|
Post by nguyendonganh on Jul 16, 2014 9:57:21 GMT 9
Bà Clinton: Vài Gia Đình Có Tiền Định Để Làm Tổng Thống 13/07/2014
WASHINGTON – Hillary Clinton bào chữa cho việc các thành viên trong cùng gia đình làm lãnh đạo chính trị Mỹ – gồm gia đình bà – cho rằng một vài gia đình có thể có “tiền định” trở thành các tổng thống.
Trong cuộc phỏng vấn được công bố hôm Thứ Ba với Der Spiegel, bà Clinton phủ nhận ý tưởng sự nối ngôi của gia đình Bush và Clinton trong Tòa Bạch Ốc sẽ đưa nền chính trị Mỹ vào chế độ quân chủ.
Vị cựu bộ trưởng ngoại giao này nói với báo Đức rằng, “Chúng tôi đã có 2 Roovervelt. Chúng tôi đã có 2 Adam. Có thể là một vài gia đình nào đó chỉ có ý nghĩa cam kết hay ngay cả tiền định muốn làm chính trị.”
Franklin D. Roosevelt, tổng thống thứ 32, là anh em bà con với Tổng Thống Thứ 26 Theodore Roosevelt. John Quincy Adams là con trai của John Adams, nhưng 4 vị tổng thống không có trực tiếp liên hệ và cách nhau một thế hệ.
Vị cựu đệ nhất phu nhân không cho biết rằng bà có ra tranh cử tổng thống và theo bước chân của phu quân hay không. Có thể, bà có thể đối diện với Cộng Hòa và cựu thống đốc tiểu bang Florida Jeb Bush, người tuyên bố có ứng thú làm tổng thống.
Cho dù ai thắng cử tổng thống năm 2016, thì Tòa Bạch Ốc cũng sẽ do Bush hay Clinton làm chủ 4 lần trong 5 tổng thống.
Thăm Dò: Obama Tổng Thống Tệ Hại Nhất Sau Thế Chiến 2 03/07/2014
NEW YORK - Trường đại học Qunnipac tổ chức thăm dò với 1446 cử tri đã ghi danh từ ngày 24 đến ngày 30-6, ghi nhận 33% cử tri đánh giá ông Obama là TT kém cỏi nhất sau Thế Chiến II – nhiều người cảm thấy không hài lòng với các chính sách kinh tế và đối ngoại.
29% đối tượng phỏng vấn nói cựu TT Bush là vị tiền nhiệm của ông Obama là dở nhất. Cử tri không đồng ý ông Obama hay ông Bush kém hơn – 39% nghĩ rằng ông Obama hữu hiệu hơn và 40% tin rằng ông Obama không bằng ông Bush. Đa số cử tri đánh giá TT Reagan 2 nhiệm kỳ là tài ba nhất từ 1945.
Phụ tá giám đốc Tim Malloy của nhóm khảo sát nói: sau 69 năm và qua 12 đời TT, ông Obama nhận thấy ông cùng hạng chót với ông Bush.
Trong lúc tỉ lệ hậu thuẫn TT Obama từ từ leo lên tới tỉ lệ 40%, từ 38% vào Tháng 12-2013, thêm nhiều cử tri chấm điểm âm với các chính sách về kinh tế, đối ngoại, chống khủng bố và chăm sóc sức khoẻ.
Về bảo vệ môi truờng, 50% cử tri ủng hộ ông Obama.
Bà Hillary Xuất Quân 15/07/201400 Vũ Linh
...số tiền lớn để đọc diễn văn của cả hai ông bà Clinton, chẳng qua chỉ là tiền hối lộ...
Chính thức thì bà cựu Ngoại Trưởng Hillary Clinton đang nghỉ ngơi, chuẩn bị đón cháu ngoại. Đối với những câu hỏi về việc ra tranh cử tổng thống năm 2016 thì bà chỉ cười trừ, ai muốn hiểu sao thì hiểu.
Nhưng bí mật này giống như bí mật không biết ngày mai mặt trời có mọc hay không. Ngoại trừ chuyện vạn bất đắc dĩ nào đó thì bà sẽ không thể không ra tranh cử. Trên lý luận thì bà Hillary coi như sẽ là tổng thống thứ 45 của Mỹ rồi. Nhiều người vui, không ít người buồn. Nhưng có chắc không?
Bà đang chuẩn bị rất chu đáo. Viết sách và ra mắt sách đã là hiệp một của cuộc vận động tranh cử tổng thống năm 2016.
Vừa từ nhiệm Ngoại Trưởng buổi sáng thì buổi trưa bà đã lo ngồi viết hồi ký khoe thành tích rồi. Cuốn sách phát hành đầu tháng Sáu vừa qua đúng là một trường thiên bút ký viết cho ngang với số dặm bà đã bay khắp thế giới trong hơn 4 năm làm Ngoại trưởng. Nhà xuất bản cuốn Hard Choices (Những Lựa Chọn Khó Khăn) đã trả trước cho bà 14 triệu đô. Nhận 14 triệu để viết một cuốn sách chắc không thể là một lựa chọn khó lắm.
Nếu bà Hillary bay tới một triệu dặm mà chẳng có thành tích gì ghê gớm để lại, thì cuốn sách dài hơn 600 trang này cũng chẳng để lại một ấn tượng ghê gớm nào. Chỉ một tuần sau khi được rầm rộ phát hành, cuốn sách đã lọt ra ngoài danh sách bán chạy hàng đầu của New York Times. Chẳng những vậy, báo Washington Post cho biết theo nghiên cứu của Amazon, nhà xuất bản sách điện tử E-Book, chỉ có chừng 2% người mua sách đã đọc hết cuốn sách, hầu hết chỉ đọc trung bình có hơn 30 trang đầu thôi.
Hầu hết các bình luận gia, kể cả các anh cấp tiến phe ta nhất, cũng thất vọng. Cuốn sách bị chê là nhàm chán, quá dài một cách vô ích vì chẳng nói lên điểm gì. Rào đón theo kiểu vấn đề gì cũng được kể lại theo hai chiều, có cái hay nhưng cũng có cái dở. Các nhân vật bà nêu ra, ai cũng có cái được, cái không được. Một cuốn sách không thể nào ba phải hơn, có lẽ vì bà phải trực diện những lựa chọn quá khó khăn nên ba phải cho chắc ăn? Được coi như là tài liệu vận động tranh cử đầu tiên, khoe bà liên hệ đến đủ mọi chuyện lớn nhỏ trên thế giới, gặp cả ngàn nguyên thủ và lãnh đạo chính trị, văn hóa, xã hội thế giới, nhưng không thể làm mất lòng ai hết. Đưa đến câu hỏi thế thì bà Hillary là ai? Quan điểm như thế nào?
Các sử gia thất vọng. Họ đã mong đợi một hồi ký kiểu Henry Kissinger, hay của cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Robert Gates, vén lên được vài bí mật lịch sử, hay ít ra cũng thẳng thừng chỉ trích hay hoan hô chuyện gì. Nhưng hồi ký của bà Hillary tuyệt đối chẳng có gì mới lạ, ngoại trừ một vài chuyện chi tiết có tính tự bào chữa, như vai trò của bà trong vụ khủng bố tấn công Benghazi. Không phải là một tài liệu lịch sử mà chỉ là một tài liệu khoe công để vận động tranh cử, vừa viết vừa cân nhắc chuyện vận động tranh cử, viết thế nào thì được nhiều phiều?
Nếu quả thực bà Hillary tính ra tranh cử với cuốn sách này thì có lẽ hy vọng đắc cử hơi mong manh. Tốt nhất là bà nên ra tranh cử với lý do bà là phụ nữ và bây giờ là lúc tới phiên phụ nữ lên làm tổng thống, không cần nhìn vào sự nghiệp và thành qủa. Lý do đó sẽ giúp bà đắc cử dễ dàng. Cũng như TT Obama đã đắc cử với lý do là tổng thống da đen đầu tiên, bất chấp quá trình mỏng tanh.
Việc cuốn sách chẳng nói lên chuyện gì không phải là một ngạc nhiên khi ta nhìn lại quá trình 4 năm làm Ngoại Trưởng của bà Hillary, chính sách đối ngoại của Mỹ chẳng có gì đáng nói, chẳng có thành tích nào để đời, ngoại trừ luộm thuộm và thất bại.
Một điều lý thú là sau khi bà Ngoại Trưởng đã từ chức gần hai năm thì TT Obama mới chính thức công bố cái gọi là chủ thuyết đối ngoại Obama (Obama Doctrine) tại trường West Point mới đây! Tức là bà Hillary làm bốn năm Ngoại Trưởng mà không có “Chủ Thuyết” hay đường hướng gì hết sao? Hay là bà đã không chấp nhận “Chủ Thuyết Obama”, và TT Obama phải đợi bà đi rồi mới công bố cái chủ thuyết đó được? (Xin xem “Ghi chú” cuối bài).
Rất có thể cái thiếu thành tích của bà Hillary xuất phát từ bất đồng ý kiến với TT Obama nên bà bị trói tay. Điển hình, bà Hillary diều hâu hơn TT Obama nhiều. Bà ủng hộ và biểu quyết việc đánh Iraq tuy sau này thay đổi thái độ trong cuộc chạy đua với TNS Obama để tranh phiếu cánh tả của đảng Dân Chủ, bà chủ trương can thiệp mạnh tại Syria, chống lại việc hấp tấp rút quân khỏi Iraq, tố Putin là Hitler tân thời, chống lại việc trao đổi tù nhân với Taliban, … Nhiều quan sát viên đã nhận định chính sách đối ngoại của TT Obama trong nhiệm kỳ đầu đúng là của TT Obama, xuất phát từ Tòa Bạch Ốc, trong khi Ngoại Trưởng Hillary chỉ là người thừa hành.
Dù sao thì thành tích đối ngoại của bà cựu Ngoại Trưởng chẳng có gì đáng khắc vào bia đá. Đã vậy, việc quảng bá sách đã mang lại cho bà Hillary vài cái hố lớn, kiểu tướng vừa xuất quân đã … gẫy cờ.
Ngoài việc ngồi ký tên sách tại các tiệm sách lớn khắp nước, bà Hillary cũng đã thu xếp với truyền thông “phe ta” để được phỏng vấn hai lần. Và cả hai lần đều bị hố to.
Lần đầu lên truyền hình trả lời câu hỏi của nhà báo Diane Sawyer của đài ABC về thù lao rẻ nhất cũng phải 200.000 đô mỗi lần đi đọc diễn văn, bà Hillary đã than vãn là bà … nghèo lắm. Bà nói khi dọn ra khỏi Tòa Bạch Ốc năm 2001, hai ông bà ở trong tình trạng phá sản (“dead broke”), nợ ngập đầu (vì tiền luật sư bào chữa cho TT Clinton). Bà than là cuộc sống của bà những ngày đó không dễ dàng chút nào.
Kẻ viết này xém chút nữa đã mủi lòng đập con heo đất lấy ít tiền gửi yểm trợ bà rồi. Nhưng nghĩ lại, hình như có gì không ổn.
Đúng là chi phí luật sư của TT Clinton rất nặng. Nhà Nước không trả tiền luật sư vì là chuyện cá nhân, liên quan đến việc một bà đào xồn xồn, Paula Jones, thưa kiện cá nhân ông Clinton về tội xách nhiễu tình dục, tố ông khi còn làm Thống Đốc Arkansas đã cho nhân viên an ninh đi mời bà vào phòng riêng rồi tụt quần xuống kêu bà này... làm gì đó thì chỉ có hai người biết. Ra tòa cãi cọ cả năm trời, lòi ra vụ cô Monica, rồi đàn hạch. Sau đó TT Clinton đã điều đình trả 850.000 đô để bà này rút đơn kiện. Cộng với bạc triệu tiền luật sư thượng thặng nhất của Mỹ. Có lẽ đây là một trong những vụ... 2 phút tụt quần đắt giá nhất lịch sử nhân loại?
Nhưng trước khi TT Clinton rời Tòa Bạch Ốc thì bà Hillary đã ký hợp đồng 8 triệu đô ứng trước viết hồi ký, trong khi ông chồng cũng đã ký hợp đồng 15 triệu đô ứng trước cũng để viết hồi ký. Vị chi hai ông bà ra khỏi Tòa Bạch Ốc với 23 triệu đô trong túi. Chưa kể tiền hưu của ông và tiền lương nghị sĩ của bà, gộp lại gần nửa triệu. Cũng không kể Nhà Nước chu cấp tiền thuê, trợ tá, nhân viên, cho văn phòng TT Clinton tại New York.
Ngay sau đó, phải lo đi kiếm nhà ở. Hai ông bà đã bỏ 4,5 triệu ra mua một căn nhà đồ sộ tại Chappaqua, tiểu bang New York, vì bà là thượng nghị sĩ của New York. Rồi thêm 6 triệu mua một căn nhà khác tại Washington DC, vì bà làm việc tại Thượng Viện. Rồi một căn hộ tại Manhattan không rõ bao nhiêu triệu nữa, vì TT Clinton có văn phòng tại Harlem. Thỉnh thoảng, hai ông bà Clinton cũng chán ở nhà mình, đi nghỉ hè vùng biển đông bắc, thuê một dinh cơ khổng lồ với nửa tá phòng ngủ ở Hamptons với giá 200.000 đô một tháng để thay đổi không khí.
Phá sản kiểu này, kẻ viết này cũng đang mơ được phá sản.
Chưa hết. Cho dù là lúc đó ông bà Clinton đang trong tình trạng cần tiền, nhưng câu hỏi của bà Sawyer là chuyện thù lao bà Hillary đang lãnh bây gìờ, tức là hơn 13 năm sau khi rời Toà Bạch Ốc, chứ có hỏi chuyện xưa đâu. Chẳng lẽ 13 năm sau, bà vẫn còn lận đận trong túng quẩn phải đi đọc diễn văn vài trăm ngàn đô một bài để kiếm sống?
Câu chuyện nổ bùng ngay sau khi bà nói chuyện tại Đại Học Nevada tại Las Vegas, được trả 225.000 đô, rồi bị sinh viên tại đây phản đối yêu cầu bà trả lại tiền. Họ phản đối việc tiền học phí cả năm của cả trăm sinh viên dành để trả một tiếng đồng hồ nói chuyện của bà Hillary. Mới đây báo phe ta Washington Post đã loan tin bà Hillary đã đọc diễn văn tại 8 trường đại học lớn và đã thu gần hai triệu đô, trong khi phần lớn các trường đó đều mới tăng học phí sinh viên.
Tin giờ chót: bị chỉ trích quá mạnh, Bà Hillary tuần rồi đã cho biết tất cả tiền thu từ các đại học đã được chuyển qua quỹ từ thiện... Clinton Foundation. Nói cách khác, bà đã trấn an dư luận, xác nhận đã... lấy tiền từ túi quần bên phải bỏ qua túi quần bên trái rồi!
Đó chỉ là những bài nói chuyện tại các đại học lớn. Còn bao nhiêu bài diễn văn khác nữa thì không ai biết.
Ban tham mưu của bà đã biện minh là bà Hillary cũng đã đọc cả chục bài miễn phí, cũng như nhiều lần tiền thù lao đã được đóng góp cho qũy từ thiện... của bà. Và họ cũng phân trần là các chính khách Cộng Hoà cũng đọc diễn văn có thù lao vậy. Cũng vẫn là lý luận kiểu “người ta làm được thì tôi cũng làm được”, bất kể chuyện hợp pháp hay không, đạo đức hay không, nhân cách hay không. Họ cũng lờ đi việc mấy ông chính khách CH chẳng có ông nào, kể cả hai cha con ông Bush, được trả nhiều tiền như vậy và đọc diễn văn nhiều như vậy.
Đối với hai ông bà Clinton, đọc diễn văn đã trở thành một con gà đẻ trứng vàng vĩ đại. Quá nhiều tiền, lại quá dễ dàng khi người ta biết là cái khó của hai ông bà Clinton không phải ở điểm phải nói nhiều, mà cái khó của họ là ở chỗ phải ngưng nói.
Câu chuyện bà Hillary phá sản đang nóng bỏng thì bà Hillary lại chêm thêm dầu cho nó trở thành ngọn lửa cháy phừng phực coi cho vui.
Bà cho báo The Guardian phỏng vấn đặc biệt. Đây là nhật báo thiên tả lớn nhất Anh Quốc, thuộc loại phe ta luôn luôn tung hô TT Obama vô điều kiện. Bà được hỏi hai ông bà giàu có như vậy làm sao có thể nói chuyện công bằng xã hội? Bà hiểu gì về đời sống dân nghèo? Bà Hillary đã trả lời đại ý chúng tôi đâu có thực sự giàu có gì (“not truly well-off”)! Cũng như mọi người bình thường, đóng thuế đầy đủ không giống như những nhà giàu khác, và làm việc rất cực khổ (“dint of hard work”).
Định nghiã “giàu có” và “làm việc cực khổ” của bà Hillary có lẽ cần phải xét lại.
Theo tài liệu cựu TT Clinton công bố thì ngay từ hai tuần sau khi rời Tòa Bạch Ốc, ông đã bắt đầu đi đọc diễn văn, thuyết trình, nói chuyện, có khi hai hay ba lần một tuần, trên khắp thế giới, nhiều nhất là bên Trung Cộng là nơi các đại gia đỏ cần mượn tiếng của TT Clinton để phát triển kinh doanh ở Mỹ. TT Clinton đi TC như đi chợ. Tất cả đều có thù lao, từ rẻ nhất 100.000 đô cho đến cao nhất 850.000 đô, dĩ nhiên không kể tiền máy bay hạng nhất, ăn ở khách sạn 5-6 sao, đi đâu cũng được đón rước như... tổng thống. Từ ngày mãn nhiệm đến đầu năm nay ông đã lãnh hơn 100 triệu đô.
Chưa kể ông đã thu được hơn 500 triệu cho quỹ từ thiện Clinton Foundation, phần lớn từ khối Ả Rập và các đại gia đỏ TC.
Ngần ấy tiền mà bà Hillary còn nói “không thực sự giàu có”? Có lẽ bà Hillary giao du với giới tỷ phú đóng tiền yểm trợ cho bà quen rồi, nên bạc trăm triệu là quá nhỏ.
Việc bà Hillary tả khổ, “phải làm việc cực khổ” đã khiến bà nhà báo cấp tiến Ruth Marcus bực mình viết thẳng tay trên Washington Post là “hard work là loại việc làm của anh thợ đang ngồi dưới nắng mưa sửa mái nhà cho tôi”, chứ không phải lên diễn đàn nói chuyện lảm nhảm một tiếng đồng hồ!
Thật sự ra, không ai nói giàu có là một cái tội. Hai ông bà Clinton đều xuất thân tuy không phải là hàn vi, bần cố nông, nhưng thuộc trung lưu thấp. Ông thân sinh TT Clinton là tay nghiện ngập, rượu chè be bét, đã bỏ mẹ ông từ nhỏ, khiến bà tái giá, và lấy tên ông chồng sau, Clinton, đặt cho con. Ông Bill Clinton leo lên tột đỉnh và bây giờ là triệu phú là điều đáng khâm phục. Bà Hillary cũng xuất thân gia đình trung lưu bình thường, tuy khá hơn chồng. Việc bà có cơ hội trở thành tổng thống phụ nữ đầu tiên của Mỹ cũng đáng khâm phục không kém.
Cái đáng chê trách là tính giả dối. Giàu thì cứ nói giàu, có gì xấu? Đâu phải tiền ăn cắp hay ăn cướp ai đâu? Nhưng vẫn làm như chỉ là trung lưu bình thường, tay hốt bạc triệu, miệng than vãn “đời sống không dễ dàng”. Có cả trăm triệu đô mà vẫn chưa thấy dễ dàng thì đối với hàng trăm triệu dân Mỹ cả đời chưa thấy một triệu, đời sống họ ra sao? Đúng như báo The Guardian hỏi, bà biết gì về đời sống dân tình bình thường nếu một trăm triệu vẫn còn “chưa dễ dàng”?
Tại sao còn than vãn? Vì lý do chính trị. Để có thể khoác cái áo bình dân lao động vất vả, chống đại gia chuyên môn bóc lột người nghèo, để có thể lấy phiếu cử tri nghèo ngây ngô dễ tin.
Điểm thứ hai đáng nói nữa, ai nhìn vào cũng thấy ngay những số tiền lớn để đọc diễn văn của cả hai ông bà Clinton, chẳng qua chỉ là tiền hối lộ không hơn không kém. Ngay cả cô con gái, chẳng có quá trình hay tài ăn nói ghê gớm gì, mà cũng đã được mời đi nói chuyện với giá 75,000 đô một bài. Rất nhiều người, nhất là các đại gia đỏ TC, đánh cá bà Hillary sẽ là tổng thống, nên coi như mua chuộc trước thôi. Nếu không phải là tham nhũng thì là gì?
Đảng Dân Chủ với những chiêu bài mỵ dân, suốt ngày chống nhà giàu, tranh đấu cho dân lao động, dân nghèo, là một đảng giả dối hơn ai hết. Các ông Ted Kennedy, Al Gore, John Edwards, … đều là những người có thể nói là ba đời triệu phú. Ngoại trưởng John Kerry trước đây là thượng nghị sĩ giàu nhất Thượng Viện. Những người ủng hộ đảng Dân Chủ mạnh nhất là George Soros, Warren Buffett, Bill Gates, Steve Jobs, và các chủ tịch đại tập đoàn tài chánh lớn nhất Wall Street. Trong kỳ bầu cử tổng thống 2012, trong số tiền các đại gia Wall Street ủng hộ hai ứng viên tổng thống, hai phần ba đã được dành cho TT Obama, chỉ một phần ba cho TĐ Romney.
Bà Hillary vừa xuất quân đã bị hố nặng, nhưng chuyện rồi cũng sẽ qua. Tới khi tranh cử, ta sẽ thấy hình ảnh một bà lão tuổi thất tuần với cuộc sống “không dễ dàng”, hy sinh hạnh phúc cá nhân, lặn lội trong tuổi già sức yếu đi tranh cử tổng thống, để có cơ may bênh vực và bảo vệ người nghèo chống lại sự bóc lột của các triệu phú … như bà và các đồng minh của bà!
Và rồi bà sẽ đắc cử vì sẽ không ít người … sẽ tin, mủi lòng và bầu cho bà. (13-07-14)
Ghi chú: Quý độc giả nào cảm thấy hứng thú muốn tìm hiểu hơn về quan hệ phức tạp giữa ông bà Clinton và ông bà Obama, xin giới thiệu cuốn sách mới nhất của nhà báo Edward Klein, “Blood Feud. The Clintons vs. The Obamas”. Cuốn sách này đã “hất văng” sách của bà Hillary để leo lên số 1 trong danh sách bán chạy nhất của New York Times.
Vũ Linh
Tổng Thống Bush Đệ Tam? 10/03/2015 Vũ Linh ...Rất nhiều hy vọng ta sẽ được may mắn lựa chọn giữa Bush Đệ Tam và Clinton Đệ Nhị...
Các tân dân biểu và nghị sĩ đắc cử trong cuộc bầu cử tháng 11 vừa tuyên thệ nhậm chức xong, chưa về đến nhà thì họ đã bị đi vào quên lãng rồi. Ít người nhớ tên những chính khách mới này. Bây giờ là lúc mọi người nhẩy qua bàn chuyện bầu cử tổng thống tháng 11 năm 2016, gần hai năm nữa thôi! Vì cuộc chạy đua đã bắt đầu. Ít nhất là bên phiá Cộng Hòa.
Tại sao sớm vậy?
Lý do đầu tiên là các cuộc bầu trong nội bộ của hai chính đảng bắt đầu từ gần một năm trước ngày bầu chính thức toàn quốc, với các cuộc bầu gọi là sơ bộ tại Iowa và New Hampshire vào tháng Giêng năm 2016 trong khi bầu cử toàn quốc là tháng 11.
Do đó phải chuẩn bị tranh cử nội bộ ít nhất một năm trước. Càng ra sớm càng tốt vì tạo được sự chú ý sớm của truyền thông và của cử tri. Nhưng quan trọng hơn nữa là ra sớm có nghiã là “dành dân chiếm đất” sớm, thu hút sớm nhân sự (các chuyên gia tranh cử, cố vấn, vận động viên tình nguyện, …) và tiền bạc (mạnh thường quân). Cũng như đưa ý kiến ra trước các đồng chí trong nội bộ đảng để anh nào nói sau sẽ trở thành … người nói lại, ít ai để ý nữa.
Phát súng khai hỏa đã được ông Jeb Bush bắn ra đầu tháng Chạp khi ông công bố thành lập một “ủy ban điều nghiên” việc ông ra tranh cử. Chỉ mới là “thăm dò” phản ứng của dư luận chứ chưa phải là đã chính thức ra tranh cử. Nhưng không ai tin ông Jeb này rảnh rang tung ra đòn thăm dò khơi khơi như vậy.
Ông Jeb Bush này là cựu thống đốc tiểu bang Florida, là em của TT Bush 43 và con của TT Bush 41. Nếu ông đắc cử, sẽ là TT Bush Đệ Tam!
Mừng rỡ là những đảng viên Cộng Hoà có khuynh hướng bảo thủ nhưng không quá khích, đã quá chán ngán chính sách cấp tiến cực đoan của TT Obama và đảng Dân Chủ. Khá đông. Nhưng đông hơn nữa là những người lắc đầu lia lịa. Đó là những đảng viên Cộng Hoà bảo thủ cực đoan, Tea Party, là những người nghĩ ông Bush này chưa đủ bảo thủ. Vẫn chỉ là bảo thủ giả mạo như mấy ông McCain và Romney, để rồi sẽ bị phe cấp tiến đè bẹp thôi.
Đảng Dân Chủ thì xoa tay vui mừng vì họ nghĩ đây là miếng mồi quá ngon cho bà sư tử Hà Đông Hillary nhấm nháp.
Ngoài hai chính đảng ra thì cả nước giật mình khi nghe đến tên “Bush”. Lại một Bush nữa? Hai rồi chưa đủ sao? Nước Mỹ theo gương Bắc Hàn hay sao? Thế giới nhìn vào Mỹ thấy dường như cái thành trì của dân chủ này hết nhân tài rồi. Hết Bush lại Clinton, hết Clinton lại Bush, trong tương lai có thể còn Chelsea Clinton (con gái Bill và Hillary Clinton) và George Prescott Bush (con trai Jeb Bush).
Căn bản thì nghe vui tai và giản dị như vậy, nhưng thực tế phức tạp hơn nhiều.
Trước hết, nói về “gia đình trị”.
Cái nước Cờ Hoa này mang tiếng dân chủ tự do nhất thế giới, đã từng bầu cho những nhân vật xuất thân cùng đinh nhất như Nixon hay vô danh nhất như Obama làm tổng thống, cũng không ngại gì chuyện gia đình trị hay hoàng tộc. Hai cha con ông John và Quincy Adams đã là những tổng thống đầu tiên thời lập quốc. Cuối thế kỷ 19 là hai ông cháu William và Benjamin Harrison. Đầu thế kỷ 20 thì hai anh em họ Teddy và Franklin Roosevelt, thay nhau nắm quyền trong 20 năm. Cách đây nửa thế kỷ là gia đình Kennedy. Nếu Robert Kennedy không bị ám sát chết, hay Teddy Kennedy không dính dáng vào chuyện lén chở đào nhí đi chơi say xỉn đâm xe xuống sông làm chết đào nhí thì chắc chắn ta đã có hai hay ba anh em Kennedy làm tổng thống. Gần đây nhất, dĩ nhiên là chuyện hai cha con ông Bush.
Bây giờ chế độ gia đình trị đó có triển vọng đi xa hơn một bước lớn nữa trong cuộc bầu tới. Rất nhiều hy vọng ta sẽ được “may mắn” lựa chọn giữa Bush Đệ Tam và Clinton Đệ Nhị. Nếu Bush là một cái tên cũ mèm thì Clinton cũng không có gì mới lạ. Ít ra thì Jeb cũng là một bộ mặt mới, trong khi Hillary thì lại là bộ mặt quá nhàm chán từ gần 20 năm nay rồi.
Việc ông Jeb ra tranh cử sẽ khiến phe Cộng Hoà mất một lý do đả kích một Clinton Đệ Nhị, và ngược lại, phe Dân Chủ đưa bà Hillary ra cũng há miệng mắc quai khi bôi bác Bush Đệ Tam. Việc hai đại gia đình chính trị đối đầu nhau là chuyện hy hữu, nhưng lại rất có thể xẩy ra.
Bên phiá Dân Chủ, bà Hillary coi như nắm chắc phần thắng tới 90%. Bà có một quá trình dầy cộm hơn bất cứ các chuẩn ứng viên Dân Chủ nào khác. Chỉ thua có PTT Biden. Nhưng ông Biden này thì lại là vua tếu, chẳng ai coi ra gì, không có một chút hy vọng nào để làm tổng thống. Có người đã nghi ngờ ông Obama cố tình chọn ông Biden làm phó để bảo đảm ông không bị đàn hạch vì truất phế ông chánh Obama đi để thay thế bằng ông phó Biden thì không ai dám nghĩ tới, kể cả mấy ông bảo thủ thù ghét Obama nhất. Không ai nghĩ ông Biden có thể hạ bà Hillary.
Ngoài quá trình, bà Hillary còn nhiều yếu tố thuận lợi khác.
Đảng Dân Chủ đã đi vào lịch sử với một tổng thống da đen đầu tiên (bỏ qua chuyện có thể cũng là tổng thống tệ nhất lịch sử cận đại Mỹ), bây giờ nhất quyết muốn làm lịch sử lần thứ hai với một phụ nữ đầu tiên làm tổng thống.
Ở đây, ta lại thấy một mâu thuẫn khổng lồ. Khi ông Obama ra tranh cử thì người ta hô hào bầu cho ông da đen này để chứng tỏ Mỹ không còn phân biệt trắng đen nữa. Quý độc giả nghe vậy mà không thấy mâu thuẫn sao? Bầu cho ông đen tức là đã phân biệt trắng đen rồi, làm sao hành động đó có thể mang ý nghiã chấm dứt tình trạng phân hoá màu da?
Bây giờ tới bà Hillary cũng vậy. Người ta hô hào bầu cho bà để chấm dứt tình trạng phân biệt nam nữ, mà không nhìn thấy nội chuyện bầu cho bà vì bà là phụ nữ, tự nó đã là hành động kỳ thị rồi. Chấm dứt kỳ thị bằng một hành động kỳ thị? Không mâu thuẫn sao?
Bỏ qua cái mâu thuẫn này, rất nhiều người phe Dân Chủ đã mang mặc cảm tội lỗi với bà Hillary khi cả đám bỏ bà để chạy theo công kênh ông Obama vào Tòa Bạch Ốc năm 2008. Bây giờ muốn chuộc lỗi, mang phiếu dồn qua bà Hillary. Nhất là các chính khách da đen và da nâu. Coi như bà Hillary lần này có hy vọng thu gọn hết phiếu của hai khối cử tri nồng cốt này của đảng Dân Chủ. Chưa kể dĩ nhiên khối phụ nữ, từ mấy bà từ xồn xồn có cảm tình với bà già sáu bó đến các cô trẻ ham vui muốn phá thai tùy hỷ.
Truyền thông phe ta gần đây bắt đầu vun đắp, lo tưới nước cho bông hoa mới nở Elizabeth Warren. Như cột báo này đã bàn, bầu cử độc diễn là chuyện truyền thông sợ nhất. Nhàm chán, không ai chú ý hay theo dõi, không bán báo hay bán quảng cáo truyền hình được, nên phải cố xây dựng lên một đối thủ cho bà Hillary. Và bà Hillary cũng hoan nghênh chuyện này vì bà Warren là hạng cấp tiến thiên tả cực đoan còn hơn cả TT Obama, nên bà Warren ra tranh cử sẽ mang lại cho bà Hillary một hình ảnh ôn hòa chững chạc mà cử tri sẽ dễ chấp nhận hơn nữa.
Dù bà Warren ít hy vọng thắng được bà Hillary lần này, ta cần lưu ý vì bà đó sẽ là ngôi sao sáng tương lai của Dân Chủ. Bà Hillary mà không ra lần này, hay thất bại, thì bà Warren sẽ là ngọn cờ tập hợp của Dân Chủ trong tương lai.
Ngoài ra, bên Dân Chủ không còn ai khác. May lắm thì ông cựu nghị sĩ Jim Webb sẽ leo lên được tới chức Phó cho bà Hillary, và dân tỵ nạn ta sẽ thấy một bà đồng hương làm Đệ Nhị Phu Nhân Hoa Kỳ.
Về phiá Cộng Hoà bức tranh rối bù chẳng ai nhìn thấy gì hết. Ít nhất là đã có hơn một tá chuẩn ứng viên, từ bảo thủ cực đoan nhất cho đến bảo thủ ôn hoà, gần như cấp tiến “nằm vùng”.
