Post by kienphong on Nov 21, 2006 13:00:14 GMT 9
Nét ðặc sắc bị bỏ quên: Nói lái
Hòa Ða
Tôi không phải là một nhà ngôn ngữ học, nhýng có nhận xét này, mà khi chia xẻ với nhiều ngýời Việt Nam , tôi luôn có sự ðồng tình: Nói lái là một hình thức vô cùng ðộc ðáo của ngôn ngữ Việt.
Bạn có bao giờ nghe giai thoại giải thích ðại phong là lọ týõng chýa? - Chuyện thế này: hai anh hề trên sân khấu tuồng ngoài Bắc, trong lúc diễu giúp vui, anh này ðố anh kia: Ðại phong là gì?
- Thì ðại là lớn, còn phong là gió, ðại phong là gió lớn, anh kia giải thích.
Anh này bảo ðại phong là lọ týõng kìa: Ðại phong là gió lớn, gió lớn thì chùa ðổ, chùa ðổ thi týợng (Phật) lo, týợng lo là lọ týõng.
Một giai thoại khác, ở trong Nam. Lúc ấy, vào buổi tàn thời của nho học, ngýời ta bỏ bút lông, giắt bút chì; một số chạy theo thực dân Pháp. Trong số ấy có Nguyễn vãn Tâm, một lòng cúc cung với mẫu quốc, ðýợc ngýời Pháp cất nhắc làm quan lớn; trên dýới trong ngoài, ai cũng biết nhờ bợ ðỡ quan thầy mà làm quan to. Tâm lấy làm tự ðắc lắm. Phú quí sinh lễ nghĩa, quan lớn nhà ta cũng muốn tỏ ra mình phong lýu, muốn có những bức hoành, trýớng ðể trang trí. Có ngýời dâng lên quan bốn chữ ðại tự Ðại Ðiểm Quần Thần, viết chân phýõng, rất ðẹp và giải thích Quần thần là ngýời bề tôi, Ðại ðiểm là ðiểm lớn, ý nói quan lớn là ngýời bề tôi có vị trí to lớn, quan trọng trong triều. Quan lấy làm thích thú ðem treo bức liễn trong phòng khách; ai ðến thãm quan cũng ðem khoe và giải thích nhý trên. Ít lâu sau có ngýời ðến ngắm bức liễn, rồi xin quan lớn dẹp ði. Quan ngạc nhiên hỏi, ngýời ấy xin ðừng bắt tội, ðuổi hết tả hữu rồi giải thích: ngýời viết liễn ðã cố ý bỡn quan lớn, mà quan không biết. Bốn chữ trên dịch từng chữ: Ðại ðiểm là chấm to; Quần thần là bề tôi, nói theo kiểu trong Nam là bầy tôi. Ðại Ðiểm Quần Thần là Chấm To Bầy Tôi nói lái lại là Chó Tâm Bồi Tây. Chẳng nghe chuyện kể nói quan có tìm tác giả bốn chữ nói trên ðể trị tội hay vì không muốn làm vỡ chuyện mà ỉm luôn .
Trong ðời sống hàng ngày, chẳng hiếm khi chúng ta gặp những câu nói lái, ðôi khi chỉ ðể bỡn cợt, châm biếm hay tránh những tiếng thô tục.
Ở miền Nam, có câu :
Con cá ðối nằm trên cối ðá,
Con mèo ðuôi cụt nằm mút ðuôi kèo
anh mà ðối ðýợc, dẫu nghèo em cũng ýng.
Ngýời Việt, ðối với những ngýời lớn tuổi hay trýởng thành ở Việt Nam chẳng có ai là không biết cách nói lái, tùy theo gốc gác hay sinh hoạt ở Bắc, Trung hay Nam mà cách nói lái có khác nhau; nhýng tựu chung, khi nói lái, ngýời ta tránh không nói thẳng chữ muốn nói; mà ngýời nghe, vì không tinh ý, nhất thời không nhận ra nhý trong giai thoại Ðại Ðiểm Quần Thần kể trên.
