Post by Can Tho on Jun 6, 2020 3:11:46 GMT 9
SAIGON XU'A VÀ NAY - Thái Văn Kiểm
SAIGON là thủ phủ miền Nam nước Việt và cũng là thủ đô của nước Việt-Nam tự-do.
Nói đến Saigon, tất nhiên phải nhắc lại cuộc Nam tiền vĩ đại của dân tộc ta trải qua bao nhiêu thế kỷ.
Người dân Việt nặng óc phiêu lưu và giàu lòng quả cảm, đã được lịch sử gioa phó sứ mạng nối liền sông Dương tử với sông Hồng-Hà và sông Cửu-Long, ba con sông lớn nhất Á Châu.
Nương theo bờ biển Thái bình Dương, và đặt chân lần đầu tiên, vào năm 1658, trên xứ Đồng nai hoa màu bát ngát, cách đây đúng 300 năm, tổ tiên chúng ta đã hoàn thành sứ mạng trọng đại.
I- ĐÔI DÒNG LỊCH - SỬ CẬN ĐẠI
Nam Bộ ngày xưa là nuớc Chân Lạp với đất ruộng phì nhiêu với sông ngòi ràng rịt. Còn nước Nam ta hổi ấy đất đã hẹp mà mùa màng thường hay mất vì nạn thiếu nước, lại gặp lúc chúa Nguyễn chúa Trịnh đánh nhau, cho nên nhiều người đành bỏ làng mạc ra đi, vào khai khẩn đất ruộng ở Mô Xoài (Bà Rịa) và ở Đồng Nai (Biên Hòa), theo chân bà công-chúa Ngọc-Vạn, được Chúa Sãi gã cho vua Chân-Lạp Chei Chetta II từ năm 1620.
Năm 1658, vua Chân Lạp mất rồi, chú cháu tranh nhau ngôi báu, giặc nổi tứ tung, biên thùy của ta thường bị quấy nhiễu, nên chúa Nguyễn-hiền-Vuơng mới cử một đạo binh 2,000 người, đi bộ mất 24 ngày, vào đến Mô Xoài, bắt được vua Chân-Lạp là Nặc Ông Chân, đem về Quảng-Bình một độ rồi sau được trả tự-do, nhưng buộc phải triều cống và cho người Việt vào làm ăn ở xứ Chân Lạp.
Đến năm 1674, có tên Nặc Ông Đài đi cầu viện Xiêm La đánh Nặc Ôn Nôn ; vua này phải chạy sang cầu cứu ở dinh Thái Khang (Khánh-hòa) – Chúa mới sai cai cơ đạo Nha trang là Nguyễn-dương-Lâm hiệp cùng Nguyễn-đình-Phái làm tham mưu đem binh vào đánh Nặc Ôn Đài, phá được đồn Sài Côn, rồi tiến quân vây thành Nam Vang.
Sau đó, quân đội của chúa Nguyễn mới lập người con trưởng của Nặc Ông Chân là Nặc Ông Thu làm chánh quốc vương đóng đô ở Gò Bích (Lô Vek), còn Nặc Ông Nộn là con thứ thì được phong làm đệ nhị quốc-vương, đóng đô ở Sài Côn và buộc hàng năm phải triều cống.
Đến năm 1679, có hai tướng nhà Minh là Dương-Ngạn-Dịch và Trần-An-Bình, không chịu làm tôi nhà Thanh, mới đem 3.000 quân và 50 chiếc thuyền đến Đà-Nẵng xin chúa Nguyễn được cư trú ở Việt-Nam, Chúa mới phái họ vào Nam mang quốc thư xin vua Chân-Lạp cho phép họ được khai-khẩn làm ăn ở xứ Đồng-Nai . Đến nơi, họ chia ra làm hai đoàn : một đoàn ở Đồng-Nai với tướng Trần-An-Bình, một đoàn về Mỹ-Tho với tướng Dương-ngạn-Dịch.
Ích lâu, bọn sau này nổi loạn, tướng tá giết lẫn nhau nên chúa Nguyễn mới cử một đạo binh vào lập lại trật-tự. Do đó mà người Việt thường dân theo bộ đội tràn vào Nam càng ngày càng nhiều.
Đến năm 1690, vua Chân-Lạp mất không có người kế vị, thì đương nhiên đất nay đặt dưới quyền cai-trị của chúa Nguyễn.
Đến năm 1698, xứ này được tổ-chức thành doanh Trấn-Biên (Biên-Hòa, và phủ Gia-dịnh (Saigon).
Người Việt lấn hồi tràn xuồng đến sông Cửu-Long và sát nhập Hà-Tiên của Mạc-Cửu (1708)
Đến nãm 1773, Tây-Sơn dấy binh vào lấy thành Gia-Định, mất đi lấy lại đến 4 lần, Lúc bây giờ, bọn Huê-kiều ở Đồng-Nai sợ nạn chinh-chiến mới kéo nhau chạy về hướng tây nam lập thành phố Đề Ngạn (1778) tức là Chợ-lớn ngay nay vậy. (1)
Đên tháng 9 năm 1788, chúa Nguyễn mới lấy lại được thành Gia-định, rõi Chúa huy-động 30.000 dân quân xây thánh đắp lũy rất là kiên-cố ròng-rã 2 năm trời mới xong.
Từ năm 1808 trở đi, Saigon vẫn là thủ-phủ của trấn Gia-Định, và cũng là tinh.lỵ của tỉnh Phan-Trần, phủ Bình-Dương và huyện Binh-Trị.
Sau vụ án Lê-văn-Duyệt dưới thời vua Minh-Mạng, con nuôi là Lê-Văn-Khôi đâu năm 1833 nổi dậy chiêm thành Phan-An hơn một năm trời, sau bị quân của Triều-đìnn Huế bao vây phong tỏa hết lương thực nên thành nay bị chiếm lại năm 1834 và bị phá hủy.
Từ đó về sau, công cuộc trị an ngày càng lan rộng, dân sự được yên vui no ấm. Nhưng chẳng may đến năm 1859 quân Pháp chiếm mắt Nam-Bộ trong gần một thế kỷ, cho đến ngày 6-6-1949 thì Quốc-Hội Pháp mới đầu phiếu giao hoàn Nam-Bộ lại cho nước Việt-Nam.
Khi ngươi Việt đến nơi này, họ gọi thành phố hành-chính ở phía trên cao (chỗ nhà thờ, nhà thương Đôn Đất) là Đông Nai, Phan An hoặc Phan Yên, Gia-Định; còn thành phố ở phía thấp, thành phố thương-mại, có ghe thuyền đi lại là Bến-Nghé và Bến-Thành.
"Bến Nghé trước kia người Cao - miên gọi là Kompong Krabey (Kompong : Bên, Krabey : Trâu). Bến-Nghé nằm trên rạch Bên-Nghé (Arroyo chinois), một cái rạch chảy vào sông Saigon. Còn Bến-Thành là cái bến nằm ở địa điểm Chợ cũ bây giờ, vì trước kia có lạch đi đến hào Phan-an mà về sau lấp đi thành đại lộ Nguyễn-Huệ.
Chúng ta cũng nên biết rằng Saigon hoặc Sài-Côn (củi gòn) là một danh từ đã được thông-dụng trong thơ từ các giáo-sĩ Tây-phương đến đây hồi thể-kỷ thứ XVIII Cũng có người cho rằng Saigon có nhiều nguồn gốc khác nhau :
1) Nguồn gốc Cao-miên: chữ Saigon phiên-dịch ở chữ Preikor có nghĩa là rừng gòn (Prei : rừng, Kor : gòn), hay là Prei Nokor (rừng của vua).
2) Nguồn gốc Trung-hoa: Saigon do hai chữ Đê-Ngạn (bờ đê) mà người Quảng-đông đọc là Taigon hay Thầy gòn. Đê-Ngạn là một danh-từ mà người Trung-hoa đã dùng để phiên-âm hai chữ Saigon, khi họ rời bỏ Biên-hòa về Chợ-lớn năm 1778. Cũng có thể rằng người Tây-phương tiếp xúc trước tiên với người Tàu trong việc thương-mại nên họ đã phiên âm Tai Ngon ra Saigon chăng ? Theo nhiều nhà hàng-hải đã viếng Việt-Nam hồi xưa như John White (1820), thành phố Saigon gồm có Bến-Nghé và Đê-Ngạn. Bến-Nghé là Saigon nguyên thủy và Đê-Ngạn là Chợ-Lớn ngày nay vậy.
3) Saigon cũng viết là Tây-Công nghĩa là nơi mà người Chân-Lạp miền Tây đem phẩm vật công hiển cho chính-phủ ta.
