|
Post by Can Tho on Apr 12, 2018 1:02:45 GMT 9
Hồi Ký: Đoạn Đường Tù BinhPHẠM HỒNG ÂN Trại tù Xuyên Mộc được bọn việt cộng dựng lên giữa khu rừng đại thụ bạt ngàn, ở một nơi đèo heo hút gió, cách Bà Rịa không xa. Trại tù gồm ba khu: A, B và C. Ba khu tọa lạc như ba góc của tam giác. Khoảng cách tương đương nhau, chừng non hai cây số đường chim bay. Trong ba khu, khu B nổi tiếng nhất. Có thể, vì nơi đây việt cộng đã bắt nhốt nhiều nhân vật quan trọng của chế độ cũ, như: dân biểu Nguyễn Bá Lương, học giả Hồ Hữu Tường, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh…Có thể, vì nơi đây nhà văn Nguyễn Mạnh Côn là người tù đầu tiên, đã dám tuyệt thực cho đến hơi thở cuối cùng, để phản đối chế độ lao tù khắc nghiệt của cộng sản. Có thể, vì nơi đây các tù nhân đã can đảm trổ nóc tôn vượt ngục, gan lì cướp súng việt cộng, anh dũng chống trả chúng kịch liệt, để giải thoát cho bằng hữu thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng. Chúng tôi bị chuyển đến khu B một cách bất ngờ, sau khi gỡ sạch năm cuốn lịch ở trại tù Vườn Đào (Cai Lậy). Không bất ngờ sao được, khi nửa đêm các tù nhân bị đánh thức bởi tiếng la hét của cán binh việt cộng, bởi tiếng lên cơ bẩm lách cách của súng ống, bởi tiếng máy xe đủ loại nổ ì ạch trước sân trại…Chúng tôi bị gom “bi” lại một chỗ, bị “tống” lên các xe bít bùng, sau khi họ nhét vào tay mỗi đứa một ổ bánh mì gầy đét tựa que củi. Không bất ngờ sao được, khi chúng tôi đang ở vùng đồng bằng gió mát trăng thanh – lâu lâu nhìn ra hương lộ, còn có thể “rửa mắt” được bởi các tà áo bà ba tím vàng xanh trắng. Về đây, nước độc rừng thiêng, đứng ngó “mút chỉ cà tha” cũng chỉ toàn là đại thụ bạt ngàn. Đêm đêm nằm ép bụng với nhau trên các manh ván đầy rệp, nghe tiếng khỉ ho cọp rống ngoài trời, mà cảm thấy ngậm ngùi cho số kiếp. Chúng tôi đến khu B vào buổi tối. Sáng sau, ban quản lý việt cộng đã vội vã phân chia thành đội, và cho vào rừng lao động ngay. Đội tôi, do một tên công an mắt lé làm cán bộ. Vì lâu quá, tôi đã quên tên, xin tạm gọi nó là Bê. Cán bộ Bê với bộ trang phục công an màu vàng. Vàng từ cái nón cối phất phơ trên đầu, đến đôi giày lụp xụp dưới chân, lại thêm khẩu colt đeo xệ xệ dưới thắt lưng – trông cũng hách xì xằng chẳng kém chi các tay anh chị trong giới giang hồ. Đầu tiên, với đôi mắt cú vọ – vừa lé vừa xoi mói – hắn nhìn chúng tôi chăm chăm, từng người một, nhìn từ đầu đến chân, như muốn ăn tươi nuốt sống chúng tôi. – Các anh vào đây là để lao động, chứ không phải đi du lịch. Tôi không muốn các anh mang giày mang dép lỉnh kỉnh như thế kia. Lao động là phải đi chân đất, là phải…chịu khó, để…để…vinh quang. Bây giờ, các anh tự động lột hết giày dép, vứt vào gốc cây cho tôi. Rồi mỗi người cầm một con dao, ra tập họp ngay ngắn. Nhanh lên! Chúng tôi đồng loạt làm theo lời hắn, như một cái máy. Vậy mà, hắn cũng chưa vừa ý, tiếp tục nhìn chăm chăm chúng tôi, với bộ mặt lạnh như băng giá. – Bây giờ, chúng ta bắt đầu đi vào rừng. Khi đến chỗ làm, các anh phải lao động cho nghiêm túc. Cấm nói chuyện linh tinh. Cấm làm việc lấy lệ. Ai muốn đi tiểu đi tiện, phải xin phép. Ai ra khỏi hàng ngũ một cách tùy tiện, chúng tôi sẽ bắn ngay. Đây là ba vệ binh theo bảo vệ đội ta, có súng ống hẳn hoi. Tôi ngó ba tên vệ binh. Chúng trang bị súng ống đạn dược tới tận kẽ răng, như một người lính sắp ra trận mạc. Tôi biết, kẻ thù muốn ngầm báo với chúng tôi một điều: “ Số phận chúng mày nằm trong tay chúng tau, như con cá nằm trên thớt.” Đường vào rừng dài lê thê. Nắng bắt đầu đổ lửa trên đầu. Nắng tràn lên đôi vai. Nắng hừng hực dưới bàn chân. Bước trên đất rừng khai hoang, giữa mùa nắng tàn khốc như thế này, tưởng chừng như bước trên lớp than hồng. Đã vậy, trên lối đi, những cọng gai rừng quái quỉ vương vất đó đây, thỉnh thoảng đâm thốc vào ngón hay gót chân, khiến chúng tôi nhảy chồm lên, hít hà lia lịa. Khi đến chỗ lao động, đôi chân tôi đã sưng phồng lên. Móng toác ra bầy nhầy, máu chảy ri rỉ. Người bạn kế bên, tội nghiệp hơn, anh nhăn mặt đau đớn vì những cọng gai rừng. Ôi, những cọng gai chết tiệt, coi mong manh nhưng bén và nhọn vô chừng! Nó cứ nhắm vào da thịt tù nhân mà đâm thấu vào, nhức đến tận ruột gan. Chúng tôi quần tụ nhau dưới bóng của đám cây tiểu thụ. Chưa lao động, mồ hôi đã vã ra như tắm. Trái bắp đá điểm tâm, vừa nhai cách đây một tiếng đồng hồ, đã tiêu diêu mất! Bụng lại đói cồn cào, xốn xang một cách khó chịu. Bụng đói, chân đau…chúng tôi còn có thể cắn răng chịu được, nhưng tiếng cán bộ Bê oang oang – như tiếng tử thần réo gọi bên tai – mãi mãi như thứ ám ảnh không rời.. -Đây là đám cây, bắt buộc các anh phải hạ xuống trong ngày hôm nay. Chỉ tiêu mỗi người 30 cây. Bây giờ, các anh bắt tay vào việc… Tôi nhìn rừng cây. Thân nhỏ nhất cũng bằng cột đình. Cây nào cây nấy cao lêu nghêu, muốn vượt đến trời xanh. Tôi nhìn lại con dao. Đó là một con dao cùn. Lưỡi đã mẻ nhiều nơi. Có nơi nhíu lại, lỗ chỗ những mảng kim loại bị co rúm. Chứng tỏ con dao này đã trải qua nhiều tay tù nhân. Chứng tỏ dụng cụ lao động này chỉ biết sử dụng, mà chẳng bao giờ bảo trì. Trời ơi! con dao cùn dám chặt thịt không đứt, làm sao đốn 30 cây trong một ngày? Người bạn kế bên than thở. Tiếng người bạn khác chen vào, giọng đầy căm tức: – Mẹ, nó muốn hành hạ mình, chứ lao động cái con c…gì? Than thở hay oán hận cách mấy, rồi…cũng phải nhào vào đám cây. Tôi vung dao lên. Phùm phụp. Phùm phụp. Lưỡi dao vừa chạm vào thân cây, bỗng như va vào khối kim loại rắn. Nó liền dội ra, quay một vòng, rồi rơi phịch xuống chân. Một cảm giác tê buốt chạy dài từ bàn tay lên đến tận vai. Tôi cắn răng chịu đau, cố gắng quì xuống, nâng nhẹ con dao lên. Ôi, con dao đã trở thành vật vô dụng. Mép dao khuyết một đường dài. Mảnh khuyết còn lấp lánh chất sáng của màu kim loại chưa trui tới nước. Tôi lính quính, chạy vội đến đám cán bộ: -Trình cán bộ… – Ê, đứng lại! Lùi về phía sau 5 bước. Tiếng nạt lớn. Tiếng lên cơ bẩm lách cách. Họng súng đen ngòm chỉa thẳng về tôi. Cán bộ Bê nghiến răng trèo trẹo. Quai hàm hắn phồng lên, trông thật hung dữ. Tôi làm theo lệnh vệ binh, rồi nhỏ nhẹ nói: – Thưa cán bộ, con dao của tôi bị mẻ, không thể đốn cây được nữa! Xin cấp cho con dao khác. Cán bộ Bê chống nạnh, nhìn con dao một lát, rồi dõng dạc quát lên: – Anh định cản trở công tác, phá hoại dụng cụ sản xuất đấy hử? Chưa đốn được cây nào, sao lại mẻ dao? Về chỗ ngay! Tiếp tục lao động, khắc phục khó khăn. Tôi khắc phục khó khăn cho đến trưa. Nhìn lại, bàn tay đã rươm rướm máu. Xung quanh lòng tay, xuất hiện những mụn nước căng phồng. Đụng vào, nó đau không thể chịu được. Nhưng điều đau khổ nhất, chính là cái bụng. Cái bụng đang kêu cứu, đang gào thét. Nó như khoảng trống không tên nào đó – cố sức trồi lên, quậy xé, giẫy giụa. Hơn năm năm rồi, cái bụng chưa bao giờ no. Nó chỉ chứa lưng lửng những thức ăn độn: bắp, khoai, bo bo…Bữa ăn thịnh soạn nhất, vào những ngày lễ lớn, tối đa có thêm vài miếng ba rọi mỏng lét, chưa đủ nhét kẽ răng. Buổi trưa, khi cơn đói bắt đầu làm chúng tôi rời rã, bủn rủn đến độ hoa mắt, không còn hơi sức nữa để chặt thẳng con dao – thì cán bộ Bê thổi tu huýt “quét quét” tập họp về trại. Đường về trại diệu vợi, khổ đau. Nắng rừng, giữa trưa, thật là khủng khiếp. Nắng nung nóng tất cả. Từ: đất, cát, đá sỏi…đến thịt da, đến những vết thương rướm máu, đến đôi chân trần trụi sưng vù. Tôi thất thểu như bóng ma, lê từng bước nặng nhọc, mỏi mòn. Thỉnh thoảng, có vài tù nhân cầm bình toong nước trút ngược lên đầu. Dòng nước nhỏ nhẹ chảy từ chân tóc xuống mặt, xuống cổ. Khi xuống tới vai, bỗng ráo hoảnh, khô ran. Sức nóng đã làm nước bốc hơi một cách nhanh chóng. Thỉnh thoảng, đau quá, tôi phải cố gắng nhón gót, đi bằng mười đầu ngón chân. Cứ thế mà thay đổi. Cứ thế mà lê lết. Bám chặt lấy nhau. Cho đến khi thấy được cổng trại tù. Buổi ăn trưa bày ra trên sân, trước cửa nhà giam. Không cần xem, tù nhân cũng biết đó là: mì lát. Mì lát là loại khoai mì rừng, củ to bằng bắp vế. Vì to quá, nên người ta phải xắt ra từng lát mỏng, rồi phơi khô để tiện việc cất giữ. Mì lát phơi không khô, hoặc bị mưa dầm, thường dễ ẩm mốc. Khi ẩm mốc, mì lát nấu chín sẽ sền sệt như hèm, chua len lét, ăn lâu ngày sẽ bị bệnh dạ dày. Bệnh dạ dày mặc kệ bệnh dạ dày. Giờ ăn, chúng tôi vẫn bao quanh thau mì. Những cái chén đặt theo vòng tròn. Tổ trưởng dùng muỗng chia đều. Khi muỗng mì lát đặt vào chén nào, thì lập tức… chén đó được “tém” sạch ngay. Tù nhân chực sẵn, chờ thức ăn đến, quơ ngay vào miệng, ngồm ngoàm một cách vội vàng. Bữa ăn diễn ra nhanh chóng. Thau mì đã vét “cạn tàu ráo máng”, tù nhân vẫn còn đứng giạng chân bên cái thau, thòm thèm nhìn nhau, nuốt nước bọt. Chưa bao giờ, chuyện ăn uống làm chúng tôi phải vất vả, khổ sở như thế này. Lúc nào cũng cảm thấy đói. Lúc nào cũng nằm mơ thấy ăn – ăn ngon lành, ăn đến no nê, căng phồng bao tử. Buổi tối, sau khi điểm danh, tất cả tù nhân sắp hàng nghiêm chỉnh, lần lượt đi vào nhà giam. Cánh cửa sắt vừa khóa chặt, chúng tôi vội trườn lên những sạp ván để tìm “giang sơn” của mình. “Giang sơn” chỉ là một khoảng trống độ hai gang tay, vừa cho một người nằm nghiêng, không thể nhúc nhích cục cựa. Cứ thế, chúng tôi chen nhau như hộp cá mòi, cố chìm vào giấc mơ “trở về mái nhà xưa”. Nhưng, đâu dễ chìm vào giấc mơ đẹp một cách thản nhiên như vậy? Rệp. Rệp là kẻ thù hay bằng hữu chí cốt của tù nhân? Có thể, phút ban đầu nó là kẻ thù. Nó tấn công chúng tôi ngay từ lúc ánh điện tắt, từ lúc giấc ngủ chìm trong bóng đêm. Nó chui lên tai, lên nách, lên bẹn, lên khu…Nó rút từng lỗ chân lông. Nó bám từng phân da thịt, hút từng giọt máu nhỏ li ti. Về sau, có thể nó quen hơi, cảm thông với số phận bất hạnh chung, nên trở thành bạn, thành bằng hữu chí cốt. Không có tù nhân, thì rệp không thể gọi là rệp. Ngược lại, không có rệp, thì tù nhân chưa thể gọi là tù nhân. Có bạn thì phải có bè. Bè là bầy dòi mềm nhũn, dính đầy phân người. Nó xuất phát từ thùng phân đặt cuối phòng, từ những mảnh giấy chùi đít nhớp nháp, từ những vũng nước rửa khu đen ngòm. Rồi…cảm thấy buồn tình cho thân phận, nó nhởn nhơ lê la khắp phòng, cứ tìm chỗ có hơi người mà tụ đến. Khổ nỗi, nó hay bò lên mồm, lên mũi chúng tôi – lúc ngủ say. Nó cứ đánh thức chúng tôi dậy bất cứ lúc nào. Bằng cái cảm giác mềm mềm, thum thủm – thân thuộc như thế. Kẻ thù đáng nguyền rủa nhất, ở trại giam này – ngoài bọn cán cộng ác độc – còn có bầy chuột tù ngang ngược. Chúng ngang ngược hơn bất cứ động vật ngang ngược nào trên cõi đời này. Chúng tấn công chúng tôi từng bầy. Con này nối đuôi con kia sục sạo khắp các xó xỉnh phòng giam. Chúng đánh mùi thức ăn tài giỏi hơn chó bẹc-giê. Chúng rành từng ngõ ngách, hiểu rõ nơi nào cất thực phẩm, chỗ nào chứa quần áo dơ. Thậm chí, biết cả chân ai có mùi hinh hỉnh…để mò đến, gặm cho đỡ ghiền. Nhất là sau giờ thăm nuôi, đa số đều có túi thức ăn treo trên vách. Buổi sáng, thức dậy, cả phòng giam đều ồn ào lên. Người thì mất bánh tét. Kẻ thì mất xôi gà, chuối chiên, bánh mì…Thậm chí cả thuốc điếu, chúng cũng không tha. Chúng cắn cho tơi tả, gặm cho nát bét…trước khi rút lui một cách bí mật. Vượt cả trăm cây số đường bộ. Rồi, ngồi như đánh đu trên chiếc xe chạy bằng than đá bẩn thỉu, để vượt thêm vài chục cây số đường rừng khúc khuỷu nữa, thân nhân chúng tôi mới đến cổng trại giam Xuyên Mộc. Từ cổng trại giam, thân nhân phải gồng gánh thức ăn, lội bộ thêm vài cây số đường mòn gồ ghề, mới đến các khu nhốt tù : A, B hoặc C. Rồi vội vã trình giấy. Rồi ngồi đợi đến mòn con mắt, mới thấy vệ binh tà tà dắt tù nhân ra. Mười lăm phút phù du gặp nhau trôi nhanh. Chưa kịp nói hết câu. Chưa bày tỏ cạn lời, đã vội chia tay cấp tốc. Túi thăm nuôi tất tả trao cho tù nhân. Hai dòng nước mắt tuôn rơi, thay cho nụ hôn từ biệt. Đừng vội tưởng túi thăm nuôi trao cho tù nhân, là đã chắc thuộc quyền sở hữu của tù nhân? Vừa vào trại, bọn trật tự đã gườm sẵn trước cửa, lăm le trong tay những dụng cụ khám xét tàn khốc nhất : dao, kéo, kềm, lưỡi lê, cù móc..v.. v..Nếu tù nhân vô tình quên đi những dâng hiến rộng rãi, như : thuốc thơm, trà móc câu, cà phê, bánh kẹo…thì các túi gạo sẽ bị rạch nát, bịt thịt kho sẽ bị đâm thủng, quần áo sẽ bị móc rách…Tất cả lương thực đổ tung tóe trên sân trại. Bụi bặm, đất cát, côn trùng…trộn lẫn vào. Tù nhân đâu có thì giờ ngồi xuống : nhặt, nhạnh, hốt, gom…Thôi đành tức tưởi bỏ đi, nước mắt tuôn rơi giọt dài giọt vắn. Xuyên Mộc còn có những cơn sốt rét rừng khủng khiếp. Tù nhân bị vật ngã liên tục. Mỗi ngày, đội lao động vơi đi một vài người. Đầu tiên, tù nhân được y tá chẩn đoán, cho nghỉ lao động để điều trị. Về sau, số bệnh nhân càng ngày càng đông. Cán bộ Bê không bằng lòng. Hắn hùng hổ la hét y tá, tập họp tù nhân, tự ý sửa đổi nội qui : – Kể từ giờ phút này, anh nào có bệnh, phải đến khai báo với tôi. Tôi sẽ chẩn đoán và khám trực tiếp. Y tá không có quyền cho các anh nghỉ bệnh nữa. Rõ chưa? Cho đến một ngày, tôi cũng bị vướng sốt rét. Cơn bệnh hành hạ tôi khắc nghiệt. Đôi chân run lẩy bẩy, yếu ớt, dường như nó muốn khuỵu xuống, bất cứ lúc nào. Đầu óc trống không, nặng như đeo đá tảng. Mỗi khi tới cữ, mồ hôi vã ra như tắm. Tôi chỉ còn nước trùm mền, cắn răng chịu đựng sự hành hạ của cơn bệnh. Buổi sáng, tôi cố lết ra sân trại, để xin cán bộ Bê nghỉ bệnh. – Thưa cán bộ, tôi bị sốt rét nặng quá, không thể lao động hôm nay được. Cán bộ Bê chống nạnh, nhìn tôi trừng trừng : – Sao? Sốt rét ư? Sốt rét có cữ, có giờ giấc rõ ràng. Cứ ra ngoài đó lao động. Tới cữ, tìm chỗ nào có bóng mát, nghỉ. – Thưa…nhưng, tôi không thể đi được nữa. Chân tôi đau cứng như thế này. Xin cán bộ thông cảm. Cán bộ Bê cười hề hề. Thình lình, hắn đưa khuỷu tay, thúc vào bụng tôi. Tôi đưa tay lên đỡ, theo phản xạ tự nhiên. – Anh phản ứng lanh lẹ, khỏe mạnh như thế. Vậy mà bảo là bệnh ư? Hắn bỗng trừng mắt nhìn tôi, hét lớn : – Vào hàng. Lao động như thường lệ. Ngày đó. Hai tù nhân đã dùng võng, gánh tôi về trại. Tôi đã khuỵu xuống trước những mảng đất rừng cứng cáp, do lưỡi cuốc của tôi xới lên một cách quá sức. Đoạn đường tù binh còn lắm gian truân, còn nhiều đắng cay, khổ cực. Tôi nghĩ, không một ngôn ngữ nào, bút mực nào có thể tả xiết, tả hết những đau thương chồng chất này. PHẠM HỒNG ÂN (San Diego, 25/9/2005) www.bienkhoi.com/so-32/doan-duong-tu-binh.htm
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 12, 2018 1:05:49 GMT 9
Không tạc Lộc NinhPhạm Văn Bản Tôi sao quên trận Không Tạc Lộc Ninh vào năm 1974, với sự tham dự hàng trăm chiến đấu cơ của binh chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, điều khiển bằng hệ thống hướng dẫn đánh bom định vị BOBS (Beacon Only Bombing System) tấn công thủ đô của cái gọi là cơ quan đầu não chính phủ cách mạng, do cộng sản Hà Nội dàn dựng để tuyên truyền lừa bịp dư luận thế giới trong chiến tranh Việt Nam trước đây. Vùng đất ‘hoàng triều cương thổ’ của Vi-Xi (VC, Việt Cộng) thuộc tỉnh Bình Long, nằm trên Quốc Lộ 13 cách Sài Gòn khoảng 60 cây số. Chính phủ bù nhìn này khai sinh từ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam theo Nghị Quyết số 15 năm 1959, của trung ương đảng Lao Động Việt Nam tức tiền thân đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay. Buổi sáng đẹp trời mùa thu năm ấy, sau bữa café điểm tâm cùng các bạn Sơn, Đảo, Phước… ở quán nằm cạnh phòng điện ảnh Sư Đoàn 4 Không Quân, tôi ra xe trở lại phòng trực hành quân đơn vị, vào phòng tiếp liệu lấy dù, mũ áo súng đạn để chuẩn bị ra trận đánh giặc. Không đoàn hôm nay nhộn nhịp khác thường, kẻ ra người vào tấp nập và bàn chuyện hành quân oanh kích thủ đô ồn ào như di vỡ tổ. Không Đoàn 74 Chiến Thuật của Sư Đoàn 4 Không Quân tọa lạc tại Phi Trường Bình Thủy quận Trà Nóc tỉnh Phong Dinh, gồm có 3 phi đoàn khu trục phản lực A37 là Thần Báo 520, Satan 526, Thiên Sứ 546 và 3 phi đoàn quan sát. Riêng các hoa tiêu khu trục vừa nhận lệnh không tạc Lộc Ninh, cất cánh từ Trà Nóc với 30 A37 trang bị đầy đủ cấp số hỏa lực bom đạn, mỗi máy bay mang 6 quả 250/ hay 4 quả 500 cân Anh/ mỗi quả, hoặc mang hỏa tiễn chống tăng T54. Trận không tạc này, phi cơ số 1 là Đại Tá Nguyễn Quang Ninh, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 74 Chiến Thuật chỉ huy tổng quát. Bảy phi tuần trưởng và phi tuần phó hướng dẫn các thành viên của mình bay hợp đoàn theo đội hình phi tuần nặng, 4 phi cơ trong mỗi phi tuần và 7 phi tuần nặng bay lên thành đại phi tuần, trông tợ trận không kích Tora Tora của Nhật Bản đánh xuống Trân Châu Cảng ở thời Đệ Nhị Thế Chiến năm xưa. Cất cánh từ phi trường Bình Thủy chiến đấu cơ nhắm tụ điểm và làm vòng chờ ở Long An. Sau khi hợp đoàn thì lấy cao độ 35 ngàn bộ và bay bình phi về hướng biển Vũng Tàu, để hội nhập thêm với hai cánh quân của Sư Đoàn 2, và Sư Đoàn 5 cũng có cấp số hoa tiêu và A37 trang bị tương đương. Tổng phi tuần này bao gồm ba đại phi tuần của các Sư Đoàn 4, Sư Đoàn 5 và Sư Đoàn 2 hợp lại rồi đổi băng tầng BOBS bay về hướng Quốc Lộ 13. BOBS là hệ thống vận hành và định vị mục tiêu bằng vô tuyến (radio becon) trong việc điều khiển các phi cơ tiến đến oank kích thủ đô Lộc Ninh. Trong tai tôi cũng bắt đầu nghe tiếng morse tíc tè, ví dụ bay sang bên phải là chữ A, ký hiệu tíc tè [._] còn lấy về phía tay trái là chữ N thì nghe tè tíc [_.]. Nếu bay lệch đường bay mà phi công không chịu chỉnh hướng thì tiếng morse phát ra to dần hơn cho tới khi âm thanh đó có thể phá rách màng nhĩ, bị điếc (Inab). Khi bay hướng tới tọa độ mục tiêu (heading to target) sẽ nhận tín hiệu 10 giây đếm ngược (ten second countdown tone) từ số 10 về tới Zero, rồi nghe tiếng “bíp…” thì toàn thể bấm nút thả bom đồng loạt. Với bao trăm qủa bom rơi xuống tọa độ mục tiêu như trải thảm, rồi bùng nổ kinh thiên động địa khiến cho Việt Cộng hoảng hồn khiếp sợ, tưởng đâu pháo đài B52 hay cánh cụp cánh xòe của sư đoàn anh cả đỏ tham chiến thời 1965 trở lại,… sau ngày ký kết Hiệp Định 1973 ngưng bắn Ba Lê! * * * Sáng nay lệnh oanh kích từ Phòng Hành Quân Chiến Cuộc Sư Đòan 4 Không Quân, truyền qua điện thọai “đỏ” đặt trên bàn Sĩ Quan Trực reo vang. Nhóm hoa tiêu khu trục lúc ấy đang vây quanh bàn cờ tướng tới hồi chiếu bí, kẻ mách nước đứa tài lanh hiến kế cho đôi quân trắng đen thắng cuộc. Vì ham vui cho nên nhiều anh chưa kịp ăn sáng! Đang lúc ồn ào như cái chợ, tiếng reng điện thoại trấn át mọi thứ âm thanh, và mọi người nhìn nhau đều biết chuyện gì xảy ra. Trong phút thinh lặng, không ai bảo ai nhóm cờ tướng đột ngột phóng ra cửa để chạy tới xe bánh mì đậu gần lô cốt trước cổng, và mỗi anh thủ một ổ thịt nguội nhai ngấu nhiến hầu tránh làm ma đói! Thoáng chốc họ đã trở lại phòng trực tập họp một trăm phần trăm quân số để ký tên vào sổ bay, lấy lệnh hành quân, lấy dự báo thời tiết, lấy bản đồ và chấm tọa độ mục tiêu, cùng tình hình địch bạn. Nhìn theo lối rẽ về hướng ra phi đạo, từng hàng xe pick-up chuyên chở phi công ra đến ụ che chắn máy bay, lấy tàu và đề máy. Phi vụ Không Tạc Lộc Ninh của Sư Đoàn 4 hôm nay là một đại phi tuần, bao gồm 7 phi tuần nặng. Mỗi phi tuần có 4 phi cơ bay hợp đoàn do phi tuần trưởng (phi cơ số 1) chỉ huy, bay cánh phải là phi tuần viên mang phi cơ số 3, cánh trái của phi cơ số 1 là phi tuần phó (phi cơ số 2) có nhiệm vụ dìu dắt máy bay của phi tuần viên số 4 bay cánh trái. Các phi tuần trưởng và phi tuần phó điều động thành viên trong đội hình bay hợp đoàn của 3 phi đoàn Thần Báo, Satan, Thiên Sứ cất cánh bay lên và bình phi ở 35 ngàn bộ, tới điểm hẹn Vũng Tàu thì tập hợp với hai sư đoàn không quân mà chuyển sang tầng số của BOBS và đổi hướng về phía Quốc Lộ 13. Đánh bom Lộc Ninh, bao gồm phi trường và những dãy phố trong hãng xưởng sản xuất cao su đã có từ thời Pháp thuộc để lại. Hiện nay bị Việt Cộng xâm chiếm, xây dựng thủ đô nhằm tuyên truyền để lừa bịp dư luận thế giới về thắng lợi của chúng. Đó cũng là sự kiện mà các cơ quan ngôn luận, truyền hình truyền thanh và báo chí quốc tế đang quan tâm và nghiêng về phe phản chiến, gây bất lợi cho chính nghĩa quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa. Tôi bước vào phòng dù lấy áo mão súng đạn đi bay, và thành thật mà nói rằng chưa mấy khi đơn vị của tôi đi đánh trận mà vui buồn lẫn lộn như hôm nay. Trong phòng tiếp liệu máy lạnh ù ù thổi, mịt mù hơi sương như đang cố gắng trấn áp cái nhiệt độ oi bức của miền Tây Đô nắng gắt. Hơn nữa cái lạnh phòng này còn phải hạ nhiệt, làm giảm sức nóng lo lắng trong lòng một số anh em “lạnh cẳng” trước khi ra trận. Riêng anh em Thần Báo chúng tôi, nhìn chung tất cả đều can trường nơi tiền tuyến, và luôn giữ quân phong quân kỷ khi về hậu phương, tợ như thi hào Nguyễn Du từng phác họa trong Kiều: “Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa!” Ví dụ, Thiếu Úy Phan Ngọc Phước vai đeo dù nặng nề mà còn đứng ngắm trước gương sửa sang quân phục cho phong nhã, chỉnh lại cặp kíếng Rayban mắc tiền đã sắm từ thời còn học lái máy bay bên Mỹ, xem ra cũng còn mới mẻ và hào hoa ra phết! Xa xa trong góc phòng kia, Thiếu Úy Lê Xuân Vinh đứng tần ngần chắn lối, đang lấy khăn dù lau lại chiếc đồng hồ Rolex “nạm kim cương” cũng đâu thua kém các vua dầu hỏa Trung Đông! Và Thiếu Úy Phạm Văn Bản, có đại danh “Bản Mát” cũng không quên rút giấy mực kẹp vào tập Checkbook dành ghi nhật ký trong ngày. Đang lúc sửa soạn đi bay, thì nhân viên phòng dù Hạ Sĩ Nguyễn Văn Nam bước lại, lên tiếng phá tan bầu không khí yên tĩnh trong giờ thứ 25: “Em cám ơn Thày. Nhờ thày giúp em luyện thi mà em mới đậu bằng tú tài.” Nghe giọng quen thuộc, tôi ngước lên nhìn người Không Quân này, và bắt gặp ánh mắt đẫm lệ của Nam người học trong lớp luyện thi của tôi tháng qua. Lớp học này đặt tại Phòng Điện Ảnh của Sư Đoàn 4 Không Quân. Ngày ấy nhóm chuyên viên điện ảnh, Hạ Sĩ Nguyễn Văn Đảo là bạn đồng hương, biết tài giáo khoa của tôi từng phụ trách lớp luyện thi tú tài, do hội bảo trợ Chương Trình Dân Sự Vụ (Civic Action) của Lục Quân Hoa Kỳ (US Army) khi tôi còn làm trung sĩ thông dịch viên của căn cứ Long Bình, và lớp học này mở tại trường trung học Ngô Quyền. Bởi thế Hạ Sĩ Đảo khẩn khoản mời, ngoài giờ bay bổng thì xin giúp cho anh em có giờ luyện thi, và khóa thi ngày ấy của Nha Khảo Thí/ Bộ Quốc Gia Giáo Dục tổ chức kỳ thi Tú Tài tại trường trung học Phan Thanh Giản, Cần Thơ vào trung tuần tháng 8 năm 1974. Thấy anh em nhiệt tình và hiếu học, tôi cũng đành chiều lòng mà nhận lời, rồi nhờ Chuẩn Úy Nguyễn Văn Điện, Trưởng Phòng Điện Ảnh đứng ra thu xếp khóa học, đệ đơn trình Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Tần, Tư Lệnh Sư Đoàn IV Không Quân cho phép mở lớp luyện thi. Dù là học ôn, nhưng tôi cũng phải trình bày tường tận từng chi tiết của các môn học, sao cho mọi người lĩnh hội một cách dễ dàng. Riêng về giờ học thì có thể bắt đầu vào bất cứ lúc nào khi tôi có giờ dạy, kể cả sáng trưa chiều tối. Và ngày khai giảng cũng đông sĩ tử, cũng “một thầy một cô một chó cái, học trò dăm đứa. . .” (Cao Bá Quát). Nhưng bỏ cuộc dần dần, còn lại 6 học trò và trong số có tài xế Nam, lái Pickup màu xanh da trời đậu trước phòng dù để đưa đón hoa tiêu ra vào phi đạo. Tình cảm lê thê của Nam với tôi chỉ có vậy. Riêng tôi thì hú vía, và nghĩ lại cũng thật là may phúc! Vì kỳ thi tú tài đó lớp tôi có kết quả 6 học trò: Đảo, Nam, Sơn, Tùng, Nghĩa, Giàu thi đậu và có bằng! Dân gian ngày ấy có câu, “Rớt tú tài anh đi trung sĩ” thì bạn đọc hiểu rằng cái bằng thiết thực với anh em binh sĩ để tiến thân. Với văn bằng, các bạn ấy có thể làm đơn xin theo học khóa huấn luyện sĩ quan mà trở thành người lãnh đạo chỉ huy, thăng quan tiến chức! Cũng bởi tầm mức quan trọng như thế, cho nên tiệc mừng của “ông nghè ông cống” mời tôi, nhằm ngày 22 tháng 8 năm 1974 với món hiếm quý rựa mận tiết canh! Và cũng trong cái đêm chén tạc chén thù hôm ấy, tôi đã phải gượng tỉnh trong cơn mê say để chở vợ vào viện bảo sanh Thủ Khoa Nghĩa, Cần Thơ. Ngày ấy cũng chính là ngày sinh nhật của trưởng nữ Bảo Ngọc chào đời! Giờ đây gặp Nam trong tình thày trò quyến luyến như Chinh Phụ Ngâm, khiến tôi gượng khổ làm vui. Nhưng có lẽ Nam lại nghĩ về tôi rằng, trước giờ phút xuất quân thì dữ nhiều lành ít hoặc “mấy ai đi trở lại, lỡ khi mình không về. . .” (Hữu Loan). Nam chạy lại đỡ chiếc dù nặng nề của tôi đặt ra xe giữa những tiếng cười đùa trong đám đồng nghiệp: “Bản Mát, làm thày có khác, có đệ tử vác dù.” “Chắc năm sau, tớ cũng mở lớp luyện thi, kiếm đệ tử.” “Nhớ Đời ngoài Bình Thủy, quán thịt nai đồng quê ấy càng ngày càng đắt khách!” Phước Inab — học bay ở Sheppard bị thủng màng nhĩ — bỗng dưng cười phá lên, lôi cả mớ bùa thi ESL hộ mạng ngày nào ở Trường Sinh Ngữ Quân Đội, ra đọc. Các câu chấm đúng vần A, B, C thì giữ nguyên vần, còn chữ khác chấm con D. . . Bài bùa bắt đầu: “Cậu Á hỏi Bác Bản: 1 (C) 2 (A) 3 (D) 4 (B) 5 (B)…” Rồi cứ thế, Phước thao thao bất tuyệt cho tới khi bài thi ESL kết thúc ở câu thứ 100, thi trắc nghiệm Anh Văn ai đánh bùa trúng thì đậu và đi du học Hoa Kỳ… Thế là tất cả phi hành đoàn ngồi trên xe, bất kể các cấp từ Tá xuống tới Úy, đều ôm bụng mà lăn ra cười! Chiếc công xa từ từ ngưng bánh đậu trước ụ A37, tôi nhìn đúng số tàu, xách dù leo nhanh như muốn trốn lời nhắn gởi cuối cùng của Nam, “Bảo trọng, nghe thày!” Tôi vẫn còn nhớ trận cười vừa qua, không sao dơ tay lên để đáp lại cái chào quân kỷ của Hạ Sĩ Nam, rồi vội vàng nổ máy. * * * Sau phút lăn bánh tiến ra phi đạo, tôi tăng tốc và cất cánh, rồi điều khiển con tàu êm ả tiến vào vị trí cánh phải phi tuần trưởng của tôi đang làm vòng chờ, trong đội hình 30 khu trục phản lực cơ A37 của Không Đoàn 74 Chiến Thuật. Vừa bay trong hợp đoàn, tôi cảm thấy cứ nghi về chuyện gián điệp trong trận không tạc Lộc Ninh này, không biết trận đánh lớn này có đạt kết qủa thành công như ước muốn chăng? Liên tưởng câu chuyện kỹ thuật xâm nhập và gài người Cộng Sản Bắc Việt vào hàng ngũ Việt Nam Cộng Hòa để thu thập tin tức và đánh phá, tập tài liệu mà đêm trực chiến phi đoàn tôi đã đọc. Vụ gián điệp Huỳnh Văn Trọng, làm phụ tá đặc biệt của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Trọng nguyên là một cán bộ Cộng Sản Bắc Việt được gài vào chức vụ cao nhất trong cơ quan hành pháp. Cộng Sản Bắc Việt đã dùng tiền mua chuộc cơ quan tình báo chiến lược Hoa Kỳ CIA, để giới thiệu Huỳnh Văn Trọng qua trung gian viên chức tình báo cao cấp Trung Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn của Tổng Thống Thiệu, giúp Trọng xâm nhập vào tận Dinh Độc Lập. Bởi thế, những kế hoạch tối mật được sọan thảo chưa thực hiện, thì Trọng đã tiết lộ cho Cộng Sản Bắc Việt biết hết. Từ những dự tính chính trị mang ra áp dụng tại Hội Nghị Paris năm 1971, Dinh Độc Lập mật điện cho phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa hôm trước để ngày hôm sau trưởng phái đoàn sẽ đưa ra hội nghị. Nhưng Cộng Sản Bắc Việt và Nguyễn Hữu Thọ đã biết trước, đã phản biện bằng cách nhanh gọn và thắng kiện bất ngờ! Tiếp đến, kế hoạch đánh chiếm Hạ Lào năm 1972, theo lời một sĩ quan tham mưu Lữ Đoàn Nhảy Dù, thì phía Cộng quân đã được biết trước tất cả, cho nên chúng án binh bất động, chờ ta để mà lãnh những tổn thất lớn! Bởi thế, trận không tạc thủ đô Lộc Ninh năm 1974 của Không Đoàn 74 Chiến Thuật phải khiến tôi nghi ngờ, mặc dù trong tai tôi vẫn còn những dấu âm thanh tích tè, báo đúng lộ trình của đài BOBS! Phi co quan sat L-19, KQVNCH ..jpg Bầu trời trong xanh không gợn áng mây, phi tuần đoàn đang từ từ chuyển hướng về phía Lộc Ninh. Chúng tôi lắng nghe quan sát viên L19, Họa My đang có mặt trong vùng báo cáo: “Tình Hình Tổng Quát: Tọa độ mục tiêu là phần đất thuộc Quận Lộc Ninh, Tỉnh Bình Long, phía Bắc là đường biên giới Việt Miên, phía Đông là Sông Bé, phía Nam là Suối Cát. Địa thế có cao độ 6000 bộ, bao gồm 45% rừng xam chen lẫn tre hoang, 35% rừng cao su, 25% rừng cây ăn trái và vùng dân cư. Lợi dụng địa thế hiểm trở, sát cạnh biên giới và hành lang Sông Bé, Việt Cộng thiết lập một vùng có nhiều căn cứ, nhất là căn cứ 350 được đặt làm thủ đô của “chính quyền cách mạng lâm thời” thâm nhập sâu đến Quốc Lộ 14 A, địch quân phục kích các đoàn quân xa, đánh mìn và chận xe đò thu tiền cước phí nuôi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Tổng hợp các tin tức tình báo cho biết: Tiểu Đoàn D368 với các thành phần chủ chốt như sau: Tiểu Đoàn Trưởng là Thượng Úy Huỳnh Phúc Kháng, Tiểu Đoàn Phó là Đại Úy Tô Minh Diệp, Chính Trị Viên là Đại Úy Huỳnh Văn Bằng. Quân số 100. Trú ẩn tại TDB.XU.875045 đã thiết lập tại vùng này nhiều cơ sở, như Trạm xá (TBD.XU.840010), Kho bảo trì vật liệu và Ban Thông tin (TBD.XU.861045). Theo nguồn tin tình báo cho biết, Việt Cộng vừa thiết lập một căn cứ mới có xe tăng T54 tháp tùng, gồm có khoảng 25 hầm chứa xe tăng T54, và 250 người, có thể đây là căn cứ mới gọi là thủ đô. Riêng tại vùng Đông Nam Lộc Ninh theo tin kỹ thuật ghi nhận một đơn vị Việt Cộng cấp Trung Đoàn (E6) đã xâm nhập nội địa Việt Nam. . .” Sau phần trình bày về “Tình hình tổng quát,” Họa My cho biết mục tiêu đánh bom vào tất cả những khu nhà xây có mái ngói đỏ trước mặt nằm trong khu rừng cao su, phía đông phi đạo Lộc Ninh. Theo lệnh hành quân, nếu như phương án (một) đánh BOBS vì lý do gì mà không thả bom được, thì các phi tuần sẽ theo lệnh “Break,” đội hình để thực hiện phương án (hai) tức tấn công mục tiêu theo phương pháp ngoại quan, như kiểu đánh bom bình thường hàng ngày. “Tíc. . . tè. . ., tè… tíc…” Âm thanh tín hiệu càng gần mục tiêu thì càng phát ra lớn hơn. Khu nhà lớn mái ngói đỏ trong rừng cao su nằm phía đông phi đạo Lộc Ninh đang hiện ra rõ trước mặt. Âm thanh của đài phát tuyến BOBS hướng dẫn rất đúng, tôi liếc qua tấm bản đồ rồi định hướng cũng rất đúng. Với tầm bay 15 ngàn bộ trên mục tiêu lúc này, trừ ra 6 ngàn bộ cách mặt đất tôi còn lại cao độ 9 ngàn bộ là độ cao lý tưởng nhất và an toàn nhất trong phương pháp thực hành thả bom ngoại quan! Trước mắt tôi là mục tiêu khu nhà mái ngói đỏ, liếc sang cánh phải của tôi đang giữ vững khoảng cách với cánh trái của Thiếu Tá Bùi Văn Minh, phi tuần trưởng của tôi là 3 feet hay một mét vuông, và tôi thấy phi tuần trưởng ra lệnh kiểm soát dầu. Thiếu Tá Minh đã dơ ngón cái của bàn tay phải nắm lại lên cao, ngửa mặt lên trời rồi đưa ngón cái về phía miệng như người muốn tu rượu? Tôi nhận hiệu lệnh bằng gật đầu và kiểm lại số nhiên liệu dầu bay phản lực JP4! Dầu còn nhiều, tôi dơ cao ngón cái đáp lời. Liếc sang bên cánh trái, tôi thấy Trung Úy Trần Trung Tỷ, phi tuần phó cũng đang ra lệnh cho phi tuần viên Thiếu Úy Phan Ngọc Phước kiểm dầu. Chưa tới điểm thả bom, âm thanh BOBS chưa phát tín 10 giây đếm ngược: “Tích. . . tè. . . tè. . . té!” Khi nghe tiếng “té” thì bấm nút thả bom! Dễ ợt! Ấy thế mà lắm anh, ngày còn học bay thả bom BOBS với mấy quả bom giả bằng cẳng tay ở Căn Cứ Không Quân New England, Tiểu Bang Louisana mà ném vào mục tiêu còn cà trật cà duột! Bỗng nhiên bầu trời nổi lên từng điểm khói trắng nổ tỏa ra như mây cumulus, và đoàn bay hô “Break!” Quái ác thay, máy vô tuyến của tôi bị trở ngại, không còn liên lạc được với ai. Mọi người đã rời vùng để lấy hướng bay Long An để về đáp ở Cần Thơ, nhưng tôi không biết, và “Phước Inab” cũng hét lên muốn bể bầu trời mà tôi vẫn không nghe âm thanh nào! Toàn bộ hỏa lực của địch lúc này đang nhắm vào tôi, tôi giựt mình thoáng nghĩ nếu không xuống đánh, không đập tan được mục tiêu thì chắc gì mình đã an toàn rời vùng, vì kinh nghiệm bao năm qua cho tôi biết thế. “Mãnh hổ nan địch quần hổ,” từ 15 ngàn bộ tôi đang bay cũng là tầm nhắm lý tưởng của các cây súng cao xạ phòng không ngựa trời mà địch đang bắn lên từ khu nhà mái ngói đỏ! Có những quả đạn đỏ lừa xuyên qua tàu tôi trong gang tấc, rồi Cộng quân cứ thế mà nổ, nổ “vô tư!” Nhìn vào cuộc diện chiến trường, kiểm soát lại mọi điều kiện nhiên liệu, hỏa lực của mình đang có và mở hết các khóa an tòan, tôi lao xuống trong khi chờ tiến đến đúng điểm thả bom, thì tôi đã bóp cò hết mấy chục ngàn viên đạn nhắm xuống khu nhà mái ngói đỏ kia. Và khi đạt đúng tầm thả bom, cách mặt đất 3 ngàn bộ, tôi bấm luôn 6 trái rơi trúng mục tiêu! Nhìn lại mục tiêu đang bốc lên với những khối lửa cuồn cuộn, những luồng khói trắng nghi ngút, nhưng những dàn phòng không Việt Cộng sao bỗng dưng hiền lành, im re! Tôi đảo người lấy lại cao độ rồi phi diễn theo bài số 8 (lazy eight maneuver) lượn vòng tăng tốc xóay lên thật đẹp như một con rồng vút cánh tung mây giữa nghìn trùng bao la thơ mộng. Bài học phi diễn này cũng là bài tôi thích nhất từ những ngày còn bay tập ở trường bay Sheppard. Trời Việt Nam là Trời của tôi! Vì không còn vô tuyến để liên lạc, mở radio nghe nhạc cũng không còn, và bỗng dưng tôi thành kẻ câm điếc. An tòan cho tôi hạ cánh, tôi chọn phi trường Biên Hòa để đáp. Tôi làm vòng chờ và thực hiện đúng theo bài học mà mình đã học ở trường bay Hoa Kỳ, bánh hạ cánh cản và xin đáp khẩn cấp theo dấu hiệu đèn báo. Đài kiểm báo của phi trường Biên Hòa đã nhận lệnh theo yêu cầu xin đáp khẩn cấp vì mất liên lạc vô tuyến của tôi, đài trực cuối phi đạo RSU bật đèn, và tôi theo lệnh ánh sáng đèn mà đáp. Tới cuối đường băng, tôi phải ngừng lại theo lệnh của cơ quan an phi điều tra. Sau khi tôi được chứng thực về lỗi kỹ thuật vô tuyến liên lạc, thì tôi lại chịu tra vấn về vụ ném bom xuống trúng mục tiêu. Chính lúc này những câu thẩm vấn của cơ quan điều tra, đã tự trả lời cho tôi nhiều nghi vấn mà tôi suy ra trong lúc còn đang bay trên đường đánh giặc. Mặt khác, vì dù sao tôi cũng đã trải qua kinh nghiệm người trưởng lưới của Hoa Kỳ ở Long Bình năm xưa, nên cũng chẳng lấy gì làm lạ! Nhất là thời buổi nhiễu nhương này. Giữa những phút Cộng Sản Bắc Việt huyênh hoang tấn công miền Nam tự do, Tổng Thống Thiệu đã yêu cầu Hoa Kỳ cho B52 yểm trợ, nhưng không thành. Để dạy cho Việt Cộng bài học, nếu như không có B52, thì cũng có A37 rải bom như B52 vậy. Nhưng kế hoạch đánh Lộc Ninh vào những tháng cuối năm 1974 đã bị bại lộ! Chắc chắn đã có gián điệp làm nội tuyến để ngăn cản trận bom Lộc Ninh, nhưng vô tình đã bị hỏa lực của tôi phá hủy. Tôi được dịp kể lại câu chuyện này với anh em trong Phi Đoàn Thần Báo có sự hiện diện của Đại Tá Ninh, tại San Jose trong dịp Đại Hội Khu Trục ngày 7 tháng 5 năm 2005, rồi sau đó tôi về Việt Nam lôi Phước ra kể tiếp, khiến Phước ôm bụng cười bò giữa chốn chợ cá Trần Quốc Toản, Sài Gòn về bài học điệp viên! Phạm Văn Bản – bài viết chỉnh lại Lynnwood, July 4, 2009 hoiquanphidung.com/showthread.php?26336-Kh%C3%B4ng-T%E1%BA%A1c-L%E1%BB%99c-Ninh
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 13, 2019 1:06:47 GMT 9
Chuyện Cũ ... có thể nào quên ... ?
