|
Post by Can Tho on Jun 6, 2020 3:43:31 GMT 9
ĐÂY HUẾ : CỐ-ĐÔ THẦN-BÍ THƠ MỘNG MUÔN ĐỜI CỦA ĐẤT NƯỚC VIỆT - NAM
Nói đến Huế, người ta nghĩ ngay tới những phong cảnh nên thơ, tưởng đến những kỷ-niệm êm-đềm, những vết tích của thời xưa để lại, cùng với những trang sử bi hùng mà ngày nay đám bình-dân và giới nghệ-sĩ còn ca tụng trong những câu hát điệu hò vô cùng ý-nhị.
Biết bao văn-nhân thi-sĩ từ bốn phương trời đến đây, đã từng say sưa trước vẻ đẹp thiên-nhiên của xứ Huế, mà họ không quên diễn tả bằng những bức tranh lộng lẫy và những vần thơ tuyệt-diệu.
Huế thơ mộng đã trải qua bao lần hưng vong trong lịch-sử. Huế ngày nay vẫn đượm một về trầm lặng mơ màng như tràn ngập trên đôi mi người thiếunữ yêu-kiều.
Người thiếu-nữ ấy có thể là một cô lái đò với mây nhịp lên bổng xuống trầm, hiến cho ta một bức tranh linh động của xứ Huế muôn màu :
Tỉnh Thừa-thiên dân hiền cảnh lịch, Non xanh nước biếc, điện ngọc đền rồng, Tháp bảy từng, Thánh-Miếu, Chùa Ông, Chuông khua Diệu-Đế, trống rung Tam-Tòa, Cầu Trường Tiền sáu nhịp bắc qua, Tả Thanh-Long, hữu Bạch-Hổ đợi khách âu ca thái bình.
Tháp bảy từng đây tức là Chùa Thiên-Mụ hay là Thiên-Mẫu- Tự. Tục truyền rằng : Năm Tân -Sửu (16o1), chúa Nguyễn-Hoàng đi đến chỗ này, thấy giữa đất bằng đột khởi lên một cái gò như hình đầu con rồng ngoành lại, trước có sông, sau có hồ, cảnh trí tốt đẹp. Nhân hỏi người ở đây thì đáp rằng : « Gò ấy rất linh đị, tương truyền lúc xưa có một người ban đêm trông thầy một bà già mặc áo đỏ quần lục, ngồi trên đỉnh gò mà nói : “rồi đây sẽ có chân chúa đến lập chùa ở nơi này, để tụ linh-khí mà làm cho bền long mạch; nói xong thời bà ấy biển mất, nhân thể dân-chúng mới gọi cái gò ấy là núi Thiên-mụ"
Chúa thấy chỗ đất có linh khí, bèn dựng chùa đặt tên là chùa Thiên- Mụ. Năm Ât-Tị (1665), Chúa Nguyễn-Phúc- Tân trùng tu. Năm Canh-Dần (1710), Chúa Nguyễn-Phúc-Chu cho đúc cái chuông lớn cân nặng 3285 cân, ta, Chúa thân làm bài văn khắc vào chuông, Chúa cũng cho tạc một tấm bia lớn, vào cuối năm 1715, cao 2m6o, rộng 1m20. dựng trên con rùa đá lớn bằng cẩm-thạch, trên bia có ghi công đức của Chúa trong việc chân hưng đạo Phật, và những chi tiết về các kiến-trúc của chùa.
Trong chùa, tại điện Đại-Hùng, có thờ rất nhiều tượng Phật và có một cái khánh đồng do người Bồ-Đào-Nha Jean de la Croix, đúc năm 1674.
Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), vua có dựng thêm ngoài cửa Nghi-Môn, một cái tháp hình bát giác, cao 5 trượng 3 thước 2 tắc (2ım24), đặt tên là tháp Tu-Nhân, sau đổi là tháp Phúc-Duyên. Tháp có bảy tầng mỗi tầng thờ một đức Phật, tầng cao nhất thờ đức Phật Thế-Tôn.
Chùa Linh-Mụ là một thắng cảnh thuộc làng Kim-Long mà danh tiếng được lưu truyền trong những câu ca-dao bất hủ :
Kim-Long có gái mỹ-miều, Ta thương ta nhớ, ta liều ta đi !
o0o
Nước đầu cầu, khúc sâu khúc cạn, Chèo qua Ngọc-Trản, đến vạn Kim.Long; Sương sa gió thổi lạnh-lùng; Sóng xao, trăng lặn, gợi lòng nhớ thương!
Từ trong chùa toả ra mùi hương ngào-ngạt, vọng lại giọng kệ cầu kinh của các vị tăng già, cùng tiếng hát câu hò của các cô gặt lúa :
Tiếng chuông Thiên-Mụ dặn-dò, Em đi : cảnh vắng, hẹn.hò cùng ai ? .
và bên kia sông, trên đồi Long-Thọ-Cương, tiếng gà gáy xa đưa :
Gió đưa cành trúc la-đà, Tiếng chuông Thiên-Mụ, canh gà Thọ-Cương.
Đi quá Thiên-Mu chừng 300 thước thì có Thánh-Miếu hay là Văn-Miêu, do Vua Gia-Long dựng lên năm 1808, để thờ Đức Không-Tử, 4 vị hiển- triế môn-đệ, 72 triết-gia cùng 120 hiền-nhân quân-tử đời xưa.
Ngày nay, trong văn-chương bình-dân, còn truyền lại câu ca-dao :
Văn-Thánh trồng thông, Võ-Thánh trồng bàng, Ngó vô xã-tắc: hai hàng mù u.
Câu này nhắc lại một chiến-công dưới thời vua Tự Đức. Khi quân Pháp đổ bộ lên cửa Thuận-An, kéo binh vào thành Huếu, quân ta mai phục hai bên, đường vào đàn Xã-tắc, bèn lấy trái mù-u, đồ ra đẩy đường. Quân Pháp đi giày da, đạp lên mù-u, nhào té đảo điên. Quân ta thừa thế nhảy ra đánh áp lá cà làm cho quân Pháp phải chạy tán loạn. Vì vậy mới gọi là trận giặc mù-u. Ngày nay, hai bên đường Xã-tắc, còn hai hàng mù-u (callophyllum) cao ngắt nghều thỉnh thoảng rụng trái trên vai người đi đường, như để nhắc nhở một trang sử oanh-liệt.
Bây giờ chúng ta về miền Gia-Hội. Nơi này, xưa kia là nơi buôn bán tấp nập, có thể nói là một thương-cảng hồi thời kỳ Đông-Tây mới tiếp xúc với nhau. Ở đây, theo câu hò trên kia, thì có Chùa Ông thờ Đức Quan-Công, có Chùa Diệu-Đế xây năm 1844, dưới thời vua Thiệu-Trị, để thờ Phật, các vị Bổ-tát Văn-Thù và Phổ-Hiển cùng thập bát La-Hán.
Đông-Ba, Gia-Hội hai cầu, Ngó lên Diệu-Đế : trống lầu gác chuông.
Nhưng đặc biệt nhất là cái trống Tam-Tòa, để cho dân-sự khi có điều gì uất-ức thì cứ đến đây mà đánh ba hồi trồng, cho đến khi quan Đô-Sát ra tận nơi mà nhận lá đơn của người bị ức hiếp. Sử còn ghi việc bà Bùi-Hữu-Nghĩa đi ghe từ Trà Vinh (Vinh-Long) ra đến tận Huế, để khua trống tại Tam-Pháp-Ty, nạp đơn trần tình minh-oan cho chồng bị vu cáo, và nhờ vậy mà vua mới xét lá đơn và tha bồng cho Thủ-Khoa Nghĩa.
Rồi đến sáu vài Trường-Tiền, vươn mình trên giải sông Hương trong vắt, là nơi hẹn hò của bao trai thanh gái lịch :
Cầu Trường-Tiền sáu vài mười hai nhịp, Anh qua không kịp, tội lắm em ơi ! Bấy lâu ni chịu tiếng mang lời. Dẫu có xa nhau đi nữa, cũng bởi ông Trời mà xa !
Cầu này đã bao phen bị nước cuốn hoặc bị chiến-tranh tàn phá, chứng kiến và đau lòng trước bao cảnh hưng vong của lịch-sử cận đại. Con thuyền trôi dưới cầu tuy có vẻ mơ màng vô định, nhưng nó cũng có thể chở một Trần-Cao-Vân giả ngồi câu cá, để cùng vua Duy Tân bàn việc phục quốc chống xâm-lăng (1916):
Chiều chiều trước bến Văn-Lâu. Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm ? Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông ? Thuyền ai lấp-ló bên sông, Nghe câu mái đẩy trạnh lòng nước non!
Phu - Văn - Lâu trong câu hò chính là nơi quyết-định giá-trị văn-học của những thế-hệ ngày xưa. Xây năm 18I9, dưới triều Gia Long, Phu-Văn-Lâu là nơi công yết những sắc dụ và phu danh các vị tân-khoa thi hương, thi hội và thi đình. Năm 1843, vua Thiệu-Trị có cho dựng một tầm bia lớn ở phía tay mặt, và khắc một bài thơ ca tụng con sông thơm mát. Đằng trước, có dựng một tầm bia để bốn chữ : "Khuynh cái, hạ mã ". Ai đi đến đây, trước kia, cũng phải nghiêng dù xuống ngựa, để tỏ lòng cung kính và phục tùng đối với những giá-trị tinh-thần cố hữu.
Một điều đáng ghi nhớ khác nữa là năm 1847, ở đây có cuộc tập họp 773 bô-lão tổng cộng là 59.o17 tuổi, nhân lễ tứ tuần của vua Thiệu-Trị. Ngày nay, ở bên Văn-Lâu còn vọng lại đôi câu hò đầy ý nghĩa :
Bến chợ Đông-Ba, tiếng gà eo-óc, Bến chùa Thọ-Lộc, tiếng trống sang canh : Giữa sông Hương giợn sóng khuynh-thành, Đêm khuya một chiếc thuyền mành ngửa nghiêng.
Ngửa nghiêng vì quốc-sự, nên bấy giờ đảng Văn-Thân mới gieo ra mấy cầu hò thống thiết để kêu gọi nghĩa-sĩ bốn phương mau mau ra cứu dân giúp nước, thu phục sơn-hà :
Chợ Đông-Ba đem ra ngoài giại, Cầu Tràng-Tiền đúc lại xi mon. Ôi người lỡ hội chồng con ! Về đây gá nghĩa vuông tròn với ta,
o0o
Tiếng hát ngư-ông giũa sông Nhật-lệ, Tiếng kêu đàn nhạn trên áng Hoành-Sơn. Một mình em ngồi giữa sông Hương, Tiếng ca theo khúc đoạn-trường ai nghe !
Cũng một phần nhờ những câu thơ bóng bẩy, nhờ những câu hò trừu tượng kia mà cả một dân-tộc đã vùng dậy, đập tan xiểng xích nô-lệ, để vươn mình sống mạnh và sống tự-do,
o0o
Nói đến Huế mà không nói đến lăng tầm thì thật là một điều sơ suất lớn lao Và Huế sẽ không phải Huế nữa, nếu không có những lăng tẩm là cõi sống của những người đã chết. Huế là nơi « tảng tóc mỉm cười và vui tươi thổn thức (le deuil sourit. la joie soupire). Lẽ dĩ nhiên bên cạnh một thành phố phồn hoa của những người đang sống, phải có một giang-sơn thần-bí giành riêng cho những người đã khuất. Đạo lý cổ truyền của ta dạy rằng : «Sinh ký tử quy», nghĩa là người vĩnh biệt sẽ ca khúc khải hoàn trên con đường giải thoát. Vì vậy người Á-Đông không sợ chết, và tâm hồn của họ vẫn bình thản lúc sắp từ giả cõi trần. Cho nên bất cứ vị vua chúa nào, một khi đã lên ngôi cửu ngũ, liền nghĩ đến việc lựa chọn một nơi hợp với phong thủy để xây cất nơi yên giấc ngàn thu. Chính con người Á-Đông dám đùa với Tử-thần, nên mới tìm ra bí quyết trường-sinh bắt tử !
Kinh-đô Huế là nơi điều hòa sự phồn-hoa đô-hội với cảnh u-tịch trang-nghiêm. Mỗi lăng có vẻ đẹp riêng, cho nên khách du-lịch, sau khi đã đắm say mầu sắc thanh-âm chốn thị-thành, sẽ không bỏ lỡ dịp cung chiêm lăng tẩm các vua xưa.
Là vì nơi đây :
Tứ bề núi phủ mây phong, Mảnh trăng thiên cồ, bóng tùng vạn-niên.
Chúng ta tìm thầy ở đây những công trình kiến-trúc tuyệt-mỹ đã làm xiêu lòng khách du-lịch tứ- phương cùng những bài học thanh-cao ghi trên bia đá tượng-đồng.
Bởi thế khi chúng ta xem lăng, liền nảy ra một lòng tôn kính lạ lùng đối với người đã khuất, những người thợ vô danh, những kiến-trúc-sư khiêm nhã đã gây dựng bao công trình vĩ đại.
Có cả thảy tám lăng chính : Gia-Long, Minh. Mạng, Thiệu-Trị, Tự-Đức, Dục-Đức, Kiền-Phúc, Đồng-Khánh và Khải-Định. Các lăng tẩm đều xây ở phía Tây Kinh-đô Huếu, hai bên bờ sông Hương.
Lăng tẩm Huế có thể xem như những kỳ-quan của thế-giới, vì kiến trúc cũng như vì khung cảnh trang nghiêm hùng-vĩ... Thượng-Chi tiên-sinh đã viết trong Nam-Phong tạp-chi năm 1918 rằng :« Lăng đây là gồm cả màu trời sắc nước, núi cao rừng rậm, gió thổi ngọn cây, suối reo hang đá. Lăng đây là bức cảnh thiên-nhiên tuyệt đẹp ghép vào một cảnh nhân tạo tuyệt vời. Lăng đây là cái nhân công tô-điểm sơn-hà, gợi nên một tâm hồn não-nùng u-uất như phảng-phất trong cung-điện âm-thầm, như rì-rào trên ngọn thông hiu-hắt. Không biết lời gì mà tả được cái cảm giác lạ, êm-đềm, ảo-não, nó chìm đắm khách du-quan trong cái cảnh tịch mịch u sầu ấy ».
o0o
Đến đây chúng ta dã kết thúc một cuộc du-ngoạn tổng quát nơi xứ Huề, trong không-gian và thời-gian. Chúng ta đã ngược giòng lịch-sử với Huế muôn thuở; chúng ta chiêm ngưỡng Huế đẹp và thơ ; chúng ta phấn khởi với Huế kháng-chiến chống xâm lăng và chúng ta cũng đã thông cảm với Huế u buồn tịch mịch.
Đã có lúc Huế gần như chết với bao cảnh lầm than, đến nỗi đã có người than rằng :
Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự, Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương !
o0o
Trọi trơ đỉnh Ngự chim tìm tồ, Ngao-ngán giòng Hương cá lẩy mồi !
Ngày nay, hòa-binh đã trở lại trên giang-sơn nước Việt, Một chỉnh-thể mới đã ra đời, đang đưa dân ta đến những chân trời mới lạ. Cây cỏ đã bắt đầu mọc trên đỉnh Ngự và đò giang qua lại nhộn nhịp trên giòng sông Hương.
Huế đã sống lại trong cảnh huy hoàng, và đối với khách du-ngoạn, Huế sẵn có một mãnh-lực hấp dẫn lạ thường, là vì :
Kìa nước nọ non hãy còn như cũ, Giang-sơn cẩm-tú ai nhủ em lo ? Chừ dây tái-tạo cơ-đồ, Đã có cây cho chim đậu, lại có đò cho em đi !
Gia-Định, Trong-Đông Canh-Tý, 1960 Việt-Điểu THÁI-VĂN-KIỀM
Trích "Cố Đô Huế"
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 16, 2020 10:46:35 GMT 9
TRỞ LẠI ĐẢO XƯA13 Tháng Tám 2020 Nguyễn Công Khanh Phú Quốc - ảnh UL Mãi tới năm 2010, hơn 45 năm sau, chúng tôi mới có dịp quay lại Phú Quốc.
Chuyến bay hôm đó, ngồi trong một máy bay cánh quạt của Nga, gần giống như máy bay DC3 thời xưa của Air Vietnam, nhưng xập xệ hơn nhiều. Bầu trời vẫn xanh, nắng vẫn rực rỡ, những đám mây vẫn bạc trắng tinh. Phía dưới những thị trấn nhỏ mới mọc lên bên các nhánh Cửu Long Giang. Ruộng đồng xanh mát không còn những hố bom đạn loang lổ như ngày xưa.
Phi cơ bay thẳng từ Saigon ra Phú Quốc, không ghé phi trường Rạch Sỏi để đón thêm khách như ngày xưa. Nhìn xuống, biển vẫn xanh, sóng bạc đầu vẫn vỗ trắng vào ven đảo. Phi trường nay là một tòa nhà hai tầng, có đường chuyển hành lý tự động ngắn. Phòng đợi trên lầu có máy lạnh và tấng dưới là những quầy hàng, bán những đặc sản địa phương.
Xe chở đoàn du lich vào thị trấn Dương Đông và ra thẳng ngôi đền thờ Dinh Cậu, nơi mà ngày trước, khi mới đến đảo nhận việc tôi được nhân viên đưa đến trình diện Cậu để được ban phước lành. Khi ra ngoài đứng trên bao lan nhìn quanh, biển vẫn rộng, xanh mát như ngày xưa, chỗ cửa sông có lần tôi đã bơi ra xa đến chỗ cọc mốc mà một ông lão đã bảo cho tôi phải coi chừng cá mập. Mỏm đá hình cá sấu vẫn nguyên vẹn hướng về cuối đảo. Nhìn sang phía xóm Cồn mà tôi đã để cho ngư dân Bình Định tránh chiến tranh di cư vào tạm trú ở cuối cồn, nay nhà cửa chen lấn ngổn ngang. Cái tên Bình Định mà tôi đặt tên cho cái xóm đó, đến nay họ vẫn giữ. Chỉ tiếc cái cồn cát dài trắng xóa nên thơ đó không còn nữa.
Tôi bước xuống khỏi dinh, nhìn quanh tìm căn của nhà sàn cửa biển của cô Mười ở đầu cửa sông không còn nữa, thay vào đó là một trạm hải quan. Tượng Đức Mẹ mà quận trưởng Thanh cho người dựng gần dinh Cậu, đầu cửa biển đã làm mất lòng dân địa phương, nay đã bị rời đi đâu chỉ còn trơ lại bệ xi măng. Tôi đi dọc biển, bãi cát không còn mịn như xưa, đá sạn, vỏ chai ốc và rác không còn là bãi tắm. Tôi hướng về phía phía quận cũ, khu nhà nhân viên không còn nữa, cả đến những ngôi mộ cũ mấy trăm năm của các nhà truyền giáo cũng không còn dấu tích để các khách du lịch ngoại quốc sau này có cơ hội đến xem.
Tôi nghĩ đến ngôi giáo đường cổ nhỏ mất mái, chỉ còn trơ bốn bức tường rêu phong mà có những lần tôi cùng một nhóm giáo dân ngồi nghe tiếng giảng lẫn trong gió của một vị linh mục từ một làng đạo di cư Ba Làng phía nam đảo An Thới, dù tôi không theo đạo Thiên Chúa. Tôi chắc ngôi giáo đường cũng bị san bằng không còn nữa. Nay cả khu tôi đang đứng chỉ thấy cỏ hoang và rác rưởi. Sở Khí Tượng cũ đã bị phá bỏ, thay vào một cơ sở mới được xây cạnh đó. Không hiểu hai vợ chồng Trưởng Ty khí tượng một thời họ ở mãi tận Hoàng Sa đổi về đây nay đã trôi dạt về đâu.
Hàng dừa mà vợ chồng tôi đứng chụp trong những ngày ra thăm lại đảo năm 1965 vẫn còn, nhưng nay thân cao gầy còm cong lại, vì đã phải chống trả và chịu đựng với những cơn gió biển trong bao năm qua.
Sau đó, họ đưa về một resort sát biển gần đó để nghỉ. Phòng ốc khá khang trang, các bữa ăn hải sản thịnh soạn và tiêu chuẩn. Tối hôm đó không có mục gì, trong đoàn du lịch có một đôi vợ chồng trẻ ở Cali rủ chúng tôi xuống nghe hát karaoke. Cùng đến đó có mấy thanh niên nam nữ, họ lần lượt chia nhau hát. Hai vợ chồng này toàn chọn nhạc vàng lãng mạn trước 75, còn nhóm trẻ thì hát các bài ca cách mạng đặc mùi Mác Xít. Tôi cười thầm trong bụng, nghe thấy trớ trêu. Một lúc sau thấy họ rời phòng, chắc nghĩ mình không giống ai, đi du lịch mà vẫn mang theo những bài đó, chắc là phải theo ý trưởng đoàn.* “Đêm đó, tôi nằm nhớ lại thời gian dài đã ở đảo. Tôi ra trường Quốc Gia Hành Chánh, khóa 6 đầu năm 1962, tưởng rằng sẽ được ở Saigon kéo dài cuộc đời ký cóp trong các bộ phủ như các khóa trước. Lúc đó Cộng Sản đã mở các cuộc phá hoại dồn dập ở nhiều nơi. Trường QGHC những năm đó trực thuộc Phủ Tổng Thống, và Tổng Thống Diệm đã thay đổi ý định xử dụng khóa của tôi. Khóa tôi chỉ có 36 sinh viên tốt nghiệp, ông đưa nửa khóa vào Trung Ương Tình Báo, còn một nửa khóa trong đó có tôi đưa ra quân trường Đồng Đế, Nha Trang, do tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy để dự khóa 3 Chuẩn Úy Hiện Dịch. Theo tướng Trí, một người lính bộ binh giỏi là một người đi bộ giỏi. Thành thử chúng tôi đi di hành theo tốc độ ngày đêm mút mùa gần như hàng tuần. Tổng Thống Diệm quan niệm rằng một người chỉ huy ở địa phương phải được huấn luyện về cả hành chánh và quân sự mới phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh.
Khi rời quân trường, tôi cầm nghị định bổ nhiệm đi Rạch Giá, Kiên Giang, nhưng đến đó mới biết nhiệm sở cuối cùng là đảo Phú Quốc. Phó Tỉnh Trưởng, một người học trên tôi, khóa 1 trao sự vụ lệnh nói với tôi như an ủi:
-Em cứ ở tỉnh ít lâu, ngoài Tết đi cũng được. Có gì cho “qua” biết.
Những ngày ở lại, tôi được ông hậu đãi vào hàng quý khách của tỉnh. Ở khách sạn lớn trong tỉnh, hàng ngày tiệm ăn Tầu có tiếng đem thức ăn đến tận phòng, ngày ba bữa. Tôi phải thực sự cám ơn người đàn anh.
Nhớ lại hình ảnh thư sinh mới ra trường, một mình tay xách chiếc va li đến đảo, lãng mạn tưởng như đang sống lại một phần đời của Gauguin đang đi tìm lại một thiên đường lỡ dở trong các họa phẩm vẽ cảnh rừng dừa ven biển, với các chàng trai lực lưỡng đang đánh những tiếng trống bập bùng, với những cô gái mình trần đa tình đang cầm vòng hoa đón khách lạ. Thấy lại hình ảnh lang thang của mình như một Gary Cooper sau những ngày phiêu bạt trở lại đảo như trong phim Retour au Paradis. Thấy lại hình ảnh của mình ngồi trên mũi thuyền những ngày rong ruổi trên biển, nghe sóng vỗ và nhìn vào dọc đảo xanh để đến những ấp lạ như sống trong phim của thời Seven Samurais...
Khi tôi ra đảo, các đường bộ đều bị cắt đứt, chỉ còn bốn ấp ven biển có hàng rào chiến lược , nếu muốn đến phải dùng thuyền hay nhờ các ghe của Hải Thuyền. Mấy xã, ấp trong lòng đảo đã bị xóa sổ từ trước. Dân số trên đảo khoảng 8,000 người, tập trung trong các ấp còn lại, một số sống rải rác trong các vườn tiêu trên đảo. Phú Quốc gồm nhiều ty, sở thuộc trung ương như một tỉnh nhỏ. Nhưng một số công chức làm việc trên đảo thường coi như bị đi đầy. Họ đếm từng ngày một để chóng được trở về đất liền. Buồn nhất là nghe những người lính, bao nhiêu năm không được về lại đất liền, bao nhiêu năm không được trở về quê hương thăm cha mẹ, họ hàng thân thuộc. Những em nhỏ, nói đến Sài Gòn như nghe chuyện một giấc mơ, hay ở một thế giới khác, mà nghĩ rằng cả đời mình chắc khó có ngày đến đó được. Những cụ già từ xóm xa, khi đến quận gặp tôi, vẫn chắp tay vái và gọi tôi bằng “Quan”. Dặn mấy ông cụ bao nhiêu lần là chỉ cần gọi bằng “ông”, nhưng vừa được câu trước, đến câu sau, các cụ lại quen miệng gọi là quan như thường. Đã sang đến thập niên 60 mà khi hỏi các cụ, ai là người đứng đầu nước Việt Nam bây giờ, các cụ vẫn trả lời là “Vua Bảo Đại”.
Tổng Thống Diệm, lúc đó đang cố đẩy mạnh chương trình lập ấp chiến lược, tin tưởng rằng sẽ tách rời được Cộng Sản ra khỏi dân quê và phát triển được các phương diện kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế và an ninh trong các xã ấp mà dân quê từ bao nhiêu năm đã không được hưởng. Tôi cũng thường theo các cuộc hành quân để lập ấp, tổ chức định cư, thành lập ấp cũng như lập các dự án tự túc để giúp dân phát triển các phương diện kể trên. Nhưng có những ấp vừa thành lập chẳng bao lâu lại phải bỏ, vì quá cô lập, mà quân số thì ít và không dám dàn mỏng. Tôi đã đến các ấp nhỏ trên đảo, có ấp chỉ có khoảng hơn một trăm dân, hàng rào gần ngay trước mặt, lớ ngớ rất dễ bị Việt Cộng bắn sẻ.
Tôi cũng đã đến một số các đảo nhỏ lân cận, có dịp lặn dưới biển bơi cùng các đàn cá mầu trong các rặng san hô. Tôi ở đảo, không bao lâu thành một dân “chịu chơi”. Cùng ăn nhậu với lính, với ngư dân và dự những buổi ăn uống đình đám trong xã. Họ uống rượu rất dữ, tôi cũng phải cố theo mà trước kia chưa bao giờ uống đến nửa chai bia.
Một lần, biển động đến hơn tháng trời, ghe thuyền không ra khơi mà cũng không đến được đảo. Gió thổi mạnh mà mưa thì mù trời, máy bay mỗi tuần có một chuyến không thễ hạ cánh. Chẳng biết làm gì cho qua những ngày bão biển, không có chuyện gì làm, ngồi hút thuốc lá đến đen cả mấy ngón tay. Tôi vào trong kho lục trong đống văn khố xem có gì đáng đọc hay không, tôi mang ra từng chồng sách xuất bản từ Hà Nội đã tịch thu được trong cuộc hành quân trên vùng Bắc đảo năm trước. Những sách khảo cứu về dược thảo Việt Nam, chắc để cho du kích dùng mỗi khi thiếu thuốc bào chế. Những sách về khảo cổ, lịch sử và văn học viết theo quan điểm Mác-Xít, mị giai cấp công nông, đọc không nổi.
Tôi tìm được một quyển Địa Phương Chí của đảo, đã khiến tôi nghiền ngẫm đến mấy ngày liền và là một cái cớ khởi đầu để tôi có dịp đi gặp các cụ già trên đảo tìm hiểu thêm về các sử liệu, các dấu vết cổ xưa, kể cả các truyện truyền kỳ, huyền thoại. Tôi mở rộng tấm bản đồ với đầy đủ các hòn đảo của Việt Nam trong vịnh Thái Lan. Những cái tên nghe mường tượng như từ một thời cổ xưa lập địa với những Hòn Đồi Mồi, Hòn Kiến Vàng, Hòn Khoai, Hòn Thơm, Hòn Nước, Hòn Rùa, Hòn Tre, Hòn Tre Lớn, Hòn Tre Nhỏ, Hòn Thổ Châu và Hòn Hải Tặc... mà nhiều hòn trong suốt thời gian ở đó tôi không có dịp đặt chân đến.
Tôi đọc tới những trang sau, những truyện có thật mà tưởng như truyền kỳ của một hòn đảo thường được gọi là xứ của 99 ngọn núi, ý nói có nhiều núi lắm. Những chứng tích còn lại, như những bí mật của Chùa Sư Muôn. Những câu sấm của ông Đốc Phủ Chiêu với chùa Cao Đài trên núi, mộ của những ông cố đạo ngoại quốc không hiểu từ đâu đến truyền giáo, có những cái tên lạ hoắc được chôn ở bãi biển sau quận từ thế kỷ trước mà những buổi chiều hè, lúc tôi tắm biển xong thường ngồi nghỉ trên những tấm mộ này nhìn ra biển ngắm cảnh hoàng hôn. Cái Giếng Tiên bên bờ sông Dương Đông nước mặn mà nước giếng vẫn ngọt. Các đền thờ Cá Ông rải rác trên đảo, nhưng khi tôi có dịp đến thăm thì đã chẳng được ngư dân thờ phụng như trước nửa, chỉ còn chỏng chơ vài cái xương cá voi khổng lồ cũ kỹ...
Trong phần lịch sử của đảo, tôi thấy có những đoạn viết về đoàn thuyền của Nguyễn Huệ lùng đuổi Nguyễn Ánh, sau đó cả hai đều kế tiếp mang mạng đế vương. Có trang nhắc đến Nguyễn Trung Trực chạy ra đảo để tránh cuộc vây bắt của giặc Pháp. Hai sự kiện đặc biệt trong cuốn Địa Phương Chí mà không thấy một sách vở hay tài liệu nào khác nói tới là: Quân Nhật đem hàng trăm tù binh san bằng đất làm phi trường ở Cửa Cạn trong Thế Chiến Thứ Hai để tấn công Tân Gia Ba. Tôi đã cố đi tìm chứng tích, nhưng vì trong lòng đảo, chỉ gặp được một hai người còn nhớ ít câu tiếng Nhật nhờ làm thông ngôn cho họ. Sự kiện thứ hai là cả một sư đoàn tàn quân Quốc Dân Đảng bị Hồng Quân Mao Trạch Đông vượt sông Dương Tử xua họ ra khỏi Trung Hoa, qua biên giới Việt Nam khiến người Pháp phải đưa họ ra đảo lánh nạn. Họ ở lại cho đến khi Tướng Tưởng Giới Thạch về Đài Loan. Tôi đã đến thăm nghĩa trang của những Quốc Quân bỏ minh trên đảo tại cuối phi trường. Sau này, trong một chuyến bay du hành quan sát từ Đài Bắc ra thăm hai đảo Kim môn và Mã Tổ sát đất liền Trung Cộng, tôi ngồi cạnh một vị Đại Tá Đài Loan. Ông hỏi tôi, đã làm việc ở những đâu, tôi có nói đến Phú Quốc, ông mừng rỡ kêu lên và cho biết ông thuộc sư đoàn tạm trú trên đảo trong mấy năm đó. Ông đã kể lại cho tôi tên những địa danh trên đảo.
Nhưng có một hình ảnh mà tôi đã hình dung ra và đã theo tôi mãi trong những ngày ở trên đảo và cả sau này nữa, đó là đàn trâu mấy chục con của bà Kim Giao. Tính ra những con trâu này đã được mang ra đảo vào khoảng mấy trăm năm trước, hiền lành chỉ biết cần cù, ra sức cầy bừa. Công cuộc khai khẩn thất bại. Sau khi bà mất, đàn trâu này trở thành một lũ trâu rừng lang thang...Tôi có dịp nói chuyện với một số dân trong rẫy, ở ngoài vòng ấp chiến lược, họ cho biết đàn trâu chỉ còn lại hai con. Năm trước một con đã bị bắn chết. Nghe đến đó tự nhiên tôi thấy buồn rầu như đã đánh mất một vật gì quí báu mà không thể nào tìm lại được. Bây giờ một con đã bị bắn chết, còn một con lủi thủi cô độc, trong một vùng hoang đảo mênh mông. Tôi không muốn tưởng tượng ra thêm nữa về tình cảnh của một con trâu rừng cuối cùng trên đảo. Nhưng như thế cũng đủ làm cho lòng dạ tôi bồn chồn, lo lắng về số phận của nó. Tôi đã nghĩ đó là một hình ảnh, một huyền thoại cuối cùng của hòn đảo, của một thiên đường đã mất mà tôi đang sống, mà tôi đang đi tìm từ ngày đến đảo. Nhưng sao tôi thấy cái huyền thoại đó quá mong manh và không hiểu nó sẽ kết thúc vào lúc nào và như thế nào. Mặc dầu tôi đã cẩn thận dặn dò các người lính và dân trên đảo là không nên săn đuổi con trâu nữa...
