|
Post by Huu Le on Nov 12, 2006 18:18:02 GMT 9
HOẠN QUAN Nguyen Thi Chan Huynh I.- Những hoạn quan ở nước ta * Đời Lý Lý Nhân Nghĩa Lý Thường Kiệt * Đời Trần . Phạm Ứng Mộng * Đời Lê Lương Đăng Hoàng Công Phụ Phạm Huy Đỉnh Hoàng Ngũ Phúc * Đời Nguyễn Lê văn Duyệt II.- Chức vụ và phẩm phục A/ Chức vụ B/ Phẩm phục * Đời Trần * Nhà Lê *Thời nhà Nguyễn III.- Đời sống * Tướng mạo và tính tình * Cung giám viện * Chùa Từ Hiếu * Nghĩa địa * Tháp Bồ Đề IV.- Chú thích Sử sách của ta chỉ chép tỉ mỉ từ đời Lý, trước đó nước ta có hoạn quan hay không thì không rõ, nhưng xét ra có lẽ chế độ hoạn quan của ta bắt chước Trung quốc. Theo các sách Chu lễ và Kinh lễ thì đời nhà Chu các hoạn quan chỉ giữ việc quét dọn, canh phòng, hầu hạ trong cung cấm, thường được gọi là Tư nhân, hay Yêm doãn (yêm = thiến, doãn = trưởng quan) sau mới đổi ra hoạn quan nghe tôn quý hơn. (Ở Việt Nam thường gọi là : nội thị, quan thị, nội giám, ông Giám, ông Bõ). Tuy tổng số có thể lên đến 3000 người, nhưng chỉ một số ít được giữ việc chuyển đạt mệnh lệnh của vua đến các phi tần. Những người này đều có tên khắc chữ vàng trên thẻ ngọc. Mỗi khi vua muốn triệu ai thì chọn thẻ giao cho viên nội giám giữ việc ấy để đem đèn đến treo trước cửa người cung phi được chọn. Cô này thấy hiệu bèn trang điểm rồi trút bỏ xiêm y, viên nội giám dùng một cái áo choàng rộng màu đỏ bọc lại rồi ẵm đến tận cung vua. Sau đó viên này phải ghi rõ ngày giờ vào sổ để nếu sau có sinh con trai thì đó là bằng chứng. Theo ông Hoàng Xuân Hãn thì từ cuối đời Hán hoạn quan mới tiếm quyền trong triều, nắm giữ cả văn ban lẫn võ ban, kết giao với các đại thần, gây vây cánh... Năm 1653, vua thấy hoạn quan lũng đoạn triều chính thái quá bèn ra sắc lệnh không cho những người này làm quan quá tứ phẩm, cấm dự bàn quốc sự, cấm không đuợc giao hảo với các đại thần, nếu không sẽ bị họa phân thây. Tuy nhiên, trên thực tế, đạo luật này ít khi được áp dụng. I.- Những hoạn quan ở nước ta * Đời Lý Lý Nhân Nghĩa. Nói đến hoạn quan đời Lý ai cũng nghĩ ngay đến Lý Thường Kiệt nhưng viên hoạn quan đầu tiên được nêu tên trong sử lại là Lý Nhân Nghĩa. Năm 1028, vua Lý Thái Tổ băng hà, thái tử Phật Mã lên ngôi, ba vương là Đông Chính, Dực Thánh và Vũ Đức mưu phản, đem quân mai phục trong Long Thành và ngoài cửa Quang Phục. Thái tử biết có biến sai vệ sĩ phòng giữ và sai bọn hoạn quan đóng các cửa điện, nhưng dùng dằng không nỡ quyết liệt với anh em. Nội thị Lý Nhân Nghĩa xin ra đánh, tâu : "Nay ba vương làm phản thì là anh em hay cừu địch ?...Tiên đế cho điện hạ là người có đức, có thể nối được chí nên lấy thiên hạ phó thác cho điện hạ, nay giặc đến tận cửa cung mà ẩn nhẫn như thế thì đối với sự phó thác của tiên đế ra sao ?". Thái tử lẳng lặng hồi lâu nói : "Vì ta muốn giấu tội ác của ba vương cho tự ý rút quân để trọn nghĩa anh em". Sau thấy ba vương đánh gấp, thái tử liền ủy cho bọn Lý Nhân Nghĩa và cung quan là Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu đánh dẹp. Hiểu giết được Vũ Đức, còn Đông Chinh và Dực Thánh chạy thoát. Đến tháng tư năm 1028, vua Thái Tông đi đánh phủ Trường Yên, cũng giao cho Lý Nhân Nghĩa ở lại giữ kinh sư, phòng Khai quốc vương làm phản (1). Xem thế đủ biết Lý Nhân Nghĩa không phải loại hoạn quan nô bộc mà là người có quyền can gián vua và rất được vua tín nhiệm. Lý Thường Kiệt (1019-1105). Lý Thường Kiệt quê ở Thăng Long, húy là Tuấn, tự là Thường Kiệt. Người cha sung chức Sùng ban lang tướng. Năm Thường Kiệt 13 tuổi thì mồ côi cha. Người chồng của cô là Tạ Đức thấy có chí bèn gả cháu gái là Thuần Khanh và dậy cho binh thư Tôn Ngô. Trước năm 1040 Thường Kiệt cũng được học đạo Nho. Nhờ phụ ấm, lúc đầu giữ một chức quan nhỏ là Kỵ mã hiệu úy. Năm 23 tuổi (1041) sung chức Hoàng môn chỉ hậu, khi ấy đã là hoạn quan. Có hai thuyết nói về việc Thường Kiệt tự hoạn : - Vì vua thấy Thường Kiệt mặt mũi đẹp đẽ nên cho 30.000 quan, bảo tự hoạn để vào cung hầu hạ ; - Vua Thái Tông đánh Chiêm Thành bắt được Nùng Trí Cao lại tha về. Thường Kiệt can ngăn, vua cho là thất lễ bắt phải tĩnh thân, sau đó triệu cho vào hầu cận. Thuyết đầu có lẽ có lý hơn vì em ông là Thường Hiến cũng là hoạn quan, chẳng lẽ vua cũng bắt tự hoạn chỉ vì Thường Kiệt "thất lễ" ? Ông Hoàng Xuân Hãn còn vạch ra rằng từ khi bình Chiêm, tha Nùng Trí Cao đến khi bắt Thường Kiệt tự hoạn rồi lại trọng dụng chỉ vỏn vẹn có mấy tháng, thời gian hơi ngắn để làm đủ từng ấy chuyện. Vào cung chưa được một kỷ (12 năm) Thường Kiệt được thăng Đô Tri, coi tất cả mọi việc trong cung cấm. Năm 1054, vua Lý Thánh Tông lên ngôi, Thường Kiệt sung chức Bổng hành quân quốc Hiệu úy, rồi Kiểm hiệu Thái bảo, một chức rất cao tại triều. Năm 1601, vua sai ông dẹp loạn ở cõi Tây nam, Man Lào. Năm 1069, vua Thánh Tông thân chinh đánh Chiêm Thành, phong ông làm Đại tướng, cho em ông là Thường Hiến giữ chức Tân kỵ vũ úy. Thường Kiệt bắt được Chế củ, Củ dâng đất chuộc tội được tha về. Thường Kiệt thăng Phụ quốc Thái phó (chức thứ ba trong hàng Tể chấp) Đao Thụ Nam bình Tiết độ sứ (chức thứ hai trong hàng tướng) Thượng Trụ quốc, Khai quốc công, Thiên tử nghĩa nam (hàng vương). Sau lại thăng Thái Úy Đồng Trung Thư môn hạ Bình chương sự (chức thứ hai sau Thái sư Lý Đạo Thành) trông nom quốc chính. Năm 1072, Thánh Tông mất, Nhân Tông là con Ỷ Lan Thái phi lên ngôi. Lý Đạo Thành ở ngôi Tể tướng đã 18 năm, nay làm Phụ chính, tôn Thượng Dương Thái hậu lên chấp chính nhưng Thường Kiệt lại tôn phò Ỷ Lan, chia thành hai phe. Bốn tháng sau phe Thường Kiệt thắng, Lý Đạo Thành bị giáng chức. Năm 1073, vua Nhân Tông ban cho Thường Kiệt chức Đôn quốc Thái úy, Đại tướng quân, Đại Tư đồ coi việc văn võ kiêm cả chức cấm quan. Năm 1075, nhà Tống định thôn tính nước ta, Thường Kiệt biết ý đón đánh, Tống quân thất bại phải lui về. Năm sau nhà Tống sang báo thù, nhưng thủy quân không tinh nhuệ bằng quân Nam, lại thất bại lần nữa. Thường Kiệt không muốn chiến tranh kéo dài, dùng biện sĩ dàn hòa. Năm 1077 Tống lui binh, tổn thất binh sĩ, tiền của rất nhiều mà chỉ chiếm được có 5 châu miền rừng núi. Thường Kiệt lại dùng mưu kế chiếm lại 5 châu, khi thì dùng vũ lực, lúc xúi dân cướp phá, hoặc giảng hòa đòi đất... Khi đánh Tống, ông làm bài thơ khuyến khích quân sĩ, nay còn lưu truyền : Nam quốc sơn hà, Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. dịch nghĩa : Sông núi nước Nam, Nam đế ở, Phận định nghìn xưa tại sách Trời. Như bọn giặc nào sang cướp lấn, Là thua tan hết lũ bay coi. (Đại Việt sử lược, tr. 159) Năm 1082, vua Nhân Tông trưởng thành, tự cầm quyền chính, cho Thường Kiệt ra trấn giữ Thanh Hóa trong 19 năm. Đến 1101, Thường Kiệt được triệu về kinh coi hết các việc trong ngoài cung điện. Năm 1104, Chiêm Thành quấy nhiễu miền nam, Thường Kiệt lúc ấy đã 85 tuổi, kéo quân vào, quân Chiêm vội lui, Thường Kiệt cũng không đuổi theo. Vua chế bài hát tán dương công trạng Thường Kiệt, lại ban thêm chức tước. Năm 1105, Lý Thường Kiệt mất ở kinh đô, thọ 86 tuổi. Mộ táng ở làng Yên Lạc, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Được truy phong Nhập nội điện, Đô tri Kiểm hiệu Thái úy, Bình chương quân quốc trọng sự, Việt quốc công, cho thực ấp vạn hộ(2). * Đời Trần Phạm Ứng Mộng Sử chép năm 1253, vua Trần Thái Tông một hôm chiêm bao thấy thần nhân trỏ vào một người bảo có thể làm Hành khiển (chức Tể tướng thứ hai, chế độ nhà Lý dành cho hoạn quan). Đến năm 1254, một hôm đi chơi ngoài thành, vua gặp một người giống hệt người trong mộng bèn cho 400 quan tiền, bảo tự thiến để vào hầu, đặt tên là Ứng Mộng. Sau quả nhiên làm đến chức Hành khiển(3). Theo Samuel Baron(4) thì đời Trần có một trong ba hoạn quan danh tiếng tên là " Ong Ja Tu Lea " (" Ong Ja " trỏ vào người đáng kính) nổi tiếng vừa nhờ tài trí, thăng chức mau chóng, vừa vì cái chết bi thảm. Chính ông là người vua Trần đã thấy trong mộng và cho tiền để tự hoạn, sau làm quan càng ngày càng quyền cao, chức trọng, được mọi người kính nể, xu nịnh, sợ hãi còn hơn sợ vua. Do đó vua chán ghét, cuối cùng hạ lệnh xử tử bốn ngựa phanh thây, đem xác đốt thành tro, đổ xuống sông. Như thế thì " Ong Ja Tu Lea " hẳn là Phạm Ứng Mộng, song không thấy sử chép Phạm Ứng Mộng còn có tên là " Tu Lea ", và cũng không thấy nói Phạm Ứng Mộng bị xử tử. * Đời Lê Lương Đăng. Tháng giêng năm 1437, Vua Lê Thái Tông sai Hành khiển Nguyễn Trãi cùng với Lỗ bộ ty giám Lương Đăng đốc làm loan giá, nhạc khí, dậy tập nhạc và múa. Đến tháng 5, Nguyễn Trãi tâu : " Bọn thần sở kiến không giống nhau, thần xin trả lại mệnh ấy ". Lương Đăng dâng nhạc mới bắt chước quy chế của nhà Minh, định các nghi thức đại triều. Vua theo đề nghị của Lương Đăng, sai chép lại các nghi thức ấy treo ở ngoài cửa Thừa Thiên. Vua lễ yết Thái miếu, các quan mặc triều phục làm lễ bắt đầu từ đấy. Bọn hành khiển Nguyễn Trãi, Tham Tri hạ tịch Nguyễn Tuyển, Đào Công Soạn, Nguyễn văn Huyến, Tham nghị Nguyễn Liễu tâu : " Đặt lễ, làm nhạc, được như Chu Công thì mới không có ai chê trách. Nay sai kẻ hoạn quan Lương Đăng một mình định lễ nhạc, cả nước chẳng nhục lắm ư ? Lễ nhạc của y không bằng cứ vào đâu, như đánh trống là báo giờ ra chầu buổi sớm, nay vua ra chầu rồi mới đánh trống. Theo quy chế xưa, lúc vua ra, bên tả đánh chuông hoàng chung, rồi 5 chuông bên hữu ứng theo. Nay vua ra chầu đánh 108 tiếng chuông, đó là số nhà sư lần tràng hạt... Làm xe thì đằng trước có rèm, đằng sau mở cửa, nay mở cửa ở đằng trước, quy chế đời xưa như thế sao ?... ". Đăng tâu : " Thần không có học thuật, không biết quy chế đời xưa, nay làm ra chỉ biết hết kiến thức của thần, việc nên thi hành hay không là quyền ở bệ hạ, thần đâu dám chuyên ". Nguyễn Liễu nói : " Từ xưa chưa có hoạn quan nào chuyên phá hoại thiên hạ như thế ". Hoạn quan Đinh Thắng từ bên trong mắng ra : " Hoạn quan làm gì mà phá hoại thiên hạ ? Nếu phá hoại thiên hạ thì chém đầu ngươi trước ". Bèn giao Liễu cho hình quan xét tội, xét án xong, tội đáng chém, vua đặc chỉ cho thích chữ vào mặt, lưu ra viễn châu(5). Vua coi chầu lúc ra lúc vào có đập roi dẹp đường bắt đầu từ đấy. Tháng 10, Lương Đăng thăng chức Đô giám. An phủ sứ Lạng Sơn, Bùi Cầm Hổ can : " Tiên đế thấy Lương Đăng biết chút chữ nghĩa cho làm nội nhân Phó chưởng, nhưng rồi thấy hắn chỉ khúm núm bề ngoài, không thẳng thắn, không thể gần gũi được mới cho ra làm văn đội. Thế mà nay cho lên chức quan to, xin bệ hạ nghĩ lại "(6). Lương Đăng làm quan to nhưng không tham dự triều chính, không kết bè đảng nắm giữ quyền uy, không giết hại ai, chỉ vì đặt quy chế lễ nhạc không giống với Trung Quốc mà bị các đại thần xúm nhau lại chê trách. Hoàng Công Phụ sinh quán ở Thăng Long, đẻ ra đã có khuyết tật. Năm 14 tuổi vào hầu trong phủ Chúa Trịnh, dần dần được Chúa tin dùng, uy quyền tột bậc. Năm 1739, Trịnh Giang nghe lời Hoàng Công Phụ triệu sĩ tử vào thi ở phủ đường, cho Trịnh Tuệ đỗ Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh. Không đầy vài năm Tuệ làm đến chức Tham tụng đứng đầu các quan trong phủ chúa. Trịnh Giang mắc bệnh kinh quy, sợ sấm sét, Phụ sai đào hầm làm cung Thưởng Trì cho ở, không ra đến ngoài nữa, nói vì dâm dục quá nên ác báo. Rồi Phụ cùng Trịnh Tuệ và đồ đảng chuyên quyền, giết hại đại thần không kiêng kỵ sợ hãi ai, phủ dịch nặng nề, lòng dân oán thán. Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển ở Hải Dương xui dân làm loạn, người các xứ Đông, Nam, Bắc theo rất nhiều. Năm 1740, Thái phi Vũ Thị, mẹ Trịnh Giang và Trịnh Doanh, muốn triệt bớt uy quyền của Phụ, cho Doanh lập " Phủ đề nhiếp ". Phụ ghét Doanh sáng suốt, quả quyết, chỉ cho ở nhà nhỏ phía nam phủ chúa, lại cấm các quan không được dùng chữ " Bẩm " khi tâu với Doanh mà phải dùng chữ " Thân " (=Trình). Khi tin cáo cấp về Nguyễn Tuyển đến kinh, Phụ nghĩ Tuyển trước ở nhà mình, có quen biết, muốn thân đi vỗ yên, đem hết binh lính bản bộ theo, bỏ kinh thành trống. Bọn Nguyễn Quý Kính muốn ép Doanh lên ngôi. Nội giám Phan Lại Hầu lên tiếng hặc, Tào Thái đem sắc chỉ của vua đến, Phan đứng cạnh la trách. Đô đốc Đồng tri Trịnh Khuông mắng là vô lễ, sai giam ngục. Nguyễn Công Thái truyền ý chỉ của Thái phi, Khuê quận công Giáp Nguyễn Khoa (hoạn quan) lên lầu nổi hiệu trống, các quan lạy mừng Doanh lên ngôi. Năm 1761, Doanh đặc biệt thưởng công mười người phò lập mình, trong số đó có Giáp Nguyễn Khoa Khuê quận công được ruộng thái ấp để hưởng lộc. Không thấy sử chép số phận Hoàng Công Phụ ra sao(7). Phạm Huy Đỉnh ( ?- 1776) người xã Cao Mỗ huyện Thần Khê. Khi Trịnh Sâm còn là Thế tử, Chính phi của Trịnh Doanh là Nguyễn Thị Vinh, ngăn không cho Sâm ngồi cùng mâm với Thái tử Lê Duy Vĩ để giữ lễ vua tôi. Sâm căm giận Thái tử, sau khi lên cầm quyền, năm 1769, mưu với Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Huy Đỉnh vu cho Thái tử thông dâm với cung nhân của Trịnh Doanh, sai Đỉnh đem thân binh đi bắt. Thái tử biết, trốn vào tẩm điện của vua. Đỉnh đến Đông cung không tìm thấy, đi thẳng vào điện vua kể tội Thái tử, điệu về phủ Chúa. Sâm sai lập án, bắt vua ký, giáng Thái tử làm thường dân, giam lại. Năm 1771, lại vu cho bọn Trần Trọng Lâm, Nguyễn Hữu Kỳ...muốn cướp ngục đem Thái tử ra. Sâm sai tra tấn, Vũ Bá Xưởng đau quá nhận bừa. Thái tử bị ghép tội xử giảo. Năm 1773, Đỉnh thăng chức Thự phủ sự (Tể tướng) phủ Chúa. Lê Quý Đôn tuy tài giỏi, nhưng cả Trịnh Doanh và Trịnh Sâm đều không trọng dụng, phải kết giao với Đỉnh, sau được giữ chức Bồi tụng (Phó Tể tướng). Sâm lại nghe Hoàng Ngũ Phúc cho Đỉnh làm Hiệp đốc suất đạo Thanh Hoá, tước Công hai chữ (nhỏ hơn tước Công một chữ, như Bằng Công thì cao hơn Bằng Trung Công), phong là Đại vương. Năm 1776, Thự phủ sự Thiều quận công Phạm Huy Đỉnh mất ở Nghệ An, truy phong Phúc thần. Đỉnh là người có tính đố kỵ, hà khắc, thâm độc, nhiều lần gây ra những vụ án lớn như vụ giết Thái tử Duy Vĩ (8).
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 12, 2006 18:18:55 GMT 9
Hoàng Ngũ Phúc (1713 - 1776) người xã Phụng Công, huyện Yên Dũng, xứ Kinh Bắc. Lúc trẻ tự hoạn để được vào hầu trong cung.
Năm 1740, giữ chức Tả Thiếu giám, tước Việp Trung hầu.
Năm 1743, đề xuất 12 điều quân pháp, được Trịnh Doanh cho thi hành.
Từ 1744 đến 1750, cùng Phan Đình Trọng dẹp loạn Nguyễn Hữu Cầu, thu phục lại Kinh Bắc. Cầu phải chạy vào Nghệ An. Phúc được phong Trấn thủ Kinh Bắc kiêm thống lĩnh Bắc đạo, tước Việp quận công.
Năm 1751 đánh Nguyễn Doanh Phương, bắt được ở Lập Thạch, công bậc nhất, được phong Đại Tư đồ, Trấn thủ Sơn Nam.
Đến 1765 được ban kim bài khắc bốn chữ " Dự quốc đồng hưu " (cùng hưởng yên vui, sung sướng với nước).
Năm 1769 cùng Trịnh Sâm và Phạm Huy Đỉnh vu tội cho Thái tử Duy Vĩ rồi đem giết.
Đến 1774, xin về hưu, được ban cho hiệu Quốc lão.
Sau Sâm lại triệu ra phong Thượng tướng, sai đem 36000 quân thủy bộ đánh dẹp miền Nam, Phúc luôn luôn thắng trận, tiến đến Phú Xuân, bắt được Trương Phúc Loan, chúa Nguyễn phải bỏ chạy.
1775 tiến vào Quảng Nam, chiếm được hai đồn Câu Dê và Trung Sơn rồi mới cho quân tạm nghỉ.
Vì mắc bệnh tê liệt, được trở về Thăng Long. Trên đường về kinh sư, mất ở trên thuyền tại Vĩnh Dinh (Nghệ An) năm 1776.
Hoàng Ngũ Phúc tư thế oai phong, quân lệnh nghiêm minh, hành quân rất có kỷ luật. Khi chiếm được Phú Xuân, Phúc thu nhặt những thứ quý giá dâng chúa Trịnh, còn thì niêm phong.
Thuộc hạ Thế trung hầu Hoàng Đình Thể cướp của dân, Phúc sai Uông Sĩ Điển tra hỏi, đem trả lại dân rồi không bàn đến chuyện thưởng công đánh được Lũy Thầy.
Với Nguyễn Nhạc, Phúc tỏ ra viên tướng biết quyền bính, thay triều đình làm tờ hiểu dụ, ban cho Nhạc mũ áo...
Khi Phúc đi Nam chinh, Sâm mấy lần gửi trát thăm hỏi, đưa chỉ dụ khen, thưởng vàng bạc, quần áo đồ dùng, sâm quý vài mươi lạng, cho chạy ngựa trạm đem đến. Lại thăng cho làm Đại Trấn thủ Thanh Hoá...
Phúc ốm nặng còn gửi khải về tâu bàn với Chúa khoan đánh Quảng Nam, hãy cho quân sĩ nghỉ ngơi vài năm, Sâm nghe theo.
Khi Phúc mất, Sâm bãi chầu.
Phúc có tiếng là người cẩn trọng, việc lớn nhỏ trong quân đều tự mình xem xét, dụng binh không cậy may rũi, xử sự quả quyết, trung tín, rất được lòng người. Nguyễn Hữu Chỉnh coi Phúc là quan thầy.
Phúc không có con, nuôi người cháu là Hoàng Đình Bảo (tức quận Huy) làm con nuôi. Bảo lại lấy con gái chúa Trịnh Doanh. Vây cánh, thuộc hạ của Phúc đầy triều, quyền uy lừng lẫy đến nỗi dân chúng đồn là Phúc muốn cướp ngôi để lập " Triều đình Hoàng thị " sau này truyền cho Bảo, đặt ra những lời sấm truyền :
" Thổ sất vân yểm nguyệt " = con rể là đám mây che mặt trăng (chỉ chữ " tế " = con rể, tức Hoàng Đình Bảo).
" Hoàng hoa nhật điệu hương " = hoa vàng càng ngày càng tỏa hương thơm (chỉ chữ " Việp ", tức Hoàng Ngũ Phúc).
Còn có câu " Một lợn đuổi đàn dê " vì Bảo tuổi hợi (con lợn) còn Sâm và Khải đều tuổi mùi (con dê) ; Bảo trước tên là Đăng Bảo, có thể hiểu là "lên ngôi vua ", Phúc muốn tránh hiềm nghi cho đổi ra Tố Lý, sau mới đổi lại thành Đình Bảo.
Phúc là một viên tướng lỗi lạc, chiến công, danh vọng nhiều, đối với chúa Trịnh tỏ ra hết lòng trung trực, duy có chuyện nhúng tay vào vụ giết Thái tử Duy Vĩ là một hành động không được quang minh.
Sau khi chết được truy tặng Thượng đẳng Phúc thần(9).
* Đời Nguyễn Lê văn Duyệt (1763 - 1832) sinh quán làng Bồ Đề, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi.
Năm 1780, Nguyễn Ánh biết Duyệt có khuyết tật, sung làm Thái giám nội dinh.
Năm 1800, Duyệt dùng hỏa công đốt thuỷ trại Tây Sơn ở cửa bể Thị Nại, thu phục Qui Nhơn.
1812, làm Tổng trấn Gia Định cho đến 1816 thì về kinh.
1820 lại ra giữ chức Tổng trấn Gia Định cho tới khi mất.
Duyệt là một viên tướng tài, giúp Chúa Nguyễn Ánh đánh Trịnh, dẹp Tây Sơn, biết quyền biến.
Tuy có tính trực ngôn nhưng ngoại giao cũng khôn khéo. Khi sứ Xiêm đến Hà Tiên, năm 1820, không chịu trình quốc thư, lời lẽ có chỗ không hợp lệ, triều đình giao cho ông tuỳ nghi hành sự, ông bắt bẻ, sứ Xiêm phải nhận lỗi và nhất nhất vâng lời. Sứ Xiêm đem vàng bạc tặng, ông không nhận(10).
Là một nhà chính trị xuất sắc, ông rất được lòng dân, người ta tôn xưng ông là Đức Thượng công.
Cả hai vua Gia Long và Minh Mệnh đều biệt đãi ông. Khi cha ông tạ thế, năm 1827, triều đình không những gia phong chức tước, ban tiền bạc, còn sai quan đến tế và 300 lính hộ tang. Khi ông ốm ở Gia Định, cũng được tạm nghỉ việc để điều dưỡng, lại cho phép con ông là Kiêu kỵ đô uý Lê văn Yến đi thăm nom.
Theo người Pháp thì khi vua Gia Long mất, ông có ý muốn tôn phò dòng chính thống, hậu duệ của Hoàng tử Cảnh, lại khi vua Minh Mệnh lên cầm quyền, ông khuyên can không nên bạc đãi những công thần người Pháp nên bị vua để bụng ghét. Sau khi ông mất, năm 1833, vua giao cho triều đình nghị tội mưu phản, san bằng ngôi mộ, dựng bia đeo xiềng mang hàng chữ " Quyền yêm Lê văn Duyệt phục pháp xử " (= tên hoạn quan Lê văn Duyệt chịu phép nước ở đây). Sau dân chúng đổ cho là vì xúc phạm đến mộ phần của ông nên Trời ra tai, nên đến 1835, vua Tự Đức cho ông phục chức Vọng các công thần Chưởng tả quan, Bình tây tướng quân, tước quận công và được thờ trong miếu Trung Hưng công thần.
Lăng ông ở Gia Định (11).
II.- Chức vụ và phẩm phục A/ Chức vụ Trên nguyên tắc, hoạn quan chỉ giữ những công việc hầu hạ trong cung. Michel Đức Chaigneau kể khi lên 8 tuổi được triệu vào cung gặp hoàng hậu và các phi tần của vua Gia Long, do một viên hoạn quan dẫn đường. Viên này mặc một chiếc áo ngắn màu lam, quần lụa trắng, chít khăn rộng bản, cung kính đi sau một quãng chứ không dám đi ngang hàng. Lần thứ nhì, khoảng hai chục tuổi, sau khi ở Pháp trở lại Việt Nam, Michel Đức lại được vua Minh Mệnh triệu vào cung hỏi han chuyện nước Pháp. Michel Đức liếc thấy trong phòng có một bọn " đầy tớ " chừng 15-20 tuổi, đứng ở góc phòng, tựa lưng vào tường đợi lệnh. Hễ vua ra hiệu thì lập tức quỳ dâng điếu thuốc lá đã châm sẵn và trước khi dâng phải hút thử vài hơi...
Theo S. Baron, chúa Trịnh rất ưa hoạn quan. Những người này sau khi phục vụ độ 8 năm trong triều liền được cất nhắc ra giữ những chức quan trọng, có khi lấn át cả các đại thần có thực tài.
Riêng chúa Trịnh Khải thì sự liên hệ với quan hoạn không phải là ít. Nguyên mẹ Trịnh Khải là Dương thị Ngọc Hoan không được Trịnh Sâm ưa. Một hôm nằm mơ thấy thần nhân cho một tấm đoạn có vẽ đầu rồng, tỉnh dậy kể cho hoạn quan Khê Trung hầu Chu Xuân Đán nghe. Hầu cho là điềm sinh quý tử, có ý giúp đỡ. Khi Sâm cho đòi Ngọc Khoan (cũng có chỗ chép là Ngọc Hoàn) vào chầu, Hầu giả cách nghe nhầm đưa Ngọc Hoan tới, Sâm không nở đuổi về, sau trách mắng thì Hầu đem chuyện kể lại, Sâm nín lặng. Sau đó Ngọc Hoan có thai sinh ra Trịnh Khải nhưng Sâm vẫn không ưa, trù trừ không muốn lập làm thế tử, chỉ định cho hoạn quan Nguyễn Phương Đỉnh làm Bảo phó... Khi Trịnh Khải mưu cướp ngôi Trịnh Cán, Sâm sai Ngô Thời Nhậm cùng bọn hoạn quan Ngạn Trung Hầu, Đường Trung Hầu, Án Trung Hầu cùng tra án(12).
Người ta trách hoạn quan chỉ nhờ xiểm nịnh được lòng vua chúa, rồi nắm quyền chính, tác oai tác phúc...song ta đã thấy Lương Đăng làm quan to nhưng không hề tham dự quốc sự, gây bè đảng làm mưa làm gió, mà chỉ hoàn tất việc quy định mũ áo và lễ nhạc, song vẫn bị các đại thần chê trách.
Trong Vũ Trung Tuỳ Bút có Tả Chí Hầu cũng là hoạn quan có thực tài, hiểu thuật bóp gân xương, biết hát xướng, xem tướng, vẽ truyền thần giỏi.
Những hoạn quan tiến cống cho Trung Quốc có một số được sử sách nhắc đến :
Minh Thái Tổ bắt ta cống nộp sư sải, gái đẹp biết đấm bóp và hoà giả (hoạn quan), sau thả sư và gái đẹp về chỉ giữ lại hoạn quan và đãi rất hậu. Năm 1405, Minh Thành Tổ mưu đồ xâm lăng, sai bọn hoạn quan Nguyễn Toán, Nguyễn Trung, Từ Cá, Ngô Tín đi sứ, dò xét địa hình nước ta. Bọn này dặn họ hàng hễ quân Minh tràn sang thì dựng cờ biên rõ là thân thuộc của nội quan nào thì sẽ thoát nạn. Hồ Hán Thương biết chuyện sai giết hết thân thuộc bọn Nguyễn Toán (13).
Tuy nhiên, những người bị tiến cống cho Trung Quốc không phải toàn bọn bán nước lập công mà còn có những người có biệt tài như Trần Vũ và Nguyễn An.
Minh sử chép rằng niên hiệu Vĩnh Lạc, Minh Thành Tổ ra lệnh lùng bắt những văn nhân Giao Chỉ cất nhắc cho giữ chức Tri huyện hay Tri phủ, lập tuyển bọn trung quan (hoạn quan) lấy người ngay thẳng, trung hậu, mẫn cán, thông suốt, cho hầu nội cấm sảnh. Trần Vũ được tuyển vào hầu Tuyên Công, thăng chức Thái giám, sau cho đổi tên thành Vương Ngọc Cận, đi theo vua đánh Cao Hú (tức con Minh Thành Tổ, làm phản) có công to được ban đai ngọc, yên vàng, ngựa tốt, vàng lụa...lại đúc bốn quả ấn vàng khắc những chữ " Trung can nghĩa đảm " (lá gan trung thành, quả mật nghĩa khí), " Kim điêu quý khách " (quý khách đội mũ điêu vàng, tức mũ hoạn quan có con ve bằng vàng), " Trung thành tự lệ " (tự mài dũa lòng trung), " Tâm tích song thanh " (bụng dạ và hình tích đều trong sáng).
Theo Hoàng Minh thông ký có Nguyễn An trải 5 đời vua Minh (Thái Tông, Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông và Cảnh Tông) là người giản dị, khắc khổ, cứng rắn, liêm khiết, giỏi về mưu mẹo, tính toán, rất sở trường những công việc xây dựng. Việc tu tạo thành Bắc kinh 9 cửa, 2 cung, 3 điện, 5 phủ, công đường, nha môn 6 bộ và các trường xưởng, nhà trạm, An đều thân hành xếp đặt, tỏ ra rất có công lao. Các tơ tào trong bộ Công chỉ việc theo kế hoạch của An mà làm. Bình sinh được vua ban cho thứ gì đều đem nộp lại kho công không sót một li (14).
Thời nhà Nguyễn, vua Minh Mệnh thấy các hoạn quan đời trước chuyên quyền, lũng đoạn triều chính (có người nói vì vua ghét Lê văn Duyệt) nên năm 1836 hạ lệnh từ nay hoạn quan không được giữ những chức phẩm như các quan đại thần, làm quan cũng không được quá tứ phẩm. Sắc lệnh này được khắc bia đá để trước Quốc Tử Giám, đến năm 1918 vẫn còn ở cạnh Văn Miếu.
Vua lại đặt ra những chức tước riêng biệt dành cho hoạn quan :
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 12, 2006 18:20:02 GMT 9
Hạng Chức Lương tháng Bát gạo quan tiền Hạng nhất Thủ đẳng Quảng Vụ và Điển sự Thái giám 48 72 Hạng nhì Thứ đẳng Kiểm sự và Phụng nghi Thái giám 36 60 Hạng ba Trung đẳng Thừa vụ và Điển thảng Thái giám 36 48 Hạng tư Á đẳng Cung sự và Hộ Thảng Thái giám 24 36 Hạng năm Hạ đẳng Cung phụng và Thừa biện Thái giám 24 24 3 hạng trên có quyền xin chức Nhiêu phụ cho cha, và chức Miễn nhiêu cho an hem hay cháu trai, hạng 4 và 5 chỉ được xin Miễn nhiêu. Vua Thành Thái không ưa hoạn quan nên thay thế bằng cung nữ. Khi vua ngự thiện (ăn) thì đầu bếp dâng mỗi người một món, đưa cho Thị vệ đem đến cho nội giám, những người này lại chuyển giao cho cung nữ quỳ dâng(15). B/ Phẩm phục * Đời Trần Sách Toàn Thư chỉchép hoạn quan đời Trần mặc áo xanh và từ 1306 dùng quần hai ống chứ không dùng xiêm nữa. Trong An nam chí lược (tr. 222) Lê Tắc viết cặn kẽ hơn : Các nội quan Thượng phẩm đội mũ dương thường đính ong bướm vàng, mặc phẩm phục. Bình thường thì đội khăn nhung mầu tía xen mầu biếc, làm 6 tua kết sau khăn ; đai thắt ngang để tỏ vẻ quan quý. Hạng Trung phẩm mũ áo sắc chế hơi giảm. Thường phục thì khăn kết tua mầu tía. Hạ phẩm đội mũ dương thường tía, áo tía ; khăn ngày thường có tua đen, dát ngọc, vàng, đồi mồi. Không dùng hốt. Chắp tay lạy vua. * Nhà Lê quy định y phục hoạn quan rất rõ ràng. Theo Lê triều chiếu lịnh thiện chính thì các chức Tổng Thái giám, Đô Thái giám, Quản đốc ty nội giám, tước quận công ăn mặc như sau : - Vào chầu vua đội mũ cánh chuồn, mặc áo mầu hồng, bố tử thêu hổ báo (như các hoàng tử, vương tử tước quận công), đai dát đồi mồi bịt bạc, chân đi hia tất. - Vào chầu phủ Chúa đội mũ ô sa(16) áo lam có vạt che sau, giây lưng kép dát ngọc. - Đưọc đem theo hai người hầu. - Khi đi đường khăn chít một, võng ba đòn sơn đen, yên ngựa sơn tía thếp thau. Đi ra ngoài thành thêm một lọng mầu xanh, vẽ hoa xanh có ngù rủ. - Áo mặc thường, bằng gấm vóc các mầu, hòm áo sơn son thếp vàng một vạch, hòm mũ sơn đen thếp chỉ vàng. Cấm không được vẽ rồng, phượng, kỳ lân. Mâm, án thư bằng tre đan, thếp chỉ bạc Bát đĩa Tầu bịt thau. *Thời nhà Nguyễn theo sắc lệnh của vua Minh Mệnh thì mũ áo hoạn quan như sau : - Áo mầu lục cho các quan cao cấp, mầu lam cho những người chức thấp, bố tử mầu đỏ thêu hoa xanh lục. Các Thái giám thời xưa đeo một vòng lụa trắng rủ xuống hai bên ngực đến tận thắt lưng, sau này chỉ đeo một thẻ bài ngà khắc rõ chức phận. - Mũ Thái giám bằng phẳng ở trên đỉnh và hình bầu dục (khác với mũ các quan triều hình tròn và nóc khum khum) có dát vàng bạc theo chức tước và đính một quả bông. Theo Hậu Hán chí, thời xưa mũ hoạn quan có tua vàng điểm một con ve sầu và một cái đuôi chuột, ngụ ý rằng ve sầu thanh khiết chỉ sống toàn bằng sương sớm, còn chuột thì có thể len lỏi vào tất cả những chỗ rất kín đáo trong thâm cung. Viên hoạn quan mà Crawfurd đã gặp năm 1822 (có lẽ là Lê văn Duyệt ?) tuy giữ chức " Governor " (Tổng trấn ?) nhưng ăn mặc rất đơn giản : áo lụa trắng trơn và khăn nhiễu cũng mầu trắng. III.- Đời sống Hoạn quan có hai loại : - Một loại sinh ra đã có khuyết tật hay bị tai nạn, như chó cắn, mà thành tật. Người xưa tin rằng những người này có số làm quan to. - Loại thứ nhì tự hoạn hay do cha mẹ đem con ra thiến. Hạng thứ nhất, khi đứa trẻ sinh ra thấy có tật, thì gia đình hay xóm làng liền khai trình xin cho lớn lên được sung chức nội thị. Khoảng 10 tuổi đứa trẻ được tiến cung, giao cho các hoạn quan già huấn luyện công việc chầu hầu trong cung. Hạng thứ nhì thì từ triều Lý đã có lệnh nghiêm cấm : Năm 1162, xuống chiếu kẻ nào tự thiến xử 80 trượng, thích 23 chữ vào mặt. Quốc triều hình luật thời Lê cũng chép : " Ai tự hoạn xử tội lưu, ai thiến hộ hoặc chứa chấp giảm tội một bậc, xã quan không phát giác xử tội đồ (giam cầm làm khổ sai)(17). Sở dĩ có lệnh nghiêm cấm như thế vì hoạn quan có thể giữ những chức vụ trọng yếu, có nhiều quyền uy, giúp đỡ gia đình hay xóm làng được nên nhiều người ham. Lê triều chiếu lịnh thiện chính cho biết các nội giám sung chức Thái bảo, Thái sư, Thiếu sư, Thái phó, Thiếu phó với tước quận công thì 8 người con được phong là Quan viên tử, 7 người cháu được phong là Quan viên tôn(18). Đọc đến đây hẳn ai cũng lạ : đã là hoạn quan sao lại có con ? Hiển nhiên trường hợp này xẩy ra đủ nhiều để có cả một đạo luật dành cho con cháu hoạn quan. Cương mục chẳng hạn chép năm 1480 khi Nghi Dân nổi loạn, nội quan Thị hậu Phó chưởng Đào Biểu tử tiết, gia sản bị sung công. Khi Thánh Tông lên ngôi, truy tăng Đào Biểu một tư, ban cho 5 mẫu tư điền để cúng tế, lại trả điền sản bị tịch thu trước cho vợ con(19). Có lẽ những người này, như Lý Thường Kiệt, đã lấy vợ trước khi tự hoạn, hoặc cũng muốn có gia đình riêng, lấy một cung nữ đã bị thải hay lấy con nhà hàng phố rồi nuôi con nuôi. A. Laborde kể chuyện ở Huế xưa có một thiếu phụ lấy chồng hoạn quan nhưng ngây thơ không hiểu chồng mình bất bình thường, mãi đến khi chồng chết, đi cải giá mới rõ và đem chuyện mình tâm sự với một vài người bạn. Cũng theo Laborde, có một viên Đội Thị vệ bị án tử hình vì ăn ở với một hoạn quan và...sinh ra một đứa con ! Chúa Trịnh dùng tới 4-5000 hoạn quan nhưng đến đời vua Thành Thái nhà Nguyễn vì không ưa hoạn quan nên số người hầu cận vua trước có 15 sau chỉ còn 9. Đến năm 1918 lại có lệnh cấm bổ dụng thêm hoạn quan mới, những người cũ cho tiếp tục giữ chức. * Tướng mạo và tính tình dáng điệu ẻo lả như phụ nữ, và tính tình khó thương, ngạo mạn, vô lễ...dường như để bù lại những mặc cảm tự ty. Sau đây là hoạn quan nhìn qua con mắt các chứng nhân Việt cũng như ngoại quốc : - Năm 1778, Chapman, một người do công ty Ấn độ của Anh gửi sang, đã gặp ở Huế một viên hoạn quan giữ chức " Quan Tam Quon ", quyền uy vượt cả viên " Viceroy " (Tổng trấn ?). Viên này có tánh hay hoạnh hoẹ, khinh người. Trước hết bắt Chapman phải đứng chờ ngoài cổng cả nửa giờ mới cho vào nhà. Vào rồi cũng không thèm ra tiếp ngay, chỉ ở trong nhà hỏi vọng ra mấy câu, mãi sau mới cho cuốn rèm lên và Chapman thấy dưới ánh nến vàng vọt một đống thịt lù lù, dị dạng, người có vẻ thấp lùn, má xệ xuống...Khi Chapman phàn nàn những người dưới quyền mình bị ngược đãi, viên Tổng trấn xin lỗi rằng ông không có quyền hành gì, mọi sự cứ điều đình thẳng với viên hoạn quan. Viên này tỏ ra rất vô lễ, chửi rủa và còn sai đem tặng vật của Chapman, một chiếc đồng hồ, ra trả lại nói rằng đồng hồ đã vỡ, trở nên vô dụng(20). Ngày 2/9/1822, Crawfurd đã gặp một hoạn quan giữ chức " Governor of Saigon " (có lẽ là Lê văn Duyệt ?) và tả một cuộc gặp gỡ khá tường tận : " Giữa phòng, trên một cái sập cao hơn thường lệ, là viên " Tổng trấn " ( ?) đang ngồi chễm chệ. Chúng tôi tiến lên cúi chào, ông ta cứ ngồi yên không đáp lễ. Sau đó người ta chỉ cho chúng tôi ngồi xuống dẫy ghế bên phải ông ta, ghế bên trái dành cho viên quan cao cấp bậc nhì trong phòng, những người khác đứng đằng sau hoặc ngồi trên một cái sập khác. Viên " Tổng trấn " già là một hoạn quan nhưng nếu không biết trước thì không thể đoán ra. Tuy cằm ông ta không có râu và giọng nói yếu ớt như đàn bà, nhưng chưa tới mức khiến người ta phải nghi ngờ. Ông ta có vẻ không quan tâm mấy tới y phục, chỉ mặc một áo lụa trắng trơn và đội một chiếc khăn nhiễu rộng bản cũng mầu trắng ". Crawfurd đem lễ vật ra tặng nhưng viên " Tổng trấn " từ chối nói rằng hai bên đang ở thế điều đình, tặng lễ vật bây giờ quá sớm, ông không thể nhận. Crawfurd rất phục tư cách viên " Tổng trấn " khi đem ông ta ra so sánh với các quan chức người Xiêm. Nhưng vừa về đến nhà thì thấy "Tổng trấn" sai người đem thực phẩm tới tặng : trâu, dê, lợn, gạo vv... và nhân thể cho biết lúc nẫy quan " Tổng trấn " không tiện nhận quà trước mặt công chúng nhưng ngài rất vui lòng nhận mấy khẩu súng và cái ống viễn kính mà Crawfurd định biếu(21). Phạm Khắc Hòe, trong Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc kể rằng tháng 8 năm 1945, khi ông đi chào bà Từ cung để ra Hà Nội, thì đột nhiên một viên Thái giám già chạy đến trước mặt sụp lạy. Viên này mặt xanh như tàu lá, đầu bạc, cằm không râu, má nhăn nheo, miệng xệ xuống, mắt rưng rưng, cất giọng khàn khàn hỏi về số phận của mình sẽ được định đoạt ra sao? có được lĩnh lương tháng 8 hay không ? sau này sẽ làm gì ?... Hỏi ra mới biết viên này do cha mẹ thiến từ năm 12 tuổi, đời vua Thành Thái, đã gần 50 năm. Khi mới vào cung được học Tứ thư, Ngũ kinh, tập làm việc vặt, đến 20 tuổi sung chức Thừa Biện Thái giám, năm 1945 giữ chức Phụng nghi Thái giám. Nhiệm vụ chính là chuyển đạt mệnh lệnh của vua tới phi tần và khi vua ngự tới bà nào thì ghi chép ngày giờ cho đúng để phòng việc tranh chấp về sau. Từ khi vua Khải Định mất thì không phải làm việc này nữa, chỉ còn nhiệm vụ chầu hầu bà Từ cung, giúp đỡ các phi tần trong việc cúng bái, tu hành và liên lạc với bên ngoài. Năm 1958, cụ Vương Hồng Sển đi thăm lăng Diên Thọ (Gia Long) nhằm ngày lễ Thanh minh, tình cờ được chứng kiến một buổi tế lễ và liếc thấy nơi gian nhà sau chỗ tế có một nhóm quan thị "rất đông", mặc áo màu lam, đang đứng chờ tế lễ xong thì chia phần, có người đã già sụm, kẻ còn sồn sồn, người nào cằm cũng nhẵn thín không một sợi râu. Hoạn quan không phải người nào cũng xấu xí, ẻo lả. Trong Vũ Trung tuỳ bút, Phạm Đình Hổ cho biết Tả Chí Hầu, nội thị thời Trịnh Khương (Giang) "tướng mạo hùng vĩ, phảng phất giống Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc". A. Laborde đã chụp được ảnh một viên hoạn quan 62 tuổi, một trong những người có địa vị quan trọng hồi đầu thế kỷ XX, trông coi một cái lăng, giữ gìn đồ thờ cúng và phát lương cho 9 người cung nhân già ở đó. Tiếc rằng Laborde không cho in ảnh viên hoạn quan mà chỉ cho biết mặt mũi viên này giống mặt bà già, vú cũng xệ xuống như ngực bà già. * Cung giám viện Khi các hoạn quan không phải hầu chầu thì có quyền rút về Cung giám viện. Viện này gồm 9 gian, cũng là nơi ăn học của các nội giám trẻ và là chỗ trú ngụ của gia đình hoạn quan tới thăm. Năm 1918, viện đã đổ nát chỉ còn nhà bếp, một cái miếu thờ thần và cái cổng mang hàng chữ " Cung giám viện môn ". * Chùa Từ Hiếu Chùa xây trên một chiếc đồi nhỏ, trên đường đi đến lăng Tực Đức, khuất sau một lùm cây. Khung cảnh rất tĩnh mịch và tuyệt đẹp có suối chảy, có thông reo, chim hót, dế kêu. Bia dựng ở cổng chùa cho biết đây thuộc làng Dương Xuân, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên, núi Ngự Bình ở phía Đông Nam, Hương Giang ở Tây Bắc. Chùa do thiền sư Nhật Định tạo dựng, sau có ba viên nội giám về hưu đến trú và xin được triều đình trợ cấp nhiều tiền. Đến 1893, các hoạn quan tự đóng góp tiền xây lại chùa, mở rộng ra và dùng làm nhà dưỡng lão cùng nơi thờ cúng những hoạn quan đã mất. Bia dựng ở chùa ghi : " Khi còn sống chúng tôi đến chùa tìm yên tĩnh, khi ốm đau chúng tôi về đây dưỡng bệnh và sau khi chết chúng tôi cùng được chôn cất với nhau ở đây. Dù sống hay chết, chùa cũng là nơi yên nghỉ của chúng tôi " (22). * Nghĩa địa Ngay cạnh chùa là nghĩa địa của hoạn quan. Những ngôi mộ ở đây được xây cất cân đối nhau chung quanh một cái sân gạch. Năm 1918, khi Laborde tới thăm, có tất cả 18 ngôi mộ nhưng chỉ có 9 ngôi đã xây, những cái kia còn để ngỏ. * Tháp Bồ Đề Trước cửa chùa có tháp Bồ đề do thiền sư Từ Hiếu xây từ năm 1896 với sự giúp đỡ của các hoạn quan, xin được tiền trợ cấp của Thái phi. Tháp dựng để chứa những pho tượng vỡ hay những quyển kinh đã cũ nát mà người ta không được vứt đi, phải để cho chúng tự mục nát dần. Tháp chỉ có một cửa ở từng thứ hai, muốn ném bỏ vật gì vào tháp phải bắt thang. Tháng giêng, 1994 IV.- Chú thích 1. Toàn Thư I, tr. 190. Đại Việt Sử lược tr. 117 chép là cửa Quảng Phúc, chứ không phải Quang Phục, nằm ở phía tây Long Thành, cửa Đại Hưng phía nam, cửa Tường Phù phía đông, cửa Diệu Đức phía bắc. 2. Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt 3. Cương Mục V, tr. 30 và Toàn Thư II, tr. 25 4. S. Baron, tr. 64 5. Đến 1442, Đinh Thắng cũng bị giết vì trước khi chịu tử hình Nguyễn Trãi tỏ ý hối tiếc đã không nghe lời Đinh Thắng, Đinh Phúc. 6. Cương Mục IX, tr. 67 và Toàn Thư III, tr. 112-125. 7. Cương Mục XVII, tr. 31 và Tục Biên tr. 159 và Vũ Trung tuỳ bút. 8. Cương Mục XIX, tr.32 và Tục Biên tr. 329. Hoàng Lê nhất thống chí chép là Nguyễn Quang Đỉnh. 9. Tục Biên tr. 329-404, Cương Mục XIX, tr. 56-7. 10. Nếu Lê văn Duyệt đúng là viên "Governor" của Saigon mà Crawfurd đã gặp năm 1822 thì sự thanh liêm, không nhận lễ vật, chỉ là bề ngoài. (Xin xem phần III, Đời sống). 11. Đại Nam thực lục chính biên V, tr. 132. Laborde, " Les eunuques à la cour de Huê ", BAVH Nguyễn Huyền Anh, Việt Nam danh nhân tự điển. 12. Hoàng Lê nhất thống chí, tr. 17. 13. Toàn Thư II, tr. 216. 14. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, tr. 254-56. 15. P. Pasquier, L?Annam d'autrefois, tr. 81. 16. Mũ ô sa kết bằng tóc có thêu chữ nổi màu đen (Lê triều chiếu lịnh thiện chính, 199). 17. Quốc triều hình luật, tr. 119. 18. Lê triều chiếu lịnh thiện chính, tr. 29. 19. Cương Mục X, tr. 63-4. 20. A. Lamb, tr. 112-18. 21. Crawfurd, tr. 216-17. 22. A. Laborde, " Les eunuques à la cour de Huê ".
