|
Post by Huu Le on May 3, 2020 17:24:01 GMT 9
Buồn vui đời thuyền nhân Bidong: refugeecamps.net/PBPhoto.html– Lời nói đầu và chương 1a: Thời điểm 1979 Posted: 17/02/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Tặng mợ và các con. sangtao.org/2013/02/17/buon-vui-doi-thuyen-nhan-chuong-1a/bia_sach_bvdtn-lhm Lời nói đầu
Hàng năm, cứ đến ngày 17 thánh Hai dương lịch báo chí Việt ngữ trong và ngoài nước nhắc lại cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung, nhưng hầu như người ta quên những nạn nhân của cuộc chiến bẩn thỉu ấy. Trong số những nạn nhân ấy có chúng tôi, trên dưới 1 triệu người Việt gốc Hoa, những người lao động bình thường, định cư nhiều đời, sống rải rác từ 6 tỉnh biên giới Trung-Việt đến các thành phố lớn Hà-nội, Hải phòng, Nam Định, Quảng Ninh… Bắc Việt nam, đã bị tập đoàn Lê Duẩn bài xích xua đuổi, triệt đường sống. Không còn con đường nào khác, chúng tôi phải ra đi, rời bỏ mảnh đất sinh ra, lớn lên, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi phần mộ ông bà cha mẹ đã yên nghỉ để làm người tỵ nạn.
Cuộc chiến chấm dứt đã 32 năm có lẻ, hai nước đã bình thường hóa quan hệ từ năm 1992, chủ tịch Trung Hoa, Giang Trạch Dân, đã tặng chính phủ Việt nam 16 chữ vàng: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng đến tương lai”. Hậu quả cuộc chiến tranh bẩn thỉu ấy vẫn còn, tuy nỗi đau thương, khốn khổ, tủi nhục, ê chề đã thành sẹo, trong từng con tim khối óc người Việt gốc Hoa, nạn nhân cuộc chiến, chúng tôi có thể tha thứ nhưng không bao giờ quên, đang định cư rải rác trên toàn thế giới.
Một số bà con tin lời mật ngọt đã về “Trung Hoa Vĩ đại” qua đường biên giới. Tất cả đều được đón tiếp “nồng hậu” bằng cách đưa tuốt về những vùng đồi núi hoang dại, được đối xử thật bình đẳng, cho vào chiếc rổ “Hoa kiều hồi hương”, vàng thau lẫn lộn, không phân biệt kĩ sư, bác sĩ hay giáo viên, họ giao cho mỗi người một chiếc cuốc và những bộ quần áo xanh đồng phục, sống trong một khu, gọi là trang trại, được phong chức “công nhân nông trường” với mức khoán làm nhiều ăn nhiều, làm ít ăn ít, không làm… nghỉ ăn. Sau 32 năm, nhiều gia đình vẫn không được nhập quốc tịch.
Ở Việt nam, người ta gọi chúng tôi là “người Hoa, anh Ba Tầu, chú khách”, có người độc miệng còn gọi “quân Tầu ô.” Hồi hương về Trung quốc, dân bản xứ gọi, “Dzit-nàm nhằn”, thân phận người Việt gốc Hoa đau khổ, ê chề không tổ quốc, không quê hương dưới 16 chữ vàng của hai quốc gia cộng sản “núi liền núi, sông liền sông” như thế đó.
Đa số theo đường biển, số phận tùy thuộc vào may rủi, trong đó có gia đình tôi. Làn sóng người Việt gốc Hoa miền Bắc chạy trốn cộng sản Việt nam theo đường biển tìm chân trời tự do, tuy không bị hải quân cộng sản truy đuổi giết hại trong đó có ông Chu Tử, một nhà văn lẫy lừng của nền văn học Việt nam, không gặp hải tặc, gian nan như bà con miền Nam, nhưng những cơn giông bão cũng đã cướp đi sinh mạng nhiều người vô tội. Gia đình tôi may mắn đã đến được Hương Cảng, cửa ngõ chân trời tự do vào ngày 31-7-1979.
Cảm ơn Người, cảm ơn đời, cảm ơn sự giúp đỡ vô tư của nhân dân và chính phủ Vương quốc Anh, những người thày giáo Anh ngữ và những người bạn Ăng-lê đã cưu mang, giúp đỡ chúng tôi với tấm lòng nhân đạo, hào phóng, vô tư trong những tháng năm đầu tiên của đời tỵ nạn.
Nhân đây xin cảm ơn các bạn Tưởng Năng Tiến, Phùng Tường Vân -cố luật sư Lại Tình Xuyên-, nữ sĩ Phạm thị Hoài, hai bác Uyên Thao và Trần Phong Vũ đã động viên giúp đỡ tôi rất nhiều để hoàn thành cuốn sách.
Lâm Hoàng Mạnh London, xuân Tân Mão. 17-2-2011 kỷ niệm 32 năm cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung.
1. Thời điểm 1979
Đang thiu thiu ngủ, vợ tôi lay lay vai, thì thào:
– Mình ơi, hình như có trộm.
Tôi tỉnh hẳn.
Có tiếng sột soạt rất nhẹ phía sát tường cửa sổ.
Lấy chiếc đèn pin ở đầu giường, ra khỏi màn, tôi bước thật nhẹ bằng đầu ngón chân, đến sát cửa sổ, lắng nghe. Ghé mắt qua khe cửa, cây nhãn sừng sững trong bóng đêm, thỉnh thoảng một làn gió nhẹ lướt qua, xào xạc. Đứng im khá lâu, không thấy tiếng động lạ, vào giường, tôi nói nhỏ:
– Không phải đâu, gió đấy.
Vợ tôi thì thầm:
– Mấy đêm nay rồi, cứ giờ này em nghe thấy tiếng gì lạ lắm.
Đồng hồ điểm 11 giờ đêm, tôi nói nhỏ:
– Thôi ngủ đi, mình có quái gì mà trộm mò vào.
Chuyện ấy xảy ra đã một phần ba thế kỷ, tháng 3-1979, mãi sau này về Việt nam thăm bạn cũ, tôi mới biết nhiều đêm có kẻ rình rập nhà tôi. Không phải trộm, chính các cô cậu y tá, dược tá, hộ lý, kế toán, nhà trẻ… đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong bệnh viện, theo chỉ thị của phó bí thư đảng ủy, kiêm phó giám đốc, Nguyễn Đình Mão, đêm đêm thay nhau rình mò chúng tôi xem có đào hầm chôn mìn, chất nổ hay moi vàng bạc của qúy dưới nền nhà hay không.
Năm 2004, chúng tôi về Việt nam sang cát cho bà ngoại các cháu, nhân tiện lên thăm anh em bệnh viện cũ. Đa số đã về hưu, một số đã trở về cát bụi, bác sĩ Đinh Tất Thắng, đồng nghiệp cũ mời chúng tôi bữa cơm mừng tái ngộ sau một phần tư thế kỷ xa cách.
Trong buổi hàn huyên, Thắng cười, kể:
– Anh chị còn nhớ y tá Tiêm không?
– Nhớ chứ. Cô Tiêm, phòng Đón tiếp khu Đa khoa, gần nhà mình chứ gì?
– Phải. Hè 1980, công đoàn tổ chức lợp nhà giúp Tiêm, trong lúc rỡ mái, em nhặt được túi vải buộc kỹ lắm, dấu ở xà ngang. Mọi người tán, “Chết nhá, phen này giàu to.” Ai cũng tưởng quỹ đen dấu chồng, ai ngờ, sổ tay của y tá Tiêm theo dõi gia đình anh chị năm 78, 79. Cuốn sổ ghi, ai đến chơi, ngày giờ, cả biển số xe đạp. Anh chị biết không, có cả biển số xe đạp của em và bác sĩ Đắc, thế có lạ không?
Thắng cười, bảo:
– Hồi anh chị đi Hong Kong, cả bệnh viện đồn ầm, anh là gián điệp nhị trùng của Mỹ-Trung quốc nằm vùng. Cô Tuyển bên nhà trẻ, cô Thoan bên kế toán, cô Lan bên dược kể, nhiều đêm nấp trong bụi chuối sau nhà, rình anh chị bị muỗi đốt quá chừng vẫn phải ngồi im không dám động đậy, sợ lộ.
Y tá Linh, vợ Thắng nhanh miệng:
– Lão Mão ra lệnh đấy. Hồi ấy tụi chúng nó đang đối tượng đảng. Nhờ chuyện này, sau khi anh chị đi, bọn chúng được kết nạp, đi học y sĩ và dược sĩ một loạt.
Vợ tôi hỏi:
– Con Tiêm và mấy đứa bây giờ ở đâu?
Cô Linh cười:
– Tiêm nghỉ mất sức lâu rồi, còn mấy đứa kia cũng nghỉ một cục (1), bỏ cả sinh hoạt đảng chạy chợ, có hai thằng con, đều nghiện.
Vợ tôi bồi thêm:
– Đáng đời quân tay sai. Làm điều bất nhân làm sao khá lên được.
Từ cuối năm 1978, nhiều gia đình người Hoa rục rịch chạy về “tổ quốc vĩ đại”. Bản tin thời sự đài truyền hình Việt nam thường xuyên đưa cảnh người Hoa vùng biên giới Lạng-sơn, Lào-cai, Móng Cái…. hồi hương qua các cửa khẩu. Người gồng kẻ gánh, xe đạp, xe bò chất đầy đồ, tay xách nách mang, nồi niêu xoong chảo, người già trẻ con dắt díu nhau từng đoàn, từng đoàn nhếch nhác, khổ sở chẳng khác cảnh chạy loạn năm 1946 khi toàn quốc kháng chiến. Gia đình tôi rất hoang mang, rối bời, không biết nên về hay nên ở.
Ngày 17-02-1979, Đặng Tiểu Bình “dạy cho Lê Duẩn bài học” bằng cách tổng tấn công chớp nhoáng trên 600 km đường biên giới. Cuộc chiến tranh chấm dứt sau hơn một tháng, hai bên thiệt hại nặng nề nhưng đều tuyên bố chiến thắng to lớn, vang dội! Cửa khẩu vùng biên đóng cửa, trong khi đó trên mọi phương diện truyền thông -báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình- toàn quốc công khai tuyên truyền bài xích, xua đuổi bằng cách đưa tin người Việt gốc Hoa làm gián điệp, làm chỉ điểm, làm tay sai giúp quân Trung-quốc tấn công những cơ sở bí mật của Việt nam, để kích động thù hận.
Vùng biên giới, từ cụ già tóc bạc phơ đến các cháu học sinh người Việt, hễ gặp người Hoa đều chửi thẳng vào mặt, “quân Tầu sao chưa cút về nước?” Có người còn bảo “ở lại làm gián điệp hả.”
Sức ép tâm lý vượt qua sức chịu đựng, vì thế nhiều nơi người Hoa ra đi trắng cả một vùng như đảo Trà Cổ, thị xã Móng Cái không một bóng người.
Từ tháng 4-1979 chính quyền Hà-nội, Hải-phòng và những tỉnh đông người Hoa họ trưng bày triển lãm: “Quân và Dân Ta Đánh Thắng Bọn Bành Trướng Bá Quyền Trung Quốc Xâm Lược”.
Triển lãm treo rất nhiều ảnh người Việt gốc Hoa làm gián điệp. Chuyện người Việt gốc Hoa làm gián điệp có hay không? Thật hư ra sao? Xin trả lời Có và cũng có thể Không (đúng) như những gì các phương tiện truyền thông trong và ngoài nước đã đưa tin.
Trong những ngày tháng khốn khổ, khốn nạn tìm thuyền vượt biển, vô tình tôi đã gặp “hai tên gián điệp người Việt gốc Hoa” từng bị tập đoàn Lê Duẩn dán ảnh truy nã toàn quốc.
Sự thật về hai “tên gián điệp” này như sau:
Tên gián điệp thứ nhất:
Voòng Tắc Quay -Vương Đức Quý-, là một thanh niên khoảng 25 tuổi khi tôi gặp vào đầu tháng 5-1979. Nếu còn sống anh lúc này cũng gần 60 tuổi.
Anh ta và tôi đã đóng tiền thuyền cho lão Ké chủ thuyền. Tôi chẳng biết tên thật của lão ta, chỉ nhớ nhà lão ở trong một ngõ nhỏ, khu An Dương, Hải Phòng, đã từng sống ở Lạng Sơn theo như lão ta khoe.
Tôi và anh ta khá thân nhau vì cùng cảnh ngộ vả lại sắp cùng thuyền.
Vương Đức Quý it nói, vẻ mặt lúc nào cũng buồn, như tất cả chúng tôi, vui làm sao nổi khi sắp phải lênh đênh trên biển, sống chết cách nhau có sợi tóc. Một buổi tối, sau khi đi họp tại nhà lão Ké định ngày xuất phát, đi qua Nhà Triển lãm ngay gần bờ Sông Lấp – tôi quên tên phố-, tôi rủ anh ta vào xem triển lãm. Khi đến phòng trưng bày tội ác có rất nhiều ảnh người Việt gốc Hoa làm gián điệp trong đó có ảnh Vương Đức Quý khổ 24×30 đen trắng to tướng treo trên tường. May quá, tối hôm ấy vắng khách, tôi vội kéo anh ta ra ngoài, nói nhỏ:
– Đi mau, họ đang treo ảnh bắt cậu.
Mặt anh ta cắt không còn hột máu, lắp bắp:
– Anh cũng định bắt em?
– Cái thằng, tao bắt mày để lĩnh thưởng à? Sao nghĩ về anh xấu thế!
Ngồi xuống ghế đá trong bóng tối, anh ta kể cho tôi câu chuyện “làm gián điệp” mà tôi tin, đến cả hôm nay, là thật.
Gia đình Voòng Tắc Quay ở Lạng Sơn. Trong lúc cơm sôi lửa bỏng -quân Trung Quốc chuẩn bị tấn công- thì vợ Quay sắp đến ngày chuyển dạ. Vợ chồng anh và cha mẹ hai bên gồng gánh lôi thôi lếch thếch chạy về “ông nội” như hàng ngàn người Hoa vùng biên giới. Đang chạy loạn thì vợ Tắc Quay đẻ! Tắc Quay đưa vợ vào hang đá gần đó, hy vọng vài ngày nữa sẽ đi tiếp. Gia đình hai bên đành phải chia tay, hẹn nhau ở địa chỉ một nhà đã hồi hương mấy tháng trước.
Số phận thật khốn nạn, ngay tối hôm sau chiến sự xảy ra. Cơm nắm, muối vừng sau 3 ngày thì hết nhẵn, vợ đói, con khát sữa, Tắc Quay liều mạng quay về nhà cũ kiếm xem có gì để nuôi vợ đẻ.
Đang lục soát, mò mẫm bị dân quân tóm, trói giật cánh khuỷu như trói khỉ, điệu về bộ chỉ huy tiền phương của “Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng.”
Khai gì thì khai, nói gì thì nói, họ không tin, không nghe, tống ngay Voòng Tắc Quay lên xe thùng bịt kín đưa về xuôi với quy kết “gián điệp người Việt gốc Hoa làm do thám!” Tội này nhẹ cũng mọt gông, nặng dựa cột! Nói láo, bom đạn khét mù, đẻ đái gì lúc này! Gián điệp nỏ mồm, nhất là thằng này, tiếng Tàu tiếng Việt nói ào ào! Thằng này nằm vùng lâu năm, nay mới bị bắt quả tang. Thế là Voòng Tắc Quay thành gián điệp Trung Quốc nằm vùng 100%!
Đáng đời “thằng Tàu phù”, nhiều người Việt chửi thẳng vào mặt Tắc Quay khi bị giải đi!
Chiến sự lan rộng, nơi giam Tắc Quay có nguy cơ bị tấn công. Trong lúc nhộn nhạo, Tắc Quay và hai, ba người cùng cảnh đã đào tẩu, chuồn một mạch, vừa đi bộ vừa chạy và ăn cắp áo quần dân địa phương để thay đổi hình dạng đến Thái Nguyên. Chả biết trời xui đất khiến thế nào anh ta gặp ông Mềnh –Minh- ở ngay giữa chợ, bạn cũ của gia đình ở Thái Nguyên, cũng đang chuẩn bị chuồn khỏi Việt Nam, đã giúp Quay xuống Hải Phòng tìm lão Ké. Lão Ké cho nợ tiền thuyền, nhưng với điều kiện ra nước ngoài phải trả lại cả lãi gấp đôi. Quay gật đầu lia lịa và cảm ơn rối rít, trở thành tên đầu sai cho lão, không công ngoài hai bữa cơm chính. Tôi hỏi:
– Sau đó có gặp lại vợ con không?
– Em chẳng biết tin gì.
Nói xong, Quay khóc nức nở như đứa con nít.
Tôi không biết Voòng Tắc Quay còn sống hay đã là người thiên cổ trong bụng cá ở biển Đông, bởi sau khi phát hiện lão Ké ma cô, mua 3 chiếc thuyền để đưa người đi như đi du lịch, tôi rút lại tiền đi tìm thuyền khác. Chúng tôi chia tay nhau. Từ đó không gặp lại. Những ngày ở Kho Đen, tôi ngóng tìm Tắc Quay mà không thấy. Tôi tự hứa với lương tâm, nếu có dịp tôi sẽ đưa chuyện này ra ánh sáng để thanh minh cho những nỗi oan trái của các người đồng hương thấp cổ bé họng, bị cả Việt Nam và Trung Quốc dùng làm con tốt đen trong cuộc chiến bẩn thỉu, khốn nạn, đê tiện.
Tên gián điệp thứ 2:
Người nay tên là Lý A Sáng -Lý A Sinh. Tôi gặp anh ngay tại bờ biển Bắc Hải khi thuyền chúng tôi hỏng phải ghé sửa. A Sáng có nước da khá sạm, đôi mắt sáng, nhanh nhẹn. Tôi đang ngồi trong chiếc lán bằng 3 mảnh áo mưa ghép lại thì anh ta mạnh dạn đến hỏi tôi có bán chiếc mũ cối không. Buồn ngủ lại gặp chiếu manh, tôi vội hỏi:
– Cậu không đùa đấy chứ?
– Em đâu dám đùa.
– Tớ hỏi thật, tại sao cậu lại định mua chiếc mũ cối cà tàng của tớ?
Kéo tôi ra bờ biển, cậu ta thì thầm:
– Em mới trốn từ nông trường ra đây, nay muốn sang Hong Kong, nhưng chẳng còn giấy tờ gì của Việt Nam.
Tôi cười:
– Tớ thì hơn gì cậu.
Khuôn mặt cậu ta đau khổ:
– Nhưng anh còn rất nhiều thứ mang từ Việt Nam. Nghe nhiều người bảo, a-sề (cảnh sát) Hong Kong sẽ đuổi về nếu biết ai đi từ Tài-loọc (Đại lục). Anh bán cho em đi, cả chiếc va-li cũ nữa.
– Nói thật, tớ cũng đang cần tiền mua đồ ăn cho các cháu. Cậu hỏi, tớ bán tất, kể cả chiếc áo len. Thế cậu trả bao nhiêu?
– Anh tính bao nhiêu?
– Tùy cậu, chỉ biết là gần hai tuần thuyền tớ sửa ở đây, chủ thuyền chỉ phát gạo còn thức ăn phải tự túc.
Cậu ta đưa tôi 5 Tệ để đổi lấy chiếc mũ cối cà tàng, chiếc va-li cũ rích và chiếc áo len đã thủng vài lỗ. Nhờ số tiền ấy các con tôi đã có những bữa cơm có thêm tôm, cá với gạo mọt mua chui từ Việt Nam mà chủ thuyền phát. Cuộc buôn bán chóng vánh đã đưa chúng tôi gần nhau. Cậu ta kể:
– Gia đình em làm nghề buôn thuốc Bắc từ Vân Nam về Việt Nam, khi “rục rịch”, gia đình “té” liền ngay cuối 78. Qua Trung Quốc chúng em được đối xử tốt lắm. Ăn nghỉ tại khách sạn. Anh nghĩ, tuy là dân buôn lậu nhưng có bao giờ được ăn ngủ ở khách sạn đâu. Hàng ngày có cán bộ của tỉnh đến hỏi chuyện, ông ấy biết tiếng Việt còn thạo hơn em, (A Sáng nói còn trọ trẹ, kiểu như “đồng bào” thành “tồng pào”, “tờ báo” thành “tờ páo.”) Em khai tất tần tật, có gì khai nấy kể cả chuyên theo a-pá (cha) và pằng-dẩu (bạn) đi buôn thuốc Bắc lậu. Cán bộ ấy vui lắm chứ không bắt bẻ và chẳng bao giờ hỏi tại sao. Sau 3 tuần, em được họ đưa đi bằng xe com-măng-ca đít tròn (2) đưa đến một cơ quan trong thành phố. Em được chiêu đãi cơm rất thịnh soạn.
Cậu ta nuốt nước miếng, nói tiếp:
– Có đến bẩy, tám món. Em được hút ba con 5, uống trà ô-long… Sau khi nghỉ ngơi, tắm rửa xong em được 3 cán bộ mặc quần áo kiểu Tôn Trung Sơn (thuộc loại cốp to) gặp gỡ thân mật và nói: “Đồng chí Đặng Tiểu Bình và các cán bộ cao cấp khác rất hoan nghênh những Hoa kiều yêu nước đã hồi hương và mong các đồng chí đóng góp sức nhỏ bé của mình cho quê hương đất nước.” Anh cán bộ ngồi giữa bảo, từ ngày mai em sẽ về ở trong khu mới, còn vợ con em vẫn ở khách sạn. Em được đưa về khách sạn, hôm sau từ biệt vợ con, em lên xe theo họ. Đến đấy, họ bắt em tập trườn, lăn, bò, toài, tập võ, đâm lê, đánh kiếm, tập bắn súng. Em biết thế là đời em tiêu rồi! Nhưng vợ và 2 đứa con em đang bị làm con tin ở khách sạn. Sau 4 tuần tập luyện, em gặp 10 đồng hương cùng tuổi ở các tỉnh biên giới và em được chỉ định làm đội trưởng. Trước khi chiến sự xảy ra, em đã phải đưa một tổ thám báo theo đường buôn lậu, con đường mà em thuộc như lòng bàn tay xâm nhập Việt Nam nhiều lần. Chiến sự bùng nổ, tất cả tiểu đội em giải tán, mỗi người về một đơn vị trong đoàn quân Trung Quốc.
Tôi hỏi:
– Cậu có tham chiến không?
– Có chứ, dẫn đường, đánh nhau, phiên dịch… làm đủ cả.
Im lặng, rút bao thuốc Đại Tiền Môn, cậu ta rít một hơi dài.
– Chán lắm anh ạ, em là gián điệp bất đắc dĩ. Em biết em đã ăn cơm gạo, uống nước của Việt Nam, nay lại đưa quân Trung Quốc về bắn giết bà con mình. Em đúng là con chó!
Rồi cậu ta chém bàn tay vào không khí, nói to:
– Không, không bằng con chó!
Tôi hỏi:
– Thế làm sao mà cậu chuồn được?
– Dài dòng lắm anh ơi! Chiến tranh kết thúc, gia đình em họ cho chuyển về nông trường chè. Cả họ mạc hai bên góp tiền để em trốn đi, lấy cớ mua nông cụ cho nông trường. Thôi, miễn là hôm nay em ra được Pắc-hổi (Bắc Hải) này và đã đóng tiền thuyền, mai thuyền em nhổ neo. Anh đừng có nói với ai. Zdit-nàm-nhằn mà biết, họ “trảm-cô-thầu” (chặt đầu) em đấy.
Tôi hứa và đã giữ kín chuyện này hơn 30 năm.
Lý A Sáng, anh ở đâu trên trái đất này?
Xin thông cảm cho tôi đã không giữ trọn lời hứa, vì cộng đồng Minh Hương chúng ta mà tôi đã thất hứa. Anh hãy coi đây là lời tạ lỗi!
Hôm nay vì lợi ích của tất cả cộng đồng người Việt gốc Hoa ở trong và ngoài nước, tôi buộc phải viết ra để mọi người hiểu: Tắc Quay, A Sáng và những người như anh đã bị dính giữa hai làn đạn của cuộc chiến tranh bẩn thỉu giữa hai đồng chí cộng sản, để bà con người Việt thông cảm và tha thứ lỗi lầm của những người đó.Mời đọc tiếp: Chương [1b] Lâm Hoàng MạnhNguồn: Tác giả gửi hồi ký và hình ảnh (1) Từ năm 1982, kinh tế Việt nam bên bờ vực sụp đổ, chính phủ giảm biên chế, người nghỉ việc được trợ cấp 1 lần, tính theo thâm niên, mỗi năm được lĩnh 1/ 2 tháng lương Lĩnh một lần, quen gọi “về một cục (tiền)”. (2) Thời ấy Trung quốc có hai loại xe hơi dành cho cán bộ cấp tỉnh, đít tròn và đít vuông. Com-măng-ca đít tròn sang hơn, dành cho cán bộ cáo cấp hơn.
|
|
|
Post by Huu Le on May 3, 2020 17:31:21 GMT 9
Buồn vui đời thuyền nhân – Chương 1b: Thời điểm 1979Posted: 19/02/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Lâm Hoàng Mạnh Tặng mợ và các con. Đã đăng: Chương [Lời nói đầu, 1a], [1b] Thời điểm này, tập đoàn Lê Duẩn ra sắc lệnh cấm người Hoa làm việc trong 7 ngành nghề: y tế, giao thông, lương thực & thực phẩm, giáo dục, kinh tế (ngân hàng, tài chính), ngoại giao và văn hóa.
Ai đang làm bắt phải thôi việc, làm chúng tôi nháo nhào bán tống bán tháo đồ đạc chạy cho mau. Chú tôi, đảng viên cộng sản khóa 3-2-1960, phó thư ký công đoàn Cảng đã buộc phải làm đơn xin ra khỏi đảng, buộc về hưu non. Thím tôi cũng bị nghỉ mất sức. Con gái ông, y sĩ cũng bị thôi việc, tình cảnh khốn đốn, nhà 8 miệng ăn, không ai có việc làm, cứ đà này chắc chết đói.
Nước đến chân rồi! Chết đến đít!
Phen này chậm chân chắc tiêu đời!
Chợ Sắt đầy người bán các thứ đồ đạc của người Hoa chạy loạn, đủ loại thượng vàng hạ cám, nhưng toàn đàn bà Việt bán. Họ là vợ, con của người Hoa, trong đó có cả thím tôi, vợ tôi tham gia chợ cóc đó từ tháng 5-1979 cho đến trung tuần tháng 6-1979!
Tôi yêu văn chương từ thuở học primary Pháp thuộc, càng lớn càng nghiện mua sách, cho nên tôi có số sách thật khổng lồ, nay đem sách đi bán chắc chắn sẽ góp một phần không nhỏ cho chi phí chuyến đào tẩu. Đau đớn lắm, những tác phẩm quý của tất cả các tác giả Đông Tây in bằng tiếng Việt từ thời Pháp cho đến 1978, vài ngàn cuốn. Tôi phải cho vào bao tải chở bằng xe đạp nhiều lần, bày bán ngay trước cửa hiệu sách của thị xã. Anh cửa hàng trưởng -tôi là khách hàng mua đã 15 năm từ khi ra trường- nhìn tôi ứa nước mắt. Anh biết tôi yêu sách như yêu vợ, yêu con, như máu thịt của tôi mà những ngày này tôi phải cắt từng miếng thịt bán cho thiên hạ lấy tiền, đưa vợ dại con thơ chạy trốn!
Sao oan nghiệt thế! Các giáo viên cấp 3, giáo viên trường trung cấp sư phạm 10+2, bạn tôi, học sinh khoa Văn, học sinh cấp 2, 3 của tỉnh và thị xã nghe tin đến mua ào ào như tằm ăn rỗi. Họ rất ngạc nhiên, sao tôi kiếm đâu ra những cuốn sách quý và hiếm như vậy. Xin kể vài đầu sách: Tất cả tiểu thuyết, truyện ngắn của Tư lực Văn đoàn, Thơ Mới in từ thời Pháp thuộc mà giai đoạn ấy cấm đọc, cấm tàng trữ! Tôi có cả cuốn Cửa mở của bác Trần Việt Phương (cấm lưu hành), cuốn Bông hồng vàng của nhà văn Nga Konstantin Paustovsky do bác Vũ Thư Hiên dịch từ tiếng Nga, những cuốn này bói không ra. Nghĩa là tôi toàn sách “độc” nên bán chạy hơn tôm tươi. Giá bán không rẻ, thậm chí đắt và rất đắt, bởi tôi biết giá trị thật của nó. Chỉ trong 4 ngày tôi bán được hơn ngàn cuốn sách. Riêng những cuốn tự điển Trung Việt của Văn Tân, Trung Hoa đại từ điển và một số thơ Đường, Tống bằng chữ Hán tôi cho các cậu các dì làm giấy vệ sinh, vì ở Việt Nam lúc ấy loại này cũng hiếm lắm!
Đã bị quả đấm bằng trời giáng,-bài xích, xua đuổi-, của chính quyền, nay thêm cái đạp là đồ đạc bao nhiêu đời, bao nhiêu năm ki cóp bán đi như thể bán đổ bán tháo, gần như cho không, vì những tin đồn thất thiệt có phần do kỳ thị, bài Hoa nên không ai mua.
Tôi không biết ở miền Nam thời ấy ra sao, còn miền Bắc nghèo lắm, mọi thứ đều thiếu, thiếu từ cái nồi, cái bát, cái xe đạp đến manh quần tấm áo, bởi vì mọi thứ đều bán theo phân phối của chế độ mậu dịch. Mua chiếc xe đạp cũng phải lên công an xin giấy đăng kí xe, mua chiếc đài thu thanh đều phải lên ty bưu điện xin giấy sử dụng, ai không có sẽ bị phạt, nhẹ bằng tiền, nặng tịch thu. Ngày nay báo chí gọi “thời kỳ bao cấp”, có người bảo,“ thời kỳ ngăn sông cấm chợ”. Nhưng cấm như thế nào, ngăn ra làm sao, chắc nhiều người đã quên, lớp trẻ hẳn khó biết.
Tết năm 1972, tôi phải trực bệnh viện vào ngày mồng Một, mồng Hai nghỉ sẽ đạp xe về, nên để vợ con về quê ngoại trước. Đêm giao thừa buồn thiu, may gần khu tập thể có anh đại úy, cùng quê Hải Phòng là chỗ thân tình, phụ trách ban tuyển quân (bắt lính) biết cảnh lẻ loi, hẹn sang đón giao thừa cho vui.
Tết đó tôi đã viết câu đối dán trước cửa nhà tập thể:
Đêm ba mươi, vợ bỏ về quê, không thịt không hành mà cũng Tết
Sáng mồng một, khách quý đến nhà, có trà Tắm Ngựa thế là Xuân.
Thực ra vế thứ hai tôi viết: “Có thơ có rượu thế là xuân”. Nhưng tiêu chuẩn Tết mỗi gia đình chỉ được một chai rượu mùi, một gói mứt thập cẩm 500 gr cùng một vài thứ lặt vặt như 20 gr bột ngọt, 10 gram hồ tiêu, 100 gr miến dong giềng, 2 bao thuốc Tam Đảo, 1 gói chè Ba Đình…, vợ tôi đem về biếu ngoại làm gì còn rượu mà đãi khách. Còn tôi trực, báo cơm tập thể. Gọn nhẹ và có hương vị Tết, ké vào tiêu chuẩn của bệnh nhân!
Xin được mở và đóng ngoặc: thời ấy cả nước, -đúng ra là miền Bắc-, chỉ có một nhà máy chè Phú Thọ sản xuất 3 loại chè gói bán ra thị trường: Chè Hồng Đào (loại I) giá 8 hào/gói, chè Ba Đình (loại II) giá 5 hào/gói (hai loại chè này theo tiêu chuẩn phân phối) và chè Thơm giá 3 hào/gói bán tự do. Đây là loại chè hạ đẳng, toàn cọng và chè vụn, đắng chát, nước đen ngòm, chả có mùi vị gì, cơ quan mua phát cho các khoa phòng mỗi tháng 4 gói. Anh bác sĩ Long, khoa Truyền nhiễm, đặt tên, chè Tắm Ngựa, có nghĩa là chỉ xứng đáng để tắm cho ngựa đỡ hôi, người không thể uống nổi. Chúng tôi phải mua chui chè Tân Cương (Thái Nguyên), chè Tân Lạc (Hoà Bình) để uống.
Theo hẹn, gần mười hai giờ đêm, tôi đến nhà anh. Thời bấy giờ còn liêm khiết lắm, chứ chức vụ như anh ngày nay có mà giàu to, không nứt đố đổ vách cũng vài cái nhà lầu 5 tầng, vài ô-sin phục vụ là ít. Thằng nào muốn trốn lính, dăm cây, nhà con một chục cây cũng phải ưng, nhất là cả nước đang mịt mùng khói lửa, lính chết như rạ, thiếu lính đến mức độ phải “vay” trước tuổi. Có nghĩa là theo luật 18 mới phải nhập ngũ, nhưng 17 tuổi cũng phải lên đường, gọi là vay. Tiền tuyến đang cần thanh niên sẵn sàng (chết)! Nhiều cậu tân binh mặt non choẹt, gày nhom, cao chưa tới 1 mét rưỡi, vác khẩu súng trường quét đất! Vì thế ở miền Nam một thời bêu riễu: “7 thằng VC đánh đu 1 cành đu đủ cũng không gẫy”!
Nhà anh, một nếp nhà tranh một gian hai chái. Tuy thế còn hơn tôi, vẫn phải sống tập thể, vợ tôi cũng là y tá đâu có ăn bám chồng. Anh chị đang chuẩn bị đón giao thừa. Nồi bánh chưng đã vớt, hai đứa con anh ngủ say. Vợ anh, chị Hương, đang chuẩn bị lễ cúng, còn anh đứng vơ vẩn ngoài sân chờ tôi. Anh là lính từ những ngày toàn quốc kháng chiến (12-1946), rời Hải Phòng yêu dấu làm nhiệm vụ của thanh niên đánh đuổi ngoại xâm như hàng vạn thanh niên yêu nước khác. Hết chiến dịch này đến chiến dịch khác, từ binh nhì leo dần lên sĩ quan, vài lần đi bồi dưỡng, tập huấn, thương tật đầy mình, đảng viên cộng sản lâu năm bò dần lên sĩ quan trung cấp, -từ chuẩn uý đến thượng uý là sĩ quan sơ cấp, từ đại uý đến thượng tá là sĩ quan trung cấp, từ đại tá trở lên là sĩ quan cao cấp- tham gia chiến dịch Tây Bắc nên anh được trụ lại và đóng ở tỉnh Hòa bình, lấy vợ. Chị là con gái nhà lành, bố mẹ buôn bán ở thị xã. Duyên bén, nhưng cơ quan không đồng ý vì xét lí lịch gia đình chị không (chưa) cách mạng, đảng viên, sĩ quan “quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng” lấy dân tiểu tư sản thành thị là mất lập trường! Ba mươi nhăm chưa có vợ, ế đến đít, anh em nói mãi, lãnh đạo mới gật. Nhờ thế anh mới có gia đình, nếu không có thể lên chức Thiếu tướng Phòng Không (vợ) chưa chừng!
Mâm cúng ngoài trời thật đơn giản. Trầu cau, hoa quả và đĩa bánh chưng đã bóc sẵn. Mâm cúng tổ tiên có đĩa xôi gấc, con gà luộc bốc hơi nghi ngút, chiếc bánh chưng, khoanh giò lụa, đĩa nem rán, bát măng ninh chân giò, món rau xào thịt lợn. Chai rượu cam màu vàng óng và bao chè Hồng Đào để cạnh mâm. So với mọi người, nhà anh thuộc loại tươm tất nhất trong cái Tết nghèo khó của đời công chức chúng tôi.
Ai đã từng sống dưới thời bao cấp mới thấy mấy tấm bánh chưng, khoanh giò lụa, đĩa nem rán, bát măng ninh chân giò, đĩa xôi gấc… đặt lên ban thờ cúng tổ tiên ngày Tết là hàng cao cấp, nếu như không nói là hàng xa xỉ. Bởi vì chế độ tem phiếu khắc nghiệt lắm. Tôi biết rõ vì tôi là người trực tiếp làm tem phiếu, xin ghi lại để tham khảo.
Nếu tôi nhớ không nhầm, chế độ tem phiếu bắt đầu từ 1959 (hay 1960?). Hè năm ấy, bọn học sinh Hải-phòng chúng tôi được thành phố trưng dụng đi làm sổ gạo vì “văn hay chữ tốt”. Mỗi ngày đi làm, ủy ban hành chính tiểu khu (phường) trả công 6 hào/ngày, ăn bữa cơm trưa (tập thể) mất 5 hào, còn dư 1 hào chỉ đủ mua 1 que kem hay 2 bát nước chè xanh. Lương mạt hạng mặt mũi vẫn phải vui và tươi roi rói.
Không đi có mà ăn đất! Đừng có mơ vào đại học hay trung cấp chuyên nghiệp. Lí lịch sẽ ghi: có tư tưởng và hành động chống đối chủ nghĩa xã hội! Đời mờ! Đời tàn liền! Xin đi làm bốc vếch -công nhân bốc vác cảng- cũng không xong!
Chế độ tem phiếu chia làm ba loại:
1-Cán bộ công nhân viên chức 2-Nhân dân thị xã và thành phố 3-Nông dân, kể cả nhân dân ở thị trấn
Ngoài ra còn loại tem phiếu dành cho cán bộ cao cấp từ chuyên viên đến lãnh đạo ty sở, từ tỉnh ủy viên đến bộ trưởng. Tiêu chuẩn này cũng có nhiều loại, tôi chỉ biết sơ sơ, nghe hơi nồi chõ, thực tế ra sao xin nhường cho bạn nào biết, viết tiếp cho hoàn chỉnh.
1- Cán bộ công nhân viên chức
Người làm trong các cơ quan, xí nghiệp nhà nước, bao gồm bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, nhà văn… (những người lao động trí óc nói chung), lao động chân tay, cán sự từ bậc 1 đến bậc 4; từ bậc 5 trở lên là chuyên viên hưởng tiêu chuẩn khác. Tất cả hưởng tiêu chuẩn giống nhau:
– Vải 5 mét/năm – Gạo từ 13 kg 5 đến 25 kg/tháng (tùy thuộc lao động nhẹ hay nặng) – Thịt từ 500 gr đến 2,5 kg/tháng (tuỳ thuộc tính chất nghề nghiệp) – Đường từ 500 gr đến 2 kg 500/tháng (tuỳ thuộc tính chất nghề nghiệp) – Đậu phụ 1 kg/ tháng – Nước mắm 500 ml/tháng – Cá tươi hoặc cá khô 500 gr/tháng.
2- Nhân dân thành thị
A- Người lớn
– Vải 4 mét/năm – Gạo 13,5 kg/ tháng – Thịt 100 gr/tháng – Đường 100 gr/ tháng – Đậu phụ 500 gr/tháng. – Nước mắm 500 ml/tháng – Cá tươi hoặc cá khô 500 gr/tháng.
B- Trẻ em từ sơ sinh đến 15 tuổi
– Vải 4 mét/năm – Gạo tùy thuộc vào tuổi từ 5 kg đến 12 kg/tháng – Thịt 300 gr/tháng cho trẻ dưới 5 tuổi. Từ 6 tuổi như người lớn – Đậu phụ và nước mắm như tiêu chuẩn người lớn – Cá tươi hoặc cá khô 300 gr/tháng.
3- Nông dân và dân thị trấn
Không có một thứ tiêu chuẩn tem phiếu nào, kể cả trẻ em. Họ cũng không được cấp giấy chứng minh thư. Tất cả là con số không tròn trĩnh. Họ bị coi như công dân hạng 2 trong xã hội. Theo cương lĩnh của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân và nông dân là thành phần nòng cốt của chính quyền vô sản, nhưng người nông dân một nắng hai sương, người làm ra thóc gạo, làm ra mọi của cải vật chất (chính) để nuôi quân, nuôi dân và cán bộ nhân viên nhà nước như chúng tôi thì bị bỏ rơi, loại khỏi cuộc chơi của xã hội. Nhiệm vụ và quyền hạn của họ cũng như toàn dân Việt Nam, có thể tóm tắt 7 chữ vàng: Đóng thuế- Đi lính- Câm cái mồm!
Không tem phiếu, kể cả phiếu vải, động vật nên không cần quần áo? Mỗi xã có một cửa hàng Hợp tác xã Nông nghiệp, gọi thế cho oai chứ trong cửa hàng chẳng có mặt hàng gì quý giá, chỉ có: cày, cuốc, mai, thuổng… (dụng cụ lao động dành cho nông dân), bát đĩa loại phế phẩm, vài phong thuốc lào hạng bét, thuốc lào Tiên Lãng, Hải Phòng không đến luợt, dầu hỏa, muối, đôi khi cũng có nước mắm (khắm và mặn chát), thỉnh thoảng có cá khô (cá mòi, cá chuồn, cá trích… chứ làm gì có cá thu, cá nục) mua về muối nhiều hơn cá do nhân viên bán hàng trộn thêm muối để ăn cắp cá.
Tiêu chuẩn phân phối xem ra đối với chúng tôi cũng sống nổi nếu như mua được hết số tem phiếu. Tuy có tem phiếu nhưng đâu có hàng hoá, may lắm chỉ mua được 50%. Tem phiếu in tháng, hết tháng hết giá trị. Từ năm 1962, tiêu chuẩn gạo bắt đầu phải độn ngô hay bột mỳ từ 30% lên dần 50%, có kỳ 70%, ở miền núi còn độn sắn (củ mỳ) khô, đến năm 1982 cửa hàng lương thực chỉ có 100% hạt bo bo bán cho dân. Năm 1967, sang giảng cho lớp y sĩ xã, thấy các em ăn 1 phần cơm 3 phần sắn khô, có hôm ăn ngô răng ngựa (loại ngô dành cho gia súc, bung lên nở to gần bằng ngón tay cái) với canh rau muống nấu muối, cà muối. Vì thế cô hàng gạo, chị hàng thịt, bà bán cửa hàng bách hóa thời bấy giờ có giá lắm, oai hơn cả kỹ sư, bác sĩ, thày giáo, nhà văn…!
Mời đọc tiếp: Chương [1c] Lâm Hoàng Mạnh
|
|
|
Post by Huu Le on May 3, 2020 17:33:53 GMT 9
Buồn vui đời thuyền nhân – Chương 1c: Thời điểm 1979Posted: 23/02/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Lâm Hoàng Mạnh Tặng mợ và các con. Đã đăng: Chương [Lời nói đầu, 1a], [ 1b], [1c] Nhân đây tôi xin kể một số chuyện thật ở tỉnh tôi mà tưởng như chuyện tiếu lâm trong thời kỳ tem phiếu.
Chuyện thứ nhất:
Tháng 5 năm 1970, trong một cuộc đại hội công đoàn thường niên của tỉnh họp tại trụ sở Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh Hoà Bình. Gần 100 đại biểu thuộc các cơ quan ty ngành trong tỉnh đến dự. Trong lúc nghỉ giải lao, một bác bảo vệ cơ quan từ phòng thường trực cầm cái bát to đi đến bàn uống nước của đại biểu ở hội trường, rót nước trà vào bát. Bác đến gần đám đông đứng quanh ông Quách Hy, chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh, đặt bát nước xuống bàn, móc túi áo lấy ra một gói giấy nhỏ, chậm rãi mở ra như cố tình để mọi người xem. Người ta tưởng bác lấy viên thuốc, nhưng không, đấy là các ô tem phiếu thịt, cá, đậu phụ… đã cắt sẵn từng tháng theo tiêu chuẩn. Bác thong thả bỏ vào bát nước, thò ngón tay trỏ vào lòng bát, ngoáy đều tem phiếu đang nổi lều bều như thể cho tan trong nước, rồi bưng lên miệng, uống một hơi. Tất cả mọi người trố mắt ngạc nhiên, tưởng ông già này mắc bệnh tâm thần. Bác tỉnh bơ, khà một tiếng sau khi uống hết nước, nói bâng quơ:
– Các loại tem phiếu không mua được thì hoà vào nước uống cũng có đủ chất có phải không bác lãnh đạo?
Mặt Quách Hy tím lại, không ngờ lão bị chính nhân viên mình chơi sỏ. Cơ quan công đoàn và Mặt Trận Tổ Quốc là cơ quan bảo vệ quyền lợi và chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên chức, nhưng đã không làm tròn nhiệm vụ. Tem phiếu nhà nước phát cho cán bộ công nhân viên chức cũng chỉ là những mảnh giấy lộn, vì mấy ai mua hết tiêu chuẩn tem phiếu.
Sáu tháng sau, người ta thải hồi ông.
Chuyện thứ hai:
Hôm ấy, khoảng 10 giờ sáng tháng 7 năm 1972 tôi có việc đi qua thị xã. Một người đàn bà Mường có tuổi, đứng trước cửa cửa hàng lương thực thực phẩm Phương Lâm thị xã Hoà bình, miệng gào to:
– L. ơi là l.! L. người ta đẻ ra cán bộ thì được mua đường mua sữa, l. của tôi chỉ đẻ ra nông dân nên ốm đau muốn mua lạng đường cũng không được. Bất công quá! Giời ơi là giời! L. ơi là l.!
Bà ta một tay kéo váy lên ngang gối, tay kia vỗ bành bạch vào bẹn, gào lên điệp khúc “không mua được đường vì l. bà đẻ ra nông dân”. Chỉ một thoáng, hàng trăm người hiếu kỳ xúm lại, đứng vòng trong vòng ngoài xem vở bi kịch thời kỳ bao cấp.
Cái thời bao cấp khốn khổ như thế đấy.
Cha mẹ đến thăm con cháu làm việc ở thị xã, thành phố, bao giờ trước khi đi cũng chuẩn bị dăm bơ gạo, chục trứng gà. Ai giàu hơn thì đôi gà nhốt trong lồng, rồi cơm đùm cơm nắm, tay xách nách mang lên đường thăm. Sau khi trình giấy thông hành kèm theo đơn xin và giãi bầy lí do vì sao có gạo, có trứng, có gà với trạm kiểm soát thuế vụ, các cụ mới được vào (khu cách ly) thị xã hay thành phố thăm con cháu.
Con cháu mừng mừng tủi tủi khi được gặp ông bà cha mẹ và trách khéo, sao đường đã xa, tầu xe khó khăn bố mẹ tuổi cao, lại còn đem cả gạo cả gà ra thế này, vất vả khổ sở lắm. Các cụ gạt phắt, nói dối rằng, quà nhà quê chả có gì ngoài mấy bơ gạo mới và dăm quả trứng, gà nhà nuôi đem làm quà. Nhưng thật ra đó là tiêu chuẩn ăn của các cụ trong những ngày thăm con thăm cháu. Các cụ hiểu lắm chứ, tiêu chuẩn gạo thịt chưa đủ cho chúng, nay tự nhiên có khách chúng lấy đâu ra mà đãi, đong chui có mà chết tiền, lương chúng 3 cọc chỉ có 2 đồng, xoay ngang xoay dọc vẫn thiếu. Sống ở thành thị cái gì cũng phải mua, từ nắm lá chè tươi đến rau thơm quả ớt đều là tiền, tiền không à!
Muốn chơi dăm bữa nửa tháng với thằng cháu đích tôn cũng không dám vì thấy chúng tốn kém quá, muốn đem về quê, cháu còn quá nhỏ cần sự chăm sóc của bố mẹ nó. Vì thế, chả cụ nào có thể ở lại thăm con cháu một hai tháng được, chỉ dăm bữa nửa tháng lấy cớ phải về, vì đến vụ cày, bừa, làm cỏ bỏ phân… -hợp tác xã đang chờ.
Chế độ tem phiếu đã hình thành một bức tường vô hình nhưng cực kỳ hiệu quả để giám sát và ngăn cách tình cảm cha con, vợ chồng và họ mạc giữa nông thôn và thành thị, ngăn chặn được nguy cơ biểu tình chống đối của người dân.
Trong một xã hội, sự giao lưu của cộng đồng không thể không có, người nông dân không sản xuất ra vải, quần áo, giày dép… thì họ có thóc gạo, có con lợn, con gà, mớ rau… đem ra để đổi chác (bán và mua) lấy những thứ họ cần. Nhưng ở chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời bấy giờ điều đó không được phép, bị coi là mầm mống của chủ nghĩa tư bản cần phải tiêu diệt, ngày nay người ta thường nhắc lại với cụm từ “Thời kỳ bao cấp”, có nhà báo nói toạc móng heo, “Thời kỳ ngăn sông cấm chợ.” Ngăn sông như thế nào, cấm chợ ra làm sao, nhiều bạn trẻ chưa hình dung ra những biện pháp quái đản của những người thực hiện chính sách độc nhất vô nhị ấy.
Muốn ngăn sông cấm chợ, người ta phải đặt rất nhiều trạm kiểm soát kiêm thuế vụ ở ngay những trục đường chính sát ranh giới giữa thành thị với nông thôn. Trạm này có hai chức năng:
1) Kiểm tra giấy tờ người đi lại.
2) Kiểm tra hàng hóa và thu thuế.
Một điều rất đáng ngạc nhiên, thời bấy giờ, cán bộ nhân viên ngành thuế vụ, hầu như 90% người Nghệ An, quê hương của chủ tịch Hồ Chí Minh!
Quyền hành quá lớn biến cán bộ công chức ngành thuế trở thành những ông vua con, tác oai tác quái khiến dân địa phương rất căm ghét, vì thế có rất nhiều bi hài kịch diễn ra trong suốt thời kỳ ngăn sông cấm chợ. Dân chúng ghét đến mức không cô gái nào muốn kết hôn với dân xứ Nghệ, dù không làm phòng thuế, gia đình ngăn cấm nếu cô gái nào chót yêu. Họ thường phải về quê lấy vợ. Để chỉ người Nghệ An, người miền Bắc gọi họ là dân Trọ Trẹ, phân biệt với người Lục Tỉnh miền Nam. Đó là sự thật, một sự thật đau lòng. Nếu bạn đọc là người Nghệ An, xin lượng thứ khi tôi viết những dòng này. Đây là một thời kỳ lịch sử cũng như người Hoa bị kỳ thị. Nhân đây tôi cũng xin kể vài câu chuyện có thực trong đời thường.
Văn Điển, vùng nấu rượu có tiếng, tuy không ngon bằng rượu làng Vân, nhưng nơi đây là trung tâm cung cấp rượu lậu cho Hà NộI và thị xã Hà Đông. Ai cũng biết rượu Văn Điển bán chui tất nhiên trạm thuế cũng biết để tịch thu, phạt tiền. Sau nhiều lần mất hàng, các bà các chị nghĩ ra một chiêu khá độc đáo.
Ngày nào cũng như ngày nào, trạm thuế đều thấy các bà chị quang gánh đi chợ mà chỉ lèo tèo vài cân khoai lang, dăm quả bí, quả bầu, ít rau đay, rau mồng tơi… nhưng bà nào cũng bụng to vượt mặt như người sắp đến kỳ ở cữ. Chiều chiều tầm bốn năm giờ lại thấy các bà các chị này về, quang gánh đầy những hàng trên phố, nhưng đặc biệt bụng hết to, cứ như ra tỉnh sinh đẻ không bằng.
Cái kim bọc giẻ lâu ngày cũng ra, vì thế chiêu đựng rượu vào dạ dầy bò, bong bóng lợn đã thuộc sạch phơi khô rửa kỹ đút vào áo, giả trang bà chửa, bị bại lộ. Bị tịch thu nhiều lần, ức lắm, các bà các chị nghĩ kế phải cho bọn trạm thuế mất mặt và tẩn cho chúng một trận để bù những thiệt hại.
Hôm ấy, lại những bà những chị bụng to lũ lượt kéo đi thành đoàn, nhưng lần này cách không xa lại có một đoàn nam giới đi sau, có người còn mang cả đòn gánh. Qua trạm kiểm soát, ba tay thu thuế đứng chặn ngay cạnh cây tre chắn ngang, hỏi bằng giọng xứ Nghệ:
– Cạc bả cạc chỉ đẩu dzậy?
– Thưa cán bộ, chúng tôi đi chợ.
– Cọ rưởu lẩu khổng dzậy?
– Cán bộ cứ đùa, chúng em làm gì có.
– Không cọ đủa. Cạc bả cạc chỉ ghê lẳm, giẩu rưởu vảo bủng giả lảm bả bầu. Thổi biệt điểu, bỏ ra khổng chụng tổi khạm được đửng cỏ trạch.
Các bà các chị biết bọn này trúng bẫy cò ke, lớn tiếng:
– Chúng tôi làm gì có rượu giấu trong bụng mà các ông bắt bỏ ra. Không tin các ông cứ khám đi.
– Khổng cọ nhiệu lởi, cọ bõ ra khổng?
– Không có sao mà bỏ ra được.
Ba tên đưa mắt cho nhau ra dấu hiệu khám một người có vẻ khả nghi nhất. Chưa kịp sờ vào vạt áo, tất cả các bà các chị đồng loạt vén tất cả vạt áo lên và kéo trễ cạp quần xuống, đồng thanh kêu:
– Đây khám đi, khám đi!
Ba tên mặt đỏ như vừa bị cái tát trời giáng khi nhìn thấy tất cả những cái bụng chửa căng cứng của các bà các cô. Ngay lập tức nhóm đàn ông cũng vừa ập đến vừa chửi vừa giơ nắm đấm đe dọa.
Cứ tưởng như mấy lần trước các bà chứa rượu và dạ dày bò, bong bóng lợn (sau khi đã thuộc kỹ) rồi giấu vào bụng giả làm bà chửa. Ai ngờ hôm nay tất cả bà chửa thật, làm cho bọn phòng thuế một bữa bẽ mặt.
Chuyện vỡ lở. Một đồn 10, muời đồn 100, chả mấy lúc tin xấu này lan nhanh toàn tỉnh. Trạm kiểm soát này phải đóng cửa. Gần năm sau, một trạm mới ra đời cách trạm cũ hơn cây số.
Sau cải cách ruộng đất và cải tạo tư bản và công thương nghiệp làm mất lòng dân, nhiều nơi có nhưng cuộc nổi dậy lẻ tẻ. Muốn đàn áp, chính quyền đưa ra hai chính sách: Quản lí hộ khẩu và quản lí lương thực thực phẩm một cách thật chặt chẽ. Bởi vì, muốn nổi loạn thì phải tụ tập đông người và phải có lương thực thực phẩm. Có thực mới vực được đạo. Quản chặt hai điều này là giảm được 90% mối họa.
Quản lí lương thực như đã kể, bây giờ tôi xin kể về quản lí nhân khẩu. Thuộc tính của chuyên chính vô sản.
Bắt đầu từ năm 1956, một tổ 3 người của công an khu phố (phường) đến từng gia đình đưa mẫu khai, hướng dẫn thật tỉ mỉ cách khai lí lịch từ 3, 4, 5… đời, rồi trả lời các câu hỏi trong mẫu khai: có ai di cư vào Nam, có ai làm việc cho chế độ cũ, có ai đang ở nước ngoài. Họ làm thật từ từ, không vội vã, từng bước chắc chắn cho đến khi không còn điều gì nghi ngờ nữa, rồi cấp cho một sổ bìa màu vàng ghi rõ “Sổ hộ tịch” (bây giờ là “Sổ hộ khẩu” mầu đỏ). Tất cả thông tin ấy được lưu trữ trong hồ sơ tối mật.
Nông thôn khác, bởi vì người trong làng, trong xã sống chung mấy đời nên biết rõ hoàn cảnh của nhau, thuộc lòng như trong làng có mấy cây đa, bao nhiêu đình, chùa, miếu mạo, vì thế việc làm hộ khẩu nhanh và rất gọn. Nông dân không được cấp sổ hộ tịch, danh sách từng gia đình được ghi đầy đủ trong “Sổ nhân khẩu” để ở UBND xã. Không như dân thị thành là dân tứ chiếng, khắp nơi đổ về, nguồn gốc chẳng rõ, phải bới lông tìm vết cho rõ ngọn ngành để còn quản lí.
Có đầy đủ tài liệu trong tay (tốt, xấu) nhưng vẫn chưa an tâm, chính quyền đặt ra một điều luật nữa: Đi qua đêm phải báo ủy ban xã bằng cách phải xin giấy thông hành. Đến nơi thăm chủ nhà cầm giấy thông hành ra phường xã, khai tạm trú cho khách. Luật khai báo này ra đời từ 1958 kéo dài cho đến hôm nay chưa có dấu hiệu xóa bỏ. Có nghĩa là mỗi một làng xã, một khu phố, người dân được “chăm sóc” một cách chu đáo bởi cơ quan chính quyền địa phương (phường, xã). Nếu so sánh mỗi xã, phường như một trang trại chăn nuôi gia súc thì mỗi UBND phường xã chính là ông chủ trang trại. Chủ phải biết chính xác số gia súc đi đâu, ở đâu và không được để xổng chuồng chạy rông. Xổng chuồng, có tội với Đảng và chính phủ!
Nhìn bề ngoài, ít ai nhận ra đây là một nhà tù khổng lồ không dây thép, không vách tường bao quanh và cũng chẳng có song sắt. Chính quyền cộng sản đã biến từng xã, từng phường thành một ấp chiến luợc vô hình, kín đáo để quản lí sự hoạt động hàng ngày của từng người dân. Ấp chiến lược này hoạt động hiệu quả và ít tai tiếng hơn ấp chiến lược của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Ai cũng biết chuyên chính vô sản là ghê gớm lắm, độc địa lắm, nhưng hỏi độc địa, tàn bạo ở chỗ nào, ra sao và bắt đầu từ khi nào, tôi tin ít người trả lời một cách thỏa đáng. Nhân đây tôi xin dẫn chứng một chuyện thật 100%.
Hè 1963, tôi đến thăm anh bạn chí cốt từ nhỏ, giáo viên dạy Trung Văn cấp II, cũng đang nghỉ hè, sống ở Dư Hàng. Nhà anh đang có thợ cắt tóc rong đến theo thường lệ. Người thợ cắt tóc rong này rất trẻ, khoảng trên dưới 30, tay kéo bấm tanh tách có vẻ rất chuyên nghiệp, vừa cắt vừa kể chuyện tào lao, tuy không bổ ích nhưng lý thú làm mọi người thấy thú vị.
Thằng bạn tôi bảo “Anh ấy kiến thức rộng lắm, tiếng Pháp làu làu, chả có xí xố xì xộ vài câu mách qué như tao với mày đâu.” Anh ta cắt tóc rong làm kế sinh nhai, độ nhật qua ngày. “Đừng có coi thường!”- “Cái thằng, tao là cái đinh gì mà dám coi thường ai.”
Thấy tay nghề anh rất khá vả lại giá rất bình dân, 3 hào, tôi cũng ngồi vào chiếc ghế xếp bằng vải để anh húi.
Từ đó tôi làm quen với anh và thằng bạn cố tri đưa tôi đến nhà anh ở ngõ Chợ Cột Đèn, đường Trại Cau.
Câu chuyện đời anh thật đau thương, day dứt trong tôi mãi đến hôm nay.
Anh tham gia kháng chiến chống Pháp khi anh đang học tú tài. Anh làm liên lạc cho cấp tiểu đoàn. Hòa bình lập lại, về Hải Phòng, gia đình anh đã di cư vào Nam, để lại cho anh một căn nhà hai tầng ở Đình Đông. Khi anh xuất ngũ thì căn nhà đã có người chiếm -thuê-. Anh đem đầy đủ giấy tờ để xác định quyền chủ nhân. Công an và chính quyền khu phố xác nhận anh là chủ nhân của ngôi nhà.
Nhưng vì có người đang ở -thân nhân của trưởng đồn công an khu phố-vả lại nhà nhiều phòng, họ đề nghị hãy tạm sử dụng một phòng vì anh chưa có vợ. Các buồng còn lại cho thuê và trả tiền hàng tháng là 3 đồng. Khi nào họ tìm được chỗ ở mới sẽ dọn đi, trả lại nhà cho anh.
Anh đành chấp nhận vì không thể làm gì hơn.
Năm 1958, xin vào trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, anh tính bán căn nhà lấy tiền chi tiêu cho 5 năm đèn sách. Nhưng người thuê nhà không mua. Sao lại mua, khi chỉ phải trả có 3 đồng 1 tháng! Anh đuổi họ để lấy lại nhà bán cho người khác. Họ cũng không đi vì trong bản ký kết có ghi “khi nào tìm được chỗ ở mới”, hiện nay chưa tìm được.
Cãi nhau, đưa nhau ra khu phố nhiều lần. Thất bại về phần anh.
Uất quá, anh đi tìm người mua gạch, mua ngói, mua cánh cửa v…v.., anh gọi đoàn thợ đến phá ngay căn nhà khi vợ chồng thuê nhà về quê ăn giỗ.
Anh bị bắt, tống giam.
May thủ trưởng cũ biết, can thiệp nên anh được tha. Nhưng hồ sơ lý lịch của anh được chính tay trưởng đồn công an phê: Có tư tưởng và hành động chống phá chủ nghĩa xã hội!
Đời anh tiêu rồi! Sống lay lắt trên chính quê hương mình!
Thời bấy giờ tốt nghiệp cấp III là của quý. Tỉ lệ mù chữ ở miền Bắc 80%. Năm 1956 cụ Tôn Đức Thắng -phó chủ tịch- nước làm Trưởng ban Bình dân Học vụ Trung ương. Tất cả học sinh cấp II và III phải gia nhập đoàn quân diệt dốt. Tốt nghiệp cấp II (lớp 7) vào trường Trung cấp Sư phạm học 2 năm đã thành thày cô giáo cấp II -dạy từ lớp 5 đến lớp 7. Tốt nghiệp phổ thông vào Đại học Sư phạm, học 2 năm ra trường là thày cô giáo cấp III -dạy tư lớp 8 đến lớp 10).
Thế mà anh có bằng cấp III xin làm chân loong toong cũng không xong.
Anh đành học nghề cắt tóc. Có nghề trong tay, xin mở quán cóc đầu ngõ để độ nhật cũng bị từ chối. Anh đành vai đeo chiếc ghế vải, tay xách hòm đồ bằng gỗ có hàng chữ: “Cắt tóc” thật bay bướm, đầu đội mũ tầu phở đi vào các làng phụ cận như Chùa Chiếu, Dư Hàng, Quán Nải… để kiếm ăn.
Nếu chỉ có thế cuộc đời anh vẫn chưa thật bi đát.
Chả biết duyên trời xe thế nào, hôm ấy anh vào khu Chùa Chiếu, đến nhà bác Thông như thường lệ để cắt tóc. Vô tình nhà có giỗ cụ cố, cả họ mời anh ngồi xuống dự bữa cơm với con cháu và họ mạc.
Nể quá, anh ngồi. Không ngờ anh lọt vào cặp mắt xanh của chị Vường.
Sau khi xưởng cưa của bố bị công hữu hóa, chị Vường được làm nhân viên kế toán của xưởng. Một thời gian tìm hiểu, chị chẳng nghĩ đến cái lý lịch bất hảo của anh và gia đình chị cũng không phản đối. Chị lên cơ quan xin giấy chứng nhận chưa có chồng để đi đăng ký kết hôn.
Cơ quan không cấp giấy. Chị và trưởng phòng tổ chức, thủ trưởng cơ quan đấu lý nhau.
Cuối cùng chị tuyên bố:
– Các ông có cấp giấy không thì bảo. Tôi gái chưa chồng, anh ta trai chưa vợ. Chúng tôi yêu nhau, không ai có quyền ngăn cấm. Bố tôi cấm cũng không được, huống chi các ông. Tôi sẽ kiện các ông vi phạm Luật Hôn Nhân và Gia đình 1958.
Được lắm con! Cho chúng mày đói rã họng ra xem có yêu nhau mãi không! Một túp lều tranh với hai trái tim vàng mà không có cuộn giấy bạc thì xem vuông tròn được mấy hôm!
Chị được cấp giấy và bị thải hồi sau khi anh chị làm bữa cơm thân mật ra mắt gia đình.
Con trai tay giám đốc yêu thầm nhớ vụng chị nhưng chị từ chối.
Anh vẫn theo nghề cắt tóc rong, chị đi bán rau ở chợ Cột Đèn. Nghèo nhưng anh chị rất hạnh phúc. Tôi rất quý trọng anh chị.
Một lần, sau bữa cơm rau đậu với gia đình, chị cười:
– Chú cẩn thận đấy, nhà trường mà biết chú quan hệ với anh chị thì chỉ còn cái nuớc bán sấu giầm, thuốc ê thôi.
Anh chị cấm tôi không được viết thư và anh chị cũng không viết thư cho tôi. Tôi biết anh chị cố gắng giữ gìn“trong sạch lý lịch” và “sinh mạng chính trị của tôi.”
Sau khi ra trường. Tôi công tác xa, ít khi có dịp gặp lại.
Năm 1968, tôi đưa bạn gái -vợ tôi sau này- đến thăm anh chị, nhưng anh chị đã dọn đi nơi khác.
Tên anh là Nguyễn Gia Hoàng và chị là chị Vường (tôi không biết họ). Nếu còn, anh chị đang bước sang ngoài tuổi 80.
Chuyên chính vô sản như thế đấy!
Ngoài ra Đảng và nhà nước tuyên truyền tuyệt đối đề cao cảnh giác, gây sự nghi ngờ, đố kỵ lẫn nhau trong cộng đồng, theo kế sách chia để trị.
Xin kể một chuyện có thật về tính đề cao cảnh giác, nhân vật chính là tôi.
Ra trường cầm quyết định của Bộ lên công tác tại tỉnh Hòa bình, tôi được ty phân công về bệnh viện tỉnh, nhưng chiến tranh leo thang, máy bay Mỹ hàng ngày bắn phá ác liệt thị xã, bệnh viện phải sơ tán vào rừng. Đang sống ở Hà Nội, nay chui ngay vào rừng sâu, đèn dầu nước suối, mở mắt núi cao trước mặt, xung quanh rừng xanh vắt muỗi, rắn rết, thú dữ. Chiều thứ Bảy của tuần thứ 2, buồn quá tôi theo xe bệnh viện ra thị xã cho khuây khỏa. Trên đường, tôi hỏi anh lái xe được biết ở thị xã chiều nào cũng có đổi tem gạo lấy bánh mỳ theo tỉ lệ 1 kg tem gạo đổi được 4 chiếc bánh mỳ 250 gr và phải trả 4 hào tiền công. Xuống xe ở trung tâm thị xã, trời xâm xẩm tối, tôi đi dọc theo đường quốc lộ 6 xuống ty lương thực, gặp một người đàn ông khoảng 45 tuổi, tôi lễ phép hỏi:
– Bác làm ơn cho tôi hỏi, chỗ đổi bánh mỳ ở đâu?
Người đàn ông này không trả lời, nhìn tôi từ đầu đến chân rồi lại từ chân lên đầu một cách rất chăm chú, buông ra một câu hỏi đầy nghi vấn:
– Anh ở đâu?
Hôm ấy tôi mặc bộ quần áo lính do thằng bạn cho, mũ cối mất chóp, chân di dép lê, trông thật khả nghi, trí thức chẳng ra trí thức, dân chẳng ra dân, lính chẳng ra lính. Thôi, thằng cha này nghi mình gián điệp nhẩy dù rồi. Được, cho tay này một bài học để chừa cái thói ai cũng là gián điệp. Tôi thủng thẳng:
– Tôi ở đây.
– Ở đây sao không biết chỗ?
– Ông này hay thật, không biết tôi mới hỏi, chứ biết tôi hỏi ông làm gì?
Nói xong tôi đi thẳng, đi được vài bước quay đầu lại, thấy ông ta đi theo. Được, đã thế cho mày chạy thi một mẻ. Tôi rảo bước như thể muốn lẩn trốn. Y lẵng nhẵng theo cách tôi khoảng 10 mét, rồi đột nhiên y rẽ vào một nhà ngay sát bên đường. Chỉ thoáng một lát có hai người đàn ông trong nhà theo ra đi rất nhanh về phía tôi. Thấy nhà ông trưởng ty y tế cách khoảng 30 mét, tôi quay đầu lại nhìn ba người như thể thách thức rồi cắm đầu chạy thục mạng. Họ chạy đuổi theo. Đến trước cửa nhà ông trưởng ty, tôi đứng lại lấy tư thế, rồi nói to:
– Cháu chào bác trưởng ty.
Ông đang ngồi uống nước và đang ghé sát tai vào chiếc đài Xionmao Trung Quốc ngay gian giữa, thấy tôi, ông ngửng lên, vẫy tay bảo:
– Cậu vào đây uống nước.
Tôi vừa ngồi xuống ghế, cả ba người kia cũng vừa chạy đến trước cửa. Vừa thở hổn hển vừa giương 6 cặp mắt đầy ngạc nhiên, vì không hiểu sao cái thằng giời đánh thánh vật kia lại chạy vào nhà ông trưởng ty y tế được! Trưởng ty tôi là người khá nổi tiếng, vì trước khi theo kháng chiến, ông mở trường tư thục nên cả thị xã ai cũng biết mặt biết tên. Thấy ba người vừa thở vừa chỉ chỉ chỏ chỏ, trưởng ty đi ra cửa hỏi:
– Có chuyện gì đấy các bác?
Người mà tôi gặp đầu tiên, lấy tay chỉ vào tôi ra ý hỏi.
Ông cười:
– Anh này chứ gì? Bác sĩ mới về nhận công tác đấy!
Ba người kia quay ra mắng nhau:
– Chỉ tại lão Minh khỉ gió này mới nên chuyện.
– Thì ai ngờ tay này nghịch thật.
Cả ba lủi thủi đi về. Là cựu hiệu trưởng, ông hiểu sự việc, đến gần rồi vỗ vào vai tôi, cười nhân hậu, bảo:
– Là cán bộ rồi đấy. Thôi trò quỷ sứ đi, anh bạn trẻ.”
Quản lí hộ khẩu đã củng cố địa vị độc tôn của chính quyền vô sản một cách có hiệu quả, chính vì thế dù ngày nay đã cởi mở, xóa bỏ thời kỳ ngăn sông cấm chợ, kinh tế tư bản đang phát triển, con người đã phần nào được cởi trói, nhưng nhà nước không bao giờ bỏ quản lí hộ khẩu cũng như không bao giờ bỏ điều 4 trong Hiến pháp.
Thời kỳ bao cấp thiếu thốn đủ thứ, kể cả giấy đi vệ sinh cũng tìm không ra, mua không có, chứ đừng nói những thứ cao siêu như sữa tắm, sữa gội đầu, các loại lotion dành cho phái đẹp bán đầy các cửa hàng, tung bao chiêu để dụ khách như bây giờ vẫn ế. Có nghĩa là có bất cứ cái gì dù second hand, third hand hay fourth hand… đều bán được hết. Cái thời có chiếc xe đạp cà tàng cũng phải lên đồn công an xin đăng kí, có chiếc đài thu thanh cũng phải lên ty sở bưu điện xin giấy mới được quyền sử dụng. Khi mở đài phải mở thật to để mọi người biết đang nghe gì, không phải vì khoe của, chớ có vì pin yếu, ghé sát tai vào đài mà nghe, chắc chắn được công an hỏi thăm liền. Nhẹ cảnh cáo, nặng tạm giam vài ngày và chiếc đài kia bị tịch thu. Nghe đài địch hả? Đài BBC phát thanh tiếng Việt tối phản động, nhất là tay Đỗ Văn giọng ngọt ngào, truyền cảm, ấm lắm, nhưng toàn phát những lời lẽ độc hại. Tôi có nghe trộm đài BBC từ năm 1960, đã lắm.
