|
Post by Can Tho on Jul 22, 2017 0:21:52 GMT 9
VĨNH LONG QUÊ HƯƠNG TÔI nhactrinh.vn/lich-su-hinh-thanh-va-hinh-anh-ngay-xua-cua-vinh-long/?fbclid=IwAR3Alr3CwUHK-DAHKDII9vQdTnEqO8l9Nfk-x85iZPgU-3KaC3LmCSvYTeQ . www.facebook.com/NguoiNhapCuoc1975/?__tn__=%2CdK-R-R&eid=ARDBf5HIY9RM2vw4M-NHRs5SnLdtRIyAH6DJRil41KYDwbpOYp2ctxFz7pGC9AQ3jL0ymkKDDeD6aiix&fref=mentions . Vĩnh Long là từ bất quy tắc trong tiếng Việt. Thanh ngang không đứng sau dấu ngã. Tên Vĩnh Long do Vua Gia Long đặt, nghĩa là Hưng Long Vĩnh Tế (Vĩnh viễn Tế thế). Ngã Ba Cần Thơ không nằm ở Cần Thơ mà nằm ở Vĩnh Long, là hướng Quốc lộ 1A đi Cần Thơ. Ngã Ba Cần Thơ còn gọi là Ngã Ba Long Châu. Long Châu là tên gọi xa xưa của 1 ngôi làng, thuộc huyện Châu Thành, sau nâng lên thành Thị xã Vĩnh Long. Nên khi Vĩnh Long lên Thành phố, từng có ý kiến đổi tên Thành phố thành Long Châu cho nó mới mẻ Chợ Long Châu cũng là Chợ Phường 2, Chợ Tân Bình. Cầu Tân Bình là Cầu Bình Lữ. Bún Riêu ngon nhứt là Bún Riêu Sở Xây dựng. Xôi Mặn xếp hàng mua nghe chửi là Xôi 69 bán vào buổi sáng. Chiều thì ăn Xôi Gà Ba Lệ. Ban ngày thì ăn Bánh mì Quang Râu. Chiều thì ăn Bánh mì Phá lấu Thiềng Đức. Bánh Mì ban đêm ngon nhứt là Bánh mì Ma. Bánh Bao Tài Có là Bánh bao ngon nổi tiếng của Vĩnh Long. Cháo Gạo lức rang độc nhát ở xe trước cổng Sở Tài Nguyên Môi trường. Cháo Quảng bình dân ngon nhứt là xe bán gần chỗ ngã ba 30/4 giao với đường Nguyễn Thị Minh Khai. Ăn Súp thì thường đến quán gần trường Khuyến Tật. Mì Cay đang HOT là 79 ngang Phòng Cháy cũ. Phở 91 là Phở nổi tiếng nhứt Vĩnh Long. Phở Tàu Bay thì nổi tiếng với Chè Bưởi bán vào buổi chiều hơn. Ăn Chè Thái phải lên trường Nguyễn Huệ. Bên hông trường Lưu Văn Liệt là Chè Thạch, Sâm Bổ Lượng và nhứt là Chè Hột Gà. Trước cổng trường Lưu Văn Liệt thì nổi tiếng Sinh tố. Ăn Tàu Hủ thì vô Công An Hậu Cần. Nước Mía thì ngay ngã tư Trưng nữ Vương - Hoàng Thái Hiếu là vô địch. Những quán café mở cửa sáng đêm tập trung ở 2 Bến xe, và đặc biệt là khu Bến tàu. Là người trẻ ở Vĩnh Long thì ít nhất phải 1 lần ra đây ngồi sáng đêm. Ở Vĩnh Long, Quán nhậu nhiều hơn quán cơm, Quán Café và Karaoke cũng vậy. Hủ tiếu Chui là Hủ Tiếu ăn trong quán nhà rất chật. "Chui" ở đây bắt nguồn từ ngày trước, khi quán mới mở lại vào những ngày đầu mới tiếp thu vào, vì quán bán trong nhà và không mở rộng cửa để nhiều người biết nên chỉ ai quen mới vào ăn, rồi từ đó thành tên gọi là "Chui", giống như cách gọi vui của mọi người lúc đó, rồi thành ra "thương hiệu" : "Hủ tiếu Chui" như bây giờ. Cua Ông Sụa, cũng có 1 quán hủ tiếu của người Hoa, chỗ ngã tư Nguyễn Thị Minh Khai giao với Trưng Nữ Vương. quán bán vào sáng và chiều. Cua Ông Quan là ngã tư 3/2 với Lê Văn Tám chỗ Cầu Lộ thả xuống. Cầu Lầu ngày xưa thực sự có Lầu, để canh gác giới nghiêm người đi bộ. Thuyền Đức là Thuyền Đúc - xưởng Đúc Thuyền hay xưởng Thuỷ Sư, nay là khu đất giữa Cầu Thuyền Đức với Cầu Lầu. Chợ Cua không bán Con Cua mà vì nằm ngay 1 cái Cua hiểm. Sân Bay Vĩnh Long giờ chỉ còn đường băng, là 1 khúc của đường Võ Văn Kiệt. Cầu Cần Thơ nằm ở Thị xã Bình Minh nhưng ngắm Hoàng Hôn đẹp hơn. Cầu Mỹ Thuận thì ngắm Bình Minh đẹp hơn. Xa Lộ Tình yêu là Quốc lộ 57. Đường Ông Phủ không phải là Âm Phủ, ngày xưa Quan Tuần Phủ từng ở đây! Ngã Ba Chiều Tím được gọi như vậy vì ngày xưa có quán cà phê cùng tên ở gần đó. Ngã tư Đồng Quê (Vòng xoay Bệnh viện) tương tự nhưng ngày xưa là 1 Nhà hàng lớn. Cua Thầy Thìn là vì có ông Thầy Thìn chuyên chữa trị bằng Đông Y. Vườn Còng (Khu Karaoke) được gọi như vậy vì ngày xưa ở đây có nhiều cây Còng. Cầu Tàu (bờ kè Phường 1) được gọi như vậy vì trước 1975 Tàu Chiến Mỹ từng neo đậu ở đây, và thực sự có Cầu tàu, đường ống Hút nước là còn lại 1 trong số đó. Trường THPT Vĩnh Long được gọi là trường Bán Công vì trước đây là hệ Bán Công. Chợ Gấu được gọi như vậy vì nằm ngay sau chuồng nuôi 2 con Gấu. Chuồng nay thành khu pha chế của quán café Hoa Viên, khuông viên quán ngày xưa là Công viên Cửu Long. Cầu Công Xi tên đầy đủ là Công Xi Heo, tập trung nhiều lò mổ heo trước đây. Cầu Kinh Cụt bắt qua con Kinh chảy vào sẽ cụt lối. Có 2 Xóm Chùa ở phường 1 là Chùa Cao Đài và Chùa Tịnh Độ, 2 Chùa này đều không thuần Phật Giáo. Gọi là đường Lò Rèn vì ngày xưa gần Cầu Lầu có xưởng đúc rèn quân trang. Chợ Vĩnh Long còn được gọi là Chợ Lớn, để phân biệt với tất cả các chợ nhỏ hơn còn lại. Sân vận động và Cảng của Vĩnh Long đều đặt tên là Vĩnh Thái, vì Vĩnh Long và Thái Bình là 2 Tỉnh kết nghĩa. Chợ Nổi duy nhất của Vĩnh Long nằm ở Trà Ôn. Đài PT - TH Vĩnh Long là niềm tự hào lớn nhất của quê nhà. Miếu Công Thần còn gọi là Đình Khao, vì ngày xưa là nơi Khao (chiêu đãi) những người có công lao với đất nước. Chùa Ông và Chùa Bà không phải là Chùa mà là Miếu thờ, của người Hoa. Miếu (hay Miễu) Quốc Công ngày xưa thờ Tống Quốc Công (Tống Phước Hiệp), do thời kỳ đầu, cùng với Phan Thanh Giản ông bị những người cực đoan ghép cùng với Nguyễn Ánh là những người cầu vinh bán nước nên bị phê phán. Tống Quốc Công được người dân giấu đem Sắc tứ về Thờ ở Đình Tân Giai, Miễu bị đập xây thành Nhà Văn hoá thành phố. Trường Tống Phước Hiệp cũng vì vậy bị đổi tên. Quảng trường ngày xưa là Khu Bệnh Nhi, Bệnh viện Tâm thần, Nhà xác và trường Nguyễn Trường Tộ cũ. Quảng trường Vĩnh Long đóng cửa chỉ 3 tiếng 1 ngày, đó là từ 23h hôm trước đến 2h hôm sau, trên thực tế không ai đuổi bạn cả. Ngã Ba Bác Hồ Tập tạ (?) là đoạn Lê Lợi cắt Tô Thị Huỳnh vì ở đây có tấm bảng cổ động tập thể dục thể thao là Bác Hồ đang tập tạ (?). Thành phố Vĩnh Long tuy nhỏ, ít đường, còn nhiều Danh nhân chưa dùng đặt tên đường nhưng có 1 người được đặt tên cho 2 con đường, đó là Lê Lợi, cũng là Lê Thái Tổ. Đường Ngô Quyền còn được gọi là Hẻm Võ Đan vì ở đây là làng nghề Đương Giỏ. Công viên Tượng Đài có duy nhất 1 tượng, khác với Công viên Cây xanh có rất nhiều cây. Công viên Cây xanh Thành phố Vĩnh Long trước đây là Nghĩa địa, hay Đất Thánh Tây vì trước 1954 là nghĩa địa của người đạo Thiên Chúa được Pháp thời đó bảo hộ. Nên Công viên này hay được gọi là Đất Thánh Tây hay Đất Khánh Tây. Nghĩa Địa Triều (Tiều) Châu và Nghĩa Địa Quảng Đông là đất mộ của người Hoa - Người đến từ Triều Châu và Quảng Đông đều nằm ở Vĩnh Long, khác với Nghĩa địa Vĩnh Long phải nằm ở Vĩnh Long. Cầu Vồng không phải là Cầu 7 sắc mà là cầu đi đường vòng, tránh đi qua nội ô. Cầu Bà Điều ngày nay đã bị lấp, có tên như vậy vì ngày xưa có Bà già chuyên quấn khăn màu Đỏ Hột Điều. Xóm Đáy là nơi có nhiều Ngư dân làm nghề Đóng đáy hàng khơi. Chỉ có Xóm Bún và Xóm Chày còn tồn tại trên hành chính Xóm Đập đã bị xoá xổ để xây Công viên sông Tiền Công viên sông Tiền hướng về sông Tiền nhưng nằm bên nhánh sông Cổ Chiên. Cổ Chiên là tên người Óoc Eo gọi con sông, tức là Cổ con Lịch (nhỏ hơn con Lương) vì nhánh sông bị teo 1 khúc như cổ của nó. Cầu Bạch Đằng hay bị gọi là Cầu Mỹ Thuận Mini vì nó giống quá giống nhưng được làm bằng thép. Thành phố Vĩnh Long không có phường 6 và phường 7 vì năm thành lập có lũ lụt thất mùa nên kỵ không đặt phường 6 và 7, tỉnh Cửu Long khi đó đặt đủ cho Trà Vinh. Trung tâm Hoạt động Thanh thiếu niên luôn được gọi theo tên trước đây là Cung Thiếu Nhi. Vĩnh Long không có Cung Thiếu Nhi. Trung tâm Văn hoá Tỉnh luôn được gọi là Hội Chợ hoặc Triển Lãm vì ngày xưa ở đây thường xuyên tổ chức Hội chợ Triển lãm. Cầu Ông Me nằm trên Quốc lộ 53 nhưng Cầu Ông Me lớn lại nằm ở Quốc lộ 1A, cách đó chừng 20km. Tương tự, Cầu Cái Sơn Bé nằm trên Tỉnh lộ đường phường 5 - Thanh Đức nhưng Cầu Cái Sơn Lớn nằm trên Quốc lộ 1A đường đi Cần Thơ. Gọi là Bà Lan vì ngày xưa ở đó có Bà tên Lan giàu lắm. Gọi là Ba Càng vì ngày xưa khu vực này bị Mỹ oanh tạc bằng Bom Ba Càng. Tịnh Xá Ngọc Viên là Ngôi Tịnh Xá đầu tiên của Việt Nam, khi Tổ sư Minh Đăng Quang thiết lập phái Khất sĩ đã ở đây. Mang Thít là huyện duy nhất có Thị trấn Huyện lỵ không cùng tên, là Cái Nhum. Trước đây Huyện Bình Minh có thị trấn là Cái Vồn nhưng bây giờ đã thành 1 phường của Thị xã. Những từ mang tên Cái đều có liên quan đến những con sông sẽ thông ra Sông Cái - Mèkóng - Sông Cửu Long: Sông Tiền và Sông Hậu. Trà Ôn là Thị trấn duy nhất ở Vĩnh Long phân Khu thay vì gọi là Khóm cho cấp dưới của cấp ngang xã ở đô thị. Cổng thành Vĩnh Long (Vĩnh Thanh Trấn) từng bị đập nát và xây nên Miếu (Miễu) 7 Bà nhưng sau bị dời và dựng lại Cổng thành, nhưng tượng 2 con Voi vẫn còn nguyên Nếu không tính chế độ và cách gọi khác nhau, Vĩnh Long từng có tới 3 Thủ tướng: Trần Văn Hương - Phạm Hùng - Võ Văn Kiệt. Bờ kè được xây chống sạc lở, chống nước tràn và dành cho người đi bộ nhưng hầu hết dùng để bắt bàn bán café. Minh Linh được xem là Khu Đô thị Ma vì bỏ hoang nhiều năm và phần lớn diện tích không có người ở. Ban Chỉ huy Quân sự Tỉnh Vĩnh Long cũng như các tỉnh khác trong khu vực đều thuộc Quân khu 9 nhưng luôn bị gọi là Quân khu 9. Quân Khu 9 thực sự ở Cần Thơ. Hầu hết Tên các trường học ở Vĩnh Long cũng được đặt cho tên đường. Đường Nguyễn Việt Hồng chỉ có duy nhất 1 căn nhà. Trường Vĩnh Liên là trường Song ngữ và cũng là trường tiếng Hoa (hệ Phúc Kiến) đầu tiên ở Vĩnh Long. Ở Vĩnh Long, đa phần các Phường đều ngăn cách nhau bởi sông, rạch. Hầu hết các con đường khi qua cầu đều đổi tên, ngoại trừ: Phạm Hùng, Đinh Tiên Hoàng, 2 Tháng 9. Đường 2/9 đi qua phường 3 được đánh dấu tới trường Ngô Quyền nhưng không 1 ngôi nhà nào ở phường 3 mang địa chỉ nhà trên đường này cả. Khu Xã Hội là đường Hẻm lớn bắt nguồn từ đầu Trưng Nữ Vương. Đường Lý Thường Kiệt gọi là đường Bánh, vì vào Tết Trung Thu, đầu đường là nơi tập trung nhiều Hiệu Bánh gia truyền nướng bánh thơm lừng. Vĩnh Long có 2 Chợ Đêm, hầu hết bán Trang phục may sẵn và hàng dệt may khác. Bình Minh quá nổi tiếng với Bưởi 5 Roi,Bắp Bình Minh cũng rất ngon, nhưng đem qua sông không biết vì sao vị ngon lại dở. Bình Tân là huyện mới, ít người biết đến nhưng các loại Khoai ở đây thì nổi tiếng khắp thế giới. Tam Bình thì có Cam Sành. Trà Ôn quá đẹp trong chuyện tình mùa Chôm Chôm. Vũng Liêm có Cù Lao Dài (Thanh Bình - Quới Thiện) trồng Sầu Riêng, Măng Cụt. Nơi này cũng là quê hương Đệ Nhất Phu Nhân Châu Thị Vĩnh Tế vợ Quốc Công Đại Thần Thoại Ngọc Hầu. Long Hồ cũng có Cù Lao, là An Bình, nổi tiếng với Nhãn. Trái Mận An Phước của Mang Thít không nổi tiếng cho lắm, nhưng Mang Thít là Vương Quốc Gạch Ngói. Có thể nhà bạn được xây từ Gạch, Ngói từ những lò nung nơi đây. Nguồn: Sưu tầm Vĩnh Long qua bộ ảnh của thành viên Việt Nam Ơi 11/05/2020 Thuộc khu vực miền Tây sông nước, Vĩnh Long mang vẻ đẹp an yên, thanh bình với nhiều nét văn hóa độc đáo. Miền Tây Nam Bộ có tất cả 13 tỉnh thành, mỗi nơi sở hữu nét riêng thu hút du khách ghé chơi. Trong số đó, Vĩnh Long lại mang một màu sắc khá đặc biệt, bình yên và giản dị. Nếu đang tự hỏi thực sự Vĩnh Long có điều gì đặc biệt để níu chân những người mê xê dịch thì để thành viên group Việt Nam Ơi trả lời cho bạn qua một vài hình ảnh đặc sắc nhất nhé! Du lịch tín ngưỡng, làng nghề, khu sinh thái... có rất nhiều điều thú vị tại Vĩnh Long. Mới đây trên group Việt Nam Ơi, thành viên có tài khoản mang tên Lu Nguyen đã đăng tải bài viết giới thiệu về Vĩnh Long. Với câu mở: "Hãy một lần về với Vĩnh Long, các bạn sẽ cảm nhận được sự yên bình, cổ kính của các ngôi nhà xưa, cuộc sống bình dị của người dân xứ miệt thứ" - anh chàng này đã khiến không ít các thành viên trong nhóm phải tò mò vì vùng đất Vĩnh Long. Không để các thành viên group Việt Nam Ơi phải nóng lòng suy nghĩ, Lu Nguyen đưa tới bộ ảnh khá "xịn sò" với những góc chụp độc đáo về nơi đây. Đồng thời, anh chàng cũng giới thiệu cực kỳ chi tiết về vùng đất bình yên, độc đáo nằm ở trung tâm miền Tây Nam Bộ này. Nhà Cổ Cai ĐườngVới những du khách yêu thích nét văn hóa và kiến trúc miền Tây thời xưa, thì địa điểm Nhà Cổ Cai Đường là nơi rất lý thú để thực hiện cuộc hành trình khám phá. Thiết kế của ngôi nhà cổ này là sự xen lẫn giữa kiến trúc Tây Âu và nét Á Đông thời xưa, tạo nên không gian khá ấn tượng, hài hòa về thẩm mỹ. Nhà Cổ Cai Đường có kiến trúc đan xen giữa phương Tây và mang nét Á Đông. Chùa Ông Tương đồng với Chùa Ông tại thành phố Cần Thơ, ngôi chùa cùng tên nhưng tọa lạc ở tỉnh Vĩnh Long cũng mang màu sắc quen thuộc về lối văn hóa, kiến trúc tín ngưỡng kiểu người Hoa. Tại đây, mỗi cột, chèo, hàng rào đều được sơn đỏ, chữ nhũ vàng... tạo nên một ngôi chùa có kiến trúc vừa quen thuộc lại vừa độc đáo. Chùa Ông Vĩnh Long theo hơi hướng người Hoa, được sơn đỏ khá ấn tượng. Chùa Phật Ngọc Xá Lợi Được xem là địa chỉ du lịch tâm linh "làm mưa làm gió" ở miền Tây, chùa Phật Ngọc Xá Lợi thu hút du khách tham quan khá đông mỗi năm. Đặc biệt, nếu đến chùa vào khoảng thời gian chiều tà, leo lên quảng trường là bạn có thể cảm nhận một không gian thoáng đãng, lộng gió và đầy mê hoặc của sông nước Vĩnh Long từ đằng xa. Chùa Phật Ngọc Xá Lợi là nơi linh thiêng và cổ nhất tại Vĩnh Long. Đặc biệt, nơi đây có tòa Bảo Tháp cao khoảng 45m, vô cùng lộng lẫy và uy nghiêm. Làng gốm Mang Thít Dọc bên bờ sông Cổ Chiên, những chiếc lò nung gốm hiện hữu như cây nấm khổng lồ, thu hút sự tò mò của nhiều du khách khi lần đầu ghé đến Vĩnh Long. Đó chính là nơi tọa lạc của làng nghề làm gốm Mang Thít, nơi chứa đựng những nét đẹp dung dị. Làng gốm Mang Thít mang nét đẹp độc đáo với những lò nung "siêu to khổng lồ". Nhìn từ bên bờ sông sang, nơi đây càng trở nên ấn tượng hơn bao giờ hết. Mỗi điểm đến tại Vĩnh Long đều mang dáng vẻ rất quen thuộc, một màu sắc đặc trưng của vùng sông nước miền Tây Nam Bộ. Với những điểm đến đã được giới thiệu chu đáo từ thành viên Lu Nguyen, bạn cảm thấy như thế nào? Cùng tham gia cộng đồng chia sẻ kinh nghiệm du lịch Việt Nam Ơi và trao đổi cảm nghĩ của bản thân nhé! Ảnh: Lu Nguyen/ Group Việt Nam Ơi.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 12, 2018 16:55:23 GMT 9
Tỉnh Vĩnh Long xưa nguyên là đất Tầm Đôn - Xoài Rạp (đất Tầm Đôn còn gọi là xứ Tầm Đôn, vị trí trung tâm của Tầm Đôn xưa thuộc khu vực của TX Vĩnh Long cũ, nay thuộc khu vực TP Vĩnh Long ) nhactrinh.vn/lich-su-hinh-thanh-va-hinh-anh-ngay-xua-cua-vinh-long/Tỉnh Vĩnh Long ngày nay là một phần của Long Hồ Dinh, được hình thành từ năm 1732, bao gồm các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh và một phần của Cần Thơ. Năm 1732, Chúa Nguyễn thứ bảy là Ninh vương Nguyễn Phúc Trú (1696-1738) đã lập ở phía nam dinh Phiên Trấn đơn vị hành chính mới là Dinh Long Hồ, Châu Định Viễn, tức tỉnh Vĩnh Long ngày nay. Lỵ sở của dinh Long Hồ lúc mới thành lập đóng ở thôn An Bình Đông, huyện Kiến Đăng, được gọi là đình Cái Bè. Đến năm Đinh Sửu (1757) thì chuyển đến xứ Tầm Bào (thuộc địa phận thôn Long Hồ, nay là Thành Phố Vĩnh Long). Thành Long Hồ được xây dựng tại xứ Tầm Bào là thủ phủ của một vùng rộng lớn. Nhờ đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi, dân cư đông đúc, việc buôn bán thông thương phát đạt, địa thế trung tâm…, dinh Long Hồ trở thành một trung tâm quan trọng thời bấy giờ. Để bảo đảm an ninh quốc gia, Chúa Nguyễn đã thiết lập ở đây nhiều đồn binh như Vũng Liêm, Trà Ôn... Đến giữa thế kỷ 18, dinh Long Hồ là thủ phủ của vùng đất phía nam và là đại bản doanh của quân đội chúa Nguyễn có nhiệm vụ phòng thủ, ổn định và bảo vệ đất nước. Sử cũ còn ghi: Vào năm Canh Dần 1770, tại vùng đất này, lưu thủ dinh Long Hồ đã chặn đánh tan tác quân Xiêm La do Chiêu Khoa Liên cầm quân, tiêu diệt 300 tên địch, làm tan vỡ âm mưu xâm chiếm nước Việt của chúng. Nơi đây, trong khoảng 10 năm (1776-1787), cũng từng là chiến trường diễn ra nhiều cuộc giao chiến ác liệt giữa nghĩa quân Tây Sơn với quân (chúa Nguyễn và Nguyễn Ánh), từ trận đầu tiên là trận tập kích Long Hồ của Nguyễn Lữ. Năm 1784, tại sông Mang Thít (Vĩnh Long) nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã đánh thắng trận Rạch Gầm-Xoài Mút, làm liên quân Xiêm La do Nguyễn Ánh cầu viện đại bại. Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Ánh đổi dinh Long Hồ, châu Định Viễn thành dinh Vĩnh Trấn. Năm Mậu Thân (1788), sau khi lấy lại đất Nam Bộ từ tay nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh đem 2 đạo Long Xuyên và Kiên Giang của trấn Hà Tiên nhập vào dinh Vĩnh Trấn. Thời nhà Nguyễn, năm Quý Hợi (1803), Gia Long (Nguyễn Ánh) cắt đất dinh Long Hồ xưa lập thành dinh Hoằng Trấn. Năm Gia Long thứ 7 (1808), Vĩnh Trấn, Hoằng Trấn được đổi làm trấn Vĩnh Thanh thuộc tổng trấn Gia Định, đồng thời thăng châu Định Viễn làm phủ với 3 huyện: Vĩnh Bình, Vĩnh An và Tân An. Năm 1810, lại cắt 2 đạo Kiên Giang và Long Xuyên về trấn Hà Tiên như cũ. Năm 1813, Gia Long lập thêm huyện Vĩnh Định thuộc trấn Vĩnh Thanh. Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là quan Hiệp trấn Vĩnh Thanh, với chức phó là quan Tham Hiệp. Các quan Trấn thủ Vĩnh Thanh gồm: Nguyễn Văn Thoại,... Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), Minh Mạng chia huyện Tân An thành 2 huyện Tân An và Bảo An thuộc phủ mới lập tên là Hoằng An. Năm 1832, Minh Mạng đổi tên trấn Vĩnh Thanh thành Vĩnh Long, lấy thêm 2 huyện Tuân Nghĩa, Trà Vinh của phủ Lạc Hóa thành Gia Định nhập vào Vĩnh Long và đổi trấn thành tỉnh Vĩnh Long. Nhưng đồng thời, lại cắt các huyện Vĩnh Định, An Định và đạo Châu Đốc sang tỉnh An Giang. Cùng năm 1832, Minh Mạng cho lập thêm huyện Vĩnh Trị thuộc phủ Định Viễn tỉnh Vĩnh Long. Đặt chức tổng đốc Long-Tường để thống lĩnh 2 tỉnh Vĩnh Long và Định Tường, cùng với các chức Án sát và Bố chính lo các công việc thuộc chức năng của Bộ Hình và Bộ Hộ ở cấp tỉnh, giúp cho Tổng đốc. Quần đảo Côn Lôn (tức Côn Đảo) thuộc tỉnh Vĩnh Long nhà Nguyễn. Năm 1833, tỉnh Vĩnh Long bị quân Lê Văn Khôi nổi dậy chiếm đóng, nhà Nguyễn phải điều binh đánh dẹp, cuối cùng án sát Vĩnh Long là Doãn Uẩn lấy lại được tỉnh thành (thành Long Hồ) từ tay quân của Khôi. Năm 1837, Minh Mạng lập thêm ở Vĩnh Long 1 phủ Hoằng Trị và 2 huyện (Bảo Hựu, Duy Minh). Năm Tự Đức thứ 4 (1851), nhà Nguyễn bỏ phủ Hoằng An, gộp các huyện của phủ này vào phủ Hoằng Trị. Thời vua Tự Đức cho đến khi Pháp chiếm Vĩnh Long (1851-1862), tỉnh Vĩnh Long gồm 3 phủ với 8 huyện (ngoài ra còn có thêm quần đảo Côn Lôn). Phủ Định Viễn, này có thể là đất thuộc các tỉnh Sóc Trăng, Hậu Giang: Huyện Vĩnh Bình gồm 8 tổng với 75 làng xã, phía Tây giáp huyện An Xuyên tỉnh An Giang, phía Nam giáp huyện Vĩnh Định tỉnh An Giang nhà nguyễn, phía Đông giáp huyện Vĩnh Trị. Huyện Vĩnh Trị gồm 6 tổng với 43 làng xã, phía Tây giáp huyện Vĩnh Bình, phía Nam giáp huyện Tuân Nghĩa phủ Lạc Hóa, phía Đông giáp huyện Trà Vinh phủ Lạc Hóa, phía Bắc giáp huyện Tân Minh phủ Hoằng Trị. Phủ Hoằng Trị, này có thể là đất thuộc các tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre: Huyện Bảo Hựu gồm 6 tổng với 42 làng xã, phía Tây giáp huyện Kiến Đăng tỉnh Định Tường, phía Nam giáp 2 huyện Tân Minh và Duy Minh, phía Đông giáp huyện Bảo An, phía Bắc giáp huyện Kiến Hưng tỉnh Định Tường. Đất huyện Bảo Hựu nay là đất thuộc tỉnh Vĩnh Long hiện đại. Huyện Tân Minh gồm 6 tổng với 41 làng xã, phía Tây giáp huyện Vĩnh Bình phủ Định Viễn, phía Nam giáp huyện Vĩnh Trị phủ Định Viễn, phía Đông giáp huyện Duy Minh, phía Bắc giáp huyện Bảo Hựu. Đất huyện Tân Minh nay là đất thuộc tỉnh Vĩnh Long hiện đại. Huyện Bảo An gồm 5 tổng với 27 làng xã, phía Tây giáp huyện Bảo Hựu, phía Nam giáp huyện Duy Minh, phía Đông giáp biển Đông (cửa biển Ngao Châu của sông Hàm Luông), phía Bắc giáp huyện Kiến Hòa tỉnh Định Tường. Đất huyện Bảo An có thể nay thuộc tỉnh Bến Tre (huyện Ba Tri,...). Huyện Duy Minh gồm 5 tổng với 34 làng xã, phía Tây giáp huyện Tân Minh, phía Nam giáp huyện Trà Vinh phủ Lạc Hóa, phía Đông giáp biển Đông, phía Bắc giáp 2 huyện Bảo Hựu và Bảo An. Đất huyện Duy Minh có thể nay thuộc tỉnh Bến Tre (huyện Thạnh Phú,...). Phủ Lạc Hóa, ngày nay là đất tỉnh Trà Vinh: Huyên Tuân Nghĩa nguyên là đất Mang Thít xưa, gồm 5 tổng với 76 làng xã, phía Tây giáp Vân Châu tỉnh An Giang nhà Nguyễn, phía Nam giáp rạch Cái Trưng tỉnh An Giang nhà Nguyễn, phía Đông giáp biển Đông (cửa biển Cổ Chiên), phía Bắc giáp huyện Trà Vinh và huyện Vĩnh Trị phủ Định Viễn. Đất huyện Tuân Nghĩa có thể nay là khoảng các huyện phía Nam tỉnh Trà Vinh (, Duyên Hải, Trà Cú, Cầu Ngang,...). Huyện Trà Vinh gồm 6 tổng với 70 làng xã, phía Tây giáp huyện Vĩnh Trị phủ Định Viễn, phía Nam giáp huyện Tuân Nghĩa, phía Đông giáp sông Cổ Chiên, phía Bắc giáp huyện Duy Minh phủ Hoằng Trị. Đất huyện Trà Vinh có thể nay là khoảng các huyện thị phía Bắc tỉnh Trà Vinh (thành phố Trà Vinh, Càng Long,...). Quần Đảo Côn Lôn (Côn Đảo) cũng thuộc sự quản hạt của tỉnh Vĩnh Long. Hành chánh trước ngày 30/04/2009 Tỉnh Vĩnh Long trước ngày 30/04/2009 gồm có 1 Thị xã Vĩnh Long và 7 huyện là: Huyện Bình Minh Huyện Bình Tân Huyện Long Hồ Huyện Mang Thít Huyện Tam Bình Huyện Trà Ôn Huyện Vũng Liêm Văn hóa, di tích lịch sử Do địa thế và lịch sử hình thành, từ ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa cùng sinh sống lâu đời ở đây đã hòa quyện và tạo nên một nền văn hóa đặc trưng cho vùng đất này. Vĩnh Long có khá nhiều loại hình văn học dân gian như: nói thơ Vân Tiên, nói tuồng, nói vè, hát Huê Tình, cải lương... Vĩnh Long cũng là nơi có nhiều di tích lịch sử văn hóa như: thành Long Hồ, Công Thần Miếu Vĩnh Long, đình Tân Giai, đình Tân Hoa, Văn Thánh Miếu Vĩnh Long. (Tư liệu:Sưu Tầm) Thành Vĩnh Long - nỗi đau Phan Thanh GiảnVới Long Hồ dinh được thành lập dưới thời chúa Nguyễn 1732, Vĩnh Long được biết đến là thủ phủ, trung tâm quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa của miền Tây Nam bộ. Đặc biệt là hệ thống thành trì quân sự - chính trị, trong đó đáng chú ý là thành Vĩnh Long.
Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép: “Tháng 2 năm Gia Long thứ 12 (1813) sắc cho trấn thủ Lưu Phước Tường đắp thành đất tọa ngồi kiềm hướng về tốn, nam bắc cách nhau 20 tầm, đông tây cũng thế. Bốn ngả đều có chỗ lõm vào ở giữa, mà ngoài bao thân, thành cửa cong ra, hình như đầu ngọc khuê. Bốn góc thành có góc nhọn thò ra như hình con rùa, lại như dáng hoa mai...”. Căn cứ vào bản vẽ thành Vĩnh Long năm 1864, 1867, 1872 của người Pháp cho thấy, kích thước thành Vĩnh Long đo được mỗi cạnh khoảng 600 m, chu vi toàn thành là 2.400 m.
Sau khi lần lượt chiếm thành Phụng, thành Biên Hòa, thành Mỹ Tho vào ngày 22.3.1862, liên quân Pháp - Tây Ban Nha với 10 chiến thuyền đến sông Long Hồ (còn gọi là rạch Long Hồ), đồng thời cho hơn 1.000 quân lập công sự trên bộ sát thành Vĩnh Long, đánh phá các đồn tiền tiêu, rồi đồng loạt tấn công bắn đại bác vào thành. Tổng đốc Trương Văn Uyển cùng quan binh biết không thể chống lại được bèn đốt hết dinh thự, kho tàng đạn dược trong thành rồi chạy về huyện lỵ Vĩnh Trị. Thành Vĩnh Long mất vào tay liên quân Pháp - Tây Ban Nha lần thứ nhất.
Thành Vĩnh Long bị chiếm, nguy cơ người Pháp chiếm toàn bộ Nam bộ là rất lớn. Triều đình Tự Đức khi đó có nhiều rối ren: phía Bắc thì nông dân nổi loạn, nội bộ triều đình bất an, 4 tỉnh Nam bộ đã bị liên quân Pháp - Tây Ban Nha xâm chiếm (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long). Nhận được thư của người Pháp ở Gia Định mang đến nghị hòa, vua Tự Đức đã bàn với quần thần thống nhất cử đại thần Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp đi Gia Định để thương lượng, hòng cứu vãn những gì còn có thể trong buổi suy tàn của chế độ.
Hòa ước Nhâm Tuất 1862 và nỗi đau Phan Thanh Giản
Ngày 5.6.1862, Hòa ước Nhâm Tuất được ký kết giữa nước Đại Nam do đại thần toàn quyền Phan Thanh Giản đại diện với Pháp - Tây Ban Nha. Theo thỏa thuận được ký kết, 3 tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, quần đảo Côn Lôn (Côn Đảo) là thuộc địa của Pháp. Trong đó, đáng chú ý là khoản 11 của hòa ước với nội dung: “Thành Vĩnh Long sẽ được binh lính (Pháp) canh gác cho đến khi có lệnh mới mà không ngăn cản bằng bất cứ cách nào hoạt động của các quan Đại Nam. Thành này sẽ được trao trả cho hoàng đế nước Đại Nam ngay khi ngài đình chỉ cuộc chiến loạn do lệnh ngài tại các tỉnh Gia Định và Định Tường, và khi những người cầm đầu cuộc phiến loạn này ra đi và xứ sở được yên tĩnh và quy phục như trong một xứ bình yên”. Tuy nhiên, âm mưu gian xảo, quyết chiếm toàn bộ Nam bộ, Pháp đã phản bội, đi ngược lại nội dung của hòa ước sau khi có được những chiến lợi, chiến phí khủng từ triều Nguyễn.
Vì không hài lòng với bản hòa ước, vua Tự Đức đã cách chức Phan Thanh Giản, cho làm Tổng đốc Vĩnh Long khi triều đình tiếp nhận trở lại tỉnh thành Vĩnh Long. Năm 1863, vua triệu Tổng đốc Vĩnh Long Phan Thanh Giản trở về kinh, sung làm Chánh sứ đi Tây. Vua hỏi Phan Thanh Giản: “Về việc 3 tỉnh (vua Tự Đức muốn thương lượng chuộc lại 3 tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường - NV), quả là cân nhắc nhẹ nặng mà làm, hay là có ý riêng gì?”. Giản thưa rằng: “Thần xem kỹ thời thế, không thể không được. Thần nay phụng mệnh đi sứ, thành sự hay không thành, là ở 2 nước ấy (Pháp và Tây Ban Nha - NV). Thần chỉ biết hết tâm lực thôi”.
Sau khi đi sứ trở về, Phan Thanh Giản dần được khôi phục chức vụ, năm 1865 ông được cử trở lại làm Khâm sai đại thần, Tổng đốc Vĩnh Long. Mặc dù vậy, đúng như nhận định thời cuộc của ông trước đây về nguy cơ đe dọa dân tộc, nỗi lòng của một nhà nho yêu nước luôn dằn vặt, giày vò, năm 1866 ông đã xin được về hưu nhưng vua không cho.
Năm 1867, trước sức mạnh của quân đội Pháp, nhận thức được binh lực của triều đình và thời đại, không muốn nhìn thấy đồng bào và binh lính phải đổ máu xương, ông đã bỏ thành Vĩnh Long đầu hàng để tránh thương vong, từ đây Nam kỳ lục tỉnh trở thành thuộc địa của Pháp. Ngày 22.6.1867, người Pháp chiếm thành Vĩnh Long lần thứ hai.
Sau khi tuyệt thực 17 ngày, ông đã uống thuốc độc tự tử và thi hài của ông được đưa về Bảo Thạnh (Ba Tri, Bến Tre) an táng. Triều đình truy luận tội xử trảm nhưng vì ông đã chết nên tha, đục bỏ tên trên bia tiến sĩ. Đến thời Đồng Khánh (1885) mới xóa bỏ án, truy phục chức tước và khắc lại tên trên bia.
Mặc dù phải gánh cái án lịch sử “Phan Lâm mãi quốc, triều đình thí dân” nhưng người dân Nam bộ nhiều nơi vẫn tôn nhớ và ghi nhận công lao của ông. Hiện nay, ngoài đền thờ ông trong khu mộ ở Bảo Thạnh, Ba Tri, Bến Tre, ông còn được thờ trong Văn thánh miếu Vĩnh Long; ở hữu ban trong đền thờ Tả quân Lê Văn Duyệt (Bình Thạnh, TP.HCM); đình Ba Thê (TT.Óc Eo, H.Thoại Sơn, An Giang), đình Tương Bình Hiệp (Thủ Dầu Một, Bình Dương) và nhiều nơi khác. Trong những năm qua, giới sử học VN cũng đã tiến hành nhiều cuộc hội thảo khoa học, xuất bản nhiều ấn phẩm liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp Phan Thanh Giản (1796 - 1867) đối với lịch sử dân tộc nhằm ghi nhận lại công lao của ông, trả lại cho lịch sử những gì thuộc về chân lý khi đánh giá nhân vật lịch sử ở góc độ đa chiều.Lương Chánh Tòng ************************************ MỘT SỐ ĐỊA DANH QUEN Ở VĨNH LONGtongphuochiep-vinhlong.com/2022/11/mot-so-dia-danh-quen-o-vinh-long/comment-page-1/#comment-90425Trong bài này , tác giả Nguyễn Gia Việt có nêu nhiều chi tiết có thể người địa phương khp6ng đồng ý, nhưng chúng ta cũng cám ơn vì ông gợi lại nhiều địa danh quen thuộc mà chúng ta không nói đến. Xin mọi người góp ý Tại Vĩnh Long có câu: “Đèn nào cao bằng đèn Cầu Lộ / Gái nào ngộ cho bằng gái Cầu Kinh /Trai nào xinh bằng trai Cầu Thiềng Đức /Nhiều lục bình nhứt là sông Cầu Lầu” – Cầu Lộ: Cày Lộ là cây cầu có cái dốc cao nhứt ở Vĩnh Long hồi xưa bắc qua rạch Ngư Câu (Cái Cá) Thời còn thành lũy cầu Lộ làm bằng cây rất cao để triều đình canh tuần sông Cái Cá, thành Long Hồ sát bên đó. Pháp qua làm cầu bê tông, từ hướng ngã ba Long Châu (ngã ba Cần Thơ) vô chợ Vĩnh Long theo con lộ Hàng Tre sau đặt tên là Lê Thái Tổ phải bước qua cây cầu này. Cầu này có hai hàng cột đèn rất cổ Cầu Lầu: Cầu Lầu vì nó có cái lầu trên cầu, kiểu như cái nhà hóng gió xưa . Bắc ngang rạch Cầu Lầu nối tiền Phường 1 và P 4 Thời Nguyễn cầu Lầu là một cầu bằng cây căm xe, lát ván, giữa có vọng lâu (lầu) dựng trên 4 cây cột cao,lầu sơn son thếp vàng. Cái lầu này để lính canh phòng mặt sông Cổ Chiên và canh tuần người dân qua lại vô thành (Hình cầu Lầu còn hình minh họa trong Vĩnh Long xưa và nay của Huỳnh Minh) – Cầu Kinh Cụt là cái cầu bắt qua kinh Cụt (kinh Công Xi heo) tức con kinh này không có hậu,nó bị cụt đường .Kinh Cụt bắt nguồn từ rạch Cái Cá đổ ra rạch Cầu Lầu, mà Cầu Lầu là rạch cụt không có hậu nên lục bình từ sông Cổ Chiên, Long Hồ đi vô mắc kẹt cứng ngắc không thoát ra được Chạy qua cầu Lộ ,nếu chạy thẳng cái rẹt sẽ vô chợ Vĩnh Long, nếu đổ dốc cầu quẹo phải độ mươi thước là Tòa Giám Mục Vĩnh Long Xóm cầu Kinh Cụt là xóm gái đẹp. Sáng các nữ sinh áo dài trắng túa ra đi qua cầu Kinh Cụt tới trường làm trắng xóa cả một vùng. Bây giờ nói tới chữ “thiềng” ở Vĩnh Long nè Cầu Thiềng Đức bắc qua sông Long Hồ Con lộ từ dốc cầu Thiềng Đức đưa tới làng Long Thành, băng qua xóm Thiềng Đức, xóm Bánh Phồng, xóm Chuồng Gà, xóm Cầu Kè. Bắt đầu từ cuối xóm Thiềng Đức, con lộ đã xuyên vào vùng miệt vườn rợp bóng mát Thiềng Đức có từ bao giờ và có nghĩa là gì? Đất Vãng của tỉnh Vĩnh Long xưa có từ năm 1757 khi vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long cho chúa Nguyễn,rồi thành dinh Long Hồ,trấn Vĩnh Thanh rồi tỉnh Vĩnh Long trong Nam Kỳ lục tỉnh thời vua Minh Mạng Năm 1867, sau khi chiếm được ba tỉnh Miền Tây, Pháp dỡ miếu hội đồng Vĩnh Long là nơi thờ 85 đạo sắc phong của nhà Nguyễn rồi đem cột kèo về xây cất tòa bố Vĩnh Long,người dân đem 85 đạo sắc phong về gởi tại đình làng Thiềng Đức ngày nay Ngày 18.6.1887 Pháp cho nhập các làng Long Phụng, Mỹ Thới, Mỹ Tường ,Thanh Mỹ thành làng Thiềng Đức Đến ngày 24.11.1932 nhập 3 làng Sơn Đông, Long Thanh, Thiềng Đức thành làng Long Đức Đông ,tổng Bình Thiềng Trong “Hơn nửa đời hư” học giả Vương Hồng Sển chép về bà Phủ An như sau: “Bà là người quê ở Vĩnh Long,làng Long Mỹ, tổng Bình Thiềng, nhưng trong khai sanh lại ghi ngày 15-4-1866, sanh tại làng Vĩnh Phước, tổng An Trung (Sa Đéc) tên trong bộ đời là Nguyễn Thị Lâu, nhưng ngoài thế lưu danh Bà Phủ An, với câu đặt để lớp xưa: Nhứt An, nhì Phát, tam Chanh, tư Định” Tổng Bình Thiềng có 7 làng: Bình Tịnh, Hạnh Lâm, Long Mỹ, Long Thanh, Sơn Đông, Thiềng Long, Thiềng Đức Trong tuyện ngắn ”Câu chuyện xóm Thiềng Đức” nhà văn Hồ Trường An ghi rằng:” Ông Lê Tấn Bền vốn dân xóm Thiềng Đức, làng Long Đức Đông, tỉnh Vĩnh Long” Thiềng Đức là gì? Thiềng Đức chính là Thành Đức.Vĩnh Long xưa còn có Long Thiềng ,Tân Thiềng và Thiềng Long Người Nam Kỳ mình một số nơi có thói quen biến đổi âm nhiều từ khác với Trung Kỳ và Bắc Kỳ Thí dụ:Bản thành bổn, đàm thành đờm ,bảo thành biểu, long thành luông (Yên Luông ), chân thành chơn và chưn, thị thành qua thị thiềng … Vì thế ca dao Nam Kỳ có câu: “Cất tiếng kêu cô mỹ nữ/ Đứng giữ tảng đá, chuông đồng/ Lòng cô muốn đi tu phải thối của cho chồng Ông thôn nhận mộc /Ông cả đứng thị thiềng/ Bao nhiêu tiền của phải thối liền cho anh” Hay như là: “Muốn lên non tìm con chim lạ/ Chốn thị thiềng chim chạ thiếu chi” Dân Nam Kỳ đọc mấy câu thơ của sơn nữ Phà Ca trong”Mưa rừng” như sau: “Em biết thầy cai ở thị thiềng/Còn em là gái của rừng xanh/Mấy lời giã biệt em còn nhớ/ Những chuyến giao thề chuyện sắt đinh” Cái chữ “Thiềng’ trong Thiềng Đức Vĩnh Long có bà con với cái chùa “Long Thiền” ở sát bên đó Long Thiền tức Long Thành và Thiền không hề có chữ g Người Miền Nam xưa rất thoáng trong việc áp chữ “G” khi “thiền” cũng như “thiềng”,”lan” cũng như lang”,”tiến” cũng như “tiếng” Xa xôi hơn nữa nhớ câu ca dao của dân Qui Nhơn nói về Võ Tánh : “Ngó lên hòn tháp Cánh Tiên Cảm thương ông hậu thủ thiềng ba năm” Thủ thiềng là thủ thành.Như vậy có thể biết rằng dân Vĩnh Long có bà con gốc người Ngũ Quảng nên vẫn giữ nguyên cách phát âm từ Trung Kỳ Cái nữa là ở xứ nước mắm Phan Thiết,bên sông Cà Ty ,chổ trường Dục Thanh ,tức là từ đường họ Nguyễn của ông Nguyễn Thông xưa là đất làng Thành Đức.Nhưng khi danh sĩ Kỳ Xuyên Nguyễn Thông ( 1827 – 1884 ) từ Nam chạy ra Bình Thuận tị địa và sống tới chết thì đất này có danh làng Thiềng Đức Phan Thiết vẫn là Trung Kỳ nhưng không xài chữ thiềng.Nguyễn Thông là dân Tân An, Long An từng làm đốc học Vĩnh Long Kỳ Xuyên Nguyễn Thông hiệu Độn Am sanh năm Đinh Hợi 1827 tại Bình Thanh, tổng Thạnh Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh Gia Định,nay là Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An Năm 1862,cả ba tỉnh Miền Đông bị Pháp chiếm, nhờ quan Phan Thanh Giản đề cử Nguyễn Thông được bổ làm Đốc học Vĩnh Long Lúc này ba tỉnh Miền Tây còn thuộc triều đình,các sĩ phu ở ba tỉnh Miền Đông lục đục kéo nhau về Vĩnh Long tỵ nạn Chúng ta có thể nhớ tới cụ Đồ Chiểu đã từ Gia Định về Cần Giuộc ,rồi ông cũng ôm gia đình đi tỵ địa bằng cách từ Cần Giuộc xuống Gò Công, từ Gò Công theo ghe vượt cửa tiểu sang đất Ba Tri, Bến Tre, Bến Tre khi đó là đất thuộc tỉnh Vĩnh Long Chính Nguyễn Thông và Phan Thanh Giản xây Văn Thánh Miếu Vĩnh Long. Công trình khởi công từ mùa đông năm Giáp Tý (1864) và hoàn thành vào mùa thu năm Bính Dần (1866).Trên bia của Văn Thánh miếu còn ghi Nguyễn Thông lại cùng Phan Thanh Giản khởi xướng việc dời mộ nhà giáo dục nổi tiếng ở lục tỉnh là Võ Trường Toản, từ Chí Hoà Gia Định cải táng về Bảo Thạnh, Ba Tri, Bến Tre, vì lẽ sĩ phu không muốn xương cốt “Ông tổ nho giáo Nam Kỳ” bị quân địch làm ô uế Năm 1867, Pháp chiếm thành Vĩnh Long, Phan Thanh Giản tự sát, lúc ấy Nguyễn Thông 41 tuổi, ông cùng một số sĩ phu “tỵ địa” ra Bình Thuận Sau khi Nguyễn Thông ra đi thì Văn Thánh Miếu, Vĩnh Long có nguy cơ bị Pháp dỡ. Dân Vĩnh Long lúc đó đã họp lại cử ông bá hộ Trương Ngọc Lang đứng ra nói chuyện với Pháp để giữ lại Văn Thánh Miếu Căn nhà của Nguyễn Thông ở bờ sông Cà Ty, Phan Thiết,ông gọi là “Ngọa du sào”, nơi ông đọc sách ngắm trăng làm thơ,tại nơi nầy năm 1884 Nguyễn Thông qua đời lúc 58 tuổi . Sau khi ông mất, nơi này là nhà thờ ông . Miếng đất nhà thờ Nguyễn Thông ở trên làng Thành Đức này chính là trường Dục Thanh. Làng Thiềng Đức tỉnh Vĩnh Long là quê quán một nhạc sư nổi tiếng, người đứng đầu nhạc tài tử miền Tây là Ông Trần Quang Quờn (1875 – 1946) con ông hương sư làng Thiềng Đức -Trần Doãn Cung,mẹ là người làng Bình Hòa Phước. Nay thuộc Long Hồ. Ông Qườn làm việc tại tòa bố tỉnh Vĩnh Long với chức kinh lịch là người chuyên dịch những văn bản của tòa bố từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ, dận gọi ông là kinh lịch Quờn Ông Qườn rất giỏi hát xướng đờn ca,ông viết bài Văn Thiên Tường nổi tiếng , là người góp phần tạo ra cải lương của đất Nam Kỳ Quờn là quyền, quờn phép là quyền phép “ Chẳng qua là gió đưa dươn/ Nào ai cướp lộc dành quờn chi ai /Vĩnh Long còn có làng Tân Ngãi Cái tên Tân Ngãi xuất hiện ngày 31.3.1886 do làng Tân Sơn sáp nhập với làng Vĩnh Tòng mà thành làng Tân Ngãi Làng Tân Ngãi có chợ Trường An là cái chợ nữa quê nữa phố,nhỏ chút xíu,bán buôn cũng không nhiều .Vậy mà chợ Trường An nổi tiếng lại nhờ tuồng cải lương“Tuyệt tình ca” Ông cò quận 9 Ngãi là nghĩa đó Vĩnh Long còn có Trung Ngãi, Minh Ngãi, Bình Quới, Quới Hiệp Cái chữ mà người Nam Kỳ thích đọc trại nhứt có lẽ là chữ quới Quới thiệt là hay. Chữ “quới” mới ly kỳ nè Quới là đọc méo âm của ba chữ quý, quái và quế Quý có nghĩa là sang trọng. Quái nghĩa là kỳ lạ.Quế nghĩa là một loại cây có mùi thơm nức mũi Nghe ai kêu quới nhơn thì hiểu là quý nhơn, nhưng cũng có nghĩa là quái nhơn Phần đông chữ quới ở Nam Kỳ có nghĩa là quý . Bình Qưới, Qưới Hiệp,Tân Qưới có nghĩa là Bình Qúy,Qúy Hiệp,Tân Qúy . Cai Lậy có Mỹ Quý thì Sóc Trăng có Mỹ Quới “Chợ nào nhiều rau bằng chợ Thầy Phó/ Chợ nào đánh võ bằng chợ Nhà Đài /Chợ Tân Quới mua bán nhiều khoai /Chợ Mỹ Tho đem cả ghe chài đến mua” Người Nam Kỳ kêu “quới” nhiều khi lại thành “quớ” ,cữ quớ này nghĩa là “bớ” trong câu kêu “Hò ơ! Mặt trời vừa lặn, mặt trăng vừa ló Quới nương em ơi, anh xin tỏ với nàng Hò ơ! Con gái ông Bang, con gái ông Phủ Qua cũng không màng Chỉ chuộng con bạn ngọc biết đá vàng, thủy chung” Vĩnh Long còn có cầu Dài, cầu Công Xi Heo nữa đó đa. Cầu Công Xi Heo nay là cầu Mậu Thân , xưa có lò mổ heo gần đó nên chết tên Công Xi Heo, kế bên có nghĩa địa An Nam. Công Xi heo là địa danh phổ biến ở Nam Kỳ, Bình Dương, Sài Gòn đều có. Cứ có lò mổ heo thì có Công Xi Heo. Trong” Sài Gòn năm xưa” ông Vương Hồng Sển viết: ”Đoạn từ Rạch Lò Gốm vô Rạch Cát, tại đường Danel (nay Phạm Đình Hổ) ngay Đồn Cây Mai, có cầu có bực thang, tiếng Pháp là Pont Danel, ta đặt tên Cầu Công Xi Heo. Kế bên có lò heo Đô Thành” Vĩnh Long xưa có đường và cầu Khưu Văn Ba nay là đường Phạm Thái Bường . Năm 1960 tỉnh trưởng Vĩnh Long Khưu Văn Ba bị ám sát chết ở khu trù mật Cái Sơn. Ông Khưu Văn Ba nguyên là Đốc Phủ Sứ, là tỉnh trưởng dân sự cuối cùng của Vĩnh Long vì sau khi ông chết tỉnh trưởng đều là sĩ quan Sau khi ông chết,Vĩnh Long đặt tên con lộ mới , cái cầu mới là cầu Khưu Văn Ba. Nguyễn Gia Việt
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 14, 2020 18:08:25 GMT 9
LỊCH SỬ TỈNH KIẾN PHONG:THỜI NHÀ NGUYỄN:Đất Đồng Tháp được khai phá vào khoảng thế kỷ 17-18 dưới thời các Chúa Nguyễn. Từ đầu thế kỷ 17, đã có lưu dân Việt đến vùng Sa Đéc khẩn hoang, lập ấp. Thời Gia Long, Sa Đéc thuộc huyện Vĩnh An, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh. Từ năm 1832, sau cải cách hành chính của Minh Mạng, phần đất tỉnh Đồng Tháp ngày nay nằm trên địa bàn hai tỉnh Định Tường Nhà Nguyễn (phần phía Bắc tỉnh Đồng Tháp, cũng là phần phía bờ Bắc sông Tiền Giang) và tỉnh An Giang của nhà Nguyễn (phần phía bờ Nam sông Tiền, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, nay là phần phía Đông Nam tỉnh Đồng Tháp). Phần đất Đồng Tháp nằm trên đất tỉnh Định Tường nhà Nguyễn thì trực thuộc tỉnh Định Tường này (một trong 3 tỉnh miền Đông của Nam Kỳ Lục Tỉnh) cho đến khi Pháp chiếm Định Tường năm 1861. Phần đất Đồng Tháp nằm trên đất tỉnh An Giang nhà Nguyễn thì trực thuộc tỉnh An Giang này (một trong 3 tỉnh miền Tây của Nam Kỳ Lục Tỉnh) cho đến khi Pháp chiếm tỉnh An Giang năm 1867. THỜI PHÁP THUỘC:Thời Pháp thuộc, địa bàn tỉnh Đồng Tháp ngày nay bao gồm toàn bộ đất đai tỉnh Sa Đéc, quận Hồng Ngự của tỉnh Châu Đốc, tổng Phong Thạnh Thượng thuộc quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên và một phần nhỏ đất đai thuộc quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. TRƯỚC NĂM 1900: Sau khi chiếm hết được ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ vào năm 1862, Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh Định Tường cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn, đồng thời đặt ra các hạt Thanh Tra. Lúc bấy giờ, hạt Thanh Tra Kiến Tường được thành lập trên địa bàn huyện Kiến Phong thuộc phủ Kiến Tường, tỉnh Định Tường cũ. Trụ sở hạt Thanh tra Kiến Tường đặt tại Cao Lãnh. Lúc đầu, hạt Thanh tra tạm gọi tên theo tên các phủ huyện cũ, sau mới đổi tên gọi theo địa điểm đóng trụ sở. Về sau, trụ sở được dời từ Cao Lãnh (thuộc thôn Mỹ Trà) đến Cần Lố (thuộc thôn Mỹ Thọ). Chính vì vậy, hạt Thanh tra Kiến Tường cũng được đổi tên thành hạt Thanh tra Cần Lố; bao gồm 3 tổng: Phong Hòa, Phong Phú và Phong Thạnh. Vào các ngày 20, 22 và 24 tháng 6 năm 1867, Pháp vi phạm hòa ước 1862, chiếm 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Lúc này, thực dân Pháp cũng xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn ở khu vực này, đồng thời cũng đặt ra các hạt Thanh tra. Ngày 16 tháng 08 năm 1867, Pháp lập hạt Thanh tra Sa Đéc, là một trong 24 hạt thanh tra trên toàn cõi Nam Kỳ. Lúc bấy giờ, hạt Thanh tra Sa Đéc được thành lập trên địa bàn phủ Tân Thành thuộc tỉnh An Giang cũ. Ngày 4 tháng 12 năm 1867, huyện Phong Phú được tách ra để lập hạt Thanh tra mới. Ngày 1 tháng 1 năm 1868, Thống đốc Nam Kỳ là Bonard quyết định sáp nhập huyện Phong Phú với vùng Bãi Sào (Sóc Trăng) lập thành quận đặt dưới sự cai trị của người Pháp, lập Toà Bố tại Sa Đéc. Hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành) đặt lỵ sở tại Sa Đéc gồm có 3 huyện: Vĩnh An, An Xuyên và Phong Phú. Ngày 20 tháng 9 năm 1870, giải thể hạt Thanh tra Cần Lố, đưa hai tổng Phong Hòa và Phong Phú vào hạt Thanh tra Cái Bè; đồng thời đưa tổng Phong Thạnh qua hạt Thanh tra Sa Đéc. Ngày 5 tháng 6 năm 1871, giải thể hạt Thanh tra Cái Bè nhập vào địa bàn hạt Thanh tra Mỹ Tho. Đồng thời, địa bàn tổng Phong Thạnh cũng được chia cho 3 hạt Thanh Tra Châu Đốc, Long Xuyên và Sa Đéc: 1 - Hạt Châu Đốc: lấy phần đất 3 làng An Bình, An Long và Tân Thạnh thuộc tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong. Phần đất này nằm ở phía tây bắc Đồng Tháp Mười, sau gọi là tổng An Phước thuộc hạt Châu Đốc. 2 - Hạt Long Xuyên: lấy địa phận các làng Tân Phú, Tân Thạnh của tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong để lập tổng mới gọi là tổng Phong Thạnh Thượng thuộc hạt Long Xuyên. 