|
Post by Huu Le on Nov 18, 2006 15:43:44 GMT 9
Phép nói và viết hỏi ngã Hồ Tường Phân nửa người Việt Nam, từ Thanh Hóa trở ra, về phương diện hỏi, ngã, nói và viết rất đúng, còn một phân nửa, từ Nghệ Tĩnh trở vào, nói không phân biệt hai thanh này và viết rất lầm. Sự trộn lộn hai thanh này thành một sẽ là một việc làm cho tiếng Việt nghèo nàn thêm, và làm cho lắm câu thành tối nghĩa. Người có ý thức không ai dám chủ trương một việc nông nổi như vậy. Mà phân biệt hai thanh, khi nói và viết, đối với người đàng trong, là một một vấn đề to: vấn đề hỏi ngã.
Mấy năm nay, đã có nhiều người nghiên cứu vấn đề này và đưa ra một luật, mà chúng tôi xin gọi là luật Nguyễn Đình, để nhắc nhở người đã nêu nó ra trước nhất. Cái hay - và cũng là cái dở - của luật Nguyễn Đình là để cho người đã khá giỏi tiếng Việt dùng được mà thôi. Đối với kẻ thiếu học, thì công dụng của nó rất ít.
Lại giá trị của luật ấy chỉ ở trong phạm vi chính tả. Người đàng trong, dầu cho đã thạo rồi, cũng không sao nói đúng được.
Muốn giải quyết đến cội rễ vấn đề này, ta hãy nghĩ xem: tại sao người đàng ngoài, dầu chẳng biết luật Nguyễn Đình, vẫn nói đúng và viết đúng hỏi ngã? Ấy bởi vì từ thuở mới học nói, họ đã nghe chung quanh họ, hai thanh này phân biệt rõ ràng. Vậy phương pháp của âm học, đối với mỗi người, và áp dụng cho tất cả, sẽ thành phương pháo giải quyết được vấn đề đến triệt để.
Dầu ta có thạo thông lệ này, hay thông lệ nọ, mà ta nói vẫn sau, thì trẻ em nghe ta nói sai, sẽ nói sai, ắt là vấn đề hãy còn mãi.
Việc đánh dấu đúng, tuy là cần chỉ là gáo nước để tưới trận lửa to, làm sao mà trừ đám cháy được? Còn nếu ta nhờ các thông lệ làm phương tiện riêng để phân biệt hỏi, ngã, hầu nói đúng, thì thế hệ sau nghe ta nói đúng, sẽ nói đúng. Rồi ít lâu, ở toàn cõi Việt Nam, sẽ không còn vấn đề nàỵ Chúng tôi soạn tập sách vấn đề giải quyết vấn đề hỏi ngã. Khi ai nấy đã nói đúng và viết đúng cả rồi, vấn đề sẽ không còn, sách sẽ hết cần, hóa thành vô dụng. Nên lòng cầu nguyện là được một ngày gần đây, sách sẽ không được dùng nữa, và chỉ dành cho những kẻ khảo cứu tài liệu lịch sử xem chơi mà thôi.
LÀM SAO BIẾT ĐƯỢC TIẾNG NÀO HỎI TIẾNG NÀO NGÃ
Phương Pháp Tự Nhiên
Khi ta biết cách nói rồi, muốn có thể phân biệt tiếng nào hỏi, tiếng nào ngã, thì nên theo phương pháp tự nhiên hơn hết, là học.
Phương pháp này đã đem lại những công hiệu rõ ràng. Nhiều người ngoại quốc, tuy nói tiếng Việt rất khó khăn, song đã chịu khó học cẩn thận rồi, thì nói, viết rất đúng hỏi ngã. Nhiều người đàng trong, chịu khó học, cũng nói được viết đúng như người đàng ngoài. Mà bằng chứng đích xác hơn hết là, cả một cõi Bắc Việt, ai cũng nói đúng nhờ học từ thuở bé ở nơi chung quanh mình.
Cái may của người đàng ngoài, là sự học này là một cái học thường xuyên, trong mỗi lúc nghe nói, trong mỗi lúc nói, mà người học thấy cực nhọc hay để tí công cố gắng nào. Chung quanh mình, cha, mẹ, anh, chị, bè, bạn, lối xốm, thảy là người thầy sẵn sàng dạy mình, và lại những ngưòi thầy dạy đúng phương pháp tự nhiên. Kết quả là lên năm, lên sáu tuổi, đứa bé đã học xong rồi, đến trường khỏi phải trở lại vấn đề.
Cái rủi của người đàng trong là không có trường học tự nhiên ấy. Ngay nhà trường chính quy cũng vẫn là một lớp học thiếu sót về vấn đề này. Thầy giáo nào có công, cũng chỉ dạy cho học trò đánh dấu đúng, khi viết. Chúng tôi chưa hề gặp một thầy giáo nào ở đàng trong đã dạy học trò nói thanh ngã, thanh hỏi bao giờ. Và cũng chớ nên trách họ, vì chính họ còn chưa nói được thay!
Vậy cần phải học, tuy trong những điều kiện khắt khe hơn, nhưng phải cố tìm tạo ra một hoàn cảnh gần như tự nhiên, và dõi theo một phương pháp tự nhiên. Hoàn cảnh ấy, là một nhóm người biết cố gắng nói đúng, viết đúng hỏi, ngã. Phương pháp ấy, là nên học thuộc lòng, không khác nào trẻ con mới học nói phải thuộc tiếng mới, không khác nào người ngoại quốc học nói phải học thuộc tiếng lạ.
Trong khi nói chuyện, nếu phải dừng trước một tiếng để suy nghĩ nên nói thanh nào, thì làm sao cho lời được suôn, lại còn nói chi đến việc trổ tài hùng biện? Trong khi viết, nếu phải dừng mỗi lúc để suy nghĩ nên đánh dấu nào, thì làm sao chép kịp lời của người, hay ghi cho kịp nguồn hứng của mình?
Học phải chọn sách. Học về hỏi, ngã, không có gì qua từ điển, tự điển, tự vi. Những người có tiếng là viết đúng chính tả, như Phan Khôi, Phan Văn Hùm, thường thú nhận rằng không có dụng cụ nào hơn là tự điển để tra cứu, mỗi lần trí nhớ của họ hơi lờ mờ. Ngày nay, những từ điển, lấy tiếng Việt làm nền để cắt nghĩa và điển chế tiếng Việt, thật là khó tìm. Một vài quyển hãy còn lưu hành, nhưng lại rất cẩu thả về vấn đề chính tả.
Học trong tự điển là một việc rất mau chán. Vì vậy mà cần có một lối học mau lẹ, lại có nhiều kết quả. Lối học thực tiễn này dựa vào những nhận xét sau đây:
Trong tiếng Việt, tiếng thanh hỏi nhiều hơn tiếng thanh ngã. Vậy ta học trước hết những tiếng thanh ngã, ắt ít tốn công hơn. Còn tất cả những tiếng nào thừa lại, là to cho thanh hỏi.
Trí nhớ muốn được chắc chắn, cần nên vận dụng tất cả các cơ quan, tai nghe, mắt nhìn, tay viết. Phần lỗ tai đã được chú trọng rồi. Còn nên cho quen mắt, bằng cách đọc kỹ và nhiều những sách đánh dấu đúng, những bản viết tay đánh dấu đúng. Và nhất là tập đánh dấu cho quen mắt, quen tay như người đàng ngoài, dấu hỏi rõ ràng vẽ hình kéo xuống, sau khi đã vòng tròn, dấu ngã rõ ràng kéo lên, sau khi đã vòng tròn. Tay, mắt, tai hiệp nhau làm cho phần máy móc của trí nhớ được vận dụng đầy đủ, thì sự nhớ càng chắc.
Rồi cũng phải làm cho phần thông minh của trí nhớ làm việc, để tập luyện và để củng cố những điều đã học được với một cách máy móc. Vậy cần phải suy nghĩ, để tìm cái lý của sự việc (nghĩa là cái lẽ vì sao phải đánh dấu ngã) và những liên quan của các việc. Đây là một công cuộc đòi lắm hiểu biết. Vậy xin xét ở chương sau.
Phương pháp bác học
Phương pháp bác học này đòi hỏi nhiều hiểu biết về ngữ âm học, để áp dụng những định luật sự biến di của âm thanh, và về từ nguyên học, để tìm tòi gốc rễ của mỗi tiếng.
Ngữ âm học và từ nguyên học là hai khoa rất khó. Ở Âu Mỹ, vào trường đại học, người ta mới khởi sự cho học các khoa này, còn từ bực trung học trở xuống, chỉ nói cho biết thoáng qua thôi. Mà khi đã học xong rồi, phải có óc tìm tòi, khiến suy diễn mới tự mình khảo cứu thêm được. Vì vậy mà phương pháp bác học được nhắc đến sau đây không phải để cho ai cũng dùng được.
Đối với tiếng Việt, hai định luật sau đây của ngữ âm học giúp cho chúng ta rọi nhiều tia sáng và vấn đề hỏi ngã:
Những âm thanh thường có xu hướng có gần tính chất với những âm thanh đi cặp với mình. Ấy là luật thuận thinh âm
Những âm thanh thường biến chuyển ra những âm, thanh có gần tính chất với mình.
Ở đây không phải là để khảo cứu về ngữ âm học, nên xin phép không dừng lâu nơi hai luật này, mà chỉ áp dụng chúng nó vào vấn đề hỏi ngã mà thôi.
Do theo sự khảo cứu ở phần thứ nhất, ta thấy rằng thanh hỏi ở vào bực nhất, ta thấy rằng thanh hỏi ở vào bực bổng. Vậy luật thuận thinh âm mách cho ta biết rằng nó thường đi cặp với những thanh hỏi, ngang, và sắc là những thanh gần tính chất với nó. Ví dụ như:
Hỏi đi cặp với hỏi: bẩn thỉu, mỏng mảnh Hỏi đi cặp với ngang: thẩn thơ, mơn mởn Hỏi đi cặp với sắc: khỏe khoắn, lấp lửng
Còn thanh ngã ở vào bực trầm, gần với những thanh huyền, nặng. Vậy luật thuận thinh âm mách cho ta biết rằng nó thường đi cặp với những thanh ngã, huyền, nặng là những thanh có gần tính chất với nó. Ví dụ như:
Ngã đi cặp với ngã: bãi hãi, lẽo đẽo Ngã đi cặp với huyền: bão bùng, hiền ngõ Ngã đi cặp với nặng: nhão nhẹt, chậm rãi
Nếu đảo ngược tính cách trên, chúng ta có thể nêu được cái thông lệ thực tiễn để tìm tiếng nào có thanh ngã (luật Nguyễn Đình)
Tiếng có thanh ngã là những tiếng đi cặp với tiếng thanh ngã, nặng hay huyền
Tuy nhiên, thông lệ này có rất nhiều ngoại lệ. Độc giả sẽ thấy rằng số ấy không phải là ít, và phương pháp bác học, tuy đòi hỏi rất nhiều hiểu biết và suy nghĩ, vẫn không bằng phương pháp tự nhiên.
Khoa từ nguyên học, áp dụng vào tiếng Việt, cho ta biết rằng những tiếng họ hàng, hoặc biến chuyển ra, thường có những thanh gần với thanh cội rễ.
Như ba thanh ngang, sắc, hỏi biến chuyển qua lại với nhau. Ví dụ: chưạ..chửa; miếng...miểng; cảnh...kiếng; chẳng...chăng; thể...thế
Còn ba thanh huyền, nặng, ngã, biến chuyển qua lại với nhaụ Ví dụ: rồị..rỗi, chậm...chẫm; cữụ..cậu; lỡ ... lợ; cũng....cùng.
Nếu đảo ngược tính cách này, chúng ta có thể nêu được cái thông lệ thực tiễn để tìm tiếng nào có thanh ngã
Tiếng có thanh ngã là những tiếng do tiếng thanh ngã, nặng, huyền biến chuyển ra
Ngoài ra còn những tiếng Hán Việt mà cách phát thanh theo những định luật phiền tạp, và sự áp dụng các định luật ấy chưa chắc gì đơn giản hơn là theo phương pháp tự nhiên là học ngay cho thuộc lòng. Lại các định luật này có rất nhiều ngoại lệ, mà nhớ cho được và cho đủ, cũng cần phải học thuộc lòng. Vậy thì, làm thế nào, vẫn khó tìm một phương pháp, duy lý dễ dàng, cho vừa tầm thực dụng của bình dân.
Tốt hơn là dùng phương pháp tự nhiên, đã dễ dàng, còn đem lại nhiều thành tích tốt đẹp.
Tuy vậy, những định luật kể trên vẫn có giá trị là những kim chỉ nam cho những nhà khảo cứu, để tìm tòi chính tả và điển chế tiếng Việt. Giá trị của nó là giá trị của một phương pháp bác học, và chỉ có giá trị ấy trong địa hạt của khảo cứu. Cố đem ra ngoài địa hạt ấy và biên thành những thông lệ thực tiễn, chưa ắt là hạp với kinh nghiệm của khoa sư phạm.
Trái lại, nếu ta đã dùng phương pháp tự nhiên mà học thuộc lòng rồi, lại áp dụng thêm phương pháp bác học để khảo chính và củng cố trong trí nhớ những điều đã học được, thì là một việc thêm hay.
Đặc sắc của khoa học không phải là dừng nơi một phát kiến nào, mà ở nơi sự tìm tòi và phát kiếm thêm mãi. Vấn đề hỏi ngã không phải ở trọn trong luật Nguyễn Đình và luật tứ thinh.
Đứng vào một sở cậy khác, rọi một nhấn quang khác, chắc chắn sẽ tìm thấy việc khác có thể giúp cho ta hiểu rõ thêm vấn đề.
Như có người (Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Tuân, Thế Lữ...và chúng tôi) nghĩ rằng tiếng Việt nam là một tiếng "nhạc ý" (nghĩa là dùng âm thanh cao, thấp, dài, ngắn mà diễn ý), khác hơn tiếng Tàu là một tiếng "hội ý" (nghĩa là dùng nét vẽ mà tượng ý). Thế thì, hỏi hay ngã, tất phải có quan hệ với ý của tiếng dùng. Nhắc đến giả thuyết này, chúng tôi chỉ có ý mách rằng có thể khảo cứu và suy luận thêm về vấn đề hỏi ngã, chớ chưa định ý lập một cái luật nào mới.
Độc giả nên nghiên cứu bằng thuật dùng thẻ (fiche). Thẻ ấy là những mảnh giấy rời nhỏ. Trên mỗi thẻ, ta nêu to một tiếng dấu ngã, kế đến những điều gì mà ta cần chép để nhớ (nghĩa tiếng, gốc tiếng, luật về ngữ âm học) và những nhận xét hay giả thuyết riêng của ta. Khi có đủ bộ rồi, ta chịu khó quy nạp những nhận xét, biết đâu ta chẳng tìm được cái gì hay đẹp về vấn đề?