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 11:59:44 GMT 9
Vụ sát hại một tướng chỉ huy phản gián Hàn Quốc Nhà lãnh đạo Kim Gu bị giết hại vào tháng 6/1949 theo lệnh của Kim Chang-Ryong.Sáng ngày 30/1/1958, tướng Kim Chang-ryong, chỉ huy Cơ quan Phản gián quốc gia Hàn Quốc (KCIC), như thường lệ rời nhà đến trụ sở KCIC ở thủ đô Seoul để bắt đầu một ngày làm việc mới. Tuy nhiên, khi di chuyển đến một con đường vắng, chiếc xe Jeep Willys trên có chở tướng Kim phải ngừng đột ngột vì bị một xe tải chặn ngang phía trước... Từ trên xe phóng xuống nhiều người mặc áo quần màu đen áp sát chiếc Jeep Willys và bắn chết tướng Kim cùng viên tài xế kiêm cận vệ bằng nhiều loạt đạn. Hành động xong, cả nhóm lên xe tải tẩu thoát. Tướng Kim và viên tài xế tuy được đưa đi cấp cứu ngay nhưng cả hai đều qua đời chỉ vài giờ sau đó. Vụ sát hại tướng Kim Chang-ryong ngay ban ngày tại thủ đô Seoul đã khiến dư luận quan tâm bởi vì ông không chỉ là chỉ huy đầu tiên của KCIC kể từ khi cơ quan phản gián này được thành lập vào năm 1948 mà còn là cánh tay phải của Tổng thống Hàn Quốc lúc đó là Syngman Rhee. Tướng Kim Chang-ryong, có biệt danh “Rắn độc”, sinh năm 1920 tại tỉnh Hampyong, miền Bắc Triều Tiên trong một gia đình nông dân. Năm 1937, Kim buộc phải đi lính cho quân đội chiếm đóng Nhật Bản. Nhờ phấn đấu, Kim được chọn vào lực lượng cảnh sát quân đội và sau đó được tình báo Nhật tuyển dụng làm điệp viên nằm vùng cài cắm trong lực lượng kháng chiến. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh vào năm 1945 và Triều Tiên được giải phóng, Kim bỏ trốn về thành phố Hamheung ở miền Bắc Triều Tiên để tránh việc truy bắt những người từng cộng tác với phát xít Nhật trước đó. Đến cuối năm 1945, Kim bị phát hiện, bắt giữ và bị tuyên án tử hình. Tuy nhiên, khi chỉ còn đúng một tuần nữa là đến ngày bị hành quyết, Kim đã trốn thoát khỏi nơi giam giữ. Bị bắt giữ lại vào tháng 4/1946, Kim lại tiếp tục đào thoát và sau đó bỏ trốn cùng vợ đến Hàn Quốc. Tướng phản gián Kim Chang-Ryong cùng vợ vào năm 1956. Giấu biệt quá khứ từng cộng tác với Nhật, Kim gia nhập quân đội và sau đó chuyển sang làm việc trong ngành tình báo quân đội (G2). Nhờ phấn đấu không ngừng nên đến năm 1948, Kim đã mang quân hàm trung tá tình báo và đến khi Hàn Quốc quyết định thành lập Cơ quan Phản gián quốc gia (KCIC) vào tháng 10/1948, Kim trở thành chỉ huy đầu tiên của tổ chức tình báo này. Nắm quyền sinh sát trong tay, Kim triển khai hàng loạt các cuộc vây ráp để bắt giữ, thẩm vấn, điều tra hàng chục ngàn người thuộc diện nghi vấn là có tư tưởng thân CHDCND Triều Tiên hoặc là điệp viên của CHDCND Triều Tiên. Ông ta trở thành cánh tay phải và là công cụ đắc lực giúp Tổng thống Rhee củng cố quyền lực và thẳng tay loại bỏ các đối thủ không thương tiếc. Ngày 26/6/1949, Kim Gu, một chính khách ôn hòa nổi tiếng luôn chủ trương hòa hợp, hòa giải với CHDCND Triều Tiên, từng làm Tổng thống lâm thời của Hàn Quốc từ năm 1945 đến 1948, bị bắn chết tại thủ đô Seoul. Thủ phạm bị bắt giữ sau đó khai tên là Ahn Doo-hee. Ahn bị tuyên phạt tù chung thân nhưng sau đó được đích thân Tổng thống Rhee giảm án xuống còn 15 năm tù giam. Khi chiến tranh Triều Tiên xảy ra vào năm 1950, Ahn được trả tự do và sau đó gia nhập quân đội. Nhiều người cho rằng chính Tổng thống Rhee và Kim Chang-ryong đã ra lệnh cho Ahn giết hại Kim Gu, sau đó để trả công cho Ahn, đã lần lượt giảm án và phục chức cho Ahn. Năm 1959, Ahn rời Hàn Quốc và chuyển đến Mỹ sinh sống. Giả thuyết thứ nhất thu hút sự quan tâm của dư luận, là tướng Kim đã bị các điệp viên CHDCND Triều Tiên thâm nhập và trừng phạt. Trong quá khứ, tướng Kim từng bị CHDCND Triều Tiên kết án tử hình và sau khi trở thành người đứng đầu KCIC đã triển khai hàng loạt các vụ bắt bớ những người nghi vấn là gián điệp của CHDCND Triều Tiên. Giả thuyết thứ hai lại cho rằng tướng Kim đã bị giết hại bởi đối thủ nặng ký là tướng Park Chung-hee, người sau này trở thành Tổng thống Hàn Quốc từ năm 1963 đến 1979. Tướng Park từng nhiều lần lên tiếng chỉ trích các hành vi đàn áp, bắt bớ, tra tấn và cả thủ tiêu để truy tìm những kẻ phản bội, các điệp viên CHDCND Triều Tiên nằm vùng, trong đó có không ít người vô tội, của KCIC theo lệnh của tướng Kim. Đáp lại, KCIC đã hai lần tổ chức ám sát tướng Park nhưng không thành. Hơn nữa, cả hai đều được Tổng thống Rhee tin dùng và có nguồn tin cho rằng vị tổng thống này đang cân nhắc để lựa chọn một trong hai người trở thành người kế nhiệm mình. Riêng giả thuyết thứ ba lại cho rằng chính Mỹ đã loại bỏ tướng Kim vì chính quyền của Tổng thống Dwight Eisenhower đang bị dư luận và Quốc hội Mỹ chỉ trích vì đã để xảy ra hàng loạt vụ bắt bớ, đàn áp, tra tấn tại Hàn Quốc do KCIC gây ra. Chính phủ Mỹ đã yêu cầu tướng Kim phải ngừng ngay các hành động gây mất lòng dân và bị dư luận thế giới chỉ trích. Nhưng do tướng Kim ỷ lại vào quyền thế của Tổng thống Rhee và bất tuân lệnh của Mỹ nên Mỹ đã thẳng tay loại bỏ viên tướng phản gián này không thương tiếc. Tuy nhiên, mọi việc chỉ được làm sáng tỏ vào năm 1999, khi Ahn Doo-hee, thủ phạm đã giết hại chính khách Kim Gu vào năm 1949, từ Mỹ quay về lại Hàn Quốc và thú nhận chính tướng Kim đã ra lệnh cho ông ta giết hại Kim Gu. Năm 1957, Ahn dính dáng sâu vào một vụ tham nhũng nhu yếu phẩm của quân đội nên đã bị điều tra. Ahn quay sang cầu cứu với tướng Kim nhờ can thiệp nhưng liền bị ông này từ chối. Tức giận, Ahn quyết định trả thủ bằng cách tổ chức giết hại tướng Kim vào ngày 30/1/1958. Đến năm 1959, do lo ngại sẽ bị phát hiện nên Ahn đã rời Hàn Quốc đến định cư tại Mỹ. Tiết lộ của Ahn Doo-hee đã làm sống lại vụ sát hại tướng Kim sau nhiều chục năm chỉ dựa vào các giả thuyết mơ hồ. Tuy nhiên, chỉ một tuần sau khi thú nhận mọi việc, Ahn đã tử nạn trong một vụ tai nạn giao thông khó hiểu trên một xa lộ ở phía nam Hàn Quốc Hòa Văn (theo Korea Times)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:04:48 GMT 9
Những khu vực bí ẩn trên thế giới Dân số ngày càng tăng, con người càng cảm thấy Trái Đất nhỏ bé. Nhận thức của các nhà khoa học về mái nhà chung của loài người càng ngày càng sâu rộng, nhưng vẫn chưa đủ để giải thích những bí ẩn, ít nhất là ở một số khu vực dưới đây: Vệt hằn sâu đằng sau những viên đá kỳ lạ ở California. 1. Tam giác Bermuda Ngày 5/12/1945, 5 chiếc máy bay ném bom của Mỹ cất cánh từ một căn cứ hải quân ở bang Florida tiến hành cuộc huấn luyện thường lệ. Nhưng khi đang lượn vòng trên bầu trời Bermuda, cả 5 chiếc máy bay này đều bị mất liên lạc và không bao giờ người ta thấy chúng trở lại nữa. Những sự việc kiểu này, tới nay, đã xảy ra khoảng 70 lần. Khu vực biển nằm giữa Miami, Bermuda và Puéctô Ricô, rộng chừng 450 dặm vuông này vì thế đã trở nên nổi tiếng khắp thế giới. Giới thủy thủ và phi công rất sợ đụng phải "màn sương điện tử" ở đây. Người ta đồn rằng khi rơi vào "màn sương điện tử", la bàn ngừng hoạt động, đài rađa mất tín hiệu và thậm chí là "một đi không trở lại". Mặc dù theo hải quân Mỹ, những sự kiện mất tích trên là hoàn toàn mang tính trùng hợp ngẫu nhiên và không tồn tại cái gọi là "Tam giác Bermuda", nhưng ai cũng đặt ra câu hỏi: sao cái sự ngẫu nhiên lại tái diễn nhiều đến thế? 2. Thành phố Mêhicô Tháng 7/1991, Thành phố Mêhicô xảy ra nhật thực toàn phần. Rất nhiều người dân nói rằng lúc đó họ đã nhìn thấy một vật thể bay không xác định (UFO) lượn quanh mặt trời (giờ đã trở thành một quả cầu đen). Từ đó, Thành phố Mêhicô trở thành nơi thường xuyên lui tới của các nhà quan trắc thiên văn. Năm 1999, 6/10 cư dân của một thị trấn gần Thành phố Mêhicô nói rằng mình đã nhìn thấy UFO. Hiện nay, trên trang web chia sẻ video trực tuyến YouTube có hơn 3.000 clip ghi lại cảnh UFO bay lượn trên bầu trời Thành phố Mêhicô. 3. Đường đi tử thần ở California Thực chất đây là khu vực sa mạc bằng phẳng và rộng lớn. Ở đó có rất nhiều viên đá hình trứng cỡ lớn, có viên nặng tới 700 bảng Anh. Xem ra, những viên đá kỳ lạ này đều tự "bò" đến sa mạc này bởi người ta không tìm thấy dấu vết của bất cứ loại phương tiện chuyên chở hạng nặng nào. Không chỉ có vậy, những viên đá trong quá trình "bò" tới đây đã để lại đằng sau một vết hằn sâu, kéo dài. Theo tính toán của các nhà khoa học, phải mất ít nhất 7 năm, tự nhiên mới có thể xoá những vết hằn đó, đưa sa mạc trở về nguyên trạng. Đặc biệt tại "đường đi của tử thần", nguyên lý trọng lực, về căn bản, không có tác dụng và không ai lý giải một cách thuyết phục về điều này. 4. Quốc lộ 90 - con đường có vệt sáng kỳ lạ Tối nào cũng như tối nào, tại một đoạn đường trên quốc lộ số 90 ở Marfa thuộc bang Texas (Mỹ), người ta đều nhìn thấy một hoặc là hai vệt sáng yếu mờ chiếu lên không trung. Vệt sáng này nhấp nháy giống như ánh đèn trong sàn nhảy, bắt đầu được ghi nhận từ cuối thế kỷ 19. Tới nay, trên thế giới đã có ít nhất 75 giả thiết và câu chuyện liên quan tới vệt sáng trên đường cao tốc số 90. Năm 2005, một nhóm các nhà vật lý học phát hiện vệt sáng ở Marfa tạo nên bởi đèn trước của ô tô. Tuy nhiên, kết luận này không đứng vững bởi vệt sáng kỳ lạ xuất hiện lần đầu ở Marfa vào năm 1883 và khi đó xe hơi mới ở dạng sơ khai, chưa có đèn pha chiếu sáng bằng điện. 5. Hồ Toplitz - Nơi chôn cất kho báu của phát xít Đức Hồ Toplitz ở Áo - Nơi tồn tại những lời đồn về kho báu của phát xít Đức. Hồ Toplitz nằm trên dãy Alp thuộc quận Stiermarken (Áo) với độ sâu trên 300 mét. Nơi đây phong cảnh tuyệt đẹp, từng được phát xít Đức sử dụng để thí nghiệm phóng tên lửa từ tàu ngầm. Tháng 4/1945, những cư dân sống gần hồ Toplitz kinh ngạc khi thấy bọn lính SS của Đức Quốc xã tới đây phong tỏa mọi con đường dẫn tới hồ và thả xuống hồ hết thùng này đến thùng khác. Người ta đồ rằng đó là những thùng châu báu trị giá hàng trăm triệu USD mà bọn phát xít cướp được. Từng đoàn từng đoàn thám hiểm đã đổ xô tới hồ Toplitz để tìm kiếm kho báu, nhưng vận may chưa rơi vào ai. 6. Điểm chết ở Chihuahua Tại Mêhicô có một khu vực kỳ lạ được gọi là điểm chết thuộc vùng Chihuahua, bang Ceballos do ở đó tín hiệu vô tuyến bị vô hiệu hóa. Theo tiến sĩ Santiago Garcia ngay từ giữa thế kỷ 19, người ta đã phát hiện ra những tính chất không bình thường của khu vực này. Khi ấy, những người nông dân nhận thấy vào ngày đẹp trời có những hòn đá cuội nóng từ trên trời rơi xuống khu vực điểm chết. Vào năm 1930, một phi công người Mêhicô tên là Francisco Sarabia thông báo rằng máy bay của anh không thể truyền được tín hiệu vô tuyến khi bay qua khu vực này. Năm 1970, điểm chết được biết đến một cách rộng rãi qua sự kiện một quả tên lửa Athena phóng từ căn cứ tên lửa White Sand của Mỹ khi bay qua vùng này bỗng nhiên bị lệch quỹ đạo bay một cách khó hiểu và rơi xuống đất. Hai năm sau đó, một phần trên của tên lửa đẩy Saturn sử dụng cho tàu vũ trụ Apollo của Mỹ cũng bị rơi khi bay ngang qua đây. Người ta cũng không tìm ra được nguyên nhân sau khi đã điều tra kỹ lưỡng, chỉ biết rằng các chi tiết kỹ thuật và đường bay của tàu Apollo trước đó đều không có gì sai sót. Bộ Quốc phòng Mỹ đã cử một nhóm điều tra sang Mêhicô để tìm rõ nguyên nhân nhưng không có kết quả. 7. Hồ Groom ở Nevada (Mỹ) Căn cứ Groom - Nơi người ta chỉ có thể ngắm nhìn từ xa. Hồ Groom - Vùng 51 - nằm cách Las Vegas 100 dặm về phía bắc, không chỉ được canh phòng cẩn mật bởi lực lượng an ninh mặt đất, máy bay do thám U-2 trên không, mà còn được bảo vệ bởi Luật miễn trừ công khai, cho phép quân đội Mỹ có quyền không khai báo về nơi đây. Một số người cho rằng chính quyền liên bang đang giấu những bằng chứng về một số tàu vũ trụ hay thậm chí cả người ngoài hành tinh ở đó. Giả thiết này càng được củng cố khi vào năm 1989, Bob Lazar, người tự xưng là có thời gian làm việc ở Vùng 5 - xuất hiện trên đài truyền hình Las Vegas tiết lộ công việc của ông ta là phụ trách kỹ thuật cho các đĩa bay ngoài hành tinh. Theo lời ông Lazar, chín trong số các đĩa bay này đã bay từ một thiết bị an ninh cao mang tên S-4 ở hồ Papoose cách Hồ Groom 10 dặm về phía tây nam. Hư thực ra sao? Không ai rõ vì người ta chỉ có thể nhắm nhìn hồ cạn Groom từ bán kính 30 dặm. Theo Tin Tức
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:07:47 GMT 9
Các nguyên thủ Pháp Tác giả: Serge Berstein
Dịch giả: Mai Anh
Nhà xuất bản Tri ThứcLời giới thiệu Chân dung các nguyên thủ Pháp Năm 2002, người dân Pháp tham gia bỏ phiếu bầu ra vị Tổng thống thứ 23 của nền Cộng hòa. Đây là hoạt động chính trị quan trọng nhất vì từ năm 1958 theo tinh thần Hiến pháp của nền Cộng hòa đệ Ngũ, Tổng thống trở thành hiện thân của đất nước, đồng thời là người đứng đầu cơ quan hành pháp, nói cách khác là hiện thân cao nhất của hệ thống thể chế của nước Pháp. Tuy nhiên, qua thực tế năm nền Cộng hòa và sau các xung đột đối kháng liên tiếp, người ta vẫn chưa đưa ra được một ý nghĩa thật sự phù hợp với vị trí này, một vị trí mà người ta vẫn gọi là “quan toà tối cao”. Ngay từ khi ra đời, nền Cộng hòa Pháp đã gặp phải khó khăn nan giải trong việc xác định vị trí và vai trò của người đứng đầu Nhà nước, hiện thân của nước Pháp dưới con mắt của dân Pháp và nước ngoài. Làm sao một thể chế chính trị mà ngay khi ra đời đã là một phản đề của chế độ quân chủ lại có thể đặt vào vị trí tối cao của đất nước một người thay thế quân vương, một người chỉ mang tính tạm thời, được chỉ định không phải theo luật thần thánh mà do người dân bầu chọn và là đại diện cho họ? Tuy nhiên, văn hóa chính trị theo đa số của nước Pháp những năm thuộc thế kỷ XIX, XX, vốn mang nặng dấu ấn của cuộc cách mạng được định nghĩa là “nhằm chặt đầu một vị vua để thách thức châu Âu”, chỉ có thể chấp nhận một người đứng đầu tối cao. Theo hướng đó, cơ quan hành pháp buộc phải có quyền hạn thực thi luật này dưới sự kiểm tra của những người đại diện của một dân tộc có chủ quyền. Và nếu cơ quan hành pháp có bất cứ biểu hiện nào vượt quá giới hạn này thì sẽ được xem là có biểu hiện “quân chủ chuyên chế”, lạm dụng quyền lực cá nhân, vốn là phản đề của nền Cộng hòa. Chính vì thế, sự cảnh giác đối với một cơ quan hành pháp thực sự hùng mạnh đã trở thành truyền thống của nền Cộng hòa kể từ sau cuộc Cách mạng Pháp. Khi hạ lệnh treo cổ Vua Louis XVI, các đại biểu hội nghị quốc ước đã loại trừ nguyên tắc hợp thức hóa quyền hành dựa trên luật thánh thần để thay thế bằng nguyên tắc khác phù hợp hơn với văn hóa của họ, nhưng lại không thuận với tinh thần mong muốn tự do của người dân, đó là nguyên tắc độc tài tập thể của các nhà lập pháp thông qua Hội đồng Cứu thế - nhóm của những dân biểu được các Thượng nghị sĩ của phe mình chỉ định và có trách nhiệm đảm bảo chủ quyền lãnh thổ trong thời gian có chiến tranh. Trong Hiến pháp năm 1795 của nền Cộng hòa đệ Nhất, ta có thể thấy biểu hiện không chấp nhận nền Chuyên chế quân chủ và sự độc tài tập thể qua việc định rõ ranh giới tuyệt đối giữa cơ quan lập pháp và hành pháp cũng như việc phân định quyền lực rõ ràng trong từng cơ quan này. Đứng đầu nền Cộng hòa là Hội đồng Tổng thống gồm 5 thành viên, được gọi là Nội các chấp chính do Quốc hội lập hiến bầu ra và 1/5 số thành viên được bầu mới lại hàng năm. Có một trò chơi cân bằng lực lượng phức tạp giữa hai hội đồng, Hội đồng 500 Nghị sĩ đề nghị một danh sách gồm ứng viên cho mỗi chỗ trống của Nội các chấp chính, và Hội đồng Phái cựu chọn trong danh sách đó một người, đảm bảo rằng đó là những người đại diện cho toàn thể nhân dân khi người dân làm chủ (hay chí ít là của bộ phận dân chúng tham gia bầu cử bởi vì dân phải đóng khoản thuế bầu cử khi tham gia bỏ phiếu). Là bộ phận đứng đầu Nhà nước và Chính phủ, trên lý thuyết, 5 thành viên của Nội các chấp chính có phạm vi quyền lực đáng kể nhưng thực tế lại khó sử dụng những quyền hành đó vì mỗi khi cần đưa ra quyết định thì phải có ít nhất 3 phiếu thuận. Cơ chế này dẫn đến hậu quả là những mánh khóe, thủ thuật, kéo bè kéo cánh, phát triển trong khi tập thể 5 thành viên của Nội các chấp chính phải cùng tồn tại với hai hội đồng lập pháp (mà giữa hai hội đồng này vốn đã có sự phân chia quyền lực). Kết quả là một chế độ bất lực và hỗn loạn ra đời phó mặc nền Cộng hòa đệ Nhất cho những trận đánh của một vị tướng ham mê chiến thắng. Ra đời và thành hình theo cách đó nên trong suốt hai thế kỷ XIX, XX, nền Cộng hòa bị giằng xé giữa hai hình thái trái ngược nhau mà không hình thái nào thực sự thỏa mãn ý nguyện của dân chúng: hình thái chính trị thứ nhất với một Tổng thống là đại diện quốc gia nhưng không có thực quyền, quyền lực thật sự được giao cho các Nghị sĩ do dân bầu ra và chính phủ do đa số Quốc hội chọn ra; hình thái thứ hai là có một Tổng thống thực quyền, là người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ, có những quyền hành quan trọng, đảm nhiệm đồng thời chức năng đại diện và chỉ đạo, có khả năng duy trì trật tự và lãnh đạo đất nước, nhưng lại có nguy cơ lạm dụng phần nào chủ quyền dân tộc để phục vụ lợi ích riêng của mình. Hình thái thứ nhất làm người ta nuối tiếc một quyền lực thực sự hiệu quả, có tính giám hộ và là cái cớ cho những lời chỉ trích nền Cộng hòa từ phía những người quân chủ khi họ ví nền Cộng hòa như hình ảnh “một người phụ nữ không đầu”; Hình thái thứ hai lại khơi dậy sự phản đối chống lại chuyên chế độc quyền, hình ảnh gợi nhớ đến chế độ quân chủ. Nền Cộng hòa đệ Nhị lưu ý để không phạm phải cùng một sai lầm của nền Cộng hòa đệ Nhất bằng cách làm tê liệt bộ máy hành pháp. Lo lắng làm sao để đảm bảo trật tự xã hội đã khiến họ cần tìm ra một người đứng đầu có khả năng làm được điều đó. Vì vậy, họ đã giao cho Tổng thống quyền hành thật sự của một người đứng đầu cơ quan hành pháp và đã chọn Louis-Napoléon Bonaparte, người thừa kế ngai vàng của vương quyền để đóng vai này. Tuy nhiên, ông đã đóng quá tốt vai của mình. Sau ba năm cầm quyền, ông đã đặt dấu chấm hết cho nền Cộng hòa bằng cuộc đảo chính ngày 2/12/1851 và thiết lập quyền hành riêng trước khi tái thiết Đế chế… Sự sụp đổ của Đế chế đệ Nhị ngày 4/9/1870 kéo theo sự tuyên bố chế độ Cộng hòa một cách bất ngờ nhưng Quốc hội được bầu vào tháng 2/1871, sau đó đã vội vàng soạn thảo bản Hiến pháp, thì chủ yếu lại do những người quân chủ lập nên. Với mong muốn tái thiết nền quân chủ, Quốc hội này đã tạo lập nên vị trí Tổng thống mà thực chất ẩn sau đó là những quyền lực của một quân vương. Điều đó giải thích tại sao vị Tổng thống đầu tiên thực thi quyền hành của mình trong khuôn khổ Hiến pháp mới, thống chế Mac-Mahon đã hành xử như một vị nhiếp chính. Và cũng chính vì vậy mà mọi cố gắng của phe Cộng hòa, vốn là một bộ phận cơ bản của chế độ chính trị mà họ đang xây dựng, đều nhằm vào việc tước bỏ của Tổng thống những quyền lực mang tính quân chủ mà Hiến pháp đã trao cho ông. Vì vậy, lịch sử của nền Cộng hòa đệ Tam là câu chuyện về sự suy thoái liên tiếp quyền lực của Tổng thống, điều mà đa số các Tổng thống thời kỳ đó chấp nhận, chỉ một vài Tổng thống phản kháng nhưng vô ích. Kế thừa quan điểm đó, nền Cộng hòa đệ Tứ bộc lộ trong bản Hiến pháp của mình sự cảnh giác với quyền lực cá nhân, thực chất chỉ là một sự tiếp tục truyền thống của nền Cộng hòa đệ Tam. Nền Cộng hòa đệ Ngũ mở ra một giai đoạn mới cắt đứt hoàn toàn với những nền Cộng hòa trước. Tướng De Gaulle, người sáng lập chế độ mới, chưa bao giờ che giấu quan điểm ủng hộ một quyền hành pháp mạnh do Tổng thống đảm nhiệm. Nội dung bản Hiến pháp của nền Cộng hòa đệ Ngũ phản ánh rõ quan điểm này, tuy nhiên, cũng đã được các đảng phái chính trị cùng kết hợp soạn thảo sửa đổi những nội dung gợi nhắc đến quyền lực cá nhân. Nhưng thực tế áp dụng hiến pháp và việc sửa đổi hiến pháp vào mùa thu năm 1962 cũng đã nhanh chóng vượt quá giới hạn mỏng manh của những điều luật cho phép người đứng đầu Nhà nước là người điều hành duy nhất đời sống chính trị nước Pháp. Kết quả là đặc quyền của Tổng thống được tiếp tục duy trì và mở rộng dưới thời của Tướng De Gaulle và những người kế nhiệm ông. Tuy nhiên, những thể chế qui định quyền lực của Tổng thống có vẻ như đã bị thay đổi về cơ bản kể từ khi xảy ra tình trạng chung sống chính trị năm 1986, lúc đó vốn chỉ được coi như một giải pháp tình thế tạm thời nhưng đã được lặp lại nhiều lần và tồn tại suốt 9 năm trên chính trường giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2002, sau đó là việc khôi phục vào năm 2001 thời hạn nhiệm kỳ Tổng thống là 5 năm thay vì 7 năm. Những thay đổi này tạo nên hình thái chính thể tay đôi cho vị trí đứng đầu Nhà nước, hình thành sự phân đôi quyền hành pháp giữa một bên là Tổng thống - trọng tài với vai trò mang tính đại diện và một bên là Thủ tướng đứng đầu chính phủ thuộc về đa số của Nghị viện, đảm nhiệm vai trò “xác định và dẫn dắt hoạt động chính trường của đất nước”, theo điều 20 Hiến pháp của nền Cộng hòa đệ Tứ. Mặt khác, việc đồng nhất thời hạn nhiệm kỳ Tổng thống theo thời hạn bầu cử cơ quan lập pháp đã làm mất đi tính đặc trưng của việc bầu cử Tổng thống vốn đã được xác định từ năm 1965. Điều có thể nhận thấy rõ ràng là từ sau những lần sửa đổi như vậy, Tổng thống thứ 23 của nước Cộng hòa Pháp sẽ đảm nhiệm những chức năng đã được đổi mới (có thể là hạn chế hơn). Liệu có phải ông sẽ là người khởi đầu của nền Cộng hòa đệ Lục mà hiện chúng ta (người Pháp - ND) đang chớm bước vào ngưỡng cửa của nó, theo như các nhà báo và giáo sư luật vẫn đua nhau khẳng định? Sau những tìm hiểu về quyền lực được qui định theo thể chế của 22 vị Tổng thống của nền Cộng hòa, chúng ta nhận thấy sau đó là lịch sử của 22 con người đã đảm nhiệm theo những cách khác nhau vai trò của mình dựa trên cá tính, kỳ vọng và tham vọng của từng người. Tính xảo quyệt của kẻ mưu phản như của Louis-Napoléon Bonaparte, sự đơn giản và tính thẳng thắn của người miền Nam của Fallières, tính nghiêm khắc tuân thủ luật pháp và những hi vọng thầm kín của Raymond Poincaré, thiên hướng thích độc quyền của Mitterrand, sự kín đáo đến gần như tự giấu mình của Lebrun và Coty, sự tỏa sáng của Charles De Gaulle… mỗi người mỗi cách, tất cả dệt nên một bản tiểu sử của 22 người Pháp đã từng là hiện thân của đất nước trong vài năm, vài tháng hoặc vài tuần. Điều đó càng cho thấy lịch sử của thể chế Tổng thống không thể tách rời lịch sử của những nhân vật nắm giữ chức vụ quan trọng và tế nhị này.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:09:18 GMT 9
Cuộc kiếm tìm người đứng đầu nền cộng hòa (1848 - 1879)
Tháng 2/1848, cuộc cách mạng đột ngột của người dân Paris đã phá bỏ nền Quân chủ tháng Bẩy , kết thúc giai đoạn thử nghiệm chế độ Quân chủ hiến định tại nước Pháp. Trong không khí sục sôi và bối rối, các nhà báo và nghị sĩ đối lập đã lập danh sách các Bộ trưởng cho một chính phủ tạm thời của nền Cộng hòa đệ Nhị trong khi không ai biết chế độ mới sẽ như thế nào, sẽ được lãnh đạo ra sao.
Kinh nghiệm duy nhất về chế độ Cộng hòa mà nước Pháp đã từng trải qua là nền Cộng hòa đệ Nhất ra đời tháng 9/1792 nhưng phải 3 năm sau mới có Hiến pháp và thực chất chỉ là để trấn an giai cấp tư sản và tầng lớp nông dân đang khao khát ổn định và trật tự. Đối với phần lớn người dân Pháp lúc đó, nền Cộng hòa mới chỉ được biết đến qua một thời kỳ của nỗi kinh hoàng, tiếp sau đó là thời kỳ hỗn loạn của Nội các chấp chính và kết thúc bằng chế độ độc tài quân sự kiểu Napoléon.
Không có hình thái chính trị nào có thể thỏa nguyện ước của dân chúng lúc đó - những người vừa mong muốn phát triển thành tựu của tư tưởng cuộc cách mạng 1789, vừa muốn phát triển nền kinh tế hưng thịnh qua sự phát triển của giai cấp tư sản, không thực hiện giải phóng ruộng đất vừa sợ hãi sự nổi dậy của nông dân hoặc nổi loạn ở thành thị lại vừa sợ mất tự do của chính mình.
Để xác định bản chất của nền Cộng hòa và hình thức dẫn dắt nền Cộng hòa đó và nhằm thỏa mãn những mong muốn nêu trên một cách toàn diện nhất, những nhà sáng lập nền Cộng hòa đệ Nhị và đệ Tam đã từng bước kế tiếp nhau áp dụng chế độ Cộng hòa. Sự lựa chọn của họ nhằm mục tiêu chủ yếu là gây dựng một chế độ chính trị với một Tổng thống có quyền lực rộng lớn đủ để lãnh đạo một đất nước vốn đã bất ổn từ cuộc cách mạng 1848, từ sự thất bại và biến động xã hội năm 1871 một cách cương quyết và cứng rắn. Khả năng thứ nhất là lựa chọn hi sinh tự do để đổi lấy trật tự.
Khả năng thứ hai là sẽ xảy ra một cuộc khủng hoảng mà kết thúc bằng việc xem xét lại vai trò của Tổng thống được qui định trong Hiến pháp, Tổng thống có thể phải chịu lép vế trước Nghị viện. Nền Cộng hòa đệ Nhị bị vị Quân vương - Tổng thống lái thành Đế chế đệ Nhị, âm mưu của nền Cộng hòa đệ Tam muốn gọt giũa Tổng thống thành một nhà quân chủ tương lai sẽ toàn quyền trị vì và lãnh đạo, hai trải nghiệm đó đã làm tiền đề về lâu dài cho ý tưởng về một Tổng thống mạnh trong nền Cộng hòa. Kể từ những năm 1880, truyền thống nền Cộng hòa đã coi như là có sự đối kháng cơ bản giữa nền Cộng hòa và người đứng đầu cơ quan hành pháp mạnh, và chỉ những Tổng thống chịu giữ vai trò mang tính đại diện hình thức và không có ý định mở rộng quyền lực của mình mới xứng đáng được công nhận là những nhà Cộng hòa. ********************** Louis-Napoléon Bonaparte: Nền cộng hòa và ông hoàng (10-12-1848 đến 2-12-1851)
“Các ngài có chắc rằng trong số tất cả những người sẽ nối tiếp kế vị chức vụ Tổng thống với nhiệm kỳ 4 năm này thì không một ai có tham vọng ở mãi vị trí đó không?
Nếu đó là con cháu của một trong những dòng họ đã từng cai trị nước Pháp, và con người này thực tế chưa từng bao giờ vứt bỏ hoàn toàn những thứ mà ông ta gọi là quyền lợi của mình?
Và nếu nền kinh tế của đất nước đang trong tình trạng trì trệ, dân chúng đang đói khổ, người đó biết rằng trách nhiệm trước sự nghèo đói và thất vọng này thuộc về chính những người đang ngầm có kế hoạch chống lại tự do của ông ta sau những lời hứa của mình. Trong hoàn cảnh đó, các ngài thử trả lời xem liệu con người tham vọng đó có lật đổ được nền Cộng hòa không?”
Chúng ta đang ở vào thời điểm ngày 8/10/1848, Quốc hội Lập hiến, được bầu ra sau ngày lật đổ vua Louis-Philippe, đang thảo luận bản Hiến pháp của nền Cộng hòa đệ Nhị lúc đó không còn ở giai đoạn tốt đẹp đặc trưng của thời kỳ đầu nữa. Các vấn đề xã hội đã gây rạn nứt giữa những nhà Cộng hòa trung lập chiếm đa số tại Quốc hội và tầng lớp công nhân mà việc kiếm miếng cơm manh áo hàng ngày đã trở thành vấn đề ám ảnh.
Tháng Sáu năm đó, Quốc hội đã quyết định chấm dứt hoạt động của những phân xưởng quốc gia (một tập hợp những xí nghiệp xây dựng các công trình công cộng do Chính phủ đầu tư nhằm giải quyết việc làm cho người thất nghiệp). Những phân xưởng này đã từng giúp công nhân không bị chết đói. Trước quyết định này, người lao động Paris đã nổi dậy phản đối. Tướng Cavaignac, một người Cộng hòa đã đàn áp cuộc biểu tình “những ngày tháng Sáu” này trong biển máu.
Với hành động này, nền Cộng hòa đã chính thức tự tước bỏ đi điểm tựa của mình vào dân chúng. Từ thời điểm đó, nền Cộng hòa dần chuyển sang phe tả và những người theo chủ nghĩa quân chủ, những người đã từng khiếp sợ sau cuộc Cách mạng tháng Hai nay bắt đầu lấy lại hi vọng. Những người này tập hợp trong Đảng Trật tự Xã hội , được chỉ đạo một cách chắc chắn từ những cựu Bộ trưởng của chế độ Quân chủ tháng Bảy như Thiers, Molé, Broglie, Barrot, họ đang chờ thời cơ của mình.
Giữa những nhà quân chủ và những người Cộng hòa trung lập, sau cuộc thảm sát dân chúng “những ngày tháng Sáu” thì chỉ có một lực lượng có thể thay thể được, đó là quân đội. Nhưng người ta vẫn chưa biết quân đội sẽ theo Cavaignac và phe Cộng hòa trung lập hay tướng Changarnier và những người thuộc Đảng này.
Chính trong hoàn cảnh đó, Quốc hội tiến hành thảo luận đề ra những thể chế cho nền Cộng hòa và đặc biệt về khả năng đặt vào vị trí đứng đầu nền Cộng hòa một vị Tổng thống theo kiểu Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nghị sĩ Cộng hòa Jules Grévy (người sau này trở thành Tổng thống của nền Cộng hòa đệ Tam) vừa đưa ra lời cảnh báo tới đồng nghiệp của mình, phần đông những người này ủng hộ việc bầu Tổng thống theo hình thức phổ thông đầu phiếu.
Trong suốt bài diễn văn này, mọi cặp mắt đổ dồn về phía người đàn ông có gương mặt gầy gò, vừa khẽ xoắn ria mép vừa quan sát cuộc tranh luận với cặp mắt lơ đễnh, không biểu hiện một chút xúc động hay một chút hứng thú nào, đó là ông hoàng Louis-Napoléon Bonaparte. Ông hoàn toàn không có ý ngắt lời Grévy. Chẳng phải ông đang tỏ rõ mình là người Cộng hòa một cách rõ ràng sao?
Vả lại, một người khác sẽ trả lời giúp ông. Quốc hội có vẻ xáo động do lời cảnh báo của Grévy khi thấy bước lên trước bục thuyết trình là con người có khả năng hùng biện hay nhất của phe Cộng hòa trung tâm, nhà thơ Alphonse de Lamartine, người cha đỡ đầu của nền Cộng hòa, như là người khơi mào cho Chính phủ lâm thời. Tài hùng biện của ông sẽ làm xoay chuyển Quốc hội: “Chúng ta sợ rằng sự cuồng tín vào người thừa kế dòng họ sẽ đưa đất nước vào tình trạng nguy hiểm […] Và đây, tôi khẳng định rằng những nhóm người, những bọn phiến loạn đã từng âm mưu chiếm đoạt địa vị sẽ chỉ tự lừa dối mình trong hi vọng hão huyền.
Tôi khẳng định rằng để lại có một biến cố ngày 18 tháng Sương mù nữa trong hoàn cảnh hiện nay cần có hai điều kiện: có trong quá khứ nhiều năm trường đen tối và trong tương lai nhiều chiến thắng Marengo . […] Người ta có thể bỏ độc một cốc nước nhưng không thể bỏ độc cả một dòng sông. Đây đúng là một cuộc hội họp đáng ngờ một quốc gia không thể bị biến chất do nó rộng lớn như đại dương vậy […] Tôi tin vào độ chín của một quốc gia vốn đã có 55 năm hoạt động chính trị để tập quen với tự do”.
Vẫn ở tư thế bất động, Louis-Napoléon Bonaparte chứng kiến việc Quốc hội quyết định cần có một Tổng thống cho nền Cộng hòa và người đó sẽ được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Nhưng thế vẫn chưa hết. Ngày hôm sau, ngày 8/10, một Nghị sĩ cánh hữu là Thouret, đưa ra đề nghị những đại diện của các dòng tộc đã từng cai trị nước Pháp không được quyền tham gia cuộc tranh cử Tổng thống.
Trong buổi tranh luận này, một diễn giả đã quay về phía ông Hoàng chất vấn: “Về con người có thể gây tác động đến những âm mưu thiết lập vương quyền, người đó đang ở đây, ông ta cần phải giải thích!”.
Chịu sức ép từ nhiều phía, Louis-Napoléon Bonaparte quyết định bước lên bục phát biểu. Trong tâm trạng bối rối, vừa nói vừa tìm từ diễn đạt, ông ta đã đưa ra một lời tuyên bố thật thảm hại: “Thưa các đại biểu công dân, tôi không lên đây để phản đối những sửa đổi của ngài Thouret. Chắc chắn rằng tôi đã xứng đáng được hưởng lại quyền của một công dân và không còn có bất cứ tham vọng khác nào. Tôi cũng không lên đây để bày tỏ sự khiếu nại của tôi đối với những điều vu khống hay âm mưu mà người ta gán cho tôi. Nhưng nhân danh 300.000 cử tri đã bầu tôi mà tôi lên đây để tố cáo và lên án cái âm mưu ngấp nghé vương quyền mà người ta gán cho tôi”.
Sự tuyên bố rút lui thận trọng, lời lên án một cách chính thức mọi âm mưu chiếm đoạt vương quyền, lại thêm vẻ mặt đáng thương của một kẻ “ngấp nghé” đã gây cười nhiều hơn là lo lắng. Giữa lúc đó, ông Thouret đã rút lại đề nghị sửa đổi của mình. Quốc hội thì không còn quan tâm đến nhân vật đáng thương vốn là hậu duệ của một hoàng đế vĩ đại.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:10:27 GMT 9
Napoléon Bonaparte - "kẻ đần độn bị dắt mũi"
Charles - Louis - Napoléon Bonaparte (tên gọi này do chính Hoàng đế Bonaparte chọn) sinh ngày 20 tháng 4 năm 1808 tại Paris. Theo hộ tịch, ông là con trai của Louis Bonaparte, em út của Hoàng đế Bonaparte, Vua Hà Lan - và Hoàng hậu Hortense con gái với người chồng đầu của Hoàng hậu Joséphine.
Nhưng gia đình Vua Louis đã trải qua nhiều giông bão đến mức sống ly thân, trừ giai đoạn hòa giải ngắn và Hoàng hậu thì đã có nhiều nhân tình đến mức nhiều nghi ngờ về tính hợp pháp của Louis-Napoléon còn lưu mãi về sau.
Sau khi đế chế sụp đổ, Hoàng hậu Hortense chính thức rời bỏ vĩnh viễn chồng mình và đến sống lưu vọng tại Thụy Sĩ với người con út Louis-Napoléon trong khi người con trai cả là Napoléon-Louis sống cùng bố. Hoàng tử Louis đã sống thời tuổi trẻ của mình tại Thụy Sĩ, nơi ông đã vào quân đội và thậm chí đã trở thành Thiếu uý trong quân đội Thụy Sĩ sau đó ông rong ruổi khắp châu Âu.
Năm 1830, người ta thấy ông xuất hiện ở Italia và cùng người anh trai tham gia hoạt động chống lại Giáo hoàng Grégoire XVI, những người Romagnol nổi loạn. Sau cuộc thập tự này, người anh cả là Napoléon-Louis chết vì bệnh sởi. Hai năm sau, Công tước Reichstadt, con trai của Napoléon và Hoàng hậu Marie-Louise, là người thừa kế ngôi vị, cũng qua đời.
Từ đó, Louis-Napoléon được đưa lên vị trí người thừa kế và ngay lập tức đã có vụ tai tiếng với người trưởng họ Joseph - anh cả của Napoléon và là cựu Hoàng đế của Tây Ban Nha. Joseph đã hoài công khi lưu ý với Louis rằng danh hiệu của ông ta không hợp lệ chừng nào ông ta còn sống. Nhưng Louis không bận lòng đến lời này cũng như những lời khuyên phải thận trọng của những thành viên khác trong gia đình như Lucien, vua cũ của Westphalie JeRoma và con trai ông.
Được một vài người thân thích khích lệ trong đó phải kể đến Persigny, một sĩ quan đã bị đuổi khỏi quân đội năm 1832 do có những tư tưởng Cộng hòa, sau đó từ năm 1834 đã trở thành một trong những người ủng hộ trung thành của Louis - Napoléon, người thừa kế đã hai lần thử thực hiện những cuộc viễn chinh tại Pháp. Năm 1836, ông cố gắng đánh đuổi quân đồn trú tại Strasbourg nhưng thất bại thảm hại.
Lo sợ có thể dẫn đến cảnh tử vì đạo, Chính phủ của Louis-Philippe đã trục xuất ông sang châu Mỹ. Năm 1840, một lần nữa cố gắng thực hiện ý đồ của mình nhưng lại thất bại, lần này là tại Boulogne. Ông đã bị bắt và bị kết án chung thân và giam tại pháo đài Ham. Tại đây, ông đọc rất nhiều và đã viết một vài cuốn sách. Vì việc này, ông đã tự hào rằng đã từng sống ở “Trường Đại học Ham” để hoàn thiện vốn văn hóa của mình.
Năm 1846, ông trốn sang Anh và hai năm sau, ông biết một cuộc nổi dậy ở Paris vừa lật đổ vua Louis-Philippe. Ngay lập tức, ông trở lại Pháp và sẵn sàng nắm lấy thời cơ của mình. Nhưng chính phủ nghi ngờ sự có mặt của ông nên ông phải trở lại nước Anh. Tại Pháp, một nhóm nhỏ những người ủng hộ ông, đứng đầu là Persigny, đã không ngồi yên và thực hiện một đợt tuyên truyền mạnh mẽ ủng hộ ông hoàng của mình.
Trước ngày diễn ra cuộc thảm sát Những ngày tháng Sáu, ông đã có được ghế cử tri trong vòng bầu cử địa phương. Bốn tỉnh của nước Pháp đã bầu cho ông, và với sự dẫn dắt của Persigny, một ngọn lửa ủng hộ dòng họ Bonaparte đã lan khắp nước Pháp: diễu hành, báo chí ngợi ca và ủng hộ người kế vị. Từng đó đủ để Quốc hội phản đối và phủ nhận kết quả bỏ phiếu. Ông hoàng để cơn sốt đó lắng xuống và chờ đến tháng Chín ra tranh cử lại một lần nữa và được năm tỉnh bầu.
Quốc hội do không thể phủ nhận giá trị của bầu cử phổ thông đầu phiếu đã phải thừa nhận kết quả bầu cử lần này. Louis-Napoléon bắt đầu tìm cách xóa bỏ sự hằn thù của các nghị sĩ trong Quốc hội bằng cách tạo dựng trong mắt họ một hình ảnh mới về bản thân mình. Người cùng thời miêu tả người kế vị là một người có ngoại hình rất xấu với một cái đầu quá to, ngực lép, chân ngắn, khuôn mặt như bị hàng ria nặng nề nuốt mất, nhất là cặp mắt vô hồn với một vẻ lờ đờ thâm căn.
Những từ miêu tả kém tính ca ngợi nhất xuất hiện ngày càng nhiều: “kẻ ngu xuẩn bị dắt mũi”, nói như Thiers hay “một loại ngu đần”, theo cách nói của Lammenais. Đó là người được Đảng Trật tự Xã hội chọn làm ứng cử viên cho cuộc bầu cử Tổng thống Cộng hòa vào tháng 11/1848. ****************************** 5 triệu phiếu bầu cho người kế vị dòng họ Bonaparte
Sự lựa chọn này có thể gây ngạc nhiên khi người ta biết được sự đánh giá đáng thương về người kế vị từ phía những người lãnh đạo Đảng Trật tự Xã hội. Chúng ta sẽ còn ngạc nhiên hơn nữa khi biết rằng đó là ý kiến của ông Thiers, người vốn nổi tiếng là không thể bị đánh ngã.
Chúng ta có thể hiểu rõ hơn sự lựa chọn này khi nhớ lại những mục đích của Đảng này và nhân cách của những thành viên trong Đảng.
Đảng Trật tự Xã hội luôn nghĩ đến việc đặt dấu chấm hết cho một nền Cộng hòa yếu ớt đã tồn tại quá lâu. Hiện nay, khi dân chúng không còn là chỗ dựa cho nền Cộng hòa nữa thì việc cần làm là loại bỏ những người Cộng hòa ôn hòa đang chiếm vị trí cao trong xã hội: vì vậy cần bầu ra một ứng cử viên là một người bảo thủ kỳ cựu.
Trong Đảng không thiếu những người như vậy và chính Thiers cũng mơ rằng một lúc nào đó mình sẽ được bầu vào vị trí này. Nhưng những sự kiện vừa diễn ra trong thời ngự trị của Louis-Philippe còn quá mới để mà một trong số các vị Bộ trưởng của thời Louis-Philippe, với một chút may mắn, được ủng hộ rộng khắp nhằm được bầu vào vị trí người cầm quyền hành pháp của nền Cộng hòa.
Mặt khác, Thiers nhanh chóng nhận thấy rằng nếu người dân Pháp hoàn toàn không biết về tính cách và con người của ông hoàng Louis thì họ lại thấy cái tên của ông ta rất thân thuộc, thân thuộc với hầu hết các tầng lớp trong xã hội. Không một ứng cử viên nào khác tỏ ra thích hợp hơn con người lu mờ này. Đảng đã quyết định tận dụng tính quần chúng của cái tên của ông ta rồi sau đó sẽ điều khiển ông ta theo ý của mình.
Và từ đó đã bắt đầu các cuộc thảo luận không ngừng giữa Louis-Napoléon và những người lãnh đạo Đảng. Trong những cuộc thảo luận đó, Louis-Napoléon biết cách tỏ ra mình là một người mềm tính, phục tùng và dễ thương. Từ đó ông tổ chức một chiến dịch, phần lớn do chính ông điều hành, mang tính chuyên nghiệp trong việc lấy lòng cử tri.
Mỗi cử tri đều có thể tìm thấy lợi ích của mình; từ những người công giáo được hứa hẹn “sẽ được tự do tế lễ và tự do giảng đạo” cho đến những người công nhân như nhìn thấy hình ảnh một “nền Cộng hòa rộng lượng”; hay những người chủ sở hữu tài sản với lời hứa “bảo vệ quyền sở hữu… là đảm bảo độc lập và tự do sở hữu, cơ sở không thể thiếu cho tự do công dân”; cũng như vậy với quân đội, nông dân…
Đối thủ có trọng lượng nhất là tướng Cavaignac, người thuộc phe Cộng hòa ôn hòa. Ông là người được gắn liền với nền Cộng hòa, và là người “cứu vớt trật tự” trong cuộc đàn áp “Những ngày tháng Sáu”. Ông hi vọng có được sự ủng hộ của phe Bảo thủ nếu phe này không trao số phiếu của mình cho đối thủ của ông. Nhưng những ký ức về “Những ngày tháng Sáu” lấy mất của Cavaignac sự ủng hộ ở những thành phố có tầng lớp công nhân đông đảo.
Điều này tạo cơ hội chiến thắng cho Ledru-Rollin, ứng cử viên của những người “miền núi”, những người Cộng hòa cấp tiến, và cơ hội cho Raspail, đại diện của Đảng Xã hội. Cuộc bầu cử ngày 10/12/1848 mang lại chiến thắng cho người cháu của Hoàng đế Bonaparte với 5,5 triệu phiếu bầu từ mọi miền của nước Pháp: Tư sản thủ cựu bầu cho người theo Đảng Trật tự Xã hội, đối thủ của nền Cộng hòa; nông dân với những kỷ niệm sống động về vị Hoàng đế trong quá khứ, công nhân do thất vọng với nền Cộng hòa đã bầu cho người mang cái tên gợi cho họ nhớ đến thời kỳ Cách mạng 1789.
Những đối thủ của ông ta không chỉ thất bại mà còn hoàn toàn bị đè bẹp. Cavaignac, người đứng cao nhất cũng chỉ có 1,5 triệu phiếu bầu; Ledru-Rollin được 370.000 phiếu; Raspail được 36.000 phiếu và Lamartine, không phải là ứng cử viên được 17.000 phiếu.
Được bầu theo phổ thông đầu phiếu, vị “Quân vương-Tổng thống” này liệu có làm như Thiers mong muốn, làm một tù binh của Đảng Trật tự Xã hội không? Trong một năm, người ta nghĩ là có thể.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:11:56 GMT 9
Cuộc đảo chính tháng 10-1849
Vào thời điểm Louis-Napoléon lên nắm quyền, Hiến pháp thừa nhận những đặc quyền nào cho Tổng thống? Tổng thống mới đắc cử là người nắm quyền hành pháp: Tổng thống có quân đội nhưng không thể điều hành nó nhân danh cá nhân; được quyền bổ nhiệm và bãi miễn các Bộ trưởng và viên chức, ký hiệp ước và tuyên bố chiến tranh, nhưng chỉ có thể thực thi những quyền hạn này nếu có sự đồng thuận của Quốc hội.
Tổng thống chịu trách nhiệm về những hành vi của chính phủ của mình, nhưng trách nhiệm này không được thực thi trước Quốc hội và Quốc hội không thể lật đổ Tổng thống. Đổi lại, Tổng thống không thể can thiệp vào Quốc hội ngay cả khi có sự phản bội nghiêm trọng, không thể giải tán, đình hoãn hoạt động hay thu ngắn nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội. Trong trường hợp có sự phản bội nghiêm trọng, phải có sự thừa nhận của một tòa án tối cao.
Một bản Hiến pháp như vậy làm cho quyền lực của hai cơ quan pháp quyền quá xa cách nhau, cơ quan hành pháp và lập pháp không có quyền can thiệp lẫn nhau. Điều đó có thể dẫn đến một tình huống nguy hiểm: trong trường hợp nảy sinh mâu thuẫn giữa hai cơ quan này thì giải pháp duy nhất là đảo chính và chúng ta sẽ còn nghe nói nhiều đến điều này trong sự tồn tại ngắn ngủi của nền Cộng hòa đệ Nhị. Tuy vậy, những tháng đầu tiên Tổng thống mới hành xử theo như lời hứa với Thiers.
Tổng thống tỏ ra là người phục vụ ngoan ngoãn của Đảng Trật tự Xã hội. Ông hoàn toàn bị cách biệt. Ngoài một vài người thân cận như Persigny, ông không thể trông cậy vào bất cứ một lực lượng nào khác trong nước Pháp: không một lực lượng chính trị nào hỏi đến ông, hầu hết tất cả đều rất cảnh giác với ông, còn Đảng Trật tự Xã hội thì sử dụng ông.
Quân đội lưỡng lự trong việc lựa chọn Cavaignac hay Changarnier, nếu danh tiếng của một vị quân vương gần gũi với quân lính và đội ngũ hạ sĩ quan thì giới quan chức đang mơ ước tạo lập sự nghiệp lại hoàn toàn không muốn gắn mình với một người có một vị trí mong manh như ông. Chính vì lẽ đó mà Louis-Napoléon tỏ ra thận trọng.
Ông yêu cầu Ordilon Barrot - một người của chế độ Quân chủ tháng Bảy, người được đa số Quốc hội tin cậy - thành lập một bộ và bằng cách không can thiệp vào công việc của bộ, ông để Odilon Barrot điều hành. Vậy là khi đã lên được vị trí tối cao, ông kiên nhẫn chờ đợi thời cơ để mình có thể tồn tại ở vị trí đó vĩnh viễn trong lúc tạm nén những tham vọng của mình và để những nhân vật còn lại tự tìm hiểu nhau. Bằng chứng xác thực nhất cho chính sách của ông là cuộc viễn chinh Roma.
Năm 1848, một cuộc cách mạng đã đuổi Giáo hoàng Pie IX ra khỏi giáo phận của ông. Giáo hoàng đã kêu gọi sự trợ giúp của các quốc gia Công giáo. Trong cuộc bầu cử, Louis-Napoléon đã cam kết chính thức với những người Công giáo thuộc Đảng Trật tự Xã hội rằng ông sẽ duy trì quyền thế tục của Giáo hoàng.
Hơn nữa vị Quân vương - Tổng thống lo ngại rằng Áo sẽ nhân dịp này mượn cớ giành lại quyền thế tục của Giáo hoàng, sẽ can thiệp vào Italia và thiết lập tại đất nước này chế độ bảo hộ. Với hai lý do đó, ông đã quyết định cử sang Roma một đội quân viễn chinh do tướng Oudinot cầm đầu.
Nhưng nhiều nghị sĩ tại Hội đồng lập hiến, vốn phản đối quyền thế tục đã tỏ ra phẫn nộ khi thấy Cộng hòa Pháp can thiệp chống lại Cộng hòa Italia. Để trấn an họ, Oudinot đã giải thích mục đích của cuộc viễn chinh là nhằm hòa giải những người Cộng hòa và Giáo hoàng. Tuy nhiên, những người Cộng hòa Italia đã đáp lại sự “hòa giải của Pháp” bằng quân đội. Với lý do nhằm bảo vệ danh dự quân đội Pháp, Louis-Napoléon đã gửi tới Oudinot một lá thư quân sự nói rằng Oudinot là đại diện cho những người bảo vệ sự vinh quang của Tổ quốc.
Thật là một động thái tuyên truyền khéo léo mà những người công giáo của Quốc hội không thể không thừa nhận vì nó có lý lẽ chính đáng. Thêm nữa, cuộc bầu cử Quốc hội lập pháp ngày 13/5/1849 đã loại bỏ mọi lo lắng của Tổng thống về cuộc viễn chinh Roma: Đảng Trật tự Xã hội đã chiến thắng trong cuộc bầu cử này. Ngày 3/7/1849, tướng Oudinot chiếm Roma. Bất chấp nhiều cố gắng của Louis-Napoléon nhằm hướng Giáo hoàng theo thế ôn hòa nhưng sự trở lại của Giáo hoàng Pie IX vẫn được dọn đường bằng cuộc trấn áp đầy bạo lực.
Nhưng Louis-Napoléon còn có những mối lo khác. Chiến thắng của Đảng Trật tự Xã hội trong cuộc bầu cử Quốc hội đã đặt ông ở thế mặt đối mặt với những người thuộc Đảng này, những người đã bầu ông là ứng cử viên cho họ. Nhưng họ lại không đồng ý để ông cầm quyền lãnh đạo theo cách không phục vụ lợi ích của họ. Vì vậy, Tổng thống và đa số Quốc hội chỉ thống nhất do cùng lo ngại trước một mối nguy hiểm chung, đó là sự nổi dậy của dân chúng. Chừng nào mối nguy hiểm này qua đi thì họ sẽ tách rời nhau.
Những cuộc bầu cử một mặt ghi nhận chiến thắng của Đảng Trật tự Xã hội, mặt khác đánh dấu những tiến bộ lớn của phe Cộng hòa cấp tiến, phe Dân chủ xã hội ủng hộ Ledru-Rollin. Những người này, do phản đối quyết liệt cuộc viễn chinh Roma, đã quyết định kêu gọi sự ủng hộ của quần chúng.
Ngày 13-7-1849, một cuộc biểu tình đã diễn ra ở Paris. Những nhóm quân do Changarnier, người chỉ huy Vệ quốc quân điều khiển đã giải tán cuộc biểu tình và buộc Ledru-Rollin và các tướng “người miền núi” phải rời khỏi nước Pháp. Tổng thống và Quốc hội đã kết hợp thống nhất nhằm ngăn chặn mối nguy hiểm này: báo chí bị bịt miệng, các cuộc hội họp bị cấm đoán và Chính phủ đã nhận được những quyền lực ngoại lệ để đấu tranh chống lại những người Cộng hòa cấp tiến.
Nếu Tổng thống và đa số Quốc hội nhất trí với nhau trong việc chống lại những người Cộng hòa để tiến hành cuộc viễn chinh Roma và sau đó là dẹp tan bạo loạn của dân chúng thì họ lại bất đồng với nhau trong nhận định về những sự việc này. Phe đa số trong Quốc hội tỏ rõ thái độ hài lòng, thỏa mãn (điều đó được tuyên truyền qua Thiers) về việc thiết lập chế độ chuyên chế tại Roma.
Về phần mình, Tổng thống vì cho rằng “danh dự chính trị” của cuộc viễn chinh đã bị nhạo báng bởi các cuộc đàn áp nên đã gửi thông điệp đến Quốc hội để tỏ rõ ý kiến của mình. Nhưng Odile Barrot, do ngại sự phản đối của các Nghị sĩ nên đã từ chối đọc thông điệp đó trước Quốc hội. Louis-Napoléon nhân chuyện này đã thực hiện một hành động táo bạo: ông đã giải tán Bộ của Odile Barrot.
Đây có thực là một cú táo bạo? Không đến mức như vậy! Tổng thống không phải không biết rằng Quốc hội vốn vẫn cho là Odile Barrot là người quá ôn hòa và không muốn nâng đỡ ông ta.
Cú thực sự táo bạo nằm ở một hành động khác. Đó là việc lẽ ra thay Odile Barrot bằng một trong những thủ lĩnh của Đảng Trật tự Xã hội thì Tổng thống lại gọi đến một người ở vị trí thứ yếu, đó là tướng Hautpoul. Ngày 31/10/1849, Hautpoul (với sự trợ giúp đắc lực của một người đầy quỷ kế tên là Morny, em cùng mẹ khác cha của Tổng thống ) đã thành lập cho Tổng thống Bộ của những quan chức cấp cao.
Từ đó, Tổng thống nền Cộng hòa thực sự điều hành theo một chính sách riêng của mình. ******************************* Tổng thống của tầng lớp bình dân, Quốc hội của tầng lớp quí tộc
Từ ngày Louis-Napoléon thành lập Bộ của những quan chức cấp cao tận tụy với mình (sau này còn thêm những người khác), thì hai đường lối chính trị được tạo ra tồn tại song song, đi theo hai đường hướng khác nhau và không có mục đích chung.
Chính sách của Quốc hội là chính sách của phe cánh hữu, thực sự mang tính phản động nhằm mục tiêu bảo tồn phân cấp xã hội và buộc dân chúng phải phục tùng.
Chính sách này đã làm tiền đề cho sự ra đời của hai bộ luật đặc trưng: Luật Falloux ngày 15/3/1850, theo đó tăng lữ được quyền tự do giảng dạy và nắm quyền kiểm soát cao nhất trong bộ máy giáo dục của nhà nước; và luật ngày 31/5/1850, để đáp lại việc bầu nhà tiểu thuyết Eugène Sue vào ghế nghị sĩ phe Xã hội, đã quyết định “sửa đổi hình thức phổ thông đầu phiếu”.
Những người phản chính trị (những người thuộc cánh tả) và tất cả những ai không có một chỗ ở ổn định ít nhất trong ba năm (đa số là công nhân, thời đó họ thường xuyên phải thay đổi chỗ ở) sẽ không được tham gia bỏ phiếu.
Tổng thống thông qua những biện pháp này mà không ngờ vực gì, tuy nhiên ông để Quốc hội gánh trách nhiệm và chịu tiếng không mang tính quần chúng từ việc ra hai bộ luật này. Thật vậy, chúng ta thấy rằng ông đã không sử dụng quyền được qui định trong hiến pháp theo đó ông có quyền cùng với các nghị sĩ thực hiện những thay đổi nhỏ với những luật quá phản động; ông cũng không sử dụng quyền đòi hỏi phải xem xét lại những luật này.
