|
Post by Cửu Long Giang on Jun 13, 2019 9:38:02 GMT 9
Bạn Tù Sơn La Bài của Phan lạc Phúc
Trời Sydney năm nay lạnh hơn mọi năm. Đêm đông buốt giá, phải trở dậy kiếm cái heater. Mở đèn lên, nhìn ra ngoài vườn, sương đêm đã đọng thành một màn băng mỏng. Nhìn màn băng mỏng trên sân, ký ức tôi bỗng trở về cái lạnh buốt xương năm 1976, khi tù cải tạo miền Nam năm đầu tiên ra Bắc. Tụi tôi được "chiếu cố" cho ở Sơn La, địa danh nổi tiếng "Nước Sơn La, ma Vạn Bú". "Sơn La âm u, núi khuất trong sương mù". Tù cải tạo thuộc trại 1, liên trại 2 được phân ra ở trong trại tù Sơn La thời Pháp thuộc. Sau nhiều cuộc biến thiên, nhất là sau vụ ném bom miền Bắc, các trại tù này đã đổ nát, chỉ còn lại cái nền xi măng. Nhà tù đã đổ bây giờ được che tạm bằng ni lông, hoặc lợp bằng tranh mỏng. Sơn La là miền cao nên lạnh sớm. Mới tháng 11 gió bấc đã lồng lộng thổi về. Đến cuối tháng 12, lạnh vào cao điểm... Chậu nước để ngoài sân, qua đêm đã đọng thành băng mỏng bên trên.
Tù thì nóng cũng khổ, lạnh cũng khổ. Nhưng nóng thì đôi khi còn trốn được. Tạt vào một lùm cây hoặc là tạm ngâm mình xuống ao, xuống suối. Còn lạnh thì không trốn vào đâu được, nó theo mình suốt ngày, suốt đêm. Nhất là anh em trong Nam ra cứ yên trí là "học tập một tháng", nên quần áo đem đi làm gì nhiều cho nặng. Ra ngoài Bắc đụng cái buốt giá của mùa đông thượng du miền Bắc, thêm mưa phùn ẩm ướt nên cái lạnh lại càng thấm thía. Ban đêm cái nền xi măng trong nhà tù nó lạnh như nước đá, mặc đủ thứ áo quần hiện có mà vẫn lạnh, mặc cả áo mưa đi ngủ, có anh chui vào một cái bao tải vừa kiếm được mà vẫn cứ run. Hóa ra cái lạnh ở ngoài vào thì ít mà cái lạnh ở trong ra thì nhiều. Cái lạnh vì đói cơm nhiều hơn cái lạnh vì thiếu áo.
Hồi đó nằm cạnh bên tôi là hai người bạn tù cùng trong đội rau... Một ông nguyên là dân Thiết Giáp, một ông nguyên là Thượng Tọa (giám đốc nha Tuyên Úy Phật giáo). Ông Thiết Giáp trước đây vốn là một tay hào hoa rất mực. Ông thuộc loại "Tây con", học trường danh tiếng Saumur, đánh giặc rất chì, ăn chơi rất bảnh... Đôi lần tâm sự vụn, ổng rút trong ngực áo ra có tấm ví có hình một bà rất đẹp, rất mignonne mà khẽ nói "bà xã moi". Đôi mắt đục và nhăn vì đói lạnh của ông chợt sáng lên khi nhìn lại hình ảnh vợ. Mới đây ổng vừa nhận được một gói quà 1kg đầu tiên từ trong Nam gửi ra. Ông hy vọng lắm vì có người nhận được ít thịt khô, ít ruốc chà bông. Gói quà của ông, xem đi xem lại mãi chỉ có một cái áo lạnh và đặc biệt có hai cái quần slip màu hồng nhạt, chắc là của phái nữ. Tôi không tiện tò mò, hỏi han về việc riêng của bạn nhưng tôi chắc bà xã của bạn phải yêu thương lắm, phải lãng mạn lắm mới gửi món quà để "tưởng nhớ một mùi hương" như vậỵ. Đôi khi rảnh rỗi, ông bạn tù hàng xóm của tôi lại khẽ giở món quà đặc biệt ra hồi tưởng...
Trước đây ông bạn tôi thường hút Lucky. Đi cải tạo ông mang theo một cái pipe Dunhill và vài hộp thuốc Half and Half. Nhưng đã lâu rồi hết thuốc hút pipe, ổng cũng như mọi người khác hút thuốc lào. Quá nửa đời người rồi mới biết cái hấp dẫn của thuốc lào. Nhất là mùa rét, sáng sớm tinh mơ ngồi dậy, hút một điếu đầu tiên trong ngày, cho nó say lơ mơ quên trời, quên đất, quên cảnh lên voi xuống chó, quên luôn cảnh lưu đày tù tội. Ôi phút tuyệt vờị…Thuốc lào hấp dẫn như vậy nên trong tù đã có thành ngữ "Có thuốc lào là có tất cả". Nhưng ở miền Bắc cái cần thiết nhất là gạo, ăn còn không đủ thì lấy đâu ra thuốc lào cho tù. Đành trông chờ vào quà của gia đình gửi tới. Nhưng trong những chuyến gửi quà đầu tiên, có mấy ai được nhận thuốc lào. Thuốc lào thành của hiếm... Ở trong tù cái gì thiếu cũng chấp nhận được, nhưng thiếu thuốc lào là một thiếu thốn rất lớn lao. Thuốc lào không những làm quên hiện tại mà thuốc lào còn là dấu móc để người tù cải tạo thêm kiên nhẫn đi tiếp cuộc đời tù dằng dặc. Trong trại không có ai có quyền đeo đồng hồ. Phải gửi đồng hồ cũng như những đồ tùy thân có giá ở trại. Ngày ngày đi làm, cuộc sống khổ sai nhọc nhằn, đời tù hun hút, thời gian mịt mờ.
Trong khi đó quy định của trại giam cứ một tiếng rưỡi đồng hồ lao động là có "kẻng" nghỉ 10 phút "hút thuốc, uống nước". Điếu thuốc lào ở trên một cái đích gần gũi để người tù vươn tới, một đoạn đường dù ngắn nhưng sắp đến nơi. Nó cũng là một an ủi nhỏ sau hơn một giờ cực nhọc. Vì vậy nên dù khó kiếm, dù đắt đỏ, cũng không ai muốn bỏ thuốc lào. Những tay có thuốc lào thấy vậy nên càng ngày càng lên giá. Một phần ăn sáng (một phần tư chiếc bánh mì luộc) trước đổi được 5 điếu thuốc lào, sau xuống giá còn 3, rồi còn 2 điếu... Người ta sẵn sàng quên đi cái đói để đổi lấy một vài phút say quên.
Anh bạn tù hàng xóm của tôi, nghiền thuốc lào quá nặng, rét đến nơi mà không thuốc hút. Anh liền lấy cái pipe Dunhill nổi tiếng của Ăng lê ra đổi thuốc lào. Được chừng 10 hôm là hết thuốc. Có người mách lấy lá ngải cứu phơi khô thái nhỏ hút vô nghe được lắm. Anh bạn tôi nghe lời, phơi đi phơi lại lá ngải cứu trộn thêm với nước điếu và một chút nước mắm, một chút đường. Hôm hoàn thành thuốc lào ngải cứu, anh có mời tôi hút thử, cũng thấy say say nhưng không êm bằng thuốc lào, mà rát cổ họng. Ông bạn tù Thượng tọa mới bảo rằng không nên hút cái giống ấy, hao người, hao phổi. Nhưng anh bạn tôi thèm thuốc quá cứ hút thuốc ngải cứu cho đỡ thèm. Một hôm, vừa hút xong, chưa kịp đặt cái điếu cày xuống, máu mũi anh đã chảy ròng ròng.,..
Mùa đông đầu tiên ngoài Bắc, anh bạn tù hào hoa một thuở của tôi vừa đói, vừa lạnh, vừa thèm thuốc. Theo anh thì mùa lạnh ở VN khó chịu hơn bên Tây nhiều mà lạnh nhất là hai cái taị "Nhiều khi tôi cứ tưởng hai cái tai lạnh cóng của tôi nó rụng mất rồi". Anh vừa nói, vừa run lập cập. Một buổi tối trời vừa lạnh, vừa mưa, lán lợp giấy nilong, nước mưa giột tí tách, anh bạn tù của tôi chợt có sáng kiến mớị Anh lấy chiếc quần slip của vợ gửi cho chụp lên đầu, kéo sụp xuống tận mí mắt, che kín hai tai. Trong cái chập choạng của một ngọn đèn dầu hỏa, tôi thấy anh "không giống ai", mà trên thế giới này chắc không thể có một cái mũ, cái nón nào ly kỳ đến vậy. Anh nhếch một nụ cười, vừa hài lòng vừa ngượng ngập và khẽ nói: "Cho nó ấm hai cái tai mà đỡ nhớ thương vợ con, ông ạ..."
Dạo ấy, tù cải tạo còn thuộc quyền quân quản, thuộc Bộ quốc phòng, chưa thuộc Bộ nội vụ. Quân đội trông nom tù, chưa phải công an. Anh em chưa phải vào các trại tù mà ở trong các lán, có dây thép gai bao quanh và bộ đội canh gác ở ngoài. Buổi tối chưa có lệ vào phòng giam, xích cửa lại, gióng sắt đưa lên giam tù trong đó suốt đêm, sáng mai mới tháo xích, mở cửa, ăn uống, ỉa đái trong đó luôn như các trại tù công an sau này. Nhưng mỗi tuần vài ba lần thế nào quân đội Vi Xi cũng có kiểm tra đột xuất, mà kiểm tra thường vào ban đêm. Nghe tiếng còi gắt gỏng rít lên là anh em phải vội vàng trở dậy, mắt nhắm mắt mở chạy ra sân đứng xếp hàng 2 để cho cán bộ kiểm soát. Anh "lán trưởng" sau khi kiểm lại số người trong lán, đứng nghiêm báo cáo. - Báo cáo cán bộ, lán 4 trại 1, 30 người đủ. Tên Thượng úy chính trị viên cầm đèn pin, đứng cạnh một anh lính mang AK tùy tùng, hất đầu ra lệnh: - Được, cho vào. Tù hàng hai lần lượt kéo nhau vô lán. Anh bạn tù Thiết Giáp của tôi đang giở thức giở ngủ nên lật đật cứ đội nguyên cái "mũ" không giống ai ra xếp hàng. Khi anh vừa đi qua tên Thượng úy, chợt có tiếng giật giọng: - Anh kia đứng nại. Tất cả anh em vô lán hết, chỉ còn NVP Thiết giáp đứng co ro ngoài cửa. Anh em lắng nghe cuộc đối thoại bên ngoài: - Cái này là cái gì? - Dạ... cái quần... - Ở đâu ra? - Vợ tôi gửi cho tôi. - Tại sao mà anh nại đội cái quần của vợ anh... - Tại trời lạnh quá... mà không có mũ... - À, anh này bôi bác chế độ. Anh tên gì? Mai nên nàm việc...
Tên Thượng úy Vi Xi này anh em trong trại đặt tên là "Thượng úy Không No". Tuần nào sáng thứ Hai, y cũng lên lớp anh em về mọi thứ chuyện trên trời, dưới biển. Nói thì ngọng líu, ngọng lo, l đánh ra n nhưng lúc nào cũng thở ra giọng "đỉnh cao trí tuệ". Một hôm trong đề tài "an tâm học tập, cải tạo" y ta lên tiếng: "Các anh không no, gia đình các anh không no, nhân dân không no, đã có đảng và nhà nước no". Mọi khi, y ta nói trời trăng mây nước gì, tù cũng cứ ậm ừ, coi như gác bỏ ngoài tai. Bữa ấy, khi vừa nghe y nói tới đó, đám bạn tù cải tạo bỗng phát lên một trận cười rầm rĩ cũng với tiếng vỗ tay vang dậy. Y ta tưởng bở, lại càng đỏ mặt tía tai lên mà nói tiếp....
Nhưng sau này không biết có tên "thối mồm" nào đó mới lý giải cái cười rôm rả và tiếng vỗ tay không ngớt của tù cải tạo cho y. Y ta giận lắm. Giận lắm nên y hành hạ anh em tù sát ván. Một anh bạn tù đói quá, nhổ trộm khoai mì (sắn) mọc trên sườn non. Trước đây, cái tội như thế này chỉ bị cảnh cáo trước đội, rồi viết kiểm điểm "rút kinh nghiệm" là xong. Kỳ này, chính trị viên "Không no" liền nhốt anh bạn nhổ trộm sắn 1 tuần vào trong cái cũi dây thép gai, một kỳ công của đỉnh cao trí tuệ. Đây là một túp lều, nhưng một túp lều quây bằng dây kẽm gai. Không có tường mái, chỉ có một tấm bạt được coi như mái lềụ Ở trong dây thép gai quấn ngang dọc, chằng chịt cao thấp. Người vô ở trong đó phải cẩn thận lắm không thì bị gai cào rách lưng, rách mặt, đặc biệt là ngồi không được vì thấp quá, nằm cũng không được vì không đủ chỗ. Lúc nào cũng phải nửa nằm, nửa ngồi cứ lom khom, lom khom...
Chính trong thời điểm này anh bạn tù Thiết Giáp của tôi lên gặp "y ta làm việc". Khi về NVT mặt mũi chảy dài. Anh cho hay là cán bộ "không no" tuyên bố không cho anh đội cái mũ "thiếu văn hóa" ấy nữa. Anh phải làm kiểm điểm "hứa trước đảng và nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh lệnh của cán bộ". Buổi tối, bên ngọn đèn dầu tuôn khói mịt mù, anh bạn thiết giáp của tôi thở phào phào ngồi viết kiểm điểm, vừa viết vừa run vì đói lạnh, vì không có cái mũ che tai... Chợt ông bạn hàng xóm bên phải của tôi là Thượng tọa Thích Thanh Long (nguyên giám đốc nha tuyên úy Phật giáo) từ từ lên tiếng: - Đừng có lo, rồi đâu có đó... Nói xong, ông khẽ lục trong đám quần áo của ông lấy ra một tấm áo nâu dài, tấm áo "Thượng tọa" của ông mà đưa cho ông Thiết Giáp. - Hãy cứ quấn cái áo này lên đầu cho ấm... Rồi ta tính...
Chúng tôi, ông Thượng tọa, ông Thiết Giáp, và tôi, là 3 người trong số 1 tổ "tam tam" trong đội rau. Ba người chúng tôi phụ trách một khu rau ở bên bờ suối, cạnh bệnh xá và khu B dưới gốc cây lim già... Chúng tôi cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm... nên hiểu nhau nhiều lắm. Được làm với ông già này là một điều may mắn lớn. Vì ông Thiết Giáp với tôi, từ xưa đến giờ đâu có biết cày cuốc, trồng rau trồng củ ra làm sao đâu. Ông già Thượng tọa chỉ vẽ cho chúng tôi hết thảy. Từ cách cầm cái cuốc, cái thế đứng khi cuốc phải như thế nào? Cuốc hùng hục "như trâu đánh mả" như tôi là không được. Cuốc như thế là "cuốc lật" dành cho việc cuốc ruộng, cuốc vườn. Ở đây trồng rau thì cuốc phải "đầm", nhẹ nhàng, từ tốn như mưa dầm, mưa lâu thấm đất. Cuốc hùng hục như tôi thì sức đâu mà cuốc cả ngày cả buổi. Ông cụ còn chỉ cách sử dụng các loại cuốc thật nhỏ, chỉ lớn hơn cái bay thợ nề một chút thôi. Rồi còn ủ phân, pha nước tiểu, tưới bón, trồng trọt... Mỗi loại rau, mỗi thời kỳ đều tưới bón khác nhau, lúc nhỏ tưới bón khác, lúc lớn phải bón thúc lại khác. Bây giờ chúng tôi đang trồng rau cải ngồn ngộn, những trái su hào no tròn... Đi tưới nước giữa hai hàng cây cải tốt tươi, tiếng vòi nước hoa sen dội vào lá cải nghe rào rào, ông cụ ung dung làm việc, thần thái an nhiên. Ngoại cảnh hình như không ảnh hưởng được đến ông cụ. Ông giống như một ông già nhà quê thuần hậu, quanh quẩn bên cây lá trong vườn. Ông hình như không lo, không sợ cái gì. Ông nói ít, cái câu thường thấy ở ông cụ là: "Đừng có lo, rồi đâu có đó"...
Để cho cái việc của ông bạn Thiết Giáp "đâu có đó" đối phó với anh thượng úy "không no", ông cụ Thanh Long một ngày chủ nhật sau đó liền cắt cái vạt áo dài nâu "Thượng tọa" của ông lấy vải may cho ông bạn Thiết Giáp một cái mũ đội đầu. Bàn tay già nua run rẩy (năm ấy 1976 ông cụ đã 63 tuổi) đường kim mũi chỉ cũng thô sơ vụng về nhưng ông bạn Thiết Giáp đón nhận cái mũ mà rưng rưng xúc động. Ông cụ đã cắt chiếc đạo y ra may mũ. Ai cũng tiếc chiếc áo dài theo ông cụ đã lâu, chắc mang nhiều kỷ niệm tu hành của một vị cao tăng, nhưng ông cụ chỉ cười xòa mà nói: "Thì nó cũng chỉ là cái áo..."
Đã lâu lắm rồi, người địa phương ở Sơn La nói vậy, mới có năm quá lạnh như năm nay. Đúng là "giậu đổ bìm leo", vào cái lúc mà tù cải tạo ra Bắc, lại đụng ngay một trận rét kinh hồn... Mà xưa nay cái lạnh và cái đói có nó có liên hệ "hữu cơ" với nhau. Càng đói thì càng rét - mà càng rét thì càng đói. Anh em ta đã có người "nằm xuống" vì đói lạnh. Vũ Văn Sâm (viết văn, làm nhạc) chết đêm 16 rạng 17 tháng 11 năm 1976 bên bịnh xá, sau cơn gió mùa đông bắc đầu tiên. Đến đầu tháng giêng 1977 (không rõ là ngày 3 hay 13 tháng giêng, tôi nhớ không được kỹ lắm) Ngô Quý Thuyết tòa án quân sự vùng 4 cũng đi luôn, đi rất êm đềm, rất lặng lẽ. Sáng ra không thấy anh ta dậy nữa, lay chân gọi dậy thì người đã lạnh cứng từ lúc nào rồi. Trong tờ khai của đội trưởng đội của anh NQ Thuyết, có nói rằng "Anh NQ Thuyết được đội cử nuôi heo, anh đói quá nên thường ăn vụng cám heo. Chắc là bị ngộ độc nên đã chết".
Ở xứ thượng du này có cái rất sẵn là đá và cỏ. Những bữa trời quang mây tạnh, trèo lên núi kiếm lá về ủ phân, thấy bát ngát toàn núi là núi. Những chỏm núi gần xa, chập chùng ngút mắt trông giống y như một màng lưới bao la mà mỗi ngọn núi là một mắt lưới. Sơn la: lưới núi. Hay thật, đúng y như thế thật. Tù mà ở trong cái lưới núi này thì chạy đi đâu cho thoát. Vì nhiều núi nên có nhiều loại đá. Một bạn tù trẻ tuổi ở khu B bên cạnh, Vũ Xuân Th. tay biệt kích dù mũ xanh kiệt hiệt có khá nhiều tài: đóng ciné, điêu khắc, vẽ, đánh bóng chuyền có hạng, mưu sinh kỳ tài... Bây giờ Vũ Xuân Th. kiếm ăn lần hồi những khi rảnh rỗi bằng cách chọn đá marble về gọt thành nõ điếu hút thuốc lào. Nõ điếu made in Vũ Xuân Th. thì khỏi nói, vừa đẹp vừa có khắc hoa, khắc chữ (theo yêu cầu) vừa kêu ròn rã không thể tả. Giá rẻ thôi: một ký sắn hay 2 cục đường tán 1 cái. Tôi và Vũ Xuân Th. là chỗ "bồ tèo" nên Vũ Xuân Th. có tặng một cái nõ điếu tuyệt vời: rất kêu (cái này là dĩ nhiên rồi) mặt trước có khắc nổi hình một con diều hâu đậu trên cành thông, một bên là một đóa hoa hồng, một bên nữa là khắc năm tháng... Khi đem tặng cái nõ điếu, Vũ Xuân Th. mới "bốc láo" rằng: "Một đóa hồng cho đại bàng cô đơn đây". "Đại bàng đại biếc gì nữa ông ơi, đáng lẽ ông phải khắc một con quạ già mắc bẫy".
Trong khi đó ông bạn già Thượng tọa của tôi cũng đi kiếm đâu được mấy mảnh đá dài dài. Lúc nào rỗi rãi lại thấy ông cụ ra bờ suối mài mài, đục đục.... Một hôm tôi thấy trong lều dụng cụ của tổ rau tụi tôi, hình dạng hai tấm bia đá thô sơ có khắc tên Vũ Văn Sâm, mất ngàỵ.., Ngô Quý Thuyết mất ngàỵ.. Tôi nhấc tấm mộ bia lên, nhìn ông cụ. Ông cụ ngó mông ra khoảng rừng núi chập chùng mà nói: "Thì cũng mong đánh dấu được vài nắm xương tàn."
Một sáng mùa đông vào khoảng nửa buổi, tôi đang lặc lè 2 thùng "ô doa" (arrosoir) tưới nốt cho khoảng vườn rau trước mặt, gần nhà bếp khu B thì bỗng có tiếng gọi khe khẽ, khẩn trương: - Này, nàỵ - Ai đấy? - Vũ Xuân Th. đây. - Làm gì đấỷ - Bữa này làm "chảo trưởng". Thổi cơm nhà bếp. Ăn cháy không?
Tại sao mà bạn ta hôm nay lại hỏi một câu "thừa thãi" như thế nhỉ. Tôi và Vũ Xuân Th. đều là dân "volley". Tôi thì già rồi còn Th. thì đang sức. Trong làng "bóng chuyền" tụi tôi, mỗi khi mà cây nêu lỡ tay nêu sang lưới bên kia thì dân bóng chuyền kêu bằng "cơm nắm cho tù", nghĩa là đối phương được biếu không một trái banh ngon lắm, bổ lắm, chắc ăn lắm, ít khi có lắm. Bây giờ chúng ta là tù "chính cống bà lang trọc" rồi, đói lòi xương, vàng mắt mà lại còn hỏi "có ăn cháy không?". Chừng như nhận ra sự vô duyên của mình, Vũ Xuân Th. vội nói: - Chạy ra góc vườn lấy mảnh lá chuối lại đâỵ - Có ngay. Sau đó từ cái lỗ mắt cáo của hàng rào nhà bếp khu B, qua đám lá duối và dây leo bìm bìm, tôi nhận được từ bạn ta Vũ Xuân Th. một cái gói lá chuối âm ấm, nóng nóng. Để ngay cái gói này áp sát vào bụng, mà đi về dưới gốc lim già bên bờ suối, nơi cái lều nhỏ của tiểu tổ chúng tôi.. Ôi chao, cái làn da bụng lép kẹp của tôi đang được sưởi ấm, đang được phỉnh nịnh. Cái may mắn này ít khi có lắm. Tôi phi về như bay. "Tây con" Thiết Giáp thấy tôi mặt mày tươi rói liền ngẩng đầu lên hỏi: - Cái gì mà hí hửng thế? Tôi bước vô lều, nhìn trước nhìn sau, rút từ trong bụng ra gói lá chuối còn tươm khóị Mở ra, miếng cháy vàng rộm, nóng hổi, đang bốc hơi. "Tây con" sáng mắt ra, vội hỏi: - Ở đâu ra thế? Tôi chỉ sang khu B mà khẽ nói: - Bạn vừa cho... Tôi để phần ông cụ một miếng, ông cụ đang bận tay ngoài chỗ "cây giống". "Tây con" và tôi chia nhau miếng cháy nóng, vừa ăn rau ráu vừa hít hà. Từ sáng đến giờ, mỗi đứa chúng tôi xách ít ra cũng hàng trăm đôi nước, chân tay, mình mẩy rã rời, bởi vì buổi sáng có cái gì vào bụng đâu. Dạo này hết bột mì cứu trợ rồi. Cái gọi là "bữa sáng" chỉ là một chén cháo bột khoai mì loãng đầy mùi hôi mốc. Không ra đâu vào đâu. Mùa lạnh nước suối cạn, phải lần xuống dưới lòng suối mới múc được nước. Leo lên bao bậc đá trơn, tay xách đôi thùng tưới, miệng thở dốc, sức cứ oải dần, tay chân càng lúc càng nặng trĩu, nhấc không muốn nổi. Trời thì lạnh và ẩm. Cái rét thượng du miền Bắc rất thấm, rất sâụ Người Bắc kêu bằng rét ngọt. "Cái ngọt nó lọt tận xương", lại thêm xách nước nên áo quần thấm nước suối. Cái lạnh bên ngoài cái đói bên trong nó hành mình tơi tả. Đang khi sức cùng lực kiệt, đầu váng mắt hoa như thế thì có miếng cháy nóng này…"Ôi món quà từ trên trời rơi xuống". Chưa có món bánh mì nào trên thế giới có thể sánh được với miếng cháy.
Ông cụ ăn từ tốn, không có ào ào như tụi tôi. Ông cụ làm còn nhiều, còn mạnh hơn tụi tôi nữa mà hình như ông già không thấy mệt mỏị Lúc nào cũng nhẩn nha, lững thững mà việc gì cũng xong. Ông cụ vẫn nói "từ lúc nhỏ đi tu ở nhà chùa.... thì tôi vẫn làm lụng như thế này, cũng dưa cà như thế này... chỉ tội nghiệp các ông..." Ông cụ chỉ vẽ cho chúng tôi cách làm vườn, trồng cây, bón tướị.. Những công việc gì khó khăn, vất vả ông cụ giành lấy mà làm. Như cái món lấy phân bắc (phân người) về ủ, ông cụ cũng tự tay làm lấy. Hôm nay, sau khi ăn miếng cháy xong, ông cụ khẽ nheo mắt, tay giơ một nhúm thuốc lào mà nói "hút đi". Thuốc lào thật, dẻo quánh, thơm nồng, đâu phải thuốc lào "ngải cứu" hay thuốc lào "lá cải khô". - Hút luôn hở cụ. Hay là xái nhì, xái ba? - Hút luôn đi.
Trong cái lúc thuốc lào khan hiếm như lúc này, nếu có thuốc lào thật, đâu có dám hút luôn cả điếu. Phải hút xái nhì, có khi xái ba, tức là một điếu thuốc mà hút 2 hay 3 người. Người thứ nhất châm lửa, rít một hơi, người thứ 2 rít một hơi, rồi người thứ 3 hơi cuối cùng. Người nào mà được hút cuối cùng là "đặc biệt", vì được hưởng cái hậu, được rít kêu lóc cóc... Hôm nay, trúng số rồi. Vừa được ăn "bữa lỡ", lại có thuốc lào thật rít thẳng tay. Tôi hút xong điếu thuốc lào mà say lừ đừ. Từ mấy bữa nay, hôm nay mới có thuốc lào thật. Còn toàn hút thuốc lào "lá cải già tẩm nước điếu phơi khô". Ăn xong, hút xong thấy đời sáng láng, phơi phớị Tôi liền tà tà đi ra gần chỗ nhà bếp, đằng hắng lấy giọng mà thưa với bạn ta rằng: "Tương phùng được buổi hôm naỵ.. Trùng phùng lại nhớ giờ này hôm sau". Tôi nghe thấy tiếng cười rinh rích rồi Vũ Xuân Th. vừa cười, vừa nói vọng ra: - Được rồi, hiểu rồi.. ông nội ... Cứ khoảng giờ này ngày mai ông lại tới đâỵ.. Nhưng mà khéo léo đấy nhá.
Thế là cứ vào khoảng nửa buổi, 9 giờ rưỡi mười giờ sáng những ngày sau đó, mỗi khi thấy bạn tôi "chảo trưởng" ra cơm, tiếng xẻng khua xuống chảo gang kêu xoèn xoẹt, là tôi lại lững thững giả vờ bắt sâu bọ, bên bụi ruối.. rồi lĩnh từ tay bạn ta một gói cháy vừa chín tới mang về...
Nhưng cái thời gian "bồi dưỡng" này không được bao lâu. Chừng hơn nửa tháng sau, bạn tôi Vũ Xuân Th. đã rời khỏi nhà bếp, ra làm công việc khác. Nguồn tiếp tế của tụi tôi bị cắt. "Phúc bất trùng lai họa vô đơn chí", bạn Thiết Giáp NVP của tụi tôi cũng điều sang đội chăn nuôi. Cái khu rau này, thượng úy "không no" tuyên bố: "Chỉ cần 2 người cũng đủ. Các anh khắc phục". Công việc 3 người làm trước đây đã "bá thở" bây giờ còn lại có 2 ngườị Ông cụ gần như bao giàn hết công việc cũ của NVP nhưng tôi vẫn phải làm thêm. Nhưng điều đáng phàn nàn là trong thời gian bồi dưỡng vừa qua cái bao tử của tôi nó bắt đầu quen ăn "bữa lỡ" hồi 9, 10 giờ sáng rồi. Bây giờ "ăn quen nhịn không quen" cứ nửa buổi là tôi phờ phạc, đói mịt mờ, cất chân, cất không muốn nổi. Thấy tôi rũ rượi như "gà chết" ông cụ một bữa nhìn tôi rồi chắt lưỡi: "Đừng có lo..." Ông cụ cầm con dao, xách cái bị cói phăng phăng, chừng nửa giờ sau ông cụ về, đặt phịch cái bị vào trong bếp. Trong cái lều nhỏ của tụi tôi, lúc nào bếp cũng cháy lim dim, vừa để đun nước, hút thuốc vừa để sưởi những lúc nghỉ tay… Bây giờ ông cụ quạt lửa lên, lấy mấy củ sắn ở trong bị ra bỏ vào bếp nướng. Ông cụ bảo tôi ra ngoài coi "động tĩnh". Tôi lại bắt đầu mừng vì có đồ ăn, nhưng lại ghê vì tôi biết ông cụ vừa lên trên đồi lấy sắn của trại. Ở các trại tù hoặc các nơi đóng quân của Vi Xi, ở chung quanh thế nào cũng có một số đất đai thống thuộc. Ở vùng đồng bằng hoặc trung du thì trồng lúa, trồng ngô khoai trồng trà, trên thượng du như Sơn La này thì trồng sắn, trồng ngô, trồng mía. Thứ sắn lưu niên để từ năm này sang năm khác, coi như là nguồn lương thực dự trữ. Đây là thứ cây lương thực dễ trồng nhất trong thiên hạ. Nhổ cây sắn lên lấy một chùm củ. Xong rồi cứ cây sắn ấỵ lấy dao chặt một gang tay, phải có ít nhất là 3 mắt. Cuốc một nhát cuốc hay lấy dao đào lên, nhét một cái hom lên trên mặt đất. Cứ thế là chừng năm sau, mỗi cái hom lại thành một cây sắn, lại cho một chùm củ. Đất tốt thì củ lớn, đất xấu thì củ nhỏ. Trong những thứ lương thực ở trại tù miền Bắc, sắn được xếp vào hạng bét. Chỉ tiêu, cân đo, đong, đếm của lương thực là 1 gạo ăn 2 ngô, hay là 3 khoai, hay là 4 sắn. Dù là hạng bét nhưng đối với tù đói nhăn răng, nó vẫn là rất quý. Tù mà động đến sắn, ngôi, khoai của trạị.. là xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa". Nhất là trong khi thượng úy "Không no" cứ như cái bóng ma, lúc ẩn lúc hiện, chuyên môn rình rập theo dõi anh em. Đó là nghề của hắn.
Tôi có một anh bạn cùng khóa, NKB xưa nay tính tình "nhà binh" cho đến tận kẽ răng. "Reglo" số 1, việc làm răng rắc quần áo là ủi thẳng tắp, giầy botte de saut bóng láng, huy chương đeo một dề, xe díp bóng ngời nệm trắng tinh tươm. Đi cải tạo ra Bắc bây giờ bạn tôi, không biết vì không hợp thủy thổ hoặc đói khát ra sao mà răng rụng hết, thành một ông già móm xọm. Nhưng bạn tôi lại thèm đường thèm mật quá. Ở gần khu trại mộc của đội anh có một khu trồng mía. Mía cứ bị bẻ trộm hoài, thượng úy "không no" rình rập mãi mà không bắt được ai. Một bữa, thượng úy thấy thấp thoáng bóng người trong ruộng mía liền nhảy ra bắt giữ. Gặp ông bạn móm xọm của tôi. - Anh vào đây nàm gì? Ăn trộm mía phải không? - Tôi đi kiếm rau "tàu bay", tôi đâu có ăn trộm mía. - Không ăn trộm mía vào đây để làm gì? Anh bạn tôi liền há mồm ra, chỉ vào hai hàng lợi không răng mà phều phào nói: - Tôi đâu còn răng mà ăn mía. Thượng úy "không no" thấy vậy, không còn bắt bẻ vào đâu được nữa nên vùng vằng bỏ đi. Nhưng y ta nhất quyết bắt cho bằng được người ăn cắp mía. Một bữa không biết y ta đến từ bao giờ, cải trang ẩn dạng ra sao mà ông bạn móm của tôi vào chặt một cây mía là bị y ta bắt được ngay tại trận. Y rất bằng lòng về chiến công "bắt trộm" của mình. Bạn tôi quá thiếu chất đường (cũng như hầu hết các tù cải tạo thèm chất ngọt và thèm mỡ) nên thường lén vô ruộng mía, đem dao chặt vội một vài đẫn, nhét vào người mang về. Lấy dao dóc mía, chẻ mía ra từng miếng nhỏ đưa vào miệng không răng mà nhần, mà ngậm. Nó cũng khỏe lên được phần nào. Còn vỏ mía thì phải chôn xuống đất ngoài vườn.
Ngay bữa bắt được kẻ trộm mía, thượng úy "không no" liền biểu diễn quyền uy của mình bằng cách khác; không có giam tội nhân vào cái cũi dây kẽm gai mà y bắt ông bạn không răng của tôi cầm nguyên một cây mía đứng riêng ở ngoài cổng trại. Y ta nói: "Hãy nhìn cho kỹ đi, thượng cấp của các anh đấy". Anh em đi làm về đều thấy ông bạn tù gì, cầm cây mía đứng lom khom, cúi mặt không dám nhìn ai. Ai cũng thương anh.... đồng cảm với anh vì đi tù cải tạo trăm người như một đều phải "cải thiện" cách này, cách khác. Con người "một động vật xã hội", nên "đói là đầu gối phải bò". Thế thôi, chả ai coi thường, chả ai bỉ thử anh đâu. Nhưng tôi biết, bạn tôi vốn trọng phép tắc lễ nghi nên bạn tôi đau lắm. Do vậy nên bây giờ thấy ông bạn già Thượng tọa đi lấy trộm sắn về cho tôi ăn vì tôi thèm quá, đói quá, tôi vẫn cứ ghê ghê trong bụng. Thượng úy "không no" mà bắt được, không biết y ta sẽ hành hạ mình cách nào đây? Nhưng sợ bị bắt là cái lo xa. Còn đói cồn cào ruột gan là cái lo gần. Thế thì ta hãy cứ ăn cái đã. Đang đói bụng mà lại có sắn lùi bếp than thì nhất thế giới rồi. Tôi cứ chạp thẳng cánh. Ông cụ đi lấy sắn, nướng sắn mà ông cụ có ăn bao nhiêu đâu. Tôi ăn phần lớn. Và sau đó cứ vào khoảng 9, 10 giờ sáng, tưới bón xong là ông cụ xách cái bị đi ra. Lúc thì sắn lúc thì khoai, lúc thì củ giong... Tôi cứ có ăn đều đặn.
Bạn "Tây con" Thiết Giáp NVP phải đổi sang đội chăn nuôi, trong cái rủi lại có cái may. Bên ấy có công tác lên rừng đẵn cây chuối hột về cho heo ăn. Được ra ngoài thuộc "diện rộng" đi xa xa, gặp được 'đồng bào nên mới có cơ hội kiếm ăn, đổi chác. Vắng mặt tên quản giáo, len lén đem được một cái quần tây, một cái ao pull, một cái kính, một cái bật lửa... đem "quy ra thóc" lấy xôi, lấy cơm mắm... hoặc 'quy ra thuốc' lấy thuốc lào... đều được cả, thành ra tụi tôi dạo này có vẻ "phong lưu" hơn trước.
Một bữa lấy sắn về ông cụ đang ngồi trong lều, quạt đang đều tay, sắn đã bắt đầu chín bốc mùi thơm ngậy, tôi đã chực sẵn đến giờ ăn, thì bỗng có tiếng động nhẹ đằng sau. Tôi quay lại thì thấy đôi ủng màu đen đã đứng sau lưng tự lúc nào rồi. Tôi chết sững. Thượng úy "không no" đã tới. - Biết ngay mà, cứ vào khoảng 10 giờ nà cái nều này có khóị - Thượng úy "không no" đắc chí. Tôi cứng họng không biết nói năng gì, tâm thần hoảng hốt. Ông già thượng tọa của tôi, khẽ ngước lên, nhìn thượng úy "không no" rồi điềm đạm nói: - Cán bộ thứ cho. Anh em chúng tôi ... đói quá... Giọng nói ông bình tĩnh, người ông vẫn ngồi vững vàng, cái tay quạt sắn vẫn đều đặn không thay đổi, không cuống quýt, mà cũng không ngừng nghỉ. - Như thế này là nâu rồi đấy nhá. Không phải chỉ một hôm nay mà thôi đâu? Thượng úy "không no" vừa nói vừa quay ra xem xét, kiểm soát căn lều. Chợt y thấy hai cái mộ bia mà ông già Thượng tọa của tôi mới đục xong còn để đó. "Vũ Văn Sâm mất ngàỵ..", "Ngô Quý Thuyết mất ngàỵ..." Y đọc mộ bia xong nhìn chúng tôi, một anh tù già tóc bạc phơ, một anh tù trung niên xác xơ ốm đói. Hình như có một suy nghĩ gì đó thoáng qua, nên nét mặt y có vẻ đắn đo, xong rồi y lững thững đi ra mà nói: - Sau không được thế nữa nhá. Ninh tinh.
...Cho đến bây giờ không biết vì lý do nào mà tên thượng úy hầm hừ ấy đã bỏ qua cho chúng tôi. Có thể vì những tấm mộ bia, nghĩ đến những người anh em xấu số của chúng tôi đã chết vì đói lạnh... hoặc là phong thái "đại hùng, đại lực, đại từ bi" của con nhà Phật trong phút giây nào đó đã khơi dậy được "chút tính người còn sót lại" trong y ?
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 13, 2019 9:39:40 GMT 9
Lon GUIGOZ Hành Trang Của Người Tù Cải Tạo Hoàng Chương
Không biết vô tình hay hữu ý mà trong hành trang lên đường của tôi có chiếc lon guigoz. Guigoz là lon sữa bột của nước Hòa Lan sản xuất. Hầu hết trước năm 1975, con cái của công chức, quân nhân và gia đình khá giả đều uống loại sữa này. Vợ tôi để dành những cái lon không để đựng những đồ gia vị gồm bột ngọt, tiêu, đường, muối, mỡ… vì vừa nhẹ, vừa sạch và vừa kín. Khi đậy nắp lại không có con kiến nhỏ nào chui lọt. Trong “ba – lô” (túi sách nhà binh) đi tù học tập cải tạo của tôi có đến hai chiếc lon guigoz. Một cái đựng bàn chải đánh răng và kem súc miệng. Còn cái kia đựng thuốc ngừa sốt rét, thuốc đau bụng và hai chai dầu gió. Đó là những việc mà vợ tôi lo xa.. Ngày 27 tháng 6 năm 1975 là ngày tôi đến trường nữ Trung Học Gia Long, đường Phan Thanh Giản, Quận 3, Sài Gòn, trình diện. Sau mấy tháng không làm việc gì nặng nhọc, khi mang ba – lô trên vai đi bộ độ mươi bước thì tôi cảm thấy người như chùng xuống. Tôi thầm trách vợ tôi: ”đã nói học tập có mười ngày, đem theo đồ gì gọn nhẹ mà sao không nghe”. Đến trường Gia Long ở hai ngày một đêm mà tôi không buồn soạn cái ba- lô, coi trong đó đựng những thứ gì. Tôi chỉ lấy chiếc lon guigoz đựng kem súc miệng và cái khăn mặt để sử dụng hàng ngày. Thật là tiện lợi khi dùng nó vì nó chứa được nhiều nước. Ngày 29 thang 6 năm 1975,tôi đến trại tù ở Suối Máu Biên Hòa. Sau khi điểm danh và phân chia nhà ở xong, việc đầu tiên của tôi là xách chiếc lon guigoz đi tìm nước súc miệng. Đi một vòng xung quanh trại mà tôi chẳng thấy có cái lu, cái khạp, hay cái thùng phi nào chứa nước sẵn. Chỉ có một cái giếng duy nhất để chứa nước nấu ăn. Có giếng nước mà trại lại không phát thùng múc nước. Làm sao lấy nước lên được khi độ sâu của giếng khoảng hơn mười thước. Tôi đành xách chiếc lon guigoz đi về nhà ở. Thấy ai nấy đều đem mùng ra kiếm chỗ treo lên, tôi cũng mở ba- lô lấy cái mùng “nhà binh” màu xám (loại mùng bằng vải nylon, phía trên nóc và xung quanh chân mùng có bốn sợi dây, mỗi sợi dài hơn ba thước.) Một ý nghĩ bỗng thoáng qua trong đầu tôi là tại sao tôi không lấy bốn sợi dây này nối lại (” một cây làm chẳng nên non”), xong buộc vào lon guigoz mà lấy nước từ dưới giếng lên. Tôi liền thực hành ngay. Quả thật tôi đã lấy nước một cách dễ dàng, không những cho tôi mà còn cho những bạn tù khác. Đến 8 giờ 30 cùng ngày, cả nhà (gồm 44 người) ngồi lại bầu một nhà trưởng và một người phụ trách nấu ăn. Quái ác, một thằng bạn thấy tôi có sáng kiến lấy được nước từ giếng sâu lên, nó liền đề cử. Thế là cả bọn dơ tay tán thành. Khởi sự đi nấu vào lúc 9 giờ sáng mà mãi đến 2 giờ chiều mới có cơm ăn. Độc nhất, chỉ có rau muống luộc bằng nước giếng. Nước dùng để vo gạo và rửa rau, kể cả nước để vô chảo để nấu cơm và luộc rau, cũng chỉ dùng chiếc lon guigoz lấy nước từ dưới giếng lên. Còn củi để chụm là những khúc cây cao su bằng bắp chân cưa ngắn lại độ ba gang tay còn xanh. Làm sao nhúm lửa được mà nấu? Trại tù không phát dao cũng không phát búa, sợ tụi này dùng vật bén nhọn tấn công tụi nó. Tôi lại một phen đi đào lấy cọc sắt ”ấp chiến lược” loại ngắn độ hơn gang tay để chẻ củi. Sau đó, đi lấy bao cát nylon để đốt cho cây củi cao su khô đi mới bắt cháy được. Thật là nhiêu khê! Sau khi làm bếp xong, tôi lấy một lon guigoz nước để ”tắm búng” (thắm nước cho ướt mình mẩy rồi lấy tay se se cho đất tróc ra, xong búng nó đi) Có một hôm trời mưa to. Cả bọn mừng rỡ chạy ra tắm mưa dưới những mái tôn nhà đang ở. Bỗng nhiên mưa đứt hột một cách đột ngột. Cả bọn nhìn nhau cười ngặt nghẽo vì đầu cổ mình mẩy đứa nào đứa nấy đều dính đầy bọt xà bông, trông rất thảm hại! Chiếc lon guigoz lại lần nữa giúp cho bọn tù chúng tôi rửa sạch bọt bèo xà bông. Có nhiều đêm tôi muốn đi ngủ sớm vì quá mệt nhọc trong công việc nhà bếp nhưng mấy thằng ban đâu có tôi nằm yên, tụi nó thay phiên nhau tới chỗ tôi nằm để mượn chiếc lon guigoz. Đã mười giờ đêm mà tôi vẫn chưa ngủ được vì lấy lon guigoz đi, thì bốn sợi dây giăng mùng cũng đi theo. Sau hơn một tháng, vào ngày 9 tháng 7 năm 1975, chúng tôi chuyển trại bằng đường bộ từ Suối Máu xuống An Dưỡng (Biên Hòa). Dọc đường, chiếc lon guigoz lại giúp tôi đỡ cơn khát. Ở trại mới, so với trại cũ có phần thoáng mát hơn. Cũng xử dụng nước giếng nhưng trại phát cho thùng xách nước. Còn củi thì trại có đưa búa cho chẻ củi. Cho nên chiếc lon guigoz lúc này dùng việc “ca cống” (là dùng ca và lon guigoz bằng nhôm nấu ăn hoặc nấu nước uống bằng than của nhà bếp) Ở chung trại có anh bạn tù tên là Tuấn. Anh ta có một thân hình lực sĩ đẹp nhất trại nhưng vì anh ta hay bắt chuột làm thịt ăn nên cả bọn chúng tôi kêu anh ta bằng Tuấn chuột. Một đêm trăng, tôi nằm thao thức mãi không ngủ được, một phần thì nhớ nhà, một phần thì bụng đói cồn cào. Tôi ngồi dậy, nhìn ra ngoài trời, dưới ánh sáng của vầng trăng tròn, tôi thấy hai con chuột đang tìm cách tha cái lon guigoz của Tuấn Chuột. Một con chuột nằm ngửa, bốn cẳng của nó ôm chặt chiếc lon guigoz, còn con kia cắn đuôi con chuột nằm ngửa mà kéo đi nhưng vì miệng hang quá nhỏ nên chúng không thể nào đem cái lon guigoz vào được. Ngoài ra chiếc lon guigoz cũng giúp tôi khỏi bị bệnh tê liệt một thời gian ngắn. Số là ở trại tù An Dưỡng, bọn quản lý trại giam đã cho chúng tôi ăn gạo ẩm (gạo cũ bị bể nát). Chỉ trong một tuần lễ là tất cả chúng tôi đều đi đứng không được mà phải bò bằng tay và hai đầu gối. Tuấn Chuột là người khỏe mạnh mà cũng bị bò. Riêng tôi, tôi vẫn đi đứng bình thường. Bởi trong khi đi lao động gần nhà bếp trại, tôi thấy bọn chúng vo gạo trắng, tôi liền lấy lon guigoz xin một lon đầy nước cơm vo. Mãn giờ lao dộng, tôi trở về ”lán” (chỗ ngủ của tù cải tạo) để bắt đầu giờ ca cống. Tôi xin chút than nhà bếp để nấu nước cơm vo này. Nhờ có nước cơm vo (có chất vitamin B1) mà tôi không phải bị bò. Thấy tôi đi đứng bình thường, mấy thằng bạn nói tôi có nhiều thuốc vitamin B1 nên khám ba-lô của tôi. Đến khi lục soát xong, bọn chúng mới biết tôi chỉ có mấy viên thuốc ngừa sốt rét mà vợ tôi đã cẩn thận bỏ trong hành trang của tôi. Sau đó, Ban Quản Lý trại mới mua gạo lức về nấu cho chúng tôi ăn để khỏi bị bệnh tê liệt. Ở trong trại, tôi có ăn chung với một thằng bạn tên Hoa. Nhân ngày lễ của bọn chúng, chúng tôi mỗi thằng được trại ”ưu ái” phát cho một cục thịt heo bằng ngón tay cái. Chúng tôi đâu dám ăn liền mà bỏ vào lon guigoz rồi lọc nước muối đổ đầy vào lon nấu thịt cho ra nước mỡ để hai đứa ăn một tuần lễ vì trại trừ phần ăn bảy ngày. Ngày 17 tháng 6 năm 1977, chúng tôi chuyển trại từ An Dưỡng đến Căn Cứ 5 Rừng Lá,thuộc Hàm Tân, Phan Thiết (trại Z30D). Thời gian ở trại này có thêm đội nữ (gồm có các chi quân nhân và các chị ở Biệt Đội Thiên Nga Cảnh Sát). Tội nghiệp! Các chị đều bị bệnh vì chế độ ăn uống ở đây quá khắc nghiệt. Trong lúc này, tôi ở Đội Nhà Bếp. Hàng ngày, ngoài việc nấu cơm và luộc rau muống, tôi còn phải nấu một chảo nước sôi để chia cho đội nữ. Lợi dụng việc đi lại với nhà bếp, các chị đã gởi cho tôi sáu cái lon guigoz để gởi tôi nấu dùm. Đố các bạn biết trong đó đựng những gì? Xin thưa: đó là đậu xanh hột. Số là trong khi các chị đi thu hoạch đậu xanh, các chị đã giấu lại không nộp hết rồi bỏ vô lon guigoz đem xuống nhà bếp nhờ tôi nấu chín. Có lần tên cán bộ ( lúc này Công An Quản Lý) nhà bếp hỏi tôi nấu cái gì trong đó. Tôi nói là nấu nước sôi cho đội nữ. Hắn ta thắc mắc hỏi tại sao tôi nấu một chảo nước sôi mà không đủ chia? Tôi giải thích rằng họ cần nước đun chín để uống thuốc. Thế là thoát nạn. Trong thời gian cải tạo, người tù như chúng tôi đều trải qua những cơn đói khát kinh hoàng. Chiếc lon guigoz đã nuôi sống chúng tôi trong những cơn hoạn nạn. Chiếc lon guigoz là vật bất ly thân, đã đi theo chúng tôi từ trại tù này đến trại tù khác. Chiếc lon guigoz là người bạn đường thân thiết của tôi. Chiếc lon guigoz cũng là hình ảnh, là báu vật mà suốt cuộc đời của người tù cải tạo không quên được. Hoàng Chương
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 13, 2019 10:23:12 GMT 9
Trại Cải Tạo – Địa Ngục Trần Gian ở VN Bs Nguyễn Ý Đức
Trong hơn một phần tư thế kỷ tiếp tục hành nghề tại hải ngoại, y giới chúng tôi đã có nhiều dịp được tiếp xúc với một lớp người mang những tâm trạng, những rối loạn về thể chất rất đáng để ý. Tìm hiểu căn nguyên của các bệnh tình này cũng không mấy khó khăn vì đa số là nạn nhân của một triền miên hành xác mà đã mấy chục năm qua hậu quả xấu trên sức khỏe của họ dường như vẫn còn. Đó là những người được mệnh danh là ”Tù Nhân Cải Tạo”….Sao mà cứ ”ăn cơm mới nói chuyện cũ” hoài vậy. Vâng, đây là câu ta thường nghe một số người nêu ra, khi có ai nhắc tới cuộc chiến ở VN với các hậu quả của nó.
Một trong những hậu quả bi thảm nhất là sự hành hạ các anh chị em quân cán chính Miền Nam trong nhiều trại tù đầy. Nếu có ở trong hoàn cảnh của họ thì ta mới hiểu được những đau đớn mọi mặt mà họ đã phải trải qua. Vả lại, người ta cứ lớn tiếng hô hào khép lại quá khứ mà luôn luôn hậm hực với Sen Đầm Quốc Tế Mỹ và nghi kỵ trục lợi với Khúc Ruột Ngoài Ngàn Dặm Ngụy; đã 30 năm rồi người ta vẫn linh đình ăn khao chiến thắng trên sự ngao ngán thở dài của dân chúng trong, ngoài nước, thì phải chăng ”nói vậy mà không làm vậy”. Và chỉ mới đây thôi, vài tấm bia vô tri bằng đá mang mấy dòng chữ tưởng niệm linh hồn những người cùng máu mủ tử nạn khi vượt biên tìm tự do và tri ân quốc gia cứu giúp cũng bị người ta tìm cách phá hủy. Thì tưởng rằng vô sản đã quá vô cảm, chẳng còn một chút tình người. Cho nên nhắc lại để người ta nhớ cũng là chuyện nên làm. Vì chính những nhân vật chủ trương ra lệnh tù đầy ngụy quân ngụy quyền hồi đó cũng đã lên tiếng nhận có sai lầm chính sách về chuyện cô lập vô nhân đạo này. Sau ngày 30-4-75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn sát trả thù đẫm máu vì đã có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng tới phút chót, người thắng trận miền Bắc đã nghĩ ra một giải pháp có vẻ nhân đạo hơn nhưng thương tích sâu đậm dài lâu hơn. Quân cán chánh VNCH đã được khuyến dụ trình diện để ”học tập” ngắn hạn. Gọi là ”tìm hiểu đường lối, chính sách của nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa”. Chính quyền mới hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi ai nấy trở về với gia đình, phục vụ đất nước. Nhưng thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy não, hành xác. Có người vài ba năm. Rất nhiều người mươi năm. Và số người triền miên tù đầy gần hai chục năm cũng không ít. Lại còn một số đáng kể chết mất xác trong tù đầy hành hạ. Người sống sót trở về đã kể lại nhiều thảm cảnh mà họ phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy. Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng rùng mình. ”Rồi mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xẩy ra, đã khắc xâu vào tâm khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận !” (Tạ Tỵ – Đáy Địa Ngục, trang 152). Sau đây là một số nhân chứng đã trải qua các cuộc hành xác tù đầy, kể lại những hình thức hành hạ nạn nhân. Chúng tôi xin phép các tác giả trích đăng để thế hệ con cháu trong ngoài nước hiểu rõ mà tránh đi vào vết xe cũ. Cũng để cảm ơn vì các ghi chép đã giúp thầy thuốc hiểu rõ nguyên nhân xa gần đưa tới bệnh tật của thân chủ và dễ dàng hơn trong khi điều trị, chăm sóc. Chứ chẳng phải để tiếp tục nuôi dưỡng những hận thù mà làm chi Điều kiện sống mất vệ sinh Vệ sinh trại: “Chật chội, ngào ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đã cạn nước. Để lâu không dùng chuột bọ chết thối đầy đáy giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Đi cầu vào các dẫy hố đào trên mặt đất” ”Cả trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào thoát. Chưa bao giờ buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy. Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó , mệt mỏi trông thật thảm hại… Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xạ Để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra hố cầu khi cần. Không phải mình tôi như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước, ngồi bệt xuống mặt cát. Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ tetracycline do Lan chọ Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc gì bất thường thì phải chờ lâu tới ba tuần.” (Tầng Đầu Địa Ngục – LM Nguyễn Hữu Lễ). Nhà cầu nổi. ”Buồng trống trơn không có thứ gì ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại tre to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại tiểu tiện vào đó….Khi đi đại tiện, người tù phải dùng tới hai ống bẩu, mỗi tay cầm một cái. Ống hứng nước tiểu phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau… Ống phía trước có thể là ống nhỏ, nhưng ống phía sau bắt buộc phải là ống có đường kính to và nhẹ. Yếu tố này rất quan trọng, vì trong lúc ”thi hành nghĩa vụ” của bản năng, nói nôm na là ”đi cầu”, người tù phải quàng tay ra đằng sau để giữ cái ống bẩu. Nếu ống này nặng quá, người tù không thể giữ ống sát vào mông, tuột tay làm đổ phân tung tóe trong buồng... Vì đã làm quen với cuộc sống tù quá ư là chật trội, bẩn thỉu và thiếu mọi tiện nghi tối thiểu của con người, nên chúng tôi chẳng ai cảm thấy mùi thối tha hôi hám gì trong cái buồng giam kín như cái thùng sắt này. Buồng giam chỉ có một cửa sổ duy nhất và rất hẹp, khí không thể lùa vào buồng được. Do đó chúng tôi cứ phải thở ra hít vào buồng phổi mình cái hơi nóng của bầu khí trong buồng mà tôi có cảm tưởng nó đã đặc quánh lại thành một thứ chất dẻo, không còn là ở thể khí nữa”. (Tầng đầu địa Ngục – LM Nguyễn Hữu Lễ). Lao động quá sức. Tù nhân bị ép buộc phải liên tục Hạ quyết tâm làm những điều mà trại đặt ra như sau: ”Tôi không bao giờ quên rằng tôi là kẻ có tội với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân. Tôi cũng không quên rằng Đảng đã khoan hồng tha tội chết cho tôi, lại tập trung tôi lại, tạo điều kiện cho tôi học tập cải tạo để trở nên người công dân lương thiện. Để đền ơn Đảng, tôi nhất trí: 1. Tích cực học tập cải tạo lao động tốt. 2. Giải phóng mọi tình cảm gia đình yếu đuối và tình nguyện ở lại trại học tập lao động cho dến khi nào được cách mạng công nhận tiến bộ cho về phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân. 3. Trong thời gian học tập tại trại, tôi phải chấp hành nghiêm chỉnh mọi nội quy quy định. Khắc phục mọi khuyết điểm tồn tại. Đấu tranh sai trái để thủ tiêu mọi mặt yếu của các bạn cải tạo khác hầu biến trại ta trở thành trại cải tao tiên tiến về mọi mặt. 4. Tố giác kịp thời với Cách mạng bọn xấu trong và ngoài trại đang còn ý đồ chống phá cách mạng. 5. Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối khoan hồng trước sau như một của cách mạng.” (Hà Thúc Sinh ghi lại trong Đại Học Máu trang 100). Lao động là thước đo mức độ giác ngộ của tù nhân.Thế là lại được đi lao động để giác ngộ! Sau đây là các tiêu chuẩn mà tù nhân phải lao động: Cuốc đất: 150m2/ngày/người; Trồng mì: 5000m2 / 1 ngày/4 người; Khai quang: 300m2/ngày/người; Lấy cây đường kính 30cm, dài 4 thước /hai người một cây, xa 3 cây số; đường kính 10 phân, dài 4 thước hai người năm cây một ngày. Dọa nạt, nhục mạ. ”Tao bảo thật với chúng mày ngoài việc lao động như thế có mà ăn cứt, ngày về của chúng mày cũng kéo dài vô tận. Tao đã lên lớp cho chúng mày nhiều lần rồi. Cách mạng không có tình trạng lơ lửng con củ cặc. Một, chúng mày học tập lao động cho tốt để có ngày mà trở về. Hai, bánh xe lịch sử sẽ nghiền nát chúng mày trong này mất thôi” (Đại Học Máu – Hà Thúc Sinh, trang 116). "Các anh là những người có tội. Chính sách 3 năm Cải Tạo đề ra, nhưng nó không phải là mốc nhất định cho tất cả mọi người ! Các anh đừng có giả vờ ” nín thở qua sông” để hết cho ba năm thì về. Tôi nói thẳng cho các anh biết, có thể 3 năm cũng có thể 15 hay 20 năm đó!” (Tạ Tỵ – Đáy Địa Ngục trang 439). Bỏ đói khát. Có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế, kiểm soát người tù. Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành xác này. ”Đã hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lãnh hai chiếc bánh mì luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và ” chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy dộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột..” (Đáy Địa Ngục – Tạ Tỵ trang 378- 379). Ăn bất cứ thứ gì là thịt. ”Nam cầm con rắn dài khoảng 6 tấc, to bằng ngón tay cái, không trắng không đen. Anh tìm sợi dây, buộc đầu con rắn cạp nong treo lên cành cây, rồi dùng lưỡi dao nhỏ cứa xung quanh cổ rắn. Con rắn lắc lư, lắc lư như chiếc que. Tôi không hiểu bằng cách nào Nam lột da con rắn nhanh như vậy. Da rắn vứt xuống suối, dòng nước cuốn đi trong nháy mắt. Nam hạ con rắn xuống mổ ruột, rửa nước suối rối sắt ra từng khúc , bỏ vào lon ghi gô, cho chút bột cà ri mà lúc nào anh cũng mang theo, đổ chút nước, thêm tí muối rồi cho lên bếp lửa. Lát sau, hạ xuống, anh trịnh trọng ngồi trên tảng đá sát dòng suối ăn hết con rắn một cách ngon lành” (Tạ Tỵ ”Đáy Địa Ngục, tr 439). Mỗi bữa hai miệng chén cơm nhỏ gạo mục, cả trăm người chỉ có vài chục con cá ngừ thối nấu với rau, từ xa đã ngửi thấy mùi hôi…Cho ăn để khỏi chết đói, đó là khẩu hiệu của trại. Có nhiều tù nhân đã nướng sống sít các con sên con ốc rừng mang hàng triệu vi trùng sốt rét hoặc ăn quả sung rừng cho đỡ đói, ăn phải quả độc ” đứt thần kinh, sùi bọt mép, lên kinh phong rồi chết” ”Cái lon nhôm sữa bột guigoz được gọi vắn tắt là cái Gô, là bạn bạn đồng hành thân thiết của tù. Người tù nào cũng kè kè bên mình một cái vừa đựng nước uống ra bãi, vừa dùng để nấu canh tại bãi lao động. Những loại rau cỏ dại ăn được tìm thấy ngay tại hiện trường, lén nhổ bỏ vào gô rồi nhờ nhà bếp nấu. Nấu chín xong để bụi cát lắng xuống phần dưới, ăn phần rau cũng đỡ cái bao tử rỗng một lúc. Hôm nào bắt được con cóc, con nhái thì ” canh có người lái”, tù gọi là Protein; con gì cũng qui vào chất thịt, chất protein bổ dưỡng. Tù có câu:” con gì nhúc nhích là ăn được”; rau gì không chết thì ăn”. Tiêu chuẩn kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu . Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ” Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó.” (Nguyễn Chí Thiệp- Trại Tù Kiên Giam trang 35). Thiếu thốn Chia nhau vài thìa đường: ”Anh ta cầm nhanh lấy cái thìa và với một tư thái rất cẩn trọng, anh gom các phần đường đang chia dở và bắt đầu chia lại. Mười người mười phần. Trợ chia thật khéo nhưng cũng thật chậm. Đôi khi tay anh run làm một vài hạt đường rơi xuống miếng giấy dầu, văng dính vào ngón chân anh. Anh vội lấy ngón tay chấm mấy hạt đường ấy và cho lên miệng. Người ta bực mình nhưng người ta không thể giành lại những hạt đường đã dính vào những ngón chân cáu bẩn của kẻ khác.” Mỗi người được ba thìa đường sau ba tháng tù” (Hà Thúc Sinh- Đại Học Máu, trang 148). ”Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng cũ hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố học” (Tầng Đầu Địa Ngục- LM Nguyễn Hữu Lễ). Hành hạ cơ thể. Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà tù nhân bị ”đại cá’ ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù. Nếu chỉ để cảnh cáo và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng ”chưởng” tức là đánh bằng hòn đá bọc trong cái vớ; hoặc ”bẻ ngà” là dùng đá cà hoặc đập gẫy hết cả hai hàm răng. Trường hợp nặnghơn thì ”lấy cấp phá’tức là móc đôi mắt, hoặc ” xin cặp nạng” nghĩa là cắt gân gót chân. Trường hợp nghiêm trọng thì đối phương sẽ được ”cất” có nghĩa là giết chết. (Tầng Đầu Địa Ngục – LM Nguyễn hữu Lễ). ”Tên vệ binh hung ác vừa quật roi mạnh hơn vừa chửi rủa thậm tệ: - Đ.M. chúng mày là đồ tư sản, dưỡng xác quen, làm việc chây lười, không cố gắng, không có kỷ luật gì hết ! Chiếc roi lại tiếp tục rít trong không khí, bay tới tấp vào thân xác ba người tù. Đại đức Thích Thiện Cao bị đòn đau quá chỉ biết rú lên những câu quen thuộc ”Mô Phật”, rồi nhắm mắt, oằn người lên chịu đựng. (Phạm Quang Giai-Lần cuối bên anh, trang 247) Bắt quỳ để trừng phạt. ”Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười thằng ”ngụy” vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá hét: Tao phạt chúng mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống.” Bọn tù chỉ liếc nhìn nhau chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thuạ Hắn móc súng bắn đến đùng một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt êm ái quỳ. Thằng quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ đi..” (Đại Học Máu-Hà Thúc Sinh. trang 116). ” Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, vì nằm như vậy thân mình căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị còng phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian. Chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đã sưng húp vì ban đêm bị lắc còng điểm danh” (Trại Tù Kiên Giam- Nguyễn Chí Thiệp- tr 473) Bệnh xá – Bệnh tật. ”Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm cứ như những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm kha..” (Đại Học Máu Hà Thúc Sinh tr 251). ”Nói là bệnh xá cho xôm trò chứ nơi đây chỉ là một nhà thường có sạp nằm cho bệnh nhân. Lúc tôi đến đây thì đã có hai mươi trại viên đang trị bệnh tại đây. Người tôi bị tê liệt toàn thân do đó những việc vệ sinh cá nhân tôi không làm được, tôi phải nhờ sự giúp đỡ của hai bệnh nhân nằm hai bên tôi. Hai bệnh nhân này không cùng một trại với tôi. Một hôm cán bộ bác sĩ đến tận giường tôi đọc lệnh mà nội dung như sau:- Anh Phan Phát Huồn, anh là một tên có nợ máu với nhân dân nhưng đảng và nhà nước ta đã tha tội chết cho anh, anh đau ốm vẫn cho anh nằm ở bệnh xá điều trị, vậy mà anh không biết điều, vi phạm nội quy của bệnh xá bằng cách quan hệ với người khác trại, vậy ngay từ giờ phút này anh phải ra khỏi bệnh xá. Nói xong ông ta ra lệnh cho y công buộc dây thừng vào hai chân tôi và kéo tôi như một con chó ra khỏi bệnh xá”.(AK và Thập Giá- LM. Phan Phát Huồn). ” "Tại bệnh viện tôi đã nghe nói và chứng kiến những cuộc ”căng mùng” ghê rợn. Căng mùng tức là nói đến giải phẫu bệnh nhân. Để tránh ruồi muỗi bu vào lúc giải phẫu, bệnh nhân được đưa vào trong mùng. Vì không có thuốc tê nên người ta cột bệnh nhân vào giường, lại còn có các anh hộ lý đè bệnh nhân xuống để bệnh nhân khỏi vùng vẫy lúc quá đau đớn. Thường thường bác sĩ dùng dao cạo râu để giải phẫu. Bệnh nhân gào thét kêu la thảm thiết, tôi có cảm tưởng là một con lợn đang bị thọc huyết” (AK và Thập Giá-LM Phan Phát Huồn). ”Bệnh nhân bị bệnh gì gã cũng cho uống Xuyên tâm liên. Kiết ly, tiêu chẩy: xuyên tâm liên. Sốt rét sốt nóng: xuyên tâm liên. Ho lao, sưng phổi: xuyên tâm liên.Vì thế rất nhiều bệnh nhân chết oan uổng.” (Thanh Thương Hoàng-Những Nỗi Đau Đời” trang 51). Chứng kiến sự hành hạ tù nhân khác ”Vừa dứt câu hỏi, tên vệ binh xuất kỳ bất ý dùng chân móc cú đá hậu vào khuỷu đầu gối của Trác, khiến Trác lao chao. Tên cảnh vệ tiếp theo cái lao chao của Trác bằng một cú đập mạnh báng súng AK vào người Trác, khiến người tù Việt quốc không còn đủ sức đứng vững, cả thân xác ông rơi xuống như quả sung rụng. Trác vừa té sóng soài trên hiện trường sám hối thì liền lúc đó tên này tung người lên dùng một đòn hiểm nhẩy lên đứng trên thân xác của Trác. Các đồng đội của Trác ngồi trong vòng tròn đều nhắm mắt mỗi khi nhìn thấy tên cảnh vệ dùng những cú giầy đinh nện mạnh trên mặt, trên người Trác. Máu bắt đầu chan hòa trên hiện trường sám hối” (Phạm Quang Giai-Lần Cuối Bên Anh-trang 165) ” "Tiếng kêu rú rùng rợn vẫn không ngớt phát ra từ những căn phòng xung quanh. Phượng vẫn ngồi như chết cứng. Rồi đột nhiên đèn bật sáng chói, nàng thấy mình đang ở trong một căn phòng toàn những dụng cụ tra tấn”.Nàng thấy ghê tởm, rồi tự dưng trong nàng nảy ra một ý định tìm cái chết, trước khi bị tra tấn, nàng đang nghĩ”Chợt cánh cửa sau bật mở. Nàng vội ngồi thu người lại sát tường, mắt ánh lên, thấy hai tên chuyên viên tra tấn xốc nách một người đàn ông, kéo sệt trên nền xi-măng. Mặt người đó tím bầm, hai bên mép ứa máu còn chẩy ra ròng ròng, tóc rối bù bết máu, đầu ngoẹo sang một bên, mình trần trụi bê bết máu, chân tay mềm nhũn rá”’ (Trần Nhu- Địa Ngục Sình Lầy, trang 163) Cô lập trong hầm đá ”Tên vệ binh hầm hầm đi về phía cửa hầm đá số 5. Hắn tra chiếc chìa khóa vào ổ rồi quay một vòng nghe răng rác. Hắn kéo chiếc cửa sắt nặng nề ra, để lộ một không gian tối om. Mùi hôi thối từ trong phòng xông ra những; đồng thời với tiếng hú ma quái ngân dài lê thê phát ra từ trong long hầm đá, nghe thật ai oán. Tên vệ binh trở lại chỗ Sâm ra lệnh: - Vũ Sâm ! Mày vào hầm đá số 5 để mà tưởng nhớ đến người vợ đẹp của mày. Sâm lần thần đi thật chậm, tiến vào miệng hầm, rồi cũng thật nhanh, anh lọt hẳn vào bên trong. Vũ Sâm quay người lại nhìn tên vệ binh lần chót trước khi chìm hẳn vào bóng đêm dầy đặc, vu vơ và tăm tối. Cánh cửa sắt đóng lại, tạo thành tiếng sầm khô khan.” (Phạm Quang Giai-Lần Cuối Bên Anh. Trang 43). Ngoài ra còn nhiều cách hành hạ khác như : Chói cột với tù nhân khác; nhốt trong thùng sắt, trong túi; đầy ải ngoài nắng, nóng, dưới đèn sáng; bịt mắt; chói cột xuống đất; đá đít, bạt tai; giả xử tử; bắt uống những thuốc lạ; dìm dưới nước; làm cho nghẹt thở; cheo lơ lửng trên không; gây tổn thương cho ngọc hành cơ quan sinh dục; tạt phẩn, nước tiểu lên mặt; tra tấn bằng điện; châm chọc kim vào đầu ngón tay, ngón chân; không cho ngủ; bỏ cho muỗi, kiến, đỉa cắn… Những hành hạ đưa tới bệnh tật triền miên cho người sống sót. Kết luận Liên Hiệp Quốc coi hành hạ tra tấn là bất cứ hành động nào đưa tới đau đớn về thể xác và tâm thần nạn nhân. Theo cơ quan Ân Xá Quốc Tế, sự tra tấn vẫn còn được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Tra tấn xẩy ra quá thường khiến cho cơ quan này không ước lượng được số nạn nhân mà chỉ nêu ra một số quốc gia áp dụng sự hành hạ này, vì chiến tranh, đàn áp, tiêu diệt chủng tộc. Các nhà tâm lý xã hội cho hay hành hạ có mục đích làm xáo trộn, hoặc đúng ra là để phá hủy sự liên tục của cuộc sống con người cho tới một mức độ mà sự hồi phục trở nên tốn kém đôi khi không sao thực hiện được. Mà đa số nạn nhân bị đối sử tàn tệ sau đó lại được định cư ở một quốc gia khác như người tị nạn, nên họ gặp nhiều khó khăn hội nhập vào một nền văn hóa với nếp sống mới, ngôn ngữ mới. ” Đó chính là trường hợp các cựu tù nhân quân cán chính VNCH. Nạn nhân sống sót của tù đầy tra tấn có những phản ứng cảm xúc khác nhau tùy theo cá tính và căn bản giáo dục: từ giận giữ, phẫn nộ tới cảm thấy nhục nhã; cảm xúc ngay thẳng chính đáng tới sai trái tội lỗi; tự tin quyết đoán tới tủi thẹn, xấu hổ. Chắc chắn là họ khó mà quên được những vết thương mà người có quyền đã để lại trên cơ thể tâm hồn họ. Những ảnh hưởng này sẽ tồn tại rất lâu, có khi suốt đời. Những hoảng hốt, lo sợ, những trầm buồn, những cơn ác mộng sẽ thường trực đến với họ và có nhiều tác dụng xấu cho đời sống cá nhân cũng như gia đình. Rồi lại còn những suy nhược tim gan tỳ phế vì thiếu ăn, thời tiết khắc nghiệt, lao động khổ sai nơi rùng sâu nước độc. Nhiều ngàn người hiện nay không thi vào quốc tịch mới được vì trí nhớ suy kém, giảm khả năng học ngoại ngữ. Và còn cần sự chăm sóc của giới y tế đồng hương trong nhiều năm còn lại của cuộc đời. Giải thích để họ hiểu tại sao hành hạ đã xẩy ra có hy vọng một phần nào mang họ trở lại cuộc sống bình thường. Cũng như một hành động, một lời nói ”sorry’ từ phía chính quyền hiện tại. Như người da trắng đã sorry với nô lệ da đen bị kỳ thị, bóc lột trong thế kỷ trước. Cũng như Giáo hội Công giáo đã nhìn nhận nhiều sai lầm trong quá khứ liên quan tới sự tôn trọng đối với những cá nhân hoặc cộng đồng. Thế hệ con cháu khi nghe những chuyện đau thương này của cha chú, chắc cũng rùng mình kinh sợ. Kinh nghiệm Holocaust vẫn còn ám ảnh lương tâm loài người sau cả trên nửa thế kỷ. Cũng như thảm cảnh tù đầy ”cải tạo” ở VN vào thập niên 70-80 của thế kỷ vừa qua. Ghi lại để mà tránh tái diễn. Và nhắc nhở người ta đừng quá ảo tưởng với hào quang chiến thắng bọt nước mà quên sự tàn ác mà mình đã áp đặt lên những anh em cùng chung một bọc, Trăm Con Trăm Trứng Tiên Rồng. Bs Nguyễn Ý Đức, Texas
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 13, 2019 10:25:07 GMT 9
Tù Cải Tạo: Tội Ác Chống Nhân Loại của Cộng Sản Việt NamĐỗ Ngọc Uyển Sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình “hoc tập cải tạo” của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là “cải tạo” những người chống đối chủ nghĩa xã hội để trở thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch “cải tạo giết người” này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850,000 người dân Miền Bắc trong những cái gọi là “trại học tập cải tạo.” Sau ngày 30-4-1975, lũ Việt gian cộng sản cũng tiếp tục kế hoạch giết người này, và chúng đã giết và thủ tiêu 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia trong 150 “trại cải tạo” của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. “Học Tập Cải Tạo” Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam Để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt máu như: Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất, và đàn áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở… Số nạn nhân của những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính là trên một triệu người, bởi vì chỉ riêng vụ gọi là Cải Cách Ruộng Đất đã có 700,000 nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xã hội Miền Bắc đã bị “cào bằng,” không còn giai cấp (social class). Các giai cấp trí, phú, địa, hào đã bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền tư hữu và mọi người đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi người được phát 2 thước vải thô Nam Định chỉ có thể may được một cái quần hay một cái áo, và hàng tháng được phát 15kg gạo, 200gr đường… Chưa hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành phần chống đối, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho cái quốc hội bù nhìn “ban hành” một nghị quyết về “học tập cải tạo.” Đây là một mẻ lưới “vĩ đại” cuối cùng nhằm vét hết những thành phần có thể gây cản trở cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của y. Các trại “cải tạo” của Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu các trại “lao cải” (laogai hay laojiao) của Mao Trạch Đông. . . Theo lệnh của Hồ, quốc hội cộng sản đã “ban hành” một Nghị Quyết (Resolution) về “học tập cải tạo” mang số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961. Căn cứ vào nghị quyết này, hội đồng chính phủ đã “đẻ” ra cái Thông Tư (General Circular) số 121-CP ngày 8-9-1961 để áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối bởi cái nghị quyết trên gồm những thành phần sau đây: Tất cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây. Tất cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập. Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách mạng. ất cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo. Bốn thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là “những thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng.” (obstinate counter-revolutionary elements). Thời gian “cải tạo” được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa “tiến bộ” thì “cải tạo” thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa… cho đến khi nào “học tập tốt, cải tạo tốt” thì về, thực tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và những tên đồng đảng ra, không ai biết được số nạn nhân bị đưa đi “cải tạo” là bao nhiêu; nhưng có thể ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào con số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 850,000 người do Tổ Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (The Victims of Communism Memorial Foundation) đưa ra: (…When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in reeducation camps ...) “Học Tập Cải Tạo” tại Miền Nam Việt Nam Cộng sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đã tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đình có 5 người; như vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi “cải tạo” và những thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi những “khu kinh tế mới;” cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch “tắm máu trắng” đã được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của tập đoàn Việt gian cộng sản. Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi “học tập cải tạo,” thưc chất là đưa đi tù để trả thù (revenge). Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau: Tội ác thứ 1:Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng Tôi này vi phạm những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế(Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law) Những người bị cộng sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30-4-1975 là những người bị cộng sản trả thù vì lý do chống cộng tức lý do chính trị. Cộng sản không thể mang những người này – công dân của một một quốc gia độc lập đã bị Việt gian cộng sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực (aggression) một cách phi pháp – ra toà án để kết tội. Cộng sản nguỵ biện một cách láo xược rằng những người này là những tội phạm chiến tranh (war criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách mạng ban hành ngày 30-9-1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967 law on counter-revolutionary crimes) và rằng nếu mang ra tòa án xét xử thì những người này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử hình; nhưng vì chính sách “khoan hồng” và sự “chiếu cố” của đảng nên những người này được đưa đi “học tập cải tạo” thay vì đưa ra toà án xét xử. Đây là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng cộng sản không có một chút gì gọi là công lý của thời đại văn minh mà chỉ là một công cụ man rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền Bắc dưới sự thống trị của chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công dân của một quốc gia văn minh như VNCH được. Tóm lại, giam cầm người không chính thức kết án, không xét xử (imprisonment without formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội Ác chống Loài Người. Tội ác thứ 2 – Tội tra tấn, hành hạ (Torture) Đối với cộng sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những người quốc gia chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một khi đã sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ. Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của cả thể chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đòn thù tiêu biểu: a. Hành hạ bằng cách bỏ đói Đây là một đòn thù thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí của người tù về lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không còn nghĩ đến chuyện gì khác ngoài miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được ăn no; càng ăn càng đói và đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm và miếng thịt là một ước mơ xa vời. Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi tháng 12kg gạo. Nhưng thực tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo… tương đương với 12kg gạo mà chúng gọi là “quy ra gạo.” Ngô, khoai, sắn và bo bo mà chúng cho tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những kho ẩm thấp, bị mục nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương thực như thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một ngày, không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho nên đã có rất nhiều tù nhân chết vì đói, vì suy dinh dưỡng. Sau đây là một ví dụ: vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên Sơn có một anh bạn tù vì “lao động” nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm chờ chết. Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn gì về cho vợ con hay người thân không? Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ muốn được ăn no một bữa khoai mì luộc! Nghe vậy, có một anh tù, vì thương bạn, đã mạo hiểm chui qua hàng rào, đào trộm vài củ khoai mì do chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang lên cho bạn thì anh bạn đã chết. Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại độn hai phần sắn hay khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân phát một chén nhỏ với nước muối. Đến mùa “thu hoạch” ngô và khoai mì do tù trồng, anh em tù cũng được cấp phát ngô và khoai mì luộc. Mỗi bữa ăn được phân phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai mì thì được cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. Còn thịt thì chỉ được cấp phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập của chúng, ngày sinh nhật “Bác”của chúng; mỗi phần ăn được khoảng 100gr thịt heo hay thịt trâu. Bỏ đói tù là một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có tính toán của cộng sản. Ngoài việc huỷ diệt ý chí của người tù, sự bỏ đói còn nhằm huỷ hoại thể chất của người tù để không còn sức đề kháng chống lại bệnh tật. Do đó, đã có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở…, và có rất nhiều cái chết rất đau lòng chỉ vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì thiếu thuốc men và không được chữa trị… b. Hành hạ thể xác Cộng sản vẽ ra khẩu hiệu “lao động là vinh quang.” Chúng bắt người tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch…Người tù đã thiếu ăn, kiệt sức; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt được, và chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác: Cắt tiêu chuẩn lương thực từ 12kg xuống còn 9kg và nhốt vào conex, khoá chặt. Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa Hè và khí lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết vì sức nóng và chết vì rét. Cắt tiêu chuẩn lương thực xuống còn 9kg; nhốt trong sà lim; hai chân bị cùm siết chặt đến chảy máu; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét; người tù bị nhốt như vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ còn da bọc xương, đi không nổi phải bò. Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn. Chúng trói người tù theo kiểu cánh bướm “butterfly style or contorted position” bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh tay kia bắt qua sau lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau. Chúng cột người tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều tiếng đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu. Trên đây chỉ là vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng sản còn nhiêu kiểu hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ xuống những giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết… c. Tra tấn tinh thần Mục đích của cộng sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh thần (causing serious injury to physical and mental health) bằng hai phương pháp sau đây: - Nhồi sọ chính trị (Political indoctrination) - Để mở đầu kế hoạch “cải tạo,” cộng sản bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi bài phải học từ một tuần lễ đến 10 ngày gồm: lên lớp, thảo luận trong tổ, trong đội… Cuối mỗi bài học, người tù phải viết một bản gọi là “thâu hoạch” để nộp cho chúng. Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài tuyên truyền rẻ tiền như: Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai vòi: một vòi hút máu nhân dân Mỹ và một vòi hút máu nhân dân nước ngoài. Ta đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta nghèo nhưng ta mạnh. Dưới sự lãnh đạo của đảng quang vinh, ta đã đánh thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất thời đại. Nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân và là tội phạm chiến tranh…Bài học cuối cùng là bài “lao động là vinh quang” để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng nhọc. Những bài tuyên truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp dụng cho người dân bị bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đã bị cộng sản u mê hoá chứ không có tác dụng gì đối với những người đã sống dưới chính thể tự do tại Miền Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đã làm cho một số anh em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đã có một số người tự sát và trốn trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đã bị chúng mang ra toà án nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây là đòn khủng bố tinh thần phủ đầu của cộng sản theo kiểu “sát nhất nhân, vạn nhân cụ.” - Tự phê (Confession) - Tiếp theo phần “học tập chính trị” là phần “tự phê.” Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi còn nhỏ cho tới khi vào tù; phải kê khai thành phần giai cấp của dòng họ từ ba đời trước cho đến con cháu sau này; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết tội những việc làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội mình có nợ máu với nhân dân. Người phát thư cũng bị kết tội là đã chuyển thư tín giúp cho bộ máy kìm kẹp của nguỵ quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uý trong quân đội bị kết tội là đã nâng cao tinh thần chiến đấu của nguỵ quân. Các bác sĩ quân y thì bị kết tội là đã chữa trị cho các thương, bệnh binh để mau chóng phục hồi sức chiến đấu của nguỵ quân…Tóm lại, tất cả nguỵ quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng “trong lòng dân tộc.” Trong suốt thòi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản tự phê; phải moi óc tìm và “phịa” ra những “tội ác” để tự gán và kết tội mình, và nếu bản viết lần sau thiếu vài “tội ác” so với bản viết lần trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn còn ngoan cố và thời gian học tập sẽ còn lâu dài. “Tự phê” một đòn tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho người tù bị căng thẳng tinh thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đã có một số anh em gần như phát điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đã tự vẫn… Tội ác thứ 3 – Tội giết người (Murder) Những anh em trốn trại bị bắt lại đã bị cộng sản mang ra xử tại toà án nhân dân của chúng và bị bắn chết ngay tại chỗ. Đây là tội ác giết người (murder) bởi vì trên danh nghĩa cũng như theo pháp lý thì những người này chỉ là những người đi học tập. Và khi một người đi học tập mà trốn trại học tập là chuyện rất thường tình, không có tội lỗi gì đối với pháp luật. Nhưng đối với bọn vô nhân tính cộng sản thì không thể nói chuyện lý lẽ với chúng được. Vào một ngày cuối năm 1975, tại trại giam Suối Máu, Biên Hoà, chúng mang hai anh sĩ quan cấp uý trốn trại bị bắt lại ra xử tại toà án nhân dân rừng rú của chúng được thiết lập ngay trong trại giam. Trước khi mang ra xử, chúng đã tra tấn hai anh này đến mềm người, rũ rượi, xụi lơ, không còn biết gì nữa. Ngồi trên ghế xử, tên “chánh án” cùng ba tên đồng đảng giết người mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu, dép râu, nón cối, ngập ngọng giọng Bắc Kỳ 75 đọc xong “bản án giết người” đã viết sẵn và ngay lập tức chúng mang hai anh ra bắn chết cạnh hai cái hố đã đào sẵn. Buổi trưa hôm đó bầu trời Biên Hoà có nắng đẹp, nhưng khi tiếng súng giết người nổ vang lên, mây đen bỗng kéo đến phủ tối cả bầu trời và đổ xuống những hạt mưa nặng hạt. Tất cả anh em trong trại giam lặng lẽ cúi đầu tiễn đưa hai đồng đội sa cơ, thất thế. Ngoài cách giết người rừng rú trên đây, cộng sản còn chủ tâm giết người bằng nhiều cách khác như cho ăn đói và bắt làm khổ sai nặng nhọc để chết dần chết mòn; để cho chết bệnh, không cung cấp thuốc men, không chữa trị; bắt làm những việc nguy hiểm chết người như gỡ mìn bằng tay không… Tội ác thứ 4 – Tội bắt làm nô lệ (Enslavement) Người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng khoai, trồng rau…để tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động (slave labour) thay vì mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và là một Tội Ác chống Loài Người. Tội ác thứ 5- Tội thủ tiêu mất tích người (Enforced disappearance of persons) Theo các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 165,000 người. Hiện nay, ngoài cộng sản ra, không ai biết nơi chôn cất các nạn nhân này. Suốt 33 năm nay, chúng không cho thân nhân cải táng để mang hài cốt về quê quán. Đây là đòn thù vô nhân đạo đối với những nạn nhân đã nằm xuống, và là hành vi độc ác (inhumane act) gây đau khổ tinh thần triền miên, suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Chỉ có một số rất ít, không đáng kể, thân nhân các nạn nhân đã chạy chọt, tìm được cách cải táng người thân của họ; còn tuyệt đại đa số 165,000 người tù chính trị được coi như đã bị thủ tiêu mất tích. Đây là chủ tâm trả thù dã man của cộng sản và là một Tội Ác chống Nhân Loại. Mới đây nhất, trong cuộc họp với tổng thống George W. Bush tai Bạch Cung ngày 24-6-2008, Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục tìm kiếm và trao cho Hoa Kỳ hài cốt những quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến VN. Trong khi đó quân cộng sản giết người đang chôn giấu để thủ tiêu mất tích hài cốt của 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia đã bị chúng sát hại, sau ngày 30-4-1975, trong 150 “trại tù cải tạo” của chúng trên toàn cõi VN. Điều này chứng tỏ rằng lũ Việt gian cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng hận thù đối với người Việt quốc gia, ngay cả đối với những người đã nằm xuống, trong khi miệng chúng luôn luôn hô hào hoà hợp hoà giải. “Đừng nghe những gì cộng sản nói; hãy nhìn kỹ những gì chúng làm.” ……………… Ngoài 5 tội ác chống loài người kể trên, vào năm 1980, cộng sản đã có kế hoạch đưa gia đình những người tù từ Miền Nam để cùng với những thân nhân của họ đang bị tù tại Miền Bắc đi “định cư” tại những “khu kinh tế mới” ở Miền Bắc mà thí điểm đầu tiên là khu Thanh Phong/Thanh Cầm, một khu rừng thiêng nước độc tại Miền Bắc, nơi đang có những “trại cải tạo.” Ý đồ của âm mưu thâm hiểm này là đưa đi đầy chung thân, khổ sai, biệt xứ để giết dần, giết mòn tất cả những người tù cùng với gia đình họ. Đây là một kế hoạch diệt chủng (genocide) được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng trời bất dung gian, chúng không thực hiện được âm mưu diệt chủng này vì cục diện thế giới thay đổi dẫn đến sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và chúng đã phải thả những nạn nhân của chúng ra để họ đi định cư tại Hoa Kỳ với tư cách là những người tỵ nạn chính trị (political refugees). Cái nghị quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 của tên đại Việt gian bán nước Hồ Chí Minh – cho tới ngày hôm nay vẫn còn hiệu lực – là một dụng cụ đàn áp thâm hiểm nhất để chống lại nhân quyền (the most repressive tool against human rights). Suốt nửa thế kỷ vừa qua, bằng cái nghị quyết phản động này, lũ bán nước cộng sản đã và đang tiếp tục đưa hàng triệu, triệu người Việt Nam đi “học tập cải tạo” mà không qua một thủ tục pháp lý nào cả. Với 5 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) như đã trình bày trên đây, bọn Việt gian cộng sản phải bị mang ra xét xử tại Toà Án Hình Sự Quốc Tế [2] (International Criminal Court). Số Nạn Nhân Bị Giam Cầm, Số Nạn Nhân Chết và Số “Trại Tù Cải Tạo” Theo sự ước tính của các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu đã được phổ biến “…According to the published academic studies in the United States and Europe…” thì số nạn nhân và số các “trại tù cải tạo” được ước tính như sau: 1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử (without formal charge or trial). 