đổi được tình trạng trên - để vấn đề Triều Tiên được giải quyết một cách hòa bình, khôi phục lại hòa bình ở Đông Dương".
Trong phát ngôn của Chu Ân Lai có nói đến vấn đề vì sao Trung Quốc tham gia vào chiến tranh Triều Tiên? Đó là vì Trung Quốc thấy quân đội Mỹ đã vượt khỏi “giới tuyến 38”, áp sát sông Áp Lục, đe dọa an ninh của Trung Quốc. “Rõ ràng, Mỹ đang áp dụng trò cũ của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản - kẻ xâm lược Triều Tiên năm đó - để xây dựng căn cứ địa nhằm xâm lược đại lục Trung Quốc. Nhân dân Trung Quốc dựa vào bài học lịch sử đau xót này, cùng những lợi ích thiết thân trước mắt nên không thể nhẫn nhịn được nữa, mới tình nguyện viện trợ cho Triều Tiên”.
Hiện nay, đã đến thời điểm sắp xếp cho Triều Tiên sau chiến tranh. Chu Ân Lai nói, về vấn đề Triều Tiên, rút quân là mấu chốt. “Ngay từ ngày đầu tiên đàm phán về Triều Tiên, chúng tôi đã chính thức kiến nghị rút toàn bộ quân đội nước ngoài khỏi Triều Tiên. Hiện nay, Triều Tiên đã đình chiến, nên quân đội nước ngoài càng không có lý do gì để ở lại Triều Tiên”.
Chu Ân Lai khẳng định lại lập trường cơ bản của ngoại giao Trung Quốc: “Chúng tôi tôn trọng sự lựa chọn của nhân dân các nước, tôn trọng quyền không thể xâm phạm của họ trong việc duy trì những phương thức sống cũng như cùng chế độ quốc gia riêng của mình. Đồng thời, chúng tôi cũng yêu cầu các quốc gia khác đối xử với chúng tôi bằng thái độ như vậy. Chỉ cần các nước trên thế giới đều tuân thủ những nguyên tắc này, và cùng có ý nguyện hợp tác với nhau thì tôi cho rằng, các quốc gia trên thế giới tuy có chế độ xã hội khác nhau nhưng đều có thể chung sống hòa bình.”
Đây là lần đầu tiên Chu Ân Lai trình bày và phân tích tư tưởng “chung sống hòa bình” trên diễn đàn quốc tế, ông ủng hộ ba kiến nghị của Nam Il.
Nhắc đến vấn đề Đài Loan, ông nói: “Từ khi chiến tranh Triều Tiên bắt đầu, lãnh thổ Đài Loan của Trung Quốc đồng thời cũng bị Mỹ chiếm đóng. Vấn đề này cho đến nay vẫn chưa được giải quyết. Mọi người đều biết, Đài Loan là lãnh thổ của Trung Quốc, quyết không cho phép ai xâm chiếm. Hành vi xâm chiếm Đài Loan của Mỹ đã phá hoại nghiêm trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Trung Quốc. Hiện tại, Đài Loan đã biến thành cứ điểm của Mỹ nhằm tiến hành các hoạt động phá hoại và tiến thêm một bước trong việc xâm lược nước CHND Trung Hoa. Chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản từng xâm lược các nước châu Á trong một thời gian dài, nay đang khôi phục nhanh chóng. Tình hình này càng ngày càng đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình và an nình ở Viễn Đông.”
Khi kết thúc bài phát biểu, Chu Ân Lai đã kêu gọi hội nghị Genève: “Tôi hy vọng các đại biểu tham gia hội nghị có đủ bản lĩnh để củng cố lợi ích hòa bình và an ninh châu Á cũng như thế giới, cùng nhau nỗ lực để tìm ra con đường giải quyết những vấn đề bức thiết trong chương trình nghị sự của hội nghị”.1
Tối hôm đó, Dullles đã gửi điện báo về Washington để báo cáo nội dung phát ngôn của Chu Ân Lai. Dulles viết: Chu Ân Lai đã kể lại những thành tựu đã đạt được của nước Trung Quốc mới, rêu rao rằng: “không có bất kỳ lực lượng nào có thể ngăn chặn họ xây dựng một Trung Quốc phồn vinh giàu mạnh. Chu Ân Lai tỏ ý rằng Trung Quốc sẽ không xâm lược các nước khác, cũng quyết không chấp nhận hành vi xâm lược của các nước khác”.
Trong bức điện, Dulles đã tổng kết lại phát ngôn của Chu Ân Lai: “giống như phán đoán, phát ngôn của Chu Ân Lai đề cập đến một loạt vấn đề châu Á và thế giới, và kỳ vọng để lại ấn tượng cho mọi người rằng năm nước lớn và các nước khác liên quan khác đang tiến hành hội nghị giải quyết các vấn đề lớn ở châu Á và trên thế giới. Lời nói của Chu Ân Lai nhấn mạnh PRC (tên viết tắt bằng tiếng Anh của nước CHND Trung Hoa, TG) được quốc tế chú ý và thừa nhận, nhưng lại cố tình không đề cập đến LHQ có thừa nhận hay không. Đa phần lời nói của Chu Ân Lai đều mang đầy những tiêu chuẩn của thuật ngữ mang đậm tính tuyên truyền của ĐCS, và nội dung so với những người đi trước thì Chu Ân Lai có thể có những thay đổi nhỏ trong tư tưởng. Những lời nói của Chu Ân Lai có sức thu hút rất mạnh đối với các quốc gia châu Á. Lúc nói thì đặc biệt chú ý đề cập đến vấn đề phải rút quân nước ngoài khỏi Triều Tiên, chỉ trích Mỹ chiếm đóng Đài Loan, và thể hiện rằng ĐCS Trung Quốc đặc biệt nhạy cảm về vấn đề này. Cả bài phát biểu cho thấy chính sách của PRC không lỏng lẻo chút nào.
Ngày hôm đó, cuộc “giao chiến” mặt đối mặt giữa hai Ngoại trưởng Mỹ - Trung đã làm cho Dulles ấm ức ra về. Sau hội nghị Genève, ngoại giao trên thế giới có sự chuyển biến lớn. Vào ngày Dulles và Chu Ân Lai lần lượt lên phát biểu, hai nhà lãnh đạo không chỉ công kích nhau kịch liệt trong hội nghị, mà thậm chí ở ngoài hội nghị còn xảy ra chuyện Dulles từ chối bắt tay Chu Ân Lai.
Người chứng thực việc trong thời gian diễn ra hội nghị Genève đã từng xảy ra chuyện Dulles từ chối bắt tay Chu Ân Lai, là đại sứ Mỹ tại Tiệp Khắc A. Johnson, một thành viên quan trọng của đoàn đại biểu Mỹ. Johnson đã viết trong cuốn hồi ký “Sự tồn tại của quyền lực” dài 204 trang, xuất bản năm 1984, như sau:
Ngay trong giờ giải lao của cuộc họp lần thứ nhất về các vấn đề Triều Tiên2, đã xảy ra một việc ngoài dự liệu. Sự kiện này đã luôn gây khó khăn cho quan hệ hai nước Mỹ - Trung từ đó cho đến những năm sau này. Ngày đó, khi Dulles chuẩn bị bước vào phòng nghỉ giải lao của Cung Vạn Quốc, vừa đúng lúc Chu Ân Lai cũng ở trong đó, nhìn thấy Dulles tiến vào, Chu Ân Lai tiến lại, với phong thái nho nhã thường nhật mỉm cười định bắt tay Dulles. Lúc đó tôi đứng ngay bên cạnh Dulles. Lúc đầu, Dulles không phát hiện ra Chu Ân Lai, đến khi nhìn thấy thì Chu Ân Lai đã tiến đến ngay gần. Dulles chuyển ánh mắt sang những phóng viên ảnh đang đợi chụp được một bức ảnh tượng trưng cho sự hòa giải, rồi rất nhanh quay lưng lại đi ra, không thèm quan tâm đến cánh tay mà Chu Ân Lai đưa ra. Tôi luôn cảm thấy, rõ ràng là hành vi thô lỗ đã có tính toán này, mâu thuẫn với cách làm quen thuộc của Dulles. Nhưng chính xác là ông ta đã có suy nghĩ rồi. Một khi bức ảnh này được đưa lên trang nhất các báo thì sẽ ảnh hưởng đến chính trị, cũng như các phần tử cứng đầu trong Quốc hội Mỹ. Vấn đề này rất nhạy cảm đối với chính trị trong nước Mỹ, nên đã dẫn đến hành động không bình thường của Dulles. Chu Ân Lai từ trước đến giờ không hề quên chuyện này. Ông thường kể với các nhà báo về việc này, vì thế mà mang lại ấn tượng buồn cho mọi người.3
Trong những năm tháng sau này, Johnson đã nhiều lần khẳng định chuyện này với các đồng nghiệp trong chính phủ. Khi chấp nhận phỏng vấn, ông vẫn nhiều lần khẳng định và tự thuật lại, và tỏ ý rằng không thể lý giải tại sao Vương Bỉnh Nam lại phủ nhận chuyện này. Chịu ảnh hưởng của ông ta, thành viên Ủy ban an ninh Tổng thống Mỹ thời Nixon là Kissinger trong nhật hồi ký của mình cũng viết rằng: “Khi bắt đầu hội nghị ở Genève đã xảy ra một chuyện ngoài ý muốn. Dulles đã từ chối bắt tay Chu Ân Lai. Đối với chuyện này, người Trung Quốc đương nhiên không quên, cũng sẽ không bỏ qua. Bởi vì sau này, sau khi Kissinger bí mật thăm Trung Quốc năm 1971, Hoàng Hoa vẫn nhắc đến chuyện này với ông.”
Trong một tác phẩm xuất bản của Trung Quốc, đồng quan điểm với Johnson có phu nhân của Ký Triều Chú – bà Uông Hướng Đồng. Bà đã xuất bản cuốn “Chồng tôi - Ký Triều Chú”, trong đó viết:
Trong toàn bộ thời gian diễn ra hội nghị, đại biểu Mỹ dường như coi đại biểu Trung Quốc về cơ bản không tồn tại. Trưởng đoàn đại biểu Mỹ là Dulles lúc đó đã ra lệnh cho các thành viên trong đoàn của mình không được phép bắt tay các thành viên đoàn đại biểu ĐCS Trung Quốc. Khi Thủ tướng Chu Ân Lai ở phòng giải lao để đợi vào hội trường, Dulles vốn không biết có những ai ở trong phòng. Vì thế mà ông đẩy cửa vào. Thủ tướng nhìn thấy Dulles tiến vào, liền chuẩn bị bước lên trước bắt tay với ông ta, Dulles vừa nhìn thấy thủ tướng liền lập tức quay đầu bước đi. Nhưng Phó Trưởng đoàn đại biểu Mỹ là Tướng Smith lại cảm thấy hành động này của Dulles rất không bình thường. Ông cho rằng cho dù là địch thủ thì sau khi đình chiến hai bên cũng có thể bắt tay. Vì vậy, ông đi đến bên cạnh Chu Ân Lai, do Dulles đã ra lệnh không được phép bắt tay đối phương, nhưng ông vẫn đưa tay ra với Thủ tướng Chu Ân Lai, dùng tay ôm lấy vai của Thủ tướng.
Nhưng bản thân Uông Hướng Đồng lại không tham gia hội nghị Genève năm đó. Nhật ký của bà lại là kể lại qua hồi ức.
Tham gia Hội nghị Genève năm đó, trợ lý của người phát ngôn báo chí Hoàng Hoa, sau này đảm nhiệm chức Phó Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, kiêm Trưởng phòng phòng nghiên cứu nước Mỹ, là Lý Thận Chi đã nói với tác giả cuốn sách về chuyện này rằng: Tại hội nghị, ông không chứng kiến điều mọi người kể lại là sự kiện “bắt tay”, nhưng sau đó lại được nghe rất nhiều về chuyện đó. Lý Thận Chi cho rằng, trong thời gian diễn ra Hội nghị Genève, nếu Dulles và Chu Ân Lai có gặp mặt nhau, thì với lòng can đảm cùng sự hiểu biết lễ nghĩa của Chu Ân Lai, việc ông tiến lên một bước giơ tay ra để chuẩn bị bắt tay Dulles là hoàn toàn có khả năng.
Lý Thận Chi cho rằng, Chu Ân Lai có đưa tay ra với Dulles hay không vẫn chỉ là vấn đề phán đoán của người Mỹ. Chu Ân Lai từng ngã ngựa bị thương tại Diên An, gãy xương cánh tay phải, chữa trị vẫn chưa hoàn toàn khôi phục, nên cánh tay phải không thể giơ thẳng ra. Vì thế tay phải của ông luôn cong cong để ở ngang eo. Những người không thân thuộc với Chu Ân Lai rất dễ nhìn trạng thái cánh tay phải của ông thành ra như đang chuẩn bị bắt tay đối phương.
Mấy vị trợ thủ quan trọng của Chu Ân Lai năm đó đều phủ nhận khả năng Chu Ân Lai từng giáp mặt Dulles tại Cung Vạn Quốc. Trong hồi ký “Nhìn lại chín năm hội đàm Trung-Mỹ” của Vương Bỉnh Nam – Bí thư trưởng, đoàn đại biểu Trung Quốc - xuất bản năm 1985, tác giả đã viết:
Có người nói rằng trong thời gian tại Genève, Thủ tướng Chu Ân Lai đã định bắt tay với Dulles, nhưng bị Dulles từ chối. Trên thực tế, chuyện này không xảy ra. Trong cả quá trình diễn ra hội nghị, tôi luôn ở bên cạnh thủ tướng. Khi hội nghị bắt đầu, mỗi lần đều là tôi hộ tống thủ tướng tiến vào hội trường. Trước đó, tôi đều hiểu rất rõ là đi từ cửa nào vào, vị trí ngồi tại đâu. Tôi đi trước dẫn đường, Thủ tướng và các thành viên đoàn đại biểu theo tôi đi thẳng đến vị trí của mình. Vị trí trong hội trường được sắp xếp theo thứ tự chữ cái tiếng Anh đầu tiên của nước mình. Trung Quốc là China, chữ C, nên đứng đầu; nước Mỹ là USA, chữ U, nên đứng sau, cùng với đại biểu Liên Xô; cách xa vị trí của chúng tôi. Phòng họp có đến mấy cửa ra vào. Chúng tôi và đoàn đại biểu Mỹ không cùng một cửa tiến vào hội trường, nên không thể gặp nhau. Giữa hội nghị có 15 phút nghỉ giải lao, thành viên đoàn đại biểu có thể đến nhà ăn, quầy rượu để ăn chút điểm tâm, uống café, trà hoặc rượu. Đoàn đại biểu chúng tôi từ đầu chí cuối không ngồi chung với đoàn đại biểu Mỹ. Hơn nữa, lúc đó Thủ tướng rất thận trọng và nghiêm túc. Dulles là kẻ kiên quyết đối đầu, nên ông không muốn bắt tay ông ta. Vì vậy dù là chủ quan hay khách quan, đều không tồn tại khả năng thủ tướng chủ động đi bắt tay để bị từ chối.
Lý do của Vương Bỉnh Nam rất thuyết phục, nhưng không rõ lý giải của ông có phải nhằm vào hồi ức của Johnson hay không. Nếu nói rộng ra một chút thì có thể khi ông viết đoạn này đã là 30 năm sau đó, rất nhiều hồi ức đã bị thời gian bào mòn. Ngoài ra, Chu Ân Lai có đưa tay ra để bắt tay Dulles hay không, ông còn phải xem xét, vì Vương Bỉnh Nam cùng trong một quyển hồi ký đã viết tiếp như sau:
Tất nhiên là trong tình hình đối địch, nhưng không thể tuyệt đối không bắt tay. Tôi nhớ lại trước kia cũng từng xảy ra một chuyện không vui tại đấy. Một sĩ quan Mỹ đóng tại Đan Mạch uống rượu tại một câu lạc bộ. Ông ta chủ động tiến tới bắt tay một sĩ quan ta, nhưng bị từ chối khiến ông ta rất lúng túng, người Mỹ cũng rất ngượng về chuyện này. Chuyện này được báo lại cho Bộ Ngoại giao và chính tôi đã xử lý. Sau đó, lãnh đạo bộ đã nghiên cứu và xin ý kiến xử lý của Thủ tướng, đồng thời quy định rằng, về sau nhân viên ngoại giao không được cứng nhắc như vậy ở những nơi công cộng. Thứ nhất, chúng tôi không chủ động bắt tay người Mỹ. Thứ hai, nếu họ chủ động bắt tay thì vì lễ nghĩa, chúng tôi sẽ không từ chối.
Như vậy mà nói, về vấn đề “bắt tay”, luôn là phía Trung Quốc từ chối trước, vì khi đi dự Hội nghị Genève đã soạn sẵn phương án.
Trong những người tham gia Hội nghị Genève, có Hùng Hướng Huy, về sau đảm nhận chức Trợ lý Thủ tướng, cũng đồng ý với cách nói của Vương Bỉnh Nam. Năm 1997, ông đã viết bài “Về tin đồn Dulles từ chối bắt tay Chu Ân Lai” trên tạp chí “Bách Niên triều” kỳ bốn. Ông nhớ lại: chiều ngày 26 tháng Tư, sau khi tiến hành phiên thứ nhất tại hội nghị Genève, Eden đã đi qua hội trường đến bắt tay Molotov. Lúc đó, Molofov đã giới thiệu Chu Ân Lai đang đứng cạnh mình với Eden, Eden lập tức đưa tay ra cho Chu Ân Lai. Hai vị ngoại trưởng bắt tay nồng nhiệt.
Sau hội nghị ngày hôm đó, các thành viên đoàn đại biểu Anh, đại diện Đại sứ quán Anh tại Bắc Kinh là Trevelyan đã tìm được người quen của ông. Đó là thành viên đoàn đại biểu Trung Quốc, Vụ trưởng Vụ Tây Âu, Châu Phi thuộc Bộ Ngoại giao Trung Quốc là Hoạn Hương. Trevelyan nói rằng, Eden nghĩ rằng trước hoặc sau phiên thứ hai, Eden sẽ giới thiệu Chu Ân Lai với Dulles, hai bên sẽ bắt tay thăm hỏi. Nếu Thủ tướng Chu Ân Lai đồng ý, Eden sẽ phái người đi hỏi ý kiến của Dulles.
Hoạn Hương đã xin ý kiến Chu Ân Lai. Chu Ân Lai trả lời rằng ông rất tán thưởng cách nghĩ của Ngoại trưởng Eden. Nếu đã cùng tham dự hội nghị thì về lý nên tiếp xúc với nhau. Ông đồng ý dưới sự giới thiệu của ngài Eden sẽ bắt tay thăm hỏi Dulles.
Đây chính là một tín hiệu quan trọng. Chu Ân Lai có ý muốn mở ra cục diện giằng co trong quan hệ với Mỹ tại Genève. Nếu Dulles chấp nhận đề nghị này, thì những chương sách về quan hệ Trung-Mỹ đã có nhiều trang không giống như bây giờ.
Nhưng, sáng hôm sau Trevelyan tìm đến Hoạn Hương nói rằng ngài Dulles đã thay đổi thái độ, ông ta từ chối bắt tay Chu Ân Lai.
Hùng Hướng Huy nhớ lại: “Có hay không có sự việc Chu Ân Lai chạm mặt Dulles trong thời gian hội nghị, Chu Ân Lai chủ động đưa tay ra, nhưng bị Dulles từ chối? Tôi có thể khẳng định rằng không có.”
Người tham gia Hội nghị Genève năm đó là Lý Việt Nhiên cũng chỉ ra cho tác giả cuốn sách này thấy rằng, lúc đó không có chuyện Dulles từ chối bắt tay Chu Ân Lai.
Vậy mà, việc tự thuật hoặc truyền lại câu chuyện này lại xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm lịch sử ngoại giao. Nó trở thành câu chuyện được nhiều người chú ý trong tiến trình bình thường hóa quan hệ hai nước Mỹ-Trung. Bản thân Chu Ân Lai cũng đã nhiều lần nói đến chuyện này với các khách nước ngoài, thậm chí cũng đã nói từ khi viết báo cáo. Ví dụ, ngày 15/4/1958 tại Hội nghị công tác ngoại giao toàn quốc, ông đã nói: “Chúng ta không thể làm giống như cách làm ngu ngốc của Dulles, đã đến Genève mà còn quy định một điều: không được bắt tay”.
Có thể nói người có ấn tượng sâu sắc nhất về chuyện này chính là Tổng thống Mỹ Nixon. Trong chuyến viếng thăm Trung Quốc lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1972, trên hành trình bay đến Bắc Kinh, ông đã sáu lần nói với những người cùng đi rằng, khi máy bay đáp xuống sân bay thủ đô Bắc Kinh, không ai được theo sát ông đi ra cửa. Ông muốn Tổng thống Mỹ một mình bắt tay Chu Ân Lai, để bù đắp cho sự thất lễ của Dulles năm đó. Ngày 21/2/1972, sau khi Nixon đáp “Air Force 1” xuống sân bay Bắc Kinh, ông đã cùng phu nhân xuống máy bay. Lúc đó, Chu Ân Lai đang đợi ông trong gió lạnh. Nixon trong hồi ký của mình đã viết: “Tôi biết, năm 1954 tại Hội nghị Genève, Dulles đã từ chối bắt tay Chu Ân Lai, làm cho ông cảm thấy xấu hổ. Vì vậy, khi đi hết thang máy bay, tôi quyết tâm vừa đưa tay mình ra vừa đi lại gần Chu Ân Lai. Khi chúng tôi bắt tay nhau, một thời đại đã kết thúc, một thời đại khác được mở ra”. Vào năm 1954, khi diễn ra Hội nghị Genève, Nixon giữ chức Phó Tổng thống Mỹ. Ký ức của ông về việc này hẳn phải có căn cứ.4
Để tìm hiểu kỹ thực hư câu chuyện này, tác giả cuốn sách đã đến tận Kho lưu trữ hồ sơ quốc gia Mỹ để tra cứu hết sức tỉ mỉ, sau đó lại đọc kỹ cuốn “Tập văn kiện quan hệ đối ngoại của Mỹ từ 1952-1954: Tuyển tập văn kiện Hội nghị Genève”, sẵn sàng chịu trách nhiệm với lời nói của mình rằng: không đọc được bất kỳ tài liệu nào có thể chứng minh câu chuyện này đã từng xảy ra.
Kỳ thực, cho dù các chi tiết cụ thể về câu chuyện “bắt tay” có tồn tại hay không, đều không ảnh hưởng đến năng lực, nhân cách của Chu Ân Lai, không làm tổn hại đến hình tượng của Chu Ân Lai, cũng không ảnh hưởng đến phán đoán của mọi người về những chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc. Thái độ của Dulles coi như không có sự tồn tại của đại biểu Trung Quốc đã làm mất đi cơ hội bắt tay giữa Trung Quốc và Mỹ trong Hội nghị Genève. Hai nước lớn Trung-Mỹ tiếp tục ngăn cách và đối kháng cho đến khi Chu Ân Lai và Nixon bù đắp lại những năm tháng ngăn cách đó, thì đã là những năm 70 của thế kỷ XX. Nhìn từ vĩ mô mà nói, Dulles lúc đó đúng là không muốn bắt tay Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai, “cách nói” này bản thân nó đã có tính chân thực lịch sử. Vì vậy, sau hội nghị Genève, “bắt tay” dù giả hay thật đã trở thành từ ngữ tượng trưng cho quan hệ Trung-Mỹ.
Khi Chu Ân Lai và Dulles đang đối đầu kịch liệt trên diễn đàn Genève thì tại chiến trường Điện Biên Phủ, tình thế tiếp tục phát triển theo hướng có lợi cho quân đội Việt Nam.
Chiều ngày 2 tháng 4 theo giờ miền Đông nước Mỹ, Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng Mỹ, Thượng tướng hải quân Redford đã từ Châu Âu trở về Washington. Tại sân bay, ông từ chối bình luận về chuyến đi Paris và London, nhưng ông bày tỏ hy vọng nước Pháp có thể cố thủ được tại Đông Dương. Redford nói, tin tức của ông về Điện Biên Phủ đã là của hai ngày trước, nhưng xem ra tình hình đến hôm nay vẫn chưa có thay đổi gì lớn.
Lời nói của ông được đưa ra không lâu thì ngày 28 tháng Tư tại Anh, tờ “The Times” đã đăng tải bức điện báo từ Paris ngày 27 rằng “Điện Biên Phủ bị pháo kích dữ dội”. Bức điện đã báo cáo về tình hình mới nhất tại Điện Biên Phủ:
Điện Biên Phủ trong bốn ngày liền, đã không còn bị bộ binh tiếp tục tấn công nữa, nhưng vẫn liên tiếp chịu sự oanh tạc của những quả đạn pháo 120mm và 105mm của quân đội Việt Minh. Trong khi đó, không quân và hải quân Pháp đã hai ngày liên tiếp oanh tạc tuyến đường vận tải của quân địch từ biên giới Trung Quốc đến Điện Biên Phủ. Những người tình nguyện chi viện cho quân Pháp (chỉ không quân Mỹ - TG) đã lái máy bay ném bom B-26 oanh tạc trận địa pháo phòng không của quân Việt Nam.
Trận địa quân Pháp bị bao vây hôm qua đã được gia cố phòng ngự thêm trong phạm vi gần 5km, vì chiến hào của quân địch đã đào đến gần hàng rào dây thép gai của trận địa Pháp. Dưới sự yểm trợ của hàng loạt đạn pháo, một toán quân tuần tra Pháp đã xuất kích, đi lấp một đoạn chiến hào của quân địch cách trận địa khoảng 50m.
Tối hôm qua, Tư lệnh quân đội Pháp đã phát đi một bức điện báo, phủ nhận việc do nơi thả hàng tiếp viện từ trên không của quân Pháp tại Điện Biên Phủ đã bị thu hẹp, nên hơn nửa số hàng tiếp viện được thả xuống đã rơi vào tay quân địch. Báo cáo nói rằng quân Pháp đã nhận được 88% số lượng đồ cứu viện từ trên không, chỉ có một phần nhỏ rơi vào tay quân địch.
Đêm hôm trước, tại đồng bằng châu thổ sông Hồng, quân du kích Việt Nam đã không tiếc thương vong, chiếm lĩnh được căn cứ gần Phát Diệm.
Không ai biết tại sao quân Việt Minh lại không tấn công Điện Biên Phủ lần 3 sau khi đã yên lặng nhiều ngày. Một cách giải thích là do sự tấn công không quân của quân Pháp và do mấy ngày mưa dầm liên tiếp đã gây cho Võ Nguyên Giáp khó khăn trong vận tải, nhưng nhiều người cho rằng, hành động quân sự của quân Việt Minh phối hợp chặt chẽ với tiến trình hội nghị Genève. Lần tấn công Điện Biên Phủ cuối cùng sẽ là lá phiếu tốt nhất để Việt Minh đối phó với phương Tây trên bàn đàm phán.
Những từ ngữ cuối cùng trong bản báo cáo này rất có lý. Tại chiến trường Điện Biên Phủ cách xa Genève cả ngàn dặm, Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc là Vi Quốc Thanh không ngừng nhận được chỉ thị của Chu Ân Lai phát đi từ Genève, yêu cầu ông cố gắng trợ giúp quân Việt Nam, tranh thủ trước khi hội nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương, nên tiến công chiếm lấy Điện Biên Phủ.
Ngày 23 tháng Tư, quân đội Việt Nam về cơ bản đã chiếm được sân bay Điện Biên Phủ, trọng điểm công kích của Võ Nguyên Giáp là điểm phía Đông, nên để sư đoàn 312 và 316 phụ trách nhiệm vụ tác chiến chủ yếu. Sư đoàn chủ lực 308 nhanh chóng chỉnh đốn và bổ sung, chuẩn bị tiến hành cuộc chiến trong giai đoạn cuối.
Cố vấn Trung Quốc tại Sư đoàn 316 là Từ Thành Công kiến nghị: xét thấy đồi phía đông Điện Biên Phủ do quân Pháp cố thủ rất khó tấn công. Góc độ của lô cốt bê tông cốt thép trên đỉnh đồi nhỏ hẹp, lại thêm sự yểm trợ của pháo binh quân Pháp, nên rất khó phá hủy bằng pháo. Có thể dùng công binh đào một địa đạo từ giữa lưng chừng đồi thẳng đến bên dưới lô cốt quân Pháp, sau đó tập trung toàn bộ thuốc nổ ở tiền tuyến Điện Biên Phủ, đưa xuống địa đạo đặt ngay dưới lô cốt, đợi đến khi tổng tiến công thì cho nổ, có thể làm cho toàn bộ quân Pháp trên đỉnh đồi đó bị tiêu diệt hoàn toàn.
Kiến nghị của Từ Thành Công được Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh tán thành. Bên Việt Nam đề xuất, công binh Việt Nam không có đủ kinh nghiệm, hy vọng công binh Trung Quốc sẽ được điều đến. Vi Quốc Thanh lập tức báo cáo về trong nước, nhanh chóng cử sáu công binh đã có kinh nghiệm chiến đấu tại chiến trường Triều Tiên đến. Sáu công binh Trung Quốc đã đến Điện Biên Phủ vào cuối tháng Tư. Sau khi kiểm tra, dò xét địa hình đã chỉ đạo công binh Việt Nam đào đến lô cốt quân Pháp.
Một đại đội pháo hỏa tiễn Trung Quốc đã đến tiền tuyến, ém quân ngoài vòng vây Điện Biên Phủ, và đã diễn tập tấn công bằng đạn thật cho Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái cùng Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Như Phu Nhất xem. Tướng lĩnh Việt – Trung quyết định, khi tổng tấn công sẽ dùng pháo hỏa tiễn. Quân Việt sẽ tổng tiến công Điện Biên Phủ vào ngày 30 tháng Tư.
1 Tuyển tập văn kiện Hội nghị Genève, Tri thứcThế giới XBX, 1954, tr. 10-17.
2 nguyên văn: chiều 27/4/1954 – so với múi giờ miền Đông nước Mỹ thì thời gian ở Genève lệch một ngày. TG.
3 A. Johnson, sđd, tr. 204.
4 Hồi ức của Nixon, Thương vụ XBX, 1979, tr. 247-248.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:53:36 GMT 9
CHƯƠNG 12 Ngoại giao lớn liên hợp, phân hóa
Vấn đề Triều Tiên vừa mới bắt đầu đã rơi vào tình thế bế tắc, sự đối lập giữa Đông và Tây đã rõ ràng. Từ Colombo đã truyền đến tiếng nói của các quốc gia Nam Á. Chu Ân Lai tại Genève đã lần đầu gặp gỡ, nói chuyện với Eden, câu chuyện bắt đầu từ những món ăn Nga, cùng nhau đặt những viên gạch lót đường đầu tiên trên con đường làm dịu mối quan hệ Trung- Anh.
Cuộc họp ngày 28 tháng Tư kết thúc, vào lúc 5 giờ 15 phút chiều, đoàn đại biểu Trung Quốc đã tổ chức họp báo tại “Nhà của nhà báo”, Cung Bành đã giới thiệu nội dung phát ngôn của Chu Ân Lai trong hội nghị hôm nay.
8 giờ tối, cũng tại đây, Hoàng Hoa lại tổ chức tiếp một cuộc họp báo, bình luận về phát ngôn của Dulles trong hội nghị chiều nay, và cho rằng trong đó không hề có thành ý. Ông đã trả lời các câu hỏi của nhà báo.
Tối cùng ngày, Chu Ân Lai điện báo cáo Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ những tiến triển của hội nghị Genève. Nội dung bức điện như sau:
“Dựa vào tình hình tại hội trường ba ngày qua có thể thấy rằng việc thảo luận vấn đề Triều Tiên đã hình thành cục diện miễn cưỡng, vì Mỹ không có ý định giải quyết vấn đề, nước Pháp lại không tiện lên tiếng đối với vấn đề Triều Tiên, nước Anh cũng tỏ ý không muốn lên tiếng”.
“Bidault muốn thương lượng gấp vấn đề Đông Dương… Bidault cũng đã tiếp xúc với Molotov tỏ ý muốn gặp tôi thông qua Liên Xô”. Chu Ân Lai nói rằng, ông được biết Bidault cũng nghĩ cách qua lại với các thành viên đoàn đại biểu Trung Quốc ở bên ngoài hội trường, xem ra vấn đề Đông Dương có thể đàm phán được.
Cảm nhận của Chu Ân Lai tương đối chính xác. Anh và Pháp tham gia hội nghị Genève lần này đều có những dự định riêng, nhưng đối với vấn đề Triều Tiên đều có ý tạo thành cục diện để cho Mỹ “đi tiên phong”, cả Eden và Bidault đều không có ý định phát biểu gì nhiều, trong tuần đầu tiên càng không muốn phát ngôn về vấn đề này.
Qua những lời phát biểu tại hội nghị trong hai ngày qua, lập trường cũng như bất đồng của các phe Đông - Tây về vấn đề Triều Tiên đã được thể hiện rõ. Trọng tâm trong lập trường của Triều Tiên, Trung Quốc, Liên Xô là: từ chối sự tham gia của LHQ, các bên tham gia chiến tranh triều Tiên thỏa thuận để đạt được hiệp định Genève, theo đó rút toàn bộ quân khỏi bán đảo Triều Tiên, phóng thích toàn bộ tù binh, tiến hành bầu cử toàn quốc. Còn quan điểm của phe đối lập là: tiến hành giải quyết các vấn đề Triều Tiên trong khuôn khổ LHQ, Trung Quốc rút quân, Liên Xô rút viện trợ, Bắc Triều Tiên tiến hành bầu cử dưới sự giám sát của LHQ.
Về vấn đề Đông Dương, các bên tham dự hội nghị lại không phát biểu ý kiến gì nhiều, thậm chí vấn đề ai tham gia hội nghị vẫn chưa được xác định. Các thành viên của hai phe Đông-Tây vẫn muốn tiếp xúc và thảo luận về vấn đề này, có ý muốn tìm một con đường để trước tiên là dừng cuộc chiến tranh lại. Ngay từ khi hội nghị Genève vừa bắt đầu khai mạc đã thấy: đối với vấn đề Đông Dương cả hai bên đều vẫn còn cơ hội tiến thoái dễ dàng, thậm chí vẫn có ẩn số lớn. Đó chính là, hai bên đều muốn chờ kết quả của chiến dịch Điện Biên Phủ như thế nào?
Lúc đó, từ đảo quốc Xây Lan [Ceylon, nay là Sri Lanka] trên Ấn Độ Dương truyền đến một tiếng nói mãnh liệt - các nước Nam Á quan tâm đến tiến trình của hội nghị Genève. Ngày 28 tháng Tư, tại thủ đô Colombo của Xây Lan đã diễn ra hội nghị năm nước: Ấn Độ, Miến Điện, Pakistan, Xây Lan và Indonesia. Thủ tướng của năm nước ngay trong ngày họp đầu tiên đã thảo luận vấn đề Đông Dương. Thủ tướng Ấn Độ là Nehru đã phát biểu rằng: “Hội nghị Genève cũng đang thảo luận vấn đề này, hoặc là sắp thảo luận đến. Nếu hội nghị Genève đạt được bất kỳ kết quả gì, ví dụ như thực hiện đình chiến, thì đó sẽ là thu hoạch cực lớn đối với toàn thế giới cũng như các nước chúng ta, cục diện căng thẳng sẽ dần dần dịu lại.”
Tại Hội nghị Colombo, lời nói của Thủ tướng Ấn Độ “nặng tựa cửu đỉnh”. Nehru một lần nữa lại đưa ra với các nhà lãnh đạo tham gia hội nghị năm kiến nghị về vấn đề Đông Dương:
“Bầu không khí hòa bình”. Đông Dương sớm muộn gì cũng phải ngừng chiến. Vậy thì ngừng muộn không bằng ngừng sớm.
“Đình chiến”. Nên đưa vấn đề “đình chiến” vào chương trình nghị sự của hội nghị Genève.
“ba nước Đông Dương độc lập”. Nước Pháp chuyển giao lại chủ quyền cho ba nước Đông Dương.
“Tiến hành đàm phán”. Nước Pháp và các quốc gia Đông Dương nên lập tức ngồi vào bàn đàm phán trực tiếp.
“Phản đối can thiệp vũ trang quốc tế”. Nehru kêu gọi các nước lớn, đặc biệt là Anh, Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc không được can thiệp vào công việc Đông Dương. Nehru nói: Mỹ và Trung Quốc đều đã can thiệp quá sâu vào các công việc ở Đông Dương, làm cho các vấn đề Đông Dương mang xu thế quốc tế hóa. Nếu vấn đề này chỉ giải quyết giữa hai nước giao tranh thì dễ dàng tìm được biện pháp giải quyết. Nehru hy vọng LHQ sẽ phát huy được vai trò của mình trong vấn đề tổ chức ra các ủy ban giám sát liên quan.
Thủ tướng Miến Điện U Nu phát biểu bày tỏ lo ngại khả năng xuất hiện tình trạng “chân không” sau khi Pháp rút quân. Ông hy vọng tại hội nghị Genève, bất kể đạt được hiệp định nào, cũng đều không được làm tổn hại đến lợi ích của các quốc gia châu Á.
Thủ tướng Indonesia lúc đó là [Ali] Sastroamidjojo đồng ý với đề nghị của Nehru, và bổ sung hai điểm:
Diễn biến tình hình Đông Dương có liên quan tới các nước lớn tham gia hội nghị Genève. Tình hình chiến đấu ngày càng khốc liệt ở đó đã phản ánh được cục diện các nước lớn tranh giành lẫn nhau. Trung Quốc ủng hộ Hồ Chí Minh, và hy vọng được gia nhập LHQ. Hội nghị Genève nên xem xét, yêu cầu Trung Quốc ủng hộ việc đình chiến tại Đông Dương, đồng thời tìm cách khôi phục vị trí của Trung Quốc tại LHQ.
Điều Indonesia quan tâm là, nếu nói đến nước Pháp “chuyển giao chủ quyền”, thì là chuyển giao cho quốc gia Liên bang Đông Dương hay chuyển giao cho Chính phủ Hồ Chí Minh?
Những đại biểu tham dự hội nghị kiến nghị lấy danh nghĩa hội nghị Colombo để gửi điện đến hội nghị Genève, yêu cầu: “Pháp nên tuyên bố tại hội nghị Genève rằng họ bảo đảm chắc chắn về việc trao trả độc lập hoàn toàn cho Đông Dương”. Yêu cầu hội nghị Genève phải đạt được tiến triển quan trọng trong việc thực hiện hòa bình ở châu Á. Theo tình hình này, thì cả Genève và Colombo đều cùng hưởng ứng nhau, làm cho phe phương Đông có phần giữ thế chủ động hơn.
Tin tức truyền đến Genève, Chu Ân Lai cảm thấy vui mừng khôn xiết, vì ông đã nhận được báo cáo rằng, các đại biểu trong đàm phán Trung - Ấn tại Bắc Kinh đã đạt được kết quả tích cực.
Ngày 29 tháng Tư, hai nước Trung Quốc - Ấn Độ tại Bắc Kinh đã ký kết “Hiệp định thông thương và giao thông giữa Ấn Độ với vùng Tây Tạng Trung Quốc”. Chu Ân Lai đang ở Genève đã gửi điện chúc mừng Nehru. Nội dung “năm nguyên tắc chung sống hòa bình” được nêu trong bức điện đã gây được sự chú ý của thế giới phương Tây:
Nhân dịp hai nước Trung Quốc - Ấn Độ ký kết hiệp định thông thương và giao thông giữa vùng Tây Tạng Trung Quốc và Ấn Độ, tôi xin gửi tới ngài và thông qua ngài gửi tới Chính phủ Ấn Độ cùng toàn thể nhân dân Ấn Độ lời chúc mừng nhiệt liệt nhất!
Hai nước Trung - Ấn dựa trên nguyên tắc cùng tôn trọng chủ quyền lãnh thổ; không xâm phạm lẫn nhau; không can thiệp công việc nội bộ của nhau; đối xử bình đẳng; chung sống hòa bình, mà kí kết hiệp định này, tạo điều kiện khôi phục mối quan hệ hai nước trong các vấn đề liên quan đến vùng Tây Tạng Trung Quốc. Việc ký kết hiệp định này không chỉ làm sâu sắc thêm tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước mà còn chứng minh rõ ràng rằng chỉ cần các nước tuân thủ những nguyên tắc trên, lựa chọn phương thức hiệp thương thì bất kỳ vấn đề gì còn tồn tại trên trường quốc tế đều được giải quyết một cách hợp lý.
Chính phủ nhân dân trung ương nước CHND Trung Hoa.
Thủ tướng Chính vụ viện kiêm Bộ trưởng Ngoại giao.
Chu Ân Lai
29/4/1954
Trong quan hệ quốc tế nổi lên “năm nguyên tắc chung sống hòa bình” là do Chu Ân Lai đề ra, dần dần trở thành nội dung chính trong tư tưởng ngoại giao của Chu Ân Lai. Tại hội nghị Genève, một lần nữa ông lại nhắc lại những nguyên tắc này, và hy vọng những nguyên tắc này sẽ trở thành nguyên tắc được tuân thủ rộng rãi trong quan hệ quốc tế.
Ngoài việc giành được sự ủng hộ của các quốc gia châu Á mà đứng đầu là Thủ tướng Nehru của Ấn Độ, thì tại hội nghị Genève, việc tranh thủ sự hiểu biết của Anh, thậm chí giành được sự ủng hộ ở một mức nhất định, và lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh - Mỹ để đạt được kết quả ngoại giao, chính là một trọng điểm trong hoạt động ngoại giao của Chu Ân Lai. Ông đã từng viết trong “ý kiến bước đầu” khi tham gia hội nghị Genève:
Ngoài vấn đề Triều Tiên và Việt Nam, chúng ta còn phải chuẩn bị cả những tài liệu và ý kiến về những vấn đề khác liên quan đến Trung Quốc, các vấn đề an ninh và hòa bình tại Viễn Đông và châu Á. Đặc biệt là phát triển quan hệ kinh tế và thông thương giao thông mậu dịch giữa các nước, làm dịu quan hệ căng thẳng quốc tế, từng bước phá vỡ sự cấm vận phong tỏa của Mỹ một cách hiệu quả. Ngoài hội nghị, các tiếp xúc, liên hệ qua lại giữa Trung Quốc với Anh, Pháp và Canada cũng phải được xúc tiến, chúng ta đều phải chuẩn bị kỹ càng cho các vấn đề trên.
Ngoài suy nghĩ này ra, Chu Ân Lai còn yêu cầu Thứ trưởng Bộ Thương mại Lôi Nhiệm Dân và Vụ trưởng Vụ Âu - Phi thuộc Bộ Ngoại giao là Hoạn Hương đều phải đến Genève để cùng triển khai công việc.
Mọi người đều nhận thấy rằng Anh - Mỹ tương đối nhất trí về vấn đề Triều Tiên. Nhưng nghiên cứu kỹ thì sự khác biệt vẫn không phải là ít. Trong “quân đội LHQ”, ngoài quân Mỹ ra, tuy nói quân Anh chiếm tỉ lệ lớn nhất nhưng rốt cục chỉ là một lữ đoàn binh sĩ yểm trợ tác chiến, tự đặt mình vào địa vị phối hợp phụ thuộc. Nước Anh có ý rút toàn bộ quân của mình ra khỏi Triều Tiên, để tiện thoát thân. Về vấn đề Đông Dương, giữa Anh và Mỹ có sự chia rẽ. Nước Anh sau khi trải qua cuộc chiến tranh thế giới thứ thứ hai đã bị suy yếu, nên họ đang từng bước rút khỏi các vùng thuộc địa châu Á truyền thống. Quan hệ giữa Anh và Đông Dương trong lịch sử không sâu sắc, quan hệ lợi ích cũng rất ít, từ lâu đã có hy vọng nước Pháp cũng cùng rút quân, chỉ là không tiện nói rõ ý mình mà thôi. Nước Anh rất sợ toàn bộ Đông Dương sẽ rơi vào sự khống chế của Hồ Chí Minh; sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của Anh tại Malaysia, Singapore và Hongkong.
Giữa Anh và Trung Quốc còn có một loạt các vấn đề cần giải quyết.
Nước Anh là nước lớn ở phương Tây thừa nhận nước Trung Quốc mới sớm nhất trên thế giới. Ngày 6/1/1950, Ngoại trưởng Anh Bevin đã gửi điện tới Ngoại trưởng Chu Ân Lai tuyên bố thừa nhận nước CHND Trung Hoa, mong muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, cùng nhau trao đổi đại sứ. Khi chưa có đại sứ, sẽ phái quan chức ngoại giao đã ở Trung Quốc là Jorgeson làm đại diện lâm thời. Đồng thời, chính phủ Anh tuyên bố hủy bỏ công nhận ngoại giao với Chính phủ Quốc dân đảng.
Ngày 9 tháng 1, Chu Ân Lai trả lời điện của Bevin, bày tỏ Trung Quốc đồng ý cùng Anh thiết lập quan hệ ngoại giao, tiếp nhận Jorgeson làm đại biểu đàm phán.
Ngày 2 tháng 3, tại Bắc Kinh hai nước Trung - Anh bắt đầu đàm phám thiết lập quan hệ ngoại giao. Trung Quốc đề xuất, nước Anh sẽ bỏ phiếu cho vấn đề quyền đại biểu của Trung Quốc tại LHQ, và Chính phủ Anh phải làm rõ thái độ của mình về tư sản Trung Quốc tại Anh cũng như tại thuộc địa.
Chiến tranh Triều Tiên đột ngột nổ ra đã làm gián đoạn cuộc đàm phán Trung - Anh. Nhưng tại Bắc Kinh, trong Đại sứ quán của Anh đặt ở Trung Quốc luôn luôn có nhân viên đoàn ngoại giao Anh ở đó. Sau khi Triều Tiên đình chiến vào tháng 7 năm 1953, tháng 8 nước Anh đã cử nhà ngoại giao lão thành Trevelyan làm người phụ trách đoàn ngoại giao Anh thường trú tại Bắc Kinh, Trung Quốc.
Sau đó, Trevelyan đã đến Bắc Kinh nhưng không có cơ hội diện kiến Chu Ân Lai. Rõ ràng Chu Ân Lai hy vọng có thể trực tiếp hội đàm với lãnh đạo cấp cao hơn của nước Anh. Hội nghị Genève đã tạo ra một cơ hội như vậy, và Molotov là nhà trung gian thích hợp.
Trưa ngày 29 tháng Tư, Chu Ân Lai mở tiệc mời Molotov, Gromyko, Kuznetsov, Tổng thư ký đoàn đại biểu Liên Xô, Ilychev, Fedorenko, Eugene. Molotov trao đổi với Chu Ân Lai và đi đến quyết định ngày mai ông sẽ mở tiệc mời Eden và Chu Ân Lai đến, nhân cơ hội này xúc tiến cuộc nói chuyện trực tiếp giữa hai Ngoại trưởng Trung Quốc và Anh. Tin tức này lập tức được Liên Xô thông báo cho Eden.
Phản ứng của Eden tương đối tích cực. Thư ký riêng của ông là Shuckburgh đã viết trong nhật ký buổi tối hôm ấy rằng: “Ngày mai, tôi sẽ đi cùng Eden. [Harold] Caccia và Dennis cũng đến dự tiệc của Molotov, mục đích là hội kiến Chu Ân Lai, đây chính là việc mà tôi hy vọng nhất”. Shurkburgh là trợ thủ được Eden hết sức tín nhiệm. Eden luôn luôn giao cho ông thực hiện các công việc quan trọng như chuẩn bị các dự thảo công tác. Vị thư ký này lại có thói quen viết nhật ký mỗi ngày. Eden rất ủng hộ việc này. Shurkburgh đã viết trong nhật ký rằng, trong thời gian diễn ra Hội nghị Genève, Eden sẽ trực tiếp gặp mặt Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trung Quốc. Đây là dự liệu sẵn của ông.
Ngày hôm đó, Eden đã chuyển đến nơi ở mới của mình. Sau khi ở một đêm tại khách sạn, Eden nghĩ rằng nên chuyển đến một biệt thự khác. Người bạn cũ của ông tại Thụy Sĩ đã cho Eden mượn lại ngôi biệt thự tuyệt đẹp của mình. Gần trưa, khi Eden vừa mới dọn đến ngôi biệt thự, thì Dulles đến.
Trước đây, Dulles đã đề xuất với Eden và Bidault rằng, khi hội nghị Genève tiến hành đến ngày thứ 15 thì Ngoại trưởng Anh, Pháp sẽ lui khỏi hội nghị, cùng ông đi Đông Nam Á để tổ chức SEATO. Để ổn định thế trận của các nước phương Tây, Dulles đã gặp riêng Eden để nói chuyện.
Dulles nói với Eden, ông cảm thấy vô cùng lo lắng đối với tình thế trước mắt. Vốn tưởng rằng đã nói rõ với nhau, là phải tổ chức “phòng thủ chung” tại Đông Nam Á, nhưng nước Anh lại không tham gia. Việc khiến ông càng thêm tức giận là tại hội nghị, chính sách về Triều Tiên của Mỹ vấp phải sự công kích của Molotov, Chu Ân Lai, Nam Il. Các đại biểu của các quốc gia châu Âu lại không có lấy một người đứng ra nói hộ vài câu. Họ còn không bằng Lý Thừa Vãn và Tưởng Giới Thạch, tuy đã bị đánh bại song vẫn kiên quyết phản đối chủ nghĩa cộng sản. Điều này khiến Mỹ cảm thấy vô cùng cô độc.
Dulles nhấn mạnh với Eden rằng, trước mắt nước Mỹ cũng không muốn đánh nhau với Trung Quốc, hoặc tham gia vào chiến tranh Đông Dương với quy mô lớn. Mục đích chủ yếu của nước Mỹ là tiến hành “phòng thủ chung”. Điều ông lo lắng nhất là nếu tại Genev bị rơi vào thế bị động, thì khi về Washington sẽ ăn nói thế nào với các nghị sĩ Quốc hội Mỹ?
Eden cố gắng giữ bình tĩnh, hỏi Dulles: vậy ra việc nói đến khả năng sử dụng hành động quân sự vẫn chưa chấm dứt? Ông đưa cho Dulles một bản ghi nhớ mới của Chính phủ Anh, đồng thời nói: nước Anh muốn cố gắng hết sức để ngăn chặn các quốc gia tham gia hội nghị Colombo có thái độ phản đối các quốc gia phương Tây. Về vấn đề Đông Dương cũng vậy. Trước mắt có thể thấy, nỗ lực của Anh đã thành công. Ông còn nói, nước Anh cảm thấy, những phát biểu của các quốc gia châu Âu về vấn đề Triều Tiên là không nhiều bởi vì bọn họ thiếu cảm hứng đối với những vụ việc ở đó.
Dulles nói, trong các phát biểu của Molotov và Chu Ân Lai toàn nói rằng, châu Á là của người châu Á. Vì vậy mà phải vứt bỏ hết những ảnh hưởng của phương Tây, đặc biệt là ảnh hưởng từ Mỹ. Họ chỉ trích vai trò của LHQ đối với Triều Tiên. Đối với vấn đề này, các quốc gia phương Tây nên phát ngôn để thể hiện thái độ của mình.
Khi Dulles và Eden thảo luận về các chi tiết của vấn đề Triều Tiên, Dulles đã nói, về vấn đề này không thể đạt được hiệp định. Cái giá để Mỹ rút toàn bộ quân đội khỏi Triều Tiên là thống nhất toàn bán đảo Triều Tiên, mà điều này thì Bắc Triều Tiên không đồng ý.
Eden nói với Dulles rằng ông sẽ xem xét việc nói vài câu về vấn đề Triều Tiên khi phát biểu.
Cuộc nói chuyện kết thúc tại đó, Dulles xin cáo từ. Cùng ngày, ông ta điện cho Eisenhower, oán trách lập trường của nước Anh “ngày càng yếu ớt”, “về phía Pháp, chúng ta không có một người đồng minh tin cậy”. Ông báo cáo với Eisenhower rằng: “Thái độ của nước Anh là một trong những điểm yếu ngày càng rõ ràng của chúng ta. Nước Anh dường như cảm nhận rằng chúng ta nghiêng về sự lựa chọn tiến hành chiến tranh với Trung Quốc. Lo ngại thứ hai của họ là sợ chúng ta sử dụng bom hạt nhân. Điều này quả thật đã làm họ sợ.”
Cùng ngày, người phát ngôn của đoàn đại biểu Mỹ đã chính thức tuyên bố, ngày 3 tháng 5 Dulles sẽ rời khỏi Genève trở về nước. Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ là Johnson sẽ đến Genève vào ngày 1 tháng 5, để thay cho Dulles.
Chiều ngày 29 tháng Tư, tại cuộc họp thảo luận vấn đề Triều Tiên, Ngoại trưởng Liên Xô Molotov đã lên phát biểu đầu tiên, và bày tỏ hối tiếc rằng các nước châu Á như Ấn Độ, Indonesia, Miến Điện và Pakistan không thể tham gia hội nghị Genève lần này. Ông nhấn mạnh rằng, sự ra đời của nước Trung Quốc mới đã thể hiện đột xuất những thay đổi cơ bản của châu Á. Cộng đồng quốc tế nên chú ý tới sự ra đời và củng cố của nước Trung Quốc mới, hy vọng nước Mỹ hủy bỏ các chính sách can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc. Ông cho rằng những kiến nghị của đại biểu Triều Tiên “có thể dùng làm cơ sở để đưa ra những quyết định phù hợp đối với vấn đề Triều Tiên”.
Trưa ngày 30 tháng Tư, Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên, Sư Triết đã đến nơi ở của đoàn đại biểu Liên Xô sớm hơn Eden một bước dự tiệc do Molotov chiêu đãi, Eden và đoàn tùy tùng đến sau.
Eden vừa nhìn thấy Molotov và Chu Ân Lai liền đề nghị, ngày mai không họp hội nghị lớn, chúng ta có thể mở một hội nghị mang tính hạn chế với các quốc gia có liên quan đến Triều Tiên, các ngài thấy thế nào?
Molotov và Chu Ân Lai lập tức đồng ý ngay, nhưng Eden lại “dội một gáo nước lạnh” khi nói rằng: Đề nghị này tôi vẫn chưa trưng cầu ý kiến của các đoàn đại biểu khác.
Molotov mời Chu Ân Lai và Eden vào bàn tiệc. Trước và sau bữa tiệc, Molotov có ý mời Chu Ân Lai nói chuyện nhiều với Eden. Cả hai vị chủ và khách đều biết nhưng không nói ra.
Khi Chu Ân Lai và Eden bắt đầu nói chuyện, không khí tỏ ra thoải mái, nhẹ nhàng, hai bên cùng thăm dò nhau. Eden giả vờ vô tình đưa chủ đề câu chuyện từ các món ăn, nói với Molotov: Tôi ở Moskva, Ukraina, Dresden và cả ở Đại sứ quán của các bạn ở nước Anh, đã từng rất nhiều lần ăn các món ăn Nga, cảm thấy rất ngon.
Chu Ân Lai tiếp luôn: Trong những năm 20, tôi cũng đã từng đến Moskva, cũng đã được thưởng thức các món ăn ngon của Liên Xô.
Molotov lại chuyển về chuyện cũ, nói: đúng như những gì ngài Chu Ân Lai nói hôm trước. Rất nhiều vấn đề ở châu Á hiện nay không thể làm người ta vừa ý được.
Eden nói: Theo tôi, hình như tình hình vẫn không xấu mà.
Molotov: Không phải như vậy. Đầu tiên, địa vị của nước CHND Trung Hoa trong các vấn đề quốc tế luôn bị tổn hại.
Eden “A” một tiếng: Người Trung Quốc có rất nhiều oán trách. Nhưng tình hình hiện tại dường như không phải là LHQ không thừa nhận nước CHND Trung Hoa.
Chu Ân Lai nói luôn: Không phải vậy! Không phải nước CHND Trung Hoa không đồng ý thừa nhận LHQ, mà là các nước lớn ở LHQ không thừa nhận nước CHND Trung Hoa”.
Molotov nói: Sự thực đúng là như vậy.
Eden không muốn nói nhiều về chuyện này, nói: nước Anh có điểm không vừa ý đối với Trung Quốc, nhưng chúng ta cũng không nên nhắc đến vấn đề đó vào lúc này, nếu không sẽ làm hỏng bữa tiệc của chúng ta.
Molotov vẫn không buông tha: nếu nước Anh làm nổi lên được vai trò cần có của mình trong các vấn đề quốc tế, thì tình trạng bất hợp lý giống như việc làm tổn hại đến địa vị quốc tế của nước CHND Trung Hoa, sớm đã được sửa chữa.
Eden nói: Ông quá tâng bốc tôi rồi.
Molotov: Tôi không tâng bốc, tôi chỉ nói sự thực.
Eden chuyển sang chuyện khác: Không biết ngài Chu Ân Lai có đồng ý chỉ định một người để ngài Trevelyan của chúng tôi có thể liên hệ với người đó được không? Tôi đặc biệt cố ý điều ngài Trevelyan từ Bắc Kinh đến Genève. Có thể ngài chưa từng gặp ông ấy tại Bắc Kinh, nhưng Trevelyan có thể nói chuyện với nhân viên của đoàn đại biểu Trung Quốc được không?
“Đương nhiên là được”, Chu Ân Lai trả lời. “Chúng tôi cũng đã cử Vụ trưởng Vụ Âu - Phi (Bộ Ngoại giao) Hoạn Hương đến Genève”. Chu Ân Lai nói, Hoạn Hương trước đây đã từng tiếp xúc với ngài Trevelyan.
Hoạn Hương, lúc trẻ là một phóng viên thời sự, nửa sau cuộc đời là một nhà ngoại giao năng động và là một học giả về các vấn đề quốc tế. Ông sinh năm 1909 tại Tuân Nghĩa - Quý Châu. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, ông thi vào trường trung học Vũ Xương. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông lại tiếp tục thi vào Khoa công trình - trường Đại học Giao thông Thượng Hải. Tốt nghiệp đại học, ông đi du học Nhật Bản, vào học Khoa Kinh tế Chính trị, Đại học Waseda. Lúc này, Hoạn Hương bắt đầu rất có hứng thú đối với thời sự chính trị.
Năm 1937, chiến tranh chống Nhật nổ ra. Hoạn Hương bắt đầu kiếm sống bằng nghề làm báo, đảm nhiệm chức Phó Thư ký Tòa soạn tờ “Nhật báo Tiền tuyến”. Sau khi chiến tranh chống Nhật kết thúc, ông đến Thượng Hải làm chủ bút tờ “Văn hối”. Ông đã làm quen với Chu Ân Lai từ rất lâu. Năm 1948, ông gia nhập ĐCS Trung Quốc tại Hongkong. Đầu năm 1949, ông đến Thiên Tân làm Tổng biên tập tờ “Tiến bộ Nhật báo” (tên mới của “Đại Công báo”), sau đó đảm nhiệm chức vụ Phó Tổng Thư ký Hội nghị chính trị hiệp thương toàn quốc. Tháng 12 năm 1950, ông được điều đến Bộ Ngoại giao, đảm nhiệm chức Vụ trưởng Vụ Âu - Phi.
Chu Ân Lai dự kiến rằng Hoạni Hương đến Genève tất có đất dụng võ, vì vậy đã nhận lời Eden ngay tại chỗ, không đắn đo gì nhiều.
Eden nói: vậy thì tốt quá rồi, xem ra trước khi ngài Chu Ân Lai đến đây đã có cùng cách nghĩ giống tôi.
Vị Ngoại trưởng Anh này nói làm là làm, lập tức gọi người thông báo cho Trevelyan đến ngay nơi ở của đoàn đại biểu Liên Xô để gặp Chu Ân Lai. Dùng lời của Thư ký riêng của Eden là Shurkburgh để nói: “Vodka trên môi chúng tôi còn chưa khô thì Trevelyan đã đến rồi”.
Lúc đó, thức ăn đã được dọn đi, bữa tiệc trưa kết thúc, những người có mặt ngồi chuyện trò trong hai phòng. Molotov mời Chu Ân Lai và Eden vào phòng trong ngồi. Trương Văn Thiên ngồi ở phòng ngoài nói chuyện cùng với những người Liên Xô và người Anh khác.
Eden chỉ vào giỏ hoa quả trên bàn nói: Liên Xô hoa quả gì cũng có, chỉ không có dứa.
Molotov: nhưng Trung Quốc có, Trung Quốc là một quốc gia có cực kỳ nhiều.
Eden nói: Đúng vậy, chỉ tiếc là tôi chưa từng đến Trung Quốc.
Molotov nhanh trí nói: ngài Eden nên đến Trung Quốc một lần.
Chu Ân Lai nói: Đúng vậy, ngài Eden nên đến Trung Quốc một lần.
Eden nói: “Hy vọng rằng như thế”.
Ông nói với Chu Ân Lai: “Tôi kể cho ngài nghe một câu chuyện. Trong Đại chiến thế giới lần thứ nhất, có một sĩ quan quân đội tên là Haman ở cùng với tôi. Ông ấy đã hy sinh trong chiến tranh. Tuần trước, em trai của ông ấy - từ trước đến nay tôi chưa từng biết ông ấy có một người em trai - đã gửi cho tôi một bức thư, yêu cầu tôi phải tin tưởng mỗi lời ngài Chu Ân Lai nói. Ông ta nói ông ta rất thân thuộc với ngài Chu Ân Lai. Bây giờ tôi có thể nói đến chuyện nghiêm túc được không?
Eden nói với Molotov và Chu Ân Lai: “Hai vị, hoặc một vị bất kỳ trong hai vị có thể khuyên Hồ Chí Minh để các thương binh Pháp bị vây khốn tại Điện Biên Phủ rút ra được không?”
Molotov nói: Chuyện này đương nhiên có thể giải quyết khi chúng ta thảo luận.
Chu Ân Lai đồng ý thảo luận vấn đề này, nói: những sự việc như vậy, thì thông qua thảo luận trực tiếp giữa hai bên tham chiến sẽ rất dễ giải quyết. Ví dụ: kết quả của cuộc thảo luận trực tiếp giữa hai bên tham chiến trong chiến tranh Triều Tiên, là đã trao đổi thương binh. Vì vậy, hai bên tham chiến của chiến tranh Đông Dương đến đây trực tiếp thảo luận là có thể giải quyết được vấn đề.
Eden: Tôi cũng không hy vọng bây giờ sẽ có câu trả lời ngay. Xin các vị suy nghĩ một chút, nhưng tôi phải nói rõ, chuyện này không liên quan đến hội nghị của chúng ta. Để chuyện này lẫn lộn với hội nghị của chúng ta là không tốt.
Chu Ân Lai: Lẽ ra có rất nhiều việc nên do hai bên tham chiến trực tiếp thương lượng, sẽ dễ dàng giải quyết. Nhưng hiện nay lại có rất nhiều người ngăn cản hai bên tham chiến đàm phán trực tiếp. Điều này quả thực rất buồn cười, và cũng là điều mà chúng tôi không thể giải thích được.
Eden cố ý kinh ngạc mà nói rằng: Ai ngăn cản? Tôi đâu có ngăn cản?
Chu Ân Lai nói: Người tôi nói không phải là ông.
Molotov nói: Những năm gần đây, nhân dân Mỹ dường như ở trong trạng thái căng thẳng thần kinh. Nhân dân Liên Xô không như vậy, dường như nhân dân Anh cũng không như vậy.
Eden giải thích: Trước mắt, nước Mỹ giữ một địa vị quan trọng trên thế giới. Họ đã lấy đi vị trí này của Anh trước kia. Hơn nữa, còn hùng mạnh hơn so với Anh trước kia. Vì thế, họ muốn có được địa vị lãnh đạo trên thế giới. Nước Anh cũng không đố kỵ gì về điểm này, ý đồ lương thiện của nước Mỹ tôi không nghi ngờ gì.
Molotov: Đặc điểm nổi bật của người Mỹ khi làm việc thường quá đột ngột. Nước Anh nên gây ảnh hưởng một chút với nước Mỹ về điểm này, các bạn có một điều kiện có lợi, đó chính là cùng chung ngôn ngữ.
Eden cười nói: Một nhà viết kịch đã từng nói, nước Anh và nước Mỹ ngoài ngôn ngữ giống nhau ra thì tất cả đều khác biệt.
Chu Ân Lai tiếp lời: Nước Mỹ sau khi mất Trung Quốc vẫn không cam tâm, vì thế đã uy hiếp nhân dân châu Á, đặc biệt là nhân dân Trung Quốc, nhưng nhân dân Trung Quốc không sợ. Ngược lại, nhân dân Mỹ lại bị làm cho căng thẳng thần kinh.
Eden: người Mỹ cũng có cách nhìn của họ. Họ vốn ủng hộ nhiệt liệt Tưởng Giới Thạch. Nước Anh từ trước đến giờ vốn không nhiệt tình lắm với Tưởng Giới Thạch. Người Mỹ lại cho rằng đã làm rất nhiều việc có thiện ý. Điều tôi muốn chỉ ra ở đây là những việc ngoài việc ủng hộ cho Tưởng Giới Thạch như truyền giáo, cứu tế v.v.. Họ cho rằng người Trung Quốc hiện nay đang lấy oán trả ơn.
Chu Ân Lai trả lời: Trọng tâm của vấn đề chính là vì nước Mỹ giúp Tưởng Giới Thạch áp bức và giết hại người Trung Quốc. Người Trung Quốc làm sao có thể hài lòng với người Mỹ được?
Eden nói: Trên thực tế, những tổn thất của Anh tại Trung Quốc còn lớn hơn nhiều so với tổn thất của Mỹ, nhưng cảm giác về tâm lý của người Mỹ lại đang phát huy tác dụng.
Chu Ân Lai chỉ ra cho Eden: Nếu tính nợ nần trong lịch sử thì nước Anh không có tổn thất gì.1
Đối thoại giữa Chu Ân Lai và Eden công thủ lẫn nhau. Eden nghiêng về thủ nhiều hơn. Chu Ân Lai hỏi Eden: Là bạn đồng minh của các ngài, tại sao Dulles lại rời khỏi Genève vào Chủ nhật?
Câu hỏi này, Eden không trả lời được, chuyển thủ thành công, nói với Chu Ân Lai: “Hôm qua, thái độ của ông đối với chúng tôi có thể nói là tương đối thô bạo. Ông gọi chúng tôi là thế lực chủ nghĩa thực dân tàn ác, nhưng ông nên nhìn lại xem chúng tôi đã làm gì tại Ấn Độ và Miến Điện. Chúng tôi đã thừa nhận quốc gia của các ông, nhưng tôi thường không dám chắc các ông có thừa nhận chúng tôi hay không.”
Câu chuyện đã được chuyển đến vấn đề Đông Dương. Chu Ân Lai nói: Đầu tiên, khi nói về vấn đề này, đã xác định là mời đại biểu của năm nước lớn. Kỳ lạ là lại không mời đại biểu của các bên tham chiến tham gia. Có thể thấy có người ngăn cản hai bên tham chiến tham gia đàm phán. Như vậy thì làm sao đàm phán thành công được? Vì thế, đại biểu Việt Nam nhất định phải tham gia hội nghị.