3 - Hạt Sa Đéc: lấy địa phận các làng Mỹ Ngãi, Mỹ Trà, Nhị Mỹ, Phong Mỹ (trước đây thuộc tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong) để lập tổng mới cũng lấy tên là tổng Phong Thạnh. Lại lấy địa phận các làng Mỹ Long, Bình Hàng Tây (nguyên thuộc tổng Phong Phú, huyện Kiến Phong) để lập tổng mới gọi là tổng Phong Nẫm. Hai tổng Phong Thạnh (mới) và Phong Nẫm đều thuộc về hạt Sa Đéc. Ngày 05 tháng 06 năm 1871, hạt Sa Đéc nhận thêm hạt Cần Thơ vừa bị giải thể. Ngày 30 tháng 4 năm 1872, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định tách huyện Phong Phú thuộc hạt Sa Đéc và hợp với vùng Bắc Tràng (thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long trước đây) để lập thành một hạt, đặt Toà Bố tại Trà Ôn. Một năm sau, Toà Bố từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng. Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ. Hạt Cần Thơ thuộc khu vực Bassac (Hậu Giang). Ngày 05 tháng 01 năm 1876, hạt Thanh tra Sa Đéc đổi thành hạt tham biện Sa Đéc, các thôn đổi thành làng. Sa Đéc trở thành một hạt tham biện (arrondissement) thuộc khu vực hành chính (circonscription) Vĩnh Long do thực dân Pháp đặt ra. Địa hạt Sa Đéc trong giai đoạn 1876-1899 không còn chia cấp huyện nữa mà trực tiếp quản lý từ cấp tổng trở xuống. Hạt Sa Đéc lúc này bao gồm 9 tổng: An Hội, An Mỹ, An Phong, An Thới, An Tịnh, An Trung, An Thạnh, Phong Nẫm, Phong Thạnh. TỪ NĂM 1900-1945: Theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương vào ngày 20 tháng 12 năm 1899 thì kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900, đổi tất cả các hạt ở Nam Kỳ thành tỉnh. Lúc bấy giờ, các hạt tham biện Sa Đéc, Long Xuyên và Châu Đốc lần lượt trở thành các tỉnh sau: tỉnh Sa Đéc, tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc. Tình hình đó kéo dài cho đến đầu năm 1956. Ban đầu, các tổng trực thuộc tỉnh. Về sau, thực dân Pháp mới tiến hành lập các quận trực thuộc tỉnh, quận vốn là đơn vị hành chính trung gian giữa cấp tỉnh và cấp tổng. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, thực dân Pháp lập tỉnh Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc nằm ở hai bên sông Tiền Giang, giáp các tỉnh Long Xuyên, Tân An, Vĩnh Long, Cần Thơ và Mỹ Tho. Dân số tỉnh Sa Đéc theo số liệu thống kê năm 1901 là 182.924 người và năm 1920 là 203.588 người. Năm 1903, tỉnh Sa Đéc có 10 tổng với 79 làng trực thuộc như sau: An Hội (6 làng), An Mỹ (15 làng), An Phong (8 làng), An Thới (9 làng), An Tịnh (4 làng), An Trung (6 làng), An Thạnh Thượng (6 làng), An Thạnh Hạ (6 làng), Phong Nẫm (11 làng), Phong Thạnh (6 làng). Tỉnh lỵ Sa Đéc ban đầu đặt tại làng Vĩnh Phước thuộc quận Châu Thành (kể từ năm 1924). Sau này, thực dân Pháp hợp nhất ba làng Tân Phú Đông, Vĩnh Phước và Hòa Khánh lại thành một làng lấy tên là Tân Vĩnh Hòa. Từ đó, tỉnh lỵ Sa Đéc thuộc địa bàn làng Tân Vĩnh Hòa. Từ ngày 9 tháng 2 năm 1913 đến ngày 9 tháng 2 năm 1924, tỉnh Sa Đéc bị chính quyền thực dân Pháp giải thể, toàn bộ diện tích tỉnh bị sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Long. Ngày 10 tháng 12 năm 1913, thực dân Pháp thành lập quận Cao Lãnh thuộc tỉnh Vĩnh Long. Ngày 1 tháng 4 năm 1916, thực dân Pháp cho thành lập thêm quận Sa Đéc và quận Lai Vung cùng thuộc tỉnh Vĩnh Long. Sau năm 1924, tỉnh Sa Đéc được tái lập với 3 quận trực thuộc: Châu Thành (đổi tên từ quận Sa Đéc), Cao Lãnh, Lai Vung. Năm 1917, thực dân Pháp lập quận Chợ Mới thuộc tỉnh Long Xuyên. Lúc này tổng Phong Thạnh Thượng trực thuộc quận Chợ Mới. Ngày 19 tháng 12 năm 1929, thực dân Pháp lập thêm quận Hồng Ngự thuộc tỉnh Châu Đốc do tách ra từ quận Tân Châu cùng tỉnh. Quận Hồng Ngự gồm có 2 tổng trực thuộc: Cù Lao Tây và An Phước. TỪ NĂM 1945-1954: Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, tỉnh Sa Đéc, tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc nằm trong danh sách 21 tỉnh ở Nam Bộ. Lúc này, Ủy Ban Kháng chiến Hành Chánh Nam Bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Đồng thời, Chính quyền Việt Minh cũng cho thành lập thị xã Sa Đéc trực thuộc tỉnh Sa Đéc trên cơ sở tách đất làng Tân Vĩnh Hòa và các vùng lân cận. Ngày 19 tháng 5 năm 1947, Chính Phủ lâm thời Cộng Hòa Nam Kỳ tự trị thân Pháp quyết định tách đất quận Thốt Nốt để lập thêm quận Lấp Vò ban đầu cùng thuộc tỉnh Long Xuyên. Ngày 14 tháng 5 năm 1949, tỉnh Sa Đéc nhận thêm quận Lấp Vò từ tỉnh Long Xuyên. Ngày 12 tháng 9 năm 1947, theo chỉ thị số 50/CT của Ủy Ban kháng chiến hành chính Nam Bộ (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa), lúc bấy giờ có sự thay đổi sắp xếp hành chính của tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên, thành lập các tỉnh mới có tên là Long Châu Tiền và Long Châu Hậu. Theo đó, tỉnh Long Châu Tiền nằm ở phía bờ trái (tả ngạn) sông Hậu, hai bên sông Tiền, thuộc khu 8 và có 5 huyện: Tân Châu, Hồng Ngự, Chợ Mới, Châu Phú B và Lấp Vò. Ngày 14 tháng 5 năm 1949, huyện Lấp Vò được trả về tỉnh Sa Đéc. Cũng trong năm đó, huyện Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền chia thành 2 huyện mới là Phú Châu và Tân Châu. Tháng 6 năm 1951, tỉnh Long Châu Tiền hợp nhất với tỉnh Sa Đéc thành tỉnh Long Châu Sa, gồm 7 huyện: Châu Thành (của tỉnh Sa Đéc cũ), Lai Vung, Cao Lãnh, Tân Hồng, Tân Châu, Phú Châu, Chợ Mới. Trong đó, hai huyện Tân Hồng và Tân Châu vốn là hai huyện Hồng Ngự và Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền trước đó. Tháng 7 năm 1951, nhập huyện Lấp Vò vào tỉnh Long Châu Sa. Tuy nhiên, tên các tỉnh Long Châu Tiền, Long Châu Sa lại không được Chính Quyền Quốc Gia Việt Nam của Bảo Đại và Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa công nhận. Đến cuối năm 1954, tỉnh Sa Đéc, tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc đều được chính quyền Việt Minh tái lập trở lại. THỜI VIỆT NAM CỘNG HÒA:Ban đầu, Chính Quyền Quốc Gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng Hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Sa Đéc, tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc như thời Pháp thuộc. Năm 1955, quận Cao Lãnh vẫn thuộc tỉnh Sa Đéc; tổng Phong Thạnh Thượng vẫn thuộc quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên và quận Hồng Ngự vẫn thuộc tỉnh Châu Đốc như cũ. Ngày 17 tháng 2 năm 1956, Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ban hành Sắc lệnh 22-NV thành lập tỉnh Phong Thạnh bao gồm đất đai của quận Cao Lãnh thuộc tỉnh Sa Đéc, quận Hồng Ngự thuộc tỉnh Châu Đốc, tổng Phong Thạnh Thượng thuộc quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên và một phần nhỏ đất đai thuộc quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho trước đó. Tỉnh lỵ tỉnh Phong Thạnh đặt tại Cao Lãnh. Thời gian này, tỉnh Sa Đéc vẫn còn tồn tại với 3 quận trực thuộc còn lại: Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò. Đến ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh 143-NV để " thay đổi địa giới và tên Đô Thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô Thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Phong Thạnh được đổi tên thành Tỉnh Kiến Phong; còn toàn bộ phần còn lại tỉnh Sa Đéc bị giải thể, sáp nhập vào địa bàn tỉnh Vĩnh Long.Tỉnh lỵ tỉnh Kiến Phong có tên là "Cao Lãnh", về mặt hành chánh thuộc xã Mỹ Trà, quận Cao Lãnh. Năm 1957, tỉnh Kiến Phong gồm 4 quận ban đầu: 1 - Cao Lãnh 2 - Mỹ An 3 - Thanh Bình 4 - Hồng Ngự. Trong đó, quận Mỹ An được thành lập mới trên phần đất phía đông bắc thuộc quận Cao Lãnh và một phần đất đai thuộc quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho trước đó. Quận Thanh Bình được thành lập mới bao gồm toàn bộ đất đai của tổng Phong Thạnh Thượng, toàn bộ Cù Lao Tây (trước thuộc quận Hồng Ngự) và một phần nhỏ đất đai thuộc quận Hồng Ngự trước đó. Ngày 13 tháng 7 năm 1961, lại tách đất quận Cao Lãnh để lập mới quận Kiến Văn cùng thuộc tỉnh Kiến Phong. Năm 1969, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cho lập mới quận Đồng Tiến thuộc tỉnh Kiến Phong trên cơ sở tách phần lớn vùng đất phía đông của quận Thanh Bình hợp với một phần nhỏ đất đai phía bắc trước đó thuộc quận Cao Lãnh. Năm 1973, tỉnh Kiến Phong có 6 quận: Cao Lãnh, Mỹ An, Kiến Văn, Thanh Bình, Đồng Tiến, Hồng Ngự. Ngày 12 tháng 7 năm 1974, Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lập quận mới có tên là quận Hậu Mỹ thuộc tỉnh Định Tường (trước năm 1956 là tỉnh Mỹ Tho). Lúc này, xã Mỹ Đa thuộc quận Mỹ An của tỉnh Kiến Phong được giao về cho quận Hậu Mỹ của tỉnh Định Tường quản lý. Các đơn vị hành chính của quận Hậu Mỹ chưa sắp xếp xong thì Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. SAU 1975:Từ tháng 2 năm 1976, tỉnh Kiến Phong được sáp nhập với tỉnh Sa Đéc thời Việt Nam Cộng Hòa thành tỉnh Đồng Tháp. Địa bàn tỉnh Kiến Phong cũ của Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa tương ứng với các đơn vị hành chính trực thuộc nằm phía bên phải sông Tiền của tỉnh Đồng Tháp ngày nay, bao gồm: Thành phố Cao Lãnh, Thị xã Hồng Ngự, huyện Cao Lãnh, huyện Tháp Mười, huyện Thanh Bình, huyện Tam Nông, huyện Hồng Ngự và huyện Tân Hồng. LỊCH SỬ TỈNH SA ĐÉC: THỜI PHONG KIẾN:Trước khi chúa Nguyễn khai phá miền đất phía Nam, Sa Đéc thuộc đất Tầm Phong Long của Thủy Chân Lạp, với tên gọi nguyên gốc là Phsar Dek. Nhiều người cho rằng Sa Đéc theo tiếng Khmer nghĩa là "chợ sắt". Tuy nhiên nhà văn Sơn Nam và nhiều nhà nghiên cứu khác không chắc chắn lắm với luận điểm này. Khoảng cuối thập niên 1750, chúa Nguyễn thành lập năm đạo ở miền Tây Nam Bộ, để bảo vệ cho Dinh Long Hồ trong đó có Đông Khẩu Đạo (Sa Đéc). Trong một thời gian dài, Sa Đéc từng là một trong những khu chợ sung túc nhất ở phía Nam. Năm 1832, sau khi Lê Văn Duyệt qua đời, vua Minh Mạng chia lại Miền Nam thành Nam Kỳ Lục Tỉnh. Khi đó Sa Đéc lại thuộc phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. THỜI PHÁP THUỘC:Sau khi chiếm hết được ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ vào năm 1867, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn, đồng thời đặt ra các hạt Thanh tra. Địa bàn tỉnh An Giang trước đây được chia thành 3 hạt: hạt Châu Đốc (phủ Tuy Biên cũ), hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành cũ) và hạt Ba Xuyên. Lúc bấy giờ, hạt Thanh tra Tân Thành được thành lập trên địa bàn phủ Tân Thành, tỉnh An Giang cũ. Trụ sở hạt Thanh tra Tân Thành đặt tại Sa Đéc. Lúc đầu, hạt Thanh tra tạm gọi tên theo tên các phủ huyện cũ, sau mới đổi tên gọi theo địa điểm đóng trụ sở. Về sau, hạt Thanh tra Tân Thành cũng được đổi tên thành hạt Thanh tra Sa Đéc. Theo Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ Bonard ngày 1 tháng 1 năm 1868, hạt Thanh tra Sa Đéc gồm 3 huyện là An Xuyên, Vĩnh An, Phong Phú và trị sở (gọi là Tòa bố) đặt tại Sa Đéc. Ngày 20 tháng 9 năm 1870, giải thể hạt Thanh tra Cần Lố (trước đây thuộc địa bàn tỉnh Định Tường), đồng thời đưa tổng Phong Thạnh qua hạt Thanh tra Sa Đéc. Lúc này, hạt Sa Đéc cũng lấy thêm địa phận các làng Mỹ Ngãi, Mỹ Trà, Nhị Mỹ, Phong Mỹ (trước đây thuộc tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong) để lập tổng mới cũng lấy tên là tổng Phong Thạnh. Lại lấy địa phận các làng Mỹ Long, Bình Hàng Tây (nguyên thuộc tổng Phong Phú, huyện Kiến Phong) để lập tổng mới gọi là tổng Phong Nẫm. Hai tổng Phong Thạnh (mới) và Phong Nẫm đều thuộc về hạt Sa Đéc. Ngày 30 tháng 4 năm 1872, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định sáp nhập huyện Phong Phú với vùng Bắc Tràng (thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long trước đây) để lập thành một hạt, đặt Toà Bố tại Trà Ôn. Một năm sau, Toà Bố từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng. Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ. Hạt Cần Thơ thuộc khu vực hành chính Bassac (Hậu Giang). Ngày 5 tháng 1 năm 1876, hạt Thanh tra Sa Đéc đổi thành hạt tham biện Sa Đéc, các thôn đổi thành làng. Sa Đéc trở thành một hạt tham biện (arrondissement) thuộc khu vực hành chính (circonscription) Vĩnh Long do thực dân Pháp đặt ra. Địa hạt Sa Đéc trong giai đoạn 1876-1899 không còn chia cấp huyện nữa mà trực tiếp quản lý từ cấp tổng trở xuống. Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Sa Đéc trở thành tỉnh Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc nằm ở hai bên sông Tiền Giang, giáp các tỉnh Long Xuyên, Tân An, Vĩnh Long, Cần Thơ và Mỹ Tho. Dân số tỉnh Sa Đéc theo số liệu thống kê năm 1901 là 182.924 người và năm 1920 là 203.588 người. Năm 1903, tỉnh Sa Đéc có 10 tổng với 79 làng trực thuộc như sau: An Hội (6 làng), An Mỹ (15 làng), An Phong (8 làng), An Thới (9 làng), An Tịnh (4 làng), An Trung (6 làng), An Thạnh Thượng (6 làng), An Thạnh Hạ (6 làng), Phong Nẫm (11 làng), Phong Thạnh (6 làng). Lúc bấy giờ, toàn Tỉnh Sa Đéc có các Chợ sau: 1 - Chợ Tân Quy Đông (tổng An Thạnh Hạ) 2 - ChợTân Phú Đông (tổng An Trung) 3 - Chợ Nha Mân (làng Phú Nhuận, tổng An Mỹ) 4 - Cái Tàu Hạ (làng Phú Hựu, tổng An Mỹ) 5 - Chợ Cao Lãnh (làng Mỹ Trà, tổng Phong Thạnh) 6 - Chợ Hòa An (tổng An Tịnh) 7 - Cái Tàu Thượng (làng Hội An, tổng An Thạnh Thượng) 8 - Chợ Cồn (làng Tân Quy Đông, tổng An Thạnh Hạ) 9 - Chợ Vĩnh Phước (tổng An Trung) 10 - Chợ Tân Hưng (tổng An Hội) 11 - Chợ Lai Vung (làng Tân Lộc, tổng An Thới) 12 - Chợ Mỹ Ngãi (tổng Phong Thạnh) 13 - Chợ Cần Lố (làng Mỹ Thọ, tổng Phong Nẫm) 14 - Chợ Đất Sét (làng Mỹ An, tổng An Thạnh Thượng) 15 - Chợ Cai Châu (làng Tân Mỹ, tổng An Thạnh Thượng) 16 - Chợ Chùa (làng Tân An Trung, tổng An Thạnh Hạ) Tỉnh lỵ Sa Đéc ban đầu đặt tại làng Vĩnh Phước thuộc quận Châu Thành (kể từ năm 1924). Sau này, Pháp hợp nhất ba làng Tân Phú Đông, Vĩnh Phước và Hòa Khánh lại thành một làng lấy tên là Tân Vĩnh Hòa. Từ đó, tỉnh lỵ Sa Đéc thuộc địa bàn làng Tân Vĩnh Hòa. Từ ngày 9 tháng 2 năm 1913 đến ngày 9 tháng 2 năm 1924, tỉnh Sa Đéc bị giải thể, toàn bộ diện tích tỉnh bị sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Long. Sau năm 1924, tỉnh Sa Đéc được tái lập với 3 quận trực thuộc: Châu Thành, Cao Lãnh, Lai Vung. Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, tỉnh Sa Đéc là một trong số 21 tỉnh của Nam Bộ. Lúc này, Ủy Ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Ngày 14 tháng 5 năm 1949, huyện Lấp Vò của tỉnh Long Xuyên trước đó được nhập vào tỉnh Sa Đéc. Đồng thời, tỉnh Sa Đéc nhận thêm làng Phong Hòa trước đó thuộc tổng An Trường, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ và tỉnh cũng giao lại làng Hội An trước đó thuộc quận Châu Thành cho tỉnh Long Xuyên quản lý. Tháng 6 năm 1951, Chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sáp nhập tỉnh Sa Đéc với tỉnh Long Châu Tiền (bao gồm một phần đất của tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc trước đó) thành tỉnh Long Châu Sa. Tuy nhiên tên tỉnh Long Châu Sa không được Chính Quyền Quốc Gia Việt Nam của Vua Bảo Đại và Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa công nhận. Tỉnh Long Châu Sa tồn tại đến năm 1954 bị giải thể và tỉnh Sa Đéc được tái lập. THỜI VIỆT NAM CỘNG HÒA:Ban đầu, Chính quyền Quốc Gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng Hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Sa Đéc như thời Pháp. Ngày 17 tháng 2 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tách quận Cao Lãnh ra khỏi tỉnh Sa Đéc để nhập vào tỉnh Phong Thạnh mới được thành lập. Tỉnh lỵ tỉnh Phong Thạnh đặt tại Cao Lãnh. Thời gian này, tỉnh Sa Đéc vẫn còn tồn tại với 3 quận trực thuộc còn lại: Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò. Đến ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh 143-NV để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Phong Thạnh được đổi tên thành tỉnh Kiến Phong; còn tỉnh Sa Đéc bị giải thể, sáp nhập vào địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Địa bàn tỉnh Sa Đéc vừa bị giải thể tương ứng với quận Sa Đéc và quận Lấp Vò cùng thuộc tỉnh Vĩnh Long, riêng quận Lai Vung trước đó cũng bị giải thể và sáp nhập vào quận Lấp Vò. Ngày 11 tháng 7 năm 1962, tỉnh Vĩnh Long cho thành lập mới hai quận là Đức Tôn và Đức Thành, do lần lượt tách ra từ hai quận Sa Đéc và Lấp Vò. Ngày 24 tháng 09 năm 1966, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa quyết định tái lập tỉnh Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc mới tách ra từ tỉnh Vĩnh Long, chỉ gồm phần đất nằm giữa hai con sông Tiền Giang và Hậu Giang, với diện tích khoảng 900 km². Sa Đéc phía bắc giáp tỉnh Kiến Phong, phía đông giáp tỉnh Định Tường, phía đông và đông nam giáp tỉnh Vĩnh Long, phía tây nam giáp tỉnh Phong Dinh và phía tây giáp tỉnh An Giang. Tỉnh Sa Đéc khi đó tỉnh lỵ có tên là "Sa Đéc", bao gồm 4 quận trực thuộc: 1 - Quận Lấp Vò, gồm 2 tổng Phú Thượng và Phong Thới với 8 xã. 2 - Quận Châu Thành (do đổi tên từ quận Sa Đéc cũ), gồm 3 tổng An Thạnh, An Thới và An Trung với 13 xã. Đến ngày 14 tháng 2 năm 1968, quận Châu Thành lại đổi tên thành quận Đức Thịnh. 3 - Quận Đức Thành, gồm 3 tổng An Khương, Ti Thiện và Tiến Nghĩa với 8 xã. 4- Quận Đức Tôn, gồm 2 tổng An Mỹ Đông và An Mỹ Tây với 7 xã. SAU 1975:Sau sự kiện ngày 30 tháng 04 năm 1975, Chính quyền quân quản Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì Tỉnh Sa Đéc như trước đó. Cho đến tháng 2 năm 1976 thì hợp nhất lại 2 Tỉnh Sa Đéc và Tỉnh Kiến Phong thời Việt Nam Cộng Hòa lại thành một tỉnh mới có tên là tỉnh Đồng Tháp. (Tài liệu của Phóng Viên Chiến Trường sưu tầm) www.facebook.com/NguoiNhapCuoc1975/
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2021 15:39:17 GMT 9
