|
Post by Can Tho on Jun 5, 2020 7:24:22 GMT 9
Nghe đi nghe lại bài Đường Chiều Lá Rụngphamduy.com/vi/viet-ve-pham-duy/fan-viet/4872-nghe-di-nghe-lai-bai-duong-chieu-la-rung Nguyễn Sĩ Hạnh Mùa thu là một mùa đặc biệt trong năm. Ở Úc mùa thu là từ tháng 3 tới tháng 5. Nhưng tháng 4 mới là một tháng đặc biệt. Đối với người Việt mình thì tháng 4 luôn luôn là một tháng đặc biệt, dù ở đâu, quan điểm chính trị tròn méo ra sao ... Đối với tôi thì lại càng đặc biệt hơn nữa, chẳng hạn tôi vượt biên đầu tháng 4, hỏi vợ tháng 4 mà cưới vợ cũng tháng 4. Thực tế hơn nữa là tháng 4 là tháng mấy cái bill hàng năm về, nào bảo hiểm xe, nào thuế đường, nào bảo hiểm nhà vân vân và vân vân. Thấy thèm một vài ngày thu cuối tuần nắng vàng rực rỡ, rảnh rang để dẫn vợ con ra công viên đi bộ, chớ không phải ở nhà ráng sơn cho xong mấy khung cửa sổ trước nhà đã lỡ chà giấy nhám rồi! Phạm Duy và Thái Thanh trong đêm nhạc Phạm Duy – Một đời nhìn lại (2002) Nhưng có lẽ để có hứng để viết về mùa thu thì không phải là từ những chuyện đời thường như vậy - viết cũng ngán mà đọc cũng chán - mà phải là chuyện gì 'cảm tính' một chút. Mấy bữa rày đọc bài phỏng vấn "Nhạc sĩ Phạm Duy sẵn sàng cho sự ra đi!" tự nhiên thấy buồn buồn. C'est la vie, that's life, đời là vậy, vân vân và vân vân. Nhưng vẫn thấy buồn buồn, mới moi bài Đường Chiều Lá Rụng của nhạc sĩ viết từ nửa thế kỉ trước ra nghe đi nghe lại. Và thấy bài hát sao mới quá, làm như ông mới viết xong rồi mới trả lời phỏng vấn! Thái Thanh trình bày Đường Chiều Lá Rụng: Có vài bài viết về bài hát này. Bài Kiếp Lá Phận Người Trong "Đường Chiều Lá Rụng" viết nhiều về triết lí của lời ca, về đời người, về những chiếc lá vàng... Trong "Bàn về kỹ thuật viết nhạc trong vài ca khúc Phạm Duy" thì bàn nhiều hơn về kĩ thuật viết nhạc. Và trong Hồi Ký, Phạm Duy cũng đôi lần nhắc tới bài này, đại khái ông tóm tắt nhạc của mình như sau: "Về hình thức, nhạc kháng chiến của tôi là hiện thực và trữ tình (Nương Chiều, Gảnh Lúa). Nhạc tình của tôi là cảm tính, đôi khi là nhục tính (Cỏ Hồng). Tôi đi vào ấn tượng với Chiều Về Trên Sông, mon men tới siêu thực khi đả động tới cái chết trong Đường Chiều Lá Rụng... Trường Ca Con Đường Cái Quan là tả thực, Mẹ Việt Nam là tượng trưng, Tổ khúc Bầy Chim Bỏ Xứ là ẩn dụ. Mười bài rong ca với Người Tình Già Trên Đầu Non đi vào vũ trụ là nhạc siêu nhiên. Đạo Khúc/Thiền Ca là hành trình vào cõi siêu linh. Trường Ca hay Chương Khúc Hàn Mặc Tử là nhạc siêu thực." [1] À thì ra là vậy, Phạm Duy viết Đường Chiều Lá Rụng là viết về cái chết! Cũng trong Hồi ký, ông viết rõ hơn: Rồi tôi nói tới cái chết của chiếc lá trên đường chiều. Lá đang như chiếc thuyền rung rinh trong gió, bỗng nghe tiếng đất gọi về, lá rụng để trở thành những ngôi mộ úa trên đường chiều, nơi đó có tôi và người yêu đang đi trong cuộc tình : Chiều rơi trên đường vắng có ta rơi giữa chiều. Hồn ta theo vạt nắng, theo làn gió đìu hiu... Tôi nhìn chiếc lá vàng bay giống như dĩ vãng gầy, tóc buông dài, bước ra khỏi tình phai. Tôi nhìn chiếc lá vàng rơi giống như chút hơi người giã ơn đời trên nẻo đường hấp hối...[2] Nghe đi nghe lại bài Đường Chiều Lá Rụng tôi hiểu tại sao mình lại thấy buồn buồn. Có lẽ bài hát giúp người đọc hiểu thêm một chút gì đó trong cái tâm tình mà ông trang trải ra khi trả lời phỏng vấn. Thiên tài là vậy, ông "mon men ... đả động tới cái chết" cả năm mươi năm trước, viết một tuyệt tác cho những ngày bây giờ! Tôi sưu tầm được năm phiên bản do các ca sĩ Thái Thanh, Thanh Lan, Quỳnh Dao, Lệ Mai và Nguyên Thảo trình bày. Tôi có đọc đâu đó là cô Kim Tước cũng có hát nhưng không biết cô có ghi âm không. Ca sĩ miền Bắc thì tôi tưởng tượng là nếu cô Lê Dung ca thì hay, tiếc là cô đã không thu thanh bài này. Tôi thích phiên bản của cô Thái Thanh, đơn giản là vì cô là cô Thái Thanh! Phiên bản của cô Quỳnh Dao nghe buồn hơn, cảm thấy cái "chết" rõ hơn, gần hơn! Đặc biệt nữa là hòa âm của Duy Cường, anh đi với người nghe, theo cái tâm tình của lời ca và giọng hát của người ca sĩ. Quỳnh Dao trình bày Đường Chiều Lá Rụng, Duy Cường hòa âm: http://dl.dropbox.com/s/21569va3kxyesmg/DuongChieuLaRung_QuynhGiao.mp3 Từ ngày Đường Chiều Lá Rụng được phép tái xuất giang hồ ở bên nhà (dịp sinh nhật năm ngoái của Phạm Duy) không biết bài hát đã được công diễn mấy lần hay đã được thu thanh thu hình gì chưa. Tôi ở xa nên chỉ biết cô Nguyên Thảo hát hai lần, lần đầu trong cái concert mừng sinh nhật của tác giả năm ngoái (2011) ở nhà hàng WE, Sài Gòn. Lần thứ nhì là ở chương trình Không Gian Âm Nhạc trong dịp Noel năm ngoái ở Hà Nội. Lần sau hên là có người thu video quăng lên youtube, tuy nhiên cái clip đủ bài thì âm thanh tệ quá, còn cái clip âm thanh tàm tạm thì chỉ có nửa bài! Kệ, tôi chuyển qua MP3 nghe đỡ nghiền. Nguyên Thảo Nguyên Thảo trình bày Đường Chiều Lá Rụng: Nếu bạn nào khó tính thì xin chịu khó nghe hai lần vậy, cũng gần như nguyên bài! Còn khó tính quá thì phải chờ (và chịu khó đi chùa hay nhà thờ cầu nguyện!) tới lúc nào đó cô Nguyên Thảo thu thanh bài này rồi hẵn nghe! Còn bốn cô đi-và nhà mình thì không biết có cô nào chịu hát bài này không. Xuống dưới nữa thì chắc các cô ca sĩ tre trẻ đâu chịu hát nhạc Phạm Duy làm chi, hát nhạc thị trường cho khỏe mà lại có nhiều người nghe hơn, kiếm nhiều tiền hơn! Nguyễn Sĩ Hạnh Melbourne, Thu 2012 [1] Hồi ký - tập 4, trang 149, Phạm Duy, [2] Hồi ký - tập 3, trang 51, Phạm Duy PS. Xin đăng lên hai phiên bản do Thanh Lan và Lệ Mai hát cho đủ bộ. Nhạc sĩ Phạm Duy đọc bài này xong mới gởi về cho phiên bản do Mộng Thủy hát (mà ông khen "rất hay"). Xin cám ơn nhạc sĩ Phạm Duy. Mộng Thủy trình bày Đường Chiều Lá Rụng: Thanh Lan trình bày Đường Chiều Lá Rụng: Lệ Mai trình bày Đường Chiều Lá Rụng: Đường Chiều Lá Rụng Chiều rơi trên đường vắng Có ta rơi giữa chiều Hồn ta theo vạt nắng Theo làn gío đìu hiu. Lá vàng bay, lá vàng bay, Như dĩ vãng gầy tóc buông dài bước ra khỏi tình phai. Lá vàng rơi, lá vàng rơi, Như chút hơi người giã ơn đời trên nẻo đường hấp hối. Hoàng hôn mờ lối, rừng khô thở khói, trời như biển chói Từng chiếc thuyền hồn lướt trôi Neo đứt một lần cuối thôi Cho cánh buồm lộng gió vơi gío đầy. Chiều ôm vòng tay, một bóng thuyền say, thuyền lơ lửng mãi Từng tiếng xào xạc lá bay Là tiếng cội già khóc cây Hay tiếng lòng mình khóc ai giờ đây. Chiều chưa thôi trìu mến Lá chưa buông chết chìm, Hồn ta như vụt biến Bay vờn trong đời tiên. Lá vàng êm, lá vàng êm, Như mũi kim mềm sẽ khâu liền kín khung cửa tình duyên. Lá vàng khô, lá vàng khô, Như nét môi già đã nhăn chờ lên nẻo đường băng giá. Chiều không chiều nữa và đêm lần lữa, chẳng thương chẳng nhớ về những cọng buồn cánh khô rơi rớt từ một cõi mơ nghe đất gọi về tiếng ru hững hờ. Còn rơi rụng nữa, cành khô và lá, thành ngôi mộ úa Chờ đến một trận gío mơ Cho rữa tình già xót xa Cho biến thành nhựa sống nuôi tình thơ. Chiều tan trên đường tối Có ta như rã rờị Hồn ta như gò mối Đang chờ phút đầu thai. Phạm Duy