Ði sâu hõn vào chi tiết: một chữ gồm hai phần: phụ âm và âm. Chữ tranh chẳng hạn gồm phụ âm tr và âm anh. Chúng ta lại có thêm sáu thanh: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng và không dấu tạo tiếng Việt thành giàu âm sắc, chỉ cần khác dấu, chữ ðýợc phát âm khác nhau: tranh, tránh, trành (trong tròng trành) trạnh (trạnh lòng) và tất nhiên có nghĩa khác nhau, và ðây cũng là nét ðộc ðáo của ngôn ngữ Việt, ngýời nýớc ngoài bảo ngýời Việt nói chuyện nghe giống nhý hát.
Cũng có chữ không có phụ âm mà chỉ có âm, nhý trong ảnh ýõng hay ảo ảnh...
1.Nói Lái theo cách ngoài Bắc.
Trở lại câu chuyện ðại phong là lọ týõngnói trên. Týợng lo nói lái lại là lọ týõng, ngýời miền Bắc ðổi chỗ cho hai chữ, ðồng thời ðổi luôn hai dấu (nghĩa là ðổi âm sắc): lo ðổi chỗ cho týợng, lấy dấu nặng thành lọ, týợng ðổi chỗ cho lo, mất dấu nặng thành týõng.
Ta lấy vài thí dụ khác:
ðấu tranh nói lái lại là tránh ðâu : tranh ðổi chỗ cho ðấu, lấy dấu sắc của ðấu thành tránh, ðấu ðổi chỗ cho tranh, mang dấu của tranh (không dấu) thành ðâu.
hải phòng nói lái lại là phỏng hài : hải ðổi chỗ cho phòng lấy dấu huyền của phòng thành hài, phòng ðổi chỗ cho hải lấy dấu hỏi của hải thành phỏng
Cứ theo cách ấy thì:
Sầm Sõn sờn sâm
Thái Bình nói lái là bính thài
Hà Nội nồi hạ
vv.. và vv..
Nhý vậy thì hai chữ có cùng dấu không nói lái ðýợc, nhý nhân dân, anh em, Sài Gòn, thánh thót, thực vật.... Cũng vậy, những tiếng láy nhý xanh xanh, hõ hớ, ðo ðỏ, lãng xãng....không thể nói lái ðýợc và nếu chúng ta cố tình theo qui luật trên thì cũng chỉ ðổi vị trí cho nhau thôi.
2. Nói lái theo kiểu trong Nam.
Trong Nam ngýời ta nói lái theo cách khác: cá ðối nói lái lại thành cối ðá.
Ta nhận thấy theo cách nói lái trong nam, âm trong hai chữ ðổi chỗ cho nhau, phụ âm giữ nguyên vị trí, phụ âm c ghép với âm ối của ðối thành cối, và phụ âm ð ghép với âm á thành ðá. Nhý vậy:
Sài gòn sòn gài
Cần thõ nói lái là cờ thân
Cầy tõ cờ tây
Cửu long cỏng lýu (dân nam kỳ phát âm giống nhý cỏng lu)
Thủ Ðức thức ðủ vv.. và vv..
Bút hiệu Thế Lữ (trong Tự Lực Vãn Ðoàn) chính là chữ nói lái của tên thật của ông: Nguyễn Thứ Lễ. Ngày trýớc ðã có vế ðối:
Ngày Tết, Thế Lữ ði hai thứ lễ: lê ta và lê tây
Trong vài trýờng hợp ngýời ta nói lái cho cả ba chữ, bằng cách giữ nguyên chữ giữa nhý trong trýờng hợp mèo ðuôi cụt thành mút ðuôi kèo (dấu nặng trong cụt biến thể thành dấu sắc trong mút), nhý vậy hà thủ ô nói lái thành hồ thủ a.
Ðôi khi ngýời ta lại ðổi chỗ hai phụ âm cho nhau (tuy ít thôi) ðể sau khi nói lái có nghĩa và dễ nghe hõn, thí dụ chiến binh thay vì nói lái thành chinh biến cũng có thể nói thành biến chinh, do ðó với hai chữ tranh ðấu có ngýời ðã ðùa mà nói rằng: tranh ðấu thì tránh ðâu khỏi bị trâu ðánh thì thế nào cũng phải ðấu tranh.
Cũng nhý trong trýờng hợp trên, những chữ trùng âm nhý nhân dân, lù ðù, lật ðật...không nói lái ðýợc.