Điều ít biết về tuyến đường sắt đầu tiên của Việt Nam: Tàu lửa phải lụy phà để qua sông! by Mẫn Nhi 19/04/2021 in Định danh xưa 0 Điều ít biết về tuyến đường sắt đầu tiên của Việt Nam: Tàu lửa phải lụy phà để qua sông! Ra đời năm 1881, tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho đã thay đổi tư ᴅuy giao thông của người Việt lúc đó chỉ với hai phương tiện là ngựa và ghe thuyền. Khi xâm chiếm Việt Nam, người Pháp muốn xây dựng tuyến đường sắt đi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nhằm khai thác vùng đất giàu có này. Sau những cuộc тʀᴀɴн luận kéo dài về hiệu quả kinh tế và sự cần thiết, đầu năm 1881, họ quyết định xây đường sắt từ Sài Gòn tới Mỹ Tho dài hơn 70 km, đây cũng là tuyến đường sắt đầu tiên của Đông Dương, với tổng kinh phí gần 12 triệu France. Mọi vật liệu đều chở từ Pháp sang. Vào giữa năm, côɴԍ trường được tổ chức quy mô, rất khẩn trương, huy động 11.000 lao động và có mặt nhiều sĩ quan côɴԍ binh cùng nhiều kỹ sư từ Pháp sang. Một chuyến tàu chờ đợi để khởi hành Sài Gòn – Mỹ Tho vào ngày 20/7/1885, ngày mở đầu của tuyến đường sắt. Ảnh: Maison Asie-Pacifique (MAP). Theo các tài liệu được lưu giữ, phần lớn tuyến đường sắt này xuyên qua những cánh đồng và đường dân cư. Trong đó, một số đoạn đất thấp và bùn lầy phải mất thêm thời gian gia cố nền đường. Một vấn đề khác là tuyến đường sắt này bị ngăи cách bởi 2 con sông. Vì vậy, vừa thi côɴԍ các nhà thầu vừa đặt hãng Eiffel (Pháp) chế tạo 2 cây cầu sắt Bến Lức (bắc qua sông Vàm Cỏ Đông) và cầu Tân An (bắc qua sông Vàm Cỏ Tây) để xe lửa qua sông. Ngày 20/7/1885 chuyến tàu đầu tiên xuất phát từ ga Sài Gòn, vượt sông Vàm Cỏ Đông đến ga cuối cùng tại trung tâm thành phố Mỹ Tho, đánh dấu sự ra đời của ngành đường sắt Việt Nam. Tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho được đánh giá là giúp thay đổi hẳn tư ᴅuy giao thông của người Việt vào cuối thế kỷ 19 khi chỉ có hai phương tiện là ngựa và ghe thuyền. Để đưa tàu hoả vượt các con sông lớn khi hai cây cầu chưa xong, các toa tàu được tạm tách rời để đưa lên phà qua sông rồi mới nối lại cho chạy tiếp. Chiếc phà khổng lồ máy hơi nước chở được 10 toa xe, được lắp đặt đường ray và một thiết bị để nối đường ray trên mặt đất với ray phà. Nếu hình ảnh đoàn xe lửa dài ngoằng chạy xì khói ầm ầm trên 2 thanh sắt đã quá lạ lẫm đối với người dân bản xứ thì hình ảnh những chiếc phà “cõng” xe lửa qua sông càng khiến họ thích thú hơn. Việc xe lửa phải “lụy” phà kéo dài khoảng một năm sau khi 2 cầu sắt được hoàn thành vào tháng 5/1886. Tuyến đường sắt có tổng cộng 15 ga. Xe lửa xuất phát từ ga Sài Gòn (côɴԍ viên 23/9 ngày nay) đi qua An Đông, Phú Lâm, An Lạc, Bình Điền. Trên Quốc lộ 1, xe lửa dừng lại ở các ga: Bình Điền, Bình Chánh, Gò Đen, Bến Lức, Cầu Voi, Tân An, Tân Hương, Tân Hiệp, Trung Lương và kết thúc tại ga Mỹ Tho nằm ѕáт sông Tiền – chỗ tượng đài Thủ Khoa Huân ngày nay. Thời gian đi hết tuyến khoảng 2 tiếng rưỡi, về sau được rút ngắn chưa tới 2 tiếng, tức khoảng 37 km/h. Đây là tốc độ rất nhanh so với phương tiện phổ thông của người Việt lúc bấy giờ. Tàu lửa tuyến Sài Gòn – Mỹ Tho phải ‘lụy” phà qua sông lúc 2 cây cầu sắt Tân An và Bến Lức chưa xây xong. Ảnh tư liệu Xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho ngày ấy sử dụng đầu kéo là máy hơi nước. Nó chạy nhanh hay chậm тùy vào “hơi” của nồi “súp de”. Khi lên dốc qua cầu, nếu nồi “súp de” không đủ mạnh thì xe chạy không иổi, bị tuột lên tuột xuống. Học giả Vương Hồng Sển trong cuốn Sài Gòn năm xưa đã miêu tả hài hước về đoàn tàu: “Mỗi lần chạy đầu xe lửa Le Myre de Villers vừa ho vừa khạc ra khói vừa thét ra lửa, mà có khi không đủ trớn lên dốc cầu Tân An và cầu Bến Lức, trèo lên tụt xuống, lên dốc không иổi… trối kể, xe cặp bến cũng còi, cũng ‘xả hơi’ ồn ào oai vệ khiếp”. Đến năm 1896, các đầu máy loại mới 220-T-SACM có côɴԍ suất kéo lớn hơn được đưa vào Nam kỳ thì tuyến xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho mới hết cảnh “cà xịch cà lụi” mỗi khi qua cầu. Người Sài Gòn về miền Tây lúc ấy bằng cách ngồi xe lửa tới Mỹ Tho, rồi đi tiếp bằng tàu ghe đến những nơi cần đến. Ngược lại, bà con miền sông nước muốn đi Sài Gòn thay vì lênh đênh trên ghe tàu chậm chạp, chỉ cần đi tàu ghe đến Mỹ Tho, rồi chuyển qua đi xe lửa vừa nhanh vừa đẹp. Nhờ có tàu lửa, người ở Sài Gòn có thể sáng đi xe lửa xuống Mỹ Tho rong chơi đồng ruộng, ăи uống thoải mái, rồi chiều vẫn kịp đón xe về ngủ ở Sài Gòn. Những người đi buôn hàng có thể xoay hai ba chuyến mỗi ngày. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, ý muốn ban đầu của Pháp là xây tuyến đường sắt đến Vĩnh Long, sau đó nối tiếp đến Phnom Penh (Campuchia). Song, do cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của họ gặp khó khăи nên kế hoạch chỉ xây đến Mỹ Tho mà thôi. Từ khi được đưa vào sử dụng tuyến đường sắt này rất lãi, có năm lên đến 4 triệu France. Nhưng đến thập kỷ 50 của thế kỷ 20, xe hơi phát triển cùng hệ thống đường bộ Sài Gòn – Mỹ Tho được đầu tư gần như xa lộ nên người ta chuyển sang đi đường bộ. Có những ngày cả đoàn tàu chỉ có vài chục người. Năm 1958, tuyến đường sắt này đã bị cнíɴн quyền VNCH cho ngưng chạy. Tàu lửa Sài Gòn – Mỹ Tho ngừng hoạt động sau 73 năm gắn bó người dân Nam Bộ. Ảnh tư liệu Với 73 năm tồn tại, tuyến xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho đã tác động mạnh vào đời sống, tình cảm, tập quán, văи hóa… của người dân Nam bộ, đặc biệt là khu vực phía bắc sống Tiền. Trong cuốn Sài Gòn năm xưa, học giả Vương Hồng Sển đã ghi lại khá nhiều mẩu chuyện, câu ca dao có liên quan đến tuyến xe lửa này. Chẳng hạn, câu thơ truyền miệng tả cảnh ga Bến Thành như sau: “Mười giờ tàu lại Bến Thành/ Xúp lê vội thổi, bộ hành lao xao”. Hay: “Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ/ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu…”. Qua bao nhiêu thời gian, tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho giờ chỉ còn lại trong ký ức những người lớn tuổi. Hiện, toàn bộ tuyến đường sắt vàng son một thời đã bị tháo dỡ, ga Sài Gòn cũng bị dời ra Hoà Hưng, chỉ còn sót lại vài hạng mục như trụ cầu, nhà ga rải rác suốt tuyến đường hơn 70 cây số. Trung Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2021 15:45:40 GMT 9
Nhớ về tuổi thơ với cái Chạn (Gạc Măng Rê) thời bao cấp – Thuở đó “nghèo mà giàu” biết bao nhiêu. by Mẫn Nhi 20/09/2021 in Định danh xưa 0 Nhớ về tuổi thơ với cái Chạn (Gạc Măng Rê) thời bao cấp – Thuở đó “nghèo mà giàu” biết bao nhiêu. Đối với những ai đã từng sống vào thời bao cấp đầy khó khăи và gian khổ thì cái chạn hay còn gọi là Gạc Măиg Rê là vật quen thuộc nhà nhà đều có. Cho dù từ thành thị đến nông thôn, nhà khá giả hay nhà nghèo khó đều có sẵn cái chạn để trong nhà là nơi gia đình cất giữ đồ ăи ngăи không cho chuột bọ xâm nhập. Tùy theo điều kiện, nhà giàu thì có chạn gỗ chắc chắn bền đẹp hơn, nhà nghèo thì chạn có thể được đóng bằng tre. Chạn Gỗ Chạn Tre Ngày ấy nghèo khó cũng chả chả có tủ lạnh nên thức ăи cứ cất vào chạn lâu lâu mang ra hâm lại, chạn chủ yếu để tránh gián, chuột chui vào và con mèo hay chó cũng chả ăи vụng được. Chạn được đặt các tường một góc, dưới mỗi chân chận đều có 4 cái bát mẻ đổ ngập dầu luyn để tránh kiến và các con côn trùng tương tự bò lên. Chạn Gỗ Chạn có nhiều tầng, tầng trên cùng thường là tầng 3 tầng kín nhất được đóng gỗ kín chỉ để hở qua các khe cửa sổ để cho không khí lọt vào. Tầng 3 có một cánh cửa đôi có khóa gỗ xoay ngang đóng bằng đιин guốc hoặc cái khuy móc cửa được dùng để cất giữ đồ ăи thức uống quan trọng. Tầng giữa được dùng để úp bát đũa và có thể tận dụng để úp các loại nồi nhỏ. Tầng dưới cùng là vài ba cái hũ dưa Cà hay chai nước mắm dở, túm hành tỏi khô, sấp ʟá bánh đa nem còn lại, lọ lạc sống và úp xoong nồi, chảo…gầm chạn cao là nơi con Chó thích chui vào nằm nhất cho nên sau này các Cụ hay ví các chàng trai đi ở rể nhà vợ như “Chó chui gầm chạn” là vậy! Ngoài ra nóc chạn thường được tận dụng để đựng các loại gia vị như muối, đường, nước mắm .v.v. cũng có thể để đựng thêm vài cái rổ, nồi hoặc là hủ rượu nhỏ. Cái chạn đã gắn bó với con người Việt qua nhiều năm khốn khó cho đến mãi sau này. Nhớ нồi nhỏ mỗi lần đi học về là lục chạn xem có gì ăи cho đỡ đói không, đôi khi chỉ là củ khoai, củ sắn hấp cơm, cơm nguội trong cái bát chiết yêu miệng loe thôi cũng đủ ấm lòng. Ngày đó Chạn luôn có sẵn lọ muối vừng, có bát mắm dở và vài quả cà thâm đen hên hên thì được thêm vài con tép rang ấy vậy mà cũng đủ vét sạch nồi cơm dư bữa trước. Nhớ Có lần cửa chạn để hở, con chuột nhắt mò vào thế là mấy đứa trẻ sập cửa chạn lại hò nhau bắt, bắt được mừng hớn hở … Cái chạn chứa đựng cả một thời khốn khó, là đồ vật đơn sơ nhưng không thể thiếu trong mỗi căи bếp cùng cái kiềng đun rơm củi, xoong nồi đen nhẻm nấu cơm. Hiếm có một món sơn hào hải vị nào được cất giữ trong những món đồ đơn sơ đó. Cái Chạn đi vào tiềm thức tuổi thơ, thân thuộc. Nhớ lắm !
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 15, 2022 18:32:45 GMT 9
BẾN-TRE, ĐỊA-LINH NHƠN-KIỆT.
Nam-Kỳ Đất Cũ Người Xưa. Đọc các bài đăng trên fb, khi có ai xài từ Bến-Tre để nói về vùng đất nầy, sẽ có những người học rộng nhảy vô chỉnh: phải gọi là Kiến-Hòa, gọi Bến-Tre là theo kiểu Việt-cộng. Xin thưa, cả Bến-Tre hay Kiến-Hòa đều không liên quan gì đến Việt-cộng hay Quốc-gia gì hết, đừng vì cái chuyện ý thức hệ mà muốn bài bác một địa danh gắn liền với xứ Nam-kỳ Lục-tỉnh bấy lâu nay.
Sông Bến-Tre nhiều hang cá ngác, Đường Ba-Vát gió mát tận xương. Anh có thương em thì nối sợi chỉ hường, Chớ bán rao cho lắm, hãy chừa đường xuống lên. Bến-Tre, theo như sách " Tỉnh Bến-Tre trong lịch sử Việt-Nam từ năm 1757 đến 1945", vốn là 1 sốc của người Miên, tên là Sốc-Tre( Srok Tréy hay Trây). Tréy, có nghĩa là cá. Tréy prek là cá sông, tréy sramot là cá biển, tréy damréy là cá voi, tréy on-dâng là cá trê... Hoặc có thuyết giải thích Bến-Tre: Sốc-Tre là vùng có nhiều tre, ở đây có nhiều giồng đất mọc tre trên đó, do có nhiều tre nên ghe thuyền ghé bến lấy tre, thành ra tên Bến-Tre. Thuyết nầy tui thấy không ổn, nhưng cũng đưa ra, coi như có thêm cái để tham khảo. Theo chánh sử của ta, năm 1757 thời Võ-vương Nguyễn-Phúc-Khoát, Bến Tre mới được nhập vô dinh Long-Hồ, chánh thức thuộc Nam trào ta. Khi tham khảo sử Miên, thì năm 1757 nhơn việc rối loạn ở Nam Cao-Miên, " các tay gián điệp xúi giục dân chúng ở các tỉnh Treang, Banteay Meas, Bati, Preykrabas nổi loạn. Dưới áp lực của người Việt, Quốc vương Ang Tong nhượng tỉnh Phsar Dek và hai thị trấn thuộc tỉnh Long Hor( Vĩnh-Long) và tỉnh Meat Chrouk( Châu-Đốc). Đọc một đoạn sử Miên khác, có nói năm 1730 có người Lào tị nạn xưng là Tiên-tri, xúi giục người Miên sát hại dân Việt trong vùng Banam, nhơn đó chúa Nguyễn cho quân tiến đánh Nam-Vang, vua Sotha II bỏ thành chạy trốn. Năm 1731 vua Miên chịu nhượng cho Việt bảo hộ hai tỉnh Mésa tức Mỹ-Tho và Tong Hor( Vĩnh-Long). Và tui coi đây là cái mốc Bến-Tre nhập vô lãnh thổ Đàng-Trong. Vì sao? Vì Bến-Tre( Kiến-Hòa) là huyện nằm trong phủ Kiến-An, tỉnh Định-Tường( Mỹ-Tho). Năm 1679 đoàn người tị nạn của Dương-Ngạn-Địch đã theo cửa biển vô sông Tiền, rồi khai khẩn, tập trung tại vùng chợ cũ Mỹ-Tho, lấn dần qua phía Bến-Tre ngày nay. Năm 1712 chúa Nguyễn cho lập một đồn đạo( như Quân khu) tại khu vực Mỹ-Tho Bến-Tre, về mặt Hành chánh, khu nầy thuộc về trấn Gia-Định. Năm Gia-Long thứ5, năm 1806, vùng Mỹ-Tho, Bến-Tre được đặt là huyện Kiến-An thuộc Trấn-Định. Năm 1808 huyện Kiến-An phồn vinh, được nâng thành phủ Kiến-An, bấy giờ Bến-Tre thuộc tổng Kiến-Hòa( gồm Bến-Tre, Gò-Công). Ngoài ra còn có 2 tổng thuộc phủ Kiến-An là: Kiến-Hưng( Cái-Bè) và Kiến-Đăng( vùng Đồng-Tháp-Mười). Năm 1831, tổng Kiến-Hòa được tách ra, lập thêm huyện Tân-Hòa( Gò-Công). Sang năm 1841, tổng Kiến-Hòa lại được phân chia tiếp: phía Gò-Công nhập vô tỉnh Gia-Định, phía Bến Tre thì nhập vô Định-Tường. Năm 1859 khi Pháp đánh Saigon, Nam-kỳ bị phân chia ra thành 3 quận, trong đó có phủ Hoằng-Trị, tức Bến-Tre trước 1975, gồm huyện Bảo-An và Bảo-Trị, thuộc quận Long-Tường( do hai tỉnh Vĩnh-Long và Định-Tường nhập lợi. Ngày 15/6/1867 Soái-phủ Pháp tại Saigon lập ra " Hạt Thanh Tra Hoằng Đạo" gồm có 4 huyện Bảo-An, Bảo-Hựu, Tân-Minh, Duy-Minh, Thanh-tra Bản-xứ sự vụ đóng tại Phú-Ca. Đến ngày 15/7/1867 ấn định trụ sở Hạt Thanh-tra đóng tại chợ Bến-Tre, vì vậy đổi lợi là hạt Thanh-tra Bến-Tre. Qua một loạt các Quyết-định được ban ra, đến ngày 20/12/1899 Toàn-quyền Đông-dương đổi có Nghị-định: các hạt Tham-biện trên quản hạt Nam-kỳ ra tỉnh, kể từ ngày 1/1/1900 có hiệu lực. Hạt Tham-biện Bến-Tre đổi thành tỉnh Bến-Tre. Có giai đoạn 1945-1946, tỉnh Bến-Tre còn được gọi là tỉnh Đồ-Chiểu do Việt-minh đặt. Nghị định ngày 9/9/1956 sáp nhập cù-lao An-Hóa của Mỹ-Tho vô Bến-Tre, do đó Bến-Tre có 3 cù-lao: Bảo, Minh và An-Hóa. Sắc-lịnh số 143 NV ngày 22/10/1956 đổi tên tỉnh ra thành Kiến-Hòa, tỉnh lỵ là Trúc-Giang. Như trên tui đã nói, danh từ Kiến-Hòa trước là huyện, thuộc phủ Kiến-An, tỉnh Định-Tường( Mỹ-Tho). Kiến-Hòa nổi danh với đạo quân cùng tên do ngài Võ-Tánh lập ra. Các bạn đừng lầm tỉnh Định-Tường trước 1975 với Định-Tường thời Nguyễn và Pháp, Định-Tường thời trước bự hơn thời 1954-1975 nhiều. Như vậy, nếu xét về chức danh " tỉnh", thậm chí là Bến-Tre có trước Kiến-Hòa kìa, không phải như suy nghĩ của các vị đâu. Danh nhơn: Bến-Tre xưa là đất" Địa linh nhơn kiệt", sản sanh ra biết bao anh hùng hào kiệt, tao nhơn mặc khách, hoặc là đất tị địa của họ. Từ văn tới võ, trí thức, doanh nhơn thành đạt... nhiều vô số kể. Thưở đầu có thể kể: Phạm-văn-An, phò chúa Nguyễn-Ánh có chức Hùng-phong Vệ-úy, sau chết ở thành Bình-Định cùng ngài Võ-Tánh. Ông được truy phong chức Chưởng-cơ, đưa vô thờ chung miếu Quốc-công: " Chiêu Trung Tiết Công Thần". Nguyễn-Phụng-Giao, làm đến chức Nghi-võ Vệ-Vệ-Úy cũng tử trận tại thành Bình-Định cùng ngài Võ-Tánh, được truy phong Chưởng-cơ, lập bài vị thờ trong miếu Quốc-công. Mạc-văn-Tô, nằm trong đạo quân Kiến-Hòa của ngài Võ-Tánh, làm đến chức Chưởng-cơ. Năm 1812 ông được lịnh đóng giữ vùng Quang-Hóa( có lẽ ở Tây-Ninh) phòng quân Xiêm xâm phạm. Năm 1821 ông xin về hưu, sau đó mất. Ngoài ra còn có các ông Hoàng-văn-Tứ, Nguyễn-Hoài-Quỳnh đều có công giúp Nguyễn Ánh trung hưng, đều làm đến các chức vụ cao trong trào. Tức nhiên, không thể nào bỏ qua ngài Trương-Tấn-Bửu 1 trong ngũ hổ tướng Gia-Định lừng danh, là niềm tự hào của con dân Nam-kỳ chúng ta. Do đã có bài riêng về ngài nên không nói ở đây. Ngoài ra còn phải kể: Võ-Trường-Toản, Phan-Thanh-Giản, Phan-văn-Triệu, Lê-văn-Đức, Nguyễn-văn-Trọng, Nguyễn-văn-Chử, Thái-Hữu-Kiểm( ông già Ba-Tri), Trần-văn-Hạc, Nguyễn-Ngọc-Thăng, tức Lãnh-binh Thăng, Lê-Quang-Quan( Tán Kế), Phạm-Hữu-Chánh, Nguyễn-Đình-Chiểu, Trương-Vĩnh-Ký, Sương-Nguyệt-Anh, Nguyễn-Khắc-Huề, Nguyễn-Ngọc-Tương, Nguyễn-văn-Vinh, Lương-Khắc-Ninh, Nguyễn-Bửu-Tài... Quá nhiều, tui không thể liệt kê ra hết được, xin để dành viết một số truyện về danh nhơn xứ nầy, ông Bùi-Quang-Chiêu chẳng hạn. Ông Chiêu dân Mỏ-Cày, sanh năm 1873. Đây là xứ có nhiều nhà giàu, giàu nứt vách đổ tường, tui sẽ nói phần dưới. Có thể nói ông Chiêu là lớp trí thức Tây học đầu tiên, ông đậu Kỹ-sư Canh-nông bên Pháp. Về nước ông đi làm một thời gian, rồi chuyển qua hoạt động chánh trị. Ông chính là sáng lập viên lập ra đảng Lập hiến, đòi hỏi nhiều tự do hơn cho dân Việt, đòi sự đối đãi bình đẳng, tạo nhiều thuận lợi hơn cho người Việt trong các ngành nghề. Quan trọng nhứt, ông đòi Nam-kỳ có quyền tự trị riêng. Trong cuộc Minh-Tân ở Nam-kỳ, ông Chiêu cùng các vị trí thức, nhà giàu bổn xứ vận động đưa con em, học trò giỏi ở đây sang nước ngoài du học. Các sách báo " chánh ngạch" hình như bỏ quên ông khi đề cập việc nầy. Nhắc 1 chút, Minh-Tân ở Nam-kỳ là do nhà giàu, trí thức yêu nước, yêu xứ sở ở đây vận động, bỏ tiền túi ra thực hiện, chớ không phải hô hào suông rồi đi xin tiền khắp nơi. Rất bậy bạ khi đem cụ Chiêu ra để gán ghép chung Phạm-Quỳnh. Trước đây tui có đăng sơ về ông Chiêu, kỳ tới sẽ đăng chi tiết về ông. Mỏ-Cày còn có các cự phú, danh nhơn: Dương-văn-Giáo, Dương-văn-Khiêm, Huỳnh-Ngọc-Khiêm( Hương-Liêm), ông Hội-đồng Hoài... Dương-văn-Giáo sau bị Việt-minh kết tội Việt-gian rồi giết chết cùng nhiều nhà yêu nước khác bằng cách trấn nước tại sông Lòng-Sông, Phan-Thiết. Cái thời hỗn tạp, nhá nhem, ai cũng có thể dễ dàng bị chụp cho cái mũ Việt-gian rồi giết đi, ông Giáo là trường hợp như vậy. Ông Giáo học Chasseloup, Thế chiến 1 ông qua Pháp làm Thông-ngôn cho lính Annam. Kết thúc chiến tranh, ông ở lợi học trường Thuộc-địa, ngành Luật. Ông Giáo có vợ đầm, nhưng tích cực đấu tranh cho độc lập nước nhà. Ông là bạn đồng học với ông Nehru, sau là Thủ-tướng Ấn. Ông còn có ông bạn thân là Hoàng-thân Thái-Lan Luang Pradit. Ông Nehru từng ngỏ lời gả em gái cho ông Giáo, nhưng ông từ chối vì đã có vợ. Bản thân ông Giáo qua nhận xét của người biết ông lúc đó, có cuộc sống khá phức tạp, nhưng công tư phân minh rạch ròi. Thôi, để dành một bài khác nói rõ về ông hơn, viết ra hết nó tràng giang ở bài nầy. Bến-Tre cũng như hầu hết các tỉnh miền Tây, kinh tế chủ yếu nằm ở nông nghiệp. Thương-mãi xoay quanh 4 sản vật chánh: lúa, cơm dừa, lụa, trầu cau. Sau nầy thêm cây ăn trái. Năm 1921, Bến-Tre có 38.185 Điền chủ, dân số toàn tỉnh là 315.000 người. Có 34.243 người sở hữu 10ha trở xuống, 3730 người có từ 11 đến 50 ha, 168 người có từ 51 đến 100 ha, 44 người có từ 101 đến 500 ha. Đó là tui nói về diện tích đất làm ruộng, sản lượng lúa gạo mỗi năm như sau: năm 1017 có 82.000, năm 1920 có 150.000 tấn... năm 1924 có 152.000 tấn. Dừa thì tỉnh nào ở Nam-kỳ cũng có, không nhiều thì ít, nhưng Bến-Tre thì vô địch về dừa. Năm 1961 diện tích trồng dừa ở Bến Tre lên tới 20.834 ha. Cơm dừa bán ra năm 1929 là 5250 tấn, dùng để làm xà bông là chánh. Ông Trương-văn-Bền có hàng chục ngàn mẫu đất ở Bến-Tre, có lẽ để trồng dừa vì ông có hãng xà bông Việt-Nam lừng danh. Bến-Tre còn những vườn trái cây xanh tốt, trồng các giống nổi tiếng như: quýt, cam, bưởi, sầu riêng, xoài, bòn bon, măng cụt, chôm chôm... Riêng Ba-Tri có trồng dâu nuôi tằm. Sông ngòi ở Bến-Tre tôm cá cũng nhiều, năm 1929 ngoài cá tươi để ăn, bán, Bến Tre còn dư để làm ra hơn 200 tấn cá khô, 50 tấn tôm khô đem lên bán trên Saigon. Sông Ba-Lai, Tiên-Thủy, Cổ-Chiên còn có cá sấu loại lớn hay tấn công dân chài lưới. Đặc sản thì đa dạng phong phú, không kể xiết nổi. Kẹo dừa nổi tiếng đến nay cũng hơn 200 năm, ngoài ra có bánh tráng sữa, mắm còng, ba khía, các loại trái cây... Về Giáo-dục, từ năm 1868 đã có 2 trường do các Linh-mục lập ra để dạy chữ Quốc-ngữ và Latin. Tới năm 1879 chánh thức có trường cấp1 và 2. Tới năm 1879 toàn tỉnh có 19 trường Tổng và làng. Chi tiết về các nhơn vật, truyện về các nhà giàu, các nhà đấu tranh tui sẽ lần hồi đăng tới, trong 1 bài viết không thể kể hết ra được. Ai muốn tìm hiểu về làng, xã, thôn, vị nào làm chủ tỉnh năm nào... thì nhắn riêng tui sẽ cung cấp thông tin. Tham khảo: Những phú hộ lừng danh Nam Kỳ, Địa chí hành chánh các tỉnh Nam kỳ thời Pháp, Kiến Hòa xưa và nay, Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam từ năm 1757-1945, Sử Cao Miên, Xiêm La quốc lộ trình tập lục.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 25, 2024 16:57:20 GMT 9
Văn Thánh Miếu – Di tích lịch sử văn hóa kiến trúc tiêu biểu của Vĩnh Long .