Lại cũng có một số địa-danh có tính-cách lịch-sử mà chúng ta sẽ lần lượt «phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông», như :
Thị-Nghè là tên của bà Nguyễn-thị-Canh, con của Vân-Trường-Hầu và là vợ của ông Nghè làm việc ở dinh Tổng-Trấn. Muốn chồng mình đi làm việc khỏi phải chèo đò sang sông, bà mới xuất tiền làm một cái cầu gỗ; dân sự cũng nhờ đó mà qua lại dễ dàng nên về sau họ mới gọi là cầu Bà Nghè, đề nhớ ơn một bậc nữ lưu đáng quý trọng.
Cũng trên con sông Thị Nghè, chúng ta có thể đi ngang qua cầu Bông hay là cầu Xóm Bông để về Gia-Định ; còn muốn về Phú-Nhuận thì phải đi qua cầu Kiệu hay là cầu Xóm Kiệu, Hai vùng này ngày trước trồng rất nhiều bông hoa và hành kiệu.
Còn một cái cầu quen thuộc nữa là Cầu Ông Lãnh do một vị lãnh binh ngày xưa làm ra đề qua lại con sông Bến-Nghé. Người ta kể lại rằng ông Lãnh binh này có đến năm vợ và ông đã khéo léo giao cho mỗi bà khai thác một cái chợ lấy tên là : Bà Chiều, Bà Điềm, Bà Hom, Bà Queo và Bà Hạt, theo phương-pháp kinh-tế tự túc mà ngày xưa các cụ thường hay áp dụng.
Nói về những địa-danh bí-hiểm thì còn nhiểu lắm. Chúng tôi tưởng chỉ nên nhắc qua rằng : sở Ba Son lấy ở chữ « Bassin de Radoub » Lăng-thô lấy ở chữ Tân-Thuận, vườn Bờ-rô do « Jardin des Beaux Jeux » (vườn chơi tao nhã) tức là vườn Ông Thượng-Duyệt, cũng như hai chữ Đa-Kao do chữ Đất hộ, Nhà Bè do những nhà kết thành bè để tiếp tế nước uồng thức ăn cho những ghe thuyền qua lại ngày xưa.
II. - SAIGON THẮNG CẢNH VÀ CỔ TÍCH
Thủ-đô nước Việt tự-do tuy còn mới mẻ đối với Lịch-sử rất dài của dân-tộc Việt-Nam, nhưng cũng có thể hiển cho khách du-lịch nhiều thắng cảnh và cổ-tích thuộc về hai loại: một loại kiến-trúc hoàn toàn Á-đông và một loại kiến-trúc chịu ảnh hưởng Tây-phương.
Trong loại thứ nhất có :
I) – Lăng Cha Cả (Evêque d'Adran) ở phía Tân-Sơn-Hòa với một mái nhà rêu phong cổ-kính, nơi yên giấc ngàn thu của Bì-Như quận-công, mất ngày 9 tháng 10 năm 1799, trong vịnh Qui-nhơn và đem về đây mai táng ngày 16 tháng 12 năm 1799.
2) - Lăng Ông, ngôi mộ và đển thờ của Tả Quân Lê-văn-Duyệt (1764-1832) và phu nhơn, một vị đại công thần triều Nguyễn, đã có công ổn định và mở-mang xứ Nam-Bộ trong mấy chục năm trời; vì vậy mà toàn dân Nam-Bộ đểu sùng bái như một vị thần thánh.
Lăng Ông hiển linh với niềm tin-tưởng bất-diệt của vô số thiện nam tín nữ đủ các chủng tộc. Nơi đây người thắp hương vòng quanh năm nghi-ngút ; kẻ uống máu ăn thể để trọn niềm chung thủy !
Trong số những đền đài có tính cách lịch-sử, kiến-trúc Tây phương, chúng ta nên kể đầu tiên là :
Dinh Độc-Lập
I) Dinh này tượng-trưng cho chính quyền trung-ương, nó có một dĩ-vãng khá dài, chúng ta cũng nên rõ lai lịch của nó.
Trong một khu đất rộng 15 mẫu tây, người ta rào vây vào tháng 4 năm 1865, theo họa-đổ của kiến-trúc sư Hermitte từ Hương-cảng tới (người đã xây Town's Hall ở Hongkong).
Lễ đặt viên đá đầu tiên cử-hành ngày 23 tháng 2 năm 1868 có rất nhiều dân chúng tới chứng kiến. Thủy sư đô-đốc De La Grandière, Thống đốc và chỉ-huy trưởng các lực-lượng cùng võ quan và viên chức có mặt ở Saigon tới chủ toạ buổi lễ.
Giám-mục Miche, chủ giáo Dansara, cùng một số đông trong hội thánh tới ban phép lành và đọc một bài diễn văn bao hàm nhiều ý-nghĩa:
« Khi Giáo hội xin Thượng-Đế ban phép lành cho một công trình kiến-trúc mới mẻ, những hảo ý đã vượt ra khỏi thể thức sự vật làm cho mọi người chú-ý và một dinh thự dù lộng lẫy đến mực nào mà không có người ở cũng chỉ là một bãi sa-mạc , chắc quý vị cũng rõ, Giáo-hội không bao giờ ban phép lành cho những sa-mạc.
Như vậy đối với người được sinh ra biết lẽ phải và nhất là với những vị sẽ tới ngự tại dinh thự này mà tôi cầu xin đấng Cao cả ban phép lành. Thêm một người được đặt lên hàng cao hơn những đồng chủng của họ nhất là người đó lại được chỉ định để dìu dắt những người kể trên, như vậy nhiệm-vụ sẽ nặng-nề biết bao nhiêu. Vị tới ngự tại dinh thự này cần phải cởi mở lòng ân cần cho đến giới hạn của 6 tỉnh».
Vị Thống đốc được ông Hermitte giúp đỡ đặt viên đá đầu tiên sâu tới 2 m 60 dưới mặt đất trên một lớp đất chắc chắn.
Khối đá vuông này thuộc loại hoa cương lấy ở các núi đá thuộc Biên - Hòa mỗi cạnh 0m50. Ngoài ra trong phiến đá còn có một chiếc hộp bằng chì đựng những đồng tiền mới bằng vàng, bạc và đồng trên có in hình Nã-Phá-Luân đệ tam.
Móng sâu từ 3 m đến 3 m 50, thể-tích đá xây chừng 2.436 m³ 484.
Hơn 2 triệu viên gạch được dùng vào công trình kiến-trúc này, từng cuối cùng phần dưới là đá xanh Biên-Hòa thật đẹp.
Công việc xây cất điện mãi tới cuồi năm 1869 mới làm xong. Tuy nhiên những vật dùng làm trang-trí đến 1875 mới hoàn toàn xong.
Dinh thự dùng cho các vị Thồng-đồc, Toàn-quyển, Cao-Ủy Pháp cho tới ngày 7 tháng 9 năm 1954, Đại-tướng Ely mới làm lễ trao lại dinh Norodom cho Thủ-tướng Ngô-đình-Diệm, và từ đó lầy tên là dinh Độc-lập.
2)- Cầm thảo viên thường gọi là Sở-thú, do nhà thực vật Pierre thiết lập từ năm 1864, có nhiều thứ cây và giống vật kỳ lạ. Cũng tại nơi này, có đài kỷ-niệm và Viện-Bảo-Tàng quốc-gia.
3)- Viện-bảo-tàng quốc-gia. Cổ thư có ghi rằng vua Lý-thái-Tổ (1010-1028) một tín-đồ trung thành của Phật-giáo có phái qua Trung-Quốc các quan Nguyễn-đạo-Thành và Phạm-Hạc chép những bộ kinh Tam-Tạng để về cất giữ tại kho Đại-Hưng. Vậy kho này có thể coi như là Viện-Bảo-tàng thứ nhất của nước Việt-Nam
Nói về Viện-Bảo-tàng Saigon ngày trước mang tên « Musée Blanchard de la Brosse », nay được gọi là Viện-Bảo-tàng quốc-gia, là một kiến-trúc rất đẹp, được xây cất vào năm 1927 và khánh-thành ngày 1-1-1929
Đa số những cổ vật thuộc bộ sưu-tầm Holbé do hội nghiên-cứu Đông-dương mua tặng cho chính-phủ Nam-kỳ. Từ khi thành lập tới giờ, Viện được đặt dưới quyển kiểm-soát khoa-học của trường Viễn-Đông Bác-Cổ.
Đã 20 năm nay, Viện mua thêm được nhiều cổ vật, hoặc được tặng phần chia với những Viện-bảo-tàng khác như Hanoi, Touran, Phnom-Penh, vân vân ...
Tuy nhiên Viện cũng bị thiệt hại nhiều sau vụ nổ kho thuốc súng ngày 6 tháng 3 năm 1946 và phải mất hai năm làm việc không ngừng, để sắp đặt lại những cổ vật.