165,000 nạn nhân chết tại các “trại tù cải tạo.” Có ít nhất 150 “trại tù cải tạo” sau khi Sàigòn sụp đổ. Thời Gian “Cải tạo” Có những nạn nhân đã bị giam giữ tới 17 năm, và theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì đại đa số nạn nhân bị giam giữ từ 3 tới 10 năm, và tính trung bình mỗi người phải trải qua 5 trại giam. “…according to the U.S. Department of State, most term ranging from three to 10 years…” Nếu lấy con số trung bình là 7 năm tù cho mỗi người thì số năm tù của một triệu nạn nhân là 7 triệu năm. Đây là một tội ác lịch sử không tiền khoáng hậu của bọn Việt gian cộng sản; vượt xa cả tội ác một ngàn năm của bọn giặc Tầu và một trăm năm bon giặc Tây cộng lại. Món Nợ của Hoa Kỳ Đối với Đồng Minh. Chính phủ Hoa Kỳ công nhận những người bị giam cầm (imprisonment) này là những ngưòi tù chính trị, và đã điều đình với phỉ quyền cộng sản để cho những người này được thả ra để cùng với gia đình đi đinh cư tỵ nạn tại Mỹ ưu tiên theo Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) đối với những người bị giam cầm từ 3 năm trở lên. “…The U.S. government considers reeducation detainees to be political prisoners. In 1989 the Reagan administration entered into an agreement with the Vietnamese government, pursuant to which Vietnam would free all former AVN soldiers and officials held in reeducation camps and allow them to immigrate to the United States… that gives priority to those who spent at least three years in reeducation…“ Hoa Kỳ coi việc đưa những người tù chính trị này sang định cư tỵ nạn tại Mỹ là để trả một món nợ quốc gia đối với đồng minh trong thời chiến. Những người này đã bị giam cầm vì đã cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ trong cuộc chiến. “… Resettling this group will be a step toward closing out this nation’s debt to its Indochina wartime allies. “These people have been detained because of their closed association with us during the war,” said Robert Funseth, the senior deputy assistance secretary of state for refugee affairs who spent most of this decade negotiating their resettlement…” Phải nói môt cách chính sác rằng những người tù chính trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn tại Mỹ theo một chương trình ra đi đặc biệt (a special program) nằm trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) chứ không phải theo chương trình HO (Humanitarian Operation) tưởng tượng nào cả. Cái gọi là chương trình HO chỉ là sự suy diễn từ các con số thứ tự của các danh sách những người tù chính trị đã được cộng sản trao cho Hoa Kỳ để phỏng vấn đi tỵ nạn tại Mỹ theo thứ tự: H.01, H.02…. H.10, H.11, H.12… Cộng sản và tay sai có thể lợi dụng cái danh xưng “HO” không Chính không Thực và Lập Lờ này cho những âm mưu đen tối của chúng. Chúng có thể tuyên truyền lếu láo rằng: “Không những đảng đã tha chết cho bọn tội phạm chiến tranh này, mà còn tổ chức cả một “Chiến Dịch Nhân Đạo/HO” để cho đi định cư tại ngoại quốc. Ra đến ngoại quốc đã không biết ơn lại còn đi đấu tranh, biểu tình chống lại đảng…” Sự kiện tù chính trị là một sự kiện có tính chính trị và lịch sử; phải xử dụng Danh cho Chính. Không thể Lộng Giả Thành Chân cái nguỵ danh “HO” để xuyên tạc sự thật lịch. Học tập cải tạo” là một nguỵ danh để che đậy 5 Tội Ác chống Loài Người (Crimes against Humanity) được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) của bè lũ Việt gian cộng sản đối với quân, dân, cán, chính VNCH đã bị chúng giam cầm (imprisonment) một cách phi pháp sau ngày 30-4-1975. Đây cũng là một tội ác có tính lịch sử của lũ Việt gian cộng sản. Cái nguỵ danh “tù cải tạo/HO” phải được Chính Danh là: Tù Nhân Chính Trị và Nạn Nhân của Tội Ác chống Loài Người của Hồ Chí Minh và bè lũ cộng sản. Cũng cần phải nói thêm rằng khi dùng cái danh từ “cải tạo” của cộng sản là mắc mưu chúng bởi vì chúng tuyên bố lếu láo rằng vì các anh có “nợ máu” với nhân dân nên các anh phải đi “cải tạo,” và khi tự gọi mình là “tù cải tạo” tức là tự nhận mình có tội. Cũng như khi tự gọi mình là một “HO”- một cái nguỵ danh đã bị lộng giả thành chân để chỉ một người “tù cải tạo” – là tự từ bỏ cái căn cước người tù chính trị của mình. Cho nên, Chính Danh là vấn đề rất quan trọng cả về chính trị và lịch sử. Dùng Nguỵ Danh để che đậy và bóp méo một sự kiện lịch sử là tội đại gian và có tội đối với lịch sử. Đỗ Ngọc Uyển Sanjose, California Tài liệu tham khảo en.wikipedia.org/wiki/Reeducation_camp www.ofc.berkeley.edu/~sdenney/Vietnam-Reeducation-Camps-1982 www.victimsofcommunism.org/history_communism.php untreaty.un.org/cod/icc/STATUTE/99_corr/cstatute.htm (Rome Statute of International Criminal Court) www.optionaljournal.com/best/?id=110010372″ (The Wall Street Journal, Monday, July 23, 2007 – Best of The Web Today by James Tananto) query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=953D7103DF936A25 753C1A96F948260&sec= &spon=…(The New York Times, October 15, 1989 THE NATION; The Next Wave From Vietnam: A new Disability by Seth Mydans) U.S Department of State – Fact sheet – Bureau of Population, Refugee and Migration – Washington DC – January 16, 2004 Chú thích [1] 11 tội ác chống nhân loại được dự liệu trong Điều 7 của Đạo Luật Rome gồm có: 1- Murder; 2- Extermination ; 3- Enslavement; 4- Deportation or forcible transfer of population; 5- Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law; 6- Torture; 7- Rape, sexual slavery, enforced prostitution, forced pregnancy, enforced sterilization or other form of sexual violence of comparable gravity; 8- Persecution against any identifiable group or collectivity on political, racial, national, ethnic, cultural, religious, gender as defined in paragraph 3, or other grounds that are universally recognized as impermissible under international law in connection with any crime within the jurisdiction of the court; 9- Enforced disappearance of persons; 10- The crime of apartheid; 11- Other inhumane acts of a similar character causing great suffering, or serious injury to body or to mental or physical health; [2] Toà Án Hình Sự Quốc Tế (International Criminal Court) là toà án độc lập và thường trực được thành lập theo Đạo Luật Rome (The Rome Statute) để điều tra và xét xử 4 loại tội ác sau đây: 1- Crimes against humanity (Tội ác chống nhân loại); 2- The crime of genocide (Tội ác diệt chủng); 3- Crimes of war (Tội ác chiến tranh); 4- Crimes of aggression (tội ác xâm lược).# 1975 – 1980: 1. Cướp tài sản của nhân dân bằng cách đánh tư bản mại sản. Mua nhà của dân, rồi in và đổi tiền nhiều lần. 2. Bắt nghĩa vụ quân sự thanh niên miền nam, bắt huấn luyện tượng trưng vài tháng rồi dẫn độ qua Campuchia cho bọn Polpot bắn giết từ phía trước và giặc bộ đội chính quy việt nam bắn từ phía sau…với mục đích tiêu trừ thật nhiều thanh niên miền nam, những người đã lớn lên, sống và hiểu biết về chế độ tàn ác cộng sản. Hàng ngàn thanh thiếu niên đã chết tức tưởi và không được thông báo cho gia đình…Đây là chiến dịch giệt chủng tàn độc của bọn việt cộng giải phóng… 3. Chuyện một em bé 12 tuổi ăn cắp một con gà…Chính quyền giải phóng miền nam bắt em mang ra sân vận động Đạt Đức ở gần Xóm Mới bắn tử hình để dằn mặt người dân miền nam năm 1975…Với khẩu hiệu “Đảng Liêm Chính và Chuyên Chính Vô Sản”. 4. Chương trình kinh tế mới nhằm cướp thêm tài sản của dân trong vùng thành phố. Nhất là những tài sản của gia đình quân nhân VNCH. “Chương trình Lao Động Để Được Nhà Nước Khoan Hồng”. 5. Người vượt biên, vượt biển thì chúng ghép cho tội: Những loại người phản quốc / bọn đầu trộm đuôi cướp / đĩ điếm v.v… Nay thì lại đổi giọng là Việt Kiều Yêu Nước / Khúc ruột ngàn dặm v.v.. Xin mời người việt hải ngoại trở về giúp xây dựng đất nước!!?? 6. Đảng và nhà nước – một lũ ăn cướp biết bao nhiêu là tài sản của nhân dân, dâng Hoàng Sa Trường sa cho giặc / dẫn giặc tàu vào Tây Nguyên qua chương trình khai thác Bauxite và những khu đất rừng cho tàu cộng mượn 50 năm không tính toán!!?? Nước việt nam có khu khai mỏ của tàu (đây là căn cứ của gián điệp tàu cộng do nhóm quân đội trung quốc là những công nhân trá hình đang phát triển những căn cứ / quân khu ngầm ngay trong lòng đất việt!!!, nhạc tàu, gái việt lấy tàu, đẻ con cho tàu…Chính quyền và đảng cộng sản việt nam đang tiếp tay cho Tàu cơ hội phát huy chiến dịch đồng hóa dân việt… 7. Phá rừng, khai sông, phá hoại thiên nhiên không tội vạ! ai đã và đang làm những điều này? 8. Hàng trăm ngàn tội ác khác mà không lâu nữa những người cộng sản sẽ phải trả lời dưới ánh sáng của mặt trời và trước toàn thể người dân Việt Nam….Khốn nạn thay…
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 27, 2020 4:14:53 GMT 9
Tháng Tư ĐenPosted on April 26, 2020 by dongsongcu Ngọc Hạnh Tượng Đài Chiến Sĩ Việt-Mỹ tại Thành Phố Westminster, California.(Photo VB) Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam. Bà tên thật Nguyễn thị Ngọc Hạnh, trước 1975 đã là giáo sư trung học đệ nhị cấp tại Saigon. Cùng gia đình tới Mỹ từ 1979., hiện hưu trí tại miền Đông và vẫn tiếp tục viết. Sau đây, thêm một bài viết mới. *** Mùa Đông lạnh lẽo đã qua, cây cỏ hồi sinh đâm chồi nảy lộc sau mấy tháng ngủ yên, trơ cành trụi lá. Nắng sáng vàng tươi khắp đó đây phủ lên vạn vật, chim hót líu lo. Trên trời xanh vài đám mây trắng bay lửng lơ. Nhà nhà sân cỏ non xanh mướt, cắt tỉa gọn gàng xinh xắn. Hoa đỗ quyên tím, hồng, đỏ, trắng đang nở rộ, toàn là hoa, chẳng thấy lá, trông thật vui mắt… Vân đi bộ trong xóm khá rộng và yên tịnh, ít xe, có lối đi dành riêng cho nguời đi bộ. Xóm này có vài gia đình Á Đông còn lại là người da trắng. Cô Cindy nhà đối diện là Mỹ trắng, tuổi trung niên gầy gò lúc nào cũng vội vàng. Sân nhà cô rộng ngoài mấy bụi đỗ quyên lâu đời dọc theo lối đi rực rỡ màu sắc, còn có cây dogwood đang ra hoa trắng kín hết các cành . Ong người Nhật xéo xéo nhà Vân có khu vườn cây cảnh nho nhỏ theo cách thức người Nhật trong nhà kiếng rất xinh. Thật là: Mùa Đông lạnh lẽo đến ngày tàn Đàn chim vui hót đón Xuân sang Cỏ hoa rực rỡ khoe hương sắc Cây lá xanh tươi dưới nắng vàng Tháng tư vùng Hoa Thịnh Đốn cỏ hoa, khí hậu tuyệt vời, cuộc sống vật chất đầy đủ tiện nghi làm Vân bùi ngùi nhớ lại tháng 4 hãi hùng, đau thương cách đây 45 năm, nhớ họ hàng bà con ở quê hương VN xa xôi mà Vân không có cơ hội găp lại.Sau tháng 4 /75 nhiều gia đinh ly tán, trẻ con nheo nhóc, vợ trẻ xa chồng, mẹ già mòn mõi ngóng tin con. Nhiều người đang nhà cao cửa rộng phải đi ở nhờ ở đậu. Có người liều vượt biên, làm mồi cho cá nơi biển cả hay nạn nhân bọn cướp biển, phụ nữ bi hãm hiếp… Gia đình bạn Vân gồm 2 vợ chồng và 3 con vượt biên cùng 28 người họ hàng bị bão chìm tàu. Chỉ 8 người sống sót. Người bạn sống nhưng vợ và 3 con chìm trong lòng biển cả mênh mông. Nhắc mà đau lòng, xót xa cho cảnh chia ly tang tóc. Sau cuộc đổi đời vào tháng 4/ 1975, miền Nam trước kia sung túc lúa gạo dư thừa còn xuất cảng nước khác mà năm ấy một số dân Saigon phải ăn độn bo bo. Một hoc trò Vân cho biết sau khi cha em đi tù cải tạo ít lâu gia đình em “khoái ăn sang”. Sáng trước khi đi bán mẹ em chừa mấy củ khoai cho các con ăn sáng và ăn trưa. May mắn em có người anh du học từ trước bảo lãnh sang Hoa Kỳ và thành công nơi xứ người. Thời gian đó gia đình quân nhân, công chức tinh thần căng thẳng, vật chất thiếu thốn vì chồng đi tù cải tao. Ong Xã yêu quý Vân nằm trong số những người tù này. Mấy năm sau anh đươc thả nhưng phải về thôn quê cư ngụ, không được ở thành phố. Cứ mỗi 2 tuần hay 1 tháng Vân đến phường xin phép đi về quê thăm anh xã. Từ Saigon xe đò về tỉnh nhỏ chật như nêm. Về đến tỉnh còn đi thêm ½ tiếng mới đến nhà anh Xã ở nhờ. Đường xa có khi xe bi hư nằm ụ, sửa xong xe cà rịch cà tàng tới tỉnh trời đã tối. Vân phải ngủ nhờ nhà bà con ngoài chợ, sáng hôm sau mới vào làng.Tình trạng kéo dài cả năm anh Xã mới được về Saigon tiếp tục dạy học. Anh Xã có ý đinh vượt biên từ ngày mới ra khỏi trại tù, mặc kệ nguy hiểm như bị hải tặc, bão tố chìm tàu Phường khóm công an thường mang súng đến khám nhà vào lúc giữa đêm lúc mọi người ngon giấc.Họ đánh thức dây , gom cả nhà vào môt chỗ, bắt tất cả đứng yên để xét nhà. Ai bảo đảm anh Xã không bị tù lần nữa. Thôi thì liều tìm đường vượt biên. Đi hụt 2 lần, mất tiền nhưng may không bị bắt. Lúc anh Xã đi tù, bà Nội các cháu buồn và lo lắm. Tưởng là đi 10 ngày nhưng rồi đi biệt mấy năm mới về may mà còn sống. Tình Bằng Hữu Vân muốn đi nhưng không còn tiền. Có chút ít thì đã mất trong 2 lần vượt biên hụt. Xé lẻ để anh Xã và con trai đi trước anh Xã không đồng ý, đi cùng để rủi ro chìm tàu thì chết cả nhà cho gọn. Môt hôm người bạn anh Cả nghe tin anh Xã được về Saigon đến thăm. Trước anh chị có tiêm buôn. Khi cờ đỏ phất phới các công sở, anh chị hiến cửa tiệm cho nhà nước để mong sớm có giấy tờ đi nước ngoài do bà con bảo lãnh. Anh còn căn nhà 3 tầng nhưng đồ đạc lớp bán lớp cho nên cũng gần như trống trơn. Tuy thế cũng bị công an đến đuổi mọi người đi ra và tịch thu nhà, chỉ được mang theo cái túi sách nhỏ đưng quần áo. Anh chị đến ở nhờ nhà người thư ký cũ. Khi biết anh Xã và Vân muốn vượt biên chiều hôm ấy anh chị trở lại và mang vàng cho Vân mượn, đủ cho 2 cha con đóng tiền tàu. Anh khuyên anh Xã và con trai đi trước để trường hơp thất bại quay về còn nhà để ở. Nếu đi cùng một lúc công an sẽ tich thu nhà, rũi bị bắt trở về thì thành người vô gia cư. Vàng thì đến xứ tự do đi làm có tiền trả lại anh chị, bao giờ cũng được, nếu không có kể như quà tặng . Lòng hảo tâm của anh chị làm Vân thật sự cảm động . Vài ngày sau có chủ tiệm vàng quen gia đình ở Mỹ tho lên Saigon rủ anh Xã đi bán chánh thức, do nhà nước tổ chức nên không lo bị gạt. Ông bà sẽ ứng trước, đến nơi trả lại sau như là cất giùm vì ông bà không thể đem theo một số vàng lớn theo được . Anh Xã và Vân bằng lòng ngay và mời anh chi bạn đến nhà gởi trả lại số vàng đã mượn. Anh tặng anh Xã cái đồng hồ anh đang cất trong túi , phòng khi cơ nhở. Thật vậy, đến đảo Hải Nam, Vân bán đồng hồ ấy lấy tiền mua thêm mua thức ăn. Vàng ròng trả lại, nghĩa nằm lòng, Tay trắng không nhà vẫn hảo tâm. Chẳng phải họ hàng là bạn hữu, Miếng khi đói bằng gói khi no… Vượt Biên Cả nhà lên Biên Hòa từ đêm trước để sáng hôm sau xuống tàu rời quê hương. Gia đình ngủ trong ngôi nhà xưa nơi chuồng heo cũ tuy trải chiếu nhưng mùi phân heo còn nồng. Con trai 11 tuổi đòi về nhà. Cháu vừa đói vừa lạ chỗ không ngũ được. Lúc trưa đang ăn dở dang thì người dẫn mối đến gọi đi, phải bỏ ăn theo nhóm. Hành lý gọn nhẹ chuẩn bị sẵn sàng từ lâu. Trước khi đi Vân đưa các con đến thăm bà Nôi vì không biết bao giờ mới gặp lại. Các cháu quyến luyến không muốn rời Bà. Vân dặn trước các con không được khóc, không cho bà biết đi vượt biên. Nhìn bà nội tóc bạc phơ, thương lắm nhưng anh Xã quyết định rời quê hương. Năm 1975 gia đinh Vân có thể đi nước ngoài với mấy người bà con nhưng thương mẹ già yếu, anh Xã ở lại và bị đi tù. Gia đình Vân đi bằng chiếc tàu sắt cũ lẻ ra chở 1200 người nhưng nhét hơn 1300 nhân mạng, chật cứng không còn lối đi. Lên tàu gia đình nào may mắn đến trước được ở trên boong thì ngày nắng đêm lạnh. Tuy thế còn khá hơn người đến sau phải xuống dưới hầm rất ngột ngạt. Tàu chật như nêm không đủ chỗ nằm, gia đình phải thay nhau kẻ ngủ nằm, người ngủ ngồi. Thức ăn, nước uống hạn chế. Có người say sóng nôn mửa bẩn thỉu. Trẻ con, người già bị ốm. Có 1 người té xuống biển mất tich. Ban đêm, biển rộng biết đâu mà tìm. Vài ngày lại thấy tàu chạy vòng tròn, vòng tròn mấy vòng. Họ làm lễ “thủy táng”người chết, bà lão, em bé chết vì say sóng , bệnh tật… Đi vài hôm gặp sóng chủ tàu dùng phóng thanh cho biết phải vứt bớt hành lý nếu không tàu sẽ chìm. Nhân viên tàu sẽ đến từng gia đình nhặt bớt hành lý và vứt xuống biển. Vật dụng đem theo đã chọn thứ cần thiết gọn nhẹ nay phải vứt bớt đi, tiếc lắm nhưng phải chịu thôi. Đảo HẢI NAM: Theo lời hứa chủ tàu người Trung Hoa sẽ đưa người vượt biên đến Hong Kong Mọi người không biết lúc ấy các trại ti nạn Hong Kong đã đầy nên họ không nhận thêm người tị nạn nữa. Tàu đến không được lên bờ và có thể bị kéo trở ra biển, chủ tàu bị bắt bi phạt. Tàu đi độ 1 tuần đến gần bờ đảo Hải Nam, nơi có nhiều san hô. Tối hôm ấy lúc thấy ánh đèn dân cư thấp thoáng trên đảo tàu đang chạy châm chậm bổng nghe tiếng động mạnh và ngừng hẳn lại. Mọi người ồn ào cho đến khi có tiếng loa trên cho biết tàu hỏng vì vương san hô và sẽ chìm, mọi người chuẩn bi hành lý gọn nhẹ để lên bờ …Thanh niên, nam giới tự bơi vào bờ, phụ nữ, trẻ em sẽ có thuyền ra đón…Hóa ra chủ tàu và gia đình đã mang tài sản xuống tàu nhỏ bỏ trốn vì đến Hong Kong họ sẽ bi bắt. Trước khi trốn có lẻ họ đã điện cho chánh quyền địa phương biết có chiếc tàu sắt bị nạn ở đia điểm…nên khi khi tàu bị kẹt ở san hô một lúc thì có chánh quyền địa phương đứng lố nhố trên bờ đèn đuốc sáng trưng.Trẻ em, phụ nữ một số vào bờ bằng thuyền cứu trợ, một số được thuyền đia phương đón. Hành lý một mớ đã vứt bớt từ mấy hôm trước giờ phải bỏ lại một mớ nữa… Chiếc tàu sắt đươc kéo vào ụ tàu sửa cả tháng mới xong. Từ tàu sắt lên bờ chúng tôi được chính quyền Hải Nam cho tạm trú ở rừng dương sát bờ biển trong lúc chờ sửa tàu. Rừng dương liễu do nhà nước trồng chạy dài theo bờ biển cát trắng để ngăn bớt gió và cát cho cư dân trong xóm. Trong rừng dương mát mẻ, it nắng, gió. Mỗi gia đình được phát tấm nylon trải lên cát, dưới bóng cây, hằng ngày sắp hàng đến nơi phát thực phẩm lấy thức ăn cho cả nhà. Buổi sáng phát cháo, buổi chiều phát bánh bao toàn bột, không nhân. Phía sau rừng dương đi chừng 10, 15 phút có nhà dân chúng, họ sống về nghề đánh cá. Gần bờ biển toàn đất cát, không trồng lúa và rau cải được nên gạo và rau rất quý và đắt. Nhiều gia đinh ăn cá thay cơm. Dân tị nạn đươc chánh quyền cho ăn cháo là quý rồi. Họ trồng được khoai lang tuy cũ nhỏ nhưng rất ngon. Chúng tôi đi loanh quanh các xóm nhà dọc bờ biển thấy người ta nuôi heo, nuôi gà. Những con heo cỏ bụng ỏng, nhỏ con lâu lớn, những con gà nhiều màu nhưng bé nhỏ như gà tre… Loài gà và heo ấy từ lâu Việt Nam không ai nuôi chúng nữa. Người ta nuôi loại heo to con, chóng lớn, gà cũng vậy. Dân đảo Hải Nam thời bấy giờ nhà không có cửa. Họ uống nước mưa, không có nước máy. Vì ăn cháo nên bà con đói. Ai có tiền hay quần áo vật dụng đem đổi hay bán lấy tiền mua thức ăn. Đồng hồ, bút máy, bút bi, quần jean đều đươc ưa thích. Họ đổi hay mua gạo, cá, khoai nhưng phải đi xa hơn khu đánh cá…. Thời gian này anh xã bán cái đồng hồ người bạn tặng trước khi lên đường để mua thức ăn. Trong lúc chờ sửa tàu người lớn lo lắng tới lui ban đại diện thăm hỏi tin tức, trẻ em vô tư đi tắm biển, nhặt san hô nên khỏe và đen thui lui. Cả tháng sau tàu sửa xong. Mọi người lại dắt díu đi bộ gần cả tiếng ra nơi tàu đậu đi Hong Kong.Tàu ghé đảo LanTau (không nhớ ghé Lantau để làm gì) mấy hôm mới được vào Hong Kong. Thời kỳ ấy Lantau hoang sơ. Ngày nay nghe Lantau là khu nghỉ mát rất đep và đắt tiền. Một số chị em đã đến thăm nhưng Vân chưa bao giờ trở lại. Trại Tị Nạn HONG KONG: Gia đinh Vân ở trại tị nạn Hong kong 6 tháng trước khi đinh cư Hoa kỳ vì có người bảo trợ. Trại ti nạn gồm nhiều gian nhà rộng, không bàn ghế chi hết, chứa hơn trăm người mỗi nhà Mỗi gia đinh gom lại trong tấm nylon lớn trải trên nền xi măng. Ăn, ngủ cùng một chỗ mà thôi. Ban ngày người ti nạn có thể giúp văn phòng làm giấy cho người mới đến, học Anh văn, trò chuyên hay ra ngoài đi làm thợ vịn, đi phố nhưng không đươc ngủ trưa. Cảnh sát Hong kong vào trại thấy ai ngủ trưa là dùng roi đánh thức dậy hết. Đối với người vượt biên giam hảm cả tuần trên con tàu chật chội phải ngủ ngồi, Hông kong quá tốt. Người tị nạn ra vào trại thoải mái nhưng không được vắng măt ban đêm. Anh Xã yêu quý của Vân hàng ngày dạy Anh Văn cho trẻ em trong trại, điền đơn, thông dịch cho bà con kém Anh ngữ. Định Cư HOA KỲ: Gia đình Vân đến Hoa kỳ vào mùa Đông lạnh lẽo với tay trắng và tiền nợ vượt biên. Virginia lúc ấy rất lạnh, tuyết trắng đọng trên mái nhà, sân cỏ. Người đi đón măc áo khoác dày, đội mủ che kín mang tai. Đường vắng, trời lạnh nhưng tình nồng. Vân ở chung với vợ chồng nguời bảo trợ cho đến khi có việc làm mới dọn ra riêng. Anh Xã và Vân đi làm lu bù để trả món nợ ân tình. Các con Vân chăm học và hiếu thảo Có lẻ các cháu thấy được đến Hoa kỳ là thật sư may mắn so với cả ngàn người khác. Mỗi năm đến tháng tư Vân nhớ lòng tốt anh chi bạn năm xưa và sự hảo tâm người bảo trợ, cho đi mà không cần nhận lại…” Nợ tiền trả hết, nghĩa cũ còn mang “ Những người cùng vượt biên với Vân ai cũng ổn đinh và sống rải rác các tiểu bang Hoa kỳ, nhiều nhất là Cali. Tóm lại với Vân nước Mỹ thật vĩ đại, tuyệt vời, nhất là tình người và an sinh xã hội. Người tị nạn buổi đầu được đi học miễn phí. Người già yếu bệnh tật sở xã hội mướn người chăm nuôi, ốm đau đi bệnh viện không mất tiền. Các phụ nữ độc thân, nghèo có con mọn được chánh phủ cho tiền nuôi con và gửi trẻ để người Mẹ trẻ tiếp tục đến trường học nghề, học chữ… Giáo chức Mỹ ân cân, tân tâm. Vân chưa thấy người Mỹ nào làm việc bôi bác, dối trá dù là người lao động như thợ điện, thợ sửa ống nước … Nước Mỹ là thiên đường, mùa Xuân của những ai hiếu học, cầu tiến. Vân chân thành cám ơn chánh phủ và người Hoa kỳ giàu lòng nhân áí,mở rộng vòng tay cưu mang giúp đỡ đồng bào Việt Nam lúc khó khăn nhất có nơi nương tựa, có cơ hội vươn lên làm lại cuộc đời, sống an lành, vui vẻ nơi xứ tự do đất lành chim đậu. Ước mong rất nhiều và cầu chúc con em người Việt tị nạn học thật giỏi để tương lai tốt đẹp, góp phần xây dựng đất nước Hoa Kỳ và quê hương VN. Xin chúc đồng bào hải ngoại và quê nhà có công việc làm ăn tử tế, ấm no, hạnh phúc… Mặt trời từ từ lên cao, nắng ấm reo vui. Gió ban mai nhẹ nhàng ve vuốt những bụi hoa tươi thắm, các cành lá xanh non mươt mà… Vân có mấy câu văn vần xin tặng quý độc giả: Mùa Xuân xin chúc đồng bào ta, Bà con bạn hữu gần cùng xa. Dồi dào sức khỏe, tâm an lạc, Dâu rể, cháu con luôn thuận hòa. Các em cư ngụ xứ Cờ Hoa, Đất nước văn minh cùng vị tha. Cầu chúc các em học thật giỏi, Vui lòng cha mẹ và ông bà.Virginia, Mùa Xuân Nguồn: vvnm.vietbao.com/a247439/thang-tu-den
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 27, 2020 4:27:30 GMT 9
VÀNG XƯA ĐẦY DẤU CHÂN -THÁNG TƯ TRÊN TRẠI TI NẠN NHỚ GIỌNG HÁT THÁI THANH -
Chiếc xe buýt dài chở chúng tôi từ bờ biển cực nam Thái Lan ngược lên phía bắc để vào trại tị nạn, thỉnh thoảng dừng lại dọc đường. Đoàn xe có ba chiếc. Mỗi khi xe dừng ở trạm đổ xăng hoặc quán giải khát, chúng tôi ngồi im trong xe, không đưa đầu ra ngoài, chờ, cho đến khi được lệnh xuống xe, nhưng không đi quá xa. Một lần xế chiều, xe dừng lại ở quán nước dọc bờ biển. Trong xe có những người kiếm đâu ra được ít tiền dollars Mỹ hoặc tiền baht Thái, mua nước uống hoặc cà phê, loại pha sẵn trong ly nhựa, có đá vụn, hồi đó rất lạ, nhưng hầu hết bọn thanh niên chúng tôi không có tiền, đứng thẫn thờ tụm năm tụm ba ngoài sân, ngơ ngác như gà mất mẹ.
Trong quán giải khát, nhạc mở ầm ĩ từ mấy cái loa phóng thanh rất lớn. Bỗng giữa chừng chúng im bặt một lúc lâu, rồi một bài hát tiếng Việt bất ngờ phát ra. Đó là bản nhạc khá xưa, nhưng nhiều người trẻ hơn tôi vẫn chưa kịp nghe thì xảy ra biến cố ba mươi tháng tư, sau đó tất nhiên bị cấm. Tôi nhận ra giai điệu quen thuộc. ” Người đi qua đời tôi trong những chiều đông sầu. Mưa mù lên mấy vai gió mù lên mấy trời. Người đi qua đời tôi hồn lưng miền rét mướt. Vàng xưa đầy dấu chân đen tối vùng lãng quên. “ Ríu rít, say sưa, chợt cười chợt khóc, dào dạt lòng người, trong buổi chiều nắng xế, chim bay về rừng, mây bay về núi. Mắt tôi nhòa đi, đất trời lay đổ. Giọng hát của ai? Một người trả lời, Thái Thanh. Đúng rồi. Chỉ có Thái Thanh mới hát như vậy. Phạm Đình Chương phổ nhạc bài thơ “Người Đi Qua Đời Tôi” của Trần Dạ Từ. Lời thơ cực tả kinh nghiệm và cảm xúc trong tình yêu, nhạc và ngôn ngữ hòa quyện mật thiết uyển chuyển, réo rắt, hợp với giọng người hát. Hình ảnh trong thơ đẹp, sang trọng, giàu chất tượng trưng, vần điệu trong thơ đã làm nền cho ca khúc. Giọng hát ngây ngất, phát âm tròn chữ, khi xuống thì xuống hết bực khi lên thì thênh thanh như mây trời. Giọng hát ấy đến từ những ngày xa xưa Hà Nội thời kháng chiến chống Pháp đến Sài Gòn thủ đô miền Nam tự do, nâng đỡ bởi âm nhạc của Phạm Duy, Văn Cao, chất melancholy của Phạm Đình Chương, và êm như tơ trời Ngô Thụy Miên. Bài hát tiếp theo cũng tiếng Việt, hình như do một ca sĩ khác, nhưng không nghe rõ, có thể vì tôi không nghe gì được nữa sau Thái Thanh, vỏn vẹn hơn mười phút cả hai bài , rồi trở lại nhạc Thái rock hò hét ầm ĩ như cũ. Trong khoảng vài phút ấy chúng tôi nghe tiếng động của một thời mới đây vài năm mà nay đã xa nghìn trùng. “ Người đi qua đời tôi không nhớ gì sao người. Mưa nào lên mấy vai gió nào lên mấy trời. Người đi qua đời tôi đường xưa đầy lá úa. Vàng xưa đầy dấu chân đen tối vùng lãng quên. Em đi qua đời anh không nhớ gì sao em.? “ Thái Thanh thuộc lớp những ca sĩ đầu tiên của tân nhạc Việt Nam, hát từ khi còn nhỏ tuổi, nhưng đến khi vào miền Nam mới thực sự tỏa sáng với ban Thăng Long và những Hoài Bắc, Hoài Trung. Điều đặc biệt là bà không dừng lại ở đó mà tiếng hát dường như ngày một tinh luyện hơn. Cách phát âm, đẩy hết cung bậc của tiếng Việt, khai thác sâu các khía cạnh của giọng nói, ở Thái Thanh được nâng lên thành nghệ thuật có một không ai. Những người trẻ sau này có thể không quen và mê tiếng hát này như các thế hệ trước đó, thậm chí có người còn cho là khó nghe. Tuy vậy đó là một tượng đài của nghệ thuật phát âm của tiếng Việt, kẻ tiên phong, có lẽ nhờ Thái Thanh kết hợp giữa lối hát dân gian như ca trù và nghệ thuật opera. Tuy nhiên đó là những ý tưởng bàng bạc qua thời gian, chứ vào giây phút ấy, tôi chẳng suy nghĩ gì cả: tôi chỉ sống, cảm xúc. Sau này mỗi khi nhớ lại quán nước chiều vàng, sóng biển nhấp nhô gềnh đá, con đường hun hút, tôi nhận ra không phải chỉ có âm nhạc Phạm Đình Chương và nghệ thuật Thái Thanh đã làm chúng tôi xúc động. Có một thứ gì khác nữa, hình như ngấm ngầm hơn, sâu xa, lặng lẽ khác với âm nhạc, đã làm chúng tôi sống lại những ngày tháng đẹp đẽ, không khí tự do hít căng lồng ngực, ban mai thanh bình lướt qua như sương trắng muốt. Tôi nhận ra đó là ngôn ngữ, chính là tiếng Việt : THƠ. Vì thơ là tinh hoa của ngôn ngữ. Thơ Trần Dạ Từ như tuổi trẻ, như chiến tranh, như bếp lửa, ở đó bạn từng ngồi xuống giữa những người khác, trước mặt một người. Tình yêu như công việc: sống là việc khó khăn, sống trong tình yêu lại càng khó khăn. Những tình nhân phải kết hợp lại để vượt qua nghịch cảnh, nhưng họ cũng phải vượt qua sự yếu đuối của chính họ, tan rã của chính họ. Chúng tôi già hơn tuổi của mình, đầy vết xước ly tan, bèo bọt. Đó là một tuổi trẻ bị đánh cắp. Lịch sử không thuộc về chúng tôi. Chỉ có ngôn ngữ giữ chúng tôi lại, như sợi dây thừng buộc chặt chiếc thuyền vào bờ, nhấp nhô trên sóng. Gần ba tháng ròng trên biển, lưu lạc ở một đất nước khác, giữa một văn hóa khác, những thức ăn khác, trong hình dung rằng suốt cuộc đời có lẽ chẳng bao giờ còn cơ hội dùng lại tiếng mẹ đẻ. Không bao giờ. Ra đi là bỏ tiếng Việt lại đằng sau.Tiếng mẹ đẻ. Ca khúc của Phạm Đình Chương chạm tới cốt tủy người nghe. H. ôm lấy tôi. Cả bọn bảy tám đứa không biết lúc nào đứng xích lại bên nhau, co ro, lắng nghe, hồi tưởng. Tôi liếc mắt nhìn người bạn mới quen trên thuyền, anh P., sĩ quan, thấy trên má anh một giọt lệ, lăn đi. Khi đi cải tạo về thì anh đã mất tin tức về người vợ và hai đứa con nhỏ của anh, một trai một gái. Ca sĩ không bao giờ biết rằng cô đã hát bài hát ấy trong một quán nước bên đường, đầu những năm tám mươi, khi người Việt tan tác khắp nơi, khi tiếng Việt là niềm hy vọng cuối cùng của họ. Tiếng hát nào hơ nóng. Hôm đó trong khi đi tới nhà vệ sinh của trạm đổ xăng, băng qua một cửa sổ nhỏ, tôi tình cờ nhìn vào, thấy một cái máy hát, chạy bằng băng cát sét, thấy một người phụ nữ đang rướn mình điều khiển chiếc máy, kê cao trên kệ. Có lẽ là chủ quán hay vợ con của chủ quán, tôi không biết, một phụ nữ còn trẻ khoảng gần ba mươi tuổi, tóc xõa ngang vai, quấn khố dài kẻ sọc xanh đỏ, y phục hoàn toàn theo kiểu Thái. Tôi tò mò đứng nhìn hơi lâu. Khi chị quay lại, ánh mắt của chúng tôi tình cờ gặp nhau. Chị khẽ mỉm cười. Hay là tôi tưởng tượng thế? Tôi không biết. Tôi sửng sốt chỉ kịp gật đầu, không cất thành lời. Vào lúc ấy tôi nhận ra rằng, tôi chắc chắn rằng, không nghi ngờ gì nữa, khuôn mặt ấy là của một người phụ nữ Việt Nam. Tôi đứng im một lúc, rồi sự nhút nhát của cả hai đã chiến thắng lòng can đảm, chị quay mặt đi, tôi bỏ về phía đoàn xe buýt, nơi mọi người đã lên gần hết và người cảnh sát tốt bụng nhưng khó tính đang đứng gần cửa để điểm danh. Tôi đã không còn cơ hội nào để hỏi chuyện với người phụ nữ tha hương kia. Nhưng tôi tin bài hát tiếng Việt, giọng hát huyền thoại, một người làm thơ, một người phổ nhạc, một người hát, trong một lúc đã làm hai chúng tôi gần lại, hai kẻ lưu lạc kia, vốn không hề quen biết, nhờ một băng nhạc cũ bám bụi vàng thời gian mà vẫn có thể nhận ra nhau giữa giông bão cuộc đời.
( NDT)
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 27, 2020 4:32:41 GMT 9
Chuyện Di Tản 1975 - Tiểu Tử Tôi không có đi di tản hồi những ngày cuối tháng tư 1975 nên không biết cảnh di tản ở Sài gòn ra làm sao. Mãi đến sau nầy, khi đã định cư ở Pháp, nhờ xem truyền hình mới biết ! Sau đây là vài cảnh đã làm tôi xúc động, xin kể lại để cùng chia xẻ… Chuyện 1 Ở bến tàu, thiên hạ bồng bế nhau, tay xách nách mang, kêu réo nhau ầm ĩ, hớt hơ hớt hải chạy về phía chiếc cầu thang dẫn lên bong một chiếc tàu cao nghều nghệu. Cầu thang đầy người, xô đẩy chen lấn nhau, kêu gọi nhau, gây gổ nhau… ồn ào. Trên bong tàu cũng đầy người lố nhố, giành nhau chồm lên be tàu để gọi người nhà còn kẹt dưới bến, miệng la tay quơ ra dấu chỉ trỏ… cũng ồn ào như dòng người trên cầu thang ! Giữa cầu thang, một bà già. Máy quay phim zoom ngay bà nên nhìn thấy rõ : bà mặc quần đen áo túi trắng đầu cột khăn rằn, không mang bao bị gì hết, bà đang bò nặng nhọc lên từng nấc thang. Bà không dáo dác nhìn trước ngó sau hay có cử chi tìm kiếm ai, có nghĩa là bà già đó đi một mình. Phía sau bà thiên hạ dồn lên, bị cản trở nên la ó ! Thấy vậy, một thanh niên tự động lòn lưng dưới người bà già cõng bà lên, xóc vài cái cho thăng bằng rồi trèo tiếp. Chuyện chỉ có vậy, nhưng sao hình ảnh đó cứ đeo theo tôi từ bao nhiêu năm, để tôi cứ phải thắc mắc : bà già đó sợ gì mà phải đi di tản ? con cháu bà đâu mà để bà đi một mình ? rồi cuộc đời của bà trong chuỗi ngày còn lại trên xứ định cư ra sao ? còn cậu thanh niên đã làm môt cử chỉ đẹp – quá đẹp – bây giờ ở đâu ?... Tôi muốn gởi đến người đó lời cám ơn chân thành của tôi, bởi vì anh ta đã cho tôi thấy cái tình người trên quê hương tôi nó vẫn là như vậy đó, cho dù ở trong một hoàn cảnh xô bồ hỗn loạn như những ngày cuối cùng của tháng tư 1975… Chuyện 2 Cũng trên chiếc cầu thang dẫn lên tàu, một người đàn ông tay ôm bao đồ to trước ngực, cõng một bà già tóc bạc phếu lất phất bay theo từng cơn gió sông. Bà già ốm nhom, mặc quần đen áo bà ba màu cốt trầu, tay trái ôm cổ người đàn ông, tay mặt cầm cái nón lá. Bà nép má trái lên vai người đàn ông, mặt quay ra ngoài về phía máy quay phim. Nhờ máy zoom vào bà nên nhìn rõ nét mặt rất bình thản của bà, trái ngược hẳn với sự thất thanh sợ hãi ở chung quanh ! Lên gần đến bong tàu, bỗng bà già vuột tay làm rơi cái nón lá. Bà chồm người ra, hốt hoảng nhìn theo cái nón đang lộn qua chao lại trước khi mất hút về phía dưới. Rồi bà bật khóc thảm thiết… Bà già đó chắc đã quyết định bỏ hết để ra đi, yên chí ra đi, vì bà mang theo một vật mà bà xem là quí giá nhứt, bởi nó quá gần gũi với cuộc đời của bà : cái nón lá ! Đến khi mất nó, có lẽ bà mới cảm nhận được rằng bà thật sự mất tất cả. Cái nón lá đã chứa đựng cả bầu trời quê hương của bà, hỏi sao bà không xót xa đau khổ ? Nghĩ như vậy nên tôi thấy thương bà già đó vô cùng. Tôi hy vọng, về sau trên xứ sở tạm dung, bà mua được một cái nón lá để mỗi lần đội lên bà sống lại với vài ba kỷ niệm nào đó, ở một góc trời nào đó của quê hương… Chuyện 3 Cũng trên bến tàu nầy. Trong luồng người đi như chạy, một người đàn bà còn trẻ mang hai cái xắc trên vai, tay bồng một đứa nhỏ. Chắc đuối sức nên cô ta quị xuống. Thiên hạ quay đầu nhìn nhưng vẫn hối hả đi qua, còn tránh xa cô ta như tránh một chướng ngại vật nguy hiểm ! Trong sự ồn ào hỗn tạp đó, bỗng nghe tiếng được tiếng mất của người đàn bà vừa khóc la vừa làm cử chỉ cầu cứu. Đứa nhỏ trong tay cô ta ốm nhom, đầu chờ vờ mắt sâu hõm, đang lả người về một bên, tay chân xụi lơ. Người mẹ - chắc là người mẹ, bởi vì chỉ có người mẹ mới ôm đứa con quặt quẹo xấu xí như vậy để cùng đi di tản, và chỉ có người mẹ mới bất chấp cái nhìn bàng quan của thiên hạ mà khóc than thống thiết như vậy - người mẹ đó quýnh quáng ngước nhìn lên luồng người, tiếp tục van lạy cầu khẩn. Bỗng, có hai thanh niên mang ba lô đi tới, nhìn thấy. Họ dừng lại, khom xuống hỏi. Rồi họ ngồi thụp xuống, một anh rờ đầu rờ tay vạch mắt đứa nhỏ, họ nói gì với nhau rồi nói gì với người đàn bà. Thấy cô ta trao đứa bé cho một anh thanh niên. Anh nầy bồng đứa nhỏ úp vào ngực mình rồi vén áo đưa lưng đứa nhỏ cho anh kia xem. Thằng nhỏ ốm đến nỗi cái xương sống lồi lên một đường dài… Anh thứ hai đã lấy trong túi ra chai dầu từ lúc nào, bắt đầu thoa dầu rồi cạo gió bằng miếng thẻ bài của quân đội. Thiên hạ vẫn rần rần hối hả đi qua. Hai thanh niên nhìn về hướng cái cầu thang, có vẻ hốt hoảng. Họ quay qua người đàn bà, nói gì đó rồi đứng lên, bồng đứa nhỏ, vừa chạy về phía cầu thang vừa cạo gió ! Người mẹ cố sức đứng lên, xiêu xiêu muốn quị xuống, vừa khóc vừa đưa tay vẫy về hướng đứa con. Một anh lính Mỹ chợt đi qua, dừng lại nhìn, rồi như hiểu ra, vội vã chạy lại đỡ người mẹ, bồng xóc lên đi nhanh nhanh theo hai chàng thanh niên, cây súng anh mang chéo trên lưng lắc la lắc lư theo từng nhịp bước…. Viết lại chuyện nầy, mặc dù đã hơn ba mươi năm, nhưng tôi vẫn cầu nguyện cho mẹ con thằng nhỏ được tai qua nạn khỏi, cầu nguyện cho hai anh thanh niên có một cuộc sống an vui tương xứng với nghĩa cử cao đẹp mà hai anh đã làm. Và dĩ nhiên, bây giờ, tôi nhìn mấy anh lính Mỹ với cái nhìn có thiện cảm ! Chuyện 4 Cũng trên bến tàu. Cầu thang đã được kéo lên. Trên tàu đầy người, ồn ào. Dưới bến vẫn còn đầy người và cũng ồn ào. Ở dưới nói vói lên, ở trên nói vọng xuống, và vì thấy tàu sắp rời bến nên càng quýnh quáng tranh nhau vừa ra dấu vừa la lớn, mạnh ai nấy la nên không nghe được gì rõ rệt hết ! Máy quay phim zoom vào một người đàn ông đứng tuổi đang hướng lên trên ra dấu nói gì đó. Bên cạnh ông là một thằng nhỏ cỡ chín mười tuổi, nép vào chân của ông, mặt mày ngơ ngác. Một lúc sau, người đàn ông chắp tay hướng lên trên xá xá nhiều lần như van lạy người trên tàu, gương mặt sạm nắng của ông ta có vẻ rất thành khẩn. Bỗng trên tàu thòng xuống một sợi thừng cỡ nửa cườm tay, đầu dây đong đưa. Mấy người bên dưới tranh nhau chụp. Người đàn ông nắm được, mỉm cười sung sướng, vội vã cột ngang eo ếch thằng nhỏ. Xong, ông đưa tay ra dấu cho bên trên. Thằng nhỏ được từ từ kéo lên, tòn ten dọc theo hông tàu. Nó không la không khóc, hai tay nắm chặt sợi dây, ráng nghiêng người qua một bên để cúi đầu nhìn xuống. Người đàn ông ngước nhìn theo, đưa tay ra dấu như muốn nói : « Đi, đi ! Đi, đi ! ». Rồi, mặt ông bỗng nhăn nhúm lại, ông úp mặt vào hai tay khóc ngất ! Bấy giờ, tôi đoán ông ta là cha của thằng nhỏ đang tòn ten trên kia… Không có tiếng còi tàu hụ buồn thê thiết khi lìa bến, nhưng sao tôi cũng nghe ứa nước mắt ! Không biết thằng nhỏ đó – bây giờ cũng đã trên bốn mươi tuổi -- ở đâu ? Cha con nó có gặp lại nhau không ? Nếu nó còn mạnh giỏi, tôi xin Ơn Trên xui khiến cho nó đọc được mấy dòng nầy… Tiểu Tử ******************************************** Hát cho người tị nan~~~ sangtao.org/Aberdeen Proving Ground, MD, 4/23/1975 Tối 23 tháng 4 năm 1975, tôi đang ở nhà một người bạn thuộc quận Arlington, Virginia thì nhận được điện thoại của Ðại Úy Hick từ Văn Phòng Trung Tướng Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Aberdeen Proving Ground, gọi về trình diện ngay lập tức. Tôi về đến trường vào lúc 2 giờ sáng ngày 24 4 1975. Cùng với 5 Sĩ Quan khác, tôi nhận được Sự Vụ Lệnh đi công tác ở Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas và phải lên đường ngay tức khắc. Trong Sự Vụ Lệnh không ghi rõ công tác kéo dài bao lâu, chỉ cho biết là các Sĩ Quan vẫn được trả lương như khi còn đang thụ huấn. Xe bus của Bộ Binh Hoa Kỳ đưa chúng tôi ra phi trường Baltimore, đáp chuyến bay 455 của hang Frontier một hãng máy bay nhỏ, được thuê riêng cho quân nhân và gia đình đến St. Louis, Missouri rồi từ đây, bay đến Fort Chaffee, Arkansas vào lúc 20:36. Theo lời người Sĩ Quan Hướng Dẫn thì Fort Chaffee là Trung Tâm Huấn Luyện National Guard của Hoa Kỳ, lớn như một thành phố và có thể cung ứng chỗ ở cho hơn hai chục ngàn người. Hiện nay, trung tâm này hoàn toàn bỏ trống, để chính phủ Liên Bang dùng cho chương trình đặc biệt nào đó, đang còn được giữ kín. Vì trời tối, chúng tôi không thấy nhiều, chỉ thấy những doanh trại ngang dọc, trống trải, như những trại lính đã bỏ hoang từ lâu. Vả lại, phải dậy từ sáng sớm nên giờ này, chúng tôi đã thấy mệt, không quan tâm nhiều đến ngoại cảnh, cũng như những lời người Sĩ Quan Hướng Dẫn vừa nói. Chúng tôi được đưa đến một khu nhà xây cất khang trang, có bảng chữ “BOQ” (Bachelor Officer Quarter: Cư Xá Sĩ Quan Ðộc Thân). Mỗi người trong chúng tôi có một phòng riêng, có bếp, có phòng tắm, có TV, có tủ lạnh, có telephone, rất tiện nghi. Tuy nhiên, sau khi tắm rửa, chúng tôi mở TV để xem tin tức bên nhà, mới biết tất cả TV đều không có hình ảnh. Chúng tôi thử telephone và giật mình khi biết đường dây điện thoại chưa được nối với tổng đài. Tất cả những khu nhà kế cận đều vắng tanh. Người Sĩ Quan Mỹ đã đi từ lâu. Chúng tôi quyết định đi ngủ sớm, sáng mai lên Văn Phòng trình diện, sẽ hỏi về vấn đề TV và Ðiện Thoại. Fort Chaffee, ARK, 4/24/1975 Việc đầu tiên chúng tôi phải làm ngay sáng nay là lên Văn Phòng Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Ðặc Biệt tại Fort Chaffee để trình diện. Ðại Úy Tân là sĩ quan cao tuổi nhất được chúng tôi đề cử làm Trưởng Toán để trình Sự Vụ Lệnh cũng như để liên lạc với Thiếu Tá Miller, Trưởng Khối Ðiều Hành. Sau khi làm đầy đủ thủ tục, chúng tôi được mời sang phòng họp. Tại đây, chúng tôi được Thiếu Tá Miller cho biết là chúng tôi được Trung Tâm Huấn Luyện Quân Cụ Aberdeen Proving Ground biệt phái xuống Arkansas, phục vu cho Liên Ðoàn 96 Dân Sự Vụ, trong một công tác đặc biệt và tối mật. Vì lý do đó, chúng tôi sẽ không được liên lạc với bên ngoài, không có báo đọc, không được dùng điện thoại, không được xem TV, không được gửi thư cho bất cứ ai. Chúng tôi có nhiệm vụ dậy những người đầu bếp của quân đội Mỹ cách nấu cơm và thức ăn Việt Nam. Chúng tôi có nhiệm vụ huấn luyện một số Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan Hoa Kỳ viết và đọc tiếng Việt. Dĩ nhiên là những đối thoại thông thường và đặc biệt là phải nhấn mạnh đến phong tục, tập quán, cách xưng hô phức tạp của ngôi thứ trong gia đình, cũng như ngoài xã hội. Ðại Úy Lư, Bắc Kỳ Di Cư 54, dân Hố Nai, là người nấu ăn rất giỏi, thường nấu Phở cho chúng tôi ăn ở Aberdeen, được chúng tôi đề cử dậy mấy anh Chef Cooks Hoa Kỳ nấu cơm Ta. Ðại Úy Tân, già nhất, người miền Trung, lúc nào cũng giảng “moral” như ông Giáo Già, cho làm Giảng Sư Công Dân Giáo Dục, dậy cho Mỹ những bài học Ðạo Ðức thuộc loại “Quốc Văn Giáo Khoa Thư ”. Trung Úy Long, trẻ tuổi yêu đời, “đấu láo” không biết mệt, được đề cử dậy Mỹ “đàm thoại tiếng Việt”. Long thích lắm vì luôn luôn dậy Mỹ những “tiếng lóng”, làm chúng tôi cười đứt ruột. Tôi tưởng mình thoát nợ, có nghĩa là không phải dậy dỗ gì cả, ai dè, có một anh Hạ Sĩ Quan Mỹ, không biết học tiếng Việt từ hồi nào mà đọc tiểu thuyết Việt Nam rất nhiều, chuyện nào cũng nhớ vanh vách, bây giờ lại muốn học nhạc Việt Nam mới phiền chứ! Muốn học nhạc thì phải có đàn, tôi bảo anh ta như vậy. Anh Hạ Sĩ tên Tom bèn dẫn tôi đến một Thrift Shop trong căn cứ, mua tặng tôi một cây guitar cũ, giá 20 đồng, tình trạng cũng khá tốt. Từ đó, sau bữa ăn tối, chúng tôi có màn “văn nghệ bỏ túi: Mỹ hát nhạc Việt” cũng đỡ buồn trong lúc xa nhà, xa gia đình, xa quê hương…. Chúng tôi xuống Fort Chaffee đã gần một tuần. Thấy quân nhân Mỹ thuộc ngành Công Binh Kiến Tạo ngày đêm tu sửa doanh trại, chúng tôi nghĩ là sắp có khóa huấn luyện của hàng chục ngàn National Guards. Nhiều khi chúng tôi cũng thắc mắc không biết tại sao mình lại phải huấn luyện quân nhân Mỹ cách nấu cơm, cách trò truyện, phong tục, tập quán của người Việt Nam. Mỗi buổi tối, trước khi đi ngủ, chúng tôi hỏi Niên Trưởng Phạm Văn Tân thì Niên Trưởng bảo rằng: “Các cậu đừng có nghĩ tầm bậy tầm bạ. Mỹ sẽ không bỏ mình đâu!”… Bên trong căn-tin của Fort Indiantown GapFort Smith, Ark. 30/4/1975 Chúng tôi được lệnh ra phi trường Fort Smith từ tờ mờ sáng. Chúng tôi đi hai xe Jeep với khoảng 10 xe Bus của quân đội Mỹ chạy theo sau. Sau một tuần cấm trại, hôm nay là lần đầu tiên chúng tôi được thấy thành phố Fort Smith. Khi đoàn xe vừa ngừng, chúng tôi bước ngay đến mấy sạp báo. Hình ảnh đầu tiên mà chúng tôi thấy trên trang nhất là hình Thiết Giáp của VC tràn vào Dinh Ðộc Lập, phía trên là một hàng chữ lớn: “Tổng Thống VN CH Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng”. Tôi tưởng mình ngủ mê, nhưng cả một xấp báo đều có hình ảnh, có tựa đề như thế. Tôi cảm thấy lạnh run người. Ðầu óc tôi choáng váng, nhức nhối. Tôi nhìn các bạn đồng ngũ. Ðại Úy Tân, Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 811 ở Ðà Nẵng nhưng vợ con còn ở Huế, thì mắt đỏ hoe. Ðại Úy Lư, thuộc Kho Ðạn Dược Long Bình, vợ con ở Biên Hòa, đang dán mắt vào tờ báo, khóc thành tiếng. Trung Úy Long, còn độc thân hàng ngày nói liếng thoắng, bay giờ im lặng, cúi đầu thở dài. Trung Úy Linh và Trung Úy Hùng, là hai Sĩ Quan thuộc vùng 4 Chiến Thuật thì đang thì thầm với nhau: “Ð.m, buông súng sao được! Tao nghĩ là vùng 4 không đầu hàng, vùng 4 sẽ là một chiến tuyến mới, sẽ là một chiến khu để quân ta kéo về cố thủ, chờ ngày phản công…”… Một chiếc máy bay của hãng Pan Am vừa hạ cánh. Vì Fort Smith Airport là một phi trường nhỏ, phi cơ có thể chạy gần đến phòng đợi nên chúng tôi có thể bước thẳng đến phi cơ để chào đón những hành khách, những đồng bào ruột thịt, những người Việt Tị Nạn đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ. Bây giờ chúng tôi mới biết rõ mục đích của Quân Ðội Mỹ khi gửi chúng tôi xuống Fort Chaffee để huấn luyện quân nhân Mỹ về cách sinh sống của người Việt Nam ! Dù đang choáng váng vì tin “buông súng đầu hàng” kia, nhưng chúng tôi vẫn phải cố gắng làm bổn phận chào mừng đồng bào và hướng dẫn đồng bào về Trại Tạm Trú Fort Chaffee. Trong khi đang trò truyện, thăm hỏi đồng bào, chúng tôi nghe được những lời nói mỉa mai trong đám đông: “Mẹ kiếp, Tướng Tá còn phải tháo lon, tháo quân phục bỏ chạy, Ðại Úy thì nhằm nhò gì mà còn đeo lon vớí lá …” Chiều hôm ấy, sau khi đã lo chỗ ở, chỗ ăn và cấp phát một số những vật dụng cần thiết cho khoảng trện 300 đồng bào, chúng tôi lên Văn Phòng Thiếu Tá Miller, xin được tháo bỏ cấp bậc Sĩ Quan VNCH trên quân phục. Thiếu Tá Miller đồng ý và làm cho chúng tôi những bảng tên bằng tiếng Mỹ để quân nhân Mỹ xử sự với chúng tôi cho đúng cách. Thiếu Tá Miller đã từng phục vụ ở VN, trong dịp Mậu Thân 1968, ông tỏ ý rất thông cảm với hoàn cảnh thất lạc gia đình, mất nhà, mất nước, mất cả quân đội của chúng tôi. Trong một Văn Thư gửi cho toàn thể quân nhân Mỹ trong trại Tị Nạn Fort Chafee, tôi còn nhớ có một đoạn “The following named Vietnamese Officers is to be accorded all military respects and priviledges that are accorded to U.S Army Officers.” Ngày lại ngày, chúng tôi ra phi trường đón đồng bào, hướng dẫn, giúp đỡ đồng bào, nhiều khi xuống khu tạm trú, ăn cơm với đồng bào, thay vì ăn ở Câu Lạc Bộ Sĩ Quan. Ngày lại ngày, chúng tôi hy vọng tìm được tin tức gia đình qua những người quen biết từ các trại tị nạn khác được chuyển đến Fort Chaffee. Vào khoảng giữa tháng 5, 1975 đồng bào tị nạn ở đây có ngày đã lên đến 25 ngàn người. Mỗi khi có gia đình nào được sponsor ra khỏi trại thì lại có một gia đình khác được chuyển từ Guam hay từ Mã Lai, Thái Lan đến thay thế. Vì số đồng bào quá đông, chúng tôi được tăng cường một số Sĩ Quan cùng cảnh ngộ từ các Trường Hải Quân, Không Quân, Truyền Tin, Công Binh, Pháo Binh, Bộ Binh. Dù vậy, chúng tôi vẫn phải làm việc 24 trên 24 vì có những chuyến bay đến vào lúc nửa đêm về sáng. Fort Chaffee 5/07: Tân Dân, tờ báo Việt đầu tiên trên đất Mỹ Ðể đồng bào biết tin tức về VN, tin tức thế giới và nhất là để gửi đến 25 ngàn đồng bào những thông cáo quan trọng, tôi đề nghị Thiếu Tá Miller làm một tờ nhật báo Việt Nam. Tất cả máy móc để ấn loát, Trung Ðoàn 96 Dân Sự Vụ, thuộc Lực Lượng Ðặc Trách Tị Nạn đã có đầy đủ, chỉ thiếu nhân sự. Nữ Trung Úy Kathy Newman, một người biết đọc và viết tiếng Việt, được cử làm Chủ Nhiệm, tôi làm Chủ Bút và Trung Sĩ Tom làm Thư Ký, đặc trách layout và ấn loát. Tin tức thì được dịch ra từ báo Mỹ, chép xuống từ TV, Radio. Thông Cáo thì Tom và tôi có thể viết được. Báo được đặt tên là “Tân Dân”, theo ý của Kathy là “New People”. Tôi đề nghị lấy tên báo là “Người Mới” cho dễ hiểu và gần gũi với đồng bào nhưng Kathy thích “Tân Dân” vì cô cho rằng nó có vẻ “văn chương” hơn. Sau số báo đầu tiên, chúng tôi được rất nhiều đồng bào đến văn phòng giúp đỡ trong vấn đề dịch tin, vẽ tranh, viết bài. Văn Phòng Liên Lạc của Trại Tị Nạn bây giờ biến thành Tòa Soạn của Nhật Báo Tân Dân. Tôi thành Nhà Báo Full Time, không phải ra phi trường đón đồng bào, cũng không phải lái xe đi vòng quanh trại kêu gọi trẻ em vào nhà mỗi khi có mưa đá, to bằng trái banh ping pong. Một hôm, đang làm tin thì Capt. Tân đến cho biết ca sĩ Khánh Ly mới nhập trại. Tôi bỏ tất cả, chạy xuống khu tạm cư, tìm về dãy nhà mà anh Tân đã cho biết số. Khánh Ly ở đó, với em gái Ngọc Anh và người anh là Phạm Ngọc Sơn. Ðã lâu lắm tôi không gặp “Bé Lệ Mai” của báo Ngôn Luận. Cũng đã lâu lắm tôi không gặp Ngọc Anh và Sơn. Những truyện kể, những thăm hỏi, những nhắc nhở về kỷ niệm ở Chợ Quán, ở Phan Thanh Giản, ở Dalat cứ tiếp nối, theo nhau tràn về. Không chỉ riêng tôi ngồi nói chuyện với Khánh Ly mà đồng bào đứng đầy căn phòng tạm trú để nghe Khánh Ly nói chuyện … Nhiều người ao ước được nghe Khánh Ly hát. Khánh Ly chỉ cười buồn cho rằng chuyện ấy khó có thể làm được. Tôi chợt nghĩ đến lời Thiếu Tá Miller nói với chúng tôi hôm nào “tôi có thể giúp quý bạn bất cứ vấn đề gì, nếu trong khả năng và trách nhiệm của tôi”. Tôi cảm thấy phấn khởi lạ lùng. Từ dẫy nhà tạm trú, tôi băng qua một khu đồi đầy hoa tím dại, hướng về văn phòng của Miller. Tới bên kia chân đồi, tôi thấy một người nằm dài trên cỏ, trong bộ đồ bay mầu đen đã bạc phếch, dường như đang ngủ. Tôi đến gần người phi công đó, nhìn lên phía trên túi áo, thấy hàng chữ Si Phu. Tôi lấy chân đá nhẹ vào người ấy và hỏi: – Này, phải Sĩ Phú đấy không? Người phi công kia, hé mắt nhìn, giọng mệt mỏi: – Sĩ Phú đây. Ai đó? Nam hả? – Nam đây. Tại sao nằm ở đây vậy? – Moa trốn sponsor! Moa không muốn rời trại, sợ về chỗ xa lạ, không được gặp người Việt mình nữa! Fort Chaffee, Ark. 6/1975: Hát Cho Người Tị Nạn Vào một chiều tháng 6, khi nắng vừa khuất sau những dẫy nhà tiền chế trước kia dùng làm nơi huấn luyện Vệ Binh Quốc Gia Hoa Kỳ và nay là những mái nhà tạm thời cho hai mươi lăm ngàn người tị nạn hàng ngàn đồng bào đã tràn ra đường, hớn hở kéo nhau về khu Văn Phòng của Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn Dân Sư Vụ. Ở đó, một sân khấu lộ thiên mới được dựng lên. Ở đó, có dựng vài cây micro và có những chiếc loa phóng thanh của nhà binh chồng chất lên nhau. Ở đó, có một cây guitar, mua ở tiệm bán đồ cũ. Nhưng ở đó có Khánh Ly và Sĩ Phú. Thế là đủ, quá đủ cho một buổi hát nhạc Việt Nam lần đầu tiên trên đất tạm dung. Ðặc biệt hơn nữa: người đệm đàn lại là một người lính Mỹ, đôi khi được tiếp tay bởi một sinh viên tị nạn vô danh nhưng tiếng đàn thì vô cùng truyền cảm. Khánh Ly hát như chưa bao giờ được hát, hát như say, như mê. Sĩ Phú dốc toàn sức lực cho những tình khúc tiền chiến bất hủ, những going nhạc Ngô Thụy Miên ngọt lịm. Những tình tự dân tộc không những chỉ vang lên trong thính trường đó mà còn truyền đi khắp nơi, bao trùm cả một khung trời bát ngát bao la qua nhũng máy khuếch đại âm thanh treo trên những cành cây, những cột điện. Có nhiều người đã khóc. Tiếng khóc hòa với tiếng vỗ tay. Có những tiếng khóc biến thành lời ca, có những tiếng khóc không thành lời trên phím đàn. Những giọt lệ âm thầm nhỏ xuống môi khô vì nhớ nhà, nhớ quê, nhớ vợ dại con thơ, nhớ chồng trong tù, thương con chìm sâu đáy biển. Không cần ghế bọc nhung của một rạp hát sang trọng, không cần hệ thống âm thanh đắt tiền, không cần ánh sáng nhấp nháy, không cần ban nhạc đại hòa tấu, chỉ có hai người hát mà có tới hơn hai mươi ngàn khán thính giả ngồi trên cỏ say mê nghe, vỗ tay như pháo nổ thì làm sao mà quên được. Ðã hơn 32 năm qua, những hình ảnh tôi chụp trong Fort Chaffee đã mờ nhạt đi, nhưng dường như hình bóng Khánh Ly, Sĩ Phú vẫn còn sáng rõ trong hồn tôi. Nguyễn Ðức Nam 30.4.2007 Nguồn: (http://sangtao.org)
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 27, 2020 5:08:35 GMT 9
30 tháng 4: THỬ NHÌN LẠI(Trần Gia Phụng) Thông thường, ngày 30-4-1975 được giải thích là ngày sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, và là ngày “đại thắng mùa xuân” của cộng sản Bắc Việt. Ngoài hai cách nhìn nầy, còn có một cách nhìn thứ ba mà ít người chú ý đến.
Trong thập niên 60, khi viếng thăm Việt Nam Cộng Hòa, được hỏi làm thế nào để chiến thắng cộng sản, Moshe Dayan, danh tướng độc nhãn Do Thái, đã trả lời như sau: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.”(1) Lúc đó, giới báo chí và chính trị Sài Gòn đã bàn tán về câu nói của Moshe Dayan(1915-1981), nhưng không ai dại gì giao trứng cho ác (quạ), mà nghĩ đến một giải pháp quá rủi ro là để cho cộng sản chiếm được Sài Gòn. Cuối cùng, khi cộng sản thật sự chiếm được Sài Gòn năm 1975, một bên buồn quá, cũng như một bên vui quá, nên cả hai phía đều quên luôn ý kiến của Moshe Dayan.
1.- AI THẮNG AI?
Trong cuộc chiến tranh vừa qua, người cộng sản thường tự hào rằng chính họ đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Theo biểu kiến bên ngoài, “Mỹ cút, ngụy nhào” thật đó, nhưng thực sự Mỹ không cút, mà phải nói cho thật đúng ý nghĩa bối cảnh lịch sử là Mỹ ngưng không tiếp tục hiện diện ở Việt Nam vì lý do thay đổi chiến lược toàn cầu của họ, và lực lượng Việt Nam Cộng Hòa không thất trận, chỉ ở thế bắt buộc phải ngưng súng, ngưng chiến đấu. Việt Nam Cộng Hòa dư biết rằng trong thế tranh chấp giữa các cường quốc, với sự thay đổi chiến lược của Hoa Kỳ, nếu lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục chiến đấu, chỉ làm tổn hại thêm xương máu của binh sĩ và dân chúng, mà không tránh được sự áp đặt từ bên ngoài, trong khi Liên Xô và Trung Cộng tung hết vũ khí cho Bắc Việt và Hoa Kỳ ngưng tiếp liệu quân nhu và vũ khí cho Việt Nam Cộng Hòa.
Sau khi thế chiến thứ nhì (1939-1945) kết thúc, thế giới bước vào chiến tranh lạnh giữa hai khối tự do (tư bản) và cộng sản. Khi đắc cử tổng thống Hoa Kỳ ngày 5-11-1952 thay ông H. Truman, đại tướng D. Eisenhower tuyên bố rằng chiến tranh Ðông Dương không còn là chiến tranh thuộc địa mà là “cuộc chiến giữa Cộng sản và thế giới Tự do.”(2) Từ đó, Hoa Kỳ viện trợ Ðông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng càng ngày càng nhiều để chống lại Việt Minh cộng sản.
Lúc đó, Hoa Kỳ và các nước Tây phương nghĩ rằng các nước trong thế giới cộng sản như Liên Xô, Trung Quốc là một khối chính trị chặt chẻ, nên tìm tất cả các cách để ngăn chận sự bành trướng của cộng sản. Vì vậy, sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954, Hoa Kỳ quyết định giúp miền nam Việt Nam để chận đứng làn sóng cộng sản mà cụ thể hơn là sự bành trướng của Trung Quốc.
Những diễn tiến chính trị trong khối cộng sản sau khi Stalin từ trần ngày 5-3-1953, và nhất là khi Khrushchew lên cầm quyền, rồi đưa ra chủ trương sống chung hòa bình giữa các nước không cùng một thể chế chính trị, hòa dịu với các nước Tây phương năm 1956, thì bắt đầu sự rạn nứt giữa Liên Xô và Trung Quốc. Lúc đầu mới chỉ lời qua tiếng lại giữa hai đảng Cộng Sản anh em, sau đó giữa hai nhà nước cộng sản, và cuối cùng thực sự đánh nhau dọc biên giới đông bắc Trung Quốc, trên sông Ussuri (Ô Tô Lý giang) năm 1969.
Dựa trên những dữ kiện thực tế đó, các chính trị gia Hoa Kỳ nhận thấy rằng các nước cộng sản không phải là một khối chặt chẽ, mà họ là những thực thể riêng biệt, với những quyền lợi mâu thuẫn nhau khá trầm trọng. Hoa Kỳ không bỏ lỡ cơ hội kiếm cách khai thác mâu thuẫn giữa các nước cộng sản, đúng ra là giữa Liên Xô và Trung Quốc để làm thế nào ly gián họ, và tránh cho họ xích lại gần nhau như trước. Vì vậy, người Hoa Kỳ bắt đầu xét duyệt lại chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ
Trong khi đó, nếu Hoa Kỳ càng giúp Việt Nam Cộng Hòa chống lại Bắc Việt cộng sản, thì Liên Xô và Trung Quốc ở thế cùng liên kết để giúp Bắc Việt chống lại Hoa Kỳ, tức Hoa Kỳ tạo nên một hoàn cảnh thuận lợi cho Liên Xô và Trung Quốc tạm gác những mâu thuẫn song phương, để cùng nhau cứu giúp một nước cộng sản khác nhắm tạo uy tín và hấp lực với các nước khác, nhất là các nước trong khối không liên kết. Nói cách khác, làm như thế, chẳng khác gì Hoa Kỳ tạo cơ hội cho hai nước Liên Xô và Trung Quốc xích lại với nhau. Trên quan niệm địa lý chính trị học (geopolitics), vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, người Hoa Kỳ còn ngộ ra rằng “Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiển nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó. Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít vũ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ.”(3)
Chẳng những thế, các chính trị gia Hoa Kỳ lúc đó còn đi xa hơn, cho rằng “hy sinh Việt Nam mới thật là đáng giá. Còn hơn là hao phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ Việt Nam với chẳng có hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa của Trung Hoa nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô.”(4) Chúng ta hãy nghe một nhà ngoại giao kỳ cựu Hoa Kỳ, ông Bill Sullivan, nguyên là đại sứ Hoa Kỳ tại Lào, lúc đó là thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương, sau đó phụ tá và sát cánh với Henri Kissinger trong các cuộc thương thuyết tại hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam, trả lời trong một cuộc phỏng vấn rằng: “Như thế, tôi đi đến kết luận, và điều nầy ông nghe có vẻ tráo trở, rằng không thắng cuộc chiến nầy thì chúng ta sẽ khá hơn. Ðặc biệt nữa là người Trung Hoa đã khai thông với chúng ta, và làm cho người Trung Hoa tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam.”(5)
Ngày 14-4-1971, tại Ðại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh, thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai tiếp đãi và nói chuyện thân mật với đoàn bóng bàn Hoa Kỳ sang đấu giao hữu với đoàn bóng bàn Trung Quốc theo lời mời của Tổng cục Bóng bàn nước nầy. Ngày 9-7-1971, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ là Henri Kissinger có mặt ở Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến. Ngày 25-10-1971, Ðại hội đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc biểu quyết chấp nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay cho Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) mà không bị Hoa Kỳ phủ quyết, nghĩa là Hoa Kỳ cũng bỏ rơi Ðài Loan, đồng minh lâu năm của Hoa Kỳ, để bắt tay với Trung Quốc. Sau đó, tổng thống Hoa kỳ Richard Nixon viếng thăm Trung Quốc một tuần bắt đầu từ ngày 21-2-1972 mà ông Nixon cho rằng đây là “một tuần lẽ sẽ làm thay đổi thế giới.”(6) Cuộc viếng thăm nầy đưa đến “Thông cáo chung Thượng Hải” ngày 28-2 theo đó hai bên đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác nhau, chỉ trừ một điều là cùng nhau tôn trọng sự khác biệt giữa hai bên và hứa sẽ kiếm cách cải thiện bang giao song phương.
Ðúng như ông Nixon loan báo, cuộc viếng thăm đã đưa đến việc thay đổi thế giới, bắt đầu từ việc Hoa Kỳ sắp đặt lại chiến lược toàn cầu và Á Châu, từ đó rút quân dần dần ra khỏi Việt Nam. Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam theo đúng chiến lược của họ, bởi vì người Mỹ tin rằng “thua trận ở Việt Nam lành mạnh hơn cho Hoa Kỳ hơn là thắng trận. Rằng thua trận nằm trong quyền lợi quốc gia. Rằng đó là lợi thế… Ðó là quan niệm cấp tiến triệt để vào thời đó, rằng thua trận và phó mặc các đồng minh Ðông nam Á của chúng ta cho số phận của họ, như thế mới đúng là cách làm của chúng ta.“(7)
Như thế, xét cho cùng, Hoa Kỳ chẳng thua trận, mà Hoa Kỳ chỉ bỏ cuộc ở Việt Nam để thực hiện việc thay đổi chiến lược toàn cầu quan trọng hơn đối với họ trong cuộc tranh chấp với Liên Xô. Trong khi tự cho rằng “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”,(8) thì chính Bắc Việt đã tiếp tay với người Mỹ để thực hiện kế sách của Hoa Kỳ. Từ đó, Hoa Kỳ đã thành công trong việc làm sụp đổ khối Liên Xô và Ðông Âu. Như thế, có thể nói người Hoa Kỳ đã chịu thua mặt trận (battle) Việt Nam, để đại thắng cuộc chiến tranh (war) toàn cầu, và hiện nay trở thành cường quốc số 1 trên thế giới.(9)
Ði vào thế chiến lược mới của Hoa Kỳ, về phía Việt Nam Cộng Hòa, dầu bị Hoa Kỳ bỏ rơi, ngưng viện trợ, và trước sức mạnh của Bắc Việt được Liên Xô và Trung Cộng giúp đỡ tận “cây kim sợi chỉ”, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng trong 2 năm sau hiệp định Paris, chứ không để cho đất nước sụp đổ ngay. Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa không thua bộ đội cộng sản Bắc Việt, mà chỉ buông vũ khí, ngưng chiến đấu vì nhận thấy rằng trong thế chiến lược mới, các cường quốc trên thế giới quyết tâm áp đặt một giải pháp chính trị, mà mình cô thế khó cưỡng chống lại được, tiếp tục chiến đấu chỉ làm tổn hại thêm nhiếu nhân mạng vô tội, nên cuối cùng lực lượng Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận ngưng chiến đấu chứ không phải họ thua cuộc.
Trước khi ký hiệp định Paris năm 1973, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã hứa hẹn, mà không ghi thành văn bản, là sẽ viện trợ Việt Nam 4 tỹ Mỹ kim để Việt Nam tái thiết đất nước sau chiến tranh. Tuy nhiên, Bắc Việt cưỡng chiếm Nam Việt bằng võ lực, đi ngược lại với tinh thần hiệp định Paris ký kết giữa các bên lâm chiến, và đã được nhiều nước công nhận. Dựa vào việc Bắc Việt không tôn trọng hiệp định Paris, Hoa Kỳ bác khước lời hứa trước kia. Hơn nữa, khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa sau hiệp định Paris, Bắc Việt cưỡng chiếm luôn số tài sản khổng lồ ước tính khoảng 6 tỷ Mỹ kim mà Hoa Kỳ đã để lại Việt Nam. Số tài sản nầy còn cao hơn lời hứa hẹn của Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho Việt Nam 4 tỷ Mỹ kim trước đây. Vì cả hai lý do nầy, cho đến nay, cộng sản Việt Nam không thể mở miệng nhắc lại chuyện Hoa Kỳ hứa hẹn viện trợ để tái thiết Việt Nam sau 30 chiến tranh mà Hoa Kỳ đã can dự vào. Thua cuộc cờ toàn cầu, Bắc Việt lại thất bại luôn trong cuộc đấu trí để đòi viện trợ của Hoa Kỳ sau chiến tranh.
2.- THỰC TẾ SAU 30-4
Quan sát kỹ sinh hoạt xã hội Việt Nam sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm được miền Nam năm 1975, mọi người đều nhận thấy rõ ràng ngay từ đầu, đại đa số những người Bắc, từ cán bộ, bộ đội đến thường dân, khi vào Nam đều học theo cách sống của người Nam, chứ hầu như người Nam không học theo người Bắc, trừ một thiểu số xu phụ theo chế độ mới, kè kè chiếc nón cối để tỏ ra là người “cách mạng”. Người Bắc thích ăn bận theo người Nam, đua đòi thời trang miền Nam, nghe nhạc Nam mà cộng sản gọi là “nhạc vàng”, đọc sách Nam, từ tiểu thuyết trữ tình, tiểu thuyết kiếm hiệp đến văn chương, triết học, và làm tất cả các cách để thành người Nam. Ngay cả những cán bộ cao cấp trong Bộ chính trị đảng Lao Ðộng (năm 1976 cải danh thành đảng Cộng Sản) cũng từ bỏ bộ áo quần đại cán cao cổ để ăn bận Âu phục theo kiểu người Nam. Chẳng những thế, hầu như miền Bắc cũng được Nam hóa bằng sản phẩm của miền Nam. Lúc đó, đại đa số người nào ở miền Bắc vào cũng “tranh thủ” cho được tối thiểu ba thứ “đạp đồng đài”(10) để đem về Bắc sử dụng hoặc trang bị cho gia đình. (Rất ít người như bà Dương Thu Hương chỉ lo đi mua sách miền Nam. Theo lời Dương Thu Hương, khi bà vào Sài Gòn thì bà tìm đến các chợ sách để mua sách cũ và bà ta bị choáng ngợp vì sách vở văn chương triết học ở miền Nam quá phong phú chứ không nghèo nàn và bị kềm kẹp như cộng sản tuyên truyền.)
Trong lịch sử thế giới, ai cũng biết người Mông Cổ nổi tiếng thiện chiến và chiếm được một đế quốc rộng lớn từ thời Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan, trị vì 1206-1227). Cháu nội của Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt (Qubilai) tức Nguyên Thế Tổ (trị vì 1260-1294) đem quân Mông Cổ vào chiếm Bắc Kinh năm 1264, rồi từ đó chiếm luôn toàn bộ nước Trung Hoa. Khi người Mông Cổ tiếp xúc và tiêm nhiễm nền văn minh và văn hóa Trung Hoa, thì dường như họ không còn làø người Mông Cổ nữa. Có thể nói vó ngựa chiến chinh Mông Cổ oai hùng khắp Âu Á một thời đã hoàn toàn bặt tăm khi họ đặt chân vào đất trung nguyên Trung Hoa.
Cộng sản Bắc Việt, dầu chẳng oai hùng như người Mông Cổ, tiến quân vào miền Nam, chiếm đóng bằng bạo lực, nhưng cuối cùng bị choáng ngợp vì sự phồn thịnh của miền Nam (mà họ gọi là phồn vinh giả tạo) và nền văn hóa đa dạng của miền Nam, một nền văn hóa vừa giữ bản sắc dân tộc, vừa hòa hợp với tinh hoa của văn hóa Tây phương. Từ đó, người cộng sản Bắc Việt không còn là họ nữa, chỉ trừ có vỏ bọc là đảng Cộng Sản để nắm độc quyền lãnh đạo đất nước.
Chẳng những chỉ có Bắc Việt được Nam hóa mà cả khối Quốc tế Cộng sản cũng biến chuyển theo. Ngay sau khi cộng sản chiếm Ðà Nẵng, trước khi Sài Gòn sụp đổ, tại bán đảo Sơn Trà diễn ra một cuộc gặp gỡ vào đầu tháng 4-1975 giữa đại biểu của một số nước cộng sản, để quan sát đài truyền tin phát sóng của quân đội Hoa Kỳ đặt tại núi nầy. Sau khi nghe thuyết trình viên cộng sản Việt Nam trình bày về công suất lớn lao của đài phát sóng Hoa Kỳ đặt tại đây, đại diện Liên Xô làm thinh, đại diện Trung Cộng cười mỉa và chúc mừng Việt Nam, đại diện của Ba Lan rất thích thú. Trởû về lại Ðà Nẵng, đại diện Ba Lan xin Uỷ ban Quân quản, do Hồ Nghinh làm chủ tịch, được dùng điện đài Ðà Nẵng để liên lạc với Tòa Ðại sứ Ba Lan ở Hà Nội. Ðại khái nội dung liên lạc là yêu cầu Tòa Ðại sứ Ba Lan điện về nước xin chính phủ Ba Lan tạm ngưng các chương trình đặt mua máy truyền tin của Liên Xô, đợi phái đoàn quan sát về nước. Lý do chính của thái độ các đại diện các nước cộng sản, kể cả việc đại diện Trung Cộng cười mỉa, là vì trước đó không lâu, vào cuối 1974, đầu 1975, tại Hà Nội, vừa mới khánh thành một trạm thông tin liên lạc do Liên Xô viện trợ cho Hà Nội mà Liên Xô khoe rằng đó là máy tối tân nhất thế giới lúc bấy giờ, với công suất chỉ bằng một phần hai mươi (1/ 20) công suất của trạm truyền tin của quân đội Hoa Kỳ đặt tại Sơn Trà, Ðà Nẵng.(11)
Câu chuyện trên giải thích thắc mắc của nhiều người lý do vì sao khi rút lui khỏi miền Nam Việt Nam ngày 30-4-1975, nhân viên Hoa Kỳ được lệnh để lại toàn bộ kho lẫm, máy móc, dụng cụ, vật liệu, trang thiết bị của tất cả các cơ sở Hoa Kỳ tại Việt Nam mà không phá hủy gì cả, từ đài phát thanh địa phương, đến tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, và cả Trung tâm Nguyên tử lực tại Ðà Lạt. Lúc đó, người ta cho rằng người Hoa Kỳ lo bỏ chạy nên không kịp phá hủy, nhưng ngay lúc đó cũng có dư luận cho biết rằng một nhân viên Hoa Kỳ tại Huế, trước khi rút lui, đã tháo một chốt chính làm tê liệt đài phát thanh Huế đặt tại Phú Bài (Thừa Thiên) khi chạy vào Ðà Nẵng, liền bị tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại đây khiển trách.
Cũng có dư luận cho rằng Hoa Kỳ cố tình để lại vật liệu và trang thiết bị cho cộng sản Việt Nam sử dụng, tạo thành nhu cầu mới cho cộng sản, đến khi hư hao hay cạn hết, thì phải tìm mua lại nơi các nước tư bản. (Ví dụ người ta nói rằng ở miền Tây có một kho phân bón khổng lồ. Bắc Việt lấy được, chở ra Bắc sử dụng. Ðến khi phân bón hết, ruộng đã lỡ dùng phân bón, nay không dùng không được, đành phải đi kiếm mua ở các nước tự do khác.)
Sau năm 1975, nhiều phái đoàn của các nước Liên Xô và Ðông Âu đến thăm Việt Nam đều được xem cuộc “triển lãm nguội” của hàng hóa Hoa Kỳ và các nước phương Tây, cũng như tham khảo báo chí, sách vở khoa học kỹ thuật Âu Mỹ tại miền Nam.(12)
Như thế có thể người Hoa Kỳ đã nghĩ đến kế hoạch Moshe Dayan, và không phải chỉ nhắm vào cộng sản Bắc Việt, mà còn nhìn xa hơn, muốn “bày hàng triển lãm” kỹ thuật tối tân với các nước trong khối Quốc tế Cộng sản, mà từ lâu nay bị Liên Xô bưng bít che đậy. Phải chăng cuộc “triển lãm nguội” nầy của Hoa Kỳ đã lôi cuốn được các nước cộng sản, góp phần làm cho tình hình ở đây biến động mau lẹ, đưa đến sự sụp đổ của các nước cộng sản Ðông Âu và Liên Xô vào các năm từ 1989 đến 1991?
3.- CỘNG SẢN BẮT ÐẦU THUA CUỘC
Trong cuộc chiến năm 1975, phải bình tâm mà nhận xét rằng một trong những lý do cộng sản Bắc Việt thành công là bộ máy tuyên truyền của cộng sản hoạt động có kế hoạch và mạnh mẽ hữu hiệu hơn phía Việt Nam Cộng Hòa. Bộ máy tuyên truyền nầy đã làm việc có tính toán liên tục từ năm 1945, khá thành công ở trong nước cũng như trên thế giới. Năm 1956, ở ngoài Bắc xảy ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Cuộc đàn áp trí thức và văn nghệ sĩ của nhà cầm quyền Hà Nội diễn ra rõ ràng như thế, mà cộng sản bưng bít và tuyên truyền ngược lại, khiến ở trong Nam, nhiều người không tin là những chuyện đó có thật. “Chế độ miền Nam, tất nhiên là làm rầm rộ lên nhân vụ án nầy để tuyên truyền mặt trái của chế độ miền Bắc. Nhưng sau nầy, khi hỏi chuyện anh em miền Nam thì được biết là họ không tin, họ tưởng là sự việc bị bịa đặt ra, chứ làm gì đảng có thể đối xử với trí thức miền Bắc tàn tệ đến mức như thế.” (13)
So với trình độ văn hóa của toàn dân, học giả Nguyễn Hiến Lê, tác giả của khoảng trên 20 bộ sách nghiên cứu lớn nhỏ, phải được kể là một nhà thông thái. Ông Nguyễn Hiến Lê đã can đảm thú nhận những suy nghĩ và tình cảm của ông trước năm 1975: “Tôi vốn có cảm tình với Việt minh, với cộng sản; ghét thực dân Pháp, Mĩ, nhất là từ 1965 khi Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam; tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mĩ. Tôi phục tinh thần hi sinh, có kỉ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp.”(14) Một người thông thái như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bị lầm lẫn về cộng sản, huống gì là đại đa số dân chúng Việt Nam. Sau năm 1975, chạm mặt với đời sống thực tế dưới chế độ cộng sản, ông Nguyễn Hiến Lê mới thấy rõ mình đã lầm lẫn bấy lâu nay. Ông viết tiếp: “… muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm. Ðó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi [Nguyễn Hiến Lê] và có lẽ 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay [1981]“.(14)
Bên cạnh đó, phải kể thêm một hiện tượng tâm lý khá lạ lùng: trước năm 1975, không kể dân chúng ở ngoài chính quyền, ngay cả nhiều công chức hoặc sĩ quan binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, tuy làm việc và lãnh lương chính phủ quốc gia, đôi khi cũng chao đảo và không mấy tin tưởng ở chính nghĩa Quốc gia của chế độ mình đang phục vụ. Tuy nhiên, sau khi cộng sản vào chiếm miền Nam, thì tất cả mọi người miền Nam đều tiếc nhớ một thời đã qua, hướng trở về chế độ Việt Nam Cộng Hòa và từ đó ý thức Quốc gia dân tộc trong họ trổi dậy mạnh mẽ hơn cả thời trước nữa.