Nguyễn Ngọc Ngạn
Ðời người, ai cũng có những kỷ niệm, đau thương hay hạnh phúc. Kỷ niệm đôi khi chỉ thoáng qua, mờ nhạt như áng mây bay ngang bầu trời, để lại chút hình ảnh bâng khuâng. Nhưng cũng có khi hết sức sâu đậm, đến nỗi có thể coi là một biến cố, khả dĩ tạo thành khúc rẽ quan trọng cho cuộc đời. Ðó là trường hợp của tôi với câu chuyện xảy ra hơn 20 năm về trước mà giờ này ngồi ghi lại, tôi vẫn thấy hiển hiện như mới hôm qua... Ngày ấy, miền Nam vừa đổi chủ được 3 năm, tình hình chính trị còn cực kỳ khắt khe. Tôi ở trại cải tạo, cầm tờ giấy tha vào giữa năm 78, về trình diện Sở Giáo Dục Thành Phố cho đúng thủ tục, dù biết trước sẽ không được thu nhận trở lại nghề cũ. Không có nghề nghiệp biên chế, tôi chỉ được tạm trú 3 tháng tại Sài Gòn để thu xếp đi vùng kinh tế mới. Thời gian này, miền Nam đang lên cơn sốt về phong trào vượt biên tìm tự do. Những người ở vào hoàn cảnh của tôi, bị công an khu vực theo dõi thường xuyên thì lại càng nôn nóng kiếm đường bỏ trốn. Những người bạn tù chúng tôi ngày ngày đôn đáo gặp nhau, đề tài chính đem ra bàn bạc chỉ xoay quanh mộtchuyện duy nhất là vượt biên. Thời gian trôi qúa nhanh, trong nháy mắt đã hết hạn tạm trú, tôi trở thành kẻ sống lậu không hộ khẩu tại thành phố. Giữa lúc lao đao tuyệt vọng, không biết ngày nào bất ngờ bị bắt lại, thì một hôm em trai tôi giới thiệu cho tôi một đầu cầu qúy giá: đó là ông Ân, một người đàn ông trí thức, tuổi vừa 50, tính tình hiền hoà và đứng đắn. Ông là nhân viên lâu đời của cơ quan viện trợ Hoa Kỳ trước 75, đồng thời góp phần chuyển âm Anh-Pháp cho hãng phim Cosunam ở Sài Gòn. Vì làm ăn chung với em tôi từ sau 75, nên ông có lòng tốt rủ em tôi cùng đi với ông trong chuyến vượt biển bán chính thức vốn dành riêng cho người Hoa đang rầm rộ đăng ký lúc đọ Thông cảm hoàn cảnh bấp bênh của tôi,em tôi giới thiệu tôi với ông, để xem ông có giúp gì được tôi chăng? Ði bán chính thức lúc ấy đắt tiền lắm, vì đang là những đợt đầụ Có người nộp tới 12 hoặc 14 cây vàng, vì phải qua nhiều trung gian. Còn gía trung bình thì ít ra cũng phải 10 lượng một ngườị Tôi mới ở tù ra, làm gì có số tiền khổng lồ ấy! Bà xã tôi bận con nhỏ -- khi tôi đi tù thì cháu mới hơn 1 tuổi -- cho nên chỉ buôn bán vớ vẩn, đủ nuôi con và tiếp tế cho chồng là giỏi lắm rồị Số vốn ít ỏi của vợ tôi lại cứ vơi dần sau mấy chuyến đi chui bất thành. Con đường bán chính thức mua vé bằng cả chục lượng vàng, là điều vượt qúa sự kỳ vọng của tôi, trừ khi có một phép lạ! Vậy mà phép lạ dường như đang xảy đến! Hôm ấy, một buổi tối khoảng đầu tháng 11, gia đình em tôi đưa tôi lại quán bò bảy món Duyên Mai bên Chi Lăng, để gặp ông Ân lần đầu tiên. Tôi lúc này đang trốn chui trốn nhủi vì đã hết hạn nộp hộ khẩu từ lâu, phải xoay đủ mọi thứ giấy tờ lao động để qua mặt công an khu vực, nấn ná lưu lại thành phố được ngày nào hay ngày nấy. Trước năm 75, tôi có dạy một ít giờ tại 2 trường tư thục Công giáo là trung học Quang Minh ở nhà thờ Vinh Sơn đường Trần Quốc Toản, và trung học Saint Thomas trên đường Trương Minh Giảng. Khi tôi ở trại cải tạo về, công an có gọi tôi ra và thẩm vấn về quan hệ của tôi với hai vị linh mục này. Có thể đó chỉ là những câu hỏi thủ tục về lý lịch, nhưng cũng làm tôi hết sức lo sợ, bởi xã hội không có luật pháp rõ ràng. Một khi công an nghi ngờ, thì sớm muộn gì cũng vào tù. Bởi vậy, tôi càng nôn nóng muốn trốn đi. Tối hôm ấy, gặp ông Ân ở nhà hàng, tôi bàng hoàng xúc động khi ông cho biết ông sẵn lòng đóng tiền cho vợ chồng tôi đi cùng chuyến với ông và em tôi. Nghĩa là ông cho tôi vay 20 lượng vàng, qua Mỹ đi làm trả lại. Vợ chồng tôi chỉ cần góp 5 lượng cho đứa con mà thôi! Tôi như người đi trên mây, buồn ngủ gặp chiếu manh, không ngờ đời mình có lúc gặp qúi nhân dễ dàng như thế này! Dĩ nhiên, qua trung gian em trai tôi, ông Ân mới dám tin là tôi sẽ trả ông sau khi đến Hoa Kỳ. Nhưng dù sao đi nữa, việc ông giúp một người xa lạ như tôi, trong hoàn cảnh này, phải coi là một phép lạ mà tôi không mường tượng trước được, nhất là ở thời kỳ gạo châu củi quế năm 78. Bà Ân ngồi cạnh chồng chỉ cười hiền hoà không có ý kiến gi. Lúc đó bà 39 tuổi, thua chồng hơn 10 tuổi. Sáu đứa con, đứa nào cũng xinh xắn và ngoan hiền. Sau đó, tôi còn được biết thêm. Ông Ân cho tới 18 người vay tiền đi, tổng cộng là gần 200 lượng vàng! Những ngày hồi hộp trôi qua rất chậm, tôi nôn nóng chỉ sợ chuyện bất trắc xẩy ra trước khi lên đường. Tôi vẫn hăng hái tham gia công tác thủy lợi tại địa phương, hoặc tự nguyện dạy lớp bổ túc văn hóa ban đêm trong tổ dân phố, để tránh sự chú ý của công an khu vực. Song song với những việc đó, tôi âm thầm mua giấy tờ, lấy tên giả, học nói dăm câu tiếng Hoa, và cuối cùng ra đi vào một ngày cuối năm khi sóng biển đang gầm thét dữ dội ngoài khơi. Khi những chiếc ghe nhỏ đưa người ra thuyền lớn ở Kiến Hòa, thì một chuyện bất ngờ xảy ra: công an cùng với chủ ghe đọc danh sách lên tầu, và quyết định bỏ lại 17 người đã đóng tiền, trong đó có toàn bộ gia đình em trai tôi gồm 4 người. Em trai tôi là người giới thiệu tôi đi, vậy mà phút chót lại bị ở lại! Tôi lên tầu, hết sức hoang mang, ngờ ngợ linh cảm trước là sẽ có chuyện chẳng lành trên cuộc hành trình đầy sóng gió sắp tới. Tầu đi bán chính thức chỉ được một lợi thế là không sợ bị bắt ở bến hẹn, nhưng luôn luôn chở qúa trọng tải, có chuyến vừa ra tới cửa biển đã chìm. Chiếc thuyền gỗ tôi đi nom rất mong manh, mà chủ tầu và công an chất lên tới hơn 300 người, cố nhét càng nhiều càng tốt để thu vàng tối đa. Họ gạch tên bỏ lại 17 người, để thay vào bằng những hành khách khác bằng lòng nộp nhiều vàng hơn. Ðây là loại tầu đánh cá có hầm chứa nước đá để ướp cá, bây giờ được dọn sạch để đưa người vượt biển. Hơn 100 nguời đàn ông chúng tôi bị dồn xuống hầm, cấm không được leo lên, và chỉ có mỗi cái cửa vuông ở giữa tầu để ngày ngày bên trên ném thức ăn xuống. Ðàn bà con nít thì được ngồi ở tầng trên cùng với thân nhân của chủ tầu và tài công. Có nghĩa là từ lúc bước chân xuống tầu, tôi không được liên lạc với vợ con nữa. Tôi không biết, trong số hơn 100 người đàn ông ngồi dưới hầm tầu, có bao nhiêu người Việt; chỉ nghe tiếng chuyện vãn chung quanh toàn là tiếng Hoa. Ông Ân với 3 cậu con trai tuổi từ 14 tới 18, ngồi dưới hầm bên cạnh tôi. Vợ ông cùng cô con gái đầu lòng 19 tuổi, đứa áp út 13 và đứa con út 3 tuổi ở trên boong cùng với vợ con tôi .Vì là người Việt, không dám tranh cãi với đại đa số người Hoa, chúng tôi bị dồn vào cuối hầm tầu, ngồi chịu trận tại chỗ, nước lúc nào cũng ngập từ thắt lưng trở xuống, và có khi lên tới ngực. Thức ăn cũng ít khi đến lượt mình, vì những người ngồi gần cửa lấy hết, lâu lâu mới quẳng vô phía chúng tôi cái bánh tét hay ổ bánh mì đã cứng như thanh củị Tuy vậy, ai cũng tự an ủi là cuộc hành trình sẽ không lâu, cố gắng chịu đựng vài ngày là tới bến, tha hồ thong dong. Sang đến ngày thứ tư, rồi thứ năm, tất cả đều mệt mỏi vì con thuyền nhỏ bị sóng nhồi liên tục. Nước biển rỉ vào hầm tầu mỗi lúc một nhiều hơn, mà chẳng ai buồn múc từng thùng đổ ra ngoài như hai hôm đầu. Chỗ tôi ngồi càng ngày càng thê thảm hơn. Nước ngập tới ngực, mà rác rến lại nổi lềnh bềnh chung quanh, Lá bánh chưng bánh tét, vỏ quít, vỏ bưởi cùng các thứ linh tinh không tên, trôi vật vờ, chẳng ai thèm vớt mà đem quăng xuống biển. Vì quá chật chội, di chuyển rất khó khăn, nên ai cũng ngồi lì tại chỗ, đứng lên không nổi, đi tiểu luôn chỗ mình ngồi cho tiện. Trong hầm tầu, chúng tôi mất hết ý niệm thời gian, không ngày hay đêm, cũng chẳng biết tầu đang chạy hay đứng tại chỗ. Ðến ngày thứ năm, vì nóng bức qúa, có người ngộp thở ngất xỉu dưới hầm, tài công mới cho khoét một cái lỗ vuông mỗi bề hơn một gang tay ngay trên đầu tôi, nghĩa là phía dưới tầu, để lấy không khí từ trên lùa xuống cho hơn 100 người phía dướị Vị ân nhân của tôi, ông Ân và các con, lúc đầu còn nói chuyện với tôi, sau mệt qúa, ai cũng nhắm mắt dựa vào nhau mà sống cho qua cuộc hành trình dài lê thê. Bước sang ngày thứ bảy, buổi sáng tinh mơ, chắc chưa đến 6 giờ, tôi đang thiu thiu ngủ, thì nghe có tiếng gọi nhỏ: - Anh Ngạn, Anh Ngạn ơi! Tôi giật mình ngơ ngác ngước nhìn lên, thì thấy bà xã tôi thò mặt qua cái lô thông hơi để tìm tôi. Tôi không nhận ra mặt vợ tôi vì trời còn tối thẳm, nhưng nhờ giọng nói tôi biết vợ tôi cần gặp tôi có chuyện khẩn cấp. Tôi hồi hộp tìm cách đứng dậỵ Tàu chật ních, lại thêm đã gần một tuần ngồi một chỗ, hai chân tê cứng dưới lớp nước mặn, tôi loanh quanh khá lâu mới đứng lên được. May cho tôi là quanh tôi mọi người còn đang ngủ cả. Chứ nếu họ thức thì tôi khó lòng di chuyển, vì họ sẽ lôi lại và dí đầu tôi bắt ngồi xuống. Bà xã tôi giục nho nhỏ: - Lên đi anh! Lên đại đi! Chui lỗ thông hơi này lên đi! Tôi lo lắng nhìn quanh. Lúc ấy tôi còn gầy yếu lắm. Thời gian ở trại cải tạo bị sốt rét nặng, kéo dài 21 ngày, bước đi phải nhờ người vịn, bạn bè cùng tổ cứ tưởng tôi là sắp phải đem tôi đi chôn trên đồi tranh ở Bù Gia Mập. Giờ này vượt biển, tôi vẫn chưa lại sức, mới chỉ lên cân được chút ít. Nhà tôi lại bảo: - Ðêm qua bão lớn. Cái áo của con bị rách tung rồi bay mất. Nó phải cởi trần cả đêm lạnh tím cả ngườị Anh lên một chút đi! Nghe nhắc đến đứa con hơn 4 tuổi, tôi vùng đứng lên, bước đại qua vào người đang ngồi ngủ, rồi chui liền lên, cái lỗ nhỏ, phải lách người khó khăn, làm trầy sứt cả hai vai, nhưng tôi không có cảm giác gì lúc đó. Từ hôm lên tầu, tôi vẫn mặc cái jacket nylon của Không Quân ngày trước và chiếc quần tây màu vàng đục. Lúc ngồi, dĩ nhiên phải cởi hết nút quần, kéo fermeture xuống cho thoải mái. Bâygiờ đứng dậy, vội vã dùng hai tay đu lên khỏi hầm tầu, có người nào đó đã nắm ống quần tôi kéo lại, làm tôi chỉ còn mỗi cái quần đùi khi lên tới tầng trên. Trời mưa không nặng hạt lắm, nhưng gió biển thổi phần phật trong không gian mờ tối. Tôi cúi xuống ôm đứa con đang run cằm cặp. Nhà tôi ưu tư bảo: - Tầu sắp đắm mất, anh ạ! Tôi đảo mắt nhìn quanh sau sáu ngày bảy đêm chui trong bóng tối dưới hầm. Chỉ một phút sau, tôi nhận ra ngay là mình sắp chết! Vợ tôi nói đúng. Là bởi vì, khi ở dưới hầm, tôi cứ tưởng tầu đang chạỵ Hóa ra tầu bị bỏ neo đậu tại chỗ suốt cả đêm rồi, mặc cho gió mưa và sóng dữ cuối năm vùi dập. Tuy cùng ở trên tầu, nhưng những tin tức bên trên không được thông báo cho người dưới hầm biết, sợ gây cảnh náo loạn, dẵm đạp lên nhau. Bởi vậy, tôi hoàn toàn không biết gì cả, cho đến bây giờ leo lên mới thấy kinh hoàng, Tôi nhìn lại phía buồng máy. Một cảnh tượng hãi hùng và thê lương: không có tài công, không có người phụ máy. Chiếc tầu không người lái cứ bập bềnh nghiêng ngửa theo từng đợt sóng khổng lồ đưa vào, đẩy ra, phó mặc sinh mạng mấy trăm người cho đại dương. Với sức sóng như thế này, tôi biết chắc tầu sắp vơ. Ðàn bà con nít, nguời đứng người ngồi lố nhố, quên cả cái ướt lạnh, nhớn nhác hỏi nhau, không biết phải làm gì trong hoàn cảnh tuyệt vọng nàỵ Bà xã tôi bảo: - Tài công bỏ tầu từ nửa đêm rồi! Bấy giờ tôi mới hiểu đầu đuôi câu chuyện. Ðêm qua, khi thuyền chúng tôi vào còn cách bờ Mã Lai khoảng nửa cây số, thì có tầu cảnh sát Mã Lai ra đuổi. Rồi họ dựng mấy cây đại liên và đèn pha trên bờ bắn ra xối xa. Mười mấy người tài công cùng với thân nhân chủ ghe đeo phao nhảy xuống bơi vào, nói là để điều đình rồi sẽ ra đưa tầu vô. Nhưng rồi họ đi luôn, không ai trở lại! Người ngoài khơi cứ đợị Người đã lên bờ thì bỏ mặc. Ðàn bà con nít trên boong không ai biết lái tầụ. Hơn 100 người ngồi dưới hầm thì tưởng tầu vẫn đang chạy bình thường! Tôi biết mình sắp chết, nhưng cố làm ra vẻ bình tĩnh bảo con tôi: - Con ơi! Ðằng nào tầu cũng sắp chìm. Bây giờ con ôm lấy cổ ba, để ba nhảy xuống biển khơi, bơi vào... Tôi không biết bơi. Mà có biết thì cũng không còn sức, bởi bờ ở qúa xa, tôi cố nhướng mắt nhìn mà chỉ thấy lờ mờ trong mưa. Ðứa con trai hơn 4 tuổi, quấn chiếc khăn quanh người ướt đẫm từ đầu xuống chân, run lẩy bẩy nhìn tôi im lặng gật đầu. Dường như nó cũng linh cảm thấy chuyện chẳng lành sắp đến, cho nên chỉ nhìn tôi chia sẻ. Quanh tôi, có vài cái bình nylon đựng nước ngọt đã uống hết, nằm lăn lóc trên sàn. Tôi nắm bàn tay lạnh ngắt của vợ tôi và bảo: - Em lấy cái bình nylon, ôm vào người rồi nhảy xuống. May ra sóng đánh vào bờ! Thà nhẩy xuống trước, chứ để tầu vỡ thì khó lòng mà sống được, vì cả trăm người sẽ níu chặt lấy nhau và cùng chết hết! Vợ tôi nhìn tôi bằng ánh mắt ly biệt, đưa tay làm dấu đọc kinh. Tôi và con trai tôi cũng làm dấu Thánh giá và cầu xin Chúa che chở trong cơn nguy khốn. Tôi vừa đưa cho vợ tôi cái bình nylon, chưa kịp nói gì thêm thì một đợt sóng vĩ đại ấp tới, làm chiếc tầu lật ngang, vỡ tung buồng lái ở tầng trên. Tiếng người đồng thanh kêu ru lên, bị tiếng gầm của sóng át đi Buồng máy, kính cửa sổ, mui tầu, mái gỗ bọc tôn và bao nhiêu thứ ngổn ngang trên tầu đều rụng hết xuống biển, kéo theo qúa nửa hành khách gồm đàn bà và trẻ em. Tôi té lăn trên sàn tầu trong khối nước mặn khổng lồ vừa ập tới, đôi tay quờ quạng bám víu bất cứ thứ gì để sống còn. Từ giây phút ấy, tôi không còn nhìn lại được vợ tôi lần nào nữa! Ðứa con tôi cũng vuột khỏi tay tôi và văng xuống biển. Tôi níu được một sợi giây nào đó trên tầu, nên chỉ bị văng mất đôi mắt kính cứ chưa rơi hẳn xuống nước. Nhưng ngay sau đó, tôi chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp đứng vững thì lớp sóng khổng lồ vừa đẩy vô bờ, lại rút ra mạnh hơn, làm tầu lật ngang một lần nữa ra phía ngoài, và lần này trên boong tầu không còn sót lại một ai. Tất cả đều rụng xuống biển. Những lớp ván, lớp kính và những gì chưa vỡ qua đợt sóng trước, lần này tan tành hết. Nhưng đau đớn hơn cả là chiều tầu chìm dần xuống đáy biển mà hầm tầu lại chưa bể, cho nên hơn 100 người đàn ông ngồi với tôi suốt tuần lễ vừa qua, đều chết ngộp hết trong hầm, trong đó có cả cha con ông Ân, người đã đóng tiền cho gia đình tôi đi! Tôi rớt xuống biển, cố gắng vùng vẫy theo bản năng sinh tồn, mặc dầu không biết bơi. Trên mặt biển bao la, sóng nhồi khủng khiếp, tôi thấy từng mảng gỗ thật lớn của ván tầu, rồi thùng phuy, va li, nồi niêu, áo quần, thùng gạo và hàng chục thứ đồ lặt vặt khác trôi nổi theo triền sóng, đôi khi lao vào mặt mình. Ðàn bà con nít ngụp lên lặn xuống, bán lấy nhau mà cùng chết. Tôi uống no nước, chìm sâu xuống, đụng phải bao nhiêu xác người còn bấu chặt không rời nhau. Tôi nín hơi ngoi lên được một chút để thở, rồi lại bị sóng cuốn đi không định được phương hướng. Là người Công giáo trong lúc lâm chung, tôi cố gắng đọc kinh sám hối để chuẩn bị lìa đời. Ðọc kinh, nhưng không cầm trí tập trung được... Tôi uất ức lắm, bởi thấy mình chết tức tưởi ở tuổi 32 sau khi đã kình qua bao nhiêu năm gian khổ. Ngày còn trong quân đội, mấy năm tác chiến, tôi đã kề cận tử thần mà tại sao không chết ngay trên chiến trường cho xong? Tôi nhớ một lần khi ở trại cải tạo Sông Bé, ôi lại bị sốt rét nặng nề đến kiệt sức, tưởng không còn sống nổi tới ngày được tha về. Vậy mà cũng không sao! tôi uất ức tự hỏi tại sao vược iển gần đến nơi thì lại chết? Thế rồi tôi uống no nước, đuối sức không ùng vẫy nổi, đành buông xuôi tay chìm xuống đáy bể, không biết gì nữa! Khi tôi tỉnh lại trên bờ, thấy mình nằm sấp trên đống xác chết ngổn gang. Nước ộc từ trong bụng ra giúp tôi hồi sinh. Tôi mơ màng tưởng ình đang nằm chiêm baọ. Ðứa con trai 13 tuổi của ông Ân chạy lại lôi ôi dậy và nói: - Chú Ngạn ơi! Tỉnh dậy! Tỉnh dậy! Ðắm tầu, chú Ngạn ơi! Tôi ngơ ngác nhìn nó, chưa nhận ra ai bởi qúa đuối sức và vì không có mắt kính. Thằng bé lay tôi và nhắc lại: - Chú Ngạn ơi! Ðắm tầu! Ba cháu, chị cháu với 3 người anh của cháu chết hết rồi! Vợ chú với con chú cũng chết cả rồi! Tôi vùng đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh. Lính Mã Lai đang quây những gười sống sót vào gốc dừa. Họ cũng như tôi là những người được sóng đẩy vào bờ và may mắn thoát khỏi tử thần. Nhưng họ không được phép cứu những người bị ngộp nước như tôi. Nếu ược cấp cứu, tôi tin chắc trong đám người nằm kia, ít lắm cũng có cả chục người sống dậy. Lính Mã Lai không cho cứu là bởi vì những kẻ xa lạ và bất nhân ấy dang lột quần áo người chết để lấy vàng và dollars giấu trong gấu quần, gấu áo, cổ áo, vạt áo. Moi của xong, họ lôi xác chết tập trung ại một chỗ chở xe mang đi chôn tập thể. Tôi từ gốc dừa bò tới, tìm trong đám 97 cái xác, thấy con trai tôi đã chết hẳn. Tôi bế cháu lên và nhận ra ván tầu hoặc ghềnh đá đã đánh vỡ trán con tôi, còn để lại một vệt dài thật rõ. Còn vợ tôi thì sóng biển đánh trôi đi mất, không tìm dược xác! Mọi chuyện diễn ra chỉ trong chớp nhoáng. Ngoài kia, biển vẫn ầm ầm gào hét, chỉ thấy sóng xô chập chùng, không còn dấu tích gì của chiếc thuyền định mệnh. Hôm sau, từ trại tạm cư, chúng tôi được đưa trở lại bãi biển, thả bộ dọc xuống hướng Thái Lan, tìm thêm được một số xác chết nữa, nhưng cũng không thấy vợ tôi. Tổng số 161 người chết, chỉ vào bờ được khoảng 100 cái xác, phần còn lại bị sóng đưa đi mất tích. Có hai nhà sư Mã Lai gốc Hoa đem vải và nhang đến làm lễ cầu siêu trước khi lính Mã Lai đem chôn tập thể. Trên bãi biển Mã Lai dài thăm thẳm tôi dừng chân, ngồi dưới hàng dừa trông ra đại dương, nao nao mường tượng lại chặng đường đã qua. Nhớ những buổi sáng Chúa Nhật vợ tôi lên thăm ở Khu Tiếp Tân trường Bộ Binh Thủ Ðức. Rồi những lần từ thành phố xuống miền Tây chờ tôi ở hậu cứ tiểu đoàn. Khi sinh con đầu lòng, tôi từ đơn vị hành quân, không kịp thay quân phục, vội vã đón xe về thăm ở bảo sanh viện Ðức Chính trên đường Cao Thắng. Nhớ hơn nữa là những lần vợ tôi gánh quả nặng trĩu đi tiếp tế cho tôi trong trại cải tạo, băng ngang 17 cây số đường rừng từ thị xã Phước Bình vào Bù Gia Mập. Tất cả đều đã qua đi, chỉ còn lại mặt nước mênh mông xanh thẳm trước mặt, từng cuốn mất bao nhiêu xác người đồng hương trên hành trình tìm tự do! Vợ tôi mất đi ở tuổi 26, sau những tháng ngày vất vả vì chồng. Lấy tôi khi tôi đã vào quân đội, thường xuyên xa nhà, vợ tôi cũng giống như bao nhiêu người đàn bà khác trong thời khói lửa, chẳng mấy khi được gần chồng. Khi tôi được biệt phái về lại Bộ Giáo Dục, dạy học tại Sài Gòn, đã tưởng vợ chồng có thể sống đời dân sự yên ổn lâu dài, nào ngờ chỉ hơn một năm sau thì mất nước, bắt đầu cuộc sống mới lao đao gấp bội. Ðoạn đường trầm luân ấy, có ngờ đâu rút cuộc lại kết thúc bi thảm bằng cái chết trên đại dương cùng với đứa con đầu lòng hơn 4 tuổi! Tôi tin chắc cái chết của vợ tôi đã làm thay đổi hẳn cuộc sống của tôi. Nếu nói theo niềm tin thiêng liêng, thì chính vợ tôi đã cứu tôi vào phút chót, trước khi đắm tầu. Bằng chứng là hơn 100 người đàn ông ngồi chung với tôi dưới hầm tầu đều chết cả vì ngộp nước. Em tôi -- người giới thiệu tôi cho ông Ân -- nếu đi cùng tôi chuyến ấy, chắc chắn cũng đã bỏ xác trên đại dương. Nhờ bị bỏ lại, nửa năm sau, em tôi cùng gia đình vượt biển thành công và gặp lại tôi tại Vancouver, Canada vào giữa năm 80. Bà Ân và hai đứa con nhỏ được sóng đánh vào bờ thoát chết, đi định cư ở Texas, tôi vẫn liên lạc cho đến khi trả xong 20 lượng vàng chồng bà cho tôi vay. Biến cố hãi hùng của chuyến tầu định mệnh làm tôi càng vững tin rằng đời người có sự sắp đặt của định mệnh, hay nói theo đức tin Công giáo, thì đó là sự an bài của Thiên Chúa. Còn đó rồi mất đó! Kiếp người mong manh như chiếc bách giữa dòng, cho nên các cụ ngày xưa thường ví là cuộc phù thế nhân sinh. Vợ con tôi chết trước mặt tôi. Hơn 160 người chết ngay bên cạnh tôi. Mà một kẻ yếu đuối như tôi lại sống sót! Ðó phải là quyền năng của Thiên Chúa chưa muốn tôi lìa trần. Lúc ngồi trên tầu, ông Ân thường tâm sự với tôi: những ngày gần mất nước, gia đình ông đã có thể đi Mỹ dễ dàng, bởi ông làm việc cho cơ quan viện trợ Hoa Kỳ suốt hai mươi năm. Nhưng ông thấy mình tuổi đã lớn, muốn ở lại quê nhà khi đất nước hết chiến chinh, nên ông từ khước quyền lợi di tản mà người Mỹ dành cho ông. Ba năm sau, đất nước qúa lầm than, mà chiến tranh vẫn không dứt. Các con ông chuẩn bị bước vào tuổi nghĩa vụ quân sự phục vụ cuộc xâm lăng Kampuchia, thúc đẩy ông phải ra đi. Năm 75 ông từ chối di tản bằng máy bay. Năm 78 ông phải trốn bằng thuyền, để rồi chính bản thân ông cùng với 4 đứa con lớn đều chết cả! Có thể do những suy nghĩ về cuộc đời sau chuyến hải hành khủng khiếp mà tôi thoát nạn chỉ trong đường tơ kẽ tóc, tôi bắt đầu có những thay đổi lớn trong tâm tư. Tôi trở nên dễ tính, ít chấp nhất và không nuôi lòng thù ghét với bất cứ ai. Tôi tâm nguyện rằng cuộc đời mình, hễ làm được điều gì cho cộng đồng, cho xã hội, cho tha nhân, tôi đều cố gắng để đền đáp lại phép lạ của Chúa đã cứu tôi trên biển. Những ngày trống vắng ở trại tị nạn Mã lai chờ đi định cư, tôi suy nghĩ nhiều về nửa thế kỷ trầm luân của đất nước, và nhận ra một điều đơn giản rằng: trong xã hội Việt Nam người đàn bà mới chính là thành phần chịu nhiều gian truân nhất, thời chiến tranh cũng như thời hậu chiến. Cảm thông cái thực tế chua xót ấy, cùng với nỗi nhớ thương người vợ mới mất, tôi bắt đầu viết truyện dài "Những người đàn bà còn ở lại" trong 3 tháng ở trại tạm cư. Cuốn sách đầu tiên ấy, tuy kỹ thuật chưa cao, nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc. Nó là bậc thềm thứ nhất, là nấc thang khởi đầu, để rồi từ đó đến nay tôi đã có được gần 30 tác phẩm xuất bản. Hai mươi năm đã qua, trên mặt báo chí Việt ngữ, tôi chưa hề viết lại những dòng này để mô tả tỉ mỉ cái chết của vợ tôi với đứa con đầu lòng. Tuy vậy, từ thâm sâu, tôi vẫn tin chắc một điều rằng: chính cái chết của vợ tôi đã mở ra cho tôi một cánh cửa mới tôi chưa hề dự trù trong qúa khứ. Ðó là thế giới văn chương mà tôi miệt mài theo đuổi cho đến hôm nay. Nguyễn Ngọc Ngạn
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 9, 2020 19:10:29 GMT 9
HOÀNG XUÂN HÃN VÀ TÂM THƯ CỦA PHONG TRÀO VIỆT KIỀU
Lê Học Lãnh Vân
Nhân dịp anh chị Nguyễn Ngọc Giao – Phạm Tư Thanh Thiện về thăm Việt Nam đầu năm 2020, xin được kể một câu chuyện ba mươi năm xưa…
Nửa sau thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 là khoảng thời gian rất thú vị và hào hứng của đời tôi. Khoảng thời gian đó cũng trùng hợp với thời gian Hội Người Việt Nam Tại Pháp hoạt động với nhiều hứng khởi. Nhà Việt Nam, một cơ sở sinh hoạt văn hoá của phong trào Việt kiều, tổ chức mời các người nổi tiếng thuộc giới trí thức, văn nghệ sĩ trong nước sang thăm Paris và gặp gỡ Việt kiều. Các vị như nhà sử học Phan Huy Lê, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhà văn Nguyễn Quang Sáng… tham gia những chuyến đi này. Những năm 1986-1989 Việt Nam nổi lên như một nước tiến bộ, cải cách hàng đầu trong khối các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Và trong thực tế đã có lúc Việt Nam tiến rất gần tới nền báo chí tư nhân.
Viện Bảo Tàng Lịch Sử Tự Nhiên Paris cộng tác với các trường đại học, viện nghiên cứu tại Hung, Tiệp, Ba Lan… lúc đó còn trong khối Đông Âu xã hội chủ nghĩa. Trong các chuyến đi làm việc tại các nước đó, các người tôi tiếp xúc đều tỏ ý tán thưởng tốc độ cải cách của Việt Nam. Tuy nhiên cùng với sự sụp đổ hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa Đông Âu với cái chết vi bị xử tử của tổng thống Ru-ma-ni Ceaucescu, giới cầm quyền Việt Nam siết dần lại các quyền tự do căn bản của người dân vốn trước đó được ban phát một cách tương đối hào phóng so với một chính thể chuyên chính. Việc siết lại này khép dần lại các hy vọng về một tương lai Việt Nam phát triển thông qua những cải cách dứt khoát về hướng thiết lập chế độ dân chủ tự do thực sự. Trong hoàn cảnh đó các phong trào người Việt trong nước và ngoài nước viết thơ góp ý, lập kiến nghị gởi nhà cầm quyền Việt Nam yêu cầu cải tổ xã hội, mở rộng dân chủ. Những tên tuổi đáng chú ý từ trong nước có nhà văn Lữ Phương, giáo sư Phan Đình Diệu, nhà văn Dương Thu Hương… Phong trào trong nước có ảnh hưởng mạnh và được sự ủng hộ của ông Trần Xuân Bách, một thành viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam bị mất chức sau đó. Bên ngoài nước thì có Hội Người Việt Nam Tại Pháp - ủng hộ Hà Nội, với tờ báo Đoàn Kết (do các ông Nguyễn Ngọc Giao, Hà Dương Tường, Trần Hải Hạc… điều hành), một tờ báo ôn hòa xây dựng và phê bình những thiếu sót trong việc quản trị đất nước, thảo luận đường hướng canh tân.
Những ngày tháng này, đầu năm 1990, một số thành viên chủ chốt của tờ Đoàn kết và một số bạn bè cùng ý hướng ở hải ngoại cũng soạn một bức TÂM THƯ (*) Gửi Các Vị Lãnh Đạo Việt Nam Cùng Đồng Bào Trong Và Ngoài Nước Về Việc Cải Tổ Hệ Thống Chính Trị. Chú ý rằng chủ trương Tâm Thư là các anh báo Đoàn Kết chứ không phải là Hội Người Việt Nam Tại Pháp, điều này về sau tôi mới biết. Bác Hoàng Xuân Hãn không ký tên vào Tâm Thư.
Bác Hoàng Xuân Hãn là một Việt kiều tại Pháp được nhiều người Việt trong và ngoài nước kính trọng, yêu mến vì kiến thức rộng, cuộc đời tận tụy với công việc, tấm lòng với Tổ Quốc. Tới giờ nhiều người còn nhắc bác đã lãnh đạo việc chuyển đổi thành công nền giáo dục Việt Nam từ dùng tiếng Pháp sang dùng tiếng Việt trong thời gian ngắn ngủi làm bộ trưởng bộ Giáo Dục trong chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945. Căn nhà đường Theophile Gautier, nơi bác ở, là chốn nhiều người Việt yêu thích văn học, sử học, và cả một số nhà chính trị, ghé thăm mỗi khi tới Paris.
Ngày hôm ấy tôi đang đọc sách trong phòng làm việc với bác Hoàng Xuân Hãn. Có người báo có khách. Bác Hãn đi ra khoảng 40-50 phút sau trở lại, nói các anh trong hội tới thăm bác. “Các anh Đoàn Kết nói bác ký Tâm Thư, nhưng bác không ký”. Các anh Đoàn Kết là các anh chủ trương báo Đoàn Kết.
Bác giải thích lý do:
“Các anh ấy có nhiệt huyết, có kiến thức, tính khí đang hăng hái, nghĩ rằng mình đúng, việc mình làm có lợi cho đất nước thì mình gây phong trào làm áp lực lên chính phủ Việt Nam. Các anh ấy không tính rằng chính phủ trong nước đang nới lỏng kiểm soát, cho dân chúng hưởng một số quyền tự do, nếu mình làm quá chính quyền vì e sợ sẽ siết lại, lúc đó quốc dân bên trong phải gánh chịu hậu quả. Mình ở ngoài nước có chịu gì đâu!”
Lúc đó tôi không hỏi các anh gồm những ai. Vài năm sau đó, khi muốn viết lại mới hối hận. Năm 2017 gặp anh Trần Hải Hạc, anh nói anh không tham gia buổi làm việc tại nhà bác Hãn. “Có lẽ có các anh Nguyễn Ngọc Giao, Bùi Mộng Hùng”, anh Hạc nhớ lại. Mồng 6 tháng giêng Tết Canh Tý năm nay (30/1/2020), tôi có dịp dùng cơm chiều thân mật với anh chị Nguyễn Ngọc Giao - Phạm Tư Thanh Thiện, những Việt Kiều tại Pháp rất xông xáo nhiệt thành với đất nước từ hơn nửa thế kỷ trước, được nghe anh Nguyễn Ngọc Giao xác định anh cùng hai anh nữa là những người làm việc với bác Hãn năm ấy.
Anh Giao cũng cho biết thêm: “Sau cuộc gặp ở nhà bác Hãn, còn có nhiều cuộc điện thoại bác gọi cho tôi. Bác không ký Tâm Thư (trong khi hai người bạn vong niên của bác là ông Nguyễn Mạnh Hà và Phạm Ngọc Thuần đêu ký) nhưng nói với tôi : Bác sẽ viết thư riêng cho các anh trong nước để giải thích ý nguyện của các cháu và anh em khi ký tâm thư, và mong rằng các anh ấy sẽ có thái độ thích đáng. “Các anh” ấy là hai ông Lê Đức Thọ và Phạm Văn Đồng. Khi nhận được hồi âm của hai vị ấy, bác Hãn có điện cho tôi và đọc toàn văn hai lá thư ngắn của họ, đại ý nói hiểu “ý đồ” của tâm thư, và sẽ xử sự một cách “hiểu biết””. Tuy nhiên, trong một thời gian khá lâu sau đó, anh Giao không được cấp visa trở về Việt Nam.
Hơn ba mươi năm trôi vèo. Nhớ ngày gặp các anh ở Paris, dù làm việc cho trường đại học, viện nghiên cứu Pháp, nhiều anh vẫn chỉ ở một căn hộ nhỏ, một cái tủ, một cái giường, một chiếc bản làm việc. “Để tiện, khi đất nước cần mình thu xếp trở về nhẹ nhàng!”. Nhớ bác Hãn cặm cụi bên chồng sách tài liệu về Việt Nam, bàn tay chậm chạp dò từng trang với chiếc kính phóng đại… Và nhớ cả căn biệt thự của bác tại Trouville bên bờ biển Manche, được bác đặt tên Pháp là Manoir d’Aubonne, tên Việt là Cam Tuyền Dã Thự. Khi dạo bước trên con đường trải đá mi xanh từ cổng vào, lá vàng chớm thu 1989 lượn bay, tôi hỏi bác có tính về Việt Nam không.
“Tôi không về đâu. Tôi không còn có ích lợi nữa. Nhiều bạn tôi mất rồi. Nhiều người trong dòng họ cũng vậy!”
Lê Học Lãnh Vân (ngày 10 tháng 02 năm 2020 )
TÂM THƯ gửi các vị lãnh đạo Việt Nam cùng đồng bào trong và ngoài nước về việc cải tổ hệ thống chính trị Cách đây 20 năm, bản TÂM THƯ gửi các vị lãnh đạo Việt Nam cùng đồng bào trong và ngoài nước về việc cải tổ hệ thống chính trị (sau này vẫn được biết dưới tên gọi ngắn là TÂM THƯ) đã được công bố, với hơn 700 chữ ký của những người đã tham gia phong trào ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Úc ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất, chống chính sách xâm lược của Hoa Kỳ ở Việt Nam.
Ở thời điểm mùa xuân năm 1990, khối Đông Âu sụp đổ, phong trào dân chủ ở Trung Quốc đã bị đàn áp đẫm máu ở Thiên An Môn. Ở Việt Nam, lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam hoảng sợ, kìm hãm cuộc đổi mới và đàn áp những tiếng nói dân chủ, phần lớn xuất phát từ trong nội bộ Đảng.
Ở nước ngoài, các tổ chức chống đối phấn khởi hi vọng vào sự sụp đổ nhanh chóng của chính quyền Việt Nam và Đảng cộng sản. Những tổ chức trước đó chủ trương vũ trang lật đổ nay tuyên bố chọn con đường hòa bình dân chủ.
Nhiều tuyên ngôn, tuyên cáo, hiệu triệu được phổ biến, kêu gọi "chuyển lửa về quê hương".
Ngay trong nội bộ phong trào Việt kiều ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng đã có ít nhất 4 bản tâm thư kêu gọi dân chủ hóa đời sống chính trị Việt Nam, song bản tâm thư mà chúng tôi công bố dưới đây có tiếng vang hơn cả, có lẽ vì nó tập hợp rộng rãi những thành viên tiêu biểu ở các nước, nội dung thể hiện một lập trường chân thành và trách nhiệm, kiên quyết mà ôn hòa.
Trong bối cảnh diễn biến tình hình trong phe các nước xã hội chủ nghĩa và sự hoảng sợ co cụm của lãnh đạo ĐCS VN, bản tâm thư đã gặp phản ứng tiêu cực của nhà cầm quyền -- sự tiêu cực dường như tỉ lệ với tiếng vang của nó trong dư luận, đặc biệt trong nội bộ ĐCS. Những người ký tâm thư hoặc không được cấp visa về nước, hoặc bị cật vấn, hù dọa. Những người được coi là chủ xướng bị theo dõi, cô lập, cấm cửa, có người được nêu tên trong suốt 14 năm trời ở "Viện bảo tàng tội ác Mỹ-ngụy" (đường Võ Văn Tần, TP HCM), danh sách 34 người ký tên đầu tiên (xem ở dưới) được niêm yết ở trụ sở các tỉnh đội và cơ quan công an, nhân viên sứ quán ở nhiều nước (kể cả đại sứ) được chỉ thị ngăn chận đồng bào ký tên hay thúc ép rút tên khỏi tâm thư...
Tuy nhiên, chủ trương mù quáng và thô bạo này không gặp sự đồng tình của cán bộ và đảng viên. Trong chừng mực an toàn cá nhân cho phép, nhiều người (kể cả ở cấp cao nhất) cũng đã kín đáo tỏ thái độ thông cảm, tôn trọng.
Nhân dịp kỷ niệm 20 năm bản Tâm Thư, chúng tôi công bố tài liệu này. Vì nhiều lí do. Trước hết, vì yêu cầu của một số bạn đọc ở trong nước và nước ngoài, bởi một lẽ khá đơn giản (và đáng ngạc nhiên) là nó chưa bao giờ được công bố trên tờ báo nào (Diễn Đàn, hay Đoàn Kết năm 1990, khi ban biên tập Diễn Đàn còn chịu trách nhiệm biên tập báo Đoàn Kết). Thứ nữa, để bản đọc có dịp nhìn lại, đánh giá quan điểm của Tâm Thư, xét xem những ý kiến nêu ra đã lỗi thời, hay vẫn còn là nhu cầu bức thiết của xã hội Việt Nam năm 2010.
Nguyễn Ngọc Giao
Trong vòng không đầy bảy tháng, cuộc đàn áp đẫm máu phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ ở Trung Quốc và sự sụp đổ của chế độ độc tài Ceausescu trước sự vùng dậy của nhân dân Rumani, bất chấp tàn sát, khủng bố, đã chứng minh sự phá sản toàn diện của mô hình xã hội chủ nghĩa do Stalin thiết lập ở Liên Xô từ những năm 1930, trong đó, nhân danh giai cấp vô sản, một cá nhân, một nhóm người hay một đảng phái tự cho mình quyền được đứng trên nhân dân, trên Nhà nước và pháp luật. Hoặc do ý thức rõ được sự phá sản đó hoặc do áp lực của quần chúng, từ mấy năm qua và đặc biết từ mấy tháng nay, hầu hết các đảng cộng sản Đông Âu, bắt đầu là Liên Xô, chính thức hay trong thực tiễn, đã từng bước đoạn tuyệt với chủ nghĩa Stalin và quan niệm chuyên chính vô sản, chấp nhận đối thoại hay hợp tác với những tổ chức khác, kể cả đối lập, cùng nhau xây dựng một nền dân chủ thực sư đa nguyên, nhằm huy động mọi sức lực, mọi tài năng đưa đất nước của họ ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay.
Do những đường lối, chính sách không phù hợp với tình hình thế giới cũng như với thực tế của Việt Nam, nước ta đã bị cô lập về mặt kinh tế cũng như ngoại giao và vẫn chưa thoát ra khỏi cảnh nghèo khó. Đau lòng hơn nữa, cuộc đổi mới khởi động năm 1986 đã bị trì hoãn, bỏ lỡ một cơ may lớn, làm tổn thương lòng tin của nhân dân mới phần nào được phục hồi. Những biến cố vừa xảy ra ở Đông Đức, Tiệp Khắc và nhất là Rumani cho thấy là trong một tình hình chính trị, kinh tế, xã hội bế tắc kéo dài quá lâu, sự thụ động bề ngoài của quần chúng mà sức kiên nhẫn chịu đựng dẫu sao cũng có giới hạn, nhiều khi chỉ là sự bình lặng trước cơn bão lớn. Để tránh cho đất nước khỏi rơi vào thảm kịch Thiên An Môn hay Rumani, trước tiên cần nhận thức rằng không thề dùng đàn áp hay bạo động để giải quyết những vấn đề trầm trọng hiện nay của đất nước mà phải tìm được những phương pháp chính trị thích nghi. Chủ động đổi mới nhanh chóng và cơ bản hệ thống chính trị -- song song với đổi mới kinh tế -- chính là chìa khoá để thoát ra khỏi khủng hoảng, tránh những đổ vỡ cho xã hội ; đó vừa là yêu cầu khách quan cấp bách, vừa là bằng chứng của quyết tâm và thực tâm đổi mới đất nước.
Từ những nhận định nói trên và nghĩ rằng Tổ quốc Việt Nam là của toàn thể nhân dân Việt Nam chứ không phải của riêng ai và nhất là không thể nào đổi mới và xây dựng đất nước nếu không có hoà bình ổn định, chúng tôi, những người ký tên dưới đây, không nhân danh gì khác ngoài lương tâm, lý trí và tình cảm dân tộc của chính mình, kêu gọi các nhà lãnh đạo hiện nay của Việt Nam, vốn đã có công lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước, hãy vì quyền lợi tối cao của dân tộc, sớm cải tổ hệ thống chính trị hiện có bằng cách :
1. thực sự tách rời các định chế của Nhà nước ra khỏi bộ máy chính đảng để cho Nhà nước thu hồi trọn vẹn những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của mình, để cho không một ai cũng như không một tổ chức nào có thể đứng trên và chi phối Nhà nước.
2. thiết lập một nền dân chủ đa nguyên, thực sự bảo đảm an toàn cá nhân và các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, lập đảng... nhằm tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam, không phân biệt quá khứ, chính kiến hay tôn giáo, tham gia luận bàn và, đặc biệt thông qua tuyển cử tự do, làm và kiểm tra việc nước.
3. ngay trước mắt, mở ra cuộc đối thoại thành tâm với toàn thể xã hội, để toàn dân bàn định một cương lĩnh hành động và đề ra những biện pháp cấp bách đặt nền tảng cho một chế độ thực sự lấy dân làm gốc.
Chúng tôi xin gửi tới đồng bào trong nước những tình cảm thiết tha nhất và tin tưởng rằng rằng đồng bào sẽ vượt qua mọi khó khăn, đoàn kết thực hiện công cuộc dân chủ hoá đất nước.
Chúng tôi kêu gọi mọi kiều bào từng băn khoăn, thao thức về tình hình và tương lai của quê hương hãy ký tên ủng hộ bức tâm thư và cùng chúng tôi, trong tinh thần hoà giải hoà hợp dân tộc đich thực, tìm những phương thức hoạt động thích ứng nhằm hỗ trợ đồng bào trong nước xây dựng một xã hội dân chủ, tự do, nhân ái, công bằng và ấm no.