Hồi xưa, cộng sản Việt Nam ghét cay ghét đắng Đỗ Văn, thề tóm được sẽ trị cho ra bã! Không biết người ta đã tóm được bác chưa hay bây giờ đang trải thảm đỏ nồng nhiệt mời bác về mở vài” “cua” tiếng Anh cho con các cốp trước khi du học?
Thiếu thốn như thế đấy, ấy thế mà đồ đạc người Hoa bán ra bị chê ỉ chê eo, rất khó bán. Tìm hiểu, do kẻ xấu đồn thổi. Ai đồn thổi? Kế sách của Lê Duẩn? Chính quyền khu phố? Công an? Hay những người quá khích? Thực hư đến nay chưa có câu trả lời, nhưng những lời đồn ác độc này đã gây khốn đốn cho người Hoa rất nhiều trong thời kỳ ấy.
Lời đồn thổi nhanh như cơn lốc bay vào tai tất cả những người dân lao động Việt Nam từ thành phố đến tận các bản làng hẻo lánh, với nhiều lời ác ý và rất vô lý mà họ vẫn tin, như tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và chính phủ. Đồ đạc của của người Hoa rao bán được những kẻ xấu đồn thổi như sau:
– Chớ có mua, bọn Tàu thâm lắm, chúng bôi a-xít vào trước khi bán, mang về dùng chỉ có hỏng thôi, không những thế còn độc hại nữa! A-xít độc lắm đấy!
– Chớ có mua nhà của chúng, chúng chôn mìn ở dưới lòng nhà, mua vào có ngày nổ tung, chết cả nhà. Rẻ chả bõ, mạng người quý hơn chứ!
Căn nhà 2 tầng của gia đình bạn thân của ông chú tôi ở mặt đường rất tiện việc buôn bán ở Hàng Kênh, giá bét nhất cũng phải vài chục nghìn đồng. Tiền lương hồi ấy thấp lắm, bác sĩ, kỹ sư lương khởi điểm có 60 đ/tháng, ra trường làm việc 14-15 năm lương trong khoảng 70 đến 85 đ/tháng, thịt lợn mua chợ đen 20 đ/kg, gạo lên xuống bất thường nhưng cũng từ 22 đến 25 đ/10 kg. Ngôi nhà ấy có từ thời Pháp, ấy thế khi rao bán, bao nhiêu người đến xem ưng lắm, đồng ý mua với giá 10 ngàn (thuộc loại giá bèo), chả biết thế nào, hẹn đến chồng tiền nhưng 10 người hẹn thì đến 11 người đi mất hút.
Cuối cùng, sắp đến ngày thuyền nhổ neo, gia đình ông bạn chú tôi phải bán cho tay trưởng đồn công an khu phố ở sát vách với giá 1 ngàn 700 đồng! Thì ra tay cảnh sát này đe dọa tất cả, hễ ai đến mua nhà của ông Cảnh là đồng lõa, tiếp tay cho bọn phản động sẽ bị xử lí.
Đấy, chúng cướp không như thế đó!
Ngôi nhà này bây giờ có giá bèo nhất cũng phải 2000 đến 5000 Mỹ kim/ mét vuông chứ chẳng thấp hơn, trong khi đó diện tích không dưới 150 mét! Thảm chưa!
Như đã kể, sách tôi bán đắt hơn tôm tươi, hơn cả thịt bê mới thui, ấy thế mà mấy thứ đồ đạc như xe đạp, máy khâu, giường tủ bàn ghế, quạt điện, nồi niêu xoong chảo… rất khó bán.
Không biết sao, nhiều y bác sĩ trong bệnh viện biết chuyện tôi bán đồ bị ế, nên đã thì thầm với các cô y tá, hộ lí đang thiếu đồ đến nhà tôi để mua những thứ cần dùng. Thật may! Các anh chị đồng nghiệp đã ngầm cứu giúp tôi, mãi sau này tôi mới biết.
Thời buổi ấy, người ta không nhân tiện dậu đổ bìm leo, chó iả trèo là tốt lắm rồi, không những thế mà anh chị ấy còn giúp ngầm!
Nhân đây tôi xin thành thật cảm tạ tấm lòng nhân ái các anh chị đã dành cho gia đình tôi. Lãnh đạo Đảng và chính quyền bệnh viện mà biết cũng phiền! Vì thế so với nhiều người, tôi là diện may mắn lắm, tuy đồ đạc bán gần như cho làm kỉ niệm. Nghe tin về giá cả tiền đóng cho chủ thuyền, số tiền tôi có trong tay cũng hòm hòm để trả tiền thuyền cho cả nhà. Thế là chúng tôi đóng gói những gì có thể mang đi, số còn lại không bán được chuyển về quê vợ, gia đình tôi về Hải Phòng tìm thuyền đi Hong Kong như hàng ngàn người Hoa các tỉnh trên miền Bắc để đào tẩu!
Mời đọc tiếp: Chương [2] Lâm Hoàng Mạnh
|
|
|
Post by Huu Le on May 3, 2020 17:36:47 GMT 9
Chương 2: Chuyện nhà & Chuyện nước Posted: 26/02/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Lâm Hoàng Mạnh Tặng mợ và các con.
Sáng sớm ngày 9 tháng 4-1979, phòng tổ chức mời vợ tôi lên. Cuộc gặp mặt gồm Bùi Đình Phảng, bí thư đảng ủy, Nguyễn Đình Mão, phó bí thư kiêm bệnh viện phó, Nguyễn Gia Hòa, đảng ủy viên, trưởng phòng Tổ chức Hành chính cùng một số nhân viên Phạm Trọng Tới, Huỳnh Như Thùy, Giang Bình.
Sau vài lời rào đón, Nguyễn Đình Mão, phó bí thư kiêm phó giám đốc, bảo:
– Việt nam và Trung quốc đã xảy ra chiến sự. Chúng ta đang chống quân bá quyền, bành trướng Trung quốc. Chi là người Việt, nhưng chồng chị là người Hoa, chúng tôi đang giải quyết anh ấy nghỉ chế độ mất sức, còn chị muốn tiếp tục công tác, chị phải làm đơn ly dị và trả lại 3 cháu cho anh ấy, nộp cho chúng tôi.
Vợ tôi bàng hoàng, không thể tin vào miệng của kẻ tự nhận thay mặt đảng và lãnh đạo dám nói những điều bất nhân, bất nghĩa đến như vậy. Thấy vợ tôi im lặng, trưởng phòng tổ chức Nguyễn Gia Hòa an ủi:
– Chúng tôi muốn giúp đỡ, cho chị lối thoát chứ không có ý gì khác.
Huỳnh Như Thùy, nhân viên phòng tổ chức, nhắc:
– Chị nghĩ kỹ, đừng để mất cơ hội. Viết xong nộp cho tôi.
Chuyện này đã từng xảy ra ở bệnh viện tôi.
Năm 1967, Ty y tế Hòa bình có 6 y sĩ người Campuchia, trong đó có y sĩ Trần Bình, -tên Campuchia tôi không rõ-, ở Bệnh viện Chống Lao bên xóm Rè, xã Thịnh Lang, là bạn thân của tôi. Tháng 5-1970, Quốc Vương Norodom Sihanouk bị Lon Nol lật đổ trong khi viếng thăm Paris, chính phủ Việt Năm Dân Chủ Cộng Hòa đưa tất cả người Campuchia sống ở Bắc Việt hồi hương. Trần Bình về Campuchia nhưng vợ Trần Bình ở lại, làm việc tại bệnh viện.
Từ khi Trần Bình về nước, Nguyễn thị Thoa không nhận được một lá thư nào của chồng cũng như tiền trợ cấp nuôi con.
Năm 1977, biên giới Việt nam-Campuchia đụng độ, quan hệ hai nước căng thẳng, cuối năm 1977, lãnh đạo bệnh viện gọi Thoa lên văn phòng, bảo, “trả con cho Trần Bình, có người đưa sang Campuchia. Thoa có quyền ly hôn và tái giá.” Tôi là bạn thân duy nhất của vợ chồng Bình, Nguyễn thị Thoa đến nhà tôi vừa khóc vừa kể và hỏi ý kiến. Chuyện này chịu, tôi không thể đưa ra một lời khuyên, tùy Thoa lựa chọn.
Đột nhiên, xẩm tối ngày mồng 4 tết nguyên đán 1979, một đoàn ba xe ô-tô sang trọng biển số ngoại giao ghé thăm, đỗ chật sân bệnh viện. Ban lãnh đạo ra đón tiếp mời vào phòng khách.
Tất cả ngỡ ngàng, y sĩ Trần Bình, bây giờ là bác sĩ thứ trưởng Bộ Y tế Campuchia sang thăm hữu nghị Việt nam, nhân tiện ghé thăm Hòa Bình tìm vợ và con gái. Thoa nghe tin, hớt hơ hớt hải đến nhà tôi hỏi ý kiến. Thoa đã đi bước nữa, tình cảnh trớ trêu, nhưng biết làm sao, không phải lỗi của Thoa.
Thoa khóc, tôi bảo, “Mình cũng đang sống dở chết dở chuyện người Hoa, không thể giúp gì được. Bình bây giờ, thứ trưởng của Campuchia, không còn là Trần Bình ngày xưa nữa.”
Tuy Trần Bình tha thứ tất cả, Bình bảo với lãnh đạo bệnh viện, do hoàn cảnh chiến tranh, khuyên Thoa quay về hưởng cuộc sống đoàn tụ, an nhàn, sung sướng. Thoa không quay lại, trả bé Trần Thu Hoa cho chồng, yên phận với người chồng thứ hai, công nhân lâm nghiệp nghèo khổ.
Chuyện vợ chồng Bình-Thoa năm xưa, bây giờ lãnh đạo bệnh viện lập lại kịch bản với vợ tôi.
Nhà tôi uất lắm, trả lời vỗ mặt:
– Các anh muốn làm gì thì làm, tôi thà mất việc chứ không làm đơn bỏ chồng, bỏ con.
Nói xong, đùng đùng đứng dậy bỏ về chẳng thèm chào ai. Tuần trước, tôi đang nghỉ phép, cậu Phạm Trọng Tới đến nhà bảo:
– Mời ông sang bệnh viện, ông Hòa muốn gặp.
Đang dọn dẹp, tôi bảo:
– Ơ hay, tôi đang nghỉ phép cơ mà.
– Ông nghỉ bù ngày khác, ông Hòa đang cần gặp gấp.
– Có chuyện gì mà gấp.
– Tôi không biết.
– Thôi được, anh cứ về, tôi sẽ đến.
Đến phòng tổ chức, tôi hỏi:
– Có chuyện gì mà ông cho cò Tới đến mời tôi.
Phạm Trọng Tới có biệt danh cò Tới vì tính cách nịnh bợ cấp trên như tên cò mồi bến xe.
Ra vẻ tử tế, Nguyễn Gia Hòa rót chén nước, giơ tay chỉ vào chiếc ghế, bảo:
– Anh cứ ngồi uống nước đã, chúng tôi muốn nhờ anh khai lại lý lịch.
Vẫn đứng, tôi bảo:
– Tưởng gì, chứ lý lịch tôi bác sang phòng tỗ chức ty thiếu gì. Bác biết tôi đang nghỉ phép, nhỡ đi Hải phòng thì làm sao?
– Tôi biết anh đang ở nhà nên mới phiền.
– Thôi được, bác muốn gì, làm luôn đi.
Lão ta lấy tập giấy kẻ, cỡ A4 trong ngăn bàn, cầm bút, vừa hỏi vừa cắm cúi ghi ghi chép chép. Ngồi xuống ghế đối diện, tôi chửi thầm, “Đồ ngu, mày lừa thế nào được tao.” Hơn 2 giờ “hỏi cung”, y đưa tập giấy và bút bi cho tôi:
– Anh ký vào đây.
Tôi cười khẩy:
– Ông nghĩ tôi ngu đến mức ký vào tờ giấy này? Ký xong, chốc nữa ông viết thêm đủ thứ bậy bạ để tôi đi tù hả?
Mặt y đỏ bừng, bảo:
– Ơ hay, mấy tiếng đồng hồ của tôi mất công toi à?
– Đó là chuyện của ông. Ông biết, trình độ tôi hơn ông, chữ tôi đẹp hơn chữ ông. Tôi có mù chữ đâu mà cần ông viết hộ.
Tôi giằn giọng:
– Xin lỗi nhé, cái trò của ông rẻ tiền lắm.
Đứng lên, bước ra khỏi cửa, huýt sáo, ngoái đầu lại, giọng khinh bạc, tôi bảo:
– Tôi sẽ nghỉ thêm nửa ngày nữa đấy.
Cả bệnh viện đồn ầm chuyện này, ai cũng chê Nguyễn Gia Hòa ngu, giở trò khốn kiếp, khen tôi “rất cảnh giác.” Tình huống gấp rồi, gia đình tôi không còn chỗ dung thân. Tôi buộc phải làm đơn thôi việc, nghỉ theo chế độ mất sức, đang chờ thủ tục. Vợ tôi cũng có thể bị thôi việc bất cứ lúc nào.
Mấy tháng nay, thị xã Hòa bình, mọi người đồn ầm tin khủng khiếp, chính phủ đưa tất cả người Hoa vào khu tập trung ở tỉnh Lâm-đồng khỏi làm nội ứng cho quân Trung quốc xâm lược.
Ngay tối hôm ấy, bác sĩ Nguyễn Đức An, giám đốc bệnh viện đến nhà tôi, nói nhỏ, “Ông bà nên đi Hong Kong”. Chúng tôi biết nhau từ năm 1965 khi anh là trưởng khoa ngoại.
Tôi hiểu, anh ở thế kẹt, không thể giúp gì được, dù anh đang giữ chức giám đốc. Lời góp ý của anh xuất phát chân thành của người bạn, người anh.
Hai hôm sau, bác sĩ Vũ Như Đắc trưởng khoa ngoại, bác sĩ Đỗ Bình Dương trưởng khoa sản, ghé thăm, nửa nạc nửa mỡ, bảo, “còn chờ gì nữa, người Hoa ở Hà nội đua nhau đi Hong Kong ầm ầm.”
Năm 2004, đến thăm bác sĩ Nguyễn Đức An, đã về hưu, ở Hà nội, tôi hỏi, “Vì sao lãnh đạo các anh lại đối xử cạn tàu ráo máng với chúng tôi thế?” Anh bảo, chủ trương của tỉnh ủy, anh không thể giúp gì được.
Lạ thật, tôi chỉ là một công chức quèn, tại sao tỉnh ủy lại có chủ trương triệt hại gia đình tôi? PhảI chăng họ chấp hành nghiêm túc chỉ thị của trung ương đảng, của Lê Duẩn xua đuổi bài xích người Việt gốc Hoa dù chỉ là người dân lao động hay cán sự quèn?
Vợ chồng tôi quyết định đi Hong Kong, không thể ở lại được nữa, gấp lắm rồi. Nhưng phải giữ bí mật tuyệt đối kể cả với gia đình vợ, bởi vì những chuyện đau lòng đã xảy ra với gia đình anh Cao Toàn Phương và Chu Ứng Tường, người Hoa ở thị xã, dạy tôi bài học cảnh giác, bí mật với tất cả mọi người xung quanh.
Hai anh Cao Toàn Phương và Chu Ứng Tường đều là lái xe lâu năm của Công Ty Vận Tải Hòa Bình. Cả hai buộc phải nghỉ mất sức. Anh Phương tuyên bố sẽ đi Canada vì có bà con bên đó. Anh Chu Ứng Tường bảo, đến Hong Kong sẽ xin đi Mỹ.
Tin hai anh xin định cư Mỹ và Canada đồn ầm thị xã. Lập tức công an, chính quyền khu phố gây phản ứng. Đầu tiên, tên phó đồn công an đến nhà, đe: “Từ nay, anh chị đi khỏi khu vực phải trình báo.” Tự nhiên gia đình anh bị quản thúc, khu phố theo dõi 24/24.
Nhà cửa, đồ đạc giường, tủ, xe đạp, máy thu thanh…. bán không ai mua, ai cũng sợ mua đồ người Hoa. Trong khi đó cha mẹ, anh em nhà vợ nghe tin, từ quê lên chia tay, ở lỳ vài tuần, người xin xe đạp, người xin chiếc tủ… làm kỷ niệm. Đồ đạc chẳng còn gì bán để trang trải tiền thuyền. Có nghĩa, các anh chỉ có con đường duy nhất, ra đi với hai bàn tay trắng. Không có tiền nộp, chủ thuyền nào cho đi nhờ.
Đến thăm các anh, tôi hiểu rõ thảm cảnh của gia đình, vì thế vợ chồng tôi quyết giữ bí mật đến giờ phút cuối. Gia đình anh Chu Ứng Tường kẹt lại, không đi được, vì không đủ tiền.
Năm 2004 tôi đến thăm anh.
Kể chuyện cũ, anh thở dài, bảo, “mình chết kẹt chỉ tại cái mồm.” Còn tôi tung tin nghỉ mất sức, chuyển về quê vợ sau khi có sổ trợ cấp.
Sáng sớm ngày thứ Bẩy 26-4-1979 sau khi bán gần hết sách vở và đồ đạc, tôi đưa vợ và 3 đứa con ra bến xe đi Hà-nội cùng lá thư và địa chỉ gia đình nhà chị Chương hẹn chiều mai tôi sẽ đến đón.
Thu dọn nốt những thứ lặt vặt, đóng vào 3 chiếc hòm gỗ, gửi hàng xóm. Mọi chuyện coi như xong, gần 2 giờ chiều tôi lên phòng Tổ chức, gặp ngay Giang Bình cán sự hành chính đang hút thuốc lào. Tôi nói:
– Bác cho tôi giấy giới thiệu lên đồn công an cắt hộ khẩu.
Rít xong một hơi thuốc, phả làn khói xanh qua hàng răng vàng ố, mở ngăn kéo, lấy sổ giấy giới thiệu, lão cầm bút nắn nót, chậm rãi viết như học trò cấp I, tôi bảo:
– Bác cứ ghi, cắt hộ khẩu theo đơn xin di chuyển.
Lão không ngờ đấy là trò lừa, đơn di chuyển của tôi xin đi Hong Kong, đâu có về quê vợ như lão vẫn tưởng. Cầm tờ giấy giới thiệu: Cắt hộ khẩu theo đơn di chuyển, tôi mừng vô hạn. Nhưng chưa xong, còn việc nữa, làm sao lấy giấy cắt hộ khẩu đi Hong Kong ở đồn công an thị xã mà bệnh viện không biết, dù có biết, phải hết giờ làm việc, tránh lôi thôi, khó dễ.
Từ đầu năm 1979, chính phủ Việt nam có văn bản chính thức cho phép người Hoa đi nước ngoài, thành phố đông người Hoa như Hà-nội, Hải-phòng, Nam Định, Quảng Ninh… ai cũng biết, riêng tỉnh Hòa Bình không ai dám bàn tán công khai.
Tôi được gia đình ông chú ở Hải phòng gửi cho, vẫn dấu kín, giờ có giấy giới thiệu trong tay, tôi cầm theo thông tư đó, đến đồn công an kèm đơn xin đi Hong Kong. Tôi đứng vơ vẩn ngay sát chợ Phương Lâm gần đồn thị xã chờ cuối giờ làm việc.
Nhìn đồng hồ tay, 5 giờ kém 15 phút, tôi bước vào. Người sĩ quan công an phụ trách thường trực hôm ấy, thiếu úy Bùi thị Mến đang thu dọn hồ sơ chuẩn bị nghỉ, sắp hết giờ làm việc.
Sau khi nghe tôi trình bày và đưa giấy giới thiệu, đơn xin đi Hong Kong, thiếu úy Bùi thị Mến nghẹn ngào, nói:
– Chắc anh không nhớ, chứ em quên ơn anh sao được. Cách đây 4 năm, nửa đêm anh và bác sĩ Dương đã đi xe cấp cứu về bệnh viện Tân Lạc mổ đẻ cứu mẹ con em.
Mừng quá, gặp quý nhân phù trợ còn gì nữa!
Tôi vui lắm, bảo:
– Thôi bây giờ đến lượt em giúp anh chị và các cháu, anh cũng không bao giờ quên ơn này của em.
Mắt thiếu úy Mến ngấn lệ:
– Vâng, em sẽ giúp.
Cô lấy tập giấy chuyển hộ khẩu, vừa viết vừa nói:
– Đây là chủ trương của đảng và chính phủ, chúng em chả biết làm thế nào, có phải người Hoa nào cũng phản động đâu.
Đưa cho tôi tờ giấy, cô bảo:
– Anh phải thu xếp đi ngay, hết giờ em phải báo cáo ty, họ sẽ cử người đến bệnh viện khám nhà đấy.
Bắt tay tôi bằng cả 2 bàn tay, nghẹn ngào cô nói:
– Chúc anh chị và các cháu lên đường bình an, may mắn.
Mắt tôi cũng ngấn lệ, mũi cay xè, tôi xiết chặt tay cô, cám ơn rồi vội vã ra cửa.
Căn nhà trong khu tập thể tôi bán rẻ gần như cho không, có 300 đồng, từ mấy hôm trước cho Nguyễn Văn Đức, nhân viên nhà giặt, hẹn Chủ nhật giao.
Tôi về lấy chiếc ba-lô, túi xách, khóa cửa hờ không ai biết. Vừa rẽ vào ngõ Gốc Gạo, phường Đồng Tiến, tôi nhìn thấy chiếc xe công an từ thị xã phóng nhanh về phía bệnh viện.
Tôi đến nhà anh bạn thân, Nguyễn Văn Vân, giáo viên trường trung cấp sư phạm tỉnh. Hôm trước, tôi bán cho anh chiếc vô tuyến đen trắng 15 inch, bằng nửa giá làm kỷ niệm, hẹn đêm nay nghỉ nhờ để sáng sau đi Hải-phòng sớm. Bỏ ba-lô, túi xách xuống, tôi bảo anh đến nhà gỡ cần ăng-ten nhân tiện thăm dò hộ tôi.
Gần 2 giờ sau, anh về, bảo, cả bệnh viện nhốn nháo tôi xin đi Hong Kong, vợ chồng tôi ghê thật, bí mật hơn gián điệp. Hai sĩ quan công an đến bệnh viện họp với lãnh đạo.
Người trong khu tập thể bệnh viện, trường y tế đổ sang vây kín, bàn tán, đồn thổi đủ thứ tin xấu xa.
Tôi bỗng nhiên trở thành trung tá đặc vụ nhị trùng của Mỹ và Trung quốc nằm vùng, phụ trách đường 6 mấy chục năm không ai biết, kể cả ty công an. Tôi, kẻ địch thật nguy hiểm chui trong hàng ngũ y bác sĩ bệnh viện, ty y tế.
Ghê gớm chưa! Khủng khiếp chưa!
Người mua nhà của tôi không được nhận nhà dù có giấy viết tay, Nguyễn Đình Mão tuyên bố, tịch thu xung công quỹ. Nguyễn văn Đức mất tiền, ai bảo dại mua đồ người Hoa.
Đức không chịu thua, tịch thu ngay đôi thùng gánh nước bằng inox, vỏ thùng nhiên liệu máy bay Mỹ, một số đồ đạc bán ế tôi cho gia đình vợ gửi nhà hàng xóm.
Sáng sớm hôm sau tôi về Hải phòng đón vợ con tìm thuyền đi Hong Kong.
Về đến Hải Phòng mới thấy lãnh đạo nhiều cơ quan đoàn thể, anh em đồng nghiệp người Việt không nơi nào đối xử tàn nhẫn, đê tiện, khốn nạn với người Hoa như bệnh viện tôi. Trước khi phải thôi việc, lên thuyền đi Hong Kong, bạn bè cùng cơ quan, xí nghiệp có cuộc chia tay tiễn biệt thật cảm động, chẳng ai phải lẩn lút, lừa đảo lấy giấy cắt hộ khẩu như tôi.
Phải chăng ở Hải phòng dân số người Hoa có tới vài vạn, còn tỉnh Hòa Bình chỉ có 26 gia đình trơ trọi trước bọn mãnh thú đội lốt người, tác yêu tác quái thế nào chúng tôi cũng phải chịu.
Mời đọc tiếp: Chương [3a]
Lâm Hoàng Mạnh
|
|
|
Post by Huu Le on May 3, 2020 17:38:51 GMT 9
Chương 3a: Hải-phòng, những ngày cuối Posted: 02/03/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Lâm Hoàng Mạnh Tặng mợ và các con.
Người Hoa khắp nơi đổ về Hải Phòng như trẩy hội Chùa Hương, như có đại hội người Việt gốc Hoa miền Bắc không bằng.
Bến Tam Bạc, người đông như kiến và cũng đủ các loại thuyền đánh cá của các hợp tác xã đã quá cũ được thanh lý, thứ đồ thải không dùng, đem ra bán cho người Hoa làm thuyền vượt biển.
Thuyền nhiều như lá tre, đỗ chật bến, mạn thuyền nọ sát mạn thuyền kia, bước sang nhau dễ như đi trên đất liền.
Đông người như thế, vấn đề nhà trọ là điều rất khó khăn, trong khi đó Hải Phòng ít nhà trọ, còn hotel hầu như không có. Đi đâu cũng thấy người giải chiếu nằm la liệt khắp vỉa hè, gốc cây, vườn hoa, nhà thờ, đình chùa miếu mạo. Nghĩa là chỗ nào có thể trải chiếu xuống được là trải liền, miễn sao có chỗ ngồi, chỗ ngả lưng cho mẹ già, cho đàn con nheo nhóc và cho chính bản thân mình.
Hải Phòng nhốn nháo. Hải Phòng lộn xộn!
Hải Phòng nhếch nhách bẩn thỉu, hôi thối.
Các gốc cây đầy nước tiểu và phân người, vỉa hè, đường phố ngập ngụa rác bẩn, chẳng khác gì năm 1954, người các tỉnh đổ về Hải Phòng chờ tầu há mồm đến đón người theo đạo Thiên Chúa di cư vì tin đồn Chúa Giê-Su đã vào Nam vậy.
Vợ tôi và đàn con về trước. Tôi dặn đến nhà chị Chương ngủ nhờ một tối, mai tôi về sẽ tính sau. Gia đình chú thím tôi đã đi Hong Kong từ tháng Tư, sau khi ông chú thứ hai viết thư hỏi có đi không, tôi vẫn chưa quyết định dứt khoát, còn luyến tiếc Việt Nam lắm.
Chị Chương là con nuôi bác gái họ – con chị ruột bà nội tôi- ở Cát Dài. Ai ngờ gần 7 giờ tối, thấy vợ và đàn con tôi đến, anh chị đón tiếp rất lạnh nhạt, chẳng thèm hỏi xem đi đường ra sao, các cháu ăn uống gì chưa.
Khi thấy vợ tôi ngỏ lời xin tá túc một đêm để chờ tôi, cả nhà chị ta phản đối ra mặt, dứt khoát không nghe. Tôi biết vợ tôi chẳng thông thuộc đường phố Hải Phòng cho nên mới dặn đến ở nhờ. Vả lại giữa chị ta và gia đình tôi kể ra cũng khá thân thuộc. Vậy chị ta là ai? Trong lúc nước sôi lửa bỏng ai cũng tránh mặt người Hoa, sao tôi lại bảo vợ con về đó ngủ nhờ một đêm, gây phiền hà như vậy?
Xin thưa, chuyện rất dài dòng về mối quan hệ và lý do khiến tôi có thể phiền đến gia đình chị với ý nghĩ chị phải vui vẻ chấp nhận.
Trận đói tháng 3 năm Ất Dậu 1945, gia đình ông bà nộI tôi mở hiệu thuốc Bắc, khá giả nên đã nấu cháo phát chẩn cho những người đói, nhưng dường như được gần 10 ngày thì hết khả năng, vì gạo quá đắt và khó mua. Mỗi ngày phát chẩn một nồi 30 cháo hoa. Phát vào buổi trưa. Thời bấy giờ nồi thường bằng đồng, để dễ tính, người ta gọi nồi 5, nồi 10 hay nồi 30, có nghĩa là nấu cơm bằng nồi đó, số người ăn (no) trong bữa cơm sẽ là 5, là 10 hay 30. Nồi 30 là loại nồi đồng gần như to nhất mà ông tôi thường dùng để nấu cao xương. Ngày nào cũng nấu một nồi, phát hết thì thôi. Ngày mai phát tiếp. Đến ngày thứ tư, có hai mẹ con người đàn bà quần áo rách như tổ đìa, đứa con gái khoảng 14 tuổi, cả hai gầy nhom mang theo chiếc nồi đất nhỏ đến xin cháo. Cô tôi múc cháo vào nồi, người mẹ run run cảm ơn và đỡ lấy nhưng không đủ sức nữa, ngã lăn xuống đất chết. Đứa bé ôm mẹ khóc không nên lời, tất cả mọi người đều ái ngại, nhưng chẳng biết làm gì. Cảnh người chết đói diễn ra hàng ngày, chỗ nào chẳng có, cho nên thương là thương vậy chứ biết làm sao. Người ta chết trước cửa nhà mình, con gái người ta không biết sẽ đi đâu, sống ra sao.
Bà tôi an ủi đứa bé, hỏi nó xem thân nhân còn ai không. Nó chỉ biết lắc đầu trong nước mắt cùng tiếng nấc.
Hồi ấy, chết đói đầy đường, có đội xe bò của nhà nước nhặt xác người chết đem đi chôn tập thể. Đứa bé đó cố lê theo chiếc xe bò chở xác, nhưng rồi cũng mệt quá đành chịu. Thấy cảnh thật đáng thương, cô tôi bảo với bà tôi, hay nhận nó về làm con nuôi chị Bê. để trông con cho chị. Bà tôi vẫn còn lưỡng lự chưa quyết vì không biết vợ chồng chị Bê có nhận hay không. Cô tôi bảo, nếu chị Bê không nhận, má nhận nó làm con nuôi vậy. Chẳng biết bà tôi nghĩ gì nhưng đã nhận cô bé đó. Thế là từ hôm ấy, cô bé sống trong nhà tôi. Rất may, chỉ sau gần một tuần vợ chồng chị Bê từ Hà Nội xuống, đồng ý nhận cô bé làm con nuôi, đúng nghĩa ra là con ở.
Năm 1953, cô bé đã trưởng thành, hai bác tôi đã gả chồng cho chị và cấp cho chút vốn, coi như tiền công 8 năm, để buôn bán. Chị theo chồng về Hải Phòng. Từ đó chị coi gia đình tôi là ân nhân, là chỗ thân tình. Tôi gọi chị là chị Chương, còn chị gọi tôi là cậu, thân mật như là ruột thịt. Giỗ Tết vợ chồng chị vẫn đến nhà thắp hương và ăn cỗ.
Vợ tôi tức lắm, ứa nước mắt, nói vã bọt mép, gần như lạy chị miễn sao cho đàn con tá túc một đêm thôi, sáng mai dù tôi không về kịp cũng xin tìm nhà trọ chứ không dám phiền thêm. Vợ tôi giãi bày, đêm hôm thế này, đường phố không thuộc, họ mạc đã đi Hong Kong hết, đàn con nhỏ biết ngủ đâu, mai chồng về biết đâu mà tìm. Anh chồng xem ra thấy đuổi vợ con tôi ác quá nên buộc lòng chấp nhận, nhưng với điều kiện, ngày mai dù chồng về hay không về, vợ con tôi phải đi tìm chỗ trọ khác. Vợ tôi gạt nước mắt, chấp nhận.
Sau khi ăn xong phở, rửa qua loa cho các con và xin mượn một chiếc chiếu đôi cũ, trải xuống nền nhà xi măng, mấy mẹ con ôm nhau ngủ một mạch đến sáng.
Đúng như dự tính, tôi về đến nhà chị Chương gần một giờ chiều. Nghe vợ tố khổ, tôi uất lắm, nhưng vẫn cám ơn anh chị đã giúp nhà tôi và các cháu được tá túc một đêm, rồi gọi xích lô đến nhà trọ ở phố Cát Cụt gần phía ngã 3 đường Trần Phú cách bến Tam Bạc không xa.
Chị Chương đã chết trong lòng tôi từ hôm 30-4-1979. Ấy thế, năm 1988, không hiểu vợ chồng chị mò đâu ra được địa chỉ chú tôi, viết thư sang nài nỉ ông bà xin rủ lòng thương, làm giấy bảo lãnh cho hai đứa con gái đang bị nhốt ở trại cấm Hong Kong, nếu không sẽ phải đuổi về! Cả họ chúng tôi không ai trả lời.
Chủ trọ là mụ góa khoảng 50, không con không cháu, nét mặt khó đăm đăm, hễ mở miệng là ầm ầm như thể chửi cha người ta. Tuy thế, mụ có căn nhà khá rộng và mở quán trọ bình dân từ bao giờ tôi chẳng rõ, nhưng phải nói khá lâu, nếu như không nói, rất lâu. Có tất cả 3 phòng cho thuê, gọi là phòng cho oai, thực ra mụ ta kê mỗi buồng hai cái phản đôi, nước mồ hôi, ghét của hàng ngàn khách trọ đã làm màu gỗ mặt phản lên nước đen bóng màu gụ và chiếc màn chung hôi xì, đen xỉn màu bồ hóng. Mụ không tính phòng mà tính đầu người, bình quân lớn nhỏ 1 đồng/ngày đêm, nhưng cấm nấu nướng, cấm tắm giặt. Thuê trọ để nghỉ ngơi và ngủ, mà ngủ đêm tối kị hai vợ chồng son chung một phản.
Không thuê thì cút, già này không cần!
Chán vạn đứa đang van xin tao kia mà tao còn chưa thèm nhận. Chúng bay được ở đây là phúc tổ 70 đời rồi đó con. Ngủ ngoài đường, chỉ một đêm, đồ đạc sẽ bị cướp sạch. Khôn hồn biết điều, đừng có kêu ca phàn nàn đắt rẻ, bà mà nổi máu tam bành đuổi ráo.
Quân Tàu-ô sắp chết đến đít còn lắm chuyện.
Thế đấy!
Lấy tiền người ta chửi xơi xơi vào mặt. Vậy mà phải chịu cắm tăm! Mụ nói có lý, ngủ ngoài đường ngoài chợ, vợ chồng con cái thay nhau thức cả đêm trông đồ, mệt quá, nhỡ ngủ gật, bọn trộm, bọn xấu lấy hết đồ đạc tiền nong, chỉ có con đường ôm nhau nhảy xuống sông!
Tôi may mắn đến gặp mụ đúng vào lúc cả 3 phòng đều hết khách vì thuyền họ vừa nhổ neo chiều qua. Khi tôi hỏi, mụ cũng lại nhắc đúng bài ca mụ thuộc lòng cho vợ chồng tôi như đã từng diễn thuyết hàng chục lần bài diễn văn khó lọt tai này. Nghe xong, nhìn mụ từ đầu đến chân rồi lại từ chân đến đầu, tôi biết mụ này rắn lắm và rất quỷ quyệt cho nên không thể cãi lí với mụ, tôi đành đánh vào tình cảm, nói ngọt. Tôi viện lí do, các con tôi bé quá, ngày nắng không sao, chứ ngày mưa không thể cả nhà bồng bế nhau ra Chợ Sắt ăn ngày 2, 3 lần được. Thôi, bà đã thương thì thương cho chót, chúng tôi xin trả thêm mỗi ngày 1 đồng để bà cho phép nấu cơm ở đây – tôi mua một chiếc bếp dầu hỏa- và xin hứa sẽ giữ vệ sinh, nấu xong sẽ quét dọn sạch sẽ. Còn tắm rửa giặt giũ không dám phiền bà, chúng tôi ra nhà tắm công cộng. Bà ta cao giọng, hỉ hả bảo, nói như anh chị còn nghe được -trả thêm 1 đồng- vả lại tuy thế nhưng tôi cũng hay thương người. Thôi được, tôi đồng ý, nhưng ai hỏi, anh phải bảo, vợ anh là người cùng làng nên mới ưu tiên. Nghe rõ chưa?
Thế là xong khoản chỗ ngủ.
Bây giờ là chuyện tìm thuyền.
Không có máu cờ bạc, tôi không dại gì mang mạng sống của tôi, của vợ con ra cá cược với các chủ thuyền, cả đời chưa biết họ là ai. Nhất là mùa mưa bão ở miền Bắc thường bắt đầu từ tháng Năm kéo dài cho đến tháng Mười dương lịch. Thời gian này là thời kỳ nhiều bão, mà dự báo thời tiết của Nha Khí tượng Việt Nam toàn trật lấc. Chủ thuyền, cò thuyền nói như khướu, ai biết thật hay giả, hay ba hoa bốc phét lừa người nhẹ dạ cả tin. Cho nên tôi phải tìm hiểu thật kỹ về giá cả, chất lượng thuyền như trọng tải, xem ván thuyền dày hay mỏng, đã mục chưa, nếu có máy thì bao nhiêu mã lực, chạy buồm thì mấy cánh, tài cống là người ở đâu… có nghĩa là tôi “quái” hơn rất nhiều bà con người Hoa. Biết mà không dám nói thật nếu ai tò mò hỏi, bởi tôi không muốn bị ăn đòn của bọn cò thuyền ma cô.
Ai đã từng một lần đi tìm thuyền không thể quên những lời đường mật của cò và chủ thuyền. Chúng tôi là kẻ tứ xứ, chân ướt chân ráo lại mù tịt về chuyện thuyền bè, ai cũng muốn biến ngay khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt, cho nên nếu không cẩn thận, cả tin tiêu đời liền. Tôi xin kể những cò và chủ thuyền nói với tôi.
– Anh/chú, yên tâm đi, thuyền tôi đảm bảo lắm.
– Ấy, tài công rất nhiều kinh nghiệm.
– Thuyền tôi tuy không có máy, nhưng buồm tốt lắm, chồng tôi là chủ nhiệm hợp tác xã đánh cá đấy.
– Giá của chúng tôi thế là mềm nhất, không tin cứ đi khảo giá đi.
Tôi xin kể một chuyện có thật tưởng như chuyện tiếu lâm, cổ tích. Sau khi đến Bắc Hải được 3 ngày, chúng tôi nhìn thấy một chiếc thuyền buồm được tầu hải quân Trung Quốc kéo vào bến.
Lên được bờ, tất cả bà con xúm lại đánh hội đồng gia đình chủ thuyền kiêm tài công. Cả nhà 6 người quỳ xuống vái như tế sao, cũng chẳng làm bà con hạ cơn ức. Tí nữa toi mạng. Miệng vợ chồng nó nói ngon nói ngọt, xơn xớt. Không có tầu cứu chắc họ chết.
Tôi đến xem, ôi thôi chính con vợ chủ thuyền này nói với tôi: “Thuyền nhà tôi tuy không có máy…”
Bà con vạch tội vợ chồng chủ thuyền tự nhận dân đánh cá Quảng Ninh nay muốn đi Hong Kong nhưng kẹt không đủ tiền trả cho hợp tác xã, nên nhận thêm bà con đồng hương đi cùng để trang trải. Chiếc thuyền buồm 2 cánh, trọng tải hơn chục tấn, nhận tất cả 70 người, ai ngờ sau khi tàu kéo hải quan Việt Nam cắt dây ở phao số 0 và cũng nghỉ lại một đêm ở Đảo Ngọc. Tờ mờ sáng hôm sau căng buồm ra khơi là đối mặt với tai họa. Hôm ấy tuy trời quang mây tạnh nhưng không có gió, tài công rởm, hơn 2 tiếng đồng hồ thuyền cứ chạy vòng tròn. Chuyện tức cười là cả nhà chủ thuyền kiêm tài công say sóng trước, nôn thốc nôn tháo, nằm lăn chiêng ra sàn thuyền. Bà con định quẳng cả 6 người nhà chủ thuyền xuống biển. Trên thuyền gần như nổi loạn vì cái chết cầm chắc trong tay, người lớn trẻ em đều la khóc. Trời cao vời vợi, biển rộng mênh mông, kêu gào cầu cứu sao thấu. May có vợ chồng A Sềnh -A Thành- trước theo thuyền buôn muối nên cũng biết chút đỉnh. May hơn nữa, 3 ngày trời đẹp không mưa không giông bão nên không đắm. Tầu hải quân chắc nhìn qua ống nhòm nên đã đến cứu trợ.
Cả nhà chủ thuyền xin tha mạng, biếu thuyền cho bà con, “nôn” hơn 30 lạng vàng trả lại. Chúng xin hồi hương. Hôm sau, công an Bắc Hải cho xe tải chở gia đình về nông trường. Vợ chồng tôi hú vía, tí nữa cũng kềnh.
Đi đến một thuyền đang có thợ hàn cánh quạt tầu thủy, nhìn những mối hàn, biết ngay thợ mới vào nghề. Mối hàn phải chồng đều lên nhau như từng lớp vẩy cá, vẩy tê-tê mới đạt kỹ thuật, đằng này mối hàn nham nhở, có chỗ chưa kín. Tôi tự hỏi không biết ra khơi có bị vỡ không. Nhưng tôi nghĩ còn hơn thuyền chỉ có buồm. Tôi hỏi thăm, người ta bảo thuyền của lão Ké và chỉ cho tôi đường tìm nhà lão. Ké theo như dân Lạng Sơn giải thích, là tiếng Thổ chứ không phải tiếng Quảng, dịch nghĩa chính xác rất khó, đại để hiểu nôm na, có gì “cho ké”, “chung” một tí. Còn tên thật tôi không biết. Lão là chủ nhiệm hợp tác xã xe bò khu An Dương, nghe đâu khá to, có đến hơn 20 chiếc, quân số trên dưới năm sáu chục người. Một chiếc xe bò tối thiểu 3 người, một người bò – cầm càng xe kéo – 2 người đi sau đẩy.
Tức tốc tôi đến nhà lão.
Nhà đông ơi là đông, toàn người Hoa từ Lạng Sơn xuống tìm lão. Tôi đến đúng lúc lão đang nhắm rượu. Nghe tôi trình bày, chắc cao hứng vì có men nên lão gật đầu liền. Vì người ta dặn, lão chỉ nhận người Lạng Sơn còn dân tỉnh khác dù nói sùi bọt mép cũng chẳng ăn thua gì đâu. Tôi hỏi giá cả, lão gạt phắt, giúp nhau là chính, đâu có phải buôn người, khi nào thuyền xong, mua hết đồ ăn và các thứ cần thiết sẽ tính bổ đầu từng gia đình. Còn mua bán, sửa chữa đến đâu lão sẽ yêu cầu mỗi chủ hộ góp dần. Nghe đã khúc ruột.
Nhưng thực ra có tên người nhà gặp riêng từng người ra giá. Bóp được bao nhiêu thì bóp, lão chẳng tha, vì vậy chẳng có giá nhất định, thu mỗi người khác nhau.
Nhà lúc nào cũng có vài chục người, trẻ con khóc như ri, sốt cả ruột, đau cả đầu. Đã thế thằng người nhà của lão viết tên từng chủ hộ vào bản “Đơn xin đi nước ngoài” do Ban Ngoại kiều của Sở Công an Hải Phòng cấp, vừa viết vừa đánh vần. Trong khi tầu biển “Trung Hoa vĩ đại” cứ rập rình ngoài phao số không, sẽ cập bến Hải Phòng sớm đón đồng bào hồi hương, gần 3 tuần nay vẫn cứ nói chứ không làm.
Đài phát thanh của cả hai bên lại được dịp tố cáo lẫn nhau, nước nào cũng cố chứng minh là thương dân.
Chửi nhau ngang hàng tôm hàng cá trên mọi phương tiện truyền thông! Chẳng biết có bài học thứ hai nữa không, cứ như mèo vờn chuột trên đài phát thanh cả hai nước, như chuẩn bị choảng nhau đến nơi.
Tình hình này không chuồn nhanh, tiền trong túi chi tiêu như thế này -tiền trọ, tiền ăn, tiền tắm giặt… đủ thứ bà dằm- vài tháng thì hết, chết là cái chắc! Tôi thấy thế, xung phong làm thư ký không lương cho lão Ké. Tưởng lão sẽ gật đầu sái cổ, ai ngờ lão gạt đi không cần. Bởi vì thu tiền thuyền, lão kín lắm, chẳng cho ai biết thu ai bao nhiêu, người nhiều người ít. Thư kí là chỗ thân cận tay chân, không biết nhiều cũng biết chút chút. Lão không ưng, không tin người lạ. Hơn nữa tất cả chủ thuyền đều có mối làm ăn riêng với công an, biến người Việt thành người Hoa. Thế mới kiếm chứ! Võ này trúng mánh nhiều, hơn đứt chuyện minh bạch kia, nên lão đâu có tin tôi. Không ngờ bà con Lạng Sơn kéo xuống rất đông. Biên giới đóng cửa, phải chạy đường biển. Lão mua thêm một thuyền nữa. Lúc này, thấy thằng tay sai làm chậm quá, bảo tôi làm thư kí điền đơn cho bà con giúp lão. Lão hứa riêng, bí mật, sẽ lấy tôi nửa số tiền đã thỏa thuận do giúp lão. Tôi thấy tiện cả đôi đường, vừa chóng nhổ neo lại dành được chút vốn có thể mua vàng cho vợ dắt cạp quần, khi cần có cái bán đi mà đút vào miệng cả nhà ở nơi đất khách quê người.
Được hơn 10 ngày, danh sách hai thuyền đã điền xong, tôi bảo lão lên Ban Ngoại kiều nộp hồ sơ. Theo quy định, có 2 bản, một bản nộp trước, bản giữ lại khi xuống thuyền nộp cho công an đọc lệnh xuất cảnh. Lão bảo chưa vội, bà con còn nhiều người muốn đi, phải mua thuyền nữa. Ai lại bỏ đồng hương thế sao đành!
Trời ơi! Chạy loạn mà cứ như đi du lịch! Tôi nghĩ lão này tham quá, kẹt lại là cái chắc, kẹt là chết.
bvdtn-hinh-7
Vì vậy, tôi xin lại 2 cây vàng tôi nộp trước, đi tìm thuyền khác. Bến Tam Bạc mấy tuần trước đông là thế, nay chỉ còn hơn chục chiếc, người thưa hẳn.
Chết thật rồi! Tôi nháo nhào đi tìm thuyền, chẳng còn tâm trạng nào kén với chọn. Hung tin đang dồn dập, khả năng sẽ đóng đường biển, không cho xuất cảnh. Như đã đóng đường bộ.
Đầu tháng Sáu, nửa đêm hàng chục xe tải bịt kín đi hốt tất cả gia đình người Hoa nằm đường nằm chợ. Sáng hôm sau, tôi từ nhà trọ ra bến tìm thuyền được biết tin khủng khiếp ấy. Lại thêm tin đồn, chẳng biết thực hư ra sao là tin tức và ảnh chụp người Hoa nằm vật vờ, đầu đường xó chợ bị gián điệp chuyển ra nước ngoài. Nước Việt Nam đang bị báo chí toàn thế giới chửi cho mất mặt. Nào bức tử bà con miền Nam có thân nhân là sĩ quan binh lính VNCH phải đi cải tạo, thương nhân bị tịch thu tài sản, bắt đi vùng kinh tế mới, nay lại bức tử người Hoa. Người Việt, người Hoa từ Bắc đến Nam phải vượt biển, nhiều thuyền bị đắm, nhiều thuyền bị hải tặc cướp bóc hãm hiếp. Tội ác ngút trời! Để xóa hết dấu tích, nhỡ có đoàn quốc tế nào đến, theo chỉ thị Hà Nội, công an Hải Phòng nửa đêm hốt trọn gói số nằm đường, không biết đưa đi đâu. Có trời biết! Cộng sản thâm lắm, bí mật lắm! Mai kia có muốn đi chỉ bằng con đường chui -bất hợp pháp- y hệt bà con người Việt ở miền Nam.
Chết thật rồi! Tôi giết vợ con chỉ vì tin lão Ké nên gần 3 tuần suốt ngày đến nhà lão, từ sáng sớm mãi gần 9 giờ đêm mới về gặp vợ con, rồi sáng hôm sau hơn 7 giờ đã phải đến nhà lão Ké làm việc không lương. Mọi chuyện xảy ra có biết gì đâu!
Tôi lo lắm, chẳng dám hé răng, sợ vợ tôi quẫn chí.
Tôi đi dọc bến Tam Bạc, thuyền nào cũng hỏi, may quá thuyền này có lệnh được xuất cảnh từ tuần trước, nhưng chạy thử từ Tam Bạc ra Cát Bà bánh lái gẫy, phải quay về sửa, đang cần tiền trả công thợ. Giá lão này cao lắm, tôi năm nỉ mãi, tất cả chỉ còn có 7 lượng xin nộp hết. Tay chủ thuyền này rất cáo già, nguyên là lái xe Công ty Vận tải 2 Hà Nội, một công ty xe tải rất nổi tiếng – cả xấu lẫn tốt- mà tôi biết rõ thông qua câu chuyện thật 100%.
Tỉnh nào cũng có công ty vận tải quốc doanh, cho nên số lái xe tải của tỉnh cũng gần trăm người bởi vì giao thông vận tải thời chiến ở miền Bắc dựa vào xe là chính. Đường sắt bị Mỹ ném bom phá hủy gần như tê liệt. Đường biển bị phong tỏa, chỉ còn đường bộ là huyết mạch giao thông. Cuối năm 1971, chuẩn bị cho chiến dịch đường 9 Nam Lào, mỗi tỉnh phải đóng góp cho trung ương từ 5 đến 10 lái xe ưu tú tham gia chiến dịch. Cậu Hùng, một trong số lái xe ưu tú của tỉnh tôi được đề cử, nhưng cậu ta từ chối ưu tú. Vì ai mà chả sợ chết. Thế là bị kỷ luật, tịch thu bằng lái, đuổi ra khỏi công ty, có nghĩa là hết đường sống.
Thải hồi không những mất việc, còn mất sổ gạo, các tem phiếu tiêu chuẩn khác, sống cũng như chết. Chả thế thời ấy, hễ thấy ai mặt ngơ ngơ ngác ngác, bạn bè đùa: mất sổ gạo hay sao mà ngẩn ngơ thế!
Nhưng có ai chịu chờ chết đâu!
Đến con giun, xéo lắm cũng quằn cơ mà!
Ba tháng sau, cậu Hùng lái chiếc xe tải có sơn tên Công ty Vận tải Quốc doanh Hà Nội 2 to tướng ở cánh cửa xe. Cậu ta cũng ngông, cố tình trêu ngươi lãnh đạo, đỗ xe ngay trong bãi xe của công ty, vào thăm anh em bạn bè cũ. Ai cũng mắt tròn mắt dẹt phục sát đất và ngấm ngầm ghen ghét. Tin này đến tai lãnh đạo công ty và ty giao thông vận tải. Thằng này bằng lái xe đã tịch thu, không hộ khẩu, không sổ gạo sao lại vào được Công ty 2 thế nhỉ? Mà lại có hộ khẩu Hà Nội? Ty giao thông “máy” cho Ty công an, phục kích để tóm cổ bằng được sau khi cậu Hùng trả hàng ở Điện Biên.
Ba hôm sau, xe tải của Hùng quay đầu về Hà Nội, vừa vào thị xã đã bị công an chặn lại kiểm tra giấy tờ, bằng lái xe. Hùng có đầy đủ giấy tờ và bằng lái xe tải xịn do trung tá Trần Đông, cục trưởng cục đường bộ, ký tên và đóng dấu (3). Kiểm tra thật kỹ, so sánh giữa bằng cũ và bằng mới của Hùng không phát hiện được sai sót gì. Tức hộc máu mà chẳng làm gì được, viên trung uý công an đưa hai bằng lái xe cùng tên họ, ngày tháng năm sinh của Hùng, hỏi một câu thật ngớ ngẩn:
– Tại sao cậu có bằng lái xe thứ hai này?
Hùng là dân lái xe tải lâu năm mà ở miền Bắc người ta có câu “Bụt mà cầm vô lăng, 6 tháng sau không buôn lậu cũng thành giang hồ thứ thiệt”, cho nên cậu thủng thẳng:
– Các anh đi mà hỏi trung tá Trần Đông (4) ấy, sao lại hỏi tôi. Kiểm tra xong chưa, trả lại bằng lái xe cho tôi để còn về Hà Nội.
– Tại sao anh có hộ khẩu Hà Nội?
– Ơ hay, sao lại hỏi tôi, anh phải hỏi chủ tịch Trần Duy Hưng chứ (5). Nào xong chưa?
Lấy lại giấy tờ và bằng lái xe, Hùng nói trống không:
– Chào!
Vừa mở cửa xe, vừa huýt sáo, Hùng lên xe như trêu tức.
“Được lắm, mày sẽ chết với ông! Chạy đường Sơn La, Điện Biên dứt khoát buôn thuốc phiện mới chóng giàu chứ. Bắt được, chúng ông sẽ cho mày dựa cột.”
Hùng chóng giàu thật. Chỉ sau mấy tháng lái xe Đoàn 2, Hùng mua đài, xe đạp mới tinh cho vợ. Không những thế ngày hè nóng bức mang cả quạt cây Hoa Sinh Trung Quốc đưa ra chuồng lợn quạt mát cho lợn. Thời ấy, mấy ai có tiền mua quạt điện huống chi quạt cây Hoa Sinh rất đắt và khó mua. Nghe tổ trưởng dân phố báo cáo làm gì công an thị xã chả tức đến tận cổ.
Hùng biết lắm chứ.
Một tháng sau, Hùng lại chở hàng lên Điện Biên, xe quay về, tổ công an 3 người chặn xe Hùng, nói:
– Chúng tôi kiểm tra xe.
– Xin các anh cứ kiểm tra, nhưng tôi nói rõ, thùng xe chỉ toàn mùn cưa, các anh bắt tôi đổ ra khám không thấy hàng cấm, các anh phải xúc trả lại như cũ.
Ba tay cảnh sát nhìn nhau, nghi Hùng giấu cơm đen trong thùng xe chứa cám cưa. Tổ công an gật đầu đồng ý. Hùng không chịu, yêu cầu lập biên bản kí xác nhận mới chịu cho đổ cám cưa xuống. Chắc chắn 100% có cơm đen nó mới chơi khăm thế. Được, biên bản thì biên bản, chúng ông sợ gì. Mày sẽ dựa cột là cái chắc!
Không ngờ chiếc xe tải 4 tấn Giải Phóng do Trung Quốc sản xuất, đổ hết cám cưa ra chẳng tìm thấy một gói cơm đen nào. Báo hại cho tổ công an một bữa mất mặt và phải thuê 5 người xúc cám cưa đổ lại lên thùng xe! Lái xe Công ty 2 tiếng nổi như cồn như thế đó.
Nộp tiền xong, tôi về quán trọ thuê hai xe xích lô chở tất cả đồ đạc và vợ con ra bến Tam Bạc lên thuyền. Những người trên thuyền tức lắm và tự nhiên ghét gia đình tôi. Họ bảo vì nhận thêm chúng tôi, họ phải dẹp bớt chỗ, suất ăn của họ phải chia cho chúng tôi. Đại để chúng tôi là kẻ đáng ghét. May qua có anh chị Sâm làm ở nhà máy xi măng Hải Phòng, anh chị được nhiều người kính nể, can thiệp:
– Sao lại ghét bỏ cô chú ấy và các cháu bé. Cô chú cũng phải đóng tiền thuyền chứ có đi không đâu. Thôi mỗi ngưòi chịu khó chịu chật một chút, cùng cảnh khốn nạn cả, hay ho gì mà cắn xé lẫn nhau.
Nhờ anh chị mà chúng tôi có chỗ trên thuyền chỉ rộng hơn chiếc chiếu đơn ở mãi tít cuối khoang. Thôi thế là may. Hai ngày nữa có con nước, thuyền nhổ neo.
Vĩnh biệt Việt Nam!
Vĩnh biệt Hải Phòng thân yêu, nơi hè đến phượng đỏ rực trời, đỏ cả những kỷ niệm của tuổi học trò.
Vĩnh biệt! Vĩnh biệt tất cả!
Vĩnh biệt mồ mả tổ tiên! Vĩnh biệt nơi chôn nhau cắt rốn! Vĩnh biệt cả những kỷ niệm vui, buồn!
Mời đọc tiếp: Chương [3b]
Lâm Hoàng Mạnh Nguồn: Tác giả gửi
(3), (4) Thời ấy, tất cả bằng lái xe do trung tá Trần Đông ký.
(5) Bác sĩ Trần Duy Hưng chủ tịch Thành phố Hà-nội
|
|
|
Post by Huu Le on May 3, 2020 17:43:19 GMT 9
Chương 3b: Hải-phòng, những ngày cuốiPosted: 05/03/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Lâm Hoàng Mạnh Tặng mợ và các con. Thuyền của tôi dài chừng 20 mét, trọng tải 25 tấn. Có buồm và có máy nổ 25 mã lực, thế mà kể cả gia đình tôi là 212 người lớn nhỏ! Đến Bắc Hải, sau 3 tuần sửa thuyền, lão chủ thuyền nhận thêm 22 người nữa với lý do lấy tiền trang trải và thuê tầu kéo. Tổng số thuyền tôi khi đến Hong Kong 234 người! Có nghĩa là nếu vì chuyện gì đó, tất cả mọi người ngồi trong khoang thuyền chỉ đủ chỗ ngồi bó gối!
Đêm 17-6, chẳng hiểu ví lý do gì, chủ thuyền bắt mọi người phải xuống khoang, không được lên boong. Tôi bị ép ngồi bó gối dưới hầm sát máy nổ, ngạt thở tưởng chết sau gần 2 tiếng đồng hồ.
Sáng hôm sau, lão tài cống mới lôi ra một cái cờ đen có hình đầu lâu xương chéo và những hình thù kỳ quái, định kéo lên cột buồm. Tôi hỏi:
– Các bác làm gì thế?
– Treo lên để làm tín hiệu, tầu thuyền nước ngoài trông thấy họ sẽ cứu.
– Nhưng các bác có biết cờ này là cờ của bọn cướp biển không? Treo lên, tầu thuyền nước ngoài tưởng thuyền mình là cướp biển họ không cứu mà còn bắn nữa là khác.
Tất cả đàn ông thuyền tôi tranh cãi hăng lắm, mãi sau họ cho ý kiến của tôi hợp lý. Hú vía, thuyền chạy tị nạn, tự nhiên treo cờ biến mình thành cướp biển! Lạ thật!
Không biết có phải công an Sở Ngoại kiều Hải phòng xúi mua cờ cướp biển để ăn đạn giữa biển Đông hay không? Phải có người xúi khôn xúi dại chủ thuyền mới bỏ tiền mua chứ! Đến nay tôi vẫn chưa hiểu lão chủ thuyền và lão tài cống nghĩ gì lại đi mua cờ cướp biển rồi định dán mác cho mình!
Thuyền đông như thế nhưng chưa kể gạo vài tấn, 7 thùng phi 250kg dầu ma-zút. Nước ngọt 3 thùng phi, nồi niêu xoong chảo của nhà bếp và đồ đạc của các gia dình cộng lại thì đã vượt trọng tải! Mặt nước lúc nào cũng xấp xỉ cách mạn thuyền khoảng 30 cm, sóng to một chút nước ào cả lên thuyền. Chỉ gia đình anh chị Sâm, chủ thuyền và họ hàng chủ thuyền có những xốp hình khối chữ nhật 20cm x 30cm buộc lại làm phao bảo hiểm. Như vậy gần 40 hộ gia đình chỉ có 4 gia đình có phao cứu hộ. Còn chúng tôi, nếu thuyền đắm hay vỡ sẽ được Đại Dương Thần Nữ đón về thủy cung liền! Chúng tôi đã đi biển bao giờ đâu mà biết mua phao cứu hộ, chẳng ai bảo, cũng chẳng nghĩ đến, cứ tưởng lên thuyền như lên xe đò, xe chết máy hành khách xuống, chờ nhà xe chữa xong đi tiếp. Đi biển, thuyền hỏng nhìn thấy tử thần đang vung lưỡi hái đứng ngay trước mặt!
Mới bẩy giờ sáng ngày 15-6-1979, mặt trời đã gay gắt, ba thuyền được xuất cảnh đã neo ngay bến Máy Chai, tất cả chúng tôi phải lên bờ chờ công an ngoại kiều của Hải phòng đọc lệnh. Gọi là bến Máy Chai không phải bến này bán chai mằ gần nơi đây có nhà máy sản xuất chai lọ từ thời Pháp thuộc, năm 1960 đổi tên, Nhà máy Thủy Tinh, nhưng người ta vẫn quen gọi Nhà Máy Chai. Cả bến có mấy cây bàng mới trồng, cao chưa đầy 2 thước, gần ngàn người đứng dưới gốc tránh nắng chờ công an.
Gần 8 giờ sáng, chiếc xa-lan đỗ xịch ngay trước bến, năm sĩ quan công an lấy bàn ghế đưa xuống sát bến. Một bàn kê sát ngay lối lên xuống dưới tán che của cây dù to, một chiếc ghế để giữa.
Năm sĩ quan công an ngoại kiều dưới sự chỉ huy của đạI úy Hùng làm thủ tục đọc lệnh trục xuất (cảnh) người Hoa, tống khứ ra biển Đông.
Thuyền chúng tôi là thuyền cuối.
Gần trưa, nắng như đổ lửa, từng hộ gia đình đọc theo danh sách. Đến lượt gia đình tôi nộp giấy xuất cảnh, hộ khẩu, sổ gạo, chứng minh thư, tem phiếu, thiếu úy Minh hỏi:
– Anh chị phải nộp hết giấy tờ nhà nước Việt nam kể cả giấy khai sinh trẻ em, bằng cấp anh chị có.
Tôi vặn lạI:
– Tại sao chúng tôi phải nộp bằng cấp và giấy khai sinh các con tôi?
Đại úy Hùng, người ngồi ghế dưới bóng dâm của tán dù, lên tiếng:
– Đây là quy định, tất cả giấy tờ chính phủ cấp thuộc tài sản quốc gia, chúng tôi phải thu hồi lại.
Anh chị Sâm đứng sau tôi nói nhỏ:
– Cần đéo gì mấy tờ giấy ấy, mạng còn chả thiết, thiết gì đám giấy lộn.
Vợ tôi móc trong túi xách tay lấy hết giấy tờ để lên mặt bàn, tên thiếu úy Minh xem từng giấy, vứt ngay vào chiếc nón đặt ngửa trên bàn, y như đám giấy lộn.
Thế là xong.
Lên thuyền, chúng tôi không có bất cứ giấy tờ tùy thân nào, như đàn gia súc không tên tuổi, không nghề nghiệp, không quê hương bị tống khứ ra biển khơi làm mồi cho cá mập. Tôi cõng thằng con út trên lưng, một tay cầm chiếc can 10 lít nước đun sôi từ đêm qua, một tay xách túi đồ ăn vừa mua ở bến cho bữa trưa, lội qua bùn bước chậm chạp, nặng nề lên chiếc cầu bằng ván lên thuyền. Hai đứa lớn cầm tay mẹ, ngơ ngác bước theo.
Đứng trên sạp thuyền, nhìn xuống bến, cảm giác nao nao buồn khó tả ập đến, từ giờ phút này, chúng tôi là người nước ngoài, không được phép đặt chân xuống mảnh đất Hải phòng thân thương này nữa, nơi tôi sinh ra, lớn lên, nơi mồ mà ông bà cha mẹ tôi vẫn nằm đây.
Thôi thế là hết, thế là xong. Vĩnh viễn xa Việt nam, xa tất cả những kỷ niệm buồn vui. Chúng tôi phải bỏ tất cả, phảI ra đi, đau đớn lắm. Nhìn xung quanh, nắng hè chang chang, gay gắt, không một cơn gió, tôi muốn ngửa mặt lên trời kêu lên:
Xanh kia thăm thẳm từng trên Vì ai gây dựng cho nên nỗI này?
Làm thủ tục xuất cảnh xong, gần 3 giờ chiều mới có con nước, ba thuyền chúng tôi rời bến Máy Chai do xà-lan công an ngoại kiều Hải Phòng kéo ra phao số Không, tống ra biển Đông.
Hơn 24 giờ lên lênh đênh trên vịnh Bắc Bộ, khoảng 6 giờ tối ngày 16-6-1979, chúng tôi đến phao số Không (Zero), họ cắt dây. Trước khi xà-lan quay mũi lái, tên đại úy Hùng vét hết những đồng tiền Việt trong hầu bao, chúc một câu xanh rờn:
– Chúc bà con lên đường ăn cá, đừng để cá ăn!”
Tất cả chúng tôi căm lắm, chửi thầm.
Đẩy người ta ra biển, sống chết cách nhau gang tấc, thế mà chúng nỡ mở mồm nói gở như vậy.
Sà-lan cảnh sát quay mũi rẽ sóng hướng về đất liền. Tất cả chúng tôi đứng trên sạp nhìn theo. Có lẽ ai cũng như ai, nỗi buồn sâu lắng tận đáy lòng hiện lên nét mặt từng người, tất cả buồn xé ruột, im lặng trong nắng chiều giữa biển khơi.
Tôi đứng trên sạp, vòng tay ôm lấy vợ và 3 đứa con rất lâu để an ủi vợ con hay an ủi chính mình. Tôi biết vợ tôi buồn, buồn lắm lắm, bởi từ giờ phút này, hy vọng được nhìn thấy cha mẹ già, các dì các cậu lần cuối cùng, thăm mảnh đất quê hương nghèo khó, nơi có mồ mả ông bà tổ tiên, nơi có bờ tre, ruộng lúa, con trâu của một thời thơ ấu gắn bó trước khi rời Việt nam chấm hết.
Ngày ấy, không ai dám hy vọng và nghĩ rằng sẽ có một ngày trở về Việt nam thăm quê hương, bởi vì từ tháng 4-1975, những người vượt biên đều bị chính phủ Việt nam lên án, chửi rủa rất tàn tệ bằng đủ những từ xấu xa, bẩn thỉu nhất. Họ gọi tất cả người Việt sống ở nước ngoài là bọn phản động lưu vong, lười biếng bám đít đế quốc, cặn bã của xã hội.
Giờ đây thuyền chúng tôi ra đi theo hướng của bọn lưu vong cực kỳ phản động, vậy ai dám hy vọng có ngày về, trừ khi chế độ ấy sụp đổ.
Trời bắt đầu chạng vạng, màn đêm ập xuống. Chủ thuyền, tài công không dám mạo hiểm ra khơi. Đêm ấy, ba thuyền thả neo gần đảo Ngọc nghỉ lại, sáng mai sẽ ra đi. Khoảng nửa đêm, chúng tôi đang ngủ, bỗng nhiên tiếng xuồng ca-nô từ đâu dội lại, sóng đánh vào mạn thuyền, thuyền tròng trành, chao đảo, tất cả bừng tỉnh, chưa hiểu đầu cua tai nheo, đã thấy 6-7 tên sï quan và lính biên phòng đảo Ngọc từ xuồng máy nhảy lên thuyền, một tay lăm lăm khẩu AK, một tay chiếc đèn pin soi vào mặt từng người chúng tôi với giọng nạt nộ:
– Điện khẩn chúng tôi vừa nhận được (?) có 3 thuyền vượt biên trái phép, tất cả phải ngồi im, chống cự sẽ bị bắn. Chúng tôi kiểm tra giấy tờ!
Làm gì còn giấy tờ tùy thân, lên thuyền tất cả là con số không: Không tên tuổI, không tổ quốc, không nghề nghiệp, chỉ là rác rưởi bị chính phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam quét ra biển. Bây giờ chúng tôi trở thành kẻ vượt biên bất hợp pháp. Trẻ con sợ hãi, co rúm, bám chặt, nép sát vào cha mẹ. Người lớn ngơ ngác, vừa sợ vừa căm phẫn, nhưng không biết làm gì hơn, đành ngồi yên. Ba tên công an vũ trang biên phòng đứng chặn mũi thuyền và buồng lái, 4 thằng còn lại xuống khoang, soi đèn pin vào mặt từng người, quát:
– Giấy tờ đâu?
– Ai là chủ thuyền?
Khoang thuyền chật ních, tất cả chúng tôi ngồi bó gối, ôm đàn con, ồn ào như ong vỡ tổ, trẻ con khóc thét lên, nhiều cụ già chắp tay cầu trời khấn phật phù hộ độ trì tai qua nạn khỏi.
– Công an ngoại kiều thu hết giấy tờ trước khi lên thuyền.
– Làm gì còn giấy tờ mà kiểm tra.
– Hỏi đại úy Hùng, ông ta là người thu giấy tờ.
– Chủ thuyền đâu?
– Dạ, tôi đây.
– Theo chúng tôi lên gặp ban chỉ huy.
Chủ thuyền, A Sùi-A Thụy- phải theo chúng lên đảo, “thương thuyết” gần một tiếng chúng mới chịu “ăn” 5 chỉ vàng mà chủ thuyền “nôn” ra để chúng tôi được “coi như có giấy tờ, vượt biên hợp pháp!” Số vàng này, sau đó, nhà thuyền lại bổ vào đầu thuyền nhân.
Sáng sớm hôm sau, 17-6, mới gần 5 giờ, mặt trời đỏ như hòn than hồng từ từ nhô dần lên khỏi mặt biển, to tròn như cái nong. Phương đông hửng sáng, giát vàng trên nền trời. Vài dải mây trắng mỏng như lụa vắt ngang, báo hiệu một ngày đẹp trời. Khung cảnh thật đẹp, nhưng tâm trạng đâu mà ngắm bình minh trên biển.
Thuyền nhổ neo giã từ hải phận Việt Nam, bồi hồi khôn tả. Thế là hết. Vĩnh biệt! Vĩnh biệt những kỷ niệm vui buồn, vĩnh biệt mồ mả tổ tiên, vĩnh biệt những ngày xưa thân ái. Vĩnh biệt!
Ba thuyền, chỉ có thuyền tôi có buồm và có chiếc máy nổ 25 mã lực. Tiếng máy nổ bành bạch, đẩy nước, đưa thuyền tôi về phía trước chậm chạp như con ốc sên bò giữa biển khơi. Chậm còn hơn không, đến 2 giờ chiều, hai chiếc thuyền buồm rớt lại phía sau chỉ còn như một chấm nâu trên mặt biển. Tài công, một ông già ngườI Việt, ngoại 60, sâu rượu và khó tính, tất cả thuyền nịnh ông hơn nịnh bố già. Biết tính mạng hơn 200 con người trong tay, ông vòi vĩnh, chẳng ai dám trái ý.
Trưa ngày 18-6-1979, vợ con tôi cũng như nhiều phụ nữa và trẻ con khác say sóng, nôn mửa, nằm bệt dưới khoang, tôi đang loay hoay lau chùi dọn dẹp, lấy thuốc chống say cho vợ con, bỗng nhiên nghe tiếng loa phóng thanh oang oang:
– Không được vi phạm hải phận của chúng tôi.
Tất cả mọi người choàng tỉnh.
Tôi vội lên sạp thuyền xem sự thể ra sao.
Một tàu chiến hải quân Trung Quốc đang áp sát dần thuyền chúng tôi, trên boong tàu, thủy thủ Trung Quốc trong quân phục hải quân, lăm lăm tiểu liên, một dàn đại liên, đại bác chĩa nòng vào thuyền, một sĩ quan tay cầm loa phóng thanh nói bằng hai thứ tiếng Việt và Quảng rất rành rọt:
– Yêu cầu thuyền các ông không được xâm phạm hải phận chúng tôi. Phải rời ngay hải phận, không sẽ bị tiêu diệt.