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 1, 2020 16:46:41 GMT 9
Chút Kỷ Niệm Về Ca Nhạc Sĩ Duy KhánhCái Bè, Tiền Giang, năm 1978. Buổi tối trời mưa lất phất, cái rạp hát gần Cầu Đúc đêm nay sáng đèn. Có đoàn ca nhạc từ Sài Gòn về trình diễn. Khán giả ngồi kín rạp nhỏ ước chừng 400 ghế gỗ. Sân khấu cũng nhỏ có hai bên cánh gà màn vải sậm màu đã bắt đầu tơi tả, nhưng duới ánh đèn nhìn cũng còn chu tất. Người ca sĩ tuổi độ trung niên là tiết mục được công chúng rỉ tai mua vé vào xem,và được chờ đợi nhất ở cuối chương trình. Với chất giọng nam sáng khỏe hát tròn vành rõ chữ,mang âm hưởng miền Trung đặc biệt, Ông dễ dàng chinh phục khán giả bằng bài hát cũ Tình nước :
.. Quê hương anh nước mặn đồng chua… bây giờ sau giải phóng được đổi tên là Tình đồng chí. Bài hát “dò la” này được phép trình bày, nhanh chóng thông qua để người ca sĩ bung những tuyệt chiêu sở trường nhạc quê hương lồng trong tình anh lính chiến. Tiếp đó là những ca khúc về người lính ‘chế độ cũ’ :
? ” Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm Sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm. Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu. Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau..”
Giọng ca DUY KHÁNH lồng lộng như mây trắng Trường Sơn, bao la như ruộng đồng bát ngát..Tiếng hát với âm vực cao rộng, luyến láy tài tình âm sắc miền Trung gió cát, có thể chạy dài tới 21 quãng trường canh, lên cao mà không chói, xuống thấp nốt trầm không hề đục .
” Nào những khi ôm thép súng tê vai Đăm mắt theo bao hư ảo thở dài Nơi chốn xa buồn thương mẹ quang gánh Em còn khêu sáng ánh đèn từ suơng mai” ( Sương trắng miền quê ngoại – Đinh miên Vũ )
Khán giả như bị thôi miên trước giọng ca bất hủ này, mấy bà mấy chị lớn tuổi ngồi nghe mà miệng há ra, như nuốt cả lời ca vào bụng. Họ ngơ ngẩn vì lần đầu được thấy người danh ca trước mặt. Còn ca sĩ ban nhạc thì vừa diễn vừa sợ, vì đây là đoàn hát chui không có giấy phép. Hát xong lập tức di chuyển liền, họ bị cấm hát vì là ca sĩ chuyên hát nhạc lính cũ. Với cấp bậc hạ sĩ quan tâm lý chiến, thuộc bộ CTCT, thì dễ gì mà được hát. Duy Khánh, Nhật Trường, Chế Linh, Thanh Lan .. đều như thế cả..
Trời đêm gần Tết se lạnh, người danh ca như được tiếp sức mạnh từ sự nồng nhiệt của khán giả, như mạnh mẽ thêm. Ông tiếp bài hát đã đóng đinh tên tuổi mình lên hàng đệ nhất ca sĩ tân nhạc Việt Nam. Bài hát này ông không có đối thủ ..Vang mà nghẹn..
? Con biết bây giờ mẹ chờ tin con. Khi thấy mai đào nở vàng bên nương. Năm trước con hẹn mùa Xuân sẽ về Nay én bay đầy trước ngõ Mà tin con vẫn xa ngàn xa..”
Chạm ngay tới nỗi niềm nhà có người đi học tập cải tạo, những Hoàng Liên sơn, Ba Sao, Suối Máu, Hàm Tân … mấy năm rồi đi thăm nuôi xa biền biệt đày ải .. biết ngày nào về ? Có bà mẹ nào ngồi dưới thầm lau giọt nước mắt.
? Duy Khánh tên thật là Nguyễn Văn Diệp, sinh năm 1936 tại huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. Tên ông được tiết lộ là ghép giữa tên nhạc sĩ Phạm Duy – một đàn anh trong nghề có sức ảnh hưởng lớn và Khánh tên một người bạn đã chết từ lâu. Thành công từ năm 16 tuổi với giải nhất đài Pháp Á tại Huế với ca khúc Trăng Thanh Bình, ông không theo truyền thống khoa bảng của gia đình mà dấn thân hẳn vào sinh hoạt văn nghệ.
Vào Sài Gòn mảnh đất màu mỡ của những ca sĩ muốn thành danh, Duy Khánh bật lên thành ngôi sao sáng chói với những ca khúc đậm đà tình yêu quê hương – quê nghèo và những mảnh đời dân quê ( Về miền Trung, Tình nghèo, Đêm nguyện cầu, Hoa vẫn nở trên đường quê hương, Ai ra xứ Huế, Thuơng về miền Trung, Sương trắng miền quê ngoại, Hòn vọng phu…)
Ông cũng tham gia sáng tác với số lượng không ít, có rất nhiều bài in dấu trong lòng khán giả. Sở trường của ông là nghiêng về quê hương xứ sở, ít khi là tình cảm trai gái lứa đôi. Bài nào cũng gắn với tình yêu mảnh đất chan chứa yêu thương nơi mình sinh ra và lớn lên cùng tao loạn. Khác với Nhật Trường thế mạnh song song là hát và sáng tác, Duy Khánh thiên về hát nhiều hơn với chất giọng lạ kỳ hiếm có, pha chút âm thanh ngũ cung luyến láy đặc biệt, nhất là những câu có dấu thanh ngã – hỏi ( ~,?) không ai có thể hát giống được .
” Ngoài kia súng nổ, đốt lửa đêm đen, tầm đạn hay tiếng emmmmm…” ( Kẻ ở miền xa ).
Giọng ngân cuối câu của Duy Khánh rất đặc biệt, dài và vang xa trong âm vực rộng, rung nhịp từ trong đáy cổ, gọi là ” đổ hột “, có người không thích vì nó hơi ” mái “, những ai yêu mến thì lại thấy thích mê.
? Là một quân nhân, lại nằm trong biệt đoàn văn nghệ Trung ương, chung với những nghệ sĩ tài danh khác . Những khi không phải phục vụ tại những tiền đồn xa xôi hẻo lánh, ủy lạo tinh thần binh sĩ, ông lại trở về thủ đô Saigon với những hoạt động ca nhạc riêng mình. Băng nhạc ( Akai, cassette ) TRƯỜNG SƠN từ cuốn 1_ 11 phát hành toàn quốc. Những bản nhạc rời in offset màu rất đẹp lúc bấy giờ (thập niên 60_ 70) của trung tâm này luôn luôn bán hết với các sáng tác của Trúc Phương, Trầm tử Thiêng, Anh Bằng, Trịnh Lâm Ngân, Hoàng Thi Thơ…). Ông cũng hát nhạc của Chế Linh, Nhật Trường, Hùng Cường (ít )., Và ngược lại. Bốn nam danh ca này thời đấy mệnh danh ” Nhạc vàng tứ trụ “. Họ đều là ca sĩ mặc áo lính, dọc ngang khắp nẻo đường đất nước. Kiếm sống cho mình nhưng cũng là phục vụ cho một lý tưởng.