Ngoài ra còn một cách nói dựa trên nói lái kiểu trong Nam, không mấy ngýời quen sử dụng. Trong cách này, ngýời nói ghép từng chữ (trong nguyên câu) với một chữ (ðã ðýợc qui ýớc trýớc giữa hai ngýời) rồi nói lái hai chữ này với nhau. Cách này týõng ðối khó, và thýờng gặp trong giới bình dân lao ðộng, ít học (không biết có phải vì vậy mà không ðýợc biết ðến chãng?) Thí dụ với câu: "hôm qua tui ði ra ðầu ngõ chờ em tới, mà ðợi hoài không thấy..." họ ghép từng chữ của câu trên với chữ ly (li) rồi nói lái lại, và do ðó câu trên trở thành :"hi lôm(hôm li) qui la ( qua li)ti lui ði li ri la ði lầu nghi lõ chi lờ i lem ti lới , mi là ði lợi hi loài khi lông thi lấy..." họ nói chuyện với nhau rất nhanh và hiểu nhau dễ dàng, nhý thể ðã ðýợc mã hóa ngýời khác không nhận ra ðýợc. Ðây là cách vô cùng ðộc ðáo mà chýa ðýợc khai thác ðúng mức.
3. Vài giai thoại - câu ðối - câu ðố
Chúng ta ðã thấy giai thoại về Ðại ðiểm quần thần, Ðại phong ở trên. Chúng ta cũng thýờng nghe nói ðến câu tiếng lóng hạ cờ tây là hạ cầy tõ của dân nhậu trong Nam và mộc tồn (= cây còn, nói lái thành con cầy) ở ngoài Bắc, hay những lối nói lái rất quen thuộc: con chín bến ðò (con chó bến ðình) Hýõng bên ðèo (heo bên ðýờng) theo con Hýõng (thýõng con heo)...
Trong Nam, mấy bạn nhậu thýờng hay nói chữ : "Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu" cũng ðừng vội týởng họ sính nho, thật ra họ ðùa "rýợu gặp tri kỷ có trời mới biểu (bảo) thôi" (thiên = trời, bôi thiểu = biểu thôi)....
Về câu ðối, xin trở lại câu ca dao trên:
Con cá ðối nằm trên cối ðá.
Con mèo ðuôi cụt nằm mút ðuôi kèo.
Anh mà ðối ðặng dẫu nghèo em cũng ýng.
ðýợc ðối là:
Chim mỏ kiến(g) nằm trong miếng cỏ
Chim vàng lông ðáp ðậu vồng lang
Anh ðà ðối ðặng hỏi nàng ýng chýa?
Phải công nhận là câu ðố và câu trả lời không chê vào ðâu ðýợc, chắc gì chúng ta tìm ðýợc câu trả lời nào hay hõn cho cô gái tinh nghịch này.
Một câu khác, nghe chừng nhý xuông miệng nói chõi, nhýng lại ðối rất chỉnh, trong cả hai vế ðều dùng cách nói lái:
Kia mấy cây mía
Có vài cái vò
Một câu ðối khác, nghe ðýợc sau 75, lúc ngýời dân trong Nam không còn gì ðể sinh sống, ðặc biệt là giới thầy cô thuộc chế ðộ cũ ðýợc lýu dụng. Dầu gì chãng nữa, trýớc ðó họ là lớp ngýời tuy sống nhờ ðồng lýõng cố ðịnh, nhýng cũng có cõm ãn áo mặc ðầy ðủ. Ngýời ta nghe thấy hai câu ðối tết, nhại theo Tú Xýõng ngày trýớc, nhýng rất ðặc sắc và chua xót:
Chiều ba mýõi, thày giáo tháo giày ra chợ bán
Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo ðón xuân sang.
Thực tế là giày không còn là một phần trong y phục của thày giáo, nhýng cháo ðã là phần lýõng thực thýờng thấy trong bữa ãn hàng ngày.
Trong một ðám cýới, chú rể ngýời Hóc Môn, cô dâu ở Gò Công; có ngýời rắn mắt ðọc ðùa câu ðối:
Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc - Gái Gò Công vừa gồng vừa co
Trong vãn chýõng bình dân Việt Nam, câu ðố chiếm một vị trí tuy khiêm nhýờng nhýng có sức sống tuõng ðối mạnh mẽ so với hò ðối ðáp chẳng hạn. Ngày nay ta vẫn thýờng nghe những câu ðố trong khi không còn thấy hò ðối ðáp trong sinh hoạt hàng ngày của ngýời bình dân. Trong các dạng câu ðố, cách dùng nói lái ðể ðánh lừa ngýời khác là một trong những cách tuy dễ nhýng cũng làm khó cho ngýời bị ðố không ít. Sau ðây là vài câu ðố dùng nói lái, lời giải có ngay trong câu ðố:
-Tổ kiến, kiển tố, ðố là chi? - (ðáp: tổ kiến)
-Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai
Bò la, bò liệt ðố ai biết gì? - (ðáp: khoai lang).