Như vậy, chính từ sau đỉnh cao chiến thắng quân sự ngày 30-4-1975, thiết lập được chế độ độc tài dựa vào bạo lực công an trị, cộng sản Hà Nội lại bắt đầu thua cuộc, mất hết nhân tâm, mất hết quần chúngï. Chẳng những cộng sản Hà Nội đã thua cuộc ở trong nước, càng ngày cộng sản Hà Nội càng thua cuộc trên thế giới. Các nước trên thế giới trước đây vốn có cảm tình với cộng sản Việt Nam, nay hoảng hốt trước cảnh vượt biên ồ ạt của dân chúng Việt Nam. Ðiều nầy khiến cho cả thế giới sực tỉnh. Không cần ai tuyên truyền, cả thế giới đều thấy rõ nhà cầm quyền Hà Nội đã mất lòng dân đến độ nào, dân chúng mới bất chấp gian nguy, dùng tính mạng đánh cuộc với số phận, để tìm đường sống.
Những tác giả Tây phương trước đây viết bài ủng hộ cộng sản, nay lại quay qua đả kích cộng sản. Tiêu biểu cho những người nầy là sử gia Jean Louis Margolin, giáo sư tại Université de Provence (Pháp), một trong các tác giả viết bài trong sách Le livre noir du communisme [Sách đen về chủ nghĩa cộng sản], đã nói trong một cuộc phỏng vấn vào cuối năm 1999: “Thành thật mà nói, vào những năm 60, tôi đã từng xuống đường biểu tình ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tôi đã từng reo mừng với những cuộc chiến thắng tại Cam-bốt cũng như tại Việt Nam. Tôi từng nghe nói đến những vụ tàn sát Tết Mậu Thân 68, nhưng tôi tin và nghĩ rằng đó chỉ là sự tuyên truyền của Mỹ. Không phải chỉ một mình tôi, mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của cộng sản.”(15)
Có lẽ cũng nên thêm ở đây lời sám hối của nữ tài tử Jane Fonda. Năm 1972, bà Jane Fonda đến Bắc Việt chụp những tấm hình đăng khắp các báo trên thế giới quảng cáo cho cộng sản Bắc Việt. Về Hoa Kỳ, bà tham gia phong trào phản chiến để yêu cầu Hoa Kỳ rút quân. Năm 1988, chính Jane Fonda đã hối hận khi trả lời phỏng vấn của ký giả Barbara Walters: “Tôi sẽ còn hối tiếc đến lúc xuống mồ về những bức hình chụp tôi đứng cạnh mấy khẩu súng bắn máy bay, trông như tôi đang nhắm bắn các máy bay Mỹ… Hành động đó làm hại bao nhiêu chiến sĩ… Ðó là hành động kinh khủng nhất mà tôi có thể phạm. Ðúng là không biết suy nghĩ.”(16)
Dù luôn luôn tự hào là kẻ chiến thắng, nhưng cuối cùng cộng sản lại chạy theo học hỏi tất cả những gì do “Mỹ ngụy” để lại, kể cả việc bắt buộc phải tự từ bỏ chính sách kinh tế chỉ huy, chấp nhận nền kinh tế tự do vốn thịnh hành ở miền Nam và tại các nước tự do trên thế giới, mà họ gọi là kinh tế thị trường. Nay nền kinh tế thị trường không phải chỉ được áp dụng ở miền Nam như trước năm 1975, mà cả trên miền Bắc, nơi cộng sản đã bỏ công sức hơn 20 năm (1954-1975) để xây dựng và củng cố xã hội chủ nghĩa. Cộng sản mà không còn chính sách kinh tế chỉ huy thì chắc chắn không còn là cộng sản nữa. Trong khi đó, nước Mỹ không bị hư hao một tấc đất; lại càng ngày càng mạnh; và cộng sản Việt Nam phải trải thảm đỏ để đón lãnh tụ của Hoa Kỳ vào tháng 11-2000. Trong cuộc đón tiếp nầy, dầu nhà cầm quyền Hà Nội không thông báo, dân chúng đã đứng ngoài trời nhiều giờ trong thời tiết lạnh lẽo của mùa đông để chào mừng người khách quý Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam sau 1975. Còn về phía “ngụy”, người dân Việt Nam ngày nay, kể cả những người ở ngoài Bắc đều hãnh diện nếu được gọi là “ngụy”. “Ngụy” không nhào mà “ngụy” đi vào lòng người, người Nam cũng như người Bắc, và đang càng ngày càng hiển hiện khắp nơi trong đời sống hằng ngày, to lớn và mạnh mẽ đến nổi nhà cầm quyền Hà Nội nay lại sợ “diễn biến hòa bình”, còn hơn là thời chiến tranh súng đạn.
4.- NHÌN VỀ TƯƠNG LAI
Lúc mới cưỡng chiếm được miền Nam, cộng sản Hà Nội rất lo sợ phản ứng của dân chúng, nên việc đầu tiên là bắt ngay sĩ quan, công chức, cán bộ của chế độ Cộng Hòa còn lại trong nước đi “học tập cải tạo”, thực chất là tập trung, cô lập, bắt giam dài hạn không tuyên án trên các vùng rừng thiêng nước độc, vì cộng sản lo sợ họ là những người có khả năng tập họp, tổ chức, và lãnh đạo dân chúng chống cộng sản. Số lượng sĩ quan và công chức bị bỏ tù tối thiểu là 1.000.000 người. Những người nầy bị tù tối thiểu là một năm (rất ít), có người hai năm (nhiều), ba năm, có người lên đến 15 năm hoặc 20 năm. Nếu tính trung bình một người bị tù 2 năm, và tối thiểu 1.000.000 người bị tù, thì số thời gian mà người Việt nói chung bị cộng sản giam tù là 2 .000.000 năm.(17)Những người nầy lại ở trong độ tuổi trung niên sung mãn để hoạt động, sản xuất, và có trình độ văn hóa khá cao nếu so chung với trình độ của toàn thể dân chúng Việt Nam.
Việc bắt giam sĩ quan, công chức, cán bộ Việt Nam Cộng Hòa của cộng sản còn có mục đích đe dọa gia đình những người có thân nhân bị tù, vì nếu họ vọng động thì thân nhân của họ khó có cơ hội trở về đoàn tụ gia đình. Dầu chính sách nầy rất thâm độc, nhưng lúc đầu, ngay sau năm 1975, vẫn xảy ra những tổ chức bạo động chống nhà cầm quyền cộng sản, ví dụ vụ các ông Nguyễn Nhuận, Ðặng Ngọc Quờn, nguyên là giáo sư Viện Ðại Học Huế, vụ Ông Nguyễn Văn Bảy, nguyên giáo sư trường Kỹ Thuật Ðà Nẵng, vụ nhà thờ Thánh Vinh Sơn ở Sài Gòn…Dĩ nhiên những cuộc bạo động nầy không thể thành công, nhưng đã nhen nhóm ngọn lửa đấu tranh trong lòng dân chúng. Dần dần, người ta ý thức rằng phương thức bạo động khó thành công, nên quay qua phản ứng bất bạo động nhưng không kém phần cương quyết. Từ đây, bắt đầu sự lên tiếng của những nhà trí thức như Ðoàn Viết Hoạt, Nguyễn Ðan Quế, Nguyễn Ðình Huy, Hoàng Minh Chính, Phan Ðình Diệu, Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lĩnh. Sự lên tiếng nầy liền được đáp ứng ở trong cũng như ngoài nước. Tiếp đó, là những cuộc biểu tình bất bạo động của dân chúng ở Thái Bình, Xuân Lộc (Ðồng Nai), Huế…
Một sự thật lý thú là hiện nay ở trong nước, dân chúng không còn phân chia Quốc gia hay cộng sản, mà tất cả đoàn kết thành một khối tranh đấu đòi hỏi tự do dân chủ, đối kháng với nhà cầm quyền độc tài cộng sản. Khi được nhà cầm quyền Hà Nội gởi đi lưu diễn ở Hoa Kỳ vào đầu tháng 3-2001, nữ ca sĩ Phương Thanh đã tuyên bố: “Nói rằng Phương Thanh hát dở, hay không thích tiếng hát của Phương Thanh thì Phương Thanh xin tạ lỗi, nhưng nói rằng Phương Thanh là Việt Cộng thì tội nghiệp cho Phương Thanh lắm! “(18)
Ngay cả những thành phần trước đây đã từng trung kiên với đảng Cộng Sản, nay cũng đứng về phía dân chúng, đòi hỏi dẹp bỏ đảng Cộng Sản. Tiêu biểu nhất là ý kiến của ông Vũ Ðình Huỳnh, một thời làm bí thư cho Hồ Chí Minh, gần cuối đời đã tỉnh ngộ và đề nghị: “”Muốn cho dân tộc ta không thua kém các dân tộc khác, muốn cho đất nước được thịnh vượng, dân ta không nghèo khổ mãi thì không thể thiếu một điều kiện tiên quyết: ấy là phải gạt bỏ sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản.”(19) Sau đó, ông Nguyễn Văn Trấn (1914-1998), gia nhập đảng Cộng Sản miền Nam ngay từ những ngày đầu mới thành lập, đã từng làm Phó bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ năm 30 tuổi (1944), tập kết ra Bắc năm 1954, dân biểu Quốc hội Hà Nội trước năm 1975, cũng viết:” Tội ác của chế độ này [chế độ cộng sản Việt Nam], từ 40 năm nay, thật nói không hết.” (20)
Trong khi đó, ở ngoài nước, nhờ sống rải rác khắp nơi trên thế giới, cộng đồng người Việt hải ngoại tạo nên một địa bàn ngoại cứ rộng rãi bất khả xâm phạm. Từ đó, cộng đồng người Việt hải ngoại là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho những thành phần yêu nước và ly khai với đảng Cộng Sản ở trong nước; đồng thời là một ngoại lực hỗ trở người Việt ở trong nước về mọi mặt, tạo niềm tin để họ tiếp tục cùng với cộng đồng ở hải ngoại tranh đấu, đưa đất nước ra khỏi chế độ cộng sản phi nhân vong bản hiện nay.
Trước tình hình đó, để lấy lòng dân chúng lần nữa, ở trong nước, cộng sản Việt Nam mở phong trào đổi mới từ năm 1985. Nói là đổi mới nhưng vẫn duy trì độc quyền chính trị, lo sợ “diễn biến hòa bình”, định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa, không cho tự do báo chí, bóp nghẹt tự do ngôn luận. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh. Cộng sản kiếm cách đổi mới để tự cứu mình chứ không phải để cứu dân tộc Việt Nam.
Ra bên ngoài, nhà cầm quyền cộng sản kiếm cách ve vuốt Việt kiều. Chính sách của cộng sản đối với Việt kiều có một điểm cần chú ý: khi dân chúng không chịu nổi cuộc sống dưới chế độ cộng sản, phải bỏ nước ra đi, thì nhà cầm quyền Hà Nội gọi họ là phản động, phản quốc. Sau một thời gian ổn cư tại nước ngoài, người Việt hải ngoại chắt chiu tiết kiệm, gởi tiền về nuôi thân nhân càng ngày càng nhiều. Vào đầu thập niên 90, cộng sản liền đổi cách xưng hô, gọi những người vượt biên là “núm ruột ngàn dặm” của tổ quốc.
Những người Việt Nam ra đi định cư tản mác khắp thế giới, đông nhất là tại Hoa Kỳ. Dần dần, cộng đồng Việt Nam lớn mạnh và thành công trên đất khách, nay là quê hương thứ hai của mình. Nhờ có điều kiện học hành, nhiều tinh hoa Việt Nam đã đóng góp vào sự phát triển và thịnh vượng chung của quê hương mới. Chế độ cộng sản liền kiếm cách lợi dụng, kêu gọi “núm ruột ở xa” hãy bỏ qua quá khứ, nhìn về tương lai, đóng góp xây dựng đất nước. Chính sách của cộng sản đối với người Việt ở hải ngoại có thể tóm tắt trong các điểm sau đây:
· Bòn rút tiền bạc càng nhiều càng tốt.
· Chỉ sử dụng tay sai để kinh doanh, hoặc tuyên truyền đường lối chính sách nhà nước cộng sản.
· Lợi dụng trí thức thuộc ngành khoa học kỹ thuật, mời về nước để giảng dạy hoặc làm việc trong các ngành hoàn toàn chuyên môn về khoa học kỹ thuật, như bác sĩ, kỹ sư…
· Hoàn toàn không chấp nhận các phê bình hay góp ý thẳng thắn về chính trị để xây dựng quê hướng, những đòi hỏi về nhân quyền, dân quyền, và không chấp nhận những thành phần trí thức về khoa học nhân văn như triết học, tư tưởng, văn chương, sử học, xã hội học, trừ những thành phần tình nguyện làm tay sai tuyên truyền cho cộng sản để đổi lấy một số quyền lợi và hư danh nhất thời.
Dầu rất yêu nước, và rất khắc khoải về tiền đồ dân tộc, đại đa số người Việt ở nước ngoài, nhất là những thành phần tinh hoa trong các ngành thương mãi, khoa học kỹ thuật, văn chương giáo dục, chẳng ai chấp nhận hợp tác với chế độ cộng sản Hà Nội. Hợp tác với nhà cầm quyền Hà Nội chỉ giúp kéo dài một chế độ vong bản, phi nhân, từ đó gián tiếp kéo dài thêm niềm thống khổ triền miền của dân tộc Việt.
Kinh nghiệm Ðông Âu cho thấy khi dân chúng nhìn ra chân tướng phản dân hại nước của chế độ cộng sản, đồng thời ý thức được tự do dân chủ, dân quyền và nhân quyền, tự họ đứng lên lật đổ chế độ cộng sản để cứu nguy dân tộc. Tuy đảng Cộng Sản Việt Nam hiện đang lợi thế nhờ cầm quyền bằng bạo lực công an trị, nhưng thời điểm giải trừ chế độ nầy đang khởi động, và chắc chắn sẽ lớn mạnh, nhất là một khi cộng đồng người Việt ở hải ngoại càng ngày càng đông đảo, và khoa học kỹ thuật càng ngày càng phát triển, nhà cầm quyền cộng sản không thể che đậy độc tài, nói láo một chiều để đánh lừa như trước đây.
Tiến trình dân chủ và dân quyền trên thế giới hiện nay là không thể đảo ngược được; những nhà nước độc tài càng ngày càng bị lên án và cô lập. Bằng chứng là khi Lê Khả Phiêu, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam viếng thăm nước Pháp từ 21 đến 25-5-2000, chẳng có đài truyền hình nào ở Paris đưa tin. Rải rác vài báo viết ít dòng ngắn ở trang trong và nhân đó chỉ trích chế độ cộng sản Việt Nam, kể cả các báo trước đây ủng hộ cộng sản Việt Nam như tờ Libération [Giải Phóng]. Ðặc biệt báo Nouvel Observateur [Người Quan Sát Mới] số ngày 31-5 chạy bài của nhà báo nổi tiếng Delfeil de Ton, với tựa đề “Một Pinochet này nữa”. Trong bài báo nầy có đoạn viết: “Pinochet vừa thăm nước Pháp; không có ai đòi bắt giữ hắn. Hắn mang tên Lê Khả Phiêu, cái tên rất khó đọc. Khác với Pinochet ở Chili, tội ác thuộc về quá khứ, đã về hưu, Lê Khả Phiêu đang tại chức, đang gây tội ác, tổ chức của ông ta từng gây nhiều vụ ám sát, giết người, nhiều người chết trong biển cả khi trốn chạy chế độ độc ác của ông ta. Ông ta không cho phép một chút quyền tự do tư tưởng và tự do báo chí nào…”(21)
Do tất cả những lẽ trên, câu nói của Moshe Dayan đúng là một lời tiên tri về tương lai cuộc chiến vừa qua: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.” Chính vì chiếm được Sài Gòn năm 1975, nên ngay sau đó chẳng những cộng sản Việt Nam, mà cả cộng sản thế giới cũng bắt đầu thất trận. Cho nên có thể xem ngày 30-4 chỉ là ngày sụp đổ tạm thời của Việt Nam Cộng Hòa, nhưng lại chính là khởi điểm đánh dấu sự sụp đổ vĩnh viễn của huyền thoại cộng sản Việt Nam trong lòng dân tộc Việt Nam. Sự sụp đổ của huyền thoại cộng sản càng làm cho chính nghĩa Quốc gia dân tộc xuyên suốt từ thời tổ tiên chúng ta lập quốc, bị chao đảo một thời gian vì hỏa mù của lý thuyết Mác xít ngoại lai, nay lại sáng tỏ hơn bao giờ cả. Tinh thần Quốc gia Dân tộc bất di dịch là chân lý ngàn đời của dân chúng Việt không thể nào bị đánh bại. Chắc chắn trước tình hình quốc nội cũng như quốc tế thuận lợi như trên,một ngày không xa, chính thể Quốc gia sẽ phục sinh, nhân dân Việt Nam sẽ được tự do, hạnh phúc và phú cường.
TRẦN GIA PHỤNG (Toronto)
CHÚ THÍCH:
1. Nguyễn Tiến Hưng and Jerrold L. Schester, The Palace File, Harper & Row, Publishers, New York, 1986, tr. 350. Nguyên văn: “North Vietnam will lose the war when it takes over Saigon.” [Sách The Palace File được các ông Cung Thúc Tiến và Nguyễn Cao Ðàm chuyển dịch sang tiếng Việt dưới nhan đề Hồ sơ dinh Ðộc Lập, vơi một số những thay đổi do Nguyễn Tiến Hưng; Chu Xuân Viện nhuận sắc, Nxb. C & K Promotions, Inc., Los Angeles, không đề năm xuất bản. Trong sách nầy, câu nói của Moshe Dayan được trích dẫn ở trang 594.]
2. Nguyễn Ðình Tuyến, Những biến cố lớn trong 30 năm chiến tranh tại Việt Nam 1945-1975, Houston, Texas, 1995, tr. 19.
3. Roger Warner, Shooting at the Moon [Bắn trăng], Steerforth Press, South Royalton, Vermont, 1996, tr. 333-334. Sách nầy được chọn là sách hay nhất về bang giao quốc tế của Câu lạc bộ Overseas Press, Hoa Kỳ.
4. Roger Warner, sđd. tr. 336. Nguyên văn: “that it might be worthwhile to sacrifice South Vietnam. Rather than squander more American lives and billions of dollars trying to prop up South Vietnam, with little chance of succeeding, why not accede to its failure in exchange for an opening to China, in order to weaken the real ennemy, the USSR?“.
5. Roger Warner, sđd. tr. 336. Nguyên văn: “So I came to the conclusion, and this may sound thoroughly cynical to you, that we would be better off not ro win this war. Particularly because the Chinese had made a breakthrough to us, and it was far more important to get the Chinese broken off from the Soviets and leaning to one side in our favor than for us to win in Vietnam.” [Bill Sullivam là một nhà ngoại giao kỳ cựu của Hoa Kỳ, đã từng làm đại sứ Hoa Kỳ tại Ai Lao, thứ trưởng Bộ Ngoại giao đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương, phụ tá và sát cánh cho đến phút chót với Henri Kissinger trong các cuộc thương thuyết tại hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam.]
6. John S. Bowman, tổng biên tập, The Vietnam War, Day by Day [Chiến tranh Việt Nam, việc từng ngày], Mallard Press, New York, 1989, tr. 190.
7. Roger Warner, sđd. tr. 333. Nguyên văn: “that losing the Vietnam War would be healthier for the U.S. than winning it. That losing was in the national interest. That it was a plus… It was a radical notion at the time, that by losing the war and by abandoning our Southeast Asian allies to their fate we would be doing the right thing.”
8. Lời của Lê Duẩn, bí thư thứ nhất đảng Lao Ðộng Việt Nam. (Vũ Thư Hiên, Ðêm giữa ban ngày, hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422, phần chú thích.)
9. Một ví dụ rõ rệt nhất trong lịch sử Việt Nam, là vào năm 1801, nhà Tây Sơn đem quân vây Quy Nhơn do Võ Tánh và Ngô Tùng Châu của lực lượng Nguyễn Phúc Ánh trấn giữ. Theo kế hoạch của Võ Tánh, Nguyễn Phúc Ánh chịu thua trận nầy, bỏ Quy Nhơn, tung quân ra đánh chiếm Phú Xuân, rồi ra Bắc hà dẹp nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước.
10. Ðạp đồng đài: tức xe đạp, đồng hồ, và radio transistor. (Lúc đó có nhiều từ ngữ rất lạ lùng về việc nầy: ví dụ đồng hồ không người lái tức đồng hồ tự động, đồng hồ có đèn tức đồng hồ dạ quang, đồng hồ có cửa sổ tức đồng hồ có khung ngày.)
11. Chuyện nầy do một cán bộ tên Phương, thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Hà Nội, được gởi vào Nam để nghiên cứu kế hoạch văn hóa, kể tại nhà của nhà văn Phan Du tại Ðà Nẵng vào thời điểm trên, người viết có mặt trong buổi nói chuyện nầy.
12. Một câu chuyện mà người viết nghe kể tại Sài Gòn trước năm 1980: Khi thủ tướng Cộng Hòa Dân Chủ Ðức (Ðông Ðức), ông Erich Honecker (1912-1994), qua thăm Việt Nam, ghé Sài Gòn, lúc đó đã có tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Honecker đề nghị thuê các trí thức Sài Gòn sang làm việc tại Ðông Ðức, trả bằng ngoại tệ qua nhà cầm quyền cộng sản. Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân TPHCM lúc đó là Võ Văn Kiệt đồng ý ngay vì nhà nước cộng sản rất cần ngoại tệ. Theo nhu cầu về chuyên viên của chính phủ Ðông Ðức, ông Võ Văn Kiệt lên danh sách các chuyên viên đã tốt nghiệp các trường đại học Ðông Âu, Liên Xô và Trung Cộng, nhưng Honecker lắc đầu từ chối, và tự mình đưa ra một danh sách nêu đích danh tên tuổi những chuyên viên khoa học kỹ thuật miền Nam đã tốt nghiệp tại miền Nam, cũng như ở Âu Mỹø còn ở lại miền Nam.
13. Nguyễn Minh Cần, Công lý đòi hỏi, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tt. 76-77.
14. Nguyễn Hiến Lê, Hồi kí tập III, Nxb. Văn Nghệ, California, 1988, tt. 17-18, 25.
15. Cuộc phỏng vấn do Thanh Thảo thực hiện, nguyệt san Việt Nam Dân Chủ, số 40, California, tháng 1-2000. (tài liệu rút từ Internet, http//www.Imvntd.org/vndc0100/bai06.htm). Những chữ in đậm do người viết bài nầy muốn nhấn mạnh.
16. * Ngô Nhân Dụng, “Jane Fonda hối tiếc”, www.nguoi-viet.com/spcl/0622/binhluan.htm * Xin xem thêm về Jane Fonda: www.rjgeib.com/thoughts/fonda/fonda.html
17. Số người Việt Nam Cộng Hòa bị tù sau năm 1975 chưa từng được cộng sản tiết lộ. Sau khi thăm dò nhiều người bị tù ở nhiều trại học tập tại các tỉnh khác nhau, người viết chỉ đưa ra con số ước chừng mà thôi. Nhiều người cho biết con số thật sự bị tù nhiều hơn, phải trên 1.000.000 người, vì chẳng những quân nhân, công chức, mà cán bộ xã ấp ở nông thôn, và cả phụ nữ nữa, cũng bị đi tù nhiều năm
18. Việt Mercury, San Jose, California, 9-3-2001, www.vietmercury.com/2001/week10/News/Story01.html)
(Nữ ca sĩ Phương Thanh, trả lời phỏng vấn của thông tín viên Ðức Hà)
19. Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 303. Lời nói trên là của ông Vũ Ðình Huỳnh nói với con là nhà văn Vũ Thư Hiên năm 1986. Ông Vũ Ðình Huỳnh gia nhập đảng CS năm 1930, từng chứa chấp, nuôi ăn trong nhà tại Hà Nội những cán bộ cộng sản, kể cả ông Hồ Chí Minh. Ông Vũ Ðình Huỳnh còn là bí thư của ông Hồ, Vụ trưởng Vụ lễ tân Bộ ngoại giao cộng sản cho đến khi hưu trí năm 1964.
20. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc Hội, Nxb. Văn Nghệ, California, 1995, tr. 345.
21. Thành Tín, “Pháp du phiêu lưu ký”, Thông Luận. ____________________________________________________
Những Ngày Cuối Cùng Tại Saigon năm 1975
Những Trận Đánh Cuối Cùng 1975
Thuyền Nhân Việt Nam - Vietnamese Boat People www.facebook.com/media/set/…
................................................................. Hành Trình Tìm Tự Do Tác giả: Lời Anh Bằng & Nhạc Trúc Hồ
Tháng Tư gió lộng, Nước nhà Việt Nam nát tan. Tháng Tư gió lộng, Quay cuồng, thuyền trôi bốn phương.
Sao người dân tôi trốn quê hương mình, Vượt đại dương khốn nguy cam đành, Bỏ lại đây trái tim của mình ? Sao mẹ ôm con khát khô môi gầy, Chị thương em đ ói cơm bao ngày, Lời cầu xin thiết tha từng giây ?
Cánh tay yếu mềm, Vẫy vùng ngoài khơi biển đông. Tiếng kêu thất vọng, Cuối cùng nào ai biết không. Đêm biển khơi hoang vắng vây tứ bề Thuyền mong manh khó đi không về Vùi thân trong đáy sâu não nề
Đêm từng cơn sóng dữ trôi hy vọng Từng cơn giống tố reo kinh động Đường vượt biên khát khao đợi mong
Những gian khó này, Sẽ thành lửa nung trái tim. Những đôi mắt buồn, Sẽ nhìn đời tươi sáng hơn.
Như bầy chim tung cánh đi mọi miền Đời bao hương sống quên ưu phiền Người Việt Nam bước theo ước nguyện Trong tình thương đem sẵn cho con nguời Tình yêu thương trái tim nhân loại Người Việt Nam tiến lên ngày nay Đây người sinh nơi tiến nơi học đường Cùng đem tin báo tin xây dựng Thành công van khắp nơi lẫy lừng Đây bàn chân đi tới con đường dài Mồ hôi chăm tưới cho cuộc Chờ ngày vui sớm quê Việt Nam
Những đêm tối vừa Thắm lại ngàn tia nắng mai. Những tan vỡ phường Cấy lại niềm tin khắp nơi. Ước mơ chính bàn tay này,bàn tay chúng ta...
Thắp xây đắp lại Nước Việt Tự Do Ấm No....!!!(Tài liệu của Phóng Viên Chiến Trường sưu tầm) www.facebook.com/NguoiNhapCuoc1975/
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 29, 2020 18:32:43 GMT 9
Ôn lại một số đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam từ 1975April 27, 2020 saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/on-lai-mot-so-dac-diem-trong-lich-su-ti-nan-viet-nam-tu-1975/Giáo sư LÊ XUÂN KHOA Tháng Tư 1975, sau khi chiến thắng Việt Nam Cộng Hòa và kết thúc cuộc nội chiến 20 năm, cộng sản miền Bắc đã mau chóng giải tán Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, đổi tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và áp đặt chế độ độc tài toàn trị trên cả hai miền đất nước. Chính sách bóc lột và trả thù tàn ác của cộng sản đối với nhân dân miền Nam là nguyên nhân chính đã khiến trên hai triệu dân phải bỏ hết tài sản và sự nghiệp để chạy ra nước ngoài cũng trong 20 năm liên tiếp với khoảng 300,000 người thiệt mạng trên đường mạo hiểm tìm kiếm tự do.
Theo các con số của Liên Hiệp Quốc, cho tới khi quốc tế chính thức chấm dứt chương trình tị nạn Việt Nam năm 1995, tổng số người ra đi lên tới 2,164,000 người, liệt kê theo từng loại như dưới đây:
Đợt 1 (cuối tháng Tư 1975): 140,000
Đợt 2 (1975-1979): 327,000
Đợt 3 (1980-1989): 450,000
Đợt 4 (1990-1995): 63,000
Số người gốc Hoa bị đẩy về Trung Quốc: 260,000
Chương trình ODP (1979-1995): 624,000
Số người chết hay mất tích trên đường tị nạn: 300,000
Trong tổng số 2,164,000 kể trên, ngoài 140,000 người được chính phủ Mỹ di tản trong đợt đầu và 624,000 đi theo diện ODP, có khoảng 840,000 người đã vượt thoát bằng đường biển hay đường bộ trong ba đợt sau tới các trại tạm trú ở Hong Kong và một số quốc gia Đông Nam Á. Trong số này, 750,000 được nhận định cư tại Mỹ và các nước khác. Như vậy, số người không được công nhận là tị nạn và bị kẹt lại ở các nước tạm dung (first asylum countries) là 90,000, nhưng trên thực tế năm 1995 chỉ còn lại khoảng 40,000. Điều đó cho thấy là trong sáu năm từ Hội nghị quốc tế Geneva lần thứ hai về tị nạn Đông Dương (1989) đến năm Liên Hiệp Quốc chính thức chấm dứt các chương trình tị nạn (1995), đã có khoảng 50,000 người hồi hương do tình nguyện hay bị cưỡng bách. Số 40,000 còn lại phải tiếp tục trở về nước, hầu hết bị cưỡng bách hay không chống đối (non-objectors), trước khi trại tị nạn cuối cùng được đóng cửa năm 1997.
So với các nhóm tị nạn và di dân tới Mỹ và các nước khác trong thế kỷ 20, lịch sử người Việt gốc tị nạn[1] có ít nhất năm đặc điểm:
Việt Nam có số dân tị nạn bỏ nước ra đi đông nhất và phải trải qua những tình trạng bi thảm nhất thế giới trong thế kỷ 20 với số người bỏ mình trên đường tìm tự do lên tới khoảng 300,000 người. Các chính sách và chương trình định cư tị nạn Việt Nam ở Mỹ phức tạp nhất gồm nhiều tên gọi khác nhau: Bốc Trẻ Mồ côi (baby lift), Trẻ em lai (Amerasians), Trẻ em Không Người đi kèm (unaccompanied minors), Ra đi Trật tự (ODP) gồm các diện: đoàn tụ gia đình, tù cải tạo (H.O và ROVR), nhân viên chính phủ Mỹ (U11), và nhân viên các hãng tư cùa Mỹ (V11). Chính nghĩa của người tị nạn, chỉ ít năm sau khi định cư ở nước ngoài, đã được chính các lãnh đạo Đảng và Nhà nước CSVN nhìn nhận và kêu gọi “khúc ruột xa ngàn dặm” trở về hợp tác thay vì lên án và nguyền rủa như trong những năm đầu. Người tị nạn có tiếng nói và vai trò ảnh hưởng tới các chính sách chấp nhận và định cư tị nạn, tham gia các hoạt động cứu vớt và bảo vệ thuyền nhân, và cuối cùng đã thật sự giúp cho Hoa Kỳ và quốc tế giải quyết vấn đề tị nạn được công bằng và nhân đạo. Khi trở thành công dân của quốc gia định cư, người cựu tị nạn lại có vai trò quan trọng trong các quan hệ giữa quê hương mới và quê hương gốc, trên cả hai bình diện chính quyền và dân sự. Qua hàng trăm cuốn sách về tị nạn Việt Nam, hầu hết các tác giả Việt Nam và ngoại quốc đã trình bày rất đầy đủ về những sai lầm và tội ác của cộng sản và những cuộc vượt thoát gian nan bi thảm của người tị nạn. Mặt khác, lịch sử tị nạn cũng cho thấy khả năng hội nhập mau chóng của người Việt Nam vào xã hội dòng chính và họ đã tạo được nhiều thành tích đáng kể trên các lãnh vực kinh tế, khoa học, nghệ thuật và ngay cả chính trị.
Tuy nhiên, dường như chưa có tác giả nào làm nổi bật chính nghĩa tị nạn như được nêu ra trong điểm số 3 trên đây, là đặc diểm then chốt giúp cho người tị nạn chuyển bại thành thắng, khôi phục những giá trị của tự do, dân chủ trước sự suy đồi của chủ nghĩa cộng sản. Cho đến nay, chính nghĩa ấy mới chỉ được hàm ngụ gián tiếp trong những lời tố cáo những hành động chiếm đoạt và trả thù tàn nhẫn của cộng sản đối với nhân dân miền Nam để giải thích nguyên nhân tị nạn. Điểm số 4 cho thấy ảnh hưởng tích cực của công dân Mỹ gốc tị nạn đối với các nhà làm chính sách trong những cuộc vận động cứu trợ và định cư tị nạn. Đáng tiếc là giữa những tổ chức cộng đồng có những vụ công kích nhau chỉ vì nghi ngờ hay ngộ nhận về cách làm việc khác nhau nhưng cùng chung mục đích, tệ hại nhất là những trường hợp tung tin thất thiệt hay trình bày sự kiện sai lạc chỉ cốt đạt được lợi ích cá nhân. Điểm số 5 liên quan đến tình hình chính trị phức tạp ở Việt Nam về cả hai mặt đối nội và đối ngoại từ sau 1995 đến nay, có ảnh hưởng tới quan hệ giữa người Việt Nam ở nước ngoài với chính quyền và nhân dân trong nước. Lý do vì từ sau 1995, cộng đồng người Việt hải ngoại không chỉ có thêm người tị nạn chính trị, do tự ý hay bị trục xuất, mà còn có số đông là di dân trong đó có không ít thân nhân xa gần của đảng viên cộng sản cao cấp hòa nhập vào cộng đồng cựu tị nạn nhưng cũng đang làm biến đổi các quan hệ giữa trong và ngoài nước.
Trong phạm vi của một bài viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 45 ngày 30/4/1975, tôi không thể viết về tất cả năm đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam. Do đó, tôi sẽ chỉ ôn lại đặc điểm số 3 (chính nghĩa của tị nạn) và số 4 (tiếng nói và vai trò của người tị nạn) vì đây là hai điểm quan trọng chưa được chú ý đúng mức hay còn thiếu những thông tin cần được ghi nhận như những sự kiện lịch sử. Chính nghĩa tị nạn đã tạo cơ hội cho người tị nạn đóng góp đáng kể cho các chương trình cứu giúp, bảo vệ và định cư tị nạn, vận động thành công cho sự ra đời các đạo luật ủng hộ tị nạn, và đặc biệt là tham gia đắc lực vào các nỗ lực quốc tế giải quyết những cuộc khủng hoảng về thuyền nhân tị nạn kéo dài 20 năm ở Hong Kong và các nước Đông Nam Á. Ngày nay, những công dân nước ngoài gốc Việt lại có vai trò đáng kể trong sự phát triển quan hệ hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, đặc biệt trước mối hiểm họa chung là Trung Cộng. Đây cũng là những quan tâm lớn đối với tất cả những di dân và công dân ngoại quốc gốc tị nạn Việt Nam.
Buổi ăn trưa tại Bộ Ngoại giao do ông Funseth khoãn đãi phái đoàn Văn Bút VN hải ngoại trước ngày lên đường đi Việt Nam ký thỏa hiệp định cư tù cải tạo. Dãy bên phải: nhà thơ Viên Linh, ông Funseth, nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, GS Lê Xuân Khoa. Dãy bên trái: nhà văn Trà Lũ, cố nhà báo Chử Bá Anh (thứ 3). Những người Mỹ còn lại là thành viên phái đoàn Funseth CHÍNH NGHĨA CỦA TỊ NẠN VIỆT NAM Như trên đã nói, hàng trăm ngàn trang sách, bài vở và vô số hình ảnh đã trình bày lịch sử tị nạn Việt Nam như một tấn thảm kịch về chính sách cướp đoạt và trả thù độc ác của cộng sản đối với nhân dân miền Nam, những cuộc vượt thoát vô cùng bi thảm của người tị nạn, đời sống khổ cực của họ trong các trại tạm trú, nhất là phản ứng tuyệt vọng của những người bị bác bỏ quyền tị nạn và bắt buộc phải hồi hương. Tấn thảm kịch 20 năm đó cần phải được ghi chép trung thực và đầy đủ để muôn đời sau còn lưu lại tên tuổi của những kẻ chịu trách nhiệm gây nên thảm họa không từng thấy trong lịch sử dân tộc.
Tuy nhiên, tị nạn Việt Nam không chỉ là một chuỗi dài bi kịch trong những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa và những câu chuyện thương tâm trong những cuộc hành trình gian khổ của người tị nạn. Đây cũng là lịch sử một cuộc ra đi có chính nghĩa của hàng triệu người Việt Nam phải rời bỏ quê hương, tài sản và sự nghiệp chỉ vì muốn thoát khỏi chế độ hà khắc của độc tài cộng sản. Chính nghĩa của cuộc ra đi không tiền khoáng hậu này đã được chứng tỏ bằng những khoản ngoại tệ (hay kiều hối) được chuyển về nước giúp cho thân nhân, bằng hữu hay đầu tư kinh doanh, những chương trình giúp đỡ nhân đạo và cải thiện xã hội đang thực hiện khắp nước của các tổ chức phi chính phủ, không kể số lượng nhân tài chưa thể trở về giúp cho Việt Nam mau chóng trở thành một quốc gia phát triển hàng đầu trong khu vực.
Đáng ghi nhớ là chính nghĩa này đã được chính các nhà lãnh đạo cộng sản công khai thừa nhận từ giữa thập kỷ 1980 khi họ bừng tỉnh trước tình hình suy sụp mau chóng của các nước cộng sản Đông Âu, do đó đã quyết định “đổi mới hay là chết”. Nhân dân miền Nam không còn bị lên án là “ngụy” hay “phản động” và người tị nạn cũng hết bị nguyền rủa là “ma cô, đĩ điếm”. Một chính sách mới về “Việt kiều” được thiết lập, xoay 180 độ sang ca ngợi cộng đồng người Việt hải ngoại bằng những cụm từ hoa mỹ như “khúc ruột ngàn dặm”, “nguồn nội lực quan trọng” hay “bộ phận không thể tách rời” của dân tộc. Về điểm này, tác giả bài này đã nhấn mạnh trong lời kết bài thuyết trình tại Đại học Columbia, New York, nhân dịp kỷ niệm 20 năm tị nạn Việt Nam: “Hai mươi năm trước, chúng ta là những kẻ thất trận trong thời chiến. Ngày nay, năm 1995, chúng ta đã vươn lên thành những người thắng cuộc trong thời bình.”[2] Đặc biệt hơn nữa là gần 20 năm sau, nhà báo Huy Đức nổi tiếng ở trong nước cũng thẳng thắn phát biểu trong lời mở đầu cuốn sách Bên Thắng Cuộc: “Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc.”[3]
Bài báo Washington Post về buổi họp báo của GS Lê Xuân Khoa tại Thượng Viện, 3/3/1987 Chính nghĩa tị nạn 1975 càng sáng tỏ hơn sau khi hai quốc gia Việt, Mỹ thiết lập quan hệ bình thường năm 1995. Do sự tan rã của các nước cộng sản Đông Âu và Liên Bang Xô-viết, cộng sản Việt Nam phải quay về núp bóng cộng sản Trung Quốc để duy trì chế độ nhưng không khỏi lo sợ nguy cơ đất nước bị Trung Quốc chiếm đoạt. Bởi vậy, Việt Nam cũng quyết định trông cậy vào sức mạnh kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ để có thể tồn tại độc lập và trở thành một quốc gia giàu mạnh và phát triển. Sự chuyển hướng chiến lược này đương nhiên nhìn nhận vai trò quan trọng của cộng đồng công dân Mỹ gốc Việt trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Điều này đã được những lãnh đạo cao cấp nhất ở Việt Nam long trọng xác nhận trong cả hai cuộc họp thượng đỉnh tại thủ đô Washington, DC, giữa Tổng thống Obama với Chủ tịch Trương Tấn Sang năm 2013 và với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng năm 2015.
Ngày 25.7.2013, trong cuộc họp báo công bố bản Tuyên bố Chung, khi Tổng thống Obama khẳng định “nguồn sức mạnh giữa hai quốc gia là những công dân Mỹ gốc Việt sống ở Mỹ nhưng có nhiều ràng buộc chặt chẽ với Việt Nam, và những quan hệ giữa người dân trong và ngoài nước chính là chất keo sơn gắn bó sự hợp tác mạnh mẽ giữa hai nước.” Chủ tịch Trương Tấn Sang “cám ơn Hoa Kỳ đã giang tay đón nhận người Việt Nam tới định cư và nay họ đã trở thành công dân Mỹ đang đóng góp vào công cuộc phát triển chung của nước Mỹ.”
Ngày 7.7.2015, sau cuộc họp với TBT Nguyễn Phú Trọng, TT Obama lại cho giới truyền thông hay là khi đề cập đến những hoạt động hợp tác giữa người dân hai bên với nhau, TBT Trọng đã nhận định rằng “nước Mỹ có nhiều công dân gốc Việt và Việt kiều hơn bất cứ nước nào khác trên thế giới và họ đã đóng góp lớn lao cho xứ sở này. Chúng tôi muốn mở rộng những trao đổi như vậy gồm cả những chương trình thông qua Đại học Fulbright đã được chấp thuận và sắp sửa khai mạc.” Tiếp theo, ông Trọng ngỏ lời chào mừng và thăm hỏi thân tình cộng đồng người Việt ở Mỹ, hi vọng rằng mối quan hệ giữa hai nước sẽ gia tăng hơn nữa.
Trong chuyến đi Mỹ lần này, TBT Nguyễn Phú Trọng đã đề cao vai trò quan trọng của người Mỹ gốc Việt nhiều hơn CT Trương Tấn Sang hai năm trước. Ngoài phát biểu trong bản Tuyên Bố Chung, lần đầu tiên “nhìn nhận sự thành công của người Việt Nam tại Hoa Kỳ và nhiều đóng góp của họ đối với sự phát triển của Việt Nam và Hoa Kỳ”, TBT Trọng còn có bài diễn văn tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), trong đó ông đã dùng những từ “đặc biệt” và “hết sức quan trọng” để nói về “cộng đồng đông đảo người Việt Nam tại Hoa Kỳ” mà ông định nghĩa chính xác và thân thiện là “công dân Hoa Kỳ và cũng là đồng bào của chúng tôi”. Dù lãnh đạo cộng sản nổi tiếng về nói dối và lợi dụng cơ hội, những lời phát biểu chính thức này cho thấy họ không phủ nhận được chính nghĩa yêu nước của người tị nạn.
Cũng cần nói thêm rằng chính nghĩa của người tị nạn không chỉ được chứng tỏ bằng tinh thần yêu chuộng dân chủ và nhân quyền mà các lãnh đạo cộng sản đã phải nhìn nhận, dù miễn cưỡng, như một sự khác biệt cần được tôn trọng. Chính nghĩa đó còn được thể hiện như một thông điệp của người tị nạn nhắc nhở Hoa Kỳ về trách nhiệm đối với Việt Nam Cộng Hòa, một cựu đồng minh đã phải hy sinh quá lớn về tài sản và nhân mạng trong vai trò “tiền đồn của thế giới tự do” trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Thông điệp này được gửi đi trong bản điều trần của IRAC trước Thượng Viện Mỹ ngày 22.9.1981.
Thư của tướng Vessey cho GS Khoa về cuộc gặp Đại sứ Trịnh Xuân Lãng, tháng Tư 1989 Khi đó, tác giả bài này đang là Phó Giám đốc Trung tâm Tác vụ về Tị nạn Đông Dương (Indochina Refugee Action Center, IRAC)[4] lần đầu tiên ra điều trần trước Ủy ban Tư pháp Thượng viện Hoa Kỳ. Đó cũng là lúc đang có một luồng dư luận trong giới chính trị gia bảo thủ cho rằng tị nạn Việt Nam chỉ là di dân kinh tế và nước Mỹ đã mệt mỏi tình thương (compassion fatigue). Bản điều trần của IRAC kịch liệt phản bác luận điệu sai lầm này, nhấn mạnh rằng trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đất nước Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ đói kém hay loạn lạc, nhưng chưa bao giờ nhân dân Việt Nam rời bỏ quê hương ra sinh sống tại nước ngoài cho đến khi bị cai trị bởi chế độ độc tài cộng sản.
Sau khi chứng minh chính nghĩa của tị nạn Việt Nam và triển vọng đóng góp cho xã hội Hoa Kỳ, tác giả kết luận bài điều trần bằng một sự kiện đau thương nhằm thức tỉnh lương tâm các nhà lãnh đạo Mỹ: “Xin đừng để các dân tộc trên thế giới phải đồng tình với cố thủ tướng Cam-bốt Sirik Matak khi ông ấy viết những dòng chữ cuối cùng cho Đại sứ Mỹ, từ chối sang Mỹ tị nạn và chấp nhận bị Khmer Đỏ sát hại. Ông viết: ‘Lỗi lầm duy nhất của chúng tôi là đã đặt niềm tin vào nước Mỹ’. Xin hãy tiếp tục duy trì truyền thống bày tỏ tình đoàn kết và lòng quảng đại của nước Mỹ đối với những nạn nhân của chế độ bạo tàn. Là một quốc gia và một nền kinh tế thịnh vượng, Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ không bao giờ phải hối tiếc về sự mở vòng tay đón nhận “những người đang khao khát được hít thở không khí tự do.” [5]
Chủ tọa buổi điều trần là Thượng nghị sĩ Alan K. Simpson (R-Wyoming) lập tức nhận định rằng đây là “một bài thuyết trình đầy sức mạnh” (a very powerful presentation).[6] Từ đó, ông có thái độ cởi mở hơn đối với người tị nạn từ ba nước Đông Dương.
TIẾNG NÓI VÀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI TỊ NẠN Ngoài việc thể hiện chính nghĩa yêu nước theo lý tưởng quốc gia, chống lại chủ nghĩa và chế độ độc tài cộng sản, những người tị nạn may mắn định cư ở những nước dân chủ đã sớm góp phần đáng kể vào các nỗ lực quốc tế cứu vớt người vượt biển, chống nạn hải tặc, giúp đỡ tị nạn còn kẹt trong các trại tạm trú. Khi thuyền tị nạn bị đẩy ra khơi, họ đã lên tiếng vận động các nước giải quyết những cuộc khủng hoảng về tình trạng tị nạn tạm trú và được chấp thuận định cư. Vì không đủ thông tin và dữ kiện về tình hình tị nạn ở các nước, tác giả sẽ chỉ viết về lịch sử người Việt tị nạn ở Hoa Kỳ với giả định là vấn đề tị nạn Việt Nam trên thế giới về cơ bản có nhiều điểm giống nhau mà Hoa Kỳ là điển hình về mọi mặt.
Ngoài ra, do những điều kiện thuận lợi của cá nhân và tổ chức do mình chịu trách nhiệm, đã đến lúc người viết phải nhắc đến những kinh nghiệm bản thân trong các nỗ lực chung của nhiều cá nhân và tổ chức trong cộng đồng người Việt ở Mỹ. Nhờ được đào tạo về sư phạm và nghiên cứu, người viết luôn cố gắng giữ thái độ khách quan, khoa học, tường thuật và nhận định trong tinh thần tôn trọng sự kiện có thật hay có nguồn dẫn chứng cụ thể. Lịch sử tị nạn là một phần của lịch sử Việt Nam, của Hoa Kỳ và các nước định cư, do đó cần phải được ghi chép chính xác và đầy đủ hầu tránh được những thiếu sót hay ngộ nhận, nhất là những sự kiện quan trọng đã bị vô tình hay cố ý trình bày sai sự thật về các hoạt động bảo vệ người tị nạn đã diễn ra mấy chục năm về trước.
Cuộc tị nạn bi thảm nhất thế kỷ 20 của thuyền nhân Việt Nam đã gây chấn động thế giới và Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc đã hai lần phải triệu tập hội nghị quốc tế tại Geneva, lần đầu để giải quyết cuộc khủng hoảng về tị nạn tạm trú khi thuyền nhân Việt Nam bị các nước Đông Nam Á xua đuổi (1979), và lần thứ hai để tìm kiếm giải pháp tốt nhất có thể chấm dứt những cuộc ra đi cực kỳ nguy hiểm (1989). Như trên đã nói, người tị nạn và công dân Mỹ gốc Việt đã có tiếng nói và vai trò đáng kể trong cuộc vận động Hoa Kỳ và quốc tế ngay từ sau hội nghị Geneva lần đầu, sôi nổi nhất là những hoạt động trong thập kỷ 1980 dẫn tới hội nghị Geneva lần thứ hai, và cuối cùng đã giúp quốc tế khai thông được tình trạng bế tắc của Kế hoạch Hành động Toàn diện (CPA). Điều này cũng cho thấy giải pháp thật sự cho vấn đề tị nạn Việt Nam là giải pháp chính trị, tức là thỏa hiệp bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam năm 1995. Sau đó, cộng đồng Mỹ gốc Việt vẫn không ngừng vận động định cư cho những người tị nạn còn sót lại ở Hong Kong và Philippines, và những người đối kháng chế độ bỏ chạy sang Thái Lan.
Những hoạt động của người Mỹ gốc Việt tị nạn, từ công tác cứu giúp và bảo vệ thuyền nhân, cung cấp các dịch vụ định cư đến những cuộc vận động chính phủ Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc và các quốc gia tạm dung trong mấy chục năm qua rất đa dạng và đem lại nhiều kinh nghiệm thực tế cho những nhà làm chính sách trước những đợt di dân và tị nạn càng ngày càng gia tăng trên thế giới. Rất nhiều đóng góp của người gốc tị nạn trước và sau 1995, như Ủy ban Báo nguy Giúp Người Vượt Biển (BPSOS) của GS Nguyễn Hữu Xương ở San Diego[7] hợp tác với các con tàu nhân đạo quốc tế cứu vớt và giúp định cư được trên 3,000 thuyền nhân, cuộc vận động định cư tù cải tạo rất thành công của Hội Gia đình Tù nhân Chính trị và các Hội Cựu Tù nhân Chính trị, Hội nghị 14 quốc gia về Khủng hoảng Tị nạn Tạm trú do IRAC tổ chức tại Washington DC năm 1988 dọn đường cho Hội nghị quốc tế Geneva lần thứ hai, cuộc vận động của VOICE giúp cho 2,000 người tị nạn còn sót lại ở Philippines trong tình trạng không hoàn toàn hợp pháp được định cư Mỹ, 300 tại Canada (phối hợp với Liên Hội người Việt Canada), và 200 người tại Na Uy.
Thư của Đại tướng Vessey viết cho GS Khoa về vấn đề tù nhân chính trị, tháng 8, 1987 Tất cả những đóng góp này cùng nhiều hoạt động đáng kể khác là những dấu mốc lịch sử trên chặng đường dài cứu trợ, bảo vệ và tìm kiếm giải pháp nhân đạo cho thảm kịch tị nạn Việt Nam (1979-1995). Trong khung cảnh giới hạn của một bài báo, tác giả chỉ có thể chú trọng vào một số trường hợp điển hình trong đó có những thông tin ít được biết đến hoặc đương thời không thể đưa ra công khai, do đó có sự kiện đã gây dư luận nghi ngờ hay chống đối vì ngộ nhận. Trong giới hạn đó, tác giả rút ra một phần nội dung của bản thảo cuốn sách chưa hoàn tất, thu gọn thành một bài viết có chủ đề riêng để làm sáng tỏ những sự kiện lịch sử mà đáng lẽ phải viết ra từ lâu. Dưới đây là bốn dấu mốc điển hình cho sự tham gia đắc lực của người tị nạn vào việc giải quyết các vấn đề tị nạn:
1. Phái đoàn tị nạn đi thăm các trại tạm trú
Tại hội nghị Geneva lần đầu năm 1979, nhờ Hoa Kỳ và các nước định cư quyết định gia tăng số tị nạn Việt Nam được chấp thuận định cư, các nước tạm dung ở Đông Nam Á đồng ý ngưng các biện pháp xua đuổi thuyền nhân và tiếp tục cho phép họ cập bến và nhập trại tạm trú. Tuy nhiên, sang thập kỷ 1980, số người tị nạn đường biển và đường bộ tới các trại tị nạn tăng lên gấp bội so với số người được đưa đi các nước định cư, do đó cuộc khủng hoảng tạm trú (first asylum crisis) lại bùng phát trầm trọng hơn lần trước, nhất là tại Hong Kong là nơi có nhiều người tị nạn từ Bắc Việt. Các nước cho tị nạn tạm trú ra tuyên bố chung chống thuyền nhân tị nạn. Nhiều con thuyền mong manh chở đầy người tị nạn bị đẩy ra khơi làm nhiều người chết chìm trong khi những người ở các trại tạm trú bị đối xử cực kỳ vô nhân đạo để làm nản lòng những người muốn ra đi.
Trước tình hình nguy hiểm ấy, Trung tâm IRAC lập một phái đoàn cựu tị nạn đi thăm tận nơi các trại tị nạn tạm trú ở Hong Kong và Đông Nam Á để tìm cách giúp giải quyết cuộc khủng hoảng. Chuyến đi này là bước đầu cần thiết để các đại diện tị nạn có cơ hội trực tiếp vận động những nhà làm chính sách ở các nước tạm dung, gây được sự nể trọng và tin cậy của họ. Được sự can thiệp của Bộ Ngoại giao và Quốc hội Mỹ, lần đầu tiên một phái đoàn tị nạn được đại diện các quốc gia tạm dung chính thức tiếp đón, cho phép đi thăm các trại và phỏng vấn người tị nạn, sau hết là trao đổi ý kiến về những điều mà các bên liên quan, kể cả cộng đồng người Việt hải ngoại, có thể thực hiện để cải thiện đời sống trong các trại tạm trú, giảm bớt gánh nặng cho các nước tạm dung và góp phần giải quyết cuộc khủng hoảng tị nạn. Khi trở về Washington DC, phái đoàn IRAC đã mở một cuộc họp báo tại Thượng viện Hoa Kỳ do hai Thượng nghị sĩ Mark Hatfield (CH, Oregon) và Claiborne Pell (DC, Rhode Island) đồng bảo trợ. Ngoài việc báo cáo tình hình khổ cực và thiếu an ninh của người tị nạn, và đề nghị các biện pháp cải thiện cuộc sống trong các trại, phái đoàn kêu gọi LHQ triệu tập khẩn cấp hội nghị quốc tế lần thứ hai để giải quyết toàn diện các vấn đề trước mắt và lâu dài. Đại diện báo giới quốc tế, nhất là các nước cho tị nạn tạm trú, đều có mặt và gửi bài về trong nước của họ. Có lẽ bài tường thuật rành mạch và đầy đủ nhất là bài của nhà báo kỳ cựu Don Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”
Chỉ vài tháng sau, TNS Hatfield (CH, Oregon) trình dự luật S.814 tại Thượng viện mang tên “Luật 1987 về Giúp đỡ và Bảo vệ Tị nạn Đông Dương” và DB Chet Atkins (DC, Massachussets) đưa dự luật tương tự H.R. 1940 ra Hạ viện. Một chiến dịch đại vận động các nghị sĩ và dân biểu Quốc Hội do IRAC cùng với các hội đoàn tị nạn thực hiện đồng loạt trên khắp các tiểu bang. Kết quả là Dự luật Hatfield-Atkins được lưỡng viện quốc hội thông qua và Tổng thống Reagan hoàn toàn đồng ý và ký lệnh ban hành ngày 22.11.1987. Trong một lá thư gửi Giám đốc IRAC, TNS Hatfield cám ơn cuộc vận động thành công của người Mỹ gốc Việt và xác nhận chuyến đi thăm các trại tị nạn của phái đoàn IRAC hồi đầu năm đã gây ấn tượng tốt và tạo được đồng thuận giữa Chính phủ và Quốc hội.
Những thuyền nhân được Medecins du Monde cứu và đưa lên chiếc tàu Goelo năm 1982 (Photo by Michel Setboum/Getty Images) 2. Tham dự Hội nghị Quốc tế Geneva 1989
Đáp lời kêu gọi của phái đoàn tị nạn sau chuyến đi thăm các trại tạm trú năm 1987 và được dọn đường bởi hội nghị 14 quốc gia do IRAC tổ chức tại Washington DC năm 1988, Tổng Thư Ký LHQ chỉ thị cho UNHCR xúc tiến chuẩn bị Hội nghị Quốc tế về Tị nạn Đông Dương lần II tại Geneva vào tháng Sáu 1989. Một Nhóm Công tác Liên Chính phủ (Intergovernmental Working Group) được thành lập để soạn thảo Kế hoạch Hành động Toàn diện (Comprehensive Plan of Action, CPA) nhằm giải quyết trọn vẹn vấn đề tị nạn Việt Nam trong vòng ba năm. Dù không phải là thành viên của Nhóm Công tác, IRAC được UNHCR chia sẻ các tài liệu làm việc của Nhóm để tham khảo ý kiến trong suốt thời gian chuẩn bị hội nghị.
Những nhận định và đề nghị của IRAC được Sergio Vieira de Mello, Giám đốc Phối trí Nhóm Công tác Liên Chính phủ đánh giá rất cao trong thư gửi cho Chủ tịch IRAC ngày 11 tháng 4, 1988, vì đã “chú trọng vào nhiều lãnh vực then chốt được UNHCR đặc biệt quan tâm và nỗ lực làm cho Kế hoạch Hành động Toàn diện thể hiện mọi quyền của người xin tạm trú và tị nạn.” Tháng Chín 1988, IRAC cử luật sư cố vấn Janelle Diller sang Hong Kong tìm hiểu tình hình các trại tị nạn và hoàn tất bản báo cáo 150 trang về tình trạng thanh lọc, điều kiện sinh sống của người tị nạn và đưa ra những đề nghị cải thiện thích hợp.[8] IRAC đúc kết các ý kiến thành một bản nhận định và đề nghị toàn diện về chế độ thanh lọc, ra đi trật tự, hồi hương tình nguyện và định cư tị nạn. Bản nhận định 25 trang này, sau khi hoàn chỉnh với sự góp ý của nhiều hội đoàn, được in thành tài liệu chính thức mang tên “Tiến đến những Giải pháp Nhân đạo và Lâu bền cho vấn đề Tị nạn Đông Dương” (Towards Humane and Durable Solutions to the Indochinese Refugee Problem) gửi cho Ủy ban Phối hợp Hôi nghị Quốc tế tại Geneva xem xét trong những phiên họp chuẩn bị cuối cùng 22-26 tháng Năm, 1988. Tài liệu này có chữ ký của trên 200 hội đoàn tị nạn Đông Dương từ Hoa Kỳ, Canada, Pháp và Úc.
Hội nghị Geneva diễn ra trong hai ngày 13-14 tháng Sáu 1988 với sự tham dự của đại diện 76 quốc gia. Chủ tịch IRAC được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mời tham gia phái đoàn chính phủ Mỹ nhưng quyết định dự hội nghị với tư cách một NGO để có thể tự do nói lên quan điểm của người tị nạn. Tuy nhiên, Hội đồng quản trị của IRAC vẫn có một đại diện người Hmong trong phái đoàn Hoa Kỳ.
Ngay trong ngày đầu hội nghị, phái viên đài truyền hình BBC đã phỏng vấn chủ tịch IRAC trong khuôn viên trụ sở LHQ. IRAC cũng phối hợp với một số đại diện hội đoàn người Việt ở Thụy Sĩ và Pháp để phân phát cho các tham dự viên quốc tế bàn Tuyên bố một trang của IRAC nhan đề “Tiếng nói của Tị nạn tại Hội nghị Quốc tế” kèm theo bản nhận định 25 trang đã gửi tới Geneva từ tháng trước. Bản Tuyên bố bày tỏ sự quan tâm đặc biệt về hai vấn đề thanh lọc và hồi hương và nhấn mạnh vào nhu cầu giải quyết tận gốc vấn đề bỏ nước ra đi của người tị nạn.
Trước khi chấp thuận và công bố “Kế hoạch Hành động Toàn diện” (CPA), Đại hội đã nghe bài phát biểu của 37 trưởng phái đoàn trong số 76 quốc gia tham dự. Hầu hết đều xác nhận Việt Nam là nguyên nhân gây khủng hoảng tị nạn. Lớn tiếng nhất là đại diện Trung Quốc, tố cáo “Việt Nam không chỉ gây ra thảm họa tị nạn của nhân dân Việt Nam mà luôn cả nhân dân Cam-bốt và Lào.” Ngoại trưởng Anh yêu cầu Việt Nam ngưng “xuất cảng dân chúng sang các nước khác” và phải “đồng ý – mau chóng đồng ý – nhận hồi hương tất cả những người không được nhìn nhận là tị nạn qua chương trình thanh lọc của các nước cho tị nạn tạm trú.” Trưởng đoàn Hoa Kỳ Jonathan Moore cùng chung với quan điểm của IRAC là “chừng nào Việt Nam còn duy trì những điều kiện khiến nhân dân phải bỏ nước ra đi, và cho đến khi nào trong nước có những cải thiện căn bản về kinh tế, xã hội và chính trị, Hoa Kỳ vẫn cương quyết chống lại việc cưỡng bách người tị nạn tam trú phải hồi hương.” Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch thì tuyên bố dứt khoát “Chúng tôi kiên quyết bác bỏ mọi hình thức áp đặt vì áp đặt là vi phạm bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường.”
Như đã dự liệu, Kế hoạch CPA gặp nhiều trở ngại trong việc thực hiện do vấn đề thanh lọc bất công và biện pháp cưỡng bách hồi hương của các nước tạm dung, nhất là tại Hong Kong. Ngày 16/10/1989, IRAC gửi cho Ủy ban Điều hành CPA bản “Xét lại Kế hoạch CPA và Đề nghị Thi hành có Hiệu quả”. Ngày 17/11/1989, IRAC gửi thư cho Thủ tướng Anh Margaret Thatcher trước cuộc họp của bà với Tổng thống George W.H. Bush tại Camp David ngày 24, thỉnh cầu trì hoãn quyết định hồi hương cưỡng bách tị nạn để cho UNHCR, các NGO quốc tế và cộng đồng người Việt hải ngoại cùng hoạch định chương trình hồi hương tình nguyện. Bà Thatcher không chấp thuận và ngày 11/12/1989, Hong Kong dùng bạo lực tống xuất 51 người về Việt Nam. Lập tức, cộng đồng Mỹ gốc Việt phản ứng bằng một chuỗi hoạt động tập trung vào việc chống cưỡng bách hồi hương:
13/12/1989, IRAC phối hợp với Nghị hội Người Việt ở Hoa Kỳ, Ủy ban Liên Tôn Bảo vệ Tị nạn và BPSOS huy động một cuộc biểu tình khổng lồ trước Đại sứ quán Anh phản đối chính sách phi nhân đạo của chính phủ Hoàng gia Anh quốc. Trong buổi sáng cùng ngày, phóng viên James Naughtie của đài BBC đã phỏng vấn chủ tịch IRAC về vấn đề tị nạn ở Hong Kong. 14/12/1989, chương trình Nightline của đài truyền hình ABC tổ chức một buổi tranh luận trực tuyến qua vệ tinh giữa chủ tịch IRAC Lê Xuân Khoa và Thống đốc Hong Kong Sir David Wilson về chính sách cưỡng bách hồi hương. Trước đó, GS Khoa đã có dịp gặp Thống đốc Wilson do sự giới thiệu của Bà Tuyết Nguyệt Markbreiter, công dân Anh và chủ nhiệm tạp chí Arts of Asia. Cuộc tranh luận do nhà điều khiển chương trình Forrest Sawyer làm điều hợp viên. Thống đốc Wilson gọi tị nạn Việt Nam là di dân kinh tế giống như dân nghèo Nam Mỹ tìm cách vượt qua biên giới để kiếm cơ hội sinh sống tốt hơn, bị GS Khoa bác bỏ khi ông chứng minh lập luận đó sai lầm vì thiếu hiểu biết. Thống Đốc Wilson đồng ý với giải thích của GS Khoa và quay sang chỉ trích chính phủ Mỹ hành động thiếu trách nhiệm trong việc thu nhận người tị nạn Việt Nam. 16/12/1989, nhật báo The Washington Post đăng bài “Forcible Repatriation: No Remedy” (Cưỡng bách hồi hương không phải là giải pháp) của Chủ tịch IRAC, với câu mở đầu mạnh mẽ: “Shame on British Prime Minister Margaret Thatcher!” Trước những phản ứng quyết liệt của cộng đồng người Việt và dư luận chỉ trích của thế giới, Bà Thatcher phải hoãn cưỡng bách hồi hương một tháng cho tới phiên họp sau của Ủy ban Điều hành CPA vào tháng Giêng 1990. Trong khi đó, Hà Nội đồng ý với quyết định của Hong Kong và Anh quốc trả US$620 chi phí hồi hương trên mỗi đầu người cộng với US$360 của UNHCR trợ cấp cho mỗi người hồi hương trong một chương trình mới được đặt tên là “Hồi Hương Trật Tự” (Orderly Return Program, ORP). Hoa Kỳ không phản đối chương trình này vì nó tương tự như sáng kiến “hồi hương không chống đối” (non-objection) của Ngoại trưởng Mỹ James Baker. Việc hồi hương, cưỡng bách hay không chống đối, chỉ còn là vấn đề thời gian trước mắt, và việc thi hành kế hoạch CPA vẫn còn là một thử thách lớn cho tất cả các bên liên quan.
Thủy thủ tàu USS Durham (LKA-114) vớt thuyền nhân Việt Nam năm 1975 (Photo: U.S. National Archives and Records Administration) 3. Chương trình định cư tù cải tạo (H.O)
Năm 1977, một cựu nhân viên Sứ quán Việt Nam Cộng Hòa tại Philippines là Khúc Minh Thơ có chồng đi trại cải tạo và hai con còn kẹt ở Việt Nam sang Mỹ định cư. Bà Thơ cùng với một số bạn đồng cảnh ngộ thành lập Hội Gia đình Tù nhân Chính trị Việt Nam (HGĐTNCT) để vận động chính phủ Mỹ can thiệp cho chồng con được thả và cho phép sang Mỹ đoàn tụ gia đình. Những nỗ lực vận động ấy được sự giúp đỡ của ông bà Shep và Hiệp Lowman, một cựu viên chức ngoại giao Mỹ tại Việt Nam, sau có thêm sự ủng hộ của hai Thượng nghị sĩ John McCain và Edward Kennedy, nhưng những cuộc thăm dò từ phía Mỹ không được Việt Nam quan tâm. Năm 1978, chồng bà Thơ được thả nhưng bệnh tật, hai năm sau thì mất. Bà Thơ vẫn tiếp tục vận động cho việc định cư cựu tù nhân chính trị.
Năm 1982, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố Việt Nam sẵn sàng thả hết tù nhân cải tạo nếu Hoa Kỳ chấp thuận cho họ sang Mỹ định cư. Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ chỉ định ông Robert L. Funseth, Phụ tá Thứ trưởng, khởi sự các cuộc thương thuyết ở hậu trường. Đây là lúc bà Khúc Minh Thơ và Hội GĐTNCT liên lạc với ông Funseth và chuẩn bị lập danh sách và hồ sơ tù cải tạo. Sau hai năm không có tiến bộ, Ngoại trưởng Mỹ George Schultz thông báo công khai vào tháng Chín 1984 là Hoa Kỳ sẵn sàng đáp ứng đề nghị của Việt Nam bắt đầu bằng việc chấp thuận 10,000 tù nhân cải tạo và gia đình của họ. Dù mong muốn xây dựng quan hệ kinh tế và ngoại giao với Mỹ, Hà Nội vẫn gây nhiều khó dễ cho vấn đề định cư tù cải tạo.
Năm 1985, một phái đoàn do cựu thống đốc tiểu bang Iowa cầm đầu sang Việt Nam để thăm dò khả năng quan hệ song phương, khi nhắc đến đề nghị của Ngoại trưởng Schultz thì Ngoại trưởng Thạch dứt khoát từ chối. Ông Thạch cho phía Mỹ biết rằng Việt Nam chỉ muốn tiếp tục thảo luận về vấn đề tìm kiếm tù nhân chiến tranh và người Mỹ mất tích (POW-MIA) vì đây mới là quan tâm chính của chính phủ Mỹ cần ưu tiên giải quyết để đôi bên có thể đạt được mục tiêu toàn diện là chấm dứt vĩnh viễn cuộc khủng hoảng tị nạn Đông Dương, bãi bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Một năm sau, Việt Nam công bố chủ trương “đổi mới” và hai bên gặp nhau nhiều hơn và có triển vọng tiến hành khả quan hơn.
Năm 1987, để hậu thuẫn cho những cuộc thương thuyết toàn diện với Việt Nam sớm có hiệu quả, Tổng Thống Reagan chỉ định Đại Tướng hồi hưu John W. Vessey, nguyên Chủ tịch các Chỉ huy trưởng Liên quân, làm Đặc Sứ (special emissary) của Tổng thống phụ trách đối thoại với Việt Nam. Bà Khúc Minh Thơ và Hội GĐTNCT cũng liên lạc với Đại Tướng Vessey để vận động thêm cho tù nhân cải tạo. Vào thời điểm này, một số cựu tù cải tạo sau khi được thả đã vượt biển tới các trại tị nạn và được Mỹ chấp thuận cho vào Mỹ định cư, một số khác đi theo diện đoàn tụ gia đình. Họ tìm đến nhau và thành lập các hội cựu tù nhân cải tạo để giúp đỡ và vận động định cư cho những người bạn tù còn ở lại Việt Nam hay còn kẹt trong các trại tị nạn tạm trú.
IRAC bắt đầu quan tâm đến vấn đề vận động định cư tù cải tạo năm 1982 khi Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố sẵn sàng thả hết tù cải tạo nếu Mỹ chấp nhận cho tất cả được sang Mỹ định cư. IRAC ủng hộ cuộc vận động của Hội GĐTNCT và các hội khác. Mỗi khi nhận được danh sách và hồ sơ từ các hội cựu tù cải tạo hay từ các trại tị nạn, IRAC đều chuyển đến Hội GĐTNCT ở Virginia là nơi gần Bộ Ngoại giao và có nhiều hội viên tới giúp lập hồ sơ vận động. Chủ tịch IRAC chỉ chính thức quan hệ với ông Funseth từ 1984 để theo dõi tin tức sau khi Ngoại trưởng Schultz công bố chấp thuận đề nghị của Ngoại trưởng Thạch.
Năm 1978: 2.500 thuyền nhân bị Malaysia từ chối và bị tống ngược ra biển sau khi được nước này cung cấp thực phẩm và thuốc men (Photo by Alain Dejean/Sygma/Corbis) Đồng thời, IRAC cũng liên lạc chặt chẽ với văn phòng TNS John McCain, lập hồ sơ của một số nhà văn, nhà báo tên tuổi bị cầm tù để nhờ ông can thiệp với chính phủ Việt Nam. Năm 1986, sau khi tham dự Hội nghị Toàn quốc Lãnh đạo Cộng đồng Đông Dương do IRAC triệu tập tại Đại học Georgetown, Washington DC, ông Funseth mới thật sự có những cuộc tham khảo với chủ tịch IRAC về vấn đề tù cải tạo và triển vọng thương thuyết với Việt Nam. Trước mỗi lần gặp, IRAC đều có soạn talking points và tài liệu liên quan để ông Funseth tùy nghi sử dụng.
Khi ông Funseth chuẩn bị vòng đàm phán chung kết vào tháng Bảy 1989, chủ tịch IRAC đã thu xếp một cuộc gặp gỡ tại Bộ Ngoại giao giữa ông Funseth và phái đoàn đại diện Trung tâm Văn Bút Việt Nam Hải ngoại khi đó do nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn làm chủ tịch và nhà thơ Viên Linh, tổng thư ký. Ngoài ông Ngạn đến từ Canada và Viên Linh từ California còn có hai hội viên là nhà văn Trà Lũ (Canada) và nhà báo Chử Bá Anh (Virginia). Trước đó, IRAC đã yêu cầu hội Văn Bút tổng hợp một danh sách đầy đủ các nhà văn, nhà báo đã và chưa được thả để ông Funseth trao cho nhà cầm quyền Việt Nam trong ngày ký kết bản thỏa thuận định cư tù cải tạo. Sau 30 phút trao đổi tin tức và ý kiến, cuộc đàm đạo được tiếp tục trong bữa ăn trưa được ông Funseth khoản đãi tại phòng ăn riêng của Bộ Ngoại giao.
Khi được tin Tổng thống Reagan chỉ định Đại Tướng John Vessey làm Đặc Sứ đối thoại với Việt Nam, chủ tịch IRAC đã viết thư cho Đại Tướng trước ngày ông lên đường qua Việt Nam, thông báo về cuộc vận động của IRAC về các vấn đề tị nạn liên quan tới việc giải quyết vấn đề POW-MIA và thả tù nhân chính trị như những điều kiện tiến đến quan hệ bình thường giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Chủ tịch IRAC thỉnh cầu Đại Tướng đưa những vấn đề này vào nghị trình thảo luận với các lãnh đạo Việt Nam.
Khi trở về Mỹ, trong thư gửi chủ tịch IRAC ngày 12/8/1987, Tướng Vessey cám ơn ông đã cung cấp những thông tin và tài liệu cơ bản giúp cho phái đoàn Mỹ có thể nêu lên các vấn đề tù nhân chính trị, trẻ em lai Mỹ và chương trình ODP với Việt Nam. Ông cho hay “chúng tôi đã nêu lên những vấn đề này, một cách riêng tư, trong cuộc thảo luận.” Kết quả là “Việt Nam tái xác nhận ý định của họ là xúc tiến chương trình Ra đi Trật tự (ODP) và tin tưởng sẽ có tiến bộ về vấn đề trẻ em lai, nhưng họ không tỏ ra tích cực về những vấn đề tù nhân chính trị. Các nhà thương thuyết của họ duy trì quan điểm là vấn đề này không phải là một vấn đề nhân đạo.” Vị Đặc Sứ của Tổng thống Mỹ thông báo cho phía đối thoại biết rằng chính phủ và Quốc hội Mỹ đều quan tâm đến vấn đề định cư tù chính trị và vấn đề này vẫn sẽ được nêu ra trong những lần gặp gỡ sau.
Chủ tịch IRAC tiếp tục góp ý với Tướng Vessey, trực tiếp hay qua văn thư, và được vị Phụ tá của Đại Tướng Vessey là Thiếu Tướng Stephen B. Crocker cập nhật tin tức đối thoại với Việt Nam. Như ta đã thấy, cuộc thương thuyết chính thức về vấn đề định cư tù nhân cải tạo do ông Robert Funseth đảm trách, được sự hỗ trợ của Tổng thống Reagan qua những cuộc đối thoại của Đặc sứ John Vessey, rốt cuộc đã thay đổi được thái độ cứng rắn của cộng sản Việt Nam, dẫn đến việc ký kết thỏa hiệp định cư tù cải tạo Funseth-Vũ Khoan ngày 30/7/1989.
Đại tướng Vessey tiếp tục thúc đẩy Việt Nam hợp tác nhiều hơn về vấn đề POW-MIA và chính phủ Mỹ đã tỏ ra hài lòng về những tiến bộ đạt được trong chuyến thăm Washington DC vào tháng 10, 1990 của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch sau phiên họp Đại Hội đồng LHQ tại New York. Mặc dù do áp lực của Trung Quốc, Ngoại trưởng Thạch phải từ chức năm 1991 và các cuộc hội đàm Mỹ-Việt bị chậm lại, vấn đề POW-MIA vẫn tiến hành khả quan. Mỹ quyết định bãi bỏ cấm vận năm 1994 và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1995.
Cũng trong dịp Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tham dự Đại Hội đồng LHQ, Thượng Nghị sĩ Mark Hatfield đã thu xếp một buổi gặp không chính thức giữa Ngoại trưởng Thạch và Chủ tịch IRAC “để thảo luận về những chương trình nhân đạo.”[9] Thật ra, các vấn đề được đề cập trong cuộc gặp là tiếng nói của công dân Mỹ gốc Việt đối với các nhà làm chính sách của Mỹ về những vấn đề liên quan đến Việt Nam, vấn đề POW-MIA và bang giao Mỹ-Việt, và triển vọng đóng góp chất xám của nhân tài hải ngoại có thể giúp Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển ở Á châu. Ông Thạch bắt đầu hâm nóng không khí buổi họp bằng việc bày tỏ sự vui mừng có cơ hội đàm đạo với anh em trí thức người Việt Nam ở nước ngoài về những vấn đề quan tâm chung của đất nước. Ông nói ngay đến sự sai lầm của chính sách “học tập cải tạo” khiến bộ máy chính quyền thiếu nhân sự chuyên môn đủ mọi ngành. Nhiều người tài giỏi bị giam giữ, nhiều nhà khoa học và chuyên gia bỏ nước ra đi gây hậu quả là nhân dân bị nghèo đói và đất nước trở thành tụt hậu. Đáng chú ý là lời ông tự phê bình: “Chúng tôi đánh nhau thì giỏi nhưng quản trị thì quá tồi, không có khả năng phát triển đất nước.” Ông kêu gọi trí thức, chuyên gia ở nước ngoài hãy bỏ qua hận thù quá khứ, “let bygones be bygones” (sic) và trở về giúp nước vì “chúng tôi đã quyết định đổi mới, không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị”. Ông nhấn mạnh rằng đây là nguyên văn câu tuyên bố của ông trước Đại hội đồng LHQ vài tuần trước.
Chủ tịch IRAC trả lời rằng đa số trí thức hải ngoại sẵn sàng đóng góp khả năng vào những dự án phát triển đất nước nhưng chỉ làm được việc này khi thấy trong nước thật sự thực hiện một lộ trình dân chủ hóa cụ thể, bắt đầu bằng việc trả tự do cho những người yêu nước bất bạo động còn bị giam giữ. Nhưng mục đích của IRAC gặp Ngoại trưởng Thạch không chỉ để nói lên quan điểm về hòa giải dân tộc mà còn để góp ý về triển vọng bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Vấn đề POW-MIA không phải là vấn đề riêng của chính phủ Mỹ mà là mối quan tâm chính của nhân dân Mỹ có thân nhân xa gần, bằng hữu hay đồng bào đã hi sinh hay mất tích trong cuộc chiến. Vì vậy, nhân dân Mỹ, qua các đại diện của họ trong Lưỡng viện Quốc hội, sẽ chấp thuận hay ngăn chặn việc chính phủ thiết lập quan hệ bình thường với Việt Nam tùy theo thái độ cư xử của Việt Nam. IRAC khuyến cáo Việt Nam không nên dùng POW-MIA như một lá bài chính trị để mặc cả trong những cuộc thương thuyết mà nên chứng tỏ cho nhân dân Mỹ thấy rằng Việt Nam coi POW-MIA là một vấn đề nhân đạo và thật lòng hợp tác.
Cuộc trao đổi IRAC-Nguyễn Cơ Thạch bao gồm một số chuyện bên lề với những chi tiết riêng tư như khi ông Thạch, người có trình độ học vấn cao nhất trong Bộ Chính trị, kể chuyện trước khi sang Ấn Độ nhận chức Tổng lãnh sự, ông đã phải học các nghi thức văn minh như chào hỏi xã giao hay cả đến cách sử dụng dao, nĩa trên bàn ăn. Luật sư Trần Danh San, trong đoàn IRAC, kể chuyện bị bắt đi cải tạo sau khi đứng trước Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn đọc bản Tuyên ngôn nhân quyền giống như Hiến chương 77 của Vaclav Havel bên Tiệp Khắc. Có một lúc ông San kéo ống quần lên để ông Thạch thấy vết sẹo lớn ở cổ chân kỷ niệm những ngày bị cùm biệt giam. Khi được thả, ông vượt biển, được tàu buôn Nhật cứu, sau được ông Funseth giúp cho sang Mỹ định cư qua sự vận động của IRAC.
Trở lại chương trình định cư tù chính trị được Việt Nam gọi là chương trình nhân đạo (humanitarian operation), do đó tên tắt H.O trở thành thông dụng. Ngày 31/01/1990, cơ quan định cư tị nạn liên bang ORR tổ chức một buổi hội thảo về chương trình định cư cựu tù nhân chính trị. Trong bài phát biểu của chủ tịch IRAC, ông nói đến tính chất đặc biệt của chương trình này đối với chính phủ, các tổ chức định cư tị nạn và cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ, phân tích những trở ngại tinh thần và thể chất của những người đã bị hành hạ nhiều năm trong các trại tập trung của cộng sản, do đó họ có những nhu cầu đặc biệt cần được đáp ứng thích hợp. Tất cả cựu tù nhân chính trị phải được coi là tị nạn chứ không phải di dân. Chủ tịch IRAC cũng nhấn mạnh rằng các cựu tù cải tạo từng vượt qua được mọi cực hình và thử thách lớn nhất trong nhà tù cộng sản, nhất là những người trong lớp tuổi từ ngoài 30 đến ngoài 50, chắc chắn sẽ trở thành những phần tử đóng góp cho xã hội Mỹ. Họ chính là “tích sản” (assets) chứ không phải là “tiêu sản” (liabilities) của xứ sở định cư. Ông yêu cầu Chính phủ Hoa Kỳ phải có ngân sách dành riêng cho chương trình định cư tù chính trị vì đây là thành phần thuộc trách nhiệm lớn nhất của chính phủ và là đối tượng quan trọng được thêm vào chương trình ODP hiện hữu.
Vì chính sách thanh lọc (screening) tại các nước tạm dung, nhất là ở Hong Kong, bị nhân viên di trú thi hành khắc nghiệt và có nhiều sai phạm trầm trọng gây hậu quả là những cuộc bạo động và xung đột đổ máu giữa những người tị nạn và lực lượng an ninh của chính phủ. Tiếp theo là một chương trình hồi hương mới có tên là “Hồi hương Trật tự” (Orderly Repatriation Program, ORP) được ký kết giữa Việt Nam-Anh quốc/Hong Kong và Việt Nam-Nam Dương. Chương trình này được Hoa Kỳ đồng ý và UNHCR lặng lẽ thực hiện. Điều đó có nghĩa là một phần quan trọng của Kế hoạch Hành động Toàn diện quốc tế (CPA) thất bại vì tất cả các nước tạm dung đều cương quyết không chịu kéo dài thời gian cho tị nạn tạm trú và tất cả những người bị rớt thanh lọc (screened-out) phải hồi hương bằng cách này hay cách khác nếu không muốn bị trục xuất bằng vũ lực.
1989: Những thuyền nhân vừa đến Hong Kong (Photo by Gerhard Joren/LightRocket via Getty Images) Việt Nam không còn chống đối cưỡng bách hồi hương vì họ thừa biết rằng những người trở về không phải là lực lượng đe dọa sự tồn tại của chế độ, và họ thấy đã đến lúc cần phải hợp tác với Hoa Kỳ và quốc tế để đón nhận các dự án viện trợ, đầu tư kinh doanh và phát triển công nghệ. Hoa Kỳ cũng muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam vì không thể để cho Việt Nam bị lọt vào quỹ đạo Trung Quốc (khi đó mật ước Thành Đô vừa được ký kết). Trong tình thế chờ đợi ấy, Kế hoạch CPA chỉ có thể tránh khỏi sụp đổ nếu tìm được giải pháp thỏa đáng cho vấn đề hồi hương tất cả người tị nạn từ các trại tạm trú.
Để có thể góp phần tích cực vào giải pháp cho vấn đề tị nạn như đã tuyên bố sau chuyến đi thăm các trại tạm trú năm 1987, IRAC nhận rõ vấn đề then chốt phải giải quyết là sự chống đối quyết liệt của những người đủ diều kiện tị nạn nhưng bị loại bỏ trong cuộc thanh lọc. Họ phẫn uất đến độ sẵn sàng đổ máu chống lại những biện pháp cưỡng bách hồi hương của lực lượng an ninh như đã từng xảy ra ở một số trại tại Hong Kong. Như vậy, giải pháp hợp lý, công bằng và khả thi nhất là tập trung việc cứu xét định cư cho thành phần tị nạn bị thanh lọc bất công này. IRAC mệnh danh thành phần này là “khu vực xám” (grey area) và bắt đầu chuyển hướng vận động cho đối tượng này được định cư. Mặt khác, cần có chương trình theo dõi và giúp đỡ những người đã hồi hương có thể trở lại cuộc sống bình thường ở Việt Nam. Chương trình này sẽ giúp cho những người tự biết mình không đủ điều kiện tị nạn có thể được yên tâm và sẵn sàng tham gia chương trình hồi hương tình nguyện hay không chống đối.
Cuộc vận động cho Khu vực Xám bắt đầu từ 1990 qua một chuỗi hoạt động kéo dài tới cuối năm 1995 sau khi được khai triển thành một dự án quy mô có tên là Lộ trình II vào giữa năm 1993 và cuối cùng được cả hai chính phủ Mỹ và Việt Nam chấp thuận thành một chương trình đặc biệt với danh xưng chính thức là “Cơ hội Định cư cho người Việt hồi hương” (Resettlement Opportunity for Vietnamese Returnees, ROVR). Quá trình vận động diễn ra như sau:
Việt Nam Đại học Stanford mời thuyết trình về tình trạng thi hành Kế hoạch quốc tế CPA và giải pháp lâu dài cho vấn đề tị nạn Việt Nam. Đề tài thuyết trình là “Giải pháp Chính trị cho Vấn đề Tị nạn và Triển vọng Bình thường hóa Quan hệ Mỹ-Việt”. Trong dịp này, sáng kiến Khu vực Xám mới chỉ được đề cập sơ lược như một phương cách hữu hiệu để tránh khỏi nạn cưỡng bách hồi hương đang thực hiện ở Hong Kong và các nước Đông Nam Á. “Hội nghị Bàn tròn về Vấn đề Tị Nạn” do Phái bộ Quan sát Thường trực của Tòa Thánh Vatican triệu tập tại trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc, thành phố New York, ngày 9-10 tháng Ba 1993. Chủ tịch IRAC trình bày trước các đại diện quốc tế dự án bốn điểm về Định cư Khu vực Xám,[10] đúng vào thời điểm Hoa Kỳ và Việt Nam đang tiến gần đến bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Cần phải khai thông Kế hoạch CPA bằng cách giải quyết hòa bình vấn đề tạm trú và hồi hương của mấy chục ngàn người đang bị kẹt trong các trại tị nạn. Hội viên khác của InterAction, hai đại diện tổ chức bên ngoài cũng được mời tham gia CPA Task Force là Nguyễn Đình Thắng (BPSOS) và Lê Thị Mỹ Nga (LAVAS). Đặc trách Chương trình Tị nạn (Bureau for Refugee Programs, BRP) tại Bộ Ngoại giao chỉ đồng ý xem xét những trường hợp quá hiển nhiên (egregious cases) căn cứ vào những thông tin và bằng chứng do các nhân viên NGO quốc tế làm việc trong các trại tị nạn cung cấp. Những trường hợp được Bộ Ngoại giao chấp thuận sẽ được chuyển tới UNHCR làm thủ tục xuất trại sang Mỹ định cư. Chỉ sau vài tháng, BPSOS rút ra khỏi CPA Task Force vì TS Nguyễn Đình Thắng không đồng ý với chủ trương định cư Khu Vực Xám. Ban Đặc nhiệm CPA yêu cầu ba thành viên nổi tiếng bảo vệ tị nạn là Shep Lowman, Lionel Rosenblatt và Dan Wolf khai triển sáng kiến định cư Khu Vực Xám thành một dự án quy mô đặt tên là Lộ trình II (Track II, hàm ý Lộ trình I là thanh lọc) để chuyển sang cho Bộ Ngoại giao xem xét chấp thuận. Tại Việt Nam sau khi hồi hương, Việt Nam hoàn toàn chấp thuận chương trình ROVR vào đầu năm 1996. Khi đó hai bên đã có Đại sứ quán, có nhiều chuyện quan trọng hơn cần được giải quyết. Trung bình lên tới 85 phần trăm vì các nhân viên sở di trú Mỹ đều đồng ý đây là chuyến tàu vét cần có thái độ rộng rãi trong việc phỏng vấn các ứng viên xin tị nạn. Theo các con số do Văn phòng đặc trách Tị nạn (BRP) của Bộ Ngoại giao cung cấp, từ giữa năm 1996 đến 19/01/1999, có 14,448 ứng viên ROVR được chấp thuận định cư tại Mỹ. Tổng số chấp thuận vào cuối năm 2000 sẽ tăng thêm mấy ngàn nữa. Tóm lại, chương trình ROVR, bắt đầu từ sáng kiến “Khu vực Xám”, đã khai thông được tình trạng bế tắc của Kế hoạch CPA và giúp quốc tế giải quyết vấn đề tị nạn được thật sự công bằng và nhân đạo. Nếu không bị chống đối ngay từ đầu bởi một số người tranh đấu thiếu hiểu biết và tinh thần trách nhiệm trong cộng đồng người Việt hải ngoại, số ứng viên nộp đơn vào chương trình ROVR và được chấp thuận cho định cư chắc chắn sẽ đông hơn. Những thông tin gửi vào các trại tị nạn gây ảo tưởng được định cư cho tất cả những người bị rớt thanh lọc đã là nguyên nhân của những vụ bạo loạn trong các trại tạm trú giữa người tị nạn với lực lượng an ninh, gây thương vong cho nhiều người ở cả đôi bên. Chỉ đến khi chính phủ Mỹ thông báo về chương trình ROVR và điều kiện nộp đơn thì những người tự biết mình không đủ điều kiện mới tham gia chương trình hồi hương tình nguyện hay không chống đối. Nhiều thiệt hại vô ích đã xảy ra cho các chính phủ và người tị nạn. UNHCR giảm bớt tiền trợ cấp hồi hương từ $360 xuống $240 cho mỗi người làm cho nhiều gia đình hồi hương trễ bị thiệt thòi.