? Cao ngất Trường Sơn ôm ấp tình ai nước ra sông nguồn . Tìm về Biển Đông tình yêu thành sông Thái Bình Dương .” ( Biển mặn)
Tuy nhiên cũng có bài Duy Khánh hát không” bắt” ví dụ như” Chiều một mình qua phố” của Trịnh Công Sơn, hay dòng nhạc bán cổ điển ông cũng không hạp. Ngoài Bắc cũng có những giọng nam đặc biệt như Quốc Hương, Trung Kiên .. họ cũng mặc áo lính bên kia bờ chiến tuyến. Nếu quê hương này không có cuộc nội chiến tương tàn mấy chục năm. Quốc Hương âm hưởng giọng khu 5 riêng biệt cũng bừng sáng lên như các anh em bên này vĩ tuyến ?!
? Trung tâm ca nhạc quận 10, Sài Gòn. Đêm đã dần trôi.. Năm 1987.
Lúc này đây là điểm biểu diễn ca nhạc ngoài trời hút khách mạnh nhất, tưong đương với điểm diễn rạp Xổ số kiến thiết ở quận 1. Danh ca Nhật Trường tới trước. Ông đang ngồi chờ ở hậu trường thì Duy Khánh bước vào . Lúc này các ông đã được hát chính thức, dĩ nhiên là các bài mới, không được xé rào bài cũ để bị cấm hát nữa. Hai người bạn danh tiếng chào nhau. Họ nói chuyện bằng chất giọng địa phương đặc sệt Quảng Trị và Phan thiết. Duy Khánh sau này bất đắc chí nên ông uống rượu nhiều, sau năm 75 còn gì rượu Tây, uống toàn thứ độc dược thuốc rầy be bét. Lại có tật sát giờ hát mới tới điểm diễn, người ta chờ ông chứ ông không chờ ai hết. Cỡ Nhật Trường lừng lẫy, hát – viết song toàn, độ phủ sóng có phần rộng hơn, mà cũng nhường Duy Khánh .
-“Anh hát trước đi “.
Duy Khánh lên sân khấu và ngân nga…
Tôi hát bài ca ngợi cả cây lúa.. Và người trồng lúa cho hôm nay (Bài ca cây lúa – Hoàng Vân)
Ông hát nhạc đỏ mà vẫn nghe nồng nàn như thường, sau ngày đứt phim, rất nhiều ca sĩ nhạc vàng vì miếng cơm manh áo phải đi hát nhạc đỏ để kiếm tiền sinh sống. Khi ông hát thì hoàn toàn đèn sáng, không chớp tắt, múa minh họa tai họa gì cả nhé. Với chuyện nhường bài của ca sĩ hàng top chạy cả chục show một đêm, 10 phút chờ là nể nang nhau lắm, là cắt đi phần mình đó. Nhưng họ tôn trọng nhau, đó là lối cư xử của bậc đàn anh quý tài yêu nết với nhau. Chuyện này chính mắt tôi trông thấy.
? Với gia tài âm nhạc đồ sộ, hoạt động lúc nổi lúc chìm, hơn 20 album trước và sau 1975, từ trong mảnh đất quê hương ra tới hải ngoại. Cùng chương trình ca nhạc “Trường Sơn show” cá nhân ăn khách bậc nhất của đài số 9 THVN trước 75, sánh ngang với các chương trình tạp lục Hoàng Thi Thơ, show Thẩm Thuý Hằng, kịch Kim Cương, kịch Sống Tuý Hồng, cải lương Dạ Lý Hương, show Tiếng hát đôi mươi của Nhật Trường. Danh ca Duy Khánh với nội lực giọng hát vô đối mạnh gấp hai người khác, hát dễ dàng như người ta nói, chất giọng trăm năm có một..
” Vang vang như tiếng trống Cổ thành trên đồi Vọng Cảnh ” ( Phạm Duy).
Đã in dấu sâu đậm vào lòng người dân Việt khắp nơi bất kể chính kiến vào mọi thời điểm – mọi không gian, mãi mãi là một thứ tài sản quốc gia không thể thay thế.❤ Hiện tượng Duy Khánh mania với ba mặt : thanh – sắc – tài hoàn hảo. Vừa viết vừa hát vừa là người tổ chức ( production). Vàng ròng người ta cất trong ngân hàng két sắt còn Ông cất trong cổ họng mình, ngân nga luyến láy tài tình, chuốt từng từ rất kỹ. Ở Duy Khánh không có style nỉ non nhão nhẹt như người khác. Mà kiểu hát tròn vành rõ chữ chân phương như chan tình cảm vào mỗi lời ca. Pha chất hùng của nhạc lính mà cũng phảng phất chút bi của quê hương Việt Nam đau khổ, những mất mát chia ly của con người trong cuộc chiến được diễn xuất ngoại hạng qua tiếng hát ông, không làm bi lụy nản chí, mà chỉ thoáng chút bùi ngùi nhân văn.
? ” Về đây hoa lá cỏ cây cũng buồn theo tháng ngày Trở lại xóm đạo còn đâu người yêu ôi hoang vắng đìu hiu
Nhặt cành hoa trắng xót xa tôi cài lên trên nấm mộ xanh cỏ lá Em ơi em ơi nhớ hoài nhớ nhau muôn đời Vì chinh chiến ngược xuôi nên tôi cách xa em rồi ” ( Người em Xóm đạo – Bằng Giang)
☘️ Thật là tài năng không đối thủ. Ông cũng là người chung thủy, lần lượt hai đời vợ với năm đứa con, nhưng hông có người nào hoạt động văn nghệ chuyên nghiệp như bố. Những ngày khi ra được nước ngoài, ông vẫn đau đáu nỗi lòng nhớ thương quê cũ nơi chôn nhau cắt rốn. Nơi đã sản sinh và tạo dựng một tài năng kiệt xuất. Mơ một ngày về được hát tự do trên quê hương với bạn bè chí cốt. Như trong bài hát Xin anh giữ trọn tình quê, ngỡ là lời tiên tri .
“Ngày mai ta xa nhau rồi Nhưng tin trong đời anh vẫn còn gặp tôi Quê cũ mừng vui ..”
Ông không còn cơ hội nào để quy cố hương. ☸ DUY KHÁNH mất ngày 12/2 /2003 tại bịnh viện Fountain Valley, quận Cam, bang California. Hưởng thọ 66 tuổi.☸ Kết thúc ánh sáng một ngôi sao Bắc Đẩu rạng ngời ngời. Người đời sẽ nhớ mãi người con Quảng Trị quê nghèo mà chân chính.
? ” Tôi sinh ra giữa lòng miền Trung, miền thuỳ duơng, ruộng hoang nước mặn đồng chua, thôn xóm tôi sống đời dân cày ” ( Tình ca quê hương – Duy Khánh sáng tác năm 1966.
☘ Tuấn Tony viết xong một đêm rạng sáng tháng 5/2018, mùa đông Sydney). Để dân ta cùng nhớ tiếc một tài năng trăm năm có một. Con xin lạy Chú !!!!
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 31, 2021 18:17:49 GMT 9
Đi Bên quán vắng, nghe gió về kể “Chuyện đêm mưa” của nhạc sĩ Nguyễn Hiền và Hoài Linh gocxua.net/cam-xuc-am-nhac/di-ben-quan-vang-nghe-gio-ve-ke-chuyen-dem-mua-cua-nhac-si-nguyen-hien-va-hoai-linh-2.htmlCa khúc chuyện đêm mưa được đồng sáng tác bởi 2 nhạc sĩ Nguyễn Hiền (phần nhạc) và nhạc sĩ Hoài Linh (phần lời). Nổi tiếng là người có biệt tài đặt lời ca, mỗi ca khúc mà nhạc sĩ Hoài Linh chấp bút đều chứa đựng một câu chuyện với những lời ca duy mỹ, có vần có điệu. Chuyện đêm mưa cũng là một tác phẩm như vậy. “Ngoài trời không sao thưa, đường lầy ướt ngõ tối, mưa khuya về hiu hắt đi vào đời” Mưa không phải điều gì quá xa lạ, và chuyện “ngắm mưa, ngẫm chuyện đời” cũng không phải của riêng Nguyễn Hiền hay Hoài Linh. Bởi ai cũng có chuyện đời của riêng mình, mỗi người mỗi cảnh ẩn giấu sâu trong lòng để rồi vỡ òa trong những cơn “mưa khuya tí tách”. Có câu nói rằng “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Phải, cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, bởi vậy mới có “Đêm hiu hắt”, có “quán vắng lạnh” và có cả “mưa khuya như khúc ca nghẹn lời”. Chuyện đời, chuyện dĩ vãng theo đêm mưa ùa về làm day dứt cõi lòng những kẻ mộng mơ “tay không mà mơ ước đi vào đời”. Mang theo bao hoài bão, xa rời quê hương, một lòng tiến về phía trước, để rồi khi “mưa gió” chùng bước chân, giữa thênh thang đường không lối, quay đầu nhìn lại chỉ hoài đau đáu về cố hương. “Để rồi bao năm trôi, thênh thang đường không lối, nhớ cố hương muốn về lại tнôι”. Mưa dễ dàng gột rửa đi lớp áo rắn rỏi bên ngoài, để lộ những cô đơn yếu đuối trong tâm. Đêm dài đằng đẵng, gió lùa lá rơi, phong sương buốt giá nhớ “chiều nào nâng ly bôi, chuyện тìɴн vừa chắp nối” nhưng vì đâu “chia ly mà không nói nhau một lời”. “Chừng nào mưa tнôι rơi, đường về nắng dẫn lối, mưa tan vào sương khói xuôi về nguồn. Cuộc тìɴн duyên năm xưa, xa nhau còn thương nhớ những lúc nghe gió về kể chuyện mưa”. Mưa rồi cũng tan, nắng rồi cũng chiếu sáng nhưng dĩ vãng, тìɴн xưa vẫn sẽ theo gió về viết lại chuyện đêm mưa. Mời quý độc giả lắng nghe ca khúc “Chuyện đêm mưa” qua phần тнể hiện của Giang Tử: Related Posts
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 31, 2021 18:21:13 GMT 9
Ngày Xuân, Nghe Lại Ca Khúc XUÂN HÀNH của Phạm Duy Quỳnh Giao .
