|
Post by Can Tho on Feb 14, 2021 3:59:39 GMT 9
Vĩnh Biệt Thi Sĩ Tường Linh, Tác Giả Bài Thơ : Năm Cụm Núi Quê HươngDongNhacVangNhà thơ Tường Linh có tên thật là Nguyễn Linh, ông sinh ngày 12/12/1931, tại làng Trung Phước, huyện Quế Sơn (nay là Quế Trung, Nông Sơn), tỉnh Quảng Nam. Ông xa quê từ năm 1954, ra sống ở Huế, Quảng Trị. Đến năm 1956 vào ở hẳn tại Sài Gòn cho đến nay. Trước năm 1975 ông làm báo tại Sài Gòn, từng có thời gian phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Tường Linh sáng tác rất nhiều từ những năm 1950, nổi tiếng với những bài thơ về tình yêu quê hương đất nước. Ông thuộc lớp các thi sĩ Quảng Nam xuất hiện vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ “Chị Điện Hòa” (1950) và “Năm Cụm Núi Quê Hương” (1954) của ông được nhiều người thuộc lòng, mãi cho đến nay. Đó là loại thơ kể chuyện, rất phù hợp với điều kiện lịch sử-xã hội vào thời điểm ấy. Ngoài ra chúng ta còn có thể nói đến như một số ca khúc như : Một Sớm Mai Về (Thơ Tường Linh, Nhạc Miên Đức Thắng), Một sớm mai về (Thơ Tường Linh, Nhạc Trầm Tử Thiêng). Một số tập thơ của ông đã xuất bản: – Thơ Tập Làm Thuở Nhỏ (in thạch bản tại Tam Kỳ, 1950) – Mùa Đi (in thạch bản tại Bồng Sơn, 1953) – Mùa Hoa Cải (in tại Huế, 1955) – Mây Cố Quận (NXB Tao Đàn, Sài Gòn, 1962) – Nghìn Khuya (NXB Tao Đàn, Sài Gòn, 1965) – Thu Ơi Từ Đó (NXB Tao Đàn, Sài Gòn, 1972) – Giọt Cổ Cầm (NXB Đà Nẵng, 1998) – Về Hỏi Lại (NXB Đà Nẵng, 2001) – Thơ Tường Linh tuyển tập (NXB Văn Học, 2011) Bài thơ: NĂM CỤM NÚI QUÊ HƯƠNG Tác giả : Tường Linh “Anh thương binh trở về nguyên quán Một bàn tay vĩnh viễn gửi sa trường Anh trở lại, với bàn tay còn lại Vẫy vẫy chào Non Nước (1) quê hương. Quê hương anh mây dăng đèo Hải (2) Chiều ấu thơ êm ả câu hò Nước mấy nguồn sông hẹn về cửa Đại Ngũ Hành Sơn năm cụm núi xanh lơ Anh lớn lên giữa bài ca châu thổ Những mùa thu ngọt trái nam trân (3) Biển xa lộng gió Thuyền lưới đầy khoang cá trắng ngần. Mẹ thường kể anh nghe Chuyện mẹ cùng cha Ngày xưa đôi lứa Trai lành, gái đảm thương nhau Bến nước sông sâu Nhịp cầu, giếng xóm… Cô gái mười lăm hái hoa, bắt bướm Nắng sớm thêm vàng màu áo lụa Duy Xuyên Cậu trai xóm dưới ngoan hiền Đêm khuya khoắt học bài bên bếp lửa. Ngoại già thương “hai đứa” Ngoại già cho lấy nhau Vài buồng cau, mấy liễn trầu Đám cưới đi ngang bờ sông hoa gạo đỏ Biển lộng, buồm khơi ăm ắp gió Ngũ Hành năm cụm xanh xanh Cha mẹ chỉ tay thề với núi: Mỗi ngón tay ngang một cụm Ngũ Hành Năm cụm núi không thể nào thiếu một Năm ngón tay không thể chia lìa Lời mẹ đều đều Sương rụng vườn khuya. Anh ra đi từ mùa thu quê hương bốc lửa Rừng xa, xa rồi những lứa nam trân Mẹ đã già và cha không còn nữa Mây giăng mờ trên đỉnh Hải Vân Chiều hôm nay anh trở về nguyên quán Một bàn tay vĩnh viễn gửi sa trường Mẹ già đón anh mừng vui, bỡ ngỡ Mẹ khóc, mẹ cười… mái tóc rung hoa sương. Không theo anh về bàn tay năm ngón Nhưng về theo anh nghìn chiến công Về theo anh: sông vẫn đầy mấy ngọn Mùa vui chim ca, cá trắng, cam hồng… Anh nhìn núi Ngũ Hành năm cụm: Màu núi thêm xanh Mất bàn tay, còn quê hương thắm thiết Mỗi ngón tay dâng một cụm Ngũ Hành. Niềm vui hiện tại Bếp ấm ân tình Anh chép sử thi, viết thư cho người yêu… bằng tay trái Đời vẫn xanh và núi vẫn xanh.” (1) Non Nước: Tên hòn Thủy Sơn và cũng là tên một làng cũ tại Ngũ Hành Sơn (2) Đèo Hải Vân (3) Nam trân: trái bòn bon Bài Thơ : QUÊ HƯƠNG Tác giả : Tường Linh Ngoài ấy bây giờ chưa nắng lắm Nhiều hoa gạo đỏ nở bên sông Tháng giêng có tiếng chim tu hú Khung biếc trời mai én liệng vòng Mực nước vơi nhiều từ tháng chạp Bờ sông hiện rõ bóng lau xanh Nghiêng nghiêng bãi cát viền quê ngoại Xóm bến dàn xa khuất lối quanh Núi võ vàng mong ai nhớ ai Tỉ tê lệ suối buồn đêm dài Người đi từ mấy phương trời thẳm Núi biết sao chia nỗi cảm hoài? Ngoài ấy giờ đây mùa gió mùa Xiêu xiêu quán nhỏ bên đường trưa Vườn cau của mẹ hoa cau rụng Giọt sáng rơi dường giọt nước mưa Nhà ta dựng lại trên nền cũ Một bức tường rêu kỷ niệm mờ Tường đứng mang linh hồn thuở trước Chở che hai mái lá bây giờ Bóng mẹ vào ra lối ngõ quen Tóc sương dần xoá tóc màu đen Nhớ con xa nhẩm lời kinh nguyện Khuya nối nghìn khuya một ngọn đèn Ngoài ấy… (nghe như xa cách lắm!) Mà thành xa cách cố hương ơi! Mỗi chiều ánh điện loang đầu phố Trông chuyến tàu ra lại ngậm ngùi… 1963
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 10, 2022 2:44:58 GMT 9
Những“địa đạo” của đêm Sài Gòn xưa – Tản văn Du Tử Lê
Tôi muốn nói, nếu đấy là quảng trường của đêm bập bùng những ngọn lửa ngồn ngộn khát khao, hối hả hơi thở của sức sống hôm nay thì, đêm, Sài-Gòn-xưa, là sự thiếp ngủ, bằn bặt chiêm bao của những tiếng vỗ một bàn tay. Góc đêm, Sài Gòn xưa, với tôi, là những con đường vắng lặng, với những ngọn đèn đường lẻ loi, cúi xuống kiếm tìm linh hồn, hay ngắm nhìn chiếc bóng chơ vơ của chính nó. Thị dân đêm, Sài Gòn, xưa, nếu phải ra khỏi nhà trước 12 giờ khuya, sẽ nghe được tiếng giày mình bị hè phố ném trả lại, như một nhắc nhở cay nghiệt của hoang vắng. Nhưng, sự thực không phải thế. Đời sống tinh thần Sài Gòn, xưa, với tôi là những “địa đạo” văn hóa nghệ thuật, dưới tầng sâu. Những mái tóc-thề-âm-nhạc trên đôi vai sương khói của những cánh hạc vàng giữa đêm thơm hương hư ảo. Cách khác, với tôi, đấy là những góc khuất – hay những miểng ngà, ngọc mosaic hoặc, quý kim, khi ráp lại, thành những bức tranh, tựa được hoàn tất từ cổ tích. Những “địa đạo” văn hóa nghệ thuật của đêm, Sài Gòn xưa, dường được phân bổ đều cho từng góc phố. Tùy nhu cầu tinh thần, thời đó, bạn sẽ thoải mái tìm được cho mình chỗ ngồi thích hợp ở một phòng trà ca nhạc nào đấy. Nếu là người ái mộ tiếng hát “liêu trai” Thanh Thúy và, chuyện tình tuyệt vọng của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, thời ông mới chập chững bước vào cõi chấp chới những chùm đèn tiền trường sân khấu bất trắc thì, bạn sẽ phải lên lầu hai, phòng trà Đức Quỳnh, ở đường Cao Thắng – để nghe Thương một người do chính linh hồn của ca khúc ấy: Thanh Thúy, diễn tả. Nếu bạn là một trong những “fan” âm thầm nhưng quyết liệt của tài-hoa-bất-hạnh Trúc Phương thì, bạn sẽ phải tìm đến phòng trà hồ tắm Cộng Hòa nghe Minh Hiếu nghẹn ngào với Tàu đêm năm cũ, hoặc, “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn” mà; dân Sài Gòn đã sớm đổi lời thành “Đường vào trường đua, có trăm lần thua, có một lần… huề”… Dĩ nhiên, bạn cũng sẽ có một chỗ ngồi kín đáo ở phòng trà Hòa Bình, khu chợ Bến Thành hoặc phòng trà Tự Do gần đấy; nếu bạn muốn nghe Băng Tâm hát Tiễn em, hoặc, Ngậm ngùi với tiếng hát Lệ Thu… Cách gì, tôi cũng không thể quên phòng trà Khánh Ly trên đường Tự Do, những năm cuối thập niên 1960. Và cũng trên con đường này, là Đêm Màu Hồng, “địa đạo” của hợp ca Thăng Long. Cùng nhiều, nhiều nữa, những mạch ngầm văn hóa nghệ thuật khác. “Địa đạo” mang tên Đêm Màu Hồng, từ ngày khai trương tới lúc phải đóng cửa vì giông bão thời thế, được mô tả là… “không giống ai!” Nó vốn là nơi tập trung những người bạn văn nghệ (nhiều hơn khách) của nhạc sĩ Hoài Bắc (Phạm Đình Chương). Đó cũng là cõi riêng của tiếng hát Thái Thanh – cánh “hạc vàng” của nền tân nhạc Việt Nam, khởi tự đầu nguồn… Ở góc Sài Gòn, xưa này, hầu như không đêm nào, vắng bóng nhà văn Mai Thảo. Đặc biệt, rất hiếm khi ông đi một mình. Nếu đêm trước tác giả Mười đêm ngà ngọc đi với Thanh Tâm Tuyền thì, đêm sau, bạn đừng ngạc nhiên, khi thấy ông đi với Thần tháp rùa Vũ Khắc Khoan hoặc; Thu vàng Cung Tiến… Cũng có khi ông đem theo nhiều hơn một người bạn! Thí dụ tiếng hát châng lâng lẫy lừng Anh Ngọc; cùng “những ngón tay bắt được của trời” mang tên Duy Thanh, Thái Tuấn, Ngọc Dũng… Từ “địa đạo” văn hóa nghệ thuật này, những đứa con tinh thần mới ra đời được “giới thiệu” bởi tiếng hát Thái Thanh