Molotov nói chen vào: “Xem ra, Hội nghị Genève có rất nhiều tác dụng. Nó cũng tạo điều kiện giao tiếp cho các cá nhân”.
Eden nghe hiểu lời nói của Molotov, nói: Tôi rất vui mừng được hội kiến với ngài Chu Ân Lai, còn tôi với ngài Molotov đã rất quen thuộc rồi. Khi nào ông vui, khi nào ông có bất đồng với tôi, tôi vừa nhìn là nhận ra ngay”.
Molotov nhanh trí đáp: Nói như vậy, tôi không phải là một nhà ngoại giao giỏi. Tôi nên học cách che giấu tình cảm của mình”.
Mọi người có mặt đều cười vang. Shurkburgh cười ngả nghiêng đến nỗi ngã về phía sau, rầm một tiếng làm gẫy cả ghế. Eden cười nói: Đây mới là nhà ngoại giao kém bản lĩnh, lại có thể làm gãy cả ghế của chủ nhà.
Khi tiếng cười đã dứt, Chu Ân Lai bày tỏ với Eden sự phản đối của mình đối với ý đồ của Mỹ muốn tham gia vào Đông Dương. Ông nói, nước Mỹ giúp Tưởng Giới Thạch giết hại nhân dân Trung Quốc, nay lại đố kỵ, ghen ghét khôn tả với những thành tựu đạt được của nước Trung Quốc mới.
Eden lại có một thái độ khác: Ngược lại là đằng khác. Đó là vì họ đã từng rất thích Trung Quốc, nên quan hệ của hai bên một khi đi theo một hướng khác sẽ làm mất đi tình cảm. Họ có một sức mạnh có thể khen ngợi, cũng vì đó mà có tinh thần trách nhiệm. Ông hỏi Peter John thì biết, Canada họ dựa vào nước Mỹ nhưng vẫn độc lập.
“Canada độc lập như vậy với nước Mỹ sao?” Molotov đứng bên cạnh nói, ông cho rằng Eden đã đánh giá thấp sự ảnh hưởng của nước Mỹ đối với Canada.
Trong câu chuyện, có lẫn ẩn ý châm chọc, lời qua tiếng lại. Bữa tiệc cũng đến lúc phải chia tay. Molotov có ý mời Chu Ân Lai về trước. Sau khi tiễn khách, ông quay lại nói với Eden: “Đây là một bữa tiệc có ích, ông cảm thấy thế nào?” Eden gật đầu tỏ vẻ đồng ý.
Trên đường rời khỏi biệt thự của Molotov, Eden và Shurkburgh đều cho rằng, trình độ tiếng Anh của Chu Ân Lai chắc chắn còn cao hơn cả sự khiêm tốn của ông, vì có rất nhiều lúc, khi phiên dịch còn chưa dịch thì tinh thần của Chu Ân Lai đã cho thấy là ông đã nghe hiểu rồi.
1 Những năm tháng nóng lạnh: chìm nổi trong quan hệ Trung – Xô, sđd, tr. 192-195.
Các thao tác trên Tài liệu
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:54:18 GMT 9
CHƯƠNG 13 Tiếng súng Điện Biên Phủ mang lại cái gì ?
Ngày 1 tháng 5, bầu trời Điện Biên Phủ hửng nắng, Tổng Tư lệnh QĐND Việt Nam Võ Nguyên Giáp ra lệnh tổng tấn công. Xế chiều, đại bác của bộ đội Việt Nam bắn vào trận địa quân Pháp, đến khi mặt trời lặn, cuộc chiến đầu đã nổ ra trên toàn mặt trận, bộ đội Việt Nam liên tiếp xung phong, các trận đánh giáp lá cà đã nổ ra trên những quả đồi phía đông Điện Biên Phủ. Tại Bắc Kinh, Tổng Tham mưu trưởng Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc Túc Dụ điện cho Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc, yêu cầu chú ý đề phòng quân Pháp nhảy dù và đề nghị Vi Quốc Thanh dự đoán khi nào thì có thể tiêu diệt được toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên Phủ? Sáng 1 tháng 5, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ B. Smith đến Genève thay thế Ngoại trưởng Dulles sắp về nước, liệu ông ta đem cái gì đến Genève? Trước tình hình nguy cấp ở Điện Biên Phủ, chính phủ Laniel ngày càng khó khăn.
Hồi ba giờ chiều ngày 30 tháng Tư, Ngoại trưởng Liên Xô Molotov chủ trì Hội nghị Genève về vấn đề Triều Tiên. Đại diện Philippines rút lại lời đề nghị phát biểu, đại diện Thổ Nhĩ Kỳ và Thái Lan chỉ nói khoảng 30 phút. Họ đều ủng hộ lập trường của Mỹ, đòi giải quyết vấn đề Triều Tiên trong khuôn khổ LHQ. Các bên thuộc “Liên minh quân LHQ” đều theo đuôi Mỹ, không muốn có con đường riêng.
Molotov tuyên bố, nếu không còn đại diện nước nào phát biểu nữa, cuộc họp hôm nay kết thúc. Vì là sắp đến ngày nghỉ, hội nghị Genève nghỉ hai ngày, sẽ họp lại vào ngày 3 tháng 5. Hội nghị vừa tan, Dulles, Eden và Bidault liền gặp nhau. Bidault nói với các Ngoại trưởng Anh, Mỹ rằng ông ta hiện chẳng có con bài gì trong tay cả. Bidault cho rằng thảo luận vấn đề phân chia ranh giới Nam Bắc Việt Nam là không lợi cho Pháp, đặc biệt càng làm cho Pháp cảm thấy khó đối phó với ba nước Đông Dương. Ngừng bắn cũng rất khó, vì mặt trận hai bên đan xen, thậm chí đang bao vây lẫn nhau, tình hình hết sức tế nhị.
Sau khi Bidault ra về, Eden nói với Dulles rằng ông rất đồng tình với hoàn cảnh của Pháp lúc này. Dulles bèn hỏi: Vậy chúng ta không thể giúp người Pháp được gì nữa ư? Liệu chúng ta có tiếp tục thành lập SEATO như đã bàn ở Washington không?
Eden đáp: Lúc này chưa thích hợp. Nếu chúng ta công khai nói đến vấn đề này thì mọi người sẽ chất vấn rằng có phải chúng ta định vũ trang can thiệp vào Đông Dương? Nếu chúng ta thừa nhận thì cũng chẳng giúp ích gì cho Pháp. Theo tôi, kết quả tốt đẹp nhất chúng ta có thể có được, đó là một khi cuộc đàm phán đổ vỡ, dù chúng ta không đạt được nhận thức chung, chúng ta cũng phải gây ra không khí nghi ngờ ở Genève, như vậy có lẽ sẽ giúp ích cho người Pháp.1
Buổi tối, Eden đang có tâm trạng vui vẻ, ông ta bảo đưa báo đến để đọc lướt một lượt và nghĩ vai trò của nước Anh vẫn khá thuận lợi. Eden cho rằng cuộc gặp trưa nay với Chu Ân Lai sẽ có lợi cho nước Anh. Sau này, trong hồi ký của mình, Eden viết lần đầu tiên gặp Chu Ân Lai, cảm thấy “Chu Ân Lai là người chống Mỹ quyết liệt và lạnh lùng, có thái độ cứng rắn, không hề thỏa hiệp. Chúng tôi ngồi nghiêm túc, trao đổi ý kiến với nhau bằng những từ ngữ nghiêm chỉnh. Ông ta hoàn toàn bác bỏ đề nghị của tôi về việc ngừng bắn ở Điện Biên Phủ để chuyển thương binh ra khỏi mặt trận.” Sau nhiều lần gặp gỡ, trao đổi với Chu Ân Lai sau đó, Eden đã dần dần thay đổi suy nghĩ của mình về Chu Ân Lai.
Ngày 1 tháng 5 là Ngày Quốc tế Lao động, một ngày đầy sức cổ vũ đối với phe Phương Đông. Hôm đó, tại chiến trường Việt Nam, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã ra lệnh cho các tướng sĩ mặt trận Điện Biên tiến hành tổng tấn công trên toàn mặt trận Điện Biên Phủ.
Trời Điện Biên hửng nắng, cờ đỏ phấp phới tung bay trên trận địa của bộ đội Việt Nam, các sư đoàn quân chủ lực Việt Nam với đầy đủ quân số đang tiến ra mặt trận. Các khẩu đại bác đã được tháo bỏ ngụy trang, dùng sức người kéo pháo ra tuyến trước.
Hoàng hôn sắp buông xuống, bộ đội Việt Nam bắt đầu nã pháo vào trận địa quân Pháp. Đến khoảng 8 giờ tối, cuộc chiến đã nổ ra trên toàn tuyến, bộ đội Việt Nam liên tiếp tổ chức các đợt xung phong, Sư đoàn 316 tiến hành cuộc chiến đẫm máu giáp lá cà với quân đội Pháp.
Trên năm quả đồi phía đông Điện Biên Phủ, lực lượng phòng thủ của Pháp chỉ có bốn tiểu đoàn hỗn hợp thiếu, bộ đội Việt Nam nhanh chóng mở được đột phá khẩu tại đây, quân Pháp mệt mỏi sắp đến ngày tàn, trở nên hỗn loạn.
Sáng ngày 1 tháng 5, thứ trưởng Ngoại giao Mỹ B. Smith đến Genève giữ chức Người phụ trách Đoàn đại biểu Mỹ thay Ngoại trưởng Dulles sắp về nước. Buổi trưa, Smith cùng Dulles tới chỗ ở của Bidault, Eden đã chờ sẵn tại đó.
Không khí cuộc gặp lúc đầu không được vui vẻ lắm. Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ [Walter S.] Robertson sẵng giọng hỏi Eden: Hiện nay 300 ngàn quân đội Nam [?] Việt Nam cùng quân đội Campuchia và Lào đều phải tác chiến gấp với Việt Minh, tại sao Anh quốc lại không ủng hộ họ? Eden không hề thay đổi sắc mặt, trả lời: Vì sao họ phải vội đánh nhau? Ngồi lại đàm phán không tốt hay sao ?
Eden quay sang nói với Dulles: Mỹ viện trợ cho Việt Nam nhiều gấp chín lần số vật tư do Trung Quốc viện trợ Việt Nam, phải nói rằng số hàng viện trợ như thế là đủ rồi, tôi nghi ngờ rằng những người Việt Nam này không còn muốn chiến đấu cho Bảo Đại nữa.
Dulles nói với Eden rằng, để huấn luyện số người Việt Nam này có thể đánh nhau được một cách hiệu quả, chí ít cũng phải mất hai năm.
Sau cuộc hội đàm trưa hôm đó, ngoại trưởng ba nước Mỹ, Anh, Pháp nhất trí phải thiết lập thể chế đồng chủ tịch tại hội nghị Genève về Đông Dương sắp tới, do Eden và Molotov luân phiên đảm nhiệm. Ý tứ mấu chốt ở đây là không muốn để Chu Ân Lai làm chủ tịch.
Dulles khăng khăng đòi Anh ủng hộ phương án của Mỹ về vấn đề Triều Tiên: Chỉ
tổ chức bầu cử ở miền Bắc Triều Tiên, và đây là bầu những nghị sĩ tham gia vào nghị viện của Hàn Quốc. Eden đã từ chối.
Eden định rời đi, nhưng Smith đã đứng lên trước, vừa cười vừa nói với Ngoại trưởng Anh rằng cá nhân tôi (Smith) lo ngại về những bất đồng trước đây giữa Anh và Mỹ. Nay đến Genève, mong rằng hai bên có thể hợp tác tốt với nhau.
Eden đáp: Cuộc hội đàm rất khó khăn, cho nên chúng ta cần nhanh chóng xác định lập trường chung.
Smith nói mình cũng có cảm giác như vậy và sẽ không để ý đến những cái gọi là “chuyện ngốc nghếch” đang đồn đại ở Mỹ. Thái độ của Smnith đã động viên Eden. Eden hiểu rõ và có cảm tình tốt với Smith. Khi Eden giữ chức Ngoại trưởng Anh trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, Smith là Tham mưu trưởng của Eisenhower, Tổng chỉ huy quân đội đồng minh, hai bên thường trao đổi, hợp tác với nhau rất tốt. Lần này, tại Genève liệu họ có thể tiếp tục hợp tác chặt chẽ cùng nhau không ? Trong xe trên đường từ nơi ở của Bidault về nhà, Eden nói với Evelyn Shuckburgh rằng hy vọng Dulles sớm rời khỏi Genève.
F. B. Smith (5/10/1895 – 9/8/1961) sinh ra trong một gia đình bình thường ở bang Indianna, có ham thích về quân sự từ hồi nhỏ, khi học trung học đã muốn vào quân đội. Năm 1910, Smith tham gia đội cảnh vệ quốc gia của bang. Smith có thành tích cứu hộ xuất sắc trong trận lũ lụt của bang năm 1913 nên được mọi người chú ý. Năm 1916, Smith tham gia cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Mexico. Sau chiến tranh không lâu, Smith đã thi vào học tại một trường đại học bình thường, nhưng do bố bị ốm nặng nên phải nghỉ học, cuối cùng phải đi làm công nhân thợ tiện tại một nhà máy.
Sau khi Mỹ lao vào cuộc chiến tranh thế giới thứ thứ nhất, Smith lại xin tái ngũ. Ngày 1/7/1917, Smith kết hôn cùng Mary Eleanor, sau đó Smith tập trung vào trưòng huấn luyện quân sự. Ngày 20/4/1918, sư đoàn bộ binh của Smith được điều đến Pháp đánh nhau với quân Đức. Cuộc chiến vừa mới bắt đầu, Smith đã bị thương, sau khi được chữa trị bình phục, lại tiếp tục trở về đơn vị chiến đấu.
Quân Mỹ mới tham gia đánh nhau được một thời gian ngắn thì chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Smith tiếp tục ở lại quân ngũ, ông được thăng cấp khá muộn, năm 1929 được phong quân hàm Thượng uý, hơn 10 năm sau mới được phong Thiếu tá. Nhưng Smith càng ngày càng được mọi người xem trọng nhờ vào khả năng tổ chức quân sự và sự hiểu biết về chiến tranh hiện đại của ông. Smith có sở trường đặc biệt về nghiệp vụ của Bộ Tư lệnh, được các nhà quân sự tôn vinh là “ ngôi sao Tham mưu”. Smith đã từng theo học tại Học viện Lục quân [Army War College] ở Washington, năm 1937 tốt nghiệp, sau đó được vào dạy ở trường bộ binh.
Tại trường bộ binh này, ông lần lượt quen biết một số giáo viên nhà trường như Bơ-rai Đơ-li và [George C.] Marshall, họ đều nghĩ rằng sau này Smith phải được đeo sao cấp tướng. Năm 1939, Marshall vừa được cử làm phụ trách Bộ Tổng Tham mưu, liền kéo Smith về, giao cho việc nghiên cứu mở rộng biên chế lục quân. Qui mô cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng mở rộng, quân hàm của Smith cũng tăng lên rất nhanh, hầu như hàng năm đều tăng thêm một sao, thậm chí hai sao, từ một trung tá tháng Tư năm 1941, đến tháng 8 năm 1941 đã thành thượng tá, tháng 2 năm 1942 được phong chuẩn tướng, tháng 12 cùng năm trở thành thiếu tướng và đến tháng 1 năm 1943, Smith đã thành một tướng ba sao.
Tại Bộ Tổng tham mưu, Smith đã từng làm thư ký cho Tổng Tham mưu trưởng Marshall, từng là Trợ lý quân sự của Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, có nhiệm vụ phối hợp tác chiến giữa ba quân chủng Lục, Hải, Không quân. Đầu năm 1942, Smith là đại diện quân sự riêng của Tổng thống Roosevelt, bàn bạc, phối hợp với quân Anh trong việc tác chiến chống quân Đức. Smith có nhiều ý kiến có giá trị trong việc phối hợp lực lượng quân sự Anh-Mỹ nên đã được Marshall khen ngợi.
Tháng 9/1942, Smith đến London, giữ chức Tham mưu trưởng cho Eishenhower, Tổng chỉ huy quân Mỹ tham chiến ở châu Âu. Smith đã tham gia việc chỉ huy cuộc đổ bộ của quân đồng minh, trong đó nòng cốt là quân đội Mỹ, vào Bắc Phi, sau đó tham gia việc vạch kế hoạch cuộc tiến công của quân Mỹ trong chiên dịch Italia. Năm 1944, ông giúp Eiseinhower tổ chức chiến dịch đổ bộ Normandi, mở ra mặt trận thứ hai tại châu Âu. Trong nhiều trận chiến đấu qui mô lớn, Smith thường được thay mặt Eiseinhower đến dự thậm chí chủ trì các cuộc họp quân sự và ngoại giao, kế hoạch tỉ mỉ, suy nghĩ chu đáo, lắm mưu nhiều kế, chủ trì tôt công việc của Bộ Tư lệnh, được các tướng sĩ quân đội Mỹ tôn vinh là một trong những vị Tham mưu trưởng ưu tú nhất trong lịch sử nước Mỹ. Tại Bộ Tư lệnh quân đội đồng minh, Smith thậm chí còn được mọi người gọi là ”Tổng quản gia” của Eisenhower, người nào muốn vào trong Đại bản doanh, hoặc có được phép gặp Eisenhower hay không, trước tiên là do Smith quyết định.
Trước đêm quân đồng minh đổ bộ lên Normandi, tình hình thời tiết rất xấu, Eisenhower rất do dự trong việc có nên ra lệnh cho quân đổ bộ chiến đấu hay không, do đó có trưng cầu ý kiến của Smith. Trong giờ phút quyết định đó, Smith cổ vũ Thống soái và nói: ”Thưa Tướng quân, đây là một canh bạc, nhưng là một canh bạc tốt nhất”. Lời nói ấy dã làm cho Eisenhower hạ quyết tâm. Cuộc đổ bộ vào Normandi bắt đầu và quân đội đồng minh đã giành được chiến thắng trong trận chiến này.
Trong quá trình giúp việc Eisenhower thống lĩnh quân đội đồng minh ở châu Âu, Smith đã thể hiện rõ khả năng của mình về mặt ngoại giao. Sau khi về nước ít lâu, năm 1945, Smith được Tổng thống Truman cử làm Đại sứ Mỹ tại Liên Xô cho đến năm 1949. Trong thời gian làm đại sứ tại Moskva, Smith cho rằng Liên Xô sẽ kiên trì lâu dài chính sách đối ngoại bành trướng, Mỹ cần phải ra sức ngăn chặn. Nếu cho rằng thời gian này Smith có ý kiến gì đó khác mọi người thì đó chính là nhận xét của Smith cho rằng khối Xô Viết không phải là một khối thống nhất bền chặt mà là có những khe hở có thể lợi dụng được. Smith cho rằng, trong mâu thuẫn giữa Nam Tư và Liên Xô, Mỹ nên ủng hộ Nam Tư, phân hóa khối Xô Viết.
Tháng 3 năm 1949, Smith rời Moskva về nước, kết thúc sứ mệnh đại sứ tại Liên Xô và lại trở về quân đội làm việc với chức vụ Tư lệnh Tập đoàn quân số I của Mỹ. Năm Smith được tăng thêm một sao, trở thành Đại tướng 4 sao. Lúc này, Truman đang rất lo lắng trước việc Cục Tình báo Trung ương (CIA) không dự báo được chính xác cuộc chiến tranh Triều Tiên bất ngờ nổ ra ngày 25 tháng 6 năm 1950, do đó Tổng thống quyết định chấn chỉnh CIA, nên đã bổ nhiệm Smith làm Giám đốc CIA. Sau khi nhậm chức, Smith tích cực thực hiện cải cách, nhanh chóng thiết lập hài hòa các mối quan hệ.
Tháng 11 năm 1953, thượng cấp cũ của Smith là Eisenhower được bầu làm Tổng thống Mỹ, ông đã cử Smith làm Thứ trưởng Ngoại giao, giúp Dulles chủ trì công tác ngoaị giao. Từ đó, Smith lại được coi là “Tham mưu trưởng chính sách Ngoại giao Mỹ”.
Nay Smith đến Genève. Đối với nước Trung Hoa mới, ông ta có thái độ ôn hòa hơn Dulles. Tuy nhiên, Dulles vẫn là người lãnh đạo chính của ngành ngoại giao Mỹ, lời nói và việc làm của Smith không thể đi chệch khỏi quĩ đạo của Dulles được.
Chiều ngày 1 tháng 5, tại khách sạn của đoàn Mỹ, Dulles chủ trì một cuộc họp có đại diện của 16 nước tham dự để trao đổi ý kiến đánh giá về triển vọng của hội nghị Genève.
Ngoại trưởng Australia R.G. Casey nói: Trước hết Australia cho rằng nếu không được đại đa số nhân dân địa phương chủ động ủng hộ, chỉ đơn thuần dựa vào vũ lực để giữ Đông Dương là không thể được, vì vậy việc trưng cầu ý kiến các nước châu Á là điều rất cần thiết. Ông đồng tình với quan điểm của Eden về vấn đề này, vì Eden đã thông báo lại ý kiến của năm nguyên thủ các nước Nam Á tại Hội nghị Colombo.
R. G. Casey nói rõ, điểm thứ hai là chúng ta phải tránh đừng để bị cuốn vào cuộc chiến tranh với Trung Hoa đỏ, nếu không sẽ là một tai họa khủng khiếp. Casey bổ sung thêm rằng tình hình có thể chưa xấu đến mức chúng ta dự báo ban đầu, cho dù là mất Điện Biên Phủ, Việt Minh cũng đã mệt mỏi và kiệt quệ, tình hình vùng châu thổ sông Hồng chưa chắc đã xấu đi ngay. Casey kết luận: Chúng ta cần tạo ra một cơ hội cho hội nghị Genève, lựa chọn hành động quân sự trong thời gian tiến hành họp hội nghị là không sáng suốt.
Trong nhật ký của mình về ngày làm việc này, Casey cũng có nhận xét về Dulles. Ông viết: “Dulles đúng là một nhân vật khác thường, ông phát biểu bao giờ cũng chậm rãi, có thứ tự, thậm chí không biết là ông ta đã nói xong hay đang tạm dừng để nghĩ xem nên nói tiếp như thế nào, cũng có lúc ông ta nói có vẻ hồ đồ khiến người nghe không hiểu ông ta nói cái gì”.2
Buổi tối, Eden điện báo cáo với Churchill tình hình hội đàm với Dulles và Smith, bức điện viết:
Tuy Mỹ và Trung Quốc trước đây có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng nay có thái độ thù địch sâu sắc, chúng tôi đã bàn về việc này. Về vấn đề Đông Dương, chúng tôi đã quyết định hoãn dùng vũ lực ở Đông Dương, một vấn đề từng được nói đến nhiều. Chỉ có Smith là người thật sự hiểu rõ quan điểm của chúng ta. Lúc đầu, Dulles nói tình hình lúc này đã trở nên hỗn loạn. Trước đây, tại các loại hội nghị, hai nước chúng ta thường nhất trí với nhau về mặt chính sách, nay thì lại rối cả lên. Tôi đáp: Về vấn đề Triều Tiên, có thể nói chúng ta đã hoàn toàn nhất trí, nhưng trong vấn đề Đông Dương, quả thật chúng tôi không biết nên trả lời như thế nào đối với yêu cầu lúc đầu của quí vị. Nếu nói phải tiến hành can thiệp vũ trang vào lúc này, thì chúng tôi chỉ có thể trả lời rằng chúng tôi đã nói rất rõ là hành động đó sẽ không đem lại kết quả, chúng tôi không thể tán thành được, nếu không sẽ đem lại hậu quả nghiêm trọng.
Dulles còn nói: Tôi có ấn tượng là trong vấn đề Đông Dương, hai bên chúng ta không có ý định quay trở lại lập trường giống nhau như xưa kia nữa. Ông ta hỏi thẳng, không trực tiếp vũ trang can thiệp có phải có nghĩa là chúng ta chỉ có thể ủng hộ về mặt đạo lý đối với ba nước Đông Dương? Tôi đáp, như vậy là lập trường của chúng ta đã nhích lại gần nhau thêm một bước, chúng ta còn có thể có sự ủng hộ thực chất nào khác nữa? Dulles nói: Chưa quyết định. Lúc này, Smith nói chen vào: Về việc này, tôi vừa không tán thành quan điểm của Tham mưu trưởng quân đội Mỹ, vừa không đồng ý với ý kiến của tham mưu trưởng quân đội Anh, vì người trước quá lạc quan, còn người sau lại quá bi quan. Hiện nay Điện Biên Phủ đã trở thành một cái mốc, không thể nào cứu vãn được nữa. Smith nói tuy không thể ngăn được việc cộng sản lan tới biên giới Mã Lai nhưng vẫn có thể tìm được một phòng tuyến giữ vững được Thái Lan, Miến Điện và Malaysia. Cái khó là trước đây ta không hề xem xét nó gắn với tình thế của Pháp trong khu vực này và đánh giá khả năng quân sự của các quốc gia này.
Tôi trả lời rằng chúng ta cần phải nghiêm túc cân nhắc xem rằng rốt cuộc chúng ta muốn đi tới đâu. Nếu người Mỹ lao vào cuộc chiến tranh Đông Dương, sẽ không tránh được việc người Trung Quốc cũng sẽ lao vào, kết quả sẽ dẫn đến cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc, như vậy sẽ là sự mở màn cho Đại chiến Thế giới thứ ba.3
Hai ngày sau, Eden lần lượt gặp ngoại trưởng các nước trong khối Liên hiệp Anh là Canada, Australia và New Zealand. Điều an ủi Eden là các nước này đều có lập trường cơ bản giống nước Anh.
Tháng 5, không khí mùa xuân tràn ngập Bắc Kinh, cây cối xanh tươi đâm chồi, lẩy lộc. Tại Đại bản doanh của Bộ Tổng Tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc ở Bắc Kinh, Quyền Tổng Tham mưu trưởng Túc Dụ cùng các cán bộ tham mưu đang chăm chú theo dõi diễn biến của chiến trường Điện biên Phủ. Túc Dụ là một trong những vị thống soái thiện chiến nhất của Quân giải phóng, từ một người lính bình thường trưởng thành dần dần đến chức Thống soái Dã chiến quân, Tổng tham mưu trưởng quân đội, trong thời kỳ chiến tranh được Bộ Thống soái tối cao hết sức coi trọng. Ông có tài tổ chức các chiến dịch lớn, quan trọng, từ “bẩy trận đánh, bẩy lần giành thắng lợi” ở Tô Trung [trung Giang Tô], đến chiến dịch đồi Mạnh Lương (Sơn Đông) có tính chất xoay chuyển tình thế, từ chiến dịch Dự Đông [đông Hà Nam] và chiến dịch Hoài Hải, đến chiến dịch vượt Trường Giang đều do ông chỉ huy hoặc tham gia chỉ huy. Sau ngày thành lập nước CHND Trung Hoa, Chủ tịch Mao Trạch Đông yêu cầu Túc Dụ tổ chức chiến dịch tác chiến vượt biển Đài Loan, nhưng do chiến tranh Triều Tiên bùng nổ nên đành gác lại. Tháng 10 năm 1951, Túc Dụ được bổ nhiệm làm Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội. Cuối năm 1952, Quyền Tổng tham mưu trưởng Nhiếp Vinh Trăn vì làm việc quá sức nên ốm đau phải vào bệnh viện điều trị, Túc Dụ được cử thay thế Nhiếp Vinh Trăn, phụ trách toàn diện mọi mặt công tác của Bộ Tổng tham mưu. Túc Dụ hiểu rõ tình hình chiến trường Điện Biên Phủ từ lúc chuẩn bị chiến dịch đến khi mở màn cuộc chiến, từ lúc bao vây chặt đến cuộc tiến công ba giai đoạn liên tục. Vi Quốc Thanh là cán bộ cấp dưới cũ của Túc Dụ, hai bên quen biết và hiểu rõ nhau, thường xuyên trao đổi điện thông báo kỹ tình hình cho nhau.
Ngày 1 tháng 5, giữa lúc cuộc chiến đấu đang diễn ra ác liệt ở Điện Biên Phủ, Túc Dụ gửi điện cho Vi Quốc Thanh:
Kẻ thù nguy hiểm nhất hiện nay của các đồng chí là lực lượng lính dù đã được huấn luyện và đang tập trung tại khu vực Hà Nội. Có nhiều khả năng địch sẽ cho lực lượng này nhảy dù xuống các tuyến giao thông quan trọng ở hậu phương để cắt đứt việc tiếp tế cho mặt trận, buộc các đồng chí phải bỏ cuộc bao vây Điện Biên Phủ, thậm chí làm cho bộ đội hoang mang rối loạn. Các đồng chí cần nhanh chóng chuẩn bị cần thiết để đối phó với những tình huống bất ngờ.
Đề nghị các đồng chí xem xét kỹ khả năng tấn công tiêu diệt Điện Biên Phủ, còn cần bao lâu nữa mới có thể hoàn toàn hoặc cơ bản tiêu diệt được bọn địch, mong điện trả lời sớm. Việc này không nên nói ra với người khác để tránh ảnh hưởng đến cuộc chiến đấu ở Điện Biên Phủ.
Nhận được bức điện nói trên của Túc Dụ, Vi Quốc Thanh lập tức chỉ thị cho các cố vấn quân sự Trung Quốc tại các sư đoàn đang chiến đấu trên mặt trận Điện Biên Phủ phải nắm chắc tình hình mọi mặt, nắm vững nhịp độ tác chiến, chuẩn bị mở cuộc tổng tiến công cuối cùng. Vi Quốc Thanh yêu cầu Đổng Nhân, cố vấn Trung Quốc tại sư đoàn 312 phải nắm chắc đại đội pháo hỏa tiễn, tập kích quân Pháp vào lúc then chốt, đồng thời đôn đốc các cố vấn Trung Quốc phụ trách về hậu cần phải có biện pháp bảo đảm việc cung cấp hậu cần cho bộ đội Việt Nam.4
Bộ đội Việt Nam càng ngày càng khép chặt vòng vây, tướng De Castrie, Tư lệnh quân Pháp đang bị bao vây chặt tại trung tâm Điện Biên Phủ liên tiếp gọi điện xin cứu viện.
Trưa ngày 3 tháng 5, Eden mời một số nhà báo quen biết đến ăn cơm. Trong bữa ăn, Eden nói với các nhà báo: hội nghị Genève lần này là một cuộc đàm phán khó khăn nhất trong cuộc đời ngoại giao của mình. Thật là một sự ngẫu nhiên trùng hợp, vì đêm hôm trước, Molotov cũng nói một câu tương tự.
Buổi chiều, hội nghị tiếp tục thảo luận vấn đề Triều Tiên, Eden là chủ tịch luân phiên của hội nghị này. Eden tuyên bố: “Từ ngày 28 tháng Tư đến 2 tháng 5, thủ tướng các nước Đông Nam Á đã họp tại Colombo. Được sự uỷ thác của thủ tướng các nước tham dự hội nghị Colombo, Thủ tướng Nehru đã ra lời kêu gọi gửi các nước tham dự Hội nghị Genève”.
Bức điện của Hội nghị Colombo gửi Hội nghị Genève viết:
Thủ tướng các nước dự hội nghị Colombo đã điểm lại tình hình, cho rằng Đông Dương đã phải chịu đựng một cuộc chiến tranh bi thảm lâu dài, chiến tranh đang đe dọa tự do và độc lập của nhân dân Đông Dương, đe dọa hòa bình và an ninh của châu Á và thế giới. Thủ tướng chính phủ các nước dự hội nghị Colombo hoan nghênh những nỗ lực tích cực của Hội nghị Genève nhằm tìm kiếm con đường giải quyết vấn đề Đông Dương thông qua đàm phán, đồng tthời hy vọng rằng kết quả mà hội nghị Genève đạt được sau khi cân nhắc, xem xét kỹ càng, sẽ góp phần giải quyết cuộc xung đột, khôi phục hòa bình ở Đông Dương.
Thủ tướng các nước dự hội nghị Colombo cho rằng, để giải quyết vấn đề Đông Dương, cần phải nhanh chóng đạt được thỏa thuận ngừng bắn, các bên hữu quan, chủ yếu là Pháp, ba nước Đông Dương và Việt Minh phải đàm phán trực tiếp với nhau. Cuộc đàm phán này có thành công hay không có liên quan chặt chẽ với việc các nước hữu quan, nhất là Trung Quốc, Liên hiệp Vương quốc Anh, Mỹ và Liên Xô, có nhất trí ý kiến và áp dụng các biện pháp cần thiết để xóa bỏ sự thù địch hay không.
Thủ tướng các nước dự hội nghị Colombo mong rằng, hai bên tiến hành đàm phán cần thông báo cho hội nghị Genève biết nhằm để hội nghị đề ra quyết định cuối cùng. Các Thủ tướng còn hy vọng Pháp đưa ra tuyên bố tại hội nghị Genève rằng Pháp sẽ hoàn toàn công nhận nền độc lập của các nước Đông Dương. Chỉ có như vậy mới làm cho bộ máy làm việc hữu hiệu của LHQ phát huy tác dụng trong việc thúc đẩy tinh thần hội nghị Genève, triển khai thực hiện các nghị quyết có liên quan. Thủ tướng các nước dự hội nghị Colombo nhất trí cho rằng hội nghị Genève cần báo cáo với LHQ quá trình hội nghị xem xét vấn đề Đông Dương.5
Eden đọc xong bức điện, đại diện Nam Triều Tiên Pyun Yung Tai phát biểu ngang nhiên từ chối đề nghị sáu điểm của Nam Il. Ông ta nói rằng đề nghị của Nam Il về thành lập “Uỷ ban toàn quốc” do hai miền Nam Bắc mỗi bên có một nửa đại diện để chủ trì công tác bầu cử ở Triều Tiên chỉ là một âm mưu. Trước hết, phương thức này đã thủ tiêu vận mệnh của các nước Đông Âu, hai là chủ trương này hoàn toàn loại bỏ vai trò của LHQ. Thứ ba là đề nghị của Nam Il tạo cơ hội cho nhà nước cộng sản tiếp tục can thiệp vào công việc của Triều Tiên, chính phủ Nam Triều Tiên không chấp nhận.
Sau bài phát biểu của Pyun Yung Tai, cuộc họp trong ngày kết thúc. Các đại diện của 16 nước thuộc “Quân đội LHQ” tiếp tục ở lại Cung Vạn Quốc để bàn thảo, phối hợp lập trường chung. Sự bất đồng của Hội nghị Genève về vấn đề Triều Tiên đã bộc lộ hoàn toàn.
Tuy vậy, hoạt động ngoại giao trong ngày cũng đã mang lại kết quả. Vụ trưởng Vụ báo chí Bộ Ngoại giao Liên Xô, thành viên Đoàn đại biểu LX, Ilychev tuyên bố tại cuộc họp báo chiều nay rằng, theo thỏa thuận tại hội nghị, dự kiến số nước tham dự hội nghị Genève về Đông Dương, ngoài đại diện của năm nước lớn, còn có sự tham gia của đại diện nước Việt Nam DCCH và đại diện của ba nước Liên bang Đông Dương. Chính phủ Pháp mời đại diện của ba nước Liên bang tham dự, chính phủ Liên Xô và chính phủ Trung Quốc mời đại diện của Việt Nam DCCH tham dự hội nghị. Tổng cộng có đại diện của chín nước tham gia hội nghị: Pháp, Anh, Mỹ, Trung Quốc, Liên Xô, VNDCCH, ba nước trong Liên bang Đông Dương: Việt Nam, Campuchia, Lào.
Buổi tối, một dấu hiệu hòa dịu đã xuất hiện tại Hội nghị Genève. Khi cùng ăn tối theo lời mời của Eden, Smith bày tỏ: cá nhân tôi có ý nghĩ tán thành lập trường của nước Anh về vấn đề Đông Dương, vì tôi cũng nghĩ rằng, dùng lính dù của hải quân và dùng không quân để tấn công quân đội Việt Minh ở Điện Biên Phủ sẽ khiến Trung Quốc và lực lượng bộ binh Mỹ bị cuốn vào cuộc chiến tranh Đông Dương, như vậy Mỹ sẽ phải trả cái giá quá lớn. Lời phát biểu trên của Smith đã làm cho các trợ lý của Eden hết sức vui mừng.6
Ba giờ chiều ngày 4 tháng 5, Hội nghị Genève họp phiên thứ 7, tiếp tục bàn vấn đề Triều Tiên, do Hoàng thân Thái Lan làm chủ tịch luân phiên chủ trì hội nghị.
Ngoại trưởng Canada [Lester B.] Pearson phát biểu đầu tiên. Ông phát biểu hôm nay để tránh bị hiểu lầm là Canada không ủng hộ đầy đủ chính sách của các nước “Quân đội LHQ”. Đại diện Canada không ủng hộ bất kỳ đề nghị nào bác bỏ nghị quyết của LHQ về vấn đề Triều Tiên. Pearson cho rằng không cần phải thảo luận đề nghị do Chu Ân Lai nêu ra về việc phóng thích 48 nghìn tù binh Triều Tiên và Trung Quốc bị “Quân đội LHQ” bắt giữ, vì vấn đề này đã được giải quyết. Vấn đề ở chỗ đại diện Triều Tiên, Nam Il không trình bày rõ đề nghị này. Pearson nói: đại diện Triều tiên đề nghị thành lập “Uỷ ban toàn quốc Triều Tiên” phải bao gồm “các tổ chức đoàn thể xã hội lớn nhất” của hai miền Nam Bắc Triều Tiên, không hiểu như vậy là có ngụ ý gì ?
Tiếp đó, đại diện Hà Lan [J. M. A. H.] Luns phát biểu, phản đối đề nghị của Nam Il về tổ chức bầu cử trong cả nước Triều Tiên. Đại diện Hà Lan nói, LHQ đã xác định khuôn khổ chính trị giải quyết vấn đề Triều Tiên rồi, không cần phải bàn lại nữa. Hà Lan mong muốn sớm rút quân và được thấy Triều Tiên trở thành một nước thống nhất, độc lập và dân chủ. Ông hy vọng hai miền Triều Tiên nhanh chóng tìm ra phương án hòa bình hai bên cùng chấp nhận được.
Đại diện Ethiopia [Ato Zaude Gabre] Heywot phát biểu cuối cùng, sau đó Chủ tịch hội nghị tuyên bố không còn ai yêu cầu phát biểu và cũng không có đại biểu nào đăng ký đề nghị phát biểu vào phiên họp ngày mai và ngày kia, vì vậy ông đề nghị sẽ tổ chức cuộc thảo luận không chính thức trong hai ngày tới, nhằm làm cho các quan điểm khác nhau nhích lại gần nhau. Phiên họp tới sẽ tiến hành vào ngày 7 tháng 5.
Sau khi tan họp, Bidault đem theo người trợ lý chính là Chauvel cùng ăn tối với Eden. Eden nói với hai nhà ngoại giao Pháp rằng hiện tại chính phủ Bảo Đại Việt Nam cùng Vương quốc Lào và Campuchia thuộc Liên bang Đông Dương đều không có đại diện tại Genève, như thế là rất bất lợi. Molotov và Chu Ân Lai đã khéo léo lợi dụng cơ hội này để đả kích họ không có quyền đại diện cho các nước này, rằng các chính phủ này chỉ là bù nhìn.
Bidault cho biết là Pháp đã chuẩn bị gặp Molotov về việc này. Trong bữa ăn, Bidault và Chauvel bồn chồn không yên, đều lo lắng vì cuộc bỏ phiếu tín nhiệm chính phủ sắp diễn ra tại Paris. Họ sợ rằng nếu Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với chính phủ thì vai trò của Pháp tại hội nghị Genève sẽ bị ảnh hưởng và ngày càng suy giảm.
Sáng ngày 4 tháng 5, phái đoàn của ông Phạm Văn Đồng gồm 15 người đã đến Genève. Trước đó, ngày 29 tháng Tư, nước Việt Nam DCCH ra tuyên bố cho biết, trong thời gian Ngoại trưởng Hoàng Minh Giám đi chữa bệnh, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Quyền Bộ trưởng Ngoại giao. Trên thực tế, từ ngày 20 tháng Tư đến nay, Phạm Văn Đồng đã ở Moskva để chuẩn bị cho hội nghị. Trong phái đoàn Việt Nam còn có hai nhân vật có sứ mệnh thần bí, gồm một người Campuchia tên là Keo Moni, giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao của “Chính phủ Kháng chiến Campuchia’ và một người Lào, mang tên Nouhak [Phoumsavanh], chức danh là Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Kháng chiến Lào. Đến Genève, cả Keo Moni và Nouhak cùng ở với phái đoàn Việt Nam. Việc ăn uống của phái đoàn Việt Nam do phía Trung Quốc bảo đảm cung cấp, đây là do phía Việt Nam chủ động đề nghị. Liên Xô cung cấp hai xe ô tô cho phái đoàn Việt Nam, lái xe do Liên Xô và Trung Quốc mỗi nước cung cấp một người. Lái xe người Liên Xô có tên là Kenchev. Phạm Văn Đồng vừa đặt chân tới Genève, vấn đề Đông Dương tại hội nghị Genève nhộn nhịp hẳn lên.7
Ông Phạm Văn Đồng đến Genève với nét mặt rạng rỡ. Tin chiến thắng từ mặt trận Điện Biên Phủ liên tiếp báo về làm cho ông tràn đầy hy vọng. Điều lo lắng duy nhất của ông là đến phút chót quân Pháp có thể chặn được cuộc tổng tấn công của quân đội Việt Nam, vì lẽ mùa mưa sắp bắt đầu tại Điện Biên Phủ rồi. Trong Tổng quân uỷ Quân đội Việt Nam đã bàn bạc quyết định nếu đánh đến giữa tháng 5, mùa mưa tới, trời mưa sẽ cắt mất đường vận chuyển tới Điện Biên, lúc đó nếu chưa giải quyết xong Điện Biên Phủ thì hàng vạn đại quân đành phải rút.
Trước tình hình nguy cấp tại Điện Biên Phủ, chính phủ Laniel ngày càng khốn khó. Tại phiên họp Quốc hội ngày 4 tháng 5, các đại biểu liên tiếp chỉ trích chính phủ chưa chịu dồn sức cố gắng cho việc tìm kiếm hòa bình. Ngày 6 tháng 5, Quốc hội yêu cầu tổ chức tranh luận về vấn đề Đông Dương. Laniel bác bỏ đề nghị này, do đó Quốc hội quyết định tổ chức bỏ phiếu về vấn đề tín nhiệm đối với chính phủ. Trước khi Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm, Laniel đến phát biểu tại Quốc hội: “Không hề có ai yêu cầu chúng tôi tiếp xúc trực tiếp với Hồ Chí Minh cả, chẳng lẽ chúng ta lại chọn thời điểm trước ngày tiến hành đàm phán với họ để lật đổ chính phủ của mình hay sao?” Kết quả bỏ phiếu là 311/262, chính phủ Laniel vượt qua được với đa số mong manh 49 phiếu.
Thế nhưng, tiếng pháo đại bác vang lên ở Điện Biên Phủ đã làm cho chính phủ Laniel không thể chịu đựng thêm bất cứ sự đả kích nào nữa.
1 Sir Anthony Eden, sđd, tr.111.
2 R. G. Casey, Australian Foreign Minister, The Diary of 1951-1960 London, Collins, 1972, tr.147.
3 Sir Anthony Eden, sđd, tr. 112-113.
4 Phỏng vấn Đổng Nhân tại Bắc Kinh ngày 27/ 9/1993.
5 Ghi chép của TG khi nghiên cứu hồ sơ tại Phòng lưu trữ hồ sơ Quốc gia Mỹ, Washington, tháng 5/ 1992.
6 E. Shuckburgh, sđd, tr. 189-190.
7 Phỏng vấn Văn Trang tại Bắc Kinh ngày 14/12/1995.
Các
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:56:11 GMT 9
CHƯƠNG 14 Tại nơi xa tổ quốc
Trong cung Vạn quốc ở Genève, các nhà ngoại giao các nước đấu trí, đấu dũng; các cán bộ phiên dịch ưu tú của các nước cũng tập trung tại đây thi thố tài năng. Sống tại đồi Vạn Hoa cách xa Tổ quốc hàng vạn dặm này, dạ hội cuối tuần đủ màu đủ sắc. Giai điệu của nhạc khúc “Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài” vang lên réo rắt bên hồ Leman. Mọi người tìm hiểu nước Trung Hoa mớí từ những góc độ khác nhau.
Cung Vạn Quốc được mệnh danh là trụ sở “Tiểu LHQ”, do thường xuyên tổ chức các hội nghị quốc tế, vì thế, các nhà phiên dịch ưu tú quốc tế tất nhiên cũng tập trung tại đây để thi thố tài năng của mình. Tại hội nghị Genève lần này, vấn đề Triều Tiên và Đông Dương được mọi người chú ý. Chỉ những người trong cuộc mới thật sự cảm nhận được rằng các cán bộ phiên dịch ở đây cũng rất vinh dự và trách nhiệm cũng rất nặng nề.
LHQ cử đến Genève các cán bộ phiên dịch ca bin phục vụ cho hội trường hội nghị gồm bốn thứ tiếng chính là Anh, Pháp, Nga và Trung Quốc, khả năng dịch nói của họ thật là tuyệt vời. Các phái đoàn, nhất là phái đoàn của các nước lớn đều có một nhóm phiên dịch rất xuất sắc, nắm được cái tinh túy nhất để chuyển dịch sang các ngôn ngữ khác nhau. Trong hồi ký của mình, thành viên đoàn đại biểu Anh James [Eric] Cable cho biết trong đoàn đại biểu Pháp có một phiên dịch người Nga là Andreynikov, mỗi khi đại biểu của Pháp phát biểu, anh ta đều chăm chú lắng nghe và ghi chép liên tục. Bidault, nhất là Chauvel mỗi khi phát biểu đều thao thao bất tuyệt, khó có dịp dừng lại để cho phiên dịch theo kịp, nhưng Andreynikov vẫn luôn ung dung dịch sang tiếng Anh không hề bỏ sót một lời nào của diễn giả.
Phiên dịch của đoàn Liên Xô là Troyanovsky, dịch tiếng Anh luôn luôn trôi chảy như dòng suối nguồn khiến mọi người đều khâm phục. Nhưng khi Molotov về nước, Gromyko được cử làm Trưởng đoàn, đôi lúc có sửa lại phát âm của Troyanovsky. Thực ra, Troyanovsky nói tiếng Anh theo tiêu chuẩn của Anh, còn Gromyko lại nói theo giọng Mỹ một cách rõ rệt.
Ông Phạm Văn Đồng nói tiếng Pháp rất tốt, trình độ viết rất giỏi, trình độ tiếng Pháp của ông hơn hẳn cán bộ phiên dịch chính trong đoàn. Trong nhiều trường hợp, ông Đồng tự soạn lấy bài phát biểu bằng tiếng Pháp. Tại các phiên họp chính thức, ông đọc bằng tiếng Việt, nhưng trước mặt luôn có bản tiếng Pháp. Vừa phát biểu bằng tiếng Việt xong, ông Đồng liền đưa bản tiếng Pháp cho phiên dịch đọc bản Pháp văn.
So với các đoàn khác, đội ngũ phiên dịch của Trung Quốc không hề thua kém.
Khi mới đến Genève, Chu Ân Lai đưa bản dịch tiếng Nga bài phát biểu đầu tiên sẽ đọc tại tại Hội nghị Genève cho Molotov xem trước. Bản dịch này do Âu Dương Phi, con một liệt sĩ Trung Quốc lớn lên tại Moskva dịch, được Sư Triết, một “chuyên gia về Liên Xô” hiệu đính. Rất nhanh chóng, đoàn Liên Xô gọi điện đến nói rằng Molotov đã xem bài phát biểu, mời đoàn Trung Quốc cử người đến mang về.
Phổ Sơn (tức Phổ Thọ Sơn) được lệnh đến chỗ đoàn Liên Xô để lấy bài phát biểu về. Kết quả, không chỉ cầm về bản dịch tiếng Nga do Chu Ân Lai đưa cho Molotov, mà còn mang về cả bản dịch tiếng Anh kèm theo. Thì ra, đoàn Liên Xô lo ngại đoàn Trung Quốc không có đủ nhân tài dịch tiếng Anh, nên đã chủ động dịch từ bản tiếng Nga sang tiếng Anh để gửi cho đoàn Trung Quốc. Phổ Sơn cầm tài liệu, tự cười thầm, một là bản dịch này căn cứ vào bản tiếng Nga để dịch, có thể có sự khác biệt lớn hơn so với bản tiếng Trung Quốc, hai là bản dịch này cũng không có gì hay hơn so với bản dịch tiếng Anh mà đoàn Trung Quốc đã dịch xong.
Phổ Sơn trở về nói lại chuyện này, Chu Ân Lai cười và nói cứ dùng bản tiếng Anh của chúng ta, tôi sẽ nói lại với Molotov. Chu Ân Lai rất tin tưởng vào thực lực phiên dịch của cán bộ phiên dịch Trung Quốc.1
Các cán bộ phiên dịch tiếng Anh của đoàn Trung Quốc đều là những người ưu tú thời đó, trong đó hai anh em Phổ Thọ Xương và Phổ Sơn là hai ngôi sao sáng.
Hai anh em họ Phổ đều là người Vô Tích thuộc vùng Giang Nam, là con thứ hai và thứ ba, sinh năm 1922 và 1923. Bố là một người làm công tác ngân hàng có thâm niên lâu năm trong ngành tài chính, cả ba người con đều được giáo dục tốt. Sau khi Chiến tranh kháng Nhật nổ ra, Phổ Thọ xương và Phổ Sơn vào học trường Đại học Michigan ở Mỹ, sau khi tốt nghiệp lại vào học cao học tại Đại học Havard, lần lượt được cấp bằng Tiến sĩ Kinh tế vào năm 1946 và 1949. Hai anh em đều có tư tưởng cấp tiến, Phổ Thọ Xương vào ĐCS Trung Quốc năm 1944, còn Phổ Sơn lại trở thành đảng viên ĐCS Mỹ vào năm 1945, đến năm 1949 được chuyển thành đảng viên ĐCS Trung Quốc. Sau khi nước Trung Hoa mới được thành lập, hai anh em vội vàng về nước và vào làm việc tại Bộ Ngoại giao. Phổ Thọ Xương công tác tại Tiểu ban Chính sách Bộ Ngoại giao, giỏi về dịch nói. Ông được các cán bộ ngoại giao ca ngợi là người có phản ứng nhạy bén về tiếng Anh, phát âm tốt, giọng nói truyền cảm. Thọ Sơn là người có khả năng rất tốt về viết tiếng Anh, sau khi về nước được cử đi tham gia đàm phán tại Bàn Môn Điếm về vấn đề Triều Tiên. Trình độ tiếng Anh của Thọ Sơn giỏi đến mức các nhà đàm phán Mỹ vô cùng thán phục, tìm mọi cách dò hỏi xem ông ta có phải là người Mỹ gốc Hoa không? Lần này đến Genève, Phổ Thọ Xương phụ trách dịch nói, còn Thọ Sơn chủ yếu lo việc dịch viết.
Đoàn Liên Thành, 28 tuổi là người dịch tiếng Anh các công việc sự vụ hàng ngày của đoàn Trung Quốc. Anh là người Côn Minh, Vân Nam, trước đây du học tại Mỹ, năm 1948 tốt nghiệp Học viện Báo chí thuộc trường Đại học Missouri. Khi nước CHND Trung Hoa ra đời, anh lên tàu về nước. Khả năng tiếng Anh của anh có thể độc lập công tác. Khi đó, Đới Triều Chú đã có tiếng là người giỏi tiếng Anh, nhưng do Phổ Thọ Xương, Phổ Thọ Sơn và Đoàn Liên Thành giỏi hơn, nên anh chỉ lo việc ở “hậu trường”, chuyên dịch các văn bản Trung/Anh, qua đó cho thấy lực lượng phiên dịch của đoàn rất hùng hậu.
Chương Văn Tấn, người phụ trách tổ phiên dịch, cũng là một cán bộ có tài thiên phú về ngoại ngữ. Ông biết bảy ngoại ngữ và sau là thứ trưởng Ngoại giao, từng làm Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ. Nhưng, lúc vừa mới đến Genève, Chương Văn Tấn đã bị nghi vấn. Nguyên do là bố mẹ ông thuộc gia đình quyền quí, họ hàng rất đông, quan hệ xã hội rất rộng. Mẹ của Chương Văn Tấn có tới chín chị em gái, đều có chồng là những người thành đạt hiển hách và phần lớn đều là công chức của Quốc Dân Đảng. Trong số này có ông Trần, chồng của dì Ba, đang là đại sứ của Quốc Dân Đảng tại một nước châu Âu. Sau khi tới Genève, Chương Văn Tấn vốn có tính thận trọng, không kìm nổi mình được nữa, cuối cùng ông hỏi Chu Ân Lai: Nếu tôi gặp người chồng của dì Ba tôi tại Genève này thì làm thế nào?
Nghe Chương Văn Tấn hỏi, Chu Ân Lai đáp: Làm thế nào ư? Chào hỏi nhau, họ hàng thân thích vẫn là thân thích họ hàng.2
Sau khi đến Genève, người bận rộn nhất trong Đoàn đại biểu Trung Quốc, tất nhiên không ai khác ngoài Chu Ân Lai. Vương Bỉnh Nam ghi lại trong hồi ký của mình:
“Công việc của Thủ tướng Chu Ân Lai rất bận rộn, ông tranh thủ mọi cơ hội có thể tranh thủ được và tận dụng mọi thời gian có thể. Trừ khi hội họp, ông dành toàn bộ thì giờ cho việc đọc tài liệu, nghe báo cáo, nghiên cứu, tìm hiểu những động thái diễn biến mới nhất trên thế giới, suy nghĩ, cân nhắc, xem xét giải quyết các vấn đề của hội nghị. Sáng dậy thường thấy ông chăm chú đọc sách, xem tài liệu, đèn phòng ông thường bật sáng từ chập tối cho tới khi trời sáng. Genève vốn được coi là thành phố có nhiều phong cảnh đẹp nổi tiếng, là một công viên thế giới. Các đoàn đại biểu nước ngoài đến Genève họp thường tranh thủ thời gian đi tham quan, du sơn ngoạn thủy. Chúng tôi thấy Thủ tướng làm việc bận rộn và căng thẳng quá, cũng đã khuyên ông nên đi dạo chơi, nhưng ông thường nói một cách chân tình, làm việc nhiều thêm một chút, hơn nữa, chúng ta cần chú ý ảnh hưởng bên ngoài. Đoàn đại biểu chúng ta do Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng uỷ nhiệm, lần đầu tiên đem theo hy vọng của nhân dân cả nước đến đây nhằm mục đích tiến hành cuộc đấu tranh quốc tế để tranh thủ nền hòa bình thế giới, không phải đến đây để đi chơi. Về việc này, báo chí Thụy Sĩ đã có bài bình luận, khen ngợi rằng Thủ tướng Trung Quốc không giống các vị khác, ngay cả ngày nghỉ cũng không đi ra ngoài du ngoạn, đúng là một lòng một dạ vì hội nghị.3
Lý Việt Nhiên, phiên dịch tiếng Nga và Đổng Ninh Xuyên, phiên dịch tiếng Pháp trong đoàn đại biểu, đều nhớ lại là để tranh thủ thời gian, trong những ngày ở Genève, trong khi cạo râu vào mỗi buổi sáng, Thủ tướng thường tranh thủ nghe cán bộ cấp dưới báo cáo công tác. Một hôm, Lý Việt Nhiên cùng Vương Bỉnh Nam đến biệt thự đồi Vạn Hoa để gặp Chu Ân Lai, nhưng vào phòng làm việc và phòng ngủ đều không thấy ông, ra ngoài sân cũng không tìm được, hỏi cán bộ bảo vệ, bảo vệ trả lời Thủ tướng đang ở bên trong, chưa thấy Thủ tướng ra khỏi phòng. Hai người lại vào phòng, kết quả thấy Thủ tướng đang ngồi ngủ trên ghế trong phòng vệ sinh, trên mặt còn có cả bọt xà phòng. Thì ra Thủ tướng đang định cạo râu, nhưng do mệt quá nên đã chợp mắt ngủ.4
Tính thận trọng, tỉ mỉ của Chu Ân Lai làm cho các thành viên trong đoàn nể phục. Phổ Sơn nhớ lại: “ở Genève, tôi được thường xuyên tiếp xúc với Chu Ân Lai, chủ yếu là đưa các văn kiện tài liệu để ông phê duyệt, trong đó có tài liệu đã được đánh máy hoặc in nhưng cũng có tài liệu viết tay cần được ông duyệt trước khi đưa in. Nhiều trường hợp cần đem tài liệu đi in gấp, nên khi ông duyệt, tôi thường đứng chờ bên cạnh, được thấy những chữ tôi viết bị ông xóa đi, sau đó ông cẩn thận viết lại thật rõ ràng, giúp cho nhân viên đánh máy đọc không bị nhầm lẫn. Từ đó về sau, khi viết, tôi chú ý viết rõ nét, không viết ngoáy nữa.
Các nhân viên cơ yếu lại hiểu Chu Ân Lai dưới góc độ khác. Khi đó, nhân viên cơ yếu của Đại sứ quán Trung Quốc tại Liên Xô được cử đến Genève là Thôi Hỷ Lộc (tức Thôi Lục) nhớ lại:
“Bất kể ông làm việc đến tận khuya mới đi ngủ, nhưng sáng hôm sau, ông thường dậy vào 7 giờ sáng. Mấy nhân viên cơ yếu chúng tôi ở ngay tầng trên cùng nhà với Thủ tướng. Sau khi ngủ dậy Thủ tướng có thói quen là ngáp thật to mấy tiếng, không chỉ cảnh vệ gác ở bên ngoài nghe thấy mà chúng tôi sống ở tầng trên cũng nghe rõ. Mỗi khi nghe tiếng ngáp, chúng tôi lại nghĩ: đã 7 giờ sáng rồi, một ngày mới bận rộn của Thủ tướng lại bắt đầu”.
…“Có mấy đêm bận viết bài phát biểu, Thủ tướng còn triệu tập cán bộ phụ trách các tổ tới phòng làm việc của mình ở lầu một, ông trực tiếp đọc bản dự thảo, trực tiếp chấp bút để sửa lại bản dự thảo theo góp ý của mọi người. Bản dự thảo ban đầu thường do Trần Gia Khang hoặc Kiều Quán Hoa khởi thảo. Công việc của nhân viên cơ yếu chúng tôi trước tiên là sắp xếp gọn gàng bản dự thảo của Trần Gia Khang hoặc Kiều Quán Hoa, sau đó đưa Thủ tướng xem và sửa, sau đó lại sắp xếp lại bản thứ hai đã được sửa này cho rõ ràng và đưa lại Thủ tướng thẩm định lần cuối. Tôi đã nhiều lần làm việc chuyển văn kiện tài liệu để Thủ tướng phê duyệt, trực tiếp nhìn thấy Thủ tướng đeo đôi kính râm, ngồi trước bàn làm việc, dưới ánh đèn bàn, Thủ tướng lần lượt đọc kỹ từng câu từng chữ trong tài liệu, thỉnh thoảng dừng lại để hỏi han, trưng cầu ý kiến mọi người. Cứ như vậy, công việc sửa bản thảo có khi kéo dài tới ba, bốn giờ sáng hôm sau mới xong.5
Chu Ân Lai là người trực tiếp xem xét xử lý công việc, tất nhiên có rất ít thời gian nghỉ ngơi. Về việc một mình Thủ tướng phải xử lý những công việc quan trọng và nặng nề như vậy, đồng chí Lý Khắc Nông có quan điểm khác. Do hai bên quen biết nhau, một buổi tối, Lý Khắc Nông trực tiếp nêu ý kiến với Chu Ân Lai: “Đồng chí quản quá nhiều. Đồng chí là Tư lệnh, bây giờ quản đến tận cấp tiểu đội trưởng, trung đội trưởng thì còn cần đến chúng tôi làm gì nữa?”6 Chu Ân Lai chỉ cười mà không hề nói gì.
Tuy bận rộn với công việc, nhưng Chu Ân Lai rất quan tâm đến sự nghỉ ngơi và vui chơi của các thành viên trong Đoàn. Chu Ân Lai nói với Lý Khắc Nông là mọi người có thể xem phim, hoặc tổ chức vũ hội vào cuối tuần và cũng có thể tổ chức đi tham quan Genève nhưng không được gây sự chú ý của bên ngoài.
Nhờ có ý kiến của Chu Ân Lai, các buổi tối cuối tuần trở nên khoan khoái, dễ chịu hơn với mọi người. Biệt thự đồi Vạn Hoa thường tổ chức vũ hội vào cuối tuần, các thành viên trong Đoàn Trung Quốc ở các địa điểm khác nhau lại tập trung về đây cùng nhau khiêu vũ. Chu Ân Lai cũng nhiều lần tham gia, có điều không thể tham dự từ lúc mở đầu đến khi kết thúc buổi khiêu vũ được. Tuy nhiên ông thường xuyên cổ vũ các cán bộ giúp việc ông tham gia khiêu vũ, ông thường nói: Mọi người làm việc vất vả năm, sáu ngày liền rồi, nên thư giãn cho khoan khoái. Khi Chu Ân Lai tham gia vào sàn nhảy, không cần đặc cách tìm mời bạn nhảy, bởi vì nữ giới nói chung đều cảm thấy vinh dự khi được nhảy cùng Chu Ân Lai, thường là các điệu nhảy không ôm nhau, không kéo đẩy nhau. Nhạc nhảy được dùng từ máy nghe đĩa hát. Khi thấy Chu Ân Lai đến, người phụ trách máy thường mở đĩa nhạc mà Chu Ân Lai vốn ưa thích. Hồi đó, Chu Ân Lai thường thích các bản nhạc như “Hoa nở rực hồng bên vách núi” và “Nhà cao vạn trượng từ bãi đất bằng” v.v.. Nhạc vừa vang lên, Chu Ân Lai phấn chấn hẳn lên.
Cũng có những tối cuối tuần, biệt thự đồi Vạn Hoa lại chiếu phim tài liệu thời sự từ trong nước gửi sang. Có buổi chiếu phim tài liệu Triều Tiên đình chiến, trong đó có cảnh: Một quân tình nguyện Trung Quốc đưa một tù binh người của quân LHQ đến Bàn Môn điếm, người tù binh này từ chối không muốn về nước. Chu Ân Lai nhận ra người chiến sĩ quân tình nguyện Trung Quốc này và nói: “Đó chẳng phải là đồng chí của chúng ta ở đây sao? Anh ta tên là Quản Trấn Hồ”.
Trừ bốn người lãnh đạo của Đoàn đại biểu Trung Quốc, số cán bộ cùng ở tại biệt thự Vạn Hoa còn có Vương Bỉnh Nam, Kiều Quán Hoa, Trần Gia Khang, Hà Phương, các cán bộ phiên dịch Phổ Thọ Xương, Lý Việt Nhiên và Đổng Ninh Xuyên.
Trong những lúc bận rộn và mệt mỏi, Kiều Quán Hoa thường tranh thủ giải lao bằng cách kể chuyện vui. Ông có biệt tài kể chuyện tiếu lâm, mọi người nói đùa rằng ông nên mở “công ty truyện cười”. Sự hiện diện của Kiều Quán Hoa làm cho mọi người cảm thấy vui vẻ, dễ chịu hơn nhiều.
Có lần, khi đang ăn cơm, có cả Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên và vợ chồng Vương Gia Tường, Kiều Quán Hoa chỉ tay về phía Hà Phương, thư ký riêng của Trương Văn Thiên và giới thiệu với mọi người: “Hà Phương thuộc lòng Hồng Lâu Mộng, có thể đọc thuộc lòng hầu hết các bài thơ và các đoạn trích trong Hồng Lâu Mộng.”
Bà Chu Trọng Lệ, vợ của Vương Gia Tường vốn là người thích văn học, cười nói: “Tôi không tin, nếu không Hà Phương hãy đọc bài thơ “Đào Hoa hành” trong Hồng Lâu Mộng nghe xem nào? “.
Hà Phương tuổi trẻ và mạnh mẽ, sẵn sàng chấp nhận sự thách đố, ứng khẩu nói luôn: “Đào Hoa hành nằm ở chương thứ 70 trong Hồng Lâu Mộng… và đọc luôn bốn câu thơ.
Đọc xong, Hà Phương liền được mọi người tán thưởng. Chu Ân Lai không muốn Hà Phương đọc tiếp bài thơ, liền hỏi cháu học “Hồng Lâu Mộng” từ khi nào? Hà Phương đáp: Từ ngày ở Diên An ạ.
Chu Ân Lai hài lòng nói: Diên An không chỉ đào tạo được nhiều tướng tài, mà còn bồi dưỡng được không ít văn nghệ sĩ.7
Hội nghị Genève có hơn 700 nhà báo viết được cấp thẻ dự hội nghị, cộng thêm số phóng viên ảnh, phát thanh và truyền hình, tổng cộng lên tới hơn 1.300 nhà báo thuộc hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, trong đó nhiều nhất là Thụy Sĩ, tiếp đến là phóng viên Pháp, thứ ba là Anh, rồi đến phóng viên Mỹ, Tây Đức. Số phóng viên đến từ châu Á cũng không ít, riêng Trung Quốc có hơn 20 nhà báo, có cả phóng viên Israel. Thông thường, ở Genève có khoảng hơn 200 nhà báo các nước hoạt động. Hùng Hướng Huy là Chủ nhiệm Văn phòng Báo chí của đoàn đại biểu Trung Quốc, chịu trách nhiệm liên hệ với nhà báo các nước.
Về việc tiếp đãi phóng viên nước ngoài, Chu Ân Lai đã có chỉ thị gồm năm nguyên tắc:
Bất kỳ ai đến đều không từ chối, nhưng có phân biệt đối xử.
Thận trọng nhưng không rụt rè, giữ bí mật nhưng không thần bí;
Khi nhà báo hỏi, không nên lạm dụng câu “không biết”. Phàm là những việc đã quyết định rồi, đã công bố rồi hoặc đã được uỷ quyền rồi thì đều có thể trả lời nhà báo được, nhưng phải ngắn gọn và rõ ràng. Nếu không thể trả lời ngày được, thì ghi lại, nghiên cứu trả lời sau.
Đối với sự khiêu khích, ta dùng lý lẽ để phản bác; không nóng nảy, giận dữ.
Trong khi tiếp xúc, cần chú ý tìm hiểu tình hình, kết bạn có chọn lọc, có trọng điểm.
