|
Post by Can Tho on Feb 24, 2022 2:05:42 GMT 9
KIM CƯƠNG VÀ BẠCH TUYẾT.Đọc để biết thêm về Kim Cương, Bạch Tuyết , , , sau 4-75. Sự khác biệt giữa Trắng và Đen, Quốc Gia và Cộng Sản, người chân chính và kẻ đi hai hàng, người có lương tâm và kẻ phản quốc, người Biết Ơn và kẻ Vô Ơn. v.v Tình cờ gặp được chi Kim Tuyến, một trong nghệ sĩ tài danh của giới biểu diễn miền Nam trước 1975. Dù ở trong các tuồng diễn của gánh hát Kim Chung hay Dạ Lý Hương, thì cái tên Kim Tuyến luôn đứng cùng với Hùng Cường, Tấn Tài, Thanh Hải… Khán giả của thập niên 60 luôn đánh giá tài năng của chị không khác gì Ngọc Giàu, Bích Sơn, Phượng Liên, Thanh Thanh Hoa… Giọng hát và lối trình diễn của chị là sự thu hút đặc biệt trên sân khấu của Sài Gòn. Nhưng có lẽ cũng vì vậy mà chị gặp không ít khó khăn sau tháng 4-1975 bởi chọn lựa của mình. Tháng 7/2016, chị Kim Tuyến có kể về cuộc gặp giữa chị và nghệ sĩ Kim Cương. Giữa trùng phùng đó, người nghệ sĩ của Little Saigon đã bất ngờ bật ra câu hỏi với nghệ sĩ Kim Cương rằng vì sao bà lại là một cán chính nằm vùng. Câu hỏi đó, cũng bật tung cánh cửa quá khứ, mở ra những điều âm ỉ chưa ai nói hết. Lịch sử ghi lại vô số những dữ kiện lớn lao, nhưng đôi khi vẫn thiếu những câu chuyện đời mà khiến ai nấy đều phải trầm ngâm suy nghĩ. Ngày chiến tranh ấy xa rồi, nhưng có những vết thương không bao giờ có thể lành. Về nghệ sĩ Kim Cương, thật mới mẻ khi nghe kể lại qua lời của một đồng nghiệp – mà hơn nữa là mặt đối mặt chứ không phải là chuyện thêu dệt. Trong chuyện kể ấy, nghệ sĩ Kim Cương đã ngại ngùng ra đi, để tránh phải trả lời nghệ sĩ Kim Tuyến. Cuộc đời, quả thật khó ngờ hôm nay và mai sau. Cũng ít ai biết, trong những tháng ngày của chế độ mới, nhiều người kể rằng nếu không có ông Võ Văn Kiệt lên tiếng bênh vực thì bà Kim Cương cũng đã gặp nhiều búa rìu từ các cán bộ bảo thủ thâm căn – coi bà Kim Cương cũng cùng một loại “văn hóa đồi trụy”, không nên sử dụng trong chế độ XHCN. Cám ơn chị Kim Tuyến, một nghệ sĩ tài danh và là một người thẳng thắn kể lại mọi thứ trong bài phỏng vấn dưới đây. Những gì chị nói ra, sẽ là phần tham khảo sống động nhất cho thế hệ mai sau về sân khấu, con người và cuộc đời của Sài Gòn trong ký ức của những ai yêu thương nơi chốn ấy. Tôi giữ lại câu chuyện này với sự tôn trọng người kể, với tư cách hậu bối, và cũng sẵn lòng dành thời gian với với những ý kiến cải chính khác gửi đến, trong tinh thần sẵn sàng rộng đường dư luận. Trân trọng. ____ Thật bất ngờ khi gặp lại chị ở Mỹ, đặc biệt là qua trường hợp chị nói rất thẳng thắn với nghệ sĩ Kim Cương, về những hoạt động không có tính cách văn nghệ của bà. Có vẻ như còn rất nhiều thứ về cuộc đời mình mà chị chưa có dịp kể với khán giả. Nếu không bất tiện, chị có thể cho biết sau ngày 30-4-1975, cột mốc của đời chị đã như thế nào? Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, theo lời kêu gọi của Đài Phát Thanh Sài Gòn (quân cán chính phải đến trình diện), tôi đến sở làm là Tiểu Đoàn 50 Chiến Tranh Chính Trị trình diện. Đến nơi tôi thấy một đống rác khổng lồ ngay lối cổng ra vào và đầy cả trong sân. Bỗng có người nói: “Không phải ở đây mà phải trình diện ở Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị ở đường Thống Nhất”. Đến Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, anh Vân Sơn (ban AVT) giúp tôi lấy tờ đơn khai lý lịch từ một cán bộ Cộng Sản đưa cho tôi. Tôi đang điền vào thì một cán bộ khác bước ra nói: “Các ban nhạc trong Nam này chỉ có vài nhạc công, ngoài Bắc chúng tôi có cả trăm nhạc công ấy”. Tôi hơi bực nói: “Nhưng sao ca sĩ các anh hát giống tiếng Tàu quá, chỉ nghe chí chí chéo chéo không hà, chúng tôi không hiểu gì cả”. Nhìn vào tờ khai lý lịch, tôi nhanh trí điền vào hai chữ “tài xế” ở phần nghề nghiệp. Xong mọi thủ tục, anh Vân Sơn đưa tôi đến trước cổng Ban Văn Nghệ Hoa Tình Thương và Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương. Anh Vân Sơn chào từ giã với gương mặt thật buồn. Về sau tôi được tin anh Vân Sơn đã nhảy xuống sông Thị Nghè tự tử vì bất mãn với chế độ. Sau đó theo lời kêu gọi của chị Kim Cương, tôi đến họp tại Hội Nghệ Sĩ. Rất đông các cô chú và anh chị nghệ sĩ tân cổ tụ tập bên hông trụ sở và phía sân sau. Khi thấy tôi và nghệ sĩ Tùng Lâm ngồi trò chuyện, chị Kim Cương ngồi xuống bên cạnh tôi. Tôi nói “Chị ơi em buồn quá”. Chị Kim Cương kéo đầu tôi ngả vào vai chị, một tay vuốt tóc vỗ về: “Đừng buồn em, chị em mình rồi sẽ được giải phóng ra khỏi bốn bức tường”. Tôi sững sờ nhìn chú Tùng Lâm. Chị Kim Cương nói lớn “Mọi người vào trong, đến giờ họp. Chị nắm tay tôi, kéo tôi theo chị vào phòng họp. Chị ngồi vào đầu bàn chủ tọa. Chị dõng dạc tuyên bố: “Ngày xưa bọn Thiệu Kỳ bán nước còn hiện diện trên quê hương ta, tôi phải núp dưới danh nghĩa Làng Cô Nhi Long Thành. Hôm nay chúng ta đã đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào. Tôi ra lệnh cho anh Nguyễn Đức (nhạc sĩ) lập những tiểu tổ để chúng ta thành lập Biệt Đội Văn Nghệ …”. Chú Tùng Lâm nghiêng đầu nói nhỏ vào tai tôi: “Tuyến, khóc nữa đi con, mày khóc nữa đi con”. Tôi thất vọng não nề. Trong khi chị Kim Cương thao thao bất tuyệt, tôi không còn nghe hay không muốn nghe gì nữa cả. Trời ơi, thần tượng sụp đổ! Kim Cương là Việt Cộng nằm vùng đã giúp cho cộng sản cướp đoạt miền Nam, áp bức bóc lột người dân, đưa đất nước đến chỗ sắp bị diệt vong, mà sao lại dám nói là mình yêu nước Vài tuần sau, tôi gặp bác Bảy Nam, mẹ của chị Kim Cương, đi xích lô máy ngừng trước nhà. Thấy tôi Bác hỏi: “Kim Tuyến, con đi đâu đây?”. Tôi chào Bác và trả lời “Dạ, đây là nhà con”. Bác nói tiếp: “Bác vào thăm ông Trần Tấn Quốc, vì nghe ổng sắp dọn về Cao Lãnh ẩn dật. À, con có nhận được thơ của chị Kim mời con tham gia ban kịch không? Chị Kim thích con đóng kịch với chị lắm. Ngày phát role (*chọn người vào vai) chị Kim chờ con quá trời”. Tôi chỉ còn biết đáp: “Dạ… Dạ… tại con bịnh”. Sau đó mấy ngày Má Bảy Phùng Há nhắn tôi đến nhà. Bà mặc áo dài chờ tôi, Bà cho biết Bà muốn đưa tôi lên Sở Thông Tin Văn Hóa trình diện để hát cho đoàn Sài Gòn 1 với nghệ sĩ Thành Được. Trước đó tôi luôn được Má Bảy mời hát chánh cho ban cải lương Phụng Hảo và Vân Kiều trên TV với anh Thanh Sang, và lần sau cùng với anh Thành Được tuồng Cạm Bẫy Đô Thành của soạn giả Ngọc Điệp. Má Bảy bảo tôi về thay áo dài cho đàng hoàng, “cách mạng không thích ăn mặc như vậy đâu con”, vì tôi đang mặc quần ống loa và áo thun màu vàng với chữ "Have a nice day", áo bỏ trong quần, đeo dây belt to tướng. Tôi chào Má Bảy, trở về nhà tôi, và trốn luôn Má Bảy. -Nhưng rồi sau 1975, chị có tiếp tục sinh hoạt văn nghệ bình thường không? Những ngày đó như thế nào? Sau ngày 30/04/1975, văn nghệ sĩ, nhạc sĩ miền Nam hầu như thất nghiệp hết. Cứ một hoặc hai ngày là có ba người bộ đội mang dép râu đi vào nhà tôi, ngang nhiên đi từ trước ra sau, rồi ngồi chồm hỗm trên salon và nói là “Chúng con đến thăm Mạ (Mẹ tôi)”. Lần lượt cán bộ, rồi tới ‘Cách Mạng 30’ (*thành phần hưởng ứng với chế độ mới ngay sau ngày 30-4) kéo tới nhà tôi kêu gọi tôi tham gia. Họ bảo: “Chị là nghệ sĩ nên sẽ có tác động lớn đối với quần chúng, chị sẽ ca hát và hướng dẫn quần chúng. Mới giải phóng nên cách mạng còn nghèo. Chúng tôi sẽ cấp cho chị một chỗ ngủ nghỉ tại trụ sở ngoài đường Lê Quang Định, nơi chúng tôi tịch thu của bọn bám chân đế quốc Mỹ, chúng tôi cung cấp cho chị một bữa ăn cho một ngày… “. Tiền lương thì không có. Họ yêu cầu tôi theo họ ra Quận và định chở tôi bằng xe đạp. Tôi bảo họ cứ đi trước, tôi sẽ chạy xe theo. Quận của họ là bãi đất trống ngay ngã 5 Bình Hòa. Một nhóm người, già trẻ bé lớn đứng bao quanh một thanh niên nhỏ con, ốm nhách đang ôm cây đàn, vừa hát vừa chỉ dẫn tất cả hát và diễn tả bằng chân: “Ta lên giây đàn… từng tưng…”. Mọi người nhìn theo anh nầy, cùng hát cùng co chân, đưa đầu gối cao ngang bụng, hai tay cũng làm bộ như đang cầm cây đàn. Tôi thầm nghĩ “trình diễn kiểu gì mà giống như một bầy khỉ đột vậy?”. Tôi cảm thấy xấu hổ cho cậu thanh niên, và tội nghiệp cho những người dân đang bị bắt làm những trò quái đản. Mặt tôi nóng bừng, tay chân tôi lạnh, chắc là bị lên máu. Tôi nói với anh cán bộ là tôi bị bệnh rồi và tôi phải về nhà chữa bệnh gấp. Cả xóm nhà vùng tôi ở rất bực mình vì những cái loa tuyên truyền láo khoét. Mới hừng sáng loa phát rùm lên kêu mọi người thức dậy tập thể dục, nghe rất chói tai nhức óc. Có lần họ cho người đến từng nhà trong xóm kiểm kê xem nhà có cầu tiêu không? Loại nào? Ngồi bàn hay ngồi chồm hổm có cái lỗ ?… -Hoàn cảnh chị thì như vậy, nhưng bạn bè quen biết trong nghề thì thế nào? Họ có gặp những nghịch cảnh như chị không hay mọi thứ dễ dàng hòa nhập hơn? Tôi có người bạn tên Mai, nhà chị ở đường Ngô Tùng Châu, Gia Định. Một dịp tôi đến nhà chị thì thấy một nhóm công an phường ngồi đầy nhà. Chị nói nhỏ với tôi là họ ngang nhiên vào nhà, họ còn tự động lấy thức ăn trong tủ lạnh. Tôi bênh bạn nói: “Chị này ở một mình, không có chồng, tại sao các anh tự nhiên vào nhà người ta vậy?”. Họ đáp “À, thì chỉ là đến thăm chị Mai thôi”. Tôi chợt nhớ đến chị bạn có chồng nhạc sĩ cổ nhạc đang là quân nhân của Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương và đang có nhà trong khu gia binh, tôi hỏi: “Mấy gia đình vợ con lính VNCH sống trong trại gia binh, bây giờ có được tiếp tục ở không?”. Tên Ba Tấn, mặt mày gian ác, trả lời: “Chúng đã tiếp tay cho bọn Thiệu Kỳ bán nước, chúng không có quyền ở”. Tôi hỏi: “Vậy ai sẽ ở?”. Hắn đáp: “Chúng tôi, những người có công với cách mạng”. Tôi nói tiếp: “Theo tôi, các anh là cách mạng giải phóng miền Nam, nên dành những căn nhà đó và các biệt thự của cái bọn mà các anh cho là bám chân đế quốc Mỹ bỏ lại, đem cấp cho các người nghèo khổ đang ở gầm cầu xó chợ. Còn các anh nên che chòi ở, thì dân chúng sẽ phục các anh vô cùng. Các anh vào ở các nhà này tôi e dân chúng sẽ nghĩ lầm về cái từ giải phóng của các anh. Còn xe tăng, xe nhà binh, máy bay của đế quốc Mỹ bỏ lại, các anh nên bắt chước Cam Bốt đốt bỏ hết đi, đừng nên xài bất cứ cái gì của Mỹ Ngụy để lại”. Ba Tân tức giận gọi đồng bọn. Mấy chiếc xe mô tô hụ còi rầm rộ chạy đến, chĩa súng bắt tôi giải đi về phường. Đến chiều, một thanh niên trẻ ôm 1 tập giấy tờ mở cửa sắt vào gặp tôi. Em có vẻ ngạc nhiên nói: “Trời ! Chị Tuyến, sao chị vào đây? Em là Đạt bạn của thằng em chị, em học ở Đạt Đức. Em có đến nhà chị hoài mà không gặp chị, chị đi hát hoài nên không biết em”. Rồi Đạt hỏi tôi chuyện gì xảy ra và Đạt đề nghị tôi viết vào một tờ giấy, nhận rằng mình không hiểu rõ đường lối của cách mạng, xin lỗi cách mạng, ký tên, rồi Đạt sẽ trình cấp trên và họ sẽ thả tôi. Tôi không chịu viết vì nghĩ mình không có tội gì cả. Đạt khuyên tôi: “Họ đã ghi vào hồ sơ và buộc chị vào tội phản động, họ sẽ đưa chị đi xa lắm… Hay là vầy, em viết gì kệ em, chị chỉ ký tên vào, họ sẽ thả chị ra”. Nghĩ đến con, đến Má tôi và các em rất cần tôi, tôi ứa nước mắt ký vào. Vài ngày sau, anh Vinh từng là quản lý của các đoàn cải lương trước 1975 đến nhà tôi và cho biết Cục An Ninh Nội Chính mời tôi về làm đào chánh cho đoàn. Tôi nói với anh Vinh: “Nếu thương em, xin anh về nói với họ là em đang bệnh. Anh biết không, vì cái cục R nầy mà em bị lên tăng xông, bệnh gần chết”. Vài tuần sau, chị Bạch Lan Thanh đến nhà mời tôi đi hát với nghệ sĩ Tùng Lâm và anh Giang Tử, do anh Tony Quang ảo thuật gia tổ chức. Chương trình văn nghệ bỏ túi có ca tân cổ, có kịch, có ảo thuật và xiếc. Trong đêm trình diễn ở 1 quận ở miền Tây, có cả bộ đội mang dép râu, ngồi chồm hổm trên những băng ghế dài bằng cây, xem có vẽ thích thú vỗ tay và yêu cầu tôi hát tân cổ bản “Những Đồi Hoa Sim”, rồi “Tình Đầu Tình Cuối”, và “Tình Đời” song ca với Giang Tử. Sau đó là phần ảo thuật và hài kịch. Vãn hát xong, thì Thông Tin Văn Hóa xuống họp với chúng tôi. Một cán bộ với giọng Bắc nói: “Sao tên của Tùng Lâm và Kim Tuyến to thế? Ngoài Bắc chúng tôi không có cá nhân đấy nhé. Yêu cầu anh Tùng Lâm đừng diễu nữa nhé”. Tôi nghĩ thầm: “Danh hài mà không cho diễu là sao?”. Mọi người yên lặng, tôi lên tiếng: “Xin lỗi anh, anh tên gì?”. Anh ta đáp: “Chị cứ gọi tôi là anh Ba”. Tôi nói tiếp: “Anh Ba, theo tôi có lẽ ca nghệ sĩ văn công ở ngoài Bắc hát được nhà nước trả lương. Nhưng ở đây là do tư nhân tổ chức, cần bán vé vào cửa, nên phải quảng cáo tên nghệ sĩ để khán giả biết mà mua vé vào xem, nhờ đó chúng tôi mới có chén cơm”. Anh Ba nhìn tôi lên giọng: “Yêu cầu chị Kim Tuyến và anh Giang Tử không được mặc đồ Mỹ Ngụy mà phải mặc đồ bà ba đen, quấn khăn rằn giống Bác ấy”. Trước khi ra về, có hai cán bộ đứng dậy đặt tấm giấy lên bàn, nghiêm giọng nói: “Yêu cầu chị Kim Tuyến hát bài nầy”. Tôi nhìn vào, thấy dòng chữ: Vọng Cổ Bà Mẹ Việt Nam Bắn Mỹ Cứu Quốc. Khi họ đi rồi tôi nói : “Chú Lâm, chắc con nghỉ hát”. Các em trong ban nhạc nhốn nháo: “Chị Tuyến về, tụi em cũng ôm đàn về luôn”. Tối hôm đó tôi trở về căn nhà của dân do Tony Quang mướn. Bước ra phía sau nhà, tôi thấy chú Tùng Lâm ngồi bó gối trầm ngâm bên chai rượu dưới ánh trăng. Tôi ngồi xuống, bưng chai rượu uống một hơi, dù tôi không hề biết uống rượu, uống để chia sớt nỗi đau với chú, và uống để cho vơi đi nỗi uất hận và tủi nhục mà kẻ chiến thắng muốn áp đặt quyền dạy dỗ chúng tôi. Niềm đau tủi đã dâng trào … Hai chú cháu gục đầu vào nhau khóc nức nở. Hôm sau tôi từ giã chú Lâm, về lại Sài Gòn và tìm cách vượt biên. Những ngày đầu sau 30 tháng Tư, tôi thấy TV phát hình vở cải lương hồ quảng của các nghệ sĩ miền Bắc. Họ không có đôi hài để mang, họ mang dép râu, trang phục rất nghèo nàn. Có một vở kịch mà diễn viên mặc áo đầm Liên Xô nói về điện Cẩm Linh chiếu trên TV và các ca nghệ sĩ phải chào cờ của Liên Xô. So sánh với miền Nam, các nghệ sĩ cải lương hồ quảng ăn mặc rất đẹp. Các kịch sĩ không hề diễn kịch về Tòa Bạch Ốc và chúng tôi không hề phải chào cờ Mỹ. Chúng tôi làm việc cho Ban Văn Nghệ Hoa Tình Thương/Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị và cơ quan thông tin JUSPAO, chúng tôi chỉ hát những bài ca ngợi quê hương, tình yêu và ca ngợi sự hy sinh của những chiến sĩ VNCH, chứ không hề có những bài ca sắc máu kiểu Cộng Sản “Thề phanh thây uống máu quân thù”. Với nghệ sĩ thì như vậy, chung quanh chị, còn những người Sài Gòn khác ra sao? Chị có còn nhớ một vài điều gì đáng nhớ vào thời điểm đó? Một buổi trưa, nằm nghe tiếng hát lạ : “Thăm thẳm chiều trôi… khuya anh đi rồi sao trời đưa lối…” tiếng hát đầy xúc cảm như muốn xé cả ruột gan. Tôi bước ra lan can nhìn xuống đường ngay gốc cây trước nhà tôi, một người đàn ông mặc quần lính VNCH và chiếc áo thun cũ, cụt 2 chân, đang ôm đàn hát…Tôi xúc động rơi nước mắt nhớ lại những ngày hát cho các anh chiến sĩ tại các tiền đồn Pleiku, Kontum, Bệnh Viện Cộng Hòa, Bệnh Viện Lê Hữu Sanh v.v… Hình ảnh quá đau xót của những thương phế binh bị đuổi khỏi bệnh viện đi qua nhà tôi trong buổi chiều 30/04/1975, hình ảnh một người đàn ông ngã quỵ trước cửa trong đêm tối, tôi và các em tôi phụ đưa anh vào nhà, nấu nước trà gừng và pha sữa, rồi cạo gió cho anh, lúc anh tỉnh dậy chúng tôi mới biết anh là lính VNCH. Hôm sau, lại một phụ nữ ngã gục trước nhà tôi vì đói quá, chúng tôi giúp chị qua cơn đói. Được biết chị vượt biển đi từ rất sớm, đến Mỹ, chị có gặp lại đồng nghiệp và nối lại nghề diễn của mình? Tôi vượt biên vào cuối năm 1978 với gia đình, đứa con nhỏ nhất của tôi mới 10 ngày tuổi. Chuyến vượt biển hãi hùng như bao nhiêu nạn nhân vượt biển khác. Cuối cùng chiếc tàu nhỏ bị lật vì sóng to và đụng đá ngầm trước khi vào đến bờ biển Mã Lai, làm cho một số người chết. Gia đình tôi may mắn được cứu thoát và sau đó được định cư tại Hoa Kỳ với tư cách tị nạn chính trị. Những ngày đầu đến Mỹ, tôi cũng như bao nhiêu người tị nạn khác, được chính phủ Mỹ giúp đỡ. Tôi đến trường học tiếng Anh. Chị Túy Hồng là người đầu tiên mời tôi hát trên đất Mỹ. Tôi dành một buổi hát tại Los Angeles cho anh Bảo Ân. Sau đó lịch trình diễn của tôi khá bận rộn: Hát gây quỹ cho Chùa, Nhà Thờ, Kháng Chiến… hát cho các phòng trà, vũ trường, đại nhạc hội… thu video cho nhiều vở kịch và tuồng cải lương và các bài tân nhạc, trình diễn nhạc kịch cho NS Hoàng Thi Thơ, trình diễn văn nghệ tại Âu Châu và các nước Canada, Nhật Bản, Úc… -Đã có lúc nào chị quay lại Việt Nam, để nhìn lại, nhớ lại? Tôi có trở về Việt Nam sau khi Mẹ tôi mất năm 2010, lý do là lo giải quyết tro cốt của Ba tôi để lại từ năm 1973. Trong thâm tâm tôi nguyện lo xong là không bao giờ muốn trở về khi chế độ Cộng Sản vẫn còn trên quê hương Việt Nam. Trong chuyến đi này tôi có gặp lại vài người bạn thân quen từ thuở nhỏ, những người bà con và vài người bạn đồng nghiệp. Lúc tạm trú tại một khách sạn tại Sài Gòn tôi gặp những người làm việc ở đó nói toàn giọng Bắc mới sau 75 rất khó nghe. Hầu như những người Bắc 75 đã vào chiếm cứ hết những căn nhà mặt đường khu thương mại của Sài Gòn, trong đó có ngôi nhà trước kia của tôi. Sài Gòn trở nên quá chật chội, lưu thông tắc nghẽn, khói bụi mịt mù, không tôn trọng luật lệ, cảnh sát giao thông làm tiền trắng trợn. Đạo đức suy đồi, tham nhũng tràn lan. Không có một quốc gia nào trên thế giới mà muốn vào hoặc ra khỏi phi trường là phải nộp tiền mãi lộ nếu muốn được yên thân. Đi đâu tôi cũng thấy biểu ngữ: “Quyết tâm làm sạch đường phố”… hết ‘quyết tâm’ này đến ‘quyết tâm’ kia, hết ‘phường văn hóa’ đến ‘khóm văn hóa’, mà cán bộ và công an thì đối xử với dân rất vô văn hóa. Tôi chưa từng thấy nước nào giăng quá nhiều biểu ngữ dạy dỗ dân như Việt Nam Cộng Sản. Tôi cảm thấy xa lạ và cô đơn trên chính quê hương của mình. Chị chọn lựa ra đi và thật sự không hối tiếc? Được biết chế độ mới ở Việt Nam cũng nhiều lần mời chị trở lại sân khấu và sống với nghề như cũ. Thử nghĩ lại, chị ra đi chỉ vì bất mãn tạm thời hay có thêm những kinh nghiệm nào khác? Sau 10 năm định cư trên nước Mỹ tôi mới nộp đơn xin gia nhập quốc tịch Mỹ. Ngày tuyên thệ tôi thấy lòng ngậm ngùi nghĩ đến thân phận mình cũng có một quê hương, tại sao hôm nay mình phải xin được trở thành công dân của một nước khác không cùng màu da? Nước mắt tủi hờn lại có dịp rơi. Sau khi quyết định nghỉ hát tại Việt Nam (1975), tôi không theo dõi các chương trình TV và ít giao thiệp, nên không rõ các sự việc xảy ra cho các nghệ sĩ đồng nghiệp ở Việt Nam. Kỷ niệm đáng nhớ trước khi ra đi là có một ngày anh Nhật Trường