Viện Bảo tàng Blanchard de la Brosse được trao lại cho chính phủ Việt-Nam bằng văn thư số 1191-F G/L ngày 19-9-1951 của vị Giám-đốc trường Viễn-đông Bác Cổ gởi cho Tổng Trưởng Quốc-gia Giáo-dục. Hiện nay Viện Bảo-tàng này đặt dưới quyền trong nom của Viện-Khảo Cổ và dưới sự giám sát chuyên môn của một vị Quản thủ người Việt. Viện Bảo-tàng Quốc-gia gồm tới 5.000 vật có ghi số đặt trong 14 phòng. Đó là một viện bảo tàng đại cương giúp cho du khách khi tới Saigon có một khái niệm về những nền văn-hóa khác nhau đã tiếp diễn trên mảnh đất này trên hai ngàn năm và đã từng chịu ảnh hưởng của các nước Đông-Nam-A như Trung-Hoa, Nhật-Bản, Hàn quốc, Miến-điện, Thái-Lan, Java, Phù-Nam, Chiêm-thành, Lào, Cao-miên và Việt-Nam.
Số người đến xem Viện Bảo-Tàng quốc-gia càng ngày càng tăng lên (1953: 108.912 người, 1954 : 217.768, 1955 : 276.192, 1956 : 333.831, 1957 : 309.861)
Vì sự đông-đảo của khách du quan so với sự chật hẹp của các phòng, Chính phủ hình như đang trù tính mở rộng viện bảo tàng, để xứng với Thủ đô tráng lệ của nước Việt-Nam tự-do.
oOo
Đại khái, Saigon có những dinh thự và đền đài cổ kính đánh dấu cuộc Nam tiến của chúng ta hoặc là nhắc nhở những sự chung đụng đầu tiên trong khi tiếp xúc với ngoại bang.
III – SAIGON TRÊN ĐƯỜNG CANH-TÂN KIẾN-TẠO
Thủ-đô Saigon đóng một vai trò tối quan-trọng về ba phương-diện : chính-trị, kinh-tế và văn-hóa.
Về mặt chính-trị, Saigon là bộ-óc chỉ-đạo toàn-quốc, với Dinh Tổng-Thống, Quốc-hội, Tối-Cao Pháp-viện, các Bộ, “Nha, Tổng Tham-Mưu Thủy,Lục, Không-quân, ngoại-giao-đoàn gồm có đại diện 15 cường quốc và tòa thánh Vatican.
Từ đầu thế-kỷ XX đến nay, Saigon đã khuếch-trương một cách kỳ lạ.
Riêng về dân số, năm 1884, Saigon chi có 13.348 người (5.246 người Việt, 5.595 người Hoa-kiều và 966 người Âu). Đến năm 1923, dân số đã lên đến 95.437 (52.498 người Việt, 28.914 người Hoa-kiểu và 5.301 người Âu).
Đến cuồi năm 1951, dân số Saigon - Cholon đã lên đến 1.603.831 người, trong số đó có 998.000 người Việt, 2141 người Miên và Lào, 17.140 người Âu, 3.280 ngoại-kiểu khác và 583.000 người Hoa-kiều.
Sau hiệp định Genève (21-7-1954), Saigon bỗng chốc đã tăng thêm hơn nửa triệu người, vì lẽ đó ngày nay dân số toàn khu Saigon-Cholon lên đến hơn 2 triệu người và như vậy Saigon của chúng ta đã đứng vào hàng các thành-phố đông-đúc nhất ở Á-Châu, sau Đông- Kinh, Thượng-Hải, Bắc-Kinh, Hoành-Tân (Yokohama) và Calcutta.
Ngoài số 2.000.000 người, ngoại-ô Saigon như Gò-vấp, Gia-Định, Hành-Thông-Tây có hơn 60.000 người hàng ngày lên làm việc ở Saigon.
Trong số những kiều dân ở Saigon-Cholon, hiện nay có 620.000 người Hoa-Kiều, 20.000 người Âu, 5.300 người Á và 1.200 người Mỹ.
Thành phố Saigon hiện nay chia ra làm 8 quận, đặt dưới quyền của một Đô-trưởng và có 8.000 người giúp việc. Trong số này có 1.500 cảnh binh, 200 lính chữa lửa, 800 thầy giáo và 1.500 thư-ký bàn giấy phụ-trách các việc hộ, thuế má, kinh tài, vệ-sinh v v...
Thủ-đô Saigon có 42 trường bậc trung và tiểu-học, một viện đại-học với đầy-đủ các khoa, cùng nhiều trường Cao-đẳng chuyên-môn để đào tạo những chuyên-viên và cán bộ tương-lai.
Saigon có 17 nhà thương lớn và nhà hộ-sinh công, chưa kể vô số những nhà thương tư. Mỗi ngày Saigon chi dụng 160.000 thước khối nước lọc lấy ở 35 cái giếng và 160.000 kí-lô-wat điện.
Thương-cảng Saigon trong năm 1956 đã tiếp 734 chiếc tàu và phi trường Tân-Sơn-Nhứt tiếp 7.301 phi-cơ với 117.980 hành khách.
Cũng trong năm ấy, 12.000 máy điện-thoại cho phép người ta nói chuyện với nhau đến 14 triệu lần. Đồng thời có 2.324 người xin mở số tiết-kiệm và 814 người xin giấy phép làm nhà.
Trung-bình, Saigon cao hơn mặt biển 8 thước 80 phân. Ở đây hàng năm trời mưa đến 157 ngày và vũ - biểu chỉ đến 2 thước. Tháng mưa nhiểu nhất là tháng 9 với 24 ngày. Tháng nóng nhất là tháng 4 với 34 độ. Tháng mát nhất là tháng 12 với 21 độ. Nhiệt-độ trung-bình hàng năm là 26 độ 7.
Về nhân thế bộ ở Saigon đàn bà nhiều hơn đàn ông đến 50.000 người. Hàng năm, có 6o.000 đứa trẻ chào đời. Tháng 10, người ta đẻ nhiều hơn và tháng 2 ít hơn. Hàng năm có 563 đám cưới trong số ấy có 187 người Âu lấy người Việt. Tuổi lập gia-đình là từ 25 đến 29 (đàn ông) và 20 đến 24 (đàn bà).
Để cung-cấp vật thực cho 2 triệu dân, Chính-phủ phải thiết-lập 25 cái chợ vừa lớn vừa nhỏ. Vùng Saigon có 13 chợ (Bến-thành, Ông Lãnh, Cầu Muối, Tân-Định, Xóm chiều, Dakao, Chí-Hoà, Vườn Chuối, Bàn Cờ, Trương-minh-Giảng, Thái-bình, Cầu kho, Chợ Đủi, vân...vân...
Vùng Cholon có 12 chợ (Bình-Tây, An-Đông, Hòa-Bình, Nguyễn-Tri-Phương, Xóm-Củi, Trần-Quồc-Toản, Bình-Đông, Cầu-Bột, Phú-Thọ, Phú-Lâm, Phó-Cơ-Điều, và Bình-Tiên).
Hai chợ lớn nhất là chợ Bến-Thành và chợ Bình-Tây. Tiền thuê thâu được hàng ngày trong 25 chợ tồng cộng là 210.000 đồng, hay là 6.300.000 đồng một tháng, nghĩa là gần 80 triệu một năm.
Trên con đường canh-tân, Thủ-đô Saigon luôn luôn đóng vai trò tiên-phong về mọi phương-diện.
Khách du-lịch khi đặt chân đến đây rất kinh ngạc khi trông thấy 360.000 chiếc xe đủ kiểu và đủ cỡ chen nhau khắp các nẻo đường dài hơn 328 cây số. Trong số ấy, người ta tính có hơn 40.000 xe du-lich, 7 000 xe cam-nhông, 20.000 xe scooters và xe gắn máy, 5.00o xe taxi và 280,000 xe đạp.
Ấy là chưa kể những xe ca, xe lô, xe ba bánh từ lục tỉnh lên, hoặc từ Thủ-đô tách đi Nam-Vang, lục tỉnh, Cao-Nguyên và Trung-Việt.
Saigon biết trùng-tu kiến-thiết và đồng thời cũng biết ăn chơi và giải-trí lành mạnh. Từ các tiệm ăn, tiệm nước, tiệm nhảy tiêu thụ hàng ngày trên dưới 2.000 tấn nước đá, tung ra những tiếng nổ hiền lành và tiếng xì quen thuộc của 450.000 nút chai nước giải khát đủ các thứ, từ nước chanh the the cho đến nước gừng đăng đắng.
Các bạn khó tính đến đâu cũng có thể tìm ra những nhà hàng có máy lạnh, những món ăn quý phái, cũng như những món ăn kỳ lạ.
Những bạn nào ưa hóng mát thì qua Nhà-Bè, Tân-Thuận; bạn nào ưa thể-thao thì có sân banh Tao-Đàn, sân quần vợt Đô-Thành và rất nhiều hồ bơi trong sạch.
Và mỗi buổi chiều, có hơn 10.000 người hóng mát ở bến Bạch-Đằng đã kiến-tạo tối-tân với những sân golf bé tí.