Tôi không thể tin được tai mình.
Đây, đồng bào, đồng chí của tổ quốc Trung Hoa vĩ đại của chúng tôi ư? Mới ngày 15-6 khi chưa rời bến Máy Chai, chúng tôi vẫn được chính quyền Đặng Tiểu Bình trên Đài phát thanh Bắc Kinh khoác cho chiếc áo Hoa kiều yêu nước với biết bao mỹ từ tươi đẹp, kêu gọi hồi hương.
Giờ đây thuyền chúng tôi mới mấp mé hải phận “tổ quốc vĩ đại, thân yêu”, chính hải quân của Đặng Tiểu Bình đe dọa nổ súng, tiêu diệt nếu thuyền không rời xa lãnh hải. Hơn 200 người trên thuyền là người dân vô tội, đàn bà trẻ con, không tấc sắt trong tay.
Khi tàu hải quân Trung Quốc áp sát, chúng tôi già trẻ lớn bé hơn 200 người đứng lố nhố trên sàn thuyền, tất cả đăm đăm nhìn bọn họ. Những mũi súng máy của lính hải quân chĩa thẳng vào chúng tôi như sẵn sàng nhả đạn.
Trước khi ra đi, chúng tôi thường nghe BBC Việt ngữ, anh Đỗ Văn đưa tin, rất nhiều thuyền tỵ nạn gặp tàu nước ngoài đuợc cứu trợ, đưa đến nơi an toàn.
Không ngờ, thuyền chúng tôi gặp tàu hải quân Trung Quốc. Họ không cứu giúp lại tìm mọi cách đẩy chúng tôi ra xa hơn giữa trùng dương nguy hiểm.
Họ là ai? Họ chính là người Trung Quốc, là đồng bào, trong huyết quản họ và chúng tôi có chung dòng máu Trung Hoa. Sao họ tàn ác đến như vậy?
Họ là người hay loài mãnh thú?
Chủ thuyền bảo, “Chúng tôi, Hoa kiều Việt Nam tỵ nạn đi Hong Kong, vì thuyền mỏng, nhỏ bé, đông người, sợ đắm, chỉ xin được chạy sát bờ, chứ không dám xâm phạm đất liền.” Loa phóng thanh vẫn sa sả đuổi và đe dọa. Tài công đành phải lái thuyền xa bờ, sợ sóng tàu làm thuyền chìm. Tất cả chúng tôi căm lắm, chửi rủa chúng cùng bè lũ Đặng Tiểu Bình thậm tệ sau khi chúng đi xa.
Mùa mưa bão ờ Vịnh Bắc bộ bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10 dương lịch.
Chúng tôi vượt biển giữa tháng 6, đúng mùa giông bão, vì thế hầu hết các thuyền đều gặp bão. Nửa đêm ngày 19-6-1979, thuyền chúng tôi gặp cơn giông.
Gió rít, mưa xối xả, quất từng đợt áo ào như thác đổ lên thuyền. Những đợt sóng lớn đổ ập lên sàn, lòng thuyền đầy nước. Thuyền chao đảo, nghiêng ngả, trồi lên, ngụp xuống. Tôi cùng ba người thi nhau tát nước ngập dưới khoang. Mưa vẫn xối xả, gió vẫn lồng lộn, cột buồm kêu răng rắc như muốn gãy. Các cụ bà trong khoang thắp hương, đốt vàng mã, đốt tiền, thả gạo xuống mặt biển qua cửa sổ, cầu Trời khấn Phật phù hộ độ trì tai qua nạn khỏi. Tiếng trẻ con khóc thét, tiếng gọi nhau í ới, nước tràn xuống khoang, khói hương khói vàng mã của các bà các cụ tạo lên cảnh hỗn loạn xô bồ khủng khiếp trước giờ thuyền đắm. Tất cả các bà mẹ ôm chặt con trong vòng tay, họ đều nghĩ, nếu thuyền đắm, cùng chết chứ không xa nhau.
Thuyền vẫn chao đảo, nghiêng ngả, mũi thuyền chồm lên, chúi xuống như người say rượu vấp ngã trong cơn giông, đàn ông lên hết sạp thuyền ứng cứu.
Tiếng tài công hét trong gió bão:
– Chặt cột buồm mau.
– Rìu ở đâu? Tiếng ai đó thét lên.
Lại có tiếng thét trong gió bão:
– Chặt dây, hạ buồm trước.
– Dao ở đâu?
Chúng tôi hoảng loạn, thuyền sắp đắm, tưởng như vô vọng. Vừa lúc đó một thuyền đánh cá Trung Quốc ào tới, áp mạn thuyền, 2 người đàn ông lực lưỡng nhảy sang tay cầm dây chão bằng ni-lông giúp thuyền chúng tôi áp sát vào thuyền họ. Sau nhiều phút vật lộn, họ đã kéo thuyền chúng tôi thoát ra khỏi cơn giông. Kéo đến gần thị xã Bắc Hải, nhìn thấy ánh đèn biển mới cắt dây. Họ yêu cầu trả công 5 chiếc đồng hồ Liên-xô và 2 thùng phuy 200 lít dầu ma-dzút. Không có họ, chắc chúng tôi đêm ấy đã làm thần dân của Thần Nữ biển Nam Hải, đâu có ngày được tuyên thệ làm thần dân của Nữ Hoàng Elizabeth đệ Nhị tại London.
Thuyền chúng tôi đậu lại, tất cả ngủ vùi, sau một đêm hoảng loạn.
Sáng hôm sau, một chiếc ca-nô hải quân Trung Quốc chạy đến, hai sĩ quan lên làm việc với chủ thuyền. Họ đưa tập giấy, yêu cầu chúng tôi phải khai tên tuổi, nghề nghiệp, số người trong gia đình trên thuyền. Khai xong, họ kéo chúng tôi vào bến.
Bờ biển Bắc Hải đầy người và gần 10 thuyền người Việt đang neo đậu chờ sửa chữa nằm la liệt trên bến. Tôi gặp gia đình chị Thủy, quen từ hồi còn vật vạ ở bến Tam Bạc. Thuyền anh chị xuất cảnh trước chúng tôi cả tháng, tưởng đã đến Hong Kong, không ngờ gặp ở đây, ngay bến Bắc Hải này. Anh chị kể, thuyền cũng gặp cơn giông, được thuyền đánh cá kéo, cũng phải sửa thuyền, 2 tuần trước, xuất bến đi được 2 ngày, va phải đá ngầm, may không đắm, lại thuyền đánh cá kéo về bến. Vừa kể, chị vừa chắp tay như thể vái Trời Phật đã rủ lòng thương, cứu gia đình anh chị tai qua nạn khỏi.
Anh chị dắt chúng tôi về lán. Gọi là lán, thực ra là 4 mảnh vải mưa đem từ Việt Nam, kiếm mấy cái cọc cũ của người xuất bến bỏ lại, buộc túm quây 3 bên làm chỗ che mưa che nắng cho đàn con. Chiếc chiếu đôi trải ngay xuống nền đất làm giường. Anh chị nhường tôi một khoảng đất sát bên, làm lán. Chị bảo, dân đây cũng nghèo, bán bất cứ thứ gì họ cũng mua. Riêng gạo, thực phẩm bán tự do đầy chợ, mua bao nhiêu cũng được, khác Việt Nam ghê lắm. Bến Bắc Hải này đắt nhất là củi đun, tằn tiện ngày nấu 2 bữa cũng mất 50 xu (1 tệ =100 xu). Cuối bãi có xưởng cưa, xẻ gỗ đóng và sửa thuyền nhưng họ không cho dân tị nạn mình kiếm củi và lấy mùn cưa.
Chị ghé sát vào tai nhà tôi thì thào:
– Buổi trưa chúng nghỉ, mấy cháu nhà cô chú có thể lấy trộm mùn cưa và củi vụn được đấy. Mai thuyền anh chị xuất bến, bếp đun mùn cưa anh chị cho, khỏi phải tìm.
Tất cả thuyền chúng tôi đều là thuyền vận chuyển, thuyền đánh cá của các hợp tác xã thanh lý. Đồ thanh lý không đảm bảo an toàn hoạt động, họ đem bán cho chúng tôi. Các chủ thuyền tham rẻ, mua, làm phương tiện chở người vượt biển. Chính phủ và công an ngoại kiều Hải Phòng biết thuyền không an toàn, nhưng làm ngơ. Tính mạng hàng vạn người vượt biển không là gì với nhà nước CHXHCN Việt Nam. Chính vì thế, hầu hết thuyền ở miền Bắc chỉ sau vài ngày trên biển đều phải sửa chữa không thể tiếp tục cuộc hành trình.
Những ngày thuyền tôi sửa chữa ở bờ biển Bắc Hải cũng nhờ hai thằng con đỡ được khá tiền. Chủ thuyền chỉ phát gạo, một thứ gạo mọt mua từ Hải phòng, còn thực phẩm tự túc. Trước khi đi, tôi mua 10 kg lạp-xường dự trữ. Những ngày ở Bắc Hải, ăn nhiều lạp-xường đến nỗi hơn chục năm sau hễ ngửi thấy mùi lạp-xường là muốn ói.
Hơn 3 tuần nằm vật nằm vạ ở Bắc Hải, gia đình tôi bán nốt những gì còn sót lại. Dân Bắc Hải thời ấy cũng nghèo, cái gì họ cũng mua, từ đồng hồ, máy ảnh, kể cả quần áo cũ, chăn màn, giày dép… và họ cũng tìm cách mua với giá thật rẻ.
Thời bấy giờ, Đặng Tiểu Bình đã có những đường lối kinh tế đổi mới, mở cửa, nền kinh tế thị trường bắt đầu phát triển. Lương thực thực phẩm đã bán tự do bên cạnh các cửa hàng phân phối theo tem phiếu, nhiều mặt hàng mua chợ rẻ hơn mua cửa hàng mậu dịch rất nhiều. Riêng bến Bắc Hải này đắt nhất là củi. Đúng theo nghĩa “củi quế”. Nhà tôi, 5 mạng, chỉ tính tiền thức ăn thật tiết kiệm một ngày 1 Nhân dân tệ thì tiền củi phải 5 hào, có nghĩa là nàng nửa số tiền ăn. Bán nốt chiếc máy ảnh Zennit của Nga, đồng hồ đeo tay của vợ, màn tuyn, chiếc mũ cà tàng và chiếc va-li cùng chiếc áo len cho cậu Lý A Sinh, cái gì bán được đều bán sạch.
Cả nhà nằm bờ nằm bụi chờ sửa thuyền, ngày nào cũng đảo qua xem thuyền sửa đến đâu. Hơn hai tuần, thuyền vẫn chưa sửa xong, xem ra có khi hàng tháng, lâu nữa tiền đâu ra. Cuộc sống khốn khổ trăm bề.
Dân miền Bắc ai cũng biết bếp đun mùn cưa hay đun vỏ trấu, nhưng có thể bà con miền Trung hay miền Nam có thể chưa hiểu. Bếp đun mùn cưa hay vỏ trấu như sau:
Một hộp sắt tây tròn (hoặc đắp đất) đường kính tối thiểu cũng phải từ 18 đến 20 phân (cm) trở lên, một đầu còn nguyên đáy, đục khéo phần thân sát đáy 1 hình chữ nhật hay hình vuông để cho những thanh củi chẻ nhỏ làm mồi lửa. Lấy 1 vỏ chai để chính giữa, đổ mùn cưa hay vỏ trấu xung quanh, nén thật chặt, rút vỏ chai, khoét 1 lỗ ngay phần cửa của lon hộp. Đặt kiềng lên trên hay kê gạch sao cho cao hơn miệng hộp là thành chiếc bếp. Đây là cách làm thông thường của dân thị xã, thành phố miền Bắc khi cuộc sống thiếu đủ thứ trong một xã hội Xếp Hàng Cả Ngày – XHCN-.
Túng phải làm liều, khi xưởng nghỉ trưa, vợ tôi đưa mỗi đứa con cầm cái rá, xúc trộm mùn cưa, con chị đi kiếm xung quanh, nhặt vài miếng gỗ vụn rồi ù té chạy. Coi như một ngày không phải mua chất đốt, tiền ấy bù vào bữa cơm đạm bạc của đời tỵ nạn. Đứa lớn mới lên hơn 6 tuổi, đứa bé lên 4 đã phải hành nghề ăn trộm mùn cưa! Thật là đau đớn! Đến nay, ôn lại chuyện cũ các con tôi vẫn nhớ. Con chị bảo, có lần đang lò mò tìm củi, bị một bà túm áo, sợ quá, phát khóc. May có anh thanh niên nói gì với bà kia nên tha. Từ đó trước khi nghỉ, người thanh niên kia vẫy tay gọi 3 đứa con tôi lại, cho lấy 2 rá mùn cưa và dăm que gỗ vụn.
Bến Bắc Hải có lúc đông hơn ngàn người, nằm vật nằm vạ, mưa nắng bất kỳ nên nhiều người ốm. Ngay đầu bến, chính phủ địa phương lập trạm y tế. Sau thời gian ăn ở mất vệ sinh, vợ tôi bị mắc bệnh viêm gan siêu vi trùng. Trước khi rời Việt Nam, tôi chuẩn bị khá đầy đủ thuốc, từ kháng sinh, sinh tố, cảm cúm, thuốc chống say đếu có, kể cả ống nghe, dụng cụ tiêm chủng. Bệnh do siêu vi trùng không có thuốc đặc trị, chỉ cần nâng cao thể trạng ăn uống đầy đủ, sau 2 tuần bệnh sẽ thuyên giảm. Tưởng trạm y tế dựng lên để giúp đỡ dân tỵ nạn, tôi mang thuốc bổ và sinh tố đến nhờ họ tiêm, ai ngờ tiêm xong hai mũi, họ đòi 4 hào tiền công. Một chiếc bánh bao nhân thịt có 2 xu, giúi 2 mũi tiêm chưa đầy 2 phút, 4 hào, 20 cái bánh bao! Đắt quá! Ấy mới chỉ tiêm hộ, nếu cả thuốc nữa, có lẽ “nhổ cả răng” cũng không đủ tiền trả! Hai mươi chiếc bánh bao nhà tôi ăn sáng 4 ngày. Cạch, chẳng bao giờ đến trạm xá nữa!
Hơn ba tuần, thuyền tôi mới sửa xong.
Kỳ này lão chủ thuyền A Sùi –A Thụy- nhận thêm bảy gia đình nữa nại cớ lấy tiền trả công sửa chữa và thuê kéo đi Hong Kong. Thuyền đã chật, nay chật thêm, nhưng đành chịu, vì có tàu kéo, vừa an toàn vừa đi nhanh hơn, nên chúng tôi không phản đối. Cơn giông đêm 19-6 chúng tôi vẫn nhớ, sợ đến hôm nay.
Nhờ có tàu kéo, thuyền chúng tôi gặp 2 cơn bão lớn bán đảo Lôi Châu và Tam Quang mà không đắm. Đến gần Ma Cao, thuyền kéo cắt dây, chúng tôi không rẽ vào Ma Cao đi thẳng Hong Kong.
Nửa đêm 30-7-1979 nhìn thấy ánh đèn Nê-ông nhảy múa trên các tòa nhà cao tầng ở Hong Kong.
Chúng tôi đã sống, đã đến chân trời tự do.
Mời đọc tiếp: Chương [4] Lâm Hoàng Mạnh
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 17:52:03 GMT 9
Chương 4: Kho Đen Posted: 09/03/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh
Vua quan ở đất nhà bay Dù xe ngựa cưỡi đến đây cũng hèn.
Nửa đêm, thuyền chúng tôi cách Hong Kong hơn hải lý mà đã nhìn thấy rõ ánh đèn màu nê-ông rực rỡ, nhấp nháy, nhảy múa trên các toà nhà cao ngất. Hong Kong! Thương cảng thế giới! Hòn ngọc của thế giới đang sừng sững trước mắt mọi người! Sống rồi bà con ơi! Nhiều người vui quá nhẩy lên như đứa trẻ. Tôi ôm lấy nhà tôi và đàn con, run giọng thì thầm: “Sống rồi! Hương Cảng đấy! Mình và các con thấy chưa?”
Tất cả lên sạp thuyền, hướng về ánh đèn nê-ông nhìn chằm chằm, nét mặt rạng rỡ, tươi tỉnh, ồn ào bàn tán. Thanh niên túm tụm từng đám, chỉ chỉ chỏ chỏ, tiếng Quảng xen lẫn tiếng Việt át cả tiếng máy nổ bành bạch. Thuyền vẫn lầm lỳ, chậm chạp tiến về ánh đèn màu. Mấy cô gái trẻ lấy lược ra chải, có cô nhanh tay múc nước nóng trong chảo trên bếp lò than đỏ lửa gội đầu, lấy trộm nước ngọt trong thùng phi ra tắm rửa.
Một chiếc xuồng cảnh sát Hong Kong rẽ sóng lướt tới, ánh đèn pha loang loáng rọi vào thuyền chúng tôi. Họ nói qua loa phóng thanh cầm tay bằng hai thứ tiếng, tiếng Quảng và tiếng Anh, yêu cầu thuyền tắt máy, thả neo. Hai viên cảnh sát lên thuyền làm việc với chủ thuyền, rồi họ về xuồng, rồ máy tăng tốc quay lại bờ.
Chủ thuyền báo cho bà con biết, thuyền thả neo, đợi sáng mai sẽ có tầu cảnh sát kéo vào bến.
Cả đêm chúng tôi thao thức mong đợi và hy vọng. Hy vọng gì cũng chưa rõ, tất cả mới chỉ là điểm bắt đầu, tương lai còn ở phía trước.
Sáng hôm sau, xuồng cảnh sát Hong Kong kéo chúng tôi vào bến Kho Đen. Trời đất! Thuyền tị nạn Việt Nam chật bến, toàn thuyền cũ nát, to nhỏ ngổn ngang vài chục chiếc không người, đậu ngang dọc sát nhau, lộn xộn, không theo hàng lối nào, buộc vào nhau bập bềnh lắc lư theo sóng nước. Đó là những thuyền bỏ không, gạo thực phẩm khô rơi vãi trong khoang, chờ tầu cảnh sát kéo ra khơi để đánh đắm. Khó khăn và vất vả lắm, thuyền chúng tôi mới ghé sát bến.
Trên sân Kho Đen hàng trăm người Việt già trẻ lớn bé, nam nữ đang tranh nhau, kẻ hứng nước vào xô, người cởi trần tắm, người giặt, tiếng gọi nhau í ới, tiếng cãi nhau loạn xạ, tất cả tạo lên một không gian hỗn loạn xô bồ.
Kho Đen!
Ai đã từng ở trại tỵ nạn Hong Kong không thể nào quên trại Kho Đen. Đây là nơi đầu tiên tiếp nhận các thuyền tỵ nạn và cũng là nơi nhiều tai tiếng nhất về sự đối xử dã man, vô nhân đạo của cai ngục Hong Kong đối với thuyền nhân từ Bắc đến Nam chạy trốn cộng sản Việt Nam.
Tên thật của kho là gì có lẽ chẳng ai biết. Người ta quen gọi là Kho Đen, bởi vì nó trước kia là một tổng kho chứa hàng và sơn màu đen. Kho này gồm 7 (?) nhà kho nằm ngay sát bến, vì thế chúng tôi đều gọi là trại Kho Đen. Nhà kho rất lớn, nay bỏ không, sức chứa mỗi kho tới hàng ngàn người. Kho cuối 2 tầng, sát hàng rào, có cửa sổ, nhưng nhỏ hơn. Kho này là nơi hàng lậu tuồn vào và dân tỵ nạn trốn trại đi buôn. Chính sự lộn xộn này, nhiều đêm cảnh sát dựng chúng tôi dậy bắt xếp hàng điểm danh lúc nửa đêm.
Có khi điểm danh đến 3 lần, ngồi xếp hàng gần 2 tiếng giữa sân nắng chang chang vẫn chưa xong, trẻ con khóc váng giời vì nóng nực. Cảnh sát nổi nóng, văng tục om sòm, mặt mày bặm trợn, tay lăm lăm dùi cui, đi lên đi xuống, ngó ngó nghiêng nghiêng, nó tìm ra thủ phạm chắc nhừ xương.
Hàng ngày chúng cho chúng tôi ra sân 3 lần, sáng, trưa và tối, y như tù nhân, nhưng không đóng cửa, vì đóng cửa kho, chắc chết ngạt. Hết giờ tắm giặt, ai chậm chân nó lấy dùi cui phang ngay, nhiều người già ngã dúi dụi vì chạy không kịp, trẻ con khóc váng trời vì sợ.
Thuyền chúng tôi lên bờ, được gắn cho một tên mới, 807. Đó là số thuyền – theo thứ tự nhập cảnh – tất cả chúng tôi đều được gọi là Zdịt-nàm-nhằn, từ giờ trở đi không còn phân biệt người Hoa, người Việt, người Bắc, người Nam. Tất cả đều bình đẳng với chiếc áo mới mà cảnh sát Hong Kong khoác cho: Người Việt Nam Nhập Cư Bất Hợp Pháp.
Ngồi xếp hàng ngay trước sân Kho Đen nhìn ra biển, một sĩ quan cảnh sát thông báo những quy định của trại Kho Đen bằng tiếng Quảng và bằng tiếng Anh. Nội dung đại để như sau:
Phải nộp tất cả những vật dụng nguy hiểm: dao, kéo, súng, chất nổ, chất cháy kể cả diêm và bật lửa; Cấm lửa trong mọi trường hợp. Điều này gây khó khăn cho các gia đình có cháu bé cần có chế độ dinh dưỡng riêng như bột, cháo… và dân nghiền thuốc lá, thuốc lào; Cấm trốn khỏi trại dưới mọi hình thức; Ngày 2 buổi được phát cơm do nhà thầu đưa đến; Có thể điểm danh bất thường ngày cũng như đêm; Cấm gây lộn xộn, cấm đánh chửi nhau. Thuyền chúng tôi được chỉ định vào kho 1 sát ngay cổng chính. Sau khi tìm chỗ để đồ đạc xong, chúng tôi được lệnh ra xếp hàng ngoài sân làm thủ tục tổng vệ sinh trước khi làm thủ tục nhập cảnh bất hợp pháp.
Nhân viên y tế mặc phòng hộ che kín từ đầu đến chân. Họ chia ra từng nhóm hai người, một người cầm bình xịt thuốc, một người cầm vòi nước. Họ gọi từng gia đình đến làm tổng vệ sinh. Đến lượt gia đình tôi xếp hàng ngang trước hai nhân viên y tế. Đầu tiên, bắt chúng tôi cúi đầu xuống và nhắm mắt lại, họ vừa lầu bầu chửi quân “Zdịt-nàm bẩn thỉu, đầu tóc quần áo toàn chấy rận”, vừa đổ lên đầu chúng tôi một thứ dung dịch thuốc cảm giác như phải bỏng, rồi ra lệnh chà xát toàn đầu. Các con tôi khóc thét lên, giẫm chân đành đạch như bị dội nước sôi, mắt cay xè. Vợ chồng tôi vừa ôm chúng vừa chà thuốc vào tóc cho thuốc ngấm vừa dỗ dành, an ủi. Khoảng vài phút, họ xả vòi nước vào tất cả chúng tôi.
Khi thuốc diệt chấy đã trôi đi, họ xịt một loại thuốc sát trùng màu đục như sữa, mùi rất khó chịu lên toàn bộ người (không cởi quần áo). Sau đó họ lạI xả vòi nước cho thuốc trôi đi, xong chúng tôi về kho thay quần áo.
Cứ thế, hết gia đình này tiếp gia đình khác, cuộc tổng vệ sinh có một không hai ở Kho Đen kết thúc cũng là lúc đến giờ phát cơm bữa trưa.
Phải nói nhà thầu cơm cho trại Kho Đen đã ăn chặn cơm của chúng tôi, bởi vì số người từng thuyền khác nhau, có thuyền hơn 100 người, có thuyền gần 200 như thuyền tôi 234 người, nhưng khẩu phần các thuyền na ná giống nhau: Một thùng cơm, một nồi thịt, một nồi rau. Có nghĩa là thuyền nào đông như thuyền tôi thì đói dài dài, làm gì đủ cơm chia theo tiêu chuẩn. Cho nên chuyện đánh nhau, tranh giành nhau từ muổng cơm đến miếng thịt, cọng rau không thể tránh khỏi.
Vì sự lộn xộn này, đám cai tù càng được thể chửi chúng tôi là bọn vô liêm sỉ, tranh nhau từng cọng rau, miếng thịt. Chủ thuyền phân công, cứ 3 gia đình chịu trách nhiệm chia cơm một ngày, hết lượt tiếp tục quay lại. Một lần tôi tham gia với hai anh nữa, chúng tôi toàn dân trói gà không chặt nên chuyện chia cơm là một thử thách quá lớn. Để mọi người không dị nghị, gia đình vợ con 3 chúng tôi chia sau, nhưng khi còn gần 30 chục suất cơm nữa, thùng cơm gần hết. Chết cha rồi, làm gì còn cơm mà chia như lúc đầu. Thế là 3 thằng chúng tôi, -thằng chia cơm, thằng chia thịt, thằng chia rau-, bị bà con chửi té tát cho một trận vì chia không đều. Đến lượt vợ con chúng tôi không được đến 1/2 tiêu chuẩn, vợ tôi cằn nhằn vì đàn con đói, lại còn bị nghe chửi. Buồn quá, may tôi chỉ có làm một lần nghề chia cơm bất đắc dĩ.
Được hơn tuần, họ thay đổi chế độ ăn, sáng phát cơm, chiều phát bánh mì và thịt hộp. Tiêu chuẩn 1 người 2 lát bánh mì, 5 người 1 hộp sữa đặc, 5 người 1 hộp dzăm-bông 400 gr, 2 người 1 quả cam. Tiêu chuẩn này, ngày nay đối với chúng tôi thì no, nhưng thời ấy quả là đói.
Thuyền tôi có anh Đức, cựu cầu thủ bóng đá của đội Tổng cục Đường sắt đã từng sang Nga, Tiệp tập huấn. Anh bảo, “Bánh mỳ này ngon tuyệt, hơn hẳn thứ bánh mỳ mà anh từng được ăn.” Ấy thế khi ra tự do, tôi mới biết bánh mỳ họ phát ở Kho Đen thuộc loại rẻ tiền nhất.
Người lớn buổi sáng có thể hít không khí, còn trẻ con không thể tập thể dục để thay bữa sáng. Vì thế bữa tối, tôi và nhà tôi mỗi người ăn 1 lát bánh, để dành 2 lát và hộp sữa đặc cho 3 đứa có quà sang mai. Hầu như gia đình có con trẻ đều phải làm như vậy. Khổ nhất là trẻ dưới 12 tháng, chúng phải có chế độ dinh dưỡng khác, nhưng đây là trại tạm giam người nhập cư bất hợp pháp, nên trẻ em và người lớn bình đẳng về nuôi dưỡng. Có gia đình kế bên, bất chấp lệnh cấm, anh chị lấy bếp dầu (giấu kỹ lắm) ra quấy bột hoặc nấu cháo cho con, có lần đang nấu cảnh sát đột ngột vào kho, đành tắt lửa, hỏng cả xoong bột. Bọn buôn lậu tuồn mì ăn liền vào bán 10 gói lấy 1 chỉ vàng. Sau giá mềm hơn, 1 hộp mỳ 30 gói/1 chỉ, vẫn ngoài sức tưởng tượg. Vậy mà nhiều gia đình phải bấm bụng mua cho con ăn.
Đến chiều, chúng tôi lại ra sân xếp hàng chờ phỏng vấn. Nghe thì oai, phỏng con mẹ gì.
Hai bàn kê ngay giữa sân, ba nhân viên hải quan ăn mặc chỉnh tề và một thông dịch viên. Người ngồi chính giữa tay cầm bút, tay tập hồ sơ, gọi từng gia đình lên, hỏi họ tên và tuổi. Không hỏi ngày sinh tháng đẻ, không hỏi nghề nghiệp, nguyên quán… sau đó hất đầu chỉ sang bàn bên. Bàn bên là người làm nhiệm vụ chụp ảnh lấy ngay -ảnh đen trắng-. Chủ hộ chụp riêng, còn vợ con chung nhau một ảnh, rồi ký tên vào hồ sơ. Sau đó mỗi hộ được cấp một chiếc xô nhựa đựng nước, một chậu nhựa, mỗi người một đôi dép lê kiểu Thái Lan. Thế là xong thủ tục nhập cảnh bất hợp pháp. Chính vì chuyện này, nhiều người khi đi định cư nước thứ ba bị hụt tuổi, gia đình tôi cũng không ngoại lệ. Chúng tôi ở Hong Kong gần 10 tháng, trước khi đi định cư ở Anh nam 1980, bản hồ sơ của gia đình tôi được giữ để trình với cơ quan hữu trách chỉ ghi năm sinh -không có ngày tháng- dựa theo khai tuổi của cuộc phỏng vấn ngày nhập cảnh từ 1979. Có nghĩa là sau 1 năm, chúng tôi là con ma, vì tuổi vẫn giữ nguyên, không già đi! Cầm tờ giấy xuất cảnh mừng quá trời, hơi đâu cãi lý với Cục Di dân Hong Kong, vả lại có giấy tờ gốc gì đâu mà đối chứng. Sau sáu năm, xin nhập quốc tịch Anh, tôi điền vào mẫu khai giữ nguyên năm sinh như Cục Di dân Hong Kong ghi, chỉ điền thêm ngày, tháng và nơi sinh. Chúng tôi cũng không khai đi báo lại, sợ gây phiền hà, vả lại chuyện này cũng chẳng ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị cho nên cho qua luôn.
Tất cả đám cảnh sát ở Kho Đen hình như đều từ giới cai tù được đưa đến trông coi chúng tôi thì phải. Bởi vì họ rất ác, rất tàn bạo, bất cứ chuyện gì cũng chửi mà chửi rất độc địa. Đứng đầu là tay trung úy cảnh sát béo -tôi không biết tên-, mở mồm là “đ. m cái l. thối con mẹ mày!” Tôi nhiều lúc cố tình nhìn xem mồm thằng này ăn gì mà chửi độc địa như thế. Không những thế, hễ ai làm điều gì sai, hắn rút dùi cui tẩn liền, không kể đàn bà, người già, trẻ con. Hễ có đoàn nào đến thăm quan hắn đều bôi xấu, kể tội chúng tôi tranh nhau từng xô nước, muổng cơm như bọn chết đói mấy đời. Chúng tôi căm lắm, nhưng không thể làm gì thằng chó đẻ ấy.
Cuối tháng 8, có đoàn của Liên Hiệp Quốc phụ trách về tỵ nạn đến Kho Đen. Rất may gặp được một linh mục người Việt trong đoàn, tôi tố về sự ngược đãi của bọn cai tù này. Vị mục sư an ủi, ông bảo, “bọn này vô học (?)”, chúng coi tù đã quen, hơn nữa chúng ghen tị với chúng tôi vì một thời gian ngắn nữa chúng tôi sẽ được đi định cư ở nước thứ ba, điều mà chúng nằm mơ cũng không có! Năm 1983, tôi gặp một anh vừa từ Hong Kong sang, kể chuyện xưa và nhắc đến thằng chó đểu ấy, anh ta bảo, thằng trung úy béo ấy bị người tỵ nạn mình đâm chết năm 1982 rồi. Tìm không ra thủ phạm.
Đầu vào phải có đầu ra. Đây là chuyện khủng khiếp nhất trong 31 ngày của đời tôi.
Kho Đen là kho cho nên làm gì có nhà vệ sinh. Cảnh sát Hong Kong có sáng kiến cho nhà vệ sinh nổi, dùng những thuyền cũ của tỵ nạn làm “nhà vệ sinh.” Trời ạ! Cả Kho Đen đến vài ngàn người mà chỉ có 2 hay 3 thuyền, mỗi thuyền gần 20 hố vệ sinh. Lần đầu tiên bước chân xuống toilet boat, vừa bước xuống mấy bước đã thấy bao nhiêu “vành khăn” như những con rắn nằm dọc nằm ngang kín mít, nước tiểu lênh láng, không có chỗ đặt chân, mùi xú uế nồng nặc. Tôi theo anh em ra ngay mạn thuyền làm chức “quận công”. Kiểu này cũng rất nguy hiểm, bởi vì mỗi lần có xuồng hay ca-nô đi qua, toilet boat lại chao đi chao lại, nghiêng hẳn, vì số người làm quận công không cân hai mạn thuyền, bám không chặt tòm ngay xuống biển, hứng trọn của quý của chính mình hay của bạn bên vừa thải ra. Mỗi lần nghĩ đến là rùng mình, sởn cả da gà. Tôi ở sát cuối nhà kho, rất kín, nên lấy những tấm gỗ bỏ không, bìa cứng quây lại làm 1 hố xí cho vợ con. Vợ tôi phải tìm mãi mới kiếm được chiếc gầu múc nước của thuyền cũ làm thùng đựng. Sau khi 3 đứa con lần lượt xong, cho vào xô ngụy trang, lấy giấy che kín đi ra sân trước, nhìn trước nhìn sau không thấy cảnh sát, a-lê-hấp cho xuống biển liền. Kế hoạch này chỉ giải quyết được vào ban đêm, ấy thế mà tụi trẻ nhà tôi nó chịu được để đến tối mới trút bầu tâm sự. Hỏi ra chúng bảo sợ lão cảnh sát béo nên cố nhịn. Sau này nghe tin họ đưa nhà vệ sinh di động thay thế toilet boat.
Một hôm, tôi sang kho 2, gặp một anh là giáo viên trường Trung học Trung Hoa Hà Nội, chúng tôi nói chuyện tào lao. Chỗ gia đình anh ngồi rất gần tay thượng sĩ cảnh sát đứng gác. Chúng tôi thấy tay thượng sĩ này không đến nỗi nào, hỏi chuyện làm quen. Tôi hỏi gã, “Tại sao cảnh sát các anh lại đối xử tàn bạo với chúng tôi thế.” Gã cười, trả lời, “Tám tiếng chúng mày còn được nằm, được ngồi, đi đi lại lại, tụi tao cứ phải đứng tại chỗ nhìn chúng mày, hễ chuyện gì xảy ra xếp tao nó đì, có khi bị cúp lương. Tụi mày chỉ khổ vài tháng rồi được sang Mỹ sướng như tiên. Tao nằm mơ cũng chẳng được. Nếu đổi được, tao đổi cho mày, mày làm cảnh sát, tao xuống làm thằng tỵ nạn. Chúng mày có đồng ý không?”
Đông người, lại giữa mùa hè, ăn ở nhếch nhác, bẩn thỉu, hơn nữa sau một chặng đường dài ai ai cũng mệt mỏi, nhất là người già và trẻ em, cho nên người ốm rất nhiều. Ngay kho 2 có một buồng rộng chừng hơn 10 mét vuông -có lẽ là văn phòng cũ- được biến thành phòng khám bệnh. Trong phòng khám có hai y sĩ, một ở đảo Trà Cổ, một ở thị xã Quảng Yên, ra làm thầy thuốc tự nguyện, khám bệnh kê đơn và một y tá (?) người Hong Kong phát thuốc kiêm đón tiếp. Tôi hỏi anh giáo viên, anh ta kể, “Tội nghiệp cho hai anh này, thuyền của các anh ra trại tự do từ lâu nhưng vì không có người thay nên đành chết dí ở đây. Họ đang tìm người làm hình nhân thế mạng để các anh ra tự do.” Tôi hỏi, “Sao y tế của Hong Kong không cử người xuống khám chữa bệnh.” Anh ta bảo, “Cái này xin chịu, biết làm sao mà trả lời.” Tôi hỏi, “Anh ta có được trả thù lao không?” “Trả cái con mẹ gì, may lắm thằng a-xề béo nó cho túi cam, hộp bánh đem về cho con.” Hú vía, tí nữa tôi xung phong làm có mà hết hơi và thật may khi phỏng vấn nó không hỏi nghề nghiệp. Lại một lần nữa “Tái ông thất mã”!
Ghét thằng trung úy béo, thanh niên thuyền tôi thường xuyên giở trò trêu ghẹo, chọc quê hắn, vì chẳng có trò gì tiêu khiển. Cứ thấy y, mấy đám thanh niên nháy nhau ra đứng sát cửa kho vờ chọc ghẹo, cãi nhau, giở tiếng Quảng văng tục y hệt lời nó chửi chúng tôi. Tên trung úy uất lắm, mặt đỏ như gà chọi, cả phiên trực nó cứ đứng lên ngồi xuống đuổi đám choai choai xồ ra xồ vào ngay cửa kho chọc quê. Một lần, nó túm được cậu Sơn, nó rút dùi cui phang tới số, Sơn vừa kêu “Cứu tôi với, cứu tôi với” vừa vùng vẫy, chiếc áo rách toạc mới thoát, chạy vào kho. Chó cắn áo rách, Sơn còn mỗi chiếc áo lành lặn nhất bị rách, cả thuyền ai cũng cười.
Thằng trung úy cảnh giác, không dám đuổi theo, chui vào kho sợ dân tỵ nạn cho no đòn. Dính đòn hội đồng có mà kiện ma. Sơn bị trận đòn khá đau, toàn thân tím bầm, rên rỉ mấy hôm, chẳng ai khen. Đến bữa chia cơm, bác Sâm, kêu:
– “Cứu tôi với” ra lấy cơm.
Cả kho 1 cười vang, từ đó Sơn mang biệt danh, Cứu Tôi Với.
Một buổi chiều, đang nằm khàn, mấy đứa con tôi chạy đến báo tin, chúng vừa cười như nắc nẻ vừa kể. Thằng a-sề bắt được 4 chú hút thuốc lào, nó bắt quỳ xuống, khám túi lấy hết bật lửa phong thuốc và bắt nâng điếu cầy lên đầu. Cái chú cầm điếu cầy, hai tay nghiêng nghiêng dần cho nước điếu đổ xuống, không ngờ nước điếu đổ vào chú Bình. Chú Bình mắng, chú ấy bảo không đổ nước điếu nhỡ nó bắt uống thì chết à!
Trại Kho Đen, nhà tù không ra nhà tù, trại tỵ nạn không ra trại tỵ nạn, trại cấm không ra trại cấm, vì thế cách đối xử của nhóm người cai quản chúng tôi ở đây mang đầy đủ tính cách của bọn lưu manh, đểu cáng, chúng coi chúng tôi như những kẻ tội phạm quốc tế.
Ấy thế mà thuyền chúng tôi phải ở 32 ngày (01-8 đến 03-9) tại Kho Đen. Một quãng thời gian không dài so với cuộc đời nhưng những gì trải nghiệm ở Kho Đen chẳng bao giờ phai mờ trong ký ức.
Mời đọc tiếp: Chương [5]
Lâm Hoàng Mạnh
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 17:56:25 GMT 9
Chương 5: Trại Khải Đức ĐôngPosted: 12/03/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Chẳng qua chỉ tại Vua Hùng Sinh ra một lũ vừa khùng vừa điên. Thằng khôn nó đã vượt biên Còn lại một lũ vừa điên vừa khùng. (Đồng dao mới) Sáng sớm 31 tháng 8, mới gần 6 giờ, chúng tôi được lệnh chuyển trại đột ngột. Tất cả rộn ràng, nhốn nháo chuẩn bị đồ đạc mặc dù chẳng có thứ gì đáng giá. Một đoàn xe tải chở tù, màu sơn đen, thùng xe không bịt, vải bạt được cuốn lên. Chúng tôi ngồi trên hai hàng ghế băng sát thành, một số đứng, đồ đạc để dưới chân. Đoàn xe từ từ lăn bánh ra khỏi Kho Đen.
Như vậy chúng tôi đã được công nhận là người tỵ nạn cộng sản hay còn gọi là “thuyền nhân” (boat people), không còn là kẻ nhập cảnh bất hợp pháp, nay chuyển trại, chờ định cư ở nước thứ ba.
Xe đi quanh co qua những phố xá đông đúc, những dãy nhà cao tầng, những biển quảng cáo bằng điện nhấp nháy, nhảy múa, các cửa hàng bày bán la liệt đủ các mặt hàng làm chúng tôi hoa cả mắt. Lần đầu tiên mọi người nhìn thấy những sạp bán hoa quả bày từng đống táo, cam, lê, nho, mận… cao như núi. Nhìn cũng thấy sướng con mắt, chúng tôi ai cũng nuốt nước bọt. Có gì đâu, 25 năm dưới ‘‘chế độ XHCN tươi đẹp’’ làm gì trông thấy của ngon vật lạ mà chả thèm, chả nuốt nước bọt!
Đúng là số phận thuyền tôi hẩm hiu. Đang hí hửng nghĩ đến chỉ lát nữa là người tự do, không ngờ trại Khải Đức Đông hôm ấy không làm việc.
Ngày 31-8-1979 là thứ Sáu, chả biết ngày gì, văn phòng trại đóng cửa, không có người nhận bàn giao. Đoàn xe lại vòng vo đưa chúng tôi về Kho Đen. Tất cả đều thất vọng và tự nguyền rủa số phận, đi đâu chết trâu đến đấy. Mọi thuyền thường chỉ phải ở Kho Đen 2 đến 3 tuần, thuyền tôi đúng một tháng, ấy thế mà lại “tái hồi Kim Trọng” ngoài ý muốn, tránh sao khỏi buồn. Xuống xe lại chui vào kho 1, bao nhiêu người kho khác xúm lại hỏi duyên cớ. Nào ai biết, chỉ biết ngày mai Thứ Bảy, trại nghỉ tiếp, chúng tôi phải chờ Thứ Hai tuần sau.
Buồn ơi là buồn!
Đã thế mà chiều thứ Bảy, một trận cuồng phong lại ập đến. Gió rít, giật từng hồi, những đợt mưa như dội nước xuống mái tôn ầm ầm như tiếng trống.
Kho 1 run lên bần bật tưởng chừng bị gió cuốn phăng đi. Trẻ con co rúm lại, túm chặt cha mẹ khi những tiếng sấm nổ vang trời, chớp ngoằn ngoèo sáng rực qua khe hở. Cả kho 1 bị mưa hắt và dột, nuớc chảy lênh láng, chúng tôi ai kiếm được tấm gỗ kê lên cao còn hy vọng cho đàn con ngả lưng, còn không đành chịu trận. Mãi đến gần 7 giờ, mưa ngớt, gió bớt giật, xe cơm của nhà thầu mới đến.
Tối ấy chúng tôi được bữa thật no, vì một thuyền cùng kho đã ra tự do, nhà thầu không biết, cứ thế giao như cũ. Chúng tôi cũng tham, nhận luôn chẳng chê, được 2 thùng cơm, 4 nồi thịt và rau chứ không phát bánh mỳ thịt hộp như thường lệ. Mưa rét, lại đói nên chúng tôi ăn hết chẳng thừa chút nào. Đói góp no dồn!
Sáng Thứ Hai 03-9-79, chúng tôi mới được chuyển trại. Lần này xe vẫn đi vòng qua những phố xá nhưng không còn háo hức, hồi hộp như ngày 31-8 nữa. Đoàn xe vào cổng, tất cả chúng tôi tay đùm tay xách, xuống xe và được lệnh xếp hàng đợi trưởng trại. Không chỉ có thuyền tôi, nhiều thuyền khác cũng chuyển tới. Khoảng nửa giờ thêm gần chục xe vào trại.
Hóa ra ngoài trại cấm Kho Đen (detention camp) người tỵ nạn còn bị nhốt ở nhà tù Victoria, nhà tù Chi-Ma-Wan và trại cấm A-Cai-Lau-Cai. So với ba trại kia, người ở trại Kho Đen còn sướng chán.
Anh Hà Quang, một người từng bị nhốt ở nhà tù Victoria –nơi thuở xưa ông Hồ đã ngồi tù- kể, thuyền anh vừa vào lãnh hải Hong Kong bị xuồng cảnh sát kéo vào và tống ngay vào tù sau khi làm thủ tục nhập cảnh bất hợp pháp. Một buồng giam bé tí, họ tống 3 bố con anh và 4 người lớn rồi đóng sập cửa. Phòng bỗng nhiên tối om, hai đứa con anh sợ quá xón đái, tìm nhà cầu không có. Anh đấm cửa ầm ầm, một tên cảnh sát mở lỗ kiểm tra hình chữ nhật ở cánh cửa, quát:
– Chúng mày muốn gì?
– Con tôi muốn đi vệ sinh nhưng không có nhà cầu.
– Chờ đấy.
Khoảng mấy phút sau, cửa hé ra, nó đưa vào một thùng gỗ. Tất cả không chịu, vẫn hò hét. Nó giơ dùi cui ra dọa, tuy sợ nhưng mọi người vẫn la, nhất là trẻ con khóc ầm ĩ, nó đành mở cửa.
Nhưng theo anh Hà Quang, ai ở nhà tù Victoria số phận còn may hơn ở nhà tù Chi-Ma-Wan. Trại tù này nằm trên một hòn đảo nhỏ, quản lí chặt chẽ, rất khó trốn, trốn ra cũng không thể bơi qua eo biển sang đất liền.
Bị nhốt ở trại này, số phận cầm chắc về ông nội (đại lục), bởi vì thấy người từ Việt Nam sang Hong Kong, dân Trung Quốc cũng “té nước theo mưa.” Người Việt gốc Hoa về “ông nội” không kham được việc nông trường, đua nhau bỏ chạy. Chính phủ Trung Quốc mắt nhắm mắt mở, làm căng, con ruồi cũng không lọt chứ đâu hàng ngàn người sang Hong Kong dễ đến thế.
Anh Hà Quang cũng từ nông trường, may còn đủ giấy tờ kể cả bằng lái xe, chứng minh thư nhân dân Việt Nam, nên được ra Khải Đức Đông.
Thuyền Việt Nam mũi thường nhọn hai đầu, trông giống hình vỏ trấu. Thuyền Trung Quốc phía đuôi gần như phẳng, nên cảnh sát Hong Kong nhìn là biết. Thuyền nào của Trung Quốc tống ngay vào nhà tù Chi-Ma-Wan. Bị nhốt trại này khó hy vọng ra tự do.
Từ năm 1980, kinh tế Việt nam bên bờ vực thẳm, Mỹ cấm vận, Trung quốc bao vây kinh tế, lương thực thực phẩm thiếu trầm trọng, giá cả leo tháng đến chóng mặt, nhân dân bất mãn, nhiều nơi biểu tình, bạo động.
Những tỉnh ven biển như HảI phòng, Quảng Ninh tìm thuyền chạy đi Hong Kong. Vượt biên thành phong trào, rầm rộ, gần như công khai. Cán bộ đảng viên, kể cả công an cũng “té nước theo mưa” chạy sang Hong Kong như chảy hội. Thời ấy có câu thành ngữ “Cột đèn biết đi cũng vượt biên”, riêng một xã ven biển Hải phòng, xã Lập Lễ, huyện Thủy Nguyên, một đêm 30 gia đình ngư dân vượt biên. Người Việt miền Bắc vượt biên sang Hong Kong kéo dài đến giữa thập niên 1990. Nhiều người bị Cục Di Dân Hong Kong trục xuất, về Viêt nam sau vài tháng lại sang, thay tên đổi họ.
Từ sau thời hạn cuối cùng 16-6-1988, tất cả người Việt Nam nhập cư bất hợp pháp đều bị nhốt ở nhà tù Chi-Ma-Wan. Họ được gắn mác “tỵ nạn kinh tế”, không được hưởng quy chế tỵ nạn. Có người bị nhốt rất lâu, phải hồi hương nhưng chính phủ Việt Nam không nhận. Trung Quốc yêu cầu chính phủ Anh giải quyết số tỵ nạn này trước khi Hong Kong trở thành Đặc khu của Hoa lục. Năm 1992, Anh quốc nhận thêm người tỵ nạn ở Hong Kong, đa số là người Hải Phòng và Quảng Ninh.
Tôi quen gia đình có thâm niên 4 năm ở trại này. Họ kể khi gặp Cục Di Dân Hong Kong phỏng vấn, càng nói dối càng được tin và được ra tự do.
Có tay sĩ quan hải quân Bắc Việt, ăn cắp hàng bị tù, ra tù vượt biên, khi phỏng vấn, khai, tù vì chống chính phủ, y được chấp nhận tỵ nạn.
Một giảng viên trường Đại học Bách khoa tham ô tài sản, vợ làm nhân viên sở công an Hải phòng ăn cắp của công, cả hai bị đuổi việc, khi phỏng vấn, khai, bị đuổi việc vì kêu gọi sinh viên chống chính phủ. Trại này rất lộn xộn, trộm cắp hoành hành cướp bóc bà con công khai, các băng đảng đua nhau ra đời, nhiều cuộc bạo động đập phá đốt trại được đài truyền hình Vương quốc Anh đưa tin.
Thân phận tù đã là khổ, nhưng tù ở Việt Nam còn bị cai tù lợi dụng, ít nhất bị bóc lột sức lao động. Năm 1971, viên đại úy trưởng trại giam tỉnh tôi nhân một tháng đầy cữ con trai, mời bác sĩ Khải và tôi đến nhà liên hoan. Chả là vợ anh đẻ bị ngôi ngang sa tay nên bác sĩ Khải, người trực, mổ cấp cứu và tôi là trợ thủ, nay sau một tháng “mẹ tròn con vuông” anh mời chúng tôi, gọi là chút ân tình của gia đình đối với thầy thuốc.
Từ thị xã, chúng tôi đạp xe gần 7 km vào sâu bìa rừng gần trại giam. Thấy chúng tôi, anh ra tận cổng bắt tay thân mật. Nhà anh, một nếp nhà gỗ 5 gian lợp ngói hoành tráng, tất cả các cột nhà tròn to toàn gỗ sến, táu, trai đã lên nước bóng nổi rõ từng đường vân thật đẹp. Tủ chè, bàn ghế, giường model Hong Kong đều bằng gỗ lát hoa, lát chun, toàn gỗ quý hiếm thuộc hàng cấm khai thác, mua bán theo văn bản của nhà nước.
Anh thân chinh bóc gói chè Hồng Đào mới nguyên, pha nước mời. Vài câu chuyện xã giao, vợ anh bế con ra chào, anh dẫn chúng tôi ra xem vườn và ao cá. Vườn anh thật đẹp, toàn cây lưu niên: cam, chanh, hồng bì, nhãn, vải, trồng theo thứ tự từng hàng thẳng tắp và chiếc ao cá đến hơn trăm mét vuông. Xung quanh là hàng tre bao bọc, cơ ngơi vài héc-ta, một kiểu nhà vườn sinh thái đầy mơ ước. Thấy chúng tôi trầm trồ và có ý hỏi với gia cảnh chỉ có hai vợ chồng và 3 đứa con nhỏ làm sao chăm sóc nổi. Anh cười, nháy mắt, nói nhỏ:
– Các cậu ấy giúp đấy.
Chúng tôi hiểu, “các cậu ấy” nghĩa là các tù nhân làm không công cho trưởng trại, bởi vì mỗi lần lễ Tết, nhà nước đặc xá, người đưa danh sách chính là trưởng phó trại giam. Anh chỉ sang góc bên trái, cũng một hàng tre xanh mướt bao quanh khu vườn, một nhà ngói 5 gian, anh bảo:
– Nhà cậu phó trại Minh đấy.
Ngày 31-8-1975, tôi đang ngồi chơi nhà anh bạn ở thị xã, bốn người mặc áo phạm nhân đến hỏi mua lợn, chủ nhà dẫn họ ra chuồng. Người phạm nhân lớn tuổi bảo:
– Tưởng bác có lợn dái (lợn đực giống) hay lợn sề chứ lợn này chúng em chả mua.
Anh bạn tôi cười:
– Mấy anh này lạ thật, lợn dái ăn làm sao được. Nấu xong, gắp lên khác nào đưa tất (vớ) vào mồm, hôi mù mù nuốt không trôi. Lợn sề đẻ dăm lứa dai như da trâu, nhai mỏi quai hàm ăn sao nổi. Các cậu tham rẻ hay sao, toàn hỏi những hàng “đặc sản” như vậy?
Nhìn trước nhìn sau, anh phạm nhân nói nhỏ:
– Các anh tính, cả năm có 2 dịp, lễ 02-9, Tết nguyên đán mới được ăn tươi. Mua thứ như thế, tụi tôi mới có miếng bỏ mồm, vả lại rẻ, mua một thành hai, chứ thịt ngon các cán bộ coi tù không những ăn, còn đem về cho vợ con, chỉ còn ăn lòng, thủ và dăm miếng bèo nhèo là hết cỡ.
Cai tù Victoria, Chi-Ma-Wan, Kho Đen ở Hương Cảng tuy đểu cáng, ma cô nhưng cũng chưa bót lột sức lao động hay tranh cả miếng ăn của người tù như cai tù XHCN rất sành điệu bóc lột gian manh mà không phạm luật.
Vị trưởng trại Khải Đức Đông nói tiếng Quảng, có người thông dịch sang tiếng Việt rõ ràng mạch lạc, ai cũng hiểu. Chúng tôi được lần lượt làm thủ tục nhận vật dụng trại cấp: phiếu lĩnh cơm, số giường (hai người một giường đơn kèm chiếc chiếu), hai người một xô nhựa, một chậu nhựa, mỗi người một đôi dép lê, một bát nhựa, đĩa nhựa. Chúng tôi được xếp vào kho A12. Đến đây coi như thuyền giải tán, chủ thuyền không còn là vị chỉ huy tối cao của chúng tôi. Tuy thế, y vẫn lải nhải đòi tiền bà con, y bảo tiền sửa thuyền ở Bắc Hải quá nhiều, số 22 người nhận thêm vẫn chưa đủ. Thỉnh thoảng y lại triệu tập bà con để họp (họp con mẹ gì?), sau khi kể lể con cà con kê, y lại nhai nhải yêu cầu bà con đóng góp trả nốt số tiền mà y cho chịu (sao lại là chịu?). Nhiều người không họp, lý do ông chẳng là cái đinh gì có quyền bắt chúng tôi họp. Vài lần chán, y đành chửi thầm quân ăn cháo đá bát.
Sân bay Khải Đức là sân bay lớn duy nhất Hương Cảng, không biết vì lý do gì nhường hẳn một phần để lập trại tỵ nạn. Đứng ngay trong sân, nhìn qua hàng rào chúng tôi trông rõ máy bay chạy trên đường băng.
Đầu năm 1979, một khu nhà 4 tầng thuộc sân bay ngay sát đường lộ đã được trưng dụng làm trại, gọi là Pắc Dzềnh (Bắc doanh-trại Bắc), phân biệt với trại chúng tôi Tống Dzềnh (Đông doanh-trại Đông).
Khi chúng tôi đến mới dựng xong A12, cuối năm 1979 có A25 sau đó lại chia ra Khải Tắc Đông A và Khải Tắc Đông B bằng một hàng rào dây thép.
Một nhà (gọi là A), đánh dấu sơn đỏ ngoài cửa, khá lớn. Tất cả đều bằng tôn lá ghép lại, từ mái đến 4 bức tường và 2 cửa ra vào, cột cũng bằng sắt. Mùa hè nóng ơi là nóng, ngang trong lò nướng thịt. Mùa đông lạnh cóng người, như trong tủ lạnh. Chiều ngang kê được 4 dẫy giường 3 tầng, sát hai bên, lối đi ở giữa, khoảng 2 mét, thông hai đầu, chiều ngang chừng 10 mét. Cứ 2 giường sát nhau chừa một khoảng trống hơn một mét làm lối đi và cho người tầng trên lên xuống.
Gia đình tôi được 2 giường gần ngay cửa nên đỡ nóng, rất may được ở tầng 2, tầng lý tưởng nhất. Tầng một thường dành cho người già và gia đình có cháu bé dưới 2 tuổi. Tầng này tuy tiện lợi không phải trèo, nhưng là tầng bị bọn xấu để ý, thường xuyên bị mất đồ. Tầng 3 dành cho người lớn, rất bất tiện, làm bất cứ điều gì ai cũng nhìn thấy. Chuyện riêng tư như phụ nữ thay quần áo cũng thật khó khăn. Mưa, dàn nhạc hỗn loạn gõ lên đầu, mắc bệnh khó ngủ chắc khó chợp mắt, hơn nữa gần mái tôn nên hè nóng, đông lạnh. Tầng 2 lý tưởng nhất, trèo không cao, có cột giường bốn bên, khi cần lấy vải che lại, gia đình có một khoảng tự do không bị ai nhòm ngó trong cuộc sống xô bồ hỗn loạn, chung chạ.
Sự khác biệt giữa trại Khải Đức và Kho Đen như sau:
-Được tự do đi lại, không bị cảnh sát nhòm ngó, chặn ngang hỏi bất chợt. Số lượng cảnh sát ít, thường đứng ở khu văn phòng, khu ra vào, đi kiểm tra quanh trại.
-Nhà tắm, nhà vệ sinh nhiều. Có khu riêng nam nữ.
-Thường xuyên có đại diện của các tổ chức đến thăm, tìm hiểu, lắng nghe những ý kiến và tìm cách giúp đỡ, trong số đó có Sơ Liên. Sơ có khuôn mặt phúc hậu, dễ mến. Những gì đã hứa, lần sau quay lại, Sơ thông báo được hay không. Ra trại tự do, nhưng chưa đi làm, không có tiền mua tem, chúng tôi nhờ sơ gửi thư về Việt Nam.
Chuyện này tuy nhỏ nhưng khá tốn kém, mỗi lần sơ đến, vài chục người chuẩn bị thư chờ sẵn. Nhờ lòng hảo tâm của Sơ, chúng tôi đã thông tin được cho người thân. Ơn này thật lớn, chúng tôi không bao giờ quên, xin cầu phước cho bà.
Cũng nhờ Sơ mà bố vợ tôi, sau khi nhận được thư, lên tận UBND xã tế (chửi) cho chúng một trận.
Chúng tung tin tôi là gián điệp nhị trùng (Mỹ và Trung Quốc), bị đụng xe ô-tô chết ở Hải Phòng, còn vợ con tôi đi bộ từ Hải Phòng sang Thái Lan viết thư gửi bỏ dọc đường có người nhặt được gửi về xã. Chủ tịch xã là cháu, gọi bố vợ tôi là cậu ruột, dám làm chuyện động trời như vậy, huống chi những người khác.
-Trại có phòng chờ, phòng khám bệnh và phát thuốc do bác sĩ và y tá Hong Kong làm việc, đồng thời thuê người tỵ nạn biết tiếng Quảng và tiếng Việt làm thông ngôn.
Bữa cơm đầu tiên mà chúng tôi cảm thấy ngon miệng nhất kể cả đến nay, sau hơn 30 năm định cư, từng dự biết bao bữa tiệc thịnh soạn ở nhà hàng, cuộc đại lễ… mà mỗi khi hỏi đàn con, bữa cơm nào ấn tượng nhất, chúng đều bảo: bữa cơm hộp đầu tiên ở Khải Tắc Đông.
Giấc ngủ ngon nhất đối với tôi là đêm 01-8-1979. Từ khi xẩy nhà ra thất nghiệp, lang bạt kỳ hồ (30-4) sau hơn 3 tháng nằm vật nằm vạ khắp nơi và lênh đênh trên biển, lúc nào cũng ngất ngư, say sóng, cả nhà năm mạng trong một khoảng rộng bằng chiếc chiếu đơn, tôi thường ngủ ngồi hoặc nằm co con tôm. Đêm 01-8 lần đầu tiên ngủ được duỗi thẳng chân, tuy vẫn còn cảm giác bồng bềnh, lắc lư say sóng.
Trưa 03-9-1979, nhà thầu đưa cơm hộp đến, từng hộ gia đình đem phiếu cơm ra nhận phần, mỗi người một suất không kể lớn bé già trẻ trai gái, món ăn lại có 5 món khác nhau. Mấy xe tải có nữ nhân viên phục vụ mặc áo đồng phục, sạch sẽ, nét mặt tươi cười, đon đả, tử tế yêu cầu mọi người xếp hàng trước xe rồi thông báo có 5 loại món ăn, tùy ý lựa chọn.
Mỗi xe đưa cơm có hai cảnh sát đứng quan sát, không nói, nhưng nét mặt thân thiện khác hẳn những nét mặt hầm hầm cau có của những tên cai tù ở Kho Đen.
Nhà tôi 5 suất, lấy 5 món khác nhau, không phải chia chác nhiều ít, hơn nữa chất lượng nhà thầu tốt hơn nhiều so với Kho Đen, có nghĩa là rất ngon nhất là với lũ chết đói chúng tôi. Suất cơm khá nhiều, người lớn ăn cũng cảm thấy no, thế mà các con tôi (đứa bé gần 4 tuổi) vét sạch không thừa một hạt nào.
Thời bấy giờ Hong Kong có rất nhiều trại tỵ nạn vì con số người tỵ nạn lên đến hàng trăm ngàn, nhưng tiêu chuẩn và chế độ ở từng trại lại rất khác nhau. Đến nay sau 30 năm, tôi vẫn chưa hiểu tại sao cùng dưới sự bảo trợ của cơ quan Liên Hiệp Quốc mà mỗi một trại tỵ nạn lại có những quy chế riêng.
Sát bên trại tôi là trại Bắc Khải Đức -Pắc Khải Tắc- Thuyền nhân ở đây đa số người Quảng Ninh, vượt biên rất sớm, đến Kho Đen từ sau Tết nguyên đán 1979. Nhốt trại hơn sáu tháng, ngày ngày vẫn 2 bữa cơm hộp, nhìn sang trại tôi ra vào tấp nập, người đi chợ lũ lượt tay xách nách mang nào gà, thịt, cá, rau quả… cười đùa, họ uất lắm. Một cuộc bạo động nổ ra, đốt giường, đốt trại… loạn xì ngầu. Cảnh sát khu vực can thiệp.
Cuối cùng họ được tự do đi làm.
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 17:59:17 GMT 9
Chương 6: Tự doPosted: 16/03/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Sau hai tuần, trại tuyên bố chúng tôi tự do đi làm, được tiền trợ cấp 2 tuần (theo số người), sau đó cắt trừ người già, người ốm, tật nguyền. Gia đình tôi được khoảng 500 HK$, vợ tôi theo chị Sâm người cùng thuyền, biết tiếng Quảng, đi chợ mua bếp điện, 2 chiếc xoong, 1 túi gạo 5 kg, mắm muối chuẩn bị cho những ngày tự do. Tôi sang trại Tuen Mun tìm gia đình chú thím. Rất may hỏi thăm, có người biết, lên tầng 20. Gặp nhau chúng tôi mừng mừng tủi tủi, hỏi đủ chuyện về từng người.
Thím tôi kể, thằng con rể bố mẹ nó không cho đi, bắt luôn thằng cháu ngoại mới 10 tháng tuổi phải xa mẹ. Tôi hỏi, “Sao không để cô Định ở lại với chồng con, chứ chia ly thế này đau lòng lắm”. Thím bảo, “Chú thím có sang Kiến An nói chuyện với ông bà thông gia, nhưng họ đâu có nghe”. Tôi hỏi, “Sự thể ra sao, hay chú nói không khéo.” Chú tôi bỗng nhiên đỏ mặt, giận dữ bảo, “Anh có biết, bố mẹ thằng Dũng nói gì không? Họ bảo, chúng tôi không thể giúp được, người trong xã có đánh chết nó, gia đình cũng chịu.” Chú tôi rất hiền, ít khi nổi nóng, nhắc đến chuyện này tự nhiên ông nổi giận cả với tôi, phải tức lắm ông mới nổi đóa như vậy. Sự thể như sau: Con gái ông, y sĩ của Bệnh viện Đông Y Hòa Bình, Hải Phòng, chồng giáo viên cấp 2 ở Kiến An. Chúng đến với nhau do tình yêu, sống rất hòa thuận, hạnh phúc, có thằng con đầu lòng gần 1 tuổi. Chỉ vì chiến tranh Trung–Việt chúng phải chia ly, vợ một nơi, chồng con môt nẻo, hàng ngày vì nhớ con, suốt thời gian đi thuyền đến nay cô Định ăn uống cầm hơi, ngườI gầy như ve sầu, trông rất tội nghiệp. Khi chú thím và cô Định phải thôi việc, gia đình quyết định đi Hong Kong, ông bà đến nhà thông gia đặt vấn đề:
1- Xin cho con rể đi cùng để vợ chồng chúng đoàn tụ.
2- Nếu con gái ông bà ở lại với chồng con, chỉ mong gia đình thông gia thương yêu, đùm bọc che chở coi nó như con ruột.
Ai ngờ, ông thông gia trả lời trắng trợn, “Chúng tôi chịu, nhỡ bà con trong làng xã ghét người Hoa có giết chết, chúng tôi cũng không thể can thiệp”, đồng thời yêu cầu giữ lại đứa cháu đích tôn vì gia đình hiếm muộn. Hết tình, cạn nghĩa, chẳng còn gi phảI nói, chú thím tôi đành đứng lên, đi về.
Đến Hong Kong, trong cuộc phỏng vấn của phái đoàn Liên Hiệp Quốc, cô Định xin bảo lãnh cho chồng con và được chấp nhận. Nhưng chồng cô, Nguyễn Đình Dũng, sau 3 tháng xa vợ, nghe lời cha mẹ, kết hôn với cô gái trong làng. Biết tin được bảo lãnh sang Anh, năm 1981, Dũng viết thư cho tôi, nhờ tôi đứng ra giúp vợ chồng đoàn tụ. Gia đình chú thím tôi được bạn bè thân quen ở Việt nam báo tin từ lâu, thằng con rể của ông bà đã lấy vợ. Nhận được thư khẩn cầu giúp đỡ của Nguyễn đình Dũng, tôi là một trưởng tộc, chỉ yêu cầu Dũng “gửi giấy xác nhận của xã và ban gian hiệu nhà trường tình trạng hôn nhân hiện tại.” Dũng không hồi âm, coi như mọi chuyện đã chấm hết.
Năm 1984, cô Định đi bước nữa, tháng 5-1988, sau 9 năm, cô Định đã đón được con từ Việt nam theo chương trình đoàn tụ. Hiện nay cháu Huy có bằng cử nhân tin học, có công ăn việc làm, có gia đình, cuộc sống ổn định ở London.
Tuen Mun có 2 hai tòa nhà dành cho người tỵ nạn. Một tòa 7 tầng và tòa 21 tầng vừa xây xong, chưa hoàn tất buồng, nhưng nhà tài phiệt này đã cho người tỵ nạn ở, không lấy tiền của Liên Hiệp Quốc. Mỗi tầng có hai phòng rất to, chứa chừng chục gia đình, tất cả giải chiếu nằm ngay dưới sàn đá hoa và lấy đồ đạc vây quanh làm biên giới. Tuen Mun chế độ khác trại tôi.
Từ Kho Đen chuyển đến đây, chỉ một tuần đã được tự do kiếm việc làm nhưng vẫn được cấp tiêu chuẩn cơm. Nhiều gia đình đi làm vắng, nhưng nhà thầu vẫn sáng cơm hộp, chiều bánh mỳ, thịt hộp/cá hộp, ăn không hết có người đem ra chợ bán. Ngày Chủ Nhật, ngày nghỉ họ vẫn lĩnh cơm. Suất thừa nhà thầu đem về, đưa đi đâu, bán hay cho các trại mồi côi, người tàn tật chẳng ai biết. Từ tháng 4-1979 đến 2-1980 chấm dứt khi trại Tuen Mun đóng cửa, vì ăn ở quá mất vệ sinh. Mọi người chuyển sang trại Sắm-sủi-pầu -Tâm Thủy Bộ- và trại Jubilee kế sát bên.
Gia đình ông chú tôi có 6 thanh niên còn độc thân, khi tôi đến sự khá giả thể hiện rất rõ, tuy gia đình ông đi làm mới gần 3 tháng. Vì thế rất nhiều gia đình cố thủ không muốn đi định cư, có gia đình ở 4 năm, tuy công việc chỉ là tạm thời, không bảo hiểm y tế và tai nạn, không có chế độ hưu bổng. Ngược lại, làm được đồng nào đút túi đồng ấy, nếu phải trả tiền giường và tiền điện như trại tôi thì cũng rất thấp -24 HK$/tháng- coi như có đóng góp, thấm tháp gì so với giá thuê nhà ở ngoài.
Đươc vài tháng, có người bắt đầu mua hàng gửi về Việt Nam. Thời bấy giờ nhận hàng nước ngoài bị đánh thuế 100%. Việc người tỵ nạn gửi hàng về đã khuyến khích người trong nước tìm cách vượt biên. Từ năm 1980, kinh tế Việt Nam bên bờ vực thẳm, bo bo không có mà ăn, nên có câu “Cột đèn mà biết đi cũng vượt biên.” Thuyền Việt Nam đi Hong Kong như đi hội. Ngày nay người ta vẫn “vượt biên” dài dài theo đường du học, du lịch, thăm thân nhân, kết hôn, xuất khẩu lao động, một số theo đường dây buôn người đi qua Nga, Ba Lan, Tiệp, thậm chí thuê passport lừa hải quan.
Sáng sớm mọi người ra chầu ở cửa trại, họp thành chợ người chờ các ông chủ. Thực ra các trại tỵ nạn đều ở Kowloon -Cửu Long- hay Tân Lãnh Địa (the New Territories) chứ không ở Hong Kong. Cửu Long có hàng ngàn xưởng lớn nhỏ làm đồ chơi cho trẻ em, lắp ráp đồ điện tử, đồng hồ rẻ tiền, may mặc, cửa hàng bán buôn bán lẻ và đóng du thuyền cho tầng lớp giàu có, thượng lưu trong và ngoài nước. Có nghĩa là họ rất cần những lao động phổ thông với đồng lương thấp so với người bản địa. Lương từ 25 đến 35 HK$/ngày, cuối tuần thanh toán.
Tôi chưa được đi làm thì A11 có hai người bị tai nạn lao động. Một chị hơn 40 tuổi bị máy làm dập nát bàn tay phải do ngủ gật, đưa cả bàn tay vào máy thay cho miếng kim loại. Chị bị cắt bỏ 3 ngón, bàn tay phải coi như hết khả năng lao động. Một thanh niên làm xuởng lắp đồng hồ, đáng lẽ đưa đồng hồ vào khuôn áp lực, do mệt đút ngay tay. Cả 5 ngón tay nát, đang nằm bệnh viện. Lao động tạm tuyển, chả có ký kết, khi bị tai nạn tùy thuộc vào lòng hảo tâm của chủ mà thôi.
Chuyện này làm rúng động chúng tôi, nhưng có người lo, người bảo có số, không làm lấy gì bỏ mồm, còn phải dành dụm chút ít khi đi định cư chứ.
Tôi gặp anh Hồ Coóng -Hà Quang- dân xế của Công ty Vận tải 1 Hà Nội tại bàn cờ tướng. Vừa đánh cờ vừa nói chuyện tai nạn, anh bảo:
– Chú và tôi chỉ trông mong vào hai bàn tay nuôi vợ nuôi con, nhỡ cụt mẹ nó, mai kia sang định cư nước thứ ba đi ăn mày à? Mà chắc gì người ta nhận mình về nuôi báo cô. Vì thế tớ đi làm lao công ở xưởng đóng du thuyền lương cũng 30 HK$/ngày, chả lo lắng gì, hết tuần lĩnh tiền. Tay đốc công rất tử tế, còn cho tớ làm thêm giờ. Lao công mà cũng làm thêm giờ, chú có tin được không? Lão ta bảo, từng khốn khổ khi từ “ông nội” sang, may có người giúp mới được như ngày nay. Chú có đi làm cùng, mai anh hỏi, nếu được, anh em mình làm cho vui. Chứ tay chú làm phẫu thuật nhỡ cụt, phí lắm.