đến nhà tìm tôi để mời tôi hát cho anh lưu diễn miền Tây, nhưng tôi bận rộn lo chuyện vượt biên. Một kỷ niệm khác là vào một buổi tối, tôi gặp Bà Năm Sa Đéc trước một tiệm phở trên đường Hiền Vương (*nay là đường Võ Thị Sáu). Bà Năm Sa Đéc (Má Năm) có đóng chung với tôi trong phim “Đỉnh Núi Mây Hồng”. Má Năm vừa đưa tay chỉ lên đầu vừa nói với tôi: “Tụi nó bắt Má Năm học tập cải tạo, nhưng đầu này có sạn rồi… còn lâu ! “. Ánh mắt Má Năm sáng rực nỗi phẫn uất trong đêm tối. Tôi có một người em kết nghĩa tên Nguyễn Văn Trảng là đệ tử của ông Anh Lân, khi viết kịch hay viết báo em lấy biệt hiệu là Vương Thế Trung. Em tiếp tục học và đã tốt nghiệp kỹ sư (Phú Thọ), tôi có dự lễ tốt nghiệp của Trảng năm 1973. Mẹ Trảng tu ở chùa Cao Đài, Ba Trảng mất sớm. Một ngày nọ (1975), Trảng ghé nhà tôi và cho biết em đang hoạt động cho Phục Quốc Quân tại Tây Ninh, tôi gởi cho em một số tiền để em hoạt động. Năm 1978 tôi được tin Trảng đã bị bắt. Năm 1983, soạn giả Trần Trung Quân từ Pháp sang mời tôi thu hình vở cải lương “Nước Mắt Người Đi” với Dũng Thanh Lâm, nội dung kể lại cuộc đời của các chiến sĩ phục quốc anh hùng. Tôi kể chuyện tôi có cậu em kết nghĩa tên Trảng theo Phục Quốc Quân bị cộng sản bắt, không biết giờ ra sao. Bất ngờ, anh Trần Trung Quân cho biết anh có bà Mẹ hay đi chùa Cao Đài ở Tây Ninh vừa qua Pháp đoàn tụ với anh, bà Mẹ kể rằng Hiền Tài Nguyễn Văn Trảng hoạt động phục quốc bị cộng sản gài bắt và đưa ra xử trước tòa án nhân dân. Cộng sản kết tội Nguyễn Văn Trảng là phản động. Trảng hiên ngang hét lớn: “Tôi không phản động, Hồ Chí Minh mới là kẻ phản động”. Trảng bị bắn chết ngay tại chỗ. Anh Trần Trung Quân nói anh đã đưa câu nói này của Hiền Tài Trảng vào trong vở tuồng do Dũng Thanh Lâm đóng vai chiến sĩ VNCH. Tôi lặng người đau đớn nát cả lòng, nhớ đến hình ảnh Trảng đạp xe đạp lộc cộc đến chỗ tập kịch. Tôi đề nghị giúp Trảng mua xe mobylette để làm phương tiện di chuyển . Trảng hứa trả lại sau khi ra trường làm việc. Tôi thương em như thương chính tôi vì nhớ cảnh tôi phải bỏ dở việc học để đi hát kiếm tiền phụ giúp Cha Mẹ nuôi các em, khi Ba tôi gặp khó khăn tài chánh vì Việt Cộng liên tục đắp mô đặt mìn trên tuyến đường Sài Gòn – Vĩnh Bình, làm cho chiếc xe đò của Ba tôi không hoạt động được. Tôi nói Trảng cứ yên tâm, tôi tặng Trảng vì nghèo, mồ côi cha, hiếu học, xem như tôi đóng 2 show kịch TV không lãnh thù lao. Trảng cảm động rưng rưng nước mắt. Năm 1995, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu tác giả bức tượng Tiếc Thương ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa gọi điện thoại tìm tôi. Anh cho biết anh có 1 cô bạn là nữ quân nhân vừa qua Mỹ đang ở Boston đi diện HO có biết một số tin tức về Nguyễn Văn Trảng.. Tôi hẹn gặp chị tại nơi anh Thu cư trú ở Garden Grove , California. Chị cho tôi biết là có 1 thời gian ngắn chị bị giam chung với Trảng, Trảng thường nhắc đến Kim Tuyến và nói nếu chị ra được khỏi tù thì nhờ chị tìm gặp chị Tuyến, nhắn rằng em lúc nào cũng thương chị Tuyến. Nhưng tiếc thương thay cộng sản đã giết Em. Anh Nguyễn Thanh Thu có ý định tạc một bức tượng của Trảng, nhưng không thành vì lúc đó không ai có được một bức hình của Trảng. Chắc anh Nguyễn Thanh Thu còn nhớ câu chuyện của Trảng. Tôi mong được gặp lại chị nữ quân nhân mà tôi đã gặp 20 năm trước. Nhớ đến Trảng tôi cảm thương và liên tưởng đến các thanh niên nam nữ trẻ tuổi như Trảng đã anh dũng tham gia phong trào Phục Quốc bị tra tấn, tù đày và sát hại. Tôi có một ông cậu ruột (cậu Lữ Minh Bạch) là một sĩ quan hải quân VNCH, cũng hoạt động phục quốc, đã bị cộng sản bắt và bị kết án 18 năm tù. Tôi đã khóc khi đọc những bài viết của những người Tù chính trị sau khi định cư ở Mỹ qua diện HO kể về những nhục hình mà những người Cộng sản đã trả thù tàn độc , tôi lại càng căm thù chủ nghĩa Cộng sản. Sau một thời gian sống và làm việc ở Mỹ, chắc chị rồi cũng dần dần gặp lại ít nhiều các đồng nghiệp trong Việt Nam qua Mỹ du lịch hoặc biểu diễn, cảm giác của chị thế nào? Bận rộn với gia đình và các sinh hoạt văn nghệ ở Mỹ, nhưng tôi vẫn thường liên lạc với chị Như Mai và Kim Hoàng vì có mối thân tình từ lúc chị mời tôi đóng vai chánh trong các vở kịch và tuồng cải lương trên TV, đài phát thanh và đóng phim “Vực Nước Mắt”. Lúc chị Như Mai điều hành Chùa Nghệ Sĩ, tôi có trợ giúp cho chi phí xây một bức tường quanh nghĩa trang nghệ sĩ. Năm 1993, tình cờ tôi được biết qua chị Như Mai là Lê Duy Hạnh, chủ tịch Hội Sân Khấu trong Việt Nam, đang có kế hoạch giao lưu văn hóa. Bắt đầu họ sẽ gởi một hai ca nghệ sĩ ít hoặc không bị chống đối đến Mỹ hát trước để tránh bị biểu tình phản đối, sau đó họ sẽ tiếp tục gởi tiếp nhiều ca nghệ sĩ khác ra hải ngoại. Chị Út Bạch Lan đến Mỹ trước tiên. Cô chủ nhà hàng Anh Thy và cô Sáu Châu gọi báo cho tôi biết và muốn tôi cùng gặp chị Út Bạch Lan. Tôi đến nhà hàng Anh Thy, nhìn thấy anh Duy Khánh và Lâm Tường Dũ, hai anh đưa cho tôi xem tờ quảng cáo quay roneo có hàng chữ: Tái ngộ sầu nữ Út Bạch Lan… với sự bảo trợ của Duy Khánh, Kim Tuyến, Lâm Tường Vũ. Họ tự động ghi tên tôi vào thành phần ban tổ chức mà không hề hỏi xem tôi có đồng ý không. Tôi nói: “Tôi chỉ muốn đến thăm chị Út Bạch Lan như một đồng nghiệp đàn em chào mừng chị, nhưng tôi không muốn có tên trong danh sách bảo trợ hay ban tổ chức, dù rằng tôi thương mến chị Út Bạch Lan”. Sau đó tôi được biết nhà hàng Seafood World từ chối cho thuê để tổ chức văn nghệ vì ngại sẽ có cuộc biểu tình chống đối, nên tất cả kéo về tổ chức tại quán Anh Thy, một nhà hàng nhỏ hơn. Từ năm 1993 khi được biết cộng sản phát động kế hoạch giao lưu văn hóa, tôi có suy nghĩ nếu tiếp tục hoạt động văn nghệ thì vô tình tôi tiếp tay cho cộng sản thực hiện ý đồ ru ngủ và đánh phá cộng đồng người Việt tỵ nạn. Tôi đã bất hợp tác từ Việt Nam và đã vượt qua quá nhiều nghiệt ngã, cuối cùng thoát khỏi cộng sản VN, thì tại nơi đất Mỹ này tôi vẫn có cơ hội sống bằng trí óc và đôi tay của mình. Tôi quyết định ngừng hát. Từ năm 1993 tôi chỉ hát một lần để ủy lạo các gia đình H.O. theo lời mời của anh Nguyễn Mậu Quý, chủ tịch Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị. Trong thời điểm đó, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã book tour bên Âu Châu và mời tôi tiếp tục trình diễn nhạc kịch Ả Đào Say, nhưng tôi từ chối. Em Chí Tâm cũng muốn tôi kết hợp trình diễn với anh Thành Được, và rất nhiều nơi mời tôi đi hát, nhưng tôi vẫn không nhận lời mời. Điều tôi suy nghĩ có thể không đúng với những người khác, nhưng tôi không thể, hay đúng hơn không muốn giải bày. Năm 2002, anh Nhật Trường mời tôi hát giúp cho 2 đêm Văn Nghệ Giã Từ Sân Khấu, tôi nhận lời vì tôi cùng quan điểm với anh khi nghe anh nói anh chống lại kế hoạch giao lưu văn hóa và không muốn đứng chung sân khấu với các nghệ sĩ do cộng sản đưa sang. Năm 2002, chị Bạch Tuyết qua Mỹ và gọi điện thoại cho tôi, chị nói muốn đến nhà thăm tôi. Tôi vui mừng vì chúng tôi đã từng đi hát chung ở đoàn Thống Nhứt lúc tôi còn là “đào con”. Chị Bạch Tuyết may mắn giờ chót được thay thế vai của chị Diệu Hiền trong vở “Đẹp Duyên Chùa Tháp” tức “Tiếng Hát Muồng Tênh” của soạn giả Mộc Linh. Hai ông bầu Út Trà Ôn và Hoàng Giang sắp xếp cho Bạch Tuyết thế vai vì Diệu Hiền bỗng nhiên biến mất, trong khi Bạch Tuyết chưa có vai trò nào trong vở tuồng này, còn tôi được đóng vai người em gái nhỏ. Thời gian sau tôi rất thích chị đóng chung với anh Hùng Cường ở đoàn Dạ Lý Hương, vì hai người diễn rất sống động, rất thật trong các vở tuồng xã hội cùng với Ngọc Giàu, Văn Chung, Dũng Thanh Lâm, Thanh Tú. Phương Uyên lái xe chở chị Bạch Tuyết đến nhà chúng tôi. Sau khi chụp vài tấm ảnh kỷ niệm, tôi mời chị và Uyên đi ăn tối tại restaurant COCO. Chị bảo là chị ăn chay và chỉ ăn được món nào có tôm. Tôi tưởng chị là người Công Giáo. Tôi hỏi thăm về tin chồng chị là ông Đức bị bắt và bị Việt Cộng tịch thu tài sản, và chắc chị khổ với Việt Cộng vì ngày xưa chị có bức hình đội nón sắt có hàng chữ “Bỏ Bom Hà Nội” và chị đưa ngón tay cái lên. Chị nói ” Em ơi… ờ thì…nhưng chị không coi trọng tiền bạc, vật chất. Chị tu rồi em ơi, thỉnh thoảng chị được thầy Thích Thanh Từ là thầy của chị, vì bận quá, phật tử đông quá, đã giao cho chị đi thuyết pháp . Vấn đề anh Đức ở tù thì khi hoạn nạn mình phải chấp nhận, khi nào trời quang mây tạnh thì hai đứa che dù đi chung”. Tôi hỏi thăm về sinh hoạt và cuộc sống của chị tại VN thì chị cho biết chị có nhiều bạn trẻ thương yêu, các bạn này có hãng nước uống và cho chị vào một phần hùn nhỏ để sống nên chị không phải bận tâm. Chia tay ra về tôi thấy vui cho chị vì nghĩ rằng chị đã tu đến mức đã đạt được chữ “ngộ” rồi, vì nhà cửa bị tịch thu, chồng bị bắt bỏ tù mà không oán hận. Tôi thầm nghĩ, nếu là tôi thì tôi sẽ thù ghét CS lắm. Bạch Tuyết điện thoại cho tôi: “Chị có thằng con trai học Bang Giao Quốc Tế ở bên Anh quốc. Hôm đám cưới cháu chị không qua được, chỉ có cô em kết nghĩa là mẹ nuôi của nó đứng ra tổ chức. Chị muốn nó ra mắt cô chú đồng nghiệp cho phải lễ. Chị mời em và ông xã đến rồi tụi mình đập bồn đập trống cho vui”. Tôi nhận lời ngay. Đến nhà hàng Palace Seafood nơi tổ chức tôi nhận thấy đây là một đám cưới vì cô dâu chú rễ mặc khăn đống áo dài theo trang phục đám cưới. Có nhiều ca nghệ sĩ đến tham dự và chúng tôi cùng ca hát đóng góp thật sôi nổi với MC Trần Quốc Bảo. Cô dâu Mỹ trông khá xinh xắn dễ thương. Trước khi tiệc tàn, chị đến siết tay tôi và hẹn đến chơi nhà tôi vài hôm trước khi về lại Việt Nam. Một buổi chiều, trên đường đến rước chị, chúng tôi ghé mua tờ Việt Báo. Tôi giở tờ báo ra xem thì giật mình khi thấy hình chị Bạch Tuyết đang quỳ lạy khán giả trên sân khấu tại San Jose với hàng tít to: “Bạch Tuyết đã quỳ lạy khán giả vì bị biểu tình phản đối”. Chúng tôi rước chị ở khu mobile home trên đường Bolsa. Trong khi ông xã tôi đổ thêm xăng tại góc đường Brookhurst và Hazard thì chị cầm tờ Việt Báo lên đọc rồi chị nói lớn: “Cũng thằng Mỹ nữa”. Tôi nói : “Chuyện gì vậy chị?”. Chị tiếp: “Thằng Mỹ không có tư cách gì để lật đổ chế độ Taliban”. Tôi hỏi: “Sao vậy chị ?”. Chị nói “Em ở Mỹ lâu mà em không biết gì sao Tuyến, thằng Mỹ làm giàu nhờ bán vũ khí, nó muốn quậy lên để bán vũ khí”. Trời ơi, sao luận điệu và giọng nói này của Bạch Tuyết giống y như phát ngôn viên Việt Cộng Phan Thúy Thanh mà mỗi sáng lái xe đi làm tôi hay nghe tin tức từ đài VOA và BBC. Về đến nhà, chị cầm tay tôi xem, thoạt đầu, tôi nghĩ chị biết coi bói. Chị hỏi : “Tuyến, em có bao nhiêu căn nhà?”. Tôi đáp: ” Một căn nhà mà còn trả chưa xong đây chị”. Chị lại hỏi: “Em có bao nhiêu tiền trong nhà băng?”. Tôi ngạc nhiên với 2 câu hỏi này. Chị bảo tôi về Việt Nam chơi và ở với chị. Tôi nói: “Em ghét Việt Cộng. Vượt biên suýt chết rồi chị”. Chị nói: “Thôi mà em, đừng nghĩ vậy, chế độ bây giờ tốt đẹp hơn chế độ trước nhiều lắm”. Ông xã tôi bất bình nói: “Chị nói chế độ bây giờ tốt đẹp tại sao sau khi chấm dứt chiến tranh họ lại bắt sĩ quan, công chức và những nhà trí thức VNCH giam cầm đày ải bỏ đói cho đến chết trong các trại tù cải tạo?”. Chị lại nói: “Anh không biết chứ Tuyết vô thư viện bên Anh đọc sách, có nhiều nước tan chiến tranh rồi họ đem bắn bỏ hết, rồi ai làm gì họ”. Tôi bực mình nói: “Tốt đẹp gì chị, chế độ gì không có tự do tôn giáo, như Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị nhốt vào tù, Hòa Thượng Thích Quảng Độ bị quản chế”. Bạch Tuyết nói: “Ai biểu sống trong chế độ của người ta mà chống đối thì là chuyện đương nhiên”. Tôi thất vọng ở tầm kiến thức nhỏ hẹp lệch lạc và lối lý luận sặc mùi cộng sản của ‘tiến sĩ’ Bạch Tuyết. Chị còn hết lời ca tụng tâng bốc Nguyễn Minh Triết nói anh ta giỏi đủ mọi thứ, trong khi ở thời điểm đó Nguyễn Minh Triết còn hoạt động ở Sài Gòn và tôi chưa biết anh ta là ai. Khi cuộc bàn luận quá căng thẳng tôi đổi đề tài để nói về văn nghệ. Tôi nói “Má em hay xem cải lương, thỉnh thoảng em cũng xem và thấy Tài Linh diễn xúc động, chắc Tài Linh hiền lắm hả chị?”. Bạch Tuyết nói : “Những người nổi tiếng không ai hiền hết em”. Rồi chị kể về anh Hùng Cường, chị bảo là Hùng Cường yêu chị lắm và muốn cưới chị nhưng chị từ chối (?). Chị không biết rằng trong thời gian sống ở Mỹ anh Hùng Cường rất thân với chúng tôi và hay kể về những cuộc tình của anh, dĩ nhiên trong đó có Bạch Tuyết, anh Hùng Cường đã có mối quan hệ sâu đậm từ Bạch Tuyết ra sao, và chị đã năn nỉ anh thế nào. Tôi nghĩ nếu Hùng Cường còn sống tôi sẽ gọi anh đến để nghe Bạch Tuyết nói dóc. Đêm khuya quá, chẳng lẽ tôi đẩy Bạch Tuyết ra khỏi nhà, còn đưa về thì tôi mệt rồi sau một ngày dài làm việc. Chị hỏi tôi có muốn gởi tiền giúp Chùa Nghệ Sĩ không, tôi nói đã giúp rồi, và lần này chỉ gởi ít tiền tặng Má Bảy Phùng Há. Trước đây theo lời kêu gọi của Má Bảy và 2 chị Như Mai Kim Hoàng, Chùa Nghệ Sĩ không có rào nên thỉnh thoảng phát giác ra mồ mả bị đào bới vì họ muốn kíếm vàng bạc, đồng thời số nghệ sĩ già không nhà cửa phải sống lang thang, nên yêu cầu chúng tôi giúp đỡ tiền xây rào và mua tôn lợp phía sau chùa cho các cô bác có chỗ tạm trú. Chúng tôi đã gởi tiền giúp. Sau đó chị Như Mai cho biết ông Võ Văn Kiệt chấp thuận cấp cho 1 miếng đất ở quận 8 để xây Nhà Dưỡng Lão Nghệ Sĩ. Tiền chúng tôi đã gởi, chị Như Mai lo xây rào và trùng tu trong Chùa vẫn còn dư. Tôi yêu cầu chị Như Mai bỏ số tiền đó vào bank để lấy lời lo thuốc thang cho những nghệ sĩ già đau yếu, còn Nhà Dưỡng Lão hãy để cho chính quyền Cộng Sản lo. Tôi không bao giờ quên ơn Má Bảy Phùng Há, người mời tôi đóng nhiều vở tuồng trên TV, đã chỉ dạy thêm cho chúng tôi từ anh Thanh Sang đến anh Thành Được. Má Bảy cũng từng nói: “Mấy ổng muốn mời Má làm chức này chức kia, nhưng Má nói Má không thích làm chính trị, Má chỉ thích làm Văn Nghệ mà thôi”. Tôi lấy 100 đô la bỏ vào bao thơ trao cho chị Bạch Tuyết nhờ chị đem về trao cho Má Bảy. Vài tuần sau tôi gọi điện thoại thăm Má Bảy và hỏi xem Má Bảy có nhận được tiền không. Lúc đó có mặt ông bầu Xuân, tôi nghe tiếng Má Bảy nói lớn: “Ông Xuân ơi, Kim Tuyến nói có gởi Bạch Tuyết đem về cho tôi 100 mà sao không thấy?”. Ông Xuân nói: “Bạch Tuyết bảo sung vào quỹ của Chùa”. Tôi không hiểu tại sao chị Bạch Tuyết lại làm khác lời dặn của tôi, để cuối cùng Má Bảy không nhận được gì cả! Một lần nọ anh Hùng Cường dẫn anh Sáu Thanh đến nhà thăm chúng tôi. Anh Sáu Thanh là một đại thương gia trước năm 1975, chính anh là người cung cấp toàn bộ tiền bạc và phương tiện để thành lập đoàn cải lương Hùng Cường – Bạch Tuyết. Sáu Thanh giao đoàn cải lương cho Hùng Cường và chị Bạch Tuyết vì anh rất bận với các công ty lớn của anh. Đoàn cải lương này là một đại ban, được khán giả nhiệt tình ủng hộ, lần trình diễn nào cũng bán hết vé, thế mà Bạch Tuyết khai lỗ. Trước mặt chúng tôi, anh Sáu Thanh nói với Hùng Cường: “Anh lập đoàn hát này cho chú mầy mà chú mầy ham chơi quá, để cho con Tuyết lộng hành, nó đưa người nhà của nó vào, nó kiểm soát mọi chi thu, cứ khai lỗ, để cuối cùng phải giải tán đoàn hát”. Ngày 27/10/2002 Bạch Tuyết tổ chức ra mắt CD Kinh Pháp Cú chuyển thể cải lương tại Chùa Việt Nam trên đường Magnolia của Thượng Tọa Thích Pháp Châu. Ông thượng tọa này từng có tai tiếng vì đã lăng nhăng tình ái với một nữ Phật tử trẻ. Cuộc điện đàm hẹn hò dâm dục ở hotel của ông sư này với cô gái đã bị thu băng toàn bộ. Vì vậy cho nên truyền thông và báo chí hải ngoại kêu gọi biểu tình chống Việt Cộng Bạch Tuyết và Thượng Tọa Pháp Châu. Hôm đó có rất nhiều người đến biểu tình, trong đó có tôi, trước cửa chùa. Người biểu tình cho phát thanh cuốn tape dâm dục của Thượng Tọa Pháp Châu và hô đả đảo Bạch Tuyết. Tôi nghĩ nếu anh Hùng Cường còn sống chắc anh cũng sẽ đến biểu tình chống Bạch Tuyết, vì anh là người rất căm thù Cộng Sản. Dù rằng khi còn sống anh đã từng kể chính anh là người giới thiệu anh Đức (một “Việt Kiều Yêu Nước” tại Pháp) cho Bạch Tuyết sau vụ Bạch Tuyết bị vợ của Đại Tá Hoàng Đức Ninh làm nhục. Trong một dịp thăm nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và đi ăn tối với anh, chúng tôi có kể cho anh nghe về Bạch Tuyết và Kim Cương. Trong một lần nói chuyện trên Radio, anh Thiện đã có đề cập đến Việt Cộng Kim Cương và Bạch Tuyết. Tôi quý mến anh Nguyễn Chí Thiện vì tư cách và sự dũng cảm của anh. Chỉ vì can đảm dám nói lên sự thật của lịch sử và sự thật tàn ác của chế độ Cộng Sản mà anh bị gần 30 năm tù ở miền Bắc. Trong tù anh vẫn đứng thẳng, hiên ngang làm thơ vạch trần sự dã man của chế độ và dám chửi thẳng Hồ Chí Minh. Những gì tôi kể về Bạch Tuyết là hoàn toàn sự thật, không thêm bớt, không trái với lương tâm. Một số đông trong đó có tôi vẫn còn nhiều hoài nghi về Bạch Tuyết: – Bạch Tuyết không học trung học, không học đại học thì làm sao có bằng tiến sĩ? – Bạch Tuyết không rành tiếng Anh làm sao vào thư viện của Anh đọc sách và tài liệu. – Bạch Tuyết không nói và viết lưu loát tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức thì làm luận án tiến sĩ bằng tiếng gì ? Không lẽ làm luận án ở ngoại quốc mà dùng tiếng Việt ? – Bạch Tuyết có biết rằng mọi người đều biết trên thế giới có nhiều bằng tiến sĩ danh dự được cấp do sự giới thiệu hay quen biết. Có các trường đại học dỏm, không được chấp nhận, chỉ cần nộp cho họ vài ngàn đô la là có bằng tiến sĩ giấy. – Bạch Tuyết thù ghét Mỹ, vậy tại sao thích đi sang Mỹ, cho con học ở Mỹ, đi làm ở Mỹ, lấy vợ Mỹ. Phải chăng Bạch Tuyết muốn tìm một “bãi đáp an toàn” sau này ở Mỹ? Những câu chuyện của hôm qua bao giờ cũng thật xúc động, dù chỉ là kỷ niệm. Nhưng có khi nào chị nhìn thấy sân khấu ở quê nhà, sự rộn rịp hoặc giàu có của giới đồng nghiệp mà chạnh lòng? Hoặc chị có lúc nào nghĩ rằng nếu chị nhượng bộ, ở lại, thì cũng đã có một cuộc sống sinh hoạt sôi nổi, nhiều thu nhập như các nghệ sĩ khác? Sau 37 năm sống trên đất Mỹ và 41 năm miền Bắc cai trị miền Nam, tôi vẫn thường theo dõi các tin tức từ quê nhà và rất buồn khi thấy Cộng Sản đã tạo ra một giai cấp mới, giai cấp cán bộ, con ông cháu cha, tư bản đỏ, giai cấp này lộng hành, áp bức bóc lột người dân khốn cùng. Luân lý, đạo đức suy đồi, cuộc sống bất an, luật pháp bất minh, môi trường nhiễm độc, tham nhũng tràn đầy… Trong khi đó chính quyền lại “ác với dân, hèn với giặc” trước hiểm họa mất nước vào tay giặc Tàu. Tôi không dùng danh từ “chính quyền” cho CSVN, vì không ai bầu cái Đảng cướp này cả. Chúng cưỡng chiếm miền Nam, áp đặt chế độ độc tài đảng trị, thì không thể dùng danh từ chính quyền. CSVN thắng VNCH do tuyên truyền dối trá, quỷ quyệt, gian manh do HCM đem chủ thuyết ngoại lai quái đản từ Liên Xô, Trung Cộng đặt lên đầu dân VN. CSVN xem văn nghệ sĩ là bộ môn tuyên truyền hữu hiệu nhất, họ dùng nghệ sĩ để ru ngủ đồng bào quên đi tội ác mà chúng gây ra. Kim Cương là một điển hình cùng một số văn nghệ sĩ được họ sử dụng. Tôi thấy mình đã quyết định đúng khi vượt biên rời khỏi chế độ cộng sản VN để cho gia đình và con cháu tôi có một cuộc sống an lành và tốt đẹp hơn. Tôi đã quyết định đúng khi chọn nước Mỹ, một nước tôn trọng tự do dân chủ và nhân quyền, một nước thật sự của dân, do dân và vì dân. Dạ, xin cám ơn chị, 28/7/2019 Tuấn Khanh (ghi)