Có phải là ngẫu nhiên chăng mà hai nhạc phẩm đầy tính chất anh hùng ca của Lizst và Beethoven đều lấy âm giai Mi giáng Trưởng (Mi bémol Majeur)? Đó là Cầm tấu khúc số 1 của Lizst có tên là "Héro" và Cầm tấu khúc số 5 của Beethoven có tên là "Emperor" viết cho đại đế Napoléon.
Trong nền tân nhạc Việt, các ca khúc về lịch sử hay những bài hùng ca thường được viết trên âm giai Fa Trưởng. Nói về nhạc thuật, các âm giai Trưởng như Do, Ré và Fa nghe thấy trong sáng và hợp với giọng Kim. Khi giọng Kim là giọng chính (chant), bè phụ thường được viết thấp hơn để làm nổi giọng chính. Những ca khúc như “Việt Nam Minh Châu Trời Đông” của Hùng Lân, “Nước Non Lam Sơn” hay “Bóng Cờ Lau” và “Tiếng Chim Gọi Đàn” của Hoàng Quý, “Hội Nghị Diên Hồng” hay “Bạch Đằng Giang” của Lưu Hữu Phước, “Việt Nam, Việt Nam” của Võ Đức Thu, “Việt Nam Anh Dũng” của Dương Thiệu Tước”, “Việt Nam Hùng Tiến” của Thẩm Oánh, v.v.... đều được viết trên cung Fa Trưởng.
Thật sự, thì âm giai trong sáng hay u tối, êm dịu hay gay gắt chỉ có ảnh hưởng với nhạc khí, chứ không ảnh hưởng với giọng hát. Giọng hát nhẹ êm hay mạnh mà cứng là do âm sắc (timbre) của người trình bày. Giọng Thổ thường dầy hơn giọng Kim, ngược lại thì giọng Kim lanh lảnh và thánh thót hơn giọng Thổ.
Riêng các nhạc sĩ sáng tác và sử dụng dương cầm, mà Frederic Chopin là một điển hình, lại chuộng loại âm giai mang nhiều dấu giáng (bémol). Ông cho rằng đàn các nốt giáng (phím đen trên dương cầm) thì tiếng đàn êm hơn, và về kỹ thuật thì ngón tay trườn trên phím, càng sâu càng dễ di chuyển lả lướt hơn…
Trong khung cảnh chung như vậy, ca khúc “Xuân Hành” của Phạm Duy lại được viết trên cung Mi giáng Trưởng, trong sáng mà êm dịu hơn âm giai Fa Trưởng.
Những ai mới nghe ca khúc này thì tự hỏi rằng tác giả dùng chữ "hành" trong ý nghĩa nào. Hành có thể là hành trình, hành khúc, hoặc biết đâu còn là một thể thơ cổ, như bài Tỳ Bà Hành mà ai cũng biết qua bản dịch của Phan Huy Vịnh, hay bài Hiệp Khách Hành mà các độc giả của Kim Dung có thể còn nhớ, và nhất là bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính?
Người nghe hoặc người thưởng ngoạn có quyền mở rộng sự cảm nhận để hiểu tác phẩm từ sở thích hay nhận thức khác biệt của mình.
Nhưng nhạc sĩ Phạm Duy là người cẩn trọng, như tên của ông.
Trong cuốn "Ngàn Lời Ca" được xuất bản tại hải ngoại năm 1987, ông giải thích khung cảnh sáng tác của từng bài mà gọi đó là "sự tích". Ông trình bày rằng mình đã soạn nhiều ca khúc về hành trình của con người trong cuộc đời, trong đó có ba bài hành là "Lữ Hành", "Dạ Hành" và "Xuân Hành". Chúng ta liền hiểu ra ý nghĩa của chữ hành trong tác phẩm.
Nếu "Lữ Hành" là cuộc hành trình thơ thới và bất tận của loài người và được ông sáng tác tại Sàigòn vào năm 1953 đầy hy vọng thì "Dạ Hành" là lúc con người đi trong đêm tối. Mà bóng tối ở đây không là một khái niệm về thời gian khi thiếu ánh mặt trời. Bóng tối là chông gai hiểm hóc của phận người và ca khúc cũng được viết tại Sàigòn, nhưng là Sàigòn khói lửa của chiến chinh tham tàn năm 1970.
Rồi Phạm Duy mới nói về cuộc đi bình thường là bài "Xuân Hành", sáng tác năm 1959, ở giữa hai bài hành kia. Hành trình bình thường và muôn thuở như câu hỏi đầy vẻ triết học là "người là ai, từ đâu tới và sẽ đi về đâu".... Ngươi từ lòng người đi ra rồi sẽ trở về lòng người. Người vừa là thần thánh, vừa là ma quỷ, biết thương yêu dai mà cũng biết hận thù dài….
Nhất là biết vui buồn giữa hai nhịp đập của con tim, ngay cả khi con tim ngừng đập.
Với khoảng cách thời gian, tức là có thêm sự chín mùi của cuộc sống, ta có thể nghe lại ba bài hành này mà thoát khỏi hoàn cảnh của Sàigòn thời 53, 59 hay 70. Nghe lại với tâm cảnh của chính mình. Đấy cũng là lý do mà Quỳnh Giao thích bài “Xuân Hành” hơn cả.
Về nhạc thuật thì đấy là một ca khúc có nhịp điệu uy nghi hùng tráng, trong sáng mà êm dịu chứ không chát chúa như nhiều bài hùng ca hoặc một khúc quân hành.
Bài "Lữ Hành" rất hay nhưng ít người hát vì từ đầu đến cuối là dùng nhịp chõi – syncope. Đôi khi có người còn trình bày theo điệu "swing" khá giật mà không phản ảnh được nội dung sâu sắc thánh thiện của lời ca.
So với "Lữ Hành" thì bài "Xuân Hành" dễ hát hơn, nhưng cũng cần trình bày hợp ca nên đòi hỏi kỹ thuật hòa âm mới diễn tả hết giá trị của tác phẩm. Phải chăng vì vậy mà ngày xưa chúng ta ít được nghe ca khúc này ở ngoài các chương trình của đài phát thanh?
Bây giờ mà nghe lại, khi tư duy đã lắng đọng, người ta còn thấy ra một giá trị khác, là nội dung của lời từ.
Phạm Duy dẫn chúng ta vào tác phẩm với lời giới thiệu về câu hỏi muôn đời là người từ đâu tới và đi về đâu. Nhưng trong ca khúc mà cũng là một đời người từ thuở là mầm non chớm nở đến khi trở thành lá úa, ông còn diễn tả nhiều điều khác nữa. Nổi bật trong đó là chữ nhân, hay tinh thần nhân ái là chữ mà ông dùng.
Chúng ta sinh ra là từ lòng người với tiếng khóc và nụ cười, với thương yêu và hận thù lẫn đắm say. Nhưng chân lý muôn đời là trưa hôm qua có thể còn là người, đêm hôm sau thì đã thác, có khi là vị thần hoặc một lũ ma lẻ loi....
Chữ sinh và hủy chỉ là hai mặt của cuộc đời và ai ai cũng như vậy. Nhưng, nội dung mang tính chất thánh ca của tác phẩm nằm trong thông điệp chìm ẩn bên dưới: sự bất diệt trong vòng tử sinh đó là chữ nhân. Nếu sinh ra và sống mãi với lòng nhân thì chẳng ai nên sợ cái chết. Cuộc hành trình của đời người mang ý nghĩa thăng hoa của một mùa Xuân khi nó được hướng dẫn bởi lòng tử tế.
Khi liên lạc với chú Phạm Duy - người viết vẫn gọi ông như vậy với sự tôn kính - về bài Xuân Hành, Quỳnh Giao đã lẩm nhẩm hát lại và ngẫm lại rồi nghĩ đến một thông điệp tôn giáo.