***
Chọn dịp kỷ niệm 30 tháng Tư năm nay để ôn lại vài đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam là việc làm thích hợp vì vừa làm sáng tỏ chính nghĩa của phe “bại trận” vừa cho thấy người tị nạn đã thực hiện được quyết tâm góp phần đáng kể vào giải pháp công bằng và bền vững cho vấn đề tị nạn, đúng như lời tuyên bố của Chủ tịch IRAC trong buổi họp báo tại Thượng viện ngày 1 tháng Ba 1987. Giải pháp công bằng và lâu dài đó cũng chính là giải pháp chính trị, tức là thỏa hiệp bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Giải pháp chính trị này cũng đã được Chủ tịch IRAC nêu lên làm chủ đề của bài nói chuyện ở Đại học Stanford ngày14/9/1990 trong đó manh nha sáng kiến “khu vực xám” như một bước đầu hình thành chương trình ROVR. Hai mươi lăm năm sau, cuộc khủng hoảng tị nạn đã lui vào quá khứ, nhưng quan hệ bình thường giũa hai nước vẫn tồn tại như một thử thách lớn cho Việt Nam khi Hà Nội càng ngày càng lún sâu vào vòng lệ thuộc Bắc Kinh vì đặt lợi ích của Đảng trên lợi ích quốc gia.
Trong thời gian gần đây, khi có những dấu hiệu cho thấy Việt Nam dường như muốn cưỡng lại những hành động lấn chiếm ngang ngược của Trung Cộng tại Biển Đông, thử thách lớn ấy lại hiện ra như một cơ hội không chỉ riêng cho lãnh đạo Đảng CSVN mà cũng cho tất cả mọi người Việt Nam yêu nước ở trong và ngoài nước. Đây cũng là cơ hội thuận lợi nhất cho Việt Nam thoát Trung, gìn giữ được độc lập và toàn vẹn giang sơn của tổ tiên, đồng thời bảo vệ được dòng giống Việt trước nguy cơ Hán hóa. Đại dịch Virus Vũ Hán đã thức tỉnh toàn thể thế giới về mưu đồ hiểm độc của Trung Cộng giành ngôi bá chủ toàn cầu và sẽ hợp lực đánh tan “Giấc Mơ Trung Quốc” của Tập Cận Bình. Lãnh đạo Việt Nam sẽ phạm trọng tội nếu bỏ lỡ cơ hội lịch sử này. Những người viết sử cầu mong sẽ được chứng kiến những hành động có phối hợp, hoặc riêng biệt nhưng đồng quy, từ cả ba phía: chính quyền, trí thức và nhân dân trong nước, và cộng đồng gốc Việt ở nước ngoài. Không ai muốn sẽ phải đánh giá thái độ tiêu cực hay hành động sai lầm của những người có trách nhiệm.
28/4/2020 Lê Xuân Khoa Kỷ niệm đúng ngày này 45 năm trước, tác giả và vợ con lên một trong những chuyến bay “cá hộp” cuối cùng của quân đội Mỹ cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất sang Guam, Philippines, trước khi đến Mỹ. [1] Con số 2,164,000 trừ đi 300,000 mất tích, còn lại 1,864,000 gồm những người tị nạn tới Mỹ và các nước khác tính đến 1995. Theo Wikipedia: Người Mỹ gốc Việt, tổng số người Việt ở Mỹ được ước tính hơn 2,200,000 trong năm 2017. Tổng số này gồm tị nạn, di dân và người sinh tại Mỹ. [2] Lê Xuân Khoa, “Cộng đồng người Việt hải ngoại và Việt Nam ngày nay” tại cuộc hội thảo ngày 2 tháng Ba 1995 kỷ niệm 20 năm chấm dứt chiến tranh do Đại học Columbia và US-Vietnam Forum đồng bảo trợ. Bản gốc tiếng Anh: “The Overseas Vietnamese and Vietnam Today”, in The Bridge, a quarterly publication by IRAC, vol. 11, No. 4 , Winter 1994-1995, pp. 1, 11, 28. [3] Huy Đức, Bên Thắng Cuộc, tập I: “Giải Phóng”, OSINBook, California 2012, trang xiii. [4] IRAC do một nhóm trí thức thiện chí người Mỹ thành lập tại Washington DC năm 1979 nhằm giúp chính phủ hoàn thiện chính sách, chương trình định cư tị nạn và hệ thống điều hành sau khi Mỹ quyết định gia tăng số tị nạn được thâu nhận từ các trại tạm trú Đông Nam Á tại Hội nghị quốc tế Geneva tháng Sáu 1979. Năm 1993, tổ chức IRAC đổi tên là Southeast Asia Resource Action Center (SEARAC) để tránh mang dấu vết thời thuộc địa trong danh xưng French Indochina (tiếng Pháp là Indochine Francaise) tức Đông Dương thuộc Pháp. Tên SEARAC đến nay vẫn được giữ nguyên dù các lãnh đạo mới có sửa đổi mục tiêu của tổ chức, hướng về xây dựng sức mạnh của những cộng đồng người Mỹ gốc Việt, Cam-bốt và Lào tại Hoa Kỳ. [5] Trích từ bài thơ của Emma Lazarus ghi trên bệ bức tượng Nữ Thần Tự Do ở cửa biển thành phố New York: “Give me your tired, your poor, Your huddled masses yearning to breathe free…” (Hãy đem đến cho ta những con người mệt mỏi, nghèo khổ, những đám người co ro đang khao khát được hít thở không khí tự do…) [6] Hearing before the Committee on the Judiciary, U.S. Senate, 97th Congress, September 22, 1981, chaired by Senator Alan K. Simpson, Chairman, Subcommittee on Immigration and Refugee Policy. U.S. Government Printing Office, 90-542 O, Washington 1982. Testimony by Le Xuan Khoa, pp. 249-276. [7] Cần phân biệt hai tổ chức BPSOS khác nhau: BPSOS (Ủy ban Báo nguy Giúp Người Vượt Biển) thành lập năm 1980 do GS Nguyễn Hữu Xương làm Chủ tịch và nhà văn Phan Lạc Tiếp là Giám đốc điều hành, kêu gọi các nước cứu giúp thuyền nhân tị nạn, và từ 1985 hợp tác với các con tàu nhân đạo quốc tế cứu người vượt biển. Năm 1990, BPSOS San Diego ngưng hoạt động vì không còn nước nào cho phép tàu cứu người tị nạn được cặp bến. BPSOS được chuyển sang chi nhánh ở Virginia do nhà văn Trương Anh Thụy làm Chủ tịch và TS Nguyễn Đình Thắng làm Giám đốc. BPSOS Virginia tiếp tục vận động định cư tị nạn tới 1995 thì chủ yếu tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam, bắt đầu có những hoạt động gây tranh cãi về thành tích và quản trị, thậm chí bị kiện cáo trong cộng đồng. [8] Janelle M. Diller: In Search of Asylum: Vietnamese Boat People in Hong Kong, published by IRAC, Washington DC, November 1988. [9] Trên đường đi Geneva dự hội nghị tị nạn 1989, chủ tịch IRAC ghé Paris gặp GS Vũ Quốc Thúc, được ông đưa tới gặp cựu Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam tại Hội nghị Geneva 1954. Ngoại trưởng Đỗ khuyên GS Khoa nên gặp trưởng đoàn CSVN để nói chuyện về giải pháp Việt Nam cho vấn đề tị nạn. Tại Geneva, GS Khoa nhờ phái đoàn Mỹ thu xếp cuộc gặp nhưng Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch từ chối với lý do là ông không muốn gặp đại diện tị nạn “vì họ là những kẻ phản động”. Khi trở về Mỹ, GS Khoa kể lại chuyện này cho TNS Hatfield và cho hay IRAC sẽ mở chiến dịch vận động chống lại việc bang giao Mỹ-Việt. TNS Hatfield viết thư cho Ngoại trưởng Thạch, do đó có buổi gặp gỡ giữa ông Thạch và các đai diện IRAC ở New York ngày 16/10/1990. Chuyện này đã được tác giả Lê Xuân Khoa tường thuật trong mấy bài viết trước đây. [10] Statement by Le Xuan Khoa, in Refugees: A Challenge to Solidarity, Proceedings of the International Round Table on the Question of Refugees sponsored by the Permanent Observer Mission of the Holy See to the United Nations, published by Center for Migration Studies, , New York 1994, pp. 265-267.
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 29, 2020 18:49:20 GMT 9
Hồi tưởng thời tị nạn (kỳ 1)April 28, 2020 Giáo sư NGUYỄN VĂN TUẤN (ÚC) Nếu hỏi một người phương Tây ngày quan trọng trong đời họ là ngày gì thì câu trả lời rất có thể là ngày họ sinh ra, hay đối với vài người là ngày… họ qua đời. Nhưng đối với đa số người Việt Nam lớn lên trước 1975 thì ngày đáng nhớ nhất là 30/4/1975. Đó là cái mốc thời gian mà theo đó tất cả những cơ cấu xã hội đều bị thay đổi vĩnh viễn. Những con người mới xuất hiện, và họ mang theo những thói quen rất lạ lùng, có khi rất rừng rú. Chánh trị xâm nhập vào từng ngôi nhà ngõ hẻm. Chủ nghĩa thần tượng lãnh tụ lên ngôi. Cùng lúc, rất nhiều người bị đày trong các trại tù mang danh ‘Cải tạo’ (mà sau này tôi mới biết là vay mượn từ chế độ Mao bên Tàu). Rất nhiều người tìm đường ra đi để có tự do. Tôi cũng nằm trong cơn lốc lịch sử đó và đã lên một con tàu cá nhỏ rời Việt Nam trong một hành trình có thể nói là vô định.
Hôm nay, ngày 30/4 lại về, và như là một lập trình tự động, tôi lại nhớ về chuyến đi 40 năm trước. Chuyện đã 40 năm, và chắc chắn có nhiều phôi pha, nhưng cứ mỗi lần vào dịp này thì tôi nhớ lại một cách lõm bõm và rời rạc những ngày đầu tiên trên đất tạm dung. Viết ra trước là ghi lại hành trình của mình, sau là hi vọng tìm lại những người bạn tôi đề cập ở đây (nếu họ đọc được) từng ở các trại mà tôi đã tạm cư trên đất Thái Lan.
Phần I. Những ngày ở Thái Lan Đổ bộ làng chài Budi Một ngày giữa tháng 4 năm 1981, một chếc ghe đi sông chở 23 người từ Việt Nam ghé bờ biển Budi ở miền Nam Thái Lan. Budi là một làng chài, giáp ranh giới với Mã Lai. Như vậy, sau ba ngày và ba đêm, chiếc ghe từ Rạch Giá, không có la bàn, đã rong rủi sang tận miền Nam Thái Lan. Phải nói sự sóng sót là một phép lạ. Đó cũng là thời điểm khởi đầu của một hành trình tị nạn của tôi, một cái “mốc” lịch sử không bao giờ phai nhòa trong ký ức.
Khi chúng tôi lên bờ, dân làng ở đây chạy ra xem, nhưng họ không biết làm gì với chúng tôi. Ghe chúng tôi là tốp người Việt đầu tiên đến cái làng chài này. Bất đồng ngôn ngữ, nên chỉ nói bằng ngôn ngữ cơ thể, ánh mắt và nụ cười. Khi ghe chúng tôi cập bờ thì trong ghe vẫn còn nhiều lương thực, nào là cơm khô, đường, muối, mấy thùng nước uống. Chúng tôi không biết làm gì với mấy thứ này, nên cho hết những người dân làng đến nơi. Có người hỏi xin ba cái máy dầu vẫn còn rất tốt, chúng tôi cũng cho luôn. Đã lên bờ tự do thì cần gì mấy thứ này nữa, chúng tôi nghĩ vậy nên hễ ai xin cái gì là cho hết. Nghĩ lại dân tị nạn mà hào phóng ghê! Nhưng chính nhờ nghĩa cử hào phóng đó mà chúng tôi tạo được cảm tình ở người địa phương.
Người địa phương thì đa số vận sarong, rất tiêu biểu ở người miền Nam Thái Lan (giáp ranh Mã Lai). Nhìn qua ánh mắt và lối sống, họ là những người rất hiền lành và chất phác. Không thấy ai lợi dụng chúng tôi. Sau này tôi mới biết đây là vùng biên giới Thái Lan – Mã Lai, rất nhiều người Hồi Giáo ở đây. Dạo đó, tôi không rõ những người mình gặp là Phật Giáo hay Hồi Giáo, nhưng thời đó chúng tôi chẳng quan tâm; điều quan trọng nhất là đến bến bờ tự do, và đó là điều may mắn nhất trên đời. Tôi đoán là họ là tín đồ Hồi Giáo, vì họ không ăn thịt heo. Họ cũng không ăn thịt gà chết, dù con gà mới chết có vài phút! Do đó, mỗi khi có gà chết là họ đem đến cho chúng tôi. Thành ra, tuy là dân tị nạn, nhưng thỉnh thoảng cũng có những bữa ăn thịnh soạn!
An cư trong… nhà để xe Sau khi cho đồ trên ghe, có người chạy đi báo cho cảnh sát. Khoảng vài phút sau thì một viên cảnh sát lái xe “pick-up” đến nơi. Anh cảnh sát này biết chút tiếng Anh, tuy không tốt mấy, nhưng đủ để biết chúng tôi là người Việt Nam. Anh ta gọi điện thoại một hồi thì thấy thêm vài chiếc xe pick-up khác đến cùng khoảng năm viên cảnh sát. Họ bàn với nhau một lúc, rồi bảo chúng tôi tạm ở đây. Họ chỉ chúng tôi đến một cái nền xi măng trống và cũ kỹ, nguyên là nơi để xe hơi, và cứ ở đó trong khi họ tìm cách… “xử lý” chúng tôi. Chúng tôi hè nhau gánh nước biển lên và lau sạch cái sân xi măng. Sau một giờ thì chúng tôi có cái sân rất oách để ngã lưng trong thời gian tới.
Khi đã tạm “an cư” sau chuyến hải hành, chúng tôi lăn ra ngủ, chẳng cần ý tứ gì cả, trước những cái nhìn ngạc nhiên của dân địa phương. Buổi chiều, dân địa phương thấy thương tình nên họ đem cơm và thức ăn cho ăn. Một số thì đem gạo và nước mắm cùng mấy cái nồi cũ để nấu ăn. Sau 3-4 ngày đêm trên biển, đây là lần đầu chúng tôi có một bữa ăn đúng nghĩa. Ăn tập thể. Vừa vui, vừa ngon. Còn dân làng thì ngồi chung quanh nhìn chúng tôi ăn và mỉm cười hiền lành. Tôi đoán chắc họ cũng vui khi giúp được chút ít cho chúng tôi.
Và những dân làng hiền hậu Đêm đầu tiên ở cái làng chài thì quả là một kinh nghiệm buồn cười. Đám thanh niên trong làng và (chắc cả các làng lân cận) kéo đến khá đông để… nhìn. Họ chẳng làm gì cả, chỉ ngồi chồm hỗm, hút thuốc lá, cười cười nhìn chúng tôi đang co cụm trong cái sân xi măng. Chúng tôi, người thì nằm, kẻ ngồi, người hút thuốc lá tán dóc. Đêm đến, chỉ còn một số ở lại, vẫn hút thuốc lá và nhìn. Đám đàn ông thanh niên chúng tôi cảm thấy hơi bất an nên bàn với nhau cách tự tự vệ. Trong chuyến đi, có vài người từng là sĩ quan quân lực VNCH, một số là dân chài, một số là thư sinh như tôi. Dưới sự chỉ huy của các sĩ quan, chúng tôi chia nhau ngồi quanh như là canh gác “lãnh địa” tị nạn và bí mật có sẵn “đồ chơi” để khi có biến động là đối phó ngay. Đêm xuống, dân làng cho mùng để ngủ, đám thanh niên đàn ông chúng tôi ngủ ở bìa ngoài, còn các bà và phụ nữ ngủ phía trong. Chúng tôi có một đêm ngủ đầu tiên trên đất tự do, sóng biển rì rào, trời thoáng, gió mát, chẳng mấy chút ai cũng chìm vào giấc ngủ.
Đến gần nửa đêm, tôi cảm nhận hình như có bàn tay sờ nhằm chân tôi. Tôi vẫn còn tỉnh thức, nên giả bộ ngủ xem bàn tay này làm gì. Đang chuẩn bị đối phó thì bên kia các anh thanh niên la lớn lên là “Có cướp”, và thế là tôi nắm lấy tay của kẻ đang sờ soạng. Thế là chúng tôi tóm cổ họ một cách dễ dàng. Nhìn kỹ thì toàn là những thanh niên hồi chiều hút thuốc ngồi chồm hỗm nhìn chúng tôi. Hình như họ muốn sờ mó mấy cô mấy bà, nhưng họ không ngờ rằng chúng tôi đã có chiến lược bảo vệ. Bắt được họ, chúng tôi chẳng biết làm gì, còn họ thì vẫn cười hề hề. Anh sĩ quan trưởng nhóm đánh giá rằng nhìn đám thanh niên này cũng hiền lành, nên thôi cho chúng đi. Hình như dân làng ở đây lần đầu tiên thấy người nước ngoài nên họ rất tò mò.
Những người đồng hương mới tới… Chúng tôi ở đó được chừng một tuần thì một chiếc tàu (lần này là “tàu” đánh cá) cũng từ Việt Nam ghé Budi. Tàu này chỉ có khoảng 10 thanh niên (tôi không nhớ con số chính xác), nghe nói họ làm cho một hợp tác xã đánh cá và sẵn dịp lấy tàu trốn khỏi Việt Nam. Nhóm này cũng đi từ Rạch Giá, nhưng xuất phát từ U Minh. Họ nghèo rớt mồng tơi, gần như không có một tài sản nào cả. Nhóm thanh niên này rất giỏi đi biển, nên có thêm họ trong nhóm chúng tôi thấy như có thêm “lực lượng võ trang” để có gì thì ứng phó tốt hơn.
Vài ngày sau, lại thêm một chiếc tàu khác ghé Budi. Tàu này lớn hơn, chở hơn 40 người đi từ Cà Mau. Tàu này “giàu” hơn hẳn hai tàu trước, dù đã bị cướp biển hai lần. Hành trình của họ khá gian nan, phải gần một tuần lễ mới tới Budi. Trong chiếc tàu mới này có cả con nít và nhiều “thành phần kinh tế” hơn. Trong đó, có một chú mà tôi quen gọi là “Chú Ba Trung Tá” đầu bạc trắng, sau này quen thân với tôi. Gọi “Chú Ba Trung Tá” là vì chú là một cựu phi công cấp bậc trung tá, sau 1975 đi tù cải tạo vài năm, được thả ra và chú tìm đường vượt biên. Chú là người gốc Bình Định, cũng nghèo xơ xác như tôi (chỉ có cái quần đùi và áo sơ mi), và chú hay nói chuyện tiếu lâm rất vui. Chú từng học ở Mỹ nên rất giỏi tiếng Anh, và chú trở thành thông dịch viên cho tất cả ba nhóm thuyền nhân.
Ngoài Chú Ba Trung Tá, nhóm còn có một nhân vật đặc biệt gọi là “Anh Ba Hà Nội”. Anh Ba là một ký giả (hình như là đài Tiếng Nói Việt Nam) từ Hà Nội vào Nam công tác. Anh có quen với một chị từng là chiêu đãi viên của Hãng Hàng Không Việt Nam trước 1975, và sau này hai người thành hôn (mãi đến sau này chị mới biết anh đã có vợ ngoài Bắc). Tuy làm việc cho chế độ nhưng anh chẳng ưa chế độ, nên nhân dịp vào Nam, anh cùng với chị bỏ đi vượt biên theo nhóm 23 người chúng tôi. Phải lên bờ Thái Lan người ta mới biết anh là “cộng sản”, và những thuyền nhân thông cảm cho anh, ai cũng cố gắng bảo vệ anh, vì cái lý lịch cộng sản đó có thể làm anh bỏ mạng như chơi.
Kể ra thì cũng hay, một người VNCH cùng với một anh ký giả “cộng sản” tôi đều kết bạn thân. Chuyện anh Ba Hà Nội có một kết cục buồn. Sau khi anh và chị được đi định cư ở Úc khoảng hơn 20 năm thì anh mất tích, gia đình nghĩ và xem như anh đã qua đời ở đâu đó, và chúng tôi mất một người bạn mà đến giờ nhắc đến anh ai cũng tiếc.
Hòa mình vào dân làng Budi là một làng chài tiêu biểu ở Đông Nam Á, rất thơ mộng và an bình. Những hàng dừa cao vút làm bóng mát cho cả làng. Những cây dừa rất cao và thẳng. Nhìn mấy hàng dừa này tôi tự hỏi làm sao có thể leo lên để hái được. Nhưng vài ngày sau thì tôi biết, vì họ dùng khỉ để hái dừa. Những con khỉ nhỏ xíu, được mặc áo đàng hoàng, thừa lệnh của chủ, chúng thoăn thoắt leo lên cây dừa và hái dừa quăng xuống cát. Nhìn mấy con khỉ hái dừa tôi thán phục cái tài thuần hóa của người dân địa phương.
Cái làng này dù ở rất xa thành phố nhưng đã giàu có hơn Việt Nam rất nhiều. Nhà dân ở chủ yếu là nhà sàn. Nhà nào cũng có xe hơi, thường là xe pick-up Toyota. Trên bờ thì đường lộ thẳng băng và xe hơi nhiều hơn xe gắn máy. Dân làng dĩ nhiên làm nghề biển. Những chiếc ghe nho nhỏ, giống như ghe ở Kiên Giang, tối đi câu mực hay đánh cá, sáng cặp bến và đàn bà con gái ra gỡ lưới. Cuộc sống của họ phụ thuộc vào biển, và chỉ xoay quanh cái làng chài thơ mộng đó.
Chúng tôi cũng hòa mình vào cuộc sống rất êm đềm của dân làng dù không biết mình sẽ còn ở đây bao lâu. Đàn bà, con gái thì ở nhà, còn đám đàn ông thanh niên chúng tôi thì sáng nào cũng đi tìm việc làm để đem thực phẩm. Cách phân chia công việc có vẻ giống như thời… Trung Cổ. Thật ra, nhóm phụ nữ cũng không ở không đâu, vì các cô cũng có người tìm được việc làm. Mỗi sáng ra bờ biển giúp bốc dỡ cá tôm cho các ghe đánh cá cập biến. Họ thường được cho cá tôm và nước nắm như là trả công.
Riêng tôi tìm được một việc làm khá ổn định, đó là đi câu mực với một ông chủ. Gia đình ông chủ có cái nhà sàn cách chỗ chúng tôi ở chỉ vài phút đi bộ. Chiều chiều tôi lên cái ghe nhỏ của ông ra biển đánh cá, và chủ yếu là câu mực. Nhớ ngày đầu, tôi được đàn anh cảnh cáo là coi chừng nó kêu mày ra biển và giết mày đó, mày phải chuẩn bị. Tôi hỏi chuẩn bị sao đây. Các đàn anh bày ra rằng, lúc nào cũng ngồi xa ông chủ, và gần nơi có “vũ khí” (cây, thanh gỗ, dao, v.v.) để khi có chuyện là “chiến đấu” và nhảy xuống biển lội thoát.
Tôi làm y chang như lời khuyên, nhưng sau vài đêm chẳng có chuyện gì xảy ra, và ông chủ thì quá tốt với tôi, nên tôi nghĩ những cảnh giác đó là quá đáng. Ông chủ thấy tôi không có quần áo tốt, nên một hôm ông cho tôi cái áo thun rất oách và cái quần short để thay đổi hàng ngày. Những kỷ vật đó tôi vẫn còn giữa mãi đến 20 năm sau, nhưng một lần chuyển nhà, nó bị mấy đứa con cho vào thùng rác. Tiếc ơi là tiếc, vì mất đi một kỷ vật.
Một hôm, nhân dịp không đi làm biển tôi theo đám đàn ông đi làm thuê cho một ông chủ ở cách đó vài chục cây số. Công việc của chúng tôi nghe nói là chỉ đi chặt lá dừa. Người đến thuê nói sẽ trả giá rất tốt, tính ra mua được cả giạ gạo và cả thùng nước mắm! Thế là 10 người chúng tôi lên ba xe pick-up chở đến một cái vườn um tùm và rất rộng. Chúng tôi hăm hở cầm dao mác đi chặt lá dừa. Vài phút đầu thì chẳng có gì xảy ra, nhưng đi sâu vào trong thì ôi thôi đụng phải ổ kiến vàng, bị cắn quá chừng. Không thể bỏ việc, vì đã nhận hợp đồng rồi, nên anh em an ủi nhau cố gắng làm cho xong việc. Đến gần chiều thì chúng tôi cũng phát quang xong cho ông bà chủ. Tiền bạc thì rất sòng phẳng, ông bà chủ cám ơn rối rít, và mời ở lại ăn cơm chiều, làm vài li “Mai Kỏn”, loại rượi đế của Thái Lan, và sau này tôi mới viết Mai Kỏn có nghĩa là Mê Kong. Lần đầu tiên lên bờ Thái Lan và được uống rượu đế. Nhưng rượu nặng quá, nên chỉ làm được một chút là… chạy làng. Chiều về thấy da ai nấy cũng bị sưng vù lên. Mọi người nói, mẹ kiếp, mắc mưu thằng Thái trung gian, lần sau sẽ không chơi với bọn này nữa.
Những ngày ở Budi, chúng tôi sống cuộc sống có thể nói là nhàn hạ, và với những kỷ niệm như thế. Có những người đi làm phụ hồ ở xa, và cũng được trả lương đàng hoàng. Phải có dịp đi ra ngoài làng mới thấy lúc đó Thái Lan đã giàu có và phát triển hơn Việt Nam rất xa. Làng xa tít mà cũng có đường trán nhựa chạy bon bon. Nhà nào cũng có xe hơi, còn xe Honda chỉ để đi chơi là chính. Mấy bà thì nhận xét rằng ngay cả chai nước mắm hay cái bao ni lông của họ cũng đẹp và sạch sẽ hơn Việt Nam mình. Xin nói thêm rằng thời đó Việt Nam thậm chí còn chưa làm nổi bao ni lông! Nhìn cảnh đó, anh em chúng tôi ai cũng lắc đầu cho Việt Nam, không biết bao giờ mới đuổi kịp Thái Lan.
Nhưng quan trọng hơn hết là cuộc sống tự do. Ít thấy bóng dáng cảnh sát. Chẳng ai làm phiền hà mình. Trưa nào, chúng tôi cũng tụ tập bên nhau nói chuyện, và bàn về tương lai. Chú Ba Trung Tá và anh Ba Hà Nội hai người có nhiều chuyện để kể, kèm theo những bình luận sâu sắc. Chú Ba Trung Tá kể chuyện chú đi tù ra sao, chuyện các quản giáo miền Bắc dốt như thế nào, chuyện cười ra nước mắt trong trại cải tạo. Chú còn kể chuyện vào tù cải tạo gặp toàn những “who is who” của miền Nam trước đó như Nhà văn Duyên Anh, Nguyễn Mạnh Côn, Hồ Hữu Tường, v.v. Chú kể rằng trong chuyến xe lửa chở tù miền Nam ra Bắc, khi xe ra đến Bắc (không nhớ vùng nào) cả đoàn tàu bị dân ném đá. Mấy người lính canh tù nói “Các anh thấy chưa, tội ác của các anh là trời không tha, đất không dung, dân chúng ghét. Nếu không có chúng tôi bảo vệ thì các anh đã chết rồi.” Dĩ nhiên, đoàn tù thì thừa hiểu màn ném đá là một màn kịch có bài bản. Đến khi xuống xe để vào trại thì người ta phát hiện có người tù chết trong xe vì ngộp thở. Những chuyện chú kể là cả một trời kinh nghiệm và chứng từ của một thời đau khổ. Chú kể chuyện như chơi, không thấy bất cứ một thù hằn nào trong lời nói, chỉ toàn là tếu tếu.
Còn anh Ba Hà Nội thì ngược lại, anh kể chuyện ngoài Bắc. Anh Ba Hà Nội không biết tiếng Anh, nhưng biết chút tiếng Pháp. Anh là người rất vui tính, ăn nói lưu loát (dân ký giả mà), biết rất nhiều câu chuyện về các vị cầm quyền chóp bu ngoài Bắc. Ngay từ thời đó, anh đã cho biết ông Hồ có vợ mà chẳng ai tin anh! Anh cũng có đề cập đến cái chết của Nông Thị Xuân, nhưng lúc đó ai cũng nghĩ anh ta xạo, chẳng ai tin. Nhưng sau này tôi đọc qua hồi ký của Bùi Tín, Vũ Thư Hiên mới thấy những câu chuyện của anh kể rất ăn khớp. Hóa ra, những gì ông Bùi Tín và Vũ Thư Hiên viết không phải là mới đối với giới trí thức Hà Nội. Thỉnh thoảng chú Ba Trung Tá quay sang anh Ba Hà Nội nói như nửa đùa nửa thật “Thằng này nó là Việt cộng Bắc Việt, nhưng nó nói tao nghe rất được.”
Một hôm, nhân dịp làm thủ tục tị nạn, nhân viên của Liên Hiệp Quốc về phỏng vấn và mỗi chúng tôi phải điền form màu xanh. Form đòi những thông tin cá nhân, thông tin về cha mẹ, và lý do rời Việt Nam. Đa số những người tị nạn không biết tiếng Anh, chỉ có chú Ba Trung Tá là người duy nhất thành thạo tiếng Anh và có thể giải thích những ô chữ trong cái form phức tạp đó. Thế là chú nghiễm nhiên trở thành trưởng nhóm, và ngồi bên cạnh các nhân viên LHQ để thông dịch. Chú mặc quần short, lúc thì ở trần, lúc thì chỉ khoác cái áo thun đã phai màu, tay cầm thuốc lá phì phèo, nghe người khai thông tin và dịch lại cho nhân viên LHQ. Chú ít khi nào nhìn xem họ viết có đúng không, mà chỉ nói như… sếp ra lệnh.
Lúc đó, nhìn phong cách của chú Ba Trung Tá tôi phục chú sát đất. Chú nói tiếng Anh rất tự nhiên, và với thái độ tự tin đến… trịch thượng. Tôi nhớ hoài một hôm chú làm phiên dịch cho một quan chức Thái Lan, và ông quan chức này khen chú nói tiếng Anh giỏi; chú quay sang chúng tôi rồi tươi cười nói lại: “Tao nói tiếng Anh giọng nước mắm, vậy mà thằng mọi này nó nói tao nói tiếng Anh giỏi!”
Nhớ hoài chữ “mọi” mà ngày xưa thầy cô bên Việt Nam đã gieo vào tôi. Thời đó, Việt Nam xem các nước bên cạnh như Thái Lan, Mã Lai, Lào, Cambodge v.v. là… “mọi”. Ý xem thường người ta là kém văn minh. Nay lại nghe chú Ba Trung Tá dùng chữ đó. Tôi nghĩ thầm trong bụng, nói người ta là “mọi” nhưng sao người ta sang hơn mình quá, giàu hơn mình cả mấy chục năm, và lịch sự với mình nữa. Ấy vậy mà người Việt lại tự cao tự đại. Là người tạm dung trên đất nước người ta, nhưng chú Ba xem quan chức địa phương chẳng ra gì, dù không thể hiện ra thái độ, chỉ thể hiện qua cách nói tiếng Anh.
Một hôm khác, chú Ba nhận được thư của đứa con trai ở bên Mỹ gửi, kèm theo ít tiền. Chú mở thư ra và thấy có hình anh chàng kia đang cầm điện thoại nghe. Chúng tôi thì thấy bức hình sang trọng quá, và cái điện thoại rất oách. Nhưng chú Ba đọc thư xong, cầm tấm hình lên và nói “Thằng này nó khoe! Ở bên đó cầu tiêu còn có điện thoại, có gì mà khoe. Chắc nó tưởng tao ngu lắm.” Tụi tôi há hốc ra nghe và ngạc nhiên. Trời ơi! Điện thoại mà có trong cầu tiêu, chú Ba này nói quá! Nhưng nhìn qua phong cách, chú đúng là có phong cách của người lãnh đạo, tự tin, nhưng lại bình dị đến lạ thường.
Hôm nay, viết những dòng này, tôi đoán chú Ba Trung Tá cũng đã trên 80 tuổi (nếu chú còn sống). Sau này chú đi định cư ở Mỹ, và tôi mất liên lạc với chú. Nhưng hình ảnh của chú trong tôi là cái type của một sĩ quan VNCH có học thức, vui tính, và rất nam kì tính. Còn anh Ba Hà Nội của tôi cũng có thể đã ra người thiên cổ. Trong nhóm 23 người trên chiếc ghe năm 1981, nay đã có vài người qua đời, số còn lại bên Mỹ và Úc đều có cuộc sống ổn định. Những người bạn trong hai chiếc tàu kia thì gần như mất liên lạc, dù biết đa số họ định cư bên Mỹ.
Một góc trong trại tị nạn Songkhla (internet) Trại tị nạn Songkhla Ở Budi độ hai tuần thì chúng tôi được lệnh chuyển trại. Budi chỉ là nới tạm trú để làm thủ tục, phải đến một trại có đủ ban bệ để các nhà chức trách đánh giá và xác định tư cách tị nạn. Thế là những ngày êm đềm nhất trong đời tị nạn rồi cũng qua đi, và đến ngày chia tay. Cuộc chia tay nào cũng buồn, và chia tay Budi cũng không phải là ngoại lệ. Sau hai tuần ở cái làng chài êm đềm này, đã quen biết khá nhiều người tử tế, ai cũng cảm thấy lòng mình chùng xuống khi bước lên xe bus để rời làng. Ngày ra đi có vài người trong làng đến vẫy tay tiễn đưa. Nhìn những cánh tay vẫy vẫy và những nụ cười hiền lành mà mình cảm động vô biên. Hoá ra, ở đây tình người có khi còn nặng hơn cả bên quê hương mình.
Tất cả đều lên hai chiếc xe bus lớn rời Budi. Phải mất một ngày đường, mới đến trại mới rất nổi tiếng trong người tị nạn. Trại tên là Songkhla. Songkhla là một tỉnh thuộc miền Nam Thái Lan (Songkhla là tên của một hoàng tử Thái Lan). Trại tị nạn Songkhla là một trại khá lớn, lúc tôi đến đó thì đã có hơn 5,000 người trong trại. Nghe nói trong lúc cao điểm trại này có đến 10,000 người tị nạn. Trại nằm dọc theo bờ biển, rất đẹp mắt. Phía trước là biển, phía sau là một dãy núi, và dĩ nhiên là xung quanh được rào bằng kẻm gai. Nếu tôi nhớ không lầm, chiều ngang của trại chỉ khoảng 50-80 mét, chiều dài thì đi bộ chỉ 15 phút là hết. Người tị nạn không được ra ngoài trại nếu không được phép.
Người tị nạn ở trong những cái chòi tạm thời (do những người trước đây dựng lên) ngay bên bờ biển. Tôi cũng có một cái chòi, và phải “share” với những người độc thân khác. Từ Budi lên đây thì nhóm đã bắt đầu chia ra thành từng nhóm nhỏ và hoà mình vào trại lớn hơn. Có người tìm gặp thân nhân đã qua trước nên họ về ở chung, còn những người “con bà phước” thì tụ tập với nhau thành từng nhóm nhỏ và xoay xở qua ngày.
Ngày đầu tiên nhập trại Songkhla, tôi tưởng mình lạc vào một thành phố ở Việt Nam. Người ở đâu mà đông đúc ghê, mật độ dân số ở đây chắc phải cao nhất nhì thế giới! Nhìn qua cách ăn mặc, thấy người nghèo nhiều hơn người giàu, và điều này cũng dễ hiểu. Đại đa số người nhập trại là đã bị cướp bóc trên biển, nên họ chẳng còn gì. Tuy nhiên, cũng có nhiều chuyến may mắn, nên bà con còn giữ vàng và tiền đến đây. Lại có một nhóm khác ở đây khá lâu (trên 6 tháng) và được thân nhân nước ngoài tài trợ, nên họ cũng có cuộc sống khá đầy đủ. Có người còn tiền hay mới có tiền mở hàng quán ngay trong trại. Đủ loại quán, nhưng quán ăn và quán nhạc là phổ biến nhất. Nhìn từ xa có thể thấy một khu rất trù phú và tấp nập, và quả thật là như thế.
Hai bên đường chật hẹp là hàng quán bán cơm, phở, hủ tiếu, cà phê, mọc lên đầy rẫy. Những hàng quán này làm ăn rất khá, vì ở trong trại đâu có việc gì làm, nên người ta thả hồn theo khói thuốc và cà phê. Có nhiều khách hàng là những chàng trai mặt mũi rất “ngầu”, tóc dài chấm vai (nom y như những người đóng vai du côn trong các phim xã hội đen) phì phèo những điếu thuốc lá “Samit” hay “555” bên ly cà phê đen. Phía trong quán thì ồn ào đài loa với những bản nhạc vàng ảo não, nhạc rock xập xình, nhạc nhà binh hùng tráng, nhạc chống cộng, v.v. được phát thanh với một âm lượng tối đa, làm đinh tai nhức óc những ai không may mắn phải đứng trước những cặp loa này. Trên đường lộ dập dìu tài tử giai nhân son phấn lòe loẹt, vàng đeo lóng lánh, trong những bộ quần áo thời trang Âu Mỹ đắt tiền đi “dạo phố” như trẩy hội! Thành ra, nói là trại tị nạn, nhưng lại là một xã hội Việt Nam thu nhỏ.
Vốn được chuyển lên đây từ một vùng quê, tôi cảm thấy mình vừa quê mùa vừa bơ vơ lạc lõng như một thành phần “outcast” trong xã hội tị nạn này. Quả thế, vì từ lúc lên bờ cho đến khi đi chuyển trại, tài sản duy nhất mà tôi có là hai cái quần short và hai cái áo ngắn tay do một ông chủ ở Budi tặng cho. Nhiều khi đi qua các hàng quán, thỉnh thoảng nghe một đoạn nhạc của Nguyệt Ánh và Việt Dũng mà buồn mà buồn vời vợi… Lúc đó, ai cũng nghĩ một lần đi là vĩnh biệt, không bao giờ về Việt Nam nữa. Do đó, những sáng tác nhạc thời đó rất ray rức.
Nắng nơi đây vẫn là nắng ấm Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương
hay
Đến bao giờ trở về Việt Nam Thăm đồng lúa vàng, thăm con đò ven sông
Những lời ca đậm chất thơ và miên viễn đó theo tôi tận đến ngày hôm nay.
Nhưng những cảnh phồn vinh náo nhiệt kia chẳng khác gì những lớp phấn son được sơn trét lên mặt những cô gái một cách vội vã để cố tình xóa lấp đi những nỗi ám ảnh của một quá khứ quá khủng khiếp. Thực vậy, lên đến Songkhla và có dịp nghe những câu chuyện thương tâm khác của đồng hương, tôi mới thấy chuyến đi của mình còn may mắn chán. Tôi nghe nhiều câu chuyện về cướp biển vô cùng khủng khiếp, mà chữ nghĩa có khi không tả hết được những tang thương người Việt Nam mình đã gánh chịu. Có nhiều trường hợp cả tàu bị thảm sát trên biển cả. Có trường hợp bọn cướp biển làm nhục phụ nữ ngay trước mặt người thân. Có người bị bệnh tâm thần khi lên đến trại này. Tôi đã từng thấy những người rách rưới đi lang thang trại, miệng lằm bằm nói gì chẳng ai hiểu, rồi thỉnh thoảng cười rú lên hay khóc thảm thiết. Nhìn những người đó tôi dù chưa biết sự việc đằng sau nhưng đã thấy đau quặn lòng. Thành ra, không phải ngẫu nhiên mà Du Tử Lê muốn mang xác mình ra biển khi qua đời:
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển Nước ngược dòng sẽ đẩy xác tôi đi Bên kia biển là quê hương tôi đó Rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì … Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển Đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi Những năm trước bao người ngon miệng cá Thì sá gì thêm một xác cong queo. … Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển Và trên đường hãy nhớ hát quốc ca Ôi lâu quá không còn ai hát nữa (bài hát giờ cũng như một hồn ma) Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết Đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.
Một VNCH thu nhỏ và oán thù Trại Songkhla là một nước VNCH thu nhỏ. Trại có ban quản lý, do người Thái đảm trách, với sự hỗ trợ và cố vấn của người Việt tị nạn. Những người cố vấn thường là sĩ quan hay quan chức cấp cao trong chế độ VNCH trước đây. Nếu ngày xưa VNCH có tổng thống thì trại Songkhla có trưởng trại; ngày xưa có Bộ Nội vụ thì ngày nay có “Ban Trật tự”; Bộ Thông tin Văn hóa nay được được “đổi tên” thành “Ban Thông tin Văn hóa”; các anh quân nhân, sĩ quan VNCH ngày xưa nay trở thành “cựu quân nhân”, có người còn tự cho mình lên chức (xưa là trung úy nay thành đại úy!) Ngày xưa VNCH có hối lộ và tham nhũng, thì ngày nay ngay trong trại tị nạn, cũng có tham ô và hối lộ. Có khi cường độ tham nhũng còn trắng trợn hơn.
Bất cứ ai, kể cả tôi (dĩ nhiên), đều có thể thấy những hành vi tham nhũng trong trại tị nạn. Theo qui chế của Cao Ủy Tị Nạn, chúng tôi, những người mới nhập trại được cấp cho một cái áo thun, một cái quần, và vài lít gạo để sống. Nhưng nhóm Budi của chúng tôi chẳng được một món nào. Biết được thằng em họ nhập trại trước tôi đang làm trong ban phân phát hàng hóa, tôi hỏi nó tại sao tôi không được phát gì cả. Thằng em họ của tôi ôm bụng cười ha hả như chưa bao giờ vui hơn, và nói đại ý là “Ở đây, bọn nó bán hết rồi, anh làm gì có được mấy thứ đó! Anh có tiền thì mới mua được.” Tôi càng ngao ngán hơn và nghĩ chả lẽ mình phải chết đói ở đây. Nhưng thằng em tôi chạy đi đâu một lúc và mang về ba lít gạo cho anh em tôi đủ sống ít ngày.
Ban Bưu Tín cũng là một trung tâm khét tiếng ăn chận và ăn cắp tiền bạc của người tị nạn. Có nhiều thư từ và tiền bạc từ nước ngoài chẳng bao giờ tới tay thân nhân trong trại. Tôi cũng là một nạn nhân của ban Bưu Tín này. Và, nếu có tới người thân thì cũng bị cắt xén, ăn chận. Trong khi các Ban có cơ hội ăn hối lộ, ăn chận đồng hương thì cũng có ban chuyên hành hạ đồng hương.
Ban Trật Tự ở trại đáng lý ra gìn giữ trật tự thì họ lại kiêm luôn việc lạm dụng quyền và có khi khủng bố đồng hương. Họ đánh người một cách chuyên nghiệp, không nương tay, và vô cùng tàn nhẫn. Không biết bao nhiêu người tị nạn vô tội đã là nạn nhân của nhóm người ác độc này. Tuy cùng cảnh ngộ tị nạn, nhưng những người có quyền chức trong trại tị nạn không hẳn là thân thiện với những người kém may mắn hơn. Bị người ngoại bang sát hại đã là một sự nhục nhã, nhưng bị chính người tị nạn hành hạ lại còn đau lòng hơn. Songkhla là nơi mà tôi đã chứng kiến những hành động xấu xa và dã man của những người Việt đối với người Việt. Tôi nhủ thầm một ngày nào đó, tôi sẽ viết một cuốn sách và sẽ lấy tên là “Người Việt Nam Xấu Xa” cho cân xứng với cuốn “Người Việt Cao Quí”.
Ngày đầu vào trại, ngoài nhóm của chúng tôi đến từ Budi, còn có nhiều nhóm tị nạn từ các nơi xa xôi khác được chuyển về bằng xe bus. Từ ngoài cổng, chúng tôi đi vào vào trại chầm chậm theo hàng hai. Hai bên đường có đầy đồng hương đứng xem và ồn ào như một cái chợ. Người thì dán mắt tìm xem có thân nhân, bà con của mình mới sang không; người thì dò xét, nhận diện xem có kẻ thù năm xửa năm xưa nào đến trại hay không. Người có thân nhân thì nước mắt dàn dụa tay bắt mặt mừng. Người tìm được kẻ thù thì trở thành một kẻ hung bạo, tàn ác. Hôm tôi nhập trại, có một anh thanh niên nọ bị tố cáo là “cộng sản”, anh ta bị lôi kéo ra khỏi hàng, và bị đánh ngay trên đường vào trại, trước sự mục kích của người đứng hai bên đường. Thấy không ai can ngăn và vì không chịu được cảnh tượng như thế, tôi bước ra hàng định cản, nhưng một trong ba người đang hành hung dí ngón tay vào trán tôi gằn từng tiếng (mà tôi nhớ y như ngày hôm qua): “ĐM, muốn gì? Mày cũng là cộng sản hả?”. Tôi cũng sẵn sàng “chơi”, nhưng anh tôi lôi ra ngoài. Nếu không thì chắc chắc tôi cũng bị đánh tơi bời ngày hôm đó. Anh thanh niên đó bị đánh đến nổi không còn đi được, chở vào nhà thương điều trị, và nghe nói sau này anh bị tật. Đó là lần đầu tiên tôi mục kích cảnh người đánh người tàn bạo, không thương tiếc như thế.
Sau cú sốc đó, tôi lại bị một cú sốc khác lớn hơn. Sau khi nhập trại, chúng tôi bị dẫn độ vào một hội trường có nhân viên của Ban Trật Tự người Việt canh giữ chung quanh. Họ đóng cửa chính lại, nhưng phía ngoài cửa sổ thì có đầy người đứng xem. Mục đích của buổi họp này là nhằm phổ biến về nội qui sinh hoạt trong trại, nhưng thực tế thì lại là một cuộc thăm dò tìm kẻ thù, một trò khủng bố tinh thần. Người trên bục giảng là một ông chức sắc trong ban quản trị của trại và cũng là cựu quân nhân; bằng một giọng nói Bắc kỳ nghiêm trọng và vẻ mặt đằng đằng sát khí, ông ta yêu cầu chúng tôi phải khai báo thành khẩn là đã làm việc gì với chế độ cộng sản. Bắt chước một kỹ thuật đe dọa của công an, ông ta nói thêm rằng nếu không khai thì tình báo của ông ta cũng biết thôi, nhưng khai thì sẽ được khoan hồng. Tôi rất ngạc nhiên về thủ tục này, vì nghĩ là tất cả lời khai của mình đều đã được nhân viên Cao Ủy Tị Nạn LHQ ghi chép ở Budi; thế thì cuộc khai báo này là khai với ai? Tuy nhiên, tôi nghĩ vì từng làm việc dưới chế độ mới một thời gian, nên cũng định khai báo cho rõ ràng…
Nhưng hôm đó, may mắn cho tôi: một người em họ nhập trại trước tôi vài tháng đang đứng bên cạnh cửa sổ và đưa tay làm dấu hiệu cho tôi biết là đừng khai. Anh Ba Hà Nội ngồi cạnh tôi và có lẽ có kinh nghiệm hơn tôi về những trò này, cũng khuyên tôi là cứ lờ đi cái “lý lịch dính líu cộng sản” đó. Tôi và anh Ba Hà Nội thoát nạn. Nhưng không may mắn cho những người khác, trong đó có hai anh bạn của tôi, T và S trong tàu “Thủy Sản” từ Budi lên, những người đã thành thật khai báo là có làm việc sau 1975 như là tài công và thủy thủ. Hai anh này liền được “mời” lên Ban Trật Tự “làm việc”. Cả hai bị đánh nhừ tử. Mặt hai anh này bị sưng húp lên, mắt thì bầm, nhưng ánh mắt đầy vẻ hận thù. Tối hôm đó, tôi nằm ngủ bên cạnh hai anh phía ngoài căn chòi bên cái giếng nước, nghe anh T thề rằng sẽ có ngày trả thù bọn người mà anh ta cho là “lũ chó đẻ”.
Sự đời có vay thì có trả. T và S sau này được định cư ở Mỹ. Hai người vẫn giữ liên lạc với tôi một thời gian. Một hôm tôi nhận được thư của họ hân hoan báo cho tôi biết là họ đã trả thù những kẻ đánh họ trong trại tị nạn ngay tại phi trường. Số là họ nắm được thông tin về ngày giờ và nơi đáp máy bay mà những người đánh họ trong trại tị nạn, và thế là họ bao vây và trả thù. Họ không nói trả thù ra sao, nhưng chắc những kẻ hành hạ họ cũng bị một trận nhừ tử.
Tôi tin rằng có nhân quả. Những kẻ ám hại người khác thì không sớm hay muộn cũng bị trả giá. Trả giá không bằng cách này thì cũng bằng cách khác, có khi là cả sinh mạng. Tôi đã chứng kiến những người hành xử xấu với đồng hương bên trại tị nạn, sau khi định cư đều trở thành ‘thân tàn ma dại’ cả. Có một anh chàng Thái làm cảnh sát hay đánh người tị nạn, chẳng hiểu sao sang được Úc, và anh ta cũng bị nạn nhân của anh ta trả thù ghê gớm. Thời đó, người ta mua súng rất dễ, nên những trận bắn giết trong cộng đồng xảy ra. Những ngày nóng bỏng đó, những ai mang cái nhãn ‘cộng sản’ thì khó có thể tồn tại ở Úc. Nhân quả là có thật.
“Tại sao anh muốn đi Úc?” Ở trong một môi trường khủng khiếp như thế, ai cũng mong mình được đi định cư ở một nước thứ ba càng sớm càng tốt. Cứ mỗi lần nghe Khánh Ly hát “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về …” (bài Biển nhớ, một ca khúc rất nổi tiếng của ông Trịnh Công Sơn thường được dùng để tiễn người may mắn được nằm trong danh sách lên đường) là mỗi lần tôi buồn cho thân phận mình, chẳng biết bao giờ mới được đi và đi đâu.
Nhưng rồi ngày may mắn cũng tới. Theo định kỳ, nhân viên từ các tòa đại sứ ở Bangkok (mà người trong trại quen gọi là “phái đoàn”) xuống tận trại để chọn người định cư ở nước họ. Trong số các nước quan tâm tới người tị nạn, Mỹ, Úc, Gia Nã Đại, và Pháp thường hay phái nhân viên xuống trại phỏng vấn và làm thủ tục định cư. Tôi được tiếp xúc với phái đoàn Úc đầu tiên.
Sau khoảng ba tháng ở trại Songkhla, tôi nghe tin qua loa phóng thanh, có phái đoàn tòa đại sứ Úc xuống làm việc ở trại. Lúc bấy giờ, Úc là một nước khó nhất đối với người tỵ nạn; ngoài các tiêu chuẩn về nghề nghiệp, học vấn, v.v. họ yêu cầu người xin định cư phải viết một lá đơn bằng tiếng Anh, nói rõ tại sao muốn đi Úc. Lúc đó tôi không có lựa chọn hay ý niệm gì cụ thể là mình sẽ đi nước nào định cư. Nhưng vì Úc là phái đoàn đầu tiên xuống đây [sau ngày tôi nhập trại], và tôi đã quá chán ngán với cảnh đời trong trại, nên tôi quyết định xin gặp phái đoàn để hy vọng được đi Úc [hay bất cứ nước nào, miễn là rời khỏi cái trại khốn khổ này].
Nhưng cái khó là phải thảo một lá đơn. Lúc đó, trình độ tiếng Anh của tôi lúc đó quá tồi, do tôi học Pháp văn và khá tốt với tiếng Pháp, nhưng tiếng Anh thì ôi thôi… tồi lắm. Lúc bấy giờ, chú Ba Trung Tá đã được chuyển sang trại khác cùng người yêu của chú chờ ngày đi Mỹ. Tôi đành nhờ hết người này đến người khác viết đơn dùm tôi, nhưng chẳng ai thèm giúp tôi. Người thì nói bận, người thì đòi tiền, có người còn mắng tôi như tát nước vào mặt: “Sao không chịu học tiếng Anh hồi ở bển, học lớp mấy rồi mà kém quá vậy?” Lúc đó, tôi thấy sự độc lập thật là quí báu, và tôi tự nhủ thầm sẽ không nhờ vả người Việt trong tương lai và không kết thân với người Việt có học thức. Tôi vẫn giữ cái tâm nguyện này.
Thế là tôi lầm lũi lên thư viện trại, ngồi cả ngày lật quyển từ điển cũ kỹ chuyển từ tiếng Việt sang tiếng Anh lá đơn của tôi. Thỉnh thoảng có chêm vào chữ Pháp nữa, vì bí quá không biết tiếng Anh là gì. Tôi dịch từng chữ một, chia động từ loạn cả. Cuối cùng tôi cũng có một lá đơn.
Vài hôm sau, loa phóng thanh kêu tên tôi lên gặp phái đoàn Úc để phỏng vấn. Trong thời gian ngắn ở trại, tôi đã từng nghe qua nhiều câu chuyện về những người đi trước bị các phái đoàn từ chối cho đi định cư chỉ vì trả lời phỏng vấn không thông. Nhiều người bị phái đoàn Mỹ từ chối vì những lý do chẳng đâu vào đâu. Không có logic hay tiêu chuẩn gì cụ thể cả. Nổi tiếng nhất là anh chàng nhân viên Toà đại sứ Mỹ mà dân tị nạn gọi là “Gà Đá” (vì anh ta xâm trên tay con gà đá). Anh này từng phục vụ ở Việt Nam trước 1975, nghe nói biết tiếng Việt kha khá, nhưng tánh tình thì thất thường. Tiêu biểu là một anh kia lên phỏng vấn, tay Gà Đá đòi anh tị nạn kéo tay với anh ta; kéo thắng, Gà Đá sẽ nhận. Kết cục, anh tị nạn hạ Gà Đá, và thế là Gà Đá nhận anh tị nạn đi Mỹ. Nhiều chuyện như vậy trong trại tị nạn lắm, mà nếu viết lại thì cả một pho truyện tiếu lâm.
Vì thế, tôi hồi hộp bước vào phòng phỏng vấn trong ánh mắt theo dõi của nhiều đồng hương khác. Anh chàng nhân viên sứ quán Úc cao, to, râu ria xồm xoàm, nhìn lá đơn của tôi và hỏi qua anh thông dịch viên:
Ai viết lá đơn này?
Tôi trả lời, cũng qua anh thông dịch viên: “Tôi viết.” Anh ta mỉm cười:
Anh có học tiếng Anh bao giờ chưa?
“Dạ chưa,” tôi rụt rè trả lời.
Anh muốn đi Úc làm gì?
Dạ, đi học hay làm ruộng.
Tiếng Anh như vầy sao học được? Anh cũng không đủ tiền làm ruộng đâu!
Tôi ngỡ ngàng trước câu bình phẩm của anh ta (làm ruộng mà cũng cần tiền ư!). Trời ơi! Ở quê tôi, làm ruộng là nghề chẳng cần đồng nào cả; chỉ cần sức lực thôi. Đi học mà cũng không cơ hội à? Tôi thất vọng, và nghĩ rằng cái mộng đi Úc tiêu tan rồi. Nhưng anh ta hỏi tiếp:
Ngoài những lý do anh nêu trong đơn, anh còn có lý do nào khác để đi Úc không?
Tôi nhớ hồi còn đi học có thấy con Kangaroo và ước mơ có ngày được nhìn nó tận mắt. Tôi bèn thực tình nói:
Tại tôi muốn… nhìn thấy con Kangaroo!
Anh ta trợn mắt nhìn tôi một lúc, rồi đột nhiên bật cười ha hả, chìa một tay ra bắt tay tôi, tay kia anh đóng cái “rầm” cái mộc xuống tờ giấy và nói qua anh thông dịch viên: “OK, tôi nhận anh. Qua bên kia làm thủ tục mau đi!”
Trời ạ! Tôi sững sờ và chưa kịp nói lời cám ơn, thì anh ta đã khoát tay cho tôi đi qua phía bàn bên kia làm thủ tục khác. Đa tạ anh Úc! Đa tạ! Tôi không thể nào quên anh Úc này mà tôi coi như một ân nhân.
Câu chuyện tôi đi Úc bắt đầu bằng mẫu đối thoại đó. Tôi vẫn nhớ y như ngày hôm qua. Nhớ từng câu nói được thông dịch; nhớ ánh mắt anh ta; nhớ cái khoát tay; nhớ cái cảm giác lâng lâng, khó tả. Câu chuyện còn có cái kết khác, vì sau này tôi gặp anh nhân viên sứ quán này trong Đại học Sydney (lúc đó anh theo học MBA, và tôi làm trợ giảng). Nhưng chuyện này tương đối ly kỳ, nên sẽ kể sau.
Có thể nói Songkhla là một trong những nơi ghi lại nhiều dấu tích đau buồn nhất của thuyền nhân Việt Nam. Đó là nơi tạm dung cho hàng trăm ngàn người tị nạn, và trong thời gian tạm dung, đã có không biết bao nhiêu sự kiện xảy ra. Những sự kiện đau buồn lẫn hạnh phúc đều có, buồn nhiều hơn. Một trong những sự kiện bi thảm nhất và buồn nhất là xác của 11 phụ nữ độ tuổi 20 bị trói cổ vào nhau, trôi dạt vào bãi biển Tha Sala. Những cô gái đó đã bị làm nhục trên biển và vứt xác xuống biển. Họ là đồng hương mình đó. Nỗi đâu dân tộc. Chúng ta không bao giờ quên và không bao giờ tha thứ những kẻ đã gây nên đau khổ cho họ.
Thật ra, sự kiện bi thảm đó chỉ là một trong hàng ngàn câu chuyện về thảm cảnh thuyền nhân ở Biển Đông vào thập niên 1970 và 1980. Hàng trăm nấm mồ tập thể được người dân địa phương tốt bụng chôn cất; mỗi mồ có mấy chục người được chôn chung. Đảo Koh Kra khét tiếng là địa ngục trần gian, là nơi chôn vùi hơn 3.000 đồng hương tị nạn. Thế giới đã nghe nhiều về “holocaust” bên Đức, “killing field” bên Campuchia nhưng thế giới chưa nghe hay biết nhiều về những cuộc thảm sát trên biển Đông. Do đó, sau này khi qua Sydney, tôi có tham dự một cuộc viết văn do tạp chí “The Good Weekend” tổ chức, và tôi được giải $500 với bài tôi đặt tựa đề là “Killing Sea” để ghi lại những biến cố biển bi thảm của thuyền nhân Việt Nam.
Panatnikom và những mảnh đời tị nạn Theo thủ tục chung thì sau khi được một phái đoàn chấp nhận cho đi định cư, người tị nạn được chuyển đến một trại chuyển tiếp (gọi là “transit camp”). Sau khi được phái đoàn Úc nhận khoảng ba tháng, tôi được chuyển đi trại chuyển tiếp Phanat Nikhom ở miền Đông Thái Lan. Sau này tôi mới biết Phanat Nikhom là một quận thuộc tỉnh Chonburi, nơi có bãi biển Pattaya rất nổi tiếng. Tuy nhiên, chúng tôi không có cơ may ở Pattaya, mà là một nơi có thể nói là…. ‘khỉ ho cò gáy’.
Thật ra, lúc tôi vào trại Songkhla thì cũng là lúc trại chuẩn bị đóng cửa. Nói là “chuẩn bị đóng cửa”, nhưng cũng phải 5-6 năm sau thì mới thực hiện được ý định đó, một phần là do làn sóng người tị nạn đang lên cao, nên các chính phủ nước phương Tây gây áp lực lên Thái Lan không nên đóng cửa trại. Nhưng Thái Lan có lẽ cũng quá mệt mỏi với người tị nạn, không chỉ từ Việt Nam mà còn từ Lào và Campuchea, nên họ phải làm cái việc mà họ làm, tức đóng cửa trại.
Hôm chuyển trại từ Songkhla đi Phanat Nikhom xảy ra một tai nạn thương tâm. Nếu tôi nhớ không lầm, từ Songkhla đến Phanat Nikhom khoảng một ngày đường (bằng xe bus). Xe tôi đi qua những đồng ruộng, đồi núi chập chùng của Thái Lan mà tôi cho là rất đẹp, không thua gì cảnh đồi núi Việt Nam. Đang chiêm ngưỡng vẻ đẹp của rừng núi chưa tới đâu, tôi giật mình nhận ra một tai nạn kinh hoàng trong đoàn xe bus. Chiếc xe bus phía sau xe tôi, không rõ do anh tài xế bất cẩn hay ngủ gục, bị lật xuống đường ruộng. Một anh tị nạn trẻ tuổi ngồi ở cửa sổ bị đứt lìa một cánh tay khi chiếc xe chạm vào đường nhựa và kéo lê cả mười thước. Tôi xuống xe nhìn thấy anh ta đang nằm bất tỉnh bên lề đường, cánh tay bị đứt lìa đã biến thành màu nâu đen nằm lăn lóc bên đường lộ. Bị ám ảnh cái cảnh tượng khủng khiếp đó, nên mấy ngày sau, tôi không ăn uống gì cả. Sau này, tôi nghe nói anh bạn trẻ đó được đền 50 ngàn baht!
Thời đó (1981), Phanat Nikhom là một trại thuộc vùng giữa nơi “đồng không mông quạnh”. Khi tôi đến thì thấy đất cát vàng như sa mạc, rất ít cây lá màu xanh. Nước uống và nước sinh hoạt cũng không có, mà phải khoan giếng hoặc được tiếp tế từ bên ngoài bằng các xe tải. Mỗi ngày, mỗi người tạm trú được cung cấp khoảng 20 lít nước dùng cho vệ sinh cá nhân, giặt giũ và nấu nướng. Có thể nói người tị nạn đến đây đã giúp mở mang một vùng kinh tế cho tỉnh. Tôi hay nói đùa với bạn bè rằng đây là vùng kinh tế mới của thuyền nhân. Sau này (2007) trong một chuyến công tác bên Thái Lan, tôi quay lại đây thì thấy nhà dân mọc lên san sát nhau, cây cối um tùm, xanh tươi. Hoàn toàn không có dấu vết tị nạn gì cả. Phanat Nikhom ngày nay là một đô thị khá sầm uất.
Nhìn toàn cảnh và chung quanh thì rất ít nhà dân. Có lẽ đó cũng là ý đồ của chính quyền Thái Lan không muốn người tị nạn tiếp xúc với cư dân địa phương. Tuy nhiên, người tị nạn vẫn có cách tiếp xúc với người dân địa phương và mua hàng hóa từ họ trước sự làm lơ của cảnh sát Thái Lan. Có tiếp xúc với người địa phương mới thấy họ rất ư là dễ mến. Chỉ nhìn ánh mắt cũng thấy họ thật thà và thương cảm. Họ cho chúng tôi khá nhiều đồ. Họ cũng bán những món hàng như gạo, nước mắm, quần áo cũ, v.v. cho người tị nạn. Tuy nhiên, người tị nạn Việt Nam thì rất coi thường dân địa phương, có lẽ vì tiêm nhiễm cái thói huênh hoang xem người ta là ‘mọi’ chăng?
Trong một trại tị nạn thuyền nhân Việt Nam ở Malaysia (internet) Việt – Miên – Lào Trại Phanat Nikhom lớn hơn trại Songkhla nhiều, có thể chứa tới cả hàng 50 ngàn người. Không giống như Songkhla, trại này có nhà hẳn hoi cho người tạm trú. Hàng ngàn dãy nhà được xây cất bằng các vật liệu như fibro, tole, và xi măng. Mỗi nhà chứa khoảng 10 đến 15 người, và cũng không có ngăn chia phòng ốc gì cả. Lúc chúng tôi mới nhập trại, thì các khu nhà này mới vừa mới xây xong. Do đó, trong nhà hoàn toàn trống tuếch, chúng tôi phải ngủ dưới sàn xi-măng, nhưng như vậy đã là quá sang trọng rồi!
Khác với trại Songhla chỉ có người Việt tị nạn, còn tại đây trại Phanat Nikhom có đủ ba nhóm người tị nạn từ Việt Nam, Lào, và Kampuchea. Trại do đó được chia thành ba khu riêng biệt dành cho người Việt, Lào và Miên. Khu người Việt lớn nhất, nhưng cũng là khu xảy ra nhiều vấn đề nhất làm đau đầu người Thái. Trong khi hai nhóm tị nạn kia có vẻ an phận, nhóm người Việt có lẽ do tổ chức chặt chẽ hơn, có trình độ văn hóa hơn, (và có lẽ cũng tự hào hơn), nên người Việt không tỏ ra phục tùng ban quản trị Thái. (Trại này hoàn toàn do các viên chức ngành cảnh sát hay quân đội người Thái điều hành, người Việt chỉ làm phụ tá, hay trong một vài trường hợp, làm tay sai cho họ. Người Việt đi đâu cũng có người trở thành tay sai.) Thỉnh thoảng người Việt kéo nhau biểu tình, gây áp lực đến Liên hiệp quốc về những chính sách công cộng ở đây. Có lẽ một phần vì thế mà các viên chức người Thái không ưa người Việt ở đây.
Trại Phanat Nikhom là nơi qui tụ rất nhiều nhân vật nổi tiếng của miền Nam thời trước 1975. Hầu như ai đi tị nạn ở Thái Lan đều qua trại này, nên đều có dịp gặp hay quen biết nhau. Lúc tôi lên thì đã có những nhóm văn nghệ hình thành. Thời đó, ca sĩ Tuấn Anh (người có trang phục khác thường) đã nổi tiếng là một người hát hay. Nhưng những show ca nhạc thường được tổ chức bên kia trại, nên chúng tôi thỉnh thoảng phải hối lộ cho cảnh sát Thái để họ cho qua xem văn nghệ!
Cuộc sống ở đây có phần chật vật hơn so với Songkhla. Về sinh hoạt và ăn uống ở đây (trại Phanat Nikhom) thì theo nguyên tắc là do nhà thầu Thái Lan cung cấp. Như nói trên, nước được vận chuyển từ ngoài vào, và họ chia bình quân từng đầu người. Thức ăn thì do nhà thầu nấu trong trại. Vì nấu cho hàng ngàn, hàng vạn người ăn (theo kiểu XHCN), nên phẩm chất rất tồi tệ. Nếu chỉ nhìn thoáng qua những mảng cơm nhão như cháo hay thiu thì đủ biết tình hình tồi tệ như thế nào.
Có một món mà chúng tôi đặt tên là “gà lựu đạn”. Gà lựu đạn là con gà chỉ có xương, vì người ta lấy thịt đem bán chỗ khác. Dân tị nạn chỉ được ăn xương thôi. Thật ra, nhìn vào xuất ăn, người ta có thể được tha thứ nếu nghĩ đó là một một loại thức ăn cho thú vật, chứ không phải cho con người! Nhưng dưới bàn tay chế biến tài tình của các bà nội trợ Việt, những con “gà lựu đạn” đó được biến hóa thành những món ăn rất ngon miệng. Mỗi ngày, chúng tôi (đám thanh niên, đàn ông) đi nhận thức ăn về, các bà các cô trong nhà thì chuẩn bị nấu nướng lại, và cả nhà (vài chục người) cùng ăn chung. Bữa ăn nào cũng ngon và vui. Kể ra thì thời gian ở đây cũng là một quãng thời gian có nhiều kỷ niệm.
Những mảnh đời… Đời sống người Việt ở trại Phanat Nikhom có nhiều chuyện cười ra nước mắt. Gia đình đổ vỡ, chuyện tình éo le, sư sãi hoàn tục, linh mục dỏm, v.v. đều có đủ. Một nhà sư nọ, có lẽ vì chân tu chưa tới, nên đã dan díu với một ni cô khác cũng tu chưa tới. Sự việc hai người bị bắt quả tang trong lúc hành lạc được đưa ra công chúng và người Thái, vốn mộ đạo Phật, được một dịp khinh khi người Việt. Xấu hổ.
Những mối tình phi biên giới và tuổi tác cũng nảy nở ở đây. Bên cạnh nhà tôi, một ông cựu thiếu tá nọ tằng tịu với một cô sinh viên mà tuổi đời chỉ bằng tuổi con ông cũng gây ra nhiều bàn tán xôn xao. (Nếu bây giờ thì chắc chẳng ai quan tâm đến sự khác biệt về tuổi tác, nhưng thời đó thì người mình còn “bảo thủ”). Cái nắng cháy da của vùng sa mạc Thái Lan không làm chùng bước yêu đương, mà còn tăng nhiệt độ cho hai con tim nóng bỏng đang yêu, họ âu yếm quyện vào nhau mỗi trưa hè trên chiếc võng một cách cực kỳ tự nhiên và hết sức “Tây”! Ban đầu bà con còn thấy lạ lùng và khó hợp nhãn quang, nhưng dần dà rồi cũng quen đi. Không ai biết kết cục của chuyện tình này ra sao.
Ở trong trại có rất nhiều nhóm thiện nguyện từ các nước như Mỹ, Úc, Canada đến giúp người tị nạn. Đa số là các nhóm tôn giáo, nhưng cũng có những nhóm phi chính phủ và không liên quan gì đến tôn giáo. Họ hoạt động rất nhịp nhàng với nhau, mỗi nhóm phụ trách một mảng, và không trùng hợp nhau. Chẳng hạn như nhóm phụ trách tiếng Anh, nhóm lo thư viện, nhóm dạy về đời sống mới bên Tây, thậm chí có cả các nhóm truyền đạo. Những nhóm này thường sử dụng người tị nạn để làm việc, vì họ biết trong cộng đồng người tị nạn có nhiều người giỏi tiếng Anh và có kinh nghiệm điều hành tổ chức. Phải qua đến đây mới thấy người Việt chúng ta nổi trội hẳn so với người Lào và Miên. Nhìn qua các nhân viên làm việc cho các nhóm thiện nguyện, có thể nói gần 100% là người Việt, số người Miên và nhất là Lào thì rất hiếm.
Học tiếng Anh Riêng tôi, khi lên trại này, tôi cũng thay đổi. Thay đổi lớn nhất là tôi có cơ hội đi học tiếng Anh. Lúc đầu tôi ghi danh vào một lớp dạy tiếng Anh do nhân viên thuộc các tổ chức từ thiện giảng dạy. Không biết vì chính sách hay vì không rành phương pháp sư phạm, họ dạy rất thực tế những câu nói thông thường, không cần để ý tới văn phạm, cú pháp, lúc nào cũng “How are you”, “I am fine, thank you”, “My name is …”, v.v. Chỉ chừng một tuần theo học, tôi đã chán ngấy và bỏ học. Tôi không muốn học kiểu đó, mà phải học từ căn bản. Nhưng sau này tôi hiểu tại sao họ dạy như thế, vì mục tiêu là làm sao học viên có được những câu chữ thông thường để đi xin việc và giao tiếp, chứ mục tiêu không phải là khoa bảng.
Sau vài tuần nhập trại, tôi xin được một việc làm thủ thư trong thư viện của một tổ chức tôn giáo Tin Lành “Assembly of God” ngay trong trại. Thư viện này do một anh tị nạn người Miên làm sếp. Anh này rất giỏi tiếng Pháp và tiếng Anh, và nhìn qua phong cách thì chắc ngày xưa cũng là quan chức trong chính quyền hay hệ thống giáo dục bên đó. Sáng nào anh ta cũng vào thư viện, chào hỏi mọi người một cách thân mật, nhưng phong thái vẫn toát ra là một ‘leader’ đúng nghĩa, vừa có học thức, vừa có tư cách lãnh đạo.
Công việc thủ thư của tôi là một cơ hội trời cho để học và đọc tiếng Anh. Mỗi ngày, tôi có nhiệm vụ việc sắp xếp sách báo cho có thứ tự. Mà, thư viện thì nhỏ, chỉ cao lắm là 1000 cuốn sách và tạp chí, chủ yếu là từ nước ngoài. Có khá nhiều sách báo tiếng Việt là từ cộng đồng người Việt ở Mỹ gửi tặng. Tôi đọc rất nhiều sách báo, tiếng Việt có, tiếng Anh có, tiếng Pháp cũng có, và học được rất nhiều điều. Nhưng cái công việc nhàn hạ quá, sau khi làm xong việc tôi chưa biết làm gì ngoài đọc sách. Phải vài ngày sau, tôi mới biết dùng thì giờ nhàn hạ này để học tiếng Anh. Tôi chọn cho mình một cái góc nhỏ của thư viện, và ngày ngày ‘dùi mài kinh sử’ ở đây.
Cách học của tôi rất chậm. Mỗi sáng, tôi gom góp những tờ báo gói rau cải, xếp lại cho phẳng rồi đọc tin tức. Đó là những tờ nhật báo tiếng Anh của Thái Lan như “The Nation” và “The Bangkok Post“. Những bản tin liên quan đến Á châu có những danh từ tôi thấy quen quen, nhưng không chắc. Thế là sáng nào tôi cũng tìm những chữ mình muốn học, sau đó vào thư viện tra từ điển xem cách phát âm ra sao, nguồn gốc của chữ, cách dùng như thế nào, v.v. Có khi suốt ngày tôi để tâm học chỉ một chữ! Cái thú vị của cách học từng chữ này là nó giúp cho tôi có căn bản và tự tin trong cách phân biệt và dùng tiếng Anh cho chính xác. Hồi đó, tôi học bằng cuốn Từ điển Longman, tôi thích cuốn này lắm nên có xin về làm kỷ niệm cho đến ngày nay.
Học từ căn bản dĩ nhiên là chậm và khó, nhưng lúc nào cũng hay hơn học theo kiểu tài tử trên ngọn. Tôi ghi chép rất cẩn thận những qui luật về văn phạm tiếng Anh. Có khi tôi viết ra cách phát âm và tự lầm bầm đọc (chắc như người điên). Sau vài tháng tự học, tôi thấy cuốn sổ tay của mình đã trở thành một cuốn sách văn phạm tiếng Anh, và tôi cũng thấy mình tự tin hẳn lên, mặc dù nói chưa được nhiều, vì không có cơ hội thực hành đối thoại.
Trò con nít (Trạng Quỳnh) Học tiếng Anh hay nhất là phải có một người bạn. Thời đó, tôi may mắn quen với một anh bạn gốc Huế tên A (sau này định cư ở Melbourne và tôi mất liên lạc). Chính anh A nói với tôi là mình phải học tiếng Anh từng chữ một. Anh lý giải, chỉ cần có vốn ngữ vựng khoảng 2500 từ là mình “nắm” được tiếng Anh. Nói là 2500 từ, nhưng ‘phăng’ ra thì cũng thành 10,000 từ. Trưa nào tôi và anh ấy cũng đố nhau về tiếng Anh. Có những chữ tôi biết, anh ấy không biết, hay ngược lại, và thế là vốn ngữ vựng tăng lên nhanh chóng. Học nhau từ đố chữ này cũng hay, vì nó giúp mình nhớ lâu.
Có một chuyện buồn cười và trẻ con mà tôi nghĩ cần phải kể ra ở đây. Khi thấy mình có đủ “võ chữ” anh A và tôi bàn cách “phục hận” cái anh chàng sếp người Miên. Anh A nói vì anh ta xem thường bọn mình quá. Anh A và tôi bày cách ‘phục kích’ rất hết sức… Trạng Quỳnh. Chúng tôi tìm cách la cà với anh ta, rồi đưa ra những chữ thật khó để xem anh ta có bí không; khi anh ta bí, chúng tôi nói “trình độ của mày như vậy mà làm sếp tao à?” Anh người Miên lớn tuổi hơn và kinh nghiệm đời hơn nhìn chúng tôi mỉm cười và nói “Cố gắng đi học thêm đi mấy ông tướng!”
Đúng là cái trò nhỏ nhặt và ranh mãnh. Cái trò đó chúng tôi mang từ Việt Nam sang đây và khi va chạm với thế giới lớn hơn mới thấy mấy trò đó trẻ con biết là dường nào. Tưởng rằng hơn người ta một chữ hay bắt bẽ người ta một điều gì đó là mình “ngon lành” lắm, nhưng trong thực tế nó chỉ chứng tỏ cái hèn mọn và nhỏ mọn của mình. Và, dốt nữa. Anh A và tôi học được bài học này từ anh sếp người Miên. Tôi rất phục anh sếp này, giờ không nhớ anh tên gì, chỉ nhớ anh đi định cư ở bên Pháp.
Bangkok hoa lệ và tử tế Ở trại Phanat Nikhom được khoảng sáu tháng, tổ chức ICM (Inter-governmental Committee for Migration) của Liên hiệp quốc sắp xếp cho tôi lên đường đi định cư. Nhóm chúng tôi chỉ đi Úc, và trong chuyến đi Úc có tất cả 54 người. Chúng tôi khởi hành bằng xe bus từ Phanat Nikhom lên Bangkok.
Sau khoảng năm giờ đi đường, chúng tôi đến thành phố Bangkok. Sau cả năm trời bị giam cầm trong các trại tị nạn ở rừng sâu núi thẳm, tôi đến Bangkok bằng một tâm trạng của một người nhà quê ra tỉnh. Lần đầu tiên trong đời thấy xa lộ chồng chéo lên nhau và xe hơi chạy như mắc cửi, tôi trố mắt nhìn những building cao vút, những khu phố tấp nập, tôi thấy Bangkok đã bỏ Sài Gòn quá xa. Lúc đó tôi mới thấy “Hòn ngọc Viễn Đông” Sài Gòn của Việt Nam quá ư là lạc hậu và thậm chí bé nhỏ!
Nhưng lên Bangkok, chúng tôi lại được chuyển vào một… trại giam khác. Đó là trại Immigration Detention Center (IDC). Đó là trại giam nằm trong trung tâm thành phố, có rất nhiều người ngoại quốc. Trại giam hơi âm u, có lẽ chúng tôi đến đó trong một ngày mưa, nhưng có ánh sáng mặt trời từ ngoài. Tất cả chúng tôi được dồn vào một cái phòng khá lớn, nhưng đủ cho khoảng 40 người, tất cả đều chờ để lên máy bay đi Úc. Chúng tôi ở đây được hai ngày. Ngày nào cũng được cho ăn uống đàng hoàng, và món ăn rất sạch sẽ.
Hai ngày sau, một buổi sáng, xe bus đến nơi chở chúng tôi ra phi trường. Ui chao, lần đầu tiên tôi thấy phi trường Bangkok quá rộng lớn và quá sang trọng. Đi đến đâu cũng toàn thấy những hàng quán đèn điện sáng trưng, ai cũng tỏ ra sang trọng và lịch sự. Ngay cả mấy người cảnh sát cũng rất thân thiện. Nhưng chúng tôi không được rời hàng, mà phải đi theo người hướng dẫn cứ như là đàn cừu theo người chăn cừu vậy.
Hôm đó tôi diện một bộ đồ, quần tây đen, áo sơ mi trắng, và mang đôi dép. Lúc ra phi trường mới thấy mình quá “quê mùa” vì ai cũng mang giầy! Nhưng tôi và nhiều người cùng cảnh ngộ lúc đó lấy tiền đâu mà mua giầy. Bây giờ nếu có được tấm hình hôm tôi và đoàn tị nạn ra phi trường chắc là thú vị lắm.
Ngồi trong phòng chờ đợi ở phi trường, trong lòng tôi lúc đó buồn vui lẫn lộn. Lúc đó, tôi không bao giờ có cảm tình (nếu không muốn nói là ghét) chính phủ Thái Lan, vì thái độ làm ngơ và bất nhẫn của họ trước thảm nạn trên Biển Đông, nhưng dù sao đi nữa, đất Thái cũng đã cưu mang tôi trong thời gian khó khăn nhất, và vì đã có một sự gắn bó như vậy, tôi cảm thấy buồn buồn khi phải chia tay Thái Lan. Cuộc chia tay nào mà chẳng buồn! Vui là vì tôi biết sắp tới đây mình sẽ được tự do, được sang một xứ sở mà tôi nghĩ chắc văn minh lắm, hiện đại lắm, và nhất là không còn bị giam cầm trong các trại tị nạn nữa.
Nghĩ lại cuộc đời là ‘một cõi đi về’. Phải hơn chục năm sau tôi mới có dịp quay lại Thái Lan. Lần đầu chỉ là chuyển chuyến bay đi Âu châu; lúc đó đêm về ngồi trong phòng lầu 25 khách sạn Montien nhìn về Việt Nam mà buồn vô hạn, vì chỉ 1 giờ là về đến nhà, nhưng không thể. Rồi đến giữa thập niên 2000s, tôi có dịp đi lại Thái Lan nhiều hơn, có lần được diện kiến cả hoàng gia Thái Lan (cô công chúa [?] và một bà công nương). Lúc đó, tôi mướn một chiếc taxi đi về trại Phanat Nikhom để tìm lại kỉ niệm cũ, nhưng tất cả đã thay đổi, không còn gì để tìm. Rồi vài năm sau, lại có dịp ở Thái Lan cả tháng trời nhân dịp “sabbatical leave”, có dịp đi nhiều nơi trên đất Thái mới thấy Việt Nam mình tụt hậu ra sao.
Nhưng thôi, hãy cứ hưởng trọng niềm vui trong giây phút hiện tại. Nghĩ ngợi một hồi thì có người của ICM lùa chúng tôi lên máy bay. Trời ơi! Lần đầu tiên trong đời thấy máy bay sao mà lớn quá chừng (hồi xưa cũng thấy máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhứt, nhưng không lớn như cái máy bay này). Sau này tôi mới biết là Boeing 747, của hãng hàng không QANTAS của Úc. Chúng tôi được sắp xếp ngồi ở những hàng ghế sau cùng trong máy bay. Lúc đi ngang qua các hàng ghế, thấy hành khách nhìn chúng tôi với ánh mắt vừa ái ngại vừa thương cảm.
Tôi được sắp xếp ngồi một cái ghế bên cửa sổ. Đây là lần đầu tiên tôi được đi máy bay, nên thấy cái gì cũng mới với mình. Cứ nhìn ra cửa sổ thấy máy bay tập nập, xe cộ đi lại liên tục, một quang cảnh rất nhộn nhịp. Nhìn trên mấy hàng ghế thì thấy ai cũng sang trọng, có người phì phèo thuốc lá xem ra rất thoải mái. Còn tôi thì cứ miên man suy nghĩ về nước Úc. Tôi lo thầm, chẳng biết mình sẽ làm gì ở xứ sở mới. Nói như anh chàng phái đoàn Úc, tiếng Anh thì không đủ để đi học lại, còn làm ruộng thì cũng chẳng có tiền. Phía trước là một tương lai mờ mịt. Đang suy nghĩ miên man thì chiêu đãi viên mang đến cho chúng tôi khăn lau mặt thơm phức và li nước cam vàng tươi vô cùng mát mắt. Sau nhiều tháng bị đối xử như tù nhân, đây là lần tôi được phục vụ và đối xử tốt. Tôi đã thật sự xúc động, và ngạc nhiên không hiểu sao họ lại tử tế với mình như thế. Tôi nhận ra rằng mình đã đến thế giới văn minh.
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 29, 2020 18:58:17 GMT 9
Hồi tưởng thời tị nạn (kỳ 2)April 28, 2020 Tượng thuyền nhân Việt Nam tại Kangaroo Point (Brisbane, Queensland) Giáo sư NGUYỄN VĂN TUẤN (ÚC) Phần II. Những ngày đầu trên đất ÚcSau ba lần chuyển trại, lần này thì tôi được đi Úc thật sự. Thật ra, lúc lên máy bay tôi chưa biết mình đi đâu hay sắp định cư ở thành phố nào! Chỉ biết đi khỏi nơi khổ cực này để làm lại cuộc đời là ok rồi. Hóa ra là tôi được đi Sydney (hồi đó, có người được ‘phân công’ đi Darwin, Melbourne, Brisbane, v.v.) Lúc đó, không ai hình dung ra nơi mình sắp tới như thế nào, dù đã qua vài lớp học về văn hóa nước Úc và phong tục tập quán người Úc. Sau hơn tám giờ bay, máy bay đang hạ dần cao độ, tôi đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, thành phố Sydney đã hiện ra trong tầm mắt. Tôi sắp tới Úc. Cái ý tưởng đó làm cho tôi bồi hồi, xúc động một cách khó tả. Trên máy bay, cô tiếp viên nói trên loa câu “Welcome to Sydney, Australia!” (Chào mừng các bạn đến Sydney, Úc Đại Lợi) và thông báo cho chúng tôi biết hôm nay là ngày 26 tháng 1 năm 1982, ngày Quốc khánh của Úc. Tôi đến Úc đúng ngày Quốc Khánh!
Sydney không ‘hoa lệ’ Mới ra khỏi phi trường và qua hải quan, tôi đã thấy choáng với cái nóng. Phải nói là nóng hừng hực. Người bạn đón tôi nói rằng nhiệt độ hôm đó lên đến 42 độ C (nhưng sau này có người kiểm tra thì không phải nóng như vậy, chỉ chừng 38-40 gì đó, nhưng vẫn là rất nóng). Úc đang vào mùa hè. Hèn gì những người đứng đón thân nhân ở phi trường ai cũng mặc đồ mát mẻ, nam thì quần short áo thun, nữ cũng vậy. Trông phi trường và quang cảnh chung quanh chẳng có gì là ‘hoa lệ’ cả, thậm chí có phần kém sang trọng hơn phi trường Bangkok. Thôi thì: Chào mừng bạn đến Sydney!
Đứng xếp hàng một hồi thì được nhân viên di trú “lùa” lên một cái xe bus (lúc đó là rất lớn với tôi). Nhóm chúng tôi chắc cũng độ hơn 30 người, chẳng ai biết mình đi đâu, nhưng chỉ biết là từ này mình hưởng tự do sau những ngày tháng cực khổ và đắng cay ở Thái Lan. Xe chạy bon bon trên đường, chẳng thấy thành phố hay nhà cao tầng đâu cả, mà chỉ toàn là nhà cửa bằng gạch đỏ. Nhà nào cũng có vẻ rộng rãi, tươm tất, và hầu như tất cả đều có sân cỏ phía trước. Tôi còn nhớ xe chạy dọc theo một con lộ rất đẹp, hai bên là cây cối um tùm, xanh tươi, sạch sẽ. Sau này tôi mới biết đó là con lộ Henry Lawson Drive (tên của một nhà thơ nổi tiếng người Úc). Một lần nữa, không hề thầy Sydney tráng lệ gì cả. Thật ra, nhìn có vẻ đồng quê hơn, nhưng là đồng quê quá đẹp.