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 15, 2022 18:50:05 GMT 9
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP NHẠC SĨ NGỌC CHÁNH ( Nhân sinh nhật 85 tuổi của ông 13/3/1937 - 13/3/2022 ) Nhạc sĩ Ngọc Chánh được người yêu nhạc trữ tình biết đến với những bài hát nổi tiếng sáng tác chung với Phạm Duy là Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang, Bao Giờ Biết Tương Tư và Tuổi Biết Buồn. Ngoài ra ông còn là trưởng ban nhạc nổi tiếng Shotguns, đã thành lập hãng băng đĩa Shotguns và có nhiều đóng góp quan trọng trong làng nhạc khi đã lăng xê thành công được nhiều bài hát, ca sĩ và nhạc sĩ nổi tiếng trước năm 1975. Nhạc sĩ Ngọc Chánh tên thật Nguyễn Ngọc Chánh, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1937 tại Sài Gòn trong gia đình có tất cả 10 anh chị em. Tuy nhiên 8 trong số 10 anh chị em này đều không may qua đời từ lúc nhỏ, chỉ còn lại 2 người là nhạc sĩ Ngọc Chánh (thứ sáu) và người em gái út là Ngọc Lan (tên giấy tờ là Nguyễn Thị Trí). Nhạc sĩ Ngọc Chánh mê nhạc và có năng khiếu từ thuở bé. Lúc lên 6 tuổi, ông được học guitar với một người bạn lớn tuổi hơn tên là Cổ Tấn Tịnh Châu, rất giỏi về ngón đàn Flamenco, rồi sau đó học thêm với một nhạc sĩ người Philippines là Monito. Có lẽ nhờ vậy mà ngay từ lúc nhỏ ông đã có kiến thức khá vững vàng về nhạc lý, có thể tự soạn được 2 cuốn sách hướng dẫn Tự Học Đàn Guitar từ khi mới 13, 14 tuổi. Năm 1945, khi được 8 tuổi, ông được vào trường dòng Lasan Đức Minh ở Tân Định, đến năm 11 tuổi thì chuyển sang trường Lê Văn Hai học trong 2 năm rồi vào học trung học đệ nhất cấp tại Trường Kỹ Thuật Cao Thắng vào năm 1950. Trong khoảng thời gian học tại đây, nhạc sĩ Ngọc Chánh viết 2 cuốn sách tự học về guitar rồi bán bản quyền sách cho nhà xuất bản Mỹ Tín vào năm 1953 với giá 24.500. Đây có lẽ là một trong những cuốn sách dạy về guitar sớm nhất của làng nhạc thời đó. Lúc đó ông Mỹ Tín có một tiệm nổi tiếng sản xuất và bán đàn guitar ở đường Võ Tánh, đồng thời có trưng một số cây đàn piano cũ, là niềm mơ ước của Ngọc Chánh nên ông đã xin mua một cây piano cũ với giá 22.000 đồng bằng cách đổi bản quyền sách của mình và được ông chủ trả thêm 2.500 đồng. Số tiền đó mang về biếu mẹ và đãi bạn ăn mừng. Có đàn nhưng không có tiền học piano, nhà lại nghèo nên khó xin được tiền đi học đàn nên Ngọc Chánh nói dối gia đình là đi học tiếng Anh để lấy tiền đi học piano với thầy Nguyễn Văn Dung trên đường Hiền Vương. Nhờ chơi được cả guitar và piano nên khi mới 20 tuổi, nhạc sĩ Ngọc Chánh được nhận vào phục vụ trong Ban Văn Nghệ của Bộ Công Dân Vụ và được hoãn quân dịch. Sau đó ông chơi đàn tại khắp các quán nhỏ rồi đến các nhà hàng trong thời gian khoảng 2 năm. Từ năm 1960 đến 1966, nhạc sĩ Ngọc Chánh lần lượt được mời làm trưởng ban nhạc tại rất nhiều nơi từ nhỏ đến lớn, bắt đầu là sân khấu ca nhạc tại Hồ Tắm Cộng Hòa, sau đó là vũ trường Melody, Lai Yun, Văn Cảnh, Eden Rock, nhà hàng Mỹ Phụng… Năm 1966, được lệnh tổng động viên, ông tham gia vào Biệt đoàn văn nghệ trung ương, sau đó là ban Hoa Tình Thương cùng với nhiều nghệ sĩ tài năng, trong đó có nhạc sĩ Khánh Băng, Nguyễn Ánh 9, ca sĩ Elvis Phương, Pat Lâm, nhạc công Duy Khiêm, trống Phùng Trọng… Sang năm 1968, vì sự kiện Tết Mậu Thân nên toàn bộ những chương trình giải trí ở các phòng trà, vũ trường tại Sài Gòn đều bị đóng cửa, giới nghệ sĩ bị thất nghiệp hàng loạt, ngoại trừ một số ca sĩ hát nhạc ngoại quốc tại các club Mỹ. Trước tình hình đó, ca sĩ Pat Lâm được người cha nuôi người Mỹ làm ở Đại sứ quán Mỹ đề nghị ông quy tụ những nghệ sĩ trong ban Hoa Tình Thương để thành lập một ban nhạc trình diễn vào mỗi cuối tuần tại USO (viết tắt từ United Services Organizations, là tổ chức phi lợi nhuận đưa các hoạt động giải trí tới phục vụ quân đội Mỹ đóng ở khắp nơi trên thế giới), cũng như biểu diễn ở các club Mỹ khắp miền Nam. Khi đó các nghệ sĩ đang thất nghiệp, gặp được lời đề nghị quý giá này, chỉ 1 tuần sau ban nhạc Shotguns đã được thành lập với Ngọc Chánh (piano), Duy Khiêm (bass), Đức Hiếu (trống, sau đó thay bằng Lưu Bình), Hoàng Liêm (guitar) và 2 tiếng hát Pat Lâm, Elvis Phương. Được một thời gian thì bổ sung thêm giọng hát Ngọc Mỹ và Quốc Hùng đánh bass, Duy Khiêm đánh guitare accord… Nhạc sĩ Ngọc Chánh và ca sĩ Pat Lâm là 2 linh hồn của ban nhạc đã quyết định chọn tên ban nhạc là Shotguns, bắt nguồn từ bài nhạc Mỹ của Junior Walker trong đĩa đơn cùng tên là Shotgun rất ăn khách vào thời điểm đó. Sang năm 1969, khi tình hình đã lắng dịu hơn, sinh hoạt âm nhạc về đêm trở lại bình thường thì nhạc sĩ Ngọc Chánh quyết định về đóng đô và trình diễn âm nhạc hàng đêm ở Sài Gòn. Giai đoạn này, Ngọc Chánh cũng chuyển hướng cho ban Shotguns, từ một ban nhạc chuyên hát nhạc Pop Rock, nhạc ngoại quốc tại các club Mỹ, chuyển sang hát nhạc Việt trữ tình, nhẹ nhàng và lãng mạn cho người Việt nghe. Quyết định này ban đầu không được nhiều người trong ban đồng tình, vì hát cho club Mỹ được nhiều tiền hơn hát cho khán giả Việt Nam. Đầu năm 1970, khi ca sĩ Jo Marcel rời phòng trà Queen Bee để xây dựng Ritz, ca sĩ Khánh Ly đã thuê lại Queen Bee nằm trên tầng 2 của khu thương xá Eden và mời ban nhạc Shotguns về đóng đô mỗi đêm. Đầu năm 1971, Khánh Ly rời Queen Bee để khai trương phòng trà – vũ trường Tự Do thì nhạc sĩ Ngọc Chánh nhận thầu lại Queen Bee, đồng thời thuyết phục được ca sĩ Thanh Thúy trở lại sân khấu ca nhạc sau 5 năm giải nghệ đi lấy chồng. Sự tái xuất này của danh ca Thanh Thúy gặt hái được những thành công rực rỡ. Trụ ở phòng trà Queen Bee được 3 năm, nhạc sĩ Ngọc Chánh đưa toàn ban Shotguns về số 91 đường Công Lý, nhận lại phòng trà Quốc Tế ở góc Lê Lợi – Công Lý để khai thác từ tháng 5 năm 1974 và hoạt động thêm 1 năm thì xảy ra biến cố 1975. Tại phòng trà Queen Bee và Quốc Tế, nhạc sĩ Ngọc Chánh đã tạo ra được một nơi sinh hoạt văn nghệ sôi động với những giọng ca nổi tiếng nhất Sài Gòn là Thái Thanh, Thanh Thúy, Elvis Phương, Khánh Ly, Lệ Thu, Mỹ Thể, Trúc Mai… và là nơi làm bệ phóng cho những giọng ca thế hệ sau đó được thành danh: Thanh Lan, Dạ Hương, Thái Châu, Nguyễn Chánh Tín… Song song với việc biểu diễn chương trình văn nghệ hàng đêm, nhạc sĩ Ngọc Chánh còn tổ chức thực hiện băng nhạc Shotguns từ năm 1969 cho đến năm 1975, ra mắt hơn 30 băng nhạc Shotguns rất giá trị mà cho đến nay vẫn còn nhiều người tìm nghe. Ngọc Chánh cũng là người tiên phong trong việc sản xuất nhạc trên băng magnetic (băng cối) giữa lúc thị trường vẫn đang ưa chuộng loại dĩa nhựa (vinyl). Chưa đầy 2 năm sau đó thì loại dĩa nhựa ở thị trường âm nhạc miền Nam bắt đầu thoái trào, nhường lại thị trường cho loại băng magnetic. Các băng nhạc măng tên Shotguns của nhạc sĩ Ngọc Chánh được đánh giá cao vì có giá trị nghệ thuật rất lớn, cộng với phần hòa âm độc đáo của ban nhạc Shotguns do nhạc sĩ Lê Văn Thiện hoặc chính nhạc sĩ Ngọc Chánh soạn hòa âm. Với chất lượng âm thanh 4 chiều chuyển động, tiền thân của surround sound sau này, các băng nhạc của nhạc sĩ Ngọc Chánh thực thiện đã đi tiên phong trong việc tạo ra những sản phẩm âm nhạc có chất lượng tốt nhất thời bấy giờ. Ngoài băng nhạc mang nhãn hiệu Shotguns chuyên về dòng nhạc trữ tình, tiền chiến với các giọng ca thượng thặng như Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly… nhạc sĩ Ngọc Chánh còn chủ trương thực hiện các băng nhạc mang nhãn hiệu khác và dòng nhạc khác, điển hình là băng Nhạc Trẻ do Kỳ Phát phụ trách với các ca sĩ chuyên hát nhạc trẻ là Elvis Phương, Thanh Lan, Minh Xuân & Minh Phúc, Thái Hiền, Duy Quang, Tuấn Ngọc, Thanh Mai… Ngoài ra còn có các băng nhạc chủ đề Siêu Âm, Chế Linh, Hồn Nước (chuyên về cải lương)… cũng đều do nhạc sĩ Ngọc Chánh và ban Shotguns thực hiện. Từ năm 1971 đến năm 1975, thị trường băng nhạc xuất hiện loạt băng chủ đề Thanh Thúy do ca sĩ Thanh Thúy thực hiện, rất được yêu thích cho đến ngày nay, và người đứng sau loạt băng này cũng chính là Ngọc Chánh, phụ trách phần thu thanh, hòa âm và ban nhạc. Về sự nghiệp sáng tác của Ngọc Chánh, ông được biết đến với 3 ca khúc nổi tiếng nhất, đều là bài hát do ông viết nhạc, sau đó nhạc sĩ Phạm Duy viết lời, đó là Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang, Tuổi Biết Buồn và Bao Giờ Biết Tương Tư. Bài hát đầu tiên là Bao Giờ Biết Tương Tư, ban đầu là bản nhạc nền của Ngọc Chánh viết cho phim Điệu Ru Nước Mắt của đạo diễn Lê Hoàng Hoa thực hiện năm 1970, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Duyên Anh, nói về chuyện tình thơ mộng của trùm du đãng nổi tiếng là Đại Cathay. Sau khi cuốn phim trình chiếu thành công, nhạc sĩ Ngọc Chánh đã nhờ nhạc sĩ Phạm Duy soạn lời ca cho đoạn nhạc phim ông đã viết, và ca khúc Bao Giờ Biết Tương Tư từ đó ra đời. Bài hát thứ 2 là Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang, cũng là bài nhạc phim chính cho một cuốn phim cùng tên của đạo diễn Lê Hoàng Hoa, cũng chuyển thể từ tiểu thuyết của nhà văn Duyên Anh mang tên Vết Thù Hằn Trên Lưng Con Ngựa Hoang, nội dung của bài hát là lời tâm sự của một giang hồ cộm cán từng “dẫm nát tơi bời” nay quay đầu hoàn lương “từ nơi tối tăm về miền tươi sáng”. Đến năm 1973, ban tổ chức đại hội âm nhạc quốc tế Yamaha tại Nhật Bản đã mời đoàn Việt Nam và nhạc sĩ Phạm Duy tham dự. Nhận được lời mời, nhạc sĩ Phạm Duy tìm gặp Ngọc Chánh, ngỏ ý muốn viết chung một ca khúc để gửi dự thi. Nhạc sĩ Ngọc Chánh đã viết nhạc, và nhạc sĩ Phạm Duy đã viết lời để thành ca khúc Tuổi Biết Buồn. Tại Nhật, tiếng hát Thanh Lan cùng với ca khúc này đã vào đến vòng chung kết của đại hội âm nhạc Yamaha. Sau năm 1975, có một thời gian nhạc sĩ Ngọc Chánh cộng tác với đoàn Kim Cương để thực hiện các buổi diễn văn nghệ phục vụ cho chính quyền mới. Năm 1975, ông cùng với đoàn Kim Cương thực hiện băng nhạc đỏ mang tên Đường Chúng Ta Đi với sự tham gia của nhiều ca sĩ nhạc vàng là Thanh Tuyền, Hà Thanh, Lệ Thu, Thanh Phong, Phương Đại, Thái Châu… Đến năm 1978, Ngọc Chánh cùng gia đình vượt biển sang Mã Lai, rồi sang Mỹ năm 1979. Cuối năm đó, ông tái lập lại ban Shotguns tại Hoa Kỳ và biểu diễn ở vũ trường Maxim’s – thành phố San Jose. Năm 1983, vũ trường này bị cháy, nhạc sĩ Ngọc Chánh chuyển về Quận Cam để mở vũ trường Ritz, được sang lại từ nhạc sĩ Vô Thường. Phòng trà vũ trường Ritz mở rộng được quy mô gấp nhiều lần chỉ sau 5 năm, trở thành bệ phóng để hàng loạt ca sĩ thế hệ sau 1975 trở nên nổi tiếng là Ý Lan, Don Hồ, Dalena, Ngọc Lan, Lynda Trang Đài… Sau gần 20 năm làm chủ ban nhạc, vũ trường và phòng trà ca nhạc, nhạc sĩ Ngọc Chánh đã quyết định giải nghệ vào năm 1998. Từ đó đến nay, ông cùng với vợ dành nhiều thời gian để đi du lịch nhiều nơi và theo đuổi niềm đam mê mới: nhiếp ảnh. Từ đầu thập niên 1980, mặc dù rất bận rộn trong việc gầy dựng lại ban Shotguns và điều hành vũ trường những nhạc sĩ Ngọc Chánh vẫn dành thời gian đi học môn nhiếp ảnh. Đến năm 2007, ông thực sự bước vào con đường nhiếp ảnh chuyên nghiệp, chuyên chụp ảnh thiên nhiên. ( nhacxua.vn biên soạn theo nguồn tư liệu của Tạp chí Thế Giới Nghệ Sĩ )
|
|
|
Post by Can Tho on May 29, 2022 0:16:30 GMT 9
HỒI KÝ CỦA NGUYỄN HỮU LOAN Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và …tôi – Nguyễn Hữu Loan. Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. [… Hữu Loan dạy học ở Thanh Hoá một thời gian rồi lấy vợ và nhập ngũ. Vì nội dung câu chuyện rất dài nên cắt bớt.] Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn … Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh… ” Tôi về không gặp nàng… Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt… Và chiều hoang tím có chiều hoang biết… Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.” Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi! Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…. Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông … Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi … Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi. Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm! Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no…. Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì. Năm 1988, tôi ” tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự. Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán. ©Hữu Loan ===== Nhà thơ Nguyễn Hữu Loan cả đời, sống vất vả ở miền Bắc, bài thơ Màu tím hoa sim của ông bị cấm lưu hành. Sau 1975, vào miền Nam ông mới biết, thơ của ông được tự do lưu hành, lại còn được ít nhất 2 nhạc sĩ phổ nhạc Phạm Duy, Dzũng Chinh và được các ca sĩ ghi âm vào băng, đĩa hát trên truyền thanh, truyền hình.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 29, 2022 1:02:54 GMT 9
TRĂM NĂM NHÌN LẠI… Tác giả; Võ Đắc Danh
Ông Trương Nhân Trưởng, người làng Phú Lạng, huyện Hạc Sơn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Những năm cuối thế kỷ XIX, ông đi làm thuê cho một vựa trái cây ở Quảng Tây, một buổi tối, ông nghịch ngợm lấy viên pháo nhét vào bính tóc của một người bạn rồi châm tàn thuốc lên ngòi pháo, pháo nổ, bính tóc bay mất. Chuyện chỉ có vậy, nhưng ông bị nhà chức trách truy nã về tội mưu sát, phải rời bỏ nhà cửa, vợ con và tổ quốc để làm kẻ lưu vong sang Việt Nam. Đến Mỹ Tho, ông làm nghề mua bán thịt bò. Tại đây, ông kết hôn với bà Lê Thị Mai, một thôn nữ đẹp người đẹp nết ở làng Điều Hòa và sinh được bảy người con, bốn trai ba gái. (1) Câu chuyện về ông sẽ không được ai biết đến, sẽ không có gì để kể thêm. Nhưng chính cái ngã rẽ vô tình của cuộc đời ông lại là cội nguồn của nghệ sĩ Nhân dân Phùng Há. Khác với những người Hoa khác, con cái của ông Trưởng lớn lên đều được ông đưa về cho bà vợ lớn ở cố hương để học ngôn ngữ và lễ nghi Trung Quốc, sau đó muốn ở lại hay trở qua Việt Nam thì tùy theo điều kiện và ý thích của mỗi người. Năm 1915, ông Trưởng qua đời trong khi đang trở thành một người giàu có ở Mỹ Tho: Một lò gạch, một xưởng cưa và một trang trại nuôi bò. Cô Bảy Phùng Há lúc bấy giờ mới lên năm tuổi. Ông Trương Tích Kỳ, con trai đầu của ông Trưởng cùng với chú ruột là Trương Nhân Bá đã lập mưu chiếm đoạt cơ ngơi bằng cách giao cho bà Mai cùng với cô Bảy và người em út là Trương Nguyệt Hảo mang bộ hài cốt hỏa táng của ông Trưởng về Hạc Sơn an táng và ở lại bên ấy để thọ tang. Năm ấy, ở Quảng Đông xảy ra trận dịch đậu mùa, hàng ngàn người thiệt mạng, trong đó có Trương Nguyệt Hảo. Cô Bảy thoát chết nhưng mang trên gương mặt trẻ thơ lốm đốm vết rỗ hoa mè. Sống trong cảnh làm thiếp mà không chồng, bà Mai không chịu nổi những tập tục, lễ nghi phong kiến hà khắc của gia đình Tàu mà mọi quyền hành nằm trong tay bà chánh thất, bà Mai khóc thầm trong đau khổ, muốn trốn về quê mà túi lại không tiền. Hiểu được cảnh ấy, người con gái thứ tư của bà là Trương Liên Hảo, đang làm dâu một nhà hào phú ở Hạc Sơn, đã lén chồng bán của hồi môn để mua vé tàu cho mẹ và em về nước. Trên chuyến tàu Tây hôm ấy, mấy bà đầm phát hiện Cô Bảy Phùng Há mắc bệnh đậu mùa, họ la chóe lên, hành khách xôn xao, thủy thủ đoàn kéo cô quăng xuống biển, mẹ cô lạy lục van xin, những hành khách người Việt và người Hoa đứng ra ngăn cản. Cuối cùng họ đồng ý cho cô đi nhưng hai mẹ con cô phải cách ly, ngồi vào một góc xa phía sau hầm máy. Về đến Mỹ Tho, bà Mai mới tá hỏa ra rằng mình không còn quyền hành gì trong ngôi nhà cũ, và tất cả cơ nghiệp của ông Trưởng đã thuộc về người em chồng và đứa con trai. Sống trong nhà mình mà con trai và con dâu luôn nặng lời chửi em mắng mẹ. Một hôm, Trương Tích Kỳ ném cho bà Mai hai chiếc vé tàu và mấy đồng lộ phí buộc bà và Cô Bảy Phùng Há trở về Hạc Sơn. Bà Mai tức tưởi, nghẹn ngào dắt con gái về làng cũ Điều Hòa, tá túc trong căn chòi xơ xác của người mẹ mù lòa. Bà bị suy sụp rồi lâm bệnh. Cô Bảy Phùng Há – cô bé Trương Phụng Hảo lúc ấy – đành phải chạy ra tìm anh Hai để xin tiền lo thuốc thang, ăn uống cho mẹ và ngoại. Trong cơn say rượu và thuốc phiện, ông Kỳ đã không cho tiền mà còn nặng lời trách mắng vì đã không về Hạc Sơn theo ý muốn của ông. Cô chạy sang nhà của cha mình mà bây giờ đã thuộc về tay người chú ruột để khóc than, ông Nhân ném cho một đồng rưỡi, ông hứa mỗi tháng sẽ cấp cho mẹ con cô từ một đồng rưỡi đến hai đồng. Bà ngoại qua đời, hai mẹ con cô tiếp tục sống trong căn chòi hiu quạnh, xác xơ, bữa rau bữa cháo. Dù trong cảnh nghèo đói, khổ đau, nhưng bà Mai vẫn vắt kiệt sức mình trong một tiệm thêu để cho con gái được đến trường. Một người bạn cũ của ông Trưởng đã giúp Cô Bảy được vào học miễn phí ở trường Ecole Jeunes Filles – một trường tiểu học của Pháp tại Mỹ Tho. Và tại nơi đây, Cô Bảy Phùng Há đã bắt đầu nổi tiếng về năng khiếu ca hát của mình. Nhưng cũng chính vì cái năng khiếu ấy mà Cô đã bị đuổi ra khỏi trường khi chưa học xong chương trình tiểu học. Hôm ấy, bà đốc học La Fuste đi vắng, bà Giáo Kỳ vốn mê giọng hát của Trương Phụng Hảo nên tổ chức cho cô hát trong giờ học của bà. Phòng học nằm cạnh ven đường nên khi cô hát, người qua đường cũng đứng lại xem, rồi những tràng pháo tay vang lên. Bất ngờ, ông chánh thanh tra Ty giáo huấn ghé qua, ông buộc tội học trò Trương Phụng Hảo làm mất trật tự học đường. Bị đuổi học, Cô Bảy Phùng Há chợt nhớ lời một nữ tu hồi cô còn học bên trường Giồng: “Con hát hay lắm, nhưng chính giọng hát của con sau nầy sẽ làm khổ đời con”. Thật ra, lúc ấy nếu Cô không bị đuổi học thì cũng không còn điều kiện nào để học. Mẹ Cô vì lao lực lẫn lao tâm mà kiệt sức, nay ốm mai đau. Để có từng bữa ăn cho hai mẹ con, Cô Bảy phải lặn hụp dưới từng con rạch, dòng sông để kiếm từng con cá bống, con tép, con