hoặc, do chính Hoài Bắc / Phạm Đình Chương, đắp đổi phần thịt da mới cho những sáng tác cũ, của ông. Những ca khúc mà, thời gian không đủ sức gạch bỏ; phải… ngả mũ chào thua… Nhưng dù mới hay cũ, người nghe cũng sẽ nhận ra những ca khúc ấy, đa phần, như một thứ bút ký, hoặc nhật-ký-âm-giai của họ Phạm trong đời thường. Đó là những ca khúc như “Người đi qua đời tôi / không nhớ gì sao người?” (Người đi qua đời tôi, thơ Trần Dạ Từ); “Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa / cho tôi về đường cũ nên thơ / cho tôi gặp người xưa ước mơ…” (Nửa hồn thương đau, thơ Thanh Tâm Tuyền); hoặc “Hãy mang đi hồn tôi / một hồn đầy bóng tối /một hồn đầy gió nổi / một hồn đầy hương phai…” (Khi cuộc tình đã chết, thơ Du Tử Lê)… Những danh ca một thời của Sài Gòn, từ trái: Khánh Ly, Lệ Thu, Thái Thanh. Ảnh: TL Người nghe, cũng có thể bất ngờ chết lặng với Kỷ vật cho em (thơ Linh Phương, nhạc Phạm Duy), bởi tiếng hát Thái Thanh; hay Xóm đêm do chính Hoài Bắc, gần sáng, chếnh choáng với ly rượu trên tay, lừng khừng bước tới sát giới hạn sân khấu, cất tiếng, theo yêu cầu của bằng hữu: “Đường về canh thâu / Đêm khuya ngõ sâu như không màu / Qua phên vênh có bao mái đầu / hắt hiu vàng ánh điện câu…” Những góc đêm, Sài Gòn, xưa, như thế, cho tôi cảm tưởng ngay những người đang say cũng sẽ giật mình, tỉnh lại; khi những chùm dây dẫn điện của những khu bình dân, Sài Gòn, rối nùi khốn khó. Đó cũng là thời gian tác giả Xóm đêm phải về tá túc nơi căn gác ngôi nhà thân mẫu của ông ở đường Cống Quỳnh, gần Chợ Nhỏ Phạm Ngũ Lão, lúc bi kịch gia đình, thình lình chụp xuống, xô đổ mọi xây dựng những tưởng vĩnh cửu đời riêng, của con người tài năng ngoại khổ này! Tuy nhiên, với tôi, mặt khác của “vàng vọt” nơi những ngọn đèn được câu từ nhà này, tới nhà khác, lại là ghi nhận rực rỡ nhân bản. Tinh thần chia sẻ lần đầu và duy nhất của tân nhạc Việt Nam, với những khu bình dân, xóm nghèo, của họ Phạm… Cũng vậy, nếu bạn rời khỏi Đêm Màu Hồng vào một đêm hạ tuần, có trăng, tôi tin, tiếng hát Thái Thanh hay Hoài Bắc sẽ vẫn ở trong tâm hồn bạn những vạt trăng lãng mạn tơ nõn: “Chưa gặp em, tôi đã nghĩ rằng / có nàng thiếu nữ đẹp như trăng…” (Mộng dưới hoa, Đinh Hùng / Phạm Đình Chương). Hoặc cảm thức bi lụy như những miểng chai gắn trên bờ tường ký ức đau đớn: “Ðò trăng cắm giữa sông vắng / Gió đưa câu ca về đâu / Nhìn xuống đáy nước sông sâu / Thuyền anh đã chìm đâu…” Đó là Trương Chi của Văn Cao. Là vầng trăng của những “Đàn đêm thâu / trách ai khinh nghèo quên nhau / Đôi lứa bên giang đầu / người ra đi, với cuộc phân ly”. Nếu một khuya khoắt nào, ra khỏi “địa đạo” Đêm Màu Hồng, gặp những hạt mưa không hẹn nhưng đã đợi bạn nơi hè đường từ rất sớm thì, bạn cũng đừng ngạc nhiên, khi cảm được thanh âm lóc cóc của những chuyến xe thổ mộ, Sài Gòn, ngoại ô, dằn xóc, tủi hờn vì khoảng cách địa dư trong Mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội của Phạm Đình Chương / Hoàng Anh Tuấn, như những hồi tưởng, không đoạn kết. Tôi cũng đã từng thấy những đôi vai sát, khi chia tay Đêm Màu Hồng, không nói với nhau một lời nào. Tự thân những khung cửa khép, gió sông Sài Gòn, từ bến đò Thủ Thiêm thay bạn thì thầm về niềm tin yêu, ngày mai, bình minh. An lành thế giới… Và, thưa bạn, đêm nay, giữa quê người, khi hợp ca Thăng Long, chỉ còn lại duy nhất Thái Thanh, “cánh hạc trong trăng” cũng đang trả lại nhân gian buồn / vui một kiếp, chuẩn bị đi xa theo Phạm Đình Chương, Hoài Trung, Thái Hằng và, người khách thường trực, Mai Thảo cùng các bạn của ông, tôi chợt thấy, dường tất cả chúng ta, không ai thực sự bỏ đi khỏi đất nước của mình. Mọi người vẫn ở đâu đó, trong những góc khuất, đêm. Sài Gòn. Xưa. Có thể mọi người đã chính là những đêm mưa, những vạt trăng, những miếng mosaic; những miểng thủy tinh vỡ, găm trên bờ tường đau thương, quá khứ… Thậm chí, có thể ai đó, cũng đã là những cột đèn lẻ loi, cúi xuống kiếm tìm hồn mình hay, chiếc bóng của chính họ giữa Sài Gòn, một thuở, dù lâu rồi đã không còn hiện hữu! Bởi vì, thưa bạn, tôi vẫn nghĩ: như đất nước, Sài Gòn không của riêng ai. Sài Gòn, cũng không của một thời kỳ, một giai đoạn mà Sài Gòn, là ký ức tập thể. Là một phần trái tim của Tổ quốc. DU TỬ LÊ
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 10, 2022 17:52:23 GMT 9
NHẠC SĨ NGUYỄN ÁNH 9 NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ THẲNG THỪNG VỀ CÁC CA SĨ VIỆT CHẲNG SỢ MÍCH LÒNG AI CẢ ! Nguyễn Ánh 9 "mổ xẻ" Thanh Lam, Đàm Vĩnh Hưng, Hồ Ngọc Hà. Với sự am hiểu sâu sắc, nhạc sỹ Nguyễn Ánh 9 không ngần ngại ‘mổ xẻ’ các gương mặt đình đám nhất làng nhạc Việt như Thanh Lam, Đàm Vĩnh Hưng, Mỹ Tâm, Hồ Ngọc Hà. - Có thâm niên 60 năm trong nghề, ông đánh giá thế nào về thị trường âm nhạc Việt Nam hiện nay ? Việt Nam hiện tại chỉ có giải trí, không có nghệ thuật. Bây giờ, nhạc để xem nhiều hơn là để nghe. Người ta làm giải trí kiếm tiền, coi qua rồi bỏ chứ hiếm người tâm huyết làm nghệ thuật. Điều này khiến tôi buồn lắm vì con đường nghệ thuật của mình không có những người chung chí hướng để làm tốt vai trò nghệ sĩ. - So với thế hệ trước như ông, giới ca - nhạc sĩ Việt hiện nay có gì khác biệt đáng nói ? Hồi xưa, người nhạc sĩ viết ca khúc từ những cảm xúc thật của họ, họ viết ra để chia sẻ niềm vui, nỗi buồn cho mọi người chứ họ không viết nhạc để bán. Còn bây giờ, nhạc sĩ viết nhạc theo yêu cầu đơn đặt hàng nên âm nhạc không có hồn, không có cảm xúc thật của người sáng tác. Ca sỹ bây giờ đa số chỉ chú trọng ăn mặc, make-up cho đẹp và lên sân khấu hát thì sau lưng có một đám múa. Nhưng ít chú trọng đến xúc cảm âm nhạc, không để tâm hồn vào bài hát. Hồi xưa, có những giọng ca còn để tiếng đến bây giờ như Lệ Thu, Thanh Thúy, Thái Thanh… nhưng bây giờ những ca sĩ hát giọng tốt đếm trên đầu ngón tay, đã vậy lại bị vướng vào kỹ thuật thanh nhạc. Tôi nói có lẽ sẽ đụng chạm đến những người học thanh nhạc. Người ca sĩ học thanh nhạc hát phải phát âm cho tròn chữ, và cố gắng đưa giọng mình cho tròn trịa, giọng ngân cao vút… nhưng quá mải lo kỹ thuật nên hát không có cảm xúc! Giọng Hồ Ngọc Hà yếu lắm... - Những ca sĩ được phong hàng Diva như Hồng Nhung, Thanh Lam, Mỹ Linh, Trần Thu Hà có bị vướng vào kỹ thuật thanh nhạc ? Thanh Lam, Mỹ Linh giọng hát rất đẹp, cái gì cũng tốt nhưng đều bị vướng kỹ thuật thanh nhạc nên nhiều lúc nhạc cảm không có, tâm hồn bài hát không có. Hồng Nhung hát tốt hơn Mỹ Linh, Mỹ Linh tốt hơn Thanh Lam. Đơn cử, nghe Thanh Lam hát bài Cô đơn của tôi, tôi buồn lắm ! Nó không ra cái cô đơn, không có hồn dù giọng đẹp thiệt! Thanh Lam hát những bài sâu lắng nhiều khi đóng kịch nhiều hơn là hát. Mà đóng kịch phải như người diễn viên, người ta nhập hồn vào vai diễn đó, ví dụ Kim Cương trong Lá sầu riêng, cô là nhân vật cô gái đau khổ tên Tâm chứ không phải là nghệ sĩ Kim Cương, phải quên Kim Cương đi ! Ca sỹ cũng phải hát 'nhập vai' như vậy mới ra ca sĩ. Trần Thu Hà thì khôn hơn, biết cách lợi dụng kỹ thuật để áp dụng. Nhưng mấy người được như Trần Thu Hà? Người nào cũng phô trương, tôi phải hát giọng cao tới nốt đó tôi mới là ca sỹ, còn hát chưa tới thì chưa phải là ca sĩ. Cái đó là sai lầm tai hại vô cùng và không ai chấp nhận. - Hai nữ ca sĩ đang nổi tiếng nhất trên thị trường hiện nay là Mỹ Tâm và Hồ Ngọc Hà, ông đánh giá tài năng của họ ra sao...? Mỹ Tâm chỉ hát nhạc Pop bình thường thôi, nhưng được cái là sáng sân khấu, xử lý bài hát chính xác. Mỹ Tâm cũng có những ca khúc hát không tới, gặp bài nào hát tới mới hay, như Cây đàn sinh viên, Ước gì... Mỹ Tâm hát chỉ hợp với tuổi trẻ. Về tính nghệ thuật thì Hồng Nhung, Trần Thu Hà hát xong có để lại ấn tượng, còn Mỹ Tâm chỉ nghe vui mắt, vui tai, nghe qua xong rồi thì thôi, không để lại ấn tượng gì hết. Mỹ Tâm được cái là may mắn rơi vào đúng thời điểm