Hai ngôi sao nổi nhất cũng là đại diện cho hai thái cực. Một bên là Thượng Nghị Sĩ Rand Paul của Kentucky, thuộc khối cực hữu Tea Party (cũng là một chính khách tiếp nối sự nghiệp trường kỳ tranh cử tổng thống của ông bố, Ron Paul), và một bên là Thống Đốc Chris Christie của New Jersey, người đã từng nhiều lần ôm hôn và ca tụng TT Obama, một cái tội đáng chu di tam tộc trong khối bảo thủ. Giữa hai ông này thì hàng hà sa số chính khách mà có ghi tên ra cũng chẳng ai nhớ nổi. Dù sao, cuộc chạy đua bên CH cũng hứa hẹn rất sống động.
Bây giờ ta thử nhìn ông Jeb Bush kỹ hơn.
Điều đáng nói là bỏ qua cái tên Bush, thì ông này có lẽ là ứng viên Cộng Hoà sáng giá nhất và có nhiều hy vọng hạ bà Hillary nhất trong cuộc đấu chung kết.
Trong gia đình, ông Jeb này từ ngày còn trẻ, đã được coi như trí thức và có khả năng chính trị nhất trong các anh em Bush, được ông tổng thống bố Bush 41 ngắm nghé truyền ngôi. Ông Bush anh, tức là tổng thống 43 là anh playboy tếu trong nhà, nhưng vì có số vương tử nên bất ngờ đắc cử tổng thống trước.
Khi ông Bush anh làm thống đốc Texas thì ông Bush em làm thống đốc Florida. Ông Jeb Bush để lại một gia tài khá vững chắc trên ba vấn đề quan trọng của các tiểu bang: phát triển công ăn việc làm, bài trừ bạo lực và ma túy, và khai triển ngành giáo dục. Ở đây, quan điểm chung là ông Jeb đã thành công lớn trong hai nhiệm kỳ thống đốc Florida và đã được hậu thuẫn rất mạnh của dân Florida, kể cả khối Dân Chủ và độc lập. Đó là lá bài quan trọng nhất của ông Jeb Bush.
Ông Jeb cũng có những quan điểm đúng sách vở bảo thủ: ủng hộ việc sỡ hữu súng, chống phá thai, diệt khủng bố bằng sức mạnh, chủ trương kỷ luật chi tiêu và cân bằng ngân sách, giảm thuế, phát triển kinh tế để chiếc bánh lớn ra thay vì lo chia chiếc bánh nhỏ cho đồng đều, không ủng hộ Obamacare.
Dù vậy, cái khó khăn lớn nhất của ông Jeb này sẽ là thắng được trong cuộc chạy đua nội bộ trong đảng Cộng Hoà. Cho dù có thành tích bảo thủ khá rõ nét, nhưng ông Jeb này có hai cái tội tầy trời khó tha thứ được trong mắt của khối bảo thủ cực đoan: đó là quan điểm của ông về hai vấn đề giáo dục và di dân bất hợp pháp.
Ai cũng biết tình trạng giáo dục tiểu và trung học ở Mỹ có rất nhiều vấn đề. Học sinh Mỹ thua xa học sinh thế giới, Á Châu cũng như Âu Châu. TT Bush con 43 ra tranh cử với chương trình cải tổ giáo dục quy mô, rồi thực hiện ngay được luật No Child Left Behind –Không Có Trẻ Em Nào Bị Bỏ Lại-.
Nền tảng chính sách giáo dục của TT Bush 43 dựa trên Common Core.
Với Common Core, Bộ Giáo Dục liên bang ấn định phẩm chất tối thiểu cho mỗi trường trung và tiểu học công lập. Đại khái nhà trường phải có tối thiểu bao nhiêu học sinh thi đậu với bao nhiêu điểm trung bình, … thì mới được liên bang yểm trợ tài chánh. Khối bảo thủ chống lại kịch liệt vì họ cho rằng chuyện giáo dục thuộc phạm vi tiểu bang, không cần liên bang áp đặt tiêu chuẩn gì hết, đồng thời việc áp đặt chỉ tiêu tối thiểu chỉ đưa đến tình trạng sa sút phẩm chất khi các thầy cô và các trường bị áp lực tài chánh phải cho điểm cao, dạy những môn dễ, thấp hơn mức bình thường.
Ông Jeb Bush ủng hộ Common Core. Đó là tội thứ nhất.
Về vấn đề di dân bất hợp pháp, ông Jeb cũng chia sẻ quan điểm với ông anh, là muốn dễ dãi hoá việc hợp thức hóa họ, tuy chưa đến mức ân xá dễ dàng như TT Obama chủ trương. Đó là tội thứ nhì.
Cái khó của ông Jeb là phải thắng trong các cuộc bầu sơ bộ trong nội bộ đảng. Thông thường thì những cuộc bầu sơ bộ là những cuộc bầu chỉ có những thành phần tích cực nhất, hay có thể nói là khá cực đoan mới tham gia. Không tích cực thì ít hứng thú lội tuyết đi bầu sơ bộ tại những tiểu bang then chốt như Iowa và New Hampshire. Có nghĩa là bên Dân Chủ, phải là cấp tiến nặng mới hy vọng thắng, trong khi phải là bảo thủ mạnh mới thắng được bên Cộng Hoà.
Nếu nói bảo thủ mạnh thì ông Jeb gần như đứng hạng bét trong cả lố chuẩn ứng viên Cộng Hoà, may ra chỉ hơn ông Chris Christie. Nhưng điểm mạnh lớn nhất của ông Jeb là được các đại gia bảo thủ Cộng Hòa triệt để ủng hộ vì họ có quan hệ mật thiết với hai ông tổng thống Bush trước, và họ cũng cho ông Jeb là lá bài sáng giá, có nhiều hy vọng thắng nhất, và ông Jeb sẽ có nhiều tiền tranh cử nhất.
Nếu thắng sơ bộ, và đụng với bà Hillary thì bà Hillary hy vọng thắng nhiều hơn ông Jeb. Nhưng không phải là bà Hillary có quyền về ngủ, đợi người ta đến đánh thức ra nhậm chức đâu.
Cả hai đều được coi như tương đối ôn hoà: ông Jeb bị khối bảo thủ cực đoan nghi ngờ trong khi bà Hillary thì bị khối cấp tiến cực đoan đặt câu hỏi. Điểm mạnh lớn của cả hai người là thiên hạ ai cũng biết họ và họ đều kinh nghiệm cùng mình. Sau khi vỡ mộng với “hy vọng” cùng một Obama vô danh và vô quá trình, dân Mỹ muốn trở về với kinh nghiệm cụ thể hơn.
Hai cái đại tội của ông Jeb vừa nêu trên, trong cuộc chạy đua trước toàn dân, sẽ biến thành hai lợi điểm lớn nhất của ông Jeb. Chứng tỏ ông là một người bảo thủ, nói chung, gần với đại đa số dân Mỹ hơn, nhưng cũng rất thực tế và ôn hoà, không thuộc loại quá khích cực đoan như các chính khách Tea Party. Yếu tố này sẽ giúp ông Jeb thu phiếu của khối độc lập hay khối Dân Chủ không ưa bà Hillary. Cái khối “không ưa” bà Hillary không phải nhỏ. Bằng chứng là một ông vô danh như Barack Obama đã khai thác được khối đó và đánh bại bà Hillary năm 2008.
Còn những thành quả “tai hại” của TT Bush 43 thì nhờ những thất bại của TT Obama, dân Mỹ càng ngày càng thấy TT Bush coi vậy mà vẫn không tệ lắm. Những thăm dò mới nhất cho thấy tỷ lệ hậu thuẫn của hai ông ngang ngửa nhau.
Nếu ông Jeb sẽ phải khổ sở tránh né ông anh thì chắc bà Hillary cũng sẽ khổ sở phải chạy cho xa khỏi TT Obama là người đã đoạt chức quán quân “tổng thống tệ nhất lịch sử cận đại Mỹ từ sau Thế Chiến Thứ Hai” theo Gallup.
Ông Jeb lại còn một ưu điểm nữa. Bà Hillary muốn tấn công về chuyện di dân lậu hơi khó. Chẳng những ông chủ trương ân xá di dân bất hợp pháp, mà bà vợ Columba, lại là dân gốc Mễ, và chính ông cũng nói tiếng Tây Ban Nha như gió. Bảo đảm bà vợ sẽ suốt ngày lặn lội vào những khu dân gốc Nam Mỹ đi vận động, việc mà bà Clinton sẽ không đấu lại. Dù sao thì bà Hillary sẽ không còn nắm trong tay khối cử tri này nữa.
Ông Jeb cũng là một thống đốc được hậu thuẫn rất mạnh tại Florida. Tiểu bang then chốt này sẽ không còn là đất xôi đậu nữa mà sẽ nằm trong túi ông Jeb. Đến năm 2016, tiểu bang Florida sẽ là tiểu bang đông dân thứ ba của Mỹ, tức là nhiều phiếu cử tri đoàn thứ ba. Nói rõ ra, trong bốn tiểu bang lớn nhất Mỹ, bà Hillary sẽ giữ Cali và Nữu Ước, ông Jeb sẽ nắm trong tay Florida và Texas. Ông Jeb có hy vọng chiếm được tất cả miền nam từ các tiểu bang biên giới Nevada, Arizona và New Mexico, bọc qua miền nam lên tới hai tiểu bang Bắc và Nam Carolina. Tất cả miền Tây ngoại trừ các tiểu bang ven biển, vẫn là thành trì của Cộng Hoà. Vùng xôi đậu sẽ là vùng ven Đại Hồ, lãnh điạ của giới lao động thợ thuyền Mỹ trắng. Đây sẽ là chiến trường đẫm máu, nhất là tại Ohio. Đưa đến tin đồn Thượng Nghị Sĩ CH Rob Portman của Ohio đang được hậu thuẫn rất mạnh, có nhiều triển vọng đứng cùng liên danh với ông Jeb. Liên danh này nắm được thêm Ohio thì bà Hillary sẽ phiền to.
Đa số các ông Mỹ trắng sẽ bỏ phiếu cho ông Jeb, nhưng vấn đề là mấy ông Mỹ trắng, tuy là đa số tuyệt đối trong số cử tri Mỹ, nhưng lại là khối lười đi bầu nhất, luôn luôn chỉ có hơn một phần ba đi bầu. Chỉ cần ông Jeb vận động được 50% mấy ông Mỹ trắng đi bầu thì dân Mỹ sẽ phải chờ đến bà Warren may ra mới có được bà tổng thống đầu tiên.
Kết luận: trong tất cả các ứng viên CH, ông Jeb sẽ là người nguy hiểm nhất đối với bà Hillary. Nhưng ông cũng là người ít hy vọng thắng cử trong nội bộ Cộng Hoà nhất vì khối bảo thủ cực đoan sẽ chống đến cùng. Đưa đến câu tuyên bố oái ăm nhưng thâm thúy của ông Jeb: “cần phải thua trong bầu sơ bộ thì mới thắng trận cuối vào Tòa Bạch Ốc được”. (08-03-15)
Vũ Linh
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jul 29, 2014 4:12:33 GMT 9
Mỹ đầu hàng ở Iraq, Syria và UkrainePosted on July 15, 2014 Luiza Ch. Savage | Trà Mi lược dịch Có một điều họ đều đồng ý. Một con số kỷ lục người Mỹ -75 phần trăm- bây giờ tin rằng chiến tranh Iraq là một sai lầm. Không ai biết điều đó rõ hơn Obama. TT Mỹ Barack Obama (January 29, 2010). Nguồn: AFP PHOTO/Saul LOEB/Getty Images Nay thế giới mới biết cái giá phải trả khi Mỹ không can hệ Một buổi chiều thứ bảy tháng 7 năm 2012, ngoại trưởng Mỹ lúc đó Hillary Clinton mời giám đốc CIA David Petraeus đến nhà bà ở Washington. Vị tướng bốn sao đã dẫn đầu quân đội Mỹ thời của Tổng thống George W. Bush tại Iraq và thời Tổng thống Barack Obama tại Afghanistan. Clinton hỏi ông đã có thể thẩm định, huấn luyện và trang bị cho nhóm đối lập ôn hòa ở Syria, nơi quân của Tổng thống Bashar al-Assad đã bắt đầu giết hàng ngàn thường dân. Trường Petraeus và Cựu Ngoại trưởng Clinton. Nguồn: OntheNet “Ông ấy đã suy nghĩ cẩn thận về việc này, và ngay cả đã bắt đầu phác thảo những chi tiết cụ thể và chuẩn bị để đề nghị một kế hoạch,” Clinton nhắc lại trong cuốn hồi ký mới “Những chọn lựa khó khăn” của bà. Tháng Tám sau đó, bà Clinton đã bay tới Thổ Nhĩ Kỳ, nước bên cạnh Syria, để thảo luận về kế hoạch tạo một vùng cấm bay trên Syria và hỗ trợ cho phe đối lập. Clinton và Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ đã gọi điện đến bộ trưởng ngoại giao của Anh, Pháp và Đức để xây dựng một liên minh quốc tế. Bà trở về Washington “khá tự tin” rằng các đồng minh đã cùng đứng về một phía. Nhưng khi Petraeus trình bày kế hoạch lên Tổng thống, Obama ngần ngại. Ông vừa kết thúc cuộc chiến Iraq và không muốn sa vào một cuộc xung đột mới. Ông đã hứa với người Mỹ đang mệt mỏi vì chiến tranh là ông sẽ làm “nhiều hơn việc xây dựng quốc gia ở Mỹ”. Ngoài ra, vũ khí có thể rơi vào tay kẻ xấu. Saudi Arabia đã trang bị cho quân nổi dậy, ông không nghĩ rằng có thêm vũ khí của Mỹ sẽ là thay đổi quyết định khiến Assad từ bỏ quyền lực. Clinton lập luận rằng Hoa Kỳ có thể huấn luyện cho quân đối lập, và mục tiêu là để làm Assad suy yếu đủ để khiến ông ta phải ngồi vào bàn đàm phán với phe đối lập. Tuy nhiên, Obama vẫn nói không. Clinton quay sang giúp gởi thực phẩm và thuốc men cho nạn nhân ở Syria, gởi và điện thoại di động cho nhóm đối lập để hoạt động chống Assad. Nhưng, bà viết, “tất cả chỉ là những bước tạm bợ.” Clinton không phải là tiếng nói duy nhất mà Obama bác bỏ khi ông tìm cách giữ Mỹ không can thiệp vào Syria. Tháng hai năm ngoái, khi số người chết đã quá 130.000 người và Assad chống lại các cuộc đàm phán hòa bình của Liên Hiệp Quốc do Mỹ dẫn đầu, đại sứ Mỹ Robert Ford, đã trở nên quá thất vọng với nguyên tắc không dính tay của Tổng thống Mỹ khiến ông đã từ chức. Mới đây đại sứ Ford nói với đài PBS, “Khi tôi không còn có thể bảo vệ chính sách trước công luận, đó là lúc để tôi rút lui.” Ba năm sau khi bắt đầu, cuộc khủng hoảng Syria nay đã lan sang Iraq. Một phần phía bắc Syria đã bị một nhánh của al-Qaeda, được gọi là Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (ISIS), chiếm đóng, và trong tuần này, đã tuyên bố đã thành lập một nhà nước thần quyền. Washington đã giật mình khi vì cơn ác mộng khi thấy ISIS đã chiếm đóng thành phố này sang thành phố khác ở một khu vực rộng lớn phía bắc và phía tây của Iraq, phần lớn của người Suni, và cướp bóc ở các ngân hàng và nhà máy lọc dầu. Quân đội Iraq, được Mỹ huấn luyện và vũ trang, trong một số trường hợp đã buông vũ khí bỏ chạy. Hành quyết bằng cách chặt đầu của ISIS đã phân chia rõ rệt giữa người Sunni, Kurd và chính phủ do người Shia lãnh đạo ở Baghdad. Không sẵn lòng hỗ trợ quân đối lập ôn hòa của Syria có thể không phải sai lầm duy nhất của Obama. Quyết định của Obama không muốn để một lực lượng nhỏ vài ngàn quân Mỹ ở Iraq, theo lời cố vấn của những tướng lĩnh và các thành viên nội các của ông, đang hiện rõ dưới ánh đèn sân khấu. Trong khi đó, viến kiến khiêm tốn của Tổng thống Obama về sức mạnh của Mỹ đang bị thách đố, không những cuộc chiến phe phái tại Iraq đang tệ hơn, mà sự bành trướng của Tổng thống Nga Vladimir Putin đang làm mất ổn định ở châu Âu. Vị Tổng thống có mục đích rút hết quân Mỹ ở nước ngoài đột ngột phải trả giá cho bài học không liên kết. Tổng thống Mỹ ở giữa nhiệm kỳ thứ hai thường dùng những chính sách đối ngoại để quần chúng quên đi những bế tắc trong nước. Nhưng Obama có thể đang phải đối phó với những thách thức lớn nhất về chính sách đối ngoại trong nhiệm kỳ tổng thống của ông. Và, khi một siêu cường lùi bước, thế giới có thể sẽ kinh hoàng khi thấy người bước vào để lấp vào chỗ trống là ai. Tiềm năng của mối đe dọa ISIS đặt ra cho Mỹ quả là lạnh xương sống. ISIS rất tinh vi và được giới tài phiệt yểm trợ, trong các hoạt động trộm cắp, bắt cóc và tống tiền. ISIS tịch thu xe tăng và thiết bị nặng dành cho quân đội Iraq để chống lại quân nổi dậy giống như ISIS. Các quan chức Mỹ ước tính rằng ISIS hiện có khoảng 10.000 người, trong đó có 3.000 đến 5.000 từ các quốc gia bên ngoài Iraq. Một số trong số họ có sổ thông hành châu Âu hay passport Mỹ cho phép họ vào Mỹ mà không cần chiếu khán. Với một tổ chức khủng bố tàn bạo đang kiểm soát một khu vực có diện tích của một số quốc gia, gồm cả các trạm canh ở biên giới Iraq, Syria và Jordan, giới phê bình đổ lỗi cho sự bỏ trống Syria và Iraq của Obama làm mất sự ổn định đã đạt được bằng mười năm quân Mỹ có mặt trong khu vực, và mất gần 4.500 mạng người Mỹ, với hơn 1,7 nghìn tỷ đô la tiền thuế của dân chúng. Giới phê bình chỉ ra một số quyết định quan trọng của Tổng thống Obama nhằm tránh xung đột có thể đã giúp gây ra các cuộc khủng hoảng hiện tại: quyết định không để quân ở Iraq sau năm 2011; quyết định không vũ trang cho quân đối lập ở Syria trong những ngày đầu của cuộc xung đột; và tuyên bố của ông “lằn ranh đỏ” nếu Assad sử dụng vũ khí hóa học và sau đó không bắt Assad nhận hậu quả, khi Assad đã dùng vũ khí hóa học, bằng sự can thiệp quân sự của Mỹ. Họ nói rằng Tổng thống Obama đã lầm khi cho rằng mối đe dọa có thể được khống chế, hơn là phải đối đầu: “Chúng tôi thấy điều này xảy ra, và thật là điều rất bực bội. Chúng tôi nhìn họ tập hợp ở miền đông Syria một cách mà chúng ta chưa bao giờ thấy trước đây, hàng ngàn và hàng ngàn quân có liên hệ với al-Qaeda,” dân biểu Cộng hòa Chủ tịch ủy ban tình báo Hạ viện, Mike Rogers, nói với CBS tuần trước. Đối với các phần tử cực đoan có sổ thông hành của phương Tây: “Đó là sự nguy hiểm tột cùng.” Tất nhiên, cuộc xâm lược của Tổng thống Bush vào Iraq đã mở màn cho các vụ bạo loạn sắc tộc ở nước này. Hillary Clinton đã bỏ phiếu thuận cho chính sách đó. Và nhiều tiếng nói hiện nay đang kêu gọi Mỹ phải có vai trò mạnh hơn trong khu vực cũng đã ủng hộ cuộc chiến đó. Ứng xử dè dặt của Obama ở khu vực phần lớn là một phản ứng đối với sự nhiệt thành của Bush. Nhưng cuộc tranh luận ở Washington hiện nay là liệu Obama có quá thụ động khi Bush thì lại quá hung hăng không. Ngày 28 tháng 5, trong một bài phát biểu tại học viện quân sự West Point ở New York, Tổng thống Obama đã đưa ra viễn kiến của ông về vai trò khiêm tốn hơn của Mỹ trên thế giới. Obama nói với các sĩ quan tốt nghiệp rằng ông sẽ phản bội nhiệm vụ của mình nếu “gửi các anh vào nơi nguy hiểm chỉ đơn giản vì tôi thấy một vấn đề ở đâu đó trên thế giới mà cần phải được chỉnh sửa, hoặc vì tôi đã quan tâm đến giới phê bình, những người nghĩ rằng can thiệp quân sự là cách duy nhất để nước Mỹ để tránh không bị xem là suy yếu.” Obama cho biết ông bảo lưu quyền đơn phương sử dụng vũ lực khi “lợi ích cốt lõi của chúng ta khi đòi hỏi điều đó, khi nhân dân Mỹ đang bị đe dọa, khi đời sống của chúng ta đang bị đe dọa, khi an ninh của các đồng minh của chúng ta đang gặp nguy hiểm.” Trong hoàn cảnh khác, ông nói, Mỹ sẽ hành động bằng ngả ngoại giao, phát triển và hợp tác với các đồng minh. “Hành động quân sự không thể là phương pháp duy nhất hay phương pháp chính yếu của chúng ta trong mọi trường hợp. Chúng ta có cái búa tốt nhất không có nghĩa là tất cả mọi vấn đề đều là những cái đinh,” ông nói. Quân ISIS bắn lính Iraq người Shia. Nguồn: ISIS/OntheNet Một số nhà phê bình thấy cách ứng xử của Obama là một ngã rẽ đáng báo động so với vai trò truyền thống của Mỹ sau chiến tranh là nước bảo đảm cho một trật tự thế giới ổn định. Họ sợ rằng sự rút lui của Mỹ sẽ để lại một khoảng trống quyền lực mà những tổ chức như ISIS sẽ nhảy vào. Có người cho rằng nó đã làm những người lãnh đạo như Vladimir Putin của Nga gan lì hơn, vì đã thấy Obama vẽ “lằn ranh đỏ” về việc sử dụng vũ khí hóa học của Assad, nhưng sau đó đã không có hành động quân sự để ngăn chặn nó. Hơn nữa, khi Nga xâm chiếm bán đảo Crimea và ủng hộ quân nổi dậy ở miền đông Ukraine, phản ứng của Mỹ cũng yếu hơn nhiều so với những gì nhiều người đã hy vọng, và điều này đã gây lo ngại cho các đồng minh của Mỹ trong khu vực. Một tờ báo Ba Lan vừa công bố một bản ghi âm, bị lọt ra ngoài, của bộ trưởng ngoại giao của nước này mô tả liên minh với Mỹ là “vô giá trị” và có hại, vì nó dẫn đến một “cảm giác an toàn không có thật.” Lằn ranh đỏ? Nguồn: Miami Herald/Morin Cuộc khủng hoảng Iraq cũng là một thách đố đối với chính sách chống khủng bố của Obama. Nếu Bush xâm chiếm Afghanistan để nhổ tận gốc Taliban, nước đã cho al-Qaeda nơi trú ẩn thì Obama cho biết ông sẽ không đuổi theo các nhóm khủng bố khác. “Một chiến lược mà phải xâm lược tất cả các nước nuôi dưỡng mạng lưới khủng bố là ngây thơ và không bền vững,” Obama nói tại West Point. (Tất nhiên, Mỹ đã xây dựng những nỗ lực chống khủng bố kể từ năm 2001, gồm có cả tình báo và một chương trình máy bay không người lái gây chết người, vì thế có nhiều lựa chọn hơn.) Tại cuộc họp báo tháng này, Obama nhấn mạnh ông sẽ không chơi trò “đập con chồn” bằng cách chạy đuổi theo từng nhóm như ISIS. Thay vào đó, ông sẽ “liên minh” đối tác với các quốc gia mà quân khủng bố đang tìm chỗ đứng. Obama không chơi trò “đập con chồn” (“play whack-a-mole”). Nguồn: OntheNet Giới phê bình cho rằng thất bại của Obama – không đạt được thỏa thuận để lại một lực lượng quân sự Mỹ tại Iraq 2011 vừa qua – làm cho nước này dễ bị xâm lược (vì ISIS). Giới lãnh đạo quân sự đã khuyên Obama để lại khoảng 20.000 quân ở Iraq. Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates, muốn có từ 10.000 đến 15.000 quân ở lại trong một giai đoạn chuyển tiếp 3-5 năm. Obama cuối cùng để lại Iraq một lực lượng nhỏ, 3000 quân, nhưng không đạt được thỏa thuận với các nhà lãnh đạo Iraq rằng cho binh sĩ Mỹ quyền bất khả xâm phạm. Obama đã rút tất cả lính Mỹ về vào cuối năm 2011. Trong cuộc tái tranh cử, Obama tuyên bố những đã thành công kết thúc cuộc chiến tranh Iraq, nay ông cho rằng vì thủ tướng Iraq, Nouri al-Maliki, mà quân đội Mỹ không có mặt ở Iraq: “đó không phải là quyết định của tôi; đó là quyết định của chính phủ Iraq,” Obama nói tại một cuộc họp báo tháng này. Tuy nhiên, nhất định đòi để lại một con số nhỏ binh lính có thể đã làm khó cho việc đi đến thỏa thuận. Kenneth Pollock, một chuyên gia Trung Đông tại Trung tâm Saban cho chính sách Trung Đông tại Viện Brookings, Washington, biện luận, “Rất ít chính trị gia Iraq sẵn sàng chấp nhận một sự hiện diện vô nghĩa như vậy. Có những cách khác mà Washington cũng có thể xử lý các vấn đề pháp lý, nhưng Nhà Trắng đã nói rõ là họ không quan tâm.” Nhưng Steve Simon, người từng là giám đốc cao cấp về Trung Đông và các vấn đề Bắc Phi tại Nhà Trắng từ năm 2011 đến năm 2012, lập luận Washington không có nhiều lựa chọn. “Tôi còn nhớ rằng chính quyền đã hết sức cố gắng. Họ đã đặt rất nhiều áp lực lên Maliki và họ đã hết sức tìm hỗ trợ ở các nghị để đi đến thỏa thuận,” Simon nói với các phóng viên. Đến mùa hè năm ngoái, sau khi chính phủ Hoa Kỳ kết luận rằng Assad đã sử dụng vũ khí hóa học chống lại dân Syria, Obama mới chấp thuận gửi vũ khí hạng nhẹ cho quân nổi dậy, không phải là nhóm cực đoan ISIS, đang chiến đấu chống lại chế độ. Đây là động thái mà Ford, cựu đại sứ Mỹ, và các nhà phê bình khác nói là quá ít và quá chậm. Ford đang kêu gọi viện trợ thiết bị quân sự nhiều hơn và nặng hơn, gồm cả súng cối và tên lửa đất-đối-không để giúp Quân đội Tự do Syria. “Càng do dự nhiều và không muốn cam kết cho phép quân đối lập ôn hòa chiến đấu hiệu quả hơn với cả chiến binh thánh chiến và chế độ Assad chỉ đẩy nhanh thêm ngày mà quân đội Mỹ sẽ phải can thiệp chống lại al-Qaeda ở Syria,” Ford đã viết như thế trên tờ New York Times trong tháng này. Khi cuộc khủng hoảng leo thang Obama mới phản ứng. Hôm 20 tháng 6, ông ra lệnh cho 300 quan nhân của lực lượng đặc biệt Mỹ “đánh giá” tình hình trên mặt đất và để “tham mưu, giúp” quân đội Iraq. On June 26, Obama chính thức yêu cầu Quốc hội chấp chi 500 triệu đô-la để huấn luyện và trang bị cho quân nổi dậy Syria; đây bước lớn nhất cho đến nay của chính quyền. Tiền là một phần của yêu cầu trị giá 1,5 tỷ USD cho quỹ ổn định tình hình gồm cả sự hợp tác với các nước láng giềng như Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan, Lebanon và Iraq. Cùng ngày, Liên Hiệp Quốc cho biết tình hình đã xấu đến mức có khoảng 10,8 triệu người Syria – một nửa dân số – hiện nay đang cần viện trợ nhân đạo. Bản đồ chỉ các trại tị nạn của dân Syria. Nguồn: theguardian.com Obama đang bị áp lực phải làm nhiều hơn, chẳng hạn như các cuộc không kích chống lại quân ISIS, một chiến thuật mà Obama không loại trừ. “Chúng tôi chuẩn bị để có hành động quân sự chính xác và có mục tiêu, nếu và khi chúng tôi xác định rằng tình hình trên mặt đất đòi hỏi phải làm điều đó.” Tuy nhiên, việc gửi quân đội Mỹ vào chiến đấu là vẫn đề miễn bàn. “Quân đội Mỹ sẽ không trở lại chiến đấu ở Iraq.” Cả trong bài phát biểu của ông Obama và trong hành động đối với vấn đề ở Syria và Iraq, một số người nhìn thấy một sự thay đổi đáng lo ngại với một nước Mỹ thận trọng hơn trên sân khấu thế giới. “Siêu cường không được quyền nghỉ hưu” là tiêu đề của một bài tiểu luận gần đây của nhà sử học Robert Kagan đăng trên tờ The New Republic. Kagan cho rằng cuộc khủng hoảng Syria và Ukraine “báo hiệu một quá trình chuyển đổi sang một trật tự thế giới khác, hoặc đi vào một loại thế giới rối loạn như chưa từng thấy kể từ năm 1930.” Ông nghĩ rằng với ngân sách quân đội lớn hơn tất cả các quốc gia khác cộng lại, Mỹ đã có sức mạnh để giữ trật tự thế giới tự do và phát huy dân chủ. Nếu Mỹ kiềm chế việc sử dụng sức mạnh của mình, các diễn viên khác, chẳng hạn như Putin, sẽ nhảy vào lấp đầy khoảng trống. “Thế giới sẽ thay đổi nhanh hơn nhiều hơn người ta tưởng. Và không có siêu cường dân chủ nào khác đang đợi bên cánh gà để cứu thế giới nếu siêu cường dân chủ này – Hoa Kỳ – do dự,” Kagan đã viết. Hiện tại, có rất ít sự đồng thuận giữa người Mỹ về vai trò của họ tại một thời điểm mà họ nghĩ rằng họ đã kết thúc với Iraq và đã chặt đầu được al-Qaeda. Nhưng họ đang lo ngại về cuộc khủng hoảng đang diễn ra. Một cuộc thăm dò New York Times / CBS gần đây cho thấy 58% không chấp nhận cách ứng xử của Obama về chính sách đối ngoại, tăng 10% trong tháng vừa qua lên mức cao nhất kể từ khi ông nhậm chức vào năm 2009. (Đánh giá phê duyệt tổng thể về Obama giảm xuống 40%, và tỉ số 54 phần trăm không chấp thuận việc làm của ông trong vai trò Tổng thống. Đó cũng là là tỉ số cho Tổng thống Bush tại cùng một điểm trong nhiệm kỳ thứ hai của ông). Dân Mỹ cũng không thống nhất về việc liệu Obama có nên gửi 300 quân nhân lực lượng đặc biệt sang Iraq, hoặc ông có nên để lại một lực lượng quân sự tại đó sau năm 2011. Cuộc thăm dò tìm thấy độ giảm tín nhiệm lớn nhất ở trong nhóm những đảng viên đảng Dân chủ, nhiều người phản đối ngay cả việc gửi một số nhỏ quân đội ra nước ngoài. Có một điều họ đều đồng ý. Một con số kỷ lục người Mỹ -75 phần trăm- bây giờ tin rằng chiến tranh Iraq là một sai lầm. Không ai biết ddiiefu đó rõ hơn Obama. Một bản đồ Mỹ với những con số binh sĩ của quân đội Mỹ thiệt mạng và bị thương ở Iraq được coi là một phần của một đài tưởng niệm tạm thời, được gọi là “Arlington Tây”, một dự án của Cựu chiến binh cho hòa bình, trên bãi biển Santa Monica ở Santa Monica, California, vào ngày 9, 2012. Nguồn: Reuters / Danny Moloshok Tác giả, tốt nghiệp khoa Kinh Tế ở ĐH Harvard và Luật tại trường Luật ĐH Yale, là trưởng phòng của Tạp Chí MacLean’s tại Washington, D.C. Nguồn: America surrenders in Iraq, Syria and Ukraine. Now the world is learning the high price of American detachment. Luiza Ch. Savage MacLean’s, số July 14, 2014, trang 26-29.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Aug 16, 2014 9:35:01 GMT 9