Đoàn Trung Quốc tổ chức xong cuộc họp báo đầu tiên, Hùng Hướng Huy báo cáo với Chu Ân Lai: Phóng viên của hãng Thông tấn Trung ương Đài Loan thường trú tại Paris là Vương Gia Tùng đề nghị được tham dự họp báo nhưng đã bị từ chối. Hùng Hướng Huy còn đề nghị với Chu Ân Lai là sẽ làm việc với “Câu lạc bộ báo chí’ do hội nghị Genève lập ra, đề nghị họ thu hồi lại thẻ nhà báo đã cấp cho Vương Gia Tùng.
Chu Ân Lai hỏi Hùng Hướng Huy: “Vì sao phải làm như vậy?”.
Hùng Hướng Huy đáp: Thông tấn xã Trung ương là cơ quan chính thức của chính quyền Đài Loan, cần cảnh giác chúng thực hiện “hai nước Trung Quốc” ở Genève.
Chu Ân Lai không tán thành, ông cho rằng không thể nói cảnh giác một cách trừu tượng, cảnh giác phải có căn cứ sự thật. Cảnh giác trên cơ sở không có chứng cứ thực tế là chủ nghĩa chủ quan, dẫn đến tự mình gây căng thẳng cho mình, làm thiệt hại cho công việc. Chính sách cơ bản của Tưởng Giới Thạch cũng là kiên trì một nước Trung Quốc, nhưng ông ta kiên trì là một “Trung Hoa Dân quốc”. Mỹ ngoan cố ủng hộ Tưởng Giới Thạch, luôn luôn phủ nhận sự tồn tại của nước CHND Trung Hoa. Hiện nay tình hình ra sao? Thụy Sĩ đã lập quan hệ ngoại giao với nước ta, Dulles buộc phải ngồi họp với chúng ta, ở đây đâu có bóng dáng của “hai nước Trung Quốc” ?”
Chu Ân Lai nói với Hùng Hướng Huy: anh phải hiểu rõ về con người Tưởng Giới Thạch. Tưởng Giới Thạch rất lo lắng về hội nghị này. Người Mỹ tất nhiên sẽ thông tin cho chúng, nhưng chúng không tin tưởng, cử phóng viên đến hội nghị rõ ràng nhằm tìm hiểu, nắm bắt một số tình hình và tài liệu thực tế của hội nghị này, như thế có điều gì không tốt cho chúng ta? Anh từ chối không cho phép người ta dự, như thế là không hợp tình. Anh còn định đề nghị “Câu lạc bộ báo chí” thu hồi thẻ dự hội nghị của họ, anh dựa vào lý lẽ nào? Anh bảo họ là đại diện chính thức của Quốc Dân Đảng ư? Nói như vậy chẳng hóa ra chính mình lại tạo ra ấn tượng “hai nước Trung Quốc”.
Nghe Thủ tướng nói vậy, Hùng Hướng Huy hiểu ra, tự nhận thấy ý kiến của mình là sai và còn nói là mình chưa báo cáo xin ý kiến chỉ đạo kịp thời.
Chu Ân Lai nói, tính tổ chức kỷ luật tất nhiên là quan trọng, nhưng không phải bất cứ việc gì cũng báo cáo xin chỉ thị, như thế là thiếu tinh thần trách nhiệm. Vấn đề gì quan trọng, chưa có tiền lệ thì nên báo cáo xin ý kiến, có khi gấp không kịp xin ý kiến, thì phải mưu trí quyết đoán, nhưng phải quyết đúng. Để làm được việc này, không thể chỉ dựa vào trình độ và kinh nghiệm, mà điều quan trọng nhất là phải có sự suy nghĩ và chuẩn bị kỹ càng, chu đáo từ trước. Khi Đoàn đại biểu tập trung ở Bắc Kinh, tôi đã yêu cầu mọi người nghĩ ra mọi tình huống, mọi vấn đề có thể xuất hiện, rồi lần lượt đề ra đối sách cần thiết, sau khi bàn bạc thảo luận, được coi là phương án dự bị của chúng ta. Nhờ có sự chuẩn bị đó, chúng ta mới tương đối chủ động.
Chu Ân Lai căn dặn Hùng Hướng Huy: các đồng chí nên tổ một cuộc họp và bàn thêm một nội dung. Từ ngày nước CHND Trung Hoa thành lập đến nay, chúng ta luôn luôn phản đối mọi hoạt động mưu toan tạo ra “hai nước Trung Quốc”, đó là điều cần thiết. Hiện nay nhìn lại thì thấy chúng ta còn thiếu đi sâu phân tích cụ thể vấn đề này. Các đồng chí cứ nghiên cứu trước đi, chia ra các tình huống cụ thể, lần lượt đưa ra cách giải quyết tương ứng, viết thành văn bản gửi cho tôi.
Chu Ân Lai đặc biệt quan tâm chú ý việc chọn một nhà báo trong Đoàn có khả năng tiếp xúc được với Vương Gia Tùng để giải thích cho Vương Gia Tùng và báo cho anh ta biết là từ nay về sau nếu muốn tham dự họp báo của đoàn Trung Quốc thì chúng ta hoan nghênh. Nếu anh ta gặp khó khăn gì, chúng ta có thể giúp đỡ. Tuy nhiên cần chú ý liều lượng và mức độ khi tiếp xúc với họ, không nên vượt quá mức cần thiết, phải chú ý hoàn cảnh, điều kiện của họ, không được làm họ khó xử, nếu không có thể họ sẽ bị mất bát cơm ăn đấy.8
Do được Chu Ân Lai căn dặn và sắp xếp, hoạt động của nhà báo Vương Gia Tùng tại Genève trở nên dễ dàng và thoải mái hẳn lên, anh ta cũng mạnh dạn tiếp xúc với các thành viên trong Đoàn đại biểu Trung Quốc.
Nhà cầm quyền Quốc Dân Đảng Đài Loan hết sức quan tâm theo dõi hoạt động của Đoàn đại biểu Trung Quốc tại Genève. Ngay từ hạ tuần tháng 3, họ đã chỉ thị cho Trịnh Bảo Nam, cố vấn của Đoàn đại biểu LHQ, với tư cách là “phó đại diện” đi dự Hội nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tại Genève, đảm trách chức “quan sát viên tại hiện trường”, sẽ có một trợ thủ là Thư Mai Sinh, một quan chức sứ quán Đài Loan tại Pháp đươc cử tới giúp việc Trịnh Bảo Nam. Trịnh Bảo Nam báo cáo với nhà cầm quyền Đài Loan tình hình Hội nghị Genève từ 26 tháng Tư đến 7 tháng 5 như sau:
“Rất ít thấy bóng dáng cán bộ Trung Cộng trên đường phố Genève. Tôi chỉ một lần trông thấy ba người trong một quán ăn của người Trung Quốc. Nhưng, cách đây hai ngày, họ đã chủ động tìm gặp ông Vương (Gia Tùng) của Thông tấn xã để nói chuyện. Tôi đã khuyến khích ông Vương nói chuyện với họ, tìm hiểu rõ hành động và phản ứng của họ đối với các tình huống. Ông Vương cho biết, thời gian gặp gỡ rất ngắn, các cán bộ Trung Cộng rất xem thường phương Tây, đặc biệt là người Mỹ, họ tỏ ra hết sức tự tin vào sức mạnh họ mới xây dựng được và khoe khoang về chiến thắng của họ ở Triều Tiên và Đông Dương''.9
Tại Genève, Tổ trưởng “Tổ tình báo tin tức” của Đoàn đại biểu Trung Quốc là Tôn Phương, chịu trách nhiệm trước Vụ trưởng Vụ Báo chí là bà Cung Bành. Các cuộc họp báo tại Hội nghị Genève phần lớn đều do Hoàng Hoa làm người phát ngôn, và chủ yếu do Lý Thận Chi chuẩn bị trước các bài phát biểu hoặc các mẩu giấy viết sẵn, còn Cung Bành chuyên lo khâu tổ chức, cũng có lần bà trực tiếp chủ trì họp báo. Nếu so sánh, khi ở bên dưới phòng họp báo, bà có vẻ hoạt bát, năng động hơn, vì bà có nhiều nhà báo quen biết ở Genève, bà tỏ ra có khả năng giao tiếp với các nhà báo. Quản Trấn Hồ, thành viên “Tổ tình báo tin tức” trước đây chưa biết Cung Bành, sau khi tiếp xúc với bà, Quản cũng công nhận Cung Bành là một phụ nữ đảm đang, tháo vát. Giới báo chí các nước cũng có chung nhận xét đó, đa số họ thích tìm hiểu những thông tin từ Cung Bành và sẵn sàng vui đùa cùng bà. Có nhà báo nói đùa với Cung Bành: “Thưa Phu nhân xinh đẹp, bộ trang phục của bà hình như giản dị quá!”. Có nhà báo hỏi bà: “Xin bà kể lại thiên tình sử lãng mạn giữa bà với ngài Kiều Quán Hoa tại Trùng Khánh?”…, đại loại các câu chuyện vui đùa như vậy, cũng có lúc họ viết cả lên báo loại chuyện đùa tếu đó. Quản Trấn Hồ cắt mấy mẩu báo đọc cho Cung Bành nghe, bà chỉ cười, không hề cáu giận.
Trong Tổ tình báo tin tức, Quản Trấn Hồ, Lưu Gia Kiệt phụ trách dịch viết. Quản Trấn Hồ thông thạo tiếng Pháp và tiếng Anh, chủ yếu phụ trách nghiệp vụ phiên dịch, trong phòng được đặt hai máy Telex, một chiếc tiếng Pháp, một chiếc tiếng Anh, liên tục ngày đêm thu nhận thông tin từ các hãng thông tấn lớn của Mỹ, Anh, Pháp. Nếu tin nhận được chất lượng kém, không rõ ràng, thì gọi điện thoại đề nghị đối phương phát lại. Hàng ngày, vào một thời gian nhất định, Tôn Phương và Quản Trấn Hồ được phân công đi lấy thư từ, báo chí tại hòm thư qui định của bưu điện. Quản Trấn Hồ chọn được trước mục tin tức và một số bài viết rồi thông báo với Tôn Phương. Tôn Phương quyết định nội dung xong thì Quản Trấn Hồ và Lưu Gia Kiệt chia nhau dịch, hai người trực tiếp viết trên tờ giấy than mỏng dính để có thể đem in ngay được, sau đó đem đến biệt thự Vạn Hoa cho Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên và các vị lãnh đạo khác đọc. Các bản dịch này đồng thời còn được gửi tới các Đoàn đại biểu Liên Xô và Việt Nam.10
Để bảo đảm thông tin kịp thời về Hội nghị Genève, đoàn nhà báo Trung Quốc được cử đến Genève gồm hơn 20 người, chủ yếu là các phóng viên của Tân Hoa Xã (THX) và Nhân dân Nhật báo (NDNB). Tin tức bằng tiếng Trung Quốc chủ yếu do Ngô Văn Đào và Lý Trang phụ trách. Các phóng viên THX chủ yếu có Thẩm Kiến Đồ, Trần Thích Ngũ, Lý Bình, Tưởng Nguyên Xuân và Ngôn Tiêu (Lý Thận Chi chủ yếu làm trợ lý cho Hoàng Hoa về công tác ngoại giao). Phóng viên NDNB còn có Đỗ Ba, Uông Khê, ngoài ra còn có Lý Phong Bạch thuộc Nhà xuất bản Ngoại văn, Trịnh Thái thuộc trường Đại học Nhân dân đều làm việc cho NDNB cùng hai nhà báo đã nổi tiếng là Lưu Tư Mộ và Đỗ Hùng.
Lý Trang đến thập kỷ 80 của thế kỷ XX đã trở thành Tổng biên tập NDNB, ông kể lại: “Người nước ngoài không phân biệt rõ Đoàn đại biểu Trung Quốc với đoàn nhà báo Trung Quốc, vì thế thường có người đến khách sạn nơi đoàn nhà báo Trung Quốc ở để xin phỏng vấn, Lý Trang thường phải xuống tiếp họ và Lý Phong Bạch làm nhiệm vụ phiên dịch. Lý Phong Bạch là lưu học sinh tại Pháp, vợ là người Pháp, nói tiếng Pháp rất lưu loát. Một hôm, Lý Trang tiếp hai Hoa kiều, họ vốn là người Sơn Đông, trong chiến tranh thế giới thứ thứ nhất họ là thành viên của “mười vạn công nhân người Hoa” sang lao động ở Pháp, sau chiến tranh họ ở lại Pháp làm ăn sinh sống, lập gia đình, làm nông nghiệp ở nông thôn. Nay nghe tin có vị “Đại Tổng lý” (tức Thủ tướng) của Trung Quốc đến Genève, họ đã từ Pháp đến đây để được trực tiếp bày tỏ sự sùng kính của mình đối với vị “quan chánh” của Tổ quốc.
Họ vừa nhìn thấy Lý Trang, chưa kịp trò chuyện, nước mắt đã lưng tròng, họ nói trong nước mắt: “Có nằm mơ cũng không ngờ còn có ngày hôm nay”. Khi nghe Lý Trang nói mình là người Hà Bắc, họ lại bắt tay lần thứ hai để tỏ tình đồng hương, vì Sơn Đông và Hà Bắc liền giáp nhau, được xem là “đại đồng hương”. Lý Trang vô tình kể lại là đã được đến Triều Tiên đưa tin khi chiến tranh Triều Tiên mới nổ ra, họ lại bắt tay Lý Trang lần thứ ba và nói: “Ông đã làm rạng rỡ cho tổ quốc, thật không đơn giản. Chúng ta cũng có thể “xâm lược, xâm lược rồi!”. Nghe vậy, Lý Trang rất kinh ngạc. Hóa ra, trong đầu hai vị Hoa kiều này bắt đầu dần dần hình thành tư duy lô gích: kẻ yếu luôn bị xâm lược, nước mạnh có thể đi xâm lược nước khác. Lý Trang giải thích cho hai vị Hoa kiều hiểu rằng suy nghĩ đó của họ là không đúng, Trung Quốc đem quân sang Triều Tiên không phải là xâm lược mà là để chống lại sự xâm lược của Mỹ”.11
Phòng báo chí của đoàn đại biểu Trung Quốc cũng rất đông khách. Tại đây có các loại báo và tạp chí ngoại văn do trong nước xuất bản, nhưng còn bị hạn chế về số lượng và chủng loại có hạn, không đáp ứng được yêu cầu các vị khách. Các cán bộ trẻ của Phòng báo chí thay phiên nhau trực ban tiếp khách, họ đều có cảm giác mình tiếp chưa được chu đáo.
Chu Ân Lai biết được tình hình đó, ông nói căn cứ vào sự tiếp đón hiện tại, ta chỉ có thể nói là đạt yêu cầu một cách gượng ép, hiệu quả chưa cao. Có thể tổ chức các bữa tiệc nhỏ với các nhà báo hữu hảo, tổ chức tiệc nguội qui mô lớn với các nhà báo khác nói chung, mời họ hút thuốc lá Trung Quốc, uống rượu Trung Quốc, ăn các món ăn Trung Quốc, vừa ăn vừa nói chuyện, làm cho mọi người cảm thấy thoải mái, sôi động, không gò bó câu nệ.12
Theo yêu cầu của Chu Ân Lai, từ tháng 5 trở đi, Đoàn đại biểu Trung Quốc bắt đầu tổ chức tiệc chiêu đãi. Ngày 6 tháng 5, đoàn đại biểu Trung Quốc tổ chức bữa tiệc chiêu đãi thứ hai qui mô lớn. Nhà báo nổi tiếng Lưu Tư Mộ ghi trong “Nhật ký Genève” của mình như sau:
“Mấy trăm nhà báo nước ngoài thuộc mấy chục nước đều được gửi giấy mời dự tiệc. Có nhà báo phương Tây không nhận được giấy mời cũng tự ý đến. Bữa tiệc mới bắt đầu không lâu, phòng tiệc lớn của khách sạn sang trọng Swissman đã đầy kín người ngồi, người đứng, trong đó có Vụ trưởng Vụ báo chí bộ Ngoại giao Liên Xô dày dạn kinh nghiệm Ilychev, có nhà báo Pháp tóc đã hoa râm Tabuip, có những nhà báo của các nước Dân chủ Nhân dân, những người bạn thật sự của nhân dân Trung Quốc. Tại đây còn có cả những đặc phái viên của báo chí Anh, Mỹ, xuất hiện với bộ mặt một chuyên gia về Trung Quốc. Tại đây có các bạn Việt Nam đang kháng chiến, lại có cả nữ ký giả của phía Bảo Đại ăn mặc kiểu quần áo dân tộc nhưng lại Tây phương hóa. Các khách phương Tây thưởng thức hương vị Trung Quốc qua các món ăn và đồ uống phong phú đa dạng, đồng thời cảm nhận được thái độ rộng mở, chân thành và hòa nhã của nhân dân Trung Quốc qua cách đón tiếp và trò chuyện của chủ nhà và qua một số bức tranh ảnh treo xung quanh phòng tiệc giới thiệu những thành tựu mới xây dựng đất nước của Trung Quốc.
Khi rượu Mao Đài Quí Châu, hoàng tửu Thiệu Hưng, sâm banh Yên Đài cùng với vải thiều khô của Quảng Đông, bánh kẹo Tô Châu và món điểm tâm sản xuất tại chỗ được các chiêu đãi viên của khách sạn đem ra mời khách thưởng thức, chủ và khách quây quần bên nhau, cùng nhau trò chuyện, trao đổi tự do thoải mái bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Đồng chí Hoàng Hoa rất bận rộn, vất vả. Ở đây vừa có tiếng cười nhiệt tình hữu nghị của bè bạn, vừa có cả những câu hỏi và trả lời thẳng thắn, trực tiếp... Bữa tiệc kéo dài tới hơn 11 giờ khuya.”13
Cán bộ Phòng báo chí đặc biệt quan tâm những tin tức và bình luận của phóng viên phương Tây. Khi một nhà báo Mỹ nhận xét: Tại Genève tôi không thấy “sự bi ai và nỗi thống khổ” của mấy trăm triệu người dân Trung Quốc dưới sự thống trị của ĐCS. Cán bộ Phòng báo chí lập tức báo cáo ngay với lãnh đạo đoàn.
Sau khi được nghe báo cáo, Chu Ân Lai chỉ thị tổ chức cuộc chiêu đãi phim dành cho các nhà báo nước ngoài, chiếu phim tài liệu về Lễ kỷ niệm Quốc khánh Trung Quốc. Thủ tướng còn dặn dò phải biết chọn ngày tổ chức cho khéo, không tổ chức vào ngày có các cuộc hội họp lớn, cũng không nên chiếu phim vào cuối tuần đối với các nhà báo nước ngoài. Phải chia giấy mời làm hai loại, một loại ghi rõ tên họ, mời đích danh, loại thứ hai không ghi tên người nhận, cứ để tại “Câu lạc bộ nhà báo” để họ tự lấy giấy mời, thuận tiện cho các nhà báo Đài Loan, Hàn quốc, Miền Nam Việt Nam [tức Việt Nam Bảo Đại] và phóng viên Mỹ muốn đến xem phim. Khi chiếu phim, dùng tiếng Anh giới thiệu tóm tắt nội dung phim theo bản thuyết minh tiếng Trung Quốc.
Tối 13 tháng 5, Đoàn đại biểu Trung Quốc tổ chức buổi chiêu đãi phim tại Quảng trường Thánh Peter ở khu vực Genève cũ, chiếu phim tài liệu màu “Kỷ niệm Quốc khánh năm 1952”. Nơi chiếu phim tuy không phải khu phố sầm uất, nhưng buổi tối, số người đến xem phim cũng rất đông, hầu như hết ghế trống, đa số là phóng viên các nước. Những cảnh trong phim như mấy chục vạn nhân dân Bắc Kinh xếp thành đội ngũ chỉnh tề, biểu tình tuần hành đi qua Thiên An Môn có chủ tịch Mao Trạch Đông đứng trên vẫy chào, được khán giả chú ý và thán phục.
Sau buổi chiếu phim, Chu Ân Lai hỏi có ai phê bình gì không? Hùng Hướng Huy báo cáo rằng anh gián tiếp được nghe ý kiến của một nhà báo Mỹ nói bộ phim chứng tỏ Trung Quốc đang thực hiện chủ nghĩa quân phiệt.
Chu Ân Lai nghe xong liền có ngay ý nghĩ mới. Ông nói, dù ý kiến đó chỉ là cá biệt, ta cũng cần chú ý, sẽ chiếu tiếp bộ phim “Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài” cho họ xem.
“Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài” là bộ phim hý kịch màu do xưởng phim Thượng Hải vừa xây dựng xong, được chuyển thể từ vở Việt kịch “Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài”. Chu Ân Lai quê gốc ở Thiệu Hưng, quê hương của Việt kịch, ngay từ hồi nhỏ ông đã yêu thích Việt kịch. Từ thập kỷ 40 đến thập kỷ 50, ông rất ngưỡng mộ hai diễn viên Việt kịch nổi tiếng là Viên Tuyết Phần và Phạm Thụy Quyên. Năm 1953, nghe tin vở Việt kịch “Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài” chuẩn bị dựng thành phim, ông đã yêu cầu diễn viên nổi tiếng Viên Tuyết Phần đóng vai nữ chính Chúc Anh Đài.
Bộ phim màu này vừa được xây dựng xong ở trong nước, mang tính thí điểm, để lấy ý kiến của khán giả. Hùng Hướng Huy quê ở Phong Dương, tỉnh An Huy, nhưng lại lớn lên ở Vũ Hán, không hiểu ý nghĩa các câu phương ngôn vùng Giang Tô, Chiết Giang. Vì Chu Ân Lai đã căn dặn nên Hùng Hướng Huy đã đem phim về khách sạn chiếu xem trước. Trong lúc chiếu phim, một số nhân viên khách sạn người Thụy Sĩ có vào xem, nhưng được một lúc, họ đều lần lượt bỏ ra về hết. Hùng Hướng Huy phán đoán có lẽ do họ không hiểu bộ phim nói gì, bởi lẽ nếu không có chữ phụ đề bên dưới, bản thân Hùng Hướng Huy cũng không hiểu được nội dung lời hát Việt kịch trong phim. Hùng Hướng Huy nghĩ chiếu phim “Lương Sơn Bá- Chúc Anh Đài” cho người nước ngoài xem chẳng khác gì “đàn gảy tai trâu” vậy.
Xem hết bộ phim, Hùng Hướng Huy đề nghị những người nắm được nội dung vở kịch này viết lại nội dung kịch bản và nội dung lời hát chính, khoảng 15–16 trang thuyết minh, chuẩn bị để dịch sang tiếng Anh, để ở phòng chiếu phim cho khán giả tự cầm lấy đọc. Hùng Hướng Huy đã từng du học bên Mỹ, tiếng Anh khá tốt, ông dịch ý của chữ “Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài” sang tiếng Anh là “Bi kịch của Lương và Chúc”, đề nghị Chu Ân Lai duyệt lại.
Chu ân Lai xem và lắc đầu, nói với Hùng Hướng Huy, đây là “Bát cổ”, bản thuyết minh dài mười mấy trang thì ai đọc? Chu Ân Lai nói tiếp: “Nếu tôi là nhà báo, tôi sẽ không đọc”. Tiếp đó ông nói rõ ý kiến của mình: Cần viết rõ trong giấy mời là “Kính mời ông (bà) tới xem bộ phim ca kịch màu Romeo và Juliet”. Chu Ân Lai rất tự tin nói tiếp: “Trước buổi chiếu, dùng tiếng Anh giới thiệu nội dung phim khoảng ba phút, giới thiệu vài nét kịch tính, dùng từ ngữ có chất thơ ca văn vẻ một chút, cộng với vẻ bi kịch của cốt chuyện, dẫn dắt khán giả đi vào câu chuyện trong phim, không cần giải thích gì khác dài dòng. Anh cứ làm thử như vậy đi, tôi bảo đảm không thể thất bại được. Không tin, ta có thể đánh cược. Nếu thất bại, tôi sẽ tặng anh một chai rượu Mao Đài, tôi chi tiền.”
Hùng Hướng Huy tiện thể nói luôn: “Viết xong bản thuyết minh tôi sẽ trình Thủ tướng duyệt”. Chu Ân Lai trả lời ngay: “Đó là việc của các cậu, tôi không bao biện làm thay”.
Mọi việc được tiến hành theo ý chỉ đạo của Chu Ân Lai. Tối 20 tháng 5, đoàn Trung Quốc tổ chức chiếu phim “Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài”. Phim được chiếu ngay tại phòng ăn lớn của khách sạn, có sức chứa khoảng 250 người, kết quả là người đến dự ngồi kín hết ghế, trong đó có nhà báo Đài Loan Vương Gia Tùng. Toàn bộ quá trình chiếu phim, hội trường lặng thinh, người xem tha thiết đươc tìm hiểu mọi thứ về nước Trung Hoa mới. Mọi thứ của nước Trung Hoa mới đều mới lạ đối với họ. Câu chuyện “Lương - Chúc” mang đậm màu sắc dân tộc của Trung Quốc, người xem chưa hề được nghe, được thấy, chăm chú theo dõi.
Cảnh phim “khóc bên nấm mộ”, “hóa bướm” qua đi, đèn bật sáng, cả hội trường vang lên tiếng vỗ tay. Câu chuyện “Lương - Chúc” tìm được bạn tri âm mới bên hồ Leman xa xôi. Sau khi nghe báo cáo về kết quả buổi chiếu phim, Chu Ân Lai đã cho người đem đến cho Hùng Hướng Huy một chai rượu Mao Đài, ông dặn: ghi tiền chai rượu này vào tài khoản của Chu Ân Lai.14
Nhà quan sát Quốc Dân đảng Trịnh Bảo Lâm báo cáo với nhà cầm quyền Đài Loan các hoạt động nói trên của Đoàn đại biểu Trung Quốc, trong đó viết: “Chính quyền Trung Cộng được dịp tham gia các hoạt động chính trị nước lớn, họ gây được ấn tượng tốt trong phóng viên báo chí, nhất là Đoàn đại biểu Anh. Họ hành động với tư cách nước lớn và cũng được dư luận rộng rãi công nhận là một nước lớn.”
Tháng 6, nhà báo Philippines Uynxơn Uâytamơn từ Genève về Mỹ, đã phỏng vấn Cố Duy Quân, khi kể về ấn tượng ở Genève, phóng viên này nói Trung Cộng là người thu được nhiều lợi ích nhất ở hội nghị Genève. Chu Ân Lai đóng vai trò đại diện một nước lớn, để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng rất nhiều người. Phóng viên này nói với Cố Duy Quân: Mọi người ở Genève đều có ấn tượng chung là Trung Hoa đỏ không phải là một nước vệ tinh mới của Liên Xô, mà là một nước tương đối độc lập.
Nhà ngoại giao kỳ cựu Cố Duy Quân rút ra ấn tượng là: “Cho đến nay, Trung Cộng đã tận dụng đến mức cao nhất cơ hội tham dự Hội nghị Genève để nâng cao vị trí và uy tín quốc tế của mình”.15
1 Phỏng vấn Phổ Sơn ở Bắc Kinh ngày 12/5/1998.
2 Phỏng vấn bà Trương Dĩnh, vợ Chương Văn Tấn tại Bắc Kinh ngày 2/7/1998.
3 Vương Bỉnh Nam, sđd, tr. 15.
4 Phỏng vấn Lý Việt Nhiên tại Bắc Kinh ngày 15/4/1998.
5 Thôi Lục, Công tác cơ yếu của tôi, Bắc Kinh XBX, 1994, tr.316-317.
6 Phỏng vấn Hà Phương tại Bắc Kinh, ngày 31/12/1995.
7 Phỏng vấn Hà Phương tại Bắc Kinh, ngày 6/01/2000.
8 Hùng Hướng Huy, Dấu ấn lịch sử - hồi ký về Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và 4 vị nguyên soái, Trung ương Cộng đảng Học viện XBX.
9 Hồi ký Cố Duy Quân, Trung Hoa thư cục, 1990.
10 Phỏng vấn Quản Trấn Hồ tại Bắc Kinh ngày 5/3/1998.
11 Lý Trang, 40 năm mưa gió ở Nhân dân Nhật báo, Nhân dân Nhật báo XBX, 1993, tr. 167.
12 Hùng Hướng Huy, sđd, tr.129.
13 Lưu Tư Mộ, Nhật ký Genève, tạp chí Thế giới Tri thức số 11, 1954.
14 Hùng Hướng Huy, sđd.
15 Hồi ký Cố Duy Quân, sđd.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:56:55 GMT 9
CHƯƠNG 15 Nhìn về Đông Dương: Gió Đông đang thổi mạnh
Molotov nói một cách hài hước với Eden rằng lần này, thành công của Dulles có lẽ ở chỗ ông ta đã đến Genève nhưng lại không chú ý đến những hoạt động thành thạo của Chu Ân Lai. Sau 55 ngày đêm chiến đấu ác liệt, quân đội Việt Nam đã đánh chiếm được Điện Biên Phủ. Không khí tại Hội nghị Genève đã thay đổi sau khi nhận được tin chiến thắng này. Qua đài phát thanh, Phạm Văn Đồng được tin thắng trận Điện Biên Phủ, ông nói: “Hãy mau mang rượu sâm banh ra đây!”. Người Pháp cũng đang lớn tiếng hô: “Hãy trao chính quyền cho De Gaulle!”.
Ngày 5 tháng 5, Molotov và Gromyko đến trụ sở của Eden cùng ăn tối. Molotov cao hứng nói với Eden về bộ phim tài liệu Lễ tấn phong Nữ hoàng Anh và quan hệ giữa các nước khối Liên hiệp Vương quốc Anh. Khi đề tài nói chuyện đề cập tới vấn đề Đông Dương, Molotov hoàn toàn không có ý tranh luận, ông nói Liên Xô và Anh vẫn nên luân phiên nhau làm chủ tịch hội nghị, nếu để cho chín nước tham dự hội nghị luân phiên nhau làm chủ tịch thì e rằng hội nghị không thể tiếp tục được.
Eden biết rõ cả Pháp và Mỹ đều đồng ý điểm này nên tỏ vẻ vui mừng và nhân đà này đồng ý luôn với chủ trương của Liên Xô. Eden nói với Molotov rằng Hội nghị Genève kỳ này là cuộc đàm phán khó khăn nhất trong quá trình hoạt động ngoại giao của ông ta.
Molotov cũng đáp luôn: “Tôi rất thông cảm.” Ông nói, tại hội nghị này, Anh và Liên Xô, với tư cách hai đồng chủ tịch, trách nhiệm rất nặng nề, liên quan đến sự thành công hay thất bại của hội nghị.
Eden nói, tôi cảm thấy, đối với hội nghị Genève, vấn đề Triều Tiên không phải là vấn đề cấp bách nhất, vì lúc này Triều Tiên không đánh nhau nữa. Nếu chúng ta không tìm được phương án giải quyết vấn đề Triều Tiên, chúng ta có thể giữ nguyên trạng tình hình Triều Tiên hiện nay, tiếp tục chờ đợi. Nhưng Đông Dương thì khác, tình thế lúc này ở đó vẫn rất nguy hiểm. Trước tiên là phải thực hiện ngừng bắn tại đó, nếu có thể làm cho cuộc chiến dừng lại, chúng ta mới có thể hiểu được lập trường của đôi bên trong một hoàn cảnh không quá bức bách.
Eden còn nói với Molotov về lập trường của người Mỹ đối với Trung Quốc và đề nghị ông chuyển lời tới phía Trung Quốc rằng người Mỹ hy vọng họ phóng thích số người Mỹ đang bị giam giữ.
Molotov chăm chú lắng nghe và nói với Eden một cách uyển chuyển rằng, trước đây chính phủ Liên Xô đã từng có lúc cảm thấy là Tưởng Giới Thạch cũng khả dĩ; nhưng rốt cuộc Mao Trạch Đông đã tự xây dựng được chính quyền và cũng không ngờ là thắng lợi của Mao Trạch Đông lại nhanh chóng như vậy. Hiện nay, Tưởng Giới Thạch đã hoàn toàn thua rồi, không còn cơ hội ngóc đầu dậy được nữa đâu. Người Mỹ cần phải đối diện với hiện thực đó. Molotov hài hước nói với Eden rằng, lần này, thành công của Dulles có lễ ở chỗ ông ta đã đến Genève, nhưng lại không chú ý tới những hoạt động của Chu Ân Lai.
Eden nói, tại hội nghị Genève nếu chúng ta không kiểm soát một cách hiệu quả tình hình Đông Dương thì những người ủng hộ của hai phía có thể sẽ thật sự phải đứng trước một cuộc đối đầu vũ trang qui mô lớn. “Nếu quả thật như vậy, đây có lẽ sẽ là sự mở màn của cuộc chiến tranh thế giới thứ thứ ba.”
Cả Molotov lẫn Gromyko đều gật đầu cho ý kiến đó là đúng.1
Sau khi Molotov ra về, Evelyn Shuckburgh, cùng tham dự cuộc gặp đó, hỏi Eden: Có vẻ Molotov thật sự hy vọng có thể khôi phục hòa bình tại Triều Tiên và Đông Dương, vậy mục đích của ông ta là cái gì? Eden đáp: “Vì ông ta lo rằng cuộc chiến cứ tiếp tục có thể sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới.” Bởi vậy sách lược của Anh là phải thúc đẩy Molotov khẳng định ý nghĩ đó của mình. Eden còn nêu ra một thứ lý luận khác: Nước Nga hôm nay là một chính quyền “tự mãn” (A satisfied power), cần phải ổn định, khoan sức dân, họ không muốn đánh nhau liên miên.
Shuckburgh tán thành, cho rằng so với Trung Quốc, người Liên Xô rõ ràng sợ chiến tranh thế giới và bom nguyên tử hơn, trong đó có nguyên nhân một bộ phận lãnh thổ của Liên Xô dễ bị phương Tây tấn công, còn một nguyên nhân khác là do họ là một nhà nước kiểu “tự mãn”, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã làm họ bị thiệt hại nặng nề, nay cần tập trung vào công cuộc xây dựng đất nước. Shuckburgh là một kẻ khôn ngoan, ông ta ghi lại trong nhật ký của mình về sự đánh giá của Eden ngày hôm qua như sau: “Trong nội tâm, tôi là một người hữu khuynh, người Mỹ vẻ bề ngoài là hữu khuynh, Molotov trong nội tâm là một người tả khuynh, còn Chu Ân Lai bề ngoài cũng là một người hữu khuynh,”
Đáng tiếc là Eden không nói đến Nehru. Ngày 5 tháng 5, Nehru gửi một bức điện cho Eden, tuyên bố rằng Ấn Độ sẵn sàng đóng góp sức mình vào việc thúc đẩy tiến trình hội nghị Genève. Ý đồ của Nehru đã rõ. Eden nhận xét: “Đây là một tin tốt lành!”.
Cùng ngày 5 tháng 5, vừa về tới Washington, Dulles đã tới báo cáo ngay với Eisenhower về tình hình Hội nghị Genève. Dulles tỏ ra bất bình với lập trường của Anh, cho rằng Eden có ý định thỏa thuận về một hiệp định hòa bình tại Genève.
Eisenhower nhận định rằng lý luận về “con bài Domino” phù hợp với tình hình châu Á hiện nay, nghĩa là châu Á là khu vực then chốt quan trọng để ngăn chặn sự “bành trướng” của Trung Cộng. Nếu một nước không giữ vững, bị sụp đổ, các nước khác sẽ lần lượt bị sụp đổ theo. Châu Á mà để mất, so sánh lực lượng trên toàn thế giới sẽ có thay đổi căn bản. Eisenhower muốn thi hành chính sách đối kháng với Trung Quốc ở châu Á.
Khó khăn ở chỗ nước Pháp thật sự không muốn tiếp tục cuộc chiến nữa, trong khi đó Mỹ lại không có binh lính ở Đông Dương. Nếu Pháp kiên quyết không đánh nữa, thì dù Mỹ có muốn đánh cũng không thể đánh ngay được, Mỹ chưa thể kịp thời điều chỉnh chính sách quyết liệt như vậy được. Cho dù Mỹ chuẩn bị trực tiếp dính líu vào Đông Dương, hội nghị Genève có lẽ cũng là một cơ hội để tranh thủ thời gian. Mỹ có thể tranh thủ dịp này để tăng cường huấn luyện quân đội Bảo Đại, dần dần hình thành “hệ thống phòng thủ” Đông Nam Á, lấy Sài Gòn, chứ không phải Hà Nội, làm trục trung tâm của hệ thống này. Ngoài ra, cả Eisenhower và Dulles đều cho rằng hội nghị Genève chắc chắn sẽ thất bại, cuối cùng sẽ dẫn đến sự đối đầu quyết liệt hơn giữa hai phe Đông-Tây. Hội nghị Genève thất bại sẽ tạo cớ cho Mỹ trực tiếp nhảy vào Đông Dương. Mỹ đến hội nghị Genève với thái độ hãy chờ xem.
Ngày 6 tháng 5, báo cáo của Dulles trở thành chương trình nghị sự đầu tiên của Hội nghị an ninh quốc gia Mỹ. Dulles nói, trước mắt chúng ta còn phải suy nghĩ cân nhắc xem Mỹ có nên đem quân chiến đấu tới Đông Dương không? Nhưng, đa số những người tham dự cuộc họp đều cho rằng vấn đề cấp bách lúc này là ngăn không cho Pháp đạt thỏa thuận về một hiệp định hòa bình với Việt Minh ở hội nghị Genève. Họ yêu cầu tổng thống Mỹ thông báo cho Pháp biết rằng, nếu Pháp có ý định hòa bình thì kết quả sẽ là để Việt Minh chiếm lĩnh được toàn bộ Đông Dương, sẽ ảnh hưởng nặng nề đến quan hệ giữa Pháp và Mỹ. Nếu như vậy Mỹ sẽ lập tức đình chỉ viện trợ quân sự.
Hội nghị còn quyết định: Mỹ nên bỏ qua Pháp, trực tiếp liên hệ với các nước Đông Dương, nếu đối phương nêu ra yêu cầu, Mỹ có thể đơn phương tham gia vào các công việc của Đông Dương..
Eisenhower tán thành quan điểm này, đó chính là mối hiểm họa để sau này Mỹ can thiệp trên qui mô lớn vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Eisenhower đề nghị ngày mai tiếp tục bàn thêm vấn đề này. Tuy nhiên, họ đã bị chậm một bước, quân Pháp ở Điện Biên Phủ không còn sức chống chọi đến ngày mai nữa.
Ba giờ chiều ngày 6 tháng 5, những cơn mưa kéo dài trên vùng biên giới Việt Nam và Lào đã tạnh, bầu trời Điện Biên Phủ lại quang mây và hửng nắng. Tổng Tư lệnh quân đội Việt Nam, Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh tổng tấn công đến cấp trung đoàn.
5 giờ 30 phút chiều, pháo binh Việt Nam bắt đầu chuẩn bị nổ súng. Cố vấn quân sự Trung Quốc, Đổng Nhân phụ trách chỉ huy đại đội hỏa tiễn sáu nòng, một đơn vị được phép tham gia “Bản giao hưởng” đại bác này. Các quả đạn hỏa tiễn tới tấp lao vào trung tâm lòng chảo Điện Biên. Đạn hỏa tiễn do Trung Quốc chế tạo lần đầu tiên được sử dụng ở chiến trường Đông Dương. Quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ trước đây chưa từng được nếm mùi vị của đạn hỏa tiễn, nay chỉ trong chớp mắt, từng chùm đạn pháo bay đến, tạo thành một biển lửa, khiến chúng tròn mắt khiếp sợ.
Đới Hoàng là người đươc trực tiếp chứng kiến giờ phút lịch sử đó. Ông kể lại với tác giả:
“Hai ngày trước khi bắt đầu cuộc tổng tấn công, tôi đến trận địa một trung đoàn thuộc Sư đoàn 312 quân đội Việt Nam đóng ở phía đông bắc lòng chảo Điện Biên Phủ, phỏng vấn một số cán bộ chiến sĩ đơn vị về công tác chuẩn bị cho đợt xung phong cuối cùng trong trận quyết chiến này, đồng thời cũng muốn được tận mắt nhìn thấy những hình ảnh khó quên của cuộc tổng tấn công chắc chắn sẽ được ghi vào sử sách này.
Cán bộ chỉ huy trung đoàn dẫn tôi khom người chui vào một công sự ngầm có sức chịu đựng sự công phá của một quả đạn cối. Tôi nhìn thấy rõ thị trấn Mường Thanh vốn có tới 2.000 dân sinh sống, nay hầu như không một bóng người.
8 giờ 30 phút tối 6 tháng 5, cuộc tổng tấn công bắt đầu. Hàng trăm khẩu đại bác và súng cối của quân đội Việt Nam đồng loạt nổ súng. Cánh đồng Mường Thanh lồi lõm vì bị cày xới bởi nhiều đợt oanh kích trước đây, nay lập tức bị bao pbủ bởi ánh chớp loé sáng và khói mù của đạn pháo các loại. Sức chấn động của đợt pháo kích này mạnh tới mức quả đổi dưới chân tôi cũng bị rung chuyển.
Ánh sáng đạn pháo hỏa tiễn của quân đội ta đã làm rực sáng màn đêm Điện Biên Phủ.”2
Tại mặt trận phía đông Điện Biên Phủ, cứ điểm quân Pháp ở cao điểm đồi E2 là lá chắn cuối cùng của quân Pháp. Sau khi màn đêm buông xuống, một tấn thuốc nổ TNT đặt dưới cứ điểm E2, do bộ đội bí mật đào đường ngầm vào đặt trước đó, đã vang lên một tiếng nổ cực mạnh. Cứ điểm bị phá sập, quân Pháp đóng ở cao điểm này, ngoài số bị chết khi thuốc nổ, tất cả số còn lại đều mất sức chiến đấu. Các chiến sĩ quân đội Việt Nam, những người quyết tâm hy sinh chiến đấu vì nền độc lập của dân tộc, đã nhất tề hô vang “xung phong”, xông lên chiến đấu với giặc Pháp.
Tuyến phòng ngự của quân Pháp ở Điện Biên Phủ hoàn toàn tan vỡ. Hơn 5 giờ chiều ngày 7 tháng 5, bộ đội Việt Nam xông lên đánh chiếm hầm chỉ huy của tướng De Castrie, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ. Đại đội trưởng QĐND Việt Nam, Tạ Quốc Luật hô lớn bằng tiếng Pháp: “Ai là tướng Đờ Cát ?”
De Castrie nghe rõ câu nói của Tạ Quốc Luật liền đáp: “Tôi đây. Liệu tôi có cần phải ra lệnh cho quân đội của tôi ngừng chống đối không?”.
Tạ Quốc Luật lại nói to: “Không cần, hoàn toàn thừa. Binh sĩ của ngài đã đầu hàng mà không cần mệnh lệnh của ngài. Chúng tôi đã chiến thắng !”.
Giữa lúc Tạ Quốc Luật đang nói với De Castrie, Chu Bá Thế, một trung đội trưởng trẻ tuổi đã bước lên, hai tay phất cao lá cờ đỏ sao vàng.
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi với việc bộ dội Việt Nam đã tiêu diệt 16.000 quân Pháp. Binh đoàn cơ động tinh nhuệ nhất của Pháp ở Đông Dương đã mất sức chiến đấu, cục diện trên chiến trường Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản.
Sáng ngày 7 tháng 5, nhiều cách nói, nhận định khác nhau về tình hình chiến sự ở Điện Biên Phủ lan tràn khắp Genève. Smith và Eden cùng đến thăm Bidault. Ba vị trưởng đoàn ba nước sánh vai nhau đi dạo quanh vườn hoa. Bidault có vẻ tâm thần bất định, ông ta đang chờ chỉ thị của Paris. Hội nghị Genève về Đông Dương sẽ bắt đầu vào ngày mai rồi.
Khi Eden và Smith rời khỏi nhà Bidault, tin tức về việc quân đội Việt Nam chiếm được Điện Biên Phủ đã được chuyển đến Genève. Smith lại đến gặp Bidault lần nữa. Sau khi ra về, Smith nói với Eden rằng tâm trạng Bidault lúc này rất xấu, tình hình rất khó khăn. Xem ra ông ta không thể không đưa ra phương án ngừng bắn, mà phía Mỹ lại không muốn có phương án ngừng bắn này. Smith nói, chúng ta cần cố gắng hết sức động viên Bidault, tăng cường vai trò của ông ta tại Genève. Smith đề nghị Eden gọi điện nói chuyện với Bidault.
Eden lắc đầu nói với Smith: “Từ lâu tôi đã nói là không thể giữ được Điện Biên Phủ. Bidault phải hiểu được điều đó, nhưng ông ta lại trì hoãn đàm phán, cho đến mấy hôm trước vẫn như vậy”. Eden muốn ám chỉ rằng chính Bidault đã làm hỏng việc.
Smith nói với Eden: “Không nên như vậy, lúc này ngài có thể làm được vài điều gì đó.”
Cuối cùng Eden cũng đồng ý gọi điện cho Bidault. Smith có vẻ rất mệt mỏi, nói: “Làm những chuyện như thế này, tôi đã dần dần bị bạc đầu rồi đó.”
Smith ra về, Shuckburgh đề nghị với Eden: “Sao ta không đề nghị Thủ tướng Churchill gửi thư cho Laniel, đề nghị ông ta chỉ chị cho Bidault, Pháp phải nhanh chóng đi vào đàm phán ở Genève mới là thượng sách”.
Eden tán thành ngay, ông nói: “Đây là một ý kiến hay.” Eden lập tức soạn nội dung bức điện gửi cho Churchill, giao cho Shuckburgh thực hiện và yêu cầu chuyển ngay.
Buổi tối cùng ngày, đêm đã về khuya, Shuckburgh đang ngồi trong phòng đọc sách bên lò sưởi, bất ngờ nghe tiếng súng nổ ngoài vườn hoa. Shuckburgh lập tức lao đến cửa sổ nhìn ra xung quanh quan sát, chỉ thấy mấy lính cảnh vệ đang lục soát, tìm kiếm gì đó ở lùm cây trong vườn hoa. Hóa ra, họ nghe thấy một tiếng động lạ phát ra từ phía lùm cây, thần kinh bị căng thẳng nên họ đã nổ súng, làm cho mọi người hốt hoảng.3
Thời gian của Paris và Điện Biên Phủ chênh nhau 7 tiếng đồng hồ.
Hồi 5 giờ 30 phút chiều ngày 7 tháng 5, khi Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật xông vào hầm ngầm chỉ huy của tướng De Castrie, lúc đó ở Paris là 10 giờ 30 phút sáng. Buổi trưa cùng ngày, chính phủ Pháp nhận được tin về Điện Biên Phủ. 4 giờ 30 phút chiều, Văn phòng Thủ tướng Pháp thông báo cho Quốc hội biết là Thủ tướng sẽ đọc bài phát biểu quan trọng tại Quốc hội. Lúc này, tin tức về Điện Biên Phủ đã loang ra khắp Paris, các nghị sĩ tấp nập đến trụ sở Quốc hội, ngồi kín cả hội trường.
4 giờ 45 phút chiều, Thủ tướng Pháp Laniel đến trụ sở Quốc hội với bộ trang phục màu đen. Hình như ông ta không làm chủ được tình cảm của mình. Ông nói với các nghị sĩ một cách chậm rãi và giọng nói trầm hẳn xuống: “Chính phủ vừa nhận được tin, sau 20 giờ đồng hồ chiến đấu thảm khốc và quyết liệt, trận địa trung tâm Điện Biên Phủ đã bị mất.”
Laniel nói giọng khàn khàn, cả hội trường im phăng phắc.
Laniel nói tiếp: “Kẻ địch muốn đánh chiếm Điện Biên Phủ trước khi khai mạc hội nghị Genève về Đông Dương để hòng chiếm lợi thế, họ cho rằng làm như vậy có thể giáng một đòn quyết định vào ý chí chiến đấu của quân đội Pháp. Họ là như vậy, họ hy sinh tính mệnh của hàng nghìn binh lính làm cái giá để báo đáp lại nguyện vọng hòa bình của nước Pháp. Hỡi các vị anh hùng quân đội Pháp! Các vị đã anh dũng chiến đấu 55 ngày đêm, xứng đáng với sự ca ngợi của toàn thế giới…”.
Đầu óc Laniel lúc này rối như mớ bòng bong, ngoài mấy lời nói mỹ miều dành cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ ra, ông ta chẳng biết nói gì hơn, càng không biết sau đó sẽ ra sao nữa.
Tối hôm đó, Nhà hát lớn Paris hủy bỏ chương trình biểu diễn đã định trước của đoàn múa Balet Moskva. Các đài phát thanh và truyền hình Pháp hủy bỏ các tiết mục vui chơi giải trí trong ngày, thay vào đó họ phát các bản nhạc cổ điển.
10 giờ đêm, Laniel hẹn gặp Đại sứ Mỹ tại Pháp [Clarence Douglas] Dillon4. Vừa nhìn thấy Laniel, Dillon đã cảm thấy Laniel đang bồn chồn không yên. Laniel nói: “Theo tôi, kẻ thù trực tiếp nhất của Pháp hiện nay là Trung Quốc”. Quân viễn chinh Pháp ở nơi xa vạn dặm không thể địch nổi Trung Quốc, vì vậy Laniel yêu cầu Mỹ thể hiện rõ lập trường của mình đối với tình hình Đông Dương sau khi Điện Biên Phủ thất thủ. Ông ta còn yêu cầu Mỹ lập tức cử ngay một sĩ quan am hiểu vấn đề Đông Dương tới Paris để hội đàm. Laniel nói với Dillon rằng tuyến phòng thủ của quân Pháp ở vùng đồng bằng sông Hồng ở Việt Nam quá yếu, hiện nay phải thu hẹp phòng tuyến, thậm chí có thể phải điều quân đội ở Lào về để phòng thủ vùng đồng bằng sông Hồng.”5
Chiều ngày 7 tháng 5, những người vui mừng nhất ở Genève tất nhiên là đoàn đại biểu Việt Nam do Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Lúc đó, các thành viên đoàn đại biểu Việt Nam đang ở trong phòng để chuẩn bị các văn kiện tài liệu cho hội nghị Genève ngày hôm sau. Qua đài phát thanh Pháp, họ đã được tin chiến thắng Điện Biên Phủ.
Phạm Văn Đồng vui vẻ nói to: “Mau, hãy mau đem rượu sâm banh ra đây !”
Các cán bộ giúp việc vội vàng đi lấy rượu, nhưng tìm khắp nhà ăn và nhà kho đều không có rượu sâm banh, cuối cùng chỉ thấy có chai rượu vang đỏ.
Phạm Văn đồng nói: “Cũng được, cũng được, vang đỏ cũng được.”
Rượu vang đỏ được rót đầy mấy chiếc ly rượu, tất cả các thành viên trong đoàn đại biểu Việt Nam, trong đó có Văn Trang, cùng nhau nâng cốc chúc mừng Điện Biên Phủ chiến thắng.
Uống xong rượu mừng chiến thắng, Phạm Văn Đồng nhắc: “Mau ra ngoài phố mua mấy tờ báo!”
Báo chí được mua về, Phạm Văn Đồng vội cầm lấy mở ra xem ngay.6
Đoàn đại biểu Trung Quốc đã có chuẩn bị trước. Ngay trong ngày, người phát ngôn đoàn đại biểu Trung Quốc, Hoàng Hoa ra tuyên bố nêu rõ: Đoàn đại biểu Trung Quốc luôn có thái độ đồng tình với việc giải quyết chuyên chở thương binh ra khỏi Điện Biên Phủ. Đoàn đại biểu Trung Quốc cho rằng vấn đề này nên để cho hai bên giao chiến tiếp xúc giải quyết với nhau tại hội nghị Gieneve. Kinh nghiệm đình chiến ở Triều Tiên chứng tỏ rằng, cách giải quyết vấn đề như vậy là hiện thực.
Hoàng Hoa cố ý làm cho mọi người phải chú ý khi ông nói rằng, ngày 5 tháng 5, thành viên đoàn đại biểu Pháp đã gặp gỡ thành viên đoàn đại biểu Trung Quốc về việc này. Nghe nói phía Pháp không tiện trực tiếp tiếp xúc với đoàn đại biểu Việt Nam, yêu cầu Đoàn đại biểu Trung Quốc đứng ra làm trung gian. Ngày hôm qua, đoàn đại biểu Trung Quốc đã bày tỏ ý kiến nói trên với phía Pháp.7
Sáng 8 tháng 5 là ngày Pháp kỷ niệm chín năm Ngày chiến thắng chiến tranh thế giới thứ hai, theo truyền thống sẽ có lễ đặt vòng hoa tại Đài Liệt sĩ vô danh với sự tham gia của cả Tổng thống và Thủ tướng Pháp. Nhưng do tin thất thủ Điện Biên Phủ, mọi người không còn vui vẻ như trước nữa. Khi Thủ tướng Laniel và Bộ trưởng Quốc phòng Pháp đến đài Liệt sĩ vô danh, quần chúng căm phẫn hô to: “Hãy đưa các người đến Điện Biên Phủ !”.
Nghi lễ chính thức vội vàng kết thúc. Một chiếc xe con màu đen bóng loáng phóng đến khu vực mộ Liệt sĩ vô danh. Xe dừng lại, một người cao lớn, mặc bộ quân phục cấp tướng màu nâu nhạt từ trong xe bước ra, cảnh sát lập thành hàng rào, quân nhạc cử bản hành khúc.
Ông ta bước đến trước mộ Liệt sĩ, cúi đầu mặc niệm, sau đó ngẩng đầu lên, giơ tay chào lá quốc kỳ Pháp. Khi ông ta quay người bước về ngồi vào xe, đám đông vang tiếng hô: “Hãy trao chính quyền cho De Gaulle!”.
Ông ta chính là De Gaulle. Ông không nói năng gì, chỉ vẫy tay chào mọi người, sau đó phóng xe ra về.
Sáng 8 tháng 5, tại Genève, Bidault gặp Molotov. Hai bên xác định không tranh cãi về vấn đề tư cách tham gia hội nghị của đoàn đại biểu ba nước Đông Dương và của Đoàn đại biểu Việt Nam DCCH nữa, để cả 4 vị đại diện này cùng tham dự hội nghị.
Bidault quá mệt mỏi. Được Laniel phê chuẩn, nhiệm vụ cấp bách nhất của đoàn Pháp tại hội nghị Genève là tranh thủ ngừng bắn ngay lập tức và vô điều kiện, càng sớm càng tốt. Dưới tiền đề ngừng bắn ngay lập tức, Pháp dự định chấp nhận “phương thức Triều Tiên”, từ bỏ miền Bắc Việt Nam, bảo toàn miền Nam Việt Nam và Lào, Campuchia. Song, dù áp dụng “phương thức Triều Tiên”, liệu có giữ nổi vùng Thượng Lào hay không, Bidault cũng không biết. Mục tiêu thứ hai mà Pháp đề ra là đòi Trung Quốc phải đình chỉ viện trợ cho Việt Nam.
4 giờ 30 phút chiều cùng ngày, tại Cung Vạn Quốc đã diễn ra các bài phát biểu tại phiên họp đầu tiên của hội nghị Genève về Đông Dương. Phiên họp này do Eden làm Chủ tịch, mời Ngoại trưởng Pháp Bidault lên phát biểu trước.
Ngoại trưởng Pháp Bidault giữ thái độ im lặng suốt quá trình hội nghị Genève về Triều Tiên trước đó, hôm nay ông ta đã lên tiếng.
Đúng như mọi người dự đoán, Bidault mở đầu bài phát biểu của mình bằng cách nói về chiến dịch Điện Biên Phủ. Bidault nói: “Kính thưa Ngài Chủ tịch, nhân dịp hội nghị khai mạc, tôi muốn đề cập tới một sự mở đầu đầy kịch tính - Một cuộc chiến đấu tàn khốc nhất trong cuộc chiến tranh kéo dài đã bảy năm. Chiến dịch có tính chất quyết định khác thường này kéo dài 55 ngày đêm liên tục đã kết thúc hôm nay, đêm trước ngày khai mạc hội nghị Genève. Hội nghị này vốn nhằm mục đích mưu tìm hòa bình… Ngày hôm qua, Tổng Tư lệnh quân đội Pháp đã tuyên bố kết cục của chiến dịch Điện Biên Phủ với lời lẽ như sau: “Quân đội trấn giữ Điện Biên Phủ đã hoàn thành sứ mệnh được giao phó”. Tại đây, đoàn đại biểu Pháp không hề giấu diếm sự đau buồn sâu sắc của mình, đồng thời tự hào về những binh sĩ ưu tú nhất này của nước Pháp và tinh thần anh hùng của các chiến binh Việt Nam và khối Liên hiệp Pháp, họ đã tiến hành chống trả với nghị lực phi thường.”
Bidault rêu rao rằng kết cục của chiến dịch Điện Biên Phủ không hề ảnh hưởng đến lập trường của Đoàn đại biểu Pháp. Bidault nói, sự thống trị của Pháp ở Việt Nam không phải là không được chấp nhận. Thí dụ về mặt dân số, 30 năm trước cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, số dân Việt Nam đã tăng từ 16 triệu lên 26 triệu người. Một diện tích đất đai hoang vu rộng lớn đã được khai hoang, mảnh đất Việt Nam cổ xưa, nay đã đựợc bắt đầu thai nghén một nền công nghiệp hiện đại. “Đông Dương đã đi vào con đường văn minh hiện đại, trong ngoài đoàn kết, đã được hưởng độc lập và chủ quyền đầy đủ.” Bidault hoàn toàn né tránh không nói gì đến vấn đề quan trọng là Pháp đã tiến hành thống trị thực dân suốt 80 năm qua đối với Việt Nam.
Bidault nói, hội nghị Genève lần này cần đạt được một hiệp định ngừng bắn ở Đông Dương. Pháp đề nghị:
Về vấn đề Việt Nam:
Theo đề nghị của Bộ chỉ huy hai bên giao chiến, tất cả bộ đội chính qui tập trung tại khu vực tập kết do hội nghị Genève qui định.
Tất cả các lực lượng vũ trang không chính qui, hoặc lực lượng cảnh sát đều phải giải giáp vũ trang.
Lập tức phóng thích toàn bộ tù binh và dân thường đang bị giam giữ.
Đề nghị Tổ chức Giám sát Quốc tế giám sát việc thực hiện các điều khoản nói trên.
Khi đạt được thỏa thuận, hai bên lập tức hủy bỏ trạng thái đối địch.
Khi Hiệp định được ký kết, cần phải tập trung quân đội và giải giáp vũ trang các lực lượng vũ trang hữu quan không chậm ngày giờ do hội nghị Genève qui định.
Về vấn đề Campuchia và Lào:
1. Bộ đội chính qui và du kích Việt Nam đã vào đất Campuchia và Lào phải rút hết về nước.8
III. Các nước tham dự hội nghị Genève bảo đảm việc thi hành hiệp định nói trên. Khi có hành vi vi phạm hiệp định, các nước bảo đảm hiệp định sẽ lập tức họp bàn để áp dụng các hành động đơn phương hoăc biện pháp chung để giải quyết sự việc.
Tiếp đó, Trưởng Đoàn đại biểu Việt Nam DCCH Phạm Văn Đồng lên phát biểu. Bài phát biểu của ông Đồng không nhằm vào bài nói của Bidault, mà ông kêu gọi hội nghị: hãy mời các đại diện của “Chính phủ kháng chiến” Campuchia và Lào tới tham dự hội nghị Genève. Ông nói: Chính phủ kháng chiến hai nước này đã “giải phóng được một khu vực rộng lớn” trên đất nước mình, họ là đại diện của nhân dân nước họ. Ông đưa ra một dự thảo nghị quyết để Hội nghị xem xét, nội dung như sau:
Trước tình hình các nước Đông Dương hiện nay, để có thể thảo luận rộng rãi vấn đề chấm dứt hành động đối địch và khôi phục hòa bình ở Đông Dương, hội nghị nhận thấy cần phải mời đại diện chính phủ kháng chiến của Campuchia và Pathet Lào tham dự hội nghị để giải quyết vấn đề đình chỉ hành động đối địch và khôi phục hòa bình trên lãnh thổ hai nước này.
Tiếp đó, ông Đồng đọc bản tuyên bố của Chủ tịch Chính phủ kháng chiến Campuchia, Sơn Ngọc Minh và của Thủ tướng Pathet Lào Souphanouvong yêu cầu tham dự hội nghị Genève.
Smith lên phát biểu, ông ta phản đối việc thảo luận ngay lập tức vấn đề tư cách thành viên của hội nghị, với lý do vấn đề này đã được Hội nghị Berlin quyết định rồi. Hội nghị Berlin xác định rõ bốn nước là Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp là bốn nước khởi xướng hội nghị Genève, Trung Quốc và các nước khác có ý muốn tham gia hội nghị cũng được tham dự Hội nghị Genève bàn về vấn đề Đông Dương, tuy nhiên Hội nghị Berlin không xác định rõ “các nước hữu quan khác” là những nước nào. Smith nói: “Pathet Lào” và “Campuchia Issarak” mà ông Đồng đề nghị, trên thực tế không tồn tại, thì làm sao có đại diện chính phủ của họ tham dự hội nghị này được? Ông ta đề nghị Hội nghị nghỉ họp tại đây để cho bốn nước Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp bàn về vấn đề thành viên của Hội nghị.
Chu Ân Lai lên phát biểu, ông nói ngắn gọn, bày tỏ không tán thành ý kiến của đại biểu Mỹ, hội nghị này phải có quyền thảo luận vấn đề tham dự hội nghị của các nước có liên quan, đồng thời hy vọng hội nghị có thể thông qua.
Trưởng đoàn Liên Xô, Molotov lên phát biểu. Ông nói: “Hội nghị này là nhằm bàn vấn đề khôi phục hòa bình ở Đông Dương, vì vậy bản thân chương trình nghị sự của hội nghị cũng quan trọng, hội nghị sẽ đề cập các công việc của ba nước Đông Dương là Việt Nam, Campuchia tự do và Pathet Lào, rất rõ ràng, để hội nghị thu được kết quả, đại diện của các bên liên quan đều cần tham gia hội nghị.” Molotov nói, không chỉ có Việt Nam, mà nhân dân Campuchia, nhân dân Pathet Lào cũng đang tiến hành đấu tranh cho tự do và độc lập của mình, họ có một khu vực tương đối rộng lớn, không thể từ chối đại diện của họ tham dự hội nghị Genève.
Trích thông cáo của Hội nghị Berlin, Molotov nói tiếp, qua bản thông cáo có thể thấy rõ, ngoài năm nước lớn là Trung Quốc, Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, còn cần phải mời “các nước hữu quan” tham dự hội nghị. Không phải đã thảo luận ở Genève này rồi hay sao, do ba nước phương Tây mời các nước Liên bang Đông Dương, còn việc mời nước Việt Nam DCCH là do hai nước Liên Xô, Trung Quốc mời. Hiện nay, đại diện của ba nước thuộc Liên bang Đông Dương đã ngồi trong phòng họp này rồi, thế mà Hội nghị Berlin vốn không qui định họ được tham dự hội nghị này.
Molotov nói rõ, tại hội nghị này, một đoàn đại biểu hoàn toàn có quyền yêu cầu quốc gia khác tham dự hội nghị. Về ý kiến của đại biểu Mỹ nêu ra rằng để cho các nước tham gia hội nghị Berlin bàn bạc vấn đề quyền đại diện của các nước tham dự hội nghị Genève, đại diện Liên Xô không phản đối, nhưng phải do đại diện của năm nước lớn tham gia, chỉ dựa vào bốn nước lớn là không được.
Bidault lại lên phát biểu, cho rằng cái gọi là “chính phủ kháng chiến” Campuchia và Pathet Lào là không có trong thực tế, là “chính phủ ma”, không thể để cho các đại biểu của loại chính phủ này tham dự Hội nghị Genève. Song, ông ta lại nói, tôi không phản đối việc dừng cuộc họp và kéo dài thời gian thảo luận thêm vấn đề này.
Tiếp đó, Eden phát biểu, cho rằng chỉ có “bốn nước lớn” tham gia hội nghị Berlin mới có quyền quyết định những đại diện của các nước có thể tham dự hội nghị Genève, ông ta không tán thành ý kiến của ông Phạm Văn Đồng và đề nghị ngừng cuộc họp tại đây.
Lúc này, đại diện Vương quốc Campuchia, Tép Phan có lời muốn nói. Vị đại diện của Sihanouk này kiên quyết bác bỏ sự tồn tại của “chính phủ kháng chiến” Campuchia. Ông ta nói: “Nếu như ở Campuchia lại còn có một chính phủ “Campuchia Issarak”, chúng tôi không hiểu nói như thế là chỉ cái gì? Nếu có, thì là do nó đã được nặn ra nhằm một mục đích nào đó. Vừa rồi, đại diện của Việt Nam DCCH nói rằng, “Campuchia Issarak” đã giải phóng được một vùng lãnh thổ rộng lớn, nâng cao được mức sống của người dân đã sống lâu năm ở đó. Song, tôi thấy cần phải nói rằng, “vùng lãnh thổ rộng lớn này” là ở đâu? Nhưng cách đây ít lâu quả là có một số đất đai của Campuchia đã bị một tập đoàn vũ trang chiếm đóng và khi quân đội chính qui Campuchia đến thì tập đoàn vũ trang này lại dồn ép người dân tị nạn lên vùng núi.”
Càng nói, ông ta càng xúc động: “Nếu như nói Campuchia Issarak đại diện cho ai, thì họ chỉ đại diện cho chính họ mà thôi.”9
Chu Ân Lai lại đứng lên phát biểu, ủng hộ ý kiến của Molotov, bày tỏ nên để “năm nước lớn” thảo luận đề nghị của ông Phạm Văn Đồng sau phiên họp này. Chu Ân Lai chỉ trích bài phát biểu của đại diện Pháp và Campuchia coi thường quyền độc lập dân tộc của nhân dân Campuchia và nhân dân Pathet Lào.
Phạm Văn Đồng yêu cầu phát biểu. Ông nói, vấn đề tham dự hội nghị của đại diện Campuchia và đại diện Pathet Lào là một vấn đề thực tế quan trọng. Có chủ nghĩa đế quốc xâm lược, do đó người dân buộc phải chống lại, lập ra bộ đội vũ trang và chính phủ, tất nhiên phải mời đại diện của họ tham dự hội nghị. Còn việc họ có phải là “ma” hay không, mời các đại biểu vào hội trường sẽ nói rõ vấn đề.
Hội nghị đã kéo dài khá lâu. Eden nói: Hội nghị này đã có hai đề nghị khác nhau, một chủ trương để cho bốn nước lớn hiệp thương về đề nghị của Việt Nam DCCH sau phiên hop này, một chủ trương khác để cho năm nước hiệp thương với nhau sau hội nghị này. Hai đề nghị này không khớp nhau. Eden đề nghị nghỉ họp. Lúc này đại biểu [Vương quốc] Lào [Phui] Sananikone phá vỡ sự im lặng, yêu cầu phát biểu, song, giọng điệu có vẻ dịu đi nhiều. Ông thừa nhận sự tồn tại thực tế của “Pathet Lào”, nhưng lại chỉ trích “Pathet Lào” cản trở khối đoàn kết, thống nhất của Lào, do đó ông phản đối đại diện của “Pathet Lào” tham dự hội nghị Genève.