không có ai cạnh tranh, từ đó nổi tiếng và khi nổi tiếng rồi thì rất khôn khéo đầu tư vào hát, múa, sắc đẹp để giữ vị trí. Hồ Ngọc Hà và Mỹ Tâm Hồ Ngọc Hà hát chỉ nghe chơi thôi ! Giọng Hồ Ngọc Hà yếu lắm, khều khào không à ! Hồ Ngọc Hà đẹp, có vóc dáng sân khấu, chịu khó múa…cái gì cũng đẹp nhưng giọng hát thì lại không được. Khi diễn tả nội tâm, Hồ Ngọc Hà diễn kịch tính nhưng đóng kịch chứ không thật. Ca sĩ hát phải biến mình thành nhân vật trong ca khúc mới hiểu nỗi đau làm sao. Không lẽ, ngoài đời mình buồn là phải hét, gào thét ? Đâu phải vậy ! - Với các giọng ca nam đang nổi tiếng như Bằng Kiều, Đàm Vĩnh Hưng, Quang Dũng… ông đánh giá thế nào ? Bằng Kiều cũng giọng tốt như Trần Thu Hà nhưng sau này khoe giọng quá, cố hát lên cao vút để không ai bắt chước được. Thành ra, Bằng Kiều hát bài Buồn ơi chào mi của tôi khiến khán giả ở dưới sững sờ luôn! Tính lại thì hiệu quả sân khấu có nhưng tôi mở băng ra nghe thì phải nghe Tuấn Ngọc hay Xuân Phú, Trọng Bắc hát. Quang Dũng hát được vài bài của Trịnh Công Sơn chứ không phải là tất cả. Còn Đàm Vĩnh Hưng chỉ được bề nổi vậy thôi, tôi không cho là ca sỹ đúng nghĩa. Tôi chỉ cho Đàm Vĩnh Hưng là một người hát. Đàm Vĩnh Hưng cố hát nhạc xưa, nhạc vàng mà hát có ra đâu ! Đàm Vĩnh Hưng hát bài Ai đưa em về của tôi, tôi bảo ‘con đừng hát bài của bố nữa, tội nghiệp bố lắm’. Tôi không thích, tôi nói thẳng luôn. Đàm Vĩnh Hưng nói ‘nhưng con thích hát nhạc bố…’, tôi nói ‘nhưng con không nên hát nhạc của bố thì hay hơn’. Thật ra, giọng Đàm Vĩnh Hưng nửa Nam nửa Bắc, cách thức hát cũng không có và lối hát cũng vậy. Hồi xưa, Đàm Vĩnh Hưng mà đi hát thì chỉ xứng là ca sĩ loại C hát lót chứ không được vào hạng ca sĩ chính của phòng trà đâu ! - Ngoài danh ca Tuấn Ngọc thì những giọng ca nào khiến ông hài lòng nhất ? Giọng nữ thì tôi thích Ngọc Anh, Hồng Nhung, Ánh Tuyết, Trần Thu Hà… Nguyên Thảo nếu tiếp tục hát như ngày xưa thì rất hay. Ngày xưa, Nguyên Thảo hát cho thỏa đam mê còn sau này, bị gò bó vào kỹ thuật như Mỹ Linh để khoe giọng và vô tình giết chết tình cảm. Vừa rồi làm đĩa than của tôi có 2 bài Nguyên Thảo hát. Cách đây 6 năm, Nguyên Thảo hát Buồn ơi chào mi xuất thần luôn, nhưng giờ Nguyên Thảo để tâm đến kỹ thuật nhiều nên tình cảm không còn, so ra khác hẳn. Giọng nam thì ngoài Tuấn Ngọc còn có Trọng Bắc, Lê Hiếu… Tuấn Hiệp lúc trước hát tốt, tôi thích nhưng giờ chạy theo hát nhạc vàng bị mất chất. - Nhưng rõ ràng trên thị trường, những giọng ca này không phải nổi tiếng nhất, được khán giả ưu ái nhất. Theo ông vì sao có nghịch lý này ? Nhiều ca sĩ hát hay nhưng chưa nổi được, tại vì bây giờ còn phụ thuộc vào công nghệ lăng xê. Khán giả cũng bị ảnh hưởng bởi phim ảnh Hàn Quốc nhiều quá, 10 cái clip của Hàn Quốc thì 11 cái có nhảy rồi ! Cái đó gọi là âm nhạc giải trí, nghe qua rồi bỏ, khác xa với nghệ thuật. Tôi thấy giới trẻ bây giờ nghe nhạc vô tội vạ, nghe theo phong trào, chạy theo lai căng ngoại quốc nhiều quá nên không còn bản chất. Mong có nhiều nghệ sỹ ‘tử tế’ và người nghe ‘tử tế’ - Với những đánh giá này, phải chăng gu thưởng thức âm nhạc bây giờ của khán giả quá khác với ông, bởi đơn cử, Đàm Vĩnh Hưng đang được phong là ‘ông hoàng nhạc Việt’? Không phải ! Nếu đem so sánh Tuấn Ngọc với Đàm Vĩnh Hưng, người ta vẫn thích nghe Tuấn Ngọc hát nhiều hơn, đúng không ? Nghe Tuấn Ngọc hát thấy nó khác liền, hát ra là cảm xúc đến với người nghe chứ không phải gắng gượng. Tại vì Tuấn Ngọc đã sống trong bài hát đó, khi hát Tuấn Ngọc để tâm trạng vào bài hát, nói lên tâm trạng của nhiều người. Ví dụ khi mình bị người yêu bỏ, nghe Tuấn Ngọc hát Buồn ơi chào mi, nghe nó đã lắm! Tuấn Ngọc vẫn là giọng ca số một dù tuổi tác, thời gian làm cho giọng của Tuấn Ngọc không còn được đẹp như ngày xưa nữa, nhưng cái xúc cảm vẫn là Tuấn Ngọc và xúc cảm càng ngày càng sâu hơn. - Vậy theo ông, thị trường nhạc Việt sẽ đi về đâu? Đây là vấn đề lớn, cả một thế hệ chứ không phải đơn giản, ăn thua là cách giáo dục của gia đình với con em làm sao. Nếu trong một gia đình chỉ có tối ngày đi kiếm tiền thì tinh thần nghệ thuật của họ chết rồi, bị tiền bạc chi phối hết. Thành ra, họ cũng không chăm sóc con cái, cứ cho tiền là xong. Họ cũng ỷ lại tiền, đưa con vào trường này trường kia, mặc con muốn làm gì thì làm. Theo tôi, thị trường nhạc Việt vẫn đang nằm yên. Rồi từ từ, nhạc thị trường sẽ rớt dần và tới một giai đoạn nào đó, nghệ thuật sẽ lên ngôi. Nhạc thị trường tự động phát sinh rồi sẽ tự động chết bởi những gì không hay sẽ không tồn tại. Tôi tin tưởng như vậy. Đời tôi không thấy nhưng đời con, đời cháu của tôi sẽ thấy điều này. - Sau 60 năm cống hiến cho nghệ thuật, điều ông mong muốn nhất là gì ? Tôi chỉ mong muốn duy nhất là có nhiều nghệ sĩ tử tế và người nghe nhạc tử tế. Tất cả những gì cứ để thử lửa đi, đốt cách mấy thì vàng cũng vẫn là vàng. Mình hãnh diện là người Việt Nam không thua ai hết ! - Xin cảm ơn ông! (Theo VTC) Cre: Phương Trần
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2022 2:19:33 GMT 9
Ca Khúc ‘Xuân Này Con Không Về’ Đã *Cứu* Nhạc Sĩ Nhật NgânTg: Thiên Giang. Nhạc sĩ Nhật Ngân được biết đến với những bài hát nổi tiếng như “Xuân này con không về”, “Qua cơn mê”, “Một mai giã từ vũ khí”, một số bút hiệu khác của ông là Trịnh Lâm Ngân (sáng tác chung với Trần Trịnh), Ngân Khánh, … Nhạc phẩm “Xuân này con không về” của ông được sáng tác khoảng năm 1968, đến năm 1975 ông bị cấm hoạt động và vượt biên nhưng không thành. Khi bị bắt, ông khai tên là “Nguyễn Văn Hai”. Lúc đấy là khoảng gần mùa xuân, ông sinh hoạt trong trại bình thường, mọi người đi cùng đợt với ông không ai biết ông là nhạc sĩ Nhật Ngân. Trần Trịnh và Nhật Ngân 1970 Thời gian sau, có một đoàn khác toàn người Sài Gòn cũng bị bắt vào trại ấy, mà không may, những người đó ai cũng biết đến tên ông. Và từ đó, ông sống trong lo sợ phải ngồi tù thêm vài năm nữa vì tội khai man lý lịch và là nhạc sĩ nhạc vàng. Có một hôm kia, khi lao động về trại, một tên công an xuống gọi: -“Ông Nguyễn Văn Hai lên văn phòng trại làm việc!”. Khi bước vào cửa văn phòng, thay vì bản án tù nặng nề, ông lại thấy bàn tiệc vừa cá vừa gà vô cùng linh đình, trưởng đại đội Năm Nghĩa gọi đến và bảo: – “Anh Hai ngồi ghế đó !” Rồi chỉ cái ghế trống cho ông ngồi. Sau khi nhạc sĩ ăn uống xong, ông Năm Nghĩa mới nói tiếp : – “Tui biết anh Hai là nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân, tui khi ở trong rừng, mỗi đợt xuân về mà nghe hát bài Xuân này con không về đó, tui nhớ mẹ vô cùng, mà tất cả mấy bạn của tui trong đó đều nhớ gia đình hết, mà họ cũng nói rằng anh nói đúng tâm trạng mà họ không nói được!” Ông Năm Nghĩa lại tiếp : – “Nếu mà nhạc sĩ như anh ở ngoài Bắc đi nữa, thì cái bài này cũng sẽ được phổ biến, vì bài này nói rõ ràng tâm trạng của người trai thời chiến yêu quê hương, tuy rằng 2 người ở 2 chiến tuyến nhưng ai cũng có thể nghe được cả!” Thế rồi vài ngày sau nhạc sĩ lại được mời lên văn phòng trại, vẫn đợi ông ăn xong, ông Năm nghĩa đến vỗ vai nhạc sĩ, bảo rằng: – “28 tết này có một chuyến cho về, tôi sẽ cho anh về!” Đúng 28 Tết, trong những người được thả về, toàn đàn bà con gái, may mắn có đọc tên Nguyễn Văn Hai, nhạc sĩ bước ra khỏi trại cuốc bộ ra bến xe lam khoảng độ 1, 2 cây số, trong túi không còn tiền, cũng không có gì mang theo, ông bèn hỏi những người đi chung : – “Ai có tiền có thể mua dùm vé tui về Sài Gòn, tui không đến nỗi nào, tui sẽ trả tiền cho các chị!” Nhưng những người cùng hoàn cảnh, các bà cũng chỉ giấu được có ít tiền mua vé xe cho mình, có người còn không có tiền nên đều không thể giúp ông được. Trong lúc suy nghĩ làm sao phải về lại Sài Gòn trong khi bản thân đang ở Bạc Liêu, thì lại có 1 người công an đạp xe đuổi theo, người đó nói rằng : – “Anh Năm Nghĩa gửi tiền xe cho anh về Sài Gòn” Cho tới tận bây giờ, ông vẫn nói với bạn bè ông rằng trong những người ở bên kia chiến tuyến đó, vô tình vẫn có nhiều người tốt. Nhạc Si Nhật Ngân đầu thập niên 1980. Ông đi vượt biên năm 1981 và định cư ở Mỹ năm 1984, mãi đến 1995 lần đầu tiên về Việt Nam, ông vẫn nhớ ơn người bạn Năm Nghĩa năm nào, ông tìm xuống Bạc Liêu tìm Năm Nghĩa, nhưng ông Năm Nghĩa đã qua đời. Nhạc sĩ có đến thắp hương và cảm ơn ông Năm Nghĩa. Thiên Giang.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 2, 2023 16:30:47 GMT 9