Hồ Tường (Paris, đầu mùa hè 1950)
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 10, 2011 16:58:08 GMT 9
Viết cho đúng hỏi ngã là một vấn đề không đơn giản, làm nhức đầu một số người, đồng thời lại quá dễ dàng đối với một số người khác. Có người không biết tại sao chỉ có hai dấu mà mình không làm sao nhớ được, người khác lại không thể tưởng tượng được lại có loại người không nhớ nổi hai dấu này. Người khác không cần thắc mắc, chỉ dùng một dấu, tới đâu thì tới, do vốn dễ dãi với mình, nghĩ rằng chắc không sao đâu, ai mà để ý. Vốn không chuyên môn về ngôn ngữ học- viết hỏi ngã còn chưa thông-nhưng thấy các sách chưa nói ra hết các khó khăn của hỏi ngã, vì đa số viết theo nhãn quan của người miền Bắc, quá rành về chính tả. Khi dạy Toán, người học toán dở thường dạy hay hơn những thầy quá giỏi về toán, vì họ hiểu rõ những sự khó khăn, chật vật của học trò. Bài này viết, theo cái nhìn của phương Nam, một phần dựa theo các thắc mắc do thân hữu đề ra, là bài khởi đầu trong số nhiều bài về thanh điệu tiếng Việt. Vấn đề: Viết sai hỏi ngã vì là dân trường Tây Nhiều người cho là tại vì học chương trình Pháp nên viết tiếng Việt sai chính tả. Giải thích: Các nhà văn tiền chiến, như nhóm Tự lực văn đoàn, ai mà không học trường Tây, thế mà họ viết tiếng Việt đâu có sai. Vậy không phải chỉ có Tây, mà cả Ta cũng thế. Vấn đề: Chữ thông thường dùng hằng ngày mà cũng viết sai Nhiều từ, nghe hằng ngày cả chục lần, nói hằng trăm lần, đọc hằng chục lần, viết hằng mấy lần, bị sửa sai hằng ngàn lần mà chứng nào tật ấy, sai vẫn cứ sai hỏi ngã. Giải thích: Tại sao tiếng Anh, tiếng Pháp chữ nào cũng dài thoòng, âm tiết kỳ lạ, nói giọng khịt mũi (Pháp), ưỡn ẹo như bóng (giọng Ăng lê), cà giựt như xe thổ mộ (giọng HongKong), cà xịt như xe lửa chạy (giọng Nga), rồ rồ trong cổ họng như bị hen suyễn (giọng Bắc Mỹ), líu lo dính cả lưỡi (giọng Japan trong phim Monkey magic), giọng Si Hà Nút của một số vùng VN, mà ít khi quên, trong khi chỉ có hai dấu quèn mà không nhớ. Thế nghĩa là thế nào? Lý do là tiếng Anh Pháp không có dấu, chỉ cần nhớ âm tiết, vì thế còn ráng nhớ được, còn hỏi ngã thì chỉ khác tần số, mà tần số có thể bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố, nên rất khó nhớ, phải nói là không thể nhớ nỗi mới đúng. Vấn đề: Học càng cao càng dốt hỏi ngã Giải thích: Chính tả là môn bắt buộc ở tiểu học, nên ai cũng phải ráng nhớ, không nhớ thì bị ăn hột vịt lộn, nhưng khi lên Trung Học và Đại học vì còn rất nhiều môn khác để học, nên chính tả trở thành thứ yếu, nhất là hỏi ngã. Chính cả mấy thầy môn Văn không chấm điểm hỏi ngã, nên học sinh từ từ quên hết vốn liếng ở Tiểu học. Lên Đại học lại càng thoải mái hơn nữa. Tiến sĩ, Thạc sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư và cả giáo sư, không-Bắc, mà viết không chính tả, và nhất là sai hỏi ngã, mới là điều kỳ lạ. Vài công ty ở Saigon, khi tuyển người, bắt làm đơn viết tay để kiểm soát chính tả. Viết sai chính tả là cho vào thùng rác vì bị nghi ngờ về trình độ. Như vậy là chỉ có người Bắc, người mới vừa học hết tiểu học là được hưởng lợi, còn dân khác tốt nghiệp Đại học coi như ra rìa. Công ty có cơ bị sập tiệm vì nhận người không đủ trình độ. Vấn đề: Không thể nhớ được hỏi ngã. Vì không nhớ hỏi ngã nên có người cho mình có trí nhớ kém; có người cho là bộ nhớ (memory) của mình bị trục trặc, không chịu lưu giữ dữ kiện; có người cho là tại già trở nên lù khù; có người nghi ngờ mình mắc bịnh si khờ người già. Giải thích: Không nhớ không phải tại mình già, mà tại vì hỏi ngã quá phức tạp không một ai có thể nhớ hết được, trừ phi là người Bắc. Có lời khuyên các bạn, nhớ được tới đâu hay tới đó, nhưng đừng cố gắng thái quá có cơ đi nhà thương Chợ Quán. Vấn đề: Sách chỉ dẫn hỏi ngã có giúp ích nhiều không? Giải thích: Hài thanh để viết đúng các từ láy được một nhà thơ tóm tắt bằng hai câu thơ sau đây: Chị Huyền vác nặng ngã đau Anh Sắc không hỏi một câu được là. Chỉ có 4 từ mà phải đặt thơ để nhớ, thế thì hằng trăm, có thể lên cả ngàn từ khác, thì phải giải quyết như thế nào đây, chẳng lẽ phải đặt thơ kiểu Lục Vân Tiên? Khi đã nói đến mẹo tức phải ngắn gọn, chớ viết nguyên cả một cuốn sách vài trăm trang để chỉ dẫn hỏi ngã cho thiên hạ thì còn gì là mẹo, sách nghiên cứu thì có. Người viết sách qui tắc hỏi ngã không thấy được cái khó khăn của người miền Nam, không biết được phương pháp tân tiến để học một sinh ngữ, không am tường phát âm miền khác, nên nêu ra hằng lô qui tắc, hằng trăm từ có hỏi ngã phải học thuộc lòng, và tin rằng ai cũng nhớ được. Không ai có thể nhớ được nhiều như thế. Cứ cho là nhớ được đi, nhưng nhớ được bao lâu, vài ngày hay vài tuần? Vấn đề: Software sửa chính tả ra sao? Giải thích: Có khá nhiều software khá hay để sửa chính tả tiếng Anh, nhưng có rất ít cho tiếng Việt- có thể đếm được trên đầu ngón tay. Hơn nữa lại không đáng tin cậy lắm vì nhiều từ sửa trật lất, có lẽ có ít chuyên gia chú trọng đến tiếng Việt, hay cho tiếng quá dễ học, học chừng hai tháng là viết được ngay, nên không cần ba cái phần mềm lỉnh kỉnh này. Vấn đề: Dùng tự điển để tra hỏi ngã được không? Tự điển cũng không 100% chính xác. Có khi cùng một từ mà tự điển này viết khác tự điển kia. Tự điển, kể cả tự điển do chính quyền phát hành, thiếu các từ được cho là địa phương (miền Nam, Trung), các từ kỹ thuật hiện đại, các tiếng lóng, các tiếng Tây, từ Internet, phone text, phim tập… Tự điển cũng chỉ là một trong những phương tiện để viết chính tả, nhưng tự điển cũng không thuận tiện cho lắm, vì quá chậm, cứ viết một chút lại phải tra tự điển mất hết mươi phút, như thế đâu còn hứng mà viết. Vấn đề: Cứ theo giọng nói mà viết hỏi ngã. Có người cho rằng viết hỏi ngã rất dễ, cứ lần theo giọng người ta nói, từ nào lên giọng là dấu ngã, từ nào xuống giọng là dấu hỏi. Giải thích: Nhưng làm thế nào khi viết luôn luôn có người đứng kề bên để nhắc tuồng, không lẽ mình đi đâu cũng có một ông kè kè đi theo như mật vụ? Mà ai nhắc? Ông này là người Trung hay Nam thì không khá hơn. Vấn đề: Hỏi và ngã khác nhau ra sao? Giải thích: Ít ai phân biệt rõ ràng hỏi ngã khác nhau như thế nào. Đi hỏi mấy ông bạn thân người Bắc thì mỗi người trả lời một khác. Các đồ biểu diễn tả thanh sắc phát xuất từ miền Bắc cũng không cho ta một ý tưởng nào rõ ràng, vì rất lờ mờ, sai sót, và mỗi nơi trình bày một khác. Các mẫu ghi âm giọng nói từ Internet thì cũng không đem đến kết quả khả quan cho lắm, vì khác đây là phát âm lý tưởng, chỉ có trong một nhóm nào đó trong quá khứ, khác với phát âm hiện tại của người Hà Nội cũ và mới. Đa số cho rằng tiếng có dấu (~) thì có âm dài và cao, tiếng có dấu (?) âm ngắn và gọn. Dấu ngã là falling-rising tone, nghĩa là tần số giảm xuống thấp, để rồi trồi lên cao hơn cả sắc, nên thanh sắc bắt buộc phải lơ lửng coi như không dấu. Dấu ngã có cuối tăng cao và creaky, hơi khác dấu hỏi miền Nam vì dấu này ngắn và thấp hơn sắc.Thí dụ bã phát âm đúng phải là bà a ạ Á (creaky, đột ngột dừng lại và âm độ to lên). Thanh ngã kiểu này có thể là rất hiếm vì dò hỏi mấy anh bạn thân người Bắc thì người nào cũng ngơ ngác. Dấu hỏi miền Bắc là low falling-rising tone nghĩa là từ thấp (huyền) xuống thấp hơn nữa rồi bật lên một chút. Tần số thấp thì phải phát âm từ trong cổ họng nên cường độ quá nhỏ, coi như cái đuôi bị nuốt mất. Vì rất khó phát âm và không đủ thời giờ kéo dài nên thanh hỏi nghe gần như nặng. Bị lấn chỗ, nặng phải trồi lên trở thành không dấu. Thanh bả, đúng phát âm lý tưởng miền Bắc, phải là bà ạ á, nhưng đa số phát âm thành bạ. Câu “Ông từ Tư tự tử” nghe gần như là “Ông tư Tư tư tự”. Xáo trộn hỏi ngã không thay đổi nghĩa Khi người Bắc nói, nhiều từ có thể bị đổi tông. Nếu lên giọng là ngã, xuống giọng là hỏi, vì bị ảnh hưởng bởi các âm đứng kề bên, bởi tâm trạng người nói. Vui hay buồn, nghiêm trọng hay thư thả, thủ thỉ thì thầm hoặc la hét, đều có ảnh hưởng đến âm điệu, và như thế làm ảnh hưởng đến độ trầm bổng của tiếng nói. Hơn nữa, các thanh điệu miền Bắc hiện nay đều lơ lửng, nên có thể biến đổi y như tiếng BK, nghĩa là hài thanh, chẳng những áp dụng cho từ láy, mà còn áp dụng cho hầm bà lằng thứ khác. Phần đối thoại dưới đây nghe lỏm được, xin đừng sửa chính tả vì cố ý viết theo giọng nói, dấu ngã là lên tông, dấu hỏi là xuống tông. Ăn trộm, nói khẽ với đồng bọn, xuống giọng: Mầy có mang theo cái xà beng để mở cổng không hả? Bà chủ nhà la lên: Thằng nào muốn mỡ cỗng nhà bà thế hỡ? Đòi nợ, lên giọng: Mày có trã tiền cho tau không hã? Con nợ xuống giọng năn nỉ: Đại ca cho em mai trả được không hả? Buổi sáng vợ nói với chồng: Cởi tã cho con rồi chữa? Tối lửa tắt đèn, vợ nói với bồ: Muốn cỡi thì cởi nhanh lên, làm gì như là rùa vậy hã? Bồ: Khẻ chứ, cởi nhanh thế nào được nhẻ? Phân biệt hỏi ngã không cần thiết Lý do duy nhất được nêu ra, để bênh vực cho việc duy trì hỏi ngã, là chúng làm phân biệt từ này với từ kia, như lẽ khác lẻ, bả khác với bã. Lập luận này xem ra không vững chắc cho lắm, vì nói sai hay viết sai hỏi ngã người ta vẫn hiểu. 1. Nói: Ngay cả miền Bắc cũng phát âm khác nhau, dân Hà nội xưa khác Hà Nội nay, dân không-Ha nội lại khác dân Hà nội, Hà nội di cư khác Hà nội xưa…Không thể bắt người ta viết theo một nhóm nhỏ dần dần bị tuyệt chủng (theo cuộc khảo sát của Edmondson, chỉ có 50% dân miền Bắc nói đúng hỏi ngã). Hỏi ngã không cần thiết vì dân Hànội nói người không-Hà nội vẫn hiểu, mặc dầu hỏi ngã phát âm khác nhau. Lý do là một từ sẽ làm sáng tỏ bằng các từ kế bên, như trường hợp chữ viết. Người miền Nam, chỉ dùng thanh hỏi gần như thanh ngã, nói chuyện người Bắc có hiểu không? Vẫn hiểu như thường, có khi còn hiểu rõ hơn khi nghe vài vùng ở miền Bắc, như nghe dân đảo Cát bà, người Bắc di cư nghe dân Hànội ngày nay. Nhớ lại hồi xưa khi học lớp năm, khoảng 1948, thì đã có bạn thân là người Bắc, con của dân Bắc kỳ 30 cạo mủ cao su. Tụi này nói chuyện với nhau rất bình thường, không một ai nói là không hiểu, và cũng không phân biệt Bắc hay Nam, chỉ hơi lạ là có một thằng bạn nói N thành L và ngược lại, tuy lạ tai nhưng vẫn hiểu như thường. Hỏi quê ở đâu thì trả lời là Hải Dương, ngày nay mới biết là ở vùng biển người ta hay nói như thế. Xem ra nói lộn xộn hỏi ngã cũng không sao. 2. Chữ viết: Nếu viết sai hay cố ý xáo trộn hỏi ngã thì người ta có hiểu không? Vẫn hiểu như thường vì khi đọc, ta không mò từng chữ, nghiên cứu từng dấu một, mà lướt thật nhanh và bộ óc tự động đón nhận các thông tin. Đọc một chút là chúng ta nhập thần, hòa mình vào trong bối cảnh, vào các diễn biến, vào các nhân vật, và quên hết sự việc xung quanh, đôi khi tưởng mình là nhân vật chính. Nếu đọc mà chú ý đến chính tả, văn phạm, hỏi ngã, chấm câu thì sẽ bừng tỉnh ngay lập tức. Xin giải thích một cách tỉ mỉ hơn tùy theo từ đơn, từ kép hay câu. Từ đơn: Đúng là hỏi ngã sẽ làm phân biệt từ đơn với nhau. Bả khác bã, bảo khác bão, bẩy khác bẫy, bỉ khác bĩ, bổng khác bỗng, võ khác vỏ, đẻ khác đẽ, kĩu khác kỉu, đã khác đả. Nhưng sự phân biệt này không thật cần thiết vì: - Từ láy, không mang một nghĩa nào cả, thì cần gì phải phân biệt hỏi với ngã? - Từ đơn chỉ có một trong hai dấu cũng không cần phân biệt. Ta thấy có từ phở nhưng không có phỡ, có từ giữ nhưng không có giử, có phẫu nhưng không phẩu, có cả nhưng không cã, có tủy nhưng không tũy. Vì chỉ có một dấu nên nếu có viết sai cũng không làm cho nhầm lẫn được với cái gì khác được. - Từ đơn ít khi được sử dụng đơn lẻ, trừ trường hợp như bảng chỉ đường cần phải vắn tắt như Ngừng, Đi, Chạy, hoặc là từ đơn trong tự điển Việt Anh, mà lỡ có viết sai hỏi ngã, cũng không nhầm lẫn được vì đã có tiếng Anh kề bên. Hồi xưa, thỉnh thoảng tại ngã tư có bảng “ Được phép quẹo phải khi đèn đỏ” dài loòng thoòng. Thắc mắc sao lại viết quá dài trên một bảng chỉ đường bé tí teo-không có trùng ngôn hay trùng ngữ, kể cả khi viết “sông Hồng Hà”, như một học giả gạo cội đã nêu ra. Khi có dịp sẽ bàn đến. -Được chớ, “Đèn đỏ được quẹo phải”. -Có thể thu gọn hơn “Đỏ được quẹo phải”, mà không sợ nhầm lẫn vì tại ngã tư thì chỉ có đèn mới đỏ thôi. -Có thể ngắn hơn chút nữa không? -Được chớ, “Được quẹo phải”, vì đèn xanh là đương nhiên, còn đèn đỏ là được phép, cả hai trường hợp đều đúng. -Có thể thay đổi chút xíu nào nữa không? -Được, “Được quẹo phãi”, vì chỉ có một từ mang dấu hỏi nên lỡ có viết phãi cũng không sợ nhầm lẫn với cái gì khác. Dùng dấu hiệu thì gọn nhất Bàn ra hơi xa, xin tiếp tục vấn đề còn đang dở dang. Từ ghép: không cần phân biệt hỏi ngã, vì không thể nhầm lẫn được nhờ vào từ ghép, mà các từ này chiếm đa số, khoảng 95% tiếng HV và 70% tiếng Nôm. Bả chuột, nếu có viết sai thành bã chuột đi nữa, thì làm thế nào nhầm với bã mía cho được. Tương tự, bảo bối khác giông bão, đòn bẩy khác bẫy thú, thô bỉ khác bĩ cực, bổng lộc khác với bỗng nhiên, con đỉa khác cái đĩa, máy đẻ khác đẹp đẽ. Cũng có trường hợp, nhưng rất hiếm, là từ ghép nói sai sẽ làm lẫn lộn với từ khác, như chẳng lẽ và chẵn lẻ. Câu: hỏi ngã không cần thiết vì toàn bộ sẽ bổ túc cho nhau. Câu “chẳng lẽ anh ta chơi chẵn lẻ” dẫu cho có đổi thành “chẵn lẻ anh ta chơi chẳng lẽ” thì tin chắc là ai cũng hiểu được. Mỗi từ sẽ được làm cho rõ ràng hơn nhờ từ kề bên, nhờ vào một phần hay nguyên một câu. Viết không dấu trên Internet còn ráng đọc được, huống hồ là chỉ sai hỏi ngã. Viết sai âm thì khác. Nói “en không en tét đèn ngầu chừa thượng đứa” thì không ai hiểu gì cả. Cứ thử tưởng tượng chữ QN, dùng để ghi phát âm của dân miền này, được công nhận là chính thức thì việc gì sẽ xảy ra? Ai viết “ăn không ăn tắt đèn ngồi chờ thượng đế” sẽ bị không điểm vì sai chính tả. Chúng ta không phủ nhận là hỏi ngã nâng cao tính phân biệt từ đơn và một dấu đứng đơn lẽ, nhưng tính phân biệt này không thật cần thiết, đồng thời chính nó làm cho rất nhiều người, không-Bắc, viết sai tùm lum. Đó là lý do tại sao hỏi ngã khó nhớ hơn âm tiết. Tự đào thải Thanh hỏi low falling-rising của dân không-Hànội từ từ sẽ biến mất và trở thành thanh nặng như dân Hànội, vì trong cuộc sống quá bận rộn, dân số càng ngày càng đông, sinh hoạt phải tăng tốc, nói phải nhanh mới kịp đà, không có đủ thì giờ để kéo dài nên phần đuôi ngóc lên sẽ biến mất. Và chính thanh hỏi trầm này đến lượt mình cũng biến dạng thành hỏi bổng vì nhiều nguyên nhân như sau: - Tuy là phân biệt được với ngã nhưng lại trùng với thanh nặng, được đường này mất đường kia. Thay vì có 6 thanh, rốt cuộc chỉ còn lại 3 hay 4 thanh, ít hơn miền Nam. - Hỏi trầm mới nghe thì cũng bình thường, nhưng nghe lâu có cảm tưởng người nói bị mệt mỏi, thiếu hơi. - Người Bắc ngày nay có khuynh hướng dùng hỏi bổng, nếu họ có tiếp xúc thường xuyên với miền Nam. Chỉ có người Bắc di cư cố cựu, người Bắc chưa vào Nam còn xài hỏi trầm. - Người trẻ Bắc lớn lên ở miền Nam hay ở nước ngoài sẽ không phân biệt được hỏi trầm với ngã, mà thay bằng vào đó bằng hỏi bổng. Các em này có giọng nói lai, nghĩa là một chút Bắc, một chút Nam (có các âm R, Tr, W, Y đầu từ), một chút Tây (nói các âm Fl, Bl, Dr…quá dễ dàng), nghe rất lạ tai, ngộ nghĩnh, dễ thương, và không giống ai. Các bạn có thể kiểm chứng lại bằng cách nghe các câu trả lời, bằng tiếng Việt, trong các cuộc phỏng vấn ca sĩ trẻ hay các cô thi hoa hậu. - Khi muốn biểu diễn 6 thanh tiếng Việt thì hỏi bổng được sử dụng thay cho hỏi trầm, chứng tỏ có cái gì không ổn trong hỏi trầm. Nếu chỉ còn thanh ngã thì cần gì phải phân biệt hỏi ngã? Giọng chuẩn Quan niệm chung cho rằng dân Nam Kỳ thì bê bối nhất, Trung Kỳ thì còn khá một chút, chớ Bắc Kỳ thì hoàn hảo trong việc sử dụng hỏi ngã. Vì giọng của người ta khi sinh ra vốn đã “chuẩn” rồi nên viết đúng chính tả. Nhưng thế nào là chuẩn? -Chuẩn là nói đúng. Không có phát âm nào đúng và cũng không có phát âm nào sai. Đúng hay sai là phải có cái gì làm chuẩn để có thể so sánh. Người Bắc dùng rất nhiều từ Hán Việt trong khi miền Nam chỉ dùng tiếng Việt, và không có tiêu chuẩn nào để cho là từ HV đúng hơn tiếng nước ta. Bình Nguyên Lộc viết rằng từ HV chỉ là tiếng Tàu nói sai giọng. Đúng vậy, Pejing nói sai giọng thành Bắc Kinh, Zhongguò thành Trung Quốc hay Chzung Quốc, Yuènàn thành Việt Nam, Paris thành Bá le.