Sau độ 30 phút thì đến một khu nhà rất rộng tên là Cabramatta Hostel. Lúc đó, tôi còn chưa biết hostel là gì, vì hồi nào đến đó tôi chỉ nghe đến hotel, chứ có biết hostel là gì đâu. Cabramatta Hostel nằm trên một cái đồi thuộc vùng Cabramatta, nơi mà sau này trở thành “thủ đô” của người Việt ở Sydney. Từ Hostel đi bộ ra khu phố Cabramatta chừng 15 phút. Cabramatta nằm ở vùng Tây Nam Sydney, là nơi mà dân địa phương gọi là ngoại ô lao động, ý nói người nghèo. Thời đó (tức ~40 năm trước) Cabramatta là một nơi bán nông thôn. Đường xá rất ít xe qua lại, các dãy phố tương đối cũ kỹ nằm im lìm, người đi phố chẳng bao nhiêu. Năm 1982, Cabramatta chỉ có một nhà hàng Việt Nam và một tiệm thực phẩm Á châu duy nhất nằm trên đường John. Chúng tôi là khách hàng trung thành của tiệm thực phẩm này, còn quán phở kia thì… chưa đủ tiền để phung phí.
Hostel này có chừng 10 dãy nhà hai tầng. Mỗi dãy nhà có ~20 căn hộ, mỗi căn có hai phòng ngủ và một phòng khách và bếp. Người tị nạn và di dân khắp nơi trên thế giới được qui tụ ở đây một thời gian để học tiếng Anh và văn hoá Úc trước khi ra ngoài ổn định cuộc sống. Ngoài người Việt, Khmer, Lào ra, còn có người Nga, Ba Lan, Tiệp, Hungary, Hong Kong, Trung Quốc, v.v. Nhưng có lẽ đông nhất vẫn là người Việt. Tôi ở hostel này được ba tháng trước khi tìm được việc làm, mướn nhà và dọn về vùng Campsie (gần Sydney hơn).
“Một góc Sài Gòn” ở Úc (internet) Bất đồng văn hóa xảy ra ngay từ những ngày đầu tiên ở hostel này. Nói chính xác hơn là văn hóa ẩm thực. Ở đây, người ta có nhà bếp rất lớn và đầu bếp hẳn hoi. Nhìn cái nhà bếp rộng y như một căn nhà ba phòng! Nhà bếp phục vụ ba bữa ăn: điểm tâm, trưa, chiều. Sáng nào cũng có những món thuần Tây, như bánh mì nướng, trứng chiên, bacon, khoai tây, cà nướng, v.v. Những món mà tôi hay thấy trên phim thời còn ở Việt Nam, và nghĩ rằng chắc sang và ngon lắm. Nhưng thử rồi mới thấy hỡi ơi! Hồi nào đến giờ chỉ quen mì, hủ tíu, phở, chứ đâu quen mấy món này. Tuy nhiên, phải cả năm sau tôi mới làm quen với các món ăn sáng như thế này, và khi đã quen thì lại thấy… ghiền.
Buổi trưa và chiều còn ‘thê thảm’ hơn nữa. Thoạt đầu, nhà bếp phục vụ những món như bò, trừu, gà, rất ít thịt heo. Lâu lắm mới có cơm. Mà, cách họ nấu dĩ nhiên là rất khác chúng ta. Chẳng hạn như cơm họ nấu rất nhão, rất khó ăn; còn các món thịt thì họ dùng sữa rất nhiều, và cách xử lí chưa tốt hay sao ấy nên vẫn còn mùi hôi. Tuy nhiên, nhìn từ ngoài thì thấy rất hấp dẫn, nhưng ít ai dám ăn. Lúc đó, người Việt chúng ta chưa quen ăn thịt trừu. Thành ra, hôm nào có thịt gà thì các dòng xếp hàng toàn là ‘đầu đen’ (dân Á châu); hôm nào có thịt trừu và bò thì các dòng xếp hàng toàn là dân da trắng. Những hôm nào nhà bếp phục vụ thịt trừu, chúng tôi đi mua mì gói về nấu ăn. Nhưng nhà bếp nắm lấy tình hình rất nhanh, nên sau này họ tuyển đầu bếp Á châu. Thế là từ đó chúng tôi được ăn cơm, ăn thịt gà nấu theo kiểu Á châu, có khi có cả nước mắm nữa.
Nhớ nhất là món gà chiên của Kentucky Fried Chicken (sau này đổi tên là KFC). Nhớ ngày đầu tiên, anh Trung hỏi thèm món gì ở Úc, tôi nói ngay thèm gà nướng hay thấy trên phim và trái táo. Anh cười nói: tưởng gì, mấy món này dễ mà. Anh đi ra KFC mua hai con gà nướng về và một bịch táo, nhiều ơi là nhiều, và thêm bao nhiêu thức ăn khác. Ôi, nhìn con gà được chiên/nướng vàng ơm, nó hấp dẫn làm sao, y như trong phim Tây tôi xem trước 1975. Tôi thử ngay cái đùi gà, thì thấy hơi lạ, sao nó không giống gà bên Việt Nam. Đùi gà gì mà mềm quá. Còn nướng thì chẳng có ngũ vị hương gì cả, chẳng có mùi thơm. Nói chung là… dở. Nhưng phải ‘thanh toán’ cho hết. Ăn một lần là không muốn quay lại. Phải mấy năm sau tôi mới dám ăn món gà nướng này. Hóa ra, sau này mới biết gà bên này toàn là gà công nghiệp, nó như bột thôi, chứ chẳng ngon lành gì cả.
St Vincent de Paul Ngày đầu tiên, sau khi làm thủ tục, tôi được cho 30 đôla Úc. Đó không phải là tiền của Chính phủ, mà tiền của Hội từ thiện St Vincent de Paul. Ngoài ra, tôi còn cho một cái phiếu để lãnh quần áo. Tôi đến Úc với 0 cent trong túi và đúng hai bộ đồ. Cầm cái phiếu đi lãnh đồ, tôi tưởng là đồ mới, nhưng không phải. Đó là cái tiệm bán quần áo cũ cho người nghèo do Hội St Vincent de Paul điều hành. Nói là đồ cũ nhưng còn mới và đẹp với tôi lắm. Theo qui định, tôi được chọn ba bộ đồ (quần và áo) và một đôi giày (vì tôi đến Úc bằng đôi dép, dân vô sản chính hiệu!) Cho đến nay, tôi vẫn giữ ba bộ đồ này làm kỷ niệm, còn đôi giày thì đành phải “chia tay” với nó vài năm sau. Với vài bộ đồ như vậy là cũng đủ trong bước đường đầu tiên trên đất Úc.
Kể ra cũng hay, cuộc đời tôi ở Úc gắn liền với cái tên “St Vincent.” Ngay từ đầu được hưởng lợi từ St Vincent de Paul, đến khi sau này thì làm cho Bệnh viện St Vincent’s gần 30 năm! Có thể nói sự nghiệp tôi gắn liền với nơi này. Đó cũng chính là lý do tại sao sau này tôi tích cực cho quần áo và cho tiền Hội St Vincent de Paul.
Lớp học và cô giáo đầu tiên Có quần áo rồi, đến lúc đi học tiếng Anh. Những ngày đầu tôi cũng ghi danh học tiếng Anh. Lớp học có rất nhiều di dân từ khắp nơi, nhưng đông nhất vẫn là Việt Nam. Các học viên Đông Âu nói tiếng Anh lơ lớ rất khó nghe, mà di dân Á châu còn… tệ hơn. Khi có dịp tiếp xúc với các di dân tị nạn từ các nước như Ba Lan, Hungary, Tiệp, v.v. tôi phát hiện ra là họ có những nỗi lo y chang như người Việt Nam. Họ sợ công an theo dõi, họ sinh hoạt có vẻ khép kín vì không tin ai cả, và khi nói về hoàn cảnh cá nhân thì họ rất ngập ngừng. Hóa ra, dân tị nạn Tây cũng như Ta4 đều rất giống nhau, vì tất cả đều xuất phát từ thể chế XHCN. Bà giáo thì khuyên rằng ở đây có luật pháp đàng hoàng, chẳng sợ ai cả, và ở đây không có ‘công an’, chỉ có police (cảnh sát) thôi. Bà ấy lấy vài tờ báo ra và chỉ những cái tít chỉ trích chính phủ hàng ngày, rồi tươi cười chỉ vào hình ông thủ tướng và nói: “Mai mốt tôi không bầu cho thằng cha này.” Tôi kinh ngạc. Trời ơi, sao bà dám nói oang oang như vậy!?
Cách dạy tiếng Anh ở đây chủ yếu là để học viên có đủ kiến thức và chữ nghĩa để đi xin việc, chứ không để học lên cao. Cô giáo là một người rất tuyệt vời về kỹ năng sư phạm và hết sức vui tính. Cách dạy chủ yếu là đàm thọai, hơn là viết. Mục tiêu là giúp học viên sớm hội nhập và có thể đi xin việc. Bà giáo có vẻ thích tôi, một phần có lẽ là học nghiêm túc, một phần là hỏi hoài. Nhớ có lần bà ra đề là viết một lá thư cám ơn cô giáo mà mình nghĩ trong tâm tưởng; tôi viết lá thư và chữ cuối là “As always, with affection” vì tôi học từ một cách viết trên tạp chí Reader’s Digest trong trại tị nạn. Bà giáo đọc lá thư, rồi đến giờ giải lao kêu tôi ra ngoài nói riêng rằng không nên viết như vậy, vì cái chữ đó chỉ dành cho… tình nhân! Thế là học bài học về cách viết thư.
Nhưng tôi chỉ học được một tuần thì bỏ lớp học. Ngày nào cũng “How are you”, “I am fine, thank you”, “How long have you been here”, “I am looking for a job”, v.v. Lớp học có những học viên với trình độ rất khác nhau, nên cách dạy cũng rất chậm. Tôi nghĩ trong bụng với cách học này thì mình tự học còn hay hơn. Nên, chỉ vài tuần sau thì bỏ học… Ngày tôi quyết định nghỉ học, tôi báo cho cô giáo biết. Cô giáo, lúc đó đã gần 50 tuổi, nói rằng vài năm nữa sẽ có lễ kỷ niệm 200 năm ngày thành lập nước Úc, và bà nói sẽ hẹn tôi ở cầu Harbour Bridge. Nhưng hẹn cho vui thôi, chứ đến ngày lễ thì làm sao tìm lại cô giáo đầu tiên. Nhưng hình ảnh về một cô giáo người Úc nhanh nhẹn, hoạt bát, vui tính, và nhất là rất thương người tị nạn không hề phai nhòa trong kí ức tôi.
Cổng Hữu Nghị tại Cabramatta, nơi tập trung đông đảo người Việt đến Úc như hậu quả của thời hậu chiến sau 1975 tại Việt Nam (New York Times) Thủ tướng… khóc Tôi đến Úc trong lúc nền kinh tế đang suy thoái (depression). Suy thoái kinh tế dẫn đến biến động chính trị. Lúc đó, ông Thủ tướng Malcolm Fraser thuộc đảng Liberal đang cầm quyền, và vì kinh tế suy thoái nên ông không được tín nhiệm mấy. Nhưng đối với người tị nạn thì ông Fraser là một ĐẠI ÂN NHÂN. Chính ông là người ra quyết định nhận người tị nạn Việt Nam, trong lúc công chúng đang bàn cãi chẳng biết đối phó với ‘làn sóng da vàng’ này. Quyết định của Thủ tướng Fraser gây rất nhiều tranh cãi, nhất là trong lúc Úc mới bước ra khỏi chủ trương “White Australia Policy” (tức không muốn nhận di dân từ các nước ngoài Âu châu). Nhưng ông đã làm được cái việc can đảm đó, và lịch sử rất công bằng với ông như là một cứu tinh của hàng vạn người tị nạn.
Sau này (1983), một năm sau tôi đến Sydney, nước Úc tổ chức tổng tuyển cử. Ông Fraser và đảng Liberal bị thất cử, và ông không còn làm thủ tướng nữa. Thủ tướng mới là Bob Hawke thuộc đảng Labor, cũng là một người ủng hộ người tị nạn rất nhiệt tình. Tôi nhớ hoài hình ảnh ông Fraser khi thất cử, vì ông… khóc. Trong đêm tuyên bố ai thắng cử, phe Labor ăn mừng lớn thì phe Liberal rất thảm sầu. Ông Fraser nói chuyện trước ống kính, không cần giấy note gì cả, ông cám ơn cử tri đã bầu và tin tưởng ông, ông nói về tình hình kinh tế bị suy thoái nhưng tin rằng [nói theo tiếng Việt là] ‘sau cơn mưa trời lại sáng’. Nói xong, ông mếu máo khóc. Trời! Lần đầu tiên trong đời tôi thấy một vị thủ tướng khóc rất thật trước ống kính (sau này tôi cũng chứng kiến ông Thủ tướng Bob Hawke khóc vì xe tăng Tàu cán chết người biểu tình ở Thiên An Môn). Những giọt nước mắt đó cho thấy chính trị gia ở đây tình cảm quá.
Họ (chính khách ở đây) rất khác với những người làm chính trị bên nhà. Họ có thể chẳng có trường lớp chính trị gì cả, mà xuất thân như chúng ta thôi. Người thì luật sư (rất nhiều), kẻ từng là bác sĩ, kỹ sư, doanh nhân. Lại có những người xuất thân là dân lao động như buôn bán cá tôm. Họ trở thành dân biểu vì họ có quan điểm hay chính sách đại diện cho cử tri. Họ nói lên tiếng nói, tâm tư và nguyện vọng của cử tri. Họ không có bằng cấp chính trị, bởi vì ở đây không có trường đào tạo làm chính trị. Do đó, có thể nói họ là những ‘chính khách tài tử’. Cái tính tài tử đó thể hiện qua những lời nói và hành động rất gần dân.
Điều này rất khác với Việt Nam, nơi mà người làm chính trị được đào tạo khá kỹ theo cách của chủ nghĩa Mao. Từ lúc trẻ đã có đoàn đội uốn nắn tư tưởng, lớn lên có đảng tạo hình suy nghĩ, rồi có trường chính trị dạy làm lãnh đạo, nói chung là rất có hệ thống. Có thể nói những người làm chính trị ở Việt Nam là rất chuyên nghiệp — họ thật sự “làm chính trị”. Do đó, cách nói và suy nghĩ của họ rất rập khuôn, thiếu tính phong phú, thiếu sự ngạc nhiên, và quan trọng hơn hết là thiếu tri thức — wisdom. Họ làm chính trị, chứ không phải là ‘chính khách’. Ngược lại, các ‘chính khách tài tử’ ở đây họ rất gần người dân, vì họ xuất phát từ dân và nói ngôn ngữ của người dân, họ có những câu nói và hành động rất ‘trần ai’, có khi… nông nổi. Do đó, ngay từ những ngày đầu ở đây, tôi thấy mấy người làm chính trị ở Úc vui hơn nhiều so với những người làm chính trị bên Việt Nam.
Tiệm Phở Tàu Bay tại Cabramatta (New York Times) Bài học tiếng Anh đầu tiên: “Dymock” và “Oxford” Quay lại chuyện lớp học tiếng Anh. Sau một thời gian ngắn, tôi quyết tâm tự học. Để tự học, tôi phải có cuốn từ điển Anh-Anh, vì tôi quan niệm học tiếng Anh từ tiếng Anh thì dễ hơn. Sau khi có tiền từ St Vincent de Paul, việc đầu tiên tôi nghĩ đến là mua một cuốn từ điển tiếng Anh. Hồi thời còn ở trại tị nạn, tôi học tiếng Anh từ cuốn từ điển Longman rất hiệu quả, do đó khi qua đây tôi phải tìm mua cho được cuốn từ điển Longman. Bà giáo thì dặn là nên mua Từ điển Oxford. Nhưng ở Sydney, chỉ có mấy nhà sách lớn ngoài Sydney mới có bán, chứ vùng bán thành thị như Cabramatta thì không có tiệm sách. Tôi đón chuyến xe lửa (thật ra là xe điện) từ Cabramatta đi Sydney (tức trung tâm thành phố). Sau khoảng một giờ, tôi cũng đến ga Town Hall.
Bước lên đường George, tôi như người nhà quê ra tỉnh (mà đúng như vậy). Nhìn chung quanh building nào cũng cao vút, cứ nhìn sự hoành tráng của các tòa nhà này chắc chẳng khác gì mấy người bộ đội mới vào Sài Gòn nhìn building mà rớt nón cối (chuyện tiếu lâm). “Ấn tượng” nhất là cái tòa nhà Victoria được xây theo kiểu sandstone, trông rất có duyên và đúng với nghĩa hoành tráng. Người ta thì đi lại tấp nập, hình như ai cũng bận rộn. Điểm đến của tôi là nhà sách Dymock mà bà giáo nói có bán sách. Bà còn dặn là lên khỏi ga Town Hall là sẽ thấy. Nhưng giữa cái nơi ‘phồn hoa đô thị’ này, nhà sách Dymock nằm ở đâu.
Tôi hỏi hết người này đến người kia để biết nhà sách Dymock ở đâu. Ai cũng tử tế dừng lại nghe tôi hỏi, nhưng khổ nỗi tôi đọc chữ Dymock sai nên họ không giúp được gì. Khi một ông tương đối già dừng lại, tôi nói rằng tôi tìm nhà sách Dymock. Tôi đọc là “Đai-Mốc”. Ông già chăm chú lắng nghe và cố tìm trong ký ức nhà sách này ở đâu, nhưng ông chịu thua. Ông hỏi tôi đánh vần tên nhà sách, và tôi sẵn sàng làm ngay. Khi tôi đánh vần xong thì ông vỗ trán kêu lên: “Ah, Đi-Mịk”! Tôi ngỡ ngàng và tự hỏi sao tiếng Anh gì mà phức tạp thế. Rồi, ông ấy chỉ đường cho tôi đến nhà sách, cách đó chẳng bao xa.
Đến nhà sách lại học thêm một bài học phát âm tiếng Anh. Nhà sách Dymock rất lớn, có đến ba tầng, sách nhiều ơi là nhiều. Trong cái thế giới đó thì khó tìm cuốn từ điển, nên tôi phải hỏi người bán sách. Tôi tự tin nói “tôi muốn mua cuốn từ điển Oxford”. Tôi đinh ninh rằng chiếc xe Ford mình đọc là “Fo.d”, vậy thì Oxford đọc là “Ox-Fo.d”. Ở Việt Nam ai cũng đọc như vậy mà. Anh chàng bán sách gãi đầu không biết tôi tìm từ điển gì. Anh ta lại kêu tôi viết xuống tờ giấy trắng, và khi tôi viết xong thì anh ta kêu lên “Ah, Ox-fớd”! Cuốn từ điển đó theo tôi cũng năm tháng, và đến nay đã 37 năm tôi vẫn còn giữ nó trên kệ sách như là một kỷ niệm về học tiếng Anh, dù ngày nay tôi ít khi nào đụng đến nó.
Đến đây thì tôi nghĩ không thể chủ quan trong cách phát âm tiếng Anh được. Không phải như tiếng Pháp, viết sao thì đọc giống vậy, còn tiếng Anh thì nhìn thấy như vậy mà đọc thì không phải vậy. Sau này tôi còn phát hiện rất nhiều chữ mà nếu không có cọ sát với xã hội ở đây thì rất khó phát âm đúng. Những chữ tiêu biểu đó là allowance, kibosh, celtic, candidate, niche, và những cái tên như Beauchamp, Worcester, Chloe, Bohun, Murray, McMahon, v.v. Những chữ/tên này, đa số (có thể 99%) người Việt dù đã có học thạo tiếng Anh vẫn phát âm sai.
Làm phụ bếp Sau vài tuần ở trong hostel, tôi bắt đầu tìm việc làm. Mỗi ngày tôi dò đọc mục “Employment” trong báo để tìm việc. Có lúc đi theo nhóm, có lúc đi một mình. Dạo đó, hễ có việc gì là lao vào làm, chứ không có lựa chọn. Người khá tiếng Anh thì xin đi làm lựa thư trong bưu điện, người kém tiếng Anh thì xin việc làm ở mấy hãng xưởng (thời đó Úc còn nhiều hãng lắm). Nhưng không may cho tôi, mỗi lần đi phỏng vấn là mỗi lần bị thất bại, vì tôi nói là chưa có kinh nghiệm làm hãng xưởng bao giờ. Ở xứ này, không có kinh nghiệm thì người ta không muốn nhận mình vào làm, có lẽ vì ngại mất thì giờ và tiền bạc để huấn luyện.
Một hôm, trên đường về nhà sau một lần nữa thất bại trong một cuộc phỏng vấn ở một hãng điện, tôi ngẫu nhiên để ý đến một khách sạn có tên “Belmore Hotel” với kiến trúc hơi lạ làm mình dễ nhớ. Tôi lại quay sang tờ báo và lần này, tôi để ý thấy Bệnh viện St Vincent’s đang cần một phụ bếp (kitchen hand). Tôi nghĩ tại sao mình không xin làm phụ bếp mà lại phải loay hoay tìm việc trong các hãng xưởng? Nghĩ thế, tôi vội xuống ga và đón xe điện khác đi ngược về hướng Đông thành phố Sydney, nơi bệnh viện St Vincent’s toạ lạc, để xin việc.
Sau khi điền xong đơn, tôi được bà giám đốc nhà bếp tên là Georgina Ramsey phỏng vấn. Bà hỏi tôi về lí lịch cá nhân, về kinh nghiệm làm trong nhà bếp. Vì đã thất bại quá nhiều lần trong các kỳ phỏng vấn trước đây, kỳ này tôi làm gan nói là có kinh nghiệm làm trong nhà bếp. “Làm ở đâu?” Tôi nhớ ngay đến cái tên Belmore Hotel và trả lời Belmore Hotel! “Làm ở đó bao lâu?” “Dạ, ba năm.” Bà ta nhìn tôi mỉm cười một cách khó hiểu, nhưng quyết định nhận tôi ngay ngày đó, và hẹn tôi ngày mai sẽ bắt đầu đi làm. Tôi mừng quá và trên đường về nhà, tự đãi cho mình một tô phở!
Một góc chợ người Việt (The Economist) Ngày đầu khóc vì… củ hành Ngày đầu tiên nhận việc là một ngày đầy ấp kỷ niệm vui buồn. Công việc tôi được giao phó là rửa nồi niêu, chén bát, và đặc biệt là xắt củ hành Tây. Chao ôi, lần đầu tiên trong đời tôi thấy cái gì cũng lớn và cũng nhiều. Số lượng nồi và chén bát nhiều đến nổi không đếm hết. Nói là “rửa chén”, nhưng thật ra là tất cả đều làm bằng máy. Cái máy rửa chén dài khoảng sáu mét, máy có ba đường băng để chén và nồi niêu xoong chảo trên đó, và có một bộ phận tự động chuyển những chén và nồi niêu xoong chảo sang một khu nước nóng để rửa. Đến đầu bên kia, có người chất đồ sạch xuống. Do đó, trên thực tế, suốt ngày tôi chỉ sắp xếp nồi chén chứ chẳng đụng tay rửa gì cả.
Ngoài việc đó, tôi phải làm hành tây và xắt rau cải cho phụ bếp. Khi hết việc thì phải tìm việc khác làm, như lau chùi nhà bếp cho sạch, nhìn cái gì thấy không vừa mắt là phải sửa. Nói chung là không có nghỉ. Không đợi người ta bảo phải làm gì mà phải chủ động đi tìm việc để làm. Không có chuyện đứng xớ rớ. Mỗi ngày có ba lần nghỉ giải lao: lần thứ nhất là khoảng 10 giờ sáng, được nghỉ 15 phút để uống cà phê; lần thứ hai là 1 giờ trưa, được 30 phút để ăn trưa; và lần sau cùng là 3 giờ chiều, 15 phút uống cà phê. Mỗi lần nghỉ là phải bấm card để quản lý xem mình có nghỉ quá giờ hay không; nếu nghỉ quá giờ, cho dù 5 phút quá giờ, thì sẽ bị trừ lương. Con người ở đây như là cái máy. Tuy nhiên, tôi thấy rất vui, vì trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế mà có việc làm là may mắn lắm rồi. Vả lại còn có tiền gửi về Việt Nam để giúp nhà.
Kỷ niệm đáng nhớ nhất là ngày đầu tiên khi tôi thấy quá nhiều hành tây (trong hai bao bố rất lớn, loại bao mà thời dưới quê tôi thấy họ dùng làm bao gạo trong mấy nhà máy xay lúa), tôi hơi nao núng và hỏi anh chàng giám thị (tức sếp tôi):
– Tôi phải lột hết hai bao này à?
Anh chàng giám thị người Tân Tây Lan tên là Gerry nhún vai nói:
– Dĩ nhiên, đó là công việc của mày mà!
Tôi cảm thấy mình ngây ngô làm sao! Dĩ nhiên, người ta mướn mình vào làm việc đó, chứ còn việc nào khác! Chỉ lột được hai ba củ hành, là nước mắt tôi dàn dụa vì cay mắt. Gerry lại thấy tôi “khóc” bèn đến hỏi: “Mày có sao không?” Tôi trả lời “Không” và dần dần làm xong công việc một cách tốt đẹp. Nhưng chỉ hai ngày sau, sau vài lần thử nghiệm, tôi đã tìm được quy luật lột củ hành mà không rơi nước mắt. Mặc dù đó là một công việc khá nặng nhọc, nhưng tôi vẫn làm việc một cách vui vẻ, và qua đó tôi học được tính tập trung trong khi làm việc cho dù là việc lớn hay nhỏ.
Thỉnh thoảng tôi còn được giao công việc lo kho thực phẩm. Mỗi ngày, tôi ký nhận rất nhiều thực phẩm, thịt thà, rau cải, đồ hộp, đủ cả. Nhận xong là phải sắp xếp vào kho cho thứ tự và có ghi nhãn đàng hoàng. Làm việc ở kho thực phẩm là có dịp học tiếng Anh. Thoạt đầu, tôi rất sợ cái… điện thoại. Số là khi giao hàng hay đặt hàng, người ta gọi điện báo trước và thủ kho phải ghi chép để báo cho người có trách nhiệm lo. Nhưng tiếng Anh của tôi tệ quá và mình cũng nhát, nên không dám bắt điện thoại. Anh chàng thủ kho lớn hơn biết và muốn giúp tôi, nên mỗi lần điện thoại reo là anh ta nói “Điện thoại của mày đó”. Mấy lần đầu tôi chẳng hiểu gì cả, và trả lời thì chắc đằng kia cũng chẳng hiểu mình nói gì. Nhưng chỉ vài ngày là tôi nắm bắt được những danh từ thông dụng và với sự hướng dẫn phát âm của anh thủ kho, tôi bắt đầu thích và yêu cái điện thoại này quá. Khi đã tự tin về ngôn ngữ thì mọi việc đều dễ dàng.
Tuy nhiên, lúc nào tôi cũng bị ám ảnh vì tôi đã khai từng làm trong nhà bếp ở Belmore Hotel ba năm. Một hôm, tôi gõ cửa văn phòng bà giám đốc Georgina Ramsey và chủ động thú nhận là tôi chưa bao giờ có kinh nghiệm nhà bếp. Tôi cứ tưởng bà ta sẽ cho tôi nghỉ việc, nhưng bà ta mỉm cười và nói với tôi rằng bà ta đã biết ngay từ ngày đầu là tôi không có kinh nghiệm gì trong nhà bếp (vì tôi khai trên giấy chỉ mới đến Úc có hai tháng), nhưng thấy hoàn cảnh khó khăn của tôi nên cho tôi cái công việc đó và nghĩ tôi có thể sẽ học hỏi từ từ cho quen việc.
Bà Ramsey còn nói cho tôi biết rằng trong nhà bếp này có rất nhiều người có bằng cấp cao từ các nước Đông Âu khác chứ chẳng riêng gì tôi. Bà khuyên tôi nên yên tâm làm việc và cuộc sống sẽ ổn định thôi. Trong thời gian này, tôi lân la tìm hiểu, và đúng như bà Ramsey nói, có rất nhiều người tị nạn và di dân từ các nước như Nga, Ba Lan, Hi Lạp, Nam Tư, Hong Kong, Trung Quốc, v.v. cũng có cùng số phận như tôi. Tôi càng nao núng hơn khi được biết là phần đông họ đã làm việc cả 10 năm trở lên! Tôi lúc nào cũng xem bà Ramsey là một ân nhân, vì người giúp mình trong lúc khó khăn mới là ân nhân thứ thiệt.
Làm phụ bếp Sau khoảng ba tháng làm nghề này, tôi được thăng chức làm phụ bếp. Bệnh viện St Vincent’s có khoảng 300 giường. Nhà bếp có năm đầu bếp chính (chief), và mỗi bếp chính có một phụ bếp (cook assistant) như tôi. Nhiệm vụ của tôi lúc này “nhàn” và oai hơn nhiều so với chức vụ trước. Tôi được cấp đồng phục gồm áo trắng, quần tây carô, cái khăn chef quấn ngang cổ, còn đầu đội nón cao vút như nón của bếp trưởng. Trông rất oai! Mấy người bạn làm chung chúc mừng tôi lên chức.
Nhiệm vụ của tôi là chuẩn bị thịt thà, rau cải cho bếp chính. “Chuẩn bị” ở đây có nghĩa là tôi phải xào nấu sơ qua và giao cho bếp trưởng chế biến tiếp. Có khi bếp trưởng bận (hay làm biếng), anh ta giao cho tôi nấu luôn. Thật ra, trước đó tôi đã được được bếp trưởng giao cho làm luôn khâu thứ hai, tức là khâu chế biến. Tôi học rất nhiều cách chế biến của đầu bếp ở đây: họ dùng bơ sữa rất nhiều trong nấu ăn, họ còn dùng rượu để chế biến thức ăn. Làm việc này có cái “lợi” là tha hồ ăn uống. Thịt bò steak muốn ăn thì tự làm và tự thưởng thức thoải mái. Thậm chí có đứa còn năn nỉ nhờ tôi làm cho chúng nó ăn!
Nhưng công việc cũng chịu áp lực. Đây là nhà bếp bệnh viện, nên tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm cực kỳ nghiêm ngặt. Mỗi tuần có hai lần thanh tra, và họ đến không báo trước. Dân nhà bếp chúng tôi rất ngán anh chàng thanh tra này. Thanh tra đi vòng vòng nhà bếp, thấy cái gì không an toàn (như nước nóng chảy mà không có khóa, hay dao để bừa bãi), thiếu vệ sinh (thịt thà không ngăn nắp, rau cải không được xử lý đúng qui trình) là bị phạt ngay. Tôi học ngăn nắp nhà bếp từ cách làm việc và tổ chức trong nhà bếp này từ đó. Cho đến nay, mỗi khi đi đâu mà thấy nhà bếp lượm thượm tôi rất bực mình.
Ngán thanh tra đã là một áp lực, ngán cô kiểm nghiệm thực phẩm còn hơn nữa. Trước khi đem thức ăn cho bệnh nhân ăn thì có một người kiểm tra nhiệt độ và chất lượng. Người kiểm nghiệm là một phụ nữ, mặc áo choàng trắng và có đeo vài đồ nghề đo nhiệt độ, kích thước, v.v. Tôi còn nhớ cô ta có cái nhiệt kế cứ cắm vào soup hay thức ăn để xem nhiệt độ; nếu không đủ nhiệt độ thì tất cả suất ăn phải làm lại. Nếu phạm ba lần thì sẽ bị đuổi. Không có ngoại lệ. Kỷ luật và vệ sinh nhà bếp ở đây phải nói là nghiêm ngặt, và nó cũng giúp mình làm việc gì, dù nhỏ hay lớn, là phải làm cho kỹ và giữ an toàn cho mọi người.
John Street (Cabramatta) một sáng chủ nhật (New York Times) Thử nghề ở “The Regent” Làm ở nhà bếp Bệnh viện St Vincent mà tôi vẫn thấy mình còn dư thì giờ. Tôi nghĩ tôi có thể làm nhiều tiền hơn nữa, và thế là tìm chỗ làm ban đêm. Cơ hội đến với tôi khi Khách sạn Regent mới được mở ở Circular Quay (ngay [cầu] Harbour Bridge). Đây là khách sạn năm sao, thời đó được xem là sang trọng nhất Sydney.
Khách sạn Regent cần tuyển rất nhiều nhân viên nhà bếp. Lương mà khách sạn trả thì… khỏi chê. Gần gấp hai lần lương của bệnh viện. Thế là tôi đệ đơn xin đi làm ở khách sạn. Tôi được phỏng vấn, và cách họ phỏng vấn cũng rất độc đáo. Họ hỏi đôi ba câu về cá nhân, rồi dẫn xuống nhà bếp, và xem mình làm ra sao. Họ muốn xem tôi có kinh nghiệm như thế nào trong nhà bếp, cách tôi cầm dụng cụ nhà bếp ra sao, cách tôi giữ an toàn vệ sinh thực phẩm, v.v. Đương nhiên, vì tôi có “kinh nghiệm đầy mình” ở bệnh viện St Vincent’s nên tôi “đánh bại” nhiều ứng viên khác.
Khi vào nhà bếp tôi gặp vài người quen từ trại tị nạn bên Thái Lan. Trong đó có thằng em tên Trạng. Nó được nhận làm trong khâu rửa chén. Hai anh em gặp lại ở đây, nó kinh ngạc nhìn tôi trong đồng phục phụ bếp và hỏi: Anh học nghề này hồi nào vậy? Tôi mỉm cười bí hiểm nói: từ ba tháng trước chớ từ hồi nào, mày làm gì ở đây? Nó nói: em làm bên kia kìa, và chỉ tay về cái máy rửa chén thiệt lớn. Hai anh em “chiến đấu” ở đây một thời gian, thì tôi quay về St Vincent’s vì chịu không nổi hai công việc, và lại làm việc ca đêm mà còn đi học.
Mua xe hơi Lương của tôi lúc đó là khoảng 200 đô-la một tuần. Sau khi trả tiền phòng, ăn uống, cũng còn khoảng 150 đô-la. Làm một thời gian, tôi có đủ tiền để mua cho mình một chiếc xe ôtô. Tôi và anh bạn tên Sáu Lợi (người “Mr Đu” cũng từ Thái Lan sang đây trước tôi vài tháng) cầm tiền đi mua xế hộp. Sáu Lợi lái xe đưa tôi đi hết dealer (nhà bán xe) này đến dealer khác, mà tôi vẫn không hài lòng.
Đến một dealer ở tận Parramatta, thì tôi thấy một chiếc xe cũ hiệu Toyota Corona đời 1977 (tức mới 5 năm tuổi), giá gần 7000 đô. Tôi ưng ý chiếc xe này lắm lên xe lái thử vài vòng là thấy “êm” rồi, muốn lấy nó về ngay. Nhưng khổ nỗi trong túi tôi chỉ có 5000 đô thôi. Tôi và Sáu Lợi kỳ kèo trả giá, và họ chỉ đồng ý giảm 1000 đô mà thôi, tức tôi vẫn còn thiếu 1000 đô. Sáu Lợi nói “Ông thiếu thì tôi về nhà lấy đưa cho ông mượn”. Sáu Lợi nói thêm: Mua xe là mua loại ngon lành, đừng chơi đồ dỏm mà sau này sửa hoài thì còn tốn tiền hơn. Tôi đồng ý. Trên đường lái xe về nhà, Sáu Lợi đi trước, tôi đi sau. Lần đầu tiên trong đời mình có xe riêng, lại còn tự lái, thong dong trên đường Sydney. Ôi, thú vị làm sao!
Chiếc xe Toyota Corona đó rất ư là “reliable”. Hết tuần này sang tuần khác, tôi chỉ việc đổ xăng và xem nước, và chạy đi khắp nơi. Có chiếc xe hơi trong xã hội này cũng giống như mình có cái xe gắn máy ở Việt Nam. Nó là phương tiện đi lại vô cùng quan trọng. Tôi đã dùng cái xe này gần 15 năm trời, đến khi anh bạn kiểm tra xe khuyên nên cho nó vào ‘nghĩa địa’ vì sườn xe cũ quá. Tuy sườn xe cũ, nhưng máy vẫn chạy ngon ơ. Tôi còn nhớ máy 17-RC làm ở Nhật. Đó là đời xe sau cùng làm ở Nhật, vì sau này những loại xe này được ráp ở Úc.
Thời đó, chi phí sống tương đối tốt. Nếu tôi nhớ không lầm, mỗi lít xăng chỉ tốn 20-30 cent mà thôi (nay là khoảng 1.3-1.4$). Cần nói thêm là một thùng bia Toohey và Swan lúc đó cũng chỉ tốn chừng 5$ (nay là 50$). Dân Việt chúng ta thích chơi xe. Những người trẻ chưa có gia đình, họ làm được bao nhiêu là dành cho chiếc xe xịn. Người Úc bản xứ rất ngạc nhiên khi thấy người tị nạn Việt Nam lái toàn xe mới, trong khi đó họ đi xe cũ. Người địa phương bắt đầu nghi ngờ và ganh tị. Họ phao tin rằng chính phủ Úc cho tiền bọn tị nạn này để chúng mua xe hơi. Tin nhảm như thế mà cũng có người tin! Họ không hiểu rằng người Việt rất thích bề ngoài, nên họ dành nhiều tiền cho những chiếc xe hơi đắt tiền.
Thời đó cũng dễ mua nhà. Một căn nhà ba phòng ngủ thời đó tốn khoảng 50,000$ (nay là 1 triệu đôla). Với mức lương công nhân chừng 300$ một tuần, và nếu hai vợ chồng chỉ cần làm chừng ba năm là có đủ tiền để tậu một căn nhà. Có người chịu khó làm lụng và mua đến hai căn nhà một lúc! Phải nói là người Việt chúng ta chịu khó làm việc và tích lũy tiền khá nhanh so với người địa phương.
Ra toà Có xe đi lại rất tiện vì không còn lệ thuộc vào xe lửa công cộng nữa. Lúc đó tôi đã đi học, nên lái xe đi làm, xong việc làm thì lái xe đến trường cách St Vincent’s chừng 30 km. Thời đó, đường phố Sydney ít xe, chứ không phải nhiều và kẹt xe thường xuyên như bây giờ nên lái xe rất thoải mái.
Vậy mà tai nạn vẫn xảy ra. Sáng sớm hôm đó, như thường lệ, tôi lái xe đi làm ở bệnh viện St Vincent’s, đến khu Newtown, khu phố cổ với nhiều đường nhỏ tí tẹo vốn thiết kế cho ngựa đi, nên cũng như bao nhiêu người khác tôi lái xe chậm lại. Gần đến một ngã tư có đèn đỏ, khi tôi chạy rất chậm thì một bà đi ngất ngưỡng đâm vào đầu xe tôi. Tôi hoảng quá nên thắng lại ngay, và bà nằm vạ trên đầu xe tôi. Tôi bước xuống xe thì thấy bà là một người thổ dân, hơi rượu nồng nặc. Bà chẳng có thương tích gì, vì không thể có thương tích với một tốc độ 5 km/h như thế. Tôi gọi cảnh sát để làm biên bản, và cảnh sát gọi xe cứu thương đến chở bà đi bệnh viện gần đó là Prince Alfred Hospital. Cảnh sát kết tội “negligence” (lơ đễnh) và chờ ngày ra tòa.
Lần đầu ra tòa là cả một kinh nghiệm. Tôi đến tòa án địa phương sáng sớm và lấy số để được xử sớm. Khi vào tòa, tôi đưa mắt nhìn quanh thì thấy rất nhiều người cũng đang chờ được xét xử. Người ta ăn mặc đủ thứ quần áo… chẳng giống ai. Họ cười nói như chẳng có chuyện gì, còn tôi thì bồn chồn lo cho tương lai của mình sẽ mất bằng lái xe.
Quan tòa đọc tên tôi và xác nhận có phải là chính tôi. Xác nhận danh tánh xong, ông hỏi tôi có luật sư không, tôi nói không. Ông hỏi: “Anh có đủ tiếng Anh để trả lời không?” Tôi nói: “Sẽ cố gắng”. Người ta đưa cho tôi một cuốn Kinh Thánh và bảo phải đọc: “Tôi tuyên bố tôi sẽ nói sự thật, chỉ sự thật, không khác gì hơn là sự thật”. Đọc xong, phía bên cảnh sát họ luận tội tôi và kết luận là lơ đễnh, đề nghị tịch thu bằng lái xe. Thời đó, bằng lái xe cũng chỉ là tạm thôi (loại màu đỏ).
Đến phiên tôi trả lời. Tòa quay sang hỏi tôi có đồng ý với bản luận tôi không. Trước khi ra tòa, tôi đã tìm hiểu tình trạng của bà nạn nhân. Bà ta không nhập viện, vì chẳng có thương tích gì, và được cho về nhà sau 30 phút khám. Cảnh sát cho tôi biết như thế. Do đó, tôi chuẩn bị những câu nói sẵn như “Sir, I was not negligent, because if that was the case, the woman would have been injured. She was not injured and discharged from the hospital within 30 minutes.” (Thưa ngài, tôi không lơ đễnh, vì nếu tôi lơ đễnh thì bà đó đã bị thương rồi. Bà không bị thương và xuất viện trong vòng 30 phút.”
Quan tòa và cảnh sát lại nói gì đó mà tôi không hiểu. Ông tòa quay sang lại hỏi tôi. Tôi cứ một câu mà nói hoài, vì đâu còn câu nào khác. Chỉ có một câu tủ thôi. Đến lần thứ ba, ông quan tòa bật cười ha hả và nói đại khái “Tay này không rành tiếng Anh, phải có luật sư mới công bằng”, rồi gõ cái cốp và phán “Hoãn lại! Ra tòa lần sau”!
Lần sau, người ta tìm cho tôi một luật sư công (vì tôi làm gì có tiền thuê luật sư tư). Ngày ra tòa gần kề thì tôi lại có việc ở Khách sạn Regent nên không dám lấy giờ đi dự tòa vì sợ mất việc. Thế là tòa xử vắng mặt. Tòa phán quyết rằng tôi lơ đễnh, và tịch thu bằng lái xe trong vòng một năm. Thời đó, bằng màu đỏ mà vi phạm giao thông là mất luôn, sau này phải thi lại. Thật ra, sau đó, tôi vẫn lái xe đi làm và đi học, vì nếu không lái xe thì lấy gì để đi học cách nhà cả 30 cây số mà không có xe lửa. Cũng may, trong vòng 12 tháng đó chẳng có cảnh sát nào xét bằng lái vì sau một lần tai nạn thì tôi rất cẩn thận trong lái xe.
Nhớ nhà Thời đó, bất cứ người tị nạn nào cũng nghĩ rằng sẽ không có ngày quay về Việt Nam. “Một lần đi là một lần vĩnh biệt / một lần đi là mãi mãi chia phôi.” Do đó, ai cũng mang trong lòng tâm trạng nhớ nhà kinh khủng. Mấy năm sau có vài lần đi công tác bên Singapore và Âu châu và tạt ngang qua Thái Lan, tôi cứ nhìn về quê nhà đau đáu. Nhìn về Việt Nam và biết chỉ có một giờ bay thôi, nhưng chưa thể về được. Có đêm nghỉ ở “The Montien” (một khách sạn ở Bangkok tôi hay ở) mà… khóc một mình.
Trong cái bối cảnh đó, có người sáng tác nhạc với những ca từ rất ray rức như: “Sài Gòn ơi, ta có ngờ đâu rằng / Một ngày qua là một ngày ly biệt / Một ngày qua là ta mất nhau rồi / Một ngày qua là muôn kiếp chia phôi.” Nhạc sĩ Việt Dzũng thì có bài “Một chút quà cho quê hương“, còn Đức Huy với bài “Khóc một dòng sông” (Tôi hay nhớ về quê nhà vào buổi chiều / nhất là những buổi chiều mưa rơi / Cũng may Cali trời mưa ít không như Sài Gòn / Nếu không tôi đã khóc một dòng sông…) mà mỗi lần Ngọc Lan trình bày là nhiều người khóc một cách tự nhiên. Có một ca khúc tôi còn nhớ đến nay trong đó có đoạn: “Ôi mẹ yêu ơi, con lang thang giữa phố đông người / Tuy phố đông người, nhưng con lạc loài một bóng đơn côi.” Ngay cả cái nóng bên này cũng làm mình nhớ nhà, nên tôi thuộc nằm lòng một bài ca thịnh hành thời đó:
Nắng bên này buồn lắm em ơi! Một mình anh lê bước trên đời Nắng nơi đây cũng là nắng ấm Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương
Phải nói, thời đó có những sáng tác về nỗi nhớ Sài Gòn và Việt Nam rất hay vì tác giả viết ra từ cảm xúc rất thật của họ. Phải chi bây giờ có ai đó [dám] làm một luận án về văn học và âm nhạc thời tị nạn đó thì hay biết mấy, vì đó là một giai đoạn rất đáng ghi vào sử sách Việt Nam.
Bây giờ thì người tị nạn đã có thể về quê tương đối bình thường, nên những lời nhạc trên hơi lỗi thời, và ít người còn ca những bài đó nữa. Tuy nhiên, với tôi những lời nhạc trên dù đã được viết ra hơn 30-40 năm về trước nhưng cho đến nay tôi thấy vẫn phản ảnh đúng tâm trạng của người xa quê, nhất là vào dịp 30/4.
Bối cảnh kinh tế Úc và Việt Nam thập niên 1980 Năm 1982 là thời gian kinh tế Úc lâm vào tình trạng suy thoái. Rất nhiều người mất việc làm. Tỉ lệ thất nghiệp cao hơn 6%. Tiền lời nhà băng cho vay mua nhà lên đến… 15%. Có lẽ nhiều bạn ngạc nhiên là tiền lời gì mà cao như thế, nhưng sự thật là vậy: 13-15%. Do đó, có được việc làm là một ‘thành tựu’ ngon lành, chứ không phải bình thường.
Người tị nạn làm bất cứ việc gì. Bất cứ họ xuất thân là học sinh, sinh viên, nông dân, công nhân, kĩ sư, bác sĩ, luật sư, tất cả đều phải làm lại từ đầu. Lý do là Úc không công nhận bằng cấp từ Việt Nam. Đa số thuyền nhân chẳng có một tấm giấy tùy thân, chẳng có bằng cấp gì mang theo cả. Do đó, công việc đơn giản nhất là làm trong các hãng xưởng kỹ nghệ. Thời đó, Úc còn có ngành kỹ nghệ kha khá, như làm tivi, làm xe hơi, làm động cơ, v.v. nên công ăn việc làm vẫn có dù kinh tế lâm vào tình trạng khó khăn. Đó cũng là những công việc khởi đầu của tuyệt đại đa số người tị nạn. Thời đó, chẳng ai nghĩ đến việc đi học lại, bởi vì kiếm đủ tiền để trả tiền nhà và gửi về nhà là mệt rồi; thời gian đâu mà học lại. Vả lại, khi đã vào làm và có tiền rồi, thì việc quay lại học là chuyện hơi… khó khăn.
Thời đó, kinh tế Việt Nam cũng lâm vào khủng hoảng và nghèo đói. Nhà tôi ở dưới quê tuy chưa bao giờ thiếu gạo ăn, nhưng hàng xóm thì có rất nhiều gia đình không có gạo ăn. Thử tưởng tượng một miền Tây trù phú từng xuất khẩu gạo mà chỉ sau năm năm dưới thể chế mới lại… thiếu gạo ăn! Chuyện không tưởng, nhưng có thật. Mà, chẳng riêng gì gạo, tất cả các nhu yếu phẩm cũng thiếu. Thiếu từ miếng vải đến cây kim. Không phải ngẫu nhiên mà Việt Dũng viết những câu như “Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá / Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may / Gởi về cho chị dăm ba xấp vải / Gởi về cho em kẹo bánh thênh thang / Em gởi về cho anh một cây bút máy / Gởi về cho mẹ dăm gói chè xanh / Gởi về cho chị hộp diêm nhóm lửa / Gởi về cho em chiếc nhẫn yêu thương …” Rất nhiều thùng quà mà trong đó có đủ thứ hàng hóa (quần jean, vải, kim tây, máy cassette, chocolate, thuốc lá) được đóng gói và chuyển về Việt Nam. Thành ra, một trong những ‘nghĩa vụ’ của thuyền nhân thời đó không chỉ ổn định cuộc sống ở quê hương mới mà còn phải có tiền để gửi về quê hương Việt Nam.
Người Việt ở Cabramatta (New York Times) Một chút suy từ: ‘Một cõi đi về’ Chiến tranh và thù nghịch dai dẳng đã tạo nên một cuộc di cư vĩ đại chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Tôi cũng nằm trong cơn lốc lịch sử đó mà lang thang ra ngoài Việt Nam. Thoát một cái, tôi đã xa quê gần 40 năm. Trong 40 năm đó đã có một, thậm chí hai, thế hệ đã hình thành. Thế hệ mới gần như không biết gì về biến động mang tính lịch sử đó! Tôi nghĩ đó là một thiệt thòi lớn cho giới trẻ. Do đó, những hồi ức như cái note này hi vọng rằng sẽ giúp cho họ có cái nhìn cân bằng và đầy đủ hơn những biến động trong thời gian qua sau cuộc chiến.
Giới trẻ ngày nay may mắn hơn chúng tôi nhiều. Nhìn lại mới thấy sự phá hoại của chiến tranh về trí lực và nhân lực rất ư là ghê gớm. Biết bao bạn bè tôi đã ngã gục trong chiến tranh, đã không có cơ hội theo học cho đến nơi đến chốn, đã phải chấp nhận cuộc sống gian khổ ở Việt Nam, hay đã bỏ mình trên biển Đông. Ngay cả những kẻ sống sót như tôi thì cũng chỉ là thế hệ “trâu chậm uống nước đục”. Một người ngoại quốc trung bình, sống trong cảnh thanh bình có thể đã thành danh và đang ở đỉnh cao của sự nghiệp vào độ tuổi 30 hay 40. Nhưng những kẻ thuộc thế hệ tôi thì chậm hơn nhiều và gian nan hơn nhiều. Với người phương Tây, tuổi 30 là đỉnh, còn với chúng tôi thì “Tuổi ba mươi ta sống tháng ngày xa lạ / tuổi ba mươi ta có quá khứ mịt mù” (lời thơ của Du Tử Lê).
Nhưng tôi vẫn thấy mình quá may mắn. Thật vậy, bây giờ, nhìn lại quãng đường đời và kinh nghiệm mình đã trải qua, tôi cảm thấy bên cạnh nỗi bất hạnh xa quê hương, tôi lại thừa hưởng được một may mắn rất lớn: có cơ hội học tập và tiếp cận với những khoa học hàng đầu thế giới. Các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ và Úc, đã mở rộng cửa đón tôi, cho tôi cơ hội bình đẳng với công dân của họ hầu như trong mọi lĩnh vực, kể cả ở những trường hàng đầu mà tổ tiên của họ đã từng bỏ ra hàng trăm năm để gầy dựng. Họ khen ngợi khi tôi gặt hái chút thành quả. Họ chịu đựng và thông cảm khi tôi khác họ. Nói chung, tôi đã được thụ hưởng những cơ hội mà khi còn ở trong nước tôi chẳng dám mơ tới. Sống sót đã là may mắn, được sống trong lòng khoa học như hiện nay là một may mắn vô ngần.
Nhiều khi tôi nghĩ cuộc đời là những chuyến đi về. Nói văn vẻ hơn là “một cõi đi về”. Cuộc đời tôi có vẻ ứng nghiệm câu này. Việc làm đầu tiên của tôi là ở Bệnh viện St Vincent’s. Mười năm sau, tôi lại quay về Bệnh viện St Vincent’s và vẫn còn ở đó cho đến nay. Hơn 10 năm trước, khi tôi được đề bạt chức vụ professor, người ta muốn làm “PR” và họ phát hiện rằng tôi từng làm trong nhà bếp St Vincent’s. Đó là một chất liệu quan trọng cho người làm PR. Nhưng tôi nói chuyện đó chẳng có gì to tát, bởi vì tất cả người Việt đến đây vào thời đó ai cũng như tôi, tức là bắt đầu bằng những công việc cực nhọc. Cực nhọc nhưng hạnh phúc.
Thuyền nhân người Việt nói chung cũng là một cõi đi về. Ngày xưa, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi, tạo nên làn sóng ‘thuyền nhân’. Rồi mấy mươi năm sau thì lại quay về. Một số đầu tư, một số đóng góp việc này, việc kia. Một số rất ít về Việt Nam tái định cư cho đến ngày qua đời. Nhạc sĩ Phạm Duy từng nói rằng ông muốn qua đời ở Việt Nam, và ông đã nói cho hàng triệu người Việt khác. Nhưng vẫn còn một số ít bị tước đoạt quyền thiêng liêng về thăm quê cha đất tổ, và tôi cho rằng những người tước đoạt cái quyền thiêng liêng đó là phi nhân bản.
Người tị nạn (refugee) khác với người di cư (immigrant). Người tị nạn là người tuyệt vọng, vô quốc tịch, không có tài sản, và họ bị “bứng” khỏi quê hương qua một biến động lịch sử. Người di cư có quốc tịch, họ có tài sản, và họ ra đi một cách tự nguyện. Người tị nạn do đó thường mang trong mình những chấn thương tinh thần. Người tị nạn sống giữa hai thế giới. Một bên là quê hương, nơi chôn nhao cắt rốn; một bên là quê hương tạm dung.
Người tị nạn bị giằng xé tâm tư, một bên là ký ức của quê hương đầy biến động và đau khổ, một bên là đất nước tạm dung giàu có nhưng chưa chắc là thoải mái. Do đó, người tị nạn đã xa rời quê hương, nhưng trong tâm tưởng họ chưa bao giờ rời quê hương. Họ ở đây mà không phải ở đây. Có khi họ về nơi mình sinh ra mà không thấy đó là quê mình. Họ thành đạt về kinh tế, họ có thể có địa vị trong xã hội nơi tạm dung, nhưng cái tâm của họ thì vẫn còn chông chênh. Họ cũng như là những con ma, thể xác đã chết đi nhưng họ vẫn còn lẫn quẫn đâu đây. Người tị nạn lúc nào cũng bị ám ảnh bởi căn cước tính của mình.
Nhà văn Nguyễn Thanh Việt viết rằng “tất cả các cuộc chiến đều diễn ra hai lần; lần thứ nhất là ở chiến trường, lần thứ hai là ở ký ức”. Chiến tranh Việt Nam dù đã kết thúc 44 năm về trước, nhưng đó chỉ là kết thúc trên chiến trường, chứ cuộc chiến ký ức thì vẫn còn tồn tại dai dẵng cho đến ngày nay. Sự hiện diện của những ‘thuyền nhân’ Việt Nam cùng những di sản của họ trên thế giới chính là một ký ức của cuộc chiến Việt Nam.
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 29, 2020 19:38:12 GMT 9
ĐBSCL 2020 CÁNH ĐỒNG CHẾT VÀ 45 NĂM ẢO VỌNG TRÍ THỨCMarch 31, 2020 saigonnhonews.com/bai-hay-trong-tuan/dbscl-2020-canh-dong-chet-va-45-nam-ao-vong-tri-thuc/GS Nguyễn Duy Xuân (trái) và GS Phạm Hoàng Hộ NGÔ THẾ VINH Tưởng nhớ GS Nguyễn Duy Xuân, GS Phạm Hoàng Hộ,
Hai tượng đài trí tuệ kiệt xuất, bất khuất của Miền Nam
Lời Dẫn Nhập: Giáo sư Phạm Hoàng Hộ sau khi hoàn tất bộ sách đồ sộ “Cây Cỏ Việt Nam” mà Giáo sư gọi là “công trình của đời tôi” và vào mấy năm cuối đời, như một Di Chúc, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã đề tặng toàn sự nghiệp ấy cho:
“Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước.
Tặng giáo sư Nguyễn Duy Xuân nguyên viện trưởng Đại Học Cần Thơ, mất ngày 10-11-1986 tại trại Cải Tạo Hà-Nam-Ninh.
Tặng hương hồn những ai trên biển Đông đã chết nghẹn ngào”.
Thế hệ sinh sau 30 tháng 4, 1975 nay cũng đã 45 tuổi rồi, cũng là 45 năm của một chính sách ngu dân lãng phí/huỷ diệt nguồn chất xám, và lăng nhục cả một thế hệ trí thức Miền Nam. Và nghĩ xa hơn, một Đồng Bằng Sông Cửu Long sẽ không chết như ngày nay nếu có một nhà nước biết trân trọng sử dụng nguồn chất xám ấy, mà biểu tượng là hai trí tuệ kiệt xuất của Miền Nam như Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Nguyễn Duy Xuân, là hai thành viên sáng lập Viện Đại học Cần Thơ năm 1966, và sau 1975 cả hai có cùng một ý nguyện chọn ở lại để xây dựng đất nước sau chiến tranh và thống nhất.
Để rồi, GS Nguyễn Duy Xuân thì chết thảm sau 11 năm bị đầy đọa trong trại tù cải tạo Hà-Nam-Ninh ở Miền Bắc, và GS Phạm Hoàng Hộ thì trải qua một chặng đường vô cùng đau khổ qua “một thời kỳ sống trong ảo vọng là sẽ thấy đất nước đi lên, giai đoạn đi xe đạp, ăn gạo hẩm, tưởng hoa sẽ nở trên đường quê hương” để rồi kết thúc là một cái chết buồn bã xa nửa vòng Trái đất bên ngoài quê hương, một quê hương mà ông suốt đời gắn bó và chẳng bao giờ muốn xa rời. Hình ảnh một Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một Giáo sư Nguyễn Duy Xuân những năm sau 1975, là tấm gương và cũng là một trải nghiệm đau đớn cho cả một thế hệ trí thức Miền Nam. Trang sử ảm đạm ấy là một bài học đắng cay cho cả một dân tộc sẽ không thể và không bao giờ quên. Với các thế hệ trẻ sau 1975 ở khắp năm châu, cùng với bản tiếng Việt, nay có thêm bản tiếng Anh để các bạn dễ dàng tiếp cận hơn với bài học lịch sử ấy.
NHỮNG NĂM ẢO VỌNG, GIÁO SƯ PHẠM HOÀNG HỘ VÀ BỘ SÁCH CÂY CỎ VIỆT NAM
Peter Shaw Ashton, Giáo Sư Charles Bullard, Ngành Lâm Học, Đại Học Harvard
“Với những ghi chú bằng tiếng Anh, cùng với những nét minh hoạ tinh vi của hơn 10.500 chủng loại, bộ sách Họa Hình Cây Cỏ Việt Nam/Illustrated Flora of Vietnam của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã cung cấp cho giới độc giả tiếng Anh lần đầu tiên và cập nhật một tài liệu tham khảo thấu đáo mà chúng tôi ít biết đến. Công trình này sẽ đứng như một tượng đài của sự quyết tâm, cống hiến, và uyên bác với lòng can đảm của tác giả. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hầu như đơn độc hình thành một công trình sinh học thực vật có tầm vóc hàn lâm/ academic tại Đại Học Sài Gòn giữa những năm tháng khó khăn. Trong hoàn cảnh cực kỳ thử thách ấy, giáo sư Hộ đã sưu tập được những chất liệu cho bộ sách đặc sắc này và cả những chuyến du khảo nhằm thu thập những mẫu vật để minh hoạ. Và nay công trình được xuất bản, đó sẽ là nguồn khích lệ cho các nhà sinh học trẻ ở Việt Nam và cả ở hải ngoại.
“Cây cỏ Việt Nam có thể lên tới 12.000 chủng loại. Bởi vì xứ sở này nằm sát bờ Thái Bình Dương Á Châu nhiệt đới, đó là hành lang cho những chuyển dịch theo chu kỳ Bắc-Nam/periodic North-South migration của thảm thực vật vô cùng phong phú từ phía Nam Trung Hoa và phong phú hơn nữa là thảm thực vật xích đạo Mã Lai / equatorial flora of Malaysia. Trên các rặng núi vẫn còn lưu lại những chủng loại tùng bách / conifer và thực vật có hoa / angiosperm taxa có tầm quan trọng vô song, trong khi các vùng bình nguyên mang dấu ấn của quá khứ có liên hệ tới các vùng hải đảo Phi Luật Tân và Borneo Nam Dương. Đến nay sự phong phú này hầu như tiêu vong. Những nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong chiến lược trồng cây tái sinh và bảo tồn sẽ được hỗ trợ bởi công trình của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ như một hồ sơ theo dõi các thảm thực vật đến nay còn tồn tại.”
TIỂU SỬ:
GS Phạm Hoàng Hộ, trên giấy tờ ngày sinh là 3 tháng 8 năm 1931 tại An Bình, Cần Thơ. Nhưng theo cáo phó mới đây của gia đình thì GS Hộ sinh năm Kỷ Tỵ 1929, mất ngày 29 tháng Giêng năm 2017 tại Montréal, Canada hưởng thọ 89 tuổi. Anh Phạm Hoàng Dũng, con trai GS Phạm Hoàng Hộ xác nhận là “Ba tôi sinh năm Kỷ Tỵ 1929, nhưng theo lệ ngày xưa thì lâu sau đó mới khai sinh, là năm 1931”.
Văn Bằng:
– 1953: Cử nhân khoa học, thủ khoa Thực Vật học, Paris
– 1955: Cao học Vạn Vật học, Paris
– 1956: Thạc sĩ / Agrégé Vạn vật học
– 1962: Tiến sĩ Khoa học / Vạn vật học, Paris
Chức Vụ:
– 1957-1984: Trưởng phòng Thực vật Đại học Khoa học Sài Gòn
– 1965-1984: Giáo sư Thực vật học Đại học Khoa học Sài Gòn
– 1962-1966: Giám đốc Hải học viện Nha Trang
– 1963-1963: Khoa trưởng Đại học Sư phạm Sài Gòn
– 1963: Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục
– 1966-1970: Viện trưởng sáng lập Viện Đại học Cần Thơ
– 1978-1984: Chủ bút tuần báo Khoa học Phổ thông Sài Gòn
– 1984-1989: Giáo sư Khảo cứu tại Viện bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris
Hội viên Khoa học:
— 1956: Hội viên Hội Thực vật học Pháp
— 1963: Hội viện Hội Tảo học Quốc tế (International Phycological Society)
— 1964: Hội viên Sáng lập Hội Sinh học Việt Nam
— 1965: Phó Chủ tịch Uỷ ban Danh từ Việt Nam
— 1967: Hội viện Hội Viện trưởng Đại học Quốc tế (APU)
— 1969: Sáng lập viên Niên san Đại học Cần Thơ
— 1971: Hội viên Uỷ ban Thẩm định hậu quả chất Da cam tại Nam Việt Nam, Viên Hàn lâm Khoa học Quốc gia, Hoa kỳ.
— 1973: Cố vấn Môi sinh Uỷ ban Quốc Tế Sông Mekong (MRC)
Ấn phẩm:
— 1960: Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam (Flore Illustrée du Sud Vietnam) – Bộ Giáo dục Việt Nam: 1 vol., 803 pp., 275 pls.
— 1964: Sinh học Thực vật – Bộ Giáo dục Việt Nam: 1 vol., 861 pp., nhiều hình
— 1968: Hiển hoa Bí tử – Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 506 pp., 264 pls.
— 1969: Rong Biển Việt Nam – Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 558 pp., 493 figs.
— 1970: Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam, in kỳ 2, quyển I – Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 1115 pp., figs. 2787
— 1972: Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam, in kỳ 2, quyển II – Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 1139 pp., figs. 5272
Cây cỏ Việt Nam: An illustrated Flora of Vietnam
— 1991, Tập 1 Quyển I: Khuyết Thực Vật. Lõa Tử. Hoa-cánh-rời đến Tiliaceae
— 1992, Tập 1 Quyển II Hoa-cánh-rời từ Eleagnaceae đến Apiaceae
— 1993, Tập 1 Quyển III Từ Smilacaceae… Cyperaceae… Poaceae… đến Orchidaceae
— 1991, Tập 2 Quyển I Hoa-cánh-rời từ Sterculiaceae đến Fabaceae
— 1993, Tập 2 Quyển II Từ Daphniphyllaceae… f*gaceae… Apocynaceae đến Scrofulariaceae
— 1993, Tập 2 Quyển III Từ Smilacaceae… Cyperaceae… Poaceae … đến Orchidaceae
— 1998: Cây cỏ có vị thuốc ở Việt Nam – NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh: 860 pp., Mô tả 2149 loài có vị thuốc gặp ở Việt Nam
Vẫn trong bản Tóm lược sự nghiệp Khoa học, GS Phạm Hoàng Hộ tâm sự: “Có lẽ vì lúc còn rất nhỏ tôi đã sống ở nơi vườn tược, ruộng đồng xanh um vùng châu thổ sông Cửu Long, nên từ nhỏ tôi đã thích cây cỏ. Tôi không bao giờ quên được hình ảnh của bông Súng ở ruộng hay ao, lộng lẫy dưới ánh mặt trời ban mai, hay hình ảnh của bông Nhãn lồng phơi mình dựa bờ ruộng. Nên Thực vật học và Sinh học Nhiệt đới đã hấp dẫn tôi lúc đi du học. Và lúc học ở Đại học Khoa học Paris, tôi đã bắt đầu tìm hiểu Cây cỏ Đông Dương. Tiếp xúc đầu tiên một cách khoa học với Cây cỏ ấy, tôi thực hiện ở Viện Bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris. Lúc mới học Vạn vật, tôi đã vào nhà kiếng của Viện này để tìm coi có loại nào ở nước nhà hay không. Và một số loài đã được vẽ từ lúc ấy! Tôi nhớ một số Lan đã được vẽ từ năm 1950, trong nhà kiếng ấy. Đó là những hình “xưa” nhất của bộ Cây cỏ của tôi. Sau này khi làm luận án Cao học, cũng ở Viện ấy, tôi mới có dịp vào Thảo Tập, và nhiều hình, nhất là của giống Ficus, khó, vì chưa nhiều loài đã được vẽ vì ngại sự khó khăn ấy về sau khi về bên nhà mà tài liệu thật là khó kiếm. Thật ra lúc ấy tham vọng của tôi vô cùng khiêm tốn, là sau này được biết các loại Ficus Việt Nam mà thôi! Cũng đã quá sung sướng rồi. Sau khi thi đậu Thạc sĩ / Agrégation hạng sáu, trên 300 thí sinh, và chỉ có 30 đậu, năm 1956 tôi về nước.
[* Ghi chú của người viết: cần phân biệt với bằng Thạc sĩ hiện nay ở Việt Nam tương đương với cao học/ master, trong khi Thạc sĩ / Agrégé ở Pháp là học vị về sư phạm, trải qua kỳ thi tuyển khó khăn, nếu thi đậu sẽ trở thành giáo sư thực thụ / professeur titulaire từ bậc trung học / lycée tới các trường cao đẳng / enseignement supérieur thuộc các ngành Khoa học, Y dược, Luật khoa]
Giáo sư Hộ viết tiếp: “Lúc ấy tham vọng của tôi chỉ là về dạy học ở một trường Trung học, và lúc rảnh rang sẽ tìm hiểu cây cỏ của vùng Lục tỉnh mà thôi, nhưng Viện Đại học Sài Gòn và Hải học viện Nha Trang “kéo” tôi về giảng dạy và trông nom Hải học viện. Khi làm việc ở Nha Trang tôi khảo cứu Rong biển, như là một phận sự. Và sau vài năm khảo cứu dưới sự hướng dẫn của Giáo sư J. Felmann, tôi hoàn thành luận án Tiến sĩ mà tôi trình ở Đại học Paris, năm 1961. Công trình này được đăng trong Niên san Khoa học Đại học đường Sài Gòn, và trong quyển Rong biển Việt Nam, cũng như một số ấn phẩm trong vài tạp chí khoa học.
Ở Sài Gòn, phận sự chính của tôi là giảng dạy Thực vật và Sinh học Thực vật (thay thế Giáo sư Pháp Roger, một nhà chuyên môn về nấm gây bệnh cây) cho sinh viên dự bị và chuyên khoa. Chính vì muốn giảng dạy tốt, thích nghi vào điều kiện nhiệt đới Việt Nam, các môn ấy mà tôi lục lạo và sau đó cho ra đời công trình mà sau này sẽ là công trình của đời tôi là Cây cỏ Việt Nam. [trích dẫn tư liệu gia đình GS. Phạm Hoàng Hộ: Văn Bằng, Sự Nghiệp Khoa Học của Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Thực vật học].
1959-1960, tôi / người viết bài này mới chỉ là sinh viên lớp dự bị Y khoa PCB / Physique Chimie Biologie tại Đại học Khoa học Sài Gòn và được học Thầy Hộ mới tốt nghiệp Thạc sĩ ở Pháp về, dạy môn Sinh Học Thực vật. Tuy chỉ được học Thầy một năm, nhưng Thầy đã để lại cho đám sinh viên và riêng tôi một niềm cảm hứng với những dấu ấn rất khó phai mờ. Vào trường Y khoa rồi, không còn được học Thầy Hộ nhưng tôi vẫn mang lòng ngưỡng mộ và cả theo dõi những bước đi và sưu tập những bộ sách công trình nghiên cứu khoa học của Thầy.
Vào đầu thập niên 1990, giới khoa học trong nước và hải ngoại rất đỗi vui mừng khi bộ sách Cây Cỏ Việt Nam của GS. Phạm Hoàng Hộ được lần lượt xuất bản. Theo GS Thái Công Tụng, hiện định cư tại Montréal thì các sách của GS. Phạm Hoàng Hộ hiện có đầy đủ ở Bibliothèque Jardin botanique Montréal, Canada, và dĩ nhiên là có trong nhiều thư viện lớn trên thế giới.
Trọn bộ Cây cỏ Việt Nam gồm hai Tập, mỗi Tập 3 Quyển, tổng cộng khoảng 3.600 trang, chưa kể Phần Từ Vựng tên Việt Nam và Từ Vựng tên Khoa học các Giống (Chi) bao gồm thêm cả công trình của những năm tháng giáo sư rời quê hương Việt Nam sang Pháp, vẫn tiếp tục cặm cụi làm việc.
Riêng tôi / người viết đã sớm có được trọn bộ 6 Quyển Cây Cỏ Việt Nam xuất bản ở hải ngoại do bác sĩ Phạm Văn Hoàng nguyên Giám đốc Trung Tâm Phục Hồi Cần Thơ, một đàn anh trong Y khoa gửi tặng, anh Phạm Văn Hoàng chính là bào đệ của GS Phạm Hoàng Hộ.
Tưởng cũng nên ghi lại ở đây, là trước 1975, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã từng là Cố vấn Môi sinh Uỷ ban Sông Mekong/ Mekong River Committee và khoảng năm 1974 hai Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và Thái Công Tụng đã có một nghiên cứu chung về Môi sinh Đồng Bằng Sông Cửu Long: The Mekong Delta, Its environment, Its Problems; [do Bộ Canh Nông VNCH xuất bản, Sài Gòn 1974]; khi tìm kiếm tới tài liệu có tính cách lịch sử ấy, tôi được anh GS Thái Công Tụng bùi ngùi cho biết: là đã mất hết sau cơn binh lửa…
Để tìm hiểu thêm tại sao, các tác phẩm khoa học của Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ lại được ưu tiên xuất bản bằng tiếng Việt cho dù ngôn ngữ chính thông thạo của GS. Hộ trong suốt quá trình đào tạo và giảng dạy là tiếng Pháp.
Trong lời mở đầu quyển Rong Biển Việt Nam xuất bản năm 1969, GS. Phạm Hoàng Hộ viết: “Lúc đầu, quyển sách này được thảo bằng ngoại ngữ, khi làm việc ở Hải học viện Nha Trang và ở Museum, và tôi có hoài bão được xuất bản trong ngoại ngữ ấy để công bố công trình khảo cứu của mình ra bốn phương, như lời hứa ngầm lúc trình luận án.
Song nay tôi đã đổi ý và cho xuất bản bằng tiếng Việt Nam. Đó là để chứng minh rằng ngôn ngữ nào, miễn được chăm sóc, đều có thể diễn tả kiến thức ở mọi trình độ. Tôi biết rằng có nhiều người cho rằng không ấn hành trong một ngôn ngữ quốc tế là phí công, giới khảo cứu làm sao biết đến. Nhưng tôi thấy chẳng cần đến việc ấy. Được mấy mươi triệu người Việt Nam biết và dùng, có giá trị hơn là được vài ngàn học giả chuyên môn thưởng thức. Tôi đã bỏ cái tự hào sai là tranh đua cùng người ngoài để tự tạo lấy thanh danh, “làm thơm lây dân Việt”. Tôi tin rằng cái tự hào ấy không thực tế, vì một người Việt Nam hay, không bằng nhiều người Việt Nam khá: cầm đuốc soi thành phố người có vẻ không thức thời trong khi nước nhà còn u ám. Cái tự hào trên thật ra chỉ để che đậy sự trốn trách nhiệm, sự bỏ phận sự trước con cháu chúng ta một cách không tha thứ được.
Tạo ra cho chúng ta một nền văn chương khoa học là một công trình rất bao la. Vì thấy nó quá to tát nên nhiều học giả chấp nhận giải pháp dễ nhất: học ngay trong văn chương khoa học ngoại ngữ vô cùng phong phú, dồi dào. Cái học như vậy sẽ cho ta những người giỏi, nhưng ta không quên rằng nền văn minh bây giờ là văn minh của đại chúng chứ không phải của vài người được nữa. Ta đừng để cho sự phong phú của văn hoá nước ngoài đè bẹp ta. Người Nhật, cách đây một thế kỷ, há đã không hoảng sợ trước sự hùng mạnh của khoa học nước ngoài sao? Mà nay họ đã tự tạo được một một nền văn chương khoa học riêng biệt đã đến lúc gần hay hơn cả những nước ấy!
Hơn lúc nào hết, câu của Nguyễn Văn Vĩnh vẫn còn vẳng bên tai: “Nước Việt Nam ta sau này hay hay dở là ở chữ quốc ngữ”. Trong thế giới tương lai, sự lệ thuộc về văn hoá, nhất là về văn hoá khoa học sẽ là sự lệ thuộc chánh”. [Lời Mở Đầu của quyển Rong Biển Việt Nam; Trung Tâm Học Liệu, Bộ, Giáo Dục xuất bản 1969].
CHẶNG ĐƯỜNG ĐAU KHỔ
Hình ảnh một Giáo sư Phạm Hoàng Hộ những năm sau 1975, là một tấm gương và cũng là một trải nghiệm đau đớn cho cả một thế hệ trí thức Miền Nam mà Giáo sư Phạm Hoàng Hộ là một biểu tượng. Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ thì bộ sách Cây cỏ Việt Nam đã được thực hiện qua bốn giai đoạn:
— Nghiên cứu giai đoạn một: hợp tác với GS Nguyễn Văn Dương về phần dược tính, Cây cỏ Miền Nam Việt Nam, do bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1960 mô tả 1.650 loài thông thường của Miền Nam, “Đó là giai đoạn còn mò mẫm, học hỏi một thực-vật-chúng chưa quen thuộc đối với một sinh viên vừa tốt nghiệp từ vùng xa lạ mới về.
— Nghiên cứu giai đoạn hai: kỳ tái bản lần hai 1970 bộ Cây cỏ Miền Nam Việt Nam, số loài lên được 5.328 [Hình 2]. “Đó là giai đoạn mà tôi xem như vàng son của một nhà thực vật học Việt Nam chúng ta. So với bây giờ, lúc ấy tôi yên ổn làm việc, có nhiều phương tiện cá nhân cũng như của non nước và nhất là được sự khuyến khích của mọi giới, bạn bè cũng như chính quyền.
— Nghiên cứu giai đoạn ba: tiếp tục công việc nghiên cứu sau 1975, đưa thêm được vào bộ sách Cây cỏ Miền Nam Việt Nam 2.500 loài và bộ được nới rộng cho toàn cõi Việt Nam.
Sau biến cố 1975, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cũng như người bạn đồng hành trí tuệ của ông là Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã cùng chọn ở lại để xây dựng đất nước sau chiến tranh và thống nhất, nhưng với cái giá rất đắt mà sau này được GS Hộ ghi lại là: “Thời kỳ sống trong ảo vọng là sẽ thấy đất nước đi lên. Giai đoạn đi xe đạp, ăn gạo hẩm, tưởng hoa sẽ nở trên đường Quê hương.”
Tuy Giáo sư Phạm Hoàng Hộ vẫn còn chức danh là Hiệu phó [phó Khoa trưởng] Đại học Khoa học, nhưng chính quyền mới chỉ sử dụng trí thức cũ như ông chủ yếu là “làm kiểng”, không có vai trò tương xứng trong giáo dục. Vì không là đảng viên, nên khi có vấn đề gì thì Đảng bộ họp riêng và quyết định, có việc ông không bao giờ được biết. Năm 1977 sau trải nghiệm những ngày học chính trị, một lớp học kéo dài mười tám tháng về “Chủ nghĩa xã hội khoa học” dành riêng cho các trí thức Miền Nam tổ chức tại TP.HCM; từ rất sớm, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã phản đối cách đào tạo đưa thời gian học chính trị quá nhiều vào chương trình. Ông cảnh báo: “Nếu chính trị can dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ mất căn bản”. [Huy Đức, Bên Thắng Cuộc]
Rồi phải chứng kiến một thiểu số trí thức cũ xu thời, mau chóng hợp tác toàn diện với chế độ mới, bất chấp sự liêm khiết, sẵn sàng cống hiến những công trình mệnh danh khoa học theo phong trào để mừng các ngày lễ hội 3-2 hay 19-5 như các bài báo chứng minh “ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký thịt bò” hoặc là “ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo”… những công trình “giả khoa học / pseudo-science ” ấy đã mau chóng trở thành giai thoại đầy mỉa mai được lan truyền trong các trại tù Cải tạo, nơi mà đám tù nhân Miền Nam đang bị thiếu ăn suy dinh dưỡng với thực phẩm cung cấp chủ yếu là gạo hẩm “đại mễ” của Trung Cộng cùng với bo bo và khoai mì / ngoài Bắc gọi là sắn.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cũng như số trí thức cũ khảng khái của Miền Nam còn ở lại, thấy không thể tiếp tục sống trong một xã hội giả dối và suy đồi đến như thế, việc ông đi tới quyết định phải chấm dứt những năm “ảo vọng” và lãng phí ấy, là điều không thể tránh. Và rồi dịp ấy đã tới, năm 1984 khi được Chính phủ Pháp mời sang làm giáo sư thỉnh giảng, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã quyết định chọn cuộc sống lưu vong và ở lại Pháp.
— Nghiên cứu giai đoạn bốn: một giai đoạn mà giáo sư Phạm Hoàng Hộ gọi là “vừa hiếm có vừa đau khổ nhất”. Giáo sư Hộ viết tiếp: “Đau khổ vì rời quê hương mà không hy vọng trở lại. Đau khổ vì xa gia đình thân yêu, vĩnh biệt mẹ hiền đã trọn đời hy sinh cho các con. Đau khổ vì thấy đất nước thân yêu đang ở trong một nỗi khổ khôn lường, một sự nghèo khôn tả, một sự tuyệt vọng thương tâm.”
Nhưng rồi với hùng tâm, ông cũng vượt lên trên sự khổ đau khôn lường ấy. Giáo sư Hộ đã kiên nhẫn đằm mình trong Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris, cật lực làm việc ròng rã suốt sáu năm. Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia ở Paris / Muséum National d’Histoire Naturelle (MNHN) thuộc hệ thống Đại học Sorbonne, bên tả ngạn Sông Seine, được thành lập từ thế kỷ XVIII thời kỳ Cách Mạng Pháp.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cho rằng: “Hiếm có một nhà Thực vật học, nhất là người Việt Nam, đã lục lạo cây cỏ ở nước nhà, lại được ở lại nghiên cứu tại Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Pháp, chứa một thảo tập phong phú vào bậc nhất thế giới, với 8 tới 10 triệu mẫu vật cây cỏ. Ít nhất cho Việt Nam, nó là kho tàng duy nhất, vì chứa hơn 10 ngàn loài thu được ở nước ta. Trong sáu năm làm việc ở Viện ấy, không một ngày nào mà khi chiều ra về, dù trời đông âm u lạnh lẽo, hay chiều hè vắng vẻ nóng khô, mà tôi không thốt ra câu “Thật là một ngày tuyệt” vì đã biết thêm cho Việt Nam ít nhất là một loài hiếm, lạ hay mới!” Trong giai đoạn chót này, ông bổ túc thêm cho bộ Cây Cỏ được trên 3.000 loài. Số loài mô tả khoảng 10.500.
Tại Pháp khi gặp lại người học trò cũ, nay đã là thành viên trong ban giảng huấn Đại học Khoa học Sài Gòn, cũng đang làm việc tại Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Pháp nghiên cứu về Cá / Laboratoire d’Ichthyology, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã tâm sự:
“Tôi ráng làm càng nhiều càng tốt. Bộ sưu tập của Pháp rất dồi dào, đúng phương pháp khoa học. Do được sưu tập từ mấy mươi năm trước, các mẫu vật đã cũ, mình không làm gấp e sẽ hư hỏng thì uổng quá… Nhiều người Trung Quốc từ đại lục và cả từ Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ sưu tập thực vật Đông Dương của Pháp. Tôi không biết họ có chủ trương gì đó không. Tài nguyên nước mình, mình phải biết. Mình không biết mà người ta biết thì người ta xài hết của dân mình. Lãnh vực nào cũng vậy riết rồi người ta áp chế mình, ăn trên ngồi trước còn mình cắm đầu dưới đất, tiếng là có độc lập mà còn thua hồi thuộc Pháp!” [4]
Sau khi hoàn tất bộ sách Cây Cỏ Việt Nam, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã bày tỏ lòng tri ân sâu xa đối với Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris và các bạn đồng sự Pháp, ông đã rất chân thành tâm sự: “Thực hiện những điều mà lúc nhỏ dù điên rồ tới đâu tôi cũng không dám mơ ước: nô lệ của một thuộc địa, học ở một trường thường, ở một tỉnh nhỏ, bao giờ dám nghĩ đến tạo một quyển sách dù nhỏ bé, mê cây cỏ xung quanh nhưng bao giờ nghĩ đến biết cây cỏ cả nước!”
Người “trí thức đau khổ” Phạm Hoàng Hộ đã vươn lên và hoàn tất được “giấc mơ điên rồ” tưởng như không thể được ấy và trở thành cây “đại thụ” trong Khoa học Thực vật của Việt Nam và cả thế giới.
CHÚT GIAI THOẠI VĂN HỌC
Trong cuốn Bông Hồng Tạ Ơn, khi viết về bộ sách của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhớ lại: “Các năm trước 1975, bộ sách của giáo sư Phạm Hoàng Hộ còn mang tên là Cây Cỏ Miền Nam. Cuộc chia cắt đất nước đã giới hạn tầm mức của cuốn sách. Thế nhưng công trình của giáo sư Phạm Hoàng Hộ không phải chỉ được coi là quý đối với các nhà chuyên môn về thực vật học, mà theo nhà văn Võ Phiến có kể lại trong bộ sách Văn Học Miền Nam soạn thảo tại hải ngoại sau 1975, thì đã có nhiều nhà văn, [trong số đó có Nguyễn Đình Toàn] đã tìm đọc cuốn Cây Cỏ Miền Nam để biết thêm về một vài loại cây cỏ quanh mình, để khi cần, có thể đưa vào tác phẩm”. Giai thoại văn học này có lẽ, chính Giáo sư Phạm Hoàng Hộ không hề biết tới.
SÁNG LẬP VIỆN ĐẠI HỌC CẦN THƠ
Khoảng thập niên 1960, do sự vận động của các nhân sĩ trí thức Cần Thơ, với hai tên tuổi hàng đầu là Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và bác sĩ Lê Văn Thuấn, Viện Đại học Cần Thơ được phép thành lập vào ngày 31-03-1966 và cũng là Đại học đầu tiên của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Giáo sư Phạm Hoàng Hộ là Viện trưởng đầu tiên của Đại học Cần Thơ từ 1966 tới 1970.
Với uy tín lớn về thành tích khoa học và cả về nhân cách, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã quy tụ được rất nhiều “chất xám” tinh hoa của Miền Nam thời bấy giờ; chỉ riêng trong lãnh vực Nông Nghiệp có thể kể tới sự hợp tác của những tên tuổi như GS Tôn Thất Trình, GS Thái Công Tụng, TS Nguyễn Viết Trương, TS Trần Đăng Hồng với công lao bước đầu đưa giống Lúa Thần Nông/ HYV / High Yield Variety vào ĐBSCL.
Rồi phải kể tới một đội ngũ giảng huấn đầy khả năng khiến Đại Học Cần Thơ mau chóng trở thành một trung tâm giáo dục và khoa học có tầm cỡ, đáp ứng nhu cầu trí tuệ của của một vùng châu thổ rộng lớn rất giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng chưa được khai thác. Để có thể thấy được thành quả bước đầu của Viện Đại học Cần Thơ, đó là các lớp sinh viên đầu tiên trưởng thành và tốt nghiệp bốn năm sau đó.
Giáo sư Đỗ Bá Khê [là thầy dậy tôi môn Vật lý năm PCB], trong “think tank” của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cũng đến từ Đại học Khoa học Sài Gòn, cách đây 50 năm, trong bài diễn văn “xuất trường” của Viện Đại Học Cần Thơ, đã có một tầm nhìn rất xa về vai trò của Viện Đại Học này đối với tương lai vùng Đồng Bằng Châu Thổ:
“Ngày nay (19/12/1970) trong Thời Đại Khoa Học Kỹ Thuật, các tỉnh ĐBSCL đang trông chờ nơi ánh sáng soi đường của Viện Đại Học Cần Thơ và ước mơ một chân trời mới, tô điểm bằng những cành lúa vàng nặng trĩu, những mảnh vườn hoa quả oằn cây, dân cư thơ thới, một cộng đồng trù phú trong một xã hội công bằng.”
Giáo sư Đỗ Bá Khê cũng là người khai sinh ra hệ thống Đại học Cộng đồng [ĐHCĐ] tại Miền Nam trước 1975, theo mô hình Community College Concept của Mỹ, với điển hình là Đại học Cộng đồng Tiền Giang thành lập năm 1971 tại Mỹ Tho, tiếp theo là ĐHCĐ Duyên hải tại Nha Trang… nhưng rồi sau 1975, cùng chung số phận của cả một hệ thống giáo dục tốt đẹp Miền Nam bị sụp đổ, mô hình Đại học Cộng đồng cũng đã hoàn toàn bị chế độ mới làm cho biến thể, và mất hết ý nghĩa tâm nguyện ban đầu của người khai sinh sáng lập.
Hình 6: Những năm về sau này, cho dù đã phải sống xa quê nhà, nhưng tấm lòng GS Đỗ Bá Khê vẫn cứ luôn đau đáu hướng về “tương lai ĐBSCL và vai trò của Đại Học Cần Thơ trong việc bảo vệ và phát triển vùng này.” [tư liệu Ngô Thế Vinh: thư tay của GS Đỗ Bá Khê viết từ Thành phố Concord, California ngày 29.05.2002]
***
GIÁO SƯ NGUYỄN DUY XUÂN – NGỌN HẢI ĐĂNG TRÍ TUỆ MIỀN TÂY NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH
Đến năm 1970, bước đầu xây dựng được một Đại học Cần Thơ vững vàng, để có thể trở về Sài Gòn tiếp tục các công trình nghiên cứu khoa học và giảng dạy, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ chính thức mời Giáo sư Nguyễn Duy Xuân về thay ông, làm Viện trưởng thứ hai của Viện Đại Học Cần Thơ.
Giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng là người Cần Thơ, sinh năm 1925, hơn Giáo sư Phạm Hoàng Hộ bốn tuổi, tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Vanderbilt-Hoa Kỳ, trở về Việt Nam 1963, giáo sư Luật. Nhận chức Viện trưởng từ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã nỗ lực phát triển Viện Đại học Cần Thơ trên mọi lãnh vực từ chương trình giảng dạy, đào tạo ban giảng huấn, xây cất thêm giảng đường, phòng thí nghiệm, thiết lập ký túc xá như hệ thống campus cho sinh viên đến từ các tỉnh xa Miền Tây. Ông là người tiên phong thực hiện giáo dục đại học theo tín chỉ / credits (thay vì chứng chỉ, certificate như trước đây); giống như mô hình hệ thống Đại học Hoa Kỳ. Ông còn gửi cả một đội ngũ giảng viên trẻ đi du học, điển hình như anh Trần Phước Đường đi Mỹ tốt nghiệp tiến sĩ tại Đại học Michigan, sau đó họ trở về trường phục vụ ngành Sinh học, Giáo sư Trần Phước Đường sau này trở thành Viện trưởng Đại học Cần Thơ từ 1989 tới 1997.