Ngày 22 tháng 1 năm 1990
DANH SÁCH những người ký tên đầu tiên (tháng 1.1990) :
1. Vĩnh Anh (Canada) 2. Lê Văn Cát (Tây Đức) 3. Huỳnh Trí Chánh (Nhật) 4. Nguyễn Văn Chuyển (Nhật) (*) 5. Lê Văn Cường (Pháp) 6. Nguyễn Văn Danh (Ý) 7. Nguyễn Phạm Điền (Úc) 8. Lê Văn Đồng (Berlin) 9. Nguyễn Ngọc Giao (Pháp) 10. Nguyễn Tuệ Hải (Úc) 11. Thái Thị Khánh Hạnh (Canada) 12. Nguyễn Văn Hiền (Bỉ) 13. Nguyễn Đức Hiệp (Úc) 14. Huỳnh Hơn (Berlin) 15. Nguyễn Đăng Hưng (Bỉ) 16. Lê Thành Khôi (Pháp) 17. Đinh Cao Minh (Pháp) 18. Lê Minh (Úc) 19. Lâm Thành Mỹ (Pháp) 20. Lương Châu Phước (Canada) 21. Trần Tử Quán (Ý) (*) 22. Bùi Văn Nam Sơn (Tây Đức) 23. Nguyễn Văn Tạo (Berlin) 24. Lê Văn Tâm (Nhật) 25. Tôn Thất Nguyễn Khắc Thiêm (Bỉ) 26. Phạm Duy Thoại (Berlin) 27. Phạm Ngọc Thuần (Pháp) (*) 28. Đào Văn Thụy (Pháp) 29. Văn Thự (Pháp) (*) 30. Nguyễn Kỳ Toàn (Canada) 31. Trương Phước Trường (Úc) 32. Phan Quốc Tuyên (Thụy Sĩ) 33. Đỗ Khắc Uy (Nhật) 34. Vinh, tức Vĩnh Khoa (Bỉ)
(*) đã mất
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 28, 2020 9:57:30 GMT 9
VẲNG TIẾNG ĐÊ MÊ20/03/2020 vietbao.com/p301419a302531/vang-tieng-de-mePhan Ni Tấn nhớ nữ ca sĩ Thái Thanh (1934 - 2020) Tôi sẽ không nói gì về tiếng hát thiên phú vượt thời gian của nữ danh ca Thái Thanh vì đã có nhiều người ngợi khen từ khi chị nổi tiếng cho tới ngày chị qua đời. Trong bài viết giản dị và chân thành này, tôi không mang nỗi buồn vào đây, không kéo cái ảm đạm vô đây; tôi cũng không phải thắp thêm nén tâm hương tiễn nữ ca sĩ Thái Thanh về bên kia thế giới, vì tôi đã thành kính phân ưu cùng gia đình chị ở những email, facebook của bạn bè đưa tin về sự qua đời của một danh ca. Ở đây, tôi chỉ kể lại chút kỷ niệm với chị, chỉ vậy thôi. Ngày 17/3/2020, được tin nữ ca sĩ Thái Thanh mất, tôi nhớ ngay đến gương mặt khả ái của chị, dù đã 36 năm qua rồi gương mặt với môi cười tươi thắm kéo theo đôi mắt biết cười của chị vẫn còn rạng rỡ trong trí nhớ tôi. Mùa hè 1996 trong buổi ra mắt sách của tôi tại hội trường báo Người Việt, ngoài nhà văn Mai Thảo làm diễn giả còn có đông đảo văn nghệ sĩ gạo cội của nền văn học Việt Nam tới chung vui trong đó có nữ ca sĩ Thái Thanh. Bằng giọng thanh lịch của người Hà Nội xưa, chị cười nói: "Người thơ Phan Ni Tấn đây nhỉ?" làm tôi nhớ hoài. Thiệt tình lúc đó tôi không nghĩ có ngày mình được tiếp chuyện với “tiếng hát vượt thời gian”. Mắc cười nhất mà cũng cảm động nhất là nhà văn Mai Thảo kè kè chai rượu Whisky đã cạn phân nửa, nhướng mắt nhìn tôi, giới thiệu: "’Tiếng hát vượt thời gian’ đấy, ông Tấn nhé!". Cái giọng lè nhè mà dễ thương của nhà văn xưa nay vẫn vậy. Chuyện thoáng đó đã 36 năm vù qua với biết bao vật đổi sao dời, kẻ mất người còn. Có người sẽ hỏi: - Thế, từ đó đến nay anh em văn nghệ sĩ đến với anh trong buổi ra mắt sách những ai còn ai mất, thưa anh? - Dạ, còn các anh Nguyễn Đình Toàn, Hoàng Khởi Phong, Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Thiện Cơ, Lâm Văn Sang, Trần Duy Đức, Khánh Trường, Nguyễn Mạnh Trinh, Phan Tấn Hải, Thái Tú Hạp, Nguyễn Nam An, Phạm Vũ… Riêng những người đã mất, tính theo năm gồm anh Trần Đại Lộc mất năm 1997, nhà văn Mai Thảo mất cùng năm với họa sĩ Nghiêu Đề (1998), nhạc sĩ Lê Uyên Phương (1999), họa sĩ Tạ Tỵ (2004), nhà báo Đỗ Ngọc Yến (2006), nhà văn Thảo Trường (2010), nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (2011), nhạc sĩ Phạm Duy (2013), nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng (2014), nhà biên khảo Trần Văn Nam (2018), nhà thơ Du Tử Lê (2019), mới đây là ca sĩ Thái Thanh (2020). Tưởng nhớ một danh ca vừa qua đời tôi viết bài VẲNG TIẾNG ĐÊ MÊ, tựa đề được rút ra từ bài Tình Hoài Hương của nhạc sĩ Phạm Duy: Quê hương tôi, có con sông đào xinh xắn Nước tuôn trên đồng vuông vắn Lúa thơm cho đủ hai mùa Dân trong làng trời về khuya, vẳng tiếng lúa đê mê… Có thể nói cây tre là biểu tượng anh hùng của nước Việt ta, một loại tre khổng lồ trong tích xưa được Thánh Gióng dùng làm binh khí quét sạch giặc Ân ra khỏi bờ cõi. Còn ở đây, với tôi, hình ảnh nữ ca sĩ Thái Thanh là cây lúa, là hạt lúa, hương lúa hay tiếng lúa cũng vậy. Dù gì chăng nữa, tôi cũng xin thả vào đây một câu nói rất hay như một tiếng thở dài, nhẹ thôi, ưu ái thôi: “Nụ cười có thể tặng cho bất cứ ai. Nhưng nước mắt thì chỉ dành cho những người mà ta không muốn mất." Chị Thái Thanh lên trời bình yên nghe. Thân kính. Một Lần Nghe Thái Thanh Hát Ở Sài Gòn Sau 197523/03/2020 Thân Nguyễn hoi ca cam Hội Ca Cầm năm 1982. Tác giả Thân Nguyễn hàng ngồi, thứ nhì từ bên trái. Nhà báo Trần Đại Lộc ngồi bìa phải Sự ra đi của nữ ca sĩ Thái Thanh mới đây đã để lại bao nhiêu thương tiếc trong giới yêu âm nhạc cả trong nước Việt Nam lẫn ở hải ngoại. Càng đáng tiếc hơn khi tang lễ của cô diễn ra trong thời điểm Cali có lệnh cấm tụ tập để ngăn ngừa sự lây lan dịch cúm COVID-19. Nhiều người ái mộ sẽ không được viếng cô lần cuối. Nhiều người biết rằng sau 1975, trong thời gian 10 năm ở lại Sài Gòn trước khi đoàn tụ gia đình tại Mỹ, Thái Thanh không bao giờ hát trở lại trước công chúng. Vậy mà tôi là một trong những người có vinh dự được nghe cô hát ở Việt Nam trong một lần hiếm hoi, tại tư gia của nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Năm đó là vào khoảng đầu năm 1982. Tôi là một thành viên trong nhóm thân hữu có tên là Hội Ca Cầm. Chúng tôi bao gồm đủ thành phần xã hội: công nhân, giáo viên, lao động tự do, bác sĩ, cựu viên chức- sĩ quan VNCH mới đi học tập về… nhưng có cùng một sở thích: yêu âm nhạc, và vẫn muốn hát với nhau những bài hát trước 1975. Hội Ca Cầm được thành lập bởi anh Trần Đại Lộc (cựu nhà báo của Nhật Báo Người Việt). Nhóm chúng tôi họp nhau khá thường xuyên để ca hát, đặc biệt là sau khi bác Doãn Quốc Sỹ được trả tự do lần đầu vào năm 1980. Nhiều ca nhạc sĩ chuyên nghiệp như Tâm Vấn, Anh Ngọc, Duy Trác, Thái Hiền, Trần Quang Lộc, Nguyễn Quyết Thắng, Phan Ni Tấn… từng tham gia những buổi văn nghệ của Hội Ca Cầm. Cuối năm 1981, ca sĩ Duy Trác (cũng là cựu luật sư văn phòng phủ tổng thống) đi tù cải tạo về, đến thăm bác Sỹ, và cũng bắt đầu tham gia sinh hoạt văn nghệ với chúng tôi. Chú Trác nói thích không khí văn nghệ của nhóm. Chú có quen cô Thái Thanh, và sẽ thử mời cô Thái Thanh đến để vừa thăm bác Sỹ, vừa dự một “đêm văn nghệ bỏ túi”. Và Cô Thái (tên gọi thân mật của nhóm chúng tôi dành cho cô Thái Thanh) đã nhận lời. Chúng tôi vô cùng hào hứng, vì biết Cô Thái rất kín tiếng, ít tiếp xúc đám đông trong thời gian đó. Và rất nhiều người trong chúng tôi chưa bao giờ được hân hạnh nghe cô hát “live” bao giờ. Trước 1975, làm gì có tiền mà vào phòng trà Đêm Màu Hồng nghe Thái Thanh hát! Tôi nhớ hôm đó Cô Thái đến với một cô con gái. Gia đình chú Duy Trác và toàn nhóm Hội Ca Cầm có mặt để chào đón sự kiện đặc biệt này. Chúng tôi không dám rủ đông bạn bè, vì sợ Cô Thái ngại. Vậy mà căn phòng khách nhỏ xíu của nhà bác Sỹ cũng chứa gần 30 người. Ban đầu Cô Thái ngồi nói chuyện với hai bác Sỹ, cô chú Duy Trác, chúng tôi ngồi nghe. Rồi anh Trần Đại Lộc bắt đầu dẫn vào chương trình văn nghệ một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Dĩ nhiên là “tiên chủ, hậu khách” để “hâm nóng” không khí văn nghệ. Chúng tôi dù không chuyên nghiệp nhưng mê hát, và hát cũng không tệ. Hôm đó tôi hát bài Em Tôi của Lê Trạch Lựu, và một bài của anh Trần Đại Lộc. Bác sĩ Trương Minh Cường hát bài Đợi Anh Về, và một bài do ông sáng tác. Chú Duy Trác hát hai bài chú sáng tác trong tù cải tạo. Rồi Thanh Hương- con gái út của bác Sỹ, hát một bài của người anh trai, và bài “Sáng Nay Mùa Xuân” của anh Lộc sáng tác nhân dịp đón bác Doãn Quốc Sỹ từ tù cải tạo về. Đến lúc đó thì Cô Thái đã bắt được nguồn cảm hứng âm nhạc, và cảm nhận được không khí yêu văn nghệ của chúng tôi. Cô bắt đầu đứng dậy, chỉ Thanh Hương cách phát âm sao cho mạnh và rõ. Cô nói nhớ lấy hơi từ bụng. Rồi giây phút mọi người chờ đợi cũng đến, Cô Thái bắt đầu hát. Cô xin phép được đứng hát, vì cô không quen “hát ngồi” như chú Duy Trác. Cô yêu cầu cô con gái ngồi vào piano, đệm đàn cho mình. Hình như cô bắt đầu bằng bài Paris Có Gì Lạ Không Em của Ngô Thụy Miên. Mọi người ngẩn ngơ, vì sau bao nhiêu năm lặng tiếng, hôm nay tiếng hát Thái Thanh vẫn tuyệt diệu như ngày nào. Sau đó, cô hát Tuổi 13 (cũng của Ngô Thụy Miên). Đến đây, cô không thể đứng yên, mà phải bắt đầu nhún nhẩy như trình diễn. Cô còn nói là phải “uốn éo” một chút thì mới có hứng được! Không khí đêm văn nghệ ngày càng trở nên thân tình hơn giữa chúng tôi và người ca sĩ tên tuổi vào bậc nhất của Sài Gòn trước 1975. Cô Thái sau đó yêu cầu Hưng (con trai của bác Sỹ, và là tay đàn guitar chính của Hội Ca Cầm) đệm guitar cho cô hát bài Mùa Thu Không Trở Lại của Phạm Trọng Cầu. Trước đó, Hưng đã đệm cho chú Duy Trác hát, rất suôn sẻ. Vậy mà khi đệm cho cô Thái Thanh, một phần vì cô hát nhịp rất lơi, một phần có lẽ vì… khớp, cho nên Hưng không thể theo được nhịp hát của cô. Thật là bất ngờ, cô Thái Thanh ngồi xuống, giật cây đàn guitar từ tay Hưng, và tự đệm cho mình hát: … Ngày… Em… Đi… Nghe chơi vơi não nề qua vườn Luxembourg Sương rơi che phố mờ Buồn này ai có mua?... Được nghe Thái Thanh hát “live” sau 1975 đã là hiếm. Nhưng được nhìn Cô Thái tự đệm đàn guitar cho mình hát thì có lẽ là kỷ niệm có một không hai trong đời. Tất cả chúng tôi đều tận hưởng giây phút âm nhạc để đời này. Cho đến tận hôm nay, tôi vẫn nhớ như in kỷ niệm đẹp ngày hôm đó. Cô Thái sau đó vẫn giữ mối tình thân với gia đình bác Doãn Quốc Sỹ. Vào năm 1985, trước khi cô đi Mỹ, cô có đến chào bác Sỹ gái. Lúc này, bác trai đã bị bắt lần thứ hai (tháng 5-1984). Việc đến nhà bác Sỹ dễ bị công an theo dõi. Vậy mà cô không hề ngại. Cô Thái đem một tấm hình Đức A Di Đà Phật đến tặng bác gái, và bảo rằng: “em đi, nhờ chị ở lại tiếp tục thờ Đức A Di Đà hộ em…”. Thật là cảm động! Một thời gian ngắn sau đó, chúng tôi nghe tin cô đã đến Mỹ. Chúng tôi bật đài VOA nghe lần phỏng vấn đầu tiên ca sĩ Thái Thanh tại ở hải ngoại, nghe cô nhắn nhủ với những người ở lại (trong đó có chúng tôi): “…Hãy sống lâu hơn những gì mình không thích…”. Ngày hôm nay, Cô Thái đã ra đi “Nghìn Trùng Xa Cách”. K.- người đầu tiên trong nhóm chúng tôi đặt ra cái tên gọi “Cô Thái”- đã buồn bã viết cho mọi người rằng: “…Ngày buồn! Dấu chấm hết cho một nền nghệ thuật chính đạo…”. Không thể kể hết những bài được những người hâm mộ Thái Thanh viết và truyền trên mạng trong những ngày qua. Tôi chỉ xin góp thêm một điều: Tiếng Chim Thanh đã từng có lần cất lên ở Việt Nam sau 1975. Và tôi đã từng được nghe tiếng hót của loài chim quí đó, trong một thời điểm hiếm hoi mà tôi sẽ không bao giờ quên… Thân Nguyễn
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 5, 2020 1:20:55 GMT 9
Cổ Tích Không Quân: Bài học nhớ đời Posted by BIENXUA on MAY 14, 2017
Lời người viết: Tại sao lại là “Cổ Tích Không Quân?” Xin thưa đây là những chuyện tôi đã được nghe kể từ rất lâu rồi, nay cố gắng nhớ và viết lại nên nhiều đoạn có thể không còn chính xác, nhất là những yếu tố thời gian, chức vụ, cấp bậc ..v..v.. Xin quý vị độc giả hãy rộng lượng tha thứ. Xin hãy lấy cái nội dung câu chuyện làm chính chứ đừng coi trọng chi tiết. Nếu có những thiếu sót không thể tránh khỏi thì xin quý vị hãy thầm nhủ rằng… có sao đâu vì đây chỉ là một chuyện… Cổ Tích. Tuổi nhỏ, chúng ta thường đọc hay được nghe chuyện cổ tích; khi đã lớn khôn chúng ta biết rằng những chuyện đó khó thể xảy ra trong thực tế! “Khó” có thật nhưng không ai dám khẳng định là không có! Ví dụ như ai có dám nói chuyện “Con Rồng Cháu Tiên” là không có thật? 18 đời Vua Hùng nhưng lại trải dài tời 2000 năm, vị chi tuổi thọ trung bình hơn… 110 tuổi! Hay là những chuyện cây nỏ thần Kim Quy cho Vua An Dương Vương để bảo vệ thành Cổ Loa mà sức sát thương thì… minigun ngày nay còn thua xa lắc? .v.v.. Vậy với những chuyện “Cổ Tích Không Quân” mà tôi sắp kể ra đây, có thật hay cổ tích thì quý vị muốn xếp vào “file” nào xin tùy nghi quyết định. 📷 Ông Cố Vấn
Đầu năm 1970, Ông Jonh Paul Vann từ QĐIV chuyển lên Pleiku làm cố vấn cho Trung Tướng Ngô Dzu, tư lệnh Quân Đoàn II/Vùng 2 Chiến Thuật. Xin nói vô chi tiết một chút về nhân vật này để quý độc giả biết thêm một người đã từng có một vị trí rất quan trọng trong “Việt Nam War”.John Paul Vann sinh ra và lớn lên tại vùng phụ cận Norfork, Virginia. Năm 1943, Vann gia nhập Không Quân và trở thành một pilot của US Army Air Corps. Khi Thế Chiến Thứ 2 chấm dứt vào năm 1945, Vann mang cấp bậc Thiếu Uý nhưng chưa kịp tham chiến. Năm 1947, US Army Corps tách ra thêm US Air Force, Vann đã chọn ở lại Lục quân và chuyển qua làm sĩ quan tiếp vận. Năm 1950, khi chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Vann phụ trách quân vận cho SĐ25 và đã lập được chiến công lớn do đã chỉ huy đơn vị tử thủ gần thành phố Pusan cho mãi đến khi được TQLC đổ bộ từ Ichon đến giải vây. Cuối năm 1950, khi Trung Cộng xua quân tràn xuống hiệp cùng quân CS Bắc Hàn xâm chiếm miền Nam thì lúc này Vann đã là Đại Uý đại đội trưởng biệt kích. Ông đã chỉ huy đơn vị này hoạt động thám báo suốt ba tháng trời ngay trong phòng tuyến của địch quân. Sau đó, vì có một đứa con lâm trọng bệnh Vann được rút về Mỹ. Năm 1954, Vann chuyển sang Schweifurt – Tây Đức làm đại đội trưởng súng cối hạng nặng của Trung Đoàn 16/SĐ25BB. Năm 1955, Vann lên Thiếu Tá và trở lại Âu Châu làm sĩ quan tiếp vận cho Bộ Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Âu Châu đóng quân ở Heidelgerg. Năm 1957, Vann trở về Mỹ học khoá Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp và đến năm 1961 được thăng cấp Trung Tá. Qua Việt Nam 📷
Vào năm 1962, Vann đến VN và làm cố vấn cho Đại Tá Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh SĐ7BB/QLVNCH. Trong trận Ấp Bắc ngày 2/1/1963, Vann đã bay trên L-19 chỉ huy các đơn vị diện địa phản công lại với VC và cũng chính từ trận đánh này, Vann đã thấy rõ sự cồng kềnh, hỏa lực phi pháo hùng hậu của Mỹ nhưng lại kém hiệu quả khi chống với du kích chiến của VC. Ông ta nhờ ký giả David Halberstam của tờ New York Times cảnh báo đến dư luận và đổ dồn cơn thịnh nộ của ông ta lên người chịu trách nhiệm cao nhất: Tư Lệnh Quân Đội Mỹ tại VN, Tướng Paul D.Harkins. Vann bị buộc rời khỏi chức vụ cố vấn vào tháng 3/1963 và được giải ngũ vài tháng sau đó. Công việc của một viên chức dân sự
Vann trở qua VN vào năm 1965 và là một quan chức đại diện cho Viện Trợ Quốc Tế của Mỹ (AID). Sau một thời gian làm cố vấn cho cấp Tỉnh trưởng, Vann được giao trọng trách điều hành cơ quan CORDS vùng 3 CT. CORDS (Civil Operation and Revolutionary Development Support), Cơ quan hổ trợ phát triển và cải cách dân sự vụ, một tổ chức phức tạp bao gồm: USAID (viện trợ Mỹ) + USIS (Thông tin Hoa Kỳ) + CIA (Tình báo) + Chính phủ, hoạt động hổ trợ cho quân đội nhưng có quyền thay thế nhân sự bên quân đội nếu xét thấy cần thiết. Chính cơ quan CORDS đã vạch ra kế hoạch và hổ trợ cho Cảnh Sát Quốc Gia VNCH tiến hành chiến dịch “Phượng Hoàng”, tảo trừ các phần tử và tổ chức nằm vùng tại miền Nam VN. Đến năm 1968, Vann chuyển về làm xếp xòng CORDS vùng 4CT. 📷 J.P. Vann là một chiến lược gia có tầm nhìn sâu sắc và chính xác đối với chiến trường VN. Chính ông đã vạch ra chiến lược chống Cộng tại VN “Giao tranh cường độ thấp & nhỏ trong thời gian lâu dài” ngược lại với “Chiến tranh quy ước & cường độ cao trong thời gian ngắn” mà chính phủ và quân đội Mỹ đang theo đuổi lúc đó. Trong một lần công tác trở về Mỹ năm 1968, cố vấn chính trị cho TT Johnson là Eugene Rostow đã hỏi Vann là liệu có thể chấm dứt chiến cuộc VN trong vòng sáu tháng không? …”No”… Vann trả lời: “Tôi thấy chúng ta cần nhiều lần lâu hơn con số đó”. Chính sự thông minh nhưng hay đả kích người khác của Vann đã khiến cho nhiều tướng lãnh và quan chức “diều hâu” không ưa ông ta. Nhưng đối với các sĩ quan và nhân viên dưới trướng thì ông là một vị anh hùng của họ, bởi họ quá thấu hiểu sự giới hạn của chiến tranh quy ước đối với một chiến trường “quái đản” như “Việt Nam War” cho tới thời điểm đó. J.P. Vann là một quan chức dân sự đầu tiên nắm quyền chỉ huy các đơn vị quân đội tác chiến trên một vùng trách nhiệm rộng lớn ở cấp quân khu. Một quyền lực tương đương với một tướng 2 sao Mỹ hay 3 sao QLVNCH. Có thể vì có tài nhưng không gặp thời nên bất cứ nơi nào Vann đã đến, ông ta cũng để lại tai tiếng là một ông VIP hách dịch, kiêu căng đến mức ngạo mạn. “Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa”, tuy Vann chưa đến nhậm chức nhưng cả quân đoàn II đã râm ran chuyện “ngài cố vấn” sắp đến. Nghi lễ chào đón! 📷
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cho phi hành đoàn UH-1 (phi cơ riêng của Tư Lệnh QĐII/Vùng 2 CT) bay xuống phi trường Nha Trang đón ông cố vấn J.P. Vann lên Pleiku. Nhưng trong phi vụ này có một thay đổi khác với thường lệ, ngồi ghế Pilot không phải là Đại Uý X….(?) mà lại là… Trung Tá Lê Bá Định, Phi đoàn Trưởng Phi Đoàn 530, danh hiệu Thái Dương 01, Liên đoàn Trưởng Liên Đoàn 72 Tác Chiến KQ – Căn Cứ 92CT/KQ Pleiku. Trong KQVN ngày trước có nhiều vị mà như lời NT Mệ đã gọi là những “KQ Dị Nhân”; dị nhân không mang một hàm ý xấu các vị đó đã dám làm, dám hành xử những chuyện không ai dám. Không phải vì cái “Tốt” đã khiến cho các vị đó thành “Dị Nhân”, nhưng chính là cái lòng yêu nước nhiệt thành, tất cả vì màu cờ sắc áo đã khiến các vị bất chấp mọi quy luật, lề lối thông thường để làm những chuyện kinh thiên, động địa! Nếu quý NT nào trước đây đã phục vụ trong CC92CT/KQ/Pleiku thì hẳn vẫn sẽ mãi mãi nhớ đến Ông Trung Tá “Lê Bá Đạo” (Đinh Bá Lệ cũng chính là ổng). Với các NT cựu chiến sĩ Không Đoàn Biên Trấn Pleiku thì tôi xin phép miễn giới thiệu lại vị NT Thái Dương 01 làm chi cho thêm mất thì giờ của quý vị… Nhưng với quý vị độc giả chưa được “may mắn” biết đến Ông Bá Đạo thì xin các vị tìm đọc truyện ngắn “Tin đồn chết người” của NT Bắc Đẩu 01 Võ Ý sẽ biết được một phần nào – tại sao ông lại được bạn bè, anh em yêu mến đặt cho ông nick name đó. Xin dẫn sau đây 2 câu thơ mà chính ông là tác giả để các bạn trẻ biết thêm về một vị tiền bối văn võ song toàn của KQVN: “Trung kiên một lòng vì Tổ Quốc Sắc son một dạ với Không Gian” Ngày trước, dù là anh em rất thân tình nhưng tôi thật lòng không dám hỏi ông vì sao ông lại có thêm một biệt danh nữa là “Định Mát”. Tôi bạo gan hỏi ngay tác giả đã đặt ra cái nickname này là Anh Ba Bụng (Lý Thành Ba – Ba Lý, một người bạn đồng khóa với ông) thì được Anh Ba Lý cho biết: “Cái thằng đó dễ thương lắm nhưng đừng có chọc nó. Nó mà điên lên thì họa may có trời mới cản nó được”. Còn với ông, tôi chỉ dám hỏi vì sao ông lại là ông Bá Đạo? Thì ông bật cười ha hả rồi nói: “Anh chỉ bá đạo với những thằng vô đạo thôi, mấy thằng như vậy mình chơi bá đạo nó mới tởn tới già”. Khi biết đích thân Trung Tá Liên đoàn Trưởng LĐ72TC/KQ bay đi đón vị tân cố vấn của mình, Tướng Dzu rất vui lòng vì nghĩ rằng với tài bay bổng của ông Định, chắc ông cố vấn mới của ông sẽ rất hài lòng khi có một chuyến bay êm ả và ra lệnh cho BTL/QĐII chuẩn bị làm lễ tiếp đón trọng thể ngay bãi đáp trực thăng của quân đoàn. Nhưng Tướng Dzu không thể nào ngờ rằng trong phi vụ này, ông cố vấn sẽ gặp…. bão, bão lớn cấp 12!!! Bay trực thăng không phải là nghề của ông Định, nhưng những ai đã từng biết ông thì phải công nhận: Trời sinh ra ông để ông bay. Chẳng những thế ông có thể bay được hầu hết các loại phi cơ mà KQVN có mà còn bay vào hàng cao thủ võ lâm nữa kia! Khi đã cho tàu bình phi về hướng Pleiku, ông Định rất lịch sự tự giới thiệu và ngỏ lời chào đón ông tân cố vấn (Vann có mang headset) và mong rằng trong tương lai sẽ có dịp cùng ông cố vấn làm việc thật hiệu quả cho công tác chống Cộng. Hình như chỉ chờ có vậy, Vann lập tức xổ “bom chùm” nào là QLVNCH đánh giặc dở ẹt, SQ thì tham nhũng, ăn chơi; lính thì chết nhát, đụng trận chút xíu thôi đã la làng, cầu phi pháo yểm trợ í ới.v.v… Ông Định ôn tồn trả lời chuyện đó không thể như những gì ông Vann nhận xét, bởi nếu đúng như vậy thì chắc VC đã chiếm miền Nam lâu rồi! Vann xoay qua chỉa mũi dùi công kích KQVN, nào là bay dở, lạnh cẳng, chỉ giỏi chở hàng lậu và săn bắn trái phép. Những phi vụ nào bị phòng không bắn là cho tàu leo tuốt lên cao nên oánh bom trật lất, đánh nhầm luôn đơn vị bạn. Các tiền đồn xa xôi bị bê trễ hay thậm chí không bay tiếp tế.v.v.. Bị “chạm nọc” nhưng ông Định vẫn nhẹ nhàng lịch sự mời ông cố vấn hôm nào rảnh rỗi ghé qua căn cứ Pleiku chơi, rồi mời ông cùng tháp tùng các phi vụ hành quân của KQVN, thử coi pilot VN có như những gì Vann nói hay không? Bị ông Định dùng tài hùng biện gài vô thế bí, Vann tức tối chuyển qua đề tài dân VN. Nào là….. rồi thì là…….. Lần này, ông Định không đợi Vann dứt lời, ông chận ngang: “Ông không được nói như vậy, tôi xin nhắc cho ông nhớ, chính ông tổng thống của các ông đã nói dân tôi Việt Nam là bạn của nhân dân Hoa Kỳ”. Lúc đó tàu đã bay vào không phận Pleiku và chuẩn bị hạ cánh xuống bãi đáp trong BTL/QĐII. Từ trên cao nhìn xuống có thể thấy hai hàng nhân viên, quan chức Việt&Mỹ đang đứng làm thành hàng rào danh dự chờ đón ông cố vấn. Trước khi cởi bỏ headset và seat-belt ra, Vann buông một câu độc địa: “Tôi rất tiếc vì TT của chúng tôi đã tuyên bố như vậy”. Ông Định nhìn qua anh copil (anh cũng quay nhìn ông, mặt anh tái mét, mắt đỏ ngầu vì từ nãy giờ anh đều nghe được hết các mẩu đối thoại của hai người), ông nói nhanh: “Toa đáp dùm, để moi trị thằng này mới được”. Nói xong, ông chui qua khe giữa 2 ghế bay, lòn ra đứng sau lưng ông cố vấn lúc này đang lom khom chuẩn bị bước xuống tàu vì chỉ còn cách mặt đất chừng 2 mét. Ông Định co chân, tống một đạp thật mạnh vào mông ông cố vấn làm ông cố vấn bay từ trên trực thăng xuống, chúi mũi bò càng ngay trước mắt của các quan chức Việt&Mỹ. Không thèm nhìn xuống xem sự thể ra sao, ông Định chồm tới vỗ vai người copil, chỉ hướng ra hiệu cho anh bốc tàu lên, bay về đáp bên căn cứ KQ/Pleiku. Tàu vừa chạm đất, anh copil nhìn qua thấy ông Định lấy tay gỡ hai cái lon Trung Tá cất vô túi, gương mặt ông lạnh như đồng. Ông biết rằng cái đạp đó của ông có thể làm sụp đổ luôn cả công danh sự nghiệp của ông, nhưng ông vẫn đạp. Không biết sau đó những hậu quả gì xảy ra cho ông Bá Đạo, chỉ biết rằng khi LĐ72TC trở thành Không Đoàn 72 CT thì vị Không Đoàn Trưởng là Trung Tá Lê Bá Định. Mùa Hè đỏ lửa vùng biên trấn.
Năm 1971, để dành lại ảnh hưởng của Liên Xô đối với chính quyền CSVN đang bị Trung Cộng lăm le hất cẳng; Moscou đã rất hào phóng viện trợ “không hoàn lại” cho CSVN một số quân viện khổng lồ, cực kỳ tối tân cho chính quyền Hà Nội. Một ngàn xe tăng T-54, PT-76 và cả loại xe tăng phòng không lần đầu tiên được xử dụng là ZSU-57-2 (xin xem trong web: http//en.wikipedia.org/wiki/ZSU-57-2), hàng ngàn hỏa tiễn phòng không SAM-2, SA-7, chống xe tăng AT-3; hàng ngàn khẩu đại bác hạng nặng 130 ly, hàng núi vũ khí cộng đồng, cá nhân + quân trang, quân dụng..v.v.. lại còn gởi cả chuyên gia Nga & Đông Âu sang huấn luyện cho quân CSBV xử dụng thành thạo các loại vũ khí và chiến cụ mới này. Với núi đồ chơi giết người được quan thầy Liên Xô dúi vào tay, CSVN hí hửng vạch ra một kế hoạch tổng tấn công miền Nam với mưu đồ dành dân, chiếm đất tạo áp lực trong bàn đàm phán Paris. Từ ngày 30-03-1972 là ngày bọn chúng bắt đầu phát động chiến dịch Nguyễn Huệ (cuộc tẩn tấn công miền Nam mùa Hè 1972 do CSVN đặt tên), cho đến ngày chấm dứt 22-10-1972, CSVN đã đạt được những “chiến thắng” mà cho đến ngày hôm nay vẫn được nhắc tới là đã tạo ra được một “Đại lộ kinh hoàng”, một “An Lộc”, một “KomTum” với hàng ngàn người dân vô tội đã tan xương nát thịt dưới những trận mưa pháo điên cuồng. Mùa Hè đỏ lửa phủ chụp lên miền Nam vào lúc 11 giờ 30, ngày 30-03-1972 khi 50.000 ngàn quân VC với 200 chiến xa + ba trung đoàn pháo yểm trợ, tràn qua vĩ tuyến 17 tấn công QLVNCH&Mỹ tại ải địa đầu Quảng Trị thuộc QĐI. Đến ngày 5-4-1972, 50.000 ngàn quân VC với một lực lượng pháo binh, xe tăng hổ trợ giống như tại Quảng Trị đã xuất phát từ căn cứ trên đất Cao Miên tràn qua tấn công tỉnh Bình Long và bao vây thị xã An Lộc thuộc QĐIII. Tại QĐII, Tướng VC Hoàng Minh Thảo chỉ huy mặt trận B3 cũng với 50.000 ngàn quân, âm mưu cắt đứt miền Nam ra làm hai nên ra lệnh tấn công Tỉnh Bình Định trước vào ngày 5-4-72, cô lập quốc lộ 1, con đường huyết mạch tiếp tế cho QĐI, và cho đến ngày 12-4-72, vùng biên trấn cao nguyên bắt đầu vang tiếng súng khi Cộng quân tấn công Dakto&Tân Cảnh của Tỉnh Kontum. Không Đoàn 72 Chiến Thuật Pleiku
Trước áp lực đè nặng lên căn cứ KQ Pleiku với những trận mưa pháo ồ ạt của VC bằng hoả tiễn 122ly và pháo 130ly, cũng như Pleiku có thể bị bao vây , tấn công bất cứ lúc nào. Chỉ huy Trưởng Căn Cứ, kiêm Không Đoàn Trưởng 72 Chiến Thuật, Đại tá Nguyễn Văn Bá (cấp bậc khi đó là Trung Tá) cùng các sĩ quan tham mưu của ông đã có một quyết định vô cùng sáng suốt là di tản chiến thuật 50% quân số của KĐ về Nha Trang, luân phiên thay đổi, 1 tuần đi tắm biển, 1 tuần trở lên Pleiku tắm mưa pháo!!!. Chính vì vậy nên các quân nhân KQ “lên ca trực” phải làm tăng gấp đôi công việc, làm bù cho các anh em đồng đội đang đi “tắm biển”. Các phi hành đoàn phải bay mỗi ngày ít nhất hai phi vụ, thiệt hại cũng rất cao. Trong hai tháng 4 và 5-1972, chỉ tính riêng Phi đoàn 530 Thái Dương đã có 4 pilot tử nạn, 3 nhảy dù được trực thăng cứu thoát và 1 bị VC bắt, chuyện tàu bị đạn 12ly8, AK chỉ là “chuyện nhỏ”. Các phi đoàn khác như Bắc Đẩu 118, Sơn Dương 235, Lạc Long 229, Biệt đội Tản Thương 259 cũng bị nhiều thiệt hại. Tri Ơn Ông Cố Vấn
Trong khoảng thời gian J.P. Vann là cố vấn cho QĐII, ông ta đã làm được nhiều việc, vừa làm công việc của một vị chỉ huy (một người dân sự với chức vụ chỉ huy ngang hàng với Tướng 2 sao), tham mưu cho QĐII, vừa làm nhiệm vụ của một cấp chỉ huy trực tiếp tại chiến trường, đôi khi ông ta lại trực tiếp chiến đấu với VC trên chiếc trực thăng OH-58A Kiowa, đây là chiếc trực thăng riêng do quân đội Mỹ dành riêng cho ông, trực thăng này được trang bị các phi cụ bay đêm tối tân nhất thời đó: Starlight scope (Dạ tinh viễn kính) và Infra Red (Hồng ngoại tuyến) và vũ khí là một khẩu đại liên M-60, một cây súng phóng lựu M-79. Ông Vann đã xông xáo bay khắp QĐII ngày đêm để chỉ huy các đơn vị quân đội Mỹ hổ trợ tích cực cho quân VNCH chống trả lại các cuộc tấn công điên cuồng của VC. Chính ông cố vấn Vann đã trực tiếp đề nghị với TT Thiệu thay thế Tướng Dzu vì đã để mất 4 quận và một số đơn vị đồn bót của QLVNCH trực thuộc QĐII vào tay VC, lời đề nghị của ông đã được chấp thuận ngay trong buổi họp của BTL/QĐII. Ngày 15-5-72 Tướng Dzu ra đi và người thay thế ông là Tướng Nguyễn Văn Toàn (Quế tướng công). Khi quân tử trả mối thâm thù
Người xưa có nói: “Kẻ tiểu nhân trả thù trong 3 ngày, nhưng người quân tử trả thù trong 3 năm”. Và cái ngày ông Vann chờ đợi để gởi trả lại cho ông Bá Đạo cái đạp nhớ đời đã tới! Hai Ngày sau khi Tướng Dzu ra đi, nửa đêm ngày 12-5-72, tiền đồn BenHet (Kontum) của Tiểu Đoàn 95, Liên Đoàn 22 BĐQ Biên Phòng bị Công quân bao vây, tấn công ác liệt. Tình hình rất nguy khốn vì VC tập trung một lực lượng bộ binh cấp trung đoàn+pháo binh hạng nặng yểm trợ hỏa tập cho từng đợt tấn công. Nếu không nhờ sự tiên liệu và sáng suốt của ông tiểu đoàn trưởng, khi về nhậm chức ông đã cho củng cố công sự phòng thủ rất kiên cố để chống pháo kích và tấn công thì chắc đơn vị của ông đã bị VC tràn ngập trong đêm rồi. Từ sáng sớm đã có máy bay 0-2 FAC của Mỹ từ Camp Holloway bay lên quần bao vùng hổ trợ cho tiểu đoàn BĐQ, nhưng do trần mây quá thấp, không thể dùng hỏa lực không yểm, O-2 FAC này chỉ có thể đề lô cho các FSB (Fire Support Base) bắn yểm trợ chặn bớt những đợt tấn công của VC mà thôi. Đến 1giờ trưa thì có O-2 Bắc Đẩu của PĐ118/KĐ72CT đến thay thế cho O-2 FAC của Mỹ. Tình hình thời thiết đã tốt hơn nên O-2 của PĐ118 đã gọi về Pleiku xin 1 phi tuần A-1 đánh bom theo đúng tọa độ mà O-2 FAC đã bàn giao lại, phi vụ này do Đại Uý N.H.M và Thiếu Uý N.N.H thuộc Phi Đoàn 530 thực hiện. Nói là thời tiết tốt nhưng vì đang là mùa mưa trên cao nguyên nên các NT đã từng phục vụ ở vùng biên trấn hiểu rõ hơn ba tiếng “thời tiết tốt” này. Phi tuần A-1 này đã phải đánh bom xuyên mây, tôi còn nhớ trong một bài thơ tiếu lâm của một NT đăng trong Lý Tưởng trước 75 là mô tả: “Phòng không anh hổng thèm tránh; anh chỉ ngán đánh bom xuyên mây”, như vậy phi tác này rất nguy hiểm cho tính mạng của người phi công. Hai NT Thái Dương hôm đó, chẳng những không ngán mà còn đánh bom xuyên mây quá đẹp, quá chính xác ngay chóc mục tiêu do Bắc Đẩu 1118 đã chỉ điểm. Đến chiều, từ bên BTL/QĐII điện sang KĐ72CT gọi hai ông Bá Chủ và Bá Đạo qua trình diện Tư Lệnh QĐII lập tức. Khi hai ông vô tới văn phòng của Tự Lệnh thì thấy có thêm ông cố vấn Vann đang chờ với bộ mặt vênh váo. Không đợi cho ông tư lệnh nói trước mà ông cố vấn tuyên bố ngay vô vấn đề là sẽ đưa hai ông Bá Chủ và Bá Đạo, hai anh pilot 530, hai anh pilot và quan sát viên 118 ra tòa án Quân Sự Mặt Trận QĐII vì tội: “Thiếu tinh thần trách nhiệm và tắc trách khi thi hành nhiệm vụ”; thay vì yểm trợ, hai máy bay khu trục A-1 của PĐ530 ban sáng đã đánh bom ngay vào đơn vị bạn, xoá sổ gần hết quân số của TĐ95 BĐQ Biên Phòng. Như để tăng thêm phần trầm trọng của những lời kết án này, ông cố vấn thảy lên bàn làm việc của Tư Lệnh QĐ một xấp hình chụp “hiện trường vụ án” do các biệt kích Delta nhảy xuống chiến trường chụp lại. Sau đó là những lời lẽ lên án Ông Bá Chủ và Bá Đạo của ông cố vấn Vann. Nhưng khi trở về phòng HQCC của KĐ72CT phối kiểm lại, hai ông Bá Chủ và Bá Đạo thấy rõ ràng là FAC của KQVN đã nhận bàn giao mục tiêu địch và bạn từ 0-2 của FAC Mỹ, căn cứ theo đó cộng thêm sự chỉ điểm của đích thân ông TĐT/TĐ95BĐQ đã liên lạc trên tần số của máy PRC-25, nên các anh FAC KQVN đã chấm điểm cho khu trục oanh tạc, tại sao lại có chuyện đánh bom nhầm vào đơn vị bạn? Gần cả tuần lễ, hai ông Bá Chủ và Bá Đạo, cùng các anh pilot PĐ530 và PĐ118 của phi vụ ngày hôm đó phải liên tục làm việc với An Ninh Quân Đội và Quân Pháp QĐII vì cú đánh nhầm chết người này. Nếu kết quả điều tra đúng là các anh đã “Thiếu tinh thần trách nhiệm và tắc trách khi thi hành ..v..v..” thì phen này các anh sẽ lãnh đòn trả thù của ông cố vấn Vann. Sau đó, một cuộc họp được triệu tập tại QĐII dưới quyền chủ tọa của Tư Lệnh QĐ, sĩ quan Việt&Mỹ của BTL/QĐ, khi ông Vann bước vào phòng họp thì chưa có sự hiện diện của các sĩ quan KQ/KĐ72, ông Đại Tá, phó của Vann, thì thầm mấy câu vắn tắt cho Vann biết nội dung buổi họp, nghe xong ông cố vấn biến sắc và vội vã rời khỏi phòng họp, leo lên chiếc trực thăng riêng OH-58 và cất cánh mất dạng. Khi hai ông Bá Chủ và Bá Đạo đến phòng họp, vừa an tọa thì Tướng tư lệnh QĐII vô đề: Vụ đánh bom nhầm, xóa sổ TĐ95BĐQ là hoàn toàn không đúng với sự thật; chính FAC của Mỹ đã tắc trách, bao vùng cả một buổi sáng mà không hề hay biết là Tiểu Đoàn 95 đã tự động tan hàng. Tiểu đoàn này có đến 95% quân số là người Thượng, họ thấy tình thế quá nguy hiểm nên đã cởi bỏ quân phục, đóng khố và chạy mất về buôn làng. Bọn chỉ huy VC thấy vậy liền cho quân của họ mặc quân phục này để giả dạng BĐQ âm mưu đánh úp các đơn vị khác của QLVNCH. Nhưng nhờ sự khôn khéo và kinh nghiệm chiến trường của vị TĐT/TĐ95BĐQ, ông đã dẫn trọn bộ chỉ huy của ông chạy thoát vô núi, và sau đó dùng máy truyền tin liên lạc với Bắc Đẩu 118, chỉ rõ mục tiêu cho Thái Dương 530 và kết quả là cả trăm tên VC đã bỏ mạng nhưng trên người mặc quân phục BĐQ. Gần một tuần sau đó, ông TĐT/TĐ95BĐQ đã về đến bộ chỉ huy Liên Đoàn 22BĐQ ở Pleiku và báo cáo trắng đen của sự việc. Sau khi Tướng Tư Lệnh QĐII dứt lời, ông Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 72 CT Lê Bá Định xin phép cho ông được phát biểu bằng tiếng Mỹ với các cố vấn Mỹ, ông đã dùng tài hùng biện của mình, xỉ vả các cố vấn có liên quan đến việc đổ lỗi cho FAC của KQVN, cũng với mục đích là ông muốn nhắn gởi các lời xỉ vả này đến ông cố vấn Vann. Chấm dứt buổi họp, các cố vấn Mỹ chưa hề biết Trung Tá Lê Bá Định nên dò hỏi ông này là ai mà ổng dữ dằn qua vậy! 📷 Chi tiết viết thêm: J.P. Vann đã bị tử nạn trong chuyến bay từ Pleiku đi Kontum trên chiếc máy bay OH-58 Kiowa của ông ta vào 9 giờ 20 đêm, ngày 9/6/1972. Theo kết quả điều tra thì viên phi công đã bị ảo giác (vertigo) vì bay thấp theo đường 14 và đã đụng phải ngọn cây gần đèo Chu Pao trong thời tiết rất xấu, trên phi cơ có ba người: Vann, pilot Lt. Ronald Doughtie và một Đại úy Bộ Binh tháp tùng đi Kontum, đúng ra người pilot kinh nghiệm và đắc dụng của Vann là Bob Richard nhưng ông này đã đi phép ở Bangkok và sau đó bị báo cáo vắng mặt không lý do, vì thế mà Vann đã chọn viên phi công mới Ronald Doughtie, mà chắc là chưa có nhiều kinh nghiệm cho kiểu bay bổng với Vann. Cuộc điều tra đã không hiểu vì sao Vann lại chọn lộ trình bay thấp và rất nguy hiểm khi bay ngay qua đèo Chu Pao, khu vực mà đang bị Cộng quân tạm chiếm trong thời tiết rất xấu mà đúng ra họ có thể liên lạc với USAF Ground Control Approach ở Kontum để được hướng dẫn bằng radar đến Kontum, vì sau phi cơ của Vann cũng có một chiếc trực thăng đã bay đáp an toàn tại Kontum bằng cách này. Còn phía VC thì họ rêu rao là đã bắn hạ được Vann, một kẻ thù nguy hiểm của họ. Thi hài của J.P. Vann đã được bốc ngay sau đó và đã được đưa về Hoa Kỳ an táng tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington.
******************** Vì bài viết của tôi trong web Biển Xưa đã được " xào nấu lại " nên không còn nguyên gốc nữa ! Tôi xin phụ đính lại phần cuối bản chính của tôi cho các bạn đọc nha !...... " Tan hàng buổi họp , khi hai ông SQ VNAF ra về rồi , mấy tay cố-vấn đeo theo hỏi các SQ VN ở BTL QĐ2 cái ông..lính VN hồi nãy là ai ( ông Đ. vận quân-phục 4 túi , không mang phù-hiệu , lon lá gì cả ! ) , chức-vụ , cấp bậc gì mà ổng....dzử quá mạng vậy ? Ông xếp Vann oai quyền nức tiếng như thế mà phải bỏ họp ngang xương , trốn mất , vẫn bị ổng chửi nhắn , chưởi gởi tan nát , te tua luôn ! Cái ông " VIP " đó là ai vậy ?!?...... Về tới CC KĐ Biên-Trấn , ông Đ. tập-họp PĐ 530 , tường thuật nội dung buổi họp bên QĐ cho các anh em biết và ông ra lệnh cho Phi-đoàn 530 Thái-Dương :"_Nếu các anh biết tên J.P. Vann đi trên chiếc máy bay nào , cứ BẮN HẠ TẠI CHỔ ! Tôi , Trung-Tá Lê-Bá-Định sẻ chịu trách-nhiệm !."........ Không biết trước khi phóng lên máy bay t.t. để tẩu-thoát khỏi BTL QĐ 2 hôm đó , Vann có ngửa mặt lên trời , cười ba tiếng , khóc ba tiếng rồi than rằng :"- Trời đã sinh ra Vann ta , sao lại còn sinh ra chi ông Bá-Đạo " hay không , nhưng kể từ lúc ông Tr/Tá Lê-Bá-Đạo ra lệnh bắn bỏ ông cố-vấn thì hành-tung của ông ta trở nên vô cùng bí ẩn , đi không ai hay , về không ai biết ! Thậm chí ông Vann không dám xài chiếc t.t." hàng độc " OH-58 Kiowa nữa , mỗi lần có chuyện phải dùng tàu bay , ông vui vẻ xài chung mấy chiếc OH-6 ( nhìn sơ qua giống OH-58 lắm ! ) với mấy chú đàn em dưới trướng làm mấy chú em hãnh-diện quá chừng khi hân-hạnh được Ngài Vann xin quá-giang ! Trên vùng trời Cao-Nguyên dạo đó , mấy anh Mẽo bay OH-6 trên đường tất tã đi hành-quân hay đang lơn tơn trên đường về camp Holloway Pleiku , thỉnh thoảng giật mình , hết hồn khi tự nhiên thấy tàu mình được " hộ-tống " bởi hai ông thần A-1 Skyraider to tổ bố của VNAF , bất thình lình lù lù xuất hiện , kè hai bên hông ! Tưởng đâu mấy anh pilot VN bay theo chơi cho vui bạn vui bè , thắm tình hữu nghị đồng minh chí cốt , tính đưa tay lên Hi FRIEND nhưng lại thấy chột dạ , không dám giỡn mặt vì mấy ông Pilot VN mặt mày đằng đằng sát khí thấy ghê quá ! Mà sao mấy ổng cứ chằm chằm soi mói , nhìn qua tàu mình như muốn kiếm người quen vậy !?! Khi chắc chắn không thấy có ai là " người quen " , mấy ổng mới giảm bớt nét mặt cô hồn , cười ruồi một cái rồi tách ra khỏi delta formation , bay đi mất hút ! Nhưng có lẽ hồn thiêng sông núi , anh linh tổ-tiên Lạc Việt đã không tha cho kẻ đã dám láo xược xúc phạm nên các anh Thái-Dương 530 chưa kịp ra tay bấm cò đại-bác hai mươi ly thì vào lúc 9 g 20 đêm 9-6-1972 , ông cố-vấn John Paul Vann đã bị rơi máy bay , tử nạn cùng một Tr/Úy pilot USARMY và một quân nhân Mỹ trên vùng đất Kontum ./.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 5, 2020 1:35:55 GMT 9
Bay trên đất Bắc . Lê Bá Định
Đây là một bài viết của cố Niên Trưởng Không Quân Trung Tá Lê Bá Định . Kính mời các bạn cùng đọc để biết thêm về một vị sỷ quan Không Quân VNCH văn võ song toàn ngày trước nhé ! Bay Trên Đất Bắc Chợt một khe núi thoáng hiện bên phải hướng hai giờ. Tôi không cần thấy rõ những gì trong ấy. Bấy nhiêu đó quá đủ giúp tôi vượt khỏi bàn tay tử thần một lần nữa… Thôi tử thần, ta chào mi. Hẹn lần khác nhà.( Nguyen Chi Toai)
Tôi vượt lên cao…
Các bạn tôi đang lượn vòng chờ đợi.
Chúng tôi im lặng hướng về Nam, luôn luôn ở đội hình chiến đấu để chờ đợi một cuộc săn đuổi của phi cơ địch. Nhưng rồi lại thoáng hiện chiếc cầu với hai cột cờ.
Lần này thì lại nằm bên cánh tay phải.
Phải, trái? Ai phải, ai trái? Tôi không cần.
Chỉ biết rằng chúng tôi đang trở về toàn vẹn và bây giờ hiện bay trên Huế… Hầu hết phi cơ bị trúng đạn, nhưng nhạc gió vẫn quay đều. Tôi báo cáo sơ lược cho đài kiểm báo và cho biết đang trên đường về.
Hoàng hôn đẹp.
Sóng biển lấp lánh ánh bạc.
Tôi gỡ nhẹ đôi găng tay để đốt một điếu thuốc nhăn nheo được vuốt thẳng.
Trời tối dần. Khi đưa điếu thuốc lên môi, tôi chợt thấy bàn tay run run… Vì sung sướng thành công hay vì những phút giây căng thẳng rợn người vừa qua còn vương vấn? Có lẽ hai thứ hoà chung.
Thuốc ngon quá.
Buổi tối, lúc đang sửa soạn cho phi vụ hôm sau, thành tích của tôi được loan truyền trên đài phát thanh Sài Gòn. Tò mò bắt sang đài Hà Nội, họ đang khoe đã hạ được năm máy bay trong số ba mươi máy bay tiến đánh lúc ban trưa ở cùng một nơi chốn và thời gian mười hai chúng tôi đã đến và trở về.
Tôi mỉm cười…
Lê Bá ĐịnLê Bá Định
Tôi đã nhiều lần vượt vùng trời Bến Hải với những chuyến bay ném bom trên đất Bắc. Lần này tôi được chỉ định dẫn dắt mười hai phi cơ tiến đánh một mục tiêu xa hơn những lần trước. Đó là hai trại quân quan trọng nằm trong vùng rừng nơi phía Tây Bắc thành phố Vinh.
Tôi ghi nhớ nhiều về chuyến bay này vì là lần đầu tiên tôi điều khiển hoàn toàn một phi vụ Bắc phạt.
Những lần trước tôi chỉ hướng dẫn một phi tuần bốn phi cơ theo sự điều khiển của phi đội trưởng.
Đối với phi công khu trục, cấp trung uý dù rằng với chức vụ trưởng phòng hành quân phi đoàn, đây là một danh dự và là một hãnh diện nữa khi được lệnh đảm trách một công tác quan trọng như vậy.
Suốt từ lúc được lệnh bay, xuyên qua buổi thuyết trình về phi vụ, tôi đã hỏi rất nhiều, rất kỹ lưỡng vị sĩ quan Quân Báo về các vị trí phòng không địch, cho đến khi đứng lên nhắc lại các phương thức phi hành cùng các đoản lệnh hành quân cho các chiến hữu cùng bay với tôi, tôi cảm thấy nôn nao vô cùng.
Có thể hơn thế nữa, gần như là một mối lo âu. Không thể là sự lo sợ được đối với một người trẻ tuổi như tôi, đã được rèn luyện trong cái khí thế hiệp sĩ của một phi công khu trục bao lần vùng vẫy trên vùng trời lửa đạn.
Tôi run run đếm những số giây cuối cùng cho các bạn tôi điều chỉnh giờ đúng. Nỗi lo âu ngập tràn. Khẳng định không phải là sự thiếu tự tin. Những người trẻ tuổi thường không sợ sệt trong lý tưởng mà luôn muốn chứng minh khả năng của mình trong khi bay. Khả năng của tôi đang được khảo thí. Một cuộc khảo thí quan trọng vô cùng, vì từ giờ trở đi, những quyết định của tôi, một phi công hai mươi ba tuổi, nếu sai lầm sẻ phải trả bằng giá của sinh mạng tôi và của cả mười một phi công khác mà số tuổi chỉ trên dưới hai mươi.
Tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong nghề, lần này tôi sắp sửa thêm một kinh nghiệm nữa mà mãi sau này tôi vẫn thấy thú vị vô cùng. Danh nhân nào đã nói kinh nghiệm là một ông thầy khó tính, bắt ta phải khảo thí trước khi dạy ta.
Tôi đang là thí sinh của cuộc khảo thí kỳ cục đầy hào khí này. Hình ảnh cuốn phim Le Pont de Toko Ri chợt đến bao trùm trong tôi thật rõ ràng linh hoạt như ngày nào tôi mười hai tuổi xin tiền mẹ bốn lần để xem đi xem lại phim này.
Vùng trời Đà Nẵng hôm đó thật thấp và âm u với nhiều mây xám. Đã có lác đác vài hạt mưa rơi.
Các bạn tôi lộ vẻ chán nản và nói “Chán quá! Lại phải hủy bỏ phi vụ”. Chúng tôi có những giới hạn thời tiết tối thiểu để hoạt động. Dù với lòng quả cảm chấp nhận hiểm nguy nhưng chúng tôi đều phải tôn trọng những luật lệ về an phi. Tuy nhiên tôi thản nhiên ra lệnh: “Vẫn cất cánh như đã dự trù”.
Các bạn tôi đều ngạc nhiên và cho là một quyết định khá liều lĩnh. Thật ra tôi đã quyết định ngay từ lúc rời phòng thuyết trình và thầm biết. Trong trí tôi, cuốn phim Le Pont de Toko Ri đang quay chậm. Tôi ôn lại các lối lượn bay toát mồ hôi lạnh trong phim.📷Có ai ngờ mười mấy năm sau tôi lại đóng vai chính của một cuốn phim oai hùng.
Thời gian trôi qua thật nhanh chóng.
Tôi tưởng chừng như mới hôm qua còn ngồi trên ghế nệm thoải mái trong rạp hát, hồi hộp theo dõi một kiệt tác của nghệ thuật thứ bảy. Để rồi hôm nay ngồi trong phòng lái chật hẹp tù túng, trước mắt là cánh quạt động cơ ào ào rung chuyển quay tròn như cơn gió lốc, như trộn lẫn định mệnh với cuộc đời…
Thế rồi phơn phớt dưới chân mây, là đà trên ngọn núi, chúng tôi đem tuyệt kỹ phi hành để khắc phục trắc trở thiên nhiên. Tôi đem hết hiểu biết kinh nghiệm để dẫn dắt mười hai cánh chim lao về Bắc.
Nhìn các bạn tôi chao đi trong mưa gió âm u, lòng tôi se lạnh. Trong gió mưa cuồng loạn các bạn hãy cố gắng lên. Chúng ta còn đến trung tâm một cơn bão khác quay cuồng hơn, đang đe doạ không riêng chúng ta mà cả hàng triệu chiến hữu đang gian khổ dập tắt cơn bão loạn này. Tôi biết trời âm u lắm, đôi cánh nặng vô cùng, các bạn hãy theo tôi đi dẹp tan cái âm u khác đã triền miên từ lâu. Theo tôi cho vững để trút cái nặng nề dưới đôi cánh, xoá tan những áp lực núi đá khác đang đè nén quê hương.
Nhìn xem kìa, bên trái hướng chín giờ, Huế cố đô thân yêu. Chân mây cao hơn đôi chút rồi. Đừng dùng máy nhiều nhé, nhớ tiết kiệm từng giọt xăng.