cua, đi móc từng trái dừa thuê cho các chủ vườn để mua cho mẹ từng thang thuốc bắc. Một hôm, có bà láng giềng tốt bụng đã giới thiệu Cô vào làm công cho lò gạch của ông Bang Hoạch. Cứ in một trăm viên gạch, Cô được trả ba xu. Với sức vóc của cô bé lên mười, mỗi ngày Cô kiếm chưa được mười xu, nghĩa là chưa đầy một cắc bạc. Nghĩ mình từng là con của ông chủ lò gạch, bỗng dưng lại trắng tay, giờ phải ngồi in từng viên gạch, chắt mót từng đồng xu ở một lò gạch khác, lòng Cô cứ ngậm ngùi, buồn chán cho thân phận, Cô vừa làm vừa nghêu ngao hát như một sự giải bày. Nhưng mỗi lần Cô hát thì cả nhóm thợ lắng nghe. Tiếng hát của cô đã gieo vào lòng người một niềm cảm xúc đến nao lòng. Mấy chị bảo: “Từ nay em không phải làm nữa, cứ vào đây ngồi hát cho mấy chị nghe, mấy chị sẽ làm thay phần việc cho em”. Như vậy là, tiếng hát của Cô đã nuôi sống mẹ con Cô từ năm mười một, mười hai tuổi, để rồi từ nơi ấy, từ cái lò gạch ấy, tiếng hát của Cô mỗi ngày cứ vang lên, bay cao và bay xa hơn, khắp mọi miền Tổ quốc, vượt cả không gian và cả thời gian để trở thành cây đại thụ của nền nghệ thuật sân khấu nước nhà. * Có những lúc Cô đang hát say sưa thì bất chợt nhìn thấy một người đàn ông đứng trước cửa lò gạch nhìn vào, say sưa nghe cô hát Nhiều lần, khi Cô đang ngồi hát say sưa thì chợt thấy từ phía cửa sổ hành lang lò gạch có một người đàn ông lặng nhìn say sưa nghe cô hát. Rồi cũng bất chợt một buổi chiều khi đi làm về thì thấy người đàn ông ấy đã có mặt trong nhà cô. Mẹ Cô cho biết đó là ông Hai Cu, chủ tiệm vàng kiêm bầu gánh Tái Đồng Ban ở Mỹ Tho. Gánh Tái Đồng Ban đang gặp sự cố, con trai ông, kép hát Hai Gỏi vừa mới qua đời, người tình của anh là Cô Năm Phỉ, đào chánh, đã buồn bã ra đi. Trong khi ông đi tìm đào thay cho Năm Phỉ thì có người nói với ông rằng “Trong lò gạch của ông Bang Họach có con bé xẩm lai hát còn mùi hơn cô Năm Phỉ”.. Ông không tin nhưng vẫn tìm đến để cầu may. Nhưng ngay từ hôm đầu tiên đứng ngòai cửa sổ lò gạch trộm nhìn nghe Cô hát, ông đã bị hốt hồn. Một lần, hai lần, rồi ba lần... cứ đứng lặng người nhìn Cô say sưa hát, tiếng hát thanh cao, khi trầm khi bổng, khi quặn thắt lòng người, đôi mắt cứ lững lờ, rười rượi nỗi sầu tư, chơi vơi trong cõi hư vô khiến cho ông Hai như muốn thốt lên rằng, con ơi, con không chỉ là một thiên thần bé bỏng mà là dấu hiệu của một tài năng. Bà Mai không bằng lòng cho con mình đi theo Tái Đồng Ban bởi hai lẽ: Thứ nhất, Cô Bảy chỉ mới mười ba tuổi, thứ hai, mới mười ba tuổi mà đã dấn thân vào con đường “xướng ca vô loài” thì ắt phải hổ danh trong cái nhìn phong kiến lúc bấy giờ. Nhưng Cô Bảy thì cương quyết: “Con không chịu nổi cái lò gạch, con phải đi hát để có tiền nuôi mẹ, ai cười chê mặc kệ, họ cười chê chớ họ có giúp mình đâu khi mẹ đói, mẹ đau”. Ông Hai ra giá tám cắc bạc cho mỗi đêm hát, ngày nuôi hai bữa cơm. Cô Bảy nghe mà mừng trong bụng khi nghĩ đến cái thực tại ngồi ép gạch suốt ngày chưa được một cắc, cơm thì bữa đói bữa no, mẹ ốm đau không đủ tiền mua thuốc, nợ nần chồng chất không biết trả đến kiếp nào. Cô nói với ông Hai: “Con đồng ý nhưng xin ông hai điều kiện, thứ nhất ông cho mẹ con theo gánh hát để con chăm sóc, thứ hai, ông cho con mượn trước năm mươi đồng để mẹ con trả nợ”. Từ cái ngã rẽ bất ngờ của buổi chiều hôm ấy, Cô Bảy Phùng Há trở thành đào chánh của Tái Đồng Ban thay cho Cô Năm Phỉ và nổi danh với nhân vật Thúy Kiều, năm ấy, năm 1924, Cô mới tròn mười ba tuổi. Từ một quyết định giản đơn: “Đi hát để kiếm tiền nuôi mẹ”, Cô Bảy Phùng Há đã trở thành ngôi sao sáng rực của bầu trời sân khấu cải lương, và, cũng chính cô là người đã góp sức, góp công, góp cả lòng tâm huyết để nâng niu, nuôi dưỡng nền nghệ thuật nầy từ buổi sơ khai cho đến lúc trưởng thành, đứng trên đỉnh vinh quang. Hơn nửa thế kỷ đắm mình với ánh đèn sân khấu, làm rạng rỡ tên tuổi của hàng chục đoàn hát, từ Tái Đồng ban đến Trần Đắc, Huỳnh Kỳ, Phụng Hảo, Phước Cương, Thầy Năm Tú, Việt Kịch Năm Châu..., hóa thân với hàng trăm nhân vật, mà nhân vật nào, dù nam hay nữ, dù danh tướng hay mỹ nhân cũng được Cô Bảy Phùng Há cũng lột tả đến tận cùng tính cách và số phận. Oai phong, lẫm liệt với Lữ Bố, Phạm Lãi, An Lộc Sơn; đằm thắm, kiêu sa, ngọt ngào, ai oán với Vương Thúy Kiều, với Nguyệt Nga, với Dương Quý Phi, với Tô Ánh Nguyệt... Phùng Há đã làm nên tất cả những vai diễn, và tất cả những vai diễn ấy đã làm nên một Nghệ Sĩ Nhân Dân Phùng Há. Những mề-đay, Huân chương, Huy chương của chính phủ Pháp, của toàn quyền Đông Dương, của thống đốc Nam Kỳ, của vua Bảo Đại, vua Miên, vua Lào, vua Thái Lan, của Chính phủ Trung Hoa, Hungari, Ba Lan, Budapest, Prague, Moscow, Anh, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha... chứng tỏ một tài năng sân khấu cải lương đã vượt không gian quốc gia, làm rạng rỡ nền nghệ thuật nước nhà. Thế nhưng “Hồng nhan đa truân”, cuộc đời bà không có mối tình nào trọn vẹn... Ngay từ những năm đầu đến với Tái Đồng Ban, sắc đẹp của bà đã làm ngẩn ngơ hai người thầy, một người dạy ca và một người dạy diễn: Huỳnh Thủ Trung và Năm Châu. Khi Năm Châu đang ôm mối tình câm chưa kịp nói ra thì Huỳnh Thủ Trung tuyên bố cưới cô Phùng Há. Năm Châu thất tình ra đi. Cô Bảy Phùng Há sống với Huỳnh Thủ Trung có một người con rồi chia tay vì không chịu nổi người chồng suốt ngày ngồi trong quán rượu, những chuyện ngoại tình, những trận đòn roi. Khi Năm Châu đang lưu lạc với một đoàn cải lương ngoài Bắc, được tin Cô Bảy Phùng Há thôi chồng và chuyển qua đoàn khác. Ông trở về, tìm gánh hát Trần Đắc với hy vọng nối lại tình xưa. Nhưng đò tình thêm một lần lỡ chuyến. Cô Bảy Phùng Há đã làm vợ của Bạch Công Tử và lập gánh hát Huỳnh Kỳ. Bạch Công Tử - tức Lê Công Phước, còn gọi là George Phước, (2) con trai của Đốc Phủ sứ Mỹ Tho Lê Công Sủng – sau khi chiếm được trái tim của Cô Bảy Phùng Há đã bỏ ra năm trăm đồng trả nợ cho Cô, chuộc Cô ra khỏi gánh Trần Đắc, lập gánh Huỳnh Kỳ cho Cô làm chủ gánh. Thời ấy, giao thông cách trở, các gánh hát lưu diễn phải thuê ghe lườn vận chuyển sân khấu, công nhân và đào kép. Bạch Công Tử đã trang bị cho Huỳnh Kỳ bốn chiếc ghe chài, ba chiếc chở đồ đạc, đào kép và công nhân, một chiếc dành riêng cho đào chánh kiêm chủ bầu Phùng Há với đầy đủ tiện nghi như một tòa lâu đài di động. Có tiền bạc, có phương tiện, Cô Bảy Phùng Há chiêu mộ những đào kép nổi danh, Huỳnh Kỳ thống lĩnh nghệ thuật sân khấu cải lương khắp Nam kỳ lục tỉnh. Nhưng chỉ được bảy năm, Bạch Công Tử sa vào con đường ăn chơi sa đọa, bao nhiêu tiền của ông ném vào sòng bạc, tiệm hút, gái tơ. Huỳnh Kỳ suy sụp, đào kép lần lượt bỏ đi, Cô Bảy ôm hai đứa con đau ốm cùng với bốn chiếc ghe chài nằm chơi vơi dưới chợ cầu Ông Lãnh. Trong cảnh khốn cùng, một người quen giúp cô ẳm con đi tìm chồng thì gặp Bạch Công Tử đang vui sống với một cô gái khác, một giai nhân nổi tiếng tên là Marie Anne Nhị ở khách sạn Minh Tân. Ông không quan tâm đến con mà lại trách mắng cô thiếu lịch sự, làm như thế là mất mặt ông với bạn gái của mình. Cô nuốt nước mắt ra về. Rồi cả hai đứa con lần lượt chết trên tay Cô trong cảnh không tiền chạy chữa, Cô đành phải chia tay với Bạch Công Tử để làm lại cuộc đời. * Người chồng thứ ba của Cô Bảy Phùng Há là kiến trúc sư Hoàng Phi (Tên thật của ông này là Nguyễn Bửu), con trai một quan huyện ở Gò Công, cũng là bạn thân với Bạch Công Tử. (3) Sau năm 1945, Bạch Công Tử vừa bị phá sản, vừa nghiện ngập, vừa lâm bệnh ngặt nghèo không tiền chạy chữa. Nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ, Cô Bảy xin phép chồng đem ông về nuôi dưỡng trong nhà tại số 3 đường Ngô Tùng Châu, Sài Gòn... Năm 1950, Bạch Công Tử qua đời trong cảnh không có đất để chôn. Cô Bảy lại xin phép chồng đưa ông về an nghỉ trên đất nhà chồng ở Gò Công, và nhờ người con riêng của chồng trông coi mộ. Hỏi vì sao cô chia tay với ông Hoàng Phi, cô không nói. Cô chỉ nói đó là một người trí thức và tử tế. Với nghệ sĩ Năm Châu, Cô Bảy cho rằng đó là một chuyện tình buồn và đẹp, cứ chập chờn, chập chờn như con đò lỡ chuyến suốt sáu mươi năm. Năm 1953, ngẫu nhiên Cô và Năm Châu đầu quân trở lại gánh Trần Đắc. Vở Mộc Quế Anh đã đưa ngôi vị của Phùng Há - Năm Châu thành đôi bạn diễn ăn ý số một của sân khấu cải lương. Cô cảm nhận đó là tình yêu, cả hai đã trút cạn tình yêu cho nhau qua vai diễn, những điều khát khao mà chưa bao giờ được nói với nhau. Nhưng khi bước ra phía sau bức màn nhung thì cô cảm nhận được ánh mắt chừng như mất vui, chừng như có chút hờn ghen của nghệ sĩ Kim Cúc, bạn Cô, cũng là vợ của nghệ sĩ Năm Châu. Biết lửa gần rơm rồi sẽ cháy. Cô rời gánh Trần Đắc, lặng lẽ ra đi để bảo vệ hạnh phúc của bạn mình. Cô hiểu tình yêu của nghệ sĩ Năm Châu đối với cô càng ngày càng sâu nặng. Ông viết những vở tuồng Nợ Dâu, Men Rượu Hương Tình, Sân Khấu Về Khuya như để gởi gắm, để giải bày, như để hờn trách sự lạnh lùng, bạc bẽo của Cô. Ngày nghệ sĩ Năm Châu hấp hối, Cô chạy như điên, lê lết trên từng bậc cầu thang trong bệnh viện. Bất chấp sự có mặt của mọi người, Cô ôm chầm lấy ông, Cô gào thét: “Khoan, anh khoan hãy đi, anh hãy nghe em nói rồi mới yên lòng ra đi, em biết anh hận em, nhưng em không phải là kẻ vô tình, em làm như vậy là em hy sinh vì hạnh phúc của gia đình anh, vì vợ con anh. Anh biết không, tới giờ phút nầy em vẫn yêu anh...” Chồng, con, và cả những người tình cũng lần lượt đi về bên kia thế giới. Theo thuyết giáo của nhà Phật, khi ta sống, cái gì ta cho thì cái đó chính là tài sản, ở lại với ta. Phải chăng, những thứ quý giá mà cô đã cho, đó chính là những vai diễn, những môn sinh mà Cô đã nhọc công đào tạo để làm nên một thế hệ cải lương vàng son, vang bóng một thời. Một ngôi chùa nghệ sĩ, một nghĩa trang nghệ sĩ với bốn trăm ngôi mộ và gần bốn trăm bộ hài cốt, Cô như người tự nguyện đi trước về sau, níu kéo thời gian đến tuổi 99 nầy để làm điều đó, làm cho trọn tình trọn nghĩa với thế hệ mình và cả thế hệ cháu con. Phải, tất cả những gì mà Cô đã cho, tất cả đã và đang ở lại với Cô, bây giờ và mãi mãi. Võ Đắc Danh
Chú thích của người chuyển bài: (3) Tên thật của ông này là Nguyễn Bửu, là thân sinh của Đại tướng Nguyễn Khánh, người từng có giai đoạn giữ cương vị Thủ tướng VNCH. Nghệ sĩ Phùng Há là mẹ kế của Đại tướng Nguyễn Khánh. Bà đối xử với 2 người con riêng của chồng, Nguyễn Long và Nguyễn Khánh rất tốt nên được các ông này kính trọng, thương mến. Khi ông Đại tướng Khánh làm thủ tướng, ông mời dì Phùng Há từ Pháp về nước, ý muốn có cơ hội phụng dưỡng. Trong một đêm Đại tướng Nguyễn Khánh đến thăm nghệ sĩ Phùng Há, bà đã dạy: “Con nên ăn ở cho có đức, phải coi trọng dân vì lòng dân là ý trời, đừng tham quyền cố vị mà đi ngược lòng dân”. Nghe xong câu nói đó,Đại tướng Nguyễn Khánh đã xé bỏ Hiến chương Vũng Tàu”! Còn ông Nguyễn Long, anh ruột ông Đại tướng Khánh, theo Cộng Sản từ hồi Thanh Niên Tiền Phong, tập kết ra bắc 1954. Không biết thân phận của ông này ra sao, không thấy ai nhắc đến nữa.. (2) Khoảng năm 1974, tôi có đến thăm căn nhà cũ của Bạch Công Tử ở đường Đinh Bộ Lĩnh, phường 3, TP. Mỹ Tho. Căn nhà này hiện nay vẫn còn, được xếp hạng Di Tích lịch sử. Bạn nào có dịp ghé ngang Mỹ Tho cũng nên ghé thăm,
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 29, 2022 1:54:18 GMT 9
TỪ CÔNG PHỤNG VÀO TUỔI 80: NGHE LẠI TÌNH KHÚC ƠN EM Ngày 27 Tháng Bảy là sinh nhật của nhạc sĩ Từ Công Phụng, ghi dấu ông vào tuổi 80. Người nhạc sĩ theo đuổi những lời mặc khải về tình yêu, ngợi ca những gì đã có và độ lượng với những điều đã mất, vẫn giữ trọn vẹn cho mình dòng giai điệu sang trọng và thảnh thơi giữa kiếp người vội vã. Nhạc sĩ Từ Công Phụng là một trong những trường hợp đặc biệt của những trí thức người Chăm thành đạt và công nhận trong một chế độ tự do VNCH chuộng người tài. Ông nổi lên trên lĩnh vực nghệ thuật bên cạnh các trí thức, công chức Chăm khác – như nhà nghiên cứu văn hóa sắc tộc Dohamide, tiến sĩ sử học Po Dharma, Trung Tá Dương Tấn Sở – Quận trưởng Quận An Phước (nay là huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận), Lưu Quang Sang – dân biểu nghị viện Sài Gòn… Cần phải nói thêm là từ khi Vương quốc Champa bị mất nước (1832), Vua Thiệu Trị đã tạo quy ước mới là cho lập quy chế đặc biệt cho dân tộc Chăm ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận. Và quy chế đặc biệt này tồn tại trong suốt thời kỳ Thiệu Trị, Tự Đức, Khải Định, Bảo Đại và cho đến thời Việt Nam Cộng Hòa. Quy chế này cho phép cộng đồng người Chăm được quyền gìn giữ và bảo vệ văn hóa, tập tục tín ngưỡng, đồng thời phát triển trí thức của cộng đồng mình mà không có bất kỳ một sự kỳ thị hay kềm hãm nào. Quy chế này chỉ bị hủy bỏ từ sau tháng Tư năm 1975. Trong âm nhạc, Từ Công Phụng là một trong những nhạc sĩ rất đặc biệt, bởi viết bất kỳ ca khúc nào ra, ông cũng thích mình là người trình bày nó, rồi đến sau đó, ai yêu thích và đề nghị xin được hát thì ông mới gửi đi. Cũng chính vì vậy, Từ Công Phụng là nhạc sĩ sáng tác nhưng lại được mời lưu diễn rất nhiều để trình bày những ca khúc của mình như một ca sĩ chính, bên cạnh các ca sĩ khác, dù nổi tiếng nhưng vẫn là phụ họa cho ông. Nói về bản thân, một thanh niên Chăm lớn lên trên vùng đất bàng bạc nắng và gió, cuộc sống tĩnh lặng với thi thoảng tiếng lục lạc của con dê đầu đàn vang lên, cùng tiếng kèn Saranai văng vẳng, Từ Công Phụng đi học, làm việc và thành đạt ở Sài Gòn, nhưng trong ông, nỗi nhớ da diết về miền quê vẫn vô cùng. “Bạn hỏi tôi có nhớ mảnh đất cằn cỗi đầy nắng và gió cát ấy không. Vâng, đây là mảnh đất đã để lại trong ký ức tôi đầy ắp một khung trời hanh nắng trên những cánh đồng mùa Đông trơ những gốc rạ, mà tuổi thơ tôi đã rong chơi với những cánh diều lộng gió, đầy ắp những bãi cát trắng ngần bên bờ biển xanh và khung trời trong vắt không gợn một áng mây. Đây là miền đất đã chuyên chở một dòng tuổi thơ tôi cho đến lúc tôi rời khỏi mái trường trung học để phiêu lưu ở miền đất khác trong các trường đại học và từ đó bắt nhận được những rung động nồng nàn của tình yêu trong tuổi thanh xuân”, Từ Công Phụng viết. Toàn bộ các tác phẩm sáng tác của nhạc sĩ Từ Công Phụng hợp lại như một tổ khúc thính phòng khổng lồ của đời ông: Tất cả xây dựng chung quanh chủ đề tình yêu, nỗi buồn, sự mất mát và suy tư…, còn âm nhạc như mũi kim thêu lặng lẽ, luồn vào các con chữ và tạo nên những hình dáng âm điệu – phóng khoáng và tự do đến mức mỗi bài hát như một khúc tụng ca riêng lẻ, không cùng kết nối được nghe thấy từ một thánh đường không nơi chốn. Cũng có lẽ vì vậy mà các tác phẩm của nhạc sĩ Từ Công Phụng nổi tiếng hơn cái tên của ông. Tên bài hát thì người ta sẽ nhớ, và thậm chí là thuộc cả bài. Nhưng đôi khi phải nói ra thì công chúng mới biết đó là một tác phẩm của Từ Công Phụng. 10 năm sau khi tỵ nạn ở Mỹ, nhạc sĩ Từ Công Phụng có kể một kỷ niệm thú vị. Năm 1990 ông được mời lưu diễn ở Montreal, Canada. Để quảng bá chương trình, nhà văn Song Thao đã thử đi một vòng để làm cuộc thăm dò về cái tên Từ Công Phụng. Có đến 10 người tuổi cũng trạc thế hệ của nhạc sĩ, được hỏi là là “Có biết Từ Công Phụng là ai không?” Có chín người lắc đầu là không biết. Nhưng khi hỏi có biết bài Bây Giờ Tháng Mấy không thì 10 người cùng gật gù và tán thưởng “Đây là một bài hát hay, để lại nhiều kỷ niệm trong đời tôi.” Nhà văn Song Thao từng lý giải dí dỏm với Từ Công Phụng: “Anh là một người có phúc vì anh sinh ra một đứa con mà quần chúng biết đến con anh nhiều hơn anh. Con hơn cha là nhà có phúc!”. Bản tính của Nghệ sĩ Từ Công Phụng là người trầm lắng, và cũng không hay tự nói về mình. Sau năm 1975, ông nhận thấy cuộc đời bước sang một bước chuyển mới, hoàn toàn khác với những gì mà nửa đời trước của ông đã đi qua. Do đó, ông cũng cố gắng tìm kiếm cách để hội nhập với một xã hội cộng sản – tên gọi và ý thức văn hóa hoàn toàn xa lạ với ông – như một cách thử xem ông có thể tồn tại với nó được không. Ông cũng tìm đến những người bạn sáng tác vào thời điểm đó, hy vọng tìm thấy một nhịp đập mới sau chiến tranh. Thế rồi ông nhận ra một Từ Công Phụng đã được tạo ra chỉ để sống với tự do, chứ không thể sống với tuyên truyền và kiểm duyệt. Nói với bạn bè, nhạc sĩ Từ Công Phụng từng tâm tình “Mỗi buổi sáng thức dậy kiếm được một ít cà phê pha cho mình và suy nghĩ về cuộc đời…, tôi luôn nghĩ đầu tiên là ngày hôm nay tôi có thể làm thế nào kiếm được một ít tiền để cơm nước cho con cái thôi, không có mơ ước gì hơn”. Năm 1980, ông quyết định vượt biển và đến được Mỹ. Một trong những bài hát, mà khi được hát lên, người ta biết ngay đó là một tuyệt phẩm của Từ Công Phụng, là ca khúc Giữ đời Cho Nhau, cũng được biết với cái tên Ơn em, phổ thơ của Du Tử Lê. Bài hát có lời cô đọng và dễ nhớ – đặc biệt là ca khúc hiếm hoi viết có âm điệu ngũ âm, đủ các luyến láy tinh tế để các giọng ca chọn sự thể hiện riêng. Riêng về ca khúc này, Từ Công Phụng nói đó là sáng tác ông nhiệm ý thơ và viết nhanh bất ngờ trong vòng chưa đến một tiếng đồng hồ. Một kỷ lục của đời ông. Với Ơn em, ông cũng ưng ý nhất sự trình bày của ca sĩ Tuấn Ngọc. Với bài thơ Ơn em của Du Tử Lê, Từ Công Phụng nói ông bị xúc động tức thì khi đọc qua tứ thơ chỉ có 10 câu này. Nhiều khán giả khi nghe bài hát thì chỉ thấy lời ca ngợi tình yêu, tụng ca tình nhân, nhưng ít ai biết là Từ Công Phụng xúc động với những âm hưởng như gợi lại lời ru của thân mẫu lúc ông còn thơ ấu. Vì bài thơ ngắn nên thiếu trường canh cần thiết cho một bản nhạc, vì vậy Từ Công Phụng đã thêm vào hai câu cho đủ, đó là: Ơn em tình những mù lòa, như con sâu nhỏ bỏ qua rất mùi. Hai câu hát đẹp và phù hợp với trọn bài thơ. Nhạc sĩ Từ Công Phụng kể lại sau khi phổ xong, ông mang tặng Du Tử Lê như một kỷ niệm (lúc đó vẫn mang tên Giữ đời cho nhau). Bài hát làm thi sĩ Du Tử Lê hài lòng đến mức đã dùng để đặt tên cho bộ video do trung tâm Diễm Xưa thực hiện riêng cho ông, phát hành tháng Tư năm 2000. Âm nhạc và cuộc đời của Từ Công Phụng là mất mát, kể cả trong những mối tình, cho đến lúc ông ra đi và để lại hình ảnh quê nhà thương nhớ bao la nắng gió. Nhưng lịch sử sáng tác của Từ Công Phụng không oán thán cho số phận. Như người hát rong truyền đời đi qua sa mạc của hàng ngàn năm trước, ông vẫn miệt mài cất lời tụng ca tình yêu như một di chỉ thầm lặng về cuộc đời Việt – dù ở nơi đâu – cũng cần phải cần phải nhớ giữ lấy di sản cuối cùng, là tình yêu.
Nhạc sĩ Tuấn Khanh .