Lúc Tướng Nguyễn Khánh lên cầm quyền, ông muốn thực hiện ý định tổ chức Phú Quốc thành một trung tâm giải trí cho lính Mỹ đi nghỉ phép để thu ngoại tệ, thay vì để họ đi Hồng Kông, Bangkok hay các nơi khác vung tiền. Tôi được lệnh thảo một dự án thành lập tỉnh Phú Quốc, việc này không khó khăn lắm vì đã sẵn có một số ty sở thuộc trung ương, chỉ cần tăng cường một số cơ sở liên hệ đến dự án. Tôi tưởng tượng ra một trung tâm giải trí du lịch cho lính Mỹ gồm khách sạn, nhà hàng, ca nhạc, casino, sân golf, thể thao trên biển và nhiều thứ hấp dẫn khác ngang ngửa với các nơi khác ... Tôi không hiểu ông lấy ngân sách ở đâu hay đã có sự hứa hẹn của một nhà tài phiệt nào. Nhưng vấn đề an ninh phải được bảo đảm một trăm phần trăm, nếu không sẽ bị hủy hoại bất cứ lúc nào. Ông cho biết sẽ đem một tiểu đoàn Nùng và 3,000 dân Nùng ra diệt trừ hết du kịch. Tôi đã đón tiếp các phái đoàn Nùng và dùng tàu đưa họ xem vòng quanh đảo, cũng như phân tích những điểm trọng yếu trên đảo…
Sau đó ít lâu, tôi lại phải sang Hàm Ninh, phía Đông của đảo để giúp hội đồng xã tổ chức lại một số vấn đề hành chánh, tài chánh và nhất là định lại thuế má. Xã quá nhỏ, hơn trăm dân, thuế thâu rất là khó khăn, chỉ đủ trả lương cho một mình xã trưởng. Ông ta là một ông già, có chút chữ nghĩa, biết tính toán, hàng ngày lại phải kiêm luôn chức giáo làng dậy một đám trẻ nhỏ. Giáo viên cử đến tháng trước thì tháng sau lấy cớ đau ốm về đất liền rồi ở luôn không thấy ra nữa. Nếu tăng thuế để đủ chi phí điều hành xã thì chắc dân sẽ bỏ đi hết, chỉ còn le que ít lính trong đồn, rồi chẳng bao lâu đồn sẽ bị triệt hạ vì lý do này hay lý do khác và quận sẽ mất thêm một xã nữa. Thành thử, mọi chuyện cứ để lết bết như cũ.
Không còn chuyện gì làm, tôi gọi về quận để cho thuyền đến đón, thì trời nổi gió, mây đen ngùn ngụt phủ đầy trời. Ngoài kia, biển chợt sẫm lại và sóng đánh vào mấy chiếc ghe cắm đàng xa, dập vùi như muốn nhận chìm xuống đáy biển.
Thời tiết này thì ít nhất cũng phải một tuần nữa mới có thể trở về quận được. Mấy quyển sách đem theo cũng vừa đọc hết, tôi lang thang đi từng nhà, nói chuyện với các ông già bà cả. Họ kể lại những chuyện nghe như chuyện ngày xưa tự thuở bán khai. Nói chuyện với các trẻ thơ, thấy chúng vô tội, và thấy thương vô vàn khi nghĩ đến tương lai của chúng. Có lúc, tôi trầm ngâm ngồi nhìn và nghe chuyện giữa một cô gái đảo đương thì và một anh lính trẻ trong đồn, tôi chưa tưởng tượng được giấc mơ của họ như thế nào ở chốn tận cùng của trời đất này.
Một buổi trưa, đang nằm lơ mơ trên võng sau nhà của một người thợ săn, tôi bỗng choàng dậy vì thấy một cái gì ẩn hiện trên đống cát gần hàng rào thưa. Tôi vội chạy đến, lấy tay gạt cát và kéo lên một cái sọ trâu trắng hếu với hai cặp sừng cùn sơ mà cái nào cũng chỉ còn một nửa. Tôi lệ khệ bê cái sọ trâu vào trong nhà. Họ cho biết, hơn tháng trước Thiếu Úy Bình cùng mấy người trong ấp đi săn, đột nhiên gặp con trâu rừng này. Lúc nó trông thấy Thiếu Úy Bình thì chỉ còn cách xa vào khoảng ba chục thước, nó đứng yên, hai chân cào đất lấy thế tấn công. Mọi người thấy thế dãn ra, chỉ còn Thiếu Úy Bình quỳ xuống sẵn sàng nạp đạn. Sau một lúc nghênh nhau, con trâu rừng bỗng lao về phía Thiếu Úy Bình, mấy viên đạn nổ vang theo đà con trâu ngã gục ...
Tôi không còn muốn nghe thêm gì nữa, vội chạy lên đồn để gây sự, thì lính trong đồn cho biết Thiếu Úy Bình đi săn bị ngã từ trên cây xuống, gẫy xương sống, đã phải đưa vào bệnh viện tỉnh tuần trước rồi.
Tôi thẫn thờ đi ra khỏi đồn, tưởng tượng đến phút cuối cùng của con trâu rừng trên đảo đã gục ngã. Tưởng tượng đến cả đám trâu rừng của bà Kim Giao đem ra hơn hai trăm năm trước nay không còn nữa. Tưởng tượng đến cái dấu vết cuối cùng của một thiên đường hoang tưởng đã mất mà tôi đang tìm, như bỗng chốc không bao giờ còn tìm thấy lại. Tôi trở về nhìn lại cái sọ trâu với cặp sừng, lấy tay phủi cát trong cặp mắt sâu hoắm, tưởng như bao nhiêu huyền thoại vẫn còn chứa chất trong đó. Tôi nhớ lại từng trang trong cuốn Địa Phương Chí của đảo mà tôi đã đọc trong những ngày biển động. Tôi thấy đoàn thuyền của Nguyễn Huệ đang lùng đuổi Nguyễn Ánh, thấy con cá voi đang cố sức đỡ thuyền cho Nguyễn Ánh khỏi bị lật trong cơn giông bão, thấy một đàn cá lạ đến dâng mình cho Nguyễn Ánh trong cơn đói lả. Thấy hình ảnh của nhà truyền giáo từ một xứ xa lạ nào đó đang nằm thở những hơi cuối cùng trong ngôi giáo đường ven biển, chờ Chúa đến đón. Thấy Nguyễn Trung Trực đang treo đứa con nhỏ của mình trên nhành cây cho dân trong trong ấp nuôi để cố thoát khỏi cuộc vây bắt của giặc Pháp. Thấy cả đám tù binh gầy guộc đang lê lết san bằng đất làm phi trường Cửa Cạn trong Thế Chiến Thứ Hai, thấy lại từng đoàn máy bay Nhật lên xuống bụi mù cả một vùng, thấy đám lính Nhật bắn súng vang trời ăn mừng khi Tân Gia Ba thất thủ. Thấy lại cả đám tàn quân Quốc Dân Đảng bị Hồng Quân Mao Trạch Đông vượt sông Dương Tử xua họ ra khỏi Trung Hoa và tràn qua biên giới Việt Nam khiến người Pháp phải đưa ra họ ra đảo lánh nạn, đang mình trần chặt cây dựng lều tạm trú trên đảo. Thấy hình ảnh nghĩa trang của những Quốc Quân bỏ mình trên đảo mà mắt vẫn trông về cố quốc.
Khi trở về quận, trong đống công văn, tôi nhận được sự vụ lệnh về tỉnh nhận một chức vụ mới. Tôi đã sống ở đảo ba năm, không có ý định xin đổi đi đâu. Chắc không có chuyện này tôi còn ở lâu hơn nữa. Tỉnh trưởng là Thiếu Tá Đặng Đình Thụy gọi cho tôi nói như an ủi, không nên ở đó quá lâu họ sẽ quên mình. Sau đó tôi hiểu ngay lý do về tỉnh để nhường chức vụ Phó Tỉnh cho một người khóa sau có cổ cánh trên bộ. Ông để tôi giữ chức Trưởng Ty Kinh Tế và kiêm Tỉnh Đoàn Xã Hội. Sẵn xe của tỉnh đoàn, tôi lái xe đi loanh quanh, không thiết làm việc.
Một hôm, Tỉnh Trưởng gọi tôi, giao cho tôi một trăm ngàn bảo tôi ra lại đảo tiếp phái đoàn Tướng Nguyễn Khánh và Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên ra duyệt xét lần chót trước khi ký sắc lệnh thành lập tỉnh Phú Quốc. Hôm phái đoàn đến bằng hai máy bay, tùy tùng khá đông, có thêm một tướng ngành Công Binh. Bên dân sự ngoài Thủ Tướng Viên có một hai Thứ Trưởng.
Sau khi hội họp tại quận, duyệt xét kế hoạch lập tỉnh lần chót, phái đoàn dân sự đi thị sát các cơ sở hiện hữu, sau đó sẽ ra máy bay về Saigon. Riêng phái đoàn các tướng lãnh ra chiến hạm xuống đảo Hòn Thơm để quan sát phía nam đảo. Tôi được chỉ thị tháp tùng họ. Lúc đứng trên boong tàu, nhìn lá cờ vàng ba sọc và lá cờ tướng ba sao trên đỉnh chiến hạm, nền trời xanh, mây trắng lững lờ trôi, mặt biển lặng, nước trong và gió nhẹ hây hây, thật là một ngày quá đẹp. Tôi nhìn vào đảo, tưởng tượng đến một ngày nào đó hòn đảo sẽ trở thành trù phú sinh động như trong sự mơ ước của mình.
Khi đến Hòn Thơm, hai ghe chủ lực đã chờ sẵn sàng ở đó để đưa mọi người vào đảo. Tôi đã đến Hòn Thơm vài lần. Trên đảo cây cối xanh tươi, những bãi biển cát vàng lóng lánh, những ghềnh đá sóng vỗ tung bọt trắng, đêm trăng ở đó thật là huyền ảo. Ven biển là những rừng san hô, cá nhiệt đới đủ màu lập lờ bơi dưới nước.
Lúc mọi người đang dùng bữa trưa, thì một tin khẩn cấp từ chiến hạm báo cáo qua máy truyền tin là Việt Cộng dùng súng cối 81 pháo vào phi trường, định phá máy bay và tấn công vào phái đoàn dân sự đang chờ tại trạm hàng không. Tướng Khánh yêu cầu mọi người trở lại ngay chiến hạm và ra lệnh tàu quay về Dương Đông. Khi chiến hạm vừa nằm trên đường ngang với phi trường, hàng loạt trọng pháo được phóng ra nã vào sâu trong đảo. Tiếng nổ vang vọng lại, một vài cột khói bốc cao, tôi có cảm tưởng như đang đứng trước giờ đổ bộ Normandy trong cuộc Thế Chiến Thứ Hai. Báo cáo của lực lượng địa phương cho biết đã đẩy lui được Việt Cộng ra ngoài hàng rào phi trường. Máy bay bị một số đạn nhỏ, không biết hư hại ra sao. Phía ta, hai địa phương quân bị thương nhẹ và một nghĩa quân bị thương nặng.
Tôi cùng với một bác sĩ quân y được ghe ra đón vào đảo để săn sóc mấy binh sĩ bị thương. Sau khi băng bó và cho thuốc xong, bác sĩ liên lạc với tướng Khánh, cho biết cần phải di chuyển nghĩa quân về bệnh viện tỉnh gấp để giải phẫu gấp, nếu chậm sẽ không qua khỏi đêm nay. Trời tối dần, tiếng súng đã ngưng, nhưng tình hình vẫn còn hồi hộp căng thẳng. Vị bác sĩ phải trở lại chiến hạm và đưa cho tôi chiếc máy truyền tin nhỏ để liên lạc. Tôi tiễn ông ta ra ghe rồi trở về bệnh xá thăm lại mấy binh sĩ bị thương. Bà mẹ anh nghĩa quân vừa thấy tôi, ôm choàng lấy tôi khóc nức nở, van nài cố cứu sống đứa con. Tôi không biết làm gì hơn, cố đứng yên lấy tay vỗ về bà ta an ủi để cơn đau đớn nguôi dần. Chợt có tín hiệu từ máy truyền tin, tôi liền mở máy, từ chiến hạm báo cho anh chuẩn bị bãi đáp cho trực thăng tải thương. Tôi nghe vọng qua máy, tiếng tướng Khánh gọi về Cần Thơ, “Mặt Trời đây, Mặt Trời đây! Cho chuồn chuồn ra đón mấy đứa con tôi bị thương về tỉnh ngay!” Tôi liền bảo mọi người đem đến một số đèn để làm dấu cho bãi đáp. Nghĩ đến tướng Khánh, lo cho binh lính của mình, ra lệnh bất chấp các điều kiện mà thấy thương ông. Trời tối mà biển thì rộng, “chuồn chuồn” nào mà dám mò ra. Quá nửa đêm, tôi nghe tiếng khóc gào lên từ trong bệnh xá. Lại một thằng con của ông vừa hi sinh...
Đêm đó, tôi ngồi ở sân trước bệnh xá, không ngủ, nhìn lên trời máy bay thả hỏa châu liên tiếp sáng rực để bảo vệ hai chiếc máy bay còn lại ở phi trường. Tôi được biết tướng Kỳ cũng có mặt trong những chuyến bay đó để liên lạc với tướng Khánh phía dưới. Sáng sớm hôm sau, một đại đội Dù được thả xuống truy lùng Việt Cộng, nhưng chúng đã trốn lủi vào một xó xỉnh nào đó từ lâu rồi. Tôi chợt nhớ đến ít lâu nay, tình báo cho biết Việt Cộng trên đảo có súng cối 81, nhưng thám báo cố tìm mà không ra. Chúng đã dùng đúng lúc, dù không nhằm được đúng mục tiêu, nhưng đã làm tiêu tan dự án của tướng Khánh cho hòn đảo.
Sau đó ít lâu về lại Rạch Giá, tôi bị một trận sốt rét kéo dài hơn hai tháng trời, phải về Saigon chữa. Lúc trở về, nghe tin con chó Tino thân yêu của tôi gửi Thiếu Úy Mạo mang theo hành quân đi lạc mất, càng thấy buồn thêm ....Rồi tôi lại nhận được lệnh động viên. Vận hạn xẩy ra liên tiếp. Tôi lên đường nhập ngũ, bỏ lại đảo xưa, bỏ lại miền Tây, bỏ lại quốc lộ 4 mà gần như hàng tuần tôi ngồi xe qua những đồng lúa xanh rờn mênh mông và dọc theo các kinh lạch chạy dài bên lộ. Bỏ lại những buổi trưa chờ phà qua Bắc Mỹ Thuận, ngồi trong quán ăn những đĩa cơm với chim sẻ chiên giòn hay những con tôm rim đỏ ngậy. Những sạp mãng cầu xanh tươi mơn mởn, những cần-xé đầy vú sữa tròn bóng tưởng như tất cả mầu mỡ của phù sa đồng bằng Cửu Long chan hòa trong đó. Nhớ nhất là những buổi chiều mưa, qua Bắc Vàm Cống, nhìn những giọt mưa rơi trên dòng sông rộng mịt mờ, nhìn những đám lục bình trôi trên giòng nước trong mùa nước lũ, tưởng như những cuộc đời long đong đang bị giòng đời cuốn đi …
Tôi mang giấy nhập ngũ về Saigon, bạn bè đi gần hết. Một hôm tôi đi ngang qua Việt Tấn Xã, mà anh nguyễn Ngọc Linh đang làm giám đốc ở đó, nhớ tới lúc gặp anh trong phái đoàn tướng Nguyễn Khánh ra đảo để thành lập tỉnh vừa rồi và lời anh dặn: Khi nào về Saigon nhớ đến gặp anh. Tôi vào chào anh trước khi đi trình diện. Tôi nhớ lúc đó chính phủ đang lập nội các mới nên các bộ trưởng cần những nhân viên có khả năng thích hợp. Anh giới thiệu tôi đến Bộ Y Tế để nhận một chức vụ có tính cách chính trị và được hoãn dịch. Tôi làm việc cho hai đời Tổng Trưởng, sau này được gửi đi học và trở về bộ phục vụ cho đến khi rời nước ra đi.
Anh Linh đã giúp tôi một khúc quanh khá ngoạn mục. Nhớ đến những ngày tôi theo anh hoạt động và sau này mỗi khi anh đến thành phố tôi ở Mỹ, anh đều gọi tôi đến gặp anh. Lần cuối cùng, anh đã yếu nhiều, thấy thương anh, người anh hùng đã thấm mệt. Anh đã mất trước đây mấy năm. Không biết nói gì thêm để cám ơn anh.”
*
SUNRISE- photo UL Sunrise - photo UL
Trở lại chuyến thăm Phú Quốc. Sáng sau chúng tôi ra khỏi phòng đến nơi ăn điểm tâm, trên đường gặp hầu hết là người ngoại quốc. Theo thói quen ở Mỹ, tôi chào “Hi”, họ không trả lời và thản nhiên bước đi. Chắc hẳn họ là người Nga hay Đông Âu. Bữa ăn sáng theo cách continental, nhiều món khá ngon hơn ở khách sạn các nơi. Tôi thấy có một quầy phở, đến gọi ăn thêm. Cô gái mặc áo lụa giọng Bắc Kỳ tiếp tôi, chúng tôi trao đổi một vài câu. Tôi có nói hơn bốn mươi năm tôi mới trở lại đây, cô hỏi lại: ”Hồi đó chắc chú là cán bộ đi công tác?”. Tôi lắc đầu, cô chợt nhận ra điều gì và không nói nữa…
Sau đó, họ đưa đoàn du lịch của chúng tôi đi thăm An Thới, phía Nam đảo. Dọc đường, xe dừng lại một tiệm bán ngọc trai, họ nói nay Phú Quốc cũng đang nuôi hạt trai. Tôi đã đến Nhật và vịnh Hạ Long, được xem họ lặn xuống mò trai và biểu diễn mở trai lấy ngọc, nên ra ngoài đi xung quanh và ra phía biển sát cạnh đó. Tôi nhớ đây là bãi Trường, bãi dài hơn mười cây số, vẫn còn hoang vu chưa khai thác. Tôi đứng đó, nhìn theo chiều dài của bãi và nhìn ra biển rộng, nhớ lại đã nhiều lần lênh đênh vượt sóng ngoài xa. Tôi thắc mắc không hiểu họ sẽ thiết kế cái bãi Trường này ra sao…
Tôi quay lại và vào một cửa tiệm bên cạnh, nhìn thấy một đàn chó nhỏ, đàn chó Phú Quốc. Chúng đến quấn bên chân, tôi xoa đầu chúng và chạnh nhớ đến con chó Tino của tôi hồi đó. Con chó Tino là giống chó Phú Quốc, lông đen sát mình, có một đường xoáy chạy dài dọc sống lưng, rất khôn và săn rất giỏi. Nghe nói chó Phú Quốc đã được ghi trong một cuốn tự điển quốc tế.
Nhớ hồi đó khi tôi rời chỗ ở ra trụ sở quận mới, một người dân đem tặng con chó nhỏ vì ở đó canh gác quá sơ xài. Việt Cộng có thể đột kích từ ngã biển lên vì không có đồn canh ở phía đó. Sau này tôi còn nuôi thêm một bầy ngỗng, cả hơn chục con mua từ Rạch Gíá về. Ngỗng rất thính, thấy động là la quàng quạc, và thường hay tấn công người lạ. Sau khi tôi rời đảo, quận bị xâm nhập từ ngả đó hai lần, có lần một quận trưởng bị tử thương.
Con Tino lúc nào cũng theo sát tôi, ngồi ở đâu là nó nằm ngay dưới chân. Khi tôi ngủ, nó nằm sát cạnh giường, không lúc nào rời. Lần nào ra quán ăn hủ tíu, chủ quán Cù Đe cũng cho nó một tô xương với bạc nhạc đầy ụ. Ai mà lạ, đi đứng lấm lét là nó gầm gừ xua ra xa. Dân đến quận không đi bằng cửa chính, cứ thập thò ở cửa, nó đuổi cho kỳ được ra khỏi quận, nếu không có ai la cản. Mỗi lần Cha Cung từ An Thới lên, áo linh mục lòe xòe, đến thăm quận là thư ký cứ phải canh chừng vì sợ nó cắn rách áo của cha.
Có những lần đi máy bay về Saigon, tôi đã lên ngồi ở máy bay chờ cất cánh, không hiểu con Tino tìm cách nào nhẩy lọt được lên, khiến mấy cô Tiếp viên hàng không la oai oái, tôi lại phải đi xuống để nó theo, nên tôi thường là người lên sau chót. Đường bay Saigon-Phú Quốc hồi đó có hai nữ tiếp viên khá đẹp là cô Mai và cô Thoại. Các cô hay gọi đường bay này là Air Nước Mắm. Không biết đã có lần, cô nào đã gặp phải tai nạn nước mắm bị bể trong chuyến bay?.
Những ngày vắng tôi, con Tino hay xục xạo đi tìm những nơi mà tôi thường đến. Lúc nó chạy ngang qua quán Cù Đe, ông ta đem tô xương ra, nó cũng chẳng thèm ăn và bỏ đi. Khi tôi di chuyển vào Rạch Giá, tôi đem nó theo. Một lần về Sài Gòn công tác, nhờ Thiếu Úy Mạo trông dùm và đem nó đi theo hành quân, con Tino đã bị lạc mất. Tôi trở lại tỉnh, mất nó, buồn thẫn thờ mất bao nhiêu tháng trời...
Trước khi vào thị trấn nhỏ An Thới, xe dừng lại trước phòng triển lãm tù binh Bắc Việt. Tuy biết là những hình ảnh và mô hình đều ngụy tạo, tôi cũng bước vào xem họ giả trá đến mức nào. Cộng Sản có nghề lừa mọi người. Tôi đã có dịp đến thăm trại tù binh này khoảng năm 1970 trong một dịp du hành quan sát khi tôi theo học trường Cao Đẳng Quốc Phòng, trước một hai năm có cuộc trao đổi tù binh giữa Mỹ và miền Bắc. Trại lúc đó có khoảng 30,000 tù binh và cần đến 5 tiểu đoàn quân cảnh giữ trật tự. Có bác sĩ và một bệnh xá khá khang trang. Tiền của Mỹ nuôi ăn, tù binh biết chắc ngày về, không phải lao động, nên yên trí hưởng gió biển, không thấy cảnh trốn trại hay làm loạn. Lần thăm đó, họ đưa tôi đến một căn phòng để có dịp nói chuyện với một tù binh, anh ta cũng trạc tuổi tôi, cấp bậc Thượng Úy, bị bắt trong một trận đánh vùng cao nguyên. Tôi hỏi anh ta nguyên quán ở đâu, thì anh cũng sanh ở Hà Nội như tôi. Khi rời căn phòng, tôi bắt tay anh, chúc anh bình an và sớm trở về với gia đình. Tôi đã được đọc đến hàng trăm chưa nói đến ngàn câu truyện liên hệ đến những năm tháng của các sĩ quan miền Nam trong các trại tù cải tạo miền Bắc, cưỡng bức lao động, cực hình dã man, không biết được ngày về, nhưng chưa bao giờ đọc được một truyện, một hồi ký nào của các cựu tù binh miền Bắc trong các trại giam miền Nam, chính họ cũng đã bị cải tạo rồi, nên không ai dám viết lại…
Xe tiếp tục đưa chúng tôi vào An Thới, ngày trước đứng ở đâu tôi cũng nhìn thấy biển, nay chỉ thấy nhà cửa ngổn ngang. Chỗ tôi đang đứng có lẽ là Bộ chỉ huy Duyên Khu vùng 4 hay trên một sân bay dã chiến bằng các vỉ sắt. Tự nhiên tôi nhớ đến các sĩ quan Hải quân cùng thời ở đó, họ lớn tuổi hơn tôi, tư cách, được huấn luyện từ thời Pháp lại được tu nghiệp tại Mỹ. Đại Úy Nguyễn Quốc Thanh, Thiếu Tá Trần Thanh Châu họ là quận trưởng. Đại Úy Hoàng Cơ Minh lúc đó chỉ huy một chiến hạm, sau các chuyến hải hành hay lên chỗ tôi, nằm nghỉ và đọc những cuốn Livres de poche mà tôi mang từ Saigon ra. Có lần Đại úy Minh tâm sự với tôi: “Ông Diệm, ông ấy cứ cho an ninh theo rõi “moi”, chỉ sợ “moi” mang tầu sang Cam Bốt”. Vì Đại úy có họ hàng với BS. Hoàng Cơ Bình thuộc đảng đối lập. Sau này cả ba người trên đều thành Đề Đốc giữ những chức vụ quan trọng trong Hải Quân. Nhớ đến Đại úy Ái, TQLC, quận trưởng cuối cùng mà tôi làm việc. Nhớ đến cả Đại úy Trần Như Hùng, chỉ huy lực lượng Địa Phương Quân trên đảo, và là anh của một người bạn thân của tôi là Trần Như Tráng. Trong mấy năm ở đó, tôi thường theo sát Đại Úy Hùng đi lập các ấp chiến lược cũng như đến các ấp xa thị sát. Đại uý Hùng có nhiều kinh nghiệm về du kích chiến, vì có những năm trấn đóng các đồn tại vùng châu thổ sông Hồng. Có lần cùng toán thám báo đã bắt được tên Huyện Ủy của đảo, trong lúc giam để chuyển lên tỉnh, thì đêm đó hắn đã tự sát.
Nhớ đến Trung úy Dương Hồng Võ, cũng xuất thân trường Chu văn An. Hôm Tổng Thống Diệm bị thảm sát, cả trung đội Dân Vệ tại An Thới, bảo vệ ấp và luôn cả duyên khu, họ bỏ súng vì quân đội đã giết vị lãnh đạo của họ. Quận Thanh vì có liên hệ họ hàng với Tổng Thống nên bị triệu hồi về Saigon, Duyên khu trưởng cũng rời nhiệm sở về nhận một chức vụ quan trọng hơn. Trên đảo không có ai là trưởng, chỉ còn tôi với Võ là Phó. Cái lo của Võ là không có một lực lượng nào bảo vệ, nếu Việt cộng tấn công, thì ấp vỡ mà bộ chỉ huy duyên khu cũng nát. Võ đã vội vàng dùng ghe chủ lực lên quận yêu cầu tôi cùng xuống An Thới nói với cha xứ Cung để Dân vệ cầm súng lại. Cha Cung với tôi cũng thân nhau, và cũng dễ hiểu trong một lúc phẫn nộ, mất niềm tin họ hành động như thế, chỉ cần có cha nói mấy câu phủ dụ để họ cầm súng lại. Dân Ba Làng tại đây, vượt biển sau năm 54 là những thành phần chống Cộng có hạng, du kích địa phương chưa bao giờ dám đến trêu chọc…
Một lần nữa, khoảng đầu năm 1975, tôi lại ở trong đoàn của BS. Văn Văn bay ra An Thới để tổ chức trại tiếp nhận những đồng bào tị nạn trên các xà lan từ miền Trung không được phép vào bến Saigon.
*
Hôm sau nữa họ đưa thăm phía Đông của đảo, xe chạy trên một con đường cắt ngang đảo từ Dương Đông sang Hàm Ninh. Dọc đường họ dừng lại cho xem một vườn tiêu. Trong thời gian tôi còn ở đảo tôi đã làm một thống kê, mỗi năm Phú quốc sản xuất hơn 300 tấn, đứng đầu cả nước, theo sau là Bà Rịa. Trong lúc đứng nói chuyện với chủ vườn tiêu, anh ta biết tôi đã ở đây và cho biết có người anh là lính thám báo đã bị chết trên đồi phía bên kia…
Sau đó, xe dừng để thăm chùa Sư Muôn, tôi nhớ là chùa này là một ổ Việt Cộng trong vùng bất an, quận vẫn để yên không muốn khuấy động vì tình hình tôn giáo thời đó, nhưng thỉnh thoảng vẫn mời sư trụ trì lên hỏi thăm. Đặc biệt sư trụ trì là nam giới, mà đệ tử thì toàn là ni cô. Ni cô thì được gửi từ một chùa sư nữ ở Gia Định; chùa này cũng bị đặt trong tình trạng nghi ngờ. Một hôm tình cờ tôi sang thăm trạm viễn thông của đảo, tôi nhìn thấy một bức điện tín, nội dung báo tin một ni cô tại chùa này tự tử. Tôi báo về tỉnh để điều tra, nhưng không hề nhận được trả lời.
Hàm Ninh vẫn còn là một bến vắng tuy rằng đã có một dẫy hàng bán hải sản khô và một vài căn nhà gạch, nhưng không được như các nơi khác. Họ xây một cái cầu xi măng dài chạy ra biển, vì biển phía Đông của đảo rất nông, thuyền nhỏ cũng khó vào. Tôi đứng ở đầu cầu nhìn ra biển rộng, bao nhiêu nỗi nhớ tràn đến. Tôi đã đến đây vài lần, có lần phải ở lại hơn một tuần vì bão biển, ăn toàn ghẹ đỏ, như ở một chốn tận cùng trái đất. Nhớ nhất là hình ảnh tôi ôm cái sọ trắng của con trâu rừng cuối trên đảo đã bị bắn chết, tưởng như cái thiên đường lỡ dở mà mình đang đi tìm nay đã mất hẳn rồi ...
Trên đường về, họ dừng xe ghé thăm một tiệm bán rượu Sim đặc sản và một nhà thùng nước mắm, sản xuất theo lối cổ truyền, đóng chai thủ công. Cuối ngày họ để chúng tôi đi thăm khu chợ bên bờ sông Dương Đông, thuyền đánh cá đậu đầy, nước sông đổi mầu, bùn hai bên bờ lóng lánh ánh dầu và rác rưởi. Cũng không thể tránh được vì bao nhiêu thuyền đều đậu trong sông, xả dầu nhớt và rác vô tội vạ.
Mới đây, tôi có được xem một tấm hình chụp một dòng nước đen chảy thẳng ra biển dài trên một cây số từ cửa sông này, và nhớ lại có một họa đồ của người Pháp để lại dự định làm một kè đá dài ngoài biển để chặn sóng xô cát vào cửa sông, đồng thời làm nơi cho thuyền bè đậu tránh sóng…
*
Ngày thứ ba có thời giờ tự do, tôi muốn đi tìm thăm một số người quen cũ. Hơn 40 năm rồi chắc cũng chẳng còn ai. Người đầu tiên tôi định thăm là ông Hồng Đại, chủ một nhà thùng nước mắm lớn, hồi xưa thân với tôi vì hay đi ăn nhậu với nhau. Nhưng ông Hồng Đại không còn ở đó, và họ chỉ đến cửa hàng thời trang của con gái ông. Cô này cho biết cha cô về Saigon dưỡng bệnh đã lâu. Nói lại chuyện xưa, thì mới biết là khi tôi rời đảo thì cô chưa sinh ra, nhưng nay thì cô đã có gia đình và con gái đầu lòng đã lên Saigon học đại học.
Buổi chiều hôm cuối cùng, lúc đợi máy bay về Saigon trong phòng đợi vắng người, nhìn những dự án tương lai của hòn đảo Phú Quốc vẽ lớn trên tường, hình ảnh những cao ốc hoành tráng ven biển, và một khu kỹ nghệ ở Bắc đảo với những cột khóí cao. Tôi nghĩ đó là khát vọng tự nhiên của một dân tộc vừa thoát khỏi cảnh cấm vận lầm than, bất chấp các hậu quả về môi trường thiên nhiên cũng như môi trường sống sẽ đến như thế nào. Từ khi rời hòn đảo năm 1965, cho tới nay đã ở hải ngoại bao nhiêu năm, tôi thường các đọc tin khắp nơi nếu có bài nào về hòn đảo tôi không thể bỏ qua. Bạn bè ở nơi xa có bài nào đặc biệt liên hệ đều gửi cho tôi, có người vẫn quen gọi đùa tôi là “Chúa đảo”, tuy tôi không phải “Xếp” của hòn đảo. Tôi nghĩ, Hà Nội là nơi tôi sanh ra, Saigon nơi tôi sống hơn hai mươi năm ở đó, nhớ thì nhớ nhưng mà vẫn ngần ngại. Còn Phú Quốc thì lúc nào cũng thấy băn khoăn.
Tôi đọc những bài viết và những hình ảnh quảng cáo cho hòn đảo, thì đó là một nơi du lịch lý tưởng. Bên cạnh đó lại có những bài báo nêu ra nhiều tệ trạng phát triển của Phú Quốc. Chính quyền và doanh nhân toa rập với nhau phá nát hòn đảo để thu lợi nhuận cấp thời. Họ dùng các chữ như: Băm nát hòn đảo, chia nát rừng chia lô bán, bê tông hóa hòn đảo, xây dựng lấn biển, tàn hại môi trường cũng như bao nhiêu tệ trạng xã hội đã xẩy ra… Xem phía dưới các bài viết thì nhiều lời bình luận nặng nề như: Nào là nhếch nhác, nhem nhuốc, rác rưởi, sẽ không trở lại…
Cũng không đáng ngạc nhiên lắm. Khi tôi ở đó năm 1965, dân số chỉ khoảng 8,000 người, sống trong điều kiện của thiên nhiên cung cấp. Nay dân số lên đến gần 200,000 người, cộng với 4 triệu du khách theo thống kê năm 2019. Họ dự kiến sẽ tăng số du khách lên 7 triệu, nghe mà khủng khiếp. Không hiểu họ sẽ danh ra bao nhiêu phần trăm lợi nhuận để đối phó vợi bao nhiêu vấn đề. Hòn đảo không những cần về hạ tầng cơ sở mà còn dựa vào kiến thức của người cầm quyền và trình độ ý thức công dân của dân chúng… Và cũng không ngạc nhiên, khi có những hình ảnh ngập lụt ngang người trong các khu phố trên đảo năm vừa qua, vì các kênh rạch thiên nhiên đã bị lấp để dựng nhà và các con lộ chạy dọc biển đã chắn ngang nước lũ chảy ra biển…
Tôi đã có dịp đi thăm các hòn đảo trong vịnh Caribbean, Trung Mỹ cũng như dọc Thái Bình Dương của Mỹ, Canada…hay những thành phố du lịch biển của Mexico, của Âu châu dọc theo Địa Trung Hải như Saint Tropez, Canne, Nice của Pháp. Hay Portofino, Cinq Terres, Sorriento của Ý … Và nhớ lại các bãi biển Vũng Tầu, Nha Trang, Đà Nẵng, Sầm Sơn, Đồ Sơn tại miền Bắc do người Pháp để lại. Tất cả họ đều tôn trọng biển và bãi biển. Biển là báu vật mà thiên nhiên tặng cho con người.