â -Chuẩn là phân biệt rõ ràng các âm, nghĩa là ít từ đồng âm khác nghĩa. Miền Bắc có nhiều âm tiết nên ít từ đồng âm, nhưng không có nghĩa là chuẩn hơn tiếng Hán, tiếng Nhật. Mỗi âm tiết tiếng các nước này có rất nhiều từ đồng âm, có từ có hơn một trăm từ đồng âm như từ “Yi” tiếng Hán có khoảng 170 từ đồng âm, thế mà khi nói hay viết thì họ vẫn hiểu nhau được. Đó là nhờ cách dùng từ ghép và viết dính lại trong phiên âm Latin để ghi tiếng Trung Hoa, tiếng Nhật. -Chuẩn là phổ biến nhất nghĩa là có tỉ số dân nói nhiều nhất. Phát âm ở đảo Cát Bà, ở bờ bể Tuy Hòa, ở xứ Quảng khá đặc biệt, ngay cả dân bản địa cũng không hiểu nỗi, không thể dùng để làm tiêu chuẩn cho tiếng Việt, không phải vì sai, mà vì có quá ít người sử dụng. Nếu thế thì phát âm miền Nam đúng tiêu chuẩn nhất, vì phát âm miền Bắc chiếm độ 30%; miền Thanh Nghệ Tĩnh chừng 15%; miền Nam chiếm 55%-trải dài từ Nha Trang đến Cà Mau. Nói miền Nam chuẩn hơn thì hơi lộng ngôn một chút. Chuẩn phải là một cái gì khác. -Chuẩn có nghĩa là được chính quyền công nhận. Điều này không có gì để bàn cãi vì có người viết rằng phân biệt dấu hỏi với dấu ngã là qui tắc chính tả Việt ngữ thống nhất trên toàn quốc. Tại sao chỉ có dân miền Bắc viết đúng? Ai có thẩm quyền quyết định hỏi ngã? Đây là vấn đề mấu chốt nhưng ít ai nói đến vì vô tình không biết, hay cố ý tảng lờ. Không phải người Bắc viết đúng chữ QN, mà chữ QN được sáng tác theo phát âm miền Bắc, ngoại trừ các âm R, Tr, S. Vì thế, chữ QN thiếu các âm W, J, phụ Y đầu từ. Không phải sắc lệnh, không phải tự điển chính thức, mà phát âm miền Bắc được dùng làm tiêu chuẩn cho chữ QN. Bất kể là họ nói như thế nào, đúng hay sai, chữ QN đều phải viết theo y chang như thế. Thí dụ Washington, nếu ta viết đúng âm W như Wa Thịnh Đốn, là viết sai chính tả. Còn nếu ghi sai W thành H như Hoa Thịnh Đốn, thì lại đúng chính tả. Hawaii, nếu ghi đúng Ha wai yi là sai chính tả, còn ghi sai Ha oai di là đúng chính tả, thế mới kỳ. Ngay cả tiếng Nôm cũng thế, nếu viết đúng ngả chúi là sai chính tả, còn nếu viết sai thành ngã chúi thì lại đúng chính tả, vì tự điển dùng dấu hỏi cho nghiêng ngả, ngả nón nhưng dùng dấu ngã cho ngã chúi, ghi đúng theo phát âm lên giọng. Cả lũ nhưng lủ khủ, dỡ hổng nhưng dở bổng là thí dụ khác. Ngoài ra có nhiều từ miền Nam bị sửa lại cho đúng phát âm miền Bắc như mắc cở thành mắc cỡ, cù lủ thành cù lũ, lũ khũ (viết lủ khủ cũng đúng). Và có hằng trăm từ bất chợt đổi tông như thế, ba hồi xuống giọng thành hỏi, ba hồi lên giọng thành ngả, không theo qui tắc nào cả, cho đã cái miệng của mình nhưng làm khổ cho cái đầu của người khác. Người Nam và Trung, viết theo phát âm của mình, khác với miền Bắc, nên thường viết sai. Nếu cố gắng thì khá một chút nhưng phần đông viết mò quờ quạng y như hiệp sĩ mù điếc đi trong mua gió. Viết trật chính tả là chuyện tự nhiên, viết đúng mới là chuyện hi hữu. Người Bắc viết “Cô Lan lang thang, mới tám tuổi tủi thân khóc ầm ĩ, âm ỷ bỏ ngõ bừa bãi nhà cửa” vì họ nói y chang như thế “Cô La-nờ la-ngờ tha-ngờ, mới tám tu-ụi tuị thân khóc ầm í, âm ỵ bọ ngó bừa bái nhà cựa”. Trong khi đó, người Nam viết “Cô Lang lang thang, mới tám tủi tủi thân khóc ầm ỉ, âm ỷ bỏ ngỏ bừa bải nhà cửa”, nói thế nào là viết thế ấy. Thế tại sao dân miền Nam không dùng dấu ngã mà dùng dấu hỏi? Lý do là người Nam phát âm hỏi hay ngã như nhau nên chỉ dùng một dấu. Chỉ dùng dấu hỏi vì liền sau câu hỏi là dấu (?), nên họ viết “hỏi” với dấu (?), một cách đúng logic, và các dấu ngã đều biến thành hỏi. Người Trung phát âm thanh hỏi và ngã thành nặng nên dùng dấu hỏi y như người Bắc. Chữ viết không được phổ biến Một ngôn ngữ hay chữ viết muốn được phổ thông thì trước tiên là phải dễ học, dễ nhớ, lâu quên, sắc tộc nào nói cũng nói được, có thể nói nhanh (để lồng tiếng cho kịp), bắt chước dễ dàng tiếng Anh Pháp (để nói cho cho đúng giọng). Ngôn ngữ phong phú là do từ chính xác, phân biệt, rõ ràng, cấu trúc mạch lạc, chứ không phải là do sử dụng hỏi ngã quá phức tạp, gây phiền phức cho hơn 70% tổng số dân của một nước- muốn biết hỏi ngã khó cỡ nào, xin xem các bài kế. Chữ Đại Hàn thay thế chữ Hán; chữ giản thể của Trung Quốc; tiếng Pháp bị tiếng Anh lấn lướt vì quá phức tạp, là các gương sờ sờ trước mắt, mà sao không thấy. Khi viết người không-Bắc chỉ dùng có nữa bộ óc, phần còn lại dùng để kiểm soát dấu, như thế đâu còn hứng để mà viết. Viết như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam vừa hay vừa không sai chính tả thì bộ óc chắc phải có gì đặc biệt. Viết đúng chính tả là làm đẹp hình thức Có người viết chỉ có hình thức, đúng chính tả, đúng chấm câu, chơi chữ, vòng vo tam quốc, khó hiểu vì dùng từ chuyên môn- một cách vô tình hay cố ý- để không ai hiểu được muốn nói cái gì, nhưng nội dung rỗng tuếch. Nếu viết cho bạn bè thân hay vợ con trong nhà đọc thì muốn vẽ rồng rắn gì cũng được, ngược lại nếu viết cho người khác đọc thì phải rất thận trọng, trong chính tả nói chung và hỏi ngã nói riêng. Nếu không sẽ bị phê bình là có mác Tiến sĩ, Thạc sĩ hay Bác sĩ mà viết trật chính tả. Các bài viết, biên khảo, nghiên cứu dù có công phu cách mấy cũng mất một phần giá trị đi. Đúng là rừng hỏi ngã hỏi ngã Quí vị trường Tây thì nên viết bằng tiếng Anh Pháp coi bộ dễ hơn rồi chịu khó tìm người chuyển dịch chữ Việt. Không có chữ nước nào, kể cả Anh, Pháp, Ấn, Campuchia, Thái Lào, và cả chữ Hán tượng hình, khi viết cứ mươi phút lại phải dùng tự điển kiểm tra hỏi ngã. Và cũng không có chữ nước nào, càng học cao lại càng dốt- tốt nghiệp Đại học viết thua người có trình độ tiểu học. Cách viết đúng chính tả: Trong khi chờ đợi sự cải cách, có thể viết đúng hỏi ngã bằng cách -Áp dụng qui tắc không sắc hỏi, huyền nặng ngã cho từ láy. Nhưng với từ láy nào là cả một vấn đề, nếu kết hợp không đúng sẽ viết sai. Thí dụ rõ ràng, ro rõ, lảng ồ, lơ lảng. -Từ HV viết hỏi khi các phụ âm đầu là Ch, Di, Kh và không có phụ âm đầu như ải, ảo…; viết dấu ngã cho khi phụ âm đầu là D, L, M. N, V -Từ miền Nam, Trung viết dấu hỏi. Trên đây là qui tắc có thể nhớ được. Phần còn lại, không thể nhớ hết được, có thể giải quyết bằng một trong các cách dưới đây -Sử dụng tự điển điện tử để tra cứu hay tự động sửa chữa, lẹ hơn là sách tự điển. -Thay bằng dấu khác. Có thể thay cả hai dấu hỏi ngã bằng một dấu nằm nghiên 45 độ như hình dưới đây, tạm đặt tên là dấu “nghiên” Phương cách này rất thích hợp để viết tay, nhưng phải viết kiểu nước đôi hay mờ ảo như chữ “Bác sĩ”, để không ai bẻ được. Để có thể dùng trong computer chắc phải nhờ một người nào đó cài thêm dấu này vào trong các chương trình viết tiếng Việt. Trên đây chỉ là vài ý kiến thô thiển, nếu thấy sai thì xin chỉ giáo, nếu trái tai thì xin bỏ qua cho.
Đoàn Văn Phi Long (Úc Châu)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 30, 2011 4:47:21 GMT 9
Một Vài Nhận Xét Về Chính Tả Việt Nam Mạnh Bích Vấn đề viết đúng tiếng Việt vẫn được giới làm báo, làm sách nhắc đến từ lâu và chỉ chau mày hay lắc đầu mỗi khi đọc một bản thảo hay một ấn phẩm có nhiều "lỗi" chính tả. Sau đấy lại thôi, không bàn đến nữa, làm như chuyện viết sai tiếng Việt là một thứ bệnh nan y của người Việt Nam, đành chấp nhận, phải "sống với nó" vậy. Điều lạ là ngay từ trong học đường, ở cấp tiểu học đã có những giờ chính tả để dạy cho học sinh viết đúng tiếng mẹ đẻ. Ấy vậy mà khi đã trưởng thành, trên cương vị nhà văn, nhà báo, nhà thơ - điều này cũng xẩy ra ngay trong giới cầm bút Pháp - lỗi chính tả lại không được xem là một giá trị cần phải gìn giữ.
Ngược lại, khi nói đến "lỗi chính tả" thì một số rất đông đảo người làm văn học, viết sách, làm thơ lại dựa vào một cuốn tự điển hay, tệ hơn, trên một thói quen nào đó để quả quyết sự viết đúng của một số chữ, không cần đếm xỉa đến công dụng của chính tả.
Kẻ viết bài này không có ý áp đặt một khuôn phép chính tả vì đấy là nhiệm vụ của một viện hàn lâm đặc trách về ngôn ngữ. Nhưng gần đây, trước những sự xác định nên xem ngôn ngữ được dùng trong các tự điển miền Bắc như một giá trị tuyệt đối, nên dùng làm tiêu chuẩn, của vài cán bộ văn hóa Cộng Sản nêu lên, và hơn nữa, trước lối nhắm mắt chấp nhận những tiêu chuẩn chính tả đã được một số từ điển gia, pháp lý gia hay thần học gia tên tuổi sử dụng, tưởng cũng nên đặt lại vắn đề "lỗi chính tả" một cách dân chủ tiến bộ và thông minh hơn.
Từ xưa, do địa vị "nôi văn hóa Việt", ngôn ngữ miền Bắc được xem như tiêu chuẩn để viết đúng tiếng Việt. Và trong gần hai thế kỷ, tinh thần thống trị ấy được giới làm văn chấp nhận một cách thoải mái vì tính "chuộng nhàn" vốn là một dân-tộc-tính của ta. Trong khi ấy, ngay vào buổi sơ khai của nền văn học quốc ngữ, Phan Kế Bính đã có những nhận xét rất nghiêm chỉnh về những sai lầm chính tả trong tiếng nói của mỗi vùng Bắc, Trung, Nam.
Ví dụ: Người Bắc nói: Ông zời (ông trời), mặt zăng (mặt trăng), uống ziệu (uống rượu), zồng cây ăn chái (trồng cây ăn trái), phong chào chanh đấu (phong trào tranh đấu), nhọ nhem (lọ lem), con zộng (con nhộng), con zện zăng tơ (con nhện giăng tơ), zọng zao hàng (giọng rao hàng), xự zối zá (sự dối trá) v.v... Do đó, có sự lầm lẫn trong cách viết những chũ bắt đầu bằng tr, ch, gi, d, nh, s, x ...
Nguời Trung (người Huế), không quen (vì ngại hay không thấy là cần thiết) phân biệt dấu hỏi dấu ngã, cũng như lẫn lộn những chữ:
nh/gi đầu chữ - ví dụ: Cái già (cái nhà) con giện (con nhện) c/t cuối ch" - ví dụ: Rửa mặc (rửa mặt) - chuyện lặc vặc (chuyện lặt vặt)... - n/ng cuối chữ - ví dụ: Ăng cơm (ăn cơm) - băng khoăng (băn khoăn) ... Nhiều nhà văn người Nam cũng có tinh thần ấy, không chú trọng sự phân biệt hỏi ngã, và có những lầm lẫn về chính tả như người Trung. Ngoài ra còn có sự lẫn lộn: - v/gi như: Giội giàng giủ nhao đi giề (vội vàng rủ nhau đi về) - ượu/ụ như: Ún giụ (uống rượu) - t/c và au/ao như: Giủ nhao chơi cúc bắt (rủ nhau chơi cút bắt) - trời mưa như trúc (trút) v.v...
Nói như vậy không có nghĩa là người Nam, người Trung cũng như người Bắc nói chuyện với nhau không ai hiểu ai cả vì tiếng nói của mỗi địa phương đầy rẫy những lỗi!
Vậy vấn đề là thế nào là "lỗi" chính tả? Nên xác định như thế nào để thống nhất chính tả tiếng Việt? Trước hết, không nên dựa vào thói quen hay vì có một "vị chức sắc văn học" nào đấy đã dùng nên mọi người phải rập khuôn theo.
Trước khi nói đến sự xác định - chuyện ấy "còn khuya", vả lại, đấy là việc làm của một viện hàn lâm ngôn ngữ quốc gia - tôi xin tạm đặt một nguyên tắc chính về "sự" viết đúng: một chữ viết đúng không tạo sự lẫn lộn ý nghĩa với một chữ khác.
Ví dụ: Con dao, dao động (chuyển động đong đưa) - giao thiệp (vận chuyển sang nơi khác) nổi trôi (nằm trên mặt nước) > nông nổi (không sâu) - nỗi niềm, nông nỗi (trạng thái tâm hồn). trinh tiết (không bị hoen ố) - chiến chinh (đi xa) Nếu không, có thể tùy tiện mà dùng trong khi chờ đợi thẩm quyền của một viện hàn lâm đặc trách xác định thể thức chính tả. Ví dụ: dòng sông = giòng sông nhưng không nên viết dòng dống, dòng dã ! (mời xem phần phụ lục) sử dụng = xử dụng nhưng không thể viết xử xanh, sử án, ngu suẩn v.v... lầm lỗi = nhầm lỗi nhưng không ai viết nhầm nhì (lầm lì) dơ duốc = nhơ nhuốc nhưng không nên dùng nhơ nháy (dơ dáy), nhơ nháng (dơ dáng) giữ dìn # giữ gìn , dữ dìn v.v... (d và gi là một âm để hợp với một âm khác. Ví dụ: d+ơ, d+ìn - gi+a, gi+ỏi ) Trư(c)ng hợp chữ gì là trầm bình thanh của âm gi ?
Vậy trong những đoạn sau đây, tôi xin bàn riêng về vấn đề:
1- dấu hỏi, dấu ngã 2- phận biệt tr và ch (đầu chữ) 3- phân biệt d, và gi (đầu chữ) 4- n và ng (cuối chữ) 5- c và t (cuối chữ)
***
I- Dấu hỏi và dấu ngã
1- Nguyên tắc chung, căn bản: Tiếng Việt gồm có những chữ thuần túy Việt nam và những chữ hán-việt. Vậy khi áp dụng "luật" hỏi, ngã phải cần phân biệt tiếng Việt thuần túy và tiếng Hán-Việt (tiếng Tàu trở thành tiếng Việt)
2- Tiếng Việt thuần túy là những tiếng đã có sẵn trong ngôn ngữ của ta: nhà, vườn, ruộng, ăn, uống, đi, nằm, ngồi, buồn, vui, giận, ghét v.v... Những chữ Hán (chữ Tàu) đồng nghĩa với những chữ ấy như: gia, viên, điền, thực, ẩm, hành, ngọa, tọa, sầu, hỉ, nộ, hỉ v.v... được đem dùng trong ngôn ngữ của ta gọi là chữ Hán-Việt.