Sự phát-triển của Saigon có thể nói là quá sức tưởng-tượng. Bạn nên nhớ rằng Saigon có trên 40 cái rạp hát bóng và hát tuồng, 18 trường dạy lái xe hơi, 29 hãng bảo kê, 48 hãng sửa xe, 7 nhà hàng bán khí-cụ thể thao, 35 nhà hàng bán đồ xưa, 25 văn-phòng kiến-trúc sư, 46 văn-phòng trạng-sư, 12 ngân-hàng, 34 tiệm giặt ủi, 16 nhà hàng bán thịt, 21 lò bánh mì, 52 nhà hàng bán lốp xe hơi, 62 tiệm uốn tóc, 18 tiệm nhảy, 44 phòng chữa răng, 39 khách sạn lớn, 112 phòng chữa bịnh, 78 tiệm thuốc Á-Âu, và trên dưới 1.000 tiệm ăn sạch sẽ.
Từ khi có phong-trào di cư Saigon đã thay đổi sắc diện vì đồng-bào tị nạn đã mang vào Nam ba món ăn đặc-biệt : món ăn vật-chất làm cho no lòng mát ruột như phở tái và cà-rem, món ăn tinh-thần coi mở tâm hồn như âm-nhạc cải-cách. Phở tái đã đánh đổ hủ tiếu, cà-rem đã ăn đứt cà-phê đá và âm-nhạc cải-cách đã chiếm địa-vị của sáu câu vọng-cổ !
Nói tóm lại, Saigon tuy ồ-ạt mà có tổ-chức hẳn hoi; Saigon quanh năm tràn-trẻ nhựa sống và đối với khách du-lịch Saigon sẫn có một sức hấp dẫn lạ lùng, nhờ sắc diện khả-ái và luôn luôn đổi mới, làm cho Saigon rất xứng đáng với danh-từ « Hòn-Ngọc Viễn-Đông ».
Trích "Đất Việt Trời Nam - Thái Văn Kiểm"
********************************************
Bến Nghé
Bến Nghé, ban đầu là tên của một bến nước, sau chỉ một con sông, cuối cùng dùng chỉ một địa phương (vùng trung tâm Saigon hiện nay). Để giải thích cái tên Bến Nghé, hiện có thuyết:
Thứ nhất, theo phó bảng Nguyễn Văn Siêu trong cuốn “Phương Đình dư địa chí” (1900) thì tương truyền, sông này nhiều cá sấu, từng đàn đuổi nhau kêu gầm như tiếng trâu rống, cho nên gọi tên như thế (nghé tức trâu con). Sách “Đại Nam nhất thống chí”, phần tỉnh Gia Định, cũng chép tương tự.
Theo Trịnh Hoài Đức là cái bến uống nước của trâu con, do một tên rất cũ là Kompong Krabey (bến trâu) đã được Việt hoá. Nhưng ông Đốc Phủ Trần Quang Tuất (1765-1825) cho rằng nơi đây có lắm con cá sấu chúng thường kêu nghé nên gọi là Bến Nghé - Trịnh Hoài Đức dịch là « Ngưu Tân » Bến Nghé là cái bến sông Sài Gòn có tên là sông Bến Nghé, cũng có tên là Tân Bình Giang hay là Đức Giang lấy nguồn ở Ban Bót (theo Gia Định Thống Chí). Còn cái rạch Bến Nghé nối dài bởi kinh Tàu Hủ (Arroyo chinois) ngày xưa có tên là Bình Dương và chỗ nó chảy ra giáp sông Bến Nghé gọi là Vàm Bến Nghé. Bến Nghé tức là Sài Gòn và khi ta nói Đồng Nai - Bến Nghé tức là nói đến Nam Bộ vậy.
Còn theo học giả Trương Vĩnh Ký, Bến Nghé có nguồn gốc từ tiếng Khmer – Kompong có nghĩa là bến, Kon Krabei có nghĩa là con trâu. Nhà địa danh học Lê Trung Hoa cũng đồng ý rằng: Bến Nghé là cái bến mà “người ta thường cho trâu, bò ra tắm” vì có nhiều địa danh cấu tạo bằng “bến + tên thú” như: rạch Bến Nghé (Nhà Bè), rạch Bến Tượng (Sông Bé).
******************************
Bà Chiểu
Địa danh Bà Chiểu có từ đầu thế kỷ 19, chỉ vùng đất gồm các phường 1, 2, 14 quận Bình Thạnh hiện nay.
Nhà văn Sơn Nam cho rằng, Bà Chiểu là tên vùng đất xuất hiện thời vua Tự Đức. Chiểu có nghĩa là ao nước thiên nhiên. Bà Chiểu là "nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên".
Bà Chiểu còn là tên một trong những ngôi chợ lâu đời ở Sài Gòn. Sơ khai là chợ xổm, năm 1942, chợ được xây lên với diện tích gần 8.500 m2, nằm ở trung tâm quận Bình Thạnh. trước đây chợ Bà Chiểu quay mặt ra một rạch nhỏ ăn từ kênh Nhiêu Lộc trở vào. Năm 1987, chợ được nâng cấp.
Nay, dấu tích vẫn còn đó nhưng một đoạn đã bị lấp. Sau này khi xây cất lại chợ, người ta mới chuyển mặt chợ ra đường Phan Đăng Lưu - Lê Quang Định.
***********************************
TÊN CÁC QUỐC GIA MÀ NGƯỜI SÀI GÒN THƯỜNG GỌI TRƯỚC NĂM 1975
Ở Saigon trước 1975, người ta hay gọi các địa danh và tên riêng bằng cái tên phiên âm ra tiếng Việt (ảnh hưởng từ phiên âm của tiếng Hoa). Có nhiều cái tên khá lạ lẫm, nhưng vẫn có nhiều tên hiện nay gọi vẫn được sử dụng là Thượng Hải, Hà Lan, Luân Đôn, Bình Nhưỡng…
Nữu Ước (New York)
Hoa Thịnh Đốn (Washington)
Mã Nhật Tân (Manhattan, khu trung tâm của New York)
Cựu Kim Sơn (San Francisco – bang California, Mỹ)
Phú Lang Sa (France)
Úc Đại Lợi (Australia)
Luân Đôn (London)
Phi Luật Tân (Philippine)
Tân Tây Lan (New Zealand)
Điện Cẩm Linh (điện Kremly – nơi làm việc của tổng thống Nga)
Hoa Lệ Ước (Hollywood)
Mạc Tư Khoa (Moscow, thủ đô Nga)
Cơ Phụ (Kiev – thủ đô Ukraine)
sông Phục Nhĩ Gia (sông Volga)
sông Đa Não Hà (sông Danuble)
Ba Tây (Brazil)
A Phú Hãn (Afganishtan)
Gia Nã Đại (Canada)
A Mỹ Lợi Gia (America)
Á Căn Đình (Argentina)
Áo Môn (Macau)
Cao Ly (Korea)
Hạ Uy Di (Hawaii)
Hoành Quốc (Monaco, công quốc thuộc Pháp)
Hoành Tân (Yokohama – Nhật Bản)
Hưng Gia Lợi (Hungary)
Hy Mã Lạp Sơn (Hymalaya – dãy núi)
Hương Cách Lý Lạp (Shangri La)
Mễ Tây Cơ (Mexico)
Tân Đức Lợi (New Delhi – Ấn Độ)
Hương Cảng (Hongkong)
Thánh Hà Tây (San Jose – California, Mỹ)
Tô Cách Lan (Scotland)
Uy Nê Tư (Venice – Ý)
Ái Nhĩ Lan (Ireland)
Ba Lê (Paris)
Bảo Gia Lợi (Bulgary)
La Tỉnh (Los Angeles – California, Mỹ)
Á Lan Đại (Atlanta)
Á Tế Sá (Asia)
Bá Linh (Berlin)
Bạch Nga (Belarus)
Bàn Môn Điếm (Panmomjum, khu phi quân sự chia đôi Nam –
Bắc Triều Tiên)
Bình Nhưỡng (Pyongyung)
Băng Đảo (Iceland)
Cao Miên (Campuchia)
Chi Gia Kha (Chicago, bang Illinois, Mỹ)
Đông Hồi (Banglades)
Hán Thành (Seoul, thủ đô Hàn Quốc)
Đông Kinh (Tokyo)
Hồi Quốc (Oman)
Lục Xâm Bảo (Luxembourg)
Lỗ Mã Ni (Romania)
Mạnh Mãi (Mumbay, còn có tên là Bombay, thành phố đông dân
nhất Ấn Độ)
Phú Sỹ (Fuji –ngọn núi ở Nhật)
Tân Đức Lợi (New Delhi, thủ đô Ấn Độ)
Tây Hồi (Pakistan)
Tây Nhã Đồ (Seattle, bang Washington, Hoa Kỳ)
Tích Lan (Sri Lanca)
Vọng Cát (Bangkok – thủ đô Thái Lan)
Trân Châu Cảng (Pearl Harbor)
-
-
-
Nếu còn thiếu sót xin Quý Vị bổ xung thêm ...