Thấy buồn cho hòn đảo. Buồn cho cả đất nước.
Tôi ngồi trầm ngâm, rồi tự nhiên viết thành một bài thơ. Đọc lại thì nghe như một bài ca và tưởng như có tiếng đàn lục huyền cầm phụ theo. Lời ca như là những điệp khúc ballad, nhạc kể chuyện. Kể lại câu chuyện của một hòn đảo sáu mươi năm cũ… ĐIỆP KHÚC NHỚ ĐẢONgày Mai Trở Lại Đảo. Biển có còn xanh. Rừng có còn hoang. Trời có còn nhiều mây trắng. Ngày mai trở lại đảo. Cỏ may có còn vờn nhau tới mãi cuối đồi. Ngày mai trở lại đảo. Con sấu già đêm có còn quẫy, Trong lạch sâu Cửa Cạn. Bãi Bổn, sao biển năm cánh có còn, nằm soải dài dưới rặng dừa thưa. Ngày mai trở lại đảo. Có còn ghẹ xanh ghẹ đỏ, Trên bến vắng Hàm Ninh Ngày mai trở lại đảo. Bầy cá voi có còn nằm phun nước, Mỗi mùa ruốc đến rủ nhau về. Lũ cá heo có còn chờ, Rỡn cùng thuyền trên sóng. Ngày mai trở lại đảo. Có còn chim biển bay ngược gió, Đưa ta về những đảo mờ xa. Ngày mai trở lại đảo. Có đêm nào còn trong, Đèn lập lờ trên đỉnh Bokor, Dẫn lối về tránh Vũng Trâu Nằm. Ngày mai trở lại đảo. Mưa lũ có còn đổ, Sóng ngập tràn bờ nước Dương Đông. Ngày mai trở lại đảo. Xuôi thuyền về An Thới. Thăm xóm đạo Ba Làng. Đừng qua Mũi Ông Đội, Đã sẵn mồi Biên Mai. Ngày mai trở lại đảo. Nhớ ghé qua Hòn Thơm, Xem lại bầy cá nhỏ, Có còn trong dãy san hô. Ngày mai trở lại đảo. Tiếng súng không còn nữa. Anh dân vệ trong làng, Chú du kích bên sông, Bắn bâng quơ cho có lệ, Sợ vỡ mất thiên đường. Ngày mai trở lại đảo. Nhớ con chó Phú Quốc quá. Năm tháng bạn cùng ta, Trong quận nhỏ đìu hiu, Đi lạc đâu mất rồi, Lòng buồn thương vô hạn. Ngày mai trở lại đảo. Con trâu rừng cuối cùng đã chết . Con trâu rừng cuối cùng đã chết. Huyền thoại ngày xưa đã vỡ rồi. Huyền thoại ngày xưa đã vỡ rồi. Vỡ thật rồi... Ngày mai trở lại đảo. Nhớ tìm về Dinh Cậu, Cồn cát bên sông chắc có còn. Những nấm mộ đạo trăm năm cổ, Chúa có đến kịp mang về Thiên quốc không . Ngày mai trở lại đảo. Nghĩa trang Quốc quân tha hương ngoài phi đạo, Có còn mỏi mắt vọng cố hương. Ngày mai trở lại đảo. Có còn căn nhà sàn cửa biển. Có còn hàng dừa xanh rợp mát. Cô gái năm xưa chắc chẳng chờ. Ngày mai trở lại đảo. Câu chuyện sáu mươi năm cũ, Thôi đành để lại gửi thiên thu. Thôi đành để lại gửi thiên thu... NGUYỄN CÔNG KHANH 7/2020
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2020 3:38:26 GMT 9
ĐẤT QUẢNG QUÊ TÔIQuảng Nam có văn học, văn chương từ bao giờ? Câu hỏi đó rất khó trả lời.Vì người Quảng Nam thật sự xuất hiện được biết tới là vào những thời Trần, Hồ, Lê, Mạc, trong hai vùng Điện Bàn và Thăng Hoa. Tên Quảng Nam xuất hiện để chỉ một xứ: xứ Quảng Nam bao gồm từ Thăng Hoa đến vùng nay là Bình Định, còn Điện Bàn thuộc về xứ Thuận Hóa bên kia Hải Vân. Cho đến thời Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm ở đây mới rút Điện Bàn ra khỏi Thuận Hóa để thành Thăng Điện. Sau 1802, khi lập tỉnh mới gồm hai phủ ấy lại thành tỉnh Quảng Nam. Khi còn là Thăng Điện, ở đây sự học chưa thật mở mang và những chức vụ lớn đều ở trong tay người Đàng Ngoài, cụ thể người Thanh Hóa, nhất là huyện Tống Sơn, các chúa chuyên về khai thác đất đai và chiến tranh nên việc học giới hạn trong mức độ nhất định, phục vụ cho công tác hành chính. “Trọng võ khinh văn”, nên chưa có nhà văn học nào quan trọng. Tuy vậy, theo các sách do người Pháp viết để lại, bấy giờ đã có diễn tuồng. Mà muốn diễn phải có tuồng bản. Sự thật văn tuồng có thể được xem là văn học cổ nhất, nhưng không thấy lưu lại bản nào. Còn văn học dân gian thì chắc đã có từ lâu nào hò, nào vè, hò khoan, hát đố, ca dao, tục ngữ. Ví dụ những câu sau đây cho biết tình trạng Hội An khi còn nghèo: Hội An bán gánh, bán lều Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành Kim Bồng là vùng cách Hội An một con sông, vùng ấy về sau chuyên về xây dựng và nghề mộc khá tinh xảo. Còn Trà Nhiêu là một đầm rộng lớn để tàu thuyền ngoại quốc vào đậu. Cửa Đà Nẵng chỉ dành cho các tàu thuyền lớn có tính cách tiền cảng. Vào thời xa xưa, chưa có tàu thuyền lớn thì chắc chắn Hội An giữ vai trò chuyên biệt, thương mãi của Quảng Nam. Sự lớn mạnh của thương mãi và xuất nhập của tỉnh Quảng Nam (chứ không còn là xứ Quảng Nam), bắt đầu từ triều Nguyễn (thay cho chúa Nguyễn). Biết bao giờ trả cho hết nợ Cao Hoàng Đào sông Câu Nhí, đắp đàng Bông Miêu Câu ca dao nói lên thực tế xa xưa đó. Dưới thời Minh Mạng, đào sông Vĩnh Điện, sông này mở khẩu từ làng Câu Nhí nên cũng mang tên ấy và rất thuận lợi tiếp nối với sông Hàn, biến nơi này thành nơi tụ hội một hải đội chuyên xuất khẩu. Với sông Vĩnh Điện, hàng hóa từ các khu vực giàu có hai bên sông Thu Bồn, nhất là đường, quế Quảng Nam, Quảng Ngãi dễ tập trung vào những kho chứa lớn ở Đà Nẵng. Đây là cuộc tranh thương lớn nhất của Việt Nam với các chủ tàu, thương gia ngoại quốc sang Đông Nam Á. Công cuộc kéo dài từ Minh Mạng sang Thiệu Trị (1847). Đắp đàng Bông Miêu là chuẩn bị cho việc khai thác vàng ở vùng này vì những mỏ vàng khác trên các núi non đã bị tiên triều (chúa Nguyễn) lấy sạch. Lúc Pháp sang lại có câu ca dao mới: Bên ni Hàn ngó qua bên kia Hà Thanh Nước xanh như tàu lá, Bên kia Hà Thanh ngó về bên ni Hàn phố xá nghênh ngang. Từ ngày Tây lại cửa Hàn Đào sông Cầu Nhí, bòn vàng Bông Miêu Dặn lòng ai đó đừng xiêu Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau Từ Hội An ra cửa Hàn, sao bạn lại không lên đường đi chơi đèo Hải Vân và Hải Vân Quan. Tôi thấy mấy ông nhà văn, nhà thơ, ngày trước như Nguyễn Tuân, Đoàn Phú Tứ, Lưu Trọng Lư... thỉnh thoảng vào Quảng Nam, lại rủ nhau lên đỉnh đèo uống rượu trước trời cao, biển rộng và mây trắng bay sau các lùm cây. Các du khách còn được xem lại cửa ải xưa, nơi được lập ra ngăn chặn quân địch đổ bộ vào Đà Nẵng để kéo quân ra Huế đánh kinh đô. Tôi mời bạn đến Ngũ Hành Sơn. Thời xa xưa, trước Minh Mạng, có tên cúng cơm Non Nước trải qua nhiều thế kỷ. Cuối thế kỷ XVII, chúa Hiển Tông Nguyễn Phước Chu (1691-1725) có mời một đại sư Trung Quốc sang xứ Đàng Trong. Nhà sư đến Non Nước chơi và khi trở về có viết tập Hải Ngoại Ký Sự - Viện đại học Huế ấn hành bản dịch 1963. Ông khen cảnh đẹp, cảm hứng làm nhiều bài thơ ca tụng Tam Thai (tức Non Nước). Ông cũng trách thi nhân ta đã không biết thưởng thức cảnh đẹp, không dùng đề tài ấy để ngâm vịnh. Khi tôi lớn lên không cần ông động viên (vì sách của ông chưa ai biết) thấy các sườn núi đã đầy ngập những thơ Hán, Nôm, dở hay, làng nhàng cũng đều có. Thường dân, danh sĩ cũng có. Những người Quảng Nam thường thích đọc hai bài (không rõ có đục vào sườn núi không) của bà Bang Nhãn và ông Thái Duy Thanh. Bài của bà Bang Nhãn có khẩu khí chân tình: Núi chen sắc đá màu phơi gấm Chùa nực hơi hương khói lộn mây Bài của Thái Duy Thanh độc đáo: ...Ngó lại, ngó qua năm đống đá Tu lên, tu xuống mấy ông thầy Lên đài Vọng Hải trông xa tít Vào động Huyền Không ngó trống quầy Lếu láo ngâm đưa đôi chén rượu, Cõi trần khi cũng có tiên đây. Ngũ Hành Sơn là cái tên mới đặt thời vua Minh Mạng. Đó là nơi vua Minh Mạng, Thành Thái đến xây dựng hoặc vãn cảnh. Lại có một bà công chúa đến tu. Đây là nơi người Quảng Nam rất tôn trọng, xem như “Địa linh nhân kiệt”, nơi tạo ra những nhân tài xuất chúng. Học trò thời trước thường đến vãn cảnh và trước khi ra Huế thi Hương, thi Hội vẫn có mặt ở đây để xin được phù trì. Những cảnh đẹp nào Huyền Không Động, động Chiêm Thành, nào Vọng Hải Đài, Vọng Giang Đài, nào các chùa danh tiếng, nào những bậc cấp khéo xây, huyền thoại ly kỳ về con rắn biển đã tạo nên cửa Đà Nẵng, sông Hàn rồi đẻ trứng tại đây hóa thành núi... Một thi nhân cũ tặng cho Ngũ Hành Sơn một câu thơ đầy ý nghĩa “Núi thấp hơn hết mà danh cao hơn hết” (dịch). Một số bài Đường thi chữ Hán rất hay nay vẫn lưu truyền mà theo tác giả Chương Dân thi thoại (Phan Khôi), tuyệt xướng là Thượng Thơ (Bộ Trưởng) Bùi Ân Niên. Cũng cần nhắc để người xứ Quảng nhớ: thành phố Đà Nẵng cổ là do Minh Mạng lập ra. Ông gần như đốc công hoặc kiểm tra viên, tự tay đo sông, tự tay vẽ kiểu trên núi Ngũ Hành Sơn, dựng pháo đài; lập công cuộc xuất khẩu trước nhất với qui mô lớn bao gồm một hải đội để đấu tranh với thương gia Hoa và ngoại quốc chở hàng sang các nước Đông Nam Á và thành công. Cuộc buôn bao gồm đường cát và quế kéo dài tới cuối đời Thiệu Trị (1847) nổi lên như nét son trong lịch sử xuất khẩu Việt Nam. Đà Nẵng vào thời chúa Nguyễn rồi triều Nguyễn (thế kỷ XVII-XVIII-giữa XIX) vẫn lập cơ sở ngoại giao của triều đình giao thiệp với ngoại quốc, để người ngoại quốc khỏi dòm ngó kinh đô. Bạn đã biết các khu vực nổi tiếng qua ca dao. Nhưng thiếu sót biết bao nếu không ngược dòng Thu Bồn, viếng xem những cảnh trí khác cũng rất nổi tiếng thời xưa - chúng ta có thể từ Hội An ngược lên. Bạn sẽ thấy, trước hết vùng nước bao la đổ về biển. Ấy là vùng Trà Nhiêu được nhắc tới trên kia. Cũng tại cái đầm vĩ đại mà chắc chắn thời Chiêm Thành lập kinh đô tại đây, nó cũng đóng vai trò Chiêm Cảng. Ngược sông Thu Bồn đến cầu Câu Lâu, nhìn qua hướng bên phải là một dải đất rộng, nơi có những làng Phú Chiêm, Thanh Chiêm vốn rút từ Chiêm của Chiêm động ra. Thanh Chiêm đã từng đóng vai trò thứ hai của xứ Đàng Trong. Nghĩa là sau Thuận Hóa, nơi của vua chúa ngự trị thì việc mở Quảng Nam (Quảng là rộng, Nam là phương Nam) trước thường được giao cho các thế tử, con của chúa quản trị. Thành phố Sài Gòn cũng phát xuất từ đây khi trấn thủ Nguyễn Phước Nguyên (chúa Sãi) gả một công nữ cho vua Miên để gây tình thông gia, sau đó lấy xứ Prei Nokor (Sài Gòn) làm sở thu thuế, rồi đến cháu nội - ông Nguyễn Phước Tần - cũng là trấn thủ Quảng Nam, đưa đạo quân đông đảo người Minh tị nạn (sau khi Mãn Thanh chiếm Trung Quốc) vào Nam cùng trong thế kỷ XVII. Lại ngược sông nữa, bạn sẽ gặp một vùng gọi là Gò Nổi. Đây là vùng trù phú nổi tiếng về ngành dệt các mặt hàng vải, tơ lụa. Cũng vì có tơ lụa nên có những ruộng dâu xanh ngát. Các cô con gái làm nghề tầm tang quen ở trong bóng mát nên có tiếng xinh đẹp nhất (nhưng cũng có thuyết cho là mặt rỗ chằng chịt?) Phải chăng là một cô gái hái dâu sau là Đoàn Quí Phi rồi đến triều Nguyễn (sau 1802) truy tặng Hiếu Chiêu Hoàng Hậu? Thời mới lập cơ đồ, chúa Nguyễn còn yếu thế, phải dựa vào một thổ hào giàu có, thế lực để nương tựa. Đoàn Công Nhạn, cha của nàng là vị thổ hào ấy và vì thế, cô hái dâu đã một bước thành quý phi khi chúa thay cha nối chức lãnh đạo tối cao. Phước Tần bậc anh hùng hào kiệt, khi còn trấn thủ Quảng Nam đã đánh tan hạm đội Hòa Lan trên bể Đông, đã đặt nền móng cho việc khai thác Nam Bộ và khi giữ địa vị nguyên thủ Đàng Trong đã có công giao kết với chúa Trịnh chấm dứt chiến tranh Nam Bắc. Chưa có vị chúa nào sáng giá hơn, sau Nguyễn Hoàng. Cũng vì có dâu xanh lúa tốt, nên Gò Nổi sản xuất biết bao danh nhân lừng lẫy trong học vấn, trong chính trị, cách mạng - Từ Hoàng Diệu đến Phạm Phú Thứ, từ Trần Cao Vân đến Phan Thành Tài. Riêng một họ Phan, về lớp sau cũng sản sinh những Phan Khôi, Phan Thanh... thú vị hơn nữa là những cô gái Bảo An xinh đẹp một thời. Lại ngược dòng nữa, trải qua những di tích cũ - mới đây có lễ hội hằng năm ở miếu thờ bà Thu Bồn - và các địa danh nổi tiếng còn lưu lại trong thơ văn Tú Quì, một thi sĩ được Quảng Nam yêu thích. Ôi thôi thôi! Cuộc Giáng (giáng) hòa, hòa lại là bao Miền Trung Phước, phước sau lại thế? Cụm Cà Tang còn đó sao chàng vẫn non nguyền Sông Thu Thủy (Thu Bồn) còn đây Lòng thiếp nỡ quên lời biến thệ? Mười địa danh nào Gành Ngô, Thác Cá, Hòn Ngang, Thác Ông, Bãi Bà... nối tiếp nhau. Đây là một đoạn trích trong văn tế Bá Bảy (Bạn có thể xem thêm Tú Quì của Thy Hảo nxb Đà Nẵng 1993). Cảnh đẹp Quảng Nam mà quên “Hòn Kẽm Đá Dừng” cũng như quên “Mỹ Sơn Thánh Địa” của Chiêm Thành thì phải nói là chưa đủ đấy! Nhất là quần Tháp và các di vật lưu lại ở vùng thung lũng dưới sự chứng kiến đời đời của ngọn núi Quắp độc đáo mang tính thiêng liêng khó hiểu. Có đến Mỹ Sơn bạn mới có sự thông cảm sâu sắc hơn với cổ viện, không đồ sộ nhưng danh tiếng lớn. Một thi sĩ xưa vịnh câu này và Huỳnh Thúc Kháng coi là tuyệt hay “Núi thấp nhất nhưng danh vọng cao nhất” như đã nói, ta cũng có thể gán câu đó cho cổ viện Chàm nhưng phải đặt vị trí trong Đông Nam Á chứ không phải riêng Việt Nam. Nói tới Quảng Nam, người ta hay nhắc chuyện học. Người Quảng Nam cũng tự tin, tự hào về mặt này, nhất là đối với xứ Đàng Trong (bên này sông Gianh). Họ lại cũng hay nhắc về “ngũ phụng tề phi”. Tôi nhớ trước kia, các sinh viên Quảng Nam có đề nghị tôi phát biểu về sự kiện này. Tôi cũng cho điều đó là điều đáng quan tâm qua những kỳ thi Hội, thi Đình ở một vài tỉnh. Ba tiến sĩ, hai phó bảng cùng đỗ một khoa thi thì cũng đúng là “'năm con phượng cùng bay”. Nhưng trong việc học, bằng cấp cao đến đâu cũng chỉ đánh dấu sự khởi đầu... Điều quan trọng nhất của việc học hành, chính là đậu để làm gì? Để lập nghiệp. Năm nhà đại khoa đó có sự nghiệp chính trị, văn hóa, học thuật nào? Tôi không thấy. Vậy ta nên coi đó là giai thoại giúp cho các bạn trẻ phấn chấn hơn trong việc học hành. Học giỏi, đậu cao, phụng sự đất nước, có sự nghiệp xứng đáng, lưu danh là điều đáng quý, đáng trân trọng, noi gương. Song đã có “Lục phụng bất tề phi”. Phạm Phú Thứ (tiến sĩ), Phan Châu Trinh, Nguyễn Duy Hiệu (phó bảng), Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng (tiến sĩ), Phạm Như Xương (Hoàng Giáp). “Lục phụng bất tề phi” mới thực sự nêu gương cho người Quảng Nam và Việt Nam để tuổi trẻ biết thế nào là học và hành, bây giờ và cả trường kỳ lịch sử. Ví dụ như Phạm Phú Thứ, đỗ song nguyên (cử nhân, tiến sĩ đầu) khi sang Pháp chuộc ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, đã chuyên tâm viết bộ Du Ký lừng lẫy (Tây hành nhật ký) đến nay còn giá trị đối với lịch sử trong nước và thế giới. Vậy mà lúc về, không quên mang theo về cái xe đạp nước kéo bằng trâu theo kiểu mẫu Ai Cập, gọi là xe trâu. Phan Châu Trinh khi ở Côn Đảo là tay câu cá giỏi, sang Pháp là “xếp” một loại câu lạc bộ câu cá và kiếm sống bằng nghề thợ ảnh đồng thời là tác giả bao nhiêu bộ sách chính trị vang động giới chính trị Paris (Việt và Pháp). Trần Quý Cáp chuyên nghề bút canh (Cày ruộng bằng bút) là thầy đồ tiếng tăm, cả các tỉnh Nam ra học và nhờ đó ông mới hướng đạo được cuộc Nam du của ba chí sĩ (Phan, Huỳnh và Trần) đã là bậc giáo thọ tử vì đạo. Ông là nhà hùng văn và hùng biện. Huỳnh Thúc Kháng (cũng song nguyên) là người học trò nức tiếng thuở trẻ. Khi đi tù Côn Đảo, ông học làm đồi mồi và quản lý sở buôn. Ông trở về đất liền trên tay có bộ từ điển Pháp Việt mà người ta bảo ông học thuộc lòng từ đầu chí cuối. Với nghề đồi mồi, ông đã thực hành và đưa các mặt hàng mỹ nghệ nữ trang đi chào để xuất khẩu sang Pháp và sau này, ông tự đứng làm quản lý cho công ty Huỳnh Thúc Kháng (nhà in) và báo Tiếng Dân - một nhà nho đặc, tự học tiếng Pháp đủ dùng, tự đứng lập công ty cổ phần tiếng tăm! Cũng cần nhắc thêm 1905, ba nhà đại khoa này đã giúp Phan Thiết lập công ty nước mắm Liên Thành đầu tiên. Học như thế mới gọi là học, và nêu cái gương học vấn cho dân, cho nước, cho duy tân (đổi mới) cho tương lai. Lục phụng này mới thật là phụng hoàng không thẹn cùng nhật nguyệt. Chuyện học của Quảng Nam dài dài. Chúng ta còn trở lại. Còn không học, đúng ra không có bằng cấp, không thèm bằng cấp thì cũng có nhiều tay cự phách: Tiểu La, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thành Tài, Phan Khôi... Nhưng thực sự không học văn, chỉ học nghề để rồi thành danh nhân thì phải nhắc tới nhiều nhân vật mà đứng đầu là Võ Diễn, chuyên ngành dệt, người Duy Xuyên. Từ 1940-1945, chưa bao giờ vùng quê Quảng Nam (Điện Bàn, Duy Xuyên) ồn ào náo nhiệt và thịnh vượng bằng thời này. Nhân chiến tranh, việc mậu dịch với nước ngoài bị đình đốn. Võ Diễn đã chế ra cái khung dệt kiểu mới, mặt hàng rộng đến 9 tấc, chạy bằng máy đạp, rất thuận lợi cho sản xuất. Hàng tơ lụa hàng ngày đổ vào Sài Gòn - Nam Vang không ngớt. Đời sống nhà buôn, thợ thuyền, nhà sản xuất lên cao kéo theo khá nhiều ngành nghề khác làm rung động cả Hội An, Đà Nẵng. Sau 1954, ông vào Nam, mở ra khu Bảy Hiền hiện nay như cánh tay vươn dài của công nghệ Quảng Nam. Máy cải tiến nhiều, mặt hàng rộng trên 2 mét và dệt đủ kiểu mẫu mới đáp ứng với yêu cầu thị trường. Vinh dự trên mọi vinh dự mà Quảng Nam đạt tới một cách kỳ diệu là sự hy sinh cho đất nước. Chỉ riêng từ 1882 đến 1926, gần như khắp miền trên lãnh thổ Việt Nam, nơi nào cũng thấy có những người con đất Quảng hy sinh vì độc lập của Tổ Quốc, tự do cho nhân dân: 1882: Hoàng Diệu tử tiết ở Hà Nội 1887: Nguyễn Duy Hiệu bị chém ở Huế 1908: Trần Quý Cáp bị chém ở Nha Trang 1916: Trần Cao Vân, Thái Phiên bị chém ở Huế Tại Quảng Nam - Đà Nẵng là Phan Thanh Tài và các đồng chí. 1926: Phan Châu Trinh từ Pháp về đã mở lại phong trào Duy Tân, kiệt lực, chết tại Sài Gòn. Cái chết của ông là Quốc Tang, đặc biệt do nhân dân, tái diễn trang sử mới cho tư trào Dân Quyền và Duy Tân. “Đất Quảng quê tôi” còn nhiều điều để nói, với tính đặc thù của nó, hầu góp phần vào kho tàng văn hóa nước nhà. Nguyễn Văn Xuân Nguồn: saigontimesusa.com/bai/gtqm/datquang.shtml
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2021 18:02:00 GMT 9
Lý do Đàlạt được thành lập #1 www.muctimsonden.com/2021/01/ly-do-alat-ong-duong-ra-oi-1.html Khi xưa, học lịch sử về thời thực dân đô-hộ, thầy cô nói người pháp chiếm Đông Dương, sử dụng chính sách “chia để trị” chia Việt Nam thành 3 kỳ: Tonkin (Bắc kỳ), Annam (trung kỳ) và Cochinchine (nam kỳ) , Lào và Cam-bốt. Từ đó người Việt mình sau khi Tây về nước vẫn ghét nhau, chửi nhau thằng Bắc kỳ, con Năm kỳ hay thằng Mắm Ruốc,... Từ ngày mình tìm hiểu thêm về lịch sử của Đàlạt thì ngạc nhiên khi thấy những công trình dinh thự được xây cất đầu tiên là những khách sạn như khởi đầu khách sạn Hôtel du Lac, cộng thêm mấy biệt thự lân cận rồi khách sạn Langbian, sau này được cải tên là Grand Palace. Thậm chí trong các bản phác hoạ thành phố Đàlạt thời sơ khai của kiến trúc sư Hébrard, đã thấy nhiều khách sạn to lớn, kiểu mấy trăm phòng mà công chức người Pháp tại Việt Nam thời đó trên dưới 3,000 người. Thời gian ông tổng thống Paul Doumer, làm toàn quyền Đông Dương, đưa ra quyết định thành lập thành phố Đàlạt, một trung tâm điều dưỡng cho thực dân Pháp khiến mình tò mò vì phải phá rừng, xây đường, nhất là xây đường rày từ Nha Trang, Tháp Chàm - Đàlạt. Các cuộc xây dựng này đã giết hàng ngàn người việt, vừa kinh vừa thượng, mình xem các người thượng là người Việt. Trong khi đó, học lịch sử chỉ nghe nói người Pháp đến Việt Nam để chiếm các tài nguyên như mỏ than, trồng cao su,...mà Đàlạt thì chả có gì cả. Nếu Đàlạt không có tài nguyên, tại sao người Pháp bỏ công và tiền của để xây dựng một tuyến đường xe-hoả răng cưa, từ Tháp Chàm lên, nối quốc lộ 1. Đây tấm ảnh của Pháp về công trình xây dựng tuyến đường xe-hỏa từ Sông-Pha lên đèo Ngoạn-Mục. Đã giết chết không biết bao nhiêu người việt mà người Pháp gọi là cu-li (coolies Mọi). Trong hình mình thấy có người bận quần áo Chàm, áo dài đen, người đội nón lá,... Mình nghe kể ông Võ Quang Tiềm và người em rể Nguyễn Văn Phúng, bà con với mệ ngoại mình. Lúc mới vào Đàlạt, làm nghề thợ may. Họ may quần áo, rồi gánh xuống các công trường xây dựng tuyến đường rày xe lữa, để bán cho nhân công tại đây. Phải gánh đi 3 ngày 3 đêm mới đến nơi. Đúng là với sức, người sỏi đá cũng thành cơm. Dạo ấy nghe nói có nhiều cọp (ông 30) mà ngày nay về, chạy trên đường vẫn thấy chỗ thờ ông Cọp. Thời gia đình mình mới dọn về cư xá công Chánh ở Hai Bà Trưng, nghe người lớn kể là có cọp về lởn vởn gần nhà thương, ở trên đường Calmette. Mình chỉ thấy một lần con hoảng chạy ở đâu xuống xóm mình, rồi nhà bà Quán, vây bắt được làm thịt. Có cho nhà mình một lát thịt hoảng. Đó là lần đầu tiên mình ăn được thịt thú hoang. Một lần khác, chú Hà Thúc Mãn, hàng xóm nấu thịt cọp ai cho, kêu mình qua ăn. Thịt dai kinh hoàng. Lò mò kiếm tài liệu Tây đọc thì khám phá ra một điều khá quan trọng: trong quá trình chiếm và bình định Đông Dương, người Pháp chết rất nhiều, không phải vì đánh nhau với kháng chiến quân người Việt mà vì bệnh sốt-rét, khí hậu ác-nghiệt của Nam Kỳ. Một binh sĩ pháp viết trong nhật ký của ông ta; nghĩa trang quân đội viễn chinh ở Sàigòn, cạnh bệnh viện quân đội pháp có nhiều ngôi mộ hơn thị dân của một thành phố nhỏ ở Pháp. Kinh Người Pháp đã chiếm, làm chủ, bình định hoàn toàn Nam Kỳ từ 1858-1862, các trại lính pháp ở Sàigòn, không quá 2,000 người. Người pháp chết tại Việt Nam thì được chôn tại đây, không có màn chở máy bay về mẫu quốc như binh sĩ Mỹ trong các quan tài, điển hình bà vợ của toàn quyền Decoux, được chôn ở Thánh-địa-Đức-Bà (domaine de marie) Đàlạt. Không biết nghĩa trang quân đội pháp ở Sàigòn còn hay không, chắc họ đã dẹp sạch để mở sân cù. Vào năm 1876, bác sĩ Auguste-Pascal-Marie Danguy des Deserts, cho rằng phong-thổ miền nam Việt Nam rất độc và lo ngại người âu châu khó thích nghi với thời-tiết tại đây. Một y-sĩ pháp khác tên A. Léon tham gia chiếm đóng nam kỳ, kể rằng khí hậu ở đây “meurtrière “ (giết người) còn phong thổ thì quá mất vệ sinh so với tiêu chuẩn tây phương. Mình nhớ khi đến xứ Ma-rốc thì chới với vì khí hậu nóng bức khó chịu vào mùa hè. Ở Rabat, Casablanca thì gần biển nên bình thường, Ở Fez, mình đi chơi có một ngày đã oải, mệt, khó chịu nên lên xe chạy về phía Bắc cho bớt nóng. Nhớ xưa học lịch sử, nghe kể quân Mông Cổ chiếm Việt Nam nhưng vì không hợp phong thổ nên chết khá nhiều, đại bại dưới tay nhà Trần tại Việt Nam. Nếu không vì phong thổ thì có lẻ chúng ta đã là người Mãn Thanh. Mình có mấy tấm ảnh lính khố xanh khố đỏ Việt Nam bị động viên qua Âu châu đánh giặc cho Tây ở thế chiến thứ 1, lạnh thấu xương, không hợp phong thổ, cũng chịu không nổi, chết như rạ. Gần đây, chính phủ pháp đã lên tiếng xin lỗi, đã không đối xử tử tế đối với người Việt, khi được tuyển một sang Âu châu, đánh giặc hay lao động trong các hãng xưởng. Bác sĩ François-Eugène Bernard, tham gia chiến dịch này, cho rằng binh sĩ đến từ miền Bắc nước Pháp, tham gia cuộc bình định ở Nam-kỳ, khó mà sống sót với khí-hậu nhiệt-đới địa phương, phải hồi hương sớm. Người âu châu bị bệnh sốt-rét và thiếu máu trầm trọng. Họ không thể chữa bệnh, hồi sức tại Đông Dương nên phải hồi hương, bằng tàu thuỷ. Khi quân đội Mỹ đến Việt Nam thì có quạt máy và máy điều hoà không khí nên tương đới đỡ hơn thời Tây. Dạo ấy, còn bé mình nhớ đến các bình xịt thuốc trừ muỗi của mỹ, dùng mỗi buổi chiều, nồng mùi cay cay. Cứ lắc lắc rồi đi vô mấy cái mùng rồi xịt nhất là mấy góc nhà, dưới bàn ăn. Ngoài chợ bán đầy. Nay mới biết là độc hại nhưng dạo ấy, thấy sao mình văn-minh hết lớn. Xịt xong, phải đợi nữa tiếng cho muỗi chết mới vô phòng hay nhà. Năm 1897, khoa học gia người Anh Ronald Ross, làm việc tại Ấn Độ, khám phá ra bệnh sốt-rét do muỗi Anopheles lây lan. Từ đó, người Pháp nghiên cứu thành lập những vùng nghỉ dưỡng, điều dưỡng cho người Pháp bị bệnh, giúp hồi sức tại Đông Dương thay vì chở về mẫu quốc, xa xôi và tốn tiền. Chi phí tải binh sĩ bị bệnh hồi hương rất cao nên người Pháp cho các binh sĩ bị bệnh qua Nhật Bản ở Yakohama, nơi một bác sĩ người Pháp, tên Mècres, thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng. Khởi đầu khi cuộc chiến Pháp-Trung Hoa, các binh sĩ bị thương được đưa về Nhật Bản điều trị. Ngắn đường tàu thuỷ hơn về Pháp. Khí hậu Nhật Bản tương tự như Pháp quốc. Bác sĩ Bernard kể một đơn-vị pháo binh gồm 319 người đến Nam-kỳ năm 1862, 4 năm sau chỉ còn 50 còn ở lại. Ông ta đề nghị cho binh sĩ đi nghĩa-vụ ở Việt Nam 2 năm thay vì 4 năm để tránh bị bệnh. Có lẻ vì vậy mà người Pháp gọi bệnh này là “Jaunisse” vì người Pháp đến Việt Nam, độ mấy tháng sau là da họ bị vàng như bị viêm gan. Bệnh sốt-rét và kiết-lỵ khiến quân đội pháp phải bỏ đóng quân tại Tourane (Đà Nẵng ngày nay). Năm 1861, sau khi Sàigòn lọt vào tay người Pháp thì có đến 11.5% binh sĩ chết vì bệnh. Bệnh viện Sàigòn đã có đến 2,774 bệnh nhân, và 170 chết sau đó và 371 được hồi hương. Các tài liệu lịch sử mình học về thời kỳ này kể là người Việt kháng chiến chống Tây, khiến giặc Tây chết như rạ, có lẻ không đúng. Nguyên do là bệnh sốt-rét, khí hậu đã giết lính thực dân. Mình nhớ khi xưa, ông cụ đi lính, đóng quân ở rừng, có lần ở Qui-Nhơn, sau này giải ngủ bị bệnh sốt-rét. Cứ mỗi lần bị cơn bệnh này hành, ông cụ trùm mềm, rên hừ hự, kêu mình lấy thuốc Quinine để uống. Mình nhớ nhà có một lọ to đầy thuốc quinine. Sau này, đi cải-tạo 15 năm, mình có hỏi ông cụ còn bị bệnh này không thì được biết là ít hơn xưa. Theo tài liệu thuộc địa ghi lại thì khoảng 1883-1888, tỷ lệ binh sĩ thuộc địa chết ở Đông Dương là 2% trong khi chỉ có 0.97% ở Algiers và 1.1% ở Tunis và 1.5% ở Oran (thuộc địa Bắc Phi của Pháp). Người Pháp có chiếm đóng các nước ở Phi-châu, ở vùng nhiệt-đới nhưng mình không có tài liệu về tử vong tại thuộc địa này. Hồi hương thì cũng có vấn đề vì có rất nhiều bệnh nhân chết trên đường về cố quận, phải được hải táng trên biển. Năm 1853, những tài liệu thuộc địa cho biết; dạo ấy chỉ có 2 cách điều dưỡng người pháp tại Đông Dương: chở về nước điều trị bằng tàu thủy hay lên cao độ dưỡng thương tại địa phương, nói cách khác là tìm cao độ tại thuộc địa như người Anh Quốc và Hoà Lan đã thực hiện tại Mã-lai và Nam Dương. Các quốc gia này thành công trong việc điều trị binh lính và công chức của họ khi xây dựng các trung tâm điều dưỡng ở trên núi tại địa phương. Năm 1885, Bá tước Albert d’Anthouard de Wasservas rời Sàigòn sau 3 năm nhiệm vụ, kể lại chuyến hải trình hồi hương, sau khi sụt mất 27 kí-lô vì bệnh tiêu chảy. Các hành khách trên chuyến tàu hồi hương gồm 250 bệnh nhân, nằm liệt giường và 150 tù nhân Việt Nam, chống lại chính quyền thực dân, bị đày biệt xứ đi đảo Guyana, lúc người Pháp chưa xây dựng nhà tù tại Côn Đảo để tiết kiệm chi phí. Nếu họ tiếp tục cho các người chống lại chính sách thực dân của họ sang nhà tù Guyane thì có lẻ không có Điện Biên Phủ, ngày nay họ vẫn chiếm đóng Đông Dương. Hình ảnh khi xưa, thực dân bắt người Việt chống lại họ vì thuế nặng. Mình nghe nói đeo gông vào cổ, nay mới hiểu cái gông là gì. Nhà tù Cayenne ở Guyane nổi tiếng, được kể qua cuốn truyện và phim mang tựa đề “papillon” do Steve McQueen và Dustin Hoffman đóng, mình xem phim này ở rạp Ngọc Lan. Hình như vua Hàm Nghi hay Duy Tân bị đày đến đây hay Madagascar. Hình như ông vua Hàm Nghi, sau này bị đưa qua Algerie, lấy vợ bên đó rồi chết tại xứ này. Tây gọi “la bagne”, nơi họ đày các kẻ chống lại chính quyền cách mạng sau 1789 đến Guyane, khi cháu của Bonaparte lên ngôi Napoleon III thì cho đóng cửa, thả hết tù nhân chính trị. Năm 1852, người Pháp cho mở lại để nhốt các tù nhân từ các thuộc địa chống lại thực dân pháp. Tù nhân ở đây, ít ai sống sót lắm vì khí hậu, lao động khổ sai. Ai sống sót thì không biết đâu mà hồi hương, lấy vợ địa phương. Sau này, có dịp chắc mình cũng làm một chuyến sang đây để đi lại vết chân của người Việt xưa, bị thực dân đày biệt xứ. Chuyến tàu hồi hương rất dài, chạy qua kênh Suez, có một người chết được hải táng. Ông ta nhận thấy sức khoẻ được hồi phục khi đi ngang con kênh này nên kết luận là bệnh thuộc địa chỉ nguy hiểm tại địa phương còn khi thay đổi phong thổ, gần nơi họ sinh ra thì sức khoẻ cơ hồi bình phục lại. Trên thực tế nhiều binh lính Tây hay công chức, chết khi đến quân cảng Toulon. Trung bình có từ 30-40 người chết trên các chuyến tàu hồi hương. 