Đó là lẽ tử sinh của luân hồi, là ngũ uẩn gồm có sắc-thọ-tưởng-hành-thức. Nhờ sự suy ngẫm đó mình tìm ra một chữ "hành" trong kinh sách nhà Phật. Đấy là ý khác của hành trong bài Xuân Hành. Rất đơn giản thì hành động tốt sẽ tạo ra thiện nghiệp để có ngày vượt khỏi lẽ tử sinh. Phải chăng, câu "Đường nhân ái còn đi mãi mãi" của ca khúc nói về một cách sống bất tử?
Nếu quả như vậy thì thông điệp này còn sâu xa hơn lời ca trong bài "Đường Chiều Lá Rụng" của Phạm Duy....
Cho một số báo Xuân thì đấy là lòng tri ân được gửi đến tác giả, cùng với lời chúc Xuân. ___
(Bài này Quỳnh Giao viết ngày 02 Tháng 11, 2012, do yêu cầu của chính Phạm Duy. Ông đã đọc trước khi bài xuất hiện trên tờ Xuân Việt Báo năm 2013, rất hài lòng vì có người tri âm, vài ngày sau thì ông tạ thế.)
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 2, 2023 16:35:39 GMT 9
Làm cha thiên hạ . Trích Hồi Ký Phạm Duy
Tôi còn nhớ rất rõ cái hôm Đại hội Văn nghệ ở Việt Bắc mùa hè năm 1950. Tố Hữu đã phá vỡ giấc mơ của nhiều người. Trước tiên ông ta tấn công vào nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ: “Vọng Cổ có âm điệu ủy mị, làm cho người nghe bị ru ngủ, tiêu tan cả chí phấn đấu.” Lưu Hữu Phước đứng lên bênh vực cho bài Vọng Cổ của mình: “Vọng Cổ hay lắm, hay lắm, không bỏ Vọng Cổ được đâu”. Nhưng Tố Hữu nói: “Vọng Cổ làm cho Việt Nam mất nước, nên phải cấm nó thôi.” Dẹp xong vọng cổ, Tố Hữu quay sang kịch thơ. “Nội dung phong kiến. Cốt truyện đưa ra toàn là những nhân vật quan liêu. Lối diễn xuất bằng sự ngâm nga, nghe thật là rên rỉ, lướt thướt. Kịch Thơ không thích hợp với kháng chiến.” Đó là trường hợp Lưu Hữu Phước và Hoàng Cầm. Họ Lưu hiền lành và nhẫn nhục, ông cố đấm ăn xôi đi theo cộng sản tới cùng. Còn Hoàng Cầm thì rẽ qua Nhân Văn Giai Phẩm và bị đày đoạ suốt đời.Riêng tôi, họ buộc tôi phải khai tử những đứa con của mình như Bao Giờ Anh Lấy Được Đồn Tây, Bà Mẹ Gio Linh, Bên Cầu Biên Giới…vì cho là uỷ mị, tiêu cực. Sau đại hội, mọi người không ai ngờ là “cách mạng” lại lẩm cẩm đến như vậy. Nhưng khi sự lẩm cẩm trở thành lệnh thì nó biến thành sự ngu đần quái dị. Phạm Duy kể tiếp: “Qua khỏi một con suối được đặt tên là Lê Nin thì thấy hiện ra một ngôi nhà sàn bằng tre rất đẹp, có ông Chủ Tịch họ Hồ đang ngồi đánh máy. Nhìn thấy ông, tôi vẫn cảm động như lúc gặp ông lần đầu. Nhưng vì bây giờ được nhìn ông gần hơn lần trước, tôi thấy cặp mắt của ông thật là sáng, nhưng nó không toát ra một sự trìu mến. Cũng có thể một người làm chính trị suốt đời như ông thì lúc nào cũng cần phải quyết liệt, phải tàn nhẫn, cho nên ông có một cái nhìn rất dữ. Tới gặp ông lần này, tôi đủ thông minh để thấy ngay rằng đối với ông, lúc đó, tôi chẳng là cái gì cả. Không chừng ông cũng chẳng biết tới tên tôi hay biết tới công việc của tôi là đàng khác. Trong cái bắt tay hay trong câu chuyện, tôi chỉ cảm thấy có một chút thân mật của một người muốn làm cha thiên hạ, ban xuống cho một đứa con dân. Chỉ có thế thôi. Một nhà lãnh đạo như ông Hồ, đang có muôn ngàn chuyện phải làm, đâu có thì giờ để mà đãi ngộ một văn nghệ sĩ? Chẳng qua là vì những vị phụ trách về văn nghệ nghĩ rằng gặp ông Hồ là một ân huệ lớn đối với một công dân và nghệ sĩ như tôi. Trong mọi tính toán như: cho vào Đảng, cho đi Moscou, đề nghị tặng huân chương, còn có thêm một tính toán nữa là cho tôi gặp một người mà ai cũng mong được gặp. Họ không biết là tôi đã từng được mời tới gặp ông Bảo Đại khi ông vua này đi săn và tới Phan Rang hồi năm 1943. Tôi đang đi hát với gánh Đức Huy ở đó, ông Tỉnh Trưởng là Nguyễn Duy Quang cho xe hơi tới đón tôi đưa vào Dinh Tỉnh Trưởng để đàn hát cho ông vua nghe. Lúc đó tôi mới 22 tuổi. Chỉ có tôi và Bảo Đại ngồi ở trong phòng khách. Ông chăm chú ngồi nghe tôi hát, hỏi thăm gia đình tôi. Gặp ông vua mà cũng chẳng thấy có gì là ghê gớm cả. Ông vua nghe mình hát thì cũng như… ông trọc phú hay ông phu xe — những quý vị khán giả bỏ tiền mua vé vào rạp — nghe mình hát mà thôi. Nhưng phải công nhận rằng ông Bảo Đại là một người rất nhã nhặn, rất thích âm nhạc. Tiếc rằng tôi không nhìn được rõ đôi mắt của ông vì ông luôn luôn đeo kính đen. Nhưng có một điều mà bây giờ tôi mới nhìn thấy khi tôi gặp ông Hồ Chí Minh ở Việt Bắc là: dù đây là một thứ chính quyền Cách Mạng nhưng ở cái nơi chiến khu âm u bí hiểm này cũng có một thứ triều đình rồi — chẳng trách Nguyễn Tuân gọi đây là đất thánh. Triều đình nào cũng phải có kẻ nịnh. Kẻ nịnh bao giờ cũng đông hơn người trung. Lúc tôi tới nơi ông Hồ ở là lúc tôi thấy Tống Ngọc Hạp đem một bầy thiếu nhi tới và tôi chứng kiến một sự “tranh nhau đi gặp Bác Hồ”, một sự cãi nhau om sòm giữa người này người nọ trong khi chọn ai được vào gặp, ai không được vào gặp. Tôi trở về Yên Giã, lòng rất thản nhiên vì bây giờ thì tôi không còn gì để thắc mắc nữa. (Trích Hồi Ký Phạm Duy)
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 25, 2024 17:56:29 GMT 9
𝑷𝑯𝑨̣𝑴 𝑻𝑯𝑰𝑬̂𝑵 𝑻𝑯𝑼̛ 🍀🍀🍀 🌹🌹 𝑮𝑶̣𝑰 𝑬𝑴 𝑳𝑨̀ 𝑫𝑶́𝑨 𝑯𝑶𝑨 𝑺𝑨̂̀𝑼 🌹🌹 Phạm Thiên Thư sinh năm một ngàn chín trăm bốn mươi, tính đến năm nay, ông đã tám mươi tư, tám mươi lăm tuổi. Nghe nhiều bạn bè văn nghệ nói, ông bị nghễnh ngãng, nhớ nhớ quên quên đã nhiều năm nay. Ông từng là một Đại Đức có pháp danh Thích Tịnh Không, tu tại Thiền Viện Pháp Vân từ năm một ngàn chín trăm sáu mươi tư đến một ngàn chín trăm bảy mươi ba. Thơ ông, ngay từ buổi ban sơ, khi mới vừa xuất hiện trên thi đàn, đã mềm mại, dịu dàng, nhẹ nhàng, bay bổng, siêu thoát. Thơ ông có màu sắc của thiền, của triết lý nhà Phật. Năm một ngàn chín trăm bảy mươi ba, ông đoạt giải nhứt văn chương toàn quốc với tác phẩm Hậu Truyện Kiều - Đoạn Trường Vô Thanh. ****** ĐOẠN TRƯỜNG VÔ THANH Đoạn Trường Vô Thanh hay còn gọi là Hậu Truyện Kiều, là một tập truyện thơ lục bát, được Phạm Thiên Thư hoàn thành vào năm một ngàn chín trăm sáu mươi chín. Đoạn Trường Vô Thanh được các nhà nghiên cứu văn học và lý luận phê bình đánh giá cao, xem đây là công trình viết tiếp Truyện Kiều thành công nhứt. Vô Thanh có nghĩa là không còn tiếng kêu than đoạn trường. Tập truyện thơ có cả thảy ba ngàn hai trăm chín mươi câu thơ, được viết theo thể lục bát, chia làm hai mươi bảy phần, mỗi phần