Post by kienphong on Nov 21, 2006 13:10:09 GMT 9
Tư Bản Luận - Karl Marx
Phạm Vãn Tuấn
Tiểu sử Karl Marx
Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản bắt ðầu bằng lời xác nhận rằng Lịch Sử của Nhân Loại là “lịch sử của ðấu tranh giai cấp” (history of class struggle). Chính sự tranh chấp giữa các giai cấp ðã gây nên các hoạt ðộng của xã hội. Trong thời ðại La Mã, ðã có các giai cấp quý tộc, hạ lýu và nô lệ. Tới thời Trung Cổ của châu Âu, các giai tầng là hầu týớc, kẻ bộ hạ, giới chủ nhân nghề nghiệp (guild-master), các kẻ học nghề và giới nông nô (serf). Sang thế kỷ 19, ðã có các tranh chấp giữa giới tý sản (the bourgeoisie) với ða số thuộc giai cấp trung lýu thành thị mới, sở hữu các cõ xýởng sản xuất, và giới vô sản (the proletariat) gồm các công nhân làm việc cho các kỹ nghệ sản xuất.
Marx và Engels ðã mô tả sự phát triển của giới tý sản là do giới này ðã nắm ðýợc quyền lực chính trị cùng với sức mạnh kinh tế nhờ vào nền kỹ nghệ sản xuất. Do bành trýớng thị trýờng, giới tý sản ðã thiết lập ðýợc các mạng lýới mậu dịch nhờ ðó mang về các nguyên liệu rẻ tiền ðồng thời giới tý sản này siết chặt quyền kiểm soát tý bản, các phýõng tiện sản xuất và trao ðổi. Sự bành trýớng kỹ nghệ ðã khiến cho gia tãng giai cấp công nhân vô sản, họ là những ngýời giỏi làm việc hay không có tay nghề, và gồm cả các phụ nữ. Một số ngýời thuộc tầng lớp thấp kém của giai cấp tý sản cũng dần dần tham gia vào giai cấp vô sản ðang lớn mạnh này.
Theo Marx và Engels, trýớc các bóc lột, giới vô sản sẽ tham gia vào các nghiệp ðoàn ðể ðòi hỏi tãng lýõng. Các vụ rối loạn ðôi khi xẩy ra, nghiệp ðoàn có khi bị coi là bất hợp pháp nhýng các công nhân dần dần ðoàn kết lại, ðể chống lại các kẻ ðàn áp. Sẽ có một cuộc cách mạng, chế ðộ mới ðýợc gọi là “cộng sản”, sẽ kiểm soát chính quyền vì quyền lợi của giới vô sản. Trong xã hội cộng sản này, quyền tý hữu sẽ bị bãi bỏ, các nhà máy và các phýõng tiện sản xuất sẽ thuộc về Nhà Nýớc (state). Nhà Nýớc kiểm soát ngân hàng, nền kinh tế, các phýõng tiện giao thông và truyền thông. Nhà Nýớc chãm lo công việc giáo dục. Sẽ có thuế nặng ðể chi trả các chi phí nhýng mục ðích của các hoạt ðộng xã hội là sự an lạc của giai cấp lao ðộng, giai cấp này lớn mạnh dần khiến cho sẽ không còn sự phân biệt giai cấp nữa và mọi ngýời sẽ “làm việc theo nãng lực, hýởng thụ theo nhu cầu”.
Những lời tiên ðoán của Marx và Engels ðã bị chứng minh hoàn toàn sai, bởi vì sau khi chế ðộ cộng sản lan tràn tại nýớc Nga và tại phần Ðông Âu sau Thế Chiến Thứ Hai, giới ðảng viên Cộng Sản ðã khéo léo bóc lột nhân dân hõn cả bọn tý bản, ðã hýởng thụ mọi ðặc quyền ðặc lợi một cách kín ðáo nhờ tuyên truyền bịp bợm về công bằng trong khi ngoài xã hội, hai tầng lớp “công nhân và nông dân” thực sự vẫn nghèo khổ, vẫn bị bóc lột và khai thác tàn tệ mà không ðýợc phép kêu than bởi vì mọi tổ chức xã hội do Ðảng Cộng Sản ðộc quyền nắm giữ, mọi sinh hoạt xã hội do bọn Công An canh chừng và theo dõi nghiêm ngặt.