250 người thì chết 30-40 người. Năm 1886, bác sĩ hải quân pháp Lazare-Gabriel-Marie Palud kể trên chiến tàu y tế hồi hương tên Vinh-Long: tàu chở theo 2 con bò để cho sữa tươi. Bệnh nhân nào bị sốt rét thì được quấn cái mềm và cho uống thé punché , trà bỏ rượu rhum. Nặng hơn thì được chích quinine sulfate. Mình không biết từ Paludisme đến từ tên ông bác sĩ này? Ai biết cho em xin. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Việt Cộng yêu cầu Trung Cộng cung cấp loại thuốc qing hao su (青蒿素), được Tây phương gọi là artémisinine , dùng để trị các bệnh sốt rét cho bộ đội của họ. Vào năm 1939, ông Paul Hermann Mueller, làm cho công ty dược phẩm Geigy ở Bâle, Thuỵ Sĩ nơi mình có làm việc một năm, khám phá ra DDT (dichloro diphényl trichloro-ethane) , một loại sát trùng, được sử dụng để giết các muỗi mà chúng ta hay thấy chiếu trên xi-nê,họ xịt vào người tù nhân hay binh lính. Hồi bé, mình nhớ nhà có xịt ba loại này, thêm cái bình xịt dầu hôi, phung lửa để giết muỗi vào buổi chiều. Sau này chất sát trùng này bị cấm vì gây bệnh ung thư,... Dạo mình ở Tây, mỗi lần bị cảm, mình hay ra quán cà-phê, kêu họ làm một ly grogue. Rượu rhum, bỏ đường với chanh và nước nóng. Nhắm mắt nhắm mũi, nốc một cái ực, leo lên 8 tầng lầu, đắp mềm ngủ tới sáng mai là hết bệnh. Tỷ lệ chết mùa hè năm 1885, có 33 người chết hay 6% hành khách nhưng đến chuyến đi thứ 3 của ông ta 1885-1886 thì chỉ 3 người chết hay 0.5% hành khách. Chi phí hồi hương các binh sĩ hay công chức bảo vệ thuộc địa rất cao. 1894, 19.6% bộ binh và 37.6% pháo binh được hồi hương vì lý do sức khoẻ, chiếm 290 người trong các đội ngủ trên. 2 năm sau đó thì 19% bộ binh và 40% pháo binh được đưa về mẫu quốc (340 người). Dạo ấy có hai công ty hàng hải tư được mướn để đưa lính Tây hồi hương: Messageries maritimes và Compagnie nationale de navigation. Năm 1895, bộ thuộc địa tính thành lập một đường hàng hải Đông Dương, do chính phủ kiểm soát. Mỗi tàu cần 150 giường bệnh, chính quyền bảo-hộ tiên đoán sẽ cần hồi hương nhiều hơn trong tương lai. Không nhớ ông Nguyễn Tất Thành, qua pháp bằng cách làm thuê trên những loại tàu này hay không. Lâu quá rồi, không nhớ là tàu loại nào. Sử gia Robert Aiken, nghiên cứu các trung tâm nghỉ dưỡng của Anh Quốc tại Mã-lai; cho thấy cách hữu hiệu, ít tốn kém, giảm thời gian hồi hương, là thành lập các trung tâm nghỉ dưỡng tại nước sở tại. Dạo ấy có bác sĩ Louis Mècres, thành lập một khu điều dưỡng tại Yakohama, Nhật Bản, để chữa bệnh, cho các thương binh tại chiến trường Trung Hoa. Khu nghỉ dưỡng này được chính phủ Nam-kỳ đài thọ 15,000 quan pháp. Bác sĩ Danguy des Déserts than là không có một khu nghỉ dưỡng tại Nam kỳ. Cho thấy người Pháp đánh thuế người Việt mệt thở để thành hình chính sách cai trị của họ tại Việt Nam. Tính xem trị giá hiện kim: 170 năm xem như 1,200 tháng, lạm phát trung bình 5%, số tiền 15,000 quan. Tính ra là 119,294,692.00. Dạo mình đi Tây 1 đôla ăn 7 quan cũ. Số tiền khá lớn, lấy từ mồ hôi nước mắt của người Việt. Vấn đề là các đồi núi ở Nam Kỳ rất thấp như Ba-Dinh chỉ có 884 mét cao độ, Chua-Chang thì 600 mét. Người Pháp cần tìm các nơi có núi rừng như ở cao nguyên trung phần. Do đó, họ cho người đi thám hiểm, quan sát các địa danh tại Cam-Bốt, Lào, Bắc-kỳ,... Năm 1897, toàn quyền mới của Đông Dương Paul Doumer, không cho ký hợp đồng với bác sĩ Mècres nữa khiến các người ủng hộ ông này tức giận như thượng nghị sĩ Gauthier. (Chắc có ăn chia). Bộ thuộc địa, giải thích là một khu nghỉ dưỡng tại Việt Nam sẽ giúp chính phủ thuộc địa giảm bớt kinh phí hồi hương các bệnh nhân nhất là về tâm lý. Khi về nước nhiều thì người Pháp sẽ lo ngại, không muốn con cháu họ đi nghĩa vụ 4 năm tại rừng thiêng nước độc ở xứ Annam. Mình nghe kể là trong thời chiến, Hà Nội giết khá nhiều những bộ đội bị thương, mất tay mất chân để khỏi làm ngã lòng hậu phương tất cả cho tiền tuyến. Mình về quê, gặp ông chú họ, bị thương tại chiến trường miền nam nhưng sơ sài nên còn sống sót, trở về quê cha. Chính phủ có trách nhiệm đối với công chức, binh sĩ và các sĩ quan như những gì mà Anh Quốc đã thực hiện thành công tại Ấn Độ cho quân đội của họ và nền hành chánh sở tại. Đàlạt sẽ đóng vai trò như thành phố Raj của đế quốc Anh Quốc. Dự định xây một trung tâm nghỉ dưỡng ở cao độ chưa được chính thức chọn. Họ có thành lập ở BÀ-ria nhưng không đủ độ cao. Năm 1897, toàn quyền Paul Doumer ra lệnh cộng sự viên, phải tìm ra địa điểm ở trên cao nguyên, để thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng như Anh Quốc đã làm tại MÃ-lai hay Ấn Độ, hầu giúp công chức và lính thuộc địa có thể hồi phục sức khỏe mau thay vì phải về nước. Các tổng đốc 3 kỳ đều phúc trình, đề nghị các vùng biển, như Đồ-Sơn, Cấp Saint Jacques,.. chỉ có các giới chức ở Annam là đọc kỷ và đề nghị thám hiểm trên cao nguyên, nơi mà người kinh không đặt chân đến. Đa phần bỏ hoang cho người thượng. Không có đường xá đến đây. Theo các tài liệu kể thì các người của triều đình Nguyễn, xin làm cu-li cho phái đoàn ông Yersin, rồi lên đây, bắt người thượng đóng thuế, đánh đập họ,... cho thấy triều đình Nguyễn làm chủ lãnh thổ này nhưng ít ai dám lên đây thu thuế người thượng. Nhờ vậy mà sau này, người Pháp mới sử dụng người thượng để làm giảm sức mạnh quân đội cũng như chính trị của triều đình Nguyễn. Bác sĩ Alexandre Yersin nghe toàn quyền Doumer tìm kiếm một địa điểm cho khu nghỉ dưỡng của binh sĩ Pháp, thì ông ta xin gặp mặt để trình bày vùng Dankia, nơi ông ta đã thám hiểm lên đó, nghiên cứu mấy lần. Bác sĩ Yersin là người Thuỵ Sĩ, cộng sự viên của ông Louis Pasteur và Emile Roux. Ông nổi tiếng khi tìm ra bacillus bubonic plague năm 1894. Ông ta thành lập một phòng thí nghiệm tại Nha Trang, sau đó trở thành viện Pasteur vào năm 1905. Trái với người ta thường ca tụng về ông bác sĩ này. Người ta tìm thấy trong các lá thư viết cho mẹ ông ta, kể tham gia các cuộc hành quyết các người Việt Nam chống lại chính quyền thực dân,…chê dân của đảo Réunion, dân da đen lười,… có lần phải chém 5 nhát mới đứt đầu. Kinh Trước đây, người Pháp dùng hình ảnh ông bác sĩ này để tuyên truyền cho lòng nhân-ái của họ, muốn mở-man các thuộc địa, đem văn minh, khoa học, tình yêu thiên chúa đến những nơi chậm tiến. Nay có nhiều người đọc các thư của ông ta viết cho gia đình, trong viện bảo-tàng của viện Pasteur ở Paris, nói lên tinh thần thực dân của người Âu châu khi xưa. Tương tự ngày nay, chúng ta được biết những gì người Tây phương đã thực hiện tại Bắc và Nam Mỹ châu, diệt chủng tàn bạo các người dân sở tại. Ông ta viết thư cho thân hữu, chê chính sách của toàn quyền de Lanessan là ngây thơ “annamitophilie”. Lần đầu tiên mình đọc được từ này, Annam là trung kỳ, philie do từ philo của Hy-lạp, tạm hiểu làm bạn, thân hữu với chính quyền Annam, triều đình Huế vì qua mấy vụ Cần Vương, làm tổn thất khá nhiều cho người Pháp. Ông ta không phải một nhà cấp tiến như được tô vẽ nhưng chúng ta không quên những thành quả nghiên cứu y-khoa của vị bác sĩ này. Chúng ta nên nhớ ông ta làm việc cho viện Pasteur Paris, và công ty hàng-hải Messageries Maritimes. Ông bác sĩ này chú ý đến chương trình của Paul Doumer và diện kiến ông toàn quyền ngày 19 tháng 7, 1897. Ông ta trình bày các tài liệu mà ông ta ghi lại trong 3 cuộc thám hiểm tại cao nguyên 1892, 1893, 1894. Các ghi nhận cho thấy là một địa điểm tốt cho khu nghỉ dưỡng của Paul Doumer. Đây là sổ tay của bác-sĩ Yersin, ghi lại những gì đã làm khi thám hiểm, tìm ra Lâm-Viên (LangBian). Ông ta đề “voyage chez les Mois”, 24 tháng 2 đến 26 tháng 9, năm 1893 có đóng mộc viện Pasteur tại Paris. Điểm chú ý là các cuộc thám hiểm của bác sĩ Yersin, không vì mục đích tìm ra địa điểm để xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng mà để tìm kiếm các hầm mỏ, tài nguyên của lâm nguyên. Ông ta đã tìm ra vùng Dankia trước khi diện kiến Paul Doumer. Người Pháp đến Đông dương, đều cho người của họ đi săn lùng các hầm mỏ, điều nghiên phong thổ,...như trường hợp bác sĩ Yersin là người đem các giống cây cao-su sang Việt Nam để trồng, làm nhựa cho kinh tế xe hơi của họ. Ông ta ghi rõ như ngày 21 tháng 6 năm 1893, khi ông ta khám phá cao nguyên Lâm Viên (Langbian), đứng trên đỉnh, ông ta thấy vùng Đàlạt ngày nay. Có nói đến rượu cần của người dân địa phương (Mọi) Khi ông ta trở lại vào tháng 2 năm 1894, ông ta ghi lại những chi tiết cần thiết khác. 2 ngày đi bộ từ Langbian, ông ta ghi thời tiết 2 độ celcius. Ông ta thấy nai và có kể cho bà mẹ, không khí khô như vùng đồi núi Thuỵ Sĩ của ông ta. Ông ta hy vọng trong tương lai sẽ có một con đường và xe hoả từ Nha Trang, nơi ông ta làm việc đến vùng cao nguyên, sẽ giúp thành phố Nha Trang trở thành quan trọng. Bác sĩ Yersin xem như cố vấn y tế quan trọng cho Paul Doumer nhưng chuyên gia về khu nghỉ dưỡng vẫn là bác sĩ Alexandre Kermorgant. Năm 1898, ông ta được chỉ thị, nghiên cứu chương trình của ông Yersin và Doumer. Ông ta rên là chúng ta không có các địa danh như Simla hay Darjeeling, nổi tiếng của Ấn Độ của đế quốc Anh. Dạo ấy, các tay giàu có người Tây ghé lại Tân Gia Ba của Anh Quốc để nghỉ dưỡng. Bác sĩ Kermorgant ghi: “vấn đề nghỉ dưỡng cho binh lính tại á châu đã được giải quyết với cao nguyên Lâm viên, giúp giảm bớt chi phí cho chính phủ”. Tuy vậy, Paul Doumer vẫn ra lệnh xem-xét các địa điểm khác như núi Ba-Vì, gần Hà Nội. Ông ta nghĩ vấn đề nghỉ dưỡng ở BẮc Kỳ (Tonkin) có thể giải quyết với các khu nghỉ dưỡng tại Trung Hoa, nhưng lại ở ngoài biên giới của đế quốc Pháp. Người pháp chiếm Vân NAm của Trung-hoa để bảo vệ đầu nguồn của con sông Mekông, huyết mạch của Đông Dương. Do đó ông ta chú tâm ở Trung Kỳ (Annam) vì Nam kỳ đất thấp. Langbian có đủ các yếu tố: độ cao, nước dùng, khí hậu tốt. Ngoài ra tại Annam có những địa danh khác như nội địa của Tourane (đà Nẵng) mà người pháp đang bắt đầu xây dựng khu BÀ-nà. Ông ta tìm các ý-kiến ngoài bộ thuộc địa như thanh tra canh nông Đông Dương, Jacquet, được phái lên Langbian để khảo sát khả năng cung cấp trái cây và rau cải âu châu. Ông này rất vui mừng về khí hậu và người dân sở tại (người thượng), rất khoẻ mạnh để làm rãy. Ông Jacques de Montfort, một người du lịch khắp thế giới cho biết là thời tiết của cao nguyên quá tuyệt vời, không khí trong lành và khô khác với sự ẩm ướt của miền đồng bằng Việt Nam. Ông Doumer đề nghị ngoài thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng, có thể trong tương lai sẽ làm thủ đô hành chính cho chính quyền Đông Dương. Gần biên giới Lào và Cao Miên. Đặt cái tên là Lang-Sa, vì dân an nam gọi Pháp quốc là Phú Lãng Sa, tầu gọi là Pháp Lan Tây gọi tắt là Pháp. Năm 1897, một năm định mệnh cho thuộc địa, đúng hơn là cho Liên Hiệp Đông Dương. Paul Doumer được bổ nhiệm làm toàn quyền, thay thế ông tiền nhiệm de Lannessan, người chủ trương tôn trọng các văn hoá địa phương, muốn trả Bắc Kỳ lại cho triều đình Huế, cai trị gián tiếp. Kiểu ngày nay, chính phủ pháp muốn tôn trọng giữ gìn các nền văn hoá của các người di dân từ thuộc địa họ. Paul Doumer thì chủ trương một chính quyền trung ương mạnh. Ông ta thành lập các văn phòng tài chánh tại Đông Dương và các công ty tư nhân hay do chính phủ độc quyền. Ông ta gia tăng dân sự ngành hành chính thuộc địa. Năm 1900, tổng số công chức của thuộc địa nhiều hơn Ấn Độ to lớn, đông dân hơn Việt Nam của Anh Quốc và Tây Ấn của Hoà Lan. Từ 2,860 công chức lên 5,683 vào năm 1911. Người pháp bị bệnh tại Việt Nam quá nhiều nên ông Doumer hy vọng sự thành lập khu nghỉ dưỡng trên Cao Nguyên sẽ giải quyết vấn nạn này. Dưới thời toàn quyền de Lanessan, chỉ có Nam Kỳ (cochinchine) là thuộc địa của Pháp quốc, ông ta nghĩ giải pháp sử dụng khu nghỉ dưỡng tại Yakohama bên Nhật Bản tốt hơn, thêm được điểm để giao thương với Nhật Bản. Chương trình này, bắt các y-sĩ làm việc tại Đông Dương lâu hơn trước đây. Ai cũng biết là bệnh ở Đông Dương rất nguy hiểm mà các bác sĩ không dám viết khảo cứu để đời cho họ. Thậm chí, họ phải báo cáo sai, để thực hiện chương trình không tưởng khu nghỉ dưỡng trên cao nguyên Lâm Viên. Với ý định thực thi chương trình này, ngoài ông Yersin ra, còn có những người khác được gửi đi tìm kiếm các nơi khác như Victor Adrien Debay ở Bà-Nà…. Paul Doumer muốn thành lập một khu nghỉ dưỡng tại một địa điểm tốt nhất. Dù đã được ông Yersin đệ trình các tài liệu mà ông ta ghi lại khi thám hiểm vùng Langbian. Paul Doumer gửi thêm một đại uý quân đội tên Victor Adrian Debay đi khảo sát vùng gần Huế và Tourane. Tháng 2 năm 1900, vị đại uý này khởi đầu cuộc tìm kiếm với những binh sĩ khác, để tìm ra trong vòng chu vi 150 cây số cách Tourane, với cao độ 1,200 mét, khô ráo, hướng phía Tây nam. Có dịp mình sẽ kể sau vụ tranh nhau giữa ông Yersin và tên đại uý Debay, để được Doumer chấp thuận đề nghị của mình. Vấn đề là tên đại uý Debay này có nhiều hành động dã man, đánh người cu-li, theo khiêng đồ cho đoàn thám hiểm Tây. Ông ta đánh chết Nguyễn văn Niêu, Nguyễn Văn Thiêu, Lê Văn Sĩ ,…. Về Sàigòn thấy đường Lê Văn Duyệt đổi tên thành Lê Văn Sĩ, không biết có phải là ông nông dân bị tên đại uý Debay đánh chết năm 1904, khi đi tìm địa danh BA-nà. Nhiều người tố cáo tội ác ông ta, bị đưa ra toà án quân sự về tội giết người nhưng rồi được tha bổng, cho trở lại chức vụ cũ, sau này được tuyên dương Legion d’honneur, huy chương cao quý nhất do chế độ Napoleon thành lập. Đó là hình ảnh của sự tàn bạo của quân đội Pháp. Chả thấy liberté, fraternité , égalité gì cả. Tự do, bác-ái, bình đẳng là chiêu bài để huyển hoặc thiên hạ. Lính Tây trả tiền cước xe-kéo, đăng trên tờ “la vie large des Colonies, năm 1912.” Nếu Doumer vẫn tiếp tục chính sách của de Lanessan, có thể người Việt nhất là trí thức Việt Nam đã có thể cộng tác với người Pháp trong tinh thần tương trợ để phát triển Việt Nam. Theo ông Vũ Quốc Thúc kể thì đồng môn của ông ta là ông Võ Nguyên Giáp. Ông Giáp học rất giỏi nhưng bị đánh rớt, không được cấp học bổng đi du học ở pháp về luật như ông ta hay ông Nguyễn Mạnh Tường. Tương tự ông Nguyễn Tất Thành cũng viết thư xin học bổng học trường bảo hộ như ông Trần Trọng Kim nhưng đơn bị bác. Nếu người pháp không thay đổi chính sách của toàn quyền De Lenassan thì có thể lịch sử Việt Nam và Đông đương có thể có một kết cục khác, tươi đẹp hơn. Chương trình này bị gián đoạn khi Paul Doumer được triều về pháp, sau này làm chính trị được bầu làm tổng thống Pháp quốc và toàn quyền Albert Sarault thay thế. Ông ta chọn Đàlạt thay vì Bà-na được đại uý Debay đệ trình. Ngoài ra còn có những địa danh khác được thành lập những khu nghỉ dưỡng nhưng không quy mô như Đàlạt : Sapa, Tam Đảo, Mau-Sơn ở Bắc kỳ, Bokor ở Campuchia, Tranninh ở Lào. (Còn tiếp) Những năm tháng đầu tiên của Đàlạt #3 www.muctimsonden.com/2021/01/nhung-nam-thang-au-tien-cua-alat.html?spref=fb&fbclid=IwAR28ScoMJnTfXANqs-mD12hENI6lPSuz9-hcPkcjgEtpenJS17aaZjkfeMgNhiều khi nhìn những tấm ảnh Đàlạt xưa, khiến mình tưởng tượng về Đàlạt thời mới khái phá, hoang vu. Không có người kinh, chỉ có các bộ lạc người thượng sống bình yên tại đây lâu năm. Như châu mỹ trước khi bị người Tây phương xâm chiếm. Cứ tưởng tượng người thượng khi gặp mấy đoàn người Âu châu lên đây săn voi hay cọp với những tiếng nổ chát chúa từ nhưng khẩu súng trường, so sánh với những mũi tên của họ như người xứ Inca, khi mới gặp mặt lần đầu các binh sĩ của triều đình Tây BAn Nha và dần dần dân tộc của họ bị tiêu diệt. Dạo mình ở Đàlạt, thấy người thượng, đem ngo và lan rừng ra bán ở chợ cho người Việt. Có dạo bà cụ mình mướn họ để làm rẩy khi mua 2 mẫu đất trong Suối Tía để làm vườn. Tuyệt nhiên mình không có bạn là người thượng vì dạo ấy rất ít. Nghe nói trường Văn Học có vài người thượng, được khuyến khích đi học. Mình chỉ nhớ 2 anh chàng người thương to lớn đá banh cho đội Văn Khoa. Có lẻ họ bị tuyệt giống khi người Pháp bắt họ phá rừng, phá núi để thành lập khu nghỉ dưỡng cho công chức, binh sĩ của họ với giấc mơ xây dựng một chính quyền trung ương Đông Dương tại Đàlạt. La grandeur de France. Trong thời gian ông cụ mình ở trại cải tạo Đại Ninh, đi thăm nuôi, xe bị hư nên được mấy người Chu-Ru mời bà cụ và mấy bà đi thăm nuôi chồng con vào buông của họ để ngủ qua đêm. Sau này, nhớ ơn họ mình giúp đỡ, tặng xe đạp cho con cháu của họ. Khi xưa, ở Đàlạt mình chỉ nghe nói đến người Mọi, sau về Đàlạt lại mới nghe đến người Chu-Ru. Có anh bạn đi dạy 5 năm trời ở trong Buông Chu-Ru, kể chuyện xôm trò. Khi xưa học địa lý với thầy Hứa Hoành, nghe nói có nhiều bộ lạc người thượng ở Việt Nam như Ra-đê, Mọi,... nhưng chả bao giờ nhớ. Năm 1904, ông Pierre Dru, một địa-phương-quân (Garde indigène), mình đoán là lính Tây, kiểm soát người thượng và người kinh tại Đàlạt, để bảo vệ người Pháp ở cao nguyên kể: Đàlạt có nhiều đồi cỏ thấp; mỗi đồi có một căn nhà bằng gỗ, tiện nghi hơn căn nhà ông ta được bố trí. Dạo ở Đàlạt đồi cù ít cây lắm, trơ trọi vài cây thông. Có lẻ khi xưa, các đồi vùng này cũng tương tự, chỉ người pháp đến mới trồng thêm. Nay thì Việt Cộng chặt hết cây như thể muốn xoá tan hết dấu tích của thực dân tại Đàlạt. Mình không hiểu sao, họ không đặt tên hồ Xuân hương thành hồ Lê Văn Tám, hồ Than Thở thành hồ Võ Thị Sáu,... Trên một ngọn đồi, căn nhà của ông thanh tra địa phương quân, Joseph-Jules Canivey, có vợ là một người phụ nữ âu châu. Một căn nhà của một ông độc thân, làm cho bưu điện. Không biết có phải ngọn đồi nơi ty bưu điện được xây cất sau này, cạnh Hotel Du Parc. Ngọn đồi thứ 3 là của ông Résident supérieur d’Annam, Jean Auvergne, nhà cửa sổ, đàn Dương cầm và một bàn đánh bi-da. Ngọn đồi thứ 4, là ông Paul Champoudry, thị trưởng đầu tiên của Đàlạt. Nói chung các người này chả làm gì ngoài đi săn bắn cọp trong vùng, trong khi các người khác phải lo cung cấp thực phẩm cho họ. Mình có thấy mấy tấm ảnh xưa, cho thấy mấy căn nhà này. Đây là những nhà nghỉ đầu tiên được xây cất cho người Pháp lên đây sống tạm Năm 1902, Paul Doumer muốn thành lập khu nghỉ dưỡng Đàlạt, với ý định trở thành một trung tâm quyền lực của Đông Dương. Lý do để chữa bệnh sốt-rét thì không đúng hẳn vì dân địa phương bị đau ốm mệt thở. Đọc tài liệu do các người pháp được chỉ định đi khảo sát cho ông Doumer thì Đàlạt không đủ tiêu chuẩn để xây một trung tâm nghỉ dưỡng, tốn tiền và sinh mạng do người Âu châu ước đoán là trên 20,000 người Việt. Khiến các bộ lạc người thượng dời đi, chạy trốn sang Lào, vì bị bắt đi phá núi, phá rừng để thành lập con đường lộ và dường sắt dẫn đến Đàlạt. Mình đoán con số này còn cao hơn nữa vì mỗi ngày có đến trên 6,000-7,000 làm việc công tác phá rừng, phá núi với những điều kiện không như ngày nay. Ông Trần Tiến có làm bài hát “giấc mơ Chapi” khiến mình nhớ đến các người của mấy bộ lạc ở vùng này bị sát hại khi bị bắt lao động, phá núi phá rừng. Ông ta nghĩ thành lập Đàlạt, để giúp các công chức hành chánh của chính quyền bảo hộ, có thể lên đây nghỉ dưỡng, đem gia đình và con cháu họ học hành tại đây. Do đó trong bản phát hoạ thiết kế đô thị Đàlạt mới có các trường học tiểu học và trung học (Petit và Grand Lycee). Các trường Bảo Long (Trần Hưng Đạo) và (Phương Mai?) Bùi Thị Xuân được thành lập sau này cho con cháu các người Việt làm việc cho chính quyền thực dân, được lấy tên của ông Bảo Đại để đặt tên trường. Bản vẽ tổng quan của thành phố Đàlạt. Ta nhận thấy có 2 hồ mà người Pháp gọi là Petit Lac và Grand Lac được ngăn chia bởi con đường vừa là cái đập nước. Cấu trúc phân chia rõ ràng, khu người Việt ở phía dưới gần mấy con suối như Phan Đình Phùng (Cầu Quẹo) khác hẳn khu người da trắng (trên đồi núi) Có lẻ vì vậy mà ông Bảo Đại ra chỉ dụ, biến Đàlạt thành “Hoàng Triều Cương Thổ”, không cho người Việt định cư ở đây, dù vùng này thuộc về Annam, dưới quyền kiểm soát của triều đình nhà Nguyễn. Chỉ có người âu châu mới được phép sinh sống, và người Tàu làm ăn tại đây. Mẹ mình kể là khi vào Đàlạt năm 1948, cần phải có giấy bảo chứng của người cậu bà con. Nhìn bản đồ các con lộ dẫn đến Đàlạt từ Phan Thiết khiến mình hình dung đến cảnh một cô gái Huế, 15 tuổi, đi vào Tourane, ở nhờ nhà bà con, đợi ngày có tàu thủy để vào Phan Thiết rồi từ đó, đi xe lên Đàlạt, mà sau này về Đàlạt, mình có đi lại con đường này với gia đình. Thấy mẹ mình miên man nhìn phong cảnh xung quanh, đoán là mẹ nhớ lại thời vào Đàlạt định cư. Bố mình thì chỉ phía trại cải tạo Đại Ninh, nơi bị Việt Cộng giam giữ 15 năm của đời người. Bản đồ này gợi nhớ đến hành trình của mẹ mình, 15 tuổi đi từ Huế vào Đà Nẳng (Tourane). Lấy tàu thuỷ đến Phan Thiết rồi từ đó mới lên Djiring rồi đến Đàlạt năm 1948. Một khi Đàlạt được nối liền với Sàigòn bằng đường xe chạy và đường xe hoả thì thành phố này có thể giúp người Pháp bình định lâu dài tại Đông Dương. Nếu rau cải được trồng tại đây, sẽ tạo dựng cuộc sống tương tự mẫu quốc cho các người Pháp định cư tại á châu. Đầu năm 1898, Paul Doumer cử một phái đoàn lên nghiên cứu cao nguyên, do đại uý Thouard và thiếu uý H. Wolf hướng dẫn. Hai người này được lệnh vẽ trắc địa của hai vùng cao nguyên và các đường khả dĩ thực hiện để kết nối với đồng bằng. Louis Jacquet, giám đốc canh nông của Đông Dương, được lệnh phải thử nghiệm trồng trọt rau cải tại vùng này với ý định, khu nghỉ dưỡng sẽ trở thành nơi cung cấp rau cải cho người Âu châu tại thuộc địa. Kết quả, ông Jacquet cho thấy sự thực hiện trồng trọt tại đây rất tốt. Ngược lại hai ông chuyên gia trắc địa bày tỏ sự lo ngại của kế hoạch xây dựng thành phố núi này. Ngày 29 tháng 1898, ông Thouard than phiền với bác sĩ Yersin là ông ta đã hết tiền để trả lương các cu-li. Ngoài ra cao độ không làm giảm thiểu các bệnh sốt rét. Tất cả các người âu châu trong đoàn đều bị bệnh. Người việt đi theo đoàn, làm cu-li đều bị bệnh. Ông ta kể nếu làm lại cuộc hành trình này thì ông ta phải suy nghĩ thật kỷ thay vì nhận 12 quan pháp mỗi ngày. (365 x 15 = 4,380 quan pháp/ năm). Người Âu châu vào thế kỷ 19, sau cuộc cách mạng long trời lở đất tại Pháp, các nước Âu châu đi tìm tài nguyên để cung ứng cho cuộc cách mạng kỹ nghệ của họ. Họ cần người của họ để cai quản ở bản xứ. Do đó có nhiều người bần cố nông, muốn thoát nghèo nên tình nguyện đi, lập nghiệp rất đông. Hy vọng kiếm một số tiền làm vốn, trở về quê như mấy người Việt Nam đi lao động ở Hàn quốc, Mã-lai, Tàu hay nhiều khi phải chết để sang tới Anh Quốc. Xe hủ-lô kiểu dã chiến khi xưa, thấy dân công người Việt đội nón lá vì người thượng không đội. Làm đường lên Đàlạt . Ông Võ Quang Tiềm và ông Phúng gánh 3 ngày 3 đêm đem đồ bán cho mấy người nhân công này. Thay vì xây dựng đường nối kết Langbian với Nha Trang, họ đề nghị xây dựng con đường xe lửa trong tương lai từ Phan Rang, Songkra (Song-Pha), ngắn hơn là từ Nha Trang như ông Yersin đề nghị. Nếu mình không lầm, ngày nay họ có xây một đường cao tốc Đàlạt -Nha Trang. Kết quả họ lấy trắc địa được vùng cao nguyên này. Mình rất ngạc nhiên khi xem bản vẽ xưa về đồ hình của Dankia và Đàlạt. Không ngờ chính là đoàn thám hiểm này. Khi ông Doumer hỏi tỉnh trưởng Biên Hoà, Alphonse Chesne, về sự thành lập đường rày xe lửa Sàigòn và Đàlạt. Ông này giới thiệu một tay săn cọp và voi ở Đông Dương, người ý, tên Oddera. Ông này có liên lạc các bộ lạc sống ở vùng này, và có vẽ các người này như người Cho-Ma, Chu-Ru,… người Việt hay chửi nhau “đồ Chó Má”. Mình không biết có phải từ bộ-lạc này hay không. Tây làm việc với người Mọi, Chu-Ru, Cho-MA nên có lẻ hay dùng Cho-MA để chửi thề rồi người Việt bắt chước. Tương tự “Mẹc xà lù” (merde salaud). Ông ta cho biết về phong tục, tập quán các bộ lạc sống ở vùng, giúp người Pháp cai quản các bộ lạc sau này. Mặc dù nghe phái đoàn này đưa ra những kinh nghiệm của hành trình nhưng ông Yersin, vẫn nhất quyết muốn tiếp tục kế hoạch này, và viết thư mời ông Doumer lên viếng để xem cho tận mắt trước khi lấy quyết định huỷ bỏ. Ông toàn quyền nhận lời và lên thăm viếng Dankia vào năm 1900. Đại uý Léon Garnier tốt nghiệp trường võ bị Saint-Cyr của Pháp trước khi được bổ nhiệm làm việc tại biên giới Việt-Hoa. Ông ta ngã bệnh và được hồi hương năm 1894. Sau đó ông được gửi trở lại Đông Dương 1898-1899. Ông ta được bổ nhiệm tìm cách xây dựng một con đường nối liền Sàigòn và Langbian. Người từng có kinh nghiệm về nghỉ dưỡng khi bị bệnh tại Đông Dương, ông ta hiểu rõ tầm quan trọng sự thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng trên cao nguyên. Sau này ông trở thành tổng đốc của vùng này. Mình tưởng bà con hay con cháu gì với ông đại uý Garnier, nổi tiếng chết, để pháp kiếm cớ xâm chiếm Việt Nam mà thầy dạy trong giờ lịch sử Việt Nam. Đây là hình ảnh (1930) nhà thương được xây cất và các dãy nhà phía sau,mình đoán là các bệnh xá để binh sĩ và công chức pháp nghỉ dưỡng. Xa xa thấy nhà thờ Domaine de Marie. Cư xá Công Chánh chưa được xây cất. Ngoài ra còn có đại úy Paul Guynet đã kể khi đi khảo xét thành lập con đường giao thông từ Phan Rang lên Langbian. Ông ta kể là sống ở Đàlạt quá sướng, với khí hậu mát mẻ so với khí hậu Sàigòn. Chúng tôi đi săn cả ngày mà không mệt so với khí hậu ở Pháp vào mùa này. Mình sống tại 5 quốc gia, đi du lịch trên 35 nước thì thấy không khí Đàlạt vẫn tốt hơn hết nhất là vào mùa khô. Đến khi mình lập nghiệp tại Cali thì không khí ở miền nam Cali tuyệt vời. Mình ở cách biển 20 phút, 60 