đều được đặt tên riêng, ví dụ như ca khúc Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu mà Phạm Duy phổ nhạc, được lấy từ phần thứ mười sáu, có tên là Ai Để Hoa Dung. Đoạn Trường Vô Thanh có nhiều điểm khác biệt so với Truyện Kiều. Thứ nhứt, trong truyện thơ này, Phạm Thiên Thư hoàn toàn không sử dụng điển tích Tàu. Thứ hai, tuy sử dụng thể thơ lục bát, nhưng ông không dùng bút pháp tượng trưng, ước lệ, mà ông lại nghiêng về lối tả chân, nghiêng về diễn tả cảm xúc nội tâm của nhân vật, nghiêng về lối kể chuyện tự nhiên, giản dị, và dùng nhiều từ ngữ dân gian. XVI/ AI ĐỂ HOA DUNG (Bức Thứ Mười Sáu: Vương Quan hồi tưởng người yêu cũ, nàng Ẩn Lan, con gái Hồ ông, và dự định đi theo Ngô Khôi thăm thầy học.) Vương Quan thơ thẩn ngoài đê Ven sông in bóng hoa lê nở bừng Tiếng ai hú vọng trong rừng Mây phơi lụa tím trên sừng trâu tơ Nền trời nhàn nhạt màu mơ Sông đem ráng đỏ sóng hờ hững đi Sáo diều vọng tiếng vu vi Như chim tung cánh tìm gì lưng mây (1710) Thôn xa nghển bóng cau gầy Vẻ như tư lự dõi bầy sẻ thưa Gió chiều giục nhớ thôn xưa Vườn mai hoa trắng bây giờ còn tươi Niềm quê vời vợi phương trời Lửa chiều thấp thoáng tưởng lời cố thôn ****** Ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn Dáng ai cắp rổ lên cồn hái dâu Tiếng nàng hát vọng đôi câu Dừng tay viết mướn lòng sầu vẩn vơ (1720) Lều tranh còn ủ chăn mơ Mối tình là một bài thơ vô đề Ẩn Lan ơi, mái tóc thề Gió xuân nay có vỗ về suối hương Đêm nao ngồi học bên tường Nến leo lét lụi, chữ vương vắt chìm Ngoài song thoảng tiếng hài im Như trăng buông hạt tơ chìm kiêu sa Lan cười đưa đến cho ta Sợi dài tóc bạc chùm hoa ngâu vàng (1730) Sách thơm áp má mơ màng Tỉnh ra hương thoảng bóng lan chập chờn Nhớ khi em dỗi em hờn Hai ta chia sẻ nắm cơm cháy vừng Nhớ đêm nằm võng ngó trăng Đếm ngôi “sao sáng” lại rằng “sáng sao” Giọng em lanh lảnh tiếng cao Răng em tươi hạt ngọc nào long lanh Nền trời mây lại qua nhanh Viền trăng vương phải đầu cành vỡ tan (1740) Những đêm trời tối như than Bắt con đom đóm trên giàn mồng tơi Cho em, em cất tiếng cười Hất tay em thả đóm trời tung bay Vòi ta đuổi bắt lại ngay Thả đi, đòi lại mãi đày đọa nhau Gọi em là vẻ hoa sầu Lan đòi nụ bưởi cài đầu làm duyên Nhặt son trên núi mài nghiên Thơ anh em điểm dấu yên màu hồng (1750) ****** Tưởng khi đỗ đạt thành công Tay đan suối tóc, hoa lồng trăng non Chưa thề sông cạn đá mòn Trang tình đã điểm dấu son đầu đời Dường trong ánh mắt tiếng cười Vẻ như ngượng ngập mở lời con tim Thế rồi - tăm cá bóng chim Theo thầy ẩn dật dời miền đi xa Anh về lý vẫn đơm hoa Cuối thôn còn lại mái nhà xác xơ (1760) Hiên trăng soi quạnh bàn cờ Tìm chi con đóm cũng vờ vẩn bay Buồng đây, Lan vẫn ngồi may Bây giờ tơ nhện gió lay lạnh lùng u sầu ai để hoa dung Nền xưa giảng sách tiếng trùng ngân vang Tìm em đò dọc thuyền ngang Thấy đâu dấu vết chim sang đất nào Năm xưa em tựa cội đào Tên ai còn dấu khắc vào da cây (1770) Mấy lần anh lại chốn đây Hiên tranh đôi bướm vờn mây lững lờ Lòng buồn trăm mối vò tơ Sợ trông hoa nở, ngại chờ hứng thi Những đêm trăng sáng buồn chi Mà lòng sách vẳng tiếng gì chan chan Ngỡ chim gọi bạn trên giàn Ngỡ em phơi cái thời gian giậu ngoài Cánh lòng lại vượt ngàn mây Tìm đâu suối tóc tay cài hoa xưa (1780) Có đêm thao thức nghe mưa Tưởng em về tiếng guốc đưa ngại ngần Đông tàn còn thể chờ xuân Đôi ta biền biệt sông Ngân nhạt nhòa Biết đâu em ở miền xa Nghe mưa mà chẳng như ta khóc mình Có đêm soi bóng lung linh Bâng khuâng một ngọn đèn tình trong sương Em thì biền biệt dáng hương Riêng hoa in bóng trên giường lơ thơ (1790) Tóc đan hoa ảnh lờ mờ Mộng xưa hoen ướt đôi tờ lệ thi Nước non cũng nhuốm sầu bi Người đi - úa cái xuân thì - ai đây Dặm hồng biền biệt cồn mây Cỏ hoa chung giấc sum vầy bấy xuân ****** Thế rồi vâng lệnh song thân Xe duyên cùng với giai nhân xóm ngoài Có khi thức ngủ canh dài Mơ hồ còn tưởng dáng ai ngồi kề (1800) Tỉnh ra mới biết cơn mê Mảnh trăng cùng bóng hoa lê nhạt dần Tình đời rồi cũng phù vân Biết bao sóng gió xóa dần dư âm Dẫu lòng ôm mối tình câm Vùi sâu một nấm mù tâm lệ nhòa Bây giờ bắt được tin hoa Tấm lòng lại quặn xót xa lạ thường Sáng mai hành lý lên đường Thăm Lan biết mấy dặm trường ngựa bon (1810) ****** Sông dài cởi yếm hoàng hôn Bầy chim ngủ đậu bên cồn lại bay Gió về đưa ngọn sóng say Tiếng ca mục tử cuối ngày gọi trâu Bãi xa cỏ tím rầu rầu Mái đình rêu vọng trống chầu nhịp mưa. ****** GỌI EM LÀ ĐÓA HOA SẦU Không chỉ có kiến thức sâu rộng về Phật pháp, mà Phạm Thiên Thư còn được xem là nhà thơ có công trong việc “thi hóa kinh Phật”, nghĩa là, dịch chuyển thành công kinh Phật sang thể loại thơ. Ông cũng là một trong những tác giả có thơ được phổ nhạc nhiều nhứt. Và nhạc sĩ phổ thơ ông nhiều nhứt, chính là thiên tài Phạm Duy, với các bản như: Chàng Dũng Sĩ Và Con Ngựa Vàng, Chắp Tay Hoa, Đại Nguyện, Lời Ru Bú Mớm Nâng Niu, Một Cành Mai, Pháp Thân, Qua Suối Mây Hồng, Huyền Thoại Trên Một Vùng Biển, Loài Chim Bỏ Xứ, Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng, Em Lễ Chùa Này, Ngày Xưa Hoàng Thị, và tất nhiên, cả bài Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu mà tôi đang đề cập. Vào khoảng năm một ngàn chín trăm bảy mươi, khi Phạm Duy và Phạm Thiên Thư lần đầu biết nhau, trong hồi ký của mình, Phạm Duy kể lại: Đối với tôi lúc đó, hình ảnh thiền, chùa, động hoa vàng, thật là mát mẻ và cần thiết. [...] Gặp tu sĩ Tuệ Không kiêm thi sĩ Phạm Thiên Thư là tôi như thoát xác, vượt ra khỏi những đắng cay, chán chường và bế tắc. [...] Từ đó, tôi luôn tìm đọc thơ của Phạm Thiên Thư để phổ thành những bài hát thanh cao nhất của thời đại. Riêng nói về nhạc phẩm Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu này, Phạm Duy cho biết: Dù sao đi nữa, thì cuộc đời này vẫn rất là đáng sống trong cái mênh mông bao la của phù vân hư ảo. Hành âm nghe rất âu yếm và nhẹ nhàng, hợp với không khí nồng nàn và an ủi của bài ca. Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu, được Phạm Duy lấy ra từ tác phẩm Đoạn Trường Vô Thanh, từ câu một ngàn bảy trăm mười bảy đến câu thứ một ngàn bảy trăm năm mươi. Nội dung của bức thứ mười sáu này kể về Vương Quan, em trai út của Vương Thúy Kiều và Vương Thúy Vân, nhờ Kim Trọng mà gặp lại Ẩn Lan, người yêu của Vương Quan, vì hoàn cảnh, đã cùng cha là một thầy dạy học, biệt vô âm tích bấy lâu nay. ** Nội dung đoạn thơ là thế nhưng khi biến nó thành ca khúc Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu, thiệt tình thích thì thích lắm, đương nhiên rồi, thơ của Phạm Thiên Thư, Phạm Duy phổ nhạc mà - nhưng, thú thực, tôi nghe mà không mấy hiểu. Nhưng, thơ và nhạc, và cả hội họa nữa, tại sao lại cần phải hiểu? Hiểu thì giải quyết được gì. Thấy hay là được rồi. Thấy thích là tốt rồi. Thấy yêu là ca khúc đã thành công rồi. Lời thì thơ, giai điệu thì du dương, êm dịu, như ru, như dỗ dành, như vuốt ve, an ủi, chia sẻ và thấu hiểu, là quá được rồi. Một ca khúc, mà cảm ra được ngần ấy, thì còn cần thêm điều chi nữa. Lần đầu tiên tôi nghe bài này, và cũng là, bắt đầu từ đó, tôi thích, thì ấn tượng đầu tiên của tôi, chính là tựa đề của ca khúc - Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu. Chỉ cần gọi em là đóa hoa thôi, cũng đã đủ rất thơ rồi. Huống hồ gì, hoa này là hoa sầu. Hoa sầu là hoa làm sao? Chỉ nghĩ như vậy, chỉ hình dung đến như vậy, cũng đã khiến cho thơ, lại càng thêm nét thơ. Nghĩa là, chất thơ của câu, đã được nhân đôi lên, được bội phần gấp lên. Hình ảnh “áo nhuộm hoàng hôn” cũng đã khiến tôi vô cùng ấn tượng, bởi nó đẹp. Màu hoàng hôn là màu gì? Xem ra, tưởng dễ mà lại khó phân tích cho đích xác, là tím, là vàng, là cam, là xanh, là hồng, là đỏ, hay là tất cả các màu ấy, phải được trộn lại, thì mới ra cái màu được gọi là màu hoàng hôn? Còn màu hoàng hôn, với riêng tôi, là màu quan san, là màu của xa xôi, cách trở, màu của vạn dặm đường xa, màu của cánh chim bay mỏi lối. Màu hoàng hôn, là màu chia biệt. Một loạt ba câu sau cũng là những hình ảnh đẹp đến mức, tưởng không còn gì có thể đẹp hơn - dáng ai cắp rổ lên cồn hái dâu, tiếng nàng hát vọng đôi câu, dừng tay viết mướn lòng sầu vẩn vơ. “Dáng ai” mới thanh thoát làm sao, hồn nhiên làm sao, xinh xắn, ngây thơ, tươi trẻ làm sao, cắp cái rổ, mới nhẹ nhàng, mới thơ làm sao, rồi hát nữa chớ, hát sao mà vọng từ trên cồn, xuống lều tranh của chàng học trò Vương Quan. Giọng nàng chắc là trong trẻo lắm. Vọng xuống mà như rất gần, vọng xuống mà như thủ thỉ, như nói riêng cho người yêu mình nghe thôi. Thế cho nên, làm sao mà chàng không vẩn vơ cho được. Vẩn vơ lòng sầu. Sầu vì yêu. Một tình yêu xinh đẹp và mong manh, khó thể ôm vào lòng, giữ trong tay, như mùi hương của hoa lan, ẩn dấu. Hình ảnh “lều tranh còn ủ chăn mơ” cũng khiến tôi dừng lại rất lâu. Đơn sơ mà ấm áp. Giản dị mà thơ mộng vô cùng. Rồi “mối tình là một bài thơ vô đề”, và “Ẩn Lan ơi, mái tóc thề” cũng làm tôi rung động. Vô đề, không nói gì, không nói chi, bởi vì, tất cả các lời nói, câu nói, dù có trau chuốt tới đâu, dù có mỹ lệ rất đỗi, thì cũng không thể nào, diễn tả được hết vẻ đẹp của hai người đương yêu nhau. Rồi “tiếng hài”, rồi “sách thơm áp má mơ màng”, toàn là những hình ảnh, những âm thanh, tưởng như đương lạc bước chốn tiên bồng, Nghèo mà vẫn thanh cao. Chân quê mà vẫn sạch thơm, dù bóng lan chỉ chập chờn, dù cánh lan đương cố tình ẩn dấu. Rồi thì “nhớ khi em dỗi em hờn”, và “Ẩn Lan ơi, gọi em là vẻ hoa sầu” thì quả là, chính ngay đây, câu thơ, lời nhạc, chúng đã khiến cho tôi chết trong lòng một ít. Tôi cứ tự xuýt xoa hoài, rằng, sao mà ông Phạm Thiên Thư, ổng lại nghĩ ra được cái tên hay đến thế nhỉ, lạ đến thế nhỉ. Nghĩ ra, hay trong đời thật, ổng đã từng biết, có người, mang một cái tên như thế? ****** Khi đánh giá về các tác phẩm của Phạm Thiên Thư, tiểu luận gia Đặng Tiến viết: Phạm Thiên Thư đã đánh dấu một thời đại thi ca, bằng thể thơ lục bát cổ truyền, nhà thơ đã làm thăng hoa khả năng thẩm mỹ, khả năng diễn đạt, vốn xưa nay là phức tạp, khó khăn và diệu vợi. Bốn câu thơ của Bùi Giáng dưới đây, viết tặng cho Phạm Thiên Thư, và tôi cho rằng, ngần ấy, cũng đã cho ta hiểu khá đủ về nhà thơ: Chạy quanh khu vực thần tiên Mỗi chân mười ngón kết liên bốn mùa Vườn cây trái ngọt trái chua Mù sương hấp dẫn về chùa ngủ quên. Nhà văn Ngô Nguyên Nghiễm, trong bài viết Từ Đoạn Trường Vô Thanh Đến Hát Ru Việt Sử Thi, ông cho rằng: Phạm Thiên Thư đến với thi ca bằng một phá chấp cực kỳ thông diệu. [...] Phạm Thiên Thư bước xuyên qua cả một khoảng cách không - thời gian như vậy, vẫy tay gom tụ lại những hạt châu, để hình thành trọn vẹn hóa thân, cho tư tưởng văn chương, thấm nhuần đạo vị trong cõi nhân sinh này. [...] Cái đẹp của nghệ thuật chan hòa trong đạo vị như thiền sư soi trăng để thấy tâm mình. Nếu không có trăng sao, hẳn văn hóa con người, hữu tướng hay vô tướng, cũng vơi đi một nửa. Đẹp thay! Nhiều người thắc mắc, sau mười năm, tại sao ông lại rời bỏ chiếc áo già lam cùng danh hiệu tu sĩ lãng mạn, bước xuống trần thế với dòng thơ trầm lặng, sang cả, một thế giới thơ rất riêng Phạm Thiên Thư? Ông không phân trần, chỉ cười nhẹ, tôi tu theo cách của mình, tu để sống cuộc đời của mình, nuôi dưỡng lối tư duy và trí tuệ của mình. Còn tôi, mỗi khi nghe bài này, hoặc mỗi khi hát nho nhỏ: Ẩn Lan ơi, em dỗi em hờn. Ẩn Lan ơi, em dỗi em hờn. Ẩn Lan ơi, như những cơn buồn, nỗi buồn thơm lâu. Em ơi, gọi em là đóa hoa sầu. Là đóa hoa sầu - thì tôi lại thấy mênh mênh mang mang, hư hư thực thực, một không gian, có đôi người yêu nhau. Đẹp. Thơ. Và, thoát tục! Sài Gòn 16.02. 2024 - Phạm Hiền Mây
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 26, 2024 19:59:23 GMT 9