Vậy làm thế nào để phân biệt được chữ nào là thuần túy Việt Nam? Ngoài những trạng từ thường có dạng đơn âm như đã, cũng, những, mải, mãi, hãy, để, cả, rồi, mà, nhưng, vì, nếu, như, nếu như v.v... cách phân biệt tốt nhất là suy từ những chữ "kép láy". "Kép láy" là những chữ có một tiếng chính (có nghĩa) và một tiếng phụ (không có nghĩa) được ghép vào để nghe cho êm tai (euphonie). Ví dụ: buồn bã, vui vẻ, nhớ nhung, ồn ào, lo lắng, chát chúa, v.v...
Một tiếng đơn âm trở thành kép láy phải theo định luật phối âm (assonance) của tiếng Việt.
1a- Định luật ấy là: * Huyền < > ngã < > nặng - dấu huyền/ dấu ngã: Bẽ bàng, rõ ràng - dấu ngã/ dấu nặng: Rõ rệt, rũ rượi - dấu ngã/ dấu ngã: Đĩ thõa, - dấu huyền/ dấu huyền: Bàng hoàng, chàng ràng - dấu nặng/ dấu nặng: Bịn rịn, lục đục. - dấu huyền/ dấu nặng nặng nề, bề bộn * Hỏi < > sắc < > không - không dấu/ dấu hỏi: Bỏ bê, vui vẻ, bảnh bao, hở hang... - dấu hỏi/ dấu sắc: Lở lói, rả rích, hí hửng - dấu hỏi/ dấu hỏi: Đỏng đảnh, xởi lởi, lỉnh kỉnh, lủng củng... - không dấu/ không dấu: Lông bông, lang thang, thênh thang, mênh mông... - không dấu/ dấu sắc: Le lói, thâm thúy, trơ tráo, nhâng nháo... - dấu sắc/ dấu sắc: Tí tách, nhắng nhít, rối rít, thút thít...
1b- Cách suy ra dấu hỏi, ngã: Nhờ định luật ấy, ta có thể nhận diện được dấu hỏi, dấu ngã đối với một số chữ đơn âm như: rõ < rõ ràng, rõ rệt ngỡ < ngỡ ngàng, lỡ làng rảnh < rảnh rang, bảnh bao hỏi < hỏi han, lở lói nở < nở nang, hở hang ngỗ < ngỗ nghịch # ngổ ngáo ngẩm < ngán ngẩm # ngẫm nghĩ = ngẫm + nghĩ) mải < mê mải (mải làm quên ăn) # mãi (làm việc mãi không thôi)
Chú ý: Do đó, ta có thể giải thích được nguyên nhân của nh"ng âm hỏi, ngã trong những trường hợp sau:
cũng = cùng đã = đà tĩnh = tịnh ngỡ = ngờ v.v...
1c- Ngoại lệ: Tuy nhiên, trong bất cứ ngôn ngữ hay văn phạm nào cũng vậy, luôn luôn có những ngoại lệ buộc ta phải thận trọng khi dùng dấu hỏi, dấu ngã. Ví dụ:
- trong những chữ kép gồm có hai chữ đều có nghĩa: Ủ rũ (ủ ê + rũ rượi); rảnh rỗi (rảnh rang + rỗi) - nhiều tiếng không đứng trong định luật nói trên như: Trơ trẽn, phỉnh phờ, ngoáo ộp, xiêng xẹo, lam lũ, mỏi mòn, ngoan ngoãn, khe khẽ v.v...
Cũng may mà những trường hợp ngoại lệ không có nhiều nên không đến nỗi làm nản lòng người có dụng tâm viết chính tả đúng!
2- hỏi, ngã trong chữ Hán-Việt
Như trên đã nói, khi các cụ của chúng ta đem dùng tiếng tàu trong ngôn ngữ của ta, các cụ đã nghiên cứu thông minh về cách phát âm của tiếng tàu. Tôi nói thông minh vì tiếng tàu không có nhiều thanh (son) - hỏi, ngã, th, tr, đ, r, n - như tiếng Việt và hơn nữa không có nhiều âm (ton) - nhị âm (diphtongue), tam âm (triphtongue) như của ta, nhưng các cụ đã nhận thấy được sự dị biệt của mỗi chữ nên đã đem dấu hỏi, dấu ngã vào những tiếng Hán-Việt ấy.
Ví dụ: Phụ =/= phủ ương =/= ang iêu =/= iu phúc =/= phú
Do đấy, dấu hỏi, dấu ngã được đặc biệt dùng cho mỗi loại chữ Hán-Việt. Tổng quát, ta nhận thấy những loại sau đây:
2a - Chỉ dùng dấu hỏi những chữ bắt đầu bằng:
A - Â: ải, ảnh, ẩm, ẩn, ẩu v.v... B: bản, bảng, bảo, bỉ, biển, bổng lộc, bỉnh bút, biển lận v.v..
Ngoại lệ: bãi chức, bãi triều
C: Cải, cảm, cảo, cẩm, cảng v.v... Ngoại lệ: long cỗn, cưỡng bách, lưu cữu CH: Chẩn, chỉnh, chỉ, chủng, chưởng, chử (cái chày) D: Không có ngoại lệ Đ: Đả, đảm, đảng, đảo, đẳng, điểm, điển, điểu, đỉnh v.v...
Ngoại lệ: Đãi, đễ, đỗ GI: Giả, giảng, giản, giảng, giảo v.v... K, KH: Kiểm, kỷ (ghế), thế kỷ, kỷ cương, khả, khảo, khiển, khổ, khoản, khuyển, khủng... Ngoại lệ: Kỹ thuật, kỹ lưỡng... PH: Phản, phẩm, phỉ, phổ, phủ v.v... Ngoại lệ: Phẫn, phẫu S: Sản, sảng, sảnh, liêm sỉ, sổ, sở, sủng, sử, sửu v.v... Ngoại lệ: Sãi vãi, sĩ tử, sĩ phu, suyễn. T: Tải, tảng, tảo, tẩy, tẩu, tiểu, tỉnh tủy, tổ, tuyển, tử v.v... Ngoại lệ: Tẫn, tễ, tiễn, tiễu trừ, tĩnh mịch, tuẫn tiết. TH: Thải, thảm, thưởng, thủy, thủ, thủy v.v... Ngoại lệ: Thuẫn, thũng U: Ủ, uẩn, uyển, ủng v.v... X: Xảo quyệt, ung xỉ, ngu xuẩn, xử v.v... Ngoại lệ: xã thôn. Y: Ỷ (dựa vào), yểm trợ v.v...
2b - Chỉ dùng dấu ngã, những chữ bắt đầu bằng:
D: Dã man, kiều diễm, dĩ nhiên, dung dưỡng v.v... L: Lũng đoạn, lõa thể, lưỡng lự v.v... M: Mã lực, miễn dịch, mãnh, mãng v.v... N: Niển (nghiên mực), niểu (hiếm dùng) NH: Nhiễu loạn, mộc nhĩ, thanh nhã v.v... V: Vĩnh viễn, võ công, võng v.v...
2c - Đặc biệt: Khi dùng dấu hỏi, khi dùng dấu ngã, những chữ bắt đầu:
bằng H:
hải cảng # kinh hãi hảo, hiểm, hiển, hiểu, hỏa, hoảng, hổ phách, hủ, hủy, hưởng hãm hại, hãn mã, hãnh diện, trì hoãn, hỗ tương, hỗn hợp, huyễn hoặc, hữu trách.
bằng Q:
quỹ đạo, thủ quỹ, quảng đại, quỷ quái.
3 - Kết luận:
Vấn đề dấu hỏi, dấu ngã, thiết nghĩ, không nên xem là tiên quyết trong ngôn ngữ và văn chương. Nó chỉ là một sự tô điểm cho sự phát âm, lúc nói và lúc hát chứ không hẳn là một điểm trọng yếu về giá trị văn chương. Khi nằm trong khuôn khổ của một câu hay một nhóm chữ (contexte), dù viết sai, ta vẫn hiểu được ý nghĩa của chữ được dùng kia mà! Bằng chứng là người Trung (Huế), người Nam không chú trọng hỏi, ngã lắm nhưng văn chương của họ cũng không đến nỗi nào. Nếu cho vấn đề hỏi ngã này là quan yếu hoặc thích xem đấy là một "cái gì thêm lên" (un plus) cho tiếng Việt được hay, đẹp thì nên dụng tâm học hỏi cách viết cho đúng. Thế thôi. Còn không thì không nên đặt thành vấn đề tranh luận rườm rà, tạo nên những mặc cảm kỳ quái.
Trong tinh thần ấy, tôi chỉ mong là những nhận xét về cách nhận diện dấu hỏi, dấu ngã trên đây không làm nản lòng "khách mộ điệu" mà thôi.
Phụ lục:
1- Những Cái Vô Lý Trong Tự Điển Việt-Pháp (Lê Khả Kế + Nguyễn Lân) của nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội ở Hà Nội. Để góp ý về sự bàn cãi về riêng chữ D và GI, vì có nhiều bạn dùng quyển tự điển này để xác định cách viết D và GI, với tất cả lòng kính quý của tôi, tôi xin chép ra đây vài điểm "trục trặc" của hai Cụ Lê Khả Kế và Nguyễn Lân. (Nguyễn Lân, bút hiệu là Từ Ngọc, tác giả "Cậu Bé Nhà Quê" là thầy dạy Pháp Văn và Việt Văn đầu tiên của tôi, năm 1943) 2a- Vô lý: Với một tinh thần khẳng định dựa trên quan niệm "tiếng Bắc" được phát âm đúng, nên dùng làm tiêu chuẩn chính tả cho chữ viết, ta có thể thấy những điểm "ngoan cố" sau đây: tr. 195: Con dộng - tr. 752: Con nhộng tr. 279: Dấp giọng - tr. 739: Nhấp giọng tr. 287: Diếc móc - tr. 745: tr.nhiếc móc tr. 290: dịp - tr. 748: Nhịp nhàng tr. 295: Dơ bẩn, dơ duốc - tr. 754; nhơ nhuốc, nhơ nhớp tr. 294: Dồi (boudin) - tr. 751: Nhồi nhét (bourrer). Có sự lẫn lộn, trong khi sự khác nhau là dồi bột (nhào bột=pétrir) và nhồi nhét (bourrer) vân vân... Cái vô lý là hai tác giả chỉ dựa vào "thói quen" phát âm của miền Bắc để xác định cách dùng chữ D. 2b- Chữ D dùng cho những chữ sau đây có thể tạo ra nhầm lẫn, vậy ta nên chọn lựa một cách viết. Ví dụ: -dây (vết bẩn vấy, dính dấp bừa bãi)# dây dưa (kéo dài trong một thời gian dài) # giây (sợi giây, giây phút) -dấu (vết hằn không phai lạt, để ghi nhận) # giấu (cất giấu) -Dấm (chất nước chua) # nhấm (ăn, uống từng miếng nhỏ). Không thể dùng dấm dẳng được. (tr.276) -Dìm (ấn xuống): Không thể viết gìm được vì gì+m hay g+ìm đều "lỗi" chính tả. vân vân... 2c- Tiện đây, nhân lúc xem kỹ những chữ bắt đầu bằng D của quyển tự điển ấy, tôi cũng xin nêu lên một trường hợp sai lầm để, khi ta trân trọng văn học thì ta phải biết suy nghĩ, chứ không nên cúi đầu tuân phục những tự điển gia quá. Ví dụ: Dễ ợt = facile comme un bonjour. Tiếng Pháp dùng: Simple comme bonjour vì: - facile khác với simple - phải dùng comme bonjour vì người Pháp dùng dire bonjour à quelqu'un, souhaiter le bonjour à quelqu'un. Tóm lại, nếu ta cứ nhắm mắt tin theo các quyển tự điển, trong khi chưa có một viện hàn lâm xác định chính tả Việt Nam và từ đó bào chữa cho được "sự viết đúng" của mình thì... lộn xộn lắm. Nên để tự nhiên thì hơn. 2- Để làm nhẹ bớt nỗi lo của những người viết văn, làm thơ hay đặt lời cho các bản nhạc, tôi xin viết ra đây một bản văn 'khá nổi tiếng" để xem chư vị thiết tha đến sự trong sáng của văn chương Việt Nam có bị lu mờ hay không. Tôi yêu đời cùng với cảnh lầm thang, cảnh thương tâm ghê gớm hay dịu giàng, cảnh rực rở, ái ân hay giử gội. Anh dù bảo tính tình tôi thay đổi, không chuyên tâm, không chủ nghỉa, nhưng cần chi? Tôi chỉ là một khách tình si, ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể. Mượng lấy bút nàng Li tao tôi vẻ và mượn câu đàng ngàng phiếm tôi ca, vẻ đẹp u chầm, đắm đuối hay ngây thơ, củng như vẻ đẹp cao xiêu, hùng cháng của non nước, của thi văng, tư tưởng... Chắc chư vị vẫn hiểu được?