Tôi im lặng, rồi hỏi anh:
– Thế có phải rửa cầu tiêu và bưng nước cho đốc công không?
– Không, có mụ già làm hết rồi. Mụ ta đun nước, quét dọn cầu tiêu, lau chùi văn phòng. Anh em mình chỉ có việc bốc tất cả các gỗ vụn, sắt vụn, quét mùn cưa, phoi bào… cho vào xe cút kít đổ ra biển. Vừa làm vừa chơi chẳng nặng nhọc gì, không lo què chân gẫy tay.
Anh này tốt thật, nói có lý. Nghĩ vậy, tôi bảo:
– Mai anh hỏi, nếu được, tuần sau được ra tự do, em đi làm với anh.
Anh cười vui vẻ, vỗ vai tôi, đọc câu ca dao thời đại:
Vua quan ở đất nhà bay Dù xe ngựa cưỡi đến đây cũng hèn.
Bọn mình là cái chó gì, đến đây là thằng tỵ nạn, ăn xin mà thôi. Thôi, đời mình coi như bỏ, cố cho con nên người là được.
Hoàn cảnh anh rất éo le. Năm 1972, B52 trải thảm Hà Nội, nhà anh ở ngõ chợ Khâm Thiên. Đêm ấy anh chạy xe, bom trúng nhà, vợ anh và đứa con út chết không tìm ra xác, hai đứa lớn về bên ngoại, sống sót. Nay gần ngũ tuần, anh thương vợ, ở vậy. Nguyện vọng muốn sang Mỹ định cư, có lần tâm sự, anh bảo, nếu có mụ Mỹ đen già giàu có muốn lấy, anh lấy liền để cho hai đứa con ăn học lên người.
Tôi hỏi, sao anh thích định cư Mỹ khi vợ con anh chết vì bom Mỹ. Anh bảo, trâu bò húc nhau, mình thân phận sâu kiến không may thì dính. Vả lại cái số của vợ con anh chỉ được thế. Anh không oán người phi công đã thả bom nhà anh, vì họ là người lính, phải làm theo lệnh chỉ huy cũng như anh đã từng lái xe đưa bộ đội, súng đạn đi B, đi C giết hại bà con miền Nam, Lào, Căm-bốt đó thôi.“Chiến tranh là chiến tranh, không phải do tôi do anh -người lính ở hai chiến tuyến- gây ra”, trách nhiệm thuộc về người đứng đầu nhà nước.
Hầu hết công nhân xưởng tôi là dân địa phương đều ca tụng Mỹ, miền đất hứa trên thế gian này. Hễ ai nói muốn định cư nước khác hay Dzấng-coọc- Anh quốc- họ dè bỉu và nói toạc ra rằng, “sang Anh vỏ khoai tây cũng không có mà ăn.” Có người lại còn cực đoan đến mức ghét nếu ai nói xin định cư ở Anh. Ai cũng sang Mỹ, nước Mỹ làm sao ôm trọn số tỵ nạn cả triệu người!
Tôi chọn 4 quốc gia, Úc Đại Lợi vì khí hậu giống Việt Nam, Thụy Sĩ, Canada và Anh quốc. Đăng kí xin đi Úc, bị loại từ đầu, không gọi tiếp kiến. Thụy Sĩ tuyên bố chỉ nhận gia đình có thân nhân tàn tật. Thế là phèo, hết hy vọng. Một người quen tôi đi định cư Canada và tháng 11-1979 viết thư về kể rét thê thảm lắm. Nhiệt độ đầu tháng 11 dương lịch mà đã âm 10 độ C, anh ta còn viết thêm, giữa mùa Đông nhiệt độ có thể xuống -25 hay -30 C. Nghe mà sợ, ngang sống trong tủ đá, tôi quyết định đăng kí định cư Vương quốc Anh.
Năm 1979, Đảng Bảo thủ thắng cử, bà Margret Thatcher làm Thủ tướng, Bà Đầm Thép -Iron Lady-, đã ủng hộ đề nghị của Tổng thống Mỹ Reagan. Vương quốc Anh nhận 19 ngàn người tỵ nạn Việt Nam trên toàn thế giới. Trại Khải Đức Đông thông báo sẽ có nhiều đợt tiếp kiến. Trước khi đăng ký, tôi sang trại Tâm Thủy Bộ -Sắm-sủi-pầu- trao đổi với gia đình chú thím. Các em con chú tôi vẫn thích xin định cư ở Mỹ.
Tôi đưa ra lý do vì sao tôi xin đi Anh.
1. Ai cũng xin định cư ở Mỹ nên số đăng ký rất lớn, chính phủ Mỹ sẽ dành nhiều ưu tiên cho những sĩ quan, quân nhân, dân sự từng làm cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa, sau đó mới đến những thành phần khác. Hy vọng được Mỹ chấp nhận là điều mong manh, người Bắc, càng ít cơ hội.
2. Dù muốn dù không vẫn có sự mặc cảm Nam-Bắc, là rào cản và khó khăn lớn nhất khi định cư ở Mỹ.
3. Nước Anh không có chế độ quân dịch, đi lính cũng chỉ là một nghề nghiệp, trong khi đó gia đình chú tôi có 4 con trai đang tuổi tòng quân, gia đình tôi có 2 (tuy còn nhỏ). Đây là đất nước lý tưởng nếu như không muốn con tham gia quân đội.
4. Từ xưa đến nay, ai cũng nói Anh-Pháp-Mỹ, có nghĩa là đó là ba cường quốc, Hong Kong chỉ là thuộc địa mà đời sống đã cao hơn Trung Quốc và Việt Nam nhiều lần, cớ gì cuộc sống ở Anh lại tồi tệ hơn Việt Nam.
Ngày 15 tháng 1-1980, gia đình tôi được tiếp kiến. Tôi hy vọng tràn trề khi nghe tin sẽ được báo ngày đi định cư.
Ai được Mỹ chấp nhận, phải sang Phi Luật Tân học Anh ngữ. A12 có anh nhà báo miền Trung, Anh ngữ thuộc loại siêu đẳng, ấy thế gia đình anh cũng phải sang Phi. Sang được 2 tuần, anh viết thư về, than rằng chỉ sau 5 ngày vào trại, bọn trộm người Phi cắt điện, xông vào cướp sạch đồ đạc. Thế là gia đình anh trắng tay. Anh khuyên bạn bè, nếu phải sang Phi nên xin định cư nước khác, lộn xộn không thể tưởng tượng được.
Anh Hà Quang chuẩn bị lên đường đi Phi.
Tôi cũng chuyển sang trại khác, A-Cai-Lau-Cai 2, chờ đi Vương quốc Anh. Chúng tôi mất liên lạc.
Tôi làm lao công với anh ở Cửu Long được 8 tháng. Đây là một kỷ niệm đẹp của đời tỵ nạn, tôi và anh hợp tâm tình. Tôi từng đọc nhiều sách truyện, anh lại là người ham hiểu biết. Vừa bốc gỗ, hốt mùn cưa, vỏ bào, tôi vừa kể chuyện Hạng Võ, Trình Giảo Kim, Tống Địch Thanh, Chiêu Quân cống Hồ, đến Tam quốc, Thủy hử chúng tôi vui lắm.
Anh ó nhược điểm là nghiện trò đỏ đen. Muốn giúp anh hiểu tác hại của cờ bạc, tôi mua một cuốn sổ nhỏ, trưa không ngủ, ngồi xem, được hay thua đều bí mật ghi. Sau 1 tháng tôi cho anh xem, anh thua vài trăm. Anh hứa sẽ bỏ. Chỉ được vài buổi lại chơi, nhưng lần này anh hứa chỉ chơi 5 HK$/một buổi.
Một xưởng đóng du thuyền chừng dưới 100 người, nghỉ trưa 2 giờ có đến 6, 7 nhóm sát phạt nhau đủ thứ xì-phé, xóc đĩa, túm tụm vòng trong vòng ngoài. Nhiều người cuối tuần lĩnh tiền trả nợ coi như trắng tay. Tôi quen ông bạn ở London, mang bài sang nhà con rể gạ đánh bạc. Tôi hỏi, sao làm thế, ông nháy mắt, ‘‘khỏi phải vay nó!’’
Tuần lương đầu tiên, tôi lĩnh hơn 200 HK$ kể cả thêm giờ. Đêm đó chúng tôi đi mua đồ. Mua cho con gái một con búp bê thật to, 25 HK$, bộ váy áo thật đẹp, còn hai thằng bé mỗi đứa một bộ quần áo in hình Mighty Mouse, mỗi đứa đôi giầy. Con tôi sung sướng lắm, lần đầu tiên trong đời được ôm búp bê, biết mở và nhắm mắt và to như vậy. Nhìn nó, tôi nghĩ đến hình ảnh ông già Jean Valjean mua búp bê cho bé Cosette trong Những người khốn khổ của Victor Hugo.
Kỉ niệm ấy đến giờ nó vẫn nhớ. Cả nhà ăn bữa kem cốc và uống coca để mừng đồng tiền đầu tiên kiếm được dù chỉ là thằng hốt rác xưởng đóng tầu.
Sau gần 3 tháng đi làm, cuộc sống trong A tôi thay đổi. Quần áo đã tươm tất, bữa ăn cải thiện, nhiều người mua máy thu thanh 1 hay 2 cassettes làm thay đổi không khí và cũng từ đây bắt đầu trộm cắp và làm điếm ngay tại A. Một A ít nhất cũng đến 500 người, cuộc sống xô bồ, người tốt kẻ xấu khó biết. Thỉnh thoảng nửa đêm có tiếng kêu thất thanh “trộm, trộm” nổi lên, cả A bừng tỉnh, xôn xao, người đuổi, người thét, có lần kẻ xấu đành vứt bỏ lại chiếc va-ly chúng vừa trộm. Trong A đưa ra quy định đóng cửa hai đầu. Mùa hè, tường tôn, mái tôn, không quạt, đóng cửa không thể chịu nổi, vả lại “nội gián” lấy cớ đi toilet mở cửa, đồng bọn vào xoáy cũng chịu. Người ở tầng 1 hay mất đồ, tầng 2 đỡ hơn và tầng 3 hầu như an toàn. A12 của tôi trong 6 tháng có đến mười mấy vụ trộm vặt, một số chủ thuyền ra thuê nhà ngoài phố. Nhưng rất may hồi ấy chưa có kẻ nghiện và buôn bán ma túy như những năm sau.
Số người cả hai trại A và B lên đến vài ngàn.
Những dịch vụ nho nhỏ bắt đầu hình thành.
Sáng có hàng xôi, bánh bao, riêng hàng phở đông khách nhất. Anh hàng phở người Nam Định biết vài câu tiếng Quảng ú ớ, thế mà ra dấu tay người bán thịt hiểu.
Anh kể, ngày đầu tiên là khó khăn nhất. Hôm ấy, anh đến cửa hàng, mua các loại xương về hầm lấy nước, tay chỉ vào tảng thịt, chỉ vào số 10 ở cái cân (ý nói 10 cân) nhưng anh chắp hai bàn tay đưa vào má, mắt nhắm. Đột nhiên anh làm tiếng gà gáy “ò ó o”, rồi xòe 5 ngón tay (muốn nói 5 giờ sáng), lấy 2 ngón tay làm dấu chân bước. Tay bán hàng cười, gật đầu. Năm giờ sáng hôm sau, anh đến, anh hàng thịt đã đóng gói sẵn.
Từ đấy quen lệ, chẳng khó khăn gì. Anh cười sung sướng, vì nghĩ sang Bỉ anh sẽ mở quán phở, chắc đông khách lắm. Không biết ước vọng nho nhỏ của anh có thành hiện thực không, bởi vì hiện nay ở Đức, Anh, Pháp rất nhiều nhà hàng có phở Việt Nam, không rõ ở Bỉ có chưa.
Một lần mua xôi, chị bán hàng tâm sự, khi nào sang Đức anh chị sẽ làm xe đẩy bán xôi rong như ở Hong Kong chắc kiếm được. Hy vọng, ngày nay chị có nhà hàng trong đó có món xôi bánh khúc gia truyền.
Ngày 20 tháng 3-1980 gia đình tôi được lệnh chuyển sang trại A-Cai-Lau-Cai 2. Số tiền kiếm được mua va ly, quần áo, radio cassette, giầy dép và để dành gần 400 HK$. Thường chỉ tối đa 4 đến 7 ngày là là bay, nhưng gia đình tôi và 11 gia đình khác chờ hơn 3 tuần.
Ngày 10-4-1980 đi U.K. Không đi làm, mấy trăm đô để dành tiêu hết, không một xu dính túi khi lên máy bay.
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 18:04:02 GMT 9
Chương 7: TokyoPosted: 19/03/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Cả đêm 12 gia đình chúng tôi thao thức, hết đi ra lại đi vào, hết ngồi lại đứng, mong trời mau sáng. Chúng tôi được giấy báo sáng sớm 10-4 lên máy bay đi Anh Quốc tuy có ghi giờ xe đón 6.00 am, nhưng chẳng ai ngủ được vì quá sung sướng, tràn trề hy vọng. Những ngày đầu đường, xó chợ, vật vạ từ bến Tam Bạc, Hải Phòng, Bắc Hải, Kho Đen… chấm hết.
Đời tỵ nạn chúng tôi sang trang mới.
Trang mới ra sao, như thế nào vẫn còn bí ẩn, nhưng chắc chắn hơn hẳn những ngày qua.
Gần 6 giờ, cánh cổng trại A-Cai-Lau-Cai 2 từ từ mở, một đoàn xe chở tù lần lượt vào sân. Tất cả chúng tôi nhộn nhịp lấy va-ly, túi xách, thùng hàng… lủng củng đưa ra trước cửa, chờ lên xe. Viên thượng sĩ gọi tên hộ gia đình, đếm từng thành viên, lên xe.
Đến gia đình tôi, anh ta bảo đợi một chút.
Tưởng chuyện gì, hoá ra anh giao cho tôi hai cặp hồ sơ, bảo, tôi được chỉ định làm trưởng đoàn, chịu trách nhiệm giữ 2 cặp hồ sơ. Hồ sơ màu vàng giao cho người có tên Thành, đón ở phi trường Heathrow, chỉ vào hai phụ nữ đứng sát ngay bên, người phải giao trực tiếp cho anh Thành.
Hồ sơ màu xanh khi đến Wishaw, giao cho người phụ trách trại. Anh ta nói tiếng Anh, rõ ràng mạch lạc, tôi hiểu và hứa hết sức cố gắng.
Tôi bỗng nhiên được đứng đầu gần 70 nhân mạng!
Tôi hỏi viên thượng sĩ, anh ta bảo, đây là lệnh trên vì Anh ngữ của tôi khá.
Như vậy khi phỏng vấn, anh chàng người Anh thấy trả lời lưu loát tất cả các câu hỏi, tưởng tôi Anh ngữ khá lắm. Thực ra tôi học được dăm câu tủ của lớp ban đêm ở trại Khải Đức Đông, chứ trình độ tôi xí xố vài câu là hết vở.
Sau khi chiếm trọn miền Nam, trí thức miền Bắc tự thấy trình độ quá thấp so với đồng nghiệp phía Nam, nghĩ rằng kém Anh ngữ là một thiệt thòi, phong trào học Anh ngữ bắt đầu.
Năm 1977 bệnh viện tôi mở lớp Anh ngữ tại chức cho y bác sĩ. Giám đốc bệnh viện mời giảng viên Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, trong đó có cụ Đặng Chấn Liêu, cựu giảng viên Anh ngữ Đại học Oxford, theo ông Hồ về nước từ 1946, làm giáo sư danh dự.
Khóa học 1 năm, chỉ học tối thứ Bẩy và ngày Chủ Nhật. Chả biết khỉ gì, ấy thế mà cũng được cái bằng Anh ngữ hệ tại chức do ông Bùi văn Phú hiệu trưởng cấp, dọa thiên hạ.
Có bằng trong tay, chúng tôi mắc 3 bệnh: ngọng (phát âm sai), nghễng ngãng (nghe không thủng) và mắt kém (vốn từ quá ít) hầu như chẳng tác dụng gì.
Tài sản quý báu nhất của tôi đến Kho Đen là sách học Anh ngữ, Pháp ngữ, tự điển Anh-Việt, Việt-Anh, Pháp-Việt; cũng vì những bộ sách này, chiếc valy của tôi bị rạch nát, may chúng không bị vứt xuống biển phi tang. Khi ở trại Khải Đức Đông, có người bảo, đem cuốn tự điển đưa cho nhà xuất bản Hong Kong in lậu, kiếm bộn tiền, ít ra cũng vài ngàn đô.
Cuốn tự điển Anh-Việt, nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, ấn hành 1975, mua với giá 20 VNĐ 1977, dày 1960 trang, bìa cứng, trình bày đơn giản, trang nhã. Giấy mỏng nhưng bền, in ở Nga hay Trung Quốc, chứ Việt Nam không in nổi. Sách do tập thể giáo sư, giảng viên đại học soạn, trong đó có cụ Lê Khả Kế, Đặng Chấn Liêu và Bùi Ý hiệu đính. Chính tay cụ Đặng Chấn Liêu ký vào cuốn tôi mua khi cụ đến thăm lớp.
Tôi nghĩ lung lắm. Vài ngàn đô, số tiền tương đối lớn lúc đó, nhất là vợ con tôi đang khốn khó, nhưng tôi không muốn ăn cướp công sức của người khác. Lỗ Tấn nói, “muốn viết một trang sách, phải đọc ngàn trang”. Công sức cả đời nguời ta mà mình chỉ vì thèm tiền bán cả lương tâm, danh dự sao đành. Suy nghĩ hàng tuần lễ, anh bạn thúc ghê lắm, chắc hy vọng được hoa hồng. Truyện ngắn “Sợi tóc” của Thạch Lam vụt lại trong đầu, giúp tôi không làm chuyện xấu xa, vô liêm sỉ đó. Cái xấu, cái tốt cách nhau sợi tóc, tôi đã vượt qua được sự cám dỗ, không lấn qua ranh giới. Giờ đây, cuốn tự điển đó là kỷ vật, niềm kiêu hãnh của tôi, dành con cháu sau này.
Mấy năm sau, người từ Hong Kong sang, có cuốn tự điển y chang, có kẻ đã bán linh hồn cho quỷ. Sau này khoảng thập niên1990, nghe tin nhà văn Duyên Anh, mãn hạn tù, định cư nước ngoài, sang Mỹ đòi tiền nhuận bút do một nhà xuất bản nào đó đã tái bản tác phẩm của ông. Ông không trả tiền mà còn bị một tay xã hội đen được thuê làm ông thân tàn ma dại. Mãnh lực của đồng tiền ghê thật!
Chúng tôi lên xe, vẫn ngồi hàng ghế sát thành xe tù. Lần này quần áo chỉnh tề, com-lê, cà-vạt, va-ly, túi xách mới cứng… y như đoàn du khách, khác xa cái ngày từ Kho Đen ra trại tự do. Tuy đồ second hand, com-lê của tôi còn khá, cà-vạt xanh theo màu áo vét, sơ mi trắng, trông chững chạc ra phết.
Nhưng trong túi 1 xu cũng không có!
Thủ tục check-in được cảnh sát giúp, mọi chuyện suông sẻ, nhanh chóng. Vị thượng sĩ đưa chúng tôi đến tận cửa máy bay –có lẽ để biết chắc không thiếu ai. Tôi là người cuối cùng. Anh bắt tay tôi, chúc may mắn. Tôi cũng chúc lại và cảm ơn anh nhiều.
Sau khi ổn định chỗ ngồi, hai nữ tiếp viên đứng hàng ghế đầu, một người nói tiếng Anh giới thiệu phải làm gì nếu chuyến bay có sự cố, người đứng kế bên làm động tác thực hành hướng dẫn cách ứng cứu. Thấy đoàn tôi nhiều người chưa hiểu, họ yêu cầu tôi đứng lên thông dịch. Cũng may, đơn giản tôi giúp được.
Cài xong dây bảo biểm, máy bay từ từ lăn bánh, tăng tốc, thoáng rung một chút, nhìn qua cửa sổ, máy bay đã rời mặt đất, vọt lên cao rất nhanh. Tôi nhìn đàn con, lòng tràn đầy sung sướng, ứa lệ. Tôi không tưởng tượng nổi có giờ phút như thế này đến với gia đình tôi.
Sau 2 giờ bay, chiếc Airbus hạ cánh xuống phi trường Tokyo, chúng tôi theo hành khách vào sảnh đường. Người đông như kiến, sảnh đường quá rộng, sang trọng, choáng ngợp. Chúng tôi như lạc vào một thế giới mới, chưa một lần nhìn thấy, đứng túm tụm thành một đám, ngơ ngác. Hai người Nhật com-lê, cà-vạt sang trọng đến, cúi đầu chào. Chúng tôi đáp lễ. Họ hỏi ai là trưởng đoàn. Tôi đến, họ bắt tay, hỏi chúng tôi là ai, ở đâu đến. Tôi trình bày sự thật. Họ mời tôi vào văn phòng, xin mượn hồ sơ, ngỏ ý photocopy. Tôi nghĩ, chẳng có gì bí mật. Tôi đưa, họ phô-tô ngay tại chỗ. Họ bảo, đến 3 giờ chiều mới có chuyển máy bay 747 đi London, hành lý phi trường lo liệu chuyển, bây giờ về hotel nghỉ và dùng bữa. Tôi nói thật, chúng tôi không có tiền. Họ mỉm cười, nói các khoản miễn phí.
Hai chiếc coach –xe bus- sang trọng đợi chúng tôi ngoài thềm. Khoảng nửa giờ sau, chúng tôi đến khách sạn sang trọng. Bốn dẫy bàn ăn dài trải khăn trắng muốt, mỗi bàn có bốn cô phục vụ, áo váy đồng phục, tươi cười chào chúng tôi.
Từng món ăn được bưng ra. Đầu tiên món khai vị, tiếp theo món hải sản, gà quay, rau… các món đều bốc hơi nghi ngút, thơm nức mũi. Chưa bao giờ gia đình tôi được ăn những món ăn cao cấp như thế này. Món này hết, món khác bưng ra. Sau cùng là món tráng miệng và hoa quả.
Họ đưa mỗi gia đình về một phòng riêng. Phòng gia đình tôi 5 giường một, ga trải giường, gối trắng tinh, thơm mùi nước hoa đắt tiền. Cả đời chưa bao giờ bước chân vào hotel, giờ đây được vào khách sạn 5 sao tại Tokyo. Nhường vợ con tắm xong, đến lượt tôi. Tôi xả nước ấm đầy bồn, nằm duỗi dài, sung sướng.
Gần hai giờ chiều, xe coach đợi ngoài, đưa chúng tôi về phi trường.
Một chuyện buồn, cháu trai gần 2 tuổi, con một gia đình ở Móng Cái, không biết bữa ăn có món gì không hợp, cháu iả chảy. Người cha không để ý, dắt bé đi dọc hàng lang hotel. Thấy có mùi hôi, tôi quay tìm, phát hiện một đoạn thảm xanh dài hơn 20 mét có dấu chân cháu dính phân. Tôi đỏ mặt. Biết nói làm sao đây. Tôi nói nhỏ với cha cháu, bế cháu đưa vào nhà vệ sinh, đừng làm thảm bẩn thêm. Anh không làm, chắc sợ bẩn bộ com-lê, anh dắt con đi nhanh về hướng toilet. Lại thêm một đoạn thảm nữa dính phân. Tôi đi thẳng ra xe. Chịu, biết nói gì. Chắc hotel phải tốn hàng ngàn Yên giặt thảm, đóng cửa vài ngày tổng vệ sinh!
Đường bay từ Tokyo đến London qua Alaska, không như ngày nay, qua Trung cộng, Nga, Đông Âu vì chiến tranh lạnh đang nóng dần. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nga Xô thời ấy, Brezhnev, lông mày như 2 con sâu róm, hiếu chiến lắm.
Năm 1982, máy bay 747 của Nam Hàn lạc đường, tên lửa Xô-viết thiêu sống gần 500 hành khách và phi đoàn trên không phận Nga.
Cả thế giới lên án, y phớt lờ.
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 18:08:56 GMT 9
Chương 8: Wishaw, ScotlandPosted: 23/03/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Ăn mày là ai? Ăn mày là ta. Chỉ vì Lê Duẩn hóa ra ăn mày. (Ca dao mới) Chiếc 747 từ từ hạ cánh xuống phi trường Alaska, chạy trên đường băng chậm dần rồi dừng hẳn. Để phi cơ tiếp nhiên liệu, chúng tôi có hai giờ “giải lao”, vệ sinh, xuống máy bay vào siêu thị phi trường Alsaka làm khách ngó. Rất nhiều quầy hàng bày toàn thứ đẹp mắt, đắt tiền, dí mũi qua từng khung kính không chán mắt. Ngay giữa sảnh đường, một chú gấu Bắc cực nhồi to tướng, cao hơn hai mét, sừng sững như chào quý khách.
Khi ở Khải Đức, ngày đi làm đêm đi học Anh ngữ hoặc làm thêm giờ, tôi ít có thời gian ngó các siêu thị. Còn tuổi thiếu thời thì ”phở hít”, “hàng ngó”, xi-nê cửa” là chuyện “thường ngày của trẻ con hàng phố”, theo cách nói bây giờ, nhưng làm gì có hàng siêu cao cấp, đẹp tuyệt như thế này để ngó.
Hồi nhỏ, bọn tôi rất mê phim, không tiền tìm cách chui rào cho đã cơn nghiền. Hải Phòng có bãi chiếu bóng Nhân Dân ở ngã 5 Lạc Viên, cứ tối Thứ Bẩy, hơn mươi đứa rủ nhau đi xem chạc. Từ Cầu Đất, đi bộ gần 4 cây số, không tiền mua vé -nếu có cũng không mua-, chia lượt, mỗi tuần một thằng, có lần hai, phải làm con mồi nhử. Mồi được cầm 5 xu.
Đợi lúc khách thật đông, con mồi cố tình chạy vào cho bọn xé vé, canh rào nhìn thấy. Chúng hò nhau đuổi theo. Chín thằng phía sau ù té chạy thục mạng theo nhiều hướng vào bãi, lẩn vào đám đông. Mồi bị tóm, mua vé vào đàng hoàng. Năm xu, mười thằng, rẻ quá trời!
Môt lần, trèo tường nhẩy dù vào sân Lạch Tray xem trận Cảng Hải Phòng găp Thanh Niên Bắc Kinh. Không ngờ đuôi áo mắc vào dây thép gai, 5 chiếc cúc đứt hết, may mà áo còn mới, chỉ toạc một miếng gấu. Về nhà bị mắng tơi bời khói lửa.
Nông thôn lại khác. Vợ tôi kể, còn nhỏ cũng mê xi-nê, cứ 2 hoặc 3 tháng đoàn chiếu bóng lưu động huyện đem máy nổ, máy chiếu về. Thích lắm, làm gì có tiền, mỗi lần đoàn về, con trai con gái xung phong khênh máy nổ, máy chiếu, phông bạt, phim, gác cổng… nhẩy dù chỉ có con trai, con gái xấu hổ sợ bị tóm.
Máy nặng, người bé khênh è cổ từ xã bên về xã nhà mấy cây số, thay nhau vẫn gần chết mà chỉ được xem 4 đêm miễn phí không thù lao gì. Hồi bé, vợ tôi chỉ ước làm cô thuyết minh, xem phim cả đời. Một lần gặp chị thuyết minh, hỏi, chị ta bảo, đi hết lượt mấy chục xã mới thay phim mới. Tính ra mỗi phim xem đi xem lại gần 200 lượt, thuộc lòng, chẳng cần bản dịch. Từ đó hết mơ thành cô thuyết minh.
Thoáng một lát đã đến giờ lên máy bay. Chiếc 747 bay tiếp hướng London. Xuống Heathrow khoảng 5 giờ sáng, 12-4-1980. Lấy hành lý xong chúng tôi đang ngơ ngác, một người Việt đến hỏi, có phải vừa từ Hong Kong sang không, muốn gặp trưởng đoàn. Anh tự giới thiệu là Thành đến nhận hồ sơ và đón người về trại London, giúp chuyển sang Terminal 2 để bay tiếp đi Edinburgh, Scotland.
Không gì vui hơn khi gặp đồng hương ở ngay tại phi trường London. Chúng tôi vui lắm, hỏi đủ thứ chuyện. Anh bảo, ai cũng phải vào trại một thời gian để kiểm tra sức khỏe, học Anh ngữ, chờ trại tìm nơi định cư, nhanh 2 đến 3 tháng, có khi nửa năm. Anh cởi mở, nhiệt tình chỉ dẫn, cái gì nên, không nên làm khi ở trại. Anh nói, hai người anh đón về đoàn tụ với chồng. Anh bảo, ở London có mấy trại, trại lớn số lượng lên đến vài trăm, đoàn tôi về trại mới mở ở Wishaw, rồi dặn, nên che thùng loa, dàn nhạc, radio cassette, hàng hoá… kẻo hải quan đánh thuế.
Hơn một giờ bay, chiếc Airbus lượn vòng trên bầu trời Edinburgh trước khi hạ cánh. Qua cửa sổ, kinh thành cổ kính ngàn năm tuổi, thật hoành tráng dưới ánh nắng vàng rực rỡ. Những bãi xe hơi đậu kín, tưởng như có phái đoàn quốc tế đến thăm, ấu trĩ như “đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ” (thơ Việt Phương). Xe hơi đỗ đầy bãi là của người đi làm, của người dân, đâu phải chỉ có cán bộ cao cấp như ở Việt Nam mới có!
Lấy hành lý xong đang đứng túm tụm chưa biết phải làm gì, bỗng nhiên một đoàn nhà báo, truyền hình, nhiếp ảnh… đi nhanh về phía chúng tôi. Anh Hoàng đi đầu, tự giới thiệu, thông dịch viên của trại Coltness House, Wishaw đến đón chúng tôi. Thấy nhà báo, phóng viên quay phim, chụp ảnh, phỏng vấn… chúng tôi thật bất ngờ, vừa vui sướng vừa xấu hổ. Anh Hoàng giới thiệu với đoàn báo chí tôi là trưởng đoàn, họ quay sang hỏi về chuyến đi, về mọi thứ. Tự nhiên bệnh ngọng và nghễng ngãng của tôi tái phát. Trời ạ, giọng địa phương xứ Scot sao khó bắt thế, nhất là với người mới thoát lớp vỡ ruột như tôi. Thấy tôi lúng túng không trả lời được, anh Hoàng đỡ lời và giúp chúng tôi ra xe coach về trại.
Xe chạy gần hai tiếng mới đến. Xe vừa dừng, chúng tôi xuống xe đã thấy một đoàn người chờ sẵn ngay sân. Trưởng phó trại, hơn mười anh chị người Việt nam ở trại kế bên, ân cần đón tiếp, hỏi han, giúp chúng tôi chuyển đồ. Cảm động quá, mắt ai cũng thấy cay sè.
Tự giới thiệu với trưởng và phó trại cùng anh Hoàng, tôi, trưởng đoàn tạm thời do cảnh sát Hong Kong chỉ định, giữ cặp hồ sơ của 12 gia đình, nay trao tận tay cho bà phụ trách trại.
Cặp hồ sơ chính là sơ yếu lý lịch của từng gia đình mà hải quan Hong Kong “phỏng vấn” chúng tôi ngày đầu tiên vào Kho Đen và ảnh chụp bổ sung trước khi chuyển sang trại A Cai Lau Cai 2. Hồ sơ thật đơn giản, ghi họ tên, năm sinh không ghi ngày tháng, ảnh chụp cá nhân. Có 2 bản, bản cho chủ hộ và bản gồm vợ và trẻ em dưới 18 tuổi. Đây cũng chính là “Giấy Chứng Nhận Cái Bang” của Liên Hiệp Quốc cấp cho chúng tôi và được chính phủ và nhân dân Vương quốc Anh chấp nhận nuôi dưỡng.
Từ hôm nay, chúng tôi chính thức là kẻ ăn mày chính phủ và nhân dân quốc đảo Sư Tử. Hai bàn tay trắng, một xu không dính túi, không giấy tờ tùy thân, không bằng cấp, không nghề nghiệp, ngôn ngữ tập quán bất đồng… tất cả là con số không to tướng. Chúng tôi chỉ trông chờ lòng hảo tâm, lòng từ thiện của chính phủ và nhân Vương quốc Anh giúp chúng tôi đứng dậy, tự khẳng định lại mình, sau những ngày sa cơ, thất thế bị xua đuổi, chạy trốn cộng sản.
Trại Coltness House giống như một lâu đài cổ kính, thế kỷ 18 hay 19, gồm 5 tầng kể cả tầng hầm, -basement-, với hàng chục buồng lớn nhỏ có toilet.
Đây là một bệnh viện từ thiện của Dr. Barnardo bỏ hoang từ bao giờ cũng không rõ, nay được sửa sang, dọn dẹp thành trại tỵ nạn. Lâu đài chắc đã được trùng tu, nâng cấp nhiều lần nên trông sáng sủa và hiện đại. Theo kinh nghiệm cá nhân, bệnh viện đủ sức chứa từ 30 đến 50 giường, điều trị nội nhi, đây có thể là Cô nhi viện. Dưới tầng hầm, còn sót lại rất nhiều bô (cho đại tiện), vịt (cho tiểu tiện), dụng cụ vệ sinh, cột truyền dịch (treo thuốc), nạng gỗ, chân giả, đồ chơi trẻ em… từng đống trong kho, đầy màng nhện.
Có lẽ chủ nhân tòa lâu đài là hoàng thân quốc thích (?), vì trại Coltness House dưới sự bảo trợ của The Save the Children Fund do Princess Ann, công chúa cả của Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhị, làm chủ tịch. Dr. Barnardo cho Quỹ Cứu trợ Trẻ Em sử dụng làm trại tỵ nạn miễn phí. Thoáng nhìn khu lâu đài ai cũng thấy sự giàu có và đầy quyền lực bởi con đường quốc lộ từ thị xã Wishaw dẫn vào có tên Coltness Road, một quán rượu cách không xa, Coltness Pub.
Toàn bộ khu Coltness House rất lớn, ít cũng vài chục héc-ta. Xung quanh có bãi đậu xe, phía sau một khu đất rộng cỏ xanh mướt, một vài tượng đài, hòn non bộ nước chảy róc rách ngày đêm. Bên phải một khu vườn cỏ xanh mướt, hàng cây cổ thụ bao bọc khu vườn, tỏa bóng mát xuống con đường mòn dành cho người đi dạo.
Từ tay vịn cầu thang, hành lang, khung cửa gỗ… đều được trạm trổ hoa, chim, nét hoa văn, tinh xảo, ai đến trại cũng trầm trồ khen ngợi. Nhiều bức tranh sơn dầu theo trường phái cổ điển treo ở các tầng, tăng thêm sức sống của khu nhà.
Tầng 1 làm kho chứa quần áo cũ, giầy dép, đồ chơi, bàn ghế, tủ lạnh, máy giặt cũ… của các tổ chức từ thiện khuyên góp, các nhà hảo tâm cho, tặng. Một số buồng khóa kín. Phía sau tầng, hệ thống lò sưởi đun than cung cấp nước nóng và sưởi ấm vào mùa đông. Theo phó trại, Lyli, một tháng £3000 tiền than củi, số tiền này rất lớn so với thời giá 1980.
Tầng 2 gồm phòng khách khá rộng, kê nhiều bộ sô-pha cũ. Có lẽ là lớp học cũ vì trên tường còn chiếc bảng đen. Đây chính là nơi chúng tôi gặp gỡ, xem truyền hình, tán gẫu, ngoài ra còn có nhà bếp, nhà ăn và một số buồng ngủ, toilet.
Tầng 3 và tầng 4 có rất nhiều buồng to nhỏ.
Thu xếp xong, chúng tôi vào sảnh đường tầng 2, bàn ghế kê ngay ngắn, nước ngọt, bánh kẹo… bày sẵn. Trên tường có băng rôn với hàng chữ “Well come to Coltness House”. Chúng tôi yên vị, cô trưởng trại khoảng 24 tuổi, Mandy, phó trại Lyli -nhiều người gọi nhầm Lazy- nói chuyện, anh Hoàng thông dịch lại bằng tiếng Việt, giới thiệu về trại và well come chúng tôi, những người tỵ nạn từ Việt Nam vượt ngàn cây số đường biển đến Hong Kong.
Đoàn nhà báo, truyền hình, nhiếp ảnh tác nghiệp, họ hỏi từng gia đình, ai không biết tiếng Anh, anh Hoàng thông dịch giúp. Chúng tôi lúng túng, chẳng biết trả lời ra sao. Hàng chục vạn người vượt biển đâu chỉ có chúng tôi. Họ bảo, rất khâm phục chúng tôi dám vượt biển bằng chiếc thuyền đánh cá cũ mèm, thách thức cả thủy thần và hàm răng cá mập. Họ hỏi, có gặp cướp biển như thuyền phía Nam không.
Sau một tuần, cuộc triển lãm ảnh “Người tỵ nạn Việt Nam” ở trại Coltness House trưng bày tại nhà thông tin Wishaw. Nhiều người trong trại xem, bảo, chúng tôi gày gò, cổ ngỏng, má hóp… trông như lũ ma đến phát khiếp. Phát khiếp là phải. Một năm lang thang, nay trại tỵ nạn này, mai trại khác, làm nhiều, nghĩ lắm, tương lai mơ hồ, giữa đường hầm mới nhìn thấy ánh sáng le lói. Từ hy vọng đến hiện thực là cả một khoảng cách dài ngắn khôn lường, ai đoán được tương lai ra sao.
Bức ảnh chụp con tôi ngày 12-4-1980 của anh chàng cựu sinh viên cao đẳng nghệ thuật trẻ tuổi, Douglas, đã được giải thưởng ảnh chụp chân dung. Qua đôi mắt trong sáng, chan chứa niềm hy vọng, mảng sáng tối tương phản đầy nghệ thuật của cháu bé trong ảnh, tài năng nghệ sĩ nhiếp ảnh của anh đã được khẳng định.
Hai tuần đầu, chúng tôi bị cấm trại, nội bất xuất ngoại bất nhập, để tổng kiểm tra sức khoẻ. Một tổ bác sĩ địa phương đến khám, lấy mẫu máu, phân, nước tiểu đưa xét nghiệm. Chuyện lấy máu căng thẳng lắm.
Đối với người miền Bắc, ai cũng sợ mất máu, chỉ lấy vài giọt xét nghiệm cũng khó. Lần này, mỗi người, bác sĩ lấy 5 ống nghiệm, mỗi ống nghiệm 5 ml. Rất nhiều người phản đối, có người còn nghi ngờ bác sĩ lấy máu tỵ nạn đem bán!
Y học miền Bắc thời bấy giờ rất lạc hậu, hầu hết xét nghiệm sinh hóa không làm được bao nhiêu, nên lấy máu rất ít. Theo quy trình sinh hóa, tối thiểu 5 ml máu, quay li tâm, các tế bào (hồng, bạch cầu, tiểu cầu…) lắng xuống mới đủ một lượng huyết tương làm sinh hóa. Để kiểm tra nhiều chức năng khác nhau, người thầy thuốc phải lấy nhiều ống nghiệm. Bà con trong trại không hiểu, trưởng và phó trại nhờ tôi giải thích.
Giải nhưng họ không thích, biết làm sao.
Anh chàng người Móng Cái còn phát ngôn sai lệch, bảo bọn bác sĩ lấy máu tỵ nạn đem bán! Anh làm con tính cộng trừ nhân chia, bảo, mười hai gia đình, 62 nhân mạng, mỗi người 5 (ống nghiệm) x 5 ml = 25 ml, nhân lên 62 người = 1550 ml, hơn một lít rưỡi máu, bao nhiêu tiền, đâu bỡn! Nói thế nào cũng không tin, còn vặn, xét nghiệm gì mà lấy lắm máu thế.
Tôi chịu, nhường cho anh Hoàng thông dịch viên.
Thời xưa, bệnh viện miền Bắc ngân hàng máu thiếu trầm trọng, hầu như rất ít người tình nguyện, thường người nghèo đến bán máu. Theo định giá 100 ml máu, được lĩnh 15 VNĐ, cộng thêm tem phiếu: 1 kg tem thịt, 2 kg tem đậu phụ, 500 gr đường, 1 hộp sữa đặc. Như vậy ngoài tiền ra, bán hết tem phiếu cũng thêm được một khoản xấp xỉ ½ tiền lĩnh.
Cứ Thứ Hai và Thứ Năm, Bệnh viện Việt Đức Hà Nội kiểm tra sức khỏe người cho máu.
Dịp Tết nguyên đán thường rất đông, sinh viên cuối khóa được bệnh viện cho phép khám. Một thiếu nữ khoảng 17, 18 tuổi khá xinh, hai má điểm một chút phấn hồng, môi thoa chút son, vào phòng tôi, thoang thoảng mùi thơm. Khám xong, trong lúc ký tên vào bản chứng nhận, tôi buông một câu vu vơ, “Sắp Tết phải không?” nhưng không ngửng đầu. “Có hại lắm không anh”, cô thì thầm. “Không sao”, tôi nói nhỏ.
Tan tầm, vừa ra khỏi cổng.
– Anh Mạnh ơi! Chờ em một lát.
Nghe thấy tiếng gọi, ngơ ngác nhìn quanh. Bên kia đường, cô gái buổi sáng đang giơ tay vẫy vẫy, dắt chiếc xe Phượng Hoàng nữ sang đường. Cô đã xem kỹ chữ ký và tên nên gọi đúng. Tôi đứng chờ. Cô nói nhỏ:
– Anh đợi em cùng về với.
Chết thật, chuyện gì đây?
Té ra lần đầu tiên theo chúng bạn đi cho máu, mua mỹ phẩm cho dịp Tết. Thấy tôi ỡm ờ buông câu đúng tim, cô muốn gặp tôi hỏi chuyện cho máu tốt hay xấu, bảo, buồn và hối hận lắm. Sao lại hối hận?
Tôi bảo, hiến máu là tốt, nhưng đừng vì…
Tôi bỏ lửng. Từ đấy, chiều thứ Bẩy nào cô cũng đến ký túc xá thăm tôi.
Có ông y tá già, gày hom hem cũng cho máu, ông bảo, xích xe (đạp) gião quá, khoa nhường suất, không bán máu lấy tiền đâu ra, lương tháng nào xoẳn tháng ấy.
Thời ấy, người ta cho máu, chính xác là bán, chỉ vì nghèo, ít người nghĩ đến vì nhân đạo.
Tại Wishaw, khi lệnh cấm trại xóa, sáng Chủ nhật, một nhóm 3 người Hoa đến thăm chúng tôi. Các anh tự giới thiệu, từ Hong Kong sang làm ăn đã lâu, nay nghe tin có đồng hương Hoa kiều Việt Nam, đến thăm hỏi, giúp đỡ. Các anh còn mang cả đàn ghi-ta vừa hát vừa đàn, giúp vui. Tất cả chúng tôi mừng lắm, hỏi thăm đủ chuyện, các anh hứa sẽ giúp đỡ học Anh ngữ, mua gạo, thực phẩm khô nếu cần, sau khi ra trại.
Đến tuần thứ 3, ba anh chàng này bắt đầu tuyên truyền về Chúa Cứu Thế, Đức mẹ Đồng Trinh, Ki-Tô giáo, dạy trẻ con hát bài hát nhà thờ. Tất cả chúng tôi ngỡ ngàng về chuyện “gió đổi chiều” của các chàng “hiệp sĩ” Hương Cảng.
Mười hai gia đình chúng tôi và gia đình anh chị Hoàng đều là người đi lương, thờ tổ tiên, ông bà, không ai đi đạo Ki-Tô hay Tin Lành, vì thế “hiệp sĩ” Hong Kong đến tuyên truyền làm đảo lộn cuộc sống yên bình trong trại. Tôi hỏi phó trại, bà bảo, đây là đất nước tự do, kể cả tôn giáo.
Trong 12 gia đình, chỉ có gia đình tôi, gia đình bác Lâm, người Sài Gòn không ngồi nghe giảng. Bác Lâm lớn tuổi đã trên 50, rất kín đáo, lấy cớ đau đầu. Các gia đình khác chịu khó ngồi hết buổi. Từ hôm ấy, mọi người bàn ra tính vào ghê gớm lắm. Từng nhóm thì thào, bàn tán, bỏ hay không bỏ thờ cúng ông bà cha mẹ.
Cuối cùng họ tìm ra một lối thoát cải lương. Mười gia đình đều cải đạo, nhưng cải có một nửa, nghĩa là chồng đi nhà thờ thì vợ không và ngược lại.
Trại tôi, có anh Thịnh, thượng uý, cựu đảng viên cộng sản, tâm sự, sang xứ người thôi đành “gió chiều nào theo chiều ấy”, nhà em đi, em là con trai duy nhất của các cụ, phải thờ tổ tiên chứ. Tôi bảo, bà Lyli nói, đây là đất nước tự do, kể cả tôn giáo, sao chú lại sợ bóng sợ vía mấy tay xảo-voọc (xào xáo). “Anh tính, mai kia cần đong gạo, mua đồ, xe không có, đi taxi chết tiền, nhờ họ có hơn không”. Chép miệng, chú Thịnh bảo, “đức tin ở lòng mình, đi nhà thờ, cầu kinh ê a có chết ai đâu, miễn là được việc.”
Được hơn hai tháng, anh Hoàng thông dịch, phàn nàn anh Khuân. thiếu trung thực, anh Khuân bảo, “tôi mới tắm (rửa tội), đâu có nói dối anh”.
Tức quá, anh Hoàng nói ngay, “cái nỉ mới đi tắm”, từ xưa “nỉ không tắm?”
Chuyện tôn giáo thật tế nhị và cũng gây không ít nỗi oan khiên bao gia đình Việt nam.
Năm 1951, ông Thịnh -chú rể tôi sau này-, từ quê ra Hà Nội học nghề làm giầy, gặp cô tôi. Hai người yêu nhau, ông bên Thiên Chúa Giáo. Thời bấy giờ chuyện hôn nhân “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, khác xa thời nay, “con muốn đâu, cha mẹ chịu đấy.” Bà tôi và cả họ chỉ đồng ý nếu ông không đi nhà thờ. Gia đình ông không cho lấy vợ ngoại đạo, căng thẳng lắm. Hai ông bà quyết tâm, ông hứa không đi nhà thờ. Bà tôi cho của hồi môn, mở xưởng làm giầy ở 101 phố Quan Thánh. Bố mẹ ông tuyên bố từ. Bố ông là ông trùm nay có thằng con hư, mất chức, buồn, ốm chết. Hai ông bà về chịu tang, cả họ vác gậy đuổi đánh, đe giết. Sợ quá, bán xới về Hải Phòng 1953.
Năm 1965, chiến tranh leo thang, ông Định, em ruột chú rể tôi, viết thư cho anh trai nói mẹ già cũng đã nguôi giận, nhắc cho bọn trẻ về quê, vừa an toàn vừa như tạ lỗi. Chả ai dám đưa bọn trẻ về gặp bà nội chúng.
Tôi nhận. Tối Thứ Bẩy, tôi đưa 4 em con cô theo ông bà Định về Bình Lục.
Chưa kịp uống chén nước, một đám đông dân làng trong đó có rất nhiều các cô gái trẻ 17, 18 theo sau vào sân, một cụ bà nói to, “xem mặt mũi cháu nhà bà Nga ra sao mà cướp được ông Thịnh làng này.”
Tôi vội ra cửa lễ phép chào.
Cụ già nhìn tôi chằm chằm, “cũng cao ráo, sáng sủa, chả thế mà ông Thịnh bỏ cả đạo theo cô anh chàng này”! Các cô gái bưng miệng cười rúc rích. Bạo miệng, tôi nói, “thưa các cụ, cháu cũng như mọi người, phải không ạ. Thôi cháu xin, tụi trẻ vô tội mà.”
Tại Wishaw sau vài năm, 10 gia đình “châu về Hợp Phố”, chẳng ai đến nhà thờ cầu kinh, rửa tội. Mỗi khi nhắc lại chuyện cũ, anh thượng uý mặt đỏ, cười trừ. Ngây thơ quá!
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 18:11:20 GMT 9
Chương 9: Mở cửa tương laiPosted: 26/03/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Cuối tuần rất nhiều tình nguyện viên đến trại thăm hỏi, kèm cặp Anh ngữ. Những ngày đầu chúng tôi vui như hội, mỗi gia đình có 2 tình nguyện viên. Gia đình tôi có bà Margret và bà Helen đến dạy Anh ngữ. Bà Margret là dân địa phương, trên dưới 60, có lẽ lần đầu tiên tiếp xúc người Việt, bà viết chữ cái từ A đến Z bằng bút chì vào cuốn vở mang theo, bảo vợ chồng tôi tập tô.
Nhìn hàng chữ, gà bới gọi bằng cụ, tôi mỉm cười và viết nắn nót một câu “I’ve been learning English about few months”. Chữ tôi quá đẹp, cứng cát như một thày giáo thực thụ. Đôi mắt bà mở to kinh ngạc, tưởng chữ Việt Nam ngoằn ngoèo như con giun (Ả-rập, Ấn Độ) hay ngang bằng, sổ dọc như chữ Tàu, chữ Nhật, chữ Hàn, ai ngờ học trò chữ hơn đẹp hơn thày.
Bà hỏi tôi về chữ Việt, tôi kể sơ qua nguồn gốc, từ đó bà giúp gia đình tôi hội thoại. Khốn nỗi, giọng bà đặc sệt xứ Scotland, khó nghe, khó phát âm, không hấp dẫn. Hơn nữa, cả tuần đi học, ngày nghỉ muốn đưa tụi trẻ đi chơi, trốn vài lần, bà thôi không đến.
Trong số tình nguyện viên có anh chàng Tim Dawdage, khoảng 20, người London, sinh viên trường Đại học Edinburgh, vui vẻ cởi mở. Thanh niên quý mến anh lắm, trưa chúng tôi mời dùng bữa, anh vui vẻ nhận lời. Một lần, anh ngồi bàn có món đậu phụ nhự, món này tôi cũng chịu, không nuốt nổi. Đậu phụ nhự, một món ăn truyền thống của người Hoa nghèo, hình vuông, to hơn đầu ngón tay cái, mặn kinh khủng, cay cay và thum thủm. Khi ăn, chỉ nhấm miếng hơn đầu con ruồi, và một miếng cơm thật to, mới đỡ mặn. Có nghĩa, một miếng đậu phụ nhự xong một bữa cơm. Thấy mọi người nhấm nháp có vẻ ngon lắm. Anh ra hiệu muốn thử, cậu Đức gật, giơ ngón cái làm hiệu Number One. Tim cho cả miếng vào mồm nhai, nhè ra sợ mất lịch sự, đành nuốt, nước mắt nước mũi trào ra. Ây thế Đức tai quái, hỏi, “Good isn’t it?” Tim gật, hai hàng lệ lã chã trên má. Tôi nói nhỏ, “ác thế”, lấy cốc nước lọc đưa cho Tim.
Nhiều món ăn truyền thống của người Hoa như đậu phụ nhự, tàu-xì và cá mặn tẩm thuốc, tôi không bao giờ đụng đũa. Món cá mặn tẩm thuốc rất đắt, người Hoa thích lắm. Bữa cơm thường xắt một khúc bằng 2 ngón tay, hấp cơm. Không có, coi như bữa mất ngon. Các siêu thị Tầu đều bán, nhìn ngoài như cá khô bình thường, chỉ khác đầu cá có quấn lá hay ni-lông chứa thuốc Bắc. Gắp miếng cá, cắn một tí, mùi thum thủm khó chịu tiết ra, mặn chát, thịt mủn như thể cá ươn thối lâu ngày mới đem phơi. Cả họ nhà tôi giơ tay hàng món “quốc hồn quốc túy” Trung Hoa này.
Nhiều món “quốc hồn quốc túy” Việt Nam, thịt chó mắm tôm, các loại tiết canh (lợn, chó, vịt, ba ba…), thịt rắn, gỏi cá, kể cả nem chua… tôi cũng xin kiếu, đầu hàng vô điều kiện.
Gần Tết Nguyên đán 1967, một đoàn y tế Việt Nam từ chiến trường Lào về nước, trước khi về, mổ lợn liên hoan. Con thứ nhất, thịt vàng như nghệ. Chôn. Con thứ hai, thịt bình thường -kiểm tra bằng mắt- OK. Các món xào xáo, nuớng… đều chín, riêng món tiết canh không thể luộc hay xào. Về nước, ba tháng sau, cả 7 người đều mắc bệnh. Ba người đau đầu, mờ mắt, chết. Mổ xác: giun xoắn và ấu trùng đầy hai bán cầu não. Số còn lại, dưới da sần từng cục, khều, giun xoắn bật ra. Giai đoạn ấy Việt Nam chưa có thuốc đặc trị, chờ chết. Bộ trưởng y tế, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch có văn bản chính thức cảnh cáo toàn quốc đoàn cán bộ y tế công tác Lào, ăn sống nuốt tươi –tiết canh-, tạo gương xấu cho dân. Chết còn bị cảnh cáo, chỉ vì ăn. Đau xót quá chừng!
Làm trong bệnh viện nhiều năm tôi đã chứng kiến rất nhiều người chết vì ngộ độc thức ăn.
Hè năm 1962, một ông đạp xích lô mua 1 hào 5 con cà-rá -một loại con ghẹ có lông ở càng- đã luộc sẵn bán rong trên đường. Nhà ông 4 người, ông thương thằng con út nên phần cà-rá của ông nhường cả cho con. Cả nhà ông mắc bệnh tiêu chảy rất nặng-miệng nôn trôn tháo- đưa vào Bệnh viện Bạch Mai thì đã quá muộn. Ôm xác vợ và 2 con ông nghẹn lời trong tiếng nức “Một hào cà-rá mà cả nhà chết thảm thế này. Trời ơi là trời!”
Năm 1967, bệnh viện tôi phải cấp cứu 17 người ở Nông trường Cao Phong ngộ độc vì ăn hạt vải rừng nướng. Quả vải rừng trông rất giống quả chôm chôm trong Nam, ăn quả không sao, có vị chua chua, nhưng ăn hạt rất độc. Rất may không ai bị thiệt mạng.
Hàng năm bệnh viện chúng tôi cấp cứu do ngộ độc thức ăn như nuốt mật lợn, mật cá trắm, ăn tiết canh, gỏi cá, lá ngón…
Tôi đã ăn thịt chó bao giờ chưa? Có, bất đắc dĩ.
Lần thứ nhất, năm 1966, hơn một tháng nhà bếp chỉ có canh đu đủ xanh nấu muối với bột ngọt, tép khô, tất cả chúng tôi đều thèm thịt. Nhà bếp thương anh em, mua chó. Cơ quan vài người từ trước không ăn món này, trong đó có tôi và bác sĩ Mô. Chúng tôi thì thầm, “lâu rồi thiếu đạm, ăn thử, khoái khẩu ăn nhiều, còn không nếm qua loa.” Trước bữa ăn, y tá Nam quảng cáo món mộc tồn, “thịt gà dính kẽ răng, sau 1 ngày xỉa tăm đã hôi mù; thịt chó 7 ngày xỉa ra, vẫn thơm phức!”
Bữa liên hoan thịt chó hôm ấy lại sảy ra chuyện mà tôi nhớ đời. Đang ăn, đột nhiên kẻng báo động có máy bay Mỹ vang lên. Đèn măng-sông –Manchon- tắt phụt nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục ăn. Đột nhiên bác sĩ An kêu to: “Thịt nấu thế nào mà toàn xương và nhạt thế?” Y tá Hiên nhìn xuống mâm rồi cười: “Thôi chết rồi, anh gắp phải đĩa đựng xương còn gì nữa.” Hóa ra, chẳng có đèn đóm, ăn mò trong bóng tối, bác sĩ trưởng khoa chúng tôi toàn “gặm lại” trong bát đựng xương.
Lần thứ hai, năm 2004, sau 25 năm về Việt Nam thăm thân nhân bên ngoại và bạn bè cũ. Một cậu bác sĩ vốn là nhân viên cũ đến tận khách sạn mời bằng được dự bữa cơm mừng tái ngộ. Nể quá, nhận lời. Sau chầu bia, Thắng trịnh trọng tuyên bố, ở nước ngoài một phần tư thế kỷ, chắc anh chị thèm món đặc sản quốc hồn quốc túy, đêm nay chúng em xin đãi anh chị. Chưa hiểu món gì, Thắng đưa chúng tôi sang phòng ăn. Một mâm “mộc tồn” đủ 7 món, tiết canh, nhựa mận, chả nướng, lòng, thịt luộc, xiên nướng, ninh, bát bún tươi đầy ắp, đĩa giềng tươi thái mỏng và hai bát mắm tôm chanh ớt, hai chai rượu nút lá chuối khô. Phải nói đây là bữa nhậu hết ý, đầy thiện tình của bạn bè. Thấy tôi chững lại, mặt bắt đầu xám dần, vợ Thắng biết ý, hỏi, nhà tôi bảo, “Anh ấy ít ăn.” Thắng ra lệnh, “Thôi dẹp, chúng em làm món khác.” Tôi gạt phắt: “Anh chị ít ăn, nhưng hôm nay sẽ nhiệt tình, khỏi phụ tấm lòng cô chú.” Tôi cố gắng nhấm nháp, uống rượu nhiều, đẹp lòng bạn hiền.
Tại Wishaw, hàng chục các cô gái mới lớn, 15, 16 quanh vùng đến trại làm quen, thanh niên trong trại được dịp vừa học hội thoại vừa tán tỉnh. Đùa cợt nhảm nhí mà cuối năm, mấy đôi lấy nhau bất đắc dĩ, ăn cơm trước kẻng. Các cô cậu không nghề nghiệp, lĩnh trợ cấp dài dài, báo hại nhà nước hàng chục năm.
Sau hơn ba tháng, trại bắt đầu tìm nhà để các gia đình ra định cư. Tin này tung ra, các gia đình bắt đầu nịnh vợ chồng anh Hoàng ra mặt. Vợ anh Hoàng, chị Liên, càng được dịp, kín kín hở hở chuyện quyền lực của chồng, ảnh hưởng tốt xấu nơi định cư và trại chia đồ của bố thí. Làm phiên dịch ở trại tôi kể ra cũng nhàn. Ngày hai buổi lên lớp, cuộc sống phẳng lặng, chẳng ai thắc mắc, gây gổ… Thỉnh thoảng có công văn, chỉ thị cấp trên, trưởng phó trại nói chuyện mới cần thông dịch. Phân công nấu ăn, dọn vệ sinh công cộng, với danh nghĩa trưởng đoàn, tôi đã lên lịch từ những ngày đầu tiên nhập trại, mọi người chấp hành nghiêm chỉnh.
Thế mà chẳng biết sao, hơn tháng sau, chị Liên vợ anh Hoàng được nhận làm phiên dịch với lý do, biết tiếng Quảng, tiếng Việt.
Thấy thái độ khúm núm, gọi dạ bảo vâng của nhiều người, tôi ngán ngẩm quá. Tuy thông cảm phần nào, nhưng không chấp nhận chuyện nịnh nọt đến thô bỉ, trưởng phó trại đều nhận thấy. Có cô, mỗi lần đi giặt, hỏi, “Chị Liên có đồ giặt không, em giặt cho một thể.” Tuy không phải giặt tay, có máy giặt, Liên đâu có đui què mẻ sứt mà phải giúp. Bữa ăn, nhiều gia đình đến phiên, nấu riêng món vợ chồng Hoàng khoái khẩu. Vợ chồng Hoàng có cháu trai 6 tháng, kháu khỉnh, các cô các bác thay nhau ẵm, quấy bột, cho ăn hàng ngày.
“Người ta lớn chỉ vì ngươi quỳ xuống”(1), một hiền triết nói không sai.
Một lần, trong lúc vui vẻ, tôi nói xa xôi, khuyên đừng tự hạ thấp mình, cùng tỵ nạn, có phải đầy tớ đâu mà cơm bưng nước rót, quét nhà ẵm em. Đến tai vợ chồng Hoàng. Họ không hài lòng ra mặt. Tôi khinh, không chấp, y không phải đối thủ của tôi. Võ mồm, tôi từng là bí thư đoàn thanh niên cộng sản nhiều năm. Võ biền, là trưởng tộc, các cụ truyền vài miếng độc phòng thân. Từ nhỏ đến nay, chưa hề đánh lộn, nhưng chưa biết sợ ai. Tôi từng bị bí thư, phó bí đảng ủy cơ quan trù úm đâu có ngán, huống chi anh chàng thông dịch tạm tuyển quèn, không quyền hành, vài tháng nữa mỗi người một phương. Vui, hữu hảo. Không vui, vĩnh biệt.
Nhớ ngày đầu tiên lên tỉnh Hòa Bình nhận công tác, nộp hồ sơ xong, tôi đưa giấy giới thiệu sinh hoạt lớp đối tượng Đảng. Ông Giang Bình trưởng phòng tổ chức, bảo, “Bác Tứ bệnh viện phó, (nhấn mạnh), nhưng chỉ là đảng viên thường, mình tuy chỉ là trưởng phòng tổ chức hành chính, nhưng là phó bí thư đảng uỷ. Bác sĩ Huỳnh là bí thư, kiêm bệnh viện trưởng. Đồng chí là cán bộ đoàn thanh niên, cánh tay đắc lực của Đảng, đang lớp đối tượng, nay mai sẽ đứng trong hàng ngũ quang vinh.”
Tôi ngồi im lắng nghe, chưa hiểu ý phó bí thư đảng bộ muốn gì. Ngừng một lát, lão rút trong ngăn kéo cuốn sổ tay cỡ 9 x 12, bảo, “Bệnh viện ta tình hình rất phức tạp, nhất là tầng lớp y bác sĩ.” Lão đưa cuốn sổ tay cho tôi, tiếp, “Nếu thấy y bác sĩ nào bàn tán, nói xấu, ghi lại rồi báo cáo tôi. Đồng chí làm được chứ?”
Tôi không tin vào tai mình câu nói khốn nạn đó.
Là một đoàn viên thanh niên (sau năm 1969, đổi tên Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh) từ lâu tôi coi cán bộ đảng viên là những con người hoàn thiện, đáng ngưỡng mộ, không ngờ thần tượng ấy đã bị đốn ngã từ ngày tôi bước vào đời công chức. Lão già phó bí thư đảng ủy này khốn nạn quá, cứ tưởng đưa mồi nhử vào Đảng ai cũng quỳ gối chắc. Tôi đỏ mặt, vừa uất vừa tức, chân ướt chân ráo, lão đã định biến tôi thành chó săn vô liêm sỉ. Tôi từ chối thẳng thừng.
Từ đó bị trù úm, tôi cóc sợ, cóc cần vào Đảng.
Từ 1965 đến 1970, Ty Y tế tỉnh tôi chỉ có 2 bác sĩ đảng viên.
Người thứ nhất: Phó ty Hà Hữu Tiến, biệt danh: “Ông Ba Phải.” Bởi vì bất cứ chuyện gì phản ảnh, ông không bao giờ tự quyết. Lấy ý kiến, tập thể lãnh đạo, bảo A, ông giơ tay A, bảo B, ông lại giơ tay B, ông thật hiền, chẳng giúp ai, chẳng hại ai, vô tích sự. Có cậu y tá phong trào hỏi mách qué, ông không giận. Khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ tháng12-1946, ông đang học tú tài, theo kháng chiến. Năm 1951 ông học lớp y sĩ khóa 2 của nước VNDCCH, hòa bình lập lại, ông làm trưởng ty, chưa vào Đảng vì bố ông, địa chủ. Năm 1959, ông đi học bác sĩ chuyên tu, ra trường về làm phó ty. Ai cũng cười, y sĩ trưởng ty, bác sĩ làm phó ty.
Trung thu 1961, hồi ấy ông chưa vợ ngồi hóng mát với anh em trong khu tập thể, cậu Hà nửa nạc nửa mỡ, ỡm ờ bảo:
– Nếu phó ty không giận, cho em hỏi một câu.
Bản tính hiền lành, ông cười:
– Cứ hỏi, vài câu cũng được, chứ gì một câu.
Cậu y tá Hà gãi đầu, gãi tai:
– Thôi, nhỡ anh để bụng, chết em.
Mấy anh ngồi quanh:
– Có cái gì nói toạc ra, cứ ấp a ấp úng, sốt cả ruột.
– Nhưng có thật thủ trưởng không trù đấy chứ.
– Cái thằng, tớ đã bảo không là không cơ mà.
– Dạ, em nói khí không phải, anh… học dốt lắm.
Tất cả đám giật mình, cái thằng, hỗn!
Vẫn gãi đầu gãi tai, cậu Hà thủng thẳng:
– Thật, em nói anh đừng giận, người ta đi học mỗi năm một lớp, anh học 3 năm vẫn ở lớp cảm tình, vừa rồi anh còn bị rớt luôn. Không lên lớp mà còn tụt, chả học dốt là gì.
Phó ty Tiến mặt đỏ dần, nhưng cười không nói gì.
Chuyện này rùm beng, đến tai tỉnh uỷ, nhờ thế, năm sau ông được kết nạp Đảng, giữ chức phó ty đến về hưu.
Trong 14 năm, ty tôi thay nhiều đời trưởng ty, không ai có bằng bác sĩ.
1. Trưởng ty Trần Hữu Phúc.
Ông nguyên là thày giáo cấp một, mở trường tư thục L’Ecole de Pétain ở thị xã. Kháng chiến bùng nổ ông tham gia cách mạng, học y tá. Làm trưởng ty mười năm -từ 1959 đến 1969.
2. Trưởng ty Bùi văn Phiệt – người Mường. Tham gia cải cách ruộng đất, học Bình dân học vụ. Từ cán bộ huyện Lạc Sơn học bổ túc văn hóa, học trường đảng sơ cấp, về Ban Tuyên Huấn tỉnh, làm trưởng ty từ năm 1969 đến 1974, nổi tiếng hách dịch, biệt danh Bùi Quân Phiệt.
Năm 1973, sau khi Hội nghị Paris được ký kết, bệnh viện chúng tôi từ trong rừng chuyển về cơ sở cũ. Một buổi tối Thứ Bẩy, chúng tôi đang nói chuyện phiếm ở phòng bác sĩ Bùi Thế Trung. Đột nhiên trưởng ty Bùi văn Phiệt xuất hiện ngay cửa. Bác sĩ Trung nói rất to và nhanh:
– Quý hóa quá, hôm nay mới được trưởng ty hạ cố đến thăm anh em. Xin mời thủ trưởng vào chơi. Đúng là “tôm đến nhà rồng.”
Trưởng ty Phiệt tưởng bác sĩ Trung nịnh,“rồng đến nhà tôm”. Ông cười thật tươi:
– Gớm các bác sĩ khách sáo thế, làm gì mà “rồng với tôm.”
Vẫn cười, bác sĩ Trung lại nói rất nhanh:
– Thủ trưởng sang thăm anh em thì chả đúng“tôm đến nhà rồng” là gì.
3. Trưởng ty Nguyễn thị Hiền – người Mường. Từ cán bộ phụ nữ huyện, khi chồng là Bạch Bá Năng lên chức Trung tá Tỉnh đội trưởng, được cử làm trưởng ty từ 1974-1976.
Thời kháng chiến chống Pháp thị xã Hoà bình chỉ có 4 y tá không có y bác sĩ.
1. Y tá Nguyễn văn Hậu – còn có tên Đinh Công Hậu. Sau trở thành Ủy viên dự khuyết Trung ương đảng, bí thư tỉnh Hà-Sơn-Bình (Hoà-bình sát nhâp Hà Tây năm 1978 đến 1986).
2. Y tá Trần Hữu Phúc, trưởng ty y tế cho đến năm 1969.
3. Y tá Lương Thế Trung. Hiệu trưởng Trường Cán Bộ Y Tế tỉnh Hoà Bình
4. Y tá Quách Điển. Sau khi học y sĩ hàm thụ tại chức 1963 làm phó ty cho đến khi về hưu.
Quách Điển tuy có bằng y sĩ, chuyên môn chẳng biết gì nhưng rất hách dịch, trả thù vặt cấp dưới.
Hè năm 1973, một buổi trưa tôi đang ăn cơm với vợ con trong khu tập thể, bỗng nhiên phó ty Quách Điển xộc vào, đứng ngay cửa nhà tôi sẵng giọng:
– Anh Mạnh, khoa ngoại không có ai trực là thế nào?
Thời gian ấy tôi phụ trách phân công y-bác sĩ trực toàn viện.
– Y sĩ Hý trực hôm nay. Có chuyện gì thế, bác Điển?
– Thằng con tôi bị tai nạn, không có ai trực khoa ngoại. Anh sang ngay với tôi.
Bực mình vì chuyện không đâu, phải bỏ dở bữa ăn, tôi đành theo phó ty sang khoa ngoại xem sự tình.
Một cháu trai khoảng 12 tuổi, ngã trầy đầu gối do đá bóng, đang được y sĩ Hý rửa vết thương trong phòng thay băng. Nhìn thấy tôi đi cùng với phó ty Quách Điển, Hý hiểu chuyện gì rồi. Cậu ta lấy cái kẹp lôi ra một sợi bông dính ở vết thương, gí vào mặt phó ty, bảo:
– Bác Điển có thấy không, cả cái gai mồng tơi đâm vào đây này.
Tôi không dám cười, sợ phó ty hiểu sự xỏ xiên. Nét mặt Quách Điển cau lại.
Sau khi băng và tiêm phòng uốn ván, Hý cho cháu bé về. Nhưng phó ty Quách Điển không đồng ý, yêu cầu phải cho nằm lưu lại để theo dõi thêm.
Trẻ con đá bóng ngã xước da, chảy tí máu ở đầu gối là chuyện bình thường. Hồi tôi bằng tuổi cháu, đầu gồi tôi có bao giờ lành vết thương.
Chuyện vặt mà phó ty làm rùm beng. “Con nhà giàu giẵm phải gai mồng tơi bằng thuyền chài lòi ruột.” Hơn nữa, việc sơ cứu chấn thương ở phòng trực cấp cứu khu phòng khám. Phó ty đã “vượt rào” theo nội quy của Ty đề ra.
Quách Điển về, tôi bảo y sĩ Hý:
– Cẩn thận đấy, lão Điển chúa thù vặt.
Sáu tháng sau, y sĩ Hý bị chuyển xuống huyện Yên Thuỷ, một huyện vùng sâu vùng xa sát Ninh Bình, cách thị xã Hòa Bình gần 100 km, trong khi đó quê của Hý ở Chương Mỹ, Hà Đông
Ty tôi có đến bốn phó ty. Một buổi tối Thứ Bẩy năm 1966, phó ty Nguyễn vănThoan đến nói chuyện tình hình chiến sự và chính trị với toàn thể cán bộ công nhân viên chức bệnh viện tỉnh sơ tán trong rừng. Giai đoạn ấy máy bay Mỹ ném bom các tỉnh miến Bắc rất ác liệt, chủ trương của đảng và chính phủ đề ra phải thường xuyên làm công tác dân vận để cán bộ nhân dân yên tâm sản xuất và chiến đấu.