Thính phòng... Để thiết kế một phòng karaoke professional, hoặc một phòng trà mini có dạng sân khấu nhỏ...thì đây là một kinh nghiệm một thời của mình , xin được chia sẻ với những anh chị em chưa đủ kinh nghiệm để tự thiết kế riêng cho mình một phòng nhạc chơi thịnh soạn hay kinh doanh nho nhỏ. Trước tiên hãy nói đến diện tích căn phòng, ở đây mình giả sử là một căn phòng có chiều dài 20m và chiều ngang là 10m. ( Cứ như vậy nếu diện tích của các bạn nhỏ hơn thì sẽ chia tỉ lệ lại thôi ). Ở đây là một phòng trà , có sàn nhảy... Chúng ta sẽ đặt sân khấu ngang theo chiều dài của phòng ...sân khấu diện tích ngang 5m và sâu vào 3m...dĩ nhiên sk phải là một bộ khung nổi cao hơn nền nhà 30cm...và sân khấu tọa lạc giữa chiều dài 20m của căn phòng... Sàn nhảy được thiết kế 7m ngang và 7m sâu dài đụng đến tường, tính từ sân khấu thẳng qua tường đối diện .. Còn những bàn ngồi thưởng thức ta chia ra hai bên sân khấu với diện tích còn lại của căn phòng. Và dĩ nhiên ta cũng chừa lại một lối vào từ cửa ngoài dọc theo căn phòng tới cuối và đi qua mặt sân khấu...có lẽ nói đến đây anh chị em có thể tưởng tượng ra rồi. Trước tiên ta phải tính đến tính cách : cách âm hoặc làm tiêu âm ồn và ù , khiến người thưởng thức và phòng kế bên hay hàng xóm khó chịu vì âm thanh ù ì và gầm gừ bởi tiếng loa bass...cái này rất quan trọng mà hình như ít người để ý đến sự khó chịu này , đôi khi chỉ biết mình đạt và đã nhưng không hề biết cảm nhận chịu đựng của người chung quanh , nhất là các bạn hàng xóm của chúng ta. Có 2 cách thiết kế tiêu âm , giữ âm thanh ở trong phòng khá là đơn giản. Thứ nhất đóng toàn bộ tường trong phòng bằng mút cách âm , bán phổ thông ..để giữ âm thanh khỏi phiền hà ...nhưng thật sự chưa tiêu âm hoàn toàn được ( có thể cách âm ở ngoài hoặc phòng bên không nghe được , nhưng người bên trong thưởng thức vẫn bị khó chịu nơi tiếng bass gây mệt...) Thứ 2 cách này hơi cầu kỳ hơn chút , nhưng có lẽ đẹp về trang trí , và không gây ảnh hưởng khó chịu cho người bên trong và bên ngoài... Trước tiên đóng các nẹp gỗ cao 120cmx ngang 5cmx dày 2cm , khoảng cách 2cm cho mỗi thanh gỗ nẹp chung quanh phòng. Tác dụng gỗ vẫn giữ âm thanh nhưng không gây ầm ì tiếng hậu của loa bass gây khó chịu người nghe.. Phần tường còn lại , Chúng ta sẽ đóng hoặc dán miếng bông thủy tinh cách âm vô tường, loại dày 10cm...sau đó đóng thêm một lớp ván ép mỏng 1cm để giữ...rồi sẽ phun sơn và quay xi măng bắn vô vách ván ..tạo độ sần sùi để giữ âm thanh không gây phiền hà ra ngoài...cách này tốn nhiều tiền và phức tạp nhưng ngược lại cho ta một phòng nhạc tuyệt vời và dễ dàng sử dụng cho nhiều loại , nhiều kiểu loa. Âm thanh sẽ như ý..khiến người thưởng thức nhẹ nhàng không mệt tim vì tiếng bass vỗ quá mạnh và người ở phòng bên không bị chịu đựng về áp lực về tiếng bass ầm ì vọng lại ... Về màu sắc thì tùy theo các anh chị em trang trí . Sau đây là phần máy móc audio : Ta phải có 4 loa full bass 30cm ( một thùng 3 loa )...ví dụ : Yamaha Ns 1000M. Loại loa sử dụng tốt cho nghe nhạc lẫn ca hát....các loa này sẽ được treo lên ở 4 góc phòng hướng 45 độ xéo nhau. Tính từ dưới đất lên thùng loa là 3m và loa sẽ được đặt nằm ngang nhé. Tiếp đến là 2 loa control bass 30cm 3 đường tiếng ,đặt trên sàn sân khấu hướng về ca sĩ và ban nhạc...để họ nghe được họ chơi ra sao...ví dụ loa UBL , Ev( electro voices, Bose, Yamaha). Ta cần 2 loa full bass 40cm ( loa 3 đường tiếng )đặt 2 bên của sân khấu , ngang tầm với vị trí của người hát đứng và quay theo hướng nhìn của ca sĩ và ban nhạc. Loa sub bass 50cm , có cũng được hoặc không cần thiết . vì 2 loa full bên cạnh sân khấu sẽ đặt trồng lên trên 2 loa sub bass này... Vì khi sử dụng sub bass ta chỉ cần chơi khi ban nhạc chơi thôi ,bass thêm cho đầy tiếng... Còn hát karaoke thì nó sẽ làm ồn ào và khó chịu thêm cho người thưởng thức và hàng xóm phiền. Phần kế đến thì ta nói về ampli và các dụng cụ làm nên âm thanh. Trước tiên ta có 1 mixer để phối trộn nhạc loại từ 12 lines trở lên. Và có 2 đường volume out : 1 out full , 2 out for sub only. Loại mixer nay giờ hơi khó trọn lựa vì đa số bây giờ công nghệ của Trung Quốc làm..nếu tìm được mixer Mỹ , Đức , Nhật thì tốt hơn China. Thực sự hay hoặc không đều do mixer nữa , không cần quá nhiều ic digital mà sử dụng bán dẫn analog cũng hay ..nếu ta giành cho band nhạc chơi : guitar ,piano ,trống da, violon...thì analog là biện pháp tốt hơn digital. Vì khi sử dụng quá nhiều digital nó sẽ làm mất đi cái âm thanh mộc mạc của tiếng đàn thật..cũng như là tiếng ca vậy. Tiếp theo là phần công suất ampli.... Cứ mỗi một power chúng ta sử dụng cho một cặp loa mà thôi..để dễ kiểm soát. Ta nên lắp đồng bộ 1 hiệu power để dễ sử dụng , công suất music từ 1500w đến 2500w cho mỗi power , tương đương cs cho ra mỗi bên của power khoảng 150w rmf với 8 ohm... Nên chúng ta cần có 5 cái power nho nhỏ đặt trồng lên nhau vào một cái kệ sắt chuyên nghiệp có bánh xe để dễ di chuyển.. Mixer ta có thể đặt lên trên cùng của kệ và out kết nối vào các power. Ngoài ra trước đây người ta sử dụng mixer rời không có Eco ,Equalizer và Effect trong mixer và người ta đã sử dụng một Eco rời,Equalizer rời ở ngoài đấu vào mixer trộn xong đưa xuống phần power để ra loa ...và nếu là sân khấu lớn thì người ta sẽ sử dụng loa lớn từ bass 50cm trở lên , người ta sẽ sử dụng thêm bộ chia phân tầng ( Crossover)cho từng loại loa..nhưng điều này mình không nói đến vì mình đang chia sẻ một phòng nhạc nhỏ dưới 200m vuông.. Mình đã chia sẻ như vậy , còn phần micro và các dụng cụ còn tùy vào chủ nhân mua sắm và chơi ban nhạc hay chơi karaoke nữa... Nhưng sự cần thiết nhất là người ráp và chỉnh máy chuẩn và hay nữa ... Ngoài những phần thiết kế trang bị cho một phòng nhạc , ta nên chú ý về giây điện loa. Dây phải to và nhiều sợi càng tốt để dẫn âm thanh đến loa cho tốt. Mua dây từ 400 tim đến 500 tim là vừa đẹp nhất..nên nhớ sd dây nhỏ 200 tim đến 300 tim sẽ bị giảm tiếng bass rất nhiều và tiêu tốn năng lực của ampli ( nghĩa là phải vặn lớn hơn, gây nóng máy do tải bị ohm cản nhiều quá ) khi phát ra tiếng bass bị cứng và nhỏ. Sử dụng dây nhiều tim sẽ ít bị ohm cản , tiếng bass tầng số thấp sẽ qua ngọt ngào và đỡ mệt cho ampli..âm thanh hay hơn. Giờ là đến phần trình diễn của người sound man và band nhạc..hoặc tín hiệu digital lấy từ Tv hay Tv box luôn luôn phải vô một ampli digital tốt để cho tín hiệu âm thanh tốt nhất..để sau đó làm nhạc nền cho karaoke và nối vào Mixer để trộn tiếng... Mình chia sẻ theo kinh nghiệm hiểu biết của mình , nếu có gì sơ xuất xin anh chị em bổ xung cũng như nhắc nhở cho mình học hỏi thêm nữa nhé. Nhưng tất cả đồ chơi đã hoàn tất, cái cuối cùng vẫn là sound man cần có kinh nghiệm và tai nghe cho chuẩn mực...mới đạt hoàn hảo cho một phòng nhạc..dành cho nhiều người cùng thưởng thức. Sài Gòn một ngày cuối tuần 2024
|
|