Tổng thống Obama và học thuyết Nixon
Ãnh minh hoạ. Nguồn: conservativehq.com Sự hình thành biệt lập thuyết Những năm đầu thập niên 60, người dân Mỹ tin vào thuyết Domino và ủng hộ cuộc chiến tranh Việt Nam, sách báo về giai đoạn này nói thăm dò ý kiến năm 1964 cho thấy có tới 78% hoặc 85% người dân ủng hộ cuộc chiến (1), đại đa số Quốc hội ủng hộ Hành pháp. Năm 1965 tình hình quân sự miền nam tồi tệ, giữa năm 1965 VNCH có nguy cơ sụp đổ, trung bình mỗi tuần mất một tiểu đoàn và một quận (2) Do sự thúc ép của tình thế và đề nghị của các cố vấn, Tướng lãnh.. Tổng thống Johnson phải đưa quân vào miền nam VN tính trung bình mỗi năm 100,000 người, cho tới năm 1968 tổng cộng có 530,100 quân Mỹ tại VN. Mấy năm đầu người dân và Quốc hội ủng hộ cuộc chiến nhưng dần dần họ chống đối mạnh nhất là sau trận Mậu Thân 1968. Năm 1969, Nixon đắc cử Tổng thống, phong trào phản chiến lên rất mạnh, biểu tình bạo động, sinh viên, giới trẻ đốt xe, sô sát đổ máu với cảnh sát. Nixon theo lời đề nghị của Bộ trưởng quốc phòng Laird cho rút quân và thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh. Ngày 8-6-1969, Tổng thống Nixon mở cuộc họp với Tổng thống Thiệu, các vị phụ tá, cố vấn tại Midway để bàn về kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, Mỹ rút quân và quân đội VNCH sẽ tự đảm nhiệm cuộc chiến chống CS. Người chống đối mạnh là Kissinger, ông này lý luận nếu rút quân sẽ khiến Mỹ mất uy tín trên thế giới, vả lại ông cũng sợ mất thế mạnh tại bàn Hội nghị, CSBV chỉ chờ có thế, ông ta viết : “Mỹ càng rút nhiều, Hà nội càng phấn khởi” (3) Ngoài ra TT Thiệu, Tướng Abrams (cựu Tư lệnh) cũng khinh bỉ kế hoạch này, đó chỉ là sự tháo chạy trá hình. TT Nixon ban lệnh mỗi lần rút phải theo ba tiêu chuẩn: Hoạt động địch giảm, tiến bộ đàm phán, quân đội VNCH vững mạnh hơn nhưng theo tác giả Walter Isaacson (Kissinger a Biography) ba tiêu chuẩn trên chẳng bao lâu bị xóa bỏ, việc rút quân theo như máy móc. Cũng theo tác giả này, mặc cho Kissinger ngăn cản, Nixon vẫn rút đúng như đã tuyên bố dù tin tức mặt trận và cuộc hòa đàm như thế nào. Kế hoạch rút quân kể trên phát sinh ra học thuyết Nixon, The Nixon doctrine tháng bẩy năm 1969 chủ trương biệt lập, không can thiệp (4). Sau hơn hai mươi năm chính sách Mỹ gánh vác trọng trách bảo đảm tự do trên thế giới dù tốn kém tới đâu. Nay thời kỳ này chấm dứt (1969), sự tổn thất do cuộc chiến VN khiến nay người ta không còn tha thiết việc can thiệp tại ngoại quốc, chống CS bành trướng. Thời kỳ can thiệp (interventionism) chấm dứt 22 năm sau kể từ ngày 24-2-1947 khi Tổng thống Truman quyết định bảo vệ Hy Lạp, Thổ nhĩ Kỳ khỏi sự đe dọa của Cộng Sản (5) cho tới ngày 25-7-1969 khi Trung đoàn I thuộc Sư đoàn 9 Bộ binh Mỹ rút trở về nước từ Quân khu IV của VNCH. Hoa Kỳ 1969 nằm giữa hai chính sách, một chủ trương quá khích và một chủ trương biệt lập (isolationism), ngưòi ta có khuynh hướng chống lại vấn đề VN và nghiêng về khuynh hướng biệt lập có nghĩa là không can thiệp. Để thực hiện chính sách này, Kissinger tạo mô hình cho trật tự thế giới đó là thế chân vạc với Nga, Trung Cộng. Mỹ sẽ trao cho đồng minh ở trong vùng để họ gánh vác việc bảo vệ nước lân cận chống lại CS, đó gọi là thuyết Nixon. Ông Tổng thống này không muốn xem kế hoạch rút quân chỉ là một hành động tuyệt vọng của tình thế nhưng ông muốn lấy ý nghĩa Việt nam hóa chiến tranh là một triết thuyết có mục đích. Ngoài ra nó còn đoan chắc sẽ không có vấn đề VN nữa (No more Vietnams) nếu một nước trong vùng có biến loạn, Nixon và Kissinger muốn có một chính sách trong vùng bảo đảm Mỹ sẽ không gánh vác can thiệp đổ quân vào Kissinger và Nixon bàn thảo về luận đề này, trong tương lai sẽ có ba sự đe dọa đối với đồng minh bé nhỏ Á châu: Nội chiến, bị nước láng giềng tấn công hay bị tấn công từ Nga, Trung Cộng, nhưng hai nhà lãnh đạo này không chính thức công bố học thuyết mới. Để khoác cho Việt nam hóa chiến tranh và rút quân về nước một vẻ đẹp hơn là bỏ chạy một cách khéo léo, lịch sự. Thuyết Nixon ít ra đã tạo cho kế hoạch rút quân một vẻ trang trọng nhưng trên thực tế thuyết này không tiến xa mấy Tóm lại năm 1947 học thuyết Truman chủ trương nước Mỹ sẵn sàng can thiệp để giúp các nước yếu chống CS xâm lăng và 22 năm sau, năm 1969 thuyết Nixon chủ trương biệt lập, đứng riêng, không can thiệp. Chính sách cô lập của Obama Rút kinh nghiệm ở cuộc chiến can thiệp tại VN mà người Mỹ cho là đắt giá, họ theo đuổi chính sách biệt lập từ 1969 cho tới mấy chục năm sau. Nhưng không can thiệp, đứng ngoài cũng vẫn bị ăn đòn nặng, cuộc tấn công táo bạo khôc liệt ngày 11-9-2001 của bọn khủng bố Al Qaeda đánh sập hai tòa nhà chọc trời tại Nữu Ước đã cho thấy không phải sống biệt lập đã là yên thân. Ngay sau đó Hoa Kỳ lại tiếp tục can thiệp qua hai cuộc chiến Afghanistan năm 2001 và Iraq năm 2003 để tận diệt khủng bố và bảo vệ an ninh cho nước Mỹ Tổng thống Obama ngay từ khi lên nhậm chức năm 2009 đã tỏ ra người ôn hòa với chính sách ngoại giao mềm, trái ngược với chính sách cứng rắn, hiếu chiến của người tiền nhiệm TT Bush con. Nay thế giới bước vào giai đoạn thiên hạ đại loạn, các cuộc nội chiến tại Syria, Libya, Ukraine , cuộc chiến tranh Do Thái Hamas…. nối tiếp nhau. Đúng như lời McNamara đã nói năm 1995 trong hồi ký của ông (6) thế giới trong tương lai không bao giờ hết chiến tranh, nội chiến, chiến tranh với nước khác. Xung đột chủng tộc, tôn giáo vẫn còn mãi. Điểm qua tình hình chính sự và chiến sự trên thế giới những năm tháng gần đây ta thấy cuộc nội chiến Syria từ mấy năm qua ngày càng tàn khốc đã khiến hơn 200,000 người thiệt mạng (7), biến cố Ukraine tháng 2-2014 khi Tổng thống thân Nga Viktor bị lật đổ, sự kiện đã kéo theo nhiều khủng hoảng liên tiếp. Tổng thống Nga Putin ngang ngược sáp nhập bán đảo Crimée, Sevastopol vào Liên bang Nga và giúp nhóm phiến quân thân Nga gây chiến tranh tại biên giới Ukraine-Nga. Cuộc chiến tranh giữa Do thái và chiến binh Hamas bùng nổ tàn khốc nhiều ngàn người thiệt mạng, nội chiến Libya không kém phần khốc liệt. Nay trên thề giới có quá nhiều biến cố quân sự chính trị khiến tòa Bạch ốc phải nghiên cứu chính sách xử lý. Người dân và nhất là đảng đối lập chỉ trích Obama hiện án binh bất động trước những biến cố chính trị đang làm lu mờ vai trò siêu cường của Hoa Kỳ. Người ta chỉ trích Obama vì tại phía tây, Tổng thống Nga Putin biểu lộ chính sách xâm lăng và đang muốn trở lại thời Nga hoàng, tại phía đông Trung Cộng đang gây rối Thái bình Dương, chiến tranh Iraq, Syria, giải Gaza đến hồi căng thẳng .. thế mà ông cứ bình chân như vại. Những lời chỉ trích và biểu hiện của các chính khách, của đám đông cũng đúng thôi, họ cho rằng Tổng thống Mỹ cần có trách nhiệm gìn giữ hòa bình thế giới và Obama đã không làm đúng vai trò của mình. Ở đây tôi không bàn nhiều về quyết định, hành động của TT Obama mà chú ý đề cập những nguyên do khiến ông lựa chọn chính sách biệt lập của thuyết Nixon để đứng ngoài mọi cuộc tranh chấp, khủng hoảng hiện nay. Các Tổng thống Mỹ đều nghe theo lới bàn của các cố vấn, phụ tá thí dụ cuối tháng 4 năm 1954, Tổng thống Eisenhower không oanh tạc đơn phương (không cần Quốc hội) để cứu Điện Biên Phủ vì các Tham mưu liên quân ngăn cản, tháng 10-1963 TT Kennedy nghe theo ý kiến McNamara cho rút quân dần từ cuối 1963…Ông Obama cũng nghe theo các cố vấn. Sở dĩ nay TT Obama hành động theo thuyết Nixon, đứng ngoài mọi tranh chấp quốc tế chắc hẳn không phải vì sợ không thắng được đối phương trên chiến trường vì Hoa Kỳ vẫn đứng đầu thế giới về quân sự. Ngân sách quốc phòng Mỹ nay là 650 tỷ, Trung Cộng 188 tỷ, Nga 87 tỷ, Saudi Arabia 67 tỷ, Pháp 61 tỷ.. (8) . Và như thế chẳng có nước nào đáng coi là đối thủ của Mỹ về sức mạnh. Ngoài ra Hoa Kỳ có một lực lượng Không quân và Hải quân hùng hậu với 12 Hàng không mẫu hạm tối tân trên 100,000 tấn, các nước khác chỉ có một vài chiếc loại xưa cũ khoảng 60,000 tấn trở xuống. Thế nhưng các nhà chính khách, các ông Tổng thống Mỹ lại sợ thua ở một mặt trận khác, mặt trận đáng kinh hãi nhất là Cuộc chiến tại đất nhà, The war at home. Qua kinh nghiệm xương máu các cuộc chiến đã qua trong quá khứ nhất là chiến tranh VN thập niên 60, đa số Tổng thống Mỹ, các nhà cố vấn đều đã thấm thía bài học này. Trước khi can thiệp các nhà chính khách đều đã cẩn thận thăm dò ý kiến người dân, Quốc hội. Được sự ủng hộ của người dân và Quốc hội, Hành pháp mới bắt đầu tham chiến, can thiệp nhưng người dân thay đổi ý kiến rất nhanh. Điển hình là tháng 8 năm 1964, Nghị quyết Vịnh Bắc Việt của TT Johnson được Quốc hội ủng hộ gần như hoàn toàn: Hạ viện 100%, Thượng viện tỷ lệ 88-2, thăm dò người dân thì thấy 78% và 80% ủng hộ như đã nói trên, năm 1965 trên 60% người dân ủng hộ cuộc chiến VN (9) vì họ quá sợ hãi sự bành trướng của CS. Nhưng số người ủng hộ giảm dần, tới trận Tết Mậu thân 1968 họ chống đối cuộc chiến quyết liệt và sau này nhóm phản chiến còn lên án TT Johnson dựng lên vụ tầu Maddox, đánh lừa dân và Quốc hội để có cớ đem quân vào VN. Johnson không muốn can thiệp vào VN 1965 vì sợ nó sẽ làm hỏng chương trình xã hội Great Society của chính phủ. Thế nhưng tình thế và chính người dân đã trực tiếp, gián tiếp lôi kéo ông can thiệp vào cuộc chiến và rồi họ đã lật mặt như bàn tay, phủ nhận sự ủng hộ của mình trước đây, đổ hết mọi tội lỗi cho ông Tổng thống. Năm 2003 Quốc hội Mỹ ủng hộ TT Bush con trong cuộc chiến tranh Iraq với tỷ lệ cao, Hạ viện có 297 phiếu thuận tỷ lệ 74%, Thượng viện 77 phiếu thuận khoảng 76% (10). Thăm dò được biết từ 47-60% người dân ủng hộ, thậm chí theo thăm dò của Gallup cho biết 79% người Mỹ ủng hộ chiến tranh Iraq dù có chứng cớ hay không về vũ khí bí mật (11) vì họ quá sợ hãi Saddam Hussein. Thề rồi mấy năm sau 2007 họ chống đối cuộc chiến Iraq và nói cần phải rút bỏ và sau đó cuộc chiến Iraq đã bị kết án là sai lầm, nay bị coi là cuộc chiến ngu xuẩn nhất. Nếu cuộc chiến VN thập niên 60 và cuộc chiến Iraq 2003 là sai lầm thì người dân và Quốc hội phải chịu trách nhiệm trước tiên chứ không thể đổ lỗi cho Hành pháp vì chính họ đã khuyến khích ông Tổng thống can thiệp vào. Chính phủ luôn có cái nhìn xa, người dân nhìn rất gần, họ thiển cận chỉ biết quyền lợi trước mắt. Họ nói chiến tranh Việt Nam là sai lầm nhưng họ quên rằng nhờ xương máu của 58,000 quân Mỹ, hơn 200,000 lính VNCH mà Nixon, Kissinger mới bắt tay được Trung Cộng thay đổi cả một kỷ nguyên. Họ quên rằng nhờ đó mà họ đã được sống yên ổn từ nửa thế kỷ qua, thừa hưởng thái bình trên hoang tàn đổ nát của cả một dân tộc thế mà họ vẫn chưa vừa lòng. Họ không biết rằng nhờ đó mà họ đã thừa hưởng một thị trường rộng lớn bao la, tha hồ mà bóc lột khối nhân công rẻ mạt. Ngoài ra các Tổng thống Mỹ thường đắn đo trước mọi quyết định, chính sách nhất là sự e ngại mất phiếu cho đảng của mình. Sáu mươi năm trước đây, cuối tháng 4-1954, sau nhiều ngày suy tính bàn luận, TT Eisenhower đã quyết định không can thiệp oanh tạc ĐBP để cứu Pháp vì sợ có thể mất phiếu trong kỳ bầu cử bán phần Quốc hội năm đó. Và bây giờ ông Obama cũng lo ngại có thể sẽ mất phiếu đảng Dân Chủ của mình trong kỳ bầu cử bán phần Quốc hội sắp tới cũng như bầu cử Tổng thống năm 2016. Đó là điều khó khăn nhất của Hành pháp khi xử lý những vấn đề đối ngoại. Năm 1985, Nixon nói ông lập ra thuyết Nixon Doctrine chủ trương tiếp tục can thiệp vào các nước Thế giới Thứ ba nhưng theo đường lối Sô viết (12) chỉ gửi viện trợ vũ khí mà không đem quân sang, bất đắc dĩ lắm mới phải dùng vũ lực. Hoa kỳ sẽ viện trợ kinh tế quân sự cho nước bị tấn công ngang với viện trợ của Sô viết cho bọn phản loạn. Nhưng TT Obama đi xa hơn Nixon trong chính học thuyết này, ông ta không can thiệp bằng gửi quân cũng như viện trợ cho nước đồng minh. Gần đây, ngày 7-8 Obama cho máy bay oanh kích phiến quân Hồi giáo cực đoan ISIS để bảo vệ người Mỹ hiện có mặt tại Iraq và cũng để xoa dịu bớt dư luận chống đối. Là người mị dân tối đa như Obama cũng không tránh khỏi chỉ trích lên án, nay người ta đánh giá Obama là tổng thống tồi tệ nhất nhưng ông vẫn bình chân như vại. Thực ra Obama cũng thừa biết không đủ khả năng giải quyết bằng can thiệp trước tình hình khủng hoảng chính trị, quân sự hiện nay, chẳng thà chịu nhục và nhượng bộ thái độ hung hăng của Putin còn hơn là dấn thấn vào chỗ có thể sa lầy. Tuy nhiên không hẳn can thiệp đã là tai hại và ngược lại biệt lập đứng ngoài là thượng sách. Năm 1949 vì TT Truman không can thiệp chiến trường Trung Hoa cứu Tưởng giới Thạch để Trung Cộng đại thắng rồi trở thành cường quốc hiếu chiến mà Hoa Kỳ đã phải can thiệp vào Triều tiên năm 1950 và Đông dương suốt mấy chục năm dài. Tháng 4-1954 TT Eisenhower tránh can thiệp oanh tạc cứu nguy ĐBP để mười năm sau phải đương đầu một cuộc chiến đắt giá tại miền nam VN.(13) Phải chăng chính sách Obama quá mềm yếu, nhu nhược không giữ được hòa bình cho cộng đồng thế giới, hoặc ông thiếu khả năng xử lý những vấn đề có tầm vóc quốc tế ? hoặc ông ta cố tình tránh né y theo tinh thần cô lập của học thuyết Nixon năm 1969? Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 2008 người dân nhất là giới trẻ đã đưa Obama lên mây xanh. Họ đặt hết tin tưởng vào người ứng cử viên cấp tiến sáng giá nhất của mọi thời đại. Họ kỳ vọng ông sẽ lãnh đạo nước Mỹ tuyệt vời và tin là ông có khả năng thay đổi cả một dòng lịch sử … Thế mà bây giờ người ta kết án ông ta là Tổng thống tồi tệ nhất nước Mỹ kể từ sau thế chiến thứ hai. Thật khôi hài hết chỗ nói! Trọng Đạt Chú thích (1) Stanley Karnow, Vietnam a History trang 390 Answer.com Domino theory (2) Ngô Quang Trưởng, Trận Chiến Trong Mùa Lễ Phục Sinh 1972, trang 16, 17; Stanley Karnow: Vietnam A History trang 440,441 (3) Walter Isaacson, Kissinger a Biography trang 235, 236, 238. “The more troups are withdrawn, the more Hanoi will be encouraged” (4) Sách kể trên trang 239-241 (5) www. Classbrain.com. Truman Doctrine 1947. Ngày 12-3- 1947 TT Truman đưa ra Quốc hội đề nghị cấp ngân khoản 400 triệu để giúp Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ đang bị CS đe dọa. Thông điệp gửi Quốc hội được coi là thuyết Truman. Người ta sợ nếu hai nước này mất, CS có thể lan qua Iran, Ấn Độ (6) Robert McNamara, Hồi Tưởng, Bi Kịch và Bài Học Của Việt Nam, In Retrospect, The Tragedy and Lessons of Vietnam, chương 11 Những Bài Học Của Việt Nam, The Lessons of Vietnam, trang 324 (7) Wikipedia, Syrian Civil War (8) Wikipedia, List of countries by military expenditures (9) Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war. (10) Wikipedia: Iraq Resolution (11) Wikipedia, Popular opinion in the United States on the invasion of Iraq. A Gallup poll made on behalf of CNN and USA Today concluded that 79% of Americans thought the Iraq War was justified, with or without conclusive evidence of illegal weapons. 19% thought weapons were needed to justify the war. (12) No More Vietnams trang 217 (13) Bernard B. Fall, Hell In A Very Small Place, The Siege of Dien Bien Phu trang 462
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 15, 2015 3:25:28 GMT 9
Đồng Minh Với Mỹ Không An Toàn Lắm...al-Qaeda chết, để lại một bầy con hung tàn và tài giỏi gấp bội... Cách đây nửa thế kỷ, một chính khách Á Châu than phiền “Làm kẻ thù của Mỹ an toàn hơn làm bạn với Mỹ”. Câu nhận xét đáng buồn này có lẽ chưa khi nào đúng như ngày nay khi Đại Cường Cờ Hoa được TT Obama lãnh đạo. Ở đây, có hai câu chuyện đáng bàn để thử nghiệm nhận xét trên. CUỘC CHIẾN CHỐNG AL QAEDA Năm xưa, al Qaeda trực tiếp đánh Mỹ tại ngay lãnh thổ Mỹ vào ngày 9-11. Cả thế giới bàng hoàng và xúc động, tỏ thiện cảm với Mỹ. Báo Le Monde của Pháp, một tờ báo thiên tả chưa khi nào có cảm tình với Mỹ, ra tựa đề lớn: “Ngày hôm nay, tất cả chúng ta đều là Mỹ”. Tổ Chức Liên Minh Bắc Đại Tây Dương đưa ra tuyên ngôn “Đánh Mỹ tức là đánh cả Liên Minh”. TT Bush ra lệnh đánh Taliban của Afghanistan để lùng bắt Osama Bin Laden. Cả trăm nước trên thế giới yểm trợ bằng cách gửi quân, giúp tiếp vận, mở không phận và lãnh hải, phi trường, quân cảng, và căn cứ quân sự giúp quân Mỹ vào Afghanistan. Ông Uganda cũng gửi… một tiểu đội lính qua! TT Bush cũng ra tuyên bố đây là cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố cực đoan. Cả thế giới từ Á Châu tới Trung Đông và Phi Châu ủng hộ, tham gia, giúp truy lùng quân khủng bố, thu thập tin tức, kiểm soát chặt chẽ luồng tiền của các ngân hàng quốc tế để ngăn chặn nguồn tài chánh của khủng bố. Đúng là một cuộc chiến trên toàn cầu với sự tham gia của cả trăm quốc gia dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Ngày nay, cuộc diện thay đổi hoàn toàn, dù cuộc chiến chống khủng bố vẫn là cuộc chiến toàn cầu, với sự tham gia của cả trăm quốc gia. Điểm khác biệt lớn nhất là vai trò của Đại Cường Cờ Hoa. Không còn là tiên phong nữa mà là “lãnh đạo từ sau lưng”. Đó là do TT Obama năm 2009 thay đổi hoàn toàn chiến lược chống khủng bố. Ông bác bỏ cuộc chiến quân sự của TT Bush, và tung ra cuộc chiến “hòa bình”. Mở chiến dịch vuốt ve và xin lỗi Hồi Giáo và khối Ả Rập về tất cả những tội lỗi của Mỹ và Tây Phương, kể cả những tội lỗi từ thời Thập Tự Chinh cách đây hơn 500 năm. Mau mau lo rút quân khỏi Iraq và Afghanistan, bất chấp khủng bố càng ngày mạnh tại hai xứ này. Rồi nhất mực khẳng định không có “khủng bố Hồi giáo” gì hết. Chỉ là khủng bố... vô danh?! Rồi ông ra trước Đại Hội Đảng Dân Chủ năm 2012 khoe công al Qaeda đang vắt chân lên cổ tháo chạy và không còn là một đe dọa gì nữa. Kể ra cũng không sai hẳn. Đúng là al Qaeda đã chết, nhất là sau cái chết của Bin Laden. Nhưng điều TT Obama không chịu nhìn nhận là cha chết thì các con thừa kế. Đúng vậy ông bố al Qaeda chết, để lại một bày con hung tàn và tài giỏi gấp bội. Ta hãy thử nhìn vào tình hình “chiến sự chống khủng bố” hiện nay. - Tại Iraq, thằng con ISIS lớn như diều gặp bão, một sớm một chiều chiếm một nửa Iraq và một nửa Syria, đe dọa chiếm luôn cả thủ đô Baghdad của Iraq. Mỹ hoảng sợ đành phải cho ít lính trở lại, trong khi ném bom ào ạt để ngăn chận cơn sóng thần ISIS. Quân khủng bố thay đổi chiến lược, chiếm các thành phố, chui vào nhà dân cố thủ. Mỹ bó tay nhìn vì không còn lính tác chiến ở Iraq nữa. Bom Mỹ bị vô hiệu hoá vì dĩ nhiên không thể thả bom vào khu dân cư. Nhưng cũng vẫn ngày ngày mang bom đi thả xuống sa mạc, gọi là cho có. Bạc triệu vứt xuống cát. - Tại Yemen, chính quyền đồng minh bị thằng con khác của al Qaeda, Houthi, đánh ào ạt. Tổng thống và chính phủ nhẩy xuống thuyền, chạy qua Ả Rập Saudi cầu cứu. Ả Rập Saudi mau mắn thành lập ngay một Liên Minh với 10 nước Ả Rập và Hồi giáo, từ Pakistan qua tới Maroc, để đánh Houthi. Phản ứng của TT Obama? Ra lệnh tòa đại sứ Mỹ đóng cửa tháo chạy về nước ngay, tuy chưa đến độ phải trực thăng vận từ nóc tòa đại sứ, nhưng chạy nhanh quá bỏ ít nhất 40 Mỹ kiều lại, bây giờ bị gia đình họ thưa ra tòa, đòi Nhà Nước phải qua cứu họ về. - Tại Kenya, nơi ông bố al Qaeda khai chiến với Mỹ năm 1998 khi chúng đặt bom đánh xập tòa đại sứ Mỹ tại Nairobi, thằng con khác nữa của al Qaeda, al Shabaab đang tung hoành tại xứ láng giềng Somalia, cho quân cảm tử qua đánh một trường đại học tại thành phố Garissa. Chúng thanh lọc những sinh viên Hồi và không Hồi. Rồi xả súng bắn chết 148 sinh viên không theo đạo Hồi. Phản ứng của Mỹ? Cho dù khủng bố thanh lọc và giết sinh viên không phải đạo Hồi, Nhà Nước Obama vẫn khẳng định đây không phải là khủng bố Hồi giáo. - Tại Libya, một thằng con nữa của al Qaeda, Ansar al Sharia, là tổ chức khủng bố đánh toà lãnh sự Mỹ tại Benghazi, giết chết đại sứ Mỹ và bốn nhân viên CIA Mỹ, đang tung hoành đánh nhau túi bụi với chính quyền Libya được thành lập sau khi Mỹ và Anh-Pháp lật đổ nhà độc tài Khaddafi. Phản ứng của Mỹ? Ra lệnh cho tòa đại sứ đóng cửa, toàn thể nhân viên từ đại sứ trở xuống nhẩy lên xe SUV, chạy khẩn cấp qua Tunisia, để lấy tàu bay về Mỹ hết. Libya rơi vào tình trạng Somalia, đại loạn, chẳng ai biết ai là ai, chỉ thấy đánh nhau loạn xà ngầu. Đây có lẽ là hành động tắc trách nhất của chính quyền Obama. Một là để yên cho Khaddafi nắm quyền với lý do đây là chuyện nội bộ, Mỹ không can thiệp được. Hai là đã can thiệp vì lý do nhân đạo, hạ Khaddafi để cứu dân Libya thì phải lo cho trót. Không thể nhẩy vào, quậy cho đại loạn rồi hấp tấp phủi tay tháo chạy, với thái độ sống chết mặc bay. - Tại Nigeria, Boko Haram, một thằng con rơi của ISIS, hùng cứ tại vùng bắc. Đánh hết làng này đến làng nọ, bắt cóc hàng trăm trẻ em nam nữ, nam làm lính, nữ làm... “hộ lý”, giết hàng ngàn dân vô tội. Cả thế giới rúng động về sự tàn ác man rợ của Boko Haram. Chính quyền và quân lực Nigeria hoàn toàn bất lực. Phản ứng của Mỹ? Cũng cực lực lên án như ai, rồi... hết. Nói cách khác, khi Mỹ bị khủng bố đánh, cả trăm quốc gia nhẩy vào cứu hay đúng hơn, tham gia cùng đánh khủng bố với Mỹ. Đang đánh thì Mỹ đổi tổng thống. Tổng thống mới lo... tháo chạy, đổi chiến lược qua “dĩ hoà vi quý”. Khủng bố được thể, lộng hành đánh đồng minh của Mỹ. Mỹ ngó lơ! Có phải đó là cái giá phải trả khi làm đồng minh của Mỹ không? Ngày hôm nay Mỹ có chính sách này thì ta là đồng minh, ngày mai Mỹ đổi chính sách thì ta... hụt cẳng, đưa lưng ra chịu đòn một mình. Những ai muốn làm đồng minh với Mỹ nên suy tính cho kỹ trước khi... thí mạng cùi. Mọi liên minh với Mỹ chỉ có giá trị 4 hay tối đa 8 năm. Sau đó có trời biết. Không ai đòi hỏi Mỹ phải làm cảnh sát của thế giới, phải mang thủy quân lục chiến Mỹ đi giữ an ninh cho cả thế giới. Nhưng khi Mỹ có biến và các nước khác sát cánh, thì dù sao, Mỹ cũng phải có đủ tinh thần trách nhiệm để “làm một cái gì” cho người đồng minh khi người đồng minh này gặp nạn, ít ra cũng gọi là báo đáp. Hễ thấy động là lo đóng cửa tòa đại sứ tháo chạy cho nhanh thì không có gì có thể gọi là bạn hay đồng minh được hết. Nhưng làm kẻ thù với Mỹ thì khác. Được vuốt ve thăm hỏi, xin lỗi đủ điều. Hỏi mấy ông lãnh tụ Taliban từng bị nhốt tại Guantanamo xem. Chính quyền Obama tìm đủ cách đóng cửa nhà tù, thả hết tù khủng bố. Quý độc giả không tin có thể nhìn lại cuộc “trao đổi tù”, đổi năm lãnh tụ cao cấp nhất của Taliban, trong đó có bộ trưởng và tướng lãnh, lấy một tên lính đào ngũ. Cũng may là chỉ có một tên lính đào ngũ thôi, chứ có vài chục tên thì Nhà Nước Obama đã có đủ lý do thả hết tù, đóng cửa Guantanamo từ lâu rồi. Một chuyện đáng nói nữa. Tất cả các tổ chức khủng bố nêu trên đều ra đời và lớn mạnh sau khi TT Obama chấp chánh. Từ 2001 đến cuối 2008, dưới thời TT Bush, không ai nói đến ISIS