Do quan niệm về Tiến Hóa ðã ðýợc mọi ngýời quan tâm trong thế kỷ 19, Karl Marx ðã dùng lý thuyết về “Ðấu Tranh Giai Cấp” ðể cắt nghĩa lịch sử và tin rằng ðiều này không thể bác bỏ ðýợc. Ngoài ra, một ðóng góp khá sâu xa của Karl Marx về kinh tế, lịch sử và các ngành khoa học xã hội là cách phát triển một nguyên tắc ðýợc gọi là “Duy Vật Biện Chứng” (dialectical materialism), một danh từ vừa mõ hồ, vừa khó hiểu.
Phýõng pháp biện chứng (dialectical method) bắt nguồn từ nhà triết học ngýời Ðức Georg Wilhelm Hegel (1770 – 1831) chủ trýõng rằng mọi sự vật ðều ở trong trạng thái biển ðổi. Sở dĩ có sự tiến bộ là do phản lực của các lực ðối kháng. Thí dụ hệ thống thuộc ðịa của ngýời Anh ðối nghịch do cuộc Cách Mạng tại Bắc Mỹ ðã sinh ra nýớc Hoa Kỳ và nhý vậy “ðịnh luật của ðời sống là các týõng phản do chiến tranh với kết quả là các phát triển”. Chủ ðề này ðã dẫn Karl Marx tới cách thành lập lý thuyết về Duy Vật Sử Quan (the theory of historical materialism) hay cách cắt nghĩa lịch sử bằng kinh tế. Marx và Engels ðã cho rằng “lịch sử của các xã hội hiện hữu là lịch sử của giai cấp ðấu tranh. Ngýời tự do và kẻ nô lệ, giới quý tộc và giới hạ lýu, hạng hầu týớc và hạng nông nô, giới chủ và giới thợ, tóm lại các kẻ áp chế và các kẻ bị áp chế luôn luôn ðối ðầu với nhau, họ thýờng xuyên gây chiến với nhau”.
Trong bài ðiếu vãn nói về Marx, Engels cho biết rõ hõn: “Karl Marx ðã khám phá ra một sự việc ðõn giản, ẩn nấp dýới sự phát triển ý thức hệ, ðó là các con ngýời trýớc tiên cần tới ðồ ãn và nýớc uống, quần áo và nõi trú ẩn trýớc khi quan tâm tới chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo. Ðiều này có nghĩa là việc sản xuất ra các phýõng tiện sinh tồn và các giai ðoạn của cuộc phát triển kinh tế của một quốc gia hay một thời ðại, ðã tạo nên nền móng của các ðịnh chế của quốc gia, cũng nhý các quan niệm về luật pháp, nghệ thuật và ngay cả các ý týởng tôn giáo”. Tóm lại, cuộc tranh giành vì ðồ ãn và nõi trú ẩn rõ ràng xác ðịnh mọi hành ðộng của con ngýời.
Theo Karl Marx, lịch sử của nhân loại bao gồm các bóc lột của giai cấp này ðối với giai cấp kia. Trong thời tiền sử, chỉ có các bộ lạc, ðây là loại xã hội không giai cấp nhýng cũng theo Marx, các giai cấp lớn dần theo thời gian, ðầu tiên xuất hiện các nô lệ rồi các nông nô, kế tới là giới nô lệ không tài sản và lãnh lýõng trong chế ðộ tý bản. Áp dụng lý thuyết Duy Vật Biện Chứng, Karl Marx kết luận rằng býớc tiến không tránh khỏi là một cuộc cách mạng của các công nhân, là “nền ðộc tài của giai cấp vô sản” rồi tới quyền sở hữu cộng ðồng và sự quay về cách tổ chức một xã hội không giai cấp. Trong cuốn “Tý Bản Luận”, Marx ðã làm phát triển một trýờng hợp chống lại hệ thống tý bản ðể chứng minh rằng chế ðộ này về sau sẽ bị tiêu diệt, một ðiều không tránh khỏi.