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 14, 2013 8:44:45 GMT 9
Tiếng Việt ngày nayXin hãy tôn trọng tiếng Việt. Nếu muốn chứng tỏ khả năng tiếng Anh thì xin mời hãy có hẳn một chương trình truyền hình dành cho người nước ngoài, hoàn toàn sử dụng tiếng Anh trên truyền hình đi. Hãy tôn trọng tiếng Việt Nguyễn Ngọc Hà Tôi từng ngồi trường Dòng, học tiếng Pháp trước tiếng Việt, đọc sách khoa học, tiểu thuyết bằng hai thứ tiếng Anh – Pháp khi còn là sinh viên, và cuối cùng là dạy tiếng Việt cho người nước ngoài và tiếng Anh cho người Việt để kiếm sống. Nói như thế để thấy tôi hoàn toàn không ác cảm với bất cứ ngoại ngữ nào. Tuy nhiên, tôi rất bực mình khi càng ngày càng thấy một bộ phận người Việt sùng bái và lạm dụng tiếng Anh quá mức. Ngày xưa, ông bà chúng ta biết Việt hóa các danh từ như savon thành xà bông, la bière thành la de (bia bọt), sốc (shock) thuốc… Hôm nay con cháu không chỉ không Việt hóa các danh từ nước ngoài mà lại “phát minh” một thứ tiếng Việt lai căng nửa nạc nửa mỡ, gây khó chịu cho những ai biết trân trọng “tiếng nước tôi”. Nhiều lần tôi tự hỏi sao người ta cứ dùng live show mà không sử dụng chương trình nhạc sống như người Sài Gòn trước đây? Ngày xưa học chương trình Pháp đi nữa, thầy cô giáo vẫn cấm sử dụng ngôn ngữ pha trộn. Việt ra Việt, Pháp ra Pháp, không thể có một ngôn ngữ ba rọi, pha trộn hai ba thứ tiếng, như thế là xem thường tiếng mẹ đẻ và làm hư kỹ năng ngoại ngữ của mình. Tôi thực sự choáng khi trên truyền hình có chương trình “Talk với sao”. Nếu một người không biết tiếng Anh họ hiểu Talk là gì. Và người nước ngoài họ biết Talk lại chẳng biết “với sao” là cái gì. Thứ tiếng nửa nạc nửa mỡ như thế lại được đưa lên truyền hình một cách quy mô hoành tráng. Tại sao không là chương trình “Trò chuyện cùng sao” hoặc “Chuyện trò cùng người nổi tiếng”. Truyền hình là một cầu nối văn hóa, chẳng hiểu những người nước ngoài khi học tiếng Việt sẽ suy nghĩ như thế nào về thái độ của người Việt đối với tiếng nước mình, nếu họ biết được kho tàng ngôn ngữ vô cùng phong phú của người Việt mấy ngàn năm. Và liệu 20 – 30 năm nữa, tiếng Việt sẽ ra sao khi thế hệ trẻ hôm nay cứ showbiz, live show và bây giờ là “Talk với sao”. Chat / Talk với sao. Có bao nhiêu chữ thuần Việt trên sân khấu?Xin hãy tôn trọng tiếng Việt. Nếu muốn chứng tỏ khả năng tiếng Anh thì xin mời hãy có hẳn một chương trình truyền hình dành cho người nước ngoài, hoàn toàn sử dụng tiếng Anh trên truyền hình đi. Để thử xem các vị dẫn chương trình, các sao… có nói trôi chảy một câu tiếng Anh chăng mà cứ chêm tiếng Anh vô tội vạ khiến người yêu tiếng Việt và tự hào về tiếng Việt bực mình. Nguồn: Hãy tôn trọng tiếng Việt. Nguyễn Ngọc Hà, SGGP Online, 04-05-2013. Buồn hay vui khi tiếng Việt bị lai căng quá nhiều?Muciu Chữ nghĩa lai căng Khi thế giới ngày càng phẳng ra, kéo theo đó là những giá trị văn hóa không còn bị bó hẹp trong phạm vi vùng miền hay quốc gia thì ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, càng đóng vai trò quan trọng và nhanh chóng trở thành một phần tất yếu trong cuộc sống giới trẻ Việt. Hẳn mọi người đã không còn xa lạ với những thuật ngữ của giới trẻ hiện nay như load tài liệu, nghe playlist, nhận mail, search mạng…ngay cả trong giao tiếp hàng ngày, tần số xuất hiện song ngữ Anh Việt này càng cao, điển hình như: thay vì nói “tạm biệt” sẽ là “Bye Bye” hay lời xin lỗi đơn giản chỉ là “Sorry nha!”, cảm ơn cũng ngắn gọn như “Thanks nhiều”… Cách sử dụng ngôn ngữ nửa Tây nửa ta như vậy ngày càng phổ biến do sự tiện lợi, ngắn gọn cũng như bởi “mốt” đi-kịp-thời-đại của giới trẻ. Giới trẻ ngày nay năng động, có điều kiện ăn học và tiếp cận với nhiều nguồn thông tin, nên Anh ngữ tốt không còn là điều gì quá xa lạ. Mặc dù môi trường học tập không phải là quốc tế, nhưng đàm thoại song ngữ Anh Việt đã trở thành phong cách của đại đa số sinh viên. Nói tiếng Việt xen vài từ tiếng Anh giờ đây là chuyện bình cũ-rượu cũ trong cộng đồng ngoại thương. Nhưng có khi nào bạn tự hỏi: chúng ta đang Việt hóa tiếng Anh hay bản thân đang bị Tây hóa? Và liệu điều này có ảnh hưởng đến ta, đến mọi người xung quanh? Bài phóng sự “Buồn hay vui khi Tiếng Việt bị lai căng quá nhiều” hôm nay sẽ mang lại cho các bạn một góc nhìn về vấn đề không còn mới này… Ngôn ngữ nửa Tây nửa Ta- lạ mà quen! Trong phòng sinh viên tự quản lầu 3 của một trường ĐH, thoáng nghe thấy lời dặn dò của một bạn nữ (có lẽ là trưởng nhóm): “Tối nay các bạn check mail nha, tớ sẽ đưa list công việc lên, mọi người xem xong rồi confirm trước 10 giờ tối. Bạn nào đăng kí thì nhớ reply cho tớ sớm!” Chúng ta hoàn toàn có thể bắt gặp cách nói chuyện Việt xen lẫn Anh tương tự như trên thường xuyên diễn ra trong các buổi sinh hoạt, chuyện trò ngay trong cả những giờ học trên lớp, từ sinh viên tới giảng viên. Không ai thắc mắc gì về nghĩa của từ tiếng Anh như dạo mới “tập tò” ngôn ngữ này nữa. Ngọc Diệp Một sinh viên chia sẻ: “Mình thỉnh thoảng vẫn chêm vài từ tiếng Anh trong lúc nói chuyện, đặc biệt là các từ ngữ thông dụng trong tiếng anh hoặc các từ biểu cảm trong tiếng Nhật. Không những mình mà các bạn mình cũng thường xuyên sử dụng như vậy. Ví dụ như khi đi ăn uống thì tụi mình share tiền ra nha! hay rủ đi chơi thì Tối nay off không? Nghe cũng thú vị chứ nhỉ?” Như bạn Tường Vy thì biết cách dùng song ngữ đúng đối tượng hơn: “Mình hay sử dụng cách nói như vậy với bạn bè cùng lứa, hay nhỏ tuổi hơn. Nhưng mà cũng tùy đối tượng mà sử dụng hay không. Như ba mẹ mình khá thoải mái nên dùng cũng được, còn với họ hàng cô chú bác thì tuyệt đối không. Tại vì theo mình người lớn không thích cách nói chuyện đó, đồng thời họ nghĩ là mình không tôn trọng họ. Những từ hay dùng có thể là oh man, oh my god. Nói thế cũng thấy hay hay, đặc biệt nhiều khi nhắn tin với bạn, mình cũng chen tiếng anh vào cho ngắn gọn.” Trong cuộc phỏng vấn nhỏ thì hơn 80% số sinh viên được khảo sát đều thừa nhận mình có sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp hằng ngày dù ít hay nhiều. Thậm chí có bạn khổ sở khi tâm sự rằng nhiều khi bạn không thể diễn đạt từ mình muốn nói bằng tiếng Việt vì trong đầu chỉ toàn từ tiếng Anh thôi. Tình trạng sinh viên có thể truyền đạt lưu loát bằng tiếng Anh nhưng lại thấy vấp váp khi diễn giải ra tiếng mẹ đẻ hoàn toàn không phải chuyện hiếm. Giới trẻ, đặc biệt là các bạn học sinh, sinh viên mặc dù môi trường học tập trên giảng đường không bắt buộc dùng tiếng Anh nhưng một số hoạt động xã hội hay những công việc part-time đòi hỏi ngoại ngữ cho tới những tài liệu tham khảo nước ngoài phục vụ nghiên cứu đều sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ chính. Nếu như vậy, tính ra thời gian chúng ta tiếp xúc với ngôn ngữ thứ hai này cũng chẳng thua kém gì với tiếng Việt trong giao tiếp. Ngoài ra, còn tồn tại một số biến chứng ra đời như là hậu phát minh của song ngữ Anh việt chẳng hạn: việc biến đổi cách phát âm như đe-le-te (delete), cơm-pờ-le-te (complete), thăng-sờ- kiều (thank you), Ai-lái-kịt (I like it)… hay những cách ghép từ có một không hai của giới trẻ ngày nay “Know just die” (biết chết liền), “Like is afternoon” (thích thì chiều), “No four go” (Vô tư đi) hay độc đáo hơn là “Sugar sugar ajinomoto ajinomoto” (đường đường chính chính)… Tuy nhiên, “Kiểu nói bồi thêm này thì mình có biết trên các diễn đàn nhưng chỉ là nghe cho vui thôi chớ không sử dụng bao giờ”, Đức Toàn, một sinh viên có thái độ khá nghiêm khắc với vấn đề. Những cách ghép ngộ nghĩnh trên thì giới trẻ dường như ít dùng, nhưng một số sinh viên nhà ta khá rành viết tắt tiếng Anh trong chat, facebook, forum… như cách viết lol (laugh out loud) để diễn tả kiểu cười khoái chí, OMG (oh my god) thay cho thán từ “Trời ơi!”, hay cách xưng hô của các sinh viên 9x như sis cho chị gái, bro cho anh trai…Một bạn nữ chia sẻ: “Mình quen gọi sis đối với những chị khóa trước mà chơi thân với mình ví dụ như sis Nga, sis Ngân nghe thân mật hơn nhiều phải không?” Khi thế giới ngày càng phẳng đi, khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển, khi tiếng Anh không còn là thứ xa xỉ với thế hệ trẻ thì việc dùng cách nói nửa Tây nửa Ta như trên đã vô tình trở nên bình thường. Quả thật, khi bàn về vấn đề ngôn ngữ giao tiếp của giới trẻ nhất là những sinh viên trẻ thì không còn gì ngoài sự sáng tạo đến bất ngờ, phong phú về cả nội dung lẫn hình thức. Lâu nay, Tiếng Việt ta có câu: “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Nay tiếng Việt còn chen lẫn cả tiếng Anh, Tiếng Hàn, Nhật, Trung, v.v., thì thử hỏi liệu rằng cơn lốc xoáy này giật trên cấp mười mấy đây? Giải mã ngôn ngữ lai căng Ai cũng biết rằng cách học ngoại ngữ hiệu quả nhất là thường xuyên thực hành nó mọi lúc mọi nơi, cả đọc, nghe nói lẫn viết và chính nhờ cách sử dụng một lúc hai ngôn ngữ đã phần nào giúp nhiều bạn linh động hơn trong phản xạ giao tiếp. Hoàng Kim – một sinh viên thường xuyên sử dụng kiểu nói chuyện như vậy, cho rằng: “Mình nghĩ việc sử dụng như vậy sẽ rất tiện dụng, ngắn ngọn câu nói và cũng có một số từ diễn tả nghĩa đa dạng hơn với từ đồng nghĩa trong tiếng Việt hoặc có một số từ tiếng Việt không có. Ngoài ra mình thấy tiếng Anh đang ngày trở thành thứ tiếng thông dụng nhất hiện nay, mọi người đều cần tiếng Anh phục vụ cho công việc, cuộc sống,…vì vậy việc sử dụng như vậy sẽ rèn luyện sự phản xạ tiếng Anh”. Về khía cạnh này, không thể phủ định một tiện lợi của tiếng Anh chính là chuyển tải nghĩa muốn nói một cách ngắn gọn và hiệu quả. Chẳng hạn như nếu không nói “check mail” thì phải là “lên kiểm tra hộp thư điện tử”, cho mình “contact” của bạn thì có nghĩa là xin “thông tin liên lạc”, chơi “game online” thì phải diễn đạt là chơi “trò chơi trực tuyến trên mạng”… Hơn nữa, vẫn có một số từ tiếng Anh không thể dịch sang tiếng Việt như thế nào chẳng hạn “lên mạng thì buzz”, hay những thuật ngữ kinh tế như marketing, logistic… Rõ ràng dùng tiếng Anh trong những trường hợp trên thật sự thích hợp và cần thiết. Cách sử dụng ngôn ngữ “lai căng” cũng đã trở thành thói quen của một số bạn vì cường độ sử dụng thường xuyên cũng như tiện lợi của nó. Như trường hợp của bạn Kim Tường: “Lúc trước mình quen sử dụng vừa Anh vừa Việt rồi, nhanh gọn mà bạn mình cũng hiểu nữa, đặc biệt là khi viết. Nếu dùng tiếng Việt thì đánh máy dài dòng hơn nhiều. Giờ thì mình cũng đang tập giảm bớt cường độ xài lai căng như vậy rồi.” Tuy nhiên, cách nói nửa này nửa nọ cũng gây phản cảm với một số người. Đặc biệt đối với người nghe không rành tiếng Anh hay những ai mà muốn sử dụng thuần nhất tiếng Việt, như Phi Khanh: “Mình không bao giờ sử dụng ngôn từ kiểu tây nửa ta như vậy. Mình hoàn toàn không đồng ý với xu hướng sử dụng ngôn ngữ như vậy của các bạn ấy. Theo mình, đây là một hiện tượng xấu ,nó làm mất đi sự trong sáng của tiếng việt, và thể hiện sự thiếu tôn trọng của các bạn đối với tiếng mẹ đẻ. Hơn nữa, như vậy sẽ gây khó chịu cho người nghe, và tạo ác cảm đối với người lớn tuổi.” Thật vậy, nếu như các bạn nghe một câu như thế này sẽ cảm thấy như thế nào “Khi nào cậu go camp vậy? Go như vậy chắc like lắm nhỉ.”? Ngôn ngữ lai căng – Sự phá cách hay những “hạt sạn khó nuốt”?Parlez-vous franglais? Giới trẻ ngày nay được khuyến khích thể hiện cái tôi của mình. Và không ai phủ nhận chúng ta bây giờ có nhiều việc hơn để làm, nhiều kiến thức hơn để học tập, nhiều hoạt động hơn để tham gia, và nhiều trào lưu hơn để tạo dựng phong cách. Sử dụng song ngữ Anh Việt trong cuộc sống đã và đang trở thành một trào lưu như vậy. Mỗi thời đại, mỗi thế hệ sẽ có cách nhìn nhận riêng về vấn đề này. Có thể quá khắt khe khi cho rằng việc sử dụng ngữ lai căng trong giới trẻ chúng ta là minh chứng cho lối học đòi, cho thói sính ngoại mù quáng thậm chí là mất gốc. Bởi trên một phương diện nào đó, việc dùng song ngữ Anh Việt đúng lúc, đúng chỗ và ở mức độ có-thể-chấp-nhận-được vẫn có ưu điểm. Âu cũng là một tí sáng tạo, một vài tiện lợi, một ít cá tính và một chút gọi là “ôi, giới trẻ!” của chúng ta. Tuy nhiên, sẽ là quá thiên vị và dễ dãi khi xem nhẹ những tác động tiêu cực của việc lạm dụng tiếng Anh trong cuộc sống hàng ngày của Giới trẻ, thậm chí là những người có học thức, học vị cao nói chung. Hội nhập thì ngoại ngữ, đặc biệt là những ngôn ngữ quốc tế thông dụng như tiếng Anh là một đòi hỏi tất yếu. Song việc lạm dụng ngoại ngữ, sử dụng ngoại ngữ không đúng lúc, đúng chỗ đã và đang làm mất đi tính thuần khiết vốn có của Tiếng Việt…Với yêu cầu của môn học, của công việc, của tương lai, chúng ta ra sức trau dồi tiếng Anh, cố làm sao nói được tiếng Anh đúng theo giọng chuẩn, đỏ mặt khi lỡ dùng một câu tiếng Anh sai ngữ pháp nhưng đa số lại tỉnh bơ khi dùng sai tiếng Việt, thậm chí Anh hóa cả tiếng Việt và vô tình biến ngôn ngữ chúng ta thành món phở thập cẩm…Có quá lời không khi cho rằng đó là dấu hiệu báo trước một sự thất bại trong việc giữ gìn ngôn ngữ mẹ đẻ của chúng ta? Gần bốn mươi năm trước người Pháp có quyển “Parlez – vous franglais?” (Bạn có nói được tiếng Pháp lai Anh không?) Tác giả quyển sách là ông Etiemble đã lên tiếng báo động vì sợ tiếng Pháp bị tiếng Anh lấn át. Ngày nay không biết có ai trong chúng ta nghĩ đến việc viết một quyển sách để đánh lên một tiếng chuông báo động như ông Etiemble kia không?
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 9, 2015 6:32:00 GMT 9