Những chữ mũi, lái, khứ, lai chỉ cốt ðể ðánh lừa ngýời bị ðố
- Con gì ở cạnh bờ sông,
cái mui thì nát cái cong thì còn - (ðáp: con còng - cong còn nói lái thành con còng)
- Cái gì bằng ngón chýn cái mà chai cứng - (ðáp: ngón chýn cái)
- Khi ði cýa ngọn, khi về cũng cýa ngọn - (ðáp: con ngựa)
- Miệng bà ký lớn, bà ký banh
Tay ông cai dài, ông cai khoanh - (ðáp: canh bí, canh khoai)
...
Một vài ngýời cũng câu nệ về nói lái, tránh ðặt tên con những chữ có thể nói lái thành thô tục nhý Thái (dễ ghép với chữ có phụ âm d: thái dọt, thái dúi, thái dòng...) Lài (dễ ghép với chữ có âm ồn nhý lài dồn, lài cồn, lài mồn...) Côn, Tôn, Ðôn (ghép với chữ có phụ âm l) v.v.. và v.v..
4. Vài suy nghĩ
Qua những phân tích trên, ai cũng công nhận nói lái quả là một ðặc thù của tiếng Việt. Chúng ta dùng nói lái ðể châm biếm, ðể gài ngýời khác trong các câu ðố, câu ðối, ðể tránh những thô tục khi cố ý ghép chữ dể hạ thấp ngýời khác.
Bỏ qua một bên những cái ðộc ðáo, lắt léo của nói lái trong câu ðố, câu ðối; ðể chỉ chú ý ðến phần ðông các trýờng hợp chúng ta sử dụng nói lái nhý là một hình thức hạ thấp ngýời khác. Trong phần trên chúng ta ðã thấy nhà nho nào ðó ðã dùng sự uyên bác của mình ðể chửi một quan to mà quan chẳng những ðã không biết mà còn hoan hỉ chấp nhận trong giai thoại Ðại Ðiểm Quần Thần.
Chúng ta ðã dùng nói lái nhý một thứ vũ khí của ngýời muốn dùng tiểu xảo ðể chống ðối, ðể chứng tỏ mình hõn ngýời, nhý một thứ vũ khí của kẻ yếu, kẻ bị trị ðể bôi bác, nhạo báng, ám chỉ... ðể hạ phẩm cách của kẻ mạnh, kẻ thống trị.
Vấn ðề nêu ra ðể chúng ta phải suy gẫm là tại sao chúng ta có những cách rất tiêu cực nhý vậy? - Phải chãng vì hoàn cảnh dân tộc Việt Nam ðã ðắm chìm quá lâu trong cảnh bị trị, dù của ngoại bang hay của chính ngýời ðồng chủng. Ngýời dân phải tìm cách tránh né, che ðậy ðể sinh tồn trýớc sức mạnh của kẻ thống trị. Vấn ðề ðặt ra cho chúng ta cùng suy nghĩ là chúng ta có nên duy trì mãi những tiêu cực týõng tự trong những sinh hoạt thýờng ngày của chúng ta không? Ai cũng thấy rõ một ðiều là sức sống của ngýời Việt vô cùng to lớn, mãnh liệt, nhýng ðồng thời cũng thể hiện những tiêu cực vô cùng tai hại . Chính vì chỉ muốn sống còn bằng bất cứ giá nào, ngýời Việt ðã mất ði những tích cực của tập thể cần phải có, ðiều này ðã giúp cho kể thống trị tồn tại lâu trong vị trí và là một cách giải thích tại sao dân tộc chúng ta bị trị lâu ðến nhý vậy.
Dù vậy, nói lái vẫn là một hình thức vô cùng ðặc sắc của ngôn nhữ Việt, với khả nãng nhạy bén về tính trào phúng, tính châm chọc... (và chúng ta chỉ nên khai thác khía cạnh tích cực này), chúng ta tin rằng nói lái sẽ tồn tại với ngýời Việt.