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 30, 2022 3:10:04 GMT 9
Chương trình “ Lính hát Lính nghe “
Mấy lúc gần đây , trên mạng xã hội ( facebook) đã có vài bài viết nhắc lại các câu chuyện về Văn nghệ - truớc 1975 như các sinh hoạt của các phòng trà ,của các đài phát thanh Sàigòn và Quân đội v.v Nhận thấy đề tài Văn nghệ rất được nhiều người theo dõi , cho nên hôm nay , tôi xin viết lại một chương trình Văn nghệ trên đài phát thanh Quân Đội rất ăn khách và được nhiều người Lính khắp 4 vùng chiến thuật ưa thích đó là chương trình “Lính hát lính nghe “ hay còn được gọi là chương trình “ Quân nhân vui sống “ do nữ ca sĩ Tâm Đan phụ trách . Nữ ca sĩ Tâm Đan đã xuất hiện trong làng Tân nhạc VN từ đầu thập niên 60 cùng thời với cố danh ca Tâm Vấn ,Yến Vĩ, Thùy Hương , Tuyết Mai , Thùy Nhiên , Tuyết Nhung, Thanh Thúy , Lệ Thanh ,Thái Thanh v.v tức là lớp ca sĩ đàn chị của các nữ ca sĩ Phương Dung , Thanh Tuyền , Phương hồng Quế , Mai Hương v.v… Sở trường của nữ ca sĩ Tâm Đan trình bầy tại các Khiêu vũ trường và phòng trà là loại nhạc Tiền Chiến - như Chiến sĩ của lòng em ,Tình nghệ sĩ , Thu Vàng , Chuyển Bến v.v.. ……… Hằng đêm chị thường xuyên hát tại các phòng trà và vũ trường “Bồng Lai , Hoà Bình , Quốc Tế , Macabane cuối cùng là Mỹ Phụng . Giữa năm 1964 , sau khi chương trình Binh vận “Dạ Lan “ thành công , ông Quản đốc của đài phát thanh Quân đội đã mời nữ ca sĩ Tâm Đan (bạn thân của ông quản đốc nhà văn Kỳ văn Nguyên ) cộng tác với Đài qua chương trình “Lính hát lính nghe “ ( Quân nhân tài tử ) tức là dành toàn bộ chương trình ca nhạc để cho các quân nhân khắp bốn vùng chiến thuật có thể Tự Hát cùng với ban nhạc sống của Đài Phát Thanh Quân đội gồm có cố nhạc sĩ Canh Thân , cố nhạc sĩ Đào Duy ,cố nhạc sĩ Trần Trịnh , nhạc sĩ Văn Đức , Lê Đô , Văn Ích (trống ) cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh v.v . Chương trình “Lính hát lính nghe” được thu thanh hàng tuần vào mỗi sáng thứ năm tại phòng A của đài Quân đội lúc 10 giờ sáng , nhưng mới 9 giờ sáng trong phòng đã chật cứng những quân nhân khắp nơi tụ tập để ghi tên và chọn lựa bài hát . Mỗi lần chương trình bắt đầu thu thanh , nữ ca sĩ Tâm Đan người điều khiển chương trình đã hát tặng mọi người trong phòng thu 1 bản nhạc về Lính theo yêu cầu của những người có mặt trong phòng thu , tiếp theo là phần hát của các quân nhân đã ghi danh từ đầu theo thứ tự , chương trình thu thanh khoảng một tiếng đồng hồ , các quân nhân tham dự hát rất tự nhiên không gò bó ,nên không khí trong phòng Thu rất là vui nhộn ,xen lẫn tiếng vỗ tay khi một quân nhân hát xong 1 bài . Để tăng cường cho chương trình hấp dẫn mới lạ -nữ ca sĩ Tâm Đan thỉnh thoảng đã mời một vài nam nữ ca sĩ có tiếng tham gia chương trình như nữ ca sĩ Phương Dung , Thanh Tuyền , Như Thủy , nam ca sĩ Elvis Phương, Nhật Trường , Phượng Bằng v.v…. Cũng nhờ có chương trình Lính hát lính nghe mà làng văn nghệ có thêm tay đánh trống rất hay Mạnh Tuấn , anh là con trai của nhạc sĩ Văn Ích( trống ) lúc đó hãy còn nhỏ , được bố dẫn vào Đài để tập dợt đánh trống cho chương trình “Lính hát lính nghe ) Ngoài chương trình ca nhạc “ Lính hát Lính nghe” ( Quân nhân tài tử ) , nữ ca sĩ Tâm Đan còn phụ trách chương trình “Hội những Người Bạn của Thương bệnh binh “đi thăm các chiến sĩ đang nằm điều trị tại Tổng Y viện Cộng Hoà vào dịp cuối tuần - Ngày thứ bẩy cuối tuần , 2 chiếc GMC đã đến các trường nữ Trung học Gia Long Hay Trưng Vương hay Lê văn Duyệt để đón các nữ sinh đi uỷ lạo .Trong những lần thăm viếng ủy lạo các chiến sĩ đang nằm điều trị bệnh tại đây , các nữ sinh đôi khi cũng trình diễn chương trình văn nghệ bỏ túi để hát tặng các chiến sĩ .Nhân dịp cuối năm , các nữ sinh còn tặng quà bằng các khăn mù xoa có thêu rất đẹp . Ngoài chương trình Lính hát lính nghe , đài phát thanh Quân đội còn có các tiết mục rất hay như “ Binh Méo Cai Tròn “ với 2 cố nghệ sĩ Phi Thoàn & Khả Năng , chương trình Gia Binh dành cho các bà vợ của các chiến sĩ Quân lực VNCH với Ngọc Dung , chương trình Bình Định và xây dựng Nông Thôn với Mai Trang , chương trình “Tình yêu và Tổ quốc để Chiệu Hồi VC với Mai Hương & Thu Hoài , Chương trình Mai Lan nói bằng Anh Ngữ để vận động Binh sĩ Đồng Minh do Ngọc Hoán & Mai Lan phụ trách Nữ ca sĩ Tâm Đan , trước khi phụ trách chương trình “Lính hát lính nghe “ ,chị là một nữ tài tử Ciné góp mặt trong các chuyện phim bằng hình đăng trên các tuần báo do c đạo dễn Lê Hoàng Hoa thực hiện , ngoài ra chị cũng góp mặt trong 7 phim nói về 7 điều giáo lệnh của Quân đội Việt nam Cộng Hoà . Sau biến cố 75 , nữ ca sĩ Tâm Đan còn kẹt lại Quê Nhà , mãi đến năm 1979 , chị mới đi vượt biên cùng 2 người con , để rồi định cư ở Nam Cali năm 1980 , chị không tiếp tục đi hát , mà đi học về nghề Thẩm Mỹ rồi mở trường Thẩm Mỹ hầu đào tạo một số mầm non tương lai , phục vụ Cộng đồng Người Việt .Sau vài năm chị nghỉ hưu , nữ ca sĩ Tâm Đan quay ra nghề chụp hình Nghệ Thuật cùng với một số bạn bè thân quen . Có thể nói chương trình “Lính hát lính nghe “ là tiền thân của chương trình “ Hát cho nhau nghe “ bây giờ lan tràn khắp nơi , nhất ở Sydney & Melbourne vào dịp cuối tuần ở các Club Nguyễn Toàn / Sydney
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 7, 2022 20:37:40 GMT 9
MẶT KHUẤT TẤM HUY CHƯƠNG CHOPIN CỦA "NGHỆ SĨ NHÂN DÂN" ĐẶNG THÁI SƠN Giống như nhà toán học Ngô Bảo Châu, người Việt thành danh thường được chăm bón, vun trồng, phát triển tài năng tận đẩu tận đâu bên ngoại quốc rồi khi có thành quả lại về “báo công lên Bác" cho nhà nước tự sướng, thở ra không khí đầy những lời hào sảng; đưa tất cả lên đỉnh vinh quang, tưởng chừng như thế gian chỉ còn có người Việt; người Việt sẽ làm cho Thế giới thăng hoa rực rỡ. Nhưng sau những buổi lễ ầm ĩ, tiệc tùng hoành tráng, báo đài bơm thổi lên tận mây xanh, nền âm nhạc, toán học, khoa học ở Việt Nam thì vũ như cẩn; vẫn những nốt lặng trầm dai dẳng, vẫn những dấu trừ đều tăm tắp lan về chân trời. Đây, mời các bạn xem một ví dụ điển hình về quá trình "trồng người", "ươm mầm tài năng", rồi "gặt hái" của Việt Nam kiểu trên. Câu chuyện bắt đầu vào năm 1956 tại Bắc Việt. Nhiều văn nhân, nghệ sĩ khi ấy đã nhiệt thành tham gia một phong trào văn học có tên là "Trăm hoa đua nở", vốn là chữ dịch từ “Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng”, thời kỳ học đòi “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” của Mao Xú Uế bên Tàu. Rất đông văn nghệ sĩ đã tham gia phong trào này. Nổi tiếng nhất có các ông Phan Khôi - Chủ nhiệm tạp chí Nhân Văn, Trần Duy - Thư ký tòa soạn, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán, Văn Cao, Nguyễn Tuân, bà Thụy An. Có nhiều nhà trí thức, không phải văn nghệ sĩ, như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu cũng tham gia phong trào này. Mọi người biết đến nó dưới cái tên nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”. Trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm có một nhà thơ tên là Đặng Đình Hưng. Ông chính thức làm thơ từ cuối những năm 1950 cho đến khi qua đời. Hoạt động nghệ thuật của Đặng Đình Hưng về chữ nghĩa gồm 6 tập thơ, với những vần thơ khó hiểu, rất khác người. Ông còn đuợc biết đến như một kiến trúc sư, nhạc sĩ, họa sĩ. Năm 1957, Đặng Đình Hưng lấy bà Thái thị Liên, một nhạc sĩ dương cầm (piano) nổi tiếng đương thời. Bà Thái thị Liên trước đó đã có hai đời chồng - khi bà ở hải ngoại (Pháp, Tiệp Khắc) và có ba người con. Năm 1958, vợ chồng họ Đặng và họ Thái sinh được một cậu con trai, đặt tên là Đặng Thái Sơn.. Niềm vui gia đình, con cái chẳng được bao lâu thì họa ập đến. Với một ông chồng là một nhân vật trong vụ án "Nhân Văn Giai Phẩm", bị coi là một tay phản động chống Đảng, bà Thái Thị Liên bị sức ép, phải ly dị với ông Đặng Đình Hưng. Và rồi bà Liên cùng với 3 người con riêng-chung, trong đó có cậu Đặng Thái Sơn phải ra ở riêng; bà đi dạy nhạc kiếm sống, chấp nhận, chịu đựng một cuộc đời cực nhọc vất vả. Cũng từ đó, kể cả nhiều năm tháng đi sơ tán ở các vùng quê xa Hà Nội, Đặng Thái Sơn học âm nhạc, học chơi dương cầm với mẹ. Cuộc đời khốn khó, nhưng bà Liên là một nhà sư phạm nghiêm khắc, khó tính và ít khi đưa ra lời khen, thậm chí Đặng Thái Sơn còn bị “đối xử” khắt khe nữa. Năm 1974, một chuyện bất ngờ đã xẩy ra làm cho cuộc đời của Đặng Thái Sơn bước sang một khúc ngoặt: một vị giáo sư âm nhạc người Nga, gốc Do Thái tên là Isaac Katz, sang dạy cho Trường Âm nhạc Hà Nội, đã tình cờ phát hiện ra Đặng Thái Sơn. Một buổi chiều nọ, ông Katz đang tản bộ trên con đường gần nhà bà Thái Thị Liên thì nghe thấy tiếng đàn dương cầm rất hay, rất đáng chú ý. Lần hồi ông Katz đã tìm được đến nhà bà Thái Thị Liên và gặp cậu con trai Đặng Thái Sơn, một học sinh Trường Âm nhạc Hà Nội, năm nào cũng đứng đầu lớp. Sau vài lần chứng nghiệm khả năng của người học sinh này, giáo sư Isaac Katz chính thức yêu cầu Trường Âm nhạc Hà Nội cho ông được đích thân truyền dạy cho người học sinh xuất sắc đó, dù trên nguyên tắc ông Issac Katz chỉ dạy những sinh viên năm cuối trước khi thi tốt nghiệp, và Đặng Thái Sơn, phải một năm sau mới hội đủ điều kiện này. Năm 1975 giáo sư Isaac Katz về nước. Trước khi về ông đã đề nghị cho Đặng Thái Sơn được theo học dương cầm tại Liên Xô. Lời đề nghị này không được phía Việt Nam chấp thuận vì chính quyền thấy Sơn là con của một người dính vào "Nhân văn Giai phẩm", bị coi là một loại phản động nguy hiểm cho nhà nước. Lời đề nghị không có phản hồi; giáo sư Isaac Katz đã phải yêu cầu lần thứ hai, kèm theo lời đề nghị này là thái độ khó khăn của ông với những du học sinh con ông cháu cha, thiếu khả năng thật sự. Ông phải tạo một sức ép đủ mạnh để Hà Nội nhượng bộ, để người học trò ông chọn phải được dạy dỗ đến nơi đến chốn. Thế là năm 1976, Đặng Thái Sơn được phép đi học âm nhạc tại Liên Xô. Anh tạo thành tích ngay lập tức là thi đậu vào Học viện Âm nhạc Tchaikovsky. Trước anh chưa có một người nào vào được học viện này mà không qua một năm dự bị. Năm đó anh mới 18 tuổi. Khi vào học tại Học viện Âm nhạc Tchaikovsky, Đặng Thái Sơn gặp một vị danh sư khác. Đó là giáo sư Natanson. Nếu như Isaac Katz là người khám phá ra tiếng đàn Đặng Thái Sơn, tìm mọi cách mang anh về Liên Xô để có thể tìm đúng thầy, thì Natanson chính là người này, một thầy dạy tận tâm và rất giỏi. Sơn được cấp học bổng 60 rúp một tháng. Số tiền này chẳng nhiều nhặn gì, nếu tính theo tỷ giá hối đoái thời đó thì chỉ tương đương với khoảng 20 USD. Sơn có hai người bạn thân trong thời gian này, cả ba góp gạo thổi cơm chung, dè sẻn từng đồng mới có thể tạm đủ ăn và thỉnh thoảng vẫn phải đi làm thêm để kiếm tiền chi dụng hàng ngày. Năm 1980, Sơn tốt nghiệp Học viện Âm nhạc Tchaikovsky hạng tối ưu. Tòa Đại sứ Việt Nam tại Moscow chắc được chỉ thị của Hà Nội nên đã coi như không biết, không để tâm đến thành tích của người đồng hương này mà còn có ý muốn gây khó khăn cho Sơn chỉ vì anh có lý lịch xấu - bố anh thuộc “thành phần phản động Nhân Văn Giai Phẩm”! Tốt nghiệp song phải làm gì? Giáo sư Natanson thúc đẩy anh nộp đơn và hoàn tất thủ tục xin dự thi cuộc thi nhân kỷ niệm Chopin hàng năm tại Ba Lan. Đặng Thái Sơn bèn làm đơn xin với tòa Đại sứ Việt Nam được giới thiệu là một ứng viên Việt Nam đi thi Chopin và xin cấp ít tiền lộ phí vì đường từ Moskva đến Warszawa, thủ đô Ba Lan quá xa, mà anh làm gì có tiền. Đơn của Sơn bị bác. Khi ấy Liên Xô cũng chuẩn bị cử một số nhạc sĩ đi Warszawa. Họ tổ chức một kỳ thi tuyển lựa cả trăm người để tìm ra mươi người đại diện cho Liên Xô. Những người này sẽ được chính phủ Liên Xô giúp đỡ. Đặng Thái Sơn cũng thi “ké” vào đó. Anh được chấm điểm cao nhất, nhưng anh không thể ở trong danh sách đại diện Liên Xô để đi thi được. Anh phải dự thi với tư cách thí sinh tự do, vô tổ quốc và không được chính quyền Liên Xô giúp đỡ. Không những thế ban tổ chức kỳ thi ở Ba Lan lúc đầu đã định bác đơn xin dự thi của Đặng Thái Sơn, vì đơn dự thi của anh không một lời giới thiệu, chẳng biết anh là ai; nhưng rồi họ cũng thông qua, vì Sơn là người Việt Nam đầu tiên xin dự thi từ trước đến giờ. Vả lại anh có sau lưng cả một Học viện Âm nhạc Tchaikovsky làm chứng cho khả năng của mình, một khả năng hạng tối ưu khi ra trường. Giáo sư Natanson thấy vậy lại phải ra tay giúp đỡ vì ông biết người trò cưng đầy tiềm năng của ông rất có hy vọng thắng giải. Ông phải bỏ tiền ra cho Đặng Thái Sơn mua vé xe lửa đi Warszawa, thuê nhà trọ, thuê cả dàn nhạc đệm cho anh chơi đàn - một số tiền không nhỏ. Không có tiền mua vé máy bay, và chỉ đủ tiền mua vé xe lửa hạng nhì, Sơn không có một người thân nào ra tiễn tại sân ga Moscow, cũng chẳng có một người bạn nào đến đón khi tới Warszawa. Hành lý của anh thật nhẹ, vài bộ quần áo tạm lành lặn. Anh không có cả một bộ đuôi tôm nghi thức để lúc hữu sự dùng đến! Buồn quá, Sơn đã phải dốc bầu tâm sự với ông bố Đặng Đình Hưng. Trong thư gửi cho cha mình, Đặng Thái Sơn viết: “Con bị ốm nặng bố ạ, có lẽ vì hành trình đi Vác-sa-va quá dài mà con đi bằng xe lửa. Sứ quán bác đơn xin tiền lộ phí của con để đi thi, họ cũng khước từ bảo hộ cho danh xưng của con trong cuộc thi. Nhưng con quyết định liều và giáo sư Na-tan-xon một lần nữa lại giúp con, ông ấy cho con tiền đi đường, tiền thuê dàn nhạc đệm và tiền trọ… Trong cơn sốt 39.5 độ, con đã chảy nước mắt ròng: Các nước tham dự cuộc thi đều được chào cờ và cử quốc ca của mình, mà Việt Nam thì không có - Con tham dự với tư cách thí sinh tự do… Nhưng cũng nhờ sự cay đắng đó mà con gặp được Chopin - Những nỗi đau giao thoa với nhau đã bật lên tiếng đàn của hồn ông…”. Và hình như thế, Sơn đã được Chopin chọn, anh qua được vòng loại một cách dễ dàng, loại hầu hết 149 đối thủ thuộc 37 quốc gia trên toàn thế giới, rồi tiến lên vào vòng chung kết. Để thi vòng chung kết Sơn bị kẹt một điều là thí sinh phải mặc áo đuôi tôm. Anh có hai ngày chuẩn bị cho buổi chung kết; nhưng làm sao có áo đuôi tôm bây giờ? Người gỡ rối cho anh lại là giáo sư Natanson. Ông thầy phải lôi anh đến một cửa tiệm, sắm cho anh một bộ, nhưng tìm cả nửa ngày không có một chiếc nào vừa với thân thể nhỏ thó của anh. Thế là đành phải may gấp một chiếc, lấy trong vòng 24 giờ. Anh bước vào phòng thi với cái áo mới tinh còn chưa được nhặt sạch chỉ thừa! Kết quả: anh đã thắng giải đầu là giải quan trọng nhất; anh còn đoạt thêm 11 giải phụ nữa, trong đó có một giải của hãng truyền hình NHK Nhật Bản. Chính hãng NHK sau này đã mở cho anh một con đường thoát hẳn ra khỏi nước Việt ! Tin Đặng Thái Sơn đoạt giải Chopin ở Ba Lan như một làn sóng chấn động giới âm nhạc cổ điển thế giới. Khi tin này về tới Việt Nam, báo Nhân Dân của nhà nước Việt Nam - những người đã từng không muốn anh ra khỏi nước, không muốn anh học dương cầm tại Liên Xô, lại còn tìm cách cản trở anh đi Warszawa tham dự kì thi Chopin - đã đăng tin này lên trang Nhất trong 3 ngày liền! Lời ca tụng thì quá lố đến nỗi cả tháng sau, khi về nước thăm ông cụ thân sinh Đặng Đình Hưng, anh ngượng ngùng khi đọc được những dòng chữ này. Về cuộc sống sau “Nhân văn Giai phẩm” của nhà thơ Đặng Đình Hưng, ông bị ung thư phổi. Khi Đặng Thái Sơn tham dự cuộc thi âm nhạc năm 1980 tại Ba Lan, ông Đặng Đình Hưng đang phải sống trong cảnh ở nhờ gầm cầu thang nhà bạn, không nhà cửa, không vợ con thân thích, chỉ nằm chờ chết. Đặng Thái Sơn về nước kịp thời. Cha anh bị bệnh đã khá lâu và không được điều trị một cách đúng mức. Cha anh cần phải mổ ngay, một cái bướu trong phổi. Anh về nhà hôm trước, vài ngày sau cha anh nhập viện, một bệnh viện vốn chỉ dành cho các cán bộ cấp cao cỡ thứ trưởng trở lên. Cha anh được bác sĩ Tôn Thất Tùng, người bác sĩ số một của y khoa Hà Nội lúc đó khám bệnh và được giải phẫu bởi một bác sĩ lừng danh về phẫu thuật. Nhờ vậy mà bố anh sống thêm được mười năm nữa. Năm tháng qua đi. “Sau Chopin”, cuộc đời Đặng Thái Sơn chỉ ở Nhật và lưu diễn khắp thế giới rồi sau cùng định cư hẳn ở Canada. Nhưng, anh vẫn được nhà nước CHXHCN Việt Nam “lôi” về gắn lên ve áo cái danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân Dân" mà khối kẻ trong làng showbiz Việt ao ước - cho dù phần lớn nhân dân Việt Nam hôm nay chẳng biết Sơn là ai, và cũng chẳng bao giờ nghe chứ đừng nói là hiểu nổi thứ âm nhạc "bác học" của anh. Nhưng có hề gì vì chính người nhạc sĩ tài năng của chúng ta nào có để tâm đến cái danh hiệu NSND nhiều điều tiếng mà lắm người phải làm đơn chạy chọt, lạy lục xin xỏ. Bằng chứng là, ngay sau đó ông đã cùng với người mẹ, bà Thái Thị Liên, "bỏ nước mà đi", đi hẳn, chọn định cư tại Montreal, nhập quốc tịch Canada, sống phần đời còn lại lặng lẽ, như muốn quên đi quá khứ kinh hoàng "Nhân Văn Giai Phẩm". ***** (t/g bài gốc: Sơn Nguyễn, Tèo Ngu Khìn hiệu chỉnh, bổ sung, viết lại một số chỗ).
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 11, 2022 0:59:38 GMT 9
Nguyễn Ngọc Ngạn qua 40 năm sáng tác, 30 năm làm MC2 tháng 8 2022 Bùi Văn Phú Gửi đến BBC News Tiếng Việt từ California, Hoa Kỳ Nguyễn Ngọc Ngạn là một hiện tượng trong sinh hoạt văn học nghệ thuật của cộng đồng người Việt hải ngoại. Ông là một nhà văn có nhiều độc giả, từ khi ông có những sáng tác đầu tiên đăng trên báo tiếng Việt ở hải ngoại vào đầu thập niên 1980, chỉ một hai năm sau khi ông vượt biển đến trại tị nạn ở Mã Lai và định cư ở Canada từ mùa hè 1979. Ông cũng là nhà văn Việt ở hải ngoại có sách bằng tiếng Anh được xuất bản đầu tiên tại Hoa Kỳ, là tác phẩm “The Will of Heaven” [Nxb Dutton, 1982] viết về trại học tập cải tạo, về sinh hoạt đời sống tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975 dưới chế độ chủ nghĩa xã hội. Những tác phẩm của ông, dù là truyện ngắn hay tiểu thuyết đều lôi cuốn bạn đọc vì ông viết về hiện thực xã hội của người Việt, trong nước cũng như ở hải ngoại, trong trại tị nạn hay đã định cư. Không ý tưởng cao siêu hay triết lý mơ hồ, các truyện ông viết chỉ hàm chứa những điều thường ngày, phảng phất nét văn hoá, phong tục hay truyền thống, kể cả hủ tục của người Việt. Truyện của ông ít có mặt trên các tạp chí văn học mà thường đăng trên các báo mang tính đại chúng như Văn Nghệ Tiền Phong, Nhân Chứng, Việt Nam Hải Ngoại, Làng Văn, Chiêu Dương, Tiểu Thuyết Nguyệt San, Phụ Nữ Diễn Đàn v.v… vì thế ông có đông độc giả ở khắp nơi, từ Hoa Kỳ, Canada, sang Úc châu, Âu châu. Nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn: Vì sao tôi nghỉ làm MC của Paris By Night Nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn: 'Vì sao tôi không muốn về lại Việt Nam?' Khán giả thương tiếc trước tin ông Tô Văn Lai, người sáng lập Trung tâm Thúy Nga, qua đời Khi chưa có Youtube và phương tiện truyền thông xã hội còn là những tờ báo in, những tạp chí, tôi đoán một tác phẩm ăn khách nhất của ông, tái bản nhiều lần, có số in nhiều cũng chừng mười nghìn bản. Nhưng từ thập niên 1990 khi ông làm CD đọc truyện thì số độc giả càng đông hơn vì họ có thể nghe sáng tác của ông khi lái xe hay trong lúc đi bộ thể thao. Bây giờ vào google tìm, nhiều tác phẩm của ông trên Youtube có đến vài triệu lượt nghe, xem. Khó có nhà văn người Việt nào, còn trong nước hay ở hải ngoại đạt được những con số như thế. Cuối năm 1979 tôi tình cờ có dịp gặp anh Nguyễn Ngọc Ngạn, khi mấy anh em sinh viên Đại học UC Berkeley lái xe lên Vancouver thăm người hàng xóm của một bạn học là anh Vũ Mạnh Hải mới từ trại tị nạn Bidong qua định cư, cũng như anh Nguyễn Ngọc Ngạn. Mấy ngày bên nhau, ăn uống, đàn hát. Anh Ngạn nói với chúng tôi là sắp có sách tiếng Anh xuất bản, tựa là “Ý Trời” và anh có nhờ tôi chụp cho một hình chân dung để in trong sách. Anh còn có tác phẩm “Những người đàn bà còn ở lại” và hỏi nếu anh em sinh viên có thể xuất bản, anh sẽ trao cho. Nhưng là sinh viên nghèo, khi đó chỉ làm báo sinh hoạt sinh viên nên chúng tôi không thể đón nhận tập bản thảo mấy trăm trang của anh. Các bạn sinh viên Đại học Berkeley với nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, Canada 1979. Từ phải: Cương, Nguyễn Ngọc Ngạn, Vũ Mạnh Hải, Nguyễn Văn Tài, Phạm Minh Tuấn, Nguyễn Lê Hiệt Vào những năm đầu của thập niên 1980, tôi đã thích các truyện ngắn của ông đăng trên báo. Đó là những câu chuyện đọc qua nhiều người sẽ thấy hình ảnh của mình trong đó, từ một bác sĩ, một ông cựu quân nhân, cô ca sĩ, một bà thích xem bói vì mê tín dị đoan tin vào tử vi, một chủ cơ sở thương mại ở California, cặp vợ chồng lãnh trợ cấp xã hội, một Việt kiều; hay một y sĩ, bác sĩ, quản giáo, một người tù cải tạo dưới chế độ cộng sản đều hiện diện rất sinh động trong tác phẩm của ông. Một ý tưởng vụt hiện trong đầu ông, hay nghe thấy, hoặc do ai đó gợi lên, ông lấy ý và xây dựng cốt truyện, nhân vật. Các nhân vật trong truyện của ông nửa thật, nửa hư cấu nên cũng có ít nhiều trùng hợp ngẫu nhiên khiến có bạn đọc tưởng là ông viết về họ, như trường hợp bốn nữ văn sĩ nọ. Cũng như ca từ Trịnh Công Sơn mông lung về một mối tình, về hình bóng một thiếu nữ khiến nhiều cô tưởng nhạc sĩ viết về mình, cho mình. Truyện của ông đặt trong không gian ở quê nhà, trải dài từ những năm 1950 trong “Xóm đạo”, “Mầu cỏ úa”, cho đến sau ngày 30/4/1975 ở miền nam California nắng ấm, hay Canada xứ lạnh, nhưng không phải lúc nào cũng đầy ắp tình người, như truyện “Ngày trở lại” với âm mưu giết chồng cũ để lấy tiền bảo hiểm nhân thọ. Những đối thoại rất thật và tự nhiên, nhiều lúc làm độc giả phải cười vì những trớ trêu trong cuộc sống dưới chế độ cộng sản. Nhiều tác giả khác cũng viết về một câu chuyện, hay về những cái ngây ngô, ngớ ngẩn, kém hiểu biết, chỉ nói như vẹt của cán bộ cộng sản, nhưng không mấy ai viết dí dỏm được như Nguyễn Ngọc Ngạn. “Một ngày ở bên ấy” và “Bước thêm bước nữa” viết về trại học tập cải tạo, về trình độ kém hiểu biết của cán bộ cộng sản và hay đa nghi nên lúc nào cũng cho là phản động, CIA cài người. Một tù nhân bị chất vấn nhiều lần vì cho rằng tên không có tên lót là động chạm đến lãnh đạo. Chính trị