Sau phát biểu của đại diện Vương quốc Lào, Eden tuyên bố nghỉ họp. Hiệp đấu đầu tiên về vấn đề Đông Dương tạm dừng.
1 Sir Anthony Eden, sđd, tr.116-117.
2 Phỏng vấn Đới Hoàng tại Bắc Kinh, ngày 5/9/1994.
3 E. Shuckburgh, sđd, tr. 194-195.
4 Clarence Douglas Dillon U.S. Ambassador Extraordinary and Plenipotentiary to France (1953–1957)
5 Rorbert F. Randle, Geneva 1954: The Settlement of the Indochinese War, Princeton: Princeton University Press, 1969.
6 Phỏng vấn Văn Trang tại Bắc Kinh ngày 15/2/1990.
7 Tin Tân Hoa Xã, ngày 9/5/1954.
8 Các điều khoản khác giống với mục I về vấn đề Việt Nam, TG lược bỏ. (chú thích của nguyên bản)
9 Ghi chép của TG khi nghiên cứu hồ sơ tại Phòng lưu trữ hồ sơ Quốc gia Mỹ, Washington, tháng 5/ 1992.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 12:57:45 GMT 9
CHƯƠNG 16 Hai phe ranh giới rõ ràng
Chiến tuyến không có ranh giới rõ ràng, bộ đội Việt Nam đều có mặt trong các cuộc chiến đấu đan xen nhau giữa địch và ta tại ba nước Đông Dương, nên coi đó là một cuộc chiến thống nhất của Đông Dương, hay tách ra thành tình huống khác nhau của ba nước riêng rẽ để thảo luận? Vấn đề mấu chốt của Đông Dương bị ách tắc. Chiến thắng của chiến dịch Điện Biên Phủ làm cho lập trường của ông Phạm Văn Đồng trở nên cứng rắn. Về vấn đề Đông Dương, lúc đầu hội nghị cho là việc dễ, nay hóa ra lại khó khăn.
Chiều 10/5, Hội nghị Genève về Đông Dương họp phiên thứ hai, do Molotov chủ trì.
Phạm Văn Đồng phát biểu đầu tiên, ông tuyên bố về việc phóng thích các tù binh Pháp bị bắt ở Điện Biên Phủ, làm cho Bidault vốn thần kinh bị căng thẳng mấy ngày qua, nay cảm thấy dễ chịu đôi chút. Ông Đồng tuyên bố:
Trong cuộc chiến tranh này, Chính phủ nước Việt Nam DCCH luôn luôn thực hiện chính sách nhân đạo, nhất là đối với tù binh và thương binh. Xuất phát từ chính sách nhân đạo này, chính phủ chúng tôi chuẩn bị cho phép chuyển số quân viễn chinh Pháp bị thương nặng trong số tù binh Pháp bị bắt giữ ở Điện Biên Phủ, nếu chính phủ Pháp muốn đưa số thương binh này về, đại diện của Bộ tư lệnh hai bên sẽ cùng nhau bàn bạc các biện pháp cụ thể.
Sau khi nghe xong tuyên bố, Ngoại trưởng của chính quyền Bảo Đại là Nguyễn Quốc Định phát biểu, ông ta vừa trao cho chủ tịch hội nghị một bức thư yêu cầu chính phủ Hồ Chí Minh thả số thương binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đặc biệt yêu cầu thả số binh lính người Việt Nam.
Molotov lập tức tuyên bố: Chúng tôi nhận được thư của ngài Nguyễn Quốc Định khi phiên họp vừa mới bắt đầu, hiện còn đang dịch, cho nên tôi chưa biết nội dung bức thư. Molotov nói, tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng đã “thể hiện ý kiến của những người tham dự hội nghị. Cử chỉ nhân đạo đối với binh lính Pháp bị thương rõ ràng sẽ cải thiện điều kiện cho thương binh đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng chung của chúng ta.” Molotov mời Phạm Văn Đồng tiếp tục phát biểu.
Lúc này, Bidault xin được nói chen vào, ông ta phát biểu bày tỏ hoan nghênh tuyên bố của ông Đồng.
Tiếp đó, ông Đồng đọc bài phát biểu dài. Ông nhắc lại quá trình lịch sử Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ và cuộc chiến đấu giành lại độc lập của nhân dân Việt Nam. Ông Đồng nói: Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lâp của Việt Nam như sau:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể nhân dân Việt Nam quyết đem hết tinh thần và lực lượng, sẵn sàng hy sinh tính mệnh và của cải để giữ vững nền độc lập đó.”
Cuối cùng ông Đồng đưa ra “đề nghị tám điểm”:
Nước Pháp phải công nhận chủ quyền và độc lập của Việt Nam, Lào và Campuchia.
Trong thời hạn mà hai bên giao chiến thỏa thuận, phải rút hết quân đội nước ngoài ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, Campuchia và Lào. Trước khi rút quân, hai bên sẽ thỏa thuận về địa điểm tập kết quân đội Pháp tại Việt Nam, đặc biệt lưu ý địa điểm tập kết quân đội phải được giới hạn trong phạm vi nhỏ nhất và cần qui định rõ quân đội Pháp không được can thiệp vào công việc của chính quyền địa phương nơi họ tập kết.
Tổ chức bầu cử tự do tại ba nước Đông Dương, thành lập chính phủ thống nhất, nước ngoài không được can thiệp.
Chính phủ Việt Nam sẵn sàng ra tuyên bố về việc tham gia khối Liên hiệp Pháp một cách có điều kiện.
Ba nước Đông Dương công nhận nước Pháp có lợi ích kinh tế và văn hóa hiện có tại ba nước Đông Dương.
Hai bên giao chiến bảo đảm không khởi tố, trả thù những người đã hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh.
Thực hiện trao đổi tù binh.
Trước khi thi hành các biện pháp trên đây, trước hết phải chấm dứt mọi hành động thù địch tại Đông Dương và ký kết các hiệp định:
Quân đội hai bên tham chiến hoàn toàn ngừng bắn;
Chấm dứt việc đưa nhân viên vũ trang và vũ khí đạn dược từ nước ngoài vào;
Thành lập một Ủy ban giám sát do hai bên tham chiến lập ra để giám sát việc thi hành các điều khoản của hiệp định.
Sau khi đọc xong bài phát biểu đã được chuẩn bị trước này, ông Đồng lại cầm mấy tờ giấy vừa mới viết ra và nói: tôi còn muốn nói đôi lời về bài phát biểu cách đây hai ngày của đại diện Pháp. Chủ yếu tôi muốn nói hai điểm: một là trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, nhà cầm quyền thực dân Pháp ở Đông Dương đã đầu hàng Nhật Bản, vì vậy sau chiến tranh, nhân dân Việt Nam đã đứng lên khởi nghĩa giành độc lập và giành lại chính quyền. Hai là đề nghị của Pháp đã “không tính đến một số sự thật, trong đó có sự phát triển về mặt quân sự ở Đông Dương”.1
Phạm Văn Đồng dùng cách nói ngoại giao. Ông Đồng muốn nói rằng đề nghị của Pháp đã không suy nghĩ, cân nhắc tới yếu tố quan trọng là vừa bị thua trận ở Điện Biên Phủ, cho nên đã đặt giá quá cao mà không biết thực lực của mình đáng bao nhiêu.
Tiếp đến, các đại diện của Vương quốc Campuchia và Vương quốc Lào lần lượt phát biểu, lặp lại lời chỉ trích là có QĐND Việt Nam hoạt động trên đất nước mình.
Eden phát biểu, ông ta nói muốn thảo luận kỹ bài phát biểu của ông Phạm Văn Đồng sau, bây giờ chỉ xin nói một số ý kiến bước đầu. Eden nói ông ta tin tưởng rằng bài phát biểu của ông Phạm Văn Đồng đại diện cho nguyện vọng của dân tộc Việt Nam, tuy nhiên ông ta không tán thành sự chỉ trích của ông Đồng đối với Mỹ, về điểm này, phát biểu của các đại diện Campuchia và Lào cũng đã nói rõ vấn đề. Nhưng Eden không có ý định thảo luận ở đây xem ai đúng, ai sai, bởi vì việc triệu tập hội nghị Genève không phải nhằm mục đích này, mà là nhằm tìm biện pháp để giải quyết vấn đề. Eden bày tỏ mình hiểu rõ đề nghị của Bidault, đề nghị này là một đại cương, các vấn đề cụ thể có thể giải quyết thông qua đàm phán sâu hơn.
Eden nêu ra những khó khăn trong việc giải quyết vấn đề ngừng bắn ở Đông Dương: không có một đường ranh giới phân chia rõ ràng, vì thế không thể chấp nhận việc ngừng bắn một cách đơn giản. Eden cho rằng cần phải có biện pháp cách ly hai bên tham chiến, làm cho quân đội hai bên rút về phạm vi được phân định rõ ràng, đồng thời tổ chức việc giám sát ngừng bắn. Eden đề nghị những người tham dự hội nghị này sẽ tiến hành nghiên cứu, đề ra một kế hoạch chi tiết trong tuần này.
Smith lên phát biểu, tỏ ý hài lòng với tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng phát biểu khi khai mạc phiên họp, sau đó Smith nói nên lấy đề nghị của Bidault làm cơ sở để tiến hành thảo luận. Sau bài phát biểu của Smith, phiên họp trong ngày kết thúc.
Hồi 7 giờ 30 phút tối cùng ngày, Molotov mở tiệc chiêu đãi Smith ngay tại nơi ở của Đoàn đại biểu Liên Xô.
Sau mấy câu hàn huyên và nói chuyện về cảnh đẹp thiên nhiên mùa xuân bên hồ Leman, Molotov lái câu chuyện sang vấn đề Đông Dương. Smith nói tiến trình của hội nghị hiện nay là “khó khăn nhất” mà Smith từng phải trải qua, tràn đầy nguy hiểm. Molotov đồng ý và nói vấn đề Đông Dương hiện nay “nóng” hơn nhiều so với vấn đề Triều Tiên và việc Dulles rời khỏi Genève vào thời điểm này quả là không nên!
Ba giờ chiều ngày 12/5, hội nghị Genève về Đông Dương lại họp dưới sự chủ tọa của Eden.
Đại diện Vương quốc Campuchia Tép Phan phát biểu trước, chính phủ ông ta gửi tới một bức điện thông báo cho ông ta biết rằng tại một địa điểm ở Campuchia có người Campuchia bị một số người nước ngoài giết hại. Xem ra, “người nước ngoài” ở đây là có ý ám chỉ quân đội Việt Nam ở trên đất Campuchia.
Đại diện chính quyền Bảo Đại là Nguyễn Quốc Định lên phát biểu, nội dung chính gồm hai điểm: Thứ nhất rêu rao rằng chính quyền Bảo Đại là người có tư cách “chính thống”; thứ hai là ngày 28/4 chính phủ Pháp và chính quyền Bảo Đại đã ký kết một bản “Tuyên bố chung”, vì vậy có thể nói là Việt Nam đã được độc lập. Với tiền đề đó, Việt Nam nên thực hiện chỉ có “một chính phủ”, “một quân đội”. Chính phủ Bảo Đại đã được chính phủ nhiều nước trên thế giới công nhận, ông ta yêu cầu biên chế QĐND Việt Nam vào trong quân đội của Bảo Đại.
Tiếp đó, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trung Quốc, Chu Ân Lai lên phát biểu. Ông nói:
Hội nghị Genève đã đi vào thảo luận vấn đề khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Nhiệm vụ quan trọng đặt ra trước mắt chúng ta là, trên cơ sở công nhận các quyền lợi dân tộc của nhân dân Đông Dương, chấm dứt ngay các hành động thù địch, khôi phục lại hòa bình ở Đông Dương. Thế nào là công nhận các quyền lợi dân tộc của nhân dân Đông Dương? Đó là phải thừa nhận nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào hoàn toàn được hưởng các quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tự do dân chủ trên đất nước mình và được sống cuộc sống hòa bình trên mảnh đất của tổ quốc mình.
Chu Ân Lai nêu rõ: “Nước CHND Trung Hoa không thể không chăm chú theo dõi chặt chẽ cuộc chiến tranh hiện nay tại nước láng giềng gần gũi và những nguy cơ mở rộng cuộc chiến tranh này. Nhân dân Trung Quốc cho rằng cuộc chiến tranh Triều Tiên đã chấm dứt, tương tự như vậy, cuộc chiến tranh Đông Dương lúc này cũng nên chấm dứt.”
Chu Ân Lai nói:
“Chính phủ Trung Quốc cho rằng, các nước châu Á cần phải cùng nhau tôn trọng độc lập và chủ quyền của mỗi nước, chứ không nên can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, cần giải quyết sự tranh chấp giữa các nước bằng phương pháp hiệp thương hòa bình, không nên sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, nên thiết lập và phát triển các mối quan hệ bình thường về kinh tế và văn hóa giữa các nước trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, chứ không cho phép phân biệt đối xử và hạn chế. Chỉ có thực hiện như vậy mới có thể làm cho các nước châu Á tránh được tai họa khủng khiếp bị chủ nghĩa thực dân mới lợi dụng người châu Á để đánh người châu Á và do đó mớí được hưởng hòa bình và an ninh.”2
Đó là lập trường nguyên tắc của Đoàn đại biểu Trung Quốc về vấn đề Đông Dương.
Eden, đại diện chính phủ Anh phát biểu. Tại phiên họp cách đây hai ngày, Eden đã có bài phát biểu ngắn, tỏ ý không chủ trương lãng phí thời gian của hội nghị vào các vấn đề lịch sử, mà nên tập trung sức giải quyết vấn đề hiện thực cấp bách nhất. Lần này, Eden lại nói: Nếu chúng ta không nhất trí về quan điểm lịch sử, tôi hy vọng rằng điều đó không có nghĩa là chúng ta không có nhận thức chung về những việc chúng ta cần phải làm hiện nay. Mọi người chúng ta đều nhất trí rằng công việc phải làm đầu tiên là thực hiện ngừng bắn theo phương thức công bằng. Eden đưa ra năm vấn đề có liên quan đến thực hiện ngừng bắn, đề nghị hội nghị thảo luận:
Mọi người có đồng ý quân đội của hai bên tham chiến phải tập kết vào khu vực chỉ định hay không?
Hội nghị có cho rằng vấn đề Lào và Campuchia khác với vấn đề Việt Nam không? và quân đội Việt Nam có phải rút khỏi hai nước đó không?
Ai là người qui định khu vực tập kết của quân Việt Minh? Theo tôi, liệu có nên cử một vị Tổng Tư lệnh đứng ra làm việc này theo yêu cầu của Hội nghị này hay không ?
Liệu chúng ta có đồng ý rằng, sau khi toàn thể lực lượng bộ đội chiến đấu đã được tập kết vào khu vực qui định, tất cả các nhân viên chiến đấu không chính qui đều phải giải giáp vũ trang hay không?
Chúng ta có đồng ý tổ chức lực lượng giám sát quốc tế không? Nếu đồng ý, thì hình thức nào là tốt? Chúng tôi3 thiên về sự giám sát của LHQ. Tại đây tôi muốn nói rõ, Hội nghị Thủ tướng năm nước châu Á đang họp tại Colombo, khi kết thúc Hội nghị cũng đã bày tỏ rằng họ hy vọng LHQ đứng ra thành lập một cơ cấu để thực thi các quyết định của Hội nghị Genève về vấn đề Đông Dương.
Các vấn đề do Eden đưa ra làm cho việc thảo luận về vấn đề Đông Dương tại hội nghị được cụ thể hóa.
Sau phiên họp chiều 13/5, cả Smith và Bidault đều đến nhà riêng của Eden. Tâm trạng của Bidault có vẻ đã được cải thiện. Bidault nói cho Eden biết là mình rất lo lắng về số phận của chính phủ Laniel, Quốc hội Pháp sắp tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với chính phủ. Bidault đã gọi điện nói chuyện với Laniel là nếu có 313 phiếu phản đối chính phủ hiện nay thì tôi sẽ vẫn kiên trì ở Genève, còn nếu có 314 phiếu phản đối chính phủ, tôi sẽ từ chức.
Eden không bắt theo câu chuyện của Bidault, ngược lai, ông nói với cả hai vị khách: liệu tôi có nên đến thăm Chu Ân Lai để hỏi xem rốt cuộc ông ta định làm cái gì tại hội nghị Genève này? Ông ta tuyệt đối không phải đến hội nghị để chửi Mỹ?
Smith tán thành ý nghĩ của Eden. Smith nói với Eden: hôm qua tôi đã gặp Molotov. Tôi nói với Molotov rằng, tôi không lo vấn đề Triều Tiên, “bởi vì lúc này ở đó không còn có chuyện bắn nhau nữa”. Vấn đề Đông Dương thì khác, ở đó đầy rẫy nguy cơ chiến tranh, và có khả năng lan rộng. Molotov đồng ý với quan điểm của Smith và bày tỏ rằng ông ta cũng sẽ cố gắng làm cho Chu Ân Lai chấp nhận quan điểm này.
Ngày 14/5, đại diện Liên Xô, Molotov đưa ra đề nghị hai điểm. Một là trong đề nghị của mình, Pháp đã nói sẽ bảo đảm đi đến ký kết hiệp định tại hội nghị này. Pháp đề nghị: “Các nước tham dự hội nghị Genève cung cấp sự bảo trợ cho các hiệp định này. Một khi xảy ra bất kỳ hành động nào phản đối hiệp định, các nước này cần lập tức hiệp thương bàn bạc, nhằm có các biện pháp thích đáng một cách đơn phương hoặc tập thể.” Molotov cho rằng có thể chấp nhận được “nguyên tắc hiệp thương” này, nhưng mục đích tiến hành hiệp thương phải là nhằm dùng biện pháp tập thể để bảo đảm việc thi hành hiệp định.
Đề nghị thứ hai của Molotov được nêu ra trên cơ sở đề nghị của Phạm Văn Đồng. Molotov nói, trong các đề nghị của Việt Nam, có một điều khoản nói đại diện của hai bên tham chiến ở Đông Dương cùng nhau lập ra một Uỷ ban Liên hợp để giám sát việc thực hiện hiệp định ngừng bắn. Molotov nói: “Để hỗ trợ và phối hợp hai bên tham chiến thực hiện hiệp định chấm dứt hành động thù địch, trong hiệp định nên qui định thành lập một Uỷ ban Giám sát gồm các nước trung lập”.
Đề nghị của Molotov đã được bàn bạc cùng các đại diện Trung Quốc và Việt Nam trước khi đưa ra hội nghị, tức là thôi không kiên trì ý tưởng thành lập uỷ ban giám sát của hai bên tham chiến nữa, mà đổi thành “Uỷ ban các nước trung lập”. Điểm này dễ được đa số các nước chấp nhận.
Cùng ngày, hãng thông tấn ANTARA của Indonesia công bố bài trả lời phỏng vấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với phóng viên hãng tin này. Bài trả lời phỏng vấn lần này hoàn toàn giống với nội dung trước đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời phỏng vấn của phóng viên báo Thụy Điển “Express”. Nội dung trả lời phỏng vấn lần này như sau:
Hỏi: Mục đích chiến đấu của nhân dân Việt Nam là gì ?
Trả lời: Nhân dân Việt Nam anh dũng chiến đấu nhằm mục đích thực hiện một nước hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và tự do.
Hỏi: Nhân dân Việt Nam có thể giành được thắng lợi của cuộc đấu tranh bằng con đường nào?
Trả lời: Nhân dân Việt Nam luôn luôn hy vọng thông qua con đường hòa bình để giành độc lập và giải phóng đất nước. Chính vì vây, năm 1946, nước Việt Nam DCCH và nước Pháp đã ký kết Hiệp định Pháp-Việt. Chỉ sau khi bọn thực dân Pháp phản bội hiệp định và tiến hành chiến tranh chống nhân dân Việt Nam, buộc nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí tiến hành kháng chiến. Hiện nay, nhân dân Việt Nam vẫn chủ trương giải quyết vấn đề Việt Nam bằng phương thức hòa bình.
Hỏi: Chủ tịch có ý kiến gì về việc Mỹ viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông Dương?
Trả lời: Tập đoàn thống trị Mỹ đang rắp tâm phá hoại việc hòa bình giải quyết vấn đề Việt Nam, đang tích cực can thiệp vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương và mở rộng cuộc chiến tranh này, nhằm biến Đông Dương thành thuộc địa của Mỹ, nô dịch nhân dân Đông Dương, phá hoại hòa bình ở Viễn Đông và trên thế giới. Nhân dân Việt Nam kiên quyết phản đối âm mưu và hành động xâm lược của tập đoàn thống trị Mỹ.
Hỏi: Điều kiện cơ bản để đàm phán với Pháp là gì ?
Trả lời: Để thực hiện ngừng bắn, đình chiến và khôi phục hòa bình ở Đông Dương, lập trường của chúng tôi về đàm phán với Pháp là: Làm cho nước chúng tôi được thật sự độc lập, thống nhất và dân chủ tự do.
Hỏi: Theo Chủ tịch, cần có những điều kiện cần thiết gì để thực hiện hòa bình thế giới lâu dài ?
Trả lời: Nếu các nước trên thế giới, trước hết là các nước lớn đều có thiện chí giải quyết các cuộc tranh chấp giữa các nước thông qua con đường hiệp thương, đồng thời, nếu nhân dân thế giới không bị những kẻ gây chiến lừa bịp và tự mình đảm đương nhiệm vụ bảo vệ hòa bình thế giới, thì hòa bình thế giới có thể thực hiện được.
Hỏi: Chủ tịch có cho rằng, hội nghị Genève, thông qua hiệp thương hòa bình giải quyết cuộc xung đột ở Đông Dương và Triều Tiên, có khả năng thành công hay không ?
Trả lời: Tôi chân thành hy vọng hội nghị Genève có thể đạt được thỏa thuận về hòa bình giải quyết vấn đề Đông Dương và vấn đề Triều Tiên, hoặc sẽ giúp ích vào việc giải quyết các vấn đề này.
Hỏi: Theo Chủ tịch, Indonesia có thể làm gì để sớm chấm dứt cuộc chiến tranh ở Đông Dương ?
Trả lời: Tất cả mọi nỗ lực của nhân dân Indonesia trong cuộc đấu tranh cho hòa bình ở Viễn đông và thế giới đều góp phần tác dụng vào việc giải quyết vấn đề Đông Dương. Theo tôi, việc nhân dân Indonesia kiên quyết phản đối âm mưu của Mỹ định thành lập Liên minh quân sự ở châu Á, đồng thời ra sức thúc đẩy nhân dân các nước châu Á đoàn kết và chung sống hòa bình đã có tác dụng to lớn góp phần vào việc khôi phục hòa bình ở Đông Dương.
Hỏi: Chủ tịch có nhận xét gì đối với chính sách ngoại giao tích cực và độc lập của chính phủ các nước Ấn Độ, Indonesia và Miến Điện?
Trả lời: Chúng tôi hoan nghênh chính sách của chính phủ các nước Ấn Độ, Indonesia và Miến Điện phản đối mở rộng chiến tranh xâm lược, ủng hộ việc hòa bình giải quyết vấn đề Đông Dương và Triều Tiên. Chính sách đó góp phần vào sự nghiệp hòa bình ở Viễn Đông và thế giới. Tất cả các nước châu Á đã hoặc đang lâm vào cảnh thuộc địa, bị chủ nghĩa đế quốc đô hộ, cần phải đoàn kết, đấu tranh chống lại chính sách đô hộ và xâm lược của chúng.
Hỏi: Chủ tịch có ý kiến gì về đề nghị của Thủ tướng Indonesia về việc triệu tập hội nghị các nước Á - Phi ?
Trả lời: Chúng tôi hoan nghênh các Hội nghị quốc tế góp phần vào việc thiết lập nền hòa bình ở Viễn Đông và thế giới.
Hỏi: Thưa Chủ tịch, Ngài có ý kiến gì đối với âm mưu của Mỹ định thành lập khối Liên minh quân sự châu Á–Thái bình Dương?
Trả lời: Bọn Mỹ hiếu chiến đang tích cực xây dựng Liên minh quân sự ở khu vực Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương, đây là một hành động tội ác hòng mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ở châu Á để phá hoại hòa bình của châu Á và đô hộ nhân dân châu Á. Tôi tin rằng toàn thể nhân dân châu Á nhất định sẽ phản đối hành động này.
Hỏi: Đối với yêu cầu của nhân dân Indonesia về việc thu hồi vùng Irian Barat4, Chủ tịch có ý kiến gì?
Trả lời: Nhân dân Indonesia yêu cầu thu hồi vùng Irian Barat là chính đáng, vì đó là lãnh thổ của nước Cộng hòa Indonesia. Chúng tôi ủng hộ yêu cầu này của nhân dân Indonesia.
Ngày 14/ 5/ 1954.
Bài trả lời phỏng vấn của Chủ tịch Hồ chí Minh nhằm mục đích phối hợp với hội nghị Genève. Một tuần sau ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, tiêu điểm chú ý của hội nghị Genève là giải quyết vấn đề tù binh Pháp như thế nào. Là người có kinh nghiệm giải quyết vấn đề tù binh chiến tranh ở Triều Tiên, Chu Ân Lai chủ trương quân đội Việt Nam tại mặt trận Điện Biên Phủ nên nhanh chóng thả tù binh Pháp, nhất là số thương binh nặng. Làm như vậy đều có lợi cả về chính trị lẫn quân sự.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, quân đội Việt Nam đã bắt sống được 10.903 tù binh Pháp (kể cả thương binh), trong đó có chuẩn tướng De Castrie. Theo phương án bàn bạc giữa Tổng bộ Việt Minh và đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc, số tù binh chiến tranh sẽ được phân loại theo quốc tịch, tách riêng sĩ quan với binh lính, cứ 50 người làm thành một đội, do bộ đội bộ binh Viêt Nam quản lý, nhanh chóng di chuyển khỏi Điện Biên Phủ, đưa vào các trại tù binh được xây dựng tại vùng rừng núi miền Bắc Việt Nam. Các thương binh nặng được giữ tại chỗ, không di chuyển.
Ngày 13/5, Chu Ân Lai gửi điện cho Vi Quốc Thanh ở mặt trận Điện Biên Phủ đồng thời điện cho Trung ương ĐCS Trung Quốc:
“Các nước phương Tây đang lợi dụng vấn đề thương binh ở Điện Biên Phủ để gây khó khăn cho Liên Xô. Các nhân sĩ tiến bộ và bạn bè quốc tế hy vọng có thể kịp thời nhận được tài liệu về tình hình giải quyết thương binh đối phương ở Điện Biên Phủ. Vì vậy, mong sớm điện thông báo cho biết tình hình cuộc đàm phán giữa hai bên về việc thả các thương binh nặng của đối phương ở Điện Biên Phủ và diễn biến cụ thể của việc thả, vận chuyến số thương binh này, để chúng tôi chuyển cho đồng chí Phạm Văn Đồng và đoàn đại biểu Liên Xô, và căn cứ vào đó để tiến hành tuyên truyền, đập tan âm mưu của địch. Đồng thời, nếu có thể động viên một số sĩ quan cao cấp của địch bị bắt ở Điện Biên Phủ nói về các biện pháp nhân đạo, ưu đãi đối với tù binh chiến tranh, đối với thương binh và việc thả thương binh nặng… thì càng tốt, nhưng đừng ép họ miễn cưỡng phát biểu.”5
Cùng ngày, Phạm Văn Đồng gửi điện về báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh tình hình các ý kiến phát biểu về vấn đề Đông Dương tại hội nghị Genève mấy ngày qua. Ông nói rõ: tính đến hôm nay, hai phe đã bộc lộ rõ chủ trương của mình về các vấn đề.
Thông báo với Bộ Chính trị Trung ương ĐLĐ Việt Nam, Phạm Văn Đồng nêu rõ: điểm bất đồng giữa đôi bên là, phe phương Đông yêu cầu giải quyết toàn diện vấn đề Đông Dương, còn phía Pháp lại chủ trương giải quyết trước vấn đề quân sự, tức là vấn đề ngừng bắn, còn vấn đề chính trị sẽ bàn sau. Trái lại, đại diện của chính quyền Bảo Đại đã nêu ra vấn đề chính trị, nói rằng chúng đã cùng Pháp ký kết hai hiệp định, một là Pháp công nhận Việt Nam hoàn toàn độc lập; hai là qui định việc Việt Nam gia nhập khối Liên hiệp Pháp.
“Liên bang Đông Dương” đều chủ trương tách vấn đề Campuchia và Lào ra khỏi vấn đề Việt Nam, chủ trương điều kiện giải quyết vấn đề này là QĐND Việt Nam rút ra khỏi Campuchia và Lào. Phạm Văn Đồng không muốn chấp nhận chủ trương này.
Nguyên do là, thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ đã làm cho Phạm Văn Đồng, trong lúc vui mừng, đã nảy sinh ý nghĩ mới đối với phương châm đàm phán đã được xác định trước đó. Phạm Văn Đồng cho rằng, về vấn đề Việt Nam, cần kiên trì phương án cơ bản là thực hiện “ngừng bắn tại chỗ, có điều chỉnh đôi chút, chờ ngày tổng tuyển cử”. Nếu đối phương không chịu chấp nhận, lúc đó mới tính đến phương án phân chia hai miền Nam Bắc đồng thời cố gắng hết sức đẩy đường giới tuyến chia cắt hai miền xuống phía Nam, ở vĩ tuyến 15, thậm chí vĩ tuyến 14, cố gắng chiếm giữ được hơn 2/3 lãnh thổ.
Sự tính toàn này khác với sự phán đoán tình hình của Chu Ân Lai. Ý tưởng tổng thể của Chu Ân Lai là: cố gắng hết sức nhằm đạt được một số thỏa thuận về vấn đề Đông Dương, chấm dứt chiến tranh, làm dịu tình hình quốc tế căng thẳng, từ đó tranh thủ một thời kỳ hòa bình, làm cho phe XHCN có thể tập trung sức tiến hành xây dựng kinh tế trong nước.
Chu Ân Lai cho rằng, cần phải xuất phát từ thực tế, căn cứ vào điều kiện hiện thực, tranh thủ giành được thành quả cao nhất. Có thể tham khảo mô hình Triều Tiên về phân chia Nam-Bắc, đại thể là lấy 16 độ vĩ Bắc làm giới tuyến. Như vậy, diện tích lãnh thổ hai miền Nam-Bắc Việt Nam rộng gần bằng nhau, miền Bắc rộng hơn chút ít. Quân Pháp ở phía Bắc đường giới tuyến phải rút đi hết, còn QĐND Việt Nam ở phía Nam vĩ tuyến 16 phải rút về phía Bắc giới tuyến. Còn đưa ra phương án vĩ tuyến 15 hoặc vĩ tuyến 14, sợ rằng đối phương sẽ không chấp nhận. Về sách lược, cần tranh thủ để cho phía đối phương đưa ra trước phương án phân chia giới tuyến của họ. Còn phương án cũ của Việt Nam vốn định đưa ra các nguyên tắc trước, đó là trên cơ sở các khu vực mà lực lượng quân sự của hai bên đã chiếm giữ, vạch ra một đường hoặc mấy đường ranh giới có bảo đảm, để chia thành các khu vực chiếm đóng của hai bên..
Tuy nhiên, Phạm Văn Đồng kiên trì cho rằng, vấn đề Lào và Campuchia nên được coi là một bộ phận trong toàn bộ vấn đề Đông Dương để cùng xem xét giải quyết, và phải căn cứ theo nguyên tắc, phương pháp và trình tự như nhau, đồng thời cùng một lúc chấm dứt hành động đối địch ở cả ba nước Đông Dương, như thế mới tốt.
Đối với quan điểm trên đây của phía Việt Nam, lúc đầu, cả Trung Quốc lẫn Liên Xô đều không đưa ra ý kiến gì khác, thiên về ủng hộ Phạm Văn Đồng, phản đối việc tách ra thảo luận riêng rẽ vấn đề Việt Nam với vấn đề Campuchia và Lào. Ý thức rằng bản thân mình cần phải có thêm những hiểu biết sâu sắc hơn nữa về những diễn biến lịch sử của vấn đề Đông Dương, Chu Ân Lai kiên trì lắng nghe những ý kiến của Phạm Văn Đồng. Vương Bỉnh Nam nhớ lại: “Tại hội nghị, bốn đoàn Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam trước sau luôn luôn hợp tác chặt chẽ. Trong các buổi thảo luận về vấn đề Đông Dương, Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam đoàn kết nhất trí, đấu tranh kiên quyết và kiên trì đàm phán với Mỹ, Pháp. Tất cả mọi chiến lược, sách lược, phương án và đối sách liên quan đến cuộc đàm phán hồi đó đều được ba đoàn cùng bàn bạc thảo luận rồi mới quyết định. Bản thân tôi đã được Thủ tướng Chu Ân Lai chỉ thị nhiều lần đi gặp Phạm Văn Đồng, có rất nhiều cuộc tiếp xúc với ông Đồng, thông báo tình hình cho nhau, cùng nhau trao đổi ý kiến. Hồi đó, đề phòng đối phương nghe trộm, chúng tôi vào phòng rửa mặt, mở vòi nước ra cho nước chảy rồi mới nói chuyện, có lẽ ngài Phạm Văn Đồng vẫn còn nhớ!”6
Theo chỉ thị của Chu Ân Lai, tại mặt trận Điện Biên Phủ, Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp kịp thời cùng nhau bàn bạc, quyết định nhanh chóng phóng thích số tù binh Pháp bị thương.
Ngày 13/5, Pháp cử một đoàn đại biểu Hội chữ thập đỏ, do giáo sư [Pierre] Huard làm trưởng đoàn, bay đến Điện Biên Phủ, cùng đại diện của quân đội Việt Nam thảo luận việc chuyên chở các thương binh nặng. Hai bên nhanh chóng đạt được thỏa thuận, do sân bay Điện Biên Phủ khó có thể sửa chữa ngay được, phía Pháp sẽ dùng máy bay lên thẳng và máy bay vận tải cỡ nhỏ để vận chuyển thương binh. Thời gian này, phía Pháp bảo đảm ngừng ném bom khu vực ngoại vi lòng chảo Điện Biên Phủ 10 km và đoạn đường từ quốc lộ 41 đến Sơn La. Hai bên Pháp - Việt quyết định tổng cộng có 858 người trong số thương binh được xác định là loại thương binh nặng, không phân biệt quốc tịch của họ, do phía Pháp dùng máy bay lên thẳng để chuyên chở họ khỏi chiến trường Điên Biên Phủ.
Thỏa thuận này đều có lợi về mặt chính trị lẫn quân sự đối với phía Việt Nam. Quân đội Việt Nam tranh thủ thời cơ này để vận chuyển hàng loạt vật tư thu được ở Điên Biên Phủ, đồng thời di chuyển tù binh Pháp về hậu phương. Phía Pháp sớm ý thức rõ được điểm này, định xé bỏ hiệp định, cho nên ngày 16/5 họ lại cử đại diện bay đến Điện Biên Phủ để đưa ra đề nghị mới, yêu cầu sửa sân bay, dùng máy bay vận tải cỡ lớn để chuyên chở thương binh và đòi hủy bỏ lệnh cấm máy bay Pháp bay trên vùng trời dọc đường quốc lộ 41.
Bộ Tổng chỉ huy mặt trận của quân đội Việt Nam không đồng ý những yêu cầu này.
10 giờ sáng ngày 14/5, Eden cùng các trợ lý của mình là Caccia, [William D.] Allen và Trevelyan đến biệt thự Vạn Hoa chào Chu Ân Lai và trao đổi ý kiến về vấn đề khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Eden chưa có sự chuẩn bị trước về mặt tâm lý cho cuộc gặp gỡ trực tiếp lần này. Trong cuộc nói chuyện lần đầu tiên với Chu Ân Lai tại biệt thự của Molotov cách đây nửa tháng, Eden tự nhận là quá nghiêm túc, ông ta và Chu Ân Lai ngồi rất nghiêm chỉnh và thiếu vẻ tự nhiên, trao đổi quan điểm với nhau bằng những từ ngữ rất gay gắt, ông ta nghĩ “Chu Ân Lai là một người chống Mỹ lạnh lùng và đầy uất hận.”.
Chu Ân Lai hôm nay nhã nhặn, ôn tồn và lịch sự, dùng cốc trà xanh Long Tỉnh để tiếp ngài Bộ trưởng Ngoại giao Anh. Cùng dự tiếp có Trương Văn Thiên, Hoạn Hương và Chương Văn Tấn; Phổ Thọ Xương làm nhiệm vụ phiên dịch.
Eden nói với Chu Ân Lai một cách thẳng thắn rằng ông ta đến đây là vì vấn đề Đông Dương. Eden nói ông ta đến đây với tư cách Chủ tịch Hội nghị Genève để cùng ngài Chu Ân Lai bàn bạc vấn đề các phiên họp sau này nên tiến hành như thế nào. “Tôi càng quan tâm vấn đề Đông Dương, vì cứ theo cái đà hiện nay, đến hội nghị, mọi người phát biểu thóa mạ lẫn nhau, sợ rằng sẽ rất nguy hiểm.” Eden đề nghị từ nay trở đi chuyển sang tổ chức các “cuộc họp có tính hạn chế”, quy mô hẹp hơn để tiến hành đàm phán thực chất. “Tôi đã nêu ra năm vấn đề, nếu ngài cho năm vấn đề đó là tốt thì có thể bàn về năm vấn đề đó tại cuộc họp hạn chế. Nếu cho năm vấn đề đó là không tốt, không biết liệu còn có cách nào khác để tiến hành cuộc họp nữa không?”.
Chu Ân Lai nói: “Ngài đưa ra năm vấn đề, chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu. Tại hội nghị Genève về vấn đề Triều Tiên, chúng tôi đã tiến hành thí điểm một phiên họp có tính hạn chế, có thể thí nghiệm lần nữa.”
Eden nói: “Tôi sở dĩ quan tâm vấn đề Đông Dương bởi vì có một số vấn đề của các nước sở tại, tôi vốn không thông thạo các vấn đề này. Tôi lo ngại rằng các nước lớn cứ kiên trì lập trường riêng của mình về vấn đề Đông Dương thì sẽ dẫn đến khủng hoảng quốc tế.”
Chu Ân Lai nói rõ với Eden rằng Trung Quốc ủng hộ các đề nghị có tính toàn diện của Phạm Văn Đồng, yêu cầu hòa bình, nhưng có kẻ lại muốn tiếp tục mở rộng chiến tranh Đông Dương, dẫn đến nguy hiểm. “Về điểm này, ngài Eden hiểu rõ hơn tôi nhiều.”
Eden nói: “Theo tôi biết, mọi người đều hy vọng dừng cuộc chiến tranh lại.”
Chu Ân Lai hỏi: “Về năm đề nghị ngài đưa ra, chúng tôi chưa hiểu vấn đề thứ nhất, tức là vấn đề tất cả quân đội của hai bên đều phải tập kết vào khu vực được qui định, tôi muốn đề nghị ngài giải thích.”
Eden nói: “Suy nghĩ của chúng tôi là, quân đội của hai bên phải rút về khu vực qui định, để tránh cho hai bên xảy ra xung đột. Những khu vực được qui định này, có thể do Tư lệnh quân đội hai bên quyết định, sau đó do hội nghị chúng ta phê chuẩn.”
Chu Ân Lai nói: “Như chúng tôi đã nói, việc giải quyết vấn đề Đông Dương phải bảo đảm cho cả hai bên đều dược công bằng, hợp lý và vẻ vang. Chúng tôi cho rằng, với địa vị của nước Anh hiện nay, nước Anh còn có thể làm thêm một số việc để giúp cho hai bên hiểu biết lẫn nhau, đàm phán phải tiến hành trên cơ sở hai bên đều bình đẳng. Tình hình hiện nay là, đối phương không làm như vậy, mà là mưu toan gán ép cho phía bên này.”
Eden hỏi tiếp: “Ngài thấy không bình đẳng ở phương diện nào ?”
Chu Ân Lai đáp: “Pháp né tránh không nói đến vấn đề chính trị của cuộc đình chiến.”
Eden nói: “Vấn đề ngài nhắc đến, cả hai bên đều có một số điều chỉ trích nhau.”
Chu Ân Lai chỉ rõ: “Không phải như vậy. Điều tôi muốn nói không phải là việc đó. Tôi muốn nói là Pháp đã không trả lời phần nói về vấn đề chính trị trong đề nghị của ông Phạm Văn Đồng, mà chỉ công nhận Bảo Đại là đại diện của toàn thể Việt Nam, phải do Bảo Đại thống nhất Việt Nam. Đó hoàn toàn không phải là suy nghĩ hợp lý.”
Eden nói: “Cách nghĩ của nước Pháp hãy để cho các thành viên Liên bang Đông Dương nói trước. Tôi được biết là chiều nay có thể người Pháp sẽ phát biểu, chúng tôi hy vọng trong vấn đề Đông Dương, hãy tranh thủ đạt được vấn đề đình chiến trước, sau đó sẽ bàn đến vấn đề chính trị. Vấn đề đình chiến hoặc có thể coi là vấn đề thực tế số một nên được thảo luận trong cuộc họp có tính chất hạn chế. Cuộc họp có tính hạn chế có thể sẽ được tiến hành vào tuần sau.”
Chu Ân Lai nói: “Về đề nghị tiến hành cuộc họp có tính chất hạn chế, chúng tôi còn phải bàn bạc với đoàn đại biểu Liên Xô và Việt Nam.” Chu Ân Lai tiếp tục hỏi Eden về nội dung các “cuộc họp có tính hạn chế”.
Eden đáp: “Suy nghĩ của tôi là, ngoài các trưởng đoàn đại biểu ra, mỗi đoàn chỉ được cử hai, ba cố vấn tham dự, nội dung hội nghị không được công bố với giới báo chí. Trong thời gian hội nghị Berlin, chúng tôi đã áp dụng thử các biện pháp này, rất có tác dụng. Việc đạt được thỏa thuận về triệu tập hội nghị Genève về Đông Dương là kết quả của biện pháp đó mang lại.”
Chu Ân Lai nói: “Tôi muốn bổ sung thêm mấy câu. Trung Quốc mong muốn chung sống hòa bình với các nước láng giềng châu Á. Gần đây, việc Trung Quốc và Ấn Độ ký kết hiệp định buôn bán và đi lại giữa địa phương Tây Tạng của Trung Quốc với Ấn Độ đủ để chứng tỏ điều đó. Trong lời nói đầu của hiệp định, hai nước Trung - Ấn tuyên bố tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của nhau, không xâm phạm nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hòa bình.”
Đây là lần đầu tiên Chu Ân Lai tuyên truyền về “năm nguyên tắc chung sống hòa bình” đối với các nhà lãnh đạo cấp cao của phương Tây.
Chu Ân Lai còn nói: “Về vấn đề Triều Tiên, tôi cũng nêu ra là phải rút quân đội nước ngoài trước, trong đó có quân tình nguyện Trung Quốc. Chỉ có làm như vậy mới có thể bảo đảm vấn đề hòa bình và an ninh.”
Lúc này, Eden muốn nói mấy cấu với tư cách Thủ tướng nước Anh: “Chúng tôi rất hy vọng được thấy bốn nước lớn…”. Eden lập tức cảm thấy mình lỡ lời, vội vàng xin lỗi và cải chính: “Xin lỗi, tôi nói nhầm, chúng tôi rất hy vọng năm nước lớn, tức là Anh, Mỹ, Trung, Pháp, Xô, cùng nhau cố gắng làm dịu tình hình thế giới căng thẳng, tiến hành hiệp thương bình thường. Tuy nhiên, trước khi thực hiện được điều đó, cần phải giải quyết xong vấn đề Đông Dương. Hơn nữa, bản thân vấn đề Đông Dương đã quan trọng, nhưng điều càng quan trọng hơn là không nên vì vấn đề này mà để ảnh hưởng đến quan hệ giữa năm nước lớn.”
Chu Ân Lai nói: “Trung Quốc giành được vị trí nước lớn là xứng đáng, đó là sự tồn tại thực tế. Chúng tôi sẵn sàng có những cố gắng chung vì nền hòa bình thế giới, nhất là nền hòa bình ở châu Á. Tuy nhiên, chúng tôi cần nói một cách thẳng thắn rằng, không được coi đây là một điều kiện.”
Eden đáp: “Không, tuyệt đối tôi không nói đó là điều kiện, tôi chỉ muốn nói rõ quan điểm của chúng tôi về vấn đề này. Tôi lo rằng Hồ Chí Minh có thể muốn giành được quá nhiều thứ. Có thể ông ta có khả năng đó, nhưng nếu ông ta làm như vậy thì sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các nước lớn.”
Chu Ân Lai nói: “Tôi nghĩ, người muốn giành được nhiều thứ hơn hiện nay không phải là Hồ Chí Minh mà là Bảo Đại. Đoàn đại biểu của nước Việt Nam [Bảo Đại] đưa ra đề nghị, trong đó không chỉ đòi hỏi phải công nhận Bảo Đại hiện nay là lãnh tụ duy nhất của Việt Nam, mà còn đòi sau tổng tuyển cử, do LHQ đứng ra bảo đảm cho Bảo Đại là lãnh tụ duy nhất của Việt Nam. Ngược lại, Hồ Chí Minh không hề đưa ra yêu cầu đó”.
Trước những lời lẽ sắc bén của Chu Ân Lai, Eden lùi một bước và nói: “Điều tôi muốn nói vừa rồi không phải là nội dung các bài diễn văn, mà là những suy nghĩ đằng sau các bài diễn văn đó.”
Chu Ân Lai hướng câu chuyện vào sát các vấn đề cụ thể hơn, nói: “Không biết ngài Eden đã nghiên cứu những đề nghị của ông Phạm Văn Đồng chưa? Trong đề nghị của mình, tôi có nói là, trước khi thống nhất, hai bên tự quản lý các khu vực do mình đang kiểm soát, như vậy là công bằng.”
Eden nói: “Chúng tôi hy vọng quân đội hai bên rút về khu vực qui định. Ý kiến của Pháp hình như cũng không bác bỏ điểm này. Vì vậy chúng tôi và Pháp cùng có điểm chung về vấn đề này.”
Chu Ân Lai nói: “Người Pháp cho đại diện của Bảo Đại trả lời phần nói về chính trị trong đề nghị của ông Phạm Văn Đồng, nhưng câu trả lời của họ quả thật là chả ra sao cả. Trước đây, Tưởng Giới Thạch cũng đã từng đưa ra yêu cầu như vậy, gọi là một chính phủ, một lãnh tụ, một quân đội, còn lại đều phải tiêu diệt hết, tôi nghĩ ngài Allen, ngài Trevelyan biết rõ điều đó. Nhưng mọi người chúng ta đều biết rõ kết cục của Tưởng Giới Thạch như thế nào rồi.”
Eden nói: “Suy nghĩ của tôi là đình chiến trước, sau đó sẽ bàn vấn đề chính trị. Vấn đề đình chiến có thể được coi là vấn đề thực chất số một và đưa ra thảo luận tại cuộc họp có tính hạn chế.”
Lúc này, Chu Ân Lai đã kiên trì chủ trương của mình: “Vấn đề chính trị phải được thảo luận đồng thời với vấn đề đình chiến.”
Cuộc nói chuyện đến đây bị bế tắc, không khí trong phòng khách trở nên nặng nề. Cả Chu Ân Lai lẫn Eden đều có vẻ nghiêm túc, các trợ lý của họ cũng ngồi im lặng, không ai nói gì.
Eden lão luyện trong hoạt động ngoại giao, ông ta bình tĩnh không hoang mang, lập tức chuyển đề tài, Eden nói: “Một lần nữa xin cám ơn ngài đã để tôi tới thăm ngài.”
Chu Ân Lai lập tức đáp lại: “Tôi cũng sẽ đến thăm ngài”.
Eden nói: “Tôi rất hoan nghênh. Tôi còn phải cảm ơn Ngài đã cử người đến gặp ngài Trevelyan. Họ nói chuyện với nhau rất tốt, cả hai đều hài lòng.”.
Eden muốn nhắc đến cuộc gặp gần đây giữa Trevelyan và Hoạn Hương, làm cho quan hệ Trung - Anh dịu đi một cách rõ rệt. Về việc này, Chu Ân lai nói với Eden: “Ngài Trevelyan và ngài Hoạn Hương gặp nhau có nêu ra một số vấn đề, trong đó rất nhiều vấn đề có thể giải quyết được, mấy hôm nữa, ngài Di Hương sẽ còn gặp ngài Trevelyan để nói chuyện.”7
Hai bên nói chuyện khoảng 30 phút, Eden đứng lên cáo từ ra về, ông ta nói với Chu Ân Lai là còn phải đến chỗ ngài Molotov.
1 Tuyển tập văn kiện Hội nghị Genève, sđd, tr.138-162.
2 Tuyển tập văn kiện Hội nghị Genève, sđd, tr.163-169.
3 “chúng tôi” trong nguyên bản, không rõ Eden muốn chỉ những ai, TG.
4 Tức Tây Irian, ngày nay là tỉnh Papua, Indonesia.
5 Phòng Nghiên cứu văn kiện Trung ương ĐCS Trung Quốc (biên soạn), Chu Ân Lai niên phổ: 1949-1976, 1997, tr. 367.
6 Vương Bỉnh Nam, sđd, tr. 12.
7 - Lý Liên Khánh, Chu Ân Lai – nhà ngoại giao lớn t.2, Thiên Địa Đồ Thư, Hongkong, 1994, tr. 109-113;
- Chu Ân Lai niên phổ: 1949-1976, sđd.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:04:09 GMT 9
CHƯƠNG 17 Hợp tung liên hoành đan xen rắc rối
Mưu lược ngoại giao và việc phối hợp, điều hòa giải quyết các vấn đề ngoại giao là sự vận động phức tạp cao độ trong hoạt động xã hội của loài người. Thông minh, lắm mưu nhiều kế đem lại lợi ích cho đất nước; thất thế thì do dự. Giữa hòa và chiến, đường khúc khuỷu mà lại mất cừu. Kết cục của chiến dịch Điện Biên Phủ đã dẫn đến những thay đổi tế nhị giữa hai phe và trong nội bộ từng phe tại Genève. Làm thế nào đánh giá được đúng sự thay đổi này, điều đó tự nhiên trở thành thử thách tốt nhất đối với một nhà ngoại giao.
Trung tuần tháng 5, phong cảnh ven hồ Leman ở Genève thật là đẹp mắt, bầu trời lộng gió, các loài hoa quý nổi tiếng thế giới đang đua nhau khoe sắc ở bờ hồ phía Nam. “Công viên Thế giới” bước vào mùa du lịch cao điểm. Trái với cảnh quan bên ngoài, hội nghị Genève về vấn đề Triều Tiên lâm vào bế tắc. Riêng vấn đề Đông Dương, do Phạm Văn Đồng đã tuyên bố ngay từ lúc khai mạc hội nghị rằng QĐND Việt Nam sẽ phóng thích số tù binh Pháp bị thương trong chiến dịch Điện Biên Phủ, do đó không khí có vẻ dịu hơn.
Kết quả của chiến dịch Điện Biên Phủ có lợi rõ rệt đối với phe phương Đông; một lần nữa chính phủ Laniel lại bị khủng hoảng lòng tin. Ngày 13/5, Laniel lại đề nghị Quốc hội Pháp hoãn cuộc họp bàn về tình hình Đông Dương để tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm chính phủ, kết quả đã vượt qua được với đa số rất mong manh là hai phiếu.
Ngày 14 và 15/5, Hội đồng Quốc phòng Pháp họp hai ngày liền thảo luận tình hình Đông Dương, tập trung bàn vấn đề phòng thủ vùng đồng bằng sông Hồng sau khi mất Điên Biên Phủ. Những người dự họp rất đau đầu trước tình hình sau thất bại Điện Biên Phủ. Lực lượng lính dù cơ động tinh nhuệ nhất của quân viễn chính Pháp ở Đông Dương gần như bị mất sạch, binh lính mất ý chí chiến đấu. Quân chủ lực của bộ đội Việt Nam thừa thắng đang đưa các sư đoàn trở lại vùng đồng bằng sông Hồng. Trừ khi có viện trợ khẩn cấp cho quân viễn chinh, nếu không, vùng đồng bằng sông Hồng sẽ bị nguy hiểm như trứng để đầu đẳng. Hội nghị quyết định, quân Pháp ngay lập tức thu hẹp phòng tuyến bảo vệ vùng đồng bằng sông Hồng, coi đó là bước đi đầu tiên của biện pháp khẩn cấp, đồng thời đưa từ Pháp sang tăng cường cho Việt Nam hai tiểu đoàn dù và một trung đội hàng không. Đương nhiên, tăng quân như vậy vẫn còn thiếu rất nhiều so với yêu cầu cần thiết.
Ngày từ lúc trước khi Điện Biên Phủ bị thất thủ một ngày, tướng Navarre đã kê ra một danh sách tăng thêm quân số và vũ khí. Navarre báo cáo với Bộ Quốc phòng Pháp: một khi Điện Biên Phủ thất thủ, tôi cần có thêm 25 tiểu đoàn bộ binh và năm cụm pháo binh cùng với ba tiểu đoàn cơ giới hóa và một số lính hàng không tương ứng, tổng số quân cần tăng viện là hơn ba vạn người mới có thể giữ được
cục diện Đông Dương.”1
Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Pleven và Tổng Tham mưu trưởng quân đội Ely sau khi bàn bạc đã căn cứ vào yêu cầu của Navarre, tăng viện ba sư đoàn từ Pháp sang Việt Nan. Pleven còn dự định nếu quân số chưa đủ thì có thể điều động từ Bắc Phi tới Đông Dương.
Cuộc họp quyết định cử Tổng tham mưu trưởng quân đội Ely, tướng [Raoul] Salan, cựu thống lĩnh quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương và tướng Pelyssier vừa được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Không quân ngày 18/5 sẽ bay sang Việt Nam để điều tra tình hình và nêu ra biện pháp giải quyết.
Chiều ngày 14/5, Molotov phát biểu tại hội nghị Genève bàn về vấn đề Đông Dương, trình bày rõ lập trường của Liên Xô. Nhằm vào câu nói của Eden về “không nên đề cập vấn đề lịch sử”, vừa mở đầu bài phát biểu Molotov đã bác bỏ, ông nói: “Tại hội nghị này, có lúc và có người đề nghị không nên nhắc lại lịch sử quá khứ của vấn đề, không nên thảo luận vấn đề chính trị, mà chỉ giới hạn vào việc nghiên cứu lĩnh vực quân sự của vấn đề Đông Dương v.v.. Nếu chúng ta cứ đi theo con đường đó, có lẽ chúng ta sẽ không thể giải quyết đựợc một nhiệm vụ nào trong số các nhiệm vụ mà hội nghị Genève đang đặt ra cho chúng ta.”
Molotov nói rõ: Ngày 25/8/1945, bản thân Bảo Đại đã đọc bản “tuyên bố thoái vị”, ông ta thừa nhận rằng 20 năm dưới sự thống trị của mình đã không đem lại được điều gì tốt đẹp cho nhân dân cả, do đó tuyên bố thoái vị và công nhận chính quyền đã thuộc về Chính phủ Việt Nam Dân chủ. Có thể thấy rõ, tính hợp pháp của chính quyền Bảo Đại do Pháp dựng lên sau khi chiến tranh tái diễn là có vấn đề, cuộc chiến tranh mà Pháp đang tiến hành ở Việt Nam hiện nay là “cuộc chiến tranh thực dân”.
Molotov đưa ra đề nghị mới: vì đã có đại biểu dự hội nghị này nói rằng, phương án do đại biểu Việt Nam Phạm Văn Đồng nêu ra qui định: “Việc thi hành các điều khoản của hiệp định đình chiến, chỉ do hai bên tham chiến của ba nước thành lập ra Uỷ ban Liên hợp để giám sát”, nên đổi lại là do quốc tế giám sát cho bảo đảm. Vì lẽ đó, Liên Xô đưa ra sự bổ sung: “Để hai bên ký kết hiệp định thực hiện các điều khoản của hiệp định về chấm dứt các hành động thù địch, hiệp định qui định thành lập Uỷ ban giám sát gồm các nước trung lập.”
Việc đưa ra điều khoản này đã làm cho hai phía đối lập tiến thêm được một bước nhỏ theo hướng giải quyết vấn đề.
Ngày 15/5, Chu Ân Lai tham dự hội nghị của đại diện ba nước Trung Quốc, Liên Xô và Việt Nam, hiệp thương về lập trường của ba đoàn.
Từ sau ngày Phạm Văn Đồng đến Genève, Chu Ân Lai, Molotov và Phạm Văn Đồng đã cùng nhau bàn bạc nhiều lần. Do thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, lòng tin của Phạm Văn Đồng tăng lên mạnh mẽ, giọng điệu khi nói cũng có vẻ cứng hơn trước nhiều. Tất nhiên ông biết rõ, sau khi hội nghị bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương, đại diện của chính phủ Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia đều phản ứng mạnh trước việc bộ đội Việt Nam tiến vào lãnh thổ Lào và Campuchia, đại diện các nước phương Tây cũng nắm lấy điểm này để đòi Việt Nam rút hết quân ra khỏi Lào và Campuchia. Phạm Văn Đồng khăng khăng từ chối điều đó, kiên quyết không chấp nhận. Khi hội đàm với người phụ trách các đoàn đại biểu Trung Quốc và Liên Xô, Phạm Văn Đồng nhiều lần đề cập đến ý kiến này.
Do thái độ của Phạm Văn Đồng rất kiên quyết, đến trung tuần tháng 5, ba nước Trung Quốc, Liên Xô, Việt Nam bàn bạc quyết định, nếu tổ chức họp hẹp để bàn vấn đề Đông Dương, ba nước cần phải kiên trì các nguyên tắc chính sau đây:
Phản đối việc tách riêng vấn đề Lào, vấn đề Campuchia để giải quyết riêng rẽ;
Vấn đề chính trị và vấn đề đình chiến phài giải quyết cùng một lúc, song, có thể bàn vấn đề đình chiến trước;
Đồng thời với việc Pháp chấm dứt các hành động thù địch ở Đông Dương, Mỹ cũng phải chấm dứt vận chuyển vũ khí, đạn dược tới Đông Dương.
Tối 15/5, Gromyko của đoàn Liên Xô, Vương Gia Tường của đoàn Trung Quốc lại gặp Phạm Văn Đồng, tiếp tục bàn bạc phối hợp lập trường của ba đoàn trong các cuộc đàm phán tới.
Gromyko phát biểu trước, ông nói tôi muốn nêu ra trước một vấn đề về mặt tổ chức. Tuần sau sẽ tổ chức cuộc họp kín về vấn đề Đông Dương, hội nghị này nên họp như thế nào? Đề nghị của Việt Nam DCCH và đề nghị của Pháp đều nói tới vấn đề đình chiến, thảo luận như thế nào cho tốt? Thiết kế trình tự ra sao? Đồng chí Phạm Văn Đồng có ý kiến gì không ?
Phạm Văn Đồng quan tâm trước tiên là tuần sau có phải do Eden làm chủ tọa hội nghị hay không?
Gromyko đáp: “Đúng”. Gromyko lại đưa chủ đề nói chuyện vào việc nên bắt đầu cuộc thảo luân như thế nào? Lấy đề nghị của chúng ta làm cơ sở hay lấy đề nghị của Pháp làm cơ sở. Điểm khác nhau là, đề nghị của phía Pháp không có phương án giải quyết vấn đề chính trị, chỉ giớí hạn ở lĩnh vực quân sự, còn đề nghị của chúng ta lại toàn diện.
Vương Gia Tường nói phía Pháp không muốn đưa ra phương án giải quyết vấn đề Đông Dương, theo tôi có thể bắt đầu thảo luận từ vấn đề đình chiến, nhưng không rút lui ý kiến về phần giải quyết chính trị.
Phạm Văn Đồng biểu thị đồng ý với ý kiến của Vương Gia Tường.
Vương Gia Tường chỉ rõ: trước hết phải giải quyết vấn đề mà đối phương vẫn bám lấy là vấn đề “Việt Nam phải rút quân khỏi Lào và Campuchia”. Vương Gia Tường hỏi: “Liệu có thể nói như thế này được không: Ở nơi đó có chiến tranh, nhưng ở đó không có QĐND Việt Nam, cái gọi là rút quân là vấn đề không tồn tại. Những người chiến đấu ở đó là quân đội của bản thân nhân dân Campuchia, nhân dân Lào”.
Gromyko phụ họa theo ý kiến của Vương Gia Tường.
Tuy nhiên, khi đưa ra chủ trương này, trong lòng Vương Gia Tường cảm thấy có chút mâu thuẫn. Cuối cùng, Vương Gia Tường nói một cách rõ ràng và mạch lạc: tôi nhớ có một lần, vào khoảng tháng Tư năm ngoái, Thông tấn Xã Việt Nam có phát một bản tin trong đó thừa nhận có quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu tại Campuchia và Lào. Vấn đề này trước tiên là do Trương Dực, người phụ trách Phòng Việt Nam thuộc Ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương ĐCS Trung Quốc nói cho Vương Gia Tường biết. Trương Dực cho rằng, phía Việt Nam đã công khai đưa tin thừa nhận có bộ đội ở Lào và Campuchia, một khi bị người khác nắm lấy và đưa ra tranh cãi, chúng ta chắc chắn sẽ bị động. Cho nên, sau khi thấy từ ngày đến Genève, ông Đồng mấy lần phủ nhận việc có quân đội Việt Nam ở Lào và Campuchia, Trương Dực bèn lập tức báo cáo tình hình trên đây với Vương Gia Tường.
Nghe Vương Gia Tường nói như vậy, Hoàng Văn Hoan đang ngồi bên cạnh cũng nói: đúng, chúng tôi đã từng nói, trong lực lượng bộ đội giải phóng ở Campuchia và Lào có “quân tình nguyện địa phương của Việt Nam” tham gia.
Gromyko khá nhạy bén, hỏi: Nếu có người hỏi về việc này, đồng chí Phạm Văn Đồng trả lời ra sao?
Phạm Văn Đồng đáp: có thể nói như sau: Chúng tôi không cử quân tình nguyện từ Việt Nam sang Campuchia và Lào. Ý nghĩa của câu nói này là, trong số quân đội của Campuchia và Lào có người Việt Nam, nhưng đó là những người Việt Nam sinh sống ở Campuchia và Lào, do họ tham gia vào quân đội để đấu tranh giành giải phóng. Tôi nghĩ cũng chỉ có cách nói như thế, vả lại cái mà quân địch gọi là “quân tình nguyện”, nhưng chúng không thể biết được phiên hiệu đơn vị và tên tuổi của binh sĩ. Tất nhiên, trên hội nghị, chúng ta cố hết sức tránh né vấn đề này.
Về vấn đề này, Liên Xô và Trung Quốc đều bảo lưu ý kiến. Về chuyện đàm phán giữa các nước, kinh nghiệm của Gromyko rất phong phú, ông đề nghị chuyển sang bàn vấn đề thứ hai: cần có thái độ thế nào đối với vấn đề chính trị và đình chiến? Gromyko nói, phương án của chúng ta là: đạt thỏa thuận trước về vấn đề chính trị, sau đó mới bàn các điều khoản cụ thể về đình chiến. Tuần sau, khi bắt đầu họp, chúng ta nhất định kiên trì vấn đề đầu, chú ý không nói lỡ lời
Vương Gia Tường nói: cần dự đoán trước rằng đối phương có thể sẽ đưa ra vấn đề đình chiến trước, sau khi đình chiến mới bàn đến việc giải quyết vấn đề chính trị, giống như trường hợp Triều Tiên.
Gromyko nói: nếu như vậy, chúng ta có thể không cần trả lời ngay, mà chỉ ra tuyên bố là có thể xem xét, cân nhắc việc đó.
Tiếp đó, Gromyko đề nghị thảo luận vấn đề “nước trung lập”.
Vương Gia Tường đề nghị có thể đưa ra danh sách bốn nước trước, gồm Ba Lan, Tiệp Khắc, Indonesia và Ấn Độ. Đối phương có thể bỏ Indonesia và thay bằng Pakistan, như thế cũng không sao cả.
Gromyko hỏi: có phải như vậy không? Hôm qua đồng chí Molotov và đồng chí Chu Ân Lai có nhắc đến chuyện này, tôi còn nhớ bốn nước là Ba Lan, Tiệp Khắc, Ấn Độ và Pakistan.
Vương Gia Tường nói, hôm qua quả là đã nêu ra như vậy, nhưng vừa rồi, trước khi tôi đi đến đây, đồng chí Chu Ân Lai đã nói với tôi: Có thể thay thế Pakistan trong phương án dự kiến bằng Indonesia. Nếu đối phương mặc cả, chúng ta có thể coi như nhượng bộ và đồng ý thay thế Indonesia bằng Pakistan, hoặc là thêm
Pakistan vào thành năm nước trung lập.
Vương Gia Tường nêu rõ: muốn đình chiến ở Đông Dương, điểm quan trọng nhất là qui định đường ranh giới đình chiến và khu vực tập kết quân đội.
Thứ trưởng Ngoại giao Liên Xô Kuznesov, cùng tham dự cuộc họp, lúc này mới nói: Đồng chí Vương có ý kiến cụ thể ra sao về việc này không? Bởi vì chúng ta cần phải suy nghĩ, cân nhắc đến tình hình là ở hội nghị Genève về Đông Dương, chúng ta chỉ có ba phiếu, trong khi đối phương thường có tới sáu phiếu, đa số phiếu thuộc phía đối phương.
Về đường ranh giới đình chiến và khu vực tập kết quân đội, ba đoàn đại biểu Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam vẫn chưa có một phương án thống nhất, do đó cũng không thể bàn gì thêm.
Gromyko mau chóng chuyển chủ đề, ông nói: người Pháp muốn “giải tán lực lượng vũ trang không chính qui, chúng ta không thể đồng ý được.” Ông nhắc mọi người: bắt đầu từ tuần sau, vấn đề Đông Dương chủ yếu chuyển vào các cuộc hội đàm bí mật, không nên có những bài phát biểu dài, mà là bàn bạc các vấn đề cụ thể. Ông nêu đề nghị: trong đàm phán, sẽ do Liên Xô đưa ra vấn đề uỷ ban giám sát gồm các nước trung lập, còn Trung Quốc sẽ nêu vấn đề Mỹ can thiệp. Vì Trung Quốc là láng giềng của Việt Nam, nhạy cảm nhất đối với sự can thiệp của Mỹ.
Gromyko, Phạm Văn Đồng, Vương Gia Tường nhất trí thỏa thuận ý kiến như sau về cuộc họp bàn này:
Nếu phía Pháp nêu ra vấn đề đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và Lào, câu trả lời sẽ là: Tại chiến trường Campuchia và Lào chỉ có quân đội của nhân dân Campuchia và nhân dân Lào, không có QĐND Việt Nam. Về việc có người Việt Nam trong số quân đội ở các nước này, đó chỉ là những người địa phương cư trú tại Campuchia và Lào, không liên quan gì đến Việt Nam, cho nên không có vấn đề rút quân.