Về một vụ bêu riếu đáng xấu hổ CÒN THƯƠNG RAU ĐẮNG MỌC SAU HÈ Viết ngắn Nguyễn Đại Hoàng ******** 1. Hôm nay, 27 tháng 1 năm 2023, tôi chuẩn bị viết một bài ngắn kỷ niệm 10 năm ngày mất nhạc sỹ Phạm Duy (1921- 2013)- thì một bạn trẻ hỏi tôi rằng: -Thầy ơi, thầy có biết bài hát Còn Thương Rau Đắng Mọc Sau Hè không? -Tất nhiên là biết rồi. Đó là một bài hát của nhạc sỹ Bắc Sơn (1931-2005)! -Thầy có thể nói rõ hơn không ạ? -Vâng. Theo CHÍNH LỜI KỂ LẠI của nhạc sỹ Bắc Sơn thì ca khúc được ông sáng tác dựa trên CẢM HỨNG từ bài thơ TRƯỜNG CA RAU ĐẮNG ĐẤT của THI SỸ NGUYỆT LÃNG viết năm 1972- để làm nhạc nền cho vở kịch truyền hình BẾP LỬA ẤM, phát trên Đài Truyền hình Sài Gòn năm 1974 và được ca sỹ Hoàng Oanh thu âm lần đầu tiên. Điều này ai cũng biết mà! Bất cứ tài liệu nào có trên mạng Internet đều ghi rõ vậy – từ WIKIPEDIA cho tới những bài viết cá nhân – Source : [ Còn thương rau đắng mọc sau hè – Wikipedia tiếng Việt] & [ Bài hát Còn Thương Rau Đắng... "coi cỏi đốt đồng..." hay "coi khói đốt đồng...", "ba vá miếng dừa..." hay "ba vá miểng vùa..." (nhacxua.vn)] -Nghĩa là…..? -Nghĩa là nhạc sỹ Bắc Sơn chỉ lấy cảm hứng từ bài thơ của thi sỹ Nguyệt Lãng mà viết thành ca khúc, chứ HOÀN TOÀN KHÔNG PHỔ NHẠC từ bài thơ! Mọi chuyện rất minh bạch! Chúng ta hãy xem lại LỜI THƠ của Nguyệt Lãng và CA TỪ của bài hát thì rõ: CÒN THƯƠNG RAU ĐẮNG MỌC SAU HÈ – nhạc sỹ Bắc Sơn 1974 Nắng hạ đi mây trôi lang thang cho hạ buồn coi khói đốt đồng, để ngậm ngùi chim nhớ lá rừng ai biết mẹ buồn vui khi mẹ kêu cậu tới gần biểu cậu ngồi mẹ nhổ tóc sâu, hai chị em tóc bạc như nhau Đôi mắt cậu buồn hiu phiêu lưu rong chơi những ngày đầu chừa ba vá miểng vùa đường mòn xưa, dãi nắng dầm mưa Ai cách xa cội nguồn, ngồi một mình nhớ lũy tre xanh dạo quanh khung trời kỷ niệm chợt thèm rau đắng nấu canh Xin được làm mây mà bay khắp nơi giang hồ ghé chốn quê hương xa rời từ cất bước ly hương xin được làm gió dập dìu đưa điệu ca dao chái bếp hiên sau cũng ngọt ngào một lời cho nhau Xin sống lại tình yêu đơn sơ, rong chơi những ngày đầu chừa ba vá miểng vùa đường mòn xưa, dãi nắng dầm mưa Xin nắng hạ thổi buồn để mình ngồi nhớ lũy tre xanh dạo quanh, khung trời kỷ niệm chợt thèm rau đắng nấu canh ... ------ Còn đây bài thơ Trường Ca Rau Đắng Đất của thi sỹ Nguyệt Lãng – 1972 – Source : [ Phan Đăng An: TRƯỜNG CA RAU ĐẮNG ĐẤT - Nguyệt Lãng 1972 (phandangan.com)] TRƯỜNG CA RAU ĐẮNG ĐẤT Trời mưa nước ngập ruộng sâu Cá đồng về hội rủ nhau nhảy hầm Mưa là mưa lũ mưa dầm Hẹn mùa, rau đắng mọc quanh thềm nhà .. Tộ cá rô kho, Tô canh rau đắng Đượm làm sao tình nghĩa nhà quê Nhớ làm sao thuở còn bé bỏng Nhà ở xa trường qua mấy nhịp cầu tre Bấm ngón chân chai bờ đất ruộng Trời mưa trơn trợt lối đi về … Tới cổng, Mùi cá kho đã dậy Lạnh cóng tay, cơn đói réo trong lòng Em với chị vừa đi vừa chạy Cùng tranh nhau kịp để ngồi mâm! Em ngồi bên cha, Chị ngồi cạnh mẹ Bới chén cơm đầy và đua cho lẹ Hạnh phúc reo mừng như tiếng chim ca. Cá rô non nấu canh rau đắng đất Là tình thương bồi đắp mãi không tròn Là những buổi cha dầm mưa khai ruộng nước Quần vo cao, Áo bà ba rách nách Điếu thuốc vồng ngấm nước tắt, lạnh run Tay rổ xúc Vai đeo đụt mướp Lũ đĩa trâu thèm máu hút bầm chân! Là những buổi trời vui mây dẫn gió Trôi lang thang không biết đến phương nào Chiều dâng hương cuồn cuộn tiếp chân nhau Trên ruộng thấp bầy cò bay trắng xoá Những khi nhàn hạ Mẹ nhổ rau đắng đất Đốt lấy tro lắng nước gội đầu Gió thật hiền lay lá trúc lao xao Mái tóc chị dài êm như sóng mạ Mẹ xăm xoi bắt chí Mẹ chăm chút chải gầu Xức dầu dừa óng mượt Cột đuôi gà nhỏng nhảnh đằng sau Mẹ vuốt tóc chị trầm trồ khen đẹp Ôi! Dòng tóc hiền thắm nghĩa cù lao! Mười lăm năm, Thời gian con đủ lớn Và tóc mẹ trải màu bông bưởi bông cau Cha lưng còng như tre gặp gió Cho lòng con nặng một niềm đau! Chị theo chồng về nơi xứ lạ Em linh đinh rày đó mai đây Thuở nhỏ mưa dầm băng mấy ruộng Bây giờ mưa ngại bước chân đi! .. Chị về bên ấy, Ơ hờ gương lược biếng săm soi Tóc chị rối bù hong mùi khói bếp Gió dẫn mây trôi nhìn chỉ ngậm ngùi Đường về biệt mù Chồng con bận bịu, Nơi quê xưa thung đường ươn yếu Mà nhớ thương như thả tóc lên trời Em lang thang đầu sông cuối bãi Thèm một bữa cơm dưới mái gia đình Nhưng dĩa cá kho mặn mùi nhân ngãi Tô canh ngày nào cũng đắng vị công danh! Tộ cá rô kho, Tô canh rau đắng Đời nhiều lận đận Nên mất rồi thời thơ dại dấu yêu Đã hết rồi thời tan học nghêu ngao Câu hát cũ bây giờ nghe nuối tiếc Khi mây trắng lưng trời bay mù như tóc Gió vờn trên lá cỏ Và đường đời sự nghiệp trắng đôi tay Đêm nhà trọ chập chờn giấc điệp Tình hoài hương ray rức ngủ không yên Tiếng võng ai kẽo kẹt Giọng ru hời buồn điệu Vân Tiên: “Trời mưa nước ngập ruộng sâu Cá đồng về hội rủ nhau nhảy hầm Mưa là mưa lũ mưa dầm Cho rau đắng đất mọc quanh thềm nhà!” Mười lăm năm, Bao lần gió nam non thổi lòn hang dế Em đi từ ấy, Chân ruộng đồng chưa mòn gót phiêu linh Ăn quán ngủ đình, Nước sông gạo chợ Bao lần đau những cuộc tình tạm bợ Bao nhiêu lần làm khách lữ qua sông! Chợt giựt mình, trẻ nhỏ gọi bằng ông Bỗng nghe nhớ về cố thổ .. Nhớ rau đắng nấu canh Nhớ con cá rô kho tộ Nhớ chị tôi theo chồng năm lên mười sáu Tóc cột đuôi gà khóc lúc vu qui! Chị trách hờn cha mẹ đuổi chị đi Thân con gái ở nhà ngoài, ăn cơm nguội. Con chim đa đa kêu đâu bờ bụi Thương cha mẹ già ươn yếu chẳng ai lo Chị gói một nắm tro Dặn em gội đầu cho mượt Xức dầu dừa cho mướt Đừng để mủn vùa khô khốc rễ tre Mười lăm năm, Mới hiểu lời chị dặn Thì đã bao lần mấy dề rau đắng Mọc quanh thềm nhà trổ bông trắng rồi khô! Đã mấy mùa nước ngập chân đê Con cá rô mấy lần ra sông lớn Cha không còn dầm mưa thăm ruộng Không còn ai giành nữa chuyện ngồi mâm! Bao năm dài không một lời thăm Thôi thì kể như nước sông chảy ra biển cả Thằng em nhỏ tóc vẫn chừa ba vá Như mủng vùa mẹ gọt, lúc lên ba? Con rô đồng ôm trứng tháng mưa Chờ đến lúc thả con về ruộng Chị ngồi nhớ mỗi chiều mỗi sớm Thả nỗi buồn theo lọn tóc bay. Một hôm chị ngồi ngạch cửa bấm lóng tay Rồi chị khóc một mình Không đếm nữa Buổi trưa nồng gió nồm ru nắng hạ Khói đốt đồng làm mắt chị cay. Từ ngày em làm mây Lang bạt giang hồ khắp ngã Bặt tin nhạn cá Có còn nhớ đất, thương quê? Như ngày lặng lẽ ra đi Em âm thầm trở lại Vừa thương em, chị vừa ái ngại Ba mươi năm, như thể một ngày Vẫn rám đen như ngày trốn học Đi mò cua bắt ốc Giũ trứng kiến vàng câu con cá rô non Chị ngồi ngạch cửa liếc mắt nhìn em Đứa em xưa có gì ngờ ngợ Quần áo bận nửa quê nửa chợ Chút giang hồ, chút vị quê hương! Chị ngồi kế bên Nhìn em ăn cơm mà khóc Lại bấm lóng tay, lại chùi nước mắt. Cũng tô canh rau đắng đất Cũng tộ cá rô kho Lòng chị như cục than vùi dưới lớp tro Gió đòi khêu ngọn lửa. Chị lại ngồi ngạch cửa Biểu em xích lại gần hơn Chị ngập ngừng đưa ngón tay run Lượm sợi tóc sâu ở trên vai áo. Bây giờ chị gọi em bằng cậu (Lẽ ra tiếng ấy, phải kêu từ lúc chị theo chồng!) Ôi! Con đò đã xa biệt bến sông Chị cũng thấy mình ngượng nghịu! Sợi tóc sao bạc phếu? Đâu phải tóc sâu, Mà vì bao lâu mưa dải nắng dầu Qua bao tháng ngày luân lạc Hai chị em mái đầu đều bạc Hai chị em cũng già như nhau Nhớ ngày nào té nước cầu ao Hát khúc đồng dao cùng cười khùng khục “Chị em (người) ta