#SAIGONXUA
Van Lam St
SAIGON là thủ phủ miền Nam nước Việt và cũng là thủ đô của nước Việt-Nam tự-do.
Nói đến Saigon, tất nhiên phải nhắc lại cuộc Nam tiền vĩ đại của dân tộc ta trải qua bao nhiêu thế kỷ.
Người dân Việt nặng óc phiêu lưu và giàu lòng quả cảm, đã được lịch sử gioa phó sứ mạng nối liền sông Dương tử với sông Hồng-Hà và sông Cửu-Long, ba con sông lớn nhất Á Châu.
Nương theo bờ biển Thái bình Dương, và đặt chân lần đầu tiên, vào năm 1658, trên xứ Đồng nai hoa màu bát ngát, cách đây đúng 300 năm, tổ tiên chúng ta đã hoàn thành sứ mạng trọng đại.
I- ĐÔI DÒNG LỊCH - SỬ CẬN ĐẠI
Nam Bộ ngày xưa là nuớc Chân Lạp với đất ruộng phì nhiêu với sông ngòi ràng rịt. Còn nước Nam ta hổi ấy đất đã hẹp mà mùa màng thường hay mất vì nạn thiếu nước, lại gặp lúc chúa Nguyễn chúa Trịnh đánh nhau, cho nên nhiều người đành bỏ làng mạc ra đi, vào khai khẩn đất ruộng ở Mô Xoài (Bà Rịa) và ở Đồng Nai (Biên Hòa), theo chân bà công-chúa Ngọc-Vạn, được Chúa Sãi gã cho vua Chân-Lạp Chei Chetta II từ năm 1620.
Năm 1658, vua Chân Lạp mất rồi, chú cháu tranh nhau ngôi báu, giặc nổi tứ tung, biên thùy của ta thường bị quấy nhiễu, nên chúa Nguyễn-hiền-Vuơng mới cử một đạo binh 2,000 người, đi bộ mất 24 ngày, vào đến Mô Xoài, bắt được vua Chân-Lạp là Nặc Ông Chân, đem về Quảng-Bình một độ rồi sau được trả tự-do, nhưng buộc phải triều cống và cho người Việt vào làm ăn ở xứ Chân Lạp.
Đến năm 1674, có tên Nặc Ông Đài đi cầu viện Xiêm La đánh Nặc Ôn Nôn ; vua này phải chạy sang cầu cứu ở dinh Thái Khang (Khánh-hòa) – Chúa mới sai cai cơ đạo Nha trang là Nguyễn-dương-Lâm hiệp cùng Nguyễn-đình-Phái làm tham mưu đem binh vào đánh Nặc Ôn Đài, phá được đồn Sài Côn, rồi tiến quân vây thành Nam Vang.
Sau đó, quân đội của chúa Nguyễn mới lập người con trưởng của Nặc Ông Chân là Nặc Ông Thu làm chánh quốc vương đóng đô ở Gò Bích (Lô Vek), còn Nặc Ông Nộn là con thứ thì được phong làm đệ nhị quốc-vương, đóng đô ở Sài Côn và buộc hàng năm phải triều cống.
Đến năm 1679, có hai tướng nhà Minh là Dương-Ngạn-Dịch và Trần-An-Bình, không chịu làm tôi nhà Thanh, mới đem 3.000 quân và 50 chiếc thuyền đến Đà-Nẵng xin chúa Nguyễn được cư trú ở Việt-Nam, Chúa mới phái họ vào Nam mang quốc thư xin vua Chân-Lạp cho phép họ được khai-khẩn làm ăn ở xứ Đồng-Nai . Đến nơi, họ chia ra làm hai đoàn : một đoàn ở Đồng-Nai với tướng Trần-An-Bình, một đoàn về Mỹ-Tho với tướng Dương-ngạn-Dịch.
Ích lâu, bọn sau này nổi loạn, tướng tá giết lẫn nhau nên chúa Nguyễn mới cử một đạo binh vào lập lại trật-tự. Do đó mà người Việt thường dân theo bộ đội tràn vào Nam càng ngày càng nhiều.
Đến năm 1690, vua Chân-Lạp mất không có người kế vị, thì đương nhiên đất nay đặt dưới quyền cai-trị của chúa Nguyễn.
Đến năm 1698, xứ này được tổ-chức thành doanh Trấn-Biên (Biên-Hòa, và phủ Gia-dịnh (Saigon).
Người Việt lấn hồi tràn xuồng đến sông Cửu-Long và sát nhập Hà-Tiên của Mạc-Cửu (1708)
Đến nãm 1773, Tây-Sơn dấy binh vào lấy thành Gia-Định, mất đi lấy lại đến 4 lần, Lúc bây giờ, bọn Huê-kiều ở Đồng-Nai sợ nạn chinh-chiến mới kéo nhau chạy về hướng tây nam lập thành phố Đề Ngạn (1778) tức là Chợ-lớn ngay nay vậy. (1)
Đên tháng 9 năm 1788, chúa Nguyễn mới lấy lại được thành Gia-định, rõi Chúa huy-động 30.000 dân quân xây thánh đắp lũy rất là kiên-cố ròng-rã 2 năm trời mới xong.
Từ năm 1808 trở đi, Saigon vẫn là thủ-phủ của trấn Gia-Định, và cũng là tinh.lỵ của tỉnh Phan-Trần, phủ Bình-Dương và huyện Binh-Trị.
Sau vụ án Lê-văn-Duyệt dưới thời vua Minh-Mạng, con nuôi là Lê-Văn-Khôi đâu năm 1833 nổi dậy chiêm thành Phan-An hơn một năm trời, sau bị quân của Triều-đìnn Huế bao vây phong tỏa hết lương thực nên thành nay bị chiếm lại năm 1834 và bị phá hủy.
Từ đó về sau, công cuộc trị an ngày càng lan rộng, dân sự được yên vui no ấm. Nhưng chẳng may đến năm 1859 quân Pháp chiếm mắt Nam-Bộ trong gần một thế kỷ, cho đến ngày 6-6-1949 thì Quốc-Hội Pháp mới đầu phiếu giao hoàn Nam-Bộ lại cho nước Việt-Nam.
Khi ngươi Việt đến nơi này, họ gọi thành phố hành-chính ở phía trên cao (chỗ nhà thờ, nhà thương Đôn Đất) là Đông Nai, Phan An hoặc Phan Yên, Gia-Định; còn thành phố ở phía thấp, thành phố thương-mại, có ghe thuyền đi lại là Bến-Nghé và Bến-Thành.
"Bến Nghé trước kia người Cao - miên gọi là Kompong Krabey (Kompong : Bên, Krabey : Trâu). Bến-Nghé nằm trên rạch Bên-Nghé (Arroyo chinois), một cái rạch chảy vào sông Saigon. Còn Bến-Thành là cái bến nằm ở địa điểm Chợ cũ bây giờ, vì trước kia có lạch đi đến hào Phan-an mà về sau lấp đi thành đại lộ Nguyễn-Huệ.
Chúng ta cũng nên biết rằng Saigon hoặc Sài-Côn (củi gòn) là một danh từ đã được thông-dụng trong thơ từ các giáo-sĩ Tây-phương đến đây hồi thể-kỷ thứ XVIII Cũng có người cho rằng Saigon có nhiều nguồn gốc khác nhau :
1) Nguồn gốc Cao-miên: chữ Saigon phiên-dịch ở chữ Preikor có nghĩa là rừng gòn (Prei : rừng, Kor : gòn), hay là Prei Nokor (rừng của vua).
2) Nguồn gốc Trung-hoa: Saigon do hai chữ Đê-Ngạn (bờ đê) mà người Quảng-đông đọc là Taigon hay Thầy gòn. Đê-Ngạn là một danh-từ mà người Trung-hoa đã dùng để phiên-âm hai chữ Saigon, khi họ rời bỏ Biên-hòa về Chợ-lớn năm 1778. Cũng có thể rằng người Tây-phương tiếp xúc trước tiên với người Tàu trong việc thương-mại nên họ đã phiên âm Tai Ngon ra Saigon chăng ? Theo nhiều nhà hàng-hải đã viếng Việt-Nam hồi xưa như John White (1820), thành phố Saigon gồm có Bến-Nghé và Đê-Ngạn. Bến-Nghé là Saigon nguyên thủy và Đê-Ngạn là Chợ-Lớn ngày nay vậy.
3) Saigon cũng viết là Tây-Công nghĩa là nơi mà người Chân-Lạp miền Tây đem phẩm vật công hiển cho chính-phủ ta.
Lại cũng có một số địa-danh có tính-cách lịch-sử mà chúng ta sẽ lần lượt «phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông», như :
Thị-Nghè là tên của bà Nguyễn-thị-Canh, con của Vân-Trường-Hầu và là vợ của ông Nghè làm việc ở dinh Tổng-Trấn. Muốn chồng mình đi làm việc khỏi phải chèo đò sang sông, bà mới xuất tiền làm một cái cầu gỗ; dân sự cũng nhờ đó mà qua lại dễ dàng nên về sau họ mới gọi là cầu Bà Nghè, đề nhớ ơn một bậc nữ lưu đáng quý trọng.