Những từ dùng sai trong tiếng ViệtHà Thủy Nguyên Book Hunter: Trong ngôn ngữ giao tiếp và hành chính của người Việt chúng ta hiện nay, nhiều từ đã bị sử dụng không chính xác, bị biến nghĩa hoặc ghép từ một cách kệch cỡm. Điều này thể hiện tư duy tạm bợ và tinh thần thiếu trách nhiệm trong sử dụng ngôn từ. Việc đưa ra những khái niệm không chính xác này tạo thành một thói quen chấp nhận sự mù mờ trong định nghĩa từ, dễ gây hiểu lầm và tranh cãi, khiến cho văn bản kém tính chính xác. Đây là một bài chúng tôi sưu tầm, liệt kê các trường hợp sử dụng từ sai trong tiếng Việt hiện nay. Lời kêu goi. “Hãy thử viết và nói tiếng Việt nhiều hơn” ở trang portal.vietabroader.org Những từ dùng sai trong ngôn ngữ tiếng Việt 1. Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt ví tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn. KHẢ NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable) với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người mà thôi. QUÁ TRÌNH. Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai. Tập viết tiếng Việt. Nguồn: thuthuat.taimienphi.vn HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pele” “huyền thoại Maradona”.. Người có học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao nghe chướng tai? Huyền 玄 là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực. Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pele có thiệt 100% sao gọi là huyền. Và 2 càu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng chũ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại”. Ông bà mình thường nói: “Dốt thì hay nói chữ”, có đúng trong trường hợp nầy hay không HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu 昬夫,昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy. 2. Sai vì cố ý sửa nghĩa gốc Hán Việt ĐỘC LẬP Độc 獨 là riêng một mình, Lập 立 là đứng. Vậy theo nghĩa gốc Hán Việt, độc lập là đứng riêng rẻ một mình, không đứng chung với ai cả. Rõ ràng từ nầy là sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế. Vậy từ độc lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim, Cụ Dương Quảng Hàm dùng từ tự chủ để thay thế từ độc lập. Như thế là rất hay. Có người bảo với tôi rằng từ độc lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bỏ được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan đến ngôn của Tàu chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu dùng sai thì chúng ta đâu có buộc phải theo cái sai của họ. PHONG KIẾN.封建 Phong kiến gồm 2 chữ phong tước 封爵 (ban quan tước) và kiến địa 建地 (ban đất để dựng nước). Phong kiến chỉ chế độ hoàng đế phong tước cho người có công và cấp cho một vùng đất rất rộng để thành lập quốc gia, với quân đội, luật lệ và chế độ thuế má riêng biệt. Chế độ nầy hiện hữu ở đời nhà Chu bên Tàu với nước của thiên tử và nước của các chư hầu; từ nhà Tần trở đi thì chế độ phong kiến bị bị bãi bỏ và được thay bằng chế độ trung ương tập quyền. Chế độ phong kiến cũng tồn tại ở vài nước Âu châu như Pháp, chỉ vào thời Trung cổ mà thôi. Ở Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité) mà chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng từ phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo rằng sự cúng tế đình chùa là tàn tích của phong kiến thì càng sai hơn nữa. TIÊU CỰC, TÍCH CỰC 消極, 積極 Hiện nay, người ta gán vào hai từ nầy ý nghĩa tốt xấu hết sức rõ rệt. Hành động nào tốt thì được gọi là tích cực; trái lại, hành động xấu thì gọi là tiêu cực. Thực ra, suy từ nghĩa gốc Hán Việt thì sự gán ép như thế là sai. Tich cực, tiêu cực tự nó không có sẵn tính chất tốt hay xấu mà chỉ ấn định cường độ của hành động mà thôi. Thí dụ, trong một đoàn đi làm việc phước thiện thì ai tích cực là tốt và ai tiêu cực là không tốt. Nhưng trong một bọn côn đồ đi tổ chức ăn cướp thì đứa nào tích cực lại là đứa xấu nhất. Trong truyện Tam quốc của Tàu, Từ Thứ, mưu sĩ của Lưu Bị bắt buộc phải về phục vụ dưới trướng của kẻ thù là Tào Tháo. Từ Thứ đã giữ thái độ tiêu cực nghĩa là không hiến mưu kế gì cho Tào Tháo. Thái độ tiêu cực nầy của Từ Thứ, từ cổ chí kim luôn luôn được khen ngợi; vậy tiêu cực có xấu đâu. 3. Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm) QUỐC GIỖ. Tôi có đọc được câu nầy: “Ngày giỗ tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ”. Nói như vậy là sai. Giỗ là tiếng Nôm chứ không phải là tiếng Hán Việt nên không thể đặt sau tiếng quốc được. Hãy bỏ tiếng ngày quốc giố mà dùng tiếng thuần Việt là ngày giỗ cả nước, vừa đúng, lại vừa dễ hiểu, Nơi tiếng Hán, ngày giỗ là kỵ nhật 忌日.Ở một vài tỉnh của Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ. Ta nên dứt khoát chỉ dùng từ Nôm là ngày giỗ để cho thống nhất toàn quốc. GÓA PHỤ. Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ trong sách vở báo chí để chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Gọi như thế là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ được. Phải gọi người đàn bà góa (toàn Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán Việt) thì mới đúng. ĐỆ NHẬT THÁC. Ở ngõ đi vào của một địa điểm du lịch, có hàng chữ to tướng dùng để quảng cáo “Nơi đây có đệ nhất thác”. Viết như thế là sai. Đặt 2 chữ đệ nhất (tiếng thêm nghĩa) trước chữ thác (tiếng chính), là theo văn phạm Hán Việt thì cả hai chữ đều phải là tiếng Hán Việt mới được. Ở đây, tiếng thác là thuần Nôm, thế là bậy rồi. Không có tiếng Hán Việt nào có nghĩa thác nước. Thác theo tiếng Hán là bộc bố 瀑 布, nhưng đó lại là tiếng Hán thuần túy nghĩa là chưa được Việt hóa thành tiếng Hán Việt nên chưa thể dùng được. Trong trường hợp nầy, nên viết “Nơi đây có thác đẹp nhất”, vừa đúng, vừa dễ hiểu lại vừa hấp dẫn khách du lịch. 4. Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm X QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh viện là tôi rất khó chịu khi nhìn thấy cái bảng “Phòng X quang” Tôi khó chịu vì cái chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi. Một là lỗi về ngữ pháp và một lỗi vể kiến thức khoa học. Về ngữ pháp, quang là tiếng chính, X là tiếng bổ nghĩa. Đặt tiếng bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích thị sử dụng văn phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì cả 2 chữ đều phải là tiếng Hán Việt. Ở đây X là một mẫu tự latin thì sai quá đi rồi. Về khoa học, quang 光 có nghĩa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng là tia kích thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng sáng. Trong chuỗi sóng điện từ, các tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ bé với độ dài sóng từ 400 nano mét đến gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia X (với độ dài sóng từ 0,1 đến 10 nano mét) cách tia sáng khá xa, không kích thích được tế bào thị giác thì chắc chăn không phải là tia sáng rồi. Cho nên dùng chữ QUANG cho tia X là sai be bét về vật lý sơ đẳng của lớp 12 trung học. Tôi chẳng hiểu ông “đại giáo sư tiến sĩ” nào đã bày ra cái tên X QUANG đó. Tại sao không dùng chữ “TIA X” như trước đây ở miền Nam, vừa hay, vừa đúng, vừa đại chúng, vừa thuần túy Việt Nam. Không lẽ người ta muốn dùng chữ “X QUANG” để chứng tỏ ta đây biết “nói chữ” hay sao? BÊ TÔNG HÓA con đường. Bê tông là từ phụ, hóa là từ chính. Đây cũng là văn phạm Hán Việt. Để thành lập từ kép thì cả 2 từ đơn đều phải tiếng Hán Việt. Ở đây bê tông lại là tiếng Pháp (béton) phiên âm ra, do đó nói bê tông hóa là sai. Ngoài ra, nghĩa cũng sai vì từ bê tông hóa được dùng phải được hiểu là con đường đà được biến hóa thành một khối bê tông. Vì vậy, không nên nói bê tông hóa mà nói một cách bình thường: tráng bê tông con đường, vừa đúng lại vừa dễ hiểu. Còn một lô HÓA rất bậy bạ trong sách vở báo chi, trong chương trình truyền thanh, truyền hình như : nghèo hóa, giàu hóa, no hóa, đói hóa, khôn hóa, dại hóa, vân vân. Tội nghiệp cho ngôn ngữ Việt Nam! NỮ NHÀ BÁO Tôi còn nhớ, trong chiến tranh I rắc [Iraq], sau khi lính Mỹ bắn nhầm nhân viên tình báo của Ý bảo vệ người nữ phóng viên vừa được bọn bắt cóc trả tự do, các đài truyền hình ở Việt Nam loan tin nhiều lần và nhắc đi nhắc lại nhóm từ nữ nhà báo. Thực là quá tệ! Nhà báo là tiếng Nôm nên phải dùng văn phạm xuôi và phải nói “nhà báo nữ” Còn muốn dùng văn phạm ngược thì phải dùng 3 từ Hán Việt: “nữ phóng viên” hay “nữ ký giả”. Ban biên tập các đài truyền hình không biết điều nầy sao? TRIỀU CƯỜNG. Từ lâu rồi, tôi thấy xuất hiện rất thường xuyên hai từ triều cường khi người ta nói đến thủy triều trên song.. Hai chữ nầy có thể thay đổi vị trí trước sau và có hai ý nghĩa khác nhau. Cường triều 強 潮 gồm tính từ đứng trước danh từ thì tương đương với một danh từ và có nghĩa là con nước lớn (haute marée). Triều cường 潮 強 thì lại là một mệnh đề gồm một danh từ triều và một động từ cương và có nghĩa là con nước đang lớn lên (la marée monte). Lúc nào cũng dùng chữ triều cường thì có thể sai hơn phân nửa trường hợp rồi. Nhưng tại sao không nói con nước lớn (danh từ) và con nước đang lên (mệnh đề) vừa đúng lại vừa phù hợp với trình độ và thói quen của đại chúng. HẠT NHÂN. Đây là từ vật lý học chỉ các hiện tượng xảy ra bên trong cái lõi hay cái nhân của nguyên tử. Miền Nam trước đây gọi là hạch tâm. Hạch 核 là cái hạt, tâm 心 là cái lõi hay cái nhân bên trong . Hạch tâm là cái nhân của hạt. Đó là từ ghép theo văn phạm Hán Việt vì cả 2 từ đều là Hán Việt. Bây giờ người ta chuyển sang dùng 2 từ Nôm thì phải theo văn phạm nôm và phải gọi là “nhân của hạt” hay nhân hạt, cũng như bên ngoài gọi “vỏ hạt” chứ không thể gọi là “hạt vỏ” được. Gọi phản ứng hạt nhân, là sai với văn phạm rồi. Cần phải sửa lại: phản ứng nhân hạt mới đúng. Tuy nhiên, theo tôi, nên giữ từ phản ứng hạch tâm thì hay hơn nhiều. Từ nầy không phải là từ của giới bình dân nên cứ giữ tiếng Hán Việt, không cần chuyển sang tiếng Nôm. TẶC. Từ Hán Việt nầy đang được dùng một cách rất bậy bạ và rất thường xuyên như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên ăn trộm. Dùng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc 賊có nghĩa là ăn cướp, đạo 盜 mới có nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn trộm văn của người khác. Tại sao người ta không nói một cách giản dị và đúng là: bọn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê. . . Cũng cần nói thêm về một từ đang được nhiều báo đem dùng. Đó là từ đinh tặc để chỉ bọn rải đinh trên đường phố. Đinh là một từ có gốc Hán Việt 釘 nhưng đã được Việt hóa hoàn toàn rồi nên ghép với từ tặc thì không ổn. Vả lại, nói đinh tặc là sai nghĩa vì từ đó có nghĩa là bọn ăn cướp đinh; thôi bỏ từ đó đi và nên nói một cách giản dị là “bọn rải đinh” thì hơn. Còn vô số những từ sai khác cùng nguyên nhân trên đây như: Lớp trưởng, phải sửa lại trưởng lớp, Nhóm trưởng, phải sửa lại trưởng nhóm Siêu rẻ, phải sửa lại rất rẻ Siêu bền, phải sửa lại rất bên Vi sóng, phải sửa lại vi ba hay sóng ngắn, v.v. Phiên âm các tên riêng nước ngoài ra tiếng Việt. Nguồn: NOP12 Quét-Tờn-U-Niền. Nguồn: Việt Nam 5. Dùng từ vô nghĩa Bệnh viện DA LIỄU. Lần đầu tiên, thấy bảng chữ nầy, thú thật tôi không hiểu là cái gì. Sau hỏi người bạn bác sĩ mới biết đó là “nhà thương chữa bịnh ngoài da và bệnh hoa liễu”. Trời đất! Da là từ thuần Việt. Hoa liễu là từ Hán Việt, sao lại nhập chung một cách kỳ cục như thế. Xét về nguồn gốc, chữ Hán Hoa liễu 花柳 có nghĩa là ổ điếm chứ không phải là một bịnh. Về sau, người ta dùng nhóm từ kép “bịnh hoa liễu” để chỉ cái bịnh lây qua đường tình dục cho những người hay lui tới các hoa liễu. Dùng riêng chữ hoa liễu cho một bịnh đã là sai rồi. Bỏ luôn chữ hoa, chỉ còn chữ liễu thôi thì càng tệ hơn nữa. Riêng chữ liễu 柳 thì có nghĩa là cây liễu. Bệnh viện da liễu tức là bệnh viện chuyên chữa cho bịnh ở da của cây liễu !!! ĐẠI TRÀ. Tôi nhớ sau năm 1975, một người bạn dạy sử địa kể rằng, lần đầu tiên đọc sách giáo khoa từ miền Bắc đưa vào gặp câu: “Cây chè được trồng đại trà ở vùng nầy”. Anh ta hơi hoảng vì dạy sử địa bao năm mà bây giờ không hiểu đại trà là gì. Đại là lớn, còn trà là gì? Anh về lật nhiều tự điển kể cả tự điển Hán Việt ra tra thì chẳng thấy chữ đại trà ở đâu cả. Hỏi thăm mãi anh mới rõ trồng đại trà là trồng rộng rãi khắp nơi. Có lẽ ai đó nổi hứng bịa ra từ vô nghĩa đó để thay thế từ dễ hiểu và có sẵn, rồi sau đó những người khác bắt chước nói theo. Ngôn ngữ mà biến chuyển như thế thì cũng đáng buồn. SỰ CỐ. Lại một từ vô nghĩa nữa nhưng đang được dùng một cách rộng rãi để chỉ một sự rắc rối vừa mới xảy ra. Trong tiếng tiếng Hán Việt có từ kép cố sự 故事 có nghĩa là chuyện cũ chứ làm gì có từ sự cố. Cái nghĩa mà hiện nay người ta gán cho từ vô nghĩa đó thực là lạ lùng, không thể chấp nhận được. HOÀN CẢNH. Trong một bài báo, người ta viết: “Cô ây sống hoàn cảnh lắm”. Đố các bạn biết người ta muốn nói gì? Xin thưa, muốn nói “Cô ấy đang sống trong hoàn cảnh bi thảm”!!! Các bạn có chịu nổi với cách viết văn như thế đó không? ĐÔI CÔNG. Kể từ giải túc cầu thế giới tại Nam Phi, đài truyền hình ở Việt Nam bịa ra một từ mới, đó là từ đôi công và rất thường được lặp đi lặp lại. Theo dõi nhiều trận, tôi mới hiểu ý của các ông trời đó muốn nói: 2 đội chơi đôi công nghĩa là cả 2 đội đều chơi tấn công. Đôi là một cặp (tiếng Nôm), công là tấn công (tiếng Hán Việt). Vậy đôi công là một từ bậy bạ do người kém hiểu biết bịa ra mà hiệu quả rõ ràng là làm xấu đi ngôn ngữ của dân tộc mình. Có người nghĩ rằng, cứ bịa ra những từ mới là làm giàu cho ngôn ngữ. Quan niệm như thế là sai; cũng như muốn làm giàu thì kiếm được thực sự nhiều tiền chức không phải cứ nhét vào tủ các thứ giấy tờ bậy bạ mà gọi làm giàu được. XÂY DỰNG. “Anh Hai tôi quyết định xây dựng với người yêu của mình” Các bạn đừng tưởng rằng 2 người quyết định đi xây nhà để ở nhé. Không, 2 người quyết định làm đám cưới dó. Viết văn như thế thì hết chỗ để phê bình rồi. 6. Dùng sai nghĩa từ thuần Việt NGƯỠNG. Người ít học cũng biết ngưỡng là một giới hạn rất xác định, một gạch ngang rõ nét, và bước qua vạch ngang đó thì mọi việc sẽ thay đổi một cách căn bản. Thí dụ, ngưỡng cửa là một đường ngang, bên trong là phòng, bên ngoài là sân hay mái hiên chứ không còn là phòng nữa. Một thí dụ khác: khi lượng glucose trong máu tăng lên và vượt qua ngưỡng 1% thì đường thoát ra ngoài theo nước tiểu, còn dưới cái ngưỡng đó thì không hề gì. Ngưỡng có nghĩa rõ ràng như thế và học sinh nào cũng biết. Thế mà mổi đêm, trong mục dự báo thời tiết, xướng ngôn viên cứ lải nhải; nhiệt độ đạt ngưỡng từ 32 độ đến 35 độ. Nghe chịu hết nổi. Tôi không trách người xướng ngôn vì bản tin không phải do người xướng ngôn viết mà do các đấng đại trí thức trong ban biên tập viết nên. KIÊU NGẠO. Có người nhờ tôi giải thích một câu nói trong sách báo nào đó: “Thằng A hay kiêu ngạo người khác.” Tôi không giải thích được vì không rõ câu này có nghĩa: “thằng A thường tỏ ra kiêu căng với người khác”, hay là “thằng A thường chế nhạo người khác”. Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều không ổn vì dùng từ kiêu ngạo như thế là sai rồi thì không thể có cách nào giải thích câu nói cho đúng được. TRAO ĐỔI. Từ nầy có nghĩa là đưa qua đưa lại các vật với nhau. Ngày nay người ta lại dùng từ nầy một cách sai lầm để thay thế cho từ bàn bạc hay thảo luận. Thí dụ: “Để thực hiện chỉ thị, tôi đã trao đổi với đồng chí chủ tịch” Bảng hiệu đường phố. Nguồn: www.coviet.vn7. Dùng từ thiếu chính xác CHẤT LƯỢNG. Chất 質là cái khối chứa bên trong một vật (matière,) lượng 量là tính chất của cái gì có thể cân đo đếm được (quantité). Vậy chất lượng hay khối lượng là cái chất bên trong của một vật có thể đo lường được (masse). Thí dụ: “khối lượng hay chất lượng của một vật là 1 kilogramme”. Thế mà ngày nay người ta dung từ chất lượng để chỉ cái tính tốt xấu của một vật, không thể đo đếm được (qualité). Thí dụ: “Chất lượng của nước giải khát nầy kém lắm, uống không ngon má cò có hại cho sức khỏe nữa”. CẢM GIÁC. 感覺 Đó là sự nhận biết của cơ thể do ngoại giới tác động vào các giác quan của cơ thể. Thí dụ: “Gió về khuya gây cảm giác lạnh. Tiếng đàn gây cảm giác êm đềm”. Ngày nay, người ta thường dùng từ cảm giác thay cho từ cảm nghĩ. Thí dụ: ‘Với tình hình nầy, anh có cảm giác thế nào?”