Houthi, Ansar al Sharia, al Shabaab, Boko Haram, … gì hết. TT Obama là người đã rất mau mắn đứng ra khoe công đã giết Bin Laden vì chuyện xẩy ra dưới triều đại của ông (under his watch), nhưng chưa ai nghe ông đứng ra nhận trách nhiệm về việc các tổ chức khủng bố lớn mạnh như thổi cũng dưới triều đại của ông, và cả Trung Đông và Phi Châu đang lửa cháy tứ tung. Gia tài của ông tổng thống Nobel Hoà Bình. ĐIỀU ĐÌNH IRAN Một bằng chứng cụ thể hơn về chuyện bạn và thù với Mỹ là cuộc điều đình với Iran. Iran là nước đã từng nhục mạ Mỹ khi chiếm tòa đại sứ Mỹ, bắt hết nhân viên mang đi nhốt trong hơn một năm trời, mà chính quyền Dân Chủ của TT Carter hoàn toàn bó tay. Sau này, tất cả các giáo chủ lãnh đạo Iran đều tiếp tục chính sách coi Mỹ là tử thù, và đặt mục tiêu tối hậu là xoá Do Thái trên bản đồ thế giới. Gần đây hơn, các giáo chủ bành trướng giấc mộng muốn làm bá chủ Trung Đông, khuynh đảo cả thế giới với việc khai triển nghiên cứu về nguyên tử năng. Thế giới lo sợ nên ban hành chính sách cấm vận không cho Iran có khả năng làm bom nguyên tử. TT Obama ngay từ ngày còn ra tranh cử năm 2008, đã đặt mục tiêu “nói chuyện” với Iran, với hy vọng Iran sẽ chấm dứt kế thoạch làm bom nguyên tử, đổi lại việc giải tỏa cấm vận. Hơn sáu năm sau, TT Obama lớn tiếng reo hò, khoe công đã đạt được mục tiêu qua cuộc thương thảo mới đây tại Lausanne, bên Thụy Sỹ. Đã có thoả thuận với chính quyền Iran để kiểm soát các nghiên cứu nguyên tử năng của Iran để không cho phép Iran chế tạo được bom, đổi lại, sẽ giải tỏa cấm vận. Nhà Nước Obama công bố một loạt chi tiết kỹ thuật trong hiệp ước, mục đích để chứng minh Mỹ đã toàn thắng, khóa tay các giáo chủ không cho họ có cơ hội hay khả năng làm bom nguyên tử. Đối với tuyệt đại đa số thiên hạ, những chi tiết kỹ thuật đó chỉ là... mây mù mang ra hù doạ thiên hạ chứ chẳng ai hiểu rõ nó hiệu quả như thế nào, kể cả mấy anh nhà báo cấp tiến đang hý hửng tung hô thành quả của TT Obama. Chỉ biết là theo TT Obama, nếu Iran tôn trọng hiệp ước thì Iran sẽ không thể chế tạo bom nguyên tử được, đổi lại việc giải toả cấm vận và... ai biết được điều kiện ngầm nào nữa. Nghe thì rất phấn khởi, còn gì tốt đẹp hơn? Nhưng “sự đời coi dzậy chứ chưa chắc đã như dzậy.” Trong khi TT Obama đấm ngực khoe hiệp ước, thì Giáo Chủ Tối Cao Ali Khameini công khai chỉ trích hiệp ước, tố TT Obama “nói láo”, và tuyên bố cấm vận phải bị tháo gỡ toàn bộ ngay khi hiệp ước được ký chứ không phải từng phần tùy Iran chấp hành những cam kết của họ như TT Obama khẳng định. Khiến thiên hạ chưng hửng, không biết có hiệp ước hay không. Ông giáo chủ này có tiếng nói quyết định cuối cùng. Rồi thủ tướng Do Thái Netanyahu cũng bác bỏ hiệp ước, cho rằng những giới hạn trong hiệp ước chẳng nghiã lý gì hết. Ngay từ những ngày đầu của cuộc thương thảo với Iran, Do Thái đã lo sót vó sẽ bị bán đứng. Chủ trương “dĩ hoà vi quý” của TT Obama với kẻ thù Iran sẽ có nguy cơ đe dọa đến sự sinh tồn của anh đồng minh Do Thái. Ngày xưa, Mỹ ký Hiệp Ước Paris, với đủ loại “bảo đảm” là Nam VN sẽ không bị mất vào tay CSBV. Hết TT Nixon đến Cố Vấn An Ninh Kissinger, và cả các tướng lãnh Mỹ, thay phiên nhau khẳng định sẽ không có chuyện dung túng cho CSBV xâm lăng Nam VN. Hiệp Ước Paris còn được hơn một tá quốc gia khác họp lại, có cả Nga và Trung Cộng, ký cam kết bảo đảm sẽ “giám sát” việc tôn trọng và thi hành đúng đắn hiệp ước. Một Ủy Ban Giám Sát Quốc Tế cũng đã được thành lập. Kết quả, gần hai triệu người dân miền Nam hiện đang làm dân tỵ nạn trên khắp thế giới sau khi CSBV coi hiệp ước như giấy lộn và bảo đảm của hơn một tá quốc gia, cũng như Ủy Ban Giám Sát, như là chậu kiểng, trưng bày cho đẹp mắt. Nói cách khác, hiệp ước nào cũng vậy thôi, tất cả tùy thuộc sức mạnh thực sự của các phe ký kết. Họ yếu thì sẽ phải tôn trọng, cho đến khi nào đủ mạnh hay vì nhu cầu cụ thể thì hiệp ước sẽ thành giấy lộn. TT Obama có quyền ra đủ loại tuyên cáo về giá trị của hiệp ước ký với các giáo chủ Iran. Cùng lắm Iran xé bỏ hiệp ước và phớt lờ mọi kiểm soát của bất cứ ủy ban kiểm soát nào, chế ra được bom nguyên tử, thì khi đó TT Obama cũng đang bận phơi nắng trên bãi biển Hạ Uy Di, sẽ ra tuyên cáo lên án Iran đã vi phạm hiệp ước. Hết chuyện. Trong khi đó thì anh đồng minh Do Thái sẽ thấp thỏm chưa biết khi nào bom nguyên tử sẽ bị ném lên đầu. Thủ tướng Netanyahu, đúng với trách nhiệm lãnh đạo cả nước, không thể chấp nhận cái rủi ro vĩ đại là mất cả nước, nhắm mắt tin vào chữ ký của các giáo chủ Iran, cũng như thế giới đã từng tin vào chữ ký của Lê Đức Thọ. Đây không phải là hiệp ước đầu tiên trói tay Iran không cho làm bom nguyên tử. Tháng 10, 2003, một hiệp ước tương tự đã được ký kết, thọ không tới 2 năm thì bị Iran đơn phương xé bỏ, đưa đến biện pháp cấm vận. Nói một cách cụ thể, đổi lấy việc Iran không chế tạo bom nguyên tử nữa (cứ cho là Iran sẽ tôn trọng thoả hiệp Lausanne), Nhà Nước Obama bỏ cấm vận, coi như đã chấp nhận cho Iran bành trướng ảnh hưởng, làm bá chủ Trung Đông, kể cả Iraq luôn. Trên phương diện điạ chính trị, người ta sẽ thấy một trục liên minh Hồi giáo Shiites kéo dài từ Afghanistan, qua Iran, Iraq và Syria phiá bắc Trung Đông, đối đầu với trục liên minh Hồi giáo Sunnis phiá nam, từ Ả Rập Saudi, các Vương Quốc vùng Vịnh (Arab Emirates), Jordan và Ai Cập. Yemen đang đại chiến giữa chính quyền Sunni được Ả Rập Saudi giúp, chống lại khủng bố Houthi được Iran yểm trợ. Iran mới gửi hai chiến hạm đến cảng Aden để giúp Houthi. Thiên hạ có quyền nghi ngờ trong bài toán của TT Obama, cái trục Iran hy vọng sẽ kềm hãm, nếu không muốn nói là hạ được ISIS mà Mỹ đã chịu thua không can thiệp hết sức mình vì sợ sa lầy. Nôm na ra, Mỹ bỏ cấm vận để nhờ Iran đánh ISIS dùm. Nghe có vẻ hoang đường, nhưng thực tế là Iran đang trực tiếp giúp Iraq đánh ISIS thật. Trận chiến chiếm lại Tikrit do tướng tư lệnh Qasem Suleimani của Vệ Binh Quốc Gia Iran chỉ huy. Có điều là TT Obama quên mất Iran nguy hiểm gấp vạn lần ISIS. Iran có thể làm ra bom nguyên tử trong khi ISIS không thể. Iran có thể đe dọa ISIS, thì cũng có thể đe dọa Do Thái luôn. Đó chính là lý do Thủ Tướng Netanyahu lo ngại và quyết liệt phản đối. Trong câu chuyện Iran này, TT Obama không phải chỉ gặp rắc rối với phe Cộng Hòa và Do Thái, mà ngay cả phe ta Dân Chủ cũng phản đối việc TT Obama tuyên bố ông không cần ý kiến của quốc hội vì có đủ quyền ký hiệp ước với Iran. Phe Cộng Hoà đang chuẩn bị ra luật khẳng định mọi hiệp ước đều cần phải có quốc hội phê duyệt. Thượng nghị sĩ Chuck Schumer, người sắp sửa nhận chức Lãnh Đạo khối thiểu số Dân Chủ tại Thượng Viện, đã công khai tuyên bố ông ủng hộ dự luật của Cộng Hoà. Người ta còn nhớ mới đây, 47 thượng nghị sĩ CH gửi thư cho các giáo chủ Iran, nhắc nhở họ là theo Hiến Pháp Mỹ, mọi hiệp ước đều phải được phê chuẩn bởi quốc hội. Nhà Nước Obama và truyền thông phe ta ồn ào chỉ trích nhóm này là phá bĩnh, không yêu nước, cản trở chính sách đối ngoại của tổng thống, coi thường tổng thống. Nhưng ngay sau đó, 367 dân biểu, trong đó có trăm dân biểu Dân Chủ, cũng ký một bức thư tương tự. Truyền thông im hơi lặng tiếng, chẳng lẽ quốc hội với 535 vị dân biểu và nghị sĩ, mà lại có tới 414 vị phá bĩnh, không yêu nước, coi thường tổng thống? Ta hãy chờ xem cuộc chiến giữa TT Obama và quốc hội ra sao. TT Obama sau khi thông báo thành quả của Hội Nghị Lausanne, đã viết thư cho Thủ Tướng Netanyahu, hứa hẹn an ninh và sinh tồn của Do Thái vẫn sẽ được sự bảo đảm của Mỹ. Chỉ làm cho kẻ viết này nhớ lại những bức thư của TT Nixon gửi TT Thiệu năm xưa thôi. Nhìn chung, Mỹ có một ông bạn là Do Thái và một kẻ thù là Iran. Hiện nay, TT Obama đang hớn hở ôm chầm lấy Iran và đang tẩy chay Do Thái. Đâu là bạn, đâu là thù? Đứng bên nào an toàn hơn? (12-04-15) Vũ Linh Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: Vulinh11@gmail.com. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 15, 2015 3:28:58 GMT 9
Trật Tự Thế Giới Dưới Mắt Henry Kissinger14/04/2015 Trần Bình Nam Ông Henry Kissinger vừa xuất bản cuốn “World Order” (Penguin press, sách dày 432 trang, giá $36.00). Ông Wolfgang Ischinger, cựu đại sứ Đức tại Hoa Kỳ (2001-2006) và tại Anh (2006-2008) viết nhận xét dưới nhan đề “The world according to Kissinger: How to defend global order” đăng trong tạp chí Foreign Affairs số March/April 2015. Sau đây là các ý chính trong bài viết của ông Wolfgang Ischinger. **Trần Bình Nam** * Dùng nhan đề “Trật tự Thế giới” một cách chắc nịch như vậy cho cuốn sách mình viết mà không sợ bị giới nghiên cứu cho là hợm hĩnh có lẽ chỉ có ông Henry Kissinger. Tiến sĩ Henry Kissinger, nguyên Cố vấn an ninh quốc gia và Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ được nhiều người hâm mộ nhưng cũng lắm kẻ ghét cho là người quá nhiều thủ đoạn với bạn cũng như thù. Người có cảm tình cho ông là nhà ngoại giao tinh lọc được sự khôn khéo của nghành ngoại giao Hoa Kỳ mặc dù qua cuốn sách “World Order” ông vẫn chưa chia tay với lối nhìn trật tự thế giới theo khuôn mẫu cũ. Năm 2014 là năm có nhiều biến cố trên thế giới. Chiến tranh tại Syria đã giết chết mấy trăm ngàn người, và nhóm jihadist(1) làm toàn vùng Trung đông lên cơn sốt. Tại Á châu Trung quốc tự tin vào thế đứng của mình và đang là một mối bận tâm cho các nước láng giềng. Tại Tây Phi châu, bệnh Ebola xuýt làm cho nhiều nước mất hẵn trên bản đồ thế giới. Và tại Âu châu, vùng đất tôn trọng trật tự quốc tế nhất cũng đang bị Liên bang Nga dùng sức mạnh đe đọa thay đổi ranh giới quốc gia hiện hữu. Điều đáng lo khác là các lực lượng vốn có nhiệm vụ giữ gìn hòa bình thế giới như Hoa Kỳ, Cộng đồng Âu châu, NATO cũng đã có dấu hiệu mệt mỏi sau hai cuộc chiến tốn kém tại Afghanistan và Iraq. Kissinger. Trong khung cảnh đó ông Kissinger vốn là một sử gia và một nhà chiến lược xác định lại “thế nào là trật tự thế giới” và đề ra cách thức xây dựng. Theo ông, “trật tự thế giới” là một cách nhìn về sự phân chia quyền lực chính trị của một địa phương hay của một nền văn hóa mà họ nghĩ có thể áp dụng cho cả thế giới (“world order” as “the concept held by a region or civilization about the nature of just arrangements and the distribution of power thought to be applicable to the entire world.” Ông Kissinger nói một “trật tự” như vậy cần 2 yếu tố: (1) một hệ thống quy tắc ứng xử xác định giới hạn hành động của mỗi quốc gia hay của một nền văn hóa, và (2) một sự cân bằng thế lực có khả năng trừng phạt quốc gia hay văn hóa nào vi phạm các nguyên tắc ứng xử đã đồng ý với nhau để ngăn không cho một thế lực nào dùng sức mạnh ép các thế lực khác. Theo quan niệm đó, quyền lực trên thế giới không phải chỉ là sức mạnh kinh tế và quân sự mà còn là sức mạnh của tư tưởng và ý chí, nhất là ý của kẻ mạnh. Theo ông Kissinger các quan niệm cổ điển từng làm cái khung giúp duy trì hòa bình thế giới trong 4 thế kỷ qua như “quyền chủ quyền” và sự “không can thiệp” vẫn còn có giá trị. Hôm nay cái khung đó nhòa đi chút ít vì các thế lực chính trị đang lên dùng các khung chính trị khác nhau để duy trì trật tự như “dựa vào tôn giáo” (theocracy), “quyền lực tư bản” (autocratic capitalism) và “hiện tượng hậu văn minh” (postmodernity). Nhưng dựa vào gì đi nữa - theo Kissinger - cái mẫu nào mang hai yếu tính “hợp pháp quốc tế” và “cân bằng quyền lực” mới có khả năng tồn tại. Trong suốt cuốn sách Kissinger không quên nhấn mạnh một nguyên tắc là: đừng vất bỏ một cái khung tổ chức ổn định thế giới nào nếu chưa tìm thấy một cái khung khác có hiệu quả như cái khung cũ. * * Kissinger cho rằng hệ thống quốc tế hiện nay là sáng kiến của các lãnh tụ quốc gia trong thế kỷ thứ 17 tại Âu châu qua hội nghị Westphalia họp tại Westfalen, Đức, sau một trận chiến tranh dài mà cao điểm là “trận chiến tranh 30 năm” từ 1618 đến 1648 (2). Thỏa ước đạt được đề ra quan niệm “chủ quyền quốc gia” và “quyền chủ quyền” là viên đá góc của trật tự thế giới. Một trăm năm mươi (150) năm sau, tại Hội nghị ở thành Vienna (Congress of Vienna) 1814-1815 hai nhà ngoại giao Pháp Talleyrand và Áo Klemens von Metternich chính thức công bố nguyên tắc “cân bằng thế lực” và áp dụng nguyên tắc này vạch lại ranh giới lãnh thổ quốc gia của hầu hết các nước Âu châu sau các xáo trộn do cuộc cách mạng Pháp 1789 và các cuộc chiến tranh của Napoleon. Hai nguyên tắc “chủ quyền” (Westphalia), và “cân bằng quyền lực (Vienna) được tiến sĩ Kissinger đề ra đối với việc duy trì ổn định thế giới hôm nay không được các nhà khoa học chính trị đồng ý cho là quá đơn giản trong một thế giới quá phức tạp nhưng cũng phải đồng ý với nỗ lực trí tuệ đầy tự tín của ông. Đương nhiên thực tế cho thấy cái quan niệm về quốc gia và chính trị của Tây phương được áp đặt từ thời đại thuộc địa đến nay đã phải chật vật tranh đấu với các luồng tư tưởng khác. Thí dụ tại Trung đông. Ở đó sự tranh chấp không phải là “quốc gia” và “chủ quyền” mà là giữa hai giáo phái Shiite và Sunni của đạo Hồi. Cái trật tự Westphalia một thời ngự trị tại Trung đông đang bị đe dọa bởi phong trào Hồi giáo không biên giới như phong trào chính trị Muslim Brotherhood, phong trào Jihad chống văn hóa Tây phương như al-Qaeda và Quốc gia Hồi giáo ISIS. Theo Kissinger phong trào ISIS đang làm biến thể quan niệm “quốc gia trong một biên giới xác định” thành một cuộc tranh chấp giữa các bộ lạc đậm màu sắc tôn giáo có khả năng đưa Trung đông đến hỗn loạn và chiến tranh như chiến tranh tại Âu châu thời tiền Westphalia. Kissinger đặc biệt nghiên cứu quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran. Một bên, Hoa Kỳ chủ trương duy trì trật tự thế giới theo mẫu Westphalia, một bên -Iran - muốn nằm ra ngoài cái trật tự đó. Kissinger đi ngược dòng lịch sử của Iran trở về đế quốc Ba Tư để giải thích tại sao Iran luôn luôn bị dằng co giữa hai ý niệm “một quốc gia” hay “một lý tưởng”. Và sự theo đuổi một lý tưởng của Iran làm cho cuộc thương thuyết chương trình nguyên tử của Iran trở nên phức tạp. Ông Kissinger cho rằng để thuyết phục Iran, nghệ thuật ngoại giao chưa đủ, Hoa Kỳ cần dùng nguyên tắc cân bằng thế lực bằng cách liên kết khối Sunni để cân bằng với khối Shiite của Iran. Ông Kissingr tiên đoán cuộc thương thuyết nguyên tử giữa Hoa Kỳ và Iran hiện nay sẽ đưa đến kết quả: Hoặc Iran trở thành quốc gia lãnh đạo cuộc cách mạng Hồi giáo hay trở thành một nước lớn khép mình trong khuôn khổ của hệ thống Westphalia. Ngoài Trung đông, Á châu cũng là nơi quan niệm ổn định Tây phương đụng chạm với quan niệm tổ chức địa phương. Tiến sĩ Kissinger chỉ ra rằng, danh từ Á châu do người Tây phương nặn ra sau khi họ đặt chân đến đó vào thế kỷ 15. Tại đó Trung quốc, đơn vị lãnh thổ lớn nhất tự xem mình là trung tâm thế giới thay trời ban bố trật tự để trị dân – nhân dân toàn thế giới. Bước vào thế kỷ 21, Trung quốc vươn lên như một quốc gia hùng mạnh và không ngừng trăn trở dung hòa cái khung Westphalia với ý niệm vai trò chủ quản của mình dưới bầu trời thế giới. Kissinger nhấn mạnh rằng tuy Hoa Kỳ và Trung quốc quan niệm khác nhau về dân chủ và nhân quyền, nhưng trong cuộc chạy đua trước mắt cả hai nước đều thấy tránh đụng độ nhau là cần thiết. Trong cuốn “World Order” Kissinger cho rằng quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung quốc ít nguy hiểm hơn là quan hệ giữa Trung quốc với các nước trong vùng. Đông Á là “vùng nóng” có thể bật lửa bất cứ lúc nào. * * Ông Kissinger nêu ra hai luồng tư tưởng hình thành chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Thứ nhất là “tính thực tế” (pragmatic realism) của tổng thống Theodore Roosevelt (tổng thống thứ 26, hai nhiệm kỳ 1901-1908) và thứ hai là “tính phóng khoáng lý tưởng” (liberal idealism) của tổng thống Woodrow Wilson (tổng thống thứ 28, hai nhiệm kỳ 1912- 1920). Bàn về cung cách chấm dứt hai cuộc chiến Afghanistan và Iraq, Kissinger bóng bẩy đồng ý với những ai chê tổng thống Obama không lèo lái vững. Nhắc đến những cuộc chiến tranh Hoa Kỳ dính vào rồi bỏ dở nữa chừng tiến sĩ Kissinger không che dấu sự nghi ngờ của ông đối với các nhà lãnh đạo (trong đó có tổng thống Obama) chọn hành động phóng khoáng lý tưởng “kiểu Wilson” cuối cùng đưa đến những thất bại về chính sách ngoại giao. Kissinger viết, “người chỉ trích cho rằng các thất bại đó do sự thiếu khả năng trí tuệ của nhà lãnh đạo, nhưng với các sử gia thì đó là vì người lãnh đạo không giải quyết được mâu thuẫn giữa quân sự và ngoại giao, giữa lý tưởng và thực tế, giữa sức mạnh tổng hợp và tính hợp lý của hành động.” Tuy nhiên Kissinger không đứng hẵn một bên, mặc dù ông thiên về tính thực tế. Ông viết: “Hoa Kỳ không còn là Hoa Kỳ nếu từ bỏ các quan niệm lý tưởng của mình”. Theo ông Hoa Kỳ không thể thiếu Âu châu, một đồng minh then chốt. Nếu hợp tác nhau Hoa Kỳ và Âu châu sẽ có ảnh hưởng lớn đối với các vấn đề trên thế giới và có thể gíúp nhau tránh những quyết định chiến lược sai lầm. Ông Kissinger cảnh giác các nước dân chủ đừng tự cho mình luôn luôn đúng. Ông nghi ngờ một số nguyên tắc “phóng khoáng quốc tế (liberal internationalism) thời thượng, thí dụ nguyên tắc “trách nhiệm bảo vệ” (reaponsibility to protect), nghĩa là nếu một nhà cai trị độc ác với dân mình thì thế giới có quyền can thiệp. Theo Wolfgang Ischinger sự nghi ngờ này của Kissinger là quá đáng vì nguyên tắc “trách nhiệm bảo vệ” có thể giúp bảo vệ trật tự thế giới hơn là tạo bất ổn. Dẫn chứng mùa Xuân A Rập năm 2011 đưa đến sự sụp đổ hằng loạt các nước độc tài ở Bắc Phi châu và Trung đông (những chế độ độc tài do các nước Tây phương tạo ra với hy vọng tạo ổn định) ông Kissinger kết luận rằng sự độc tài không thể duy trì ổn định lâu dài được. Phải cần có dân chủ. Tuy nhiên ván bài Bắc Phi châu không phải dễ. Câu hỏi cho những thập niên tới là “bao nhiêu dân chủ là liều lượng vừa đủ?” * * Cuốn sách của Kissinger xoay quanh chủ đề “quốc gia” (nation-state) là cấu trúc an toàn của thế giới. Ông không cho các định chế quốc tế hay các động lực không có tính quốc gia (nonstate actors) là quan trọng. Ông cho rằng thế giới ổn định trong suốt 100 năm cho đến khi xẩy ra thế giới chiến tranh lần thứ nhất (1914) là nhờ hội nghị Vienna (1814) đặt ra nguyên tắc “cân bằng thế lực giữa các quốc gia có chủ quyền”. Năm 1914, các nước Âu châu phá vỡ sự đồng thuận của Hội nghi Vienna đã đưa đến chiến tranh. Và Kissinger lập luận rằng tình hình thế giới hôm nay không khác gì năm 1914. Nếu các quốc gia đi ra ngoài cái khung tôn trọng chủ quyền quốc gia thì thế giới khó tránh được chiến tranh. Dưới góc nhìn đó Kissinger không mấy phấn khởi về sự hình thành “Cộng đồng Âu châu”, một mẫu “cộng đồng” nhiều nơi trên thế giới đang mô phỏng theo có thể đưa đến sự phá bỏ ranh giới giữa các quốc gia. Ông cho rằng Âu châu là một vùng đất đặc biệt, nơi khai sinh chủ thuyết Westphalia có thể dọ dẫm thí nghiệm mô thức tổ chức mới, nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu áp dụng tại các vùng đất khác trên thế giới. Ông nhấn mạnh, cái khung Westphalia vẫn còn là căn bản của trật tự thế giới hôm nay. Ngoài việc xác định chính sách của các nước lớn là chính, cuốn sách “World Order” của tiến sĩ Kissinger không quên các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến trật tự thế giới như (1) kinh tế toàn cầu, (2) sự thay đổi của thời tiết do độ nóng của khí quyển và (3) sự tiến bộ của kỹ thuật. Toàn cầu hóa làm cho các quốc gia lệ thuộc vào nhau, dựa vào nhau đưa đến những tiến bộ kinh tế và cơm áo, nhưng vấn nạn là toàn cầu hóa cũng làm cho sự cách biệt giàu nghèo càng ngày càng sâu đậm. Toàn cầu hóa giúp các thế lực trên thế giới dùng áp lực kinh tế để ép các nước khác thuần phục thay vì dùng vũ lực. Vũ khí kinh tế hiện nay là vũ khí duy nhất Tây phương dùng áp lực Iran từ bỏ chương trình sản xuất vũ khí nguyên tử và áp lực tổng thống Vladimir Putin thay đổi chính sách xâm lấn Ukraine. Thời tiết, nói chung là bão táp, lụt lội, động đất cũng có thể làm thay đổi trật tự thế giới. Hiện nay các nhà khoa học và một số chính trị gia đang tìm cách kiểm soát sự thay đổi của thời tiết ảnh hưởng đến hàng tỉ người trên thế giới do độ nóng của bầu không khí. Có thể đã chậm, nhưng chậm còn hơn không. Trước một đại họa về thời tiết, những quốc gia yếu kém có thể không đủ khả năng duy trì ổn định quốc gia đưa đến xáo trộn, nhưng trong cơn mất mát chung, thế giới sẽ đứng bên nhau với sáng kiến mới như đã đứng bên nhau sau hoang tàn do thế giới chiến tranh lần thứ hai mang lại. Liên hiệp quốc và các cơ chế tài chánh do hội nghị Bretton Woods (3) thành lập như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (World Bank) hình thành trên đổ nát của thế chiến 2 đã góp phần ổn định thế giới từ năm 1944 đến nay. Về ảnh hưởng của kỹ thuật, Kissinger không thoải mái, nhất là đối với kỹ thuật tin học “internet” mà ông nghĩ nó làm cho con người sống hời hợt bên cạnh sự phức tạp của thế giới. Kissinger viết: “một cái bấm con chuột giúp bạn biết một chi tiết về sử hay địa bạn đang cần, nhưng điều đó không làm cho bạn thông thái hơn.” Đặt hy vọng vào thế giới ảo (cyberspace) để xây dựng và giải quyết các vấn đề thật của thế giới – theo Kissinger – là một ảo tưởng. Nhưng nhiều giới, nhất là giới trẻ không đồng ý với Kissinger. Kỹ thuật (vận chuyển, thông tin...) rõ ràng đã giúp thay đổi cung cách lãnh đạo và kỹ thuật ngoại giao. Các nhà ngoại giao phải sẵn sàng trước ống kính truyền hình, phải có tài thương thuyết, vừa phải có khả năng truyền đạt. Và kỹ thuật thông tin đã thay đổi cách ứng xử của các nước lớn trong lĩnh vực quốc phòng. Phòng chống sự xâm nhập điện toán cũng như khả năng xâm nhập hệ thống điện toán của địch cũng quan trọng không kém trong việc bảo vệ và chế tạo vũ khí tấn công. Qua cuốn “World Order” độc giả thoáng thấy hình như Kissinger ao ước một hội nghị Vienna của thế kỷ 21. Ông nhìn nhận nền chính trị thế giới đang bị ảnh hưởng bởi các ý niệm liên quốc gia (transnational), của sự tiến bộ tin học, của vũ khí giết người tập thể, của nạn khủng bố, và không thể ép vào cái khung Westphalia dựa trên nguyên tắc “chủ quyền” quốc gia, nhưng theo ông quan hệ giữa các siêu cường vẫn là yếu tố then chốt cho sự ổn định của thế giới. Vấn đề là: Ai sẽ là siêu cường? Theo Kissinger, không cần phải có một trận “Chiến tranh 30 năm” để tạo điều kiện cho một tân Westphalia ra đời, và sau đó một Hội nghị Vienna chia lại thế giới. Kissinger tin sẽ có một biến chuyển trong hòa bình. Đó là món quà quý hiếm Kissinger tặng cho những ai không muốn thấy một cuộc so gươm trong thế kỷ 21./. Trần Bình Nam (thuật) April 13, 2015 binhnam@sbcglobal.net www.tranbinhnam.comGhi chú: (1)Jihadist: Người Hồi giáo quá khích chống ảnh hưởng của Tây phương và bất cứ chính phủ Hồi giáo nào không theo luật lệ của đạo Hồi. (2)Thirty-years War: cuộc chiến tranh khốc liệt nhất tại Âu châu từ năm 1618 đến năm1648 giữa các nước theo đạo Tin lành và Thiên chúa giáo La mã, dần dần kéo tất cả các nước lớn vào cuộc. Cuộc chiến tranh làm cho các nước Âu châu kiệt quệ, dân số Đức, Ý và Hòa Lan giảm sút và kết thúc bằng hội nghị Westphalia triệu tập tại Westfalen, Đức quốc đặt căn bản trên “chủ quyền” và “quyền chủ quyền” quốc gia. Khi ảnh hưởng của Âu châu lan ra trên thế giới qua phong trào thiết lập thuộc địa, quan niệm chủ quyền quốc gia trở thành luật quốc tế giúp ổn định hòa bình thế giới. (3)Bretton Woods (bang New Hampshire, Hoa Kỳ). Năm 1944 Liên hiệp quốc họp ký các chính sách tài chánh quốc tế ấn định sự trao đổi tiền tệ quốc tế và khai sinh Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (World Bank).