Đến Vĩnh Long, thành phố bên bờ sông Cổ Chiên thơ mộng, du khách sẽ được tham quan rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng. Một trong số đó là Văn Thánh Miếu là một công trình kiến trúc tiêu biểu còn sót lại từ thời Nguyễn sau khi quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long. Nơi đây được mệnh danh là “Quốc Tử Giám của phương Nam”, lưu giữ biết bao câu chuyện quý giá về tinh thần hiếu học của cha ông ta thời xưa. Văn Thánh miếu Vĩnh Long đặt tại làng Long Hồ, tổng Bình Long, tỉnh Vĩnh Long, phía Đông Nam thành Vĩnh Long nay thuộc phường 4, thành phố Vĩnh Long. Đi du lịch Vĩnh Long muốn ghé thăm Văn Thánh Miếu, từ trung tâm thành phố Vĩnh Long, bạn theo đường Trần Phú chạy ven dòng sông Long Hồ, chỉ một đoạn ngắn khoảng 2km là đến nơi. Văn Thánh Miếu Vĩnh Long là một trong ba Văn Thánh Miếu được xây dựng đầu tiên ở Nam Bộ. Hai Văn Thánh Miếu khác nằm ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và đất Gia Định xưa. Công trình được khởi công năm 1864 và hoàn thành năm 1866 do Đốc học Nguyễn Thông khởi xướng, thờ Khổng Tử và các học trò của Ngài. Tuy trên danh nghĩa là đề cao Nho giáo, nhưng thực chất đây là một tụ điểm hoạt động văn hóa đề cao các bậc tiền hiền và giáo dục lòng yêu nước. Khi Văn Thánh Miếu được xây dựng hoàn tất. Hội Văn Thánh miếu ra đời đảm trách quản lý, thờ phượng. Triều đình Huế hướng dẫn điển lễ tế tự và cấp 20 miếu phu trông nom Văn Thánh Miếu. Nơi đây trở thành trung tâm văn hoá của khu vực miền Tây Nam kỳ. Các sĩ phu, tao nhân mặc khách qui tụ về đây đàm đạo thơ phú, luận bàn thế sự. Năm 1867, khi chiếm xong Vĩnh Long thực dân Pháp phá hoại các công trình văn hoá của nhà Nguyễn để lại và có ý định huỷ hoại Văn Thánh Miếu. Thực hiện di huấn của cụ Phan Thanh Giản, ông bá hộ Trương Ngọc Lang (tức bá hộ Nọn) tìm nhiều biện pháp để bảo vệ Văn Thánh Miếu – di sản văn hoá của vùng đất Vĩnh Long. Sau khi chiếm Vĩnh Long, bọn thực dân Pháp lấy cớ thiếu gỗ xây dựng Dinh tham biện (tỉnh trưởng) định phá Văn Thánh miếu. Lúc đó ông Bá hộ Trương Ngọc Lang (người Minh Hương) được đồng bào đề cử đứng ra tranh thủ với quân viễn chinh giữ lại công trình văn hóa này. Rồi từ đó đến nay, Văn Thánh miếu Vĩnh Long được tu bổ vào các năm 1872, 1903, 1914, 1933, 1963, 1994, 2006 và năm 2007. Trải qua bao thời gian biến cố lịch sử, công trình đã trải qua trùng tu, tôn tạo nhiều lần nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc nguyên bản, và đã được công nhận là di tích văn hóa cấp quốc gia năm 1991. Cổng tam quan uy nghi hướng ra dòng sông tĩnh lặng, được xây theo lối cổ lâu có ba tầng mái, tuy đơn giản nhưng mỹ thuật, trên hai trụ có chạm đôi liễn thanh tao. Sau cổng là thần đạo đi thẳng vào điện Đại Thành. Hai bên là hai hàng sao cao vút có cùng niên đại với ngôi Thánh Miếu. Hai hàng cây cao thẳng tắp tạo cho khuôn viên vườn cảnh và khu di tích một bề sâu và không khí uy nghi trầm mặc lạ lùng. Trên con đường đó, giữa hoa lá đan xen, khách có thể chiêm ngưỡng ba tấm bia đá đã phôi pha với thời gian. Trước cổng là tấm bia ghi văn tài của cụ Phan Thanh Giản, mặt trước nêu lý do dựng miếu, xưng tụng công đức Thánh Nhân và triều đình, mặt sau dương danh những người có công. Tổng cộng trong văn miếu có ba tấm bia mang giá trị ghi dấu các thời kỳ lịch sử gắn với Văn Miếu. Ngoài bia Phan Thanh Giản còn có bia ghi việc trùng tu miếu năm 1903, bia ghi công bà Trương Thị Loan (con gái ông Trương Ngọc Lang) đã có công hiến đất làm hoa lợi hương hỏa. Khổng Thánh Miếu trước kia đơn sơ, cột cây mái ngói trên nền đất, năm 1903 mới được thay bằng cột gỗ căm xe, lót gạch tàu, lợp ngói đại và ngói ống. Miếu thờ Đức Khổng Tử có nhiều cặp liễn đối và hoành phi mang giá trị lịch sử văn hoá và cho thấy lòng hiếu học của dân chúng Nam kỳ. Chính điện làm theo kiểu trùng thềm điệp ốc. Tượng đức Khổng Tử được đặt thờ ở giữa, hai bên là bốn vị cao đồ. Ngoài ra, bàn thờ bên tả hữu còn thờ cúng 12 vị học sĩ cao đồ khác. Bên ngoài hai ngôi miếu nhỏ (Tả vu, Hữu vu) được xây dựng làm nơi tưởng nhớ đến 72 vị học trò danh tiếng của Khổng Tử. Trong khuôn viên Văn Thánh Miếu còn có ao sen và một công trình kiến trúc nhỏ nằm bên phải lối vào là Tụy Văn Lâu (còn gọi là Văn Xương Các). Văn Xương Các nằm ngay bên phải lối vào khu di tích, hai bên có hai khẩu thần công. Những khẩu súng cổ này từ năm 1921 đã được đặt tại cầu tàu (trước viện Bảo tàng Vĩnh Long hiện nay). Năm 1937 mới mang tới Văn Thánh Miếu và năm 1960 được đặt uy nghi trên bệ xây. Văn Xương Các xây theo kiểu trùng thềm điệp ốc. Trên gác là nơi cất sách và thờ Văn Xương Đế Quân, một vị tinh quân chủ quản việc thi cử học hành. Tầng dưới, gian giữa là nơi văn nhân thi ngồi đàm đạo, phía sau là khám thờ chạm trổ tinh vi, trong đặt hai bài vị, có câu đối ca tụng hai sĩ tử đứng đầu đất Gia Định là Võ Trường Toản và Phan Thanh Giản. Hàng năm tại điện Đại Thành có các lễ cúng Xuân Đinh và Thu Đinh, tại Tụy Văn Lâu có lễ vía cụ Phan Thanh Giãn vào các ngày 4 và 5 tháng Bảy âm lịch, lễ cúng vọng các trung thần liệt tử vào các ngày 12 và 13 tháng Mười âm lịch. Vào dịp diễn ra lễ hội, Văn Thánh Miếu đón đông đảo du khách thập phương về tham dự. Ghé thăm ngôi miếu mái ngói rêu phong cổ kính, ai cũng cảm nhận bầu không khí trầm mặc phủ kín không gian và có dịp tỏ lòng thành kính đối với các bậc tiền nhân. Mekong Delta Explorer . *************************************
Sách giáo khoa nên có bài về Phan Thanh Giản? Sơn Nam .
Ðâu hồi 7, 8 tuổi, tôi là một cậu bé ở vùng rừng U Minh lần đầu tiên được biết đến ông Phan Thanh Giản nhờ học trong sách Quốc Văn giáo khoa thư, dạy ở trường nhà nước. May thay, bây giờ lại tìm được bài tập đọc ấy ở Sài Gòn, do Nhà xuất bản Trẻ tái bản. Xin trích lại: “Ông Phan Thanh Giản làm Kinh lược sứ ba tỉnh phía Tây trong Nam Việt. Khi chính phủ Pháp đánh lấy ba tỉnh ấy, ông biết rằng chống với nước Pháp không được, mới truyền đem thành trì ra nộp. Nhưng ông muốn tỏ lòng trung với vua và tự trị tội mình không giữ nổi tỉnh thành cho nước, bèn uống thuốc độc tự tử. Chính phủ Pháp thấy ông chết như thế lấy làm cảm phục lắm nên mới làm mả cho ông rất trọng thể, cho một chiếc tàu đem linh cữu ông về quê, lúc chôn có lính Tây làm lễ chào cờ”. Việc biên soạn vào buổi xa xưa ấy được giao cho ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và ông Đỗ Thận. Lớn lên, được phân công về Sài Gòn công tác, lần đầu tiên tôi mới có dịp đến chơi vùng chợ Vĩnh Long, viếng miếu Văn Thánh. Một giáo viên lớn tuổi hướng dẫn tôi đi và nói như trút hết nỗi lòng: Hồi xưa, lúc còn nhỏ, tôi được dạy cẩn thận, khi đi ngang qua miếu Văn Thánh, học trò phải giở nón, cúi đầu để chào ông Phan. Bây giờ không còn nữa. Chào ông Phan (Thanh Giản) là lời thề rửa hận cho ông, chớ không phải là bắt chước ông. Tôi lại vào bên hông miếu Văn Thánh để cúi đầu trước bức ảnh cụ Phan, chớ nào ai vào chánh điện để chào ông Khổng, ông Tăng Sâm, Tử Lộ... Rất tiếc là Phạm Quỳnh trong bài Một tháng ở Nam kỳ đã ghé miếu Văn Thánh, chê bức tranh Khổng Tử, cho rằng ở Vĩnh Long chẳng ai biết cúng tế ông Khổng. Về Khuê Văn các thờ Phan Thanh Giản, Phạm Quỳnh chỉ nói sơ sài. Nhưng vào khoảng 1906-1907, đã xảy ra cuộc bút chiến lớn giữa Trần Chánh Chiếu, người hăng hái cổ động cho phong trào Minh Tân (gọi Minh Tân, tránh kỵ hủy tên vua Duy Tân) và Trần Bá Thọ (con của Tổng đốc Trần Bá Lộc). Trần Bá Thọ cho rằng ông Trần Chánh Chiếu đã theo đạo Thiên Chúa mà lại chủ trì việc đề cao Phan Thanh Giản là “nghịch đạo”, vì đạo Thiên Chúa cấm cúng tế người quá cố với con heo quay và đám lễ sinh “cúc, cung, bái” là theo đạo Nho. Trần Chánh Chiếu trả lời trên báo Nông Cổ Mín Đàm rằng xưa kia, khi cố đạo Bá Đa Lộc mất, đám tang của cố đạo được cử hành trọng thể, cũng có “cúc, cung, bái”, heo quay kèm theo phần nghi lễ của đạo Thiên Chúa, tại sao bên đạo lại đồng ý? Ông Trần Chánh Chiếu cho rằng tuy bản thân mình theo đạo Thiên Chúa nhưng ông vẫn cử hành tế lễ Phan Thanh Giản, đưa về thờ ở Vĩnh Long vì ông khâm phục cụ Phan, người đã “vì dân nuốt độc” (chữ nghĩa thời ấy gọi việc uống thuốc độc tự tử). Tôi đã được xem tranh của họa sĩ vô danh nào đó vẽ địa cảnh Phan Thanh Giản ngồi trên ghế, với ly thuốc độc, mặt mày ung dung, trước mặt ông là hơn chục người, có lẽ là con cháu, đang quỳ lạy. Phải chăng con cháu ông đã chầu chực, khóc lóc, không một ai dám lên tiếng nài nỉ, cản ngăn việc ông uống độc dược để “thung dung tựu nghĩa”. Tôi có đọc một tư liệu ghi rằng buổi ấy, thoạt tiên ông nhịn ăn, uống nước. Nhưng không chết, ông bèn nhịn ăn và nhịn uống, vài ngày sau không chết nên đành dùng biện pháp chót là uống á phiện với dấm thanh. Người có công nghiên cứu về Phan Thanh Giản là Lê Thọ Xuân, đăng báo Đồng Nai đầu từ năm 1931– ..., với những chi tiết thú vị. Tuy làm quan to nhưng ông tự xem mình như người dân thường ở nông thôn, đối xử như người bình dân, không bao giờ phô trương quyền lực. Xin đề nghị: Trong chương trình sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông, đủ tình đủ lý, gọi là tình huống đặc biệt của vùng Nam bộ khi phải hội nhập với vùng Đông Nam Á và Tây phương quá sớm so với các vùng khác trong cả nước. Ông để lại cho đời sau chút gì khó quên, khó xóa nhòa, gọi là tâm linh, phóng khoáng, thơ mộng. Nguồn: Tạp chí Xưa & Nay số 318, tháng 10-2008
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 25, 2024 17:00:03 GMT 9
Sức sống cư dân vùng châu thổ sông Cửu LongSơn Nam . Vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và vùng Hậu Giang nói riêng xưa cũng như nay tràn ngập sức sống. Về đại thể, có hạ tầng cơ sở lớn do chính quyền tài trợ, thí dụ từ xưa đã có kinh Vĩnh Tế (Châu Đốc), kinh Long Xuyên Núi Sập do Thoại Ngọc Hầu điều khiển, sức dẫn được huy động đến mức tối đa. Thời Pháp thuộc, dùng xáng (tàu cuốc) nhưng sức dân cũng được huy động. Thời Viet Minh chống Pháp rồi Viet cong chong Mỹ ,cũng như sau ngày chiem dong toan bo mien Nam, việc xây dựng, nhất là lao dong đào kinh thủy nông trở thành quốc sách. Nhiều kinh nhỏ do sáng kiến của giới chủ điền bày ra, được nông dân tiếp tay. Chưa nói đến những thử nghiệm về cách xây rọ trên rạch để bắt cá, đào đìa, cải tiến kiểu phảng phát cỏ, cù nèo... Nông dân ít học chỉ lấy kinh nghiệm làm vốn sống, trình bày cùng nhau để rồi có những “chiến thuật nhỏ” trực tiếp làm cho dân thêm giàu, nước thêm mạnh. Lắm chuyện sáng tạo đầy trí tuệ được nông dân bày ra mà trước đó có kỹ sư Pháp, Mỹ chưa nghĩ tới, cho là vụn vặt, “nhà quê”. Một thí dụ là việc nuôi bè cá. Người lớn tuổi bảo đó là sáng kiến đơn sơ của Việt kiều bên Campuchia bày ra. Những xuồng câu tôm từ xưa đã bày ra cái rộng, đan bằng tre, chừa những kẽ hở để nước chảy ra chảy vào. Tuy bị nhốt nhưng con tôm vẫn sống thoải mái với nước lưu thông bên ngoài. Lần hồi bày ra cái rộng to hơn để nhốt cá tra, cá lóc bắt được. Qua thời VN CH, trong thời gian ngắn, ta bày ra kiểu nhà bè, trên là nhà ở, bên dưới đóng cái ao khung gắn vào, có lỗ cho nước ra vào; nước lớn, bè nổi lên, ròng thì hạ xuống, bốn phía bè gắn thùng phuy, cái rọ đựng cá thì lần hồi cải tiến, nếu có vốn, dùng những kim khí thay vì bằng thanh cây. Có những chuyện đã lâu rồi, ai cũng biết nhưng rất cần nhắc lại. Máy suốt lúa là do người An Giang bày ra trước. Máy cắt lúa do người Long An sáng chế, những chiếc cầu treo do người vùng Châu Phú (An Giang) thực hiện. Máy bơm nước nghe đâu xuất phát từ Tân Châu? Với cái chân vịt máy đuôi tôm bẻ ngược lại thì nước sẽ chảy ngược, từ trong đìa trong ao đổ ra ngoài, không như thời xưa mùa tát đìa phải mướn người nắm dây hai bên để tát cái gàu sòng trét chai, hì hục suốt ngày đêm. Phải tôn vinh người đã góp công sức và trí tuệ vào những sáng tạo về chiếc “tắc ráng” thời kháng Pháp. Quan trọng nhất là sự đột phá xem qua là nhỏ, nhưng vời sự đóng góp của nhiều người bỗng dưng trở thành lớn, nhân lên gấp bội. Đâu hồi trước năm 1950, vì nhu cầu liên lạc giao thông ở cửa biển Rạch Giá tránh né sự kiểm soát của địch, ta thử bày ra kiểu xuồng nhỏ, chạy nhanh, vượt cửa biển nhỏ với chiếc máy đuôi tôm. Một số thử nhìn vào bản đồ, ta thấy sông Cái Lớn và sông Cái Bé đổ ra vịnh Rạch Giá nhập chung lại rộng hơn 5 km. Ban đầu thử nghiệm dùng chiếc xuồng, đặt máy đuôi tôm, rồi chiếc tam bản. Thấy không ổn, bèn bày ra kiểu xuồng sóng thì xuồng sẽ chẻ ngang lượn sóng, nhờ sức của máy. Rồi lần hồi thành công, nhiều người bắt chước theo, đặt tên đầu tiên là chiếc tắc ráng, vì quê quán của vài người phát minh ở rạch Tắc Ráng (nói trại ra rạch Tắc Ráng). Sau đổi tên lần hồi, phổ biến qua Long Xuyên, Cần Thơ, gọi là vỏ lãi (phải chăng vì nó nhỏ và dài như con... sán lãi, vì chạy nhanh, phóng tới nên cũng gọi là vỏ vọt). –Ông Nguyễn Cẩm Lũy từ mấy năm qua được nổi danh là ông “Thần đèn”, quê ở Long Khánh, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, năm nay mới 55 tuổi đã thực hiện thành công khoảng 160 công trình di dời nhà, chỉnh nghiêng, được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng bằng Lao động sáng tạo năm 1998. Ông ra tận Quảng Nam nghiên cứu nâng ngôi đình cổ Nại Am lên cao 2m, dời hai cây đa cổ thụ đặt vào vị trí tương xứng. Làm thế nào cho ngôi di tích xưa không bị nứt gãy, ông đang quan sát Chùa Cầu Hội An đang lún, đây là kiểu cầu để đi qua lại, phía trên có mái ngói che nắng che mưa (kiểu thương gia hạ kiều). Hỏi bí quyết thì ông Thần đèn trả lời khiêm tốn: “Bí quyết là kiên trì và kinh nghiệm”. Câu nói bình thường của một nông dân. Đó cũng là bí quyết của người đi khẩn hoang ở vùng đất xa xôi, từ xưa ở phía Tây Nam của Tổ quốc ta. ... Những thành tựu đó trong cuộc sống, cũng như chiến tích lẫy lừng của những anh hùng khí phách mà trên hết là Trần Văn Thành, Nguyễn Trung Trực, những sĩ phu yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa... cùng với những thành quả lao động thầm lặng, những hy sinh của hàng triệu cư dân qua mấy trăm năm khai phá vùng châu thổ (mới vừa lớn lên về tâm tưởng, phong phú về tài nguyên, đủ mạnh về tinh thần nhưng cũng rất đôn hậu) chính là những tinh hoa được kết tinh từ một truyền thống văn hóa và là kết quả của sự tích lũy dồi dào, sung mãn sinh lực và thần trí dân tộc, trong đó có được sự khơi nguồn đáng kể của dòng suối tâm linh bản địa: Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật giáo Hòa Hảo. ********************** Vài dấu ấn của làng Hanh Thông, Gò VấpSài Gòn – Gia Định có một vài địa danh do người địa phương đọc sai hoặc do lỗi in ấn trong các văn bản lâu ngày đã trở thành tên chính thức trong các văn bản hành chánh. Chẳng hạn Bình Thanh thành Bình Thạnh, Hàng Sanh thành Hàng Xanh, Hanh Thông biến thành Hạnh Thông và sau đó là Hạnh Thông Tây, một làng của quận Gò Vấp. Trong bản đồ Trần Văn Học vẽ năm 1815, ghi rõ địa danh làng Hanh Thông, thuộc Tổng Bình Trị, huyện Bình Dương của phủ Tân Bình, tỉnh Gia Ðịnh. Làng Hanh Thông rất rộng, giáp làng Bình Hoà, làng Phú Nhuận và Tân Sơn Hoà. Năm 1944, Toàn quyền Ðông Dương ký nghị định thành lập tỉnh Tân Bình, vùng đất quận Gò Vấp bao gồm các làng: Bình Hưng Hòa, Phú Nhuận, Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Hoà, Tân Hòa, Vĩnh Lộc và Phú Thọ Hoà, Hanh Thông, Hạnh Thông Tây, Bình Hòa Xã, Thạnh Mỹ Tây và An Hội. Nhưng một năm sau đó, các làng trên lại trở về tỉnh Gia Ðịnh. Sau 1954, các làng thuộc quận Gò Vấp gọi là xã, trung tâm hành chánh quận đặt tại xã Hanh Thông. Từ đây dân chúng quen dùng từ Hanh Thông Xã để chỉ quận lỵ. Qua các thời kỳ phân chia địa giới hành chánh cấp quận cho đến năm 1960, quận Gò Vấp chỉ còn 7 xã trực thuộc là: An Nhơn, An Phú Ðông, Bình Hòa, Thạnh Lộc, Hạnh Thông, Thạnh Mỹ Tây, Thông Tây Hội (Thông Tây Hội do sáp nhập hai xã, Hạnh Thông Tây và An Hội làm một). Tôi có quãng thời gian ngắn sống tại Gò Vấp trên đường Phạm Văn Chiêu, đối diện với trường tiểu học An Hội. Qua tìm hiểu một chút về xã Thông Tây Hội với vài người lớn tuổi tại địa phương, họ nói đùa rằng, Thông Tây Hội là em út của Hanh Thông Xã. Vì thực tế, Hạnh Thông Tây là phần đất cắt ra của Hanh Thông Xã ở phía Tây. An Hội chỉ là một xã nhỏ nên kết hợp luôn cho gọn. Do vậy, khi nghe nói đến Hạnh Thông Tây thì người sống ngoài quận đinh ninh là Hanh Thông Xã ngày xưa. Ngày nay, Hạnh Thông Tây được nhiều người biết đến trên quãng đường Quang Trung từ ngã tư Phạm Văn Chiêu lên đến Nguyễn Oanh. Trên đường Quang Trung có hai chợ mang tên Hạnh Thông Tây. Một là chợ đối diện với nhà thờ Hạnh Thông Tây; hai là chợ cũng trên đường Quang Trung ra hướng đường Nguyễn Oanh (có thể đây là chợ xã Hanh Thông ngày xưa). Có lần, tôi hỏi chuyện với chú Ba Ðức lúc còn sanh tiền. Chú là chủ quán cà phê nhỏ phía sau chợ Hạnh Thông Tây. Dấu ấn nào ở Gò Vấp mà dân địa phương thường hay nhắc tới? Ông trả lời: “Tôi sinh ra và lớn lên tại xã Hạnh Thông Tây. Ngày còn nhỏ, đường Quang Trung là một hương lộ cỏ dại mọc hai bên cao quá gối, chợ Hạnh Thông Tây lúc ấy chưa có, còn là đất quân sự, có chòi lính canh, sau lưng là phi trường Tân Sơn Nhất. Phía bên kia đường là nhà Thờ Hạnh Thông Tây do ông Lê Phát An bỏ tiền của xây cất. Nhích lên phía trên ra ngã Ba chú Ía là một chợ xã Hạnh Thông Tây, người ta buôn bán từ sáng đến chiều. Quẹo ra đường Nguyễn Văn Lượng (trước 1975 là Minh Mạng, sau đổi thành Nguyễn Văn Lượng và nay thành Thống Nhất) có một ngôi đình tên là Thông Tây Hội có tuổi đời hơn ba trăm năm. Trở ra ngã Ba chú Ía gần chợ Gò Vấp là nhà việc Hanh Thông Xã (sau 1975 là Uỷ ban Nhân dân xã Hanh Thông). Ngôi đình Thông Tây Hội chú Ba Ðức nhắc tới chính là đình Hanh Thông hay Hạnh Thông Tây ngày xưa sau khi phân chia lại địa giới hành chánh quận Gò Vấp. Theo sử liệu, ngôi đình này được xây dựng vào khoảng năm 1679 (ngày nay đình còn được biết tới như là ngôi đình cổ nhất của vùng đất Gia Ðịnh xưa và của cả miền đất phương Nam còn tồn tại). Ðình Thông Tây Hội là nguồn dữ liệu phong phú về cư dân vùng Gò Vấp, một vùng đất ra đời tương đối sớm đối với Sài Gòn – Gia Ðịnh. Với giá trị kiến trúc nghệ thuật, lịch sử, xã hội, đình được nhà cầm quyền công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật văn hóa lịch sử cấp quốc gia năm 1998. Tên Thông Tây Hội là do ghép từ hai làng Hạnh Thông Tây và An Hội. Khi hai làng sáp nhập làm một (1944) thì đình làng Hạnh Thông Tây được chọn làm đình chung và từ đó được đổi tên thành đình Thông Tây Hội. Làng Hạnh Thông Tây được tách ra từ làng Hạnh Thông (một trong những làng ra đời từ rất xa xưa từ thời chúa Nguyễn). Trong “Gia Ðịnh thành thông chí” của Trịnh Hoài Ðức có ghi: Hạnh Thông thôn – Hạnh Thông Tây thôn – An Hội thôn – thuộc tổng Bình Trị, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình. Xã Hạnh Thông Tây có thể ra đời rất sớm cùng với sự ra đời và tồn tại của làng xã. Theo các cụ cao niên tại địa phương cho biết: ngôi đình đầu tiên của làng Hạnh Thông Tây được dựng lên từ khi tách làng, được làm bằng gỗ lợp lá, nằm ở vị trí khác, cách ngôi đình 800m về phía Nam. Ngôi đình thứ hai được làm bằng gỗ lợp ngói, nhỏ và đơn giản nằm tại vị trí ngôi đình. Ðất dựng đình do một nhà hào phú địa phương tên Huỳnh Văn Thu hiến cúng. Ngôi đình hiện nay được trùng tu trên địa điểm ngôi đình thứ hai. Ấn tượng thứ hai, chú Ba Ðức nói đến là trụ sở hội đồng Hanh Thông Xã của quận Gò Vấp. Ðây là một công trình kiên cố xây dựng theo kiến trúc Pháp pha lẫn Á Ðông. Cạnh bên có những văn phòng hành chánh trong xã mà thực tế là những việc hành chánh của cấp quận Gò Vấp. Nên nhớ rằng, trước năm 1945, Gò Vấp vẫn còn là vùng đất thuần nông nghiệp, dân cư chưa nhiều, đường sá hầu như còn là đường đất, trừ số ít đường tập trung ở khu tỉnh lỵ Gia Ðịnh. Nhà việc Hanh Thông Xã có cách sinh hoạt tương tự như một đình làng, là nơi hội họp các thôn trưởng đại diện dân chúng, góp tiếng nói chung để xây dựng đời sống trong cộng đồng. Sau năm 1954, Gò Vấp bắt đầu tiếp nhận dân di cư miền Bắc và nhiều tỉnh trong cả nước tìm về vùng đất mới sinh sống. Xóm Mới là một trong những khu định cư sau này của người miền Bắc từ năm 1945 đến 1954, chuyên trồng thuốc lá làm thuốc rê Gò Vấp. Dấu ấn thứ ba là nhà thờ Hạnh Thông Tây được xây dựng năm 1921, toàn bộ chi phí xây dựng đều được vợ chồng ông Denis Lê Phát An và bà Trần Thị Thơ (con trai trưởng của Huyện Sỹ Lê Phát Ðạt) tự nguyện đóng góp xây dựng. Sau khi du học bên Pháp về rồi lập gia đình, ông Lê Phát An được cha cho cai quản nhiều khu đất rộng lớn tại Gò Vấp. Ðất ông cho nông dân thuê lại trồng hoa và rau cải, ông lên Ðà Lạt mua đất mở đồn điền trồng trà cà phê bên cạnh gia đình cô em là Lê Thị Bình và em rể Nguyễn Hữu Hào (trở thành cha mẹ vợ của vua Bảo Ðại vào năm 1934), thỉnh thoảng mới lái xe về Sài Gòn xem xét đất đai ở Gò Vấp. Trang Nguyên
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 25, 2024 17:04:23 GMT 9
Quết bánh phồng mỗi độ Xuân sang .