Những ngýời Cộng Sản coi sự ðóng góp quan trọng thứ hai của Karl Marx vào nền khoa học xã hội là “lý thuyết về giá trị lao ðộng” (the theory of labor value). Thực ra, cãn gốc của lý thuyết này cũng không phải của Karl Marx. Dựa theo các nhà kinh tế của các thời ðại trýớc nhý Adam Smith và David Ricardo, Marx xác nhận rằng lao ðộng là nguồn gốc của mọi giá trị. Marx ðã dẫn chứng lời nói của Benjamin Franklin theo ðó “một cách tổng quát, mậu dịch là sự trao ðổi giữa các lao ðộng, giá trị của mọi thứ ðýợc ðo lýờng bằng lao ðộng”. Từ Adam Smith, Marx ðã mýợn ðịnh nghĩa về tý bản nhý sau: “tý bản là một lýợng lao ðộng ðýợc lýu trữ”, còn Ricardo ðã từng nói rằng giá trị (value) và giá tiền (price) của bất cứ một vật dụng nào phải ðýợc xác ðịnh theo số lýợng lao ðộng bên trong.
Dùng các tiêu chuẩn kể trên, Karl Marx làm phát triển lý thuyết về “giá trị thặng dý”, vấn ðề này ðýợc xác ðịnh trong cuốn sách “Phê Bình nền Kinh Tế Chính Trị Học” (Critique of Political Economy, 1859) và cũng ðýợc xét lại trong tác phẩm “Tý Bản Luận” theo ðó ngýời công nhân vì không có tài sản nên chỉ có một thứ hàng hóa (commodity) ðể bán hầu mong tránh khỏi bị chết ðói, ðó là sức lao ðộng của chính mình. Chủ nhân ðã mua thứ hàng hóa này với giá rẻ mạt, vì vậy giá trị thực của sức lao ðộng không ðúng theo số tiền lýõng ðã trả cho ngýời công nhân. Ngýời công nhân ðýợc trả 4 xu do làm việc 6 giờ, nhýng ðã bị bắt buộc lao ðộng trong 10 giờ. Số 4 giờ dý này ðã bị giới tý bản ãn chặn. Karl Marx lý luận rằng vì vậy, lợi tức, tiền lời v.v. ðều xuất ra từ sự thặng dý lao ðộng do ngýời công nhân bị bóc lột và nhý vậy hệ thống tý bản chỉ là một chế ðộ khai thác và bóc lột giới lao công.
Lý thuyết về giá trị và thặng dý lao ðộng của Karl Marx ðã ðýợc dùng trong các công tác tuyên truyền và khuấy ðộng. Ngày nay, các nhà kinh tế ðã coi lý thuyết này vô giá trị. Một lý do ðể bác bỏ lý thuyết về sức lao ðộng của ngýời công nhân là việc dùng tới các máy móc (machinery) nhờ ðó ðã có các thay ðổi lớn lao về sức lao ðộng cần dùng. Solomon Bennett Freehof ðã viết rằng: “nhà hóa học ðã khám phá ra cách làm cho ðất ðai phì nhiêu gấp 100 lần sức sản xuất của 10 triệu nông dân. Nãng suất (productivity) ðýợc tạo nên do nhà hóa học”. Một học giả khác lý luận rằng: “ngýời ta lặn xuống nýớc mò ngọc trai bởi vì ngọc trai có giá trị, ngọc trai có giá trị không vì công sức của thợ lặn”. Karl Marx ðã không biết rằng khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, các cách quản lý và tổ chức ðã góp phần vào các giá trị (values) và các giá tiền (prices). Mặt khác, các nhà kinh tế cũng không ðồng ý với Karl Marx về cách ðo lýờng giá trị. Các tiêu chuẩn ðýợc chấp nhận là sức cầu (demand) và công dụng (utility) của món hàng.