Năm 1972, ông cũng đích thân mời nhà nông học trẻ Võ Tòng Xuân khi ấy đang công tác ở Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế Los Banos Philippines về trường giảng dạy. Sau này anh Võ Tòng Xuân kể lại, khi nhận được thư của GS Nguyễn Duy Xuân: “Anh Nguyễn Duy Xuân nói ĐBSCL là cái vựa của lúa gạo nên rất cần những nhà khoa học về nông nghiệp. Chiến tranh rồi có ngày hòa bình, đất nước sẽ cần những người như tôi. Đó là một trong những lý do tôi về công tác ở Đại học Cần Thơ.” TS Võ Tòng Xuân sau này trở thành một Giáo sư Nông học danh tiếng, “Doctor Rice” tên tuổi anh Võ Tòng Xuân gắn liền với sự tiếp nối phát triển cây Lúa Thần Nông và sau đó anh là Viện trưởng Đại học An Giang là Đại học lớn thứ hai của ĐBSCL sau Viện Đại học Cần Thơ.
Chỉ trong vòng chín năm [1966 – 1975] với công lao xây dựng của hai Viện trưởng tiền nhiệm: GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân, Viện Đại Học Cần Thơ như một Ngọn Hải đăng Miền Tây, trở thành một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, đặc biệt bước đầu ưu tiên phát triển hai lãnh vực Sư phạm và Nông nghiệp, vững vàng sánh bước với các Viện Đại học lâu đời khác của Miền Nam, đóng góp cho sự thăng tiến của vùng ĐBSCL.
TỪ ẢO VỌNG TỚI THẢM KỊCH
Chỉ mấy ngày trước biến cố 30 tháng 4, 1975, cũng như GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân như một trí thức dấn thân, quyết định ở lại và giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng. Ông vẫn can đảm nhận chức Tổng trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Giữ chức vụ đó chưa đầy một tuần lễ thì chính quyền Miền Nam sụp đổ, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
GS Nguyễn Duy Xuân bị đưa vào trại tù cải tạo, sau đó bị đưa ra Bắc, giam trong trại tù Hà-Nam-Ninh, hầu như không có ngày về. Vẫn theo anh Võ Tòng Xuân (VTX), năm 1983, trong một lần ra Hà Nội dự họp, anh VTX đã vô trại Ba Sao để thăm lại vị Viện trưởng của mình khi còn ở Viện Đại học Cần Thơ. Gặp lại đồng nghiệp, GS Nguyễn Duy Xuân rất mừng, và dù đang trong nghịch cảnh tù đầy, ông vẫn đau đáu quan tâm hỏi han tới hiện trạng của Đại học Cần Thơ, nơi mà ông và GS Phạm Hoàng Hộ đã dày công xây dựng.
Tôi, người viết bài này không thể không tự hỏi nếu không có 11 năm giam hãm đầy đoạ độc ác và vô ích của những người Cộng sản thắng cuộc, nếu GS Nguyễn Duy Xuân, một Tiến sĩ Kinh tế tài ba và giàu lòng yêu nước như ông vẫn tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại học Cần Thơ với nhịp độ 1966-1975, không biết Viện Đại học Cần Thơ và ĐBSCL sẽ phát triển và tiến xa tới đâu.
Năm 1983 là lần gặp gỡ đầu tiên của hai Giáo sư cùng tên Xuân sau 1975 ở trại Ba Sao và cũng là lần cuối cùng GS VTX được gặp lại GS Nguyễn Duy Xuân. Tiếp tục bị đầy ải thêm ba năm nữa, tổng cộng 11 năm, GS Nguyễn Duy Xuân đã chết trong tù cải tạo Hà- Nam-Ninh ngày 10 tháng 11 năm 1986 trong đói khát và bệnh tật không thuốc men. Xác của ông được vùi nông trong nghĩa địa tù cải tạo trên triền núi phía sau trại tù Ba Sao.
Phải mãi đến tháng 4 năm 2015, gần 30 năm sau, di cốt của GS Nguyễn Duy Xuân, mới được người con gái là bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga từ Pháp về bốc mộ đưa từ nghĩa địa trại tù Ba Sao Hà-Nam-Ninh về Chùa Thiên Hưng, Quận Bình Thạnh-Sài Gòn để lưu giữ tại đây. Trong buổi lễ cầu siêu, ngoài các thành viên của gia đình cố Viện trưởng Nguyễn Duy Xuân, còn có một số cựu giảng huấn và các cựu sinh viên tốt nghiệp Đại học Cần Thơ trước 1975 như GS Võ Tòng Xuân, TS Nguyễn Tăng Tôn (cựu SV), TS Nguyễn Văn Mận (Cựu SV), KS Minh (Cựu SV) Ông Hòa (nhân viên hành chánh), đến tham dự buổi lễ.
VIỆN ĐẠI HỌC CẦN THƠ SAU 1975
Thay thế Giáo sư Viện trưởng Nguyễn Duy Xuân là ông Phạm Sơn Khai, gốc Miền Nam Tập kết là đảng viên Cộng sản, với học vị “Chuyên Ngành Lịch Sử Đảng”, ông Khai được đề cử giữ chức Viện trưởng và lãnh đạo Đại học Cần Thơ trong suốt 13 năm từ 1976 tới 1989.
Kể từ sau 1975, chính quyền mới với chủ trương một nền giáo dục “hồng hơn chuyên” nên học trình của Đại học Cần Thơ, cũng như toàn hệ thống các Đại học Miền Nam đã có thêm môn học chính trị cưỡng bách “Chủ nghĩa Mác Lê và Tư Tưởng Hồ Chí Minh”. Một môn học mà “thầy không muốn dạy, trò không muốn học” nhưng vẫn cứ được duy trì cho đến ngày hôm nay. Ngót nửa thế kỷ, 45 năm sau ngày thống nhất đất nước, trên toàn cõi Việt Nam vẫn chưa có được một nền “tự trị đại học”. Quá sớm để nói tới dân chủ hoá đất nước, khi mà các Đại Học như những “Think Tank” vẫn còn bị chi phối lãnh đạo bởi những Chi bộ Đảng Cộng Sản.
Hình 10: GS Võ Tòng Xuân mời GS Phạm Hoàng Hộ tham gia chuyến khảo sát Đồng Tháp Mười của Đại học Cần Thơ, tháng 3, 1981. Từ trái, TS Trần Thượng Tuấn, TS Nguyễn Thị Thu Cúc (bị che), ThS Đỗ Thanh Ren, GS Võ-Tòng Xuân, GS Trần Phước Đường, một cán bộ Phân Viện Qui Hoạch, GS Phạm Hoàng Hộ, một cán bộ tỉnh Đồng Tháp. [nguồn: tư liệu Võ Tòng Xuân]. Qua một email, anh Võ Tòng Xuân kể lại: “Tôi nhớ mãi GS Hộ trong chuyến đi đó, ông rất kỹ về vấn đề ăn uống, đem theo đồ ăn và bình ton đựng nước uống riêng”.
GS PHẠM HOÀNG HỘ SINH NHẬT 80
Tháng 7 năm 2009, một số môn sinh đã tổ chức tại Montréal một lễ mừng sinh nhật 80 tuổi của GS Phạm Hoàng Hộ, cùng với một bức tượng được đem tới tặng Thầy với phát biểu đầy xúc động của một môn sinh: “Bức tượng không phải chỉ là hình ảnh của một giáo sư Thực Vật đáng kính mà còn là biểu tượng của người trí thức Miền Nam, đã hiến trọn đời mình cho khoa học, hết sức khiêm tốn so với tài năng của mình và nhất là hết lòng yêu quê hương đất nước.”
Cũng rất ý nghĩa, trong buổi họp sinh nhật ấy, bác sĩ Tăng Quang Kiệt đã đọc lời chúc của Giáo sư Phùng Trung Ngân, định cư tại California, người sáng lập ra Bộ Môn Sinh Môi Học / Ecology Department cũng là Khoa trưởng Đại Học Khoa Học Saigon từ 1973-1975, là bạn đồng môn và cùng tuổi với GS Phạm Hoàng Hộ:
“Anh Hộ thân mến, Tôi thành thật cám ơn Anh Chị và gia đình đã cho phép tôi gởi bài phát biểu trong buổi lễ long trọng này. Với 80 tuổi đời, Anh đã đóng góp một công trình đồ sộ về Cây Cỏ Việt Nam đồng thời với việc hướng dẫn sinh viên yêu Thực vật và Thiên nhiên Việt Nam. Là người cộng tác gần gũi với Anh trong công tác giáo dục sinh vật cho lớp trẻ Việt Nam, tôi đã thấy sự tận tụy với nghề nghiệp của Anh và lòng hăng say nghiên cứu của Anh.
Kết quả là công trình nghiên cứu vĩ đại về Cây Cỏ Nam Việt Nam và nhứt là công trình bổ sung đầy đủ Cây cỏ toàn bộ Việt Nam với các mẫu cây quý báu đang bị bỏ quên trong Viện Thảo Tập ở Paris. Trước năm 1975 Anh và tôi thường dẫn sinh viên đi thực tập ở Lâm Đồng-Đà Lạt, cho các em leo lên đỉnh Lâm Viên, một trong những ngọn núi cao khoảng 2000m ở miền Nam, chúng ta thường ước mong khi hòa bình trở lại sẽ cùng nhau ra miền Bắc khảo sát Cây cỏ Đỉnh Fan Xi Pan cao hơn .3000 m ở Hoàng Liên Sơn. Rất tiếc đến ngày hôm nay ước mong của chúng ta chắc không bao giờ thực hiện được. Tuy nhiên Anh đã tự mình tiếp xúc với đỉnh Fan Xi Pan qua các mẫu cây còn lưu trữ tại Viện thảo Tập Paris và cũng từ đó hình thành bộ công trình Cây Cỏ Việt Nam cho Khoa học. Tôi rất may mắn là cộng tác viên thân cận của Anh trong nhiều năm nên đã học được tính chu đáo trong nghiên cứu, sự tận tụy trong giảng dạy và lòng say mê nghiên cứu Thiên nhiên Việt Nam.”[3]
Hình 11: GS Phạm Hoàng Hộ bên bức tượng bán thân do một điêu khắc gia người Canada là bác sĩ Megerditch Tarakdjian thực hiện nhân dịp sinh nhật thứ 80 do một số môn sinh tổ chức tại Montréal, Canada. (3)
DI CHÚC GIỮ XANH ĐẤT MẸ Trong Quyển cuối cùng của bộ sách Cây Cỏ Việt Nam [Quyển III, Tập 2] xuất bản tại Montréal 1993, chỉ với hai trang Thay Lời Tựa, GS Phạm Hoàng Hộ đã để lại một Thông điệp; cũng có thể coi như một Di Chúc cho Việt Nam.
“Thực-vật-chúng Việt Nam có lẽ gồm vào 12.000 loài. Đó là chỉ kể các cây có mạch, nghĩa là không kể các Rong, Rêu, Nấm.
Đó là một trong những thực-vật-chúng phong phú nhất thế giới. Sự phong phú ấy là một diễm phúc cho dân tộc Việt Nam. Vì như tôi đã viết từ 1968, Hiển hoa là ân nhân vô giá của loài người. Hiển hoa cho ta nguồn thức ăn căn bản hàng ngày; Hiển hoa cung cấp cho ta, nhất là người Việt Nam, nơi sinh sống an khang. Biết bao cuộc tình duyên êm đẹp khởi đầu bằng một miếng Trầu, một miếng Cau. Bao nhiêu chúng ta đã không chào đời bằng một mảnh Tre để cắt rún, rời nhao? Lúc đầy nguồn sống lúc nhàn rỗi, chính Hiển hoa cung cấp cho loài Người thức uống ngon lành để say sưa cùng vũ trụ. Lúc ốm đau, cũng chính Cây cỏ giúp cho ta dược thảo hiệu linh.
Các điều ấy rất đúng hơn với chúng ta, người Việt Nam mà ở rất nhiều nơi còn sống với một nền văn minh dựa trên thực vật.
Nhưng ân nhân của chúng ta ấy đang bị hiểm hoạ biến mất, vì rừng nước ta đã lùi dưới mức độ an toàn, đất màu mỡ bị soi mòn mất ở một diện tích lớn, và cảnh sa mạc đang bành trướng mau lẹ. Đã đến lúc theo nhạc của một bài ca, ta có thể hát: “Thần dân nghe chăng? Sơn hà nguy biến. Rừng dày nào còn, Xoi mòn đang tiến… Đâu còn muôn cây làm êm ấm núi sông.” [Ghi chú của người viết: bài ca Hội nghị Diên Hồng, nhạc của Lưu Hữu Phước, lời: Huỳnh Văn Tiễng – Mai Văn Bộ – Lưu Hữu Phước].
Kho tàng thực vật ấy chúng ta có phận sự bảo tồn. Sự bảo tồn và phục hồi thiên nhiên ở nước ta rất là cấp bách. Nó có thể thực hiện, vì mỗi người của chúng ta, dù lớn dù nhỏ đều có thể góp phần vào sự bảo tồn ấy. Bằng những cử chỉ nhỏ nhặt hàng ngày, sự đóng góp của chúng ta quan trọng không kém.
Không quăng bậy một tia lửa, một tàn thuốc, là ta góp phần tránh nạn cháy rừng. Không đốn bậy một cây, là ta bảo vệ Thiên nhiên của ta. Trồng cây là phận sự của chính quyền hay của các Công ty gầy rừng. Nhưng quanh nhà chúng ta, chúng ta có thể tìm trồng một cây lạ, đặc biệt, hiếm của vùng hay chỉ có ở Việt Nam. Dân ta yêu cây hoa-kiểng, nhưng các nhà nhàn rỗi có thể trồng cây lạ, đặc biệt, cũng là một thú không kém hay đẹp. Các thị xã nên có một công viên hay vườn bách thảo, không lớn thì nhỏ để khoe các cây hay của vùng, không bắt buộc là cây hữu ích hay đẹp. Cây Dó đâu có gì lạ? Nhưng nó là niềm tự hào cho dân tộc vì từ Hồng Bàng, dân ta đã biết lấy trầm từ nó.
Cả ngàn loài cây khác chỉ có ở Việt Nam mà thôi! Các cây này có thể trồng như cây che bóng mát dựa lộ. Các làng, các quận, các tỉnh nên tạo phong trào trồng nhiều loài lý thú như vậy. Ta không cần đợi các lâm viện, khu dự trữ để bảo vệ tài nguyên quý báu cho thế hệ sau, mà ta cũng có thể chính mình góp phần vào sự bảo vệ ấy. Trồng các cây lạ, đặc biệt ấy còn là một yếu tố quến [chữ GS Phạm Hoàng Hộ theo cái nghĩa quyến rũ] du khách quan trọng: Lan Thuỷ tiên hường Dendrobium amabile của ta, chỉ có ở một Vườn Bách thảo ngoại quốc trồng được và họ tự hào đến đỗi đã ghi trong “Sách ghi quán quân thế giới 1988.”
Hàng năm ta có thể tuyên dương nhà nào đã trồng cây hay, lạ. Tất nhiên là công với nước nhà mới trông không bằng những ai đã đem Rhizobium vào để tăng năng xuất đậu nành, đã trồng được cây Dó tạo trầm, đã du nhập lúa Thần nông hay Nho. Nhưng nếu cả ngàn người, cả triệu người đóng góp cho non nước những “nhỏ-nhen” [chữ GS Phạm Hoàng Hộ theo cái nghĩa nhỏ nhặt], cả triệu cái nhỏ-nhen chắc chắn trở nên một khối đồ sộ.
Đóng góp lớn, tôi vẫn cho là việc khó. Tôi quý các đóng góp nhỏ, hằng ngày mà ai cũng làm được. Nó hay hơn. Kẻ sĩ, theo tôi không phải chỉ là những kẻ đã làm được những chuyện lớn. Đóng góp những chuyện nhỏ hàng ngày cũng là hành động của một kẻ sĩ, kẻ sĩ vô danh. Kẻ sĩ vô danh cao quý không kém. Với những đóng góp nhỏ ấy, chắc chắn bạn không làm buồn lòng cho Tổ Quốc và không thẹn với Non Sông. [lược dẫn Thay Lời Tựa, bộ sách Cây Cỏ Việt Nam; Quyển III, Tập 2].
Qua “Di Chúc” ấy của GS Phạm Hoàng Hộ, từ nay môn Sinh học Thực Vật không còn là lý thuyết mà đã đi vào đời sống; Giữ Xanh Đất Mẹ phải là kim chỉ Nam cho mọi trình độ giáo dục từ Tiểu học tới Đại học, cả trong công dân giáo dục, là giá trị phổ quát và xuyên suốt cho mọi thể chế chính trị và cả trên tầm vóc toàn cầu là Giữ Xanh Trái Đất này / Keep this Planet Green.
THAY CHO MỘT KẾT TỪ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã xem bộ sách “Cây Cỏ Việt Nam là công trình của đời tôi” và Giáo sư đã đề tặng toàn sự nghiệp ấy cho: “Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước.
* Tặng giáo sư Nguyễn Duy Xuân nguyên viện trưởng Đại Học Cần Thơ, mất ngày 10/XI/1986 tại trại Cải Tạo Hà-Nam-Ninh.
* Tặng hương hồn những ai trên biển Đông đã chết nghẹn ngào”.
Bài viết này như lời cầu nguyện gửi tới hương linh các Giáo sư Nguyễn Duy Xuân, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Đỗ Bá Khê – những nhà khoa học với nhân cách lớn, những kẻ sĩ khí phách biểu tượng của giới trí thức Miền Nam, đã đi hết chặng đường đau khổ với trọn đời cống hiến trong một giai đoạn vô cùng đen tối của đất nước. Viết trong nỗi xúc động, cùng với nén nhang tưởng nhớ, nghĩ tới câu thơ của thi hào Nguyễn Du: Thác là thể phách còn là tinh anh.
Tấm gương của các Thầy vẫn cứ mãi là Ngọn Hải Đăng soi sáng và dẫn đường cho Đồng Bằng Sông Cửu Long đang như một con tàu lạc hướng sắp đắm, sẽ vượt qua mọi sóng gió, vào được bến đỗ an toàn. Và cũng ước mong một ngày nào đó “hoa sẽ nở trên đường quê hương”, và rồi ra trên một đất nước có tự do dân chủ, sẽ có một tượng đài của GS Phạm Hoàng Hộ trên đỉnh Fan Xi Pan cao hơn 3.000 m ở Hoàng Liên Sơn để các thế hệ môn sinh tiếp tục được Thầy Hộ hướng dẫn tới đó khảo sát Cây Cỏ và hoàn tất Giấc Mơ Việt Nam của Thầy. NGÔ THẾ VINHSài Gòn 30 tháng 4, 1975 – ĐBSCL 30 tháng 4, 2020 [Chân Dung VHNT & VH, Việt Ecology Press 2017] Tham Khảo:
1/ GS. Phạm Hoàng Hộ & GS. Nguyễn Duy Xuân đối với việc hình thành và phát triển Viện Đại học Cần Thơ (1966 – 1975); Phạm Đức Thuận; Tập San Xưa và Nay Số 439 Tháng 11 Năm 2013; www.cantholib.org.vn/Database/Content/1188.pdf
2/ Vị Tổng Trưởng quyết không rời Quê hương. Trung Hiếu; Báo Thanh Niên 28.04.2015; thanhnien.vn/thoi-su/giu-huyet-mach-cho-hon-ngoc-vien-dong-ky-6-vi-tong-truong-quyet-khong-roi-que-huong-556577.html
3/ Anh Chị Thuỷ – Thu Vân thăm Thầy Phạm Hoàng Hộ, truongxuabancu.fpb.yuku.com/topic/118/Anh-Ch-ThuThu-Vn-thm-Thy-Phm-Hong-H#.WJNVUxTcdwg
4/ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một người thầy của tôi. Lê Học Lãnh Vân; Một Thế Giới.VN 02.02.2017; motthegioi.vn/giao-duc-c-69/cau-chuyen-giao-duc-c-108/giao-su-pham-hoang-ho-mot-nguoi-thay-cua-toi-55462.html
5/ Đại học cộng đồng được thành lập trước 1975. GS Đỗ Bá Khê; Đặc san Tiền Giang, July 1998.
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 30, 2020 6:29:40 GMT 9
BIỂN ĐÔNG SÓNG DỮ VÀ NHỮNG NẤM MỒ KHÔNG HƯƠNG KHÓI (Đinh Quang Anh Thái) Posted on April 29, 2020 by TamAn chinhnghiavietnamconghoa.com/Bà Lưu Quý Liên là cư dân của thành phố Gardena, California. Bà Liên cùng chồng, hai đứa con, mẹ ruột và người chị vượt biên năm 1978, trên một chuyến tầu chở hơn 200 người và sau 2 tuần lênh đênh trên biển, tầu cập vào Bidong.
Bà Liên có 4 người em trai, lần lượt từng người đã đào thoát khỏi Việt Nam và đến được vùng đất Tự Do, cũng trên đất Mã Lai Á. Khi chuyến tầu của bà cập bãi Bidong, ngay sau đó một ngày, trong cuộc phỏng vấn của nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, bà biết 4 em của bà đã được chuyển vào trại trong đất liền chứ không còn ở Bidong nữa.
Tin về 4 người con đã làm mẹ bà Liên xuống tinh thần. Tội nghiệp cụ. Lúc xuống tầu, cụ những mong xum họp với các con nơi bến bờ tự do. Muộn phiền khiến cụ trở bệnh và phải đưa sang nhà thương ở Terrengganu chữa trị. Đau đớn thay, cụ đã bỏ mình nơi đất khách quê người, chỉ vài tháng sau khi thoát khỏi một chế độ tàn bạo đang cai trị quê nhà của cụ. Lúc cụ lâm chung, bà Liên không có mặt bên cạnh mẹ. Chỉ có người chị của bà Liên chứng kiến giây phút nát lòng đó. Thi hài của cụ được chôn cất tại Terrengganu.
Năm 1982, vợ chồng anh ruột của bà Liên về lại Terengganu với hy vọng cải táng mộ mẹ, đem cốt của cụ về cùng các con đang sống bên Mỹ. Tới nghĩa trang nơi có phần mộ của cụ, người anh bốc mộ nhưng không thấy hài cốt của mẹ. Hỏi thăm dân địa phương, người anh được biết, người Mã Lai đã rời mộ bia ra chỗ khác để cất nhà ngay trên nấm đất chôn cất cụ. Bây giờ, dấu vết nơi an nghỉ cuối cùng của cụ đã bị xóa nhòa, không cách nào tìm được.
Trước hoàn cảnh xé ruột xé gan như thế, anh của bà Liên đành tiến hành nghi thức tôn giáo, dùng vải đỏ quấn tấm bia mộ của mẹ, rồi mướn thuyền ra khơi thả tấm bia xuống lòng đại dương bao la. Người anh của bà Liên trước khi rời Terengganu, đã hốt đem về Mỹ một nắm cát để thờ phụng với lòng mong mỏi là hồn thiêng của mẹ sẽ luôn hiển linh bên các con.
Sáng ngày 22 tháng Ba, 2005 tại khu mộ tập thể vô danh của 137 thuyền nhân xấu số được chôn cất tại một trong bốn nghĩa trang ở Terrengganu-Mã Lai Á, bà Liên khóc nấc lên khi nghĩ đến mẹ. Bà bảo, cho dù biết trước là sẽ không nhìn thấy mộ mẹ, bà Liên vẫn về đất Mã cùng các Tăng Ni với lòng tin rằng, lời tụng niệm của các Tăng Ni sẽ giúp mẹ của bà siêu thoát nơi cõi Niết Bàn.
Khóc bên mộ chồng lạnh tanh hương khói.
Bà Trần Thị Tiên hiện định cư tại Úc. Bà đến đảo Galang năm 1985, 7 tháng sau chuyến vượt biên của chồng. Hai người đoàn tụ trên cùng hòn đảo của Nam Dương.
Ba năm mỏi mòn trên đảo chờ được nhận đi định cư, những tưởng sẽ được sống với nhau suốt phần đời còn lại, không ngờ nửa đường đôi chim di gẫy cánh. Chồng bà Tiên bỏ bà năm 1988. Ông nằm lại tại nghĩa trang trên đảo Galang, chung quanh là 502 thuyền nhân bất hạnh khác.
Từ ngày rời đảo đến nay, bà Tiên không từ bỏ mong ước cải táng mộ chồng và xem hài cốt chồng về với bà nơi đất Úc. Nhưng vẫn chưa được, vì chưa có giấp phép của chính quyền Nam Dương.
Hai giờ trưa ngày 24 tháng Ba, dưới cái nắng thiêu đốt của đảo, bà Tiên mọp bên mộ chồng. Khóc ngất.
Trước mộ phần chồng bà Tiên, Linh mục Nguyễn Hữu Quảng cùng các tín đồ Công giáo làm Thánh lễ. Sau đó, các Tăng Ni Phật Tử tụng kinh cầu siêu.
Không khí rờn rợn, như trong lời thơ của Đinh Hùng:
“Trời cuối Thu rồi anh ở đâu Nằm trong đất lạnh chắc anh sầu Thu ơi đánh thức hồn ma dậy! Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu”.
****** Kể từ khi đất nước bị quy về một mối, dưới ách cai trị bạo tàn của chế độ cộng sản, hàng triệu người Việt Nam đã đành đoạn phải gạt lệ bỏ quê nhà ra đi. Trên đường đào thoát tìm Tự Do, nhiều người đã vùi thân đáy biển. Một số người tới được cửa ngõ của Tự Do là các trại tỵ nạn ở Đông Nam Á, nhưng bất hạnh thay, đã thác nơi đất khách và xác thân chôn tại quê người.
Số thác oan là bao nhiêu, không ai biết chính xác. Nhưng chắc là nhiều lắm.
Tại Thái Lan, tại Phi Luật Tân, tại Hongkong, tại Macau, tại Nam Dương, tại Mã Lai Á, nơi nào có trại tỵ nạn Việt Nam, nơi đó có nghĩa trang của thuyền nhân.
Tại đảo Galang ở Nam Dương, số mộ phần thuyền nhân là 503.
Trên đảo Bidong ở Mã Lai Á, nghĩa trang thuyền nhân vẫn còn đó.
Riêng tại tiểu bang Terrengganu trên đất Mã Lai, có 4 nghĩa trang, nơi đó người bản xứ, người Hoa gốc Mã, và người tỵ nạn Việt nằm an nghỉ cạnh bên nhau. Ngoại trừ một nghĩa trang chỉ có 4 mộ phần thuyền nhân, ba nghĩa trang còn lại, mộ phần người Việt rất nhiều. Nhiều ngôi mộ có bia đề tên tuổi người chết. Nhưng cũng có những mộ phần không tên tuổi. Hai trong 4 nghĩa trang tại Terrengganu có 4 ngôi mộ chôn tập thể những thuyền nhân chết oan khuất trên Biển Đông.
Những người có công trong việc vớt xác thuyền nhân Việt Nam là dân bản xứ người Mã và người Mã gốc Hoa, trong đó có ông Alcoh Wong Yahow. Ông và các đồng bào người Mã gốc Hoa của ông đã chôn cất và vun xới các khu mộ tập thể của thuyền nhân tại Terrengganu.
Theo lời ông Yahow, khoảng 4 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1979, trong lúc ông đang ngủ thì có người đập cửa và báo cho biết là có một chiếc tầu chìm ngoài khơi Mereng thuộc Terengganu. Cả hai ngày sau đó, ông và đồng bào ông cùng một số người Mã bản xứ dùng thuyền nhỏ đi vớt xác những người chết trên biển. Tổng số đem vào được đất liền là 137 thi thể đã tím ngắt. Không một nạn nhân xấu số nào có giấy tờ tùy thân.
Sau đó, chính quyền địa phương đã đem chôn những người chết tại một nấm đất ở Terengganu. Nấm mồ tập thể đó, mãi tới năm 2003 mới được dựng một tấm bia ghi ngày tháng chôn cất những người dưới mồ. Và việc làm mộ bia cũng do sự vận động quyên góp của nhiều người bản địa và người Mã gốc Hoa.
Ông Yahow nói, “Chỉ dịp Tết Thanh Minh, chúng tôi mới có chút hương đèn tảo mộ những người chết tức tưởi đó. Còn ngày thường, ai cũng bận kiếm sống, dù nghĩ đến những nấm mồ không hương khói, chúng tôi cũng đành bó tay”.
Không chỉ vớt và chôn cất thuyền nhân, ông Yahow còn lập một trang web với mục đích cung cấp một số thông tin ông đang có để gia quyến những người chết có thể tìm được mộ phần người thân của mình.
Tình người của dân Mã Lai và cộng đồng ngưồi Hoa tại Terengganu đối với những thuyền nhân xấu số là một mẫu mực cho thấy, trước nỗi đau của con người, mọi biên giới chủng tộc và mầu da đã bị xóa nhòa, chỉ còn lòng thương cảm vô biên.
Về thăm Galang
Chiếc tầu tốc hành Wavemaster rời bến Tân Gia Ba được một lúc thì mắt của nhiều người trên tầu đã đỏ hoe.
Đoàn 150 người tham dự chuyến về thăm đảo Galang, hầu hết đã trải qua kinh nghiệm sóng dữ trên biển Đông khi đào thoát tìm Tự Do, nên đều mang tâm trạng bồi hồi, xúc cảm khi sắp được nhìn lại hòn đảo từng là nơi dung chứa họ.
Không bồi hồi xúc cảm sao được, khi dõi nhìn lại những bến bờ cũ. Đến Galang là đặt chân vào cửa sinh, bỏ lại sau lưng cửa tử.
Đoàn xe bus 4 chiếc di chuyển mất 35 phút thì bắt đầu tới con đường rẽ vào Galang. Trước kia, khi còn là trại tỵ nạn, muốn đi từ Singapore đến Galang, người ta phải dùng tầu biển để cập vào cầu Jetty. Từ 5 năm qua, con đường ngắn hơn vì tầu biển cập bến Batam rồi dùng đường bộ vượt 6 cây cầu mới xây để vào Galang.
“Ex Camp Vietnam”: Tấm bảng làm nhói tim những người từng ở Galang.
Galang ngày xưa không còn nữa! Những barrack biến đâu cả rồi, chỉ thấy cây cỏ mọc chi chít, xanh um.
Con đường từ Galang 1 dẫn vào Galang 2, những con khỉ dạn dĩ ra tận đường tráng nhựa, ngơ ngáo nhìn đoàn người về thăm lại vùng đất từng là nơi họ tạm dung. Trước kia làm gì có cảnh đó, vì thuyền nhân ra vào tấp nập trên con đường này. Xưa kia, Galang 1 dành cho những người mới đến đảo và chờ làm thủ tục giấy tờ, đồng thời chờ được các phái đoàn phỏng vấn để đi định cư. Galang 2 là nơi dành cho những người đang chờ ngày rời đảo sau khi đã được nhận đi định cư ở các quốc gia thứ ba. Còn “Galang 3” là cách gọi của dân tỵ nạn để nói về khu nghĩa trang chôn cất những người xấu số bỏ mình trên đất khách.
Galang 1 không còn một dấu vết nào của những barrak một tầng trước kia. Thay vào đó là những cây rừng chi chít, phủ kín cả những con đường đất mà trước kia dập dìu người tỵ nạn. Phòng Thông Tin, Văn phòng Cao Ủy Tỵ Nạn, tòa soạn báo Tự Do, trụ sở Hướng Đạo cũng biến mất. Các quán cà phê dọc con lộ cũng bị thiên nhiên xóa nhòa. Khu tỵ nạn của người Khmer, thời 1984 đã đổ nát lắm rồi, bây giờ chẳng còn lưu lại vết tích nào cả.
Galang 2 thì chỉ khu “Zone Mỹ” – khu dành riêng cho những người được đi Hoa Kỳ – là còn một vài barrak, nhưng trần long, mái lở, vách siêu, tường vẹo như chỉ cần một cơn gió lớn là ngã chúi xuống. Nơi đây những ngày cũ, biết bao người đã từng sống dưới sức nóng chẩy mỡ tỏa xuống từ mái tôn, nhưng sao mà vẫn hạnh phúc, vì trước mắt là tương lai thênh thang tại một xứ sở giàu đẹp, tự do.
Galang 3 thì còn. Còn trong cảnh lạnh tanh không chút hương khói. Nghĩa trang có 503 ngôi mộ của những chết vì bệnh tật, chết vì rắn cắn, chết vì sốt rét, hoặc vì tự tử với nhiều lý do khác nhau, trong đó có nỗi tuyệt vọng vì không được quốc gia nào nhận.
Người cũ nay còn đâu?
Người cũ còn chăng là anh Abu, một người Nam Dương từng sống trên đảo suốt thời gian có thuyền nhân Việt Nam tạm dung nơi đây. Abu nói tiếng Việt bằng giọng lơ lớ: “Tôi nhớ người Việt lắm. Từ ngày đảo đóng cửa năm 96, nhiều lúc, tôi nói tiếng Việt với chính mình cho đỡ nhớ”.
Người dân Nam Dương thật nồng nhiệt. Dĩ nhiên, cũng có một số lính và cảnh sát trông coi đảo rất “cường hào ác bá” với dân tỵ nạn, nhưng đó không phải là tình cảm dân hải đảo.
Phái đoàn vừa bước ra khỏi tầu Wavemaster đã được các viên chức và các thiếu nữ xinh đẹp của Batam chào đón. Mười người đại diện phái đoàn được các thiếu nữ choàng vòng hoa. Những người còn lại, ai cũng được một cánh hồng do các “bông hồng” Nam Dương xinh đẹp trao tặng.
Đoàn xe đi ngang khu nghĩa trang và một lần nữa, các viên chức Nam Dương đón phái đoàn tại Youth Center. Tại hội trường, một biểu ngữ nội dung chào đón phái đoàn căng ngang sân khấu. Ban vũ người Malay trình diễn một vũ điệu, sau đó từng cô, theo nghi lễ cổ truyền tượng trưng cho lòng thành kính đối với khách, hai tay dâng tặng Hòa thượng Giác Nhiên, Linh mục Nguyễn Hữu Quảng, ông Trần Đông những cánh hoa tươi đủ mầu sắc.
Sau phần phát biểu chào mừng của đại diện chính phủ và đại diện phái đoàn, chủ và khách cùng tham dự bữa cơm trưa với những món hải sản nấu đúng hương vị dân bản xứ. Dừa tươi được mọi người yêu thích nhất. Nước dừa mát lạnh đã hạ được cơn khát do sức nóng hầm hập táp vào da mọi người.
Buổi lễ khánh thành bia tưởng niệm thuyền nhân diễn ra rất trang trọng ngay tại địa điểm có 4 con tầu từng là phương tiện để thuyền nhân vượt biển tìm tự do. Một trong 4 con tầu đã mục nát, chỉ còn những khung gỗ. Đây là sáng kiến của chính quyền Nam Dương nhằm lưu lại dấu tích của một giai đoạn lịch sử trên đảo Galang, khi hàng trăm ngàn người Việt Nam lao vào sóng dữ để trốn chạy một chế độ tàn bạo hòng tìm đất sống đúng với nhân phẩm con người.
Ngoài 4 con tầu nói trên, chính quyền trên đảo còn xây một nhà thờ Công Giáo, ngay trước sân là tượng Đức Mẹ Maria đứng trên một con thuyền bằng xi măng, biểu tượng lòng biết ơn của những người tỵ nạn được Đức Mẹ Nhân Từ cứu vớt trên biển Đông. Cạnh nhà thờ là ngôi chùa Phật Giáo với ba bức tượng Đấng Chí Tôn, trong đó một bức Tượng Phật Nằm trông hiền hòa, khoan thứ. Trên đỉnh đồi trong khoảnh đất từng là Galang 1 trước kia, một ngôi chùa khác, kích thước to lớn đã hoàn tất công trình xây dựng và do một số Tăng Ni người Hoa chủ trì. Theo lời một Ni Sư, Galang có nhiều hiện tượng linh thiêng, nên rất nhiều du khách từ Trung Quốc, Đài Loan, Hongkong, Nhật đến đây, mang theo nhang đèn để cầu phước.
Những phụ nữ còn rơi lại nơi cầu Jetty.
Vài phút trước khi đoàn người rời Galang để lên tầu về lại Singapore, tin tức về một số phụ nữ Việt Nam đang sống tại cầu tàu Jetty trên đảo khiến mọi người xốn xang. Làm sao bây giờ? Làm sao đi thăm đồng bào mình, vì chiếc Wavemaster đang chờ để rời bến.
Theo lời Linh mục Cornelius Habakuk, một người Nam Dương gốc Hoa đã từng giúp thuyền nhân Việt Nam tại Galang nhiều năm trước, thì khi chính quyền quyết định đóng cửa trại tỵ nạn năm 1996, lúc đó còn khảng 100 phụ nữ bị rớt thanh lọc đang chờ ngày bị trục xuất về Việt Nam. Trước tình cảnh đáng thương đó, Linh mục Habakuk đã giúp những phụ nữ này lấy chồng người Nam Dương. Nhờ vậy, một số đã theo chồng qua các đảo khác sống, còn một số hiện buôn thúng bán bưng ngay cầu tầu Jetty. Linh mục Habakuk còn nhờ các cơ quan truyền thông Việt Nam loan báo tin này và tin về ông với hy vọng từ đó, ông có thể bắt lại được liên lạc với những thuyền nhân trước kia từng quen biết ông nhưng hiện nay đang sống rải rác ở các nước thứ ba.
Trời tối mịt, con tầu rú máy lao ra khơi, để lại Galang chìm lỉm phía sau trong bóng đêm âm u của rừng, của núi.
Đứng ở đuôi con tầu, kẻ viết bài tưởng chừng như vẫn nghe vang vọng đâu đây tiếng hát của một giọng nữ ngày nào trên đảo, bài tỵ nạn ca của Trần Quốc Bảo: . . . . . . . . . . .
Đêm nay mưa trên đảo nghe nhớ quê nhà Đường tạm dung, một mình ta lặng lẽ Khẽ kêu tên ai nước mắt tuôn trào Ôi Galang mưa rơi lạnh lòng Trùng dương nào chia cách đôi ta…/.ĐINH QUANG ANH THÁI (Tháng ba/2005)
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 30, 2020 6:37:16 GMT 9
THÁNG TƯ ĐEN HỒN AI TRONG GIÓ (Quang cầu Muối) Posted on April 29, 2020 by TamAn chinhnghiavietnamconghoa.com/thang-tu-den-hon-ai-trong-gio-quang-cau-muoi/Năm nay là năm giỗ thứ 45 của Cựu Thiếu Sinh Quân Cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Tỉnh Trưởng Chương Thiện của nước Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 30-4-1975 dù có lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh, nhưng Tướng ở biên thùy có quyền bất tuân thượng lệnh. Và cố Đại Tá đã hành động như vậy. Ông chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi bị bắt. Lý do ông không tự sát để chết theo thành, vì ông là người Công Giáo. Luật của người Công giáo cấm tự sát. Sau bốn tháng trời bị giam cầm, đánh đập, rạng sáng ngày 14-8 -1975, Việt cộng đã xử bắn ông tại sân vận động Cần Thơ. Thi hài của ông bị vùi dập đàng sau ty bưu điện sau mấy ngày bị phơi sương nắng. Cái gọi là phiên tòa nhân dân cách mạng này do tên việt cộng Hồ Minh Tiến làm chánh án, thời gian xử và thi hành bản án không quá 30 phút. Lẫn trong đám người dân bị lùa đi xem có một người chị họ của ông. Vợ con ông vào thời điểm đó phải trốn tránh để khỏi lọt vào tay quân địch. Hình ảnh cuối cùng mà Bà ghi nhận được, đó là cái phất tay của chồng bà hướng về đám đông dân chúng đang hỗn loạn , khi ông bị bắt ra xe. Cái phất tay vào hư không đó như là một lời nhắn nhủ với bà : đem con trốn đi, bảo bọc nó, vĩnh biệt mẹ con em. Và theo như lời kể đứt quãng của bà chị họ lúc sau này, thì sáng hôm đó sau khi tuyên án tử hình thì Đại Tá bị bịt mắt và miệng, mặc dù Đại Tá có tỏ ý phản đối, nhưng bọn việt cộng vẫn hung hăng hành động. Những tiếng súng vang lên giữa mù sương tháng tám Một hùng anh gục ngã thảm thương Cả một đời cống hiến máu xương, cho miền Nam được tự do no ấm. Theo lời kể của bà phu nhân của Cố Đại Tá, bà lấy ông từ hồi 18 tuổi, lúc ông còn mang lon trung sĩ, cho đến ngày ông lên lon Đại tá, ít khi nào ông ở nhà. 15 năm triền miên chiến trận, ông trở thành đại tá hồi nào bà cũng không hay, cũng không bao giờ bà được dự những buổi tiệc tùng hiếm có, bà cũng chưa lần nào được chồng đưa đi nghỉ mát ở Vũng Tàu, chỉ có lần duy nhất là khi bà đi thăm ông ở Nha Trang, đó là lần đầu tiên bà biết biển. Tấm hình hai vợ chồng chụp chung là lúc ông lên lon Đại Tá. Ông rất thương vợ con nhưng ông nguyên tắc nhà binh, bà là danh phận của một Tỉnh Trưởng Phu Nhân, nhưng chỉ có một chú tài xế kiêm luôn “tà lọt” để chở bà đi đây đi đó. Cá nhân Bà cũng không muốn ai biết mình là vợ của ông Tỉnh Trưởng. Nhưng đối với Lính thì ông là một vị chỉ huy gương mẫu, thanh liêm và can đảm. Đối với bạn bè Thiếu Sinh Quân, ông là một người bạn chân tình và một nhậu hữu thú vị. Một câu chuyện uống rượu trên sông của một người bạn TSQ kể lại đã làm cho thế hệ đàn em ngưỡng mộ. Một thùng Hennessey, hai người bạn, một người lính cận vệ, một người đầu bếp, một chiếc xuồng trên sóng nước Hậu Giang, hai người bạn thân bàn về Tửu Đạo. Bình minh ló dạng, chia tay người về thành phố, người tiếp tục hành quân. Đà Lạt một chiều mưa, hai người bạn Thiếu Sinh Quân gặp nhau khi cùng về học khóa Tham Mưu cao cấp, lính tráng nghèo gặp nhau, tháo luôn cặp lon có mạ vàng mà Mẹ tặng ,đem đi đổi cặp lon đen ,lấy tiền vui với bạn, rượu ngà say, hẹn với nhau rằng, ngày nào tụi mình lên Tướng, chúng ta sẽ đi chuộc lại cặp lon này. Trung Tá Nguyễn Đăng Hòa Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến là người bạn TSQ đó. Với bạn là vậy, với đàn em còn độc đáo hơn. Chuẩn Úy Vòng Phóc mới ra trường, ba gai tự cấp cho minh hai tuần phép , ngày về trình diện đơn vị, bị sĩ quan trung đoàn dũa te tua tại phi trường: anh ba gai đúng không? và thêm một tràng bla bla nữa. Gặp lúc ông Trung Đoàn Trưởng đi ngang qua, một lúc sau thì Chuẩn úy sữa được kêu lên gặp Trung Tá. Chuẩn úy sữa mặt mày xanh như tàu lá. Chết mẹ rồi, thế này thì đường binh nghiệp coi như chấm dứt. Trung tá nhìn cái Ensign AET trên túi áo của Chuẩn úy sữa, lườm lườm, chửi tan nát một hồi, dạy bảo về quân phong quân kỷ, hăm he một hồi rồi đuổi ra, ông trung úy chạy theo đưa cho mấy ngàn của trung tá cho ( chuyện này là lúc ông còn là Trung Tá Trung Đoàn Trưởng 15). Dưới trướng của đại tá không có quân hèn vì đại tá là tướng giỏi. Ngày vào An Lộc, Trung đoàn 15 khựng lại ở Chơn Thành, Tiểu đoàn 8 Dù cũng kẹt cứng. Lộ 13 với trận mưa pháo,giọt nước mắt khóc linh hồn vô danh. Chốt việt cộng kiềng kín mít, 100 thước đường là máu là xương. Lính Dù bị bẹp dí vì mưa pháo.Trinh sát trung đoàn cũng te tua tan nát. Vậy mà từ M113 ông trung tá cứ thẳng lưng xông xáo. Giải tỏa được An Lộc , quân sử chỉ nhắc đến Biệt Kích Dù và Dù, nhưng lại bỏ quên một trung đoàn bộ binh thuộc sư đoàn 9 do Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy. Chương Thiện là một địa danh rất lạ đối với những người sanh sau năm 1975. Chương Thiện là Hậu Giang bây giờ đó, là quê hương của Cố Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Khi ông về quê hương mình làm Tỉnh Trưởng, vùng đất này an ninh được ổn định. Người dân sống yên ổn Có còn bao nhiêu người già cả sống sót qua điêu tàn của nước non, để kể cho con cháu mình nghe: Hồi đó đất này có ông Tỉnh, ổng người xứ mình, ổng là một ông Tỉnh thanh liêm và can đảm. Vái Vọng Linh Hồn Đàn Anh Cố Đại Tá AET Hồ Ngọc Cẩn. Cầu mong linh hồn Đại Tá quyện vào sông núi Sinh Vi Tướng Tử Vi Thần Anh Hùng Tử Khí Hùng Bất Tử.QUANG CẦU MUỐI (Mùa Quốc Hận2020- Ngày giỗ thứ 45 Cố Đại tá HỒ NGỌC CẨN)
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 30, 2020 6:50:03 GMT 9
Nhận Diện Lịch Sử29/04/2020 vietbao.com/a303058/nhan-dien-lich-suĐào Như Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Thiếu Tá bộ đội cộng sản, nghiêng mình cúi xuống, nghiêm chỉnh dỡ mảnh khăn trắng che mặt Tướng Nam. Gương mặt Tướng Nguyễn Khoa Nam hiện ra trông hiên ngang lạ thường, cầm dưới của ông ngẩng lên cao, Tướng Nam mặc nguyên bộ đồ trận còn thẳng nếp, với cầu vai mang đủ phù hiêu cấp Tướng của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, trên ngực trái vãn giữ nguyên Bảo Quốc Huân Chương, Anh Dũng Bội Tinh cùng nhiều huy chương Quân đội, Dân sự khác...Hai chân của Tướng Nam vẫn giữ nguyên đôi giầy trận.
Bác sĩ Hoàng Như Tùng bậm môi, vai run khi ông cúi xuống ký biên bản nhân diên Tướng Nam. Thiếu Tá bộ đội cộng sản, trong tư thế nghiêm trang, đưa hai tay đón nhận nhận biên bản nhận diện từ tay bác sỹ Hoàng Như Tùng.
Sau một hồi trao đổi rất ngắn với Thiếu Tá bộ đội cộng sản, bác sĩ Hoàng Như Tùng đưa ra lời yêu cầu: xin Chinh phủ Cách mang mai táng thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam trong quan tài theo đúng nghi cách. Thiếu Tá Bộ đội cộng sản đáp lại, chúng tôi xin ghi nhận lời yêu cầu của bác sĩ và sẽ chuyển lên cấp trên. Hy vọng lời yêu cầu của bác sĩ sẽ được chuẩn thuận.
Vào khoảng mấy tháng sau, trong một buổi giao ban của khoa ngoại bịnh viện Đa Khoa Hậu Giang, bác sỹ cách mạng Nguyễn văn Ngôn, bác sỹ đầu ngành khoa ngoại của binh viện, lên tiếng ca ngợi sự tuẫn tiết của thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, người biết bảo vệ sinh mạng các chiến sĩ Viêt Nam và đông bào. Đáp lai sự tuẫn tiết của ông, bác sĩ Nguyễn Văn Ngôn cho biết Nhà nước Cách mang đã mai táng ông trong quan tài rất chu đáo.
Lạ thay sau lần phát biêu này, bác sĩ Nguyễn Văn Ngôn bị Đảng ủy của bịnh viện phê bình và kiểm điểm vì bác sĩ Ngôn đã tiết lộ một điều cấm kỵ mà Nhà nước Cách mạng không muốn cho dân chúng hay biết việc Tướng Nguyễn Khoa Nam đươc chinh phủ cách mạng mai táng trong quan tài.
Viêc Đảng ủy bệnh viên phê bình và kiểm điểm bác sỹ Nguyễn Văn Ngôn phản ảnh bộ măt thật của Chuyên Chính Vô Sản. Cộng sản luôn độc tài nắm giữ sự thật lich sử, để sau đó họ có thể bóp méo sự thật, xuyên tạc lịch sử, chỉ vì lợi ích của đảng cộng sản.
Trong buổi họp điều trị tâm thần tập thể-Mental health Group Therapy-tai Chicago năm 1996, Trung Tá Lâm Quang Bạch, Trưởng Phòng Chiến Tranh Chính Trị của Quân Khu IV, Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, đã miêu tả sự tuẫn tiết của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam qua một tư liệu của ông dành cho Tướng Nam, một vị chỉ huy trực tiếp của ông:
“ Tình hình chiến sự thuộc lãnh thổ Quân Khu IV vào những ngày cuối tháng Tư bảy lăm, nói chung và thành phố Cần Thơ, nơi đăt Bản Doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4, nói riêng, tương đối yên tĩnh so với tình hình các tỉnh miền Đông thuôc Quân Khu III và Biêt khu Thủ Đô, nơi đặt Bản doanh của Chinh Phủ Trung Ương Sàigòn. Nhất là sau vụ Tướng Nguyễn Khoa Nam đich thân chỉ huy các đơn vị thống thuộc, đánh bại và vô hiệu hóa của Trung Đoàn Chủ Lực Miền” Hậu Giang” của công sản khi Trung Đoàn này xâm nhập và tiến sát vào vòng đai phòng thủ của phi trường quân sự Trà Nóc-Cần Thơ.
Sáng ngày 29-4-75, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV triệu tập một buổi họp quan trọng để duyệt xét tinh hình và ra phương án phản công mới, dưới sự chủ tọa của Thiêu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV. Thành phần tham dự buổi họp gồm có: Tư Lệnh, Tư Lệnh Phó, các sỹ quan trưởng phòng trong Bộ Tham Mưu của Quân Đoàn IV, ngoại trừ hai sỹ quan cao cấp của Quân Đoàn, một cấp Chuẩn Tướng, Tham Mưu Trưởng và một cấp Đại Tá, Trưởng Phòng 2 Quân đội đã tẩu thoát ra nước ngoài, là không tham dự phiên họp này. Cuộc họp tuy ngắn, nhưng trang nghiêm và hết sức nghiêm trọng. Các đơn vị trong Quân Đoàn IV thề “kiên quyết và đoàn kết sau lưng vị Tư Lệnh và chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, tử thủ Vùng 4”...
Sáng ngày 30-4-75 vào lúc 10:25, Tổng Thống Dương Văn Minh lên đài phát thanh Sàigòn kêu gọi toàn thể quân đội và các tướng lãnh chỉ huy các Quân đoàn, Sư Đoàn, trên toàn lãnh thổ miền Nam, phải buông vũ khí, ngưng chiến đấu và chờ bàn giao cho chánh quyền cách mạng. Thế là một Quân đoàn hùng mạnh như Quân Khu IV, tới giờ phút này vẫn nắm vững tay súng, chủ động trên mọi tư thế chiến đấu và phản công, đang giữ vững miền châu thổ sông Cửu Long, sắp phải tan rã.
Tướng Nguyễn Khoa Nam, một quân nhân chuyên nghiệp, ông phải tuân mệnh lệnh thượng cấp, nhất là vị thượng cấp náy là Tổng Thống Dương Văn Minh, Tổng Tư Lệnh Quân đội Việt Nam Công Hòa, vị chỉ huy trực tiếp của ông.
Một số sỹ quan phục vụ trong Bộ Tham Mưu của Quân Đoàn IV, kể cả tôi, quá chán nãn, tự rời bỏ đơn vị, về sum họp với gia đình và chờ ngày vào tù. Một số khác tìm đường tẩu thoát ra nước ngoài vì họ sợ cộng sản trả thù. Trong bối cảnh này chỉ còn lại một mình Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh và Thiếu Tướng Lê Văn Hưng Tư Lệnh Phó, và một số sĩ quan thân cận. ở lại doanh trại của Bộ Tư Lệnh của Quân Đoàn.
Tướng Nguyễn Khoa Nam, một tướng lanh ưu tú, sống độc thân, ăn trường chay, thanh bạch, một đời cống hiến cho binh nghiệp, tận tụy với quân đội.
Chiều ngày 30 tháng Tư 75, cộng sản đưa người của họ là Tám Thạch, mang quân hàm Thiếu Tá, Trung đoàn trưởng, qua trung gian của Nguyễn Khoa Lai, em thúc bá của Tướng Nam, Thiếu tá bác sĩ Quân Đội Việt Nam Công Hòa và đại úy bác sĩ Đoàn Văn Tựu, y sỹ trưởng Tiểu đoàn 40, Chiến Tranh Chính Trị hiện trú đóng tại Bình Thủy, Cần Thơ, vào tiếp xúc với Tướng Nam tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV đồn trú trên đại lộ Hòa Bình, thành phố Cần Thơ. Nội dung cuộc tiếp xúc, cấp nhỏ như chúng tôi không ai đuọc biết ngoại trừ Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó, được Tướng Tư Lệnh bàn bạc và thông báo riêng. Thiếu Tướng Hưng trở về tư dinh và tự sát sau đó.
Sau khi cân nhắc mọi hậu quả có thể xảy đến cho đồng bào và chiến sĩ trong vùng lãnh thổ,Tướng Hưng và Tướng Nguyễn Khoa Nam tuần tự đi đến quyết định tuẫn tiết.
Sự tuẫn tiết của hai vị tướng lãnh, Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó của chúng ta, Tướng Nguyễn Khoa Nam và Tướng Lê Văn Hưng là những quyết định kiên cường và dũng cảm mãi mãi được tuyên dương và ghi công, đời đời được lịch sử soi sáng..” (*)
Hôm nay ngày 1 tháng 5 năm 2019, đúng sau 44 năm Tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết tôi mạo muội ghi lại những điểm son của Quân Đội Việt Nam trong giai đoạn lich sử khốc liệt này. Hy vọng 100 năm, 200 năm sau... sẽ có sử gia nào đó có đủ can đảm nghiêng mình xuống tìm hiểu, viết lại trung thực nhưng hồi bi tráng của lich sử chiến tranh xảy ra giữa lòng dân tộc, anh em chúng ta.../.Đào Như Bác Sĩ Đào Trọng Thể Chicago- 1-tháng 5-2019 (*) Đó là nguyên văn của thư của Trung Tá Lâm Quang Bạch đưa cho tác giả ngay sau buổi họp điều tâm thần hôm ấy, để lâm tài liêu tra cứu sau này.
|
|
|
Post by Huu Le on May 1, 2020 2:56:10 GMT 9
Dan Southerland và những ‘phút cuối cùng’ của Việt Nam Cộng Hòa30 Tháng Tư 2020 hung-viet.org/a27735/dan-southerland-va-nhung-phut-cuoi-cung-cua-vie-t-nam-co-ng-hoaĐinh Quang Anh Thái Trong số các nhà báo ngoại quốc ở Việt Nam, ký giả Dan Southerland là một trong ít người ở lại tới ngày cuối cùng và chứng kiến ngày chót của Việt Nam Cộng Hòa 30 Tháng Tư 1975.
Từ 1985 đến 1990, ông là giám đốc văn phòng Washington Post tại Bắc Kinh và tường thuật vụ đàn áp đẫm máu phong trào dân chủ Thiên An Môn, và do loạt bài này ông được trao giải Pulitzer.
Trong cuộc chiến Việt Nam, ông làm việc cho hãng tin UPI và tờ The Christian Science Monitor, và cũng từng tường thuật chiến sự tại Cambodia, Lào, và cuộc chiến giữa Ấn Độ và Pakistan năm 1971.
Ông từng là Phó tổng giám đốc đặc trách chương trình của Đài Á Châu Tự Do (RFA) và từng viết cho nhiều hãng tin và báo chí quốc tế trong giai đoạn ông thường trú tại Tokyo, Hong Kong, Sài Gòn, Bắc Kinh.
Tháng Tư năm 2011, qua email, ông Dan Southerland trả lời phỏng vấn của Đinh Quang Anh Thái về những diễn biến ở Việt Nam ngày 30 Tháng Tư, 1975.
nhà báo Dan Southerland phỏng vấn cố vấn Mỹ trong trận Mậu Thân 11 tháng 5 năm 1968 trên một nóc nhà Sài Gòn Làm phóng sự về lực lượng thủy quân lục chiến Việt Nam Cộng Hòa, nhà báo Dan Southerland phỏng vấn cố vấn Mỹ trong trận Mậu Thân II tháng 5 năm 1968 trên một nóc nhà Sài Gòn.
-Đinh Quang Anh Thái: Khi Sài Gòn sụp đổ cách đây 36 năm, lúc bấy giờ ông ở đâu?
-Dan Southerland: Tuần lễ cuối cùng của Tháng Tư trước khi Sài Gòn sụp đổ, trong bối cảnh các xe tăng của quân Bắc Việt tiến gần vào Sài Gòn, lúc đó tôi ở tại khách sạn Continental để viết bài cho tờ The Christian Science Monitor. Tôi tường thuật những giây phút cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa với hai sự kiện trọng đại là việc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức và lễ nhậm chức tổng thống của Tướng Dương Văn Minh.
-ĐQAT: Tâm trạng của ông ra sao khi chứng kiến những sự kiện lịch sử đó?
-Dan Southerland: Tôi buồn khi nhìn thấy cảnh hỗn loạn của Sài Gòn. Tôi cố trấn an người thầy dạy tôi tiếng Việt và người thông dịch viên lâu năm của tôi. Tôi cũng đưa ra vài ý kiến là họ nên làm gì trong tình huống này. Cả hai quyết định ở lại; người dạy tiếng Việt thì vì hoàn cảnh gia đình, còn người thông dịch thì cho rằng chẳng có gì để lo sợ Việt Cộng. Khi tôi đến căn nhà nhỏ của anh thông dịch viên, anh chỉ cho tôi tình cảnh sống quá nghèo nàn của anh và bảo rằng không có lý do nào khiến anh bị cộng sản kết án.
Dùng xe jeep của UPI, ký giả Dan Southerland đưa thường dân Việt Nam bị thương đến nơi an toàn để được chở vào nhà thương, trong trận Mâu Thân II tháng 5-6, 1968. Hình do ông Dan Southerland cung cấp Tôi ước rằng phải chi tôi khuyên được anh ra đi. Khi cộng sản chiếm chính quyền, họ hành hạ anh rất nặng nề, một phần cũng vì anh có quan hệ với tôi, nên sau đó anh vượt biên và tôi đã có dịp gặp lại anh ở Paris. Anh xin tôi tha lỗi vì trong thời gian bị cộng sản tra khảo, anh đã có những lời khai không đúng về tôi. Phần tôi, tôi cũng đã xin lỗi anh vì đã không hết sức thuyết phục anh thoát khỏi Sài Gòn thời gian đó.
Cũng vào những giờ phút cuối của Tháng Tư 75, tôi đã dàn xếp cho một giáo sư của đại học Sài Gòn cùng vợ và đứa con mới sanh của ông ta ra đi bằng trực thăng nhưng ông ta đổi ý vào giờ chót và ở lại, vì tin rằng Tướng “Big Minh” có thể thương lượng một cách ổn thỏa việc chia quyền với những người cộng sản.
Không chịu đi, nhưng ông giáo sư này lại gọi điện thoại nhờ tôi giúp đưa một quân nhân là bà con của ông ta ra đi. Lúc bấy giờ, tại mặt trận Xuân Lộc cách Sài Gòn khoảng 90 cây số về phía Đông, Sư Đoàn 18 của Việt Nam Cộng Hòa đang chống trả trước những đợt tấn công dữ dội của quân Bắc Việt. Cho nên ý kiến đưa một quân nhân trốn khỏi đất nước trong khi những đồng đội khác đang chiến đấu sống còn khiến tôi tức điên lên và tôi đã đập nát chiếc điện thoại trên tay. Tôi ý thức rõ là tôi đang bị căng thẳng.
Tình cảnh lúc đó ngay tại Tòa Đại Sứ Mỹ, giấy tờ tài liệu bị xé nát, hành lý và súng đạn bị vất ngổn ngang. Binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đang đẩy lui hàng ngàn người Việt Nam xô lấn nhau muốn xông vào sân Tòa Đại Sứ để tìm đường thoát thân. Nhiều người ném giấy tờ tùy thân vào bên trong và kêu gọi giúp đỡ. Một người trong đám đông nhận ra tôi. Ông ta kêu tên một viên chức Mỹ. Tôi tìm được viên chức này và cùng nhau giúp đưa người đàn ông kia lọt qua cổng vào bên trong.
Trong không khí hoảng loạn đó, tôi gào qua điện thoại để gửi bài viết cho một đồng nghiệp cũng đang làm việc ở Sài Gòn chỉ tích tắc trước khi hệ thống điện thoại của Tòa Đại Sứ bị cắt. Người điều hành phòng máy điện thoại đang lên máy bay để ra đi.
Tâm trạng tôi khi ấy giống như một số người Mỹ khác, cảm thấy rất đau buồn khi chứng kiến cảnh người Mỹ di tản trong khi nhiều người Việt Nam từng làm việc với Mỹ bị bỏ rơi lại. Quả thật, ra đi như thế thật là nhục nhã.
-ĐQAT: Ông từng đi theo và viết bài về các đơn vị của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, ông nhận xét ra sao về những quân nhân này?
-Dan Southerland: Thành thật mà nói, quân lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) đã chiến đấu anh dũng khi đẩy lui cuộc tấn công của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân 1968. Tôi cũng rất thán phục một số đơn vị của quân đội này trong các trận đánh tại Quảng Trị và An Lộc suốt thời gian diễn ra cuộc tấn công quy mô của Bắc quân năm 1972.
Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận là có sự cách biệt khá lớn về khả năng tác chiến giữa đơn vị này và đơn vị khác của QLVNCH. Đơn cử một thí dụ, năm 1972, trái ngược với Thủy Quân Lục Chiến của Việt Nam đã chứng tỏ là một đơn vị thiện chiến trong các trận đánh tại Quảng Trị cho dù không đủ quân số, thì Sư Đoàn 3 Bộ Binh đã bị tan rã vì thiếu kinh nghiệm.
Tôi đã từng tường thuật về nhiều vấn đề trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, như tình trạng đào ngũ, hôi của, tham nhũng và thiếu khả năng của một số sĩ quan. Một vấn đề nữa là QLVNCH lệ thuộc vào không trợ của Mỹ, kể cả bom B-52. Khi sự hỗ trợ đó bị rút đi, hậu quả trở thành tai hại. Nhưng nếu nhìn tổng quát thì vẫn thấy có sự tiến bộ rõ rệt trong một số đơn vị QLVNCH giữa 1972 và 1973, kể cả khi Mỹ đã rút quân.
Một quân nhân Việt Nam Cộng Hòa hỏi cung tù binh cộng sản, bên trái là ông Southerland, trong trận Mậu Thân II tháng 5 năm 1968 tại Sài Gòn. Hình do ông Dan Southerland cung cấp Một số bài tường thuật của hãng tin Mỹ khiến người ta có cảm tưởng VNCH bị thất trận trong cuộc tấn công của Cộng quân năm 1972. Năm đó, ngày 11 Tháng Tư, trong một điện tín gửi cho mẹ tôi sống tại Arlington tiểu bang Virginia, tôi viết rằng: “Cho tới nay không có gì giống như trận Tết Mậu Thân 1968. Con vừa từ Quảng Trị và Huế về lại Sài Gòn và con thấy QLVNCH phòng thủ mạnh mẽ hơn những gì báo chí Mỹ tường thuật. Và rõ ràng là Bắc quân đang di chuyển dọc biên giới Cambodia khó lòng đặt chân đến Sài Gòn.”
Tôi cho rằng nhiều phóng viên Mỹ không tường thuật về QLVNCH, hoặc là họ đã tường thuật thoáng qua mà thôi. Cá nhân mình, tôi cũng nhiều lần tự chỉ trích về những cách tường thuật của mình. Chỉ có vài phóng viên ngoại quốc là nói được tiếng Việt để làm trọn vẹn việc tường thuật tin tức khi đi với quân đội VNCH; số đông còn lại đã chọn cách dễ dàng hơn là đi theo các đơn vị Hoa Kỳ.
Tôi đã từng viết một bài về tính nhân bản của các quân nhân thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến của VNCH. Và tôi cũng đã viết câu chuyện về những người anh hùng của QLVNCH tại mặt trận An Lộc, với quân số ít ỏi so với Cộng quân và chỉ với những khẩu súng chống chiến xa loại nhẹ, họ đã tiêu diệt những xe tăng của Cộng quân. Dù vậy, tôi vẫn nghĩ mình chưa mô tả được trọn vẹn những gì tôi chứng kiến.
Đầu năm 1970, tôi ngưng làm việc với hãng tin UPI để dành thời gian vài tháng học tiếng Việt hòng có thể viết những câu chuyện sâu hơn với tư cách một phóng viên tự do. Nhưng rất tiếc, việc học Việt ngữ của tôi bị gián đoạn khi tờ The Christian Science Monitor mời tôi cộng tác. Đúng lúc đó, chiến tranh bùng nổ tại Cambodia, thế là tôi bỗng nhiên phải tường thuật tin tức chiến sự của hai cuộc chiến.
-ĐQAT: Một số cuốn sách viết rằng, chính ông và nhà báo Phạm Xuân Ẩn đưa Bác Sĩ Trần Kim Tuyến – người từng cầm đầu ngành tình báo thời Tổng Thống Diệm – ra máy bay di tản khỏi Việt Nam; sau này, ông Ẩn lộ nguyên hình là cán bộ tình báo cao cấp của cộng sản miền Bắc, vai trò của ông lúc đó là gì?
-Dan Southerland: Ngày 30 Tháng Tư, tôi gọi điện thoại cho một số tờ báo ngoại quốc có văn phòng ở Sài Gòn, trong đó có tuần báo Time là nơi ông Phạm Xuân Ẩn làm phóng viên. Ẩn nói với tôi rằng có một người bạn từng quen biết lâu năm với chúng tôi là Trần Kim Tuyến hiện không thể tìm được đường thoát thân.
Tôi tin chắc chắn rằng, nếu ông Tuyến rơi vào tay cộng sản, ông sẽ không cách nào toàn mạng. Vì vậy tôi gọi ngay cho một viên chức Mỹ của Tòa Đại Sứ nhờ giúp đỡ. Ông này báo cho tôi biết địa điểm mà chỉ trong chốc lát nữa một trực thăng sẽ đáp xuống để bốc người. Tôi báo ngay cho Ẩn. Thế là Ẩn hộc tốc lái xe đón ông Tuyến rồi đưa ông Tuyến đến một căn biệt thự nơi chiếc trực thăng sắp hạ càng xuống nóc nhà. Trần Kim Tuyến đi thoát. Lúc bấy giờ, tôi hoàn toàn không biết Phạm Xuân Ẩn là gián điệp của cộng sản.
-ĐQAT: Theo ông, tại sao ông Ẩn lại giúp ông Tuyến thoát khỏi tay cộng sản?
-Dan Southerland: Khi Ẩn về lại Việt Nam năm 1959, sau khi tốt nghiệp ngành báo chí tại Hoa Kỳ, ông ta rất sợ bị bắt. Vì lúc đó chính phủ của Tổng Thống Diệm đã bắt giam một số gián điệp Việt Cộng nằm vùng. Ẩn bèn tìm đến ông Tuyến và chính ông Tuyến xin cho Ẩn làm việc tại Việt Nam Thông Tấn Xã. Tuyến cũng vô tình không hề biết Ẩn là gián điệp nên đã che chở cho Ẩn khi ông này có thể lộ tông tích gián điệp nằm vùng. Chính vì vậy Ẩn mang ơn Tuyến vô cùng.
-ĐQAT: Sau năm 1975, ông đã có dịp quay lại Việt Nam chưa, nếu có, hình ảnh Việt Nam ra sao trong mắt ông?
-Dan Southerland: Năm 1982, trên đường tới Cambodia, tôi có dịp quay lại Việt Nam có vài ngày. Tôi nghe người Việt than trách về tình trạng thiếu thực phẩm và quần áo. Người cộng sản đã tỏ ra thiếu khả năng quản trị kinh tế. Nhiều chục ngàn người ở các thành phố bị đưa đi “vùng kinh tế mới” để trồng trọt mà rốt cục kết quả chẳng đi đến đâu. Gần 7 năm sau khi chiến tranh chấm dứt, vậy mà chế độ mới vẫn không an tâm nên tiếp tục giam cầm nhiều chục ngàn sĩ quan quân đội và công chức miền Nam trong các “trại cải tạo.” Sau này tôi nghe nói một luật sư Sài Gòn trước kia (Luật Sư Trần Văn Tuyên), một người từng chỉ trích chế độ của ông Thiệu, đã chết trong “trại cải tạo.” Sự kiện này rõ ràng cho thấy diện mạo của chế độ mới. Và tôi còn ghi nhận, rất nhiều người tôi gặp trên đường phố Sài Gòn – họ vẫn gọi thành phố này bằng tên Sài Gòn – vẫn bày tỏ tình cảm thắm thiết với người Mỹ.
Năm 2005, tôi và con trai là Matt xin được giấy chiếu khán du lịch để đến Việt Nam. Rõ ràng tôi thấy giới lãnh đạo cộng sản đã nhận thức là kinh tế của Việt Nam đang trôi vào thảm họa nên đã mở cửa chạy theo một nền kinh tế tư bản kiểu nguyên thủy. Sài Gòn bùng lên phát triển. Căn hộ trước kia tôi từng cư ngụ nằm ở đường Nguyễn Huệ nay bị phá đi và thay vào đó là một cao ốc vừa được xây lên. Nhưng dân chúng ta thán rằng giới lãnh đạo cộng sản hưởng lợi hơn bất kỳ thành phần nào khác do sự phát triển này của Sài Gòn.
Cũng trong dịp trở lại này, tôi và một bạn đồng nghiệp phóng viên Mỹ đã đến thăm khu Nghĩa Trang Quân Đội gần Biên Hòa và chúng tôi tận mắt nhìn thấy cảnh hương lạnh, tro tàn của nghĩa trang này. Nơi đây bây giờ do bộ đội canh gác nên trông không khác gì một trại lính. Lính gác không cho chúng tôi vào bên trong và cấm chụp hình. Nhưng lợi dụng lúc các lính canh lơ đễnh, tôi chụp được một số tấm hình những ngôi mộ cỏ dại mọc đầy chung quanh. Tôi biết được rằng, những năm gần đây, nhờ dùng tiền đút lót, thân nhân những người lính Việt Nam Cộng Hòa nằm xuống trong cuộc chiến đã được phép vào nghĩa trang để dọn dẹp sạch sẽ một số ngôi mộ.
Sự kiện cũng khiến tôi nổi giận là ngay tại Bảo Tàng Chiến Tranh tại Sài Gòn, lịch sử đã bị bóp méo khi người ta trưng bày hình ảnh khiến người xem hiểu lầm là chỉ có người Mỹ chiến đấu chống lại cộng sản trong cuộc chiến vừa qua. Trong thực tế, người miền Nam Việt Nam đã chiến đấu nhiều năm trước khi Hoa Kỳ tham chiến và họ đã gánh chịu nhiều tổn thất nhân mạng nặng nề. Nhưng đau buồn thay, những người lính can trường này đã bị người ta xóa tên khỏi lịch sử.
-ĐQAT: Ông nhận định ra sao về hiện trạng của Việt Nam?
-Dan Southerland: Những tháng gần đây mọi việc diễn ra có vẻ không thuận lợi cho Việt Nam. Cải tổ kinh tế không dẫn tới cải tổ chính trị. Trước khi khai mạc đại hội đảng cộng sản vào Tháng Giêng vừa qua, nhà cầm quyền đã tung ra một đợt trấn áp những người hoạt động dân chủ và những blogger.
Một số luật sư, những người bất đồng chính kiến và những người hoạt động dân chủ đã bị bắt giam chỉ vì phát biểu quan điểm của họ. Chế độ còn sách nhiễu, thậm chí bắt giữ hoặc quản thúc tại gia những vị lãnh đạo các tôn giáo. Ngoài ra, luật mới về báo chí truyền thông vừa được ban hành, với những quy định mơ hồ, còn tạo thêm cơ hội dễ dàng để nhà cầm quyền kiểm soát gắt gao hơn và xử phạt nặng hơn giới cầm bút. Luật báo chí này còn làm cho vấn nạn tham nhũng – hiện đang lan tràn ở mọi cấp chính phủ – trở nên khó diệt trừ hơn.
Dầu vậy, vẫn có một số nhà báo và blogger Việt Nam rất can đảm, họ tìm cách phanh phui những vụ tham nhũng ở địa phương và hành vi lạm quyền của công an. Nhưng khi họ bắt đầu phanh phui tới những hành vi ở cấp cao hơn thì họ bắt đầu gặp nguy hiểm.
-ĐQAT: Cám ơn ông đã dành thì giờ trả lời cuộc phỏng vấn của chúng tôi./.RFA
|
|
|
Post by Huu Le on May 1, 2020 3:11:12 GMT 9
Sài Gòn những ngày cuối tháng 4/197530 Tháng Tư 2020 hung-viet.org/a27737/sai-gon-nhung-ngay-cuoi-thang-4-1975Nguyễn Quang Duy Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt.
Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản.
Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Bao vây Sài Gòn
Quân Bắc Việt bị cầm chân tại Xuân Lộc hơn 10 ngày nên tẽ sang các ngã khác tiến về Sài Gòn.
Tối ngày 21/4, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên Đài Truyền hình tuyên bố từ chức, Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay, phía Cộng sản tuyên bố chỉ nói chuyện với Đại Tướng Dương Văn Minh, phía miền Nam chấp nhận, Tổng thống Trần Văn Hương thu xếp từ chức.
Ngày 14/4/1975, miền Bắc ra chỉ thị mọi cánh quân phải tập trung quanh Sài Gòn vào ngày 26/04, khởi sự tấn công ngày 28/4/1975, cũng đúng ngày đó Đại Tướng Dương văn Minh tuyên bố nhậm chức Tổng Thống.
Sáng ngày 29/4/1975, Đại Tướng Dương văn Minh gởi Tối Hậu Thư buộc người Mỹ phải rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ.
Người Mỹ di tản
Ngay từ đầu tháng 4/1975, công dân Mỹ, những người lập gia đình với Mỹ, những người làm việc cho Mỹ và thân nhân được đưa vào Tân Sơn Nhất để rời khỏi Việt Nam.
Ngày 23/4, phát biểu tại Đại học Tulane tiểu bang Louisiana, Tổng thống Gerald Ford cho biết Bắc Việt sẽ chiến thắng và chiến tranh Việt Nam đã kết thúc.
Ngày 25/4, Dân biểu Đảng Cộng Hòa tiểu bang Michigan, ông William Broomfield cho biết phía Hoa Kỳ đã có một thỏa thuận ngầm, Bắc Việt sẽ không tấn công Sài Gòn trước ngày thứ hai 28/4/1975 để Mỹ có đủ thời gian di tản khỏi Việt Nam, Ngoại trưởng Kissinger phủ nhận nguồn tin.
Khoảng 6 giờ chiều ngày 28/04/1975, Bắc Việt sử dụng 5 phi cơ A37 từ phi trường Phan Rang tấn công Tân Sơn Nhất và đêm hôm đó pháo binh cộng sản từ Cát Lái đã pháo kích vào phi trường.
Đặc công cộng sản cũng đã vào sát phi trường nên các phi cơ chở người di tản không thể cất cánh.
Hoa Kỳ cấp tốc mở chiến dịch di tản bằng trực thăng tại hai địa điểm chính là Trụ sở cơ quan DAO (Defense Attache Office) bên trong phi trường Tân Sơn Nhất và trên nóc Tòa Đại Sứ Mỹ.
Đến 7 giờ 30 tối ngày 29/4/1975, Mỹ đã di tản tất cả nhân viên DAO mang theo những tài liệu quan trọng, rồi đặt mìn giật sập trụ sở DAO phá hủy máy móc và hồ sơ sót còn lại.
Đêm hôm đó, phi trường Tân Sơn Nhất bị cộng sản liên tục pháo kích, nhiều người di tản kẹt trong phi trường bị chết hay bị thương, phi trường phải ngừng hoạt động.
Nguyên đêm 29/4/1975, các trực thăng Mỹ di tản liên tục bay qua các vùng cộng sản đóng quân nhưng không hề bị tấn công.
3 giờ 30 sáng 30/4/1975, Đại sứ Mỹ Graham Martin lên trực thăng ra đi, đến 8 giờ 30 sáng cuộc di tản chấm dứt với chừng 5,500 người được Mỹ đưa đi.
Vẫn còn 70 công dân Mỹ không được di tản, 2 xác Thủy Quân Lục Chiến còn quàn tại nhà xác bệnh viện Chúa Cứu Thế, nhiều nhân viên Việt làm cho Tòa Đại Sứ và hầu hết những người có tên trong danh sách 140 ngàn người được Bộ ngoại giao Mỹ cho di tản đều bị kẹt lại ở Việt Nam.
Phi vụ cuối cùng…
Theo nhà văn Quân Đội Phan Nhật Nam, vào sáng 29/4/1975, từ Tân Sơn Nhất Trung Úy Phi Công Trang Văn Thành lái chiếc C119 Hỏa Long, đơn độc bay lên trời.
Từ trên cao, anh thấy rõ những vị trí của pháo binh cộng sản, anh nghiêng cánh, chúc mũi chiếc Hỏa Long trút xuống tràng đạn 7.62 ly, và tất cả hỏa lực cơ hữu của hai khẩu đại bác 20 ly gắn dưới cánh phi cơ, phòng không cộng sản phản pháo, nhưng phi cơ thoát được lưới đạn.
Phi công Thành quay trở lại phi trường, nạp đạn vào phi cơ, tiếp tục bay thẳng đến phía pháo binh cộng sản nhả đạn, máy bay trúng đạn phòng không, ngang cánh trái, ngay bình xăng, sát cạnh ghế ngồi.
Anh Thành giật mạnh chốt thoát hiểm để bung thân thoát ra, nhưng chốt kẹt cứng, anh dùng tay đẩy cửa buồng lái phóng mình ra, chiếc dù bung mạnh, vướng vào khung cửa phi cơ.
Phi Công Trang Văn Thành bị giữ chặt bởi chiếc dù và khung cửa, chiếc C119 Hỏa Long chìm trong lửa, anh gục chết giữa không gian, trên quê hương, hoàn tất phi vụ cuối cùng.
Giờ Sài Gòn giờ Hà Nội…
Ngày 30/4/1975, miền Bắc và miền Nam có 2 cách tính giờ khác nhau, giờ Sài Gòn đi trước giờ Hà Nội 1 tiếng đồng hồ.
Đọc các bài viết về ngày 30/4/1975 có người dùng giờ Sài Gòn có người dùng giờ Hà Nội, có bài viết chỗ dùng giờ Hà Nội chỗ dùng giờ Sài Gòn, bài này tôi cố gắng chuyển sang giờ Sài Gòn cho bạn đọc dễ theo dõi.
Hai chiếc xe tăng…
9 giờ 30 sáng 30/4/1975, quân Bắc Việt vượt cầu Sài Gòn, binh sĩ miền Nam kháng cự dữ dội, có ít nhất 4 xe tăng và hằng trăm bộ đội chết trong trận này.
Khoảng 10 giờ 30 sáng, máy phát thanh liên tục phát lời Đại Tướng Dương Văn Minh kêu gọi binh sĩ ngừng bắn sửa soạn bàn giao cho phía bên kia.
Cầu Sài Gòn là mũi tiến chính của quân Bắc Việt, trước hỏa lực quá hùng hậu của đối phương, súng hết đạn binh sĩ miền Nam rút dần.
3 xe tăng Bắc Việt vượt cầu Sài Gòn, tìm đường đến dinh Độc Lập, một chiếc bị bắn cháy ở cầu Thị Nghè, hai chiếc còn lại chạy lạc đường phải nhờ người hướng dẫn.
Chừng 11 giờ 45 chiếc xe tăng mang số 843 chạy tới Dinh Độc Lập húc vào cổng phụ bị đứt bánh xích nên kẹt không vào được.
Chiếc tăng số 390 đến sau ít phút húc đổ cổng chính chạy vào trước tiên, nhưng vì là T59 sản xuất tại Trung Quốc, nên trong một thời gian dài phải nhường công chạy vào Dinh trước cho chiếc T54 mang số 843 sản xuất tại Liên Xô.
Chuyện hai lá cờ…
Lá cờ xanh đỏ sao vàng của Mặt trận Giải Phóng Miền Nam đầu tiên được cắm trên nóc dinh Độc Lập là lá cờ treo trước mũi xe tăng mang số 843 do Trung Úy đại đội trưởng Bùi Quang Thận lấy xuống và mang lên nóc Dinh treo.
Số phận lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa một thời gian dài được Hà Nội đưa tin là từ nóc Dinh được ném xuống đất, sau này mới biết được Trung Úy Bùi Quang Thận cẩn thận giữ riêng làm kỷ niệm.
Trong bộ phim tài liệu về ngày 30/4/1975, đóng vào đầu tháng 5/1975, ông Bùi Quang Thận mang một lá cờ xanh đỏ sao vàng rất to, không phải là lá cờ cắm trên chiếc xe tăng mang số 843.
Số phận lá cờ xanh đỏ sao vàng được ông Thận đầu tiên cắm trên nóc Dinh Độc Lập không rõ ra sao, vì nó vừa cũ vừa nhỏ nên ngay trưa hôm đó được thay thế bằng một lá cờ mới và lớn hơn.
Ai bắt đầu hàng…
Nhà báo Bùi Tín dựa theo các bài ông viết đăng trên báo Quân Đội Nhân Dân vào đầu tháng 5/1975, tự nhận ông là sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam có mặt sớm nhất tại Dinh Độc Lập, là người đi cùng đơn vị xe tăng đầu tiên đâm đổ cổng Dinh Độc Lập, và là người trực tiếp chấp nhận tuyên bố đầu hàng của Đại tướng Dương Văn Minh.
Theo phóng viên người Đức Von Boric Gallasch (lấy bút hiệu Tiziano Terzani), tờ Der Spiegel, thì Đại Úy Phạm Xuân Thệ là người đã theo hai chiếc xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập bắt Đại tướng Dương Văn Minh phải đầu hàng vô điều kiện.
Còn Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203, đến sau nhưng chính là người soạn Tuyên Bố đầu hàng cho Tướng Dương Văn Minh và ông Tùng đọc Tuyên Bố chấp thuận đầu hàng.
Xém đụng trận ngay trước Dinh
Phóng viên Boric Gallasch chứng kiến một số binh sĩ miền Nam rời khỏi Dinh Độc Lập, có thể ông không biết các binh sĩ này do 1 thiếu tá Tiểu Đoàn trưởng Lôi Hổ phụ trách phòng thủ sân bay Tân Sơn Nhứt đến Dinh để hỏi rõ về lời kêu gọi ngừng bắn và bàn giao của Đại Tướng Dương văn Minh.
Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cho biết cánh quân này không chấp nhận đầu hàng, họ chỉ rời đi ít phút trước khi hai xe tăng 843 và 390 ủi sập cổng Dinh Độc Lập.
Tại Tân Sơn Nhất cánh quân này vừa bắn cháy 3 xe tăng Bắc Việt, nếu hai xe tăng 843 và 390 biết đường chạy thẳng đến Dinh đã đụng độ với cánh quân nói trên và lịch sử có thể đã khác đi.
Ở một số địa điểm như Tân Sơn Nhất, trại Hoàng Hoa Thám, Bộ Tổng Tham Mưu,… một số binh sĩ miền Nam vẫn kháng cự cho đến khi Đại Tướng Dương văn Minh đọc Tuyên Bố Đầu Hàng.
Còn ở các nơi khác vì lực lượng cộng sản quá hùng hậu, binh lính miền Nam rút về phía trung tâm Sài Gòn, đến khi nghe tướng Minh kêu gọi ngừng bắn thì tự động buông súng tan hàng hay buông súng khi thấy sự xuất hiện của quân miền Bắc.
Không máy ghi âm…
Phóng viên Boric Gallasch cho biết Đại tướng Dương văn Minh định thu băng lời Tuyên Bố Đầu Hàng nhưng vì không tìm thấy chiếc máy ghi âm nên mới phải sang Đài Phát Thanh.
Ông Terzani viết: “nhân viên (Dinh Độc Lập) bỏ trốn mang đi tất cả những gì họ có thể cuỗm”.
Sang Đài Phát Thanh cũng không tìm thấy máy ghi âm nào, ông viết: “Toà nhà cũng vừa trải qua những trận hôi của.” nên cuối cùng phải dùng chiếc máy ghi âm nhỏ của ông để thu lời Tuyên Bố đầu hàng.
Nhận xét của ông Boric Gallasch thiếu công bình cho những người miền Nam, vì đa số các nhân viên Dinh Độc Lập hay Đài Phát Thành khi ấy đều muốn bỏ của họ gầy dựng bao năm để chạy thoát cộng sản.
Những chiếc máy ghi âm vừa gọn, vừa nhỏ, vừa lạ, vừa quý, là kỷ niệm tiếp thu Sài Gòn, người bộ đội có thể mang về miền Bắc khoe với gia đình.
Xin đừng nghĩ xấu cho họ, đó là việc làm bình thường của những người chiến thắng cần có chút gì làm kỷ niệm, nhờ thế Trung úy Bùi Quang Thận mới giữ lá cờ vàng ba sọc đỏ trong suốt 20 năm.
Đạn lạc…
Xe tăng, xe thiết giáp, quân xa chở lính miền Bắc đổ về dinh Độc Lập mỗi lúc một đông, những tràng súng chỉ thiên mừng chiến thắng nổ vang trời, khói súng mịt mù.
Người lính Bắc Việt thuộc tiểu đoàn 7 bộ binh tên Tô Văn Thành đang ngồi trên thành xe tăng bị trúng đạn rớt xuống đường, chết ngay trước dinh Độc Lập.
Báo chí đưa tin ông Thành bị Biệt kích dù 81 từ phía trụ sở Bộ Ngoại giao bắn chết, nhưng đạn lạc thì đúng là nguyên nhân dẫn đến cái chết kết thúc trận chiến kéo dài trên 20 năm.
Vị Quốc Vong Thân…
Nhắc đến 30/4/1975, không nhắc đến 5 vị tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú, và Lê Nguyên Vỹ và hằng ngàn binh sĩ Việt Nam Cộng Hoàn tuẫn tiết quả là điều thiếu sót.
Tại thành phố Melbourne, nơi gia đình tôi đang sống, những anh hùng vị quốc vong thân được thờ trong Đền Thờ Quốc Tổ và có Tượng Đài để ghi nhận ân đức những người đã chiến đấu bảo vệ miền Nam tự do trong hơn 20 năm.
Đoàn quân cuối cùng…
Nhà tôi ở Bàn Cờ chỉ cách Dinh Độc lập chừng 4 cây số, khoảng 12 giờ trưa những tiếng súng mừng chiến thắng làm mọi người tưởng lầm là cộng sản đang đánh chiếm Dinh.
Đến 1 giờ trưa, Đại Tướng Dương Văn Minh lên Đài Phát Thanh Tuyên bố đầu hàng, bà con lối xóm đều vui vì chiến tranh chấm dứt, nhưng lại lo âu khi nghĩ đến tương lai.
Chừng 1 giờ 30, chính mắt tôi chứng kiến một đội lính Việt Nam Cộng Hòa chừng 20 người đủ mọi binh chủng đi đầu là một sĩ quan Dù rất trẻ mang súng lục, những người đi sau súng ống đầy đủ, hàng ngũ chỉnh tề, tiếp tục bảo vệ người dân khu phố.
Những người lính cộng hòa chỉ tan hàng khi thấy bóng dáng của bộ đội cộng sản, chính nhờ họ Sài Gòn mới được chuyển giao một cách bình yên cho Quân Đội Bắc Việt.
Những người cộng sản đầu tiên…
Chừng 2 giờ trưa, tôi đi bộ ra đường Phan Đình Phùng, súng ống và quần áo quân nhân rải rác hai bên đường, dân chúng đã bắt đầu đổ ra đường, vẫn chưa thấy bóng dáng của những người cộng sản vào tiếp thu khu vực.
Tôi chuyển sang đường Hồng Thập Tự, hướng về Dinh Độc Lập, đã thấy một số bộ đội cộng sản trên những xe Jeep với lá cờ xanh đỏ sao vàng.
Một số biệt thự chủ nhân đã di tản bị hôi của, bộ đội bắn chỉ thiên giải tán, nhưng không dám đến gần đám đông để tịch thu đồ vật.