Chúng ta còn đi xa lắm, dù mang thêm bình xăng phụ nhưng lúc giao chiến, đôi khi chúng ta phải thả đi cho nhẹ bớt để còn mặc sức vẫy vùng. Máu của cánh chim, máu của chính mình đó các bạn.
Tôi đang cố gắng giữ hướng Bắc dù cho đôi cánh đang chao mạnh run rẩy từng cơn.
Hãy tin ở tôi, ở tuổi trẻ Việt Nam.
Quảng Trị, Đông Hà, Cửa Việt...
Các bạn thấy Cửa Việt chưa? Cố lên, hãy tra chìa khoá vào cánh cửa Việt Nam đang bị rỉ sét để mở ra cho lịch sử thôi tù túng, đóng khung.
Đừng bay quá xa về phía biển, chúng ta sắp vượt Bến Hải, vĩ tuyến đau thương. Ha ha, chiếc cầu với hai cột cờ. Chẳng có ý nghĩa gì với chúng ta.
Các bạn còn nhớ bài Địa Dư vỡ lòng ngày nào?
Nước Việt Nam trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Đâu có ai ngờ là đứt khúc nơi Bến Hải.
Bên cánh trái là giang sơn gấm vóc của giống Tiên Rồng. Dưới cánh phải là Thái Bình Dương đang dâng sóng vỗ về đất nước. Chúng ta cố bay nhanh để sớm quay về, chắp đôi cánh lại cho thanh bình mau ấp ủ quê hương...
Vĩnh Linh, Quảng Khê, Đồng Hới...
Tôi đã bay trên miền trời các địa danh đó, đã đem tử thần đến và cũng đã chạm mặt tử thần ở những nơi này. Quê hương tang tóc rối bời. Những trại quân bị tàn phá, những chiếc cầu gẫy gục, những quang cảnh tiêu điều, vết tích lưu lại những lần oanh tạc trước vẫn còn lở lói bên dưới kia.
Những ai đó còn mê ngủ hay đã kinh hoàng tỉnh giấc trong những tràng bom nổ inh tai, dưới những làn phi tiễn nhức óc? Đừng để cho ảo tưởng bao trùm, hãy lên đây cùng chúng tôi, suốt con đường từ Nam ra Bắc để nhìn rõ bức dư đồ rách nát vì đâu?
Hãy ngồi bên chúng tôi để nhìn rõ quê hương, để biết cái cảm giác của một người bay trên quê hương mà phải nghĩ đây là đất địch.
Đã bao lần tôi muốn xua đuổi ý tưởng đau lòng đó, nhưng bên những sườn núi kia, trong thung lũng nọ, trên bờ biển này, tử thần đang chực chờ lôi kéo chúng tôi bằng lưới đạn giăng trời, để rồi sau cái tan vỡ kinh hoàng của một cánh chim, Thân xác cũng tan tành đưa chúng tôi đến nơi nào không biết, nhưng chắc chắn rằng cho đến lúc đó, chúng tôi chưa tận hưởng được cái khang cường thân thể với những mạch máu căng đầy sinh lực mà cha mẹ tạo thành, chưa mãn nhãn nhìn hết cái đẹp hùng vĩ đất nưóc của tổ tiên để lại, cũng như chưa tiêu xài hết một phần tuổi trẻ của cuộc đời.
Tôi đưa cả phi đội bay thật thấp để cố tránh tầm rada địch. Trong mũ nghe chỉ còn tiếng rè rè của vô tuyến. Chúng tôi âm thầm bay, không một ai lên tiếng trong lúc này, kể cả đài kiểm báo Sơn Trà. Ngoại trừ khi tôi cần. Tôi biết rằng chúng tôi không cô đơn, vì ở nhà bao con tim đang hồi hộp đợi chờ. Chúng tôi rời phương Nam đã lâu, nơi đó bạn tôi cũng chờ đợi.📷Địch? Bạn?
Tại sao lại bắt chúng tôi dùng những từ ngữ ấy?
Tại sao không xoá bỏ những chữ ấy trong tự điển, trong lòng người? Tại sao lại xem chúng ta là kẻ thù để chúng tôi trở nên những người đối địch họ vì chúng ta sắp nhận là kẻ ác của những người thiện để tiêu diệt bất cứ kẻ ác nào muốn giết người thiện.
Từng phần đất quê hương sẽ thêm một lần vỡ tung dưới làn bom nổ. Thân thể mẹ Việt Nam đang bị vi trùng đục khoét, chúng tôi xót xa phải cắt bỏ những ung nhọt đang hoành hành.
Nguyện ước bây giờ là làm sao cho Mẹ bớt đau đớn, hết rên xiết, con cháu Mẹ sớm quây quần bồi dưỡng Mẹ. Mẹ, xin Mẹ cho chúng con thêm một lần chạm vào da thịt thiêng liêng để Mẹ sớm yên lành...
Hà Tĩnh nghèo nàn âm u kia rồi.
Vinh u buồn thảm não.
Chúng tôi cho vòng máy quay nhanh hơn bắt đầu vượt cao theo hướng Tây Bắc tràn vào.
Mây mù giăng đặc. Tôi cố lượn giữa các tầng mây, dò theo từng chi tiết trên bản đồ mà hầu như đã thuộc kỹ. Tôi không được phạm một sơ xuất nào, một lầm lỗi nào dù nhỏ đến đâu.
Tôi ra thủ lệnh cho các bạn tôi.
Loang loáng trong mây, mười hai hiệp sĩ như những cánh thiên thần đi tìm tử thần trong cái âm u của trời đất. Tôi phải tận dụng yếu tố thời tiết và bất ngờ, nếu không… nếu không thì…
Le Pont de Toko Ri ơi, sao có sự trùng hợp lạ kỳ?
Chỉ khác chăng không phải chiếc cầu mà là trại quân. Vẫn một thung lũng rợn người với ba mặt núi cao đầy lửa đạn. Vẫn một lối vào duy nhất như lùa vào tử lộ. Vẫn một lối ra hiểm trở, vách đá sừng sững chi chít cao xạ. Tôi có cảm tưởng như địch đã biết, đang mỉm cười chờ những cánh thiên thần.
Trời âm u quái đãn, bay đến đâu mới nhìn được đến đó. Tầm nhìn xa bị giới hạn tột cùng. Thoáng qua vài lỗ hổng chân mây, xa xa là Thanh Hoá.
Tám phút trước mục tiêu, tôi chợt đổi đường bay về hướng Bắc. Các bạn tôi vẫn đeo sát.
Nhạc gió quay cuồng, tiếng máy thét gào rú mạnh.
Đài kiểm báo Sơn Trà như lo lắng gọi chúng tôi cho biết đang bay lệch mục tiêu ba mươi độ và báo động phi cơ địch được nhìn thấy trong vùng hoạt động. Tôi đáp hiểu, không giải thích lối đánh của tôi.
Tôi lượn quanh trong mây đổ chập chùng, vòng sang hướng Tây mục tiêu rồi chọc thẳng về hướng Nam, tin tưởng hoàn toàn vào tấm bản đồ không ảnh.
Các bạn tôi đã sẵn sàng ở đội hình chiến đấu.
Tôi từ đầu rặng núi vượt ra từ trong mây.📷Số một lao vào mục tiêu. Tốc độ tăng nhanh như vũ bão. Áp lực ép mạnh vào người. Làm sao… Làm sao ngay từ giây phút đầu… Le Pont de Toko Ri… Phải, tôi phải cố gắng làm sao cho hai trái bom đầu tiên rơi đúng ngay trên mục tiêu nằm cách nhau non một ngàn thước để đánh dấu cho các bạn tôi nhìn thấy qua đám mây mù. Tôi phải lam sao cho các phi tiễn cùng lúc ấy phá vỡ các ổ cao xạ ở vách núi trước mặt ngăn chặn lối ra duy nhất.
Hơn nữa nếu tôi xuống quá thấp để tìm sự chính xác cho làn bom và phi tiễn thì lúc vượt lên sẽ quá muộn chỉ trong vòng một giây đồng hồ tôi sẽ cùng cánh chim dán vào vách đá.
Tôi còn phải lượn lại ít lắm hai lần, trong lúc các bạn tôi đang oanh tạc, để trút số bom còn lại lên các ổ phòng không hai bên vách núi đang kẹp mục tiêu như chiếc kéo của tử thần đang chực chờ họ. Tôi còn phải nhắc nhở và theo dõi họ lúc vượt qua vách núi chắn ngang. Tất cả đều tùy thuộc vào ở lúc này.
Tôi lao xuống mục tiêu đang tỏ dần trước mặt…
Bom nổ kinh hoàng, phi tiễn xé rách vùng trời thung lũng. đạn bay loè sáng… Tôi như chết đi trong con người, đắm chìm trong chiến trận. Tôi trở thành máy móc, một công cụ khoa học, một nô lệ kỹ thuật. Phòng không địch giật mình hoạt động. Nhưng trễ quá rồi.📷Thời tiết xấu đã giúp chúng tôi tận dụng yếu tố bất ngờ. Các chú không ngờ chúng tôi tiến đánh lúc trời xấu phải không? Nếu trời trong thì với lối phòng thủ chắc ăn như vậy, các chú có thể xơi tác một con ruồi bay qua. Chúng tôi cần vài giây đầu tiên thôi. Đạn phòng không đỏ rực nổ tung dày đặc khung trời.
Lúc trở vào mục tiêu lần thứ ba, có nhiều va chạm mạnh ở toàn thân phi cơ. Cánh chim lao chao… Tôi trút hết số bom vào mục tiêu đang cháy bùng vỡ toang… Tôi chợt thấy rợn người… Tôi đã xuống quá thấp và hiện ra ở cách độ 1500 bộ… Vách đá trước mắt tôi với nhiều vết đạn dài bay lên như sắp đổ ập lên tôi… Chậm quá rồi…
Tôi phải kéo thật mạnh để tung bổng lên cao. Nhưng nếu cần lái lại bị kẹt vì lý do nào đó… Nếu các định luật gia tốc và thăng tốc không còn đúng nữa ở trong trường hợp này?
Bao sức mạnh trong tôi dồn cả vào đôi tay níu kéo cần lái như chỉ một lần cuối níu kéo định mệnh, níu kéo những giây phút sau cùng của cuộc đời. Tôi cố nhấc bổng khối sắt nặng nhiều tấn đang rung mạnh lên cao… Hôm nay không có trời xanh cao đẹp, nhưng những đám mây xám ngoẹt kia giờ đây sao lại đẹp dị thường. Các bạn tôi đang tìm tôi trên vùng mây kia.
Những giây phút này chắc tôi không còn có thể đưa họ trở về phương Nam như một “đàn chim Việt”. Lòng tôi thanh thản vô cùng. Tôi nhớ rõ trước khi đi, tôi đã ra lệnh tỉ mỉ cho người phi đội phó thay tôi nếu tôi rơi rụng… Họ sẽ trở về an toàn dù có thiếu vắng tôi. Không có gì là quá đắt nếu chỉ một mình tôi phải trả giá cho phi vụ này… Trong phim Le Pont de Toko Ri có ai trở về đâu… Thế mà các bạn tôi sẽ trở về. Chắc chắn họ sẽ trở về… Chấp nhận kiếp sống mây trời là để sống hào hùng và chết oanh liệt
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 5, 2020 17:02:34 GMT 9
Trung Sĩ VŨ TIẾN QUANG Cái Bóng Của HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN hay Truyện Người Lính Nhỏ Mà Chính Khí Lớn VŨ TIẾN QUANG (Trích trong bộ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam) Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ
Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn. Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài: “Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ”, bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nảy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: “Mình phải như anh Minh”. Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì…nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối: - Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp. Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang. Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ. Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu : “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh” (Người ta sinh ra, ai mà không chết. Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử). Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay. Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng : Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm. Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:
Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo. Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy. Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước. Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt. Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám. Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi: - Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ? Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.
Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì “Không có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17 ! Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thực. Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp. Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi: - Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à? - Dạ, đạn Việt-cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau. - Móng tay tao, đâu phải vuốt? - Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Thì vuốt của anh phải sắc lắm. - Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không? - Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu ? - Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa? - Dạ anh Thời-thẹo không có nhà. Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh. Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên. Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp! Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn luyện. Quang đã được Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường: “Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẫm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”. Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh: ” Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả “. Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô : - Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong. Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa. Đến đây trận chiến chấm dứt. Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện. Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý : Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau. Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử… Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi : - Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút. Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh: “Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu”. Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang. Bấy giờ đúng 15 giờ. Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi: - Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh? Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt. Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn: - Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh. Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn: - Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội. Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng: - Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản ? Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang: - Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa? - Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà. - Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không? - Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu. Quang cười ngạo nghễ: - Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao? Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cưòi đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn?
Ghi chú : Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille. Cái lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn. Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang. Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique) , tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ. Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ: “Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi, An giấc ngàn thu cùng Vợ là Nguyễn Hoàng Châu. Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng” Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.
Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999. Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ. Ghi chú : Tác giả Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ là giáo sư Y Khoa Paris Pháp Quốc.
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 27, 2020 3:41:41 GMT 9
Anh Thủy, binh chủng Thủy Quân Lục ChiếnNguyễn Trần Diệu Hương Dạo đó, đầu thập niên 70, dưới giàn hoa giấy, trong khoảng sân nhỏ nhà chúng tôi, thỉnh thoảng có những người lính thuộc mọi binh chủng của Quân lực VNCH. Họ ngồi hút thuốc, hay tay đàn miệng hát vì trong cư xá Đoàn Văn Cự ở Biên Hòa có khá nhiều chị đang học lớp 12 rất đẹp. Nhà chúng tôi ở đầu cư xá nên các chị thường phải đi ngang nhà chúng tôi trước khi về nhà mình. Anh Duy, nhà bên cạnh, là Thiếu úy của một đơn vị Bộ Binh của Quân Đoàn 3. Anh hiền lành, ít nói, hay cười. Anh hy sinh vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nghe nói, anh và cả tiểu đội của anh quây quần bên nhau thành một vòng tròn rồi rút chốt một trái lựu đạn vào buổi chiều ngày 30 tháng 4 khi hai mươi triệu người miền Nam vẫn tưởng mình đang sống trong một cơn ác mộng. Buồn thay đó là một cơn ác mộng có thật, kéo dài mãi đến hôm nay. Cậu Quyền, em họ của Mẹ, là Trung úy Quân Cảnh. Chú Hiển, em họ của Ba, là Thiếu úy Không Quân. Chú ngắn số nên tử trận rất sớm, ở tuổi 25, chưa kịp dẫn người yêu về ra mắt cha mẹ . Anh Ân, cháu của một bác hàng xóm là lính Hải Quân, vẫn tay đàn, miệng hát bài “Hoa biển” rất hay. Anh Thủy (cháu của bà Năm, vú nuôi đã giúp Mẹ tôi bồng bế chúng tôi từ lúc còn đỏ hỏn) là lính Thủy Quân Lục Chiến. Trên tay áo của anh có đính một phù hiệu có chữ “Trâu Điên” và hình một con trâu với hai cái sừng to, đôi mắt đỏ ngầu đang đùng đùng nổi giận. Ấy vậy mà anh Thủy hiền khô. Sau mỗi lần hành quân, đơn vị được nghỉ dưỡng quân ở căn cứ Sóng Thần, anh được tự do vài ngày. Không đủ thời gian về thăm mẹ và các em ở Bồng Sơn, Quy Nhơn, anh Thủy về thăm dì Năm của anh, nghỉ tạm ở nhà chúng tôi. Một vài ngày phép của người lính trận quý lắm, nhưng anh Thủy chỉ quanh quẩn trong nhà. Anh hỏi Mẹ chúng tôi: – Cô có cần làm gì không, con làm cho Mẹ nhẹ nhàng: – Cô cảm ơn Thủy, việc nhà thì nhiều lắm, không bao giờ hết, nhưng con chỉ về phép có 3 ngày thì đi chơi cho biết phố phường. Anh Thủy dạ dạ vâng vâng, rồi ra ngồi dưới giàn bông giấy bên hiên nhà tay đàn miệng hát, từ tân nhạc, qua cải lương. Cái guitar thùng chúng tôi mượn được cho anh Thủy từ nhà hàng xóm. Cái guitar đó là quà sinh nhật của bác Thịnh hàng xóm mua cho anh Duy khi anh lên lớp 12. Cứ rảnh rỗi, sau giờ học, anh Duy lại đàn, bài tủ của anh là bài “Việt Nam quê hương ngạo nghễ” của Nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang. Anh là người hướng dẫn anh chị em chúng tôi biết về phong trào du ca. Thi tú tài xong, anh Duy vào Thủ Đức, và biền biệt vì chiến trận. Anh để cây guitar lại nhà. Lâu lâu, chúng tôi lại chạy qua nhà hàng xóm mượn cây guitar về cho đủ các sắc lính “hải, lục, không quân” ghé nhà chúng tôi trong những kỳ phép ngắn ngủi, họ không thể về quê nhà ở miền Trung, hay trên cao nguyên đất đỏ “đi dăm ba bước đã về chốn cũ”. Lần này đến phiên anh Thủy gãy những nốt nhạc nhanh của bài hát quen thuộc trên chương trình “Tiếng nói Động viên” trên màn ảnh TV mỗi tối. Đây không phải là lần đầu anh Thủy đàn với cây guitar của nhà hàng xóm chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn theo thói quen dặn dò anh: “Anh đàn, giữ cẩn thận nha, không thôi mai mốt anh Duy về phép, la tụi em, và không cho mượn đàn nữa.” Sau giờ học, anh cả của chúng tôi hay dẫn mấy anh bạn học, lớp 8, về nhà chơi. Một vài người trong số họ rất quý anh Thủy vì tuy anh mặc đồ lính Thủy Quân Lục Chiến rằn ri nhưng anh rất hiền, tương phản với vết xâm sóng biển và một cánh chim hải âu bay trên biển và bốn chữ “chim bay về biển” trên cánh tay bên trái của anh, trông rất “ngầu”.. Là con gái, tôi không tham gia chuyện “hỏi đáp thắc mắc về lính” của các anh lớp 8 với một người lính trẻ (rất là “hậu phương tiền tuyến đoàn kết một lòng”) nhưng bàn học của chúng tôi nhìn ra hiên nhà dưới giàn bông giấy nên vẫn vô tình được “hóng chuyện”: – Anh Thủy ơi, đi lính cực lắm hả anh? Có gì vui không? – Lính trận mà không cực thì đâu phải là lính nữa mấy em! Vui hả, có chứ nhưng vui thì chút chút thôi, mà buồn thì nhiều lắm. – Anh kể chuyện tụi em nghe vài chuyện vui của lính . – Giữa rừng sâu, hay trận mạc, mà có một điếu thuốc lá Capstan mà tụi anh vẫn đùa là “Cho anh phát súng tim anh nát” thì cũng vui như các em đi học mà được điểm 20 vậy. Hay như lúc một thằng bạn nhận được thư đào của nó, “vui quá hóa thành siêu nhân” xách ba lô giùm anh trong một cuộc hành quân giữa rừng phải leo lên một ngọn đồi nhỏ . Nhưng vui nhất, vui cả tuần, là nhận được thư “đào” từ hậu phương. Nhiều khi cả tháng sau, tụi anh mới nhận được, khi nào có máy bay C130 mang đồ tiếp tế, mang theo thư của người nhà lên. – Còn chuyện buồn thì sao hả anh? Anh Thủy ngước mắt nhìn người hỏi, rồi hỏi ngược lại: – Mấy giờ thì em phải về nhà? Để anh biết kể vài chuyện buồn thôi, chứ nếu kể hết chắc là tối nay em phải xin phép ba mẹ ở lại đây, và ngày mai phải xin phép nghỉ học. Buồn da diết và buồn lâu nhất là phải sửa xác thằng bạn của mình ngay ngắn lại, thu xếp ba lô của nó để chờ trực thăng đưa về hậu cứ. Khi nào các em có cơ hội “bị” vuốt mắt một thằng bạn mới 22 tuổi của mình, thân thể vẫn còn nóng ấm, thì các em mới hiểu hết nỗi niềm của một người lính trận trong chiến tranh. Nhưng mà anh cầu mong lúc các em lớn lên thì nước mình hết chiến tranh, tụi em không bao giờ phải buồn như anh. – Anh được về phép mà sao không đi chơi? Đi gặp “đào”? – Con bồ của anh ở tuốt ngoài Bồng Sơn, Bình Định mà anh chỉ được có 72 tiếng phép, xin máy bay quân sự C130 thì đâu phải lúc nào cũng có, mà máy bay dân sự thì phải tốn tiền, mà anh đâu sẵn tiền. Tụi em không nghe câu “tiền lính tính liền” hả? Một giọng khác vang lên trong đám bạn học của anh tôi, ngây thơ như tuổi của một học sinh lớp 8: – Vậy chứ tiền lương của anh đâu? Anh Thủy quay lại xoa đầu người vừa hỏi: – Anh gởi về cho má của anh ở quê, chỉ giữ lại một chút đủ đi xe đò, và hút thuốc. Một câu hỏi khác vang lên, còn ngây thơ hơn: – Ủa, ở trong rừng cũng có cách gởi lương về quê cho má của anh? – Không, trong rừng chỉ có lá, có cây, có đất, có đồng đội, có kẻ thù VC. Nhiều khi cứ nghĩ là lính tráng tụi anh sinh ra để bắn nhau, bắn chậm là chết, quyết định sai lầm là “từ chết đến bị thương”, quyết định đúng thì thắng, bởi vậy mới có câu ra trận là “một xanh cỏ, hai đỏ ngực”, không có nhiều lựa chọn. Khi vô lính, anh có ký giấy yêu cầu mỗi tháng đến kỳ lương, đơn vị hậu cần gởi lương về cho má anh 90%, chuyển ra mặt trận cho anh chỉ 10% thôi. Vậy mà nhiều khi anh cũng khá “giàu có” vì có khi vài tháng không ra khỏi rừng, không rời trận mạc thì đâu có gì phải tiêu xài. – Nếu được quay trở lại thời đi học như tụi em, anh có đi lính TQLC không? – Nếu được như vậy, anh sẽ học giỏi hơn để ít nhất cũng vô được trường Thủ Đức hay Đà Lạt ra sĩ quan đỡ cực hơn, lương cao hơn. Nhưng anh cũng sẽ chọn đi binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, tên anh là Thủy mà. – Em tên Quân, nhưng mai mốt lớn lên em sẽ không đi Quân Cảnh, mà em sẽ đi Thủy Quân Lục Chiến giống anh vì em thích bộ quân phục rằn ri, và vì em muốn Việt Cộng không còn để khỏi có cảnh Mậu Thân 1968. – Vậy thì ráng học giỏi để vô Đà Lạt hay Thủ Đức, lúc đó nếu anh vẫn còn sống sót, lành lặn, và nếu đất nước mình vẫn còn chiến tranh, thì biết đâu lúc đó anh sẽ là Chuẩn úy già làm cần vụ cho em. Mà anh em mình cùng cầu Trời khấn Phật cho sớm hết chiến tranh . … Những câu chuyện không đầu, không đuôi như vậy, được hỏi với cái ngây thơ của những nam sinh lớp 8, 13 hay 14 tuổi, (bạn học của anh cả chúng tôi), được trả lời với sự chân thật của một người lính trận thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, bằng một cách nào đó theo tôi mãi đến bây giờ. Dạo đó, tôi đã kể lại những điều mắt thấy tai nghe với Ba Mẹ trong bữa cơm tối. Còn nhớ đó là một buổi tối hiếm hoi Ba được về nhà trong những ngày cuối cuộc chiến. Chúng tôi khờ khạo không hiểu là vì túi cạn tiền nên anh Thủy chỉ quanh quẩn trong nhà trong 3 ngày phép quý hiếm của một người lính trận. Nhưng Ba Mẹ thì thấy được lý do. Sáng hôm sau, ngày phép thứ hai của anh Thủy, Mẹ tôi bỏ ra một ít tiền đủ để anh Thủy tiêu xài thoải mái trong hai ngày phép còn lại, và kín đáo nhờ bà Năm trao lại cho anh. Không biết bà Năm đã khéo léo ra sao mà ngày phép thứ hai, anh Thủy rời nhà rất sớm, về lúc tối mịt, và mang theo một số quà cáp. Anh thì thầm với bà Năm trong một góc sân, rồi mang lên biếu Ba Mẹ tôi một hộp bánh kẹp “Bảo hiên rồng vàng”. Ban đầu Mẹ tôi không nhận , muốn anh gởi hộp bánh về cho Má của anh ở Bồng Sơn. Đẩy qua đẩy lại, cuối cùng anh giao hộp bánh cho anh em chúng tôi. Bọn con nít chúng tôi thì không hề khách sáo, vòng tay cảm ơn, nhận liền. Gì chứ bánh hiệu “Bảo hiên rồng vàng” thì thuộc quà bánh ngon nhất nhì của tuổi thơ chúng tôi lúc đó. … Sáng hôm sau, anh Thủy đeo ba lô về căn cứ Sóng Thần trả phép, chuẩn bị cho một cuộc hành quân mới, với lời nhắn nhủ riêng cho anh tôi: – Cho anh gởi lời tạm biệt các bạn của em. Lần sau, về phép, anh kể cho tụi em nghe nhiều chuyện hay hơn, vui hơn. Nhưng mãi mãi chẳng có lần sau, vì lúc đó chỉ còn hơn một tháng là đến Tết Ất Mão 1975. Sau Tết con mèo năm đó, tình hình chiến sự xấu đi cho miền Nam trong cuộc chiến tranh ý thức hệ bảo vệ tự do. Chúng tôi không còn có dịp gặp lại anh Thủy, anh đã đi mãi không về, không về với Má và các em của anh ở Bồng Sơn, không về với cô người yêu từ lúc anh 19 tuổi, và không về được với lòng đất mẹ. Cuộc rút quân theo lệnh của thượng cấp từ cuối tháng 3, sau Tết Ất Mão 1975 khoảng hơn một tháng, các đơn vị tổng trừ bị thiện chiến của Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có cả Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên một thời lẫm liệt của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến phải lần lượt buông súng, rút quân lùi dần về Sài Gòn. Bà Năm, dì của anh Thủy, về quê ăn Tết từ tháng chạp, và không trở lại. Chúng tôi, những đứa con nít của năm 1975, cũng bị cuốn theo cơn bão dữ của vận nước, cũng chịu cảnh nước mất nhà tan. … Tháng 5 năm 1983, trên đường theo Mẹ đi lên trại cải tạo Gia Lai Kontum thăm Ba lần cuối trước khi “vượt biển một mình”, chúng tôi ghé ngang Quy Nhơn như là một nơi trung chuyển. Trên đường về, chúng tôi có ghé Bồng Sơn tìm thăm bà Năm. Bà đã qua đời. Chúng tôi có gặp Mẹ của anh Thủy và được biết anh Thủy cũng mãi mãi không về. … Mãi về sau, sau này, ở Mỹ, có cơ duyên được biết một số cựu Sĩ quan TQLC, chúng tôi dò hỏi, và tìm đọc các tài liệu quân sử một thời do những người lính năm xưa viết lại, và tưởng tượng được những ngày cuối cùng của anh Thủy. … Như kỷ luật tuyệt đối của quân đội, “làm trước khiếu nại sau”, tháng 3 năm 1975, những người lính mũ xanh của lực lượng tổng trừ bị đang trấn thủ ở miền Trung bỗng dưng được lệnh rút quân. Họ tập trung ở bãi biển Non Nước, Đà Nẵng, để chờ tàu Hải Quân đến đón. Tàu Hải Quân không thể cập sát bờ vì mực nước biển sáng hôm đó khá cạn. Những người lính TQLC lần lượt lội nước ra tàu. Vì có đến hai Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở đó nên quân số lên đến cả mười ngàn người. Con tàu neo ở chỗ gần nhất có thể, từ sáng, để chờ những người lính mũ xanh. Không may, từ sáng đến chiều tối, thủy triều từ từ dâng lên, những người lính trẻ gần một ngày không được ăn uống, sức cùng lực tận, bị sóng biển cuốn trôi trước khi chạm được cửa tàu. Tất cả phao trên tàu được liệng xuống để tiếp sức cho những người lính đang nhấp nhô trên sóng biển, đánh vật với thủy triều đang lên, nhưng vẫn không thắng được định mệnh đen tối của họ, và của cả miền Nam Cái ngày cuối tháng 3 rất buồn năm đó, chỉ có khoảng sáu đến bảy ngàn người lên được tàu Hải Quân. Trên dưới một ngàn người còn ở lại trên bãi biển Non Nước. Nghĩa là hơn hai ngàn người đã mãi mãi nằm lại lòng đại dương, trong đó có anh Thủy. Sau chiến tranh, chờ mãi không thấy anh về, Mẹ và các em của anh Thủy đi hỏi thăm đồng đội của anh và được kể lại nguồn cơn. Anh Thủy -đúng như tên anh, và như vết xâm định mệnh trên cánh tay anh “chim bay về biển”- đã ở lại ngàn đời với đại dương. Hàng năm gia đình của anh vẫn mang lễ vật ra bãi biển Non Nước (Đà Nẵng) vào cuối tháng 3 dương lịch để nhớ đến anh, nhớ đến những người lính mũ xanh đã bỏ mình vào những ngày cuối cuộc chiến. Xin được ghi lại chuyện này như một nén hương lòng thành kính tưởng nhớ đến anh Thủy, đến đồng đội của anh, và tất cả những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã “vị quốc vong thân”. Nguyễn Trần Diệu Hương Tháng tư đen 2020 (Kính cảm ơn chú Mai Văn Tấn đã hướng dẫn “kiến thức TQLC” cho bài này) Nguồn: vietbao.com/p301414a303011/anh-thuy
|
|
|
Post by Can Tho on May 30, 2020 18:51:03 GMT 9
Cô bạn học ngày xưaNguyễn Toàn Đông Vào bài: Dịp trở lại thăm quê lần này, điều quá ngở ngàng là ngôi trường Tống Phước Hiệp xưa không còn một dấu vết nào. Đây là biểu tượng di sản văn hóa, giáo dục và là niềm tự hào muôn thuở của Vĩnh Long… Nay, người ta đã thay thế ngôi trường cũ bằng một khu nhà mới xây xa lạ. Xin gởi những dòng này như một ghi nhớ về ngôi trường cũ. Niên khóa 70-71, chúng tôi học lớp 12 ở trường Tống Phước Hiệp. Ngày học, lội bộ chừng mười lăm phút là tới. Vừa vào cổng, quẹo trái. Một lối đi rộng rải tráng xi măng dẫn đến đầu hồi dãy lớp chính. Lối đi cặp theo một ngôi nhà nhỏ, gọn. Bên trong chia làm ba (?): Nơi gác cổng; nơi chăm sóc y tế; phần cuối dành cho Hội Phụ Huynh Học Sinh. Lúc đó, thầy Mai Phùng Võ làm hội trưởng. Giữa chừng đoạn đường còn lại, có một cây đa to. Tàng lá râm bóng mát suốt ngày. Thời trước, các trường học do người Pháp xây dựng đều có nét giống nhau từ cổng trường đến các lớp học. Một người từ dưới quê chân chất nhìn thấy khuôn viên thì biết ngay đó là trường học. Bên trong, những ngôi nhà vững chải, những dãy phòng trang nghiêm, được bao quanh bởi tường rào xây cao và kín đáo để học tập. Cổng trường là những cánh cửa sắt phía nửa phần dưới. Phần trên là những song sắt to, cân đối với phần còn lại. Hai cánh cửa chính gắn vào hai trụ xi măng hình khối vuông kiên cố. Hai bên cổng chính là hai cổng phụ. Hình dáng cũng giống cửa chính với tỷ lệ nhỏ hơn; và chỉ có một cánh. Ngày ấy, học trò chúng tôi hằng ngày đi học thường xứ dụng cổng phụ bên trái là bên có người gác. Bây giờ, ngồi nhớ lại những chuyện 48 năm trước; có chuyện nhớ chuyện quên. Được biết, trước năm 1972, trường Tống Phước Hiệp hầu như còn nguyên trạng… Con đường mặt tiền của ngôi trường là đại lộ Gia Long, số 106. Bước vào cổng trường, sẽ nhìn thấy ngay ở giữa sân một tòa nhà hai tầng trên nền gạch cao chừng hơn kém một mét. Tầng một gồm văn phòng thầy Hiệu trưởng, văn phòng các thầy cô giám thị và phòng sinh hoạt cho các giáo sư. Tầng trên lầu là phòng Khánh Tiết. Dãy phòng học chính chạy suốt chiều dài sân trường, phía tay trái, nếu đứng đối diện với tòa nhà chính giữa sân. Dãy lớp kia, ngắn hơn nằm phía sau phòng Khánh Tiết, nối với cánh trái thành chữ L. Bên tay phải là ngôi nhà dành cho gia đình thầy Hiệu trưởng. Năm đó, vị Hiệu trưởng là thầy Đào Khánh Thọ. Kể tiếp theo đó là một dãy phòng học khác, đơn giản hơn. Điều này tôi đọc được trên mạng mà vẫn còn chưa nhớ ra (!). Hai bên cổng là những gian phòng nhỏ như kể trên. Vài gian bên phải ngay sau cổng trường có lẽ thời Tây gọi là préaux (nhà chơi). Các khoảng sân còn lại đều rộng rải vì mỗi cuối năm học, trường tổ chức một ngày cắm trại qua đêm cho học sinh ngay trong sân trường. Dọc theo các lối đi chính đều có cây xanh, đăc biệt là những cây phượng đỏ. ___ ___ ___ Năm 1970, cha Antôn Ngô văn Thuật, từ khu B qua làm Giám đốc khu A. Cha đã đưa ra những quyết định làm thay đổi gương mặt Chủng Viện mà tôi nghĩ là từ thuở khai sinh. Đầu tiên là Chủng viện được mở trường, trở thành một trường Trung Học Tư Thục. Bảng hiệu “Trường Trung Học Tư Thục Chủng Viện” được trang trọng dựng lên nơi cổng vào phía bên hông nhìn qua trường Nguyễn Thông. Gian phòng học rộng nhất khu A lúc đó được chọn làm Thư viện. Phải mua hầu như tất cả sách mới bằng chữ Việt. Thư Viện cũ, ở ngay góc cầu thang phía đường Trưng Nữ Vương thì quá nhỏ. Hầu như không có sách Việt. Mà các sách tiếng Pháp thì đa số là của văn chương Pháp. Đó là những quyển sách bỏ túi (Livre de poche) cũ xưa. Còn nhớ, chỉ có bộ sách hình mà bọn nhí chúng tôi cứ coi tới coi lui, dù không hiểu hết chữ Pháp. Đó là bộ Tintin et Milou. Và một số sách nào đó mà tôi cũng không còn nhớ ra. Chứng tỏ bọn chúng tôi chưa hiểu Thư viện là gì. Từ khi có Thư viện mới, không lúc nào là vắng người đọc. Nếu không đủ chỗ ngồi thì đứng đọc. Không khí mê đọc sách sinh động hẳn lên. Thư viện chính là trung tâm vãng lai của chúng tôi thời đó. Chiếc áo dài đen “lịch sử”, biểu tượng tưởng chừng bất di bất dịch của học trò trường La tinh, nay dẹp bỏ. Cũng không còn đồng phục áo trắng quần tây trắng với chiếc bê rê trên đầu (!). Còn nhiều thay đổi khác. Nhưng thay đổi táo bạo cuối cùng là cho lớp 12 ra học Tống Phước Hiệp. Ngoài lý do trước mắt là được học tập có phương pháp và khoa học, đây là sự thay đổi hoàn toàn cái nhìn của bề trên về môi trường giáo dục; từ một môi trường cách biệt, xa rời “thế gian” sang hướng ngược lại: Chung sống với “ngoài đời”. Những năm đầu tiên bên Mỹ, tôi ngạc nhiên về cách tuyển chọn các Đại chủng sinh. Ngoài những điều kiện nhất định như đức, trí và thể dục thì một điều kiện được cho là tất yếu, đó là đã qua thời có bạn gái rồi (?). Trong một Thánh lễ sáng Chúa Nhật nọ, nếu tôi nhớ đúng thì đó là Lễ Thánh Phaolô Trở Lại, trong phần chia sẽ Lời Chúa, vị chủ tế chỉ kể chuyện chính mình với cô bạn gái đã chia tay thế nào trong chuyến đi của hai người tới Lộ Đức (Pháp)!!. Và sau chuyến đi ấy, người thanh niên vừa chấm dứt mối tình kia mới đi xin làm Linh mục. Đáng nói thêm, theo câu chuyện do đương sự kể trong bài giảng, là nghề của anh trước đó là “người mẫu thời trang nam”. Và anh ta đang có hướng là đi làm diễn viên điện ảnh ở Hollywood. Hiện nay, vị linh mục trẻ này thuộc Tu Đoàn Nhà Chúa. Trụ sở chính ở Louisiana. Cách nhìn nhận các giá trị như trên cho thấy quan niệm ngày xưa bị ảnh hưởng nặng nề bởi những cấm kỵ duy ý chí. Nghĩa là cứ nghĩ rằng áp đặt sự cấm đoán bên ngoài để trấn áp là xong chuyện. Cứ nghĩ rằng ‘kênh xì po’ với kẻ thù lộ diện trước mắt là cách phòng thủ hay nhất. Nhưng thực tế cho thấy sát thủ giấu mặt luôn tiềm ẩn bên trong chính mỗi người mới là chổ sống chết. Câu nói của đệ tử với sư phụ rằng không hiểu tại sao nó cứ mắc nhớ con ‘ngổng’ nó gặp ngoài chợ mấy hôm trước là câu nói đầy mỉa mai theo quan niệm cũ. Thế là chúng tôi lên đường. Đó là lớp 12C, niên khóa 70-71. Khối 12 A, B, C năm đó, tôi nhớ là 8 lớp, xử dụng các phòng trệt và lầu đầu hồi của dãy nhà chính. Mỗi ngày, khối đến lớp lúc 8 giờ sáng và ra về lúc 12 giờ. Tất cả học sinh đều lui tới bằng lối đi rộng thoáng duy nhất kể ở trên. Nói cũng không quá, đó là con đường hẹn hò vì mỗi ngày hai lần, ai ai cũng có thể gặp nhau. Không biết bao nhiêu ‘chuyện học trò’ đã xãy ra trên quãng đường này? Học chung một lớp suốt năm thì tự nhiên thân quen nhau, nhất là nam với nữ; bạn này thân ít hơn, bạn kia thân nhiều hơn cũng là lẽ thường. Lớp có hơn kém bốn mươi học sinh thì sẽ là nửa nam nửa nữ. Còn nhớ những chuyện có thật mà không biết gọi là gì (?). Trong năm, mọi người đều ngồi có trật tự: Nam theo nam, nữ theo nữ. Đến khi còn chừng một tuần, mười ngày nữa là bãi trường thì những ai thích nhau cứ xách tập tới ngồi kề nhau (!). Mạnh ai nấy làm. Rồi còn chừng vài ngày cuối thì không ai chịu ngồi yên nữa. Người này lo ký tên vào sách, tập vỡ người khác. Có bạn chưa chịu còn viết lăng nhăng lên tay hay cả cánh tay người mình thích. Có Trời mới đọc được hết những câu lung tung này. Chưa kể những quyển “Lưu bút” dày cộm chạy rèn rẹt không kịp stop. Có khi những chuyện đó có phần tức cười. Nhưng là những biểu hiện rất thật tình bạn bè với nhau khi năm học cuối cùng sắp kết thúc… Một trong những ‘chuyện học trò’ của tôi cũng từ con đường có cây đa kia. Những ngày đầu chưa quen, tôi thấy hơi lạ lạ vì sao là nữ mà học ban B. Ban Toán bị coi là khó, dành cho nam sinh thì phải hơn? … Rồi cũng đến một hôm, chúng tôi gặp nhau. Chào hỏi rồi nói chuyện với nhau vài câu. Dần dần là những dịp khác nhau. Những câu chuyện có khi vu vơ. Nhưng là những cơ hội làm bạn với nhau tự nhiên hơn. Tên bạn là Ng. thị Kiêm D. Tôi hỏi sao chữ Kiêm lại có ê làm gì. D. cười nhỏ nhẹ trả lời là tại hồi làm giấy khai sinh người ta viết sai chớ thêm chữ ê làm gì! Rồi D. hỏi lại nhà tôi ở đâu. Tôi nói ở Chủng viện ra học thì D. liền cười nhẹ nhàng: “Vậy là con bà phước phải không? “… D. ít nói nhưng hoà nhã. Lúc chuyện trò luôn cười nhẹ nhàng theo câu nói. Phong cách ấy nơi một nữ sinh nhỏ nhắn, mảnh mai đã để lại nhiều suy nghĩ tốt và quý mến trong tôi. Rồi ngày bãi trường cũng gần kề. Tôi hỏi để tới nhà thăm D. một lần được không bởi vì D. với tôi sẽ không còn dịp nào gặp lại. Cô bạn không do dự nói: “Nhà D. ở số 01. Đường Thoại Ngọc Hầu, sau lưng Tòa Giám Mục. Hôm nào rảnh tới nhe!. “Không biết D. có cố tình nhắc mấy tiếng Tòa Giám Mục cho tôi nghe chăng? ___ ___ ___ Câu chuyện nếu chấm dứt ở đây thì tôi cũng đã được thêm một người bạn quý trong số các bạn khác sau một năm học chung với nhau. Nhưng chuyện đời vẫn là… không biết trước được. Thì ra, D. và tôi lại gặp nhau trên Đà Lạt ngay sau mùa hè đó cho đến năm 75. Đầu niên khóa 71- 72, Thảo (Bến Tre) và tôi được cha Giám đốc cho lên học Giáo Hoàng Học Viện. Trước đó hai năm, cha Viện trưởng GHHV đã có chương trình cho các lớp Triết được qua Viện Đại Học Đà Lạt thi lấy Chứng chỉ Triết nhằm lấy bằng Cử nhân Triết. Viện Đại Học Đà Lạt là Viện Đại Học Công giáo. Viện có tên là Đại Học Thụ Nhân. Lúc đó, vị Chưởng Ấn là Đức Giám mục Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang , GM Cần Thơ. Có lẽ nhờ vậy cũng được dễ dãi. Viện Đại Học Thụ Nhân thời đó có Trường Chính trị Kinh doanh rất nổi tiếng. Năm ấy, tôi đã gặp lại nhiều bạn cũ Tống Phước Hiệp lên học Kinh doanh. Trong đó có D., người bạn cũ thân thiết. Chúng tôi gặp lại trong ngở ngàng lẫn vui mừng. Nhóm sinh viên Vĩnh Long lúc bấy giờ có tên là VILOCO (Les Copains de Vinh Long). Mỗi tuần, theo lịch, chúng tôi tới dự lớp ở Trường Văn khoa, Ban Triết. Có mặt, dù không đều đặng, nhưng để đủ tín chỉ đi thi. Những ngày sang đó, tôi có dịp nói vài câu ‘vu vơ’ với D. như thời còn ở quê nhà. Tất cả các bạn mới năm đầu đến đây đều là đi học xa nhà, mà gặp lại bạn thân cũ thì còn hơn trúng số!! Dịp tùng dịp, cũng đến lúc tôi rủ D. qua GHHV chơi. Một hai lần đầu là cho…biết. Một năm có nhiều dịp: lễ Giáng Sinh, Tết tây, ngày Họp mặt các bạn trẻ, dịp Bãi trường hay cuối tuần. Và D. đã đến trong những dịp như vậy. Lâu dần, D. quen biết thêm quý đàn anh và anh em Đại chủng sinh trong Giáo phận. Khi có dịp qua chơi, D. thường đi chung với một bạn học tên Nguyễn thị Giang, người Cai Lậy, Tiền Giang. Bạn Giang cũng người lương, nhưng nhanh nhẹn, hoạt bát; rồi cũng sớm quen lớn, thân thiện với các “bạn thầy” cùng quê Vĩnh Long. Giang lớn hơn D. một lớp nên xem tôi như đàn em (!). Trong cách xưng hô, Giang hay dùng mày tao theo kiểu bạn thân người miền Nam; ăn nói hay pha trò như: ” Nó dentelle quá “; nghĩa là: Nó ghen quá. (Dentelle = Ren = Ghen). Lần kia, Giang hỏi tôi có biết chiếc áo dòng tôi mặc có bao nhiêu nút không. Rồi tự trả lời: Có hai mươi bảy nút. Lạ thật, chính mình còn chưa biết!! Một lần kia, nay tôi không nhớ là dịp gì, anh em Vĩnh Long cùng đi ra ngoài ăn một bữa cơm. Lúc đó, cha Hiếu là thủ chỉ tinh thần. Hôm ấy, có vài anh em Viloco tham dự; trong đó có D. cùng đi với Giang. Trên đường về, chúng tôi cùng đi con đường từ phía sau chợ Hòa Bình cho gần. Con đường này hơi dốc thoai thoải khi xuống gần hồ Xuân Hương. Chiều hôm đó, mặt trời cũng vừa lặn. Sắp tối, tiết trời thường se lạnh. Trên dốc cao nhìn xuống, thấp thoáng dưới những hàng thông im bóng, một màn sương mù từ từ bao phủ mặt hồ Xuân Hương. Mọi người đều thư thả ngắm hoàng hôn; tiếp tục chuyện trò sau một buổi họp mặt thân mật. Rồi một vài cơn gió thổi qua… Những đám nước lất phất như mưa ngâu là những hình ảnh tự nhiên của xứ sương mù này. Ai cũng tìm cách tránh mưa. Đang vừa đi vừa nói chuyện với D., tôi cởi chiếc áo khoác đang mặc đưa cao lên đầu. Thấy vậy, D. đi gần lại hơn ghé đầu che mưa. Hôm đó, D. mặc áo dài màu hường lợt. Kiểu áo dài ngang đầu gối bằng tơ đơn giản của giới học sinh, sinh viên. D. để tóc ngang lưng. Khi ghé đầu phía dưới cánh tay phải tôi đang che, mái tóc dài lòa xòa… như trong phim (?). Tôi cảm nhận thật nhiều như thế nào là một cô bạn đang kề bên mình. Hoàn cảnh xảy ra tình cờ, nhưng nhờ vậy, tôi hiểu thêm được lòng D. không e dè. Nhưng lúc nào cũng bặt thiệp, nhã nhặn rất đáng mến. Từ hồi nào cho đến hồi nào, chưa bao giờ chúng tôi có một câu nói hay một cử chỉ gì hàm hồ, hai nghĩa, ấm ớ. Tôi cho là cung cách tôn trọng nhau là chiếc chìa khóa để tìm thấy tình thân giữa hai người bạn. Nhất là đó là một cô bạn. Thời gian sau, cha Hiếu thỉnh thoảng hay nói đùa khi gặp tôi: D. đâu rồi? Sao hổng rủ qua chơi? Cũng vậy, đi học bên Thụ Nhân, có dịp gặp thì thế nào D. cũng gởi lời thăm cha Hiếu. ___ ___ ___ Những năm tháng còn đầy ngở ngàng sau 75, tôi còn gặp lại D. nơi một căn phố ngay trước nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long. Tôi hỏi D. không còn ở đằng Thoại Ngọc Hầu nữa sao? D. nói phải lên ở đây, vì không ở sẽ bị mất mấy căn phố này. Cũng một mình D. ở với bà mẹ già như tôi đã từng gặp từ mùa hè sau lớp 12 năm nọ. Hai mẹ con làm công việc lau gạo (dùng máy làm cho hạt gạo trắng sáng sau khi phơi khô và lượm thóc) để bỏ mối. Năm 2001, một hôm, D. đến vắt sổ chỗ sát vách nhà tôi ở Phường 2, Vĩnh Long, tôi kêu nhà tôi ra nói chuyện chơi. Cả ba chúng tôi đều quen biết nhau. Năm trước đó, tôi có dịp gặp D. ở đường Quận Nghĩa. Đây là gia đình bên chồng, D. có riêng một nơi để tiếp tục làm gạo. Hai con trai của D. cũng sắp học xong cấp 3. Nhân dịp hôm vắt sổ, chúng tôi chào nhau vì còn vài tháng nữa gia đình tôi sẽ rời nơi đây, Vĩnh Long. Là nơi chúng tôi đã học chung ở Tống Phước Hiệp, rồi sau đó những năm xa nhà ở Đà Lạt, chúng tôi đã là những bạn thân cùng một quê với nhau. Bách Tùng Cao Nguyên 26 / 3 / 2018. Ng. Toàn Đông
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 28, 2020 19:27:21 GMT 9
Đầu Nguồn, Cuối Sông… Posted on June 27, 2020 by dongsongcu Vương Mộng Long
1. Chuyện ở đầu nguồn Da Dung…Tôi ngồi chen vai cùng bảy người lính Biệt Ðộng Quân khác trên sàn chiếc trực thăng thứ nhì trong đội hình của mười hai chiếc UH1 D chở quân tham chiến ngày hôm đó.Dưới bụng con tàu là một dải bạt ngàn, tre nứa màu xanh. Chúng tôi đang bay trên vùng rừng già của Cao Nguyên Bảo-Lộc. Dưới kia là con sông Da Dung (Ðọc là: Ða Dung) uốn mình qua một khúc quanh.
Ðoàn tàu lượn vòng vòng trong khi trực thăng võ trang bắn phá ầm ầm để dọn bãi.
Từ tọa độ của bãi đáp này, con sông bắt đầu có thêm cái tên mới là Ðồng Nai nằm kế cái tên Da Dung. Tên Ðồng Nai còn đóng trong ngoặc đơn (Ðồng Nai).
Hai cái tên Da Dung và Ðồng Nai còn đeo theo nhau trên một đoạn đường dài, tới địa phận ranh giới Trung Phần và Nam Phần thì địa danh Da Dung biến mất, chỉ còn lại tên Ðồng Nai thôi.
Chúng tôi đổ bộ trên một bãi cát ven bờ Bắc.
Trên bản đồ thì đây là một vạt cát trắng bất di dịch, nhưng trên thực tế thì vào mùa mưa, bãi hẹp hơn mùa khô.
Hôm ấy là một ngày đầu tháng Tám, giữa mùa mưa năm 1968, mực nước sông dâng cao, sắp tràn bờ.
Bên hướng Ðông bãi đáp là một dãy đồi cao, rừng tre, dốc đứng.
Ðoàn quân 96 người dàn hàng ngang tiến lên ngọn đồi gần nhất.
Tôi cứ leo lên được hai bước, thì lại bị tụt xuống một bước; đường trơn như mỡ, đất đỏ quánh như hồ.
Chúng tôi yên tâm leo, vì tin tưởng vào hỏa lực hùng hậu của bốn chiếc trực thăng vũ trang Cobras đang “Bập!Bùng! Oành! Oành!” nổ ngay trước mặt.
Không lâu sau, chúng tôi làm chủ ngọn đồi; trên đồi không có địch!
Chiếm xong ngọn đồi, để bảo đảm an ninh, tôi liền cho một toán tiền sát thăm dò dấu vết địch dưới con suối và ngọn đồi trước mặt. Vì nếu không mở rộng vòng đai an ninh xa, có nhiều khi quân ta và quân địch nằm cách nhau chỉ vài chục thước mà ta không hay.
Có những cấp chỉ huy ơ hờ không đề phòng, cứ ngừng quân là hạ trại qua đêm liền, đâu ngờ trước đó, địch đã ở sẵn sát bên. Tới khi bị địch tập kích bất ngờ thì không tài nào trở tay kịp.
Sau khi ra lệnh cho Thiếu Uy Ðặng Hữu Duyên lo việc kiểm quân, tôi mồi một điếu thuốc Lucky rồi ngồi xuống nghỉ.
Chợt từ phía hậu quân, tôi nghe léo nhéo, “Ông cho đếm lại đi!” tiếng Thiếu úy Duyên ra lệnh cho một vị trung đội trưởng.