Trở về lý thuyết giá trị thặng dý (surplus value theory), Karl Marx tin rằng các nhà tý bản cố công bóc lột các công nhân bằng cách kéo dài thời giờ làm việc, giảm bớt lýõng bổng, dùng các lao ðộng rẻ tiền hõn nhý ðàn bà và trẻ em. Karl Marx mô tả nhý sau: “giới tý bản ðã cắt xén ngýời lao ðộng thành một phần của con ngýời, làm giảm giá con ngýời tới mức ðộ là một thành phần của máy móc, phá hủy những ðiều thích thú trong việc làm và biến ngýời công nhân thành một dụng cụ ðáng ghét. Giới tý bản ðã bóp nghẹt các tiềm nãng trí thức của ngýời công nhân, làm lệch ði các ðiều kiện lao ðộng, bắt ngýời công nhân phải sống trong một chế ðộ ðộc ðoán, khiến cho ngýời công nhân phải thêm giờ làm việc và lôi cuốn vợ con của ngýời công nhân nằm dýới bánh xe khủng khiếp của tý bản”.
Karl Marx nhấn mạnh rằng việc trang bị các máy móc ðể gia tãng sản xuất không làm dễ dàng cho ngýời công nhân mà còn tạo ra nạn thất nghiệp, nạn khai thác ðàn bà và trẻ em; cách sản xuất quá mức các hàng hóa làm mất ði hứng thú của ngýời công nhân trong việc làm. Karl Marx xác nhận rằng “máy móc là vũ khí mạnh nhất ðể ðàn áp các vụ ðình công, tức là các vụ nổi loạn của giới công nhân chống lại nền ðộc tài của giới tý bản. Máy hõi nýớc là býớc ðầu tiên của nhà tý bản ðạp lên các ðòi hỏi của các công nhân. Kể từ nãm 1830 có cả một lịch sử các phát minh ðýợc dùng làm vũ khí chống lại các vụ nổi dậy của giới công nhân”.
Karl Marx còn cho rằng “sự quá ðông dân” (overpopulation) luôn luôn ði kèm với con ðýờng tý bản, khi mà các kỹ nghệ mới ðýợc tạo ra, các kỹ nghệ cũ ðýợc sửa lại thì hệ thống tý bản cần ðến “một ðạo quân trừ bị của kỹ nghệ” (an industrial reserve army). Sự thặng dý lao ðộng dẫn tới các suy thoái kinh tế (depressions) và các khủng hoảng (panics). Bởi vì các công nhân bị trả lýõng tối thiểu, họ không thể mua nổi các sản phẩm mà nhà máy làm ra, các thị trýờng bị ứ ðọng, sức lao ðộng giảm ði và tiếp theo là các suy thoái kinh tế. Trong khi tìm tòi các lối thoát cho các nhà kho chứa ðầy hàng hóa, nhà tý bản chuyển sản phẩm sang các thị trýờng ngoại quốc, cố gắng tìm kiếm các xứ chậm tiến ðể ðổ tháo các hàng hóa mà ngýời công nhân không có khả nãng mua vào. Sự cố gắng này và việc tìm kiếm các nguyên liệu rẻ tiền ðể giữ cho các nhà máy tiếp tục hoạt ðộng ðã dẫn tới các xung ðột quốc tế và các cuộc chiến ðế quốc.
Karl Marx tin týởng rằng kết quả của các xung ðột và rối loạn của chủ nghĩa tý bản là sự gia tãng việc tập trung và ðộc quyền bởi vì “một nhà tý bản sẽ giết chết các nhà tý bản khác”. Nhý vậy giới trung lýu sẽ biến ði, các tý bản nhỏ sẽ bị các tý bản lớn nuốt mất và cuối cùng chỉ còn một số nhỏ tý bản gộc ðối ðầu với giới vô sản là ða số. Lúc này là cõ hội của giai cấp vô sản. Trong cuốn Tý Bản Luận, có ðoạn nói nhý sau: “Trong khi số các tài phiệt lớn giảm dần thì cũng tãng dần số lýợng nghèo khó, ðàn áp, nô lệ hóa, xuống cấp và bóc lột. Ðồng thời cũng gia tãng lòng phẫn nộ của giai cấp lao ðộng, một hạng ngýời mỗi ngày một ðông hõn, có kỷ luật hõn, biết ðoàn kết và có tổ chức. Sự ðộc quyền của chế ðộ tý bản trở thành cách kiềm chế phýõng pháp sản xuất trýớc kia ðã phát triển. Việc tập trung các phýõng tiện sản xuất và xã hội hóa lao ðộng ði tới một ðiểm không thích ứng với lớp vỏ ngoài tý bản khiến cho lớp vỏ này bị vỡ ra từng mảnh. Sẽ vang lên hồi chuông báo tử của nền tý sản và các nhà tý bản sẽ bị tịch thu tài sản”.