Bánh phồng là thứ không thể thiếu trong ngày giỗ Tết ở miền Nam. Bánh phồng đi vào thi ca, nghệ thuật như đặc trưng của không gian Tết. Trong tuồng “Tuyệt Tình Ca,” soạn giả Hoa Phượng viết: “Cứ mỗi lần bông ô môi nở hường trong gió chướng, mỗi lần tiếng quết bánh phồng rộn rã đón Xuân sang…” Trong bài tân cổ “Xuân Này Con Không Về,” soạn giả Loan Thảo viết: “Ngày quết bánh phồng đêm canh nồi bánh tét…” Bài hát rất hay, thế nhưng Loan Thảo có nhầm lẫn không? Bánh phồng truyền thống ngày xưa quết vào ban đêm hay ban ngày? Với người miền Nam bánh phồng thân thuộc không chỉ vì khẩu vị, nguyên liệu đều là thứ cây nhà lá vườn mà cách làm bánh, cách nướng bánh cũng tạo ra không gian đầm ấm, đoàn kết gia đình tình làng nghĩa xóm. Khác với những thức ăn khác có thể làm trong im lặng, bánh phồng là loại bánh biết nói, tiếng chày quết bánh phồng vang vang trầm ấm giữa đêm khuya về sáng trong mùa giáp Tết, nhất là sau ngày 23 Tháng Chạp đã trở thành ký ức, là hoài niệm về không gian Tết của bao thế hệ người Việt sinh từ những năm 1960 về trước. Vì sao quết bánh ban đêm? Ca khúc “Xuân Này Con Không Về” của nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân được soạn giả Loan Thảo viết thành bài tân cổ giao duyên cùng tên khá nổi tiếng trong nhiều thập niên qua. Bài hát rất dễ thương, rất Tết, với những hình ảnh rất quê hương “én liệng trời cao mai đào vàng trước ngõ,” “mẹ… ngồi tựa cửa mong chờ”… Nhưng trong đó có câu “Ngày quết bánh phồng đêm canh nồi bánh tét…” chừng như có sự nhầm lẫn vì thời ấy, bánh phồng hiếm khi quết ban ngày mà thường quết bánh vào nửa đêm về sáng. Chính nhịp chày âm vang trong gió chướng lúc nửa đêm về sáng đã pha chất thi vị cho không gian làng quê những ngày giáp Tết mà soạn giả Hoa Phượng đã viết rằng “tiếng quết bánh phồng rộn rã đón Xuân sang…” Không phải người dân cố tình tạo ra sự lãng mạn, thi vị mà điều kiện sản xuất thủ công thời đó, các công đoạn của việc làm bánh phồng buộc phải làm đêm mới thật sự an toàn, bảo đảm bánh thật ngon nở phồng, thơm xốp. Các công đoạn này không được rời rạc mà phải liên tục và phối hợp nhuần nhuyễn của những bàn tay khéo léo, thật tỉ mỉ. Phân chia theo nguyên liệu, có hai loại bánh phồng nếp và bánh phồng mì (sắn theo miền Bắc). Dù theo loại nào cách làm bánh cũng trải qua các công đoạn xội nếp, hấp mì; quết bột; cán bánh và phơi liên tục với nhau. Xôi nếp phải quết khi đang nóng, bột nếp quết xong phải cán ngay nếu không sẽ bị khô, sượng, cán xong phải phơi dưới nắng trực tiếp để bánh khô đều, không bị ương, sượng. Chính vì vậy, bánh phồng thường được quết từ nửa đêm về sáng để kịp đưa ra phơi nắng sớm. Quết bánh ban ngày nếu chậm trễ không kịp phơi nắng bánh sẽ không ngon. Ngay với những làng nghề làm bánh phồng bán ra thị trường như Đăng Hưng Phước, Chợ Gạo, Tiền Giang hay bánh tráng Sơn Đốc ở xã Hưng Nhượng, Giồng Trôm, Bến Tre, những gia đình làm bánh phải ngủ từ lúc chạng vạng để lấy sức và trễ lắm là lúc gà gáy đợt đầu là tiếng chày quết bánh phồng đã vang lên râm ran khắp xóm. Tình người trong bánh Thông thường mỗi mẻ bánh là 16 lít nếp, khi xôi chín chia thành hai cối, quết thật nhuyễn. Người không chuyên không có công cụ quết bằng chày vồ rất nặng nhọc, mất sức vì mỗi cối phải quết trên 300 chày. Những nhà làm bánh chuyên nghiệp có chày giả đạp bằng chân, do hai ba người cùng phối hợp. Trong lúc quết có một thợ vùa, ngồi ngay bên cạnh cối để lăn trở bột và cho thêm các loại gia vị nước cốt, đường vào bột. Bánh ngon hay dở phần lớn được quyết định từ khâu này, người vùa khéo tay lăn trở đều gia vị ngấm tan đều, bột nhuyễn mịn không bị chai sượng. Bột đã nhuyễn mịn được chuyển sang công đoạn bắt, cán gồm một người bắt bột và nhóm bảy, tám người cán bánh ngồi quanh nhau trên tấm đệm hay trên sạp gỗ. Người thợ cả bắt bột vò thành viên tròn, ném cho từng người cán dùng ống cán tre ép bột thành chiếc bánh tròn đều. Công đoạn này quyết định tính thẩm mỹ của cái bánh. Những người bắt bánh chuyên nghiệp chỉ bằng tay có thể ngắt ra những cục bột khối lượng bằng nhau chỉ chênh lệch một vài gram. Mỗi mẻ bột có thể cho ra 300 hay 500 bánh tùy theo nhu cầu khách hàng mà không dư không thiếu. Những bàn tay cán bột khéo léo mềm mại như múa trên cục bột lại làm ra cái bánh có độ dày đều nhau tăm tắp vì nếu có chỗ dày chỗ mỏng khi phơi bánh sẽ bị nổ và khi nướng bánh không tròn đều, giòn xốp. Bánh cán xong được trải ra các tấm đệm bằng hoặc chiếu lát để kịp phơi khi trời hửng nắng. Thời gian phơi bánh không cần lâu lắm, chỉ trong một buổi, nhưng cần nắng tốt để bánh không bị sình ương. Tình làng nghĩa xóm kết trong cái bánh! Ngày nay, ở xã Hưng Nhượng hầu hết những lò bánh phồng thương hiệu Sơn Đốc đã cơ giới hóa các khâu quết, cán ép để tăng năng suất và giảm chi phí, riêng lò chú Út vẫn duy trì việc cán thủ công. Chú Út giải thích rằng, so với cán máy, bánh cán tay khi nướng chín đẹp hơn vì nó phồng đều, cái bánh vẫn tròn mà không bị cong vênh. Bánh thủ công cán tay cũng xốp đều hơn do bột khô hơn bánh cán máy. Chính vì vậy, dù tốn nhiều lao động hơn, giá thành cao hơn trong khi giá bán vẫn như nhau nhưng chú Út vẫn duy trì việc cán thủ công mà không cán máy. Chú giải thích, mình chịu thiệt một chút nhưng làm ra cái bánh ngon đẹp cho khách hàng như tặng thêm niềm vui cho khách trong ba ngày Tết. Cách suy nghĩ của chú Út có thể nói là đi ngược với thời cuộc hiện nay, khi mọi người đều chạy theo lợi nhuận. Đó có thể là tình yêu nghề cũng có thể là sự rơi rớt lại của sinh hoạt tình làng nghĩa xóm trước đây khi cái bánh chưa là hàng hóa, người dân tự làm bánh để cúng ông bà và đãi khách dịp Tết. Vì tính chất, quy củ của việc làm bánh phồng chặt chẽ như vậy, nên ngày xưa hiếm có gia đình nào tự một mình đủ sức làm bánh phồng, cũng không ai nghĩ đến chuyện thuê mướn nhân công làm bánh. Người ta thường hợp thành nhóm dần đổi công với nhau, nay làm nhà này, mai nhà khác. Đàn ông thì dần công quết bánh, vùa, vô nước bánh, phụ nữ thì dần công cán bánh. Không khí xúm xít đoàn kết này làm những ngày cận Tết thêm bận rộn nhưng cũng thêm vui. Chính vì vậy, ký ức Tết trong bánh phồng với người có tuổi càng đậm đà hơn. Nhưng đâu chỉ có trong ngày Tết, bánh phồng xưa còn phổ biến trong đời sống hằng ngày qua món xôi đậu gói bánh phồng. Món ăn sáng bình dân, ngon miệng no lâu thích hợp với tuổi học trò. Chỉ còn là ký ức? Với giới trẻ ngày nay bánh phồng đơn thuần chỉ là cái bánh quê. Người có lòng nhớ thì mua bánh chợ về cúng Tết, hiếm có gia đình nào làm bánh phồng để ăn. Đám giỗ kỵ ngày nay thường vắng món bánh phồng. Giới trẻ có quá nhiều thứ “sang chảnh” để lựa chọn nào hot dog, pizza… nên món xôi đậu gói bằng bánh phồng cũng không còn đất sống. Tiếng chày quết bánh phồng đã chìm vào quá khứ. Tại sao như vậy? Phải chăng bánh phồng không ngon? Phải chăng vì vô tình chạy theo những món ăn thời thượng, người Việt quay lưng với truyền thống văn hóa ẩm thực của ông cha? Có một điều có thể nhận ra ngay là sự tinh tế, thi vị nhưng cũng là khó khăn khi nướng bánh phồng. Muốn bánh nở đều, thơm xốp phải nướng bằng lửa rơm, hoặc bằng than thật đượm. Người nướng phải thật khéo tay lăn trở, đổi mặt thật đều để bánh phồng xốp. Với các cô gái trẻ được khen nướng bánh khéo đã là một thành tích đáng tự hào. Với trẻ con, nhìn miếng bánh nở phình trên bếp chuyển màu từ trắng sang hồng nhạt loang lổ da beo giống như phép màu phù thủy. Ngày nay đa số gia đình đều dùng bếp gas và không phải ai cũng có lò nướng điện nên việc nướng bánh đã thành trở ngại. Vắng tiếng quết bánh phồng, không gian Tết đã nhạt đi. Vắng màu sắc vàng hồng của bánh trên bàn thờ gia tiên, vị Tết càng thêm nhạt. Trong cuộc hành trình trở về ký ức, mong rằng mỗi gia đình nên mang theo cho mình hương vị ngọt béo của chiếc bánh phồng trên bàn thờ Tết, bên tách trà, câu chuyện hàn huyên chờ đón Giao Thừa, chắc hẳn vị Tết sẽ nồng hơn. (Anh Tú) (*) Bài đăng trên Giai Phẩm Người Việt Xuân Kỷ Hợi 2019 .