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 10, 2015 3:41:51 GMT 9
Bà Hillary Gặp Nạn.Hillary chỉ được hậu thuẫn bởi 40% cử tri trong khi một ứng viên CH giả định được 50%...Cuộc vận động tranh cử của bà Hillary Clinton khởi đi một cách không vui lắm. Cho dù phe Cộng Hoà chưa ra tay, nhưng bà đã bị truyền thông “phe ta” chiếu cố khá nặng. Toàn là những chuyện do chính bà đưa đạn cho phe ta bắn. Nhà báo cấp tiến Dana Milbank mới phạng một bài “Sự Giả Dối Của Hillary Clinton” trên Washington Post để đả kích việc bà một mặt hô hào cải tổ luật yểm trợ tiền tranh cử để tránh việc dùng tiền mua chức vị, một mặt đi vận động đại gia Wall Street gây quỹ tranh cử. Thật ra, bà Hillary đang làm một việc mà chính Obama cũng đã làm năm 2008, nhưng khi đó thì Obama không bị chỉ trích là giả dối. Có điều lạ là truyền thông cấp tiến sẵn sàng quỳ mọp tung hô Đấng Tiên Tri, nhưng lại có vẻ không có cảm tình với bà Hillary lắm. Về chuyện emails, NYT vừa tiết lộ bà Hillary sử dụng hai emails với hai tên khác nhau. Cho đến nay không ai biết tại sao, emails nào được sử dụng với tên nào và khi nào, và bà Hillary đã giao nộp cho Bộ Ngoại Giao những emails nào, dưới tên nào. Theo những emails được Bộ Ngoại Giao mới giải mật theo lệnh của một chánh án liên bang, một ngày sau cuộc đột kích tòa lãnh sự Mỹ tại Benghazi, ông Sydney Blumenthal đã email cho bà Hillary, báo cáo ông nhận được tin đây là cuộc đột kích của 21 tên khủng bố, có kế hoạch của al-Sharia, một chi nhánh của al-Qaeda, với khá đầy đủ chi tiết. Tức là bà Hillary đã được báo cáo là khủng bố đánh ngay một ngày sau biến cố, nhưng vẫn khăng khăng cả tuần lập lại quan điểm chính thức của Nhà Nước Obama là đây chỉ là biểu tình tự phát của dân bất mãn vì một đoạn phim phỉ báng Tiên Tri Mohammed. Ở đây phải nói thêm về cái ông Blumenthal này. Ông này trước đây là nhà báo cấp tiến của Washington Post, sau đó, đầu quân làm phụ tá cho TT Clinton. Nhưng ông mau chóng trở thành phụ tá rất thân cận của bà Hillary. Thời gian bà Hillary tranh cử tổng thống năm 2008, ông là chuyên gia về các hoạt động “đen”, hắc ám nhất trong hậu trường, chuyên môn bôi bác, hạ độc thủ đối lập. Sau khi bà Hillary được TT Obama bổ nhiệm Ngoại Trưởng, bà tính cho ông Blumenthal một chức cao cấp, nhưng bị TT Obama phủ quyết. TT Obama biết những đòn đánh ông hiểm độc nhất trong cuộc chạy đua tranh cử giữa hai người là từ ông Blumenthal. Không tha thứ được. Bà Hillary đành chấp nhận, nhưng mang ông Blumenthal vào làm bán thời cho quỹ Clinton Foundation, trả lương 10.000 đô một tháng, trong khi ông vẫn làm việc khác. Coi như thiên hạ đóng tiền cho qũy từ thiện để bà dùng tiền này nuôi đàn em. Ông vẫn giữ liên lạc thường xuyên với bà, coi như là một cố vấn bán chính thức, tai mắt vòng ngoài của bà. Khi biến cố Benghazi xẩy ra, ông đang ở Libya, làm đại diện cho một nhóm đại công ty Mỹ đang tìm cơ hội đầu tư tại đây. Trong tư thế này, ông có nhiều quan hệ với chính khách và đại gia Libya, nên biết được nhiều tin hậu trường. Đặc biệt ông Blumenthal dường như là người duy nhất sử dụng hộp thư email thứ hai, bí mật, của bà Hillary mà báo New York Times vừa khui ra. Rắc rối email chưa giải quyết xong thì lại đến những tiết lộ mới về cách hai ông bà Clinton kiếm tiền. Như mọi người đã biết, ông Clinton từ ngày mãn nhiệm đã kiếm hơn 120 triệu đọc diễn văn, và quỹ Clinton Foundation đã thu được hơn hai tỷ. Và người ta cũng dần dần khám phá ra phần lớn những số tiền khổng lồ này đều do các chính khách, đại gia, hay công ty ngoại quốc góp. Ở đây có một yếu tố rất quan trọng. Luật Mỹ tuyệt đối cấm cá nhân và công ty ngoại quốc không được ủng hộ tiền bạc cho các chính khách và đảng phái Mỹ. Do đó, từ trước đến nay, các công ty và chính quyền ngoại quốc chỉ có cách “hối lộ” để mua ảnh hưởng là trả tiền thù lao cho chính khách Mỹ đi đọc diễn văn, viết báo, dự lễ lạc này nọ, hay mời đi du lịch, yến tiệc. Hay yểm trợ tiền cho các quỹ từ thiện vớ vẩn của họ, trên nguyên tắc hoàn toàn có tính cách từ thiện, không liên quan đến chính trị. Cuốn sách “Clinton Cash” mới phát hành là một cáo trạng quan trọng cần được đọc bởi tất cả những người nào muốn biết về chuyện tiền bạc của hai ông bà Clinton, cho dù ủng hộ hay chống đối bà Hillary. Cuốn sách nêu đích danh tên tuổi những người yểm trợ tiền, khoản tiền, và kể luôn những quyết định của thượng viện khi bà Hillary làm nghị sĩ, hay của Bộ Ngoại Giao khi bà làm Ngoại Trưởng liên quan đến những yểm trợ đó. Một ví dụ trong cả mấy chục chuyện cuốn sách nêu ra. Nhà độc tài Nazarbayev của xứ Kazakhstan tới phiên được chỉ định làm Chủ Tịch một tổ chức của Liên Hiệp Quốc (OSCE). Bộ Ngoại Giao Mỹ phản đối vì ông này là độc tài, chuyên đàn áp, bắt bớ tù đày đối lập, là tổng thống muôn năm từ ngày Kazakhstan thoát khỏi tay Liên Xô. Mỹ mà phản đối thì ông này vô phương làm chủ tịch OSCE. Cựu TT Clinton bất thình lình được mời qua Kazakstan, yến tiệc linh đình, trên nguyên tắc là để bàn chuyện chống AIDS trong khi cả nước với mấy chục triệu dân chỉ có vài ba trăm người bị AIDS. Ông cũng được mời đọc một bài diễn văn trả 250.000 đô. Rồi sau đó, bất thình lình tổng thống và hàng loạt đại gia, chính khách Kazakhstan yểm trợ cả mấy triệu cho quỹ Clinton Foundation để “chống AIDS”. Ít lâu sau, theo chỉ thị của bà Ngoại Trưởng Hillary, Bộ Ngoại Giao Mỹ xét lại hồ sơ nhân quyền của Kazakhstan và rút lại sự phản đối, ông Nazarbayev được làm chủ tịch OSCE. Ngẫu nhiên? Dĩ nhiên chưa kể việc ông Clinton cũng đã làm môi giới giới thiệu ông Nazarbayev cho một công ty giao dịch uranium Canada, để rồi công ty này yểm trợ 30 triệu đô cho Clinton Foundation, và hứa sẽ yểm trợ thêm 100 triệu nữa. Không rõ cuộc “giao dịch” đáng giá tổng cộng bao nhiều mà ông Clinton được trả ơn ghê gớm như vậy. Một ví dụ khác. Bộ Ngoại Giao Mỹ tố cáo một số công ty truyền thông quốc tế –international telecommunication companies- tiếp tay với các quốc gia độc tài, nhất là Iran khi giúp những phương tiện kiểm soát thông tin cũng như điều tra nguồn tin, có thể giúp tìm được nguồn gốc những blog đối lập, hay nghe lén điện thoại và bắt tù họ. Trong đó có nêu đích danh công ty điện thoại Ericsson, lớn nhất của Thụy Điển mà cũng là “đối tác” lớn nhất của Iran. Bất thình lình, cựu TT Clinton được Ericsson mời qua Thụy Điển đọc diễn văn một tiếng, trả thù lao vô địch 750.000 đô. Vài tuần sau, Bộ Ngoại Giao công bố danh sách các công ty thủ phạm và các biện pháp trừng phạt của Mỹ. Hãng Ericsson không còn trong danh sách mà cũng chẳng bị bắt phải thay đổi quan hệ với Iran gì hết. Ngẫu nhiên nữa? Cuốn sách Clinton Cash cũng ghi rõ dưới thời TT Bush, khi bà Hillary còn làm thượng nghị sĩ, thù lao diễn văn của ông Clinton bình thường 100.000 đô, thỉnh thoảng lên đến 250.000 đô một bài. Khi bà Hillary làm Ngoại trưởng, thù lao của ông Clinton vọt lên trên 500.000 đô. Có nhiều trường hợp lên tới 700-750.000 đô. Có khi đi Trung Cộng được trả 850.000 đô. Nếu kể luôn cả chi phí máy bay, khách sạn, yến tiệc, cho ông Clinton và tùy tùng (cựu tổng thống không bao giờ đi đâu một mình, luôn luôn có phụ tá, thư ký, thông ngôn và cận vệ), một bài diễn văn của ông Clinton xấp xỉ gần một triệu đô, trong những xứ mà đa số dân sống với 1 đô một ngày. Báo Washington Post vừa xì tin bí mật: trong năm 2014, bà Hillary cũng đi đọc diễn văn và lãnh được gần 12 triệu, trong đó có một ngày bà đi đọc diễn văn hai lần, lãnh tổng cộng 625.000 đô. Cộng với khoảng 25 triệu của ông Clinton, chỉ trong một năm 2014, hai ông bà Clinton đã kiếm 37 triệu đô tiền diễn văn, chưa kể tiền bán sách, tiền hưu tổng thống, thương nghị sĩ, ngoại trưởng, … Ngay cả cô con gái diệu, chân ướt chân ráo mới tốt nghiệp đại học, chưa kịp làm gì hết ngoài chuyện lấy chồng và ôm bầu, cũng được mời đi đọc diễn văn trả 75.000 đô. Sẽ không là chuyện lạ nếu mai này, có đài truyền hình trả vào chục ngàn đô để chúng ta có dịp nghe tiếng khóc của cháu ngoại bà Hillary. Để có một khái niệm về giá một bài diễn văn, cựu TT Bush và cựu PTT Al Gore lãnh trung bình 100.000 đô, cựu TĐ Romney lãnh 60.000 đô, và tướng Colin Powell được trả 50.000 đô. Việc gia đình Clinton lãnh được quá nhiều tiền qua các bài diễn văn và qua quỹ từ thiện, trên nguyên tắc hoàn toàn hợp pháp, nhưng trên thực tế chẳng che được mắt thánh của bàng dân thiên hạ, vì thực sự chỉ là những tiền hối lộ quá lộ liễu. Lộ liễu hơn cả chuyện các đại gia Chợ Lớn ngày xưa mời các quan chức Sàigòn đánh phé rồi cứ giả bộ thua miết. Đặc biệt đáng lưu ý là những số tiền khổng lồ mà ông Clinton và quỹ Clinton Foundation nhận được, không phải là đến từ những quốc gia giàu có sung túc như Pháp, Anh, Đức,... mà đến từ những đại gia và chính khách của những nước nổi tiếng là nghèo, chậm tiến, độc tài, tham nhũng nhất thế giới như Kazakhstan, Haiti, Congo, Nigeria, Ethiopia, Sudan, Colombia, Trung Cộng,... Rõ ràng là hai ông bà Clinton một mặt thì dõng dạc tuyên bố chủ trương chống đại gia làm giàu trên lưng dân lao động, mặt khác hốt bạc triệu từ những đại gia này, từ những đại gia Wall Street làm giàu bằng cách cấp nợ xấu cho dân nghèo cho đến các đại gia tham nhũng và độc tài gộc của mấy xứ chậm tiến. Toàn là những đại gia hắc ám. Họa vô đơn chí, mới đây lại có tin anh George Stephanopoulos, ký giả của đài truyền hình ABC, trong vài ba năm qua, đã đóng góp ba lần tiền cho quỹ Clinton Foundation, tổng cộng 75.000 đô, trên danh nghiã để yểm trợ các sinh hoạt chống bệnh AIDS của quỹ. Vài ngày sau, lại lòi ra thêm tin anh này trong mấy năm qua, chẳng phải chỉ yểm trợ tiền, mà còn tích cực tham gia nhiều hoạt động của quỹ. Stephanopoulos là một thứ cánh tay mặt, tay trái của TT Clinton, nhất là trong thời gian ông tranh cử tổng thống lần đầu tiên, năm 1992, chẳng những là một cố vấn chiến lược, mà còn là chuyên viên đặc trách “gỡ rối”. Mỗi lần ứng viên Clinton bị rắc rối, thì anh này lại ra trước truyền thông bào chữa, bênh vực Clinton rồi sỉ vả đối lập Cộng Hòa. Sau khi Clinton vào Tòa Bạch Ốc, anh được bổ nhiệm làm Giám Đốc Thông Tin cho tân tổng thống. Tức là làm cái loa cho TT Clinton. Rồi anh từ chức và nhẩy qua làm ký giả cho đài ABC. Với tư thế cựu cố vấn chiến lược cho TT Clinton, anh đã leo thang rất nhanh tại ABC dưới thời TT Clinton, vì anh ta có quan hệ với chính quyền, dễ dàng có những tin hậu trường đặc biệt, hay có thể thu xếp phỏng vấn những tai to mặt lớn của chính quyền Clinton. Thế nhưng anh này lại có gian ý. Bí mật hợp tác với hai ông bà Clinton, cộng tác với quỹ từ thiện Clinton Foundation, và ủng hộ tiền bạc mạnh mẽ cho tổ chức này. Trên nguyên tắc, chẳng có gì sai trái hay phạm pháp. Nhưng vấn đề là trong cái thế của anh Stephanopoulos, thì cần phải “thành thật khai báo” cho đài ABC và thiên hạ biết. Đằng này chẳng những không khai báo mà còn lên mặt trịch thượng, mời tác giả cuốn “Clinton Cash” lên TV phỏng vấn, hạch hỏi bằng chứng và tìm cách đả phá lập luận của tác giả. Hiển nhiên, với tư cách một nhà báo khách quan thật sự thì đây là những câu hỏi chính đáng, nhưng với tư cách là một người yểm trợ tiền bạc lén lút không khai báo thì đây chỉ có thể là thái độ gian dối khó chấp nhận được. Phe ta bênh vực anh Stephanopoulos, cho rằng chuyện anh ủng hộ tiền cho quỹ Clinton Foundation chẳng có gì đáng trách. Anh ủng hộ tiền cho quỹ nghiên cứu chống bệnh AIDS thôi, không dính dáng gì đến chính trị. Bênh vực kiểu này đúng là áp dụng chiến thuật … đánh trống lảng. Không ai chỉ trích chuyện anh yểm trợ. Người ta chỉ trích chuyện anh yểm trợ mà dấu nhẹm, đến lúc bị bắt quả tang thì mới nhận tội. Anh bị bắt quả tang vì có một anh nhà báo khác đi điều tra danh sách “mạnh thường quân” của quỹ Clinton Foundation –có cả mấy trăm ngàn người đã tặng tiền từ cả chục năm qua-, thấy được tên anh Stephanopoulos chôn vùi trong đó, hỏi lại anh có đúng vậy không, xin anh cho biết ý kiến. Khi đó anh này mới chịu lên truyền hình nhìn nhận là có đóng góp 75.000 đô nhưng không hề nói cho ai biết. Rồi xin lỗi đài ABC và xin lỗi thiên hạ. Dù sao đi nữa, thì thiên hạ cũng sẽ coi như tay anh đã nhúng chàm tới vai rồi. Có nhiều triển vọng anh sẽ mất khán thính giả mạnh. Chưa chi thì đảng CH đã đánh tiếng không chấp nhận anh làm điều hợp viên cho các cuộc tranh luận tổng thống bên CH nữa. Đài ABC méo mặt vì mới ký hợp đồng 7 năm, đáng giá 105 triệu đô với anh nhà báo này. Kết quả của các trận mưa bão liên tục là bà Hillary đã phải trốn biệt tích từ gần hai tháng nay. Báo chí cho biết từ ngày bà Hillary tuyên bố ra tranh cử đầu tháng Tư cho đến trung tuần tháng Năm, bà đã trả lời tổng cộng đúng… 13 câu hỏi của báo chí, trong khi ông Jeb Bush đã trả lời khoảng hơn 500 câu hỏi của báo chí và cử tri. Bị chỉ trích quá, cách đây vài tuần, bà Hillary đành mở miệng, trả lời thêm đúng 6 câu hỏi của báo chí. Chẳng có câu trả lời nào có ý nghiã gì, chỉ là “chung chung”. Thật ra, trong tư thế độc diễn của bà Hillary, bà chẳng có nhu cầu chường mặt ra làm gì, nói nhiều quá như ông Jeb, sẽ khó tránh khỏi việc nói hớ rồi bị bắt bẻ. Tội gì? Dù vậy, cũng vẫn chỉ là chuyện trốn bão tạm thời. Không sớm thì muộn, bà Hillary cuối cùng cũng sẽ phải xuống núi lại và trực diện với báo chí, cử tri và... ứng viên CH. Khi đó, những câu hỏi về Benghazi, emails, tiền bạc, về liên hệ với Stephanopoulos, luôn cả biểu quyết cho TT Bush đánh Iraq của bà,... sẽ tràn ngập mặt báo. Bà Hillary đang gặp khó khăn với truyền thông phe ta thật, nhưng phe Cộng Hoà cũng được chiếu cố rất kỹ. Mới đây, New York Times đã “bật mí” một tin “kinh hoàng”. Hai vợ chồng ông ứng viên CH Marco Rubio là những kẻ “phạm pháp liên tục”! Ông Rubio đã chạy xe quá tốc độ tổng cộng tới... bốn lần trong gần 20 chục năm qua. Quá ghê gớm! Cả bà Rubio cũng vậy. Liên tục bị phạt vì chạy quá tốc độ. Có lần trong khu tư gia, tốc độ giới hạn là 15 miles một giờ, mà bà dám chạy với tốc độ bạt mạng... 23 miles! Hãi hùng thay! Đây là tin bí mật do đặc phái viên của NYT khổ công xuống Florida lục lọi cả mấy tháng trời. Kết luận của NYT? Ông Rubio là người quá hấp tấp, lái xe quá nhanh mà cũng muốn vào Tòa Bạch Ốc quá sớm, mới đắc cử thượng nghị sĩ có 4 năm. NYT dĩ nhiên quên mất TNS Obama chạy đua vào Tòa Bạch Ốc chỉ 2 năm sau khi vào Thượng Viện. Trở lại câu chuyện bà Hillary, tuy bà vẫn còn chễm trệ trên ngai, nhưng cái ghế càng ngày càng lung lay mạnh. Một thăm dò mới nhất của cơ quan Vox Populi cho thấy tại những tiểu bang then chốt, có tiếng nói quyết định Colorado, Florida, Iowa, Nevada, Ohio và Virginia, bà Hillary chỉ được hậu thuẫn bởi 40% cử tri trong khi một ứng viên CH giả định được 50%, phần còn lại chưa có ý kiến. Nếu quả thực bà Hillary thua tại tất cả các tiểu bang này thì dĩ nhiên, bà sẽ không thể nào vào Tòa Bạch Ốc được. Nhìn vào những xì-căng-đan emails và gây quỹ trên, thật khó mà hiểu được tại sao bà Hillary vẫn được ủng hộ mạnh như ta thấy hiện nay. Nếu bà đắc cử tổng thống, lịch sử Mỹ sẽ ghi nhận một cặp vợ chồng duy nhất đã được bầu làm tổng thống, với ông chồng dính dáng vào xì-căng-đan sex xấu hổ nhất lịch sử, và bà vợ dính dáng vào những lem nhem tiền bạc lớn lao và đen tối nhất đến độ gần 60% dân Mỹ cho là bà không lương thiện và không đáng tin. Nhà báo lão thành William Safire của NYT từng gọi bà Hillary là người “nói láo bẩm sinh”, congenital liar! Vậy mà vẫn bầu? Đó là cách chọn lãnh đạo ưu tú nhất theo mô thức dân chủ Mỹ sao? (07-06-15) Vũ Linh
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 19, 2015 12:43:47 GMT 9
So Sánh Obama – Hillary
Vũ Linh
...chính sách của đảng Dân Chủ, chủ trương “hoà hợp hòa giải” tối đa với chính quyền CSVN...
Ứng viên đảng Dân Chủ hiện nay có hy vọng đắc cử bầu sơ bộ trong nội bộ là bà Hillary Clinton, cho dù đã có 4-5 ứng viên hay chuẩn ứng viên khác. Tất cả dường như chỉ đóng vai trò làm cảnh, tạo hứng thú chút đỉnh cho cuộc bầu bán bên đảng Dân Chủ mà kết quả cả thế giới đã biết. Không ai nghĩ bất cứ ứng viên nào có một mảy mai hy vọng hạ được bà vô địch Hillary. Sự kiện chẳng ai buồn tổ chức tranh luận trong đảng Dân Chủ cho tới tháng 10 hay 11 (cho có lệ) nói lên rõ ràng vị thế của bà Hillary.
Những tỳ vết trong các vụ lem nhem tiền bạc và email sẽ không có nhiều tác dụng ngăn cản bà. Những mánh mung của bà, cử tri Dân Chủ đã chấp nhận từ lâu rồi. Thời buổi truy tố Nixon là chuyện cách đây gần nửa thế kỷ. TT Nixon phải từ chức vì ngay cả các ông Cộng Hoà cũng công bằng chấp nhận Nixon có tội phải bị nghiêm trị. TT Clinton bị đàn hạch nhưng không phải từ chức vì tất cả các ông bà Dân Chủ đứng sau lưng Clinton, cho dù nhiều người xấu hổ vì hành động của TT Clinton. Chính trị Mỹ càng ngày càng bị tinh thần phe phái chi phối, phân hoá rõ nét giữa phe ta và phe địch, đưa đến tình trạng không chấp nhận những cái sai của phe ta và những cái đúng của phe địch. Bây giờ bất chấp bà Hillary phạm tội tầy trời cỡ nào thì đảng Dân Chủ cũng vẫn nhắm mắt ủng hộ bà. Chẳng những vậy, nhiều người sẽ còn tìm cách ca tụng bà, phục tính kiên trì, quyết tâm vào Nhà Trắng bằng mọi giá của bà.
Cụ Bernie Sanders đang lên như diều, với thăm dò mới nhất cho thấy ông này thắng bà Hillary tới 7 điểm tại tiểu bang then chốt New Hampshire, một chuyện khó tưởng tượng nổi. Nhưng ông Sanders lại là ứng viên cực tả, khó được hậu thuẫn ngoài vùng đông bắc Mỹ. Quan trọng hơn nữa, đảng Dân Chủ không có ai khác. Bất cứ ai trong mấy ứng viên còn lại đều sẽ bị Cộng Hòa nuốt chửng ngay. Bà Hillary là hy vọng duy nhất của đảng Dân Chủ.
Một điều miả mai đáng chú ý: đảng Dân Chủ tự cho là đảng của tương lai, nhưng hai ứng viên hàng đầu cũng là hai cụ ứng viên già nhất lịch sử Mỹ!
Bây giờ, ta hãy xem thử bà Hillary khác TT Obama chỗ nào để có thể mường tượng nếu bà Hillary đắc cử tổng thống luôn thì ta sẽ có một vị tổng thống như thế nào.
KINH NGHIỆM
Nếu nói về quá trình và kinh nghiệm thì hiển nhiên thượng nghị sĩ Obama khi ra tranh cử năm 2008 chỉ đủ đứng hầu quạt cho bà Hillary, tuy khả năng mồm mép của bà Hillary lại thuộc hạng học trò của Obama. Bà Hillary vừa đậu luật sư tại Yale xong đã lăn lộn trong chính trường Mỹ ngay lập tức khi bà tham gia vào nhóm luật sư của đảng Dân Chủ tại Thượng Viện truy tố TT Nixon về xì-căng-đan Watergate, cuối cùng đưa đến việc TT Nixon phải từ chức. Đó là đầu thập niên 1970, cách đây hơn 40 năm.
Sau đó, bà trở thành Đệ Nhất Phu Nhân Arkansas, tích cực tiếp tay chồng, cho đến độ có thể nói là thực sự đã “tham chính” luôn. Sau vài nhiệm kỳ, thì ông thống đốc trẻ măng đầy tham vọng bắt đầu chạy đua vào Nhà Trắng, và trong bất ngờ của cả thế giới, ông... ngáp phải ruồi, đắc cử tổng thống.
Bà Hillary thành Đệ Nhất Phu Nhân cả nước, và đóng vai này trong 8 năm. Trong những năm đó, ai cũng biết bà là một “đồng tổng thống” chia sẻ quyền hành với ông chồng, tích cực tham gia việc “triều chính” một cách công khai, không có chuyện ngồi sau rèm như bà Từ Hy Thái Hậu.
Ngay từ đầu, bà đã được ông chồng trao cho trách nhiệm thực hiện cải tổ y tế, dự tính tung ra Hillarycare trong năm đầu của hai ông bà tân tổng thống. Bà thất bại, nhưng học được nhiều bài học về bảo hiểm y tế, và quan trọng hơn nữa, hiểu được những khó khăn làm việc với quốc hội, cho dù quốc hội do phe ta kiểm soát.
Sau khi mãn nhiệm kỳ chung, bà nhẩy ra làm thượng nghị sĩ, rồi sau đó tranh cử tổng thống luôn. Một lần nữa thất bại, nhưng bà lại học được thêm nhiều bài học đáng giá về chính trị Mỹ, trong khi vẫn còn là tiếng nói lớn trong chính trường. Lớn đến độ TT Obama, để tránh hậu hoạn phải đối phó với ứng viên Hillary năm 2012, đã dâng cho bà chức ngoại trưởng. Bà cũng nhìn thấy ngay đây là bàn đạp tốt nhất để duy trì tiếng nói cụ thể hơn việc nói bá láp suốt ngày ở Thượng Viện cùng với 99 ông bà đồng nghiệp. Đây cũng là cơ hội mang tên tuổi ra cho cả thế giới biết.
Khi ra tranh cử tổng thống, thượng nghị sĩ Obama có vỏn vẹn 2 năm kinh nghiệm tại Thượng Viện, vẫn còn bận đi xem phòng nào ở đâu, và bắt tay làm quen với các đồng nghiệp, chưa kịp làm gì khác. Trước đó ông đã làm nghị sĩ tại quốc hội tiểu bang Illinois được hơn 6 năm, nổi tiếng ở điểm chuyên môn biểu quyết “có mặt” cho đỡ nhức đầu. Trước khi có dịp biểu quyết “có mặt”, ông Obama chỉ là một anh tổ chức cộng đồng. Thực tế mà nói, cái kinh nghiệm này chỉ đáng cho ông Obama ra tranh cử... hội đồng tỉnh Riverside. Nhưng dĩ nhiên, nhờ tài mồm mép hơn người, và nói cho ngay cũng nhờ màu da, ông đã được công kênh vào Nhà Trắng.
Sau lần thử lửa với ông “nói nhiều làm ít”, thiên hạ bây giờ lạnh cẳng và muốn trở về với người có kinh nghiệm. Và với kinh nghiệm nhiều như vậy, người ta có thể tin bà tổng thống Hillary sẽ gặp ít khủng hoảng, ít thất bại hơn TT Obama.
THÀNH QUẢ
Nói cho ngắn gọn cả bà Hillary lẫn ông Obama đều chẳng có thành quả gì ghê gớm để trình làng hết.
Trong thời gian 8 năm bà Hillary làm nghị sĩ, đã không có một luật nào ra đời mang tên của bà hết. Biểu quyết đáng ghi nhớ nhất của bà là chấp nhận cho TT Bush đánh Afghanistan, rồi sau đó đánh Iraq. Quyết định về Iraq đã là một vết đen lớn của bà trong mắt các cử tri cấp tiến của đảng Dân Chủ, mà cho đến bây giờ, bà vẫn loay hoay biện minh.
Rồi bà qua làm ngoại trưởng. Cho đến nay, đố ai nêu ra được một thành quả cụ thể nào. Bà khoe đã bay hơn một triệu dặm, chỉ khiến bà Carly Fiorina, ứng viên TT Cộng Hoà nhắc nhở bay nhiều không phải là một thành quả mà chỉ là một hoạt động. Thành quả đối ngoại, trong thời bà trách nhiệm, thật ra là một chuỗi thắng lợi của... những đối thủ của Mỹ: từ Putin chiếm Crimea, tới Trung Cộng lộng hành Biển Đông, ISIS chiếm nửa Iraq và Syria, Libya đại loạn hơn Somalia, Syria giết hơn 200.000 dân, cậu Ấm Ủn tiếp tục khai triển hoả tiễn nguyên tử, Iran vẫn bình chân như vại, đồng minh bực mình vì bị nghe lén, … Như vậy thành quả của chính sách đối ngoại của bà Hillary là gì?
Tám năm thượng nghị sĩ là tám năm làm quen, thiết lập “quan hệ” với các chính khách Mỹ. Tám năm ngoại trưởng là tám năm làm quen, thiết lập “quan hệ” với các chính khách quốc tế. Cả cuộc đời chính trị của bà Hillary cho đến nay chỉ là xây dựng nền tảng “quan hệ” cho cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc.
QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ
Năm 2008, ứng viên Obama chỉ trích kế hoạch bảo hiểm y tế của ứng viên Hillary là thiên tả cực đoan khi bà Hillary chủ trương tất cả những ai không mua bảo hiểm sẽ bị phạt. Ông Obama cho là quá cực đoan, và kêu gọi bảo hiểm y tế chỉ bắt buộc cho trẻ em thôi. Hiển nhiên bà Hillary khi đó thiên tả hơn ông Obama.
Cũng khi đó, ông Obama kịch liệt chỉ trích bà Hillary đã biểu quyết cho TT Bush đánh Iraq. Rõ ràng là bà Hillary bảo thủ hơn ông Obama.
Thế thì tóm lại ai cấp tiến hay bảo thủ hơn ai?
Muốn biết rõ, ta cần gạt qua những cú đánh võ miệng trong cuộc tranh cử, mà phải nhìn vào thực tế. Qua mấy năm cầm quyền của TT Obama và mấy năm làm ngoại trưởng của bà Hillary, người ta có thể thấy ông Obama rõ ràng là thiên tả hơn.
Về y tế, ông Obama chỉ trích bà Hillary thiên tả, nhưng thật ra chỉ là cái mánh tranh cử vì sau đó ông đã mang tất cả những ý kiến của bà Hillary vào Obamacare. Ông Obama cũng là người đi trước bà Hillary trong những vấn đề như cổ võ hôn nhân đồng tính, ân xá trọn vẹn di dân lậu, ban phát trợ cấp đủ loại, đánh thuế tối đa những “nhà giàu”. Đây cũng là những quan điểm của bà Hillary, nhưng trong tất cả mọi vấn đề, bà đều lên tiếng sau TT Obama. Một phần có lẽ vì “tôn ti trật tự” để tổng thống nói trước, một phần vì bà không dám hung hăng đi quá xa quá sớm. Bà Hillary là người thận trọng hơn bất cứ chính khách nào, đặc biệt là so với ông chồng vô trật tự, vô kỷ luật.
Thời gian gần đây, để chống đỡ những tấn công của ông già Bernie Sanders, bà Hillary đã ngả mạnh về phiá tả, nhưng tinh mắt một chút thì thấy ngay đây chỉ là trò thời cơ lấy phiếu thôi. Trên căn bản, bà Hillary gần với ông chồng hơn, tức là ôn hòa, không cấp tiến quá mức như TT Obama. Dù vậy, bà cũng vẫn không phải là người hùng tranh đấu cho giới trung lưu như bà đang hứa đâu.
Trong vấn đề quốc phòng, an ninh, bà Hillary đã chứng tỏ rõ ràng diều hâu hơn TT Obama rất nhiều. Trong hồi ký của bà, bà đã thẳng tay chỉ trích TT Obama yếu đuối, lửng lơ cá vàng vì không biết phải làm gì tại Iraq cũng như tại Syria. Bà Hillary cũng gián tiếp đổ trách nhiệm ISIS bành trướng lên đầu TT Obama vì cái bệnh yếu đuối, gãi đầu gãi tai, không dám có hành động dứt khoát. Bà diều hâu hơn vì hai lý do. Thứ nhất là bản tính bà cứng rắn hơn ông Nobel Hoà Bình vừa đánh vừa run. Thứ nhì, bà bị mặc cảm là phụ nữ, sợ bị thiên hạ có thành kiến cho là yếu đuối, nên sẽ cố gắng phá bỏ thành kiến đó bằng thái độ cứng rắn hơn. Do đó, ta có thể mường tượng một người lãnh đạo cứng rắn, có bản lãnh hơn xa ông tổ chức cộng đồng, xa hơn cả ông chồng chỉ lo chạy theo mấy em... chân ngắn ngực nở.
CHÍNH SÁCH TRỊ QUỐC
Bà Hillary sẽ không tiếp tục chính sách của Obama, ít nhất là trên phương diện đối ngoại.
Trong chính sách đối nội, bà Hillary là một chính khách thính mũi và thời cơ, đã nhìn thấy khuynh hướng cấp tiến mỵ dân đang trong thế thời thượng nên sẽ đi xa hơn TT Obama ít nhất là trong nhiệm kỳ đầu, để bảo đảm việc tái đắc cử năm 2020.
Bà Hillary chắc chắn sẽ có dịp bổ nhiệm một hay hai thẩm phán TCPV. Bà sẽ lựa người theo khuynh hướng cấp tiến và TCPV sẽ chuyển hướng mạnh hơn nữa qua phiá cấp tiến. Đây là một vấn đề ít người để ý, nhưng vai trò của tổng thống hết sức quan trọng vì tổng thống là người bổ nhiệm thẩm phán TCPV, và những vị này có thể thay đổi hướng đi của cả xã hội về lâu về dài. Biết đâu bà Hillary sẽ bổ nhiệm cựu TT Obama vào TCPV?
Obamacare thực sự đã lấy ý kiến từ Hillarycare. Do đó, bà Hillary sẽ xúc tiến mạnh việc áp đặt Obamacare.
Trong vấn đề lao động, bà Hillary sẽ chủ trương đẩy mạnh việc tăng lương tối thiểu lên 15 đô để lấy điểm với cử tri lao động cũng như để được nghiệp đoàn ủng hộ. Bà Hillary rất chú ý đến các nghiệp đoàn, do đó đã công khai chống lại TT Obama trong vụ TPP (hiệp ước thương mại liên Thái Bình Dương) để đứng về phiá các nghiệp đoàn.
Bà cũng sẽ tiếp tục “cuộc chiến” đòi tăng thuế mấy ông nhà giàu, sẽ tiếp tục sỉ vả nhà giàu, bài bác tài phiệt Wall Street nhưng sẵn sàng nhận bạc triệu yểm trợ của họ. Cá nhân bà và cả ông chồng sẽ “từ chức” khỏi Quỹ Clinton Foundation, không dính dáng đến các hoạt động gây quỹ hay chi tiêu của quỹ, nhưng ai cũng hiểu thực tế như thế nào. Dù sao thì ông chồng cũng phải kéo thắng tay, bớt đi đọc diễn văn lãnh cả trăm triệu.
Nhưng rồi cũng vẫn còn nhiều vấn đề mà bà Hillary khó làm được gì nên chuyện. Chẳng hạn như mâu thuẫn trắng đen, hay vấn đề kiểm soát súng đạn, di dân lậu. Đây là những khúc xương lớn của Mỹ mà tất cả các tổng thống, bất kể Dân Chủ hay Cộng Hoà, đều mắc nghẹn mà không có được giải pháp gì.
Trong chính sách đối ngoại, bà Hillary sẽ đối phó một cách mạnh tay hơn những ý đồ bành trướng của Putin, Tập Cận Bình, ISIS và khủng bố nói chung, Syria, và ngay cả Bắc Hàn. Có thể đoán chừng bà Hillary sẽ mạnh miệng hơn với TC trong việc bênh vực các quốc gia vùng Biển Đông.
Nghe có vẻ chéo cẳng ngỗng, nhưng tóm lại, so với TT Obama, đối nội bà sẽ thiên tả hơn trong khi đối ngoại bà sẽ thiên hữu hơn.
Nói chung, trên nhiều khiá cạnh, bà sẽ là một người lãnh đạo hữu hiệu, ít sai lầm hơn TT Obama nhiều. Cử tri Dân Chủ đã làm một sai lầm lớn khi lựa Obama thay vì lựa bà Hillary năm 2008. Qua năm 2012, cử tri lại một lần nữa bầu cho TT Obama, chẳng qua vì bản tính con người, ít khi chịu nhìn nhận sai lầm, đã phóng lao bầu cho Obama năm 2008 thì bây giờ phải theo lao bầu nữa thôi. Đưa nước Mỹ đến tình trạng khá bết bát hiện nay.
TÍNH TÌNH CÁ NHÂN
Ở đây, sự khác biệt giữa hai người khá rõ nét. Dù đồng quan điểm hay không với TT Obama, thiên hạ cũng phải nhìn nhận ông không mánh mung, lươn lẹo như bà Hillary. Có thể ông là người đến từ bãi chính trường Chicago nên cũng ma đầu không thua ai, nhưng dù sao, ông cũng khéo léo hơn, không trắng trợn như bà Hillary. TT Obama không nói dối quanh, thẳng tay kiếm tiền thô bạo trong khi miệng vẫn than “gần phá sản”, “tranh đấu cho dân nghèo”. Qua những nói dối quanh liên quan đến emails và quỹ Clinton Foundation, ta thấy bà Hillary mánh mung, dối trá hơn TT Obama nhiều. Bà cũng giả dối mỵ dân hạng nặng khi một mặt thì hô hào giúp sinh viên, bỏ học phí đại học, một mặt thì chém các đại học hơn hai triệu đô tiền đọc vài bài diễn văn.
TT Obama là vua hứa cuội, hứa một trăm việc không làm được hai, nhưng dù sao thì hứa cuội cũng là mô thức hoạt động chung của tất cả chính trị gia, khác với “nói láo bẩm sinh” của bà Hillary.