Hòa Ða
Tôi không phải là một nhà ngôn ngữ học, nhýng có nhận xét này, mà khi chia xẻ với nhiều ngýời Việt Nam , tôi luôn có sự ðồng tình: Nói lái là một hình thức vô cùng ðộc ðáo của ngôn ngữ Việt.
Bạn có bao giờ nghe giai thoại giải thích ðại phong là lọ týõng chýa? - Chuyện thế này: hai anh hề trên sân khấu tuồng ngoài Bắc, trong lúc diễu giúp vui, anh này ðố anh kia: Ðại phong là gì?
- Thì ðại là lớn, còn phong là gió, ðại phong là gió lớn, anh kia giải thích.
Anh này bảo ðại phong là lọ týõng kìa: Ðại phong là gió lớn, gió lớn thì chùa ðổ, chùa ðổ thi týợng (Phật) lo, týợng lo là lọ týõng.
Một giai thoại khác, ở trong Nam. Lúc ấy, vào buổi tàn thời của nho học, ngýời ta bỏ bút lông, giắt bút chì; một số chạy theo thực dân Pháp. Trong số ấy có Nguyễn vãn Tâm, một lòng cúc cung với mẫu quốc, ðýợc ngýời Pháp cất nhắc làm quan lớn; trên dýới trong ngoài, ai cũng biết nhờ bợ ðỡ quan thầy mà làm quan to. Tâm lấy làm tự ðắc lắm. Phú quí sinh lễ nghĩa, quan lớn nhà ta cũng muốn tỏ ra mình phong lýu, muốn có những bức hoành, trýớng ðể trang trí. Có ngýời dâng lên quan bốn chữ ðại tự Ðại Ðiểm Quần Thần, viết chân phýõng, rất ðẹp và giải thích Quần thần là ngýời bề tôi, Ðại ðiểm là ðiểm lớn, ý nói quan lớn là ngýời bề tôi có vị trí to lớn, quan trọng trong triều. Quan lấy làm thích thú ðem treo bức liễn trong phòng khách; ai ðến thãm quan cũng ðem khoe và giải thích nhý trên. Ít lâu sau có ngýời ðến ngắm bức liễn, rồi xin quan lớn dẹp ði. Quan ngạc nhiên hỏi, ngýời ấy xin ðừng bắt tội, ðuổi hết tả hữu rồi giải thích: ngýời viết liễn ðã cố ý bỡn quan lớn, mà quan không biết. Bốn chữ trên dịch từng chữ: Ðại ðiểm là chấm to; Quần thần là bề tôi, nói theo kiểu trong Nam là bầy tôi. Ðại Ðiểm Quần Thần là Chấm To Bầy Tôi nói lái lại là Chó Tâm Bồi Tây. Chẳng nghe chuyện kể nói quan có tìm tác giả bốn chữ nói trên ðể trị tội hay vì không muốn làm vỡ chuyện mà ỉm luôn .
Trong ðời sống hàng ngày, chẳng hiếm khi chúng ta gặp những câu nói lái, ðôi khi chỉ ðể bỡn cợt, châm biếm hay tránh những tiếng thô tục.
Ở miền Nam, có câu :
Con cá ðối nằm trên cối ðá,
Con mèo ðuôi cụt nằm mút ðuôi kèo
anh mà ðối ðýợc, dẫu nghèo em cũng ýng.
Ngýời Việt, ðối với những ngýời lớn tuổi hay trýởng thành ở Việt Nam chẳng có ai là không biết cách nói lái, tùy theo gốc gác hay sinh hoạt ở Bắc, Trung hay Nam mà cách nói lái có khác nhau; nhýng tựu chung, khi nói lái, ngýời ta tránh không nói thẳng chữ muốn nói; mà ngýời nghe, vì không tinh ý, nhất thời không nhận ra nhý trong giai thoại Ðại Ðiểm Quần Thần kể trên.
Ði sâu hõn vào chi tiết: một chữ gồm hai phần: phụ âm và âm. Chữ tranh chẳng hạn gồm phụ âm tr và âm anh. Chúng ta lại có thêm sáu thanh: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng và không dấu tạo tiếng Việt thành giàu âm sắc, chỉ cần khác dấu, chữ ðýợc phát âm khác nhau: tranh, tránh, trành (trong tròng trành) trạnh (trạnh lòng) và tất nhiên có nghĩa khác nhau, và ðây cũng là nét ðộc ðáo của ngôn ngữ Việt, ngýời nýớc ngoài bảo ngýời Việt nói chuyện nghe giống nhý hát.