Rồi tiếp đó, “Tụi mày ngồi im tại chỗ để tau đếm. Một, hai, ba, bốn, năm… Trình thiếu úy mới có hăm ba, thiếu hai đứa!”, tiếng Thượng DSĩ Nguyễn Lược, trung đội phó, Trung Đội 3.
Một phút sau, “Thiếu úy ơi! Thiếu thằng Ðông và thằng Hậu.” tiếng ông Lược.
“Ông cho anh em khói lửa đi! Tôi sẽ trình với trung úy phái người xuống kiếm hai thằng này.” tiếng ông Duyên. (Khói lửa: Nấu cơm, nấu bếp)
Anh Duyên trở về ban chỉ huy, nói nhỏ với tôi,
– Tôi kiểm quân rồi, cả đại đội thiếu hai người, là thằng Ðông và thằng Hậu của Trung Đội 3.
Tôi ra lệnh,
– Ông cho toàn bộ Trung Đội 3 quay lại bãi đáp tìm hai thằng đó ngay!
Nhận lệnh của tôi, cả Trung Đội 3 vội dẹp bếp núc, nồi niêu, nhanh chóng xuống đồi.
Mười phút sau trong máy truyền tin có tiếng Thượng Sĩ Lược,
– Lạ quá! Thái Sơn xuống mà coi!
– Gì vậy?
– Thái Sơn xuống coi đi! Hình như hai thằng này bỏ trốn chứ không phải đi lạc!
– Ủa? Chờ đó đi! Tôi xuống ngay!
Ðội mưa, tụt xuống dốc, chỉ mấy phút sau tôi và ba anh lính hộ tống đã tới bờ sông.
Trung đội 3 đang bố quân hướng cuối nguồn. Thượng Sĩ Lược đưa tay vẫy,
–Trung úy ơi! Lại đây!
Tôi tiến nhanh về phía ông Lược.
Vì có rừng cây cao che chở, nên mưa chưa xóa mờ dấu chân giày in trên cát. Rõ ràng có hai dấu giày đi rừng, một lớn, một nhỏ, đè lên nhau nhắm hướng một ngọn đồi hướng Tây Bắc của bãi đổ quân. Trong khi đó thì dấu chân của đơn vị tôi lại quần nát cả một vùng rộng lớn trải dài từ bãi đáp trực thăng tới chân ngọn đồi hướng Ðông Bắc.
Chắc chắn hai anh lính này đã bỏ ngũ giữa rừng già. Họ đi ngược đường của đơn vị.
Tôi ra dấu cho Trung Đội 3 chia hai cánh theo sát dấu giày phía trước. Tới chỗ chân dốc, tôi cho quân ngừng lại.
Nơi này còn cách Liên Tỉnh Lộ 8 B gần hai cây số.
Muốn tới Gia Nghĩa, Quảng Ðức, phải đi qua một đoạn đường dài hơn hai chục cây số nữa.
Con đường Liên Tỉnh Lộ 8 B từ Gia Nghĩa, Quảng Ðức đến Di Linh, Lâm-Ðồng đã bị bỏ hoang lâu lắm rồi. Nếu hai anh lính này mà mò ra đường chắc chắn sẽ gặp Việt Cộng.
Tuy trong bụng tôi nghi hai anh tân binh này đã trốn đi, nhưng bắt buộc tôi phải cho Trung Đội 3 ém quân bên bãi đáp, phòng khi hai anh này quay trở lại.
Trung Đội 3 vào vùng kỳ này không có trung đội trưởng, Chuẩn Uy Ðinh Quang Biện bị sốt rét phải nằm bệnh viện Ðà Lạt.
Ông thượng sĩ già đành phải thay ông chuẩn úy trẻ để đảm nhận chức vụ chỉ huy.
Tôi nói với Thượng Sĩ Lược,
– Ông cho anh em nằm trong bìa rừng. Nếu có động tĩnh gì thì cho tôi hay.
Leo lên đồi, tôi báo chuyện này cho dại úy tiểu đoàn trưởng. Tôi xin ông cho phép tôi tiến quân chậm lại một vài ngày.
Sáng hôm sau, tôi cho lệnh Trung Đội 3 bắn cầm chừng, vài ba phút một viên về hướng Tây Bắc, hy vọng nghe tiếng súng, hai anh tân binh sẽ quay lại.
Một ngày dài qua đi, tôi không có tin tức gì về hai người lính mất tích.
Ngày tiếp theo, để bảo đảm an ninh vị trí đóng quân, tôi ra lệnh cho Thiếu Uy Duyên dẫn Trung Đội 1 của Thượng Sĩ Ngọ và Trung Đội 2 của Thiếu Uy Vi tiến về hướng chính Bắc để thăm dò tình hình địch trên hai ngọn đồi cao trước mặt.
Trung Đội 1 và Trung Đội 2 đi rồi, Trung Đội 3 còn ở dưới suối, nên trên đồi hiện giờ chỉ còn trung đội chỉ huy, với khẩu đội cối 60 ly và hai khẩu đội đại liên M60.
Phút chốc tôi cảm thấy ngọn đồi như rộng thêm ra, tiếng thác đổ từ dưới chân đồi vọng lại nghe như rõ hơn, gần hơn.
Tôi ngồi bên một bếp lửa hồng, mặt tôi nóng bừng bừng, nhưng lưng tôi lại lạnh toát như đang có một cục nước đá trượt qua, trượt lại dọc theo xương sống.
Suốt hai ngày dầm mưa, thêm một đêm thức trắng, có lẽ tôi đã bị cảm mạo mất rồi!
Bỗng tôi nghe dưới bãi đáp có tiếng súng nổ ran, rồi tiếng Thượng Sĩ Lược trên tần số,
-Trình Thái Sơn! Tụi nó giả trang làm Biệt Ðộng Quân! Thái Sơn coi chừng cẩn thận!
Nghe ông Lược nói, tôi chẳng hiểu gì cả, nên gặng lại,
– Cái gì? Ai giả dạng? Có gì mà bắn phá tùm lum dưới đó vậy?
– Dạ! Việt Cộng nó giả dạng Biệt Ðộng Quân! Chúng nó chui ra khỏi rừng bắn nhau với tụi tui mấy viên rồi chạy mất!
– Kết quả ra sao?
– Dạ! Bên ta vô sự! Bên địch cũng … vô sự!
– Thôi! Cuốn gói về đây!
– Dạ!
Tôi gọi Y Tá Ðức lên, xin mấy viên thuốc cảm, rồi ngồi chờ ông Lược.
Chừng mười lăm phút sau thì Trung Đội 3 về tới vị trí trú quân.
Thượng Sĩ Lược vừa thở, vừa tóm lược chuyện xảy ra cho tôi nghe.
Thì ra sáng nay lính gác thấy thấp thoáng bóng người xuất hiện nơi bìa rừng Tây Bắc bèn cho lệnh báo động. Sau đó có tiếng la: “Ðừng bắn! Tôi đi lạc, trở về! Ðừng bắn!”
Cũng may là, lúc đó Thượng Sĩ Lược có mặt ở phòng tuyến ngoài, ông Lược nhìn thấy hai người mặc quần áo rằn ri, nhưng tay lại thủ súng AK47, tiếng nói lại là giọng Bắc.
Ông Lược biết chắc chắn rằng, hai anh tân binh thất lạc là người Nam, không thể đổi thành giọng Bắc rặt như thế được!
Rồi ông đã có phản ứng thật nhanh. Tay ông bóp cò khẩu M 16, miệng ông la lớn,
-Việt-Cộng! Bắn đi! Bắn đi! Anh em ơi!
Mấy anh lính trong trung đội, nghe người chỉ huy la thất thanh ra lệnh bắn, nên vội ôm súng tác xạ văng mạng, miệng cũng thét vang,
– Việt Cộng! Việt Cộng! Bắn! Bắn!
Hai mươi ba khẩu M 16 liên thanh đua nhau nổ rền.
Tiếc thay! Quân của ông thượng sĩ già phản ứng nhanh như vậy mà địch cũng chẳng chết thằng nào!
Ngày kế đó tôi cho Trung Đội 2 của Thiếu Uy Vi thay thế Trung Đội 3, tiếp tục phục kích các ngã đường dẫn về bãi đáp, nhưng không phát giác động tĩnh gì.
Tôi báo cho tiểu đoàn biết chuyện địch giả trang người của ta để đánh ta, và đề nghị ông tiểu đoàn trưởng thông báo chuyện này cho các đơn vị bạn để đề phòng.
Quả nhiên hai ngày sau, đại đội của Trung y Nguyễn Văn Cơ thuộc Tiểu Ðoàn 22 Biệt Ðộng Quân hoạt động cách tôi ba cây số về hướng Tây cũng bị địch giả dạng Biệt Ðộng Quân để đột kích.
Vì đã được thông báo đề phòng, nên quân bạn đã bắn chết ngay hai tên Việt Cộng mặc quân phục rằn ri đi đầu, còn bọn giặc núp theo sau cũng phải ùa nhau chạy bán mạng.
Kỳ hành quân này nhiệm vụ của đại đội tôi là tìm và phá hủy các căn cứ tăng gia sản xuất của địch trong rừng núi vùng ba mươi cây số Ðông Nam thị trấn Gia Nghĩa tỉnh Quảng Ðức. Vì chuyện hai người lính thất lạc mà mấy ngày nay, chúng tôi cứ loanh quanh gần khu vực bãi đáp, không tiến lên được bước nào.
Tới ngày thứ năm tôi cho đơn vị nhổ neo nhắm hướng chính Ðông.
Mục tiêu chúng tôi phải tới ngày hôm đó có tên là “Bravo” điểm xa nhất trên phóng đồ hành quân trong tay tôi. Bravo là làng Bích-Khê nằm cách nơi tôi đạp đất gần năm cây số.
Qua một cái thông thủy, chúng tôi leo lên một ngọn đồi, mặt đất thoai thoải về Ðông Bắc, tre rừng đã bị phát quang, dọn thành từng đống, sẵn sàng đốt để làm nương lúa lốc.
Như vậy những người chặt nương, phát rẫy ở cách đây không xa. Vùng này không có dân, người khai nương phải là cán binh trực thuộc một đơn vị tăng gia của địch.
Tôi bị cơn sốt rét rừng hành hạ gần bốn ngày rồi. Mặt tôi thì nóng phừng phừng, còn hai chân tôi lại nặng như đeo chì. Tôi phải nhờ vào một cái gậy chống để bước đi không bị lảo đảo.
Ngày nào Y Tá Ðức cũng phải chích cho tôi một liều thuốc ký ninh chống sốt rét cùng một mũi Calcium cho ấm phổi.
Dù đã cố gắng hết sức để chữa trị cho tôi, nhưng chú Ðức bắt đầu nản lòng rồi; Ðức khuyên tôi xin máy bay tải thương để về Bệnh Viện Ðà Lạt chữa bệnh.
Bình thường thì tôi đã nghe lời chú Ðức rồi, nhưng với tình hình hiện giờ, đơn vị tôi có thể chạm trận bất cứ lúc nào, nên tôi không dám xin tản thương mà để đại đội lại cho người khác chỉ huy. Tôi hy vọng không có gì bất trắc xảy ra trên đoạn đường từ đây cho tới Bravo. Tới Bravo sẽ không còn bị rừng già che phủ, bớt sơn lam, chướng khí thì người bệnh sẽ dễ thở hơn.
Chúng tôi ẩn mình trong rừng để di chuyển.
Tới cuối dốc, tai tôi bỗng nghe tiếng tre uốn, “Ken két! Rào rào!” như có bão.
Tiếng động không ào lên như cơn gió lốc, mà di chuyển thành luồng, giống như có con trăn hay con giồng khổng lồ đang uốn khúc lượn qua các ngọn tre.
Tôi cho anh em dừng lại, ghìm súng chờ. Lần đầu thuộc cấp của tôi thấy tôi làm điều mà ít khi họ thấy, tôi rút cây Colt 45 ra, quỳ gối, thủ thế sẵn sàng bóp cò!
Rồi thì, “Vèo! Vèo! Ào! Ào!” trên ngọn tre có những vật đen bay từ cây này sang cây khác.
Mỗi vật đen to bằng cái balô mang vai của lính.
Hóa ra đó là một đàn vượn rừng. Chúng di chuyển bằng cách đu mình theo đà nhún của những cây tre.
Thân tre oằn xuống, rồi tưng lên, cành tre đập vào nhau nghe,“Ken két! Rào! Rào!” từng đợt.
Khi đu mình ngang chỗ đoàn quân đang núp dưới gốc tre, lũ vượn phát giác ra sự hiện diện của con người, chúng kêu lên,“Khẹc! Khẹc! Chí! Chí! Oé! Oé!” báo động cho nhau, rồi rẽ sang hướng khác.
Bất thình lình, từ ống liên hợp của máy truyền tin PRC 25 phát ra tiếng kêu:
“Thái Sơn đây Linh Hồ gọi!”
Trong máy, ai đó tự nhiên xuống giọng ở cuối câu, khiến cho hai tiếng “Linh Hồ” nghe giống như “Linh Hồn”
“Thái Sơn! Ðây Linh Hồn gọi!”
Tôi thót bụng.
Trời đất!
Bộ chỉ huy tiểu đoàn gọi tôi vào đúng lúc tôi đang “lên ruột”
Những khi tinh thần căng thẳng như thế này mà nghe ba tiếng “Linh Hồn gọi!” thấy ớn quá!
Mấy ông thảo ra đặc lệnh truyền tin không chịu để ý tới ảnh hưởng tâm lý khi người nghe đang ở trong vị thế chuẩn bị đánh nhau.
Sắp sửa đánh nhau, sắp sửa nổ súng, mà nghe “Linh Hồn gọi” thì sợ lắm!
Sao các ông ấy không đặt cho tiểu đoàn tôi cái tên “Giao Linh” hay “Chế Linh” có phải là dễ nghe hơn, đỡ sợ hơn không?
Khi biết người đầu máy bên kia là sĩ quan Ban 3 tiểu đoàn; anh bạn này cùng khóa với tôi; tôi cằn nhằn,
– Mày nói với Hoàng Mai bỏ cái tên “Linh Hồ” đi! Tao nghe “Linh Hồ gọi” mà cứ tưởng là “Linh Hồn gọi” tao ớn quá!
(Hoàng Mai là danh hiệu của ông tiểu đoàn Trưởng)
Anh bạn tôi cười hì hì,
– Ừ! Ðể tao nói với Hoàng Mai cho đổi tên ngay tối nay theo yêu cầu của mày. Còn bây giờ thì nghe đây: Nội nhật ngày mai mày phải có mặt trên Bravo. Mày trễ mất ba ngày rồi đó!
Tôi nói,
– Yên chí đi! Chiều nay tao sẽ có mặt trên mục tiêu.
– Mày có cần tiền oanh kích thì tao xin cho mày ngay.
– Không cần! Tao biết, chỉ mười lăm, hai mươi phút sau khi chạm địch, mình đã có Cobra rồi.
Sau khi vượt qua một con suối sâu tới bụng và một cái dốc đứng, chúng tôi đặt chân lên một bình nguyên cỏ tranh. Cuối bãi, dưới dốc là một buôn Thượng đã bỏ hoang nằm bên phải cây cầu gãy trên Liên Tỉnh Lộ 8B.
Từ buôn Thượng này đi theo liên tỉnh lộ chừng một cây số nữa về hướng Ðông Nam thì tới Bích Khê.
Tôi dàn quân trên cao, sẵn sàng yểm trợ cho Trung Đội 2 thám sát cái buôn Thượng.
Sau khi lục soát kỹ buôn Thượng này, tôi cho lệnh Trung Đội 2 chốt giữ nơi đó luôn, nhưng tuyệt đối cấm đốt khói và gây tiếng động.
Thành phần còn lại của đại đội lập tức dàn hàng tiến theo trục lộ. Ðường Liên Tỉnh 8B đi xuyên qua thôn Bích-Khê.
Khi họp hành quân chúng tôi được Ban 2 liên đoàn cho biết, thời Cụ Diệm làng Bích Khê là một khu dinh điền trù phú, nay thì nó đã bị bỏ hoang lâu rồi.
Làng Bích Khê này tọa lạc trên đỉnh một ngọn đồi. Từ đỉnh đồi, tôi có thể nhìn bao quát một vùng xa. Phong cảnh ở đây thật là tuyệt đẹp!
Hướng Ðông, con đường đổ xuống một thung lũng rộng; hướng Nam là dốc đứng; hướng Bắc có con suối lớn và sâu bao quanh.
Nhìn con suối xanh biếc chảy xiết trong cái thung lũng cũng là một đồng cỏ xanh bạt ngàn, tôi chợt hiểu, vì sao người ta đặt tên cho cái làng này là “Bích Khê”. Bích Khê có nghĩa là “Suối Biếc”.
Dưới kia, suối biếc bắt nguồn từ một cái hồ ngợp bóng chim đang săn cá. Mặt hồ gợn sóng lăn tăn.
Nhìn qua cấu trúc của làng Bích Khê, tôi đoán chừng xưa kia làng này là một Ấp Chiến Lược 5 cạnh có hàng rào bằng tre đực.
Nay Bích Khê đã thực sự điêu tàn. Di tích văn minh thời Ðệ Nhất Cộng Hoà còn lại là dăm gốc xoài, gốc ổi bên mấy cái nền nhà cũ.
Không những vườn tược trong thôn đã thành rừng um tùm, trên mặt liên tỉnh lộ cũng đã có nhiều cây loại thân mộc mọc cao.
Ðáng ngại nhất là con đường mòn chạy từ Tây Nam lên Ðông Bắc, xuyên qua ngay giữa làng. Ðường mòn này đang được sử dụng thường xuyên nên cỏ không mọc nổi.
Vô tình, con đường mòn này và đường Liên Tỉnh 8B đã giao nhau, cắt Bích-Khê Thôn thành bốn mảnh.
Về hướng Bắc thì con đường đâm xuống suối.
Về hướng Nam, con đường chui vào cái khe giữa hai ngọn đồi có cao độ tương đương với cao độ của làng Bích Khê; hướng Tây của hai ngọn đồi đó là một vùng ao hồ và đầm lầy.
Nhìn địa thế này, tôi chợt nảy ra một ý định mới, thay vì cho đặt một toán tiền đồn báo động trên ngọn đồi hướng Nam, tôi thay bằng một ổ phục kích ngay chân con dốc ngoài rào ấp chiến lược Bích-Khê.
Ba người được tôi giao trọng trách làm công tác phục kích ngày hôm đó là ba tay súng cự phách của đại đội: Hạ Sĩ 1 Nguyễn Lác, người nấu cơm của Thiếu Uy Duyên, cùng hai anh lính cật ruột của tôi là Hạ Sĩ Nguyễn Phượng Hoàng và Binh 1 Phạm Công Cường.
Tôi đã đích thân đi cùng một tiểu đội hộ tống ba người này vào vị trí tác chiến xong xuôi rồi chúng tôi mới rút về.
Thế rồi, xế trưa hôm sau súng nổ, và chuyện được ba anh lính đi phục kích về kể lại…
Ðịch có khoảng mười tên. Một khinh binh ôm AK47 đi đầu. Phía dưới dốc, đằng sau nó là một đoàn bộ đội vừa đi vừa trò chuyện râm ran.
*****
2. Tới đầu dốc, đột nhiên tên khinh binh ngừng lại, dò dẫm từng bước. Rồi nó thận trọng ngồi xuống, giơ tay ra dấu cho toán Việt Cộng đi sau đừng vội tiến lên.
Mặt trời mùa này nằm chếch về hướng Tây Nam, tên địch cũng tiến tới từ hướng Tây Nam, mặt trời ở sau lưng nó.
Thằng Việt Cộng đi mở đường đã nhìn thấy một sợi dây cước phản chiếu ánh mặt trời, sáng lấp lánh căng ngang đường. Sợi dây cước này nối chốt nổ của hai cái bẫy sáng do Hạ Sĩ Lác đã gài!
Chắc thằng Việt Cộng rất ngạc nhiên khi thấy giữa rừng già có một sợi cước câu cá!
Chắc nó dừng lại vì nghi ngại trước mặt nó có một cái bẫy mìn hay lựu đạn.
“Ðoàng! Ðoàng!”
Tên Việt Cộng đang lom khom, bị hai viên đạn bắn vỡ đầu, ngã ngửa về đằng sau.
Những tên đi sau vội ù té chạy.
“Ðùng! Ðùng!Ðùng!”
Ba khẩu M16 đua nhau bắn. Góc bắn hơi cao, nên không có tên địch nào chết thêm. Trên đường mòn có hai cái ba lô bị rớt lại…
Tôi có sẵn một hỏa tập tiên liệu ngay cái khe giữa hai đỉnh đồi hướng Nam.
Thời gian này đạn dược thừa mứa, muốn bắn bao nhiêu cũng có. Một pháo đội Hoa Kỳ nhanh chóng đáp lời tôi yêu cầu, tưới gần một trăm trái đạn đại bác 105 ly trên tọa độ.
Tôi nghĩ rằng, đang chạy bán sống, bán chết, mà bị một trận mưa pháo dội lên đầu thì những tên giặc dù có thoát chết thì cũng sợ tới ướt quần mất!
Tôi bắt đầu buổi chiều ngày thứ nhì ở Bích Khê bằng một cơn sốt cao.
Trên cái nền nhà cũ, tôi ngồi thu mình trong chiếc poncho line, cả người nóng bừng bừng. Xưa nay tôi cứ cho rằng khi đau đớn mà phát ra tiếng rên thì mắc cỡ lắm. Ðau mà rên là hèn, là thỏ đế.
Click here to view the original image of 800x510px.
Ngày Mùng Một Tết Mậu Thân, dù bị Việt Cộng bắn lủng ngực, tôi cũng không rên.
Ấy vậy mà hôm nay, tôi giơ cả hai tay bịt miệng, bịt mũi lại, mà vẫn không ngăn được những tiếng “Hừ! Hừ! Hừ!”
Bệnh sốt rét rừng quả là vô cùng lợi hại! Tôi thường tự hào là một tay đi rừng cự phách mà cũng bị mấy con vi trùng nhỏ tí ti, nhỏ hơn cả cái đầu kim, quật ngã phải nằm run bần bật.
Trung Đội 3 của Thượng Sĩ Lược trấn giữ mặt Bắc, đồng thời chốt ngay đầu cây cầu khỉ bắc ngang con suối.
Mặt trời vừa gác núi thì ông Lược lò dò từ dưới dốc leo lên, tay xách một con cá lóc dài cỡ hai gang tay.
Ông ta giao con cá cho Hạ Sĩ Thọ, người nấu cơm cho tôi,
– Tụi nó cắm câu được con cá lóc này. Mày đem nấu cháo để Thái Sơn ăn cho dã cảm. Nhớ cho nhiều tiêu vào! Cho ổng ăn cháo thật nóng để ra mồ hôi mới bớt được.
Sau khi gắng ăn một bát cháo nóng, tôi trùm thêm cái poncho đi mưa che kín từ đầu tới chân. Chỉ vài phút sau thì cả người tôi ướt đẫm mồ hôi giống như người đang tắm hơi.
Những tưởng mồ hôi thông thương thì bệnh tình của tôi sẽ bớt, nào ngờ vừa lau người xong, tôi bỗng lạnh run; tôi không bị cơn sốt nóng hành hạ nữa, mà ngược lại, tôi khốn khổ vì bị rét.
Y tá Ðào của Trung Đội 3 mon men tới bên tôi, anh ta rụt rè,
– Thái Sơn bị lờn thuốc ký ninh rồi! “Chích” hoài không khỏi thì Thái Sơn cho em “châm” cho ông thầy, thử xem có khá không nhé!
Tôi thắc mắc,
– Châm là cái gì vậy?
– Dạ! Châm cứu ấy mà! Em biết châm cứu! Ðể em châm cho Thái Sơn nhé!
Lúc này thì tai tôi đã bị ù, mắt tôi nhìn chỗ nào cũng thấy sao sáng nhấp nháy, chớp chớp.
Thôi thì, cũng đành liều…
Tôi nằm sấp trên cái poncho, để mặc cho chú Ðào tự do thoải mái dùng kim muốn châm chỗ nào thì châm.
Tiếp theo màn châm cứu, chú Ðào quay qua nghề giác hơi.
Sau màn giác hơi là mục xoa dầu Nhị Thiên Ðường. Hạ Sĩ Ðào vận hết sức vào hai bàn tay, vừa xoa vừa véo trên da lưng tôi liên tục.
Tôi thấy da lưng mình có vẻ còn dày hơn da trâu! Mặc cho Y tá Ðào bấu, véo, vặn vẹo, cách nào tôi cũng không thấy đau.
Kỳ diệu thay! Sau khi xoa hết hai chai dầu Nhị Thiên Ðường thì tôi…hết sốt rét!
Còn anh Y Tá Ðào thì ngồi phờ người, như đã kiệt lực.
Ông Lược ngồi cạnh Y Tá Ðào, chợt phát thanh,
– Thằng Ðào giỏi quá ta! Nếu biết nó chữa được sốt rét thì Chuẩn Uy Biện đâu cần đi nằm nhà thương, tui đâu có phải vất vả chỉ huy trung đội!
Hạ Sĩ Thọ cười,
– “Thượng sĩ Tía” nhớ con rể rồi hả?
Nghe Hạ Sĩ Thọ chọc quê, ông già cự liền,
– Cái thằng này chỉ hay nói bậy!
Tôi nghe ông Lược mạnh miệng nói vậy nhưng tôi nghĩ rằng, có lẽ lúc này trong lòng ông già cũng đang nhớ người chỉ huy trẻ tuổi của ông lắm.
Chuyện nhớ nhung này duyên cớ cũng bình thường…
Vào một ngày tháng Sáu vừa qua, có chiếc xe đò chạy đường Sài Gòn Ðà Lạt ngừng bên phía đối diện xưởng cưa Ðức Trọng. Một cô nữ sinh áo dài trắng, tay xách cái giỏ mây, bước xuống, nhìn trước, nhìn sau, rồi băng qua lộ.
Tới vọng gác bên cổng, cô nhỏ nhẹ hỏi hai ông lính,
– Hai chú làm ơn cho hỏi, có phải Ðại Ðội 1/11 đóng quân ở đây không?
– Phải! Cô cần gì?
– Dạ! Em muốn gặp ông chỉ huy ở đây để xin phép thăm người nhà.
Anh lính gác gọi lớn,
– Chuẩn úy ơi có người cần gặp!
Trung Đội 3 là đơn vị trực gác ngày hôm đó, Chuẩn úy trung đội trưởng Ðinh Quang Biện vội chui ra khỏi lều,
– Thưa cô cần gặp ai?
– Dạ! Em muốn gặp “Tía”!
– Ðể tôi gọi ổng ra cho cô nhé!
– Dạ!
Anh sĩ quan trẻ quay mặt về hướng mấy cái bếp lộ thiên đang bốc khói nghi ngút bên rào rồi bắc loa tay gọi:
– Ông Tía ơi! Ông Tía ơi!
Cô bé vội níu tay anh chuẩn úy người Bắc,
– Tía là bố đó! Bố em tên là Lược!
– Vậy là Thượng Sĩ Lược! Ðại đội này chỉ có một ông tên là Lược!
Lại bắc loa tay,
– Ông Lược ơi! Ra đây ngay! Có người nhà tới thăm!
Thượng Sĩ Lược đang ngồi đánh cờ tướng với Hạ Sĩ Ðào, ông đang ở vào thế hạ phong, nghe tiếng người gọi tên, ông mừng quá, vội vàng xóa bàn cờ đứng lên,
– Chuẩn úy chờ chút! Tôi ra liền!
Y Tá Ðào cằn nhằn,
– Ông già sắp bị chiếu bí rồi! Sao không để xong việc tiếp người nhà, thì mình đánh tiếp, mà lại xóa bàn cờ đi! Bộ ông tính ăn gian sao?
Trưa hôm đó, trong cái nhà kho lớn, có mái lợp tôn, nhưng không có vách, dùng để chứa ván, nơi ông chủ xưởng cưa dành cho gia đình binh sĩ của Ðại Ðội 1/11 tới thăm chồng con ở nhờ, có ba người ngồi ăn cơm bên nhau, trông họ giống như gia đình một nhà, gồm ông bố và hai đứa con, một trai, một gái.
Ðại đội tôi thời gian này có bốn sĩ quan, vậy mà ông Thượng Sĩ Nguyễn Lược chỉ mời một mình Chuẩn Uy Ðinh Quang Biện ngồi ăn cơm chung với ái nữ của ông ấy. Thật là chẳng công bằng chút nào!
Cơm nước xong, ông Lược lên ban chỉ huy mời tôi và Thiếu Uy Duyên xuống nhà kho uống nước trà và giới thiệu cô con gái của ông,
– Nhỏ này là bé Hai trong nhà tôi. Năm nay nó học Ðệ Nhị. Nó nhớ tía quá nên vội chạy lên đây thăm tôi, chiều nó về lại Sài Gòn.
Sau khi rót đầy hai bát trà để trên bàn, cô gái nhỏ nhẹ,
– Cháu mời hai chú uống trà.
Chỉ qua vài phút tiếp xúc, tôi đã nhận ra rằng, cô con gái của ông Lược có thể coi như đại diện cho nét đẹp của gái Hậu Giang. Cô ấy ăn nói thật nhẹ nhàng, và thật dịu dàng. Cô có mái tóc thề ngang vai, đôi mắt nhung huyền. Cô có nụ cười hiền hòa, đôn hậu, trên khuôn mặt trái xoan với làn da trắng hồng đặc biệt của những người con gái xứ Nha Mân.
Vì nghe ông Lược nói rằng cô bé chỉ có vài giờ thăm cha rồi phải về Sài Gòn ngay, nên tôi và anh Duyên giữ ý, chỉ ngồi chơi một lúc cho có lệ, rồi rút lui cho cha con người ta tâm sự với nhau.
Cô nữ sinh con ông trung đội phó Trung Đội 3 cứ bịn rịn mãi bên ông bố tới chiều mới chịu lên chuyến xe đò cuối cùng trong ngày để xuôi Nam.
Trước khi lên xe, cô nhắn ông bố,
– Tía cho con gửi lời cám ơn anh chuẩn úy người Bắc ở cùng trung đội với Tía nhé! Trông mặt anh ấy thấy ngồ ngộ quá Tía à!
Từ ấy, ông thượng sĩ trung đội phó Trung Đội 3 mang thêm cái tên phụ là “Thượng Sĩ Tía” của Ðại Ðội 1/11 Biệt Ðộng Quân.
Từ ấy trong đơn vị, ông Thượng sĩ già được nhiều người thương hơn, nhiều người kính nể hơn, đặc biệt là các chàng trẻ tuổi độc thân.
Tôi nghe anh em bàn tán rằng, người được Thượng Sĩ Tía có cảm tình nhứt chính là anh Chuẩn úy người Bắc mặt trông “ngồ ngộ” tên là Ðinh Quang Biện.
Trú quân trong Bích Khê Thôn được hai ngày thì tôi nhận lệnh chuyển quân sang một bãi đáp khác.
Chúng tôi lên tàu ở cuối làng Bích Khê và nhảy xuống một bãi trống cách bến Kinh Ðà nửa cây số về hướng Tây.
Kinh Ðà là tên Thượng, tên chữ của làng này là Kinh Ðức, nơi đây chỉ cách làng Bích Khê hơn mười cây số.
Ðại Ðội 4 và bộ chỉ huy tiểu đoàn đã xuống bãi này trước tôi nửa giờ. Họ sẽ đóng tại đây giữ lưng cho tôi tiến lên phía trước.
Ông tiểu đoàn trưởng trao cho tôi cái phóng đồ mới và lệnh hành quân mới. Ðại khái nhiệm vụ của tôi vẫn là tìm và triệt phá các khu sản xuất và trạm giao liên của địch.
Ngay trên bãi đáp là một đường voi thồ rộng cỡ hai thước, dấu xe đạp chở hàng đè lên nhau chằng chịt còn rất mới trên mặt đường.
Rời bãi, tôi dẫn quân xuống một cái thông thủy cạn.
Theo đường xe thồ, chúng tôi tiến về bờ sông.
Chúng tôi rời điểm đổ bộ được một đoạn đường xa chừng hai cây số thì chợt trước mặt tôi có tiếng gà gáy “Te! Te! Te!”
Thiếu Uy Duyên đi sau, vội nhấn bước tới, hớn hở kéo áo tôi,
– Thái Sơn ơi! Có tiếng gà rừng gáy! Anh cho phép tôi bắn một con làm nồi cháo nghen!
Tôi lắc đầu,
– Khoan đã! Gà rừng gáy thì mình chỉ nghe “Te! Te!” ngắn ngủn thôi! Còn tiếng gáy của đàn gà này vừa thanh, vừa cao, vừa dài, chắc là gà nhà, gà nuôi, không phải gà rừng.
Tôi ra lệnh cho đơn vị ngừng lại, bố trí hai bên đường chờ.
Một toán thám sát được gửi lên phía trước, toán phát giác bên trái đường có một khu vườn, với hai ba mái tranh và một sân đất rộng.
Nhiệm vụ tấn kích được giao cho Thiếu Uy Duyên và Trung Đội 1.
“Ðùng! Ðùng! Ðùng!” – “Ðoàng! Ðoàng! Ðoàng!” Hơn hai chục tay súng dàn hàng ngang vừa bắn vừa phóng vào sân cỏ.
Bảy, tám cán binh Việt Cộng từ trong căn nhà tranh lớn nhất chạy ra, bốn tên bị hạ, một tên nhanh chân phóng qua đường xe be rồi nhảy ùm xuống sông, những tên còn lại lao vào rừng, biến mất.
Căn nhà tranh này là khu nhà bếp và nhà ăn tập thể. Giờ này bọn chúng đang quây quần chuẩn bị ăn cơm trưa nên cổng trước, cổng sau không có người canh gác.
Ðàn gà đang ăn trong sân vung cánh bay loạn xạ, cùng với tiếng gà kêu “Quang quác!”
Trong rừng hình như có tiếng “Éc! Éc!” của mấy con heo đang cắm đầu chạy trốn.
Chiến lợi phẩm tịch thu được hôm đó là ba khẩu súng trường Mas 36, bốn khẩu AK 47 cùng năm sáu quả lựu đạn chày. Ngoài ra chúng tôi còn nhặt được một quyển sổ ghi số lượng chi thu lúa gạo, đạn dược của huyện đội Di Linh Việt Cộng.
Toán quân xung phong cũng hạ được chín, mười con gà. Thượng Sĩ Ngọ dành cho tôi và Thiếu Uy Duyên con gà trống to nhất.
Tôi báo cáo cho tiểu đoàn biết kết quả cuộc tấn kích, đồng thời đề nghị tiểu đoàn chấp thuận cho đại đội tôi ngủ qua đêm tại đây sau khi mở rộng vùng kiểm soát để truy kích những tên địch đang đào thoát.
Chưa tới nửa giờ sau, qua máy vô tuyến tôi đã nhận được lời nhắn, “Bạch Mai gửi lời khen ngợi Thái Sơn và các anh em chiến sĩ thuộc Ðại Ðội 1/11” (Bạch Mai: Trung tá liên đoàn trưởng)
Ðể đề phòng những tên địch sống sót có thể quay về dọ thám tình hình, tôi cho các trung đội luân phiên tuần tra vòng quanh khu vực một cách liên tục từ trưa cho tới chiều.
Tới chiều, tôi cho đóng năm cái chốt chặn với bẫy sáng và lựu đạn gài đầy đủ để bảo đảm an ninh cho vị trí đóng quân đêm của đơn vị.
Nắng chiều xế tà, mấy con gà mon men về sân. Chưa có lệnh của tôi, không ai dám bắn chúng.
Thượng Sĩ Ngọ đề nghị với tôi,
– Thái Sơn đừng cho ai bắn. Cứ để đó, tối nay tôi sẽ bắt hết tụi gà này!
Sau đó ông Ngọ xúc hai ba ca thóc trong kho của địch ra, rồi vãi thóc đầy sân.
Ðàn gà ngây thơ, vô tội “Cục! Cục! Cục!” lớn tiếng gọi nhau về tụ họp trong vườn.
Anh chàng Hạ Sĩ 1 Lác tìm được hũ rượu mà tụi cán binh đang ủ, anh ta lôi ra chắt hết rượu vào cái nón sắt, sau đó anh đem bỗng rượu (bã rượu) đổ vào cái nồi nấu cám heo.
Lác cho thêm vào nồi hai gói cơm sấy và một rổ thân cây chuối xắt lát rồi nổi lửa, hì hục nấu cám heo.
Cám heo được đổ vào cái máng đan bằng tre để trong chuồng. Mùi cám heo bốc lên thơm lừng bay trong rừng. Hai con heo đánh hơi thấy mùi cám nóng thì ủn ỉn rủ nhau về chuồng.
Thế rồi đêm đen buông xuống, cùng với tiếng heo kêu, rồi tiếng gà kêu.
Không rõ ông Ngọ và anh Lác làm cách gì mà bắt gà, bắt heo, gọn gàng, nhanh nhẹn thế!
Hai con heo to bị trói nằm trên sàn bếp kêu “Eng éc!”
Gần hai chục con gà vừa trống vừa mái cũng bị trói chặt nằm bên nhau, con này chúi đầu vào dưới cánh của con kia rồi há mỏ, “Ục! Ục! Ục!” chờ người ta cắt cổ.
Vài phút sau thì hai bó đuốc bằng nứa khô được đốt lên giữa sân cỏ soi sáng liên tục.
Trong bếp có tiếng mài dao, rồi có tiếng heo rít lên, “É! É! É” thật là thảm thiết vì bị thọc huyết; những con gà thì chết nhanh hơn và âm thầm hơn.
Chưa tới mười giờ khuya thì các trung đội đã chia nhau đồng đều số gà và những miếng thịt heo.
Tôi nói Thiếu Uy Duyên dành ra một cái đùi heo tặng ông tiểu đoàn trưởng, và một con gà trống đã làm lông sạch sẽ để dành cho thằng bạn cùng khóa của tôi đang là sĩ quan Ban 3 của tiểu đoàn.
Ðúng là “Buồn ngủ mà gặp chiếu manh!” Còn hai ngày nữa mới tới kỳ tái tiếp tế, chúng tôi đã hết đồ ăn, hết thuốc lá. Cái nông trại này của Việt Cộng có đủ cả, gạo lức, heo, gà, chuối, ổi, ớt và rau cỏ, lại thêm ba bốn giàn treo thuốc lá phơi khô trên nóc bếp.
Sau này, nhân lúc rảnh rỗi tôi có thắc mắc hỏi ông Thượng Sĩ Ngọ,
– Bác có bí quyết gì bắt heo, bắt gà, mà chúng nó không kêu?
Tôi ngẩn người, ngạc nhiên khi nghe ông Ngọ tình thực trả lời,
– Nào có gì khó đâu trung úy! Ban đêm, chỉ cần một cục mắm tôm hay mắm ruốc to bằng đầu ngón chân cái, bóp nát ra, thêm chút nước, rồi xoa mắm cho kín hai bàn tay tới khuỷu tay là mấy con gà, con heo không đánh hơi được mình, mình nắm cẳng, nắm cổ nó là xong.
Ông Ngọ còn cho tôi hay, nếu dùng mắm tôm, mắm ruốc trải trên đường, ta có thể làm cho những con chó săn mất thính giác để theo dõi.
Nghe xong tôi cũng tin, nhưng chưa có dịp nào thí nghiệm xem kết quả thực tế sẽ như thế nào.
*****
3. Gần trưa hôm sau chúng tôi lại lên đường, sau khi cho người đem “quà tặng” cho Hoàng Mai và Thẩm Quyền 12, tức là anh sĩ quan Ban 3 tiểu đoàn.
Nhận được con gà trống và cái đùi heo, ông tiểu đoàn trưởng và anh sĩ quan Ban 3 cám ơn rối rít.
Năm mươi năm sau, người nhận được con gà đang cư ngụ ở Massachusetts, USA còn nhớ chuyện này, còn người nhận được cái đùi heo, đang ở California, USA thì quên mất rồi!
Thiếu Uy Duyên và Trung Đội 1 làm công tác đoạn hậu, có nhiệm vụ đốt trụi ba cái nhà tranh của toán dân quân tăng gia sản xuất Việt-Cộng trước khi rời vị trí.
Chúng tôi vẫn đi theo đường xe thồ cặp bờ sông. Bên phải đường là dòng nước đục ngầu, bên trái đường là rừng tre rậm rạp.
Thêm hai cây số về hướng Tây Nam, tới chỗ ghềnh đá, nước chảy xiết, sùi bọt trắng xóa, khoảng cách giữa đôi bờ bị hẹp lại thì xuất hiện một cái cầu treo.
Cầu có bốn dây bện bằng mây. Cầu được cột chặt vào thân bốn cây cổ thụ loại gỗ mộc nơi hai bờ. Sàn cầu được đan bằng nẹp tre đực, nên rất vững chắc, xe đạp thồ có thể qua cầu không khó khăn.
Tôi tính ra lệnh chặt dây cầu, xong kịp nghĩ lại:
“Mình cứ phục ở đây. Biết đâu lại gặp món hời!”
Ngay lập tức tôi cho chốt chặn hai đầu trục tiến quân. Sau đó tôi đặt một khẩu đại liên M 60 đạn lên nòng sẵn sàng, nhắm ngay giữa lòng cầu; bất cứ ai bước lên sàn cầu chắc chắn sẽ chết.
Gần ba giờ chiều, tôi nghe bờ đối diện có tiếng tù và, “Ù! U! Ù! U! …” cùng bóng người ẩn hiện.
Không biết trả lời cách nào, tôi đành ra dấu cho anh em ngồi im.
Năm phút sau, có lẽ không nghe bờ bên này đáp trả, bờ bên kia lại phát ra ba tiếng súng, “Tóc! Tóc! Tóc!”
Chúng tôi vẫn ngồi im.
Hình như bên kia suối có người bắt đầu đi lên cầu. Có bóng một người, rồi hai, rồi ba… Phút sau chúng tôi nhìn thấy rõ, ba người đi đầu mặc đồ xanh bộ đội, thủ súng ngang hông. Theo sau ba tên bộ đội một quãng là một chiếc xe đạp thồ chất hàng cao nghệu, với một người dắt đằng trước và một người đẩy đằng sau. Sau lưng chiếc xe thồ còn hai người súng vác vai.
Khi đoàn người tới đoạn giữa của cây cầu, sức nặng và gió lộng khiến cho cây cầu chao qua chao lại giống như con đò gặp sóng trên sông.
Tôi vỗ tay vào nón sắt của Hạ Sĩ Lưu Sanh ra hiệu khai hỏa, “Cành! Cành! Cành!”
Những khẩu M16 của tiểu đội cận vệ dại đội Trưởng cũng “Ðùng! Ðùng! Ðùng!” bắn tiếp tay.
Tất cả cán binh đang di chuyển trên sàn cầu đều trúng đạn gục xuống, chắc chắn có vài tên đã bị bắn xuyên táo.
Không lâu sau từ bờ bên kia có nhiều tràng AK bắn trả lại.
Một hỏa tập Pháo Binh đã sẵn sàng bắn phủ trùm khu rừng sát đầu cầu, bên kia sông.
Tôi gọi ông thượng sĩ Thường Vụ đại đội lên, giao việc cho ông ấy nhanh chóng chặt đứt bốn sợi dây cầu.
Chỉ một phút sau, một đầu cầu rớt xuống lòng thác cuồn cuộn. Những vật nặng trên mặt cầu lập tức bị nước cuốn đi. Cây cầu cứ tưng tưng nhảy trên mặt sóng rồi đập vào ghềnh đá. Mặt trời lặn xuống từ từ…
Sáng ngày thứ mười của cuộc hành quân, tôi nhận lệnh tìm bãi để trực thăng Hoa Kỳ sẽ tới bốc đại đội tôi về Di Linh.
Chúng tôi ngồi chờ dài người tới trưa mới nghe tiếng máy bay “Bạch! Bạch! Bạch!”
Trên máy truyền tin là giọng một người lạ,
– Thái Sơn đây Phong Vũ.
– Thái Sơn nghe! Phong Vũ là ai vậy?
– Vũ Bình Chính đây! Có lệnh của Bạch Mai cho cả gia đình bạn nhổ neo về sân vận động Di Linh nhận tái tiếp tế rồi ứng chiến tại đó!
Thì ra người vừa gọi tôi là Trung Uy Vũ Bình Chính. Anh Chính là bạn cùng Khóa 20 Võ Bị của tôi, anh ta mới đáo nhậm liên đoàn, giữ chức sĩ quan không trợ.
Chừng mười phút sau, một hợp đoàn trực thăng Mỹ tới bốc chúng tôi rời vùng. Tôi đi trên chiếc trực thăng chót, với toán lính sau cùng.
Vừa đạp chân xuống đất Di Linh, tôi lại nghe,
– Thái Sơn chờ trên bãi, tôi sẽ đón bạn đi gặp Bạch Mai ngay.
Tôi chưa kịp dặn dò Thiếu Uy Duyên những công việc cần phải làm thì chiếc C&C đã đáp; tôi leo lên; con tàu bay ngược vào rừng.
Thì ra bộ chỉ huy liên đoàn cũng đang ở trong rừng, nhưng đóng quân với một pháo đội Hoa Kỳ trên ngọn đồi nhỏ nằm sát Tỉnh Lộ 8 B.
Nơi đây cách xa bến phà Kinh Ðà chừng bốn cây số.
Vì tiếng động cơ máy bay rất ồn nên Chính phải ghé sát tai tôi,
– Không Kỵ Hoa Kỳ vừa bốc được hai thằng lính đi lạc của bạn rồi thả ở căn cứ hỏa lực. Bạch Mai muốn bạn về xác nhận xem có phải tụi nó là người của Ðại Ðội 1/11 không?
Tôi thắc mắc,
– Không Kỵ vớt được tụi nó lúc nào vậy?
– Mờ sáng ngày hôm nay Không Kỵ Mỹ bay qua vị trí mà đại đội của Long đáp xuống mấy hôm trước thì phát hiện dấu hiệu S.O.S vẽ trên cát, đồng thời có hai người quơ tay cầu cứu. Họ đã liên lạc với ban Cố Vấn của liên đoàn. Cố Vấn liên đoàn xác nhận rằng mình có hai người lính bị thất lạc mấy ngày nay, nên họ xuống bốc hai tên đó về căn cứ pháo binh, giao cho Ban An Ninh.
Xuống máy bay tôi thấy giữa sân cỏ, có hai người cởi trần, trên thân chỉ có cái quần đùi, ngồi chồm hổm trên nền đất.
Hai người này bị bịt mắt bằng vuông vải đen, hai tay bị trói quặt đàng sau.
Chính đưa tay ra dấu cho tôi đừng lên tiếng, rồi ghé tai tôi,
– Có phải hai thằng này là lính của Long không?
Vừa nhìn thoáng qua, tôi đã nhận ra, hai người trước mắt tôi chính là Binh 2 Phan Ðông và Binh 2 Lê Văn Hậu. Thằng Hậu thì lùn nhưng tròn quay, còn thằng Ðông lại vừa cao vừa gầy.
Thằng Ðông cao nhứt Trung Đội 3, mỗi khi tập họp nó đều đứng ở đầu hàng, ngày nào mà tôi không thấy nó!
Vì thế, không cần phải tháo cái khăn đen bịt mặt thằng Ðông ra, tôi vẫn hình dung được một cái sẹo màu đen to bằng ngón tay cái nhìn giống như một miếng vá nằm ngay dưới con mắt trái của nó. Vết sẹo này nếu ai đã thấy một lần rồi thì sẽ khó quên.
Tôi gật đầu, rồi hỏi,
– Vậy mình phải làm thủ tục gì để nhận chúng nó về lại đơn vị?
– Long vào gặp trung tá thì biết! An Ninh đã thẩm vấn hai thằng này rồi! Có một thằng là Việt Cộng!
Dứt lời, Chính kéo tôi vào lều hành quân.
Trung Tá Bùi Văn Sâm liên đoàn trưởng đang ngồi chờ tôi,
– Ông Long xem bản cung từ của An Ninh đi! Mấy cái Trung Tâm Tuyển Mộ Nhập Ngũ làm ăn tắc trách quá! Bổ sung cả cán bộ Việt Cộng cho mình. Nếu đơn vị nào cũng làm việc ỡm ờ vô trách nhiệm như thế, thì theo cái đà này sớm muộn gì mình cũng mất nước thôi!
Trung Tá Sâm vừa dứt lời, Thượng Sĩ Mân, hạ sĩ quan An Ninh liên đoàn liền trao cho tôi một xấp giấy viết tay; đây là cung từ sơ khởi ghi lời khai của hai anh lính đào ngũ.
Trong hồ sơ của Binh 2 Phan Ðông, tôi đọc được:
Họ và tên: Phan Ðông
Năm sinh: 1950
Họ và tên cha: Vô danh
Họ và tên mẹ: Phan Thị Quý
Quê quán: Tân-Uyên, Biên Hòa
Ðảng phái: Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
Tham gia: 1965 (mười lăm tuổi)
Vai trò phụ trách: Ủy viên thanh niên học sinh Biên-Hòa
Trong một cuộc hành quân Cảnh Sát sau Tết Mậu Thân, tên Phan Ðông bị Tuần Cảnh Hỗn Hợp Quân Trấn Biên- Hòa bắt đưa vào Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ rồi chuyển sang Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Ðộng Quân Dục Mỹ.
Ðầu tháng 6 năm 1968 đương sự được bổ sung cho Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân.
Hai lần mưu toan đào ngũ, bất thành.
Tháng Sáu năm 1968, chỉ hai ngày sau khi đáo nhậm đơn vị, Ðông đã đeo theo sau chiếc xe đò Blao, Ðịnh Quán định trốn thì bị Quân Cảnh Lâm Ðồng bắt nhốt một tuần rồi trao trả cho Biệt Ðộng Quân.
Sau ngày lãnh lương cuối tháng Bảy, Phan Ðông đã dụ dỗ được Binh 2 Lê Văn Hậu cùng bỏ đơn vị ra đi từ Ðức Trọng, Ðà-Lạt nhưng bị bạn bè phát giác phải bỏ cuộc.
Lần này, là lần thứ ba, Phan Ðông đã cùng Lê Văn Hậu đem theo vũ khí cá nhân và mười ngày lương khô, đào ngũ tại mặt trận.
Cả hai tên này dự trù sẽ men theo bờ sông Ðồng Nai Thượng (Da Dung) xuôi Nam, về Chiến Khu D.
Ngay buổi chiều, sau khi rời bãi trực thăng, hai tên đào ngũ đã rơi vào tay một đơn vị tăng gia sản xuất của Việt Cộng. Ðơn vị Việt Cộng này không có phương tiện vô tuyến truyền tin, nên lưu giữ chúng dưới hình thức giam lỏng.
Nương theo tin tức của Ðông và Hậu cung cấp, Việt Cộng đã dùng quân phục rằn ri của hai đào binh này để giả trang, rồi tập kích các đơn vị Biệt Ðộng Quân đang có mặt trong vùng.
Sau khi hai cán binh Việt Cộng giả dạng Biệt Ðộng Quân bị giết thì Ðông và Hậu bị cùm, kiên giam trong hầm, chờ huyện đội Di Linh của Cộng Sản xử trí.
Rồi huyện đội ra chỉ thị cho phép hai tên lính đào ngũ này sung vào đội tăng gia sản xuất của địa phương.
Tên Phan Ðông nại cớ mình là cán bộ trí vận của tỉnh Ðồng Nai, không chịu ở lại xứ này, y cứ nài nỉ xin huyện đội Di Linh cho người hộ tống y xuôi Nam.