Cũng trên con sông Thị Nghè, chúng ta có thể đi ngang qua cầu Bông hay là cầu Xóm Bông để về Gia-Định ; còn muốn về Phú-Nhuận thì phải đi qua cầu Kiệu hay là cầu Xóm Kiệu, Hai vùng này ngày trước trồng rất nhiều bông hoa và hành kiệu.
Còn một cái cầu quen thuộc nữa là Cầu Ông Lãnh do một vị lãnh binh ngày xưa làm ra đề qua lại con sông Bến-Nghé. Người ta kể lại rằng ông Lãnh binh này có đến năm vợ và ông đã khéo léo giao cho mỗi bà khai thác một cái chợ lấy tên là : Bà Chiều, Bà Điềm, Bà Hom, Bà Queo và Bà Hạt, theo phương-pháp kinh-tế tự túc mà ngày xưa các cụ thường hay áp dụng.
Nói về những địa-danh bí-hiểm thì còn nhiểu lắm. Chúng tôi tưởng chỉ nên nhắc qua rằng : sở Ba Son lấy ở chữ « Bassin de Radoub » Lăng-thô lấy ở chữ Tân-Thuận, vườn Bờ-rô do « Jardin des Beaux Jeux » (vườn chơi tao nhã) tức là vườn Ông Thượng-Duyệt, cũng như hai chữ Đa-Kao do chữ Đất hộ, Nhà Bè do những nhà kết thành bè để tiếp tế nước uồng thức ăn cho những ghe thuyền qua lại ngày xưa.
II. - SAIGON THẮNG CẢNH VÀ CỔ TÍCH
Thủ-đô nước Việt tự-do tuy còn mới mẻ đối với Lịch-sử rất dài của dân-tộc Việt-Nam, nhưng cũng có thể hiển cho khách du-lịch nhiều thắng cảnh và cổ-tích thuộc về hai loại: một loại kiến-trúc hoàn toàn Á-đông và một loại kiến-trúc chịu ảnh hưởng Tây-phương.
Trong loại thứ nhất có :
I) – Lăng Cha Cả (Evêque d'Adran) ở phía Tân-Sơn-Hòa với một mái nhà rêu phong cổ-kính, nơi yên giấc ngàn thu của Bì-Như quận-công, mất ngày 9 tháng 10 năm 1799, trong vịnh Qui-nhơn và đem về đây mai táng ngày 16 tháng 12 năm 1799.
2) - Lăng Ông, ngôi mộ và đển thờ của Tả Quân Lê-văn-Duyệt (1764-1832) và phu nhơn, một vị đại công thần triều Nguyễn, đã có công ổn định và mở-mang xứ Nam-Bộ trong mấy chục năm trời; vì vậy mà toàn dân Nam-Bộ đểu sùng bái như một vị thần thánh.
Lăng Ông hiển linh với niềm tin-tưởng bất-diệt của vô số thiện nam tín nữ đủ các chủng tộc. Nơi đây người thắp hương vòng quanh năm nghi-ngút ; kẻ uống máu ăn thể để trọn niềm chung thủy !
Trong số những đền đài có tính cách lịch-sử, kiến-trúc Tây phương, chúng ta nên kể đầu tiên là :
Dinh Độc-Lập
I) Dinh này tượng-trưng cho chính quyền trung-ương, nó có một dĩ-vãng khá dài, chúng ta cũng nên rõ lai lịch của nó.
Trong một khu đất rộng 15 mẫu tây, người ta rào vây vào tháng 4 năm 1865, theo họa-đổ của kiến-trúc sư Hermitte từ Hương-cảng tới (người đã xây Town's Hall ở Hongkong).
Lễ đặt viên đá đầu tiên cử-hành ngày 23 tháng 2 năm 1868 có rất nhiều dân chúng tới chứng kiến. Thủy sư đô-đốc De La Grandière, Thống đốc và chỉ-huy trưởng các lực-lượng cùng võ quan và viên chức có mặt ở Saigon tới chủ toạ buổi lễ.
Giám-mục Miche, chủ giáo Dansara, cùng một số đông trong hội thánh tới ban phép lành và đọc một bài diễn văn bao hàm nhiều ý-nghĩa:
« Khi Giáo hội xin Thượng-Đế ban phép lành cho một công trình kiến-trúc mới mẻ, những hảo ý đã vượt ra khỏi thể thức sự vật làm cho mọi người chú-ý và một dinh thự dù lộng lẫy đến mực nào mà không có người ở cũng chỉ là một bãi sa-mạc , chắc quý vị cũng rõ, Giáo-hội không bao giờ ban phép lành cho những sa-mạc.
Như vậy đối với người được sinh ra biết lẽ phải và nhất là với những vị sẽ tới ngự tại dinh thự này mà tôi cầu xin đấng Cao cả ban phép lành. Thêm một người được đặt lên hàng cao hơn những đồng chủng của họ nhất là người đó lại được chỉ định để dìu dắt những người kể trên, như vậy nhiệm-vụ sẽ nặng-nề biết bao nhiêu. Vị tới ngự tại dinh thự này cần phải cởi mở lòng ân cần cho đến giới hạn của 6 tỉnh».
Vị Thống đốc được ông Hermitte giúp đỡ đặt viên đá đầu tiên sâu tới 2 m 60 dưới mặt đất trên một lớp đất chắc chắn.
Khối đá vuông này thuộc loại hoa cương lấy ở các núi đá thuộc Biên - Hòa mỗi cạnh 0m50. Ngoài ra trong phiến đá còn có một chiếc hộp bằng chì đựng những đồng tiền mới bằng vàng, bạc và đồng trên có in hình Nã-Phá-Luân đệ tam.
Móng sâu từ 3 m đến 3 m 50, thể-tích đá xây chừng 2.436 m³ 484.
Hơn 2 triệu viên gạch được dùng vào công trình kiến-trúc này, từng cuối cùng phần dưới là đá xanh Biên-Hòa thật đẹp.
Công việc xây cất điện mãi tới cuồi năm 1869 mới làm xong. Tuy nhiên những vật dùng làm trang-trí đến 1875 mới hoàn toàn xong.
Dinh thự dùng cho các vị Thồng-đồc, Toàn-quyển, Cao-Ủy Pháp cho tới ngày 7 tháng 9 năm 1954, Đại-tướng Ely mới làm lễ trao lại dinh Norodom cho Thủ-tướng Ngô-đình-Diệm, và từ đó lầy tên là dinh Độc-lập.
2)- Cầm thảo viên thường gọi là Sở-thú, do nhà thực vật Pierre thiết lập từ năm 1864, có nhiều thứ cây và giống vật kỳ lạ. Cũng tại nơi này, có đài kỷ-niệm và Viện-Bảo-Tàng quốc-gia.
3)- Viện-bảo-tàng quốc-gia. Cổ thư có ghi rằng vua Lý-thái-Tổ (1010-1028) một tín-đồ trung thành của Phật-giáo có phái qua Trung-Quốc các quan Nguyễn-đạo-Thành và Phạm-Hạc chép những bộ kinh Tam-Tạng để về cất giữ tại kho Đại-Hưng. Vậy kho này có thể coi như là Viện-Bảo-tàng thứ nhất của nước Việt-Nam
Nói về Viện-Bảo-tàng Saigon ngày trước mang tên « Musée Blanchard de la Brosse », nay được gọi là Viện-Bảo-tàng quốc-gia, là một kiến-trúc rất đẹp, được xây cất vào năm 1927 và khánh-thành ngày 1-1-1929
Đa số những cổ vật thuộc bộ sưu-tầm Holbé do hội nghiên-cứu Đông-dương mua tặng cho chính-phủ Nam-kỳ. Từ khi thành lập tới giờ, Viện được đặt dưới quyển kiểm-soát khoa-học của trường Viễn-Đông Bác-Cổ.
Đã 20 năm nay, Viện mua thêm được nhiều cổ vật, hoặc được tặng phần chia với những Viện-bảo-tàng khác như Hanoi, Touran, Phnom-Penh, vân vân ...
Tuy nhiên Viện cũng bị thiệt hại nhiều sau vụ nổ kho thuốc súng ngày 6 tháng 3 năm 1946 và phải mất hai năm làm việc không ngừng, để sắp đặt lại những cổ vật.