như hoa dâm bụt Chị em mình như cục .. cức trôi! Cục cức trôi, người ta còn vớt Chị em mình như ớt chín cây” Không hẹn mà cùng bấm lóng ngón tay Hai số dư không biết đường nào đếm Em muốn kể quãng đời lận đận Ba mươi năm dài bao nỗi nhớ mong. Ngày về nhà chị Ngủ đêm đầu tiên Nghe rạo rực không thể nào yên giấc Dưới mé thềm rêu mọc đầy rau đắng đất Con dế mèn thôi kể chuyện phiêu lưu Nén tiếng thở dài Sợ rung giọt đèn lu Muốn được ngủ say trong vòng tay chị Lời trách móc sao y như mẹ Cái hồi còn thơ trẻ bên nhau! Ai buộc đời mình vì một cọng rau Ai khôn lớn qua cầu đi hút bóng Nhìn quãng đồng xa một làn khói trắng Cũng bâng khuâng nhớ lắm quê mình Bỗng nghe thèm rau đắng nấu canh! Biết tìm nơi đâu khung trời kỷ niệm? Những chiều hoàng hôn tím Những buổi dầm mưa đi học lạnh run! Những buổi mưa dầm Cha giắt đụt mướp trên lưng Bắt con cá đồng ngược nước Bên chái hè mưa tạt Mẹ hái từng cọng rau đắng đất nấu canh. Để nỗi nhớ vây quanh Tóc trên đầu đã bạc Chân giang hồ bỗng dưng chùn bước Nghe giữa hồn rau đắng đất mọc xanh! 3. Bạn trẻ nghe xong bảo: -Em đã hiểu và em xin lỗi. Cũng bởi vì sáng nay trong một FB cá nhân em đọc được những lời nhục mạ nhạc sỹ Bắc Sơn thật không bút mực nào tả xiết, mô tả cố nhạc sỹ như là “.. một kẻ không biết nhục, một kẻ vô liêm sỹ vì đã đạo văn thơ của người khác ….”. Sự thật là vậy mà họ cố tình dựng đứng, cố tình hướng dư luận đi theo một hướng khác! -Bạn ạ, một người vô cớ nhục mạ biêu riếu một người khác vì một chuyện không có, và như trên đã nói, tư liệu về bài hát, bài thơ đã được đăng tải rõ ràng minh bạch trên mọi phương tiện truyền thông đã mấy chục năm như vậy – thì đã là một chuyện rất tệ, rất lớn rồi. Tôi nghĩ sắp tới giới văn học nghệ thuật, thân hữu thân nhân của cố nhạc sỹ và cả cơ quan chuyên trách sẽ lên tiếng đấy! Hãy để hương hồn của người nhạc sỹ được yên. Cre: Võ Hữu Nhậm
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 3, 2024 13:15:12 GMT 9
Câu chuyện về Tha La Xóm Đạo (nhạc Dzũng Chinh, thơ Vũ Anh Khanh) . chuyenxua.net/cau-chuyen-ve-tha-la-xom-dao-nhac-dzung-chinh-tho-vu-anh-khanh/ CHUYỆN XƯA NHẠC XƯA Tha La là một địa danh nổi tiếng trong nhạc vàng, xuất hiện trong những bài hát Hận Tha La, Vĩnh Biệt Tha La, đặc biệt là Tha La Xóm Đạo của nhạc sĩ Dzũng Chinh. Những ca khúc này đều được phổ nhạc từ bài thơ của thi sĩ Vũ Anh Khanh. Từ đó, địa danh Tha La ở Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh) trở nên quen thuộc đối với những người yêu nhạc vàng. Đằng sau bài thơ, bài hát và địa danh này là một câu chuyện đau buồn của đất nước vào thời điểm bài thơ được ra đời. Cho tới nay thân thế, gốc gác của nhà thơ mang tên Vũ Anh Khanh vẫn còn là một bí ẩn, người ta chỉ biết ông tên thật là Võ Văn Khanh, sinh năm 1926 tại Mũi Né, quận Hải Long, tỉnh Bình Thuận. Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950, ông là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Tác phẩm của ông gồm nhiều truyện dài như Nửa Bồ Xương Khô, Bạc Xíu Lìn, Cây Ná Trắc và các truyện ngắn như Đầm Ô Rô, Sông Máu, Bên Kia Sông… nhưng chỉ một bài thơ mang tên là Tha La từ thập niên 1950 đã làm nên tên tuổi của ông suốt từ đó cho đến tận ngày nay. Xóm đạo Tha La ngày nay thuộc xã An Hòa, huyện Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh. Xóm đạo này được thành hình từ thời vua Minh Mạng, nhưng phải đến thời Pháp chiếm được Nam Kỳ (thập niên 1860) thì họ đạo Tha La mới chính thức được công nhận với sự khuyến khích cùa người Pháp. Mặc dù họ đạo này phát triển ngày một mạnh mẽ và vững vàng cũng nhờ vào Pháp, nhưng người Công giáo Tha La đã phản ứng lại khi Pháp lộ rõ việc muốn khống chế cả dân tộc Việt, họ sẵn sàng đứng lên chống Pháp để đòi lại độc lập cho quê hương. Mùa Thu năm 1945, thanh niên Tha La tham gia phong trào chống Pháp ở đất Nam Kỳ. Năm 1949, nhà văn Thẩm Thệ Hà đưa bạn thân của mình là nhà thơ Vũ Anh Khanh về thăm Trảng Bàng, có ghé qua thăm Tha La xóm đạo ở làng An Hòa. Trước cảnh điêu tàn của thời loạn ở nơi đây, ông đã sáng tác bài thơ mang tên Tha La: Đây “Tha La xóm đạo” Có trái ngọt cây lành Tôi về thăm một dạo Giữa mùa nắng vàng hanh. Ngậm ngùi Tha La bảo: – Đây rừng xanh rừng xanh Bụi đùn quanh ngõ vắng, Khói đùn quanh nóc tranh. Gió đùn quanh mây trắng, Và lửa loạn xây thành. – Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi, Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng. Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng, Có trái ngọt, cây lành, im bóng lá, Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ. Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ! Về chi đây? Khách hỡi? Có ai chờ? Ai đưa đón? – Xin thưa, tôi lạc bước! Không là duyên, không là bèo kiếp trước, Không có ai chờ, ai đón tôi đâu! Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu, Tìm hoa rụng lạc loài bên vệ cỏ, Nhìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió, Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng. Nghìn cánh hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng. Tha La hỏi: – Khách buồn nơi đây vắng? Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng! – Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn? Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn, Gió vi vút, gió rợn rùng, gió rít. Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch: Thôi hết rồi còn chi nữa Tha La! Bao người đi thề chẳng trở lại nhà. Nay đã ᴄhếƭ giữa chiến trường ly loạn! Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán, Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa, Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa, Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh. Khách rùng mình, ngẩn ngơ lòng hiu quạnh. – Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La! Đây mênh mông xóm đạo với rừng già. Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách. Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch, Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng. – Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng? Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng, Nhẹ bảo chàng: ” Em chẳng biết gì ư? Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù! Người nước Việt ra đi vì nước Việt. Tha La vắng vì Tha La đã biết, Thương giống nòi đau đất nước lầm than. “ Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng, Ngày hiu quạnh. Ờ… ơ hơ tiếng hát. Buồn như gió lướt lạnh dài đôi khúc nhạc. Tiếng hát rằng: Tha La giận mùa thu, Tha La hận quốc thù, Tha La hờn quốc biến, Tha La buồn tiếng kiếm, Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh. Ơ… ơ hơ… có một đám chiên lành. Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy. Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy: Lạy Đức Thánh Cha! Lạy Đức Thánh Mẹ! Lạy Đức Thánh Thần! Chúng con xin về cõi tục để làm dân… Rồi… cởi trả áo tu. Rồi… xếp kinh cầu nguyện. Rồi… nhẹ bước trở về trần… Viễn khách ơi! Viễn khách ơi! Người hãy dừng chân. Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé! Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ. Trời Tha La vần vũ đám mây tan. Vui gì đâu mà tâm sự? Buồn làm chi mà bẽ bàng? Ơ… ơ… hơ… ờ… ơ… hơ… tiếng hát Rung lành lạnh ngâm trầm đôi khúc nhạc. Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi! Tha La thương người viễn khách đi thôi! Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ, Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ Lá rừng cao, vàng rụng lá rừng bay… Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này: – Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé! Hãy về thăm xóm đạo Có trái ngọt cây lành. Tha La dâng ngàn hoa gạo, Và suối mát rừng xanh. Xem đám chiên lành thương áo trắng. Nghe mùa đổi gió nhớ quanh quanh.