viên tiểu đoàn giảng bài cho tù cải tạo nghe, so sánh: “Đồng chí Lê Duẩn nói rất dài, nhưng không thừa một chữ nào! Đồng chí Phạm Văn Đồng nói rất ngắn, nhưng không thiếu một chữ nào! Hai đồng chí ấy đối lập nhau!!!” khiến một tù nhân ré lên cuời để rồi bị bắt phạt lao động thêm giờ. Chuyện Lạc Long Quân lấy bà Triệu Ẩu. Đọc mà cười ra nước mắt. Hình ảnh và trình độ của y sĩ, bác sĩ cộng sản được ông đưa vào truyện ngắn “Ven rừng” viết năm 1994 vừa khôi hài vừa châm biếm qua sự việc con lợn bất thình lình chết, với lời thơ chế: “Tin đâu như sét đánh ngang, con lợn đang sống chuyển sang từ trần.” Khi Việt Nam mở cửa, người Việt hải ngoại được về thăm quê hương, có người vui và cũng có gia đình buồn vì tan nát. “Ngày trở lại” đã miêu tả điều đó qua đôi vợ chồng người Việt ở Canada, mà theo tác giả: “Bao nhiêu gia đình đang êm ấm ở hải ngoại, hễ để cho ông chồng về nước một mình là kể như bắt đầu ngày tàn của hạnh phúc”. Những mặt xấu của cộng đồng người Việt hải ngoại là chủ đề trong nhiều tác phẩm của ông. “Casino” về nạn cờ bạc, buôn bạch phiến bên Úc. Lồng trong đó với sự việc người ở Mỹ mua nhà ở Việt Nam nhờ người thân đứng tên để rồi mất hết cả tình nghĩa anh em. “Lạ giường” về một đôi vợ chồng giả bộ bỏ nhau để hưởng trợ cấp xã hội. “Sau lần khép cửa” về các bác sĩ Việt ở Quận Cam bị bắt vì gian lận y tế làm xôn xao dư luận trong những năm giữa thập niên 1980. Chuyện chống cộng trong “Trên lối mòn hậu chiến”. Chuyện sử Việt qua “Mầu cỏ úa” về xã hội miền Bắc vào thập niên 1950. “Trong quan tài buồn” về những chính sách sửa sai sau cải cách ruộng đất. Các tác phẩm của ông thu hút đông độc giả nên ông Tô Văn Lai, giám đốc trung tâm Thuý Nga, đã mời nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn làm MC cho các chương trình Paris By Night. Một số tác phẩm của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn 30 năm làm MC cho Paris By Night Trong tập “Một thập niên nhìn lại” nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn kể rằng khi được mời làm MC, sau nhiều đắn đo, suy nghĩ, một trong những lý do ông nhận việc này, theo đề nghị của người em ruột là nhạc sĩ Ngọc Trọng, khuyên ông nên xuất hiện trên Paris By Night ít nhất một lần để cho thân phụ, đã 82 tuổi, còn ở Việt Nam thấy mặt và giọng nói của ông sau bao năm xa cách. Bắt đầu từ Paris By Night 17, phát hành năm 1992 là có sự cộng tác của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn trong vai trò MC. Cho đến nay, Thuý Nga hải ngoại đã tròn 40 tuổi, với 132 cuốn băng được thực hiện với nhiều chủ đề, Paris By Night đã là thương hiệu có trong mọi gia đình người Việt tại hải ngoại. Trong vai trò MC cho các sô ca nhạc, hình ảnh của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn đã trở nên gần gũi với quần chúng, bên cạnh cô Nguyễn Cao Kỳ Duyên đôi khi nói nhiều hiểu ít đã đem đến cho khán giả những nụ cười trong khi chờ đợi đổi màn trên sân khấu. Nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn là người bắc di cư năm 1954, thời trẻ tham gia hoạt động sinh viên, tốt nghiệp Đại học Văn Khoa Sài Gòn, có thời gian là sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hoà, dạy Việt Văn bậc trung học. Sau 1975 có mấy năm ông đi học tập cải tạo và trong chuyến vượt biển cuối năm 1978 người vợ cùng con duy nhất của ông đã chết trên biển. Tất cả những trải nghiệm đó làm nên con người ông, cho ông chất liệu sáng tác gần một trăm tác phẩm nhiều thể loại. Ngoài viết về hiện thực xã hội, truyện ma của ông cũng thu hút đông độc giả. Ngoài việc làm MC ông còn viết nhiều kịch bản cho những vở kịch vui mang tính tâm lý xã hội trong các chương trình Paris By Night. Ở hải ngoại ông đam mê đọc sách, báo nên cách dẫn chương trình ông rất phong phú về nội dung, đem đến cho khán giả nhiều hiểu biết về lịch sử, văn hoá Việt Nam, những nét đại cương văn hoá Âu Mỹ và nhiều nụ cười qua các câu chuyện vui. Ông là một hiện tượng, vì trong cả hai lãnh vực văn chương và điều khiển chương trình văn nghệ, ông đã rất thành công. Trước đây ông ít được biết đến trong nước, vì chính thức thì Paris By Night không được phép lưu hành tại Việt Nam. Vào những năm bản lề của thiên niên kỷ, các băng Paris By Night có mặt tại Việt Nam đều là sao chép lậu để bán hay cho thuê. Qua trải nghiệm của riêng mình, tôi được xem vài băng trong nhà người quen ở Sài Gòn thì chỉ có các tiết mục ca nhạc, còn phần MC giới thiệu đã bị cắt bỏ. Theo một người chuyên cho thuê băng cho biết, đó là làm ăn thương mại có tự kiểm duyệt để tránh gặp rắc rối với nhà nước. Ngày nay qua Youtube, Facebook thì không thể kiểm duyệt nội dung hay ngăn cấm người trong nước xem các chương trình của Thuý Nga Paris By Night, của các trung tâm băng nhạc hải ngoại. Là người của công chúng nên ông không tránh khỏi những chỉ trích, gièm pha hay chống phá. Paris By Night 40 với hình ảnh thiên lệch về quân lực Việt Nam Cộng hoà lồng ghép trong ca khúc “Ca dao mẹ” đã khiến một số người phẫn nộ, kéo đến biểu tình trước trung tâm Thuý Nga ở Little Saigon, Quận Cam. Cuối năm 1997 tôi có cuộc phỏng vấn với nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, ông nhận xét: “Băng Paris By Night 40 là một biến cố ồn ào nhất trong hơn 20 năm qua tại hải ngoại… Anh hỏi tôi đánh giá sự kiện đó như thế nào thì tôi chưa tìm được câu trả lời. Nhìn bề mặt, tôi chỉ thấy rõ một điều ngạc nhiên là: Đối với những cuốn băng tuyên truyền đích thực của cộng sản thì người ta coi rất nhẹ, đánh giá rất thấp. Trong khi đó, một khuyết điểm của băng Thuý Nga thì lại tạo nên một trận cuồng phong. Tôi thấy sự kiện này không thể dùng lý luận chính trị để cắt nghĩa được.” [Thời Báo Xuân Mậu Dần 1998, San Jose] Hay khi viết câu chuyện hư cấu về mấy nữ văn sĩ, có người tưởng là ông nói xấu mình nên kêu gọi tẩy chay Nguyễn Ngọc Ngạn. Đôi ba năm trước, ông phát biểu về Tổng thống Donald Trump và hệ luỵ của các chính sách di dân, cùng đùa vui so sánh lãnh đạo Mỹ với lãnh đạo Triều Tiên nên có người phản đối. Điều đó cho thấy dư luận rất quan tâm tới những gì MC Nguyễn Ngọc Ngạn nói trước công chúng, dù chỉ là đem lãnh đạo ra giễu vui mà nhiều người Việt chưa quen, chưa hiểu văn hoá Mỹ qua các chương trình Late Night Show mỗi tối trên truyền hình của Jay Leno, Stephen Colbert, David Letterman hay chương trình Saturday Night Live mỗi cuối tuần thường xuyên đem lãnh đạo ra làm đề tài kể chuyện vui. Được biết đến nhiều nhất qua vai trò MC, nhưng có lẽ ít người biết nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn không ngần ngại nói lên quan điểm của mình qua những phân tích và nhận định. “Một thập niên nhìn lại” phát hành năm 1994 là nơi ông ghi lại những sinh hoạt, gặp gỡ và cảm nghĩ của mình, từ văn học, nghệ thuật, chính trị đến xã hội, truyền thông báo chí trong giai đoạn 1982-1992. Nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn năm 1979 Ông mạnh mẽ phê bình báo chí Việt ngữ ở hải ngoại hay bới móc đời tư, chụp mũ và đã có nhiều người phải ra hầu toà. Ông quan niệm khi tranh luận là dựa vào chủ đề chứ không nên nhắm vào cá nhân. Ông phản đối việc phổ biến tác phẩm của những nhà văn trong nước mà một số người cho là phản tỉnh, hay những văn nghệ sĩ có chủ trương hoà giải với cộng sản. Những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Trần Mạnh Hảo, Dương Thu Hương theo ông vẫn chưa phải là sáng tác trong tự do, mà chỉ ra đời khi được nhà nước cho phép. Chỉ thơ Nguyễn Chí Thiện viết trong tù nhưng trong tự do tư tưởng của chính tác giả mới là văn chương phản kháng địch thực. Với nhiều văn nghệ sĩ dù có quan điểm khác ông nhưng ông luôn tỏ ra lịch sự, cởi mở trong giao tiếp. Ông có nhận xét về một số người cùng hoạt động văn học là “mạnh miệng hứa hẹn rồi lấm lét làm ngược lại”, qua vụ bầu cử ban chấp hành Văn bút Việt Nam Hải ngoại cuối năm 1989 khi ông đắc cử chủ tịch. Khi làm chủ tịch Văn bút Việt Nam Hải ngoại, từ 1989 đến 1991, nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn đã phản đối dự án vinh danh Hồ Chí Minh của UNESCO, phản đối trung tâm William Joiner Center của Đại học Boston có chương trình nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam mà chỉ muốn giao tiếp với văn thi sĩ miền Bắc mà không thực sự quan tâm đến những tác giả của phía Việt Nam Cộng hoà. Ông cũng đã vận động với các chính phủ để can thiệp cho văn nghệ sĩ còn bị cầm tù, cho những thuyền nhân vượt biển được tạm cư thay vì trục xuất về Việt Nam. Là một MC nổi danh, là tác giả của nhiều tác phẩm phản ánh thực tế những bất công, xấu xa trong chế độ cộng sản, ảnh hưởng của ông có sức lan toả nhanh chóng. Để hoá giải ảnh hưởng của ông, Hà Nội mời ông về nước. Nhưng từ lâu ông đã không có ý định về Việt Nam. Năm ngoái, trả lời phỏng vấn BBC News Tiếng Việt ông xác nhận: “Chính quyền cũng đã liên lạc với tôi nhiều lần qua các Đại sứ quán, cũng như Tổng lãnh sự ở Mỹ và Canada, tức là không phải chỉ là bầu show không mà bên phía chính quyền Việt Nam cũng có ý mời tôi về. Còn về bầu show, áp lực nhiều nhất mà mời tôi về là lúc cô Nguyễn Cao Kỳ Duyên về Việt Nam, họ mong tôi về chung với cô Kỳ Duyên. Tôi không có ý định về, khi mà tôi sang trình diễn tại Campuchia, khi đó bầu show từ Hà Nội, họ bay thẳng cả sang Campuchia điều đình, họ mời tôi về, nhưng mà tôi lại không có ý định về Việt Nam…" Ông đã gửi tâm sự trong những dòng cuối của tập hồi ký văn nghệ viết xong vào cuối năm 1994 rằng: “Mong ước của tôi vẫn là một ngày nào đó được ngồi viết văn, được làm văn nghệ trên sân khấu quê nhà. Mà dĩ nhiên, phải là một quê nhà thật sự tự do, dân chủ.” Mấy tuần trước, khi ông Tô Văn Lai qua đời, nhiều báo trong nước loan tin nhưng sau đó phải gỡ bỏ những bài báo về ông và trung tâm Thuý Nga. Như thế làm sao MC Nguyễn Ngọc Ngạn có thể nghĩ đến chuyện về Việt Nam. Trung tâm Thúy Nga vừa tổ chức 2 sô Paris By Night 133 ở Las Vegas chủ đề “Nguyễn Ngọc Ngạn – The Farewell”, mỗi sô với 7 nghìn khán giả và vé đã bán hết trong một thời gian kỷ lục. Khán giả ở Mỹ đã được dịp chào tạm biệt ông. Cuối năm nay sẽ có Paris By Night 134 ở Bangkok, Thái Lan để MC Nguyễn Ngọc Ngạn ngỏ lời từ biệt sân khấu với khán giả từ trong nước. Bốn mươi năm qua, trung tâm Thuý Nga với các chương trình ca nhạc Paris By Night, trong đó có 30 năm với MC Nguyễn Ngọc Ngạn, đã làm nên một thương hiệu trong mỗi gia đình Việt Nam tại hải ngoại, và nhiều gia đình trong nước, khiến Hà Nội xem đó như những “chiến dịch tâm lý chiến” đánh vào chế độ cộng sản. Nay ông Tô Văn Lai vừa qua đời, cùng lúc MC Nguyễn Ngọc Ngạn giã từ sân khấu, tương lai của Paris By Night dưới sự điều hành của cô Tô Ngọc Thuỷ và chồng là Huỳnh Thi có sẽ còn tạo được dấu ấn như đã từng có. Bài thể hiện quan điểm riêng của tác giả, giảng viên đại học cộng đồng, nhà báo tự do từ vùng Vịnh San Francisco, California, Mỹ.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 11, 2022 1:19:09 GMT 9
Nhìn lại quá trình kiểm duyệt nhạc Việt qua năm thángJason Gibbs Viết cho BBC Tiếng Việt 11 tháng 5 2017 Tranh của họa sĩ Sỹ Ngọc (Văn Nghệ, 14 tháng 7 năm 1955) NGUỒN HÌNH ẢNH,SỸ NGỌC /VĂN NGHỆ "Thuần phong mỹ tục … Mỹ / Văn nghệ ướt của Mỹ." Tranh của họa sĩ Sỹ Ngọc vẽ (Văn Nghệ, 14 tháng 7 năm 1955) Chính phủ của các quốc gia có quyền kiểm duyệt các tác phẩm lưu hành và xuất bản. Như vậy thì khó bác bỏ việc Việt Nam có luật lệ cấm hay cho phép tác phẩm được phổ biến. Dư luận gần đây có nhiều tranh cãi về hành động của Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn cho, rồi rút, rồi lại cho phép lưu hành 5 ca khúc của thời gọi là "Sài Gòn tạm chiếm." Vấn đề chính là cách thẩm định nhạc không rõ ràng và nhất quán của cơ quan kiểm duyệt. Kết quả là một hệ thống kiểm duyệt có vẻ tùy tiện, song nhiều yếu tố trong quá khứ đã góp phần làm nên chế độ kiểm duyệt ở Việt Nam. Công việc kiểm duyệt các tác phẩm là sự thừa kế của chế độ thực dân Pháp. Thực ra Pháp đã xây nên hệ thống truyền thông cho xứ Việt, họ kiểm soát hệ thống ấy cũng là đương nhiên. Luật pháp kiểm duyệt đối với quốc dân Pháp ở thuộc địa cũng thoải mái, tuy nhiên đối với người bản xứ quá chặt chẽ. Một tờ báo hay quyển sách viết bằng tiếng Pháp được in tự do hơn một tác phẩm quốc ngữ. Nhưng nếu tác phẩm nào bằng tiếng Việt không chạm trực tiếp đến chính trị thì chắc cơ chế quản lý của Pháp cho phép lưu hành. Thí dụ trong những năm đầu 1940 có những bài ca ái quốc "thanh niên lịch sử" của nhóm Lưu Hữu Phước được Tổng hội Sinh viên của Trường Đại học Hà Nội được xuất bản. Nước Pháp có toàn quyền ở Đông Dương, như thế thời thực dân các tác phẩm xuất bản không có thông tin về giấy phép. Đến năm 1946, Việt Nam độc lập bắt đầu thấy chữ "kiểm duyệt" (ghi tắt là k.d.) trên bìa sau của bản nhạc. Từ Tập nhạc Thương Binh Ca Hát NGUỒN HÌNH ẢNH,THƯ VIỆN QUỐC GIA Tập nhạc Thương Binh Ca Hát (Bộ Thương Binh Cửu Binh xuất bản, 1948) trong thông tin in không có việc kiểm duyệt (nguồn tư liệu: Thư Việc Quốc Gia) Thời kháng chiến chống Pháp, âm nhạc không được in ấn nhiều về số lượng và nếu được in là in thạch tại địa phương. Như vậy âm nhạc chủ yếu được phổ biến theo cách truyền miệng. Lúc bấy giờ kiểm duyệt có nghĩa là tự kiềm chế mình trong hoàn cảnh của đời sống mới xã hội chủ nghĩa xây dựng con người mới. Một bài báo Văn Nghệ năm 1950 nhấn mạng rằng "nhạc sĩ phải gạt bỏ đầu óc cá nhân, lao mình vào đời sống của đại chúng, phải kiểm điểm lại tư tưởng, để gột tẩy sạch những tàn tích lãng mạn còn rơi rớt trong mỗi người." Đa số các nhạc sĩ sáng tác vốn là dân thành phố có tính tiểu từ sản. Nếu xâm nhập vào thực tế cuộc sống của người nông dân nghèo họ sẽ nhận ra sự phù phiếm của đời sống cũ. Những năm kháng chiến chưa có danh sách cấm-cho. Chính quyền Việt Nam mong rằng mỗi người sẽ vui lòng quay lưng với quá khứ chưa nghiêm túc của mình và tuân theo chính sách văn nghệ của chính quyền. Một thí dụ là lãnh đạo văn nghệ khuyên nhạc sĩ Phạm Duy phải "khai tử" bài hát "Bên cầu biên giới." Để sống và thành công với kháng chiến thì các nhạc sĩ phải làm như vậy thôi. Nhưng Phạm Duy và một số nhạc sĩ khác bỏ về thành. Nhạc sĩ Tô Hải ở lại và kể về "các lớp 'chỉnh huấn'" là chỗ mà các tác giả bị bắt phải "kiểm điểm, phê bình và tự phê bình" chính mình và các tác phẩm của mình. Để tồn tại, ông phải cho rằng những tác phẩm trước của ông là "đồi trụy, tư sản, tiểu sư sản, thậm chí phản động." Thuở đó các vùng dưới quyền kiểm soát Pháp như các thành phố Hà Nội, Huế và Sài Gòn đều có nhà xuất bản âm nhạc. Các ấn phẩm được in với hai chữ "k.d." với con số và ngày chứng minh rằng bài ca này được cấp phép lưu hành. Một điều đương nhiên nữa là nhạc cách mạng không được xuất bản. Dù vậy cũng đã có nhiều bài ca tình ca đem từ vùng kháng chiến được phép in và rất phổ biến. Từ thời đó Việt Nam đã có hai thế giới âm nhạc hoàn toàn riêng biệt. Khi đất nước Việt Nam bị chia cắt năm 1954 thì hai thế giới âm nhạc mới ấy có biên giới xác định. Ở phía Bắc vĩ tuyến 17 không có chính sách công khai cấm bài hát nào. Nhưng thực tế thì khác. Tôi gặp một phụ nữ người Hà Nội hơn tám mươi tuổi kể rằng mẹ của bà bắt bà đốt các tờ nhạc trước 1954 của bà. Đây là thời cải tạo tư sản khi mà người giàu có bị nghi ngờ rồi vì vậy họ sợ dư luận và không dám cất giữ và hát loại âm nhạc mà mình yêu thích. Ở ngoài Bắc lúc bấy giờ các ấn phẩm không cần in chữ "k.d." vì nhà nước có toàn quyền trên mọi phương tiện truyền thông. Dù vậy cũng có những chuyện tế nhị trong giới âm nhạc. Có một phong trào bài trừ "nhạc vàng" nghĩa là nhạc tiểu tư sản, nhạc bị gọi là "ủy mị" vì thiếu tính chiến đấu. Những ca khúc như "Tình ca" của Hoàng Việt, "Bài ca hy vọng" của Văn Ký, "Tình ca người thủy thủ" của Hoàng Vân đều bị phê bình là quá trữ tình. Với những nhà quản lý khắt khe thì khoảng cách từ trữ tình đến ủy mị có lẽ cũng không xa lắm? Nhưng có một vấn đề cấp bách hơn - đó chính là văn nghệ từ bên kia vĩ tuyến. Một bài đăng trên báo Nhân Dân với đầu đề "Văn nghệ lai Mỹ, phản động và đồi bại" tỏ ra lo ngại về nhạc chiến tranh tâm lý từ bên kia ranh giới. Các bài ca miền Nam bị gọi là "quá ủy mị, ướt át, muốn nằm dài ra mà thở." Bài báo này cũng khẳng định các bài hát miền Nam chỉ được viết nhờ bảo trợ của Mỹ "tung tiền 'com-măng'." Theo tuyên truyền của miền Bắc thì các bài hát này bị dân miền Nam tẩy chay. Bài báo viết: "Hiện nay, đồng bào miền Nam càng căm ghét thứ văn nghệ phản động, đồi bại theo kiểu Mỹ đang tràn ngập ở miền Nam bao nhiêu, càng nhớ, càng yêu những bài thơ, câu hò, điệu múa trong thời kỳ kháng chiến bấy nhiêu". Thị trường âm nhạc sầm uất nổi lên cùng thời ở miền Nam phủ nhận những lời xác nhận ấy. Mặc dù những lời viết ở trên không phản ánh đúng sở thích âm nhạc của dân bên kia vĩ tuyến, nhưng ở đằng sau nó biểu lộ một điệp khúc thường xuyên của các quan chức văn hóa về ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai. Đó là âm mưu phá hoại văn hóa và phong tục người Việt của nước Mỹ. Văn hóa Mỹ theo họ chỉ toàn là găngxtơ, cao bồi, đĩ điếm, là như bệnh dịch và người nào chạm vào nền văn hóa ấy sẽ bị lây bệnh. Các tác phẩm viết theo chế độ "Mỹ-ngụy" miền Nam bị coi như nguy hiểm. Tranh của họa sĩ Sỹ Ngọc (Văn Nghệ, 14 tháng 7 năm 1955) NGUỒN HÌNH ẢNH,SỸ NGỌC /VĂN NGHỆ "Thuần phong mỹ tục … Mỹ / Văn nghệ ướt của Mỹ." Tranh của họa sĩ Sỹ Ngọc vẽ (Văn Nghệ, 14 tháng 7 năm 1955) Với chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam các bài ca phải được kiểm duyệt, và các tác phẩm Cộng sản thì bị cấm. Thời Ngô Đình Diệm có những ca khúc bị coi như ướt át cũng không được lưu hành hay phải đổi lời ca. Trong một bài phỏng vấn năm 1963, nhạc sĩ Minh Kỳ than vãn nhạc lúc bấy giờ bị "bế tắc." "Chúng tôi mà nói đến yêu đương một cách rõ ràng quá, hoặc lời lẽ có phần ướt át, thì cái kéo của ba Kiểm duyệt không tha!" Một điều tất nhiên nữa là các ca khúc về đề tài người lính chiến được ưu tiên phổ biến trên các nguồn truyền thống của chính phủ. Như vậy nhạc làm vai trò tất yếu là tuyên truyền, nhưng nhạc sĩ cùng thời cũng thừa nhận: "tuyên truyền quá rõ dễ bị người nghe ít ưa." Thông tin in và kiểm duyệt trong tập nhạc Ca Khúc Cho Ngày Mai (Sài Gòn: Quảng Hóa, 1970) của Phạm Duy. NGUỒN HÌNH ẢNH,SÀI GÒN/QUẢNG HÓA Thông tin in và kiểm duyệt trong tập nhạc Ca Khúc Cho Ngày Mai (Sài Gòn: Quảng Hóa, 1970) của Phạm Duy. Hai chế độ đều kiểm duyệt nhạc, nhưng cả hai bên đều không thực hành được việc đó một cách trọn vẹn. Ở miền Bắc nhiều người nghe trộm đài của Sài Gòn, BBC và VOA. Phan Thắng Toán và Nguyễn Văn Lộc (tức Toán Xồm và Lộc Vàng) và một số người nữa bị tù vì tổ chức những buổi hát nhạc vàng với nhau (tức nhạc lãng mạn gọi theo lý thuyết của Mao Trạch Đông) và nhạc miền Nam, nhưng hành động này chỉ phản ánh một phong trào bí mật mà không thể biết được có bao nhiêu người nữa cũng như vậy. Ở Hải Phòng và Hà Nội cùng thời cũng có nhiều thanh niên thích nghe và chơi nhạc rock Mỹ với nhau. Mặt khác là ở miền Nam cũng có nhiều người nghe trộm Đài Tiếng Nói Việt Nam của Hà Nội. Cũng có những tác phẩm trái với quy định của nhà nước và không được cấp phép nhưng vẫn được phổ biến. Các ca khúc đòi hòa bình của Trịnh Công Sơn không được cấp phép phổ biến. Mặc dù có lệnh cấm 33 vào ngày 2 tháng 8 năm 1969, các bài ca phản chiến của ông vẫn được xuất bản và thu băng (không xin giấp phép). Có nhóm sinh viên Đà Lạt muốn hát lại những ca khúc kháng chiến chống Pháp vốn không được phép phổ biến ở miền Nam nhưng vẫn tự xuất bản tập nhạc Năm Xưa. Từ tập nhạc Năm Xưa NGUỒN HÌNH ẢNH,ĐOÀN DU CA ĐÀ NẴNG Thông tin in (không kiểm duyệt) cho tập nhạc Năm Xưa (Đà Nẵng: Đoàn Du Ca Đà Nẵng, 1972). Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn cũng thực hiện hai tập nhạc Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe. Đây là nhạc đấu tranh, chống chiến tranh và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Một điều dĩ nhiên là các nhạc phẩm này không xin và không được cấp phép lưu hành. Như vậy khi thực hiện tập nhạc này, nhóm sinh viên ghi là "phổ biến nội bộ Sinh viên Học sinh." Sau khi nước Việt Nam thống nhất thì gần như toàn thể các nhạc phẩm tân nhạc của những nơi không nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đều bị cấm luôn. Điều đó nghĩa là nó bao gồm các tác phẩm có nguồn gốc nhạc mới của Việt Nam của các tác giả như Đặng Thế Phong, Văn Cao, v.v. (mặc dù chưa chính thức bị cấm), các tình ca thời kháng chiến chống Pháp, và tất cả các ca khúc của thời Việt Nam Cộng Hòa, ngoài những ca khúc phong trào sinh viên đấu tranh được nhắc đến ở trên. Bìa tập nhạc Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe: Chúng Ta Đã Đứng Dậy, tập 1 (Sài Gòn: Tổng Hội Sinh Viên Saigon, 1970). NGUỒN HÌNH ẢNH,TỔNG HỘI SINH VIÊN SAIGON Bìa tập nhạc Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe: Chúng Ta Đã Đứng Dậy, tập 1 (Sài Gòn: Tổng Hội Sinh Viên Saigon, 1970). Thông tin in của tập nhạc Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe NGUỒN HÌNH ẢNH,TỔNG HỘI SINH VIÊN SAIGON Thông tin in của tập nhạc Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe Ngay sau những biến cố năm 1975 vẫn còn nhiều bản nhạc không in thông tin kiểm duyệt. Nhưng từ đó cũng bắt đầu bản nhạc và tập nhạc với thông tin kiểm duyệt gọi là "giấy phép xuất bản." Chẳng hạn tập nhạc Hát Từ Sài Gòn Giải Phóng gồm ca khúc của những sinh viên miền Nam tham gia phong trào đấu tranh phải in thông tin cấp phép. Nhưng đến những năm 1990 vẫn có nhiều ấn phẩm nốt nhạc của các cơ quan nhà nước xuất bản mà không đề cập đến giấy phép. Bìa tập nhạc Hát Từ Sài Gòn Giải Phóng: Tuyển Tập Bài Hát Tự Biên Tự Diễn (Sài Gòn: Bộ Thông Tin Văn Hóa, Bộ Phận Văn Hóa Quần Chúng, 1976) NGUỒN HÌNH ẢNH,BỘ THÔNG TIN VĂN HÓA, BỘ PHẬN VĂN HÓA QUẦN C Chụp lại hình ảnh, Bìa tập nhạc Hát Từ Sài Gòn Giải Phóng: Tuyển Tập Bài Hát Tự Biên Tự Diễn (Sài Gòn: Bộ Thông Tin Văn Hóa, Bộ Phận Văn Hóa Quần Chúng, 1976). Thông tin in của tập nhạc Hát Từ Sài Gòn Giải Phóng NGUỒN HÌNH ẢNH,BỘ THÔNG TIN VĂN HÓA, BỘ PHẬN VĂN HÓA QUẦN C Thông tin in của tập nhạc Hát Từ Sài Gòn Giải Phóng Từ năm 1975 ranh giới hệ thống kiểm duyệt nhạc Việt là trên toàn bộ nước Việt hình chữ S. Nhưng người Việt tỵ nạn ở rải rác khắp năm châu đã không còn chịu bất cứ sự kiểm duyệt nào. Song người Việt ở lại miền Nam bị nghi ngờ rất nặng nề, nhất là những người từng làm cho nhà nước và trong giới quân sự. Sách Bên Thắng Cuộc của Huy Đức trích báo Sài Gòn Giải Phóng viết về cựu lính rằng: "Đế quốc Mỹ và tay sai đã biến chúng từ con người thành dã thú." Những người sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa coi như bị nước Mỹ tẩy não. Hoàng Phủ Ngọc Tường viết trên báo Thừa Thiện Huế cuối năm 1975 là "tất cả hệ thống những 'phương tiện văn hóa' nhằm đạt đến một hiệu quả tinh thần rất nguy hiểm: phổ biến tư tưởng phản động và gieo rắc nọc độc đồi trụy của bọn đế quốc và giai cấp tư sản." Như vậy tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều bị cấm, tịch thu, thậm chí tiêu hủy. Nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, chủ nhiệm Nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam, kể cho tôi rằng tất cả hàng hóa của tiệm bị lấy đi hết. Nhưng mặt khác, lúc đó cũng có nhiều người lính miền Bắc đã cứu các văn hóa phẩm nguy hiểm của thị trường miền Nam và mang ra miền Bắc. Thứ nào bị cấm thì trốn tránh trong bóng tối. Nhiều người bí mật giữ lại các bản nhạc và đĩa hát. Các quân nhân và công chức của chế độ cũ bị giam cũng lưu giữ âm nhạc trong trí nhớ không cải tạo của họ. Bị tách riêng, các tù nhân sống ở môi trường khác với đa số đồng bào họ. Họ hát và dạy các bài ca cấm cho người bảo vệ ở trại. Một số người bị giam cũng sáng tác bài hát mới để tâm sự với nhau. Báo giới Việt Nam chê trách các "ấn phẩm đen" đang phổ biến. Tức là các tác phẩm chép tay, in rô-nê-o ngoài phạm vi của cơ chế kiểm duyệt. Tuyển Tập Đặc Biệt Mưa Bụi 2, một "ấn phẩm đen" (giai đoạn khoảng 1995). NGUỒN HÌNH ẢNH,OTHERS Tuyển Tập Đặc Biệt Mưa Bụi 2, một "ấn phẩm đen" (giai đoạn khoảng 1995). Bài ca "Kẻ Ở Miền Xa" của Trúc Phương, ghi trong Tuyển Tập Đặc Biệt Mưa Bụi 2 NGUỒN HÌNH ẢNH,OTHERS Bài ca "Kẻ Ở Miền Xa" của Trúc Phương, ghi trong Tuyển Tập Đặc Biệt Mưa Bụi 2. Về việc xét lại các ca khúc xưa thì dân đi trước nhà nước. Từ năm 1986, Câu Lạc Bộ Âm Nhạc của Hội Liên Hiệp Thanh Niên ở Sài Gòn và Cung Thiếu Nhi ở Hà Nội từng giới thiệu các tác phẩm được gọi là nhạc tiền chiến, nghĩa là nhạc lãng mạn của những năm đầu tiên của nền tân nhạc. Ngày 15 tháng 10 năm 1989, Cục Âm Nhạc Và Múa mới bắt đầu cấp phép cho các bài hát trước 1975 được phổ biến. Trong đợt đầu tiên này có các tác phẩm xưa của Văn Cao, Đặng Thế Phong, Hoàng Quý, Nguyễn Xuân Khoát, Đoàn Chuẩn, v.v. Phải đợi hai năm nữa, ngày 10 tháng 8 năm 1991, thì mới có một số tác phẩm thời Việt Nam Cộng Hòa của các tác giả Thanh Sơn, Y Vân, Trần Thiện Thanh, Trịnh Công Sơn, Phạm Thế Mỹ, Hoàng Trọng, Minh Kỳ, v.v. được cấp phép phổ biến. Mãi đến 16 tháng 1 năm 2003 một số bài ca của nhạc sĩ Việt ở hải ngoại được cấp phép lưu hành ở Việt Nam. Một số tác giả phải đợi lâu hơn - nhạc Phạm Duy mới bắt đầu được cấp phép hồi năm 2005, nhạc Lam Phương năm 2007 và nhạc Hoàng Thi Thơ năm 2008. Mặc dù như vậy, Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn vẫn duyệt các nhạc phẩm của thời Việt Nam Cộng Hòa và của cộng đồng người Việt hải ngoại. Vấn đề là ở nội dung bài hát tùy thuộc các tác phẩm của miền Nam trước 1975 mà quần chúng ưa nghe nếu không chửi bới và không nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hình như trở ngại chính nằm ở hai chữ thôi. "Lính chiến" là cặp chữ cấm kỵ bị coi như đại diện cho những người lính của chế độ miền Nam bị coi như "lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ." Cuộc chiến Việt-Mỹ đã xưa rồi, quan hệ ngoại giao hiện nay thành bình thường và hai nước có quan hệ hữu nghị. Song "lính chiến" của ngày xưa vẫn chưa được coi như bạn hữu chăng? Một trong những bài hát từng bị tạm cấm lưu hành là "Cánh thiệp đầu xuân" của Minh Kỳ và Lê Dinh sáng tác năm 1962 trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam. Bài hát ấy cũng ra đời trong hoàn cảnh kiểm duyệt của thời chiến tranh. Như được nhắc ở trên, chế độ kiểm duyệt thời Ngô Đình Diệm không cho hai tác giả Việt có các bài ca hoàn toàn như ý của họ. Hiện nay nhạc sĩ Lê Dinh cho thay thế lời "anh lính chiến" bằng "anh yêu dấu." Như thế lời ca mới này chỉ có nội dung tình yêu và nhớ nhung. Phạm Duy mơ về 'một ngày như thế' - BBC Vietnamese - Việt Nam 'VN hai câu nói sau cùng khi lìa đời' - BBC Vietnamese - Diễn đàn Bài ca "Rừng xưa"của Lam Phương sáng tác năm 1963 cũng được cho hát lại. Nhìn về lịch sử bài hát này thì dễ hiểu tại sao bài ca này từng bị cấm. Bài này không phải là một bài ca xuất sắc của tác giả và hai câu lời ca trong bài nghe cũng rất bình thường: "Đây ước mơ của miền Nam mến yêu. Tha thiết đến tin anh về bên mái gia đình tìm hạnh phúc ngày qua." Hoàn cảnh lịch sử cho biết đây là người ở miền Nam thời chiến xin người tình đã tập kết ra Bắc về quê sống với gia đình và bỏ rơi cuộc kháng chiến. Nhưng ngày hôm nay, hơn 50 năm sau, ai còn bận tâm đến chuyện chiêu hồi? Nếu cứ cấp phép thì chắc ít ai nhắc đến bài ca "Rừng xưa" vì bài ca không hợp hoàn cảnh đời sống người nghe hiện nay như nhiều ca khúc khác. Phải chăng, các nhà quản lý cố nhắm mắt không nhận rằng hiện nay không còn như thời bao cấp khi Việt Nam chưa toàn cầu hóa? Từ khi có khả năng thu lại nhạc với các phương tiện như máy ghi âm và máy vi tính thì các nhạc phẩm bị cấm được lưu hành rất dễ dàng ở chợ đen. Hiện nay làm sao mà cấm nổi nhạc khi mà bất cứ ai cũng có thể lên mạng, có thể nghe bất cứ loại nhạc nào vào bất cứ lúc nào? Dù thế chăng nữa, hình như thể loại nhạc đáng lo nhất vẫn là nhạc bolero Việt Nam. Bolero Việt là một khối âm nhạc lớn đã hơn 60 năm chinh phục được nhiều người Việt yêu nhạc. Suốt thời gian này, dù bị chê, dù bị cấm, nó không chết và trong khoảng mười năm qua được khôi phục nhiều. Có phải khối nhạc này làm hại cho sự tiến triển của nhạc Việt hay làm cho trình độ nhạc bị hạ thấp? Tôi không nghĩ vậy. Nhất là vì trong thời gian này dư luận kết án các loại nhạc trẻ "gây sốc" hay "nhạc rác." Có nhạc sĩ lý luận rằng "những ca khúc thế này ['nhạc rác'] đã kéo gu thẩm mỹ âm nhạc của khán giả ngày càng đi xuống." Bolero, một thời bị coi như "nhạc sến", nếu xem xét thì lại có nội dung lành mạnh và lịch thiệp. Nguồn nhạc này nghe rất xứng đáng và đáng quý so với nhạc thị trường hiện nay. Nhưng đại đa số ca khúc bolero còn bị cấm. Thực ra việc người Việt nghe và hát một bài ca bolero nhắc đến người lính chiến là chuyện bình thường đang xảy ra trên khắp nước Việt từ sáng đến khuya. Kiểm duyệt việc ấy chỉ có kết quả là hạn chế việc biểu diễn các ca khúc ấy trên sân khấu hay trên làn sóng chính thức. Cấm, cho phép, cấm lại, và lại cho phép các nghệ sĩ hát những bài ca này chỉ làm cho dân nghĩ rằng các cơ quản kiểm duyệt làm việc một cách tùy tiện. Nhưng việc cấm-cho phép đã có hiệu quả. Nếu cứ hát nhạc cấm có thể nhiều lần mà không bị làm sao, nhưng sẽ đến một lúc người hát sẽ bị phạt nặng để làm bài học cho tất cả mọi người khác. Tuy nhiên kết quả không phải là cấm nhạc ấy, hay làm giảm sự ưa chuộng của thính giả đối với nhạc ấy, mà là làm cho các nghệ sĩ và nhà tổ chức phải cẩn thận để tự kiểm duyệt mình và tự hạn chế sức sáng tạo của mình. Theo tôi biết thì người Việt Nam sống theo phương châm độc lập, tự do, và hạnh phúc. Quyền nghe được nhạc mình ưa thích nằm ở trong ba điều lý tưởng ấy? Thời chiến tranh thì việc cấm và hạn chế âm nhạc là rất hợp lý. Cấm những tác phẩm quá thô tục và gây loạn cũng có lý. Việc cấm các bài ca chỉ vì lý lịch đen thì tôi nghĩ là không nên. Nhưng điều đó là chuyện người dân và nhà nước Việt Nam phải giải quyết với nhau. Ông Jason Gibbs có bằng tiến sĩ về Lý thuyết và Sáng tác âm nhạc từ Đại học Pittsburgh, chuyên nghiên cứu âm nhạc Việt Nam. Bài viết gửi BBC được ông viết trực tiếp bằng tiếng Việt, trong loạt bài về các gương mặt nhạc sĩ Việt Nam.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 11, 2022 1:25:00 GMT 9
Đặng Thế Phong - sống và chết trước khi thời cơ đến (phần 1) Jason Gibbs Viết cho BBC Tiếng Việt 28 tháng 2 2017 Đặng Thế Phong có hai mảnh đời khác nhau. Cuộc đời của ông khi bố ông còn sống, và cái thời kỳ sau khi bố ông mất độ năm 1935. Khi bố ông còn sống gia đình của ông được hưởng cuộc sống ổn định, khá giả của một công chức của sở Trước Bạ Nam Định. Gia đình họ Đặng ở nhà số 9 Hàng Đồng là trung tâm thành phố Nam Định. Vì vậy, ông Đặng Hiển Thế, bố của Đặng Thế Phong, cho con mình được học tại các trường uy tín nhất xứ Nam Định là Trường Thành Chung (tức là École primaire superieure franco-indigène de Nam-Dinh) và trường dòng L'École St. Thomas D'Aquin. Khi bố ông mất cuộc đời của ông vào bước ngoặt mới. Quảng cáo, Học Sinh 5 tháng 5 1939, tr. 18 Nhiều nhạc sĩ Việt nổi tiếng xưa đều bị mồ côi cha sớm giống Đặng Thế Phong bao gồm Phạm Duy, Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Trần Tiến. Không biết như vậy cũng là nguyên cớ giúp các nhạc sĩ theo nghề xướng ca vô loại, là không bị bố bắt phải học kiếm bằng và lên chức. Với Đặng Thế Phong cũng như Phạm Duy thì tình thế này đã giúp hai người nổi máu giang hồ xách đàn ra đi. Đặng Thế Phong - sống và chết trước khi thời cơ đến (phần 2) Thời thanh niên của Đặng Thế Phong là rất "thanh niên." Nhà văn Phạm Cao Củng kể rằng nhạc sĩ Phong thích bơi lội và từng đi trẩy Hội Chùa Hương. Phạm Cao Củng kể về lúc hai anh em ngủ trong chùa Ngoài ngắm ánh trăng. Một điều chắc chăn nữa là Đặng Thế Phong là hướng đạo sinh hay đi cắm trại. Trong khoảng thời gian ấy Đặng Thế Phong cũng hay lên Hải Phòng ở với Phạm Cao Củng và làm quen với hai anh em Hoàng Kim Quí và Hoàng Phú (tức hai nhạc sĩ Hoàng Quý và Tô Vũ). Giống một số nhạc sĩ tiền phong lúc bây giờ như Phạm Duy, Văn Cao, Nguyễn Đình Phúc và Nguyễn Đức Toàn, Đặng Thế Phong học hội họa một thời tại L'École Supérieure des Beaux-Arts de l'Indochine (Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương). So với các nhạc sĩ được nhắc đến ở trên, Đặng Thế Phong là một người anh, một người đi trước. Có nghĩa là phải cố tìm cách mưu sinh trong thời gian này khi mà tân nhạc chưa có cơ sở để giúp đỡ một người nhạc trẻ kiếm sống bằng con đường nghệ thuật của mình. "Sáng trong rừng" của Đặng Thế Phong, Học Sinh 22 tháng 6 1939, tr. 7 Các nguồn chính (primary source) về cuộc đời Đặng Thế Phong cũng hiếm, nhưng một giai đoạn của đời ông được chứng minh bằng tư liệu là thời ông làm cho báo Học Sinh ("pour la jeunesse scolaire") do Phạm Cao Củng thành lập. Học sinh là những trang phụ lục của Tiểu Thuyết Nhật Báo dành cho giới trẻ được xuất bản từ 5 tháng 5 1939. Vì cảnh nghèo Đặng Thế Phong phải bỏ dở học hành ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật để kiếm sống. Ông được cái may là được tựa vào một người anh kết nghĩa Phạm Cao Củng và ông cũng đã cho nhạc sĩ này làm cho tờ báo mình. Tên Đặng Thế Phong xuất hiện trong số báo đầu tiên trong mục quảng cáo "những bài hát của nhạc sỹ trẻ tuổi Đặng Thế Phong đặt ra riêng cho các em nhỏ Học Sinh." Tôi cho lời đó chứng minh rằng Đặng Thế Phong là một người có kinh nghiệm tổ chức và dạy nhạc cho các em hướng đạo sinh, dạy các bài ca Pháp với lời Việt, và đã bắt đầu sáng tác ca khúc cho lứa tuổi ấy. "Sáng trăng" của Đặng Thế Phong, Học Sinh 24 tháng 8 1939, 8 Ngày 22 tháng 6 1939 bài ca "Sáng trong rừng" của Đặng Thế Phong được đăng trên trang Học Sinh. Bài ca này được "riêng tặng các bạn 'Hương đạo sinh' và Sói con'." Lời ca "Sáng trong rừng" tỏ ra nhiều xúc cảm và đắm mê bởi cảnh đẹp rực rỡ của bình minh - "Tâm hồn ai không say đắm cảnh rừng tuyệt với." Ông soạn một giai điệu có tính vui của hành khúc kèn lệnh, nhưng cũng có nét buồn của điệu rê / D thứ. Ban Kịch Học Sinh, Học Sinh 23 tháng 11 1939, tr. 14 Bài ca "Sáng trăng" được đăng trên báo Học Sinh ngày 24 tháng 8 1939. Theo nhịp "gai et rythmé" (vui vẻ và nhịp nhàng) Đặng Thế Phong soạn một ca khúc ngắn theo điệu re / D trưởng. Giai điệu này cũng có tính kèn lệnh dễ cho thiếu niên hát. Lời ca của "Sáng trăng" khuyến khích các em hướng đạo sinh vui lên để đỡ buồn nhớ khi cắm trại xa nhà. Kèm theo các sinh hoạt tòa soạn, báo Học Sinh cũng tổ chức những buổi văn nghệ. Trên trang 13 của số báo ngày 23 tháng 11 1939 có một tấm ảnh với Ban Kịch Học Sinh vừa biểu diễn ở Chợ Phiên Thanh Niên ở Hà Nội hai hôm 18 và 19 tháng 11 1939. Trong tấm ảnh ấy có ba người lớn và bẩy em học sinh. Bên trái là "anh Đặng Thế Phong đứng đầu ban âm nhạc." Còn hai người lớn khác thực hiện dàn cảnh cho ban kịch là "chị Nga" (tức Phạm Thị Trường, vợ của của Phạm Cao Củng) và Vũ Đức Toa (một nhà văn cũng có tên bút Muỗi Sài Gòn). Có bốn người trai trẻ cầm các nhạc cụ như phong cầm, banjo, ghi ta và violon. (Một chi tiết thú vị là người đứng trước chị Nga và cầm cây đàn banjo là Hà Đình Thau sau này được biết đến với tên bút Từ Linh là bạn thân của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn. Người thiếu nhiên đứng bên cạnh Đặng Thế Phong và cầm kèn phong cầm tên là Hà Đình Kim, chắc là anh của Hà Đình Thau). Báo Học Sinh không đăng nhiều thông tin về âm nhạc của ban nhạc thiếu niên này biểu diễn. Chỉ có một chi tiết là "hai em Nguyễn Bá Lộ và Hà Đình Thau đã rập ra cùng các bạn hát bài "Quay quanh, quay quanh", hòa với kèn accordéon, rất vui, như dục [giục] hết thẩy các người xem cùng đứng giậy, giắt tay nhau, ca hát và quay tròn..." Bài "Quay quanh" không biết có phải là một tác phẩm của Đặng Thế Phong sáng tác hay là một bài tây đặt lời Việt? Tấm cám, truyện của Phạm Cao Củng, tranh của Đặng Thế Phong, Học Sinh 9 tháng 5 1940, tr. 2 Tấm ảnh này chứng tỏ thêm một điều quan trọng là năm đó Đặng Thế Phong là một người nhạc sĩ có đủ trình độ để tổ chức và diễn tập một đội âm nhạc. Ông phải dạy bốn nhạc cụ cho bốn học sinh trẻ. Và trong tấm ảnh ta cũng được gặp một thanh niên đúng 20 tuổi, cao, khỏe, đẹp trai và ăn mặc lịch sự. Từ 26 tháng 10 báo Học Sinh bắt đầu quảng cáo một bài ca mới của Đặng Thế Phong. "Đêm thu" mới được đăng trên trang Học Sinh ngày 28 tháng 12 1939 trong số báo đặc biệt dành cho "các em gái." Lời ca của bài ca này cũng vẽ cảnh đẹp của thiên nhiên như "Sáng trong rừng." Buổi sáng thì xôn xao đầy hy vọng của một ngày mới, song ban đêm thì lại "im như mắc buồn." Khác với các bài ca hướng đạo sinh ngắn, "Đêm thu" là một bài ca trọn vẹn mà cũng chuyển điệu từ sol / G thứ sang sol / G trưởng. Các nghệ sĩ biểu diễn bài ca này từ xưa đến nay hay hát đoạn điệu thứ theo nhịp chậm rồi hát đoạn trưởng nhanh hơn. Nhưng, thực ra khi ghi bài "Đêm thu" trên trang báo Học Sinh nhạc sĩ đặt ra nhịp "tempo di valse moderato" nghĩa là toàn bài ca nên biểu diễn theo nhịp valse vừa. Khi đăng trên trang báo, "Đêm thu" đề tên hai tác giả -- "âm nhạc của Đặng Thế Phong" và "lời ca của Hoàng Thái." Hoàng Thái là ai vậy? Vai tháng sau Hoàng Thái cũng viết một bài giới thiệu mục mới của Đặng Thế Phong trên báo đầu năm 1940, như vậy Hoàng Thái là một người làm việc với báo Học Sinh. Trong Hồi Ký, thì Phạm Cao Củng cho rằng Nguyễn Trường Thọ, người chú họ của nhạc sĩ "là người đã đặt lời nhiều bản nhạc Đặng Thế Phong." Hoàng Thái có phải là Nguyễn Trường Thọ? Hay có thể Hoàng Thái chính là Phạm Cao Củng là người viết lời cho bài ca "Gắng lên chùa" mà được in trên trang tờ báo Tin Mới năm 1940. Trong quyển Hồi ký một đời người (1993), Phạm Cao Lũy đã trích dẫn những lời kể của Nguyễn Trường Thọ về thời gian đó. Ông Thọ nói rằng lời ca của "Con thuyền không bến" được viết khi hai chú cháu ở chung trong một nhà tranh tại trại hàng hoa Ngoc Hà.'' Ông Thọ hồi tưởng rằng ông viết những lời này do một "tình cảm nặng nề" của một mối tình đầu. Nguyễn Trường Thọ cũng cho rằng lời ca của bài "Vạn cổ sầu" (được phổ biến với tên "Giọt mưa thu") là của Đặng Thế Phong loạn lời với ông Thọ góp ý một ít. Công việc chính của Đặng Thế Phong ở báo Học Sinh sau một thời gian là vẽ tranh minh họa và tranh chuyện ký. Từ tháng 9 1939 các tranh của ông được xuất hiện trên trang báo với nhiều tên bút khác nhau như Phg, Levent (tiếng Pháp là cơn gió - tức phong), thephong, Tổng Phệ, và Khải Phong. Ông làm minh họa cho các tranh chuyện nhiều kỳ như Giặc cờ đen, Tấm Cám, và Cảnh Lâm, hồ sám (một chuyện mạo hiểm như Tarzan). Từ tháng 6 1940 thì nhiều kỳ của các tranh chuyện được ký tên Bình Phong. Không biết đây có phải là Đặng Thế Phong và họa sĩ Tạ Thúc Bình làm chung. Từ 12 tháng 9 1940 thì Tạ Thúc Bình thành người họa sĩ chính của báo Học Sinh và Đặng Thế Phong vẽ tranh ít hơn. Nhạc sĩ Hoàng Trọng, một người đồng hương của Đặng Thế Phong, đã kể cho tôi nghe rằng Đặng Thế Phong với Bùi Công Kỳ đã mở ra một "nhà hàng vẽ" ở Nam Định độ năm 1940. Thực ra Đặng Thế Phong phải làm nghệ thuật thương mại như một thợ vẽ tranh. Nhưng nói như thế không có nghĩa là ông thiếu tài năng hội họa. Học ở trường mỹ thuật thì ông biết luật phối cảnh, biết cách in đá. Làm tranh chuyện ông cũng phải biết phát triển các nhân vật. Nếu chưa phải là xuất sắc thì nghệ thuật vẽ của Đặng Thế Phong phải coi là chuyên nghiệp. Ông Jason Gibbs có bằng tiến sĩ về Lý thuyết và Sáng tác âm nhạc từ Đại học Pittsburgh, chuyên nghiên cứu âm nhạc Việt Nam. Bài viết gửi BBC được ông viết trực tiếp bằng tiếng Việt, mở đầu loạt bài sẽ đăng về các gương mặt nhạc sĩ Việt Nam.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 11, 2022 1:28:14 GMT 9
Đặng Thế Phong - sống và chết trước khi thời cơ đến (phần 2) Jason Gibbs Viết cho BBC Tiếng Việt 1 tháng 3 2017 Đầu năm 1940 Đặng Thế Phong soạn một mục giảng dạy những điều cơ sở về nhạc lý như cái gam, các nốt, khoa, trường độ, v.v. Như vậy Đặng Thế Phong có một trình độ âm nhạc Tây phương rất vững chắc. Các bài hát được chép ra rất đúng, và các nốt giai điệu hợp với luật hòa âm nhạc tây phương. Chắc người nhạc sĩ đã được đào tạo rất tốt ở trường dòng (và rất có thể Đặng Thế Phong từng theo đạo Thiên Chúa - em út của nhạc sĩ, Đặng Thanh Kim, là tín đồ Công giáo). Ngoài tài năng và nền học thức, Đặng Thế Phong cũng giữ một niềm đắm mê âm nhạc. Theo ký ức của Nguyễn Trường Thọ thì "Phong thích ôm cây lục huyền cầm nghêu ngao hát suốt ngày." Đặng Thế say mê âm nhạc đến hơi thở cuối cùng. Lúc lâm chung, ông xin em út của mình ca và đàn bài "Serenade" của Schubert cho mình nghe. "Sáng trong rừng" của Đặng Thế Phong, Học Sinh 22 tháng 6 1939, tr. 7 Báo Trung Bắc tân văn của 22 tháng 12 1940 có bài phê bình kịch Cái Vạ của Vũ Trọng Can biểu diễn hôm 16 tháng 12 tại rạp Olympia nói đến sự tham gia của một ca sĩ tên Thế Phong. Số cuối cùng của báo Học Sinh xuất bản 14 tháng 1 1941 báo cáo các thành viên của một báo mới có tên Chiếu bóng. Tên Thế Phong có mặt trong tòa soạn. Không biết tờ báo ấy có bao giờ xuất bản, nhưng ít lâu sau Đặng Thế Phong đã đi vào Nam để cố kiếm sống bằng cách dạy âm nhạc và vẽ pa-nô cho rạp chiếu bóng ở Nam Vang. Đặng Thế Phong - sống và chết trước khi thời cơ đến (phần 1) Tôi chưa thấy tư liệu nào nói ông mắc bệnh lao từ lúc nào, nhưng chính bệnh nhân Đặng Thế Phong là hình ảnh được trao cho chúng ta. Nhạc sĩ / họa sĩ Nguyễn Đình Phúc đến hội Trí Tri nghe ông hát và kể đến "một thanh niên, mặt xanh lướt như được nạn bằng sáp, đang vừa đệm ghita, vừa hát… Cái mặt sáp ong đã xanh lại càng xanh trắng bệch ra. Đặng Thế Phong ôm ngực ho, một cơn ho rũ rượi." Đến xem Đặng Thế Phong ở rạp Olympia Nguyễn Ngọc Oánh cũng nhắc đến một "hình ảnh ... đã cho tôi một ấn tượng không quên về nghệ sĩ tài ba ấy trong hoàn cảnh nghiệt ngã của lịch sử." Đặng Thế Phong qua đời ngày 2 tháng 8 1942 ở Nam Định, chết non như một Franz Schubert của Việt Nam. Nghệ sĩ tài hoa mệnh yểu Đặng Thế Phong để lại ba ca khúc vượt thời gian là "Con thuyền không bến," "Giọt mưa thu" và "Đêm thu." Với thêm ba ca khúc được nhắc đến ở trên thì tổng kết thì ông từng sáng tối thiểu là 6 ca khúc. Tôi biết đến thêm hai ba ca khúc khác nữa. Phạm Duy bàn đến bài ca "Sáng rừng" (khác với "Sáng trong rừng) trong những bài ông viết về lịch sử nhạc tiền chiến trong tạp chí Văn Học năm 1985. Tôi cũng có thêm thông tin về các bài ca "Đồ Sơn" (theo một bài viết của nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, một người khi còn trẻ cũng gửi bài viết cho tạp chí Học Sinh) và "Sầm Sơn (theo tư liệu Lê Hoàng Long). Khi còn sống "Con thuyền không bến" và "Giọt mưa thu," hai kiệt tác của Đặng Thế Phong, chưa được phổ biến rộng rãi. Nhưng ít lâu sau hai bài ca này được nổi như cồn và thành quen thuộc đối với giới yêu nhạc cải cách. Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam hiếm có bài ca được thu thanh, biểu diễn và phát thanh nhiều như hai tác phẩm ấy. Mặc dù đã chưa được thu thanh hay in làm bản nhạc, nhiều người từng sống những năm Đại Chiến thứ II (1941-1945) đều nhắc đến hai bài ca này trong hồi ký và khi trả lời phỏng vấn. Chắc chúng được dần dã phổ biến nhờ việc ghi chép vào các quyển sổ và nhờ chuyển miệng. Nhạc sĩ Vân Đông nhắc trong hồi ký Một trên gọi, một cuộc đời và tình yêu âm nhạc rằng ban nhạc của mình ở Quảng Ngãi từng hát bài ca ấy lúc bấy giờ. Giáo sư ngôn ngữ học Nguyễn Đình Hòa nhắc các bạn bè trẻ Hà Nội hát "Con thuyền không bến" với nhau. Nhạc sĩ Văn Ký cũng kể rằng nhóm âm nhạc của mình cũng biểu diễn "Giọt mưa thu" ở Thanh Hóa. Giáo sư nha khoa Nguyễn Thành Nguyên kể cho tôi nghe rằng khi sang Nhật du học lúc bấy giờ các nữ du học sinh cũng hát "Giọt mưa thu." Nghĩa là hai bài hát của Đặng Thế Phong đã đi vào đời sống của thế hệ đó rất nhanh. Những bài hát của Đặng Thế Phong, tuy ít, vẫn còn được hát đến hôm nay Mồng 3 tháng 9 1946, vài tháng trước kháng chiến bùng nổ, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tổ chức một buổi nhạc "để tiếp đón thính giả ngoại quốc." Buổi biểu diễn này có vai trò ngoại giao - các vị lãnh sự nước Anh, Mỹ, Trung Quốc và một số sĩ quan Pháp đến nghe. Mục đích của buổi này là trình bày tinh hoa của nền nhạc Việt để đất nước và dân tộc của mình được công nhận và tôn trọng. Chương trình của buổi biểu diễn được chia ra thành ba phần. Một phần là nhạc truyền thống Việt Nam (nhạc Huế). Trong phần thứ hai một dàn nhạc biểu diễn nhạc cổ điển tây phương trình bày một thể loại nhạc quen thuộc cho người nước ngoại đến nghe. Người Việt có khả năng chơi nhạc cổ điển cũng chứng minh rằng người Việt được am hiểu một thể loại nhạc quốc tế được coi như là đỉnh cao của âm nhạc nhân loại. Phần thứ ba gồm ba ca khúc của tác giả Việt sáng tác. Dưới sự điều khiển của Đinh Ngọc Liên, ban nhạc Vệ Quốc Đoàn và giọng hát vợ ông là nghệ sĩ Bùi Thị Thái thính giả nước ngoại được nghe bài "Thiên Thai" của Văn Cao và hai bài "Con thuyền không bến" và "Giọt mưa thu" của Đặng Thế Phong. Một điều tất nhiên là trong dịp này họ không thể thể hiện những tác phẩm "diệt thù," "phan thây uống máu" cho khách nước ngoại. Nhưng dù thế nữa ba ca khúc ấy được coi như sự gặp gỡ hài hòa của hai nền âm nhạc tây phương và Việt Nam. Các ca khúc của Văn Cao và Đặng Thế Phong lấy cảm hứng từ nhạc xứ Việt và được viết và trình bày theo phương pháp tây phương. Bài "Một buổi hòa nhạc tưng bừng" đăng trên báo Cứu Quốc ngày 5 tháng 9 1946 kết luận rằng các tác phẩm mới này "làm cho mọi người say sưa và đặt nhiều tin tưởng vào tương lai âm nhạc Việt Nam." Những năm đầu kháng chiến chống Pháp ca khúc của Đặng Thế Phong còn rất phổ biến rộng rãi và được hát như bình thường. Nhưng ít năm sau, lập trường văn hóa trong vùng khánh chiến thay đổi. Trong hồi ký Chuyện mình chuyện đời, nhạc sĩ / họa sĩ Nguyễn Đình Phúc có kể đến một nữ ca sĩ hát bài "Giọt mưa thu" với tiếng ghi ta "phóng khoáng và bay bướm" của nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đệm đàn theo. (Bùi Công Kỳ được đề tên là người viết lời trên bản "Giọt mưa thu" của Hoàng Mai Lưu xuất bản năm 1946). Nhưng trong chương sau của hồi ký ông, khi Nguyễn Đình Phúc lên chức làm "cán bộ lãnh đạo của nhà nước" thì ông lại cấm cô ấy hát "Giọt mưa thu" nữa. Việc cấm nhạc Đặng Thế Phong ở nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã kéo dài độ 40 năm đến 1989. Bị cấm không có nghĩa là biến đi. Nhiều người Việt đã giữ các bài ca ấy trong lòng mình - kể cả giữ lại cho tinh thần chiến đấu. Năm 1966 ở Vĩnh Linh, Nguyễn Đình Phúc lúc biểu diễn phục vụ lính chiến kể rằng các "anh giải phóng quân" cứ yêu cầu những bài ca lãng mạn xưa như "Con thuyền không bến." Chính trị viên quân đội bảo "các nghệ sĩ cứ hát" vì "chất dân gian và âm hưởng nhạc Việt Nam" trong các bài ca sẽ làm các người lính hăng hái chiến đấu. Hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh cũng kể về giá trị của một bài ca như "Giọt mưa thu" đối với một nhà văn của phe cũ như Nguyễn Tuân. Ông kể rằng có một lúc nhà văn này "vừa uống vừa khóc, vừa hát đi hát lại" bài ca "Giọt mưa thu." Bị phê phán là hát "khóc nhân tình" thì Nguyễn Tuân bác bỏ nói "mình buồn cho những kiếp người chịu oan khuất, buồn cho đời." Ở xứ Việt dưới Pháp quyền rồi sau 1954 ở nước Việt Nam Cộng Hòa thì nhạc Đặng Thế Phong lại được tha hồ phổ biến. Ba bài "Con thuyền không bến," "Đêm thu," và "Giọt mưa thu" được phát thanh nhiều. "Đêm thu" và "Giọt mưa thu" được nhà xuất bản Tinh Hoa in từ năm 1949. Ca sĩ Minh Trang đã thu "Con thuyền không bến" cho hãng đĩa Polyphon, Châu Kỳ thu "Đêm thu" cho hãng Philips, Văn Lý thu "Giọt mưa thu" cho hãng Oria. Các bài ca Đặng Thế Phong cũng được phát thanh và thu đĩa băng nhiều ở miền nam thời nước Việt Nam Cộng Hòa. Nhà xuất bản Diên Hồng in lại hai bài "Giọt mưa thu" và "Con thuyền không bến." Nghe ca sĩ Thanh Thúy hát "Giọt mưa thu" đã thành một nguồn cảm hứng cho Trịnh Công Sơn sáng tác bài ca "Ướt mi." Trong thời kỳ này bài tiểu sử đầu tiên về nhạc sĩ Đặng Thế Phong xuất hiện. Trên bìa sau của "Giọt mưa thu" (ẩn phẩm Diên Hồng năm 1964), Lê Hoàng Long cho lên một tấm ảnh một số chi tiết về đời nhạc sĩ mà ông trích từ tập 2 của của cuốn Nhạc sỹ Danh tiếng Hiện đại (hình như không xuất bản?). Sau khi nước Việt được thống nhất thì các bài hát Đặng Thế Phong bị cấm toàn quốc. Ngày 15 tháng 10 năm 1989 Cục Âm nhạc và Múa bắt đầu cấp phép cho các bài ca xưa được phép lưu hành. Ba bài ca của Đặng Thế Phong nằm trong đợt cấp phép lưu hành đầu tiên này. Thực ra quần chúng đã đi phía trước pháp luật. Tết 1988, Nhà hát Tuổi Trẻ ở Hà Nội cho biểu diễn "Giọt mưa thu" trong một chương trình "giới thiệu những nhạc phẩm đặc sắc trước va sau Cách Mạng Tháng Tám." Ngày 15 tháng 7 1988, nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu đã giúp cho Hội Âm Nhạc Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức một "chương trình thể nghiệm giới thiệu ca khúc trữ tình" với hai ca khúc Đặng Thế Phong tại Câu Lạc Bộ Thể dục Thể thao Bến Nghé. Khán giả rất đón mừng chương trình vì "vé bán sạch từ trước cả tuần." Các nhà phê bình âm nhạc của chính phủ Việt Nam tìm mọi cách giải thích ý nghĩa các bài ca xưa có vấn đề như các bài của Đặng Thế Phong. Bởi vì nhạc Đặng Thế Phong xuất hiện trước các biến cố 1945, như vậy nó phản ánh lên một xã hội Việt bị thực dân đô hộ. Theo lời ông Đào Trọng Từ thì "Giọt mưa thu" biểu hiện những người có tính mơ mộng, nhạy cảm sống trong một xã hội bế tắc. Nó gợi ra nỗi đau đớn của một thế hệ phụ nữ khóc trong sự phiền muộn của một nước nô lệ. Còn Nguyễn Viên thì "Con thuyền không bến … lênh đênh chỉ biết trôi theo dòng đời lạc lõng, không có lối thoát, chỉ có thở than…" Trương Quang Lục cũng thừa nhận rằng những ca khúc của "dòng lãng mạn" thời xưa "đã đạt một giá trị nghệ thuật nhất định" nhưng bị hạn chế về mặt "nhân sinh quan do điều kiện lịch sử cụ thể khi chúng ra đời." Năm 2000 Viện Âm Nhạc xuất bản một tác phẩm 1000 trang với chủ đề Âm nhạc mới Việt Nam: Tiến trình và thành tựu. Các tác giả của quyển này khen Đặng Thế Phong về sự nhạy cảm "trong việc diễn đạt nỗi buồn tê tái." Nhưng đây chỉ là "nỗi bơ vơ của một tầng lớp trung gian" là một thành phần xã hội "mất phương hướng trong cái biển cả của những xáo động lịch sử, đặc biệt là sau cơn khủng bố trắng những năm 1931-1935." Đặng Thế Phong có phụ thuộc về "tầng lớp trung gian" không? Điều đó khó xác nhận thế nào. Nếu sống lâu Đặng Thế Phong theo cách mạng, làm công chức văn hóa cho nhà nước không? Hay di cư vào Nam, xin tỵ nạn ở Mỹ? Ai mà biết được. Nhưng lịch sử Việt Nam đòi hỏi mỗi người phải chọn đúng một phương hướng. Các con đứa tinh thần của ông cũng bị biển cả đấm thùm thụp, nhưng rốt cục được vượt biên, vượt thời gian và sống sốt. Các bài viết về cuộc đời và tình nhân Đặng Thế Phong bắt đầu xuất hiện các tờ báo Việt vài năm sau khi các bài hát của ông được cấp phép hát lại. Năm 1991 báo Nhân Dân đăng bài "Đặng Thế Phong va người tình chung thủy" tựa vào một cuộc phỏng vấn em gái út của nhạc sĩ. Đặng Thế Phong được sinh 14 tháng 4 1918. Ông tiêu biểu cho các nghệ sĩ nghèo không được đánh giá cao và hưởng lợi lộc khi không còn sống. Một điều đáng tiếc nữa phải đợi đến thế kỷ 21 để Việt nam mới có luật vững chắc bảo vệ quyền tác giả âm nhạc. Theo Công Ước Berne thì bản quyền của một tác phẩm chỉ được đem thi hành đến 50 năm sau khi tác giả mất. Như vậy từ năm 1992 nhạc của Đặng Thế Phong đã vào phạm vi công cộng. Khi còn sống thì hình như Đặng Thế Phong không bị ai bóc lột mà chỉ có việc là ông sống và chết trước khi thời cơ ông đến. Dù sao thì các tác phẩm của ông vẫn rất gần gũi với các người yêu nhạc Việt. Ông Jason Gibbs có bằng tiến sĩ về Lý thuyết và Sáng tác âm nhạc từ Đại học Pittsburgh, chuyên nghiên cứu âm nhạc Việt Nam. Bài viết gửi BBC được ông viết trực tiếp bằng tiếng Việt, mở đầu loạt bài sẽ đăng về các gương mặt nhạc sĩ Việt Nam. Cập nhật ngày 6/3: Bản đầu tiên của bài viết ghi rằng em gái cố nhạc sỹ Đặng Thế Phong, bà Đặng Thanh Kim, đã mất năm 2016 mặc dù bà hiện vẫn còn sống. Sau khi được gia đình liên lạc, BBC đã đính chính chi tiết này trong bài.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 31, 2024 21:12:49 GMT 9
Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ tự nhận khuyết điểm trong sáng tác của chính mình trong bài báo năm 1963 Là người yêu nhạc, có lẽ không ai là không biết tới nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, tác giả của nhiều bài nhạc quê hương bất hủ như Bến Duyên Lành, Nắng Lên Xóm Nghèo, Đường Về Hai Thôn… hay các bài nhạc vàng Trăng Tàn Trên Hè Phố, Những Ngày Xưa Thân Ái, Đan Áo Mùa Xuân… Cuộc đời của ông là một chuỗi dài những sự kiện có phần bí ẩn, và sự nghiệp sáng tác, tư tưởng sáng tác của ông cũng để lại nhiều tranh cãi cho hậu thế. Những sự bí ẩn đó phần nào được giải mã qua bài viết về âm nhạc của ông sau đây, được đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1963. Trong bài viết này, nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ không ngần ngại chỉ trích những sáng tác của ông và đồng nghiệp thời đó, cụ thể là ông không hài lòng về một vài chi tiết trong ca khúc Bến Duyên Lành, Lúa Về Đêm Trăng, Nắng Lên Xóm Nghèo, và Tình Mùa Hoa Nở của chính mình, rồi một số từ ngữ trong các sáng tác nổi tiếng của Lam Phương, Nguyễn Văn Đông, theo ông, cũng không chuẩn với nốt nhạc, như bài Tình Anh Lính Chiến, Chiều Mưa Biên Giới. Cần nói rõ thêm rằng cách chỉ trích đó của Phạm Thế Mỹ mang tính xây dựng, chứ không phải là chê bai, nhằm mong muốn tân nhạc được phát triển, không bị đào thải khỏi dòng chảy của thị trường âm nhạc thời ấy. Học tập năm lên 6 tuổi, tôi ra Huế ở với anh tôi – nhà văn Phạm-Văn-Ký – để đi học. Xem bài khác Nhớ về tiếng hát Hải Lý một thời của làng nhạc hải ngoại thập niên 1980 Mùa Xuân trong ca từ của Phạm Duy Anh tôi thích âm nhạc và chơi vĩ cảm (violon) rất khá. Tôi học nhạc từ đấy. Tám tuổi, tôi chơi thạo măng-cầm (mandoline). 12 tuổi tôi học Tây ban cầm (guitare espagnole) – bằng cây “ghi ta” Vọng cổ sửa phím lại với chú tôi, và học lí thuyết với sư huynh Yersin ở trường Gagelin ở Qui-Nhơn, 14 tuổi, tôi đã viết nhiều ca khúc nhỏ mặc dầu chưa hề biết luật cân phương (carrure) là gì, đừng nói đến cách dùng những giai kết (cadences). Tôi nghĩ viết sao cũng được miễn là gây xúc cảm cho người nghe là đủ. Được vài anh em bạn khen và một người thân khuyến khích, tôi ra công học hỏi thêm nhạc lí sáng tác với một nhạc sĩ vĩ cầm, bạn thân anh tôi, và nghiên cứu thêm những nhạc phẩm của các nhạc sĩ nổi tiếng đương thời như: Đặng-Thế-Phong, Nguyễn-Xuân-Khoát, Văn Cao, Phạm-Duy, Lưu-Hữu-Phước, Nguyễn-Mỹ-Ca… để viết những nhạc phẩm vững vàng hơn… Sáng tác và Xuất bản: Về đây, Đà Nẵng, mới đầu tôi viết những bản nhạc theo thể dân ca phát triển để kiếm tiền thêm học nhạc. Tôi học hòa âm với ông Nguyễn-Phụng và bà Nguyễn-Khắc-Cung. Nhưng một vài nhà xuất bản cho loại nhạc này đã lỗi thời, khó bán. Họ nói: “Nhạc dân ca chính cống của Phạm-Duy còn bán xôn, huống gì nhạc của các anh!”. Rồi họ bảo: “Nếu muốn được xuất bản, được phổ biến trên đài phát thanh thì phải sáng tác loại mambo, boléro. Ca sĩ chỉ khoái hát loại này và quần chúng cũng chỉ mua loại này mà thôi!”. Tôi không tin, đi hỏi vài bạn thân thì đó là sự thật – tôi quên nói thêm là phải được vây cánh trên đài, nhạc phẩm của mình mới được trình bày, mà có được trình bày trên đài thì mới được nhà xuất bản mua! Bây giờ nhìn lại những đứa con bất đắc dĩ này, tôi thấy xấu hổ và giận mình. Vì thế tôi không ngạc nhiên lắm – nếu không nói là đau xót – khi thấy quần chúng có thái độ lơ là dẫn dần với Tân nhạc, chỉ vì chúng ta đã “sản xuất” những tác phẩm một cách cẩu thả, thiếu tự trọng, để chạy theo thị hiếu thương mại của một vài nhà xuất bản vô lương tâm, thiếu trách nhiệm, chỉ có biết trục lợi là trên hết. Tôi không có ý coi rẻ hoặc khinh dễ Tân nhạc, trái lại tôi rất thiết tha với nó cũng như quần chúng đã tin tưởng nơi nó. Tôi cũng muốn được nói ở đây tất cả những khuyết điểm, những thắc mắc của tôi vì bộ môn này – vì hiện tại chỉ có Tân nhạc là được phổ biến sâu rộng trong quần chúng — may ra tìm cho nó một lối thoát để khỏi phụ lòng tin tưởng của quần chúng đối với chúng ta — những nhạc sĩ Tân nhạc. Trước hết, tôi xin nêu ra đây một vài khuyết điểm chính mà tôi đã vấp phải một cách cố ý trong những nhạc phẩm đã xuất bản – cũng là khuyết điểm chung với nhạc sĩ tôi được quen biết mà tôi không tiện nêu tên ra đây: – Trong bài “Bến duyên lành” – đã xuất bản ra thu thanh vào dĩa – có 1 khuyết điểm chính không thể tha thứ được: a) Tôi đã dùng nhịp điệu “mambo” để diễn tả nhịp mái chèo bơi và nói lên nếp sống của đôi vợ chồng chèo đò nơi quê nghèo. Thực ra tôi cũng không ngu đến mức đó, nhưng nhà xuất bản muốn thế tôi phải nghe theo. (Vì tôi quá cần tiền để trả tiền cơm tháng). b) Tôi chưa hề hiết sông Đồng-Nai ra sao, thế mà tôi dám viết: “mai về ngược sông Đồng-Nai”... Tôi còn nhớ rõ tôi đã ngồi bên sông Sàigòn và đã nhìn chiếc chiến hạm của Mỹ để viết đoạn này!. Nghe Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết hát Bến Duyên Lành ,và trong những bản nhạc của tôi đã được xuất bản, đã được yêu cầu nhiều lần trên đài phát thanh Sàigòn và Huế: 1) Lời ca xây dựng yêu đời – để được đài cho phổ biến, nhưng nét nhạc thì ủy mị, sâu khổ… (“Lúa về đêm trăng” – âm cung mi thứ). 2) Lời ca của đoạn đầu và đoạn kết nói lên những tình cảm yêu đương của cá nhân, nhưng đến đoạn giữa tôi lại cố ý nhét vào một cách gò ép hình ảnh gian khổ hoặc hiên ngang của người lính chiến để che đậy những tình cảm lãng mạn trong toàn bài (“Tình mùa hoa nở”). Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết hát Tình Mùa Hoa Nở . 3) Nết nhạc gò ép theo tiết điệu – nên khi đặt lời ca tôi đã bị lệ thuộc vào nét nhạc, gieo vần một cách gò bó, nên khi hát lên nghe như hô vè: …đôi bướm vàng | nhởn nhơ | như quyến luyến và cô gái làng | ngẩn ngơ | mơ tình duyên… (Nắng lên xóm nghèo) . Trái lại,có những tác phẩm của một vài nhạc sĩ biết tự trọng, có căn bản, học tập vững vàng đã được phổ biến rộng rãi và mãi mãi in sâu vào lòng người. Trong số đó có anh Phạm-Duy, và một số tác phẩm của anh có nhiều bài hát mãi không chán, càng hát càng hay, càng thấy tha thiết hơn tình quê hương đất nước… Có sự thành công rực rỡ đó là nhờ anh đã sống thật, sống mạnh “trong giai đoạn gay go nhất của lịch sử”, cộng thêm vào đó là thiên tài của anh. Chúng ta không phải là thiên tài – dù theo định nghĩa thiên tài chỉ là một sự kiên nhẫn trường kỳ, những tác phẩm của chúng ta lại đầu thai không nhằm lúc, bị ảnh hưởng nhạc Âu Mĩ một cách tội nghiệp do những dĩa hát ở các bar, các rạp chớp bóng tung ra hằng ngày — thì ít nhất chúng ta phải lo thu thập một vốn liếng tối thiếu về nhạc lí trau giồi thêm về cổ nhạc, nuôi dưỡng hồn nhạc dân tộc để những tác phẩm của mình khỏi bị mất gốc, lai căng,Chúng ta phải học hỏi thêm ở sách vở, bạn bè (nếu không được đến trường),hay ở các tác phẩm của các nhạc sĩ ngoại quốc, có thể may ra những tác phẩm của chúng ta mới khỏi bị quần chúng đào thải một cách vội vàng, khinh dễ, hay ít nhất để khỏi mang tiếng là thất học, là kẻ chuyên bán rẻ nghệ thuật để sinh sống! Trình diễn Trong rừng nhạc lãng mạn, ủy mị, giựt gân… treo nhan nhãn ở các tiệm sách, tôi tìm không ra một bản để các em học sinh có thể trình bày hợp ca hay hợp xướng. Nếu có thì cũng là những tác phẩm cũ của các anh Phạm-Đình-Chương, Phạm-Duy, Lê-Thương… Ngay cả những bản đơn ca cũng khó tìm. Tôi đã thấy một em bé lớp tư của một trường công tiểu học ở đây lên Thông tin trình bảy bản “Kiếp nghèo” của LP — trong buổi phát thanh “Tiếng nói học sinh” – với một lối diễn xuất như người lớn: tay để lên quả tim, nét mặt đau khổ – khi hát đến câu: “Đôi khi muốn nói yêu ai nhưng lòng ngại ngùng”. Cũng như ban hợp ca trung học đã trình bày một cách gượng gạo, đáng thương, bài “Bức họa đồng quê” của VP trong buổi lễ phát thưởng cuối năm. Những tiếng “cha cha cha” xen lẫn với những câu: trời xanh xanh bao la, mây trắng trắng trắng xóa… Sau đó lại có cả điệu hò lơ “hò lớ hó lớ”… nữa! Thật là hổ lốn như một ly chè đặc biệt! Tôi ước mong sao nhạc sĩ chúng ta hãy nghĩ đến tương lai của các em, ra công sáng tác viết những nhạc phẩm hợp với tuổi trẻ, với tâm hồn trong trắng yêu đời của các em để khỏi có những sự lố bịch đáng trách như trên. Tôi cũng mong sao chúng ta ra công viết những bản hợp ca, hợp xướng có giá trị – như 3 bài: Hòn vọng phu của Lê-Thương, Hội trùng dương của Phạm-Đình-Chương, Con đường cái quan của Phạm Duy… để các ban văn nghệ học sinh trên toàn quốc có đủ nhạc phẩm để trình diễn trong những buổi phát thanh công cộng hay trong những buổi trình diễn văn nghệ ở học đường… …Trong khi tập hát cho các em, có một khuyết điểm – không biểu có phải là khuyết điểm không – mà các nhạc sĩ miền Nam và miền Trung thường vấp phải trong khi đặt lời ca cho các ca khúc. – Trong bài “Tình anh lính chiến” của LP: “xuyên lá cành trăng lên lều vải…”, chữ “vải” (dấu hỏi) viết dưới nốt Fa#, khi hát lên sẽ thành chữ “vái” (dấu sắc). – Trong bài “Chiều mưa biên giới” của NVĐ: “vầng trăng xẻ đôi…”, chữ “xẻ” (dấu hỏi) viết dưới nốt Ré cao, khi hát lên sẽ thành chữ “xé” (dấu sắc). – Trong bài “Nắng lên xóm nghèo” của tôi: “em ước mơ những gì…”, chữ “những” (dấu ngã) viết dưới nốt La thấp, khi hát lên sẽ thành chữ “nhừng” (dấu huyền). Trái lại, những nhạc sĩ miền Bắc nhờ phát âm đúng giọng khi nói nên khi viết lời ca họ không gặp trở ngại trên. Ví dụ: trong bài “Nương chiều” của Phạm-Duy. …Chiều ơi lúc chiều về rợp những nương khoai, trâu bò về dục mõ xa xôi ơi chiều… …Chiều ơi áo chàm về quẩy lúa trên vai, in hình về… (Theo ý chúng tôi nên thống nhất lối phát âm bằng cách theo lời phát âm miền Bắc để khi hát lên lời ca nghe được rõ ràng, dễ hát, dễ nghe…) Giáo dục âm nhạc Dân tộc ta chuyên sống về nông nghiệp nên phần đông đều nghèo khổ, không thiết tha mấy đến vấn đề trau giồi nghệ thuật. Ngay cả học sinh đến trường cũng chỉ lo học những môn chính để đi thi. Chúng ta cũng không trách được các em vì chúng ta thiếu phương tiện như máy hát, máy ghi âm, tranh ảnh, sách vở về nhạc sử… – riêng tôi đi dạy hơn 4 năm rồi mới sắm được một máy ghi âm, vài bài bản cổ điển Việt-Nam và một ít nhạc cổ điển Tây phương (theo chương trình nhạc sử) – thì làm sao thu hút các em say mê học nhạc được. Một điểm khác: nếu học sinh thích học nhạc thì mỗi tuần một giờ lại quá ít đối với chương trình nặng nề mà bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra. Đã thế những người có trách nhiệm lại quá khinh thường môn nhạc trong kỳ thi Trung học đệ nhất cấp. (Tôi đi chấm thi mấy lần và đã chứng kiến những cảnh giáo sử Toán hay Vạn vật hỏi Nhạc). Thật là học một đằng thi một néo! Riêng hai trường Quốc gia Âm nhạc ở Sàigòn và ở Huế thì chỉ chuyên đào tạo một số nhạc sĩ chuyên nghiệp cho mai sau, còn đối với quần chúng bây giờ thì chưa có ảnh hưởng mấy! Do đó sự hiểu biết về nhạc lí cũng như trình độ thẩm âm của quần chúng còn thấp kém. Vì thế nhạc cổ điển Tây phương – theo tôi – hiện nay hãy còn là một món ăn quá sang, quá xa lạ đối với dân tộc chung ta. - Nhạc Việt mai sau : * Cách đây mấy năm, trong bài giới thiệu những nhạc phẩm của tôi, một bạn ở báo “Lẽ sống” đã ghi rõ ước vọng của tôi: “Sân khấu nhạc Việt trong tương lai phải đi đến chỗ trình diễn những vở đại nhạc kịch”. Nếu chúng ta cùng đồng ý trên quan niệm: ca nhạc cải lương không còn giữ được truyền thống của nền nhạc cổ điển mà chỉ là một sự chắp nối cẩu thả, gượng gạo giữa nền nhạc cổ truyền và nền nhạc ngoại lai – những bản nhạc cổ điển Việt-Nam xen lẫn với những bản “cha cha cha”, “mambo”, “twist”… – thì sau bát bộ, chúng ta phải tiến đến sáng tác và trình diễn những vở đại nhạc kịch để kế tiếp – nếu không nói là thay thể – những vỡ tuồng cải lương sau này… Để đi đến chỗ tập cho quần chúng thưởng thức và ưa chuộng được những vở đại nhạc kịch, chúng ta phải dắt quần chúng đi từng bước qua nhiều giai-đoạn khác nhau. Trước hết chúng ta tập cho quần chúng nghe quen tai – họ thích cải lương vì tai họ nghe rành 6 câu… – những bản hợp ca, hợp xướng… rồi đến tiểu ca kịch (opérette) (loại này anh Lê-Thương đã thử thách nhiều nhưng chưa có tiếng vang mấy), sau cùng mới đến đại nhạc-kịch (opéra). Có thế, quần chúng mới khỏi bỡ ngỡ và sẽ làm quen dần với lối trình-diễn quá phức tạp và quá mới mẻ này. Tôi rất phấn khởi khi thấy giàn nhạc đại hợp tấu (orchestre symphonique) Sài-Gòn đã thành hình, vì sau này chính nó sẽ góp một phần lớn trong việc phổ biến và trình diễn những vở đại nhạc-kịch Việt-Nam. Tôi chỉ xin ước hai điều: a/ Mong sao có những buổi trình-diễn: độc tấu về các nhạc-khí, những buổi hòa nhạc, những ban hợp ca hoặc những vũ bộ… do các nghệ sĩ danh tài của các nước bạn đến trình diễn tại Sài-Gòn, Huế và những đồ thị khá lớn, như… Đà Nẵng để quần chúng có dịp thưởng thức những tinh hoa nghệ thuật của nước người (nhưng muốn được các nghệ sĩ ấy chiếu cố đến các đô thị của ta, như Đà-Nẵng chẳng hạn thì trước hết phải có một hí viện – đúng nghĩa của nó – được xây cất ngay tại đây. Hiện giờ ở đây chỉ có “khu giải trí” – nhà lao thời Pháp thuộc được phá đi để làm rạp hát – là nơi độc nhất để các đoàn ca nhạc thay phiên nhau đến trình diễn). b/ Mở cuộc thi sáng tác âm nhạc có tính cách quốc tế (như bên ngành Họa chẳng hạn), để khuyến khích và nâng đỡ các nhạc sĩ ra công sáng tác những tác phẩm có giá trị nghệ thuật lâu dài (những tác phẩm trúng giải sẽ được đem ra trình diễn trước công chúng và sẽ được Văn hóa vụ xuất bản). Đó chỉ là một điều ước! Sự mong ước đó có được toại nguyện hay không, lại là một chuyện khác! Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ – Tạp chí Bách Khoa 1963 Nguồn nhacxua.vn
|
|