Sau khi nói chiến công vang dội của các chiến trường miền Nam, phó ty Thoan chốt lại:
– Như các đồng chí đã thấy, dân tộc ta rất anh hung. Như đồng chí Lê Lợi, tức vua Quang Trung đã từng đánh thắng 20 vạn quân Nam Hán.
Tất cả anh em chúng tôi mắt tròn mắt dẹt vì không thể tin vào tai mình. Ba sự kiện lịch sử lớn như vậy mà phó ty cũng không nhớ. Không dừng ở đây, cao hứng, phó ty Thoan nói tiếp:
– Bọn phản động đánh phá chúng ta không chỉ bằng bom đạn, mà còn cả những lời tuyên truyền độc địa, nhất là đài ABC của Anh quốc.
Hết chịu nổi, tất cả y bác sĩ chúng tôi đồng thanh nói to “đúng là đài abc thật.”
Người thứ 2 là đảng viên có bằng bác sĩ là Vũ Ngọc Huỳnh, Viện trưởng Bệnh viện tỉnh. Từ cứu thương, học y tá, lên y sĩ làm ở phòng nghiệp vụ tỉnh Nam Định. Năm 1962, học chuyên tu 18 tháng, lớp bác sĩ tổ chức. Tốt nghiệp, làm bệnh viện phó tỉnh Hòa Bình sau một năm, làm viện trưởng. Chuyên môn chả biết con khỉ gì, nhưng đấu đá, kèn cựa với lãnh đạo ty, cỡ heavy-weight class. Làm giám đốc được 4 năm, Vũ ngọc Huỳnh mất chức, chuyển sang phụ trách trường Cán Bộ Y Tế vì tội gây bè phái, đấu đá tranh giành chức phó ty.
Cái danh đảng viên như một món hàng trang sức xa xỉ, kệnh cỡm, người trí thức không ham, nhưng nó là bả vinh hoa, người đời mê muội. Thời ấy có câu: “Trí thức vào Đảng khó hơn con bò chui qua lỗ kim.” Đó là sự thật, sự thật trần trụi, đến ghê tởm.
Cánh cửa vào Đảng rất hẹp, hẹp đến mức muốn qua được người ta phải quỳ, bò, thậm chí phải biến mình thành một thứ sâu bọ thân mềm. Đối với trí thức, khó gấp nhiều lần, nếu ai qua được lỗ cửa hẹp, bên trong, con đường rộng thênh thang của danh vọng, quyền lực.
Quốc hội Việt Nam, đến hôm nay, vẫn trên 90% đại biểu là đảng viên cộng sản. Muốn làm cán bộ lãnh đạo từ cấp xã, phường đến tỉnh, trung ương trước hết phải vào Đảng, năng lực tính sau. “Đảng ta là đảng cầm quyền”, cụ Hồ đã xác nhận trong Di chúc.
Thượng úy Thịnh, tâm sự, “Anh thẳng tính quá, thiệt thân.” Có nghĩa, nơi gia đình tôi ra định cư sẽ là nơi khỉ ho, cò gáy, chẳng được trại chia cho tủ lạnh, máy giặt… chỉ vì tôi làm mất lòng vợ chồng thông dịch.
Tôi cười, bảo ở Việt Nam tôi đã từng đấu tranh với lãnh đạo cơ quan, có chức có quyền còn chả sợ, bây giờ phải quỳ gối, nịnh bợ vì vài thứ giẻ rách, nhục lắm. Không đời nào!
Tất cả các gia đình lần lượt ra định cư, trại nhận người mới từ Hong Kong. Gia đình tôi về Livingston, một thị trấn mới xây 1970, gần 100% thất nghiệp, dân nghèo, xa trung tâm thương mại, mọi thứ đều bất tiện.
So với các gia đình khác, tôi và 2 gia đình nữa thuộc loại xấu số nhất. Đối với tôi thế là hạnh phúc.
Hơn một năm vô gia cư, từ nay chúng tôi có mái ấm gia đình, ra khóa vào mở, chẳng phiền ai. Các con tôi kịp ngày khai giảng niên học mới 1980-1981 ở Knightridge Primary School, điều mà tôi vui nhất.
Tương lai, hy vọng đang ở phía trước.
Từ nay chúng tôi tự định đoạt cuộc đời mình.Mời đọc tiếp: Chương [10] Lâm Hoàng Mạnh Nguồn: Tác giả gửi (1) Ý thơ Marat, Tố Hữu chuyển ngữ trong Hãy Đứng Dậy, 1938
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 18:13:46 GMT 9
Chương 10: KnightsridgePosted: 30/03/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Cuối thập niên 1950, kinh tế Vương quốc Anh phát triển mạnh mẽ. Nhiều nhà máy, xí nghiệp hiện đại được xây dựng, lao động có tay nghề, lao động phổ thông thiếu trầm trọng.
Năm 1958 chính phủ Anh cho phép người dân Jamaica nhập cư. Đầu thập niên 1970, nhận thêm người Ấn Độ, Pakistan… Dân số bùng nổ, nhà nước xây dựng nhiều khu chung cư. Thị xã, thị trấn mới ra đời. Livingston, một trong những thị xã xây dựng cuối thập niên 1960, không ngờ những năm 1977, 78 , 79, Công Đảng -Labour Party- cầm quyền, kinh tế suy thoái, một số nhà máy, xí nghiệp gần khu Livingston phá sản, số mới đình chỉ xây dựng.
Nạn thất nghiệp tăng chóng mặt, xứ Scotland tỷ lệ thất nghiệp cao nhất toàn Vương Quốc Anh.
Livingston là thị xã lớn nhất của tỉnh West Lothian, gồm 10 tiểu khu (phường): Carmondean, Craigshill, Howden, Dedridge, Ladywell, Dean, Knightsridge, Murieston, Adambrae, Eliburn và Deer Park, trong số đó phường Knightsridge xây dựng cuối cùng, nghèo nhất, tỉ lệ thất nghiệp rất cao. Đặc biệt, nhà chỉ có một mái, nếu thu nhỏ lại, giống như lều hay quán cóc bến đò quê Việt nam. Tuy sống ở miền Bắc nghèo khó nhưng chưa nhìn thấy nhà xây một mái. Trông kỳ kỳ, vô duyên thế nào.
Nhưng thôi, tôi tự nhủ, lều ăn mày mà tường gạch mái ngói, máy nước bể tắm, nhà bếp, lò sưởi… là tuyệt vời rồi. Vợ tôi ngán lắm, tôi động viên, ăn mày mà đòi xôi gấc!
Dẫy nhà hai bên xây sát nhau, lối đi giữa lát paving-slab rộng chừng hơn mét, giống hệt đường trong làng quê vợ tôi. Hai dẫy nhà đối diện cách nhau chưa đầy 4 mét, cửa nhà nọ đối diện chênh chếch nhà kia, mở cửa, hai nhà nhìn thẳng tuột dễ dàng.
Chính vì thế tên đường phố là Way chứ chẳng phải Road, Street hay Avenue.
Khu Knightsridge có chừng 12 Way, đặt theo tên dòng họ lớn: Davison Way, Logan Way, Morrison Way, Graham Way… tôi ở Linsay Way, ngay sát phía ngoài cùng của khu, đúng nghĩa “khỉ ho cò gáy”. Phía trước không xa là một sân golf khá lớn, chịu không biết 18 hay 21 lỗ, rộng mấy chục héc-ta, ngăn cách bởi hàng rào dây thép. Phía tay phải, đường dẫn ra cao tốc đi Glasgow.
Từ Knightridge đi Glasgow hay Edinburgh đều bất tiện và rất xa. Thời ấy nếu muốn mua đồ ăn Á châu, bắt buộc phải đến một trong hai thành phố này. Đi Edinburgh đổi 2 xe bus xanh, hai xe bus đỏ (xe nội thành) mới tới cửa hàng Chinese Mini Supermarket, còn Glasgow rất xa, trên dưới 200 dặm, phải đi xe riêng.
Cả phường không có công viên, play-ground, nên trẻ con rất hư, nhà nào không có người ở chúng thi nhau ném vỡ cửa kính, đọ tài cao thấp môn ném đá.
Edinburgh có 2 cửa hàng bán món ăn Á châu, rất nhỏ, gạo chỉ có Long Grain (Mỹ), không có gạo thơm Thái như ngày nay. Gạo đóng bao tải, khi nấu, vo kỹ mới hết hôi. Những ngày ở trại, tiền trợ cấp sau khi khấu trừ (ăn, ở, sưởi, điện nước…), nhà tôi 5 người mỗi tuần còn gần 10 bảng.
Tiết kiệm gần 5 tháng nên cũng dành được chút chút để chuẩn bị cuộc sống độc lập.
Căn nhà tôi gồm hai tầng, 4 buồng ngủ gồm một buông đôi, 3 buồng đơn, phòng khách khá rộng lại càng rộng vì chẳng có cái gì bên trong ngoài một bộ ghế gỗ có đệm da cũ kỹ, có lẽ từ thời Nữ hoàng Victoria còn đeo bỉm, một ghế đôi và hai ghế đơn. Nhà bếp có chiếc bếp gas bong gần hết sơn, một vài chiếc xoong mới nhưng mỏng tang, đồ cực kỳ rẻ tiền, một chiếc ấm nhôm đun nước, hễ nước sôi, hú như còi tầu hỏa. Một bộ dĩa, dao và 6 chiếc đĩa to. Rất may, trước khi ra trại tôi đã mua bát đĩa, dao thớt, hai bao gạo Long Grain (Mỹ), mỗi bao 50 ký, 2 chai nước mắm Thái, tép khô, bột ngọt… cho nên “có thể chiến đấu trường kỳ gian khổ vài tháng.”
Cách nhà khoảng gần 2 km, Dean, có Supermarket Saveway, còn Trung Tâm Thương Mại cách xa 4 dặm, muốn mua sắm gì phải đi xe bus.
Sàn nhà từ phòng khách đến buồng ngủ trải giấy nhựa thay thảm, vừa trơn vừa lạnh. Có 1 giường đôi, 3 giường một, một số ga giường, gối, nệm mới, loại rẻ tiền. Mỗi buồng đều có wardrobe ẩn trong tường, tất cả trống trơn. Có lẽ từ ngày xây xong, chẳng ma nào ở, gia đình tôi xông đất chăng, nếu có người và dọn đi chắc còn thảm cũ.
Phường Knightsridge có 5 gia đình, hai gia đình ở Trại Thỏ ra định cư trước chúng tôi hơn 3 tháng. Trại Coltness đến nay có gia đình tôi, gia đình Móng Cái và gia đình Hải Phòng. Trại Thỏ tên gì, chịu, quanh trại là cánh đồng mênh mông, rất nhiều thỏ hoang (hare), ngay người ở trại cũng không rõ tên, chắc tên quá khó nhớ.
Không biết ai làm quân sư “quạt máy” cho Cục Di Dân Bộ Nội vụ Anh mà cách phân bố tỵ nạn Việt Nam trên Vương Quốc Anh lại kỳ cục vậy.
Hầu hết người xuất thân Lục tỉnh thường ở trại London và xứ Wales, người miền Trung lên Midland, người miền Bắc lên Scotland. Có phải họ cho rằng người Bắc chịu rét quen?
Mỗi một khu, tối đa 5 gia đình người Việt định cư. Có phải ý đồ “quân sư quạt máy” là:
– Giúp người Việt hội nhập với người địa phương nhanh hơn? Hay đồng hóa nhanh hơn?
– Chia sẻ gánh nặng kinh phí (nuôi báo cô) cho từng khu vực?
– Tránh tập trung đông người nước ngoài, khỏi gây lộn xộn?
Họ như không hiểu, chim cần có đàn, người phải có bạn, tỵ nạn Việt Nam tha hương xứ người càng muốn ở gần nhau, chia sẻ ngọt bùi. Vì thế bắt đầu cuối 1983 người Việt bốn xứ Midland, Wales, Scotland, North Ireland đổ về London, bằng nhiều cách, nhiều đường khác nhau, không bằng thuyền mà bằng coach, van, train dài dài cho đến 1988 coi như mới chững lại.
Anh bạn thượng úy, lên Port Glasgow, chung cư cao 9 tầng, xây trên đồi. Vùng hải cảng bốn mùa gió lộng, flat nhà anh càng lộng gió hơn.
Từ Knightsridge đến anh, đường xa bằng từ Hà Nội đi Thanh Hóa, Nghệ An. Bốn năm ở Scotland, cô chú thăm tôi một lần và tôi cũng thăm đáp lễ đúng một lần, nhờ bà giáo dạy Anh ngữ. Năm 1983 vợ chồng chú về London, năm 1984 chú kéo tôi về.
Chúng tôi đoàn tụ cho đến nay.
Ba gia đình “cơm bưng nước rót, quét nhà bế em” tự hào và sung sướng lắm, được ở quanh khu Wishaw, nhà đẹp, sáng sủa, không phải ở flat, cũng chẳng nhà một mái. Anh chàng Lâm V. Ch. hả hê, bảo, “ngồi trong buồng khách nhà tay Thịnh, gió ù ù như tiếng máy bay phản lực. Nhà ông Mạnh một mái như lều chăn vịt. Nhà Phú (kỹ sư dầu khí, ở Fife,) xa như Lao Cai, Cao Bằng. Chả nhà thằng nào bằng nhà ba đứa bọn mình!”
Cả ba cố thủ cho đến ngày nay, con đàn cháu đống.
Năm 1988, về Việt Nam, gọi điện cho vợ chồng chú Thịnh, xin tá túc một đêm, nhờ đưa đến phi trường Heathrow. Lần đầu O.K, lần sau, đổi số điện thoại, chịu, hành lý để cửa, bấm chuông. Nhìn qua cửa kính trên lầu, cả nhà im, coi như vắng. Gõ cửa hàng xóm, hỏi, lắc đầu chịu. Chủ nhà đi vắng hay không, làm sao biết. Viết thư than, ở thủ đô bao giờ cũng hơn, tiện lợi đủ đường. Không trả lời, coi như chuyển nơi ở.
Vợ chồng Hoàng-Liên thông dịch, trại giải tán năm 1982, thất nghiệp về Leed, năm 1985 làm xưởng bánh mỳ dài dài, nghe tin lên đốc công, vì xưởng nhiều người Việt kém Anh ngữ.
Gia đình tôi tuy thế còn may mắn gấp nhiều lần so với người định cư ở Bắc Ái Nhĩ Lan. Nơi đó, thời ấy, bom nổ thường xuyên, do I.R.A -Irish Republican Army- chống chính phủ Anh gây ra. Chẳng hiểu “quân sư” nghĩ gì, Cục Di Dân cho 30 gia đình người Việt, chủ yếu dòng họ Lê chuyên nghề đánh cá ở Hải Phòng, theo Công Giáo, định cư xứ này. Xứ này đâu có ưa người Anh, cũng chẳng ưa người nước ngoài. Chịu không thấu, một thời gian ngắn, bỏ của chạy về London.
Mẹ kiếp, ở Việt Nam bom rơi đạn nổ đã hết vía, nay đi tỵ nạn, bom nổ trên xe bus, sát nhà, sát đít, không những thế, ra đường, dân địa phương mắt nhìn gờm gờm như thể mình là quân xâm lược.
Dân Ái Nhĩ Lan không ưa dân Công Giáo, đã sợ lại càng sợ hơn. Không nhanh chân có ngày toi mạng. Muốn nhanh cũng chả được, phải có tiền di chuyển, mèng cũng vài ngàn bảng.
Chúng tôi ở Scotland cũng vậy, muốn về London phải có tiền, chẳng thể chân đi, miệng hát, tay kéo đàn cò làm kế sinh nhai, lên phà vượt Eo biển Irish hay chạy bộ về London như người hát xẩm ở Việt Nam.
Ngày xưa mỗi khi đi qua phà Bính, trên phà có người đàn bà mù (?), đeo chiếc kính đen, quần áo tả tơi, tay cầm nhị, cất tiếng hát xẩm, than thở:
Từ ngày anh bước chân xa Con anh, anh để… ở nhà cho em Con anh… bụng đói, dạ thèm Cùng trời…. cuối đất, dắt em ăn mày Hỏi ông… ông hỡi có hay Hỏi bà… có hiểu lòng này… xót xa
Hát xong một khổ thơ than, người đàn bà mù một tay quờ quạng như thể tìm đường, một tay bám vào vai thằng con, nói nhanh như máy hát: “Xin quý ông quý bà, thương mẹ con tôi, quý ông quý bà đi cầu Trời lễ Phật, đi một về mười, đi may về mắn, thương mẹ con tôi bớt dăm xu một hào… cho mẹ con tôi.”
Thằng bé khoảng 7 hay 8 tuổi, một tay chìa nón mê rách tả tơi, một tay cầm tay mẹ, đến từng người trong đám đông trên phà xin bố thí. Nhìn, nghe sao thảm thế. Không ai có thể từ chối, móc hầu bao, ít nhiều đóng góp.
Nghề cái bang lắm chiêu kiếm sống, nhất là lỏi tỳ, ranh ma. Thị xã Thái Bình có cửa hàng ăn mậu dịch quốc doanh rất khang trang, một Chủ Nhật hè năm 1963, sau khi dạo chơi, hai thằng chúng tôi rẽ vào, mua mỗi thằng một tô phở 5 hào, tôi vừa bưng ra đặt xuống bàn, một lỏi tỳ khoảng 6 hay 7 tuổi nhổ ngay bãi nước bọt vào bát phở. Tát nó à? Nó bé quá, không nỡ. Thôi, xin biếu bố trẻ. Thằng bạn tôi, số phận chẳng hơn gì, vừa lấy thìa húp tí nước dùng, ba ngón tay đen ngòm, toàn đất cát thò ngay vào, bốc luôn miếng thịt bò trong bát, bỏ mồm. Cũng đành đứng dậy, thôi nhường bố trẻ luôn. Chiêu này, vở diễn đều đều, các chị các cô phục vụ đuổi không xuể vì chúng khá đông, gần 10 tiểu tướng. Dân địa phương, bảo, ngồi bàn trong cùng, có cô phục vụ, tụi trẻ không dám bén bảng.
Cửa hàng ăn phố Hoàng văn Thụ, thành phố Nam Định cũng có lũ lỏi tỳ kiếm ăn. Khi chưa đến giờ, chúng tụ tập trước cửa, mỗi đứa một cái vung nồi đất, vừa làm bát xin ăn vừa làm trò, chơi trò xoay vung, vung nồi coi đứa nào xoay lâu nhất. Chốc nữa kiếm được phải chia phần cho đứa thắng. Khách mua bát phở, hai đứa kèm hai bên, chìa hai vung nồi, anh ơi, chú ơi, ông ơi, chị ơi… cho cháu xin một tí, nước không cũng được. Làm thế, bố ai nuốt nổi. Thôi nhường cho mấy bố trẻ, kiếp trước chắc nợ các bố, vừa bảnh mắt đã bị ám.
Mấy chục năm trước, đau xót hoàn cảnh cái bang, không ngờ bây giờ, đến mượt mình vào hội viên.
Khu tôi có 5 gia đình, gia đình Sinh, Hòn Gai, cùng ở Malcolm Way, cách gia đình ông Vinh, Hải Phòng có 3 gian, nhà gia đình Lý Vĩnh Dzùng, Móng Cái ở Morrison Way, gia đình ông bà Hoóng, Hà Nội, giống gia đình tôi mỗi người một góc, “đêm cáo ho, ngày chim gáy.” Ngủ ngon, không tiếng xe ô-tô, chẳng có tiếng còi hụ cảnh sát, cứu thương, đêm thanh bình, không khí trong lành, toàn cây xanh và cỏ xanh bát ngát tận chân trời. Ai mắc bệnh khó ngủ, đến đây an dưỡng, bệnh chắc tiêu tan.
Không ngờ khu Knightsridge có một nhóm bảo trợ (guardians), hầu hết là các bà đã có tuổi, vô công rỗi việc, sáng sớm tụ tập tại nhà bà Smith, nhóm trưởng, lên lịch, sáng làm gì, trưa chiều làm gì, nhà A. ai đến, nhà B. ai… Gia đình tôi có bà Linda, một người đàn bà khoảng dưới 50, single parent, làm bán thời gian trong canteen của trường Dean High School, cứ gần 2 giờ chiều đi làm về, gõ cửa, vào uống chén cà-phê, hút điếu thuốc, ngày nào cũng hỏi mấy câu tầm phào, vô nghĩa: “Are you OK?”, “Children OK?”, ít cũng nửa giờ, có hôm gần 5 giờ tối mới về. Nếu chỉ có thế đã phúc tổ, bà ta có đứa con gái 5 tuổi, nghịch hơn quỷ sứ, thường xuyên theo mẹ, hễ vào nhà là lục lọi đủ thứ, con tôi không thích, đuổi về. Nó mách mẹ, bà Linda trách tôi, lúc đầu cũng nể, nhượng bộ, chỉ khi nào bà ta đến tôi mới cho vào. Thời gian đầu, ở nhà rỗi việc, tôi thường kèm tụi trẻ học toán, mẹ con bà Linda quấy rầy nhiều, tôi từ chối sự bảo trợ.
Tại sao tôi phải cần người xỏ mũi, dắt dây?
Tháng đầu tiên, hàng tuần phòng trợ cấp thất nghiệp Livingston gửi séc trợ cấp kể cả tiền nhà, bà Linda đi kèm, sau khi lĩnh ở Post Office, tiền nhà bà giữ, (chưa có sổ trả tiền nhà), khuyên mỗi tuần nên mua tem điện, tem gas, tem TV licence, mỗi thứ 1 bảng. Chiều lòng tôi làm theo ý. Gia đình nào cũng bị người bảo trợ “giúp đỡ” tận tình, mình như đứa con nít, học ăn, học nói, học gói, học mở, ở tuổi tứ tuần.
Khổ nhất gia đình anh chị Sinh, khinh không thèm học Anh ngữ, ở Hong Kong 1 năm, đến Scotland gần 1 năm chả biết khỉ gì, ai hỏi chỉ nhe răng cười, chỉ chỉ chỏ chỏ, được thể bà Smith giúp đỡ từ A đến Y (thiếu Z).
Sáng sớm, khoảng 8 giờ gõ cửa, chiều khoảng 2 giờ, 8 giờ tối thăm lần cuối. Mấy tháng đầu, OK, sau khi anh chồng kiếm được việc làm chui ở cửa hàng Chinese Take-away ở Bathgate, chiều và tối thường xuyên vắng nhà. Ban đầu cho rằng anh chàng này bê bối, đàn đúm, bỏ rơi vợ con, bất cứ chỗ đông người nào bà cũng phán một câu như quan tòa: “Bad boy.” Đầu tiên, anh chàng Sinh nhe răng cười xòa, lâu dần khó chịu, nhất là Sinh được nhận làm toàn phần do thằng bếp Hong Kong bỏ việc. Cả tuần 6 ngày vắng mặt từ 3 giờ chiều đến tối mịt (chính xác 2 giờ 30 sáng hôm sau) chưa về, sáng gõ cửa, không mở, còn ngủ nướng. Sữa phơi nắng, trưa không thèm đem vào, bà ta sinh nghi, chắc thằng bad boy này làm chui lậu thuế, lĩnh tiền trợ cấp. Bà đe, báo thuế đàng hoàng, thôi lĩnh trợ cấp, không, bà bẩm báo chính quyền. Bỏ tiếc, báo thuế, lương chả hơn gì tiền trợ cấp. Người anh rể ở Wishaw, bảo, “tao tìm được nhà tư, chuyển về đấy, tránh xa mụ phù thủy là xong.”
Dạo ấy, vợ tôi làm xưởng bánh kẹo, tôi học Stevenson College ở Sight Hill, bận tối ngày, chả biết mô tê gì chuyện bà con trong phường.
Đột nhiên tối Thứ Bẩy cuối năm 1981, vợ chồng Sinh sang chơi, bảo, xin được nhà ở Wishaw, gần nhà chị gái, mai chuyển đi, đến chào, có dịp qua Wishaw vào chơi. Tuyệt! Wishaw một thị xã cổ kính, thơ mộng, đã từng ở đấy gần 5 tháng. Được, có điều kiện ghé thăm. Nói ra vẻ, từ Knightridge đến Wishaw đổi 3 lần xe bus, biết khi nào đến được.
Hôm dọn nhà, anh chàng David độc thân, ở Wishaw, thường xuyên đến trại Coltness House, biệt danh “David chó”, nuôi 4 con chó, nhà toàn phân, nước tiểu, thối hoăng, quần áo dính toàn lông chó, khai mù mù, đem chiếc van đến chuyển giúp.
Lâu mới gặp, tôi và David hàn huyên.
Hóa ra, vợ chồng Sinh thuê nhà của David, sở thất nghiệp trả tiền nhà. Trời đất quỷ thần ơi, vợ chồng Sinh có 3 đứa con, lớn nhất 4 tưổi, bé nhất gần 6 tháng, nhà 5 mạng, chui vào nhà David, trẻ con không ốm mới là lạ.
Tôi đã đến nhà David, hồi ở Coltness House, nhà 4 buồng ngủ, nhìn ngoài hết ý, vào trong ói muốn chết. Tầng trệt, phòng khách, reception chứa đầy bàn ghế, tủ, máy giặt… toàn đồ nhặt ngoài đường, mốc, ẩm ướt nồng nặc xông thẳng vào mũi. David đưa thăm các buồng, từ cầu thang, lên hết tầng hai, thảm dính toàn lông chó, nước đái chó, có cả phân. David vội cầm fresh air xì xì, hai mùi trộn lẫn thành thứ mùi khó thở.
Dù biết không lịch sự, nhưng đành ra khỏi cửa, hít chút khí trời. Tí chết ngạt. Bây giờ chỉ vì tiền, đưa cả vợ con đến đấy ở. David ngoại 40, chưa vợ, Sinh làm đêm, vợ trẻ, đẹp gái. Nhỡ có chuyện gì xẩy ra chỉ có ma biết.Mời đọc tiếp: Chương [11] Lâm Hoàng Mạnh Nguồn: Tác giả gửi Ghi chú: – Khu Knightsridge, dãy nhà Lindsay Way (30 nhà) năm 1990 phá bỏ hoàn toàn vì sau nhiều năm không có người ở.
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 18:16:23 GMT 9
Chương 11: Bước đầu định cưPosted: 02/04/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Ra định cư, Trại Cotlness phát cho mỗi gia đình một cuốn Cẩm Nang Người Định Cư, tuỳ lựa chọn bản chữ Trung hay bản chữ Việt, gồm các mục:
A-Trợ cấp Xã hội (D.H.S.S), hồi ấy Bộ Y tế chưa tách riêng
B-Công việc
C-Y tế
D-Giáo dục
E-Quản lý và an toàn nhà cửa
F-Xã hội Anh
G-Ban/nhóm bảo trợ
Mỗi mục lớn, có mục nhỏ, giải thích cặn kẽ giúp người mới định cư hiểu cơ bản quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân, có địa chỉ, số điện thoại liên lạc.
Gia đình nào cũng có, chả ai đọc kỹ, bất cứ chuyện gì cũng nhờ người bảo trợ làm giúp.
Cuối đường Munro Way, có gia đình ông bà Hoóng, vắng vẻ chẳng kém gì Lindsay Way, ông Hoóng, cựu công nhân nhà máy đèn Yên Phụ từ thời Pháp thuộc, tuổi cao, ngoại thất tuần, lưng còng, tóc trắng xóa cũng bỏ tất cả, làm tỵ nạn.
Bà tuy đã ngoại 60, nhưng nhanh nhẹn tháo vát, mộ đạo Phật từ nhỏ. Khi còn ở Trại Thỏ, tuổi cao, không biết tiếng Anh, tiếng Quảng, “hiệp sĩ Hong Kong” cho qua, bà cũng không muốn cải đạo. Ra định cư bà thấy dại, sợ không có người giúp mua gạo, mua đồ Á châu.
Trên mảnh đất quốc đảo hình sư tử, nơi nào dân cư đông đúc, nơi đó có nhà thờ, rất gần, rất tiện lợi cho người mộ đạo. Khác nhiều nước, nhất là xứ Scotland, Thiên Chúa giáo không nhiều con chiên, người Scot đến Church of Scotland, người Ăng-lê cầu kinh tại Church of England, Christian Church…
Dân tỵ nạn miền Bắc hiểu rất lờ mờ về các dòng đạo Chúa Cứu thế, cứ thấy nhà thờ, người đi lễ, là người theo Công Giáo. Chúng tôi bên lương, chả hiểu gì. Vả lại khi cộng sản về, người Thiên Chúa Giáo thường bị để ý tuy nhà thờ lớn của thành phố vẫn tổ chức lễ Giáng sinh, giáo dân đổ về đón lễ, thanh niên bên lương tò mò đến xem, người đông như kiến.
Giáng sinh năm 1958, ba thằng chúng tôi rủ nhau đến Nhà thờ Lớn xem lễ, không ngờ đi qua Nhà thờ Tin lành đầu phố Trại Cau đã đổi tên là Tô Hiệu. Một đôi nam thanh nữ tú, áo quần sang trọng đứng ngay cửa nhà thờ, tha thiết mời vào dự lễ. Chúng tôi chưa bao giờ vào thánh đường, nhìn nhau, gật đầu. Giáo đường trang hoàng thật hoành tráng, lộng lẫy. Chúng tôi bước vào. Các hàng ghế trống trơn, ba thằng nhìn nhau, chót phải chét. Dại quá, lại ngồi ngay hàng ghế trên cùng, gần ban nhạc. Nhạc cử hành, cả giáo đường ngoài ba thằng có thêm khoảng mươi người ngồi phía sau. Đoàn đồng ca hát, linh mục lên giảng, nhạc cử hành. Tiếng chuông ngân vang, Chúa Giáng sinh. Ban nhạc cử hành bài hát lễ, truyền cảm, nối tiếp kéo dài, tất cả thật trang nghiêm, đến nỗi chúng tôi muốn về mà không dám, người dự lễ thưa thớt quá, đành ngồi đến phút chót.
Giáng sinh 1965, cô bạn Kim, cô gái hiến máu, dẫn đi đón lễ Nhà thờ Lớn Hà Nội. Thủ đô có khác. Vả lại Thiên Chúa Giáo đông con chiên, đèn hoa, sáng rực, thánh đường đông nghịt, con chiên khắp nơi đổ về mừng lễ Chúa giáng sinh. Gia đình Kim theo Công Giáo, gia đình cô chú tôi là một bi kịch, tôi không bao giờ muốn theo vết xe đó. Kim đẹp, ngoan, đoan trang, gia đình lễ giáo, cha nàng công chức cũ, giờ xã viên cơ khí. Mẹ Kim, mẫu người vợ và người mẹ của gia đình Hà Nội gốc.
Tôi quý và mến Kim lắm, nhưng không thể bước qua ranh giới. Tốt nghiệp, nói dối, đi B., chắc Kim buồn.
Từ đó không gặp lại. Nhiều năm sau, có dịp ghé Hà Nội, tôi vẫn đạp xe qua phố Trần Nhật Duật vào lúc 10 giờ đêm, nơi nàng sinh sống, nơi đêm thứ Bẩy in đậm dấu chân kỷ niệm, một thời thân ái.
Trong số 10 gia đình cải đạo theo Công Giáo, ai ngờ nhà Chương ra định cư, người bảo trợ dắt đi nhà thờ Tin lành, bảo, “Tin lành là Number One, theo bọn tao, mấy tay Hong Kong biết mốc xì gì.” Thôi đành “đến đây thì phải theo đây”, Chương lại cải đạo Tin Lành, chiều lòng người bảo trợ.
Khu Knightsridge nhỏ thế mà có hai thày tu, linh mục Tin Lành, cha đạo Công Giáo, tiến sĩ thần học Dr. J. McCann, chăm sóc phần hồn con chiên. Hai nhà thờ cách xa nhau, nhà thờ Công Giáo ở Ladywell, nhà thờ Tin Lành ở Dean. Hai gia đình cùng trại, Vinh và Dzùng cải đạo theo Công Giáo, quá xa Wishaw, “hiệp sĩ xảo voọc” Hong Kong chịu, không với tới, đang mừng thầm, gần một tháng, được tự do, không ngờ, hai vị chức sắc đến thăm, giúp đỡ. Anh ngữ kém, họ hỏi gì, vợ chồng Vinh cũng gật, cũng lắc, chán mớ đời.
Có hai thằng con trai, thằng 17, thằng 15, khôn ngoan nhanh nhẹn, đi học vắng, chờ cuối tuần, làm thông dịch, bảo, hai ông này mỗi người một đạo khác nhau, bá má theo ông nào. Biết theo ai? Hỏi bà Smith, không mộ đạo, bảo, không muốn thì thôi, không ai bắt ép.
Bà Hoóng theo cha đi nhà thờ, một lần gặp bà tại nhà anh Sinh, bảo, “có lẽ thím –bà vẫn xưng thím với tôi– bị Đức Phật phạt nên có nhiều vết nhám ở mặt.” Tôi bảo, “không phải đâu, tuổi cao thường có những vết nhám.” Bà thì thào, “Trên gác, thím vẫn có ban thờ Phật. Nể đức cha quá, chứ mỗi lần đi nhà thờ, sợ Phật quở, về phải thắp hương khấn lạy đức Ngài đại xá”.
Chuyện bất ngờ: Chương làm ở cửa hàng Chinese Supermarket, dẫn chủ đem xe van chở hàng đến từng khu, bán gạo, đồ khô. Chủ vui, chúng tôi mừng rơn. Hẹn mỗi tháng đem hàng đến một lần, muốn mua gì thêm đặt trước. Chuyện đi nhà thờ thế là dẹp.
Tết Nguyên Đán 1981, Chương mang hàng bu gà mái già (boiling chicken), gà thải của các trang trại, đem bán. Nhà nào cũng mua. Mừng quá, tết này có gà tươi cúng các cụ. Lần đầu tiên mua loại gà già, đâu có biết cách luộc. Cúng xong, chặt xếp lên đĩa, gà vàng ươm, đẹp mắt, gắp một miếng, chịu, nhai không nổi. Dai quá, hơn da trâu, nuốt không trôi. Cả 5 nhà gặp nhau ai cũng xỉ vả cậu Chương, đồ đểu, đồ lừa lọc, gà nuôi kiểu gì mà dai quá sức. Bà Hoóng gẫy chiếc răng hàm. Tháng sau cậu Chương theo van đến, bà té tát cho một trận tơi bời. Chương bảo, cháu đâu có biết, thằng bé nhà cháu cũng mất chiếc răng cửa. Ninh lâu, thịt mềm nhưng nhạt, nước nấu canh là tuyệt. Từ đấy, cạch, món gà tươi ế.
Khu Knightsridge nghèo, hai nhà ra trước bà con giúp chút đỉnh. Chúng tôi đến sau, uống nước đục. Không có tủ lạnh, thường xuyên phải đi siêu thị khá xa, ngó cửa kính corner shop, mua được chiếc tủ lạnh cũ, loại nhỏ, có 5 bảng. Một gia đình đem đến cho chiếc máy giặt kèm theo máy vắt. Hai chiếc máy này, bây giờ còn giữ chắc kiếm bộn tiền với tư cách đồ cổ. Máy giặt đứng, hình khối chữ nhật, cao khoảng 80 đến 90 cm, vòng quay đảo chiều, mở nắp cho thêm đồ giặt, máy vẫn ù ù như cối xay thóc. Không có đồng hồ thời gian, giặt nhanh hay lâu tùy ý, chuyển nút xả nước, lấy nước, có ống cao su đấu từ vòi xả nước vô tùy thích. Khi nào thấy sạch, lấy đồ ra chậu, đưa sang máy vắt. Máy vắt trông giống máy cán mỳ sợi, cao hơn 1 mét, có 4 lô tròn bằng gỗ, hai nấc cán, có ốc điều chỉnh. Cho từng chiếc quần áo vào, cầm quay tay, quay vòng, nấc thưa quần áo còn ướt mèm, nấc khô được quần áo, các cúc vỡ hết. Máy vắt này chắc mô phỏng từ máy cán sợi mỳ hay cán thép, không hợp cán quần áo. Báo hại cả nhà, bao nhiêu cúc áo vỡ sạch. Dẹp, cho ra vườn sau, chờ người lấy rác đưa đi giúp. Kiểu máy giặt và vắt này, ai muốn chiêm ngưỡng, xin đến bảo tàng đồ cổ ở London. Mỗi lần giặt, đem máy vào buồng tắm, giặt xong, vắt khô bằng tay, chỉ tiện không phải xát xà phòng và vò quần áo.
Một người mang đến chiếc máy khâu quay tay, mặt máy bong hết sơn, tay quay gần như rỉ sét, tôi cảm ơn nại cớ không biết may. Nhà mình đâu phải bãi rác. Tuần sau, bà Hoóng khoe, có người cho chiếc máy khâu, đến xem, hỏi, có phải bà Mary cho không, gật đầu.
Thấy nhà không có vô tuyến, ông hàng xóm Peter Chenney đưa tôi ra Livingston Shopping Centre thuê cho chiếc đen trắng. Tôi muốn thuê ti vi màu, ông bảo đắt lắm, đành nghe lời. Được vài tháng, cũng trong cửa kính corner shop, tôi mua được chiếc ti-vi màu giá 45 bảng, ai ngờ quá cũ, màu chả ra màu, xám xịt.
Thôi đành, méo mó có hơn không. Trả lại chiếc đen trắng thuê, 5 bảng/tháng, cửa hàng không chịu. Hợp đồng 12 tháng, trả lại không sao, nhưng vẫn phải đóng tiền hàng tháng. Thế là có 2 chiếc ti-vi, chiếc đen trắng đưa lên phòng ngủ.
Năm 1981, mua chiếc ti-vi màu second hand hiệu Grundig do Đức sản xuất, hình và âm thanh thật tốt. Được 8 tháng, tự nhiên màu mất. Đem sửa thợ đòi 100 bảng, thay màn hình. Trời ạ, mua 85 bảng, chữa đòi 100!
Cả nhà chỉ có chiếc vô tuyến giải trí, mấy em con chú đi làm, bảo, thiếu bao nhiêu, em cho vay, mua cái mới cho các cháu. Tôi mua cái mới cứng, nhờ ông Peter đưa ra Edinburgh đến cửa hàng Comet, 26 inch giá 300 bảng. Bảo hành 1 năm, thêm bốn năm bảo hành, 45 bảng, cho chắc.
Được gần 2 năm tủ lạnh, xịt, hỏi, phải thay hộp gas, 35 bảng. Thôi nghỉ, mua cái mới. Lại nhờ ông Peter, đi Comet mua chiếc tủ lạnh 2 tầng, 150 bảng. Tiền dành dụm chút đỉnh, đồ cũ thay nhau hỏng. Nghèo lại càng nghèo chỉ vì mua đồ phế thải.
Từ đấy, cạch, không mua đồ điện tử second hand.
Khi còn ở trại Coltness, anh em cắt tóc cho nhau, ra định cư, vợ tôi thành phó cạo. Ba bố con, tháng tháng vào nhà tắm, cúi đầu cho phó cạo học nghề. Mỗi lần nhà tôi húi đầu cho ba bố con, bao giờ cũng hát “dân ca và chèo”: Ối giời, cổ bố con ông toàn ghét, đầu toàn gầu là gầu, tắm gội không kỳ hả. Ghê cả tay!
Cái kiểu ăn nói này tôi nhớ ở thị xã Hòa Bình có tay cắt tóc rất nổi tiếng, nổi tiếng tay nghề và cũng nổi tiếng đểu. Chả biết tên thật là gì, chỉ thấy mọi người gọi theo tên cửa hàng Kim Liên. Hắn tự hào, xuất thân làng Kim Liên, làng nổi tiếng nghề cắt tóc với huyền thoại cụ Tả Ao để mả.
Theo huyền thoại, cụ Tả Ao, thầy phong thủy lừng danh xứ Bắc Kỳ cuối thế kỷ 19, một hôm đi qua làng Kim Liên. Các cụ bô lão, tiên chỉ nghe tin thày, vội vàng mời cụ bữa rượu thịt tươm tất. Đãi xong, thay mặt dân làng, cụ tiên chỉ xin cụ Tả Ao giúp cho dân làng khỏi cảnh bị người làng khác o ép, xin thày để cho ngôi mộ, con cháu sau này mở mặt, mở mày, đè đầu vít cổ thiên hạ. Cụ Tả Ao, vuốt râu cười. Gì chứ, các cụ chỉ mong có thế, già này xin cố giúp. Cụ Tả Ao chỉ cho ngôi mộ, hẹn ngày đẹp, giờ hoàng đạo, đem hài cốt cụ tổ táng ngôi đó, sau 3 năm sẽ ứng hiệu. Nghề cắt tóc từ đó phát triển ở làng Kim Liên. Chẳng phải nghề “vít đầu, ấn cổ” khách húi đầu là gì. Các cụ làng Kim Liên không kêu vào đâu, phục tài cụ Tả Ao như thánh sống.
Kim Liên tay kéo rất điệu nghệ, lái xe tỉnh tôi phục tài hắn lắm. Khách nghèo, nông dân nhất là người dân tộc thiểu số hắn ít khi nhận, dù ngồi không. Theo hắn, mỗi khi cầm kéo, ít ra cũng được 5 hào trở lên, cắt không gội, không sấy 3 hào chả bõ bèn. Khinh rẻ người dân tộc ở một tỉnh miền núi rất nguy hiểm đến sinh mạng chính trị. Hắn cóc sợ, dân đen, ngồi bệt, không buôn gian bán lận, không trộm cắp, không phát biểu lăng nhăng cà chớn, chẳng chửi chính phủ, phê bình ở tổ dân phố là cùng, tống tù đâu có dễ.
Ty Công An có ông phó ty người Mường, nghe bà con dân tộc phản ảnh, ông quyết đến cửa hàng tay Kim Liên xem hư thực ra sao. Tan phiên chợ chiều, ông và người cận vệ mặc quần áo Mán, đeo gùi, bước vào.
Kim Liên xua tay:
– Bận lắm, mai đến.
– Cái mình đi chợ phiên, cái mình muốn húi tóc. Làm cho cái mình đi.
– Đã bảo bận mà.
– Cái mình có thấy ai đâu. Húi cho cái mình đi.
Đuổi thế nào cũng không được, Kim Liên đành thua:
– Ngồi vào đây.
Lấy khăn quàng cổ, lật cổ áo, kêu:
– Mấy tháng chưa tắm hay sao mà cổ đầy ghét.
Phó ty thủng thẳng:
– Cái mình mới tắm Tết mà.
– Sao lười thế?
– Cái mình không có xà-phòng.
Thỉnh thoảng Kim Liên giật tông-đơ một cái.
Phó ty kêu:
– Ối, cái mình đau quá.
– Tóc gì cứng như lông bò, đau là phải, cố mà chịu.
Kim Liên bắt đầu giở trò đểu, hỏi anh chàng Mán đi cùng phó ty:
– Cái mình có cao hố không?
– Cái mình có.
– Cái mình có cao khí không?
– Cái mình có cao khí.
– Cái mình có cao văng mạng không?
– Cái mình chỉ có cao hố, cao khí, không có cao văng mạng đâu.
Người Mán đi chợ phiên thường đem chè khô, thuốc lá cây và các loại cao tự nấu và huyết lình (1) bán. Chè của người Dao toàn mùi ám khói do để gác bếp, có người giở trò gian lận, bán chè, đáy bị buộc hòn đá tăng trọng lượng, mua về thường bị thiếu. Ai mua cao hổ, cao gấu, cao khỉ, cao trăn … họ đều đưa ra một miếng cao màu hung hung đen, mùi ngái ngái, to hơn bao diêm một chút, nhìn bề ngoài rất giống nhau, chả biết cao xương gì hay cao lá cây. Người Kinh thị xã Hòa Bình nhiều lần mua phải cao giả nên xỏ xiên, gọi cao do người Mán bán ở chợ Phương Lâm là “cao văng mạng.”
Tóc cắt xong, Kim Liên gạ:
– Cái mình bôi dầu chải tóc không?
– Bôi thử cho cái mình.
Kim Liên lấy ngay mỡ xe đạp, bôi vào tay, quyệt vào đầu phó ty, lấy lược chải. Đầu phó ty bóng nhoáng. Kim Liên bảo:
– Soi gương xem, bóng chưa.
– Bao nhiêu?
– Năm hào?
– Sao năm hào? Ba hào cơ mà?
– Cắt tóc 3 hào, dầu chải 2 hào, chả năm hào còn gì.
Phó ty lần mãi trong túi áo nâu, lấy ra năm hào.
Hai người định đi, Kim Liên bảo:
– Ấy chưa đi được, chổi đây, quét đám tóc cái mình lại, dọn xong chôn vào gốc cây kia mới được đi.
Cậu cận vệ uất lắm, muốn rút còng số 8, phó ty lừ mắt. Chôn tóc xong, phó ty hỏi:
– Còn phải làm gì nữa không?
– Thôi, xong.
Hai giờ sau, đoàn xe ô-tô Ty Công An hú còi đỗ xịch trước cửa Kim Liên.
“Thằng Mán” bây giờ trong sắc phụ thiếu tá công an, cùng đại úy trưởng trại giam, “Mán cận vệ” và hai chiến sĩ cảnh sát xuống xe, đọc lệnh bắt Kim Liên.
Kim Liên sững sờ, biết mắc bẫy. Cúi đầu, chìa hai cổ tay nhận vòng số 8, không dám nói câu gì.
Ba ngày sau, vợ Kim Liên dắt 7 đứa con lít nhít đến Ty Công An tỉnh, khóc lóc mếu máo, nhà 9 miệng ăn, chồng bị giam lấy gì mà sống.
Phó ty bảo, lần này tha, lần sau mọt gông, nghe chưa? Kim Liên hứa, xin chừa.
Húi tóc tại gia, mỗi tháng tiết kiệm 15 bảng, một năm 3 bố con dành được 180 bảng. Tưởng mỗi mình nhà tôi có phó cạo, ai ngờ tất cả các bà vợ tỵ nạn đều thành phó cạo. Nghề phó cạo, nhà tôi làm đến khi hai thằng con vào đại học, “giáo sư trông xuống, bạn gái trông vào”, chúng được ra hiệu cắt, dù tay nghề nhà tôi đã thuộc loại giỏi, sau mười mấy năm hành nghề, tiết kiệm tiền nghìn. Mấy năm nay, mắt kém, tôi bị bà vợ đẩy ra Barber shop, mèng cũng 10 bảng/lần húi.
Mùa đông 1980 rét thê thảm, đi chợ trời Bathgate -Sunday Market-, mua thảm giải phòng khách và buồng ngủ tụi trẻ, loại rẻ nhất, cũng gần 200 bảng. Có ông McCann quen từ hồi ở Trại Coltness mang cho một số thảm cũ, tất cả buồng, cầu thang kín thảm. Nhà ấm hẳn lên.
Nhà anh Sinh, nhà Vinh, nhà Dzùng đều mua tủ lạnh, máy giặt… toàn đồ mới. Hóa ra họ đi làm chui từ lâu vì biết tiếng Quảng, chúng tôi, vợ đi làm, chồng đi học biết khỉ gì, vả lại tất cả giấu kín, sợ mọi người biết đến tai bà bảo trợ.
Đầu video bán trong các siêu thị từ 1979, tôi nhìn thấy ở Hong Kong, năm 1982, ba nhà kia đua nhau, ai cũng có, thuê phim Đài Loan, phim chưởng vợ con xem tối ngày. Đầu video hồi ấy các nút bấm dài ngoẵng, piano key, to, nặng, chưa có điều khiển từ xa, ấy thế giá 600 bảng/chiếc, so với lương nhà tôi đi làm (kể cả thêm giờ, Thứ Bẩy) trừ thuế, xấp xỉ 100 bảng/tuần. Đúng là thứ xa xỉ phẩm chưa dành cho người nghèo.
Thằng em con chú, đi làm về, mắt vợ sưng húp, hỏi, làm sao mà khóc, bảo, xem phim cảm động quá, không kìm được. Nó đến than, đúng là mình hại mình, sợ vợ ở nhà buồn, mua video thuê băng Đài Loan, Hong Kong, vừa xem vừa khóc, chán mớ đời. Phim Mỹ, phim Anh… nghe không thủng, ngoài súng bắn pằng pằng, ngựa phi như bay… thấy hay hay, hiểu mẹ gì đâu. Phim Đài Loan, Hong Kong tình cảm uỷ mỵ, sướt mướt, đúng tâm lý Á châu, nghe hiểu từng câu, thấm tận đáy lòng, chỉ tội phim nào kết thúc đều buồn thúi ruột, không chảy nước mắt mới là lạ.
Ông bà Hoóng có thằng con làm thêm tối Thứ Bẩy, Chủ nhật, cũng mua đầu video, cả xóm nhà ai cũng có đầu video, trừ nhà tôi. Cuối tuần tụi trẻ nhà tôi đến ông bà trẻ xem nhờ.
Sau Christmas 1983, cửa hàng khuyến mại, giảm giá nhiều, tôi mua chiếc Sanyo, có điều khiển từ xa, giá 500 bảng cho bằng chị bằng em. Cuối tuần thuê băng võ hiệp Lý Tiểu Long, Hong Kong, Cartoon cho trẻ. Mấy tháng sau, mua chiếc máy giặt mới cũng cửa hàng Comet, có đầy đủ chương trình giặt vắt, chiếc cũ cho ra bãi rác. Cuộc sống năm gia đình chúng tôi cải thiện dần dần trong quá trình hội nhập.Mời đọc tiếp: Chương [12] Lâm Hoàng Mạnh Nguồn: Tác giả gửi Ghi chú: 1- Huyết lình: Máu kinh nguyệt của khỉ khô đọng các núi đá, một số người cho rằng huyết lình chữa được nhiều bệnh.
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 18:20:06 GMT 9
Chương 12: Một đoạn đườngPosted: 06/04/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh Điều tôi quan tâm nhất là chuyện học hành của tụi trẻ. Con gái tôi vì quen các thày cô và hiệu trưởng, đi học chưa đầy 4 tuổi, đang học lớp 3/10 phải bỏ học, theo bố mẹ lang thang các trại tỵ nạn, thấm thoát gần 2 năm. Hai thằng bé, bắt đầu tuổi vỡ ruột, vì thế khi trại cho ra định cư, tôi nhận ngay, chỉ cần kịp ngày khai giảng.
Trong cuốn Cẩm Nang Người Tỵ Nạn, chúng tôi có quyền từ chối 3 lần nếu không ưng căn nhà được cấp. Khi đến thăm khu Knightsridge, thật lòng không muốn, nhưng ngày khai trường sắp đến, đành nhận.
Tôi học hành đến nơi đến chốn, nhưng gian nan, ngắt quãng nhiều lần. Năm 1945, chuẩn bị lớp vỡ ruột, Cách Mạng Tháng Tám, khí thế hừng hực, học hành gì. Chị em tôi ở nhà, ba tôi kiêm luôn chức thày giáo. Năm sau, học được vài tháng thì toàn quốc kháng chiến 12-1946, nửa đêm tổ vệ quốc quân đóng gần nhà, kéo gia đình tôi chạy tản cư.
Tiền bạc, đồ quý, chưa kịp lấy, họ bảo, nhanh lên, quân Pháp sắp tấn công, khi nào im tiếng súng, quay lại lấy chưa muộn. Cả nhà bồng bế dắt díu nhau, khăn gói tay nải, mỗi người vài bộ, cứ thế theo Vệ Quốc Đoàn lùi dần, lùi dần về Chợ Hỗ. Hải Phòng rơi vào tay quân đội Pháp. Hết đường về, bà tôi bảo, thôi về quê. Tất cả về quê, xã Đại Bản, An Dương, tá túc, chờ qua cơn binh lửa. Nông dân ban ngày cày bừa, ban đêm là Việt Minh, ai hé răng tính chuyện về thành, đêm, có người bịt mặt đến thăm, ăn đạn liền. Sợ xanh mặt, chả dám ngo ngoe hay lộ ý.
Năm 1947, về Hải Phòng, tôi mới cắp sách đến trường. Cuối năm 1953, chú thứ hai đi chơi với em rể, chú Thịnh, loáng quáng thế nào, cả hai bị xe quân cảnh Pháp chặn ngang hai đầu phố, a-lê-hấp, lên xe bịt kín, tống vào trại. Nghe tin, cả họ đi tìm, gặp hai ông chú trong trại lính khố xanh Ngã Tư Lạch Tray, may-ô quần đùi, đứng trong sân có hàng rào mắt cáo. Chỉ huy sợ trốn trại, dùng độc kế, chỉ cho mặc quần đùi, áo may ô. Chịu, không thể trốn, thành lính bất đắc dĩ. Chú rể, cao to vào lính dù, về sân bay Cát Bi luyện tập. Chú thứ hai tiếng Pháp khá, lính hậu cần, bán hàng trong căng-tin của trại. Cả hai chưa kịp ra trận, chưa cầm súng bóp cò. Chiến tranh kết thúc cả hai trở thành nguỵ quân, thành phần nguy hiểm, trong danh sách sổ đen. Học tập, cải tạo mấy buổi, mang lon binh nhất, lính mới tò te, chưa nguy hiểm, nhưng hễ căng thẳng, hai ông đều phải cắp quần áo lên khu phố tập trung, nhanh một đêm, có kỳ một tuần, cơm chính phủ nuôi. Gia đình chịu, không biết tập trung (giam) ở đâu để thăm nom. Hai chú tôi bảo, ấy thế mà vui, toàn lính cũ tự nhiên được gặp nhau, bữa ăn còn có chút thịt cá, hơn cơm nhà. Từ ông chủ hiệu giầy, hiệu ảnh, chính phủ không cấp môn bài, đồ đạc bán ăn dần, xin việc chẳng ai nhận ngụy quân, đành mở quán bán nước mía, thạch găng, nước ngọt kiếm sống qua ngày. Thế mà quán bán nước cũng sập tiệm. Đơn giản là thân nhân của một công an tiểu khu ccũng mở quán. Sao một phố có những hai quán bán nước, ế là phải. Năm sau, cấp giấy phép mới, quán của ông bà dẹp.
Không thể nhìn đoàn tầu há mồm 7 đứa con đói, ông đành mua chiếc xe xích-lô làm tắc-xi chở khách. Nghề cu-ly xe chẳng thằng nào con nào ghen ăn tức ở nữa. Rồi có ông bạn quen lên chức phó chủ nhiệm hợp tác xã bánh kẹo thành phố, họp ban chủ nhiệm, đứng ra bảo lãnh tư cách thân nhân, ông được nhận làm xã viên, đóng góp chiếc xích-lô. Nhiệm vụ được giao, chuyên chở nguyên vật liệu, hàng hoá của HTX đến và đi các cơ sở. Lương bổng khoán theo sản phẩm. Tháng tháng thu nhập đều và cũng đủ “xăng” bơm mồm cả đoàn tàu 9 toa. Bà cô tôi, đàn em gái, nhân viên tổ đan len, ngày ngày cặm cụi đan đan lát lát, thêm dầu nhớt cho tàu trơn bánh. Cả nhà ông mừng, cả họ tôi mừng. Thôi, thế cũng đỡ phơi mặt ra đường, đạp xe rong, hôm nhiều hôm ít như anh thả lưới bắt cá, thu nhập bấp bênh. Đời cu-ly xe, ấy thế ông vẫn giữ được phong độ ông chủ thời Tây. Bộ com-lê màu hạt giẻ, cà-vạt, áo trắng cổ cồn, giầy da ông tự đóng, đói mấy cũng cố giữ, bà cô tôi vẫn có chiếc áo dài nhung màu huyết dụ, chuỗi ngọc trai. Ngày Tết ông bà lại thắng bộ, nhớ lại thời hoàng kim, quên phận cu ly, mỗi năm được vài ngày, ôn kỷ niệm.
Nhà ông bà khá rộng, tầng dưới cho tổ đan len thuê, nghỉ hè 1964, tôi đến thăm, vừa bước chân vào cửa, thấy mấy chục phụ nữ ngồi duỗi dài, đan len tán gẫu, nhiều cô trẻ. Tôi hoảng, không dám nhìn, nghếch mắt ngó trần nhà, bước thẳng. Chả biết cô nào tinh quái, thò ngay chân ngáng, tôi vồ ếch. Không đau, nhưng xấu hổ, cả hội cười, có lỗ nẻ, chắc chui liền. Bà cô tôi, nói, muốn làm cháu dâu phải thế nào, ai lại cho nó con ếch to thế. Từ đó tôi chỉ đến nhà ông bà vào buổi tối, ban ngày, cạch. Thanh niên thời ấy có câu “Cơm hàng cháo chợ, vợ tổ đan”, ngày nay được chuyển thành “Cơm hàng cháo chợ, vợ làm Nails”.
Năm 1966, Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch thăm nơi sơ tán bệnh viện, y bác sĩ cùng lãnh đạo đưa bộ trưởng thăm cơ sở. Đến khoa dược, hơn chục nữ sinh dược tá thực tập, xếp hàng đón. Không để ý, tôi lại bị một cô ngáng chân, loạng choạng suýt vồ ếch trước mặt bộ trưởng. Cả đoàn chả ai dám cười, sợ phiền lòng bộ trưởng. Trưởng khoa dược ghé tai, “Con Minh đấy, cách tỏ tình sơn nữ, sợ gái dân tộc chưa.”
Bà tôi sợ chú thứ nhất bị bắt lính, chuyển lên Sơn Tây, nơi vợ chồng cô thứ hai đang sinh sống. Tôi lại chuyển trường.
Ngày 20-7-1954, Hiệp định Gènerve ký kết, tháng 6, 1955, lại quay về Hải Phòng bằng đường thủy. Tất cả vốn liếng có, mua bương, tre gỗ, nứa vừa làm bè chuyển nhà, vừa buôn gỗ luôn.
Số giàu chấm hết khi đến Cầu Bo, Thái Bình, một trận bão cấp 12 đổ trực tiếp vào vùng biển Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định. Mười mấy chủ bè sạch sành sanh, tay trắng. Bè tan, gỗ, tre, nứa từng đống chân Cầu Bo, còn tất cả trôi mất ráo. Đau nhất, của nả trong két sắt chìm sâu dưới lòng sông. Thuê người lặn, gần 10 ngày, chịu, coi như của đi thay người.
Tay trắng, về Hải Phòng tìm nhà cũ, người thuê nhà không trả mà còn lý sự, “Cách mạng về rồi, khác xa thời đế quốc, thực dân.” Ai ngờ ông này, Việt Minh nằm vùng, tuy là họ mạc xa, nhưng trở mặt. Thua!
Bà tôi đành lấy tình dì cháu, nói sùi bọt mép, ông ta đồng ý mua, trả giá bằng 1/2 giá thực tại. Thế là may, không trả thì làm gì ai. Bây giờ, làm bí thư đảng ủy Nhà máy Xi măng, trước kia mỗi lần từ quê ra, cho ăn cho ngủ, nay cướp nhà.
Thời thế đảo điên. Cải cách Ruộng đất đang nóng bỏng, con tố cha, vợ tố chồng, lộn tùng phèo. “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ.” Tái ông thất mã. Gia đình tôi đang là doanh nhân khá giả, đột nhiên thành vô sản, giai cấp cần lao, thành phần nòng cốt, tin cậy của cách mạng.
Tất cả vốn liếng, hoa tai dây chuyền, nhẫn vàng… của cả nhà góp lại, mua nhà trong ngõ phố Trại Cau, toàn dân tứ xứ, chả ai biết tông tích. Khai hộ khẩu, dân Sơn Tây chuyển về, nơi ấy di cư vào Nam hết, không thể mò ra nguồn gốc.
Quá khứ giấu biệt. Hai ông chú, từ con đẻ biến thành con nuôi, con rể biến thành rể hờ, cô ruột biến thành cô (con) nhận. Đổi họ, thay tên, xóa mọi dấu ấn liên quan với người “xỏ nhầm giầy, theo Tây đánh Ta.” Lý lịch sạch băng, dân nghèo thành thị, mới được học trường y, lộ chuyện, bán thuốc ê, sấu dầm, bánh bao, kéo xe bò là cái chắc. Thương gia, doanh nhân thuộc thành phần xấu, lười lao động, phải cải tạo, không cho con em chúng lọt vào các trường trung cấp, đại học, cái nôi đào tạo cán bộ cho cách mạng.
Do chính sách dở hơi này, con cháu địa chủ, tư sản, ngụy quân, ngụy quyền không phải đi bộ đội, thanh niên xung phong, trong suốt thời gian chiến tranh chống Mỹ, sợ vô Nam, hồi chánh, đầu hàng Việt Nam Cộng hòa. Con em bần cố nông, con cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức… đi bộ đội, thanh niên xung phong dài dài. Con em thành phần xấu an tâm làm cu-ly, phe phẩy -buôn bán chợ đen- chẳng sứt tí da, mất giọt máu nào! Mãi đến năm 1974, lính thiếu trầm trọng, con em trí phú địa hào, ngụy quân ngụy quyền mới “được vinh dự nhập ngũ”, nhưng con cái họ hết tuổi bắt lính, lũ cháu chắt, mũi còn thò lò, chưa đủ tuổi. Con chú thứ hai và con cô, cam phận làm cu ly bốc vếch, không bị đi bộ đội. Tuy nghèo nhưng sống khỏe re, không đui què mẻ sứt, năm 1979 theo chúng tôi, chốn đi Hong Kong, định cư London và Canada.
Nền giáo dục Vương quốc Anh nói chung, Scotland nói riêng có nhiều điểm khác biệt so với nền giáo dục Việt Nam. Nhà trường xếp lớp dựa vào lứa tuổi, không dựa vào trình độ học vấn. Tuổi nào vào lớp đấy, tránh tình trạng thằng lớn to xác ngồi chung bàn với đứa bé, gây lộn xộn, bắt nạt nhau. Việt Nam lại khác, đến nay vẫn vậy, to đầu đến đâu, trình độ lớp 4 vào lớp 4. Không vậy, trò đông 50 đến 60 đứa, làm sao dạy nổi một lớp có 5, 6 trình độ học lực khác nhau. Lớp tiểu học ở Vương quốc Anh không quá 30 học sinh/ lớp, có 2 thày cô, giáo viên chính và trợ giáo. Phương pháp giáo dục là phát triển tư duy của trẻ. Học sinh Việt Nam, máy chép bài, học vẹt, chương trình lan man, thiếu trọng tâm và thực tế. Ngoài ra còn có lò đào tạo “gà nòi” chuyên đi thi đoạt giải Olympia, lòe thiên hạ, một thứ phù hoa giả dối, trang điểm lòe loẹt, che đậy thực chất yếu kém nền giáo dục lỗI thời.
Người cộng sản Việt Nam bao giờ cũng tâm đắc với câu “Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích trăm năm trồng người” của cụ Hồ, nhưng chẳng bao giờ thực hiện. Người lãnh đạo chính phủ Vương quốc Anh, dù Công Đảng hay Đảng Bảo Thủ cầm quyền, đều có chính sách quan tâm đặc biệt về giáo dục và đào tạo, không hề có một khẩu hiệu hay băng rôn nào quảng cáo “trồng người, trồng cây” như nhà nước cộng sản, nhưng chính sách trồng người của họ quả thật tuyệt vời. Xin giới thiệu vài nét chính:
Trẻ sơ sinh đến 5 tuổi con nhà nghèo được cấp phiếu sữa tươi/bột miễn phí Trẻ mới sinh đến 16 tuổi, có Child Benefit, không kể gia đình giàu hay nghèo Tất cả trẻ em từ 5 đến 18 tuổi đi học miễn phí Cấp sách giáo khoa, vở, bút, đồ dùng học sinh, miễn phí Con nhà nghèo, bữa cơm trưa miễn phí Học sinh cấp tiểu học cấp miễn phí 250ml sữa tươi. (Năm 1987 bỏ tiêu chuẩn này.) Bậc đại học và cao đẳng, sinh viên con nhà nghèo miễn phí, được trợ cấp sinh hoạt phí tối thiểu Trẻ em từ sơ sinh đến 16 tuổi (học sinh) miễn phí tầu xe Để khuyến khích học sinh học A levels, Six form College (từ 16 đến 18) chính phủ cấp 30 bảng /tuần trợ giúp sinh hoạt Khám chữa bệnh miễn phí. Trẻ em từ sơ sinh đến dưới 16, người già trên 60 và người thất nghiệp, đi khám bệnh được cấp thuốc miễn phí. Từ năm 1993, kinh tế suy thoái, Thủ tướng Anh, John Major, cải cách chính sách giáo dục và đào tạo nhu sau:
Nâng các trường cao đẳng (Polytechnics) lên đại học (Universities). Mục đích thu hút học sinh nước ngoài du học. Học phí và điều kiện nhập học các trường này thấp hơn nhiều so với các trường đại học cũ. Để phân biệt, người ta gọi các trường cao đẳng mới nâng cấp là New Universities. Hầu hết sinh viên du học Việt Nam hiện nay theo học các trường Đại học ở Vương quốc Anh đều là trường Polytechnic cũ, lý do học phí thấp và điều kiện nhập học rất dễ dàng. Cách phân biệt hai loại trường này, xin gợi ý: Tất cả trường đại học cũ có đủ các khoa ngành trong đó có khoa y và dược. Trường New Universities không có bộ môn này. Bỏ chế độ cấp sinh hoạt phí cho sinh nghèo, sinh viên được vay ngân hàng lãi suất 0,02%. Sau khi ra trường có việc làm mới phải trả dần, số tiền rất tượng trưng theo thu nhập trong nhiều năm. Có nước cộng sản nào trên thế giới từ xưa đến hôm nay đã làm được “cách trồng người” như chính phủ Vương quốc Anh không? Tôi có thể khẳng định chắc như đinh đóng cột là KHÔNG! Và không bao giờ xảy ra nếu chế độ cộng sản còn thống trị quốc gia đó.
Sung sướng quá, con nhà nghèo, con tỵ nạn Việt Nam có đường tiến thân trên con đường học vấn. Cơ hội trong tầm tay, không được bỏ lỡ. Cấp I, tôi kèm tụi trẻ Toán, lên cấp 2 và cấp 3 (Secondary & High School) kèm cả Lý, Hoá, chính vì thế trẻ nhà tôi lực học khá hơn trẻ cùng lớp.
Vợ tôi bảo, trồng rau mà không bón phân, tưới nước, bắt sâu nhổ cỏ, làm sao mà bội thu được. Chí lý chí tình, ngoài “bón phân, tưới nước”, tôi còn phải “bắt sâu, nhổ cỏ” có nghĩa là phải cảnh giác cao độ lối sinh hoạt, giao lưu bạn bè của tụi trẻ. Cả khi chúng đã vào đại học, không sao nhãng “bắt sâu, nhổ cỏ.” Quả trên cành, sắp chín dễ bị sâu cắn, gió lớn, mưa to vẫn rụng như thường.
Sinh nhật 18 tuổi hai thằng con, chúng mời bạn bè thân cùng lớp ở đại học, đa số con em triệu phú, tỷ phú nước ngoài, trong số đó có cháu Gerrard con tỷ phú Indonesia, đi chiếc xe Jaguar thể thao mới cứng đỗ ở cửa. Chiếc xe thời điểm 1993 trị giá 65 ngàn bảng, gần bằng tiền ngôi nhà 2 buồng ngủ, tiền bảo hiểm xe 6 ngàn. Chà, chơi sang thật dữ! Con tôi bảo, bố nó thuộc Top 10 giàu nhất nước Indonesia. Gặp gỡ, tiếp xúc, mọi chuyện thấy bình thường, riêng sức khỏe hom hem, da xanh, không thể hiện sự cường tráng của tuổi “bẻ gẫy sừng trâu” như con tôi. Chắc học nhiều nên gày yếu, còn thiếu ăn làm gì có. Hỏi thằng con, nó học khá không? Cười, thường thôi. Bố mẹ nó mua căn hộ ở trung tâm London, trị giá 100 ngàn bảng từ 1990 (thời giá bây giờ là tiền triệu), có cả người giúp việc cơm bưng nước rót. Tại sao lại hom hem?
Tìm hiểu, cậu cả có bồ gái Nhật sống chung như vợ chồng mấy năm nay rồi từ khi sang London học Anh ngữ, trước khi vào đại học. Sâu đấy, phải tránh xa! Tôi khuyên thằng con và tiên đoán Gerrard sẽ lưu ban. Cuối niên khóa, quá nhiều môn thiếu điểm, anh chàng bị lưu ban, xấu hổ, đi Mỹ học.
Con gái tôi có cô bạn Ấn Độ cùng lớp, bố là bác sĩ, trường Old Palace High School for Girls, đến chơi. Tôi hỏi, con tôi bảo, nó hay nghỉ học, bà hiệu trưởng cảnh cáo nhiều lần. Tôi bảo, chấm dứt quan hệ. Kết quả, cuối năm tú tài I nó bị đuổi.
Tôi thành vị tổng tư lệnh tối cao của đàn con. Bảo không, là không, chấp hành nghiêm chỉnh, cấm cãi, cấm phản biện. Có uy lực mới dạy được con.
Tôi đã sửa rất nhiều tật xấu, trong đó bỏ hút thuốc lá từ 1984. Bố hút thuốc làm sao mà cấm con. Vừa tốn tiền, hại sức khỏe cho bản thân và cả nhà. Bỏ thuốc lá cũng gian nan, nói dễ, thực hiện khó. Tôi có ông bạn bỏ thuốc lá 10 năm, về Việt Nam 3 tháng, đến nhà thăm, ông lại phì phèo. Hỏi “Sao hút lại?”- “Hút chữa bệnh nấm da.” Hỏi thêm “Ai nói với bác”- “Mấy cậu em nhà tôi.” Bà vợ phản biện “Ông đừng đổ cho các cậu mà phải tội, ông đi bù khú lắm vào, thằng này gạ thuốc, thằng kia chê ông keo kiệt bủn xỉn không dám mua thuốc 3 số đãi, chúng nó 1 điếu, ông cũng 1 điếu, bập lại có trời can.”
Đúng thật, trời can!
Ông vẫn phì phèo, ngày 1 bao 20 điếu. Hai thằng con trai ông, hơn hẳn ông một bậc, hút cần sa và nghiền đánh bạc máy, vào trại cai nghiện vài tháng. Đời tàn, học hành dở dang, làm xảo-voọc ở cửa hàng anh rể, thỉnh thoảng chị gái dúi ít tiền chơi bạc đỡ cơn nghiền.
Khu Knightsridge có 5 gia đình, ông bà Hoóng có thằng con 16, gia đình Phan Hoa Vinh có 4 thằng con, thằng lớn 17, kết tiếp 15, 13 và 10, nhà Móng Cái, con lớn 14, kế theo 10, 7… các cháu bé học primary, hầu hết sau hai năm theo kịp trẻ địa phương. Những cháu 16 trở lên, học College, thật cố gắng và hiếu học mới vào được cao đẳng, còn không làm xảo-voọc, bồi bàn. Sau này, dành dụm mở nhà hàng, Take-away, xưởng may.
Đó là lý do vì sao sau 20 năm có nhiều nhà hàng của người Việt, xưởng may mọc lên như nấm ở Scotland, Midland, Wales, London, South England.
Nghề Nails phát triển ở Hoa Kỳ từ cuối thập niên 1980, nhập vào London năm 1995, phát triển mạnh từ 2000, thân nhân định cư bên Mỹ giúp đỡ, truyền nghề. Nghề Nails ở U.K đa số là người Việt nhập cư sau năm 1992, ngườI Hải phòng. Những gia đình nhập cư 1980, thế hệ 1 đến nay đều có tuổi; thế hệ 2 đã tốt nghiệp đại học, công việc ổn định, nếu không vào đại học cũng có nhà hàng lớn nhỏ, ít ra cũng có Take-away đủ sống.
“Quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy.” Đã nhập hội Cái Bang, bị gậy kiếm tiền nhanh nhất, hiệu quả nhất, xin chân rửa bát, phụ bếp, lao công, quét dọn… tại các cửa hàng ăn, cửa hàng đồ khô cho người Tầu. Chưa biết tiếng Quảng, người nọ giúp người kia. Phong trào học tiếng Quảng phát triển nhanh trong cộng đồng người Việt (cựu) gốc Hoa, chẳng cần ti-vi truyền hình quảng cáo, cộng đồng Hoa kiều mở lớp dạy trẻ em và người lớn ngày Chủ nhật, lớp đông, khác hẳn lớp tiếng Việt, lèo tèo dăm mống, tôi đã tham gia dạy năm 1987 ở quận Croydon, London. Nhiều gia đình không nói tiếng Việt, vì miếng cơm manh áo, quyền lợi sát sườn, đi học tiếng Quảng đã thu hút họ như thứ nam châm cực mạnh. Cộng đồng Hoa kiều Vương quốc Anh khắp các quận phát triển nhanh, thu hút người (cựu) người Việt gốc Hoa tham gia.
Tôi ra định cư 09-9-1980, đúng dịp niên học 1980-1981 khai giảng ngày 08-9-80. Ông bà Tom & Jenny Leach, hai người thày giáo Anh ngữ, bạn quý của gia đình từ 1980 cho đến nay, giúp tôi đi đúng hướng. Bà Jenny Leach bảo, sợ nhất chúng quên tiếng Việt, phải giữ bằng được ngôn ngữ dân tộc mình. Bắt chúng nói tiếng Việt với cha mẹ, nếu không, sau vài năm, tiếng Việt trở thành ngoại ngữ của nó. Hai ông bà từng là giáo viên dạy Anh ngữ nhiều năm ở Lục địa Đen, kinh nghiệm đầy mình dạy người nước ngoài.
Cám ơn Prof Jenny Leach, bà trở thành giáo sư Đại học Cambridge năm 2000, qua đời 10-2007, vì ung thư. Nhờ bà, các con tôi rất giỏi tiếng và chữ Việt, mặc dù hai thằng bé vỡ lòng là Anh ngữ.
Prof. Elsa Davenport, giáo sư trường Stevenson College, người thày và cũng là người bạn của gia đình đã giảng giải cho tôi hiểu nền giáo dục ở Vương quốc Anh, điểm khác biệt giữa hệ thống giáo dục England và Scotland, thật quý báu, giúp tôi định hướng cho đàn con. Hàng năm, sinh nhật cháu nội ngoại của tôi, bà đều gửi quà.
Trẻ bắt đầu đi học vỡ lòng, tính theo ngày sinh, cháu nào sinh từ 03-9 bị thiệt, học muộn 1 năm so với cháu sinh 30-8. England học cấp 3 (High School) 2 năm, A levels hay Six form. Scotland, cấp 3 có 1 năm (High levels), vì thế các trường đại học Scotland học 1 năm dự bị đại học. Lấy bằng cử nhân ở đại học England có 3 năm, ở Scotland 4 năm. Trong Top 10 của các trường đại học toàn Vương quốc Anh, Scotland có 2 trường, 8 trường còn lại thuộc England.
Sau ba năm, các con tôi đã theo kịp chúng bạn, riêng đứa con gái rất xuất sắc, thường được báo cáo điển hình. Bà Jenny Leach, hồI ấy là giáo viên Anh ngữ trường Dean Secondary & Hgh School, nơi mà niên học 1984-1985 con gái tôi sẽ vào. Bà nói thật, chất lượng nhà trường thấp, nếu có điều kiện cho con thi vào trường tư thục (Private School) ở Edinburgh, đỗ điểm cao sẽ được học bổng (Scholarship), bà tin con tôi sẽ vượt qua kỳ thi sát hạch nếu nộp đơn.
Khốn nỗi, từ Knightsridge đến trường Secondary & High School ở Edinburgh xa gần 30 dặm, đổi hai xe bus xanh, chuyển 2 hay 3 xe bus đỏ, gần 12 tuổi làm sao đi học một mình được. Vợ tôi đi làm, so với lĩnh trợ cấp hơn khoảng 25 bảng /tuần, trừ tiền xe, ăn trưa, hơn đúng 15 bảng. Chủ hộ, tôi vẫn phải đi ký thất nghiệp hai tuần một lần, dù chẳng được một cắc, còn mất tiền xe bus.
Tôi hỏi, họ bảo, không ký cũng được, nhưng nếu vợ mất việc, ký lại khó lắm. Đành chịu. Muốn chuyển nhà về Edinburgh hay London ít nhất phải có một hai ngàn bảng và kiếm được việc làm, không có việc chủ nhà không cho thuê. Họ không muốn dính dáng lôi thôi với sở thất nghiệp.
Mùa đông 1980, năm đầu tiên biết thế nào cái lạnh miền hàn đới. Năm ấy, theo người địa phương, rét nhất trong 10 năm qua. Gần lễ Giáng sinh, tuyết rơi dày đặc suốt ngày đêm, lò sưởi gas bật hết cỡ, trong nhà nhiệt độ lên được 25 độ C. Sáng hôm sau, mở cửa lấy chai sữa, một đống tuyết cao ngang thắt lưng đổ thẳng vào bếp. Tuyết dày gần 1 mét, đi cầu, giật nước không chảy. Hệ thống dẫn nước đóng băng, may chưa vỡ ống dẫn. Không có nước, tôi mang xô ra cửa xúc tuyết, đun lấy nước ăn uống, rửa mặt, đổ cầu tiêu. Tuyết tan ra, thế mà thật bẩn, đáy nồi đầy cặn. Đêm ấy, nhiệt độ âm 30 độ C.
Theo dự báo thời tiết, rét còn kéo dài, vùng cao đề phòng bão tuyết. Trong khi đó nhiệt độ London ban đêm -10, ngày -3 đến -5 độ C, không có tuyết.
Sướng chưa!
Hệ thống giao công cộng tê liệt, không xe bus, không tầu hỏa. Trường học, công sở, đóng cửa. Xe không chằng xích vào lốp không thể đi được, bánh xe cứ xoay tít trong tuyết. Tôi hà hơi nhiều lần vào cửa kính, đá dính cửa mới tan, lau kỹ nhiều lần mới nhìn thấy ngoài trời. Tuyết vẫn rơi tầm tã. Cả không gian chìm trong tuyết trắng, nhà trắng, đường trắng và vắng lặng. Buồn thúi ruột. Thỉnh thoảng một vài đứa trẻ, quần áo kín mít, tay mang tất, nắm từng vốc tuyết ném nhau. Nhìn mà lo, mùa đông nào cũng thế này, tính sao đây.
Hồi ở Việt Nam, thấy tuyết trên phim ảnh sao mà đẹp thế. Những bông tuyết trắng xóa, lả tả rơi trong không gian, trong phim, lính Nga còn tắm tuyết. Cởi trần trùng trục, vốc từng đống tuyết trắng, xoa xoa vào người, da ửng đỏ. Xem phim, tôi thấy tuyết thật đẹp, chắc không quá lạnh. Ao ước được du học hay du lịch, chỉ một lần thôi được hứng từng bông tuyết trắng muốt lả tả rơi nhẹ lên bàn tay mình. Giờ đây, tuyết đang rơi tầm tã, rét kinh hoàng, tê tái, thê thảm.
Nghệ thuật và đời thực khoảng cách thật xa.
Tết Nguyên đán 1983, thật bất ngờ, vợ chồng Phan Hoa Vinh báo tin, gia đình Sinh dọn về Bathgate, anh ta cho cả địa chỉ và số điện thoại. Cuối tuần, ra telephone box gọi điện hỏi thăm, mời đến chơi.
Nhà hai tầng, 3 buồng ngủ, đẹp, khang trang.
Hơn một năm gặp lại, anh Sinh nói hết sự thật.
Cả 4 gia đình Knightsridge làm chui trong các nhà hàng Take-away của Tầu từ cuối năm 1980, gia đình anh bị bà Smith dòm ngó nhiều quá. Nếu tiếp tục làm, sợ bà bẩm báo, đành về thuê nhà “David chó” ở tạm, ấy thế cũng mất hơn 6 tháng. “Nhà này, tay chủ Take-away ở Bathgate xin cho đấy. Lão Vinh, tay Dzùng, thằng Chí con bà Hoóng đều làm ở Bathgate, muốn làm không, xin cho. Cửa hàng bây giờ đông khách, cần người phụ làm với mình. Yên tâm đi, một đêm 12 bảng. Thế nào?”
Cô vợ anh Sinh nhanh miệng, bảo, kiếm chút đỉnh, chứ thật thà như ông bà, con cái khổ, chẳng ai khen. “Thật thà ăn cháo, bố láo ăn cơm.” Bà đi làm, có lĩnh thất nghiệp đâu mà sợ, ông đi học. Học quái gì mà lâu thế. Bây giờ tiền trên hết. Tôi bảo, “Khổ nỗi, càng học càng thấy dốt, anh hỏi đi, tay Mằn Phúng -Văn Phong- nhận, Thứ Bẩy tôi đi làm với anh, tôi chả biết khỉ gì đâu.” “Yên tâm đi, anh em giúp nhau, có khó gì đâu. Công việc tả chạp, làm hành, làm gà… chỉ là biết liền mà.”
Từ đó, Thứ Bẩy, đón xe bus xanh đi Bathgate từ 3 giờ chiều, có hôm gần 1 giờ sáng Chủ Nhật mới hết khách. Chủ tiện đường đưa về nhà. Như vậy Take-away của Văn Phong có 3 thằng chúng tôi ở Knightsridge, anh Sinh bếp trưởng, anh Phan Hoa Vinh phụ xào và tôi phụ phẹt. Ba thằng tỵ nạn vui như Tết, vừa làm vừa tán dóc. Tính ra nó trả có 0.80 bảng/giờ. Bọn Hong Kong mắng, chúng mày ngu, trả thấp thế mà cũng làm, hại cả chúng tao. Biết làm sao, tôi mỗi tuần làm có 1 buổi, kiếm 12 bảng ky cóp dần để chạy về London.
Năm 1983, Phan Hoa Vinh lên tay nghề, sang cửa hàng khác làm bếp trưởng, tôi phụ xào, vợ tôi cũng tham gia thay chân phụ phẹt.
Trẻ con 3 đứa, ở nhà một mình. Vừa làm vừa lo ngay ngáy, mỗi khi có chuông điện thoại ở cửa hàng là giật thót. Khách mỗi ngày một đông, tôi và nhà tôi tuần 2 buổi thứ Bẩy và Chủ nhật, tính ra, một tuần kiếm được 50 bảng bỏ hòm dành cho cuộc di chuyển về London.
Giữa năm 1983, chú Thinh viết thư, nói có bạn quen ở London rủ về, “chúng em về trước, có gì anh chị về sau.” OK. Hai tháng sau, thư Thịnh viết, “Em thuê được nhà, tháng 30 bảng/buồng. Kiếm được việc làm xưởng bánh mỳ. Anh chị có định chuyển, xuống chúng em thăm thú.” Tuyệt rồi! Phải đi chứ.
Sau lễ Giáng sinh, tôi xuống thăm cô chú. Hai vợ chồng hai đứa con, lớn 5, bé 2 tuổi, thuê một buồng đôi. Tôi đến, may thằng chủ cho ngủ phòng khách. Đêm làm ngày nghỉ, chú bảo, thế mới có thời gian xin nhà, xin trợ giúp tiền nhà, vì lương thấp, chú dẫn tôi tìm nhà thuê.
Đa số đòi đặt tiền cọc tối thiểu 1000 bảng. Tiền đâu ra.
Trong tay cả hai vợ chồng hòm hòm gần ngàn, đặt cọc còn thiếu, tiền thuê van chở đồ, tiền ăn, tiền nhà hàng tuần lấy đâu ra. Cô Linh, vợ chú Thịnh bảo, “Chúng em cho vay tiền đặt cọc.” Cô chú thật chân tình, tôi không dám lợi dụng. Tôi bảo “Thôi, khi nào chú xin được nhà, tôi thế buồng chú thuê, bây giờ cố làm thêm, dành tiền.” Thế cũng được.
Năm 1983, con gái tôi, tỵ nạn Việt Nam, mới vào học 3 năm, không những theo kịp bạn bè mà còn học giỏi, xuất sắc mọi môn, nhất lớp, thường xuyên báo cáo điển hình. Chúng tôi mừng quá. Tay Văn Phong, chủ cửa hàng, có thằng con trai 15 tuổi đang học tư thục ở Edinburgh, xem report của nhà trường, bảo, sẽ giúp đưa con tôi đi học, nếu thi đỗ. Cộng đồng người Hoa rất đoàn kết và tận tình giúp nhau nơi đất khách. Cảm ơn tấm lòng thiện tình, nhưng không thể nào nhờ vả 7 năm học, chúng tôi phải đi bằng chính đôi chân của mình.
Bà Ruth Chenney, phu nhân Peter Chenney, nhạc công vĩ cầm, tốt nghiệp Học viện Âm nhạc Áo,. Năm 1976, sau khi bị tai nạn xe hơi, bà làm gia sư môn vĩ cầm và dương cầm. Năm 1982, ở Ladywell có người bán chiếc dương cầm cũ, 45 bảng. Tôi hỏi về việc học nhạc, bà bảo con anh chị học thì tôi lấy nửa học phí.
Bà thân chinh đến kiểm tra chất lượng đàn, thuê xe chở về. Hàng tuần con tôi đến nhà bà học, sau 3 tháng thi Grade I đỗ hạng ưu (distinction), đó là thứ hoa lá trang trí cho đời thêm xanh, học hết grade 8, cũng là lúc hết A levels, không vào viện âm nhạc, học ngành y, nối nghề cha mẹ.
Từ khi ra định cư, ông bà Tom & Jenny giúp tôi tìm mọi cách được trở lại nghề nghiệp. Anh ngữ chưa đủ, bằng cấp của Việt Nam, nhất là ở miền Bắc không được các nước công nhận, phải làm lại từ đầu. Tuổi đã ngoại tứ tuần, đào tạo 5 năm, quá tốn kém. Tôi hiểu, mặc dù thư của Hội Y học UK trả lời động viên. Kiếm nghề khác thôi. Về London, gặp rất nhiều bác sĩ phía Nam cũng phải bỏ nghề, dù Anh ngữ rất giỏi.
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 18:22:06 GMT 9
Chương 13: Kỷ niệm ở rừng Posted: 09/04/2013 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh
Một sáng Chủ Nhật chúng tôi đi chợ trời Bathgate, rẽ vào thăm vợ chồng Sinh. Gặp vợ chồng Phú -chị gái và anh rể Sinh đến chơi. Chúng tôi biết nhau từ dạo ở Wishaw. Sau vài câu chào hỏi xã giao, anh chị khoe sắp chuyển về London.
Tôi chưa hiểu mô tê gì, bởi vì gia đình anh được định cư ngay Wishaw. Không những thế còn sát trung tâm. Vợ anh làm thợ may một xưởng gần nhà. Thật lý tưởng, chúng tôi mơ cũng chẳng được. Sao lại chuyển?
Anh Phú bảo “Rất nhiều gia đình đã chuyển về London, chỉ có các anh không biết.” Tôi hỏi “Về London nhà đâu mà ở.”- “Xì, đúng là ngố. Vào hostel, sau đó xin nhà council hay đập nhà.” – “Lại còn thế nữa. Đập nhà?” – “Ừ, đập nhà chứ sao. Cứ chọn nhà nào của council, không có người ở, đập cửa kính, chui vào, mở cửa trước dọn tất cả đồ đạc. Thế là xong.”
Nghe Phú nói sao dễ vậy. Tôi hỏi:
– Không bị truy tố à?
– Có. Ra tòa bị phạt 25 bảng, rồi nhà nước cho ở luôn.
– Thật không?
– Sao không thật, dối làm gì. Tụi tôi đang rủ vợ chồng Sinh đây. Có muốn chuyển không?
– Anh chị nói như chuyện đùa, làm sao vào được hostel.
– London có vài chục hostel đang ế khách, người đi trước giúp người đi sau, chỉ cần báo trước một tuần nó chuẩn bị ngay. Hostel này chật, nó giới thiệu sang cái khác. Thiếu giống gì.
Vợ chồng S. cười “Chúng mình ở đây chả biết mô tê gì. Gia đình Hùng, gia đình Đức, gia đình Liên ở Trại Thỏ chạy về tháng trước rồi. Có thư gửi đây.”
Phú đưa tôi xem. Chịu không hiểu trời trăng, mô tê gì.
Anh chị Phú đưa cho xem giấy buồng thuê hostel, gồm 7 giường đơn vì gia đình bẩy người, bố mẹ già, 3 con nhỏ, tiền thuê 150 bảng/tuần. “Tiền ai trả?”- “Đã bảo Sở Xã hội trả mà.” –“Sao mỗi người một giường?”- “Ô hay, nhà trọ mỗi người một giường, có phải khách sạn đâu.”
Tôi vẫn chưa hiểu, hỏi thêm:
– Thế giường chiếu, tủ lạnh, máy giặt, bếp… của mình để đâu?
– Có kho để tạm, khi nào ra nhà riêng chuyển đi.
– Không nấu nướng gì?
– Làm gì có bếp. Mua thức ăn bán sẵn, rẻ mà. Cố chịu một thời gian, có nhà riêng tính sau. Các ông đúng là dân Mán, dân “Cơm đồ nhà gác…” chả hiểu gì hết.
Tất cả những gì anh chị Phú cho biết ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tôi Mán Mường thật. Mán là phải. Tôi đã từng ở trong làng bản với người dân tộc địa phương Hoà Bình khá lâu.
Hai lần sơ tán, gần 5 năm trong núi cao rừng thẳm, làm sao mà chẳng Mường, Mán, nơi mà dân gian có câu: “Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới”.
Phong tục tập quán của người Mường như thế nào, xin kể sơ qua.
Sau khi nộp hồ sơ và từ chối “thiện tình của đồng chí phó bí thư Đảng ủy”, tôi được cô nhân viên trong phòng tổ chức hành chính đưa đến tá túc một gia đình người dân địa phương trong thời gian chờ bệnh viện làm xong lán trại.
Đó là căn nhà sàn của người Mường, khá rộng, lẩn trong bìa rừng. Ngày họ đi sơ tán vào rừng sâu, dựng lều ở tạm, gọi là “Truộn”, lặn mặt trời mới về. Thời bấy giờ miền xuôi còn nghèo huống chi cuộc sống của người nông dân miền núi vùng sâu vùng xa.
Dân ở đây rất nghèo, nghèo lắm. Tháng ba, ngày tám năm nào cũng đói. Họ lũ lượt kéo vào nhau rừng đào củ mài, củ vớn, củ nâu ăn thay cơm. Củ mài rất khó tìm, đào được một gốc dăm ki-lô, cả nhà đỡ đói vài hôm. Củ mài ngon, đông dược gọi là hoài sơn. Củ vớn, củ nâu chát xít, gọt vỏ, nạo nhỏ, ngâm nước một hai ngày cho đỡ chát, đem đồ chin. Chát và khó nuốt nhưng còn hơn bụng đói.
Người Mường xóm Thá nơi bệnh viện tôi sơ tán thời bấy giờ vẫn còn mang nhiều tập tục hái lượm. Năm nào cũng đói, nhưng họ lại không trồng khoai sắn và cũng không trồng rau hay bầu bí để cải thiện đời sống dù đồi hoang rất nhiều.
Phụ nữ Mường ra khỏi nhà, bao giờ lưng cũng đeo “chỏ” -còn gọi là gùi- đeo “màm” -giỏ bắt cua- bên hông. Gặp bất cứ rau rừng, măng, mộc nhĩ, nấm… ăn được đều hái cho vào gùi. Cua đá, cá, ếch, nhái, ốc suối… bắt được bỏ vào “màm” hay “chỏ”, đem về làm “canh.”
Bữa ăn gồm cơm, canh. Canh là món ăn như thịt, cá, rau, đậu.. thậm chí còn có món canh hổ lốn nấu bằng tất cả thứ rau hái được cùng với cua, cá, ốc… trên đường lên nương, đi củi hay làm ruộng mà họ lấy được.
Một lần tôi đem cơm tập thể về, đúng bữa cơm chiều của gia đình mế Bảo. Gia chủ, mời ngồi ăn chung. Nể quá đành mang cạp-lồng đựng suất cơm góp mâm. Mế gắp miếng măng cho vào bát của tôi. Trông thật ngon lành. Cắn vào. Chao ôi, đắng hơn ký ninh! Nuốt không nổi. Lúng búng mãi, tôi đành lấy khăn mùi-xoa vờ lau mồm, nhè ra gói lại đút túi.
Tôi hỏi:
– Măng gì thế, mế?
Mế cười:
– Măng đành hanh, tuy đắng, ăn bổ và mát lắm.
Mát hay bổ cũng chịu, đắng quá. Tất cả các loại mướp đắng, hoa đu đủ đực tôi hàng vô điều kiện.
Nhà sàn người Mường nơi nào cũng giống nhau. Khác là khác sàn nhà và vách xung quanh làm bằng gỗ hay bương tre nứa.
Cột nhà thường bằng gỗ rừng. Ngâm suối từ sáu tháng đến một năm để tránh mối mọt. Chân cột kê đá. Gầm sàn cao hơn đầu người. Nhà có hai cửa lên xuống. Cửa chính cho đàn ông và cho khách. Cửa sau dành cho phụ nữ lên xuống bếp, ra sạp phơi quần áo.
Nhà giàu, cột bằng gỗ tứ thiết -trai, sến, táu, nghiến- vách và sàn bằng gỗ, ba gian hai chái. Nhà nghèo một gian hai chái, vách nứa, sàn bương. Gian giữa bếp lửa bập bùng giữ lửa ngày đêm hoặc có chiếc đèn dầu mà tim bấc vặn thật nhỏ. Đêm khuya, ai cựa mình hay đi đâu đều nghe tiếng cọt kẹt của sàn.
Dưới gầm sàn buộc trâu bò, để chuồng gà, chuồng gia súc và chứa củi khô. Đó là nhà kho tổng hợp.
Nhà khá giả, có tấm phản gỗ to bằng chiếc giường đôi đặt lên sàn sát cửa vóng để tiếp khách. Xung quanh có cửa vóng -cửa sổ. Cửa này chỉ dành cho chủ nhà là đàn ông ngồi nhìn ra ngoài. Còn vợ, con gái và con rể không được ngồi sát cửa vóng. Đêm trải chiếu lên sàn thành giường ngủ. Vợ chồng có buồng riêng ở sát cửa sau, ngăn cách bằng tấm liếp.
Nằm trên sàn, có khi nằm ngay trên lưng trâu, mùi hôi và tiếng thở phì phò dưới lưng, tìm chỗ khác thật khó. Vì không được nằm chắn ngang lối đi.
Được hai tuần, một đêm khuya tôi đang ngon giấc. Đột nhiên vang tiếng thanh la, tiếng mõ gõ liên hồi. Choàng tỉnh. Tôi hỏi cậu Bảo con gia chủ:
– Gì thế Bảo?
– Cọp về bản.
Tiếng thanh la, tiếng mõ đuổi cọp bên trại nuôi trâu bò xóm Thá vẫn vang lên liên hồi. Cả nhà tỉnh. Lửa bếp bùng sáng. Cửa trước cửa sau, cửa vóng buộc chặt, cài thêm then.
Mế Bảo chìa lưng cho tôi xem một vệt sẹo dài gần 20 cm, sâu hoắm. Mế nói:
– Cọp cào đấy.
Mế kể, lâu lắm rồi, đêm ấy cọp về bản. Hồi ấy mới đôi mươi, mế ngủ say. Cọp về bản vào tận nhà, dưới gầm sàn mà không ai biết. Cọp luồn móng qua khe sàn bương, cào qua chiếu vào lưng. Mế mất hẳn mảng thịt dài, đắp thuốc hàng tháng mới lành. Mế bảo “Mỗi lần động rừng, cọp về bản bắt trâu bò, lợn thường xuyên.”
Mế tiếp “Trước kia ở đây nhiều cọp lắm. Từ khi chính phủ làm đường 12B năm 1960, cọp sợ tiếng mìn phá đá, chạy sâu trong rừng. Bây giờ ít rồi.”
Nghe chuyện kể mà tôi thót tim, dựng tóc gáy. Từ đấy, đêm đêm tôi không dám đi đâu một mình.
Một lần, từ thị xã về bệnh viện sơ tán trong rừng. Đang đẩy xe đạp lên dốc Cun, gần đến đỉnh dốc nhìn thấy cửa rừng có biển thông báo nước sơn còn tươi, “Có cọp xuất hôm qua ở khu này. Bà con đi đường lưu ý.”
Sợ quá, tôi vội lên xe cố leo dốc. Tới đỉnh, thở không ra hơi. Trời lại nhập nhoạng tối, tôi đành ngủ nhờ anh bạn ở Hạt Giao Thông.
Thế mà hơn năm năm sống trong rừng tôi chưa gặp cọp, báo, gấu bao giờ. Mấy năm sau, sống trong rừng quen, tôi dám vác súng hai nòng, theo người địa phương đi săn đêm.
Nhà sàn có nhiều tiện lợi:
– Sàn nhà bằng bương hay gỗ, ban đêm giải chiếu, thành giường.
– Tránh được thú dữ, trăn, rắn… bò vào.
– Gầm sàn thành chuồng trâu bò, lợn gà, chứa củi… Một loại kho tổng hợp mà chủ nhân có thể theo dõi quản lý dễ dàng.
– Tất cả đất cát, bụi bặm, rác trên sàn… quét ngay qua khe, đẩy xuống gầm sàn khỏi phải hốt.
Nhà sàn người Mán -Dao- khác người Mường. Người Dao ở vùng cao hơn, sống du canh du cư, nay đây mai đó, nên nhà làm sơ sài, không kiên cố.
Nhà người Thái ở Mai Châu to rộng hơn nhà người Mường. Mái tranh lợp rất dầy, 30 cm trở lên. Người Thái có hai sắc tộc: Thái Trắng và Thái Đen. Không phải vì khác nhau màu da mà khác nhau chút ít về họa tiết hoa văn váy áo nên chia ra như vậy. Người Thái Trắng ở Sơn La, Điện Biên. Thái Đen ở Mai Châu, Hòa Bình.
Văn hóa Hoà Bình nổi tiếng với điệu múa xòe. Múa Xòe nguồn gốc của người Thái. Quan lang người Mường Đinh Công Huy lập đội con gái học múa xòe của Thái rồi cải biên, dịp lễ Tết và có khách đội xòe nhà lang múa góp vui.
Người H’Mông -Mèo- ở hai xã Hang Kia và Pa-Cò ở huyện Mai Châu. Nhà người Mèo là nhà đất, rất rộng. Mỗi thung lũng có một xóm -bản- gồm dăm nhà.
Nhà đất rất to, vách xung quanh là ván bằng gỗ lát hoa, lát chun, đẽo bằng rìu chứ không xẻ ghép lại, dưới to trên nhỏ hình nón như lều ngưòi Da Đỏ châu Mỹ. Nhà không có cửa sổ, có một cửa ra vào, trong nhà không có giường hay phản. Cột nhà bằng gỗ sến, táu, trai, lim… toàn gỗ quý hiếm, trăm năm cũng không mối mọt. Lợn, gà, bò… thả rông, chúng lẩn quẩn quanh sân. Thấy người, chúng ùa theo đòi ăn, đuổi cật lực mới có lối vào nhà.
Trong nhà tối om, mờ mịt khói bếp. Sau vài phút, quen bóng tối mới nhìn thấy rõ. Giữa nhà, bếp lửa bập bùng ngày đêm. Trên bếp có giàn rộng để phơi ngô bắp, hong thịt. Món thịt sấy khô này là món đặc sản của người H’Mông, khách quý mới lấyra đãi. Thịt khô nấu xong, gắp bỏ mồm, mùi ám khói nồng nặc, mùi thum thủm của thịt thối tiết ra, ói muốn chết. Ngày ấy người H’Mông được phép trồng cây thuốc phiện -cây anh túc- để sử dụng và bán thuốc phiện cho chính phủ. Ngô xay là món ăn chính hàng ngày. Ngô xay đồ chín gọi là mèn mén, ăn với thịt sấy và cây anh túc non làm rau. Người H’Mông ăn nhạt. Thiếu muối, họ đốt cỏ gianh, dùng thay muối vì tro cỏ gianh hơi mằn mặn.
Nhà nào cũng vài ang to -20 đến 50 lít- chứa nhựa thuốc phiện sống. Mỗi gia đình trồng vài héc-ta nương thuốc phiện trên nương rẫy. Hầu hết ông già H’Mông nghiện thuốc phiện. Có người dậy từ 3, 4 giờ sáng, hút 30 đến 40 điếu mới đã cơn thì đã là 9 hay 10 giờ sáng. Đàn ông săn bắn. Đàn bà, thanh niên lên nương làm rẫy trồng ngô hay cạo mủ quả thuốc phiện. Váy áo đều tự dệt, tự nhuộm và cắt, khâu thêu lấy.
Thời ấy, miền Bắc có hai khu tự trị, Tây Bắc và Việt Bắc. Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà có chính sách ưu đãi người dân tộc, đặc biệt người Dao, Mông, thanh niên không phải đi bộ đội. Họ được trồng và hút thuốc phiện. Chỉ cần cai thuốc là được vào Đảng. Phải chăng nhà nước ưu đãi để người H’Mông Việt Nam không theo người H’Mông Lào do tướng Vàng Pao làm thủ lãnh, ngay sát biên giới Việt-Lào? Hiện nay tướng Vàng Pao định cư ở Hoa Kỳ.
Con trai H’Mông thổi khèn trong ngày hội. Giai điệu khèn cứ í lên ộ xuống, trầm bổng cao thấp như đường về bản lên đèo xuống dốc. Đàn ông mặc quần đen rộng ống, thắt dây rừng, áo hở rốn, tay áo vân hoa từng vòng từ khuỷu xuống cổ tay. Rượu ngô uống bát, không biết say. Gái H’Mông dậy thì khá sớm, mười bốn, mười lăm má đã ửng hồng, như trái đào rừng chín, mắt sắc như dao, thổi khèn lá, khèn môi tìm bạn tình mỗi khi xuống chợ phiên.
Nhà nước thu mua thuốc phiện để chế tạo thuốc cho ngành y tế. Lái xe, con buôn vào bản mua chui. Dân bản bán xong, đi tắt đường mòn qua dẫy núi đá đến huyện còn nhanh hơn xe ô tô đi đường quốc lộ, báo công an huyện bắt để lĩnh thưởng. Do bị chỉ điểm, hơn 90% con buôn và lái xe bị công an Mai Châu tóm gọn. Nhẹ tù chung thân, nặng dựa cột. Buôn thuốc phiện lãi quá lớn, mua 50 đồng/kg tại bản -thời điểm 1971. Về Hà Nội giá 2500 đồng/kg, biết chết vẫn ham.
Năm 1968 và 1971 đoàn chúng tôi đã đến khám sức khoẻ cho dân bản ở hai xã Hang Kia và Pa Cò. Hồi ấy đường vào bản rất khó khăn. Đào rừng và cây anh túc đầy hai bên đồi. Bây giờ, du khách khắp nơi đổ về. Con gái H’Mông nói tiếng Anh như gió, sử dụng điện thoại thuộc hàng độc. Trong xã xuất hiện nhiều trẻ da trắng, mắt xanh mũi lõ, tóc vàng như trong các bản ở Sa Pa theo phóng sự báo VietNamNet đưa tin.
Thời xưa, dân địa phương không có giầy dép thường đi chân đất. Khách đến nhà người Mường, trước khi lên cầu thang phải rửa chân. Gáo đựng nước bằng đoạn nứa con cưa ngắn, cán tre dài. Mỗi lần múc nước, khách khua thành ang kêu lanh canh như báo cho chủ nhà biết có khách. Chân sạch bùn đất, khách bước theo từng hòn đá sạch dẫn đường đến cầu thang cửa nhà.
Nhà mế Bảo chỉ có hai mẹ con. Cậu con trai khoảng 17 tuổi, nhanh nhẹn, vui tính. Ngày hai mẹ con vào “truộn” trốn máy bay Mỹ, đêm mới về nấu ăn, cho trâu, lợn gà ăn.
Lần đầu tiên tôi tắm suối. Con suối khá rộng ngay sát bài rừng. Nước không sâu chỉ ngang ngực, trong vắt, nhìn rõ cá bơi tung tăng, từng hòn đá to nhỏ dưới đáy.
Xin được mở đóng ngoặc nói thêm. Suối thường có con tấc -một loài vắt cực nhỏ- như sợi long bò, bám trong rêu đá. Ai vô tình vốc nước rửa mặt có nó, con tấc nhanh chân chui vào mũi, làm tổ bám ngay xương cuốn, hút máu để sống. Mỗi năm, khoa Tai Mũi Họng bệnh viện tôi gắp được vài con trong hốc mũi bệnh nhân. Có con gắp ra to bằng đỉa hẹ rất nguy hiểm.
Tìm được bụi khá kín đáo, nhìn trước nhìn sau không có ai, cời quần áo xuống tắm. Nước mát rượi, quên hết chuyện bực mình với lão phó bí thư. Từ xa tiếng líu lo, cười đùa của sơn nữ từ lối mòn ven rừng vọng xuống. Ngửng nhìn, bốn cô gái trẻ, váy áo Mường, đi lên đầu suối, cách tôi chừng 5 hay 6 mét rồi lội dần xuống. Nước đến đâu các cô nâng váy cao đến đó, rồi buộc túm lại, đội lên đầu, ngâm mình xuống dòng suối trong.
Tôi ngượng quá. Lần đầu tiên trong đời gặp sơn nữ tắm khỏa thân ngay trước mặt. Các cô thật vô tư, coi như chẳng có chuyện gì. Còn tôi vô tư sao được. Đối với người thày thuốc, ai cũng học giải phẫu cơ thể người, hàng ngày tiếp xúc với bệnh nhân, có gì là bí mật đâu. Nhưng đây là những cô gái tuổi trăng tròn. Tất cả ngồn ngộn một tòa thiên nhiên trước mặt, làm sao mà không cảm xúc. Tôi vội trườn dần xuống phía dưới về phía bụi kín, nơi để quần áo. Không dám thay, mặc cả quần ướt đi về.
Bước ra đường cái, đã thấy ngay bốn cô đi về phía tôi. Cả bốn cô tươi cười, líu lo tiếng Mường, trong như chim hót. Thấy tôi ngơ ngác, chẳng hiểu. Bốn cô cười rũ rượi, một cô nói tiếng Kinh:
– Chào cán bộ, cán bộ mới về công tác phải không?
Đi chậm lại, chờ, tôi hỏi:
– Chào các cô. Sao các cô biết tôi mới về?
Bốn cô lại ôm nhau cười:
– Chúng em biết hết các cán bộ ở đây mà.
– Các cô đi đâu đấy?
– Chúng em họp dân quân về.
Tối hôm ấy, trăng sáng vằng vặc, tôi ra kho hợp tác, nơi “đóng quân” của các gia đình bệnh viện. Ngồi xuống bực thềm, nghe hát đối đáp của trai gái bản. Tiếng hát vang giữa đêm thanh vắng dội vào vách đá, như tiếng vọng của núi rừng.
Ti no, mả vọi mả vang Chan đap phái đà, chan quang phái day Thung thang nhu chung en đay, Chang đap phái đà, chang day nao quang
(Đi đâu mà vội mà vàng, Chân đạp phải đá, chân quàng phải dây, Thủng thẳng như chúng em đây, Chẳng đạp phải đá, chẳng dây nào quàng.)
Dân ca Mường
Chẳng hiểu gì, tôi vẫn ngồi đến khuya. Sáng hôm sau, chi Dục, y tá có tuổi, bảo “Cả đêm, mấy cô tỏ lời với chú, chú có hiểu không?” Hiểu sao được, các cô hát tiếng Mường, chịu. Tình sơn nữ trong sáng như thế đó. Thích ai, tỏ tình đến nơi đến chốn, chẳng vòng vo, hết ngoại thành vào phố cổ c ác cô gái Hà Thành vẫn lặng thinh.
Hễ anh cán bộ nào tán tỉnh, dính vào. Hôm sau khoe cả xóm, chạy đằng trời. Cô nào cũng thích cán bộ, người xuôi. Con trai Mường, Mán thích con gái xuôi, hỏi “Tại sao thích?” bảo “Đít nó có gân!”
Con gái xuôi mặc quần lót, đôi khi thấy rõ. À ra thế!
Mỗi gia đình người Mường đều có một dụng cụ để đồ cơm, đồ xôi, bằng gỗ thân cây mềm, khoét rỗng ruột, đáy có vỉ tre, đổ gạo không lọt, phía dưới đẽo thắt một chút, tạo dáng, nẹp tre vòng quanh hai đầu để khỏi nứt. Chõ đồ, gọi là cốp, nồi đáy bằng đồng thau, gọi là viềng. Ngày xưa nấu cơm họ đồ, không nấu như ngày nay, sợ nhão hay khô.
Người ta làm nhà cách xa suối để tránh mùa lũ, không có thùng gánh, họ cắt từng đoạn bương, dài 4 đến 5 đốt, đục xuyên ruột, một đầu cắt vát, làm ống lấy nước. Nước đầy, vác về đổ vào ang hay vại to.
Giỗ Tết, mổ lợn, họ không cạo long ho ặc cạo nhưng vẫn đốt lửa thui như thui chó. Món dồi tiết họ cho thêm đỗ xanh, như dồi chó ở miền xuôi.
Người Mường tính ngày âm lùi một ngày so với lịch âm miền xuôi. Đêm 30, giao thừa, họ bảo là 29. Nhưng họ vẫn cúng giao thừa và ngày mồng 1 Tết nhưng ười Kinh. Lý do vì sao, tôi chịu không biết.
Có phải ngày xưa người Mường có lịch riêng, nay đã thất truyền? Còn tháng tới (sớm 1 tháng) tôi không thấy làng bản nào thực hiện.
Câu ca “Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui tháng tới” là như vậy.
Trở lại chuyện vợ chồng Phú. Hostel theo đúng nghĩa là thứ nhà trọ rẻ tiền, mạt hạng, dành cho những người nghèo lỡ độ đường. Khách du lịch không ai bước chân tới.
Không biết ai làm “quân sư” vạch đường đã giúp tỵ nạn Việt Nam vào tạm trú các hostel này. Chủ hostel tính đầu người, chứ không tính theo phòng. Nhà 7 người, kê 7 giường một, n ăm người kê năm giường…. Vải trải giường, gối đệm cũ rích, hôi mù, chẳng ai dám sử dụng, lấy của nhà ra dùng. Quần áo, chăn màn hàng tuần đem ra tiệm tự giặt.
Một hostel ít nhất cũng chứa được 40 chục người lớn bé, già trẻ. Tất cả “khách trọ” đem thẻ ký thất nghiệp -U40- trình báo. Chủ hostel sẽ giúp điền form, chỉ nơi đến ký tiền thất nghiệp và nộp form xin tiền trợ cấp.
Chuyện tưởng như rất phức tạp thế mà lại thật dễ dàng bởi chính sách của nhà nước Anh hồi ấy ưu đãi người thất nghiệp, kẻ vô gia cư.
Cái bất tiện ở hostel ai cũng giấu biệt. Đó là sự lộn xộn, xô bồ của một đám đông tứ xứ, vô tổ chức. Chủ hostel chỉ biết thu tiền, còn chuyện trật tự trị an mặc chúng mày tự quản. Chính vì lẽ đó, thư từ, séc (cheque) trợ cấp gửi, thường bị kẻ xấu lấy cắp, kiện cáo cãi nhau loạn xạ.
Phòng ở như nhà hoang, ra vào dễ dàng y như các trại tỵ nạn Hong Kong. Mất đồ có giời tìm. Bởi vì hầu hết người sống trong hostel có người quen ở ngoài. Đồ ăn cắp gửi nhà bạn, ma biết.
Vì thế, phòng ở chẳng có gì đáng giá ngoài chiếc ti vi màu, máy thu thanh cát-sét, còn tiền và đồ trang sức giấu kỹ.
Tôi gọi điện hỏi, chú Thịnh xác nhận, thông tin của Phú đúng 100%. Dân tỵ nạn Việt nam ở Port Glasgow, Glasgow và các vùng phụ cận chạy về London từ năm 1983. Đa số vào hostel “tránh bão.” ChúThịnh bảo “Tiện mà không tiện. Hay mà không hay. Chán ở trại, bây giờ lại chui vào “trại tỵ nạn” lần nữa. Chịu sao thấu, con cái học hành ra sao. Bạn em, dân Hà Nội, trước ở gần nhà, cũng chạy về, đi làm báo thuế, thuê nhà riêng, được council giúp một phần tiền nhà, đang đợi list, khoảng 6 tháng, lâu nhất 1 năm sẽ được phân nhà.”
“Ắn cỗ đi trước, lội nước đi sau.” Vợ chồng Sinh chưa đi. Chờ xem tình hình anh chị Phú xuống hostel ra sao và xem tôi chuyển về theo hướng của Thịnh như thế nào. Hàng tuần, bỏ túi 120 bảng, vẫn lĩnh tiền trợ cấp, nhà cửa đàng hoàng, vừa mua xe hơi, tuy second hand nhưng trông còn khá lắm, máy chạy ngon ơ. Tại sao phải rủ nhau chui vào hostel xô bồ, lộn xộn hay phải đi làm báo thuế, è cổ đóng tiền nhà?
Tháng 4-1984, truyền hình BBC1 phát chương trình về người tỵ nạn Việt Nam sống trong các hostel ở London, lộn xộn, bẩn thỉu, so sánh với người tỵ nạn ở Mỹ cuộc sống khá ổn định. Khu Tiểu Sài Gòn nhiều siêu thị ra đời, làm ăn phát đạt.
Xem mà thấy ớn cuộc sống ở hostel.
Khi về London gặp những người sống trong hostel, họ vui như Tết, đâu có như phóng viên BBC đưa tin. Hàng tuần lĩnh trợ cấp, ngày làm chui ở các xưởng may, ví mỗi ngày một căng, đói mua Chinese Take-away, fish & chips, khát có Coca, Pepsi, Lager, vừa ăn vừa xem film Hong Kong, Đài Loan. Đời vui phơi phới. Con cái đi học hả? Lo gì. Chỗ nào mà chả có trường. Trường nào cũng giống nhau. Học gì lắm. Làm vương làm tướng gì ở đất này. Lĩnh trợ cấp, làm chui sướng chán. Mai kia có tiền mở xưởng may, nhà hàng. Tiền là Tiên là Phật. Có tiền có tất tần tật.
Số người đập nhà cũng khá nhiều. Đa số gia đình có bố mẹ già, đông con nhỏ mới đủ gan. Hỏi một ông, có thâm niên đập nhà, cho chính ông và hai người bạn. Sau 25, ông cười, bảo:
– Hồi ấy em ở Liverpool. Thằng bạn rủ xuống London cho ở nhờ, tìm nhà council nào bỏ hoang thi đập. Vợ chồng em đưa hai đứa bé xuống trước, đứa lớn ở lại với ông bà. Thằng bạn chỉ điểm. Đêm, kiếm hòn gạch, em choang luôn cửa sổ phòng khách. Vợ con em thuê taxi, dọn va-ly, túi xách vào ở. Hôm sau, thằng bạn gọi thợ chữa kính, thay khóa cửa, dắt lên sở xã hội xin ký thất nghiệp, khai địa chỉ nhà đập. Cụ em vẫn ở Liverpool, đề phòng khi bị đuổi, còn có chỗ về. Hơn tháng sau em phải ra tòa, bị phạt 25 bảng. Tòa cho ở vì không thể đuổi con em ra ngoài đường. Tuần sau, đón cụ xuống, bỏ luôn Liverpool.
Tôi hỏi:
– Sao anh lại đập 2 cái nữa làm gì?
– Ấy, một thằng bạn cũng ở Liverpool, xuống nhờ. Nó sợ, em đập giúp nó. Thế là xong.
– Không sợ ra tòa à?
– Ai biết mà tố cáo. Có tố chăng nữa em chối biến. Hồi ấy, dễ ợt. Gặp anh chị, chắc em dám đập nhà hộ. Ít người đi làm và thuê nhà như anh chị. Vừa tốn kém và chờ nhà council rất lâu.
Chuyện người Việt tỵ nạn khắp nơi chuyển vào hostel và đập nhà là lý do có thể trả lời vì sao ở London có nhiều quận rất đông gia đình người Việt. Bởi vì hostel đa số ở quanh khu đó, hội đồng quận giải quyết nhà càng sớm càng đỡ gánh nặng chi trả cho hostel.
Cuối tháng 5-1984, Chú Thịnh báo tin “Được council cấp nhà, anh chị xuống gấp.”
Ngày 16-6-1984, gia đình tôi chuyển về quận Croydon, South East London, thuê lại buồng cũ của chú Thịnh.
Cuộc đời chúng tôi sang trang mới sau hơn 4 năm 2 tháng ở Scoltland.
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2020 8:28:04 GMT 9
NGƯỜI TÙ THUỘC PHÁI ĐẸP Bút Ký TÔI PHẢI SỐNG Tác giả Linh mục NGUYỄN HỮU LỄ CHƯƠNG 10: SỐNG LÂU LÊN LÃO LÀNG
Có một lần rất đặc biệt, tôi được hân hạnh tiếp xúc với một người tù thuộc phái đẹp! Chiều tối hôm đó, cán bộ đưa một người đàn bà vào buồng trống ở cạnh buồng tôi để “gửi” nhờ qua đêm. Khi cán bộ đi xuống rồi, tôi gọi qua hỏi thăm và biết đó là em gái của anh Dương Văn Lợi, là bạn tù của tôi ở trại này và được tha về năm 1980. Sau khi về, anh Lợi tổ chức cướp chiếc máy bay trực thăng của Bộ Chính Trị ngay tại phi trường Nội Bài ở Hà Nội và bay qua Trung Quốc vào năm 1981, cả nhà anh ở Hà Nội bị vạ lây. Người em gái của anh Lợi bị bắt và trên đường bị đưa tới một trại giam nào đó, phải dừng chân qua đêm tại Thanh Cẩm.
Khi biết tôi là bạn anh Dương Văn Lợi, chị mừng và vui vẻ kể lại câu chuyện liên quan tới việc cướp trực thăng của nhóm anh Dương Văn Lợi. Khi gần tới giờ tắt điện đi ngủ, chị gọi sang hỏi tôi với vẻ e lệ ngượng ngùng, làm ơn bảo chị cách thức xử dụng hai cái ống bẩu trong buồng! Tôi cảm thông vô cùng với tâm trạng người đàn bà khi buộc lòng phải hỏi một người đàn ông xa lạ về chuyện tế nhị này.
Tôi đoán là một mình trong buồng bên, chị cũng đã xoay xở hết cách nhưng không thành công với loại nhà cầu đặc biệt với hai cái ống bẩu bằng tre! Tôi gọi sang tận tình hướng dẫn, nhưng không biết kết quả ra sao. Thực ra loại nhà cầu bằng hai ống bẩu này được “vẽ kiểu” chỉ phù hợp cho giới mày râu mà thôi. Sáng hôm sau, vị khách quý thuộc phái đẹp này được đưa đi rất sớm. Kể từ đó, khu kỷ luật Thanh Cẩm chúng tôi không còn được hân hạnh đón tiếp khách vãng lai thuộc phái đẹp nữa
|
|
|
Post by Can Tho on May 19, 2020 3:27:06 GMT 9
Vũ Uyên Giang cứu phi công Lý Tống bị giam trong trại Aran Jail Thái LanMay 17, 2020 www.nguoi-viet.com/cuu-chien-binh/quan-bao-vu-uyen-giang-cuu-phi-cong-ly-tong-bi-giam-trong-trai-aran-jail-thai-lan/Ông Nguyễn Quang Vinh, tức Vũ Uyên Giang, tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ ở Westminster, California, năm 2015. (Hình: Văn Lan/Người Việt) Văn Lan/Người Việt ATLANTA, Georgia (NV) – Vũ Uyên Giang tức Nguyễn Quang Vinh, cựu ký giả tại Sài Gòn nhưng rồi ông xin gia nhập vào ngành Quân Báo sau khi tốt nghiệp Khóa 6/68 Thủ Đức. Tháng Sáu, 1972, tại chiến trường Tây Ninh, ông Vinh bị thương ở quận Khiêm Hanh. Năm 1973 ông xin giải ngũ, cấp bậc cuối cùng là trung úy.
Sau ngày mất nước năm 1975, ông Vinh phải đi “trình diện” và được cấp giấy miễn đi “học tập cải tạo” vì đã giải ngũ năm 1973, nên ở nhà. Nhưng sau đó ông lại bị bắt vì lý do là “chuẩn úy cố vấn nhân dân tự vệ” trong khu cư xá Ngân Hàng Quốc Gia Nhà Bè.
Trốn tù “cải tạo,” vượt biển, làm việc tại Tòa Đại Sứ Mỹ trên đất Thái
Ông bị đưa vào trại Thành Ông Năm, Hóc Môn, chuyển sang trại T3 vì khai là sĩ quan văn thư. “Việt Cộng gọi quân bưu, tức người đưa thư,” ông nói và kể ông ở đó đến cuối năm 1975 thì bị đưa ra đảo Phú Quốc. Khi quân Cambodia đánh vô đảo, ông lại bị đưa vào đất liền, nhốt ở trại Long Giao.
Đầu năm 1981 ông Vinh bị giam ở trại Suối Máu. Lợi dụng đêm tối, ông chui qua ống cống từ nhà bếp ra tới ngoài mương, đón xe lam từ Biên Hòa về Sài Gòn. Cũng may ông gặp được người tài xế tốt bụng là lính VNCH chở về.
Sau đó ông làm họa sĩ trong Xưởng Phim Tổng Hợp Thành Phố, được vài tháng sau thì bị lộ tung tích, ông phải thay đổi chỗ ở liên tục cho đến khi vượt biên.
Chuyến đi từ Cà Mau ông bị chủ ghe lừa mất sạch tiền và bị hải tặc tấn công ba lần nữa, cướp sạch trên biển không còn gì. Rồi may mắn ông cũng đến được Thái Lan, chuyển vào trại Songkhla.
“Ngay lập tức, tôi viết thư cho sếp của mình là ông Walter McIntosh, Đệ Tam Tham Vụ tại Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok, và được đem về làm sĩ quan an ninh tại đó, với nhiệm vụ thanh lọc người trong các trại tị nạn được phép đi định cư ở các nước. Từ đây có nhiều việc phải làm, ghi lại nhiều kỷ niệm nhất trong đời khi tôi đã làm việc đúng với lương tâm và nghề nghiệp của mình để giúp những người tị nạn được mau chóng đi định cư,” ông Vinh kể.
Thư của ông Lê Văn Tống, tức Lý Tống, gửi cho ông Nguyễn Quang Vinh từ trại Galang, Indonesia, 1983. (Hình: Nguyễn Quang Vinh cung cấp) Cứu phi công Lý Tống bị giam
Từ năm 1980-1983 có nhiều trại tị nạn được lập ra trên đất Thái Lan để tập trung khoảng 300,000 người Việt vượt biển hoặc vượt thoát bằng đường bộ trốn chạy Cộng Sản, nếu tính cả người tị nạn Lào và Cambodia thì con số này còn cao hơn nhiều.
Là viên chức thuộc Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Bangkok, Thái Lan, ông Vinh, tên Mỹ là Victor, năm 1982 được lệnh đến vùng biên giới quận lỵ Aran Prathet, thuộc tỉnh Prachin Buri nằm về phía Đông Bắc Thái Lan. Tại đây, nhiệm vụ của ông là thanh lọc một số bộ đội Việt Cộng mới bị bắt trong các trận đánh với quân đội Thái, hoặc lực lượng Việt Cộng đào ngũ bỏ đơn vị trốn sang Thái Lan, hay bị bắt ngoài chiến trường khi đánh vào Cambodia. Tất cả đều bị giữ trong nhà giam của đơn vị 506 Tình Báo Biên Giới thuộc Quân Đội Hoàng Gia Thái Lan do Đại Tá Tong Den làm chỉ huy trưởng. Tại đây ông Vinh làm việc chung với sếp Larry, người ở Bangkok, và Thomy.
Thomy tên thật là Thạch Thom, người Việt gốc Cambodia, cựu đại úy phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I VNCH ở Đà Nẵng. Sau năm 1975, ông Thomy cũng bị đi tù “cải tạo” một thời gian dài. Sau khi ra tù, ông Thomy vượt biên tìm tự do qua ngã Cambodia năm 1980. Khi tới Thái Lan, ông Thomy được làm việc tại văn phòng của đơn vị 506 cho đến khi gặp ông Vinh năm 1982.
Có lần ông Thomy hỏi ông Vinh có biết một trung úy phi công VNCH hiện đang bị giam trong trại Aran Jail, không được tiếp xúc với bất cứ ai khoảng chín tháng nay, vì người Thái cho rằng trung úy phi công là gián điệp cho Cộng Sản Việt Nam nên biệt giam ở khu đặc biệt, bị “đeo kiềng” (cùm chân trong vòng có đeo một cục sắt rất nặng) 24 trên 24 giờ.
Ông Thomy cho biết người phi công này trong hồ sơ lý lịch chỉ vỏn vẹn có tên, cấp bậc nhưng không có số quân. Kết quả sưu tra từ Washington gửi về báo rằng “Trong Quân Lực VNCH và Không Quân VNCH không có ông đại úy nào tên Lý Tống mà không có số quân.”
“Tôi xem qua Bản Cung Từ Tù Binh do đơn vị 506 thiết lập, dịch sang tiếng Anh thì thấy quả đúng như vậy, có bút phê bằng tiếng Thái của Đại Tá Tong Den. Tôi suy nghĩ bằng mọi cách phải cứu người này, qua sự quen biết với nhiều sếp lớn của mình ở Bangkok mới được,” ông Vinh cho hay.
Thư tri ân của ông Lý Tống gửi cho ông Nguyễn Quang Vinh khi ở trại Phanom Samet, Thái Lan. (Hình: Nguyễn Quang Vinh cung cấp) Lúc đó đa số bộ đội Việt Cộng bỏ ngũ bị giam ở trại đều thuộc thành phần con em miền Nam có cha anh bị tù “cải tạo.” Sau 1975 khi bị bắt đi nghĩa vụ quân sự, sang đến vùng biên giới Thái-Miên, các bộ đội này đã đào ngũ xin tị nạn ở Thái với hy vọng sẽ được các nước tự do cho định cư.
“Trong việc thanh lọc bộ đội, sau khi thẩm vấn Hạ Sĩ Bùi Văn Tranh, thuộc đơn vị súng cối 82 ly của Sư Đoàn 5 Việt Cộng (công trường 5) trú đóng tại Sisophon, tôi nhờ anh ta mang về trại giam một lá thư căn dặn thật kỹ là phải đưa tận tay Lý Tống, yêu cầu Tống viết một bản lý lịch đầy đủ chi tiết, xong giao lại cho Tranh chuyển lại cho tôi, nhất là phải tuyệt đối giữ kín không để người Thái biết tôi đang tìm cách cứu Tống,” ông Vinh kể.
“Hôm sau tôi nhận được thư của Lý Tống nhờ Tranh bí mật mang ra, với bản lý lịch đầy đủ của Tống. Cẩn thận hơn nữa, tôi nhờ các sếp lớn của tôi tại Tòa Đại Sứ Mỹ tại Bangkok, cả vị tướng chỉ huy trưởng Quân Báo Thái Lan can thiệp xuống trại 506 của Đại Tá Tong Den để xin một hình chụp của Lý Tống. Đích thân tôi cầm tấm hình này đến các trại tị nạn Sikiew, Phanat Nikhom để hỏi, nơi có những bạn học thời học sinh, hoặc nhiều quân nhân VNCH vượt biên ở trong trại tị nạn, hoặc bạn cùng tù, cùng khóa Không Quân học bên Mỹ. Mọi người đều xác nhận Lý Tống chính là Lê Văn Tống, trung úy phi công hoa tiêu A.37 trong Không Quân VNCH,” ông Vinh kể thêm.
Ông Vinh thở phào nhẹ nhõm nói: “Tất cả hồ sơ lý lịch của Lý Tống được hoàn tất với chứng từ của các nhân chứng, gửi qua văn phòng Di Trú Bangkok, cơ quan JVA, Bộ Tư Lệnh Quân Đội Thái, Đơn Vị 309 Quân Báo Thái. Coi như đi gần tới đích rồi.”
Khi về tới Bangkok, ông Vinh nhận được bản kết quả sưu tra từ Washington cho thấy lý lịch Lê Văn Tống đúng 100%. Nhưng một chuyện phức tạp khác lại xảy ra. “Thay vì chuyển Lý Tống qua trại Phanat Nikhom để làm thủ tục định cư như lời hứa, Đại Tá Tong Den lại tráo đổi giấy tờ và đưa Lý Tống qua trại Phnom Samet thuộc quyền kiểm soát của quân kháng chiến Miên, định mượn tay họ giết Tống, vì với tính bướng bỉnh, cứng đầu như Tống rất dễ bị những người kháng chiến Miên sát hại,” ông Vinh nhớ lại.
“Tôi gọi điện thoại khắp nơi để khiếu nại về trường hợp của Tống, về sự vô kỷ luật của Đại Tá Tong Den, nhưng chẳng ai quan tâm, phần lúc đó tôi bận bù đầu suốt ngày để phỏng vấn và thanh lọc người đi theo chương trình ODP và con lai, mỗi ngày khoảng 300 hồ sơ. Càng lúc càng lo lắng bồn chồn thấp thỏm không yên cho trường hợp của Tống,” ông Vinh nói.
Ông Vinh kể tiếp: “Giữa Tháng Hai, 1983, khi đang ăn sáng để chuẩn bị đi làm, tôi đã nhảy nhỏm người lên khi đọc bài viết trên tờ Bangkok Post, với tựa đề ‘Vietnamese Refugee Flees To Singapore the Hard Way’ của Barry Wain. Bài này được đăng trên tờ The Asian Wall Street Journal và tờ Bangkok Post đăng lại.”
“Bài báo như có luồng điện làm tê cứng cả người, nỗi mừng vui choáng ngợp khiến tôi vụng về luống cuống, vội gọi điện thoại thông báo cho mấy người cùng làm trong Tòa Đại Sứ mà tôi đã từng kể cho họ nghe về Tống trong thời gian ở trại Aran Prathet, đồng thời viết vài dòng báo tin cho các bạn của Tống còn ở trại Sikiew biết tin,” ông Vinh hào hứng kể lại.
Ông Nguyễn Quang Vinh (giữa) làm việc tại trại tị nạn Sikiew Thái Lan, 1983. (Hình: Nguyễn Quang Vinh cung cấp) Sau này ông Vũ Uyên Giang, tức Nguyễn Quang Vinh, mới biết nguyên nhân là vì: “Lý Tống khi vào trại Aran Jail thuộc đơn vị 506 trên đất Thái, được một thượng sĩ đến phỏng vấn, Lý Tống không chịu, đòi phải được gặp giới chức thẩm quyền cao hơn, và đích thân Đại Tá Tong Den đã đến phỏng vấn. Ông ta là người quen thói hống hách, đập bàn quát tháo vì có vài điểm nghi ngờ trong lời khai, và Lý Tống cũng nổi nóng không chịu hợp tác, hai người cãi nhau khiến Tong Den để tâm thù ghét, từ đó ông đã giấu tung tích Lý Tống, không cho ai tiếp xúc.”
Cuối cùng khi bị giao qua trại Phanom Samet, ông Lý Tống lại trốn trại, vượt biên tìm tự do lần nữa, và đã bơi qua eo biển Johor Strait để vào được Singapore an toàn, đúng như tờ Bangkok Post đã tường thuật.
“Tôi rất vui mừng khi nghe tin một người bạn sơ giao nhưng tưởng chừng như tri kỷ, đã trở thành người tị nạn đường bộ có cuộc hành trình bằng chân dài nhất, vượt qua hơn 2,500 cây số, vượt ngục ba nhà giam và bơi qua eo biển để vào Singapore. Tôi tin rằng con người như Tống chắc chắn sẽ không nằm yên chịu thúc thủ trong những vòng rào thép gai của trại Phanom Samet,” ông Vinh nói.
“Cuối Tháng Sáu, 1983, tôi nhận được thư của Tống viết từ đảo Galang, Indonesia, trên một tờ giấy màu xanh, ở mặt kia có bài thơ ‘YOUR KINDNESS’ mà Tống viết tặng tôi trong đêm chia tay ở trại Aran Prathet. Những dòng chữ quen thuộc của Tống khơi lại trong tôi những kỷ niệm lãng đãng ở vùng đất nắng cháy khô cằn, với tình thân của một người đồng hương, một bạn tù, một tình huynh đệ chi binh. Tất cả phải chăng là cái duyên với nhau trên phần đời lưu lạc xứ người!” ông Vinh bồi hồi cảm xúc.
Đập tan “Kế Hoạch Ba Bước” theo chân người đi xuất cảnh của Cộng Sản
Tại Việt Nam khi chương trình xuất cảnh theo diện H.O hoặc O.D.P (Ra Đi Có Trật Tự) được xúc tiến theo thứ tự, ông Vũ Uyên Giang đang làm việc tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan, với nhiệm vụ thanh lọc hồ sơ cá nhân, ông có cơ hội điều tra một số hồ sơ được Việt Cộng bố trí cài người.
Mục đích của Việt Cộng là cài người ra hải ngoại hoạt động trong những chương trình O.D.P, con lai, hoặc thuyền nhân, bộ nhân… theo “Kế Hoạch Ba Bước” với khẩu hiệu “Đánh Mỹ Ngay Trong Lòng Nước Mỹ” và đã có những trường hợp bị phát giác trong lúc phỏng vấn, nhưng cũng có thể có những trường hợp lọt lưới.
“Kế Hoạch Ba Bước” của Cộng Sản gồm có: 1/Gây dựng cơ sở bằng nhiều hình thức: móc nối, tuyên truyền, dụ dỗ, hăm dọa… bằng mọi cách để các đối tượng mắc mồi chấp nhận hoạt động cho Cộng Sản. 2/Huấn luyện và đào tạo các đối tượng về tình báo do trường đảng phụ trách, người thường học ba tháng và đảng viên, đoàn viên Thanh Niên Cộng Sản học sáu tháng. 3/Cài cắm, điều lắng, xâm nhập, và hoạt động.
-Trường hợp 1: Trịnh Văn Kim, trung úy Việt Cộng vượt biển bằng thuyền. Cuối năm 1981, trại tị nạn Sikiew trên đất Thái có ngôi trường trung tiểu học Our School (Trường Của Chúng Ta) từ lớp 1 đến lớp 9, dạy đủ các môn Toán, Lý Hóa, Khoa Học, Văn Chương, Anh, Pháp văn căn bản, để khi đi định cư, các em có thể học tiếp mà không bị dở dang, bỡ ngỡ.
Thuyền nhân Trịnh Văn Kim đi vượt biển cùng vợ và hai con. Con gái Kim học lớp 1 trường này, trong một lần nghịch phá, bị cô giáo phạt khẻ tay. Thay vì ôn tồn giải quyết một cách nhẹ nhàng, ông Kim lại chạy đến trường hung hăng mắng nhiếc cô giáo thậm tệ. Trong lúc nóng giận, ông ta đã nói “Chúng mày đừng tưởng sang đây mà không ai làm gì được chúng mày!”
“Chính vì câu nói này mà đương sự bị lộ tung tích, khi ban an ninh của trại đã báo cáo lên cấp trên ở Bangkok. Bằng nghiệp vụ chuyên môn, chỉ vài ngày sau khi chúng tôi đến điều tra, phát giác ra Kim là trung úy Việt Cộng giả danh là người vượt biển tìm tự do. Trên thuyền còn có hai người cùng đồng bọn với Kim khai giả là người được Kim cho đi theo mà không lấy tiền. Tuy Kim đã khôn ngoan tạo dựng kịch bản rất khéo nhưng đều không qua được cuộc điều tra. Trịnh Văn Kim, trung úy Trạm Hải Quan Cảng Nhà Rồng Sài Gòn, được bố trí vượt biển theo Nghị Quyết 42/Trung Ương Đảng theo ‘Kế Hoạch Ba Bước,’ cài người vào các nước tự do để chờ thời cơ hành động,” ông kể.
-Trường hợp 2: Nguyễn Minh Hiếu, y sĩ trung úy Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, chương trình O.D.P do vợ bảo lãnh đi Mỹ. Nguyễn Minh Hiếu làm việc tại Bệnh Viện 3 Dã Chiến Sài Gòn, đã bị móc nối gài ra nước ngoài trong “Kế Hoạch Ba Bước.” Sau khi vòng vo khai không đúng sự thật, phải xin khai lại khi bị phát giác, với lời khuyên phải thay đổi số điện thoại khi đến định cư ở Mỹ do vợ bảo lãnh, cũng không xuất đầu lộ diện ở những nơi công cộng và chuyển địa chỉ nhà đi nơi khác để khỏi bị phiền phức.
-Trường hợp 3: Nguyễn Xuân Bằng, cán binh Việt Cộng vượt biển bằng thuyền. Giữa Tháng Mười Một, 1981, chiếc ghe của Đoàn Văn Sáng, chủ nhiệm Hợp Tác Xã Mây Tre Quận 4, chở hơn 20 người công nhân cập vào miền Nam Thái Lan, quận Hua Sai, tỉnh Nakhon Si Thammarat, được chuyển lên Trại Songkhla. Tất cả mọi người đều khai được ông Sáng cho đi không lấy tiền, trong đó có Nguyễn Xuân Bằng, khai là giáo dân Công Giáo, là giao liên trong vụ án nhà thờ Vinh Sơn tại Sài Gòn nên được chấp thuận cho đi Mỹ.
“Nếu Bằng cứ sống yên như vậy chờ đúng ngày giờ đi định cư ở Mỹ, thì mọi việc sẽ êm xuôi, nhưng anh ta đã viết một bức thư gửi về người chú, báo tin hồ sơ đã được chấp thuận, chờ ngày đi định cư, nhân đó y xin ông chú gửi qua cho một ‘Đôi Dép Màu Trắng.’ Chính đó là điểm tự tố cáo và sau khi điều tra lại, y chính là cán binh Việt Cộng do ông chú là Tỉnh Ủy Viên tỉnh Thái Bình sắp xếp cài vào để đi Mỹ theo ‘Kế Hoạch Ba Bước.’ ‘Đôi Dép Màu Trắng’ chính là mật mã để ông chú gửi số điện thoại cho Bằng để liên lạc với người của tổ chức khi vào đất Mỹ,” ông Vinh cho biết.
Sang Mỹ trở lại nghề báo
Kể về quãng đời của mình, người chiến sĩ Quân Báo Nguyễn Quang Vinh năm xưa cho hay, thời gian qua mau, mới đó mà đã gần nửa thế kỷ, khi người Việt đã bỏ xứ ra đi tìm tự do nơi xứ người. Có người đã quyết chí học hành, làm việc cật lực để đóng góp cho quê hương mới, nhưng cũng có những thành phần được cài vào, mong chờ thời cơ để hoạt động cho quyền lợi của mình.
“Ngồi kể những chuyện về ông Ba Mai (xem lại nhật báo Người Việt số ra ngày Chủ Nhật, 10 Tháng Năm), tôi cũng không khỏi ngậm ngùi thương cho một bậc tiền bối rất chân thật và toàn tâm hợp tác với an ninh của VNCH, khai hết tất cả những gì ông biết mà không giấu giếm quanh co… Chính vì thế ông đã được cải danh thành người Hồi Chánh Viên, có cơ hội hợp tác trong phái đoàn Hòa Đàm Paris của chính phủ VNCH. Xin thắp nén hương lòng để tưởng niệm người cán bộ trung cấp hoạt động lâu năm trong hàng ngũ Cộng Sản, khi thức tỉnh quay về với chính nghĩa quốc gia đã hoạt động tận tụy trong chức năng được giao phó. Đến khi bị bắt trong lao tù Cộng Sản ông vẫn kiên quyết sống kiêu hùng, không khuất phục,” ông Vinh xúc động nói.
Ông Nguyễn Quang Vinh (thứ hai, trái, hàng đầu) cầm biểu ngữ biểu tình trước Tòa Bạch Ốc đòi nhân quyền cho Việt Nam, 1986. (Hình: Nguyễn Quang Vinh cung cấp)
Quân Báo Vũ Uyên Giang tên thật là Nguyễn Quang Vinh, cựu ký giả ở Sài Gòn (1966-1968).
Sĩ Quan Trừ Bị Quân Lực VNCH phục vụ trong ngành Quân Báo (1968-1973). www.nguoi-viet.com/cuu-chien-binh/quan-bao-vu-uyen-giang-va-nhung-tran-danh-can-nao/
Nhân viên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn (1973-1975).
Tù nhân trong các trại “cải tạo” của Cộng Sản (1975-1981).
Vượt biển tìm tự do, đến Thái Lan năm 1981, trở thành nhân viên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Bangkok, Thái Lan.
Sang Mỹ, ông học trường Đại Học Cộng Đồng Wilbur Wright College, Chicago, Illinois (1983-1986).
Học xong, ông trở lại nghề báo, làm chủ bút Chicago Việt Báo (1986-1987), chủ nhiệm/chủ bút Nguyệt San Thời Việt Chicago (1987-1992).
Tiếp theo ông làm chủ nhiệm/chủ bút Tạp Chí Đất Sống tại Charlotte, North Carolina và San Leandro, California (1993-2007), chủ trương Nhà Xuất Bản Đất Sống 2006.
Tháng Bảy, 2007, ông về hưu. (Văn Lan) [qd]
|
|
|
Post by Can Tho on May 31, 2020 3:20:43 GMT 9
Để tưởng nhớ ông Alcoh Wong - Vị ân nhân của Thuyền Nhân Việt Nam www.viendongdaily.com/de-tuong-nho-ong-alcoh-wong-vi-an-nhan-cua-thuyen-nhan-viet-JFuvcYec.htmlChân dung Ông Alcoh Wong tại mộ phần của ông. (Hình: Trùng Dương) Bài NGỌC ÂN “Ngày 30 tháng 5, 2020 năm nay là sang năm thứ 15 ông Alcoh Wong rời xa chúng ta. Xin hãy giúp phổ biến những câu chuyện của Thuyền Nhân Việt Nam (Vietnamese Boat People - VBP) là cách nhớ đến ông Alcoh một cách ý nghĩa nhất.”
Từ Kuala Lumpur, Malaysia, Bà Quả Phụ Alcoh Wong gởi mẩu nhắn tin ngắn gọn nhưng đầy tiếc thương và xúc động đến nhóm Bidong Family chúng tôi, những cựu thuyền nhân Việt Nam qui tụ từ Bắc Mỹ, Âu Châu, Úc Châu, và cả Việt Nam, từng có may mắn gặp Bà Alcoh Wong năm 2017, nhân một chuyến về thăm lại những nơi trước đây từng là các Trại Tị Nạn ở Đông Nam Á, và đặc biệt đến viếng các Nghĩa Trang Thuyền Nhân Việt Nam dọc theo bờ biển phía Đông của Bán Đảo Mã Lai Á , theo “Sách Hướng Dẫn đến các Nghĩa Trang Thuyền Nhân Việt Nam” (The Guidebook of the Graveyards of the Vietnamese Boat People (VBP) Along the East Coast of Malaysia thingyula” được Ông Alcoh Wong soạn theo tài liệu của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc UNHCR, Hội Hồng Nguyệt Mã Lai Á MRCS, và tài liệu của chính Ông trong suốt gần 20 năm, 1978 tới 1995, tự tay ông chôn cất và lập mộ cho Thuyền Nhân Việt Nam.