Bài thơ này đã đi vào lòng người bao nhiêu năm qua, có thể nói cũng nhờ nét nhạc tài tình của nhạc sĩ Dzũng Chinh khi phổ thành bài nhạc vàng mang tên Tha La Xóm Đạo, rất được yêu thích suốt gần 60 năm qua. Sau đó nhạc sĩ Thanh Sơn cũng viết thành ca khúc Hận Tha La, ký tên là Sơn Thảo, nhưng không nổi tiếng bằng bài hát của nhạc sĩ Dzũng Chinh. Nhạc sĩ Dzũng Chinh tên thật là Nguyễn Bá Chính, sinh năm 1941 tại Nha Trang và qua đời ngày 1/3/1969, khi mới 28 tuổi. Trong cuộc đời ngắn ngủi đó, dù sáng tác không nhiều, tuy nhiên chỉ với những ca khúc như Tha La Xóm Đạo, Những Đồi Hoa Sim, Lời Tạ Từ và Đêm Dài Chưa Muốn Sáng, tên tuổi nhạc sĩ Dzũng Chinh xứng đáng có một vị trí trang trọng trong dòng nhạc vàng. Click để nghe Hoàng Oanh hát Tha La Xóm Đạo trước 1975 Click để nghe Dạ Hương hát Hận Tha La trước 1965 Có một sự trùng hợp, đó là cả nhà thơ Vũ Anh Khanh lẫn nhạc sĩ Dzũng Chinh đều mang mệnh bạc, phải ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, trong đó số phận của Vũ Anh Khanh có phần bi đát hơn, vì ông không được cả hai chế độ miền Nam và miền Bắc thừa nhận tài năng, chỉ vì các hoạt động xuất phát từ lòng yêu nước. Là một người theo kháng ᴄhιến chống Pháp từ những năm đầu, nên năm 1954 Vũ Anh Khanh đã tập kết ra Bắc sau khi chia đôi đất nước. Tuy nhiên đến năm 1956, ông lại một lần nữa vượt vĩ tuyến để vào Nam, để rồi chuốc lấy một kết thúc cuộc đời rất bi thương. Theo tiết lộ của ông Võ Hồng Cương, Trưởng ban Tuyên Huấn QĐNDVN thời chống Pháp, sau này có kể lại trên báo chí, vào năm 1956, nhà thơ Vũ Anh Khanh được nghỉ phép ở Vĩnh Phúc nhưng ông đã sửa giấy phép thành Vĩnh Linh, Quảng Trị để từ đó vượt vĩ tuyến, bơi qua sông Bến Hải vào Nam. Khi sắp vào được bờ bên kia thì bị phát hiện và phải bỏ mạng giữa dòng sông định mệnh. Bài hát Tha La Xóm Đạo nổi tiếng với giọng hát Hoàng Oanh trước năm 1975, nhưng phiên bản hay nhất của bài này phải kể đến bản thu âm sau 1975 của ca sĩ Phương Dung, cô hát với giọng ca ai oán, não nùng để kể về một thời bi thương: Click để nghe Phương Dung hát Tha La Xóm Đạo của nhạc sĩ Dzũng Chinh Về địa danh Tha La, theo cuốn sách Trầm Tích Những Địa Danh của tác giả Nguyễn Thanh Lợi, chữ Tha La là từ gốc Khmer: sa la, nghĩa là một cái chòi nhỏ ở vệ đường dành cho khách nghỉ chân. Không chỉ ở Tây Ninh mà còn ở khá nhiều nơi có địa điểm mang tên Tha La, đặc biệt là những vùng đất từng có nhiều người Khmer sinh sống. Theo Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, định nghĩa Tha la nghĩa là “Chòi, trại của thầy sãi Cao Miên, tên xứ ở gần Trảng Bàng”. Địa danh Tha La nổi tiếng nhất, như đã nhắc đến bên trên, chính là xóm đạo Tha La ở huyện Trảng Bàng – Tây Ninh. Theo sách Trảng Bàng phương chí của Vương Công Đức, Tha La là tên Nôm của ấp An Hội, xã An Hòa, huyện Trảng Bàng. Trong huyện này còn có nhiều địa danh gốc Khmer là Lâm Vồ, Tầm Đinh, Chà Rầy, Xóm Sóc, Trà Dơn, Lò Mo, Tho Mo… Theo sách này thì nhà thờ Tha La nằm ở xóm Tha La, nay là ấp An Hội. Dưới triều vua Minh Mạng, vì nghi ngờ người Công giáo có liên hệ với loạn Lê Văn Khôi nên vua cấm đạo gắt gao. Trong hoàn cảnh ấy, ông Côximô Nguyễn Hữu Trí đã đưa gia đình từ Huế vào miền Nam sinh sống và lánh nạn. Ông đã đi qua nhiều nơi, từ Bà Trà, Thủ Dầu Một, đến Suối Đá, Tây Ninh và cuối cùng đã dừng chân tại Tha La này năm 1837, sống bên cạnh những người Khmer, giảng dạy đức tin cho người dân trong vùng. Tại Tha La, ông Nguyễn Hữu Trí đã quy tụ được một số gia đình để khai phá đất hoang cũng như tổ chức các buổi đọc kinh gia đình. Đến năm 1840, ông Trí sang giáo phận Phú Cường (Thủ Dầu Một) mời được linh mục đến Tha La làm lễ rửa tội cho giáo dân. Dù Tha La được thành hình từ những năm 1837-1840, nhưng phải đến năm 1860 thì họ đạo Tha La mới có linh mục đầu tiên, đó là Cha Besombes (Hạnh), từ đó tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. nội dung của page fb.com/chuyenxua.net. nguồn chuyenxua.net Nhạc sĩ Dzũng Chinh, Trong cuộc đời ngắn ngủi chỉ 28 năm của nhạc sĩ Dzũng Chinh, ông để lại rất ít tác phẩm, nhưng đều là những ca khúc nổi tiếng và được khán giả yêu nhạc vàng biết đến, nổi tiếng nhất là ca khúc Những Đồi Hoa Sim, phổ từ thơ Hữu Loan. Nhạc sĩ Dzũng Chinh tên thật là Nguyễn Bá Chính, sinh năm 1941 tại Nha Trang. Năm 1965, ông vào quân ngũ, theo học khoá Hạ sĩ quan trừ bị tại trường Hạ sĩ quan Đồng Đế – Nha Trang, sau đó là khóa Sĩ quan đặc biệt và tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn uý trừ bị. Giữa năm 1968, ông được thăng cấp Thiếu uý. Cuối tháng 2 năm 1969, ông qua đời trên trận địa, ở chân núi Chà Bang, Ninh Phước (nay thuộc tỉnh Ninh Thuận) ở tuổi 28. Trong cuộc đời ngắn ngủi đó, dù sáng tác không nhiều, tuy nhiên chỉ với những ca khúc như Những Đồi Hoa Sim, Tha La Xóm Đạo, Lời Tạ Từ và Đêm Dài Chưa Muốn Sáng, tên tuổi nhạc sĩ Dzũng Chinh xứng đáng có một vị trí trang trọng trong dòng nhạc vàng. Click để nghe Phương Dung hát Những Đồi Hoa Sim trước 1975 Cùng với tiếng hát Phương Dung vào những năm đầu thập niên 1960, bài hát Những Đồi Hoa Sim của nhạc sĩ Dzũng Chinh đã đạt tới được những kỷ lục vô tiền khoáng hậu. Không có thống kê chính thức về số lượng phát hành, nhưng nhiều người kể lại rằng dĩa nhựa có bài hát Những Đồi Hoa Sim với tiếng hát Phương Dung (1 dĩa có 4 bài) của hãng Asia Sóng Nhạc có thể xem là dĩa bán chạy nhất từ trước đến nay. Từ thành công của Những Đồi Hoa Sim, ngay sau đó có thêm nhiều ca khúc khác nhắc đến loài hoa sim tím được ra mắt. Năm 1949, tại Thanh Hóa, từ nỗi đau đơn vô cùng vì mất đi người vợ yêu thương, nhà thơ Hữu Loan sáng tác một bài thơ mang tên Màu Tím Hoa Sim. Khi đó ông làm thơ là để cho riêng mình, cho nỗi đau không thể diễn tả bằng lời, và có lẽ là lúc đó ông cũng không thể ngờ được rằng tác phẩm của mình lại được yêu thích nhiều đến như vậy suốt hơn 70 năm qua. Dù ở nơi mà bài thơ được sáng tác, bài thơ bị coi là thứ văn chương ủy mị, tác giả đã bị kết tội và bị kỷ luật, nhưng những vần thơ lay động lòng người đó vẫn được truyền đi rộng rãi trong công chúng bằng những bản chép tay, vào đến miền Nam, rồi sau đó được hàng loạt nhạc sĩ phổ nhạc, nổi tiếng nhất là nhạc sĩ Phạm Duy với bài hát Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, và nhạc sĩ Dzũng Chinh với Những Đồi Hoa Sim. Ngoài ra nhạc sĩ Duy Khánh và Song Ngọc cũng có phổ nhạc cho bài thơ này, cùng lấy tên bài hát trùng tên với bài thơ là Màu Tím Hoa Sim, nhưng ít được biết đến hơn. Nhạc sĩ Hồng Vân cũng dựa vào câu chuyện đồi sim của Hữu Loan để viết thành ca khúc Chuyện Người Con Gái Hái Sim. Ngoài ra, sau năm 1975 nhạc sĩ Anh Bằng đã phổ thành ca khúc mang tên Chuyện Hoa Sim cũng rất được yêu thích với giọng hát Như Quỳnh. Đối với bài Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, dù nhạc sĩ Phạm Duy đã bắt đầu phổ nhạc ngay từ thời điểm bài thơ vừa mới ra đời, nhưng phải đến năm 1971 thì bài hát mới được phát hành. Vì vậy có thể nói Những Đồi Hoa Sim của nhạc sĩ Dzũng Chinh là bài hát nhạc vàng đầu tiên nhắc đến hoa sim. Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt. Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc búi vai. Mấy lúc xông pha ngoài trận tuyến. Ai hẹn được ngày về rồi một chiều mây bay. Từ nơi ᴄhᎥếп trường Đông Bắc đó, lần ghé về thăm xóm hoàng hôn tắt sau đồi. Những chiều hành quân ôi những chiều hành quân tím chiều hoang biền biệt. Một chiều rừng mưa được tin em gái mất chiếc thuyền như vỡ đôi. … Không như bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy đã bám sát theo từng câu thơ của thi sĩ Hữu Loan để phổ nhạc, nhạc sĩ Dzũng Chinh chỉ mượn ý thơ, mượn hoa sim và chuyện tình bi thương có thật vào thời chiến để sáng tác ca khúc đã trở thành một trong những bài nhạc vàng tiêu biểu và nổi tiếng nhất. Thập niên 1960 tại Sài Gòn là thời kỳ hoàng kim của thể loại dĩa nhựa với rất nhiều hãng dĩa nổi tiếng: Hãng Dĩa Việt Nam, Continental, Trường Sơn, Vô Tuyến, Sơn Ca, Dư Âm, Thiên Thai, và nổi tiếng nhất có lẽ là hãng Asia Sóng Nhạc của ông Nguyễn Tất Oanh, quy tụ và độc quyền các ca sĩ nổi tiếng nhất thời đó. Riêng với hãng thu thanh Asia Sóng Nhạc, dĩa nhựa nổi tiếng nhất và bán chạy nhất của hãng này chính là dĩa hát có mã hiệu S.N. 739/2092, vì nhờ có bài hát Những Đồi Hoa Sim với phần trình bày của ca sĩ Phương Dung. 3 bài hát còn lại trong dĩa nhạc 45 vòng này là Tình Đêm Phố Cũ (Thanh Thúy ca), Đêm Nay Ai Đưa Em Về (Lệ Thanh ca) và Sang Ngang (Phương Dung ca). Dĩa Sóng Nhạc S.N. 739/2092 Gần đây, trong một lần hát ở phòng trà WE ở Sài Gòn, ca sĩ Phương Dung có kể lại rằng thời đó, vì nhờ có Những Đồi Hoa Sim của Phương Dung mà dĩa hát này đã đạt được doanh số kỷ lục, nên ông Nguyễn Tất Oanh – chủ hãng dĩa Asia Sóng Nhạc – ngoài việc trả thù lao cố định thì đã thưởng thêm cho Phương Dung một chiếc xe hơi, nhưng cô đã từ chối vì còn nhỏ tuổi, chưa biết lái xe. Click để nghe Phương Dung hát Những Đồi Hoa Sim trước 1975 Khi người viết bài này gặp cô Hồng, là con gái của ông Nguyễn Tất Oanh, cô cho biết đây là dĩa hát bán chạy nhất trong lịch sử của Sóng Nhạc. Là người trực tiếp tham gia quá trình sản xuất dĩa nhựa, cô Hồng nói rằng tất cả các máy ép dĩa của hãng phải cùng hoạt động hết công suất cả ngày lẫn đêm chỉ để in duy nhất 1 dĩa này. Điều đó có nghĩa là tạm ngưng tất cả các dĩa hát khác chỉ để tập trung cho dĩa hát có bài Những Đồi Hoa Sim. Dĩa hát này được người nghe nhạc tìm mua nhiều đến nỗi các đại lý liên tục đến trụ sở Sóng Nhạc để yêu cầu số lượng lớn, lấy về được càng nhiều dĩa càng tốt. Vì không thể sản xuất kịp nhu cầu quá lớn đó nên ông chủ Sóng Nhạc phải “giấu” bớt để có thể chia đều cho các đại lý, bởi vì nếu chia số lượng không đồng đều thì sẽ bị phân bì. Đó có lẽ là lần duy nhất mà hãng sản xuất dĩa phải giấu bớt đề không bán quá nhiều cho 1 đại lý. Điều này cho thấy độ hot của Những Đồi Hoa Sim thời điểm đó. Đã hơn nửa thế kỷ kể từ lúc nhạc sĩ Dzũng Chinh không còn trên cõi thế, nhưng những tác phẩm của ông thì vẫn mãi, và sẽ sống mãi cùng thời gian. Sau năm 1975, Những Đồi Hoa Sim luôn nằm trong danh sách bài hát bị cấm suốt 45 năm. Đến năm 2020, bài hát này bất ngờ được cấp phép hát chính thức ở trong nước. Nhưng dù bị cấm hay không thì Những Đồi Hoa Sim vẫn luôn luôn được yêu mến suốt gần 60 năm qua. Có một điều có lẽ ít người để ý đến, đó là nhạc sĩ Dzũng Chinh đã qua đời cách đây trên 50 năm (1969), là đã quá thời hạn bảo hộ tác quyền nếu chiếu theo công ước Bern. Công ước có giá trị tầm quốc tế này quy định thời hạn bảo hộ bản quyền tác phẩm văn học – nghệ thuật sẽ là suốt cuộc đời của tác giả cộng với 50 năm sau khi tác giả qua đời. Điều đó có nghĩa là từ năm 2019 đến nay, những ca khúc bất hủ kể trên của nhạc sĩ Dzũng Chinh sẽ thuộc về tất cả mọi người, ai cũng có quyền hát, thu âm và thậm chí là kinh doanh mà không cần phải trả tiền tác quyền. Bài: Đông Kha chuyenxua.net
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 17, 2024 18:42:28 GMT 9
Cung Bậc Của Những Cảm Xúc · Võ Thời Nẫm · Ý NGHĨA BÀI "HẠ TRẮNG" CỦA TRỊNH CÔNG SƠN ! Nếu có một bảng xếp loại 10 ca khúc nổi tiếng nhất của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, không thể không nhắc đến bài Hạ trắng, dù vậy không phải ai cũng hiểu thấu đáo ý nghĩa ẩn sâu sau lời của bài hát này. Vậy chúng ta cùng tìm hiểu ý nghĩa bài Hạ trắng qua bài viết sau đây nhé. Hạ trắng được Trịnh Công Sơn viết năm 1961, khi ông đang theo học tại trường Sư phạm Quy Nhơn. Đây là một trong những sáng tác đầu tay của chàng nhạc sĩ họ Trịnh khi ông vẫn còn vô danh. Phải tới 5 năm sau đó, tên tuổi của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mới được biết đến rộng rãi trong giới yêu nhạc và ca khúc Hạ trắng cũng theo dòng chảy định mệnh đó, bắt đầu được biết tới và yêu thích rộng rãi. Hạ trắng rõ ràng là một bản tình ca, nhưng đó là một bản tình ca viết cho “giấc mơ đời hư ảo” như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng nói: Tôi chỉ là một tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo… Nếu ai đó cố gắng tìm kiếm một câu chuyện tình mùi mẫn sau lời hát thì chắc chắn sẽ vô cùng thất vọng bởi chẳng có câu chuyện tình nào cả. Hạ trắng được khơi nguồn từ những giấc mơ trong cơn mê man ốm sốt vào một trưa hè nắng như đổ lửa của chàng nhạc sĩ 22 tuổi và niềm xúc động trước tình cảm khắng khít của một cặp vợ chồng già. Sau này ông kể về hoàn cảnh sáng tác Hạ trắng như sau: Ở Huế mùa hạ, ve kêu râm ran trên những tàn cây như một dàn hợp xướng và nắng nóng oi bức như địa ngục. Thêm vào đó lại còn có gió Lào. Vừa tắm xong là người đã ướt đẫm mồ hôi. Bao nhiêu nhiên liệu tích lũy trong cơ thể đều tan ra thành nước. Những đồ vật và quần áo sờ vào cũng có cảm giác như vừa rút trong lò lửa ra. Những mặt đường gần như bốc khói với nhiệt độ 42-43oC. Có một mùa hạ năm ấy, tôi bị một số cơn sốt nặng, nhiệt độ trong người và bên ngoài gần nhau. Tôi nằm sốt mê man trên giường không còn biết gì. Và bỗng có một lúc nào đó tôi cảm thấy có một hương thơm phủ ngập cả căn phòng và tôi chìm đắm vào một giấc mơ như một cơn mê sảng. Tôi thấy mình lạc vào một rừng hoa trắng thơm ngào ngạt, bay bổng trong không gian đó. Đến lúc tỉnh người ướt đẫm mồ hôi và tôi nhìn thấy bên cạnh giường có một người con gái nào đó đã đến cầm một bó hoa dạ lý hương trắng rất lớn. Chính cái mùi thơm của dạ lý hương đã đưa tôi vào giấc mơ kia. Giấc mơ trong một mùa hạ nóng bức. Trong vùng tôi ở đó, quanh đó chỉ có một nhà duy nhất trồng dạ lý hương nên tôi biết ngay người mang hoa đến là ai. Sau một tuần lễ tôi hết bệnh. Nghe tin bố người bạn đang hấp hối tôi vội vàng đến thăm. Ông chẳng có bệnh gì ngoài bệnh nhớ thương và buồn rầu. Câu chuyện rất đơn giản. Hai ông bà đã lớn tuổi thường nằm chung trên một sập gụ xưa. Cứ mỗi sáng bà cụ thức dậy và xuống bếp nấu nước sôi để pha trà cho ông cụ uống. Một buổi sáng nọ, cũng theo thường lệ, bà cụ xuống bếp bị gió ngã xuống bất tỉnh và chết. Mấy người con ở gần đó tình cờ phát hiện ra và đưa bà cụ về nhà một người để tẩn liệm. Sau đó chôn