phút lên núi trượt tuyết. Có lần, sáng mình đi với vợ con lên núi trượt tuyết, chiều về ghé ra biển, đốt lửa ăn cơm với bàn bè. Tuyệt vời. Ông đại uý này là người đã gây ảnh hưởng, giúp Doumer quyết định xây thành phố Đàlạt thay vì Dankia, làm ông Yersin buồn lòng. Chỉ vì 50 mét cao hơn Dankia, càng cao thì càng tốt. Mình nhớ khi xưa, đi Tùng Nghĩa là thấy nóng, cứ xuống đèo Prenn là thấy nóng. Từ tháng 3 năm 1900, con đường từ Phan Rang lên đến Daban đã được hoàn tất. Và từ đó lên Đàlạt hay Dankia thì có đường mòn cho người đi bộ và lừa đã được dọn xong. Chỉ cần hoàn tất cầu ở Balach (Ba-lạch?) là xong. Xây dựng con đường này đã làm mồ chôn rất nhiều người địa phương. Chết chóc, bỏ trốn, bị bắt lại, bị đánh đập tàn nhẫn. Chúng ta không biết con số chính xác nhưng chắc phải trên mấy chục ngàn người. Mình xem hình ảnh cái hủ-lô họ dùng khi xưa, khi chưa có chiếc hủ-lô, chạy bằng nước như hồi bé mình có thấy tại Đàlạt. Năm 1908, theo tài liệu của thuộc địa thì có trên 20 ngàn người cu-li (Tây gọi là coolies), đã chết khi thực dân khai phá con đường lên đèo Ngoạn Mục. Theo báo cáo của thuộc địa Đồng Nai thì mỗi ngày, họ đoán là có từ 6,000-7,000 người làm việc tại công trường, đa số là bị ép buộc lao động. Một năm sau, họ muốn thêm người thượng, khiến nhiều nhóm đã bỏ trốn qua Lào. Người ta có ghi lại những câu thơ của người thượng bị ép buộc lao động không lương. Theo tài liệu của người da trắng, kể là khi họ lên Đàlạt, các người thượng, khoẻ mạnh được sử dụng để gánh họ và lương thực, quần áo, dạ hội đủ trò. Nội ông thần gì ở trên Đàlạt, có cái đàn dương cầm, và bàn đánh bi-da, để giải sầu, được người thượng gánh đem lên tới nhà. Theo tài liệu kể thì người ta gánh mấy ông Tây bà đầm lên tới đèo Ngoạn Mục và từ đó xe hơi sẽ rước họ lên Đàlạt. Mấy tù nhân bị bắt buộc, gánh mấy ông tây bà đầm lên núi để trị bệnh. Ngoài ra còn có thợ người Kinh, do các người Tàu tuyển mộ từ các nơi nghèo khổ như Huế, Qui-Nhơn, BÌnh Định vào làm, được trả tiền nhưng cũng châm vì họ bị bắt làm cực nhọc nên có lúc phải đình công. Mình có đọc bài của ông Lê Đức Anh, cai đồn điền cao su cho Tây, kể lại những xâm nhập của Đảng viên cộng sản vào các đoàn thể nhân công, kêu gọi họ đình công. Mình đoán trong nhóm thợ làm việc để xây con đường nối liền với Đàlạt, cũng có những Đảng viên cộng sản mò vào để khuấy động phong trào chống lao động áp bức. Mình đoán thôi là các ông xu (surveillant) mà người Đàlạt hay gọi, có thể là họ khởi đầu làm việc tại mấy công trường này, rồi nhờ thông minh, học nghề nhanh nên được bổ nhiệm làm Surveillant mà người việt gọi là Xu. Sau này ở lại Đàlạt, xây cất nhà cửa cho Tây, về quê cưới vợ chân dài, đem vào Đàlạt, làm việc xây cất cho Tây rồi khi Tây về nước thì họ biết cưa gỗ bán cho Đàlạt, Sàigòn, giàu to. Mình nghe kể ông Võ Quang Tiềm, vào Đàlạt lập nghiệp bằng nghề thợ may, sau đó về quê, cưới vợ đem vào Đàlạt. Bà Tiềm là chị em cô cậu hay chú bác, không nhớ rõ, với mệ ngoại mình. Sau đó, bà Tiềm đem mấy người em vào như ông Phúng, (tiệm Hiệp Thạnh), ông Đàng (tiệm Long Hưng), như dì Tân, mới qua đời năm ngoái. Cậu Liễu giúp cho ông Tiềm bán thuốc Cẩm Lệ, sau đó ra chợ mở quán bán thuốc Cẩm Lệ bên cạnh hàng của bà Bỉnh, mẹ của Phú Nguyễn, nay ở Gia Nã Đại, rể rượu Lafaro Đàlạt xưa, ở xóm trên đường Thi Sách. Gian hàng guốc dép, giày dép. Sau này ông Phúng làm ăn khá giả cần người tin cẩn nên về làng đem bà cụ mình vào lúc ấy mới 15 tuổi. Sau này cho ra riêng, gả chồng. Rồi sơn đen ra đời. Trong báo cáo năm 1898, ông Fernandez Bernard tường trình bên Ấn Độ, người anh đã sử dụng đường rày răng cưa để chạy lên đỉnh Darjeeling tương tự ở Lebanon. Cuộc xây dựng đường rày xe lửa khiến thuốc địa hao tốn. Lúc đầu họ dự trù 200 triệu đồng Đông Dương . Mình không nhớ vào thời gian nào, hối đoái dạo ấy một đồng bạc Đông Dương ăn 10 quan pháp. Mấy người giàu có tại Đàlạt đều cho con đi du học vì quá rẻ. 200 triệu đồng Đông Dương là 2 tỷ Phật-lăng pháp. Cho thấy thuộc địa đem lại lợi tức cho mẫu quốc khá nhiều. Đoán là cầu Balach vì có nhiều người chết ở đây khiến nhân công người Việt đình công. Tuyến đường này bắt đầu năm 1898 đến năm 1910 thì ngưng vì hết ngân quỹ. Hai năm sau, mới tiếp tục lại nhưng chỉ đến Xomgon (xóm Gòn?) cách Đàlạt 83 cây số. Ai biết thì cho em hay để bổ túc. Đến năm 1926 thì đến Sông Pha (cách Đàlạt 40 cây số) và đèo Ngoạn Mục năm 1927. Cuối cùng đến Đàlạt năm 1932. Mất 34 năm mới hoàn thành con đường Ngoạn Mục này với bao xương máu của người Việt đổ và chết tại đây. Tuyến đường này được sử dụng đến năm 1968 thì mấy ông Việt Cộng đặt mìn phá hoại rồi sau 75, gở ra bán ve chai cho Thuỵ Sĩ. Xem như 20 mấy ngàn người Việt chết thảm khi bị ép buộc xây dựng con đường này và gần tỷ đồng Đông Dương do người Việt đóng thuế cho Tây, biến thành mây khói. Chán Mớ Đời Các người Âu châu định cư tại Đàlạt thử nuôi bò, trồng rau, lúa,…như trường hợp vợ chồng ông Jean O’Neil. Không biết người xứ nào vì tên thì có vẻ Ái Nhỉ Lan. Ai có tin tức gì thì cho mình xin. Cảm ơn trước. Đọc lại thì ông ta là người được phái lên Đàlạt để thiết kế kiến thiết đô thị Đàlạt. Có lẻ không thành công lắm vì khi xưa mình thấy bò có vài con được nuôi trên đường Trần Bình Trọng , gần Thánh Địa Đức Bà. Nghe kể là sau vụ đập hồ Xuân Hương bị vỡ năm 1932 thì bà O’Neil không làm lại, có lẻ chồng qua đời. Đọc lịch sử về Đàlạt thì khám phá có nhiều cá nhân khá đặc biệt, giúp hoàn thành thành phố không tưởng Đàlạt ngày nay. Có một ông cựu hội đồng thủ đô Paris, tên Paul Champoudry, thuộc Đảng xã hội từng là giám sát công trường xây dựng Métro của Paris cho hội chợ thế giới năm 1900. Về già, con cái đông nên ông sang Việt Nam và giám sát các công trình xây dựng các cơ quan hành Chánh của chính quyền thuộc địa và người thị trưởng đầu tiên của Đàlạt. ông này là thị trưởng đâu tiên của Đàlạt, người có ảnh hưởng về địa hình, kiến trúc của Đàlạt sau này. Ông ta xin phép được thuyên chuyển năm 1901, vì điều kiện sức khoẻ, viêm phổi. Còn nếu không thì phải cho thêm ngân sách để thành lập Đàlạt với hệ thống ống cống, nước, điện,… các người đến Đàlạt thời đó kể lại là thành phố tiêu điều vì chưa có gì đã xây dựng khi chính phủ hết tiền. Năm 1898, hành chánh mượn 200 triệu quan pháp, đến năm 1910 thì hết ngân quỹ. May thay trong thời gian đệ nhất thế chiến, người Âu châu không về nước nghỉ hè thường niên được nên họ kéo nhau lên Đàlạt, giúp thành phố này sống lại với ngành du-lịch nhưng năm 1913, Đàlạt vẫn chỉ hơn 1 chục nhà nghỉ. Họ yêu thích khí hậu ở đây và khuyến khích chính quyền thực dân tiếp tục cải tiến Đàlạt. Nhìn lại, nếu không có đệ nhất thế chiến thì có lẻ Đàlạt, đã trở thành thành phố ma, mà người Pháp bỏ biết bao nhiêu tiền của của người Việt, bao nhiêu người Việt đã chết để xây dựng một trung tâm nghỉ dưỡng với tầm xa là thủ đô của Đông Dương. Trên 20 ngàn người thượng du chết trên đường từ Phan Rang lên đèo Ngoạn Mục. Có lẻ vì vậy dạo mình còn bé, ít thấy người thượng vì cha ông của họ bị giết khi xây dựng công trường này. Nếu người pháp không đốt tiền cho thành phố nghỉ dưỡng thì có thể, cao trào kháng chiến chống pháp không lên cao. Với những tin tức chết người, thêm hình ảnh của Tây đá đít phu xe kéo người Việt trên các tờ báo Tây, đổ thêm dầu vào cuộc kháng chiến chống pháp. Những nhà nghỉ đầu tiên được làm bằng gỗ tại Đàlạt. Khác với Việt Nam, khi người Tây phương đánh chiếm các vùng Nam Mỹ hay Bắc Mỹ thì khí hậu ở đó tương tự ở Âu châu nên họ không có vấn đề hội nhập thời tiết tại địa phương. Ngược lại khi họ qua Phi CHâu hay Đông Dương thì khó chịu đừng thời tiết vùng nhiệt đới với muỗi, bệnh số trét nên công cuộc đánh chiêm của họ lâu dài có vấn đề, cần phải giải quyết nêu họ muốn chiếm ngự Vĩnh viễn như tai Mỹ Châu. Khi chúng ta đi thăm viếng các đền đài như Angkor Vat, Kim tự Tháp,… chúng ta chiêm ngưỡng cái đẹp của đền đài nhưng không ai nhắc chúng ta, nhớ đến những người lao động đã nằm xuống để thực hiện các điểm nhấn du lịch này. Có lẻ nên khấn thầm cho vong hồn họ siêu thoát. (Còn tiếp) Nguyễn Hoàng Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2021 18:13:55 GMT 9
Lý do Đàlạt ra đời #2 www.muctimsonden.com/2021/01/tai-sao-nguoi-phap-xay-alat-thay-vi.htmlTại sao là Đàlạt thay vì Dan-Kia (Lang-Sa) Tháng 7 năm 1897, Doumer nhận báo cáo của các cố vấn y tế về các tiêu chuẩn căn bản để thiết lập trung tâm điều dưỡng lý tưởng cho binh sĩ và công chức pháp tại Đông Dương: cao độ tối thiểu 1,200 mét, có nhiều nước sạch, đất tốt, khả năng xây dựng một hệ thống thông tin. Dựa trên những yếu tố trên thì cao-nguyên Lang-bian hội đủ hết các tiêu chuẩn. Ông Yersin giải thích vùng này có nhiệt-độ trung bình như vùng Địa Trung Hải vào mùa xuân. Hy vọng chính phủ thuộc địa, có thể thực hiện chương trình của ông Doumer, thành lập một khu điều dưỡng trên cao nguyên, gần Sàigòn, và có thể di chuyển vài tiếng với không khí gần như ở Pháp, nhất là gần thành phố Nha Trang, nơi ông ta sinh sống và làm việc. Các nhà khí tượng pháp đo đạt trong suốt hơn 1 năm trời (1899-1901) để so sánh với khu nghỉ dưỡng Raj, của người Anh Quốc bên Ấn Độ. Một thủ đô mùa hè của người anh tại thuộc địa. Kết quả cho thấy Lang-Bian là địa điểm lý tưởng cho đế quốc pháp tại Đông Dương. Đầu thế kỷ 20, chỉ huy trưởng quân đội pháp tại Đông Dương, tướng Théophile Pennequin tìm cách lobby Paris ngân sách để xây dựng khu nghỉ dưỡng tại cao nguyên Lâm Viên. Ông này sinh năm 1849, từng tham dự chiến tranh Pháp-Phổ, tham gia chiến dịch bình-định tại Madagascar, và tham gia các cuộc bình định tại Việt Nam vào những năm 1882, 1888, 1889. Ông tướng này cho biết binh sĩ mẫu quốc không hợp với phong thổ địa phương, mỗi ngày sức khoẻ sẽ giảm đi và nghĩ đáp án cuối cùng là thành lập một trung tâm điều dưỡng trên cao nguyên lâm-viên. Giúp phục hồi sức khoẻ và tinh thần binh sĩ và công chức nhanh chóng. Năm 1902, trong một báo cáo, ông ta có nói đến thành lập một đơn vị quân sự tại cao nguyên Lâm Viên. Ông cho biết “ người Pháp chúng ta khó lập nghiệp và làm giàu lâu dài tại Đông Dương vì khí hậu quá cay nghiệt. Nếu một số người Pháp có thể thụ hưởng được khí hậu giống như ở mẫu quốc thì họ có thể làm việc hăng say, giàu có và ở lại đây mãi mãi.” Kiểu dân đi làm ở Alaska ở Hoa Kỳ, làm ăn một thời gian, như mì ăn liền, kiếm đủ vốn trở về mẫu quốc. Chính sách của ông ta là khuyến khích người Pháp sang đây lập nghiệp, ở lâu dài thì mới giúp cho đế quốc hùng mạnh. Tương tự người pháp sang Bắc phi lập nghiệp, sinh con đẻ cái mấy đời, mà người ta gọi là “Pied Noir” dân ở phi châu. Cuộc cách mạng kỹ nghệ khiến Pháp quốc phải tìm tài nguyên trên các thuộc địa, để cung ứng cho các nhà máy kỹ thuật, để chạy đua với Anh Quốc. Có lẻ vì vậy, trong thời chiến tranh, quân đội Mỹ hay lên Đàlạt để nghỉ dưỡng cũng như được bay qua Okinawa, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan, những quốc gia sống và phát triển nhờ chiến tranh Việt Nam …để nghỉ dưỡng trước khi trở lại chiến trường. Trên cương vị một vị tướng với chiến lược lâu dài, ông ta quan tâm đến sự sống còn lâu dài của người Pháp tại Đông Dương, một điều tiên quyết để giữ gìn lâu dài đế quốc Pháp. Nếu chính phủ có thể xây dựng một vùng nghỉ dưỡng với khí hậu ôn hoà như Âu châu, sẽ giúp người Pháp sinh sống tại đây, phát triển mạnh, sẽ giúp duy trì chính quyền thực dân tại Đông Dương. Do đó các bác sĩ pháp đã nghiên cứu ngay từ đầu về y tế cộng đồng nhằm giúp thành lập một trung tâm điều dưỡng và một vùng toàn là người Pháp ở để cai trị toàn cỏi Đông Dương. Hình như có một cặp vợ chồng da trắng tên O’Neil (tên này thường là người Anh Quốc) sinh sống tại Đàlạt, mở nông trại, nuôi bò để cung cấp sữa tươi cho người Âu-chau tại Việt Nam. Mình có tấm ảnh chụp mộ bia của ông này nhưng nghe nói là sau vụ cái đập đầu tiên cạnh Thuỷ Tạ bị vỡ thì nhà cửa cua nông trại tiêu tan và không bao giờ được làm lại. Mình lại đọc đâu đó, ông O’neil được gửi sang làm việc cho chính quyền pháp, để giúp xây dựng Đàlạt. Cũng có thể sau đó ở lại Đàlạt luôn đến khi chết. Hoá ra ông Jean Oneil là một kiến trúc sư, được phái sang Việt Nam, phát hoạ phát triển thành phố Đàlạt. Mình có thấy mấy tấm ảnh của nông trại của gia đình, gần cầu Ông Đạo ngày nay, không hiểu người Pháp họ làm cái gì. Sau này đọc thêm tài liệu thì mới khám phá ra vụ này. Hình mộ ông Oneil. Các trường học như Petit Lycée Yersin, Grand Lycée Yersin, Couvent des Oiseaux,..được thành lập để giảng dạy cho con em người Pháp làm cho chính quyền thuộc địa hay con những tư nhân, công chức làm trong chính quyền thực dân tại Đông Dương. Thấy mấy tấm ảnh xưa ở Petit Lycee cho thấy toàn là con của người Pháp. Hình này chụp trường tiểu học Petit Lycee Yersin, vào năm 1948. Thấy đa số là Tây đầm con, lơ ngơ 1 tên mít con đứng một mình. Chỗ này là nơi mình ra chơi năm 8ème và 9 ème buổi chiều, gần 20 năm sau. Dạo ấy tây về nước nên không thấy đầm tây trong lớp nhiều. Trên thực tế thì cũng có những ý-kiến đối nghịch, chống đối sự thành lập khu nghỉ dưỡng Lâm-Viên. Một chuyên gia trắc địa tên Bernard Lazare lên tiếng phản đối chương trình này vì năm 1898, được cử lên đây xem xét khả năng để xây tuyến đường xe-hoả đến Lang-Bian. Vào tháng 11 năm 1898, khi ông ta đến Lang-Bian, có viết thư cho bố mẹ: thất vọng về dự án xây dựng một trung tâm nghỉ dưỡng tại đây. Ông ta kể ngay người Việt còn bị bệnh tại đây, chỉ có đâu 8, 9 người Pháp, toàn là những nhà đi khảo sát, đặt chân đến thiên đàng trên quả đất này. Năm 1901, ông ta có viết một bài đăng trên Revue de Paris, nói về các dự tính xây dựng Lang -Bian. Ông ta cảnh báo người Việt sẽ đuổi người Pháp ra khỏi xứ họ như đã từng làm với người Tàu, người Mông Cổ. Ông ta cho rằng tuyến đường xe hoả của Paul Doumer là một sự thất thoát, phí tiền đóng thuế của người Việt. Ông ta tiên đoán xe hoả sẽ chạy với ít hành khách vì chỉ có độ 68 đồn điền trên toàn cỏi Bắc kỳ và Nam Kỳ. Xét về kinh tế thì xây dựng tuyến đường này là thất sách. Cái này thì đúng vì mình nhớ khi xưa, còn bé đi Thái Phiên hay đâu đó với ông cụ. Sau này xe hoả dùng để chở rau cải bán cho người Mỹ. Chán Mớ Đời Gần đây, mình đọc báo chí Việt Nam, cho biết Hà Nội đang dự tính làm lại tuyến đường này để triển khai du-lịch Đàlạt sau khi bán nữa triệu đô la cho Thuỵ-sĩ. Đi xe xuống hay lên đèo Ngoạn Mục là đã buồn ngủ huống chi xe chạy răng cưa, 10 cây số một giờ trong thời đại 5 Gờ. Kinh Ông ta chỉ trích bác sĩ Yersin, bằng cách đưa ra các khám phá mới của Laveran (khôi nguyên Nobel) và Blanchard của người Pháp, Grassi và Celli của Ý Đại Lợi, Ross của Anh Quốc và Koch của Đức quốc có thể giúp chúng ta có cái nhìn rõ hơn về bệnh sốt-rét và muỗi lây bệnh khi chích một bệnh nhân và lây Lan qua người khác. Sự chống đối chỉ trích của ông này đã làm ngừng trệ sự thành lập Đàlạt đến 20 năm sau. Có lần về Đàlạt, mình có đi Song-Pha thăm một trại mồ côi mà Bút Nhóm Lửa Việt bảo trợ. Tài xế chạy con đường qua đèo Ngoạn Mục. Dạo ấy, Việt Cộng họ đang làm nữa chừng rồi ăn hết tiền nên thấy xe máy cày bỏ bên đường mọc rong rêu, đường xá thì ổ gà, xình lầy không như khi xưa mình có đi qua đây, Tết năm 12 B, 1973. Xe xuống đèo khiến mình mường tượng đến những người việt đã chết khi xây tuyến đường này và xe hoả. Khởi đầu con đường từ Phan Rang lên Lâm Viên, gây ra nhiều cái chết cho người da trắng. Nội tháng 4 năm 1900, có 20 người Âu châu và 100 người Việt tháp Tùng, làm cu-li khiêng đồ như du khách đi viếng Machu-Pichu ở Peru, có người dân địa phương, gánh đồ, nấu cơm, dựng lều,.. mấy người da trắng đi thám hiểm, đều có phu khiêng kiệu như bên tàu, lên vạn lý trường thành. 3 tháng sau, có 4 ông Tây chết và 8 người nằm nhà thương, còn 80 người Việt mất tích hay chết. Cọp vồ ban đem. Kinh Trong một chuyến đi khác, bác sĩ Sebastien Tardif cho hay nếu uống Quinine thì đỡ hơn nhưng cũng có 4 người Tây bị chết và nằm dưỡng sức 4 ngày vì bị lên cơn sốt. Điều ông ta lo ngại nhất là ngay các cu-li Việt Nam cũng bị bệnh lên cơn sốt. Ảo tưởng về xây dựng một thành phố trên cao nguyên Lâm Viên bắt đầu ít được người tán thành. Vào đầu thế kỷ 20, bệnh sốt-rét là vấn nạn lớn cho các đế quốc Tây phương khi họ chiếm đóng các lãnh thổ ở vùng nhiệt đới, đầy tài nguyên. Lý do là phải trả giá rất đắt về nhân sự, chết vì cơn bệnh này. Anh Quốc đã tìm ra Simla, Raj mà chúng ta hay thấy trong các phim Ấn Độ. Ông chuyên gia về bệnh sốt rét ở viện Pasteur Sàigòn, Joseph Emile Borel, tiếp tục dẫn chứng là khi lên cao độ của Lâm-Viên thì các hiệu chứng của bệnh này ngừng ngay. Họ cho biết muỗi gây bệnh Sốt rét dừng ở 800 mét cao độ. Cái này thì mình không tin vì ông cụ mình ở Đàlạt, hay bị lên cơn sốt rét, rên hừ hừ, kêu mình lấy thuốc Quinine để bố uống mới từ từ đỡ lại. Đó là sự tranh chấp giữa hai trường phái y-khoa. Cuối cùng thì chính phủ pháp nghiên về nhóm của bác sĩ Yersin, ý định quân sự, Lâm-viên có thể giúp người Pháp chiếm đóng Đông Dương lâu dài, nếu không bệnh tật, và có thể thành lập thủ đô Đông Dương ở đây để cai quản vùng này. Đàlạt thuộc vùng Annam, xem như tự trị của triều đình Huế. Tham vọng của tham mưu trưởng quân đội viễn chinh pháp là thành lập một địa điểm, thành phố có thể giúp người da trắng cai trị Đông Dương lâu dài. Có lẻ vì vậy mà khi họ đem ông BẢo Đại về nước làm vua, ký sắc lệnh biến khu vực Đàlạt thành Hoàng Triều Cương Thổ, để người Pháp có thể cai quản. Tục lệ từ xưa đến nay là đưa thái tử qua nước họ để nuôi nấng luôn tiện làm con tin như Attila. Attila thì thông minh, nghiên cứu hành chính quân sự của La-mã để sau này về nước, ông ta đánh quân đội viễn chinh la-mã tời bời. Do đó sau này, người ta chỉ lựa thái tử ngu ngu một tí, đem qua Tây cho ăn chơi mệt thở. Sau này về nước cứ nghe lời Tây. Còn mấy ông vua như Duy Tân, HÀm Nghi, còn nhỏ đã được lên ngôi thì cũng là bù nhìn cho mấy quan trong triều cho nên không thể nào nói họ này nọ. Mình có anh bạn học cũ dòng Nguyễn Phúc, kể là ông nội, lúc còn bé chơi với ông Bảo Đại. Sau vua Khải ĐỊnh, vô sinh, mình nghe nói là đồng tính nên triều đình nhận Bảo Đại làm con nuôi của Khải Định, thay vì ông nội của anh ta. Bố anh ta là dòng Ưng, còn anh ta là dòng Bửu, trong khi ông Bảo Đại là Vĩnh. Vai vế trong dòng họ thấp hơn anh ta vì Vĩnh sau Bửu dựa theo bài thơ đế hệ thi của vua Mênh Mạng. MIÊN HƯỜNG ƯNG BỬU VĨNH BẢO QUÝ ĐỊNH LONG TRƯỜNG HIỀN NĂNG KHAM KẾ THUẬT THẾ THOẠI QUỐC GIA XƯƠNG Lâu đầu, họ tính thành lập khu nghỉ dưỡng tại Dankia nơi ông Yersin đề nghị nhưng sau này họ lại thành lập tại Đàlạt ngày nay. Mình thắc mắc lý do nhưng không ai thuyết phục được mình cả vì họ chỉ nói khơi khơi không bằng chứng. Paul Doumer nghe lời Yersin thành lập một trung tâm nghỉ dưỡng cho người Tây phương, tạo thành một tiểu Pháp quốc, mang tên Lang-Sa. Người việt gọi nước pháp France là Phú-lãng-Sa, tầu gọi là Pháp Lan, nên sau này người Việt gọi tắt là Pháp. Có bài ca dao về nước pháp như sau: Từ ngày có Phú Lãng Sa Văn minh thì ít, trăng hoa thì nhiều Văn minh khắp cả Tây, Tàu Ông sư cũng húi cái đầu năm xu Văn minh khắp cả gần xa Sư ông xe đạp, sư bà xe tay Lang-Bian là một cao nguyên rộng lớn, dự tính là địa điểm thành lập trung tâm điều dưỡng như ông Yersin đề nghị. Một tiểu Pháp quốc như Doumer khởi xướng với tên là Lang-Sa (Pháp). Khởi đầu năm 1897 là một nông trại mẩu, một đài khí tượng và một đồn lính được thành lập gần làng thượng Dankia. Khu vực Dankia thời Tây mới đến Cách địa điểm này 13 cây-số về phía Tây-Nam, có một vùng đông dân cư hơn. Một căn nhà được xây cất cùng năm tại địa điểm được gọi là Đà-LẠt, ngọn suối của người Lạt, bộ lạc người thượng sinh sống tại đây. Ngoài con suối thì khu vực này có những lùm cây thông mà đại uý Guynet, người dẫn đầu cuộc xây dựng con đường vào năm 1899, xin thêm tiền để thành lập con đường nối liền Dankia và Dalat, để khi toàn quyền đến thăm sẽ di chuyển dễ hơn. Ông Doumer ra lệnh xây dựng một căn nhà dài 50 mét để gia đình ông ta lên đó viếng thăm để lấy quyết định xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng (LangBiang Hotel). Ta thấy toàn đến chơi vài ngày mà xây khách to lớn, với tiền thuế của người Việt. Có lẻ ông Guynet này thích vẽ đẹp của khu vực Đàlạt hơn Dankia. Bác sĩ Tardif , một thành viên của nhóm ông Guynet cho rằng khu vực Đàlạt cao hơn Dankia đến 50 mét, gió thoáng và sạch sẻ hơn. Làm như vậy là chống chọi lại nhóm ông Yersin, của viện Pasteur. Ông Yersin nổi tiếng khiến toàn quyền phải nghe lời viếng thăm Dankia theo lời đề nghị. Cuối cùng đồng ý về địa điểm Đàlạt ngày nay thay vì Dankia. Cùng năm ấy, Guillaume Capus giám đốc canh nông và thương mại Đông Dương, nghe lời đề nghị của Guynet và Tardif, chọn địa điểm Đàlạt thay vì Dankia. Ông ta cho rằng càng cao độ càng tốt cho sức khoẻ (50mét) và các rừng thông khiến ông ta nhớ về quê mình. Ngày 24 tháng 1, năm 1901 tòan quyền Doumer viết cho bộ trưởng thuộc địa, ông ta muốn đem gia đình lên cao nguyên Lâm viên chơi một thời gian, yêu cầu xây dựng một dãy nhà để cho gia đình và đoàn tuỳ tùng ông ta ở, sau đó sẽ biến thành khách sạn. Khách sạn Langbian sau này đổi tên Palace. Cuối cùng thì hai bác sĩ Haueur và Tardif tin rằng khu vực Đàlạt hiện nay cao hơn, có thể dùng để thành lập căn cứ quân đội tốt hơn Dankia. Ông ta cho biết có mấy người nông dân Pháp đã định cư tại vùng này từ 4 năm nay và rất khoẻ mạnh. Má hồng lại thấy tráng kiện. Không thấy muỗi Anopheles tại vùng này và căn cứ đóng quân không thấy bệnh sốt rét lây Lan. Không vợ chồng O’Neil có trong số này hay không. Mình phục người Tây phương là khi họ thực hiện chương trình gì thì đều điều nghiên kỷ càng, không bộp chộp như người Việt. Họa đồ tái phát triển Đàlạt, họ cứ làm đại, kêu thằng thợ vẽ Tây nào ra đứng lớ quớ, làm như Tây là giỏi hơn kiến trúc sư việt. Họ để cho người Tàu làm cái cầu kính, không giấy phép khơi khơi ỏ đập Đa Thiện, rồi hợp thức hoá. Phối cảnh do kiến trúc sư phát họa về Đàlạt với khách sạn xung quanh hồ trước khi cái đập bị phá vỡ vì lụt năm 1932. Ông Doumer cử ông bác sĩ Yersin qua Nam Dương để tham quan các khu nghỉ dưỡng trên núi đồi do người Hoà Lan thực hiện. Nam dương là thuộc địa của người Hoà Lan. Ngoài ra có những địa danh như Simla ở Ấn Độ thành lập năm 1831, Baguio ở phi Luật Tân vào cuối thế kỷ 19. Fernand Bertrand được toàn quyền Đông Dương gửi đi xem xét các chương trình điều dưỡng của NAm-Dương do người Hoà Lan chiếm đóng. Ông ta viết trong Revue de Paris, cho rằng người Hoà Lan, kêu họ không muốn tốn tiền để xây dựng thêm các trung tâm điều dưỡng ở cao nguyên vì kết quả không rõ rệt lại phải chi tiêu hơn 6 triệu francs. Ông Doumer mê giấc mộng xây một thành phố để đời đã nướng 20 triệu quan pháp hơn 3-4 lần người Hoà LAn ở NAm Dương. Ông Bertrand tìm cách loại bỏ chương trình xây dựng khu điều dưỡng trên cao nguyên thì phái chuộng như ông Vassal, lấy địa điểm Baguio của Phi lUật Tân được người Mỹ xây dựng vào cuối thế kỷ 19. Năm 1916, toàn quyền Đông Dương Ernest Roume, gửi một phái đoàn đến thăm viếng nghiên cứu Banguio. Bản báo cáo cho thấy người Mỹ chịu khó thành lập khu nghỉ mát. Họ nhận thấy các người da trắng được gửi lên đây tịnh dưỡng, lấy lại sức khoẻ để làm việc tốt hơn. Họ kể Baguio, có những biệt thự đầy hoa Hồng, hình ảnh của quê mẹ. Năm 1923, lãnh sự pháp tại Tân Gia Ba báo cáo là khu nghỉ dưỡng của người Hoà Lan ở Brastagi, vùng Sumatra, khiến các đại diện thuộc địa Anh Quốc từ MÃ-Lai, và Tân Gia ba kéo nhau đến đó nghỉ dưỡng khiến tòan quyền nức nở, lại càng mong muốn xây dựng Đàlạt. Cuộc tranh luận giữ hai nhóm chống đối và thuận cho công trình xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng quốc tế tại cao nguyên chưa ngã ngủ thì năm 1913, một bác sĩ quân y tên Dourne, đặt câu hỏi về các phương thức của bác sĩ Vassal, cho rằng chỉ có vài người Tây phương trông rất khoẻ mạnh, má đỏ môi Hồng. Ông ta ghi là về mặt y-tế không có gì lạ, ngoài trừ các thắng lợi cá nhân. Nếu xây cất thì những người này vớt khá nhiều tiền vì sẽ được ban cấp đất hay tham dự các chương trình xây cất. Vào những năm 1920, các nghiên cứu tại các thuộc địa Anh Quốc cho thấy muỗi Anopheles không lên tới cao độ 1,500 mét là sai. Thậm chí ở Quito, Ecuador, cao 2,742 mét vẫn bị sốt rét. Shillong gia tăng sốt rét. Chán Mớ Đời Chỗ hồ Xuân Hương, được xây khách sạn Lang-Bian, sau đổi thành Palace, có những chỗ đọng muỗi và các khu phố người Việt chỗ cầu Ông Đạo, gây thêm muỗi giúp bệnh sốt rét gia tăng. Nhưng họ lại khám phá ra khu người Tây phương có nhiều muỗi hơn là khu người Việt. Khu đất trũng cạnh hồ, nơi phố người Việt khởi đầu, đã được dời lên khu phố Hoà BÌnh ngày nay, khiến bệnh sốt rét giảm rất nhiều. Nhà thương được người Pháp xây cho việc điều trị và tịnh dưỡng. Vùng của người da trắng còn người dân sở tại thì ở các vùng thấp như khu Phan Đình Phùng. Có dịp mình sẽ bỏ lên bản đồ thiết kế của người Pháp, chia các khu vực indigènes chớ không đề huề như họ kêu gào. Họ cho biết là các trâu bò của người thượng là nơi giúp người Lạt không bị bệnh vì muỗi hút máu trâu bò no hơn. Nhưng khám phá khoa học này chứng minh các ghi chép của ông Yersin hay những người tiền vệ, rất sai khi nói là khu vực này sạch sẽ, không bị ô nhiễm, muỗi,… Năm 1937, vụ dịch sốt rét xảy ra tại Djiring và Dran (Đơn Dương) khiến trưởng cơ quan y tế khám phá ra muỗi Anopheles. Ông ta phán là vô lý đưa các bệnh nhân này lên Đàlạt, rồi muỗi chích, đem vi trùng đó lây Lan. Tốt nhất là để họ về Nhà Trang, Phan Thiết. Dạo ấy, hải quân pháp mới chế ra chiếc tàu ngầm đầu tiên nên Hải quân của Pháp quốc muốn có một trung tâm nghỉ dưỡng cho họ nên đề nghị xây một trung tâm nghỉ dưỡng tại Đàlạt. Xem hình cũ thì mình đoán trên đồi, cạnh bờ hồ mà sau này người ta gọi là Nhà Lao, trung tâm cải huấn. Thấy dãy nhà dài trên đồi. Mẹ mình bị mật thám Tây bắt và nhốt tại đây mấy tháng, bị trấn nước mệt thở. May được thả ra trước khi Tây đem bắn 20 người tại Cam Ly. (Còn tiếp)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2021 18:15:34 GMT 9
Đàlạt vườn rau của thuộc địa #4
Sau bao nhiều khó khăn, ngân quỹ cạn, cuối cùng thì người Pháp có thể thụ hưởng được không khí trong lành của cao nguyên, xa những chốn nóng oai bức nhiệt đới của thuộc địa ở miền đồng bằng như Sàigòn, Hà Nội.