Ông Alcoh Wong mất khoảng hai tháng sau khi cuốn Guidebook quí giá của ông được phát hành năm 2006. (Hình Ngọc Ân cung cấp)
Ông mất chỉ hai tháng sau khi sách Guidebook quí giá của ông được xuất bản vào tháng 3 năm 2006. Không còn Ông, tài liệu quí báu trên (trong đó Ông ghi lại từng tên Thuyền Nhân, ngày mất, địa điểm chôn cất, trên con thuyền vượt biên mang số mấy, nếu có giấy tờ trên xác thì mộ được ghi rõ họ tên, ngày sanh, và cả đặc điểm trên xác, lý do tử vong, hầu hết là chết chìm ngoài cửa biển Mã Lai) chìm vào quên lãng, không ai biết đến cuốn sách Ông đã bỏ hết tâm huyết, cả tài chánh cá nhân, chỉ mong đoàn tụ những ngôi mộ thuyền nhân đau thương đến với than nhân của họ.
Sau khi gặp Bà Wong năm 2017 tại Terengganu, nơi có những ngôi mộ tập thể lớn nhất của Thuyền Nhân Việt Nam, chúng tôi có dịp phổ biến sách trên các phương tiện truyền thanh, truyền hình, báo chí, website, cũng như được đưa tận tay đến các vị Dân Cử và Thống Đốc của Tiểu Bang California, khi Nghị Sĩ Tiểu Bang Janet Nguyễn đệ trình Dự Luật SB 895, sau đó được ký thành luật, Hành Trình Tìm Tự Do của Người Việt Tị Nạn phải được đưa vào sách Giáo Khoa của các trường học taị California.
Xác một con tàu sắt nằm trên bãi cát tại trại tị nạn Pulau Bidong 2016.
Ông Alcoh Wong bên cạnh một ngôi mộ tập thể.
Một trang trong hồ sơ ghi chép của ông Alcoh Wong mà một người bạn của ông còn giữ được trước khi in sách.
Mười-lăm năm sau khi vị Ân Nhân của Thuyền Nhân Việt Nam ra đi, tình cờ chúng tôi tìm được bài viết cuả Ký Giả Nhiếp Ảnh Kwong Wah Yit Poh, cô là người Úc gốc Hoa, viết để Tưởng Nhớ Ông Alcoh Wong, tháng 7 năm 2006, chỉ hai tháng sau khi Ông mất.
Dưới đây là bài viết của Kwong Wah Yit Poh:
“Để Tưởng Nhớ Alcoh Wong
“Chúng tôi đang ngồi nhâm nhi cà phê ở một quán cà phê và trà teh & kopi Tarik ở Chinatown thuộc tỉnh bang Terengganu, Malaysia, thì một người đàn ông lớn tuổi đến hỏi chuyện, và bắt đầu giải thích cho chúng tôi nghe về lịch sử của địa phương, từng con phố, từng cửa tiệm đã được thành lập ra sao. Ông nói một cách thật nhã nhặn, điềm đạm, đầy khiêm tốn, nhưng cũng thật hãnh diện về Terengganu, càng vui hơn khi biết chúng tôi là du khách từ quốc gia khác đến.
“Quả thật, tôi có thể thấy qua câu chuyện, ông là người đầy kiến thức, uyên bác, nhưng lại không ngại mất thì giờ cho đám du khách chúng tôi (bao gồm cả hai đứa nhỏ con của người bạn trong nhóm.) Ông cảm ơn chúng tôi nhều lần đã chịu khó ngồi nghe chuyện của ông và mảnh đất và những người đã thành lập ra phố Tàu Terengganu. Ông cho biết tên ông là Alcoh Wong, thuộc Hiệp Hội Người Hoa tại tỉnh bang Terengganu, Ông cũng cho biết ông dành nhiều giờ để nghiên cứu về nguồn gốc của người Hoa đi tìm tự do, đến sinh sống, lập nghiệp ở đất Mã Lai, cũng như Thuyền Nhân Việt Nam - Vietnamese Boat People VBP, và BP (Bidong People - những em nhỏ sinh ra trong tại tị nạn Pulau Bidong, thuộc tỉnh bang Terengganu)
“Tôi hết sức kinh ngạc và vui mừng tột độ, vì trước đó hai năm, tôi đã từng nhìn thấy xác của một con tầu trong một lần đi lặn ở vùng biển thuộc Terengganu, tuy rất muốn khám phá nguyên nhân và xuất xứ của con tầu, không ngờ trong dịp tình cờ này lại được có câu trả lời cho những gì tôi thắc mắc. Từ kinh ngạc, đến cảm phục lòng nhân ái của Ông Alcoh Wong. Ông giúp những cựu thuyền nhân Việt Nam tìm lại dấu tích, mộ phần của người thân của họ tử nạn khi vượt biển tìm tự do. Ông kể laị một cách ngậm ngùi nhưng đầy sống động về những chuyến đi tìm mộ phần này, đến nỗi tôi có cảm tưởng như đang được đi theo cuộc hành trình tìm lại quá khứ đầy gian nan, từ lục tìm hồ sơ khai tử từ các nhà thương dọc theo những nơi từng có người tị nạn Việt Nam trôi dạt vào, hồ sơ lưu của những cơ quan quốc tế như Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, Hội Hồng Nguyệt Mã Lai Á (tức Hội Hồng Thập Tự,) đặc biệt nhất là hồ sơ chôn cất thuyền nhân Việt Nam của Hiệp Hội Người Hoa Terengganu, do chính ông ghi chú và lưu giữ trong suốt gần 20 năm, từ 1978 đến 1990, gần 500 mộ phần tại các nghĩa trang dọc theo bờ biển phía đông của bán đảo Mã Lai Á, có những mộ cá nhân, có những mộ tập thể, hầu hết là được chôn cất trong những nghĩa trang của người Hoa.
“Chúng tôi chia tay trong sự lưu luyến chưa từng có trong cuộc đời, dù cả ông lẫn tôi không hề có mối liên quan cá nhân nào với thuyền nhân Việt Nam! Ông cho địa chỉ liên lạc, hào hứng nói về cuốn sách hướng dẫn đến các nghĩa trang có mộ Thuyền Nhân Việt Nam, cuốn sách ông tự bỏ tài chánh riêng ra để in ấn, phát hành, như một tài liệu hiếm hoi mà qua đó, ông hy vọng một ngày tất cả những ngôi mộ thuyền nhân đó được thân nhân, đồng bào của họ biết đến, chăm sóc, giữ gìn, như một phần quan trọng, nhân chứng cuả cuộc hành trình tìm tự do của người Việt Tị Nạn.
“Tháng 7 năm 2006 chúng tôi trở lại, không ngờ đã quá trễ, ông ra đi ngày 30 tháng 5, 2006, chỉ 2 tháng sau khi quyển sách ông ấp ủ được xuất bản. Ngồi viết những dòng này tưởng nhớ đến ông Alcoh Wong, dù chỉ một lần gặp, lòng nhân ái, vị tha, giúp người không một chút tư lợi của ông mãi mãi ở lại trong tôi.”
*
Ghi chú: từ 1975 tới 1990, trại tị nạn Pulau Bidong thuộc tỉnh bang Terengganu, Malaysia, đã đón nhận 252,390 thuyền nhân Việt Nam đến tạm trú trước khi được tái định cư ở đẹ tam quốc gia.Tấm bia ghi khắc công đức của Ông Alcoh Wong. (Hình: Trùng Dương)
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 7, 2020 17:34:42 GMT 9
Hứa Thiện Hùng, chiến sĩ Quân Lực VNCH, hai sắc lính một màu cờwww.nguoi-viet.com/cuu-chien-binh/hua-thien-hung-chien-si-quan-luc-vnch-hai-sac-linh-mot-mau-co/Phi công Hứa Thiện Hùng (trái) trong lễ mãn khóa “Gắn Cánh” tốt nghiệp tại Trường Phi Hành Keesler AFB, San Antonio, Texas, bên cạnh là bạn cùng khóa và thầy huấn luyện John Hackerman cùng phu nhân. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại) Văn Lan/Người Việt ANAHEIM, California (NV) – Đầu năm 1965 là cột mốc khó quên trong đời khi chàng trai trẻ Hứa Thiện Hùng lần đầu tiên tình nguyện vào Quân Chủng Không Quân, Khóa 65D, được qua Mỹ học giai đoạn đầu nhưng sau đó vì lý do sức khỏe, phải trở về Việt Nam.
Nhưng nhiệt huyết vẫn luôn sôi sục trong lòng khi chứng kiến bao cảnh đau thương của chiến tranh, sau khi về nước ông được đưa qua Khóa 26 Bộ Binh Thủ Đức, mãn khóa ông tình nguyện về Lực Lượng Đặc Biệt.
Được nhập ngũ trong thời chinh chiến, phục vụ dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ là một biểu tượng của tình yêu tổ quốc, đó cũng là danh dự và trách nhiệm của công dân. Và người trai thời loạn Hứa Thiện Hùng, đã vinh dự đứng dưới lá cờ vàng, qua hai sắc lính với hai quân chủng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Lần đầu gia nhập Quân Chủng Không Quân Quân Lực VNCH
Tiếp phóng viên nhật báo Người Việt tại nhà ở Anaheim, miền Nam California, ông Hứa Thiện Hùng kể, để bước vào Quân Chủng Không Quân, đầu tiên sau khi thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang khoảng 11 tháng, ông Hùng được qua Mỹ học tiếng Anh tại trường Lackland Air Force Base, Texas. Rất tiếc trước khi tiếp tục qua trường học bay, lúc đó sức khỏe không cho phép tiếp tục khóa huấn luyện phi công, ông Hùng đành phải bỏ dở nửa chừng chương trình học.
Trở về nước, ông Hùng gia nhập Khóa 26 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Sau khi ra truờng, ông tình nguyện vào Lực Luợng Đặc Biệt, đặt hậu cứ ở Nha Trang, thuộc Trung Tâm Hành Quân Delta.
Lúc đó đang trong trận Mậu Thân 1968, ông Hùng đang hành quân ở vùng Cây Quéo, Cây Thị (tỉnh Gia Định), tảo thanh Việt Cộng tấn công vào nội thành Sài Gòn-Gia Định. Lúc đó lực lượng Delta đang truy lùng tìm Việt Cộng lẩn trốn và ông Hùng là phụ tá toán trưởng Delta. Sau trận đó ông được rút về Nha Trang, tiếp tục là trưởng toán nhảy vào mật khu Đồng Bò Nha Trang. Rồi ông tiếp tục nhảy vào rừng, mỗi tháng nhảy toán một lần, vào vùng Mỏ Than Nông Sơn, Khu Kỹ Nghệ An Hòa, Đồng Xoài, Lộc Ninh…
“Tôi ở đó hơn một năm, nhảy trong rừng khoảng 17 lần, mỗi lần vô ra khoảng bảy ngày, dắt theo sáu toán viên. Lúc mới về, có cố vấn Mỹ đi cùng sau đó thì không cần thiết, mình tự đi. Sau khoảng 13 tháng ở đơn vị nhảy toán Delta, bên Không Quân có yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu cho tôi về khám lại sức khỏe, may sao lại qua hết những đợt kiểm tra này,” ông Hùng cho biết.
Trở qua Mỹ, tiếp tục học khóa phi công
“Tôi lại được trở qua Mỹ lần nữa, đưa về Trường Phi Hành Keesler AFB, San Antonio, Texas, để được huấn luyện bay T-28 khoảng 12 tháng. Đây là loại máy bay một động cơ cánh quạt để thực tập các bài học lái căn bản. Người học lái ngồi ghế trước, tiếp cận trực tiếp với bảng đồng hồ và tự điều khiển cần lái, còn người thầy huấn luyện ngồi ở ghế sau,” ông Hùng kể.
Ông Hùng cho hay, để học lái trên chiếc T-28, một ngày có khoảng 2 đến 3 giờ bay trong hai buổi, sáng đi bay chiều học dưới đất, khoảng 400 đến 500 giờ là xong chương trình. Khó khăn và nguy hiểm nhất trong chương trình học là kỹ thuật “Spin,” bay chúc đầu xuống, lấy lại thăng bằng bình thường để xoay cánh bay lên. Ngoài ra những kỹ thuật cất cánh, đáp, nhận diện địa hình dưới đất cũng được học và thực hành rất kỹ.
Nhớ về kỷ niệm đẹp nhất trong đời người phi công, ông Hùng vui vẻ kể: “Khi đã thành thục, người thầy huấn luyện sẽ không đi theo nữa, học viên tự bay một mình, tự cất cánh và đáp xuống với sự điều khiển, nhắc nhở của ông thầy dưới đất. Chuyến bay ‘solo’ thành công, khi đáp xuống học viên sẽ được huấn luyện viên nhấc lên bỏ vô thùng nước ướt hết cả người, leo ra đứng chụp hình chung với ông thầy. Cả học viên lẫn người thầy huấn luyện đều vui mừng vì cả hai đều hoàn thành tốt đẹp khóa học bay!”
Ông Hứa Thiện Hùng (phải) với bộ đồ bay ướt sũng, trong thủ tục ăn mừng bay “solo” thành công. Bên cạnh là ông John Hackerman, thầy huấn luyện bay tại Trường Phi Hành Keesler AFB, San Antonio, Texas, năm 1971. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại) “Ngoài ra, sau khi bay ‘solo’ thành công, sẽ được bay bằng phi cụ, tức là học viên ngồi trong buồng lái bao bọc chung quanh một bao tối đen, chỉ tiếp xúc trực tiếp với những đồng hồ chỉ báo tốc độ, cao độ, hướng bay, và người thầy ngồi phía sau điều khiển nhắc nhở,” ông Hùng kể thêm.
Mãn khóa học bay T-28, ông Hùng được chuyển qua học bay C-123 là loại máy bay vận tải hai cánh quạt tại Trường Phi Hành Lockbourne AFB ở Columbus, tiểu bang Ohio, khoảng ba tháng là xong khóa học.
Ông Hùng cho biết thêm trong chiến tranh Việt Nam, loại máy bay C-123K có trang bị thêm hai động cơ phản lực phụ để lên xuống ở những phi đạo ngắn, rất đắc dụng để vận chuyển lính đi hành quân, huấn luyện nhảy dù, thả dù tiếp liệu súng đạn, lương thực, thuốc men y tế, nhu yếu phẩm cho từng đơn vị. Trước năm 1975, Mỹ cho thu hồi loại máy bay C123 để đổi lại chiếc C130, mạnh hơn.
Về nước, lái máy bay vận tải C123 khắp chiến trường
Về Việt Nam, ông còn một giai đoạn chót nữa trong chương trình huấn luyện tại phi trường Phan Rang, là phi công phải học lái máy bay trên những phi đạo ngắn, được lót bằng những tấm vỉ sắt như phi trường Kon Tum, hoặc đáp xuống những con lộ ngắn tại những quận lỵ nhỏ, hoặc tiền đồn địa phương hẻo lánh, không có phi trường.
“Như ở tiền đồn Tống Lê Chân hoặc những nơi đang bị vây, máy bay đến thả hàng tiếp liệu súng đạn, lương thực, nhu yếu phẩm, thường là súng đạn cho chiến trường đang rất cần, thả cho thật lẹ rồi bay ngay. Cũng có mấy chiếc C123 bị hỏa tiễn SA7 của Việt Cộng bắn rơi trên chiến trường,” ông Hùng kể.
Từ đó phi công Đại Úy Hứa Thiện Hùng phục vụ tại Phi Đoàn 423-425, thuộc Không Đoàn Vận Tải 53, Sư Đoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất, bay khắp nơi để phục vụ chiến trường lúc bấy giờ đang hồi khốc liệt. Tiếp tục bay đến năm 1975, sau đó đời tù “cải tạo” bắt đầu.
“Đầu tiên tôi bị đưa vào trại Trảng Lớn, Tây Ninh, nơi đó là đồn đóng quân của Địa Phương Quân, gần phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh. Sau đó tôi bị đưa qua trại Cà Tum, sát biên giới Cam Bốt, trại này thuộc Lực Lượng Đặc Biệt, thuộc Lôi Hổ biên phòng ngày xưa,” ông nhớ lại.
“Cuộc đời tù cũng như bao người khác, nhưng được cái may mắn là tôi không ở trong những trại tù hắc ám thành ra có phần nhẹ hơn. Ở trại Cà Tum đến cuối năm 1980 thì tôi được đưa về Thành Ông Năm, Hóc Môn. Ra tù, tôi phải đi đào thủy lợi như mọi người dọc theo con kênh ở Đức Hòa, Đức Huệ, Hậu Nghĩa,” ông Hùng kể.
Thiếu Úy Hứa Thiện Hùng, thuộc Lực Lượng Đặc Biệt Nhảy Toán Delta, năm 1969. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)
Chuyến vượt thoát và những nỗi kinh hoàng trên biển
Cuối năm 1980, ông Hùng được người dắt mối vượt biển với giá 2 cây vàng. Chuyến đi xuất phát từ Rạch Giá, Kiên Giang, sau một ngày đêm lênh đênh trên hải phận quốc tế, lần đầu gặp ngay hải tặc Thái Lan.
Chuyến ghe vượt biển dài khoảng gần 20 thước, chở 120 người phần lớn là phụ nữ và trẻ em, còn lại chỉ có 19 tay thanh niên trên 18 tuổi, trong đó có tôi, ông Hùng cho hay.
“Bọn hải tặc thả dây kéo ghe mình cập vô sát ghe nó, kêu hết tất cả đàn bà con nít qua hết trên ghe nó, nấu cơm cho ăn tử tế, xong hãm hiếp phụ nữ, khi bọn cướp trả người về ghe của mình, tất cả phụ nữ đều thất thần hoảng loạn!” ông Hùng bần thần nhớ lại.
“Sau đó ghe tiếp tục đi, vợ con của chủ ghe hoảng hốt, người chủ ghe cũng mất tinh thần theo. Tôi lúc đó nằm dưới lườn ghe, được chủ ghe yêu cầu tôi tiếp tục điều khiển chiếc ghe để đi tiếp. Chủ ghe cho biết nếu bị cướp biển lần nữa, thì tôi tùy theo hoàn cảnh mà giải quyết, nếu cần thì liều chết. Tôi kêu các anh em đi trên ghe, cho biết nay tôi theo sự ủy thác của chủ ghe, nếu gặp cướp biển lần nữa, các anh em phải nghe theo sự chỉ huy của tôi, các anh em trên ghe đều đồng ý,” ông Hùng kể tiếp.
Ông Hùng cho hay, mấy anh em đi vượt biển chuyến này hầu hết đều là quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ít nhiều đều có võ nghệ để phòng thân. Hơn nữa vừa xảy ra việc cướp bóc hãm hiếp vừa rồi, nên mọi người đều uất ức!
Bị cướp lần thứ hai, phải giết người trên đất Thái
Ông Hùng kể, ngay ngày hôm sau, lúc đó ông định hướng là gần vô đất Thái, lại gặp cướp lần thứ hai. Lần cướp này xảy ra bài bản hơn lần thứ nhất, khi bọn hải tặc cho tất cả mọi người trên ghe vượt biên qua hết trên tàu lớn của chúng, để bọn chúng lên ghe nhỏ của mình, lục soát lấy những gì có thể lấy. Sau đó bọn chúng đập phá nát ghe của mình, mục đích coi còn giấu vàng bạc chỗ nào không.
“Sau khi cướp phá xong, bọn hải tặc bắt đầu đuổi người vượt biển trở xuống ghe nhỏ của mình. Tôi nhìn xuống thấy hỡi ơi, chiếc ghe nhỏ mình bị phá tan tành, coi như không thể đi được nữa! Tôi nói với nhóm thanh niên mình, phải chuẩn bị tư thế sẵn sàng, khi nghe tôi ra lệnh, tất cả đều phải lao vào tử chiến,” ông Hùng nhớ chuyện xưa.
“Vừa bị cướp bóc hãm hiếp xong, nỗi uất ức mọi người còn dâng tràn, nên sau khi tôi ra lệnh ‘Xung phong,’ cả đám thanh niên say máu ào vô đánh liền. Bọn cướp biển tên nào cũng có cầm dao trên tay, còn bọn tôi thì tay không, nhưng ai nấy cũng đều là quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ít nhiều gì cũng ‘có nghề’ nên nhất tề xông vào đánh tới tấp!” ông kể.
Ông Hùng buồn rầu kể lại chuyện đã xảy ra hơn 40 năm: “Bọn cướp biển bất ngờ bị tấn công dữ dội, chúng trở tay không kịp. Riêng tôi bị tên đầu đảng cầm mã tấu phóng tới chém liền. Không may cho nó, tôi chụp chiếc cần xé đan bằng tre rất chắc dùng để đựng cá, quăng tới đỡ liền. Khi mã tấu bị chém hụt, rớt xuống trước mặt, tôi chụp ngay mã tấu chém ngược một nhát ngay cổ tên đầu đảng, hắn ngã xuống giãy đành đạch, máu phun có vòi!”
“Việc hỗn chiến diễn ra quá nhanh, kết quả bọn hải tặc chết bốn tên tại chỗ, chúng tôi kéo xác quăng xuống biển, ba tên còn lại hốt hoảng nhảy xuống biển. Tôi cũng không ngờ anh em thanh niên ra tay sấm sét như vậy! Bên phe ta có anh Danh bị đâm lòi ruột nặng nhất, và một anh khác bị chém xệ bả vai. Nhờ có anh Bác Sĩ Chi Lăng đi trong nhóm vượt biên, lấy dụng cụ y tế trên ghe băng bó tạm,” ông nói.
“Kế tiếp tôi chỉ huy anh em lấy cây gỗ trên ghe, chặt thành từng đoạn làm vũ khí chống trả nếu có gặp cướp biển lần nữa. Khi đó có có mấy chiếc ghe Thái chạy vòng quanh nhưng không dám tới gần. Sau đó tôi kêu anh em nổ máy ghe chạy tiếp vô đất liền, nhưng không biết sao máy không nổ, chiếc ghe nằm yên không nhúc nhích!” ông Hùng kể tiếp.
Thế là mọi người phải nằm chịu trận tại chỗ cho tới hôm sau, khi thấy một chiếc tàu Hải Quân Thái Lan tới gần, bà con lấy áo phất lên làm dấu hiệu cầu cứu, cùng lúc mấy thanh niên quăng hết dao trên ghe xuống biển để tránh phiền phức.
“Thấy chúng tôi, tàu Hải Quân Thái thả xuống chiếc ca nô nhỏ chạy tới. Thế nhưng, chúng dừng lại quan sát hồi lâu rồi bỗng bắn hàng loạt đạn bay tung trên mặt nước tới tấp để thị uy xong mới xáp vô lục soát. Sau khi thấy không có gì nguy hiểm, chúng kéo ghe vô đất liền,” ông miêu tả. (Văn Lan) [qd]
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2020 17:32:43 GMT 9
Phi công Hứa Thiện Hùng kể chuyện bị vu cáo vượt biển cướp ghe, giết người Jun 14, 2020 Ông Hứa Thiện Hùng kể lại câu chuyện giết hải tặc trên chuyến vượt biển năm xưa. (Hình: Văn Lan/Người Việt) Văn Lan/Người Việt ANAHEIM, California (NV) – Sau ngày mất nước năm 1975, phi công Đại Úy Hứa Thiện Hùng phải giã từ Phi Đoàn 423-425, thuộc Không Đoàn Vận Tải 53, Sư Đoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất, để sống đời tù “cải tạo.” Ra tù, không sống nổi dưới chế độ Cộng Sản, cuối năm 1980, ông tìm đường vượt biển. Kể tiếp với phóng viên nhật báo Người Việt tại nhà ở Anaheim, miền Nam California, ông Hứa Thiện Hùng cho biết chuyến đi từ Rạch Giá, Kiên Giang, sau một ngày đêm lênh đênh trên hải phận quốc tế, thì gặp hải tặc Thái Lan. Chiếc ghe chở 120 người phần lớn là phụ nữ và trẻ em, còn lại chỉ có 19 thanh niên trên 18 tuổi, bị hải tặc kéo ghe. Điều ông không tưởng tượng được là hầu hết phụ nữ trên ghe đều bị hải tặc hãm hiếp. Người chủ ghe mất tinh thần nhưng nói “nếu bị cướp biển lần nữa, thì tùy theo hoàn cảnh mà giải quyết, nếu cần thì liều chết.” Khi gần đến đất Thái, ghe lại gặp cướp lần thứ hai và bị đập phá nát, mục đích để hải tặc coi còn giấu vàng bạc chỗ nào không. Uất ức, tất cả thanh niên trên ghe đánh trả hải tặc. Việc hỗn chiến diễn ra quá nhanh, kết quả bọn hải tặc chết bốn tên tại chỗ, ba tên còn lại hốt hoảng nhảy xuống biển. Đời tù trên đất Thái, bắt đầu cơn khổ nạnSau đó ghe vượt biên được tàu Hải Quân Thái Lan kéo vô Pattani, giáp với Mã Lai. Ông Hùng kể, ngay lập tức ông có hai yêu cầu: “Thứ nhất cho thuyền nhân được gặp Cao Ủy Liên Hiệp Quốc. Thứ hai là cho phép anh Trịnh Công Danh đang bị lòi ruột do tử chiến với hải tặc được cấp cứu ngay. Còn mấy anh khác bị thương cũng được chăm sóc y tế đầy đủ.” Hai hôm sau có phái đoàn Cao Ủy tới, ông Hứa Thiện Hùng xin trình bày câu chuyện người vượt biên bị hải tặc Thái cướp bóc hãm hiếp trên biển. Lúc đó báo chí đến chụp hình quay phim, phỏng vấn làm rùm beng lên, vì lần đầu tiên trong lịch sử thuyền nhân có một vụ giết người kinh khủng như vậy! Sau đó cả chiếc ghe và 120 người bị đưa về Ty Cảnh Sát Pak Phanang, nơi Hải Quân Thái bàn giao lại chiếc ghe này cho cảnh sát Thái. “Khoảng vài ngày sau, cả nhóm vượt biên được đưa về thành phố Pak Phanang, là nơi có chủ ghe của bọn cướp Thái Lan bị chúng tôi đánh trả, khiến bốn tên bị chết,” ông nói. Mười chín người lính VNCH vượt biên, giết hải tặc trên biển, sau khi được tòa án Pak Phanang tha bổng. Hình chụp trước Ty Cảnh Sát Pak Phanang, Thái Lan, năm 1981. Ông Hứa Thiện Hùng (đầu tiên, phải). (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại) Ông Hùng cho hay: “Có luật sư của Cao Ủy đến hỏi han để bảo vệ chúng tôi. Rồi Ty Cảnh Sát bắt đầu lấy lời khai, lọc ra những người trên 18 tuổi, bắt đứng sắp hàng để ba tên cướp người Thái đã nhảy xuống biển đến nhận mặt. Ba tên này đã thoát thân khi bị chúng tôi đánh chống lại, sau đó lên bờ vu cáo ngược lại là người vượt biển cướp ghe của chúng.” “Ba tên này đồng loạt chỉ tôi là người chỉ huy, đã chặt đầu tên người Thái chết trên ghe của bọn chúng. Cảnh sát kêu đúng 19 thanh niên trên 18 tuổi trong nhóm người vượt biên, đem nhốt trong nhà tù Ty Cảnh Sát ngay lập tức. Còn vợ con của người bị nhốt và những người khác đi trên ghe thì đem qua trại Songkhla. Cao Ủy có đến tiếp xúc với chúng tôi hằng ngày để hỏi han, lấy thông tin. Ông luật sư trẻ của Cao Ủy cho biết đây là lần đầu tiên có việc người vượt biên tị nạn giết người Thái,” ông nhớ lại. “Luật sư của Cao Ủy cũng cho chúng tôi biết, người chủ chiếc ghe của bọn cướp đang có đơn kiện chúng tôi đã cướp ghe của họ, hiện cảnh sát đang điều tra,” ông kể tiếp. Ông cho biết: “Cứ hằng tuần, luật sư của Cao Ủy đều đến thăm hỏi tù nhân, và từ trại Songkhla có Linh Mục Joe xin cho một toán y tá đến chăm sóc sức khỏe chúng tôi. Lúc đầu chúng tôi cũng sợ người tù Thái nhốt chung, nhưng sau đó họ cũng thân thiện với mình. Người tù được chia việc làm đan mây, người thì làm việc thợ mộc.” Trong nhà tù, cứ khoảng ba tuần một lần, hai người tù bị xích chân chung một còng, giải đến tòa án Pak Phanang để xét xử. Ở tòa có luật sư của Cao Ủy biện hộ cho người tù, và phía chủ ghe cũng có luật sư biện hộ cho họ. “Tòa hỏi cả hai bên luật sư, có cả ba tên cướp ra tòa làm chứng. Tất cả sự việc tôi đều khai trước tòa lần nào cũng y như vậy. Khoảnh bốn lần ra tòa thì tôi ngạc nhiên khi thấy ba tên cướp làm nhân chứng không thấy đến dự phiên tòa nữa. Ông luật sư của chúng tôi cho biết đó là dấu hiệu tốt lành cho chúng tôi, vì ba tên này sợ không dám ra làm chứng nữa,” ông Hùng kể. Giáo Sư Bùi Tuyết Hồng (thứ tư, trái) tại phi trường John Wayne, California, năm 1992. Bà là người đã cứu mạng 19 người lính Việt Nam Cộng Hòa suýt bị kết án từ hình và chung thân trên đất Thái. Trong hình này có ông Đoàn Văn Nguyên (thứ ba, trái), một trong 19 người lính Việt Nam Cộng Hòa năm xưa. (Hình: Tư liệu Đặc San Petrus Ký năm 1993, Văn Lan/Người Việt chụp lại) Những lá thư với bà Bùi Tuyết Hồng
Trong những lần ra hầu tòa, ông Hùng đi quanh khu lán trại đang ở trong nhà tù Pak Phanang, thấy có mấy tờ báo Bangkok Post viết bằng tiếng Anh, ông nhặt lên coi thì thấy Thái Lan đang ca tụng bà Bùi Tuyết Hồng, người được Hoàng Gia Thái ngưỡng mộ hết mình. Bà đang cùng chồng là ông Frans van Dongen, Đại Sứ Hòa Lan phụ trách khu vực Đông Nam Á đã hết nhiệm kỳ tại Thái Lan, chuẩn bị về nước. Bà Bùi Tuyết Hồng vốn là giáo sư các trường Petrus Ký, Gia Long, Võ Trường Toản trước năm 1975 Cũng có những bài báo tường thuật những phiên tòa đang xét xử 19 người lính Việt Nam Cộng Hòa đã giết bốn hải tặc người Thái trong chuyến vượt biên. Với lập luận của tờ Bangkok Post, họ cho rằng tội giết người Thái trên ghe của người Thái, ngay trên đất Thái, theo luật của Thái chắc chắn là sẽ bị xử tử hình. “Sau khi đọc bài báo viết như vậy, trong lòng tôi hoang mang lo sợ vô cùng, nghĩ rằng mình được Cao Ủy bảo vệ trước tòa án cũng rất tốt nhưng chưa đủ, mình phải có sự ủng hộ qua những tiếng nói từ bên ngoài nữa mới mạnh. Tôi bèn nhờ người y tá gởi giùm lá thư của tôi cho những người vợ của 19 người tù, đang ở trong trại Songkhla, xin cho tôi địa chỉ của bà Bùi Tuyết Hồng. Hai tuần sau khi tôi có được địa chỉ của bà, bèn viết thơ cầu cứu, nhờ bà can thiệp,” ông Hùng kể. Ông nhớ lại: “Bà Tuyết Hồng viết thư trả lời, cho tôi biết bà sẽ gặp hoàng hậu Thái Lan trong chuyến đi Paris sắp tới, và cũng hứa với tôi là bà sẽ can thiệp. Bà đã kể cho hoàng hậu Thái Lan nghe câu chuyện của 19 người lính Việt Nam Cộng Hòa đi trên chuyến ghe bị hải tặc cướp và hãm hiếp người vượt biên, dẫn đến việc 19 người này đã giết chết bốn tên hải tặc, hiện bị giam trong nhà tù của cảnh sát Thái.” “Vài tháng sau, bà Tuyết Hồng có gởi cho tôi lá thư cho biết là hoàng hậu hứa là sẽ xem xét vụ việc, nếu đúng sự thật thì sẽ can thiệp để giải quyết. Trong thư bà Tuyết Hồng có căn dặn tôi tuyệt đối không được nói cho ai biết bất cứ điều gì về sự liên lạc giữa bà và tôi, nên tất cả thư từ bà đã gởi đều bị tôi xé bỏ, để tránh bất kỳ sự rắc rối nào có thể xảy ra,” ông nói. Một đoạn trong bức thư của bà Bùi Tuyết Hồng gởi cho cô Loan là chị của ông Đoàn Văn Nguyên, một trong 19 người lính Việt Nam Cộng Hòa trên chuyến ghe vượt biển, đã giết hải tặc Thái Lan. Trong thư, bà Tuyết Hồng nói rõ là bà chắc chắn 19 người tù sẽ được tha. (Hình: Tư liệu Đặc San Petrus Ký 93, Văn Lan/Người Việt chụp lại) Ông Hùng ray rứt trong lòng khi kể chuyện: “Ở tù Thái Lan đúng một năm một tháng, cứ ba tuần một lần ra hầu tòa, cùng với những bài viết trên tờ báo Bangkok Post, làm tôi vô cùng hoang mang lo sợ, chắc mình sẽ chấm dứt cuộc đời trên đất Thái. Sao oan khiên quá vậy, những cô gái Việt bị hãm hiếp, những người bị hải tặc cướp bóc, giết chết quăng xác xuống biển phi tang, ai sẽ giải oan cho họ đây?” “Bao nhiêu uẩn khúc dằn xé trong lòng, tôi luôn nghĩ rằng thời gian sống của mình đang đi gần đến cái chết, cùng với bản án oan dành cho 18 bạn tù đã cùng chiến đấu, giết người trên biển để tìm lẽ sống còn. Chẳng lẽ mình rời bỏ quê hương xứ sở, đi tìm tự do lại bị rơi vào chỗ chết oan như vậy sao? Trời cao có mắt hay không, tinh thần tôi như sụp đổ hoàn toàn, chỉ còn cầu mong có ơn trên cứu mạng,” ông nói. Trong buổi họp mặt Liên Khóa 65 SVSQ/KQ/VNCH năm 2015. Ông Hứa Thiện Hùng (thứ ba từ phải, hàng thứ nhì). (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại) Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn trong nhà tù TháiCho đến một ngày đầu năm 1981, trong phiên tòa xử, ông quan tòa cầm búa gõ xuống bàn, hủy bản án, tuyên bố 19 người tù đã tham gia giết người trên chuyến vượt biên là vô tội, được xử trắng án. Khi nghe tòa truyên án, ông Hùng khóc hết nước mắt, trong lòng ông nghĩ chỉ có ơn trên cứu mạng, và chỉ có bà Tuyết Hồng mới có thể cứu được 19 mạng người trong hoàn cảnh này! Bà là vị Bồ Tát Quán Thế Âm hóa thân, đã ra tay cứu giúp không biết bao thuyền nhân Việt Nam trong nhà tù Thái Lan, và trên những chuyến ghe vượt biển. “Cả phiên tòa đều ngỡ ngàng, không hiểu được vì sao chúng tôi được trắng án, cả ông luật sư của Cao Ủy và luật sư của chủ ghe đều nhìn nhau ngơ ngác, chỉ có riêng tôi thì ngầm hiểu rất rõ trong lòng,” ông Hùng xúc động nói. Sau phiên tòa, 19 tù nhân gốc lính Việt Nam Cộng Hòa được đưa về Ty Cảnh Sát Pak Phanang, cho ra khỏi nhà tù, ở tạm ngoài lều dành cho người tị nạn mới đến sau. “Lúc đó tôi có thể nói tiếng Thái với tên thượng sĩ cảnh sát coi trại tị nạn dành cho người mới tới, chúng tôi rất vui vẻ, và đã cùng nhau cụng ly chúc mừng thoát nạn. Có điều là sau chuyện giết hải tặc của chúng tôi, những chuyến ghe đến sau, chỉ có toàn đàn bà và con nít, vô tới đảo đều không có đàn ông, vì bị hải tặc giết ngay trên ghe, quăng xác xuống biển phi tang. Chính những người phụ nữ trên những chuyến ghe đến sau đều khóc kể như thế,” giọng ông Hùng chùng hẳn khi kể chuyện khổ nạn vượt biển năm xưa. Từ trại Songkhla, sau khi qua thanh lọc, ông Hứa Thiện Hùng được qua trại Phanat Nikhom để chờ qua Mỹ. Từ khi được tòa Thái xử trắng án và được sang Mỹ đến nay, ông Hùng tâm sự: “Tôi xin hết lòng nhớ ơn bà Bùi Tuyết Hồng, người duy nhất đã cứu mạng 19 người lính Việt Nam Cộng Hòa trong cơn thập tử nhất sinh tại tòa án Thái Lan. Suốt đời tôi xin mang ơn bà, đã giúp tòa án Thái thấu đáo được thảm trạng của thuyền nhân Việt Nam đã liều chết bỏ xứ ra đi vì hai chữ Tự Do. Cho tới bây giờ và suốt đời, tôi xin mang ơn bà và xin thắp nén hương lòng, kính nhớ đến vị ân nhân đã cứu giúp không biết bao nhiêu thuyền nhân Việt Nam trong các trại tị nạn năm xưa, để họ có được một tương lai xán lạn nơi hải ngoại.” (Văn Lan) [qd] Xem lại kỳ trước: Hứa Thiện Hùng, người chiến sĩ Quân Lực VNCH, hai sắc lính một màu cờ Ông Hứa Thiện Hùng quê gốc Phan Thiết
Học sinh các trường Bạch Vân (Phan Thiết), và trường Trung Học Nguyễn Văn Khuê (Sài Gòn).
Tình nguyện vào Không Quân Khóa 65D. Năm 1966 qua Mỹ học lái máy bay.
Vì lý do sức khỏe phải trở về nước, vào Khóa 26 Trường Bộ Binh Thủ Đức.
Ra trường Bộ Binh Thủ Đức, tình nguyện vào Lực Lượng Đặc Biệt, Trung Tâm Hành Quân – trưởng toán nhảy toán Delta.
Năm 1970 được gọi lại học Không Quân tại Mỹ.
Năm 1971 về nước lái máy bay vận tải C123, đại úy phi công thuộc Phi Đoàn 423-425, Không Đoàn Vận Tải, Sư Đoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất.
Sau năm 1975, đi tù “cải tạo” năm năm.
Năm 1980 ra tù, vượt biển bằng ghe, cùng 18 thanh niên trên ghe giết hải tặc Thái Lan.
Bị giam trong trại tù Thái Lan 1 năm 1 tháng.
Nhờ bà Bùi Tuyết Hồng cứu khỏi trại tù Thái Lan, được tòa án Thái xử trắng án giết người.
Đoàn tụ gia đình tại Mỹ từ 1981.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 5, 2020 8:44:27 GMT 9
Phong trào vượt biên sau 1975 – Trích hồi ký Nguyễn Hiến Lê Nguyễn Hiến Lê • Thứ Hai, 01/06/2020 Tôi không biết trước giờ giải phóng, từ Bến Hải trở vào, trong số trên 20 triệu dân có bao nhiêu người vội vã di cư để trốn cộng sản. Dăm bảy ngàn hay vài chục ngàn? Người nào cũng có tâm trạng não nề: bỏ quê cha đất tổ, bỏ thân thích bạn bè, bỏ cả sản nghiệp (có người mới mua được ngôi nhà vài ba chục triệu – hồi đó khoảng 100.000 đồng cũ một lượng vàng – chưa ở được 5-6 tháng đã phải bỏ lại) để qua nước người ăn nhờ ở đậu, làm thứ công dân “da màu”, một thứ công dân hạng hai, và bắt đầu xây dựng lại từ đầu; như vậy ai mà vui cho được? Những người đi đó hoặc là quân nhân, công chức trong các chính phủ trước, hoặc đã có thời sống với cộng sản ở Bắc, sợ chế độ ngoài đó, đã di cư một lần nay lại di cư lần thứ hai. Những người ở lại, xét chung, đều sẵn sàng chấp nhận chế độ mới, dù chưa biết rõ nó sa sao; một số đông còn hăng hái tiếp tay với chính quyền mới để xây dựng một xã hội tốt đẹp cho tương lai nữa. Nhưng chẳng bao lâu nhiều người thất vọng, qua năm 1976, đã có lác đác một số thanh niên vượt biên. Họ không có tổ chức, không chuẩn bị kĩ, lên miền cao nguyên ở Trung rồi kiếm đường qua Lào, từ Lào sẽ qua Thái Lan. Họ bị bắt hoặc thấy nguy phải quay về.
Từ năm 1977 người ta dùng đường biển, phong trào vượt biên phát triển rất mạnh tới mức độ một bà già nông dân miền Tây phải nói: “Cây cột đèn nếu đi được thì cũng đi”. Dù phải gian lao cực khổ tới mức nào, hễ ra khỏi nước là sướng rồi, làm mồi cho cá mập vẫn còn hơn ở lại trong nước mà chết lần chết mòn, người ta nghĩ vậy. Cha mẹ già chỉ có mỗi một người con mà cũng khuyên nó vượt biên; chồng đi “cải tạo” – nghĩa là bị giam trong những trại tập thể chưa biết bao giờ mới được về vì là “ngụy hạng nặng”, phải cải tạo tư tưởng, đời sống – cũng nhắn vợ con vượt biên được thì cứ vượt, dắt con theo. Một thanh niên vượt biên thoát mới tới Thái Lan đánh điện về cho cha mẹ: “Ba má nhớ hôm nay là ngày sinh nhật của con không?” và cha mẹ mỉm cười, hiểu.
Có ba cách vượt biên.
Cách chính thức, sướng nhất là có người thân, cha mẹ, vợ chồng hay con cái ở ngoại quốc xin cho được đoàn tụ gia đình. Trường hợp đó được chính phủ cho phép, được Ủy hội quốc tế tị nạn (Haut commissariat des réfugiés: H.C.R) giúp đỡ. Ðơn gởi rồi, sáu tháng hay một hai năm sau được đi. Sớm muộn là tùy mình biết “phải trái” hay không. Ði thì gia sản để lại hết, chỉ được mang theo ít tư trang với ít tiền ăn đường.
Cách bán chính thức, theo nguyên tắc, cho người Việt gốc Hoa, nhưng người gốc Việt mà muốn thành gốc Hoa thì cũng không khó. Có tiền là được hết.
Một người đứng ra tổ chức, nộp đơn xin cho cả nhóm người -khoảng vài trăm- vượt biên kèm theo hồ sơ của từng người, và nộp cho chính phủ 4 lượng vàng. Chính phủ cho phép rồi, bọn người đó tập trung lại một nơi, hùn nhau đóng thuyền, đóng xong, chính phủ sẽ cho công an xuống xét thuyền, xét lí lịch, hành lí từng người (mỗi người cũng chỉ được mang theo ít tiền thôi), rồi cho phép nhổ neo ra khơi, chính phủ bảo đảm an ninh cho tới khi ra hết hải phận quốc gia, rồi từ đó thuyền muốn đi đâu thì đi, chính phủ không biết tới. Rất ít nước chịu tiếp thu bọn đó, và xét kĩ từng người rồi mới cho lên bờ.
Có thuyền chở khẳm quá, thuyền đóng cho 200 người thì chở tới 300, lại thêm chính quyền địa phương gởi một hai trăm người nữa, ngồi chen chúc nhau như cá hộp, không nhúc nhích được, như vậy ba bốn ngày, ăn uống, đi tiểu rất bất tiện mà cũng rán chịu. Có chiếc vừa ra khơi được vài chục hải lí, gặp cơn dông, chìm, xác chết tấp vào bờ, ngổn ngang trên bãi cát.
Có trường hợp chính phủ đã nhận đủ vàng, thuyền đóng chưa xong thì có lệnh trên hoãn các cuộc vượt biên chính thức lại; hoãn cả năm rồi và hiện nay (1980) còn rất nhiều người phải ở chỗ đóng thuyền, vì họ làm khai sinh giả, nhà đã bị tịch thu, chỗ đâu mà về. Họ xin chính phủ trả lại số vàng, chính phủ chỉ trả một phần ba, hoặc trả tất cả theo giá vàng chính phủ định, không bằng 1/5 giá vàng trên thị trường. Họ lêu bêu, thành một bọn vô gia cư, vô nghề nghiệp, sống cực điêu đứng.
Phong trào vượt biên sau 1975
Cách thứ ba là đi chui, nghĩa là đi lậu. Một người đứng ra tổ chức, một nhóm từ 20 đến 4-5 chục người, hùn nhau từ 4 đến 7-8 lượng vàng đóng thuyền, kiểu thuyền đánh cá, mua một bãi biển, nghĩa là đút lót cho công an, chính quyền ở làng có bãi biển, đút lót cả cho công an vài nơi chung quanh để người vượt biên khỏi bị xét hỏi, thuyền yên ổn được rời bến ban đêm. Công an những nơi có bãi biển đó nhờ vậy làm giàu rất mau, có kẻ chỉ một hai năm được vài chục lượng vàng và ôm vàng vượt biên. Do đó mà trong dân gian xuất hiện truyện tiếu lâm dưới đây.
“Một hôm nọ, người canh gác lăng bác Hồ bỗng thấy xác ướp của bác biến đâu mất, hoảng hốt đi tìm khắp nơi, tìm ở nhà sàn của bác không thấy, về quê hương bác ở Nghệ an cũng không thấy, nghi rằng bác vào chơi thành phố của bác, liền vào Sài Gòn kiếm, sau cùng một đêm, thấy bác ngồi một mình, rầu rĩ ở bến Sáu kho, thành phố Hồ Chí Minh, hỏi bác, sao lại ra ngồi đấy, bác đáp: Bác không muốn ở nước này nữa, muốn qua phương Tây đây, mà tụi công an đòi bác sáu cây, bác có cây đâu mà nộp cho chúng.” – “Cây” là “cây hai lá rưỡi” nói tắt, tức một lượng vàng vì mỗi lượng có hai lá rưỡi vàng.
Thường là thoát được, ít khi gặp tàu tuần; nhưng nhiều khi gặp bão, thuyền chìm, làm mồi cho cá mập, hoặc gặp bọn cướp biển Thái Lan. Chúng vơ vét hết, chỉ chừa cho mỗi người một cái quần cụt, và có thiếu phụ bị chúng hiếp dâm tới 19 lần. Sau cùng may phước tới được bờ biển Thái Lan hay là một đảo Mã Lai – sướng nhất là được một tàu phương Tây vớt – lúc đó mới kể là còn sống.
Có một trường hợp xui lạ lùng. Một đoàn người lên được một đảo Mã Lai, ở được ít lâu rồi một hôm chính quyền trong đảo lùa họ xuống hết thuyền của họ, bảo để đưa đến một đảo khác; nhưng ra khơi, chúng cắt đỏi cho thuyền trôi đâu thì trôi (máy móc bị chúng gỡ rồi) và ít ngày sau, thuyền giạt vào bờ biển Cà Mau, bị bắt giam hết, người thì 5-6 tháng, người thì 3 năm.
Mặc dầu nguy hiểm như vậy, người ta vẫn không sợ, thua keo này bày keo khác. Có người tới lần thứ tư mới thoát, lại có người lần thứ 10 vẫn chưa thoát, mà sản nghiệp tiêu tan hết, không biết sống bằng nghề gì.
Có người mạo hiểm dám băng ra khơi bằng một chiếc tắc ráng (ho-bo): loại xuồng nhỏ, chở được độ mươi người, chạy bằng xăng, lướt trên nước rất mau. Vậy mà thoát được.
Từ cuối 1979 thêm một cách vượt biên nữa bằng đường bộ, ngã Cao Miên. Hoặc theo xe nhà binh, hoặc theo người Miên đi buôn lậu, lên tới Nam Vang rồi tới Battambang, Siophon. Phải mang theo vàng để đóng thuế mãi lộ. Tới biên giới Thái Lan, nếu biết tiếng Anh, tiếng Pháp thì sẽ được Ủy hội quốc tế tị nạn giúp đỡ. Nghe nói cách đó chỉ tốn 2-3 lượng, mỗi chuyến đi chỉ được vài ba người ăn bận như bọn buôn lậu. Cũng nguy hiểm như vượt biển. Một đứa cháu nhà tôi trong túi chỉ có 100 đồng, không biết tiếng Miên, không quen ai ở Miên mà cũng vượt biên cách đó.
Người nào vượt biên được một nước nào tiếp thu rồi, được trợ cấp hay kiếm việc làm rồi, cũng gởi ngay về cho thân nhân một gói thực phẩm, thuốc uống, quần áo… bán được một hai ngàn đồng. Họ làm lụng cực khổ, (rửa chén trong quán ăn…) nhịn hút thuốc để giúp gia đình vì biết rằng người ở lại thiếu thốn gấp mười họ.
Chính nhờ họ mà nhiều gia đình miền Nam mới sống nổi, nhờ họ một phần mà dân miền Nam có thuốc tây để uống, có vải may quần áo, không đến nỗi rách rưới quá. Trong hoạn nạn tình cha mẹ, con cái, vợ chồng lúc này lại đằm thắm hơn xưa. Cái rủi thành cái may.
Về vật chất họ được đầy đủ, nhưng về tinh thần họ rất đau khổ. Nhớ bà con họ hàng, nhớ quê hương xứ sở, nhớ day dứt, gia giết. Họ khóc thương thân phận anh hay em ở trong các trại cải tạo mỗi bữa chỉ được một nắm bo bo; thân phận cha mẹ chú bác phải đẩy chiếc xe bán củi, bán chuối dưới mưa, dưới nắng, đau ốm không có thuốc uống; thân phận con cháu quanh năm không được một li sữa, một cục đường. Ở một xứ gần như trời luôn luôn u ám, họ ước ao được nhìn thấy một tia nắng, một nền trời xanh, và khi trời xanh, ánh nắng hiện lên thì họ càng nhớ quê hơn nữa; họ muốn vuốt ve thân cây chuối nhẵn bóng và mát rượi; được nhìn thấy ánh vàng nhảy múa trên những tàu dừa phe phẩy dưới gió nồm; nhìn hoài những con đường thênh thanh trải nhựa, họ chán ngấy, mơ tưởng được đi chân không trên những con đường đất ở giữa hai bờ cỏ, dưới bóng lưa thưa của hàng so đũa, ven một cánh đồng lúa xanh; mặt đất ấm hơn mặt đường nhựa biết bao mà có gì thơm mát bằng mùi lúa xanh, sau mấy năm ngửi mùi xăng nhớt.
Có những thiếu phụ thay đổi hẳn tính tình: ở nước nhà thì thích trang điểm, đi dạo phố, họp bạn; qua nước người thì suốt ngày ở trong phòng lau chùi, quét tước, nấu ăn cho chồng con, không chịu ra đường, chồng con lôi kéo cũng không đi; một ngày kia họ sẽ loạn tinh thần mất. Khổ nhất là những bà 50-60 tuổi, không biết ngoại ngữ, không sao thích ứng được với đời sống Tây phương, mới xa quê được một năm đã đòi về, ngày nào cũng ngóng tin nhà, và được thư thì đọc đi đọc lại tới thuộc lòng. Ngày đêm họ cho quay băng “Sài Gòn ơi, li biệt” của Thanh Thúy, băng “Ta chẳng lẽ suốt đời lưu vong” của Phạm Duy mà khóc mướt. Giọng ảo não không kém bài hát của dân tộc Do Thái khi bị đày ở Babylon hồi xưa.
Trong số những người ở lại, đáng thương nhất là những cặp vợ chồng già không có con cái, bị chính phủ chặn lương hưu trí, rán sống lây lất vài năm, bán hết đồ đạc để ăn rồi tự tử.
Rồi tới những người sản nghiệp tiêu tan vì đi kinh tế mới hoặc vì vượt biên mấy lần mà thất bại, sống cầu bơ cầu bất ở vỉa hè các thành phố lớn nhỏ như bọn ăn mày.
Rồi những cô giáo, cô kí chồng đi cải tạo 5 năm đằng đẵng, ở nhà xoay xở đủ cách, làm việc đêm ngày, nhịn ăn nhịn mặc để nuôi bốn năm đứa con, vài tháng lại tiếp tế cho chồng một lần. Họ vì hoàn cảnh mà hóa đảm đang, tư cách lại càng cao lên, không chịu nhận sự giúp đỡ của họ hàng, bạn bè.
Rồi những thiếu nữ học hết Ðại học sư phạm hay Luật mà không muốn làm công nhân viên vì lương thấp quá, kiếm một cái sạp nhỏ nửa thước vuông bán thuốc rời hay quần áo cũ, thuốc tây ở lề đường, vất vả nhưng kiếm được 10-15 đồng mỗi ngày, đủ cơm cháo cho cha mẹ và em. Họ lễ phép, chăm chỉ, dễ thương.
Tất cả những người đó và còn nhiều hạng người khác nữa đáng tự hào là ngụy. Ngụy mà như vậy còn đáng quí gấp trăm bọn tự xưng là “cách mạng” mà tư cách đê tiện.
Có ai chép Ba đào kí cho thời đại này không nhỉ? Trong tập kí đó dày ít cũng vài ngàn trang, truyện buồn rất nhiều mà truyện vui cũng không thiếu, truyện nào cũng cảm động, đánh dấu một thời và làm bài học cho đời sau được.Trích hồi ký Nguyễn Hiến Lê (Tập 3) Đăng lại từ Diễn Đàn Thế Kỷ (Diendantheky.net) ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM SAU THÁNG TƯ ĐENNguyễn Hiến Lê Dẫn nhập: Những ngày áp cuối tháng 4, Sàigòn bắt đầu hỗn loạn. Võ Phiến rời tòa soạn Bách Khoa trên đường Phan Đình Phùng để đến từ giã người bạn tâm giao là Nguyễn Hiến Lê. Đôi bạn cùng ngậm ngùi. Cả hai đều biết sẽ không gặp lại. Sang đến Mỹ, Võ Phiến không bao giờ quên dòng nước mắt lăn trên má người bạn có sở học uyên thâm. Võ Phiến chọn ra đi. Nguyễn Hiến Lê chọn ở lại vì trong nội chiến Nam-Bắc, cụ Lê dành nhiều cảm tình cho phía “cách mạng”. Rồi chứng kiến “xã hội mới, con người mới” của phía chiến thắng áp đặt lên đồng bào đã đầu hàng, cụ Lê phê phán không tương nhượng. Sống đúng với lương tâm của mình, là tiêu chí của Nguyễn Hiến Lê. Trần VũTHất Bại Trong Hòa Bình: Mấy tháng đầu sau ngày 30-4-75, các bạn kháng chiến, già cũng như trẻ, nhất là trẻ, đều có tâm lý chung là hăm hở hưởng thụ sau mấy chục năm gian khổ sống chui, sống nhủi trong rừng, trong bụi, dưới hố dưới hầm. Đành rằng phải bắt tay ngay vào việc kiến thiết, nhưng đã có đường lối sẵn rồi, có kinh nghiệm 20 năm ở Bắc thì không có gì khó; vả lại đã thắng được Mỹ, thành cường quốc thứ ba trên thế giới, sau Nga và Trung Hoa thì có việc gì mà làm không được, chỉ trong 5 năm sẽ tiến bộ, 20 năm sẽ đuổi kịp Nhật Bản về kinh tế. Muốn kiến thiết thì trước hết phải san phẳng chế độ cũ đã không để lại một dấu vết nào cả. Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ. Phải diệt bọn tư bản, chiếm nhà cửa, tài sản như núi của họ, chia nhau mỗi người một chút. “Đó là quyền của mình mà!” Thời chiến hễ nung được lòng yêu nước của quốc dân rồi, giữ cho lòng đó đừng giảm, quốc dân kiên trì chịu đựng được tới phút chót thì không còn vấn đề gì nữa: thiếu cái gì đã có Nga, Trung Hoa cung cấp cho; trái lại trong thời bình mới phải đương đầu với nhiều vấn đề nội bộ, ngoại giao, kinh tế, nhất là kinh tế. Nước ta nghèo, thiếu vốn đầu tư thiếu kỹ thuật gia, khó phát triển kinh tế mau được. Thất bại về kinh tế thì sự nghiệp của cách mạng sụp đổ. Bây giờ 5 năm sau ngày 30-4-75, hết kế hoạch ngũ niên đầu tiên rồi, chúng ta mới thấy cơ hồ chẳng tiến bộ về một phương diện nào hết mà còn thụt lùi nữa, và ai lạc quan tới mấy cũng phải nhận chúng ta đã bỏ phí 5 năm, và không biết phải mấy năm nữa mới bắt lại được thời gian đã mất đó. Trong khi ấy thì thế giới cứ vùn vụt tiến tới. Không đoàn kết Thất bại lớn nhất, theo tôi, là không đoàn kết được quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mỹ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ 6, 7 tháng sau, cuối 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc. Tôi nhớ như ở phần trên tôi đã nói năm 1976, trong một cuộc hội nghị ở Sài Gòn, bàn về vấn đề thống nhất quốc gia, một học giả lão thành miền Bắc, ông Đào Duy Anh (đã có hồi sống ở Nam nhiều năm, có nhiều bạn thân ở Nam) khi được mời phát biểu ý kiến, chỉ nói mỗi một câu đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan trọng nhất là phải thống nhất nhân tâm đã. Cả hội trường sửng sốt và làm thinh. Ông Anh đã nhận xét đúng và dám nói. Quả thực là lúc đó có sự chia rẽ nặng giữa người Nam và người Bắc, Nam đã không muốn thống nhất với Bắc rồi. Từ đó, tinh thần chia rẽ cứ mỗi ngày mỗi tăng, năm nay (1980) có thể nói 90% người miền Nam hay hơn nữa, muốn tách khỏi miền Bắc. Có nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân chính theo tôi là người miền Bắc vơ đũa cả nắm, coi người Nam là “ngụy” hết, trụy lạc, bị nhiễm độc nặng của Mỹ. Ngay hạng trí thức miền Bắc như ông Đào Duy Anh cũng có thành kiến rằng dân Sài Gòn hư hỏng quá rồi Họ chỉ nhìn bề ngoài, chỉ thấy một số thanh niên híp pi, lêu bêu ở ngoài đường; tôi phải giảng cho họ hiểu rằng đó chỉ là thiểu số, chứ đại đa số người trong này ghét Mỹ, ghét văn minh Mỹ, có thể nói gia đình nào cũng có người có cảm tình với kháng chiến, giúp kháng chiến cách này hay cách khác, nếu không vậy thì làm sao kháng chiến thành công được. Chỉ nội một việc biết người nào đó là kháng chiến mà không tố cáo cũng đủ có công với kháng chiến, chớ đừng nói là còn che chở, giúp tiền bạc, tiếp tay cho nữa. Chỉ trừ một số phản quốc, theo Mỹ, Thiệu triệt để vì quyền lợi, còn thì không có gia đình nào trong Nam là ngụy cả. Một số người yêu nước, có tư cách, mới đầu gia nhập kháng chiến, sau vì lập trường chính trị, phải rời hàng ngũ, về thành, mà không ưa Pháp, Mỹ, hạng đó không nên coi người ta là ngụy. Bọn thanh niên hư hỏng chỉ ở Sài Gòn mới có nhiều, mà tỉ số không cao so với những thanh niên đứng đắn. Xem thêm: Một thế kỷ quốc ngữ (kỳ 3) Người Bắc coi người Nam là ngụy, đối xử với người Nam như thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”, tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mỹ thì cái gì cũng làm được.Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến, anh là ngụy thì tôi mới có lý, anh đừng nói nữa”. Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hóa, kỹ thuật – điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học – thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy nhau … Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú… Trong mỗi cơ quan ở Sài Gòn cũng có sự chia rẽ. Cùng là công nhân viên cả, mà bọn ở Bắc vô không ưa bọn Liên khu 5; hai hạng đó đều khinh bọn ở bưng trong Nam về; bọn này lại không chơi với bọn trước kia tập kết ra Bắc, nay trở vô Nam; bọn “nằm vùng” cũng không ưa bọn tập kết về đó; bị khinh nhất là bọn ngụy được tạm dùng lại, mà bọn này thạo việc hơn hết. Chỉ vì thiếu đoàn kết cho nên trong cuộc hội họp nào người ta cũng hô hào “Đoàn kết, đại đoàn kết”. Còn ở trong phòng họp thì ai cũng hoan hô tinh thần đoàn kết, ra khỏi phòng rồi thì hết đoàn kết. Người ta chỉ đoàn kết với nhau vì quyền lợi thôi; do đó mà có tinh thần bè phái, gia đình trị, và ở Bắc có câu này: Nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế. Nguyễn Hiến Lê tại nhà riêng trong Nam trước 1975. Bất công Điểm thứ nhì làm cho chúng ta thất vọng là xã hội còn bất công hơn thời trước nhiều. Có người nói một số “ông lớn” đi đâu cũng có người hầu xách bình nước sâm Cao Ly để ông lớn uống thay trà; một ông nọ luôn luôn có một bác sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt hầu vì ông không chịu được quạt máy. Tôi không biết những tin đó đúng hay không, chỉ biết những tin đó do “anh em cách mạng” đưa ra cả. Một ông bạn tôi bảo có vô nhà thương mới thấy có cả chục (sic) giai cấp bệnh nhân, tùy giai cấp mà được ở phòng nào, khám bệnh ra sao, trị bệnh ra sao, cấp thứ thuốc nào v.v. Người chết cũng phân biệt giai cấp khi đăng cáo phó: cán bộ thường thì được mấy phân trên cột báo, cán bộ bự thì được mười mấy phân; lời cáo phó cũng theo những tiêu chuẩn riêng. Đúng là đường lối Staline. Sài Gòn được giải phóng vài năm thì ta thấy xuất hiện ngay một hạng giàu sang mới nổi, thay thế bọn giàu sang thời Thiệu, và cũng thích những xa xí phẩm (áo hàng thêu, hột xoàn, máy điều hòa không khí v.v.) của thời Thiệu. Tiền đâu mà họ mua những thứ đó nhỉ? Sự bất công chướng nhất, tàn nhẫn nhất là lương công nhân viên từ 1975 cứ đứng yên trong khi sự phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết, chỉ còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là trong khi mãi lực của đồng bạc năm 1980 chỉ còn bằng 1/10 năm 1975; thành thử lương một công nhân viên chỉ đủ để mua củi chụm, lương một bác sĩ mới ra trường chỉ đủ để mua rau muống ăn. Khắp thế giới không đâu có chế độ lương bổng kỳ cục như vậy (2). Người nào cũng phải bán đồ đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phải xoay trở mọi cách, làm sao sống được thì làm, chính phủ không biết tới. Một cán bộ ở Hà Nội đã phàn nàn: “Người ta có rất nhiều quyền hành mà không có một chút tinh thần trách nhiệm nào cả. Thật lạ lùng!” Kravchenko (trang 185) nói chính phủ Nga bắt dân đói để dân biết phép chính phủ mà phải răm rắp tuân lệnh. Ở nước ta không đến nỗi như vậy, có áp dụng chính sách đó thì chỉ áp dụng cho những kẻ thù của chế độ thôi, tức bọn ngụy quân ngụy quyền còn ở trong một số trại cải tạo. Thiếu kỷ luật Xem thêm: Học tiếng mẹ đẻ Không ai có trách nhiệm mà tinh thần bè phái quá nặng, nên không có kỷ luật, dưới không tuân trên, loạn. Chương trên tôi đã nói tới cái tệ mỗi tỉnh là một tiểu quốc, địa phương tự do tới mức không tuân lệnh trung ương (ngay xã cũng không tuân lệnh tỉnh, huyện), lấy lẽ rằng chỉ địa phương mới hiểu tình trạng của địa phương, cấp trên không nên xen vào; cái tệ nhân viên được lệnh đi công tác mà không đi, nằm ỳ ở nhà, một tuần sau trở lại sở, trả sự vụ lệnh mà không bị khiển trách; cái tệ nhân viên muốn bỏ sở về giờ nào thì về, lấy cớ là phải kiếm gạo, chủ nhiệm đành làm thinh, chứ không biết đáp sao. Tôi kể thêm một trường hợp nữa. Ông giám đốc một cơ quan nọ đến tuổi về hưu, bảo người giúp việc: “Tôi sẽ không về, về thì mất hết quyền lợi: xe hơi, “bìa” (sổ đặc biệt để mua nhu yếu phẩm), nhà ở v.v. mà còn bị xã ấp nó ăn hiếp, hoạnh họe cái này, cái khác; không, tôi không về”. Một ông giám đốc mà sợ công an ấp vì công an có quyền bắt ai thì bắt, giam ai thì giam. Một viên công an bảo: “Tôi làm việc 4, 5 năm rồi, mà bây giờ mới biết quyền hạn của tôi, từ trước tôi muốn làm gì thì làm”. Vì mất kỷ luật, cho nên thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự: ở miền Nam trốn tới 90%, có nơi cả 100% mà vẫn sống yên ổn. Bắt được họ, đưa họ ra mặt trận, họ lại trốn nữa. Không thể giam hoài họ được, gạo đâu mà nuôi? Họ sống yên ổn ngay ở làng vì chỉ cần đút lót cho công an là êm. Còn nạn đào ngũ thì toàn quốc tới 25%. Trước kia người ta hy sinh để giành độc lập; bây giờ độc lập rồi lại đánh nhau với nước anh em, người ta không hăng hái nữa. Nghe nói ở một tỉnh nọ, viên giám đốc sở tài chánh kiêm giám đốc ngân hàng (?) ôm 60 lượng vàng cùng với 30 viên công an xuống một chiếc tàu của chính phủ, mang theo đầy đủ khí giới (và không biết bao nhiêu lượng vàng nữa) để vượt biên. Tin đó chưa lấy gì làm chắc nhưng chuyện công an – cây cột chống đỡ chế độ – ôm vàng vượt biên thì mấy năm nay nghe thường quá rồi. Tinh thần vô kỷ luật đó, không biết một phần có phải do chính sách giáo dục trẻ em không. Người ta cấm đánh trẻ – điều đó có thể hiểu được – cấm nghiêm khắc với trẻ, chúng nghỉ học thì lại nhà mời chúng đi học; chúng làm biếng thì không bị phạt mà cô giáo bị trách là dạy dở. Kỳ tựu trường có nơi còn tổ chức múa lân, đốt pháo để dụ trẻ em đi học nữa. Cô giáo nào mời được ít trẻ thì bị rầy. Riết rồi cô giáo ngán dạy quá, cứ tự ý nghỉ bừa, hiệu trưởng phải tới nhà năn nỉ, nếu không thì lỗi ở hiệu trưởng chứ không phải ở cô giáo. Và người ta ngán luôn cả nghề sư phạm: dốt hoặc muốn tránh nghĩa vụ quân sự mới phải thi vô sư phạm. Kỷ luật như vậy, trẻ em càng được thể làm biếng, sức học rất kém, mà tính ngỗ nghịch (bóp vú cô giáo như trên đã nói) thì quá sức tưởng tượng. Một số cán bộ già ở Bắc vô nhận rằng trẻ em trong này ngoan ngoãn, lễ phép. Nhưng tôi sợ rằng ít năm nữa, chúng đuổi kịp bạn chúng ở Bắc mất. Kinh tế suy sụp Sự thất bại hiển nhiên nhất của chế độ là sự suy sụp của kinh tế mà tôi đã trình bày sơ lược ở trên. Hậu quả là Việt Nam trước thế chiến tự hào là “tiền rừng bạc bể”, có những đồng lúa, đồn điền cao su mênh mông ở miền Nam, những mỏ than, mỏ phốt phát (phosphate) phong phú ở miền Bắc mà bây giờ thành một trong vài nước nghèo nhất thế giới. Từ ngày 30-4-75, do những đồng bào ở Bắc vào, chúng ta ở Nam mới lần lần biết cảnh điêu đứng của dân tình ngoài đó sau 20 năm sống dưới chế độ mới. Từ trên xuống dưới ai cũng phải ăn độn có khi 60-70% (3); có hồi gạo quý tới nỗi người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng như nhân sâm, chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày Tết mà có đủ gạo nấu cơm cúng ông bà là mừng lắm; khi nào được ăn một bữa cơm không độn với nước mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm, có người ở Nghệ An hay Hà Tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người trong Nam ra đem theo nước mắm, xin một vài muỗng rồi cầm nuốt ực ngay hết, không đợi đem về nhà. Xem thêm: Màu nội thất 2024 Nhiều người vào Sài Gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ thứ, từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa bò, ve chai … đem ra, vì ở ngoài đó thường cần dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường. Nhưng một người Ba Lan trong ủy ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bảo chỉ trong 5 năm, miền Nam sẽ “đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quần áo … về giúp bà con ở đây thì chúng ta hiện nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi. Dân miền Nam từ xưa chưa bao giờ biết đói, phải ăn độn thì năm 1979 đã phải ăn độn 70-80%, có những gia đình phải ăn bữa cơm bữa cháo, có cô giáo và học sinh đói quá, tới lớp té xỉu Nhà nào cũng bán đồ cũ đi để ăn; nhiều giáo viên nhà đã trống rỗng, không còn bàn ghế nữa, ăn ngủ trên sàn. Ai cũng chỉ lo sao có cái gì nuốt cho đầy bao tử, chứ không dám nghĩ tới miếng ngon. Tết Canh Thân vừa rồi, ở Long Xuyên, nhà một giáo viên hồi hưu, trên bàn thờ ông bà chỉ bày một đĩa có mấy chiếc bánh phồng và bánh gai, không có một đòn bánh tét, một quả dưa hấu. Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài Gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép mủ … để bán cho “ve chai”. Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá. Không có tiền mua rau thì làm gì có tiền mua thịt. Muốn lâu lâu có thịt thì phải nuôi heo, gà, cho nên nhiều cơ quan ngay khi mới thành lập đã nghĩ ngay đến việc hùn tiền (hay lấy trong quỹ?) mua heo con, phân công nhau nuôi tại khu ở tập thể, như vậy đến lễ, Tết mới có thịt liên hoan. Người ta thèm thịt quá, cho nên liên hoan lu bù, bất kỳ một dịp gì cũng liên hoan được: một bạn đồng nghiệp được ban khen, ngày tựu trường, bãi trường, họp bạn để học tập, ban hành hiến pháp mới, làm xong một công tác, mỗi ngày lễ, Tết … mỗi năm liên hoan cả chục lần là ít. Cơ quan nào cũng có đủ nhà bếp, chén đĩa, xoong chảo, người làm bếp (lựa trong nhân viên) để nấu ăn làm tiệc Và khi ngồi vào bàn tiệc thì chẳng ai mời ai, đợi ai, mạnh ai nấy gắp, ăn cho thật mau (tới nỗi có người bảo cứ nuốt trước rồi sẽ nhai sau!), tệ gấp 10 thói ăn uống ở đình làng mà Ngô Tất Tố đã mạt sát trong cuốn Việc làng. Nghèo thì sinh ra ở bẩn. Ngay trong khu tập thể một trường Đại học Hà Nội, phòng một giáo sư ở Pháp về cũng dơ dáy, từ sàn gạch đến tường đều đầy vết bẩn. Hỏi như vậy làm sao chịu được, ông ta nhún vai đáp: “Lâu rồi quen đi” Không nên trách ông ta. Dù muốn sống sạch cũng không thể được: đâu có vôi để quét tường? đâu có xà bông để rửa sàn? đâu có giẻ để lau? Nước thì có nhưng phải xuống dưới sân để hứng rồi xách lên 5-6 chục bực thang, ai mà không ngại? Phải, lâu rồi thì quen đi. Nếu tình trạng không thay đổi thì chỉ mươi năm nữa, toàn dân sẽ quen đi, không thấy gì là bẩn nữa. Hiện nay ở trong Nam đã nhiều nhà để bụi đóng đầy bàn ghế – mà trước kia họ sống rất sạch – mạng nhện giăng đầy trần, còn dân thị xã thì đã quen với cảnh 4, 5 người cùi nằm trên đường đưa tới chợ, lăn ở giữa chợ để xin ăn. Câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” của ông cha, chúng ta không giữ được vì chúng ta nghèo tới mức không thể ở sạch được. NGUYỄN HIẾN LÊ.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 16, 2024 20:45:45 GMT 9
VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH ●Nguyễn Trần Diệu Hương
Tác giả, hiện cư trú và làm việc tại vùng San Jose, kể chuyện một mình vượt biển giữa thập niên 80’ và trở thành cô giáo cho những thiếu niên không thân nhân tại trại tị nạn.