Việc bà Hillary sẵn sàng chấp nhận những lem nhem thật xấu hổ của ông chồng chỉ vì bằng mọi giá muốn vào Tòa Bạch Ốc chứng tỏ bản lãnh cao của một người đầy tham vọng. Ông Obama hiển nhiên cũng rất nhiều tham vọng, nhưng ông chưa làm gì quá đáng đến mức của bà Hillary. TT Obama cũng chứng tỏ là một người chồng và cha gương mẫu, trong khi bà Hillary hiển nhiên là người mẹ gương mẫu nhưng đã đóng vai trò người vợ một cách...đáng thắc mắc. Trong khi ông chồng lem nhem lung tung thì thay vì trách chồng, lại ủng hộ chồng, cho chồng là nạn nhân đáng thương của mấy cô gái háo danh và quay qua sỉ vả họ, nhưng lại vẫn tự vỗ ngực là tiếng nói bảo vệ nữ quyền.
Nếu muốn so sánh trên toàn diện, ta có thể nói bà Hillary gần với TT Nixon, trong khi TT Obama gần với TT Carter hơn.
VIỆT NAM
Chính sách mở cửa, thân thiện tối đa với CSVN của TT Obama sẽ được thúc đẩy mạnh hơn với bà Hillary nếu bà đắc cử tổng thống. TT Clinton có thể nói là tổng thống Mỹ thân thiện với CSVN nhất và bù lại, được CSVN hoan nghênh nhất. Ông đã đi thăm VN 5 lần.
Chính sách thân thiện này sẽ không giúp cải tiến dân chủ hay nhân quyền tại VN nói chung, mà chỉ giúp cứu được một vài cá nhân chống đối CS quá nổi tiếng như bà Trần Khải Thanh Thủy hay ông Điếu Cầy thôi. Cho những người này qua Mỹ có lợi cho cả... ba bên. Ông Điếu Cầy được tự do, Mỹ được tiếng tranh đấu cho nhân quyền tại VN, CSVN bớt được một người chống đối ồn ào để rồi họ qua Mỹ vài ba tháng sau là đi vào quên lãng. Hiệu quả hơn là bắt nhốt họ để họ biến thành những người hùng được cả thế giới nhắc nhở.
Chính sách thân thiện với CSVN phục vụ quyền lợi cũng như chiến lược Á Châu của Mỹ. Tuy nhiên chính sách này đã và sẽ tiếp tục khiến cho những dân tỵ nạn đang ủng hộ đảng Dân Chủ bối rối không ít, loay hoay tìm cách biện giải. Họ sẽ tiếp tục trực diện một mâu thuẫn lớn, một mặt là chính sách của đảng Dân Chủ, chủ trương “hoà hợp hòa giải” tối đa với chính quyền CSVN sau khi đã bức tử VNCH và chống việc nhận dân tỵ nạn, và mặt khác là với tư cách một người tỵ nạn, làm sao ủng hộ chính sách thân thiện, HHHG tối đa với CSVN được?
Dù sao đi nữa thì cho dù bà Hillary hay bất cứ ông hay bà Cộng Hòa nào làm tổng thống thì dân tỵ nạn cũng đừng nên hy vọng gì nhiều. Tổng thống Mỹ phục vụ quyền lợi nước Mỹ và dân Mỹ, không phục vụ quyền lợi dân tỵ nạn VN. Đối với họ, khối dân tỵ nạn Việt chỉ là một nhóm cử tri Mỹ rất ư là nhỏ, chẳng có tiếng nói gì trong chính sách đối ngoại của Mỹ, trong khi CSVN với gần 100 triệu dân nằm sát nách Trung Cộng, là một con chốt đáng kể trong thế cờ chiến lược của họ. (28-06-15)
Vũ Linh
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2015 6:58:51 GMT 9
Thần Tượng Dân Chủ Hillary: Dấu Hỏi (?) LớnVũ Linh ...Bà Hillary lột xác 100%, từ cực hữu chủ chiến Goldwater nhẩy qua cực tả phản chiến...Cả nước Mỹ, bất kể cấp tiến hay bảo thủ, nam hay nữ, trắng hay đen, đều hy vọng có một ngày nước Mỹ sẽ có một phụ nữ được trao vai trò lãnh đạo, làm tổng thống. Chẳng có gì là khai phá cả khi mà thế giới đầy dẫy những phụ nữ lãnh đạo quốc gia. Từ ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến, ta đã thấy bà Golda Meir làm thủ tướng Do Thái trong những ngày lập quốc khó khăn nhất. Âu Châu hãnh diện có được những phụ nữ lãnh đạo giỏi nhất lịch sử cận đại là bà Margaret Thatcher của Anh và Angela Merkel của Đức. Á Châu, là nơi các bà thường là nội trợ, làm bếp và nuôi con, cũng đã có những bà tổng thống tại Indonesia, Phi Luật Tân và Hàn Quốc, thủ tướng tại Thái Lan, Sri Lanka, và Ấn độ. Ngay cả những xứ Hồi giáo là những nơi coi rẻ phụ nữ nhất cũng từng được phụ nữ lãnh đạo như Pakistan và Bangladesh. Nam Mỹ có nữ tổng thống tại Argentina, Bolivia, Nicaragua, Ecuador, Panama, Chile, Costa Rica, và Brazil. Đến cả cái lục địa chậm tiến nhất là Phi Châu cũng đang có bà tổng thống tại Liberia. Thế nhưng tại cái thành đồng của dân chủ, văn minh và tiến bộ này, dân Mỹ chưa bao giờ có dịp khoe một nữ nhân lãnh đạo. Năm 2008, ai cũng nghĩ sẽ là năm khai phá với bà Hillary Clinton. Chắc ăn hơn đinh đóng cột. Nhưng giấc mộng của bà Hillary bất ngờ bị một ông đen vô danh phá tan. Chỉ khiến người ta nghĩ nước Mỹ của mấy ông cao bồi vẫn chưa sẵn sàng chấp nhận để một bà nắm quyền. Thà một ông đen vô danh vẫn hơn một bà. Có phải nước Mỹ này kỳ thị đàn bà nặng hơn kỳ thị da đen không? Thực tế, đó không phải lý do chính. Mà lý do chính là con người bà Hillary. Ai cũng ước muốn một bà làm tổng thống, nhưng bà Hillary không phải là người đáp ứng ước vọng đó. Bà là một chính khách càng ngày càng chứng minh rất là... lươn lẹo, khó tin, khó có thể được trao cho trách nhiệm quan trọng nhất. Ngay từ những năm dưới trào TT Clinton, bà đã bị tai tiếng với những xì-căng-đan Whitewatergate (mua bán nhà đất), Travelgate (sa thải toàn bộ nhân viên phòng du hành của Tòa Bạch Ốc để thay thế bằng một nhóm thân hữu), Commoditiesgate (đầu tư sinh lời cả chục lần vốn trong có vài tháng), Filesgate (cả xấp hồ sơ quan trọng nhất biến mất), Fostergate (phụ tá Foster tự tử chết),… Một thăm dò mới nhất cho thấy trong tất cả hơn hai chục ứng viên tổng thống của cả hai đảng hiện nay, người thiếu lương thiện –least honest- nhất là bà Hillary. Đó là ý kiến của 61% dân Mỹ. Chẳng lẽ nước Mỹ hết người phải đi lựa người... ít lương thiện nhất làm tổng thống? Trong con người của bà Hillary, có một yếu tố phải nhìn nhận là bất di bất dịch, qua bao nhiêu thập niên, thăng trầm của cuộc đời bà mà vẫn không thay đổi. Đó là tham vọng cá nhân, muốn làm tổng thống. Còn tất cả những chuyện khác đều có vẻ như... cuốn theo chiều gió, thiên biến vạn hoá, hay như tắc kè đổi màu. Kẻ viết này không nói ngoa đâu. Ta hãy thử nhìn qua quá trình hoạt động chính trị của bà Hillary. Bà Hillary tham gia vào các sinh hoạt chính trị rất sớm, ngay từ những ngày còn là sinh viên, mài đũng quần trên ghế nhà trường trung học. Khi đó, khoảng đầu thập niên 1960, bà tích cực tham gia chính trị trong nhóm Republican Youth, là nhóm đảng viên trí thức trẻ của đảng Cộng Hoà. Năm 1964, TT Johnson chính thức ra tranh cử sau khi đã làm tổng thống kế nhiệm TT Kennedy bị ám sát năm 1963. Đối diện với ông là nghị sĩ CH Barry Goldwater. Ông Goldwater là thành phần thiên hữu cực đoan, được bầu làm đại diện CH để chống lại TT Johnson bị tố là tổng thống cấp tiến cực đoan nhất, với một chương trình tranh cử cấp tiến nặng. TT Johnson là tác giả của những bộ luật cấp tiến nhất, vẫn tồn tại cho đến ngày nay là các luật cho ra đời Medicare và Medicaid, cũng như một loạt ba bộ luật “giải phóng” dân da đen trên phương diện chính trị, Luật Dân Quyền (Civil Rights Act), Luật Bầu Cử (Voting Rights Act), và Luật Gia Cư (Fair Housing Act). Dĩ nhiên những bộ luật này chỉ ra đời sau khi TT Johnson tái đắc cử năm 1964, nhưng trước đó, ai cũng biết là TT Johnson sẽ cho ra những luật đó nếu đắc cử. Ông Goldwater cũng chống cộng cực đoan, chủ trương đánh CSVN mạnh hơn nữa, và chỉ trích TT Johnson đánh nhau kiểu ển ển xìu xìu. Khối bảo thủ Mỹ khi đó chống TT Johnson một cách gần như mù quáng, không khác gì khối cực hữu Mỹ đang chống TT Obama hiện nay vậy. Bà Hillary khi đó tích cực vận động, cổ võ cho quan điểm chống Medicare và Medicaid, kỳ thị da đen cực đoan, và chủ chiến tối đa của ông Goldwater. Kết quả, ông Goldwater thảm bại, và TT Johnson đắc cử với số phiếu lớn nhất lịch sử Mỹ. Ngay sau khi ông Goldwater thảm bại, bà Hillary thấy con đường của ông Goldwater là sai lầm không thể giúp bà thành công được. Bà nhẩy rào, bỏ Republican Youth, gia nhập đảng Dân Chủ. Người ta có thể thấy ngay bà Hillary theo cơ hội chủ nghĩa, chứ không ngoan cố và cuồng tín. Năm 1968, bà tích cực vận động cho ứng viên Dân Chủ, cấp tiến, phản chiến nặng là Eugene McCarthy. Chương trình tranh cử của ông McCarthy có thể tóm lược lại có đúng một điểm: đòi Mỹ bỏ Nam VN ngay tức khắc, vô điều kiện. Khi đó là lúc phong trào phản chiến đang ăn khách nhất. Ngay cả anh cựu sĩ quan John Kerry cũng ra trước quốc hội điều trần, vứt bỏ tất cả huy chương, sỉ vả quân đồng minh –Mỹ và lính Cộng Hoà VN- chỉ giỏi ăn cắp gà, hãm hiếp đàn bà, và giết dân vô tội. Ông McCarthy thất bại ngay từ trong các cuộc bầu sơ bộ, thua phó tổng thống Hubert Humphrey. Bà Hillary lột xác 100%, từ cực hữu chủ chiến Goldwater nhẩy qua cực tả phản chiến McCarthy, vẫn thất bại. Nhưng không ngồi yên. Năm 1972, trong khi vẫn còn học luật tại Yale, bà len lỏi xin vào được nhóm luật sư của khối Dân Chủ đang truy tố TT Nixon về vụ Watergate. Trở nên một trong những phụ tá luật, trẻ và xuất sắc nhất trong vụ hạch tội TT Nixon. Sau khi đảng DC thành công, ép được TT Nixon phải từ chức thì bà Hillary rời khỏi thủ đô Hoa Thịnh Đốn vì hết chuyện làm tại đây. Đi làm Đệ Nhất Phu Nhân tiểu bang Arkansas. Tự xây dựng cho mình một thế đứng cao hơn, với những thành quả cụ thể hơn. Tuy ông chồng mới là thống đốc, nhưng bà cũng tích cực tham gia vào mọi hoạt động, quyết định của chồng. Rồi như mọi người đều biết, sau đó bà trở thành Đệ Nhất Phu Nhân của cả nước luôn. Chỉ vài tháng sau khi tuyên thệ nhậm chức, tân TT Clinton đã thành lập ngay một khối công tác, có nhiệm vụ đặc biệt là đưa ra kế hoạch cải tổ toàn diện hệ thống bảo hiểm y tế nhằm cung cấp bảo hiểm y tế cho toàn dân. Ông bổ nhiệm bà Hillary lãnh đạo nhóm công tác đặc biệt này. Vì quá tự tin cũng như vì là tay mơ chính trị, chưa hiểu guồng máy chính trị Mỹ vận hành như thế nào, bà tuyển lựa cả trăm chuyên gia, cố vấn, hầu hết đều là chuyện gia có tính kỹ thuật chuyên môn cao, làm thành viên hay cố vấn cho nhóm công tác. Làm việc hoàn toàn trong bí mật để tránh bị đánh quá sớm. Đề nghị cải tổ sâu rộng của bà sau khi hoàn tất trong một thời gian kỷ lục, được đưa ra cho các nghị sĩ và dân biểu để lấy ý kiến cho có lệ, cho phải phép. Kết quả bất ngờ là ngay cả khối nghị sĩ và dân biểu Dân Chủ cũng kịch liệt bác bỏ hết. Dự án chết trong trứng nước. Trên căn bản, cải tổ của bà thuần túy dựa trên những yếu tố kỹ thuật mà không chú ý đến yếu tố chính trị, làm mất lòng rất nhiều người, tức là đối với các vị dân biểu nghị sĩ, sẽ mất rất nhiều phiếu của cử tri. Lý do quan trọng hơn là đề nghị của bà quá cấp tiến, khi nước Mỹ, nhất là đảng DC, chưa sẵn sàng đi xa như vậy. Đi ngược lại bối cảnh lịch sử, những cải tổ sâu rộng của TT Johnson đã xé đảng DC làm hai. Khối cấp tiến trí thức miền đông bắc ủng hộ hoàn toàn cùng với khối dân da đen miền nam. Nhưng khối da trắng miền nam chống đối kịch liệt, nhất loạt bỏ đảng, bầu cho ông Goldwater. Tuy ông này thua đậm và TT Johnson thắng lớn, nhưng đảng DC bị chia rẽ trầm trọng, đưa đến việc các TT Nixon, Reagan, và Bush cha đắc cử liên tục sau này. Đảng Dân Chủ trong thời gian này chỉ đưa ra được có TT Carter, nhưng cũng chỉ ngáp được đúng một nhiệm kỳ 4 năm. TT Clinton là người đầu tiên đã vực đảng DC lên lại. Dù vậy, đảng này vẫn còn quá yếu chưa đủ mạnh để có những cải cách cấp tiến quá mạnh. Phải chờ đến 2012, hai chục năm sau, dưới thời TT Obama, luật cải tổ y tế mới ra đời được. Mà vẫn chỉ ra đời được trong mánh mung lắt léo và qua cửa hậu. Bà Hillary, một lần nữa, rất thính mũi, rút tiả được những bài học chính trị quan trọng nhất, hiểu được là cấp tiến quá mức sẽ thất bại. Nước Mỹ dưới thời Clinton chưa sẵn sàng. Bà cùng ông chồng thối lui, đưa ra những chính sách ôn hoà hơn nhiều. Một lần nữa, bà Hillary đổi cờ. Từ bảo thủ cực đoan Goldwater qua cấp tiến cực đoan McCarthy, bây giờ qua cấp tiến ôn hoà Clinton. TT Clinton sau đó tuyên bố “thời đại của Nhà Nước vú em đã cáo chung”. Ông cải tổ chế độ trợ cấp, với luật Trợ Giúp Tạm Thời các Gia Đình có Nhu Cầu -Temporary Assistance to Needed Families Act-. Nhấn mạnh ở điểm “tạm thời” để mọi người hiểu trợ cấp không thể nào vĩnh viễn, muôn năm. Luật này: - Bắt buộc những người nhận trợ cấp thất nghiệp phải đi tìm việc làm, phải đưa bằng chứng đã tích cực đi kiếm việc; - Cho trợ cấp tối đa 5 năm; - Cấm di dân bất hợp pháp làm những việc cần có bằng cấp chuyên môn và giấy phép, tức là đại khái chỉ cho làm những việc như cắt cỏ, phụ bếp, chạy bàn, vú em,... - Cắt giảm ngân sách trợ cấp an sinh tới 54 tỷ đô trong 10 năm. Tất cả đều là những chuyện mà khối bảo thủ CH cổ võ. Chưa hết, vài tháng sau, TT Clinton ký luật Bảo Vệ Hôn Nhân –Defense of Marriage Act- xác định hôn nhân là kết hợp giữa đàn ông và đàn bà, phủ nhận hôn nhân đồng tính. Đây dĩ nhiên là những luật của ông chồng tổng thống, nhưng ai cũng biết bà Hillary khi đó, coi như thực tế là một “đồng tổng thống”. Bà đã khuyến khích, hay ít nhất cũng đã mạc nhiên đồng ý với những quyết định này của ông chồng. Đó là bà Hillary tương đối bảo thủ của những năm làm Đệ Nhất Phu Nhân. Nhưng bây giờ là bà Hillary trong cuộc vận động tổng thống cho cuộc bầu cử 2016. Và thiên hạ thấy ngay nhiều điểm khác biệt quan trọng. Sau 7 năm cấp tiến của TT Obama, bà Hillary bây giờ lật ngược quan điểm, lớn tiếng hô hào gia tăng trợ cấp dân nghèo, dân thất nghiệp, kêu gọi ân xá, bình quyền cho di dân lậu, và mạnh mẽ cổ võ cho hôn nhân đồng tính. Trong thái độ với di dân gốc Nam Mỹ, khi bà Hillary tranh cử tổng thống năm 2008, hai chính khách gốc Mễ quan trọng nhất, đều là cựu bộ trưởng trong nội các Clinton là ông Bill Richardson, và ông Henry Cisneros đều bỏ bà, ủng hộ Obama, vì họ cho rằng ông bà Clinton giả dối và chỉ hứa xuông. Ngay cả trong vấn đề dân da đen, người ta cũng không rõ bà Hillary nghĩ gì. Bà khởi đi với quan điểm kỳ thị nặng của Goldwater, rồi biến đổi cùng với ông chồng, khiến TT Clinton được dân da đen tôn sùng như “tổng thống da đen đầu tiên”. Để rồi trong cuộc chạy đua với thượng nghị sĩ Obama năm 2008, cả hai vợ chồng lại bị tố có thái độ kỳ thị, đưa đến việc tất cả chính khách da đen và khối cử tri da đen bỏ bà, chạy qua bên Obama. Không phải chạy qua Obama vì ông là da đen, mà phải nói là bỏ bà Hillary vì hai vợ chồng đã có những lời nói và hành động kỳ thị thật. Người ta kể ông Clinton đã “tâm sự” với TNS Ted Kennedy về Obama “cách đây vài năm, hắn còn phải pha cà phê cho chúng ta...”, khiến TNS Kennedy bực mình, công khai ủng hộ Obama. Ở đây người ta có thể nhìn thấy bà Hillary như là người … thức thời vận, quyền biến, hay biết gió thổi chiều nào thì ngả theo chiều đó, lập trường du di, nay vầy mai khác. Như vậy khi cử tri vào phòng phiếu và muốn bỏ phiếu cho bà thì phải tự hỏi họ đang bỏ phiếu cho ai? Bà Hillary của Goldwater cực hữu, hay Hillary của McCarthy cực tả, hay Hillary cấp tiến của cải tổ y tế, hay Hillary ôn hòa của thời Nhà Nước vú em đã chấm dứt, hay Hillary của thời thiên tả Obama? Đồng ý là trong chính trị, không thể có chuyện ngoan cố cứng ngắc, mà phải có thay đổi. Nhưng thay đổi từ A qua B hay C thì dĩ nhiên chấp nhận được, chứ thay đổi từ A qua Z, rồi từ Z qua K, rồi K qua T, rồi T qua X, … thì chỉ khiến cử tri rối trí không biết mình bầu cho ai đây. Ở đây, hiển nhiên là kẻ viết này đã chưa đả động đến những vụ lem nhem, xập xí xập ngầu với luật pháp của bà Hillary gần đây. Một độc giả ủng hộ bà Hillary đã email cho tác giả hỏi “nếu như bà Hillary phạm đủ thứ tội như vậy, sao bên CH lại không thưa bà ra tòa, sao lại để cho bà ra tranh cử như vậy? Có phải CH là đảng quá yếu hèn không?” Nếu một độc giả có thể hỏi như vậy thì chắc có nhiều người khác cũng nghĩ như vậy. Và điều này chỉ chứng tỏ dân tỵ nạn ta còn cần phải tìm hiểu nhiều hơn về luật pháp và chính trị Mỹ, cho dù đã sống ở Mỹ cả mấy chục năm. Có ba vấn đề ở đây. 1. Nước Mỹ có luật lệ, có Hiến Pháp đầy đủ. Bà Hillary có vi phạm luật lệ Nhà Nước như xoá email, gây quỹ bất hợp lệ, cũng không đến phiên một đảng đối lập thưa bà ra tòa. Lấy tư cách gì thưa? Trên phương diện chính trị thì đảng CH chỉ có thể đưa vấn đề ra quốc hội cứu xét. Trên phương diện pháp luật thì truy cứu là trách nhiệm của Bộ Tư Pháp. Và đó là chuyện đang xẩy ra: quốc hội đang điều tra và FBI cũng đang điều tra. CH không có lý do gì cũng chẳng có quyền gì thưa kiện bà về bất cứ tội gì. 2. Đảng CH cũng chẳng có quyền gì cấm hay “để” bà ra tranh cử tổng thống. Lấy tư cách gì cấm hay “để”? Ở xứ Mỹ này, một đảng chính trị cho dù nắm quyền, cũng không có cách gì cấm một người ra tranh cử đối lập với mình theo kiểu đảng CSVN cấm đối lập ra tranh cử. Dân chủ ở Mỹ khác với “dân chủ” của CSVN. 3. Luật pháp và chính trị là chuyện khác nhau. TT Clinton nói láo trong cuộc điều trần hữu thệ trong vụ lem nhem với cô Monica. Bị Hạ Viện kết tội, nhưng Thượng Viện biểu quyết không có tội, do đó không bị lột chức. Trên phương diện chính trị, nghiã là không có tội. Nhưng lại bị toà án xử vi phạm luật hữu thệ, bị lột bằng luật sư. Hiện nay, bà Hillary chưa bị quốc hội hay FBI truy tố về bất cứ tội gì, nhưng tòa án dư luận đã xử bà: tỷ lệ hậu thuẫn của bà đang rớt như sung. Nói tóm lại, dân Mỹ rất mong muốn một phụ nữ được bầu làm tổng thống để ra lãnh đạo. Người hiện nay có nhiều khả năng nhất, nổi bật nhất, đáng tiếc thay cũng là người mang nhiều hành trang nặng nề nhất, gian dối, mánh mung, và nhất là có vẻ thời cơ chủ nghiã cuốn theo chiều gió nặng,... chỉ khiến dân Mỹ bối rối, không biết phải làm gì. Thiên hạ không biết con người thật của bà Hillary là ai. Mà bà cũng chẳng giúp thiên hạ hiểu rõ hơn, trái lại còn làm tình trạng mù mịt, u ám hơn khi bà quyết định xử dụng hệ thống email cá nhân để có thể tùy tiện công bố hay xoá bỏ emails. Dù vậy, thì cuối cùng, trong cái tinh thần bè phái hiện nay, những người ủng hộ đảng Dân Chủ vẫn sẽ nhắm mắt, bịt tai, bầu cho bà Hillary như thường, cho dù bên Cộng Hoà có đưa... Đức Giáo Hoàng hay Đức Đạt Lai Lạt Ma ra thì cũng thua. Ông CH gian trá như Nixon thì cần phải trừng phạt, lột chức. Bà DC gian trá như Hillary thì... tốt thôi, một chính trị gia đủ khả năng quyền biến cần thiết để lãnh đạo quốc gia trong tình trạng khó khăn hiện nay. Dường như những giá trị luân lý giữa CH và DC có hơi khác nhau. Đây đúng là chuyện tất cả cử tri cần bóp trán suy nghĩ vài phút, tự hỏi một người như bà Hillary có phải là tổng thống lý tưởng không, hay ta chỉ cần có một phụ nữ, nhất là phe ta, làm tổng thống là được, bất kể tư cách cá nhân. Tuần tới, ta sẽ bàn chuyện “Thần Tượng Cộng Hoà Trump: Một Dấu Than (!) Lớn”. Vũ Linh
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 6, 2018 3:51:58 GMT 9
ĐẢNG DÂN CHỦ LÀ ĐẢNG GÌ?Vu Linh diendantraichieu.blogspot.com/2018/03/ang-dan-chu-la-ang-gi.html#moreCâu trả lời cho tựa bài viết tuần này hiển nhiên: đảng DC là một trong hai chính đảng của đại cường Cờ Hoa, là đảng có quan điểm thiên tả, có thể gọi một cách nhẹ nhàng hơn, là ‘cấp tiến’. Là đảng tự nhận phục vụ người dân… thấp cổ bé họng, như dân nghèo, dân da màu, dân lao động và dân tỵ nạn. TT Thiệu đã nói một câu để đời, có thể áp dụng vào rất nhiều chuyện. Kể cả áp dụng vào đảng DC Mỹ: đừng nghe những gì họ nói, mà hãy nhìn kỹ những gì họ làm.