Viện Bảo tàng Blanchard de la Brosse được trao lại cho chính phủ Việt-Nam bằng văn thư số 1191-F G/L ngày 19-9-1951 của vị Giám-đốc trường Viễn-đông Bác Cổ gởi cho Tổng Trưởng Quốc-gia Giáo-dục. Hiện nay Viện Bảo-tàng này đặt dưới quyền trong nom của Viện-Khảo Cổ và dưới sự giám sát chuyên môn của một vị Quản thủ người Việt. Viện Bảo-tàng Quốc-gia gồm tới 5.000 vật có ghi số đặt trong 14 phòng. Đó là một viện bảo tàng đại cương giúp cho du khách khi tới Saigon có một khái niệm về những nền văn-hóa khác nhau đã tiếp diễn trên mảnh đất này trên hai ngàn năm và đã từng chịu ảnh hưởng của các nước Đông-Nam-A như Trung-Hoa, Nhật-Bản, Hàn quốc, Miến-điện, Thái-Lan, Java, Phù-Nam, Chiêm-thành, Lào, Cao-miên và Việt-Nam.
Số người đến xem Viện Bảo-Tàng quốc-gia càng ngày càng tăng lên (1953: 108.912 người, 1954 : 217.768, 1955 : 276.192, 1956 : 333.831, 1957 : 309.861)
Vì sự đông-đảo của khách du quan so với sự chật hẹp của các phòng, Chính phủ hình như đang trù tính mở rộng viện bảo tàng, để xứng với Thủ đô tráng lệ của nước Việt-Nam tự-do.
oOo
Đại khái, Saigon có những dinh thự và đền đài cổ kính đánh dấu cuộc Nam tiến của chúng ta hoặc là nhắc nhở những sự chung đụng đầu tiên trong khi tiếp xúc với ngoại bang.
III – SAIGON TRÊN ĐƯỜNG CANH-TÂN KIẾN-TẠO
Thủ-đô Saigon đóng một vai trò tối quan-trọng về ba phương-diện : chính-trị, kinh-tế và văn-hóa.
Về mặt chính-trị, Saigon là bộ-óc chỉ-đạo toàn-quốc, với Dinh Tổng-Thống, Quốc-hội, Tối-Cao Pháp-viện, các Bộ, “Nha, Tổng Tham-Mưu Thủy,Lục, Không-quân, ngoại-giao-đoàn gồm có đại diện 15 cường quốc và tòa thánh Vatican.
Từ đầu thế-kỷ XX đến nay, Saigon đã khuếch-trương một cách kỳ lạ.
Riêng về dân số, năm 1884, Saigon chi có 13.348 người (5.246 người Việt, 5.595 người Hoa-kiều và 966 người Âu). Đến năm 1923, dân số đã lên đến 95.437 (52.498 người Việt, 28.914 người Hoa-kiểu và 5.301 người Âu).
Đến cuồi năm 1951, dân số Saigon - Cholon đã lên đến 1.603.831 người, trong số đó có 998.000 người Việt, 2141 người Miên và Lào, 17.140 người Âu, 3.280 ngoại-kiểu khác và 583.000 người Hoa-kiều.
Sau hiệp định Genève (21-7-1954), Saigon bỗng chốc đã tăng thêm hơn nửa triệu người, vì lẽ đó ngày nay dân số toàn khu Saigon-Cholon lên đến hơn 2 triệu người và như vậy Saigon của chúng ta đã đứng vào hàng các thành-phố đông-đúc nhất ở Á-Châu, sau Đông- Kinh, Thượng-Hải, Bắc-Kinh, Hoành-Tân (Yokohama) và Calcutta.
Ngoài số 2.000.000 người, ngoại-ô Saigon như Gò-vấp, Gia-Định, Hành-Thông-Tây có hơn 60.000 người hàng ngày lên làm việc ở Saigon.
Trong số những kiều dân ở Saigon-Cholon, hiện nay có 620.000 người Hoa-Kiều, 20.000 người Âu, 5.300 người Á và 1.200 người Mỹ.
Thành phố Saigon hiện nay chia ra làm 8 quận, đặt dưới quyền của một Đô-trưởng và có 8.000 người giúp việc. Trong số này có 1.500 cảnh binh, 200 lính chữa lửa, 800 thầy giáo và 1.500 thư-ký bàn giấy phụ-trách các việc hộ, thuế má, kinh tài, vệ-sinh v v...
Thủ-đô Saigon có 42 trường bậc trung và tiểu-học, một viện đại-học với đầy-đủ các khoa, cùng nhiều trường Cao-đẳng chuyên-môn để đào tạo những chuyên-viên và cán bộ tương-lai.
Saigon có 17 nhà thương lớn và nhà hộ-sinh công, chưa kể vô số những nhà thương tư. Mỗi ngày Saigon chi dụng 160.000 thước khối nước lọc lấy ở 35 cái giếng và 160.000 kí-lô-wat điện.
Thương-cảng Saigon trong năm 1956 đã tiếp 734 chiếc tàu và phi trường Tân-Sơn-Nhứt tiếp 7.301 phi-cơ với 117.980 hành khách.
Cũng trong năm ấy, 12.000 máy điện-thoại cho phép người ta nói chuyện với nhau đến 14 triệu lần. Đồng thời có 2.324 người xin mở số tiết-kiệm và 814 người xin giấy phép làm nhà.
Trung-bình, Saigon cao hơn mặt biển 8 thước 80 phân. Ở đây hàng năm trời mưa đến 157 ngày và vũ - biểu chỉ đến 2 thước. Tháng mưa nhiểu nhất là tháng 9 với 24 ngày. Tháng nóng nhất là tháng 4 với 34 độ. Tháng mát nhất là tháng 12 với 21 độ. Nhiệt-độ trung-bình hàng năm là 26 độ 7.
Về nhân thế bộ ở Saigon đàn bà nhiều hơn đàn ông đến 50.000 người. Hàng năm, có 6o.000 đứa trẻ chào đời. Tháng 10, người ta đẻ nhiều hơn và tháng 2 ít hơn. Hàng năm có 563 đám cưới trong số ấy có 187 người Âu lấy người Việt. Tuổi lập gia-đình là từ 25 đến 29 (đàn ông) và 20 đến 24 (đàn bà).
Để cung-cấp vật thực cho 2 triệu dân, Chính-phủ phải thiết-lập 25 cái chợ vừa lớn vừa nhỏ. Vùng Saigon có 13 chợ (Bến-thành, Ông Lãnh, Cầu Muối, Tân-Định, Xóm chiều, Dakao, Chí-Hoà, Vườn Chuối, Bàn Cờ, Trương-minh-Giảng, Thái-bình, Cầu kho, Chợ Đủi, vân...vân...
Vùng Cholon có 12 chợ (Bình-Tây, An-Đông, Hòa-Bình, Nguyễn-Tri-Phương, Xóm-Củi, Trần-Quồc-Toản, Bình-Đông, Cầu-Bột, Phú-Thọ, Phú-Lâm, Phó-Cơ-Điều, và Bình-Tiên).
Hai chợ lớn nhất là chợ Bến-Thành và chợ Bình-Tây. Tiền thuê thâu được hàng ngày trong 25 chợ tồng cộng là 210.000 đồng, hay là 6.300.000 đồng một tháng, nghĩa là gần 80 triệu một năm.
Trên con đường canh-tân, Thủ-đô Saigon luôn luôn đóng vai trò tiên-phong về mọi phương-diện.
Khách du-lịch khi đặt chân đến đây rất kinh ngạc khi trông thấy 360.000 chiếc xe đủ kiểu và đủ cỡ chen nhau khắp các nẻo đường dài hơn 328 cây số. Trong số ấy, người ta tính có hơn 40.000 xe du-lich, 7 000 xe cam-nhông, 20.000 xe scooters và xe gắn máy, 5.00o xe taxi và 280,000 xe đạp.
Ấy là chưa kể những xe ca, xe lô, xe ba bánh từ lục tỉnh lên, hoặc từ Thủ-đô tách đi Nam-Vang, lục tỉnh, Cao-Nguyên và Trung-Việt.
Saigon biết trùng-tu kiến-thiết và đồng thời cũng biết ăn chơi và giải-trí lành mạnh. Từ các tiệm ăn, tiệm nước, tiệm nhảy tiêu thụ hàng ngày trên dưới 2.000 tấn nước đá, tung ra những tiếng nổ hiền lành và tiếng xì quen thuộc của 450.000 nút chai nước giải khát đủ các thứ, từ nước chanh the the cho đến nước gừng đăng đắng.
Các bạn khó tính đến đâu cũng có thể tìm ra những nhà hàng có máy lạnh, những món ăn quý phái, cũng như những món ăn kỳ lạ.
Những bạn nào ưa hóng mát thì qua Nhà-Bè, Tân-Thuận; bạn nào ưa thể-thao thì có sân banh Tao-Đàn, sân quần vợt Đô-Thành và rất nhiều hồ bơi trong sạch.
Và mỗi buổi chiều, có hơn 10.000 người hóng mát ở bến Bạch-Đằng đã kiến-tạo tối-tân với những sân golf bé tí.