Cũng trong thời gian này, Binh 2 Lê Văn Hậu khóc lóc suốt ngày, luôn mồm chửi bới tên Ðông đã rủ rê y vào con đường chết.
Tám ngày sau, Ðông và Hậu bị Việt Cộng bắt cởi bỏ hết y phục, trên thân chỉ còn cái quần đùi, rồi bị bịt mắt dẫn ra bờ sông bỏ lại với lời dặn:
“Cứ theo dấu giày mà tìm về với đơn vị của chúng mày!”
Sáng ngày thứ mười của cuộc hành quân thì Ðông và Hậu được Không Kỵ Hoa Kỳ cứu sống.
Khi bị nhân viên An Ninh liên đoàn hỏi rằng:
“Có phải anh nhận lệnh của Việt Cộng trở về đơn vị tiếp tục làm nội tuyến hay không?”
thì Phan Ðông đã chối đây đẩy:
“Dạ không! Em còn mẹ già ở dưới quê. Quê em là vùng mất an ninh nên em mới tham gia Mặt Trận Giải Phóng. Từ khi đi lính em căm thù Việt Cộng lắm. Em không thèm nghe lời dụ dỗ của chúng nó nữa đâu.”
Cung từ của Binh 2 Lê Văn Hậu không có gì đáng nghi.
Ðương sự thuần túy là một học sinh ngây thơ bị bắt đi quân dịch xa nhà.
Cũng vì quá ngây thơ, quá nhớ nhà, Hậu đã nghe theo lời rủ rê của Ðông mà đào ngũ.
Hậu cũng tiết lộ rằng trong thời gian bị Việt Cộng giam giữ, nó thường nghe thằng Ðông và bọn cán binh gọi nhau là “Ðồng Chí”
Nó khai thêm, trước lúc bị bịt mắt dẫn đi, nó còn thấy thằng Ðông ngồi bàn chuyện riêng với tên chỉ huy Việt Cộng một thời gian khá lâu.
Ban An Ninh liên đoàn đề nghị giải giao Phan Ðông và Lê Văn Hậu cho Ty An Ninh Quân Ðội Tuyên-Ðức hay Lâm-Ðồng để có biện pháp thích nghi.
Với tư cách là cấp chỉ huy trực tiếp của hai phạm nhân, tôi phải ký giấy xác nhận tình trạng vi phạm của hai tên này.
Ðồng thời tôi phải cho ý kiến đề nghị giải giao chúng cho cơ quan hữu trách.
Chờ tôi xem xong xấp giấy ghi khẩu cung của hai tên đào ngũ và ký tên xác nhận, Trung tá Sâm kéo tay tôi ra sân, hướng về phía hai tên đào binh đang bị trói.
Nghe tiếng chân người đi tới gần, hai tên bị bịt mắt vội ngửa mặt lên nghe ngóng, đợi chờ.
Tôi nói,
– Trung tá để tôi cởi trói và mở khăn che mắt cho chúng nó nhe!
Trung tá Sâm xua tay,
– Khỏi! Ông chỉ cho tôi, thằng nào là thằng Ðông?
Tôi đưa tay chỉ tên đào binh cao và gầy,
– Thằng ngồi bên phải, cao và gầy là Phan Ðông.
Trung tá Sâm chống hai tay vào cạnh sườn, đôi mắt lừ lừ, từ từ đi một vòng xung quanh, nghiêng người dòm vào mặt hai kẻ phạm tội.
Rồi bất thình lình ông dừng lại, co chân đá tới tấp vào mặt Phan Ðông,
– “Ðủ mẻ” đồ ăn cơm Quốc-Gia, thờ ma Cộng-Sản!
Tôi thấy máu miệng, máu mũi của Phan Ðông phun ra ào ào, y ú ớ,
– Trung tá tha cho em! Em trót dại! Lần sau em không dám làm thế nữa!
“Bịch! Bịch! Bịch!” vừa tiếp tục đá vào đầu, vào mặt, vào ngực Phan Ðông, ông Sâm vừa nghiến răng,
– Lần sau à? Mi còn muốn có lần sau nữa à?
Thấy ông Liên đoàn Trưởng xuống tay quá nặng, tôi vội can ngăn,
– Thôi! Kệ cha nó Trung tá! Nó ngu xuẩn đi theo giặc thì cứ để cho nó chết. Theo đúng quân luật thì tội đào ngũ trước địch quân của nó phải bị xử tử hình. Mình cứ giải giao nó cho An-Ninh Quân-Ðội là xong.
Ngồi bên Phan Ðông, Binh 2 Lê Văn Hậu run lên như cầy sấy,
– Trung tá đừng đánh em! Tại thằng Ðông nó rủ rê em, em mới đi trốn! Trung tá đừng đánh em! Em biết lỗi của em rồi!
Tôi nghĩ bụng: “Cái thằng Hậu này đúng là quá khù khờ! Ông Trung tá đang xả cơn giận lên đầu thằng Ðông, tự nhiên nó lên tiếng, không khác gì mời ông ta quất cho một trận!”
Quả nhiên, mũi giầy của ông Liên đoàn Trưởng liền quay qua, nện một cú móc ngay hàm anh lính ngố!
– Mày là thứ đồ ngu! Mày là thứ đồ đần!
Bị hai cú đá như trời giáng, “thằng ngu” câm họng luôn!
Nó sợ rồi! Không dám khóc! Nó biết, nếu khóc sẽ làm cho ông Liên đoàn Trưởng thêm giận, nó sẽ lãnh đòn nữa.
Hình như sau khi vận lực tung mấy cú đá vào mặt hai tên “ăn cơm Quốc-Gia, thờ ma Cộng-Sản” ông Liên đoàn Trưởng Biệt Ðộng Quân đã nguôi ngoai cơn giận. Ông kéo tay tôi đi về cuối bãi,
– Phải công nhận! Ông thật là cao số! Nếu hai đứa nó mà lựa lúc ban đêm mọi người ơ hờ, hè vô trói ông lại, bắt ông ra lệnh cho cả đại đội nộp súng đầu hàng thì đại họa! Một là mình ông chết, hai là cả trăm người thành tù binh! Hên lắm rồi! Hết kỳ hành quân này ông nhớ ăn chay ít lâu để tạ ơn Trời Phật!
Nghe ông Sâm nói, tôi cũng rùng mình, tán đồng,
– Ðúng rồi! Tôi phải cám ơn Trời Phật!
Ông Trung sĩ thông dịch viên chui ra khỏi lều truyền tin, dáo dác một lúc, rồi chạy tới,
– Trình Trung tá! Mười phút nữa có trực thăng đưa Trung úy Long về Di Linh và đưa hai đào binh về Ðà-Lạt.
Chúng tôi trở lại lều. Trung tá Sâm nhắc nhở Thượng sĩ Mân,
– Từ đây về tới ty An Ninh Quân Ðội, dọc đường, ông nhớ cẩn thận, coi chừng tụi nó giựt súng rồi bỏ chạy đó!
Sau khi chào từ biệt Trung tá Liên đoàn Trưởng, tôi ghé Ban 4 Liên đoàn, xin được hai bộ quần áo cũ để cho Ðông và Hậu.
Dưới họng súng canh gác của một người lính, hai đào binh nhanh chóng khoác vào người bộ quần áo hoa đã cũ.
Sau đó Thượng sĩ Mân mở ba lô lấy ra một cái còng số 8 móc một đầu vào cổ tay phải của Phan Ðông, đầu kia móc vào cổ tay trái của Lê Văn Hậu.
Trong thời gian gần hai chục phút chờ máy bay, B2 Lê Văn Hậu cứ nhìn tôi rồi khóc rấm rứt.
– Thái Sơn tha lỗi cho em! Trung úy tha lỗi cho em!
Bên cạnh đó, Binh 2 Phan Ðông ngồi cúi đầu, một tay bụm miệng, không nói tiếng nào, miệng nó còn ra máu.
Leo lên tàu, tôi chợt thấy mắt của Phan Ðông long lên sòng sọc. Ánh mắt của nó như chứa đựng điều gì đó dị kỳ, bí hiểm. Thay vì ngồi xẹp xuống sàn tàu, Ðông lại ngồi một chân co, một chân duỗi như thủ thế.
Tôi nghĩ tới trường hợp nó nổi cơn điên vào lúc máy bay đã lên cao thì nó có thể kéo theo một hai người cùng lao ra khỏi cửa máy bay để chết chung!
Tôi vội ra lệnh cho Thượng sĩ Mân lấy thêm một cái còng số 8 thứ hai, móc tay trái của Phan Ðông vào cái khoen tròn kim loại trên sàn máy bay, khiến cho tên đào binh này hết cơ hội manh động.
Sau ngày ấy, chuyện hai tên đào binh của Ðại Ðội 1/11 cũng đi vào lãng quên.
Cho tới một ngày cuối năm 1973, tôi ghé Quận Thanh-An để thu hồi một toán Viễn Thám trở về từ núi Chi Kara.
Thanh-An là nơi Liên Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân đặt Bộ Chỉ Huy Nhẹ.
Giữa sân Quận Thanh-An, tôi đang đứng nói chuyện với Trung tá Hoàng Thọ Nhu, Liên đoàn Trưởng, thì ông Liên đoàn Phó xuất hiện,
– Long có thằng đàn em nào mới từ quân lao mãn án, ra Biệt Ðộng Quân không?
Nghe Trung tá Lê Quý Dậu, liên đoàn Phó hỏi, tôi ngạc nhiên,
– Tôi chẳng quen ai đang bị tù cả. Chắc có người lầm tôi với ông Long nào đó chăng?
Ông Dậu gọi một Hạ sĩ quan đứng gần đấy,
– Mày đi tìm thằng Hậu lên đây!
Anh Trung sĩ Ban 3 liên đoàn chạy đi, lúc anh ta quay lại thì sau lưng anh ta là một người lính.
Bất ngờ bị áp tải lên trình diện hai ông Tá chánh và phó của liên đoàn cùng một người lạ, anh lính vừa tới có vẻ lo lắng lắm. Anh ta đứng trong thế nghiêm, hai chân run run.
*****
4. – Trung tá gọi em làm chi vậy! Em đang nấu cơm.
– Trung tá Dậu chỉ vào anh ta rồi hỏi tôi:
– Thằng này mới được bổ sung tháng trước, nó nói nó là đồ đệ của Long, mình giữ nó lại làm “tà lọt” nấu cơm. Long có nhận ra nó không?
Trước mặt tôi là một anh lính trẻ, nhìn mặt anh, tôi thấy hình như tôi đã gặp anh ta ở đâu đó rồi.
Chắc anh lính đã nhận ra tôi là người mà anh ta biết, nên nhào tới nắm chặt hai cổ tay tôi.
– Trung úy ơi! Hậu đây! Hậu đây Trung úy! Ngày đó em có lỗi với Trung úy! Em xin lỗi Trung úy! Hu! Hu! Hu! …
Như một đứa bé, người trẻ tuổi khóc thật hồn nhiên.
Tôi cũng nhìn ra, trước mặt tôi là tân binh Lê Văn Hậu ở Trung đội 3 Ðại Ðội 1 của Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân năm nào.
Ông Dậu nhắc nhở:
– Ế! Hậu! Ông Long là thiếu tá! Không phải là trung úy! Mày phải kêu ông ấy là thiếu tá!
Hậu vẫn không buông tay tôi ra, nó sụt sùi:
– Trung úy ơi! Ông thầy ơi! Ông thầy tha lỗi cho em! Ông thầy ơi! Hu! Hu! Hu!…
Tôi gỡ tay Hậu ra, rồi ôn tồn:
– Ngày đó chuyện diễn tiến ra sao?Thằng Ðông đâu?
– Trình Trung úy, sau khi ra tòa, em bị kêu án ba năm tù về tội đào ngũ, còn thằng Ðông bị đưa ra Phú-Quốc nhốt chung với tù Phiến Cộng. Ông thầy hiện giờ ở tiểu đoàn nào? Ông thầy xin cho em về ở với ông thầy có được không?
Tôi hỏi tiếp:
– Thế ngày đó Hậu có biết thằng Ðông là Việt-Cộng không?
– Dạ không! Nó thấy em nhớ nhà, nó cứ rủ em đi trốn…
Thấy anh lính khờ khạo, cả tin ngày xưa đang có chỗ dựa là ông trung tá liên đoàn phó, nên trước khi rời Thanh-An, tôi nói với Hậu,
– Hậu cứ ở yên đây với Trung tá Dậu! Khi nào có dịp, anh sẽ đem chú về với anh.
Miệng tôi tuy nói thế, nhưng trong lòng tôi thì nghĩ khác:
“Hậu ơi! Anh đã thấy rồi! Lòng trung thành của em giống như con vụ. Nó cứ xoay tròn liên miên. Nếu Trung úy đem em về ở với Trung úy thì chắc chắn một ngày nào đó em sẽ nghe theo lời rủ rê ngon ngọt của một thằng bạn mới quen, em sẽ cùng với nó trói Trung úy lại rồi đem anh giao cho Việt-Cộng mất thôi!”
Trung tá Dậu hất tay ra lệnh cho Binh 2 Hậu rút lui rồi hỏi nhỏ tôi:
– Theo ý Long thì thằng này có dùng được không?
Tôi trả lời:
– Nếu ông không sợ nó phản thì cứ thử!
Ít lâu sau tôi nhận lệnh vào Pleime chỉ huy Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng. Tôi nhận được một tờ đơn viết tay có chữ ký của Binh 2 Lê Văn Hậu tình nguyện xin về phục vụ tiểu đoàn này.
Dù đang cần người bổ sung, tôi vẫn phê hai chữ “Không nhận” trên cái đơn.
Ðầu tháng Ba năm 1975, Binh 2 Lê Văn Hậu còn ở với Trung tá Lê Quý Dậu, Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân.
Sau khi Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân tan hàng ở Ban Mê Thuột, không biết số phận Binh 2 Lê Văn Hậu ra sao.
Thời gian này tôi đang trấn giữ vùng biên giới Quảng-Ðức và Cambodia.
Giữa tháng Ba năm 1975 Quân Ðoàn II tháo chạy khỏi Vùng 2.
Cuối tháng Ba năm 1975 tôi phải ngậm ngùi dẫn quân vượt sông Da Dung, bỏ lại sau lưng một trận địa mà tôi đã trải qua mười năm dài chinh chiến.
Chuyện nơi cuối sông Ðồng Nai…
Trong danh sách những tù cải tạo được tha năm 1988 có tên tôi.
Sau đợt tha này, toàn cõi Việt-Nam chỉ còn hơn một trăm người tù cuối cùng tập trung về Trại Z30 D là nơi tôi vừa giã từ.
Về tới nhà hôm trước, hôm sau vợ tôi ra điều kiện:
“Ba ngày đầu mình không được đi chơi nhậu nhẹt với bà con, cô bác, bạn bè. Mình chỉ được ăn đậu xanh nấu với tỏi để xổ độc. Sau đó phải ăn đồ nhẹ, không dầu mỡ. Hết một tuần mới được ăn uống bình thường.”
Có lẽ vì tôi nhất mực tuân lệnh vợ, giữ miệng, kiêng khem, nên sau này tôi không bị “bệnh hậu cải tạo” hành hạ xác thân như nhiều anh bạn khác.
Sau 13 năm dài làm việc quần quật để nuôi bốn đứa con nhỏ ăn học, lại thêm gánh nặng thăm nuôi chồng bị giam giữ tù đày, vợ tôi hầu như đã kiệt sức mất rồi.
Tôi về được ít lâu thì vợ tôi ngã bệnh, không còn hành nghề thợ may được nữa, thu nhập của gia đình tôi chỉ trông vào mấy chỉ vàng do công dạy mấy đứa bé gái đang học nghề thợ may. Từ ấy, tôi phải thay nàng, chen chân vào đời kiếm cơm, kiếm gạo, nuôi vợ, nuôi con. Bất cứ chỗ nào đánh tiếng thuê người giúp việc tôi đều tìm tới.
Tới đâu người ta cũng bắt tôi xuất trình giấy tờ chứng minh lý lịch.
Trong nước Cộng-Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt-Nam thì tôi chỉ có một tờ giấy tùy thân, đó là cái Giấy Ra Trại có con dấu đỏ của Trại Cải Tạo Z30 D Hàm-Tân Thuận-Hải.
Nhưng cái giấy ra trại này chẳng giúp ích gì cho tôi khi đi xin việc cả.
Xuất trình nó ra, có khi còn mang họa, vì ngay dưới cái tên tôi, là những hàng chữ ghi rành rành thế này:
Bị bắt ngày: 11 tháng 5 năm 1975.
Can tội: Thiếu tá Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.
Án phạt: Tập trung cải tạo.
Mãi tới ngày có cái Chứng Minh Nhân Dân tôi mới thấy dễ tìm việc làm hơn.
Tôi đã làm nhiều việc, nhưng việc gì cũng là tạm bợ, chẳng có công việc gì kéo dài được lâu.
Tới ngày có anh Lê là người quen từ thời gia đình tôi còn ở Hội-An tới thăm, biết tình trạng làm ăn thất thường của tôi, anh có ý kiến:
– Thời buổi này muốn sống phải có vốn, cậu không có vốn thì chịu khó lên rừng làm gỗ, làm nương.
Tôi nói:
– Làm gỗ nguy hiểm lắm, vừa sợ bị cây đè, sợ muỗi vắt, rắn rết, còn sợ bị chủ quỵt tiền công. Tôi mới bỏ nghề giữ lô của một xưởng cưa trên Ðà-Lạt về đây.
– Cậu có biết trồng mì không?
-Úi da! Mười ba năm học tập cải tạo tôi chỉ học được có một cái nghề trồng mì, trồng bắp, tôi trồng mì giỏi lắm!
– Vậy thì cậu Long lên Trị-An làm rẫy đi! Dạo này tụi Tàu Chợ-Lớn đang đẩy mạnh phong trào sản xuất mì ăn liền Vị-Phong. Tụi nó rất cần khoai mì. Cậu gắng kiếm chút vốn rồi lên đó thuê vài công đất trồng mì, chỉ vài tháng sau là có tiền rồi.
Trước khi nhập nghề trồng sắn, tôi phải theo ông bạn già đi khảo giá sắn cho biết thị trường mua bán ra sao, từ đó, khi có của rồi, mới biết ước giá, định giá mà bán, thì mới có lời.
Trong những lần đi dò đường để chuẩn bị vào nghề, tôi cũng học được một vài điều hay; tỉ như chuyện trước khi rỡ mì hai ngày, chủ vườn lén tưới vỗ dưới gốc cây cho mì ngậm nước, khi nhổ củ, đem cân, trọng lượng sẽ tăng lên. Hoặc là đục một lỗ “thiến” đi một củ mì to nhứt trong chùm rễ cái, sau đó nén chặt gốc bằng đất, rồi trồng cỏ mới lên trên. Những vườn mì bị moi củ thường được bán “mão” nghĩa là định giá trước khi nhổ củ, người mua được “lùa”, thua chịu.
Sau khi đã điều đình với chủ đất để có sẵn sàng bốn mẫu đất canh tác, tôi về Sài-Gòn chạy vốn.
Thời buổi này, vay lời theo lãi suất hàng ngày là “xanh xít, đít đui” (Tiếng Pháp: Cinq:5, Six:6; Dix:10; Douze:12) tức là vay 5 thì trả 6, vay 10 phải trả 12.
Vay 1000 đồng ngày hôm nay, thì ngày mai phải trả 100 đồng, ngày mốt 100 đồng, cứ thế, trả trong 12 ngày thì hết cái nợ 1000 đồng.
Tôi đã từng mượn người hàng xóm 100 nghìn đồng để đi buôn quần áo SIDA.
Chủ nợ ưu ái cho tôi không phải trả 10 nghìn hàng ngày, nhưng phải trả gộp cả vốn lẫn lời 120 nghìn sau ngày thứ mười.
Ði trồng mì mà vay vốn kiểu này chắc là không kham nổi!
Kinh nghiệm 13 năm trồng mì từ Bắc vào Nam, cho tôi biết, khúc mì vùi xuống đất, một tuần lễ sau còn chưa bén rễ, nẩy nhánh. Sau ba tháng, củ mì mới to bằng ngón chân cái, còn lâu mới bán được, làm cách nào mà thanh toán cho xong mấy chục cái nợ “xanh xít, đít đui” đây?
Thôi đành bỏ ý tưởng kiếm cơm bằng nghề trồng khoai mì cho rồi!
Tôi lên rừng tiếp tục đi đào vàng…
Một hôm, tôi vừa trở về từ mỏ vàng Suối Nho, Gia-Kiệm thì anh Lê lại tới thăm.
– Cậu Long có biết lái máy cày không?
Nghe hỏi, tôi đáp liều:
– Thiếu tá thì ông nào mà không biết lái trực thăng, xe tank, tàu thủy? Sá gì cái máy cày!
– Vậy mai này tôi chở cậu lên lái máy cày giúp cho thằng rể của tôi. Thằng phụ máy của nó vừa tách ra làm ăn riêng. Cậu lên ở với vợ chồng nó, cậu cháu đùm bọc lẫn nhau mà sống cho qua ngày!
Thằng con rể ông bạn già của tôi đang sinh sống ở một vùng Kinh Tế Mới bên kia bến phà Hiếu-Liêm của đập Trị-An. Nó có cái máy cày hiệu John Deere. Hàng ngày nó cày thuê cho chủ đất quanh vùng, thu nhập rất là khấm khá.
Hai ngày sau tôi trang bị một cái xách tay, trong đó chứa ba bộ quần áo nhà binh cũ cùng một đôi giày bố đen, rồi giã từ vợ con, cất bước lên đường.
Trong giao kèo miệng giữa tôi và anh Lê thì tôi sẽ được vợ chồng chủ đài thọ ăn ở, do đó tôi không cần đem theo tiền để đi xe, đi tàu, hay tiền dằn túi để tiêu vặt.
Anh Lê phụ trách công tác chở tôi lên nhà thằng rể của anh.
Trước khi leo lên xe, anh Lê dúi cho tôi một tờ bản đồ chỉ dẫn giao thông vùng hai bên Hồ Trị -An. Anh Lê nói:
-Tôi biết cậu cần thứ này nên đã tìm mua nó cho cậu để khi cần tìm địa chỉ khách hàng cậu không sợ bị lạc.
Vì ngồi đàng sau, lại bận bịu chuyện trò liên miên, tôi chẳng để ý theo dõi bản đồ hay nhìn phong cảnh hai bên đường nên chẳng biết nhà thằng con rể của anh Lê nằm ở vùng nào.
Xe qua đập rồi chạy vòng vèo khá lâu mới tới khu dân cư. Dân ở đây sống cách nhau hơi xa.
Trước mỗi nhà đều có sân đất rộng cả sào, nhưng không có hàng rào. Sau căn nhà tôn hoặc mái tranh là một thửa ruộng vuông vức, mỗi bề cả trăm thước. Hầu như ruộng nhà nào cũng trồng khoai mì. Khoai mì là loại cây ít cần công chăm sóc nhứt.
Tới trưa hôm đó thì tôi đối diện với cái máy cày hiệu John Deere. Tuổi của cái John Deere này có khi còn già gấp đôi tuổi tôi.
Chờ lúc hai cha con ông bạn rủ nhau ra suối tắm, tôi mới len lén leo lên rờ rẫm cái tay lái.
Hôm qua trước mặt anh Lê, tôi lớn lối khoe khoang rằng: “Ông tá nào mà không biết lái máy cày!” đó là tôi “hù” ông bạn tôi thôi!
Tôi có biết lái máy cày đâu! Tôi tính máy gì, xe gì, của Mỹ cũng phải có bảng chỉ dẫn gắn ngay trước tay lái, ai ngờ chiếc máy cày này già quá, cái bảng chỉ dẫn đã rụng mất tiêu từ thuở nào rồi!
Tôi quên chưa đính chính lại là có nhiều ông cấp tá, đeo lon trắng đế vàng chói lóa mà chưa từng biết lái cái xe Jeep chứ đừng nói chi tới lái máy bay, tàu bò như tôi hù dọa anh Lê.
Thật mà! Các vị tá này từ khi tốt nghiệp thiếu úy, chuẩn úy đã được ô dù che đậy, cho làm việc ở Bộ Tổng Tham Mưu, cứ sáng đi quá giang xe ông này, chiều đi nhờ xe ông khác, thét rồi lên tới tá vẫn chưa một lần được cấp xe. Không có xe riêng thì làm sao mà biết lái?
Rờ rẫm một hồi, tôi cũng dụ được cái John Deere già khú đế rú lên, phun khói mịt mù.
Con trâu già John Deere quá cũ, uống dầu như giếng không đáy, lại chạy chậm rì rì, bò suốt buổi mới xong một mẫu đất.
Tôi mới làm quen với công việc cày xới chưa được một tuần lễ thì đột nhiên xảy ra chuyện không hay. Vào đúng ngày Rằm Âm-Lịch, vừa xong công việc cúng vái các vị Thần Tài, Ông Ðịa, Thổ Công, Thổ Thần thì ông chủ nhỏ của tôi nhận được tin là, tất cả khách hàng quen của John Deere đồng loạt thông báo rằng, từ nay họ không thuê John Deere nữa.
Nguyên do rất bình thường, chỉ vì có người chịu cày thuê cho họ với giá hạ hơn nhiều!
Cạnh tranh là phương châm cho tất cả mọi kinh doanh thu lợi. Anh phụ thợ cày của cái máy John Deere sau khi tậu được chiếc Kubota mới tinh thì trở thành đối thủ của anh chủ cũ.
Máy Kubota vừa nhẹ vừa ăn ít dầu, chạy lâu không nóng máy, không phì hơi, không bốc khói; đất cày xong cũng dễ đánh tơi, trong khi rãnh cày John Deere không có ưu điểm ấy.
Bạn ta còn một đòn chơi thật là xấu, bằng cách hạ giá mỗi mẫu cày tính là 8,000 đồng thôi, thay vì 10,000 theo giá cũ của John Deere.
Xưa nay John Deere thu về cho chủ 10,000 đồng mỗi hecta, trả công người lái như tôi 2,000 đồng, chủ còn lại 8,000 đồng, sau khi trang trải tiền dầu nhớt, tiền vỏ lốp, tiền “đấm mõm” cho cán bộ kinh tế, cán bộ thuế vụ của xã, chủ xe cũng chẳng còn được bao nhiêu.
Ở nơi đồng không, mông quạnh này vốn đã buồn rồi, thất nghiệp lại càng buồn hơn. Thế là từ ấy, thằng con rể của ông bạn tôi đâm ra ghiền vọng cổ.
Vì ngày ngày ngồi chờ người gõ cửa thuê cày, vắng khách, nó bèn mở máy Cassette ra nghe Hùng Cường, Thành Ðược, Út Trà Ôn, ngân nga sáu câu mùi mẫn. Nghe xong, nó cố gân cổ ca theo ba cha nội này quên cả ngủ, quên cả ăn.
Hai cậu cháu chờ dài cả người, ba bốn ngày mới có một anh thợ rừng thuê bao chúng tôi lên ngàn kéo mây, kéo vầu, kéo nứa. Dịp này con trâu John Deere mới có dịp phun khói, uống dầu.
Vì có dịp lên núi kéo nứa, tôi thấy ở đây mây, tre, vầu, nứa bạt ngàn mà chẳng có kiểm lâm, thuế vụ gì cả; tôi chợt nẩy ra ý nghĩ, thay vì đem xe đi kéo nứa cho người ta, tiền công chẳng được là bao, chi bằng mình tự chặt nứa rồi tự kéo nó về biến cái sân to rộng trước nhà thằng cháu thành một vựa nứa, vựa tre, mỗi tuần chỉ cần đi hai chuyến là no đủ rồi.
Trong thời gian bị giam giữ trên Hoàng Liên Sơn, anh tù cải tạo nào mà không rành nghề đốn tre, chặt nứa?
Thế là vững tin vào tay nghề của mình, tôi bỏ ra một ngày làm cỏ, quét dọn cái sân đất trước vườn thật sạch sẽ dành chỗ để mây, để tre.
Nào ngờ mình chưa ra quân, con trâu già John Deere đã trở quẻ!
Hôm tôi đem cái gùi đồ nghề gồm mấy con dao quắm, dao phát và cái cưa tay chất lên xe, đi qua chặng đường bằng phẳng thì không sao, nhưng vừa leo qua một con dốc nhỏ thì John Deere bỗng nằm ì ra không thèm chạy nữa!
Người lái tăng ga thì nó rú lên; toàn thân nó run bần bật liên hồi như một ông lão đang lên cơn sốt cao, ho khù khụ. Tôi tắt máy, nhảy xuống quan sát thì thấy dưới gầm xe có một vũng dầu máy đen ngòm! Ôi thôi! John Deere bị bể bạc đạn rồi!
Hai người loay hoay một lúc cũng tháo được cái bạc đạn đem ra ngoài ổ máy.
Thằng cháu hối hả chạy về nhà bắt vợ nó đập con heo đất, gom góp được hai chục ngàn đồng, giao cho tôi.
– Cậu chịu khó vác cái bạc đạn này về Nguyễn Trãi thuê người ta xoáy nòng cho cháu. Nếu thiếu tiền thì cậu ghé nhà Ba Má cháu nhờ ứng trước, cháu sẽ hoàn lại sau.
Tôi chưa biết đi đường nào để về Sài -Gòn thì chợt nhớ ra cái bản đồ mà anh Lê đã trao cho tôi ngày khởi hành. Trên bản đồ ghi rõ từng chặng đường và từng loại phương tiện để đưa tôi về nhà. Nếu trong túi có tiền, cứ theo cái bản đồ mà đi, lo gì không tới.
Tôi khệ nệ ôm cái túi vải bọc khoanh bạc đạn máy cày lết bộ ra hương lộ chờ xe ôm.
Xe tới bến phà, móc bóp trả tiền tôi mới ngã ngửa: tôi phải trả 6 ngàn đồng cho chuyến thồ này. Bác tài không cho tôi biết trước, muốn trả 2 ngàn đồng thì tôi phải chờ cho đủ ba người mới trọn một chuyến đi. Ba khách thì tổng số tiền là 6 ngàn, đi một mình ên, cũng phải chi 6 ngàn.
Lúc tôi lên xe, ông tài chỉ phán gọn một câu:
– Ông đi suốt?
Thời buổi này chữ nghĩa mới, danh từ mới nhiều quá, tôi trở thành con người lạc hậu, không theo kịp, nên nghe ông ta hỏi “Ông đi suốt?” tôi cứ nghĩ rằng ông ta hỏi tôi muốn đi một lèo ra bến phà, mà không ngừng ở đâu, nên gật đầu.
– Dĩ nhiên!
Ðâu ngờ hai tiếng “Dĩ nhiên!” đáng giá 6 ngàn đồng tiền Hồ!
Ông lái xe thồ là dân “Bắc Kỳ 75”, ông ta là đại diện cho nền văn hóa mới.
*****
5 – Kỳ Cuối. Còn tôi là dân “Bắc Kỳ 54” lại bị đưa lên rừng, lên núi để “học tập cải tạo” một thời gian lâu tới 13 năm, nên không theo kịp cái văn minh đương thời của nước Cộng-Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt-Nam.
Tới bến phà, khách không phải chờ lâu, bây giờ thời buổi hòa bình không tiếng súng, miễn có người trả tiền thì đò lúc nào cũng sẵn sàng rẽ sóng, bất kể ban ngày, hay ban đêm.
Qua đò, tôi leo lên xe khách chạy đường Hiếu-Liêm, Thành Phố Biên-Hòa. Tới bến xe Biên-Hòa, tôi phải sang xe Biên-Hòa, Tân-Cảng. Tới Tân-Cảng, tôi leo lên xe Lamb về bến Phạm Ngũ Lão.
Rồi từ Ga Phạm Ngũ Lão, tôi tiếp tục theo xe Lamb về chợ Nancy. Nhà tôi ở đằng sau chợ Nancy.
Tới chợ Nancy, trả tiền xong thì trong túi tôi còn đúng 2 nghìn đồng, vừa bằng tiền công mà chủ trả cho tôi mỗi khi cày hoàn tất một hecta.
Thấy đường từ chợ Nancy qua Nguyễn Trãi cũng không xa lắm, vả lại, trong bụng cũng tiếc tiền đi xích lô, nên tôi đành gắng sức đưa cái túi bạc đạn lên vai vừa đi vừa huýt gió cho quên mệt.
Chiều hôm đó trong khi ngồi ăn cơm, tôi nghe đài BBC loan tin khu mỏ vàng K3 ở Ðơn Dương vừa bị sập hầm vì mưa lũ. Tin sơ khởi cho biết rằng có vài chục người mất tích. Hai tháng trước tôi còn ngụp lặn ở K3! Nghĩ cho cùng thì số mình cũng còn hên!
Thấy số mình vẫn còn hên, nên tôi quên mất cái buồn do chuyện sau nửa tháng trời chịu vất vả ở trên ngàn mà chỉ đem về nhà được 2 nghìn đồng bạc.
May thay, trong thời gian chờ thợ tiện xoáy nòng cái bạc đạn, tôi nhận được lời nhắn phải đi tới một căn gác tọa lạc trên đường Trương Minh Giảng để gặp một người tên là bà Hà để nhận quà.
Giữa trưa nắng cháy, vợ chồng tôi hí hửng chở nhau trên chiếc xe đạp thồ đi tìm nhà bà Hà.
Nhà này nằm trong một con hẻm lớn. Nhà có một từng lầu lợp tôn với cái lan can nhìn xuống phố.
Bà Hà là Việt Kiều mới về từ Mỹ. Bà bắt tôi xuất trình Chứng Minh Nhân Dân để nhìn mặt xem tôi có phải là người mà bà có trách nhiệm giao quà hay không?
Xem mặt tôi xong, bà Hà ra lan can quan sát một lúc, chắc chắn không bị ai theo dõi, bà trở vào mở tủ trao tay cho tôi một cái bì thư,
– Trong này có 200 đô la của anh Thọ gửi cho anh, anh đếm lại đi, rồi ký vào tờ giấy biên nhận cho tôi.
Tôi mở cái bì thư ra, thấy một tờ giấy 100 USD và ba tờ giấy 20 USD màu xanh lá cây cùng một tờ biên nhận, bên dưới có tên tôi, nhưng còn chờ chữ ký. Thấy tờ giấy biên nhận ghi rõ ràng con số 200 USD. Tôi thắc mắc,
– Chị ơi! Chị nói trong bì thư này có 200 đô, mà sao tôi chỉ thấy 160 đô vậy? – Thì tiền công “chuyển ngân” là hai mươi phần trăm (20%) Hai trăm đô trừ bốn chục đô lệ phí, không còn một trăm sáu chục đô thì còn bao nhiêu? Anh là dân Võ-Bị mà có bài tính giản dị như thế cũng không thông ư? Tôi thấy anh Thọ nhanh nhẹn, tháo vát lắm, còn anh, sao mà có vẻ chậm tiêu quá!
Nhìn cái miệng dẻo quẹo của bà Hà, tôi nhủ thầm trong bụng:
“Ðưa cho người ta 160 đô la mà bắt người ta ký nhận 200 đô la còn mắng người ta là dốt tính toán. Quả là thứ vừa ăn cướp vừa la làng!”
Thấy tôi đứng thừ người, bà Hà hăm,
– Sao? Có nhận không? Nếu chê thì tôi chuyển tiền cho người khác, theo danh sách ưu tiên của anh Thọ. Ngoài anh ra, anh Thọ có cho tôi tên của ba anh Khóa 20 Võ Bị, người ưu tiên kế tiếp sẽ nhận hai trăm này nếu tôi không liên lạc được với anh.
Tới nước này tôi đành quơ bút, ký cái hóa đơn đã nhận 200 USD do bạn của tôi tên là Thọ từ Hoa-Kỳ gửi về.
Vợ chồng tôi từ biệt bà Hà mà quên chưa hỏi bà ta người gửi tiền cho tôi có tên “Anh Thọ” đang ở đâu? Vì lý do gì mà “Anh Thọ” lại gửi tiền cho tôi.
Ít lâu sau tôi nhận được một cái thư gửi từ California, Hoa-Kỳ, tôi mới biết người bạn tên Thọ là ai.
Thì ra anh Thọ, tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thọ, lúc đó đang là đại diện của Khóa 20 Võ-Bị Hải-Ngoại.
Thọ là dân Biệt Ðộng Quân với tôi, nhưng từ ngày ra trường, tôi chưa từng gặp lại bạn ấy. Tôi có nhiều bạn Biệt Ðộng Quân thân thiết hơn Thọ nhiều, nhưng kể cả những người chịu ơn tôi trong quá khứ hiện đang ở Mỹ, thì chỉ có Thọ là người Biệt Ðộng Quân đầu tiên còn nhớ tới tôi.
Trong thư, bạn Thọ ghi rõ ràng:
“Anh em bên này nghe tin mày được tha, ai cũng mừng. Như thông lệ, tao trích quỹ của khóa ra cho mày 100 USD.
Nghe được tin này, anh Hồ Khắc Ðàm, khóa 16, cũng nhờ tao gửi cho mày 60 đồng.
Tao định rút thêm 40 đồng từ quỹ khóa để cho mày chẵn 200 USD nhưng thằng Nguyễn Thanh Ðức không đồng ý, nó nói đứa nào cũng nhận được 100 USD sau khi được tha, không lý do gì mà phải cho mày nhiều hơn người khác.
May mà có thằng Lại Thế Thiết cũng là dân Biệt Ðộng Quân đã móc hầu bao bù vào 40 đô. Như vậy tổng cộng số tiền mày nhận sẽ là 200 đô.
Tiện đây tao cũng cho mày hay, người mà mày thân thiết nhứt, kỳ vọng nhứt là thằng Nguyễn Lạn trước khi mày được ra trại, lúc nào gặp tao, nó cũng hỏi thăm mày. Nay tao nói mày đã về rồi thì nó làm lơ, không ý kiến. Mày cần gì ở nó, thì viết thư riêng cho nó, gửi tới địa chỉ của tao, tao trao lại.”
Lá thư của bạn tôi không đầy một trang giấy đánh máy.
Tôi đã giữ lá thư này từ ngày nhận nó, cho tới 25 năm sau thì nó bị thất lạc.
Tôi mãi mãi ghi trong lòng một món nợ mà tôi đã nhận từ những người bạn cùng binh chủng và cùng khóa Võ-Bị đã ra tay giúp đỡ tôi trong hoàn cảnh khốn cùng.
Trong thư hồi âm cho bạn Nguyễn Hữu Thọ tôi đã nhờ bạn Thọ liên lạc tới từng người mà tôi nêu tên để cho tôi gửi lời cám ơn.
Trên đời này, có những món nợ mà suốt đời mình không thể có dịp để trả; mình không thể làm gì hơn bằng cách nói hai tiếng “Cám ơn!”
Tôi đã không gửi thư cho người bạn thân nhứt của tôi là anh Biệt Ðộng Quân Nguyễn Lạn.
Tôi cũng quên không hỏi bạn Nguyễn Hữu Thọ rằng khi bà Hà nhận tiền bạn tôi trao, thì bà ta đã nhận lệ phí chuyển tiền chưa? Chuyện bà Hà giao cho tôi 160 đô la mà bắt tôi phải ký nhận 200 đô la trên biên lai thì có đúng giao kèo không?
Ðến ngày hẹn, tôi tới nhà máy tiện lấy cái bạc đạn rồi lên xe Lamb tới nhà anh Lê.
Sau khi anh Lê bồi hoàn số tiền mà tôi đã ứng trước trả công cho nhà máy tiện, tôi xin anh cho tôi mượn chiếc xe Honda hai bánh của anh để đem cái bạc đạn cho con rể của anh. Lợi dụng dịp này, tôi có thể ghé vào những thôn xóm dọc đường để mời chào khách cần cày ruộng.
Dùng Honda chỉ tốn ít lít xăng, không mất công đi xe khách, xe Lamb, qua đò, qua phà, mà mỗi bước, mỗi tốn kém.
Ði Honda tôi có dịp ngắm cảnh đẹp thiên nhiên bên đường, và được tận mắt chứng kiến cái hùng vĩ của con đập khổng lồ ngăn dòng chảy cuối nguồn của sông Da Dung.
Hôm ấy, sau khi qua đập Trị-An, trên đường tiến về Chiến Khu D, tôi chỉ thấy hai bên lộ, bạt ngàn rừng bạch đàn.
Những năm gần đây, người ta trồng bạch đàn làm gì mà đâu đâu cũng thấy loại cây này, nhìn thấy ngợp.
Tới Ngã Ba Lý Lịch, tôi rẽ vào khu xóm nhà bên tay phải rồi đi theo con đường đất đỏ rộng chừng bốn thước.
Leo hết dốc thì hai bên đường hiện ra những khu vườn chia từng ô. Hình như nơi đây là một vùng Kinh Tế Mới, nên nhà nào cũng có diện tích sàn sàn bằng nhau. Sau vườn là những bãi mì xanh mướt um tùm.
Chắc mẩm thế nào xứ này cũng có người cần cày máy, tôi chạy một lèo vừa đi vừa quan sát từ đầu xóm, tới cuối xóm.
Tới cuối xóm tôi trở đầu, rồi tắt máy, dẫn xe quay ngược trở lại.
Gặp người nào nghi là chủ nhà, chủ đất tôi đều hỏi,
– Thưa bác, thưa ông, thưa bà có cần cày máy giúp hay không?
Ðôi ba nhà vui vẻ trả lời, hỏi giá cả, hẹn ngày, đôi nhà không vồn vã.
Gặp một ông lão tươi cười chặn đường tôi lại,
– Anh bạn ơi! Ghé văn phòng xã, hỏi ông Bí Thư hay ông Chủ Tịch chắc có ruộng thuê cày. Ruộng của các ông ấy thì cò bay thẳng cánh, mùa nào cũng cần tới các anh đấy! – Xin bác chỉ đường nào thì tới văn phòng xã?
– Thì cứ theo hương lộ này mà ra. Cuối đường là Văn Phòng Ủy Ban Nhân Dân Xã nằm bên tay phải. – Cám ơn bác! Vậy là lúc đi vào, tôi đã đi qua đó!
Sau khi lễ phép chào từ giã bác nông dân, tôi cho nổ máy xe.
Văn phòng xã tìm không khó, nó nằm ngay nơi đầu dốc vào thôn.
Tôi hỏi một ông già đang ngồi bơm bánh xe đạp trước sân,
– Bác ơi! Bác làm ơn chỉ giùm tôi ai là ông chủ tịch xã hay bí thư xã! Tôi có việc cần gặp. – Anh chờ chút!
Người già dừng tay, chạy vào căn nhà tôn.
Sau đó ông quay ra, dẫn cái xe đạp bước đi,
– Có chuyện gì thì trình với ông ấy! Tôi phải về.
Một người đàn ông cao lớn, mặc quân phục kaki xanh, đầu đội cái nón cối cán bộ nhưng không mang phù hiệu, từ văn phòng xã bước ra,
– Anh cần gặp tôi có công chuyện gì? – Tôi là người đi cày thuê. Nghe nói nhà ông có nhiều ruộng lắm! Nếu ông cần cày máy vỡ đất hay xới đất thì cho tôi làm. Công vỡ đất mới khai quang là 12 nghìn một hecta, công xới đất ruộng cũ là 10 nghìn.
– Anh ở gần đây à? – Dạ tôi ở cách đây không xa lắm, chừng hai cây số.
– Sao tôi chưa gặp mặt anh lần nào? Quanh đây chỉ có hai anh lái cày thuê tôi đều nhẵn mặt. Mặt anh lạ hoắc! – Tôi mới tới thôn này, tôi làm thuê cho chủ.
– Chủ anh có máy cày hiệu “Hôn Dê” (John Deere) hay hiệu “Cu bò” (Kubota) – Dạ máy John Deere của Mỹ.
Nghe tôi trả lời, ông chủ tịch xã (hay bí thư xã) chợt ngẩn người, trố mắt,
– Thì ra anh là Bắc Năm Tư! (1954)
Anh ta ngạc nhiên cũng phải, vì cách phát âm Anh Ngữ của tôi khác với những người Việt-Nam thời đại mới.
Với tôi thì chuyện người ta lấy làm kỳ khi nghe tôi nói câu gì đó có chen tiếng Pháp, tiếng Anh cũng là việc thường xảy ra.
Tỷ như, trong những lần vào rừng Núi Voi, Ðức-Trọng để làm cây, làm gỗ, bạn rừng của tôi gọi cái máy cưa tay hiệu Brother là cái cưa “Bờ Rồ Te” trong khi đó tôi lại gọi nó với tên “Brơ dờ”
Những dị biệt nho nhỏ như thế đã khiến tôi thành mục tiêu cho các bạn tôi chê cười. Họ cứ kêu tôi là “anh chàng nhà quê” nói tiếng Anh, tiếng Tây dở ẹc!
Bất thình lình, người cán bộ Cộng-Sản vội vàng gỡ cái nón cối kẹp vào nách rồi nghiêng đầu nhìn chăm chú vào mặt tôi như đang quan sát một vật gì kỳ quái lắm.
Cũng vì chuyện anh ta gỡ cái nón ra mà tôi nhìn rõ mặt người đối diện.
Tôi thấy trên má y có một cái sẹo đen to bằng ngón tay cái nằm ngay dưới con mắt trái! Tôi giật mình, “Thằng Ðông!”
Thằng Ðông bây giờ to béo quá! Nếu không thấy cái sẹo trên má và nghe giọng nói quen quen của nó thì tôi đã không nhận ra!
Ngay khi ấy, người cán bộ Cộng-Sản cất tiếng la,
– Ðúng rồi! Ðúng rồi! Anh là Sơn! Trung úy Sơn!
Khi y há miệng, tôi thấy rõ hàm trên của y có ba bốn cái răng cửa bịt vàng.
Ngày xưa thằng Ðông có cái răng vàng nào đâu? Chắc bây giờ làm ăn khấm khá, nó mới trồng thêm mấy cái răng vàng để trang trí và khoe của.
Tôi chưa kịp phản ứng gì thì tên Việt-Cộng (Phan Ðông) đã hằn học tiếp,
– Anh không nhận ra tôi là người quen của anh ư? Tôi là người bị các anh đá gãy ba cái răng cửa đây! Phan Ðông đây! Từ ngày chia tay nhau trên Ðồng Nai Thượng, tới bây giờ mới gặp lại. Hai mươi năm qua, tôi thấy anh thay đổi quá rồi đó! Anh không còn oai như hồi xưa! À này! Anh có biết thằng trung tá mắt lồi ác ôn đang ở đâu không? Còn anh, anh là trung úy Ngụy! Chắc anh trốn học tập cải tạo, giả dạng thường dân rồi lên đây lái máy cày thuê phải không?
Thời 1968-1971 ở Biển Hồ Pleiku, những người cấp dưới không có cảm tình với Trung tá Bùi Văn Sâm thường gọi lén tên ông với hỗn danh “Ông trung tá mắt lồi” Những lúc ông trung tá này nóng giận, hai mắt ông ấy lồi ra, nhìn thấy sợ lắm.
Nghe thằng Ðông nhắc tên Trung tá Sâm, tôi nhớ ra ngay cảnh nó ngồi ôm cái miệng đầy máu trong suốt thời gian chờ trực thăng ngày ấy. Tôi vỡ lẽ, vì duyên cớ gì mà ngày nay miệng thằng Ðông lại đầy răng vàng.
– Tôi có …
Tôi chưa nói ra trọn câu: “Tôi có … đi học tập cải tạo mà!” thì cụt tiếng ngay, vì tôi vừa thấy ánh mắt Phan Ðông thoáng lộ vài tia sáng lấp lóe, gian trá, dị kỳ.
Ánh mắt này tôi đã thấy hiện trên mặt y vào lúc y cùng Binh 2 Lê Văn Hậu vừa leo lên sàn chiếc trực thăng UH1 D năm nào.
Phan Ðông bỗng đổi giọng, liến thoắng, vồn vã.
– Gặp lại anh tôi mừng hết biết! Nào! Anh Sơn! Vào văn phòng của tôi đánh chén một chầu cái đã! Xe của anh chắc cũng đáng năm cây vàng! Nhưng anh Sơn đừng lo! Anh cứ dẫn xe vào sân, đậu sát vách văn phòng của tôi! Không cần phải khóa cổ xe! Ở đây an toàn lắm.
Sau khi phát ngôn một tràng dài, chẳng ăn khớp gì với những lời y mới nói ra mấy giây đồng hồ trước đó, tên cán bộ xã xoay người đứng lui sang một bên giơ tay kéo rộng cánh cổng chờ tôi đẩy xe vào sân.
Thấy cử chỉ và giọng điệu bất thường của tên cán bộ Cộng-Sản này đáng sợ quá, tôi chưa biết phải làm gì thì vừa may, Phan Ðông bước dang ra xa.
Ngay lập tức, tôi vội vàng phóng lên yên xe, mũi chân trái nhún mạnh xuống mặt lộ, chiếc Honda lao xuống dốc.
Phan Ðông nhảy xổ ra đường, y giơ cao tay, chỉ một ngón về phía tôi, miệng hét,
– Trung úy Sơn! Ðứng lại ngay!
Tôi ngoái cổ hét trả,
– Tao là Thiếu tá! Tao là Thiếu tá!
Bàn chân tôi chỉ cần nhấn nhẹ một cái trên cần sang số là động cơ nổ liền, “Bình! Bình! Bình!”
Xuống tới chân dốc, tôi vặn hết tay ga, chiếc Honda phóng như bay trên con lộ đất đỏ. Mười phút sau tôi đã về tới nhà thằng con rể của anh Lê.
Sau khi để cái bạc đạn máy cày đã xoáy nòng lên bàn, tôi kéo tay thằng cháu ra góc vườn nói nhỏ với nó,
– Cậu phải rời đây ngay! Có người sẽ tìm giết cậu. Nếu có ai hỏi thăm cháu có người nào tên là Sơn tới giúp cháu lái máy cày không thì cháu cứ nói cách đây một tháng có một ông tên là Nguyễn Văn Hai, vừa mãn hạn tù cải tạo từ Sài-Gòn lên xin việc làm, nhưng cháu chưa chấp thuận. Ông ta đã về Sài-Gòn mấy tuần nay chưa trở lại. Cháu cũng không biết địa chỉ cư trú của ông ta ở đâu cả.
Ông chủ trẻ tuổi của tôi nghe chuyện xong thì mặt mày tái mét,
– Vậy cậu tránh xa nơi này càng nhanh càng tốt. Cháu sẽ làm theo lời cậu dặn, cậu đừng lo!
Không kịp quơ mấy bộ quần áo thợ cày còn phơi trong nhà bếp, tôi vội vàng thót lên yên xe.
Xế trưa hôm đó, con đường tôi về dài hơn con đường tôi ra đi buổi sáng.
Vì muốn tránh mặt oan gia, tôi đã phải đi vòng thêm bốn hay năm cây số về hướng Nam của Ngã Ba Lý Lịch.
Trời vẫn trong, mây vẫn bay, gió vẫn hiu hiu, bạch đàn vẫn rì rào. Nhưng tôi không còn tâm trí nào mà thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên nơi cuối sông được nữa.
Xe phóng qua mặt đập, rẽ vào con đường nhựa mà quân đội Ðại-Hàn xây dựng cách đây nhiều năm tôi mới bình tâm trở lại.
Nhớ chuyện vừa qua, hình dung ra bộ mặt hung dữ với những chiếc răng vàng sáng chói của thằng Ðông, tôi vừa tức cười, vừa giận trong bụng:
“Mẹ nó! Nếu ngày ấy mà tao không can ngăn, chắc ông Sâm đã đá bỏ mẹ mày rồi! Mày không những chỉ gãy ba cái răng cửa, có khi còn bể hết cả hàm trên lẫn hàm dưới, có khi còn vỡ mặt! Mày đã không biết ơn tao mà còn giận cá chém thớt! Mày đúng là cái đồ vô ơn!”