Vấn đề đình chiến và vấn đề chính trị: mục tiêu của chúng ta phải là phương án đầu tiên, tức là vấn đề đình chiến và tổ chức bầu cử về mặt chính trị phải được xem xét cùng một lúc. Phương án hai là đạt được thỏa thuận chính trị trước, sau đó mới bàn các điều kiện cụ thể về đình chiến. Nếu đối phương đòi thực hiện đình chiến trước sau đó mới bàn vấn đề chính trị, chúng ta sẽ không vội trả lời ngay, chờ thêm thời gian, có thể trả lời là để về nhà suy nghĩ, xem xét.
Vấn đề uỷ ban giám sát gồm các nước trung lập: chúng ta nêu ra bốn nước trung lập: Ba Lan, Tiệp Khắc, Ấn Độ và Indonesia. Đối phương có thể đòi bỏ Indonesia, thay bằng Pakistan. Nếu chúng ta nhượng bộ, có thể nêu thành năm nước, thêm Pakistan.
Vấn đề đình chiến và điều kiện đình chiến: đây là điểm quan trọng nhất của vấn đề. Cần chia thành hai hội trường, một là do Tư lệnh của hai bên tham chiến bàn bạc tại chỗ; hai là bàn bạc tại hội nghị Genève.
Vấn đề giải tán lực lượng vũ trang không chính qui, Phạm Văn Đồng nói không thể tán thành điểm này được, (bởi vì) Pháp sợ nhất là có quân du kích ở lại.
Các vấn đề khác như sự bảo trợ quốc tế, vấn đề Mỹ can thiệp, đồng ý cách nêu trong văn bản.
Cuối cùng quyết định: vấn đề bảo trợ quốc tế và uỷ ban giám sát các nước trung lập sẽ do Liên Xô đưa ra, còn Trung Quốc sẽ nêu vấn đề Mỹ can thiệp vào Đông Dương.
Ngay trong ngày 15/5/1954, Phạm Văn Đồng gửi điện báo cáo với Trung ương Đảng của Việt Nam về tình hình hội nghị Genève ngày hôm trước:
Ngày 14/5, hội nghị Genève họp phiên thứ tư, có mấy nội dung đáng chú ý như sau:
Bidault phát biểu, trong đó nhấn mạnh:
Tách riêng vấn đề Việt Nam với vấn đề Campuchia và Lào;
Bày tỏ sẵn sàng sớm đình chiến và phân chia khu vực đình chiến, phương án cụ thể do các Tư lệnh của hai bên tham chiến nêu ra với hội nghị, do hội nghị thẩm tra sau đó quyết định. Bidault không nói do hai bên tham chiến đưa ra ý kiến riêng, có thể là trải qua họp bàn hai bên đi đến thỏa thuận, sau đó mới nêu ra. Chúng tôi cho rằng Pháp đang mong muốn sớm ngừng bắn, vì kẻ địch đang gặp khó khăn ở Đông Dương (nhất là ở vùng đồng bằng Bắc Bộ), hơn nữa, dư luận Pháp và Quốc hội Pháp đòi ngừng bắn.
Các đoàn đại biểu đạt được thỏa thuận từ thứ hai tuần sau sẽ họp kín (hội nghị bí mật). Mỗi đoàn được cử 3 người dự nhằm thiết thực thảo luận các vấn đề.
Như vậy là hội nghị có tiến triển có lợi cho phía ta. Vấn đề chuẩn bị cho các cuộc họp kín, chúng tôi sẽ cùng bàn bạc với phía bạn và sẽ báo cáo sau. Trước mắt, theo chúng tôi, trong nước cần chú ý theo rõi đầy đủ tình hình phát triển của Hội nghị Genève, thông qua các đài phát thanh, nhất là báo cáo của Tân Hoa Xã để nắm tình hình, đồng thời đề nghị nghiên cứu một cách thiết thực các vấn đề sau đây:
Vấn đề đình chiến và phân chia khu vực đình chiến (ở Việt Nam và Campuchia, Lào).
Vấn đề đóng quân: quân ta, quân Pháp, quân ngụy, và các loại quân địa phương thuộc lực lượng du kích của phía ta.
Vấn đề trao đổi tù binh, thương binh trong toàn bộ chiến trường Đông Dương.
Vấn đề giám sát đình chiến theo đề nghị của phía ta, bao gồm cả việc do hai bên tham chiến lập ra uỷ ban giám sát liên hợp để giám sát đình chiến.
Vấn đề phân chia khu vực ngừng bắn do Bộ Tư lệnh hai bên tham chiến cùng nhau nghiên cứu đề ra, đề nghị trong nước tổ chức nghiên cứu ngay và thông báo cho chúng tôi biết, liệu có phải triệu tập hội nghị hiệp thương giữa đại diện của hai Bộ Tư lệnh không, xin bàn ngay vấn đề này.
Báo chí cần đăng toàn văn bài phát biểu của Chu Ân Lai ngày hôm kia và của Molotov ngày hôm qua, và tiến hành giải thích rộng rãi cho các nơi.
Trái ngược với thái độ tiến thủ của Phạm Văn Đồng, Bidault đang ngồi tại Genève nhưng lại hi vọng hão huyền, muốn tình thế đổi thay. Đó là vì tối 8/5, Smith bí mật đến gặp và nói cho Bidault biết rằng, nếu phía Pháp có ý định, Mỹ vẫn sẵn sàng cùng Pháp thảo luận khả năng Mỹ can thiệp về quân sự ở Việt Nam. Mỹ muốn đạt được sự nhất trí với Pháp trước, sau đó sẽ bàn việc này với Anh. Theo bản năng, Bidault ý thức ngay được rằng Mỹ không từ bỏ ý đồ vũ trang can thiệp vào Đông Dương, chỉ chờ có “hành động liên hợp” của quốc tế là bộ máy can thiệp quân sự của Mỹ có thể khởi động. Bidault nói với Smith: phía Pháp sẵn sàng thảo luận chi tiết vấn đề này với phía Mỹ. Trong cả tuần lễ sau đó, Bidault đã nhiều lần gặp gỡ, tiếp xúc với đại diện của Mỹ về việc này. Hai nước Mỹ - Pháp gặp gỡ bí mật, hoàn toàn giấu kín không cho Eden biết; tuy nhiên không thể che mắt được các nhà báo nhạy bén.
Màn kịch này không giấu được lâu. Sáng 15/5, sau khi ngủ dậy, Eden cầm tờ báo “Thụy Sĩ buổi sáng” vừa nhận được và tỏ ra hết sức kinh ngạc khi đọc được tin Mỹ và Pháp đang bí mật sắp đặt kế hoạch vũ trang can thiệp vào Đông Dương. Eden nổi nóng, gọi ngay điện thoại hỏi Smith sự việc báo chí đăng tải là đúng hay sai? Smith ôn tồn đáp: tôi không biết chuyện báo đăng.
Một lúc sau, Bidault đem theo trợ lý đến thăm Eden. Eden hỏi thẳng: những tin tức đăng trên tờ “Thụy Sĩ buổi sáng” chỉ là tin đồn thôi sao? Bidault bất ngờ và ấp úng, cố nói lảng chuyện khác, một lúc sau vội ra về.
Một trợ lý của Bidault lại cung kính kéo Eden ra phía cửa sổ và nói: được phép của Bidault, tôi xin đọc cho ngài nghe một văn kiện, nội dung liên quan đến việc hai nước Mỹ - Pháp bí mật hiệp thương với nhau.
Eden nói ngay: “Như vậy tức là những điều báo chí nói là có thật?”.
“Cũng có thể nói gần như vậy”. Trợ lý này nói rõ thêm là Mỹ và Pháp đã bàn đến hai thời hạn có thể hành động: hoặc là sau ngày hội nghị Genève thất bại, hoặc là khi phía Pháp muốn tiến hành. Phía Mỹ có xu hướng muốn hành động sớm.
Sau khi các vị khách Pháp ra về, Eden nhận được báo Mỹ ”Diễn đàn Thông tin NewYork” tường thuật tỉ mỉ hơn về những âm mưu bí mật của hai nước Pháp - Mỹ. Eden lại cầm điện thoại nói chuyện với Smith và nổi cáu. Lần này, Smith không còn né tránh nữa, ông ta cũng gắt gỏng nói với Eden: Chính phủ Mỹ hoàn toàn không có khả năng giữ bí mật, ngay cả những chuyện còn đang bàn bạc cũng bị tiết lộ với báo chí.
Eden nói với Smith: Đối với chúng tôi, tính chất nghiêm trọng của vấn đề còn ở chỗ, những điều đang đặt ra trên bàn thương lượng, thế mà chúng tôi không được biết gì cả, ngay cả dấu hiệu liên quan đến cuộc thương lượng bí mật đó.
Eden nói như vậy là có ngụ ý khác. Smith vội giải thích: Theo thông lệ, khi Pháp chấp nhận các điều kiện về “hành động chung”, Mỹ sẽ lập tức thông báo với phía Anh. Smith hứa là trong quá trình hội nghị từ nay trở đi, hai nước Anh, Mỹ sẽ phối hợp chặt chẽ với nhau, Mỹ sẽ không có những toan tính bí mật sau lưng Anh nữa.
Eden nói: theo cá nhân tôi, nếu Mỹ muốn vũ trang can thiệp vào Đông Dương khẩn cấp như vậy, thì, giống như nhiều chuyện đã xảy ra, kế hoạch này chắc chắn cũng sẽ thất bại.
Nói chuyện xong với Smith, Eden lập tức báo cáo với Churchill những sự việc xảy ra tại Genève. Churchill ủng hộ Eden, ngày 17/5, Churchill nói với các hạ nghị sĩ Anh: những việc làm giữa Mỹ và Pháp mà mọi người đang đồn đại “chính phủ Anh không hề dính líu và cũng không chịu bất kỳ nghĩa vụ gì”.
Kết quả là hai ngày sau, Bidault báo cho Eden biết: chính phủ Pháp đã quyết định rằng, trong thời gian diễn ra hội nghị Genève, Pháp không yêu cầu Mỹ, Anh liên hợp hành động can thiệp vào các công việc của Đông Dương.”2
Một lần nữa, “hành động liên hợp” lại bị chết yểu.
Sau khi hội đàm với Phạm Văn Đồng, lập trường của hai đoàn Liên Xô, Trung Quốc có xu hướng cứng rắn hơn. Phát biểu tại cuộc họp hẹp bàn về vấn đề Đông Dương các ngày 17-19/5, Chu Ân Lai nhấn mạnh: phản đối việc tách vấn đề Campuchia và Lào ra khỏi vấn đề Việt Nam để giải quyết. Ông nêu rõ, cuộc đấu tranh vũ trang giành giải phóng dân tộc của nhân dân Campuchia và nhân dân Lào là do hành động vũ trang can thiệp của Pháp gây ra. Các Chính phủ kháng chiến Campuchia và Lào đều có quân đội riêng, cần thực hiện ngừng bắn ngay trên đất đai của tổ quốc họ, cái gọi là vấn đề rút quân khỏi Campuchia và Lào là chuyện không tồn tại. Cần khôi phục hòa bình ở cả Đông Dương chứ không phải chỉ khôi phục hòa bình ở Việt Nam, không thể tách riêng vấn đề của ba nước Đông Dương để thảo luận.
Thái độ của Phạm Văn Đồng càng cứng rắn hơn. Ngày 20/5, ông ra tuyên bố, nêu rõ quân đội Việt Nam không thể rút khỏi Lào và Campuchia, vì bộ đội Việt Nam không chiến đấu ở đó.
Trên lời nói tuy như vậy, song tiến trình ngoại giao vẫn được thúc đẩy một cách chậm chạp. Mặc dù đại biểu Mỹ và Pháp chủ trương bàn riêng vấn đề Lào và Campuchia trước, nhưng đa số các nước đều cho rằng có thể lấy đề nghị của Phạm Văn Đồng và đề nghị của Bidault làm cơ sở để tiến hành thảo luận, vấn đề chính trị và vấn đề quân sự đều có thể bàn bạc, nên bàn vấn đề quân sự trước.
Ngày 17/5, đại diện Pháp và Việt Minh đồng ý hội đàm có tính thực chất về vấn đề chuyển giao số tù binh bị thương ở Điện Biên Phủ. Ngày 19/5, đại tá quân đội Pháp Michel de Brebisson cùng đại biểu Việt Minh là đại tá Hà Văn Lâu tiến hành cuộc gặp gỡ đầu tiên. Hà Văn Lâu là Cục trưởng cục Tác chiến thuộc Tổng Quân uỷ QĐND Việt Nam, là một nhân vật nòng cốt về mặt quân sự của đoàn Việt Nam. Ông bắt đầu sự nghiệp ngoại giao của mình từ hội nghị Genève, sau này từng giữ chức đại sứ Việt Nam tại LHQ.
Trước đó một ngày, người phát ngôn của chính quyền Bảo Đại tuyên bố tại Toulouse, Pháp, rằng ngày 16/5, Bảo Đại đã ký hàng loạt mệnh lệnh, bổ sung lực lượng quân đội của chính quyền Bảo Đại lên 300.000 người và động viên nam thanh niên sinh từ năm 1921 đến năm 1929 tham gia quân ngũ. Trước hành động khiêu khích của chính quyền Bảo Đại, Hồ Chí Minh tỏ ra rất bình tĩnh, ra lệnh phóng thích nữ y tá Pháp bị bắt tại Điện Biên Phủ Genevieve de Galard. Ngày 19/5, nữ y tá Pháp này gửi thư chúc mừng ngày sinh của Hồ Chí Minh, cô viết trong thư: “Tất cả chúng tôi đều hy vọng hai nước chúng ta có thể mau chóng xây dựng mối quan hệ bè bạn hữu nghị với nhau trong một thế giới không có chiến tranh. Nếu tôi có may mắn được trở về tổ quốc của mình, nhất định tôi sẽ nỗ lực làm cho các bạn thanh niên xung quanh tôi cùng nhau xây dựng một bầu không khí có thể làm cho nhân dân hai nước chúng ta hiểu biết nhau hơn, nhằm góp phần vào việc giữ gìn và xây dựng lại sự nghiệp hòa bình mà tất cả chúng tôi đều hy vọng.”
Ngày 24/5, nữ y tá Pháp được rời khỏi vùng kiểm soát của Việt Minh. Trước khi rời đi, cô lại gửi thư cho Hồ Chí Minh: “Tôi vừa mới nhận được tin mừng là được phóng thích, tôi muốn bày tỏ với ngài Chủ tịch lòng biết ơn của tôi đối với ngài! Cám ơn lòng độ lượng của ngài đối với tôi. Tôi sẽ lập tức được bay về tổ quốc đoàn tụ với người thân trong gia đình, đó là niềm vui lớn đối với tôi. Tôi chân thành hy vọng hòa bình sẽ lập tức được khôi phục tại Việt Nam, để tất cả mọi người nam, nữ và trẻ em trên đất nước của ngài đều có thể được sống trong niềm vui và hòa bình.”3
Ngược lại, phản ứng của quân đội Pháp rất căng thẳng. Tại sân bay Tân Sơn Nhất ở Sài gòn xa xôi, ngày 18/5, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp Ely vừa từ máy bay bước xuống đã trao ngay cho Navarre bản mệnh lệnh do Thủ tướng Pháp Laniel ký, nội dung chính gồm:
Trong tình hình hiện nay, vấn đề có tính chất áp đảo tất cả là phải bảo đảm an toàn cho quân viễn chinh Pháp, đó là vấn đề quan trọng hàng đầu. Bởi vậy, sau khi bị bất lợi ở Điện Biên Phủ, phải dự đoán chính xác khả năng tăng cường không ngừng của đối phương với sự trợ giúp của Trung Quốc.
Trên một ý nghĩa rộng lớn hơn, kế hoạch mới của ngài cần bao gồm:
Thanh trừng quân Việt Minh ở nam vĩ tuyến 18 (nhằm chuẩn bị tốt cho việc rút quân từ miền Bắc vào), còn mọi hành động ở bắc vĩ tuyến 18 thì chủ yếu chỉ cân nhắc về mặt ý nghĩa quân sự.
Trước mắt, trong tình hình có thể, cần áp dụng mọi biện pháp để giữ cân bằng lực lượng ở khu vực đòng bằng sông Hồng. Lực lượng quân sự trong vùng này chí ít cũng phải có khả năng tự bảo đảm được vấn đề an ninh của mình, vì vậy cần phải duy trì một lực lượng cơ động nhất định tại An nam4. Theo Kế hoạch Giai đoạn Một về thu hẹp tuyến phòng thủ, cần tập trung binh lực của chúng ta tại vùng đồng bằng sông Hồng. Nếu phải thực hiện Giai đoạn Hai của kế hoạch, trọng tâm phòng ngự của chúng ta sẽ là Hải Phòng, bảo đảm đường thông ra biển và có thể lợi dụng pháo và tàu thuyền của hải quân để chi viện. Cần đặc biệt chú ý nắm chắc tình hình lực lượng không quân để bảo đảm an ninh cho bộ đội mặt đất và các sân bay ở vùng đồng bằng sông Hồng và các địa điểm xung yếu ở Hải Phòng. Cần tăng cường bảo đảm an ninh gấp bội cho các sân bay ở khu vực Hải Phòng.
Tóm lại, phải đề phòng việc phân tán lực lượng, bảo đảm sẵn sàng tập trung được binh lực. Chỉ có như vậy mới có thể tránh được những thiệt hại trong cuộc chiến đấu có thể sắp xảy ra tại khu vực đồng bằng sông Hồng, làm cho cục diện Đông Dương trở lại thế cân bằng.
Ely giải thích với Navarre: cái gọi là Kế hoạch “Giai đoạn Một” là nói bắt đầu từ nay trở đi, quân Pháp ở Bắc bộ Việt Nam, trong vòng 15 ngày phải vứt bỏ các khu vực phía Nam và phía Tây châu thổ sông Hồng, chuẩn bị đối phó với chủ lực Việt Minh từ Điên Biên Phủ di chuyển về. Còn việc liệu có thi hành “Giai đoạn Hai” - tức vấn đề rút từ Hà Nội xuống Hải Phòng hay không, phải chờ mệnh lệnh của Paris.
Sau khi đọc xong lệnh của Chính phủ, Navarre nói: điều tôi khó thực hiện được là khoản B của điều 2, vì hiện nay tôi chưa có đủ binh lực trong tay. Đồng thời, nếu thu hẹp tuyến phòng thủ vùng đồng bằng sông Hồng theo lệnh trên, thì quân Pháp chỉ có khả năng phòng thủ trọng điểm tại Hà Nội, Hải Phòng và tuyến đường giao thông nối liến hai thành phố này. Như vậy là quân Pháp trên toàn vùng Bắc bộ Việt Nam sẽ bị co cụm lại trong một khu vực thành phố hết sức chật hẹp
Navarre nói, nếu như vậy, quân Pháp ở vùng đồng bằng sông Hồng sẽ an toàn hơn, nhưng các đại diện Pháp đàm phán ở Genève sẽ khó khăn hơn.
Theo Navarre, xét theo góc độ quân sự, quân Pháp không cần phải vội vàng co cụm lại như vậy. Việc co cụm như thế sẽ tác động nghiêm trọng đến tinh thần binh lính. Nếu có thêm quân tăng viện, vẫn có thể giữ được vùng đồng bằng sông Hồng. Nếu cần co lại thì cũng nên chờ đến mùa thu, ít nhất cũng phải chờ cho đến khi hội nghị Genève hoàn toàn không có kết quả gì hãy rút lui.5
Nhóm ba người do Ely dẫn đầu bi quan hơn Navarre nhiều. Ely bực mình là không thể buộc Navarre phải lập tức ra ngay lệnh thu hẹp phòng tuyến lại. Sau bốn ngày thị sát ở Việt Nam, ngày 25/5, Ely bay về Paris, ngay hôm sau, ông ta đã đọc bản báo cáo đầy tâm trạng bi quan trước Nội các Pháp. Ely nói: quân viễn chinh Pháp đã hoàn toàn mất khả năng tiến công, lực lượng cơ động chiến lược của quân Pháp ở Đông Dương đã bị tiêu hao toàn bộ, thắng lợi về mặt quân sự của Việt Minh ở Bắc bộ Việt Nam là khó tránh khỏi. Đề cập đến tình hình hiện tại, Ely cho biết quân Việt Minh đã thâm nhập vùng đồng bằng sông Hồng, hai phía Pháp - Việt đang ở thế cài răng lược. Chủ lực Việt Minh đã di chuyển từ vùng Tây Bắc về vùng đồng bằng sông Hồng, rất có khả năng họ sẽ mở cuộc tấn công qui mô lớn vào cuối tháng 6. Hiện nay, chỉ có cách tăng viện qui mô lớn, chúng ta mới có thể cứu vãn được tình hình. Ely ủng hộ ý kiến của Pleven là Pháp phải tiến hành động viên cục bộ, điều động lực lượng dự bị chiến lược.6
Lúc đó, mọi người đã nhìn thấy rõ nguyên nhân làm cho Pháp ngả nghiêng lúc tả lúc hữu chính là Ngoại trưởng Mỹ Dulles. Ngày 19/5, tại Wasinhtơn, Dulles tiếp đại sứ Đài Loan Cố Duy Quân đến chào, Dulles nói với Cố Duy Quân: trong vấn đề Đông Dương, người Pháp đã ngả nghiêng hơn một năm nay rồi, đến bây giờ cũng chưa hạ quyết tâm. Điều quan trọng là do Pháp phản đối việc quốc tế hóa vấn đề Đông Dương.
Cố Duy Quân nói: Người Pháp đồng thời cũng muốn được Mỹ viện trợ, điều đó chứng tỏ Pháp vẫn còn muốn giữ Đông Dương.
Dulles nói: Theo phán đoán của tôi, quả là người Pháp sợ quốc tế hóa vấn đề Đông Dương. Nếu vấn đề được quốc tế hóa thì Pháp buộc phải tiếp tục cuộc chiến. Pháp muốn nắm lấy quyền chủ động để khi nào muốn thoát ra là khi đó có thể thoát ra được.
Dulles nêu rõ: nội bộ Pháp còn rất nhiều ý kiến bất đồng, trong quốc hội có bất đồng, trong nội các cũng có bất đồng, trong đó xu thế có tính áp đảo là muốn hoàn toàn rút khỏi Đông Dương, tuy nhiên chính phủ vẫn đang cố bám lấy, không chịu từ bỏ chính sách cố hữu, kết quả là chính phủ Pháp hết sức suy yếu, không thể hoạt động được. Hiện tại rất khó quan hệ với Pháp, thậm chí rất khó có thể đạt được thỏa thuận gì đó với phía Pháp. Ngay cả việc chính phủ Pháp vượt qua được cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại quốc hội với đa số mong manh hơn hai phiếu mới đây, cũng chỉ là hiện tượng bề ngoài, vì một số nghị sĩ các đảng đối lập, do thấy đại đa số các nghị sĩ đều phản đối chính phủ, nên mới bỏ phiếu tín nhiệm để tránh cho chính phủ khỏi bị đổ.
Cố Duy Quân nói, tôi không hiểu họ làm như vậy nhằm ý đồ gì?
Dulles đáp, đó là vì đảng đối lập sợ phải kế thừa vấn đề khó khăn là vấn đề Đông Dương, không muốn gánh trọng trách vào lúc này.
Cố Duy Quân nói: Với tình hình này, phải chăng chính phủ Pháp có thể bị sụp đổ bất kỳ lúc nào ?
Dulles tán thành ý kiến đó và nói: đây chính là điều khiến Bidault khó hành động ở Genève. Địa vị của ông ta bị suy yếu đi rất nhiều, quả thật là không biết làm gì nữa!
Cố Duy Quân hỏi: Chính phủ Pháp có còn muốn "liên hợp hành động" với Mỹ để cứu vãn tình hình Đông Dương không?
Dulles trả lời: "Không". Pháp chỉ nói còn phải chờ báo cáo của tướng Ely. Ely đã sang Đông Dương. Tuy nhiên, trong lúc chính phủ Pháp còn đang do dự chưa quyết thì tình hình quân sự ở Đông Dương đã trở nên xấu đi. Nếu Pháp tiếp tục chần chừ do dự, tình hình chắc chắn sẽ tiếp tục xấu hơn.7
Ngày 20/5, Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên tới thăm đáp lễ Eden và cùng ăn trưa theo lời mời của Eden.
Mở đầu cuộc nói chuyện, Eden đã đi ngay vào vấn đề chính: trong phát biểu của ngài hôm qua, câu cuối ngài nói: đình chiến không nên tiến hành trước hay sau. Câu này rất đúng. Hiện nay còn có ai nghĩ đến vấn đề đình chiến trước hay sau nữa?
Ý tứ câu nói của Eden là, vấn đề đình chiến ở Đông Dương cần phải bắt đầu ở Lào
và Campuchia trước.
Chu Ân Lai đáp: “Đình chiến cùng một lúc tại ba nước có nghĩa là điều kiện đình chiến của ba nước phải như nhau. Nay có người nêu ra rằng hai nước Lào và Campuchia phải rút quân đội chống đối của bản thân mình ra khỏi hai nước trước, nhưng nhân dân Việt Nam làm sao có thể thuyết phục được quân đội của hai nước Lào và Campuchia rút ra khỏi lãnh thổ của hai nước này được? Đó là điều không thể thực hiện được. Nếu như nói phải rút quân trước, thì quân đội Pháp cũng phải rút trước."
Eden bào chữa rằng: hiện Pháp không còn quân đội trên đất Campuchia nữa và cũng sẵn sàng từ bỏ các căn cứ ở Lào. Trái lại, Việt Minh hình như đang muốn thôn tính hai nước Lào, Campuchia, vì thế phương Tây muốn tách Việt Nam khỏi vấn đề Lào và Campuchia. Eden lặp đi lặp lại rằng "phong trào chống đối" ở Lào và Campuchia mới chỉ trở nên sôi động từ sau tháng 2 năm nay, hoàn toàn là do Việt Nam thao túng.
Chu Ân Lai đáp: không phải như vậy, từ lâu hai nước này đã có phong trào giải phóng giành độc lập dân tộc, chúng tôi ở châu Á đã biết từ lâu.
Hai bên tranh luận về chuyện phong trào của hai nước Lào, Campuchia có đủ lực lượng hay không. Chu Ân Lai nói rõ thêm: "Chúng tôi mong muốn chiến tranh có thể chấm dứt sớm, không nên kéo dài vấn đề, mà giải quyết càng sớm càng tốt. Chiến tranh Triều Tiên kéo dài dẫn đến hậu quả là Lý Thừa Vãn chịu thiệt.
Eden nói: "Cả hai bên đều bị tổn thất".
Chu Ân Lai đáp lại một câu: "Nhưng đường giới tuyến quân sự đã được đẩy lùi xuống phía nam".
Hai bên tiếp tục chuyển sang bàn vấn đề Triều Tiên, nhưng không có kết quả.
Sau này, khi nhớ lại cuộc gặp gỡ với Chu Ân Lai hôm ấy, Eden cho rằng: khi thảo luận một số vấn đề xảy ra trong quá khứ, tôi thường phát hiện ra là hai bên có những điểm chung. Tất nhiên, "trong bất kỳ điểm nào, tôi đều không thể, dù là rất nhỏ, làm cho Chu Ân Lai thay đổi quan điểm của mình, cũng như Chu Ân Lai không thể thay đổi quan niệm của tôi vậy. Nhưng, làm như vậy quả là đã giúp ích cho việc giảm bớt những mâu thuẫn có thể nảy sinh giữa đôi bên. Một trong những việc tôi muốn làm rõ là liệu chính phủ Trung Quốc có thật sự mong muốn đạt được một thỏa thuận nào đó tại hội nghị Genève hay không."
Buổi tối cùng ngày, Eden ghi vào nhật ký của mình: "đây là một ngày nặng nề trong cuộc đàm phán. Chu Ân Lai đến lúc 11 giờ trưa, chúng tôi nói chuyện với nhau một tiếng đồng hồ. Nếu tôi không tỏ ra có biểu hiện, cuộc nói chuyện sẽ còn kéo dài nữa." Theo Eden, Pháp tuy vẫn chiếm đóng Đông Dương, nhưng sẽ có ngày không thể trụ được, ngoại trừ việc rút đi không vẻ vang gì ra, chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Nhưng chỉ cần quân Pháp vẫn còn ở Đông Dương thì vẫn còn có chỗ để mặc cả. Và cùng với thời gian, thế yếu của Pháp sẽ càng trở nên rõ rệt. Eden cho rằng, Trung Quốc sẽ buộc phải đồng ý đi đến một thỏa thuận cho phép bảo lưu một bộ phận của Việt Nam trong "tự do" và đồng ý để cho Lào và Campuchia được hoàn toàn độc lập. Nếu phương Đông và phương Tây không nhanh chóng đạt được thỏa thuận thì tình hình quân sự ở Đông Dương sẽ xấu đi.
Trung Quốc thấy rất rõ điều đó."
Sau khi Chu Ân Lai ra về, Eden lập tức đi gặp và thông báo tình hình với Bidault và Smith.
Với vị trí là cầu nối tiếp xúc, trao đổi giữa các nước lớn, Eden rất bận rộn, buổi tối cùng ngày, ông cùng ăn tối với Molotov. Trong bữa ăn, Molotov nói, tôi xem báo thấy nói quan điểm của Anh và Mỹ có khác nhau, nhưng tôi không tin.
Eden đáp: có thể có khác nhau, "giữa các đồng minh với nhau vẫn có thể tranh luận với nhau về các vấn đề tương lai".
Molotov nói: "ngài nói rất đúng. Bản thân chúng tôi có thể có quan điểm khác nhau về các vấn đề". Ví dụ, Molotov nói với Eden: "Trung Quốc tuyệt đối tự quản lấy mọi công việc của mình."
Eden gây sức ép với Molotov khi nói: nếu cuộc đàm phán không thành, Mỹ sẽ đưa quân vào Đông Dương. Nếu như vậy, vấn đề sẽ nghiêm trọng.
Molotov bày tỏ rằng mình đã chú ý tới vấn đề này.
Ngày 21/5, Eden và Bidault đều về nước để báo cáo tình hình. Cùng ngày, hội nghị Genève tán thành ý kiến của Molotov nêu ra về trình tự thảo luận, gồm năm vấn đề:
Vấn đề ngừng bắn toàn diện ở Đông Dương;
Hoạch định khu vực tập kết quân đội hai bên;
Vấn đề chấm dứt sự viện trợ của bên ngoài đối với Đông Dương;
Vấn đề các nước trung lập giám giát việc thi hành hiệp định đình chiến;
Vấn đề bảo trợ quốc tế đối với việc đình chiến.
Về mặt trình tự, vấn đề Đông Dương đã tiến được một bước nhỏ theo hướng giải quyết vấn đề.
Ngày 22/5, Molotov gặp Smith, thúc đẩy chính phủ Mỹ công nhận nước Trung Hoa mới, cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Molotov nhấn mạnh: “nước Trung Hoa mới là một nhà nước trẻ tuổi". Trung Quốc mới chỉ có năm năm tuổi, họ cần có thời gian để tập trung tinh lực vào việc giải quyết rất nhiều vấn đề của mình.
Trong thâm tâm, Smith cho rằng việc công nhận Trung Quốc chỉ là vấn đề thời gian sớm hay muộn. Nhưng lúc này, Smith đáp: vấn đề công nhận là một đường ranh giới, hiện tại Mỹ chưa thể bước sang phía bên kia đường ranh giới. Smith phát hiện ra là Molotov rất am hiểu tình hình Trung Quốc. Khi Smith nhắc đến việc Trung Quốc vẫn còn giam giữ tù binh và một số "thường dân" của Mỹ, Molotov lập tức đáp ngay là Mỹ cũng đang giữ lưu học sinh Trung Quốc không cho họ về nước.
Trước ý tứ của Smith yêu cầu Molotov phải làm một số công tác với Chu Ân Lai, Molotov nói: “Nếu ngài cho rằng Trung Quốc bị Liên Xô khống chế thì ngài hoàn toàn sai lầm".
Molotov nói với Smith: Chu Ân Lai là một người bạn không hề dễ đối phó.8
1 Philippe Devillers & Jean Lacouture, End of A War, France, 1960.
2 Sir Anthony Eden, sđd.
3 Tin Tân Hoa xã ngày 28/5/1954.
4 tức Trung bộ Việt Nam - chú thích nguyên bản.
5 Philippe Devillers & Jean Lacouture, sđd, tr. 178-181.
6 Edgar O’ Ballancekk, Chiến tranh Đông Dương 1945-1954, London, 1964, tr. 249.
7 Hồi ký Cố Duy Quân, sđd, tập 11, tr. 72.
8 Điện ngày 22/5/1954 của Smith gửi Chính phủ Mỹ.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:05:08 GMT 9
CHƯƠNG 18 Bước đột phá nhỏ trong vấn đề khó khăn lớn
Cùng với quá trình đàm phán rắc rối ở hội nghị Genève, đại biểu Trung Quốc đã dần dần hiểu rõ hơn lịch sử và hiện trạng ở Đông Dương. Chu Ân Lai quyết tâm đi bước đi đầu tiên trong cuộc tranh chấp không có trật tự này, tách bóc vấn đề, đơn giản hóa tình hình. Đặc sứ Ấn Độ [V. K. Krishna] Menon đến thật đúng lúc. Eden nhiều lần tới thăm Vạn Hoa, không ngờ lại bị lôi cuốn bởi các bức tranh nổi tiếng và đồ gốm sứ cổ của Trung Quốc. Chu Ân Lai bắn hai mũi tên cùng một lúc. Vấn đề Đông Dương và quan hệ Trung - Anh đều xuất hiện xu hướng hòa dịu.
Nhiều thành viên đoàn đại biểu Trung Quốc từng tham gia hội nghị Genève sau này nhớ lại rằng cùng với tiến trình hội nghị Genève, sự hiểu biết của các thành viên trong đoàn đối với vấn đề Đông Dương cũng ngày càng phong phú hơn. Điều đầu tiên được làm rõ, đó là Đông Dương không phải là một quốc gia, mà là ba nước có mối liên hệ mật thiết trong lịch sử, họ có ngôn ngữ và văn hóa khác nhau. Lúc đầu, trong phương án chuẩn bị cho hội nghị Genève, ba nước Trung Quốc, Liên Xô và Việt Nam chủ trương vấn đề Đông Dương được coi là một khối thống nhất, phải giải quyết cả gói. Sau trung tuần tháng 5, Chu Ân Lai đã xác định rõ không thể dùng kế hoạch cả gói để giải quyết vấn đề Đông Dương, cách tốt nhất là có phân biệt đối xử.1
Đoàn đại biểu Trung Quốc đến Genève hy vọng giải quyết được càng nhiều vấn đề càng tốt, trong đó có hy vọng đạt được sự đột phá về ngoại thương, tạo nguồn động lực mới thúc đẩy công cuộc xây dựng kinh tế trong nước. Chu Ân Lai cử Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại thương Lôi Nhiệm Dân làm cố vấn trong đoàn Trung Quốc là có ý đó.
Sau khi đến Genève, uy tín của đoàn đại biểu Trung Quốc càng ngày càng tăng, số nhà báo đến Văn phòng Báo chí của đoàn đại biểu Trung Quốc ngày càng nhiều. Sáng 15/5, Lôi Nhiệm Dân tổ chức họp báo, có hơn 120 nhà báo tới dự.
Lôi Nhiệm Dân đọc bản báo cáo "Thành tựu xây dựng kinh tế và ngoại thương của nước Trung Hoa mới". Ông nói: sau khi nước Trung Hoa mới ra đời, sau ba năm khôi phục, sản xuất nông nghiệp của Trung Quốc cuối năm 1952 đã vượt mức trước chiến tranh chống Nhật; tỉ trọng sản xuất công nghiệp toàn quốc đã từ 19% tổng giá trị sản phẩm kinh tế quốc dân vào năm 1949 tăng lên khoảng 28% năm 1952. Tổng kim ngạch ngoại thương của nước Trung Hoa mới cũng tăng lên nhanh chóng: Nếu lấy năm 1949 làm cơ số, tổng kim ngạch ngoại thương năm 1953 đã tăng gấp sáu lần, lập kỷ lục cao nhất kể từ năm 1930 đến nay.
Lôi Nhiệm Dân nêu rõ: kim ngạch buôn bán giữa Trung Quốc với các nước phương Tây truyền thống, ngay trong năm đầu thành lập nước đã vượt kỷ lục cao nhất của năm 1936 trước chiến tranh chống Nhật. Tuy nhiên vì các nước phương Tây do Mỹ đứng đầu thực hành "cấm vận" chống Trung Quốc, nên từ nửa cuối năm 1951 trở đi, kim ngạch buôn bán giữa Trung Quốc với các nước phương Tây bị sụt giảm mạnh, thậm chí buôn bán của một số nước với Trung Quốc còn bị đình đốn. Nhưng từ 1953 đến nay, con số này đã bắt đầu được khôi phục và tăng lên khá rõ rệt.
Về quan hệ buôn bán giữa Trung Quốc và Mỹ, Lôi Nhiệm Dân nói, bốn năm qua chính phủ Mỹ đã cắt đứt quan hệ buôn bán với Trung Quốc, nhưng một số nhân sĩ giới công thương Mỹ vẫn giữ mối liên hệ về nghiệp vụ với các cơ quan, xí nghiệp Trung Quốc, nhiều công ty và xí nghiệp Mỹ mong muốn buôn bán với Trung Quốc. Lôi Nhiệm Dân nói: chính phủ Trung Quốc ủng hộ nguyện vọng đó, một khi có điều kiện, chúng tôi sẵn sàng trao đổi buôn bán với giới công thương nghiệp Mỹ.
Lôi Nhiệm Dân nêu rõ: công cuộc xây dựng kinh tế qui mô lớn của Trung Quốc tạo ra tiền đề rộng lớn cho ngành ngoại thương Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc cho rằng, khôi phục và phát triển buôn bán bình thường trên quốc tế không chỉ có lợi cho các nước phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, mà còn có tác dụng làm dịu tình hình căng thẳng trên thế giới.
Tiếp đó, Lôi Nhiệm Dân trả lời nhiều câu hỏi do các nhà báo nêu ra. Hôm sau, báo chí các nước lớn Tây Âu tới tấp đưa tin về bài phát biểu của Lôi Nhiệm Dân.
Trước khi tổ chức họp báo, Lôi Nhiệm Dân đã nhiều lần gặp gỡ với Điền Nam Đặc [?], Trưởng ban Hải ngoại của Hội Liên hiệp công nghiệp Anh từ Anh đến Genève, cùng nhau trao đổi ý kiến về việc cử đại diện thương mại giữa hai nước Trung - Anh. Trên cơ sở đó, nghị sĩ Công đảng, cựu Bộ trưởng Thương mại Anh [Harold] Wilson và nghị sĩ đảng Bảo thủ Anh John Brown sẽ đến Genève vào hạ tuần tháng 5 và sẽ gặp Chu Ân Lai.
Từ 3 giờ đến 6 giờ chiều ngày 23/5, tại biệt thự Vạn Hoa, Chu Ân Lai đã tiếp Menon, đặc sứ của Nehru, đại diện thường trực của Ấn Độ tại LHQ. Menon đến Genève tối 21/5 để tiến hành hoạt động ngoại giao phối hợp với các nước lớn theo lệnh của Nehru. Menon chuyển tới Chu Ân Lai nguyện vọng của Nehru mong muốn giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương, đồng thời chuyển lời của Nehru mời Chu Ân Lai, trên đường về nước, thuận đường ghé thăm Ấn Độ.
Menon nói: hội nghị Colombo đã chấp nhận chủ trương của Ấn Độ, đưa ra năm đề nghị với hội nghị Genève:
Ngừng bắn;
Hai bên đàm phán trực tiếp;
Pháp công khai cam kết tại hội nghị các nước lớn là dành cho ba nước Đông Dương được hoàn toàn độc lập;
Bốn nước lớn là Trung Quốc, Liên Xô, Anh, Mỹ bảo đảm chiến tranh Đông Dương không tái diễn;
Báo cáo các vấn đề này với LHQ.
Chu Ân Lai nêu rõ với Menon: thông cáo của Hội nghị Colombo và chủ trương của chúng tôi, về đại thể là giống nhau, chỉ có đề nghị thứ năm về việc báo cáo với LHQ là còn có khoảng cách với chúng tôi.
Menon nói: "Thủ tướng Nehru yêu cầu tôi phải tiếp xúc nhiều với ngài. Nếu ngài muốn làm gì, ngài có thể nói thẳng với tôi. Trung Quốc và Ấn Độ có tình hữu nghị truyền thống, gần đây lại cùng nhau ký kết nghị quyết về vấn đề Tây Tạng, vì vậy giữa Trung Quốc và Ấn Độ không nên câu nệ và khách khí.."
Chu Ân Lai nói, hội nghị Genève đã họp được bốn tuần lễ, hiện tại có người muốn hội nghị tan vỡ, không có kết quả gì, đó là điều làm tôi lo ngại. Tôi sẽ cố gắng hết sức để đạt được thỏa thuận, nhưng phải cả hai bên cùng có nguyện vọng này thì mới thực hiện được. Nếu như rút quân ở Triều Tiên, thì cả hai bên đều phải tiến hành cùng một lúc, không thể chỉ một bên rút quân, còn bên kia được để quân đội ở lại để bảo vệ cuộc tổng tuyển cử.
Chu Ân Lai nói, về vấn đề Triều Tiên, trước đây ngài cũng đã từng có nhiều cố gắng. Trong ngày thảo luận thứ hai, ngoại trưởng Nam Il đã đưa ra một phương án toàn diện, nhưng phía LHQ trong suốt bốn tuần lễ qua đã không đưa ra bất kỳ một phương án nào cả. Ngày hôm qua họ vẫn nêu ra vấn đề cũ, tức là để cho Lý Thừa Vãn thống nhất cả Triều Tiên. Thủ tướng Nehru từng nói: Triều Tiên nhất định phải thống nhất, nhưng thống nhất không thể do bên này gán ép cho bên kia. Nhưng Lý Thừa Vãn đang đòi làm như vậy. Đề nghị của Ngoại trưởng Nam Il là bình đẳng cho cả hai bên. Hôm qua, chúng tôi lại đưa ra đề nghị bổ sung là để cho các nước trung lập giám sát cuộc bầu cử tự do. So sánh hai phương án với nhau sẽ thấy ngay ai là kẻ muốn kéo dài. Mỹ đang muốn lấy việc đó để chứng minh là đàm phán không thể giải quyết được vấn đề. Nhưng, như vậy là không đúng. Chúng tôi cho rằng, vấn đề Triều Tiên có thể giải quyết được. Vấn đề là ở chỗ hai bên hiệp thương bình đẳng với nhau hay là một bên áp đặt ý kiến của mình cho phía bên kia.
Chu Ân Lai nói với Menon: chúng tôi cũng nghĩ vấn đề Đông Dương càng cấp bách hơn, vì cần đình chiến ở đó. Nếu thực hiện được điều này thì mưu đồ mở rộng chiến tranh của tập đoàn hiếu chiến sẽ bị thất bại. Trung tâm của vấn đề là, Mỹ muốn làm cho nước Việt Nam DCCH càng nhỏ càng tốt, để họ huấn luyện quân đội Bảo Đại sau này đứng lên tiêu diệt nước Việt Nam DCCH. Chỉ với điều kiện như vậy, Mỹ mới muốn đình chiến. Một số người trong chính phủ Pháp, trong đó có Bidault, chạy theo chính sách này của Mỹ."2
Hai ngày sau, hồi 10 giờ 30 phút sáng 25/5, Chu Ân Lai lại gặp Menon để trình bày quan điểm của mình về vấn đề Triều Tiên và Đông Dương. Về vấn đề Đông Dương, Chu Ân Lai nói, trong phương án của Pháp, Pháp chia quân đội ở Đông Dương làm hai loại chính qui và không chính qui, mãi đến hôm qua tôi mới rõ dụng ý của họ. Mục đích của Pháp là muốn coi lực lượng bộ đội Việt Minh ở Nam Bộ Việt Nam cùng lực lượng vũ trang nhân dân ở Lào và Campuchia đều là loại quân không chính qui, phải giải giáp vũ trang. Như vậy sẽ không phải qui định khu vực tập kết cho số quân đội này và giải giáp vũ trang của họ cũng không bị coi là hành động chiến tranh.
Menon nói với Chu Ân Lai: cách tư duy của người phương Đông và người phương Tây khác nhau. Có việc người phương Đông coi là vấn đề chính trị, thì người phương Tây lại cho là vấn đề quân sự. Hai loại vấn đề này có thể tách riêng ra để lần lượt thảo luận.
Menon đề nghị Chu Ân Lai là sẽ nói lại với Eden nội dung vấn đề nêu trên, sẽ rất hữu ích. Buổi trưa, Menon sẽ cùng ăn trưa với Eden, "Nếu ngài đồng ý, tôi sẽ đề nghị ông ta và ngài gặp nhau vào tối nay hoặc ngày mai. Tôi cần có mặt hay không, tùy hai ngài quyết định".
Chu Ân Lai đồng ý đề nghị của Menon. Chu nói: tôi không phản đối việc gặp ngài Eden, xin ngài cứ chủ động. Trung Quốc đến đây chính là vì muốn khôi phục hòa bình ở Đông Dương, chúng tôi hoan nghênh tất cả mọi người muốn gặp gỡ, tiếp xúc với chúng tôi.3
Hoạt động phối hợp của Menon đã đem lại kết quả tích cực. Đúng vào dịp diễn ra cuộc nói chuyện lần này, Chu Ân Lai đã hạ quyết tâm là phải đi trước một bước trong cuộc tranh cãi không có kết quả, tách bóc vấn đề, đơn giản hóa tình hình phức tạp hiện tại. Phe phương Đông không sợ việc đình chiến ở Đông Dương trước, giải quyết các vấn đề khác sau. Chu Ân Lai lập tức trao đổi ý kiến với đại diện của Liên Xô và Việt Nam, được họ ủng hộ.
Trải qua mấy lần tiến thoái, lập trường của hai phe Đông và Tây về vấn đề Đông Dương đã dần nhích lại với nhau. Ngày 24/5, có nhà báo hỏi Hoàng Văn Hoan, người phát ngôn của đoàn đại biểu Việt Nam: có phải chỉ sau khi đạt được thỏa thuận về giải quyết vấn đề chính trị, Tư lệnh của quân đội hai bên Việt Nam - Pháp mới thảo luận vấn đề đình chiến không? Hoàng Văn Hoan trả lời: "Phải ngừng bắn trước. Chúng tôi không kèm theo điều kiện chính trị gì cho việc ngừng bắn cả. Nếu như nói, trong phương án của ông Phạm Văn Đồng, điều khoản về giải quyết chính trị được đặt trước, đó cũng chỉ là cách diễn đạt thôi". Nghe câu trả lời này, phóng viên Pháp có mặt tại chỗ lúc đầu còn tưởng là tai mình nghe nhầm. Như vậy rõ ràng là có ý nói Việt Nam chấp nhận ngừng bắn làm điều kiện tiên quyết để tiếp tục hội đàm.
Ngày hôm nay còn có một cử chỉ sáng suốt nữa. Đó là chiều nay, hội nghị đã tiến hành phiên họp hẹp thứ năm về vấn đề Đông Dương, trong lúc hội nghị nghỉ giữa giờ, Ngoại trưởng Pháp Bidault đã chủ động chào Chu Ân Lai. Đây lại là một biểu hiện nữa của sự hòa dịu.
Trong khi Chu Ân Lai và Menon gặp nhau lần thứ hai, ngày 25/5, xung quanh Cung Vạn Quốc đã có người đồn đại rằng bài phát biểu chiều nay của Phạm Văn Đồng sẽ rất quan trọng. Quả nhiên, tại cuộc họp hẹp chiều hôm đó, Phạm Văn Đồng phát biểu 15 phút. Ông nói: ngừng bắn phải trên cơ sở sau đây: “Việc xác định và điều chỉnh đường ranh giới ngừng bắn phải dựa trên cơ sở: hai bên điều chỉnh (chiếm đóng) khu vực phải cân nhắc, xem xét các yếu tố nhân khẩu, trạng thái chính trị, phát triển kinh tế v.v... để có thể quản lý kinh tế và hành chính có hiệu quả khu vực mình kiểm soát. Trong điều kiện có thể, đường ranh giới ngừng bắn còn phải cân nhắc đến các yếu tố khác, như địa lý... để mọi người có thể dễ dàng phân biệt, đồng thời không ảnh hưởng đến sự thuận tiện về thông tin và giao thông đi lại của khu vực kiểm soát của mỗi bên."4
Khi hội nghị nghỉ, một lần nữa Bidault lại chào Chu Ân Lai. Khi kết thúc hội nghị, mọi người đứng dậy ra về, đại biểu Pháp Sason, níu tay áo trợ lý quân sự Blisson nói: “đại tá, như vậy là phân chia Việt Nam. Lần này họ đồng ý rồi". Sau đó Bidault nói: “Chúng ta hãy chia quả lê này ra làm hai phần, nhưng phần của chúng ta phải có cái cuống."
Cùng ngày, nhưng sớm hơn trước đó một chút, tướng [René] Cogny, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại miền Bắc Việt Nam đã gửi thư cho Tổng Tư lệnh quân đội Việt Nam Võ Nguyên Giáp. Lá thư do các nhân viên y tế Pháp mang đến Điện Biên Phủ trao cho Phó Sư đoàn trưởng sư đoàn 308 Cao Văn Khánh, toàn văn như sau:
"Tư lệnh lực lượng vũ trang trên bộ của quân đội Pháp tại miền Bắc Việt Nam, đại diện Tổng Tư lệnh quân Pháp tại Đông Dương, thông qua đoàn đại biểu Bộ Tổng Tư lệnh quân Pháp ở Đông Dương vừa từ Điện Biên Phủ trở về Hà Nội ngày 24/5, được biết: Bộ Tổng Tư lệnh QĐND Việt Nam đã kháng nghị về việc một máy bay B-26 đã ném bom khu vực cách Điện Biên Phủ 7 km vào tối 23/5 và sáng 24/5.
Tư lệnh lực lượng trên bộ của quân đội Pháp tại Miền Bắc Việt Nam, đại diện Tổng Tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương xác định rõ đã ra lệnh cho tất cả phi công lái máy bay chiến đấu không được tiếp cận khu vực cách Điện Biên Phủ trong vòng 10 km, vì vậy đây là sự nhầm lẫn rất đáng tiếc.
Bộ Tư lệnh Không quân Pháp tại miền Bắc Việt Nam đã ra lệnh tiến hành điều tra tình hình thực tế có thể dẫn đến sự nhầm lẫn này, đồng thời một lần nữa ra lệnh cho các đơn vị hữu quan nghiêm cấm việc bay trên vùng trời cách Điện Biên Phủ trong vòng 10 km.
Ngày 25/5/1954
Tư lệnh lực lượng trên bộ của quân đội Pháp tại Miền Bắc Việt Nam
Cogny.
10 giờ 30 phút sáng 27/5, Eden đến gặp Chu Ân Lai, đề nghị tìm biện pháp giải quyết cả gói vấn đề Đông Dương, trước hết là phải ngừng bắn trên toàn cõi Đông Dương, tiếp đến là giải quyết vấn đề giám sát quốc tế.
Chu Ân Lai đáp: Sau khi xác định rõ khu vực tập kết của quân đội hai bên đối địch ở ba nước Đông Dương, biện pháp thi hành cụ thể ở mỗi nước sẽ có khác nhau, có thể đạt được thỏa thuận trước ở ba nước, sau đó sẽ ngừng bắn. Chu Ân Lai cố ý nói bóng gió: phía Trung Quốc "vẫn đồng ý" với “mục đích trung tâm" trong đề nghị của Anh Quốc.
Nghe câu trả lời này, Eden rất mừng. Eden nói, trước tiên hai bên có thể đi đến một sự hiểu biết, sau đó sẽ thảo luận vấn đề Việt Nam. Eden còn đưa ra đề nghị rõ ràng là đại diện của hai bên tham chiến không chỉ cử sĩ quan tới gặp nhau tại Genève mà còn gặp nhau ngay tại chiến trường.
Cái hay của đề nghị này là cùng một lúc thiết lập được hai địa điểm đàm phán, kiềm chế lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau. Chu Ân Lai rất quan tâm chú ý đề nghị này.
Lần này, ngoại trưởng hai nước tuy chỉ trao đổi trong thời gian ngắn, nhưng sự hiểu biết mà hai bên đạt được lại rất quan trọng. Khi Eden đứng lên khỏi ghế sô pha để chào Chu Ân Lai, ông ta thể hiện rõ sự thoải mái, nhẹ nhõm. Lúc này, ánh mắt của Eden đã bị thu hút bởi các đồ trưng bày thể hiện văn hóa Trung Hoa đặt tại phòng khách của Chu Ân Lai, ông ta phát hiện ra là phòng khách này có rất nhiều đồ gốm sứ tinh xảo, rất đẹp của Trung Quốc. Ngay từ hồi nhỏ, Eden đã thích đồ sứ Trung Quốc, và ông ta có khả năng quan sát, phân biệt, Eden khen ngợi mấy câu.
Chu Ân Lai nhanh trí tiếp chuyện: “Ngài Eden rất am hiểu lĩnh vực này nhỉ !".
Hai vị ngoại trưởng đều đứng lại ngắm nhìn một lượt các loại đồ sứ bày trong phòng. Eden nói: Có phải những đồ sứ tinh xảo này, một số được chuyển từ Đại sứ quán Trung Quốc tại Bern đến, một số khác được mang trực tiếp từ Bắc Kinh tới? Ông ta đoán không đúng lắm, các đồ sứ Trung Quốc bày tại biệt thự Vạn Hoa này đều do Đại sứ quán Trung Quốc ở Bern chuyển đến, đó là công lao của Phùng Huyền và Ôn Minh Cửu.
Chu Ân Lai vui vẻ trò chuyện với Eden về đồ gốm sứ cổ của Trung Quốc và mời Eden đến thăm các gian phòng khác để xem các loại đồ sứ và tranh cổ của Trung Quốc trang trí tại đây. Khúc nhạc dạo nhẹ nhõm, thoải mái này vô cùng hữu ích. Eden cho rằng Chu Ân Lai hiểu rất rõ ý nghĩa các vật phẩm nghệ thuật của tổ quốc mình đối với vị khách tới thăm, rất tình người. Đồ sứ cổ tao nhã, tinh xảo của Trung Quốc đã làm cho tình cảm cá nhân của Eden và Chu Ân Lai xích lại gần nhau.5
Có thể thấy ngay được những đổi thay nho nhỏ của Hội nghị Genève. Tại cuộc họp bàn về vấn đề Đông Dương buổi chiều cùng ngày, Bidault đã gặp Phạm Văn Đồng, hai bên hàn huyên với nhau mấy câu. Đây là lần trao đổi, trò chuyện đầu tiên giữa hai người kể từ ngày hội nghị Genève khai mạc đến nay.
Tại cuộc họp hôm nay, Chu Ân Lai đã đưa ra "Đề nghị của đoàn đại biểu Trung Quốc về việc chấm dứt hành động đối địch tại Đông Dương", toàn văn như sau:
Hiệp nghị các nguyên tắc cơ bản về chấm dứt hành động đối địch tại Đông Dương của các nước tham dự hội nghị Genève như sau:
Tất cả các lực lượng vũ trang của hai bên tham chiến - lục quân, hải quân và không quân - thực hiện ngừng bắn hoàn toàn và cùng một lúc trên toàn lãnh thổ Đông Dương;
Hai bên bắt đầu đàm phán về việc điều chỉnh thích đáng khu vực ở vùng hai bên chiếm đóng và về việc di chuyển quân đội hai bên khi đang tiến hành điều chỉnh khu vực cũng như về các vấn đề hữu quan khác có thể xảy ra;
Đồng thời với việc chấm dứt các hành động đối địch trên toàn lãnh thổ Đông Dương, chấm dứt việc đưa quân đội và các nhân viên quân sự mới cũng như các loại vũ khí, đạn dược từ bên ngoài vào trong lãnh thổ Đông Dương.
Uỷ ban Liên hợp, do đại diện của Bộ Tư lệnh hai bên lập ra, tiến hành giám sát việc thi hành các điều khoản của hiệp định chấm dứt các hành động đối địch. Việc thi hành các điều khoản của hiệp định nói trên cũng cần có sự giám sát quốc tế, do một Uỷ ban các nước trung lập đảm nhiệm.
Về các nước thành viên của Uỷ ban giám sát trung lập, sẽ được xem xét riêng.
Các nước tham dự hội nghị có trách nhiệm bảo đảm việc thi hành hiệp định.
Vấn đề tính chất nghĩa vụ của các nước hữu quan, sẽ được xem xét sau.
Hai bên trao trả tù binh và thường dân bị bắt giữ."
Phát biểu tại hội nghị, Chu Ân Lai nêu rõ: Tình hình cụ thể của ba nước Đông Dương khác nhau, nhưng đều có vấn đề phải ngừng bắn. Nếu đã cần ngừng bắn, thì hai bên tham chiến cần phải gặp gỡ, tiếp xúc với nhau tại Genève và tại chiến trường Đông Dương nhằm xác định hàng loạt vấn đề cụ thể. Tiến trình ngừng bắn của cuộc chiến tranh Triều Tiên đã tạo ra một hình mẫu cho cuộc ngừng bắn ở Đông Dương, có thể thành lập một Uỷ ban giám sát gồm các nước trung lập để thừa hành chức trách.
Cùng ngày, Tân Hoa xã đã phát đi một bản tin được Chu Ân Lai phê duyệt: “Tại cuộc họp đại diện chín nước thảo luận vấn đề Đông Dương hôm nay, Đoàn đại biểu Trung Quốc đã có những “cố gắng quan trọng có tính chất xây dựng” nhằm tìm kiếm sự thỏa thuận về mặt “đình chiến quân sự”, Chu Ân Lai còn mở ra con đường, đề nghị Bộ Tư lệnh hai bên tham chiến trực tiếp hội đàm với nhau, nhằm tránh được một khó khăn cho cuộc hội đàm cấp cao hiện nay. Bản tin này, trên thực tế là sự bổ sung, nói rõ thêm cho đề án mà Chu Ân Lai đã dưa ra tại hội nghị. Bản tin nói rõ:
“Các vùng chiến sự ở Đông Dương phân tán, đây chỉ là vấn đề kỹ thuật, không hề ảnh hưởng nguyên tắc đình chiến cùng một lúc.
Về các khu vực tập kết quân đội của hai bên, cũng chính là vấn đề hai bên điều chỉnh khu vực, đoàn đại biểu Trung Quốc cho rằng, tình hình của ba nước Đông Dương - Việt Nam, Campuchia, Lào - hoàn toàn khác nhau, vì vậy sau khi hai bên xác định nguyên tắc điều chỉnh khu vực, còn phải căn cứ vào tình hình cụ thể của ba nước để thực hiện, vì vậy biện pháp giải quyết cũng sẽ không giống nhau, nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đối với việc hội nghị đi đến thỏa thuận việc phải có qui định về thực hiện điều chỉnh khu vực của hai bên. Đoàn đại biểu Trung Quốc đồng ý việc Bộ Tư lệnh của hai bên tham chiến, ngoài việc tiếp xúc, gặp gỡ nhau tại chỗ, mà còn cử đại diện tới gặp nhau tại Genève để đàm phán về vấn đề điều chỉnh thích đáng khu vực chiếm đóng của hai bên, về việc di chuyển quân đội của hai bên trong khi đang điều chỉnh khu vực và về các vấn đề liên quan khác có thể sẽ xảy ra. Như vậy, Hội nghị có thể để cho đại diện Bộ tư lệnh hai bên bàn bạc vấn đề điều chỉnh khu vực và lắng nghe các kết luận và đề nghị của họ."6
Nếu đề nghị trên đây được thực hiện, hội nghị Genève coi như có thêm một con đường đàm phán. Buổi tối cùng ngày, Smith báo cáo với Dulles đề án của Chu Ân Lai. Smith nói: “Hôm nay gặp khó khăn lớn, cộng sản không hề thỏa hiệp."
Bản đề án mới do Chu Ân Lai đưa ra đã làm cho không khí hội nghị càng hòa dịu hơn. Buổi tối, Bidault mở tiệc chiêu đãi Molotov. Món ăn chính trong bữa tiệc là cá tươi của hồ Leman. Molotov hỏi một câu đầy ngụ ý: “Đây là cá gì vậy? Cá của Pháp hay của Thụy Sĩ?" Hồ Leman nằm giữa Pháp và Thụy Sĩ, Molotov muốn ám chỉ rằng các quyết định của đoàn đại biểu Pháp là do đoàn tự quyết định hay do các chỉ thị từ Paris, và cũng có thể hiểu là các quyết định của đoàn Pháp tại Genève là căn cứ theo chỉ thị của chính phủ nước mình hay là dựa vào một nước lớn nào đó.
Bidault trả lời hóm hỉnh: “Còn phải xem con cá được đánh bắt từ bờ của nước Pháp hay bờ của Thụy Sĩ".
Molotov lại hỏi một câu hai hàm ý: “Có nghĩa là vấn đề đã được giải quyết rồi?"
Trong câu chuyện trao đổi, Molotov khuyên Bidault nên chấp nhận đề án của Chu Ân Lai. Như vậy, tại Genève, hai bên Pháp - Việt không chỉ có các đại diện ngoại giao đàm phán mà còn có cả các đoàn đại biểu quân sự trực tiếp gặp nhau, có lợi cho việc giải quyết vấn đề.
Bidault tỏ vẻ đồng tình và nói, càng có nhiều đại diện tại Genève tiến hành gặp gỡ, tiếp xúc là một việc tốt.
Bên ngoài hội nghị, Eden cũng làm công việc phối hợp hòa giải và do đặc sứ Ấn Độ Menon đảm nhiệm công việc điều phối, có sửa đổi nhỏ đề án của Chu Ân Lai. Đoàn đại biểu Anh có tác dụng đặc biệt làm cầu nối giữa hai phe Đông - Tây, hai bên tương đối dễ chấp nhận. Ngày 29/5, Hội nghị Genève đã thông qua đề án của Đoàn đại biểu Anh:
“Nhằm thúc đẩy việc chấm dứt sớm và đồng thời các hành động đối địch, nay đề nghị:
a. Đại diện của Bộ Tư lệnh hai bên cần nhanh chóng gặp nhau tại Genève đồng thời cũng bắt đầu tiếp xúc với nhau tại chỗ.
b. Đại diện của Bộ Tư lệnh hai bên cần nghiên cứu vấn đề bố trí quân đội sau khi chấm dứt các hành động thù địch, việc này nên bắt đầu từ vấn đề tập kết mới tại Việt Nam.
C. Họ phải sớm đưa ra báo cáo và các đề nghị với Hội nghị.
Ngày giờ gặp gỡ của đại diện Bộ Tư lệnh hai bên phải xác định xong trước ngày 1/6. Cuộc họp hẹp lần tới sẽ tiến hành vào ngày 31/5. "
Bản đề án này, nhìn bề ngoài có vẻ là nhỏ, nhưng lại là bản đề án hòa dịu thực chất đầu tiên được thông qua tại hội nghị Genève, một mặt chứng tỏ cả hai phe Đông-Tây đều mong muốn giải quyết vấn đề Đông Dương đang đổ máu, mặt khác quả thực là đã tìm ra được một con đường mới làm vùng đệm.
Ngày 31/5, đại diện Liên Xô, Molotov đưa ra đề nghị tại cuộc họp hẹp về vấn đề Đông Dương: Thành lập "Uỷ ban giám sát các nước trung lập", bao gồm bốn nước là Ấn Độ, Ba Lan, Tiệp Khắc, Pakistan, để tiến hành giám sát cuộc ngừng bắn ở Đông Dương.
Trưa ngày 1/6, Eden cùng Bidault và Smith gặp nhau. Eden bày tỏ là Anh sẽ ủng hộ lập trường của Pháp trong vấn đề Đông Dương, đồng thời nhất trí với lập trường của Mỹ trong vấn đề Triều Tiên. Eden hỏi Bidault và Smith: về vấn đề Đông Dương, “Mỹ và Pháp đánh giá thế nào về triển vọng của hội nghị Genève? Có nên nhanh chóng đi đến thỏa thuận nào đó? Cuối tuần sau có thể hình thành các điều khoản chủ yếu của Hiệp định?".
Eden nói, tối nay ông ta sẽ gặp Chu Ân Lai, nên nói gì với Chu Ân Lai? Kết quả, ba người bàn bạc là Eden nên nói cho Chu Ân Lai biết là không thể chấp nhận đề án mới nhất do Molotov đưa ra.7
Tám giờ tối, Chu Ân Lai đến biệt thự của Eden để dự tiệc. Sau nhiều lần gặp gỡ trong một tháng qua, Chu Ân Lai và Eden đã dần quen nhau, phạm vi nói chuyện cũng ngày càng rộng hơn. Khi gặp nhau, cả hai đều tỏ ra rất lịch thiệp, trong trò chuyện, hỏi, đáp khá linh hoạt. Kiều Quán Hoa nhớ lại kể: “Chu Thủ tướng đã mấy lần gặp gỡ, nói chuyện với Eden, vì Eden là một trong hai đồng Chủ tịch hội nghị Genève. Tôi được dự một lần cuộc gặp của Thủ tướng với Eden8. Eden đề cập việc: Sau ngày thành lập nước CHND Trung Hoa, các ngài đã tịch thu rất nhiều tài sản của Anh tại Trung Quốc, các ngài có xem xét gì về chuyện này? Thủ tướng đáp một cách rất khách khí: Quan hệ Trung - Anh rất dài. Từ thời Chiến tranh nha phiến đến nay đã hơn 100 năm. Các quan hệ này cũng rất phức tạp, nếu nói ai mắc nợ ai thì phải tính từ thời kỳ Chiến tranh nha phiến. Tôi nghĩ, nếu tính toán như vậy, không chắc đã có lợi cho nước Anh. Eden là con người nhanh trí, không hồ đồ, lập tức cười nói vui vẻ: tất nhiên bây giờ không cần thiết nhắc lại những chuyện đó nữa."9
Tại bữa tiệc tối hôm đó, Chu nói với Eden: đã đến lúc hai bên Trung - Anh nên có hành động để cải thiện quan hệ giữa hai nước.
Nguyên là, trước đó hai ngày, hồi 11 giờ 30 phút ngày 30/5, tại biệt thự đồi Vạn Hoa, Chu Ân Lai đã tiếp cựu Bộ trưởng Thương mại Anh Wilson và nghị sĩ đảng Bảo thủ Anh John Brown vừa từ Anh tới. Wilson nói với Chu Ân Lai: Trung Quốc nên lập cơ quan thương mại tại Anh quốc và nói, để thúc đẩy mậu dịch phát triển, Anh cũng cần lập cơ quan thương mại tại Trung Quốc.