Đó là bởi chính sách riêng của Quân vương - Tổng thống được đi theo một hướng hoàn toàn khác. Chính sách đó nhằm mục tiêu thiết lập trước hết trong nước một “đảng của Tổng thống” và sau đó buộc Đảng Trật tự Xã hội duy trì quyền lực của Tổng thống và Tổng thống sẽ không bị ngay lập tức bầu lại sau khi hết nhiệm kỳ 4 năm. Trong phạm vi nước Pháp, việc này không quá khó vì ông đi lại rất nhiều. Trong những lần đó ông không bỏ lỡ một dịp nào để nói trực tiếp với công chúng về sự quan tâm, lo lắng chân thành của ông đối với họ, không qua các Đại biểu quốc hội.
Bằng cách đó, một hình ảnh mới về vị Tổng thống đã được dựng lên: một người gần gũi với quần chúng, quan tâm đến các vấn đề của họ, tách biệt với Quốc hội của những thân hào quyền thế vốn phản động và thù nghịch với mọi hoạt động của quần chúng. Tuy nhiên, Quốc hội cũng không non nớt đến nỗi không nhận ra chính sách đó.
Nhưng để chống lại ông, họ lại không thể đưa ra một đề nghị thay thế do chính những mâu thuẫn nặng nề giữa các phe phái trong Đảng Trật tự Xã hội. ******************************
“Vương quyền đã được thiết lập!”
Đa số thành viên Đảng Trật tự Xã hội đang bị ru ngủ trong sự an toàn giả tạo từ những lời đảm bảo của Tướng Changarnier, người được cử làm chỉ huy đội quân ở Paris và nắm giữ toàn bộ lực lượng quân sự của thủ đô. Vào thời gian Quốc hội Hợp hiến, ông đã không ngừng đề nghị cùng Quân vương thực hiện đảo chính tái thiết Vương quyền.
Do vấp phải sự từ chối của Tổng thống, người lúc đó không muốn đồng loã với một nhân vật nhiều quyền lực và thiếu tin cẩn, nên Changarnier đã ra mặt chống lại Tổng thống và tuyên bố với đa số rằng ông đủ mạnh để một ngày hạ gục Louis-Bonaparte.
Đầu năm 1851, ta có thể thấy rằng trong nước Pháp có một sự chia rẽ ý kiến nghiêm trọng, một bên cho rằng Tổng thống là người rất quần chúng, bên kia cho rằng ông ta bị cô lập về mặt chính trị. Tuy nhiên, đây sẽ là năm đánh dấu những ảnh hưởng qua lại giữa Tổng thống và Quốc hội. Và những mâu thuẫn đó sẽ kết thúc bằng cuộc đảo chính của Tổng thống, chính thức đặt dấu chấm hết cho một nền Cộng hòa mới được thử nghiệm.
Sự có mặt của Tướng Changarnier đứng đầu các lực lượng quân sự ở thủ đô gây một mối nguy hiểm thường trực đến Tổng thống. Nhưng rất khó để thoát khỏi vị tướng-nghị sĩ hùng mạnh và vốn có sự ủng hộ mạnh mẽ từ đa số Nghị sĩ quốc hội này. Chính vì vậy, Louis-Napoléon đã hành động với một sự thận trọng mềm mỏng và nham hiểm. Ông chậm rãi rình những sai lầm của Changarnier, đợi cho đến lúc ông này tự vướng vào rắc rối để rồi sẽ thoát khỏi ông ta một cách an toàn.
Tháng 10/1850, Quân vương-Tổng thống đi kiểm tra hàng ngũ duyệt binh ở trại Satory. Bộ trưởng chiến tranh, Tướng Hautpoul, đã thông báo rằng Tổng thống sẽ đón nhận với ân huệ chiếu cố sự tung hô của quân đội. Nhưng Changarnier đã ra lệnh cấm mọi lời tung hô đón tiếp với lí do trái nguyên tắc quân sự. Các sĩ quan dưới quyền, tuỳ vào việc nghe theo Hautpoul hay Changarnier đã cho phép hoặc cấm quân sĩ của mình tung hô đón tiếp Tổng thống. Ngày hôm đó người ta đã nghe thấy những tiếng hô “Napoléon muôn năm” và cả “Hoàng đế muôn năm!”.
Sự đối đầu chính thức được mở ra giữa Tổng thống và Quốc hội. Changarnier chuẩn bị một âm mưu thực sự để lật đổ Tổng thống. Về phía mình, Tổng thống nghĩ đến việc cách chức Changarnier. Nhưng cuối cùng cả hai đều lưỡng lự. Tổng thống ra lệnh thuyên chuyển trợ lý của Changarnier, Tướng Neumayer, người đã ra lệnh cho binh sĩ không được tung hô chào đón Tổng thống. Changarnier phản ứng lại bằng một nhật lệnh trong đó ông viện dẫn rằng quân lệnh cấm binh sĩ có những hành động biểu tình.
Tổng thống nuốt nỗi nhục này một cách bình tĩnh. Nhưng đầu năm 1851, ông ta đột nhiên ra lệnh cách chức Changarnier. Phe đa số trong Quốc hội mất quá nhiều thời gian để tìm ra cách trả đũa và ngập trong một biển lớn những cuộc tranh luận để rồi kết thúc bằng cách phản ứng không gì khác ngoài một bài phát biểu hùng hồn của Thiers: “Hiện nay nhà nước có chỉ hai quyền lực, quyền hành pháp và quyền lập pháp. Nếu Quốc hội nhường một bước ngày hôm nay […] thì chỉ còn một […] việc phải đến sẽ đến […] Vương quyền đã được thiết lập!”
Vậy là Quốc hội đã chịu nhường bước. Rút gươm ra khỏi phe đa số tại Quốc hội, vị Quân vương - Tổng thống đã phó mặc họ tự khu xử.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:13:33 GMT 9
“Tôi chỉ thấy một sự trì trệ”
Tuy nhiên, vị Quân vương - Tổng thống dự tính giải quyết mâu thuẫn giữa ông và phe đa số trong Quốc hội một cách hòa bình. Có thể do ông nghĩ rằng mọi diễn biến xung quanh đều đang thuận lợi.
Thật vậy, từ khắp đất nước đều có những dấu hiệu củng cố cho điều này: phe Dân chủ - Xã hội, Cộng hòa cấp tiến không ngừng đạt được những tiến bộ trong chiến dịch bầu cử bất chấp những cố gắng của các Tỉnh trưởng vốn được trang bị những đặc quyền qui định từ những bộ luật năm 1849.
Khẩu hiệu và tuyên truyền rộng khắp đã giúp họ giành kết quả trong những chiến dịch tranh cử, giống như chiến dịch tranh cử đã mang lại đa số ghế trong Quốc hội lập hiến cho Đảng Trật tự Xã hội năm 1849. Và sẽ là hợp lý khi cho rằng chiến dịch bầu cử năm 1852 này sẽ mang lại cho họ đa số trong Quốc hội dù rằng luật phổ thông đầu phiếu chặt chẽ hơn. Như vậy, mọi thành tựu của Đảng Trật tự Xã hội từ năm 1848 có nguy cơ sẽ bị xem xét lại.
Lo lắng như vậy nên vị Quân vương-Tổng thống hành động một cách khéo léo. Nếu chiến dịch bầu cử có nguy cơ đảo lộn phe đa số trong Quốc hội thì theo qui định của Hiến pháp, ông sẽ phải kết thúc nhiệm kỳ của mình mà không thể tái tranh cử. Vậy phải tránh nguy cơ nào? Hiểu rất rõ điều này và ý thức được vị thế của mình trong lòng người dân Pháp nên Louis-Napoléon tuyên bố rằng để trật tự được duy trì trong khi diễn ra cuộc bầu cử vào năm 1852, Quốc hội hủy bỏ điều lệ hiến pháp qui định Tổng thống không được tái tranh cử trước thời hạn 4 năm.
Nhưng sẽ không có gì được hợp pháp khi không được Quốc hội thông qua. Ngay trong Quốc hội, nhiều người thuộc phe đa số dù không có cảm tình đặc biệt gì với Louis - Napoléon cũng thừa nhận rằng đòi hỏi của ông không phải không có lý. Hơn nữa, Tổng thống không chỉ dừng lại ở việc nói lý lẽ mà ông còn sử dụng cả biện pháp đe dọa. Nếu Quốc hội không chịu khuất phục, ông có thể sẽ kêu gọi sự ủng hộ của dân chúng.
Trong bài diễn văn tại Lyon vào tháng 6-1851, ông đã đập tan chính sách phản động của Quốc hội: “Từ ba năm nay, người ta có thể nhận thấy rằng tôi chỉ đứng hàng thứ yếu mỗi khi phải tổ chức trấn áp ổn định trật tự bằng các phương pháp đàn áp bạo lực. Nhưng mỗi khi tôi muốn làm điều tốt đẹp, thực hiện thuế đất, áp dụng những giải pháp để cải thiện số phận người dân thì tôi chỉ gặp phải một sự trì trệ”.
Và khi nói bóng gió đến cuộc tranh luận tới của Quốc hội về việc sửa đổi Hiến pháp, ông đã kết luận bằng lời đe dọa rõ ràng: “Nếu người dân Pháp nhận thấy rằng người ta không có quyền quyết định số phận của họ mà không tính đến họ thì chỉ cần nói ra điều đó; tôi có đủ dũng cảm và nghị lực dành cho họ”.
Nhưng để sửa đổi Hiến pháp có hiệu lực cần có sự đồng ý của ba phần tư Đại biểu quốc hội, cho dù họ đồng ý vì sợ hãi hay do thực sự tin tưởng. Ngày 19-7-1851, khi kiểm phiếu, có 446 Nghị sĩ đồng ý sửa đổi, 278 phản đối. Như vậy còn thiếu 100 phiếu thuận nữa để có đa số. Louis - Napoléon đã sẵn sàng thực hiện cuộc đảo chính. *********************** Một Tổng thống dân chủ, một Quốc hội phản động?
Để thực hiện cuộc đảo chính như trù tính, Tổng thống có thể sử dụng vô số kinh nghiệm về mưu phản mà ông tích luỹ được trong suốt thời tuổi trẻ của mình. Ông biết rõ rằng không được xem nhẹ bất cứ yếu tố chuẩn bị nào, cả về quân sự cũng như tâm lí.
Sau khi Quốc hội từ chối thông qua sửa đổi Hiến pháp, không còn ai nghi ngờ khả năng Tổng thống sẽ kêu gọi sự ủng hộ của dân chúng nhưng Quốc hội vẫn không có khả năng thoát khỏi sự ì trệ của mình.
Vả lại nếu muốn thì họ sẽ dựa vào đâu? Vào dân chúng chăng? chính sách phản động của họ đã đẩy họ xa rời dân chúng. Hơn nữa, Louis - Napoléon, sau khi để họ tự khôi phục lại đã dùng mọi cố gắng để cắt đứt mối quan hệ của Quốc hội với dân chúng và không bỏ lỡ cơ hội nào để làm mất uy tín của các Nghị sĩ quốc hội.
Tháng 10-1851, Quân vương - Tổng thống đã đề nghị Quốc hội bãi bỏ luật ngày 31 tháng 5 năm 1850, nghĩa là khôi phục lại quyền bầu cử cho tất cả mọi người dân. Dù nhận thức được tình hình nhưng Quốc hội vẫn không thể xoay chuyển gì được. Và ngày 12/12, chỉ với 7 phiếu đa số, họ đã từ chối bãi bỏ luật này.
Với người dân cả nước, sự thể đã rõ ràng: Tổng thống là người dân chủ và Quốc hội thì phản động. Quốc hội liệu chí ít cũng có thể nhờ cậy vào quân đội, người bảo vệ trung thành truyền thống của bộ máy cầm quyền? Changarnier tuyên bố rằng ông ta có thể dẫn dắt quân đội đến bất kỳ đâu mà ông ta muốn. Nhưng Quốc hội bắt đầu nghi ngờ những lời khoác lác của ông ta.
Tháng 11-1851, Quốc hội thảo luận dự thảo luật theo đó cho phép Chủ tịch quốc hội quyền triệu tập quân đội trong trường hợp cần thiết. Một dự thảo luật gây nguy hiểm cho Tổng thống đến mức mà ông đã trù tính phải thúc đẩy nhanh mọi việc trong trường hợp dự thảo luật này được thông qua. Thorigny, Bộ trưởng thân cận Tổng thống không lưỡng lự cảnh báo với Quốc hội rằng Chính phủ của ông đã “sẵn sàng cho bất cứ việc gì”.
Lời đe dọa này đã phát huy tác dụng. Quốc hội do quá lo sợ một cuộc chính biến sẽ xảy ra ngay tức thì nên đành hủy bỏ dự thảo luật và như vậy tự tước bỏ biện pháp bảo vệ chính mình. Khi Quốc hội làm những việc chứng tỏ sự bất lực của mình thì Tổng thống tiến hành chuẩn bị cho cuộc đảo chính.
Ông sử dụng vị trí “nhạc trưởng” đối với người anh em cùng cha khác mẹ của mình, Bá tước Morny, một người nổi tiếng là máu lạnh và thẳng tay. Tập hợp quanh ông ta là một bộ tham mưu mà thành phần không thể thiếu là Persigny, Rouher, người tỉnh Orléan vốn thân cận với Quân vương và nắm nhiều vị trí trong bộ và cảnh sát trưởng Cartier.
Thêm vào những nhân vật ít mang tính đại diện đó cần phải có những người chủ chốt. Tổng thống không phải không biết rằng một số đông thành viên Đảng Trật tự Xã hội sẽ liên kết với ông nếu cuộc đảo chính thành công. Nhưng ông chỉ có thể dùng đến họ để hoàn tất cuộc chính biến mà thôi.
Điều mà ông cần đó là những người của quân đội. Trong năm 1851, Tổng thống đã tìm kiếm những người này và đặt họ vào những vị trí chủ chốt. Đó là Magnan, một trong những người đồng mưu cũ của ông trong sự kiện Boulogne trước đây, một sĩ quan nghèo túng và nợ chồng chất, được giao việc chỉ huy quân đội ở Paris.
Tướng De Saint-Arnaud, người vừa ghi dấu ở Châu Phi, người nổi tiếng là sẵn sàng thực hiện mọi phiêu lưu để thành công, được giao chức Bộ trưởng chiến tranh. Mọi nhân tố đã được sắp đặt sẵn sàng. Ngày 2-12-1851, kỉ niệm ngày lên ngôi của Napoléon đệ Nhất và kỉ niệm chiến thắng Austerlitz, Quân vương - Tổng thống sẽ chuyển sang bước thực hiện đảo chính. ******************** Cuộc đảo chính ngày 2-9-1851
Tối ngày 2-12, Tổng thống tổ chức một buổi tiệc long trọng tại Điện Élysée. Khoảng 11 giờ đêm, ông rút vào phòng làm việc của mình và gặp gỡ những người đồng mưu chủ chốt. Tại đây, mỗi người xem xét lại những việc mình phải làm trong cuộc đảo chính.
Khoảng nửa đêm, Maupas, cảnh sát trưởng mới đã cho bắt 78 nhân vật được cho là có thể là những người chủ chốt kháng trả cuộc đảo chính: Tướng Changarnier và Cavaignac, Nghị sĩ Thiers có mặt trong số đó. Khắp Paris, người ta cho dán áp-phích báo cho dân chúng biết Louis-Napoléon thực hiện cuộc đảo chính chủ yếu nhằm chống lại một Quốc hội không thuộc về người dân:
“Nhân danh dân chúng Pháp, Tổng thống ra sắc lệnh:
Điều 1. - Giải tán Quốc hội.
Điều 2. - Thiết lập lại hình thức bầu cử phổ thông đầu phiếu. Bãi bỏ luật 31/5.
Điều 3. - Toàn bộ người dân Pháp được triệu tập đến các đại hội tuyển cử từ ngày 14 đến 21 tháng Mười hai tới”.
Người dân Paris đón nhận tin về cuộc đảo chính không một chút xúc động. Họ thậm chí còn biểu lộ sự hài lòng khi biết rằng một vài Nghị sĩ tham gia cuộc đàn áp Những ngày tháng Sáu đã bị bắt giam. Một vài kháng cự lẻ tẻ của nghị sĩ Cộng hòa không kéo dài được bao lâu, người dân từ chối tham chiến cho một nền Cộng hòa vốn đã trở nên xa lạ với họ từ sự kiện Những ngày tháng Sáu.
Hơn nữa, ngày 4-12, trên một số đại lộ, quân đội đã bắn vào đám đông khi thấy xuất hiện những tiếng kêu chống đối. Phản ứng mạnh mẽ này tương phản rõ rệt với thái độ bị động của người dân Paris đến mức người ta tự hỏi liệu đây có phải là một hành động hăm dọa do Morny quyết định một cách lạnh lùng để trấn áp mọi phản kháng có thể xảy ra tiếp theo. Tại các tỉnh, một số phong trào phản kháng diễn ra mạnh và nguy hiểm hơn tại vùng núi Massif Central và vùng Tây Nam. Tại những nơi đó, quân đội cũng lập tức trấn áp.
Ngày 21-12-1851, theo hình thức phổ thông đầu phiếu, người dân đã bỏ phiếu thừa nhận cuộc đảo chính với 7,5 triệu phiếu thuận, 650000 phiếu chống, và từ đó trao quyền thành lập Hiến pháp mới cho Tổng thống. Hiến pháp này đảm bảo cho Louis-Napoléon Bonaparte, Tổng thống trong 10 năm, có quyền lực thực sự và ngay sau đó, ông chỉ việc thay cách gọi Tổng thống bằng Hoàng đế để bản Hiến pháp đó trở thành bản Hiến pháp của Đế chế II.
Ngày 2-12 đánh dấu nền Cộng hòa đệ Nhị bị chính vị Tổng thống Cộng hòa đầu tiên bóp nghẹt! Trong suốt cuộc đọ sức giữa ông và những người được bầu là đại diện dân tộc, Tổng thống luôn thể hiện là người được bầu ra qua hình thức phổ thông đầu phiếu ngày 10-12-1848, chủ yếu là nhờ vào danh phận của ông, để rồi một năm sau đó ông làm phân tán hơn 700 Nghị sĩ Quốc hội. Hai mươi năm sau, những nhà sáng lập nền Cộng hòa đệ Tam vẫn sẽ còn rút ra từ kinh nghiệm này bài học về sự thận trọng sâu sắc trong bầu cử Tổng thống theo hình thức phổ thông đầu phiếu và trong việc chọn Tổng thống là người do giới quí tộc thế bầu ra.
Nhưng nếu nền Cộng hòa đệ Nhị đã phải chịu khuất phục trước vị Tổng thống của mình, người được củng cố sức mạnh hơn nữa qua phổ thông đầu phiếu thì nó lại bị diệt vong do chính những lỗi lầm nội tại. Ngay từ cuộc Cách mạng tháng Hai, nó đã cho thấy sự bất tin của nền Cộng hòa vào dân chúng lớn đến mức nào.
Khi thực hiện cuộc tàn sát Những ngày tháng Sáu, nền Cộng hòa đã đã chính thức tự cắt đứt mối liên hệ với quần chúng, mà đó lại là chỗ dựa vững chắc cơ bản cho chế độ Cộng hòa. Từ đó trở đi, nền Cộng hòa bị phó mặc cho một kẻ tham vọng. Sự ngẫu nhiên muốn rằng con người này, vốn là người thừa kế của dòng họ trị vì sẽ được bầu làm Tổng thống nhờ vào ân huệ của một trong những đảng phái mạnh nhất.
Nhưng Tổng thống, người không khéo léo, không nổi tiếng và không được dân chúng biết đến nhiều như một Changarnier hay một Cavaignac lại không đời nào bỏ lỡ cơ hội giành lấy một nền Cộng hòa không có khả năng phòng vệ. Thêm nữa, trong mọi tình huống, nhân dân, lực lượng duy nhất có thể chống lại quân đội lại không cảm thấy có liên quan đến những tính toán lợi lộc đang gây đối đầu giữa những kẻ gây ra cuộc đàn áp Những ngày tháng Sáu.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:14:38 GMT 9
Ngài Thiers, tổng thống nghịch lý cho nền cộng hòa lâm thời
Ngày 17-2-1871, tại Nhà hát lớn của Bordeaux, trang trí theo phong cách thế kỉ XVIII, Quốc hội, mới được bầu ra trước đó ít ngày trong hoàn cảnh nước Pháp bị quân Phổ chiếm đóng đã bầu Adolphe Thiers là “người đứng đầu cơ quan hành pháp của Cộng hòa Pháp”.
Do các Nghị sĩ Cộng hòa tại Paris thành lập ngày 4-9-1870 tiếp sau tuyên bố thất thủ tại Sedan và tuyên bố cầm tù Napoléon III, nền Cộng hòa lúc đó chỉ là một chế độ lâm thời. Ngày 31-8 cùng năm, theo yêu cầu của Thiers, Quốc hội đã trao cho ông danh hiệu “Tổng thống nước Cộng hòa” thay vì cách gọi “Trưởng phụ trách hay Người đứng đầu” (cách gọi mà theo ông là không xứng đáng với vị trí của ông vì nó giống cách gọi dành cho người bếp trưởng).
Xét về hình thức, mọi việc có vẻ rõ ràng. Nhưng trong thực tế thì vẫn còn đầy những điểm mập mờ, nước đôi. Nước Cộng hòa chỉ là cái tên tạm thời cho một thể chế chưa định hình. Cuộc bầu cử tháng 2-1871 diễn ra xung quanh sự lựa chọn chủ hòa hay chủ chiến. Cử tri đã lựa chọn chủ yếu những người theo phái Bảo hoàng hoặc phái Bonaparte, những người chủ hòa và gạt bỏ những người phái Cộng hòa mà một bộ phận nhỏ do Gambetta đứng đầu bảo vệ đến cùng chính sách chủ chiến.
Trong hoàn cảnh ra đời như vậy, đa số Quốc hội là phe bảo hoàng, những người chỉ có duy nhất một suy nghĩ là khôi phục chế độ Quân chủ và Adolphe Thiers được coi là một người trung thành của những hoàng tử Orléans. Tuy vậy, Quốc hội quân chủ này, phần lớn nhờ vào những động thái của cá nhân Adolphe Thiers lại sẽ xây dựng được một chế độ Cộng hòa ổn định nhất kể từ trước tới thời điểm đó, một chế độ mà tuổi thọ đáng kể của nó đã đáng được coi như một ngoại lệ thực sự của nước Pháp kể từ khi chế độ Quân chủ chuyên chế sụp đổ.
Một quá khứ quân chủ
Tháng 9-1821, Adolphe Thiers, một luật sư 24 tuổi đã “khăn gói” lên Paris tạo lập sự nghiệp. Vốn là đứa con ngoài giá thú trong một gia đình tiểu tư sản, từ bé Thiers đã mang nặng mặc cảm về thân phận mình trong một xã hội quí tộc thời Phục hưng. Anh đã có được một học bổng cho phép theo đuổi con đường học hành.
Khi đến Paris, anh nhận thấy rằng con đường duy nhất có thể dẫn anh đến thành công là chính trường, trong hàng ngũ những người thuộc Đảng Tự do, một đảng mang đậm dấu ấn những tư tưởng thời cách mạng 1789 đang đấu tranh chống lại sự phục hưng chế độ Quân chủ và bảo vệ quyền lợi giai cấp tư sản. Khi còn làm báo, anh đã là biên tập viên tờ Constitutionnel (Lập hiến) và đã tạo lập danh tiếng của mình trong giới tự do khi cho xuất bản cuốn Lịch sử Cách mạng Pháp năm 1827.
Năm 1830, dưới sự che chở của Talleyrand, cùng với Carrel và Mignet, Thiers đã thành lập tờ Le National (Quốc gia) tuyên truyền cho Công tước Orléans, anh họ của vua Charles X, người làm ra vẻ một hoàng tử tư sản chấp nhận di sản thời Cách mạng. Thiers giữ vị trí chủ chốt trong cuộc cách mạng 1830.
Đầu tiên, ông đã thảo lời phản đối của báo giới Paris chống lại những mệnh lệnh của phe Bảo hoàng đòi xem xét lại các quyền tự do qui định trong Hiến chương năm 1815, đòi giải tán Nghị viện, tước bỏ quyền bầu cử của tầng lớp tư sản buôn bán. Tiếp theo ông vận động cho việc cử Công tước Orléans làm Quan phụ chính và sau lên ngôi dưới tên Louis-Philippe đệ Nhất.
Dưới thời Quân chủ tháng Bảy, Thiers là một nhân vật quan trọng hàng đầu. Cố vấn chính phủ, Nghị sĩ vùng Aix-en-Provence, ngay sau đó là Phó tổng trưởng phụ trách tài chính và là Bộ trưởng Bộ Nội vụ năm 1832 và từ năm 1834 đến 1836 đó là những chức vụ mà khi đảm nhiệm ông luôn đảm bảo theo sát cả phe Cộng hòa lẫn phe chính thống.
Năm 1836 ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; năm 1840, ông đã bị mất quyền do có chính sách hiếu chiến với Anh quốc, một đối thủ cạnh tranh của Pháp tại Ai Cập. Vua và các Nghị sĩ đã lo lắng về chính sách hiếu chiến này. Hơn nữa, Louis-Philippe, do rất hám quyền lực không thể chấp nhận Thiers, người mang học thuyết hình thành thời Phục hưng chủ trương “vua lên ngôi nhưng không thực thống trị”.
Và vì vậy, từ năm 1840 đến 1848, dưới danh nghĩa điều hành của Thống chế Soult, người gọi Thiers là “một tên quèn”, chính là Guizot đã điều hành đất nước cùng với sự kết hợp hoàn hảo của nhà vua, người vốn có đồng quan điểm chính trị với ông. Tuy nhiên, Thiers cố nén giận và nuôi mối hận với Louis-Philippe và Guizot.
Một thời gian sau, ông mới trả thù: Ngày 23-2-1848, khi cuộc nổi dậy lan khắp Paris, Louis-Philippe đã đề nghị Thiers giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và chấp nhận, dù không, muốn việc bổ nhiệm những Bộ trưởng khác theo ý của Thiers. Tuy nhiên, nhà vua đã từ chối bản kế hoạch của Thiers mà sau này đã được Thiers dùng lại vào năm 1871: cho quân đội và cơ quan quyền lực công sơ tán khỏi Paris, trao thủ đô cho phía nổi dậy để sau đó chiếm lại bằng quân đội và để tránh cạm bẫy của công sự mà quân nổi dậy dựng lên trên đường phố. Sự thoái vị của nhà vua đã lấy đi quyền lực có được muộn màng của Thiers. Nhưng sự nghiệp chính trị của ông vẫn còn rất dài. ****************************** Đàm phán khó khăn với nước Đức chiến thắng
Nền Cộng hòa đệ Nhị được thành lập, những biến động xã hội trong những tuần đầu tiên tạo cơ hội cho Thiers trở lại vị trí hàng đầu trên chính trường. Sau việc đàn áp đẫm máu những cuộc biểu tình Những ngày tháng Sáu, ông trở thành một trong những người có uy quyền nhất của Ủy ban đường phố ở tỉnh Poitiers, nơi có mặt những thủ lĩnh của Đảng Trật tự Xã hội.
Ông thuộc hàng ngũ những người bảo thủ chống lại nền Cộng hòa xã hội và giữ vai trò chủ chốt trong việc lựa chọn Louis-Napoléon Bonaparte làm ứng cử viên của Đảng Trật tự Xã hội vào ghế Tổng thống nước Cộng hòa.
Ông đã nghĩ rằng sự non yếu của vị quân vương này sẽ tạo điều kiện dễ dàng để biến ông ta trở thành món đồ chơi trong tay mình. Nhưng ông đã phải nhanh chóng xuống nước. Ngay từ cuối năm 1849, ông đã cắt đứt quan hệ và trở thành đối đầu với Tổng thống. Sự chống đối này mạnh đến mức vào cuộc đảo chính năm 1851, ông đã bị bắt và phải lưu vong tại Thụy Sĩ.
Nhờ có lệnh ân xá, ông đã được trở lại nước Pháp và không tham gia đời sống chính trị cho đến năm 1863, khi ông được bầu là đại biểu quốc hội của phe đối lập tự do tại Paris. Một năm sau đó, ông đọc trước bộ máy lập pháp bài phát biểu gây tiếng vang lẫy lừng về “những quyền tự do thiết yếu” và nó đã trở thành Hiến chương của chủ nghĩa tự do chống lại chủ nghĩa độc tài quân phiệt Bonaparte.
Sau sự việc này, ông đã tập hợp được sau mình những người theo chủ nghĩa quân chủ và những người Cộng hòa trung lập. Là người phản đối quyết liệt đường lối chính sách của vương triều, ông đã phê phán không thương tiếc chính sách đối ngoại của Napoléon III. Ông lên án cuộc viễn chinh Mexico, chống lại việc ủng hộ quân Phổ trong cuộc chiến Áo-Phổ và nhất là việc tuyên chiến với quân Phổ năm 1870.
Sự phản đối cuối cùng này đã tạo nên những làn sóng hận thù dồn dập đổ lên người ông trong không khí sô-vanh sục sôi vào thời gian đó tại Pháp. Ba tuần sau, thất bại tại Sedan đã tạo lý lẽ hậu nghiệm cho ông. Được đánh giá là nhà tiên tri trên chính trường, sự sáng suốt và đầu óc thực tế của ông được xem như phẩm chất của một nhà lãnh đạo có năng lực, tháng 2/1871, ông được 26 tỉnh bầu làm Đại biểu tại Quốc hội và chỉ vài ngày sau đó là Tổng thống của nước Cộng hòa lâm thời thành lập ngày 4/9 tại Paris.
Cách thức mà Thiers chủ trương lãnh đạo đất nước gây những lo ngại đầu tiên cho những đại biểu quân chủ trong Quốc hội và họ đặt câu hỏi về quan điểm chính trị thực sự của Thiers. Họ đã ngạc nhiên khi nhận thấy rằng rất nhiều các Bộ trưởng là người của phe Cộng hòa (Jules Favre, Jules Simon và Ernest Picard), đó là chưa kể đến 2 sĩ quan thuộc bộ Chiến tranh và Hải quân cũng là những người theo tư tưởng Cộng hòa.
Phe đa số của Quốc hội chỉ cảm thấy thực sự được đại diện qua sự có mặt của Nam tước Larcy, liệu hai người vùng Orléans liệu có thể được coi là những người bảo hoàng không khi họ được nhận xét là trung thành với Thiers hơn là với những hoàng tử Orléans? Có phải Bộ trưởng tài chính Pouyer-Quertier được đánh giá là có khả năng trở thành người Cộng hòa dưới chế độ Cộng hòa hoặc người quân chủ dưới chế độ Quân chủ hơn là một người theo Bonaparte? Quốc hội nhăn trán suy nghĩ, nhưng làm gì để chống lại Thiers khi ông chính là người đang rời Bordeaux để đi đàm phán hòa bình với Hoàng tử của Bismarck?
Thật vậy, những cuộc thương thuyết đã bắt đầu từ ngày 21-2. Dù có mặt Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Jules Favre, Thiers vẫn là người trực tiếp đàm phán. Từng bước và bướng bỉnh, dù biết rằng mình không có phương thức gì để chống lại kẻ chiến thắng, ông vẫn cố gắng nhân nhượng ít nhất có thể được.
Ông biết rằng Alsace đã mất rồi thì trận đánh ở Metz chỉ là tượng trưng. Mọi cố gắng nỗ lực đàm phán sẽ dành cho Belfort, tỉnh chỉ bị mất sau đình chiến và người dân Pháp nhìn đó như một biểu tượng cho ý chí chiến đấu của dân tộc. Nhưng cố gắng chủ yếu vẫn là về vấn đề bồi thường chiến tranh. Vốn là nhà tư sản dè xẻn, ông đấu tranh để có thể giảm thiểu khoản bồi thường này với lí lẽ rất đặc trưng của mình: “Các tỉnh đã mất chúng ta có thể giành lại lúc này hay lúc khác nhưng hàng tỷ quan ra đi sẽ không bao giờ trở lại”.
Về hai điểm này, đối với người Pháp thì chẳng gì gây mất mát lớn bằng việc mất Alsace Lorraine nhưng đối với Thiers thì điểm đàm phán thứ hai là quan trọng nhất. Thiers có thể khoe khoang là đã đạt được thành công trong đàm phán; để đổi lấy sự hài lòng của quân Phổ được tiến vào Paris trong vài giờ, Bismarck đã để lại Belfort: đối với ông trận chiến sẽ chẳng có nghĩa lí gì nếu để lỡ cơ hội được thấy người dân Paris cảm thấy thế nào khi đối mặt với thực tế này?
Số tiền bồi thường được rút từ 6 tỷ theo mức đề nghị của Bismarck xuống còn 5 tỷ. Khi đó, Thiers nhận được lời đảm bảo của Chủ ngân hàng Alphonse de Rosthschild rằng nước Pháp hoàn toàn có thể trả khoản tiền này nếu Nhà nước phát hành công trái. Còn đối với những điều khoản khác thì Thiers chấp nhận một cách không thoải mái: quân Phổ sẽ ở lại Pháp cho đến khi khoản bồi thường được thanh toán hết (nhiều nhất là 5 năm), ông định tính sao cho việc này kết thúc nhanh nhất có thể được; còn vấn đề Alsace-Lorraine, đó là cái giá của một cuộc chiến tranh mà việc phát động và thất bại đều do những người khác chịu trách nhiệm chứ không phải ông.
Khi đặt chân đến Bordeaux để đàm phán sáng ngày 28-2, Thiers chỉ có một suy nghĩ: kí kết được hiệp ước hòa bình với quân Phổ nhanh nhất có thể vì ông cho rằng nền hòa bình này là điều tốt nhất mà nước Pháp có thể hi vọng. Với những Đại biểu quốc hội của Alsace và Lorraine phản đối việc thỏa hiệp “đáng xấu hổ” này, Thiers phản bác lại: “Nếu có ai đó phải cảm thấy xấu hổ thì đó chính là những người của tất cả các thời kỳ từ trước tới nay, ở mọi tầng lớp đã phạm những sai lầm dẫn đến tình trạng này”.
Người ta không thể thoát khỏi trách nhiệm một cách hay hơn: Thiers thuận theo thoả ước này vì ông cho rằng người ta không thể qui trách nhiệm cho ông được. Còn lại sự phản đối của những người Cộng hòa không nhân nhượng, ông Gambetta nóng nẩy, ông Hugo có tài hùng biện, ông Edgar Quinet liêm khiết, họ cũng không phải chịu trách nhiệm hơn Thiers về thất bại trước quân Phổ nhưng cũng không chấp nhận thoả hiệp của Thiers.
Đây là một lời kêu gọi hãy sáng suốt và thận trọng trước những kẻ “mị dân”, được nhìn nhận từ phe Bảo thủ trong Quốc hội: “Làm sao các ngài dám nói đến lòng tự trọng trước những người dân này? Sự thật là họ cũng tự trọng không kém các ngài nhưng họ biết đặt nó sang bên để không mạo hiểm mất nước chỉ vì cố bảo vệ cái tính quần chúng sai lầm mà các ngài đang xun xoe ca ngợi ở đây (…Các ngài hãy nghe sự thật; nếu các ngài không muốn nghe và không muốn tin, các ngài có thể ca ngợi tương lai của đất nước nhưng chỉ là vô ích; các ngài sẽ mất nước ngay vào thời điểm mà các ngài đang ca ngợi nó!”).
Quốc hội lắng nghe Thiers và chấp nhận kế hoạch của ông: các Nghị sĩ của Alsace và Lorraine rời phòng họp và thật có lợi cho Thiers vì Gambetta, người đại diện cho vùng Bas-Rhin cũng ra đi cùng họ và mang cùng với ông ra khỏi Quốc hội sự phản đối mạnh mẽ chính sách mà Tổng thống đang theo đuổi cùng với sự ủng hộ của Quốc hội. Theo gương Gambetta, những Nghị sĩ phe Cực tả cũng từ chức.
Thiers ngày càng nhận thấy rằng không ở đâu để phát huy tốt những kế hoạch của ông hơn là một chính thể Cộng hòa. Còn hơn cả với thể chế Quân chủ, chế độ Cộng hòa có thể thỏa mãn cơn khát quyền lực của ông, với điều kiện là nền Cộng hòa đó không bị phe cánh tả thao túng. Được những người ôn hòa ủng hộ, Thiers mơ ước tái lập nền Cộng hòa năm 1848 như của Đảng Trật tự Xã hội, tất nhiên lần này nhất quyết không để xuất hiện một Bonaparte mới nữa. So với trước đây, ông cũng sẽ phải thực hiện việc đàn áp như sự kiện Những ngày tháng Sáu và sẽ phải đàn áp cuộc nổi dậy của dân chúng: ngày 18/3/1871 nổ ra cuộc nổi dậy của Công xã.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:16:39 GMT 9
“Lời nói của một người chính trực”: hiệp ước Bordeaux
Vào thời điểm xảy ra cuộc nổi dậy, người “đứng đầu cơ quan hành pháp” vừa được đảm bảo về sự ủng hộ của một Quốc hội lúc đó đang quan tâm đến vấn đề chọn hình thái chính trị nào. Câu hỏi đầu tiên đặt ra là các cơ quan quyền lực sẽ được đặt ở đâu; Louis Blanc , người theo phe Xã hội đề nghị chuyển Quốc hội về Paris.
Nhưng đề nghị này ngay lập tức bị bác bỏ vì Quốc hội sợ rằng như vậy chẳng khác gì phó mặc số phận của mình cho những cuộc bạo động của dân chúng và luôn phải chịu sức ép đó như những Quốc hội cách mạng trước đây. Đó là điều gây sợ hãi cho những nhà bảo thủ vùng nông thôn lúc đó đang chiếm đa số trong Quốc hội.
Họ muốn chuyển đến một thành phố cách xa Paris và sẽ xây dựng tại đó thủ đô mới, một thủ đô không còn bóng dáng những chiến luỹ trên đường phố của những cuộc nổi dậy, nó sẽ nằm ở trung tâm của nước Pháp nông nghiệp và quân chủ: Bourges, Orléans hoặc ít ra là ở Fontainebleau.
Nhưng Thiers nhìn thấy ở đó mối hiểm họa: tách khỏi dân chúng Paris, đồng nghĩa với việc khuyến khích sự phát triển phong trào ly khai của dân thành thị, từ đó sẽ nảy sinh một thế lực cách mạng mới cạnh tranh do các Nghị sĩ Cộng hòa mới từ chức tại Quốc hội hậu thuẫn. Thiers đã thành công trong việc áp đặt cho Quốc hội một giải pháp trung hạn: dời về Versailles để vừa có thể rút lui an toàn khi có nổi dậy vừa không mất Paris, điều đương nhiên làm các nhà Cộng hòa an tâm.
Một vấn đề khác mà Thiers còn dè dặt, đó là chọn hình thái chính trị nào cho chế độ mới? Ông không đủ tự tin để một lần nữa đối chọi với phe đa số trong Quốc hội; việc tổ chức cơ cấu lại bộ máy nhà nước được đặt ra một cách cấp bách và cần phải tránh sao cho đa số Quốc hội thúc ép ông tái lập chế độ Quân chủ, bởi vì như vậy sẽ buộc ông phải tự lộ mình trước thời điểm dự tính của ông.
Vì vậy, trước khi rời Bordeaux về Versailles, ông đã đề nghị Quốc hội điều mà người ta gọi là “Hiệp định Bordeaux”: “Chúng tôi sẽ chỉ quan tâm đến việc tổ chức lại đất nước… Khi đất nước đã được tổ chức ổn định rồi chúng tôi sẽ đến nói với các ngài rằng: đất nước khi được các ngài giao cho chúng tôi vốn đang cảnh đầu rơi máu chảy, thương vong khắp nơi, chỉ còn thoi thóp sống; nay chúng tôi đã làm nó sống trở lại; bây giờ là thời điểm tạo cho nó một thể chế chính trị ổn định, và tôi hứa với các ngài trên danh dự của tôi là không một vấn đề nào trong số những vấn đề còn phải để lại chưa giải quyết ngay hôm nay lại sẽ bị làm sai lệch đi do sự bất trung thành của chúng tôi”.
Phe đa số mừng rối rít: họ tin rằng một khi đất nước đã thoát khỏi khó khăn thì Thiers sẽ rút lui và để cho một người khác làm công việc tái lập nền Quân chủ. Chắc chắn rằng, nhìn từ một số khía cạnh nào đó, bài phát biểu của Thiers cũng đã gây lo lắng cho họ. Chẳng phải ông đã tuyên bố với phe thiểu số trong Quốc hội: “Nếu chúng ta thành công trong việc tổ chức lại đất nước, nó sẽ được xây dựng theo chế độ Cộng hòa và phục vụ lợi ích của chế độ này?”.
Tuy nhiên, phe đa số do thấy thỏa mãn với lời hứa của Thiers nên đã chấp nhận Hiệp ước Bordeaux. Khi đạt được kết quả duy trì tạm thời chế độ Cộng hòa, Thiers đã tạo được thế mạnh trong cán cân lực lượng: thế mạnh của một sự đã rồi. __________________ “Tôi sẽ không thương xót”: cuộc đàn áp Công xã
Phe đa số của Quốc hội không bận tâm đến tính trung thực của Thiers trong việc giữ lời hứa của ông; họ chỉ mong ông giải thoát họ khỏi mối nguy hiểm cận kề, đó là Công xã.
Người dân Paris, là những người đã chống lại kẻ thù, bảo vệ thủ đô đã coi việc ký kết đình chiến của Bộ Quốc phòng là một sự phản bội. Hiệp ước hòa bình của Thiers cũng không được chào đón gì hơn, nhất là họ không thể chấp nhận việc Chính phủ lại cho phép quân Phổ tiến vào Paris.
Về điểm này, Thiers đã liên tiếp ra những quyết định thiếu khôn ngoan khi ra lệnh hủy bỏ lệnh gia hạn thanh toán nợ, hủy bỏ lương của vệ quốc quân trong khi đó là nguồn sinh kế duy nhất của phần lớn những gia đình người dân Paris.
Bị đẩy đến đường cùng, người dân Paris đã di dời khỏi những quận phía Tây, nơi quân Phổ sẽ tiến vào chiếm đóng, 200 khẩu pháo lấy được trong thời gian vây hãm với lý do là mang cất giấu chúng đến khu bình dân Monmartre và Belleville. Những khẩu pháo này làm giới thương nhân và các chủ nhà băng lo lắng nên họ giục Thiers mau chóng lấy lại chúng để thiết lập lại lòng tin.
Trước tình thế đó, một người như Thiers không thể dửng dưng: ngày 18/3 ông ra lệnh cho một đội quân đi tìm mang về những khẩu pháo này. Ông cho rằng dân chúng sẽ phải khuất phục? Giả thuyết này là huyễn hoặc: kỉ niệm của Những ngày tháng Sáu vẫn còn in đậm trong trí nhớ của ông.
Cũng có thể là bằng cách lặp lại cách xử lý của Đảng Trật tự Xã hội, ông hi vọng tạo ra cuộc nổi dậy mà sau đó ông sẽ đàn áp nó. Và như vậy ông sẽ thoát khỏi quyền cầm cố của “nền Cộng hòa đỏ”, sẽ là người cứu tinh của Đảng Trật tự Xã hội sau khi đã là cứu tinh của nước Pháp, và như vậy sẽ là người duy nhất xứng đáng được giao trọng trách thiết lập chế độ chính trị cho đất nước.
Khi cuộc bạo loạn xảy ra, kế hoạch của ông đã sẵn sàng: đó chính là kế hoạch mà ông đã bị Louis-Philippe từ chối năm 1848. Ông ra lệnh cho quân đội rút khỏi Paris; còn bản thân ông và chính phủ rời thủ đô về Versailles để thành phố lại cho những người nổi dậy. Những người này, nổi dậy do phản ứng vô thức của những người bị đẩy vào đường cùng của nghèo đói và giận dữ vì thua trận đã mau chóng rơi vào thế lưỡng lự.
Những biện pháp “cách mạng” mà họ sử dụng còn rất dè dặt. Khi đã rút về Versailles, Thiers hoàn toàn có thể thực thi ý định “khuất phục Paris” mà ông đặt ra trước khi cuộc nổi dậy xảy đến. Vì thiếu quân nên đây là một cơ hội tốt để yêu cầu Bismarck trả lại những tù binh trong chiến tranh. Với đội quân mới thiết lập này, ông đã ngay lập tức đánh tan ý nghĩ trốn thoát mới manh nha của người dân Paris.
Ngay sau đó, ông bắt đầu thiết lập căn cứ thứ hai tại Paris ngay trong khi nhà riêng cũ của ông tại thủ đô, một số công trình có tính biểu tượng của Paris như cột Vendôme với tượng của Napoléon trên đỉnh vẫn đang bị những người nổi dậy đập phá theo lệnh của Công xã. Ngày 21-5, những đội quân của Tướng Gallifet vào Paris, một cuộc nội chiến không chút thương xót bắt đầu và kéo dài trong một tuần sau đó.
Từ trên đỉnh của Montretout, với chiếc ống nhòm trong tay, Thiers theo dõi những đợt tấn công đầu tiên và trở về Versailles ăn tối một cách vui nhộn. Tuần lễ “đẫm máu” được đánh dấu bằng một loạt các hành động tàn sát dã man: Galliffet ra lệnh cho lính không cần bắt tù binh và số các cuộc hành quyết ngày càng tăng; những người nổi dậy đáp trả bằng việc bắn chết con tin, nhất là các giáo sĩ. “Tôi sẽ không nương tay!” Thiers gào lên, “Chúng sẽ phải đền tội đến nơi đến chốn và luật pháp sẽ không nương nhẹ”.
Sau chiến thắng này, mặc dù Thiers đã có tính toán sẽ kiềm chế những người ủng hộ mình, nhưng ông vẫn ra lệnh hành quyết: hơn 20000 cuộc hành quyết chớp nhoáng diễn ra đã đánh dấu chiến thắng của trật tự xã hội trước “bọn kẻ cướp và bất lương” trong xã hội, một cuộc đàn áp dã man và sự sợ hãi mà nó tạo ra cũng lớn tương xứng. Hòa bình được thiết lập, cuộc nổi dậy bị đè bẹp, Thiers có thể xem như đã hoàn thành những hành động tiền đề cho những dự định của ông.
Tuy nhiên, trước khi bộc lộ rõ ý đồ của mình và đặt ra câu hỏi về chế độ chính trị cần thiết lập, ông còn phải tận dụng quyền lực của mình để thực hiện thành công công cuộc tái thiết mà ông đã cam kết. ***************************** Nền độc tài của Ngài Thiers
Trở thành vị cứu tinh của tầng lớp tư sản, Ngài Thiers cuối cùng cũng có thể tận hưởng niềm vui trọn vẹn khi có một quyền lực không thể chối cãi.
Khi bầu ông làm người đứng đầu bộ máy hành pháp, Quốc hội đang lúng túng không hề nghĩ đến việc hạn chế quyền lực của ông, và Thiers, lóa mắt bởi vầng hào quang từ chiến thắng vừa qua của mình, đã thực thi quyền hành của mình một cách khá độc tài.
Phe Quân chủ, vẫn vừa gây sức ép vừa xun xoe nhằm mong chờ sự tái thiết nền Quân chủ; phe Cộng hòa cư xử một cách nể nang dù biết việc ông đàn áp Công xã vì họ nghĩ rằng trong lời phát biểu của mình, Thiers đã dùng những từ ngữ cho thấy ý muốn duy trì nền Cộng hòa.
Quyền lực của Thiers như vậy được dựng lên trong vị trí nước đôi, nhưng chính cái thế nước đôi này tạo nên sức mạnh cho ông, và chừng nào ông còn duy trì được nó, chừng đó quyền lực của ông còn bền vững. Thiers sử dụng quyền lực đầu tiên vào công cuộc tái thiết mà ông đã cam kết.
Đầu tiên là việc giải phóng những vùng lãnh thổ đã bị mất. Ngay từ năm 1871, đợt công trái đầu tiên được phát hành đã cho phép nước Pháp thanh toán 2 tỷ quan đầu tiên trong khoản nợ bồi thường chiến tranh. Năm 1872, đợt phát hành công trái thứ hai, lần này Thiers đã có thời gian chứng tỏ rằng dưới sự lãnh đạo của chính phủ của ông, trật tự đã được thiết lập.
Tầng lớp tư sản, được trấn an sau vụ đàn áp Công xã, đã chi một khoản tiền gấp 14 lần giá trị đợt phát hành công trái thứ hai. Nhờ đó, nước Pháp đã thanh toán xong khoản nợ 3 tỷ quan còn lại. Điều này đặt ra cho ngành tài chính nhà nước gánh nặng lớn nhưng lại cho phép nhanh chóng giải phóng những vùng đất bị chiếm đóng.
Ngày 15-3-1873, Thiers ký với Đức bản hiệp ước về việc quân Đức rút hoàn toàn khỏi nước Pháp. Song song với công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh đó là việc đảm bảo an ninh trong nước trong tương lai. Sau cuộc tàn sát năm 1870, nhiệm vụ đặt ra bây giờ là cải cách quân đội.
Với hình thức cải cách đưa ra, Thiers đã vấp phải sự phản đối của đa số trong Quốc hội, nhưng cuối cùng ông cũng đã áp đặt được quan điểm của mình: qui định thời hạn nghĩa vụ quân sự bắt buộc là 5 năm, có nhiều trường hợp được miễn. Việc cơ cấu tổ chức lại cơ quan tài chính cũng được đặt ra cấp bách, càng cấp bách hơn sau khi phát hành công trái thành công.
Trong việc này, Thiers cũng đã vấp phải sự phản đối của Quốc hội và một lần nữa ông lại chiến thắng trong việc áp đặt quan điểm của mình. Trong khi Quốc hội đề nghị đánh thuế thu nhập, Thiers, vốn là người đại biểu hoàn hảo của tầng lớp tư sản đã gạt bỏ và buộc Quốc hội thừa nhận rằng những nguồn thu cần thiết sẽ được lấy từ nguồn thuế gián tiếp được áp cho tất cả công dân Pháp nhằm tránh nguy cơ dồn gánh nặng tài chính lên vai những người có thu nhập cao.
Sở dĩ Thiers có thể tiến hành chính sách khá độc tài đó là vì những quyết định của ông cuối cùng đều đi theo tinh thần của chính sách dẫn đến vụ tàn sát Công xã và bởi vì những chính sách đó không thật sự làm tổn thương phe nào thuộc đa số trong Quốc hội. Nhưng đồng thời phe đa số này vẫn gây sức ép để người đứng đầu cơ quan hành pháp phải sớm thiết lập nền Quân chủ. *********************** Tổng thống của một nền Cộng hòa lâm thời
Ngay từ mùa xuân năm 1871, Thiers đã tốn nhiều công sức để đối phó lại sức ép của phe đa số mà không làm lộ kế hoạch của mình, đó là điều tất yếu gây nên sự thất bại của ông.
Đầu tiên là cuộc tranh cãi về tính hợp lệ của việc bầu Công tước Aumale và Joinville, con trai của Louis-Philippe vào ghế Nghị sĩ quốc hội.
Thiers không dám từ chối các hoàng tử Orléans nhưng “ông như đang đi trên dây”, như ông nói với một người thân cận. Vì vậy, để làm hài lòng phe đa số, ông đã bãi bỏ luật cho lưu đày những hoàng tử có gốc gác thuộc về một dòng họ đã trị vì đất nước; và khi đạt được thành công này, ông đã đón vào Vesailles Công tước Aumale, sau đó là người ngấp nghé ngôi vua Orléans, Bá tước Paris do Công tước Broglie hộ tống, người được coi như người lãnh đạo của phe đa số trong Quốc hội, cũng là người mà Thiers không ưa gì.
Làm ra vẻ không nản lòng vì thất bại, Thiers buộc phải làm mặt vui vẻ với những người mà từ hôm đó ông ta coi như kẻ thù. Lại một ông vua nữa! Lại phải thuyết phục trước sự ngập ngừng, không dứt khoát của nhà vua, của các cận thần của ông ta, của gia đình ông ta trong khi Thiers đã có dưới tay mình một Quốc hội hoàn toàn trong khả năng điều khiển của mình! Thay đổi này Thiers không muốn một chút nào. Nhưng phải làm sao để ngăn chặn nó?
Ngay từ tháng 8-1871, Quốc hội, dù vẫn khẳng định sự tin tưởng vào Thiers, cũng đã muốn đề ra những giới hạn trong quyền lực của ông. Ngày 31/8, Quốc hội đã thay đổi tên gọi chức danh của Thiers “Tổng thống nước Cộng hòa”, chức danh này không có ý nghĩa gì vì thực tế nền Cộng hòa vẫn đang chỉ là tạm thời.
Quốc hội vừa cam chịu sử dụng từ ngữ, cách nói đối nghịch vừa thận trọng nhắc rằng Thiers chịu trách nhiệm trước Quốc hội và ông phải thông qua Quốc hội, và sẽ chỉ có Quốc hội được sử dụng quyền lập hiến, biểu tượng chính của quyền tối cao. Rõ ràng là Tổng thống mới, vì cho rằng không Hiến pháp nào hạn chế theo pháp luật khả năng thực thi quyền lực của ông nên đã tự mở rộng quyền lớn nhất có thể được. Cũng bởi vì trong khi chờ đợi tái thiết nền Quân chủ, Quốc hội đã để cơ hội cho Thiers sử dụng danh tiếng và quyền lực của mình để sắp đặt nền Cộng hòa.
Việc khôi phục chế độ Quân chủ gặp nhiều khó khăn. Mọi người đều nhận thấy rằng nó chỉ có thể thực hiện được khi đạt được sau một sự thỏa thuận: bởi vì Bá tước Chambord, người kế vị hợp pháp không có con nên người kế thừa ông ta sẽ là Bá tước Paris, người kế vị thuộc dòng họ Orléans.
Nhưng Chambord lại không mong muốn một sự khôi phục nền Quân chủ một cách mập mờ, không muốn một ngai vàng chỉ mang tính hình thức, và để chứng tỏ những đòi hỏi của mình, ông đã bày tỏ trong một thông cáo khi trở về nước Pháp rằng ông sẽ không chấp nhận bất cứ một điều kiện nào cho việc khôi phục vương quyền. Chính ông sẽ đưa ra các điều kiện của mình và sẽ thực hiện đàm phán với người đứng đầu.
Phe Bảo hoàng rụng rời, phe Cộng hòa mừng rỡ và Thiers cũng thầm tận hưởng niềm vui này. Việc khôi phục vương quyền vì vậy đã bị lùi lại, không ai trong số những người bảo hoàng, trừ một số rất ít những người quá khích cho rằng những điều kiện của Chambord là chấp nhận được. Trong khi phe quân chủ lo tính đến những phương kế gây bất ổn cho nền Cộng hòa lâm thời để đợi đến khi Chambord không còn và dòng tộc Orléans kế vị thì Thiers lo tính đến việc tận dụng sự khủng hoảng này của phe Bảo hoàng để sớm củng cố nền Cộng hòa.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:18:17 GMT 9
Không nên để mất cơ hội tuyên bố sự tồn tại của nền cộng hòa
Cho đến năm 1872, Thiers vẫn làm mọi người nghi ngờ tính chân thật trong nhận định của ông về vấn đề thể chế chính trị. Bằng một cách đưa đẩy khéo léo, ông đã làm hết sức để trấn an tất cả mọi người.
Đối với những người theo phe Bảo hoàng, ông viện dẫn Hiệp định Bordeaux cho phép ông giữ quan điểm trung lập tối đa và căn cứ vào những gì ông đã làm trong quá khứ thì mọi nghi ngờ rằng ông theo chủ nghĩa Cộng hòa đều tan biến.
Đối với những người Cộng hòa, ông đưa ra lời thách thức: “Các ông muốn thử xây dựng nền Cộng hòa một cách chân chính, các ông có lý, cần phải làm một cách chân chính. Không nên giả vờ diễn kịch là ta đang thử xây dựng một thể chế mà thực ra là vẫn ngấm ngầm muốn nó thất bại…”.
Thành thật với tất cả mọi người, nhưng ông Thiers vẫn làm những người quân chủ lo ngại qua những lời tâm sự riêng của ông: “Ngai vàng thì chỉ có một, không thể nào mà ba người cùng ngồi vào đó được” hoặc “Nền Cộng hòa là thể chế nhà nước gây chia rẽ ít nhất giữa chúng ta”.
Ông quên không thêm vào rằng ông cho rằng nền Cộng hòa là thể chế duy nhất có thể thỏa mãn tham vọng vô bờ bến của ông, một thể chế mà ở đó, trước quyền lực của những nghị sĩ đại biểu được bầu luôn là những người thuộc giới tư sản, ông có thể dựng lên cho mình quyền lực của một quân vương mà như đối với Louis-Philippe trước đây, người đó sẽ bị quyến rũ bởi quyền lực cá nhân.
Tháng 11-1872, ông cuối cùng cũng lột mặt nạ khi tuyên bố ủng hộ nền Cộng hòa và đưa ra những nội dung nhằm mục đích thuyết phục tầng lớp tư sản: “Nền Cộng hòa đang tồn tại, nó là chính phủ hợp pháp của đất nước: thiết lập một thể chế khác đồng nghĩa với việc châm ngòi cho một cuộc cách mạng mới và đó là điều nguy hiểm nhất trong những điều nguy hiểm.