Họ cho rằng muốn có sức khoẻ tại thuộc địa, họ cần được bồi dưỡng không khí tươi mát của đồi núi như ở quê nhà. Đàlạt là nơi giúp họ tìm lại không khí trong lành và tìm lại chút gì của quê mẹ. Không có bóng dáng dân địa phương nhiều như ở Sàigòn hay Hà Nội.
Dạo ấy, khi người Âu châu nghe nói đến Đàlạt, rừng thiêng nước độc, tạo cho họ hình ảnh rất tiêu cực. Các sách hướng dẫn, nói đến mùng, bệnh viêm, thiếu máu, sốt-rét…
Nhưng khi đến Đàlạt thì họ ngạc nhiên vì khí hậu ôn đới, không oai bức như ở Sàigòn hay các tỉnh miền nam. Nếu ai lên Đàlạt bằng xe, thì khi bắt đầu lên đèo Prenn, là chúng ta cảm thấy ngay cái lạnh se-sẻ, nhe-nhẹ của núi rừng khiến người Âu châu yêu thích rồi đồn với bạn bè của họ, tạo nên một phong trào thăm viếng Đàlạt.
Mình có đọc hồi ký của ông Tây dạy mình địa lý khi xưa ở Grand Lycee, kể những ngày đầu đến Đàlạt ra sao. Ông này thuộc dân “coopérant “, nghĩa là thay vì đi nghĩa vụ quân sự 1 năm thì họ xin đi làm việc ở một thuộc địa của pháp trong ngành hành chánh hay giáo dục 2 năm.
Sinh viên mới ra trường biết gì, như sinh viên Tây đầm sang Việt Nam ngày nay, dạy tiếng anh tiếng Tây, kiếm tiền đi chơi. Ông vua Hassan II của xứ mA-rốc , viết thư cho ông bộ trưởng giáo dục pháp, than phiền la Pháp quốc gửi các thầy dạy sang xứ ông ta, viết tiếng tây không chuẩn.
Dạo mình ở Tây, lúc gần ra trường, cũng có xin đi phi châu thay vì quân dịch 1 năm nhưng khi đi khám sức khoẻ ở trại lính. Mình rên với thằng Tây, phỏng vấn là mình sinh trưởng tại Việt Nam, chán ghét chiến tranh, nghĩ là nó sẽ chấp thuận cho mình đi phi châu 2 năm, ai ngờ nó ghi là miễn quân dịch khiến mình phải lang thang các xứ khác kiếm việc sau khi ra trường.
Đàlạt bổng nhiên trở thành địa danh mà các người Âu châu sống trên các thuộc địa tại Đông Nam Á, muốn đến thăm vì có thể ăn thức ăn như ở quê nhà, ăn trái cây như dâu, hay khoai Tây, artichaux,.. như ngày nay chúng ta đến Tiểu Sàigòn ở miền nam Cali.
Bảng quảng cáo cho khách sạn LangBiang (tiền thân thân của Palace). Chỉ thấy hình ảnh người thượng Sơn cước.
Đàlạt đã giúp các người Pháp sống tại thuộc địa, tìm được chút gì của quê hương họ. Quan trọng hơn là giúp phổ biến thức ăn nổi tiếng của pháp khắp Đông Dương. Muốn nấu thức ăn pháp thì người ta cần các loại trái cây, rau cải của pháp như khoai Tây, Xà lách, poireaux,… các loại này không thể nào trồng ở nam kỳ.
Hôm qua đi chợ, con gái nói mình phải nấu món
“Raclette” của Tây. Nó mới đi chơi bên pháp về, ăn món này nhưng tìm đâu ra món phô-mát loại này để làm. Đó là tại Hoa Kỳ ngày nay, còn 100 năm về ước ở Việt Nam. Chán Mớ Đời
Khi ông Doumer phái ông Jacquet, lo về canh nông ở Đông Dương tìm cách trồng trọt rau cải pháp thì kết quả rất khả quan. Tướng Pennequin có nhận xét rằng nếu chúng ta có thể trồng rau cải ở Đàlạt, sẽ giúp cho người Pháp ở lâu bền hơn tại thuộc địa này. Lý do là người Pháp rất chán đồ ăn Việt Nam, họ thèm thức ăn pháp mà các loại rau cải dùng để nấu cơm Tây không có. Bò ở miền nam, nóng quá chúng ốm như bò ma.
Mình đi đâu chơi ở ngoại quốc hay Hoa Kỳ nhưng độ 15 ngày sau là bắt đầu thèm ăn cơm Việt Nam. Mình có ông anh vợ, đi chơi bên Mễ, ông ta đem theo thức ăn Việt Nam đông lạnh cho 5 ngày. Qua đó hâm lên ăn vì không thích ăn đồ Mễ hay đồ Tây. Huống chi người Pháp tự xưng là món ăn của xứ họ là số một, phải nhai cơm mắm bò hốc hay mì chợ lớn hàng ngày.
Nghe kể, các người Tây phương sinh sống tại Nam kỳ, đứng xếp hàng và mua với giá cao khi tàu cập bến từ Pháp quốc, bán các thứ như artichaux, táo, dưa Tây,… họ thèm ăn thịt cừu. Họ có tìm cách nuôi ở đảo Phú Quốc nhưng chỉ làm mồi cho cọp và đỉa. Họ có cho nuôi thử cừu ở Đàlạt nhưng bị ký sinh trùng hay cọp xơi hết. Mình không nhớ là có thấy cừu tại Đàlạt. Gà tây thì có ngay góp đường Lê quý Đôn và Hùng Vương, có hai nhà tây, nuôi mấy con này để thịt vào đêm Noel.
Ông Doumer có nhờ ông Jacquet, giám đốc canh nông ở vùng Annam, tìm cách gieo giống trồng rau cải tại Đàlạt nhờ vậy mà ngày nay ở Đàlạt mới có cà phê, mận, dâu tây, artichaux, poireau, xà lách,..
Trồng rau cải thành công nên người ta đem bán cho tây đầm ở các tỉnh lỵ miền nam như Sàigòn. Vấn đề là chuyên chở rất đắt mà các người làm nông Tây phương rất ít nên không thể sản xuất nhiều để cung ứng cho thị trường Đông Dương.
Đây là hình ảnh mà mình đoán của người Âu châu lập nghiệp trông rau cải tại Đàlạt. Hình ảnh những nhà như nông tại bên Tây. Sau trận bão lụt năm 1932, khu này bị giải toả và biến thành cái hồ lớn. Mình đoán là của vợ chồng ông O’neil vì sau đó không thấy làm lại ở đâu khác. Có hình mộ chôn ông ta nên có lẻ bà vợ về Âu châu.
Do đó, mới có kế hoạch cho người việt lên Đàlạt sinh sống, trồng rau để cung cấp cho thực dân ở Đông Dương. Mình nghe anh bạn học cũ, kể là ông bố làm cho công ty canh nông nào ở Hà Nội, quên tên rồi, được đưa vào Đàlạt để thử trồng các giống rau cải của Tây. Sau khi Tây về nước thì ông bố anh ta làm vườn ở ấp Hà Đông, cũng cấy các giống rau khác sau này thì đổi qua trồng hoa như Pensée, ...bán.
Sau đó, họ mới tuyển các người ở Hà Đông, Nghệ Tỉnh vào để trồng rau cho Tây ăn. Từ đó họ thành lập ra các ấp Nghệ Tỉnh, Hà Đông ở Đàlạt.
Năm 10 ème, mình có học với ông Tây tên Didier, nhà ở đâu gần đèo Prenn. Mình đoán ông ta là một trong những người đến Đàlạt để sinh sống vì nghe nói ông ta có đồn điền trồng cà phê. Nhớ có lần đến nhà ông ta với cả lớp thì được cho uống cho chocolat Tây lần đầu tiên trong đời. Sau này, có người gửi tấm ảnh của thập tự giá trên đồi. Mình gởi một anh lính Mỹ khi xưa thì anh ta cho biết tọa độ của thập tự giá dựa trên bản đồ cua ram làm trong thời chiến tranh và nói do một người Tây, có đồn điền làm. Có thể là ông Didier.
Nói chung thì thầy cô tây đầm dạy ở Việt Nam là muốn kiếm thêm lợi nhuận chớ ít ai xuất thân từ trường sư-phạm ở pháp cả. Mình nhớ khi cô HUệ đi du học bên Tây thì trường kêu bà vợ ông Proviseur của Grand Lycee dạy thế. Còn lên trung họp thì càng te tua. Có lẻ vì vậy tây có loại bằng thuộc địa và bằng mẫu quốc. Bằng thuộc địa thì dễ hơn nhưng cũn ghét ra lửa với dân ngu khu đen như mình.
Mình không biết mấy người nhà vườn ở ấp Nghệ Tỉnh hay Hà Đông, trồng rau bán cho Tây ra sao. Mình chỉ nhớ là bà vợ của ông Marcel, hay đi mua rau cải trước mùa của nhà vườn. Nhà vườn thì cần tiền để chuẩn bị cho mùa sau nên phải bán rẻ nên bà ta giàu là nhờ vậy.
Có lẻ, người Việt trồng rau rồi Tây mua sĩ với giá bèo để bán lại cho Tây thuộc địa ở các tỉnh khác với giá khủng. Hồi nhỏ mình có thấy vài ông Tây làm vườn ở Đàlạt nhưng sau khi ông Kỳ lên làm thủ tướng, ông ta đuổi Tây về hết nên ai có tiền dạo ấy mua lại đất của họ rẻ như bèo nhưng rồi 75 đến thì cũng bay hết. Điển hình là căn nhà của ông Sohier, cạnh hồ Xuân Hương, bán rẻ cho nhà dòng nào quên tên.
Hôm trước, nói chuyện với anh bạn học cũ, cháu nội bác sĩ Lương ở đường Phan ĐÌnh Phùng. Mình nhớ khi xưa có ghé nhà anh ta chơi vài lần khi còn học Grand Lycee, nhà số 5 Quang Trung. Anh ta kể khi Việt Cộng vào thì có người ngoài Bắc nói cần nhà nên xin ở căn phía sau dành cho người giúp việc. Dần dần họ xin vào trong nhà nên cuối cùng hiến nhà cho họ, rồi về Sàigòn.
Cái hay là nay họ vẫn giữ hình ảnh gia đình anh ta, bàn ghế như xưa. Tự kêu là con cháu của bác sĩ Lương, nhờ ở đây để giữ nhà thờ từ đường. Người này khôn, cứ kêu như vậy thì không bị đuổi như ông thầy Bất, chiếm nhà thầy Chử BÁ Anh, cách đó vài căn sau 75. Anh ta kể là về Đàlạt vào thăm nhà được hết. Họ giữ kỷ lắm như viện bảo tàng cua gia đình.
Nếu không có Đàlạt chưa chắc người Việt chúng ta có món pHở nổi tiếng hoàn vũ. Nếu không có rau cải từ mẫu quốc đem qua Đàlạt trồng thì không có món ăn Tây, không có món Pot-au-feu thì sẽ không có món phở ngày nay. Hay cà phê sữa đá, bánh croissant, bánh mì baguette,..
Ngày nay, về Đàlạt các nhà làm vườn, thành lập các nhà bằng plastic đầy nơi, để trồng rau, làm mất vẻ mỹ quan của Đàlạt. Xứ này lại sống về du lịch nên có thể trong tương lai, Đàlạt sẽ mất đi phong thái của Tây phương do người Pháp muốn lập một tiểu vương quốc của xứ họ.
Không hiểu sao mình thấy bà hoàng hậu Nam Phương này đẹp cực kỳ. Ông Bảo Đại theo mấy bà kia, ra răng. (Còn tiếp)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2021 18:20:28 GMT 9
Đàlạt thành phố thể-thao của người tây-phương Đàlạt #5 www.muctimsonden.com/2021/01/alat-thanh-pho-thao-cua-nguoi-tay-phuong.html Mình mới nhận được một email của một chú quen với mẹ mình khi bị mật thám tây bắt, nhốt ở nhà Lao, trung tâm cải huấn nhưng may cả hai đều được thả trước khi mật thám tây bắn 20 người chống pháp, tại Cam Ly liên can đến vụ ám sát tên mật thám trước tiệm Đức Xương Long. Email nói về xẹt Đàlạt, hội thể thao của dân Đàlạt xưa. Khi Đàlạt được thành lập, các người âu châu lên đây nghỉ mát, có người sinh sống tại đây, độ 340 người vào những năm 1930. Vào mùa hà thì đông nhất là độ 3,000 người lên đây nghỉ mát. Mấy bà đầm thì đánh cù, hay đi dã ngoại, còn mấy ông thì đi săn cọp nhưng con cháu của họ cũng cần chỗ chơi thể thao. Từ đó mới ra đời Cercle des étrangers (câu lạc bộ người ngoại quốc), ngoại quốc đây có nghĩa là người tây phương vì có những người từ âu châu đến làm việc hay định cư. Hội này rất quy cũ, phụ nữ hay bạn của hội viên chỉ được tham dự các hoạt động trong phòng khánh tiết. Cấm không được bàn chuyện chính trị và tôn giáo. Nguyệt liễm đóng 10 quan mỗi tháng. Sau một năm hoạt động thì câu lạc bộ người nước ngoài bị toàn quyền Varenne đóng cửa vì có hoạt động sòng bài, cờ bạc. Dạo ấy, cấm chơi bài, cờ bạc ở Đông Dương. Chắc chỉ áp dụng cho người Pháp còn người Tàu Chợ Lớn thì vô tư. Cuối cùng thì hội cũng được mở cửa lại với cái tên Cercle Sportif (câu lạc bộ thể thao) mà người Đàlạt thường gọi tắt là Xẹt. Du khách ngoại quốc có thể tham gia như hội viên một ngày để sử dụng các cơ sở thể thao của hội như đánh Quần vợt, đua thuyền trên hồ, bơi lội ở hội quán thuyền buồm “La grenouillère “ (Thuỷ Tạ). Ngoài ra có một sân banh để tây đá banh, nằm cạnh các sân quần vợt, địa điểm nay họ làm cái chợ Big C. Nơi khi xưa mình từng đến đây đá banh mấy tháng trời vào buổi chiều. Chỗ này được thiết kế như một ốc đảo, phải đi qua chiếc cầu nhỏ Nhật Bản. Đến vườn hoa, cuối cùng thì hội quán La grenouillere . Hình này cho thấy Thuỷ Tạ lúc đầu chỉ làm một nhà dù để người Pháp ra đây hóng gió, đến khi câu lạc bộ thể thao ra đời thì các hội viên đóng tiền để xây dựng Thuỷ Tạ, nhà hàng “ la chaumiere “ , mấy sân quần vợt. Có thể lúc này họ vẫn đang sử dụng khách sạn Du Lac, nhưng bị cấm vì đánh bài. Dạo ở Đàlạt, mình có vào quán Thuỷ Tạ này một lần, uống ly coca vào ngày Tết với anh em tên hàng xóm và cô bạn học của em gái hắn. Cô này chỉ mình uống coca bỏ muối vào. Sau này về Đàlạt, mình có ghé lại đây một lần uống ly nước ngọt để nhớ lại thời xưa nhưng không có gì đặc sắc lắm. Ngược lại kiến trúc của Thuỷ Tạ rất ấn tượng trên hồ. Mình đi khá nhiều nơi nhưng chưa thấy một nhà hàng nổi trên hồ đẹp như Thuỷ Tạ. Có thể gọi là điểm nhấn của thành phố Đàlạt. Hội có quán ăn tên “la chaumière “ (nhà tranh), mà sau này trước 75, tên Đào Nguyên. Nghe nói con gái của chủ tiệm này, ở nam Cali nhưng mình chưa có duyên gặp lại. Nghe kể có một ông dược sĩ Tây bán thuốc ở Bắc kỳ, về đây ở mở tiệm bán bánh mì tây, có tên là Pâtisserie dauphinoise, nhưng đến năm 1945 khi Nhật đảo chính, chiếm hết đồn bóp của tây thì tiệm này đóng cửa luôn. Chắc ông tây về nước. Hình này (1930) tìm trên mạng. Cho thấy cÂu lạc bộ thể thao Đàlạt lúc Thuỷ Tạ chưa được xây cất. Lúc xây cất, họ đào thành cái ốc đảo, làm cái cầu Nhật Bản. Nhà hàng Đào Nguyên, chưa được làm lại. Có lẻ đây là quán ăn La Chaumiere chăng. Phía xa có thấy mấy sân quần vợt, còn sân đá banh chưa được thực hiện. Không biết ông chủ lò bánh mì Vĩnh Chấn có học nghề tại đây hay không, sau này mở tiệm ở phố Hoà BÌnh, nổi tiếng. Có một tiệm bán thịt tên “la Lorraine”, chắc ông này gốc vùng Lorraine, gần biên giới Pháp và Đức quốc. Trong mấy tờ báo tây “la presse Indochinoise” có nói đến các hội, tranh tài thể thao ở câu lạc bộ La Grenouillere, đua ngựa, quần vợt, chơi cù, đua thuyền,… khiến dân tây ở Đông Dương náo nức, muốn lên Đàlạt nghỉ dưỡng. Mình nhớ có tấm ảnh tây đang đua thuyền trên hồ Xuân Hương nhưng chưa mò ra được. Để hôm nào tìm ra sẽ bổ túc. Hình này cho thấy cái plongeoir để tây nhảy thi. Hồi nhỏ mình có thấy, sau này thì không thấy nữa. Chắc mục nát không ai sửa lại vì thuộc thành phố Đàlạt khi tây về nước, bàn giao lại. Dân Đàlạt không có ai ra đây nhảy. Mình có tên bạn bơi giỏi, kể leo lên đó nhảy xuống dập chim nên không dám nhảy nữa. Năm 1956 thì tây về nước bàn giao lại cho chính quyền Đàlạt. Theo email cho biết thì hội viên sau 1956 hội quần vợt có đâu 30 người. Mình nhớ mấy ông như nhà may Hoàng Nho, cho con đi đánh quần vợt tại đây, ông Châu. Mình dạo đó tập đánh quần vợt trên ty công chánh đường Pasteur, phía sau lưng có sân tennis, mình hay lên đó đánh với anh Toàn, con ông Tô, và Đinh gia LÀnh ở đường Thì Sách. Lưới rách nát, chỉ còn dây cáp nên hay cãi nhau là trên hay dưới lưới. Chán Mớ Đời Có dạo ông Nguyễn Ngọc Út, giám đốc nhà đèn Đàlạt, làm chủ tịch hội, rồi đến ông Trần Công Phấn, làm nha Địa Dư, có tiệm thuốc Tây Minh Tâm ở đường Duy Tân, con rể của ông Võ Quang Hàm. Năm 1974, ông tỉnh trưởng Tuyên đức lấy lại, vì thuộc thành phố Đàlạt để cho thuê. Mấy chỗ này là do người Pháp xây dựng nên khi về pháp thì họ giao lại cho chính quyền thị xã Đàlạt, cho thuê lại nhưng vì chiến tranh nên các hoạt động không nhiều vì giới nghiêm, cấm nhảy đầm, đủ trò,.. Có lẻ môn thể thao mà tây giàu có thích nhất là săn bán gấu, beo, cọp, voi… không khác chi ở phi châu mà khí hậu lại không nóng oai bức của miền nhiệt đới. Nghe kể có ông tây nào bắn chết 40 con voi để lấy vòi, 50 con cọp và báo và 600 con Nai. Vua Bảo Đại cũng mê môn giết thú vật này nên đóng đô tại đây, xây mấy cái dinh để mấy bà vợ bé ở. Đi săn thì cần các người thượng này hướng dẫn nhưng khi thấy người tây phương tàn sát dã man nhiều thú rừng vô tội vạ, không phải để lấy thịt thì họ không chịu. Chỉ muốn mỗi lần chỉ có thể giết một con cọp hay voi thôi vì tín ngưỡng của họ. Dạo ấy cọp về kiếm ăn, sát hại rất nhiều người nên chính quyền thực dân thưởng tiền ai đem cái đầu cọp đến nộp. Mình nhớ có lần về Blao thăm ông ngoại, có vườn trà tên Nguyễn đăng, thấy hình chụp ông ngoại với xác con cọp. Cuối cùng thì toàn quyền Albert Sarraut, cấm săn bắn man rợ, chỉ định những khu vực nào được săn bán, và phải đóng 200 đồng cho 3 tháng. Không được giết cọp cái, voi cái,… giúp bảo vệ các thú rừng. Nay thì chắc không còn gì. Ở hồ Dankia, mình thấy 2 con voi để du khách cởi. Nghị định do toàn quyền Decoux và bộ trưởng bộ nội vụ Trần Văn Toàn ký thành lập Đàlạt . Nhìn lại, thực dân lấy tiền thuế của người Việt và xương máu của mấy chục ngàn người Việt để xây dựng con đường lên Đàlạt để cho họ bắn giết thú vật. Ngày nay, chúng ta với tư duy thế kỷ 21, khó chấp nhận được. Họ tạo dựng một vùng riêng biệt cho người tây phương, dùng người việt để khiêng họ đi săn bắn. Có đọc tài liệu, mới hiểu được lý do thế hệ bố mẹ mình chống pháp. Đất của mình, họ đến chiếm xài tỉnh bơ, còn bắt chúng ta làm nô lệ cho họ. (Còn tiếp) Nguyễn Hoàng Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2021 18:24:49 GMT 9
Người Pháp thành công với dự án Đàlạt? Đàlạt #6 www.muctimsonden.com/2021/01/nguoi-phap-thanh-cong-voi-alat.htmlChính quyền thuộc địa pháp đã tốn biết bao nhiêu tiền thu thuế người dân Việt Nam để xây dựng Đàlạt, với ý định làm trung tâm quyền lực Đông Dương. Ngoài các tài nguyên được khai thác, người Pháp đánh thuế rất nặng và chiếm độc quyền buôn bán thuốc phiện và rượu. Nghe người lớn kể là người Việt nấu rượu lậu, lính kính đi lùng bắt ở tù mọt gông hay bán thuốc phiện. Mình có kể vụ này rồi. Theo tài liệu của pháp thì khi họ đánh chiếm Việt Nam, ở thế kỷ 19, gần 50% người Việt nghiện thuốc phiện cũng như người Tàu ở Trung Hoa. Mình có người dượng bà con kể là thời Tây, ở Huế làm nghề tiêm vấn thuốc phiện trong nhà chứa thuốc phiện. Dượng cạo mủ thuốc phiện dính nơi cái ống điếu, đem bán cho mấy hàng cà-phê để họ pha với cà phê, khiến dân uống ghiền, phải tới tiệm họ mỗi ngày. Lý do là nhóm Phản Thanh Phục Minh bán thuốc phiện để gây quỹ kháng chiến nên người Minh Hương, người Tàu theo nhà Minh, chống nhà Thanh tải thuốc phiện qua Việt Nam, bán cho người Việt, lấy tiền để mưu đồ, chiếm lại trung hoa từ nhà Mãn Thanh . Vấn nạn vẫn còn kéo tới thời mình. Trên đường Thi Sách, có một nhà chứa thuốc phiện, cạnh nhà bà Thủ, luôn đóng khoá cổng, chứa người hút thuốc phiện, gây nhiều vụ ăn cắp như quần áo phơi ngoài sân, bị dân nghiện ghé lấy bán để hút. Lần trước mình về, thấy bảng bán căn nhà đó với giá khủng. Đọc những bài ông nhạc sĩ Văn Cao kể khi xưa, làm đặt công, được lệnh vào các nhà chứa thuốc phiện để giết mấy người chống pháp thuộc các đảng phái khác. Kháng chiến chống tây mà vào thăm nàng tiên nâu mỗi ngày thì Chán Mớ Đời. Đi gây quỹ nhân dân để ngã bàn đèn như ông Nguyễn Hải Thần,… Người Pháp xây dựng Đàlạt với mục đích làm trung tâm nghỉ dưỡng cho công chức và binh sĩ của họ với tham vọng sẽ đặt nền hành chánh thuộc địa tại đây, xa lánh các vùng oai bức của vùng nhiệt đới. Như người Anh Quốc và Hoà Lan đã làm tại Rạj,.. Bản đồ công trình xây dựng đường hoả xa và con đường cho xe chạy đã mất 30 năm, hơn 20,000 nhân công người Việt đã bỏ xác tại đây. Tốn gần nữa tỷ quan pháp do người Việt đón thuế . Đàlạt ở trên cao nên không khí mát nhưng lại ẩm ướt nhất là vào mùa mưa khiến người Pháp sống tại đây, buồn chán vì thời tiết mưa hoài khiến con người chán như con gián. Ở Hoa Kỳ, thành phố Seattle quanh năm mưa như Đàlạt nên số người tự tử đông nhất Hoa Kỳ. Có lẻ vì vậy mà người âu châu không đến Đàlạt để định cư nhiều. Mình có kể khi bà đầm Decoux muốn thành lập một trung tâm nuôi trẻ em lai Tây. Đi xe lòng vòng Đàlạt thì phát hiện ra đồi Domaine de Marie rồi mua mấy chục mẫu, giá như bèo. Có lẻ vì vậy mà đất Đàlạt sau này, trong khu vực được chỉ định dành cho người việt, được ông Võ Đình Dung thầu mua hết với giá bèo. Mình mới đọc được tài liệu về ông thầu khoán này, sẽ kể sau. Khi còn bé thì không để ý nhưng khi lên trung học thì mình thấy Đàlạt chán quá, chỉ muốn thoát ly ra đi nên cứ mơ đi tây. Cứ nhìn mưa hay nằm nghe mưa ào ào đỗ xuống trên mái tôn lộp bộp hết giờ này qua giờ nọ. Du khách lên Đàlạt nghỉ hè thì gặp mùa mưa dầm mưa dề nên cũng chán, không đi đâu được. Vừa mưa vừa lạnh nên cũng chán đời lắm. Dạo mình về Đàlạt vào mua chè với mấy đứa con là chỉ ở có 3 ngày là chạy vì mưa chán. Hè không đi học, ăn tối xong mình hay qua nhà hàng xóm, ngồi dưới mái hiên với tên hàng xóm, nhìn mưa rơi, hắc vào chân. Cứ vậy ngày này qua tháng nọ. Cách đây 28 năm mình có làm việc cho một công ty kiến trúc được một tập đoàn đầu Tân gia BA, kêu thiết kế một trung tâm nghỉ dưỡng ở Dankia nhưng cuối cùng họ bỏ ý định này. Có thể không khả thi, không lôi cuốn được người âu châu. Đến Đàlạt mà mưa thì chán chết vào mùa hè. Khí hậu lạnh thì ở xứ họ đã lạnh quanh năm, họ cần cái nóng, phơi nắng cho da đen để về khoẻ với bạn bè. Đàlạt chỉ có thể thu hút du khách ở vùng đông Nam Á còn dân giàu có thì họ sang âu châu để trượt tuyết,… Mình sinh sau khi người Pháp thất trận Điện Biên Phủ và về nước nên không biết thời pháp thuộc ra sao. Mình học kiến trúc ở Pháp nên mình nghĩ người Pháp họ xây cất để tạo cái huy hoàng, có lẻ ảnh hưởng của thời Napoleon. Họ thích xây dựng hay phát hoạ cái “grandeur “ của văn hoá pháp. Mình đoán là người Pháp biết là xây dựng Đàlạt tốn tiền nhưng họ cứ làm như họ đã từng xây dựng Versailles hay những điện khác một cách “gratuit” vô bổ để nói lên tinh thần, văn hoá của nước pháp. Ý định xây Đàlạt thành thủ đô của Đông Dương tuy rất hay nhưng sau thế chiến thứ 1, Anh Quốc và Pháp quốc bị tổn thất rất nhiều. Suy nghĩ của họ cũng được thay đổi vì chủ nghĩa thực dân đang được đánh giá lại. Thay vì cai trị tại chỗ như xưa, họ giáo dục, huấn luyện một tầng lớp người địa phương, giúp họ cai trị tại thuộc địa như đang làm tại các thuộc địa cũ ở Phi Châu. Sau thế chiến thứ 2, các quốc gia đồng minh, thành lập hai ngân hàng quốc tế để cho vay. Họ trao trả độc lập lại với điều kiện là hội viên của Liên hiệp Pháp (Union Française) hay Commonwealth. Họ cho các sát thủ kinh tế đến dụ đọc các nhà độc tài, xây các đập thuỷ điện, xây đường xá rồi ngân hàng quốc tế sẽ cho vay. Kết quả là các tên độc tài này ăn chia, rút ruột hết, phải mượn thêm và người dân đóng thuế, cuối cùng các nước này bị lệ thuộc, nghe lời các nước Tây phương. Này lãnh đạo nào có lương tâm với đất nước thì bị đảo chính ngay. Ngày nay, Trung Cộng bắt chước chiêu này, với chương trình một con đường một vòng đai, cho các nước mượn tiền để xây cất các hạ tầng cơ sở. Mình thấy vụ họ cho mượn tiền xứ nào gần ấn độ, để xét tên lại, xây dựng một hải cảng to lớn quy mô nhưng không có đường xe chạy đến. Cuối cùng phải cho họ mướn 99 năm với giá như bèo. Giúp họ đem quân đội đến và là nơi các thuyền bè của họ cập bến thay vì ghé các hải cảng trong vùng. Người Pháp đã sử dụng tiền đóng thuế của người Việt để xây dựng một thành phố nhỏ của pháp. Họ chỉ muốn chỉ dành riêng cho người Tây phương nhưng họ cần người Việt để phục vụ họ nên đành phải chia những vùng đất nhỏ ở các khu thấp dành riêng cho người bản xứ với mục đích nếu có bệnh tật, lây lan thì họ có thể kiểm soát. Từ khởi đầu đến năm 1945, người Pháp đã có 5 kế hoạch phát triển Đàlạt. Mình sẽ kể sau. Có người kêu người Việt nhất là dân Đàlạt thiếu một lời cảm ơn người Pháp thì mình không đồng ý. Nếu đứng trên phương diện người đã sinh ra và lớn lên tại Đàlạt thì có thể mình cảm ơn những người đi trước đã xây dựng thành phố nơi mình sinh ra. Đứng trên phương diện lịch sử và kinh tế thì mình thấy hệ quả của sự hy sinh của người Việt quá nhiều cho công việc xây dựng thành phố nghỉ dưỡng riêng cho người Pháp, bằng tiền thu thuế của người Việt nhất là có trên 20,000 người Việt đã bỏ xác (theo tài liệu của người Pháp) nhưng theo mình con số này còn cao hơn, họ bắt người thượng lao động không lương, chết vô số, khiến một số phải trốn qua Lào để sống sót. (Còn Tiếp) Nguyễn Hoàng Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2021 18:59:15 GMT 9
Sự hình thành hồ Xuân Hương Đàlạt
Đọc tài liệu của tây thì được biết hồ Xuân Hương, thời tây được gọi là Grand Lac, được thành lập khi người tây cho làm cái đập Chận nước con suối từ Chi Lăng (St benôit) chảy về, trên đạp có con đường băng từ bùng binh Thuỷ Tạ, nối liền với chỗ bùng binh sau này có nhà máy nước, lữ quán hướng đạo và đường Đinh Tiên Hoàng.