Chu Ân Lai đã trình bày với hai nghị sĩ nổi tiếng của Anh về quan điểm đối với vấn đề vị trí quốc tế của Trung Quốc. Chu Ân Lai nói: Vấn đề quyền đại diện của Trung Quốc tại LHQ là vấn đề quyền lợi, chứ không phải là vấn đề đàm phán, do Mỹ thao túng, đại đa số các nước hội viên LHQ đã cướp mất quyền lợi này của Trung Quốc. Quan điểm của chúng ta khác nhau ở chỗ: chúng tôi cho rằng nước Anh có thể có một số tác dụng trong vấn đề này. Nước Anh có thể nói rõ cho thế giới biết ý kiến của mình khác với Mỹ và từ đó cũng có thể ảnh hưởng tới Mỹ.10
Hôm nay, rõ ràng Eden hiểu khá rõ thái độ của Chu Ân Lai, ngay sau khi gặp gỡ, đã cùng Chu Ân Lai thảo luận về quan hệ Trung – Anh. Eden nói: Chúng tôi có một người tại Bắc Kinh, nhưng các Ngài lại không có ai ở London. Quan hệ giữa chúng ta không nên cắt đôi như thế, liệu Ngài có thể cử một “Trevelyan của Trung Quốc tới London không?".
Chu Ân Lai tỏ thái độ đồng ý. Hoạn Hương cùng có mặt tại cuộc gặp nói luôn: tôi sẽ giải quyết các vấn đề sự vụ cụ thể.
Ngoại trưởng hai nước Trung - Anh đi đến thỏa thuận miệng tại chỗ: thành lập văn phòng đại diện tại thủ đô hai nước.
Ngoại trưởng hai nước nói đến vấn đề chiếc ghế của Trung Quốc tại LHQ. Chu Ân Lai hỏi: ngài Eden có quan điểm như thế nào về chiếc ghế của Trung Quốc tại LHQ? Eden nói xa xôi bóng gió: "Có mấy việc tôi không muốn gặp phải, một là vấn đề Kashmir, hai là sự tranh chấp giữa Israel với các nước Arập. Quả thật, tôi không hiểu vì sao ngài lại vẫn thích thú với việc tham gia LHQ? LHQ quả là nơi phiền toái, chỉ có ở bên ngoài LHQ mới có thể “tiêu dao tự tại”.
Lời nói của Eden lúc này là không thật. Eden hoàn toàn biết rõ tác dụng của LHQ đang càng ngày càng tăng lên, tại sao Trung Quốc lại không muốn sớm khôi phục địa vị của mình tại LHQ và phát huy tác dụng của mình ở LHQ? Rõ ràng, nước Anh không muốn nhất trí với ý kiến của Trung Quốc về vấn đề này.
Chu Ân Lai đáp lại Eden một câu: ngài cho rằng chúng tôi rất thích thú với việc tham gia LHQ ư? Đúng như ngài nói, mấy năm qua chúng tôi không ở trong đó.
Hai bên chuyển đề tài sang nói về việc phương Tây thi hành “cấm vận" đối với Trung Quốc. Eden nói đến công tác trị thủy sông Hoài của Trung Quốc và hỏi: Trung Quốc có đầy đủ thiết bị cơ khí xây dựng không? Nếu không đủ, việc cấm vận của phương Tây đối với hạng mục này có thể sẽ nới lỏng.
Chu Ân Lai đáp, người Trung Quốc có khả năng giải quyết khó khăn của mình. Tất nhiên hiện nay chúng tôi quả là đang có những khó khăn trong xây dựng cần phải giải quyết.
Khi đề cập tới vấn đề Đông Dương, một lần nữa, Eden lại nói: tình hình tại nơi đó rất nguy hiểm, đoàn đại biểu Anh và các nước khác đều quan tâm. Đoàn đại biểu Trung Quốc, nhất là đoàn đại biểu Việt Nam liệu có quyết tâm đạt được thỏa thuận về vấn đề này không? Eden nói với Chu Ân Lai, hy vọng Chu có thể hiểu lập trường của đoàn Anh và của các đoàn đại biểu khác. Về vấn đề giám sát quốc tế ở Đông Dương, đề án của Liên Xô nói Tiệp Khắc và Ba Lan tham gia vào Uỷ ban giám sát, các nước phương Tây không thể chấp nhận. Anh cũng không tín nhiệm hai nước này. Tiệp Khắc và Ba Lan là hai nước châu Âu, không hiểu rõ về Đông Dương.
Chu Ân Lai đáp: Uỷ ban giám sát về vấn đề Triều Tiên cũng có nước châu Âu, họ làm việc rất tốt. Vả lại, trong đề án của Liên Xô nêu ra bốn nước, trong đó Ấn Độ và Pakistan có quan hệ rất mật thiết với Anh, chính phủ Anh phải hài lòng mới đúng chứ. Còn việc Tiệp Khắc và Ba Lan tham gia Uỷ ban giám sát sẽ có lợi cho việc bảo đảm quyền lợi của nhân dân Việt Nam.
Eden chuyển lời hỏi thăm của Thủ tướng Anh Churchill tới Chu Ân Lai. Eden nói: “Phu nhân ngài Churchill đang dưỡng bệnh ở gần đây, Churchill có thể sẽ ghé Genève để đón phu nhân. Nếu đúng như vậy, Thủ tướng Churchill cũng muốn gặp Thủ tướng Chu Ân Lai."
Chu Ân Lai cám ơn lời thăm hỏi của Churchill và nói, nếu Thủ tướng Churchill đến, nhất định chúng tôi sẽ đón tiếp.
Trong bữa tiệc, Eden ba lần nói muốn sang thăm Trung Quốc, Chu Ân Lai biểu thị rõ là hoan nghênh.
Sau khi rời khỏi nhà Eden, Chu Ân Lai bí mật đến chỗ ở của Bidault, bí mật gặp Bidault lúc 10 giờ tối.
Chu Ân Lai nói với Bidault: chúng tôi đến họp ở Genève là nhằm khôi phục hòa bình ở Đông Dương, chúng tôi chỉ có thể làm cho hội nghị thành công, không thể để cho hội nghị thất bại. chỉ cần mọi người đều quyết tâm như vậy thì hội nghị sẽ có tiến triển nhanh chóng. Chúng tôi ở vào địa vị có tác dụng thúc đẩy, chúng tôi hy vọng sớm có biện pháp để giải quyết vấn đề, tất nhiên nó đòi hỏi chúng ta phải cố gắng. Ngài Bidault đã nêu ra sự nguy hiểm của việc mở rộng chiến tranh, chúng tôi cho rằng, xuất phát từ lợi ích của nhân dân Việt Nam và lợi ích dân tộc của nước Pháp, cần phải chấm dứt chiến tranh. Nguy hiểm là có, đó là sự can thiệp của Mỹ, điều đó không có lợi cho nước Pháp, không có lợi cho Đông Dương và Đông Nam Á, nó đe dọa an ninh của châu Á và của Trung Quốc, đó là điều chúng tôi quan tâm.
Bidault đáp: Tôi muốn nói lại một lần nữa yêu cầu của chúng tôi là:
Mau chóng đi đến thỏa thuận, ít nhất là một hiệp định hợp lý, tạm thời;
Hai bên tham mưu hoạch định khu vực tập kết;
Giải quyết vấn đề giám sát.
Chu Ân Lai nói: ba điểm nói trên đều hướng tới hòa bình, chỉ cần các ý kiến có lợi cho hòa bình, chúng tôi sẽ hết lòng ủng hộ, hòa bình là mục đích của chúng tôi. Hy vọng chúng ta cùng hợp tác nhằm đạt được mục tiêu chung đó. Cục diện tình hình xấu đi sẽ chẳng có lợi cho một bên nào cả, vì vậy, ba điểm quan trọng mà ngài Bidault nêu ra đều cần phải giải quyết và cũng có thể nhanh chóng giải quyết được.
Cùng ngày, Chu Ân Lai gửi điện cho Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Trung ương ĐCS Trung Quốc, báo cáo tình hình tiến triển trong cuộc gặp gỡ với ngoại trưởng Anh. Chu nói, cả Wilson, Robert Brown và Eden của Anh đều bày tỏ với Lôi Nhiệm Dân rằng hoan nghênh Trung Quốc lập cơ quan Thương vụ thường trực tại London. Để thúc đẩy quan hệ Trung - Anh, chúng ta có thể chính thức nêu ra với phía Anh về việc thành lập cơ quan Thương vụ thường trực. Cơ quan này cần được hưởng các quyền lợi và địa vị ngoại giao hoàn toàn, trên thực tế là một cơ quan ngoại giao.
Như vậy là, nhân dịp hội nghị Genève về Đông Dương đạt được bước tiến triển tích cực, mối quan hệ Trung - Anh cũng xuất hiện sự hòa giải làm mọi người chú ý. Ngày 3/6, Bộ Ngoại giao Anh tuyên bố, Trung Quốc đã đồng ý cho phép các thương nhân Anh có quyền tự do hoạt động rộng hơn trên đất Trung Quốc, cử phái đoàn ngoại giao tới London, xem xét lại các vụ án liên quan đến công dân Anh đang bị giam giữ và sẽ tạo thuận lợi cho các thương nhân Anh muốn rời khỏi Trung Quốc.
Ngày hôm sau, Hoạn Hương hẹn gặp Trevelyan, thông báo cho phía Anh biết, phía Trung Quốc đồng ý cử quan chức cấp Đại biện đến thường trú tại London, cùng phía Anh tiến hành đàm phán để giải quyết các vấn đề tồn tại giữa hai nước. Trevelyan hứa ngay rằng sẽ lập tức báo cáo với Eden. Trevelyan có nguyện vọng tốt đẹp muốn cải thiện quan hệ Anh - Trung. Sau khi đến Bắc Kinh vào tháng 8 năm 1953 đến nay, ông ta vẫn chưa có dịp gặp Chu Ân Lai. Lần này, tại Genève, được Eden dẫn đầu, Trevelyan mới được bắt tay Chu Ân Lai, ông ta vẫn bị hấp dẫn bởi Chu Ân Lai, cho rằng Chu Ân Lai là người "được giáo dục tốt, kiến thức sâu rộng, nhận thức sâu sắc các sự việc, cử chỉ nhã nhặn". Theo Trevelyan, "bất kể nhìn từ góc độ nào, Chu Ân Lai vẫn là một nhân vật phi thường, một nhà đàm phán đặc biệt sắc xảo và nhạy bén, có một sức lực dồi dào bất tận, có khả năng giải quyết vấn đề khiến mọi người phải kinh ngạc. Không chỉ như vậy, Chu Ân Lai còn là một người giản dị, dễ gần, đồng thời lại có sức mạnh hơn người."11
Từ London đến Bắc Kinh, lại từ Bắc Kinh đến Genève, Trevelyan đã góp phần vào việc cải thiện quan hệ hai nước Anh - Trung.
1 Phỏng vấn Hà Phương ngày 6/1/2000, phỏng vấn Mã Liệt ngày 29/5/1998 và phỏng vấn Quản Trấn Hồ ngày 5/3/1998 tại Bắc Kinh.
2 Đại sự ký hoạt động ngoại giao của Chu Ân Lai giai đoạn 1949-1975, sđd, tr. 62.
3 Lý Liên Khánh, Chu Ân Lai – nhà ngoại giao lớn t.2, sđd, tr. 137-140.
4 Philippe Devillers & Jean Lacouture, sđd, tr. 206-207.
5 Sir Anthony Eden, sđd, tr. 121-122.
6 Tuyển tập văn kiện Hội nghị Genève, sđd, tr. 192.
7 Foreign Relation of the United States 1952-1954, Volume XVI, the Geneva Conference, United States Goverment Printing Office, Washington 1981, tr. 947.
8 Ở đây, Kiều Quán Hoa nhớ nhầm, ông được tháp tùng Chu Ân Lai gặp gỡ Eden không chỉ một lần. TG.
9 Hồ sơ lưu trữ về hội nghị Genève: Hồi ký Kiều Quán Hoa, Tiền Gia Đông bảo quản.
10 Đại sự ký hoạt động ngoại giao của Chu Ân Lai giai đoạn 1949-1975, sđd, tr.63.
11 H. Trevelyan, Worlds Apart China, 1953-1954, USSR 1962-1965, published 1971 by Macmillan, London Ltd, tr.79-80.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:05:55 GMT 9
CHƯƠNG 19 Đối thoại giữa hai nước lớn Trung – Mỹ
Đến Genève, giữa hai phái đoàn Trung Quốc và Mỹ dường như có một “vĩ tuyến 38” vô hình ngăn cách giữa hai bên. Hai bên né tránh lẫn nhau, tạo thành một bối cảnh rất đặc biệt tại Vạn quốc cung. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa hai nước lớn Trung - Mỹ vốn từ lâu đã có nhiều mối liên quan với nhau là không thể cắt đứt được, cho dù đã đối đầu nhau trên chiến trường Triều Tiên. Chu Ân Lai quyết tâm giữ thế chủ động, thực hiện tiếp xúc ngoại giao giữa hai bên. Dulles cũng có “tâm sự” muốn “thổ lộ” với Chu Ân Lai. Tiến trình đàm phán kéo dài giữa Trung Quốc và Mỹ đã được các đại biểu cấp cao hai nước mở ra tại hội nghị Genève.
Hồ Leman tiếp nhận nước của những dòng sông từ bốn phương tám hướng đổ vào, màu trời, màu núi cùng hòa với màu sắc mặt nước hồ, nhưng giữa những người Trung Quốc và những người Mỹ ở Genève, dường như có một “vĩ tuyến 38” vô hình. Phóng viên nổi tiếng người Mỹ W. Charles nói “Bức tường bằng hàng rào đã dựng lên rồi. Trong các thời gian giải lao tại hội nghị, mỗi khi có đại biểu Trung Quốc xuất hiện, các đại biểu Mỹ lại cẩn trọng đưa mắt đi chỗ khác”.
Trước thái độ lạnh nhạt của Dulles, các đại biểu Trung Quốc thấy rất tức giận, Vương Bỉnh Nam vốn tính nóng như lửa lại càng khó chịu. Ông có biết W. Robertson - một nhân vật quan trọng trong phái đoàn Mỹ. Người này khoảng 60 tuổi, sau chiến tranh thế giới thứ hai, từng làm tham tán kinh tế Mỹ tại Trung Quốc. Sau khi kháng chiến thắng lợi, tướng Mayor đến Trung Quốc đàm phán với trung ương ĐCS Trung Quốc, Robertson là một trong những trợ lý của ông ta, và cũng là một trong những thành viên trong nhóm 3 người của “sở điều quân Bắc Bình” năm 1946 (hai thành viên còn lại là Diệp Kiếm Anh và Trịnh Giới Dân). Trong quá trình “điều đình”, Robertson luôn bênh vực Quốc dân đảng, khiến các đại biểu cộng sản Trung Quốc hết sức bất bình. Khi cuộc nội chiến ở Trung Quốc chuẩn bị bùng nổ, Robertson trở về Mỹ, làm trợ lý Quốc vụ khanh phụ trách vấn đề Viễn Đông, là trợ lý đắc lực của Quốc vụ khanh [Dean] Acheson. Lần này đến Genève với tư cách phó trưởng phái đoàn Mỹ, vị trí của Robertson trong đoàn đàm phán chỉ kém Dulles và Smith.
Humphrey Trevelyan hồi tưởng lại, một lần trong cung Vạn quốc, Vương Bỉnh Nam vô tình giáp mặt Robertson, hai người quen cũ đối đầu nhìn thẳng vào nhau mắt như nảy lửa, dường như chỉ chực cãi nhau. Đúng lúc có một thành viên phái đoàn Anh là J. McTain đi qua nhìn thấy, và có ý giúp giải vây. McTain lấy chiếc máy ảnh nhỏ ra và nói to: “Tôi vừa chộp được một khoảnh khắc đẹp đây, không biết tạp chí “Cuộc sống” sẽ trả tôi nhuận bút bao nhiêu đây”. Nghe câu nói này, Robertson và Vương Bỉnh Nam lập tức rút đi.1
Thế nhưng, mối quan hệ Trung - Mỹ đã được thiết lập cả gần thế kỷ kể từ năm 1884, khi thương thuyền của Mỹ mang tên “Hoàng hậu Trung Quốc” lần đầu tiên đến Trung Quốc, và liên tục phát triển, cho dù hai bên đã đối đầu trên chiến trường Triều Tiên, cũng làm sao có thể cắt đứt được mối quan hệ đó? Chiến tranh Triều Tiên đã tạm ngừng, giữa Trung Quốc và Mỹ vẫn còn rất nhiều vấn đề cần được giải quyết. Trước tiên là việc công nhận lẫn nhau giữa hai nước lớn, rồi thiết lập quan hệ ngoại giao, việc dẫn độ tù binh chiến tranh sau cuộc chiến Triều Tiên, rồi những vấn đề như lưu học sinh Trung Quốc tại Mỹ về nước hay các tài sản của Mỹ tại Trung Quốc v.v.. Nếu liệt kê ra cũng khó mà đếm hết được. Mặc dù Dulles từ chối hội đàm với Chu Ân Lai, nhưng trong tay còn bản danh sách dài các đề mục, nếu không có sự trả lời của Trung Quốc, những vấn đề đó sẽ vĩnh viễn tồn tại. Trong đó, cấp bách nhất là việc giải quyết vấn đề hồi hương cho một số người Mỹ tại Trung Quốc. Những người Mỹ này, một bộ phận đã xâm nhập lãnh thổ Trung Quốc từ trước và trong chiến tranh Triều Tiên nên đã bị bắt, một bộ phận khác vốn đã ở Trung Quốc từ trước đó, do bị cáo buộc phạm tội nên bị bắt giam. Số lượng những đối tượng này không nhiều, nhưng lại được chính quyền Mỹ coi trọng, nên Dulles đã phải nghĩ cách để đưa họ về nước. Mặc dù bản thân Dulles tuyệt đối không muốn hội đàm với Chu Ân Lai, nhưng ông ta lại chỉ thị cho các thành viên cấp thấp trong phái đoàn Mỹ cố gắng tiếp xúc với các quan chức Trung Quốc, tranh thủ một bước giải quyết vấn đề người Mỹ bị giam giữ ở Trung Quốc.
Dulles vừa rời Genève, chuyên cơ đã tới. Ngày 6/5, Smith hội kiến với thành viên đoàn đại biểu Anh Trevelyan. Ông kiến nghị đoàn Mỹ có thể thông qua Hội chữ thập đỏ quốc tế tại Genève để liên hệ với đại biểu Trung Quốc, thương lượng các hướng giải quyết vấn đề.
Smith thấy đề nghị này khả thi, lập tức cử Johnson ngày 12/5 đến thương lượng với đại diện Hội chữ thập đỏ quốc tế.
Nhận được tin báo của Trevelyan và Hội chữ thập đỏ quốc tế, Chu Ân Lai triệu tập ngay cuộc họp các trợ lý để thảo luận đối sách. Trước khi tới Genève, Chu Ân Lai không hề nghĩ rằng tại hội nghị này sẽ có thể đàm phán một cách thực sự được vấn đề cụ thể nào với Mỹ, song ông vẫn hết sức hy vọng tìm kiếm những cuộc gặp như vậy ở Genève. Vì vậy, ông nói với các trợ lý chúng ta không nên từ chối tiếp xúc với Mỹ. Trong khi quan hệ giữa Mỹ với Trung Quốc căng thẳng như vậy, trong bối cảnh Mỹ áp dụng các chính sách cứng rắn và đối đầu với Trung Quốc như vậy, chúng ta có thể nắm lấy việc Mỹ hết sức hy vọng những người Mỹ bị giam giữ tại Trung Quốc được tự do và về nước để mở ra con đường tiếp cận. Xét từ phương diện khác, chiến tranh Triều Tiên đã kết thúc, Trung Quốc rất cần tiến hành xây dựng quy mô lớn, hết sức cần người tài, nên rất muốn đông đảo lưu học sinh tại Mỹ nhanh chóng về nước.
Theo chỉ thị của Chu Ân Lai, Hoạn Hương đến tìm Trevelyan, nhờ ông chuyển lời tới đoàn Mỹ rằng hiện nay cả Trung Quốc và Mỹ đều có phái đoàn cấp cao tại Genève, có thể tiến hành tiếp xúc trực tiếp để thảo luận tìm giải pháp cho các vấn
đề cần giải quyết.2
Thái độ của Mỹ bắt đầu lung lay. Ngày 13/5, Dulles gửi điện thông báo cho Smith rằng Bộ trưởng Tư pháp sẽ xem xét lại quyết định cấm các lưu học sinh Trung Quốc về nước. Kết quả của lần xem xét có thể khiến đại bộ phận lưu học sinh Trung Quốc có thể về nước, nên chú ý sử dụng yếu tố này làm điều kiện thúc giục Trung Quốc cho phép những người Mỹ bị bắt về nước.
Ngày 18/5, Smith hẹn gặp Trevelyan, uỷ quyền cho Trevelyan thay mặt phía Mỹ thương lượng với Trung Quốc vấn đề trả lại những người Mỹ bị giam giữ. Smith còn trao cho Trevelyan một bản danh sách những người Mỹ đang bị Trung Quốc giam giữ.
Ngày 21/5, Dulles lại một lần nữa gửi điện cho Smith cho biết: Mỹ đã đồng ý cho phép lưu học sinh Trung Quốc về nước, đề nghị Trevelyan dựa vào đây để thương lượng với Trung Quốc.3
Molotov cũng triển khai tác động. Tối 22/5, Molotov mở tiệc mời Smith và một số người như Robertson và Johnson. Tiệc xong, Molotov mời Smith và Robertson vào một căn phòng khác nói chuyện. Bầu không khí lúc đó còn tương đối thoải mái, hai bên không biết vô tình hay cố ý mà nhắc tới Trung Quốc. Molotov nói các ngài cần phải nhớ rằng Trung Quốc mới là một nhà nước trẻ, mới thành lập có năm năm, người Trung Quốc chỉ luôn quan tâm tới những công việc của mình, từ trước tới nay họ chưa từng để ý đến những công việc của châu Âu. Và tôi cũng muốn nhắc nhở các ngài chú ý rằng hai nước chúng ta từng làm không ít những việc gây khó chịu cho Trung Quốc, gây khó khăn cho họ. Molotov nhấn mạnh thêm Trung Quốc đang phải nỗ lực tập trung lực lượng và tài nguyên để làm tốt các công việc trong nước, không thể tiến hành mở rộng ra bên ngoài.
Robertson ngồi bên cạnh chêm vào nói Trung Quốc cũng đã làm nhiều việc gây khó chịu cho Mỹ, trong đó có việc bắt giữ không quân Mỹ và những đối tượng khác. Những người này ở trong tù bị đối xử như không phải với con người, nghe nói đã có người bị chết trong tù.
Molotov lập tức đáp lời nói, nhưng cũng có không ít người Trung Quốc bị giam giữ tại Mỹ.
Robertson nói đúng như vậy, nhưng họ không phải bị giam mà chỉ do một tờ pháp lệnh mà họ tạm thời không được rời khỏi Mỹ, và họ hoàn toàn có thể nhờ vào một tờ pháp lệnh mới mà có thể về nước.
Molotov nói vậy tại sao vấn đề này không được giải quyết thỏa đáng? Nó hoàn toàn có thể được giải quyết mà.
Smith nói điều Mỹ không thể chịu được nhất là việc người của mình gặp hoạn nạn, để cứu họ nước Mỹ thậm chí không tiếc phải hy sinh. Chỉ cần còn một người Mỹ bị giam giữ, chúng tôi nhất định nỗ lực giải cứu bằng được người đó.
Molotov nói vấn đề dễ giải quyết thôi. Mỹ và Liên Xô từng ủng hộ Tưởng Giới Thạch trong một thời gian dài, nhưng nay ngoài việc bỏ rơi ông ta thì không còn
lựa chọn nào khác.
Nghe nói vậy, Smith và Robertson không còn biết đáp lời ra sao nữa.
Molotov đã “nắm được thóp” của phía Mỹ, bọn họ hết sức hy vọng giải quyết vấn đề để người Mỹ tại Trung Quốc được thả và về nước, và có thể nhượng bộ để đạt được mục đích này.
Nhằm khai thông bế tắc trong quan hệ Trung - Mỹ, Chu Ân Lai quyết định chủ động. Theo chỉ thị của ông, chiều 26/5, người phát ngôn của phái đoàn Trung Quốc Hoàng Hoa đã phát biểu với hàng loạt phóng viên các hãng thông tấn báo chí Tân Hoa xã, AFP, Reuters, AP, TASS…, nêu rõ thái độ của Chính phủ Trung Quốc trong đối xử với các kiều dân nước ngoài, yêu cầu Chính phủ Mỹ từ bỏ việc bắt giữ và cấm xuất cảnh đối với các lưu học sinh và kiều dân Trung Quốc. Tuyên bố của Hoàng Hoa nêu rõ:
Từ khi chính phủ nhân dân trung ương CHND Trung Hoa được thành lập đến nay, đối với các ngoại kiều, kể cả kiều dân Mỹ, sinh sống trên đất Trung Quốc, chỉ cần họ tuân thủ luật pháp Trung Quốc thì đều được bảo vệ an toàn, họ có thể an cư lạc nghiệp. Nếu họ muốn rời khỏi Trung Quốc, bất luận là với lý do gì, đều có thể dựa theo các thủ tục đã quy định để đề nghị với chính phủ nhân dân các cấp, nếu họ không mắc án dân sự hoặc hình sự chưa thi hành án xong, tất cả đều có thể được phê chuẩn cho phép. Trên thực tế, do Chính phủ Mỹ giữ thái độ thù địch với CHND Trung Hoa, tiến hành phong tỏa cấm vận đối với Trung Quốc, dẫn đến khiến nhiều kiều dân nước ngoài, bao gồm cả kiều dân Mỹ, mất đi việc làm vốn có của mình, buộc phải rời khỏi Trung Quốc. Chúng tôi rất thông cảm với những ngoại kiều, kể cả kiều dân Mỹ, bị ảnh hưởng và tổn hại bởi các chính sách thù địch của Chính phủ Mỹ đối với nhân dân Trung Quốc. Chính phủ nhân dân Trung Quốc không hề cản trở họ rời khỏi Trung Quốc. Theo chúng tôi được biết, từ năm 1950 đến cuối năm 1953, số kiều dân Mỹ rời khỏi Trung Quốc là khoảng trên dưới 1.500 người. Số lưu lại Trung Quốc hiện này chỉ khoảng hơn 80 người. Thực tế này đủ để chứng minh rằng việc Mỹ nói Chính phủ Trung Quốc cản trở kiều dân Mỹ xuất cảnh hoàn toàn là bịa đặt.
Còn việc một số ít người Mỹ vi phạm luật pháp, Chính phủ Trung Quốc tiến hành bắt giữ xử lý theo đúng luật pháp, đó là chức năng của bất cứ quốc gia có chủ quyền nào. Đối với những thành phần phạm pháp bị giam giữ, chúng tôi đều có chứng cứ rõ ràng. Trong số những người Mỹ phạm pháp và bị bắt có kiều dân Mỹ sinh sống tại Trung Quốc, và còn có một số đối tượng xâm nhập Trung Quốc trái phép bằng đường không hoặc đường biển.
Tuy nhiên, mặc dù vậy, đối với số ít những người bị bắt do vi phạm luật pháp này, nếu gia đình người thân có thư gửi cho họ, chúng tôi vẫn sẵn sàng giúp đỡ.
Thế nhưng, đối với các kiều dân Trung Quốc sinh sống tại Mỹ, nhất là hơn 5.000 lưu học sinh Trung Quốc, từ năm 1950 đến nay đã bị Chính phủ Mỹ thực hiện bắt giữ vô cớ. Rất nhiều lưu học sinh và kiều dân Trung Quốc khi xin làm thủ tục về nước thì đều nhận được thông tri của Cục di dân Mỹ nói rằng “Bất luận anh có hay không có giấy phép xuất cảnh, mệnh lệnh anh không được phép hoặc không được tìm cách rời khỏi Mỹ, cho tới khi nhận được thông tri mới xóa bỏ mệnh lệnh này”. Phía Mỹ còn đe dọa họ rằng nếu họ vi phạm mệnh lệnh này sẽ bị “phạt 5.000 USD hoặc tới 5 năm tù, hoặc thậm chí bị phạt cả hai hình thức này”. Rất nhiều người do xin làm thủ tục về nước mà đã bị bắt hoặc bị ngược đãi. Từ sau năm 1951, Chính phủ Mỹ thậm chí còn tịch thu toàn bộ hộ chiếu của lưu học sinh Trung Quốc, khiến họ không thể rời khỏi Mỹ.
Chính phủ nhân dân Trung ương CHND Trung Hoa đã nhận được rất nhiều thư của lưu học sinh tại Mỹ, cho biết Chính phủ Mỹ cố tình bắt giữ mà không có bất cứ lý do nào. Rất nhiều thân nhân của các lưu học sinh cũng đề nghị chính phủ nhân dân trung ương giúp đỡ để con em họ bị lưu giữ ở Mỹ được về nước. Lưu học sinh Trung Quốc không hề phạm tội gì, chính phủ Mỹ lại tước đi của họ quyền tự do được rời khỏi Mỹ, tước đi của họ quyền được trở về tổ quốc, tước đi của họ quyền được trở về quê hương đoàn tụ với gia đình. Điều này không những vi phạm các nguyên tắc luật pháp quốc tế, mà còn hoàn toàn không phù hợp với chủ nghĩa nhân đạo.
Nếu chính phủ Mỹ tôn trọng các nguyên tắc luật pháp quốc tế và chủ nghĩa nhân đạo, họ nên lập tức ngừng ngay việc cưỡng ép bắt giữ đối với lưu học sinh và kiều dân Trung Quốc, trả lại cho họ quyền được về nước đoàn tụ cùng gia đình.
Sáng 27/5, Hoạn Hương hội đàm với Trevelyan. Ông nói, hiện nay tổng số người Mỹ ở Trung Quốc còn khoảng hơn 80 người, chứ không phải hơn 1.500 người như phía Mỹ nói. Trong đó có 30 người bị bắt giam, chủ yếu do hai lý do, một là phạm tội, hai là xâm nhập lãnh thổ Trung Quốc trái phép. Đối với những người này, cần phải xử lý theo luật pháp Trung Quốc.
Hoạn Hương nói có khoảng 5.000-6.000 lưu học sinh Trung Quốc bị Chính phủ Mỹ cấm hồi hương, đây là chính sách hết sức sai lầm của Mỹ.
Trevelyan rất khôn khéo hỏi liệu phái đoàn Trung Quốc có muốn trong có trình thảo luận với Trevelyan về quan hệ Trung - Mỹ có một vị quan chức Mỹ tham gia?
Hoạn Hương trả lời trong tình hình hiện nay, tôi không định nói nhiều điều gì.
Tất nhiên, ông cần xin ý kiến Chu Ân Lai.
Cùng ngày, Smith điện cho Dulles, bày tỏ ý kiến của mình: việc có một, hai quan chức Mỹ cùng với Trevelyan đi gặp người Trung Quốc là việc có thể.
Hai giờ chiều ngày 28/5 (giờ Washington), Dulles gửi điện trả lời Smith: “Xem ra, dưới sự giúp đỡ của người Anh, Trung Quốc có thể đang lợi dụng vấn đề người Mỹ bị bắt giữ dể tiến hành đàm phán trực tiếp với chính phủ Mỹ. Tôi lo ngại rằng động thái này sẽ gây ảnh hưởng rất lớn tại châu Á, người ta cho rằng chúng ta muốn công nhận Trung Quốc. Vì vậy, tôi đề nghị chúng ta cần kiềm chế, không nên đàm phán trực tiếp với Trung Cộng, mà nên liên lạc với họ thông qua Trevelyan. Vị ngoại trưởng Mỹ này cho tới lúc này vẫn không chịu mềm dẻo.4
Smith vẫn giữ chủ trương cần phải tiếp xúc với Trung Quốc, tối hôm đó đã gửi điện cho Dulles: “Dựa theo tình hình đàm phán vấn đề Đông Dương, điều kiện tiếp tục đàm phán vấn đề này với Trung Cộng nhiều khả năng chỉ một thời gian ngắn nữa sẽ xấu đi. Vì vậy, nhanh chóng hội đàm với Trung Cộng là hết sức quan trọng. Dự kiến nhờ Trevelyan hẹn gặp phía Trung Quốc vào ngày 29 hoặc 31/5, Martin và Star cũng cùng đi. Nếu Chính phủ có chủ trương khác, xin chỉ thị sớm”.5
Chính phủ Mỹ lập tức gửi điện trả lời, yêu cầu Martin và Star không được đi gặp phía Trung Quốc, nhờ Trevelyan xúc tiến thương lượng việc này với phái đoàn Trung Quốc.
Có thể do sự kiên quyết của Smith, cuối cùng Chính phủ Mỹ đã tiến một bước theo hướng đồng ý tiếp xúc với đại biểu Chính phủ Trung Quốc. Ngày 29/5, người phát ngôn phái đoàn Mỹ tại Genève ra tuyên bố về vấn đề lưu học sinh Trung Quốc tại Mỹ, toàn văn như sau:
Phái đoàn Mỹ có chú ý tới tuyên bố của người phát ngôn đoàn đại biểu ĐCS Trung Quốc đưa ra tuần này, trong đó có đề cập việc các công dân Mỹ bị giam giữ tại Trung Quốc.
Người phát ngôn Trung Quốc thừa nhận có 20-30 người Mỹ bị giam giữ và nhắc đến tên của sáu người trong số đó.
Mặc dù đây mới chỉ là bán chính thức công nhận Trung Quốc đang bắt giữ người Mỹ, nhưng cũng đáng được hoan nghênh. Phái đoàn Mỹ cần nêu rõ rằng việc thông tin này được đưa ra quá muộn là mang tính bi kịch, và hơn nữa chưa được đầy đủ.
Bốn năm qua, Chính phủ Mỹ luôn cố gắng tìm kiếm thông tin về những công dân Mỹ bị bắt giữ tại Trung Quốc, gia đình của họ cũng đã nỗ lực như vậy. Nhưng cho đến tận bây giờ, chính quyền ĐCS Trung Quốc vẫn chưa công bố địa chỉ của những người này, cũng không cung cấp các thông tin mà bên ngoài mong đợi.
Một thực tế quan trọng nữa là Chính phủ Mỹ và gia đình những người bị bắt giữ không hề được biết số phận sống chết của họ. Có một ví dụ: năm 1952, một người Mỹ đã chết trong tù ở Quảng Đông, đó là hậu quả của sự đối xử phi nhân tính. Cho tới sáu tháng trước đây, thông tin về cái chết của người này với được truyền ra ngoài thông qua một số con đường.
Người phát ngôn ĐCS Trung Quốc đã cho biết ít lâu nữa sẽ cho phép người bị bắt giữ trao đổi thư từ với gia đình, điều này rất đáng hoan nghênh. Hy vọng đây sẽ là bước đi ban đầu trong hàng loạt biện pháp cải thiện khác. Song cũng cần nêu rõ rằng nhận thư từ là một quyền lợi cơ bản mà lẽ ra những người đó đã phải được hưởng ngay từ đầu.
Chính phủ và nhân dân Mỹ sẽ tiếp tục quan tâm sát sao vấn đề bắt giữ công dân và quân nhân Mỹ cũng như việc đối xử với họ, yêu cầu được biết nhiều thông tin hơn trong vấn đề này. Chính phủ Mỹ sẽ không ngừng nỗ lực để những người này được tự do.
Người phát ngôn ĐCS Trung Quốc còn nói tới vấn đề lưu học sinh và những người Trung Quốc khác tại Mỹ. Thực ra, những lời nói của người phát ngôn còn thiếu căn cứ thực tế, thậm chí vài chỗ còn bẻ cong hoàn toàn sự thật.
Tình hình thực tế như sau:
Khi ĐCS Trung Quốc dùng vũ lực chinh phục Trung Quốc đại lục, một số lượng
lớn lưu học sinh Trung Quốc đang theo học tại các trường trung học và đại học tại Mỹ. Đại bộ phận trong số họ theo ý nguyện của bản thân là không muốn về nước.
Còn một phận nhỏ khác lại muốn được về nước. Trước khi bùng phát chiến tranh Triều Tiên, họ được phép tự do về nước. Từ năm 1949-1950, đã có khoảng 1.000 lưu học sinh Trung Quốc rời Mỹ.
Tháng 6/1951, theo luật quản lý hộ chiếu của Mỹ, ban hành năm 1918 và được sửa đổi năm 1941, đồng thời dựa theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ và luật di cư thông qua năm 1952 (luật này có hiệu lực cao hơn luật quản lý hộ chiếu năm 1918), chính quyền Mỹ ban hành pháp lệnh khống chế một số người nước ngoài rời khỏi Mỹ.
Do quân đội Mỹ đang tham gia liên quân của LHQ tham chiến tại Triều Tiên, việc ban hành pháp lệnh này là nhằm bảo đảm an toàn cho Mỹ và các đồng minh trong cuộc chiến.
Từ năm 1951 đến nay, đã có 434 lưu học sinh Trung Quốc xin làm thủ tục về nước, trong đó 314 người đã được phê chuẩn, trong đó năm 1951 có 150 người, năm 1952 có 53 người, năm 1953 có 84 người và năm 1954 đã có 27 người. Xuất phát từ lý do bảo đảm an toàn nói trên, có 120 lưu học sinh Trung Quốc tạm thời bị cấm rời khỏi Mỹ. Hiện nay, Bộ trưởng Tư pháp Mỹ đang xem xét lại đơn của 120 người này. Có thể rất nhiều người trong số họ đã thay đổi kế hoạch, vì họ đã có công việc ổn định, không muốn rời khỏi Mỹ nữa. Những nguyện vọng của họ sẽ được chính quyền nghiêm túc xem xét.
Điều cần nhấn mạnh là trong số 120 lưu học sinh này, không có ai bị giam giữ hoặc ngược đãi. Họ được hoàn toàn tự do hành động, có thể tự do liên lạc thư từ với bên ngoài, có thể tìm kiếm việc làm theo lựa chọn của bản thân. Chỉ có hạn chế duy nhất với họ, đó là họ phải ba tháng một lần gửi báo các về tình hình nhà ở và việc làm lên Cục di dân của Mỹ.
Tính đến ngày 30/4/1954, tổng cộng có 5.452 lưu học sinh Trung Quốc đã có thị thực Mỹ, trong đó có nhiều người đã dạy học hoặc có những nghề nghiệp, công việc khác tại Mỹ. Từ tháng Tư/1949 đến nay, Mỹ đã cấp kinh phí hỗ trợ cho 3.642 lưu học sinh Trung Quốc, những hỗ trợ này không kèm theo bất cứ điều kiện gì.
Chu Ân Lai đã nắm được tâm trạng của nhà quyết sách Mỹ, quả quyết yêu cầu Hoạn Hương đề xuất với Trevelyan rằng hiện đã có đại diện cấp cao của Mỹ tại Genève, nên không cần uỷ nhiệm người trung gian thương lượng các vấn đề quan hệ Trung - Mỹ nữa. Nếu không, những can thiệp của nhà trung gian sẽ không đạt kết quả gì. Trung Quốc sẵn sàng đàm phán trực tiếp với đại diện đoàn Mỹ tại Genève
Theo tinh thần được Trevelyan chuyển lại, ngày 30/5, Smith gửi điện cho Dulles, đề nghị:
Nếu chúng ta từ chối đàm phán trực tiếp với Trung Quốc tức là thừa nhận chúng ta thiếu tinh thần trách nhiệm cứu những người Mỹ bị bắt ở Trung Quốc.
Từ chối đàm phán trực tiếp với Trung Quốc sẽ làm tổn phí những nỗ lực của ngài Trevelyan đã tham gia vào tiến trình này.
Xem ra người Trung Quốc cũng có ý đàm phán với chúng ta về vấn đề vận mệnh của những người Mỹ bị giam giữ, nhưng chúng ta vẫn khó phán đoán được đây liệu có phải là một cơ hội để những người Mỹ bị giam có thể được về nước hay không.
Smith cũng kiến nghị phía Mỹ nên cử Robertson làm đại diện đàm phán, như vậy Trung Quốc có thể sẽ cử Trương Văn Thiên làm đối thủ đàm phán.6
Vượt ra ngoài dự đoán, Dulles ngày 3/6 đã cử trợ lý trưởng phái đoàn Mỹ tại Genève Johnson làm đại diện đàm phán với Trung Quốc.
Dulles có dụng ý riêng. Johnson sinh năm 1908, có nghiên cứu sâu về các vấn đề quan hệ quốc tế, thời thanh niên đã lấy bằng thạc sĩ tại Đại học G. Washington. Năm 1935 ông bắt đầu tham gia quốc vụ viện, là một chuyên gia về các vấn đề châu Á, trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai đã từng là đại sứ Mỹ tại Seoul, và từng là Phó tổng lãnh sự tại Thiên Tân. Năm 1950 giữ chức tổng lãnh sự tại Yokohama (Nhật bản), năm 1951 làm chủ nhiệm phòng Đông Bắc Á thuộc quốc vụ viện, 1953 làm trợ lý quốc vụ khanh phụ trách các vấn đề Viễn Đông, từng tham gia đàm phán về Triều Tiên tại Bàn Môn Điếm, trước khi tới Genève được cử làm đại sứ tại Tiệp Khắc.
Johnson cũng có nhận định riêng về quan hệ Trung - Mỹ. Ông cho rằng “Dulles mặc dù bên ngoài thể hiện chống Cộng rất mạnh mẽ, song thâm tâm lại quan tâm việc giải quyết mối quan hệ căng thẳng với Trung Quốc cũng như khả năng được tự do của những người Mỹ bị giam giữ. Trong khi, những kinh nghiệm từng trải của tôi khiến Dulles cho rằng tôi có thể làm được việc này mà không gây ra sự phản đối của các lực lượng chống Trung Quốc vốn có thế lực rất lớn trung Quốc hội”.7
Thông qua Trevelyan, hai bên Mỹ và Trung Quốc đã đồng ý cử nhân viên thương lượng, lần gặp gỡ đầu tiên được ấn định vào ngày 5/6, do phía Mỹ sắp xếp địa điểm.
Chu Ân Lai cử Vương Bỉnh Nam làm đại diện đàm phán. Vốn đi du học ở Đức từ khi còn trẻ, Vương Bỉnh Nam nhận thức sâu sắc rằng việc đấu tranh để các lưu học sinh ở nước ngoài được về nước tham gia xây dựng đất nước có ý nghĩa quan trọng như thế nào với một quốc gia vừa được thành lập, trong khi đó Mỹ là nước phương Tây thu hút lưu học sinh Trung Quốc sớm nhất và đông nhất.
Đúng 100 năm trước, ngày 4/1/1847, tại Quảng Châu, một thanh niên Trung Quốc chưa tròn 19 tuổi tên là Dung Hoằng cùng hai người bạn đã lên chiếc tàu buôn của Mỹ. Anh cùng đồng hành với một chiếc tàu chở đầy chè, ròng rã đúng 98 ngày mới đến New York. Ba năm sau, anh thi đỗ vào Đại học Yale, năm 1854 tốt nghiệp và ngay mùa Đông năm đó trở về tổ quốc, quyết chí xây dựng nước Trung Quốc mới thành một quốc gia hùng mạnh.
Tiếp sau anh là từng lớp, từng lớp thanh niên Trung Quốc vượt trùng dương đến Mỹ. Vào thế kỷ XIX, Mỹ là nước tiếp nhận nhiều lưu học sinh Trung Quốc thứ hai thế giới, sau Nhật Bản. Bước sang thế kỷ XX, Mỹ trở thành nước có đông lưu học sinh Trung Quốc nhất.
Giữa thập niên 40 của thế kỷ XX, chính phủ Quốc dân đảng và Chính phủ Mỹ đã thỏa thuận cử số lượng lớn học sinh Trung Quốc sang Mỹ lưu học. Đến năm 1949, có khoảng hơn 1.000 người du học Mỹ, nếu cộng với số học sinh đã sang Mỹ từ trước đó thì còn đông hơn nhiều. Đối với công cuộc xây dựng đất nước, lưu học sinh là những nhân tài ưu tú. Để xây dựng nước Trung Quốc mới, ĐCS Trung Quốc quyết tâm tranh thủ đội ngũ nhân tài này. Từ cuối những năm 1940, Trung ương cục miền Nam (ĐCS Trung Quốc), do Chu Ân Lai lãnh đạo, đã cử hàng loạt nhân sự, trong đó có Từ Minh, Lãn Á Lực, Lam Thục Trung…, sang Mỹ du học, đồng thời triển khai công tác trong cộng đồng lưu học sinh ở đây. ĐCS Trung Quốc đã thiết lập các “nhóm lãnh đạo công tác” tại Mỹ, tại các thành phố lớn đều có thành lập các mô hình tương tự như một xã đoàn nhỏ, sau này phát triển thành các xã đoàn hạng trung mang tính khu vực như “Đông Bắc [Mỹ]”, “Trung Tây [Mỹ]”.v.v.. Mùa Hè năm 1949, Từ Minh về nước báo cáo công tác tại Mỹ với trung ương đảng. Chu Ân Lai chỉ thị: động viên các lưu học sinh tại Mỹ về nước, đặc biệt là động viên các chuyên gia kỹ thuật cao cấp trở về tham gia xây dựng đất nước, là nhiệm vụ trọng tâm của các nhóm lãnh đạo tại Mỹ.
Ngày 18/6/1949, Hiệp hội các nhà công tác khoa học kỹ thuật Trung Quốc tại Mỹ tổ chức hội nghị thành lập. Hiệp hội gồm 340 hội viên, chia thành 13 phân hội, trong số đó có giáo sư nổi tiếng Hoa La Di, Triệu Trọng Tiêu. Tháng 1/1949, hiệp hội ra quyết nghị: “Hiệp hội coi trọng việc học tập khoa học kỹ thuật để chuẩn bị cho việc về nước tham gia kiến thiết đất nước”. Đến năm 1950, số hội viên của hiệp hội đã lên tới 718 người với 32 phân hội.
Tháng 2/1950, các phần tử chống cộng điên cuồng do McCarthy cầm đầu đã tiến hành truy sát người nước ngoài tại Mỹ, lưu học sinh Trung Quốc hầu hết bị nghi ngờ. Tháng 10/1950, Cục di dân Bộ Tư pháp Mỹ ban hành lệnh “Cấm lưu học sinh Trung Quốc” xuất cảnh. Ngày 19/9 năm đó, Hiệp hội các nhà khoa học Trung Quốc tại Mỹ bị Chính phủ Mỹ giải tán, những lưu học sinh hy vọng trở về đất nước đều bị cản trở. Năm 1951, chiến tranh Triều Tiên đang diễn ra ác liệt, Chính phủ Mỹ thậm chí đã tịch thu hộ chiếu của các lưu học sinh Trung Quốc.
Chính phủ Trung Quốc nỗ lực để các trí thức du học tại Mỹ được về nước, trong số họ đã có nhiều người nổi tiếng là những nhà khoa học kiệt xuất, như Triệu Trọng Nghiêu, Tiền Học Sâm, sự nghiệp kiến thiết Trung Quốc vô cùng cần đến những người như họ. Càng quan trọng hơn là việc nhà nước Trung Quốc mới được thành lập đã làm dấy lên tình cảm to lớn trong lòng các sinh viên ở hải ngoại, họ mong muốn trở về quê hương để cống hiến sức lực của mình. Nhiều người trong số họ cho rằng nhà nước Trung Quốc mới sẽ xóa tan những nỗi nhục của Trung Quốc 100 năm qua, đưa Trung Quốc trở nên phồn vinh, giàu mạnh, không có một sự nghiệp nào trên thế giới này có thể thu hút con người hơn thế. Tất nhiên, thu nhập cá nhân sau khi về nước sẽ thấp hơn ở Mỹ, nhưng với họ việc đó “nhẹ như
lông hồng”.
Hội đàm cấp cao lần đầu tiên giữa đoàn đại biểu Trung Quốc và Mỹ ấn định vào ngày 5/6, địa điểm do phía Mỹ sắp xếp. Việc này do Johnson chủ trì. Ông lựa chọn trong số hội trường ở Vạn quốc cung một phòng khách không lớn lắm, cố tình không bố trí bàn mà chỉ xếp đặt vài chiếc ghế sôpha tạo thành một vòng tròn, nhằm tạo một không khí tự nhiên, không chính thức, đặc biệt muốn thể hiện rằng giữa hai nước chưa thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức. Về việc này, chính phủ Mỹ còn chỉ thị Johnson rằng phải đề nghị Trevelyan nhất định có mặt, còn Johnson phải thể hiện rằng dường như chỉ tháp tùng Trevelyan, nhưng cũng phải tránh không khí căng thẳng như cuộc đàm phán tại Bàn Môn Điếm.
Khi đại diện ba nước bước vào phòng khách, Johnson chủ động tiến thẳng đến, bắt tay Vương Bỉnh Nam và các trợ lý là Hà Bách Niên, Hoạn Hương, rồi hàn huyên đôi chút. Vương Bỉnh Nam nhớ lại nói:
Hội đàm tiến hành được khoảng nửa tiếng, không khí tương đối thoải mái, hai bên không dùng các lời lẽ ác ý để công kích nhau. Vì là lần đầu hội đàm, tất cả đều có vẻ gò bó một chút, song có thể thấy rằng Johnson là một nhà ngoại giao lão luyện, tương đối nắm rõ tình hình Trung Quốc, phản ứng cũng rất nhanh nhạy. Ông ta đề nghị trong khi đàm phán hai bên không tiến hành tốc ký, như vậy đàm phán mới càng có tính tham khảo, tránh việc các phóng viên báo chí có thể nắm được tin tức, và cũng giảm bớt gò bó hơn. Chúng tôi đã đồng ý, và nhất trí tiến hành hội đàm lần hai vào ngày 10/6”.8
Theo hồ sơ của phía Mỹ, khi bắt đầu hội đàm, Johnson bày tỏ lấy làm tiếc trước việc Vương Bỉnh Nam không chuẩn bị đề cập các vấn đề mang tính thực chất trong ngày hôm nay. Vương Bỉnh Nam trả lời rằng trách nhiệm không nằm ở phía Trung Quốc, chúng tôi đã nhiều lần nói với Trevelyan rằng chúng tôi hy vọng đàm phán trực tiếp với phía Mỹ về vấn đề này. Johnson nói phía Mỹ cũng không cho rằng mình phải chịu trách nhiệm về việc trì hoãn đàm phán. Bởi lẽ, nhiều năm gần đây, Mỹ đều thông qua Anh để tìm hiểu tình hình người Mỹ tại Trung Quốc, và mấy tuần đến Genève cũng vậy.
Vương Bỉnh Nam nói chúng tôi sẽ thảo luận với phía Mỹ vấn đề này trong cuộc hội đàm lần sau, Trung Quốc cũng sẽ đề cập vấn đề hồi hương của lưu học sinh Trung Quốc tại Mỹ. Ông đề nghị tiến hành hội đàm lần hai vào ngày 10/6.
Hình thức bố trí hội trường mang tính chất không chính thức của cuộc hội đàm đầu tiên khiến Vương Bỉnh Nam rất tức giận, ở lần hội đàm thứ hai ông đã đảo lại hoàn toàn: tìm một phòng khách lớn ở cung Vạn Quốc, ở giữa đặt một chiếc bàn dài lớn, đại diện mỗi nước ngồi một bên, đối mặt một cách ngang bằng, không khí cũng nghiêm túc hơn hẳn. Không ngờ, từ đó ông đã định ra quy cách hội trường của đàm phán cấp đại sứ Trung - Mỹ và quy cách này được dùng suốt trong 15 năm sau đó.
Vừa bắt đầu cuộc hội đàm lần hai, Johnson đã đưa ra một bản danh sách những người Mỹ ở Trung Quốc, trong đó 18 phi công và 11 lính hải quân và thành viên lực lượng bảo vệ bờ biển, yêu cầu phía Trung Quốc sớm tạo cơ hội cho những người này về nước.
Vương Bỉnh Nam trả lời: “Chỉ cần hai bên đều chân thành muốn giải quyết vấn đề, việc này không hề khó giải quyết”. Sau đó ông nêu rõ từ khi nhà nước Trung Quốc mới được thành lập, đã có 1.485 kiều dân Mỹ được rời khỏi Trung Quốc, trong đó năm 1950 có 582 người, năm 1951 có 727 người, năm 1953 là 143 người. Từ đó đến này có thêm 33 người nữa rời Trung Quốc. Tuy nhiên, một số rất nhỏ người Mỹ làm gián điệp tại Trung Quốc và có các hoạt động phá hoại, việc họ bị bắt là có tội thì phải đền tội. Vương Bỉnh Nam cho biết sẽ trả lời phía Mỹ về danh sách nói trên trong cuộc hội đàm lần sau.
Johnson hỏi Vương Bỉnh Nam các chi tiết liên quan những người Mỹ bị bắt giữ, đồng thời muốn biết những người đó có được phép thư từ với người thân hay không. Vương Bỉnh Nam nói sẽ thảo luận với Hội chữ thập đỏ Trung Quốc xong sẽ trả lời sau.
Khi hội đàm chuẩn bị kết thúc, hai bên đề cập việc đại biểu trung gian của Anh có cần thiết phải tham gia hội đàm nữa không? Johnson bày tỏ hy vọng Trevelyan sẽ tiếp tục tham gia, còn Vương Bỉnh Nam đưa ra câu trả lời phủ định, cho rằng công việc giữa hai bên do đại diện hai bên đàm phán là đủ.
Trevelyan có mặt tại hiện trường khó tránh khỏi khó xử. Ông nói công việc của ông tại Genève thực ra đã kết thúc, đang chuẩn bị trở về Bắc Kinh tiếp tục công việc, nhưng do cần thiết trong đàm phán Trung - Mỹ nên đã lưu lại. Nay ông rất vui mừng thấy hai bên Trung - Mỹ sẽ tiếp tục đối thoại, trừ phi hai bên có ý kiến, ông sẽ không tham gia đàm phán Trung - Mỹ nữa.
Từ đó, Trevelyan “biến mất” khỏi đàm phán Trung – Mỹ, nhưng những tác dụng tích cực mà ông đã tạo ra là không nên lãng quên.
Một nhân vật khác cũng chủ trương tiếp tục đàm phán Trung - Mỹ, đó là Smith. Ngày 12/6, trong bức điện gửi chính phủ ông chỉ ra, mình đã phán đoán rõ ý đồ của Trung Quốc là: tiếp tục duy trì đàm phán với Mỹ tại Genève để mở rộng ảnh hưởng, đồng thời muốn tăng cấp bậc đàm phán, nhưng sẽ không sớm trả tự do cho những người Mỹ bị giam giữ. Trước mắt, hai vấn đề cần giải quyết tại hội nghị Genève là Triều Tiên và Đông Dương đều gặp khó khăn, nhưng ý của Smith vẫn là tiếp tục đàm phán với Trung Quốc.9
Lúc này, Chu Ân Lai đã có suy tính thấu đáo. Ngày 11/6, ông gửi điện về Trung ương đảng và Bộ ngoại giao, Bộ công an: ngày 15/6 tới Trung - Mỹ sẽ tiếp tục đàm phán. Phương châm đàm phán của chúng ta là:
Chủ động đề xuất “Vấn đề bảo vệ quyền lợi của kiều dân và lưu học sinh Trung Quốc tại Mỹ”.
“Chỉ rõ việc Mỹ cưỡng ép lưu giữ lưu học sinh Trung Quốc là vi phạm luật pháp quốc tế và không phù hợp với chủ nghĩa nhân đạo, yêu cầu lập tức khôi phục quyền tự do được trở về tổ quốc cho những người này”.
Các biện pháp tổng thể đối với vấn đề kiều dân và lưu học sinh Trung Quốc như sau:
Cho phép những người Mỹ đang bị giam giữ được trao đổi thư từ với gia đình;
thông báo tin về ba người Mỹ đã tử vong cho phía Mỹ;
Tuyên bố tội trạng của những [quân nhân] không quân Mỹ hiện đang bị giam giữ;
Nếu phía Mỹ cải thiện chế độ đãi ngộ đối với lưu học sinh của chúng ta, cho phép họ về nước, tùy theo tình hình, chúng ta cũng có thể xem xét phê chuẩn một số kiều dân Mỹ được xuất cảnh, hoặc cho phép đưa một số kiều dân Mỹ phạm tội đang bị giam giữ ra khỏi lãnh thổ. Điểm này có thể tùy cơ thực hiện, trước mắt chưa nên hành động ngay.10
Ngày 15/6, bầu không khí hội nghị Genève rất căng thẳng. Do ảnh hưởng của bối cảnh chung, hội đàm Trung - Mỹ, bắt đầu lúc 10 giờ sáng kéo dài đúng 90 phút. Trước tiên, Vương Bỉnh Nam trả lời vấn đề phía Mỹ đưa ra tại cuộc hội đàm lần trước. Ông tuyên bố Trung Quốc đồng ý cho phép những quân nhân và kiều dân Mỹ đang bị giam giữ tại Trung Quốc được trao đổi thư từ với gia đình thông qua Hội chữ thập đỏ Trung Quốc, cho phép tiếp nhận những bưu kiện nhỏ của gia đình. “Chính phủ Trung Quốc xét xử những người này theo đúng tội danh mà họ đã vi phạm. Nếu các tội phạm có biểu hiện tốt, chính phủ Trung Quốc có thể cân nhắc việc giảm án hoặc ân xá trước thời hạn”.
Vương Bỉnh Nam nói tiếp: “hiện Trung Quốc có hơn 5.000 lưu học sinh tại Mỹ, trong đó nhiều người đã đề nghị được về nước, nhưng bị chính phủ Mỹ tìm mọi cách cản trở. Khi họ xin làm thủ tục xuất cảnh, chính phủ Mỹ lại thông báo họ không được phép rời đi, thậm chí còn đe dọa rằng ai vi phạm mệnh lệnh này sẽ bị phạt 5.000 USD hoặc phạt tù năm năm, thậm chí phải nhận cả hai hình phạt này. Điều này là vô cùng phi lý”.
Johnson biện hộ rằng trong tổng số 120 người bị cấm xuất cảnh không có ai bị giam giữ. Sở dĩ họ bị cấm rời khỏi Mỹ là do trong thời gian xảy ra chiến tranh Triều Tiên, chính phủ Mỹ quy định tất cả các nhà khoa học vật lý, đặc biệt là những người từng tiếp xúc với các thiết kế tên lửa, năng lượng nguyên tử và vũ khí, không được phép rời Mỹ. Nay chiến tranh Triều Tiên đã kết thúc, tình hình đã có thay đổi. Johnson chỉ trích Trung Quốc rằng đã có những phạm nhân Mỹ bị giam tại Trung Quốc bị thiệt mạng.
Vương Bỉnh Nam đề xuất hai bên Trung - Mỹ có thể đưa ra một tuyên bố chung, nêu rõ những công dân và lưu học sinh không vi phạm luật pháp ở mỗi nước có toàn quyền tự do trở về tổ quốc.
Johnson hỏi lại vậy trong số đó có bao gồm những người Mỹ đang bị giam giữ?
Vương Bỉnh Nam nói, những đối tượng phạm pháp cần phải xử lý theo luật pháp, tất nhiên không thể được bao gồm trong số trên. Về danh sách những người Mỹ bị bắt mà Johnson đã trao cho Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc sẽ tiến hành kiểm tra đối chiếu thực tế.
Ngày 16/6, Smith gửi điện cho Dulles, thông báo quan điểm của phái đoàn Mỹ: việc Trung Quốc cho phép những người Mỹ đang bị giam giữ được trao đổi thư từ với người thân chứng tỏ lập trường của Trung Quốc đã có một số thay đổi. Nếu Mỹ cho phép tất cả lưu học sinh Trung Quốc về nước, sẽ làm tăng cơ hội cho những người Mỹ đang bị giam cầm được về nước. Tình hình hiện nay còn cho thấy phía Trung Quốc không nắm rõ lắm tình hình lưu học sinh tại Mỹ, trên thực tế số lưu học sinh bị cấm về nước cao hơn con số 120 người (124 người), nhưng phía Trung Quốc không hề biết. Smith một lần nữa cho rằng nên tiếp tục đàm phán với Trung Quốc.
Ngày hôm sau, Dulles gửi điện phúc đáp Smith, trong đó cho biết Bộ trưởng Tư pháp Mỹ đã phát biểu rằng tất cả những lưu học sinh Trung Quốc nào muốn về nước cũng sẽ được chấp nhận, nhưng Bộ Quốc phòng chưa có động thái gì. Nhưng với tình hình hiện nay, “Bộ Quốc phòng chỉ muốn ngăn cản một người không được về nước, đó là Tiền Học Sâm. Đây là một chuyên gia tên lửa đạn đạo, hơn nữa ông ta cũng không muốn về nước”.11 Ngoài ra, trong số 124 người nói trên, có 57 người muốn về Trung Quốc đại lục”. Dulles còn chỉ thị đoàn Mỹ không được tham gia tuyên bố chung song phương mà phía Trung Quốc đề xuất.12
Đây là lần đầu tiên trong các bức điện chính thức Dulles đề cập tới tầm quan trọng của Tiền Học Sâm, thế nhưng ông ta đã phán đoán sai hoàn toàn nguyện vọng đi hay ở của Tiền Học Sâm. Tiền Học Sâm đã kiên quyết yêu cầu được trở về tổ quốc yêu dấu, và vì điều này ông đã sẵn sàng từ bỏ mọi thứ tại Mỹ.
Sáng 21/6, Trung Quốc và Mỹ tiến hành cuộc hội đàm thứ tư. Đầu tiên Johnson trao danh sách 15 lưu học sinh Trung Quốc cho Vương Bỉnh Nam, nói những người này đủ điều kiện được về nước, có thể được phép rời khỏi Mỹ. Johnson cũng nêu rõ bất cứ công dân nước nào sống tại Mỹ cũng có thể căn cứ luật pháp Mỹ tự do lựa chọn cuộc sống, đồng thời hy vọng việc này sẽ giúp thúc đẩy Trung Quốc thả những người Mỹ bị giam giữ.
Vương Bỉnh Nam thấy rất vui và hy vọng những lưu học sinh Trung Quốc khác tại Mỹ cũng sẽ được bãi bỏ hạn chế xuất cảnh. Tiếp đó, ông nói về danh sách 32 người Mỹ bị bắt tại Trung Quốc, cho biết trong số 32 người này, John B. Maye không hề bị bắt, hiện anh ta sống tại thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ Nam; William L.Wenter do phạm tội nên bị giam giữ, đã chết tại trại giam ở tỉnh Quảng Đông ngày 27/2/1951. 30 người còn lại hiện vẫn bị giam, trong đó có ba người bị giam lỏng tại Phúc Châu và đang bị tiến hành điều tra.
Vương Bỉnh Nam nói, hiện có 19 người nước ngoài đang chờ thủ tục phê chuẩn rời Trung Quốc, trong đó hai vợ chồng nhà Criston đã nhận được giấy phép và đã lên tàu từ Thượng Hải về nước ngày 18/6 vừa qua. Bà Huizar, người Hà Lan, và vợ chồng E. Rekes năm 1952 đã rút lại đơn xin xuất cảnh. Ngoài ra còn có bốn
phụ nữ hiện sống ở Cáp Nhĩ Tân
Về 18 nhân viên không quân mà phía Mỹ đề cập, Vương Bỉnh Nam nói có ba người đã thiệt mạng khi nhảy dù, 15 người còn lại đang bị giam giữ. Phía Mỹ cũng đề cập đến 11 lính hải quân và thành viên lực lượng phòng vệ bờ biển, theo thông tin của phía Trung Quốc, đã có hai chiếc máy bay bị rơi xuống biển ở khu vực cách bờ biển Quảng Đông khoảng 10 hải lý, nhưng Trung Quốc không biết hành tung của những thành viên trên máy bay.
Vương Bỉnh Nam nói nếu có thêm tin tức gì, phía Trung Quốc sẽ thông báo cho Mỹ.
Sau những phát biểu nêu trên, Vương Bỉnh Nam đề nghị hai bên ký một tuyên bố chung, nêu rõ những công dân và lưu học sinh không vi phạm luật pháp ở mỗi nước có toàn quyền tự do trở về tổ quốc, đồng thời đề nghị trên cơ sở cùng bình đẳng, mời một nước thứ ba đại diện quản lý lợi ích của kiều dân và lưu học sinh hai nước.13
Theo chỉ thị từ trước của Dulles, Johnson đã từ chối đề nghị của Vương Bỉnh Nam.
Vương Bỉnh Nam lại nêu ra một vấn đề mới. Ông nói từ khi nhà nước Trung Quốc mới thành lập, Mỹ uỷ nhiệm đại sứ Anh tại Trung Quốc quản lý các lợi ích của Mỹ tại Trung Quốc. Xét về quan hệ quốc tế, những hành vi như vậy thường phải đối đẳng, vì vậy Chính phủ Trung Quốc cũng muốn thông qua một đại sứ nước thứ ba tại Mỹ quản lý những lợi ích của Trung Quốc tại Mỹ, ví dụ như theo dõi tình hình lưu học sinh Trung Quốc.
Johnson từ chối thảo luận vấn đề này, nói nó vượt phạm vi. Johnson còn cho rằng đàm phán Trung - Mỹ tại Genève tiến hành tới nay, nhiệm vụ của ông về cơ bản đã hoàn thành, hai bên đồng ý tiếp tục thông báo tình hình kiều dân ở hai nước cho nhau, giải quyết các vấn đề còn lại, có thể cử các quan chức cấp thấp hơn. Sau vòng đàm phán này, nếu còn có vấn đề gì cần đối thoại, phía Mỹ sẽ tiếp tục thông qua ngài Trevelyan để truyền đạt.
Vương Bỉnh Nam nói việc thương lượng như vậy không cần thiết phải thông qua Trevelyan mà hai bên có thể duy trì tiếp xúc tại Genève.
Như vậy là hội đàm Trung - Mỹ cấp cao do Vương Bỉnh Nam và Johnson đứng đầu đến đây đã kết thúc.
Lần đàm phán này mặc dù không đạt được đột phá quan trọng nào, song đã tạo được nền móng cho tiến trình đàm phán cấp đại sứ sau này, đồng thời tiến hành công tác chuẩn bị cho việc các nhà khoa học tại Mỹ, trong đó có Tiền Học Sâm, trở về nước sau này. Vì vậy, trong lịch sử quan hệ Trung - Mỹ thế kỷ XX, đàm phán cấp đại sứ Trung - Mỹ tại Genève có ý nghĩa rất sâu sắc.