Cũng có chữ không có phụ âm mà chỉ có âm, nhý trong ảnh ýõng hay ảo ảnh...
1.Nói Lái theo cách ngoài Bắc.
Trở lại câu chuyện ðại phong là lọ týõngnói trên. Týợng lo nói lái lại là lọ týõng, ngýời miền Bắc ðổi chỗ cho hai chữ, ðồng thời ðổi luôn hai dấu (nghĩa là ðổi âm sắc): lo ðổi chỗ cho týợng, lấy dấu nặng thành lọ, týợng ðổi chỗ cho lo, mất dấu nặng thành týõng.
Ta lấy vài thí dụ khác:
ðấu tranh nói lái lại là tránh ðâu : tranh ðổi chỗ cho ðấu, lấy dấu sắc của ðấu thành tránh, ðấu ðổi chỗ cho tranh, mang dấu của tranh (không dấu) thành ðâu.
hải phòng nói lái lại là phỏng hài : hải ðổi chỗ cho phòng lấy dấu huyền của phòng thành hài, phòng ðổi chỗ cho hải lấy dấu hỏi của hải thành phỏng
Cứ theo cách ấy thì:
Sầm Sõn sờn sâm
Thái Bình nói lái là bính thài
Hà Nội nồi hạ
vv.. và vv..
Nhý vậy thì hai chữ có cùng dấu không nói lái ðýợc, nhý nhân dân, anh em, Sài Gòn, thánh thót, thực vật.... Cũng vậy, những tiếng láy nhý xanh xanh, hõ hớ, ðo ðỏ, lãng xãng....không thể nói lái ðýợc và nếu chúng ta cố tình theo qui luật trên thì cũng chỉ ðổi vị trí cho nhau thôi.
2. Nói lái theo kiểu trong Nam.
Trong Nam ngýời ta nói lái theo cách khác: cá ðối nói lái lại thành cối ðá.
Ta nhận thấy theo cách nói lái trong nam, âm trong hai chữ ðổi chỗ cho nhau, phụ âm giữ nguyên vị trí, phụ âm c ghép với âm ối của ðối thành cối, và phụ âm ð ghép với âm á thành ðá. Nhý vậy:
Sài gòn sòn gài
Cần thõ nói lái là cờ thân
Cầy tõ cờ tây
Cửu long cỏng lýu (dân nam kỳ phát âm giống nhý cỏng lu)
Thủ Ðức thức ðủ vv.. và vv..
Bút hiệu Thế Lữ (trong Tự Lực Vãn Ðoàn) chính là chữ nói lái của tên thật của ông: Nguyễn Thứ Lễ. Ngày trýớc ðã có vế ðối:
Ngày Tết, Thế Lữ ði hai thứ lễ: lê ta và lê tây
Trong vài trýờng hợp ngýời ta nói lái cho cả ba chữ, bằng cách giữ nguyên chữ giữa nhý trong trýờng hợp mèo ðuôi cụt thành mút ðuôi kèo (dấu nặng trong cụt biến thể thành dấu sắc trong mút), nhý vậy hà thủ ô nói lái thành hồ thủ a.
Ðôi khi ngýời ta lại ðổi chỗ hai phụ âm cho nhau (tuy ít thôi) ðể sau khi nói lái có nghĩa và dễ nghe hõn, thí dụ chiến binh thay vì nói lái thành chinh biến cũng có thể nói thành biến chinh, do ðó với hai chữ tranh ðấu có ngýời ðã ðùa mà nói rằng: tranh ðấu thì tránh ðâu khỏi bị trâu ðánh thì thế nào cũng phải ðấu tranh.
Cũng nhý trong trýờng hợp trên, những chữ trùng âm nhý nhân dân, lù ðù, lật ðật...không nói lái ðýợc.