. Thực là sai một cách trầm trọng. THỐNG NHẤT. Thống nhất 統一 là làm biến mất tình trạng chia rẻ bắng cách gom các thứ về một mối. Ngày nay người ta lại thường dùng từ thống nhất để diễn tả sự đồng ý, cùng chung quan điểm. Thí dụ, người ta đã nói: “Để thực hiện tốt chỉ thị, tôi cần thống nhất đồng chí chủ tịch”. Nói như vậy là sai. GIẢI PHÓNG . Giải phóng 解放 là một từ thường dùng trong lĩnh vực chính trị để chi công cuộc cởi bỏ áp bức, trói buộc cho con người. Ngày nay, người ta lại dùng một cách sai lầm từ nầy cho vật chất. Thí dụ: người ta nói giải phóng mặt bằng thay cho từ đúng là giải tỏa mặt bằng. ĐĂNG KÝ. Đăng ký 登記 là chép vào sổ một vật được đưa đến. Thế mà ngày, người ta nói: “Tôi đã đăng ký đi nước ngoài” Nghe như người ta sẽ gói tôi lại rồi đem gởi ra nước ngoài. Với con người, không thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng. 8. Từ vựng lộn xộn LÁI XE. Đó rõ ràng là một động từ, hay đúng hơn là một từ kép gồm một động từ và một túc từ. Tuy nhiên, ngày nay người ta cũng dùng từ nầy để chỉ người lái xe, tức là danh từ. Vì vậy, người ta có thể nói: “Sáng nay, lái xe đang lái xe gặp một lái xe khác cũng lái xe, cả hai lái xe cùng lái xe về nhà.” Thực là buồn cười. Trước đây ở miền Nam, lái xe dứt khoát chỉ là động từ, còn danh từ phải là người lái xe hay muốn nói gọn hơn thì dùng từ tài xế (phiên âm Quảng Đông?) cũng được rõ ràng minh bạch. YÊU CẦU. Đây là một động từ. Thí dụ: “Tôi yêu cầu anh đi ngay”. Sau 75, tôi gặp ngay trong giáo án (tài liệu chính thức để dạy học) 2 chữ: mục đích và yêu cầu. Động từ yêu cầu đã biến hẳn thành danh từ. NGHIÊN CỨU SINH. Sinh 生 là tiếng Hán Việt. Dùng làm động từ thì sinh có nghĩa là sống, còn dùng làm danh từ thì sinh có nghĩa là con người đang sống. Thí dụ học sinh là người đi học, giáo sinh là người đi dạy. Nguyên cứu sinh là người đi nghiên cứu. Rõ ràng như vậy, thế mà tôi đã nghe người ta nói và đã thấy người ta viết những câu như “Con tôi được đi nghiên cứu sinh tại Trung quốc” Như thế là nói bậy vì lấy một danh từ làm động từ! ẤN TƯỢNG. Theo cụ Đào Duy Anh, ấn tượng 印象(impression) là cái hình tượng do ngũ quan cảm xúc mà còn in sâu vào óc. Vậy ấn thượng là một danh từ của tâm lý học. Thế mà ngày nay người ta đem dùng làm tính từ như “cảnh đó rất ấn tượng”, và cả động từ nữa, như “tôi rất ấn tượng cảnh đó”. Hết sức bậy bạ THẦN TƯỢNG. 神像 Từ nầy có nghĩa là hình tượng cao quý như thần. Vậy đây là danh từ nhưng, cũng như chữ trên đây, thần tượng được dùng như tính từ như “người đó rất thần tượng”, rồi cả động từ nữa “anh có thần tượng đồng chí đó không?” TRÊN. Rõ ràng đây là một giới từ, bây giờ lại trở thành danh từ. Thí dụ: “Cần phải báo cáo cho trên rõ” hay “trên bảo, dưới không nghe”. LÀM TỐT. Tốt là một tính từ bổ túc nghĩa cho danh từ, như hạnh kiểm tốt, sức khỏe tốt. Ngày nay tốt được dùng làm trạng từ bổ túc nghĩa cho động từ, như làm tốt, học tốt, thay vi nói làm giỏi, học giỏi. LÃNH ĐẠO. Tôi không tìm thấy chữ nầy trong các tự điển Hán Việt nhưng lại có trong tự điển của Tàu hiện nay 领导 và có nghĩa là điều khiển, hướng dẫn con đường đi. Vậy rõ ràng đây là một động từ. Tuy nhiên ngày nay người ta lại dùng làm danh từ. Thí dụ: “Lãnh đạo đã chỉ thị như thế” Sự rối loạn về từ vựng trong ngôn ngữ thực là điều rất đáng tiếc. Từ đầu thế kỷ 20, do ảnh hưởng của tiếng Pháp, ngôn ngữ Việt Nam dần dần được minh bạch về từ vựng nên trở nên sáng sủa và rõ nghĩa, nay có biểu hiện rối rắm về từ vựng và trở nên tối tăm, có lẽ do mấy ông đi học bên Tàu về. Tiếng Tàu thì rất lôi thôi về từ vựng, ai cũng rõ điều đó. Học tiếng Việt Nam. Nguồn: Dantri.com 9. Cóp tiếng Tàu đang dùng LƯU BAN. Học sinh kém quá không được lên lớp thì gọi là lưu ban. Trong tiếng Tàu hiện nay, ban 班 là lớp học nhưng với tiếng Hán Việt (gốc từ tiếng Tàu đời Đường) thì ban không phải là lớp học mà có nghĩa rất xa lạ (ban phát, hạng thứ, đem quân trở về). Do đó, dùng tiếng lưu ban để nói học sinh không được lên lớp thì không ổn chút nào. Dùng chữ lưu cấp 留級 thì gần đúng nghĩa hơn. Nhưng thôi, lưu ban, lưu cấp làm chi. Mình đã có chữ thuần Việt đã dùng từ lâu là ở lại lớp, rất hay vì phụ huynh học sinh nào cũng hiểu được. TRANH THỦ. Đây là từ mới được đưa vào Nam sau 1975, và có nghĩa là lợi dụng tình hình để làm được việc gì đó. Thí dụ: “trong chuyến đi tham vừa qua, anh ấy đã tranh thủ kiếm chác được chút ít.” Tôi đã cố tìm hiểu xuất xứ của từ nầy và nhận ra rằng từ tranh thủ không có trong tiếng Hán Việt nhưng hiện nay đang được dùng bên Tàu. Việc đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập vào ngôn ngữ Việt Nam là đều điều không hợp lý vì nó sẽ làm rối rắm ngôn ngữ của mình. Nên nhớ tiếng Hán Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ không phải là tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều với tiếng Tàu đời Đường, về phát âm cũng như về ý nghĩa. Thí dụ,大家 , tiếng Hán Việt đọc đại gia và có nghĩa là người hay gia đình có vai vế trong xã hội, trong khi đó tiếng Tàu hiện đại đọc là dà jià và có nghĩa là tất cả mọi người. Một thí dụ khác: 東西 tiếng Hán Việt đọc là đông tây và có nghĩa là 2 phương hướng, trong khi tiếng Tàu hiện đại đọc là dòng xì và có nghĩa là hàng hóa. Cho nên tiếng Tàu ngày nay phải được xem là ngoại ngữ đối với ngôn ngữ Việt Nam và không nên nhập một cách bừa bãi vào tiếng Việt. 10. Đảo ngược từ kép làm sai nghĩa ĐIỂM YẾU Từ kép nầy gồm 2 tiếng đơn ghép theo văn phạm Nôm có nghĩa là cái điểm không mạnh. Có người đem đảo ngược lại thành yếu điểm theo văn phạm Hán Việt thì lại có nghĩa hoàn toàn khác hẳn: điểm rất quan trọng. THẤP ĐIỂM. Từ nầy thường được dùng sai một cách thực buồn cười. Cao là tiếng Hán đã được Việt hóa, nên có thể dùng theo văn phạm Hán hay Nôm cũng đều có một nghĩa duy nhất là “ở phía bên trên”. Thí dụ: điểm cao và cao điểm cùng một nghĩa. Trong khi đó thấp lại có hai nghĩa khác nhau tùy theo tiếng Hán hay Nôm. Theo tiếng Nôm thì thấp có nghĩa là ở bên dưới, nhưng với tiếng Hán thi thấp có nghĩa là ẩm ướt… Vì vậy, khi nói điểm thấp thì đó là chỗ ở dưới thấp, nhưng khi đảo lại thành thấp điểm thì có nghĩa là nơi ẩm ướt. Thực là buồn cười khi đọc báo thấy: “giao thông giờ cao điểm, giao thông giờ thấp điểm” hay “dùng điện lúc cao điểm và dùng điện lúc thấp điểm” 11. Đảo từ kép bừa bãi và không cần thiết. XA XÓT. Tôi đọc được cách đảo kỳ cục trong một tác phẩm bán rất chạy trong thời gian gần đây. Nguyên câu đã viết là: “…ông Năm xa xót nhìn hai đứa trẻ…” Đảo từ như thế là bừa bãi, chẳng nhằm lợi ích gì. Với văn vần thì có thể tạm chấp nhận sự đảo từ cho hợp thi luật; nhưng với văn xuôi thì không thể đảo từ một cách bừa bãi được. Còn rất nhiều từ kép bị đảo xuôi đảo ngược vô tội vạ nữa: Nguy hiểm / hiểm nguy; đơn giản / giản đơn; khai triển / triển khai; từ chối / chối từ; bảo đảm / đảm bảo; bền vững / vững bền; minh chứng / chứng minh; phục hồi / hồi phục; biệt ly / ly biệt; tha thướt / thướt tha; thẩn thờ / thờ thẩn; tranh đấu / đấu tranh; thơ ngây / ngây thơ; xúc cảm / cảm xúc; quang vinh / vinh quang; kinh hoảng / hoảng kinh; ái ân / ân ái ….. Ôi thôi, nhiều quá, quá nhiều, không sao kể hết ngay tức thì được. Có lẽ trên thế giới, không ngôn ngữ nào có các từ bị đảo ngược lung tung như ngôn ngữ Việt Nam hiện nay. Cứ cái đà nầy, tôi e có ngày mình sẽ đọc được một câu thế nầy: “Người sĩ-chiến sinh-hi ngoài trận-mặt để vệ-bảo quốc-tổ, dân-nhân ở phương-hậu phải tỏ lòng ân-tri với các hùng-anh sĩ-liệt”!!! 12. Ghép từ bừa bãi KÍCH CẦU. Đó là nhóm từ “kich thích nhu cầu tiêu thụ” được ghép cho ngắn lại làm cho nghĩa trở thành hết sức tối tăm. Nghe từ ghép “kích cầu”, tôi cứ tưởng công việc của mấy ông công chánh đang thực hiên ở dưới sông. Cách ghép nấy nghe rất chướng tai nhưng lại rất phổ biến hiện nay. GIAO HỢP. Có một chuyện ghép từ rất khôi hài mà người ta thường hay kể lại. Chuyện thế nầy: Đồng chí giám đốc phái một nữ nhân viên qua một xí nghiệp bạn với lời dặn đò cẩn thận: “Cô hãy sang đó và cố gắng thuyết phục cho họ chịu giao hợp nhé”. Ý đồng chí giám đốc muốn nói giao hợp có nghĩa là giao thiệp và hợp tác; không biết cô nữ nhân viên có hiểu đúng ý đồng chí giám đốc hay không 13. Dùng từ dao to búa lớn Tập viết… ngọng. Nguồn: Vở luyện tập viết Tiếng Việt lớp 1 Tác giả: Đặng Thị Lanh (nguyên Phó vụ trưởng Vụ giáo dục Tiểu học, Bộ GD&ĐT), được NXB Đà Nẵng cấp giấy phép (tháng 2/2012) và in tại Công ty in Tổng hợp Cầu Giấy (Hà Nội) CHIẾN. Đá bóng chỉ là một trò chơi thể thao thuần túy thế mà các xướng ngôn viên và bình luận viên của chúng ta luôn luôn gọi đó là cuộc chiến. Cuộc chiến thì phải có đổ máu, phải có quyết tâm tiêu diệt kẻ thù hay ít ra làm cho kẻ thù phải khốn đốn. Một hôm đi ngang qua sạp báo tôi thấy một tờ báo chạy một cái tựa rất lớn ở trang nhất: “nội chiến ở bán đảo Ibérique”. Tôi giật mình không hiểu tại sao giữa hai nước anh em Tây ban nha và Bồ đào nha lại nổ ra chiến tranh. Tôi vội vã móc tiền ra mua ngay tờ báo đó rồi chạy nhanh về nhà để đọc. Đọc xong, tôi ngã ngửa, Thì ra, trong một cuộc bốc thăm do FIFA tổ chức, hai đội tuyển bóng tròn của Tân ban nha và Bồ đào nha gặp nhau trong cuộc chơi play-off. Thế mà người ta dám gọi là nội chiến. Xin chào thua cách dùng ngôn từ Việt Nam ngày nay. CHIẾN ĐẤU. Tôi đã từng nghe nói: “Chúng ta phải cương quyết chiến đấu với tư tưởng sai trái”. Nghe thực đáng sợ. NGÀI. Đã có lúc, nhân danh lập trường giai cấp, lập trường ta bạn thù, người ta gọi các lãnh tụ của nước tư bản bằng thằng nọ thằng kia. Bây giờ, chúng ta chơi với tư bản thì ai người ta cũng gọi bằng “ngài”. Ngài thủ tướng, ngài đại sứ, ngài nghị sĩ, vân vân. Nghe có vẻ nịnh bợ quá đi thôi. THAM QUAN. 參觀 Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một công cuộc xem xét, nghiên cứu. Gọi thế mới hách chứ. NGHIÊN CỨU SINH. Đi học thêm ở ngoại quốc, chuyện quá tầm thường, nhiều khi lợi dụng làm chuyện bậy bạ, lại tự tâng bốc mình là đi nghiên cứu. 14. Dùng từ Hán Việt thay từ Nôm một cách kỳ cục KHẨN TRƯƠNG Một đồng nghiệp của tôi định cư tại Úc từ năm 1975. Cách đây vài năm, thầy về Việt Nam lần đầu tiên và dùng tàu hỏa ra Hà nội thăm quê. Giữa khuya, tàu đến ga Đồng hới thuộc tỉnh Quảng Bình. Đang ngủ say, bỗng thầy giật mình tỉnh dậy vì tiếng loa “… hành khách khẩn trương lên”. Thầy hoảng hồn phóng xuống giường, chạy ra khỏi buồng của toa xe vì tưởng xe trật đường rầy hay có hỏa hoạn xảy ra. Nhưng không, nhân viên trên toa tàu chỉ nhắc nhở hành khách nào xuống tàu ở ga nầy thì nhanh lên, thế thôi! Tội nghiệp, thầy Phụng hoảng hồn cũng phải vì ở miền Nam trước đây, ngươi ta ăn nói một cách giản dị và chỉ hay dùng tiếng Hán Việt trong văn chương và khi có việc nghiêm trọng mà thôi. BÁO CÁO. Một người bạn đã nói với tôi: “Báo cáo anh, chiều nay tôi phải lên xe về Hà nội”. Tôi nghe chữ báo cáo thì cứ tưởng anh ta đang nói với một vị tư lệnh trên chiến trường. 15. Thay từ Hán Việt thông dụng bằng từ Nôm bất hợp lý MÁY BAY LÊN THẲNG. Cái loại máy bay có thể bay lên mà không cần phi đạo, ngày trước người miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, từ người có học đến người thất học, đều gọi bằng một cái tên rất gọn là trực thăng. Sau 1975, người ta sửa lại là máy bay lên thẳng, không hiểu lý do tại sao. LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ. Ngày trước miền Nam có một binh chủng đặt tên là Thủy quân lục chiến. Đó gần như là một danh từ riêng. Sau 75 thì sửa lại là lính thủy đánh bộ cho có vẻ nôm na, dù thủy và bộ vẫn là tiếng Hán Việt. Có người bảo rằng cái gì của ta thì dùng tiếng Hán Việt mới bảnh, còn cái gì của kẻ thù thì dùng tiếng Nôm để làm giảm giá trị. Nếu quả đúng như thế thì đó thực là một quan niệm hết sức sai lầm và xúc phạm một cách trầm trọng đến giá trị tiếng thuần Việt của dân tộc mình. 16. Chưa có được những từ thỏa đáng cho khoa học và kỷ thuật hiện đại Chủ nghĩa Dân tộc. Nguồn: iDesign vẽ kiểu COMPUTER dịch là máy vi tính là không thỏa đáng. Máy vi tính có nghĩa là máy dùng làm những phép tính rất nhỏ. Chức năng của computer không phải chỉ như thế. Xin để dành cho các nhà chuyên môn về kỹ thuật và các nhà ngôn ngữ nói chuyện với nhau để chọn từ cho chính xác. TECHNOLOGIES DE L’INFORMATION dịch là tin học, cần xét lại 2 điểm. Thứ nhất, tecgnologie là một kỹ thuật, dịch bằng một chữ học trơ trọi thì không ổn. Thứ hai, muốn dùng từ kép “tin học” thì 2 từ đơn phải đều là tiếng Hán Việt. Nhưng tin là tiếng Nôm còn tín mới là tiếng Hán Việt. *ON LINE, OFF LINE, dịch là trực tuyến và ngoại tuyến thì e không ổn. Ở tiếng Mỹ, on và off là 2 từ đối nghịch nhau thì dịch sang tiếng Việt cũng cần 2 từ đối nghịch nhau mới được. Cho nên dùng 2 từ trực và ngoại thì chẳng ổn chút nào. Một lần nữa, chúng ta chờ đợi sự bàn bạc giữa các chuyên viên kỹ thuất và ngôn ngữ. (Trích TrieuThanh Magazine) Nguồn: Những từ dùng sai trong ngôn ngữ tiếng Việt. Hà Thủy Nguyên. Trang Book Hunter, 12/11/2013. DCVOnline biên tập, minh họa. Tác giả: Hà Thủy Nguyên, viết văn, biên kịch Sở thích: Sáng tác văn chương, nghiên cứu tôn giáo và tâm linh, các vấn đề về văn hóa – văn minh Các dự án đã tham gia – Tác giả tiểu thuyết dã sử “Điệu nhạc trần gian” (NXB Phụ Nữ – 2004); Tiểu thuyết dã sử “Cầm thư quán” (NXB Phụ Nữ -2007); Tiểu thuyết giả tưởng “Thiên mã” (NXB Kim Đồng); Tập truyện ngắn “Bên kia cánh cửa” (Nhà sách Bách Việt) – Biên kịch phim “Vòng nguyệt quế” (2008 – VTV1); “Blog nàng dâu” (2009- VTV3); “Nếp nhà” (2010) – Founder & Content manager trang nghethuatyeu.net (2011-2012) – Founder nhóm tình nguyện Mảnh ghép – Founder and Content manager tại Book Hunter Club
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 14, 2019 2:16:10 GMT 9
LUẬT HỎI NGÃ suu tam
Trong tiếng Việt chúng ta xử dụng tất cả 1270 âm tiết với dấu hỏi hoặc với dấu ngã, trong đó có 793 âm tiết (chiếm 62%) viết dấu hỏi, 477 âm tiết (38%) viết dấu ngã. Việc nắm được quy luật dấu hỏi và dấu ngã của lớp từ láy và lớp từ Hán Việt sẽ giúp ta giảm được nhiều lỗi chính tả. I. TỪ LÁY & TỪ CÓ DẠNG LÁY:
• Các thanh ngang (viết không có dấu) và sắc đi với thanh hỏi, ví dụ như: dư dả, lửng lơ, nóng nẩy, vất vả...
• Các thanh huyền và nặng đi với thanh ngã, ví dụ như: tầm tã, lững lờ, vội vã, gọn ghẽ...
Quy tắc từ láy chỉ cho phép viết đúng chính tả 44 âm tiết dấu ngã sau đây:
- ã ầm ã, ồn ã - sã suồng sã - thãi thưà thãi - vãnh vặt vãnh - đẵng đằng đẵng - ẫm ẫm ờ - dẫm dựa dẫm, dọa dẫm, dò dẫm - gẫm gạ gẫm - rẫm rờ rẫm - đẫn đờ đẫn - thẫn thờ thẫn - đẽ đẹp đẽ - ghẽ gọn ghẽ - quẽ quạnh quẽ - kẽo kẽo kẹt - nghẽo ngặt nghẽo - nghễ ngạo nghễ - nhễ nhễ nhại - chễm chiễm chệ - khễng khập khễng - tễng tập tễnh - nghễu nghễu nghện - hĩ hậu hĩ - ĩ ầm ĩ - rĩ rầu rĩ, rầm rĩ - hĩnh hậu hĩnh, hợm hĩnh - nghĩng ngộ nghĩnh - trĩnh tròn trĩnh - xĩnh xoàng xĩnh - kĩu kĩu kịt - tĩu tục tĩu - nhõm nhẹ nhõm - lõng lạc lõng - õng õng ẹo - ngỗ ngỗ nghịch, ngỗ ngược - sỗ sỗ sàng - chỗm chồm chỗm - sỡ sặc sỡ, sàm sỡ - cỡm kệch cỡm - ỡm ỡm ờ - phỡn phè phỡn - phũ phũ phàng - gũi gần gũi - hững hờ hững
Ngoài ra còn có 19 âm tiết dấu ngã khác dùng như từ đơn tiết mà có dạng láy ví dụ như:
- cãi cọ - giãy giụa - sẵn sàng - nẫu nà - đẫy đà - vẫy vùng - bẽ bàng - dễ dàng - nghĩ ngợi - khập khiễng - rõ ràng - nõn nà - thõng thượt - ngỡ ngàng - cũ kỹ - nũng nịu - sững sờ - sừng sững - vững vàng - ưỡn ẹo
Cần phải nhớ cãi cọ khác với củ cải, nghĩ ngợi khác với nghỉ ngơi, nghỉ học.