Đã đến lúc chúng ta tuyên bố nền Cộng hòa và chúng ta hãy xây dựng một nền Cộng hòa như chúng ta mong muốn như chúng ta thấy cần thiết. Mọi chính phủ đều cần phải bảo thủ (duy trì trật tự xã hội), không một xã hội nào lại có thể tồn tại nếu không có một chính phủ như vậy. Nền Cộng hòa sẽ bảo thủ hoặc sẽ không có nền Cộng hòa”.
Broglie sửng sốt, phe Bảo hoàng coi như Thiers đã phá vỡ hiệp ước Bordeaux. Phe đa số trong Quốc hội quyết định sẽ từ bỏ ông và nhất định sẽ ngăn chặn không cho ông phá hoại thêm. Bởi vì nếu giai cấp tư sản càng nhìn nhận thấy ở ông người cầm đầu cho giai cấp của mình thì phe đa số trong Quốc hội lại càng lo lắng về lý thuyết về tính “bảo thủ” của nền Cộng hòa như Thiers đã từng tuyên bố.
Có vẻ như lý thuyết đó của ông là nhằm thu hút những người Orléans đi theo Thiers vì họ, do đã quá mệt mỏi vì sự tranh cãi giữa những người được quyền kế vị, sẽ sẵn sàng chấp nhận một nền Cộng hòa mang lại cho họ những đảm bảo về trật tự xã hội và chủ nghĩa tự do chính trị. Nhằm ngăn chặn nhanh chóng những động thái đó của Thiers, những người đứng đầu phe đa số trong Quốc hội chọn giải pháp sẽ giữ im lặng để sau đó tước bỏ quyền lực của ông. ******************************** Quốc hội loại bỏ Tổng thống
Sở dĩ Thiers chấp nhận đánh bài ngửa như vậy là vì ông cho rằng Quốc hội sẽ không dám loại bỏ ông do không có được người thay thế vị trí đó.
Đó chính là điều ông nói với Jules Simon vào tháng 3-1873 khi ông này lưu ý với Thiers rằng trách nhiệm của Thiers đã được hoàn thành, ông giờ đây có thể trao trả vị trí mà mình đang ngồi:
- Nhưng họ không có một người nào.
- Họ có thống chế Mac-Mahon.
- Mà với ông này, tôi có thể trả lời rằng ông ta sẽ không bao giờ chấp nhận.
Tuy nhiên, hai ngày trước đó, Quốc hội đã ra quyết định rằng Thiers chỉ có thể liên lạc với Quốc hội bằng thông điệp, còn nếu ông muốn trực tiếp can thiệp thì ông phải báo trước 24 giờ. Thiers phản đối nhưng vô ích, Quốc hội quyết không chịu nhường bước. Từ đó bắt đầu cuộc chạy đua giữa phe đa số trong Quốc hội muốn hi sinh vị Tổng thống và ngài Tổng thống luôn tin tưởng vào vị trí vững chắc và vai trò cần thiết của mình: đó là vì ngày có càng nhiều người trong phe đa số tin theo quan niệm về tính chất của nền Cộng hòa bảo thủ như Thiers đề ra.
Đối với Broglie , thời gian đã rất gấp. Ngày 18-5-1873, trong khi Thiers đang thay thế các Bộ trưởng thuộc phe Quân chủ bằng những đồng minh mới của nền Cộng hòa thì Broglie triệu tập cuộc họp các nhà lãnh đạo của phe đa số trong Quốc hội: ông muốn chỉ ra lợi ích thật sự trong chiến thắng của phe Cộng hòa trong cuộc bầu cử tới đây, và rằng hẳn đó phải là kết quả của chính sách của Thiers.
Từ đó, ông đã làm cho đa số Quốc hội chống lại việc bầu thống chế Mac-Mahon thay cho Thiers - người đứng đầu cơ quan hành pháp. Ngày 24-5-1873, Broglie chất vấn Thiers và mời ông “tuyên bố trong chính phủ một chính sách thật sự bảo thủ”. Sự hăng hái của Broglie trong bài phát biểu làm Thiers ngạc nhiên, nhưng ông còn ngạc nhiên hơn nữa khi biết rằng Quốc hội đã bỏ phiếu cho chương trình nghị sự bất tín nhiệm với 344/360 phiếu.
Thiers đã bị đánh bại. Ngày 23, sau bài diễn văn của Broglie, Thiers đã yêu cầu Quốc hội nghe mình trình bày trực tiếp theo đúng quyền lợi hợp pháp của ông. Ngày 24, người đứng đầu bộ máy hành pháp đã cất tiếng. Trong bài phát biểu này, ông đã đưa ra những lời ca tụng khéo léo trong biệc hoàn thành sự nghiệp từ sự kiện Bordeaux nhờ vào sự thống nhất mà ông đã tạo ra xung quanh mình, ông cũng kết tội Broglie đã phá vỡ một cách có chủ ý sự thống nhất này về vấn đề chọn hình thái chính trị.
Và Thiers, khi không còn gì để mất, đã tuyên bố công khai quan điểm của mình ủng hộ chế độ Cộng hòa: “Tôi có ý kiến riêng về vấn đề nền Cộng hòa. Tôi đã quyết định và các ngài hiểu tại sao. Bởi vì một chế độ Quân chủ về mặt thực tế là không thể tồn tại… Hơn nữa trong đa số dân chúng, xin các ngài đừng nhầm lẫn nền Cộng hòa chiếm số áp đảo!”
Chuyển từ thế phòng thủ sang tấn công, Thiers dành lời chất vấn sau cho Broglie: “Tôi ái ngại cho ông ta! Về mặt đại diện cho đa số, ông ta sẽ không hơn chúng ta; nhưng ông ta sẽ chỉ là một kẻ tay chân, tôi sẽ nói với ông ta là công cụ của ai… của một người che chở mà Bá tước đã qua đời của Broglie đã từng chối bỏ với sự kinh tởm: ông ta sẽ là tay chân của Quốc vương!”
Nỗ lực này thất bại: Quốc hội đã quyết; họ nghe Thiers phát biểu trong im lặng nhưng lại để cho Chủ tịch Quốc hội Buffet, người đã bị Broglie phỉnh phờ, yêu cầu Thiers rời khỏi đó trước khi phiên họp bắt đầu lại. Vào buổi chiều, khi đã theo dõi kịp thời kết quả bỏ phiếu Thiers đã nghĩ đến việc tiếp tục cuộc chiến vì không có điều luật nào buộc ông phải chấp nhận như vậy. Nhưng bà Thiers đã không nghe ông: “Người ta đã xúc phạm, lăng nhục ông, họ sẽ phải đẩy sự bạc bẽo thành sự cô lập và ông sẽ phải đã chịu như vậy!”.
“Chỉ có bà là người đúng mà thôi”, Thiers nói lại và thảo đơn từ chức. Vị Tổng thống đầu tiên của nền Cộng hòa thứ 3 đã bị Quốc hội loại bỏ như vậy khi chính Quốc hội này đã đưa ông lên chiếc ghế quyền lực một cách vẻ vang trước đó hai năm. Vậy có thể tóm lược những hành động của ông như thế nào? ************************* Nhìn lại thành quả của một kỳ Tổng thống ngắn ngủi:
Nền Cộng hòa đã trở thành một thể chế chính đáng
Năm 1871, Thiers được bầu vào vị trí người đứng đầu cơ quan hành pháp do đa số người của phe Bảo hoàng hi vọng tận dụng thế được lòng dân chúng của ông để tái thiết chế độ Quân chủ tại Pháp; quá khứ đã từng là người phục vụ trung thành của các hoàng tử Orléans của Thiers làm họ yên lòng.
Tuy nhiên, dần dần Thiers đã thay đổi ý kiến. Ông muốn áp đặt cho nền Cộng hòa mà trước đây ông đã từng kinh sợ một đa số Quốc hội cũng không ưa gì nó, và bằng cách tận dụng sự chia rẽ của phe Bảo hoàng, ông có thời gian để xây dựng một chính phủ của mình và từ đó chuyển nó thành “chính phủ hợp pháp của đất nước”.
Đối với nền Cộng hòa thì ông còn làm được hơn thế: ông đã cho nó một diện mạo mới tạo niềm tin đối với những người tư sản từ trước đó luôn nhìn nhận nền Cộng hòa dưới hình ảnh của chế độ 1893, với những hình ảnh của Những ngày tháng Sáu hoặc của Công xã.
Bằng cách trấn an tầng lớp tư sản, vốn là một tầng lớp xã hội lãnh đạo, và khiến họ chấp nhận chế độ Cộng hòa, Thiers đã tự đảm bảo tương lai của ông. Không phải vô tình mà Thiers khẳng định quan điểm ủng hộ nền Cộng hòa. Khi khẳng định một lần nữa niềm tin của ông vào một “nền Cộng hòa bảo thủ”, ông đã rời ghế Tổng thống và trở thành thủ lĩnh đảng Cộng hòa, tách ông khỏi những Đảng viên cấp tiến vốn làm giai cấp tư sản rất lo lắng.
Bù nhìn của giai cấp này là Léon Gambetta, đã ngay lập tức không có tham vọng nào khác ngoài việc trở thành phó cho Thiers. Chính nhân vật này sẽ dẫn dắt cuộc đấu tranh thầm lặng của phe Cộng hòa chống lại nền Quân chủ của những người chiến thắng ngày 24/5/1873. Ông qua đời bốn năm sau đó, thọ 80 tuổi, giữa lúc ông đang dẫn dắt cuộc đấu tranh của phe Cộng hòa đến chiến thắng.
Có thể giải thích sự thay đổi này của vị cựu Bộ trưởng của vua Louis-Philippe như thế nào? Tham vọng ư? Có thể. Dưới chế độ Cộng hòa, Thiers là người đứng đầu trong khi ông đã chỉ có thể là một Bộ trưởng của nhà vua dưới chế độ Quân chủ. Và nếu chỉ đơn giản cho là do ông là người ham muốn được đóng một vai trò năng động, ông cũng đã gặp phải nhiều cuộc tranh đấu gây hao tâm tổn trí.
Nhưng điều chủ yếu là Thiers, đi trước thời của mình đã hiểu rằng chính thể này không quan tâm đến những lợi ích cơ bản của tầng lớp tư sản mà ông đại diện, rằng vào thời điểm mà ông có thể tuyên bố một cách xứng đáng sự ra đời của nó, khi những nguyên tắc của cuộc cách mạng 1789 được tôn trọng và những người tư sản bảo vệ hình ảnh của ông có thể điều hành nền Cộng hòa “bảo thủ”.
Hình thức này của nền Cộng hòa làm hài lòng dân chúng. Chỉ còn phụ thuộc vào việc nó sẽ sử dụng tầng lớp tư sản vào việc phục vụ đồng thời những lợi ích của nó. Như vậy, Adolphe Thiers đã tạo dựng trong dân chúng hình ảnh của nền Cộng hòa Bảo thủ, đó cũng là tính chất của nền Cộng hòa đệ Tam.
Nhưng vào thời điểm ông từ chức, ông mới chỉ tạo lập nó trên pháp lý vì ông đã nhường chỗ cho phe Bảo hoàng. Còn một việc nữa cần phải làm đó là xác định vị trí của Tổng thống trong nền Cộng hòa vì dù sao Thiers cũng chỉ làm Tổng thống không chính thức.
Việc không phân định rõ vị trí đứng đầu nhà nước hay đứng đầu chính phủ của ông cũng đã có thể dẫn đến việc có một Tổng thống theo kiểu Mỹ, nếu việc từ chức của ông, giả sử tiềm ẩn phần nào nguyên tắc qui định Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội thì đã phần nào khẳng định tính chất của chế độ Đại nghị mới.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:19:42 GMT 9
Từ 24 tháng 5 năm 1873 đến 30 tháng 01 năm 1879
Nguyên soái Mac-Mahon xuất hiện
Ngày 24-5-1873, sau khi lật đổ chính quyền của Thiers, Quốc hội đã đưa Nguyên soái Mac-Mahon, người vốn không có đối thủ, lên làm Tổng thống của nền Cộng hòa với 390 phiếu thuận trong tổng số 721 phiếu.
Từ 6 ngày trước đó, phe đa số đã quyết định đưa Mac-Mahon lên nắm quyền nhưng không thông báo cho nhân vật chính này, người đã nhiều lần khẳng định sự trung thành của mình với chính quyền Thiers.
Tuy nhiên, chính gia đình Mac-Mahon đã thuyết phục người lính già này không tham dự vào phiên họp ngày 24/5. Và trong khi phiên họp diễn ra với sự vắng mặt của Thiers, Nguyên soái Mac-Mahon đã đến thăm cựu Tổng thống để thuyết phục ông rút lại đơn xin từ chức.
Còn Thiers, vì biết rõ ý định của Quốc hội nên muốn đặt phe đa số vào thế bí bằng cách thuyết phục Mac-Mahon từ chối vị trí mà Quốc hội sẽ dành cho Nguyên soái: “Ngôi vị Tổng thống quả là một địa ngục, tôi sẽ không trở lại vị trí đó đâu. Và cả ông nữa, vị Nguyên soái đáng kính của ta, đừng có dấn thân vào chốn đó. Hiện nay quyền lực đang là một cái tổ ong bò vẽ mà với bản tính quân nhân của mình, chắc hẳn ông sẽ không giữ nổi bình tĩnh trong vòng 48 giờ đâu”.
Không hiểu được hàm ý chính trị sâu xa của Tổng thống, Nguyên soái Mac-Mahon nghĩ rằng Thiers đã thực sự chán ngán và từ bỏ quyền lực, nên tối ngày 24/5, khi văn phòng Quốc hội vừa thông báo Mac-Mahon được bầu làm Tổng thống thì giới thân cận của vị Nguyên soái này đã không mấy khó khăn thuyết phục ông rằng điều cần làm là ông không được né tránh trọng trách này.
Mac-Mahon trước tiên là một người lính
Nhân vật mà những người thuộc phe Bảo hoàng vừa đưa lên làm Tổng thống chắc hẳn là người ít phù hợp nhất để đảm nhận vị trí này. Ông tự hào là một người lính mà sự nghiệp chỉ có được nhờ vào lòng dũng cảm chứ không phải là nhờ vào những mưu mô chính trị. Ông bắt đầu binh nghiệp của mình dưới nền Quân chủ tháng Bảy và lòng can đảm, tinh thần dũng cảm của ông đã được tôn vinh tại Algérie.
Tiếng tăm về lòng dũng cảm của ông bắt đầu từ cuộc chiến tranh trên bán đảo Crimée (Ukraina). Nền Đế chế đã tạo điều kiện đưa vị tướng lĩnh quân đội hăng hái và nhiệt tình này đạt được mọi đỉnh cao. Đầu tiên là ngôi vị Công tước Magenta sau chiến tranh với Italia năm 1859, rồi đến chức Nguyên soái nước Pháp, và ở vị trí này, Mac-Mahon đã đạt được mọi tước hiệu danh phẩm cao quí.
Năm 1861, ông đảm nhận vai trò đại sứ đặc mệnh bên cạnh vua Guillaume nước Phổ. Năm 1864, Mac-Mahon giữ vị trí Toàn quyền ở Algérie. Năm 1870 thì ông thôi chức Toàn quyền trở về chỉ huy quân đội ở vùng Alsace. Tuy nhiên, quân của Mac-Mahon đã thua và thủ thế ở vùng lòng chảo Sedan, nơi trận chiến kết thúc ngày 1/9 khi Mac-Mahon bị bắt làm tù binh với vết thương nhẹ ở đùi.
Bị giữ làm tù binh ở Đức cho đến mùa xuân năm 1871, Mac-Mahon trở về Pháp để chỉ huy quân đội Versailles đang tập trung nhằm trấn áp phong trào Công xã Paris. Nhưng Mac-Mahon lo sợ rằng những thất bại trước đó sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến danh dự của mình. Và ông rất nhạy cảm với nhận xét này của Thiers: “Hết rồi… hết tất cả rồi!”.
Đứng đầu nền Cộng hòa là một người theo chủ nghĩa chính thống
Nguyên soái Mac-Mahon đã làm tất cả hài lòng khi ông là người chiến thắng trong cuộc đàn áp Công xã Paris, và ông rất có thể sẽ trở thành người giương cao ngọn cờ của phe đa số - những người muốn loại Thiers ra khỏi cuộc chơi của họ - bởi vì những tư tưởng chính trị của ông chỉ biến ông thành kẻ phục vụ những nhà quân chủ mà thôi.
Trên thực tế, Nguyên soái Mac-Mahon được biết đến như một người theo chủ nghĩa chính thống. Hơn nữa, chủ nghĩa chính thống đối với ông là một truyền thống gia đình hơn là một tư tưởng chính trị.
Mac-Mahon sinh năm 1808 trong một gia đình luôn lưu giữ một cách trung thành những hồi ức về các thế hệ các lãnh chúa Bourbon , những hồi ức đầu tiên của Mac-Mahon bắt đầu từ thời kỳ Vương quyền phục hưng mà cha mẹ ông đã đón nhận như một sự giải phóng. Kể từ khi Louis-Philippe lên ngôi, Mac-Mahon đã nghĩ đến việc từ bỏ quân đội; nhưng gia đình ông ngăn cản ông làm việc đó: vậy là ông phục vụ cho “vị hoàng đế của những rào cản” và nhanh chóng trở thành người được những người con của hoàng đế che chở và bảo vệ.
Trong cuộc Cách mạng 1848, ông là sĩ quan cận vệ của Công tước Nemours và thích nghi rất nhanh với chế độ mới. Cần phải làm gì trước sự sụp đổ của Louis-Philippe? Một lần nữa, ông lại nghĩ đến việc rút lui khỏi quân đội, nhưng Cavaignac, Bộ trưởng chiến tranh đã kêu gọi ông ra phục vụ: ngài Bộ trưởng cần ông để giữ gìn an ninh trật tự.
Vì vậy, Mac-Mahon đã chấp nhận phục vụ nền Cộng hòa cũng giống như ông đã từng phục vụ nền Quân chủ tháng Bảy… Cuối cùng, mọi việc đã được giải quyết giống như trước kia: an ninh quốc gia yêu cầu cần có Mac-Mahon đứng ra bảo vệ. Từ năm 1858, Mac-Mahon trở thành Thượng nghị sĩ đế chế.
Người ta cho rằng Mac-Mahon chấp nhận phục vụ nền Cộng hòa đệ Tam với tư cách là một trong những người bảo vệ an ninh trật tự giống như ông đã từng phục vụ nền Cộng hòa đệ Nhị. Việc không can dự vào chính trị cũng như những tư tưởng theo chủ nghĩa chính thống này ở Mac-Mahon có thể dung hòa được với mọi chế độ chính trị rất khác nhau và điều này đã nhanh chóng gây được sự chú ý của Công tước Broglie khi phe đa số trong Quốc hội muốn tìm người thay thế Thiers.
Trước đó, những người theo chủ nghĩa chính thống đã từ chối chỉ định vị Tổng thống mà Broglie mong muốn: Công tước Aumale, Đại biểu quốc hội và là con trai của Louis- Philippe; những người này sợ rằng nếu bầu vị Công tước đó lên ngôi Tổng thống thì trước những khó khăn của triều đình, dòng quí tộc hoàng gia ở Orléans, dù đã có những cam kết trước đó vẫn sẽ tìm cách giành lại quyền lực từ tay dòng tộc con trưởng.
Một ứng cử viên khác cho chức Tổng thống: tướng Changarnier. Nhưng với tính cách độc đoán, vị Tướng già 80 tuổi này làm người ta sợ rằng đến một lúc nào đó, ông sẽ không chấp nhận rút lui vào hậu trường để nhường chỗ cho người khác. Mac-Mahon thì khác, ông sẽ phục vụ tận tâm và trung thành “nền Cộng hòa lâm thời” và sẽ cũng rút lui một cách đàng hoàng trước người thay thế ông sau này khi ông được yêu cầu làm điều đó, và trong thời gian chờ đợi, ông sẽ để cho phe đa số tha hồ tự giải quyết các vấn đề liên quan đến chế độ mà không can thiệp vào những cuộc xung đột cãi vã giữa các Đại biểu trong Hạ viện.
Chính vì lý do đó mà sau khi đã phục vụ 3 chế độ cách mạng, Mac-Mahon lại trở thành thủ lĩnh của chế độ chính trị thứ tư. Hơn thế, thời gian làm Tổng thống sau này của Mac-Mahon còn là điều quan trọng giúp người ta thấy rõ vị thế của Tổng thống trong các thể chế chính trị của nền Cộng hòa. “Thiết lập lại Trật tự Đạo đức”
Tối ngày 24-5, khi Công tước Broglie đến thăm Tổng thống mới tại nhà riêng, ông thấy Tổng thống đang ngồi cùng với Chủ tịch Quốc hội, ngài Buffet.
Hai người vừa soạn thảo xong lá thư chấp nhận chức vụ Tổng thống của Mac-Mahon sẽ gửi cho các Đại biểu Quốc hội đã bầu ông:
“Kính thưa các quí vị đại biểu,
Tôi xin tuân theo quyết định của Hạ viện, cơ quan đại diện cho chủ quyền quốc gia, và xin nhận nhiệm vụ được giao là giữ vai trò Tổng thống của nền Cộng hòa. Đây là một trách nhiệm nặng nề dành cho lòng yêu nước của tôi.
Nhưng với sự giúp đỡ của Chúa và sự tận tâm của quân đội chúng ta - một đội quân của pháp luật, với sự trợ giúp của tất cả những con người chân chính, chúng ta sẽ cùng nhau tiếp tục sự nghiệp giải phóng lãnh thổ và thiết lập lại trật tự đạo đức ở đất nước chúng ta, chúng ta sẽ gìn giữ nền hòa bình trong lãnh thổ và giữ vững những nguyên tắc cơ bản của xã hội chúng ta. Tôi xin nói tất cả những lời đó với quí vị với danh dự của một con người trung thực, chân chính và danh dự của một người lính”.
Broglie cảm thấy rất phấn chấn: người ta không thể đưa ra những nguyên tắc lãnh đạo nào tốt hơn thế cho phe đa số trong Quốc hội và ông sẽ điều khiển để bức thông điệp đó không chỉ được gửi tới từng Đại biểu quốc hội mà còn được dán ở khắp nơi trên nước Pháp. Theo cách đó, một chính phủ của “Trật tự Đạo đức” sẽ bắt đầu dưới sự bảo hộ của Mac-Mahon.
Công tước Broglie, vị nguyên thủ giấu mặt
Ngày 25-5-1873, chính phủ “Trật tự Đạo đức”, như những người Cộng hòa vẫn nói đùa, đã được thành lập. Theo luật pháp, Mac-Mahon sẽ điều hành và lãnh đạo bộ máy này, nhưng việc Tổng thống còn thiếu kinh nghiệm chính trị cộng thêm với điều luật mà Quốc hội thông qua vào tháng 3 đã hạn chế khả năng can thiệp của Tổng thống khiến cho việc thành lập chính phủ phải dựa trên sự hợp tác chặt chẽ của các nhà lãnh đạo trong phe đa số của Quốc hội.
Cho nên, chính Broglie đã thành lập chính phủ này thể theo yêu cầu của Mac-Mahon; ông là người điều khiển chính với chức danh Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và chức năng là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Cuối cùng, tất cả thống nhất là Broglie sẽ chịu trách nhiệm bảo vệ chế độ chính trị trước Quốc hội bởi vì, khác với Mac-Mahon, Broglie hoàn toàn tự do trước cơ quan đại diện này.
Như vậy, việc Quốc hội vẫn không tin tưởng vào Tổng thống giống như trường hợp của Thiers trước đây đã làm nảy sinh một vấn đề cơ bản mà người ở vị trí quyền lực tối cao sẽ gặp phải trong suốt nền Cộng hòa đệ Tam: sự khác xa nhau giữa lý thuyết (Tổng thống phải là vị nguyên thủ có thực quyền tối cao) và thực tế (Tổng thống buộc phải nhường phần lớn quyền lực cho một người khác ban đầu xuất hiện với tư cách là trợ lý của Tổng thống); sự khác nhau giữa lý thuyết và thực tế này xảy ra trước khi logic của sự phát triển khiến cho Tổng thống thực sự là người có quyền lực tối cao; vai trò cá nhân của Mac-Mahon trong logic phát triển này là không thể phủ nhận được.
Kể từ năm 1873, Broglie là người lãnh đạo thực sự của đất nước, ngay cả khi Mac-Mahon điều hành Hội đồng Bộ trưởng và luôn tìm cách nắm được mọi thông tin. Nếu quả thực Mac-Mahon là người quyết định cuối cùng thì chính Công tước Broglie là người đã chuẩn bị sẵn những quyết định trước đó.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:21:04 GMT 9
“Dưới tên gọi Cộng hòa, thực chất là một nền quân chủ”
Thiers đã bị đẩy đi, Mac-Mahon trung thành đã có vị trí của mình, Broglie đang nắm quyền lực, trong tình cảnh ấy, những người bảo hoàng thực sự là chủ cuộc chơi. Họ định thừa cơ hội này để cố gắng một lần nữa giành lại nền Quân chủ phục chế.
Ngay bản thân Mac-Mahon cũng không ngần ngại tuyên bố một cách công khai rằng việc Bá tước Chambord lên ngôi là “khát khao cháy bỏng nhất” mà ông chưa bao giờ nói đến. Nhưng vào năm 1871 lại nảy sinh vấn đề gây tranh cãi gay gắt về quốc kỳ, vì thế, vị thế của Chambord cũng không làm thay đổi được gì.
Một lần nữa, phe Quân chủ lại cử một phái đoàn đến để thuyết phục “Người kế vị ngai vàng” từ chối “lá cờ của Henri IV”. Phái đoàn này có thể vận dụng những lời khuyên của Tổng thống, người đã từ chối việc đích thân mình viết cho Chambord để không đi ngược với cam kết mà ông đã hứa trước đó là giữ quan điểm trung lập.
Tổng thống muốn Chambord biết rằng không thể áp đặt quân đội phải chấp nhận một lá cờ nào khác ngoài quốc kỳ tam tài. Thay vào những lời lẽ bóng bẩy của các nhà sáng tạo ngôn ngữ lịch sử: “Chỉ cần nhìn thấy lá quốc kỳ màu trắng thì những tay súng sẽ tự bỏ đi”, Mac-Mahon tuyên bố rằng: “Quân đội sẽ quyết sống chết với lá cờ tam tài; nếu lá cờ bị vò nát thì chúng ta sẽ đứng trước nguy cơ xảy ra những xung đột khủng khiếp”.
Nhưng Chambord không có ý định bắt đầu ngôi vị cai trị đang rất gần của mình bằng những gì mà vị Bá tước này cho là một hành động thấp hèn. Khi Chesnelong, người dẫn đầu phái đoàn Quân chủ đến thuyết phục Chambord vụng về kể lại chuyến đi của mình cho bạn bè trong chính giới rằng Bá tước Chambord sẵn sàng nhượng bộ thì vị Bá tước đã đưa ra một lời cải chính gay gắt, lời phủ nhận này có thể cắt đứt mọi cầu nối và làm cho việc phục chế nền quân chủ mà chính Bá tước sẽ là người hưởng lợi trở thành một điều không thể:
“Một khi những hiểu lầm ngày càng chồng chất làm lu mờ chính sách của ta trước bầu trời rộng mở thì ta phải cảm ơn xứ sở này, đất nước này vì tất cả sự thật được phơi bày, nơi ta có thể không được biết đến và không là gì cả… Hôm nay người ta yêu cầu ta hãy vứt bỏ danh dự của mình… Ta không thể đồng ý bắt đầu một vương triều mới bằng một hành động đê hèn… Ta muốn luôn là chính mình. Nếu ngày hôm nay ta mềm yếu nhượng bộ, ngày mai ta sẽ hoàn toàn bất lực (…) Bản thân ta không là gì cả, nguyên tắc sống của ta mới là tất cả. Nước Pháp sẽ nhìn thấy kết cục những thử thách của mình khi nước Pháp muốn hiểu nguyên tắc đó của ta”.
Những người Cộng hòa do Thiers và Gambetta dẫn dắt thì mừng quýnh bởi chừng nào việc phục chế nền Quân chủ bị chậm lại thì chừng đó nền Cộng hòa còn giữ được. Phe Bảo hoàng bị giáng một đòn mạnh. Việc họ đặt niềm tin vào những người con của Hoàng gia đang theo đuổi chính sách của phe đa số đã khiến cho tình đoàn kết thống nhất giữa các gia đình vương tôn vốn rất khó khăn mới xây dựng được nay lại bị đe dọa nghiêm trọng.
Vì vậy, cần phải chờ cho Chambord biến khỏi chính trường, nhưng là chờ đợi trong khi vẫn để mọi điều diễn ra theo chiều hướng thuận lợi như hiện nay. Chính Hoàng tử Joinville, con trai của Louis Philippe đã áp đặt quan điểm của mình cho phe đa số: “Nước Pháp có Nguyên soái; cần phải giữ gìn và bảo vệ Nguyên soái, bản thân ta và tất cả chúng ta đều phải là những người theo và ủng hộ Mac-Mahon”. Quan điểm này đã chiến thắng dù cho một số người, ví dụ như Công tước Broglie, ngay lúc đó đã hiểu rằng tính không nhượng bộ của Chambord đã đặt cơ hội phục hồi nền Quân chủ vào thế hoàn toàn tiêu cực và nguy hiểm.
Trong hoàn cảnh đó, giải pháp tối ưu chính là giải pháp mà Thiers đã chủ trương theo đuổi và Broglie đã gọi tên giải pháp đó như sau: “Biến Mac-Mahon trở thành một vị nguyên thủ lâm thời thực sự dưới chức danh Tổng thống và biến nước Pháp đang núp dưới cái tên Cộng hòa trở thành một nền Quân chủ không có Vua mà thôi”. Nhưng vì mưu đồ chính trị này rất ít có cơ hội thành công nên phe đa số đã quyết định cải biến vị trí nguyên thủ quốc gia lâm thời. Vì vậy, dù lúc đó chưa có một văn bản nào qui định về chế độ chính trị của nước Pháp, ngày 18-11-1873, theo yêu cầu của Broglie, Quốc hội vẫn quyết định kéo dài thời hạn quyền lực của Nguyên soái Mac-Mahon bằng việc thông qua luật “nhiệm kỳ 7 năm”.
Trong khi các cuộc tranh luận đang diễn ra ở Quốc hội thì Tổng thống lại có viên sĩ quan tuỳ tùng của Bá tước Chambord đến thăm và báo với ông rằng người kế vị ngai vàng đang ở Versailles, muốn gặp Tổng thống để bàn bạc và đưa ra những điều kiện để Nguyên soái có thể nhường lại quyền lực của mình cho Chambord, bất chấp ý kiến của Quốc hội. Mac-Mahon rất hoảng hốt đã từ chối thẳng thừng cuộc gặp với Bá tước vì cho rằng như thế là người ta đã ép ông phản bội lại lòng tin của Quốc hội đối với ông.
Một lần nữa, “người lính trung thành” lại đặt nghĩa vụ của mình lên trên những tham vọng chính trị cá nhân, còn Chambord vô cùng thất vọng, sau này khi rời khỏi nước Pháp sang lưu vong hẳn ở Áo, vị Bá tước đã chua chát nói về Mac-Mahon: “Ta cứ tưởng rằng mình đã gặp được viên sĩ quan quân đội hàng đầu của nước Pháp, nhưng không ngờ ta chỉ gặp một tên “cớm” chỉ huy mà thôi”.
Trở thành người đứng đầu nền Cộng hòa với nhiệm kỳ 7 năm, Mac-Mahon sau đó đã tham gia tích cực vào việc củng cố thể chế chính trị này. Cũng trong khoảng thời gian đó, với chính sách mà mình theo đuổi, Broglie đã vô hình chung giúp những người Cộng hòa đứng lên dù đó không phải là điều Công tước mong muốn.
Quân chủ hóa xã hội, Cộng hòa hóa dư luận
Dù không hề ảo tưởng về ý thức và tinh thần của Nguyên soái, những người Cộng hòa lúc đầu vẫn tỏ ra sẵn sàng chấp nhận Mac-Mahon: “Có ông ta thì chúng ta vẫn còn nền Cộng hòa”.
Đó là một nền Cộng hòa khá lạ lùng mà sau này Công tước Broglie đã nhanh chóng chỉ ra cho những người Cộng hòa thấy bằng việc áp dụng chính sách Trật tự Đạo đức, cái làm nên ngọn cờ tiên phong trong chiến dịch rầm rộ chống lại những người Cộng hòa, nhằm hất họ ra khỏi vị trí hành động và nhằm chuẩn bị điều kiện cho nền Quân chủ phục chế.
Xét một cách tổng thể, những thành viên Cộng hòa đã bị thanh trừ khỏi các cấp chính quyền, một đạo luật thì qui định Chính phủ có quyền chỉ định chức Thị trưởng cho các địa phương còn những chức danh Cộng hòa trong Toà thị chính lại do một đạo luật khác qui định. Không có bất cứ một dấu tích nào của nền Cộng hòa được thể hiện trong các văn bản nhà nước.
Chính phủ kiểm duyệt gắt gao việc in ấn và phát hành báo chí. Ngược lại, mối quan tâm của Chính phủ là làm thế nào truyền bá lại vào tư tưởng của quần chúng Pháp những khái niệm đã biến mất như việc tôn thờ và kính trọng giới chính quyền đã được tạo lập, tầng lớp thống trị và giáo hội có quyền lực trong xã hội.
Giới tăng lữ được các nhà lãnh đạo của phe đa số nhìn nhận như một trợ thủ đắc lực và tầng lớp này cũng dành được mọi sự quan tâm của Chính phủ; những người biểu tình chống lại tầng lớp tăng lữ bị truy đuổi, việc chôn cất dân thường bị cấm đoán, và “báo chí có tâm” thì nhận được sự trợ giúp từ các cấp chính quyền.
Phe đa số và các tổ chức đã giúp đỡ nhiệt tình cho việc khánh thành Nhà thờ Sacré-Coeur với tuyên bố rằng đó là “vì lợi ích công chúng”; sự trợ giúp của Chính phủ chủ yếu dành cho những cuộc hành hương ở Lourdes, Chartres và Paray-le-Monial, và tất cả cùng hát: “Hãy cứu lấy thành Roma và nước Pháp nhân danh Sacré-Coeur”. Vài năm sau đó, những người Cộng hòa thắng thế đã bắt giới tăng lữ phải trả giá đắt cho những mối quan hệ liên lụy trước đó của mình.
Trong khi công tác tuyên truyền đang lan rộng thì chính quyền Cộng hòa không ngừng có những tiến triển tích cực ở trong nước, đặc biệt là nhờ vào những hoạt động không mệt mỏi của Gambetta. Cuộc bầu cử chính quyền các cấp năm 1874 là một thắng lợi của nền Cộng hòa.
Và ngay sau đó, phe đa số đã chia rẽ rất nhanh; những người theo chủ nghĩa chính thống, mặc dù trước đó đã thông qua luật về nhiệm kỳ 7 năm của Tổng thống, mặc dù không dám nói ra nhưng vẫn thầm trách Broglie và Mac-Mahon về thất bại của người kế vị ngai vàng Chambord; nhất là phái giữa trong Quốc hội - những người ủng hộ dòng Orléans - đang lo sợ về một nguy cơ mới mà người ta nghĩ rằng nó đã biến mất: chủ nghĩa Bonaparte. Rouher , vị “Hoàng đế đệ Nhị”, cái tên đệm mà mọi người đặt cho ông, đã tụ tập những người đi theo và ủng hộ nền Đế chế vào Đảng “Kêu gọi dân chúng” và bắt đầu một hoạt động tuyên truyền tích cực nhằm ủng hộ cho con trai của Napoléon III, vị Thái tử vương triều.
Trước nguy cơ xuất hiện một chế độ độc tài mới, những thành viên thuộc phái trung tâm trong Quốc hội vốn nghiêng về chủ nghĩa tự do hơn là chủ nghĩa quân chủ đã tính ngay thấy mối nguy hiểm mà nước Pháp đang phải đối đầu, đó là tính bấp bênh không ổn định của chế độ lâm thời.
Rất nhiều người đã ngả theo lối nghĩ của Broglie rằng thà duy trì một nền Cộng hòa bảo thủ, trong đó Tổng thống nắm mọi quyền hành của một vị vua cai trị theo hiến pháp và được sự trợ giúp của Thượng viện, cơ quan đại diện cho quyền lợi của phe Bảo thủ và có trách nhiệm ngăn chặn mọi động thái kích động của Hạ viện - cơ quan được thành lập do bầu cử - còn hơn là để xuất hiện một nền chính trị chuyên chế. Nhưng sự hiện hữu của phe đa số trong chính phủ “Trật tự Đạo đức” đã ngăn cản phái giữa nêu ý kiến của mình.
Tháng 5-1874, khi Công tước Broglie trình bày trước Quốc hội chương trình Thượng viện của mình, lập tức một liên minh chính trị giữa những người Cộng hòa, người theo chủ nghĩa chính thống và những người theo chủ nghĩa Bonaparte đã lật đổ chính phủ: phe đa số trong chính phủ “Trật tự Đạo đức” đã tan tác; nền Cộng hòa được giải cứu . Sửa đổi Hiến pháp của Wallon, bản khai sinh nền Cộng hòa đệ Tam
Quốc hội của những đại biểu quân chủ ra đời sau cuộc bầu cử năm 1871 đã không thể tìm ra một vị vua và chính họ lập ra nền Cộng hòa.
Kể từ sau thất bại của Broglie, rất nhiều đại biểu phe trung hữu bắt đầu ngả sang cánh trung-tả, bao gồm những người Cộng hòa ôn hòa theo tư tưởng của Thiers.
Léon Gambetta đã từ bỏ tư tưởng không nhượng bộ của mình và sự lớn mạnh của Gambetta đã thúc đẩy việc thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng này. Phe đa số dễ dàng tan rã trong cuộc bỏ phiếu về những sửa đổi Hiến pháp: những sửa đổi nào có chứa từ “Cộng hòa” đều bị loại bỏ nhưng với số phiếu ngày càng ít; rõ ràng, việc tiến hành lật đổ phe đa số là không thể chậm trễ.
Và cũng đã đến cái ngày Đại biểu Quốc hội Wallon, người công giáo theo chủ nghĩa tự do, vừa hôm qua thôi hãy còn là người của phái Orléans, đã đưa ra cho Quốc hội thống nhất với đa số đối với sửa đổi hiến pháp có thể được coi là bản khai sinh nền Cộng hòa đệ Tam: “Tổng thống nền Cộng hòa được bầu theo đa số phiếu trong Thượng nghị viện và Hạ nghị viện của Quốc hội. Tổng thống được bầu với nhiệm kỳ 7 năm và có thể được tái cử”.
Vậy là chức vị Tổng thống cá nhân của Mac-Mahon được thay bằng khái niệm mới về một vị Tổng thống vô danh, có thể được tái cử và những điều kiện bầu cử được chỉ ra trong một văn bản có giá trị liên tục. Và điều sửa đổi này của Wallon đã đánh dấu bước thắng lợi hoàn toàn của nền Cộng hòa sau 4 năm tồn tại một cách bấp bênh.
Phe Cộng hòa đã giành được thắng lợi, công việc còn lại chỉ là phải qui hoạch và xây dựng chế độ mới. Hiến pháp năm 1875 đã đáp ứng đòi hỏi này. Nhưng vì hiến pháp phải do Quốc hội phê duyệt và sửa đổi cuối cùng nên bản hiến pháp phải chịu sự chi phối của các thành phần khác nhau trong Quốc hội.
Có nghĩa là bản hiến pháp được thông qua phải là kết quả của một thỏa thuận giữa những người thuộc phái Orléans luôn theo dõi sát sao xem hiến pháp có phù hợp với một nền Quân chủ mà họ vẫn chưa hết hi vọng sẽ phục hồi sau này không - với phái trung-tả gồm những người đã từ bỏ ý định về một sự phục hồi nền Quân chủ nhưng ít nhất vẫn muốn các quyền lợi của phe Bảo thủ mà họ đại diện được bảo vệ, và những người Cộng hòa ôn hòa luôn có tham vọng vĩnh cửu hóa chế độ Cộng hòa, tất cả được tiến hành trên cơ sở những nhượng bộ về thể chế.
Bên cạnh Hạ nghị viện được thành lập sau cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu trực tiếp, một Thượng viện cũng được thành lập tương tự với một bộ phận nhỏ gồm 75 Thượng nghị sĩ không thể bị bãi miễn, lúc đầu do Quốc hội bầu ra và sau đó được các Nghị sĩ trúng cử bầu bổ sung, và một phần lớn gồm 225 nghị sĩ do Ban bầu cử gồm chủ yếu là đại diện các Hội đồng thành phố và tỉnh bầu ra, nghĩa là các Thượng nghị sĩ được bầu ở nơi quyền lực thuộc về những người bảo thủ địa phương.
Tuy vậy, Thượng nghị viện cũng sẽ được hưởng những quyền lực tương tự như Hạ nghị viện (thông qua các luật và ngân sách, giám sát hoạt động của các bộ) và có thể làm tê liệt những ý kiến do các đại biểu được bầu bằng hình thức phổ thông đầu phiếu đưa ra.
Mối quan tâm của phe đa số cũng được thể hiện qua một điều khoản khác trong Hiến pháp. Điều khoản này qui định Hiến pháp có thể được sửa đổi bởi một thủ tục rất dễ dàng và do hai Viện thông qua tại Hội nghị nhóm họp các đại biểu, qui định này được đưa ra bất kể những phản ứng của phe Cộng hòa - những người cho rằng điều đó có thể tạo điều kiện cho việc phục hồi nền Quân chủ - vài năm sau đó, để đề phòng nguy cơ nói trên, các đại biểu đã quyết định rằng thể chế Cộng hòa không thể bị đem ra làm đối tượng của việc sửa đổi Hiến pháp.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:22:43 GMT 9
Quyền của Tổng thống trong Hiến pháp năm 1875
Trước hết, bản Hiến pháp năm 1875, vốn vẫn giữ nguyên tư tưởng bảo thủ và chủ nghĩa Quân chủ, đã qui định mọi quyền lực của Tổng thống nền Cộng hòa.
Những quyền lực này đã đi ngược với mối quan tâm của hai phái chính trị: những người theo chủ nghĩa chính thống luôn muốn trang bị cho Tổng thống những quyền mà sau này có thể chuyển giao cho Vua nếu nền Quân chủ được phục hồi, và những thành viên của phe trung hữu muốn biến Tổng thống thành con người của những kẻ có thế lực chứ không phải do bầu cử phổ thông đầu phiếu vì họ sợ rằng sẽ lại phải chứng kiến những biến cố như trong nền Cộng hòa đệ Nhị.
Điều này cũng giải thích vì sao Tổng thống không do dân chúng bầu ra như năm 1848 mà do hai Viện nhóm họp tại Hội nghị. Tổng thống chỉ đạo và điều khiển những buổi lễ trọng thể của quốc gia, cắt cử người đảm nhận những vị trí quân sự và dân sự, Tổng thống là vị lãnh đạo tối cao của quân đội.
Về mặt tư pháp, Tổng thống có quyền ân xá. Tổng thống cũng là người đảm bảo chính sách đối ngoại của nước Pháp vì Tổng thống là người đàm phán, phê chuẩn các hiệp ước và giám sát luôn quá trình áp dụng các hiệp ước đó (nhưng trong trường hợp này, hai Viện phải phê chuẩn).
Liên quan đến chính sách đối ngoại, Tổng thống cũng có những quyền rất quan trọng: chỉ Tổng thống mới có quyền đưa ra các dự luật (quyền này mang tính cạnh tranh với hai Viện) và trong trường hợp không đồng ý với một trong hai Viện, Tổng thống có thể đề nghị Viện đó xem xét thảo luận lại về một dự luật. Tổng thống có quyền triệu tập hai Viện họp, có quyền hoãn lại cuộc họp sau một tháng nhưng nhiều nhất là hai lần trong vòng một kỳ họp.
Và cuối cùng, một điều khoản quan trọng trong Hiến pháp nữa đó là Tổng thống có thể liên hệ với những nhân vật quan trọng để làm cho cuộc bầu cử thất bại, vì Tổng thống có quyền giải tán Hạ nghị viện sau khi có sự đồng ý của Thượng nghị viện. Những người theo chủ nghĩa chính thống đã lên tiếng phản đối việc Tổng thống buộc phải tham khảo ý kiến của Thượng nghị viện thì mới có thể quyết định giải tán Hạ nghị viện. Nhưng phe trung hữu trong Quốc hội, đại diện cho những người có thế lực và vẫn còn nhớ thái độ của Charles X khi một mình quyết định giải tán Hạ nghị viện năm 1830, thì không phản ứng gì trước quyết định trên.
Tuy nhiên, các bên đều dễ dàng đi đến thống nhất quyết định rằng Tổng thống sẽ không phải chịu trách nhiệm trước hai Viện: về phía những người thuộc chủ nghĩa chính thống, họ không thể chấp nhận việc một vị Vua phải sử dụng đến uy tín của mình để phân bua, giải thích những việc làm của mình trước hai Viện; còn phe trung hữu thì muốn rằng thực quyền phải được trao cho một vị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được giới quí tộc tin tưởng.
Như vậy, điều khoản miễn trách này đã khoác trách nhiệm lên một nhân vật mà Hiến pháp không hề đề cập. Vì vậy, phải lấy thực tế hoạt động của chế độ đại nghị để giải quyết những vấn đề chưa được qui định trong Hiến pháp. Và như vậy, sau hai năm, quyền lực của Mac-Mahon mới được xác định một cách hợp pháp. Tuy nhiên, chính sách của Tổng thống lại đặt Hiến pháp trước thách thức.
Sau khi hết nhiệm kỳ của Mac-Mahon, những hậu quả do thái độ ứng xử và hành động trước đó của Tổng thống mang lại đã cho thấy rõ trong thực tế những mặt hạn chế của chức danh Tổng thống. Cách Mac-Mahon trở thành người tiên phong giương cao ngọn cờ của Đảng Bảo thủ
Sau thất bại của Broglie, Mac-Mahon đã thành lập một chính phủ gồm những kĩ thuật viên do người bạn cũ của ông là tướng Cissey điều khiển.
Sau đó, đến lượt phe đa số thành lập một chính phủ Buffet mờ nhạt nhưng kể từ sau khi bỏ phiếu thông qua luật hiến pháp thì đời sống chính trị dường như đã chỉ còn mối quan tâm duy nhất đó là viễn cảnh phân chia Quốc hội đang đến rất gần khi mà nó đã hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Đằng sau những lời phát biểu trước công chúng, mỗi đảng phái đều đang chuẩn bị cho cuộc bầu cử sắp tới, ngầm hi vọng có thể thao túng nền Cộng hòa non trẻ vừa mới thành lập. Những người Cộng hòa hi vọng sẽ thắng trong cuộc bầu cử và họ đặt niềm tin vào hoạt động kép của hai thủ lĩnh của mình, hai người trước đây từng là đối thủ của nhau nhưng nay đã hòa hợp trở lại, đó là Thiers và Gambetta.
Gambetta trong một bài diễn văn rất hùng hồn đã công bố sự xuất hiện của những tầng lớp xã hội mới: “những tầng lớp xã hội mới xuất hiện từ sau cuộc Cách mạng Pháp và bầu cử, đã hòa hợp với tầng lớp tiến bộ của xã hội cũ, như vậy, cuối cùng chúng ta sẽ có thể kết thúc cuộc cách mạng vĩ đại bắt đầu diễn ra từ năm 1789 bằng một liên minh chặt chẽ và ngày càng rộng khắp giữa tầng lớp tư sản và tầng lớp vô sản”. Là đại diện cho tầng lớp tư sản đó, Adolphe Thiers là gương mặt đáng tin cậy của đảng Cộng hòa, Đảng có phương châm mà người ta thường nhắc đến: “Nền Cộng hòa hoặc sẽ là bảo thủ hoặc sẽ không còn là nó nữa”.
Đối lại Đảng Cộng hòa, phe đa số cũng xuất hiện trước cử tri với bản tổng kết những kết quả to lớn mà mình đã đạt được từ năm 1871, với uy tín lẫy lừng của Mac-Mahon nhưng đồng thời cũng thể hiện khiếm khuyết nặng nề của phe này, đó là việc chia rẽ nội bộ. Và để lảng tránh điều này, phe đa số sau đó đã nhấn mạnh và đưa lên vị trí ưu tiên trong chiến thuật của mình hình ảnh Nguyên soái - Tổng thống Mac-Mahon.
Phe này đã tư vấn Mac-Mahon ký vào một lời kêu gọi “sự đoàn kết của những người luôn đặt sự bảo vệ trật tự xã hội, sự tuân thủ pháp luật, sự tận tụy hết lòng vì Tổ quốc lên trên những hồi ức quá khứ, những ham muốn và những mục tiêu của đảng mình”. Điều đó đã làm cho Tổng thống trở thành người giương cao ngọn cờ tiên phong của Đảng Bảo thủ và khiến đảng này bị thất bại trong cuộc bầu cử. Và cuộc bầu cử 2-1876 đã đem lại thắng lợi cho những đại biểu Cộng hòa khi phái này trở thành đảng chiếm đa số ghế trong Hạ viện. Jules Simon, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng: khủng hoảng thể chế bắt đầu
Cuộc bầu cử năm 1876 đã buộc người ta phải lựa chọn giữa hai quan niệm về chức danh Tổng thống nền Cộng hòa, một vị trí mà theo qui định của Hiến pháp đã bị đặt dưới ảnh hưởng kép của những người theo chủ nghĩa chính thống luôn muốn có một Tổng thống nắm trong tay nhiều quyền lực và những cựu thành viên của phái Orléans vẫn luôn rất gắn bó với chế độ đại nghị.
Hai quan niệm này chỉ có thể cùng tồn tại nếu phe đa số trong Quốc hội và Tổng thống hoàn toàn thống nhất với nhau, còn nếu có xung đột xảy ra thì người ta buộc phải chọn một trong hai quan điểm đã nêu. Liệu Tổng thống có phải là vị nguyên thủ thực sự nắm quyền hành pháp không hay đó chỉ là một nhân vật có tính chất trang trí, còn thực quyền thì lại trao cho một Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được Quốc hội tin tưởng?
Vấn đề này chưa được đặt ra ngay lập tức khi Mac-Mahon đã tìm được một cách cho phép ông vẫn tôn trọng được ý kiến quần chúng trong cuộc bầu cử mà không mất đi niềm tin của mình. Ông chỉ định một người bạn của Thiers là Dufaure lên nắm quyền, Dufaure vốn là người gia nhập muộn vào Đảng Cộng hòa và là người đại diện cho cánh ôn hòa nhất trong Đảng Cộng hòa. Dufaure muốn lãnh đạo trong hòa khí với Hạ nghị viện của những người Cộng hòa, Thượng nghị viện của phe bảo thủ và với Tổng thống không kém bảo thủ.
Nhưng đó là điều không thể và Dufaure đã trở nên suy yếu dần: Mac-Mahon không tin tưởng chính sách của Dufaure, ông tức giận khi thấy người lãnh đạo mới này, vì chịu sức ép của Quốc hội mà hi sinh những tỉnh trưởng đã phục vụ rất trung thành cho chính phủ “Trật tự Đạo đức”; về phần mình, phe đa số mới trong Quốc hội cũng nổi cáu trước tính nhút nhát của Dufaure và thái độ nể nang Tổng thống quá rõ ràng của ông ta.
Tháng 12-1876, Dufaure rút khỏi chính trường và Mac-Mahon lại gọi Jules Simon lên thay. Jules Simon, một người Cộng hòa ôn hòa nhưng lại đối đầu với Gambetta, là kẻ đáng sợ nhất đối với những lãnh tụ phe đa số dù rằng thiên hướng chính trị của Jules Simon đang ngày càng chuyển rõ sang ôn hòa.
Tuy nhiên, khác với Dufaure, Jules Simon là Đảng viên Cộng hòa đã từ lâu và nhân vật này không muốn phải đóng vai trò lá chắn giữa Tổng thống và Quốc hội giống như người tiền nhiệm của mình đã chấp nhận: “Nội các mà các ngài đang có trong tay là một nội các và luôn muốn là một nội các theo chế độ nghị viện. Cho nên nhiệm vụ của chúng ta chỉ còn là việc làm theo những gì mà vị quan chức cao nhất của nền Cộng hòa chỉ ra, vị lãnh đạo này trong mọi điều kiện luôn cố gắng tuân theo nguyên tắc của một chính phủ hành động theo hiến pháp”.
Với lời tuyên bố trên trước Hạ nghị viện, Jules Simon vừa vẽ ra chính sách lý tưởng của mình vừa đồng thời gửi thông điệp đến Tổng thống rằng ông ta chỉ chấp nhận điều hành đất nước trong trường hợp hoàn toàn thống nhất với Tổng thống và Quốc hội: từ đó, khủng hoảng là điều không thể tránh khỏi.
Cuộc khủng hoảng ngày 16-5-1877
Giữa Tổng thống và Quốc hội có một vấn đề tạo hố sâu ngăn cách, đó là vấn đề tôn giáo. Bản thân Jules Simon đã từng cấm đoán việc thông qua một đơn kiến nghị đòi ngăn chặn chính sách chống tầng lớp tăng lữ của chính phủ Italia và điều này đã bị những tín đồ Thiên chúa giáo trong Hạ nghị viện lên án kịch liệt.
Jules Simon đã trả lời một cách ôn hòa và kiên quyết và chỉ ra sự thái quá của một “thiểu số” các tín đồ Thiên chúa giáo, đồng thời tuyên bố rằng nước Pháp sẽ không can thiệp vào các vấn đề hoàn toàn riêng tư của Italia. Tổng thống Pháp khen ngợi Jules Simon về bài diễn văn, nhưng phe đa số của những người Cộng hòa, với chất kết dính duy nhất là việc chống lại chủ nghĩa tăng lữ, thì hi vọng Chính phủ sẽ xem xét một cách nghiêm khắc những người theo chủ nghĩa tăng lữ.
Và ngay từ ngày 4-5-1876, Gambetta cũng đã bước lên diễn đàn phát biểu một bài diễn văn hùng hồn, ông nói: “Một người Thiên chúa giáo mà có lòng yêu nước, điều này thật hiếm có biết bao!” và ông kết thúc bài diễn văn của mình bằng một câu nói nổi tiếng sau đó đã trở thành một lời kêu gọi liên kết của phe Cộng hòa: “Chủ nghĩa tăng lữ, đó là kẻ thù!”
Sau đó, một chương trình nghị sự đã được thông qua, chương trình này lên án những âm mưu của thế lực ủng hộ quyền lực Giáo hoàng. Sau khi đọc bản báo cáo các cuộc tranh luận, Tổng thống vô cùng tức giận. Tổng thống không còn là người ngây thơ về chính trị như người ta vẫn thường đồn đại nữa, ông hiểu rằng việc chỉ trích chủ nghĩa tăng lữ chính là việc kết tội chính sách của Trật tự Đạo đức; nhất là ông không thể chấp nhận việc Jules Simon bỏ qua mà không phản bác câu nói của Gambetta khi ông này nghi ngờ chủ nghĩa yêu nước của những người theo Thiên chúa giáo, câu nói mà Tổng thống cho rằng đã nhằm thẳng vào ông. Tổng thống tìm cách thoát ra khỏi tình huống khó xử đó.
Nhưng Broglie thì hiểu rằng cắt đứt quan hệ với chính phủ Trật tự Đạo đức có nghĩa là sẽ đối đầu với Hạ nghị viện, sẽ buộc phải tiến hành giải tán và như vậy sẽ phải chấp nhận cuộc bầu cử để giải quyết vấn đề tôn giáo theo chiều hướng không có lợi cho phe Bảo thủ. Vì vậy, Broglie đã khuyên Mac-Mahon hãy kiên nhẫn chờ thời.
Ngày 15-5, thời cơ đã đến; Hạ nghị viện sau khi bãi bỏ một đạo luật của thời kỳ Trật tự Đạo đức, đã báo cáo lên các thẩm phán nhân dân thông tin về những vi phạm pháp luật về báo chí mà Chính phủ của Broglie đã trao cho toà hình sự trước đó. Jules Simon đã phớt lờ đạo luật mà không can thiệp vào việc này.
Ngày hôm sau, 16-5, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nhìn thấy trên bàn của mình một bức thư của Tổng thống:
“Thưa Ngài Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Tôi vừa mới đọc được trong Công báo bản báo cáo về phiên họp hôm qua. Tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy rằng cả Ngài và Ngài Bộ trưởng Bộ Tư pháp đều không ai đứng trên diễn đàn để nêu lên và nhấn mạnh những lý do chính có thể đã gây nên việc bãi bỏ đạo luật về báo chí đã được thông qua cách đây gần hai năm […]
Mọi người có thể đã rất ngạc nhiên khi thấy Hạ viện thông qua một vài điều khoản của một đạo luật địa phương trong những phiên họp vừa qua - đạo luật mà ngay chính bản thân ngài, trong cuộc họp với Hội đồng Bộ trưởng, đã thừa nhận tính nguy hiểm của nó […] dù Ngài Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã không tham gia thảo luận trong phiên họp này.