Theo Karl Marx, cuộc ðấu tranh giai cấp sẽ chấm dứt bằng chiến thắng của giai cấp vô sản. Sau khi nắm chính quyền, giai cấp này sẽ thiết lập nền ðộc tài và Karl Marx báo trýớc rằng “ðây là giai ðoạn chuyển tiếp tới việc hủy bỏ mọi giai cấp và tới việc tạo ra một xã hội tự do và công bằng”. Karl Marx không nói rõ nền ðộc tài của giai cấp vô sản sẽ kéo dài trong bao lâu. Ðất nýớc Liên Xô nằm trong tầm tay của chế ðộ cộng sản ðộc tài sắt máu hõn 70 nãm mà ngýời dân Nga vẫn nghèo ðói, vẫn ngạt thở. Hõn nữa Karl Marx rất mõ hồ trong việc mô tả một xã hội không giai cấp mà chỉ nói rằng mục ðích chính của xã hội cộng sản là “mỗi cá nhân ðýợc phát triển toàn diện và hoàn toàn tự do” theo ðúng nguyên tắc cộng sản là “mọi ngýời làm việc theo nãng lực và hýởng thụ theo nhu cầu” (From each according to his abilities, to each according to his needs!)
Giấc mõ không týởng hoàn toàn ðẹp ðẽ này rất týõng phản với công cuộc ðấu tranh giai cấp ðẫm máu và vô cùng tàn ác ðã từng xẩy ra trong các xứ cộng sản. Ngoài ra Karl Marx còn công bố rằng các tôn giáo cổ xýa nhý Thiên Chúa giáo, ðã dạy cho mọi ngýời cách cam chịu số mệnh, khuyến khích các ðức tính nhẫn nhục và khiêm tốn, vì vậy Karl Marx coi tôn giáo là “thuốc phiện của dân chúng”, ðã làm cho giai cấp vô sản mù lòa, không nhìn thấy ðýờng lối phải ði và tôn giáo ðã ðặt các chýớng ngại trên con ðýờng cách mạng.
Phạm Vãn Tuấn
Tiểu sử Karl Marx
Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản bắt ðầu bằng lời xác nhận rằng Lịch Sử của Nhân Loại là “lịch sử của ðấu tranh giai cấp” (history of class struggle). Chính sự tranh chấp giữa các giai cấp ðã gây nên các hoạt ðộng của xã hội. Trong thời ðại La Mã, ðã có các giai cấp quý tộc, hạ lýu và nô lệ. Tới thời Trung Cổ của châu Âu, các giai tầng là hầu týớc, kẻ bộ hạ, giới chủ nhân nghề nghiệp (guild-master), các kẻ học nghề và giới nông nô (serf). Sang thế kỷ 19, ðã có các tranh chấp giữa giới tý sản (the bourgeoisie) với ða số thuộc giai cấp trung lýu thành thị mới, sở hữu các cõ xýởng sản xuất, và giới vô sản (the proletariat) gồm các công nhân làm việc cho các kỹ nghệ sản xuất.
Marx và Engels ðã mô tả sự phát triển của giới tý sản là do giới này ðã nắm ðýợc quyền lực chính trị cùng với sức mạnh kinh tế nhờ vào nền kỹ nghệ sản xuất. Do bành trýớng thị trýờng, giới tý sản ðã thiết lập ðýợc các mạng lýới mậu dịch nhờ ðó mang về các nguyên liệu rẻ tiền ðồng thời giới tý sản này siết chặt quyền kiểm soát tý bản, các phýõng tiện sản xuất và trao ðổi. Sự bành trýớng kỹ nghệ ðã khiến cho gia tãng giai cấp công nhân vô sản, họ là những ngýời giỏi làm việc hay không có tay nghề, và gồm cả các phụ nữ. Một số ngýời thuộc tầng lớp thấp kém của giai cấp tý sản cũng dần dần tham gia vào giai cấp vô sản ðang lớn mạnh này.
Theo Marx và Engels, trýớc các bóc lột, giới vô sản sẽ tham gia vào các nghiệp ðoàn ðể ðòi hỏi tãng lýõng. Các vụ rối loạn ðôi khi xẩy ra, nghiệp ðoàn có khi bị coi là bất hợp pháp nhýng các công nhân dần dần ðoàn kết lại, ðể chống lại các kẻ ðàn áp. Sẽ có một cuộc cách mạng, chế ðộ mới ðýợc gọi là “cộng sản”, sẽ kiểm soát chính quyền vì quyền lợi của giới vô sản. Trong xã hội cộng sản này, quyền tý hữu sẽ bị bãi bỏ, các nhà máy và các phýõng tiện sản xuất sẽ thuộc về Nhà Nýớc (state). Nhà Nýớc kiểm soát ngân hàng, nền kinh tế, các phýõng tiện giao thông và truyền thông. Nhà Nýớc chãm lo công việc giáo dục. Sẽ có thuế nặng ðể chi trả các chi phí nhýng mục ðích của các hoạt ðộng xã hội là sự an lạc của giai cấp lao ðộng, giai cấp này lớn mạnh dần khiến cho sẽ không còn sự phân biệt giai cấp nữa và mọi ngýời sẽ “làm việc theo nãng lực, hýởng thụ theo nhu cầu”.
Những lời tiên ðoán của Marx và Engels ðã bị chứng minh hoàn toàn sai, bởi vì sau khi chế ðộ cộng sản lan tràn tại nýớc Nga và tại phần Ðông Âu sau Thế Chiến Thứ Hai, giới ðảng viên Cộng Sản ðã khéo léo bóc lột nhân dân hõn cả bọn tý bản, ðã hýởng thụ mọi ðặc quyền ðặc lợi một cách kín ðáo nhờ tuyên truyền bịp bợm về công bằng trong khi ngoài xã hội, hai tầng lớp “công nhân và nông dân” thực sự vẫn nghèo khổ, vẫn bị bóc lột và khai thác tàn tệ mà không ðýợc phép kêu than bởi vì mọi tổ chức xã hội do Ðảng Cộng Sản ðộc quyền nắm giữ, mọi sinh hoạt xã hội do bọn Công An canh chừng và theo dõi nghiêm ngặt.
Do quan niệm về Tiến Hóa ðã ðýợc mọi ngýời quan tâm trong thế kỷ 19, Karl Marx ðã dùng lý thuyết về “Ðấu Tranh Giai Cấp” ðể cắt nghĩa lịch sử và tin rằng ðiều này không thể bác bỏ ðýợc. Ngoài ra, một ðóng góp khá sâu xa của Karl Marx về kinh tế, lịch sử và các ngành khoa học xã hội là cách phát triển một nguyên tắc ðýợc gọi là “Duy Vật Biện Chứng” (dialectical materialism), một danh từ vừa mõ hồ, vừa khó hiểu.
Phýõng pháp biện chứng (dialectical method) bắt nguồn từ nhà triết học ngýời Ðức Georg Wilhelm Hegel (1770 – 1831) chủ trýõng rằng mọi sự vật ðều ở trong trạng thái biển ðổi. Sở dĩ có sự tiến bộ là do phản lực của các lực ðối kháng. Thí dụ hệ thống thuộc ðịa của ngýời Anh ðối nghịch do cuộc Cách Mạng tại Bắc Mỹ ðã sinh ra nýớc Hoa Kỳ và nhý vậy “ðịnh luật của ðời sống là các týõng phản do chiến tranh với kết quả là các phát triển”. Chủ ðề này ðã dẫn Karl Marx tới cách thành lập lý thuyết về Duy Vật Sử Quan (the theory of historical materialism) hay cách cắt nghĩa lịch sử bằng kinh tế. Marx và Engels ðã cho rằng “lịch sử của các xã hội hiện hữu là lịch sử của giai cấp ðấu tranh. Ngýời tự do và kẻ nô lệ, giới quý tộc và giới hạ lýu, hạng hầu týớc và hạng nông nô, giới chủ và giới thợ, tóm lại các kẻ áp chế và các kẻ bị áp chế luôn luôn ðối ðầu với nhau, họ thýờng xuyên gây chiến với nhau”.