Hoài niệm Tết xưa trên miền quê Lục Tỉnh
Không gì thú vị trong dịp Tết bằng những ngày trước Tết, nhất là ở miền quê xưa, nơi lưu giữ đậm nét phong vị của văn hóa cổ truyền. Hãy cùng chiêm nghiệm những hoài niệm đẹp qua bài viết tái hiện khung cảnh đón Tết xưa của người dân Nam Bộ dưới đây. “…mỗi lần thấy bông ô môi nở hồng trong gió chướng, mỗi lần nghe tiếng quết bánh phồng rộn rã đón Xuân sang, mỗi lần có dịp về Vĩnh Long đi ngang Tân Ngãi thấy nhà chợ Trường An, là mỗi lần tôi nhớ đến mùa Xuân của đầu năm binh lửa…” Là gió chướng, là bông ô môi, là tiếng quết bánh phồng, là pháo nổ rộn ràng, là tâm trạng nôn nao tới Tết. Dân Nam Kỳ Lục Tỉnh* xưa bước qua mùng 10 Tháng Chạp là rần rần nôn Tết, tay chân quýnh hết trơn hết trọi, cập rập càng ràng vì hơi hám Tết ngày càng rộ; mấy dì, mấy thím ngồi cắt kiệu, lột tôm phơi khô còn giả đò làm bộ: “Mèn ơi! Tết tới mau dữ bây?” Ngày 23, người ta lo tảo mộ, từ mùng 10 Tháng Chạp đã lo đem lư ra phơi nắng để chùi. Bộ lư của dân Nam Kỳ gồm hai cái chân đèn, đỉnh trầm, trông rất to, khác với lư của người Bắc nhìn nho nhỏ trên bàn thờ. Bàn thờ ông bà cũng được dọn dẹp sạch sẽ, kỹ càng, gọn gàng vào dịp Tết. Bộ lư được chùi sạch boong, đánh lên nước đồng vàng bóng rực rỡ đặt trên bàn thờ. Bàn thờ thì được chưng đồ theo nguyên tắc “Đông bình, Tây quả,” bình bông bên tay phải, để dĩa trái cây bên tay tráí. Nam Kỳ là đất mới, nên người dân rất tâm linh. Tết mà nhìn bàn thờ ông bà giữa nhà tươm tất, nhang khói ấm cúng sẽ khiến lòng dạ người Lục Tỉnh thêm vững tin trong năm mới. Đó là sự viên mãn. Tết ngoài cúng tổ tiên ông bà, người ta phải cúng đất đai, cúng cả những người đã khuất trong quá trình khai hoang, đó là sự “viên trạch.” Người Lục Tỉnh thích chưng dưa hấu trong dịp Tết. Dưa hấu Long Trì, dưa hấu Cổ Cò, dưa hấu Gò Công nổi tiếng ngọt, mát luôn được chưng trên bàn thờ. Còn nói về bông để cúng, thì đầu tiên phải nhắc đến bông vạn thọ, là một loại cúc. Vạn thọ nghĩa là sống lâu muôn tuổi, vạn thọ vô cương. Khổng Tử có câu: “Lạc chỉ quân tử. Vạn thọ vô kỳ”. Tạm dịch: Thấy người ta những hân hoan Chúc người trường thọ muôn vàn trước sau. Bông vạn thọ màu vàng rực rỡ sẽ giúp cho không gian ngày Tết bừng sáng. Loài hoa này còn mang ý nghĩa cầu mong sức khỏe, sự trường thọ và may mắn, mùi thơm hăng hắc dân dã rất gần với người bình dân và quan trọng là trưng được rất lâu. Sau vạn thọ phải kể đến mai vàng, đây là loại bông nở rộ trong những ngày Tết ở khắp Nam Kỳ. Mai là thứ bông đứng đầu “tứ quý,” không sợ gió, chẳng sợ mưa, đứng vững trong nắng gắt, phong ba, vì thế nó tượng trưng cho người quân tử. Bông mai là thứ không có mùi, chỉ có sắc, nhưng là “quốc bông”của người Nam Kỳ trong ngày Tết Bông mai, bông vạn thọ, dưa hấu, bánh tét, củ kiệu, lạp xưởng, nồi khổ qua hầm, nồi thịt kho hột vịt, lì xì chính là những đặc trưng của Tết Lục Tỉnh… 31.01.2019 Nguồn: Báo Người Việt Online
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 25, 2024 17:04:58 GMT 9
Giỗ Tổ Nghề May (12/12 âm lịch) và Lược Sử Đức Thánh Tổ
Truyền thuyết và lịch sử đều ghi nhận bà Nguyễn Thị Sen là Đức Thánh Tổ nghề may Việt Nam. Theo thần tích, bà Nguyễn Thi Sen sinh ra và lớn lên ở làng Trạch Xá, xã Hòa Lâm, huyện Ứng Hòa, trấn Sơn Tây (ngôi làng được Quý Minh Đại Vương là thần tướng dưới thời Hùng Vương lập lên). Vào tuổi trăng tròn bà là người con gái xinh đẹp, nết na, đảm đang, giỏi giang việc trồng dâu, dệt vải, may mặc, thêu thùa. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Vua Đinh Tiên Hoàng (924 -979) lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và Ca Ông, trong đó tứ phi Hoàng Hậu Cồ Quốc chính là Thánh tổ nghề may Nguyễn Thị Sen. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lãnh đạo quân binh dẹp loạn 12 sứ quân lên ngôi Thiên Tử, lấy hiệu là: Tiên Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là: Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư – Ninh Bình (đây là Hoàng đế đầu tiên của nước Việt sau gần 1000 năm Bắc thuộc). Nhân dịp Vua Đinh Tiên Hoàng về trấn Sơn Tây kén chọn hiền tài giúp nước, đến làng Trạch Xá – Tổng Hòa Lâm – Huyện Ứng Hòa, đã cảm mến và kết duyên cùng bà Nguyễn Thị Sen. Theo vua về kinh đô Hoa Lư, bà được phong là Tứ Phi Hoàng Hậu. Tại cung vua, bà được giao quản bộ May trang phục Hoàng Triều. Với trí thông minh, sự khéo léo và sáng tạo, bà đã cùng các cung phi tạo nên các loại quần áo của Hoàng tôn, Công tử, Hoàng hậu và Triều nghi, thứ nào cũng vừa trang trọng vừa tiện lợi. Đặc biệt đã đào tạo được đội ngũ người may, người thêu thùa đông đảo. Bà dạy cho các cung nữ từng đường kim, mũi chỉ phát triển nghề may trong cung vua mà trước đây chưa hề có. Vào năm Kỷ Mão (979) Vua Đinh Tiên Hoàng bị gian thần sát hại. Buồn chán trước cảnh triều đình rơi vào binh đao tranh quyền, đoạt vị, bà đã đưa các con từ giã Hoàng cung trở về làng Trạch Xá quê hương. Tại đây, bà đã mang nghề may trong cung truyền dạy cho dân làng và từ đó nghề may đã phát triển đời này nối tiếp đời sau, đến nay đã được hơn ngàn năm. Bà mất vào ngày 12 tháng Chạp. Để con cháu muôn đời biết về công đức của tiền nhân, người dân làng Trạch Xá đã lập đền thờ suy tôn bà là Đức Thánh Tổ nghề may và tổ chức lễ hội giỗ tổ vào ngày 12 tháng Chạp âm lịch hàng năm. Tôn vinh đạo lý, truyền thống "uống nước nhớ nguồn", lễ giỗ Tổ nghề may hàng năm được hầu hết các tổ chức, doanh nghiệp, hiệp thợ ngành may mặc thời trang trên cả nước tổ chức trang trọng, thành kính. Lễ hội giỗ Tổ lớn nhất hàng năm với nhiều nghi lễ trang trọng và nhiều hoạt động giao lưu, vui chơi dân gian truyền thống được tổ chức tại làng Trạch Xá và Hội An. ---------------------- Sưu tầm và biên soạn Đoàn Văn Huỳnh Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thời trang Thiên Quang -------------------- Tài liệu tham khảo: 1/ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam dịch (1985 - 1992) 2/ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia 3/ Thần tích tổ nghề may - Trần Quang Nam (Chủ tịch Hội KHKT May mặc Hải Phòng)
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 25, 2024 17:06:11 GMT 9
Di sản Sài Gòn Sơn Nam
Sài Gòn, vùng chợ phố xưa ba trăm năm (lấy con số tròn), nay nằm trong địa bàn quận 1, quận 3 của thành phố SG, được xem như một quê hương. Người Việt Nam nhớ nằm lòng câu: “Chốn quê hương đẹp hơn cả”. Ở miền đồng ruộng, quê hương là bóng dáng lũy tre, con rạch với vườn tược, chiếc cầu nhỏ và đình, chùa. Ở Sài Gòn, là bến cảng, với nhà kho, tàu biển, cũng là giang cảng, có đường ăn lên Biên Hòa theo sông Đồng Nai và có đường sông ăn vào con sông Cửu Long tươi đẹp của Đông Nam Á. Là quê hương thì phải có ký ức, có hồn, hồn của đất nước. Người Pháp đã đến chỉnh trang, mở mang Sài Gòn trong khoảng non thế kỷ, từ năm 1917, đã tặng Sài Gòn cái mỹ hiệu là Hòn Ngọc Viễn Đông, là bao lơn của Thái Bình Dương (Le balcon du Pacifique). Hồn của Sài Gòn lắng đọng qua thời gian, từ những hình tượng cụ thể. Nhớ Sài Gòn, yêu Sài Gòn là yêu con sông thoáng rộng chảy ra biển, là yêu cây xanh bóng mát, yêu đường phố, và nhất là yêu tính hiếu khách của người Sài Gòn. Không hiếu khách thì làm sao phát triển “kinh tế thị trường”. Đó là hơi thở của Sài Gòn, là cái đòn bẩy của Sài Gòn từ khi lập nước. Pháp đến, thêm kho hàng, cửa khẩu, dịch vụ cho tàu thuyền, dịch vụ cho khách vãng lai. Người Việt thường gọi một cụm bốn tiếng: “Nhà cửa phố xá”. Ở đây tạm đóng khung trong chuyện nhà cửa bên đường phố. Trước khi Pháp đến, Sài Gòn đã có vài đường phố với qui hoạch mà người Pháp đã tôn trọng: đường nay Hai Bà Trưng ăn lên phía ngoại ô Gò Vấp (nguồn rau xanh, cây trái), đường xuống phía đồng bằng, qua Chợ Lớn, nay Nguyễn Trãi, lên Tây Ninh, đến Campuchia (Cambodge), nay đường Cách Mạng Tháng Tám, thêm trục lộ chính từ đông sang tây, đường Pateur ( Nguyễn Thị Minh Khai ?), về phía bắc, nối ra Huế lại có đường dọc theo mé sông. Người Pháp đến, đem vài sự ngạc nhiên cho người dân bình thường: chiếc xáng đào kinh (tàu cuốc), đường xe lửa, đặc biệt là kiểu thức nhà cửa, dinh thự... Người Việt Nam theo truyền thống xưa là không xây nhà có tầng lầu; làm như vậy, người tầng trên sẽ đi ngang trên đầu người ở tầng trệt, lắm khi có bàn thờ ông bà. Nếu xây lầu và có gác thì bên dưới phải bỏ trống với người qua nhưng chẳng phải là nơi cư ngụ hoặc làm việc: thử quan sát cung điện Huế và của Ngọ Môn. Không đắp nền quá cao sợ phạm thượng; nền cao và rộng dành cho đàn (tertre) để tế trời đất. Nhà không cửa sổ để tránh người ngoài nhìn vào, vừa giữ vẻ tôn nghiêm. Nhà để cư ngụ nhưng còn là một kiểu đền nhỏ, dành để thờ ông bà nơi trang trọng nhất, ngay giữa nhà. Vì vậy, không gian thu hẹp, không quá sáng sủa. Nhà của quan to sâu và rộng, nhưng thấp, nên lắm khi phải đốt nến lúc ban ngày. Không có trần nhà để che bụi, gọi (plafond). Không có bồn chứa nước, không cầu vệ sinh tươm tất, không có máng xối với hệ thống hoàn chỉnh. Thêm tường rào quanh sân để giữ sự kín đáo. Không đắp hình tượng trang trí lòe loẹt bên ngoài, làm như thế thì không phải nhà ở, nhưng là đền, miếu. Người Pháp đến, bày ra kiểu nhà tường cao ráo, quét nước vôi trắng, phải chăng rút kinh nghiệm từ các thuộc địa ở vùng Bắc châu Phi. Dinh thự của Pháp xây trên nền cao ráo, lắm khi bên dưới lại có hầm bỏ trống cho thoáng. Nhiều cửa sổ thoáng gió, dân gian gọi đó là cửa sổ lá sách, trần nhà quét vôi, che bụi bặm, mạng nhện giăng dễ bị phát hiện, nền lót gạch bông (gạch hoa), láng bóng, sáng sủa. Nơi dành thờ Chúa hoặc thánh Maria trong nhà cũng vừa phải, không trang trí rườm rà. Phòng tiếp khách, nơi ăn cơm, nơi uống rượu, nhà bếp đâu đó riêng biệt; cha mẹ, vợ con đều có phòng riêng chứng tỏ sự tôn trọng tự do cá nhân. Vòng rào lắm khi chỉ là những song sắt, tôn trọng cây cổ thụ sẵn có, mặt sân dành cho bãi cỏ, cắt bằng phẳng, thêm nước phun lên từ những vòi xem ngộ nghĩnh, đôi khi có hình tượng của thiếu nữ gần như khỏa thân. Nhà hát của Pháp xây cất ở Sài Gòn đắp tượng thiếu nữ, các hình tượng trước tòa Đô chính với thằng bé, con cọp, bà đầm, nói chi đến trước dinh Gia Long có những khung nhỏ, đắp hình con sấu, con chim ít được chú ý. Khách quan mà nói, những dinh thự lớn của Sài Gòn do Pháp xây cất đều nằm trong khu vực sang trọng, cao ráo, thoáng mát mà thời trước các quan nhà Nguyễn đã chọn để trấn đóng. Người Pháp gọi nơi đây là khu vực cao ráo, một kiểu “cao nguyên”. Khu vực tuy không nói ra nhưng rõ ràng là dành cho người Âu cư ngụ, làm việc và giải trí với gió mát từ sông Sài Gòn và không xa, từ sông Đồng Nai thổi vào. Phần còn lại, phía con rạch Bến Nghé ăn vào Chợ Lớn thì ẩm thấp, bùn lầy, thiếu vệ sinh. Đường Catinat (Tu Do,Đồng Khởi), đường Nguyễn Huệ gần như dành cho người Tây học, làm công chức, biết tiếng Pháp thông dụng. Ảnh hưởng của những dinh thự, công sở cao ráo kiểu Tây này với những con đường tráng nhựa đầy cây to gây được âm vang tận các tỉnh xa xôi... Ta không quên rằng Nam kỳ thời xưa chia ra 20 tỉnh, mỗi tỉnh đều có cơ ngơi dành cho công sở, quan chức. Tòa hành chánh tỉnh và dinh của chủ tỉnh cũng là nhà lầu, nền cao ráo; tỉnh ly có đường sá ngay thẳng, trồng cây xanh, thêm nhà chợ. Sở Công chính, trường học, bệnh viện... toàn là kiến trúc kiểu Pháp với qui mô khiêm tốn hơn. Giới điền chủ lớn, thương gia ở các tỉnh bắt chước kiểu nhà Tây ở Sài Gòn nhưng cải tiến lại, để giữ phong cách Việt Nam. Nhà ngói 3 gian, 2 chái theo kiểu Tây với nền đúc cao ráo, cửa sổ lá sách, có trần để che bụi, giảm hơi nóng, lót gạch bông, với bậc (tam cấp) đi lên nhà. Giữa nhà, bố trí “xa-lông”, tức là bàn ghế theo Tây với mặt bằng khá rộng dành cho khách. Nhưng vẫn giữ nơi trang trọng giữa nhà làm nơi thờ ông bà với cái lư, chân đèn, lư cắm nhang. Bàn ghế dành tiếp khách mô phỏng theo kiểu của trường dạy nghề mộc mà người Pháp thành lập rất sớm từ đầu thế kỷ XX, ở Thủ Dầu Một (Sông Bé, nay là Bình Dương). Chuyên viên về ngành đóng bàn ghế, tủ, từ Pháp qua đã tận dụng sự khéo léo sẵn có của thợ mộc người Việt, dạy cho họ đóng bàn ghế, tủ, theo kiểu Louis XVI bên Pháp, cẩn xà cừ, chạm trổ hoa cúc dây, bông mẫu đơn, bông hồng. Bàn thờ ông bà thời xưa được cải tiến theo kiểu tủ của Pháp, cao ráo cẩn xà cừ. Nét Việt Nam vẫn còn giữ được qua bộ ván cải tiến có chân quì, gọi là đi văng. Phía trước nhà, nơi mái hiên, vẫn dành chỗ để treo vào cái lồng nuôi chim hót, hoặc giăng cái võng để nằm nghĩ buổi trưa oi bức. Ngoài sân, vẫn giữ kiểu trang trí thời xưa của Việt Nam, với cây cảnh, hòn giả sơn, chậu to để trồng sen, góc sân đổi khi dành chỗ cho bụi trúc. Bộ ván hoặc cái đi văng bên cạnh bộ xa- lông kiểu Tây là nơi dành cho các bà ngồi ăn trầu. Ngôi nhà xây cất kiểu Tây, sau này lợp kiểu ngói bằng phẳng, gọi ngói móc (hoặc ngói Tây); cơ bản vẫn là để thờ tổ tiên, nếu khá giả, chủ nhân vẫn treo những câu đối chúc mừng dòng họ, nhắc nhở đạo lý. Tuy xây cất ở Sài Gòn nhưng dấu ấn của kiến trúc Pháp vẫn tạo ảnh hưởng lớn để dấu ấn sâu đậm, được chấp nhận, tận các tỉnh quận ly xa xôi. Là thiếu sót lớn, nếu không nói đến trường học ở làng mạc, với sân rộng, với bàn học: chuyện mà thời xưa các thầy đồ dạy chữ Nho không biết đến. Trường học vẫn dùng cái trống khá to đánh lên báo hiệu giờ vào lớp, tan học, phỏng theo trường ở tỉnh hoặc ở Sài Gòn. Sân trường cần bóng mát, từ cuối thế kỷ XIX và mãi đến nay vẫn là cây điệp Tây flamboyant (phượng vĩ) mà người Pháp đã du nhập từ Madagascar, cũng như loại bông giấy (bougainvillée) từ đảo Réunion, thuộc địa Pháp. Ngày nay, đến dịp nghỉ hè, vẫn nhắc đến mùa hoa phượng nở, tháng 5 Dương lịch. Sài Gòn 300 năm, trăm năm đầu là sự dò dẫm, trưởng thành và có thể nói hai trăm năm sau là tuổi thanh xuân và sự trưởng thành về thương mại, kinh tế để cho hải cảng thành hình. Kỷ niệm của tuổi thanh xuân ấy không thể xóa được. Có hồn của Sài Gòn thì phải có xác của Sài Gòn. Sau ngày 30 thang 4 1975, vài người bạn VC ở chiến khu về, gốc nông dân ở đồng bằng, chưa từng đến Sài Gòn lần nào đã yêu cầu tôi dắt đến xem cột cờ Thủ Ngữ và bến Nhà Rồng (Trinh Minh The) mà bạn đã từng nghe nói, lúc ở chiến khu. Hai hiện vật vẫn còn đó vì là biểu tượng của cảng Sài Gòn giữ vài di tích xưa tiêu biểu, gọi là di sản, theo tôi, nên bảo quản một mảng rộng, có sẵn và còn đó, thí dụ như ở vùng đất cao hình chữ nhật, bắt đầu từ đường Cách Mạng Tháng Tám với vườn Tao Đàn, tiếp đến Dinh Doc Lap (Hội trường Thống Nhất ?), khu vực trồng cây sao đường Thong Nhat ( Lê Duẩn ?), Nhà thờ Đức Bà, ăn đến Thảo Cầm Viên phía bờ sông với sạp bán báo, quán giải khát. Không giữ được di dản của thế hệ trước, ta sẽ mang chứng bệnh “bức xúc” (stress) mà căn do không phải vì buồn phiền chuyện riêng tư về tình ái, thất bại dịch vụ mua bán nhà đất mà vì lý do sâu thẳm hơn, tận trong tiềm thức, trong vô thức. Đó là sự hụt hẫng về lịch sử, đôi chân sẽ không đứng vững trên mặt đất vì chẳng hiểu rằng Tổ quốc là sự gắn bó liên tục qua những ký ức tập thể, buồn vui. Một nhà văn của nước Daguestan có diện tích nhỏ, trong Liên bang Nga, ven bờ biển Caspienne đã viết: “Nếu anh bắn vào quá khứ với súng lục thì tương lai sẽ bắn trả lại anh bằng súng đại bác”.
Đặc sắc chợ Bến Thành
Đô thị Sài Gòn từ khi bắt đầu khởi lập đã là một trung tâm kinh tế của Đàng Trong và khu vực. Đến nay, dấu vết thành Gia Định không còn nhưng ngôi chợ hiện diện cùng thành xưa vẫn tồn tại, dù địa điểm đã thay đổi nhưng tên gọi vẫn được giữ nguyên: chợ Bến Thành Đây là một trong 2 ngôi chợ lớn, quan trọng nhất TP HCM và Nam Bộ trong kinh tế, giao thương. Chợ Bến Thành cùng một số công trình kiến trúc, cảnh quan khác được xem là biểu tượng lịch sử - văn hóa của đô thị Sài Gòn. Chợ Bến Thành nguyên thủy nằm bên kênh Chợ Vải (nay là đường Nguyễn Huệ), đến năm 1914 thì xây dựng xong tại vị trí hiện nay. Khu chợ trước đó gọi là Chợ Cũ và chợ mới vẫn mang tên Bến Thành. Được xây theo kiểu "chợ nhà lồng" có mặt ở Nam Bộ từ nửa sau thế kỷ XIX do người Pháp đưa vào nhưng quy mô chợ Bến Thành lớn hơn nhiều nơi. Khác với những chợ làng, chợ quê họp ở bãi đất trống chỉ có vài lều lán dựng tạm, chợ nhà lồng theo cách gọi dân gian nhằm miêu tả hình dáng kiến trúc. Ngôi chợ được xây dựng có mái cao, che bằng lá hay sau này là ngói, tôn. Lòng chợ rộng trên nền cao để tránh ngập nước, không gian giới hạn bằng hàng cột xung quanh, chứ không phải là bức tường khép kín. Các thị tứ Nam Bộ đều có chợ nhà lồng như trung tâm của cộng đồng dân cư. Đến nay, nhiều nhà lồng chợ còn tồn tại với hình thức, quy mô, vị trí tương đồng, vẫn giữ vai trò chủ yếu trong giao thương của một vùng. Tuy không được xây dựng sớm như nhiều công trình khác, hình thức kiến trúc cũng không quá độc đáo nhưng chợ Bến Thành được xem là một trong những dấu mốc trong sự phát triển của đô thị Sài Gòn. Yếu tố lịch sử của chợ Bến Thành được nhận biết qua hình thức kiến trúc, các loại vật liệu và kỹ thuật xây dựng, phù điêu trang trí, hệ thống các khu vực ngành hàng, sạp hàng trong và ngoài nhà lồng… Với 4 cổng chợ mở về 4 hướng, cổng chính là "bùng binh chợ Bến Thành" trở thành vị trí trung tâm của Sài Gòn trong tâm thức dân gian. Đến nay, nhiều người vẫn quen gọi đây là chợ Sài Gòn. Một khảo sát về tương quan vị trí các công sở xây dựng thời Pháp với chợ Bến Thành cho kết quả rất thú vị. Nếu lấy chợ Bến Thành làm tâm thì trong bán kính khoảng 1,5 - 2 km đường chim bay đều là những công trình quan trọng: Nhà Xã Tây (nay là UBND TP HCM), Dinh Toàn quyền (Bảo tàng Thành phố), Tòa án và Khám Lớn, Sở Hỏa xa và ga xe lửa, nhà thờ Đức Bà, Bưu điện Trung tâm, Dinh Độc lập (Hội trường Thống Nhất)… Phía ven sông có nhà máy Ba Son, cột cờ Thủ Ngữ, Bến Nhà Rồng, các tòa nhà Hải quan, Ngân hàng, chú Hỏa (Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố)… Vì vậy, tuy là một trong 2 ngôi chợ lớn nhất Sài Gòn - Chợ Lớn nhưng chợ Bến Thành chủ yếu bán lẻ vì gắn liền với khu vực các công sở hành chính, dân cư, công chức hoặc buôn bán nhỏ. Ở trung tâm thành phố nên chợ còn chức năng phục vụ du khách. Có thể coi Bến Thành là ngôi chợ tiêu biểu cho văn hóa thương nghiệp Sài Gòn. Chợ có nhiều tiểu thương trải qua 2-3 thế hệ buôn bán ở đây nên duy trì được nhiều nét văn hóa tốt đẹp. Hiện tượng hàng giả, hàng nhái hay cách hành xử thiếu tế nhị của tiểu thương hiếm khi xảy ra. Tiểu thương ứng xử văn minh không chỉ với khách hàng mua bán mà còn với nhau. Lời chào hỏi "mua giùm, bán giúp" thể hiện quan niệm mua bán là sự "giúp đỡ lẫn nhau" chứ không phải bán như ban phát ở thời bao cấp hay mua kiểu hách dịch xài tiền. Thuận mua vừa bán, vui vẻ và tôn trọng nhau qua cách xưng hô thân mật truyền thống của chợ Nam Bộ "dì, cháu, cậu, cô", qua câu cảm ơn của người bán và người mua, ngay cả khi chỉ hỏi thăm hay xem hàng mà không mua bán. Nói đến chợ là nói đến hàng hóa và đặc sản ở đó. Chợ Bến Thành có tiếng về thức ăn tươi ngon mà không quá đắt. Món ăn ở đây thể hiện ẩm thực nhiều vùng miền nhưng nổi trội vẫn là ẩm thực Nam Bộ: bún mắm, bún thịt nướng, bún bì, hủ tiếu, bánh canh, nem nướng chạo tôm, bánh mì thịt, cơm tấm sườn bì, bánh xèo… Chợ Bến Thành có "chè Sài Gòn" mà du khách rất thích: bánh lọt sương sa hột lựu, chè xôi nước, chè bắp, chè đậu trắng, đậu xanh, đậu đỏ…; loại nào cũng có muỗng nước cốt dừa béo ngậy, vị ngọt thanh của đường cát, đường phèn hay ngọt đằm thắm của đường thốt nốt. Nhiều người dân và du khách đã lưu giữ ký ức đẹp về những món ăn ngon nơi này. Dù không có vai trò như một đòn bẩy kinh tế nhưng là trung tâm thương mại lớn, chợ Bến Thành phản ánh quá trình phát triển của vùng đất và con người Sài Gòn -TP HCM. Từ lúc khởi lập "trên bến dưới thuyền" đến khi hàng hóa, xe hơi, xe máy tập nập, nay là thời kỳ công nghiệp hóa và những tòa nhà cao tầng, ga metro hiện đại trong tương lai…, sự thay đổi cảnh quan xung quanh vẫn chưa làm giảm hay thay đổi tính chất của chợ Bến Thành. Trong quá trình phát triển, trung tâm TP HCM và khu vực chợ Bến Thành đã có nhiều thay đổi về không gian, cảnh quan. Bùng binh chợ Bến Thành trong tương lai không còn nữa mà chỉ lưu lại hình ảnh trong những tấm thiệp, trên internet. Là khu vực có giá trị bất động sản rất cao, cảnh quan chợ Bến Thành đã bị xâm lấn bởi nhiều công trình hiện đại cao tầng. Cùng với đó là hàng loạt trung tâm thương mại trên các đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Đồng Khởi, chưa kể theo quy hoạch sẽ còn có thêm một số trung tâm trong các ga metro đang xây dựng dưới lòng đất…, tất cả sẽ làm suy giảm vai trò thương mại của chợ Bến Thành. Thế nhưng, chợ Bến Thành vẫn có giá trị lịch sử bởi tuổi đời của nó đồng thời với đô thị Sài Gòn phát triển, có giá trị văn hóa của một "chợ truyền thống", đặc biệt là ngành hàng ẩm thực và "văn minh thương nghiệp" giữa cộng đồng tiểu thương với khách hàng. Tất cả đều cần được tôn trọng, gìn giữ và lưu truyền cho thế hệ sau. Trong suy nghĩ của nhiều người, sự thay đổi của thành phố theo hướng hiện đại hóa là điều tất yếu. Song, trong mối quan hệ gắn bó, tình cảm thì tâm thức mỗi người luôn nhớ đến những cảnh quan quen thuộc và ký ức một thời đã qua. Với Sài Gòn, chợ Bến Thành là một nơi chốn như vậy - vừa là biểu tượng giúp người ta nhận diện và nhớ về thành phố vừa là một đại diện của quê hương để giới thiệu với bạn bè bốn phương. Nguyễn Thị Hậu Nguồn: Báo Người Lao Động Online *************************************