Ngoài ra còn một cách nói dựa trên nói lái kiểu trong Nam, không mấy ngýời quen sử dụng. Trong cách này, ngýời nói ghép từng chữ (trong nguyên câu) với một chữ (ðã ðýợc qui ýớc trýớc giữa hai ngýời) rồi nói lái hai chữ này với nhau. Cách này týõng ðối khó, và thýờng gặp trong giới bình dân lao ðộng, ít học (không biết có phải vì vậy mà không ðýợc biết ðến chãng?) Thí dụ với câu: "hôm qua tui ði ra ðầu ngõ chờ em tới, mà ðợi hoài không thấy..." họ ghép từng chữ của câu trên với chữ ly (li) rồi nói lái lại, và do ðó câu trên trở thành :"hi lôm(hôm li) qui la ( qua li)ti lui ði li ri la ði lầu nghi lõ chi lờ i lem ti lới , mi là ði lợi hi loài khi lông thi lấy..." họ nói chuyện với nhau rất nhanh và hiểu nhau dễ dàng, nhý thể ðã ðýợc mã hóa ngýời khác không nhận ra ðýợc. Ðây là cách vô cùng ðộc ðáo mà chýa ðýợc khai thác ðúng mức.
3. Vài giai thoại - câu ðối - câu ðố
Chúng ta ðã thấy giai thoại về Ðại ðiểm quần thần, Ðại phong ở trên. Chúng ta cũng thýờng nghe nói ðến câu tiếng lóng hạ cờ tây là hạ cầy tõ của dân nhậu trong Nam và mộc tồn (= cây còn, nói lái thành con cầy) ở ngoài Bắc, hay những lối nói lái rất quen thuộc: con chín bến ðò (con chó bến ðình) Hýõng bên ðèo (heo bên ðýờng) theo con Hýõng (thýõng con heo)...
Trong Nam, mấy bạn nhậu thýờng hay nói chữ : "Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu" cũng ðừng vội týởng họ sính nho, thật ra họ ðùa "rýợu gặp tri kỷ có trời mới biểu (bảo) thôi" (thiên = trời, bôi thiểu = biểu thôi)....
Về câu ðối, xin trở lại câu ca dao trên:
Con cá ðối nằm trên cối ðá.
Con mèo ðuôi cụt nằm mút ðuôi kèo.
Anh mà ðối ðặng dẫu nghèo em cũng ýng.
ðýợc ðối là:
Chim mỏ kiến(g) nằm trong miếng cỏ
Chim vàng lông ðáp ðậu vồng lang
Anh ðà ðối ðặng hỏi nàng ýng chýa?
Phải công nhận là câu ðố và câu trả lời không chê vào ðâu ðýợc, chắc gì chúng ta tìm ðýợc câu trả lời nào hay hõn cho cô gái tinh nghịch này.
Một câu khác, nghe chừng nhý xuông miệng nói chõi, nhýng lại ðối rất chỉnh, trong cả hai vế ðều dùng cách nói lái:
Kia mấy cây mía
Có vài cái vò
Một câu ðối khác, nghe ðýợc sau 75, lúc ngýời dân trong Nam không còn gì ðể sinh sống, ðặc biệt là giới thầy cô thuộc chế ðộ cũ ðýợc lýu dụng. Dầu gì chãng nữa, trýớc ðó họ là lớp ngýời tuy sống nhờ ðồng lýõng cố ðịnh, nhýng cũng có cõm ãn áo mặc ðầy ðủ. Ngýời ta nghe thấy hai câu ðối tết, nhại theo Tú Xýõng ngày trýớc, nhýng rất ðặc sắc và chua xót:
Chiều ba mýõi, thày giáo tháo giày ra chợ bán
Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo ðón xuân sang.
Thực tế là giày không còn là một phần trong y phục của thày giáo, nhýng cháo ðã là phần lýõng thực thýờng thấy trong bữa ãn hàng ngày.
Trong một ðám cýới, chú rể ngýời Hóc Môn, cô dâu ở Gò Công; có ngýời rắn mắt ðọc ðùa câu ðối:
Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc - Gái Gò Công vừa gồng vừa co
Trong vãn chýõng bình dân Việt Nam, câu ðố chiếm một vị trí tuy khiêm nhýờng nhýng có sức sống tuõng ðối mạnh mẽ so với hò ðối ðáp chẳng hạn. Ngày nay ta vẫn thýờng nghe những câu ðố trong khi không còn thấy hò ðối ðáp trong sinh hoạt hàng ngày của ngýời bình dân. Trong các dạng câu ðố, cách dùng nói lái ðể ðánh lừa ngýời khác là một trong những cách tuy dễ nhýng cũng làm khó cho ngýời bị ðố không ít. Sau ðây là vài câu ðố dùng nói lái, lời giải có ngay trong câu ðố:
-Tổ kiến, kiển tố, ðố là chi? - (ðáp: tổ kiến)
-Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai
Bò la, bò liệt ðố ai biết gì? - (ðáp: khoai lang).