Tôi về tới Sài-Gòn thì trời đã xế chiều.
Sau khi trả xe cho anh Lê, tôi đã ngồi kể hết cho anh ấy biết nguyên nhân vì sao tôi không theo nghề lái máy cày nữa. Tôi cứ dặn đi, dặn lại anh Lê rằng, nhớ bảo thằng con rể của anh đừng cho ai biết tên thực của tôi, cứ nói tên tôi là Nguyễn Văn Hai, không biết địa chỉ cư trú ở chỗ nào!
Ít lâu sau ngày này, vợ chồng anh Lê ghé nhà mời tôi lên nhà anh để dự đám cưới đứa con gái thứ ba. Dịp này anh Lê cho tôi biết tin tức mà anh nghe được ở Trị-An:
“Vài ngày sau khi cậu Long rời Trị-An thì một ông cán bộ xã đã tới thuê John Deere cày hai hecta ruộng cũ. Ông cán bộ cứ hỏi dò anh chủ John Deere rằng nghe nói có một ông tên là Sơn người Bắc, đang làm thợ cày phụ với anh, ông Sơn bây giờ ở đâu? Thằng cháu đã cho ông ta biết tin ông Sơn mới được người nhà bảo lãnh đi Mỹ đoàn tụ rồi ! Thằng cháu còn nói thêm rằng hình như hôm đó ông cán bộ có lận súng ngắn trong lưng.”
Nghe xong, tôi hiểu chuyện liền. Người cán bộ Cộng-Sản kia đã không thuê Kubota với giá rẻ hơn, mà dám bỏ ra 4 nghìn đồng phụ trội để thuê John Deere, cũng chỉ vì anh ta muốn biết tin tức một người quen cũ có tên là “Trung úy Sơn”
Anh ta cẩn thận quá! Ban ngày ban mặt, đi trong địa phận mình cai trị để tìm người quen mà phải đem theo súng đạn.
Tôi chẳng ngạc nhiên chút nào, vì tôi biết, thời buổi ấy, nơi đồng rừng hiu quạnh, chuyện thủ tiêu một người không để lại dấu vết đâu có gì là khó khăn?
Thêm vào đó, nếu kẻ chủ mưu làm chuyện này mà là một chức sắc của chính quyền Cộng-Sản địa phương thì cho dù Bao Thanh Thiên có tái sinh cũng đành thúc thủ, không tài nào tìm ra thủ phạm!
Có điều số mệnh của mỗi sinh vật hiện diện trên cõi đời này đều do Trời định.
Dù tên cán bộ Cộng-Sản xã đã hăm hở lận súng sau lưng đi lùng sục khắp hang cùng, ngõ hẻm vùng xung quanh Ðập Thủy Ðiện Trị-An để tìm cho ra một người mang tên là “Trung úy Sơn” y cũng chỉ hoài công thôi.
Ngay cả trường hợp y cất công về Sài-Gòn, bỏ tiền ra mua chuộc nhân viên quản thủ hồ sơ cũ còn lưu trữ trong thư khố của Bộ Tổng Tham Mưu Việt-Nam Cộng-Hòa ngày xưa, rồi tìm tòi, truy cứu danh sách các quân nhân Biệt Ðộng Quân Việt-Nam Cộng-Hòa của Vùng 2 Chiến Thuật, thì y cũng không thể tìm thấy cái tên này.
Vì trên thực tế thì làm gì có ông Trung úy nào tên là Sơn ở Ðại Ðội 1/11 Biệt Ðộng Quân đâu?
Ngày xưa, trong thời gian tôi còn ở Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân, thuộc cấp của tôi hiếm khi gọi tôi với tên “Long”
Trong đơn vị, người dưới quyền tôi thường gọi tôi với các tên “Trung úy” “Thái Sơn” và “Ông thầy” tùy theo mức độ thân tình.
Có lẽ trong thời gian không đầy hai tháng trời ngắn ngủi hiện diện ở Ðại Ðội 1/11 anh chàng Phan Ðông chỉ nghe người khác gọi tôi là “Thái Sơn” nên anh ta tưởng tôi mang tên “Sơn” và mang họ “Thái” cũng nên?
Ngày ấy, sau khi bị một trận đòn đau, lại bị tống giam vào trại tù Phiến-Cộng, anh ta căm thù chúng tôi cũng đúng thôi!
Nhưng chẳng lẽ Trung úy Thái Sơn và những người Biệt Ðộng Quân khác của Ðại Ðội 1/11 phải dang tay “ôm hôn thắm thiết” hai tên “đồng chí” vừa từ mật khu trở về?
Chẳng lẽ những người trai Việt Miền Nam phải bỏ dở nghiệp bút nghiên, theo chân nhau tòng quân, đáp lời sông núi, ngày đêm lặn lội rừng sâu núi thẳm, bảo vệ quê hương phải vỗ tay hoan nghênh, đón chào những tên “ăn cơm Quốc-Gia, thờ ma Cộng-Sản” như anh học trò Phan Ðông của Trường Trung Học Biên-Hòa?
Sao anh ta không nghĩ lại, tự hỏi lòng anh ta rằng, anh ta mong muốn gì khi viết ba chữ S.O.S nơi đầu nguồn Ðồng Nai?
Chẳng lẽ anh ta viết ba chữ S.O.S rồi ngồi chờ máy bay trực thăng của Liên Xô sẽ đáp xuống đón anh ta?
Người Quốc-Gia luôn khoan dung độ lượng mở rộng vòng tay, nhưng với những kẻ phản bội nguy hiểm như Phan Ðông thì không thể có chỗ đứng trong một đất nước Tự Do.
Vì lòng nhân đạo, chúng tôi đã cứu vớt hai tên phản quốc, nhưng chúng tôi không thể tin dùng chúng được nữa.
Từ khi Phan Ðông đào ngũ, đi theo giặc, Phan Ðông và Thái Sơn, đã thành hai người ở hai chiến tuyến; trong đầu hai người là hai ý thức hệ đối nghịch nhau.
Thời gian như bóng câu…
Tôi ở Mỹ đã lâu lắm rồi, nhưng hàng ngày tôi vẫn theo dõi tình hình xảy ra trên quê hương cũ Việt-Nam.
Ðầu năm 2020, tôi đọc được những tin tức truyền rao tiếng kêu oan của những người thời xưa có công bao che, giấu giếm và nuôi dưỡng các chiến sĩ Cách-Mạng chống Mỹ, Ngụỵ.
Nay họ than khóc vì bị chính quyền Cộng-Sản tịch thu hết đất đai, ruộng vườn.
Từ ấy, tôi chợt nhớ lại chuyện đã xảy ra ở chốn đầu nguồn và ở cuối nguồn của một giòng sông.
Không biết giờ này anh cán bộ Phan Ðông có còn sinh sống trong vùng Kinh Tế Mới cuối nguồn Ðồng Nai không?
Ðịa danh Ðồng Nai và địa danh Ðồng Tâm có chung một chữ Ðồng.
Chắc anh cán bộ Phan Ðông đã nghe những lời kêu cứu thảm thiết của những đồng chí của anh ta đang bị nhà cầm quyền Cộng-Sản tịch thu ruộng đất ở Ðồng Tâm.
Chắc Phan Ðông đã biết rằng, những người Cộng-Sản ở xứ Ðồng Tâm có số tuổi đảng nhiều lần cao hơn, so với tuổi đảng của anh ta.
Tôi không rõ, khi những giòng chữ này được đưa lên net thì những hecta đất mà Phan Ðông đã được phép làm chủ sau năm 1975 đã bị nhà nước Cộng-Sản sung công chưa?
Tôi mong rằng Phan Ðông chưa vội nhắm mắt trước khi chứng kiến cảnh đổi đời tái diễn trên đất nước mình!
Vương Mộng Long Seattle, WA tháng 2 năm 2020
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 9, 2021 0:28:53 GMT 9
BÊN NGƯỠNG CỬA TỬ THẦN *** ***** *** Gần 46 năm, từ năm 1974, khi nhìn lại bức ảnh chụp đứng với cố Trung tá TQLC Hoa Kỳ Joey Strickland, bên bờ nam sông Thạch Hãn, Quảng Trị, cả một bầu trời kỷ niệm đầy bom đạn choáng ngợp đầu óc tôi. Lúc ấy, tôi mới lên 34 tuổi đời. Xin đừng nghĩ tôi muốn khoe trương. Bởi cấp bậc và chức vụ chỉ là phù du thôi. Tôi muốn nói đến chử tình huynh đệ mới còn tồn tại theo thời gian. Joey E. Strickland đã khuất bóng vào năm 2012 tại Honolulu, Hawai. Do bản tính ngang tàng và thẳng thắn nên tôi thường va chạm với những người Sĩ quan TQLC Hoa Kỳ chiến hữu. Joey là một trong hai người bạn đồng minh Hoa Kỳ đúng nghĩa của tôi. Tháng 8 năm 1972, khi đuợc đề cử theo học khóa Chỉ huy và Tham Mưu của TQLC Hoa Kỳ, tại Quantico, Virginia, tôi gặp Joey vốn là Trung tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trinh sát của Sư đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ. Với đầu tóc cắt ngắn gọn 2 phân và dáng dấp vừa tầm chắc nịch, Joey lúc nào cũng cởi mở và vồn vả khi gặp bất cứ ai. Lúc ấy, vào niên học 1972-73, Joey đã ly dị vợ nên ở trong khu cư xá độc thân. Tôi ở nhà thuê bên ngoài căn cứ. Trong lớp, vô tình tôi và Joey thường ngồi gần nhau. Khi thực tập về tham mưu cấp Sư đoàn, Joey luôn đề nghị tôi làm ban hành quân. Dần dần tình bạn nảy nở cho đến ngày mản khóa vào tháng 8 năm 1973. Vào tháng 7 năm ấy, tôi đuợc mời lên gặp vị Trung Tá, đặc trách các Sĩ quan du học ngoại quốc, cho biết tôi sẽ đuợc đưa đi theo chương trình OJT (Huấn luyện tại chổ) với Hạm đội 6 Hoa Kỳ ở Địa Trung Hải. Tôi nhất quyết từ chối dù vị này nói xa gần cho biết Mỹ sẽ rời bỏ Việt Nam và chấm dứt viện trợ . Tôi chấp nhận trở về chết ngay trên đất nước mình. Khi vào trình diện Bộ Tư Lệnh TQLC tại Sài Gòn, vô tình tôi gặp Tướng Lân, từ Ngoài Hương Điền, Huế, về phép, vào cuối tháng 8 năm 1973. Tôi đựơc lệnh tháp tùng Ngài trên chuyến bay Air Vietnam ra Huế. Ngài muốn giữ tôi lại làm Chánh văn phòng do tôi đã đuợc phân lọai 2, sau khi bị thương nặng ở trận Bình Giả. Tôi từ chối vì không thích làm tùy tùng. Qua tháng 9, tôi đuợc lệnh ra bàn giao Tiểu Đoàn 4 TQLC, đang trấn đóng ở chạm tuyến Chợ Cạn, Quảng Trị. Là người sinh truởng ở Đà Lạt, lần đầu tiên tôi nếm mùi lũ lụt của Miền Trung. Nước lũ từ Trường sơn tràn xuống nhanh không thể tưởng. Qua cơn nuớc lụt, tôi chấn chỉnh lại vị trí và chuyển đổi các Đại đội trên tuyến, qua những chuyến lội thăm đơn vị, như trở về mái nhà xưa. Nhưng tôi cũng nhận thức đuợc sẽ còn phải đối đầu với một trận đánh cuối cùng và ác liệt hơn do Việt Cộng không ngừng chuyển quân và vũ khí vào Nam ngày đêm, sau hiệp định ngưng chiến do Mỹ xếp đặt. Chợt vào một buổi sáng trời nắng ráo, tôi đuợc báo cho biết có người bạn sẽ đáp trực thăng lên thăm. Tôi không nghĩ ra là ai vì bạn cùng khóa Võ Bị của tôi bên Không quân bao giờ cũng lên mà báo trước. Khi chiếc trực thăng đáp xuống trên bải cát trống , gần Bộ Chỉ Huy, tôi thật bất ngờ và vui mừng khi nhận ra Joey trong bộ chiến phục TQLC Việt Nam. Joey nhảy vồ tới ôm chầm lấy tôi “Mầy khỏe không? Lâu quá không gặp.” Đám lính TQLC quanh vị trí chạy ra coi, chỉ chỏ. Tôi quay lại chỉ tay đưa Joey đi vòng thăm vị trí đóng quân của đơn vị và chỉ cho Joey thấy ngay tên bộ đội VC đứng gác bên kia không đầy 10 thước. Trung tá George E. Strickland cho biết đã tình nguyện sang làm Trưởng đoàn liên lạc của TQLC Hoa Kỳ, nguyên từ Phòng Trưởng Phái bộ Cố vấn TQLCHK giảm biên chế bên cơ quan DAO của Mỹ tại Sài Gòn. Chàng đã tức tốc ra thăm Sư Đoàn TQLC hành quân tại Quảng Trị và Huế. Sau khi thảo luận với Tướng Lân, Joey xin phép ra thăm tôi trên chiến tuyến. Joey cũng chân thật cho biết tình hình chính trị và quân sự của Hoa Kỳ. Chàng nhấn mạnh bằng mọi giá Hoa Kỳ sẽ rút ra khỏi Việt Nam để sẳn sàng đối phó với với tình hình Do thái bị vây ép ở Trung đông.Viện trợ quân sự sẽ bị cắt giảm ngay từ quốc hội Hoa Kỳ sau khi Tổng thống Nixon bị truất phế do vụ Watergate. “Tao sẽ liên lạc chặt chẻ với mày vì mày là người bạn quý của tao” Joey nhắc đi nhắc lại. Joey cho biết qua dư luận các cưụ Cố vấn Mỹ tôi đuợc xếp vào sổ đen vì khi làm Chỉ huy trưởng Căn cứ Sóng thần đã đuổi một cố vấn về lại Bộ chỉ huy Cố vấn Hoa Kỳ vì đã chưởi thề với tôi khi đuợc giao việc. Tôi chỉ vổ vai, tươi cười nói với Joey :” Tao sẽ sống chết với đồng đội và chiến hữu. Con người sống chết có số cả. Tao biết rỏ điều đó và nhất quyết không để ai khinh miệt mình.” Rồi tôi lấy xe chở Joey vòng ra thành phố Quảng Trị thăm cảnh hoang tàn đổ nát và Cổ thành Quảng Trị với thống kê một thườc đất là một mạng người nằm xuống, khi TQLC tái chiếm Quảng Trị vào ngày 15 tháng 9 năm 1972. Tôi và Joey đứng bên nhau chụp bức hình kỹ niệm. Sau những tháng ngày chiến trận khốc liệt và Miền Nam rơi vào tay Cộng sản, tôi không biết gì vế bức hình cho tới ngày gặp lại Joey ở Virginia , sau hơn 10 năm, khi tôi vượt biên qua Mỹ vào tháng 6 năm 1984. Sau ngày ấy, Joey trở về Sài Gòn nhưng bằng mọi cách tìm cách gặp tôi, ngay trên vị trí đóng quân như tại căn cứ Barbara, bên phía Tây sông Mỹ Chánh, đồi An lỗ phía Bắc Huế. Giữa năm 1974, trong kế hoạch luân chuyển dưởng quân và tái bố trí, Tiểu đoàn 4 TQLC đuợc bay về Sài Gòn và di chuyển về hậu cứ ở Vũng Tàu. Joey đã nhanh nhẩu đi xe xuống thăm với đơn vị. Lần này, Joey cho biết chắc chắn Mỹ sẽ bỏ rơi Miền Nam và cắt đứt hết viện trợ. “Mày lo thu xếp đi.Tao sẽ giúp mày rời khỏi Việt Nam với vợ con.” Tôi chỉ cười ngu ngơ, vổ vai bạn nói “Mày yên chí. Tao sẽ liên lạc với mày khi cần”. Rồi đơn vị tôi trở ra hành quân ngoài Quảng trị. Tình hình biến chuyển sôi động sau ngày Tết năm 1975. Ban Mê Thuột rơi vào tay CS. Những trận đánh ác liệt xảy ra ở Thường Đức. Vào đầu tháng 3 năm 1975, Joey Strickland đuợc lệnh bàn giao cho một Trung tá TQLC Hoa Kỳ, về trình diện Bộ Tư Lệnh TQLC Hoa Kỳ tại Hoa Thịnh Đốn. Lúc ấy, đơn vị tôi đang đuơng đầu với đại quân CS từ Miền Bắc vào. Tôi nhận đuợc tin và lời nhắn của Joey cho biết khi nào có thể nên đến ngay cơ quan DAO tiếp xúc. Tôi không còn đầu óc đâu nghĩ đến chuyến ấy. Cuộc di tản chiến thuật thảm khốc đã gây ra cho tôi nổi niềm đau đớn và uất hận tận cùng, khi những người bạn thân cùng khóa Võ Bị của tôi biệt tích, là Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Lữ Đoàn Trưởng LĐ369 TQLC và Trung Tá Đỗ Hữu Tùng, Lữ Đoàn Phó, với nhiều đàn em thân thiết như Nguyễn Tri Nam, Tô Thanh Chiệu… từng sống chết bên nhau ngoài chiến trận. Ngày tên Dương Văn Minh khêu gọi buông súng tôi còn nguyên đơn vị đang di chuyển về Căn cứ Sóng Thần ở Thủ Đức, với bao nhiêu đàn em thuộc cấp dưới quyền. Tôi không rời bỏ đơn vị dù thấy chết trước mắt. Tôi luôn luôn nhớ mình là một SQ hiện dịch xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tại Đà Lạt. Rồi, tôi cố sống và chịu đựng khổ ải qua các Trại Tù Cải Tạo từ Nam ra Bắc. Đến tháng 3 năm 1984, đuợc thả về nhờ gia đình chạy chọt, tôi vượt biên sang Indonesia vào tháng 6 năm 1984. Vài tháng sau, nhân dịp tham dự cuộc phỏng vấn với Gia Đình Tù Nhân Chính Trị của bà Khúc Minh Thơ, với chương trình 20/20 của hệ thống ABC, tôi đã nói về những năm tù đày gian khổ và chuyến vượt biên nguy hiểm. Tôi có nhắc đến Trung Tá TQLC Hoa Kỳ Joey Strickland. Sau đó vào tháng 3 năm 1985, chương trình 20/20 đã tiếp xúc cho biết sẽ cho tôi gặp lại Joey tại Tư gia. Phần này nằm trong chương trình phỏng vấn các cựu tù nhân cải tạo lên án chế độ tù đày khắc nghiệt của VC, để vận động chính phủ Hoa Kỳ, dưới thời Ronald Reagan, can thiệp cho các cựu quân nhân và công chức của Việt Nam Cộng Hoà sớm đuợc giải thoát. Từ Hawai, Joey đuợc sắp xếp bay qua Hoa Thịnh Đốn với bộ chiến phục TQLC Việt Nam trên tay và chiếc mủ Bê rê xanh để tặng cho tôi. Cả hai chúng tôi không tránh đuợc xúc động khi gặp lại nhau sau một cuộc bể dâu trầm ải. Từ đó Joey và tôi cố giữ liên lạc với nhau khi tôi may mắn đuợc người bạn chiến hữu cũ giới thiệu vào làm việc cho xưởng in của nhật báo The Washington Post ở Springfield , Virginia, Dần dần, tôi đuợc biết thêm về Joey. Ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trung Tá Joey Strickland, còn ở Bộ Tư Lệnh TQLC Hoa Kỳ, đã nổi cơn thịnh nộ và lồng lộn trước các SQ cao cấp của TQLC Hoa Kỳ , kể cả vị ĐạI Tướng Tư Lệnh tại sao bỏ rơi Miền Nam khi Hoa Kỳ đã bị tổn thất gần 58 ngàn quân để chống CS. Do thái độ quyết liệt , không chịu bỏ qua ấy, Trung Tá George E. Strickland đã bị cho giải ngũ với nguyên cấp bậc đã mang từ năm 1972 và từng công tác tại Việt Nam từ năm 1973 đến 1975. Đáng lẻ, Joey phải đuợc thăng cấp Đại Tá sau khi về nước. Nhưng Joey chỉ bênh lẻ phải và tận tình với chiến hữu Đồng Minh. Bản thân tôi cũng không làm cho Joey xấu hổ. Tác giả: Mũ xanh Thiếu Tá Trần Ngọc Toàn, TĐT. Tiểu Đoàn 4 Kình Ngư. TQLC, xuất thân khóa 16 VBQG Đà Lạt.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 5, 2022 20:53:49 GMT 9
Hồi Ký Của Một Bác Sĩ Một bác-sĩ “cách-mạng” từ Bắc vào, hăm-hở đến tiếp-thu bệnh-viện Vĩnh-long sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã thốt ra câu nói đầu tiên với chúng tôi : "Các anh là kẽ thù của nhân-dân, đáng tội chết..." Tuy mới mấy ngày sau khi "giải-phóng" nhưng tai chúng tôi cũng đã quen với câu nói đó, chỉ có khác là lần này được phát ra từ miệng một bác-sĩ mà chúng tôi chờ đợi để hy-vọng thấy được một nụ cười hay một chút thông-cảm trong tình đồng-nghiệp. Chẳng khác gì những cán-bộ khác, bác-sĩ cũng tuông ra câu học thuộc lòng: "Nhưng Đảng và Nhà-nước khoan-hồng tha tội chết cho các anh..." May thay, chúng tôi được tha tội chết, nhưng thay vào đó, phải lảnh cái án "dở sống dở chết " kéo dài năm này qua năm nọ trong các nhà tù, nhường sự-nghiệp lại cho các đồng-nghiệp mới, huênh-hoang trong cái độc-quyền nhân-đạo với các bảng hiệu « Lương Y như Từ-mẫu » treo nhan nhản khắp xó xỉnh trong bệnh-viện. Có lẽ Cụ Hippocrate ở dưới suối vàng cũng không khỏi phẫn-nộ khi các môn-đệ ở Miền Bắc không chịu học lời thề Cụ dạy trước khi ra trường: "Tôi thề sẽ giúp đở các đồng- nghiệp và gia-đình họ trong cơn ngặt nghèo, tôi sẽ mất hết danh-dự và bị khinh-bỉ nếu tôi không giữ lời thề đó". Trước mặt thì đồng-nghiệp gọi chúng tôi bằng "anh", nhưng quay lưng lại là "thằng", là "chúng nó" ngay, không hiểu là vì thói quen, vì văn-hóa, vì mặc-cảm hay vì chính-sách. Ngày đầu tiên mới đặt chân lên đất Bắc trên con đường lưu đày, khi mà tầm mắt đang còn ngỡ-ngàng với rừng sâu núi thẳm, khi mà thể xác và tinh-thần chưa lai tỉnh qua cuộc hành trình định-mệnh kinh-hoàng, thì chúng tôi được đón tiếp vồn-vã bởi một đồng-nghiệp. Vồn-vã không phải để thăm hỏi sức khỏe hoặc để an-ủi một lời nào, mà để tịch-thu thuốc men và dung cụ y-khoa mà chúng tôi mang theo, nhất là để tò mò tìm hiểu những điều mới lạ trong cuộc sống "phồn-vinh giã-tạo" ở trong Nam. Câu nói đầu tiên và gần như là câu chào hỏi ở cửa miệng mỗi khi gặp nhau: "Anh ăn mấy lạng ?" (gạo mỗi ngày), làm chúng tôi bở ngở không biết đâu mà trả lời. Thì ra cái quan-tâm hàng đầu của nền y-khoa miền Bắc là cái bao-tử, và xã-hội được chia ra làm nhiều loại bao-tử khác nhau tùy theo đẳng-cấp và sự trung-thành với Đảng: 120 lạng ,150 lạng, 170 lạng.... cái hàn-thử-biểu để đo vị-trí mình trong xã-hội. Kế đó là thắc mắc về những phần thịt đươc bồi-dưỡng trong những ngày lể, ngày Tết… Thấy chúng tôi không ở cùng một tần-số trong cái hội-chứng đường ruột đó, bác-sĩ bèn lên mặt chỉ-đạo: "Chớ có trốn trại nghe, không thoát đâu ". Quả-nhiên lời khuyên có chấp-chứa ít nhiều tình thật đó lại là không sai. Chỉ có vài ngày sau khi đặt chân đến cái nơi núi rừng chằng chịt mang tên Sơn La đó, khi chưa xác định được vị-trí trong cái bản-đồ mênh-mông của miền Thượng-du Bắc Việt, thì một số anh em đã lần lượt trốn trại rồi lần lượt bị bắt lại để gánh chịu những hình phạt ghê gớm đang chờ sẵn. Trong số đó phải kể đến hai đồng-nghiệp, một Thiếu-tá Y-sĩ- trưởng Trung-tâm Hồi-lực ở Sài-gòn và một Y-sĩ Đại-úy Thủy-quân Lục-chiến, đã thoát khỏi lao tù vì đã trốn qua "bên kia thế -giới" sau khi không thành-công trong cuộc tổ-chức trốn qua "bên kia biên-giới". Sau một thời gian xáo trộn, chúng tôi gồm có 8 bác-sĩ, 1 nha-sĩ, 2 dược-sĩ được tập-trung lại để thành-lập một "trạm-xá " có nhiệm-vu săn sóc sức khỏe cho anh em tù trong vùng. Bằng những phương-tiện của thời-đại đồ...tre, với kỹ thuật từ thời Hoa-đà, chúng tôi cũng được an-ủi bằng một số thành-công trong nhiệm-vụ chửa trị, và đã lưu lại cho chúng tôi nhiều kỹ niệm khó quên. Anh T. bị bệnh phung cùi, bọn cai tù ghê sợ, biệt giam trong một cái chòi giữa rừng, thường ngày chúng tôi đến thăm viếng, theo dỏi bệnh tình, chia nhau từng củ sắn củ khoai, khích lệ cho nhau cho đến ngày về. Anh H. bị mất trí vì trúng độc khi ăn phải trái cây rừng, suốt ngày la hét, phải cách ly trong một túp lều ở giữa rừng, chúng tôi chia phiên nhau túc trực ngày đêm bên cạnh để canh chừng, nhưng cuối cùng anh cũng qua đời. Phải kể đến những trường hợp giải-phẩu theo kiểu...rừng, với tất cả liều lỉnh rủi may. Trang-bị bằng một bộ trung-phẩu dã-chiến của Trung quốc và một lò hấp ướt (autoclave), với mấy bình ê-te (ether) và cái masque Ombredane là dụng cụ đánh thuốc mê hở (circuit ouvert) cổ lổ sĩ dùng trước thế chiến 1914-1918. Trong những "bloc" được ngăn cách bởi những tấm phên tre và tấm vải mùng, muổi mòng tha hồ bay lượn, dưới ngọn đèn dầu và đèn pin, mà nhờ trời chúng tôi cũng thành-công được trong nhiều trường hợp, những chấn-thương vì tai-nạn lao-động, hay trường hợp anh N. bị tắc nghẻn ruột, phải giải-phẩu để tái tạo một hậu-môn tạm thời, phải theo dỏi và săn sóc từ A đến Z trong nhiều tháng với sự tận-tình của mọi người nên kết quả rất khả-quan, vân vân và vân vân. Chúng tôi đã đóng tất cả các vai trò trong việc điều trị, từ lao-công, y-tá, phụ mổ, gây mê, cầm dao, rồi hậu-phẩu, vệ-sinh, giặt giủ v...v...bù lại khỏi phải đi lao-động đốn vầu, đốn nứa, đẩy xe trong những lúc đó. Một sự tình cờ khiến chúng tôi phải giải-phẩu cấp cứu thành-công cho một tên cán bộ bị viêm ruột thừa cấp-tính mà không biết chở đi đâu. Mấy tháng sau, nhân dịp Tết Nguyên-đán 1978, có mấy cán-bộ trong ban chỉ-huy trại đến cám ơn chúng tôi, và tưởng-thưởng bằng một tấm hình chụp chung mấy anh em chuyên-môn trong bệnh-xá, một kỹ-niệm độc nhất vô nhị của những ngày tù ở Sơn La. Tiếng đồn lên tới Bộ chỉ huy Đoàn. Một số cán-bộ có thiện tâm muốn mở tầm hoạt động của chúng tôi cho dân chúng trong vùng Mường Thải, huyện Phù-yên, nơi mà xưa nay dân chúng chưa hề thấy đươc cục xà bông chớ đùng nói chi đến viên thuốc tây. Thế rồi dân chúng đến xin chửa trị mỗi ngày một đông, tuy thuốc men chẳng có gì nhiều nhưng cũng giúp ích được một số lớn trường hợp và ít ra cũng giúp họ làm quen với y-khoa ngày nay thay vì phải uống lá rừng suốt đời. Khi đặt ống nghe vào ngực, có người đã huênh-hoang khoe rằng là được... rọi điện. Đông nhất là phần chửa răng. Ngậm một cái răng sâu năm này qua tháng nọ như một cái đinh đóng vào óc, nay được nha-sĩ nhẹ nhàng xoi xỉa với một cái máy quay đạp bằng chân, hoặc nhổ đi mà không đau đớn gì, thật là một điều mà dân Mường ở đó không bao giờ mơ tới. Một đêm nọ, đang lúc giữa khuya, một cán bộ VC cầm cây đèn bảo xăm xăm bước vào phòng giam chúng tôi, bảo rằng một người đàn bà trong bảng Mường đang nguy kịch vì đẻ không ra đã hai ngày nay. Anh Thức, chuyên môn về phụ-khoa được cử đi cấp-cứu. Trong môt gian nhà sàn rộng rải không có vách ngăn, ở giữa là cái bếp lửa cháy suốt ngày đêm, dăm ba người đàn ông ngồi quanh nói chuyện ồn ào tỏ vẻ lo lắng, ở trong góc một người đàn bà đang quằn quại rên la một cách tuyệt-vọng. Trong khi mọi người bu quanh chăm chú và nghiêm-nghị nhìn anh Thức khám bệnh như nhìn một phù thủy đang làm phép, anh Thức bình tỉnh khám thấy rằng đó là một trường hợp song thai, hai đứa bé ôm quàng lấy nhau mà lại nằm ngang, không đẻ ra bằng đường tự-nhiên được. Phải chở đi bệnh-viện để mổ lấy con ra, nhưng anh Thức quên rằng chuyện đó không thể có được ở đây. Không làm gì hơn được, anh bèn tạm thời dẹp sách vở qua một bên mà cố gắng xoay một đứa cho cái đầu ở vị trí thuận-lợi để ra trước, rồi đến đứa kia, cuối cùng được mẹ tròn con vuông, trong sự rối rít cám ơn của mọi người mà trước đó đã được học tập để coi chúng tôi như những kẽ ác ôn, lúc nào cũng sẳn sàng "cho một mũi tên độc". Từ đó các cô gái Mường trong bản cũng tự -nhiên hơn, cưới đùa mỗi khi tắm suối mà có chúng tôi đi lao động ngang qua, có khi còn chọc ghẹo nửa. Có anh trong phút chốc bốc đồng đã quên mình là tù đang đói rách, cũng gồng mình nhảy xuống tắm theo, chỉ tiếc là không có sẵn cục xà bông để tặng mấy cô Mường, lúc đó hẳn là muôn phần quý giá hơn cả viên kim cương đem tặng đào ở Sài–gòn nửa. Về sau mỗi cô gái Mường lại đươc đặt cho cái tên của một ca sĩ nổi tiếng, nào là Mai-Lệ-Huyền, Phương-Dung, Giao-linh, Phương-Hồng-Quế v…v…, để rồi lúc chiều về, trong khi ngậm-ngùi nhai từng hột bo bo, thường kể cho nhau nghe rằng hôm nay đi rừng gặp được ca-sĩ nào, ai nghe tưởng như mới đi phòng trà về mà tạm quên trong giây lát cái cảnh nước sông công tù mình đang sống. Một hôm, một cô giáo hớt ha hớt hãi tìm tới chúng tôi, vì chồng cô, một bộ đội công-tác ở trong Nam được về nghỉ phép, bổng nhiên thấy mình mẩy nổi mề-đay lên đỏ rần, ngứa khắp cả người. Chúng tôi đoán là bị dị-ứng với trứng gà, vì thường ngày đi lao-động ngang qua trường học, thấy cô giáo cứ o bế mấy con gà để chờ ngày chàng về mà bồi-dưởng. Chúng tôi bèn lục lạo đươc mấy viên thuốc Phénergan đưa hết cho cô. Mấy hôm sau đi lao-động gặp lại, chúng tôi hỏi : "Sao ? Anh nhà đã đở chưa ?" Cô vui vẻ trả lời : "Thuốc các anh cho hay quá, khỏi ngay". Chưa kịp hỏi thêm thì bổng thấy cô cúi mặt e thẹn, ấp úng nói thêm như không muốn cho chúng tôi nghe: " Nhưng ngủ li bì, về phép có năm ngày mà ngủ như chết suốt cả năm ngày" .Chúng tôi hối hận vì đã cho thuốc ngủ mà không dặn trước, làm cho cô phải bỏ lở một cơ-hội bằng vàng ! Thế rồi trạm-xá càng ngày càng đông khách, dân chúng từ xa cũng nghe đồn kéo lại để cho trạm-xá được hoạt-động đúng với danh-nghĩa y tế của nó. Thiện-cảm và uy -tín càng tăng thì, ngược đời thay, cấp chỉ-huy Trại càng lo lắng. Cuối cùng, Uỷ-viên Chính-trị trên Đoàn lập tức ra lệnh không được khám bệnh cho dân nửa, vì trái với chính-sách, và ný-nuận rằng từ mấy ngàn năm nay họ đã chửa trị bằng lá rừng thì đã sao đâu ! Chúng tôi trở lại lao-động, cũng đốn vầu đốn nứa như những anh khác. Phải cái tội cao giò, tôi thường được chọn đi công tác gánh hàng ở xa, để gánh luôn tất cả tủi nhục của kiếp làm… tôi mọi. Buổi sáng ra đi thì còn dể chịu, trời mát, gánh nhẹ. Nhưng buổi trưa lúc trở về, trời nắng gắt miền núi như đốt cháy da, lại phải leo đèo, mồ hôi chảy giọt, bụng đói cồn cào, cái đầu nặng trỉu, chiếc đòn gánh đè nặng trên vai đang nghiền nát da thịt như những con dao. Người cán-bộ đi theo cũng không quên máng thêm vào chiếc nón cối, cái áo trấn-thủ mà hồi sáng mang trong người vì trời lạnh, nay không cần nửa thì tội gì mà không để cho rảnh tay, vì tay đang bận cầm cây roi, một thứ thời trang của cán-bộ quản-giáo khi đi bên cạnh tù. Đã thế mà khi gặp một bạn đồng-hành, cán-bộ cũng không quên niềm-nỡ mời :"Đồng-chí có mang gì không, đưa cho nó gánh luôn". Tôi nghe mà rụng-rời, mắt hoa lên mà không dám nhắm lại vì sợ ngả sẽ không bao giờ dậy lại được, cũng không dám nhìn xa hơn mấy đầu ngón chân vì sợ không đủ can-đảm để bước thêm... Một hôm vì nhu-cầu cấp-cứu một bệnh-nhân tù đang nguy kịch, tôi được cử theo một cán-bộ đến bệnh-viện Phù-yên để xin mấy chai nước biển. Đã lâu bị giam hãm giữa bốn bức tường núi, nay được dịp thấy lại làng mạc với cảnh sinh-hoạt của nhân-dân, lòng cũng không khỏi thích-thú vì tầm mắt đươc hé rộng ra một chút và thỏa -mãn thêm tánh tò mò nghề-nghiệp muốn biết tổ-chức y-tế miền Bắc ra sao mà các "đồng-nghiệp " đề cao như là đúng hàng đầu trên thế-giới. Huyện Phù-yên thuộc tỉnh Sơn La, nằm giữa một thung-lũng nhỏ, bốn bề là núi nhưng rất nên thơ. Từ trại tới huyện phải đi qua ngọn đèo Bang xinh xinh, có con đường mòn uốn quanh, có hoa rừng thơm ngát. Từ trên nhìn xuống gần giống như một bức tranh Tàu, mờ mờ ảo ảo., rải rát nơi nơi là nhũng túp lều lụp xụp bám theo sườn núi.. Bước vào huyện phải qua một con suối lớn, mùa khô thì chỉ là một suối đá hiền-hòa thơ-mộng, nhưng khi mưa xuống thì trở nên một thác lũ kinh-hoàng. Bắt ngang qua suối là một cây cầu treo, gió thổỉ đu đưa, mà lại được anh em tù gán cho cái tên rất hấp-dẩn để cho trí tưởng-tượng được nâng cao là cầu Golden Gate. Mỗi khi gánh hàng qua Golden Gate, tôi có cảm-tưởng như mình đang là một nghệ-sĩ đu giây trong một đoàn xiệc mà có thể hụt tay bất cứ lúc nào.. Bên kia cầu là một túp lều không vách, gió lộng bốn phía, đó là trường học với dăm bảy em bé ốm tong teo, bụng ỏng thề lề, mỗi đứa cầm một que củi đang cháy quơ qua quơ lại trước người cho đở lạnh trong những bộ áo Mường mỏng manh. Trong khi các em nghêu ngao hát bài "Hôm qua em mơ thấy Bác Hồ...." thì cô giáo đang chăm chú ngồi vá áo, mắt đăm chiêu, hình như cũng đang mơ thấy những chuyện mà dĩ-nhiên khác hơn là thấy Bác Hồ. Hình ảnh đó làm cho tôi có cảm tưởng rằng Cụ Cao-Bá-Quát đã đi ngang qua đây để cảm-hứng mấy câu thơ:"Một thầy một cô một chó cái, Nửa người nửa ngợm nửa đười ươi." Bên cạnh trường là một cái "cối giả gạo" có lẽ đã được sáng chế từ đời vua Thần Nông. Nước từ con suối nhỏ đươc dẩn qua một máng xối đục từ một thân cây, chảy xuống một thân cây dài khác, một đầu là cái chày, đầu kia đục thành một máng chứa nước. Hể máng đầy nước thì cái chày tự -động ngóc lên, rồi nước bị đổ ra ngoài để cho chày giả xuống cái cối ở đằng trước. Cứ thế mà tiếp-tục, cối cứ giả ngày giả đêm, tạo nên một tiếng đập nhịp nhàng khô khan để đánh thức cô giáo và lủ học trò khỏi ngủ gật.. Năm thì mười họa, một năm vài lần cối mới có gạo để giả, vì dân phải đóng cho nhà nước hết ba phần tư số thu hoạch, vốn đã nghèo nàn trên những mãnh ruộng bằng bàn tay xếp thành từng tầng trên sườn núi. Khi đến cổng bệnh-viện, tôi được chứng-kiến một cảnh tấp-nập khác thường, nghỉ bụng rằng chương-trình y-tế ở đây đã thành-công vì được dân-chúng hưởng-ứng đông đảo. Mọi người bu quanh một tấm bảng, hình như để theo dỏi một thông-báo gì quan-trọng của bệnh-viện về một biện-pháp y-tế nào đó chăng. Lại gần, tôi thấy rõ thông-báo như sau "Hôm nay bệnh-viện có mổ lợn, bán theo giá chính-thức. Đồng-bào nào muốn mua xin ghi tên ở phòng ngoại-chẩn". Tôi suýt té ngửa vì sau bao nhiêu năm hoạt động trong ngành y- tế tôi vẫn chưa biết được rằng cung-cấp thực-phẩm cho dân chúng cũng là một khía cạnh trong chương-trình y-tế. Trái với cảnh xôn-xao ngoài cổng, trong bệnh viện lại vắng tanh. Tìm cho ra người thủ-kho để xin thuốc thì được biết cô gái Mường này bận đi hái bông lau về làm nệm để tặng một cô bạn gái sắp về nhà chồng, một tục-lệ không thể bỏ được của người Mường. Lân la mãi mới gặp được bác-sĩ trực, vị này không mấy niềm-nỡ vì đang bận cải-hoạt (có nghĩa là cải-tiến sinh-hoạt để cho đời sống vui tươi hơn) bằng cách ngốn nghiến mấy củ khoai. Bác-sĩ trực cho biết "Chỉ có bác-sĩ thủ-trưởng mới có quyền quyết-định, nhưng bác-sĩ đang bận mổ." Tôi thất-vọng chán chường, nghỉ đến bệnh-nhân ở trại đang hấp-hối mong chờ mấy giọt nước hồi-sinh, nghỉ đến con đường về vừa nắng gắt vừa phải leo giốc, nghỉ đến cái dạ-dày đang cồn-cào vì sáng nay không may đọc được mấy chữ "thịt lợn" trên bảng thông-cáo mà nước bọt cứ chảy dài (chẳng lẽ tôi lại biến thành con chó của Pavlov, hể nghe tiếng chuông là dịch tiêu -hóa cứ tuôn chảy, rồi hay sao?) Tôi buồn rầu thất vọng, không biết bao giờ bác-sĩ trưởng mới mổ xong, vã lại áo quần lem-luốc thế này làm sao gặp được bác-sĩ ở khu giải -phẩu. Tôi đánh bạo tìm đến bác-sĩ trực hỏi : "Thế tôi có thể gặp bác-sĩ thủ -trưởng được không ?" Lần này vị y-sĩ trực vui vẻ trả lời (vì đã ngốn xong mấy củ khoai): " Được chứ, có gì đâu, anh ấy đang bận mổ lợn dưới ao đấy mà". Tôi như từ cung trăng rơi xuống ! Quả nhiên, cách đó không xa, cạnh bờ ao, năm ba người đang bao quanh một con lợn đã cạo lông trắng nõn nằm trên một tấm thớt lớn. Trong khi đó, bác-sĩ thủ-trưởng bệnh-viện, mình trần, quần xắn tới bẹn, áo bờ-lu vắt ở hàng rào, đang nhanh nhẹn ra tay mổ bộ đồ lòng với tất cả sự nhanh nhẹn và khéo léo của một...đại giải -phẩu gia. Lẽ tất nhiên tôi phải chờ cho ông bạn đồng-nghiệp thanh toán xong con lợn để giải -quyết cho mấy chai nước biển rồi mới hân-hoan ra về. Ra tới cổng, tôi gặp lại đám dân-chúng cũng đang hân hoan thở phào nhẹ nhõm như tôi khi được tin bác-sĩ đã mổ xong.... lợn. Trên đường về, lần này chiếc đòn gánh đè nặng lên vai không còn cho tôi cảm-giác đau đớn như trước nửa, vì đầu óc tôi đang bị ám-ảnh bởi một ý-tưởng muôn phần nặng-nề hơn, vì tôi đã nhìn thấy được sự thật, đã chứng-kiến tận mắt một hiện-tượng sinh-hoạt phản-ảnh lối sống của những "đồng-nghiêp" bên kia bức màn tư-tưởng. Phương-vũ VÕ Tam-Anh.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 10, 2022 3:14:41 GMT 9
Liên Trà · BẢN ÁN TỬ HÌNHLời gt của Bạch Cúc: "Đây là câu chuyện có thật 100% và nhân vật chính vẫn còn sống bên Mỹ. Tôi không thể hình dung được có một cuộc đời khổ nhục, cay đắng, đau đớn và đọa đày đến như vậy?! Câu chuyện là bức tranh tả thực tàn khốc đến từng chi tiết về những mảnh đời "khốn khổ khốn nạn" của những gia đình quân nhân VNCH sau biến cố 1975. Đừng hỏi tại sao sau gần 50 năm nhưng người ta vẫn không thể quên, không thể "hòa hợp hòa giải" hay nguôi bớt thù hận... Bởi làm sao có thể hóa giải được cho hết những đau thương trên mức chịu đựng của một con người, ắt hẳn đó là một kiếp sống đọa đày giữa địa ngục trần gian!... Câu chuyện rất dài, bạn hãy đọc thật chậm, đọc từng đoạn khi có thời gian nhưng hãy cố mà đọc cho hết. Để làm gì? Để khi có một ai đó cắc cớ tranh luận với bạn về các từ "Cộng Sản, Giải phóng miền Nam, Cải tạo..." thì bạn đừng phí lời tranh luận, cứ đưa cho họ đọc là đủ. Hoặc khi con bạn đủ lớn, đủ để nhận thức và để giúp con bạn hiểu về một thời kỳ đen tối của đất nước thì hãy cho con bạn đọc câu chuyện này. Tự khắc nó sẽ hiểu được đất nước này, dân tộc này đã bất hạnh đến mức độ nào và tự biết phải làm gì để có sự đổi thay...Cảm ơn bạn!"