Thái độ này của người đứng đầu nội các khiến người ta tự hỏi liệu người đó có dùng ảnh hưởng cần thiết đối với Hạ nghị viện để áp đặt quan điểm của mình hay không.
Việc này cần phải được giải thích; bởi vì, nếu tôi không phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội như Ngài thì tôi lại phải có trách nhiệm với nước Pháp, điều mà hiện nay, hơn lúc nào hết, tôi đang phải quan tâm…”
Với lá thư trên, Tổng thống muốn khẳng định rằng nhân danh trách nhiệm của mình với nước Pháp, Tổng thống có quyền khiển trách một Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được Hạ nghị viện tin dùng. Jules Simon và các Bộ trưởng trong nội các của ông từ chức ngay lập tức và Mac-Mahon đã bổ nhiệm vào vị trí Bộ trưởng một nhân vật mới là Công tước Broglie, người này chắc chắn sẽ chỉ đối đầu với phe đa số của Đảng Cộng hòa trong Hạ viện.
Ngày 18-5, Broglie đọc trước Hạ nghị viện bức thông điệp của Tổng thống. Trong bức thông điệp này, Tổng thống đã tuyên bố rằng hai Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với tham vọng lãnh đạo cùng với những người Cộng hòa ôn hòa đều đã phải chịu kết cục thất bại trước những thành viên của Đảng Cấp tiến; rằng trong những điều kiện này, một chính phủ bền vững, ổn định chỉ có thể được hình thành nếu những Đảng viên Đảng Cấp tiến được mời ra nắm quyền để thực hiện những ý tưởng của họ:
“Thế nhưng, Tổng thống đã tuyên bố, lương tâm của tôi cũng như lòng yêu nước trong tôi đều không cho phép tôi gắn mình với chiến thắng của những ý tưởng đó, dù chỉ là từ xa và trong tương lai mà thôi. Tôi không tin rằng những ý tưởng đó hợp với thời đại ngày nay cũng như sau này. Nếu ở vào thời đại nào đó mà những ý tưởng trên được coi là có giá trị thì nó cũng sẽ chỉ tạo nên sự lộn xộn và suy yếu của nước Pháp mà thôi. Bản thân tôi không muốn thử áp dụng những ý tưởng đó và cũng không khuyến khích những người kế cận tôi áp dụng nó. Chừng nào tôi còn là người nắm quyền, chừng đó tôi còn sử dụng khả năng mình có, với tất cả những hạn chế do pháp luật qui định về quyền Tổng thống, để chống lại những gì mà tôi cho là làm tổn hại đến quốc gia”.
Mac-Mahon đã sử dụng những điều khoản trong Hiến pháp qui định Tổng thống là vị lãnh đạo nắm quyền hành pháp để đòi hỏi quyền được đưa ra chính sách riêng của mình và chống lại chính sách của Hạ nghị viện nếu Tổng thống thấy chính sách đó là nguy hiểm và có hại. Đối với Hiến pháp vừa mới được thông qua, chẳng có gì cần nói ngoài việc bản Hiến pháp rất đúng luật, nhưng khi Tổng thống khiến người ta nghi ngờ về những tư tưởng Cộng hòa của ông ta và khi Tổng thống đối đầu với phe đa số Cộng hòa trong Hạ nghị viện thì vấn đề lại trở nên khác đi.
Khi Tổng thống đòi hỏi một số quyền của mình thì người ta nhận thấy đó là một cố gắng cuối cùng để cáo giác nền Cộng hòa theo nguyện vọng của phe Quân chủ giấu mặt. Đây là điều tối quan trọng trong cuộc khủng hoảng ngày 16-5 và những hậu quả của nó.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:25:01 GMT 9
Cuộc bầu cử năm 1877: “Cần phải nhượng bộ hoặc từ chức”
Thứ Sáu, 26/06/2009, 18:30 (GMT+7)
Cuộc bầu cử năm 1877: “Cần phải nhượng bộ hoặc từ chức”
TTO - Sau khi đọc trước Hạ nghị viện bức thông điệp của Tổng thống, Broglie lại cho đọc một sắc lệnh về việc hoãn họp Quốc hội sau 1 tháng.
Khoảng thời gian này sẽ cho phép Chính phủ có thể chuẩn bị cho cuộc bầu cử sẽ diễn ra sau khi giải tán Hạ nghị viện. Và thực tế, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, cựu thành viên của chủ nghĩa Bonaparte, ông Fourtou, đã cách chức hơn 200 công chức là người Cộng hòa và thay thế họ bằng những người theo chủ nghĩa Bonaparte vốn đã quen với việc xử lý đám đông bằng những cú đấm và giúp cho những ứng cử viên là quan chức thắng cử.
Về phần mình, những người Cộng hòa bắt đầu tập hợp và tổ chức công việc. Ý thức rõ về vai trò của cuộc bầu cử, những người này chủ trương không coi nhẹ bất cứ điều gì để có thể giành thắng lợi và đảm bảo quyền của Hạ nghị viện trong nền Cộng hòa.
363 Đại biểu Cộng hòa trong Hạ nghị viện đã nhóm họp bất chấp sắc lệnh hoãn họp và công bố bản tuyên ngôn do một người bạn của Gambetta là Eugène Spuller soạn thảo: “Nước Pháp muốn có nền Cộng hòa, nước Pháp đã tuyên bố như vậy ngày 20/2/1876, và nước Pháp còn tiếp tục khẳng định điều đó… Chúng tôi kêu gọi các bạn hãy lên tiếng thể hiện quan điểm và sự lựa chọn của mình giữa một bên là chính sách phản động đầy mạo hiểm sẽ phá huỷ một cách tàn nhẫn những gì mà chúng ta đã vất vả mới giành được từ 6 năm nay, và một bên là chính sách khôn ngoan và kiên quyết, vì hòa bình và phát triển mà các bạn đã thấy… Nền Cộng hòa sẽ ra đời từ những hòm phiếu nhân dân và lớn mạnh hơn bao giờ hết”.
Và vào ngày 16-6-1877, khi Hạ nghị viện tụ họp một lần nữa thì các bên đều đã sẵn sàng cho cuộc chiến. Fourtou tuyên bố trước phe đối lập: “Chúng tôi không có cùng niềm tin với các ngài và các ngài cũng không có cùng niềm tin với chúng tôi…”.
Hạ nghị viện đã đáp trả bằng cách thông qua một chương trình nghị sự trước những đòi hỏi của Mac-Mahon nhằm khẳng định nguyện vọng của mình là Hiến pháp phải được áp dụng theo chế độ đại nghị: “Xét thấy Chính phủ […] đã được huy động để giải quyết các vụ việc trái với luật đã được các kỳ Quốc hội thông qua - đạo luật đóng vai trò là nguyên tắc hành động của Chính phủ theo chế độ đại nghị, đồng thời cũng thấy rằng Chính phủ chỉ đại diện cho liên minh chính trị giữa các đảng thù địch với nền Cộng hòa, một liên minh được dẫn dắt bởi những người khởi xướng các hoạt động biểu tình của giới tăng lữ đã bị Hạ nghị viện lên án […], Hạ nghị viện tuyên bố Chính phủ không được sự tín nhiệm của các Đại biểu quốc hội đại diện cho quốc gia…”.
Ngày 25-6-1877, được sự đồng ý của Thượng nghị viện, Mac-Mahon đã giải tán Hạ nghị viện: chiến dịch tranh cử quan trọng nhất trong lịch sử nền Cộng hòa bắt đầu. Tướng Mac-Mahon liên tục gửi đi những thông điệp, thay đổi cách xử lý việc ứng cử của quan chức (“Chính phủ của tôi sẽ chỉ ra trong số các ứng cử viên những ai tôi có thể trông cậy được”).
Ông cũng xuất hiện ở hầu hết các vùng của Pháp với một niềm hạnh phúc không giống nhau ở từng nơi: nếu chuyến đến thăm nơi hành hương Saint-Anne d’Auray của vùng Bretagne là một thắng lợi thì ở Bordeaux lại là cảnh những gã ranh con đu mình trên những cây đèn đường hay bủa kín lấy xe của Mac-Mahon mà hét lên: “Nền Cộng hòa muôn năm!”. Khi đó, những người Cộng hòa vốn tỏ ra chỉ đối đầu với Chính phủ và còn nể nang Tổng thống thì nay vội thoát ra khỏi vỏ bọc ôn hòa của họ. Ở Lille, Gambetta đã đọc một bài diễn văn cáo giác Mac-Mahon: “Khi hàng nghìn người Pháp phải lên tiếng thì sẽ không ai, dù ở vị trí nào, bậc nào trong nấc thang chính trị, có thể chống lại được. Một khi nước Pháp muốn nói lên tiếng nói độc lập chủ quyền của mình thì xin các ngài hãy tin điều này: cần phải nhượng bộ hoặc từ chức”.
Chính phủ truy cứu Gambetta vì những lời lăng mạ Tổng thống, điều này đã khiến những gì ông nói được lan truyền rộng rãi và hơn nữa còn làm hại thanh danh của Nguyên soái. Không gì có thể có lợi hơn thế cho những người Cộng hòa. Nếu thắng cuộc, phe Cộng hòa đã có nhân vật để thay thế Tổng thống, nhân vật đó chỉ có thể là người biết trấn an tầng lớp tư sản thương nhân: Adolphe Thiers.
Người này thực sự là thủ lĩnh của Đảng Cộng hòa, đã có những cố gắng lớn và là ứng cử viên tại hòm phiếu ở quận IX của Paris. Ông đang chuẩn bị một bản tuyên ngôn để đọc trước cử tri. Tham gia vào cuộc bầu cử lần này, ông muốn phục thù cho thất bại ngày 24-5-1873. Mac-Mahon chịu nhượng bộ
Điều kiện thuận lợi trên đã không phát huy tác dụng với Thiers: một tháng trước khi diễn ra cuộc bầu cử, Thiers chết vì chứng sung huyết.
Bị mất đi người tiên phong, những người Cộng hòa rất lo lắng: họ sẽ lấy ai thay thế Thiers? Họ sẽ thay Thiers bằng Gambetta, một người quá gần gũi và quen thuộc với quần chúng ư? Như vậy chẳng phải là họ mạo hiểm làm cho tầng lớp tư sản khiếp sợ vì tầng lớp này luôn thấy Gambetta là một tông đồ của cuộc Cách mạng xã hội?
Cẩn trọng hơn, họ chọn nhân vật máu lạnh Jules Grévy , người mà Thiers tin tưởng từ năm 1871. Sự lựa chọn này kết thúc một cách tốt đẹp: cuộc bầu cử đã đem lại chiến thắng cho 315 Đảng viên Cộng hòa và 199 đảng viên đảng bảo thủ. Dĩ nhiên là phe đa số Đảng Cộng hòa đã giảm đi nhưng chắc chắn nó vẫn còn là đảng chiếm đa số ghế trong Hạ nghị viện.
Bị đánh bại, Mac-Mahon sẽ chấp nhận nhượng bộ hay từ chức? Ông ta sẽ lần lượt làm từng bước một. Trước khi nhượng bộ, ông còn cố lần chần né tránh. Broglie chỉ quyết định từ chức hai tuần sau cuộc họp của Hạ nghị viện mới. Vì vậy, Tổng thống đã chỉ định một trong những người thân cận của mình là Tướng Rochebouet ra lãnh đạo chính phủ, vị Tướng này thành lập một chính phủ gồm những người không có chân trong Quốc hội.
Nhưng Quốc hội từ chối không quan hệ với vị Tướng này. Mac-Mahon không biết phải giải quyết vấn đề như thế nào: Broglie, vị cố vấn mà Tổng thống vẫn nghe lời nhất thì khuyên ông nên từ chức nếu không muốn trở thành thứ đồ chơi trong tay những người Cộng hòa; nhưng Công tước Audiffret-Pasquier, Chủ tịch Thượng nghị viện thì lại khuyên Tổng thống nên nhượng bộ và ông này tuyên bố rằng Thượng nghị viện sẽ không tán thành việc giải tán Hạ nghị viện một lần nữa.
Đã nhiều lần, Mac-Mahon định làm theo ý kiến của Broglie và định dứt khỏi quyền lực. Nhưng Tổng thống bị giới cận thần gồm những người theo chủ nghĩa chính thống và những sĩ quan quân đội ngăn cản vì những người này lo sợ hậu quả sẽ xảy ra nếu Tổng thống từ chức nhường lại lãnh địa của mình cho phe Cộng hòa. Cuối cùng, Mac-Mahon triệu tập Đảng viên Cộng hòa ôn hòa nhất mà người ta có thể tìm thấy, đó là Dufaure.
Nhưng nhân vật này, do đã quá thấu hiểu sự tình nhờ những sự kiện vừa xảy ra, nên không muốn một lần nữa dấn thân làm mồi cho những sự chỉ trích và trách cứ mà trước đây người ta đã làm với mình, không muốn mình bị coi là hình nộm của Tổng thống nên trước khi nhận lời, Dufaure đặt ra một số điều kiện.
Chính phủ mới được thành lập sẽ chỉ gồm Dufaure và những người Cộng hòa mà bản thân ông sẽ chọn, chính phủ sẽ hoàn toàn độc lập với Điện Élysée và Tổng thống sẽ phải chấp nhận ký một bức thông điệp công khai trong đó Tổng thống khẳng định sẽ một mực tôn trọng những qui định của Quốc hội.
Vậy là Nguyên soái đã nhượng bộ, và theo sự dẫn dắt của Dufaure, ông đi từ sự phục tùng này sang sự nhượng bộ khác: trước tiên ông sẽ phải xa rời viên Cảnh sát trưởng Voisin, rồi sau đó là một số người cộng tác thân cận của mình như Hầu tước Harcourt vì người ta cho rằng vị Hầu tước này đã khởi xướng cho Tổng thống chính sách chống lại nền Cộng hòa; cuối cùng, Tổng thống sẽ phải chấp nhận ký vào một bức thông điệp nổi tiếng có sửa đổi chút ít để khỏi quá làm mất thể diện:
“Hiến pháp năm 1875 đã lập ra một nền Cộng hòa đại nghị với điều khoản miễn trách cho tôi trong khi nó lại đòi hỏi sự đồng trách nhiệm của các Bộ trưởng. Vì vậy mà nghĩa vụ và quyền lợi của chúng ta được thiết lập lần lượt. Sự độc lập của các Bộ trưởng là điều kiện để qui trách nhiệm cho họ. Những nguyên tắc được rút ra từ Hiến pháp này là những nguyên tắc điều hành của tôi”.
Do vậy Dufaure rất bằng lòng về mọi phương diện: về mặt chính trị, Tổng thống hầu như không còn quyền lực. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Marcère đã miêu tả thái độ của Tổng thống cho Hội đồng
Bộ trưởng đầu tiên được thành lập sau khi thành lập chính phủ của Dufaure: “Nguyên soái bước vào. Ông đỏ mặt, rất xúc động và gần như cảm thấy nhục nhã; ông giống như một tên lính phải hạ vũ khí. Ông nói một vài lời ngắn gọn và không giấu nổi việc ông đã phải cố gắng kìm nén như thế nào trước mặt chúng tôi. Ông nói ông phải thành lập một chính phủ không như mong muốn mà bị bắt buộc, rằng đáng ra ông đã có thể rút lui cùng với những người cùng ông làm nên ngày 16/5; nhưng sở dĩ ông không làm như vậy là vì cảm thấy đó là một nghĩa vụ; ông đồng ý rằng sự hiện hữu của mình với tư cách lãnh đạo chính phủ là cần thiết cho nước Pháp trên phương diện ngoại giao […] giọng ông rất xúc động […] gương mặt ông run lên”. Mac-Mahon từ chức
Nếu Mac-Mahon đã từng chấp nhận ở lại vị trí Tổng thống là bởi vì Thượng nghị viện với phe đa số thuộc Đảng Bảo thủ cũng có những phương tiện hành động như Hạ nghị viện nên có thể giúp Nguyên soái đưa ra những lý lẽ đủ mạnh trước Chính phủ.
Thực tế, Chính phủ cảm thấy bị buộc phải nương nhẹ với Mac-Mahon và đặc biệt là để cho Tổng thống theo dõi một cách sát sao những sự vụ trong quân đội; Tổng thống đã yêu cầu cử Tướng Borel, sĩ quan tuỳ tùng cũ của mình làm Bộ trưởng Bộ Chiến tranh cho dù Dufaure không dám phản đối việc này.
Dường như đã có vài tháng đình chiến chính trị giữa Tổng thống và phe đa số vì một sự kiện diễn ra: ngày 1-5-1878, Mac-Mahon được khánh thành Cuộc triển lãm Quốc tế Paris và tổ chức những buổi lễ xa hoa tại Điện Élysée, nơi tụ họp những vị vua chúa châu Âu; đặc biệt, Tổng thống được điều khiển những cuộc duyệt binh hoành tráng. Nhưng đó là những đốm lửa cuối cùng của Mac-Mahon ở cương vị Tổng thống.
Ngay sau khi cuộc triển lãm kết thúc thì cuộc hưu chiến chính trị cũng đến hồi kết. Tháng 1-1879 đã diễn ra cuộc bầu cử bầu lại một phần ba số đại biểu trong Thượng nghị viện; những bước tiến lớn của Đảng Cộng hòa trong các chiến dịch tranh cử được minh chứng bằng kết quả bầu cử cấp quận năm 1877 và bầu cử cấp xã năm 1878 và điều này đã có tiếng vang lớn đến cuộc bầu cử Thượng nghị viện; thắng lợi của những người Cộng hòa khiến cho trước đây họ chỉ chiếm thiểu số trong Thượng nghị viện thì nay họ đã có 60 phiếu đa số.
Hiện tại, Mac-Mahon không còn quyền lực về chính trị, và những người Cộng hòa biết rất rõ điều đó, họ bèn từ bỏ những nương nhẹ, nể nang mà họ vẫn buộc phải dành cho Tổng thống cho đến tận thời điểm đó. Dưới sức ép của Hạ nghị viện, Dufaure yêu cầu tướng Borel phải từ chức, nhưng Nguyên soái ngay lập tức lại thay Borel bằng một Tướng tin cẩn khác của mình.
Bị vượt quyền, Tổng thống phải ký sắc lệnh cách chức rất nhiều quan chức cấp cao đã từng giúp đỡ các nhân vật của ngày 16-5 và phải hi sinh nhiều tổng kiểm sát trưởng, trưởng khu giáo dục, tỉnh trưởng, quan chức cấp cao trong ngành tài chính, những người đã từng phục vụ chính phủ của ông vài tháng trước đó.
Nhưng ngày 28-1-1879, Bộ trưởng mới phụ trách Bộ Chiến tranh yêu cầu Tổng thống ký một sắc lệnh quyết định thuyên chuyển 5 Tư lệnh quân đội và cho nghỉ việc 5 người khác thì Mac-Mahon rất giận dữ và từ chối ký. Các Bộ trưởng đều đã có vị trí của mình, còn Mac-Mahon vì không muốn chấp nhận sự nhượng bộ cuối cùng này nên đành phải dùng giải pháp “từ chức”. Ngày 30-1, Tổng thống gửi cho các Chủ tịch Thượng nghị viện và Hạ nghị viện bức thông điệp sau:
“Thưa Ngài Chủ tịch, Ngay từ khi khai mạc phiên họp này, Chính phủ đã trình lên quí Ngài chương trình về các dự luật của mình, những dự luật này, vì để làm hài lòng dư luận, nên có thể sẽ được thông qua mà không nguy hại gì cho an ninh quốc gia và việc điều hành đất nước. Không kể đến mọi ý kiến cá nhân khác, tôi đã đồng ý với chương trình trên, bởi vì tôi không bỏ qua bất cứ một nguyên tắc nào mà lương tâm mình bảo mình phải trung thành với nó.
Hôm nay, vì tin rằng sẽ được đa số các đại biểu của hai Viện ủng hộ, Chính phủ yêu cầu tôi phải thực hiện một số biện pháp đối với các tướng lĩnh quân đội mà tôi cho rằng những biện pháp đó đã xâm hại đến danh dự và an ninh của quân đội cũng như của quốc gia. Tôi không thể nhượng bộ chuyện này.
Với lời từ chối này, Chính phủ sẽ ngãng ra. Thực ra thì bất kỳ một chính phủ nào được hình thành từ những thành viên của hai Viện đều sẽ áp đặt những điều kiện tương tự với tôi.
Cho nên tôi tin rằng mình cần phải rút ngắn nhiệm kỳ mà Hạ nghị viện đã tin tưởng trao trách nhiệm cho tôi. Tôi xin đệ đơn từ chức Tổng thống nền Cộng hòa.
Khi từ bỏ quyền lực, tôi muốn khẳng định rằng trong suốt 53 năm phục vụ đất nước mình với tư cách là một người lính, và một công dân, tôi chưa bao giờ để mình bị chi phối bởi bất cứ thứ tình cảm nào khác ngoài ý thức về danh dự và nghĩa vụ cũng như một lòng tận tụy với Tổ quốc…”. Một nhân vật bù nhìn trong vai trò vật trang trí
Vậy là, gần hai năm sau sự kiện ngày 16-5, Mac-Mahon đã rút ra những bài học logic về thất bại của mình.
Nhưng vào thời điểm rút lui khỏi vị trí Tổng thống, người từng theo chủ nghĩa Quân chủ này, dù không muốn, đã vô hình chung cho người ta thấy rõ những đặc tính của chức danh Tổng thống trong suốt giai đoạn tồn tại của nền Cộng hòa đệ Tam.
Trong hai cách hiểu về vai trò Tổng thống mà Hiến pháp năm 1875 đưa ra thì cuộc khủng hoảng ngày 16-5 đã khiến người ta thấy cách hiểu có giá trị thực tế là: Tổng thống chỉ như một nhân vật để trang trí và bị tước mọi thực quyền. Chắc chắn nếu như Mac-Mahon bị buộc phải nhượng bộ thì đó là bởi vì phe đa số của những người Cộng hòa hoàn toàn có quyền nghi ngờ chính sách ủng hộ chủ nghĩa Quân chủ của Tổng thống.
Nhưng khi Mac-Mahon ra đi, những người Cộng hòa kế nhiệm ông được thừa hưởng từ Tổng thống một thứ quyền lực mà thực tế 4 năm qua đã cắt xén mất. Từ nay trở đi, Tổng thống nền Cộng hòa có thể đưa ra một chính sách khác với chính sách của phe đa số trong Quốc hội, Tổng thống cũng có thể điều hành chính phủ một cách thực sự dù điều đó không đúng hoàn toàn với câu chữ trong Hiến pháp.
Sử dụng những vũ khí hợp pháp mà pháp luật trao cho có nghĩa là Tổng thống lựa chọn các Bộ trưởng, chỉ định hoặc tự mình cách chức các quan chức hay sĩ quan, yêu cầu hai Viện tiến hành thảo luận lại các dự luật; còn nếu hành động như Mac-Mahon có nghĩa là đã hành động như một kẻ đi ngược với nền Cộng hòa.
Cũng theo logic trên thì thấy rằng sử dụng quyền giải tán Quốc hội như Mac-Mahon đã làm ngày 16-5 có nghĩa là đưa ra một chính sách cá nhân; và nếu như vậy thì quyền giải tán Hạ nghị viện sẽ bị bỏ xó, dù đó là một vũ khí cơ bản của Tổng thống, một đối trọng không thể thiếu để chống lại quyền lực tuyệt đối của Quốc hội theo tinh thần của Hội đồng lập hiến năm 1875. Sau ngày 16-5, không một Tổng thống nào của nền Cộng hòa đệ Tam còn dám giải tán Hạ nghị viện.
Từ đó, các vị Tổng thống đều sẽ xóa đi dấu ấn của mình đằng sau vị trí Tổng thống. Sẽ không có gì là thái quá khi nói rằng chính sự kiện ngày 16/5 chứ không phải là Hiến pháp năm 1875 đã tạo nên chức danh Tổng thống trong giai đoạn nền Cộng hòa đệ Tam . Thời của hoa Cúc? (1879 - 1958)
Trong suốt gần 80 năm nền Cộng hòa sống trên di sản thể chế do cuộc khủng hoảng 16-5 để lại (trừ những năm gián đoạn từ năm 1940 - 1946 khi nước Pháp bị chiếm đóng, chế độ độc tài Vichy và các chính phủ lâm thời nối tiếp nhau đã bỏ qua các qui tắc của nền chính trị dân chủ ở Pháp).
Điều này có nghĩa là Tổng thống của nền Cộng hòa tuy vẫn giữ vai trò đại diện chính trị nhưng chỉ còn là Tổng thống trên danh nghĩa. Sự thất bại trong cuộc chiến cộng với việc Mac-Mahon từ chức đưa chức vụ Tổng thống đến gần với vai trò mà phe Cộng hòa, lúc đó đang chiếm đa số trong cả hai Viện, dành cho ông ta.
Vai trò của Tổng thống trong tình thế như vậy được Tướng De Gaulle gọi một cách cay nghiệt là ‘’khai mạc những bông hoa cúc‘’. Và trên thực tế, đúng là dù Tổng thống có là Chủ tọa của Hội đồng Bộ trưởng thì cũng không còn là người lãnh đạo nền Cộng hòa nữa.
Những quyền quan trọng mà bản Hiến pháp năm 1875 trao cho Tổng thống từ nay sẽ do chủ tịch của Hội đồng Bộ trưởng đảm nhiệm. Nhân vật này không tồn tại về mặt thể chế nhưng lại đảm nhiệm những vai trò chính trị mà thực tế không còn cho phép Tổng thống thực hiện nữa, chẳng hạn như thành lập chính phủ thông qua việc chỉ định các vị Bộ trưởng dựa trên hai tiêu chí là năng lực (có thể có) và khả năng thích nghi của họ để có thể thành lập một đa số tại nghị viện dưới thời Cộng hòa đệ Tam, tại Hạ nghị viện dưới thời Cộng hòa đệ Tứ; xác lập và lãnh đạo chính sách của quốc gia, bảo vệ hoạt động của chính phủ trước hai Viện…
Về phần mình, Tổng thống phải từ chối sử dụng những vũ khí mà các văn bản hiến pháp đã dành cho mình vì sợ bị kết tội phá hoại nền Cộng hòa. Các quyền này là: quyền giải tán nghị viện, quyền yêu cầu thảo luận lại một lần nữa các dự thảo luật đã được thảo luận tại nghị viện nếu như Tổng thống không đồng ý với nội dung của các dự thảo đó.
Dưới con mắt của người dân Pháp, một Tổng thống tốt là người vượt lên trên các vấn đề chính trị, đại diện cho đất nước một cách hoàn thiện, làm vinh danh đất nước bằng sự oai vệ, bằng tài hùng biện, thậm chí là bằng sự lịch lãm của mình. Nói cách khác là khi người ta được bầu vào Viện công tố tối cao, người ta phải rời bỏ chính trường năng động để đi vào trường danh vọng không quyền lực.
Trong tình hình như vậy, nhắc đến hàng loạt đời Tổng thống Pháp từ Jules Grévy đến René Coty (dân chúng Pháp đã quên phần lớn các nhân vật này) có vẻ như là một việc làm đẹp đẽ nhưng vô nghĩa. Vấn đề là ở chỗ, trong chính trị, có được sự trùng hợp giữa một bên là vẻ bề ngoài mang tính đại diện và một bên là thực tế không hề dễ dàng.
Bị bó buộc bởi sức nặng của hoàn cảnh, rồi truyền thống chính trị sau ngày 16-5, bởi sự khiêm tốn đến mức xóa nhòa chính mình, các vị Tổng thống của nền Cộng hòa không phải vì thế mà không có vai trò quan trọng gì. Về điểm này, tính cách riêng của từng người là một yếu tố quan trọng không thể bỏ qua. Bên cạnh những Tổng thống như Sadi Carnot hay Albert Lebrun muốn tự giới hạn mình bởi những đặc quyền mà truyền thống Cộng hòa trao cho họ thì có những Tổng thống khác như Casimir-Périer hay Alexandre Millerand muốn tìm lại những quyền lực mà bản Hiến pháp đã thừa nhận cho họ.
Những vị Tổng thống này đã cố gắng tới mức phải chịu nhiều thua thiệt. Bỏ ngoài tai sự mỉa mai chua cay của Clemenceau, người khuyến cáo là cần phải dồn phiếu một cách có hệ thống cho một nhân vật không tầm cỡ làm Tổng thống, người sẽ để mặc cho nghị viện lãnh đạo, các vị Tổng thống của Cộng hòa đệ Tam và đệ Tứ không hề là những con rối: nhiều người trong số họ đã biết sử dụng những lợi thế mà hệ thống chính trị Pháp dành cho mình một cách kín đáo và khéo léo.
Trước hết, đó là quyền chỉ định Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Không giống như ở Anh, nơi có chế độ lưỡng đảng trong đó thủ lĩnh của phe đa số đương nhiên chiếm cương vị Thủ tướng. Ở Pháp, trong một chế độ đa đảng, quyền chỉ định Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng không hề mang tính chất thủ tục.
Điều này được thể hiện qua việc Jules Grévy muốn tách nhân vật có cá tính mạnh như Gambetta xa rời quyền lực càng lâu càng tốt; việc Vincent Auriol đã chỉ định Antoin Pinay vào chức vụ Thủ tướng Chính phủ vào tháng 3-1952, hay René Coty bổ nhiệm Guy Mollet vào chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chứ không bổ nhiệm Pierre Mendès France vào năm 1956. Đó là những hành động chính trị quan trọng kéo theo nhiều hệ quả lớn.
Ngoài ra, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thường đảm nhiệm vai trò của mình trong một khoảng thời gian ngắn, Tổng thống có thời gian làm việc rất dài cho phép ông hiểu biết rất rõ các vấn đề cần giải quyết và do đó, họ trở thành người cố vấn quí giá và kín đáo cho người đứng đầu chính phủ ngay cả khi những người này chẳng buồn nghe những lời khuyên ấy. Cuối cùng, Tổng thống là biểu tượng và đại diện cho cả đất nước. Điều này làm Tổng thống có vai trò quốc tế nếu như ông này muốn và điều khiển nó trong các cuộc công du chính thức ở nước ngoài hay tiếp đón các nguyên thủ quốc gia.
Điều này đem lại cho Tổng thống vai trò thực sự trong chính sách ngoại giao. Tổng thống còn là người ký kết các điều ước quốc tế nhân danh nước Pháp, bổ nhiệm đại sứ ở nước ngoài, đôi khi Tổng thống có thể áp đặt sự lựa chọn của mình. Ông ta không phải là kẻ chỉ khoanh tay đứng xem trong lĩnh vực ngoại giao và trên thực tế, Jules Grévy hay Poincaré đều biết giữ một vai trò quan trọng và đôi khi chính yếu trong lĩnh vực này.
Như vậy, người ta không thể cười nhạo một cách dễ dàng, như thường vẫn thấy dưới thời Cộng hòa đệ Ngũ, những vị Tổng thống thời này. Đó thực ra là những nhân vật thường có một nhân cách lớn và họ luôn cố gắng, đặc biệt với những người mạnh nhất trong số họ, phục vụ đất nước mà cuộc bầu cử đã chọn họ làm đại diện cho đất nước ấy, trong khuôn khổ gò bó của truyền thống Cộng hòa.
Nhất là trong hoàn cảnh đất nước ấy lại không trao cho họ những phương tiện hành động cần phải có để hoàn thành nhiệm vụ trên cương vị của họ.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:26:48 GMT 9
Jules Grévy: Vị tổng thống cộng hòa đầu tiên!
Jules Grévy là người Pháp thứ tư mang danh hiệu Tổng thống nền Cộng hòa nhưng ông là người Cộng hòa đầu tiên nắm giữ cương vị này (30 tháng 01 năm 1879 - 3 tháng 12 năm 1887).
Tổng thống của nền Cộng hòa đệ Nhị là một người rắp tâm lên làm Hoàng đế. Còn Quốc hội đầu tiên của nền Cộng hòa đệ Tam muốn đưa một người lên làm vua nước Pháp.
Trong lúc chờ đợi tìm ra người thích hợp, Quốc hội đã bổ nhiệm một Tổng thống đến từ vùng Orléan và khi ông này bộc lộ dù là một cách muộn màng khuynh hướng Cộng hòa, nghị viện đã bổ nhiệm một vị Nguyên soái theo phái chính thống vào vị trí này.
Những người theo phái Cộng hòa, chiếm đa số ở hai Viện, và vừa đẩy Mac Mahon khỏi vị trí Tổng thống đã có thể đưa một người trong phe của mình vào Viện công tố tối cao. Ngày 30-1-1879, hai Viện đã nhóm họp ở Versailles sau khi đã nghe bản từ chức của Mac Mahon. Kết quả bầu cử 563 phiếu thuận trên 713 phiếu bầu đã đưa nhân vật lãnh đạo phe Cộng hòa Jules Grévy lên nắm quyền Tổng thống.
‘’Tôi sẽ không bao giờ đi ngược lại ý chí quốc gia”
Vẻ bề ngoài của vị Tổng thống này là một lợi thế của ông: một dáng vẻ đầy tư thế với bộ râu ngắn ôm trọn những đường nét hài hòa trên khuôn mặt. Grévy là người tiêu biểu của tầng lớp tư sản, đạo mạo, nghiêm túc, là người giàu có nhờ công việc làm ăn của chính mình, tôn trọng luật pháp, cần kiệm và cương nghị. Ai có thể tốt hơn trong việc đại diện cho những người Cộng hòa vốn gắn bó với việc làm yên lòng tầng lớp tư sản Pháp hơn Grévy?
Sinh ở Mont-sous-Vaudrey (Jura) ngày 15-8-1807, Jules Grévy xuất thân từ một gia đình nông thôn trong vùng, nằm giữa Dole và Poligny. Cách mạng 1848 làm ông trở thành một thành viên đại diện cho phe Cộng hòa. Vốn ôn hòa, ông muốn xây dựng một nền Cộng hòa đủ sức làm nhân dân yên lòng. Trong lĩnh vực lập hiến, ông muốn xây dựng một nền Cộng hòa không có Tổng thống…Dưới thời Đế chế đệ Nhị, vai trò của ông hết sức mờ nhạt. Chỉ đến năm 1868 vai trò này mới thay đổi khi ông là thành viên của Đoàn lập pháp.
Được bầu lại vào năm 1871, Grévy hợp tác với Thiers và với phái Orléans. Với vị trí người hòa giải, ông được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Nghị viện Cộng hòa năm 1876 chọn ông làm Chủ tịch một lần nữa cùng với người đồng cấp Thiers. Sau khi Thiers mất năm 1877, Grévy trở thành thủ lĩnh phe Cộng hòa. Sau khi Mac Mahon từ chức, việc bầu Grévy vào chức Tổng thống đã được bàn định từ lâu; chính vì thế việc Grévy trở thành Tổng thống không làm bất cứ ai ngạc nhiên, thậm chí đến cả ông cũng vậy.
Được bầu làm Tổng thống trong những điều kiện như thế, Grévy không thể làm gì khác hơn là đảm nhiệm cương vị của mình theo đúng những gì phe Cộng hòa mong đợi, phe vừa buộc vị Nguyên soái già nua phải từ chức. Ngay từ khi nhậm chức, ông đã rút được kinh nghiệm từ bài học này và đưa nó thành học thuyết mà các nhà làm luật gọi một cách châm biếm là ‘’Hiến pháp Grévy”. “Thần phục một cách chân thành luật pháp của chế độ nghị viện, tôi sẽ không bao giờ đi ngược lại ý chí của quốc gia do các cơ quan hiến pháp thể hiện’’. Nền chính trị Pháp là nền chính trị của Jules Grévy
Liệu tuyên bố trên có đồng nghĩa với việc người lãnh đạo nhà nước thừa nhận rằng phe chiếm đa số trong Nghị viện là người lãnh đạo nền chính trị Pháp và rằng Tổng thống phải từ bỏ những vũ khí mà bản Hiến pháp trao cho ông ta?
Liệu Tổng thống còn có thể biến thành một cực đối trọng của Nghị viện trong trường hợp cần thiết như Hiến pháp đã định hay không? Liệu có phải Grévy cam chịu trở thành một Tổng thống bù nhìn? Phe Cộng hòa cho là như vậy và chưa bao giờ họ thấy ở ông hình ảnh của một nhà làm luật đáng kính cả.
Đó là bởi vì Grévy đã biết khéo léo giấu kín tính tình độc đoán và niềm say mê quyền lực ở ông, điều làm phe Cộng hòa rất lo ngại như trường hợp của thành viên Viện Dự luật Gambetta.
Nhưng trong suốt 9 năm làm Tổng thống (ông được tái đắc cử năm 1855), Grévy đã có ảnh hưởng kín đáo nhưng sâu sắc. Ông chấp nhận không đưa ra một chính sách của riêng mình nhưng lại sử dụng hai trong các quyền của Tổng thống, như sau này Poincaré sẽ làm, và làm cho hai quyền ấy được chấp nhận rộng rãi nhất có thể được: ông coi mình như người đảm bảo của chính sách ngoại giao của Pháp và từ vị trí ấy ông không ngần ngại can thiệp vào các sự vụ quốc tế nhân danh quyền lợi quốc gia mà ông cho rằng mình là người đại diện.
Ông có quyền lựa chọn Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và trong một chế độ đa đảng, ông có thể sử dụng quyền này để đòi đưa một nhân vật mà ông thấy hài lòng và người đó không nhất thiết cứ phải là thủ lĩnh của phe đa số. Điều này đã có thể là một sự bắt buộc nếu như nước Pháp muốn bắt chước mô hình của Anh theo hệ thống lưỡng đảng.
Như vậy, từ năm 1879 đến 1887, nền chính trị Pháp trong một chừng mực nào đấy đã là nền chính trị của Jules Grévy ngay cả khi nó được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Sử dụng quyền của Tổng thống đã được công nhận là chỉ định Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Grévy sẽ đặc biệt chú ý để không chọn những người quá nổi bật khiến ông ta bị nấp bóng. Nỗi lo lắng lớn nhất của ông trong thời gian đầu làm Tổng thống là tách một nhân vật tầm cỡ ra xa quyền lực: Léon Gambetta.
Chủ tịch đầu tiên của Hội đồng Bộ trưởng do Grévy chọn là người nổi tiếng trung thực: Waddington, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao dưới thời Mac Mahon và là người được Grévy giữ lại để làm an lòng các nước châu Âu. Nhưng người được Tổng thống yêu quí lại là Charles de Freycinet.
Ông này là người mềm mỏng và khiêm tốn, biết xóa nhòa sự hiện diện của mình và tỏ ra rất chú ý đến công việc chung bằng cách nhận trách nhiệm về các hành động quyền lực. Khi một ‘’người cánh tả’’ trở nên cần thiết cho mình, Grévy đã sử dụng Jules Ferry, người đã trở nên bảo thủ trong lĩnh vực xã hội dưới thời Công xã nhưng nổi tiếng bởi quyết tâm chống chủ nghĩa tăng lữ một cách sâu sắc. Một vài năm sau, khi Jaurès yêu cầu Grévy phải nói rõ các mục tiêu của mình, Grévy nói:
- Mục tiêu của tôi là xây dựng loài người không có Chúa và không có Vua.
- Nhưng không phải là không có ông chủ, Jaurès đã thêm vào.
Grévy đã lãnh đạo đất nước với nhóm cộng sự là những người mềm mỏng và có cùng niềm tin với ông. Tuy nhiên, năm 1881, ông phải buộc lòng viện tới Gambetta. Nhưng cựu thành viên Viện Dự luật đã già trước tuổi và mệt mỏi; quyền lực của ông đã suy giảm sau những cuộc tranh đấu liên miên tại Nghị viện. ‘’Nội các lớn’’ mà ông thành lập với những nhân vật mờ nhạt chỉ kéo dài được 3 tháng.
Vài tháng sau, ông này mất và Grévy có thể một lần nữa mời Freycinet rồi Jules Ferry ra giúp sức. Các đời Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lâm thời kế tiếp nhau thực hiện một nền chính trị mà Grévy mong muốn đều có tính cách yếu hơn Grévy. Như vậy, ông đã giữ một vai trò hi hữu trong giai đoạn lịch sử này đó là trong số những người quyết định nền chính trị Pháp, ông là người duy nhất có lợi thế to lớn mà dưới thời Cộng hòa đệ Tam và đệ Tứ tất cả các nhà lãnh đạo nhà nước Pháp mơ ước có được: liên tục tại quyền.
Về mặt chính trị, bản tổng kết thời kỳ làm Tổng thống của Grévy sẽ như thế nào? Có thể nói là những người Cộng hòa đã sắp xếp lại nền Cộng hòa với nhiều cải cách như luật giáo dục qui định phổ cập giáo dục tiểu học bắt buộc cho trẻ em từ 6 đến 13 tuổi; giáo dục phải miễn phí và trung lập về mặt tôn giáo; áp dụng luật đương thời chống lại các giáo đoàn; thiết lập tự do hội họp và tự do báo chí; cho phép thành lập hội đoàn nghề nghiệp; quyền cho Hội đồng thành phố được bầu Thị trưởng; bỏ chức Thượng nghị sĩ suốt đời, phát triển hệ thống xe lửa Pháp với mục tiêu chính yếu là giải toả nông thôn và mở cửa nông thôn cho tiến bộ và như thế là làm cho nền Cộng hòa tiến bộ.
Đây là các chương trình của giới tư sản Cộng hòa, chống chủ nghĩa tăng lữ, tự do, tin vào tiến bộ và văn hóa được tiến hành dưới sự lãnh đạo tư sản của Tổng thống Grévy. Grévy liên kết với Bismarck chống lại tư tưởng phục thù
Chủ Nhật, 05/07/2009, 02:30 (GMT+7)
Grévy liên kết với Bismarck chống lại tư tưởng phục thù
TTO - Ảnh hưởng của Grévy lên chính sách đối ngoại chắc chắn còn rõ nét hơn nữa. Sử dụng các đặc quyền mà Hiến pháp trao cho mình, Tổng thống không ngừng can thiệp vào việc lựa chọn các đại sứ của Pháp ở nước ngoài và vào chính sách đối ngoại. Ông không giấu giếm đã tuyên bố rằng ông muốn có một chính sách đối ngoại hòa bình.
Ông cho rằng nước Pháp không được lợi lộc gì trong một cuộc chiến mới với nước Đức; cần phải bỏ hi vọng chiếm lại Alsace-Lorraine; cần phải giữ mối quan hệ hòa hảo với kẻ chiến thắng. Quan điểm này khá kỳ lạ ở thời kỳ đó khi ‘’phục thù’’ là chủ đề phổ biến nhất trong nền chính trị Pháp thời đó, một chủ đề đáng được nhấn mạnh; nhất là khi đó không chỉ là một quan điểm mang tính nguyên tắc.
Phần lớn quyền lực của Grévy dựa trên niềm tin mà ông cho rằng mình có được ở châu Âu. Một trong những người ủng hộ Tổng thống Pháp mạnh mẽ nhất là thủ tướng Đức Bismarck. Nhưng ông này ủng hộ Grévy không phải để Grévy được lòng các nghị viên Pháp, mà thực ra, niềm tin mà Thủ tướng Đức trao cho Tổng thống Pháp là vì chế độ mà ông đại diện chứ không phải là sự khôn ngoan của ông. Ý tưởng lớn của Bismarck, một ý tưởng theo thời gian đã trở thành một sự ám ảnh, là tránh một sự trả thù nào đó từ nước Pháp khi nước Pháp bị cô lập.
Vì thế, ông lo lắng rằng, sau khi Thiers đổ, khả năng nước Pháp có quay lại chế độ Quân chủ. Thủ tướng Đức lo rằng nền Quân chủ với một chính phủ mạnh sẽ kéo nước Pháp vào con đường ‘’phục thù’’. Về điểm này, chiến thắng của nền Cộng hòa (tức là theo quan điểm của Bismarck là chiến thắng của một chính phủ bất lực) làm ông ta yên tâm nhất là khi nền Cộng hòa được những kẻ cơ hội chủ nghĩa lãnh đạo, những người này cam tâm với tình trạng hiện tại, chứ không phải những người cấp tiến như Clemenceau. Những người theo Clemenceau luôn dán mắt vào ‘’đường kẻ xanh của dãy núi Vosges’’.
Nhưng năm 1885, những người cấp tiến đã thắng trong cuộc bầu cử và theo lời khuyến cáo của Clemenceau, một trong những người có uy tín nhất trong số họ là Tướng Boulanger đã trở thành Bộ trưởng Bộ Chiến tranh. Ông này đã biết lấy lòng quân đội bằng những biện pháp nâng cao đời sống quân nhân nhưng nhất là với sự kiên quyết mà ông thể hiện trong vụ Schnaebelé (Cảnh sát trưởng của Pháp, bị quân Đức bắt cóc ở Pagny-sur-Moselle vì bị tình nghi là gián điệp) đã biến ông thành ‘’vị Tướng báo thù’’ trong mắt dư luận.
Nhưng với Grévy và những thành viên trong chính phủ của ông, Boulanger đã tỏ ra hớ hênh và thiếu trách nhiệm và đó là sự nguy hiểm với nước Pháp. Grévy đã nhấn mạnh vào điểm yếu này để Boulanger bị gạt khỏi quyền lực nhất là khi ông này đang ngày càng được lòng những người đối nghịch với chính quyền đương thời.
Vì những lý do này mà Boulanger bắt đầu trở thành người lãnh đạo của những người bất mãn. Sau khi chính phủ được sắp xếp lại, Boulanger đã bị tách ra khỏi quyền lực và được bổ nhiệm về Clermont-Ferrand, nơi người ta hi vọng là ông sẽ bị rơi vào quên lãng. Ngày Boulanger ra đi, một cuộc biểu tình của quần chúng đã nổ ra ở nhà ga Lyon nhằm ngăn cản chuyến lưu đày.
Cuộc biểu tình này cho thấy sự suy giảm lòng tin mà sau vài năm cầm quyền, nền Cộng hòa cơ hội chủ nghĩa phải hứng chịu trong một số lĩnh vực. Điều này được thể hiện qua việc phong trào quốc gia chủ nghĩa lên cao. Phong trào này mơ ước có một người mạnh mẽ đứng đầu nền Cộng hòa. Đối diện với cuộc khủng hoảng này, Grévy đã biết tỏ ra là người bình tĩnh và từ chối không nhượng bộ bất kỳ yêu cầu nào của những người theo chủ nghĩa Sô-vanh hiện đang kích động.
Như vậy là với Jules Grévy, chế độ Tổng thống của nền Cộng hòa đã mất đi một vài đặc điểm cố hữu của nó. Từ nay, người ta phải công nhận là về mặt nguyên tắc, Tổng thống để người đứng đầu chính phủ, người được ông lựa chọn, nhưng có sự tin tưởng của Nghị viện, quyết định nền chính trị Pháp.
Nhưng Tổng thống về mặt luật pháp vẫn là người đứng đầu quyền lực hành pháp và hoạt động như một người hướng dẫn, một vị trọng tài. Nếu tính cách của Tổng thống mạnh, đặc biệt là mạnh hơn tính cách của người đứng đầu chính phủ, thì không gì có thể ngăn được việc Hội đồng Bộ trưởng quan tâm hơn đến ý kiến của Tổng thống với điều kiện là một vị Bộ trưởng phải có trách nhiệm ký nháy vào tất cả các văn bản được thảo ra theo cảm hứng của ông.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:28:23 GMT 9
Một nhà tư sản ở Điện Élysée
Như vậy, thái độ của Grévy sẽ định ra cách ứng xử của các nhà chính trị Pháp mong muốn đóng vai trò nổi trội: vì sợ bị tách ra khỏi quyền lực bởi Tổng thống quá độc đoán, họ sẽ ủng hộ một Tổng thống kém nổi trội, mang tính chất trang trí nhiều hơn là hiệu quả.
Jules Grévy cũng đã mở đầu cho một truyền thống mới trong phong cách của Tổng thống.
Mong muốn đóng một vai trò thực tế mà không bị bao trùm bởi cái bóng của các nhà lãnh đạo phái Cộng hòa. Grévy đã hiểu rằng sự khiêm tốn trong phong cách sống và ngoại hình của mình là điều không thể thiếu được trong sự thành công của các dự án mà ông đưa ra; chắc chắn là sở thích của một nhà tư sản nghiêm túc và cần kiệm sẽ thuận lợi cho toan tính chính trị của ông.
Với Grévy, Điện Élysée đã mất đi tính chất hào nhoáng mà Ngài đại quí tộc Mac-Mahon đã mang lại trong thời gian trước đó: rất ít các buổi tiếp tân, không có những chuyến du lịch; giới tư sản đã thay thế giới quí tộc trong lâu đài Tổng thống tráng lệ. Giới quí tộc trả thù bằng cách đưa ra nhiều giai thoại về tính bủn xỉn của Grévy. Henri Rochefort, nhà tranh luận đang tìm lý do cho một trận khẩu chiến đã thuật lại câu chuyện này: một chàng trai bị bắt khi anh ta đang ăn trộm bánh mì.
Khi được thả ra anh ta tiết lộ rằng mình vừa ra về sau bữa ăn tối ở điện Élysée! Khiêm tốn, cẩn trọng, quan tâm đến hiệu quả nhiều hơn là những chuyện vặt vãnh, an ninh hơn là danh vọng, thực tế hơn là những lời đao to búa lớn: ở Grévy, giới tư sản Pháp thế kỉ XIX thừa nhận ông là người trong giới của họ; ông ta có nhiều phẩm chất nhưng cũng có nhiều điểm xấu và thậm chí có một số tật. Đáng chú ý là quyền lực thực tế mà Gvévy có, nhưng trong bóng tối, bị xóa đi bởi cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đầu tiên mà nền Cộng hòa gặp phải trong những năm 1886 - 1887.
“Tai hại thay khi có một thằng con rể!”: Vụ tai tiếng huân chương
Tháng 9-1887, cảnh sát phát hiện một ổ buôn bán huân chương. Bà chủ của ổ này là Limouzin có quan hệ với tướng Caffarel, Phó tham mưu trưởng quân đội Pháp. Cả hai bị bắt và vụ việc liên quan tới nhiều nhân vật quan trọng trong đó có Nghị sĩ Daniel Wilson, con rể của Jules Grévy. Tai tiếng của nhân vật này càng làm cho vụ việc trở nên không có gì ngạc nhiên. Sau khi sống bê tha dưới thời Cộng hòa đệ Nhị, Wilson dấn thân vào chính trường. Được bầu là Nghị sĩ, chuyên gia về các vấn đề tài chính và đặc biệt nổi tiếng là một Nghị sĩ mánh khoé, Wilson đã dính líu đến tất cả các vụ móc nối bí mật, liên quan đến tất cả các vụ việc ít nhiều mờ ám.
Năm 1881, Wilson làm một phi vụ đặc biệt khi cưới cô Grévy. Ông Tổng thống, vốn là một người cha yếu đuối nay lại là một người bố vợ biết thông cảm đã đưa con rể vào Điện Élysée làm việc. Do đó Wilson đã biết được các bí mật của Hội đồng Bộ trưởng. Ông ta có ảnh hưởng trực tiếp đến những người cao cấp nhất của Nhà nước, nhiều người tỏ ra không lo lắng về đường quan lộ của mình khi làm mất lòng một nhân vật rất gần gũi với Tổng thống. Đây thực sự là một cơ hội tuyệt vời để làm giàu đối với một nhân vật vốn không ngại bất cứ việc gì!
Vậy là hết rồi thời của những vụ làm ăn cỏn con, những phi vụ nực cười! Wilson bắt đầu dùng ảnh hưởng để làm ăn ngang tầm vị trí mới của mình. Wilson cần nhiều phòng làm việc, một bộ phận của Élysée sẽ cung cấp cho ông ta. Wilson cần người giúp ư? Chỉ cần lấy trong đám nhân viên của Phủ Tổng thống. Nanh vuốt của Grévy là tài sản lớn của Wilson; các đơn đặt hàng của nhà nước cho phép các tờ báo và nhà in mà Wilson gợi ý làm ăn phát đạt; những chiếc Huân chương bắc đẩu bội tinh được phân phát một cách tự do để làm phần thưởng cho lòng yêu nước của các nhà cung cấp đủ yêu nước để thể hiện mình chiều lòng con rể của Tổng thống.
Khi vụ việc bị phát giác, vụ tai tiếng nổ ra trên diện rộng. Báo chí và dư luận xúc động và yêu cầu Grévy không được bênh vực con rể. Tổng thống mời Wilson ra khỏi Điện Élysée. Nhưng theo nguyện vọng của phe đối lập, vụ việc nay lại mang tính chất chính trị. Clemenceau đã chất vấn nội các về vụ việc này; chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Rouvier, người đã thử hoãn lại các phiên thẩm vấn, đã bị lật đổ. Báo chí và dư luận sôi sục chống lại Grévy, người cho rằng mình vô tội và bảo lưu ý kiến của mình.
Người ta thấy có một bức biếm họa trên đó Tổng thống Grévy đang khoan khoái bên bàn ăn trong một nhà hàng, mồm ngậm xì gà, nở một nụ cười mỉa mai trong khi con rể của ông ta trả tiền mua một tấm Huân chương bắc đẩu bội tinh! “Ôi, có một thằng rể mới tai họa làm sao!’’ đó là tiêu đề một bài hát nhanh chóng trở nên phổ biến.
Một người khác trả lời cho bài hát đó: “Ôi, có một ông bố vợ mới hạnh phúc làm sao!” Bài hát thứ ba kết luận: “Chúng ta hãy ôm hôn nhau đi, ôi con rể quí hóa của ta!’’ Rất nhanh, dưới mắt công chúng Grévy là người liên quan trong các hoạt động của con rể. Qua Tổng thống, phe Cộng hòa tin rằng người ta đang ám chỉ nền Cộng hòa. Sau khi mong muốn cho sự việc trôi qua, họ muốn rằng vụ việc phải được thảo luận nơi công cộng và Grévy, thủ phạm của việc thiếu cảnh giác gây tác hại đến chế độ phải từ chức. Jules Grévy từ chức
Tổng thống Grévy, người được làm Tổng thống thêm một nhiệm kỳ 7 năm nữa vào năm 1885, không hề muốn rời bỏ cương vị này.
Vốn là một luật gia tinh tế, ông tranh luận về việc ông có vô trách nhiệm hay không và không đồng ý từ chức; ông nhấn mạnh với các Nghị sĩ về sự nguy hiểm đã xảy ra trước đây khi một vị Tổng thống bị buộc phải từ chức.
Và khi đám đông hát bài hát Tổng thống - kẻ cố vị thì các Nghị viên Cộng hòa tự hỏi làm thế nào để buộc một vị Tổng thống vô trách nhiệm từ chức. Khi Rouvier đã từ chức, Grévy đã tuyên bố ý định kêu gọi một vị Chủ tịch mới của Hội đồng Bộ trưởng. Giải pháp này sẽ cho phép Grévy thực hiện quyền lực của mình và qua đó giữ nguyên quyền lực, điều mà Nghị viện không muốn để xảy ra bằng bất kỳ giá nào.
Như vậy giữa Tổng thống và các nghị sĩ xảy ra một cuộc chạy đua hi hữu trong đó Grévy phát hiện ra rằng mình có tính kiêu ngạo và một sự bướng bỉnh của tuổi già. Ông đã đề nghị một cách không mệt mỏi, hết lần này đến lần khác trao cương vị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cho những người lãnh đạo phái Cộng hòa để cứu vãn tình thế.
Nhưng những người này đều lần lượt từ chối: Freycinet, Goblet, Brisson, Ribot và thậm chí là cả Clemenceau, người mà Grévy đã dùng thủ đoạn để cắt đứt quyền lực cho đến lúc đó. Nhưng đến khi cả Clemenceau cũng đã từ chối, thì Grévy bèn thử dùng mẹo. Ông cam kết từ chức với hi vọng rằng lời hứa của mình sẽ làm dịu tình hình ở Nghị viện và Nghị viện sẽ chấp nhận việc ông đưa ra một nội các mới. Nhưng Grévy đã lần lữa mãi và ngấm ngầm tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía những người bảo thủ vì cả những người cấp tiến và cơ hội chủ nghĩa đều đã chối từ giúp đỡ.
Mệt mỏi bởi những lần không giữ lời hứa của vị Tổng thống già, Nghị viên hai Viện đã quyết định vào ngày 1-12-1887 sẽ quyết định không rời nghị viện để đợi Tổng thống nói lời từ chức. Vì vậy, Grévy đành phải rút lui. Vào 6h30 tối, thông điệp từ chức của Tổng thống đã được đọc trước hai Viện. Tổng thống nói đến sự bế tắc của các văn bản pháp lý, thanh minh hùng hồn cho thái độ của mình, một sự chỉ trích nặng nề những người đảm nhiệm việc bức ông phải từ chức:
“Thưa các Quí Ngài Nghị sĩ,
Khi tôi chỉ phải đối đầu với những khó khăn chồng chất trong thời gian gần đây trên con đường của tôi như: báo chí công kích, những người mà nền Cộng hòa kêu gọi phải ở bên tôi thì không thấy đâu, không thể thành lập được nội các,… tôi đã đấu tranh và ở lại ở nơi mà phận sự của tôi gắn bó với nơi ấy.