Ngày 30 tháng Tư 1975, Saigon sụp đổ. Những gia đình đang ở trong các cư xá sĩ quan, cư xá công chức bị đuổi ra khỏi nhà. Cùng chung số phận, gia đình chúng tôi bị đuổi khỏi mái nhà thân yêu trong cư xá, nơi chúng tôi có một thời nhỏ dại êm ả. Mẹ đưa chúng tôi về căn nhà riêng Ba Mẹ đã xây nên bằng công sức của Ba Mẹ, nhưng nhà này cũng bị tịch thu. Sau hai lần mất nhà, chúng tôi lớn lên như câu ca dao "Còn cha gót đỏ như son, mất cha lăn lóc như lon sữa bò." Ba chúng tôi còn sống, nhưng đang bị đầy ải trong trại cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc. Những ngày u ám đó in hằn vào đầu óc của chúng tôi, khiến chúng tôi trưởng thành sớm hơn tuổi của mình, vì chỉ được xã hội cho nếm mùi cay đắng. Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người. Cũng như rất nhiều người vợ lính khác, Mẹ đảm đang, xuôi ngược nuôi chúng tôi, nuôi Ba trong các trại tù cải tạo từ Bắc vào Nam. Tất cả những điều đó đẩy chúng tôi đến đường cùng, không còn lựa chọn nào khác hơn là phải đưa chính mạng sống của mình đánh cuộc với định mệnh, với đại dương. Còn nhớ thời đó, người dân miền Nam Việt Nam vẫn truyền miệng một câu ngạn ngữ của thời đại "Một là con nuôi mẹ, hai là mẹ nuôi con, ba là con nuôi cá." Cứ thế một hai ba Mẹ lo cho con một mình vượt biển. Khả năng vượt thoát chỉ là một phần ba. Ròng rã gần mười lăm năm dài, từ cuối năm 1975 đến đầu năm 1990, hàng trăm ngàn thuyền nhân (hay theo như cách gọi của UNHCR United Nations High Commissions for Refugees, Cao Uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc là "Boat People") đã đến được bờ bến tự do. Cùng lúc, hàng trăm ngàn thuyền nhân khác gởi thân vào lòng đại dương. Chưa qua khỏi tuổi thơ, nước mất, nhà tan, chúng tôi, không có thời mới lớn, tự động bước vào tuổi trưởng thành trước những khó khăn của Mẹ, vượt quá nỗi khổ của bà Tú Xương ở thế kỷ mười chín, vừa nuôi chồng trong tù cải tạo, vừa nuôi một bầy con dại còn ở Tiểu học hoặc ở những năm đầu Trung học. Từng đứa một, khi có điều kiện, Mẹ gởi chúng tôi ra đi. Đến phiên tôi, Mẹ chỉ đưa được tôi ra bến xe liên tỉnh để đi Vũng Tàu. Cả hai mẹ con đều đội nón lá rộng vành để che những giọt nước mắt lã chã rơi không ngừng. Mẹ khóc nhiều hơn những lần đưa các anh em trai của tôi ra đi, vì tôi là con gái duy nhất trong nhà, thân gái dậm trường. Ngồi trên xe đò từ Saigon về Vũng Tàu, trong một góc xe đò, tôi úp nón lên mặt, để che đôi mắt sưng đỏ vì khóc của mình. Gần một tuần lênh đênh trên đại dương, chỉ có trời và nước, xanh thẫm ban ngày, đen kịt ban đêm, không có cả một cánh chim, tôi nhớ Ba, nhớ Mẹ quay quắt, nhưng vẫn hài lòng với chọn lựa của mình. Hai ngày đầu, như mọi người trong lòng thuyền, tôi bị say sóng, nôn ra cả mật xanh, mật vàng. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu thế nào là "mửa mật". Vậy mà chỉ hai ngày sau, quen dần với cảm giác bập bềnh của con thuyền nhỏ trước lực đẩy của nước ở đại dương, tôi tỉnh táo lại hoàn toàn với đầy đủ sinh lực của "tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu" mặc dù đã hai ngày không ăn uống. Khi thuyền ra hải phận quốc tế, chúng tôi được lên khoang thuyền hít thở không khí trong lành đầy vị mặn của đại dương, hình như có thoang thoảng mùi vị của tự do. May mắn hơn những người tỵ nạn khác, chúng tôi đi bình yên, không gặp một thuyền nào khác. Trời êm biển lặng vào tháng sáu đầu mùa hè đưa chúng tôi đến thẳng đất liền của Mã Lai sau năm ngày sáu đêm lênh đênh trên biến. Lên tới đất liền, cùng với chú lái tàu, tôi phải vận dụng vốn liếng tiếng Anh hạn chế đã tích lũy trong những tháng năm chuẩn bị vượt biên để giải thích cho nhân viên Cảnh sát Mã Lai biết chúng tôi là ai, tại sao chúng tôi đặt chân đến đây. Đó chỉ là lần đầu, một khởi đầu kéo dài mãi cho đến bây giờ, phải giải thích tương tự cho rất nhiều người khác nhau thuộc nhiều chủng tộc hiểu tại sao chúng tôi phải bỏ quê hương ra đi để sống đời lưu vong. Những giờ phút đầu tiên trên đất liền, chúng tôi lại bị "say đất". Quen với trạng thái bồng bềnh, trôi nổi trên mặt nước; khi trở lại mặt đất bằng phẳng, mỗi lần đặt bước chân xuống, tôi có cảm giác mặt đất chao đảo như còn trên mặt sóng nhấp nhô. Sau hai ngày bận rộn với đủ thứ giấy tờ khai báo với cảnh sát địa phương Mã Lai, chúng tôi được đưa ra trại Pulau Bidong, trại tỵ nạn chính thức của Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đặt trên lãnh thổ Malaysia để thành một người tỵ nạn chính thức có số căn cước thuyền nhân, chờ được phỏng vấn định cư ở một nước thứ ba. Lần này, hành trình từ đất liền ra đảo Pulau Bidong vững chắc hơn trên một thuyền khá lớn của UNHCR, có tên là "Blue Dart", khoảng cách lại ngắn, nên chúng tôi không bị say sóng. Trại tỵ nạn Pulau Bidong đã dược xây dựng tương đối đầy đủ khi chúng tôi đến đảo vào giữa thập niên 80, có đủ trường Tiểu học, Trung học cho trẻ em, trường huấn nghệ (Vocational School) cho người lớn, có thư viện, có cả Chùa, Nhà thờ trên "đồi tôn giáo", có Bệnh viện với cái tên khá ngộ nghĩnh và dễ nhớ là "Sick Bay". Chúng tôi được đón tiếp với những thùng mì ăn liền vĩ đại hãy còn bốc khói, giống hệt như những thùng mì Liên Hiệp Quốc phân phàt cho nạn nhân của thiên tai Tsunami ở South Asia cuối năm 2004. Lần đầu tiên ăn đồ cứu trợ, sống bằng lòng nhân đạo của người khác, một thân một mình ở trại tỵ nạn của một đất nước khác, nước mắt tôi lăn dài, nghĩ đến Ba vẫn đang mỏi mòn trong ngục tù cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc vẫn thiếu ăn, thiếu mặc; nghĩ đến Mẹ đang vò võ một mình ở nhà, chắc là vẫn đang cầu nguyện cho bầy con đã tứ tán mỗi đứa một quốc gia, một phương trời khác nhau, ở tuổi chưa đến hai mươi. Tưởng là mình đã rất can đảm khi dám chấp nhận cảnh "thân gái dặm trường", không ngờ, ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, đến khu vực Cô nhi (Minor Refugees Residential Section), dành cho các em dưới mười sáu tuổi đến trại tỵ nạn một mình, tôi thấy em nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi. Ở đó, có Hanh, chỉ mới mười một tuổi, thông minh, đầy cương nghị, có Bố đang bị "học tập cải tạo" - như Ba tôi - được Mẹ gởi đi vượt biển một mình trên một thuyền bị hải tặc, mọi người đói lả gần ba ngày trước khi đến được trại tỵ nạn. Ở trại tỵ nạn, cậu bé tuy mới mười một tuổi nhưng có sự khôn ngoan và nét chửng chạc cúa một người ngoài hai mươi học hành chăm chỉ, hết học Anh Văn lại quay qua học Toán, quanh quẩn cả ngày ở trường Trung học trên đảo Pulau Bidong. Ở đó, có Huyên, một em gái mới mười ba tuổi, cả gia đình mất tích trên biển khi thuyền bị lật. Như một phép màu, Huyên bám được một thùng plastic rỗng, trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương gần nửa ngày, trước khi được một tàu tỵ nạn khác đi ngang vớt lên. Người ta đã thấy cô bé Việt Nam nhỏ bé mắt nhắm nghiền, gần như hôn mê bất tĩnh. thân xác mỏng manh như chiếc lá khô, hai tay vẫn còn bám chặt cái thùng nhựa rỗng bồng bềnh trên đại dương. Ở đó, có Việt, rất thâm trầm, dù mới mười lăm tuổi, nhà cửa bị tịch thu, Ba bị giam ở khám Chí Hòa vì "tội nhà giàu", Mẹ gởi em ra đi với nhà hàng xóm để thoát khỏi tương lai đen tối của giai cấp "tư sản mại bản". Còn biết bao các em khác nữa. Mười một tháng sau đó ở Pulau Bidong, với vốn liếng Anh ngữ từ những năm ở trường Trung học, và những sách vở của thư viện trên đảo, tôi đã có cơ hội giúp cho UNHCR và cả các phái đoàn Mỹ, Canada, Úc trong việc thông dịch mỗi khi họ đến phỏng vấn thuyền nhân. Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm giác xót xa khi nhớ lại những lần thông dịch cho những ngưồi đàn bà, con gái Việt Nam bị làm nhục bởi hải tặc trên đường vượt biển, em nhỏ nhất chỉ mới mười hai tuổi. Hồi đó, Cao ủy trưởng Alan ở Pulau Bidong chỉ định tôi chuyên làm công việc thông dịch đàn bà con gái trong các cuộc phỏng vấn các thuyền vượt biển bị hài tặc. Đó là một công việc rất tế nhị và đầy xót xa. Đến một độ nào đó, nỗi đau vượt quá sức chịu đựng, người ta mất cảm giác. Nhiều người nữ thuyền nhân, mặt còn đầy nỗi kinh hoàng nhưng kể lại từng chi tiết ô nhục mà chính mình phải gánh chịu với giọng đều đều, thản nhiên, lạnh lùng như nói chuyện trời mưa, trời nắng, trong khi chính tôi và cô May, Cao ủy của UNHCR đã giọt ngắn giọt dài. Mỗi lần dịch hay viết xong một hồ sơ tàu tỵ nạn bị cướp, tay áo tôi ướt đẫm vì nước mắt. Tôi vẫn tự hỏi thủ phạm trực tiếp cho nỗi đau này là hải tặc Thái Lan, thủ phạm gián tiếp thực sự là ai? Đó là khoảng thời gian rất bận rộn với công việc thông dịch ban ngày giúp cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn. Ban đêm, tôi còn dạy thiện nguyện cho các em , chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, ở trường Trung học trên trại Tỵ nạn. Trường chỉ dạy hai môn Anh văn và Toán. Sách học là những quyển sách đơn giản tương đương trình độ của bộ "English for Today" quyển I đến quyển III. Trước ngày ra đi, tôi chỉ mới học xong quyển IV ở Việt Nam , nhưng nhờ làm việc, tiếp xúc nhiều với các nhân viên UNHCR, và bằng long thương yêu các em chân thành như em ruột của chính mình, tôi mang hết kiến thức và hiểu biết của mình truyền lại cho các em, mặc dù tôi chưa hề được qua một trường lớp nào về Sư phạm. Chúng tôi, những người dạy thiện nguyện ở trường Trung hoc, vẫn đùa với nhau là mình đã theo một "trường phái sư phạm mới", lối dạy "mèo nhỏ tha chuột lớn". Có lần, giải nghiã cho các em một từ mới, "dignity" - có nghĩa là phẩm giá - tôi không biết làm thế nào để giảng cho các em hiểu, đành viết lên bằng câu thí dụ "We lost everything, but never lose our dignity". Viết đến đó, tự dưng nước mắt tôi lăn dài, các em ở tuổi mười bốn, mười lăm lúc đó cũng khóc theo. Những giọt nước mắt đó vẫn còn đọng trong tâm khảm tôi cho đến bây giờ, cùng có niềm tin ở một thế hệ trẻ lưu vong có đầy đủ đầu óc và trái tim Chắc chắn, các em học sinh lúc đó, trên bước đường tha hương sau này, sẽ nhớ và hiểu nghiã chữ "dignity" hơn ai hết, và các em sẽ sống xứng đáng với lòng kỳ vọng của thân sinh các em, khi Ba Mẹ các em đã phải đứt ruột gởi con ra biển một mình. Mỗi tuần hai lần, tàu "Blue Dart" của UNHCR cho nước ngọt, mì gói, gạo và thực phẩm tươi gồm gà và rau cải, đôi khi còn có dưa hấu hay thơm, vào cho thuyền nhân. Hầu hết chúng tôi đến trại tỵ nạn chỉ với một bộ quần áo dính trên người. Chúng tôi được phát áo quần từ một kho áo quần "second hand", tương tự như áo quần cũ bán trong Goods Will ở Mỹ. Áo quần thường rộng thùng thình, quá khổ, nhưng chúng tôi tự sửa lại đúng với kích thước của mình. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đã rất là chu toàn trong việc bảo vệ và chăm lo cho những người tỵ nạn chính trị, Đến lúc được chuyển qua trại chuyển tiếp Bataan ở Philippines để được hướng dẫn về đời sống văn minh của Mỹ trước khi chính thức đến Mỹ như một người tỵ nạn, chúng tôi được huấn luyện chương trình buổi sáng, buổi chiều làm "Teacher Aid" cho các giảng viên người Phi. Ở đó, đời sống đầy đủ hơn, và lạc quan hơn vì chúng tôi biết chắc chắn ngày mình được định cư ở Mỹ. Và cũng ở đó, tôi có thì giờ tự học nhiều hơn cho chính mình, chuẩn bị một thời kỳ gian nan khác, một khởi đầu từ con số không ở quê hương thứ hai. Một vài lần được về chơi ở Manila (thủ đô của Philippines) , những chuyến du lịch đặc biệt bằng xe bus dành riêng cho các "Teacher Aid", chúng tôi vẫn ngậm ngùi thương cho sự lạc hậu của đất nước mình ngay cả khi so sánh với các nước Á châu khác như Philippines. "Nỗi buồn nhược tiểu" đó càng tăng cao khi trên đường bay qua Mỹ, tôi được dừng chân hai ngày ở Tokyo - Nhật, thủ đô của nước Á châu giàu mạnh nhất sau khi nếm bài học xương máu với hai cột khói trắng hình nấm khổng lồ ở Hiroshima và Nagasaki cuối thế chiến thứ hai. Tokyo văn minh sáng rực ánh đèn ban đêm tương phản với Saigon lạc hậu tranh tối, tranh sáng, Nước mắt tôi lại chảy xuống cho sự thụt lùi của quê hương đã bị bỏ lại sau lưng. Tôi đến Mỹ một tuần trước lễ Giáng sinh, cùng một thuyền nhân Việt Nam khác, hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng được giao từ UNHCR, giúp đoàn người tỵ nạn gồm 85 người kể cả một vài người Lào và Cambodia cũng trốn chạy khỏi quê hương như chúng tôi. Giữa những hành khách Mỹ tự tin, cao to, với nhiều hành lý cồng kềnh về nước đoàn tụ với gia đình nhân dịp Giáng sinh và Tết dương lịch, rất dễ nhận ra những người tỵ nạn nhỏ bé, mảnh mai mắt mở to vui mừng lẫn ngơ ngác, chỉ có hai bàn tay trắng với những túi xách của UNHCR và IOM (International Organization for Migration), chỉ có giấy tờ nhập cư vào Mỹ và giấy tờ tùy thân . Được chuẩn bị đầy đủ với gần 6 tháng học về "American Culture Orientation" ở trại chuyển tiếp Bataan, Philippines, với trình độ Anh văn tương đối sau một năm tiếp xúc và làm thông dịch viên cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn LHQ, tôi không đến nỗi bị lâm vào cảnh "mán về thành", nhưng thật sự đời sống ở Mỹ khác xa với đời sống ở quê nhà như mặt trời với mặt trăng, như ngày với đêm. Hình ảnh của Ba với mái tóc bạc trắng ở tuổi năm mươi trong lao tù cải tạo, hình ảnh Mẹ với đôi mắt buồn trong những ngày chuẩn bị gởi chúng tôi ra đi là nguồn nghị lực không bao giờ cạn, tiếp sức cho chúng tôi trong thời gian chân ướt chân ráo ở quê hương thứ hai. Từ nhiều trại tỵ nạn ở nhiều nước khác nhau: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines, anh chị em chúng tôi đến Mỹ trong nhiều thời gian khác nhau, được trùng phùng, như trăm sông đổ về biển, và mang sức sống của tuổi hai mươi lao vào đất nước của tự do và cơ hội. Một người bạn cũ của Ba, qua Mỹ từ năm 1975, đang làm ở tổ chức thiện nguyện USCC, giúp tôi có được trợ cấp một lần là 650 dollars dành cho người tỵ nạn mới đến , bác viết cho tôi một reference letter và từ đó " I'm on my own way". Bác cũng giới thiệu cho tôi đến tìm việc làm ở một vài nơi. Trời thương, "thánh nhân đãi kẻ khù khờ", tôi được nhận vào làm full time ở một công ty lớn chỉ hai tuần sau ngày đến Mỹ. Lúc đó là đầu tháng giêng, giữa mùa Đông ở Mỹ, trời lạnh buốt, buổi sáng tôi thức dậy từ sáu giờ ba mươi, trời còn tối, ra đứng chỗ xe bus ở đầu đường, trời lạnh cóng, dưới 40 độ Fahrenheit, tôi phải mặc ba bốn lớp áo, nhưng áo quần cũ chị em chúng tôi đã mua từ Goods Will để vừa với túi tiền của mấy chị em lưu lạc quê người, chỉ có hai bàn tay trắng, với lòng tin của Ba Mẹ đặt ở mỗi chúng tôi. Một tuần sau, chịu không nổi cái lạnh gần đông đá , từ 32 đến 39 độ Fahrenheit của mùa đông thứ nhất ở Mỹ, tôi dùng cái paycheck đầu tiên của mình thuê người dạy lái xe và dốc hết tiền trợ cấp một lần cho người mới đến mua một cái Toyota Celica đã mười bốn tuổi, để đi học và đi làm. Đời sống lúc đó, còn nhỏ, là một hình tam giác với ba đỉnh là nhà, trường học và sở làm không hề có giải trí, không có cả thời gian để buồn và nhớ nhà. Đến Mỹ muộn màng, sau gần mười năm miền Nam sụp đổ, biết thân phận mình là "trâu chậm", chúng tôi lao đầu vào học, không dám để phí thêm một giờ phút nào. Mùa hè, học phí cao hơn, tôi chỉ ghi danh theo học một lớp, và làm part time cho một trạm bán xăng ở gần nhà Nghĩa là lúc đó, tôi đi làm full time, đi học full time quanh năm. Nhiều lúc quá mệt mỏi, tôi lại tự nâng đỡ tinh thần mình bằng câu nói cửa miệng của người Mỹ "No pain, no gain", và nhớ đến kỳ vọng của Ba Mẹ đã đặt ra cho chúng tôi. Buồn nhất là những lần bất chợt nghe được những câu hát rất đúng với tâm trạng của mình: "Ai trở về xứ Việt, nhắn giùm tôi người ấy ở trong tù .....", nghĩ đến Ba, nước mắt tôi vẫn lăn dài, và tự bảo lòng mình phải cố gắng học giỏi hơn để Ba Mẹ vui hơn, đủ nghị lực sống trong đời sống bị khủng bố tinh thần thường xuyên ở quê nhà. Có lần được phát biểu cảm tưởng với thời gian ba phút trong một lần nhận học bổng, tưởng là sẽ cảm ơn đủ tất cả mọi người và hứa với "scholarship foundation" sẽ cố gắng nhiều hơn, nhưng tôi chỉ nói được gần hai phút: - Xin cảm ơn tất cả thầy cô đã có công dạy dỗ tôi, xin cảm ơn Hội đồng trao tặng học bổng cho tôi. Xin tri ân đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang và cung cấp một đời sống tự do, no đủ cho tất cả những người tỵ nan, lưu vong. Vinh dự hôm nay xin được dành riêng cho tất cả những người đã nằm xuống cho chúng tôi có được ngày hôm nay, và xin đặc biệt danh riêng cho Ba tôi, người vẫn còn đang bị đày ải trong lao tù Cộng sản vì đã ở trong một quân đội bảo vệ tự do, xin được dành riêng cho Mẹ tôi, người đã rất chu toàn trong việc nuôi dậy con cái một mình. Một phút còn lại, tôi không nói được vì cử tọa trước mặt đã mờ đi sau màn nước mắt, mùi vị đắng cay sau năm 75 ở quê nhà vẫn kéo về với đầy nỗi xót xa, ngay cả trong giờ phút ngọt ngào nhất. Một thầy giáo người Mỹ gốc Ba Lan đã tỵ nạn Cộng sản từ cuối thập niên 60, dạy tôi từ năm đầu Đại học, hiểu rất rõ tâm trạng của một người tỵ nạn, đã lên diễn đàn giúp tôi hoàn tất lời phát biểu. Lần đó, tôi được đặc cách đề cử trực tiếp cho học bổng niên khoá kế tiếp, mà không phải qua những thủ tục bình thường. Món tiền tuy không lớn, cũng đủ để trang trải chi phí sách vở, học phí, ăn ở cho một năm học, là một yểm trợ vật chất lớn lao cho tôi trong ba năm đầu chân ướt chân ráo ở quê người. Có những điều hằn sâu trong ký ức, lúc nào cũng tưởng như mới vừa xẩy ra, như chuyện say sóng đến độ "mửa mật" của những ngày lênh đênh trên đại dương vẫn ám ảnh tôi không nguôi. Cho nên, có lần được chọn là "Employee of the year" được tặng vé cho một chuyến đi cruise trên biển một tuần cho hai người, nhớ lại cảm giác đắng nghét ở miệng, cảm giác mất thăng bằng của những ngày mới đặt chân lên đất liền, tôi đã nhường lại phần thưởng đó cho "the runner up" trước con mắt ngạc nhiên của mọi người làm cùng chỗ. Đó không phải là điều duy nhất người bản xứ không hiểu những người tỵ nạn, những người Mỹ gốc Việt lưu vong. Họ cũng không hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam nhỏ bé ốm yếu vẫn đội mưa đội gió hàng giờ giương cao những tấm biểu ngữ "Human Right for VietNam", "Freedom for VietNam" ở một góc đường nào đó trong đời sống lạnh lùng, đầy tất bật của đất nước Hoa kỳ. Sau khi đã ổn định, - đã có một "career" đàng hoàng thay cho cái "job" để kiếm sống - có thời tôi đi dạy thiện nguyện cho một trường Việt ngữ ở điạ phương, học sinh là các em teenagers. Dù cùng tuổi nhưng học trò của tôi bây giờ vô tư, ngây thơ, khác xa các em trong trại tỵ nạn chững chạc, trưởng thành trước tuổi. Ở trường Việt ngữ, ngoài bài giảng từ sách của trường, thì giờ còn dư, chúng tôi giảng trích đoạn từ tác phẩm "Mùa hè đỏ lửa" của nhà văn Phan Nhật Nam, từ bài thơ bất khuất "Nếu ai hỏi" của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện để các em hiểu rõ hơn giá trị của tự do, và biết yêu thương cha mẹ hơn, biết ơn cha mẹ các em đã hy sinh rất nhiều để các em có được ngày hôm nay. Đời sống ở Mỹ vốn tất bật, nhưng một phút bình lặng nào đó của tâm hồn, dù đang bị kẹt xe trên một xa lộ xe cộ tất tả ngược xuôi hay đang ở trong một cuộc họp ở sở, đầu óc tôi vẫn lang thang về với quê nhà, và buồn thay, bao giờ cũng vậy, mùi vị đắng nghét như đang bị "mửa mật", mùi vị chua cay của một thời vẫn hiện về, rõ ràng, mồn một như chuyện hôm qua. Và có một lần "chuyện hôm qua" càng rõ nét hơn. Đến thăm Massachusetts Institute of Technology (MIT) nổi tiếng về chuyên ngành Toán và Kỹ thuật, đang ngồi chờ người bạn ở cafeteria của trường, bỗng một sinh viên người Á châu đi qua, đi lại trước mặt tôi nhiều lần. Sau cùng, anh ta dừng lại, lịch sự hỏi bằng tiếng Mỹ: - Xin lỗi, chị có phải là cô Thuyên ở trường Trung học Pulau Bidong năm 1988 không? Tôi trả lời bằng tiếng Việt: - Đúng rồi, em có thể nhắc cho tôi nhớ em là ai không? Người thanh niên vui mừng, rồi bằng một thứ tiếng Việt rõ ràng và lễ độ, anh ta trả lời: - Em là Hanh đây chị, em học cùng lớp với Huyên và Việt ở Pulau Bidong. Chị nhớ em không? Hanh vẫn nhận ra tôi sau mười lăm năm không gặp, nhưng tôi thì không thể nhìn ra được anh thanh niên cao lớn chững chạc trước mặt mình là cậu bé đen nhẻm, chững chạc, chăm học ở trại tỵ nạn năm xưa, Hanh lúc đó đang ở năm cuối của chương trình Tiến sĩ Toán, như ước mong ngày nào em đã trình bày trong một giờ thực tập nói tiếng Anh ở lớp học nhỏ xíu, mái lợp tôn thô sơ giữa đảo Pulau Bidong. Hanh kể cho tôi nghe về chuyện em đến Mỹ một mình ở tuổi mười hai, cùng với một nhóm ngườI Việt Nam tỵ nạn đặt chân đến Mỹ ở phi trường San Francisco, Hanh đổi máy bay về Massachusetts. Đi một mình, dưới mười lăm tuổi, nên Hanh được một cô Stewardess đích thân dắt lên máy bay trước. Ra đón cậu bé tỵ nạn Việt Nam ở phi trường Logan Boston - là đại diện của một tổ chức thiện nguyện và cha mẹ nuôi của Hanh. Đó là một gia đình ngươi Mỹ gốc Tiệp Khắc, qua Mỹ tỵ nạn từ thập niên 60s. Dù chưa bao giờ có ý định xin con nuôi, nhưng thấy Hanh là một cậu bé mới mười một tuổi vượt biển một mình, không có thân nhân, nên họ muốn đưa Hanh về nuôi. Cả hai ông bà đều dạy Trung học. Ông dạy Toán, bà dạy Home Economics (tương tự như môn Nữ công gia chánh ở Việt Nam). Người con duy nhất đi học xa, ông bà vẫn làm việc thiện nguyện ở một Nhà thờ Tin lành vào cuối tuần. Khi thấy tên Hanh, một em nhỏ tỵ nạn Việt Nam mới mười một tuổi, không có thân nhân ở Mỹ, được nhà thờ tìm người bảo trợ, họ xin nhận Hanh làm con nuôi. Vẻ chín chắn cùng sự khôn ngoan trước tuổi của Hanh đã chinh phục được lòng thương yêu của bố mẹ nuôi người Mỹ từ lúc đầu. Vì cả hai ông bà đều là nhà giáo, Hanh lại có căn bản về cả tiếng Anh lẫn học lực, lại chăm chỉ học hành nền em được vào thẳng lớp bảy như các học sinh bản xứ mà không gặp trở ngại nào. Lên Trung học, Hanh tốt nghiệp thủ khoa Trung học. Với sự hướng dẫn quý báu của cha mẹ nuôi, với thành tích học tập xuất sắc trong bốn năm Trung học, cậu bé Hanh tỵ nạn năm xưa nhận được học bỗng toàn phần của MIT, trong niềm hãnh diện của cha mẹ nuôi ở Mỹ lẫn cha mẹ ruột ở Việt Nam. Giữa thập niên 90s của thế kỷ hai mươi, ba mẹ sinh thành cùng hai em của Hanh được qua Mỹ theo chương trình nhân đạo HO. Vậy là Hanh có đến hai ông bố, hai bà mẹ, và hai gia đình cùng ở tiểu bang Massachusetts, trong hai thành phố kế cận nhau. Không muốn làm mất lòng gia đình nào, và để được tập trung học tập, Hanh vào nội trú trong MIT. Mổi thứ bảy về với cha mẹ ruột, ăn món ăn Việt Nam do mẹ nấu, nghe ba kể về những đọa đày ông phải gánh chịu trong các trại "cải tạo". Và mỗi chủ nhật, về lại căn phòng thân thuộc mà cha mẹ nuôi đã dành cho Hanh từ ngày cậu bé Việt Nam, da còn đậm màu nắng gió của trại tỵ nạn, chân ướt, chân ráo đến Mỹ. Căn phòng dù không còn được dùng thường xuyên, nhưng trong closet vẫn còn treo hai bộ áo quần kỷ niệm của Hanh, một bộ Hanh mặc khi mới đến Mỹ được người bảo trợ ra đón, và bộ kia là bộ áo quần đầu tiên Hanh được bố mẹ nuôi mua cho. Ở một góc bàn học, vẫn còn cái lọ thủy tinh có cắm hai lá cờ nhỏ, một sọc trắng đỏ với năm mươi ngôi sao của Mỹ, một màu vàng với ba sọc đỏ của Việt Nam. Trên tường vẫn còn hình Hanh năm mười tám tuổi, chững chạc trong áo mũ và dây choàng thủ khoa (valedictorian) ngày tốt nghiệp Trung học. Một chi tiết rất cảm động trong câu chuyện của cậu bé tỵ nạn ở Pulau Bidong năm xưa là hồi mới đến Mỹ, mỗi lần được cho kẹo chocolate, Hanh chỉ ăn một phần nhỏ và để dành hầu hết kẹo để gởi về Việt Nam cho hai em và cho các bạn. Điều "bí mật" đó bị phát hiện khi hai ông bà Mỹ thấy cậu con nuôi ăn uống rất chừng mực từ tốn nhưng luôn luôn xin được mua thêm chocolate. Kẹo "để dành" thường được Hanh gói cẩn thận trong những túi nylon dán kín để trong một góc tủ áo quần. Halloween đầu tiên ở Mỹ, đi học về, làm xong bài vở, trời vừa sụp tối, Hanh xin phép ba mẹ nuôi cho đi xin kẹo. Cậu bé miệt mài đi bộ một mình trong thời tiết se lạnh đầu mùa thu ở miền Đông Bắc trên bốn năm con đường, gõ cửa từng nhà xin kẹo. Kêt quả rất khả quan, sáng hôm sau Hanh gởi được một thủng kẹo mười hai lbs (khoảng 5kg) về Việt Nam mà cước phí còn cao hơn cả tiền mua kẹo. Có nguồn gốc là người Tiệp Khắc, một thời đã phải sống dưới chế độ Cộng sản, bố mẹ nuôi của Hanh hiểu ngay mọi chuyện. Và ông bà càng quý Hanh, cậu bé Việt Nam tuổi còn nhỏ nhưng tấm lòng đã rất lớn. Đến phiên tôi, tôi cũng kể cho Hanh nghe giòng đời đã đẩy đưa tôi từ trại tỵ nạn năm xưa đến California như thế nảo. Có nằm mơ, tôi cũng không tưởng tượng nổi mình gặp lại được cậu học trò đen nhẻm vì vị mặn của gió biển ở Mã Lai, có đôi mắt sáng nhưng lúc nào cũng buồn ở trường Trung học trên đảo Bidong ngày nào. Ước gì tôi cũng gặp được Huyên và Việt, cũng như đã hội ngộ rất bất ngờ với Hanh ở một góc trường MIT ở miền Đông Bắc nước Mỹ. Nhưng dù chưa hay không có dịp tái ngộ với Huyên và Việt, tôi vẫn tin hai em đã rất thành công như Hanh, chứng minh mình có thể làm được nhiều điều, chẳng hạn như chuyện học hành, mà có một thời ở trong nước , sau tháng 4/75, nhà cầm quyền không cho phép mình làm. Tất cả chúng tôi dều giống nhau ở chỗ phải xa nhà, bỏ đất nước ra đi một mình, dù lúc nào trong tâm tưởng của chúng tôi cũng có một vị trí trang trọng cho quê hương chôn nhau cắt rốn đã phải bỏ lại sau lưng. Chúng tôi đã phải mang cả sinh mạng của mình ra đánh cuộc với định mệnh, với đại dương; một cái giá không một khoản tiền nào, dù lớn đến đâu có thể mua được. Những được mất với cuộc đời hãy còn ở trước mặt, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ cố gắng không ngừng để xứng đáng với cái giá mình phải đánh đổi. Chia tay Hanh hôm đó, tôi mang theo câu nói của Hanh với khuôn mặt rất nghiêm trang, già trước tuổi, và vẫn với đôi mắt buồn xa vắng như lần đầu tiên tôi gặp em ở trường Trung học trên đảo tỵ nạn: - Điều em vui nhất là đã đền đáp được phần nào ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ ruột và ân tình cưu mang của bố mẹ nuôi. Em vẫn cố gắng hết mình, cố gắng đến hết cuộc đời để luôn làm cho cả Ba Mẹ lẫn Mommy, Daddy của em vui Điều duy nhất không chắc em có làm được hay không, là "gánh sơn hà" mà đôi lúc Ba em và các bác, các chú cùng thời vẫn nửa đùa nửa thật là đã trao lại cho thế hệ của mình. Hanh dừng một chút rồi hỏi một câu mà đến bây giờ tôi vẫn chưa biết cách trả lời: - Gánh sơn hà nặng lắm một mình em hay cả hai chị em mình không thể nào gánh nổi! Chị ơi, làm thế nào để cả thế hệ của mình đủ sức gánh nổi sơn hà hả chị? Câu hỏi đó cứ quanh quẩn trong tôi và chắc là phải còn lâu, lâu lắm, tôi mới biết được câu trả lời chính xác Nhưng tôi tin là chỉ cần một phần mười của một thế hệ Việt Nam (cả ở hải ngọai lẫn trong nước) biết đoàn kết, có nhiệt tâm gánh vác non sông với chí khí của Trần Quốc Toản, với lòng yêu nước của Nguyễn Thái Học và với đầu óc của Lê Quý Đôn thì gánh sơn hà sẽ nhẹ nhàng như cái cặp đi học rất thân thuộc của một thời đèn sách. @nguyễn Trần Diệu Hương (Viết cho Lan Hương, Tiến, Tuấn và những thuyền nhân "đi biển" một mình).
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2024 19:56:39 GMT 9
Yến Phương
“NHỮNG CHUYẾN VƯỢT BIÊN
Sau năm 1975 , cuộc sống của người dân miền Nam đa số vô cùng vất vả và khó khăn , trong đó có gia đình tôi. Chắc có lẽ vì người dân miền Nam quen với nếp sống an lành , tự do , tự tại , cho nên khi sống với 1 thể chế mới bị áp bức , ràng buộc và khó khăn trăm bề thì quyết định của người dân miền Nam là phải tìm đường thoát ly khỏi cái thể chế ấy bằng nhiều cách , chỉ mong sao cuộc sống của họ đỗ được bến bờ bình an và tìm lại sự tự do , tự tôn của 1 con người . Thời gian trôi qua trong cái xã hội khó khăn đó , may mắn cho GĐ tôi có người chị Ba ( chị Hà )đi định cư ở Mỹ ngay trong năm 75 , chuyến đi của chị và đứa em gái út ( Thủy )thật bất đắc dĩ , nhờ vậy mà đến năm 1987 , chị tìm cách đưa các chị em trong GĐ vượt biển . Tất cả được 2 chuyến , tổng cộng 4 người trong GĐ tôi , đều thành công . Tôi còn nhớ , vào mùa thu năm 1987 , ngày chị Hai ( chị Thu ) tôi chuẩn bị đi , lúc đó tôi đang mang bầu đứa thứ 2 được 7 tháng , tôi nói với chị : " cho em đi với ", chị nói : " để chị đi trước , khi nào em sanh xong chị sẽ tính cho ". Chuyến đi đó chị đã thành công. Và gần 2 năm sau , như lời hứa , chị kết hợp với người chị thứ Ba ( chị Hà ), lên phương án cho vợ chồng tôi 1 chuyến đi vượt biển . CHUYẾN VƯỢT BIÊN LẦN THỨ NHẤT Vào 1 ngày cuối năm 1988 ( Âm lịch ) , vợ chồng tôi có nhận 1 cú điện tín của 1 người ở Nha Trang tên Năm ,( nội dung của điện tín ấy ghi chung chung tạm nhớ là đến điểm hẹn ) Chuẩn bị cho hành trang vượt biển , thật sự VC tôi khg biết cần phải mang những gì , vì còn 2 con nhỏ : con gái ( Yến Phương ) gần 5 tuổi và con trai ( Vũ Bùi ) gần 2 tuổi , đồ đạc vẫn ưu tiên cho các con nhiều hơn ( 1 túi xách quần áo và 1 túi đồ ăn ) Khoảng chiều tối trước ngày đi , vợ chồng tôi dắt díu các con ra bến xe lam để đến nhà cậu mợ Ba ( Quang ) ở Thị Nghè ngủ nhờ qua đêm để sớm mai đến điểm hẹn cho kịp (vì là chuyến đi lần đầu tiên nên sợ bị trễ ) . Tại nhà cậu mợ Ba suốt đêm hôm đó , chúng tôi khg tài ngủ được , phần lạ chỗ , phần lo lắng . Đến gần sáng thì GĐ cậu mợ đã dậy để chuẩn bị dọn hàng bán ( hồi đó , nhà cậu mợ Ba bán cơm tấm ). Chúng tôi dậy theo để sắp xếp chuẩn bị cho chuyến hành trình của mình , thì được mợ Ba bày sẵn ra những dĩa cơm tấm nóng hổi , ép chúng tôi phải ăn để có sức mà đi tiếp . Ăn xong , cậu Ba chạy ra ngoài gọi chiếc xích lô vào nhà để chở GĐ chúng tôi tới điểm đã hẹn . Đến nơi , chắc có lẽ chồng tôi hiểu được vấn đề , khg biết có mật khẩu hay ký hiệu gì khg , anh cứ thế lên chiếc xe đò ấy mà đi Nha Trang .Lúc đầu tôi chưa hiểu chuyện vì cứ tưởng lên xe sẽ di chuyển tiếp tới nhà người tổ chức, nhưng khg phải vậy mà tất cả những người cùng lên xe ngày hôm đó đều là những người như mình , khg ai biết ai , họ đều là những người được lệnh và theo lệnh . Sau này tôi mới hiểu , chuyến xe hôm đó rất đặc biệt , họ chỉ đón khách chứ khg trả khách , chạy với tốc độ trung bình , cũng ghé trạm ăn cơm và đi vệ sinh , rất thong thả chứ khg vội vã ( điều này ngay lúc đó tôi chưa biết , nhưng sau này tôi hiểu , chẳng qua họ đang canh và câu giờ mà thôi ). Chuyến xe xuất phát từ SG chạy suốt đến Nha Trang ngày hôm đó và cuối cùng dừng lại 1 điểm , lúc đó là 11g hay 12g đêm , xung quanh tôi yên tĩnh , bóng đêm bao phủ đến lạnh người , tôi khg nhớ rõ mình đang ở đâu , nhưng tôi thấy mình ngồi trên chiếc xe đò đó ,có khoảng 50 hay 60 người , ngột ngạt , chật chội đến phát mệt , tới điểm xuất phát nhưng chưa có lệnh xuống , nên tất cả ngồi yên trên xe , bổng nhiên , thằng con trai 18 tháng tuổi của tôi khóc , nó khóc mà không sao dỗ được , tiếng khóc trong cái đêm thanh vắng ấy , nghe nó vang cả 1 khg gian tĩnh lặng mà phát sợ , sợ bị lộ rồi bị bắt , trên xe ai cũng khuyên tôi cố gắng làm cách gì đó cho nó im lặng , nhưng hỡi ôi , dụ đủ cách , hăm dọa đủ kiểu , nhưng khg hiểu sao nó cũng khg chịu nín. Đang lúc đó , có tín hiệu xuất phát , mọi người chạy ra khỏi xe để đi theo 1 người chỉ đường ( đó là dân địa phương được phân công cho chuyến vượt biên này ) . Trước tiên là băng qua con lộ , theo dòng người cứ thế mà đi rồi chạy , trời thì tối mịt , người thì cắm đầu chạy , vợ chồng tôi , tay bồng tay bế , tay xách nách mang rất là khổ sở , cũng ráng chạy theo mọi người , khi chân mình chạm đất thì mới biết đất sình , đất ruộng của người dân ở địa phương đó , nhớ lại cái cảnh đạp lên thửa ruộng mà đi của người ta thì chắc chắn sáng ngày mai sẽ bị người ta rủa te tua cho coi . Chạy qua khỏi cánh đồng đó, nó lộ ra được khoảng đất trống , chỉ có vài bụi cây nhỏ , xung quanh mọi người lại nhốn nháo , chó sủa inh ỏi tứ phía , chồng tôi nói : "kiểu này chắc bị lộ quá , đi trốn mà la um xùm vậy trời " . Lúc đó nghe người địa phương nói , đang chờ " TAXI " đến ( tiếng lóng là ghe nhỏ ) , mỗi người tạm ngồi 1 chỗ chờ đợi , lúc này vợ chồng tôi định hình lại mới thấy , tất cả dép của vợ chồng và 2 con tôi khg còn chiếc nào , nó đã bị giữ lại ở những cánh đồng ruộng mất rồi , còn thằng con trai của tôi bây giờ , thì lại rất vui , dưới ánh trăng mờ mờ , nó tung tăng đùa giỡn thấy thương. Sau khi chờ lệnh của người tổ chức , được hơn nửa tiếng , thì có thông báo : " Cần giải tán gấp vì taxi khg vào được " , có lời đồn là bị lộ và mọi người lại tủa ra , ai nấy tranh thủ tìm lối thoát. Riêng GĐ tôi , ông chồng tôi thất vọng , anh ấy thốt ra 1 câu xanh rờn :" Nếu bị công an dí bắt , em cố gắng ôm và gìn giữ 2 con mình , đi theo dòng người mà trở về nhà , vì em là đàn bà con gái , lại có con nhỏ nữa nên tụi nó khg làm gì em đâu , còn anh sẽ tách riêng và chạy trốn , nếu nó bắn thì anh để cho nó bắn anh chết , chứ anh khg để tụi nó bắt anh được , vào tù cộng sản là khốn nạn lắm" . Trời ơi , tôi nghe mà run rẩy ( thật sự thời đó tôi rất khờ khạo, mọi chuyện chồng tôi nắm bắt và định hướng , nên khi nghe anh nói , tôi rất sợ ) , nhưng may mắn thay chuyện bắt bớ khg xảy ra như chúng tôi nghĩ ( nói chung là thời đó, người tổ chức đã mua bến bãi hết rồi ). Vợ chồng tôi thất thiểu và quay đầu về với hướng đi riêng , chồng tôi có cái hay là để ý và định hướng rất giỏi , GĐ tôi tách rời mọi người để đi ra con đường nơi xuất phát và may mắn cho chúng tôi là đã vẫy được 1 chiếc xe đò chạy bằng dầu chở người và hàng hóa đang về hướng SG , họ dừng xe cho GĐ tôi quá giang , nhìn bộ dạng của chúng tôi khi bước lên xe , câu đầu tiên mà tài xế hỏi : " Vượt biên phải hông ? ". Chồng tôi cười ái ngại rồi gật đầu " Dạ ". Chắc họ đã quá hiểu và ngao ngán dùm . Đây là chuyến xe cuối cùng trong năm ,trên xe có 2 bạn hàng và những giỏ sọt trống khg , đang chất chồng lên nhau , họ đi giao hàng xong và quay về SG vì sáng nay đã là 30Tết . Chiếc xe đó chạy suốt đêm và dừng lại ở ngã tư xa lộ , chúng tôi xuống xe và đi tiếp chiếc xe ôm nữa để về nhà Trên đường trở về nhà , nỗi buồn mang tâm trạng thất vọng , nhưng khg có ý định sẽ bỏ cuộc , chuyến đi này thất bại , thì sẽ có chuyến đi khác , chỉ có điều mình có cố gắng nhưng vận may chưa đến mà thôi . ĐÓ LÀ CHUYẾN VƯỢT BIÊN LẦN THỨ NHẤT BỊ THẤT BẠI Đây là tấm hình của GĐ mình mà mình mượn tạm của chuyến vượt biên lần thứ 2 năm 1989 đăng lên”
CHUYẾN VƯỢT BIÊN LẦN THỨ HAI PHẦN 1 Sau thất bại của chuyến đi trước , chúng tôi được ăn cái tháng Tết của năm 1989 , thì khoảng ngày 25 tháng giêng âm lịch , có điện tín báo tin :" 2 em ra anh " . Vì chúng tôi biết trước sẽ có chuyến thứ 2 nên kỳ này mọi thứ được sắp xếp , chuẩn bị chu đáo kỹ càng hơn , áo ấm hơn , giầy mang cột chặt hơn vì đã có kinh nghiệm của đợt trước. Lần này ,GĐ tôi xuống nhà mẹ ruột ngủ qua đêm , để sáng mai nhờ thằng em rể ( Triều , chồng của em gái Hiền Đặng ) có chiếc xe lam chuyên chạy chở khách , cho quá giang ra bến xe đò đi Nha Trang . Thông tin của người tổ chức có đầy đủ , chiếc xe đò dừng tại TP Nha Trang , chúng tôi chỉ việc kêu xích lô , đưa tờ giấy ghi rõ địa chỉ là ông xích lô chạy đúng chỗ luôn . Căn nhà của anh Năm ( người tổ chức ) nằm trong khu vực gần chợ , đón chúng tôi anh Năm dặn dò: "các em đóng vai là người thân đến chơi và du lịch để tránh bị để ý." Vì đến quá sớm với thời gian dự định , cho nên khi ở nhà anh Năm , anh nói chúng tôi cứ ra ngoài bãi biển như đi chơi hay tắm biển gì đó , rồi chiều về . Anh tạo điều kiện cho chúng tôi bằng cách , cho mượn xe để chồng chở vợ con đi ngắm biển . Được dịp này , GĐ tôi chụp được vài tấm ảnh do thợ chụp hình dạo tại các bãi biển . Và cũng nhờ có những tấm hình này , mà bây giờ là kỷ niệm , là vật chứng cho cuộc hành trình vượt biển năm đó và cũng có nhiều chuyện dở khóc dở cười vì nó 😅. Rồi ngày đó cũng đã tới , vào ngày cuối tháng Giêng ( âm lịch ) , chúng tôi được thông báo tối nay sẽ khởi hành . Được sự chỉ đạo của anh Năm , chúng tôi lên 1 chiếc xe đò mà trên xe , số người có gần đầy xe , cứ 1 đoạn lại rước thêm vài người và cứ thế xe chạy đến điểm dừng là trong xe nhồi nhét với số lượng 90 người ( trong khi 1 chiếc xe đò chở đúng quy định số ghế chỉ có 45 hay 50 người mà thôi ) . Tại điểm dừng , mọi người im lặng chờ lệnh xuống , lúc này thuốc ngủ tôi đã chuẩn bị cho thằng con uống để nó ngủ ngon , khg quấy khóc , sợ làm phiền mọi người , nhưng hỡi ôi , chắc có lẽ quá chật chội , bực bội nên nó lại khóc , cái khóc đợt này cũng khg khác gì đợt trước , cũng khg tài nào làm cho nó nín được. Chợt có lệnh xuống xe theo người hướng dẫn , mọi người ùa đi , chúng tôi cũng vội theo chân. Kỳ này , hướng đi của chúng tôi là 1 cánh rừng chứ khg phải đồng bằng như lần trước , đây là giai đoạn kinh hoàng trong suốt chuyến đi . Ta nói , trong rừng nó tối đen như mực , khg ai thấy ai , chỉ có người dẫn đường là có cái đèn pin để soi , mọi người cứ nắm lấy nhau , khg dám buông vì nếu lỡ buông là coi như mất dấu vết , trời ơi lúc đó mà rắn rết nó rớt lên người chắc cũng chẳng ai quan tâm vì ai nấy tập trung mò đường trong cái bóng đêm tối đen ấy , chồng tôi thì ẳm nách đứa gái lớn , ngón tay thì móc bình nước ( cái can nước 5L mà chúng tôi mang theo để phòng thân cho các con uống ), vai đeo túi xách , tay kia thì nắm vai người đi trước , tôi đi sau , tay thì bồng bế thằng con trai , vai đeo túi xách , tay kia thì nắm áo chồng phía trước , chân mang giày cột chặt như vậy mà đến khi đi , bị dây leo hay rể cây nó vướng vào , móc hết tất cả giày dép của vợ chồng tôi , đến khi qua được khỏi cánh rừng đó, có ánh trăng mờ mờ soi đường , chúng tôi mới thấy mình đang đi trên đoạn đường rầy, đất đá lởm chởm , vì mất hết giày dép nên chân đi rất khó khăn và đau rát . Thoát được đoạn ô dề đó , chúng tôi phải đi trượt xuống phía dưới ( đoạn này như trượt dốc , ngồi mà lết xuống thôi ) , trước mặt chúng tôi là 1 bãi biển lớn , đây là nơi tập trung của 90 con người chờ vượt biển . Phải nói chuyến thứ 2 này nó gian truân hơn chuyến trước nhiều .
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 18, 2024 16:31:31 GMT 9
Bản Tường Trình Từ Đảo Kokra Thái Lan• Vụ Thứ 1 – 87 Người Bị GiếtNhân Chứng : Bà Nguyễn Thị Thương , 36 tuổi , tốt nghiệp Đại Học Hoa Kỳ , tu nghiệp tại Paris , Pháp . Trước 1975 Bà là Giáo Sư Đại Học Bách Khoa Thủ Đức . Bà Thương vượt biển cùng chồng là Giáo Sư Trần Quang Huy , Phân Khoa Trưởng Văn Khoa Đại Học Sài Gòn , cùng với Mẹ ruột , cậu , 2 em trai , 2 em dâu , 4 cháu gái và một con gái nhỏ 3 tuổi . Nhưng chỉ còn Bà , con gái nhỏ của bà , một người em trai của Bà và một em gái của chồng sống sót . Ghe mang số SS0646 IA dài 13,5 m , chở 107 người khởi hành từ Rạch Giá ngày 01/12/1979 . Ra khơi được 3 ngày , thuyền chạy về hướng Thái Lan , khi đã gần tới đất liền thì gặp bọn cướp biển vào ngày 03/12/1979 . Hai tàu cướp Thái Lan cặp 2 bên hông thuyền tỵ nạn , bọn cướp đã ùa sang với súng và dao . Vì ghe thuyền Việt Nam quá chật hẹp , bọn hải tặc đã lùa 27 người sang tàu của chúng cho dễ lục soát vàng bạc của cải . 80 người còn lại bị khám xét cướp hết vàng bạc , vật quý . Sau đó bọn cướp buộc giây vào ghe Việt Nam vào đuôi tàu của chúng và kéo chạy . Chúng xả hết tốc lực , chạy lượn vòng qua lại làm ghe tỵ nạn nghiêng chìm như một trò chơi . Dân tỵ nạn la khóc , lạy van cho tới khi ghe chìm hẳn . Bọn cướp biển cắt giây nối và chạy bỏ mặc 80 người vùng vẫy tuyệt vọng , trong khi 27 người tỵ nạn trên tàu của chúng vật vã khóc ngất nhìn xuống biển chứng kiến người thân đang dãy dụa chết chìm . Bọn hải tặc chạy thẳng về đảo sào huyệt Koh Kra của chúng mang theo 27 người mà chúng đã tách đem lên thuyền chúng trước đó . Nhưng gần tới đảo , chúng xô đẩy tất cả đàn ông xuống biển , buộc họ bơi vào đảo . Bảy người đàn ông này đều bị chết đuối vì không đủ sức bơi hoặc không biết bơi để có thể vào đến bờ , trong số này có Giáo Sư Trần Quang Huy . Còn lại 20 người sống sót sau cùng đã bị bọn cướp đưa lên đảo và lập tức chúng lại lục soát , sờ nắn khắp thân thể để tìm kiếm vật quý con cất giấu trong người . Bà BTD ( xin viết tắt , giấu tên ) 26 tuổi có con 4 tuổi , bị dẫn ngay vào bụi hãm hiếp mặc dù Bà đang mệt lả không đứng dậy nổi vì đói khát , kinh hoàng . Sau đó , trong suốt 8 ngày liền bị giam giữ trên đảo , 20 thuyền nhân còn lại này đã bị quần thảo hành hạ bởi nhiều toán cướp biển khác nhau hàng ngày đổ bộ lên đảo . Các phụ nữ , cô gái phải chạy vào rừng hoặc leo lên hốc ẩn tránh . Nhưng vẫn không thoát khỏi tay bọn dâm tặc . Một lần bà BTD quá mệt mỏi không còn sức chạy trốn nổi , đang nằm ngất ngư và được mọi người săn sóc thì bọn hải tặc lại ùa đến , đuổi tất cả mọi người chung quanh đi chỗ khác và 4 tên Thái man rợ luân phiên hãm hiếp tàn nhẫn ngay tại chỗ , khiến bà ta bị kiệt lực nằm im lìm không nhúc nhích được nữa . Đến ngày thứ 3 trên đảo , một tàu Thái , bên hông có ghi chữ Police số 513 tới đảo . Bọn cướp rút lui , chạy tàu ra xa . Chiếc tàu Cảnh Sát neo sát bờ biển , họ chỉ nhìn vô bờ nhưng không lên đảo . Những người tỵ nạn Việt Nam mừng rỡ tưởng được cứu thoát , một thanh niên tỵ nạn bơi ra mang theo một lá thư cầu cứu bằng tiếng Anh để gởi cho giới chức Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc . Nhưng chưa bơi tới nơi đã bị tàu Cảnh Sát Thái nổ súng bắn xuống biển cảnh cáo . Anh ta hoảng hốt bơi quay trở vào bờ . Sau đó mọi người lại đề cử một thiếu niên 15 tuổi liều mình bơi ra cầu cứu lần nữa . Cậu này đã được Cảnh Sát cho lên tàu , nhưng chỉ cho vài gói mì và đuổi xuống biển ngay . Cuối cùng tàu Cảnh Sát này bỏ đi . Sau này mới biết họ đã không hề báo tin vào đất liền . Ngay sau khi tàu Cảnh Sát bỏ đi bọn hải tặc lại lên đảo và tình trạng tồi tệ tiếp tục diễn ra . Đến ngày thứ 5 , một tàu Hải Quân Thái Lan đi ngang qua đảo , nhóm người tỵ nạn chạy ra sát bờ vẫy gọi , làm hiệu và lần này chiếc tàu Hải Quân đã cho người lên đảo tiếp xúc và nhận bức thư nhờ chuyển về cho Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan . Ngày thứ 8 , ông Theodore G Schweitzer Đại Diện Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan ra đón họ vào đất liền . Không lâu sau đó Bà Nguyễn Thị Thương sinh thêm đứa con gái út trong trại tỵ nạn Song Khla và Bà sống tại đó với một đứa con gái 3 tuổi và người em trai của Bà và một em gái của Ông Trần Quang Huy . Lúc bắt đầu rời Việt Nam Bà Thương đã có thai gần 9 tháng , chính nhờ vậy trong những ngày trên đảo Koh Kra , Bà đã không bị hải tặc hãm hiếp . Bà Nguyễn Thị Thương kể lại câu chuyện trên rồi khóc lặng lẽ và nói : Chồng tôi và tôi đã đoán trước những thảm cảnh có thể xảy ra trên biển . Nhưng chúng tôi vẫn chấp nhận ra đi vì chúng tôi đã nghĩ rằng , dù thế nào cũng ít tệ hại hơn là sống dưới chế độ Cộng Sản . Nhưng những đau khổ tôi đang phải chịu đã vượt qua dự đoán của chúng tôi . GS Nguyễn Thị Thương đã vượt biển cùng chồng là Ông Trần Quang Huy 41 tuổi, Giáo Sư Đại Học Văn Khoa trước 1975 như đã nói ở trên . Gia đình Ông Bà gồm 15 người trong chuyến đi này . Mẹ bà , Cậu , 2 em ruột , 2 em Dâu ,và 4 cháu bị nhận chìm thuyền chết trong số 80 người bị hải tặc giết ngoài khơi . Riêng Ông Huy bị chết trong số 7 người không đủ sức bơi vào đảo Koh Kra . Không lâu sau đó bà Nguyễn Thị Thương sinh thêm đứa con gái Út trong trại tị nạn Song Khla . và Bà sống tại đó với 1 đứa con gái 3 tuổi và người em trai của Bà và 1 em gái của Ông TTrần Quang Huy . Lúc bắt đầu rời Việt Nam Bà Thương đã có thai gần 9 tháng , chính nhờ vậy trong những ngày trên đảo Koh Kra, Bà đã không bị hải tặc hãm hiếp . Bà Nguyễn Thị Thương kể lại câu chuyện trên rồi khóc lặng lẽ và nói : Chồng tôi và tôi đã đoán trước những thảm cảnh có thể xảy ra trên biển . Nhưng chúng tôi vẫn chấp nhận ra đi vì chúng tôi đã nghĩ rằng , dù thế nào cũng ít tệ hại hơn là sống dưới chế độ Cộng Sản . Nhưng những đau khổ tôi đang phải chịu đã vượt qua dự đoán của chúng tôi . * * * • Vụ Thứ 2 : 70 Thuyền Nhân Tỵ Nạn VN Bị Giết Bài gởi đến từ ông Việt Điểu Sào Nam – Văn Nguyễn – dieusaonam@yahoo.com Nhân Chứng : Ông Vũ Duy Thái 44 tuổi , đi cùng vợ là Bà Đinh Thị Bằng 40 tuổi cùng 4 con và 2 cháu . Hiện chỉ còn mình Ông sống sót . Ghe VNKG 0980 dài 14 m , bề ngang 2,2 M chở 120 người khởi hành từ Rạch Giá ngày 29/12/1979 . Lúc 7 giờ sáng ngày 31/12/1979 gặp tàu hải tặc Thái Lan . Tàu này sơn màu đỏ cam , mang số 128 ở đầu mũi , gồm 12 tên cướp võ trang súng dài và dao , búa , rìu . Tàu của chúng phóng tới húc vào làm nứt bể mũi ghe tị nạn . Bọn hải tặc nhảy qua và lập tức phá máy ghe làm thủng thêm vết nứt , nước bắt đầu tràn vào . Bọn chúng lục soát chụp giựt đồng hồ , nhẫn vàng … trong lúc nước nước tràn vào ghe của người tị nạn càng nhiều hơn và bắt đầu bị chìm dần sau khoảng 1 tiếng đồng hồ . Khi ghe chìm hẳn , đàn bà , trẻ con la khóc hoảng hốt níu kéo lẫn nhau . Bọn cướp nhảy xuống biển và chỉ chọn lựa cứu các cô gái trẻ đẹp . Lúc đó tàu của bọn hải tặc neo đậu cách đó 50 m . Bọn cưới đã lôi kéo về tàu chúng 5 cô gái . Một số đàn ông và thiếu niên tị nạn biết bơi cũng lội về phía tàu của chúng và bám leo lên . Nhiều người bị xô đẩy xuống , nhưng vì chúng ít người nên cuối cùng còn 50 người sống sót leo lên được tàu của chúng kể cả 5 cô gái được chúng cứu trước đó . Những người này đã chứng kiến trước mắt 70 người còn lại bị chết chìm dần dần . Mọi người nhìn thấy những bàn tay chới với ngoi lên khỏi mặt biển rồi mất hút . Ông Vũ Duy Thái rời Việt Nam cùng vợ và 4 con , 2 cháu . Riêng Ông trong lúc hỗn loạn đã bơi bám vào tàu hải tặc và níu được vợ và một đứa con . Còn 3 đứa con khác và 2 cháu thì bị chết chìm . Tuy nhiên vợ và đứa con còn lại của Ông đã bị uống nước quá nhiều , khi kéo lên được thì không còn nhúc nhích . Ông hy vọng dùng phương pháp hô hấp nhân tạo sẽ cứu sống được , nhưng bọn hải tặc đã quăng vợ và con Ông xuống biển trở lại cho chết luôn . Anh Phạm Việt Chiêu , 26 tuổi là tài công kể lại chính anh và một số đàn ông khác còn khoẻ đã vớt được một số người chưa chắc đã chết hẳn mà có thể chỉ mới bị ngất xỉu nhưng bọn hải tặc đã bắt bỏ họ xuống biển lại . Sau đó tàu hải tặc trực chỉ đảo Kokra và chúng giam giữ nạn nhân trên đảo 5 ngày mới được Ông Scheitzer Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc kịp thời đến đến cứu . Ngày 01/01/1980 , một chiếc tàu Hải quân Thái mang số 18 đến đảo vào ban đêm có võ trang vũ khí . Mọi người mừng rỡ tưởng được cứu thoát . Nhưng những người lính Hải quân chẳng chút thương tâm đoái hoài đến dân Việt tị nạn đang lâm cảnh khốn cùng , họ chỉ lo việc khám xét bằng cách bắt tất cả mọi người lột bỏ quần áo trần truồng kể cả đàn bà con gái rồi bỏ đi . Ngày 02/01/1980 một tàu Hải quân Thái khác mang số 17 lại tới đảo . Lính Thái lại ùa lên lục soát . Tất cả phụ nữ bị lột truồng không còn mảnh vải che thân công khai trước đám đông để bọn lính này sờ nắn khám xét như để tìm vũ khí kẻ nào có dấu diếm ? Sau đó , chúng rút về tàu đậu gần bờ biển và đến trưa ngày 04/01/1980 mới bỏ đi . Trong thời gian Hải Quân Thái làm việc , bọn cướp vắng mặt nhưng ngay sau khi lính Thái vừa bỏ đi thì lập tức 4 chiếc tàu hải tặc tràn người lên đảo . Bọn cướp lại lục soát thêm nhiều lần nữa . Dĩ nhiên những nạn nhân VN khốn khổ chẳng còn gì để chúng cướp bốc nữa . Chúng luân phiên nhau hãm hiếp phụ nữ tại chỗ giữa ban ngày . Chúng chẳng cần tìm chỗ nào kín đáo để làm hành động thú tính này . Năm em gái Việt Nam : KH 15 tuổi , BT 17 tuổi , AH 12 tuổi , NY 11 tuổi và MT 15 tuổi bị chúng cưỡng hiếp tập thể ngay trước mắt mọi người . Lẽ ra , thảm kịch còn kéo dài chưa biết đến ngày nào chấm dứt , nếu không may mắn được vị cứu tinh là Ông Scheitzer Cao uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc xuất hiện kịp thời cứu giúp và kết thúc thảm ác trạng này . Ông đã đến đảo KRA trên một chiếc tàu Cảnh Sát Thái Lan . * * * •Vụ Thứ 3 : Hải Tặc Thái Bắt Gái Tị Nạn VN Bán Vô Ổ Điếm Nhân chứng : Nguyễn Thị Ánh Tuyết 17 tuổi đi cùng chị là Bà Nguyễn Thị Năm – bà này đã bị hải tặc giết trước đó – và Công Huyền Tôn Nữ Mỹ kiều 17 tuổi . Ghe không số , dài 10 m , chở 78 người , khởi hành tại Nha Trang ngày 08/12/1979 . Ra khơi được 3 ngày thì hết nhiên liệu và thực phẩm , thuyền lên đênh trên biển trong 10 ngày . Thời gian này có 12 trẻ em đã bị chết vì đói khát . Thi thể các em phải bỏ xuống biển . Đến ngày 21/12/1979 gặp 2 tàu hải tặc Thái Lan . Bọn cướp buộc giây vào ghe VN với tàu của chúng , dùng vũ khí ép buộc tất cả mọi người qua tàu chúng để lục soát . Bà Nguyễn Thị Năm 33 tuổi đang mang thai 5 tháng , đi cùng chồng là Ông Lê Văn Tư và 3 đứa con 9 tuổi , 5 tuổi và 3 tuổi . Cả 3 đứa trẻ này đã chết trong thời gian 10 ngày ghe bị trôi lênh đênh trước đó . Bà Năm quá đau khổ và mệt mỏi không còn đủ sức leo qua tàu hải tặc khi chúng ra lịnh . Bọn cướp đã xốc nách Bà lên nhưng Bà vẫn nằm im , một tên cướp liền dùng xẻng xúc cá đập túi bụi vào đầu Bà Năm . Bà đã bị nứt sọ chết ngay tại chỗ và nó xô xác Bà xuống biển . Mọi người kinh hoảng vội leo sang tàu hải tặc để cho chúng có chỗ trống lục soát , phá phách , xét quần áo , thân thể tìm đồ quý . Sau đó tất cả đàn ông bị bắt nhốt vào hầm nước đá , đàn bà chúng cho ở trên sân tàu để sờ mó nghịch ngợm . Rồi chúng lùa thuyền nhân tị nạn qua trở lại chiếc ghe đã thủng nát . Khi đến ghe thì 1 người đàn ông đã chết vì đã bị giam giữ trong hầm nước đá lạnh cóng . Chiếc ghe tị nạn lại tiếp tục thả trôi lênh đênh trong nỗi tuyệt vọng cùng cực của mọi người . Ngày hôm sau , hai chiếc tàu hải tặc khác lại duổi theo , tới gần vùng đảo Kokra chúng lại lên ghe lục soát cướp bốc . Lần này 3 thiếu nữ xinh đẹp nhất bị chúng bắt đem đi . Con thuyền tị nạn lại tiếp tục trôi trong tình trạng vô cùng bi đát . Máy ghe bị hư hỏng , không thức ăn , nước uống và ghe thì đã ngập nước vì lúc đó tất cả đàn ông đã quá đói khát không còn đủ sức tát nước nữa . Không ai biết số phận 70 người còn lại trên chiếc ghe khốn cùng đó , lúc này ra sao ? Hai chiếc tàu hải tặc chia nhau 3 cô gái VN . Hai cô NT Ánh Tuyết và CHTN Mỹ Kiều bị chiếc tàu của tên Samsac làm chủ bắt giữ . Còn chiếc tàu kia bắt Cô Lan 17 tuổi mang đi mất hút , cho tới bây giờ không còn nghe tin tức gì về Cô ấy nữa . Hai cô Ánh Tuyết và Mỹ Kiều bị bọn Samsac mang vào đất liền , nhốt trong một khách sạn tại Songkhla . Chúng tách rời 2 cô ở phòng riêng khác nhau . Ánh Tuyết bị 1 tên , được nghe gọi là Bít canh chừng . Còn Mỹ Kiều thì ở chung phòng với tên Samsac . Ánh Tuyết kể lại là Cô đã la hét kêu ầm lên khi tên Bít định cưỡng hiếp Cô , khiến mọi người ở các phòng chung quanh cùng khách sạn – đa số là người Tây Phương – dổ xô tới xem và tên Bít đã bỏ chạy . Riêng tên Samsac ở phòng gần đó nghe tiếng ồn ào vội đem Mỹ Kiều đi dấu trong 1 khách sạn khác ở tỉnh Haadyai cách Songkhla hơn 30 Km . Khi Cảnh Sát đến điều tra , chính cô Ánh Tuyết đã dẫn Cảnh Sát đến bến tàu Songkhla , nơi có chiếc tàu của bọn Samsac vẫn còn đậu đó và các thủ phạm hải tặc đã bị bắt kể cả tên Samsac mà Cảnh Sát đã tìm thấy hắn sau đó cùng với cô Mỹ Kiều tại khách sạn nói trên . Tại Ty Cảnh Sát chúng đã khai là định bán 2 cô gái này cho 1 đường giây chuyên buôn gái cho các ổ điếm . * * * Trên đây , chúng tôi chỉ đưa ra một vài vụ điển hình thuyền nhân Việt Nam bị thảm nạn hải tặc Thái Lan hành hạ , giết chóc xảy ra trong tháng 12/1979 tại đảo Kokra . Tưởng cần nhắc lại rằng tệ nạn hoành hành ủa hải tặc Thái không phải vào thời gian này mới xuất hiện . Trong mấy năm trước 1979 khi ở Việt Nam khởi sự có làn sóng Thuyền Nhân Vượt Biên Tìm Tự Do thì người Việt Tị Nạn của chúng ta đã trở thành những con mồi ngon cho bọn hải tặc Thái . Báo chí trên thế giới cũng đã nhiều lần đề cập đến thảm kịch kinh hoàng mà Boat People đã phải chịu khổ nạn . Tuy nhiên kể từ khi các ngư phủ Thái nhận thấy việc cướp bóc Thuyền Nhân sẽ làm cho họ trở nên giàu có mau chóng hơn là việc đánh cá ở trong Vịnh Biển . Do đó số ngư dân kiêm thêm nghề hải tặc đã ngày trở nên đông đảo đã đưa tới hậu quả là người Việt Nam đi tị nạn bằng đường biển càng ngày bị rơi vào mạng lưới của bọn cướp biển dày đặc bủa vây trong khắp vùng Vịnh Thái Lan . Vấn đề đặt ra ở đây là nhà cầm quyền Thái đã có thái độ và biện pháp gì để ngăn chận những vụ thảm sát kinh tởm , bất nhân như thế xảy ra ở ngay trong hải phận của Quốc Gia họ ? Kính tường Ký Giả Dương Phục & Vũ Thanh Thuỷ – Songkhla 1980/02/08 vnbp.org/Việt Namese/memorial/download/kokra2.htm * * * Ghi Chú : Nhìn thấy 2 câu dưới đây trên Net ▼ Không phải tất cà ngư dân Thái Lan là hải tặc . Nhưng phần lớn hải tặc Thái xuất phát từ Phuket và phần lớn người dân Phuket theo Đạo Hồi ! ! !
|
|