Sự phát-triển của Saigon có thể nói là quá sức tưởng-tượng. Bạn nên nhớ rằng Saigon có trên 40 cái rạp hát bóng và hát tuồng, 18 trường dạy lái xe hơi, 29 hãng bảo kê, 48 hãng sửa xe, 7 nhà hàng bán khí-cụ thể thao, 35 nhà hàng bán đồ xưa, 25 văn-phòng kiến-trúc sư, 46 văn-phòng trạng-sư, 12 ngân-hàng, 34 tiệm giặt ủi, 16 nhà hàng bán thịt, 21 lò bánh mì, 52 nhà hàng bán lốp xe hơi, 62 tiệm uốn tóc, 18 tiệm nhảy, 44 phòng chữa răng, 39 khách sạn lớn, 112 phòng chữa bịnh, 78 tiệm thuốc Á-Âu, và trên dưới 1.000 tiệm ăn sạch sẽ.
Từ khi có phong-trào di cư Saigon đã thay đổi sắc diện vì đồng-bào tị nạn đã mang vào Nam ba món ăn đặc-biệt : món ăn vật-chất làm cho no lòng mát ruột như phở tái và cà-rem, món ăn tinh-thần coi mở tâm hồn như âm-nhạc cải-cách. Phở tái đã đánh đổ hủ tiếu, cà-rem đã ăn đứt cà-phê đá và âm-nhạc cải-cách đã chiếm địa-vị của sáu câu vọng-cổ !
Nói tóm lại, Saigon tuy ồ-ạt mà có tổ-chức hẳn hoi; Saigon quanh năm tràn-trẻ nhựa sống và đối với khách du-lịch Saigon sẫn có một sức hấp dẫn lạ lùng, nhờ sắc diện khả-ái và luôn luôn đổi mới, làm cho Saigon rất xứng đáng với danh-từ « Hòn-Ngọc Viễn-Đông ».
Trích "Đất Việt Trời Nam - Thái Văn Kiểm"
********************************************
Bến Nghé
Bến Nghé, ban đầu là tên của một bến nước, sau chỉ một con sông, cuối cùng dùng chỉ một địa phương (vùng trung tâm Saigon hiện nay). Để giải thích cái tên Bến Nghé, hiện có thuyết:
Thứ nhất, theo phó bảng Nguyễn Văn Siêu trong cuốn “Phương Đình dư địa chí” (1900) thì tương truyền, sông này nhiều cá sấu, từng đàn đuổi nhau kêu gầm như tiếng trâu rống, cho nên gọi tên như thế (nghé tức trâu con). Sách “Đại Nam nhất thống chí”, phần tỉnh Gia Định, cũng chép tương tự.
Theo Trịnh Hoài Đức là cái bến uống nước của trâu con, do một tên rất cũ là Kompong Krabey (bến trâu) đã được Việt hoá. Nhưng ông Đốc Phủ Trần Quang Tuất (1765-1825) cho rằng nơi đây có lắm con cá sấu chúng thường kêu nghé nên gọi là Bến Nghé - Trịnh Hoài Đức dịch là « Ngưu Tân » Bến Nghé là cái bến sông Sài Gòn có tên là sông Bến Nghé, cũng có tên là Tân Bình Giang hay là Đức Giang lấy nguồn ở Ban Bót (theo Gia Định Thống Chí). Còn cái rạch Bến Nghé nối dài bởi kinh Tàu Hủ (Arroyo chinois) ngày xưa có tên là Bình Dương và chỗ nó chảy ra giáp sông Bến Nghé gọi là Vàm Bến Nghé. Bến Nghé tức là Sài Gòn và khi ta nói Đồng Nai - Bến Nghé tức là nói đến Nam Bộ vậy.
Còn theo học giả Trương Vĩnh Ký, Bến Nghé có nguồn gốc từ tiếng Khmer – Kompong có nghĩa là bến, Kon Krabei có nghĩa là con trâu. Nhà địa danh học Lê Trung Hoa cũng đồng ý rằng: Bến Nghé là cái bến mà “người ta thường cho trâu, bò ra tắm” vì có nhiều địa danh cấu tạo bằng “bến + tên thú” như: rạch Bến Nghé (Nhà Bè), rạch Bến Tượng (Sông Bé).
******************************
Bà Chiểu
Địa danh Bà Chiểu có từ đầu thế kỷ 19, chỉ vùng đất gồm các phường 1, 2, 14 quận Bình Thạnh hiện nay.
Nhà văn Sơn Nam cho rằng, Bà Chiểu là tên vùng đất xuất hiện thời vua Tự Đức. Chiểu có nghĩa là ao nước thiên nhiên. Bà Chiểu là "nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên".
Bà Chiểu còn là tên một trong những ngôi chợ lâu đời ở Sài Gòn. Sơ khai là chợ xổm, năm 1942, chợ được xây lên với diện tích gần 8.500 m2, nằm ở trung tâm quận Bình Thạnh. trước đây chợ Bà Chiểu quay mặt ra một rạch nhỏ ăn từ kênh Nhiêu Lộc trở vào. Năm 1987, chợ được nâng cấp.
Nay, dấu tích vẫn còn đó nhưng một đoạn đã bị lấp. Sau này khi xây cất lại chợ, người ta mới chuyển mặt chợ ra đường Phan Đăng Lưu - Lê Quang Định.
***********************************
TÊN CÁC QUỐC GIA MÀ NGƯỜI SÀI GÒN THƯỜNG GỌI TRƯỚC NĂM 1975
Ở Saigon trước 1975, người ta hay gọi các địa danh và tên riêng bằng cái tên phiên âm ra tiếng Việt (ảnh hưởng từ phiên âm của tiếng Hoa). Có nhiều cái tên khá lạ lẫm, nhưng vẫn có nhiều tên hiện nay gọi vẫn được sử dụng là Thượng Hải, Hà Lan, Luân Đôn, Bình Nhưỡng…
Nữu Ước (New York)
Hoa Thịnh Đốn (Washington)
Mã Nhật Tân (Manhattan, khu trung tâm của New York)
Cựu Kim Sơn (San Francisco – bang California, Mỹ)
Phú Lang Sa (France)
Úc Đại Lợi (Australia)
Luân Đôn (London)
Phi Luật Tân (Philippine)
Tân Tây Lan (New Zealand)
Điện Cẩm Linh (điện Kremly – nơi làm việc của tổng thống Nga)
Hoa Lệ Ước (Hollywood)
Mạc Tư Khoa (Moscow, thủ đô Nga)
Cơ Phụ (Kiev – thủ đô Ukraine)
sông Phục Nhĩ Gia (sông Volga)
sông Đa Não Hà (sông Danuble)
Ba Tây (Brazil)
A Phú Hãn (Afganishtan)
Gia Nã Đại (Canada)
A Mỹ Lợi Gia (America)
Á Căn Đình (Argentina)
Áo Môn (Macau)
Cao Ly (Korea)
Hạ Uy Di (Hawaii)
Hoành Quốc (Monaco, công quốc thuộc Pháp)
Hoành Tân (Yokohama – Nhật Bản)
Hưng Gia Lợi (Hungary)
Hy Mã Lạp Sơn (Hymalaya – dãy núi)
Hương Cách Lý Lạp (Shangri La)
Mễ Tây Cơ (Mexico)
Tân Đức Lợi (New Delhi – Ấn Độ)
Hương Cảng (Hongkong)
Thánh Hà Tây (San Jose – California, Mỹ)
Tô Cách Lan (Scotland)
Uy Nê Tư (Venice – Ý)
Ái Nhĩ Lan (Ireland)
Ba Lê (Paris)
Bảo Gia Lợi (Bulgary)
La Tỉnh (Los Angeles – California, Mỹ)
Á Lan Đại (Atlanta)
Á Tế Sá (Asia)
Bá Linh (Berlin)
Bạch Nga (Belarus)
Bàn Môn Điếm (Panmomjum, khu phi quân sự chia đôi Nam –
Bắc Triều Tiên)
Bình Nhưỡng (Pyongyung)
Băng Đảo (Iceland)
Cao Miên (Campuchia)
Chi Gia Kha (Chicago, bang Illinois, Mỹ)
Đông Hồi (Banglades)
Hán Thành (Seoul, thủ đô Hàn Quốc)
Đông Kinh (Tokyo)
Hồi Quốc (Oman)
Lục Xâm Bảo (Luxembourg)
Lỗ Mã Ni (Romania)
Mạnh Mãi (Mumbay, còn có tên là Bombay, thành phố đông dân
nhất Ấn Độ)
Phú Sỹ (Fuji –ngọn núi ở Nhật)
Tân Đức Lợi (New Delhi, thủ đô Ấn Độ)
Tây Hồi (Pakistan)
Tây Nhã Đồ (Seattle, bang Washington, Hoa Kỳ)
Tích Lan (Sri Lanca)
Vọng Cát (Bangkok – thủ đô Thái Lan)
Trân Châu Cảng (Pearl Harbor)
-
-
-
Nếu còn thiếu sót xin Quý Vị bổ xung thêm ...
#SAIGONXUA
Van Lam St