1 H. Trevelyan, sđd, tr. 79-80.
2 Vương Bỉnh Nam, sđd.
3 Foreign Relation of the United States 1952-1954, Volume XIV, sđd, tr. 427.
4 Foreign Relation of the United States 1952-1954, Volume XIV, sđd, tr. 433.
5 Foreign Relation of the United States 1952-1954, Volume XIV, sđd.
6 Foreign Relation of the United States 1952-1954, Volume XIV, sđd, tr. 437.
7 Johnson U. Alexis, sđd.
8 Vương Bỉnh Nam, sđd, tr. 376.
9 Foreign Relation of the United States 1952-1954, Volume XIV, sđd, tr. 467.
10 Chu Ân Lai niên phổ: 1949-1976, sđd, tr. 376.
11 Nguyên văn, nhưng thực ra Tiền Học Sâm luôn kiên quyết yêu cầu được về nước, TG.
12 Foreign Relation of the United States 1952-1954, Volume XIV, sđd, tr. 475.
13 Foreign Relation of the United States 1952-1954, Volume XIV, sđd, tr. 477-478.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:08:39 GMT 9
CHƯƠNG 20 Ngàn núi cheo leo, mây mù ngờ vực trong tầm mắt
Ngày 5/6 là một bước ngoặt đối với hội nghị về vấn đề Triều Tiên. Tại Genève, vấn đề Triều Tiên bị trượt theo hướng tan vỡ. Thời điểm “lật bài” sắp đến. Menon can thiệp giữa chừng, Eden gõ cửa đến gặp đều khiến Chu Ân Lai trở nên cảnh giác, nghĩ rằng nhất định phải chuẩn bị tốt trước mọi diễn biến có thể nẩy sinh. Ông liên tiếp hỏi các trợ thủ nếu xảy ra trường hợp này thì làm thế nào? … Sự sụp đổ của Chính phủ Laniel ở Pháp đã đem đến cho hội nghị Genève biến số rất lớn.
Chiều 5/6, tại cuộc hội đàm thứ 13 về vấn đề Triều Tiên tại hội nghị Genève, đại biểu của Ethiopia phát biểu trước: “tôi hoàn toàn không định thảo luận quá nhiều về tác dụng của LHQ trong vấn đề Triều Tiên, bởi lẽ tôi hy vọng tránh mọi diễn biến có thể cản trở đàm phán giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên. Tuy nhiên, do có một số đề nghị, nên tôi thấy cần phải phát biểu, nhằm tránh có sự hiểu lầm về lập trường của nước chúng tôi. Trong quan niệm của chúng ta, không chút nghi ngờ gì rằng việc phái quân đội của mình đến Triều Tiên là một phản ứng trước yêu cầu của LHQ, chúng tôi làm như vậy cũng là thực hiện nghĩa vụ của mình đối với hiến chương LHQ. Quân đội của chúng ta cùng chiến đấu dưới lá cờ của LHQ, cũng là thực hiện nghị quyết đã được thông qua với đa số phiếu áp đảo tại LHQ”.
Ông nói tiếp, nay chiến tranh Triều Tiên đã chấm dứt, đất nước ông thấy rất vui mừng. Trên đây là lập trường chủ yếu của nước ông. Phát biểu trên đã nêu rõ những trở ngại chính đối với phe phương Đông trong vấn đề Triều Tiên, tức là dù thế nào thì vấn đề Triều Tiên cũng không thể bỏ qua được LHQ.
Tiếp theo Nam Il phát biểu, nêu lại chủ trương của Bắc Triều Tiên, tiếp tục nhấn mạnh cuộc tổng tuyển cử của Triều Tiên không thể do LHQ giám sát, mà “chỉ có một uỷ ban các quốc gia trung lập mới bảo đảm tiến hành giám sát công bằng, trung thực đối với cuộc tuyển cử của Triều Tiên”.
Chu Ân Lai phát biểu, nói: “chúng tôi đã nhiều lần nêu rõ, LHQ với hội nghị của chúng ta không có bất cứ liên quan nào. Hội nghị của chúng ta được tổ chức là nhằm tìm kiếm con đường giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên. Trên thực tế, một nền tảng chung để giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên là có thể tìm thấy được”.
Ông nói: “tại hội nghị của chúng ta, không có ai phản đối chủ trương nền hòa bình của Triều Tiên phải được củng cố, mọi người cũng đều công nhận mục đích của hội nghị là hướng tới giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên. Tất cả đều nói Triều Tiên cần phải được thống nhất. Để thực hiện mục tiêu này, mọi người đều cho rằng cần tiến hành một cuộc bầu cử tự do trên toàn bán đảo. Cuộc tuyển cử này cũng cần phải được tiến hành dựa trên nguyên tắc về tỷ lệ dân số. Còn riêng về vấn đề lên thời hạn để các lực lượng vũ trang nước ngoài rút hoàn toàn khỏi Triều Tiên, cũng chỉ có một số ít đại biểu về mặt nguyên tắc tỏ ra không nhất trí”.
Trọng tâm bài phát biểu của Chu Ân Lai là:
Vì lý do nhiều năm nay bán đảo Triều Tiên bị chia cắt thành hai miền, và do chiến tranh khiến mối quan hệ Nam - Bắc Triều Tiên ngày càng xấu đi, do đó chúng tôi mới đề nghị một hội đồng các quốc gia trung lập hỗ trợ toàn bộ Triều Tiên, giám sát cuộc tuyển cử trên bán đảo này. Một số ý kiến chủ trương để LHQ chịu trách nhiệm giám sát cuộc tuyển cử, điều này không thể được. Chúng tôi đã nhiều lần nêu rõ LHQ là một trong các bên tham chiến tại Triều Tiên, do đó từ lâu đã mất đi vai trò là lực lượng đạo nghĩa và mất đi tư cách giải quyết công bằng vấn đề Triều Tiên.
Chu Ân Lai nói: “trên thực tế, CHND Trung Hoa và CHDCND Triều Tiên đều nhất trí chủ trương tất cả các lực lượng vũ trang nước ngoài phải rút khỏi bán đảo Triều Tiên cùng một lúc. Hôm nay, trong khi chúng ta ngồi đây thảo luận việc giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên, thì Đại Hàn dân quốc và Mỹ vẫn không chịu chấp nhận việc quân đội Mỹ cùng tất các các đội quân nước ngoài rút khỏi Triều Tiên cùng một lúc. Điều này không phải đã đủ để chứng minh rằng họ đang mưu toan để quân Mỹ tiếp tục ở lại Triều Tiên can thiệp công việc nội bộ của Triều Tiên, và uy hiếp hòa bình của Triều Tiên cũng như an ninh của Trung Quốc hay sao? Tuy nhiên, những chủ trương đó của phái đoàn Mỹ và Đại Hàn Dân Quốc rõ ràng đã đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân các nước đang có con em tham chiến tại Triều Tiên”.
Chu Ân Lai nêu rõ “Ngày 7/5, một đại biểu New Zealand nói ông hoàn toàn tin tưởng rằng các nước tham gia hội nghị lần này đều hy vọng quân đội của họ có thể sớm rút khỏi Triều Tiên. Ngày 29/4, đại diện Australia nêu rõ họ hy vọng trên cơ sở đạt được một thỏa thuận đầy đủ với các điều khoản có sức mạnh, sẽ sớm tới ngày quân đội bắt đầu rút khỏi Triều Tiên. Một đại biểu khác ngày 13/5 cũng đã nói: “Chúng tôi cùng chung một hy vọng rằng một khi chúng ta có thể rút quân đi mà không làm ảnh hưởng gì tới hòa bình, chúng tôi sẽ rút ngay quân đội khỏi Triều Tiên”. Như vậy có thể thấy rút toàn bộ tất các lực lượng vũ trang nước ngoài khỏi Triều Tiên cũng là nguyện vọng của nhiều nước tham gia lực lượng quân sự của LHQ”.
Cuối cùng, Chu Ân Lai nói: “hội nghị Genève về giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên đã trải qua hơn một tháng thảo luận, nhân dân tất cả những nước yêu chuộng hòa bình đều đang hy vọng hội nghị của chúng ta đạt được kết quả tích cực. Chúng ta nên dựa trên những cơ sở nền tảng chung đã có, nỗ lực đạt được một hiệp định giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên, chúng ta không nên phụ lòng tin và hy vọng của nhân dân các nước”.1
Đại biểu Philippines, [Carlos P.] Garcia phát biểu, phản đối chủ trương của Chu Ân Lai, cho rằng không thể phủ nhận vai trò của LHQ.
Sau 15 phút giải lao, Molotov phát biểu, ủng hộ các ý kiến của đại biểu Trung Quốc và Triều Tiên, đồng thời đề xuất một dự thảo nghị quyết gồm năm điểm để hội nghị thảo luận:
Tiến hành tuyển cử trên toàn Triều Tiên trong vòng 6 tháng sau khi ký hiệp định. Dựa theo tỷ lệ dân số để lập cơ cấu đại biểu cơ quan lập pháp.
Hai bên Nam - Bắc Triều tổ chức thành một cơ cấu toàn Triều Tiên.
Tất cả quân đội nước ngoài rút khỏi Triều Tiên theo một thời hạn được xác định.
Thành lập Uỷ ban giám sát quốc tế để giám sát cuộc tuyển cử toàn Triều Tiên.
Các nước có liên quan trực tiếp tới vấn đề hòa bình của Viễn Đông có trách nhiệm bảo đảm Triều Tiên phát triển hòa bình, thúc đẩy hai miền thống nhất.
Smith lập tức phát biểu phản đối đề án của Molotov. Smith nói việc thành lập Uỷ ban giám sát bầu cử toàn Triều Tiên là phủ nhận ảnh hưởng của LHQ đối với vấn đề Triều Tiên, phương Tây nhất quyết không thể chấp nhận. Thứ hai là, yêu cầu Nam - Bắc Triều Tiên cử số người bằng nhau tham gia cơ cấu bầu cử cũng không thể chấp nhận được, bởi lẽ dân số miền Nam nhiều hơn gấp đôi so với miền Bắc, bắt buộc phải lựa chọn đại biểu dựa theo tỷ lệ dân số.
Smith cũng phản đối phương án thiết lập một Uỷ ban các quốc gia trung lập do Chu Ân Lai đề xuất, cho rằng LHQ hoàn toàn đủ khả năng thay thế các nước trung lập, đồng thời việc Trung Quốc đề nghị hai nước “vệ tinh” của Liên Xô là Ba Lan và Tiệp Khắc tham gia Uỷ ban trung lập hoàn toàn không giúp ích gì cho giải quyết vấn đề Triều Tiên.
Smith phát biểu xong, Chu Ân Lai tiếp tục phát biểu lần hai, nói: “Phái đoàn Trung Quốc không thể đồng ý với các ý kiến của ngài Smith, trong đó có ý kiến về việc thành lập Uỷ ban giám sát gồm các quốc gia trung lập. Chu Ân Lai nói: “Chúng tôi yêu cầu bảo lưu quyền phát biểu tại phiên hội nghị lần tới để trả lời những phát biểu vừa rồi của ngài Smith. Chúng tôi không nhất trí với phát biểu đó”.
Phiên hội nghị ngày kết thúc lúc 7 giờ 10 phút, không có tuyên bố về thời gian của phiên hội nghị sau.
Ngày 5/6 là một bước ngoặt đối với vấn đề Triều Tiên, mâu thuẫn giữa hai bên đối lập ở Genève đã rõ ràng. Những điểm tranh cãi chủ yếu xoay quanh 3 điểm: do LHQ hay thành lập một uỷ ban mới giám sát tuyển cử Triều Tiên? Quân đội nước ngoài có sớm rút toàn bộ khỏi Triều Tiên hay không? Những nước trung lập nào tham gia Uỷ ban giám sát?
Từ những phát biểu tại hội nghị có thể thấy hai vấn đề đầu tiên hầu như không có chút “không gian” để thương lượng, cả hai bên đều không chịu nhượng bộ. Đàm phán về vấn đề Triều Tiên kéo dài đến ngày 5/6 dường như còn rất ít “không gian” thương lượng.
Ngày 6/6, Smith gửi điện cho Dulles: phiên hội nghị ngày hôm qua cho thấy phe cộng sản nhất quyết phản đối vai trò của LHQ trong vấn đề Triều Tiên. Đề xuất của Molotov và các nước Liên hiệp Anh về cơ bản là hoàn toàn đối ngược nhau. Hai điểm khó khăn của chúng ta là: một mặt phải duy trì nhất trí với các nước Liên hiệp Anh chống lại đề xuất của Molotov, mặt khác chúng ta lại không thể thỏa hiệp với việc đâu đâu nước Anh cũng thể hiện địa vị chủ đạo, đặc biệt là việc muốn dùng con đường hòa bình để giải quyết tất cả các vấn đề”.
Mỹ quyết định kích động các nước phương Tây rút khỏi hội nghị về vấn đề Triều Tiên, và đã triển khai nhiều hoạt động ngoại giao nhằm mục đích này. Ngày 8/6, 16 nước tham dự hội nghị quyết định về vấn đề Triều Tiên, hai phe Đông, Tây đã “ngửa bài”, giờ chỉ chờ xem đến ngày 11/6, hai bên còn nói những gì. Nếu không, sẽ khép lại cánh cửa thảo luận vấn đề Triều Tiên.
Về thái độ của các nước phương Tây trong vấn đề Triều Tiên, Chu Ân Lai đã phán đoán chính xác. Ngày 6/6, ông gửi điện cho Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ báo cáo: “Phe ta đã vạch trần âm mưu phá hoại của Mỹ và hiện đã chuẩn bị đưa ra các tài liệu tiếp theo, khẳng định thành tích của uỷ ban giám sát trung lập đối với vấn đề Triều Tiên và mặt hữu hiệu của hiệp định bốn bên, đồng thời chứng minh Mỹ đã vì phạm hiệp định đình chiến và phá hoại uỷ ban giám sát trung lập. Về mặt tuyên truyền, tại hội nghị sẽ cố gắng thể hiện thái độ hòa giải mà chúng ta đã làm đối lập với thái độ phá hoại của Mỹ, nhằm chứng tỏ rằng cách làm của chúng ta là nỗ lực hết sức tìm điểm thống nhất, còn Mỹ thì kiên quyết đòi LHQ tham gia giám sát, không muốn tìm kiếm con đường giải quyết khác ngoài LHQ”.2
Đối với vấn đề Triều Tiên, phe phương Đông cũng không chuẩn bị nhượng bộ.
8 giờ 30 phút tối 8/6, Eden cùng một số tùy tùng đã đến khu biệt thự Le Grand Mont-Fleuri dự tiệc do Chu Ân Lai tổ chức.
Sau khi hội nghị Genève ngày 29/5 thông qua đề xuất của Anh về vấn đề Đông Dương, đầu tháng 6, Eden đã về nước vài ngày, báo cáo với nội các tiến trình hội nghị Genève. Ngày 5/6, Eden đã thận trọng phát biểu tại cuộc họp nội các rằng không có khả năng lạc quan về việc sẽ đạt được kết quả tại hội nghị Genève. Về vấn đề Đông Dương, chủ yếu là do chính sách của Pháp luôn dao động không ổn định. Chính phủ của Laniel xem ra không thể cầm cự được lâu nữa. Nếu có người khác kế nhiệm, chắc chắn ông ta sẽ mưu cầu một kết cục hòa bình với bất cứ giá nào. Mỹ lại hoàn toàn không muốn thấy một kết cục như vậy, tỏ ra sẵn sàng dồn sức mạnh quân sự vào Đông Dương. Nhưng Dulles cũng có một tiền đề là sự tham gia vũ trang của Mỹ nhất định là nhằm đối phó với việc Trung Quốc tham gia. Nhưng theo nhận định của Anh, Trung Quốc hoàn toàn không có ý định triển khai quân đội vào Đông Dương.
Eden nêu rõ trong quá trình hội nghị Genève, vai trò của Anh thể hiện nổi bật ở chỗ là cầu nối giữa hai phe Đông – Tây. Tuy nhiên, vai trò này của Anh luôn bị hiểu nhầm, đặc biệt là luôn bị Mỹ hiểu nhầm. Eden cho rằng nếu hội nghị Genève tiếp tục kéo dài vô thời hạn sẽ còn gây ra một hậu quả nghiêm trọng, đó là Việt Minh sẽ tăng cường ưu thế quân sự của họ. Ngày 2/6, Bộ Quốc phòng Anh đưa ra dự đoán, quân đội Việt Minh đã có 132 trung đoàn cơ động, chiếm được thế tiến công.
Báo cáo xong, Eden lại vội vàng trở lại Genève và muốn sớm gặp lại Chu Ân Lai.
Mặc dù đàm phán về vấn đề Triều Tiên rơi vào bế tắc, nhưng lời lẽ của Chu Ân Lại lại tỏ ra vô cùng thoải mái. Ông nói với các khách mời hôm nay là tiệc Trung Quốc và Tây Âu kết hợp. Trước mặt mọi người có cả đũa lẫn dao dĩa, mọi người tùy chọn. Trevelyan từng ở Trung Quốc một thời gian nên cũng tương đối quen dùng đũa rồi.
Eden nói tôi chưa từng tới Trung Quốc, tất nhiên không biết dùng đũa, nhưng tôi cho rằng dùng đũa rất thuận tiện, linh hoạt.
Chu Ân Lai nói phương thức ăn uống của các nước trên thế giới chủ yếu chia thành ba loại là: dùng dao dĩa, chủ yếu là các nước Âu, Mỹ, chiếm 1/3 dân số thế giới. Dùng đũa, chủ yếu có Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines và Hoa kiều ở một số nước, cũng chiếm 1/3 dân số thế giới. Loại thứ ba là dùng tay bốc, chủ yếu là các nước châu Phi, Trung Đông, cùng Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Sri Lanca, Nepal, Thổ Nhĩ Kỳ và vùng dân tộc thiểu số ở Tây Tạng, Tân Cương của Trung Quốc, chiếm khoảng 1/3 dân số thế giới.
Eden nói nếu xét từ góc độ vệ sinh thì chỉ có dùng dao dĩa và dùng đũa.
Chu Ân Lai nói: “có nhiều nơi đã trở thành phong tục tập quán, dùng tay bốc đồ ăn. Họ cho rằng ăn như vậy mới ngon”. Ông lại nói: “Ăn theo kiểu phương Tây còn thể hiện ở chỗ chia xuất ăn. Trước đây, người Trung Quốc ăn uống đều đựng chung thức ăn vào một đĩa, canh một một bát. Bây giờ cũng dần học theo phong cách Tây, mỗi người một đĩa hoặc một bát, dùng ăn riêng, đây là một sự cải tiến, cũng là một sự giao lưu văn hóa Đông – Tây”.
Sau màn mở đầu, Chu Ân Lai mời khách uống rượu dùng cơm. Các đầu bếp Trung Quốc theo đoàn đến Genève đều là những người tuyệt giỏi, Chu Ân Lai cũng đã căn dặn họ trước rằng đón tiếp các vị khách nước ngoài quan trọng, họ nhất định không được “phụ lòng mong đợi”. Được Thủ tướng căn dặn như vậy, bữa tiệc ở Le Grand Mont-Fleuri đã được bày biện rất đẹp với nhiều món sơn hào hải vị, trong đó có các món như canh tổ yến, gà ướp rượu, cải xào nấm hương, v.v. Khi tiệc sắp tàn, Eden cầm tờ thực đơn viết bằng cả tiếng Trung và tiếng Anh đưa cho Chu Ân Lai mời ký tên. Ông cho biết đã sưu tập rất nhiều tờ thực đơn có chữ ký của những người như Stalin, Churchill, … con trai ông rất lấy vui sướng và vinh dự có được những chữ ký đó.
Chu Ân Lai vui vẻ ký tên, sau đó mới Eden và quan khách xem bộ phim “Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài”. Tờ thực đơn có chữ ký của Chu Ân Lai luôn được Eden giữ gìn. Thập niên 80 của thế kỷ XX, phu nhân Eden được mời thăm Trung Quốc, mang theo tờ giấy này.
Ngày 11/6 diễn ra phiên họp thứ 14 của hội nghị Genève về vấn đề Triều Tiên, trọng tâm tranh luận giữa hai bên không thay đổi. Chu Ân Lai lại nỗ lực một lần nữa, phát biểu: “rõ ràng rằng do sự đối lập giữa hai miền Nam - Bắc, nên việc CHDCND Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc có thể đạt được thỏa thuận thông qua thương lượng là có những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, vì mục đích thông qua biện pháp hòa bình để thực hiện thống nhất Triều Tiên, dù ở hoàn cảnh nào những khó khăn này cũng không được né tránh, mà thậm chí phải nỗ lực khắc phục. Cũng rất rõ ràng rằng biện pháp khắc phục những khó khăn này không phải là hai miền Nam - Bắc tiếp tục đối lập kéo dài, hoặc lấy ý chí của một bên áp đặt cho bên kia, mà phải làm sao để hai bên xích lại gần nhau, đồng thời thông qua thương lượng để đi đến thỏa thuận.”
Chu Ân Lai kiên quyết phản đối LHQ nhúng tay giải quyết vấn đề Triều Tiên, đề nghị hội nghị tiếp nhận đề xuất năm điểm của Molotov làm nền tảng cho tiến trình thảo luận tiếp theo.
Trợ lý trưởng phái đoàn Canada phát biểu, phản bác kiến nghị của Molotov, kiên quyết cho rằng chỉ có LHQ mới có thể giải quyết vấn đề Triều Tiên. Canada phản đối mọi con đường giải quyết khác ngoài biện pháp này.
Sau đó, đại diện trưởng phái đoàn New Zealand, Maclindos phát biểu, ủng hộ ý kiến của đoàn Canada.
Cuối cùng, Eden phát biểu, nêu rõ hoàn toàn tán thành ý kiến của hai nước thuộc khối liên hiệp Anh là New Zealand và Canada. Ông nói, ông đã chuẩn bị mọi khả năng để có thể đạt được một hiệp định, nhưng bắt buộc phải có dấu hiệu có khả năng. Nếu không thể giải quyết được bất đồng liên quan hai vấn đề cốt yếu, hội nghị sẽ phải thừa nhận đã không hoàn thành nhiệm vụ, lúc đó vấn đề sẽ được giao cho LHQ. Hiện tại tình trạng đình chiến ở Triều Tiên vẫn có hiệu lực.
Vào thời điểm này, vấn đề Triều Tiên hầu như đã bị bế tắc hoàn toàn.
Phe phương Đông kiên quyết cho rằng LHQ là một bên tham chiến, không thể giải quyết vấn đề Triều Tiên một cách công bằng, vì vậy để thành lập một uỷ ban toàn Triều Tiên nhằm thương lượng phương thức thống nhất Triều Tiên, cần các quốc gia trung lập không tham gia vào cuộc chiến tranh Triều Tiên thực hiện chức năng giám sát quốc tế.
Quan điểm của phe phương Tây lại hoàn toàn ngược lại khi cho rằng chỉ có LHQ mới có đủ quyền và ảnh hưởng để giải quyết vấn đề Triều Tiên, và việc giải quyết vấn đề Triều Tiên bắt buộc phải nằm trong khuôn khổ LHQ. Vì Nam - Bắc Triều Tiên đã tổ chức một cuộc tuyển cử toàn dân được LHQ công nhận, do đó không cần thiết phải thành lập một uỷ ban toàn Triều Tiên, chỉ cần tiến hành bầu cử bổ sung ở Bắc Triều Tiên để chọn số ghế còn khuyết trong hội đồng Triều Tiên là được. Do đa số nước tham gia hội nghị Genève nghiêng về LHQ, khiến phe phương Đông gặp nhiều khó khăn trong vấn đề Triều Tiên.
Sau phiên họp ngày 11/6, Chu Ân Lai lập tức triệu tập cuộc họp những người phụ trách và cố vấn của phái đoàn, nghiên cứu tình hình hội nghị. Ông nói, qua cuộc họp ngày 5/6, và nhất là qua tình hình phiên họp ngày hôm nay, tôi dự đoán Mỹ sẽ tìm cách cắt đứt nhanh chóng việc thảo luận vấn đề Triều Tiên. Tại phiên hội nghị ngày 5/6, Molotov đã đưa ra kiến nghị năm điểm, phe ta đều không nhượng bộ trong các vấn đề như số lượng đại biểu bầu cử, giới hạn thời gian rút quân và vấn đề giám sát quốc tế. Hôm nay, trong phần phát biểu của Eden có một câu nói mà tôi hết sức chú ý, không biết các đồng chí có chú ý thấy không? Eden nói nếu không thể giải quyết được bất đồng trong hai vấn đề mà ông ta đưa ra, hội nghị chỉ còn cách thừa nhận đã không hoàn thành nhiệm vụ, và đến lúc phải đưa vấn đề ra LHQ.
Chu Ân Lai nói, đó chính là một tín hiệu, chứng tỏ các nước phương Tây, nhất là Mỹ, đã quyết định nhanh chóng đình chỉ thảo luận vấn đề Triều Tiên, tôi đoán là thời gian sẽ không lâu nữa, có thể sẽ nêu ra trong phiên họp tiếp theo. Nếu như vậy, chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta nên áp dụng sách lược đấu tranh nào? Nếu cuộc thương lượng về vấn đề Triều Tiên bị đình chỉ, khẳng định sẽ ảnh hưởng đến vấn đề Đông Dương, như vậy chúng ta sẽ phải đối phó ra sao?
Chu Ân Lai nói tiếp, những vấn đề trên đều cần được xem xét sớm, phải chuẩn bị gấp thì mới có thể không bị động trước những biến động mà có thể giữ thế chủ động. Ngày mai tôi sẽ đi Bern để tiếp kiến các nhà lãnh đạo Chính phủ liên bang Thụy Sĩ, Trương Văn Thiên cũng đi cùng. Vì vậy, đề nghị Vương Gia Tường và Lý Khắc Nông chủ trì việc nghiên cứu, đồng thời báo cáo kết quả nghiên cứu với trung ương. Ngoài ra, cần phải thông báo ý kiến của chúng ta cho Molotov và Nam Il để tiếp tục thương lượng, bàn bạc đối sách.
Sáng 12/6, Chu Ân Lai đi Bern gặp Chủ tịch Liên bang Thụy Sĩ [Rodolphe] Rubattel, đồng thời hội đàm với Bộ trưởng Ngoại giao. Quan chức Thụy Sĩ nêu rõ Thụy Sĩ là quốc gia trung lập, không nắm rõ lắm vấn đề Triều Tiên, giờ đảm nhiệm vai trò thành viên của uỷ ban giám sát trung lập đối với Triều Tiên, thấy “lực bất tòng tâm”, hy vọng được rút khỏi ủy ban này.
Chu Ân Lai bày tỏ cảm ơn những nỗ lực của Thụy Sĩ trong vấn đề Triều Tiên, và tỏ ý thấu hiểu thái độ trung lập của Thụy Sĩ.
Cùng ngày hôm đó, chính quyền Pháp đã có những thay đổi rất kịch tính.
Đối mặt với tình thế cực kỳ bất lợi tại Đông Dương cũng như kết quả khó dự đoán của hội nghị Genève, chính phủ Pháp quyết định áp dụng chiến lược chiến trường kết hợp với bàn đàm phán.
Ngày 28/5, nội các Pháp quyết định tiến hành động viên cục bộ ở trong nước và Bắc Phi, điều động binh lực chi viện cho quân Pháp ở Đông Dương, đồng thời quyết định thay đổi quan chức cao cấp ở Đông Dương. Ngày 2/6, Tổng tham mưu trưởng Ely được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh kiêm chuyên viên cao cấp tại Đông Dương. Đây là lần đầu tiên kể từ sau [Jean] de Lattre de Tassigny, Chính phủ Pháp tập trung mọi quyền chính trị và quân sự ở Đông Dương vào tay một người. Ngày 6/6, Ely đến Đông Dương nhậm chức, sứ mệnh của ông ta không hề nhẹ nhàng. Riêng trong ba ngày đầu tiên của tháng 6, tại vùng đồng bằng sông Hồng, sư đoàn 320 của quân đội Việt Nam dưới sự chỉ huy của Văn Tiến Dũng đã đánh bại hai tiểu đoàn quân của Bảo Đại, tiến công uy hiếp Hà Nội.
Ngày 9/6, phe đối lập trong Quốc hội Pháp công kích mạnh mẽ chính sách ngoại giao của chính phủ Laniel, và ý kiến này rất được đồng tình ủng hộ. Cùng ngày, Quốc hội Pháp đã bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Laniel, chính phủ sụp đổ, chính trường hỗn loạn.
Trước đó, Bidault ở Genève nhưng trong lòng lo lắng không yên, Ngày 7/6 đã một lần nữa bí mật đến gặp Chu Ân Lai, hy vọng đạt được chút thông cảm nào đó từ phía Trung Quốc trong vấn đề Đông Dương. Bidault cũng cho biết trong phiên hội nghị tới, ông có thể phát biểu một số từ ngữ mạnh mẽ, song điều này không gây trở ngại đối với việc ông tiếp tục “qua lại” với đoàn đại biểu Trung Quốc. Còn câu trả lời của Chu Ân Lai là giữa hai vấn đề Triều Tiên và vấn đề Đông Dương tất nhiên có ảnh hưởng lẫn nhau, và đều cần phải được giải quyết, chứ không chỉ giải quyết một, còn một lại không muốn giải quyết hoặc tìm cách gây trở ngại. Hai bên tham gia hội nghị đều cần thể hiện tinh thần hiệp thương để tìm đến những điểm chung. Về vấn đề Đông Dương, Pháp và Việt Nam cần chủ động hơn.
Vào thời điểm cuối cùng khi còn chưa rõ sự tồn vong của chính quyền Laniel, Bidault cuối cùng không thể kiên nhẫn hơn đã vội vã trở về Paris.
Về vấn đề Đông Dương, ngày 8/6, Chu Ân Lai đã gửi điện báo cáo Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ như sau: hai bên tham chiến ở Việt Nam chia thành hai khu vực lớn ở Nam và Bắc để tiến hành điều chỉnh sẽ thuận lợi hơn là đình chiến và điều chỉnh trong phạm vi hiện trạng, phương án này chỉ trong trường hợp bất đắc dĩ chúng ta mới đưa ra. Hiện đại biểu quân sự hai bên đã bước vào giai đoạn thương lượng các vấn đề cụ thể, phe ta sẽ bước vào công tác hiệu chỉnh bản đồ hiện trạng, sau đó đề xuất phương án phân chia. Về việc này, Phạm Văn Đồng hoàn toàn đồng ý.
Cùng ngày, Chu Ân Lai cũng gửi điện cho Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ báo cáo tình hình phiên đàm phán thứ năm giữa đại biểu quân sự hai bên. Chu Ân Lai đưa ra đối sách đàm phán của phe ta là: “cách thức của ta trong những phiên đàm phán gần đây nhất là không tiến hành thảo luận tình hình của hai bên tại mỗi khu vực, mà để địch giới thiệu toàn bộ khu vực chúng đang kiểm soát trước, sau đó phân khu ra để phản bác, cuối cùng mới đưa ra bản đồ hiện trạng của phe ta. Như vậy vừa nhanh chóng tìm hiểu được ý đồ của kẻ địch, lại vừa tranh thủ thời gian và điều kiện chuẩn bị cho phương án tối cao về phân chia ranh giới mà chúng ta đưa ra trước tiên”.
Ngày 12/6, Quốc hội Pháp một lần nữa tiến hành bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ của Laniel, kết quả Laniel đã bị thất bại do thiếu tám phiếu ủng hộ. Ngày 13/6, Laniel từ chức. Sự sụp đổi của chính phủ Laniel đã đem lại một biến số rất lớn cho hội nghị Genève.
Đối với sự thay đổi chính quyền ở Pháp, Chu Ân Lai đã có dự báo từ trước. Chiều 12/6, sau khi trở về Genève, ông gửi điện cho Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ, một lần nữa cho biết đàm phán quân sự diễn ra bên cạnh đàm phán chính trị về Đông Dương đã có kết quả, phương châm của Pháp là dẫn dắt Việt Nam đàm phán về các điều kiện toàn bộ trước, sau đó mới tùy cơ tiến hành tiếp. Về việc này, trước tiên chúng ta cũng cần tìm hiều rõ ý đồ của đối phương, “đồng thời chọn thời cơ thích hợp để biểu lộ rõ:
Khu vực đồng bằng Bắc bộ chúng ta sẽ nắm hết, song các quyền lợi kinh tế của Pháp vẫn có thể duy trì, quân đội cũng sẽ rút đi theo giai đoạn;
Khi đối phương có câu trả lời khẳng định về vấn đề phân chia ranh giới, chúng ta có thể nêu rõ ngoài toàn bộ Bắc bộ, khu vực Bình Trị Thiên ở Trung bộ chúng ta sẽ nắm;
Nếu đối phương truy hỏi điều kiện trao đổi, có thể tiết lộ một số khu vực ở miền Nam có thể nhượng bộ, nhưng không đưa ra chủ trương lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới;
Nếu đối phương đề xuất vĩ tuyến 18 hoặc 16, ngoài việc truy hỏi đó là ý kiến của chính phủ Pháp hay ý kiến cá nhân, tạm thời không trả lời ngay, nghiên cứu thận trọng xong sau đó mới phát biểu”.
Nhằm gây ảnh hưởng với hội nghị mang tính giới hạn về vấn đề Đông Dương diễn ra ngày 14/6, 11 giờ 15 phút ngày 13/6, Chu Ân Lai chủ động hẹn gặp đặc sứ Ấn Độ Menon.
Trước đó, ngày 10/6, Menon đã từng đến gặp Chu Ân Lai, đưa ra vài vấn đề để Chu Ân Lai tham khảo. Giờ Chu Ân Lai trả lời: về việc bảo đảm quốc tế đối với sự đình chiến ở Đông Dương, không chỉ do các nước lớn, mà các nước có liên quan cũng cần tham gia, nếu không họ sẽ rất khó đảm nhiệm nghĩa vụ. Về vấn đề Triều Tiên, nguyên tắc nhất trí hiệp nghị mà Trung Quốc nêu ra không phải là hoàn toàn tuyệt đối, có những vấn đề cần nhất trí hiệp nghị, có những vấn đề chỉ cần đa số thông qua. Hy vọng Ấn Độ có thể phát huy vai trò của mình khi tham gia uỷ ban giám sát trung lập. Chu Ân Lai nhờ Menon chuyển lời tới Thủ tướng Nehru rằng Trung Quốc sẵn sàng duy trì mối quan hệ tốt đẹp với các nước Đông Nam Á cũng như với Ấn Độ. Những vấn đề của Đông Nam Á nên để người Đông Nam Á tự giải quyết. Cần thiết lập một môi trường an ninh ở Đông Nam Á, để tất cả các nước cùng tồn tại hòa bình, không để cho Mỹ có bất cứ cớ gì để can thiệp.3
Menon một lần nữa đề xuất: Thủ tướng Nehru đã “giao cho tôi một nhiệm vụ đặc biệt, đó là mời ngài lúc nào có thể tiện đường qua thăm Ấn Độ, một ngày thôi cũng được. Nếu ngài vui lòng, sau này có thể đi thăm chính thức Ấn Độ. Điều này sẽ có ảnh hưởng rất lớn với cả phương Đông và phương Tây, hy vọng các ngài có thể cho chúng tôi câu trả lời thông qua đại sứ tại New Dehli”.
Menon cũng trình bày quan điểm đối với vấn đề Triều Tiên: “ý kiến của chúng tôi là hội nghị lần này không thể đạt được kết quả gì, và các kiến nghị của chúng tôi về vấn đề này cũng chỉ có thể đưa ra tại LHQ. Vấn đề thống nhất Triều Tiên có lẽ phải hoàn thành theo từng giai đoạn.”4
Buổi chiều, Chu Ân Lai tiếp đại sứ Indonesia tại Pháp A. Akon. Đầu tiên Akon hỏi chính quyền Laniel của Pháp đã sụp đổ, ngài có nhận định gì về tương lai hội nghị Genève?
Chu Ân Lai nói hiện nay đã đạt được hiệp định đình chiến mang tính nguyên tắc. Tại Việt Nam, đàm phán giữa đại diện bộ tư lệnh hai bên cũng đạt được những tiến triển nhất định, nên có thể hy vọng về hòa bình ở Đông Dương. Đại bộ phận nhân dân Pháp đều mong muốn hòa bình, đa số nghị sĩ Quốc hội Pháp cũng yêu cầu đình chiến, cơ hội này không nên để tuột mất.
Đại sứ Akon nói, hôm qua vừa nói chuyện cùng Eden, nhận thấy Eden rất tỏ ra rất bi quan về hội nghị Genève, cho rằng trong thời gian ngắn sắp tới sẽ không giải quyết được các vấn đề chính trị.
Chu Ân Lai nói tình hình trước mắt tương đối phức tạp, nhưng không có lý do gì để bi quan về vấn đề hòa bình của Đông Dương, vì hiện đã có hiệp định sơ bộ về đình chiến, đại diện quân sự hai bên cũng có khả năng ký kết được hiệp định. Đình chiến là việc cấp thiết nhất. Mặc dù nó liên quan tới vấn đề chính trị, song tình hình chính trị Pháp hiện nay, không trở ngại tới việc quân sự có thể đạt được thảo thuận trước. Vì vậy, cần tiếp tục các nỗ lực.
Akon cho biết khi nghe Eden phát biểu, chính phủ Indonesia rất lo ngại hội nghị Genève thất bại, và dự đoán rằng sau khi hội nghị thất bại, Mỹ sẽ tận dụng cơ hội can thiệp vũ trang vào Đông Dương, thiết lập “công ước Thái Bình dương”. Indonesia hoàn toàn phản đối công ước này, cho rằng nó không có lợi cho an ninh cũng như các lợi ích của Indonesia.
Chu Ân Lai trả lời: Trung Quốc không muốn hội nghị Genève thất bại, cũng không có lý do để cho rằng hội nghị sẽ thất bại. Chúng tôi không hoàn toàn nhất trí với ý kiến của Eden. Hơn nữa, bất luận hội nghị Genève có thành công hay không, Mỹ vẫn muốn thiết lập “công ước Thái Bình Dương”, và nguy cơ này luôn tồn tại. Cho dù Đông Dương khôi phục được hòa bình, Mỹ vẫn muốn tìm cớ để can thiệp, vì vậy tuyệt đối không được lơi là cảnh giác. Nếu Mỹ thiết lập một công ước như vậy, Trung Quốc sẽ ủng hộ lập trường của Indonesia phản đối công ước Thái Bình Dương. Trung Quốc và Indonesia có thể cam kết không xâm phạm lẫn nhau, tôn trọng chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp công việc nội bộ của nhau. Trung Quốc ủng hộ Ấn Độ, Indonesia và Miến Điện trở thành thành viên uỷ ban giám sát độc lập đối với vấn đề Đông Dương.5
Trong lúc Chu Ân Lai đang rất bận rộn, tối 13/6, Eden, Smith và Chauvel cũng tiến hành hội đàm. Chính phủ Laniel đã sụp đổ, chức Bộ trưởng Ngoại giao của Bidault xem ra cũng sắp hết thời rồi, rất có khả năng không trở lại Genève nữa. Chauvel với tư cách đại diện cho chính phủ Pháp hội kiến với đại biểu Anh và Mỹ.
Eden nói ông đã kiến nghị với phái đoàn Lào và Campuchia, đề nghị họ tiến hành đàm phán với Việt Minh, nhưng các đại diện Lào và Campuchia đều nói rằng yêu cầu Việt Minh phải đồng ý rút quân khỏi Lào và Campuchia trước, họ mới đàm phán.
Chauvel nói, ông không nắm rõ quan điểm chính xác của Bidault, vì vậy một lần nữa xin ý kiến chủ trương của Pháp trong vấn đề Lào và Campuchia, yêu cầu bảo đảm sự trung lập của hai quốc gia này. Ông ta cũng có chút hàm hồ khi nói đến việc đại biểu quân sự Việt Nam và Pháp đã tiến hành đàm phán quân sự bí mật, cho biết Việt Minh vẫn tuyên bố nếu Pháp vẫn kiên quyết giữ lập trường hiện nay thì sẽ không đạt bất cứ kết quả gì. Chauvel cho biết ông có cảm giác rằng người Việt Nam có ý tạo một ấn tượng rằng người Trung Quốc xúi giục quân đội Việt Nam tiến vào Lào và Campuchia, về việc này, bản thân Việt Minh không thể kiểm soát được.
Họ đàm luận đến kết cục của hội nghị Genève về vấn đề Triều Tiên, các nước phương Tây dự định trong phiên họp ba ngày sau đó sẽ ra “tuyên bố của 16 nước”, sau đó kết thúc thảo luận vấn đề Triều Tiên. Eden nói ông đồng ý với tuyên bố 16 nước, đồng thời cho rằng các phái đoàn đàm phán của phe phương Đông nhất định sẽ yêu cầu tổ chức một hội nghị quốc tế khác về vấn đề Triều Tiên. Eden cho rằng cứ để cho họ nói, 16 nước đưa ra một tuyên bố ngắn gọn là được, nêu rõ rằng vì lập trường của phương Đông không chút thay đổi nên không tiến hành đàm phán nữa.6
Hội đàm xong, Smith báo cáo với Dulles, quyết tâm kết thúc thảo luận vấn đề Triều Tiên vào ngày 15/6.
Tối hôm đó, Chu Ân Lai hội đàm với Molotov và Phạm Văn Đồng, phối hợp phương châm đàm phán. Lúc này, họ vẫn chưa có được thông tin chính xác về việc 16 nước phương Tây sẽ ra tuyên bố chung tại phiên họp ngày 15/6, vì vậy vẫn đặt vấn đề Đông Dương lên trước. Ba bên đạt được nhất trí trong các vấn đề sau: một là cho rằng sau khi chính phủ của Laniel sụp đổ, Pháp nhất định sẽ rất lo lắng đến những khó khăn càng lớn khi chiến đấu ở Việt Nam vào mùa mưa, nội các sẽ lại phái binh lực để chi viện, khả năng Mỹ can thiệp vũ trang sẽ chưa xảy ra. Anh lại càng phản đối mở rộng chiến tranh Đông Dương. Vì vậy, Pháp sẽ tiếp tục tham gia đàm phán tại Genève, thậm chí về cơ bản sẽ đồng ý phân chia ranh giới tại Việt Nam. Trong tình hình đó, việc Mỹ muốn phá hoại đàm phán sẽ gặp phải khó khăn. Mặc dù còn tồn tại rất nhiều yếu tố khó khăn, chúng ta vẫn sẽ giữ thái độ tích cực, vì sau khi thông qua phương án do Anh đề xuất ngày 29/5, đàm phán giữa bộ tư lệnh quân sự hai bên đã đạt được kết quả, và đã bước vào thảo luận các vấn đề cụ thể.
Hội đàm xong, Chu Ân Lai về phòng tiếp tục công việc. Ông bỏ chút thời gian viết thư cho vợ, bà Đặng Dĩnh Siêu.
Tối 30/5, Chu Ân Lai nhận được thư của vợ, ngoài phong bì có đề dòng chữ: “Nhờ chuyển cho Chu Ân Lai làm kỷ niệm. Chúc hội nghị Genève thành công”. Mở phong bì ra, bên trong là một chiếc lá phong đỏ rực, trên có dòng chữ “Một chiếc lá phong, gửi niềm thương nhớ”.
Do quá bận rộn, Chu Ân Lai chưa thể gửi thư trả lời. Nữ thư ký Trần Hạo biết được việc này nên cùng cận vệ Thành Nguyên Công liên tục nhắc nhở, Chu Ân Lai thấy vậy tiện thể nhờ luôn họ vào vườn trong khu biệt thự ngắt vài bông hoa đẹp, ép lại để gửi về cho Đặng Dĩnh Siêu. Lúc này hoa ép đã khô, Chu Ân Lai cầm bút viết thư cho vợ:
Siêu:
Đã nhận được thư của em từ sớm. Xem ra em vẫn nhiệt tình và lý trí lắm, đúng là già mà vẫn kiên cường, anh xấu hổ vì không bằng em.
Đến Genève đã 7 tuần lễ rồi, quả thực quá bận, thường xuyên cảm thấy ngủ không đủ, cả tuần lễ chỉ có một, hai ngày ngủ đủ tám tiếng. May mà không mất ngủ, sức khỏe, tinh thần đều tốt, mong em yên tâm.
Hai đồng chí Trần Hạo, Thành Nguyên Công nhiều lần giục anh viết thư. Bây giờ đã là bốn giờ sáng rồi mà vẫn còn nhiều việc chưa làm. Ngày mai giao thông ngoại giao đợi nhận, đành viết vội mấy chữ, nhờ các đồng chí thu tập hoa trong vườn, gửi em với lòng nhớ nhung từ xa.
Chu Ân Lai
Đêm ngày 13 tháng 67
Suy đoán từ lạc khoản, đoán là bức thư này được viết vào sáng sớm ngày 14 tháng 6, lúc ấy tâm tình Chu Ân Lai còn coi như bình tĩnh, nhưng sóng bên hồ Genève đã nổi, mây mù đã kéo đến, sống to gió lớn sẽ lập tức xẩy ra.
1 Tuyển tập văn kiện Hội nghị Genève, sđd, tr. 77-80.
2 Chu Ân Lai niên phổ: 1949-1976, sđd, tr. 377.
3 Chu Ân Lai niên phổ: 1949-1976, sđd, tr. 381.
4 Lý Liên Khánh, Chu Ân Lai – nhà ngoại giao lớn t.2, sđd, tr. 229-230.
5 Foreign Relation of the United States 1952-1954, Volume XVI, sđd, tr. 1133.
6 Foreign Relation of the United States 1952-1954, Volume XVI, sđd, tr. 1133.
7 Tập thư từ của Chu Ân Lai, Trung ương Văn hiến XBX, 1988, tr. 501.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:09:32 GMT 9
CHƯƠNG 21 Hội nghị ngày 15 tháng 6 – sóng to gió lớn
Phát biểu của ngoại trưởng các nước tham dự hội nghị Genève ngày 15 tháng 6 là một kỷ lục hay nhất tại các hội nghị ngoại giao quốc tế trong thế kỷ XX. Đối mặt với với các đại sư ngoại giao tập trung trước mặt mình, Chu Ân Lai gặp hiểm mà không sợ, càng ở nơi khó khăn càng thể hiện trí tuệ. Chín lần phát biểu của ông trong hội nghị đã làm cho cục diện hội nghị chuyển biến về mặt có lợi cho mình. Trí tuệ của Chu Ân Lai trong sóng to gió lớn chiếu rọi khắp nơi trên vũ đài ngoại giao Genève.
3 giờ 05 phút ngày thứ ba, 15 tháng 6 năm 1954, hội nghị toàn thể lần thứ 15 về vấn đề Triều Tiên được Eden, chủ tịch hội nghị tuyên bố bắt đầu, và mời Nam Il đại biểu Triều Tiên phát biểu trước.
Phát biểu của Nam Il chỉ ra: “mặc dù trên một số vấn đề quan trọng còn tồn tại bất đồng tương đối lớn nhưng vẫn nên tiếp tục cố gắng để đạt được những quyết định có thể cùng tiếp nhận. Nếu như hiện nay chúng ta không thể đạt được hiểu biết và cảm thông trên các vấn đề để có thể cử hành bầu cử nhằm thống nhất Triều Tiên, thì chúng ta nên trên một số vấn đề quan trọng khác, trước hết là trên vấn đề bảo vệ hòa bình Triều Tiên đạt được sự cảm thông.
Nam Il nói, căn cứ vào tin tức chính thức của Nam Triều Tiên, từ khi ký hiệp định đình chiến đến nay, binh lực của quân đội Nam Triều Tiên đã từ 16 sư đoàn tăng lên đến 20 sư đoàn, trong tương lai sẽ còn xây dựng 15 sư đoàn bộ binh và không quân to lớn. Xem ra chỉ cần quân đội nước ngoài còn ở lại Triều Tiên thì còn khó xóa bỏ cục diện căng thẳng. Ông kiến nghị, thành lập một Uỷ ban do đại biểu Nam, Bắc Triều Tiên tổ thành, giám sát đôn đốc quân đội nước ngoài rút quân, giảm bớt số lượng quân nhân Nam, Bắc Triều Tiên. Cũng nên tiến hành giao lưu kinh tế văn hóa giữa Nam, Bắc Triều Tiên.
Vì thế Nam Il đã nêu ra sáu điểm kiến nghị:
Các nước có liên quan, theo tỷ lệ nhanh chóng rút quân khỏi Triều Tiên, hội nghị Genève qui định thời hạn rút quân.
Trong một năm giảm bớt lực lượng quân sự của Nam, Bắc Triều Tiên mỗi bên không được vượt quá 100.000 người.
Uỷ ban do đại biểu hai bên Nam, Bắc tổ thành nghiên cứu giải trừ điều kiện tình trạng chiến tranh, hai bên ký hiệp định.
Mỗi bên Nam, Bắc Triều Tiên đều không ký điều ước quân sự với nước ngoài.
Thành lập Uỷ ban toàn Triều Tiên để đặt biện pháp, phát triển giao lưu văn hóa, kinh tế giữa Nam, Bắc Triều Tiên.
Các nước tham gia hội nghị Genève đảm bảo Triều Tiên phát triển hòa bình, cố gắng vì sự hòa bình thống nhất Triều Tiên nhanh nhất.
Phát biểu của Nam Il không dài, là một bài viết vội. Thì ra sau buổi trưa ngày hôm qua (14 tháng 6) Eden đã gửi bản sao “Tuyên ngôn” của 16 nước cho Molotov. Vừa đọc xong Molotov đã nổi giận, giận dữ hỏi Eden, đây liệu có phải là 16 nước cho rằng vấn đề Triều Tiên sẽ không thể giải quyết được hay không?
Eden trả lời, bản thảo cuối cùng của “Tuyên ngôn” 16 nước tự bản thân có thể thuyết minh vấn đề.
Ngay tối hôm đó sau khi hội nghị đứng đầu ba nước Trung, Xô, Triều bàn bạc, đã cho rằng, hiện nay mặt trận phương Đông đã không thể đề xuất cái vốn định là phương án thứ hai và được coi là kiến nghị bổ sung cuối cùng, cần phải tranh thủ tại phiên họp cuối cùng đánh hết con bài của mình, cho dù không cứu vãn được sự tan vỡ ngay lập tức của hội nghị thì cũng làm cho đối phương ở vào vị thế bất lợi. Yêu cầu của phía ta đưa ra càng thấp thì càng làm cho đối phương bị động, càng lộ ra không có lý do, đồng thời khiến đối phương phải gánh chịu trách nhiệm lớn hơn trong việc làm cho hội nghị tan vỡ.
Đại biểu người đứng đầu ba nước bàn định, Nam Il đề xuất kiến nghị giọng điệu tương đối thấp mới, rồi sẽ được Chu Ân Lai, Molotov ủng hộ.
Sau khi Nam Il phát biểu, Chu Ân Lai phát biểu, nói một cách rõ ràng:
Tại hội nghị ngày 11 tháng 6 tôi đã từng nói, đối với việc thảo luận giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên chúng ta đã thu được không ít ý kiến nhất trí và tiếp cận nhất trí, chúng ta nên khẳng định những ý kiến đã nhất trí và có thể nhất trí, sau đó tiếp tục thảo luận những điểm bất đồng, nhằm thuận tiện đạt được hiệp nghị hoàn toàn của các vấn đề. Do đó tôi cho rằng, hội nghị này không có lý do gì để không căn cứ vào kiến nghị của ngài Ngoại trưởng Liên Xô Molotov, tiếp tục thảo luận, nhằm thuận tiện cho việc đạt thành hiệp nghị về vấn đề hòa bình thống nhất Triều Tiên.
Trong phát biểu Chu Ân Lai chỉ ra: “Ngài Molotov, Ngoại trưởng Liên Xô khi đề xuất năm nguyên tắc của ông đã chỉ ra, còn có rất nhiều vấn đề chờ giải quyết, ông không hề đánh giá thấp tính phức tạp của tình hình này. Chính vì muốn giải quyết những bất đồng này nên mới cần phải khẳng định những ý kiến đã nhất trí và tiếp cận nhất trí. Đây vốn là điều tuân theo trình tự hợp với thường thức của các loại hội nghị. Thế nhưng những người phản đối kiến nghị của ngài Molotov đã sử dụng loại thái độ không hợp với thương tình, họ nói bên dưới nguyên tắc của mỗi hạng mục đã đạt hiệp nghị hoặc tiếp cận hiệp nghị vẫn còn rất nhiều điểm bất đồng, nếu như không đồng thời tiến hành giải quyết những điểm bất đồng có liên quan thì khẳng định những nguyên tắc này chẳng còn công dụng gì? Thực ra để giải quyết tốt hơn nữa những bất đồng này mới cần thiết khẳng định lại những ý kiến đã nhất trí và tiếp cận nhất trí.”
Chu Ân Lai khiển trách đại biểu Mỹ ngăn cản hội nghị Genève đạt được hiệp nghị. Ông nói: “trong quá trình thảo luận, đa số đại biểu đã nhấn mạnh sự tất yếu phải tiến hành giám sát quốc tế cuộc bầu cử tại toàn Triều Tiên, Ngày 22 tháng 5, đoàn đại biểu nước CHND Trung Hoa kiến nghị, do các nước trung lập không tham gia chiến tranh Triều Tiên phụ trách hạng mục giám sát quốc tế này. Điều này vốn là một khả năng rộng lớn để triển khai đạt thành thành hiệp nghị giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên. Thế nhưng trong cùng ngày hôm đó, đại biểu Đại Hàn Dân Quốc đã đề xuất do chính phủ Nam Triều Tiên thống nhất kiến nghị của toàn Triều Tiên. Để thúc đẩy hội nghị tiến triển, ngày 5 tháng 6 Molotov, ngoại trưởng Liên Xô đã đề xuất kiến nghị nguyên tắc năm điểm trên cơ sở tổng kết những ý kiến nhất trí và tiếp cận nhất trí của đại biểu các nước tham dự hội nghị bao gồm cả ý kiến của Đại Hàn Dân Quốc. Thế nhưng những ý kiến đó đã bị đại biểu Mỹ và đại biểu các nước khác phản đối. Từ đó có thể thấy, đại biểu Mỹ và đại biểu các nước theo Mỹ về căn bản không muốn đạt được bất kỳ hiệp nghị nào đối với vấn đề hòa bình thống nhất Triều Tiên. Sự thực là trước khi khai mạc hội nghị này một số nhân sĩ có thế lực nào đó của Mỹ đã công khai tuyên bố phương châm không cho phép hội nghị Genève thành công. Sự phát triển của hội nghị cho đến hôm nay đã chứng thực điểm đó. Chính sách ngăn cản hội nghị Genève của Mỹ là nguyên nhân cơ bản khiến cho đến nay hội nghị này không thể đạt được hiệp nghị.”
Chu Ân Lai tiến tới chỉ ra: “cho dù đến bây giờ chúng ta vẫn chưa thể đạt được hiệp nghị về vấn đề hòa bình thống nhất Triều Tiên, nhưng chúng ta cũng nên cố gắng đạt được hiệp nghị về vấn đề củng cố hòa bình Triều Tiên.” Ông ủng hộ sáu điểm kiến nghị vừa đề xuất của Nam Il, cho rằng nên có “Uỷ ban toàn Triều Tiên” do đại biểu hai bên Nam, Bắc Triều Tiên tổ thành.
Trước khi kết thúc phát biểu, Chu Ân Lai đề xuất nghị án, hy vọng hội nghị thông qua:
Đoàn đại biểu nước CHND Trung Hoa kiến nghị triệu tập hội nghị hạn chế do bảy nước Trung, Xô, Anh, Mỹ, Pháp nước CHDCND Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc tham gia, thảo luận các biện pháp có liên quan đến củng cố hòa bình Triều Tiên.
Chu Ân Lai kêu gọi: “Chúng tôi hy vọng đại biểu các nước tham dự hội nghị có suy nghĩ trịnh trọng đối với kiến nghị này.”
Tiếp đó đến Molotov phát biểu. Ông chỉ ra, năm điểm nguyên tắc do Eden đề xuất ngày 13 tháng 5 tại hội nghị: tiến hành bầu cử để tổ thành chính phủ toàn Triều Tiên, trong bầu cử hai bên Nam, Bắc Triều Tiên đều tuân theo nguyên tắc chế độ đại biểu theo tỷ lệ, bảo đảm tự do bầu cử trên cơ sở quyền bầu cử phổ thông và bỏ phiếu kín, dưới sự chủ trì của tổ chức LHQ tiến hành giám sát quốc tế bầu cử, quyết định điều kiện để quân đội nước ngoài rút khỏi Triều Tiên. Ngày 5 tháng 6 đại biểu Liên Xô đề xuất năm điểm ý kiến, về đại thể nhất trí với một số điểm trong năm điều của Eden, nhưng năm điều của Liên Xô tương đối tinh xác, cụ thể hơn. Molotov kêu gọi, những người tham dự hội nghị tiếp tục coi trọng đề nghị của Liên Xô
Nhằm thẳng vào tình hình xuất hiện hôm nay, Molotov nhấn mạnh: “nếu như những người tham dự hội nghị Genève có thể đặc biệt tuyên bố bảo đảm tính tất yếu của sự phát triển hòa bình Triều Tiên thì điều đó là một việc quan trọng đặc biệt.
Khi kết thúc bài phát biểu, Molotov cũng cung cấp một dự thảo “Tuyên ngôn chung” để hội nghị thảo luận:
Các nước tham gia hội nghị đã đồng ý: trong thời gian chờ đợi giải quyết cuối cùng vấn đề Triều Tiên trên cơ sở xây dựng một quốc gia thống nhất, độc lập, dân chủ, không được sử dụng bất kỳ hành động nào có thể tạo thành mối đe dọa cho duy trì hòa bình Triều Tiên.
Những người tham dự hội nghị tin tưởng nước CHDCND Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc sẽ hành động vì lợi ích của hòa bình theo tuyên ngôn này.
Phát biểu của ba vị đại biểu mặt trận phương đông hết 1 giờ 30 phút, khi Eden mời Garcia, đại biểu Philippines phát biểu, Garcia đã đề nghị hội nghị tạm nghỉ.
Thời gian tạm nghỉ của các ngoại trưởng trong lần họp này, tổng cộng tới 50 phút. 16 tập đoàn nước lợi dụng 40 phút tiến hành một cuộc họp, một lần nữa xác nhận sẽ do hoàng thân Wan Waithayakon, đại biểu Thái Lan, đại biểu tập đoàn 16 nước tuyên đọc “Tuyên ngôn cuối cùng”. Chu Ân Lai, Molotov, Nam Il cũng gặp gỡ khẩn cấp, trao đổi cách nhìn về khả năng xuất hiện cục diện nghiêm trọng vào nửa cuối tiến trình hội nghị.
5 giờ 30 phút chiều, hội nghị tiếp tục tiến hành, các đại biểu tham dự hội nghị bàn luận, phát biểu. Eden mời Smith dại biểu Mỹ phát biểu trước. Sự chuẩn bị phát biểu của nửa vòng sau hội nghị khác với nửa vòng trước là hầu như mọi phát biểu đều được nói ngay trên bàn họp. Các tay thợ khổng lồ ngoại giao thế giới đều có tài biện luận, người nào cũng đều có thể xuất khẩu thành chương. Vì đây là hội nghị cuối cùng bàn luận về vấn đề Triều Tiên nên phải nắm chắc cơ hội, những người phát biểu không ai là không lời lẽ đanh thép, lập luận sắc bén. Trong hội nghị Genève đã xuất hiện cuộc đấu tranh tại hội trường dữ dội nhất, đã ghi lại một kỷ lục khó có trong lịch sử ngoại giao thế giới rất đáng nhớ lại.
Smith nói: “tôi đã đọc nghị án do đại biểu Liên Xô đề xuất với tâm tư kinh ngạc nào đó. Tôi muốn nhắc nhở mọi người, khẳng định là đại biểu Liên Xô đã quên hiệp định đình chiến Triều Tiên. Ở đây tôi muốn nhắc nhở các vị đang có mặt hãy chú ý tới các điều khoản của hiệp định đình chiến Triều Tiên. Đoàn đại biểu Mỹ tại đây thay mặt quân đội LHQ chỉ ra, hiệp định đình chiến Triều Tiên bao gồm điều khoản như thế này, tức chỉ cần phía Cộng sản tuân thủ, thì đình chiến vẫn tiếp tục có hiệu lực. Điều 62 của hiệp định đình chiến như sau:
Các điều khoản của hiệp định đình chiến này khi chưa được hai bên cùng tiếp nhận những sửa chữa và bổ sung thêm, hoặc chưa được cấp chính trị hai bên và trước khi qui định trong hiệp định giải quyết hòa bình được thay thế rõ ràng thì vẫn tiếp tục có hiệu lực.
Hội đồng Bảo An LHQ đã phê chuẩn hiệp định đình chiến Triều Tiên ngày 28 tháng 8 năm 1953, hiệp định đình chiến yêu cầu Uỷ ban đình chiến Triều Tiên thông qua đàm phán ngăn chặn khả năng xuất hiện những hành vi vi phạm hiệp định, giám sát đôn đốc việcthực thi các điều khoản. Uỷ ban đình chiến thành lập thời gian đã lâu, quân đội LHQ nhất quán trung thực chấp hành điều khoản của hiệp định đình chiến. Chính là để bảo vệ hòa bình Triều Tiên để quán triệt hiệp nghị đình chiến, những cơ cấu tương ứng đến nay vẫn tồn tại. Vì vậy đối với chúng tôi mà nói, hiệp định đình chiến Triều Tiên cũng như nghị quyết phê chuẩn hiệp định đình chiến của Hội đồng Bảo an LHQ càng chính thức hơn, và càng thêm nội dung xác định hơn so với những lời lẽ sáo rỗng của ngài Molotov và càng có ích hơn cho việc duy trì hòa bình lâu dài của Triều Tiên.”
Phát biểu của Smith chẳng qua chỉ năm, sáu phút nhưng hung hổ hăm dọa, không thèm để ý tới kiến nghị của Molotov. Sáng hôm qua, đại biểu 16 nước do Mỹ đứng đầu đã họp một cuộc họp dài ba giờ, quyết định chấm dứt thảo luận vấn đề Triều Tiên của Hội nghị Genève. Nhiệm vụ của Smith là không để cho cuộc thảo luận về vấn đề Triều Tiên sản sinh ra bất kỳ kết quả nào.
Casey, đại biểu Australia phát biểu tiếp. Ông ta nói: “thưa ngài chủ tịch: xin cho phép tôi phát biểu một số ý kiến về những lời phát biểu của các vị chiều nay. Chúng tôi đã nghe đề án của ngài Nam Il tôn kính, cũng thông qua miệng ngài Molotov tôn kính, biết được ý kiến của ngài. Trước tiên tôi xin bầy tỏ ý xin lỗi đối với hội nghị bởi vì tôi không đủ thời gian dùng những lời nói thích đáng để biểu đạt đầy đủ cách nhìn của tôi đối với hai bản đề án.
Trước tiên, tôi muốn đề xuất cách nhìn của mình đối với đề án của ngài Nam Il tôn kính. Tôi cho rằng đề án của ngài Nam Il đã phản ánh được cách làm của Đảng Cộng sản mà mấy năm gần đây chúng ta ngày càng quen thuộc. Đề án của họ, bề ngoài xem ra là vì hòa bình, nhưng trên thực tế là muốn quốc gia đó rơi vào tay Đảng Cộng sản.
Tôi tin là, phần lớn các đồng sự của tôi cũng cho là như vậy, đề án của ngài Nam Il quyết không thể là cơ sở cho để giành được thành quả trong đàm phán sắp tới. Tôi vui lòng thuyết minh một cách ngắn gọn nguyên nhân trong đó. Trước tiên, đề án của ngài Nam Il đã đánh đồng Đại Hàn Dân Quốc có chủ quyền và pháp chế, với đương cục Bắc Triều Tiên tràn đầy tính xâm lược, phản ứng của chúng tôi đối với việc này, hoặc là nói phản ứng của tôi là, tôi phản đối ý đồ phân biệt mạt sát Đại Hàn Dân Quốc và quốc gia cộng sản ở biên giới phía bắc của Đảng Cộng sản. Thứ hai, các nước thành viên quân đội LHQ tham dự chiến tranh Triều Tiên tha thiết hy vọng dưới tiền đề bảo đảm an ninh cho Đại Hàn Dân Quốc, tuân theo nguyên tắc LHQ phải nhanh chóng rút quân khỏi Triều Tiên. Tôi tin là chúng tôi đã làm tốt chuẩn bị, chỉ cần trên cơ sở của nguyên tắc LHQ thống nhất quốc gia này, để khôi phục hòa bình và an ninh của Triều Tiên. Chúng tôi đều sẽ nhanh chóng rút quân.
Đại Hàn Dân Quốc là một chính phủ có chủ quyền, nó có thể căn cứ vào ý nguyện của mình, quyết định thiết lập quan hệ nào đó với một số quốc gia, nó phải căn cứ vào đòi hỏi phòng vệ mình mà quyết định xây dựng lực lượng vũ trang như thế nào. Tôi tin rằng, hội nghị Genève sẽ không đồng ý trong tình hình Hàn Quốc đang phải đối mặt với xâm lược lại tước đoạt năng lực phòng vệ của nó, hoặc là làm suy yếu trình độ tự phòng vệ của một quốc gia có 20 triệu dân, trong khi nước láng giềng nào đó, dân số ít hơn Hàn Quốc nhiều lại có lực lượng vũ trang đồng đều. Vì thế tôi cho rằng đề án của ngài Nam Il là để cô lập Hàn Quốc, ý đồ cắt đứt việc Hàn Quốc cùng các nước hữu hảo ký kết điều ước để lâm vào cô lập. Đồng thời đề án của ngài Nam Il còn có ý định làm cho chúng tôi tin là nó và Trung Quốc không có quan hệ điều ước nào chí ít là không có quan hệ chặt chẽ.
Tóm lại, tôi cho rằng đề án của ngài Nam Il tôn kính là nhằm làm cho Bắc Triều Tiên có thể xây dựng một chính phủ bình đẳng về chính trị với chính quyền hợp pháp Nam Triều Tiên. Đề án của ông đã làm rối loạn dư luận thế giới, làm lòng người trên thế giới quên rằng chính là Đảng Cộng sản thông qua việc cự tuyệt thông nhất Trièu Tiên trên nguyên tắc công bằng đã làm cho hội nghị Genève bị cản trở, còn nguyên tắc của LHQ là mong muốn hội nghị Genève đạt được mục tiêu này.
Vì những nguyên nhân đó cũng giống như ngày hôm nay khi vừa bắt đầu tôi đã nói, trước hết đề án của ngài Nam Il không có bất kỳ cái mới nào. Thứ hai, cũng không có bất kỳ nội dung nào khiến chúng tôi cho rằng đáng để bắt đầu lại cuộc thảo luận đã tiến hành khá lâu, nhằm giải quết những vấn đề chúng ta đối mặt hiện nay.