Ngoài ra, có một cái hồ nhỏ (petit lac) ở ngay khu ấp ánh sáng sau này. Cuối cùng người tây xáp nhập hai cái hồ lại thành một nên phá cái đập chạy từ bùng binh Thuỷ Tạ, (xem hình) và làm một cái đập mới mà người Đàlạt hay gọi cầu Ông Đạo vì do một quản đạo của triều Nguyễn xây dựng. Người pháp đã xây nhà Thuỷ Tạ rất đẹp, phỏng theo La grenouillère , một nhà hàng nổi tiếng bên pháp thời La Belle Époque.
Xem tấm ảnh mình đoán hai ông tây, có thể hai ông kiến trúc sư, đứng ngay địa điểm, sau này là bãi đậu máy bay trực thăng, trước cổng của thao trường Đàlạt. Hình chụp về phía đường Nguyễn Thái Hoc sau này. có thể cái đồi sau này được làm đồi cù để thị dân có thể lên đấy chơi. Nay thì cấm chỉ có dân giàu có đánh cù mới được vào đây.
Nhưng nếu nhìn tấm ảnh dưới thấy đề 1948 thì thấy cái cầu nhỏ, qua cái ống cống. Trên là con đường chạy từ bùng binh nơi khách sạn Palace, Thuỷ Tạ (chưa xây). Phía bên tay trái có một dãy nhà, sau này là nhà lao nhốt tù.
Nếu vậy thì khi hồ Xuân Hương được đào rộng ra thì cái cầu này bị dẹp và được thay vào đó cái đập, phía bên tay phải của tấm ảnh, chỗ mấy căn nhà. Để mình giải thích:
Tấm ảnh này cho thấy khách sạn La Palace (1) trên đồi cao, được xây năm 1922. Thấy cái bùng binh chỗ bãi đất mà sau này họ xây nhà hàng Thuỷ Tạ. Ngay bồn binh này, nơi sau này họ xây cây xăng Esso, có một con đường, (3) như cái đập nhỏ chấn lại cái hồ, chạy băng qua hồ Xuân Hương, có cái cầu nhỏ. (2) .Mình đoán căn nhà phía tay trái, trước mặt là dinh của ông quản đạo. Đàlạt khi xưa có đến 4 ông quản đạo do triều đình Huế gửi đến, sẽ kể sau.
Đây mình đang tìm cách định vị hai tấm ảnh vì mình nghe nói hồ Xuân Hương sau này được nới rộng ra ( gạch màu xanh 5), khi họ xây cái đập ngay ấp Ánh Sáng, xe cộ có thể đi ngang qua mà dân cư Đàlạt hay gọi “cầu Ông Đạo”. (4)
Ngay bùng binh chỗ khách sạn Palace, mình có thể hình dung được chỗ thuỷ tạ và cercle sportif, chỗ sau này họ xây mấy sân quần vợt với nhà hàng Đào Nguyên. Thấy đường Trần Quốc Tuấn, chưa thấy nhà thờ con gà phía đường Hùng Vương, chỉ thấy tu viện Nazareth đã được xây cất.
Trong rừng thông trước khách sạn Palace có một căn nhà, mình đoán là căn nhà trong rừng thông mà sau này có dạo họ làm một quán nước, trai gái Đàlạt vào đây uống nước, ngoài trời nơi mấy cây thông, nhìn xuống hồ, nơi con đường Trần Quốc Tuấn. Mình chưa bao giờ vô đây. Đi tới một chút là đoạn họ làm cái đập cầu ông Đạo.
(1) là khách sạn Palace đã được xây xong phía bên kia hồ. Số (2) là cái ống thoát nước khi nước hồ dâng cao thì chảy qua con suối về hồ nhỏ rồi chảy về Cảm Ly, thấy từ phía bên này khác với hình chụp 2 ông Tây như hình trên.
Số (3) là con đường từ bồn binh chỗ cây xăng Kim Cúc, Thuỷ Tạ sau này chạy qua bên kia hồ, ngay chỗ bồn binh, khúc Đinh Tiên Hoàng, chạy lên giáo hoàng học viện sau này. Sau này Tây nới rộng ra thì mới dời cái đập về phía hình màu vàng gạch số (5). Các nhà cửa chỗ này bị dẹp hết. Địa điểm rõ thì mình không chắc lắm nhưng để hình dung mình kẻ gạch vàng đây vì phải định vị cái bồn binh chỗ đi vào chợ.
Số (4) là phần đất được nới rộng ra và lấp hết khu vực này (gạch xanh). Phía bên phải của cầu ông đạo, phần gạch là khu ấp Ánh Sáng.
Nhìn tấm ảnh này làm mình nhớ thầy Hứa Hoành, dạy Địa Lý năm 11B, nói dân cư Đàlạt gọi cầu Ông Đạo vì được xây cất dưới thời ông “quản đạo” Tôn Thất Hối vào năm 1935. Năm 1919 là một cái cống nhỏ chảy về thác Cam Ly. Thầy có kể là có người cháu của ông Tôn Thất Hối nói như vậy còn lại có một giả thuyết khác: cây cầu nằm ngay dinh ông quản đạo nên người ta gọi là cầu Ông Đạo. Cho nên thầy không dám quả quyết.
Hình chụp trên đồi khách sạn Palace Tấm ảnh này theo mình được chụp từ đồi khách sạn Palace, nhìn xuống hồ Xuân Hương. Thấy đường Thống Nhất. Có đồi thông phía xa, sau này họ xây trường Grand lycee yersin (5), sau đồi của nhà ông bác sĩ Sohier (4). (3) địa điểm của thao tường và sân vận động, (2) là cercle sportif sau này còn (1) là con đường này sau này được xoá bỏ, để làm vườn, chỗ mấy thang cấp đi xuống từ khách sạn Palace xuống hồ.
Có con đường khác từ bồn binh Thuỷ Tạ, chạy lên đường Nguyễn Tri Phương, lâu quá không nhớ tên đường này, có mấy ty công sở. Ngay tam giác của hai đường, sau này được xây cercle sportif (5) có mấy sân quần vợt. Hình như Cercle sau này là nhà hàng Đào Nguyên, nghe một cô bạn kể là con gái của tiệm này, học Văn Học, hiện đang ở Nam Cali, tên Lan.
Mấy nhà nghỉ này (6) sau này được dẹp bỏ khi họ xây xong khách sạn Palace vào năm 1922. Thấy mỗi nhà nghỉ, phía sau có cái ga ra. Số 3 là địa điểm Thao Trường sau này, số 4 là sân vận động.
Ảnh chụp từ khách sạn Palace
Tấm ảnh trên được chụp trên phòng của khách sạn Palace, nhìn về phía Ấp Ánh Sáng được thành lập sau này. Hình thấy mấy nhà to đùng. Có con đường phía trước. Mình đoán đây là con đường, trở thành cầu Ông Đạo sau này, khi họ cho xây cái đập để chận nước hồ lại, cho phá vỡ mấy cái nhà phía sau và bên phải, tương tự như cái đập Đa Thiện, chận nước hồ trong Thung Lũng Tình Yêu sau này.
(A) là con đường (đập đầu tiên), (B) là nhà ông Quản Đạo, số (2) là hồ nhỏ mà người Tây gọi “Petit Lac”, đối diện sau này là Ấp Ánh Sáng, (d) sau này là địa điểm của ấp Ánh Sáng, đa số là người đi cư từ Huế vào nhất là làng Kế Môn.
Nhìn lên đồi, thấy cái dinh Ông Quản Đạo với con đường đi lên, có một con đường đi chéo lên, mình đoán là con đường sau này được nới rộng làm thành đường Lê Đại Hành.
Theo thầy Hứa Hoành: “ Trong số các quản đạo do triều đình Huế bổ nhiệm cai trị cao nguyên, người ta còn nhớ các ông:Tôn Thất Hối, Tôn Thất Toại, Phạm Khắc Hòe, Trần Văn Lý.... Toại và Hối là con của Tôn Thất Hân, phụ chính đại thần của nhiều triều vua hồi đầu thế kỷ nầy. Tôn Thất Toại làm quản đạo ở Kontoum nhiều năm. Còn Tôn Thất Hối đầu tiên giữ chức quản đạo Djiring, rồi sau đổi lên làm quản đạo Darlac. Có thời gian Hối làm quản đạo tại Đà Lạt. Kế nhiệm cho Hối ở Đà Lạt là Phạm Khắc Hòe, cai trị từ năm 1940 - 1944. Tôn Thất Hối sinh trong một gia đình thế gia vọng tộc. Thân phụ là Tôn Thất Hân, quê quán tại Lạc Thú, Thừa Thiên (1854), thuở nhỏ theo học Quốc Tử Giám. Bắt đầu cuộc đời làm quan bằng chức tri huyện thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Hân bò lần trên nấc thang danh vọng đến Thượng thư bộ Hình (1906). Năm 1917, Hân làm phụ chính đại thần, kiêm Cơ mật viện trưởng dưới triều Khải Định. Chính Tôn Thất Hân đề nghị với Pháp lưu đày hai cha con Thành Thái và Duy Tân. Tháng 4 - 1943, Tôn Thất Hân ăn lễ thượng thọ (90), có đến 200 cháu tham dự. Năm sau (1944), Hân từ trần. Hối còn làm quản đạo ở Ban Mê Thuột, Tôn Thất Hối có nhiệm vụ trông coi khám đường tức nhà tù, giam giữ chính trị phạm do Pháp lập ra. Từ năm 1944 khám nầy có hơn 1000 tù, gồm nhiều người yêu nước, chống Pháp đủ mọi thành phần, đảng phái. Thời gian ấy, điều kiện sinh sống trong tù rất tồi tệ. Nhiều lần tù nhân biểu tình, tuyệt thực để phản đối. Tôi được một người cháu gọi Tôn Thất Hối bằng ông chú, là chị Tôn Nữ M. L. cho biết: “Năm 1935 hồ Xuân Hương bị ngăn lại và làm một cây cầu bắc ngang qua để vào chợ Hòa Bình. Cây cầu nầy hồi năm 1919 chỉ là một cái cống nhỏ. Dòng nước ở dưới cầu chảy qua ấp Ánh Sáng, để đổ vào thác Cam Ly. Vì cây cầu nầy được xây dựng dưới thời Tôn Thất Hối làm quản đạo, nên dân chúng quen gọi “Cầu Ông Đạo”. Tôi còn nghe một nguồn tin khác cho biết vì cây cầu nầy nằm gần dinh quản Đạo, (chỗ khám đường trước năm 1975), nên dân chúng Đà Lạt quen gọi là “Cầu ông Đạo”. Tôi không dám quả quyết thuyết nào đúng hơn. Trong buổi lễ chấm dứt chế độ Hoàng Triều Cương thổ ngày 24/3/1955, tổ chức tại trước tòa hành chánh Kontum, với sự hiện diện của hàng ngàn đồng bào Thượng, Tôn Thất Hối đại diện quốc trưởng Bảo Đại đọc lời tuyên bố: “Tôi đại diện cho đức quốc trưởng Bảo Đại, long trọng tuyên bố kể từ khi Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn lập quốc đến nay.....tới đây là chấm dứt chế độ hoàng triều cương thổ. Thay mặt hoàng tộc nhà Nguyễn, thay mặt quốc trưởng Bảo Đại, tôi xin từ giã đồng bào...” Một quản đạo Đà Lạt khác được nhắc tới khá nhiều là Phạm Khắc Hòe. Ông Hòe quê ở Nghệ Tỉnh, học trường Hành chánh Hà Nội, có vợ là một công chúa, được sự tin cậy của triều đình. Do bà vợ năn nỉ với Hoàng hậu Nam Phương, nên Hòe được tiến cử làm quản đạo Đà Lạt. Thật sự Đà Lạt là nơi đất rộng, phì nhiêu, dân cư thưa thớt (vì sự hạn chế người Kinh lên lập nghiệp), nên vào năm 1942, Hòe có xin với Pháp chiếu cố một số gia đình nghèo khổ từ quê quán ông thuộc hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh lên đó lập nghiệp. Những người nầy đến đây chuyên canh rau cải, sống tập trung gọi là ấp Nghệ Tĩnh. Riêng ấp Hà Đông do tổng đốc Hoàng Trọng Phu, mộ dân miền Bắc lập ra năm 1938, theo lời yêu cầu của Pháp. Hoàng Trọng Phu (1872 - 1945) là con trai thứ của tổng đốc Hoàng Cao Khải, học trường thuộc địa Pháp. Lúc mới về nước, vì có cha đang làm quan, nên Phu chỉ làm thông ngôn cho vua Thành Thái ít tháng, rồi ra làm Án Sát tại một tỉnh Bắc Kỳ năm 1897. Lúc kế vị cha làm tổng đốc Hà Đông, Phu mộ dân các làng Quảng Hoa, Ngọc Hồi, Nghi Tăm......là nơi chuyên trồng hoa để lên Đà Lạt canh tác theo lời yêu cầu của viên công sứ Đà Lạt. Từ năm 1938, chỉ có 7 gia đình lên lập nghiệp. Hồi khởi sự lập vườn hoa, Pháp có giúp đỡ bằng cách cho vay tiền của Quỷ tương trợ hỗ tương. Sau một năm, phân nửa bỏ Đà Lạt trở về quê quán vì trồng hoa không kết quả như ý muốn. Số còn lại tiếp tục trồng hành tây, củ cải, măng tây, artichaut, củ hành, cải bắp và đậu.....Từ năm 1941, ấp Hà Đông bắt đầu làm ăn phát đạt nhờ nghề trồng hoa và rau cải nầy. Cuối năm 1941, có tất cả 28 gia đình ở ấp Hà Đông, tổng số 100 nhân khẩu. Ông Trần Văn Lý (1901 - ?) là một nhân vật có tiếng tăm ở miền Trung, quê ở Quảng Trị, tốt nghiệp cao đẳng hành chánh Hà Nội. Ra trường, ông Lý làm quan trong ngạch quan lại của Pháp, với chức tham tá tại Qui Nhơn. Sau đó, cũng như Phạm Khắc Hòe, do sự giới thiệu và giúp đỡ của Khâm sử Trung Kỳ, ông Lý trở lại ngạch quan lại Nam triều với chức Thương tá Trung Phước (Bình Định). Ông Lý giữ chức quản đạo Đà Lạt từ năm 1926 - 1935. Khi chức vụ này được Phạm Khắc Hòe thay thế, ông Lý làm Ngự Tiền văn phòng cho Hoàng đế Bảo Đại.” (hết trích)
Theo mình thì cầu được xây dựng do ông quản đạo nên dân địa phương gọi là cầu Ông Đạo đúng hơn vì cuối ấp Ánh Sáng có cầu Bá Hộ Chúc nối đường Cường Để và Phạm Ngũ Lão, trên đường Bà Triệu thì do ông bá hộ tên Chúc xây nên người ta gọi Cầu Bá Hộ chúc. Nếu không thì người ta đã gọi cầu Ông Đạo Tôn Thất Hối. Vì để chấn nước hồ thì không thể nào làm cây cầu bằng gỗ được, phải làm cái đập bằng xi măng rồi cho xe chạy trên đó. Cầu Bá Hộ chúc thì mình nhớ bằng gỗ, như cái hình trên chạy qua cái ống cống mà thầy Hứa Hoành nói đến vì nhà mình ơi ấp Ánh Sáng đi học trường Ấu Việt nên đi bộ sang hàng ngày, xe tải không được chạy qua, sau này thì họ làm bằng xi măng. 
Petit lac (hồ nhỏ) xem hình này mình đoán chụp đâu ngay khách sạn Palace, thấy con đường chạy ngang sau này là cái đập chính được làm bằng xi măng bê tông cốt sắt. Thấy có cái hồ nhỏ mà sau này được nhập với hồ lớn bên kia (cái đập kia được phá vở.
Không ảnh thấy nhà thờ con gà Không ảnh này cho thấy (1) là cầu Ông Đạo, (2) là ấp Ánh Sáng, (3) nhà thờ Con Gà, (4) chợ Đàlạt, (5) là rạp xi nê Ngọc Lan, phía trước bên tay trái, có trường bà sơ Nazareth, ngay đường Hùng Vương, thấy ngã ba trước nhà thờ con gà.
Mình học thầy Hứa Hoành có một năm Địa Lý, sau này có ghé viếng thầy ở San Antonio trước khi thầy qua đời. Mình không hiểu sao thầy nhớ kinh khủng, từng gây từng tí vì mình có hỏi thầy có đem theo tài liệu khi vượt biển thì nói không. Đọc trên mạng Nam Kỳ Lục Tỉnh những bài viết của thầy đầy đủ chi tiết.
Có người nhắc mình có cái hồ nhỏ bên cạnh hồ Xuân Hương, gần vườn Bích Câu, làm mình nhớ có ra hồ này để câu cá với ông dượng, có tiệm hớt tóc ở ngay ngã 3 chùa, cạnh hãng cưa Xu Huệ. Hồ này được thành lập theo mình để giảm áp lực vào cái đập cầu Ông Đạo khi mưa nhiều thì hồ này sẽ chứa nước dâng cao. Mình nhớ có cái ống nước từ hồ Xuân Hương chảy vào đây khi trời mưa.
Ngoài ra ngay góc đường Nguyễn Thái Học và Đinh Tiên Hoàng, có một cái hồ khác, bên cạnh là nhà máy nước lọc, cung cấp nước cho thị dân Đàlạt. Ông cụ mình trước 75, làm ở ty công quản nước Đàlạt, tại đây. Mình về Đàlạt thì nghe nói Hà Nội sẽ xây một hồ bơi ở đây.
Mình đang tìm thêm dữ liệu để bổ túc thêm vào bài này nên chưa phổ biến rộng. Ai có đọc thì có tin tức gì thêm thì cho mình hay. cảm ơn
Cái viết Apple của mình mất tiêu nên phải quẹt bằng tay. Chán Mớ Đời Nhs
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2023 7:20:30 GMT 9
Đình Thương Bạc - biểu tượng kỷ niệm của cơ quan ngoại giao nhà Nguyễn
Đình Thương Bạc tọa lạc bên bờ Bắc sông Hương, ngoài cổng Thượng Tứ trên đường Trần Hưng Đạo, thành phố Huế.
Dưới triều vua Gia Long, thành lập cơ quan Tào vụ (Tàu vụ) với hai bộ phận: Tào vụ lo về ngoại thương, ngoại giao và Trường đà lo về việc vận chuyển hàng hóa của nhà nước bằng thuyền. Năm 1822, vua Minh Mệnh đổi Tào vụ làm Thương Bạc sự vụ, giao cho Chưởng Tượng quân Nguyễn Đức Xuyên cai quản và đổi Trường đà làm Tào chính, giao cho Hình bộ Thượng thư Lê Bá Phẩm và Phó Đô Thống chế Thủy quân Phạm Văn Trường trông coi.(1)
Trụ sở ban đầu của Thương Bạc nằm trong Kinh thành, về phía đông Quốc Sử Quán; qua năm 1832, vua Minh Mệnh sáp nhập Thương Bạc vào Bộ Hộ và lấy cơ sở này làm Ty Thông Chánh Sứ.(2)
Triều đình nhà Nguyễn có xây dựng một cơ sở dùng làm nơi tiếp đón phái bộ của các nước lân bang, gọi là Công quán. Căn cứ theo chính sử ghi chép, năm 1805 vua Gia Long cho dựng nhà Công quán (Cung quán) làm nơi khoản tiếp sứ giả phương xa (đón tiếp sứ giả nước ngoài).(3) Về quy mô và địa điểm cụ thể của tòa Công quán này, chính sử không ghi rõ.
Năm Ất dậu, Minh Mệnh thứ 6 (1825), nhà vua cho dời dựng nhà Công quán ra phía bắc Ngự Hà trong Kinh thành, xây 2 tòa đều 3 gian 2 chái.(4)
Sang triều vua Tự Đức, sau khi ký hòa ước Giáp Tuất (1874), Pháp và Tây Ban Nha tiến hành đặt quan hệ ngoại giao. Nhà Công quán nằm cạnh Hoàng thành, người phương Tây thường xuyên lui tới, rất khó coi. Vì vậy, vào tháng 5 năm 1875 vua Tự Đức đã ra lệnh dời Công quán ra ngoài thành cửa Đông Nam(5), đặt bên trái cửa Thượng Tứ (nhìn từ trong ra) và đặt tên là Thương Bạc viện, thuộc Bộ Lễ, chuyên lo việc ngoại giao.
Thương Bạc viện về cơ cấu tổ chức gồm có hai ty: Ty Hành Nhân và Ty Thương Bạc. Về cơ sở vật chất, Thương Bạc có 3 tòa nhà chính. Nhà giữa làm nơi tiếp sứ, nhà bên phải dành cho Ty Hành Nhân và nhà bên trái dành cho Ty Thương Bạc. Ngoài ra còn có các nhà phụ thuộc làm nơi cư ngụ cho các viên chức và nhân viên.
Sau khi ký Hòa ước Giáp Thân (6/6/1884, cũng gọi là Hòa ước Patenôtre) triều đình nhà Nguyễn chấp nhận sự bảo hộ của Pháp. Điều này nghĩa là việc ngoại giao do Pháp đảm trách. Từ đây cơ quan Thương Bạc không còn vai trò gì nữa. Cơ sở vật chất được dùng vào nhiều việc khác nhau. Ban đầu, làm nơi tạm trú cho quan Phụ chính Nguyễn Văn Tường để lo ổn định tình hình sau khi Kinh đô thất thủ vào tháng 7/1885; sau đó là nơi đóng bộ chỉ huy của Tướng Munier; rồi tư dinh ở của Hoàng Cao Khải, phủ đệ của Hưng Nhơn Công Vĩnh Liêm tức ông Hoàng Mười, em vua Thành Thái. Đến năm 1914 thì nơi đây chính thức được dùng làm cơ sở của trường Hậu Bổ, là trường đào tạo quan lại của triều đình Huế…(6) Theo tài liệu Châu bản triều Nguyễn, năm Bảo Đại thứ 11 (1936), nhà vua cho làm lại nhà Thương Bạc (ngày nay gọi là đình Thương Bạc) ở tả ngạn sông Hương (7) (tại vị trí hiện nay, cách vị trí Thương Bạc viện cũ khoảng 100m để ghi nhớ lại di tích Thương Bạc viện.)
Đình Thương Bạc được xây dựng bằng các vật liệu mới như xi măng, sắt, thép và được thiết kế theo kiểu cổ lầu, gồm hai tầng mái, dựng trên nền vuông cao 1,3m. Tầng dưới có mặt bằng hình bát giác, tầng trên thu nhỏ lại thành hình vuông, bốn phía gắn hai chữ Hán “Thương Bạc” khảm sứ màu xanh. Hệ thống cột trụ được làm bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói lưu ly. Nền lát gạch vuông, xung quanh có tường hoa thấp, bốn phía đều có bậc tam cấp lên xuống. Trên đỉnh nóc đắp hình lưỡng long chầu nhật, các góc mái trang trí hình cách điệu. Đứng từ dưới sàn tầng một ngước nhìn lên trên ta sẽ thấy bốn phía trang trí hình hổ phù ngậm chữ “thọ” khảm sứ, phía trên trần là hình hoa văn uốn lượn. Tòa đình được chống đỡ bằng 10 đôi cột trụ tròn, tứ phái không xây tường. Phía trước đình là một khoảng sân rộng, trước sân là tam quan xây bằng gạch và bê tông trang trí hoa văn và chữ Hán khảm sứ.
Đình Thương Bạc được những người thợ nổi tiếng ở phủ Thừa Thiên lúc bấy giờ như: “Đệ nhất xảo thủ” Nguyễn Văn Khả, Nguyễn Văn Chung, Lê Quang Thừa… nhận xây dựng. Sau khi hoàn thành đã được bộ Lễ Nghi và Công Tác xin xét thưởng để khích lệ. Cụ thể:
Theo bản tấu ngày 14 tháng 10 năm Bảo Đại thứ 11 (1936) của bộ Lễ Nghi và Công Tác tâu xin tặng “tam hạng kim tiền” cho Lãnh hành Lê Quang Thừa vì có công làm nhà Thương Bạc và ba – bồn ở tả ngạn Hương giang đoạn thứ nhất từ cầu Tràng Tiền đến bến Thương Bạc.(😎
Bản tấu ngày 3 tháng 11 năm Bảo Đại thứ 11 (1936) của Bộ Lễ Nghi và Công Tác tâu xin tặng thưởng hàm 9-Ia cho Nguyễn Văn Chung, 25 tuổi người làng An Nông, tổng An Nông, huyện Phú Lộc, phủ Thừa Thiên vì có công khó nhọc và lãnh làm hoàn hảo nhà Thương Bạc.(9)
Đình Thương Bạc là biểu tượng kỷ niệm cho một cơ quan ngoại giao thời nhà Nguyễn. Ngôi đình với kiến trúc thanh nhã, hài hòa đã trở thành một điểm nhấn trong hệ thống khuôn viên bên bờ bắc sông Hương.
Chú thích tài liệu tham khảo:
1. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 2 , tr.207. 2. Đại Nam nhất thống chí, quyển 1 tập Kinh sư. 3. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 1 , tr.585. 4. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 2 , tr.424. 5. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 8 , tr.144. 6. Từ điển nhà Nguyễn – Võ Hương An. 7. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Bảo Đại. 8. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Bảo Đại. 9. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Bảo Đại.
Lê Thông - Đỗ Thị Huyền Trang Nguồn: Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia I
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 25, 2024 16:44:42 GMT 9
CHƠI PHÚ QUỐC Mộng Tuyết .