Tôi đến Dinh Độc Lập sau 3 giờ chiều, bộ đội miền Bắc đã đóng quân trong và ngoài Dinh, dân Sài Gòn đến xem bộ đội miền Bắc khá đông.
Những bộ đội với nón cối và dép râu những thứ mà tôi chưa hề gặp, họ đều rất trẻ, vui vẻ trả lời những câu hỏi với cùng một giọng điệu, cùng một bài bản được học tập trước ngày tiếp thu Sài Gòn.
Tôi đi thẳng ra Chợ Sài Gòn chứng kiến cảnh sinh hoạt bắt đầu trở lại, quanh Dinh Độc Lập và Chợ Sài Gòn đã bắt đầu có những trao đổi bằng tiền Hồ Chí Minh, Sài Gòn là vậy, vừa thoát chết là có người nghĩ ngay đến bán buôn.
Tôi nghe những tiếng nổ lớn, như đạn súng cối, từ phía Dinh Độc Lập, tiếp theo là những tiếng súng đủ loại. Sau này mới biết là hai cánh quân cộng sản không biết vì lý do gì bắn lẫn nhau.
Tôi vội quay về nhà, trên đường về tôi chứng kiến những xe tăng và quân xa bộ đội, có thể, đang trên đường chuyển quân về miền Tây.
Ngay cuối đường Hồng Thập Tự gần ngã sáu Cộng Hòa, một chiếc xe tăng bị bắn cháy, tôi không nhớ xe tăng phía bên nào.
Tối xem truyền hình, người xướng ngôn viên nói tiếng Nam khuôn mặt đằng đằng sát khí, hùng hổ đưa tin về Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng, miền Nam đã hoàn toàn giải phóng.
Ngày hôm sau, xướng ngôn viên khác xuất hiện trên truyền hình với khuôn mặt và giọng nói ít cộng sản hơn, nhưng tin tức thì cũng vẫn một giọng tuyên truyền, khác hẳn với tin tức thời Việt Nam Cộng Hòa.
45 năm nhìn lại…
Chỉ sau 2 ngày Sài Gòn thất thủ, chỉ sau 2 tháng miền Bắc tiếp thu miền Nam, Việt Nam bước sang một trang sử mới.
Cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa, một xã hội chưa ai hình dung được hình dáng của nó, không tiến được thì lùi, cộng sản đã lùi về cách quản lý kinh tế thời Việt Nam Cộng Hòa.
Giá trị vật chất có thể phục hồi, nhưng giá trị tinh thần như niềm tin, giáo dục, văn hóa, thể chế, tự do, dân chủ và nhân quyền của người miền Nam đã mất khó có thể phục hồi.
Ngày 30/4/1975, Đại Úy Phạm Xuân Thệ tay lăm le khẩu súng lục, cùng Trung tá Bùi Văn Tùng không nói chuyện bàn giao với Ngụy quyền bắt Đại tướng Dương Văn Minh phải đầu hàng vô điều kiện.
Người cộng sản ngày nay phải công nhận thế chính danh của Việt Nam Cộng Hòa, nhưng vì từ chối bàn giao nên mất đi sự nối tiếp, sự thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông trên Công Pháp Quốc Tế.
Ngày 30/4/1975, quả là ngày đen tối nhất trong lịch sử cận đại Việt Nam.
Nguyễn Quang Duy Melbourne, Úc Đại Lợi 29/4/2020
|
|
|
Post by Huu Le on May 2, 2020 3:19:34 GMT 9
Bên hồ Thác Bà.
Một năm sau khi Miền Nam thất thủ, hàng ngàn sĩ quan QLVNCH đã bị lưu đày lao động khổ sai nơi Làng Đá, Cẩm-Nhân, đầu nguồn hồ Thác-Bà, Yên-Bái, Hoàng-Liên-Sơn.
Sau đây là một truyện kể về đời tù nơi ấy năm 1977…
Tháng Năm, trời không còn lạnh lắm, hoa đậu phọng đã rụng, râu bắp đã teo, nhưng mùa màng chưa thu hoạch.
Đối với những người tù cải tạo trong trại T4 Cẩm-Nhân, thì mùa này ngày dài hơn, cơn đói cũng kéo dài hơn…
Nơi khúc quanh con lộ đá, sát mé nước hồ Thác-Bà, có một bãi tăng gia sản xuất “cải thiện” đời sống của bộ đội thuộc Đoàn 776 Cộng-Sản.
Vườn bắp nơi đây tốt giống, tốt nước, nên trái nào, trái nấy no tròn, mập mạp thấy phát thèm…
Một ngày, giờ đứng bóng, có một anh tù đứng bên một đống lửa đang cháy lớn trên triền đồi; anh ta đang nướng bắp non.
Bắp anh đang nướng là bắp ăn trộm từ cái rẫy bên hồ của cán bộ.
Những bạn tù khác vác củi đi ngang qua khúc quanh, đều được anh ném tặng một, hai cái bắp nướng, nóng hổi, thơm ngon, ngọt lịm.
Không ai nhìn rõ mặt anh tù vô kỷ luật đó, vì anh ta đội nón sụp tới mắt; mặt và cổ anh lại quấn một vuông khăn đen, mặc dù trời không lạnh.
Anh ta khôn lanh đứng giữa khoảng trống, có thể quan sát tới khúc quanh rẽ vào Trại 4, đồng thời nhìn rõ cả những bóng người di chuyển nơi cổng Trại 9 bờ bên kia.
Sau lưng anh là rừng già. Bìa rừng già có một nhà sư ẩn mình canh gác cho anh.
Nhiều người biết nhà sư này là cựu Đại Úy Lê Thái Bình, Tuyên-Úy Phật-Giáo của Tiểu-Khu Phú-Bổn.
Những người tù vác củi về sớm không được phép nhập trại, họ phải tập trung nơi chuồng lợn, cách trại chừng hai trăm mét chờ tới hết giờ lao động.
Không rõ có anh “ăng-ten” nào lẻn về báo cáo gì với cán bộ trại hay không, nhưng gần một chục tay súng AK đã hộc tốc, vội vã chạy ra bờ hồ truy lùng anh tù “phá hoại”.
Họ uổng công thôi! Tìm anh ta không được đâu! Anh “phá hoại” nhanh như cheo. Chẳng thế mà, Trung Tá Nguyễn Công Luận (K12 VB) ở tù chung Lán 11 với anh ta, đã gán cho anh ta cái biệt danh “Con Beo Trại 4″.
Hôm đó, toán vệ binh chỉ nhìn thấy trên triền đồi, một bếp lửa lớn đang cháy hừng hực và một đống bắp chưa kịp nướng.
Dưới chân đồi, bên con đường mòn, nằm trơ hai trái bắp nướng, vỏ còn bốc hơi. Hai trái bắp này được ném cho anh tù cải tạo tên là Nguyễn Hữu Sủng cựu Đại Úy An-Ninh Quân-Đội.
Anh Sủng không dám lượm bắp ăn, vì anh là một tín đồ Thiên-Chúa rất ngoan đạo. Cho dù lúc đó bụng đói muốn chết, anh vẫn sợ phạm tội với Chúa.
Toán bộ đội hăm hở lùng sục “phạm trường”. Ngón nghề của người trộm bắp quả thực là quá khéo tay. Cả trăm trái bắp non bị hái mang đi không dấu vết.
Anh trung úy cán bộ quản giáo tên Thu giận quá, nghiến răng trèo trẹo,
“Đúng là quân phá hoại! Ông mà tóm được mấy thằng này, ông ‘dần’ cho hộc máu!”
Toán vệ binh đứng bên đống bắp cao nghệu bên đường, tiếc ngẩn ngơ.
Trên không, có đám mây ngàn hững hờ chứng kiến. Bên hồ, vài con trâu trầm mình trong bùn, vẫy đuôi đuổi ruồi, mắt lừ đừ…
Biết hỏi ai để tìm ra kẻ “phá hoại ” bây giờ?
Mười phút sau, toán bộ đội đành rút lui về trại.
Buổi chiều, đoàn tù vác củi theo chân nhau vào cổng dưới đôi mắt xoi mói của anh trung úy quản giáo Thu .
Quản giáo Thu lục túi từng người kiếm cái khăn đen. Chẳng ai có cái tang vật màu đen ấy cả.
Tối đó, cựu Đại Úy An-Ninh Quân-Đội Nguyễn Hữu Sủng lẻn vào Lán 4, ngồi cầu nguyện bên chân linh mục Khổng Tiến Giác , cựu Tuyên-Úy của Cụ Diệm. Cha Giác cũng bị giam ở trại này.
Anh Sủng hỏi cha,
“Cha ơi! Con đói quá! Nếu con ăn trộm một trái bắp của trại ăn cho đỡ đói thì con có phạm tội không cha?”
Cha Giác ôn tồn,
“Con ơi! Con là con của Chúa. Bắp cũng là của Chúa. Con ăn bắp của Chúa để cứu cái thân con của Chúa thì con có tội tình gì đâu!”
Những ngày sau đó, trong hàng ngũ những kẻ phá hoại vườn sắn, khoai lang, rau đậu của cán bộ, có thêm hai hung thần nữa, đó là cựu Đại Úy Nguyễn Hữu Sủng và người bạn tù nằm kế bên anh, cựu Đại Úy Tuyên-Úy Tin-Lành Sư Đoàn 2 Bộ Binh, Mục-Sư Võ Ngọc Thiên Lộc.
Một năm sau (1978), tay ăn trộm bắp trốn trại lần thứ hai, lại thất bại, lại bị cùm, lại bị chuyển trại.
Tới trại Phú-Sơn 4, Thái-Nguyên, bạn bè cũ gặp lại nhau, có người hỏi anh ấy rằng ngày đó cái khăn đen anh dấu đâu?
Anh ta (BĐQ Vương Mộng Long) cười hì hì, tiết lộ rằng anh đã dắt cái khăn đen dưới mái chuồng trâu nhà một người dân Tày, dưới chân dốc Ngàn, ngoài cổng trại.
Anh chỉ lấy khăn ra khi hành nghề ăn trộm, cứu giúp bạn tù đang đói.
Xong việc, anh lại dấu cái khăn vào nơi cũ.
Khi đi trốn trại lần thứ hai, vội quá, anh không kịp đem cái khăn theo.
Không rõ mấy chục năm qua, cái khăn đen có còn nằm dưới mái chuồng trâu nhà Tày nơi cuối dốc Ngàn hay không?
Nhưng chắc chắn cái khăn đen đó vẫn chưa quên người, vì người vẫn còn nhớ khăn…
Vương Mộng Long Seattle, WA- USA
Hình Tác giả, thiếu úy Vương Mộng Long - 1966
|
|
|
Post by Huu Le on May 2, 2020 10:25:37 GMT 9
'Học tập cải tạo' hay khổ sai, lưu đày? Việt-Long, RFA 2015
'Journey from the fall' trailer. Audio: Câu chuyện của những người tù cải tạo sau 30/04/1975 00:00/12:37 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh Sau ngày 30 tháng Tư 1975 chỉ trong vòng hai tháng hằng trăm ngàn quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị đưa vào các trại tập trung cài tạo, nói là để học tập tư tưởng tiến bộ theo chủ nghĩa xã hội rồi trở về sinh sống hài hòa trong xã hội mới. Sĩ quan cấp úy được dặn đem theo 10 ngày tiền ăn, và 1 tháng cho cấp tá trở lên. Điều gì xảy đến với họ sau đó? Chính sách tập trung cải tạo được thực hiện thế nào?
Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn hai cựu sĩ quan và một nhân viên dân chính trung cấp của Việt Nam Cộng Hòa về đề tài này. Vào tháng tư 1975 họ là Trung úy Nguyễn Ngọc Tiên, 8 năm tù 'cải tạo', đại úy Hồ Công Bình, 9 năm, và ông Đỗ Mạnh Trường, sĩ quan quân đội biệt phái sang một nhiệm sở dân sự, 8 năm tù.
Nhẹ dạ, cả tin? Trả lời câu hỏi vì sao trong tháng 5 và tháng 6-1975 cả quân đội miền Nam đã trình diện đúng theo lệnh gọi để vào các trại tập trung, ông Nguyễn Ngọc Tiên nói:
Ông Nguyễn Ngọc Tiên: Khi mà họ chiếm hết cả miền Nam rồi thì tất cả các sĩ quan, binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở trong tay họ. Chúng tôi, một số những người , theo tin tức thì còn những tàn quân ở trong rừng, cũng có một số người cố gắng kiếm đường để vào. Cá nhân chúng tôi cũng kiếm đường để đi vào bưng nhưng cho tới giờ chót thì không còn cách nào khác hơn là đi trình diện để rồi nhận cái án tập trung của họ thôi. Nếu không thì cũng nằm trong tay họ vì sau đó bị bắt thì cũng nằm trong tay họ thôi.
Việt Long: Thưa, lúc đó ông có tin là học tập cải tạo 10 ngày hay 1 tháng rồi sẽ được trở về hay không?
Ông Nguyễn Ngọc Tiên: Tôi hoàn toàn không tin vào điều đó bởi vì có kinh nghiệm của gia đình chúng tôi. Khi ở ngoài Bắc, việc Cộng sản kêu gọi đi tập trung vào để gọi là cải tạo hay học tập thì chúng tôi không biết chắc được rằng là đi như thế nào. Tôi không tin vào thời hạn 1 tuần, 10 ngày hay 1 tháng, hay là bao lâu. Chúng tôi cũng không nghĩ rằng là họ có thể kéo dài như là họ đã làm.
Việt Long: Và ông Hồ Công Bình, cựu đại úy Biệt động quân tiếp lời:
Ông Hồ Công Bình: Lúc đó chúng tôi là Liên đoàn 4 Biệt động quân và tôi là Tiểu đoàn phó 43, Biệt động quân. Liên đoàn 4 Biệt động quân tổng trừ bị của chúng tôi được lệnh rút về Sài Gòn để phòng thủ phía Đông của Sài Gòn. Miền Nam thất thủ rồi, thì có những đường lối của họ mà mình cũng không ngờ tới. Thứ nhất họ cho binh sĩ và hạ sĩ quan học tập 7 ngày. Họ chỉ cho học có 7 ngày đó và xong xuôi thì thấy binh sĩ và hạ sĩ quan phơi phới đi ra về. Mình thấy họ nói là họ đã thống nhất và họ nói đi học tập đi rồi sẽ trở về trong 1 tháng. Như vậy, mình cũng tạm yên chí để đi vô coi như thế nào. Đến khi vào rồi mới biết rằng đó là cả một sự việc mà mình không ngờ đến.
Cải tạo hay tù khổ sai? Việt Long: Thưa, sau đó thì ông bị đưa đi những trại tập trung nào, ở đâu?
Ông Hồ Công Bình: Họ chuyển tôi về Long Giao. Khi ở đó 8 tháng thì chúng tôi đã biết rằng đây là trại tù đầu tiên mà chúng tôi đến. Bắt đầu thấy những cơn đói đến hành hạ. Gạo tồn trữ trong rừng từ lâu đã thành mối mọt, họ cho mình ăn. Có một số anh em đã bị phù thủng rồi. Sau 8 tháng đó rồi thì xuống tàu Sông Hương. Khi xuống tàu Sông Hương rồi thì lúc đầu chúng tôi vẫn tưởng là đi ra Phú Quốc hoặc là Côn Sơn.
Không ngờ rằng trên đường thẳng đi ra lộ trình hướng Bắc. Ghé đến Hải Phòng, khi lên xe lửa thì nhốt chúng tôi vào wa-goong chở toàn súc vật. Khi tới phà Ô Lâu để qua Yên Bái thì xuống tàu để bắt đầu qua phà, chúng tôi đã bị dân ở nơi đó ném đá.
Trên đường ra Bắc, ghé đến Hải Phòng, khi lên xe lửa họ nhốt chúng tôi vào wa-goong chở toàn súc vật. Khi tới phà Ô Lâu để qua Yên Bái thì xuống tàu để qua phà, chúng tôi đã bị dân ở nơi đó ném đá. Ô. Hồ Công Bình Sau này, chúng tôi mới được những người đó họ nói với chúng tôi rằng đã được học tập là có tù đi qua đây và những đám này là có nợ máu với nhân dân và học tập nói là phải hành động, cư xử với họ như thế nào. Sau đó thì tụi tôi vào tới trại Sơn la, Yên Bái...nhiều trại lắm.
Ở Yên Bái gồm có những đoàn 776, hồi đó do quân đội quản lý, bắt phải đi rừng leo lên chặt nứa, chặt cây để về làm trại để nhốt mình ở trong đó.
Trong rừng thì làm sao có gạo được. Chúng tôi chỉ duy nhất có ăn khoai, ăn sắn (khoai mì) và bo bo. Buổi sáng họ chỉ phát 3 củ khoai mà leo lên rừng mà chặt cây. Tụi tôi phải đi ra ngoài, tìm kiếm rau.
May là tụi tôi là Biệt động quân đã được huấn luyện về “mưu sinh, thoát hiểm” nên có thể tìm ra được những rau quả để mà đỡ đói; Còn hơn là những ông sĩ quan phục vụ văn phòng thì rất là tội cho họ trong vấn đề đó.
Việt Long: Sau một thời gian dài như vậy thì tỉ lệ tử vong có nhiều không? Có người nào trốn trại thoát hay không?
Ông Hồ Công Bình: Thứ nhất là ăn uống thiếu thốn vệ sinh. Thứ hai là sốt rét. Có những người bị như thế này, thế kia. Con số tử vong có thể nói là khá. Tụi tôi ở trong rừng như vậy nên khi mà (có ai) chết thì đưa từ trại này lên trên đoàn của họ rồi phải chôn tại chỗ của họ. Cho đến bây giờ cái sĩ số đếm được người chết ở ngoài Sơn La với lại Yên Bái rất nhiều.
Tôi không thể ước lượng được khoảng bao nhiêu, tại có rất nhiều trại nằm trong đoàn 776. Do đó chỉ biết rằng một cái trại của tôi là đã chết khoảng mười mấy, hai chục người với trong số độ khoảng hai trăm mấy tù nhân.
Số lượng bịnh tật nặng nề rất là nhiều; Mà đã bịnh tật thì chỉ có ‘xuyên tâm liên’ không chứ đâu có thuốc gì nữa đâu để mà chữa. Do đó số còn sống được đây là cả một điều may.
Việt Long: Trong thời gian đó thì gia đình của quí vị, vợ con… sinh sống như thế nào, được đối xử ra sao, ông Đỗ Mạnh Trường nói:
Ông Đỗ Mạnh Trường: Khi tôi về, tôi nghĩ là cò lẽ đời sống của tù là khốn nạn nhất nhưng qua câu chuyện của gia đình thì tôi thấy hóa ra là mình còn may mắn hơn người ở nhà. Người ở nhà đã phải nhịn ăn, nhịn mặc để lo kiếm sống cho chính mình và cho con cái, mà còn phải nhịn ăn để dành để thăm nuôi chống con ở ngoài trại nữa.
Đời sống của người dân miền Nam trong giai đoạn đó, ít nhất là cho đến năm 1980, những người có gia đình đi cải tạo, đời sống của gia đình rất là khó khăn và bi thảm- phải dùng chữ bi thảm.
Đời sống của người dân miền Nam trong giai đoạn đó, những gia đình có người đi cải tạo, rất là khó khăn và bi thảm- phải dùng chữ bi thảm. Ô. Đỗ Mạnh Trường Mưu đồ chính sách lưu đày? Việt Long: Ông có nghĩ đến lý do vì sao mà chính quyền Cộng sản lại giam nhốt các vị lâu như vậy không?
Ông Đỗ Mạnh Trường: Tôi có thể nhìn thấy chứ. Đó là chính sách: một là muốn giam để vô hiệu hóa những thành phần có thể chống đối sau này.
Thứ hai chính là làm tê liệt, hủy hoại nguyên cả một thế hệ-đó là những thế hệ của miền Nam. Nên nếu mà họ có khả năng giam càng lâu thì càng tốt.
Việt Long: Thưa ông, có một sử gia trong nước mới đây nói rằng chính sách cải tạo đó không phải là ngượi đãi hay là tù tội mà chỉ là cải tạo cho tốt rồi cho về thôi. Nói rằng ngược đãi là không đúng sự thật.
Ông Đỗ Mạnh Trường: Hỏi anh chàng đó là có người nhà đi tù cải tạo hay không. Tôi đã nghe rất nhiều câu chuyện. Những người miền Nam mà có gia đình ở miền Bắc vào thăm. Họ cũng khuyên câu đầu tiên là các bác, các chú ráng cải tạo cho tốt để được về với gia đình; Nhưng sau đó một thời gian thì những người đó họ không dám nói những điều đó nữa.
Đó là sự ngụy biện hoàn toàn. Bỏi vì đã quá rõ ràng, nếu không có áp lực của thế giới thì chắc chắn là tất cả những cựu quân nhân, với danh nghĩa là đi tù cải tạo, sẽ chẳng còn mấy người về.
Xin nhấn mạnh rằng, cho đến năm 1979, khi đã có một số người được chở vào Thanh Phong, Thanh Hóa để biến thành trại viên thay vì phạm nhân, theo danh nghĩa họ nói. Họ đã được trả lại đồng hồ, được phép đi ra khỏi trại mà không phải có tụi nó dẫn theo, thì họ lại được khuyến khích là chỉ trong một thời gian ngắn nữa các anh sẽ đưa vợ con các anh ra ngoài này.
Thế hỏi anh, giả sử chính sách tiếp tục, những thế hệ, giai cấp đó có còn hay không hay là tất cả con cái chúng ta đã trở thành người Thượng hết rồi, chỉ trong một thời gian rất ngắn.
Ông Hồ Công Bình: Cái cha đó chưa bao giờ ổng ở trong tù hết. Khi nào chính những người ở bên Mỹ này họ có cần diet, tức là họ cần làm cho con người của họ nhỏ bớt đi, ốm bớt đi thì nhiều khi tôi cũng nói đùa với họ ‘Anh cần chi uống thuốc.
Anh chỉ cần về Việt Nam, chỉ cần xin Cộng sản cho anh vô ở tù thì 1 tháng anh có thể xuống 30 lbs rồi”. Tôi nghĩ tôi không cần nói nhiều. Sử gia đó cứ vô trong tù ở đi sẽ biết nó như thế nào, thưa anh.
Đâu là hoà giải, đoàn kết? Việt Long: Thưa ông, câu hỏi cuối là ngày đó, thời gian đó, các ông nghĩ chính quyền Cộng sản Việt Nam có thể làm điều gì tốt hơn thế đối với các sĩ quan, viên chức Việt Nam Công hòa để thực hiên điều họ nói là hòa hợp và đoàn kết toàn dân xây dựng đất nước?
Ông Hồ Công Bình: (nói đến) Người Cộng sản thì tôi không biết sẽ nói như thế nào. Tôi cũng đọc sách sử nhiều. Tôi cũng thấy được Civil War của Mỹ, cuộc nội chiến của Mỹ. Sau khi Bắc quân đã thắng rồi và Nam quân đã đầu hàng rồi, những người thuộc Nam quân đầu hàng vẫn được giữ vũ khí, trở về địa phương của họ sinh sống. Ngay cả những nghĩa trang của họ tất cả đều được giữ nguyên như vậy.
Ngay cả bên Thổ Nhĩ Kỳ cũng có những gương như vậy. Nếu những cấp lãnh đạo của Cộng sản, ít ra họ có hiểu được sử, và hiểu và áp dụng những cái như vậy để cho nhân dân có tự do. Họ biết trọng dụng lại những người như vậy để xây đắp lại. Họ cởi mở hơn. Và họ làm như vậy, tôi nghĩ là không có cảnh người ta bỏ đi ra vượt biên “cho đến cột đèn cũng bỏ đi nữa”.
Họ sử dụng một chính sách thù địch đối tất cả những người còn lại, họ đã cắt đứt con đường gọi là hòa hợp, hòa giải dân tộc ngay từ những ngày đầu tiên. Ô. Nguyễn Ngọc Tiên Cho đến bây giờ, báo chí hay truyền thông vần còn nói có một số người họ vẫn còn đi tới bên Úc và bị Úc phân loại ngay trên biển để trả về. Như vậy anh tính nó như thế nào. Họ vẫn chưa có một sự chuẩn bị ở trong đó.
Ông Nguyễn Ngọc Tiên: Thưa ông, ở trên thế giới này, rất là nhiều bài học mà bài học tốt nhất là sau khi Hoa Kỳ chấm dứt cuộc chiến tranh Nam Bắc.
Đó là nếu quả thực họ có ý hướng hòa hợp, hòa giải dân tộc thì (lúc đó) họ đã chiếm toàn thể đất nước rồi, những người ở miền Nam gọi là đối nghịch với họ không có vũ khí trong tay và họ đang nắm giữ quyền lực thì tôi nghĩ rằng họ phải tận dụng tất cả những nguồn nhân lực, tài lực ở miền Nam mà khi họ vào họ đã thấy được để sử dụng.
Tôi nghĩ không phải tất cả những người ở miền Nam đều là thù địch với chính sách muốn thay đổi để mà cải tiến dân tộc như vậy. Bởi vì họ sử dụng một chính sách thù địch đối tất cả những người còn lại, họ đã cắt đứt con đường gọi là hòa hợp, hòa giải dân tộc ngay từ những ngày đầu tiên.
Việt Long: Và cuối cùng, kết thúc cuộc phỏng vấn này ông Đỗ Mạnh Trường cho rằng:
Ông Đỗ Mạnh Trường: Làm gì có hòa giải, hòa hợp dân tộc. Đó là lời “ranh” để dụ dỗ những người nhẹ dạ. Mục tiêu của Cộng sản là tiêu diệt nguyên cả chế độ của miền Nam Việt Nam hay nói chung của cả dân tộc Việt Nam. Không hề có hoà giải, hòa hợp dân tộc đâu. Người nào tin vào cái chuyện đó là điều rất là khôi hài và ngu xuẩn.
|
|
|
Post by Huu Le on May 2, 2020 10:32:06 GMT 9
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ MIỀN NAM SAU CUỘC CHIẾN
Trần Hoàng Yến
Ba tôi là một sĩ quan truyền tin của quân đội VNCH. Gia đình tôi sống trong Bộ Tổng Tham Mưu, gần sát phi trường Tân Sơn Nhất. Vì sống trong trung tâm của Bộ Tổng Tham mưu nên ba tôi nói rất nguy hiểm và ba đã xây một cái hầm cho mẹ con tôi trốn đạn. Mẹ nói ba làm rất cực để giữ an toàn cho gia đình. Ba vì công việc nên đi hoài, mẹ ở nhà mỗi khi nghe đạn pháo nổ dắt chúng tôi chạy xuống hầm trốn đạn. Và ngày ấy đạn pháo bay như mưa, tôi còn nhớ cứ lâu lâu nghe tiếng súng bắn và nghe người ta la "chết rồi, máy bay cháy", hoặc "chết rồi, nổ rồi, cháy ..cháy" và trên radio thì cứ nghe bài hát "một cánh tay đưa lên, hàng ngàn cánh tay đưa lên quyết đấu tranh…. ".
Rồi miền Nam thất thủ rơi vào tay giặc.
Gia đình tôi phải dọn ra khỏi trại lính. Ba tôi cũng như những người Sĩ Quan khác bị bắt ra trình diện, họ nói ba tôi chỉ cần ra học tập cải tạo 3 ngày rồi sẽ được về. Khi ba tôi ra trình diện họ bắt nhốt luôn trong tù.
Mẹ tôi ở nhà người ta tới nói gia đình tôi nếu đi Kinh Tế Mới (KTM) thì ba tôi sẽ được khoan hồng. Họ đã gạt mẹ tôi, dẫn mẹ tôi đi coi miếng đất ở Kinh tế mới và chỉ miếng đất ngon có cây trái xum xuê, nào ngờ khi về đó họ đưa cho mẹ tôi miếng đất phèn, cỏ tranh, lau sậy mọc đầy, cao qua khỏi đầu, một nơi chưa có người ở. Mẹ tôi phải mướn người làm sạch và cất lên cho gia đình tôi 1 cái nhà.
KINH TẾ MỚI
Rồi mẹ con dắt díu nhau về KTM nhưng vì đông con nên mẹ gửi tôi, đứa em gái và người anh ở lại Sài Gòn cho ông ngoại và bà cô nuôi.
Một năm sau mẹ lên đón hai chị em tôi về còn anh tôi ở lại Sài Gòn với bà cô. Gia đình tôi là gia đình đầu tiên về KTM, chị em tôi không đi học vì không có trường.
Tôi còn nhớ chính quyền ở KTM kỳ thị gia đình tôi, họ không kêu tên mẹ tôi mà hay nói móc gọi mẹ tôi là bà "Đại Úy ngụy". Và họ nói "Không bán Gạo cho Bà Đại Úy ngụy!". Dạo ấy tôi không hiểu, sau này lớn lên tôi mới hiểu vì sao, vì ba tôi là sĩ quan của chế độ cũ.
Vào thời bao cấp nạn đói tràn lan mấy mẹ con tôi phải ăn khoai mì thay cơm! Mẹ tôi nuôi gà, vịt, trồng trọt đủ thứ, nhưng vì miếng đất nhà tôi ở là miếng đất phèn nên cây trái trồng không đơm bông kết trái như ý mẹ mong muốn.
Bỏ quá nhiều tiền để mướn người trồng cây nhưng không thu lại được kết quả, mẹ tôi đành phải bỏ bầy con ở nhà, mỗi ngày lên tỉnh mua bán để kiếm tiền đem về nuôi chị em tôi. Có những hôm mẹ tôi đi bán tối về không còn xe nên phải lội bộ gần 5 km cây số, khi mẹ về được tới nhà thì trời đã gần sáng.
Mẹ tôi đi sớm lúc chúng tôi còn ngủ và khi mẹ về khuya thì chị em tôi đã ngủ nên chúng tôi rất ít thấy mặt mẹ. Tám chị em tôi ở nhà một mình, tự nấu ăn và đứa lớn trông chừng đứa nhỏ, lúc ấy chị lớn nhất của tôi mới 11 tuổi.
Hai chị lớn của tôi ở nhà trông em, còn tôi thỉnh thoảng phải theo mẹ đi bán, 3-4 giờ sáng tôi dậy đi với mẹ, phải lội bộ xa lắm mới ra được đầu đường để đón xe. Ngày ấy mẹ đốt đuốc đi trước, tôi mắt nhắm mắt mở lẽo đẽo theo sau, và thỉnh thoảng mẹ la to coi chừng rắn, tôi nhìn xuống thấy những con rắn mập, bự nằm cuộn tròn phơi sương. Cứ đi một đoạn thì thấy một con rắn, tôi nghĩ nếu bó đuốc của mẹ tắt thì tôi sẽ đạp trúng những con rắn này, vì sợ quá làm tôi tỉnh ngủ luôn. Ký ức này ám ảnh theo tôi hoài có lẽ vì vậy tôi không thích sống ở làng quê.
KTM chỗ chúng tôi ở là vùng đất hoang, chưa có nhiều nhà ở, xa xa khoảng 500m mới có 1 căn nhà. Vì đang ở Sài Gòn mà bỗng dưng bị bắt về một vùng quê hẻo lánh ít có bóng người, tối thì đốt đèn dầu, ngủ nghe tiếng cóc nhái kêu làm tôi cảm thấy rùng rợn, tối nào ngủ tôi cũng chui vào giữa mấy chị nằm cho chắc ăn và an toàn.
Rồi một ngày em tôi bị “ma giấu” (1 hiện tượng có thật cho em tôi, mà tôi khó cắt nghĩa theo khoa học) mẹ tôi sợ quá không còn muốn ở lại KTM và mẹ quyết định bỏ nhà để lên thành phố sống. Chính quyền địa phương tức giận mẹ tôi nói "ma quỷ" là "Mỹ qua" và họ không cấp hộ khẩu cho gia đình chúng tôi. Tôi còn nhớ mẹ tôi lúc đó cũng phải trốn đi từ từ, không dám công khai dẫn chúng tôi đi cùng một lúc mà mẹ chia ra ba đợt để Chính quyền đừng nghi và không bị họ làm khó dễ.
VỀ THÀNH PHỐ
Lên thành phố mẹ tôi chạy chọt khắp nơi, cuối cùng cũng xin được hộ khẩu và chị em tôi được đi học lại.
Rồi mẹ tôi quyết định buôn thuốc Tây, vì buôn bán thường thì không đủ nuôi 9-10 miệng ăn. Thời gian đó thuốc Tây là hàng quốc cấm, chỉ có hợp tác xã mới được bán. Vì vậy, những tiệm thuốc tây tư nhân phải đóng cửa, họ còn hàng nên giấu, lòn bán ra bên ngoài cho những con buôn. Mẹ tôi mua đi và bán lại.
Có những ngày tôi theo mẹ lên Sài Gòn lấy thuốc, tôi phải ngồi ngoài chợ giữ giỏ thuốc cho mẹ, nếu lỡ có bị Công an bắt thì hàng không bị mất hết. Mẹ đi gom thuốc, 2-3 tiếng mẹ đem lại bỏ giỏ cho tôi giữ rồi lại đi tiếp, cứ thế tôi phải ngồi đó một mình cả ngày để đợi mẹ nhiều lúc tôi giận mẹ lắm vì mẹ bỏ tôi ngồi một mình cả ngày ngoài chợ. Giờ nhớ lại tôi thấy cũng tội nghiệp mẹ, vì mẹ không có nhiều tiền nên lội bộ lấy thuốc chỗ này một chút, chỗ kia một chút nên mới lâu.
Chiều về thì mẹ con tôi và những bạn hàng phải đứng nép vào trong bóng tối thì xe mới dám ngừng để đón khách, có những lúc phải leo lên những chiếc xe hàng cao, người lên trước phải phụ giúp kéo người ở dưới lên cho lẹ để xe chạy không thôi bị Công An bắt hết.
Một lần mẹ tôi trải thuốc bán ở chợ, Công An tới, mọi người ôm đồ chạy nhưng vì đa số là đàn bà nên chạy không kịp và họ bị bắt, mẹ tôi cũng trong số đó. Mẹ kêu tôi chạy về báo bà Sáu biết, tôi lúc ấy mới lên 8, làm gì biết đường về, vì mỗi lần theo mẹ chỉ lẽo đẽo theo sau chứ có bao giờ để ý, mà cũng không biết tên bà là gì, chỉ biết gọi bà là bà Sáu và biết bà là em bà ngoại vậy thôi. Vậy mà lúc đó không hiểu sao tôi diễn tả bà Sáu có những người con tên Tòng, Hà, Phong...thì người ta biết và chỉ đường cho tôi và tôi đã về được nhà bà để cầu cứu.
Chuyện đời có đôi khi cũng lạ, Công An thường thì hống hách ưa đi bắt nạt người dân và hay bắt những người bán thuốc tây, nhưng cũng có lúc họ phải đi năn nỉ. Có một bạn hàng là bạn của mẹ tôi dẫn một ông cán bộ cao cấp tới nhà, năn nỉ mẹ tôi kiếm giùm cho ông 1 chai nước biển vàng vì sáng hôm sau 8 giờ sáng mẹ ông lên bàn mổ cần nước biển mà ông tìm hoài không ra.Thời đó nước biển vàng khan hiếm lắm. Mẹ tôi sợ không dám bán nhưng ông năn nỉ quá mẹ thấy cũng tội nghiệp nên kêu ông ra chợ Sài Gòn đợi sẽ có người đem tới bán cho ông và khi mẹ ông mổ xong, ông tới cảm ơn mẹ tôi rối rít và muốn đền ơn nhưng mẹ tôi không dám lấy vì sợ ông quật ngược lại bắt mẹ.
Khi khá chút mẹ tôi bắt đầu dự trữ thuốc tây ở nhà để bán, và nhiều người tới nhà tôi mua, họ không mua của hợp tác xã vì tôi nghe họ nói thuốc ở đó không tốt, chữa không hết bịnh, còn hàng mẹ tôi là thuốc thiệt và tốt vì mẹ tôi lấy từ những nhà thuốc tây tư nhân bị đóng cửa và ai cần thuốc gì thì mẹ tôi lên Sài Gòn lấy.
Những ông Công An phường bắt đầu canh me, khi thì chận đường bắt lấy giỏ thuốc của mẹ tôi và có lần họ vô xét nhà, tịch thu hết thuốc, mẹ tôi năn nỉ, khóc lóc xin đừng lấy vì mẹ cần tiền để nuôi con nhưng họ vẫn lấy. Mẹ tôi tức quá khóc kêu chị tôi đi mua cho mẹ chai thuốc rầy để tự tử, chị tôi lúc ấy còn con nít, ngây thơ, tưởng thiệt nên chạy đi mua. Giờ nhớ lại tôi thấy họ là những người vô cảm, tôi còn biết hàng xóm ghét cái ông công an tên Hùng, dân ở đó ghét gọi là Hùng mặt chuột vì ông ưa canh me lấy hàng của người khác.
Nghĩ lại những ngày đó thấy thương mẹ tôi, công trình đi lấy thuốc từ Mỹ Tho lên Sài Gòn đi và về cũng rất xa, nhưng bị Công An tịch thu hết, mất hết vốn mẹ tôi phải làm lại từ đầu.
TRẺ EM RA ĐƯỜNG KIẾM SỐNG
Có lần mẹ tôi bị bắt giam cả tháng trời trong nhà tù Mạc Đĩnh Chi chỉ vì cái tội bán thuốc tây, Mẹ tôi khóc miết vì không biết bên ngoài đàn con sống như thế nào.
Thời gian mẹ ở tù, 2 chị em tôi thay mẹ lên Sài Gòn lấy hàng. Chị lớn tôi năm ấy 13 tuổi và tôi lên 10, chị dặn tôi ngồi ở bến xe Xa Cảng Miền Tây đợi, chị đi lấy hàng rồi hai chị em sẽ về trước chuyến xe cuối cùng. Tôi đợi mãi cho tới khi trời tối và chuyến xe cuối cùng đã chạy nhưng chị không tới. Tôi đã khóc vì tôi không biết kiếm chị tôi ở đâu, tôi lại không có tiền mà cũng không biết phải làm sao vì trời đã tối. Cũng may có hai mẹ con thấy tôi đứng khóc và biết tôi lạc chị nên đã kêu tôi vào ngủ chung với họ để đợi trời sáng rồi đón xe về. Và đêm ấy tôi không dám ngủ nằm thút thít mãi cho tới khi trời sáng.
Sáng hôm sau tôi lên 1 chiếc xe, nghe nói xe về Mỹ Tho nơi tôi ở, tôi ngồi sát trong và cầu mong cho họ đừng thấy tôi và đừng đuổi tôi xuống xe vì tôi không có tiền nhưng may sao ông lơ xe chỉ thu tiền những người khác mà không thu tiền của tôi, tôi thấy ông ngó tôi rồi ông quay đi. Lúc đó tôi mừng quá thầm cảm ơn Trời, Phật đã che chở cho mình và cảm ơn ông đã không đuổi tôi xuống xe.
CÔ GiÁO TÔI
Chị em tôi ngày học ngày nghỉ và tôi thường hay đi học trễ. Một lần tôi bị cô giáo la: "Hoàng Yến, tại sao em đi học trễ hoài?" Bị cô la trước cả lớp làm tôi khóc vì quê. Tôi trả lời cô: "Dạ, thưa cô em phải tắm 5 đứa em". Nghe tôi nói cô dịu giọng xuống không còn la, cô hỏi tôi: "Vậy chứ mẹ em đâu, sao mẹ em không làm?". Tôi không thể nói mẹ tôi đang bị ở tù nên trả lời: "Dạ, mẹ em đi đâu em không biết nữa cô". Cô hỏi: "Mẹ em đi lâu chưa?" và tôi nói "Dạ, cũng lâu rồi cô." Cô làm thinh một lúc lâu, cô nói: "Chắc mẹ em đi vượt biên, cửa nhà em bằng gì?". Tôi chỉ biết cửa nhà tôi màu bạc nhưng bằng sắt, bằng nhôm hay bằng thiết có bao giờ tôi để ý, nên tôi nói đại "Dạ, chắc bằng sắt". Sau này tôi để ý lại mới biết cửa nhà tôi bằng thiết. Cô đã không la tôi nữa và tôi thấy nét mặt cô đăm chiêu có gì đó hơi buồn trong ánh mắt cô, cô nói nhỏ “em về chỗ ngồi đi”.
Sau đó tôi thường vắng mặt, cô kêu mấy bạn tới thăm tôi và coi cửa nẻo nhà tôi có chắc không về báo lại cho cô? Và khi tôi đi vượt biên cô không biết vẫn để dành phần thưởng cuối năm cho tôi và chị tôi lãnh thế. Chị tôi kể lại làm tôi rất cảm động. Có lần tôi thấy cô ngồi bán bánh ngoài chợ sau giờ dạy học, có lẽ cô cũng có nhiều khó khăn.
Đó là những cô giáo "ngụy" mà chính quyền mới thiếu người nên vẫn còn để các cô dạy. Những cô giáo của thời VNCH đào tạo còn sót lại, hiền lành, thương yêu trẻ và giúp đỡ các em học trò trong những hoàn cảnh khó khăn. Ngày tôi ra đi tôi rất nhớ cô và nhớ các bạn, nhớ mái trường xưa, nơi tôi đã từng học và nơi đó đã cho tôi rất nhiều kỷ niệm.
Rồi mẹ tôi buôn bán để dành được ít tiền cho chị em tôi lần lượt vượt biển. Cuối cùng cả gia đình tôi cũng được đoàn tụ ở Đức.
Tuy sau này ba, mẹ tôi không sống chung với nhau nữa nhưng chúng tôi luôn tôn trọng ba, mẹ. Cuộc đời mẹ tôi đã quá khổ vì các con nên mẹ tôi đi thêm bước nữa chúng tôi vẫn vui và tôn trọng vì mẹ cũng cần phải có người lo cho mẹ. Ba tôi sau khi ra tù cũng lập gia đình khác, chúng tôi có thêm 3 người em ở VN và chúng tôi thương yêu nhau như trong 1 nhà. .
Đó là câu chuyện buồn của gia đình tôi, khi cộng sản vào chiếm miền Nam đã làm cho nhiều gia đình tan nát. Cuộc sống ngày nhỏ của tôi luôn thiếu vắng hình ảnh của cả cha lẫn mẹ nhưng giờ nghĩ lại tôi chắc vào thời điểm đó còn có nhiều gia đình và nhiều đứa trẻ khác còn khổ hơn gia đình tôi rất nhiều.
Những người phụ nữ miền Nam sau cuộc chiến, họ từng là những người phụ nữ chân yếu tay mềm nhưng vào thời điểm đó họ trở nên mạnh mẽ, cứng rắn, chịu thương chịu khó, thay chồng lo cho đàn con, dù khó khăn cực khổ cách mấy họ cũng vượt qua. Mẹ tôi là một trong số những người phụ nữ mạnh mẽ ấy. Dù mẹ ở hoàn cảnh nào cũng không bao giờ bỏ rơi đàn con của mình. Chúng tôi phải cảm ơn mẹ vì có mẹ chúng tôi mới có được ngày hôm. nay.
Trần Hoàng Yến
Nguồn:Sinh Hoạt QLVNCH
|
|
|
Post by Can Tho on May 4, 2020 4:03:45 GMT 9
16 tấn vàng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa để lại đã được cộng sản VN sử dụng như thế nào?
Thương vụ cộng sản VN bán 16 tấn vàng của VNCH Sau ngày 30/4/1975, vài tờ báo phương tây cũng như bọn bồi bút cộng sản trong nước đã đưa nhiều tin bài bịa đặt trắng trợn và lố bịch về việc nhà lãnh đạo VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã tẩu tán số vàng dự trữ 16 tấn của Miền Nam Việt Nam. Nhưng rồi cuối cùng, sau mấy chục năm, sự thật lịch sử cũng đã được làm sáng tỏ. Ông Huỳnh Bửu Sơn là người đã quản lý và chuyển giao số tài sản quốc gia đó cho chế độ mới. Ông Sơn thuộc nhóm lãnh đạo Nha Phát Hành, Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam và là người giữ chìa khóa hầm vàng. Ông Sơn cho biết, số lượng vàng có trong hầm như thế nào, thì khi được tiếp quản và chuyển giao cho ủy ban quân quản của cộng sản lúc đó được giao toàn vẹn không thiếu một nút vàng nào cả. Gọi là nút vàng vì ngoài những thoi vàng tính cách ra, còn có những đồng tiền cổ, những đồng tiền vàng Napoleon nhưng được buôn lậu sang Việt Nam và bị bắt dưới hình thức những cái nút cài áo. Cho nên, khi được giao lại cho ủy ban quân quản thì toàn bộ vàng trong hầm bạc của Ngân Hàng Quốc Gia VNCH bao gồm cả những đồng tiền cổ đó được giao đầy đủ hết. Việc giữ chìa khóa hầm bạc không phải chỉ một người mà giữ được. Tức là có hai bộ chìa khóa, một bộ thuộc về bên kiểm soát, một bộ thuộc về bên điều hành; phải có hai bộ chìa khóa đó và thêm ông Lê Minh Kiêm, người giữ mật mã của cửa ra vào hầm vàng hầm bạc đó thì mới có thể mở cửa được. Việc sổ sách kế toán ghi chép thời đó cũng đã rất chặt chẽ và bảo đảm vì thật ra thời đó cũng đã có hệ thống máy điện toán rồi; tất nhiên không mạnh và nhanh như hiện nay; nhưng Ngân Hàng Quốc Gia VNCH đã có sử dụng hệ thống điện toán để theo dõi tài sản đó và ghi rõ trên các bảng kê, gọi là listings. Những bảng kê đó được đối chiếu nhiều lần mỗi khi có trường hợp đột xuất về vàng. Đầu tháng 6 năm 1975, Huỳnh Bửu Sơn người giữ chìa khóa kho vàng và Lê Minh Kiêm người giữ mã số của các hầm bạc được lệnh của Ban Quân Quản Ngân Hàng Quốc Gia cùng đơn vị tiếp quản tiến hành kiểm kê các kho tiền và vàng của VNCH. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu) Số tiền và vàng nằm trong kho khớp đúng với sổ sách từng chi tiết nhỏ. Ông Huỳnh Bửu Sơn kể về cuộc kiểm kê kho vàng lần cuối cùng khi bàn giao cho cộng sản: Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14 kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi chút. Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau… Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho. Về số phận của 16 tấn vàng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã để lại, nguyên Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước VN Lữ Minh Châu đã trả lời rất rõ ràng câu hỏi này: “Nó đã được bán ra quốc tế trong tổng số hơn 40 tấn vàng để giải quyết những vấn đề khó khăn kinh tế cấp bách của quốc gia khi đó, trong đó có miếng ăn của người dân”. Theo lời kể của những người trong cuộc, cho đến nay, họ vẫn còn nhớ rất rõ những thương vụ bán vàng đặc biệt này.(Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu) Bán qua Liên Xô “Chuyến hàng đầu tiên rời Hà Nội ngày 1-12-1979, số lượng 101 hòm, nặng 4.455kg... Sau đó là những hợp đồng giao vàng tái chế, vay mượn, cầm cố bán vàng với số lượng hơn 40 tấn, thu được trên 500 triệu USD” - đó là một đoạn trích phát biểu của ông Nguyễn Văn Dễ, thời điểm đó là Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Vietcombank, được ghi lại trong cuốn Lịch sử Ngân Hàng Ngoại Thương VN. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu) Theo đó, sau năm 1975, VN đối mặt với vô vàn khó khăn về kinh tế nên rất cần ngoại tệ để giải quyết những nhu cầu cấp bách của quốc gia như mua lương thực, nguyên liệu, trả nợ cho các quốc gia cộng sản đàn anh trước đây đã viện trợ cho cộng sản VN có cơ hội xâm lăng và cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam ... Thời điểm đó, miếng ăn của người dân thiếu hụt nghiêm trọng đến mức phải ăn trực tiếp cả hạt bo bo chưa kịp xay xát, các loại lúa mì, lúa mạch phẩm chất thấp. Các lãnh đạo cộng sản VN, vốn không hề có một chút hiểu biết gì về quản lý cũng như kinh tế, nên đã phải mất rất nhiều thời gian chạy gạo cho thấy tình hình kinh tế VN sau 1975 hết sức tồi tệ và trở nên khẩn cấp hơn bao giờ hết ... Trong khi đó, các sản phẩm nông nghiệp trong nước lúc ấy cũng đã không đáp ứng nổi nhu cầu nội địa, nên bắt buộc phải tìm những nguồn lương thực quốc tế. Nhưng cho dù có mua bán ở đâu đi nữa thì rồi cũng phải trả tiền cho bên bán, và lấy ngoại tệ ở đâu ra? (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu). Giải pháp khả thi nhất lúc bấy giờ đối với cộng sản VN là bán vàng của quốc gia để lấy ngoại tệ. Tuy nhiên, rất ít người biết rằng thương vụ đặc biệt này hoàn toàn không hề đơn giản như nhiều người nghĩ, kể cả một số cán bộ cấp cao của cộng sản VN. Lý do là vì số lượng vàng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa để lại sau 30/ 04/ 1975 thì có nhưng lại là có xuất xứ của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, và nhất là khi đó lại đang trong giai đoạn cấm vận gay gắt của Hoa Kỳ. Theo cuốn “Lịch sử Ngân Hàng Ngoại Thương” ghi lại: “Kho vàng lúc ấy như sau: ngoài số vàng không đáng kể của miền Bắc (đơn vị tạ), Ngân Hàng Nhà Nước đã tiếp nhận vàng của chính quyền Sài Gòn và vàng của các nguồn khác. Cơ cấu của kho vàng rất không “đồng bộ”: vàng thỏi của Anh mỗi thỏi nặng 12,7kg, vàng thỏi của Mỹ mỗi thỏi nặng 10kg. Các thỏi đều có mã riêng, nhãn hiệu, xuất xứ. Ngoài vàng thỏi còn có các loại vàng lá Kim Thành, các loại vàng vụn (kể cả nhẫn, vòng, kiềng)". "Ban đầu những người có trách nhiệm đều nghĩ đơn giản: ta có vàng, đem bán lấy ngoại tệ, việc đó đâu có khó. Nhưng ngay tại phiên giao dịch đầu tiên có tính chất thăm dò với Liên Xô, các bạn Liên Xô cho biết hàng hóa trên thị trường vàng quốc tế phải là những thỏi vàng chuẩn của Anh, Mỹ hoặc Liên Xô. Các loại vàng thỏi Anh, Mỹ... có xuất xứ tại VN không thể tiêu thụ trên thị trường vì có quá nhiều rủi ro do chính sách cấm vận của Mỹ đối với VN”. Vì vậy, để giải quyết vấn đề, cộng sản VN và Liên Xô đã bàn bạc, thảo luận với nhau và cuối cùng đi đến thống nhất là phải tái chế lại vàng theo tiêu chuẩn của Liên Xô, mỗi thỏi 1kg. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu) Đến khoảng cuối năm 1979, theo lệnh của nhà cầm quyền cộng sản VN, Ngân Hàng Vietcombank đã ký với Liên Xô một số các hợp đồng để tái chế vàng của VNCH, vay mượn cầm cố số vàng và tiêu thụ vàng của VN trên thị trường thế giới. Sau đó, phía Liên Xô đã cung cấp cho VN các rương (hòm) bằng thép cứng theo tiêu chuẩn ngân hàng của họ. Tiếp theo, việc chuyên chở vàng cũng được thực hiện bằng máy bay thương mại của Liên Xô, nhưng suốt quá trình thực hiện, tất cả hoạt động đã được bảo mật tối đa để hành khách không được biết có loại hàng đặc biệt này trên máy bay. Những kiện hàng bí mật trên chuyến bay Aeroflot Theo ông Nguyễn Duy Lộ, nguyên Phó Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Vietcombank kể lại thì ông là thành viên hội đồng kiểm kê quốc gia, lo những việc trong nước như kiểm kê số lượng vàng, đóng hòm theo tiêu chuẩn và niêm phong; còn phía ông Dễ thì lo các vấn đề với phía Liên Xô. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu) Số vàng từ trong kho ngân hàng được bảo mật nghiêm ngật và chở ra phi trường Nội Bài. Công việc bảo vệ số vàng rất chặt chẽ và kín đáo. Các hòm vàng được niêm phong cẩn thận, hoàn tất các thủ tục xong xuôi mới được chuyển ra máy bay của hãng hàng không Liên Xô. Ngay cả các nhân viên phi trường khi đó cũng rất ít người được biết đến loại hàng đặc biệt này trên các chuyến bay của Aeroflot. Sau khi các hòm vàng được đưa lên máy bay, người có nhiệm vụ trực tiếp đi theo chuyến bay của Hãng Hàng Không Aeroflot là ông Nguyễn Văn Dễ, lúc đó là Phó Tổng Giám Đốc Vietcombank. Ông chính là người thường xuyên đi Liên Xô bất cứ lúc nào để lo cho các cuộc đàm phán, ký kết hợp đồng giao vàng, tái chế, vay cầm cố vàng, bán vàng với phía Ngân Hàng Ngoại Thương Liên Xô. Khi máy bay của hãng Aeroflot hạ cánh trên đất Liên Sô, ngân hàng phía Liên Xô đã có sẵn các xe bọc thép chờ đón. Họ không cần mở các hòm vàng để kiểm đếm số lượng vàng trong đó mà chỉ niêm phong bên ngòai hòm vàng rồi lại tiếp tục chuyển số vàng về kho bảo mật. Tất cả là khoảng hơn 40 tấn, trong số đó có 16 tấn vàng thỏi lấy được từ Ngân Hàng Quốc Gia của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, còn lại là các loại vàng khác nhau từ những nguồn khác. Sau khi chuyến đầu tiên chuyển đi 4.455kg vàng trong 101 chiếc hòm thì vào ngày 1-12-1979, cộng sản VN đã gửi công hàm đến Liên Xô đề nghị vay 100 triệu USD để dự phòng thanh toán nợ đến hạn trong khi chưa có nguồn thu tài chánh nào. Lúc này, cũng chính ông Dễ là người được cộng sản VN ủy nhiệm ký hợp đồng vay ngoại tệ này. Phía Liên Xô đồng ý cho vay, nhưng phải theo thông lệ thương mại quốc tế vì họ cũng không có ngoại tệ dư thừa, phải huy động từ thị trường tự do.Theo đó, VN chỉ có thể được vay với điều kiện phải có thế chấp bằng chính số lượng vàng chuyển sang Liên Xô. Hiệp định vay 100 triệu USD có thế chấp bằng vàng này đã hoàn tất vào khoảng tháng 3-1980. Lý do cho việc VN phải vay nóng ngoại tệ gấp rút như vậy là bởi số lượng vàng chuyển sang tái chế ở Liên Xô chưa thực hiện xong và không kịp đem ra thị trường bán, trong đó có Thụy Sỹ. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu). Trong khi đó thì các nhu cầu cấp bách của Việt Nam, bao gồm cả vấn đề thiếu thốn lương thực nghiêm trọng cho người dân đã bắt buộc cộng sản VN phải có ngoại tệ ngay để mua lương thực cứu đói. Thời gian đó, theo ông Dễ kể lại, hầu như tháng nào ông cũng phải bay sang Liên Xô để làm việc với phía Liên Sô. Hơn 40 tấn vàng của VN đã được chuyển đi trong nhiều đợt. Nhiệm vụ của phía VN là chỉ đảm trách bảo vệ việc vận chuyển số vàng đến khi đưa lên máy bay của Liên Xô; những công việc sau đó là thuộc trách nhiệm của phía Liên Xô. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu) ___________ Năm 1979, cộng sản VN đã phải chở 40 tấn vàng đi bán để giải quyết khó khăn kinh tế khi đó đã trở nên quá cấp bách và để mua gạo cứu đói. Nhưng 10 năm sau, năm 1989, VN đã nhập vàng về, gấp 4 lần số chở đi bán. Ngoài 16 tấn vàng trên, Việt Nam Cộng Hòa còn gửi 5,7 tấn vàng tại ngân hàng Bank fuer Internationnalen Zahlung Sausgleih ở Thụy Sỹ. Sau khi đã chiếm được Miền Nam Việt Nam, cộng sản VN đã mang 40 tấn vàng sang Liên Xô bán như vừa kể ở phần trên, và lấy 5,7 tấn vàng VNCH gửi bên Thụy Sỹ bán cho Tiệp Khắc. 1995-1996 Bill Clinton ký hiệp định bình thường hóa quan hệ, các khoản tiền mặt của Chính Phủ VNCH gửi ở nước ngoài đã được cộng sản VN rút về nước lên tới gần 400 triệu USD (những khoản tiền VNCH gửi ở nước ngoài bị Mỹ đóng băng sau sự kiên 30-4-1975). Như vậy là đã có tổng cộng gần 22 tấn vàng và gần 400 triệu USD (giá trị thời nay khoảng 1,6 tỷ USD) của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa để lại sau cái ngày tang thương 30/ 04/ 1975 của Miền Nam Việt Nam. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu tổng hợp)
|
|
|
Post by Can Tho on May 5, 2020 3:47:46 GMT 9
Uyên Thao www.caidinh.com/ Trăn trở và Ước mong Lâm Hoàng Mạnh là một thuyền nhân và tập hồi ký Buồn Vui Đời Thuyền Nhân kể về cảnh ngộ mà bản thân người viết đã trải. Do đó, tác phẩm chỉ ghi lại một phần hình ảnh cực nhỏ của khu rừng có tên Thuyền Nhân mà Michelle Tauriac từng than dài trong tác phẩm Viet Nam Le Dossier Noir Du Communism: “Biết đến bao giờ người ta mới hiểu hết những bất hạnh đã xẩy ra quanh danh từ đó.” Nhà văn Pháp Michelle Tauriac thông thạo tiếng Việt, sống nhiều năm tại Việt Nam, từng gặp gỡ nhiều thành phần xã hội từ các cấp lãnh đạo hai miền đến người vơ vất trên vỉa hè các thành phố, người lưu lạc tại các vùng đất xa xôi ở trời Tây nên có cả một kho dữ liệu so với số vốn thực tế trong giới hạn bản thân của Lâm Hoàng Mạnh. Với tầm mức đó, Michelle Tauriac vẫn cất tiếng than như vậy thì không thể đòi hỏi Lâm Hoàng Mạnh phải lấp biển vá trời để vẽ lại mọi nét vui buồn của hàng triệu thuyền nhân.
Nhưng Lâm Hoàng Mạnh có ưu thế trải nghiệm thực tế Việt Nam, kể cả chịu dập vùi giữa biển cả để không chỉ cất lên tiếng nói chứng nhân mà còn là tiếng nói nạn nhân. Vì thế, qua Buồn Vui Đời Thuyền Nhân, ngưởi đọc không chỉ tới với các cảnh đời lưu lạc mà còn nhiều lần đối diện với đời sống Việt Nam — cũng chính là lời minh giải trực tiếp một phần nguồn cội đưa đến tấn thảm kịch thuyền nhân không riêng trong lịch sử Việt Nam mà là lịch sử chung của nhân loại. Tác phẩm của Lâm Hoàng Mạnh đã đưa người đọc về với nhiều cảnh sống mà chỉ người từng sống tại Việt Nam mới tin nổi là chuyện thực. Chẳng hạn chuyện rất nhỏ xẩy ra tại các cửa hàng ăn mậu dịch quốc doanh:
“… Ở thị xã Thái Bình, cửa hàng ăn mậu dịch quốc doanh rất khang trang. Một Chủ Nhật hè năm 1963, sau khi dạo chơi, hai thằng chúng tôi rẽ vào, mua mỗi thằng một tô phở 5 hào.
Tôi vừa bưng ra đặt xuống bàn, một lỏi tỳ khoảng 6 hay 7 tuổi nhổ ngay bãi nước bọt vào bát phở.
Tát nó à? Nó bé quá, không nỡ. Thôi, xin biếu bố trẻ.
Thằng bạn tôi, số phận chẳng hơn gì.
Vừa lấy thìa húp tí nước dùng, ba ngón tay đen ngòm, toàn đất cát thò ngay vào, bốc luôn miếng thịt bò trong bát, bỏ mồm.
Cũng đành đứng dậy, thôi nhường bố trẻ luôn.
Chiêu này diễn lại đều đều, các chị các cô phục vụ đuổi không xuể vì chúng khá đông…
Cửa hàng ăn phố Hoàng Văn Thụ, thành phố Nam Định cũng có lũ lỏi tỳ kiếm ăn… Chúng tụ tập trước cửa, mỗi đứa một cái vung nồi đất, vừa làm bát xin ăn vừa chơi trò xoay vung coi vung nồi đứa nào xoay lâu nhất…Khách mua bát phở, hai đứa kèm hai bên, chìa hai vung nồi, “anh ơi, chú ơi, ông ơi, chị ơi… cho cháu xin một tí, nước không cũng được.”
Làm thế, bố ai nuốt nổi. Thôi nhường cho mấy bố trẻ.
Kiếp trước chắc nợ các bố, vừa bảnh mắt đã bị ám.”
Thực tế khó tin này đã là chuyện bình thường và phổ biến vì toàn xã hội bị kiểm soát nghiệt ngã về cả chuyện ăn uống hàng ngày của mọi người với tên gọi chế độ tem phiếu.
“Nếu tôi nhớ không nhầm, chế độ tem phiếu bắt đầu từ 1959 hay 1960. Hè năm ấy, bọn học sinh Hải Phòng chúng tôi được thành phố trưng dụng đi làm sổ gạo …
Mỗi ngày đi làm, ủy ban hành chính phường trả công 6 hào, ăn bữa cơm trưa tập thể mất 5 hào, còn dư 1 hào chỉ đủ mua 1 que kem hay 2 bát nước chè xanh. Lương mạt hạng, mặt mũi vẫn phải vui và tươi roi rói. Không đi có mà ăn đất! Đừng có mơ vào đại học hay trung cấp chuyên nghiệp. Lý lịch sẽ ghi : Có tư tưởng và hành động chống đối chủ nghĩa xã hội! Đời mờ! Đời tàn liền!”
Lâm Hoàng Mạnh kể lại chế độ tem phiếu chia người dân làm ba loại tuyệt đối tuân theo các tiêu chuẩn quy định.
Loại 1 gồm cán bộ, viên chức có tiêu chuẩn mua mỗi năm 5 mét vải, mỗi tháng từ 13 ký rưỡi gạo tới 25 ký và từ nửa ký thịt tới 2 ký rưỡi tuỳ chức vụ.
Loại 2 gồm người dân tại các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng … có tiêu chuẩn mua đồng đều mỗi năm 4 mét vải, mỗi tháng 13 ký rưỡi gạo và 100 gram thịt.
Tiêu chuẩn dành cho cán bộ cao cấp được giữ kín, còn nông dân và người dân tại các thị trấn được xếp vào loại 3 không có tiêu chuẩn, kể cả trẻ em.
“Tất cả những người này là con số không tròn trĩnh.
Họ bị coi như công dân hạng 2 trong xã hội ……
Nhiệm vụ và quyền hạn của họ cũng như toàn dân Việt Nam, có thể tóm tắt trong 7 chữ vàng: Đóng thuế – Đi lính – Câm cái mồm!
Không tem phiếu, kể cả phiếu vải — động vật nên không cần quần áo?!….
Mỗi xã có một cửa hàng Hợp Tác Xã Nông Nghiệp … chẳng có mặt hàng gì quý giá, chỉ có : cày, cuốc, mai, thuổng, bát đĩa loại phế phẩm, vài phong thuốc lào hạng bét. Thuốc lào Tiên Lãng, Hải Phòng không đến lượt. Đôi khi có nước mắm loại khắm và mặn chát, thỉnh thoảng có cá khô … mua về muối nhiều hơn cá vì nhân viên bán hàng trộn thêm muối để ăn cắp cá …
Năm 1967, chúng tôi sang giảng cho lớp y sĩ xã, thấy các em ăn 1 phần cơm 3 phần sắn khô, có hôm ăn ngô răng ngựa – loại ngô dành cho gia súc, bung lên nở to gần bằng ngón tay cái – với canh rau muống nấu muối …”
Với cảnh sống đó, không có gì ngạc nhiên khi xuất hiện khắp nơi những đám trẻ nhỏ 5, 7 tuổi đã có mọi mánh khoé trộm cắp để kiếm miếng ăn. Thực ra, người lớn cũng không thể giữ nếp sống bình thường và ngay các thành phần được ưu đãi như giáo viên, bác sĩ … cũng phải tìm đủ cách kiếm thêm tiền để có thể mua chui một số thực phẩm:
“Thị xã tôi, Hoà Bình, thời ấy có 4 nghề kiếm tiền:
1– Vào rừng chặt gỗ, bương, nứa, cây chít (làm chổi quét), kiếm củi… 2 – Trồng rau, nuôi lợn. 3 – Đan cót. 4 – Cạo nứa.
Chủ nhật, đàn ông, thanh niên vào rừng như chảy hội. Đàn bà ở nhà lột cật nứa, bện chổi chít. Trẻ con đan cót. Ngày thường, hết giờ làm việc, cơm xong cả nhà làm cật lực cho đến khuya. Bốn nghề thật vất vả, nhưng vào rừng chặt gỗ, cạo tinh nứa, theo tôi, khốn khổ nhất …
Tiếng dao cạo vào tinh nứa, két két, ghê tai, sợ lắm, răng như muốn rụng. Đàn ông phải khỏe, dai sức mới làm nổi nghề này. Người ngả về phía trước, hai tay cầm lưỡi dao nghiêng 35-40 độ, kéo cật lực về phía sau, tinh nứa mới bong ra từng phoi xanh xanh cuộn tròn rơi xuống đất. Giống hệt anh thợ bào gỗ. Mùa hè, may-ô quần đùi, “của quý” trong quần các bố cứ lắc lư, lên xuống, ngang dọc theo nhịp kéo dao. Có anh bác sĩ, gia đình ở quê Thái Bình, lương gửi về nuôi vợ con, cũng tham gia hội cạo nứa. Trông thấy anh cạo, có người đùa, phong chức trưởng khoa Đầu Gật Gù, Dái Lắc Lư…”
Sự ngột ngạt không chỉ ở mức cùng cực của đời sống áo cơm mà trùm phủ đời sống tinh thần và tình cảm mọi người, ngay giữa các đồng nghiệp trong cùng một cơ quan:
“Năm 2004, chúng tôi về Việt Nam … nhân tiện lên thăm anh em bệnh viện cũ … Bác sĩ Đinh Tất Thắng, đồng nghiệp cũ mời chúng tôi bữa cơm mừng tái ngộ sau một phần tư thế kỷ xa cách.
Trong buổi hàn huyên, Thắng cười, kể:
– Anh chị còn nhớ y tá Tiêm không?
– Nhớ chứ. Cô Tiêm, phòng Đón Tiếp khu Đa Khoa, gần nhà mình chứ gì?
– Phải. Hè 1980, công đoàn tổ chức lợp nhà giúp Tiêm, trong lúc rỡ mái, em nhặt được túi vải buộc kỹ lắm, giấu ở xà ngang. Mọi người tán “Chết nhá, phen này giàu to.” Ai cũng tưởng quỹ đen giấu chồng, ai ngờ, sổ tay của y tá Tiêm theo dõi gia đình anh chị năm 1978, 1979. Cuốn sổ ghi, ai đến chơi, ngày giờ, cả biển số xe đạp. Anh chị biết không, có cả biển số xe đạp của em và bác sĩ Đắc…
Thắng cười, tiếp:
– Hồi anh chị đi Hong Kong, cả bệnh viện đồn ầm, anh là gián điệp nhị trùng của Mỹ – Trung Quốc nằm vùng. Cô Tuyển bên Nhà Trẻ, cô Thoan bên Kế Toán, cô Lan bên Dược kể nhiều đêm trước đó đã nấp trong bụi chuối sau nhà, rình anh chị bị muỗi đốt quá chừng vẫn phải ngồi im không dám động đậy, sợ lộ.”
Cùng với chuyện nghe qua lời kể đó là chuyện đã xẩy ra với bản thân mà Lâm Hoàng Mạnh còn nhớ cả ngày giờ :
“Sáng sớm ngày 9 tháng 4 năm 1979, phòng tổ chức mời vợ tôi lên. Cuộc gặp mặt gồm Bùi Đình Phảng, bí thư đảng ủy, Nguyễn Đình Mão, phó bí thư kiêm bệnh viện phó, Nguyễn Gia Hòa, đảng ủy viên, trưởng phòng Tổ Chức Hành Chính cùng một số nhân viên …
Sau vài lời rào đón, Nguyễn Đình Mão bảo vợ tôi :
– Việt Nam và Trung Quốc đã xảy ra chiến sự, Chúng ta đang chống quân bá quyền, bành trướng Trung Quốc. Chị là người Việt, nhưng chồng chị là người Hoa. Chúng tôi đang giải quyết anh ấy nghỉ chế độ mất sức. Còn chị muốn tiếp tục công tác, chị phải làm đơn ly dị và trả lại 3 cháu cho anh ấy, nộp cho chúng tôi.
Vợ tôi bàng hoàng … Thấy vợ tôi im lặng, trưởng phòng tổ chức Nguyễn Gia Hòa an ủi:
– Chúng tôi muốn giúp đỡ, cho chị lối thoát chứ không có ý gì khác.
Huỳnh Như Thùy, nhân viên phòng tổ chức, nhắc:
Chị nghĩ kỹ đi, đừng để mất cơ hội. Viết xong nộp cho tôi.”
Khó mường tượng nổi mức mở rộng cỡ đó về trách vụ của một cơ quan công quyền, cũng khó mường tượng nổi mức băng giá con tim của những người vẫn hàng ngày quần tụ bên nhau, và càng khó mường tượng nổi tính đạo lý của hành động cắt đứt tình vợ chồng, xoá bỏ tình mẹ con… để có thể gọi đó là cơ hội may mắn, lối thoát an lành.
Tôi bỗng nhớ tới một cô gái thuyền nhân Việt Nam đã có 30 năm định cư tại Đức qua nhắc nhở của tạp chí Del Spiegel nhân dịp kỷ niệm ngày các thuyền nhân Việt Nam xuất hiện tại đất nước này — ngày 3 tháng 12 năm 1978.
Vào một ngày tháng 10 năm 1978, cô gái vừa tròn 18 tuổi phải gạt nước mắt rời cha mẹ, rời thành phố Sài Gòn bước lên chiếc thuyền cũ nát không biết sẽ đưa mình tới đâu. Dù vậy, nếu không kể nỗi buồn gia đình chia lìa do cha mẹ phải hy sinh ở lại thì cô gái vẫn gặp nhiều may mắn. Trước hết, cô may mắn ra đi trong tư thế hợp pháp do có gốc người Hoa và cha mẹ gom nổi số vàng 60 lượng theo đòi hỏi để cô có bốn anh chị em cùng đi. May mắn hơn là vào lúc con thuyền bị nghiêng ngả giữa biển cả lại gặp một con tàu tỵ nạn lớn hơn. Nhờ thế anh chị em cô thoát chết và tìm được một góc trú ẩn, dù thêm số người từ con thuyền nhỏ, con tàu phải chở tới 2054 người. May mắn lớn nhất là khi hơn hai ngàn thuyền nhân trở thành tù nhân trong căn nhà tù nổi ngoài cảng Kelang Mã Lai đang chờ chết do đói khát và đã chịu đựng quá dài cảnh ban ngày nắng như đổ lửa, ban đêm lạnh buốt thấu xương thì cảnh ngộ của họ được loan truyền qua nửa địa cầu. Một chính khách Đức đã vận động chính quyền gấp rút chấp thuận đưa họ tới Đức định cư, đồng thời gấp rút chuyển cho họ các điều kiện tối thiểu để duy trì hơi thở.
Do đó, 7 giờ sáng ngày 3-12-1978, cô gái có mặt trong số 163 thuyền nhân Việt Nam đầu tiên bay tới Hanover. Khi cô run rẩy đặt chân xuống sân bay Langenhagen giữa cái lạnh mùa Đông, nhân viên tiếp cứu choàng lên vai cô tấm mền dạ cũ màu nâu của Hội Hồng Thập Tự Đức có in 3 chữ DRK. Tấm mền mỏng sờn cũ này kể từ ngày 3-12-1978 trở thành vật bất ly thân của cô và có thể sẽ ở bên cô tới phút cuối đời. Vì cho tới năm 2008, khi kỷ niệm 30 năm định cư tại Đức với cuộc sống vững vàng và đang bước qua tuổi về chiều, cô vẫn không rời tấm mền đã thực sự mòn cũ. Cô không bao giờ giải thích, nhưng tôi nghĩ tới làn hơi ấm từ tấm mền thấm vào cơ thể cô và cảm giác bình an dấy lên giữa phút giây đầu tiên đối diện với cuộc sống chan chứa yêu thương. Có lẽ suốt 45 ngày dài quằn quại thoi thóp vì nắng mưa đói khát trên biển cả lạnh lùng, cô đã triền miên ước có một phút giây êm ả nồng đượm tình người. Ao ước đó trở thành hiện thực khi một bàn tay xa lạ choàng lên vai cô tấm mền sờn cũ. Tấm mền với làn hơi ấm đã là biểu tượng cụ thể của tình người nên cô không dám từ bỏ. Bởi thực tế đã cho cô thấy cuộc sống tàn khốc ra sao khi tình người vắng thiếu.
Tự nhiên tôi gặp lại cảm giác từng có khi đón nhận vòng tay, nụ cười của bằng hữu, của người thân vào những lần tôi rời khỏi nhà tù. Kể cả khi đặt hai bàn chân trần trên mặt đường nhựa nóng cháy, tôi vẫn thấy toàn thân mát dịu với một cảm giác êm ả tuyệt vời trùm phủ. Những lúc đó, tôi không thể nào lên tiếng, chỉ có nổi nụ cười lặng lẽ trước mọi cử chỉ, mọi lời chia vui, trong khi một ý nghĩ luôn hiện đến là đoá hoa tình người đang toả hương cực độ và trấn áp hết thẩy mọi lo buồn, mọi hiểm hoạ vẫn hiện diện đầy rẫy khắp nơi. Từ đây, một ước mong và một nỗi ray rứt đã hiện hình để trở thành gánh nặng triền miên. Tôi ước mong có thể kéo dài được thời gian toả hương cực độ của những đoá hoa kia, đồng thời không thể ngừng thắc mắc về những cảnh sống cay nghiệt đang tiếp diễn. Quyết định không bỏ tấm mền cũ của cô gái khiến tôi nghĩ cô cũng có cùng ước mong tôi đã có và lập tức khơi dậy thắc mắc đã trở thành gánh nặng của tôi.
Đã nhiều đêm, tôi không chợp mắt nổi vì tấm bia tại Jakarta tưởng niệm các nạn nhân vùi thây giữa biển cả bị đục vỡ. Tấm bia không còn là tấm bia mà hiện ra trong hình vóc một con người với phần bia bị đục vỡ trở thành cặp mắt mở lớn hướng về phía trước trống rỗng mịt mù. Cặp mắt như hố thẳm với cái nhìn khẩn nài đau đớn từ một chiều sâu vô tận đặt tôi vào giữa vùng âm vang thảm thiết của những tiếng gào tuyệt vọng. Tôi không dập xoá nổi âm vang những lời cuối trong một lá thư tuyệt mệnh gửi cho người chị gái : “Chị thương, hôm nay em đã bị từ chối tư cách tỵ nạn chính trị. Rạng sáng mai, em sẽ treo cổ tự tử để thoát mọi đau khổ. Nhưng lúc nào em cũng sẽ ở bên cạnh chị để che chở cho chị và các cháu.” Người viết là Nguyễn Văn Hai 27 tuổi, treo cổ tại Trại Cấm Whitehead Hong Kong đêm 16 tháng 2 năm 1990.
Âm vang những lời cuối ấy trở thành dòng suối cuồn cuộn dồn lên không biết bao nhiêu cái tên, bao nhiêu nấc nghẹn, bao nhiêu con người đột ngột hiện ra … Đây là Lâm Văn Hoàng với hình vóc còn chưa hết nét trẻ thơ vì chỉ vừa 22 tuổi. Cái hình vóc ấy đã từ đỉnh cao một vách đá trại Pulau Bidong, Mã Lai lao thẳng xuống biển khơi vào tháng 1-1991. Ngọn sóng cuốn trôi thân xác chàng trai lại bùng lên ngọn lửa cuồng loạn thiêu đốt những thân xác quằn quại với những cái tên Trịnh Thị Kim Hương, Lưu Thị Hồng Hạnh … Kim Hương 28 tuổi tự thiêu tại Trại Galang, Nam Dương ngày 30-8-1991. Hồng Hạnh 16 tuổi tự thiêu tháng 2-1993 với chi tiết “không có ai là thân thích” nên Cao Uỷ Tỵ Nạn LHQ không cho hưởng quy chế tỵ nạn. Ngay cạnh trường hợp Hồng Hạnh là trường hợp Hoàng Thị Thu Cúc hoàn toàn trái ngược. Thu Cúc có cha bị chết trong trại tù, gia đình bị tịch thu nhà cửa, cưỡng bách đi Khu Kinh Tế Mới nên 5 anh chị em phải tìm đường vượt biên. Các chi tiết cụ thể đó vẫn bị gạt bỏ khiến Thu Cúc đã tự treo cổ tại trại Sikiew Thái Lan tháng 12-1992 khi vừa 26 tuổi.
Cảm giác đến với tôi vào những đêm khuya đối diện tấm bia bị đục vỡ luôn là cảm giác ngộp thở. Vì dòng suối âm vang cuồn cuộn khiến tôi bị vây nghẹt giữa không biết bao nhiêu cái tên, bao nhiêu tiếng gọi cất lên từ nhiều địa phương Thái Lan, Mã Lai qua Nam Dương đến Hong Kong … Tôi không thể nhớ hết những cái tên, những trường hợp xẩy ra, nhưng luôn dừng lại với mấy lời cuối của người thanh niên 25 tuổi tên Nguyễn Ngọc Dũng. Ngày 3-5-1993, Nguyễn Ngọc Dũng tới trước văn phòng Cao Uỷ Tỵ Nạn LHQ trại Sungei Mã Lai tự tay đâm mũi dao nhọn vào giữa trái tim mình và gục chết bên dòng chữ : “Tôi chết đi không phải vì tuyệt vọng mà vì muốn đem lại niềm hy vọng và sự sống cho nhiều người khác.” Nguyễn Ngọc Dũng tự huỷ mình để tạo một tiếng gào kêu gọi sự cảm thông với cảnh ngộ bị đoạ đày của đồng loại trong cảnh sống vắng thiếu tình người.
Lời kêu gào vẫn cất lên, nhưng được đáp ứng ra sao?
Ngày 22-8-2007, tại đại hội Cựu Chiến Binh Mỹ ở Kansas Missouri, tổng thống Bush nhắc đến cuộc chiến Việt Nam qua một câu tóm gọn: “Bất kể bạn ở vị thế nào trong cuộc tranh luận thì cái di sản Việt Nam đã hỉển lộ vẫn chính là cái giá phải trả cho cuộc triệt thoái quân đội Mỹ bởi hàng triệu người vô tội mà những nỗi thống khổ của họ đã tạo thêm cho ngôn ngữ chúng ta các từ mới như “thuyền nhân”, “trại cải tạo” và những “cánh đồng chết”…. ([1])
Phát biểu ngắn gọn gợi nhắc thực tế Việt Nam sau ngày 30-4-1975 cũng bày tỏ nỗi tiếc xót về hậu quả một hành động sai lầm di hoạ cho những con người nhỏ bé vô tội, và ý muốn cảnh báo về một sai lầm tương tự. Dù là người xa lạ, ông Bush cho thấy không hoàn toàn vô cảm trước những thống khổ mà người dân Việt Nam gánh chịu quanh hai tiếng “thuyền nhân” — bao gồm cảnh ngộ buộc mọi người phải rời bỏ quê hương và những thảm nạn trên biển cả mênh mông luôn chứa đầy tai hoạ bão táp, hải tặc và cả thái độ lạnh lùng của những người ngoại cuộc nhẫn tâm…
Nhưng sự bày tỏ một chút tình đồng loại ấy đã lập tức bị phản bác bởi những người đang ở vị thế quyết định số phận mọi con dân Việt Nam. Ngay sau ngày 22-8 cho tới cuối tháng 9-2007, báo chí Việt Nam liên tiếp phổ biến nhiều bài viết và phát biểu chê bai ông Bush sai lầm và xuyên tạc. Trên báo Quân Đội Nhân Dân ngày 31-8-2007, tướng Nguyễn Đình Ước viện trưởng Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam phát biểu “nạn thuyền nhân là chuyện có thật” nhưng nguyên nhân vì “sau chiến tranh, đất nước bị tàn phá nặng nề mà Việt Nam còn bị bao vây, cấm vận về kinh tế.” Viên tướng này diễn tả xã hội Việt Nam hoàn toàn tốt đẹp, không có chuyện bức chế bất kỳ ai, không có nỗi thống khổ nào và khẳng định nạn thuyền nhân là “âm mưu hậu chiến của Mỹ ”, bởi sau khi cấm vận gây khó khăn kinh tế cho Việt Nam, “họ lại kích động, đưa ra viễn cảnh thiên đường ở bên ngoài gây nên tình trạng có một bộ phận người Việt Nam bỏ đất nước ra đi. Không ít người đã thiệt mạng trên biển do bị chìm thuyền, bị bọn đưa người vượt biên trái phép lừa gạt giết chết. Đó đúng là một thảm cảnh nhưng là hệ quả do những chính sách chống phá Việt Nam từ bên ngoài.”
Nguyễn Đình Ước và những cây bút cuồng nhiệt đả kích lời phát biểu của ông Bush đã cho thấy họ không hề động tâm trước sự việc xẩy ra cho chính đồng bào của mình mà ngược lại còn kết buộc các nạn nhân tự chuốc tai hoạ bởi nghe lời ngoại nhân kích động, bỏ đất nước ra đi. Nếu cứ giả dụ những người này nói đúng thì phải biện giải ra sao về lý do Việt Nam viện dẫn để đòi phá bỏ tấm bia tưởng niệm tại Jakarta, khi tờ Jakarta Post ngày 20-6-2005 loan báo Chủ Tịch CSVN Trần Đức Lương yêu cầu Nam Dương “khẩn cấp đập tượng đài” trên vì “nó xúc phạm tới Việt Nam.” Tấm bia xúc phạm Việt Nam như thế nào khi chính quyền Việt Nam khẳng định các nạn nhân chết thảm chỉ vì “chính sách chống phá Việt Nam từ bên ngoài?” Vả lại, bày tỏ tình cảm xót thương nhớ tiếc những người cùng huyết mạch đã khuất có thể là hành vi gây tổn hại uy danh dân tộc chăng?
Mọi nguyên tắc đạo lý trên trái đất này đều không chứng minh cho kiểu suy diễn đó, nhất là khi hết thẩy người đã khuất đều là nạn nhân vô tội đáng thương, trong số có không ít trẻ thơ và những người vợ, người mẹ chân yếu tay mềm. Bằng cách nhìn nào thì cũng phải khẳng định tấm bia đó chỉ gợi nhắc tội ác của những kẻ đã biến hàng loạt người vô tội thành nạn nhân trong tấn thảm kịch thuyền nhân, và bất kể là ai, nếu còn mang trái tim con người sẽ không bao giờ tránh khỏi xót xa trước cảnh tượng ngọn lửa điên cuồng trùm phủ thân hình nhỏ nhoi yếu đuối của một cô bé mới 16 tuổi như ngọn lửa hoả thiêu thân xác cô bé có tên Lưu Thị Hồng Hạnh.
Bỏ qua mọi lý lẽ để chỉ nhìn vào thực tế xảy ra quanh hai tiếng “thuyền nhân” sẽ không thể quên trường hợp con thuyền mắc cạn tại một hòn đảo trong quần đảo Trường Sa và trường hợp chấm dứt binh nghiệp của một hạm trưởng hải quân Mỹ.
Theo Washington Post ngày 29-03-1989, hạm trưởng hải vận hạm USS Dubuque cho biết sẽ rời Hải Quân sau 26 năm phục vụ, dù ước nguyện của ông là được sống trọn đời với biển cả. Ông phải chọn điều này vì ngày 24-02-1989, toà án quân sự Mỹ đã tuyên xử ông thiếu xót trách nhiệm và ông tin rằng bản án thực sự chấm dứt binh nghiệp của ông. Trên thực tế, ông bị ngưng chức hạm trưởng, bị truy tố ra toà từ ngày 27-08-1988, và các phiên xử kéo dài 2 tuần lễ khởi từ trung tuần tháng 2-1989 đã kết thúc với bản án trên. Lý do là ngày 9-06-1988, hải vận hạm USS Dubuque gặp một thuyền tỵ nạn Việt Nam lênh đênh giữa biển. Các thuyền nhân cho biết thuyền bị hư máy trôi giạt đã 18 ngày khiến có hơn 20 người bị chết. Còn lại trên thuyền lúc đó có 83 người gồm nhiều phụ nữ, trẻ em, hết thẩy đều kiệt sức. Nhưng lời khẩn cầu hải vận hạm USS Dubuque cứu vớt bị từ chối. Vị hạm trưởng chỉ hạ lệnh chuyển qua con thuyền một số thực phẩm và nước uống đủ dùng mấy ngày rồi tiếp tục ra đi, bỏ mặc con thuyền bập bềnh tại chỗ.
19 ngày sau, ngày 28-06-1988, con thuyền được một tàu đánh cá Phillipines cứu đưa vào bờ thì đã có thêm 31 người bị chết và số người sống sót kể lại phải qua những ngày khủng khiếp là duy trì hơi thở bằng cách nhai nuốt chính thân xác các bạn đồng thuyền đã chết. Tin về cảnh ngộ 52 thuyền nhân sống sót loan truyền khắp mặt báo chí và Bộ Quốc Phòng Mỹ tức khắc ra lệnh truy tố vị hạm trưởng.
Trước toà, vị hạm trưởng viện lý do cần hoàn tất nhiệm vụ nên không dám bỏ thời gian cho việc tiếp cứu. Nhưng quan điểm của toà là không có lý do nào biện giải cho hành vi làm ngơ trước cảnh lâm nguy của đồng loại.
Bản án đã khẳng định vị thế tột cùng của tình người và gợi nhắc một trường hợp từng xẩy ra 10 năm trước đó. Một ngày tháng 4-1979, con tàu là chiếc ghe đi biển mà ngư dân gọi là “3 lốc đầu bạc” chở 130 thuyền nhân rời đảo Hòn Tre ngoài khơi Nha Trang vượt Biển Đông. Sau ba ngày êm ả, một cơn bão bất ngờ ập tới giữa đêm. Cơn bão khiến con tàu điên đảo quay cuồng, sau đó hoàn toàn mất phương hướng. Giữa lúc nguy cấp, người trên tàu bỗng thấy có ánh đèn loé lên từ một khoảng không xa. Tài công lập tức hướng về phía đó với hy vọng là một hòn đảo Philippines.
Không may, con tàu mắc kẹt đá ngầm lúc tới cách hòn đảo chỉ hơn trăm thước. Lâm cảnh vô phương tiến thoái, một nhóm người quyết định lội vào đảo tìm sự tiếp cứu. Vừa đặt được chân lên bãi cát, nhóm người bỗng nghe tiếng loa phóng thanh bằng tiếng Việt ra lệnh : “Tất cả đứng lại!”
Cả nhóm chết sững đứng im, nhưng thầm an ủi nhau nếu bị bắt trở về đất liền thì dù phải đi tù vẫn bình yên, khỏi vùi xác giữa biển cả. Ý nghĩ đó không thành thực tế. Vì nhóm người đứng thẳng hàng với hai tay đưa lên trời đã lập tức trở thành những tấm bia cho hàng loạt đạn từ trong bờ xối xả bắn tới. Gần 20 mạng người gục ngã trong chớp mắt, chỉ còn ba người thoát chạy trở lại được con tàu.
Do mắc kẹt đá ngầm, con tàu không thể nhúc nhích nên đành đưa hết đàn bà trẻ nít lên mui, hướng vào đảo quỳ khóc xin tha mạng. Cảnh tượng đó diễn ra lúc trời đã rạng sáng giúp mọi người thấy rõ trên đảo nhiều toán bộ đội tới lui nhộn nhịp và vợ con họ đứng chen lấn nhìn ra con tàu.
Đám đàn bà trẻ nít trên tàu la khóc lớn hơn xin cứu giúp. Nhưng đó cũng là lúc mà đủ loại súng nối nhau nhả đạn vào đám đàn bà trẻ nít đang uốn mình cúi lạy trên mui tàu…
Các chi tiết về giây phút cuối cùng của con tàu do một nhân chứng sống sót kể lại :
– “ Chúa ơi cứu con với !”