Còn đề án của ngài Molotov, tuyên bố của ông lại hoàn toàn là một loại tình hình khác. Nếu chỉ lướt nhìn, đề án của ngài Molotov dường như làm cho người ta khó từ chối. Thế nhưng giống như đại biểu Mỹ đã nói, về thực chất, trong đề án của ngài Molotov bao gồm nhiều chi tiết đã được trù hoạch một cách tinh tế, có một bộ phận đối với chúng tôi mà nói là khó có thể tiếp nhận. Điều này chủ yếu là do điều hai trong đề án của ông, ông yêu cầu những người tham dự hội nghị cùng thanh minh: ‘những người tham dự hội nghị tin tưởng, nước CHDCND Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc sẽ vì lợi ích của hòa bình mà hành động theo bản tuyên bố này.’ Tôi cảm thấy, chúng ta có tương đối đầy đủ lý do để cho rằng chính phủ Hàn Quốc sẽ làm như vậy, nhưng tôi không thể gánh chịu trách nhiệm lý tính như vậy khi cho rằng chính phủ nước CHDCND cũng sẽ làm như vậy.Vì thế, các bè bạn tham dự hội nghị ần này đều có thể nhận thấy, chúng tôi không thể tiếp tục tiêu phí thời gian vào đề án của ngài Nam Il. Còn về đề án của ngài Molotov, thì phần mở đầu của nó về đại thể còn có thể để cho những người tham dự hội nghị tiếp nhận.”
Phát biểu của Casey so với Smith ôn hòa hơn một chút, phần kết thúc bài phát biểu của ông ta có dấu vết hòa dịu rõ rệt.
Sau đó là phát biểu của Garcia, Philippines. Ông ta nói: “vì vấn đề thống nhất Triều Tiên dường như đã trải qua tranh luận dài tới hai tháng và sau khi nghiên cứu thăm dò, chúng tôi đau khổ phát hiện rằng trên thực tế vẫn đứng ở vị trí đúng ngày khai mạc hội nghị. Chúng ta vừa nghe phát biểu và đề án của mấy vị đại biểu quốc gia cộng sản, nhưng so sánh với phát biểu của họ vào lúc khai mạc hội nghị, chẳng thấy có cái gì mới. Bọn họ làm trái nguyên tắc công bằng và bình đẳng, yêu cầu thành lập một Uỷ ban toàn Triều Tiên, ngang nhiên yêu cầu Bắc Triều Tiên chiếm 1/6 tổng dân số có quyền đại biểu như chính phủ Hàn Quốc chiếm 5/6 dân số1, đặt cái Uỷ ban này vào vị thế xem như bình đẳng nhưng thực ra không bình đẳng, từ đó đã vi phạm nguyên tắc dân chủ theo tỷ lệ.
Đề án như vậy, lại không có bất kỳ điều khoản nào nhằm giải quyết cục diện cứng nhắc, hóa giải đối nghịch, hoàn toàn nhằm làm thất bại mục đích cao cả của hội nghị lần này, chỉ nhìn qua là thấy rõ ngay, trong khi mục đích của chúng ta là xây dựng lại một Triều Tiên dân chủ, công chính, tự do, hoàn toàn thống nhất mà độc lập. Đối phương kiên trì cho rằng LHQ không có quyền can thiệp vào công việc Triều Tiên, không thể chấp hành sứ mệnh hòa bình trên thế giới căn cứ theo tinh thần hiến chương LHQ, căn cứ theo ý nguyện của trên 60 nước thành viên. Bọn họ đã kỳ quặc rêu rao, LHQ đã thi hành chức trách cảnh sát thế giới, đánh lùi xâm lược và khôi phục pháp chế của Triều Tiên là hành vi hiếu chiến phi pháp.Vì vậy đối phương đã hoàn toàn không nhìn thấy lịch sử và lôgich, kiên trì cho rằng, tuyên bố của LHQ nhằm thẳng vào vấn đề Triều Tiên và những hành động sử dụng là phi pháp, vô hiệu.
Đối phương thoát ly chân tướng sự thực, đả kích dữ dội Mỹ và các nước thành viên LHQ khác hưởng ứng lời kêu gọi của LHQ áp dụng hành động đánh lui xâm lược khôi phục lại trật tự Triều Tiên cũng là xâm lược, bọn họ khiển trách LHQ đã biến thành công cụ xâm lược của nưóc Mỹ, do đó đã mất đi tính quyền uy trong hội nghị giải quyết vấn đề Triều Tiên
Đối phương không ngừng thay đổi hình dạng lặp lại những đề án cũ, xem ra rất hấp dẫn nhưng nói về căn bản thì thực ra không có thay đổi gì. Ví dụ, đề nghị của đại biểu Liên Xô ngày 5 tháng 6 và hôm nay, dường như giải quyết vấn đề Triều Tiên đã có phương hướng tiến lên, nhưng mọi đề nghị của họ đều có một tiền đề, đó là phủ nhận tác dụngcơ bản và quyền uy của LHQ trong mặt tranh thủ hòa bình thế giới. Thực chất của nó là ở đó.
Hịện nay có người đề nghị tiếp tục thảo luận cái được gọi là hoàn thành mục tiêu dự định của hội nghị Genève lần này nhưng những định trước của đề nghị này đã bị từ chối bởi vì trong đó có phần cố ý, tính toán chi ly lấy việc phủ định quyền uy của LHQ làm nội dung.
Ngoài ra, lập trường của chúng tôi vô cùng rõ ràng, đó là phải bảo vệ thống nhất và hòa bình của Triều Tiên, điều này cùng là một việc với hòa bình thế giới, là không thể tách rời. Mà muốn đạt được mục đích đó, thì điểm cơ bản là phải thừa nhận quyền uy của LHQ, công nhận quyết nghị của LHQ về vấn đề Triều Tiên và việc sử dụng hành động bảo vệ an ninh là hoàn toàn hợp pháp là phải tiếp nhận. Chúng tôi muốn nhấn mạnh lại với thế giới sự tín nhiệm và ủng hộ các nguyên tắc dưới đây:
1. Theo hiến chương LHQ, LHQ có đầy đủ quyền áp dụng hành động, đánh lùi cuộc xâm lược Triều Tiên, khôi phục pháp luật, trật tự và công bằng xã hội tại Triều Tiên. Cũng như vậy, LHQ có quyền trong việc hòa bình giải quyết Triều Tiên.
2. Để xây dựng một Triều Tiên thống nhất, độc lập và dân chủ, phải dưới sự giám sát của cơ cấu LHQ tuân theo nguyên tắc theo tỷ lệ dân số bầu cử hoàn toàn tự do và công bằng đại biểu quốc hội Triều Tiên.
Hơn 50 ngày trước đây, với lòng tin chân thành, chúng tôi đã có ý định cùng đoàn đại biểu cộng sản trên nguyên tắc cơ bản đạt được hiệp nghị. Chỉ cần đối phương bằng lòng, là chúng tôi thực sự bằng lòng tiếp tục đàm phán và thảo luận. Thế nhưng, chỉ có khi nào các quốc gia cộng sản tiếp nhận về cơ sở các nguyên tắc trên thì tiếp tục đàm phán và thảo luận mới có thể đạt hiệu quả được.
Đúng là chúng tôi hy vọng thống nhất Triều Tiên, nhưng quyết không trả giá bằng cách làm tổn hại, sỉ nhục LHQ. Chúng tôi muốn thiết lập một Triều Tiên thống nhất và độc lập, nhưng quyết không trả giá bằng sự chia cắt chân tay LHQ, bằng máu, nước mắt và sự đau khổ của hàng ngàn hàng triệu con người. Chúng tôi muốn bảo vệ nguyên tắc và ý chí của LHQ, sau chiến tranh thế giới thứ thứ hai chính là LHQ căn cứ vào tôn chỉ tinh thần của nhân loại đã mang lại sự hiểu biết lẫn nhau, sự hợp tác và bình đẳng trong quốc tế.”
Sau đại biểu Philippines là phát biểu của Ngoại trưởng [Paul-Henri] Spaak, đại biểu Bỉ. Ông ta nói: “Đoàn đại biểu mang theo nỗi lo lắng đồng thời mang theo cả hy vọng tới tham dự hội nghị, trong cuộc họp thứ sáu trước, ngài Eden đã cho chúng ta một cảnh cáo, nhiều người chúng ta đều cho rằng, một giờ phút có tính quyết định đã tới. Chúng tôi cho rằng, đồng thời tôi cũng cho rằng, sau những phát biểu tràn đầy mong muốn hòa giải tại thứ sáu trước, chúng ta có thể trên cơ sở mới tiến thêm một bước trong hội nghị.
Hôm nay trong ba bài phát biểu của các quốc gia cộng sản, tôi nghe được ba loại ý kiến, hoặc là nói ba loại khiển trách. Trước tiên, đối phương chỉ trích hệ thống hoặc đề án của chúng tôi sẽ làm cho Bắc Triều Tiên phụ thuộc vào Nam Triều Tiên làm cho Bắc Triều Tiên thành nô lệ của Nam Triều Tiên. Thứ hai, chỉ trích chúng tôi muốn ngừng họp hội nghị Genève. Thứ ba, đối phương chỉ trích chúng tôi không nghiêm túc suy xét kiến nghị của Molotov.
Trước việc đó, tôi cần phải nghiêm túc nói, truớc tiên, mục đích của chúng tôi quyết không phải là làm cho Bắc Triều Tiên phụ thuộc vào Nam Triều Tiên. Mục đích của chúng tôi là ở dân chủ thực sự. Nếu như chúng tôi thực sự muốn đứng trên lập trường khiến Bắc Triều Tiên phụ thuộc vào Nam Triều Tiên thì lần hội nghị này sẽ không thu được gì cả, hơn nữa bất kỳ hội nghị nào có thái độ như thế đều sẽ không có thu hoạch. Nguyện vọng của chúng tôi là thiét lập một hệ thống dân chủ, khiến toàn thể nhân dân Triều Tiên đều có thể tự do và dân chủ biểu đạt ý kiến của mình. Chúng tôi hy vọng mọi đảng phái ở Triều Tiên đều tiếp nhận phán quyết công chính này.
Thứ hai, tôi nói một cách khẳng định, muốn kết thúc hội nghị này quyết không phải là nguyện vọng của chúng tôi. Chúng tôi biết, nếu như hội nghị lần này không thu được bất kỳ hiệp nghị nào thì dư luận thế giới sẽ thất vọng sâu sắc. Thế nhưng ta cần phải nghĩ rằng đó cũng chính là vì mục đích hòa bình là vì nhu cầu của các hội nghị sau này. Cũng giống như đại biểu Anh một ngày nào đó đã nói, chúng ta phải có dũng khí đối mặt với hiện thực, chứ không bị bưng bít bởi hiện tượng bề ngoài. Những bài nói trường thiên và những cuộc thảo luận không có điểm dừng đều không thể mang lại tiến triển cho sự nghiệp hòa bình, cũng không thể giành được sự đồng thuận mà hành động đòi hỏi.
Thứ ba, nói chúng tôi không nghiêm túc chú ý, suy xét tới đề án của Molotov, là không có căn cứ và không công chính. Tại hội nghị thứ sáu trước, đề nghị của Molotov được thảo luận đầy đủ, có chỗ bị phản bác có chỗ được ủng hộ. đại biểu New Zealand, Canada, Pháp, Anh và Bỉ trong phát biểu của mình đều trình bầy ý kiến đối với đề nghị của ông ta, chỉ ra phần nào có thể tiếp nhận, phần nào các nghĩ của chúng ta có bất đồng. Chính là vì những phát biểu đó đã nhằm thẳng vào đề án của ngài Molotov nên trong phát biểu hôm nay ngài Molotov mới có sự trả lời tương ứng. Làm sao có thể nói đó là đề án của ngài Molotov không được coi trọng? Rõ ràng là, chúng tôi cho rằng bài nói của ngài Molotov trong hội nghị hôm ấy là một trong những bài nói quan trọng nhất của hội nghị lần này.
Nên chú ý là, ngược lại, hôm đó ngài Molotov đã không có một lời về phát biểu của các quốc gia nói trên. Thứ sáu trước phát biểu của một số nước có liên quan đến chủ trương của ngài Molotov, ngoài ra còn có một số đại biểu chú ý tới vấn đề khác, điều đó thuyết minh, trên những vấn đề này, phát biểu của chúng tôi tương đối tự do.
Chúng tôi đặc biệt lưu ý chỉ ra hai điểm cơ bản, tôi cho rằng nếu như ngài Molotov có ý muốn hội nghị tiếp tục thì ông nên tránh hai điểm này, chúng tôi không thỏa hiệp về hai điểm cơ bản đó. Tôi muốn chỉ ra, cần phải thông qua bầu cử tự do xây dựng một Triều Tiên thống nhất, độc lập và dân chủ. Phát biểu của đại biểu Canada, Australia, New Zealand sau khi đã nghiêm túc chuẩn bị về điều này, đã khiến ngay ngài Molotov cũng phải nói là “quá hoàn thiện”. Tôi muốn hỏi ngài Molotov, đối với Đảng Cộng sản thì xem ra cái từ ‘tự do’ mà họ nói trong ‘ bầu cử tự do’ rốt cuộc có hàm nghĩa gì? Đại biểu Đảng Cộng sản dự tính bầu cử ‘tự do’ như thế nào? Mặc dù hội nghị hôm nay họp đã rất lâu nhưng đối phương trước sau vẫn chưa trả lời vấn đề vốn rất rõ ràng này.
Thứ hai, chúng tôi đã nói rất minh bạch, vì sao chúng tôi cho rằng một môi trường tràn đầy tự do là điều kiện cơ bản để tiến hành cuộc bầu cử như vậy.
Còn như muốn kết thúc cuộc họp lần này, tôi đã nói, nếu hội nghị không đạt được một hiệp nghị sẽ tạo ra hậu quả đáng sợ. Ngài Molotov chỉ trích chúng tôi sử dụng từ ‘đáng sợ’, cho rằng nó quá dữ dội, tôi lại không cho rằng như vậy. Tôi đã nói, liệu hành động của LHQ tại Triều Tiên có phải là xâm lược hay không? Đó là vấn đề lớn liên quan tới an ninh quốc tế và bản thân LHQ liệu có còn tồn tại hay không. Nếu như chúng ta công nhận, LHQ là một bên giao chiến tại Triều Tiên, thì chúng ta làm thế nào để về New York thảo luận thế nào là lợi ích an ninh chung? Tôi cho rằng lý luận của ngài Molotov sẽ dẫn tới kết quả đáng sợ đối với an ninh quốc tế và sự tồn tại của LHQ. Trên vấn đề này chẳng có cái gì tốt để thảo luận cả. Khiển trách hành động của LHQ tại Triều Tiên là xâm lược, nói LHQ là một bên giao chiến khiến chúng tôi cảm thấy lo ngại sâu xa, tiếp tục thảo luận như thế sẽ không có kết quả gì. Việc biện luận về vấn đề này đã lặp đi lặp lại nhiều lần không chỉ khiến chúng ta thất vọng sâu sắc mà cũng làm cho hội nghị chưa thể tiến thêm một bước.
Tôi không nói gì về bản tuyên bố mới của ngài Nam Il, bởi vì nó không tốt hơn chút nào so với tuyên bố trước của ngài Nam Il. Hôm nay ông chỉ đề cập đến việc quân đội nước ngoài rút khỏi Triều Tiên, không hề có một lời nói đến tương lại của Triều Tiên.Tôi chỉ có thể nói, chúng tôi không bị những đề án như vậy làm cho ngu đi.
Trước khi kết thúc cuộc họp hôm nay chúng tôi giới thiệu một vị đại biểu đọc một tuyên bố, tôi tin rằng đó là tuyên bố cuối cùng của hội nghị lần này về vấn đề Triều Tiên, thể hiện đầy đủ lập trường của chúng tôi đối với việc này. Đọc bản tuyên bố này bản thân đã là một sứ mạng quan trọng, quang vinh và trần đầy tinh thần trách nhiệm, bởi vì nó quan hệ tới nguyên tắc cơ bản của LHQ. Căn cứ vào nguyên tắc mọi nước thành viên LHQ có chủ quyền nhất loạt bình đẳng, chúng tôi xin mời một vị đại biểu ngoài các nước lớn đọc bản tuyên bố này.
Tôi không cho rằng bản tuyên bố này sẽ tiêu chí cho việc phải kết thúc các cuộc thảo luận có liên quan về vấn dề Triều Tiên, điều quan trọng hơn là, hội nghị chủ đề này của chúng ta cần có một sự bàn giao với LHQ. Một lần nữa tôi biểu thị, tôi không đồng ý cách nói cuộc họp lần này không có liên quan gì với LHQ của ngài Molotov. Đúng là, hội nghị lần này không phải do LHQ triệu tập, nhưng nó có liên quan với quyết nghị ngày 28 tháng 8 năm 1953 của LHQ, vì vậy, hội nghị lần này nên báo cáo kết quả và những kiến nghị có liên quan lên LHQ.
Tôi phấn khởi khi nghe kiến nghị bổ sung được đề xuất trong bài phát biểu hôm nay của đại biểu Liên Xô. Tôi cho rằng kiến nghị của ông có thể sản sinh kết quả tốt đẹp, nếu không đại biểu Mỹ đã không chỉ ra, hiệp định đình chiến Triều Tiên đã bao hàm nội dung đề nghị của ngài Molotov, tôi vui lòng ủng hộ điều đó. Tôi cho rằng, không cần thiết phải dùng những phương thức khác nhau để trình bầy cùng một tư tưởng. Nếu không, người ta sẽ từ so sánh những sai khác giữa các cách nói mà sản sinh ra những ý nghĩa khác nhau.Và hiệp định đình chiến đã trình bầy một cách rõ ràng không có nhầm lẫn rằng hàng loạt hành vi đối địch sẽ quay trở lại. Tôi chân thành hy vọng loại căm thù đó không xẩy ra lại, chúng tôi không càn thiết thảo luận làm thế nào miêu tả lại loại trạng thái đó. Hơn nữa tôi đúng là muốn nói, tôi rất phấn khởi chú ý tới những chi tiết và tinh thần hòa giải trong đề nghị của ngài Molotov, tôi nghĩ mội người cũng đèu sẽ đồng ý.
Xin nói thêm một câu, tôi cho rằng, thời gian chúng ta chia tay trong hội nghị lần này đã tới. Khi chúng ta chia tay, nên ghi nhớ là trong chúng ta chẳng ai mất cái gì.Tôi cho rằng, hãy để cho thời gian trôi đi một quãng, khiến tâm tư dữ dội của chúng ta do chiến tranh và sự chia rẽ bất hạnh của Triều Tiên bình tĩnh lại được, từ đó khiến các mặt lại có thể cử hành hội nghị để tiến tới đạt được hiệp nghị. Tôi còn muốn nói, công tác của chúng ta trong hội nghị lần này không phải là không có ý nghĩa, chúng ta đã trình bầy kỹ một số nguyên tắc. Chúng ta nên tổng kết một chút, để trên cơ sở đó, chúng ta có thể sử dụng hành động nào đó. Công tác của chúng ta sẽ không lãng phí uổng. Tôi hy vọng trong một tương lai không xa sẽ có thể hội đàm lại, lại một lần nữa kiểm nghiệm xem vấn đề ở đâu, nhằm thiết lập một Triều Tiên thực sự thống nhất độc lập và dân chủ.
Bài nói của Spaak vào lúc gần kết thúc đã biểu đạt nguyện vọng mong muốn hòa dịu, mong muốn sau này sẽ lại cử hành hội nghị về vấn đề Triều Tiên. Chính điểm đó đã bị Chu Ân Laí nắm lấy một cách nhạy bén.
Sau phát biểu của Spaak, phát biểu của Ngoại trưởng Hàn Quốc là những câu chửi loạn xạ. Ông ta nói: “đoàn đại biểu nước tôi trong các bài phát biểu trước đã biểu thị rõ ràng, tại hội nghị lần này, phía Đảng Cộng sản quyết không thể thông qua phương thức dân chủ chân chính thống nhất Triều Tiên, mà kì vọng Triều Tiên vĩnh viễn ở tình trạng chia cắt, thông qua các loại phương thức thẩm thấu để chinh phục nửa kia Triều Tiên tự do. Ở đây tôi chỉ muốn chỉ ra, phát biểu của 3 vị đại biểu quốc gia cộng sản chiều hôm nay chẳng qua chỉ là để chứng minh, tôi phán đoán chính xác ý đồ của bọn họ trong vấn đề Triều Tiên. Bọn họ không chịu tiếp nhận nguyên tắc cơ bản của chúng tôi về việc thiết lập một quốc gia thống nhất, từ đó hòng một lần vất vả hưởng lợi muôn đời kết thúc bất hạnh chia rẽ dân tộc, mà làm trái sứ mệnh chính xác của hội nghị lần này, đề xuất một số vấn đề tưởng là đúng nhưng thật ra lại sai, khiến sự chia cắt Triều Tiên tiếp tục kéo dài, điều này hoàn toàn đứng về mặt đối lập đối với công tác chúng tôi đã làm để Triều Tiên thống nhất. Đề án của ngài Molotov về vấn đề Triều Tiên là một phần trong âm mưu của Đảng Cộng sản.”
Tiếp đó là phát biểu của hoàng thân Wan Waithayakon, đại biểu Thái Lan, mở đầu chỉ ngắn ngủi vài câu: “lập trường của đoàn đại biểu 16 nước tham gia quân đội LHQ, đã thông qua trình bầy của các vị đại biểu nói trước mà vô cùng rõ rồi. Hiện nay, lập trường chung của 16 nước đã bao gồm trong một bản tuyên bố, đồng thời uỷ quyền cho tôi thay mặt 16 nước đọc tuyên bố đó. Tiếp đó ông đọc tuyên bố 16 nước:
Căn cứ vào nghị quyết ngày 28 tháng 8 năm 1953 của Hội đồng Bảo an LHQ, cũng như công báo Berlin ngày 18 tháng 2 năm 1954, chúng tôi, cử lực lượng vũ trang, tổ thành quân đội LHQ tiến vào quốc gia Triều Tiên, đã tham gia hội nghị Genève lần này, với ý thông qua phương thức hòa bình xây dựng một Triều Tiên thống nhất, độc lập.
Căn cứ vào những cố gắng trước đây của LHQ nhằm xây dựng một Triều Tiên thống nhất, độc lập và tự do, chúng tôi đã đề xuất một loạt chủ trương và kiến nghị, trong đó các nguyên tắc chủ yếu nhất là:
Theo hiến chương LHQ, LHQ có đầy đủ quyền lực sử dụng hành động, đánh lùi xâm lược Triều Tiên, khôi phục hòa bình và trật tự ở Triều Tiên, đồng thời hòa giải nhằm hết sức giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên.
Để xây dựng một Triều Tiên thống nhất, độc lập và dân chủ, cần phải dưới sự giám sát của cơ cấu LHQ tuân theo nguyên tắc theo tỷ lệ dân số bầu cử đại biểu quốc hội Triều Tiên một cách tràn đầy tự do và công chính.
Vì việc này chúng tôi đã chân thành và kiên trì tìm kiếm cơ sở đạt thành hiệp nghị, để căn cứ vào nguên tắc này xây dựng Triều Tiên thống nhất. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản đã từ chối từng nỗ lực một mà chúng tôi bỏ ra vì việc này. Bất đồng chủ yếu giữa chúng ta đã tương đối rõ. Trước hết, chúng tôi tiếp nhận đồng thời kiên trì quyền uy của LHQ, còn phía Đảng Cộng sản đã từ chối quyền uy của LHQ hơn nữa còn chỉ trích LHQ tại Triều Tiên đã sa vào công cụ của xâm lược. Nếu chúng tôi tiếp nhận lập trường đó của cộng sản thì có nghĩa là lợi ích an ninh cộng đồng quốc tế và bản thân LHQ đã chết. Thứ hai, chúng tôi chân thành hy vọng tiến hành bầu cử tự do, còn phía Đảng Cộng sản thì kiên trì cái gọi là trình tự khiến bầu cử tự do thật sự trở thành không có thể. Rất rõ ràng, phía Đảng Cộng sản không tiếp nhận sự giám sát công chính và có hiệu quả đối với bầu cử tự do. Rất rõ ràng mục đích mà họ biểu đạt rõ là sự thống trị của Bắc Triều Tiên. Từ năm 1947 đến nay trước sau bọn họ đã kiên trì loại thái độ đó do vậy đã cản trở những cố gắng mà LHQ bỏ ra để thống nhất Triều Tiên.
Tốt nhất là chúng ta đối mặt với hiện thực, giữa việc khêu gợi hy vọng giả tạo dẫn dắt sai nhân dân thế giới cho rằng sẽ có thể đạt được hiệp nghị, chẳng bằng công nhận bất đồng của chúng ta.
Trong tình hình đó, chúng ta không thể không nuối tiếc mà đưa ra kết luận, chỉ cần đoàn đại biểu Đảng Cộng sản từ chối hai nguyên tắc cơ bản mà chúng tôi cho rằng không thể bàn cãi, thì việc hội nghị lần này tiếp tục thảo luận vấn đề Triều Tiên chỉ là tốn công vô ích. Một lần nữa chúng tôi biểu thị rõ, ủng hộ LHQ về vấn đề Triều Tiên là mục tiêu đã định
Căn cứ theo quyết nghị ngày 28 tháng 8 năm 1953 của Hội đồng Bảo an LHQ, các nước tham gia tuyên bố báo cáo lên LHQ tiến trình có liên quan của hội nghị lần này.
Hoàng thân Wan Waithayakon sau khi đọc xong tuyên bố 16 nước không phát biểu bổ sung, việc liên tục phát biểu của đại biểu 16 nước cũng kết thúc một giai đoạn.
Lúc này Molotov phát biểu ý kiến. Ông nói: “hội nghị lần này về việc thảo luận vấn đề Triều Tiên đã đến bên bờ vực thẳm. Rất rõ ràng, đề xuất phải kết thúc hội nghị lần này lại chính là 16 nước liên tục đánh nhau ở Triều Tiên vừa đọc tuyên bố.
Mấy tuần lễ nay, chúng tôi liên tục nghiên cứu vấn đề làm thế nào thống nhất Triều Tiên, đối với nhân dân Triều Tiên mà nói đây là một vấn đề căn bản nhất. Hai bên đều vì việc này đưa ra đề án. Căn cứ vào tình hình này, ngày 5 tháng 6 đoàn đại biểu Liên Xô đã đưa ra nghị án của mình.
Xin chú ý, hôm nay đoàn đại biểu Liên Xô đề xuất nghị án là để biểu thị ý kiến không đồng ý của đoàn đại biểu. Có người nói, chúng tôi không trả lời vấn đề quan trọng đã đề xuất với chúng tôi. Quyết không phải như vậy. Trên thực tế hôm nay chúng tôi đã trả lời nhiều vấn đề quan trọng mà mấy lần hội nghị trước đối phương đã đưa ra. Sự thực là, chính là 16 nước liên tục đánh nhau trong ranh giới Triều Tiên ba năm nay đã không đưa ra đối án tương ứng với của chúng tôi. Xuất phát từ nguyên nhân bản thân, bọn họ không muốn tiếp nhận đề án của đoàn đại biểu Liên Xô. Đúng là, bọn họ không đề xuất một nghị án có tính cương lĩnh được hội nghị lần này có thể tiếp nhận, sự thực là, một số đề án đề xuất của đoàn đại biểu trước đã đột ngột biến mất, biến mất trên bàn đàm phán, bọn họ đã giấu đi. Tôi không biết đó là vì sao, nhưng tôi cho rằng điều này là quan trọng, đáng được chú ý.
Sau những phát biểu hôm nay, xoay quanh vấn đề thống nhất Triều Tiên, các loại quan điểm đã vô cùng rõ ràng. Tuy vậy rốt cuộc vì sao hội nghị vừa bắt đầu đại biểu chính quyền Lý Thừa Vãn đã nói toạc ra, lại được đại biểu nhiều nước tiếp nhận loại lập trường đó? Từ những biện luận đã trải qua của chúng ta có thể nhìn thấy một cách rõ rệt, những đại biểu này có một mục đích vô cùng rõ ràng, bọn họ ý đồ áp đặt chính quyền Nam Triều Tiên phản dân tộc, phản dân chủ lên Bắc Triều Tiên, bọn họ ý đồ lợi dụng hội nghị Genève để đạt mục đích này. Thế nhưng ý đồ đó không thể thực hiện được, đó chính là nguyên nhân vì sao chính quyền Lý Thừa Vãn và đoàn đại biểu các nước ủng hộ cái chính quyền thối nát, bán phát xít hóa đó lại không thể cùng chúng tôi đạt được hiệp nghị. Quyết định chúng ta làm ra có nghĩa gì? Đối với nhân dân Triều Tiên mà nói là vấn đề quan trọng như thế, tức vấn đề Triều Tiên thống nhất, rốt cuộc chúng ta đưa ra quyết định như thế nào? Tôi biết vì sao hội nghị lần này lại không đạt thành hiệp nghị, nguyên nhân của nó tôi vừa nói tới.
Hội nghị lần này còn thảo luận vấn đề đối với nhân dân Triều Tiên mà nói cũng quan trọng như vậy, tức làm thé nào giữ vững hòa bình của Triều Tiên. Để đạt được mục đích này, người lãnh đạo đoàn đại biểu nước CHDCND Triều Tiên đã đề xuất kiến nghị sáu điểm. Kiến nghị mấy điểm này được sự ủg hộ của đoàn đại biểu Trung Quốc và Liên Xô. Nhưng bị Hàn Quốc và những người ủng hộ phản đối. Chúng tôi khẳng định cho rằng đề án của đoàn đại biểu nước CHDCND Triều Tiên chưa được sự nghiên cứu nghiêm túc của hội nghị lần này, tôi nghi ngờ không rõ, liệu mọi đại biểu tham dự hội nghị lần này có đọc từ đầu đến cuối bản đề án đó không. Chính là vì những kiến nghị này tập trung vào việc tăng cường môi trường hòa bình của Triều Tiên đồng thời hy vọng thông qua lần hội nghị này dẫn dắt Nam, Bắc Triều Tiên tăng cường quan hệ tương hỗ trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa. Chiều hôm nay, ngài Casey, ngoại trưởng Australia phát biểu, ông ta đã đánh giá phủ định đề án này. Bài phát biểu của ông ta qui nạp lại là, bất kỳ kiến nghị nào có ích cho việc tăng cường hòa bình Triều Tiên đều không thể tiếp nhận.
Ngài Casey không có thời gian chiếu cố đến hòa bình Triều Tiên. Ông vội vàng có ý đồ vứt bỏ vấn đề Triều Tiên và kiếm tìm luận cứ vì mục đích đó, kiếm tìm một nửa đạo lý, một phần tư đạo lý chỉ là để dẫn tới vấn đề tăng cường hòa bình Triều Tiên. Tại đây ông ta nói rất nhiều, có thể khái quát là: ‘hãy để chúng tôi không tiếp nhận đề án của Bắc Triều Tiên’ Thế nhưng, nếu chúng ta nghiên cứu nghiêm túc một chút những luận cứ ông ta đề ra, thì sẽ kinh ngạc vì sự tự mâu thuẫn của những luận cứ đó, bọn họ đã đi có phần quá xa, có phần quá vội vàng. Sự thực là luận cứ của bọn họ nghèo nàn đến như vậy, bất kể là hiện tại hay tương lai, người ta không thể dẫn dụng những số liệu đó.
Sau đề án của đại biểu nước CHDCND Triều Tiên, đoàn đại biểu Liên xô đã có một tuyên bố ngắn gọn về vấn đề Triều Tiên. Ý nghĩa của bản tuyên bố này đã biểu đạt vô cùng rõ ràng ngắn gọn đến mức những người ý đồ từ trong đó tìm ra chút khuyết điểm cũng không thu hoạch được gì. Tôi đề nghị hội nghị lần này chú ý tới sự thực này, tức ngài Smith đại biểu Mỹ đã biểu thị kiến phủ định đối với đề án của Liên Xô, đồng thời biểu thị sự kinh ngạc đối với việc vì sao Liên Xô phải đề xuất đề án như vậy. Chúng tôi chú ý tới các điều khoản có liên quan trong hiệp định đình chiến Triều Tiên - điều thứ 62, nó lệ thuộc vào hiệp định đình chiến. Tôi có thể nói với ngài Smith, các điều khoản khác của hiệp định đình chiến cũng bao hàm tinh thần như vậy.
Thế nhưng điều này rốt cuộc không phải là cái chính. Điều tôi muốn bàn ở đây không phải là hiệp định đình chiến Triều Tiên mà là hội nghị Genève thảo luận vấn đề Triều Tiên, nhân dân Triều Tiên hy vọng hội nghị lần này có thể nói mấy câu về hòa bình tại đây, câu nói này có thể khiến nhân dân Triều Tiên cảm thấy có ích cho củng cố hòa bình quốc gia. Không còn nghi ngờ gì nữa, với tư cách là nước tham dự hội nghị, chúng ta nên trong bầu không khí hữu hảo nghiêm trang tuyên bố, hiệp định đình chiến Triều Tiên nên có sức kiềm chế, vững chắc. Nên nhận thức được trong 16 quốc gia do Mỹ đứng đầu tham gia chiến tranh Triều Tiên và tham dự hội nghị này, dưới sự bảo hộ của các quốc gia đó trong ranh giới Nam Triều Tiên có người ngày lại ngày uốn lưỡi không ngừng, nói muốn gây lại cuộc chiến tranh với nước CHDCND Triều Tiên. Chính vì như thế, hội nghị lần này nên có một cách nói tăng cường hòa bình đối với Triều Tiên và thế giới.
Đối với một số quốc gia tư bản chủ nghĩa nào đó mà nói, chống các nước cộng sản đã là một loại mốt. Tôi đã nói tới, đại biểu các nước tư bản chủ nghĩa đã trói buộc chính sách và đề án quốc gia của họ vào chính quyền Lý Thừa Vãn, mà chính quyền này chỉ dựa vào sự chiếm đóng và lưỡi lê của bọn xâm lược nước ngoài mới có thể sinh tồn.
Chiều hôm nay, đại biểu tập đoàn đó rút từ túi áo ra một bản tuyên bố và đọc một hồi, biểu đạt cách nhìn đối với hội nghị lần này. Sau khi nghe tuyên bố này, chúng tôi muốn nói, bản tuyên bố này không trả lời là liệu họ có thật sự dự tính thiết lập một Triều Tiên thống nhất hay không, trong tuyên bố không hề có một câu có lợi cho sự nghiệp hòa bình của Triều Tiên, mà đó là một sự tình dựa vào giác ngộ của các tác giả bản tuyên bố.
Tôi, đại biểu chính phủ Liên Xô sẽ dùng vài câu biểu đạt rõ quan điểm của chúng tôi. Lực lượng dân chủ của nhân dân Triều Tiên trước sau bức thiết yêu cầu tìm kiếm một quốc gia thống nhất, độc lập và dân chủ, chính phủ Liên Xô trước sau đứng bên họ, trước sau ủng hộ những phát triển ở Triều Tiên tiếp tục cố gắng tìm kiếm hòa bình.
Chính phủ Liên Xô không thể chấp nhận chính quyền độc tài Lý Thừa Vãn thống nhất Triều Tiên. Chính phủ Liên Xô và đoàn đại biểu Liên Xô luôn luôn chuẩn bị cùng các quốc gia khác, các đoàn đại biểu khác, bất kể trong tình hình nào vì sự tăng cường hòa bình của Triều Tiên, vì lợi ích của nhân dân Triều Tiên, thúc đẩy sự nghiệp dân chủ của Triều Tiên..
Tuyên ngôn 16 nước do đại biểu Thái Lan đọc, một khi công bố, khẳng định sẽ dẫn tới sự phản đối rộng rãi cuả công chúng, bọn họ sẽ nhìn thấy bản tuyên bố này không hề có bất kỳ cống hiến nào cho sự thống nhất và hòa bình của Triều Tiên.
Tôi tin chắc, đề án do Nước CHDCND Triều Tiên và nước CHND Trung hoa đề xuất hôm nay, cũng như đề án cuối cùng của đoàn đại biểu Liên Xô sẽ giành được sự ủng hộ của nhân dân Triều Tiên chính trực. Những đề án này mới là bước đi chân thành và công chính hướng Triều Tiên sớm tiến vào thống nhất và củng cố hòa bình.
Chúng ta sẽ tiếp tục hướng vào mục tiêu đó tiến lên, tiếp tục phấn đấu vì lợi ích của nhân dân Triều Tiên, phấn đấu vì lợi ích của hòa bình thế giới Cám ơn ngài chủ tịch.”
Chu Ân Lai phát biểu tiếp:
“Thưa ngài chủ tịch, và các vị đại biểu: đoàn đại biểu Trung Quốc quyết không đồng ý thái độ và lập trường biểu thị trong ‘tuyên bố’16 nước của một phía các nước tham gia quân đội LHQ do đại biểu Thái Lan đọc. Cho dù hội nghị lần này của chúng ta được triệu tập trên cơ sở của hiệp định hội nghị Berlin, nhưng không có quan hệ gì với LHQ. Nói thêm một bước, nước CHND Trung Hoa bị tước đoạt quyền lợi hợp pháp và chiếc ghế tại Liên Hiệp quôc. Bây giờ 16 nước tuyên bố đình chỉ hội nghị này, chúng tôi không thể không biểu thị sự đáng tiếc cực lớn.
Đoàn đại biểu Trung Quốc hoàn toàn ủng hộ đề án của Molotov, ngoại trưởng Liên Xô, đề án đó cho rằng chúng ta, những người tham gia hội nghị này nên phát biểu một tuyên bố chung về vấn đề Triều Tiên. Hội nghị nên tiếp nhận ý kiến của chúng tôi, thông qua đề án này. Một đề án biểu đạt được nguyện vọng chung của chúng ta như thế mà bị đại biểu Mỹ ngang nhiên cự tuyệt một cách vô lý, chúng tôi đúng là cảm thấy nuối tiếc cực lớn.
Đại biểu Mỹ nói tới điều 62 của hiệp định đình chiến, lấy đó làm lý do để từ chối đề án của ngoại trưởng Liên Xô. Thế nhưng lý do đó đứng không vững. Bởi vì rốt cuộc hiệp định đình chiến Triều Tiên là do hai bên giao chiến ký, còn hội nghị Genève có cơ sở mới, rộng rãi hơn, vì thế phải đạt được hiệp nghị của mình. Đại biểu Mỹ và những người đi theo không những đặt chướng ngại cho hòa bình thống nhất Triều Tiên mà còn ngăn chặn hội nghị Genève đạt được một hiệp nghị duy trì và củng cố hòa bình ở Triều Tiên. Điều này đã nghiêm trọng làm trái nguyện vọng của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tất nhiên bị đoàn đại biểu Trung Quốc kiên quyết phản đối.
Đoàn đại biểu Trung Quốc cho rằng, mặc dù trong tình hình trước mắt này, chúng ta vẫn có nghĩa vụ vì giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên mà đạt được hiệp nghị nào đó. Cho dù nhiều đại biểu tham gia hội nghị lần này đã áp dụng thái độ vô cùng tương tự không có chút dư địa nào cự tuyệt kiến nghị đề xuất bởi ngoại trưởng Bắc Triều Tiên Nam Il nhằm bảo đảm chắc chắn hòa bình ở Triều Tiên, điều này đã khiến chúng ta không thể đảm bảo vấn đề hòa bình Triều Tiên đạt được hiệp nghị, chúng ta vẫn cần có một nguyện vọng chung, nhằm tiếp tục đạt được một hiệp nghị hòa bình giải quyết vấn đề Triều Tiên, xây dựng một Triều Tiên thống nhất, độc lập và dân chủ mà cố gắng.
Vì thế đoàn đại biểu Trung Quốc đề xuất đề án dưới đây:
Các nước tham gia hội nghị Genève đạt được hiệp nghị, họ sẽ tiếp tục cố gắng trên cơ sở xây dựng một nước Triều Tiên thống nhất, độc lập và dân chủ đạt được hiệp nghị hòa bình giải quyết vấn đề Triều Tiên. Về việc khôi phục thời gian và địa điểm thích đáng cho đàm phán sẽ do các nước có liên quan bàn bạc riêng.
Tôi hy vọng hội nghị lần này nghiêm túc suy nghĩ đề án này. Nếu một hiệp nghị như vậy mà đều bị các nước có liên quan tham gia quân đội LHQ cự tuyệt, thì loại tinh thần cự tuyệt hiệp thương và hòa giải này sẽ để lại ảnh hưởng cực không tốt đối với hội nghị quốc tế.
Cám ơn ngài chủ tịch.”
Đề án của Chu Ân Lai được ông viết vội trong giờ nghỉ, đề án này hợp tình, có lý có lực, mục đích ở chỗ dẫn dắt hội nghị vấn đề Triều Tiên lần tới.
Eden tiếp tục chủ trì hội nghị: “Tôi mời đại biểu nước CHDCND Triều Tiên phát biểu.”
Nam Il nói: “Tuyên bố 16 nước tham gia chiến tranh Triều Tiên đọc tại hội nghị hôm nay biểu thị muốn ngừng hội nghị Genève lần này. Khi hội nghị vừa bắt đầu, đoàn đại biểu Triều Tiên đã đề xuất đề án hòa bình giải quyết vấn đè Triều Tiên để họi nghị thảo luận, suy xét tới việc các doàn đại biểu đã phát biểu những ý kiến bất đồng của mình, đoàn đại biểu Triều Tiên tiếp nhận đề án của ngài Chu Ân Lai, ngoại trưởng Trung Quốc, thành lập một Uỷ ban các nước trung lập để giám sát bầu cử ở Triều Tiên.
Trong qua trình thảo luận vấn đề Triều Tiên, đoàn đại biểu Triều Tiên cũng như vậy tiếp nhận đề nghị của ngài Molotov, ngoại trưởng Liên Xô: chính thức thông qua một nghị quyết về những vấn đề có tính nguyên tắc, sau đó tại các đoàn đại biểu có vấn đề bất đồng ý kiến triển khai thảo luận. Nhưng đại biểu Hàn Quốc và một số người ủng hộ họ đã làm cho đề án này bị gác lại.
Khi một lần nữa bàn tới vấn đề hòa bình giải quyết Triều Tiên, đại biểu Nam Triều Tiên và các đại biểu ủng hộ họ ý đồ sẽ có một chính quyền phản dân tộc - chính quyền Lý Thừa Vãn áp đặt lên Bắc Triều Tiên. Hôm nay, một lần nữa chúng ta lại đề xuất tại hội nghị này một đề án sang tạo tại Triều Tiên một môi trường hòa bình, nhưng một đề án như vậy đã bị đoàn đại biểu Nam Triều Tiên và các đoàn đại biể khác từ chối. Khi từ chối đề án của chúng tôi hôm nay, một số đoàn đại biểu không đề xuất nổi một lý do có giá trị. Điều này thuyết minh đầy đủ bọn họ muốn phá hoại đối thoại và thảo luận tại hội nghị lần này. Làm như vậy là để ngăn cản môi trường hòa bình xuất hiện tại Triều Tiên. Tập đoàn Lý Thừa Vãn kêu gào một lần nữa chinh phục Bắc Triều Tiên, đó chính là vì sao bọn họ từ chối bất kỳ đề án nào nhằm khôi phục hòa bình tại Triều Tiên.
Đối với chúng tôi mà nói, không khó hiểu vì sao Tập đoàn Lý Thừa Vãn và những kẻ đi theo lại giữ loại thái độ đó. Ngăn cản hội Genève, khiến nó không thể đạt được mục tiêu áp dụng biện pháp hòa bình thống nhất Triều Tiên đã dự định, trách nhiệm hoàn toàn thuộc về phía hôm nay tung ra và ủng hộ tuyên bố 16 nước.
Nước CHDCND Triều Tiên kiên trì chính sách yêu chuộng hòa bình, sẽ tiếp tục cố gắng vì hòa bình thống nhất Triều Tiên. Nói tóm lại, đoàn đại biểu Triều Tiên hoàn toàn ủng hộ đề án của đoàn đại biểu Trung Quốc hôm nay, hy vọng chúng ta tiếp tục cố gắng nhằm đạt được một hiểu biết chung làm kín miệng những ý kiến bất đồng.”
Lúc này hoàng thân Wan Waithayakon, Thái Lan yêu cầu phát biểu, ông nói: “trong phát biểu ngài Molotov nói, người đọc tuyên bố 16 nước muốn phá hoại hội nghị lần này, vì cách nói đó xuất hiện dưới hình thức trình bầy sự thực chứ không chỉ là một ý kiến, nên tôi phải phủ nhận nó, từ chối không tiếp nhận cách nói này. Đoàn đại biểu nước tôi cũng như đại biểu khác trong 16 nước đều sẽ tiếp tục cố gắng vì hòa bình thống nhất Triều Tiên trên cơ sở hai nguyên tắc đã được xác lập trong tuyên bố về vấn đề Triều Tiên. Cám ơn ngài!”
Spaak đại biểu Bỉ lại phát biểu. Ông nói: “Thưa ngài chủ tịch: tôi cho rằng tại hội nghị lần này có một sự hiểu nhầm. Hai đề nghị của ngài Molotov và ngài Chu Ân Lai có cùng tinh thần với tuyên bố vừa đọc trên danh nghĩa 16 nước, vốn không mâu thuẫn. Tôi cho rằng nên có một trình bầy rõ ràng. Trong 16 nước chế định tuyên bố không có một cho rằng có thể áp dụng hành động vi phạm tinh thần hiệp định đình chiến, có thể gây lại ý thù địch ở Triều Tiên. Tôi cho rằng, thái độ này nên được trình bầy rõ rang nhằm loại bỏ hiểu nhầm. Bất đồng giữa chúng tôi và ngài Molotov chỉ ở chỗ, tinh thần mà ông muốn trình bầy đã bao gồm trong hiệp định đình chiến Triều Tiên, đề án của Chu Ân Lai cũng có tình huống giống như vậy.
Trong phát biểu của tôi dã từng nói tới, nếu như hiện nay chúng ta có bất đồng thì điều này cũng không có nghĩa là có sự bất đồng cuối cùng, càng không có ý nghĩa là vứt bỏ thảo luận vấn đề Triều Tiên. Tôi nói là, tôi hy vọng chúng ta nên có cơ hội cử hành lại hội nghị, tiến hành thảo luận, như vậy sẽ có lợi cho mục tiêu chung của chúng ta, đó là xây dựng một Triều Tiên thống nhất, độc lập và dân chủ. Vì thế chúng tôi không đồng ý đề án của ngài Molotov và ngài Chu Ân Lai, không có nghĩa là chúng tôi từ chối tinh thần nội tại của đề án của họ, sở dĩ chúng tôi từ chối chỉ là do ý kiến họ biểu đạt đã bao gồm trong hiệp định đình chiến, hơn nữa còn bao gồm trong tuyên bố 16 nước mà đại biểu Thái Lan đã đọc.”
Lúc này Molotov yêu cầu phát biểu và được chủ tịch đồng ý. Nhưng Molotov chỉ nói một câu: “Thưa ngài chủ tịch, các vị đại biểu: đoàn đại biểu Liên Xô hoàn toàn ủng hộ đề án của ngoại trưởng Trung Quốc, Chu Ân Lai.”.
Vào giờ phút then chốt, mà Molotov lại không lợi dụng đầy đủ cơ hội phát biểu mà ông đã giành được không thể không nói đó là một lần thất thiệt.
Đến đó Eden tuyên bố: “mời đại biểu nước Anh phát biểu.”
Reading đại biểu Anh phát biểu nói: “Thưa ngài chủ tịch, tôi vui lòng có một phát biểu ngắn gọn, biểu thị ủng hộ ý kiến của Bỉ. Đúng là chúng tôi nuối tiếc vì chưa thể tại hội nghị lần này đạt được tiến triển nhiều hơn nữa. Nhưng chính như tuyên bố chiều hôm nay đã biểu đạt rõ là, tuần hoàn theo long tin của tự chúng ta, chúng ta đã làm mọi cố gắng để cho hội nghị giành được kết quả tốt nhất. Nếu mục đích đó không đạt được, chúng ta cũng quyết không vứt bỏ những cố gắng trong tương lai. Và ngài Spaak trong bài nói đã biểu đạt quan điểm rằng trong tương lai sẽ có môi trường tương đối thích hợp, tôi cho rằng đó cũng là trong tuyên bố đã được các đồng sự ký và trong tuyên bố đã được được ông biểu đạt nguyện vọng chung.” Phát biểu của Reading đã tăng cường quan điểm của Spaak, không khí hội trường có dịu bớt
Trong tay Eden không còn ai yêu cầu phát biểu. Ông ta hỏi: “Ai còn muốn phát biểu?”
Chu Ân Lai yêu cầu phát biểu. Ông nói:
“Thưa ngài chủ tịch, các vị đại biểu: ngài Spaak ngoại trưởng Bỉ vừa rồi nói, tinh thần của đề nghị gần đây nhất của đoàn đại biểu Trung Quốc đã bao gồm trong hiệp định đình chiến. Nói như vậy là không có căn cứ. Trong hiệp định đình chiến Triều Tiên không có điều khoản như vậy, tức các nước tham gia hội nghị Genève phải đạt được một hiệp nghị, biểu đạt một nguyện vọng chung: tiếp tục nỗ lực, thông qua xây dựng một Triều Tiên thống nhất, độc lập và dân chủ, để giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên. Đoàn đại biểu Trung Quốc mang theo tinh thần hiệp thương và hòa giải lần đầu tiên tham gia một hội nghị quốc tế như thế này, nếu như hôm nay kiến nghị cuối cùng mà chúng ta đề xuất đều bị từ chối thì chúng tôi không thể không biểu thị sự nuối tiếc cực lớn. Mọi nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới sẽ đưa ra phán đoán về sự kiện này.
Cám ơn ngài chủ tịch.”
Lúc này Spaak đại biểu Bỉ yêu cầu phát biểu. Eden đồng ý.
Spaak nói: “tôi hy vọng ngài Chu Ân Lai lắng nghe phát biểu của tôi, tôi cảm thấy ông hiểu nhầm lời nói của tôi. Tôi không nói đề án của ông đã bao gồm trong hiệp định đình chiến Triều Tiên, ý của tôi là, đề án của Chu Ân Lai và tinh thần của tuyên bố 16 nước cũng như tôi đã trình bầy nếu như hội nghị Genève chưa có thể đạt được sự đồng thuận mà chỉ cần môi trường một khi còn cho phép cố gắng tiếp tục cố gắng tìm kiếm một cách nhìn nhất trí là nhất trí. Vì thế đối với đề án của ngài Chu Ân Lai cúng như đề án của ngài Molotov, tôi không nêu ý kiến gì khác. Tôi cho rằng đại biểu Anh và các đồng sự khác của tôi cũng có cùng thái độ giống như tôi..”
Được chủ tịch đồng ý, Chu Ân Lai nói tiếp ngay bài phát biểu lần thứ tư.
Chu Ân Lai nói: “Thưa ngài chủ tịch, các vị đại biểu: nếu như nói tuyên bố 16 nước và kiến nghị của đoàn đại biểu Trung Quốc có nguyện vọng chung thì tuyên bố 16 nước chỉ là tuyên bố một mặt, còn hội nghị Genève lại có 1chín nước tham gia. Vì sao chúng ta không thể dùng hình thức hiệp nghị chung để biểu đạt nguyện vọng chung này? Chẳng lẽ chúng ta tham gia hội nghị đó mà ngay một chút tinh thần hòa giải cũng không có hay sao? Tôi phải nói, tôi là người đầu tiên tham gia hội nghị quốc tế học được kinh nghiệm này.”
Tiếp đó lại là phát biểu của Spaak, rõ ràng là phát biểu vừa rồi của Chu Ân Lai đã làm ông ta cảm động. Ông nói: “thưa ngài chủ tịch, để loại bỏ nghi ngờ, cá nhân tôi tán thành dùng phiếu đồng ý quyết định chúng ta tiếp nhận kiến nghị của đại biểu nước CHND Trung Hoa.”
Đến đây hội nghị phát sinh cơ hội chuyển biến tốt, Molotov nhìn thấy cơ hội này, lập tức yêu cầu phát biểu. Ông nói: “Thưa ngài chủ tịch và các vị đại biểu: nếu như chúng ta dự tính thu lại mọi thảo luận liên quan tới vấn đề Triều Tiên chúng ta có thể áp dụng tuyên bố đơn phương diện để tiến hành tuyên bố, cũng có thể thông qua một tuyên bố biểu đạt nguyện vọng một phía hoặc một phía khác, đồng thời còn có thể đưa ra một quyết định, biểu đạt nguyện vọng chung của chúng ta. Vấn đề mà chúng ta cần phải trả lời là, liệu chúng ta có thể đưa ra một quyết định phản ảnh quan điểm và nguyện vọng chung của chúng ta hay không. Cách nhìn của tôi là, đó chính là mục đích chúng ta hội họp ở đây, vì vậy tôi ủng hộ một cách không bảo lưu kiến nghị của đại biểu nước CHND Trung Hoa, đề nghị này vừa rồi cũng được sự ủng hộ của đại biểu Bỉ.”
Như thế là đề án cuối cùng của Chu Ân Lai đã trở thành đề án duy nhất được hội nghị hôm nay đưa ra thảo luận, đã xuất hiện cơ hội có khả năng thông qua.
Eden chủ trì hội nghị đã phát biểu, ông ta nói: “theo sự hiểu biết của tôi, trước mặt chúng ta có một đề án của đại biểu nước CHND Trung Hoa. Đại biểu Bỉ cho rằng kiến nghị này đã thể hiện được tinh thần làm việc của hội nghị lần này, bản thân tôi cũng đồng ý ý kiến của ông. Nếu mọi người đồng ý, liệu tôi có thể cho rằng bản tuyên bố này đã được hội nghị lần này tiếp nhận phổ biến?”
Lúc này hội trường không có ai trả lời.
Eden hỏi: “Còn ai yêu cầu phát biểu không?”
Bấy giờ Smith đại biểu Mỹ nói: “Thưa ngài chủ tịch.”
Eden nói ngay: “mời đại biểu Mỹ phát biểu.”
Smith nói: “Thưa ngài chủ tịch: tôi không thể không nói, tôi không rõ phạm vi và thực chất của kiến nghị của đại biểu Trung Quốc rốt cuộc là nói cái gì. Tôi thấy, đề nghị này đã đặt trách nhiệm giải quyết vấn đề Triều Tiên lên hội nghị lần này mà không suy tính tới việc giải quyết vấn đề Triều Tiên đòi hỏi thời gian dài bao lâu. Theo sự hiểu biết của tôi, hội nghị lần này không phải là một cơ cấu thiết lập lâu dài ngoài LHQ hoặc là nói, nó có thể thoát khỏi sự khống chế của LHQ. Hội nghi lần này chưa thể hoàn thành nhiệm vụ bản thân được giao phó, thái độ của chúng tôi đối với việc đó đã được trình bầy trong bản tuyên bố cuối cùng ngày hôm nay, tuyên bố không có ý nghĩa phụ thêm gì khác. Vấn đề thời gian và địa điểm đàm phán có liên quan từ nay về sau sẽ do cuộc đàm phán khác giải quyết. Chúng ta đều là thành viên LHQ, chúng ta ủng hộ LHQ. Vì thế nếu không có chỉ thị của chính phủ nước tôi, tôi không dự tính biểu đạt bất kỳ ý kiến nào, cũng sẽ không tán thành đề án mà vừa rồi có người đề cập đến.
Tôi quyết không muốn tạo ra chướng ngại cho sự hiểu biết dù là nhỏ bé mà hội nghị lần này có thể đạt được. Tôi cho rằng, tuyên bố của chúng ta đã biểu đạt rất rõ, đó là phía Đảng Cộng sản có thể vào lúc thích nghi trong bất kỳ điều kiện nào cùng chúng tôi tiếp tục đàm phán, chỉ cần bọn họ tiếp nhận hai nguyên tắc cơ bản chúng tôi tuyên bố hôm nay là được. Không có hai điểm này bất kỳ cuộc đàm phán nào đều sẽ không có kết quả.
Cám ơn ngài!”
Phát biểu của Smith rất có trọng lượng trong tập đoàn 16 nước, đặc biệt là câu cuối cùng trong bài phát biểu của ông ta, ngầm cho thấy tuyên bố 16 nước đã được chính phủ mỗi nước phê chuẩn, ngoại trưởng không được làm trái. Vì thế sau khi ông ta phát biểu xong, hội trường im lặng như tờ.
Lúc này Eden phát biểu nói: “Nếu mọi người đồng ý, với tư cách là chủ tịch hội nghị, trong tình hình hiện nay, tôi muốn nói một câu: chúng ta không có trình tự bỏ phiếu, ở đây chúng ta dựa vào hiệp nghị chung mà hành động, ngay khi bắt đầu đã như vậy. Từ chiều hôm nay, trong phát biểu của các đề án khác nhau, chúng ta có thể nhìn thấy một cách rõ ràng, hiện nay chúng ta chưa thể đạt được hiệp nghị trên bất kỳ văn kiện nào. Trong tình hình đó, tôi kiến nghị, hội nghị lần này nên ghi vào hồ sơ các phát biểu của mọi người, coi đó là một phần ghi chép của hội nghị lần này. Nếu có khả năng như vậy, tôi muốn them một câu, trong tình hình như vậy tôi cảm thấy vô cùng nuối tiếc vì hội nghị chưa đạt được tiến triển, đồng thời hy vọng ngày khôi phục đàm phán sẽ sớm đến như một câu nói được đề cập trong một đề án: ‘cái ngày mà sứ mệnh của chúng ta được tiếp tục thành công sẽ đến.’”
Đến đó, Eden nói xong. Ông ta chợt nhìn thấy Molotov yêu cầu phát biểu, liền biểu thị đồng ý.
Molotov nói: “Thưa ngài chủ tịch, các vị đại biểu: chúng ta vừa nghe được kiến nghị của chủ tịch hội nghị, nên ghi chép vào hồ sơ, phát biểu của đại biểu Bỉ ủng hộ đề án của đại biểu nước CHND Trung Hoa bởi vì nó phản ánh được tinh thần của hội nghị lần này. Tôi tin là hội nghị lần này sẽ ghi lại phát biểu đó. Cho dù đại biểu Mỹ lại có một phát biểu khác, hội nghị lần này cũng vẫn nên ghi chép nó vào hồ sơ.”
Phát biểu của mọi người đã tiến vào hồi cuối, một lần nữa Eden lại hỏi: “Còn ai yêu cầu phát biểu?”
Lúc này Chu Ân Lai phát biểu lần thứ năm: “thưa ngài chủ tịch, các vị đại biểu: tôi cảm thấy vừa lòng trước tinh thần hòa giải mà ngoại trưởng Bỉ đã biểu hiện. Thái độ của chủ tịch hội nghị cũng đáng được đề cập. Thế nhưng tôi cần phải đồng thời chỉ ra, đại biểu Mỹ lập tức phản đối và tiến hành ngăn cản đã khiến mọi người đều hiểu được Mỹ đã ngăn cản hội nghị Genève như thế nào, hơn nữa còn ngăn cản hội nghị đạt được kiến nghị cho dù ở mức độ thấp nhất, có tính hòa giải nhất.2
Tôi yêu cầu đưa phát biểu vừa nói của tôi vào ghi chép hội nghị. Cảm ơn ngài chủ tịch!”
Eden hỏi: “Còn ai phát biểu kiến giải không?”
Lần này yêu cầu phát biểu là Pyun Yung Tai đại biểu Nam Triều Tiên. Ông ta nói: “Thưa ngài chủ tịch, các vịđại biểu: phía 16 nước đã có tuyên bố, nếu phía Đảng Cộng sản cũng dự tính đưa ra một tuyên bố tương tự hoặc một tuyên bố có nội dung đồng nhất thì xin tùy ý.Thế nhưng không thể phát biểu tuyên bố chung. Nếu như bọn họ muốn dung phương thức khác để đưa ra một tuyên bố có nội dung tương đồng hoặc tương tự, bọn họ có sự tự do đó.
Ý kiến của đoàn đại biểu Bỉ không thể đại biểu quốc gia 16 nước, đại biểu Đại Hàn Dân Quốc cho rằng ý kiến của Bỉ không đại biểu cho chúng tôi. Chúng tôi không hiểu phía Đảng Cộng sản vì sao còn muốn đề xuất vấn đề có phát biểu bản tuyên bố chung hay không, lãng phí thời gian. Cám ơn ngài chủ tịch!”
Bản thân Eden yêu cầu phát biểu: “Tôi có thể nói một câu không?” Tôi cho rằng điều quan trọng là hội nghị lần này nên minh bạch chúng ta đang tranh luận cái gì. Theo tôi hiểu, hội nghị lần này đã tiếp nhận ý kiến của tôi, coi phát biểu của mọi người như là bộ phận tổ thành ghi chép của hội nghị để ghi chép lại. Tôi cho rằng làm như vậy khiến các mặt đều có thể bảo lưu ý kiến của mình. Do hội nghị không tiến hành biểu quyết nên chúng ta chỉ có thể làm như vậy, tôi cảm thấy đây là một biện pháp mà mọi người chúng ta dều có thể tiếp nhận. Theo tôi hiểu, tuân theo trình tự hội nghị thì những cái cần làm đều đã làm.”
Sau khi Eden phát biểu, Casey đại biểu Australia phát biểu, nói: “thưa ngài chủ tịch, tôi muốn nói mấy câu biểu thị sự ủng hộ đối với đại biểu Mỹ, đồng thời cũng ủng hộ bản thân ngài về đề nghị ghi chép những phát biểu của hội nghị lần này vào hồ sơ.
Trong hội nghị lần này, 16 nước chúng tôi với tư cách là một phía đã không dùng danh nghĩa mỗi nước xuất hiện đơn độc, chúng tôi đến đây là vì quốc gia chúng tôi hưởng ứng lời kêu gọi của LHQ phản kích cuộc xâm lược Triều Tiên. Chúng tôi tới đây đại biểu lợi ích chung của 16 nước, chứ không phải là một quốc gia đơn độc dùng lực lượng vũ trang của mình phản kích xâm lược.
Tôi không đồng ý tiếp nhận điều thứ hai trong đề án của đoàn đại biểu nước CHND Trung hoa, điều này sẽ làm cho chúng tôi cảm thấy mình giống như đám người ô hợp, một mặt có thể tìm trong chúng tôi một số nước thảo luận vấn đề Triều Tiên, còn một số nước khác thì bị gạt ra bên ngoài. Tôi phải nói, cho dù hội nghị lần này không phải do LHQ chủ trì triệu tập, nhưng là kết quả của hội nghị Berlin, và trên thực tế 16 nước chúng tôi đã đại biểu lợi ích của LHQ, nếu trong tương lai khôi phục lại hội nghị lần này cũng tất yếu là có liên quan với LHQ.
Vì vậy, thưa ngài chủ tịch, phát biểu ngắn gọn của tôi lả ủng hộ phát biểu của đại biểu Mỹ, đồng thời cho rằng cách làm do ngài chủ tịch đề xuất là có giá trị.”
Molotov đại biểu Liên Xô phát biểu tiếp: “Thưa ngài chủ tịch, các vị đại biểu: chúng ta đối mặt với đề nghị như thế này, ghi chép các phát biểu tại hội nghị hôm nay vào hồ sơ. Tôi tin là ghi chép phát biểu của đại biểu Bỉ vào hồ sơ là vô cùng tất yếu, phát biểu của ông ủng hộ đề nghị của Trung Quốc, cho rằng nó biểu đạt được nguyện vọng chung của những người tham dự hội nghị hôm nay. Chủ tịch hội nghị của chúng ta cũng khẳng định quan điểm đó.
Tôi cho rằng, hội nghị của chúng ta lần này nên ghi chép mọi quan điểm nói trên và những quan điểm có kiến giải độc đáo. Nếu những cái đó có thể hình thành một nghị án, đoàn đại biểu Liên Xô biểu thị tán đồng.”
Spaak, đại biểu Bỉ phát biểu cuối cùng: “Tôi phải làm rõ rốt cuộc vừa rồi tôi nói cái gì. Tôi cho rằng kiến nghị của đại biểu Trung Quốc đã biểu đạt nguyện vọng tiếp tục thảo luận vấn đề Triều Tiên, không muốn nó kết thúc, đúng là tôi tấn thưởng kỳ vọng này. Tôi không vui lòng tiếp nhận loại quan điểm không cần thảo luận vấn đề Triều Tiên. Điều tôi muốn bổ sung là, tôi hoàn toàn đồng ý từ nay trở đi vấn đề Triều Tiên phải được tiến hành trong khuôn khổ LHQ. Xin cho phép tôi nhắc lại một lần, tôi không phản đối tiếp tục thảo luận vấn đề Triều Tiên trong tương lai mà là phản đối từ nay trở đi tiếp tục thảo luận những vấn đề là những sự việc nghiêm trọng mà bất hạnh.”
Lần yêu cầu phát biểu cuối cùng này của Chu Ân Lai, trí tuệ của ông trên hội trường này đã được thể hiện rất đầy đủ. Ông nói: “Thưa ngài chủ tịch, các vị đại biểu: căn cứ vào những trình bầy của một số đại biểu, liệu có thể giải thích như thế này không, nước CHND Trung Hoa sẽ bị tước đoạt quyền lợi từ nay trở đi tiếp tục tham dự thảo luận vấn đề hòa bình giải quyết Triều Tiên? Nếu đúng như vậy, chúng tôi cho rằng, muốn từ nay trở đi đạt được hiệp nghị hòa bình giải quyết vấn đề Triều Tiên là không có khả năng. Thưa các ngài, bởi vì các vị biết Trung Quốc bị tước đoạt quyền lợi hợp và chiếc ghế hợp pháp của mình tại LHQ.
Vô cùng cảm ơn ngài, ngài chủ tịch!” Chu Ân Lai đã điểm ra thực chất của vấn đề.
Eden dã phát biểu kết thúc hội nghị: “Không biết liệu tôi có thể ý đồ dung một câu khái quát qui tắc mà mọi người chúng ta đều có thể tiếp nhận. Tôi muốn chỉ ra, các nghị án đưa ra hôm nay đều không thể coi là nghị án đồng thuận của toàn thể đại biểu tham dự hội nghị. Thế nhưng, mọi đề án, cũng như phát biểu hôm nay đều sẽ thành một bộ phận của các ghi chép tại hội nghị hôm nay. Chúng ta nên tiếp nhận điều này. Tôi cho rằng, cho dù hội nghị hôm nay không bỏ phiếu, đó là sự lựa chọn duy nhất của chúng ta, nó có thể thích hợp với tình hình hôm nay. Nếu không có ý kiến khác, tôi vui lòng nhắc lại, cá nhân tôi hy vọng, sẽ có một ngày nhiệm vụ chung của chúng ta có thể được tiếp tục chấp hành và giành được thành công.
Bây giờ tôi tuyên bố kết thúc hội nghị.”
Hội nghị hôm nay có thời gian dài nhất, bắt đầu 3 giờ 05 phút, kết thúc lúc 8 giờ 35 phút vừa đúng 5 giờ 30 phút.
Màn đêm đã bao trùm Genève. Hội đàm về vấn đề Triều Tiên cuối cùng bị tan vỡ, hội nghị Genève đã đi tới ranh giới nguy hiểm nhất.
1 Nguyên văn. TG.
|
|