Chợ bông Tết bến Bình Đông Bến Bình Đông, cái tên nghe đã thấy thương, thấy hiền, thấy dân dã và ngập tràn phong vị Nam Bộ xưa, nơi ghe thương hồ bôn ba sông nước mỏi mê rồi vui sướng cắm neo cột thuyền nằm nghỉ nơi bến sông rộn ràng nào đó. Bến Bình Đông, bến Mễ Cốc, bến Phú Định, những bến sông dọc dài bên cạnh Xóm Củi, rạch Cát, rạch Ong, rạch Lò Gốm, kinh Tàu Hủ, … gọi ra mênh mang cả một lịch sử làm ăn và sinh sống nơi phương Nam nắng gió. Dù ngày nay không mấy người còn chịu khó tìm hiểu nguồn cội của những cái tên, dù rạch Ong (nơi có nhiều bầy ong về làm tổ) đã bị gọi sai hẳn đi cả về địa danh lẫn ngữ nghĩa thành rạch Ông, nhưng cứ mỗi cuối năm, mùa Tết, cái chất sống quật cường đã luân lưu khắp mạch máu người dân Nam Bộ lại chảy mạnh. Bến Bình Đông lại rộn rã trên bến dưới thuyền, hoa và cây kiểng từ miền Tây đổ lên náo nức cả một đoạn bến dài. Nội thành Sài Gòn có rất nhiều chợ hoa xuân nằm trong các công viên hoặc bãi đất trống ở mỗi quận huyện hoặc một khu vực. Trung tâm thì năm nào cũng có chợ hoa trong công viên Tao Đàn và công viên 23/9, công viên Lê Văn Tám. Nhưng tôi thương, tôi nhớ, tôi mê chợ hoa ở bến Bình Đông nhất, nơi mà theo đúng giọng người Nam Bộ, không ai gọi “hoa” mà gọi “bông”. Chợ bông tết bến Bình Đông. Là vì chợ bông ở đây không chỉ là chợ bán bông. Những đoàn ghe bầu sức chở hàng trăm tấn, giương tròn hai con mắt màu đen nổi bật trên nền đỏ tươi ngược từ miệt Cái Mơn (Bến Tre), Đồng Tháp theo dòng nước mênh mông tràn khắp đồng bằng Nam Bộ, len lỏi vô tới tận giữa cái ruột của thành phố lớn nhất nước, chở theo cả tràn trề màu nắng, tươi rợi màu lá, sắc thắm rực rỡ của vạn hoa, chở cái sinh khí ngùn ngụt của vườn, của đất, của sông rộng và trời cao theo chân những nông dân có sắc da nâu sậm. Dưới sông, trên bờ, bông, cây, lá, trái, to đậm, trĩu cành, mạnh khỏe và tốt tươi, kìn kìn, lũ lượt, đua chen san sát đẫm ngời dưới cái nắng vàng trong đặc biệt chỉ những ngày giáp tết mới có ở Sài Gòn. Cái khí chất mạnh mẽ sung mãn đó khiến bến Bình Đông gây nghiện khác hẳn với những chợ hoa khác ở giữa trung tâm. Từ dưới chân cầu Chà Và chạy dài dọc theo kinh Tàu Hũ tới tuốt cầu Nguyễn Tri Phương, một bên vẫn còn những nhà kho hàng trăm năm có những cái bao lơn bụng phệ bằng sắt uốn chồm ra lơ lửng bên ngoài, một bên là dòng Tàu Hủ ghe thuyền kín sông. Đèn sáng như sao sa. Dân Sài Gòn ùa về nườm nượp. Trai gái nắm tay người yêu đi bộ rảo rảo ngắm bông, chụp hình. Cha mẹ ghé vô lựa kiểng chưng Tết. Đàn ông quần quật khiêng những tháp tắc cảnh (cây tắc, cây quất, cây hạnh, tùy cách gọi từng vùng miền) cao hàng hai mét trái sây tròn khắp chung quanh từ dưới ghe lên bờ, từ sạp lên xe tải chở về nhà cho khách. Mấy anh thợ làm bánh người Mã Lai tóc râu đen bóng, cái mũi dọc dừa dưới đôi mắt sắc khéo léo cầm cục bột dẻo quật trên mặt bàn, cứ một lần quật là cục bột xòe mỏng ra như tấm lụa. Một đám trung niên bày bàn ra nhậu sớm bên lề đường đối diện, cầm micro với cái điện thoại hò hát rân trời. Sâu trong các hàng bông có người kéo mí võng quấn kín như con sâu nằm toòng teng bên hàng rào sắt bờ sông ngủ say sau một đêm mua bán. Ai làm việc gì thì miệt mài làm việc nấy, tách ra hổng thấy liên quan chút gì tới nhau, mà nhập lại thì rộn rã, vang lừng, náo nhiệt vui tươi, cả một trời xuân sắc, tết nhứt bừng bừng. Đầu đường mấy chị gái bày một loạt ớt kiểng đủ màu. Có loại trái màu tím sẫm, màu đỏ, màu vàng chen nhau lúc ngúc trên nền lá xanh sẫm. Có loại trái ớt màu vàng chanh tròn xoe mới trông tưởng là trái sơ ri. Chị Ngọc bán ớt kiểng ở bến Bình Đông tới nay là tám năm. Mỗi chậu ớt đẹp như vầy bán có 25.000 đ. Nếu trồng trong cái sọ dừa được tỉ mẩn đánh bóng như vầy thì thêm 5.000 đ nữa. Kế bên là bông giấy. Năm nay mưa nhiều mà bông giấy đẹp hết sức, cánh mềm và dày bóng như lụa chớ không xác xơ mỏng quẹt như “giấy”. Màu tím nhạt quá phổ thông không được ưa chuộng mấy, màu cam mấy năm trước rất mới lạ nay cũng nhường hàng. Năm nay màu đỏ điều lên ngôi. Có những chậu bông giấy người trồng khéo tay chen một xíu bông trắng vô làm nền cho màu điều, cả hai bên cạnh nhau đều bật nổi ngời ngời. Nhà vườn nào khéo mang lên một cây bông giấy cao đâu gần bốn mét, toàn thân là một bó hoa bừng cháy rực rỡ. Cả một con đường phơi đủ sắc hoa, chỉ duy nhất một cây bông giấy này cao bật lên tươi rói. Màu đỏ tuyệt đẹp vừa tươi thắm, vừa đủ đằm để không một chút chói mắt nào ngay cả giữa cái nắng ban trưa. Vừa mở miệng trầm trồ khen cây bông quá đẹp tôi đã nghe tiếng một chị hưởng ứng ngay bên cạnh: “Mình mà có một cây bông giấy vậy ở nhà mình nhìn quài luôn, ngắm quài luôn, nhịn đói luôn, khỏi ngủ cũng được”. “Nhịn đói thiệt luôn hả?” –Tôi quay sang vừa trêu chị một câu thì nghe thấy một tràng tiếng cười giòn giã sau lưng một anh mặt cũng hơn hớn đang phóng xe đi mất. Năm nay là năm con heo nên nhiều nhà vườn cũng tranh thủ tạo hình con heo trong cây kiểng. Như cây dừa con này, phần sọ dừa được mài bóng rồi thêm tai thêm mắt khá ngộ nghĩnh. Có người phun nhũ vàng lên khắp trái dừa bông to rồi vẽ thêm mấy bông mai, bông đào trang trí, cùng vài câu chúc tết trông cũng lạ và hay. Cô Bưởi cũng ở Cái Mơn. Nhà bán bông tết ở chợ Bình Đông ba năm rồi nhưng năm nay cô mới theo ghe lên tới đây. Cái nón có bèo màu đỏ làm gương mặt cô trông như một bông hoa. Người bán bông ở bến thường đã bán quen nhiều năm. Thuê ghe chở bông lên đây, ghe cà dom lớn nhất chở được 1.000 cây tắc lớn. Giá 30 triệu/chuyến, ghe này có hai ba chủ thuê chung. Bán xong ngày nào về ngày đó, nếu hàng còn nhiều, họ bán tới trưa 30 tết mới dọn. Người thì lên xe đò, người thì theo ghe về lại Cái Mơn. Ghe nhỏ hơn đi hết một ngày rưỡi, về tới quê đã là trưa mùng 1 đầu năm, kiểm tiền lời xong mới bắt đầu xả hơi ăn tết. Còn ghe cà dom lớn này đi có một ngày, nhưng về tới quê cũng đã là sáng mùng một rồi. Năm nay bông và cây kiểng không nhiều loại mới. Ngoài những loại cây kiểng hoặc bông truyền thống như mai, hạnh thường được tạo dáng tháp; cúc, vạn thọ chỉ cần ú nụ và vàng ươm, hay cây trúc vạn niên thường được đeo tua đỏ hoặc bao lì xì…, hầu hết đều được để dáng tự nhiên. Thấy rõ nhà vườn-người sản xuất không đưa ra được các loại cây mới hay tạo dáng mới để thu hút người mua. Có mỗi một sạp bán thí nghiệm cây vú sữa nhỏ xíu cao chừng ba tấc nhưng cũng đơm trái tròn nụm, nhỏ bằng cái chén tống bàn trà nhưng không thấy ai hỏi, chắc tại dáng cây gầy guộc không toát lên không khí no ấm sung túc. Nhà vườn cũng đặt đại mấy chậu vú sữa ở một xó chớ không buồn chưng ra cho thiệt bắt mắt người đi ngắm. Ngoài tạo dáng và màu sắc, tên gọi cũng phải đánh trúng tâm lý ước ao sung túc thì mới hy vọng bán được. Ngó thấy mấy cây củ cải đỏ nhìn mắc cười, tôi hỏi thử thì anh bán hàng trịnh trọng nói nó là cây “hồng phát”, 80.000 đ/chậu. Tên thiệt đẹp, năm mới mà vừa đỏ vừa phát thì người Việt nào hổng ham, nhưng tội nghiệp cái cây, màu nó chỉ hồng tím lạt lạt, lá lại hơi quăn queo. Chứ ai mà lai giống được cho đỏ au còn lá thì xanh rờn to bản thì loại “hồng phát” củ cải này bán chạy phải biết. Năm ngoái có cây “kim ngọc mãn đường”, có lẽ do trái nhỏ, tròn xoe và đỏ tươi kết từng chùm rất đẹp, năm nay không thấy mấy. Mà rộ lên bông giấy đỏ điều như đã nói. Có lẽ người chơi kiểng cũng thực tế hơn nhiều, bông giấy dễ trồng và ưa nắng, chơi tết xong chỉ cần chăm bón chút xíu lại có bông tươi quanh năm. Những chiếc ghe mang cả miền quê lên cho dân Sài Gòn xa xứ. Những cái mui chằm bằng lá buông khiến người ta bùi ngùi nhớ quê, nhớ ngôi nhà cũ. Nước da sạm nắng dãi dầu của những người nông dân khiến người ta nhớ mẹ nhớ cha, nhớ đám bạn lên năm lên ba cởi truồng đánh lộn. Cây cầu bắc từ bờ lên ghe chỉ có một thanh gỗ, nay có người thay bằng cầu tôn như vầy, nhưng trời mưa chắc dễ trơn trợt. Người bán cũng không chỉ là những nông dân nhìn đã biết suốt ngày lăn lộn ngoài vườn, mà có cả thế hệ con cháu đi học, những thanh niên mặt mũi sáng trưng, tay chân mảnh khảnh, vừa cầm cái smartphone lướt facebook vừa coi hàng. Người mua thấy cưng quá giơ điện thoại chụp hình thì lỏn lẻn cười trông thương gần chết. Chợ bông Tết Bình Đông còn là nơi để người ta tới để gặp nhau, tận hưởng cái không khí bình yên bên nhau giữa cuộc sống cứ cuốn vội người đi. Bên này đường là cây kiểng và bông tươi ngời cắm rễ sâu trong đất, bên kia đường là cây vàng lá bạc, lấp lánh ánh ngân nhũ, cắm điện vô thì xoay từ từ và phát sáng. Hổng sao, cây nào cũng có người mua. Tết mà, ai cũng rộng rãi, cũng dễ dàng. Chan chứa niềm vui cho nhau để ước mong một năm mới bình an. Nguồn: Đài Tự Do Á Châu
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 25, 2024 17:35:37 GMT 9
Chuyện ít biết về Sài Gòn xưaNguyễn Đình Tư Chuyến bay đầu tiên và ngành hàng khôngLúc 10 giờ 30 ngày 10/12/1910, lần đầu tiên một chiếc máy bay loại bốn cánh nhãn hiệu Farman xuất hiện trên bầu trời Sài Gòn, lượn mấy vòng cho dân chúng ngắm vật lạ từ cha sinh mẹ đẻ chưa từng thấy. Sau đó chiếc máy bay đáp xuống trường đua ngựa. Người phi công lái chiếc máy bay ấy tên là Van Ven Borg. …Trong Thế chiến thứ nhất (1914 – 1918), máy bay đã tham chiến ở châu Âu. Sau này một số sĩ quan người Pháp tham chiến trở lại thuộc địa Nam kỳ, đóng ở trại lính bộ binh, lập câu lạc bộ chơi máy bay. Họ mua bộ phận rời từ Pháp, chở về Sài Gòn ráp lại, đem biểu diễn ở bãi trường đua cũ, bay vào phía Chợ Lớn rồi quay về. Phía dưới đất phải đốt khói để phi công biết được hướng gió, khi cất cánh và khi đáp xuống. Máy bay thuở ấy có hai tầng cánh, bay chậm, gây ngạc nhiên thích thú cho người xem. Thực hiện chủ trương đưa ngành hàng không vào Đông Dương, ngày 31/1/1917 chính quyền Bắc kỳ cho xây sân bay Vị Thủy (thuộc tổng Thanh Vị, huyện Minh Nghĩa, phủ Quốc Oai, Sơn Tây), rồi những chiếc máy bay quân sự đầu tiên được chở bằng tàu thủy Ménam cập bến Hải Phòng. Ngày 13/7/1917, Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định thành lập Sở Hàng không Đông Dương đặt dưới sự chỉ đạo tối cao của Toàn quyền Đông Dương. Ngày 25/9/1919, nhân dịp Hội đồng tư vấn Trung kỳ họp ở Huế, Hà Nội cho 2 chiếc máy bay vào để biểu dương sức mạnh quân sự của chính quyền thuộc địa. Chẳng may một chiếc bị nạn rơi ở sông Lam (Nghệ An). Đó là tai nạn máy bay đầu tiên ở VN. Ngày 20/11/1919, loại thủy phi cơ (Hydravion) bắt đầu được cho bay. Sau khi chính thức thành lập phi đội Nam kỳ, chính quyền Pháp ở Sài Gòn cho xây dựng sân bay Tân Sơn Nhứt. Tân Sơn Nhứt là tên một thôn nằm trên vùng đất cao phía bắc thành phố Sài Gòn, cách trung tâm thành phố khoảng 5 km. Thôn này nguyên là một giáp thuộc thôn Tân Sơn có từ thời Nguyễn Hữu Cảnh vào lập nền hành chánh ở Gia Định, trải qua triều Gia Long đến triều Minh Mạng nâng lên thành thôn Tân Sơn Nhứt thuộc tổng Dương Hòa Thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, với tứ cận: Đông giáp 2 thôn Phú Nhuận, An Hội thuộc tổng Bình Trị Hạ. Tây giáp thôn Tân Sơn Nhì cùng tổng. Nam giáp xã Phú Thọ thuộc tổng Tân Phong Thượng, huyện Tân Long và thôn Tân Sơn Nhì. Bắc giáp hai thôn Hạnh Thông Tây và An Hội thuộc tổng Bình Trị Hạ. Năm 1920, ngành hàng không lấy phần lớn diện tích của làng Tân Sơn Nhứt để xây dựng sân bay, và gọi là sân bay Tân Sơn Nhứt. Phần đất còn lại nhỏ hẹp không đủ tiêu chuẩn lập làng riêng, nên hợp với phần còn lại của làng Chí Hòa sau khi trích một phần nhập vào thành phố Sài Gòn thành làng Tân Sơn Hòa. Ban đầu sân bay Tân Sơn Nhứt chỉ dùng cho quân sự, lúc đó chỉ mới một phi đạo, nền đất trồng cỏ. Đến năm 1930 mới có một số nhà cửa ở sân bay phục vụ cho Hãng hàng không Air Orient. Năm 1934, phi đạo mới được trải nhựa và bắt đầu xây nhà ga. Tuyến Hà Nội – Sài Gòn – Hải Phòng – Xiêng Khoảng và ngược lại bay đầu tiên vào ngày 10/1/1921. Tuyến bay thẳng Hà Nội – Sài Gòn đầu tiên vào ngày 19/4/1921, mỗi lượt mất 8 giờ rưỡi. Năm 1930, chính quyền Sài Gòn muốn mở rộng sân bay để dùng cho máy bay dân sự. Nhưng bấy giờ giá đất xung quanh sân bay đã cao vọt lên, không đủ ngân sách để bồi thường. Người ta nghĩ tới việc tìm ở Cát Lái thuộc Q.Thủ Đức một khu đất vuông vức, mỗi chiều 1.400 m để xây dựng sân bay khác. Công việc chưa kịp tiến hành thì gặp lúc khủng hoảng kinh tế thế giới nên xây dựng phải làm lại từ đầu, kinh phí thì quá lớn, chương trình làm sân bay mới đành hủy bỏ, đành mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt cho đỡ tốn kém. Chuyến bay quốc tế đầu tiên của Hãng hàng không Pháp (Air France) bay tuyến Paris – Sài Gòn – Paris trong 50 giờ (hồi đó chưa thể bay ban đêm) mất vừa đúng một tuần lễ mới hạ cánh Sài Gòn ngày 28/12/1933, tiếp đó là tuyến Sài Gòn – Batavia. Như vậy, trước năm 1940 là thời điểm Đại chiến thế giới thứ hai lan tới châu Á và Thái Bình Dương, đã có tuyến bay Đông Dương – Pháp mỗi tuần một chuyến do hãng hàng không Pháp đảm trách, Sài Gòn – Singapore – Indonésia do hãng hàng không Hà Lan đảm trách, Hà Nội – Hồng Kông – Pénang do hãng hàng không Anh đảm trách, Hà Nội – Vân Nam do hãng hàng không Âu – Á đảm trách, Hà Nội – Hồng Kông – Trùng Khánh do hãng hàng không Trung Hoa đảm trách. Ngày 2/12/1937, Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định thành lập Sở Hàng không dân dụng Đông Dương thay thế cho Sở Hàng không dân sự, để lo việc khai thác các chuyến bay. Buổi đầu xe đò Việc vận chuyển bằng xe đò được thực hiện rất sớm giữa Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Các nhà tư sản bỏ vốn đầu tư mua xe xin phép chạy khắp các ngả, từ thành thị đến thôn quê. Chủ xe phải tuân theo những quy định chặt chẽ để bảo đảm an toàn cho hành khách. Từ năm 1910 trở đi xe hơi đã tiến bộ hơn nhiều, kiểu dáng thanh lịch, máy móc tối tân hơn, gồm các hiệu xe Peugeot, Panhard, Dehalaye, La Nouvelle Darracq. Những người có xe hơi riêng buổi đầu là các giới chức người Pháp hay các nhà cự phú như Lê Phát An. Năm 1923 xe chính phủ chỉ có 100 chiếc, ghi số từ C.1 đến C.100, trong đó chiếc Dehalaye C.100 của Thống đốc Nam kỳ sử dụng thuộc loại “chiến” nhất. Lúc đầu ở Sài Gòn chỉ mới nhập vào một vài chiếc xe hơi sử dụng cho ngành bưu chính, chuyên chở thư từ và bưu phẩm đi các tỉnh lân cận: Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Tân An do người Pháp lãnh thầu. Khoảng thời gian 1903 – 1908 tại Sài Gòn đã có khoảng 30 xe hơi, kiểu còn thô sơ, muốn chạy phải đốt cho máy nóng trước, mui vải bố có dây da chằng ra hai bên. Về sau các tư nhân nhập xe hơi để chuyên chở hành khách gọi là xe đò. Tuyến xe đò đầu tiên được đem vào khai thác là tuyến Sài Gòn – Trảng Bàng, Sài Gòn – Tây Ninh. Trước đó, có nghị định bắt buộc chủ xe đò phải ghi trên một bảng gắn phía ngoài xe nơi dễ thấy số hành khách tối đa. Phía trong xe ghi bảng giá tiền cước từng cung đoạn. Cả hai bảng đều viết bằng tiếng Việt, Pháp và Hoa. Nếu vi phạm sẽ bị phạt tiền. Khách dư một người, chủ xe bị phạt bằng giá trọn tuyến bất kể lên chỗ nào. Khi các hãng xe đò ra nhiều và chạy khắp các tỉnh, ngành bưu điện áp dụng thủ tục cho các hãng xe đò đấu thầu chuyên chở bưu phẩm, khỏi phải mua sắm xe riêng, tiết kiệm cho công quỹ. Chẳng hạn như ở tỉnh Thủ Dầu Một, chính quyền cho mở các tuyến xe đò kiêm luôn chuyên chở bưu phẩm. Một số tuyến và chủ hãng xe đò trên những cung đường ngắn giữa hai thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn đi đến các trung tâm thị tứ thuộc các tỉnh lân cận hoặc từ tỉnh lỵ này đến tỉnh lỵ kia với điều kiện vận hành được quy định rất chặt chẽ: Ngày 9/9/1918 ông Nguyễn Văn Tố ở Bình Hòa Xã, hạt Gia Định được phép chạy xe đò hiệu Peugeot tuyến Chợ Lớn – Lộc Giang, số hành khách tối đa là 11 người kể cả tài xế, vận tốc 25 km/giờ; ngày 26/11/1918 ông Huỳnh Quay ở Nhu Gia tỉnh Sóc Trăng được phép chạy xe đò hiệu Clément Bayard tuyến Sóc Trăng – Bạc Liêu, chở 10 người kể cả tài xế và lơ xe, vận tốc 30 km/giờ. Đến năm 1929 số xe hơi nhập vào Nam kỳ đã lên đến 11.000 chiếc, trong đó có 9.000 chiếc xe du lịch, còn gọi là xe nhà. Vào thời điểm từ 1935, xe hơi dùng chở khách, chở hàng rộ lên khắp Nam kỳ. Các nhà tư sản bỏ vốn đầu tư mua xe xin phép chạy khắp các ngả, từ thành thị đến thôn quê. Ngoài Sài Gòn, Chợ Lớn là trung tâm hoạt động của các hãng xe đò, xe tải đi về các tỉnh miền Đông, miền Tây, ra Trung, còn có các hãng xe chạy các tuyến trong nội vi từng tỉnh hay với các tỉnh lân cận thành một hệ thống như mạng nhện. Ngoài các cá nhân tư sản bỏ vốn mua xe kinh doanh, Công ty tàu điện Pháp ở Đông Dương cũng xin chuyên chở hành khách bằng xe hơi trên một số tuyến đường đi về các tỉnh xung quanh Sài Gòn. Ngày 23/2/1937, công ty được Khu trưởng Sài Gòn – Chợ Lớn cấp giấy phép khai thác vận chuyển hành khách với hành lý xách tay trên tuyến đường từ Sài Gòn đi Tây Ninh qua Đức Hòa bằng xe hiệu Renault 1 sức ngựa, chở được 40 người. Việc chuyên chở hành khách và hàng hóa bằng xe đò và xe tải đang tiến triển thì năm 1945 việc lưu thông bị gián đoạn một thời gian vì đường sá bị đào phá vì chiến tranh. Một thời gian sau, quân Pháp đánh chiếm các tỉnh lỵ, tái lập các tuyến đường, cho nhập vào rất nhiều xe hơi dân sự. Trong 9 năm dưới sự kiểm soát của quân đội Pháp, ngành vận tải bằng xe hơi tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam phát triển mạnh. Đồng bạc dùng chung cho Đông Dương Khi người Pháp mới chiếm được Nam kỳ, họ chưa có loại tiền riêng để lưu hành, phải dùng đồng franc của Pháp và đồng bạc Mễ Tây Cơ (còn gọi là đồng bạc con cò). Dân chúng không quen với hai loại tiền này nên gây không ít trở ngại về tài chính buộc Pháp vẫn phải công nhận và cho lưu hành tiền nhà Nguyễn mang các niên hiệu Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức bằng đồng hay kẽm. Trong thời gian từ năm 1874 – 1879, ở Nam kỳ người Pháp cho dùng cả đồng đô la Mỹ, đô la Hồng Kông và đồng tiền Ấn Độ. Do đó, ở Sài Gòn phát sinh dịch vụ đổi tiền các loại làm cho một số Ấn kiều có dịp đầu cơ thu lợi. Nếu đem so sánh giá hối đoái theo giá chính thức, thì 1 đồng franc đổi được 600 đồng tiền của ta, 1 đồng bạc con cò đổi được 3.000 đồng tiền của ta. Ngày 21/1/1875, tổng thống Pháp ban hành sắc lệnh thành lập Ngân hàng Đông Dương, trụ sở đặt tại Paris (Pháp) và chi nhánh đặt ở các nước thuộc địa, giao độc quyền phát hành đồng bạc để thống nhất tiền tệ toàn xứ Đông Dương, trong đó có Nam kỳ, thời hạn 45 năm từ 1875 – 1920. Sau đó, lưỡng viện quốc hội Pháp quyết định tăng thêm độc quyền 25 năm nữa. Để bảo đảm uy tín cho đồng bạc của ngân hàng, ngày 5/7/1881 tổng thống Pháp ban hành sắc lệnh bắt buộc phải dùng đơn vị tiền tệ là đồng bạc (piastre) trong việc lập ngân sách Nam kỳ kể từ niên khóa 1882. Mọi thu chi đều dùng đồng bạc của Ngân hàng Đông Dương gồm hai loại: loại đúc bằng kim khí và loại in bằng giấy. Loại bằng kim khí có mệnh giá 1 đồng, 50 xu, 20 xu, 10 xu (thường gọi 5 hào hay cắc, 2 hào, 1 hào), 5 xu, 1 xu và nửa xu. Loại 1 đồng được đúc bằng bạc, hình tròn, đường kính 34 mm, không có lỗ ở giữa, mặt trước có hình bà Marianne nữ thần tự do (biểu tượng nền Cộng hòa Pháp), do đó dân chúng quen gọi là đồng bạc bà đầm xòe, vành phía trên đề chữ République Française, phía dưới đề năm phát hành. Đó là các năm 1879, 1885 và 1895. Loại 50 xu, 20 xu, 10 xu cũng đúc bằng bạc. Loại 5 xu bằng bạc pha kền, loại 1 xu và nửa xu làm bằng đồng điếu, cả hai loại này ở giữa có lỗ tròn. Loại nửa xu được làm vào năm 1938. Nghị định của Toàn quyền Đông Dương cho lưu hành kể từ ngày 1/1/1880 các loại hào và xu trên đây. Các loại tiền bằng bạc rất được các nhà giàu ưa thích, thường bỏ tiền hay hàng hóa ra mua giá cao để tích trữ, do đó số tiền lưu hành trên thị trường ít dần, trở ngại lớn cho việc giao thương. Để chấm dứt tình trạng đó, năm 1917 Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định nói rõ: ai đã mua, bán hay đổi hoặc hứa hẹn mua, bán, đổi chác các đồng bạc và hào xu của Ngân hàng Đông Dương cao hơn giá trị hợp pháp hoặc có hứa thù lao nào đó đều bị phạt tù từ 1 – 15 ngày và phạt tiền từ 16 – 100 fr hay một trong hai hình phạt đó. Việc tịch thu các đồng bạc và tiền lẻ của Ngân hàng Đông Dương có thể được cơ quan kho bạc tuyên bố nếu xét thấy có sự thiệt hại cho quyền lợi của cơ quan này. Loại bạc bằng giấy do Ngân hàng Đông Dương phát hành gồm hai giai đoạn với một số đặc điểm khác nhau. Từ ngày 21/1/1875 đến ngày 21/1/1920, có các loại giấy bạc: 1 đồng, 5 đồng, 20 đồng, 100 đồng. Trên tờ giấy bạc 1 đồng phát hành ngày 3.8.1891 có đóng thêm chữ SAIGON bằng mực đỏ. Sở dĩ như vậy là vì lúc in tờ giấy bạc chưa có chủ trương giới hạn khu vực phát hành. Sau đó mới có quyết định chỉ phát hành tại Sài Gòn và lưu hành trên đất Nam kỳ mà thôi. Sắc lệnh của tổng thống Pháp chỉ cho phép ngân hàng tung ra thị trường một số lượng giấy bạc không được quá 3 lần số quý kim và đá quý tồn trữ. Nhưng đến năm 1920 tổng số đó đã vượt quá 12,6 lần, vì ngân hàng được độc quyền phát hành giấy bạc mà lại không có cơ quan nào kiểm soát gây nên khủng hoảng tài chánh trong hai năm 1919 – 1920. Dân chúng đổ xô đến các chi nhánh hay đại lý ngân hàng đòi đổi giấy bạc lấy vàng và đá quý đúng giá tương đương đã được ghi trên giấy bạc, khiến ngân hàng có thể phá sản. Để bảo vệ quyền lợi của giới tư bản tài chánh, tháng 3/1920 Toàn quyền Đông Dương tuyên bố “chế độ lưu hành cưỡng bức” đối với đồng bạc. Lại cho phép lưu hành thêm 25 triệu đồng nữa ngoài số đã có, cho phép ngân hàng không phải đổi quý kim và đá quý cho người có giấy bạc, mặc dầu trên tờ giấy bạc vẫn còn ghi câu “Payables en espèces a vue au porteur” (trả bằng vàng cho người cầm giấy bạc này). Ngày 21/1/1920 phát hành giấy bạc lần 2. Thực ra ban đầu thời hạn độc quyền chỉ được từng hạn 6 tháng. Hết 6 tháng lại được gia hạn tiếp bằng sắc lệnh của tổng thống Pháp. Về sau thấy cứ gia hạn kiểu đó quá phiền phức, vả lại việc phát hành giấy bạc cũng chỉ có Ngân hàng Đông Dương đảm trách liên tục, chẳng có cơ quan nào xen vào nên trong phiên họp ngày 2/2/1931, Hạ nghị viện Pháp giao độc quyền cho Ngân hàng Đông Dương phát hành giấy bạc trong 25 năm. Theo đó, thời hạn phải đến năm 1956 mới hết nhưng đến cuối năm 1939 chiến tranh thế giới bùng nổ, nước Pháp bị Đức chiếm đóng, chỉ còn liên lạc với Đông Dương bằng vô tuyến điện nên ngân hàng đặt trụ sở tại Paris cũng ngưng việc phát hành giấy bạc vì không thể chở qua được. (theo Nguyễn Đình Tư) Nguồn: cafevannghe.wordpress.com/.../nhung-chuyen-sai.../
|
|