Nhưng khi công luận được soi sáng hơn đã làm tôi hi vọng thành lập được một chính phủ mới, Thượng nghị viện và Hạ nghị viện đã bỏ phiếu cho một nghị quyết kép. Nghị quyết này, dưới dạng một trát đòi vào một giờ cố định để đợi một thông điệp đã được hứa có giá trị như việc thúc nợ Tổng thống của nền Cộng hòa buộc phải rời bỏ quyền lực.
Nghĩa vụ của tôi và quyền lợi của tôi có lẽ là phải chống lại điều ấy nhưng trong hoàn cảnh của chúng ta hiện nay, một cuộc tranh chấp giữa quyền hành pháp và Nghị viện có thể kéo theo những hậu quả làm tôi phải dừng lại. Sự thông thái và lòng ái quốc buộc tôi phải nhượng bộ.
Tôi để lại cho những ai chịu trách nhiệm về một tiền lệ như thế này và những hậu quả mà nó có thể kéo theo. Như vậy, tôi bước xuống mà không hối tiếc nhưng không phải là không buồn về quyền lực mà tôi đã được đưa lên hai lần mà không đòi hỏi phải có quyền lực ấy và ở vị trí đó tôi ý thức được rằng mình đã làm tròn nghĩa vụ của mình. Tôi gửi lời kêu gọi tới nước Pháp!
Nước Pháp nói với tôi rằng trong suốt 9 năm, chính phủ của tôi đã đảm bảo hòa bình, trật tự và tự do cho người; rằng chính phủ của tôi đã làm cho thế giới phải tôn trọng Người; rằng chính phủ ấy đã làm việc không ngơi nghỉ cho sự phục hồi của nước Pháp và giữa một châu Âu đầy vũ khí thì nước Pháp đã được gìn giữ và hoàn toàn có khả năng bảo vệ danh dự và quyền lợi của mình. Và cuối cùng, trong nội bộ đất nước, chính phủ của tôi đã biết giữ cho nền Cộng hòa đi đúng trên con đường thông thái mà quyền lợi và ý chí của đất nước đã vạch ra.
Nước Pháp nói rằng đổi lại, tôi đã bị buộc rời khỏi cương vị mà niềm tin của nước Pháp đã trao cho tôi. Khi rời bỏ đời sống chính trị, tôi chỉ có một mong muốn: đó là nền Cộng hòa không bị tổn hại bởi những âm mưu chống lại tôi và nước Pháp sẽ hân hoan thoát khỏi những nguy hiểm mà người ta đang đe dọa…’’.
Thực ra, các điều kiện của việc Grévy từ chức đã làm thay đổi chiều hướng của nhiệm kỳ Tổng thống. Từ nay, Tổng thống vô trách nhiệm sẽ không được chống đối ý chí của Nghị viện. Chức vị Tổng thống được những nhà lập hiến năm 1875 lập ra như một đối trọng với Nghị viện trong trường hợp cần thiết sẽ chỉ còn là một cơ quan phụ thuộc vào Nghị viện. Vị trí ấy như vậy đã mất một chút cái bóng của quyền lực mà cuộc khủng hoảng ngày 16-5 để lại. Sadi Carnot, hiện thân của nhà nước Cộng Hòa
“Hãy bỏ phiếu cho người kém nhất”
Jules Grévy vẫn cố ở lại vị trí Tổng thống trong khi đa số những người theo đảng Cộng hòa muốn gạt bỏ ông. Lí do là ông biết chắc các Nghị sĩ sẽ không đồng ý người sẽ kế nhiệm.
Tình trạng này hoàn toàn khác với trước đây, khi đảng Cộng hòa đã biết trước từ lâu rằng ông sẽ kế nhiệm Mac-Mahon.
Liệu có phải đảng Cộng hòa thiếu những thủ lĩnh đủ khả năng giữ cương vị lãnh đạo tối cao? Chắc chắn là không! Đã có một nhân vật nổi bật nhất mà ai cũng nói đến, người sẽ tiếp tục chính sách của Grévy, nổi tiếng về nghị lực, quyền lực và trí tuệ.
Trong khi chính phủ Cộng hòa bị dư luận kết án là tham nhũng và bất lực thì đây lại là một người hoàn toàn trung thực và có tất cả các phẩm chất cần thiết của một chính khách. Người đó là Jules Ferry ! Nhưng chỉ cần nhắc đến cái tên này thôi là cơn bão phản đối nổi lên; bất kỳ ai cũng đều có một lý do để căm ghét người mà hoàn cảnh áp đặt.
Vậy Ferry đã làm gì để đến nỗi bị phản đối như vậy? Cánh tả nhắc nhở rằng khi làm Tỉnh trưởng Paris thời Công xã, ông đã ra lệnh đàn áp sau cuộc bao vây và từ đó không ngừng chống lại quyền tự chủ của các thành phố. Người ta còn chê trách ông về chính sách thuộc địa, về những cuộc viễn chinh đầy phiêu lưu ở Tunisie và ở Viễn Đông mà từ đó ông được đặt biệt danh là “người Bắc Bộ”.
Ông được coi là người đã hướng nước Pháp khỏi ý nghĩ phục thù, người không đội trời chung với “Tướng Phục thù” ; còn những người theo chủ nghĩa cấp tiến thì không tha thứ cho ông vì đã tuyên bố rằng “mối nguy hiểm ở bên cánh tả”. Nếu Ferry ở vị trí Tổng thống, điều đó có nghĩa là cánh cửa đến với quyền lực của Đảng Cấp tiến sẽ bị đóng lại trong 7 năm và lợi ích cá nhân gắn liền với lý do chính trị sẽ chặn con đường đến với chức Tổng thống của tác giả các luật giáo dục.
Clemenceau dường như có mặt ở khắp nơi, thậm chí có lúc đã nghĩ đến chuyện giúp Grévy thành lập vào phút cuối một nội các để tránh mối nguy hiểm Ferry. Xung quanh cung điện Bourbon liên tiếp diễn ra những cuộc biểu tình của Đảng Xã hội do Auguste Blanqui đứng đầu. Họ đến để la ó Ferry, kẻ thù của Công xã; rồi đến những cuộc biểu tình của Hội ái quốc, một nhóm nhỏ cực hữu, để thể hiện lòng hận thù đối với nhân vật Cộng hòa, đối thủ của Boulanger.
Chính viên tướng này cũng muốn lợi dụng tình trạng lộn xộn lúc đó và trong một lần đi qua Paris, ông đã có những cuộc tiếp xúc có ích trong bối cảnh tình hình tiến triển thuận lợi.
Đêm ngày 2 rạng ngày 3-12, tức là ngay sau khi Jules Grévy từ chức, là một đêm đầy biến động: biểu tình diễn ra khắp nơi; có tin đồn rằng những người theo Blanqui chuẩn bị khởi nghĩa và một chế độ Công xã mới sẽ được thiết lập nếu Ferry thắng cử. Đảng Cộng hòa lo lắng, không dám dồn phiếu cho Ferry.
Ở vòng bầu cử đầu tiên, Quốc hội họp ở Versailles sáng ngày 3/12 đã phân chia số phiếu cho ba người: Ferry, Freycinet, người được coi là ứng cử viên của Đảng Cấp tiến và của phái Boulanger, và ứng cử viên ôn hòa Sadi Carnot. Sau khi vòng bầu cử thứ hai cũng cho kết quả tương tự, Clemenceau cảm nhận được mối nguy hiểm và hoài nghi về một Tổng thống là nhân vật quá nổi bật.
Ông đã tìm ra cách loại bỏ Ferry mà vẫn tránh được nguy cơ bỏ trống chức Tổng thống, một tình huống đáng sợ đối với nước Pháp, bằng cách kêu gọi một cách giễu cợt: “Hãy bỏ phiếu cho Carnot, ông ta không có năng lực lắm, nhưng mang dòng máu Cộng hòa”.
Lời kêu gọi này đã có tác dụng, vì ở khía cạnh nào đó là đúng đắn. Nếu tóm tắt lời nói, hoặc ít nhất là suy nghĩ của Clemenceau, thì câu đó trở thành: “Hãy bỏ phiếu cho người kém nhất!”. Bằng cách đó, Ferry và Freycinet thôi ứng cử, và Sadi Carnot trở thành Tổng thống Cộng hòa Pháp với 616 phiếu so với 184 phiếu của viên tư lệnh quân khu Paris, người không phải là ứng cử viên. Giờ đây người ta muốn biết về ứng cử viên mà mình vừa bầu.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:30:00 GMT 9
“Liệu đây có phải là một nhà thơ Ba Tư không?”
Theo dư luận thì đó là câu hỏi mà người Pháp tự đặt ra cho mình khi nghe tên của Tổng thống mới. Trên thực tế, mặc dù không nổi tiếng lắm, nhưng Sadi Carnot cũng không đến nỗi mờ nhạt như đối thủ của ông vẫn nghĩ.
Như Clemenceau đã nói, ông mang dòng máu Cộng hòa: ông là cháu nội của Lazare Carnot, “Nhà tổ chức Chiến thắng” thời Cách mạng Pháp. Năm 1848, bố ông, Hippolyte Carnot, đã từng là thành viên Chính phủ lâm thời và được các Nghị sĩ nhiệt tình ủng hộ sau khi thắng cử.
Sadi Carnot tốt nghiệp Trường Đại học Bách khoa, được Chính phủ Vệ quốc chỉ định làm tỉnh trưởng Havre. Sau cuộc đình chiến, ông bắt đầu sự nghiệp chính trị của mình. Là một người Cộng hòa hoàn hảo, nhưng theo Clemenceau, ông cũng là một kẻ phản động không kém phần hoàn hảo. Ông đã giữ các vị trí Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ Công chính và tỏ ra rất có năng lực, trong khi những nhân vật nổi tiếng lúc đó đang chia nhau các chức Bộ trưởng các bộ mang tính chất “chính trị”.
Ông tỏ ra thanh liêm và Quốc hội rất hài lòng ghi nhận rằng ông đã biết chống lại sức ép của Wilson. Tính trung thực này là một yếu tố không thể bỏ qua, nhưng chắc chắn là không đủ che lấp việc ông không nổi tiếng. Thông qua ví dụ của Jules Grévy, lãnh đạo của Đảng Cộng hòa đã chỉ ra mọi bất lợi khi một nhân vật nổi bật lên làm Tổng thống: do muốn điều khiển nền chính trị của đất nước, nhân vật này sẽ loại bỏ những người lãnh đạo được cho là cạnh tranh với mình và lựa chọn những người kém hơn hoặc dễ sai khiến.
Lời đáp lại (và một người như Clemenceau phân biệt điều đó rất nhanh) là nên bầu vào chức Tổng thống một nhân vật ở hàng thứ hai, và như vậy chắc chắn là ám chỉ Sadi Carnot.
“Chỉ cần đi ăn tối ở tiệm mà không ăn trộm bát đĩa mang về là có thể ra ứng cử Tổng thống được hay sao?” Một tờ báo Thiên chúa giáo phản đối nền Cộng hòa đã đưa ra câu hỏi này sau khi Carnot đắc cử.
Câu hỏi này tương đối tiêu biểu cho cách mà dư luận chào đón Tổng thống mới. Trung thực, quyết tâm tôn trọng nội dung và tinh thần của Hiến pháp, nhưng khi nền Cộng hòa bị khủng hoảng, Carnot vẫn phải thực hiện trọng trách của mình một cách nghiêm túc, điều mà nền Cộng hòa rất cần trong những năm đó.
Carnot chống lại Boulanger
Thực ra, Carnot được bầu vào lúc cuộc khủng hoảng Boulanger đã lên đến đỉnh điểm. Khi Tướng Boulanger phải nghỉ hưu vào tháng 3-1888, những người không đồng tình (Đảng Cấp tiến, đảng dân tộc chủ nghĩa, phái Quân chủ, phái Bonaparte) vốn ủng hộ ông ta từ lâu, lấy ông ta làm người dẫn đầu chiến dịch chống Đảng Cộng hòa.
Bằng cách kết tội những người Cộng hòa tham nhũng, họ đưa Boulanger ra ứng cử ở bất cứ nơi nào có chỗ trống trong Quốc hội. Tính chất biểu quyết trực tiếp của cách làm này quá rõ ràng và người ta đã nghĩ đến một mưu toan đảo chính khi Boulanger thắng cử ở Paris ngày 27-1-1889.
Nhưng viên Tướng này vẫn còn do dự, và Đảng Cộng hòa đã trấn tĩnh lại. Khi cuộc khủng hoảng nội các xảy ra rất không đúng lúc vào đầu tháng 2-1889, Carnot nhận thấy mối nguy hiểm nên không chần chừ thâu tóm mọi việc. Ông gọi một người bạn là Tirard vào Chính phủ và cùng ông này chủ trì các cuộc thương lượng để thành lập nội các, trực tiếp can thiệp để thuyết phục những người còn lưỡng lự rằng nền Cộng hòa cần sự giúp đỡ của họ.
Ông đã chọn đúng thời cơ để làm việc cần phải làm: chấp nhận Constans, một người rất khôn khéo, làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Constans nổi tiếng xấu về đạo đức, nhưng với năng lực và đầu óc mưu mẹo của mình, ông ta trở thành người duy nhất có khả năng xóa bỏ nền Cộng hòa của Boulanger. Trên thực tế, Constans đã thành công khi làm cho Boulanger tưởng là sắp bị bắt và do sợ phải xa cách người tình nên đã chọn cách bỏ trốn khỏi nước Pháp, vì thế phong trào do ông ta đứng đầu cũng tan rã.
Panama
Năm 1893, khi những tàn dư cuối cùng của cuộc khủng hoảng Boulanger vừa mới được xóa bỏ thì một vụ tai tiếng lại bao trùm bóng đen lên nền Cộng hòa. Tờ báo Tiếng nói tự do (La libre parole) do Drumont theo chủ nghĩa bài Do Thái làm giám đốc, tiết lộ rằng giới tài phiệt đã mua phiếu của một số Nghị sĩ để thông qua bộ luật cho phép vay mượn theo lô, nhằm cứu một công ty thương mại đang gặp khó khăn, đó là Công ty Kênh đào Panama do Ferdinand de Lesseps thành lập.
Việc Công ty này bị phá sản chứng tỏ rằng một số nghị sĩ, Thượng Nghị sĩ, Giám đốc một số tờ báo đã nhận hối lộ từ công ty. Đây là một vụ tai tiếng lớn, liên quan tới 104 Nghị sĩ, trong đó có những thủ lĩnh của phe Cộng hòa chiếm đa số trong Quốc hội. Một làn sóng chống chế độ đại nghị xảy ra dồn dập trong cả nước.
Nhưng nếu như chế độ lại một lần nữa bị lung lay vì một vụ tai tiếng thì lần này ít nhất là người đứng đầu không bị kết tội: Carnot đã giúp nền Cộng hòa tránh được một vụ kiểu Wilson và vào năm 1893, không một ai nghĩ đến chuyện nghi ngờ Tổng thống. Trong những ngày đen tối này, tính cách trung thực của ông là một thế mạnh của nền Cộng hòa.
Nếu như dưới thời Tổng thống Carnot, nước Pháp Cộng hòa phải trải qua những thử thách ghê gớm, thì về mặt ngoại giao, nước Pháp lại giành được thắng lợi to lớn, trong đó không thể không nhắc đến vai trò của Tổng thống. Liên minh Pháp - Nga
Từ khi thua trận năm 1870, nước Pháp bị cô lập hoàn toàn về ngoại giao. Sự cảnh giác của Bismarck đã làm cho Pháp không có đồng minh, còn các cuộc viễn chinh thuộc địa do Quan chưởng ấn khởi xướng đã khiến Pháp bị cô lập khỏi những nước mà nó có thể dựa vào.
Việc Pháp chiếm Tunisie đã gây ra làn sóng phản đối Pháp ở Italia, và nước này đã liên kết với Đức và Áo để tạo thành Liên minh ba nước.
Sự cạnh tranh giữa Pháp và Anh ở Ai Cập làm cho Anh có thái độ thù địch với Pháp; cuối cùng, nước Nga cũng liên kết với Đức bằng một loạt hiệp ước với mục đích hướng nước Nga khỏi liên minh với Pháp, một liên minh có thể dẫn đến kết quả bao vây Đế chế Đức.
Bismarck từ chức năm 1890 đồng nghĩa với việc từ bỏ chính sách cô lập nước Pháp, một chính sách khôn khéo nhưng khó thực hiện. Hoàng đế Guillaume II từ chối ký tiếp các hiệp định Đức-Nga. Do lo sợ bị cô lập, nước Nga nghĩ tới những liên minh khác để thay thế. Carnot đã nhìn ra cơ hội trong tình thế đó để đưa nước Pháp thoát ra khỏi thế bị cô lập, vì vậy ông đứng ra làm cho Pháp và Nga xích lại gần nhau.
Việc này trở nên dễ dàng hơn khi Pháp cho phép bán trái phiếu Nga cho người Pháp. Từ đó, Carnot lựa chọn các Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và chỉ định các Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thực hiện liên minh với Nga. Carnot hẳn rất hài lòng vì liên minh mà ông mong muốn dần dần được hình thành: Hạm đội Pháp được mời đến Cronstadt năm 1891 và Hạm đội Nga được mời đến Pháp năm 1893.
Năm 1892, một Thoả ước quân sự Pháp-Nga, bộ phận chính của liên minh tương lai, đã được ký kết. Chính Carnot cũng đóng góp bằng cách tiếp đón rất long trọng ở Điện Élysée Đô đốc Avellan, Đô đốc hạm đội Nga, vào tháng 10/1893. Tháng 3 năm 1894, hai quốc gia này đã phê chuẩn hiệp ước liên minh. Tổng thống Pháp đã có thể tự chúc mừng mình: chính sách mà Bismarck bền bỉ theo đuổi trong suốt 20 năm đã thất bại và giờ đây nước Pháp đã thoát ra khỏi thế bị cô lập.
Ba tháng sau, Tổng thống mất.
Ngày 24-6-1894, Tổng thống mẫu mực bị sát hại
Trong những năm 1890, ở Pháp diễn ra một làn sóng mưu sát của phái vô chính phủ. Với quyết tâm phá hoại xã hội tư sản, chúng thực hiện “tuyên truyền bằng hành động” và gia tăng các hoạt động gây ấn tượng mạnh. Ravachol đã đặt bom trong các tiệm ăn. Tháng 12/1893, Vaillant ném bom vào phòng bán nguyệt của Hạ nghị viện nhưng không gây thương vong. Toà án phản ứng mạnh mẽ và đã kết án tử hình nhiều tên vô chính phủ.
Carnot cho rằng đây là những kẻ không thể tu tỉnh được nữa nên từ chối ân xá cho chúng, cụ thể là ông đã không ân xá cho Vaillant. Ngày 24/6/1894, Tổng thống đang trên đường tới Lyon để khai mạc một cuộc triển lãm thì bị một người lao nhanh vào ô tô rồi dùng dao đâm. Kẻ ám sát là một tên vô chính phủ người Italia tên là Caserio, hắn muốn trả thù cho Vaillant. Sadi Carnot qua đời đêm hôm đó sau nhiều giờ hấp hối.
Ông để lại hình ảnh một Tổng thống chu đáo, có ảnh hưởng thực sự đến chính sách của nhà nước Pháp, tuy ảnh hưởng đó không phải lúc nào cũng mang tính quyết định, và được yêu mến nhờ những đức tính tốt chứ không phải nhờ vai trò thực tế của ông. Là một nhân vật đại diện hơn là lãnh tụ chính trị, hiện thân của nhà nước hơn là người đứng đầu nhà nước, Carnot là vị Tổng thống mẫu mực trong lòng những người Cộng hòa. Casimir - Périer: Không thể chung sống
Đa số Nghị sĩ muốn bầu một người giống Sadi Carnot. Có thể do vô tình, họ đã lựa chọn một người mà những động thái chính trị gần đây vừa mới đưa lên hàng đầu của tình hình thời sự: đó là Jean Casimir-Périer.
Ngày 26-6-1894, thông qua một cuộc bỏ phiếu không mấy nhiệt tình, Quốc hội bầu ông làm Tổng thống 6 tháng sau, ông từ chức. Nhiệm kỳ ngắn ngủi này cho thấy những hạn chế của chức Tổng thống khi người giữ cương vị đó không khéo léo, đồng thời cũng chỉ ra khoảng cách giữa những đòi hỏi của các Nghị sĩ và sự mong đợi của dư luận.
Casimir vùng Anzin, “người bốn mươi triệu”
Hiếm khi một Tổng thống lại gặp nhiều sự thù địch ngay từ khi mới đắc cử như trường hợp của Casimir-Périer. Được bầu ngay sau vụ ám sát do phái vô chính phủ thực hiện, sự kiện cho thấy mức độ lộn xộn của nước Pháp, ông được chọn vì nổi tiếng là người của trật tự và quyền lực.
Sự nổi tiếng này không phải là vô căn cứ: Năm 1893, khi còn là Chủ tịch Hội đồng, ông đã cho bỏ phiếu thông qua “đạo luật bỉ ổi” chống lại những kẻ vô chính phủ. Bằng những từ ngữ không rõ ràng, đạo luật này cho phép truy tố cả Đảng Xã hội đối lập, bởi vì thực tế mục đích của Đảng này là lật đổ xã hội đang tồn tại. Ngay cả vẻ bề ngoài của ông (các họa sĩ biếm họa thường vẽ ông dưới hình dạng chó bundoc) cũng thể hiện tính cách của một “người của quyền lực”.
Một yếu tố khác chắc chắn cũng đóng vai trò quan trọng: Casimir-Périer tỏ ra không tham danh vọng. Ông có vẻ trốn tránh trách nhiệm, thích thú với vai trò danh dự là Chủ tịch Hạ nghị viện và chỉ chấp nhận một cách miễn cưỡng chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng năm 1893. Đảng Cộng hòa cho rằng với ông, sẽ không sợ quyền lực cá nhân. Nếu như tiếng tăm là người của quyền lực làm cho ông không được lòng dư luận lắm thì gia đình và tài sản lại là thế mạnh của ông.
Ông nội của Casimir làm Bộ trưởng dưới thời vua Louis-Philippe và nổi tiếng tàn nhẫn khi đàn áp các cuộc biểu tình của quần chúng, đồng thời rất khéo quản lý tài sản của riêng mình. Bố của Casimir làm Bộ trưởng dưới thời Tổng thống Thiers. Ông đến với nền Cộng hòa cùng với phái ủng hộ dòng họ Orléans và tán thành trật tự của những người chiến thắng ở Công xã.
Là người con xứng đáng của một gia đình tư sản giàu có và có uy quyền, Jean Casimir-Périer là một trong những mục tiêu được chú ý nhất của Đảng Xã hội đối lập khi tố cáo sự thông đồng giữa giới kinh doanh và giới quan chức lãnh đạo nhà nước. Đối với họ, ông là “Casimir vùng Anzin”, cổ đông chính của các mỏ ở Anzin, “người bốn mươi triệu” đã làm giàu trên mồ hôi của thợ mỏ, bóc lột họ và đàn áp khi họ dám đòi hỏi.
Báo chí chỉ trích dữ dội nhân vật tượng trưng khó chịu này. Nhiều vụ kiện tụng để “lăng nhục Tổng thống” liên tục diễn ra, làm cho uy tín của Casimir-Périer ngày càng giảm sút và tạo cơ hội cho luật sư của các bị cáo kết tội Tổng thống và đảng phái của ông. Khi đứng ra bảo vệ nhà báo Gérault-Richard (người sau đó được cử tri Paris bầu làm Nghị sĩ), Jaurès đã so sánh Điện Élysée dưới thời Casimir-Périer với “một nhà băng cho vay nặng lãi mờ ám, nơi danh dự của nước Cộng hòa Pháp đang hấp hối”.
Ngoài việc bị báo chí công kích mạnh mẽ, Casimir-Périer còn rất bực tức khi các Bộ trưởng cố tình không cho ông biết những biện pháp quan trọng mà họ thực hiện. Nguyên nhân là do ông không thể dựa vào một vị thế chính trị vững chắc như Grévy và cũng không có được uy tín đạo đức như Sadi Carnot. Mặt khác, vì không được lòng dân nên ông không thể phản ứng chống lại tình thế này. Casimir-Périer là Tổng thống đầu tiên bị tách một cách có hệ thống khỏi việc soạn thảo chính sách đối ngoại của Pháp.
Đây là một sự đổi mới nguy hiểm trong quá trình tước bỏ dần dần những quyền mà Hiến pháp đã trao cho Tổng thống để chuyển cho các Bộ trưởng có trách nhiệm. Casimir-Périer nhanh chóng hối tiếc vì đã chấp nhận chức Tổng thống - cương vị này chỉ đem lại cho ông những thất vọng mà thôi. Ông cho là mình sẽ bị ám sát và không đủ sức tiếp tục chịu trách nhiệm tinh thần về một chính sách mà ông không tham gia soạn thảo. Ông quyết tâm từ chức ngay khi có cớ.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:31:55 GMT 9
Casimir - Périer từ chức Tháng 1-1895, trong một cuộc khủng hoảng nội các, Casimir-Périer đột ngột tuyên bố từ chức và gửi đến hai Viện một bức thư nói về nỗi oán giận đối với những nhà báo đã chỉ trích ông, đối với Đảng Xã hội đối lập, cũng như tình trạng bất lực của Tổng thống. “Do bị tước bỏ mọi phương tiện hành động và kiểm soát, Tổng thống chỉ còn biết lấy sức mạnh tinh thần từ lòng tin của dân tộc, nếu không có sức mạnh đó, Tổng thống không là gì cả. Tôi không nghi ngờ gì về lương tri và sự công bằng của nước Pháp, nhưng người ta đã làm cho dư luận bị lầm lạc… Từ 6 tháng nay diễn ra một chiến dịch vu khống và bôi xấu quân đội, toà án, người đứng đầu nhà nước không quyền hành và quyền tự do gây hận thù trong xã hội đó vẫn tiếp tục được gọi là quyền tự do suy nghĩ. Lòng tôn trọng và mong muốn của tôi đối với đất nước không cho phép tôi chấp nhận rằng người ta có thể lăng mạ những đầy tớ tốt nhất của Tổ quốc và người đại diện cho đất nước trong con mắt người nước ngoài. Tôi không cam chịu so sánh trọng lượng của trách nhiệm tinh thần đang đè nặng lên tôi với tình thế bất lực mà tôi bị dồn vào”. Cả nước đón nhận tin Casimir-Périer từ chức với thái độ dửng dưng, còn hai Viện thì đánh giá khắt khe sự việc này. Không phải hoàn toàn vô lý khi người ta nhận xét rằng Casimir-Périer đã biết tất cả những hạn chế của chức Tổng thống từ ngày ông được chỉ định. Người ta cũng sẵn sàng so sánh thái độ của Casimir-Périer với thái độ của Sadi Carnot, người đã thực hiện hoàn hảo nhiệm vụ bằng ảnh hưởng tinh thần của mình. Khi Casimir-Périer từ chức, người ta kết án tình trạng của chức Tổng thống ít hơn kết án tính cách của Tổng thống. Việc từ chức cho thấy rằng Tổng thống không thể đóng vai trò tinh thần mà phải đóng vai trò chủ chốt, Tổng thống phải là người có tính cách, đủ khả năng bỏ qua những sở thích cá nhân, thậm chí cả lòng tự ái để thực hiện các nhiệm vụ của mình vì lợi ích quốc gia và mặc dù có quyền hành, nhưng vẫn nhận lỗi về mình và dành vinh quang cho người khác. Như vậy, Casimir-Périer hoàn toàn không đủ năng lực và việc từ chức là phù hợp với tính cách của ông. Félix Faure, "Tổng thống mặt trời" 6 tháng sau khi bầu Casimir-Périer làm Tổng thống năm 1894, Quốc hội của cánh hữu lại phải tìm người kế nhiệm. Phe cấp tiến tiếp tục điềm nhiên giới thiệu một ứng cử viên rất ít khả năng trúng cử là Henri Brisson, người đã thua trước Sadi Carnot và Casimir-Périer, vì thế ghế Tổng thống chỉ có thể thuộc về một người ôn hòa có những đảm bảo đối với phe đa số mà lại không gây thù hận như Casimir-Périer. Sự lựa chọn tương đối hẹp vì chỉ có hai ứng cử viên ôn hòa: Waldeck-Rousseau, luật sư vùng Nante với tính cách lạnh lùng, khô khan, được coi là một chính khách thực sự, và Félix Faure, một doanh nhân ở Havre, dễ mến hơn, nhưng không phải là chính trị gia hàng đầu. Cuối cùng, Félix Faure có lợi thế hơn khi dư luận cho rằng ông sẽ là một Tổng thống mềm dẻo hơn Waldeck-Rousseau. Trong sự lựa chọn này, có lẽ còn phải nhắc đến vai trò của các đại biểu Thiên chúa giáo ủng hộ nền Cộng hòa, yếu tố quan trọng của phe đa số. Họ không muốn một người theo đạo Tin lành như Waldeck-Rousseau lên làm Tổng thống. Tổng thống mới không được biết đến nhiều vì chưa bao giờ giữ một chức vụ chủ chốt. Là con trai của một thợ thủ công ở Paris, Félix Faure thành công trong kinh doanh và trở thành chủ của một cửa hiệu rất phát đạt ở Havre. Tuy nhiên, khác với Casimir-Périer, ông không được thừa hưởng tài sản từ gia đình mà tự làm ra và giống như Grévy trước đây, ông được cho là mẫu người tiêu biểu của giới tư sản Pháp thế kỉ XIX, coi sự thành đạt trong xã hội là một tiêu chí giá trị tinh thần. Mặt khác, Félix Faure rất giỏi mị dân. Trong các bài phát biểu của mình, ông ta không bỏ qua một cơ hội nào để nhắc đến gốc gác tầm thường của mình và tuyên bố rất tự hào về nó. Đối với người nghe, chức Tổng thống như là phần thưởng to lớn nhất cho đức tính cần cù lao động, tiết kiệm, nghiêm túc mà sách đạo đức dành cho trẻ em trong nhà trường thường nói đến. Francois Félix Faure (30-1-1841 – 16-2-1899) Xa hoa và nghi thức: người kế vị những vị quân vương của Chế độ cũ Vị trí của Félix Faure trong giới tư sản Havre làm cho ông liên tục có mặt trong các nhiệm kỳ của Quốc hội. Là người đại diện cho phái ôn hòa, ông chưa bao giờ thực sự tỏ rõ quan điểm đối với những vấn đề chính trị lớn nhưng đã thực hiện một cách xuất sắc nhưng hầu như không được ai biết đến các cương vị danh dự không quan trọng: Phó Chủ tịch Hạ viện, Phó Quốc vụ khanh phụ trách Hàng hải, cuối cùng là Bộ trưởng Bộ Thuộc địa. Trước khi từ chức, Casimir-Périer đã nói ý định của mình với Félix Faure và được Félix Faure nhiệt tình ủng hộ với lý do là những quan niệm của Casimir-Périer không thích hợp với thực tế cương vị của ông. Người ta cho rằng nhân vật mang tính trang trí và không hề nổi bật về chính trị này có thể được coi là xứng đáng trở thành người đứng đầu nhà nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, quan niệm của Félix Faure có thể thích hợp với cái gọi là chức Tổng thống, bởi vì sau khi khuyên Casimir-Périer từ chức, ông ta vội vã đồng ý kế nhiệm. Nếu như tất cả các Tổng thống liên tiếp kế nhiệm nhau ở Điện Élysée, kể từ Thiers, đều ít nhiều xem xét khía cạnh chính trị của hành động của mình và cho dù vui vẻ hay không, đều cố gắng sử dụng hành lang mà Hiến pháp đã dành cho họ trong lĩnh vực này, thì ngược lại Félix Faure lại chú trọng đến khía cạnh biểu thị của chức vụ của mình. Trước hết, ông là Tổng thống của những nghi lễ trang trọng quốc gia. Đúng là các cuộc khủng hoảng nội các buộc ông phải đưa ra những lựa chọn chính trị, nhưng ông thể hiện chúng ở mức thấp nhất. Vốn là người ôn hòa, ông tìm cách để giữ bạn bè của mình ở chính quyền, điều này tương đối dễ dàng do có đa số ở các đại hội đồng. Nếu như ông nhiều lần kêu gọi các Chủ tịch Hội đồng thuộc Đảng Cấp tiến thì mục đích luôn luôn là để chứng tỏ họ không có khả năng điều hành. Nhưng Félix Faure không lựa chọn người đứng đầu chính phủ mà đề nghị lãnh đạo của các nhóm chính trị chủ yếu lựa chọn hộ ông. Các cuộc khủng hoảng đã được giải quyết sau nhiều cuộc tham vấn rộng rãi mà kết quả là bãi bỏ quyền lựa chọn người đứng đầu chính phủ của Tổng thống. Đây là một giai đoạn mới trong việc giảm quyền của Tổng thống, vấn đề này được một Tổng thống quan tâm tới hình thức nhiều hơn tới quyền hành thực tế chấp nhận. Tuy nhiên, sau khi đã giải quyết được các cuộc khủng hoảng, Faure để cho Chủ tịch Hội đồng toàn quyền lãnh đạo công việc nhà nước. Vai trò thực tế của ông trong chính sách đối ngoại cũng bị giảm sút. Mặc dù phản đối liên minh Pháp-Nga ngay từ khi ký kết nhưng ông lại ủng hộ liên minh này khi hiểu rằng nó được lòng dư luận, tuy ông không để lại dấu ấn ở đây như Sadi Carnot. Trong mọi lĩnh vực, Félix Faure giao cho các Chủ tịch Hội đồng lãnh đạo nước Pháp. Nổi tiếng và tiêu biểu nhất là Méline, người đã vạch ra chính sách theo đúng ý của Félix Faure. Là người bảo vệ giới kinh doanh, bênh vực chủ nghĩa bảo hộ, Méline tìm cách dựa vào các thế lực bảo thủ của nước Pháp những năm cuối thế kỉ XIX để thực hiện chính sách này. Nhưng muốn chinh phục được hai trong số những lực lượng đó là Giáo hội và Quân đội thì cần phải bãi bỏ chính sách chống lại quyền lực của Giáo hội, yếu tố gắn kết những người theo Đảng Cộng hòa vào thời kỳ đầu của chế độ. Méline không hề do dự: để hòa giải với các tín đồ Thiên chúa giáo chấp nhận ủng hộ nền Cộng hòa, do Albert de Mun đứng đầu, ông khuyến khích làm dịu những cuộc tranh luận về tôn giáo, với sự đồng ý của Félix Faure. Và thế là Tổng thống rất hài lòng khi thấy trong chính thể Cộng hòa liên minh của tất cả những người theo Đảng Bảo thủ quan tâm đến việc phát triển đất nước. Nếu những người khác lãnh đạo thì Félix Faure lại là người rất có tư thế và về mặt này ông không cho phép bất kỳ ai che lấp mình. Félix Faure điển trai, rất chăm chút hình thức, trang phục, qui định nghi thức trong các buổi lễ ở Điện Élysée (người phụ trách lễ tân trở thành nhân vật thân cận của Tổng thống), thích thú với các nghi lễ. Đối với những người đương thời, ông là “Tổng thống - Mặt trời”, bản thân ông cũng nghĩ mình là người kế nhiệm các Nhà vua Pháp. Liệu ông có dựa vào thông lệ của triều đình Pháp hay không khi giải thích với một Công chúa Nga rằng Tổng thống được phục vụ đầu tiên trong các bữa tiệc ở Élysée là bình thường? Nếu những chuyện này làm người ta buồn cười thì Félix Faure lại biện hộ rằng đó không phải là lòng tự kiêu cá nhân mà là mong muốn thể hiện đất nước một cách xứng đáng. Một vài khía cạnh khác của nhân vật này kém thiện cảm hơn: khi vừa mới đắc cử, ông đã yêu cầu bạn bè không được xưng hô thân mật nữa; nhưng sự thật là đã có một người trong số họ đã nhân dịp này tự cho phép mình ăn nói suồng sã lần cuối cùng để cho Tổng thống biết ý kiến của mình đối với thái độ mới của Tổng thống. Trong suốt 4 năm, người dân Pháp thấy Félix Faure trong các cuộc diễu binh, các buổi lễ, các chuyến đi. Chuyến thăm nước Pháp của Sa hoàng Nicolai II và vợ là dịp để phô trương sự xa hoa đặc biệt. Năm tiếp theo, Félix Faure đến thăm Sa hoàng trên một chiếc tuần dương hạm treo cờ riêng của ông, được trang bị một tủ quần áo sang trọng và bằng lòng nhân từ giả tạo pha lẫn sự giản dị hạ cố, ông đã gây được ấn tượng mạnh cho phía chủ nhà. Nói tóm lại, người Pháp thường giễu cợt Tổng thống mà không có ác ý, nhưng rõ ràng là Tổng thống rất được lòng dân. Tuy nhiên, vụ Dreyfus và vai trò của Félix Faure trong vụ việc đó đã làm giảm đáng kể uy tín của ông. Tổng thống và vụ Dreyfus Vụ Dreyfus, đối với dân chúng Pháp vào cuối thế kỷ XIX sẽ là một sự vụ không hơn không kém, ban đầu chỉ là một sai lầm bình thường trong xét xử. Năm 1894, một hoạt động gián điệp bị phát hiện và người ta nghi ngờ Đại uý người Do Thái tên là Alfred Dreyfus. Ngay khi biết được mối nghi ngờ này, nhà báo bài Do Thái Edouard Drumont lập tức bắt đầu một chiến dịch báo chí ác liệt nhằm kết tội “tên Do Thái”. Khía cạnh chính trị của vụ việc đã bị lợi dụng dẫn đến việc Dreyfus bị đưa ra xét xử và bị kết án tù khổ sai. Lúc đó, ngoài một vài người thân và bạn bè, ai cũng nghĩ là Dreyfus có tội. Nhưng hành động của Mathieu Dreyfus, anh của Alfred Dreyfus, dần dần làm cho một số người có trách nhiệm phải suy nghĩ lại về một vài cơ sở của vụ việc. Năm 1895, Trung tá Picquart, người phụ trách mới của Cơ quan tình báo thuộc Bộ Tham mưu, lật lại hồ sơ và tìm thấy bằng chứng về nguyên nhân hành động của Dreyfus. Ông tin rằng kẻ có tội thực sự không phải là Dreyfus mà là Esterhazy, một sĩ quan gốc Hungary, người thường xuyên liên hệ với Đại sứ quán Đức. Từ đó, giới sĩ quan biết được những khuôn khổ mới của vụ việc, nhưng niềm tin chính trị vững chắc của phần lớn sĩ quan và những nhân vật hành chính và chính trị cao cấp làm cho họ vẫn nghĩ kẻ có tội phải là người Do Thái. Thế là một sự thông đồng im lặng thực sự được dựng lên quanh vụ Dreyfus. Picquart bị chê trách; Bộ trưởng Méline vin vào cớ vụ việc đã được xét xử để từ chối xem xét lại trường hợp của Dreyfus: uy tín của quân đội, danh dự của toà án trở thành ngôn từ chủ yếu của phái “chống Dreyfus”; Nhân danh lợi ích quốc gia, họ muốn giữ một người vô tội trong nhà tù khổ sai. Phái chống Dreyfus sau đó hầu như đồng tình với phái Bảo thủ đang nắm quyền ở Pháp: các tín đồ Thiên chúa giáo ủng hộ hoặc không ủng hộ nền Cộng hòa đứng ở hàng đầu giữa họ và tờ La Croix (Thập tự), báo của Giáo đoàn Đức Mẹ đồng trinh qui thiên, tổ chức một chiến dịch chống lại Dreyfus và những người bảo vệ anh ta; Bên cạnh đó, Đảng Dân tộc chủ nghĩa thuộc Hội ái quốc, những người không bao giờ hài lòng như Rochefort, phái Bảo hoàng đối địch với nền Cộng hòa, sát cánh với đảng Cộng hòa ôn hòa như Méline, người coi việc bảo vệ trật tự xã hội là trên hết. Người ta nhanh chóng nhận ra rằng Félix Faure có thiện cảm với phái chống Dreyfus. Khi Thượng nghị sĩ vùng Alsace Scheurer-Kestner đến để thuyết phục Tổng thống xem xét lại vụ án, Tổng thống đã trả lời tránh né: “Tính trung lập của tôi là tính trung lập của luật pháp”. Trung lập giữa công bằng và phủ nhận công bằng! Nhưng liệu có phải Tổng thống không được tự do lựa chọn? Ít nhất thì phe bảo vệ Dreyfus cũng nói bóng gió như vậy. Trên thực tế, xung quanh Félix Faure bao phủ một bóng đen của một vụ bê bối. Năm 1895, Drumont phát hiện ra rằng bố vợ của Tổng thống, vốn là một công chứng viên, đã bị kết tội biển thủ và phải trốn chạy để tránh bị tù khổ sai. Sau đó, Drumont nói có những bí mật khác bị phát hiện nhưng lại không bao giờ tiết lộ chúng; Từ đó, người ta có thể nghĩ rằng Drumont đã đe dọa Tổng thống và đổi lại sự im lặng của ông ta, Tổng thống sẽ phản đối việc xem xét lại vụ án Dreyfus. Chỉ có Jean Jaurès vượt qua được một bước trong bài đăng trên báo Petite République (Nền Cộng hòa nhỏ): “Tổng thống hãy cẩn thận! Nếu nước Pháp vì tôn trọng bản thân mà quên đi một vài cuộc phiêu lưu của những người thân cận của Tổng thống thì nước Pháp cũng có quyền yêu cầu chính Tổng thống quên chúng đi. Nước Pháp đã sẵn sàng, nếu để chống lại Tổng thống, những kẻ đe dọa muốn đào một số tử thi lên để cùng chôn vào một hố cùng những chuyện buồn này và những người khuấy động chúng. Nhưng nước Pháp muốn Tổng thống không vì sợ mà dính líu vào những việc đã qua, những việc mà chính nước Pháp đã giải thoát cho Tổng thống bằng lựa chọn của mình”. Dù sao thì có một việc đã quá rõ ràng: vụ Dreyfus có động chạm đến Félix Faure. Ngày 14-1-1898, trên tờ Aurore (Rạng đông) của Clemenceau, Émile Zola đã gửi một bức thư ngỏ tới Tổng thống dưới nhan đề: “Tôi buộc tội…!” trong đó ông lên án tất cả những người, bằng mưu mô hoặc im lặng, đã cho phép kết án một người vô tội và giữ người đó lại trong tù vì lo lắng đến lợi ích quốc gia. Các Bộ trưởng, các sĩ quan, các thẩm phán quân sự đều bị Émile Zola kết án, và bản thân Tổng thống, người đã không làm gì để ngăn chặn mưu đồ đó, cũng bị liên lụy vì vụ bê bối đó một cách gián tiếp (nhưng bằng lời lẽ rất kính trọng). Zola bị truy tố, nhưng tiếng đồn về sai lầm trong xét xử được chấp nhận một cách có cân nhắc và bắt đầu len lỏi từ giới sĩ quan ra dư luận rộng rãi và uy tín của Félix Faure bắt đầu giảm sút trong công chúng. Một cái chết đột ngột nhưng không tế nhị lắm đã giúp ông tránh mất thanh danh hơn nữa khi ở phe chống Dreyfus, nhưng cũng bộc lộ tính phóng đãng của người luôn muốn tỏ ra là một Tổng thống có uy tín và được tôn trọng.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:34:49 GMT 9
Cuộc hẹn cuối cùng với bà Stenheil Là một người điển trai, Félix Faure không ngần ngại tán dương những cuộc chinh phục của mình, còn những người thân cận thì độ lượng chấp nhận những cách cư xử khác biệt của Tổng thống. “Phòng bạc” của Điện Élysée là nơi thường diễn ra những cuộc hẹn hò tình cảm của Tổng thống. Ngày 16-2-1899, tại đây Félix Faure hẹn gặp bà Stenheil, vợ một họa sĩ hạng xoàng. Lúc đó, Tổng thống đang bị kích động, ông vừa mới tiếp Hoàng thân Monaco. Vừa từ Đức trở về, Hoàng thân đến để khẳng định rằng đích thân Hoàng đế đã nói cho ông biết bằng chứng Dreyfus vô tội và Esterhazy mới là kẻ có tội. Quá bực tức, Tổng thống đã tiếp đón Hoàng thân rất tồi và ông vẫn còn bị sốc vì cái tin không mấy dễ chịu này. Vào khoảng 6 giờ chiều, Chánh văn phòng Tổng thống và các sĩ quan phục vụ nghe thấy tiếng phụ nữ kêu thất thanh. Họ vội chạy vào Phòng bạc và thấy Tổng thống đang bất động do bị xuất huyết não. Sau 3 giờ hấp hối và không hề tỉnh lại, Félix Faure qua đời. Cái chết của ông làm cho người ta kinh ngạc nhiều hơn thương tiếc. Hoàn cảnh chết của Tổng thống không được công bố nên sự kiện này bị khai thác về mặt chính trị. Drumont, người phát ngôn của phái chống Dreyfus, buộc tội người Do Thái đã gây ra cái chết của Tổng thống, vì Tổng thống phản đối việc xem xét lại vụ án: “Dalila đã làm tay sai cho người Do Thái”. Nhanh chân hơn, thay mặt những người bảo vệ Dreyfus, Clemenceau thở phào lật sang trang mới: “Sự việc này chỉ làm bớt đi một người ở nước Pháp… Tôi bỏ phiếu cho Loubet”. Bốn năm ở cương vị Tổng thống của Félix Faure đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của chức Tổng thống ở nền Cộng hòa đệ Tam. Ông là Tổng thống đầu tiên đã tự nguyện từ bỏ vai trò chính trị để chỉ tập trung vào khía cạnh danh dự của chức vụ. Đây là một tiền lệ nguy hiểm bởi vì ông tham gia vào quá trình làm suy giảm tầm quan trọng của chức Tổng thống và đánh mất vai trò đối trọng của Tổng thống trước quyền tuyệt đối ngày càng tăng của Quốc hội: tính phô trương kiểu trẻ con của Félix Faure đã thúc đẩy quá trình suy yếu của quyền hành pháp trước quyền lập pháp. Émile Loubet, Đỉnh cao của "Thời kì vàng son" Một người thuộc phái bảo vệ Dreyfus đắc cử Émile Loubet sinh năm 1838 ở Marsanne, tỉnh Drôme, trong một gia đình nông dân. Vì học luật nên ông đến với chính trị một cách tự nhiên. Dưới thời Đế chế thứ Hai, tất nhiên là ông ở phe đối lập. Chiến thắng của Đảng Cộng hòa đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp chính trị của ông. Ông thuộc giới trí thức tiểu tư sản, nơi cung cấp cho nền Cộng hòa những cán bộ khung cần thiết. Loubet đã trải qua con đường công danh cổ điển nhất; ông lần lượt là thị trưởng, Ủy viên đại hội đồng, Nghị sĩ rồi Thượng nghị sĩ. Thắng lợi chính trị đã đưa ông đến Paris, nhưng ông vẫn rất gần gũi với các nhân vật quan trọng của tỉnh thuộc giới tiểu tư sản, nơi ông bắt đầu sự nghiệp của mình. Khác với Félix Faure chỉ nhắc đến nguồn gốc xuất thân tầm thường để tự hào về sự thăng tiến xã hội của mình, Émile Loubet tự cảm thấy là người của nhân dân và thái độ khiêm tốn của ông không bao giờ thay đổi. Đó chính là một tiêu chuẩn tuyệt vời để tiến tới cương vị tối cao: Émile Loubet nằm trong số những người mà tính cách bảo đảm cho sự cẩn trọng trong lãnh đạo chính trị sau này. Sau khi Félix Faure chết, Đảng Cộng hòa quay sang phía ông. Năm 1896, ông được bầu làm Chủ tịch Thượng viện và trở thành nhân vật thứ hai của Nhà nước. Mặc dù ông không bao giờ tỏ rõ thái độ trong vụ Dreyfus, nhưng dư luận biết rằng ông không đồng tình với Bộ tham mưu và các thẩm phán quân sự, và khác với Félix Faure, ông sẽ không cản trở việc xem xét lại bản án. Lẽ ra Loubet có thể được bầu không gặp trở ngại gì nếu như không bị bài báo bất cẩn của Clemenceau làm tổn hại trong con mắt những người chống sự xét lại. Trên thực tế, lời giới thiệu của Clemenceau hoàn toàn không có liên quan gì: sau khi bị Paul Déroulède, người đứng đầu Hội ái quốc, buộc tội có nhúng tay vào vụ bê bối Panama mặc dù không có chứng cứ gì, Clemenceau thấy sự nghiệp chính trị của mình đã hết. Vì thế, ông hăng hái lao vào vụ Dreyfus nhằm lấy lại uy tín. Đối với rất nhiều người, Clemenceau tỏ ra là thủ lĩnh thực sự của phái bảo vệ Dreyfus và ông ta tin chắc rằng đã đưa Émile Loubet ra làm ứng cử viên của phái này, nhưng việc đó lại vô tình làm tổn hại đến một chính khách mà cho đến lúc đó chưa tỏ rõ thái độ trong vụ việc gai góc này. Lập tức Đảng Dân tộc chủ nghĩa nổi giận chống lại Chủ tịch Thượng nghị viện. Người ta lại bới móc những chuyện cũ: là Chủ tịch Hội đồng khi xảy ra vụ bê bối Panama, Loubet đã làm mọi việc để dập tắt vụ này, thậm chí người ta còn nói rằng ông không còn liêm chính sau vụ này. Để đối lại với Loubet, phái chống xét lại muốn đưa Méline ra làm ứng cử viên vì ông này tham gia nhiều hơn vào các cuộc đấu tranh chính trị, là thủ lĩnh thực sự của phái ôn hòa và kịch liệt phản đối xét lại vụ án Dreyfus. Nhưng những lời buộc tội và âm mưu này không gây được tác động đến các Nghị sĩ. Émile Francois Loubet (30-12-1838 - 20-12-1929) Cuộc đảo chính của Déroulède, những cú gậy của Christiani: sự khởi đầu không may mắn của một nhiệm kì Tổng thống Ngay sau khi đắc cử, Émile Loubet rời Versailles đi Paris bằng xe lửa. Khi vừa tới ga Saint-Lazare, ông bị đón tiếp bằng một cuộc biểu tình của phái bảo hoàng và những lời la ó: “Panama! Từ chức”, và Tổng thống bước vào Điện Élysée với đám người biểu tình vây quanh. Ông chủ tịch Hội đồng Charles Dupuy vốn phản đối xét lại đã không hề làm gì để ngăn chặn những cuộc biểu tình mà chắc chắn là ông ta dễ dàng đoán trước được. Nhiệm kì Tổng thống của Émile Loubet bắt đầu trong hoàn cảnh đáng buồn. Trong khi Tổng thống ở trong Điện Élysée còn đang trấn tĩnh lại sau cuộc bầu cử và những sự kiện tiếp theo nó, thì những người biểu tình lợi dụng tình thế có lợi cho họ. Họ tụ tập quanh bức tượng Jeanne d’Arc để cổ vũ cho thủ lĩnh của mình là Déroulède. Khí thế tăng lên rất nhanh. Say sưa với chiến thắng, Déroulède mặc sức diễn thuyết. Ngay sau đó, đám người hò hét thúc giục ông ta: “Vào Élysée! Xông vào Élysée!” Trước mối nguy hiểm bị rơi vào tình trạng quá sức do cuộc nổi dậy vốn không được chuẩn bị từ trước, Déroulède tìm cách kéo dài thời gian. Viện cớ tôn trọng thi hài của Félix Faure nên không thể tiến vào Điện Élysée ngay được, Déroulède hứa sẽ hành động vào ngày diễn ra lễ tang của Tổng thống vừa mất: “Vâng, thưa các bạn, chúng ta có thể vào đó ngay tối nay, nhưng trong đó có một người mới chết! Tôi tôn trọng ông ấy, chính ông ấy chứ không phải kẻ vừa được Quốc hội bầu ra, đối với tôi, hắn không phải là lãnh tụ thực sự của dân tộc. Chúng ta sẽ tổ chức bầu cử phổ thông. Hẹn thứ Năm! Một nền Cộng hòa khác muôn năm! Đả đảo nền Cộng hòa này!” Trong những ngày tiếp theo, Charles Dupuy, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, vẫn không hành động và ngang nhiên chuẩn bị âm mưu của Déroulède âm mưu này trở nên phức tạp với hành động gay gắt của phái Bảo hoàng. Không được Déroulède coi trọng, những người ủng hộ Công tước Orléans quyết tâm không để ông ta được hưởng lợi từ chiến thắng dự kiến sẽ xảy ra. Déroulède dường như được Tướng Pellieux, cựu Bộ trưởng Chiến tranh, thuộc phái chống Dreyfus, giúp đỡ. Viên Tướng này được giao dẫn đầu đoàn quân trong lễ tang Félix Faure. Ngày 23-2, ngày diễn ra lễ tang, Déroulède và người của ông ta tập trung ở Quảng trường Dân tộc để đợi đội quân của Pellieux đi ngang qua sau khi rời nghĩa trang Père Lachaise. Nhưng vào phút cuối, Pellieux đã do dự; ông ta để Tướng Roget thay mình. Khi vừa nhìn thấy đoàn quân, Déroulède vội vã chạy về phía ngựa của Roget nhưng Roget đẩy Déroulède ra và cho quân nhanh chóng trở về doanh trại Reuilly. Déroulède hiểu rằng mình đã thất bại. Để không bị biến thành trò cười, ông ta cũng vào doanh trại cùng đoàn quân và yêu cầu quân đội bắt giữ mình. Sau đó, ông ta bị buộc tội âm mưu chống lại nền Cộng hòa. Déroulède được một thẩm phán dễ dãi tha bổng vào tháng 5/1899, nhưng tháng 1-1900, ông ta lại bị Toà án tối cao xét xử và kết án 10 năm biệt xứ. Mặc dù cuộc đảo chính của Déroulède đã thất bại, nhưng phái Bảo hoàng và dân tộc chủ nghĩa vẫn không nguôi giận và cái tên Émile Loubet vẫn tiếp tục gây thù hận. Phe đối lập này cũng có một kết cục không kém buồn cười so với đội quân của Déroulède, cho dù đã gây lo lắng cho phái Cộng hòa. Ngày 4-6-1899, Tổng thống đến Trường đua Auteuil để xem cuộc đua ngựa lớn được tổ chức hàng năm. Ông được đón tiếp bằng tiếng hò hét của khoảng 100 người theo phái Bảo hoàng và Dân tộc chủ nghĩa, họ mang hoa cẩm chướng trắng ở khuyết áo, tập trung quanh khán đài nơi Tổng thống ngồi. Lực lượng cảnh sát ít ỏi làm cho những kẻ biểu tình thêm liều lĩnh; cuối cùng, một người trong số họ là Nam tước Christiani đã nhảy lên khán đài, xô ngã bà Loubet và dùng gậy đập nhiều lần vào chiếc mũ cao thành của Tổng thống. Christiani bị bắt và bị kết án 4 năm tù, nhưng sau đó nhanh chóng được Loubet ân xá. Nội các bảo vệ nền Cộng hòa của Waldeck - Rousseau Không quá lo lắng về âm mưu đảo chính không thành của Déroulède, nhưng nước Pháp nổi giận vì Tổng thống bị lăng nhục qua cái mũ của ông. Một tuần sau, vào ngày diễn ra giải Grand Prix ở Trường đua ngựa Longchamp, những người thuộc phe bảo vệ Dreyfus, Đảng Xã hội và các nghiệp đoàn tổ chức một cuộc biểu tình chống đối. Với hoa tầm xuân đỏ cài ở khuyết áo, hàng nghìn công nhân diễu hành từ Quảng trường Concorde đến Trường đua Longchamp. Lần này thì Chủ tịch Hội đồng đã dùng lực lượng cảnh sát đông đảo để cấm đoàn biểu tình có hành động quá đáng. Cuối cùng thì Quốc hội cũng thấy rằng Dupuy không phải là người thích hợp với tình hình lúc đó nên đã bãi nhiệm ông. Sau đó, Loubet tuyên bố ý định thành lập một chính phủ mạnh, đủ khả năng bảo vệ nền Cộng hòa đang bị đe dọa, và sau một loạt tránh né của các thủ lĩnh ôn hòa như Poincaré, người không mấy lo lắng về việc một tương lai đầy hứa hẹn bị tổn hại khi coi trọng những đam mê chính trị, Loubet chỉ định Pierre Waldeck-Rousseau làm Chủ tịch Hội đồng. Waldeck-Rousseau tuyên bố là “một người Cộng hòa ôn hòa, nhưng không phải là người Cộng hòa theo cách ôn hòa”. Ông thành lập một nội các bao gồm những người thuộc tất cả các đảng phái nhưng cùng lo lắng bảo vệ nền Cộng hòa. Bên cạnh Tướng Galliffet nổi tiếng trong vụ đàn áp Công xã, lần đầu tiên có một Bộ trưởng thuộc Đảng Xã hội, đó là Alexandre Millerand. Waldeck-Rousseau đưa ra chính sách mà một người như Loubet có thể tán thành: bảo vệ nền Cộng hòa bằng cách thẳng tay đàn áp Đảng Dân tộc chủ nghĩa; đấu tranh chống sự lấn lướt của giới tăng lữ trong lĩnh vực chính trị, nhưng không xử sự theo kiểu bè phái mà đối xử khéo léo với tín ngưỡng của các tín đồ Thiên chúa giáo. Rút cục thì Loubet, một người Cộng hòa xác tín, cũng không thoát ra khỏi vai trò mà Hiến pháp đã qui định cho Tổng thống. Không hơn gì Félix Faure, ông không có ý định lãnh đạo hoạt động chính trị của đất nước và phó thác công việc cho các Chủ tịch Hội đồng được Quốc hội tin tưởng bầu ra. Cũng không khác gì Félix Faure, ông từ bỏ quyền đối với chính sách đối ngoại, quyền mà các Tổng thống đầu tiên ra sức giữ lấy. Cắt đứt quan hệ với Vatican, xích lại gần nước Anh Những bất ngờ trong chính sách đối ngoại Loubet tự đề cao tính trung lập chính trị của mình đến mức rất ít can thiệp vào công việc nhà nước, ngay cả khi ông không đồng ý với chính sách đang được theo đuổi. Cuộc bầu cử năm 1902 là một chiến thắng của Đảng Cấp tiến. Do là đại diện của phái Ôn hòa nên Waldeck-Rousseau phải rời khỏi chính quyền. Theo lời khuyên của những người đứng đầu phe đa số, Loubet giao chức Bộ trưởng cho Émile Combes, một Thượng nghị sĩ cấp tiến mà ông không biết rõ lắm. Với “đức cha nhỏ Combes”, người từng là học sinh trường dòng, trở thành bác sĩ rồi sau đó là chính trị gia, chính sách bảo vệ nền Cộng hòa của Waldeck-Rousseau biến thành chính sách chống Giáo hội rõ nét và có kèm theo chủ nghĩa bè phái. Émile Loubet không tán thành chính sách này vì nó muốn loại bỏ các tín đồ Thiên chúa giáo khỏi cộng đồng dân tộc, sau đó phần lớn Đảng Cộng hòa cũng chung ý kiến với ông. Clemenceau, vốn theo Đảng Cấp tiến nhưng chống lại Giáo hội, gọi chính sách của Combes là “dòng Tên lật ngược”, còn Alexandre Millerand phẫn nộ vì chính sách khuyến khích tố giác của Combes nhằm phát hiện những người Thiên chúa giáo trong bộ máy chính quyền và đặc biệt là trong quân đội, đã coi đó là “hành động ghê tởm”. Nhưng cũng như phần lớn thành viên của Đảng Cộng hòa, mặc dù trong thâm tâm không đồng ý với chính sách của Combes, nhưng Loubet biết rằng nếu lên án nó trước công luận thì Chính phủ sẽ trở thành mục tiêu của những kẻ phản đối nền Cộng hòa. Vả lại, Tổng thống không nên sử dụng quyền tự do ngôn luận như các Nghị sĩ Clemenceau và Millerand. Nhưng ít nhất thì trong khả năng của mình Tổng thống cũng cố gắng ngăn chặn chính sách của Combes. Và thế là ông cố tìm cách hoãn chuyến thăm của Vua Italia Victor-Emmanuel đến Paris. Loubet biết rằng nếu chuyến thăm này diễn ra thì chính ông sẽ phải tới Roma để đáp lại. Tuy nhiên, các Giáo chủ đều không công nhận Roma thuộc Italia và một hành động kiểu như vậy sẽ bị triều chính Tòa thánh coi là sự xúc phạm đối với Giáo hoàng; quan hệ giữa Pháp và Vatican căng thẳng tới mức có thể bị đổ vỡ vì một vụ rắc rối như vậy. Tuy nhiên, từ năm 1900, chính phủ đã có nhiều nỗ lực đáng kể để tách Italia ra khỏi liên minh Áo-Đức nên ủng hộ chuyến thăm này và Loubet, một Tổng thống không có thực quyền, chỉ còn biết làm theo. Victor-Emmanuel đến Paris và được đón tiếp nồng hậu, Hoàng hậu ôm hôn bà Loubet, và tất nhiên là Tổng thống sẽ phải đến thăm chính thức Roma. Tháng 4-1904, Loubet đến thăm Roma. Ông được chào đón ở đây, nhưng những kẻ chống lại Giáo hội ở Italia lợi dụng chuyến viếng thăm này của Tổng thống Pháp. Trên các bức tường của Thành phố Vĩnh hằng (Roma - ND), Hội Tam điểm dán những tấm áp-phích ca ngợi Tổng thống và chỉ trích Giáo hoàng. Vụ rắc rối mà Tổng thống lo sợ đã xảy ra. Cả Giáo hoàng Pie X và tổng trưởng ngoại giao, Hồng y giáo chủ Merry del Val đều cố chấp: Văn phòng Tổng trưởng ngoại giao thảo một công hàm phản đối Loubet một cách xúc phạm gửi đến tất cả các cường quốc có đại sứ tại Vatican. Combes phải vào cuộc, triệu hồi Đại sứ Pháp tại Vatican và cắt đứt quan hệ ngoại giao với Vatican. Émile Loubet vốn là người ủng hộ hòa giải nhưng đã trở thành công cụ ngoài ý muốn trong việc cắt đứt quan hệ giữa Pháp và Giáo hoàng. Vai trò của ông tốt đẹp hơn khi làm giảm bớt căng thẳng trong mối quan hệ Pháp-Anh. Vào những năm cuối của thế kỉ XIX, sự đối đầu Pháp-Anh về vấn đề thuộc địa rất gay gắt và đã suýt nữa trở thành xung đột vũ trang khi Pháp và Anh đối mặt nhau ở Soudan. Nhưng từ đó, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Delcassé đã làm tất cả để hai nước xích lại gần nhau. Năm 1901, Nhà vua mới của nước Anh là Edouard VII quyết tâm đưa đất nước ra khỏi thế bị cô lập về ngoại giao. Vốn là Thái tử xứ Wales, ông rất quen thuộc với giới thượng lưu Paris và một số chính khách Pháp, trong đó có Loubet. Năm 1903, Nhà vua Anh liên lạc với Loubet và được Loubet mời tới thăm chính thức Paris. Lúc đầu, người dân Pháp đón tiếp ông lạnh nhạt, nhưng bằng sự khéo léo, cởi mở, ông đã lấy được lòng dân chúng và thậm chí còn được hoan hô nhiệt liệt khi kết thúc chuyến thăm. Nếu như Delcassé là người khởi xướng làm thay đổi thái độ của công chúng thì chính Loubet, vốn tán thành mọi điểm trong chính sách của Delcassé, đã làm tất cả để chính sách này đi tới thành công: ông đã triệu tập Chủ tịch Hội đồng thành phố Paris, một trong những thủ lĩnh của Đảng Dân tộc chủ nghĩa, để yêu cầu từ bỏ những cuộc biểu tình mà bạn bè của Déroulède định tổ chức. Thế là tháng 7-1903, khi đến thăm London, Loubet được đông đảo dân chúng đón tiếp nồng hậu và được coi là một người có công làm Pháp và Anh xích lại gần nhau. Tuy nhiên, một vụ rắc rối đã suýt nữa làm chuyến đi bị hủy bỏ: mặc dù Nhà vua Edouard VII yêu cầu nhưng Loubet cương quyết từ chối mặc quần ngắn để dự buổi khiêu vũ của Triều đình ở Điện Buckingham… Kết thúc nhiệm kì 7 năm, bắt đầu thời kỳ nghỉ hưu bình lặng Mặc dù nhiệm kỳ của ông bắt đầu trong những hoàn cảnh đáng buồn, nhưng Émile Loubet vẫn là một Tổng thống được lòng dân. Tính tình hiền lành của ông đã làm nên điều huyền diệu, sự giản dị không giả dối của ông được đánh giá cao. Những chuyến đi thăm các tỉnh của ông là những thắng lợi vì dân chúng, nhất là người nghèo, tự nguyện đến để chào đón ông. Loubet cũng được các nhân vật quan trọng ở địa phương, các Ủy viên hội đồng thành phố, các Chủ tịch xã ở nông thôn, các ủy viên đại hội đồng xuất thân từ giới tiểu tư sản và tạo nên dư luận ở Pháp trong những năm đầu thế kỉ XX, kính trọng. Ông là người của họ, nhờ họ mà ông được bầu vào Thượng nghị viện, đại diện cho các tập thể địa phương, rồi được giữ chức Chủ tịch Thượng nghị viện, bước đệm để đến với cương vị tối cao. Loubet được lòng dân chủ yếu là do ông biết giữ vai trò Tổng thống bên trên các cuộc đấu tranh chính trị, bởi vì ông chấp nhận để những người khác lãnh đạo đất nước. Ông đã ủng hộ Combes mặc dù không tán thành chính sách của Combes; ông ủng hộ Delcassé vì chính sách đối ngoại của Delcassé hợp với ông, nhưng ông bằng lòng giữ vai trò phụ chứ không tham gia lập chính sách đó, và khi chính phủ Pháp phải hi sinh Delcassé dưới sức ép của Đức, Loubet, vốn bị giới hạn về quyền lực, đã không nói lời nào để bảo vệ Delcassé. Là người kế nhiệm Félix Faure, Loubet thực ra cũng có cùng quan niệm với ông ta về vai trò Tổng thống, ngay cả khi ông biết đưa thêm lòng tốt vào phong cách của mình: Tổng thống của những nghi lễ trang trọng quốc gia. Émile Loubet bắt đầu một tiền lệ khác: ông là Tổng thống đầu tiên rời khỏi Điện Élysée sau đúng 7 năm của nhiệm kì để về nghỉ ngơi yên bình ở làng quê, xa các cuộc đấu tranh chính trị.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:37:20 GMT 9
Armand Fallières, nhà hiền triết của điện Élysée Một Loubet khác Émile Loubet sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào tháng 2-1906 và không có ý định tái cử, vì vậy hai viện họp ở Versailles ngày 17-1 để bầu ra người kế nhiệm ông. Có hai ứng cử viên cạnh tranh nhau: Paul Doumer, Chủ tịch Quốc hội và Armand Fallières, Chủ tịch Thượng nghị viện. Theo logic thì mọi cơ may đều nghiêng về phía Paul Doumer, Đảng viên Đảng Cấp tiến, vì từ năm 1902 thời thế chính trị đã biến Đảng Cấp tiến thành nhóm quan trọng nhất của Quốc hội. Tuy nhiên, điểm yếu của Doumer là tham gia tích cực vào chính trường và chuốc lấy nhiều hiềm khích. Năm 1895, với tư cách là Bộ trưởng Bộ Tài chính, ông đã đề nghị thông qua thuế thu nhập, một yêu sách cũ của Đảng Cấp tiến. Khi nội các mà ông tham gia bị giải tán, ông đồng ý không giữ chức Bộ trưởng Tài chính trong nội các mới của Méline. Bù lại, ông được cử giữ chức Toàn quyền Đông Dương, do đó dự định của ông cũng không thành. Cánh tả phàn nàn nhiều về Doumer: là người phản đối chính sách của Combes, cũng như nhiều Đảng viên Đảng Cộng hòa khác, ông không ngần ngại công kích Combes và thậm chí bỏ phiếu chống lại ông ta. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi cánh tả thích nhân vật ôn hòa Arman Fallières hơn kẻ phản bộ cấp tiến này. Tổng thống có nhiều nét giống với người tiền nhiệm Loubet. Cũng như Loubet, ông là người miền Nam, sinh năm 1842 ở gần Nérac, vùng Lot-et-Garonne. Cũng như Loubet, ông xuất thân từ một gia đình nông thôn nổi lên chậm chạp: ông nội là thợ rèn, bố là lục sự của toà án. Armand Fallières học ở Trường trung học Angoulême, sau đó trở thành luật sư rồi chính trị gia, theo con đường công danh cổ điển của các nhân vật quan trọng trong nền Cộng hòa đệ Tam. Sau ngày 4-9, ông trở thành Thị trưởng của Nérac, sau đó bị Chính phủ của Trật tự Đạo đức bãi chức. Từ đó, sự nghiệp của ông đi lên theo sự lớn mạnh của nền Cộng hòa. Sau cuộc bầu cử ngày 16-5, ông trở thành Đại biểu quốc hội của Nérac và giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Giáo dưỡng công, Bộ Lễ, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao. Ông cũng là Chủ tịch Hội đồng trong giai đoạn bản lề ngắn từ tháng 1 đến tháng 2-1883. Từ năm 1890, Fallières là Thượng nghị sĩ; năm 1899, khi Loubet được bầu làm Tổng thống, Fallières kế nhiệm ông vào cương vị Chủ tịch Thượng nghị viện. Năm 1906, ông lại kế nhiệm Loubet ở Điện Élysée với 449 phiếu của cánh tả, còn Doumer được 371 phiếu của cánh trung dung và cánh hữu. Clément Armand Fallières (6/11/1841 - 22/6/1931) Truyền thuyết và hiện thực về Armand Fallières Cũng như một số Tổng thống tiền nhiệm, ông chưa được nhiều người biết tới khi được bầu làm Tổng thống, song “Cha Fallières”, như người Pháp vẫn gọi ông một cách thân mật, nhanh chóng trở thành một nhân vật huyền thoại thật sự. Trên thực tế, chẳng có gì trong nhân cách của vị Tổng thống mới khiến người ta phải tôn kính và ngưỡng mộ. Người dân Pháp dành cho ông những tình cảm khác: chúng được hình thành từ tình cảm trìu mến bền chặt dành cho một người mà họ thấy giống với mình. Ông cư xử như một người Pháp trung lưu và đồng bào của ông cũng nhận ra điều đó; vị tân Tổng thống không hề kiêu căng, không một chút kiểu cách. Trong cuộc bầu cử, ông đã đặt điều kiện rằng ông sẽ không thay đổi những thói quen của mình, và trên thực tế, ông thay đổi chúng ở mức ít nhất có thể. Ở Paris, cũng như ở nhà riêng tại Loupillon, miền Nam nước Pháp, ông rất thích tản bộ mà không có bất cứ nghi thức nào. Con người hiền hậu, thẳng thắn, bộ râu quai nón, chiếc cà vạt có chấm tròn, giọng nói truyền cảm nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Không kém phần nổi tiếng là những lời nói, có thật hoặc giả định, mà người ta gán cho ông và trong một thời gian dài, người ta cứ tưởng những lời đó chứng tỏ nguồn gốc nông dân của ông, nhưng sau này mới nhận ra rằng thực ra chúng thể hiện sự tinh tế sâu sắc của Tổng thống. Tuy nhiên, vốn là người trầm tính, có trí tuệ và thậm chí một chút mưu mẹo, Fallières cứ để mặc cho mọi người nói, bởi ông ý thức được rằng nhân vật mà người ta gán cho ông sẽ giúp ông quan sát những người mất cảnh giác. Trên thực tế, Fallières tỏ ra là một người có óc quan sát và ông thực hiện một cách hoàn hảo vai trò của Tổng thống như những người cùng thời vẫn nghĩ. Ngay từ bài diễn văn nhậm chức, ông đã định nghĩa về chức vụ này. Đó là một trọng tài, làm tròn một chính sách đã được xác định rõ, đó là chính sách của Đảng Cộng hòa, nhưng vì lợi ích của cả đất nước: “Nhằm tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành nhiệm vụ, tôi kêu gọi tất cả những người Cộng hòa, xin đừng quên rằng nếu tôi lãnh đạo cùng với những người thuộc Đảng của tôi, thì chính là vì lợi ích tối cao của quốc gia, và rằng nhờ có tất cả mọi người, không phân biệt nguồn gốc và niềm tin chính trị, chúng ta mới bảo vệ được tất cả các quyền.” Fallières thể hiện một trí tuệ hiếm có và một sự tinh tế tuyệt vời. Dưới thời Fallières, kể cả dưới thời Faure hay Loubet, không có chính sách của Điện Élysée. Nhưng Fallières luôn quan tâm sát sao đến đời sống chính trị; các nghị sĩ, viên chức, nhà ngoại giao đều đến trao đổi công việc và xin ý kiến tư vấn của Tổng thống, Tổng thống thường cho họ những lời khuyên sáng suốt hiếm có. Ông cảm nhận được những nguy hiểm ngày càng tăng và đoán trước việc phải đối mặt với cuộc chiến sắp xảy ra bằng việc Poincaré thành lập một hội thống nhất quốc gia sau. Nếu xung đột xảy ra, người ta đề nghị ông gọi vào chính quyền những người cương quyết nhất trong số thủ lĩnh các đảng đối lập, đó là Déroulède của Đảng Dân tộc và Clemenceau của đảng Cộng hòa. Trong khi chờ đợi, không phải những nhân vật mờ nhạt nối tiếp nhau đứng đầu Chính phủ, mà là những nhà lãnh đạo thực sự của chính trường Pháp, những con người có tư tưởng dứt khoát và có khả năng xúc tiến một chính sách nhất quán để thực hiện những tư tưởng đó: Briand, Joseph Caillaux, Georges Clemenceau, mà tất cả các Tổng thống, kể từ Grévy, đều kiên quyết không cho đưa vào bộ máy chính quyền, cuối cùng là Raymond Poincaré, người dùng cương vị này để tiến vào Điện Élysée. Năm 1913, Fallières từ chối tham gia nhiệm kì thứ hai. Sau khi đã thực hiện vai trò Tổng thống khéo léo hơn bất kì vị chính khách tiền nhiệm nào, ông muốn nghỉ hưu. Ông lui về Loupillon và hưởng cuộc sống an nhàn nơi thôn dã tới tận 90 tuổi (ông mất năm 1932). Ông để lại cho đời sau câu nói lịch sử cuối cùng, một câu nói hóm hỉnh theo đúng phong cách của ông: “Vị trí không tồi nhưng không tiến lên được nữa”. Raymond Poincaré, tổng thống của liên minh thần thánh Trong số tất cả các Tổng thống của nền Cộng hòa đệ Tam, không ai giữ một vai trò quan trọng cũng như có hành động gây ra nhiều bàn cãi như Raymond Poincaré. Đó là vì con người này không hề đơn giản. Ông muốn giới thiệu với lịch sử một hình ảnh nào đó về con người và hành động của mình. Không có gì xuất hiện ngẫu nhiên trong con đường công danh của ông: giữ chức vụ tối cao vào một trong những thời điểm tồi tệ nhất của lịch sử nước Pháp, vai trò trong chiến tranh, hay thái độ của ông trong suốt thời kỳ chiến tranh. Và đặc biệt là con đường công danh của Poincaré không dừng lại khi ông rời Điện Élysée. Thậm chí, chúng tôi còn muốn nói rằng chính từ lúc đó sự nghiệp của ông mới bắt đầu, bởi ông đứng 10 năm ở hàng đầu của chính trường để làm biểu tượng cho một chính sách nào đó. Những lời chỉ trích hay đánh giá về chính sách này không thể không ảnh hưởng đến dư luận về hành động của ông trên cương vị người đứng đầu nhà nước. Vấn đề còn trở nên phức tạp nữa vì rất khó nói đến sự chân thành, thái độ đối với Lịch sử ở con người luôn có ý thức trở thành một nhân vật lịch sử, ở viên luật sư khôn khéo mà sự chính trực điển hình của ông luôn khiến ta tự hỏi: với sự khéo léo tuyệt đỉnh như vậy, liệu ông có quá biện hộ cho chính mình trước lời phán xét của các nhà sử học? Một tham vọng từ rất xa xưa Poincaré sinh năm 1860 ở Bar-le-Duc, 10 năm trước khi Đế chế sụp đổ. Ông sẽ không bao giờ quên cảnh quê hương bị quân Phổ chiếm đóng trong suốt 4 năm. Khi học ở Trường trung học Bar, ông tỏ ra là một học sinh xuất sắc, và trong tất cả các giai đoạn của con đường công danh cũng vậy. Là một sinh viên luật giỏi, một luật sư có lương tâm, một chính khách “trung dung” và có phong thái ôn hòa, dường như ông chuẩn bị tiến tới cương vị Tổng thống từ những năm còn trẻ. Con đường chính trị của ông diễn ra thuận buồm xuôi gió tại tỉnh Meuse, nơi những mối quan hệ gia đình giúp công việc của ông luôn suôn sẻ. Ông lần lượt được bầu làm Ủy viên đại hội đồng, Nghị sĩ, rồi Thượng nghị sĩ. Ở Quốc hội, ông chuyên tâm vào các vấn đề kĩ thuật, nhất là vào việc nghiên cứu ngân sách, một chuyên ngành khô khan, vào thời kỳ mà chỉ có tài hùng biện về những chủ đề chính trị lớn mới có thể làm cho một chính khách trở nên nổi tiếng. Nhưng bằng tài năng và sự nghiêm túc, chàng trai Poincaré nhanh chóng tự khẳng định mình. Nếu như Poincaré thận trọng tránh thể hiện thái độ đối với những vấn đề gây chia rẽ nước Pháp (đặc biệt là vụ án Dreyfus) thì ông lại không ngần ngại phát biểu ý kiến để kêu gọi tinh thần đoàn kết của người Pháp và hòa hợp dân tộc. Trong thời kì Combes đứng đầu nội các, Poincaré thu mình lại. “Ông ta trốn phát biểu ý kiến”, các đồng nghiệp tại Quốc hội thường mỉa mai khi thấy ông vội vàng cởi chiếc áo luật sư để tham dự một phiên họp của Quốc hội. Sự kiên nhẫn bền bỉ, sự chuẩn bị chu đáo đến như vậy không thể không được đền bù. Những nguy hiểm ngày càng tăng sẽ giúp Raymond Poincaré đóng vai trò mà ông chờ đợi từ hơn hai mươi năm. Nguy hiểm ngày càng tăng Năm 1911, tình hình quốc tế vốn căng thẳng từ vài năm trước đột nhiên trầm trọng thêm. Lo lắng về những hậu quả có thể xảy ra của các mối quan hệ đồng minh của Pháp, từ vài năm nay, Guillaume II (Hoàng đế Đức - ND) liên tục tăng cường các cuộc khiêu khích song đều vô hiệu. Năm 1905, Guillaume II thẳng thắn phản đối ý đồ của Pháp đối với Maroc bằng cách đe dọa gây chiến tranh. Mặc dù dân chúng rất phẫn nộ, song Chính phủ Pháp đã lùi bước để bảo toàn hòa bình bằng cách “hi sinh” vị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao hiếu chiến Théodore Delcassé; hơn nữa, một năm sau, Hội nghị quốc tế Algésiras giao cho Pháp thiết lập chế độ bảo hộ trên một phần lãnh thổ Maroc kèm theo một số điều kiện. Trên thực tế, người Pháp muốn mở rộng ảnh hưởng của họ ra toàn bộ Maroc. Năm 1911, đáp lại lời kêu gọi của Quốc vương Moulay Hafid đang bị quân nổi dậy vây hãm tại thủ đô Fès, chính phủ Pháp cử đến đó một đội quân viễn chinh nhằm bảo vệ những người châu Âu tại Fès. Tất nhiên, hành động này hoàn toàn trái ngược với Định ước Algésiras, theo đó ảnh hưởng của Pháp bị giới hạn ở các cảng phía Tây và vùng biên giới phía Đông. Đức cũng không bỏ qua cơ hội can thiệp này: ngày 1-7-1911, chiến hạm “Panther” của Đức tiến vào cảng Agadir. Nước Đức muốn gì vậy? Đức không nghĩ đến việc xem xét lại kết quả của Hội nghị Algésiras mà chỉ muốn nắm lấy cơ hội để đòi Chính phủ Pháp đền bù một thuộc địa nào đó, nhằm điều chỉnh lại những bất bình đẳng trong “phân chia thế giới” mà Đức cho là bị thua thiệt. Đức cho Pháp biết rằng Đức đồng ý để Pháp mở rộng ảnh hưởng ở Maroc, nhưng để đổi lại Pháp phải nhượng Congo cho Đức. Ở Pháp, dư luận phản đối mọi sự thương lượng mang tính lùi bước. Ý kiến này cũng được nội các và chính bản thân Bộ trưởng Bộ Ngoại giao De Selves ủng hộ. Ngược lại, Chủ tịch Hội đồng, Joseph Caillaux, lại tán thành thương lượng. Đại sứ Pháp tại Berlin, Jules Cambon, cũng đồng ý với quan điểm này. Tháng 11-1911, Caillaux kí hiệp ước rất có lợi cho Pháp, vì Pháp chỉ phải nhượng một phần nhỏ Congo thuộc Pháp, nhưng lại được tự do hành động ở Maroc. Báo Figaro mở đầu phong trào kịch liệt phản đối vị Chủ tịch Hội đồng: “Chúng ta không thể giao phó vận mệnh của nước Pháp vào tay những kẻ vô lại những vậy lâu hơn hơn nữa!”. Tuy nhiên, Quốc hội vẫn phê chuẩn bản Hiệp ước. Một người yêu nước vùng Lorraine ở cương vị Chủ tịch Hội đồng Ở Thượng nghị viện, công việc không thuận lợi. Trong thành phần của ủy ban chịu trách nhiệm xem xét Hiệp ước có nhân vật đáng gờm Clemenceau; ủy ban chỉ định Poincaré là báo cáo viên. Lại một lần nữa, Poincaré đóng vai trò hòa giải. Ông tán thành Hiệp ước nhưng lấy làm tiếc rằng Caillaux đã chấp nhận đàm phán do bị sức ép. Tuy nhiên, mặc dù biết rõ những đàm phán bí mật của Caillaux nhưng Poincaré đã tránh đề cập chúng. Thế nhưng Clemenceau đã chỉ ra thái độ của Caillaux và gây ra một vụ tai tiếng. Bị biến thành trò cười, De Selves từ chức, nội các cũng sụp đổ theo. Nội các của Caillaux sụp đổ khiến chính trường Pháp rơi vào tình trạng rối ren. Vào thời điểm cuộc chiến với Đức có thể nổ ra do không phê chuẩn Hiệp ước, Pháp không hề có một chính sách đối ngoại nào. Người Pháp không đồng lòng nhất trí. Đảng Cấp tiến đã bị suy yếu trong bộ máy chính quyền và trong các cuộc đấu tranh chính trị nên không có đủ uy tín cần thiết để lãnh đạo đất nước trong một cuộc chiến có thể sắp xảy ra. Nước Pháp cần có một “người cha” vừa có uy tín, vừa có năng lực: cái tên Poincaré được tin tưởng và chính Clemenceau, Đảng viên Đảng Cộng hòa lão thành và chống giáo quyền, đã khẳng định điều đó. Khi chỉ định Poincaré, Fallières có lẽ muốn thể hiện ước nguyện của dân tộc đang mong chờ một vị cứu tinh. Trong những điều kiện như vậy, việc bổ nhiệm Poincaré vào chức chủ tịch Hội đồng có ý nghĩa rất quan trọng. Đây không chỉ là một nhân vật ôn hòa thừa kế một loạt cương vị Chủ tịch của phe cấp tiến, mà chính vào thời điểm bị chiến tranh đe dọa, con người có chính sách cứng rắn với Đức đã lên nắm quyền. Khi để Poincaré đứng đầu Chính phủ, vậy là nước Pháp đã tự lập ra cho mình một thủ lĩnh chiến tranh. Thật vậy dư luận quốc tế nhận thấy rõ nét tính cách này của ông, Poincaré cũng có tiếng là người ghét các cuộc phiêu lưu; nhưng đó không phải là điều người Pháp quan tâm vào năm 1912, và vị tân Tổng thống không quên điều này. “Tất cả lòng tự tôn của một dân tộc không muốn chiến tranh nhưng không sợ chiến tranh” Poincaré tiếp tục chú ý đến hình ảnh cá nhân của mình. Đối với cánh tả, ông tỏ ra là một Đảng viên Cộng hòa không nhân nhượng và một người phi tôn giáo chắc chắn. Năm 1912, ông nói với Charles Benoist, một tín đồ Thiên chúa giáo: “Giữa ông và tôi là cả một vấn đề tôn giáo”. Nhưng ông lại xoa dịu ngay: “Tôi không nghĩ đến việc loại trừ người bạn Charles Benoist và những người Thiên chúa giáo ra khỏi chính thể Cộng hòa”. Đối với cánh hữu, ông đảm bảo xóa bỏ những dự án đáng lo ngại về thuế thu nhập do Caillaux đề xuất. Cuối cùng, khi cánh hữu cho rằng vị Tổng thống mới sẽ là “con tin” của Đảng Cấp tiến, ông cho bỏ phiếu thông qua một dự án cải cách bầu cử, chấm dứt bỏ phiếu theo quận, thay vào đó là giới thiệu theo tỉ lệ, mặc dù Đảng Cấp tiến kịch liệt phản đối dự án này. Bằng cách tấn công “những ao tù của phổ thông đầu phiếu” đã bị Aristide Briand lên án trước đây, ông đã giáng một đòn mạnh vào pháo đài bầu cử của những nhân vật quan trọng trong Đảng Cấp tiến, họ không tha thứ cho ông việc này mặc dù cuộc cải cách không thành công. Tuy nhiên, Poincaré muốn tập trung vào chính sách đối ngoại hơn là vào các vấn đề đối nội. Ông trở thành Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và hiểu rõ công luận đang mong chờ ông ở lĩnh vực này, nên ông sẽ làm tất cả để họ hài lòng. Ông đề nghị Thượng nghị viện thông qua hiệp ước mà Caillaux đã ký, nhưng làm cho mọi người hiểu rằng đó không phải là tác phẩm của ông. Về phần mình, Poincaré thể hiện rõ quan điểm phản đối mọi chính sách thân Đức và chỉ gắn bó với các đồng minh truyền thống là Nga và Anh. Khi xảy ra một vụ rắc rối nhỏ với Italia (hai tàu thủy của Pháp bị bắt giữ), ông phản ứng bằng một bài phát biểu rất gay gắt. Ông hạn chế quyền tự do hành động của các đại sứ, mặc dù họ không ủng hộ thái độ này. Người bạn thân của ông, Maurice Paléologue, được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, tự nguyện trở thành công cụ chính cho chính sách này. Poincaré đặc biệt củng cố quan hệ đồng minh với Nga. Tháng 8-1912, ông đến Nga. Khi trở về, nước Pháp chào đón ông như một người chiến thắng. Người Pháp đã tìm được vị chủ tịch Hội đồng mà họ mong đợi. Ông đã nói rất hợp ý họ: “Chúng ta nên giữ kiên nhẫn, sức mạnh và tất cả lòng tự tôn của một dân tộc không muốn chiến tranh nhưng không sợ chiến tranh”. Như vậy, với sự ủng hộ của đại bộ phận công luận, Poincaré chuẩn bị cho cuộc chiến tranh. Cuối năm 1912, ông tuyên bố ra ứng cử chức Tổng thống để kế nhiệm Fallières. Quyết định khá bất ngờ: người đàn ông 52 tuổi này, cho tới lúc đó vẫn luôn tỏ ra giữ ý để chờ cơ hội đảm đương một vai trò xứng đáng, đã quyết định giam mình vào nhà tù mạ vàng Élysée, nhận vai trò trang trọng - không quyền hành chính trị kèm theo trách nhiệm tinh thần cao nhất chăng?
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:40:36 GMT 9
Làm thế nào để trở thành nguyên thủ quốc gia thực sự?
Poincaré lấy làm tiếc về tình hình bất ổn trong nội các và tin chắc rằng vai trò Chủ tịch Hội đồng của ông sẽ kết thúc với phản ứng bực bội đầu tiên của Quốc hội. Liệu còn có sự đảm bảo ổn định nào tốt hơn việc được bầu cho nhiệm kỳ 7 năm ở vị trí đứng đầu Nhà nước? Do đó, không quyền hành chính trị không phải là không có lợi.
Phải biết sử dụng tính ổn định này và làm thế nào trong khi từ ngày 16-5, Nghị viện dần dần tước hết quyền hạn của Tổng thống ? Trong một loạt các bài phát biểu, bài báo, bài nói chuyện từ năm 1896 đến 1898, Poincaré đã tố cáo sự bóp méo Hiến pháp này.
Thay vì để cho Chính phủ và người đứng đầu hợp pháp của nó là Tổng thống được thực thi quyền lực một cách bình thường, Hiến pháp đã dung túng cho một nền chuyên chính thất thường và ngông cuồng của vài trăm nghị sĩ và để họ cử ra một nhân vật thiếu tính độc đoán đứng đầu Nhà nước.
Poincaré muốn gì đây? Thực thi toàn bộ Hiến pháp, điều này rất khó xác định: liệu ông có nghĩ đến việc đòi lại cho chức Tổng thống toàn bộ quyền lực mà Hiến pháp năm 1875 đã trao cho không? Người ta có thể nghi ngờ điều đó. Vị luật gia này biết rõ sức mạnh của các tiền lệ đã có tác động như thế nào đến luật pháp.
Nhưng ta có thể nghĩ rằng ông muốn tận dụng tối đa các điều khoản của Hiến pháp: với tư cách là người bảo lãnh cho các hiệp ước quốc tế, ông đóng vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Pháp vào thời điểm mà đối ngoại đang là yếu tố cơ bản của đời sống chính trị. Tuy nhiên, cần có một điều kiện: chủ tịch Hội đồng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao không được có chính sách riêng. Và Hiến pháp đã cho Tổng thống sự bảo đảm cơ bản, đó là quyền được lựa chọn chủ tịch Hội đồng.
Thông qua việc ứng cử, Poincaré hi vọng đóng vai trò chính trong điều hành công việc bằng cách điều chỉnh việc thực thi Hiến pháp theo hướng có lợi cho sự khôi phục quyền lực của Tổng thống. Ông chỉ còn chờ được bầu.
Thủ đoạn và tai tiếng: những biến cố của cuộc bầu cử
Poincaré nhanh chóng hối tiếc vì đã để lộ ý định của mình quá sớm. Khối đoàn kết xung quanh ông năm 1911 không chống lại các cuộc luận chiến phản bác ông. Việc ông ứng cử đã vấp phải thái độ thù địch của những người phải từ bỏ tham vọng của mình (như Chủ tịch Quốc hội Paul Deschanel hay Nghị sĩ kì cựu Ribot), của những người có trách cứ cá nhân đối với Poincaré (ví dụ như Joseph Caillaux chỉ trích thái độ của Poincaré trong cuộc khủng hoảng năm 1911 và chính sách hiện nay của Poincaré vì sẽ dẫn tới chiến tranh), của những người phê phán hành động của ông ở cương vị Thủ tướng (mặc dù được Léon Bourgeois, người đứng đầu có uy quyền của Đảng Cấp tiến, đề cử, nhưng đa số Đảng viên Cấp tiến không tha thứ cho ông vì luật bầu cử theo tỉ lệ).
Vì vậy, chiến dịch phản đối diễn ra khá mạnh: người ta kết tội Poincaré đang chuẩn bị thiết lập một chế độ độc tài kiểu Boulanger mới và muốn gây chiến. Nhưng nếu như những lí lẽ này tác động mạnh đến các Nghị sĩ cánh tả, thì ngược lại, chúng khiến Poincaré trở thành vị Tổng thống lí tưởng đối với cánh hữu.
Ý thức được mối nguy, Caillaux mở một chiến dịch vận động hành lang thâm hiểm đánh vào đời tư của Poincaré, lĩnh vực mà Poincaré đang muốn lẩn tránh. Năm 1904, Poincaré kết hôn không theo nghi lễ tôn giáo với Henriette Benucci. Trước đó, bà đã li hôn với một người Mĩ không tiếng tăm gì, nhưng người ta đồn đó là một người không đáng tin cậy, sau đó lại trở thành vợ góa của một doanh nhân Pháp.
Đám cưới không theo nghi lễ tôn giáo với một phụ nữ đã li dị, đây quả là một lí do đáng để cánh hữu Thiên chúa giáo làm to chuyện! Báo chí liên tục nói bóng nói gió. Hình ảnh của Poincaré bị tổn hại. Cuối cùng, một vụ bê bối chính trị do các đối thủ của ông khéo léo khai thác và một thủ đoạn vào phút chót đã khiến việc ứng cử của ông trở nên vô cùng bi đát. Vụ bê bối xảy ra là do Millerand, Bộ trưởng Chiến tranh, quyết định gọi Trung tá Paty de Clam, người bị tiếng xấu trong vụ Dreyfus, trở lại quân ngũ. Ngay lập tức, cánh tả nhảy vào vụ này.
Đối với Poincaré, mối nguy trở nên rất rõ ràng. Nếu ông bênh vực Millerand, cánh tả sẽ phê phán ông quá dễ dãi đối với những người chống Cộng hòa; nếu ông không tán thành với quyết định của Millerand, cánh hữu sẽ oán trách ông vì không làm dịu tình hình.
Tuy nhiên, Poincaré đã làm thất bại ý đồ này, ông không đứng hẳn về bên nào mà “chia tay” Millerand vì một lý do đương nhiên: vị Bộ trưởng đã quyết định mà không báo cho Tổng thống biết. Nhưng Poincaré còn phải vượt qua chướng ngại cuối cùng: được “phái đoàn cánh tả” đưa ra ứng cử, đó là một việc làm của nghị viện nhằm công nhận ứng cử viên là người theo chủ nghĩa Cộng hòa và thế tục, nếu không việc ông được bầu hay không sẽ rất bấp bênh.
Thế nhưng, để đối đầu với Poincaré, Clemenceau - “người tạo nên các Tổng thống “ - lại đề cử nhân vật cấp tiến trung thực Jules Pams, người sẽ nhận được phiếu bầu của các Nghị sĩ do không bị chú ý lắm và là người từng giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp trong nội các của Poincaré. Mặc dù Poincaré được Aristide Briand (người dự định sẽ kế nhiệm ông ở vị trí đứng đầu chính phủ) và Léon Bourgeois ủng hộ, song việc bỏ phiếu của phái đoàn diễn ra khá bất lợi.
Ở vòng 3, Poincaré chỉ có được 301 phiếu, trong khi Pams được 223 phiếu. Nhưng ông không thể đạt đa số tuyệt đối, vì ngoài ra, còn hơn 100 Nghị sĩ không tham gia bỏ phiếu. Một phái đoàn đề nghị ông nhường bước trước Pams, nhưng Poincaré từ chối bởi ngoài số phiếu của cánh tả, ông biết rằng mình còn có thể có được những lá phiếu của cánh hữu vì họ không giới thiệu ứng cử viên nào.
Ngày 17-1-1913, Poincaré được bầu làm Tổng thống với 483 phiếu, so với 296 phiếu của Pams và 69 phiếu của Đảng viên Đảng Xã hội Vaillant. Vào buổi tối ngày chiến thắng, Raymond Poincaré thấy vô cùng đau khổ. Để trở thành nguyên thủ quốc gia, ông đã phải hi sinh quá nhiều! Đời tư bị phơi bày trên báo chí; những lời kết tội thiếu căn cứ về niềm tin của người theo chế độ Cộng hòa do Đảng Cấp tiến, những người luôn cùng ông bảo vệ nền Cộng hòa từ vụ Dreyfus, tung ra; mất những người bạn thân lâu năm như Millerand và Barthou; từ chối quyết định của Phái đoàn cánh tả; và cuối cùng, thắng cử nhờ lá phiếu của cánh hữu hay của những kẻ cơ hội như Briand...
Những tờ báo lớn chào đón chiến thắng của ông như chiến thắng của trào lưu chủ nghĩa dân tộc và quân phiệt ra đời ở Pháp từ sau vụ Agadir. Còn những người Thiên chúa giáo lấy làm sung sướng với thắng lợi của ông.
Vài tháng sau, Baudrillart, Hiệu trưởng Học viện Thiên chúa giáo Paris, đã đứng ra tổ chức đám cưới theo nghi lễ tôn giáo cho Tổng thống Cộng hòa Pháp. Sau buổi lễ, Poincaré tuyên bố: “Người đứng đầu một Nhà nước Thiên chúa giáo phải làm gương cho cả đất nước”.
Phải chăng tất cả những nhượng bộ này ít ra cũng giúp Poincaré nắm được vị trí mà ông mong muốn? Trong 4 năm, dường như ông đã giành lại được quyền lực đã mất từ lâu cho chức Tổng thống. Chính cuộc chiến tranh sắp xảy ra luôn đặt ông vào vị trí con người của tình thế. Sau ngày bầu cử, ông tâm sự với Paléologue: “Đêm qua tôi không tài nào nhắm mắt được.
Trong đầu tôi chỉ có một suy nghĩ, từ nay tôi phải gánh vác trách nhiệm to lớn trong khi nguyên tắc không quyền hạn theo Hiến pháp lại tước đi quyền tự do hành động của tôi, kết án tôi 7 năm câm lặng và ăn không ngồi rồi”. Nỗi lo sợ này hoàn toàn không phải là giả dối, tuy nhiên Poincaré sẽ không để cái thể chế mà ông là hiện thân làm cho ông bất lực. Được phe đa số quan tâm đến quốc phòng bầu ra, ông quyết định xây dựng chính sách của mình: chuẩn bị cho nước Pháp tham gia vào cuộc chiến tranh mà ông cho rằng không thể tránh được.
Theo quan điểm này, khi lựa chọn các Chủ tịch Hội đồng, ông không dùng Briand với tính cách mềm dẻo để đền đáp lại vai trò của ông ta trong cuộc bầu cử Tổng thống, mà chọn chính những người kế nhiệm ông: Barthou, người tán thành chính sách dân tộc chủ nghĩa, rồi Doumergue và Ribot, cuối cùng là Viviani. Tất cả những lựa chọn này được giải thích bằng một yêu cầu bức thiết: cần phải xây dựng và duy trì “luật 3 năm”. Hòa bình trên thế giới chỉ có thể được cứu vãn nếu Poincaré rời khỏi điện Élysée
Có chuyện gì vậy? Từ năm 1905, thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự là 2 năm. Tình trạng dân số đình trệ ở Pháp khiến số quân mỗi lần gọi đều thấp hơn quân số của quân đội Đức.
Trong bối cảnh có chiến tranh tiềm tàng như ở châu Âu từ năm 1911, tình cảnh như vậy khiến lãnh đạo Bộ Quốc phòng, trong đó có Tướng Joffre, rất lo ngại.
Từ năm 1912, Bộ tham mưu thuyết phục Hội đồng Bộ trưởng chấp nhận kéo dài thời gian nghĩa vụ quân sự đến ba năm, và tháng 7-1913, được sự tán thành của Tổng thống, Barthou đưa ra luật 3 năm và luật này được cả hai Viện thông qua. Tuy nhiên, Đảng Xã hội cùng với nhiều Đảng viên Đảng Cấp tiến do Joseph Caillaux đứng đầu, và nhiều nhà trí thức liên kết lại với nhau để phản đối bộ luật này.
Giữa chính sách do Poincaré đề ra và cánh tả của Quốc hội xuất hiện một hố sâu ngăn cách. Năm 1914 sẽ diễn ra tổng tuyển cử và một trong những chủ đề của đợt vận động bầu cử của cánh tả là phản đối luật 3 năm. Cánh tả đã thắng lớn trong cuộc bầu cử: Đảng Xã hội và Đảng Cấp tiến chiếm đa số ghế và tất cả mọi người đều chờ đợi Caillaux dễ dàng tái đắc cử và lên nắm quyền.
Đầu tiên, Poincaré định đi đường vòng bằng cách đề cử Ribot, người tán thành luật 3 năm. Nhưng Quốc hội không ưa nhân vật ôn hòa này và thể hiện điều đó bằng cách bãi bỏ chính phủ ngay khi mới được giới thiệu. Thất bại này là một điều sỉ nhục đối với Tổng thống, và Nghị viện càng nhấn mạnh sự việc khi thông qua một chương trình nghị sự bắt đầu bằng câu: “Quốc hội tôn trọng kết quả bầu cử phổ thông và kiên quyết chỉ tin vào một nội các có khả năng tập hợp đa số cánh tả...”.
Ngoài ra còn có những lời bình luận thiếu tôn trọng hơn nhưng thực ra rất rõ ràng, ví dụ như lời bình luận của Gustave Hervé, Đảng viên Đảng Xã hội, trong Cuộc chiến xã hội: “Đất nước muốn đi về bên trái, nhưng người thắng cử không xứng đáng của Điện Élysée lại muốn buộc đất nước đi về bên phải”, hay như Caillaux tỏ ra là địch thủ lớn khi bình luận: “Theo tôi, hòa bình trên thế giới chỉ có thể được cứu vãn nếu ông Poincaré rời khỏi Điện Élysée”. Trước phản ứng dữ dội này, đã có lúc Poincaré tự hỏi liệu từ chức có phải là lối thoát duy nhất không.
Trước khi đi đến quyết định cực đoan này, ông vẫn muốn thử một cách dựa vào tính không rõ ràng của những tên gọi bề ngoài và niềm tin chính trị. Quốc hội được bầu năm 1914 là một Quốc hội của cánh tả nên Poincaré biết rằng nhiều Nghị sĩ đã tiến hành chiến dịch chống luật 3 năm, bởi vì họ coi đó là một chủ đề tranh cử tuyệt vời trong khi công luận đang phản đối việc kéo dài thời gian đi nghĩa vụ quân sự; nhưng khi đã trúng cử, họ thấy không cần bãi bỏ luật này ngay vì tình hình thế giới đang căng thẳng.
Chính vì vậy, sau khi Ribot thất bại, ông đã đề cử René Viviani. Đây là một Đảng viên Đảng Xã hội độc lập (“nhất là độc lập với chủ nghĩa xã hội”, như lời một số thành viên Phân nhánh Quốc tế công nhân Pháp SFIO - sau này trở thành Đảng Xã hội) và không ai nghĩ đến việc nghi ngờ tư cách cánh tả của ông; phải chăng những lời tuyên bố ầm ĩ chống giáo quyền của ông vẫn chưa đủ để làm yên lòng những người hay bắt bẻ nhất về vấn đề này?
Quốc hội dễ dàng phong chức cho ông, thậm chí không thù oán ông vì đã phát biểu rằng chưa cần thay đổi luật nghĩa vụ quân sự. Poincaré thở phào: trong thời điểm hiện tại, luật 3 năm đã được cứu nguy. Ông có thể chuyên tâm vào vấn đề chủ chốt của mình: củng cố các liên minh. Một người nhiệt tình ủng hộ liên minh Pháp - Nga
Ngay từ khi nắm cương vị Tổng thống, Poincaré tận dụng vai trò đại diện để đi công du nhiều nơi nhằm thắt chặt các quan hệ đồng minh của Pháp.
Tháng 6-1913, ông đến London để giải thích với người Anh lý do vì sao phải củng cố Thoả ước liên minh thân hữu. Chuyến công du thành công rực rỡ và ngay sau đó Vua Georges V tới thăm Paris để đáp lại.
Nhưng đồng minh chủ chốt của Pháp vẫn là Nga. Sau khi nhậm chức Tổng thống, Poincaré dành cho Nga mọi sự quan tâm, nhất là tác động vào việc lựa chọn các đại sứ để cử đi Saint-Pétersbourg. Đầu tiên ông bổ nhiệm Delcassé vào vị trí then chốt này, nhưng cái tên Delcassé đồng nghĩa với kháng cự dữ dội chống Đức. Khi Delcassé xin về nước, Poincaré đã can thiệp để Maurice Paléologue, một người mà ông tin cẩn, được chỉ định thay thế.
Ngày 28-6-1914, khi đang tham dự lễ trao giải Grand Prix ở Trường đua ngựa Longchamp, Poincaré nhận được tin François-Ferdinand, Thái tử Áo bị ám sát ở Sarajevo (Bosnia). Tổng thống hiểu ngay đây là tin rất nghiêm trọng. Nước Áo, đồng minh của Đức, có thể lợi dụng cơ hội để trả thù nước Serbia bé nhỏ vì quốc gia này đang muốn đòi lại phần lãnh thổ ở Bosnia mới bị Áo-Hung thôn tính.
Đây là cơ hội mà Áo tìm kiếm từ lâu; nhưng Serbia là đồng minh của Nga còn Nga lại là đồng minh của Pháp, vì vậy Pháp có nguy cơ bị lôi kéo vào cuộc chiến ở Bancan. Tất nhiên, như đã làm năm 1908, Pháp có thể từ chối tham gia cùng Nga vào một cuộc xung đột trong đó những lợi ích sống còn của Nga không được đặt ra, nhưng cũng như vào năm 1911, Nga có thể tuyên bố không ủng hộ Pháp trong một cuộc chiến có thể bất ngờ xảy ra với Đức... Ngày 16-7, cùng với René Viviani, Poincaré lên thiết giáp hạm France để đến thăm Nga hoàng.
Đây là một trong những giai đoạn bị tranh cãi nhiều nhất trong sự nghiệp của Poincaré. Thực ra, chuyến thăm Nga diễn ra không lâu trước khi chiến tranh nổ ra. Ngày Poincaré rời Nga, Vienne gửi cho Belgrade một bức tối hậu thư không thể chấp nhận được. Trong những ngày tiếp theo, châu Âu sôi sục trong một cơn sốt hoạt động chính trị và quân sự.
Các bộ tham mưu náo động, các nhà ngoại giao cố tìm cách ngăn chặn lại chuỗi sự kiện không thể tránh được: London tác động đến Hoàng đế Guillaume II để ông ta hiểu rằng nếu chiến tranh xảy ra, nước Anh sẽ không đứng ở vị trí trung lập. Quá hoảng sợ, Kaiser nghĩ đến đàm phán và khuyên can Áo, mặc dù trước đây ông ta vẫn khuyến khích Áo.
Nhưng ngày 30-7, Nga bắt đầu huy động lực lượng quân đội. Từ đó, các đồng minh phản ứng dây chuyền. Ngày 1-8, Đức tuyên chiến với Nga; ngày 3-8, Đức tuyên chiến với Pháp. Câu hỏi đặt ra là Raymond Poincaré đóng vai trò gì trong việc phát động chiến sự và liệu thái độ của Nga hoàng có phải là hệ quả của những đảm bảo mà Poincaré hẳn đã đưa ra trong chuyến thăm Nga? Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các đối thủ của Poincaré đã dành cho ông lời kết tội khủng khiếp này và đặt cho ông biệt danh “Poincaré-Chiến tranh”. “Poincaré - Chiến tranh”
Những cuốn hồi ký do Poincaré xuất bản sau khi về hưu là một lời biện hộ dài nhằm bác bỏ luận cứ này. Ông đưa ra vô số bằng chứng về mong muốn hòa bình của mình, khẳng định rằng ông đã cảnh báo Sa hoàng không nên có hành động khinh suất.
Ông cũng tự hào vì có tham gia ý kiến vào quyết định của Bộ trưởng cho rút quân về cách biên giới 10 km chỉ vài ngày trước khi có xung đột, để Pháp không bị qui kết là khiêu khích.
Vị luật gia muốn có quyền trong cuộc xung đột đang bắt đầu, hơn nữa ông biết rằng Anh chưa được xác định thái độ, rằng điều quan trọng là không nên làm mếch lòng đồng minh tương lai. Nhưng tất cả những điều này không có giá trị nếu người ta cho rằng lời tuyên bố của Poincaré ở Nga đã đẩy Nga đến quyết định nguy hại là huy động lực lượng vì tin chắc rằng Pháp sẽ đi theo sau.
Vậy mục đích chuyến công du của Poincaré đến Nga là gì? Trong khi châu Âu như đang sống trên núi lửa thì Tổng thống Pháp lại muốn tin chắc rằng đất nước ông có thể trông cậy vào Nga. Trong những điều kiện như vậy, liệu có thể tin rằng ông đã hết lời khuyên nhủ Nga nên thận trọng, thực chất là xóa bỏ nghi ngờ rằng Pháp quyết tâm dấn thân vào một cuộc chiến không?
Để đánh giá ý kiến dư luận, chỉ cần liếc qua báo chí thời đó, nhất là tờ Matin (Buổi sáng). Ngày 18-7, ngay trước khi Poincaré lên đường, báo này chạy hàng tít: “Tổng thống Poincaré đến Cronstadt vào đúng lúc nước Nga bừng tỉnh” và giải thích rõ bản chất của sự thức tỉnh này: “Trong thời bình, quân đội Nga tăng quân số từ 1.200.000 lên 2.245.000”. Tờ báo này cũng dẫn tin từ báo chí Nga về chuyến thăm của Poincaré.
Ví dụ, bài báo được rút ra từ tờ L'Invalide Russe (Thương binh Nga): “Nước Nga quân sự vui mừng đón tiếp nước Pháp [...] Nga tin chắc rằng vào thời khắc thử thách, Nga và Pháp sẽ chiến thắng và gặt hái những vinh quang mới. Với các sư đoàn, trung đoàn của Pháp, chúng ta nhất định sẽ chiến thắng, chúng ta muốn chiến thắng, chúng ta chắc chắn chiến thắng và chúng ta chiến thắng với bất kỳ giá nào và bất kỳ ai”. Rõ ràng là bầu không khí ở Nga sôi sục hơn. Quan chức Nga thích thú với tính kiên quyết của Poincaré đến mức không ngần ngại tuyên bố với Sa hoàng: “Một vị vua chuyên chế phải nói như thế chứ!”
Ngoài ra, Poincaré có thói quen viết báo cáo về những cuộc trò chuyện của ông với các chức sắc nước ngoài để trình Hội đồng Bộ trưởng, nhưng tại sao ông lại không viết báo cáo nào về chuyến công du tới Nga? Rõ ràng là nếu Poincaré không chủ động tham gia chiến tranh thì ông cũng không làm gì để ngăn chặn chiến tranh và thái độ của ông, cho dù cố ý hay vô tình, đã khuyến khích Nga có quan điểm cứng rắn.
Ngày 30-7, khi Poincaré và Viviani xuống tàu ở nhà ga phía Bắc thì một phái đoàn của Hội ái quốc do Chủ tịch hội Maurice Barrès dẫn đầu đã chờ sẵn ở đó. Tờ Matin đã miêu tả cảnh tượng: “Trong nhà ga phía Bắc, sau khi đội kèn chơi xong bài “Aux champs” và sau những lời giới thiệu thường lệ, Poincaré bước lên xe trong im lặng thì bỗng nghe thấy một tiếng hét mạnh mẽ vang lên:
- Nước Pháp muôn năm! Nước Pháp muôn năm!
Dường như ngài Tổng thống không mong chờ một sự đón tiếp như vậy. Sau một lát, ánh mắt ngạc nhiên của ông nhìn bao quát đám đông:
- Nước Pháp muôn năm! Tổ quốc muôn năm! Quân đội muôn năm!
Ngài Tổng thống đã hiểu. Mặt tái đi, ông đứng dậy và chậm rãi chào bằng động tác như người ta chào lá cờ đi qua.
Xe lăn bánh. Dọc theo phố Lafayette, ở Nhà hát lớn, trước Điện Élysée, đâu đâu ông cũng nghe thấy tiếng hô vang khẩu hiệu:
- Nước Pháp muôn năm!
- Nước Nga muôn năm! Nước Anh muôn năm! - những tiếng hô nồng nhiệt vọng lại.
Trên các phố mà đoàn của Tổng thống vừa đi qua, đám đông tràn qua hàng rào cảnh sát, ùa ra đường. Họ nhanh chóng chia thành các nhóm và đi trật tự về phía Nhà hát lớn và các đại lộ, vừa đi vừa hát vang bài “Marseillaise”. Liên minh thần thánh
Ngay cả khi không muốn có chiến tranh, Poincaré cũng có thể nhận thấy rằng khi chiến tranh đến, nước Pháp tập hợp xung quanh ông như xung quanh biểu tượng của lòng ái quốc.
Đứng trước hiểm nguy, mọi tranh cãi giữa các đảng phái đều chấm dứt, Poincaré có thể đóng vai trò mà ông hằng mong ước.
Ngày 4-8-1914 là đỉnh cao trong sự nghiệp của Poincaré. Hôm đó, ông gửi cho Quốc hội và Thượng Nghị viện một bức thông điệp với lời lẽ được các nghị sĩ nhiệt liệt tán thưởng.
Bức thông điệp đề cập hai chủ để ưa thích của Tổng thống: trách nhiệm và mong muốn rằng trước lợi ích quốc gia, các đảng phái chấm dứt đấu đá: “Trong cuộc chiến tranh mới nổ ra, nước Pháp có quyền đối với bản thân mình [...] Đứng trước kẻ thù, tất cả những người con của nước Pháp sẽ anh dũng bảo vệ Tổ quốc, và không gì có thể phá vỡ Liên minh thần thánh của họ, giờ đây họ đang sát cánh bên nhau trong cùng một sự phẫn nộ chống quân xâm lược và đồng lòng ái quốc”. Liên minh thần thánh mà Poincaré nói tới đã có thực chưa? Có thể là như vậy nếu dựa vào thái độ của Đảng Xã hội cực hữu và phong trào nghiệp đoàn. Quốc tế xã hội lẽ ra phải ngăn chặn việc huy động quân nhưng lại tỏ ra hoàn toàn bất lực, Đảng viên Đảng Xã hội Đức từ chối tỏ thái độ gây hại cho đất nước họ.