Như vậy quy tắc hài thanh cho phép viết đúng chính tả 63 âm tiết dấu ngã.
Ngoài ra còn có 81 âm tiết dấu ngã dưới đây thuộc loại ít dùng:
Ngãi, tãi, giãn (dãn), ngão, bẵm, đẵm (đẫm), giẵm (giẫm), gẵng, nhẵng, trẫm, nẫng, dẫy (dãy), gẫy (gãy), nẫy (nãy), dẽ, nhẽ (lẽ), thẽ, trẽ, hẽm (hẻm), trẽn, ẽo, xẽo, chễng, lĩ, nhĩ, quĩ, thĩ, miễu, hĩm, dĩnh, đĩnh, phĩnh, đõ, ngoã, choãi,doãi, doãn, noãn, hoãng, hoẵng, ngoẵng, chõm, tõm, trõm, bõng, ngõng, sõng, chỗi (trỗi), giỗi (dỗi), thỗn, nỗng, hỡ, xỡ, lỡi, lỡm, nỡm, nhỡn, rỡn (giỡn), xũ, lũa, rũa (rữa), chũi, lũi, hũm, tũm, vũm, lũn (nhũn), cuỗm, muỗm, đuỗn, luỗng, thưỡi, đưỡn, phưỡn, thưỡn, chưỡng, gưỡng, khưỡng, trưỡng, mưỡu.
Tôi để ý thấy rất nhiều lỗi chính tả ở những âm tiết rất thường dùng sau đây: đã (đã rồi), sẽ (mai sẽ đi), cũng (cũng thế), vẫn (vẫn thế), dẫu (dẫu sao), mãi (mãi mãi), mỗi, những, hễ (hễ nói là lam), hỡi (hỡi ai), hãy, hẵng.
Cũng có những trường hợp ngoại lệ như:
1. Dấu ngã: đối đãi (từ Hán Việt), sư sãi (từ Hán Việt), vung vãi (từ ghép), hung hàn (từ Hán Việt), than vãn, ve vãn, nhão nhoét (so sánh: nhão nhẹt), minh mẫn (từ Hán Việt), khe khẽ (so sánh: khẽ khàng), riêng rẽ, ễng ương, ngoan ngoãn, nông nỗi, rảnh rỗi, ủ rũ . . .
2. Dấu hỏi: sàng sảy (từ ghép), lẳng lặng, mình mẩy, vẻn vẹn, bền bỉ, nài nỉ, viển vông, chò hỏ, nhỏ nhặt, nhỏ nhẹ, sừng sỏ, học hỏi, luồn lỏi, sành sỏi, vỏn vẹn, mềm mỏng, bồi bỏ, chồm hổm, niềm nở, hồ hởi...
II. TỪ HÁN VIỆT:
a) Dùng dấu hỏi khi có phụ âm đầu là:
• Ch-: chuẩn, chỉ, chỉnh, chủ, chuẩn, chủng, chuyển, chưởng. • Gi-: giả, giải, giảm, giản, giảng, giảo. • Kh-: khả, khải, khảm, khảng, khảo, khẳng, khẩn, khẩu, khiển, khoả, khoản, khoảnh, khổ, khổng, khởi, khuẩn, khủng, khuyển, khử. • Và các từ không có phụ âm đầu như: ải, ảm, ảnh, ảo, ẩm, ấn, ẩu, ổn, uẩn, ủng, uổng, uỷ, uyển, ỷ, yểm, yểu.
b) Dùng dấu ngã khi có phụ âm đầu là:
• D-: dã, dẫn, dĩ, diễm, diễn, diễu, dĩnh, doãn, dõng, dũng, dữ, dưỡng. • L-: lãm, lãn, lãng, lãnh, lão, lẫm, lễ, liễm, liễu, lĩnh, lõa, lỗi, lỗ, lũ, lũng, luỹ, lữ, lưỡng. • M-: mã, mãi, mãn, mãng, mãnh, mão, mẫn, mẫu, mỹ, miễn. • N-(kể cả NH-NG): nã, não, ngã, ngãi, ngẫu, nghĩa, nghiễm, ngỗ, ngũ, ngữ, ngưỡng, nhã, nhãn, nhẫn, nhĩ, nhiễm, nhiễu, nhỡn, nhũ, nhũng, nhuyễn, nhưỡng, noãn, nỗ, nữ. • V-: vãn, vãng, vẫn, vĩ, viễn, vĩnh, võ, võng, vũ.
c) 33 từ tố Hán-Việt có dấu ngã cần ghi nhớ (đối chiếu với bản dấu hỏi bên cạnh):
- Bãi: bãi công, bãi miễn. - Bảo: bảo quản, bảo thủ. Bão: hoài bão, bão ho - Bỉ: bỉ ổi, thô bỉ Bĩ: vận bĩ, bĩ cực thái lai - Cưỡng: cưỡng bức, miễn cưỡng - Cửu: cửu trùnh, vĩnh cửu Cữu: linh cữu - Đãi: đối đãi, đãi ngộ - Đảng: đảng phái Đãng: quang đãng, dâm đãng - Để: đại để, đáo để, triệt để Đễ: hiếu đễ - Đỗ: đỗ quyên - Hải: hải cảng, hàng hải Hãi: kinh hãi - Hãm: kìm hãm, hãm hại - Hãn: hãn hữu, hung hãn - Hãnh: hãnh diện, kiêu hãnh - Hoãn: hoãn binh, hoà hoãn - Hổ: hổ cốt, hổ phách Hỗ: hỗ trợ - Hỗn: hỗn hợp, hỗn độn - Huyễn: huyễn hoặc - Hữu: tả hữu, hữu ích - Kỷ: kỷ luật, kỷ niệm, ích kỷ, thế kỷ Kỹ: kỹ thuật, kỹ nữ - Phẫn: phẫn nộ - Phẫu: giải phẫu - Quẫn: quẫn bách, quẫn trí - Quỷ: quỷ quái, quỷ quyệt Quỹ: công quỹ, quỹ đạo - Sỉ: sỉ nhục, liêm sỉ Sĩ: sĩ diện, chiến sĩ, nghệ sĩ - Tể: tể tướng, chúa tể, đồ tể Tễ: dịch tễ - Thuẫn: hậu thuẫn, mâu thuẩn - Tiễn: tiễn biệt, thực tiễn, hoả tiễn - Tiểu: tiểu đội, tiểu học Tiễu: tuần tiễu, tiễu phỉ - Tỉnh: tỉnh ngộ, tỉnh thành Tĩnh: bình tĩnh, yên tĩnh - Trĩ: ấu trĩ - Trữ: tích trữ, trữ tình - Tuẫn: tuẫn nạn, tuẫn tiết - Xả: xả thân Xã: xã hội, xã giao, thị xã
III. TÓM LẠI:
1. Từ láy: Các thanh ngang và sắc đi với thanh hỏi. Các thanh huyền và nặng đi với thanh ngã. Để cho dễ nhớ chúng ta có thể tóm gọn trong hai câu thơ sau:
Chị Huyền vác nặng ngã đau Anh Sắc không hỏi một câu được là (Hoàng Anh Tuấn).
2. Từ Hán Việt phần lớn viết với dấu hỏi (trong tổng số yếu tố Hán-Việt, có 176 yếu tố viết dấu hỏi, chiếm 62%; 107 yếu tố viết dấu ngã, chiếm 38%), (Hoàng Phê, 6).
• Dùng dấu hỏi khi có phụ âm đầu là CH, GI, KH và các từ khởi đầu bằng nguyên âm hoặc bán nguyên âm như ải, ảm, ảnh, ảo, ẩm, ấn, ẩu, ổn, uẩn, ủng, uổng, uỷ, uyển, ỷ, yểm, yểu.
• Dùng dấu ngã khi có phụ âm đầu là M, N(NH-NG), V, L, D, N (cho dễ nhớ tôi viết thành Mình Nên Viết Là Dãu Ngã) (Hoàng Anh Tuấn).
Như vậy chỉ cần nắm các qui tắc trên và nhớ 33 trường hợp đặc biệt viết với dấu ngã là có thể viết đúng chính tả toàn bộ 283 yếu tố Hán-Việt có vấn đề hỏi ngã cũng coi như nắm được căn bản chính tả DẤU HỎI HAY DẤU NGÃ trong tiếng Việt (Hoàng Phê, 1).
Phần 1: Các lỗi về dấu câu và cách trình bày:
Các dấu dùng để kết thúc câu (dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu ba chấm) phải viết DÍNH LIỀN với chữ cuối cùng của câu.
Ví dụ cách viết đúng:
- Hôm nay là thứ mấy? (dấu chấm hỏi viết sát chữ y)
Ví dụ cách viết sai:
- Hôm nay là thứ mấy ? (dấu chấm hỏi viết cách chữ y một khoảng trắng)
Các dấu dùng để ngăn cách giữa câu như dấu phẩy, dấu chấm phẩy và dấu hai chấm phải DÍNH LIỀN với vế trước của câu và CÁCH vế sau của câu một khoảng trắng.
Ví dụ cách viết đúng:
- Đây là vế trước, còn đây là vế sau.
Ví dụ cách viết sai:
- Đây là vế trước , còn đây là vế sau.
Dấu ngoặc đơn và dấu ngoặc kép phải DÍNH LIỀN với phần văn bản mà nó bao bọc.
Ví dụ cách viết đúng:
- Hắn nhìn tôi và nói “Chuyện này không liên quan đến anh!”
Ví dụ cách viết sai:
- Hắn nhìn tôi và nói “ Chuyện này không liên quan đến anh! ”
Phần 2: Những từ nhiều người thường viết sai:
- “Dành” và “giành”:
Dành: động từ mang nghĩa tiết kiệm, cất giữ hoặc xác định quyền sở hữu, chia phần cho ai đó. Ví dụ: để dành, phần này dành cho bạn (tương đương với “phần này thuộc về bạn”).
Giành: động từ chỉ sự tranh đoạt. Ví dụ: giành giật, giành chính quyền.
- “Dữ” và “giữ”:
“Dữ” là tính từ chỉ tính cách. Ví dụ: dữ dằn, giận dữ, dữ tợn, hung dữ, dữ dội…
“Giữ” là động từ chỉ việc sở hữu, bảo vệ. Ví dụ: giữ của, giữ gìn, giữ xe, giữ đồ…
- “Khoảng” và :khoản”:
“Khoảng” để chỉ một vùng không gian, thời gian, độ dài bị giới hạn. Vi dụ: khoảng cách, khoảng không, khoảng thời gian.
“Khoảng” cũng có khi được dùng để chỉ sự ước lượng. Ví dụ: Nhóm người đó có khoảng chục người.
“Khoản” là một mục, một bộ phận. Ví dụ: tài khoản, điều khoản, khoản tiền.
- Số chẵn, số lẻ:
Chẵn dấu ngã, lẻ dấu hỏi là đúng.
- Bán sỉ, bán lẻ:
Cách viết đúng: Cả sỉ và lẻ đều là dấu hỏi.
- “Chẳng lẽ” (một từ thường đặt ở đầu câu, dùng để diễn tả suy đoán về một khả năng mà bản thân không muốn tin hoặc không muốn nó xảy ra):
Chẳng dấu hỏi, lẽ dấu ngã. Cái này ngược lại hoàn toàn với “số chẵn, số lẻ”.
- “Chuyện” và “truyện”:
“Chuyện” là thứ được kể bằng miệng. “Truyện” là chuyện được viết ra và được đọc.
Ví dụ: “chuyện cổ tích” được kể dựa theo trí nhớ nhưng khi chuyện cổ tích được in vào sách thì nội dung được in đó gọi là “truyện cổ tích”. Và nếu có người đọc cuốn sách đó thì người đó đang đọc “truyện cổ tích”.
- “Sửa” và “sữa”:
Sửa xe, sửa máy móc, sửa chữa là dấu hỏi.
Sữa bò, sữa mẹ, sữa tươi, sữa chua là dấu ngã.
- “Chửa” và “chữa”:
Chửa: đồng nghĩa với mang thai, là dấu hỏi.
Chữa: đồng nghĩa với “sửa”, thường ghép với nhau thành từ ghép “sửa chữa” (lưu ý: sửa dấu hỏi, chữa dấu ngã mặc dù hai từ này đồng nghĩa)
- “Dục” và “giục”:
“Dục” nói về chức năng sinh lý của cơ thể hoặc ham muốn. Ví dụ: thể dục, giáo dục, tình dục, dục vọng.
“Giục” nói về sự hối thúc. Ví dụ: giục giã, xúi giục, thúc giục.
- “Giả”, “giã” và “dã”:
“Giả”: không phải thật nhưng trông giống thật. Ví dụ: hàng giả, giả dối, giả vờ
“Giả” còn là một từ gốc Hán mang nghĩa “người”. Ví dụ: tác giả (người tạo ra), cường giả (kẻ mạnh), khán giả (người xem), diễn giả (người nói trước công chúng về một chủ đề nào đó).
“Giã”: thường ghép với các từ khác. Ví dụ: giục giã, giã từ.
“Dã”: mang tính chất rừng rú, hoang sơ, chưa thuần hóa. Ví dụ: dã thú, hoang dã, dã tính, dã man.
- “Sương” và “xương”:
“Sương”: hơi nước xuất hiện vào buổi sáng sớm hoặc trong những hoàn cảnh thời tiết đặc biệt. Ví dụ: sương mù, giọt sương, hơi sương, sương muối.
“Xương”: phần khung nâng đỡ cơ thể động vật. Ví dụ: bộ xương, xương bò, xương hầm.
- “Xán lạn”:
“Xán lạn” là cách viết đúng. Cả “xán” và “lạn” đều là những từ gốc Hán. “Xán” là rực rỡ, “lạn” là sáng sủa. Tất cả các cách viết khác như “sáng lạn”, “sáng lạng”, “sán lạn”… đều là những cách viết sai. Đây là một từ khó, khó đến nỗi rất nhiều bài báo cũng dùng sai.
- “Rốt cuộc”:
“Rốt cuộc” là cách viết đúng. Nhiều người thường hay viết sai từ này thành “rốt cục” hoặc “rút cục”.
- “Kết cục”:
“Kết cục” là cách viết đúng. “Kết cuộc” là cách viết sai.
- “Xuất” và “suất”:
“Xuất” là động từ có nghĩa là ra. Ví dụ: sản xuất, xuất hiện, xuất bản, xuất khẩu, xuất hành, xuất phát, xuất xứ, xuất nhập… “Xuất” còn có nghĩa là vượt trội, siêu việt. Ví dụ: xuất sắc, xuất chúng…
“Suất” là danh từ có nghĩa là phần được chia. Ví dụ: suất ăn, tỉ suất, hiệu suất…
- “Yếu điểm” và “điểm yếu”:
“Yếu điểm”: có nghĩa là điểm quan trọng. “Yếu điểm” đồng nghĩa với “trọng điểm”.
“Điểm yếu”: đồng nghĩa với “nhược điểm”.
- “Tham quan”:
"Tham quan" nghĩa là xem tận mắt để mở rộng hiểu biết. “Tham quan” là cách viết đúng, “thăm quan” là cách viết sai.
Phần 3: Một số quy tắc chính tả:
- Ch/tr:
Chữ tr không đứng đầu các tiếng có vần có âm đệm như oa, oă, oe, uê. Do đó nếu gặp các vần này, ta dùng ch. Ví dụ: sáng choang, áo choàng, chích chòe, loắt choắt, chuệch choạc, chuếnh choáng…
Những từ Hán Việt có thanh nặng hoặc thanh huyền thường có âm đầu tr. Ví dụ: trịnh trọng, trình tự, trừ phi, giá trị, trào lưu...
Những từ chỉ vật dụng quen thuộc hoặc các mối quan hệ trong gia đình thường có âm đầu là ch. Những từ mang nghĩa phủ định cũng có âm đầu là ch. Ví dụ: chăn, chiếu, chai, chén, chổi, chum, chạn, chõng, chảo,... chuối, chanh, chôm chôm, cháo, chè, chả, chạy, chặt, chắn, chẻ,... cha, chú, chị, chồng, cháu, chắt,… chẳng, chưa, chớ, chả.
- R/d/gi:
Chữ r và gi không đứng đầu các tiếng có vần có âm đệm (oa, oe, uê, uy). Do đó gặp các tiếng dạng này thì ta chọn d để viết, không chọn r hoặc gi. Ví dụ: dọa nạt, kinh doanh, duy trì, hậu duệ…
Trong các từ Hán Việt:
+ Các tiếng có thanh ngã hoặc thanh nặng thường viết với âm đầu d.
Ví dụ: diễn viên, hấp dẫn, bình dị, mậu dịch, kì diệu...
+ Các tiếng có thanh sắc hoặc thanh hỏi thường viết gi.
Ví dụ: giải thích, giá cả, giám sát, giới thiệu, tam giác...
+ Các tiếng có thanh huyền hoặc thanh ngang thường viết với âm đầu gi khi vần có âm đầu a và viết với âm đầu d khi vần có âm đầu khác a.
Ví dụ: gian xảo, giao chiến, giai nhân, tăng gia, gia nhân, du dương, do thám, dương liễu, dư dật, ung dung...
Phần 4: Bí quyết viết đúng chính tả:
Có những lỗi chính tả chúng ta viết sai mà không biết mình viết sai. Những lỗi này thường do bạn đã quen thuộc với chúng trong thời gian dài nên dù sau khi viết xong đọc lại bạn cũng không phát hiện ra.
Tốt nhất hãy để người khác đọc bài viết của bạn và nhờ họ góp ý, sau khi đã biết được lỗi sai thì hãy ghi nhớ chúng để không phạm phải lần sau.
Tra từ điển tiếng Việt (nếu không có từ điển giấy, có thể tra từ điển online trên mạng) để kiểm tra những từ mà bạn không nhớ rõ cách viết hoặc những từ mà bạn nghi ngờ.
Có một số lỗi không phải do bạn sai chính tả mà là do lỗi đánh máy. Sau khi viết, hãy kiểm tra lại cẩn thận bài viết của bạn để tìm và sửa những lỗi này.
|
|