---- Mắt tôi mờ đi, tờ giấy nhòe ra. Hàng chữ run lên, uốn éo như con rắn độc. Nó phóng tới, mổ vào giữa tim tôi. “Xử phạt: Trần Văn Bé - Tử hình.” Giọng nói run rẩy của tôi vang lên như âm thanh từ một cơn ác mộng, “Má nhận tin này hồi nào?” Mẹ chồng tôi còn mếu máo thì cô em chồng nghẹn ngào đỡ lời, “Từ tháng Năm, nhưng Má chưa dám nói với chị…” Mẹ chồng tôi chùi nước mắt, phân trần, “Má tính đi kiếm cho ra mộ chồng con rồi mới nói cho con biết. Bởi vậy, hổm rày con đòi đi kiếm chồng, Má biểu để Má kiếm cho. Má sợ con chịu không nổi khi đối mặt với tụi công an… Con ơi, bữa đưa tin tụi nó làm dữ lắm! Công an phường, công an quận, công an thành phố kéo lại cả bầy. Tụi nó đưa ra tờ giấy này ra, biểu Má ký nhận. Lúc đầu Má không chịu ký, vì Má nghĩ ký nghĩa là chấp nhận rằng thằng Hai đáng bị xử tử. Tụi nó hăm dọa Má, nhắc tới thằng Ba còn đang bị tù ngoài Bắc. Má sợ tụi nó đem thằng Ba ra bắn luôn nên phải cắn răng ký tên lãnh án tử hình của con mình. Má đứt từng khúc ruột, con ơi…” Mẹ chồng tôi nghẹn lời, bà khóc nức nở. ** Thế là hết! Anh Bé đi tù tháng 6 năm 1975, sau đó tôi chỉ nhận được ba lá thư của anh. Lá cuối cùng đề tháng 2, 1976, gởi từ trại Suối Máu, Biên Hòa. Sau đó, anh bặt tin. Tôi chờ đợi mòn mỏi, lên xuống trạm công an cả chục lần, hỏi gì họ cũng trả lời không biết. Cuối cùng, tôi nhất quyết làm đơn khiếu nại. Lúc đó, tôi và sáu đứa con - đứa lớn nhất mười một tuổi, đứa nhỏ nhất mới lên hai - đang nương náu trong một mảnh vườn hẻo lánh tại Mỹ Tho. Vì vậy, tôi dùng nhờ địa chỉ nhà Mẹ chồng ở Sài Gòn. Cả chục lá đơn gởi tới trại tù Suối Máu đều như biến vào khoảng không, chẳng còn một chút tăm hơi. Trại tù không trả lời thì tôi hỏi cấp trên; tôi mày mò kiếm địa chỉ của hai “Tòa Án Nhân Dân” ở Sài Gòn và Hà Nội rồi gởi đơn tới cả hai nơi đó. Thời miền Nam vừa mất, cây củi cũng mắc, mua một con tem là thâm vào tiền mua gạo cho các con, nhưng tôi vẫn cắn răng bớt miệng con để gởi đi mấy chục lá đơn, từ tháng này qua tháng khác. Cuối cùng, nhà cầm quyền Cộng Sản cũng phải trả lời. Ngày 10 tháng Năm, 1977, họ gởi thư về nhà Mẹ chồng tôi. Để xác nhận rằng: họ đã giết chồng tôi. Cô em chồng đưa tay đỡ vai tôi cho tôi khỏi gục xuống. Sáu đứa con sợ hãi chạy lại vây quanh, tôi chỉ nói được mấy tiếng “Ba chết rồi!” rồi khóc ngất. Lũ trẻ thấy vậy cũng khóc òa lên, thằng lớn nhất ôm lấy con em kế, bệu bạo nói “Vậy là Ba không về nữa!” Sau vài ngày ở nhà Mẹ chồng, tôi lại phải gượng đứng lên, dắt đám con về căn chòi trống huơ, trống hoác, nóc dột, tường xiêu ở Mỹ Tho. Mẹ chồng tôi sợ tôi chết thì bà sẽ không nuôi nổi bầy cháu, còn cha mẹ ruột thì lo tôi sẽ phát điên. Tuy vậy, Mẹ chồng tôi không đủ sức cưu mang bảy mẹ con tôi và cha mẹ tôi cũng chỉ dám ghé thăm vài ngày rồi đi về. Thời đó, mỗi tuần người dân đều phải đi họp tổ dân phố để công an điểm danh, ai đi đâu cũng phải xin phép, vì thế không người nào dám đi lâu, sợ công an kiếm cớ làm khó dễ. Ngày mẹ chồng tôi làm lễ phát tang anh Bé ở Sài Gòn, tôi chỉ đủ tiền mua ba tấm vé xe cho thằng con trai lớn nhất, đứa con gái út, và tôi. Họ hàng phần vì không có tiền đi xa, phần vì sợ liên lụy với “tử tù” nên không ai dám tới. Ngoài ba mẹ con tôi, đám tang chỉ có mẹ chồng và hai cô em ruột của anh. Sau ngày giao bản án tử hình, công an khu vực dòm ngó nhà chồng tôi như chồn cáo rình chuồng gà; vì thế, ngay cả trên bàn thờ của anh chúng tôi cũng không dám chưng bày nhiều. Di ảnh của anh đứng sau dĩa trái cây lỏng chỏng, một bát nhang hiu hắt và hai cây đèn cầy leo lét. Trước bàn thờ, bốn người đàn bà đầu tóc rũ rượi quỳ bên hai đứa nhỏ xanh xao, ngơ ngác. Chỉ có tiếng nhà sư đọc kinh nho nhỏ, còn chúng tôi phải kềm tiếng khóc trong lồng ngực, nuốt ngược nỗi đau vào lòng. Anh Bé sống ở khu xóm đó từ nhỏ, ai cũng biết và thương mến anh, cho nên bà con lối xóm kéo đến rất đông, nhưng không ai dám bước vô nhà. Họ giả làm kẻ tò mò đứng trước cửa, nhưng suốt buổi lễ họ lén dùng tay áo quẹt nước mắt, và nhìn chúng tôi bằng những cặp mắt đỏ hoe, ứa tràn thương xót. Tôi quỳ ở đó, dật dờ nửa mê, nửa tỉnh. Những hình ảnh cuối của anh trở về trong đầu tôi. Chiều 30 tháng 4, 1975, anh lái xe Jeep đến nhà cha mẹ tôi ở thành phố Mỹ Tho, nơi tôi đem sáu đứa con thơ từ khu cư xá sĩ quan ở Bình Dương về nương nhờ trong cơn hỗn loạn. Tóc anh rối bời, mặt anh bơ phờ, nhưng anh vẫn mặc quân phục trên người. Anh ôm hôn từng đứa con, rồi nói với Ba tôi, “Ba cho con gởi vợ con của con.” Ba tôi đã nghẹn ngào hứa, “Con đừng lo, vợ con của con ở đây với Ba Má, rau cháo có nhau. Con đi đâu cũng vậy, khi con trở về đây, vợ con của con sẽ còn đầy đủ.” Trước mặt Ba Má tôi, anh ngại ngùng không ôm tôi lần cuối. Anh chỉ xiết tay tôi, dặn dò tôi giữ sức khỏe và cố lo cho các con. Tôi quá bàng hoàng, lo sợ nên chỉ biết nghẹn ngào nhắc anh hết sức giữ gìn tánh mạng. Anh lưu luyến thêm một lát rồi quay đi. Tôi đứng chết lặng ở bậc cửa. Anh leo lên xe, rồ máy. Xe chuyển bánh. Chạy đi. Xa dần. Rồi mất hút. Tôi cảm thấy một phần thân thể mình vừa bị chặt lìa ra… Sau này tôi mới biết anh đã lái xe về nhà mẹ ruột ở Sài Gòn và trốn ở đây cho tới ngày đi trình diện “học tập cải tạo”. Mới hai năm qua mà tôi đã mất anh, con tôi đã mất cha. Người ta giết anh vì tội “trốn trại cải tạo nhằm mục đích phản Cách Mạng.” Độc ác hơn nữa là họ không thông báo gì cho thân nhân. Mạng sống của anh, của những người tù, và nỗi đau của gia đình họ, đối với người cầm quyền không có ý nghĩa gì! Mãi hơn một năm sau từ ngày bắn anh, có lẽ vì mấy chục tờ đơn tìm chồng của tôi, họ mới gởi Tờ Trích Lục Án Hình về nhà. Tờ giấy đánh máy một cách cẩu thả vào tháng 5, 1977 đã đề sai ngày của phiên toà xử tử anh là 10 tháng 4, 1977, trễ một năm. Tôi ngước nhìn anh trong uất nghẹn. Anh cũng đang đau đáu nhìn tôi. Có phải mắt anh long lanh vì nỗi đau cắt ruột, hay chỉ là màn lệ chan hoà từ mắt tôi? ** Sau khi về lại Mỹ Tho, tôi nằm bẹp trên võng, không khóc nhưng nước mắt nóng hổi tuôn ra như vắt hết sức sống của tôi. Lòng tôi nặng trĩu niềm đau, nỗi hận. Trong đầu tôi vang vang những lời oán trách số phận, nguyền rủa bọn giết người. Chồng tôi cả đời thanh liêm, đi lính Việt Nam Cộng Hoà tới lon Thiếu Tá mà vẫn không mua được cho vợ con một căn nhà riêng, tại sao anh phải chết tức tưởi như vậy? Làm vợ lính, tôi đã nhiều lần nghĩ đến việc chồng tử trận, nhưng thà anh hy sinh trong cuộc chiến để các con còn được hãnh diện, để tôi còn được an ủi. Bây giờ chiến tranh chấm dứt rồi, chồng tôi đã phải mang thân tù tội, tại sao người ta còn giết anh? Tại sao họ đẩy mẹ con tôi thành “thân nhân của tử tội”, lớp người cô đơn, khốn cùng nhất trong cái xã hội đầy móng vuốt này? Ngày tiếp ngày trôi qua trong cơn đau, mí mắt tôi sưng vù, rát bỏng, tiếng các con réo gọi nghe xa xôi như vọng lại từ một thế giới khác, tôi nghe nhưng không thể nào trả lời nổi. Tôi nằm đó, dật dờ giữa hai bờ sống, chết. Một buổi trưa, không biết là bao lâu sau, tiếng khóc thảm thiết của hai đứa con nhỏ nhất kéo tôi ra khỏi cơn mê sảng. Tiếng than đói của hai đứa bé xoáy vào tim tôi, nhắc rằng tôi còn bổn phận với sáu đứa trẻ thơ. Tôi ngồi bật lên, quơ tay tìm con và ôm siết chúng vào lòng. Giữa ban ngày mà trước mắt tôi tối đen. Không! Con không thể mù, con không thể chết! Xin Trời giúp con! Xin cứu con để con của con được sống! Nhờ Trời thương và chắc anh vẫn theo phù hộ nên tôi hết bệnh, dù không có thuốc men gì. Tôi lết ra vườn, mò mẫm trồng rau, trồng khoai nuôi con. Năm tháng rơi lặng lẽ như những sợi tóc của tôi rụng tơi bời trong cơ cực. Tay chân tôi khẳng khiu, trầy trụa, bầm dập, nhưng những vết thương đó không thấm thía gì với cái đau ở trong lòng. Ở miệt vườn hẻo lánh, sự kìm kẹp của chính quyền địa phương khủng khiếp gấp mấy lần ở những thành phố lớn; công an mà dòm ngó, trù dập ai thì người đó không ngóc đầu lên nổi. Trong đám dân quê mùa, chất phác, gia đình có thân nhân là sĩ quan “Ngụy” đang ở tù đã là một điều ghê gớm, nói gì tới chuyện là con cái của người tử tội. Thời đó, nhà trường cứ vài tuần lại bắt học sinh khai lý lịch, vì thế mỗi niên học các cháu đem về mấy chục tờ lý lịch nhờ tôi viết. Lúc nào tôi cũng khai là “Cha mất tích”, và các con tôi được dạy đi dạy lại rằng không bao giờ hé môi với ai về cái chết của cha. Vậy mà cũng có lần chúng tôi xém bị lộ! Tết Trung Thu năm 1977, trường học phát quà cho con của gia đình liệt sĩ. Thằng bé thứ Năm nhà tôi mới vô lớp Một, không biết nghe ai giải thích “liệt sĩ” là những người đi lính đã chết, thế là nó tính chạy lên lãnh quà. May mà cô giáo của nó quen với tôi, cô thấy nó nhớm đứng lên, vội đè vai bắt nó ngồi xuống. Hôm đó thằng nhỏ tủi thân và thèm quà, khóc tức tưởi cả buổi chiều. Tôi xót cho các con ngây thơ mà phải chịu quá nhiều thiệt thòi, dồn nén, phải sống trong hất hủi, phải thèm khát từ miếng ăn tới tình thương. Đêm đó, tôi khóc trắng. ** 1979. Nước ngập cao. Hút mắt chỉ thấy làn nước đục ngàu, lềnh bềnh rác rến. Những cây chuối chỉ còn lú lên chút ngọn run rẩy bên những cành mận trụi lủi, khẳng khiu đang vật vã trong gió. Trời vẫn mưa! Mưa như xối nước. Trên mấy bộ ván chồng lên nhau, tôi và sáu đứa nhỏ nằm, ngồi lủ khủ bên đống chăn mền, quần áo, bếp lò, chén dĩa - tất cả tài sản còn lại của bảy mẹ con. Cơn bão đã kéo dài gần một tháng, nước sông Tiền dâng ngập hết ruộng vườn, cuốn băng đi công sức mẹ con tôi vật lộn với mảnh đất này trong gần bốn năm trời kể từ tháng Tư, 1975. Mưa càng lúc càng nặng hột. Gió xoáy mạnh, rít lên như oán trách, như thay tôi than tiếc cho công sức của mẹ con tôi đang trôi theo giòng nước. … Như lời đã hứa, sau tháng 4, 1975, Ba Má tôi hết lòng bao bọc mẹ con tôi. Nhưng vai gầy không thể chống được cả bầu trời đang đổ sụp, sức lực của hai cụ già không thể nào đỡ nổi trận hồng thủy của cuộc đổi đời. Nhà cầm quyền Cộng Sản bắt cha mẹ tôi phải nạp hết ruộng cho Hợp Tác Xã rồi mỗi tháng chúng phát cho mấy ký gạo vừa đủ cho hai người già sống cầm hơi. Bảy mẹ con tôi không có tên trong “hộ khẩu” nên trở thành những người “ngoài pháp luật”, sống lây lất bên lề xã hội. Mỗi ngày, Ba Má tôi thu mót hoa màu trong vườn, rồi đem bán để mua gạo chợ đen về nuôi cháu. Sau mấy tháng tôi không thể chịu được cảnh cha mẹ khổ sở, lo lắng, chạy ăn từng bữa vì mình nữa. Tôi đành đem các con về ở tại năm công đất vườn do ông nội của chồng tôi chia cho anh từ thời anh còn trẻ. Ngày mẹ con tôi dắt díu nhau ra đi, tôi không dám quay đầu nhìn lại, sợ ba má tôi thêm nát lòng. Tôi cắm đầu bước, nước mắt ràn rụa. Tôi gọi tên anh, xin anh giúp sức cho người vợ mỏng manh, yếu ớt, chưa bao giờ biết cầm cái cuốc, cái cày… Khu vườn thiếu người chăm sóc chỉ có thưa thớt vài cây mận, bà nội chồng thương nên cho thêm ba công ruộng ven để tôi kiếm gạo nuôi con. … Tôi nắm một đầu chiếc gầu giai, đầu bên kia thằng Hai và con Ba - đứa mười một tuổi, đứa tám tuổi mím môi giữ. Trời nắng như đổ lửa, mặt tôi ướt đẫm mồ hôi; phía bên kia, dưới vành nón lá rách nát, hai đứa con tôi mặt đỏ bừng như lên cơn sốt. Chúng tôi múc từng gàu nước từ con rạch cạn, tạt vào những cây lúa đèo đẹt đứng gục đầu trên mảnh ruộng nứt chân chim. Mùa đầu tiên trời hạn, sau khi trả tiền mướn trâu, tiền công cấy, tiền phân bón, tiền thuốc trừ sâu, tiền đóng thuế cho nhà nước, chúng tôi không còn một hột lúa mà ăn, đành đi vay mượn chờ năm tới. Mùa kế, tôi chỉ dám mượn tiền để trả công cày rồi cố gắng tự làm đủ thứ việc, hy vọng cuối mùa thu được chút gạo sống qua ngày. Tôi học cách nhổ cỏ, rải phân, cấy lúa. Ngày ngày tôi bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Có lần tôi khiêng bình thuốc trừ sâu to hơn một vòng ôm đi xịt quanh ruộng. Bình thuốc lớn che khuất mặt, tôi không thể thấy thuốc xịt đều hay không nhưng vẫn nghiến răng tha cái bình đi xịt hết một vòng. Làm xong, tôi run run leo lên bờ ruộng thì bình thuốc đẩy tôi té ngược ra sau. Tôi nằm ngửa như con nhái bén ôm bình thuốc bự chảng, hên là đất ruộng không quá cứng nên tôi không bị thương. Lần đó, đám con tôi phải xúm lại kéo cả bình và tôi lên bờ ruộng. Không hiểu vì cày không sâu, cấy không đúng, phân không đủ, thuốc không đều, nước không đẫm, hay vì vận mạng của chúng tôi lúc đó đang tối tăm nên đất ruộng cũng không chịu hợp tác với mẹ con tôi. Tôi thất thu ba năm liên tiếp, nợ sau chồng lên nợ trước, cuối cùng tôi phải thế ruộng để trừ nợ, mẹ con rút về kiếm ăn trên mấy công vườn xơ xác. Khai mương, đào đất, trồng cây, tưới bón, tất cả chỉ có tôi và hai đứa con lớn lăn lộn làm, còn mấy đứa nhỏ đành bỏ liều trong lều. Có một lần tôi hái mận đem ra chợ bán, đường xa nên mãi tối mịt mới về. Về tới nhà, thấy thiếu thằng Năm, tôi hoảng hồn chạy ra vườn, nhảy xuống mương tìm. Con mương không sâu lắm, chỉ để lấy nước tưới cây, nhưng cũng làm tôi lo lắng từ ngày mới về đây. Nước dưới mương ngập tới gần bắp vế, tôi vừa gọi tên con vừa khom người mò. Đụng thấy một vật tròn cứng như đầu người, tôi hét lên rồi vật ra chết giấc. Cũng may là lưng tôi dựa vô bờ mương nên tôi không ngộp nước và có con bé Ba chạy theo, nó vừa khóc vừa kéo tôi lên. Và may hơn nữa là cái vật tròn tròn đó chỉ là một cái gáo dừa chìm dưới mương, còn thằng Năm vẫn trùm mền nằm ngủ sau đống quần áo trong lều. Chắc nó đói quá nên lả đi, không lên tiếng khi tôi gọi. Trăm ngàn khổ cực vậy mới thu được vài mùa mận, mà bây giờ cơn lụt lại phá tan hoang mảnh vườn, nguồn sống duy nhất của chúng tôi… ** Cuối cùng nước lụt cũng rút để lại khu vườn đầy rác rến với những luống khoai bị nước san bằng và những gốc cây trụi lá, gãy cành. Chỉ còn vài cây chuối non, tôi chặt về bào mỏng bóp với muối cho các con ăn qua bữa. Đói thì đầu gối phải bò, tôi lại bỏ liều các con ở nhà, qua Bến Tre đi buôn. Xứ dừa Bến Tre bạt ngàn cây trái nên dân bên đó khá giả, có lò nấu đường, làm xà bông. Tôi mua hàng đem về Mỹ Tho bán để kiếm chút lời. Thời 1979-1980, trạm thu thuế mọc lên ở khắp nơi, như bầy rệp đói hút máu dân nghèo. Công an rình ở khắp các ngả đường, khám xét càng ngày càng gắt gao. Tiền lời chỉ đủ để đóng thuế nên người đi buôn phải trốn, nếu thoát thì kiếm được chút đỉnh, không may bị bắt là bị tịch thu hết hàng, đứt vốn. Một mình tôi kiếm không đủ tiền rau cháo nên tôi phải dắt hai đứa con trai theo. Tôi cưỡi một chiếc xe đạp, hai đứa chở nhau trên chiếc xe đạp khác, làm bộ như hai anh em chở nhau đi học nhưng trong cặp chúng nhét đầy đường và xà bông. Thằng Hai còn biết xoay xở chút ít, còn thằng Tư ngây thơ, tính tình lại nhút nhát nên nó rất sợ. Mỗi khi qua trạm gác, mắt nó nhìn thẳng phía trước, làm bộ bình tĩnh, nhưng ngón chân nó bấm xuống dép, cổ nó căng lên như sợi dây đàn. Tôi ngó mà đau như bị đâm vào tim. Chuyến phà Bến Tre - Mỹ Tho chiều hôm đó đông nghẹt. Mặt trời đã xế nhưng vẫn tỏa sức nóng hừng hực làm cho những gói đường quấn quanh bắp chân, quanh bụng tôi thêm trĩu nặng. Tôi ì ạch dắt xe, nón lá che sùm sụp xuống mặt nhưng vẫn liếc mắt ngó chừng hai đứa đi phía sau. Chỉ còn một khúc nữa là vô trạm gác, ba mẹ con càng tách xa nhau như người xa lạ để nếu có bị bắt thì không bị dính cả chùm. Tôi thoát qua trạm gác, đứng lại, làm bộ gỡ nón quạt để ngó lại tìm con. Thằng Hai vừa dắt xe đi ra, thằng Tư đang tiến vào trạm… Bỗng nhiên cái cặp ở tay thằng Tư rớt xuống, những gói đường và xà bông văng tung tóe. Mắt thằng nhỏ mở lớn, hãi hùng, miệng há ra nhưng không dám khóc lên thành tiếng. Một tên công an bước tới, nắm lấy cổ áo nó. Mắt tôi hoa lên, ngực tôi nhói đau, tôi ngồi sụp xuống để khỏi té vật ra. Phà đã tới, đám đông ùn ùn xô nhau tràn tới, tôi đội xụp nón lên đầu rồi đành bước chân đi. Phà qua tới Mỹ Tho, thằng Hai mới dám chạy lại bên tôi, mếu máo, “Má ơi, thằng Tư bị bắt rồi!” Tôi ôm con, vuốt lên mái tóc cháy nắng khét lẹt rồi nói cứng, “Chắc họ không nhốt con nít đâu. Con đem đồ về nhà trước để tụi nhỏ khỏi trông, Má ở đây chờ em.” Trời đã nhá nhem tối, tôi đang nghĩ cách quay lại kiếm con thì thằng Tư thất thểu bước ra khỏi phà. Lưng nó khom xuống, mặt nó thất thần. Vừa thấy tôi, nó phóng tới ôm riết rồi khóc nức nở, người nó run bần bật trong những cơn nấc nghẹn ngào. Nước mắt tôi cũng rớt như mưa. Tôi hận mình bất tài, hận số phận mình khốn khổ để tuổi thơ của các con quá bi thảm và tủi nhục. Tôi lại ngửa mặt gọi anh. Anh ơi, hãy giúp em cứu các con ra khỏi cảnh khổ hận này. Từ bữa đó, tôi không dám bắt các con đi buôn lậu nữa. Tôi đi tới từng vườn trái cây mua rồi chở đi bỏ cho những bạn hàng ở Sài Gòn. Mỗi ngày tôi dậy từ 3 giờ sáng, cột mấy giỏ trái cây lên xe đạp rồi chở ra bến, đón xe đem về Sài Gòn. Tiền xe hai chuyến đi về mắc mỏ mà tôi thì sức yếu, vốn nhỏ nên lời rất ít. Thấy dân nghèo tứ xứ bày bán đủ mọi loại hàng trên lề đường trước cửa chợ, tôi quyết định không bán sỉ nữa mà bán lẻ để kiếm lời khá hơn. Tôi trải đại một tấm nylon xuống lề đường, bày một ít trái cây làm mẫu, phần còn lại để trong giỏ gởi mấy cửa tiệm ở mặt đường, có tiệm thương tình cho gởi, có tiệm bắt trả tiền. Tôi lê la từ chợ Cầu Ông Lãnh tới chợ Tân Bình, chợ An Đông, đôi khi gặp bạn bè cũ, tôi cúi gầm mặt dưới vành nón, không dám ngước lên. “Ủy Ban Trật Tự Thành Phố” nói rằng bán hàng trên lề đường gây hỗn loạn nên ra lệnh cấm, nhưng người dân đói quá cứ làm liều. Từ cụ già tám mươi tuổi đến đứa bé sáu, bảy tuổi, từ người lành lặn tới anh thương phế binh, người trải tấm nylon, kẻ đẩy cái xe tự đóng bằng ván mục, người bưng cái rổ, kẻ đội cái mâm, chúng tôi đứng ngồi la liệt trên khắp các ngả đường để kiếm sống. Ngày nào bán được khá, ngoài mấy lít gạo tôi còn mua về cho con vài ổ bánh mì. Trời sụp tối tôi mới về đến nhà, nhìn chúng chia nhau nhai ngấu nghiến một cách hết sức thèm thuồng, tôi có thêm sức mạnh để tiếp tục lăn lộn trên vỉa hè. Tuy nhiên, những ngày vui thường ít hơn những ngày buồn. Rất nhiều khi đang ngồi bán thì người ở đầu đường la, “Công an!” và mọi người vùng lên chạy. Những người bán mặt hàng gọn, nhẹ thì túm tấm trải lại, ôm vào người rồi biến vào trong những ngõ hẻm. Tôi quảy đống trái cây nặng hơn nên thường lẹt đẹt phía sau và bị công an hốt. Công an đem tôi về “Trụ Sở Ban Quản Lý Chợ”, bắt ký tên vào biên bản rồi tịch thu hết hàng. Tôi nhớ tới lời Mẹ chồng tôi thường an ủi tôi rằng “trời sanh voi, sanh cỏ” mà muốn gào lên sao các người ác vậy, đã giết chồng tôi mà còn không chừa cho mẹ con tôi một cọng cỏ để ăn! Những ngày bị mất hàng, tôi trở về nhà với hai tay không, thê thảm như người vừa bị cướp. Mấy mẹ con phải ra vườn mót những củ khoai đẹt và hái rau dại về ăn. Ngồi nhìn đám con chia nhau dĩa rau luộc chấm nước muối, lòng tôi đau nhói. Mới ngày nào tôi là cô dâu hai mươi tuổi, ngây thơ, lãng mạn cùng chồng mơ về một căn nhà ấm cúng với đàn con ngoan ngoãn, cười giỡn rộn ràng. Bây giờ, đàn con tôi gầy ốm, buồn rầu còn tôi thì da đen sạm, tay chân chai sần, tóc tai xác xơ như lòng tôi tan nát. Sau nhiều lần bị công an bắt, vốn liếng sắp cạn thì tôi may mắn gặp được quý nhân. Chị là vợ của Trung Tá Kh. ở cùng Sư Đoàn 5 với chồng tôi, và hai gia đình đã ở gần nhau trong Cư Xá Sĩ Quan Ngô Quyền tại Bình Dương trước năm 1975. Không ngờ sau cuộc đổi đời, chị cũng dắt con về ở ngay bên cạnh xã tôi. Con út của chị học chung một lớp với con tôi, có lẽ cùng thuộc diện con “tù cải tạo” nên chúng thân và tâm sự với nhau. Kể qua kể lại, té ra là hàng xóm hồi xưa, con tôi vui mừng về báo cho tôi và tôi đã tìm thăm chị. Hầu hết các con của chị Kh. đã lớn nên kiếm được việc làm lặt vặt để sống qua ngày. Thời đó, phong trào đan mây tre và làm nón để xuất khẩu ra nước ngoài lên mạnh, chị giới thiệu cho tôi lãnh nón về thêu ăn công. Đêm nào tôi và con gái lớn cũng ngồi thêu bên cây đèn mù mờ, nước mắt sống chảy ròng ròng vì dùng mắt quá độ, nhưng số tiền công rẻ mạt chỉ giúp chúng tôi kiếm thêm chút cháo. Chị Kh. có người thân ở Huế nên chị cũng làm đại lý cung cấp nón lá Huế cho các sạp bán lẻ, thấy vậy chị lại thương tình cho tôi lấy nón về bán, bán xong mới đưa lại tiền vốn cho chị. Thời đó, chợ huyện Tân Hiệp họp từ một, hai giờ đêm để người ta kịp mua hàng đem lên Sài Gòn bán lúc sáng sớm. Khoảng mười một giờ đêm là tôi mò mẫm dắt xe đạp ra khỏi nhà, trên yên sau là gói hàng lặt vặt như tiêu, tỏi, xà bông, bột ngọt, phía trên là chồng nón. Chiếc xe đạp cũ nát run rẩy bò trên con đường đất gồ ghề, hai bên là ruộng, côn trùng ếch nhái kêu nỉ non, đom đóm bay lập lòe như mắt quỷ. Hồi còn con gái, tôi rất sợ ma, nhưng lúc đó tôi chỉ còn sợ… người. Trời tối đen, chỉ nhìn thấy một khúc đường ngắn lờ mờ trước mặt, tôi vừa đạp xe vừa cầu xin anh phù hộ cho tôi không bị cướp. Ra tới chợ, có những đêm vừa bày hàng xong thì trời đổ mưa, tôi lấy hết nylon che cho hàng hóa rồi ngồi chịu trận trong cái áo mưa đầy lỗ lủng, nghe từng giọt nước lạnh như kim chích trên lưng, nghe gió quất từng cơn trên gương mặt ướt đẫm nước mưa hòa nước mắt. Sau những đêm ế ẩm, sáng ra tôi phải đạp xe tới từng nhà quanh chợ, mời người ta mua nón dùm. Các bà không ai biết chuyện chồng tôi bị xử tử, nhưng họ biết tôi là vợ tù nên rất thương tôi. Họ cũng chẳng dư dả gì nhưng người mua dùm cái nón, người cho củ khoai, ly nước, người dúi cho tôi chút trái cây để đem về cho các con. Những ngày tôi bán ế, không đủ tiền trả vốn số nón đã lấy của chị Kh., chị chỉ la giỡn, “Thôi, không đủ tiền thì thím để bữa sau bán tiếp rồi trả, chớ không lẽ bây giờ tui bắt xác thím được ha…” ** Bữa đói bữa no, bịnh không có thuốc nhưng nhờ Trời thương, đám con tôi vẫn lớn như cây dại mọc ở bờ rào. Các cháu biết thân phận mình nên rất ngoan và chăm học. Ngoài giờ học, chúng đi câu, đi chạ, đi lưới để kiếm thêm thức ăn. Tuy vậy, chúng càng lớn thì tiền học, tiền sách vở càng tốn kém, rất nhiều lần các cháu bị thầy cô rầy la vì xài chung chỉ một cuốn tập cho mọi môn học, nhưng các cháu không hề than van. Những ngày tôi đi buôn bán về trễ, lòng tôi ấm lại trước cảnh các con quây quanh ngọn đèn dầu leo lét, mấy đứa nhỏ tập đọc ồn ào, nhưng mấy đứa lớn vẫn ráng chăm chú giải toán, học bài. Dù không có tiền đi học thêm, dù sự giảng dạy ở vùng quê trồi sụt bất thường, ba đứa con lớn của tôi đã đạt được điểm cao trong kỳ thi tốt nghiệp trung học. Tuy vậy, các cháu nhưng chỉ được trúng tuyển vào những trường dạy nghề như Trung Học Lâm Nghiệp ở Sông Bé, Trung Học Sư Phạm ở Tiền Giang, và Trung Học Xây Dựng ở Vĩnh Long. Dù sao, đây là một điều rất quan trọng cho cuộc đời của hai cháu trai bởi vì nếu không được đi học tiếp, các cháu sẽ phải đi “nghĩa vụ quân sự”, bị gởi đi đánh nhau ở vùng biên giới Tàu hay Campuchia. Tôi đã thề cùng vong linh của anh rằng tôi sẽ làm mọi cách để các con chúng tôi không bị đi bộ đội. Chỉ tưởng tượng các cháu phải mặc cùng bộ quân phục, đứng cùng hàng ngũ, và đem thân đi chết vì chính kiến của những người đã giết cha các cháu, tôi rùng mình. Nếu bị kêu đi “nghĩa vụ”, các cháu chỉ còn nước bỏ làng xóm, đi sống lang thang, dật dờ như rất nhiều thanh niên thời đó. Dù trúng tuyển vào trường, nhưng sau khi tốt nghiệp, cả ba cháu không có tiền chạy chọt, không quen biết ai, nên bị gởi đi làm việc ở những nơi xa xôi, hẻo lánh. Các cháu chán nản quay về nhà, làm ăn lặt vặt qua ngày. Cuộc sống tuy đỡ đói khổ hơn thời các cháu còn nhỏ, nhưng đầy bế tắc, không có tương lai. ** Từ đầu thập niên 1980 đã có lác đác sĩ quan đi tù được thả về. Mỗi lần nghe tin người quen được về với vợ con, tôi mừng cho họ nhưng nghe lòng càng thêm cô đơn, cay đắng. Chồng tôi sẽ không bao giờ trở về, mà thân xác anh cũng vẫn còn lạc lõng ở tận phương nào. Mẹ chồng tôi đã già yếu, không còn tiếp tục đi tìm mộ anh được nữa, còn tôi thì lăn lộn kiếm gạo cho bầy con nên không thể hết lòng tìm kiếm. Vì thế, ngoài nỗi khổ đói nghèo, nỗi hận mất chồng, nỗi sợ hãi xã hội nhiễu nhương, và nỗi buồn đơn chiếc, tôi còn mang cảm giác nặng trĩu tội lỗi của người vợ vô tình. Tôi không thể ngờ rằng năm 1984, tám năm sau khi anh mất, anh đã tìm về với mẹ con tôi. Hôm đó, tôi đang lúi húi ngoài vườn thì chị Hai tôi bước vô cổng. Vừa tháo nón lá quạt lia lịa, chị vừa kêu, “Dì Ba! Dì Ba ơi! Có tin dượng Ba!” Tôi quăng cuốc chạy ra, chị chụp tay tôi, hổn hển vừa thở vừa nói, “Mèn ơi, thiệt không ngờ! Em nhớ cô giáo H. dạy trong trường chị chớ? Chị với cổ thân nhau, lúc người này có chuyện thì người kia dạy dùm. Mới cách đây mấy bữa, chị coi lớp dùm cổ để cổ đi hốt cốt người em trai tên Thịnh, chết trong tù cải tạo. Cổ đi về kể chuyện cho chị nghe, cuối cùng cổ nói thêm ‘Kế sát bên mộ em tui có ngôi mộ của một ông chết cùng ngày. Tội nghiệp, chắc gia đình ổng đi vượt biên hết nên không ai chăm sóc, cỏ mọc tùm lum!’ Trước giờ chị ít để ý chuyện của ai, nhưng bữa đó như có gì xui khiến nên chị hỏi tới, ‘Vậy chứ bà có nhớ tên người đó không?’ Cổ nói ‘Tên là Trần Văn Bé, sinh ở Long An.’ ” Giữa trưa nắng mà tôi sống lưng tôi lạnh toát. Tôi đã nghe các bạn tù của anh kể lại rằng sau khi bọn cai tù bắt được anh và đem trở về trại Suối Máu, bọn chúng còn chuyển về một người đã vượt trại ở Hóc Môn tên là Thịnh. Cả hai bị nhốt vào connex và bị bắn trong cùng một ngày, chồng tôi vào buổi sáng, anh kia vào buổi chiều. Như vậy là những người bạn tù đã chôn hai anh kế bên nhau, và đã thương xót lập bia để chỉ đường cho thân nhân các anh mai sau đi kiếm. Trong gần bốn triệu người dân Sài Gòn, cơ may hiếm có hay hồn thiêng của hai anh đã đem chị tôi và chị của anh Thịnh đến với nhau, để cho họ thân thiết và tin cậy nói cho nhau nghe những nỗi đau sâu kín của gia đình những người lính Cộng Hòa gãy súng. Có lẽ hồn thiêng của chồng tôi níu chân chị H. nên chị đã để ý tới nấm mộ hoang khuất trong cỏ rậm, và đọc được cả những chi tiết viết bằng tay mờ nhạt trên miếng gỗ đã tám năm trời phơi mưa nắng. Mẹ chồng tôi lập tức lo việc xin giấy phép đi đường, giấy phép cải táng và kiếm nhà quàn lo dịch vụ. Ngày đi bốc mộ, tôi và Mẹ ruột tôi từ Mỹ Tho về Sài Gòn cùng đi với Mẹ chồng, cậu ruột của chồng, và một cô em chồng. Nhờ chị của anh Thịnh đã chỉ đường rất kỹ nên chúng tôi tới mộ khi mặt trời chưa đứng bóng. Cỏ dại đã được phạt đi nên chúng tôi thấy ngay ngôi mộ có tấm bia bạc phếch đứng chơ vơ trong nắng. Có lẽ đây là khúc cây tốt nhất mà các bạn tù của anh đã lựa, có lẽ họ đã khắc tên anh bằng cả tấm lòng, có lẽ vì mộ nằm ở khu đất cao và khô ráo, và có lẽ hồn anh còn quanh quẩn nên tấm bia vẫn còn đứng vững và những giòng chữ vẫn chưa phai sau tám năm hoang lạnh. Người ta bắt đầu đào, tiếng bình bịch của cuốc bằm xuống đất dội vào óc tôi làm tôi choáng váng, phải ra ngồi dựa vào một gốc cây. Nấm mộ không sâu nên chỉ một lát là chạm đến cái hòm thô sơ, bể tan sau vài nhát cuốc. Tôi vẫn ngồi dưới gốc cây, hai mắt mở trừng trừng. Tôi thấy như hồn tôi tách khỏi thân xác, bay là là trên cao nhìn mọi người đang khóc và tôi đang ngồi sững sờ như hóa đá. Từng khúc xương được bốc lên, mẹ chồng tôi nhìn bộ răng và nói rằng đúng là anh với hàm răng thiếu một chiếc ở góc trong. Khi mẹ kêu tôi tới nhận diện chồng, tôi mới lảo đảo đi tới gần mộ. Bên cạnh cái hộp sọ đã bể, tôi thấy chiếc áo sơ mi sọc do chính tôi sắm cho anh ngày xưa nằm cạnh sợi dây nịt của lính. Có lẽ anh em bạn tù đã thu nhặt túi đồ của anh và chôn theo anh. Tới lúc đó nước mắt tôi mới có thể trào ra. Cuối cùng thì em cũng đã tìm được anh rồi! Sau khi thiêu cốt, Mẹ chồng tôi đề nghị đem gởi vào chùa ở Phú Lâm. Tôi đồng ý vì ở Sài Gòn dù sao cũng an toàn hơn là ở Mỹ Tho trong ngôi nhà xiêu vẹo, chông chênh của mẹ con tôi. ** “Mẹ có nhà không con?” Đang loay hoay đếm nón để khuya đem đi bán, tôi chạy vội ra cửa vì giọng nói đầy vẻ háo hức của cô bạn thân, học chung từ nhỏ. Vừa thấy tôi, H. níu tay kéo ngồi xuống bậc cửa, móc trong túi áo ra một tờ báo được xếp gọn. Với vẻ mặt hết sức trang trọng, H. giở báo, chỉ vào một bản tin nhỏ với tựa đề : Thông Cáo Về Việc Làm Hồ Sơ Xuất Cảnh Cho Những Người Từng Đi Học Tập Cải Tạo. Hai chúng tôi chúi đầu vào đọc. “Những người từng đi học tập cải tạo trên ba năm sẽ được làm hồ sơ đi Mỹ, ngay cả vợ con của những người đã chết trong trại cũng được đi.” Run run, tôi hỏi H. “Bà nghĩ tin này thiệt không?” “Thiệt mà! Ở trên Sài Gòn người ta xác định rồi, mấy người bạn ông xã tui đang làm đơn rần rần kìa!” Thế là chiều hôm đó tôi mở cái hộp sắt, lấy ra tờ Trích Lục Án Hình vừa coi lai vừa van vái chồng tôi. Năm đó là 1988, như vậy chồng tôi bị giết đã mười hai năm. Nước mắt rơi lã chã, tôi lại kêu anh. Anh ơi! Anh giúp em cứu các con ra khỏi nơi này. Mẹ chồng tôi nghe tôi kể chuyện làm đơn xin đi Mỹ, bà chép miệng, “Làm đơn thì phải khai ra cái chuyện chồng con bị tử hình. Tụi công an xã mà biết thì giống như khui ổ rắn. Má sợ các con mà đi không được, sau này sẽ khổ hơn…” Tuy nhiên lòng tôi đã quyết, đây là cơ hội duy nhất để cứu con tôi, điều mà tôi ước mơ từ mười mấy năm nay. Với sự giúp đỡ của vợ chồng bạn, tôi xin mẫu đơn, điền chi tiết, đính kèm bản sao của bản án tử hình rồi đem nộp ở Ty Ngoại Vụ Tỉnh Tiền Giang. Gia đình H. và chúng tôi đều được xếp vào danh sách H.O. 7. Nhưng chỉ mấy tuần sau tôi nhận được thư từ Sở Ngoại Vụ ở Sài Gòn từ chối đơn của tôi với lý do: chồng tôi bị tử hình năm 1976, do đó anh không hội đủ điều kiện bị tù ba năm. Tôi nghiến răng rủa bọn Cộng ngu xuẩn, chồng tôi bị tử hình nghĩa là đi tù không bao giờ về, cớ gì mà không đủ điều kiện ba năm. Tôi viết thư khiếu nại nhưng Sở Ngoại Vụ từ chối, họ nói bắt buộc phải có ba năm ở tù. Đối với họ chết là hết, là không còn giá trị gì nữa. Lúc đó, gia đình của những người sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà đã hồi sinh như ruộng hạn gặp mưa rào. Họ tụm năm, tụm ba, thì thào về chuyện làm đơn, chuyện nhận được giấy tờ chấp thuận cho đi. Họ len lén mua sắm, chuẩn bị cho ngày lên đường. Mọi người chạy qua chạy lại, bàn bạc, chia sẻ với nhau những tin tức góp nhặt được về đời sống bên Mỹ, về ước mơ tương lai. Lác đác tiếng cười đã trở lại trong những căn nhà lụp xụp, buồn hiu. Tôi đứng bên ngoài hạnh phúc đó, nhìn cảnh tượng đó bằng cảm giác của đứa con nít bị bỏ rơi. Các bạn của tôi cứ nghĩ là tôi không có hy vọng, nên họ tránh bàn chuyện đi Mỹ trước mặt tôi. Có nhiều khi họ đang nói mà thấy tôi đến là im bặt. Tôi ráng cười nói cho họ yên tâm dù lòng đau như cắt. Giữa năm 1991, H. lên đường đi Mỹ theo diện H.O. 7. Đêm trước khi đi, hai đứa nói chuyện thật lâu. H. hứa sau khi sang Mỹ sẽ hết lòng giúp mẹ con tôi. Tôi bỏ bản sao của tờ đơn xin đi diện H.O., bản sao của tờ Trích Lục Án Hình, và lá đơn khiếu nại của tôi vào một cái phong bì lớn. Tôi thêm vào đó bản sao tấm hình thờ của anh, mong có phép lạ để một trong những người Mỹ từng làm việc với anh ở Phòng Nhì tiểu khu Định Tường, Mỹ Tho ngày trước nhận ra anh mà cứu mẹ con tôi. Tôi van vái, “Anh ơi! Anh phù hộ cho H. đưa được đơn đến tay người tốt, cho họ mở lòng thương mà cứu vớt gia đình mình.” Ngày chia tay, tôi hết gượng nổi, tôi khóc như mưa. H. lên xe, đem theo hy vọng của chúng tôi. Xe chuyển bánh rồi từ từ xa dần. Tôi đứng dưới ánh nắng gay gắt, nước mắt chứa chan, nhìn dõi theo chiếc xe mờ dần trong bụi khói rồi biến mất sau khúc quẹo. ** H. đi rồi, tôi hồi hộp chờ đợi từng ngày. Nhiều gia đình cựu sĩ quan ở trong vùng đã ra đi làm tôi càng thấy bơ vơ, khó kiếm người tâm sự. Khó hơn nữa là khi nghe tôi nói rằng tôi muốn khiếu nại với người Mỹ, hầu hết bạn bè đều chớp mắt ái ngại, rồi làm thinh. Tôi hiểu rằng họ nghĩ người Mỹ sẽ không quan tâm đến một gia đình ở cách nửa vòng trái đất mà mối liên hệ với Mỹ đã bị tử hình từ mười sáu năm trước. Vài người bi quan còn không dám tin là H. sẽ giữ lời hứa với tôi. Họ lắc đầu nói, “Trước khi đi ai cũng hứa hẹn nhưng qua đó nhiều thứ phải lo quá nên người ta quên hết...” Nhưng H. đã không quên mẹ con tôi. H. có người anh chồng từng học Quốc Gia Hành Chánh và cũng là một sĩ quan VNCH. Năm 1975, anh giữ chức trưởng phòng kinh tế của Quân đoàn 4, anh cũng bị đi tù nhiều năm, sau đó anh vượt biển và định cư ở Mỹ. Lá thư đầu tiên H. gởi về kể rằng anh ấy đã dịch lá đơn cùng với lá thư khiếu nại của tôi ra tiếng Anh rồi gởi cho cơ quan di trú Mỹ. Từ đó, sáng nào tôi cũng thắp nhang trên bàn thờ chồng rồi ngóng chờ thư. Khoảng hai tháng sau, thư của H. đến. Tôi dụi mắt, coi đi coi lại giòng chữ viết tay của H. để biết chắc là mình không lầm. “Văn phòng ODP bên đây chấp thuận hồ sơ của gia đình bà rồi! Họ sẽ liên lạc với Việt Nam để hoàn tất thủ tục.” Hai tuần trôi qua với lo lắng, chờ đợi. Rồi tôi nhận được một lá thư của Sở Ngoại Vụ tại Sài Gòn yêu cầu tôi bổ sung giấy tờ về cái chết của chồng tôi. Tôi đọc lá thư mà điếng hồn. Như vậy là tờ Trích Lục Án Hình mà tôi đã nộp là không đủ. Chồng tôi bị xử theo luật rừng vào năm 1976, trong một phiên toà rừng tại trại tù, biết có biên bản hay không? Nếu có, biết họ có còn giữ lại sau mười sáu năm hay không? Tôi lại mở cái hộp sắt và lấy tờ Trích Lục Án Hình ra soi xét. Góc trái của tờ giấy có hàng chữ “Tòa Án Quân Sự Quân Khu 7”. Tôi sẽ đi tìm từ đầu mối đó. Ngày đó, ở Mỹ Tho điện nước còn không có đủ, nói gì tới máy tính hoặc mạng internet. Thêm nữa, những hồ sơ về tù chính trị không bao giờ lộ ra ngoài nên tôi không thể tra cứu, tìm kiếm được ở bất cứ nơi nào. Cách duy nhất là tới thẳng Tòa Án Quân Sự Quân Khu 7 mà tôi không biết ở đâu. Tôi phải nhờ chị ruột và anh rể tôi đang ở Sài Gòn đi hỏi thăm dùm. ** Một buổi trưa nắng gắt, có một người đi bộ từng bước xiêu vẹo trên con đường trơ trụi từ bến xe vô nhà tôi. Đó là chị Hai tôi! Vừa tới nhà tôi, chị lột cái nón quạt lia lịa rồi vừa thở vừa nói, “Tìm thấy địa chỉ của Tòa Án Quân Khu 7 rồi! Đâu dè nó ở ngay tại Sài Gòn! Bây giờ, cái khó là em có dám vô đó hỏi họ về bản án không?” Hai bàn tay tôi bỗng ướt nhẹp mồ hôi. Mười sáu năm qua tôi đã viết hàng trăm tờ lý lịch khai là chồng tôi mất tích, bây giờ tôi phải đối mặt với công an để nói rằng anh đã chết và tôi muốn kiếm bản án tử hình. Họ có túm đầu cả gia đình tôi về tội khai gian không? Nhưng giấc mơ đi Mỹ của cả gia đình đã gần kề, cánh tay cứu vớt của người Mỹ đã đưa ra rất gần rồi, tôi nhất định phải nắm lấy. Tôi phải vượt qua mọi gian nan vì tương lai của các con. Tôi gom góp cây trái trong vườn đem bán, kiếm đủ tiền mua cái vé xe lên Sài Gòn rồi ghé ở nhờ nhà anh chị. Chị tôi trao cho tôi tấm giấy ghi rõ địa chỉ nơi tôi cần đến, cho tôi mượn bồ đồ tươm tất nhất để mặc, nhưng chị cũng lo ăn từng bữa nên chỉ giúp tôi được tới đó. Tôi cầu cứu cậu em út lúc đó mới tốt nghiệp Sư Phạm, có vợ vừa sinh con nhỏ. Hai vợ chồng vét tất cả gia tài phòng thân đưa cho tôi mượn hai trăm ngàn, lúc đó mua được gần một chỉ vàng. Buổi sáng ngày tốt mà tôi đã chọn, cậu em chở tôi bằng xe Honda tới trước Tòa Án Quân Khu 7. Trời còn sớm, con đường còn vắng vẻ, cậu Sáu ngừng xe rồi quay lại nhìn tôi, lặng lẽ. Ánh mắt cậu nửa như khuyến khích, nửa như lo lắng, thương cảm khiến tôi mủi lòng muốn khóc. Nhưng tôi gom hết can đảm, lấy giọng bình tĩnh, “Sáu đậu ngay đây, rồ máy sẵn nghe. Có chuyện gì chị phóng lên xe, mình chạy liền nghe.” Cậu em gật đầu, “Em biết rồi, chị cứ vô đi. Ráng cẩn thận!” Tôi xuống xe, thò tay soát lại cuộn tiền dấu trong túi nhỏ ở lưng quần, rồi mím môi bước tới. Khúc sân xi măng dẫn tới căn nhà nhỏ có tấm bảng đề “Trạm Tiếp Dân” chỉ có mấy thước ngang mà tôi thấy quá dài. Chân tôi ríu lại, tim tôi đập dồn dập, tôi không ngừng van vái, “Anh ơi, phù hộ cho em!” Tôi là người khách đầu tiên trong ngày, cả căn phòng còn trống không, chỉ có một người công an còn rất trẻ ngồi ở cái bàn nhỏ ngay gần cửa vào. Thấy tôi, hắn hất hàm, “Cần gì?” Tôi đưa bản sao tờ Trích Lục Án Hình ra rồi lấy giọng nhỏ nhẹ nhất, “Chào chú, tôi muốn xin bản sao của toàn bộ bản án này.” “Xin để bổ túc giấy tờ đi H.O, phải không?” “Dạ… Dạ phải. Chú làm ơn giúp dùm!” Tên công an săm soi ngày tháng trên tờ giấy rồi nói, “Vụ này từ năm 1976, giấy tờ đem ra Hà Nội hết rồi.” Tôi liếc nhìn quanh, rồi rút nhanh cuộn giấy bạc nhét vào tay hắn và nài nỉ, “Chú làm ơn hỏi dùm tôi…” Tên công an đút lẹ tiền vào túi, suy nghĩ một chút rồi nói, “Được rồi, để tôi cố tìm. Hai tuần sau chị trở lại.” Tôi vừa cám ơn hắn vừa lùi ra cửa. Mười bốn đêm tôi trằn trọc vì lo lắng. Lỡ mà tên công an đó trốn luôn, lỡ mà bản án không còn, lỡ mà công an đòi thêm tiền… Hàng chục cái “lỡ” hiện ra trong đầu làm cho tóc tôi thêm bạc, mặt tôi thêm hốc hác. Đúng hai tuần, tôi trở lại ngay lúc Toà Án vừa mở cửa. Tim tôi nhảy bình bịch khi thấy tên công an trẻ hôm trước, hắn lôi ra trong ngăn kéo ra một phong bì, đưa cho tôi với một nụ cười thoáng trong ánh mắt nhưng chỉ nói cụt ngủn, “Đây.” Tôi chụp lấy, miệng líu ríu cám ơn hắn, chân vọt nhanh ra cửa. Mới thấy mặt cậu em, tôi run run lôi ra ba tờ giấy từ trong bao thư ra và nói líu lưỡi, “Có rồi, có rồi, Sáu ơi!” Tờ đầu là lý lịch của chồng tôi, tờ thứ hai ghi lại diễn tiến trốn trại của anh, và tờ cuối kết thúc bằng giòng chữ: Xử phạt: TRẦN VĂN BÉ Tử Hình Nước mắt tôi lúc đó mới tuôn ra và lòng tôi lại đau như cắt trước cái trớ trêu của đời tôi: bản án tử hình với những lời chửi chồng tôi là “ác ôn, phản động” cũng là tờ giấy để cứu mẹ con tôi. ** Tôi sao lại bản án để gởi lên Sở Ngoại Vụ, còn bản chính tôi cất vào chiếc hộp sắt chung với tờ giấy Trích Lục Án Hình tôi đã nhận năm xưa. Những đêm mất ngủ tôi lại lấy bản án ra đọc, và tôi đã thuộc từng câu trong đoạn diễn tả những điều xảy ra khi anh vượt trại. “… Hồi 11 giờ 30 ngày 5 tháng 3, 1976, Bé đã chui rào trốn ra tới Quốc Lộ 1 và thuê xe lam chạy đến khu vực ấp Bắc Hải. Đến đây nghe thấy tiếng súng nổ ở phía sau, Bé liền xuống xe chạy vào nghĩa địa lẩn trốn. Lúc 18 giờ ngày 5 tháng 3, 1976 Bé chạy tới xã Tân Hiệp – Biên Hòa trà trộn trong nhân dân… Đã có sự bố trí từ trước, nhân dân và chính quyền địa phương đã bắt Bé.” Như vậy là anh đã lẩn trốn hơn sáu tiếng đồng hồ, từ trưa tới chiều ngày 5 tháng 3, 1976. Lòng tôi đau như cắt khi nghĩ đến lúc anh bơ vơ ở Biên Hòa, vùng đất miền Nam quê hương, nơi rất thân quen nhưng lúc đó đã trở thành xa lạ, đầy cạm bẫy trong móng vuốt kẻ thù. Trời ơi! Chúng đã bao vây anh ở Tân Hiệp ra sao? Anh có hoảng hốt, tuyệt vọng không? Anh có bị đánh đập nhiều không? Rồi trong hơn một tháng từ ngày 5 tháng 3 cho tới 10 tháng 4, 1976, anh đã bị hành hạ tới mức nào? Những ngày nóng như lửa nằm trong connex, anh đã đau đớn, đói khát tới bao nhiêu? Những đêm dài khủng khiếp anh đã nghĩ gì? Anh có nhớ vợ con nhiều không? Anh có lời gì muốn nói với với chúng tôi không? Óc tôi bưng bưng với hàng trăm câu hỏi, ruột tôi đau như xát muối khi nghĩ tới những khổ hình anh phải chịu lúc cuối đời. Trong đêm lặng lẽ, nước mắt tôi tuôn ra, chảy ngược xuống ván, ướt đẫm hai bên tóc mai. Và tôi thường thiếp đi với bản án tử hình úp trên ngực… ** Sau khi tôi nộp bản án tử hình lên Sở Ngoại Vụ, hồ sơ được Mỹ chấp thuận nhanh chóng và gia đình tôi được vào danh sách H.O. 14. Nhưng nhà cầm quyền Cộng Sản đâu có để chúng tôi ra đi một cách dễ dàng! Ngày tôi đi lãnh hộ chiếu, một nhân viên Sở Ngoại Vụ cau có nói, “Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa đã bỏ tiền ra đào tạo nuôi dạy các con của chị, nay các con chị lại ra đi, không phục vụ cho Đảng và nhà nước. Chị phải đền lại tất cả số tiền mà nhà nước đã bỏ ra. Chị đi về đi, khi nào trả tiền xong cho nhà trường, cầm biên lai lên đây thì sẽ được lãnh hộ chiếu.” Tôi lại ra về với nỗi lo thắt thẻo ruột gan. Trong tay tôi không có tới vài chục ngàn mà họ đòi bồi thường tiền triệu! Chạy xuôi chạy ngược hết mọi nơi, suy nghĩ nát đầu óc, cuối cùng tôi lại phải về cầu cứu mẹ ruột của tôi. Bà suy nghĩ trắng một đêm rồi quyết định cắt một phần đất vườn nhà đưa cho tôi, coi như chia gia tài, mặc dù mẹ tôi còn sống. Tôi rớt nước mắt vì thương mẹ và tủi thân mình. Từ nhỏ cha mẹ nuôi tôi ăn học, lớn lên làm cô giáo lương bổng ít oi, lấy chồng quân nhân, “tiền lính, tính liền” nên tôi chưa bao giờ có cơ hội báo hiếu cha mẹ. Rồi cuộc đổi đời làm tôi góa bụa, một nách sáu con thơ, sống được tới giờ cũng nhờ cha mẹ nhịn ăn mà bao bọc. Nay ba tôi đã khuất, các con tôi đã lớn, vậy mà lúc ngặt nghèo cũng lại là mẹ già phải hy sinh. Tôi vừa khóc vừa rao bán phần đất mẹ cho. Người ta biết tôi cần tiền nên ép giá, chỉ trả hơn một cây vàng. Tôi đem đền trường học gần hết, phần còn lại không đủ để đi xe lên xuống Sài Gòn phỏng vấn và khám sức khỏe nên tôi lại phải mượn em trai tôi. Rồi cái ngày mong đợi cũng tới. Ngày 20 tháng Mười Một, 1992, chúng tôi ra phi trường với một cái va li duy nhất chứa hành lý của cả gia đình sáu người. Mỗi đứa con tôi chỉ có một bộ quần áo trên người và một bộ đem theo, chỉ có tôi là được sắm một cái áo lạnh còn lại thì đành tới đâu hay tới đó. Tôi ôm trên tay tài sản quý nhất, đó là cái bao thư lớn đựng di ảnh của chồng tôi, một vài tấm hình thời chúng tôi yêu nhau, và bản án tử hình. Máy bay cất cánh, tôi nhìn qua cửa sổ thấy Sài Gòn thu nhỏ dần mà nghẹn ngào. Cuối cùng, các con tôi đã thoát ra khỏi cái ngục tù bao la của nhà cầm quyền Việt Nam. Lần đầu tiên từ sau tháng Tư, 1975, tôi cảm thấy bình an. Anh ơi, em đã lo được cho các con như lời anh dặn dò lần cuối. Cái chết đau đớn của anh và nước mắt, mồ hôi của em đã mở đường cho các con đi đến một tương lai tươi sáng. Anh đang mỉm cười, phải không anh? /?d=n Khôi An
|
|