cất và giấu ông cụ. Khi ông cụ thức dậy hỏi con, mẹ các con đi đâu rồi, thì họ trả lời là mẹ sang nhà chúng con để chăm sóc mấy cháu vì chúng bị bệnh. Vài ngày sau vẫn chưa thấy bà về ông mới trầm ngâm hỏi các con có phải mẹ các con đã chết rồi phải không. Lúc ấy mọi người mới khóc òa lên. Từ đó, ông nằm trên sập gu một mình cơm không ăn, trà không uống cho đến lúc kiệt sức và đi theo cụ bà luôn. Câu chuyện ám ảnh tôi một thời gian. Và sau đó tôi kết hợp giấc mơ hoa trắng mùa hạ với mối tình già keo sơn này như “áo xưa dù nhầu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau” để viết nên bài Hạ trắng. Riêng với Hạ trắng, chỉ cần thoáng nghe giọng ca trầm khàn, ma mị, tràn đầy nhựa sống của Khánh Ly vang lên câu hát đầu tiên: “Gọi nắng!...” người nghe nhạc có thể cảm thấy dâng một làn sóng cảm xúc rần rần trượt dài trên thân thể theo từng câu hát đắm say. Nhiều người sẽ thắc mắc tại sao lại “gọi nắng” mà không “gọi em” hay “gọi tình”, nghe nó thực hơn, rõ ràng hơn. Nhưng nắng làm sao mà gọi được? Xin được mạn phép cắt nghĩa chi tiết này như sau. Như lời kể của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Hạ trắng là tình khúc được gom góp từ những cơn mê khi ông đang ốm nặng. Trong cơn mê sảng vì sốt cao, cái “nắng nóng oi bức như địa ngục” từ ngoài cửa hắt vào vẫn ám ảnh chàng nhạc sĩ, vậy nên thay vì nhìn thấy em sẽ “gọi em”, chàng ta lại “gọi nắng”. Nắng nóng là “thủ phạm” làm nên cơn sốt, làm nên những cơn mê nên phải “gọi nắng”, dù chẳng biết là để tri ân hay để trách móc. Chỉ biết rằng, hình ảnh cô gái xuất hiện trong cơn mê rất đẹp và thơ, một ảo mộng thần tiên có lẽ hiếm thấy khó tìm. Có người gọi ca khúc Hạ trắng là một “thiên tình mộng” bởi ca khúc có đến 3/4 là mộng, chỉ có một phần là thực ở đoạn hát thứ 3, nhưng cái thực đó cũng bị cuốn vào dòng tâm tư của ảo mộng. Trong cơn sốt mê man, bóng dáng của cô gái hàng xóm mang hoa dạ lý hương đến và mùi thơm ngào ngạt của loài hoa này đã đưa chàng nhạc sĩ lạc vào khu rừng hoa trắng thần tiên, đầy mê hoặc. Ca khúc Hạ trắng đã được bắt đầu như vậy. Hãy nghe người nhạc sĩ ấy kể về những giấc mơ của chính mình: Gọi nắng! Trên vai em gầy đường xa áo bay Nắng qua mắt buồn lòng hoa bướm say Lối em đi về trời không có mây Đường đi suốt mùa nắng lên thắp đầy ... Chỉ với vài câu hát, có thể hình dung ra được một cảnh sắc thần tiên vô ngần. Chàng trai vừa lạc bước vào khu rừng hoa trắng, đang còn ngơ ngẩn trước mùi thơm ngạt ngào của những đóa dạ lý hương, thì bất chợt nhìn thấy bóng dáng một cô gái thấp thoáng trên con đường phía xa. Dáng cô gầy mảnh, mong manh trong tà áo rộng đang vờn bay trong gió. Ánh nắng rọi lên khuôn mặt cô, lướt qua đôi mắt buồn sâu thẳm. Tim chàng trai như ngừng đập bởi “lòng hoa bướm” đã “say” rồi, trái tim đã chìm đắm đuối trong đôi mắt người đẹp. Trên con đường thần tiên, nơi cô gái đang sải bước, bầu trời xanh ngát, trong veo không một gợn mây, và “nắng lên thắp đầy” con đường dẫn lối đưa cô về. Đến câu hát này thì ta hẳn đã biết, đây là “giấc mơ trưa” của chàng nhạc sĩ. Bởi chỉ có nắng trưa đứng bóng có thể “thắp đầy” cả một con đường dài như vậy. Chàng nhạc sĩ chưa kịp tỉnh giấc thì đã chìm vào cơn mộng ảo thứ hai, “cơn mê chiều”: Gọi nắng! Cho cơn mê chiều nhiều hoa trắng bay Cho tay em dài gầy thêm nắng mai Bước chân em về nào anh có hay Gọi em cho nắng chết trên sông dài “Giấc mơ trưa” rực rỡ, lãng mạn, bay bổng bao nhiêu thì “cơn mê chiều” u buồn, hụt hẫng bấy nhiêu. Trời chiều đổ bóng, những cánh hoa trắng rời khỏi cành, tan tác bay trong gió, giống như một làn sương mờ phủ xuống dần che khuất bóng hình cô gái. Chàng trai khẩn khoản cầu xin “cho tay em dài gầy thêm nắng mai”. Hẳn là chàng đã ước cô gái vươn cánh tay dài về phía chàng, để chàng có thể nắm lấy tay cô, để “nắng mai” bừng sáng trở lại trong khu rừng tình mộng. Nhưng cô gái nào có nghe thấy lời chàng, cô tiếp tục bước đi về phía trước, đi mãi, đi mãi rồi mất hút về phương trời nào đó mà chàng không hay biết. Hoàng hôn đã tắt, cô gái đã đi mất, tuyệt vọng, hoảng hốt, quay cuồng trong bóng tối, chàng trai vừa đuổi theo cô gái vừa gọi lớn. Lời gọi đầy bi thiết: “Gọi em cho nắng chết trên sông dài”. Trong cơn mê sảng, chàng nhạc sĩ tội nghiệp ngỡ như mình “đã chết trên sông dài”. Khi “cái chếƭ” trong cơn mơ hoảng loạn vừa chờ tới, chàng trai giật mình tỉnh giấc và nhận ra mình vừa trải qua một giấc mộng dài. Nhưng những xúc cảm, rung động, say mê và cả u sầu bi thiết, lẫn bóng hình cô gái vẫn còn đây, hiển hiện rõ nét trong tâm trí chàng. Chàng nhạc sĩ có lẽ không “cam tâm” với cái kết phũ phàng như vậy. Nên chàng đã nguyện ước được trở lại cơn mê một lần nữa: Thôi xin ơn đời trong cơn mê này gọi mùa thu tới Tôi đưa em về chân em bước nhẹ trời buồn gió cao Và trong cơn mê đó, chàng cầu xin gió thu tới xua đi nắng hè chói chang. Bởi mùa thu mới là mùa của những đôi tình nhân, mùa của những cảm xúc bay bổng mà sâu lắng, mùa của sự chín chắn và trưởng thành. Nhạc sĩ đã xin cho tình cảm của cô gái và chàng tiến thêm một bước. Chàng không cầu xin những cảm xúc rạo rực, say mê của mùa hè rực nắng nhưng xa cách trong ảo mộng. Chàng cầu xin một mùa thu dịu dàng với “trời buồn gió cao”, êm êm, lãng đãng, chầm chậm trôi để chàng có thể đuổi kịp cô gái, để có thể sóng bước cùng nhau, để “đưa em về”. Và xa hơn nữa, chàng cầu xin: Đời xin có nhau dài cho mãi sau nắng không gọi sầu Áo xưa dù nhàu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau Chàng nhạc sĩ cầu mong trong giấc mộng tiếp theo, chàng và nàng được bên nhau “dài cho mãi sau”, bên nhau trong hạnh phúc tròn đầy “nắng không gọi sầu”. Và dù cho năm tháng có trôi qua, chàng và nàng già đi, xấu đi, ánh mắt nhăn nheo, da dẻ xù xì như chiếc “áo xưa” nhàu nhĩ, vẫn “xin bạc đầu gọi mãi tên nhau”. Dù chỉ là trong ảo mộng hư thực, chàng vẫn mong cầu một tình yêu bền chặt, vĩnh viễn. Nhưng điều mong cầu của chàng có được tác thành? Hãy nghe chàng nhạc sĩ kể về giấc mơ tiếp theo, giấc mơ cuối cùng: Gọi nắng! Cho tóc em cài loài hoa nắng rơi Nắng đưa em về miền cao gió bay Áo em bây giờ mờ xa nẻo mây Gọi tên em mãi suốt cơn mê này… Vẫn là cái nắng chói chang, lấp lánh của mùa hạ, chẳng có cơn gió thu nào được triệu hồi như lời cầu nguyện. Và cô gái lại xuất hiện vẫn dưới ánh nắng tươi trong đó, vẫn như một ảo ảnh xa cách mà chàng trai chẳng thể chạm vào. Phải chăng, cô gái chính là hiện thân của nắng, lung linh huyền ảo, say đổ lòng người, nhưng gần ngay trước mắt mà xa tận chân trời? Không ai có thể nắm giữ, không thể chạm vào. Cô đến từ trong nắng rồi lại ra đi cùng với nắng. Bóng nắng vương trên tóc cô, lấp lánh dưới bước chân cô, rồi chầm chậm nâng cô lên, rời xa khu rừng tình mộng nơi chàng trai lạc bước đến. Bóng cô khuất dần theo chiều gió, tà áo trắng mờ tan dần trong mây. Chàng trai đứng đó, nhìn theo bóng cô khuất dần, khản giọng gọi tên cô… trong cơn mê, tuyệt vọng và bất lực ... .. . Thể hiện : Danh ca Khánh Ly
Thể hiện : Danh ca Tuấn Ngọc
Thể hiện : Ca sỹ Nguyên Khang
|
|