Ngày 31-7, nhà tư tưởng lớn của Đảng Xã hội Pháp là Jean Jaurès bị một kẻ kích động ám sát. Cái chết này không gây nhiều rắc rối như Chính phủ vẫn e ngại. Ngày 4-8, trong lễ tang của Jaurès, Tổng thư ký Tổng liên đoàn lao động Léon Jouhaux phát biểu: “Nhân danh các tổ chức nghiệp đoàn, nhân danh tất cả những người lao động đã nhập ngũ và tất cả những người, trong đó có tôi, sẽ lên đường ngày mai, tôi tuyên bố rằng chúng tôi sẽ chiến đấu với quyết tâm đẩy lùi quân xâm lược”.
Và “Trận đánh của nghiệp đoàn”, cơ quan của Tổng liên đoàn lao động giải thích rằng trong cuộc xung đột này, nước Pháp là nạn nhân và công nhân phải tham gia vào cuộc chiến tranh vệ quốc chứ không phải cuộc chiến tranh đế quốc. Ngay cả Gustave Hervé, người theo khuynh hướng vô chính phủ từng nổi tiếng với đề xuất “cắm cờ vào đống phân” và đáp lại lệnh động viên bằng một cuộc tổng khởi nghĩa, cũng hòa theo “dàn hợp xướng”: “Cần phải theo nước Pháp”, ông viết như vậy trên tờ Guerre sociale (Chiến tranh xã hội), tờ báo này ngay sau đó được đổi tên thành La Victoire (Chiến thắng).
Cuối tháng 8-1914, Liên minh thần thánh thành lập chính phủ, nội các Viviani được cải tổ. Những người có danh tiếng về chính trị không chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1914 đã được mời tham gia vào nội các này: Millerand (trở thành Bộ trưởng Chiến tranh), Briand , Delcassé , Ribot . Ngoài ra còn có hai lãnh đạo của Đảng Xã hội là Marcel Sembat, Tổng biên tập tờ L'Humanité (Nhân đạo) và Jules Guesde, người trước đây phản đối kịch liệt sự tham gia của Đảng Xã hội vào chính phủ tư sản.
Cuối cùng là Denys-Cochin, một nhân vật cánh hữu theo Thiên chúa giáo. Tất nhiên, cần phải phân tích sắc thái đồng lòng trong Liên minh thần thánh. Một phần của cánh hữu không tham gia chính quyền, còn bên cánh tả, không có mặt hai nhà lãnh đạo cấp tiến chính: Caillaux, vì Poincaré không ưa ông một phần do thù ghét cá nhân, một phần vì ông phản đối chiến tranh và ủng hộ biện pháp đàm phán, và Clemenceau, vì ông này chỉ chấp nhận tham gia nội các với cương vị lãnh đạo.
Từ đó, Clemenceau không ngừng tố cáo cách tiến hành chiến tranh, đồng thời lên án các nhà quân sự và chính trị. Ông cáo giác cả Poincaré, kết tội Tổng thống chỉ nghĩ đến tham vọng cá nhân, và để thỏa mãn tham vọng đó, chỉ mời những kẻ bất tài vào bộ máy chính quyền. Nhưng trên thực tế, cho đến năm 1917, Poincaré có thể đóng vai trò người chủ trì trong việc điều hành các hoạt động. Như vậy, ông dường như đã thực hiện được mục đích của mình: đem lại cho chức Tổng thống một chút quyền lực đã bị tước mất.
Nhưng đúng là quyền lực này bị hạn chế nhiều do giới quân sự được hưởng nhiều đặc quyền trong thời kỳ chiến tranh. Và cũng đúng là những kết quả ở tiền tuyến làm cho Tổng thống dần đánh mất đi niềm tin mà dân chúng dành cho ông lúc bắt đầu nhiệm kỳ. Thất bại quân sự và chuyến thăm tiền tuyến không đúng lúc
Ngay từ những ngày đầu tiên của chiến tranh, rõ ràng là vai trò của chính quyền dân sự trở thành thứ yếu bởi Tổng tư lệnh Joffre mới là ông chủ thực sự của nước Pháp.
Poincaré luôn phàn nàn vì không nắm được tình hình. Bộ trưởng Chiến tranh Messimy cũng không thể cho ông biết tình hình chiến sự, và người ta còn nghi ngờ rằng chính tổng Tư lệnh cũng không nắm vững các sự kiện.
Cuối tháng 8, khi các tin tức được sáng tỏ, cũng là lúc lộ ra tình cảnh bi thảm: các đợt tấn công của Pháp đều thất bại; miền Bắc và miền Đông nước Pháp bị xâm chiếm; Paris đang bị đe dọa. Người ta vội vàng thu xếp tạm nội các, bổ nhiệm Galliéni chỉ huy đội quân Paris, và ngày 2-9, một tháng sau khi tuyên chiến, theo lệnh của Joffre, bộ máy công quyền rời Thủ đô đến Bordeaux.
Poincaré không dễ dàng chấp nhận sự ra đi này. Ông e sợ cuộc chạy trốn này sẽ gây ra hậu quả tinh thần là dẫn đến một cuộc cách mạng tại Thủ đô. Tuy nhiên, do tướng Joffre thuyết phục mãi nên ông đã nhượng bộ: “Cuối cùng tôi đã dũng cảm tỏ ra hèn nhát”. Cho tới tận cuối năm, chính phủ, Quốc hội và Tổng thống vẫn ở Bordeaux theo lệnh của Tổng tư lệnh (ông này cảm thấy như vậy được tự do hành động hơn), nhưng họ cố chịu đựng những lời chỉ trích ngày càng mạnh của công luận.
Công luận coi hành động rút lui này là một sự từ chức thực sự của những người có chức quyền. Nhưng ít ra, Poincaré cũng được Joffre cho phép ra thăm mặt trận. Sáng kiến này lẽ ra rất tốt nếu làm cho Tổng thống gần gũi hơn với các chiến sĩ, nhưng do cách ứng xử vụng về của ông nên nó trở thành hồi chuông báo tử cho uy tín của Tổng thống.
Đầu tiên, Poincaré gặp rắc rối trong vấn đề trang phục: nên mặc quần áo gì để đi thăm chiến hào? Ông thấy không nên mặc đồng phục sĩ quan, mặc dù ông là Đại uý dự bị. Trong cảnh bùn lầy nơi chiến hào, ông nghĩ sẽ thật nực cười khi mặc lễ phục, khoác áo có đuôi dài, đội mũ cao thành. Thế là ông giải quyết vấn đề nghiêm trọng này bằng cách cải biến một bộ quần áo dân sự theo dáng quân sự khiến binh sĩ vô cùng ngạc nhiên và biến ông thành trò cười. Trong chiếc áo dạ màu xanh sẫm, cái khuy đến tận cằm, khoác thêm chiếc áo choàng xanh nhạt, đi đôi ghệt đen, đầu đội mũ cát-két, Tổng thống trông giống tài xế của một gia đình giàu có, lại thêm thái độ nghiêm trang và đắn đo, tất cả tạo ra một ấn tượng rất buồn cười.
Cách ứng xử của Tổng thống liệu có bù trừ cho cách ăn mặc kỳ cục không? Cũng không nốt. Ở nơi đáng lẽ phải là một con người, Poincaré lại muốn trở thành một thiết chế! Ông tuyên bố rằng trong khi thực hiện chức trách Tổng thống Pháp, ông không được quyền sướt mướt và đứng trước những người lính, ông phải tỏ thái độ rất nghiêm khắc, tư thế nghiêm trang, thích im lặng hoặc chỉ nói vài từ hơn là để lộ tình cảm.
Dĩ nhiên, mất lòng dân sẽ chỉ là một yếu tố rất nhỏ nếu quân đội luôn thắng trận và có thể hi vọng sắp thắng lớn, nhưng sự thực lại không như thế!
Trên phương diện quân sự, vào tháng 9-1914, chiến thắng trên sông Marne đã cứu Paris, nhưng kể từ cuối năm, sau vài ý định vượt tuyến không thành của quân địch, mặt trận được duy trì ổn định từ biển phía Bắc đến biên giới Thụy Sĩ. Cả hai bên đều cố thủ trong chiến hào kiên cố. Từ cuối năm 1914, Poincaré viết trong nhật ký rằng tình hình có nguy cơ kéo dài vô tận, và thực vậy, mọi ý định chọc thủng tiền tuyến Đức trong năm 1915 đều không thành và gây nhiều thương vong. Chiến thắng của Clemenceau
Trên phương diện chính trị cũng có tình trạng suy sụp tương tự. Người ta thấy rằng ý tưởng lớn của Poincaré là Liên minh thần thánh, đó thực ra là tập hợp các Đảng viên Đảng Xã hội vào bộ Quốc phòng.
Đa số trong Đảng tán thành quan niệm này, nhưng một vài nhà lãnh đạo lại không chấp nhận điều mà họ cho là phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1915, hai thủ lĩnh của nghiệp đoàn, trong đó có viên Tổng thư ký đầy quyền lực của Liên đoàn Kim loại là Alphonse Merrheim, đã đi dự Hội nghị Quốc tế xã hội ở Zimmerwald (Thụy Sĩ).
Hội nghị này đã thông qua nguyên tắc của phong trào chống chiến tranh đang diễn ra: “Cuộc chiến này không phải là cuộc chiến của chúng ta”, những người tham dự đã tuyên bố như vậy; nhưng ngay trong phong trào xã hội, Merrheim và Bourderon bị coi là những kẻ phản bội.
Năm 1916, tại Kienthal (Thụy Sĩ), diễn ra một Hội nghị mới với sự tham gia của một đại biểu Đảng Xã hội Pháp. Hội nghị mong muốn một nền hòa bình mà không có sáp nhập hay bồi thường, và từ 1915, các tư tưởng đã phát triển đến mức một nhóm thiểu số tán thành hội nghị Kienthal đã được hình thành trong Phân nhánh Quốc tế công nhân Pháp SFIO.
Tại Đại hội Đảng Xã hội năm 1917, nhóm thiểu số này đã đạt được nhiều tiến bộ đến nỗi để tránh sự chia rẽ trong Đảng, phe đa số đã quyết định không tham gia vào chính phủ của Painlevé, nhưng vẫn tiếp tục thông qua các khoản ngân sách chiến tranh. Trong các đảng, Liên minh thần thánh bị tổn hại nghiêm trọng. Nó không còn tồn tại trên đất nước nữa: đình công lại diễn ra tại các nhà máy sản xuất vũ khí, thất bại và thiếu thốn càng làm gia tăng bất bình đối với các vị tướng bất tài, đối với chính phủ vì để mặc họ muốn làm gì thì làm và đối với Tổng thống vì sự lạnh lùng mà ai cũng phê phán.
Rất nhiều người Pháp đã nhắc lại câu nói cay nghiệt của Clemenceau dành cho Poincaré: “Lẽ ra chúng ta không bao giờ được để một người có trái tim nhồi đầy hồ sơ ở vị trí đứng đầu đất nước”.
Mùa thu năm 1917, tình hình gay go đến mức Tổng thống phải lựa chọn giữa hai lối thoát: mời vào chính quyền một người quyết tâm từ bỏ chính sách mà cho đến lúc đó ông vẫn luôn ca ngợi, và thương lượng với quân địch để ký hiệp ước hòa bình, đó chính là Caillaux, vì Briand đã bị mất uy tín; hoặc chỉ định Georges Clemenceau, người từ năm 1914 luôn tỏ ra mạnh mẽ và được lòng dân, vào cương vị Chủ tịch Hội đồng.
Dù sao, vai trò của Poincaré cũng đã thật sự chấm dứt. Chính sách của ông thất bại, do đó những nỗ lực của ông nhằm khôi phục lại quyền lực cho Tổng thống một cách hợp pháp cũng không đem lại kết quả. Ông cam chịu nép mình và trong hai người mà ông ghét như nhau, ông buộc phải chọn người có quan điểm chính trị gần với quan điểm của ông nhất, đó chính là Clemenceau.
Khi bổ nhiệm Clemenceau tháng 11-1917, Poincaré biết rằng ông đã mất mọi hi vọng được giữ vai trò cá nhân. Người đứng đầu mới của chính phủ không thích chia sẻ quyền lực. Các Bộ trưởng đều là bạn bè của ông ta, còn các chính trị gia nổi tiếng bị loại khỏi nội các. Tệ hơn nữa, Hội đồng Bộ trưởng rất ít khi họp, mà đó lại là cơ hội duy nhất để Tổng thống hi vọng có thể nắm được tình hình. Quốc hội cũng chẳng được đối xử tốt hơn. Clemenceau điều hành công việc rất mau lẹ và chỉ báo cáo Quốc hội khi ông muốn.
Ông biết rằng với sự ủng hộ của dư luận, ông có thể bỏ qua sự bất bình của các Nghị sĩ. Chính vì sự ủng hộ này mà Clemenceau có thể khoe khoang với Poincaré khi Poincaré phàn nàn là bị xa lánh: “Tôi được lòng dân, còn ông thì không”, người đứng đầu chính phủ tuyên bố thẳng với người đứng đầu nhà nước như vậy. Tuy nhiên, thỉnh thoảng khi cần, Clemenceau lại đặt Poincaré lên trước.
Ví dụ như vào tháng 3-1918, khi muốn thuyết phục các đồng minh chấp nhận Nguyên soái Foch là tư lệnh duy nhất, Clemenceau nghĩ rằng uy tín tinh thần của Tổng thống có thể phục vụ cho ý đồ của ông ta. Gần như bị giam trong Điện Élysée, Poincaré có đủ thì giờ để suy ngẫm về những ảo tưởng đã mất: cuộc chiến tranh mà ông chấp nhận liệu có đem lại những kết quả mà ông hi vọng không?
Từ năm 1917, các cường quốc trong Thoả ước liên minh (Pháp, Anh, Nga và Italia) có thêm một đồng minh là Mỹ. Tháng 1-1918, Tổng thống Mỹ Wilson thể hiện các mục đích tham chiến của mình trong tuyên bố “Mười bốn điểm”: hòa bình được thiết lập trên cơ sở pháp luật và công bằng chứ không phải theo ý muốn của các nước thắng trận; áp dụng nguyên tắc dân tộc; không sáp nhập.
Theo nguyên tắc dân tộc; chắc chắn vùng Alsace-Lorraine sẽ trở về với Pháp, nhưng nếu các quan điểm của Wilson chiến thắng, Pháp sẽ phải từ bỏ tham vọng sáp nhập vùng Sarre và Rhénanie ở tả ngạn sông Rhin. Một người theo chủ nghĩa dân tộc như Poincaré không dễ gì cam chịu điều đó, nhưng ít ra ông cũng còn một tia hi vọng: đó là một người Pháp, Nguyên soái Foch , đang chỉ huy quân Đồng minh.
Quân Pháp đông nhất; khi đã tiến được vào Đức và tiêu diệt hoàn toàn quân Đức, Pháp có thể áp đặt luật của kẻ chiến thắng cho Đức. Để tránh quyết định cực đoan này, ngày 3-10-1918, Đức tuyên bố chấp nhận đàm phán trên cơ sở “Mười bốn điểm”. Biết tin này, Poincaré viết ngay cho Clemenceau một bức thư để cảnh báo việc ngừng chiến sự sớm, ông cho rằng tuyên bố đình chiến có thể “chặt chân quân đội của chúng ta”. Clemenceau vô cùng tức giận viết:
“Thưa ngài Tổng thống,
Sau ba năm đích thân điều hành chính phủ rất thành công, tôi không chấp nhận việc Ngài tự cho phép mình khuyên nhủ tôi không được chặt chân những người lính của chúng ta. Nếu Ngài không rút lại bức thư được viết cho Lịch sử mà Ngài muốn làm nên, tôi lấy làm vinh hạnh được gửi tới Ngài đơn xin từ chức của tôi.
Kính thư.
Clemenceau”
Phải vất vả lắm Poincaré mới làm cho vị Chủ tịch Hội đồng hay cáu giận bình tĩnh lại. Ông biết rằng đất nước sẽ không tha thứ cho ông nếu người đã là “người Cha chiến thắng” rời vị trí. Sự việc dịu bớt dần nhưng cả Poincaré lẫn Clemenceau đều sẽ không quên.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 12:44:36 GMT 9
Chuyến đi thắng lợi đến Alsace - Lorraine
Giờ đây niềm vui chiến thắng xóa tan mọi sự ganh đua. Ngày 11-11-1918, Đức đầu hàng. Tại Paris, không khí phấn khởi tràn ngập, nhưng Tổng thống lại phải chịu cay đắng. Quốc hội ra sắc lệnh: “Georges Clemenceau và Nguyên soái Foch rất có công với Tổ quốc”.
Clemenceau đã lấy mất của Raymond Poincaré chiếc áo lễ mà ông vẫn mơ ước được mặc. Việc thực thi Hiến pháp, đẩy Tổng thống xuống thành nhân vật thứ yếu và mang tính trang trí, đã chiến thắng mong muốn khôi phục lại Hiến pháp theo đúng nghĩa đen của Poincaré.
Tuy nhiên, Clemenceau không từ chối lời đề nghị của Poincaré: cùng đi tới các tỉnh mới giành lại được. Ngày 7-12-1918, Poincaré và Clemenceau tới Lorraine. Ngày 8-12, tại Metz, Poincaré giao lại chiếc gậy Thống chế của mình cho Pétain, và sau khi ôm hôn Pétain, ông quay sang ôm hôn Clemenceau trong sự hoan hô nhiệt liệt của đám đông.
Tại Strasbourg, những tiếng hoan hô vang dội như vậy đã đền đáp cho nỗi oán giận và thu mình của Poincaré. Hơn nữa, sau buổi lễ chính thức, đám đông còn dành cho riêng cho ông sự đón chào nhiệt liệt. Nhưng khi trở về Paris, những nỗi lo lại xuất hiện. “Vấn đề hiện nay là phải đạt được hòa bình”, Clemenceau nói vào tối ngày 11-11; nhưng về cách đạt được hòa bình, quan điểm của Poincaré và Clemenceau hoàn toàn khác nhau.
Một nền hòa bình thoả hiệp mà Poincaré không mong muốn
Tổng thống nghĩ tới một nền hòa bình sẽ mang lại lợi ích cho nước Pháp, xứng đáng với những hi sinh đã cống hiến. Do chỉ có thể kéo dài chiến tranh đến khi Đức bị đánh bại hoàn toàn, Poincaré đành chấp nhận không sáp nhập vùng tả ngạn sông Rhin, nhưng ít nhất ông cũng gây sức ép với Clemenceau để thương thảo với quân Đồng minh cho Pháp đóng chiếm vùng này. Clemenceau rất phẫn nộ; còn Wilson từ chối, giận dữ vì thấy Pháp muốn tạo ra một vùng “Alsace-Lorraine” mới ở Đức.
Về phần Thủ tướng Anh Lloyd George , các cố vấn khuyên ông nên ngăn cản các tham vọng của Pháp, quân đội Pháp lúc này đang có mặt ở khắp châu Âu. Mặt khác, Clemenceau không muốn làm sứt mẻ mối quan hệ với các đồng minh. Vì vậy, ông chấp nhận một nền hòa bình thoả hiệp, trong đó Pháp phải hi sinh phần lớn các dự định của mình cho Anh. Pháp sẽ chỉ được tạm chiếm vùng tả ngạn sông Rhin (muộn nhất đến năm 1935 sẽ rút khỏi đây từng phần) - dự kiến Pháp có thể kéo dài chiếm đóng nếu Đức không trả tiền bồi thường chiến tranh.
Cuối cùng, trong khi chờ đợi một hội nghị chuẩn bị tổng giải trừ quân bị, Đức phải giải trừ quân bị ngay. Đổi lại những nhượng bộ mà Pháp đã dành cho các nước đồng minh, Clemenceau có được sự đảm bảo mà ông cho là quan trọng: Anh và Mỹ cam đoan sẽ đến cứu viện Pháp nếu Pháp bị Đức tấn công một lần nữa. Khi Clemenceau đến thông báo cho Tổng thống những kết quả đạt được, Poincaré đón tiếp ông bằng một sự im lặng lạnh lùng.
Ít nhất là trên một phương diện, tính đa nghi của Poincaré đã được chứng minh là có lí. Thượng nghị viện Mỹ từ chối phê chuẩn hiệp ước hòa bình, do đó lời đảm bảo của Wilson dành cho Pháp trở thành vô hiệu. Chính vì thế, Anh tuyên bố rằng lời đảm bảo của họ chỉ có giá trị khi phối hợp với lời đảm bảo của Mỹ, do đó họ bãi bỏ thỏa thuận mà Lloyd George đã đưa ra.
Đối với Poincaré, mọi việc đã hoàn toàn chấm dứt. Ông thất bại tại Điện Élysée nhiệm kỳ Tổng thống kết thúc vào năm 1920 và ông kiên quyết không ra ứng cử cho nhiệm kỳ thứ hai. Ông đánh giá quá cao chính sách năng động đến mức chấp nhận vai trò của mình từ khi Clemenceau điều hành công việc.
Tuy nhiên, cuộc bầu cử năm 1919 đã bầu ra một Quốc hội của cánh hữu, mang đặc tính của cánh hữu nhất kể từ năm 1871, đó là “Viện xanh chân trời” . Quốc hội này nhanh chóng bỏ phiếu tán thành rằng Tổng thống là người có công với Tổ quốc. Trong hoàn cảnh đó, Poincaré rời Điện Élysée ngày 17-2. Quốc hội cho phép ông hài lòng lần cuối cùng khi làm thất vọng Clemenceau, ứng cử viên kế nhiệm ông. Poincaré tâm sự với một người bạn: “Sự nghiệp của tôi đang bắt đầu”. Tiếp tục hoạt động chính trị sau khi rời Điện Élysée
Mặc dù thất bại tại Điện Élysée và không thực hiện được ý định giành lại quyền lực thực sự cho Tổng thống nhưng Poincaré đã thắng lợi ở một điểm.
Đối với người dân Pháp, ông là hiện thân của vị nguyên thủ quốc gia yêu nước, đối thủ của nền hòa bình do Clemenceau đặt ra, không nhân nhượng khi động chạm tới các quyền của nước Pháp.
Những khó khăn của hòa bình, những thất vọng mà nền hòa bình đó mang đến cho nước Pháp đã làm cho nhân dân yêu mến ông, điều mà ông đánh mất trong thời kỳ chiến tranh. Trong suốt 10 năm, ông giữ vai trò chủ chốt trên chính trường Pháp và sau khi tạo nên nghịch lí là làm nên sự nghiệp vẻ vang mặc dù toàn thất bại trong một thời gian dài, ông rút lui vì lí do sức khoẻ.
Không lâu sau khi rời Điện Élysée, ông được bầu lại làm Thượng nghị sĩ của tỉnh Meuse, Chủ tịch Ủy ban bồi thường chiến tranh, và năm 1922, ông lại trở thành Chủ tịch Hội đồng thay Briand (bị Quốc hội hướng cho là thiên về chấp nhận xem xét lại vấn đề bồi thường chiến tranh). Ngược lại, Poincaré là người “thực hiện toàn bộ Hiệp ước Versailles”. Để buộc Đức phải thanh toán các khoản bồi thường, năm 1923, ông quyết định đánh chiếm vùng Ruhr để lấy đó làm vật thế chấp.
Dư luận hoan nghênh nhưng người Anh phẫn nộ và để tỏ thái độ, họ tác động chống lại đồng franc trên thị trường chứng khoán. Ngay sau đó Poincaré phải chấp nhận những cuộc đàm phán mà ông từng từ chối và cam kết rút quân khỏi Ruhr. Đây là thất bại đầu tiên.
Nhưng ít nhất ông cũng cứu được đồng franc nhờ khoản cho vay của ngân hàng Morgan, nhưng đi kèm với nó là quyết định tăng thuế. Để đáp lại, dư luận làm cho cánh hữu thất bại ở cuộc bầu cử năm 1924 và đưa Liên minh cánh tả lên cầm quyền. Đó là thất bại thứ hai. Tuy nhiên, do các ngân hàng lớn làm thất thoát vốn nên Liên minh cánh tả buộc phải từ bỏ việc nắm quyền khi đồng franc gặp nguy hiểm.
Một lần nữa người ta lại triệu mời Poincaré, tác giả của “trận Verdun tài chính 1924”. Lần này, ông đã thành công, sự thành công chất chứa đầy hậu quả đối với nước Pháp. Trên bảng tỉ giá, đồng franc lại tăng lên nhanh chóng, và năm 1928, Poincaré giữ đồng franc ổn định chính thức ở mức 1/5 giá trị trước chiến tranh. Ông trở thành vị cứu tinh của nền tài chính Pháp và năm 1929 rời khỏi chính quyền trong ánh hào quang rực rỡ.
Thế nhưng, cuộc khủng hoảng thế giới xảy ra lúc đó đã khiến đồng franc bị coi là được định giá quá cao, do đó giá cả ở Pháp cao hơn giá cả của thế giới. Xuất khẩu bị ảnh hưởng mạnh và sự bình ổn đồng franc của Poincaré và giáo lí đồng franc giá trị mạnh mà các nhà lãnh đạo nền kinh tế sau ông vẫn theo đuổi, đã làm cho nước Pháp phải chịu nhiều hậu quả của cuộc khủng hoảng, vào thời điểm cuộc xung đột thế giới lần thứ hai bắt đầu nổ ra.
Đây không phải là một Tổng thống kiểu mẫu?
Liệu ta có thể tổng kết sự nghiệp của Poincaré vào thời điểm ông rời cương vị Tổng thống được không? Ông hi vọng dùng chức Tổng thống để giữ vai trò thực sự, nhưng đã hoàn toàn thất bại. Chính Clemenceau đã chứng minh cho ông thấy rằng trong quá trình hoạt động thông thường của chế độ dân chủ nghị viện, nếu Tổng thống không có quyền hạn đừng mong giữ một vai trò có quyền lực.
Trong thời kì ông còn đương chức, Liên minh thần thánh mà ông từng muốn dựa vào để gây ảnh hưởng đã nhanh chóng sụp đổ. Hình ảnh của ông trong con mắt người đương thời như thế nào?
Nhà văn Jean Giraudoux đã cho chúng ta câu trả lời. Trong cuốn tiểu thuyết Bella, ông phác họa một bức chân dung khủng khiếp về Poincaré, được miêu tả qua nhân vật chính khách Rubendart, người mỗi chủ nhật lại khánh thành công trình tưởng niệm lính tử trận và dường như tin rằng binh sĩ tử trận trong Đại chiến sẽ lui ra xa để tranh cãi về khoản tiền bồi thường chiến tranh! Bất công ư?
Có thể, nhưng xung quanh Poincaré còn quá nhiều bí mật, quá nhiều bí ẩn để có thể đánh giá lương tâm và những ý định tốt đẹp của vị Chủ tịch Liên minh thần thánh: ông không phải là vị Tổng thống - kiểu mẫu như ông hằng ao ước. Paul Deschanel, giấc mơ không thành
Nhiệm kỳ Tổng thống của Raymond Poincaré kết thúc vào tháng 1-1920 và ông kiên quyết không tiếp tục thêm một nhiệm kì nữa. Một cái tên kế nhiệm nổi lên: Clemenceau.
7 năm trước, đây chính là ý kiến của dư luận mặc dù các Nghị sĩ đã bầu Poincaré; người ta có thể nghĩ rằng lần này dư luận sẽ lựa chọn nhân vật được coi là người chiến thắng trong chiến tranh.
Nhưng liệu Clemenceau có chấp nhận chiếc lồng vàng dường như dành cho ông không? Người từng đánh đổ nhiều nội các, kẻ mưu sĩ đã tạo ra biết bao Tổng thống và cũng làm thất bại nhiều hi vọng của Tổng thống, liệu có muốn hành động vì lợi ích của mình không? Ta có thể nghi ngờ điều đó. Chính Clemenceau cũng hoài nghi khả năng ra ứng cử nhưng cuối cùng bạn bè đã thuyết phục được ông.
Dù sao, Clemenceau cũng đặt một điều kiện: không tiến hành các cuộc vận động mà ông coi là mất thể diện, không gặp gỡ các Nghị sĩ có thế lực, không chấp nhận mọi sự nhượng bộ mà ít nhiều một ứng cử viên phải làm. Chính vì vậy, việc ông ứng cử phải đi theo đường vòng bằng một thông cáo báo chí: “Ngài Clemenceau đã đồng ý để bạn bè đề cử ngài vào cương vị Tổng thống, khi tuyên bố với họ rằng ngài đã sẵn sàng chấp nhận nhiệm kì mà Quốc hội giao phó. Như vậy, thay mặt Ngài Clemenceau, những người bạn của Chủ tịch Hội đồng đã quyết định cho in các phiếu bầu và trao chúng cho các Nghị sĩ sẽ tham gia phiên họp toàn thể”.
Quyết định này của Clemenceau đã làm một người bối rối: đó là ngài Chủ tịch Quốc hội Paul Deschanel. Từ đầu thế kỉ, ông luôn chờ đợi thời vận của mình.
Mục tiêu chính trị duy nhất: trở thành Tổng thống.
Không ai có thể nghi ngờ tư cách đảng viên Đảng Cộng hòa của Paul Deschanel: ông đương nhiên thừa hưởng nó từ gia đình. Là con của một người bị đi đày biệt xứ sau vụ đảo chính ngày 2-12-1851, ông ra đời khi bố mẹ ông sống lưu vong ở Bruxelles. Về mặt chính trị, ông tỏ ra là một người Cộng hòa rất ôn hòa, nếu không muốn nói là phản động, nhưng điều đó không có gì quan trọng!
Sự ra đời của ông chẳng đã chứng minh một niềm tin Cộng hòa mãnh liệt đó sao? Ở tuổi 23, ông là một thanh niên hấp dẫn, ăn mặc đẹp, khéo ăn nói. Ông tự cho là có tài viết lách và khá thành công với vài tác phẩm về lịch sử; sự nghiệp chính trị của ông cũng tiến triển đồng thời. Sau khi giữ chức Phó tỉnh trưởng, ông được bầu vào Quốc hội với tư cách là đại biểu của tỉnh Eure-et-Loir và của khu vực bầu cử Nogent-le-Rotrou.
Mục đích của con đường công danh này là chức Tổng thống. Chàng trai Deschanel sớm hiểu rằng một chính khách tỏ rõ thái độ trong các cuộc đấu tranh và có tiếng tăm sẽ không thể vươn tới vị trí nguyên thủ quốc gia. Vì vậy, ông thể hiện vừa đủ để mọi người nghĩ rằng ông là một ứng cử viên lí tưởng, chứ không làm mình nổi bật để mọi người e sợ.
Vì vậy, con đường công danh của Deschanel diễn ra trong danh dự và từ chối trách nhiệm. Là Nghị sĩ, ông kiên quyết từ chối mọi lời đề nghị giữ chức Thủ tướng vì sợ bị ảnh hưởng. Mặc dù các Tổng thống, trong đó có Loubet và Poincaré, tha thiết khẩn nài song ông vẫn một mực từ chối thành lập chính phủ. Nhưng ông chăm sóc bản thân rất kĩ lưỡng và sự thanh lịch của ông còn nổi tiếng hơn tài ăn nói.
Chính ông cho rằng mình rất vụng về khi thực hiện và chỉ đạo công việc, nhưng lại cảm thấy rất thoải mái trên cương vị trọng tài và đại diện. Thực vậy, ông được bầu làm Chủ tịch Quốc hội nhiều lần, và tính công minh, tài hùng biện của ông đã làm hài lòng tất cả các phe phái trong Quốc hội. Tuy nhiên, thái độ khéo léo này được đền đáp hơi muộn.
Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1906, không ai nghĩ đến việc đưa Paul Deschanel lên để thay thế Loubet, và Fallières đã dễ dàng đắc cử. Năm 1913, vì đã có kinh nghiệm nên ông tỏ rõ thái độ sẵn sàng ra ứng cử. Nhưng do dư luận áp đặt và hoàn cảnh lúc đó đòi hỏi phải bầu Raymond Poincaré. Chắc chắn Deschanel sẽ khó bỏ qua việc này cho Poincaré.
Năm 1920, ông lại ra ứng cử khi Clemenceau có thể sẽ hất cẳng ông. Ông lo sợ lại tái diễn tình trạng như năm 1913 và Quốc hội sẽ chọn người được lòng dư luận. Vậy mà Clemenceau nổi tiếng khắp cả nước, còn Deschanel thì lại ít được biết đến. Nhưng một lần nữa, tình huống này lại có lợi cho người ít thể hiện quan điểm hơn và ít nổi tiếng hơn. Thất bại của Georges Clemenceau
Nếu như Clemenceau được dư luận ủng hộ thì các Nghị sĩ, những người ủng hộ ông trong các cuộc bỏ phiếu công khai, lại không hề yêu quí ông và thể hiện điều đó trong một cuộc bỏ phiếu kín.
Tại sao ư? Hãy để chính Clemenceau giải thích: “Bởi vì khi tôi nói với Quốc hội, tức là tôi nói với đất nước. Các bài phát biểu của tôi luôn vượt lên trên các Nghị sĩ và Thượng nghị sĩ và tôi luôn khiến họ hiểu rằng dù tôi thất bại hay không, cuối cùng chính đất nước sẽ phán xét tôi và phán xét họ”.
Tất cả các chính đảng trong quốc hội đều trách cứ Clemenceau. Đảng Xã hội cánh tả nhớ lại rằng ngày xưa ông ta tự xưng là “viên cảnh sát số 1 của Pháp” và người ta không tha thứ cho hành động tàn nhẫn của ông khi đàn áp phong trào hòa bình trong thời kỳ chiến tranh.
Những người cấp tiến thì phàn nàn về tính độc đoán của ông và nhớ lại nội các mà ông đã thành lập trong chiến tranh. Họ e sợ rằng khi trở thành Tổng thống, ông sẽ chỉ thực thi quyền lực cá nhân và mời vào nội các những nhân vật thứ yếu. Về phía cánh hữu, chính sách kinh tế chỉ huy do Clemenceau thực hiện khiến họ rất lo lắng và những người Thiên chúa giáo vốn rất đông đảo ở “Quốc hội của quân đội” nhắc đi nhắc lại câu trả lời của ông khi Nghị sĩ Groussau hỏi ông có đồng ý thiết lập lại quan hệ ngoại giao với Roma không: “Không đời nào!”
Ngoài những lí do chính trị này, còn có những vấn đề cá nhân: Clemenceau chưa bao giờ nể nang ai, do đó không thể trông chờ người khác kính nể. Aristide Briand tiến hành chiến dịch phản đối Clemenceau. Ông đi khắp các hành lang Nghị viện, đi từ nhóm này sang nhóm khác để bắn những mũi tên tẩm độc vào Clemenceau.
Ví dụ, khi gặp Groussau, một trong những người đứng đầu nhóm Thiên chúa giáo, Groussau nói: “Hình như ngài sẽ bỏ phiếu cho Clemenceau. Vậy thì ngài có thể chuẩn bị chờ đợi một đám tang dân sự tồi tệ nhất ở Điện Élysée nhờ phiếu bầu của Ngài và bạn bè Ngài đấy”.
Mặc dù từng nghĩ rằng nên từ bỏ còn hơn lại phải chịu thất bại trước một đối thủ quá nổi tiếng, nhưng trong những điều kiện đó Paul Deschanel đã lấy lại được nghị lực. Sau một vài lưỡng lự, phái Thiên chúa giáo quyết định ủng hộ Deschanel và Hồng y giáo chủ đã phát biểu ý kiến cá nhân (nhưng những lời nói của ông rất có tiếng vang): “Các tín đồ Thiên chúa giáo chúc ông Deschanel thắng cử”. Như vậy, rõ ràng là Clemenceau sẽ thua vì quá coi thường những Nghị sĩ sẽ bầu ra Tổng thống.
Ngày 16-1, tại Thượng nghị viện, các nhóm Cộng hòa của Nghị viện tiến hành phiên họp trù bị truyền thống. Lần đầu tiên, khoảng 30 Nghị sĩ Đảng Xã hội tham gia phiên họp này không phải để chỉ định ứng cử viên theo lựa chọn của họ, mà để làm cho Clemenceau thất bại.
Buổi chiều, kết quả được công bố: Deschanel hơn Clemenceau 19 phiếu. Clemenceau không hề nghĩ đến việc tiếp tục đi xa hơn nữa như Poincaré đã làm 7 năm trước đây. “Con hổ” bại trận gửi cho Chủ tịch Quốc hội Léon Bourgeois một bức thư xin rút lui:
“Thưa Ngài Chủ tịch Quốc hội,
Tôi xin mạo muội thông báo với Ngài rằng tôi không cho phép bạn bè đưa tôi ra ứng cử vào chức Tổng thống nữa. Cho dù họ vẫn tiếp tục và giành được đa số phiếu cho tôi, tôi cũng xin từ chối nhiệm kì được giao”.
Vậy là con đường rộng mở cho Deschanel. Ngày 17-1, ông đắc cử Tổng thống tại vòng bầu cử đầu tiên với 734 trong tổng số 888 phiếu bầu. Bài học của cuộc bầu cử này không phải là bài học về chiến thắng của con người ít nổi tiếng này, mà là bài học về thất bại của Georges Clemenceau. Lại một lần nữa, nhân vật mang tính đại diện ở hàng thứ yếu được ưa thích hơn vị chính khách mà người ta sợ rằng không thích “trị vì” mà muốn “điều hành”.
Clemenceau chấp nhận thất bại này một cách khó khăn. Sau cuộc bầu cử, khi Deschanel đến thăm ông lần đầu tiên với tư cách là Tổng thống, Clemenceau nói với những người thân cận: “Hãy nói với ông ấy là tôi không có ở đây”. Sau đó ông rút lui trong cay đắng, từ chối mọi cương vị chính trị. Những điều kì cục của Tổng thống
Ta có thể nghĩ rằng, sau khi chuẩn bị quá lâu cho nhiệm kì Tổng thống mà ông đạt được vào ngày 17-1, Deschanel sẽ không có những đòi hỏi bất ngờ.
Trên thực tế, ông có luận thuyết Tổng thống riêng: ông nghĩ rằng với những quyền lực mà Hiến pháp trao cho, Tổng thống phải thật sự “điều hành” và cho rằng mình phải có ý kiến về hiệp ước hòa bình được ký ở Versailles, bởi theo ông nền hòa bình này không thỏa mãn lợi ích quốc gia. Clemenceau từ chức làm cho chính trường không còn một chính khách độc đoán.
Tuy nhiên, phe đa số của Khối Dân tộc chi phối Quốc hội có một thủ lĩnh mà Deschanel phải mời tham gia chính quyền, đó là Alexandre Millerand. Thế nhưng vị tân Chủ tịch Hội đồng không hề thua kém Clemenceau về vấn đề quyền lực và không muốn trao lại cho Tổng thống dù chỉ một phần quyền lực nhỏ nhất của mình. Vì Millerand được phe đa số trong Quốc hội ủng hộ nên Deschanel chỉ còn biết tuân theo và chấp nhận thất vọng đầu tiên này.
Nhưng ngay sau đó, bản thân ông cũng không còn khả năng theo đuổi một chính sách nào. Từ trước khi ông đắc cử, những người thân của ông đã biết ông là người dễ bị kích thích và dễ xúc động. Nhưng khi đã đắc cử, mục đích cả đời được toại nguyện, người ta lại có cảm tưởng Tổng thống đang suy sụp và mất hết nghị lực. Mặc dù những người thân cận cố gắng che giấu tình trạng của ông, song rõ ràng Tổng thống đang bị những cơn suy nhược thần kinh giày vò.
Người ta bắt đầu nói xa xôi về “những điều kì cục của Tổng thống “vốn rất khó che giấu khi chúng xảy ra vào lúc ông thực hiện các cuộc giao tế. Đó là những lời phát biểu rời rạc không ăn nhập gì với nhau với một đại biểu địa phương nào đó; hay trong một bữa tiệc, Tổng thống đột nhiên đứng dậy và rời khỏi phòng không một lời giải thích, để mặc khách mời sững sờ. Những người thân cận của Tổng thống luôn luôn phải cảnh giác và họ cũng đã giải thích về các hành động này, tuy nhiên những lời giải thích đó không làm người ta thỏa mãn. Không lâu sau đó, thái độ của Tổng thống làm nước Pháp phải lo sợ.
Tháng 5-1920, Deschanel lên tàu hoả rời Paris đến Montbrison để khánh thành công trình tưởng niệm một Thượng nghị sĩ hi sinh ngoài chiến trường. Nhưng khi đến ga Roanne, người ta thấy Tổng thống không còn ở trong toa của ông nữa! Lúc nửa đêm, khi đang nửa tỉnh nửa mê, ông đã nhảy xuống tàu. Thấy ông trong bộ đồ ngủ trên đường ray, một nhân viên đường sắt đã đưa ông về trạm gác chắn tàu gần nhất.
Deschanel tự giới thiệu nhưng người ta không tin, may sao một bác sĩ đã nhận ra ông và báo ngay cho Phó tỉnh trưởng tỉnh Montargis. Cả nước Pháp náo động: văn phòng Tổng thống và chủ tịch Hội đồng phải cho đăng các thông cáo trong đó đưa ra một cách giải thích hợp lí đối với công chúng cho sự kiện đã xảy ra. Nhưng sự thật nhanh chóng bị lộ tẩy và ngài Tổng thống đáng thương trở thành trò cười.
Millerand khuyên ông nên đi nghỉ một thời gian ở Rambouillet, ở đó ông sẽ đủ minh mẫn để chủ trì các cuộc họp của Hội đồng Bộ trưởng và ký các văn bản chính thức. Mọi người đã bắt đầu hi vọng rằng sau khi được nghỉ ngơi, Tổng thống sẽ bình phục. Nhưng không lâu sau, hi vọng này mất hẳn.
Từ tháng 9, các cơn khủng hoảng thần kinh lại bắt đầu. Ngày 10-9, người ta thấy Tổng thống gần như trần truồng, lội bì bõm trong bể cảnh của lâu đài Rambouillet. Các bác sĩ đề nghị ông nghỉ ngơi hoàn toàn, nhưng cho dù không có thực quyền thì Tổng thống vẫn rất cần thiết để các thể chế chính trị hoạt động bình thường. Ông có thể chỉ định người đứng đầu chính phủ trong trường hợp khủng hoảng và chỉ mình ông có thể làm việc đó không một luật nào có giá trị nếu không được ông ban hành. Vậy là chỉ còn một giải pháp: từ chức. Ngày 21-9, Deschanel buồn rầu thông báo:
“Tình trạng sức khoẻ của tôi không cho phép tôi tiếp tục đảm nhiệm trọng trách mà các vị đã tin tưởng giao cho tôi trong cuộc họp của Quốc hội ngày 17-1 vừa qua.
Vì buộc phải nghỉ ngơi dài ngày nên tôi phải không chậm trễ thông báo với các vị quyết định của tôi. Đây là một quyết định vô cùng đau đớn đối với tôi, và tôi đau buồn sâu sắc khi phải từ bỏ nhiệm vụ cao cả mà các vị đã cho là tôi xứng đáng thực hiện nó (…)
Với mong muốn hoàn thành một trong những nhiệm vụ đau đớn nhất cũng như cấp thiết nhất, tôi gửi đến văn phòng Thượng nghị viện và văn phòng Quốc hội lá đơn xin từ chức Tổng thống”.
Thế là mặc dù đã chuẩn bị cả đời cho một cuộc bầu cử và thực hiện được khát vọng lớn nhất của mình, nhưng Paul Deschanel chỉ ở cương vị tối cao trong 7 tháng và để lại cho lịch sử không phải hình ảnh của một Tổng thống vĩ đại như ông từng mong muốn mà là hình ảnh của một con người đáng thương đã chiến thắng Clemenceau ngoài sức tưởng tượng, và sau đó lại bị căn bệnh là hậu quả của chiến thắng này hành hạ. Alexandre Millerand, hoặc sự ham muốn quyền lực
Khi tình trạng sức khoẻ của Deschanel báo hiệu khả năng ông phải từ chức, thì Alexandre Millerand, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và cũng là lãnh tụ phe đa số, đã sốt sắng tìm một người kế nhiệm Tổng thống trong số những đại diện chính trị lão thành của phe đa số.
Tuy nhiên, chắc chắn là phe đa số muốn chính sách cánh hữu của mình được tiếp tục thực hiện, do đó họ thúc giục chính vị Chủ tịch Hội đồng ra ứng cử.
Millerand tỏ rõ thái độ không đồng tình đối với giải pháp này. Ông cảm thấy mình là một người năng động và không mấy thích thú với vai trò thứ yếu tại Điện Élysée. Mặt khác, ông thể hiện rõ ràng quan điểm của mình về chức Tổng thống. Trước đây, trong một diễn văn tranh cử, ông đã khẳng định rằng cần phải trả lại cho Tổng thống quyền giải tán Quốc hội mà Nghị viện đã tước bỏ và khôi phục lại vai trò lãnh tụ thực sự của Tổng thống trong quyền hành pháp.
Nhưng để đạt được điều này, theo Millerand, Tổng thống phải không được là con tin của những Thượng nghị sĩ đã bầu mình. Vì vậy, ông chủ trương thành lập một đoàn cử tri mở rộng dành cho các Ủy viên đại hội đồng và các “thành viên của những tập đoàn lớn”, thay cho cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu mà những kí ức từ nền Cộng hòa đệ Nhị không cho phép thực hiện.
Người ta nghĩ rằng vào ngày 20-9-1920, Millerand nhượng bộ trước yêu cầu của bè bạn cùng chí hướng và quyết định tham gia ứng cử vào vị trí Tổng thống, một số Nghị sĩ Cộng hòa, đặc biệt là Đảng viên Đảng Cấp tiến, rất lo lắng muốn biết ý đồ của ứng cử viên này đối với vấn đề thể chế. Millerand cho họ thấy rằng ông vẫn tán thành việc xem xét lại Hiến pháp, nhưng việc này chỉ được tiến hành sau một số công việc khẩn cấp hơn, đó là xây dựng lại đất nước bị tàn phá trong chiến tranh.
Thế là sau khi mang điều này ra thảo luận tại phiên họp trù bị các nhóm Cộng hòa của hai Viện, ông đã được bầu làm Tổng thống ngày 23-9-1920 với 695 phiếu, trong khi Delory, ứng cử viên của Đảng Xã hội, chỉ nhận được 69 phiếu.
Cuộc bầu cử thắng lợi nhưng đã xảy ra một nghịch lí: tuyệt đại đa số cánh hữu lại bỏ phiếu cho một trong những nhà lãnh đạo quan trọng nhất của Đảng Xã hội Pháp vào đầu thế kỉ XX. Một Đảng viên đặc biệt của Đảng Xã hội
Trên thực tế, trong những năm cuối cùng của thế kỉ XIX, Millerand được coi như một trong những niềm hi vọng của Đảng Xã hội, cùng với Jean Jaurès.
Tuy nhiên, ông bắt đầu sự nghiệp chính trị của mình chính trong hàng ngũ của Đảng Cấp tiến. Khi còn là một luật sư trẻ, là bạn của Poincaré, ông thường lui tới gặp gỡ giới chính trị gia Paris. Ông nhanh chóng trở thành luật sư chuyên bào chữa trong các vụ án chính trị và cuối cùng đã đi theo hệ tư tưởng của những người được ông bào chữa.
Ông phẫn nộ trước việc các Đảng viên Đảng Xã hội bị đàn áp dã man trong những năm 1890-1893. Năm 1891, khi Chính phủ ra lệnh bắn vào nhóm biểu tình hòa bình tại Fourmies nhân dịp ngày 1-5, ông là luật sư bào chữa cho một trong những lãnh tụ của Đảng Xã hội và ông quyết định chuyển hẳn sang lí tưởng xã hội chủ nghĩa.
Khi trở thành đại biểu Quốc hội, ông là một trong những người được lắng nghe nhiều nhất trong số các nhà lãnh đạo của xu hướng này. Nhưng ông không gia nhập bất cứ một đảng nào trong số bốn Đảng Xã hội hướng tới giai cấp công nhân. Là “người theo phái Xã hội độc lập”, gốc tư sản, có sở thích lãnh đạo, ông không có cùng niềm tin học thuyết và cách mạng với các lãnh tụ lớn của Đảng Xã hội như Guesde, Vaillant hay Allemane. Vì vậy, người ta có thể xếp ông, cũng như Jaurès vào thời kì đó, vào hàng ngũ những người bảo hộ cho chủ nghĩa xã hội nhân đạo và lý tưởng chủ nghĩa.
Năm 1896, sau thắng lợi của Đảng Xã hội tại cuộc bầu cử cấp thành phố, Millerand đưa ra cho các nhóm một chương trình chung, gọi là “chương trình Saint-Mandé”, từ đó họ có thể đi đến thống nhất với nhau. Ở đây, ông có ý định dung hòa chủ nghĩa xã hội và truyền thống của Pháp từ năm 1789, loại bỏ bạo lực như một điều không thích hợp với nền dân chủ, trông chờ thắng lợi của những tư tưởng xã hội trong cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu.
Mặc dù được phần lớn các nhà lãnh đạo đón nhận, nhưng chương trình này không thể trở thành một hiến chương thống nhất, bởi vì tác giả của nó ngay sau đó bị mất uy tín do thăng tiến trong sự nghiệp chính trị. Năm 1899, khi Waldeck-Rousseau thành lập nội các bảo vệ nền Cộng hòa, Millerand được đề nghị giữ một chức Bộ trưởng.
Ông hỏi ý kiến một vài người bạn, trong đó có Jean Jaurès, và được khuyên nên chấp nhận, với suy nghĩ rằng các Đảng viên Đảng Xã hội có nghĩa vụ bảo vệ nền Cộng hòa và sự có mặt của một đảng viên Đảng Xã hội trong nội các có thể giúp làm cho chính sách của chính phủ nghiêng theo hướng có lợi cho giai cấp công nhân.
Vào lúc đó, rất nhiều nhóm thuộc phe xã hội không phản đối gay gắt việc Millerand tham gia nội các, nhưng ngay sau đó họ được biết rằng trong nội các còn có Hầu tước Galliffet , viên Tướng đã đàn áp Công xã một cách tàn bạo. Ngay lập tức, trong hàng ngũ Đảng Xã hội rộ lên tiếng la ó phản đối và yêu cầu xác định rõ ràng nguyên tắc tham gia vào các chính phủ tư sản. Millerand được Jaurès khéo léo bênh vực, do đó cuối cùng, Đảng Xã hội quyết định coi như Millerand tham gia vào chính phủ với tư cách cá nhân.
Khi Waldeck-Rousseau thôi giữ chức Chủ tịch Hội đồng, Millerand trở lại hàng ngũ Đảng Xã hội nhưng ông có vẻ vẫn thích có mặt trong nội các. Ý kiến của ông ở Quốc hội ngày càng tách rời ý kiến các Đảng viên Xã hội khác; liên đoàn đã khai trừ ông năm 1903. Millerand bắt đầu thăng tiến với tư cách một đại biểu không thuộc phái nào, nhưng luôn ở thế có thể vào nội các, điều này làm ông ngày càng tiến gần cánh hữu.
Khoảng thời gian ông ở Đảng Xã hội chỉ còn lại một từ “millerandisme” (chủ nghĩa Millerand), cách nói lái của Đảng Xã hội từ “arrivisme” (người tìm mọi cách để thành đạt) và từ đó, Đảng Xã hội coi ông như một căn bệnh đáng xấu hổ. Millerand nhiều lần giữ chức Bộ trưởng, đặc biệt là Bộ trưởng Bộ Chiến tranh trong nội các thứ hai của Viviani.
Ông luôn trung thành ủng hộ tướng Joffre, do đó bị ảnh hưởng của mặt trái của ông ta. Khi hòa bình lập lại ông giữ chức Ủy viên Chính phủ phụ trách các vùng đã được thu hồi. Ttrong cuộc bầu cử năm 1919, ông có sáng kiến tập hợp tất cả các đảng đã tham gia vào Liên minh thần thánhvào những danh sách duy nhất.
Như vậy, Khối Cộng hòa quốc gia được hình thành, nhưng Millerand đẩy các liên minh về gần cánh hữu đến nỗi Đảng Cấp tiến sợ hãi và phải rút khỏi Khối Dân tộc. Chỉ còn lại phe trung lập và cánh hữu, Khối Dân tộc đã chiến thắng trong cuộc bầu cử lập pháp: từ nay, người đại biểu cũ của Đảng Xã hội đã trở thành lãnh tụ của phe đa số cánh hữu, và với danh nghĩa này, Millerand bước vào Điện Élysée. Trường hợp Briand: Tổng thống buộc Chủ tịch Hội đồng phải từ chức
Trong một thông báo gửi hai Viện ngày 25-9, Millerand khẳng định lại quan điểm của mình đối với việc xem xét lại Hiến pháp:
“Bầu cử phổ thông đầu phiếu là giải pháp tốt nhất. Ý chí thể hiện qua lá phiếu của những người đại diện được bầu, cần có quyền hành pháp tự do dưới sự kiểm soát của Quốc hội và quyền tư pháp độc lập để được thực hiện và được tôn trọng.
Việc lẫn lộn các quyền là mầm mống của mọi chuyên chế. Các vị sẽ chọn điều mà các vị sẽ phán xét, cùng với chính phủ, vào thời điểm hợp lí nhất, để thận trọng đưa ra những sửa đổi được mong muốn nhất cho hiến pháp … “
Nhưng nếu Millerand chấp nhận không thúc đẩy nhanh tiến trình, điều đó không có nghĩa là ông từ bỏ các dự định của mình. Vả lại, ông đã đặt điều kiện trước khi chấp nhận ra ứng cử và đã tuyên bố chỉ ứng cử nếu Nghị viện công nhận quan điểm của ông, theo đó: “Tổng thống không nhất thiết phải là thành viên của một đảng nào đó, nhưng có thể và phải là người của một chính sách đã được phê chuẩn và thực hiện với sự cộng tác chặt chẽ của các Bộ trưởng”.
Đây là một sự coi nhẹ nguyên tắc không quyền lực của chức vụ Tổng thống. Nhưng việc các Nghị sĩ hầu như nhất trí bỏ phiếu tán thành đã làm cho Millerand nghĩ rằng khi lựa chọn ông, Đại hội đồng cũng đã ngầm chấp nhận các ý tưởng của ông. Đúng là trong sự nhất trí này thiếu phiếu bầu của Đảng Xã hội nhưng từ lâu, vị tân Tổng thống đã quen bỏ qua sự chống đối của họ.
Quyết tâm làm cho quan điểm của mình thắng thế trên thực tế đối với các sự việc trước khi việc xét lại Hiến pháp đem lại cho ông quyền làm điều đó, Millerand mời vào chính quyền một trong những người bạn của mình là Georges Leygues , một con người tẻ nhạt, để giữ vững nội các. Như vậy, ông vẫn đứng đầu cơ quan hành pháp thông qua người khác; vả lại, ở điện Élysée ông vẫn tiếp tục chính sách mà ông đã bắt đầu từ khi là còn là chủ tịch Hội đồng.
Vì vậy, ông chỉ đạo các cuộc thương lượng để khôi phục lại quan hệ ngoại giao với Toà thánh. Tuy nhiên, vào đầu năm 1921, khi Georges Leygues mất chức do bị Quốc hội chỉ trích là quá phụ thuộc vào Tổng thống, Millerand buộc phải mời Aristide Briand, một người mà ông không thích nhưng đã góp phần làm cho ông thắng cử.
Các vấn đề về chính sách đối ngoại đã nhanh chóng làm cho người đứng đầu nhà nước đối đầu với người đứng đầu chính phủ. Cũng như phần lớn các Đại biểu Quốc hội, Millerand ủng hộ một chính sách cực kỳ khắc nghiệt đối với Đức, nước bại trận trong cuộc Đại chiến. Đặc biệt, ông muốn Đức phải trả đều đặn những khoản tiền nợ Pháp với danh nghĩa bồi thường chiến tranh.
Về phần mình, Briand tỏ ra nhạy cảm hơn với những ý kiến phản đối của các đồng minh cũ Pháp là Anh và Mỹ. Ý thức được rằng nước Pháp đã bị chiến tranh tàn phá, rằng dân số ít không cho phép Pháp tiến hành một chính sách hiếu chiến (ông đã có lần nói: “Tôi lập chính sách về tỉ lệ sinh đẻ”) và là người ủng hộ chân thành hòa bình, Briand mong muốn bảo đảm an ninh cho nước Pháp bằng cách giảm bớt căng thẳng trong quan hệ thù địch với Đức, cùng với sự bảo đảm của Anh và Mỹ.
|
|