Tiếng thét đau đớn, hãi hùng của người phụ nữ nằm sát cạnh tôi, cùng lúc với một dòng nước ấm văng vào mặt khiến tôi phải lấy tay vuốt mặt và bàng hoàng nhận ra toàn là máu. Máu nóng đã ập vào mặt tôi từ người phụ nữ bên cạnh. Tôi ngẩng đầu lên một chút để nhìn. Người phụ nữ oằn oại với vết thương bên đùi vỡ toác, máu tuôn xối xả …
Đạn vẫn tiếp tục nổ, tiếng la hét, kêu gào của những người bị trúng đạn quyện thành một thứ âm thanh hỗn loạn đến rợn người … Trước mặt tôi, chung quanh tôi, máu thịt văng tung tóe, thây người nằm la liệt … Thần kinh tôi tê cứng vì sợ hãi khiến tôi muốn khụy xuống, nhưng bản năng sống còn thúc tôi phóng xuống biển vừa lúc một cơn sóng chụp tới cuốn tôi rời xa con tàu.”
Kẻ may mắn được sóng cuốn đi, sau đó được xô tới bên một chiếc thuyền câu cũng đang dật dờ trên mặt biển:
“Thoạt đầu, tôi cứ tưởng bộ đội hạ quyết tâm đuổi tận, giết tuyệt nên không dám bơi lại gần. Nhưng nhìn kỹ, tôi nhận ra chiếc thuyền hoàn toàn im lặng, không có sự di động của bất cứ người nào trên thuyền. Tôi hơi vững tâm, cố bơi lại gần. Nắm được be thuyền và leo lên thì tôi thấy có người trên thuyền, nhưng mọi người đang nằm ở tư thế ẩn nấp. Thấy tôi leo lên, họ sụp lạy, xin tha mạng. Tôi không có thời giờ giải thích gì cả, bật ngửa ra nằm bất động …
Sau khi đã hoàn hồn và hỏi chuyện nhau, tôi mới vỡ ra họ cũng trôi giạt vào đây và cũng bị bắn. Thuyền của họ xuất phát từ Phước Tỉnh, Bà Rịa, có 13 người gồm 11 người đàn ông và 2 đứa trẻ, bé chị 9 tuổi, cậu em 6 tuổi. Cha của hai em bé này đã bị bắn vỡ đầu nằm chết ở mũi thuyền, một thanh niên khác bị bắn nát phần vai hai bên, đang nằm thoi thóp dưới hầm máy.”
Con thuyền là một thuyền câu dài vỏn vẹn 6 thước, rộng 2 thước cứ dật dờ trôi nhưng tiếp đó đã nhận thêm 4 người khác thoát chết từ con tàu bị mắc cạn để ấp ủ 16 mạng người, sau khi anh thanh niên bị thương trút hơi thở cuối. Điều kỳ lạ là 16 người trong số có hai đứa trẻ đều còn thoi thóp tới ngày thứ 30 lênh đênh trên biển khi được một tàu buôn Nhật Bản phát hiện. Vị thuyền trưởng người Đại Hàn từng được nhắc nhở sẽ bị đuổi việc nếu vớt người vượt biên. Nhưng trước chiếc thuyền câu nhỏ với 16 túi da bọc xương đang hấp hối, ông đã chọn chấp nhận mọi hậu quả, lệnh cho thủy thủ đưa họ lên thuyền cấp cứu rồi chở họ tới cảng Okinawa.
Hơn 30 ngày trước, hai con thuyền chở 143 người lúc này chỉ còn vỏn vẹn 16 người. Nỗi gian khổ của họ được báo chí Nhật Bản và quốc tế kể lại nhiều ngày kèm theo hình ảnh những con người chỉ là những bộ xương với hộp sọ nhô cao.
Hành động quay lưng không cứu người lâm nạn của vị hạm trưởng hải vận hạm USS Dubuque gây ra cái chết cho 31 người đã khiến Bộ Quốc Phòng Mỹ lập tức quyết định đưa ra toà xét xử ngay sau khi báo chí loan tin. Trong khi đó, những kẻ nhẫn tâm tàn sát 120 mạng người vô tội gồm nhiều phụ nữ và trẻ thơ đang khốn đốn giữa sóng gió cho tới nay hơn 30 năm sau vẫn hoàn toàn thoải mái.
Không biết bao nhiêu thắc mắc đã được đưa ra nhưng đều rơi vào hư vô. Nhưng, những thắc mắc đó chắc chắn vẫn sẽ vang lên mỗi khi có ai nhắc đến hai tiếng “thuyền nhân” để gom lại thành một thắc mắc cuối cùng : Những kẻ đã ra lệnh bắn giết người ra đi và những kẻ thản nhiên thi hành lệnh bắn giết đó còn có thể gọi là con người được không?
Trong Buồn Vui Đời Thuyền Nhân, Lâm Hoàng Mạnh lập lại cùng thắc mắc khi kể về một tai hoạ tương tự đe doạ con thuyền trên đó có gia đình anh:
“Trưa ngày 18-6-1979, vợ con tôi cũng như nhiều phụ nữ và trẻ con khác say sóng, nôn mửa, nằm bệt dưới khoang. Tôi đang loay hoay lau chùi dọn dẹp, lấy thuốc chống say cho vợ con, bỗng nhiên nghe tiếng loa phóng thanh oang oang:
– Không được vi phạm hải phận của chúng tôi.
Tất cả mọi người choàng tỉnh. Tôi vội lên sạp thuyền xem sự thể ra sao. Một tàu chiến hải quân Trung Quốc đang dần dần áp sát thuyền chúng tôi. Trên boong tàu, thủy thủ Trung Quốc trong quân phục hải quân, lăm lăm tiểu liên, một dàn đại liên, đại bác chĩa nòng vào thuyền. Một sĩ quan tay cầm loa phóng thanh nói bằng hai thứ tiếng Việt và Quảng rất rành rọt:
– Yêu cầu thuyền không được xâm phạm hải phận chúng tôi. Phải rời ngay hải phận, không sẽ bị tiêu diệt.
Tôi không thể tin được tai mình.
Đây là đồng bào, đồng chí của tổ quốc Trung Hoa vĩ đại của chúng tôi ư?
Mới ngày 15-6 khi chưa rời bến Máy Chai, chúng tôi vẫn được chính quyền Đặng Tiểu Bình trên đài phát thanh Bắc Kinh khoác cho chiếc áo “Hoa kiều yêu nước” với biết bao mỹ từ tươi đẹp, kêu gọi hồi hương. Giờ đây thuyền chúng tôi mới mấp mé hải phận “tổ quốc vĩ đại, thân yêu”, chính hải quân của Đặng Tiểu Bình đe dọa nổ súng, tiêu diệt nếu thuyền không rời xa lãnh hải.
Hơn 200 người trên thuyền là người dân vô tội, đàn bà trẻ con, không tấc sắt trong tay.
Khi tàu hải quân Trung Quốc áp sát, chúng tôi già trẻ lớn bé hơn 200 người đứng lố nhố trên sàn thuyền. Tất cả đăm đăm nhìn bọn họ. Những mũi súng máy của lính hải quân chĩa thẳng vào chúng tôi như sẵn sàng nhả đạn.
Trước khi ra đi, chúng tôi thường nghe BBC Việt ngữ, anh Đỗ Văn đưa tin, rất nhiều thuyền tỵ nạn gặp tàu nước ngoài đuợc cứu trợ, đưa đến nơi an toàn. Không ngờ, thuyền chúng tôi gặp tàu hải quân Trung Quốc, họ không cứu giúp lại tìm cách đẩy chúng tôi ra xa hơn giữa trùng dương nguy hiểm.
Họ là ai? Họ chính là người Trung Quốc, là đồng bào, trong huyết quản họ và chúng tôi có chung dòng máu Trung Hoa. Sao họ tàn ác đến như vậy?
Họ là người hay loài mãnh thú?”
Thắc mắc mà Lâm Hoàng Mạnh lập lại có lẽ không còn cần trả lời. Nhưng từ đây lại dấy lên một thắc mắc rất cần được trả lời: Tại sao loài mãnh thú có thể tồn tại lâu như vậy ở vị thế đè đầu cưỡi cổ con người?
Tôi không tin có một loài thú nào dù hung dữ tới đâu lại đủ sức khống chế một cộng đồng dân tộc từng đạp bằng mọi hiểm hoạ gian nguy cùng cực để tồn tại suốt hơn bốn ngàn năm. Quá trình đó đã biểu hiện cụ thể một ý chí bất khuất và truyền thống bảo toàn các giá trị tất yếu của cuộc sống gọi là cuộc sống con người. Ý chí và truyền thống đó chắc chắn không bao giờ tàn lụi. Vậy do đâu cả một cộng đồng dân tộc đã phải khoanh tay gục đầu trước nanh vuốt của chỉ một bày ác thú?
Hàng loạt dấu hỏi quay cuồng với hàng loạt giải đáp nhưng mỗi giải đáp lại khơi thêm nỗi hoang mang ngờ vực khiến trước mắt tôi bỗng hiển hiện một rừng dấu hỏi nhảy múa điên loạn và chập chờn chuyển hoá thành đủ thứ hình thù. Dù chưa từng vượt biển, chưa từng đặt chân đến một hòn đảo nào, tôi bỗng thấy mình đang đứng giữa quần đảo Trường Sa và những dấu hỏi mịt mù đã biến thành một đám người say mê nhả đạn với nét mặt hả hê trước những thân hình nạn nhân gục ngã. Rồi tôi lại nghe vẳng lên giọng kể trĩu nặng ưu tư của Lâm Hoàng Mạnh về vài cảnh sống của một số thuyền nhân khi đã rời xa hẳn những con thuyền:
“Chuyện ly hôn của người Việt trở thành đề tài nóng bỏng. Tôi quen một số gia đình cũng bị hút vào vòng xoáy này. Đến chơi, khi hỏi chuyện thật hư, có gia đình, không những không ngượng, cô vợ còn cười tươi, bảo “quanh đây ai cũng đều thế cả, chỉ có gia đình anh chị chưa làm thôi. Em á, không những làm, em còn xúi người ta. Tội gì không làm, chết ai đâu? Đây này, chúng em ra tòa ly dị. Có giấy ly hôn hẳn hoi, ông xã lấy cớ thăm con, vẫn ngủ ở nhà đấy chứ. Chỉ khi nào council cho người đến kiểm tra mới “tạm sơ tán” thôi…
Đấy, ông xã nhà này vẫn đi làm đều, chỉ phải đóng thêm chút thuế, theo diện độc thân, còn em và tụi trẻ bây giờ khỏe re, lĩnh tiền trợ cấp single parent cao, tiền nhà khỏi phải đóng, các cháu được miễn phí bữa trưa. Sướng chưa! Anh chị còn chần chừ gì nữa mà không làm….”
Tôi ngán ngẩm ra về và từ đó ít giao lưu. Chỉ vì một chút lợi ích vật chất, họ đã cắt luôn dây thần kinh xấu hổ, làm những điều không thể chấp nhận đối với lương tâm, đạo đức của người bình thường …”
Lâm Hoàng Mạnh không chỉ ưu tư trước cảnh sống này mà còn đưa người đọc tới nhiều vùng đất Việt Nam cũng như Anh quốc cùng nỗi trăn trở về khoảng thời gian tồn tại khó biết ra sao của những câu ca dao đã có hàng ngàn năm tuổi như:
Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con …
Tôi không còn theo kịp mức chuyển hoá của khu rừng dấu hỏi nữa, dù vẫn tin chắc ý chí bất khuất và truyền thống bảo toàn các giá trị tất yếu của cuộc sống con người chẳng bao giờ rời xa tim óc mọi người Việt Nam ở bất kỳ nơi đâu. Mọi nguyên do thống khổ dẫn tới hai chữ “thuyền nhân”, mọi tai ương thảm nạn khắc hoạ thành hai chữ đó có thể ghi dấu mãi một đoạn đường ngập tràn những não bộ tối tăm, những con tim dã thú, nhưng trong diễn trình lịch sử, mọi đoạn đường luôn chỉ là một bước thăng trầm không thể kéo dài mãi mãi.
Tôi bỗng nhớ tới giọng ca từng là thần tượng một thời của lớp tuổi chúng tôi từ thập niên 1950, nữ ca sĩ Hy Lạp Nana Mouskouri. Nana Mouskouri cuốn hút không chỉ do giọng ca mà còn qua nhiều lời ca vẫn thường bất ngờ vẳng lại :
Quand tu chantes je chante avec toi, liberté Dans la joie ou les larmes je t’aime Les chansons de l’espoir ont ton nom et ta voix La chemin de l’histoire nous conduira vers toi Liberté, liberté …
Tôi rời những trang hồi ký của Lâm Hoàng Mạnh trong ước mong được nghe lời ca trên vang dội mọi nẻo đường Việt Nam qua một dàn đồng ca, dù dư âm giọng ca của Nana Mouskouri vẫn ngọt ngào quyến rũ. Virginia May 20, 2011. UYÊN THAO ******** Sơ lược tiểu sử Lâm Hoàng Mạnh Lâm Hoàng Mạnh là người Việt gốc Hoa, thuộc một gia đình đã 4 đời định cư tại Hải Phòng. Sinh năm 1940 và khi mới 6 tuổi đã phải theo gia đình tản cư nhiều nơi do bùng nổ cuộc chiến Việ5 – Pháp tháng 12-1946, rồi về sống tại vùng Sơn Tây. Năm 1955, sau hiệp định Genève 1954, cùng gia đình trở lại Hải Phòng và tiếp tục đi học
|
|
|
Post by Can Tho on May 13, 2020 7:27:46 GMT 9
VĂN HOÁ: ĐỐT SÁCH QUA HỒI KÝ NGUYỄN HIẾN LÊ.
Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quý Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Năm 1976 một ông Thứ trưởng Văn Hoá ở Bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc.
Nhưng ông Thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính quyền không, vì năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lí, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm... in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo.
Năm 1975, Sở Thông tin Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đã bắt các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt: sau mấy tháng làm việc, họ lập xong một danh sách mấy chục tác giả phản động hay đồi trụy và mấy trăm tác phẩm bị cấm, còn những cuốn khác được phép lưu hành.
Nhưng đó chỉ là những sách còn ở nhà xuất bản, những sách tuyệt bản còn ở nhà tư nhân thì nhiều lắm, làm sao kiểm duyệt được? Cho nên sở Thông tin Văn hóa ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi trụy trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kì loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Họ không thể vào hết từng nhà được, ghét nhà nào, hoặc công an chỉ nhà nào là vô nhà đó.
Một nhóm ba thanh niên cũng xin vào xét tủ sách của tôi. Nhà tôi tiếp họ, hỏi:
- Các cháu học ở đâu? Có đọc sách ông Nguyễn Hiến Lê không?
Một người học Đại học, đáp có đọc sách tôi. Nhà tôi bảo:
- Nhà này là nhà ông Nguyễn Hiến Lê đấy.
Họ vội vàng xin lỗi rồi rút lui.
Lần đó sách ở Sài Gòn bị đốt kha khá. Nghe nói các loại đồi trụy và kiếm hiệp chất đầy phòng một ông chủ thông tin quận, và mấy năm sau ông ấy kêu người lại bán với giá cao.
Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị "ba hủy", chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải là loại phản động (một hủy), thì cũng là đồi trụy (hai hủy), không phải phản động, đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lý... Mọi người hoang mang, gặp nhau ai cũng hỏi phải làm sao. Có ngày tôi phải tiếp năm sáu bạn lại vấn kế.
Mấy bạn tôi luôn nửa tháng trời, ngày nào cũng xem lại sách báo, thứ nào muốn giữ lại thì gói riêng, lập danh sách, chở lại gởi nhà một cán bộ cao cấp (sau đòi lại thì mất già nửa); còn lại đem bán kí lô cho "ve chai" một mớ, giữ lại một mớ cầu may, nhờ trời.
Một luật sư tủ sách có độ 2.000 cuốn, đem đốt ở trước cửa nhà, chủ ý cho công an phường biết. Rồi kêu ve chai lại cân sách cũng ngay dưới mắt công an.
Ông bạn Vương Hồng Sển có nhiều sách cổ, quý, lo lắng lắm mà cũng uất ức lắm, viết thư cho sở Thông tin văn hóa, giọng chua xót xin được giữ tủ sách, nếu không thì ông sẽ chết theo sách.
Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có trong nhà, đem lại sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên Thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Hủy hết, hủy hết.
Bà Đông Hồ quen ông Giám đốc thư viện thành phố, bán được một số sách cho thư viện, tặng thư viện một số khác với điều kiện được mượn đem về nhà mỗi khi cần dùng tới.
Tôi nghe lời khuyên của một cán bộ Văn hóa, làm đơn xin Sở Thông tin Văn hóa cho tôi giữ tủ sách để tiếp tục làm việc biên khảo, đơn đó ông bạn cán bộ đem thẳng vô ông chủ sở, ông này chỉ đáp miệng rằng tôi là nhân sĩ thành phố, cứ yên tâm. Họ có thói việc lớn, việc nhỏ gì cũng không trả lời bằng thư, sợ lưu lại bút tích mà chịu trách nhiệm.
Ít tháng sau tình hình dịu lần rồi yên, không nhà nào bị kiểm kê. Chính quyền bảo để xét lại và một năm sau, nạn "phần thư" kể như qua hẳn. Tủ sách của tôi không mất mát gì cả, nhưng từ đó tôi không ham giữ sách nữa, ai xin tôi cũng cho.
Ngành báo chí và ngành xuất bản, chính quyền nắm hết vì coi đó là những công cụ giáo dục quần chúng. Ở Sài Gòn chỉ thấy bán vài tạp chí Nga, Ba lan, tư nhân muốn mua dài hạn phải đăng kí trước ở sở bưu điện. Một người cháu tôi từ Pháp gửi về cho tôi một tờ Nouvel Oservateur (của khối cộng), số đó bị chặn lại. Nghe nói tờ Humanité của đảng cộng sản Pháp cũng không được bán trong nước.
Tôi chưa thấy một cuốn sách Nga hay Trung Hoa nào bán ở Sài Gòn, trừ mấy cuốn về Lénine, về khoa học đã được dịch ra tiếng Việt. ở các thư viện Hà Nội có thể có sách bằng Nga văn hay Hoa văn nhưng chỉ cán bộ mới được phép coi, mà cán bộ trong ngành nào chỉ được coi về ngành đó thôi. Cũng có người đọc lén được.
Sau ngày 30-4-75, tôi muốn tìm hiểu cách mạng Nga từ 1917 đến 1945, nhờ mấy bạn cách mạng tìm sách cho, họ bảo chính họ cũng không được đọc vì không thấy một cuốn nào cả. Sau tôi mới biết rằng loại đó ngay ở Nga cũng không ai được phép viết. Như vậy kiến thức hạng trí thức ngoài đó ra sao, ta có thể đoán được. Một nhà văn hợp tác với viện khoa họcXã hội lại nhờ tôi giới thiệu cho mươi nhà văn, học giả giỏi tiếng Anh và tiếng Việt để dịch cho viện bộ Bách khoa tự điển Anh gồm 25 cuốn, mà phải dịch gấp vì đó là chỉ thị của một ông "bự". Tôi bảo có 50 nhà dịch cũng không nổi vì phải tạo hằng ức danh từ mới (riêng ngành Informatique trong 30 năm nay đã có một vạn thuật ngữ rồi); mà ví dụ có dịch nổi thì cũng phải mất ít nhất mười năm mới xong; xong rồi lại phải dịch lại hoặc bổ túc rất nhiều vì lỗi thời mất rồi: ở Anh, mỗi năm người ta sửa chữa, bổ túc, in lại một lần; rồi lại phải bỏ cả chục năm nữa, không biết có in xong được không. Xong rồi, bán cho ai, ai đủ tiền mua? Cán bộ Văn hóa vào hàng chỉ huy mà dốt tới mức đó!
Tháng 4-1980, có một thông cáo cấm kiều bào hải ngoại gởi một số đồ nào đó về cho thân nhân trong nước, như quần áo cũ, các thực phẩm đóng hộp, các thuốc tây không có prospecties cho biết cách dùng, trị bệnh gì..., mà chỉ cho người ta một thời hạn không đầy một tháng để thi hành. Kẻ nào thảo thông cáo ra quyết định đó không hề biết rằng những gia đình có thân nhân là kiều bào ở những nơi xa xôi, hẻo lánh khắp thế giới, phải viết thư cho họ thì họ mới biết mà thi hành chỉ thị được; và ở thời này, thư máy bay từ Sài Gòn ra Hà nội mất có khi một tháng (trường hợp của tôi), từ Sài Gòn qua Pháp, Gia nã đại mất hai tháng, có khi bốn tháng. Báo chí vạch điểm đó ra cho chính quyền thấy, họ mới gia hạn cho thêm 5 tháng nữa. Trị dân mà không biết một chút gì về tình cảnh của dân cả. Họ có vận dụng trí óc của họ không?
Còn hạng nông dân ngoài Bắc thì khờ khạo, ngớ ngẩn so với nông dân trong này không khác gì một người ở rừng núi với một người ở tỉnh. Mấy anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng miền Nam này nghèo đói không có bát ăn, sau 30-4-75, vô Sài Gòn, lóa mắt lên, mới thấy thượng cấp các anh nói láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh.
Một anh bộ đội đi xe đò từ Long Xuyên lên Sài Gòn nghe hai chị bình dân miền Nam nói với nhau lên Sài Gòn sẽ mua xe tăng, máy bay, tàu chiến... mỗi thứ vài chục cái; anh ta hoảng hồn, tới trại kiểm soát vội báo cho kiểm soát viên hay có gián điệp trên xe. Chiếc xe phải đậu lại ba bốn giờ để kiểm soát, điều tra rất kĩ, sau cùng mới hay rằng hai chị hành khách đó đi mua máy bay, xe tăng, tàu chiến bằng mủ về bán cho trẻ em chơi. Hành khách trên xe nổi dóa, chửi thậm tệ anh bộ đội; khi xe tới bến Phú Lâm, họ còn đánh anh ta tơi bời nữa. Kết quả của nền giáo dục miền Bắc như vậy. Chính một cán bộ nói với tôi: "Càng học càng ngu. Thầy ngu thì làm sao trò không ngu? Nhồi sọ quá thì làm sao không ngu? Có được đọc sách báo gì ngoài sách báo của chính quyền đâu thì còn biết chút gì về thế giới nữa?"
Một cán bộ khác cho tôi hay ở Hà nội người nào có được 50 cuốn sách là nhiều rồi. Anh ta mới thấy ba trong số 9 tủ sách của tôi đã bảo nhà tôi nhiều sách như một thư viện. Nhà bác học Sakharov trong một bài báo tôi đã dẫn, bảo ở Nga không có đời sống tinh thần (vie intellectuelle). Chúng ta có thể tin lời đó được.
Trước 1975, thấy cuốn nào in ở Bắc cũng từ 10.000 bản trở lên, có thứ 30.000, 100.000 bản, tôi và các bạn tôi phục đồng bào ngoài đó ham đọc sách. Bây giờ tôi hiểu lí do. Hà Nội mỗi năm xuất bản không biết được 100 nhan đề không (trong này, thời trước được khoảng 1.000 nhan đề); sách được gởi đi khắp nơi không có sự cạnh tranh, mà ai cũng "đói sách"; lại thêm nhiều sách có mục đích bổ túc cho sách giáo khoa, nhất là loại dạy chính trị, như vậy in nhiều là lẽ dĩ nhiên. Sách bán rất rẻ, nên cuốn nào viết về văn học, sử học mới ra cũng bán hết liền. Mấy năm nay, giấy khan, in ít, sách vừa phát hành đã bán chợ đen ở Hà Nội, không vào được tới miền Nam; những cuốn như lịch sử tỉnh Vĩnh Phú, ngay cả bộ Hồ Chí Minh toàn tập, ở Long xuyên không làm sao kiếm được một bản, các cơ quan giáo dục cũng không mua được. Trái lại bộ Lê Nin toàn tập giấy rất tốt, thì ở khắp miền Nam bán chạy veo veo; người ta mua về để bán kí lô.
Tóm lại, chính sách là chỉ cho dân được nói theo một chiều, trông thấy một hướng; nên chỉ một số rất ít giữ được tinh thần phê phán, nhưng chẳng thi thố được gì, sống nghèo khổ, bất mãn.
* ST
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 4, 2020 18:41:47 GMT 9
Quyết định lớn trong đời Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy May 2, 2020 cập nhật lần cuối May 2, 2020 Bà Nguyễn Thanh Thủy và chiếc áo tù có in số hiệu trại Z30D và đôi găng tay tự làm khi đi lao động trong tù, là hai vật luôn đi cùng bà trong công cuộc đấu tranh cho đất nước. (Hình: Văn Lan/Người Việt) Văn Lan/Người Việt ANAHEIM, California (NV) – Trước ngày 30 Tháng Tư, nữ biệt đội trưởng Biệt Đội Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy trăn trở không ngủ được, lúc nào cũng suy nghĩ phải giải quyết như thế nào về nhân viên, hồ sơ, và gia đình, mặc dù gia đình bà được đi trong một chuyến tàu sang Mỹ lúc ấy. Biệt Đội Thiên Nga gồm khoảng 30 người người thuộc “phái yếu” rất trẻ đẹp, ai cũng học giỏi và thông minh, tất cả mọi người đều có một tên chung là Thiên Nga, với công tác đặc biệt là bí mật xâm nhập vào hàng ngũ hạ tầng cơ sở Cộng Sản để thu thập tin tức. Vào những ngày cuối cuộc chiến, vì còn kẹt một số hồ sơ mật, bà Thủy phải chờ lệnh trên thì mới tiêu hủy được. Chiều 28 Tháng Tư, 1975, có người tài xế của một ông trưởng đoàn đặc nhiệm tới nhà, cho biết sẽ đem xe tới đón cả gia đình bà đi Mỹ. Bà Thủy kể, khi nhìn thấy cái thẻ của ông trưởng gởi người tài xế mang tới, bà biết ngay là đã tới tình trạng khẩn cấp rồi. Người nào nhận được thẻ này là biết ám lệnh đã tới giờ cuối cùng nhưng bà quyết định không đi, để trở vô Khối Đặc Biệt đốt hết tất cả hồ sơ. Nhờ vậy tất cả hồ sơ nhỏ lớn gì cũng mất sạch, không còn gì. Nhưng bà thì không vượt thoát được. “Bọn Việt Cộng vào tới nơi tìm mãi cũng không thấy hồ sơ ở đâu, về sau này khi bị biệt giam, tôi mới biết bọn chúng đã để ý từ lâu. Với nhận xét người chỉ huy Biệt Đội Thiên Nga là một người phụ nữ trẻ đẹp, thông minh và học giỏi, chính tôi đã ở trong mục tiêu của kế hoạch ám sát khi tôi còn làm việc trước 1975,” bà Thủy kể. Một Thiên Nga thứ hai hoạt động sau 1975: Phải chiến thắng kẻ thùNgay sau ngày 30 Tháng Tư, bà Thủy được lệnh tới Ủy Ban Quân Quản (văn phòng của Khối Đặc Biệt Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa) hằng ngày. Sau đó có giấy kêu bà đến trình diện tại trại Trương Quốc Dung (Tân Định, Sài Gòn), sau thời gian ở đó, họ chuyển bà sang trại Long Thành, rồi qua trại Thủ Đức. Đến 1978, họ chuyển bà qua trại Z 30D, căn cứ 5 Rừng Lá, thuộc huyện Hàm Tân, Phan Thiết, tiếng lóng dân tù gọi là trại “Án Sầm,” do cán bộ cấp trung ương về điều tra, khai thác. Trong trại cũng có những thành phần “phản động” nhốt chung. Chủ đích những câu hỏi lúc đó là hỏi về hồ sơ của bà, gồm những công tác gì, tình báo viên trong mạng lưới của bà gồm những ai, hoạt động ra sao. “Họ hỏi tôi về địa chỉ các nhân viên cộng tác, và luôn nhận được câu trả lời vì đường Sài Gòn quá nhiều ngõ hẻm, mỗi lần đi hoặc đến đều có người chở nên tôi không biết, hoặc số nhà tôi cho toàn số giả không có thật, hoặc bọn chúng chận đầu khi nói là tôi là người học trường Luật Sài Gòn chuyên đi vào cổng chính và ra bằng cổng sau,” bà Thủy nhớ lại. Vì hồ sơ đã bị thiêu hủy hết, nên bà phải hóa thân ra một Thiên Nga khác, nhập vai vào một Thiên Nga mới để đối phó, dựa vào đó làm mục tiêu để trả lời những câu hỏi lúc bị biệt giam. Như vậy bà tuyệt đối phải nhớ những gì đã khai và nhất là không được quên những gì đã khai trước đó. “Và cứ như thế, những câu trả lời của tôi trong những cuộc điều tra tại trại biệt giam theo đó mà biến ảo đến nỗi sau khi bị đưa về trung ương do Đại Tá Liễn (có lẽ là tên giả, người ngoài Bắc vô) điều tra, ông ta chìa ra một xấp những hồ sơ, tài liệu do tôi trả lời, và nói rằng những câu trả lời của tôi đều ‘lửng lơ con cá vàng,’ nghĩa là chẳng đi tới đâu, đọc mà không khai thác được gì,” bà Thủy cho biết. Quán cà phê lề đường năm 1991, nơi ủng hộ của các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, sau khi bà Nguyễn Thanh Thủy ra tù. (Hình chụp lại: Văn Lan/Người Việt) Có lần Việt Cộng nghi ngờ lục lọi xét phòng, giũ hết quần áo chăn mền của bà để tìm tìm tài liệu cất giấu, nhưng “Hôm đó tôi có nhét tờ giấy nhỏ ghi chú vài điều vào trong gối và ngồi lên đó nên bọn chúng không tìm được gì. Nếu chúng cứ xét như vậy, thế nào cũng có ngày bị lộ nên tôi không ghi vô giấy nữa mà học thuộc lòng, làm sao thiếu hơn là dư, thiếu còn khai thêm được nhưng dư rất nguy hiểm, thế là kịch bản được học thuộc lòng và trả bài được kéo dài trong suốt 10 năm ở trại Z30D, sao cho khớp với tinh thần của một Thiên Nga mới,” bà Thủy kể. “Trong những lần hỏi cung, bọn chúng thường giáo đầu bằng câu ‘với chính sách khoan hồng của nhà nước, nên thành khẩn khai báo, cách mạng sẽ khoan hồng’ nhưng trong những lần đó, tôi không cần biết người hỏi cung mình là ai, cấp bậc gì, chỉ biết đó là kẻ thù, và mình phải chiến thắng kẻ thù. Nhất là tránh việc bọn chúng dùng tình cảm để khai thác mình, nếu yếu lòng sẽ bị lộ. Cấp như chúng tôi, bọn nó không đánh đập, thường để cho nói cái gì cũng được, cấm nói đến Tết Mậu Thân vì chúng bị thua cay trong trận ấy khi nắm chắc phần thắng, để tấn công bất ngờ vào miền Nam,” bà Thủy nói. Tuy hồ sơ tại Khối Đặc Biệt đã bị bà thiêu hủy hết sạch, nhưng có vài hồ sơ ở các nơi khác chưa kịp tiêu hủy nên bị lọt ra ngoài. Trong một lần hỏi cung ngay tại phòng của ông trưởng khối đặc biệt cũ tại Tổng Nha Cảnh Sát, gồm năm người phụ trách, Việt Cộng đưa những lời khai của bà, dụ dỗ bà nếu chịu hợp tác khai hết về Thiên Nga sẽ được thả về lo cho con. “Đằng đẵng 10 năm ở tù, cho ra rồi bị đưa trở lại mấy lần ở trại Z30D, đây là lần đầu tiên nghe nhắc đến con, cổ họng tôi nghẹn đắng. Lúc đó tình mẹ trỗi dậy mãnh liệt trong lòng bởi khi tôi vô tù thì ba đứa con còn nhỏ, một đứa 4 tuổi, đứa 5 và đứa lớn 7 tuổi, phải đưa về Mỹ Tho gởi bà ngoại nuôi. Nỗi nhớ con mãnh liệt dâng tràn khiến cổ họng nghẹn cứng, tôi phải giả vờ suy nghĩ hồi lâu để bình tĩnh, bèn hỏi lại muốn tôi hợp tác bằng cách nào cứ nói thẳng ra, đừng đem con tôi ra rào đón nữa,” bà Thủy kể tiếp. Chuyển trại tù liên tụcBà kể, ở trại Z30D, bà mắc bệnh kinh hoàng là sốt rét rừng, tưởng phải bỏ mạng. Có lần vào dịp Tết tù nổi dậy chống đối, sau đó bị phân tán ra nhiều nhóm đổi về Chí Hòa, nhóm ra miền Trung. “Còn ở trại Long Thành lúc mới vô trại, vấn đề vệ sinh thật là rắc rối và kinh khủng cho phái nữ vào những tháng mùa mưa dầm, khi con dòi (tù gọi là ‘thằng mập’) bò lổn nhổn khắp nơi, ai cũng mắc bệnh tiêu chảy liên miên,” bà nhớ lại. “Lúc đó tôi còn ở chung với tù hình sự, nước là vấn đề cần thiết nhất, mỗi người một ngày chỉ được một lon gô nước, ăn uống sinh hoạt tắm rửa tùy thích! Trồng rau phải tưới bằng nước tiểu và phân người, thời gian đó tất cả người tù đều mắc bệnh sán lãi, ai cũng xanh mét. Người tù bị mắc bệnh sốt rét, lao phổi, dịch tả, riêng tôi bị sốt rét rừng trầm trọng, lại thêm đau bao tử tưởng đâu bỏ mạng trong tù rồi!” bà kể tiếp. “Thời điểm đó người dân cả nước đều ăn bo bo thì người tù làm gì có cái ăn, chỉ có khoai mì mốc xanh, phải ráng nuốt để sống. Hoặc mì sợi luộc lên, tôi nhận phần chia thức ăn cho tù, có ngày phải vớt ra một con chuột cống bỏ thùng rác không nói gì, cả đội đều ăn hết không ai biết,” bà Thủy nhớ lại. Từ trái, bà Nguyễn Thanh Thủy, bà Khúc Minh Thơ, bà Nguyễn Thị Hạnh Nhơn, bộ ba trong công tác cứu trợ thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, trong dịp bà Khúc Minh Thơ đến California. (Hình: Văn Lan/Người Việt) Năm 1980, có lần bà Thủy bị đưa về trại của Bộ Công An (Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia trước đây) đề điều tra trong bốn tháng sau khi có thêm hồ sơ về bà. Bà bị nhốt vô đó riêng biệt mỗi người một phòng, bịt kín không có máy hút nhiệt và người tù đi phát thức ăn không được mặc áo chỉ mặc quần đùi, bị cấm nói chuyện với bất cứ ai, chỉ có cán bộ mới được nói chuyện. Thức ăn để bên ngoài và người tù phải thò tay ra khỏi song sắt để lấy, phải ăn bốc bằng tay. “Chỉ có tôi là bị điều tra nhiều nhất, ngoài ra những người khác được yên thân. Những người tù ‘phản động’ bị tra tấn ở đâu đó, khi đưa về có người bị dập nát ngón chân, hoặc có một chị bị đánh gãy cổ, vì chị ấy bị thêm tội ‘phục quốc,’ nhưng lúc đó Việt Cộng không biết chị ấy là Thiên Nga,” bà Thủy kể tiếp. Năm 1975 bà bị tù ở Long Thành, năm 1976 qua trại Thủ Đức, năm 1978 sang trại Z30D, rồi trở về trại Long Thành lần thứ hai. Năm 1984 bà trở lại trại Z30D và ở đó đến năm 1988 khi về nhà. Tổng cộng người biệt đội trưởng Biệt Đội Thiên Nga trải qua 13 năm lao tù Cộng Sản. Ra tù sau 13 nămSau 13 năm ở tù Cộng Sản, năm 1988 khi về lại xã hội bà phải đối diện với nhiều khó khăn khi nhà cửa bị tịch thu mất hết, không có giấy tờ hợp pháp. Cuối cùng, bà Nguyễn Thanh Thủy lập một chỗ bán cà phê lề đường hẻm Trương Quyền, Quận Nhất, gần bánh mì ông Lý Toét. Nhờ ơn trên mà quán nhỏ lề đường rất đắt khách, còn mua bán thêm món ăn sáng, nhờ vậy bà cũng tạm sống qua ngày. Bà Thủy cho biết: “Đến một hôm, có một chị đến quán tôi hỏi thăm, sau khi xưng tên, tôi và chị ấy qua chỗ vắng hơn để hỏi lại cho kỹ mới biết chị ấy là Thiên Nga Cẩm Vân, đã phá vỡ 10 ổ giao liên của Việt Cộng, bị kêu án tử hình từ sau 1975, nhưng chị đã đổi chổ ở nhiều lần nên không bị bắt.” “Với tư cách là Thiếu Tá Trưởng Biệt Đội Thiên Nga, tôi bèn viết tay chứng nhận để giúp chị ấy làm hồ sơ đi qua Mỹ, vì tất cả chúng tôi đều có hồ sơ cá nhân được người Mỹ đem về nước từ 1972. Vấn đề khó là làm sao gởi hồ sơ để chị ấy được đi, không gởi qua bưu điện vì sẽ bị lộ, sẽ bị Việt Cộng làm khó dễ không cho đi. Không ngờ tháng sau, chị ấy được mời đến Sở Công An phỏng vấn bổ túc hồ sơ, hiện nay chị ấy đang định cư ở Mỹ,” bà cười tươi. Tháng Mười Một, 1992, bà được qua Mỹ. Gia đình đoàn tụ tại Hoa Kỳ, từ phải, bà Nguyễn Thanh Thủy cùng phu quân, ông Lê Thành Long; con trai Lê Long Quân, kỹ sư điện toán, cựu quân nhân Không Vận thuộc Binh Chủng Không Quân Hoa Kỳ; con gái Lê Thủy Tiên. (Hình chụp lại: Văn Lan/Người Việt) Nỗi nhớ về thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa ở quê nhà Bà Thủy kể: “Khi sang Mỹ nhờ bà chủ tiệm bánh mì Cali là em gái của anh Nguyễn Kim Hùng, bạn học cùng khóa 1 Chánh Trị Kinh Doanh Đà Lạt năm xưa, giúp tôi có việc làm trong tiệm. Sau 10 giờ đêm hết giờ bán, hai mẹ con tôi qua làm cho tiệm giặt ở Costa Mesa đến 2 giờ sáng mới về tới nhà. Nghỉ chút xíu sáng mẹ lại đi bán chè Cali, con trai tiếp tục đi học. Cũng nhờ có tay mua bán, sau đó tôi làm chủ tiệm bán bánh mì ăn sáng ở Tiệm Thiên Nga Deli, góc đường Heil và Brookhurst cũng rất đắt khách. Cứ thế làm suốt bao nhiêu năm trời mới có đủ tiền để trả nợ mượn trước khi đi Mỹ, phần cũng nhín chút gởi về nuôi mẹ già bệnh tật và người em thương phế binh ở quê nhà.” “Lúc bán quán ngoài lề đường sau khi ra tù, những khi bán không hết bánh cuốn, hai vợ chồng tôi ngồi ăn thay buổi cơm chiều. Thấy người thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa ngồi lết trên hai chiếc ghế gỗ đi bán vé số, chúng tôi đều mời họ lại ăn chung. Cùng chia sẻ tình đồng đội lúc gian khổ thôi, chứ chúng tôi cũng có dư dả gì đâu!” bà Thủy bồi hồi xúc động kể. “Khi qua Mỹ, người đầu tiên đón tôi là bà Hạnh Nhơn, vì chúng tôi cùng ở tù trại Z30D ở Hàm Tân sau 1975. Sau đó bà Hạnh Nhơn có mời tôi giúp công việc ở Hội Thương Phế Binh mà bà là hội trưởng. Lúc đó tôi bận quá nhiều việc để kiếm sống, nên chỉ nhận giúp trông coi có hồ sơ nào cần giúp sẽ đem tới cho hội. Cho tới năm 2003 tôi mới có thì giờ rảnh để giúp Hội H.O Cứu Trợ Thương Phế Binh cho đến ngày hôm nay,” bà Thủy kể. Nói về ước mơ nhỏ nhất hiện nay, nữ biệt đội trưởng Biệt Đội Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy cho biết: “Thời gian tôi bán cà phê ngoài lề đường là dịp tiếp xúc nhiều nhất với người thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa và rất cảm thông cho số phận nghiệt ngã của họ, đã hy sinh cả thân mình cho công cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam thân yêu, hiện đang vất vưởng bên lề cuộc sống. Tôi ao ước năm nào cũng có đủ tiền để giúp đỡ thương phế binh ở quê nhà luôn sống trong nỗi khắc khoải đợi chờ. Tôi mong rằng chúng ta, những người may mắn ở Mỹ, nhất là những cựu quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa, lúc nào cũng nhớ về họ, chia sẻ chút tình đồng đội khi cùng chiến đấu chống Cộng Sản để mang lại thanh bình cho đất nước, nhưng tiếc thay ước mơ vẫn chưa thành!” (Văn Lan) [qd] —– Xem lại kỳ trước: Biệt Đội Thiên Nga và những chiến công thầm lặng trong cuộc chiến Việt Nam
Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy sinh năm 1943 tại Mỹ Tho.
Cựu sinh viên Dược Khoa Đại Học Sài Gòn.
Cựu sinh viên phân khoa Chánh Trị Kinh Doanh Khóa 1 và Đại Học Sư Phạm, Viện Đại Học Đà Lạt.
Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 1 Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, Việt Nam Cộng Hòa.
Cấp bậc Thiếu Tá, biệt đội trưởng Biệt Đội Thiên Nga thuộc Khối Đặc Biệt Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia, Việt Nam Cộng Hòa.
Huy chương: Đệ Tam Đẳng Chiến Công Bội Tinh, Đệ Nhị Đẳng Danh Dự Bội Tinh.
Sau năm 1975 đi tù Cộng Sản 13 năm.
Định cư cùng gia đình tại Hoa Kỳ năm 1992.
Kế nhiệm hội trưởng Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ Việt Nam Cộng Hòa.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 7, 2022 2:38:29 GMT 9
“In desperation” Trong nổi khốn cùng
Mình xin giới thiệu một bài viết của ông Nguyễn Thế Thăng. Sau tháng 4 1975, ông ta vào chiến khu Việt Cộng để tiếp tục chiến đấu với các chiến hữu, tương tự vài người lính trinh sát của đại đội 302 xưa của Đà Lạt mà mình đã kể.
Bài viết được đăng trên một tập san War, Literature & the Arts về quân đội Hoa Kỳ. Bài này do ông Lê Văn trên diễn đàn Adran Đà Lạt dẫn. Mình không chia sẻ trực tiếp được từ trang cá nhân của ông ta nên mạn phép chép lại, luôn tiện chép luôn bài bằng anh ngữ đăng trên tập san của quân đội Hoa Kỳ, cho ai không đọc được tiếng Việt.
See English version below
TRONG NỖI KHỐN CÙNG
Tác Giả: Nguyễn Thế Thăng
January 31, 2022
Tại Việt Nam, trước 1975, Nguyễn Thế Thăng tốt nghiệp khoá K2DH/ĐH/CTCT, Đại Học Chiến Tranh Chính Trị. Sau tháng Tư, 1975, ông cùng các chiến hữu vào mật khu tiếp tục chiến đấu chống cộng. Tháng 10-1975, sau nhiều nỗ lực chống trả, mật khu chống cộng bị chiến xa cộng sản tràn ngập, tác giả bị thương rồi bị bắt với vũ khi trên tay, bị mang “triển lãm” tại huyện Thống Nhất, Đồng Nai. Bài viết sau đây là hồi ký về những ngày tháng khốn cùng kể trên.
Câu chuyện không liên quan tới nước Mỹ, nhưng bản Anh ngữ của bài viết - do chính tác giả dịch - đã được chọn đăng trong tập san "War, Literature Art" cua Học Viện Quân Lực Hoa Kỳ (USAF Academy). Phải chăng tờ tạp chí này coi đây như một phần ký ức cần soi sáng của người Mỹ về chiến tranh Việt Nam.
Sau đây là câu chuyện điển hình về Nỗi Thống Khổ Bi Hùng mà Người Lính Cộng Hoà hằng gánh chịu sau ngày mất nước với lòng can đảm bền bỉ tuyệt đối của người luôn vững tin về Chính Nghĩa của Quân, Dân Miền Nam cũng như của toàn Dân Tộc Việt Nam.
***
Suốt cuộc đời tôi trên mảnh đất quê hương bất hạnh, có lẽ mùa Ðông 1975 là một cái đông lạnh lẽo nhất. Không biết có phải vì miền Nam Việt Nam vừa trải qua một cuộc đổi đời khủng khiếp, hay vì lúc ấy tôi đang bị cùm tại Trại A9 Long Thành, Biên Hoà (Ngã Ba Thái Lan) trong một dãy nhà tôn vách gỗ mà không hề có lấy một tấm mền mỏng che thân! Ban ngày ngủ, ban đêm phải thức trắng ngồi xoa bóp liên tục khắp cả người cho ấm. Ôi đêm dài vô tận trong cái lạnh thấu xương cộng thêm vết thương trên người còn tươi máu.
Chính từ chuỗi ngày đêm nơi tầng cuối địa ngục này lại trở thành một phước duyên cho tôi tập tễnh bước vào Thiền để sống sót và tồn tại đến ngày nay.
Trước và sau ngày 30/4/75 tôi đã không hề có ý định chạy ra nước ngoài. Khoảng đầu tháng 6/75, tôi lên Trà Cổ (Hố Nai, Biên Hoà) rồi từ đó vào rừng gia nhập Liên Ðoàn 5 của Ðại Úy Lê Ðình Thạch (trước đây thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh) gồm một số Biệt Kích Dù, Biệt Ðộng, Cảnh Sát, Ðịa Phương Quân…
Chúng tôi sống trong các mật khu cũ của việt cộng vùng Sông Buông, Sông Mây (đầu Chiến Khu D). Việt cộng tràn ra thành phố, bỏ ngõ mật khu của họ lại với đầy đủ chòi, lán, vọng gác trên cây, bếp với nồi niêu xoong chảo, nương khoai, vườn rau và một số rất lớn lựu đạn chày chỉ còn được dùng để đánh cá vì hệ thống kích hoả bị hư đến hơn 60%. Chúng tôi thường tấn công những kho gạo Tân Bình, Tân Bắc, Trà Cổ… Trước khi vác gạo về mật khu, chúng tôi dọn sạch kho đem bỏ từng bao trước cửa mỗi nhà dân. Dân địa phương và gia đình cũng tiếp tế cho chúng tôi rất nhiều thực phẩm khác. Vũ khí cũ như M16, M79 dần dần hết đạn, chúng tôi phải đánh Việt cộng để lấy AK, B40…
Ðến khoảng tháng 9/75, lực lượng chúng tôi đã có khoảng 80 người. Biết không thể chống cự nổi bọn cộng sản đang say men chiến thắng, chúng tôi dự trù sẽ đi đường bộ băng ngang Kampuchia đến vùng biên giới Kampuchia - Thái Lan để dưỡng quân rồi tùy cơ ứng biến. Trong vùng còn có một toán thuộc Liên Ðoàn Biệt Cách 81 (trước 30/4/75) hoạt động độc lập dưới sự chỉ huy của một người tên Wòng A Cẩu. Chúng tôi cũng đang liên lạc để sáp nhập với một lực lượng khác do Thiếu Tá Tam (Thiếu Tá Nguyễn Phước Trường) chỉ huy. Có một linh mục tham gia tên Trần Học Hiệu — Linh Mục Hiệu sau này đã bị giết chết trong tù. Khoảng tháng 10/75, việt cộng đưa hai Trung Đoàn có bốn chiến xa yểm trợ tấn công đơn vị chúng tôi và đơn vị của Thiếu Tá Tam. Chúng tôi trải quân ra thật rộng với từng tổ tam tam chế, đóng chốt trên tất cả những yếu điểm, kể cả những chòi trên ngọn cây, bình tĩnh sử dụng thật tiết kiệm từng viên đạn một. Chiến đấu trong hơn bốn ngày đêm, chúng tôi đã mất hơn nửa quân số. Sau khi Anh Thạch hy sinh, chúng tôi phải xé lẻ tan hàng.
Ba người theo tôi đi về Phước Long. Ðến 10g sáng (?), chúng tôi lọt ổ phục kích gần Xã Vĩnh Cửu (?), một Trung Đội cộng sản nằm dài theo bụi tre cách khoảng mười lăm, hai mươi thước bắn xối xả vào chúng tôi đang di chuyển giữa đồng trống, quần áo tôi bị thủng nhiều lỗ, một viên AK xuyên qua đầu gối (đang ở thế ngồi chồm hổm để bắn lại) làm tôi ngã vật ra sau nhưng vẫn tiếp tục bắn đồng thời ra lệnh ba thuộc cấp thoát thân.
Chuẩn Úy Nguyễn Thạch Ðiệp nhất định liều chết để lôi tôi đi… Tôi hét lên, Ðiệp vẫn không buông tôi ra, tôi phải chĩa súng vào người Ðiệp gằn giọng nếu không chạy đi, tôi phải bắn chú, Ðiệp rớm nước mắt “dạ” rồi vọt liền, cùng lúc với đợt xung phong xáp lá cà của địch, một tên dùng nguyên khẩu súng với trái đạn B40 đập lên đầu tôi, tôi né qua một bên, bị trúng vào gáy rồi ngất đi. Hình như một tên chỉa AK vào đầu tôi định bóp cò, một tên khác la lên:
- Đừng bắn, thằng này cấp cao, tài liệu sống, đem nó về”.
Lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên võng vải nylon, máu me ướt sũng lưng, bọn việt cộng thay nhau khiêng tôi đi. Ngang qua một số dân địa phương đang làm rẫy, tôi thoáng nghe vài tiếng kêu… Giê-Su Ma!
Toán cộng sản đưa tôi về huyện Thống Nhất, tỉnh Ðồng Nai (Biên Hoà), nhốt tôi trong một căn nhà không có nóc — bị pháo kích sập, chỉ còn bốn bức tường với các cửa đóng kín bằng những tấm ván lớn chéo nhau. Tôi được đặt trên một bao tải cũ, gối đầu trên một cục gạch thẻ, trên người chỉ còn một quần lót dính đầy máu đã khô, đầu gối được bó lại bằng chính cái áo trận của tôi.
Ðêm đó trời mưa như trút, cả người tôi ướt như chuột nằm chịu trận suốt mấy giờ. Vết thương đau nhức khủng khiếp, máu vẫn tiếp tục loang loang theo nước mưa. Sau cùng vì quá lạnh, sức đã kiệt, tôi lên tiếng kêu gọi bộ đội xin chuyển tôi đi nơi khác, không nghe tiếng trả lời, tôi ráng lết vào sát chân tường để núp. Nếu lúc đó cửa có mở tôi cũng không thể trốn đi vì đầu gối chân phải đã bị bắn xuyên từ bên này sang bên kia, xương bánh chè bị vỡ nát. Bị bắt tại trận với vũ khí trên tay thế này chắc chắn 100% là chết, nếu lỡ sau này có sống sót, có lành cũng thành phế nhân, tôi đành quyết định chọn con đường tự sát. Ráng đập đầu vào tường nhưng sức không còn. Thử cắn lưỡi thì thú thật đau quá, không đủ can đảm. Có lẽ phải nhờ Việt cộng giết giùm thôi.
Tôi bắt đầu la lên chửi rủa cộng sản, chửi đích danh Hồ Chí Minh khan cả tiếng. Tôi tiếp tục chửi tất cả những tên đầu não cộng sản lúc bấy giờ mà tôi nhớ được như… Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Phạm Hùng, Lê Ðức Thọ… Rồi không biết ngất đi từ lúc nào. Khi tỉnh dậy toàn thân tê tái, tê như đóng băng, đầu vẫn gối trên cục gạch, thân vẫn nằm trên cái bao tải ướt sũng, trên người gần như trần truồng được đắp lại bằng… một tấm tôn! Ngoài kia gió vẫn rít gào, trời vẫn vô tình mưa rả rích, nước mưa vẫn gõ nhịp đều đặn trên tấm tôn lạnh lùng…
Sáng hôm sau việt cộng triệu tập một cuộc mít-tinh dân chúng huyện Thống Nhất để triển lãm mục đích răn đe với khoảng hơn bốn mươi xác những “tên ác ôn đã đền tội”. Mười một người bị bắt (tất cả đều bị thương), số còn lại trốn thoát. Chúng khiêng tôi ra đặt nằm phía sau một chiếc xe Jeep mui trần cho bà con xem. Rất nhiều tiếng đả đảo từ những tay cò mồi. Không ít những giọt nước mắt nghẹn ngào. Vẫn vỏn vẹn một chiếc quần lót đẫm máu, tôi ngồi thẳng người, bình tĩnh nhếch mép cười khi nghe những tiếng hô đòi tử hình kẻ “tội phạm”.
Lúc đó đối với tôi hai tiếng “tử hình” nghe không còn ghê rợn nữa mà thật bình thường vì đó chính là điều tôi mong đợi và chấp nhận như một sòng phẳng tất nhiên. Một cô trung niên, mặt khá xinh, người nhỏ nhắn, có vẻ rất hung hăng, vừa xô đẩy những bộ đội giữ trật tự, vừa hô to:
- Ðả đảo những tên “xâm lăng” (?) khốn nạn, hoà bình không muốn chỉ muốn chiến tranh, những tên mặt người dạ thú, giả nhân giả nghĩa, giết hại dân lành… Hãy để cho tôi nhổ vào mặt nó, đập vào mặt nó, tôi mới hả dạ!
Tôi nghĩ mụ này là “việt cộng cái” giả dạng thôi, lòng tôi thanh thản đến lạ lùng. Hãy để chúng trổ tài bịp bợm. Tôi chỉ muốn thoát ra khỏi cõi đời ô trọc bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ cách nào, dù xấu nhất. Tôi mỉm cười nhìn thẳng vào mắt mụ khi mụ vung nắm đấm. Mụ không nhổ vào mặt tôi. Mụ cũng không đập vào mặt tôi. Mụ luồn tay vào bụng tôi làm như đấm tôi vậy, miệng vẫn tiếp tục chửi rủa. Tôi cảm thấy cái gì đó nằng nặng trên bụng, liếc nhanh, thì ra đó là một quả quít nhỏ, tôi vội lấy tay che lại, nụ cười thành trơ trẽn biến mất, nhường chỗ cho sự ngạc nhiên đầy lý thú và cảm thông rất nhanh. Ðôi mắt diễn viên trong một thoáng lạc đi rồi trở lại ngay với vở kịch còn dang dở! Cô ấy trạc tuổi tôi hoặc nhỏ hơn chút ít. Ðến bây giờ, tôi vẫn hằng ước mong có được một dịp tái ngộ người ân nhân tuyệt vời này – Không phải vì đơn thuần quả quít mà vì giá trị khích lệ trong một hoàn cảnh quá hy hữu.
Những ngày và đêm tiếp theo là thủ tục hỏi cung. Bộ đội chánh quy từ miền Bắc tương đối nhẹ tay, một vài người nói và làm như miễn cưỡng, một người đã lén pha cho tôi một ly sữa sau lần tôi bị ngất đi vài giờ, nhưng những tay “giải phóng – cộng sản người miền Nam” thì thật tàn bạo… Chính nơi đây tôi đã được nhìn thấy thế giới bên kia sau những lần chết đi, có lần kéo dài đến sáu, bảy tiếng… Tôi đã nhẹ nhàng thanh thoát, lướt bay trên những cánh đồng đầy hoa, không một chút bụi. Không cảm giác áo quần mặc trên mình dù rằng quần áo rất đẹp, không tơ lụa nào sánh bằng, hình như kết bằng mây ngũ sắc. Cả không gian thật tươi mát, thật sạch như vừa trải qua một cơn mưa nhẹ. Bầu trời không một áng mây, không có mặt trời nhưng lại rất sáng và trong suốt như pha lê. Tôi đã nhớ lại từng chi tiết nhỏ cả quãng đời đã qua từ khi nhập thế. Những điểm tốt cùng với bao nhiêu điều xấu. Vui vẻ, hài lòng, thảnh thơi trước những việc thiện. Hối hận, ăn năn, dằn vặt, đau khổ trước những điều bất thiện. Có lẽ đó là “Toà Phán Xét” theo giáo lý đạo Thiên Chúa.
Có thể đó chính là Niết Bàn và Ðịa Ngục theo Phật Giáo chăng? Tôi đã nghe và hiểu những con chim đang hót những lời tán tỉnh. Tôi đã thấy những con cá giành ăn và nghe chúng cãi nhau. Chính nhờ vậy tôi lại càng không sợ chết nữa, trái lại còn mong muốn được ra đi thật sớm. Tôi như tỉnh ngộ và nhận rõ rằng cái xác này tuyệt nhiên không phải là tôi. Nó chỉ là một phương tiện, một địa chỉ tạm trú của một trong vô lượng vô số kiếp mà thôi. Quá đủ rồi. Tôi đã thoát ra và ngắm nhìn cái xác này bất động. Mấy lần đầu, tôi nghĩ đó chỉ là những giấc mơ.
Sau vài lần lập đi lập lại thành xác tín, thành khẳng định những gì bên kia cửa tử, tôi khẩn khoản một cách chân tình, một cách rất bình thản: Các anh thấy tôi đã chết nhiều lần, tôi đã được qua thế giới bên kia, đẹp lắm, bình yên lắm, tôi thề sẽ không bao giờ oán hận các anh, tôi hứa sẽ mang ơn nếu các anh cho tôi một viên đạn vào đầu để tôi được đi luôn, không phải trở lại cõi đời này.
Thật bất ngờ, kể từ hôm đó, họ không hề đụng chạm đến tôi nữa. Một lần, một tay cán bộ bắt tôi nhận diện những đồng ngũ đã hy sinh qua những tấm hình chụp trắng đen. Anh Thạch nằm chết bên cạnh khẩu M60 không còn một viên đạn. Mắt anh một nhắm, một mở. Miệng anh như mỉm cười. Tôi lặng người, nước mắt lưng tròng. Tay cán bộ giả vờ nhìn đi chỗ khác. Tôi cố tình tìm nhưng không nhìn thấy xác Chuẩn Úy Vũ Thế Cường, là anh họ của tôi — anh ruột mẹ tôi là Vũ Thế Nghiệp tức nhà báo Thần Phong hai năm sau đó bị xử bắn tại Thủ Ðức. Vĩnh biệt các anh và hẹn ngày gặp lại, tôi khẽ thì thầm.
Quay trở về mùa Ðông 1975 tại Trại A9 Long Thành. Trại nằm ngay tại Ngã Ba Thái Lan gồm nhiều dãy nhà tôn vách ván nơi đang tập trung học tập các cựu viên chức hành chánh Việt Nam Cộng Hoà. Chúng tôi khoảng năm mươi người gồm nhiều thành phần bị nhốt trong dãy nhà ngang cuối cùng có hàng rào kẽm gai quây kín. Tất cả tù nhân bị cùm hai chân, xiềng một tay vào ban đêm, ban ngày chỉ xiềng một tay vào một chân.
Cùng trại có một người lớn tuổi tên là Phan Xuân Hạ, bị bắt vì nghi ngờ là sĩ quan cao cấp Việt Nam Cộng Hoà đang trốn tránh. Cụ rất hiên ngang, dõng dạc. Nghe cái tên quen quen, tôi hỏi cụ có liên hệ gì với với một người bạn cùng khoá là Phan Xuân Mai không. Cụ chỉ mỉm cười: Con cháu trong nhà thôi. Bà Minh Ðăng — Không biết tên thật, chủ đại bài gạo Minh Ðăng, Biên Hoà — người phụ nữ duy nhất bị bắt vì tiếp tế nguyên một xe gạo vào rừng, đã dùng sợi dây xích làm xâu chuỗi, không biết bà đã đọc bao nhiêu kinh mà sợi xích sáng bóng như thép ròng vậy.
Nguyễn Văn Chi, người bị đánh hội đồng nhiều nhất trong suốt hơn hai tháng vì bị nghi ngờ là Thiếu Úy Trần Văn Chi — Thiếu Úy Chi bị một viên đạn xuyên qua vai phải, trốn thoát, hiện đang ở San Jose - California, Ngô Ðình Chiến bị bắn xuyên qua bả vai trái, tay trái bị liệt. Nguyễn Văn Cân bị ghẻ toàn thân chỉ trừ hai con mắt, Nguyễn Y người Bình Ðịnh — trông giống hệt hình Quang Trung Ðại Ðế, Trịnh Văn Thương bị bắn xuyên qua đùi, Phạm Văn Thận với chiếc jacket với hàng chục lỗ đạn…
Cũng trong trại này có một người lính cũ của tôi, Ðào Văn Lành, không biết bị bắt bao giờ và về tội gì. Anh được làm trong nhà bếp, phụ giúp nấu cơm cho trại. Một lần đem cơm cho tù nhân, anh nhận ra tôi nhưng không dám nói, chỉ ra hiệu. Tôi thì vẫn… muôn đời Lục Quân Việt Nam, cứ bô lô ba la, cứ vui trước đã, đằng nào cũng chết, vui ngay cả với tử thần như một thân hữu đang đợi trông. Cơm ngày hai bữa trưa và chiều, mỗi người được hơn một chén cơm với “thịt cọp”. Thịt cọp có nghĩa là muối hột, khi nhai kêu cọp cọp.
Tôi chỉ ăn một nửa muối, phần còn lại dùng pha nước để tự rửa vết thương. Thỉnh thoảng được một chút canh nấu bằng lá cải già hay bí rợ với muối. Một hôm Lành lén trao cho tôi một lon sữa bò trong đó có phân nửa chất nước đen đen, quẹo quẹo mà Lành nói là nước cá kho. Chao ơi, nó ngon làm sao. Mỗi bữa ăn, tôi chỉ dám chan một muỗng cà phê trên chén cơm hẩm mà tưởng như đang thưởng thức món cá cao lâu ngày nào. Khoảng hơn mười ngày sau, khi vắng bóng người, Lành hỏi nhỏ:
- Nước cá kho tôi cho ông có ngon không?
- Cám ơn Lành, đang thiếu thốn mà được như thế không gì so sánh bằng.
Lành thật thà:
- Ông biết không, tụi nó kêu tôi rửa cá khô, nguyên cả ký lô cá khô tôi rửa bằng một tô nước thôi, nước đó tôi cô lại còn nửa lon cho ông xài đỡ. Ráng sống, ráng nhịn cho qua nghe ông!
Rồi cũng qua một mùa Ðông. một mùa Ðông tang thương, thê lương trên khắp nẻo đường đất nước. Cả miền Nam biến thành một trại tù khổng lồ. Bốn tháng sau tôi bị chuyển về giam tại xã Ngãi Giao, quận Ðức Thạnh — Phước Tuy/Bà Rịa. Chỉ cùm hai chân ban đêm nhưng ban ngày vẫn phải đeo xiềng vô một chân để đi lao động — mục đích giữ tù không chạy trốn. Từng đoàn tù với xiềng xích kêu loảng xoảng trên đoạn đường gần làng Bình Giả, tôi lẩm bẩm hát bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ (Nguyễn Ðức Quang) thật thấm thía:
… Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người,
nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi.
Nụ cười xa vời, nụ cười của lòng hờn sôi.
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian!
Trung Úy Nguyễn Văn Tài lúc nào cũng chỉ một câu vọng cổ trong Chuyện Tình Lan Và Ðiệp: “Em tên là Nguyễn Thị Lan(g), xác còn nằm đó mà hồn tan(g) lâu rồi!”
Ở đây tuy ấm hơn nhưng rất khó ngủ vì hàng sư đoàn rệp tấn công suốt đêm. Cũng tại nơi này, hai thằng em tôi là Ðồng Quang Nhường và Nguyễn Văn Hiển bị đánh chết. Hai em trốn trại bị bắt lại. Chúng trói hai tay hai chân rồi treo lên xà nhà như đang khiêng hai con heo. Ðích thân thằng trại trưởng dùng búa gỗ (một khúc cây tròn đường kính cỡ 15cm, dài khoảng 30-40cm, đục một lỗ ở giữa tra cán vào, cán dài khoảng 1m, dùng để đập tôn cho bằng). Nó vung thẳng cánh đập một nhát vào đầu Ðồng Quang Nhường nghe bộp như đập một quả dừa. Nguyễn Văn Hiển ngoái đầu qua nhìn, thuận tay nó vớt một búa ngay quai hàm của Hiển, quai hàm trẹo lặt qua một bên, máu vọt ra có vòi. Tôi nhắm mắt lại kêu Trời! Cố bịt miệng để khỏi la thành tiếng.
Cả hai xác Nhường và Hiển co giật vài lần rồi buông thõng. Vài phút sau, chúng cắt giây thả hai xác xuống. Tôi và ba người nữa tình nguyện đi chôn. Cả hai xác còn nóng hổi được đặt nằm trên tấm gỗ dài cỡ 1 thước 8, rộng 25 phân, hai cánh tay đong đưa theo nhịp bước, nhất là theo cái cà thọt khấp khểnh chân què của tôi. Hiển máu vẫn còn chảy toong toong trên đường. Cái đầu của Nhường ọp ẹp như quả cà chua úng, hai mắt lồi lên, mặt sưng tím bầm. Ðất tổ ong mà dụng cụ đào chỉ là mấy cái cuốc xẻng cũ sứt sẹo. Trung Úy Tài nhỏ con nhất nhưng là người khoẻ nhất, hăng hái nhất… Mấy ông ráng đào sâu sâu cho hai đứa nó. Cố gắng mãi đến tận mặt trời lặn cũng chỉ đào xuống được khoảng bảy tấc! Cả hai xác đều bị chôn nguyên trạng, không áo quan, không poncho hay chiếu bó lại. Tôi ráng gom vài mảnh báo cũ phủ mặt cho hai em. Xếp vài cục đá xung quanh đầu rồi lấp đất nhè nhẹ như sợ hai đứa đau.
Ðêm đó tôi không tài nào ngủ được. Khoảng nửa khuya, dưới ánh đèn heo hắt, tôi nhìn thấy thật rõ ràng: Nguyễn Văn Hiển đang đứng bên cửa sổ phòng giam, không nói gì, đôi mắt thật buồn nhìn về xa xăm. Tôi nói thầm: Hiển ơi, thôi em hãy đi đi, đừng luyến tiếc gì cõi đời giả tạm này, nghiệp báo em đã trả xong, đừng oán ghét, đừng hận thù, hãy để cho lòng thanh thản mà siêu thoát…
Tôi cứ nói như thế, lặp đi lặp lại, dỗ dành, van lơn, lâu lắm, bóng Hiển tan dần rồi biến mất. Hình như có tiếng người trở mình bên cạnh. Tôi xoay qua: Trong bóng tối mờ mờ, tôi nhận ra Ðồng Quang Nhường, hai anh em như đang nằm trên một toa xe lửa, dưới lưng cái gì bầy hầy như phân trâu bò. Tôi hỏi nhỏ: Chúng nó đưa anh em mình đi đâu đây? Chúng nó sẽ đưa anh ra Bắc nhưng anh đừng lo — Nhường lúc nào cũng lạc quan — mọi việc sẽ rất tốt đẹp, rồi anh sẽ vinh quang nơi xứ người. Tôi cười khẩy: Mẹ kiếp, miền Bắc chính là xứ người, không phải xứ của anh em mình, nhưng cái thân tàn tật tù tội trên đất cáo Hồ thì vinh với quang cái khỉ khô gì. Nhường cười. Hai anh em cùng cười với nhau. Tôi bừng tỉnh. Chơ vơ. Thì ra đó chỉ là một ác mộng.
Mấy tháng sau tôi nhận được lệnh: Tha thụ hình, cho phép đi cải tạo. Tôi bị chuyển qua Trại Lê Lợi. Nơi đây tuy không bị còn bị cùm hay xiềng nhưng ở trong khu cách ly. Bên kia hàng rào nhìn thấy Ngô Bá Lai, Nguyễn Hữu Tạo và một số rất đông bạn bè khác, nhận ra nhau trong ánh mắt thật ngỡ ngàng, tủi nhục, chua xót, đắng cay. Ngô Bá Lai nháy mắt bảo tôi ra nhà vệ sinh, hai đứa trật quần ra ngồi bên nhau trao đổi tin tức. Lai ân cần hỏi tôi thiếu thốn gì không. Một tháng sau chuyển qua trại Long Giao. Tôi vào trại với hai cổ tay và cánh tay bị trói chặt ra sau lưng bằng dây điện thoại, hai chân trần với vỏn vẹn một bộ đồ trên người và một túi vải nhỏ đeo trước ngực. Phạm Văn Bông nhận tôi về tổ, trong cùng tổ có Trần Ngọc Hoàn; cùng đội, cùng trại có Nguyễn Quyết Thắng, Nguyễn Nhự, Chung Gia Phong, Bùi Ðức Hùng, Nguyễn Thành An, Ðặng Kim Cương, Trương Hội, Phạm Ðức Thịnh… Trại bên có Nguyễn Ðức Phương. Bạn bè chia sẻ cho tôi thật nhiều đồ dùng và thực phẩm. Phạm Tuế tặng tôi một chiếc quần treillis còn khá mới.
Ngày 23/5/1977, chuyển ra miền Bắc trên chuyến tàu Sông Hương. Nằm trong toa xe lửa trên đoạn đường từ Hải Phòng lên bến phà Sông Hồng với toàn phân trâu, phân bò, tôi cứ mãi miên man nghĩ về từng chiến hữu trong chiến khu, nghĩ thương hai thằng em bị thảm sát trong tù, về thân phận mình, về dân tộc và quê hương cơn quốc nạn. Ðôi mắt cay cay chiều xót xa…
Người lính Nguyễn Thế Thăng
——oo0oo——
Hình: Ông bà Nguyễn Thế Thăng và trưởng nữ, 23 tuổi, vừa tốt nghiệp Tiến Sĩ Dược Khoa hạng danh dự tại OHSU (Oregon Health… Science University).
Tony Thang Nguyen
Bản anh-ngữ
In Desperation
The winter of 1975 was the bleakest season of my existence in my unfortunate country. Vietnam had just undergone a brutal change and I was in chains. I was held captive in a low-ceilinged steel-roofed structure called Camp A-9, in Longthanh City, not far from where the Cobra King Division from Thailand was once stationed. These nights were excruciatingly cold and seemingly endless. Without the slightest cover, I dozed off during daytime so I could massage my body the entire night long to keep myself warm. And I was nursing an open, bleeding wound that I had no way to keep it clean other than to douse it with some salty water, lick it and chew out the rotting flesh.
Neither before nor after the Fall of Saigon in April of 1975 did it enter my mind to leave Vietnam. Instead, I made my way to join the Resistant Force founded by Ledinh Thach, a former Captain of RVNAF 5th Infantry Division. We were a fighting force composed of people from Special Forces, Paratroops, Rangers, Infantry, Police and Paramilitia. My rank was Captain.
We occupied the abandoned former Viet Cong secret strongholds as they swept into the cities. These areas, called River Buong and River May, were still strewn with necessities for a campsite, such as tents, cottages, look-out posts on tree-tops, cooking utensils as well as a tended root and vegetable patch. Left behind was also a great quantity of local-made hand grenades, mostly damaged by moisture; we used these solely for catching fish. We often ransacked rice warehouses nearby, in such places as Tanbinh, Tanbac and Traco. Before withdrawing back to our campsite, we never forgot to liquidate the warehouse and leave a full sack of rice at the front door of every nearby civilian dwelling. They in turn supplied us with other necessary staples. For weapons, we had some M16s or M79s, but with less and less ammunition as the time went by. So we attacked VC outposts to get their AK47s and B40s.
We all agreed to make our way to the border of Thailand, by a jungle trail across Cambodian territory. We would then make further decisions after some rest. We knew that there was an 81st Airborne Ranger unit under the leadership of Wong A Cau stationed somewhere nearby and we tried to join forces with them, as well with a contingent led by Commandant Nguyen Phuoc Truong, also known as Major Tam. We also had a priest with us, Catholic Father Hieu (full name Tranhoc Hieu. Father Hieu was later killed by the communists during his imprisonment).
One day in October 1975, the Viet Cong started attacking our unit as well as Major Tam’s. They had two regiments of more than one thousand infantrymen and four T54 tanks encircling us. We were eighty men strong. We spanned a wide area, and met them in tactical three man units. We positioned ourselves at every strategic spot, even on the tree-top lookouts. We used our ammunition sparingly, making our shots count. And thus we fought them for four days and nights and lost about half of our comrades. When Captain Thach was killed, we decided to dissolve the unit. Three men came with me, making our way toward the Cambodian border through PhuocLong Province. At ten a.m. the next day a Viet Cong platoon, spread behind and along a range of bamboo trees, barely forty to sixty feet away, ambushed us near Vinhcuu hamlet. We were crossing an open field and thus were sitting ducks to them. The bullets were flying, tearing my jacket with holes. Then I was hit in my right knee as I was crouching to return the fire. I fell backwards, still firing. I ordered the three men of my unit to escape. But W.O. Nguyenthach Diep was hell-bent on dragging me along with him. Ignoring my protest, he would not release his grip on me. Pointing my gun at him, I ordered sternly: “Release me at once and go or this bullet is for you.” Tears brimming in his eyes, he answered, “Yes, sir” and disappeared. The enemy was soon swarming over me in a hand-to-hand combat. One tried to hit me on the head with his B40 launcher, but I swerved my head, and it hit the back of my neck. I fell down unconscious. In a blur, I seemed to see another Viet Cong pointing his AK to my head about to pull the trigger. Another voice warned, “Don’t kill him. This fellow is an officer. We can get more info from him. Let’s bring him back.” When I next regained consciousness, I found myself on a nylon hammock, my back soaked through with my fresh blood. The VC soldiers were carrying me through the rice field where some villagers were tending to their crops. I overheard faint voices saying “Jesu Ma” (Oh my God).
I was detained in Thongnhat district, Dongnai province. My cell was in a bombarded house whose roof was missing. Its wooden windows were nailed shut with crisscross boards. My head rested on a big brick. My body lay on a jute sack and was totally bare except for my bloodstained underwear. I found my army shirt wrapped around my broken knee. I endured the excruciating pain in the endless cold rain for several hours and then I raised my voice and asked my jailers to move me to a drier spot. No one answered. I dragged myself to a corner to seek shelter. Were the door to open at that moment, I would not be able to go anywhere, as the bullet that felled me had gone through my right knee, shattering my kneecap. Evaluating the situation, I was quite certain that I could no way escape a death sentence—I was caught red-handed with a deadly weapon in my hands, fighting my way. Were I to escape death through any unexplainable occurrence, I still would surely become an invalid. Committing suicide was the only best way. I tried to hit my head against the wall but I had no strength left. Biting my tongue was too painful and my stamina failed me. Only one solution was left and that was to let the Viet Cong do the killing for me. I began to call Ho Chi Minh by name and yelled out invectives against him until I was hoarse. No result. Then I called the Viet Cong top leaders names that I could remember, such as Le Duan, Truong Chinh, Phamvan Dong, Pham Hung, Leduc Tho... I kept insulting them until I passed out.
When I came to, I found myself the same as I was before, stiff and numb and cold. My head still rested on a brick, my body was still lying on the jute sack, almost naked but now covered by a damaged rusty metal sheet. The wind went on howling, the rain unfeelingly pouring, raindrops pounding rhythmically on the d**ned metal.
The following morning, the Viet Cong called a general meeting of all the population of the Thongnhat District. They displayed about forty corpses of our men killed in the attack that they labeled 40 “cruel rebels” who had been “punished.” Eleven of us were captured, all of us wounded. The rest, about thirty men, had escaped. The Viet Cong brought me to the back of an army Jeep for the populace to view. Some shouted slogans like, “Death to the traitor,” while some others tried to stifle their cries. I sat back in my bloodshot, flimsy underwear, slightly smiling. Death was what I wished and waited for. A death sentence was therefore no longer ominous to me. It was just a normal consequence of my actions.
A young woman about my age shoved the guards aside so that she could have a closer look. She said, “this traitor, this invader, doesn’t bow to peace but goes on killing innocent victims.” She went on, her rage feeding on itself: “I want to spit on his face, to crush the skull of this creature that bears a human face but fosters inside a bloodthirsty animal.” I sat, unmoved, thinking she was just a female “Victor Charlie” performing her play. I just wanted to see this comical tragedy end. I was ready to die in whatever form, or by whatever means. I met her gaze steadily while she raised her fist against me. Instead of swinging at my face, or spitting on me, her hand touched my belly. I looked down in haste and saw a small tangerine there. I quickly covered it with my hand and met her eyes in wonder. With a glimpse of recognition for my gratitude she went on with her performance. At present time, I still wish for an opportunity to somehow meet this wonderful actress again, and thank her, for the tangerine, yes, but most importantly for the moral uplift she provided me.
Then began the days of interrogations. Interrogators from the regular PAVN from the North were somewhat bearable. Some seemed reluctant to be tough. One of them even stealthily brought me a cup of hot milk, after I had passed out. But at night, groups of VC’s came to torture me. They punched and kicked and hit me with wooden clubs. Sometimes, they stood on my broken knee, and jumped up and down on it. This went on for six or seven days. It seems they had selected me for special treatment because I was the only high ranking officer there at that time.
The interrogators from the Liberation Army of the South were the cruelest. The intense pain of their torture occasionally caused me to pass out, sometimes for several hours. During these periods, I saw myself floating above fields covered with colorful, giant flowers. I was clothed in the richest material made from the gossamer of a rainbow. The air was pure and fresh like after a light rain. And the atmosphere was crystal clear and bright even with no sunlight. I could recall every detail of my entire life as far back as the day I was born. I was happy when recalling my good deeds and then remorseful or ashamed of my bad actions. Was this the “Judgment Day” according to the Christian doctrine, or the “Nirvana and Hell Stage” of Buddhism? I don’t know, but suddenly I understood the twitter of birds and the chatter of fish, quarreling over a morsel of food. I therefore was no longer afraid of death. On the contrary, I yearned for the earliest moment when I could leave this earth behind. I wanted to exit this body of mine, which only housed my real being while it evolved through endless stages of transmigration of my soul. It was simply one among trillions of temporary addresses. When I awoke from each of these comatose bouts, I thought that all I had seen were simply dreams. But as the same experiences kept reoccurring, I then firmly believed in my afterlife. I told my torturers, sincerely and in earnest, “Please help me get through death’s portal. I have seen beauty and serenity on the other side of death. I will be forever grateful to you if you put a bullet in my brain and end it all. I don’t want to continue this terrible life. I promise I will not bear any grudge against any of you, ever and ever.” Mysteriously, my tormentors left me alone after that.
One day, a high-ranking member of the VC cadre showed me some black- and-white pictures of my slain comrade-at-arms for identification. I first of all recognized Captain Thach lying dead next to his empty M60, one eye closed, the other opened, a seeming smile on his lips. My heart sank. Tears sprang to my eyes.
The VC turned his head away as if he saw nothing. I also tried to find the body of my cousin, Warrant Officer Vuthe Cuong. His was not among the pictures. (His father, Vuthe Nghiep, was my uncle, my mother’s full brother. Nghiep was a journalist writing under the pseudonym of Than Phong. He was executed two years in Thu Duc, a borough of Saigon city). I said a silent prayer: “Good bye for now, my dear brothers, until we meet again.”
At Camp A9, most of the inmates were former governmental officials of the Republic of Vietnam. The camp consisted of rows of bunkhouses, steel-roofed, and walled with thin wooden boards. Perpendicular to the last row house was a bunkhouse surrounded by layers of barbed wire. About fifty of us occupied it. At night only one of our arms was unfettered; but on the contrary, during daytime, one hand and both legs were free. Here were some of my cellmates: a gentleman named Phanxuan Ha, who was suspected to be a high-ranking officer of the RVN Armed Forces using a fake ID card. He bore himself with poise and dignity. I asked him whether he had any relationship to a classmate of mine in the National Polwar College by the name of Phanxuan Mai. He smiled and said, “Oh, he might be a younger relative.” There was also a woman named Mrs. Minh Dang, the only female to be incarcerated with us. Her crime was that she supplied us “rebels” with a whole truckload of rice. Her iron chain became her rosary, and she fingered it while praying until it shone like polished stainless steel. Nguyenvan Chi was the one who was mistreated and tortured the most, as they mistook him for 2nd Lt. Tranvan Chi. (The real Lt. Chi bore a bullet through his right shoulder, but later made it to California USA). And there was Ngodinh Chien with his left arm paralyzed as the result of a bullet through his left shoulder, and Nguyenvan Can who had sores all over his body, except for his eyes. Another man from Binhdinh province looked like former Emperor QuangTrung. Trinhvan Thuong had a bullet wound through his calf; Phamvan Than wore a jacket peppered with dozens of bullet holes.
Also in this cell house I met a former soldier of mine named Daovan Lanh. I had no idea when and why he was incarcerated. But by then he was assigned kitchen duty for the camp. One day, while bringing rice rations to us prisoners, he recognized me, and just nodded as a sign of acquaintance. As for myself, a real infantryman of our RVNAF, I held my cheerful countenance. I joked with everyone, as I was expecting my certain death to come as a welcome friend. Every day we were fed twice, a single bowl of rice with “tiger” meat. A play on the onomatopoeic sound kop, kop, translated into “cop,” a tiger. The “tiger meat” was really rock salt, which when chewed gave out that sound. I used only half of my ration of salt to eat; the other half I used in a solution to wash my wounded knee before licking it with my own tongue. Once in a great while, we were fed with some cabbage soup or pumpkin seasoned with salt. Then one day, Lanh, the cook, surreptitiously gave me half of a small can of something dark and viscous, which he said was reduced fish sauce. Oh my, it was divine. I used only one sthingyful each time on my bowl of stale rice, and it brought back to me flavors of high-end restaurant fare I used to enjoy.
A dozen days later, when no one was around, Lanh whispered to me, “Did you find the “sauce” o.k.?” “Many, many thanks to you, my friend,” I said. “In the dire straits I am in now, what you gave me has no comparison.” Lanh said, “They (the VC cadres) asked me to wash about two pounds of dried fish. I washed that whole thing with only one bowl of water. Then I reduced the water by half and that was the sauce you got. Please use it–try to endure and survive, OK?”
The winter passed by, a winter of grief and sorrow befalling all Vietnam that had suddenly turned into a huge prison. Four months later the VC transferred me to Ngaigiao hamlet, Ducthanh district. Though my cell was warmer than the previous one, it was far more difficult to rest. Swarms of bedbugs devoured us all night long.
At night, both my feet were shackled. In the daytime, when we went to our labor duty, only one foot was fettered. And thus we went through the Binhgia village narrow paths, with clanging chains marking our steps. I muttered a song entitled “Vietnam, Vietnam, our indomitable country,” and bitterly felt the meaning of the words, “I shake my shackles noisily in the face of everyone.” My smile was not a natural one. It was a far-fetched one. It was an enraged one. I will step up and smash this chain on the face of those people. 1st Lt. Nguyenvan Tai would sing over and over one line from a romantic opera called ‘The saga of Lan and Diep’: “My name is Nguyenthi Lang, my body lies here, but my soul has gone elsewhere a long time ago.”
It was in this camp that I witnessed the horrible death of two of my soldiers, named Dongquang Nhuong and Nguyenvan Hien. They had tried to escape from the camp but were recaptured. The VC bound their hands and feet and hung them upside down from the roof-trestle as one would hang two pigs. The head of the camp came out and picked up a wooden hammer used to straighten sheets of corrugated tin plates. It was about five to six inches in diameter, over a foot in length. A handle around four feet long bore into the middle. With one single strong blow, the man swung the hammer right onto Dongquang Nhuong’s head as if it were a coconut. With a thud-like noise it hit its aim. Nguyenvan Hien turned his head to see his friend and received a blow right in his jaw. The jaw fell apart while blood shot out jet-like. I closed my eyes and stifled a scream. The two bodies squirmed a few times and then hung lifeless. They lowered the bodies. I and three other men volunteered to bury them. The bodies, still warm, were laid upon a plank about six foot long and nine inch wide. We walked forward, the dead men’s arms swinging with the uneven steps of our gait. Hien’s head was still oozing blood. Nhuong’s head looked like a gigantic overripe tomato, with its eyes bulging and its face discolored and swollen.
The rocky soil was extremely hard to dig, particularly so when we only had some old, broken shovels. Lt. Tai, the smallest man but also the strongest and most dedicated, encouraged us, saying, “Let’s try to dig a deep grave for them, men.” We tried and huffed and puffed. At dusk, we had reached less than three feet. So we buried our two comrades as they were, with nothing to wrap their bodies, neither poncho nor mat. I gathered some old newspapers and covered their faces. Then I picked up a few pebbles and lined them around their heads, and ever so lightly, I covered their faces.
That night, it was impossible for me to fall asleep. Around midnight, under the feeble light of our cell I clearly saw Nguyenvan Hien standing by the window, looking out with sorrowful eyes in an immense empty silence. I muttered quietly words of consolation: “Hien, dear, be gone in peace. Leave this cruel world behind.
You have paid your dues. Be free from anger and hate. Let your mind soar to immortal bliss.” And thus I kept repeating my pleas and prayers until Hien’s ghost blurred into nothingness. I then felt something, perhaps a body moving next to me. I turned around and found Dongquang Nhuong lying with me on something liked the floor of a moving train, our backs damp as we were lying on cattle dung. I whispered to him, “Where do you think they are moving us to?” He replied, “Do not fret, big brother, they’re taking you to the North, but everything will be all right with you. You’ll be then successful overseas.” He laughed. Nhuong was always optimistic. I laughed with him and asked, “What? The North has never been our country. It’s our enemy’s land. And talk about success? How do you expect an inmate, an invalid to boot, to succeed at anything on that forsaken land of those cruel communists? OK, big success considering anyway.” We both roared with laughter. I awoke. I was lonely by myself. It was just a dream, and I was awake in a nightmare.
A few months later, an order came concerning my condition: “This inmate is relieved from punishment and is allowed to enlist in a re-education camp.” I was moved to Le Loi Camp. Here, though no longer under shackles, inmates were kept away from the population. I recognized quite a few of my friends over the barbed wire, such as Ngoba Lai and Nguyenhuu Tao. We just acknowledged each other by a glint of the eye, feeling ashamed, confused and bitter. Ngoba Lai winked at me and walked to the direction of the outhouse. There crouching next to each other, we exchanged information. Lai asked if I really needed anything but I gratefully refused his help, his condition was not much better than mine. A month later, I was sent to camp Long Giao. My arms were again tied behind me with telephone wires. My feet were bare, and I had nothing on me other than a pair of flimsy shorts and a little bag hanging in front of my chest. My two classmates, Phamvan Bong and Tranngoc Hoan, voluntarily received me into their group. I shared the same camp with other friends Nguyenquyet Thang, Nguyen Nhu, Chunggia Phong. Buiduc Hung, Nguyenthanh An, Dangkim Cuong, Truong Hoi, and Phamduc Thinh. In a camp next to ours there was Nguyenduc Phuong. These Polwar classmates shared foodstuff and clothing with me. I finally got a pair of army pants, a gift from Pham Tue.
On May 23, 1977, I was sent to North Vietnam aboard the ship Songhuong. We debarked at Haiphong harbor. The trip from Haiphong to the ferry on the Red River was by train. On the floor of the train, as I laid my body down amid the water buffalo dung, my mind went back to my fellow combatants in the jungle, to the horrifying death of my two young soldiers, to my own fate, to my own people, and to the national tragedy that befell Vietnam. With much sadness, bitter tears pricked my eyes.
Tony Thang Nguyen
Editor’s note: Captain Nguyen endured over eight years of hard labor in concentration camps throughout North Vietnam. He says that he dropped in weight from one hundred and fifty pounds to ninety pounds. In all the time of his incarceration, he was allowed to see his mother and his younger sister twice, for less than an hour each time. He was released in 1983, and emigrated to the United States in 1992.
Captain Nguyen of the Republic of Vietnam Armed Forces is now a Major, the Executive Officer of the Interpreters Team, Oregon State Defense Force. He owns and operates Tigard Transmissions Center. He is married and has two daughters. He married his wife three months after his release from the prison camps. His wife is a niece of an RVNAF Chaplain incarcerated along with him a long time. This Chaplain introduced Nguyen to his relative’s family with strong recommendations. Nguyen graduated from the RVNAF Political Warfare College.
56 War, Literature & the Arts
|
|