Trong bài ðiếu vãn nói về Marx, Engels cho biết rõ hõn: “Karl Marx ðã khám phá ra một sự việc ðõn giản, ẩn nấp dýới sự phát triển ý thức hệ, ðó là các con ngýời trýớc tiên cần tới ðồ ãn và nýớc uống, quần áo và nõi trú ẩn trýớc khi quan tâm tới chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo. Ðiều này có nghĩa là việc sản xuất ra các phýõng tiện sinh tồn và các giai ðoạn của cuộc phát triển kinh tế của một quốc gia hay một thời ðại, ðã tạo nên nền móng của các ðịnh chế của quốc gia, cũng nhý các quan niệm về luật pháp, nghệ thuật và ngay cả các ý týởng tôn giáo”. Tóm lại, cuộc tranh giành vì ðồ ãn và nõi trú ẩn rõ ràng xác ðịnh mọi hành ðộng của con ngýời.
Theo Karl Marx, lịch sử của nhân loại bao gồm các bóc lột của giai cấp này ðối với giai cấp kia. Trong thời tiền sử, chỉ có các bộ lạc, ðây là loại xã hội không giai cấp nhýng cũng theo Marx, các giai cấp lớn dần theo thời gian, ðầu tiên xuất hiện các nô lệ rồi các nông nô, kế tới là giới nô lệ không tài sản và lãnh lýõng trong chế ðộ tý bản. Áp dụng lý thuyết Duy Vật Biện Chứng, Karl Marx kết luận rằng býớc tiến không tránh khỏi là một cuộc cách mạng của các công nhân, là “nền ðộc tài của giai cấp vô sản” rồi tới quyền sở hữu cộng ðồng và sự quay về cách tổ chức một xã hội không giai cấp. Trong cuốn “Tý Bản Luận”, Marx ðã làm phát triển một trýờng hợp chống lại hệ thống tý bản ðể chứng minh rằng chế ðộ này về sau sẽ bị tiêu diệt, một ðiều không tránh khỏi.
Những ngýời Cộng Sản coi sự ðóng góp quan trọng thứ hai của Karl Marx vào nền khoa học xã hội là “lý thuyết về giá trị lao ðộng” (the theory of labor value). Thực ra, cãn gốc của lý thuyết này cũng không phải của Karl Marx. Dựa theo các nhà kinh tế của các thời ðại trýớc nhý Adam Smith và David Ricardo, Marx xác nhận rằng lao ðộng là nguồn gốc của mọi giá trị. Marx ðã dẫn chứng lời nói của Benjamin Franklin theo ðó “một cách tổng quát, mậu dịch là sự trao ðổi giữa các lao ðộng, giá trị của mọi thứ ðýợc ðo lýờng bằng lao ðộng”. Từ Adam Smith, Marx ðã mýợn ðịnh nghĩa về tý bản nhý sau: “tý bản là một lýợng lao ðộng ðýợc lýu trữ”, còn Ricardo ðã từng nói rằng giá trị (value) và giá tiền (price) của bất cứ một vật dụng nào phải ðýợc xác ðịnh theo số lýợng lao ðộng bên trong.
Dùng các tiêu chuẩn kể trên, Karl Marx làm phát triển lý thuyết về “giá trị thặng dý”, vấn ðề này ðýợc xác ðịnh trong cuốn sách “Phê Bình nền Kinh Tế Chính Trị Học” (Critique of Political Economy, 1859) và cũng ðýợc xét lại trong tác phẩm “Tý Bản Luận” theo ðó ngýời công nhân vì không có tài sản nên chỉ có một thứ hàng hóa (commodity) ðể bán hầu mong tránh khỏi bị chết ðói, ðó là sức lao ðộng của chính mình. Chủ nhân ðã mua thứ hàng hóa này với giá rẻ mạt, vì vậy giá trị thực của sức lao ðộng không ðúng theo số tiền lýõng ðã trả cho ngýời công nhân. Ngýời công nhân ðýợc trả 4 xu do làm việc 6 giờ, nhýng ðã bị bắt buộc lao ðộng trong 10 giờ. Số 4 giờ dý này ðã bị giới tý bản ãn chặn. Karl Marx lý luận rằng vì vậy, lợi tức, tiền lời v.v. ðều xuất ra từ sự thặng dý lao ðộng do ngýời công nhân bị bóc lột và nhý vậy hệ thống tý bản chỉ là một chế ðộ khai thác và bóc lột giới lao công.