Năm 1992, có bầu tổng thống giữa đương kim TT Bush (cha) và thống đốc Clinton. Tôi gặp một bà cụ tỵ nạn, hỏi bà có tính đi bầu không? - Có chứ, mình phải đi bầu để bảo vệ quyền lợi mình chứ. - Thế cụ tính bầu cho ai? - Thì bắt buộc phải bầu cho Clinton chứ gì nữa. Bầu mấy thằng Cộng Hòa của tụi trắng kỳ thị, nó cắt hết tiền trợ cấp, có khi còn đuổi về VN nữa, có điên không? Câu chuyện tóm gọn vài huyền thoại lớn mà nhiều ông bà tỵ nạn ta cho đến nay vẫn ôm cứng trong đầu. Trong mấy thập niên qua, đảng DC phải nói là đã được xây dựng trên một mớ huyền thoại, mười phần thì phịa hết bẩy tám. Kẻ này đã viết không biết bao nhiêu lần trước đây, bây giờ viết lại vẫn không thừa thãi vì những huyền thoại vẫn còn đó.ĐẢNG DC LÀ ĐẢNG CỦA DÂN NGHÈO?Đây là hình ảnh quan trọng nhất, được nhiều người chấp nhận nhất. Nhưng cũng là huyền thoại lớn nhất. Nhìn vào thực tế thì thấy: các lãnh tụ DC như Obama, Clinton, Pelosi,... đều có gia tài bạc trăm triệu. Họ đều xuất thân bình thường như quý độc giả và kẻ này, đừng hỏi tại sao sau khi làm chính trị ‘phục vụ dân nghèo’, bây giờ lại giàu vậy. Ba thượng nghị sĩ giàu nhất Thượng Viện là Mark Warner, Richard Blumenthal, và Dianne Feinstein, đều thuộc đảng DC hết. Các đại tài phiệt giàu nhất Mỹ đều theo DC: Bill Gates, George Soros, Jeff Bezos, Warren Buffet, Mark Zuckerberg,... Tại sao những người giàu nhất lại thường theo DC, ra vẻ tranh đấu cho dân nghèo, dân lao động? Một phần vì mặc cảm, một phần vì muốn che dấu những hoạt động kinh doanh, cách làm giàu mờ ám của họ. Jeff Bezos, ông chủ của Amazon và Washington Post, là vua... giết tiểu thương và trung thương. Cách kinh doanh làm giàu của anh ta là giết hay nuốt các cơ sở thương mại bán lẻ nhỏ. Bill Gates là nhà từ thiện lớn nhất thế giới, nhưng anh ta đã làm giàu bằng những mánh mung kinh doanh xảo trá nhất mà Steve Jobs (Apple) đã từng vạch ra. Zuckerberg bán dữ liệu cá nhân của cả chục triệu người sử dụng Facebook cho các công ty nghiên cứu thị trường vì mục tiêu kinh doanh hay chính trị. Trên căn bản, đúng là DC chủ trương giúp dân nghèo nhiều nhất, qua trợ cấp đủ loại, từ phiếu thực phẩm đến bảo hiểm y tế, trợ cấp đông con, tiền thất nghiệp, v.v... Những người nào mơ mộng những thứ này, nên ủng hộ đảng DC. TT Obama đã hãnh diện khoe số người lãnh Medicaid, là bảo hiểm y tế của Nhà Nước cấp cho dân nghèo, đạt được kỷ lục cao nhất xưa nay. Một kỷ lục mà nhiều người hoan hô, nhưng là một tin đáng buồn hơn vui. Đúng vậy, trách nhiệm của người lãnh đạo là làm cho dân giàu nước mạnh, chứ không phải là làm sao cho càng nhiều người nghèo khổ, sống nhờ Nhà Nước càng tốt. Trợ cấp trên căn bản là cần thiết, vì lý do nhân đạo, giúp những người kém may mắn và tránh bất ổn xã hội. Có những người thật sự có nhu cầu trợ cấp, Nhà Nước có tránh nhiệm giúp họ, chẳng ai trách gì họ. Nhưng nếu trợ cấp bị lạm dụng, nhiều người có thể tự lực cánh sinh nhưng vẫn lạm dụng trợ cấp, thì đó là những trường hợp khó thông cảm được. Trợ cấp cũng có mặt trái: biến con người thành nô lệ. Một khi dính vào tròng trợ cấp, khó thoát ra, và càng ngày càng lệ thuộc trợ cấp, lệ thuộc vào đảng đã ban phát trợ cấp. Đâm ra ỷ lại vào trợ cấp, mất dần ý chí tự lập, sanh ra làm biếng luôn. Mà một khi đã lệ thuộc vào trợ cấp thì sẽ mãi mãi phải vật lộn với mức chi tiêu trong vòng trợ cấp, có nghiã là sẽ ngàn đời nghèo túng, không bao giờ có cơ hội khá hơn vì trợ cấp chỉ giúp sống qua ngày, không bao giờ giúp leo lên bực thang xã hội. Đó có phải là phương thuốc lý tưởng nhất để giúp dân nghèo không? Tuyệt đối không! Cách giúp dân nghèo đúng nhất là giúp họ thoát ra khỏi vòng nghèo túng chứ không phải giam hãm họ trong vòng trợ cấp càng đông và càng lâu càng tốt. Mà cách giúp hữu hiệu nhất là tạo công ăn việc làm qua tăng trưởng kinh tế, không phải qua tái phân phối lợi tức, chia lại những gì đang có, dựa trên việc tăng thuế nhà giàu chia lại cho dân nghèo. Nói cách khác, cần làm cho cái bánh lớn ra, tất cả mọi người đều có phần lớn ra, thay vì cứ giữ cái bánh như cũ rồi lo chia phần cho đều hơn. Trách nhiệm của Nhà Nước là bảo đảm khi chiếc bánh lớn ra thì phần của mỗi người, nhất là phần của người nghèo, cũng sẽ lớn ra, không bị mấy ông nhà giàu hay quyền thế cưỡng chiếm mất. Trợ cấp đến một giới hạn nào đó là cần thiết và chính đáng. Nhưng thực tế chính trị ngày nay, đảng DC nhờ công của TT Obama, đã biến trợ cấp thành một hình thức hối lộ, mua phiếu cử tri không hơn không kém. Sự khác biệt căn bản giữa CH và DC rất rõ ràng: CH tin ở tinh thần cầu tiến và khả năng thành đạt của cá nhân, giúp người nghèo tự mình vươn lên để thoát ra khỏi vòng nghèo túng, DC giúp người nghèo bằng cách lấy của nhà giàu chia lại cho người nghèo để họ mãi mãi thoi thóp trong nghèo túng, mãi mãi lệ thuộc vào trợ cấp và mãi mãi phải bầu cho DC. DC cho rằng dân ngu khu đen vĩnh viễn u tối, chỉ có lãnh đạo và công chức là ưu việt biết cách cứu nhân độ thế. ĐẢNG DÂN CHỦ LÀ ĐẢNG CỦA TRỢ CẤPTrong lịch sử cận đại Mỹ từ sau Thế Chiến Thứ Hai, đã có 6 tổng thống DC và 6 CH, không kể TT Trump. Trong tất cả 6 ông CH, đã có 3 ông cắt thuế, nhưng không có một ông nào cắt một xu trợ cấp nào của bất cứ ai. Trái lại, ngoài TT Johnson, chỉ có một tổng thống duy nhất đã tăng trợ cấp một cách quy mô: đó là TT Bush con của CH, với trợ cấp Medicare Part D, Nhà Nước bồi hoàn tiền mua thuốc cho các cụ lãnh Medicare. Vậy chứ mỗi lần bầu cử tổng thống là bài ca con cá vàng “CH cắt trợ cấp” lại được ban hợp ca DC hát lên với dàn nhạc TTDC, như cái đĩa hát rè của thập niên 40. Vẫn có người nghe và tin. DÂN CHỦ LÀ ĐẢNG CỦA DÂN LAO ĐỘNGTheo cơ quan thăm dò Gallup, hai năm sau khi Obamacare ra đời năm 2010, một nửa số doanh nghiệp tiểu thương đã đóng băng không thuê thêm nhân viên, trong khi một phần năm doanh nghiệp nhỏ đã sa thải nhân viên. Năm 2014 là năm đầu tiên Obamacare được áp dụng trọn vẹn, cũng là năm đầu tiên trong lịch sử Mỹ mà số doanh nghiệp tiểu thương ‘âm thầm đóng cửa’ cao hơn số doanh nghiệp ‘tưng bừng khai trương’. Tỷ lệ thất nghiệp leo lên tới 10%. Năm đó cũng là năm DC thất bại nặng nề nhất lịch sừ bầu cử quốc hội giữa mùa. Thất nghiệp không phải là ưu tư của đảng DC. Càng nhiều người thất nghiệp càng tốt vì họ sẽ phải lệ thuộc vào trợ cấp, bắt buộc phải bỏ phiếu cho DC. DC là đảng cổ võ cho nghiệp đoàn vì nghiệp đoàn bảo vệ quyền lợi nhân công. Chỉ tiếc là coi vậy chứ chưa chắc đã là vậy. Những người tỵ nạn thời 75 hẳn còn nhớ hai hãng máy bay lớn nhất Mỹ thời đó là Pan American Airline và Eastern Airline. Rất nhiều dân tỵ nạn thời mới qua, những năm sau 75, đã làm việc cho hai hãng đó. Cả hai hãng đều đã không còn nữa. Phá sản dưới thời TT Carter, tất cả nhân công bị sa thải hết, hàng trăm ngàn người bị thất nghiệp khi đó. Tại sao? Vì chi phí lương nhân viên quá cao, không thể cạnh tranh được với mấy hãng máy bay không có nghiệp đoàn của các hãng nhỏ mới ra, hay hãng ngoại quốc. Lương cao là do kết quả tranh đấu của nghiệp đoàn. Nhìn cho kỹ, nghiệp đoàn chỉ có lợi ngắn hạn, trong cái nhìn thiển cận, nhưng đưa đến thảm họa phá sản trong đường dài. Kỹ nghệ xe hơi của Mỹ cũng ở trong tình trạng tương tự. Không cạnh tranh nổi với Nhật, Hàn Quốc, và Âu Châu vì lương nhân công quá cao. Đáng lẽ đã xập tiệm nếu không có TT Bush và TT Obama bơm tiền vào cứu. Nghiệp đoàn cũng đang tranh đấu đòi tăng lương tối thiểu lên tới 15 đô một giờ, và được đảng DC ủng hộ trong khi CH chống đối. Vấn đề phải nhìn cho kỹ. Đối với những đại công ty như Wal-Mart (mà bà Hillary trước đây là thành viên Hội Đồng Quản Trị) mà các vị chủ tịch, tổng giám đốc lãnh lương bạc triệu hay chục triệu trong khi một số lớn mấy người bán hàng chỉ được làm bán thời, lãnh lương chết đói mà không có quyền lợi bảo hiểm y tế, nghỉ thường niên,... thì việc tăng lương tối thiểu cho nhân công là chuyện đáng làm và cần làm, nhưng lại không xẩy ra. Nhưng đối với hàng triệu cơ sở kinh doanh tiểu và trung thương, tăng lương tối thiểu sẽ giết chết họ. Như cột báo này đã viết nhiều lần, thử hỏi ông chủ tiệm phở tại khu Bolsa, nếu bị bắt phải tăng lương tối thiểu lên 15 đô một giờ cho những người chạy bàn, rửa chén, quét dọn, thì ông sẽ phản ứng như thế nào? Vui vẻ tăng lương họ để rồi lỗ lã, phá sản? Hay là sa thải họ để đi thuê dân Mễ lậu, trả lương rẻ hơn? Như vậy tăng lương tối thiểu có giúp cho dân lao động tiểu thương không? Hiển nhiên là không. Cho dù đóng cửa hay sa thải đi thuê dân Mễ lậu thì kết quả là dân lao động Mỹ vẫn mất job, thay vì lương được lên 15 đô. Đó là quy luật kinh tế, không cần biết đảng nào đang nắm quyền. Tăng lương tối thiểu không phải là giải pháp, chỉ có tăng trưởng kinh tế mới giúp mọi người khá hơn. Có tăng trưởng kinh tế thì tự động sẽ có tăng lương thực tế. Không có tăng trưởng mà chỉ muốn tăng lương thì mọi người sẽ mất việc, chưa kể sẽ có nạn lạm phát, đồng tiền mất giá để rồi tăng lương cũng như không. ĐẢNG DÂN CHỦ LÀ TÚP LỀU LỚN?Túp lều lớn mang ý nghĩa đa dạng, bao dung, bình quyền, không kỳ thị, nhân ái... DC là đảng của đủ sắc dân, đủ tôn giáo, đủ khuynh hướng chính trị. Nghe quá hay. Sự thật, cái lều DC bé như cái “lều chó con” -nói theo Hồng Y Dolan- chỉ chấp nhận những người cùng chia sẻ quan điểm cấp tiến. Một ông bảo thủ đắc cử tổng thống? ‘Not My President’, tìm đủ cách chống đối và lật đổ. Một nhà báo nói chuyện ‘phản động’ với sinh viên? Nhìn vào những bạo động tại đại học Berkeley thì biết. Bình quyền? Một thống đốc tuyên bố “All lives matter, not just black lives matter” bị bắt buộc phải xin lỗi và rút lời. Đa dạng tôn giáo? ‘Phải đạo chính trị’ của DC là phải kính trọng ... Hồi giáo như tôn giáo của hòa bình, nhưng cấm không được quảng bá Thiên Chúa giáo; cấm không được gọi khủng bố Hồi giáo là ...’khủng bố Hồi giáo’, nhưng lại mau mắn gọi các sư Miến Điện là ‘khủng bố Phật giáo’. Thế nào là nhân ái? Có phải là nhân đạo và bác ái không? Là quý trọng và bảo vệ mạng sống của con người không? Thế thì sao lại chủ trương phá thai tự do? Chỉ vì muốn bảo vệ quyền của phụ nữ ham vui thả giàn mà không muốn nhận trách nhiệm? Mạng của một bào thai không quan trọng bằng một đêm vui chơi thoải mái? Rất ‘rộng rãi’ trong chính sách phá thai, nhưng lại chống đối kịch liệt án tử hình cho những tội đại hình. Sinh mạng của những bào thai vô tội có thể hủy tự do, nhưng sinh mạng của những tên tội đồ ghê gớm nhất thì lại phải bảo vệ bằng mọi giá. ĐẢNG DÂN CHỦ LÀ ĐẢNG CỦA DÂN DA MÀU Nội chiến Nam Bắc Mỹ xẩy ra vì tổng thống Abraham Lincoln của đảng CH chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ da đen bị khối DC miền nam nước Mỹ chống lại. Ngay cả cho đến thời các TT Kennedy và Johnson, lúc đầu mấy ông này cũng chống lại những tranh đấu của dân da đen đòi bình quyền. Cho đến khi miền nam đại loạn, biểu tình, chống đối nổi lên khắp nơi dưới sự lãnh đạo của mục sư Martin Luther King thì TT Johnson bắt buộc phải nhượng bộ, ký luật nhân quyền, rồi đúng theo mô thức của chính trị gia, nhẩy ra vỗ ngực khoe công ‘giải phóng’ dân da đen! TT Johnson khi ký các đạo luật nhân quyền cho dân da đen cũng vẫn gọi họ là “mấy tên mọi” –f…cking black persons! Ngày nay, DC là đảng được dân da màu ủng hộ thật. Một phần vì TT Johnson đã mang lại công bằng cho họ khi ra luật Civil Rights Act và Voting Rights Act (mở cửa cho việc ông Obama đắc cử tổng thống), nhưng đó là chuyện của nửa thế kỷ trước. Ngày nay dân da đen ủng hộ đảng DC chỉ vì là đảng ban bố trợ cấp rộng rãi nhất lịch sử Mỹ. Bất cứ ông bà nào ra tranh cử với danh nghiã DC sẽ được dân da màu (đen, nâu, vàng) nhiệt liệt ủng hộ ngay, vì trợ cấp. Chính sách trợ cấp bừa bãi đã phá nát nền tảng gia đình trong khối dân da đen, khi hàng loạt phụ nữ không chồng mà vẫn đầy con nhờ Nhà Nước nuôi, chẳng biết đứa nào là con ai. Trong 10 đứa trẻ con da đen chạy long nhong ngoài đường, đã có 7 đứa không có bố chính thức. Đó có phải là chính sách ‘bạn’ với dân da đen không? Trong vấn đề di dân bất hợp pháp cũng vậy, tất cả chỉ là chuyện đếm phiếu không hơn không kém. DC hô hào ân xá vì lý do nhân đạo, vì muốn bảo vệ trẻ con di dân, vì muốn di dân được đoàn tụ gia đình,… nhưng chỉ là ngụy biện thôi. Trong hai năm 2009-2010, DC nắm Tòa Bạch Ốc, và kiểm soát cả thượng viện lẫn hạ viện, họ đã có thể ra luật ân xá toàn diện cả chục triệu di dân lậu. Nhưng họ không làm gì hết, vì đa số dân biểu nghị sĩ DC cũng không thực sự muốn ân xá. Hô hào ân xá bằng miệng thu được cảm tình và phiếu của cử tri gốc Mễ. Ân xá bằng luật thật sự sẽ mất hết phiếu của cử tri da trắng. ĐẢNG DÂN CHỦ LÀ BẠN CỦA DÂN TỴ NẠN VIỆTĐây là lập luận của những ông bà tỵ nạn Việt ủng hộ đảng DC. Nhiều dân HO nhớ ơn DC vì nghĩ TT Carter của DC đã là người mở rộng cánh tay đón HO vào Mỹ. Nhưng nhìn lại cho kỹ, coi dzậy mà hổng phải dzậy đâu, các cụ ơi. Trước tiên, đảng DC là đảng đã bức tử VNCH, sau khi thanh toán TT Diệm để có thể áp đặt lính Mỹ vào miền Nam, để rồi vẫn thua VC, rồi ép TT Nixon phải bỏ miền Nam VN qua hàng loạt biện pháp khóa tay như cấm bành trướng chiến tranh qua Căm-Pu-Chia và Lào, cấm thả bom đường mòn Hồ Chí Minh, cắt giảm ngân sách, cắt giảm viện trợ kinh tế và quân sự cho Nam VN. Chuyện ‘Nixon bán đứng Nam VN cho Mao’ chỉ là chuyện đổ thừa chạy tội không có căn bản cũng chẳng hợp tình hay hợp lý mà cột báo này đã bàn quá nhiều lần. Năm 1972, ứng cử viên tổng thống của đảng DC là George McGovern. Ông này chủ trương Mỹ rút quân ra khỏi Nam VN ngay lập tức, chỉ với một điều kiện duy nhất: CSBV trả lại tù nhân Mỹ. Chuyện miền Nam VN sẽ bị CSBV chiếm không phải là chuyện Mỹ phải thắc mắc hay điều đình gì hết. Năm 1975, ông McGovern kịch liệt chống việc TT Ford nhận dân tỵ nạn VN vào Mỹ. Cùng chống với ông, có hai tiếng nói hăng nhất là Jerry Brown, khi đó đã là Thống Đốc Cali và cựu PTT Joe Biden khi đó là thượng nghị sĩ. Năm 1978 khi hàng triệu quân cán chính miền Nam còn chết dở sống dở trong tù cải tạo từ Cà Mau đến Sơn La, TT Carter, với hậu thuẫn của vài thượng nghị sĩ cựu quân nhân như John McCain, John Kerry,... gửi một phái đoàn qua Hà Nội thảo luận việc bỏ cấm vận và thiết lập bang giao nếu VC giúp tìm xác lính Mỹ. VC khi đó đang khủng hoảng kinh tế, trên bờ phá sản, lại cũng chuẩn bị đánh Căm-Pu-Chia và đối phó với Trung Cộng, nên ra giá sẽ cho phép Mỹ đến tìm xác lính Mỹ đổi lấy việc TT Carter nhận tù cải tạo qua diện HO, và nhận hàng vạn thuyền nhân bị VC trục xuất, để xả bớt ưu tư an ninh nội bộ (lo sợ chưa kiểm soát được khối quân cán chính ‘ngụy’, lo sợ dân Việt gốc Hoa nằm vùng cho TC) và gánh nặng kinh tế (bớt miệng ăn). Những người nghĩ TT Carter đón nhận HO và thuyền nhân vì lý do nhân đạo, thương dân Việt, mang ơn Carter, chỉ là những người ngủ mơ. Ưu tiên của TT Carter là xác lính Mỹ để được bầu lại khi ra tái tranh cử. Nhận tù cải tạo và thuyền nhân là cái giá mà VC bắt TT Carter phải trả để VC cho phép tìm xác lính Mỹ. Nhìn vào quan hệ Mỹ-Việt, ta thấy TT Carter là người đầu tiên bắc lại nhịp cầu với CSVN, TT Clinton là người thiết lập ngoại giao, bỏ cấm vận kinh tế với CSVN, cho CSVN gia nhập các tổ chức quốc tế, TT Obama là người bỏ luôn cấm vận quân sự với CSVN. Cả ba đều có chính sách thân thiện nhất với CSVN, và cả ba đều thuộc đảng DC. Dĩ nhiên, cả ba ông cũng đều lớn tiếng đòi nhân quyền cho VN. Chẳng có một kết quả cụ thể nào ngoài việc VC thỉnh thoảng thả một tù chính trị qua Mỹ cho Mỹ vui. VC thả một, bắt thêm một trăm. Nhiều cụ tỵ nạn ta đã quên bẵng khối cấp tiến DC và TTDC đã là nguyên nhân lớn nhất khiến ta thua cuộc, phải vắt chân lên cổ bỏ xứ đi tỵ nạn, cũng quên luôn là đảng DC đã kịch liệt chống lại việc nhận chúng ta vào Mỹ năm 75. Nói tóm lại, tất cả những chuyện Dân Chủ là đảng của dân nghèo, lao động, di dân, da màu, tỵ nạn, v.v... chỉ là những huyền thoại do đảng Dân Chủ tạo ra, rồi được truyền thông phe ta quảng bá. Nguyên tắc chỉ đạo của nghệ thuật tuyên truyền là cho dù là một điều không đúng sự thật, nhưng nói mãi cũng sẽ có người tin, càng về lâu về dài càng nhiều người tin. Ghi chú: trong Diễn Đàn tuần này, có trang ‘Báo Mỹ’ với nhiều bài quan trọng để hiểu sự thật về đảng DC, xin quý độc giả chịu khó vào đọc để hiểu rõ hơn. NHỮNG HUYỀN THOẠI VỀ ĐẢNG DÂN CHỦ Kẻ này mới đây đã đọc một nhận định về đảng DC, theo đó thì đã có một cụ tị nạn cao tuổi phán rất siêu “đảng Dân Chủ là đảng dân làm chủ nên tôi phải bầu cho đảng đó”. Dĩ nhiên, đây là một nhận định xanh rờn, phản ảnh một sự thiếu hiểu biết trầm trọng về chính trị Mỹ trong cộng đồng Việt tị nạn. Kẻ này nghĩ dù sao những người nghĩ như vậy, chắc chỉ là một thiểu số đếm trên đầu ngón tay, chúng ta không cần mất thời giờ hơn. Nhưng thật sự, nói về chính trị Mỹ, đã có nhiều hiểu lầm lớn gấp ngàn lần, hậu quả của những tuyên truyền nhồi sọ theo kiểu cộng sản hay phát xít, cứ nhai đi nhai lại liên tục một số chuyện phịa, sẽ có ngày có người tin. Chỉ có một cách phá vỡ là dùng gậy ông đập lưng ông, là phải viết đi viết lại những lập luận đả phá xuyên tạc, với hy vọng có ngày thiên hạ sáng mắt ra. Phần lớn nội dung bài viết dưới đây đã được ‘trình làng’ nhiều lần, nhưng lại được ‘nhai’ lại chính vì lý do đó. Bài này sẽ hóa giải một số huyền thoại, hoàn toàn phịa về đảng DC. Nói về những huyền thoại này thì nhiều vô số kể, trong khuôn khổ một bài bình luận của Diễn Đàn Trái Chiều, sẽ không có cách nào kể ra và phân tích đầy đủ hết được. Đành phải lựa một số đề tài lớn và quan trọng nhất thôi. DÂN CHỦ, ĐẢNG CỦA NGƯỜI NGHÈO LO CHO DÂN NGHÈO Đây là huyền thoại được truyền bá rộng rãi nhất. Có thật vậy không? Trước hết, nhìn qua những nhân vật tên tuổi, ủng hộ đảng DC mạnh nhất, chống lưng cho đảng này. Trong chính trị, những tên tuổi lớn nhất của đảng DC dĩ nhiên là các TT Clinton, Obama, Biden. Sau đó là các đại thượng nghị sĩ tên tuổi nổi như cồn như các thượng nghị sĩ Chuck Schumer, Bernie Sanders, Elizabeth Warren, Dianne Feinstein, … Nhiều lắm. Tại hạ viện thì dĩ nhiên, không ai không biết tới lão bà bà Nancy Pelosi, rồi các tên tuổi lớn Adam Schiff, Jerry Nadler,… đã từng nổi đình nổi đám trong các vụ đàn hặc TT Trump. Quý độc giả có biết mẫu số chung của tất cả những tên tuổi lớn đó là gì không? Xin thưa, tất cả đều là … triệu phú hết, không chừa một người nào. Đó là chưa kể các ông cựu đại quan như Al Gore, John Kerry,… cũng đều là đại đại triệu phú hết. Ông Gore suốt ngày than phiền nạn ô nhiễm khí hậu, đi đâu cũng đi bằng máy bay riêng, là phương tiện di chuyển gây ô nhiễm nhất. Ông Kerry trước đây được coi như thượng nghị sĩ giàu nhất thượng viện. Một phần tiền là từ các cửa sau, qua các ‘quan hệ’ đặc biệt của ông nghị sĩ thâm niên, nhưng phần lớn là tiền từ bà vợ là đại sư mẫu của tập đoàn Heinz (mỗi lần quý vị ăn hăm-bơ-ghơ, bỏ chút sốt cà chua ketchup, là ông Kerry xoa tay, bỏ túi ít tiền). Ngoài chính khách là giới kinh doanh. Các đại đại gia như Bill Gates (Mircosoft), Steven Jobs (Apple), Elon Musk (Tesla), Warren Buffett, George Soros, ,… tất cả đều ủng hộ đảng DC hết. Truyền thông cũng không khác: Jeff Bezos (Washington Post), Michael Bloomberg (Bloomberg News), các đại gia tộc Harmann (Newsweek), Sulzberger (New York Times), Benioff (TIME),… tất cả đều là đại tài phiệt ủng hộ đảng DC. Quý độc giả có thể thắc mắc, ủa, sao các đại tài phiệt lại ủng hộ đảng DC, là đảng đòi đánh thuế họ tới chết luôn mà? Câu trả lời rất giản dị: họ là những người bán hàng và khách hàng của họ là quý vị và tôi, là những dân ngu khu đen cần computer, cần mua hàng qua Amazon,… do đó, họ phải có thái độ ủng hộ dân bình thường, ủng hộ cái đảng gọi là lo cho dân nghèo và dân trung lưu ngáp ngáp như quý vị và tôi. Họ không sợ đóng thuế cao sao? Cụ Biden đang đòi tăng thuế họ mạnh lắm mà. Thưa quý vị, tăng thuế công ty của họ thì họ tăng giá hàng hóa để quý vị trả thuế giùm cho họ. Còn tăng thuế cá nhân họ thì, xin lỗi, nếu họ ngu mà ngoan ngoãn đóng đầy đủ mọi thứ thuế thì họ đâu có thể thành đại tỷ phú được. Chỉ có loại lờ mờ như quý độc giả và tôi mới đóng thuế đầy đủ không thiếu xu nào thôi. Theo một nghiên cứu của tổ chức Pro Publica, 25 đại gia giầu nhất Mỹ đóng thuế trung bình cỡ hơn 3% lợi tức, trong khi trên nguyên tắc, mức thuế họ phải đóng là 37%. Những tay leèng èng như một số lớn quý độc giả và tôi, thuộc loại dân trung lưu quèn, đóng thuế trung bình 15% - 20%. Dân gọi là nghèo hơn thì dĩ nhiên chẳng đóng xu thuế nào mà lại còn được cả lô trợ cấp. Người giàu nhất nhì thế giới hiện nay là Elon Musk, với gia tài ước lượng hơn 150 tỷ, năm 2018 đóng đúng… zero thuế lợi tức, tuy có đóng bạc cắc 70.000 đô thuế trong hai năm 2015-2017. Người giàu nhất hành tinh với gia tài ước lượng trên 200 tỷ (200.000 triệu đấy!), Jeff Bezos, ông chủ của Amazon và chủ của tiếng nói của phe cấp tiến Washington Post, vừa ly dị bà vợ và ‘đóng thuế’ đâu 50 tỷ cho bà, trong hai năm 2007 và 2011, cũng đóng đúng zero thuế, trong khi các năm khác, mỗi năm đóng thuế đâu ở mức tượng trưng 1%-2%. Đại tài phiệt thiên tả nặng từ Hung qua tị nạn, George Soros, trong ba năm liền 2016-17-18, cũng đóng đúng zero thuế, trong khi lớn tiếng đòi TT Trump công khai hóa giấy thuế để dân biết ông ta trốn bao nhiêu thuế. Tất cả các đại tài phiệt đều khẳng định họ hoàn toàn không làm gì phạm pháp hết. Dĩ nhiên! Cụ Biden mới hùng hổ đưa ra ngân sách lên tới 6.000 tỷ đô, và trấn an dân không có gì phải lo hết vì cụ sẽ moi tiền từ các đại tài phiệt thôi. Nhìn vào cách các đại tài phiệt đóng thuế, xin chúc cụ Biden nhiều may mắn và xin chia buồn cùng tất cả những người nào tin cụ Biden. www.vanityfair.com/news/2021/06/billionaires-federal-income-tax-investigation Nhưng họ lo cho dân nghèo mà, phải không? Chuyện này, xin thú thật, kẻ này chẳng biết họ lo cái gì? Các chính khách thì lo bốc phét rồi làm luật mỵ dân để có dịp tái đắc cử, trong khi các đại tài phiệt thì lo bán hàng mệt nghỉ, và vật giá đang ngày càng leo thang như hỏa tiễn. Ông Bezos có thể dùng Amazon để giao hàng tại gia miễn phí cho cả nước cho đến hết COVID vẫn còn thừa tiền cho con cháu 7 đời sau, hay ly dị vợ ba lần nữa là ít. DÂN CHỦ: ĐẢNG CỦA ‘DÂN SINH’, TRỢ CẤP, CỦA OBAMACARE Đây hiển nhiên là huyền thoại lớn nhất, được nhai đi nhai lại không bao giờ dứt. Ta chỉ cần nhớ lại một vài điểm chính. - Tiền hưu dưỡng SSA từ ngày khai sinh ra năm 1935, bảo hiểm y tế Medicaid và Medicare từ ngày ra đời năm 1965 chưa bị cắt một xu nào, bất kể tổng thống DC hay CH. - Medicare thật sự được ông CH Eisenhower khai sinh ra qua việc chế ra một hệ thống bảo hiểm cho gia đình quân nhân để thử nghiệm, sau đó vì thành công, được ông DC Johnson áp dụng cho tất cả những người 65 tuổi trở lên. - Medicare Part D hoàn trả tiền thuốc cho các cụ cao nhiên lãnh Medicare, hoàn toàn do ông CH Bush con khai sinh ra. - Tất cả các luật gọi là ‘dân sinh’ đều là thành quả của hợp tác lưỡng đảng, không phải là sản phẩm độc quyền của một đảng nào. - Obamacare đúng là sản phẩm độc quyền của đảng DC vì không có được một phiếu nào của CH tại thượng viện. Tuy nhiên, muốn biết Obamacare tốt hay xấu, cứ nghe TT Clinton, nguyên văn: “So you’ve got this crazy system where all of a sudden 25 million more people have health care and then the people who are out there busting it, sometimes 60 hours a week, wind up with their premiums doubled and their coverage cut in half. It’s the craziest thing in the world”. diendantraichieu.blogspot.com/2021/06/bai-180-cau-chuyen-sinh-xa-hoi-va-bao.html TT Obama đã hãnh diện khoe số người lãnh Medicaid, là bảo hiểm y tế của Nhà Nước cấp cho dân nghèo, và những người lãnh phiếu thực phẩm food stamps, đạt được kỷ lục cao nhất xưa nay. Những kỷ lục lạ lùng. Trách nhiệm của người lãnh đạo là làm cho dân giàu nước mạnh, chứ sao lại là làm cho càng nhiều người nghèo khổ, sống nhờ Nhà Nước càng tốt? Trợ cấp trên căn bản là cần thiết, vì lý do nhân đạo, giúp những người kém may mắn và tránh bất ổn xã hội. Có những người thật sự có nhu cầu trợ cấp, Nhà Nước có trách nhiệm giúp họ, chẳng ai trách gì họ. Nhưng nếu trợ cấp bị lạm dụng, nhiều người có thể tự lực cánh sinh nhưng vẫn lạm dụng trợ cấp, thì đó là những trường hợp khó thông cảm được. Trợ cấp cũng có mặt trái: biến con người thành nô lệ. Một khi dính vào tròng trợ cấp, khó thoát ra, và càng ngày càng lệ thuộc trợ cấp, lệ thuộc vào đảng đã ban phát trợ cấp. Đâm ra ỷ lại vào trợ cấp, mất dần ý chí tự lập, sanh ra làm biếng luôn. Mà một khi đã lệ thuộc vào trợ cấp thì sẽ mãi mãi phải vật lộn với mức chi tiêu trong vòng trợ cấp, có nghĩa là sẽ ngàn đời nghèo túng, không bao giờ có cơ hội khá hơn vì trợ cấp chỉ giúp sống qua ngày, không bao giờ giúp leo lên nấc thang xã hội. Đó có phải là phương thuốc lý tưởng nhất để giúp dân nghèo không? Tuyệt đối không! Cách giúp dân nghèo đúng nhất là giúp họ thoát ra khỏi vòng nghèo túng chứ không phải giam hãm họ trong vòng trợ cấp càng đông và càng lâu càng tốt. Mà cách giúp hữu hiệu nhất là tạo công ăn việc làm qua tăng trưởng kinh tế, không phải qua tái phân phối lợi tức, chia lại những gì đang có, dựa trên việc tăng thuế nhà giàu chia lại cho dân nghèo. Nói cách khác, cần làm cho cái bánh lớn ra, tất cả mọi người đều có phần lớn ra, thay vì cứ giữ cái bánh như cũ rồi lo chia phần cho đều hơn, mỗi lần chia thì mỗi phần lại nhỏ đi bớt. Trách nhiệm của Nhà Nước là bảo đảm khi chiếc bánh lớn ra thì phần của mỗi người, nhất là phần của người nghèo, cũng sẽ lớn ra, không bị mấy ông nhà giàu hay quyền thế cưỡng chiếm mất. Trợ cấp đến một giới hạn nào đó là cần thiết và chính đáng. Nhưng thực tế chính trị ngày nay, đảng DC nhờ công của TT Obama và cụ Biden, đã biến trợ cấp thành một hình thức hối lộ, mua phiếu cử tri không hơn không kém. Sự khác biệt căn bản giữa CH và DC rất rõ ràng: CH tin ở tinh thần cầu tiến và khả năng thành đạt của cá nhân, giúp người nghèo tự mình vươn lên để thoát ra khỏi vòng nghèo túng, DC giúp người nghèo bằng cách lấy của nhà giàu chia lại cho người nghèo để họ mãi mãi thoi thóp trong nghèo túng, mãi mãi lệ thuộc vào trợ cấp và mãi mãi phải bầu cho DC. DC cho rằng dân ngu khu đen vĩnh viễn u tối, chỉ có lãnh đạo DC và công chức là ưu việt biết cách cứu nhân độ thế. ĐẢNG DÂN CHỦ LÀ ĐẢNG CỦA DÂN DA MÀU Nội chiến Nam Bắc Mỹ xẩy ra vì tổng thống Abraham Lincoln của đảng CH chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ da đen bị khối DC miền nam nước Mỹ chống lại. Ngay cả cho đến thời các TT Kennedy và Johnson, lúc đầu mấy ông này cũng chống lại những tranh đấu của dân da đen đòi bình quyền. Cho đến khi miền nam đại loạn, biểu tình, chống đối nổi lên khắp nơi dưới sự lãnh đạo của mục sư Martin Luther King thì TT Johnson bắt buộc phải nhượng bộ, ký luật nhân quyền, rồi đúng theo mô thức của chính trị