Con tầu từ từ rẽ sóng... tiến lên. Đã ba tiếng đồng hồ rồi, chúng tôi lênh đênh ở giữa biển khơi bát ngát. Trông ra quanh mình toàn một màu xanh nhạt, mặt nước liền chân mây. Thỉnh thoảng một vài cù lao loáng thoáng ở chỗ mênh mông trời nước. Về phía tây, rặng núi Tà Lơn bệ vệ nằm dài trong mây khói. Đảo Phú Quốc! Một vệt xanh xanh to lớn nằm chắn ngang phía trước, mây tỏa lờ mờ, như dán dính với da trời... Đảo Phú Quốc! Cảnh bấy lâu trong mộng tưởng thì kìa đã hiện ra trước mắt. Con tầu từ từ rẽ sóng... tiến lên. Tiếng sóng vỗ vào be tầu nghe như một khúc nhạc hùng hồn oanh liệt. Chúng tôi cảm lòng sung sướng mạnh mẽ. Tựa vào be tầu, đăm đăm tôi ngó về phía trước: Nước biển một màu xanh bóng như dầu lụt chân mây. Hôm nay trời râm mát, mấy đám mây đen lơ lửng bóng tối, tưởng tượng như con chim đại bàng to lớn xòe đôi cánh bay lướt qua biển Nam Minh. Con tầu từ từ rẽ sóng... tiến lên. Cảnh mờ mờ dần dần xô lùi lại. Bấy giờ đã thấy rõ ràng màu cây lá xanh biếc gần với màu nước biển xanh dờn, một vệt cát trắng chạy dài ở giữa. Hàm Ninh đã ở trước mặt. Tầu không áp bờ được vì ở đây bãi cạn xa. Tầu đỗ tận ngoài khơi rồi có ca nô đưa vô bờ. Quận lỵ Phú Quốc ở Dương Đông. Dương Đông ở về phía bên tây đảo. Về mùa nam này, sóng to gió lớn, tầu thuyền vô cửa bất tiện nên phải đỗ ở đây rồi đáp ô tô qua Dương Đông. Ngồi trên ca nô dòm xuống: Nước trong như lọc thấy tận đáy, những con chang chang sứa biển ngo ngoe đang bò, chúng nó sinh hoạt trong cái thế giới thủy tinh. Gần mé bãi, trên dàn cây của người thuyền chài cắm để phơi lưới, một đàn chim nhạn đậu ríu rít rỉa lông, nghe tiếng chèo bơi bì bõm, giật mình cất cánh một loạt bay vù. Đến bờ đã có ô tô đón sẵn. Chúng tôi đáp xe qua Dương Đông. Con đường quan lộ tuy chẳng được khang trang rộng rãi lắm, nhưng được cái sạch sẽ sáng sủa. Xe chạy độ non một tiếng đồng hồ thì đến Dương Đông. Tính ra cuộc hành trình vừa mất sáu tiếng đồng hồ chẵn. Sáu giờ sáng, khởi hành ở Hà Tiên, 12 giờ trưa đã ở Dương Đông rồi! Nhớ lại những chuyện nguy hiểm khó khăn của người đi biển bằng thuyền buồm nói lại mà chúng tôi lấy làm sung sướng quá. Trong sáu tiếng đồng hồ đi một cách bình yên mà đã được trải qua cái cảnh bềnh bồng trên mặt biển, được hít thở cái không khí thanh tân man mác chốn biển khơi, và được trông thấy bao nhiêu cảnh vật thanh kỳ ở chốn trời nước gió mây thần tiên xa lạ, đối với cái đời êm lặng kín đáo của người con gái ở chốn buồng khuê, thật là một dịp may đặc biệt. Dương Đông ở về phía tây đảo Phú Quốc, một dải đất mầu mỡ, cây cỏ xanh tươi, nhà cửa ở chen chúc nhau, một con sông xinh xinh chắn đôi, mơn man chảy trong lòng cát trắng. Cơm nước nghỉ ngơi xong, chiều lại rủ nhau đi tắm biển. Bãi cát trắng phau, chạy dài hàng mấy nghìn thước. Ngoài khơi xa, lác đác mấy chiếc thuyền đánh cá, cánh buồm trắng in vào đám mây hồng. Bên rặng núi mờ xanh, nhởn nhơ đàn nhạn lạc, tạc thành một bức tranh ảnh khổng lồ tuyệt đẹp. Chúng tôi nô giỡn với làn sóng bạc trong khoảng trời nước mênh mông thỏa thích. Bỗng một đám mây đen kéo đến phá cuộc vui chơi. Sắp có mưa. Cả bọn cùng dắt nhau về. Đến nhà thì trời mưa vừa lấm tấm đổ hạt. Trời tối. Mưa vừa ngớt hạt thì chúng tôi lại ra đi. Chúng tôi đi trong các ngõ đường để xem cảnh đêm nơi hòn bãi. Trăng mười một. Đêm mờ, sương lạnh, ở đây thật có cái vẻ tĩnh mịch vô cùng. Trên mặt biển, lác đác những thuyền con đi “thẻ” mực, ánh đèn soi xuống đáy nước, xa trông lấp lánh như gương. Người ở đây làm việc thật không mấy lúc nghỉ ngơi, những việc nặng nhọc thì làm về ban ngày, còn những việc nhẹ nhàng thì làm về buổi tối. Dưới ngọn đèn mờ, người vá lưới, kẻ chuốt mây, vừa làm vừa chuyện vãn, trông có vẻ sung sướng ung dung an vui về công việc. Trời sáng. Không được cái cảnh bình minh trong trẻo như lòng ao ước đêm rồi. Trời lấm tấm mưa. Mặc gió mưa, vì không lẽ để lỡ cuộc đi chơi nên sau khi điểm tâm xong và đi dạo qua một vòng chợ, chúng tôi khởi hành. Suối Đá ở trên con đường Hàm Ninh - Dương Đông. Con đường này hôm qua đã có đi rồi, nhưng ngồi xe, nên không xem ngắm được phong cảnh hai bên. Cũng con đường này hôm qua, thì cây cỏ như vô tình, mà hôm nay cảnh vật dường như hữu ý đón chào. Đi độ hơn cây số thì đến giếng Tiên. Giếng Tiên, huyền diệu lạ lùng như cái tên của nó, là một vũng nước nhỏ cạn ở kề liền bờ sông nước mặn, mà nước vẫn ngon ngọt và đầy tràn luôn. Bỏ sự nghiệm biết nhờ khoa học, thì nó có cái tính cách thần tiên huyền diệu như thế, nên gọi là giếng Tiên vậy. Từ giếng Tiên đến suối Đá còn hơn ba cây số nữa, thỉnh thoảng có một cái vườn tiên, còn hai bên toàn là rừng sim cả. Chúng tôi từng được nghe nói lại cái thú mùa sim đi hái trái: cái thú vui vẻ nên thơ lắm, trên cành nặng trĩu trái chín, điểm có mấy chùm hoa nở muộn trắng trắng hồng hồng. Đây một cô bé xinh tay mang giỏ tay hái trái, nét mặt ngây thơ hớn hở; kia một người thiếu phụ lẩn quẩn dưới gốc cây, nét mặt vô tư lự ở giữa chốn bông trái đầy rẫy nhẹ nhàng uốn éo, rồi cất tiếng hát ca véo von êm ái. Giờ phút ấy tưởng như đã lạc loài vào chốn rừng tiên cảnh lạ. Nghe nói mà thích quá, những ước ao được một dịp đi hái sim. Nhưng nay đến đây, mùa này, thì chỉ có cành không trơ trọi thổi qua một ngọn gió vô tình. Chúng tôi bồi hồi đứng tiếc. Hôm nay trời râm mát, nên đi đường dễ chịu lắm. Lại hai bên toàn là cảnh đẹp, mải xem ngắm mà quên mỏi chân. Cái chân được cha mẹ “cưng” không mấy khi để dấn trên đường cát bụi. Nghĩ cái lòng thương con của cha mẹ thật là vô cùng, không nói cái lòng thương đó nên như thế hay không nên như thế. Gần đến suối Đá, xa xa đã nghe tiếng nước chảy rào rào. Một cái cầu ván bắc ngang suối để nối cho con đường quan lộ chạy ngang. Suối rộng độ bốn năm thước, còn nguồn suối thật không biết từ đâu chảy lại. Trên kia vừa nhớ đến cái lòng cha mẹ thương con. Rồi đứng trước đây nhớ câu: “...Công mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, thực là có nghĩa và có vị quá! Lòng suối toàn là đá từng khối nằm liền nhau chỗ cao chỗ thấp, nước từ trên cao đổ xuống róc rách, bọt nước trắng phau. Chúng tôi lội xuống khoát nước rửa mặt, cảm thấy cái mát lạnh trong da thịt... Chiều đi chơi chùa Quảng Tế. Chùa này là một nơi ưu thắng ở Dương Đông. Chùa cất trên một ngọn đồi cao ở bên mặt biển. Quanh chùa dọn dẹp sạch sẽ lắm, từ con đường nhỏ cho đến bậc đá thềm đều có trồng hoa cỏ. Trong vườn chùa đủ các thứ cây ăn trái, lúc nào cũng có bóng cây mát rợp. Chủ chùa là một bà vãi già trắng trẻo, khuôn mặt hiền lành phúc hậu, vô tư lự mà sống một cách thản nhiên trong cái hoàn cảnh thần tiên êm ái... Đứng trước chùa trông xuống là xóm rẫy. Thỉnh thoảng một túp nhà lá ẩn trong đám cây xanh. Rẫy ở đây phần nhiều trồng cau và dừa; thân cây cao vút trên ngọn tỏa một chùm lá dài tha thướt xây tròn buông rủ xuống. Đứng trên cao xa trông xuống nó có một vẻ đẹp là lạ. Đàng xa tít một rặng núi màu lam nhạt... Phía sau chùa là mặt biển. Chiều, mặt trời sắp lặn. Ánh nắng phản chiếu đỏ rực một góc trời, mấy đám mây sáng rực rỡ lửng lơ trên lưng chừng trời trông như những hòn núi cẩm thạch. Chúng tôi từ trên đồi vừa ngắm cảnh vừa đi lần xuống bãi cát. Từ trên đồi xuống bãi phải đi qua một đám cỏ, thỉnh thoảng có mấy cụm hoa nhỏ và mấy bụi tranh. Cụm hoa bụi tranh ấy khi ở xa trông như mặt biển có điểm mấy cù lao chíu chít. Trong những “cù lao nhở” ấy là chỗ trú của giống chim cúc. Tiếng người bước xột xạt, vài con ở gần giật mình cất cánh bay vù ra rồi xao xác tìm bụi khác chui vào. Thích quá, chúng tôi chạy đến mấy bụi khác đuổi phá. Chim lại bay và rồi xao xác tìm bụi khác chúi vào. Mải đùa giỡn như thế mà khi đến bãi biển mặt trời đã xuống kề mặt nước. Bấy giờ không còn tia chói nữa, thấy rõ ràng một vầng tròn đầy đặn như mảnh trăng rằm mà có cái màu tươi đỏ hơn, nằm kề tấm gương to, lấp lánh ánh sáng nhạt của bóng trời tà. Thoạt đầu, còn là mảnh trăng rằm tròn vành vạnh, thoáng một cái, còn là hình bán nguyệt, rồi dần dần núp mình khuất bóng sau mảnh gương mờ. Trời đất đi dần vào cõi tối... Đêm nay trăng tốt quá, giờ phút thần tiên dễ bỏ hoài, chúng tôi liền dở cuộc thưởng trăng chơi phiếm trên sông. Cơm tối xong chúng tôi xuống chiếc thuyền con. Con sông quanh co, chiếc thuyền từ từ thả theo dòng nước. Bốn bề yên lặng. Chỉ nghe tiếng nhịp nhàng của mái chèo khua nước và tiếng nói chuyện của chúng tôi. Thỉnh thoảng một cơn gió biển thổi qua ấm áp mát mẻ đến tâm hồn, mặt sông lay động. Đàng sau, bóng trăng dưới nước chập chờn từ từ trôi theo con thuyền, “thuyền đi dắt theo cô Hằng” lúc bấy giờ tôi thấy rõ cái cảnh tượng ấy. Chúng tôi sung sướng ở giữa khoảng đêm thanh tĩnh trăng soi gió thoảng như vậy. Chúng tôi mơ màng phảng phất như đang du phiếm trên Hương Giang mà trong mộng tưởng đã vẽ vời theo lời kỷ thuật của các nhà du lịch đất Trường An. Có thiếu chăng nữa chỉ là thiếu tiếng đàn ca của cô đào Huế. Cũng trăng cũng gió, cũng nước cũng trời, cũng gió đưa cành trúc, cũng tiếng gà vẳng xa, cũng tiếng chuông ngân nga vang động. Bấy giờ thuyền đi đã xa chợ, đến cho rẽ của con sông, chúng tôi cho thuyền rẽ ngang qua một cánh đồng toàn cây xanh ngắt. Đom đóm từng đàn, trong đám cây bay ra ánh sáng rọi xuống mặt nước im lặng không tí sóng, trong như muôn nghìn ngôi sao lấp lánh. Đêm đã khuya. Chúng tôi quay thuyền ra về. Các nhà ở hai bên bờ sông đều ngủ yên cả, chỉ còn loáng thoáng mấy ngọn đèn của người đi soi cua, soi ghẹ dọc theo mé sông leo lét trong khoảng đêm trường. Trăng càng sáng tỏ. Bạn tôi xúc cảnh đọc rằng: Trăng cũng vì ai trăng dãi sáng. Tôi đọc tiếp: Trăng vì có chị lại thêm xinh; Nước non nhớ lấy đêm này nhé! Nước chảy, non cao, cảnh với tình. Đọc xong, chúng tôi cùng vui cười. Sự làm thơ đối với chúng tôi không phải là một sự dễ dàng, thế mà nay trong lúc đêm thanh giữa làn nước lặng, cảm quá, bỗng dưng buột miệng nên thơ; thơ ấy, chấp nối mà thành, tuy nó không hay ho gì đó, nhưng đối với chúng tôi nó là chuyện hay hay, đáng làm kỷ niệm vui vui trong cuộc du lịch của đời học trò. Bọn tôi sở dĩ có câu: “Trăng cũng vì ai trăng dãi sáng” là bởi mấy đêm trước trăng thường lờ mờ; lại nữa, sáng hôm nay, trời lại râm mát luôn, nên ý bạn tôi muốn nói: Buổi sáng đi chơi, trời đã vì ai mà râm mát, tối lại chơi trăng, trăng cũng vì ai mà sáng tỏ, huống bạn tôi là người ở Phú Quốc đã lâu, thì trong mọi cuộc đi chơi há lại không vì ai là khách lạ mà làm hướng đạo hay sao? Vì thế mà trong câu ấy mới có chữ “cũng”, chữ “cũng” là hàm có nghĩa ấy: lời thật mà ý kín, đáng yêu. Đêm đã khuya quá rồi mà chúng tôi còn tiếc mãi, chưa đành dứt về được. Mới ghé lại bên cồn một lúc lâu nữa, cùng nhau chạy đuổi bắt con dã tràng. Lạ! Ban đêm chúng nó chạy chậm và dễ bắt lắm, bắt dã tràng rồi lại đuổi sóng. Giỡn chán lại ngồi nói chuyện. Thật không còn gì thú bằng ở chỗ mênh mông trời nước vài người tri kỷ bàn câu chuyện văn chương buông tầm mắt ở cho tuyệt vời trong khoảng bóng trăng làn sóng, nào có biết đâu trong đời còn có chuyện đáng bực mình. Trời sáng, một buổi bình minh trong trẻo. Ăn lót lòng xong; chủ thuyền vừa đến giục, chúng tôi từ giã bà con, mang đồ xuống thuyền. Thuyền chúng tôi đi đây là thuyền buôn, chở nước mắm đi Rạch Giá ghé qua Hà Tiên, tiện đường chúng tôi đi theo để nêm qua cho biết cái thú đi biển bằng thuyền buồm. Cái tính hiếu kỳ và “mạo hiểm” ấy đã nuôi sẵn trong lòng mỗi khi đọc truyện Télémaque phiêu lưu, chuyện Quả dưa đỏ hay những bài du ký của Alain Gerbault. Đối với người quen đi biển thì Phú Quốc, Hà Tiên mà đi như thế là rất thường, và rất bình yên; nhưng đây chúng tôi, dùng chữ “mạo hiểm” là nói với một kẻ con gái học trò mới từng bước xuống thuyền đi biển lần đầu, thì trong lòng bấy giờ cũng được cái tự phụ như chàng Alain Gerbault mới bước chân xuống chiếc Yacht qua biển Đại Tây Dương! Xin độc giả cho phép và đừng cười! Thuyền chống ra khỏi cửa thì giương buồm. Gió nam thổi nhẹ. Thuyền từ từ đi. Tôi đứng trên mui ngoảnh nhìn lại làng Dương Đông, mấy chòm nhà ẩn trong rặng cây dương xanh tha thướt bên ghềnh, lòng tôi thấy chạnh buồn, từ giã chốn phong cảnh hữu tình; tuy Phú Quốc là chốn tôi mới đi chơi qua mà đối với nơi đó, tôi đã có nhiều cảm tình đằm thắm. Cảnh dễ quyến lòng người! Thuyền đã đi xa. Trông lại không còn thấy rõ nữa, chỉ thấy một màu cây xanh kề làn nước trắng. Bỗng gặp gió chướng, không chạy xuôi được, phải chạy vác. Vác suốt một ngày ròng rã, đến chiều thì vừa tới Hòn Chảo. Theo như sự kinh nghiệm của người quen đi biển thì họ xem trời biết trước sắp có cơn giông. Mà thiệt, đầy trời mây đen mù mịt, rồi đổ trận mưa to. Thuyền lại nhỏ, bị chở nước mắm đầy; chúng tôi ngồi chen chúc trong mui, chốc chốc lại vén tấm mành lên ngước dòm trời; bốn bề tối mịt như bưng lấy mắt; thỉnh thoảng có cái chớp sáng lòe chạy trong cõi mênh mông mờ mịt. Chúng tôi ngồi vừa bàn chuyện. Có lúc cãi nhau về một vấn đề, có lúc kể lại nhau nghe những chuyện phiêu lưu mạo hiểm trong sách đã từng xem, thì ai nấy đều mải nghe mà quên mất cái cảnh lạnh lùng lo sợ, dần dần lại thấy đầm ấm vui vầy vì câu chuyện, mà tưởng mình đang ngồi ung dung trong phòng học ở nhà. Tờ mờ sáng thì chúng tôi đã ngồi trên mui rồi. Sáng hôm nay trời êm quá, ở trên thuyền như ở trên mặt đất, không có chòng chành xao động tí sóng gợn, êm lặng như mặt nước trong ao. Ngoảnh trông trời biển toàn một màu mờ mờ trắng điểm có mấy vệt mờ mờ xanh. Cây cỏ trên Hòn Chảo vì nhờ có trận mưa đêm rồi, có vẻ xanh tươi hớn hở, trông thấy được cái khí phát sinh tạo hóa. Thật là một buổi sáng vui vầy, ánh nắng rực rỡ chiếu rọi trên lá cây lóng lánh nước đọng, một đám mây thưa nhẹ nhàng phủ trên đầu non trông như một tờ giấy mỏng phủ trên bức tranh tuyệt tác của một tay danh họa mới vẽ xong. Đàn chim ríu rít vang lừng như chào mừng ánh sáng mặt trời rực rỡ. Vì lặng gió, nên thuyền không chạy được. Ở mãi một chỗ thấy buồn chán vô cùng. Trên Hòn Chảo, kề bên bãi cát trắng, nằm liền đồng cỏ xanh chạy dài đến tận bên kia hòn. Thấy bãi cát trắng tốt, lại nghe nói trên hòn có suối trong mát nên ai nấy cùng ước ao lên bờ, nhưng vì thuyền không vô gần bờ được đành ngồi nhìn nhau thất vọng! Nhưng cái may đã có sẵn bên chúng tôi, chiếc thuyền đậu gần có cái thuyền con. Mượn lấy bơi vô bờ. Lên được bờ rồi người mới thấy khỏe khoắn. Bãi cát trắng phau, sóng cồn dào dạt, chúng tôi chạy giỡn nô đùa, nhởn nhơ như đàn bướm lượn, sung sướng như con trẻ được phát quà. Có khi theo mé nước vừa đi vừa nói chuyện, có lúc rủ nhau bươi cát bắt chem chép. Lang thang trên bãi cho đến chiều. Trời xế, chúng tôi đi tắm suối. Dòng suối quanh co chảy, chỗ cạn chỗ sâu, nước trong và mát lắm. Tắm gội xong trở ra thuyền. Cơm nước rồi thì trời vừa tối. Một cái đêm trong trẻo nhẹ nhàng ở giữa khoảng biển trời lồng lộng. Trên trời trăng sao sáng tỏ, thỉnh thoảng một trận gió mát nhè nhẹ thổi qua. Trong thuyền có người đem theo cây mandoline. Bấy giờ lấy đem ra; tiếng đàn dìu dặt chìm bổng nhịp nhàng, tiếng mau rang rảng mạnh bạo nóng nảy như thúc giục lòng người, tiếng khoan êm dịu nhẹ nhàng như tiếng ru người trong cơn mệt mỏi. Biển trời bát ngát, lồng lộng bao la, mênh mang vô tận, lặng lẽ cô tịch như cõi ngoại trần, mà một tiếng du dương bỗng réo rắt cất lên rồi tản mác trong luồng gió, vang động đến làn sóng từng mây, khiến trong lòng cảm thấy cái cảnh thần tiên huyền bí lạ lùng, tâm hồn lay động phiêu dao, ngơ ngẩn như mình ở trong một cảnh mơ màng xa lạ nào; nửa như thiệt nửa như chiêm bao. Rồi cảm thấy trong cảnh lênh đênh xa nhà cửa ở giữa khoảng nước mây bát ngát cái tiếng cố hương như kêu gọi, mà tấm lòng du tử cũng như bồi hồi hoài cảm. Cảnh đêm ở giữa biển thật có vẻ thần bí lạ. Mấy chòm cù lao nằm êm lặng trên mặt nước âm thầm. Thỉnh thoảng một con cá lội qua làm xao động mặt nước hiện ra một vệt sáng trắng lòe, rồi lại tan ngay. Đêm càng khuya, trăng sao càng sáng tỏ. Ngồi chán, lại nằm; trên mui ghe, chúng tôi tắm gió biển suốt đêm. Trời sáng. Thuyền lấy neo. Gió thổi mạnh, con thuyền cưỡi sóng, chúng tôi cách Hòn Chảo đã xa. Ngoảnh lại nhìn, bấy giờ mới nhận ra hình cái chảo, hai đầu hai ngọn núi cao là hai cái quai, cánh đồng bằng ở giữa bị mặt nước che khuất theo chiều bầu dục của địa cầu xa trông như hình lòng cái chảo khổng lồ nằm ngửa miệng đời đời kiếp kiếp hứng cái tinh khí mưa sương của trời cao rộng. Trông về phía trước bên tay mặt nhiều chòm đá đen xám, nằm rời rạc nhau nhô lên khỏi mặt nước, xa trông như đàn trâu lội, nước ngập ngang lưng. Chỗ ấy người ta gọi là “Vũng trâu nằm”. Hôm nay gió mạnh nhưng gió ngược. Lại phải chạy vác. Thuyền lắc ghê, chòng chành luôn, mỗi khi thuyền trở lên, nghiêng về một bên nào thì đồ đạc đổ dồn về bên ấy. Chúng tôi nằm trong khoang phải trở dậy xây qua luôn, mãi cho đến chiều cũng nhọc mà cũng vui. Cái ngày tập thể thao ở giữa biển đó nghĩ mà cũng thú! Đến Bạch Mã trời vừa chiều, mà cũng vừa lặng gió. Chiếc thuyền đi lừ đừ. Cơm nước xong chúng tôi lại lên mui ngồi ngắm cảnh. Bên tay trái chúng tôi là rặng núi Bạch Mã. Trên đầu núi kề liền mé bãi một tòa nhà gạch là nhà nghỉ mát cho khách du lịch. Dài theo mé bãi, lúp xúp mấy cái nhà tắm. Phía đàng trước là chợ phố, một dãy nhà ngói nhô lên mấy cái nóc lầu cao. Bên tay mặt chúng tôi là Hòn Tay. Về đằng xa, phía trước mặt là Hòn Tre cửa. Trời vừa tối, thấp thoáng phía trước, xa xa ở chỗ chân trời như ngôi sao nằm lơ lửng trên mặt nước, là ngọn hải đăng ở cửa biển Hà Tiên. “Kìa Hà Tiên là đấy”. Ai nấy đều gọi nhau chỉ cho xem, vẻ vui mừng hiện ra trên nét mặt. Cho mới biết cái hồn gia đình lúc nào cũng vẫn sẵn có ở trong lòng người, nhất là ở bọn nhi nữ chúng tôi. Bên này ở hàng phố Bạch Mã, đèn điện vừa bật lên một dãy dài sáng rực rỡ như sao sa, ánh sáng rọi xuống mặt nước biển, mới trông tưởng như đi ngang qua một hiệu kim hoàn, những bóng đèn điện, bóng kim cương lấp lánh nhấp nhoáng trong tủ gương bóng lộn. Gió nhẹ quá, không đủ đưa chiếc thuyền đi tới. Cánh buồm phất phơ không bọc gió, hàng nửa giờ mà thuyền vẫn lửng lơ một chỗ. Bấy giờ lại bỏ neo đỗ lại đấy, chúng tôi áy náy băn khoăn. Ai nấy ngồi rầu rầu không buồn chuyện vãn nữa. Tôi bỗng nhớ, nói: Có lẽ là tại khi bọn mình xuống thuyền về, ở Phú Quốc bạn ta tiễn chân bằng câu: “Chúc các chị đi về được gió êm biển lặng”, thảo nào mà gió êm, biển lặng mãi thế này. Gió êm biển lặng đã suốt một đêm ngày rồi. Nếu mà gió cứ êm, biển cứ lặng mãi thì chưa biết bao giờ mới về đến nhà được. Phải chi bạn ta chúc “thuận buồm xuôi gió” chẳng là hơn. Ai nấy đều cười. Rồi chúng tôi cũng đồng thanh đọc: Lạy trời cho gió thổi lên, Buồm xuôi gió thuận cho thuyền tôi đi. Âu cũng là một cách xua sầu giải muộn. Vào khoảng qua canh một, dần dần có gió thổi đến, ai nấy đều hớn hở mừng, giục lấy neo kéo buồm. Mấy hôm nay, ai nấy vì mải vui xem ngắm cảnh nước trời không mấy lúc nằm yên ngủ được. Nay thuyền chạy được, chúng tôi lại mệt mỏi quá, vừa nằm xuống thì đã ngủ say... Bừng mắt dậy, ra ngóng thì ngọn đèn lúc đầu hôm trông thấy lấp lánh như ngôi sao trên mặt nước cho mù mịt tận phương trời, bây giờ đã lửng lơ trên chót núi ở ngay trước mắt rồi. Thuyền chạy ngang Mũi Nai. Bấy giờ ai nấy đều vui cười đứng tựa bên thuyền trông về trước. Thành phố Hà Tiên dần dần lộ ra trong cảnh mờ sáng. Bên tay mặt, một dải đất liền, nhô lên mấy ngọn núi, chạy dài về miền Hòn Chông. Bên trái là đồi Kim Dự chồm ra cửa biển, trên có mấy tòa nhà gạch: chỗ chị em thường ra hóng mát mỗi buổi chiều. Nơi quen! Cảnh cũ! Thuyền từ từ áp bến. Tôi, trong lòng phấp phới, có cái cảm giác nóng nảy mừng vui như muốn vụt một cái nhảy lên bờ, vì trên cầu các anh em, chị em đang hớn hở đứng trông... Mộng Tuyết Tạp Chí Nam Phong Số 198+199+200, tháng 5+6+7-1934
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 25, 2024 16:46:07 GMT 9
HÀ-NỘI XƯA VÀ.... NAY Tiên Đàm .
“Hà-nội bà mươi sản phố phưởng, Hàng gạo, hàng đường, hàng muối trắng tinh..." Câu hát ấy chỉ cho ta biết Hà-nội là một tỉnh nhiều phố, nhiều phường và trong những phường, phố ấy đều có một thứ buôn riêng, đến nay vẫn còn tên, cũ mặc dầu trong phố không còn hoặc còn ít thứ hàng ấy. Thì như: Hàng Vải Thâm nay buôn quần áo cũ; Hàng Bút, nay buôn giấy bản, v.v... Nếu ta sống lui lại năm, sáu mươi năm trước và hỏi lại chuyện các bậc cổ lão, thì cổ đô Thăng-Long (các nhà truyền giáo gọi là Kẻ chợ) của các triều trước khác hẳn với thành phố Hà-nội nay. . Tỉnh chia làm hai phần: Thành các quan ở và phía đông thành là phường phố .. Phường phố, vị-trí ở trong khoảng từ hồ Hoàn-kiếm đến bờ sông Nhị-hà. Tiếng gọi là phố – giả gọi từng «khu» một thì đúng hơn, — nhưng ít nhà ngói, còn thì nhà lá làm lộn sộn, quang-cảnh giống như một cái làng to. Có nhà làm quay hướng ra các hồ, ao. Thành các quan ở có tường cao hào sâu. Các phố có hàng rào và cửa chắn. Một di-tích còn lại ngày nay: cổng ô ở phố Mới, thường gọi ô Quan-trưởng và tên chữ là Đông-hà môn. Ngoài cái công này, các phố trông ra sông Nhị hà cũng có công như : ô Hàng Đậu, ô Hàng Mã, ô Hàng Mắm (còn gọi là ô Ưu-Nghĩa), ô Hàng Sũ; nhưng các cổng này đều phá đi cả. Đêm đến, các phố đều không thông với nhau nữa, vì các công đóng. Cổng ấy xây chắn ngang phố, hai bên cổng có gián yết thị của quan tổng đốc và quan Phòng thành cấm dân sự về việc đi đêm. Những cổng trên có cánh gỗ rất to, có toang vuông hoặc tròn, nặng tới hai ba người khiêng; tối đóng rồi thì ít khi mở, chỉ trừ lúc có lệnh trên. Hồi ấy khu các Hoa kiều ở là phố Hàng Ngang đẹp hơn cả, vì cổng xây gạch, có bao lơ, rất chắc chắn, lại có vòm canh để phu điểm đứng, cho nên muốn vào khu ấy rất khó khăn. Cổng ở Hàng Gai thật sơ sài: chỉ là một bức tường xây, có khoét cửa vuông chữ nhật như các nhà thường. Còn các phố nhỏ không có cổng gạch, chỉ có hàng rào gỗ hay tre, chòi canh lợp gianh hay lá, để phu điểm đứng tránh gió mưa. Phố xá hồi ấy thế nào? Trừ phố khách có lát đá tảng ở giữa lối đi, còn các phố khác đều là đường đất, bùn ngập đến mắt cá chân; lại thêm rác bẩn của các nhà và khách bộ hành vứt ra đường, không ai quét dọn ! Mùa mưa, thật là lầy lội. Một vài phố có lối lát gạch ở giữa, nhưng chỉ có một hàng để đủ đi lúc giời mưa cho khỏi lấm chân thôi. Hai bên vệ đường không có rãnh, cống chi cả. Nước mưa ứ, đọng lại, đến mùa viêm nhiệt, để khi xông lên rất bẩn thỉu. Cho nên trong phố thường hay có bệnh thời khí ! Còn nhà hàng phố thì ai làm nhà đều theo ý mình, không có phép-tắc kiểu mẫu: cái nhô ra, cái thụt-vào ! Mỗi nhà đằng trước lại có mái hiên bằng lá, hay phên lếp, dưới dọn hàng, thành ra phố đã chật lại hẹp thêm. Một đôi khi có hỏa hoạn cháy tử ngoài cửa vào, chủ nhà chỉ còn cách chạy ra lối sau hoặc nhảy xuống ao, xuống hồ vì trong phố có nhiều ao, hồ, như hồ Hàng Đào, hồ Hàng Bỏ vv.) đề tránh nạn. Ở một vài nhà cở ngoài bục hàng ngày nay, ta hãy còn thấy, xây cái bể chứa nước để chữa cháy, vì mỗi gia chủ phải tự vệ lấy, chứ làm gì có sở cứu hỏa của nhà nước như bây giờ ! Sự đi lại trong phố thật là phiền-phức, nhất là mỗi khi có quan quân chạy qua, thì hai bên phố phải tránh ra hết, có nhà phải đóng cửa lại. Nếu gặp buổi phiên chợ, thì thật là bí tắc: người chạy nhốn-nháo, giày séo lên nhau, không còn trật tự gì cả, chỉ lợi cho kẻ cắp thừa lúc ấy mà hoành hành. Ở Hà-nội có phiên chợ, thường họp vào ngày rằm và mồng một. Gặp những hôm ấy các dân quê miền phụ-cậu đều kéo vào tỉnh mua bán. Họ họp ngay giữa giời, ngoài hiên các phố. Những hàng củi họp ở Hàng Đào, hàng nồi ở Hàng Đồng, hàng nón ở Hàng Nón. Toàn tỉnh là một cái chợ to,quang-cảnh ồn-ào, sự đi lại bị ngừng trệ ! Sáng từ 7 giờ đến mãi quá trưa, từ bè phố đến ngoài đường, các hàng ngồi san-sát dài đến hơn hai cây số. Ban ngày càng ồn ào bao nhiêu, quang cảnh ban đêm lại càng bình tĩnh bấy nhiêu: Cứ lặn mặt giời, các nhà đã đóng cửa im im. Ngoài phố, không có đèn. Những đêm không giăng, cư dân phải sống trong cảnh tối-tăm rùng-rợn. Ai đi đêm, phải mang đèn. Hồi ấy phải đi đêm là một sự bất đắc dĩ. Tuy các cổng ô đã đóng chặt, nhưng các dân phố đi ngủ vẫn còn nơm nớp sợ. Một bà cụ kể rằng: « Chập tối, dọn hàng xong là đi ngủ, nhà nào có tiền phải giấu kín hoặc chôn, hoặc đem gửi. Khi ngủ, thì lên gác lò (tức như gác sép), rút thang lên, cửa đóng thật chặt, ai gọi cũng không dám mở. Trong một gia-đình, kẻ ngủ, phải có người thức, cốt để phòng thủ trong những đêm trường hồi hộp. Ngoài đường vắng tanh, không ai đi lại, trừ ra mấy bác phu điểm cầm canh rời rạc, đập gậy chan-chát. Đến độ ba, bốn giờ sáng, các bác phu đã đập của từng nhà, gọi. « Hai bên hàng phố dậy mà trông lấy nhà!» Vì giờ ấy, họ bắt đầu đi ngủ cho đến sáng. Mà cũng giờ ấy các chú chích (kẻ trộm) bắt đầu hoành hành. Nhà nước tuy có đặt quan Phòng thành, nhưng việc trị-an không có phương-pháp, chỉ trông vào mấy anh phu điểm canh gác vì được dân phố đặt tiền... » (2) Sự sống « khủng bố » ấy làm cho dân Hà nội – nhất là mấy năm về cuối đời Tự-đức (1881, 1882, 1883), ai ai cũng phải lo sợ. Thêm vào, lại có những tin bên ngoài phao đồn: nào Cờ đen, nào Cờ vàng, nào Tàu Ô... Nhiều nhà giàu phải bỏ thành thị mà về quê ăn náu. Nếu được nhìn lại bức tranh trên, chúng ta sẽ lấy làm lạ lùng mà thấy quang cảnh Hà nội ngày nay: Hồ Gươm trong vắt, bóng lễu thướt-tha, đèn điện sáng đường phố rộng rãi, sạch sẽ, đi lại được dễ dàng, buôn bán tiện lợi... Ta sẽ mừng rằng đã may-mắn qua được những đêm rùng-rợn mà nhiều cụ đến nay mỗi khi nhắc lại vẫn còn ghê sợ tưởng như mình từ thế giới bị nọ bước sang thế giới kia vậy. TIÊN-ĐÀM (1) Cồng này xây năm 1749 (miê hiện Cảnh-Hưng nhà Lẽ) để phòng ngữ kinh thành về mặt sông. Nhị hà. (theo Maspéro, Bulletin E FEO 1910, p.562). Cổng có tường bao lớn, có vòm canh và ngay lối đi còn một tấm bia, khắc năm Tự-Đức thứ 34 (1882) cấm người canh cổng không được phép đòi tiền của người qua cổng. (2) thuật theo nhời thân mẫu tôi kể lại. Nguồn: Tạp Chí Tri Tân số 8 năm 1941
|
|