Những chữ mũi, lái, khứ, lai chỉ cốt ðể ðánh lừa ngýời bị ðố
- Con gì ở cạnh bờ sông,
cái mui thì nát cái cong thì còn - (ðáp: con còng - cong còn nói lái thành con còng)
- Cái gì bằng ngón chýn cái mà chai cứng - (ðáp: ngón chýn cái)
- Khi ði cýa ngọn, khi về cũng cýa ngọn - (ðáp: con ngựa)
- Miệng bà ký lớn, bà ký banh
Tay ông cai dài, ông cai khoanh - (ðáp: canh bí, canh khoai)
...
Một vài ngýời cũng câu nệ về nói lái, tránh ðặt tên con những chữ có thể nói lái thành thô tục nhý Thái (dễ ghép với chữ có phụ âm d: thái dọt, thái dúi, thái dòng...) Lài (dễ ghép với chữ có âm ồn nhý lài dồn, lài cồn, lài mồn...) Côn, Tôn, Ðôn (ghép với chữ có phụ âm l) v.v.. và v.v..
4. Vài suy nghĩ
Qua những phân tích trên, ai cũng công nhận nói lái quả là một ðặc thù của tiếng Việt. Chúng ta dùng nói lái ðể châm biếm, ðể gài ngýời khác trong các câu ðố, câu ðối, ðể tránh những thô tục khi cố ý ghép chữ dể hạ thấp ngýời khác.
Bỏ qua một bên những cái ðộc ðáo, lắt léo của nói lái trong câu ðố, câu ðối; ðể chỉ chú ý ðến phần ðông các trýờng hợp chúng ta sử dụng nói lái nhý là một hình thức hạ thấp ngýời khác. Trong phần trên chúng ta ðã thấy nhà nho nào ðó ðã dùng sự uyên bác của mình ðể chửi một quan to mà quan chẳng những ðã không biết mà còn hoan hỉ chấp nhận trong giai thoại Ðại Ðiểm Quần Thần.
Chúng ta ðã dùng nói lái nhý một thứ vũ khí của ngýời muốn dùng tiểu xảo ðể chống ðối, ðể chứng tỏ mình hõn ngýời, nhý một thứ vũ khí của kẻ yếu, kẻ bị trị ðể bôi bác, nhạo báng, ám chỉ... ðể hạ phẩm cách của kẻ mạnh, kẻ thống trị.
Vấn ðề nêu ra ðể chúng ta phải suy gẫm là tại sao chúng ta có những cách rất tiêu cực nhý vậy? - Phải chãng vì hoàn cảnh dân tộc Việt Nam ðã ðắm chìm quá lâu trong cảnh bị trị, dù của ngoại bang hay của chính ngýời ðồng chủng. Ngýời dân phải tìm cách tránh né, che ðậy ðể sinh tồn trýớc sức mạnh của kẻ thống trị. Vấn ðề ðặt ra cho chúng ta cùng suy nghĩ là chúng ta có nên duy trì mãi những tiêu cực týõng tự trong những sinh hoạt thýờng ngày của chúng ta không? Ai cũng thấy rõ một ðiều là sức sống của ngýời Việt vô cùng to lớn, mãnh liệt, nhýng ðồng thời cũng thể hiện những tiêu cực vô cùng tai hại . Chính vì chỉ muốn sống còn bằng bất cứ giá nào, ngýời Việt ðã mất ði những tích cực của tập thể cần phải có, ðiều này ðã giúp cho kể thống trị tồn tại lâu trong vị trí và là một cách giải thích tại sao dân tộc chúng ta bị trị lâu ðến nhý vậy.
Dù vậy, nói lái vẫn là một hình thức vô cùng ðặc sắc của ngôn nhữ Việt, với khả nãng nhạy bén về tính trào phúng, tính châm chọc... (và chúng ta chỉ nên khai thác khía cạnh tích cực này), chúng ta tin rằng nói lái sẽ tồn tại với ngýời Việt.