gia, nhẩy ra vỗ ngực khoe công ‘giải phóng’ dân da đen! TT Johnson khi ký các đạo luật nhân quyền cho dân da đen cũng vẫn gọi họ là “f**king black persons!" mà kẻ này không biết dịch làm sao cho chính xác. Ngày nay, DC là đảng được dân da màu ủng hộ thật. Một phần vì TT Johnson đã mang lại công bằng cho họ khi ra luật Civil Rights Act và Voting Rights Act (mở cửa cho việc ông Obama đắc cử tổng thống), nhưng đó là chuyện của nửa thế kỷ trước. Ngày nay dân da đen ủng hộ đảng DC chỉ vì là đảng ban bố trợ cấp rộng rãi nhất lịch sử Mỹ. Bất cứ ông bà nào ra tranh cử với danh nghĩa DC sẽ được dân da màu (đen, nâu, vàng) nhiệt liệt ủng hộ ngay, chỉ vì trợ cấp. Chính sách trợ cấp bừa bãi đã phá nát nền tảng gia đình trong khối dân da đen, khi hàng loạt phụ nữ không chồng mà vẫn đầy con, chờ Nhà Nước nuôi, chẳng biết đứa nào là con ai. Trong 10 đứa trẻ con da đen chạy long nhong ngoài đường tại Chicago, đã có 7 đứa không có bố chính thức. Đó có phải là chính sách ‘bạn’ với dân da đen không? ĐẢNG DÂN CHỦ LÀ TÚP LỀU NHÂN ÁI LỚN? Túp lều lớn mang ý nghĩa đa dạng, bao dung, bình quyền, không kỳ thị, nhân ái... DC là đảng của đủ loại người, đủ cá tính, đủ giới tính, đủ sắc dân, đủ tôn giáo, đủ khuynh hướng chính trị. Nghe quá hay. Sự thật, cái lều DC bé như cái “cũi chó con” -nói theo Đức Hồng Y Timothy Dolan của New York- chỉ chấp nhận những người cùng chia sẻ quan điểm cấp tiến. Một ông bảo thủ đắc cử tổng thống? "Not My President", tìm đủ cách chống đối và lật đổ. Một nhà báo nói chuyện ‘phản động’ với sinh viên? Nhìn vào những bạo động tại đại học Berkeley thì biết. Bình quyền? Một thống đốc tuyên bố “All lives matter, not just black lives matter” bị bắt buộc phải xin lỗi và rút lời. Đa dạng tôn giáo? ‘Phải đạo chính trị’ của DC là phải kính trọng ... Hồi giáo như tôn giáo của hòa bình, nhưng cấm không được quảng bá Thiên Chúa giáo; cấm không được gọi khủng bố Hồi giáo là ...’khủng bố Hồi giáo’, nhưng lại mau mắn gọi các sư Miến Điện là ‘khủng bố Phật giáo’. Đa dạng màu da, không kỳ thị? Nhìn vào các diễn biến thời sự mới đây, ai cũng có cảm tưởng như đây chính là thời của ‘thượng tôn da đen’. Critical Race Theory là môn học thời thượng vì có công vạch trần ‘tội ác tầy trời’ của đám da trắng từ mấy trăm năm qua trên đất Mỹ này. Đa dạng giới tính? Đặc biệt, đảng DC lại KHÔNG chủ trương đa dạng giới tính chút nào. Trái lại cả thế giới thành… ‘unisex’, không còn ranh giới nam hay nữ, hay nửa nạc nửa mỡ gì ráo. Thế nào là nhân ái? Có phải là nhân đạo và bác ái không? Là quý trọng và bảo vệ mạng sống của con người không? Thế thì sao lại chủ trương phá thai tự do? Chỉ vì muốn bảo vệ quyền của phụ nữ ham vui thả giàn mà không muốn nhận trách nhiệm? Mạng của một bào thai không quan trọng bằng một đêm vui chơi thoải mái? Rất ‘rộng rãi’ trong chính sách phá thai, nhưng lại chống đối kịch liệt án tử hình cho những tội đại hình. Sinh mạng của những bào thai vô tội có thể hủy tự do, nhưng sinh mạng của những tên tội đồ ghê gớm nhất thì lại phải bảo vệ bằng mọi giá. Nhân danh cái lô-gíc quái lạ nào? ĐẢNG DÂN CHỦ CỨU DÂN KHỎI COVID Đây là huyền thoại mới phát sinh sau đại nạn COVID. Theo quan điểm này, Trump và đám CH là thủ phạm giết hơn nửa triệu dân Mỹ, trong khi đảng DC và cụ Biden mới là cứu tinh dân tộc. Cái này, kẻ này xin phép phải gọi là lập luận ‘mặt trơ trán bóng’. Các cụ cuồng chống Trump hô hoán Trump giết nửa triệu người qua COVID (chính xác là 420.000 người đã chết tính cho tới khi cụ Biden nhậm chức). Các cụ có biết trong nửa năm, từ ngày cụ Biden tuyên thệ nhậm chức cho đến nay, đã có hơn 200.000 người chết không, cho dù khi cụ nhậm chức, các bác sĩ đã có hơn một năm kinh nghiệm chống dịch và thuốc ngừa đã được phổ biến tràn lan? (Xem thống kế trong phần 'Cập Nhật COVID' dưới đây). Với các biến thể delta, lambda, beta gì gì đó, cuối năm nay, có nhiều triển vọng cụ Biden sẽ hạ đo ván TT Trump về số người chết vì dịch. COVID là đại nạn mới lạ mà khoa học cả thế giới loay hoay không biết đối phó làm sao, khiến cho dân cả thế giới bị nạn, bị chết, chứ chẳng phải chỉ có dân Mỹ chết. Một cách thực tế, cái may cho dân Mỹ là đã có ông Trump làm tổng thống vì ông này đã ‘cả gan’ cho ngay các đại tập đoàn dược phẩm tới 18 tỷ đô để họ sốt sắng sáng chế thuốc và ưu tiên bán cho dân Mỹ. Nếu cụ Biden làm tổng thống năm 2020 thì có mọc 8 cái sừng cụ Biden cũng không dám chi cho ‘tài phiệt’ một xu, thay vì đó cụ sẽ mang 18 tỷ cho ‘dân nghèo’ xài chơi thôi. ĐẢNG DÂN CHỦ MỞ CỬA CHO DÂN ĐI BẦU Đây là lập luận hợp thời trang, đang được tung hô mạnh nhất. Thậm chí nhiều cụ Vẹt hăng tiết vịt tố cáo đảng CH ra luật cản dân đi bầu y chang các đảng CS. Sau khi cụ Biden đắc cử trong khói hỏa mù với đầy nghi vấn, đã có tới 48 tiểu bang đã, đang hay sẽ ra luật cải tổ thể thức bầu cử. Các tiểu bang CH vì muốn chặn gian lận, và các tiểu bang DC cũng muốn chứng minh mình không gian lận. Tất cả đều muốn thủ tục bầu bán phải nghiêm chỉnh hơn, chặt chẽ hơn để không bên nào có thể gian lận hay tố đối lập gian lận được. Đặc biệt việc bầu bằng thư phải bị kiểm soát khắt khe hơn. Thế nhưng những biện pháp cải tổ này lại bị những người chống đối bóp méo, xuyên tạc thành “đảng CH phản dân chủ, chặn không cho dân đi bầu trong khi đảng DC là đảng muốn dễ dãi tối đa để càng nhiều người tham gia bầu cử càng tốt”. Ta thử xét lại việc tranh cãi này xem sao. - Nhiều tiểu bang CH chủ trương siết chặt việc kiểm soát cử tri như đi bầu phải có thẻ cử tri, hay tối thiểu thì cũng phải có thẻ căn cước chứng minh mình là ai. Trong 47 xứ Tây Âu thì đã có tới 46 xứ đòi hỏi thẻ cử tri với hình ảnh. - Có tới ba phần tư hay 74% các quốc gia trên thế giới cấm tuyệt đối bầu bằng thư, ngoại trừ trường hợp đặc miễn như bệnh nặng hay đi công tác xa nhà. Nếu nói siết chặt kiểm soát bầu cử là mánh phản dân chủ cản dân đi bầu theo kiểu CS, thì có thể nói gần như cả thế giới đã… giống như CS hết rồi. www.realclearinvestigations.com/articles/2021/06/01/the_us_is_a_voter_photo_id_outlier_theyre_the_rule_in_europe_and_elsewhere_778714.html - Xấp xỉ khoảng 80% dân Mỹ ủng hộ việc đi bầu phải có thẻ cử tri hay thẻ căn cước hợp lệ có hình ảnh, chứng minh mình là cử tri có quyền đi đầu. www.foxnews.com/politics/widespread-support-for-voter-id-and-making-early-voting-easier-national-pollĐẢNG DÂN CHỦ LÀ BẠN CỦA DÂN TỴ NẠN VIỆT Đây là lập luận của những ông bà tỵ nạn Việt ủng hộ đảng DC. Nhiều dân HO nhớ ơn DC vì nghĩ TT Carter của DC đã là người mở rộng cánh tay đón HO vào Mỹ. Nhưng nhìn lại cho kỹ, coi dzậy mà hổng phải dzậy đâu, các cụ ơi. Trước tiên, đảng DC là đảng đã bức tử VNCH, sau khi thanh toán TT Diệm để có thể áp đặt lính Mỹ vào miền Nam, để rồi vẫn thua VC, rồi ép TT Nixon phải bỏ miền Nam VN qua hàng loạt biện pháp khóa tay như cấm bành trướng chiến tranh qua Căm-Pu-Chia và Lào, cấm thả bom đường mòn Hồ Chí Minh, cắt giảm ngân sách, cắt giảm viện trợ súng đạn cho Nam VN. Nhìn vào quá trình chính trị của cụ Biden thì biết. Chuyện ‘Nixon bán đứng Nam VN cho Mao’ chỉ là chuyện bài ca con cá vàng của đảng DC muốn chạy tội, đổ thừa cho đảng CH, không có căn bản cũng chẳng hợp tình hay hợp lý mà diễn đàn này đã bàn quá nhiều lần. Những người nghĩ TT Carter đón nhận HO và thuyền nhân vì lý do nhân đạo, thương dân Việt, mang ơn Carter, chỉ là những người ngủ mơ. TT Carter khi đó đang gặp đại nạn kinh tế đổ nát, bị Iran bắt chẹt, cố lo tìm được xác lính Mỹ để được bầu lại khi ra tái tranh cử. Ngay năm 1978 đã gửi phái đoàn đi Hà Nội không phải để cứu giúp cả vạn quân cán chính đang tù rục xương trong các tù cải tạo, mà là để điều đình tìm xác lính Mỹ. Nhận tù cải tạo và thuyền nhân là cái giá mà VC bắt TT Carter phải trả để VC cho phép tìm xác lính Mỹ. VC khi đó đang khủng hoảng kinh tế, trên bờ phá sản, lại cũng chuẩn bị đánh Căm-Pu-Chia và đối phó với Trung Cộng, nên ra giá sẽ cho phép và giúp Mỹ tìm xác lính Mỹ đổi lấy việc TT Carter nhận tù cải tạo qua diện HO, và nhận hàng vạn thuyền nhân bị VC công khai cho phép vượt biển, để xả bớt ưu tư an ninh nội bộ (lo sợ chưa kiểm soát được khối quân cán chính ‘ngụy’, lo sợ dân Việt gốc Hoa nằm vùng cho TC) và gánh nặng kinh tế (bớt miệng ăn, thêm được ít tiền và vàng hối lộ). Nhìn vào quan hệ Mỹ-Việt, ta thấy TT Carter là người đầu tiên bắc lại nhịp cầu với CSVN; TT Clinton là người nhìn nhận CSVN, thiết lập ngoại giao, bỏ cấm vận kinh tế, cho CSVN gia nhập các tổ chức quốc tế, cứu VC thoát chết; TT Obama là người bỏ luôn cấm vận quân sự với CSVN. Cả ba đều có chính sách thân thiện nhất với CSVN, và cả ba đều thuộc đảng DC. Dĩ nhiên, cả ba ông cũng đều lớn tiếng đòi nhân quyền cho VN. Chẳng có một kết quả cụ thể nào ngoài việc VC thỉnh thoảng thả một tù chính trị qua Mỹ cho Mỹ vui, mà VC cũng bớt nhức đầu. Nhiều cụ tị nạn ta đã quên bẵng khối cấp tiến DC và TTDC đã là nguyên nhân lớn nhất khiến ta thua cuộc, phải vắt chân lên cổ bỏ xứ đi tị nạn, cũng quên luôn là đảng DC đã kịch liệt chống lại việc nhận chúng ta vào Mỹ năm 75. Lập luận căn bản, được nhóm Sáng Tổ nêu lên là “người Việt tị nạn nên quên chuyện quá khứ chống cộng vớ vẩn đi, mà nên có đầu óc thực tế bầu cho cái đảng gọi là ‘đảng dân sinh’ chuyên cho trợ cấp và phiếu thực phẩm cho dân tị nạn”. Việc nhân cách quan trọng, hay miếng ăn quan trọng, đó là lựa chọn của mỗi người. HƯỚNG ĐI MỚI CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ Đặc biệt năm nay, với chiến thắng của cụ Biden qua hậu thuẫn của cánh cực tả, đảng DC đã đi vào một đường hướng mới, trở thành cái mà cựu cố vấn của TT Clinton, ông James Carville gọi là “đảng của phải đạo ồn ào”. Theo ông Carville, nhóm cuồng tín cực tả chỉ có chừng 15% cử tri của đảng, nhưng đã cực kỳ năng động và ồn ào, lái đảng đi vào con đường phải đạo vớ vẩn không được lòng dân chút nào, khiến đảng DC đã thất bại nặng trong cuộc bầu quốc hội vừa qua khi mà cùng với chiến thắng của cụ Biden, lạ lùng thay, lại mất cả tá ghế tại hạ viện và chỉ đạt được mức ngang phiếu với đối lập CH trong thượng viện. Những chính sách chống cảnh sát, lẫn lộn giới tính, ưu tư những chuyện vớ vẩn như gọi là ‘ông’ hay ‘bà’,… là những chính sách mà tuyệt đại đa số dân Mỹ không ủng hộ. Thêm vào việc tội phạm tăng tốc khủng khiếp hiện nay, theo ông Carville, tương lai của đảng DC không khá. Trên đây là những sự thật về đảng DC. Những sự thật nhiều người không muốn biết. Hay không thích nghe
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 6, 2018 3:55:09 GMT 9
TT OBAMA XUẤT SẮC NHẤT? Vu Linh Tuần qua, kẻ này đọc tin tức, thấy báo New York Times làm ‘thăm dò’ trong các sử gia, và khám phá ra họ đánh giá TT Obama là tổng thống xếp hạng 8 trong 45 tổng thống Mỹ, trong khi TT Trump được hân hạnh cầm cờ đỏ, hạng bét bẹt. Đây là thăm dò qua 170 sử gia và giáo sư sử học mà có người gọi là “có trình độ và tư cách hơn những kẻ viết email vớ vẩn, và các sử gia này đang dạy cho thế hệ gốc Việt thứ nhì biết cách suy nghĩ cho chính xác hơn là những tay cực đoan chuyên bịa đặt các loại fake news”. Cũng trong tuần qua, kẻ này nhận được một email ‘rơi’, tức là loại email trên trời rớt xuống. Email đó đại khái có đoạn này: “Obama … là người đã cứu nước Mỹ ra khỏi thời kỳ đại suy thoái kinh tế, cứu kỷ nghệ xe hơi Hoa Kỳ, cứu các nhà bank lớn nhất nước Mỹ ra khỏi tình trạng bankruptcy, cứu hệ thống tài chánh và Ngân Hàng Hoa Kỳ ra khỏi cơn khủng hoảng, đưa kinh tế Mỹ trở thành hưng thịnh nhất trong vòng hàng chục năm nay, dọn mâm cơm thịnh soạn cho ngài TT Trump (chuyên gia Bankrupcy) hưởng, và còn nhiều lắm kể không hết”. Thú thật với quý độc giả, kẻ này đọc hai mẫu tin trên mà cảm thấy… giận tràn hông vì quá bất công với Đấng Tiên Tri. Dựa trên những thành tích nêu ra trong email rơi, tôi thấy TT Obama phải được xếp hạng ‘number one’ trong tất cả các tổng thống Mỹ là ít chứ sao lại là thứ 8? Muốn công bằng hơn, chắc phải xếp ông là ‘number one’ trong tất cả các vị quốc trưởng, tổng thống, chủ tịch, vua, đại đế, tiểu đế, thái hậu, nguyên soái, fuhrer, tổng bí thư, tù trưởng,... tất cả những người nắm chút quyền sinh sát trong lịch sử nhân loại. Có nhiều chuyện đáng lưu ý khi đánh giá thăm dò này: - NYT thăm dò 170 sử gia và giáo sư sử. Đúng ra là NYT gửi bản thăm dò cho 320 vị, có 170 vị trả lời, gần một nửa (150 vị) không tham gia. Kẻ này không có thống kê, chẳng biết xứ Mỹ này có bao nhiêu sử gia và giáo sư dạy sử. Ít ra cũng phải vài chục ngàn dựa trên con số cả ngàn đại học và cả ngàn trung tâm nghiên cứu lịch sử. Trong cả chục ngàn vị đó, sao lại lựa 320 vị này? Dựa trên tiêu chuẩn cấp tiến hợp nhĩ hợp nhãn với NYT sao? NYT thú nhận trong đám 170 vị trả lời, CH chỉ có 13% (chắc 22 vị), DC có 57% (khoảng 100 vị, nhiều gần gấp 5 lần CH). Có tới hơn 20 ông bà CH là quá khách quan theo tiêu chuẩn phe cấp tiến rồi! Không tin, hỏi công tố Mueller trong đám phụ tá của ông có bao nhiêu ông bà CH? [Câu trả lời: zero!] - Không ai không biết các đại học Mỹ, từ ban quản trị tới hàng ngũ giáo sư, cho đến sinh viên, tuyệt đại đa số (90%?) có khuynh hướng thiên tả, thân DC, chống CH. - Theo thăm dò, TT Trump thua xa ông William Henry Harrison, chỉ làm tổng thống có đúng một tháng, mà trong tháng đó, bị phong hàn vì tuyên thệ nhậm chức dưới mưa tuyết, ngay ngày hôm sau bệnh liệt giường đến chết luôn, không ngồi bàn giấy làm việc được tới nửa ngày. Vậy mà vẫn được điểm cao hơn TT Trump?! Các vị sử gia ‘có trình độ’ đó tính điểm ông Harrison dựa trên việc làm nào của ông Harrison vậy ta? - Việc xếp hạng hàng năm cũng thay đổi như chong chóng mà chẳng ai hiểu tại sao. TT Andrew Jackson qua đời năm 1845, tức là trong 173 năm qua, ông đã mồ yên mả đẹp, chẳng làm gì, chẳng thay đổi được bất cứ chuyện gì, dù vậy, vẫn bị tuột từ hạng 9 năm ngoái xuống 15 năm nay, nhường chỗ cho 6 vị tổng thống khác cũng đã chết từ đời nào rồi, tự nhiên được đôn lên dù chẳng ai biết họ đã làm gì dưới âm phủ. - So sánh Trump với các tổng thống đã làm đủ nhiệm kỳ, từ 4 đến 12 năm (TT Roosevelt), khi ông Trump mới làm việc có một năm, là việc làm phản khoa học, vô giá trị. Nếu thực sự khách quan, thì phải nói là “chưa đủ thời gian và yếu tố để so sánh TT Trump với các tổng thống đã làm đủ nhiệm kỳ trước”. Giống như so sánh bác sĩ mới mở phòng mạch được một năm với bác sĩ hành nghề cả chục năm. Nguyên tắc căn bản trong khoa học là không bao giờ so sánh những cái gì không tương tự. Dĩ nhiên đối với NYT, bôi bác Trump quan trọng hơn là làm chuyện ... có khoa học, và những người không ưa Trump, họ đọc là thấy khoái chí, cần gì biết khoa học hay không. - Nói về thăm dò của NYT, trước ngày bầu cử, đố quý vị biết NYT thăm dò, cho biết bà Hillary có bao nhiêu hy vọng đắc cử so với ông Trump? Câu trả lời: bà Hillary: 98%, ông Trump: 2%. Ai muốn tin thăm dò của NYT, cứ nhìn vào Tòa Bạch Ốc xem ai đang ngồi trong đó. Bình tâm mà nhận định, đánh giá kiểu này có đáng tin không? Phải nói ngay, đừng vội vu oan tôi ‘ngu xuẩn bưng bô’ Trump đấy. Tôi chỉ thắc mắc về tính khoa học, khách quan và chính xác của cuộc thăm dò thôi. Nếu đáp ứng đủ những tiêu chuẩn khoa học và khách quan mà vẫn thấy Trump hạng bét thì ... Trump là hạng bét thật! Cũng chẳng chết ai. Ngày mai tôi vẫn đi làm, cuối tháng vẫn lãnh lương trả tiền nợ nhà, vẫn được bà vợ cho ngày hai bữa cơm, con cháu vẫn đến thăm, bạn bè vẫn còn đầy, vẫn còn chuyện để viết trên diễn đàn. Nhưng có điều không thể không lo ngại. Đây là những giáo sư sử đã, đang, và sẽ giảng dạy cho con cháu chúng ta, sinh viên Mỹ gốc Việt, là “sự tham chiến của Mỹ tại Miền Nam VN là một sai lầm lịch sử vĩ đại, vì Mỹ đã can thiệp giúp một chế độ tham nhũng, độc tài, vô tài bất tướng, với lính hèn quan dốt, để đánh lại đội quân dép râu, quả cảm và yêu nước của cụ Hồ, thua là chuyện tất nhiên”. Quý cụ tỵ nạn nào muốn tôn vinh các sử gia “có trình độ” này xin cứ tự nhiên, nhưng xin đừng bắt tôi phải tôn vinh họ. Còn về nội dung cái email rơi thì... hết ý! Có những ‘huyền thoại’, con đẻ của đủ loại tuyên truyền nhai đi nhai lại đến thành ‘sự thật bình vôi’, không thể cậy bỏ được nữa. Tất cả những ‘thành quả’ kinh tế nêu trong cái email đó, chẳng có cái nào đúng sự thật, hay có đúng cũng chỉ đúng một phần. Mà ai cũng biết sự thật một phần thì không còn là sự thật nữa. Toàn bộ nội dung cái email rơi này là bản dịch Việt ngữ của bản tin CNN, không hơn không kém. Ta thử xem lại. Theo email rơi, Obama là người đã: - cứu nước Mỹ ra khỏi thời kỳ đại suy thoái kinh tế: Thế nào là “cứu”? Nói chung chung vô nghĩa. Ta nhìn lại những việc cụ thể dưới đây mới biết rõ. - cứu kỷ nghệ xe hơi Hoa Kỳ: Tháng 12/2008, hai tháng trước khi TT Obama nhậm chức, TT Bush khẩn cấp trích ra 17,5 tỷ đô trong TARP, là luật cứu nguy ngân hàng (xin xem phần dưới) cho hai hãng xe GM và Chrysler có tiền trả nợ và trả lương nhân viên, khỏi khai phá sản. Sau khi TT Obama nhậm chức thì ông tiếp tục việc TT Bush đã làm, cứu hai hãng xe này thật, nhưng cách TT Obama ‘cứu’ kỹ nghệ xe hơi là đề tài tranh cãi bất tận vì cái giá kinh hoàng phải trả dưới áp lực của các nghiệp đoàn muốn TT Obama phải cứu hai hãng xe này bằng mọi giá để giữ việc làm cho họ, tức là giữ phiếu của cử tri nghiệp đoàn cho đảng DC. Ông “cứu” bằng cách bắt cả hai công ty khai phá sản, xù hàng tỷ tiền nợ [nợ ngân hàng, nợ các nhà cung cấp phụ tùng, nợ các đại lý bán xe khiến 2.500 đại lý phá sản trên cả nước], xóa hàng tỷ bạc trái phiếu và cổ phiếu liên quan đến hai hãng xe GM và Chrysler, khiến hàng triệu người mất tiền đầu tư, hàng ngàn quỹ hưu lỗ nặng, người già lãnh tiền hưu mất bộn. Nhà Nước Obama mất đứt 23 tỷ, và phải bán tháo Chrysler cho Fiat của Ý, chỉ cứu được GM. Những chuyện động trời này, ít người biết vì TTDC ém nhẹm không bàn. Dù sao thì người đầu tiên nhẩy ra cứu kỹ nghệ xe hơi Mỹ khỏi phá sản là TT Bush con, chứ không phải TT Obama.
- cứu các nhà bank lớn nhất nước Mỹ ra khỏi tình trạng bankruptcy, cứu hệ thống tài chánh và Ngân Hàng Hoa Kỳ ra khỏi cơn khủng hoảng: Triệu chứng khủng hoảng xuất hiện rõ nét từ giữa 2008, khi Fannie Mae và Freddie Mac ôm khoảng 5.000 tỷ nợ mua nhà do các ngân hàng bán lại; lỗ 15 tỷ trong năm vì những nợ xấu không thu được. Có nguy cơ xập tiệm trong vài tháng vì nợ xấu còn quá nhiều. Tháng 9/2008, 2 tháng trước ngày bầu cử, 5 tháng trước ngày TT Obama tuyên thệ nhậm chức, TT Bush bơm 200 tỷ góp vốn mới và cấp tín dụng công (tức là Nhà Nước cho vay), đặt cả hai tổ chức dưới sự giám sát –conservatorship- của chính phủ để cứu cả hai. Hai cơ quan này xập tiệm sẽ kéo theo sự sụp đổ toàn diện của cả hệ thống ngân hàng Mỹ. Đây là hai cơ quan bán công nắm chìa khóa của toàn thể hệ thống tín dụng gia cư của Mỹ. Ngay cả bây giờ, không ngân hàng nào có thể cho vay nợ mua nhà nếu không được Fannie Mae hay Freddie Mac chấp nhận mua lại nợ, nghĩa là tất cả các ngân hàng cũng như dân đi mượn tiền mua nhà đều bị luật lệ của Fannie Mae và Freddie Mac chi phối. TT Bush tháng 10/2008 ký luật TARP [Troubled Assets Recovery Program], 1 tháng trước ngày bầu cử và 4 tháng trước khi TT Obama nhậm chức, ra kế hoạch chi 700 tỷ tiền mặt ra cứu hệ thống ngân hàng. Cả ngàn ngân hàng nhận được tiền mặt để có đủ thanh khoản giữ niềm tin của quần chúng trong khi các biện pháp cải tổ được điều đình để giải quyết khối nợ xấu. Một số lớn nợ xấu được chính phủ mua lại. Cái ‘công’ của TT Obama là đã không thay đổi kế hoạch cứu nguy của TT Bush, tiếp tục thực thi kế hoạch đó, chi tiền cứu các ngân hàng và mua lại nợ xấu theo đúng kế hoạch của TT Bush. Nôm na ra, TT Bush đã cứu hệ thống tài chánh Mỹ cả mấy tháng trước khi TT Obama tuyên thệ nhậm chức.
- đưa kinh tế Mỹ trở thành hưng thịnh nhất trong vòng hàng chục năm nay: Các chuyên gia kinh tế ghi nhận khủng hoảng kinh tế chấm dứt tháng 6/2009. Từ đó đến cuối nhiệm kỳ TT Obama, kinh tế đã từ từ phục hồi lại. Nhưng TT Obama đã là tổng thống duy nhất trong lịch sử cận đại chủ trì một nền kinh tế chưa bao giờ biết tăng trưởng 3% là gì. Câu nhận định “hưng thịnh nhất trong vòng hàng chục năm nay” chỉ là vọng ngôn tiếu lâm của người nói mà không biết mình đang nói gì.
- dọn mâm cơm thịnh soạn cho ngài TT Trump hưởng: CNN tung hô TT Obama đã để lại một gia tài tuyệt vời cho TT Trump khi kinh tế đã tăng trưởng tới 3,2% trong đệ tam cá nguyệt năm 2017. TT Obama đi vay mượn hơn 9.000 tỷ công nợ, bội chi ngân sách hơn 7.000 tỷ, và bơm 2.000 tỷ vào kinh tế qua chính sách dễ dãi tiền (Quantitative Easing – QE), mà chỉ đẻ ra được 3% tăng trưởng sau 8 năm? Vác xe ủi lô cán được con ruồi rồi đấm ngực khoe công? Không ai có thể nói kinh tế chưa phục hồi, nhưng phục hồi kinh tế của TT Obama, theo CNN [phe ta đấy- xem bài của CNN trong trang ‘Báo Mỹ’ tuần này] là cuộc phục hồi tốn kém, chậm và yếu nhất lịch sử Mỹ. Thật ra, cái ‘mâm cơm thịnh soạn’ mà TT Obama đã dọn cho TT Trump gồm những món cao lương mỹ vị để đời thật: 1. kỷ lục công nợ, tăng từ 10.000 tỷ lên gần gấp đôi, 19.000 tỷ; 2. kỷ lục thâm thủng ngân sách, tổng cộng 7.100 tỷ, lớn gấp 4 lần thâm thủng 1.700 tỷ của TT Bush con; 3. kỷ lục 62% tổng số dân cả nước có việc làm, thấp nhất kể từ thời TT Carter cách đây hơn 40 năm. 4. kỷ lục số người sống ít nhiều nhờ trợ cấp: 153 triệu người, gần một nửa tổng số dân. 5. kỷ lục số người lãnh phiếu thực phẩm foodstamp: 51 triệu người, cứ 6 người dân thì có một người sống nhờ foodstamps. Nếu định nghiã kinh tế thành công là kinh tế trói dân nghèo vào trợ cấp để được tái đắc cử thì TT Obama là một thiên tài. Nếu định nghiã kinh tế thành công là làm cho dân giàu, tự lực cánh sinh, thì TT Obama là một đại họa. Sẽ cần cả chục năm mới xóa được tác hại của những kỷ lục nêu trên. Đi xa hơn nữa, nền kinh tế ta đang chứng kiến là kinh tế của Trump, không liên hệ gì đến kinh tế của Obama. Đó là kết luận của ABC, một đài TV không nổi tiếng là có cảm tình với TT Trump. Có những bằng chứng cụ thể ít chuyên gia chối cãi được: - Trong những năm Obama, thị trường chứng khoán từ từ bò lên, ở mức trung bình 15% một năm, phần lớn nhờ xuống quá thấp trong cơn khủng hoảng tài chánh khi TT Obama mới chấp chánh. Nhưng trong hơn một năm từ khi TT Trump đắc cử, Dow Jones đã vọt lên gần 40%, kể cả sau khi tự điều chỉnh trong mấy tuần qua; tỷ lệ số người khai thất nghiệp lặn xuống mức thấp nhất từ 1969 cách đây 50 năm; số người lãnh phiếu thực phẩm giảm mạnh,... - Chính sách kinh tế của TT Trump đi ngược lại chính sách của TT Obama, không ai có thể nói đó là gia tài của Obama được: rút khỏi các hiệp ước quốc tế như TPP; điều đình lại NAFTA; hủy bỏ cả ngàn luật lệ thủ tục kinh doanh, giảm thuế mạnh, tăng thuế hàng loạt sản phẩm nhập cảng như máy giặt, kính thu ánh sáng mặt trời, sắt, nhôm;... (quyết định tăng thuế nhập cảng sắt và nhôm đã khiến giới kinh doanh hoảng hốt vì lo sợ một cuộc chiến tranh thương mại lớn với Trung Cộng cũng như giảm mức lời kinh doanh của các công ty Mỹ, Dow Jones rớt ngay hơn 400 điểm, nhưng các nghiệp đoàn hoan hô mạnh khiến DC lại lo không biết làm sao lấy lại phiếu của dân lao động ra khỏi tay Trump).
- còn nhiều lắm kể không hết: Vậy xin phép để tôi kể ra cho: Kinh tế: - Năm 2009, TT Obama ra luật kích cầu kinh tế, dọa nếu thông qua, thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ mau chóng xuống ngay mức bình thường 4%-5%, nếu không sẽ vọt lên mức đại họa là 8% ngay. Luật được thông qua. Vài tháng sau, tỷ lệ thất nghiệp nhẩy lên không phải là 8% mà là 9%-10% và trụ ở mức này hơn 5 năm mới bắt đầu hạ dần trong 2 năm cuối nhiệm kỳ. - TT Bush con giảm thuế 2 lần. Ứng viên Obama khi tranh cử năm 2008 sỉ vả Bush “lấy tiền nhà nghèo cho nhà giàu” (nghe quen quen!). Cuối năm 2010, luật giảm thuế của TT Bush hết hạn. TT Obama làm gì? Gia hạn luật ‘lấy tiền người nghèo cho nhà giàu’ của Bush! TTDC nín thinh. Chính trị: TT Obama thực hiện được giấc mộng, làm một chuyện để đời để thoả mãn tự ái, Obamacare. Luật mới giúp cung cấp bảo hiểm y tế cho khoảng hơn một chục triệu người. Cái giá phải trả là hơn ba trăm triệu dân Mỹ phải đổi bảo hiểm, đổi bác sĩ, nhà thương, và cả thuốc, trong khi phải trả tiền bảo hiểm và dịch vụ y tế mỗi ngày mỗi cao. Obamacare là lý do chính khiến đảng DC gặp thất bại lớn nhất lịch sử Mỹ: trong 8 năm Obama, đảng DC mất 1.000 ghế dân cử từ cấp liên bang xuống tới tiểu bang và địa phương. Obamacare là chuyện “điên rồ” nhất trên phương diện xã hội cũng như y tế và chính trị. Ai không tin, có quyền đi hỏi TT Clinton, đồng chí của TT Obama. Trong khi đó, TT Obama cũng đã chủ trì việc ra đời hay lớn mạnh của những tổ chức quá khích cực đoan cả tả lẫn hữu, như Tea Party, Black Lives Matter, Antifa,... Không phải vô cớ mà báo phe ta WaPo khi đó tặng cho TT Obama chức tổng thống tạo phân hóa lớn nhất lịch sử cận đại Mỹ. Khủng bố: Câu đố vui: ISIS ra đời, lớn mạnh, chiếm một nửa Iraq và một nửa Syria dưới thời tổng thống nào của Mỹ? Sự lớn mạnh và tàn bạo của ISIS đưa đến thảm họa di dân lớn nhất lịch sử nhân loại khi cả triệu dân Trung Đông tràn qua Âu Châu tìm đường sống. Đối ngoại: Dưới triều đại Obama, Putin phục hồi lại đại đế Nga, chiếm lại ảnh hưởng trên các nước trong Liên Bang Xô Viết trước đây, cưỡng chiếm luôn một phần lãnh thổ Georgia và Ukraine để mở đường chiến lược ra biển phiá nam và mỏ dầu Trung Đông, rồi can thiệp thẳng vào cuộc chiến Syria. Trong khi đó, Trung Cộng chưa bao giờ mạnh như dưới thời TT Obama, hùng cứ Biển Đông, muốn cắm dùi kiếm dầu hoả ở đâu cũng được, lấn chiếm Trường Sa, Hoàng Sa như chỗ không người. Chưa kể phác họa ra chiến lược “Con Đường Tơ Lụa” đi chinh phục cả Á Châu kiểu các cường quốc Âu Châu thế kỷ 18-19. Tại Phi Châu, dù không được quốc hội cho phép, TT Obama 'lãnh đạo từ phiá sau lưng' Pháp và Anh, can thiệp vào Lybia, lật đổ và giết TT Khaddafi, biến Lybia thành một xứ vô chính phủ, cả chục phe nhóm đánh giết nhau loạn đả trong khi thế giới ngó lơ. Đại sứ bị giết, cũng không dám có phản ứng mà chỉ biết tìm lý cớ để không làm gì hết. Tại Syria, TT Obama ‘vạch lằn ranh đỏ’ cảnh cáo TT Assad nếu dùng vũ khí hóa học, Mỹ sẽ không tha. Assad dùng vũ khí hoá học thật. TT Obama hỏi “ủa, tôi vạch làn ranh nào?” Rồi níu áo Putin, án binh bất động, để Assad và Putin tung hoành giết dân Syria thả giàn cho đến bây giờ. TT Obama nhậm chức đầu 2009, Cậu Ấm họ Kim chào mừng bằng cách thử nghiệm hỏa tiễn tầm xa có khả năng gắn đầu đạn nguyên tử, xé hiệp ước đa phương 6 nước kiểm soát việc chế vũ khí nguyên tử. Sau đó, trong suốt hai nhiệm kỳ, TT Obama nhắm mắt, không nhìn thấy Bắc Hàn trên bản đồ thế giới, kể cả khi anh sinh viên Mỹ Otto Warmbier bị bắt tra tấn trong tù đến gần chết. Thưa quý vị độc giả: như vậy đủ chưa hay muốn đọc nữa? Thế mà được xếp hạng tổng thống tài giỏi thứ 8 của Mỹ đấy!
|
|