Lý thuyết về giá trị và thặng dý lao ðộng của Karl Marx ðã ðýợc dùng trong các công tác tuyên truyền và khuấy ðộng. Ngày nay, các nhà kinh tế ðã coi lý thuyết này vô giá trị. Một lý do ðể bác bỏ lý thuyết về sức lao ðộng của ngýời công nhân là việc dùng tới các máy móc (machinery) nhờ ðó ðã có các thay ðổi lớn lao về sức lao ðộng cần dùng. Solomon Bennett Freehof ðã viết rằng: “nhà hóa học ðã khám phá ra cách làm cho ðất ðai phì nhiêu gấp 100 lần sức sản xuất của 10 triệu nông dân. Nãng suất (productivity) ðýợc tạo nên do nhà hóa học”. Một học giả khác lý luận rằng: “ngýời ta lặn xuống nýớc mò ngọc trai bởi vì ngọc trai có giá trị, ngọc trai có giá trị không vì công sức của thợ lặn”. Karl Marx ðã không biết rằng khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, các cách quản lý và tổ chức ðã góp phần vào các giá trị (values) và các giá tiền (prices). Mặt khác, các nhà kinh tế cũng không ðồng ý với Karl Marx về cách ðo lýờng giá trị. Các tiêu chuẩn ðýợc chấp nhận là sức cầu (demand) và công dụng (utility) của món hàng.
Trở về lý thuyết giá trị thặng dý (surplus value theory), Karl Marx tin rằng các nhà tý bản cố công bóc lột các công nhân bằng cách kéo dài thời giờ làm việc, giảm bớt lýõng bổng, dùng các lao ðộng rẻ tiền hõn nhý ðàn bà và trẻ em. Karl Marx mô tả nhý sau: “giới tý bản ðã cắt xén ngýời lao ðộng thành một phần của con ngýời, làm giảm giá con ngýời tới mức ðộ là một thành phần của máy móc, phá hủy những ðiều thích thú trong việc làm và biến ngýời công nhân thành một dụng cụ ðáng ghét. Giới tý bản ðã bóp nghẹt các tiềm nãng trí thức của ngýời công nhân, làm lệch ði các ðiều kiện lao ðộng, bắt ngýời công nhân phải sống trong một chế ðộ ðộc ðoán, khiến cho ngýời công nhân phải thêm giờ làm việc và lôi cuốn vợ con của ngýời công nhân nằm dýới bánh xe khủng khiếp của tý bản”.
Karl Marx nhấn mạnh rằng việc trang bị các máy móc ðể gia tãng sản xuất không làm dễ dàng cho ngýời công nhân mà còn tạo ra nạn thất nghiệp, nạn khai thác ðàn bà và trẻ em; cách sản xuất quá mức các hàng hóa làm mất ði hứng thú của ngýời công nhân trong việc làm. Karl Marx xác nhận rằng “máy móc là vũ khí mạnh nhất ðể ðàn áp các vụ ðình công, tức là các vụ nổi loạn của giới công nhân chống lại nền ðộc tài của giới tý bản. Máy hõi nýớc là býớc ðầu tiên của nhà tý bản ðạp lên các ðòi hỏi của các công nhân. Kể từ nãm 1830 có cả một lịch sử các phát minh ðýợc dùng làm vũ khí chống lại các vụ nổi dậy của giới công nhân”.
Karl Marx còn cho rằng “sự quá ðông dân” (overpopulation) luôn luôn ði kèm với con ðýờng tý bản, khi mà các kỹ nghệ mới ðýợc tạo ra, các kỹ nghệ cũ ðýợc sửa lại thì hệ thống tý bản cần ðến “một ðạo quân trừ bị của kỹ nghệ” (an industrial reserve army). Sự thặng dý lao ðộng dẫn tới các suy thoái kinh tế (depressions) và các khủng hoảng (panics). Bởi vì các công nhân bị trả lýõng tối thiểu, họ không thể mua nổi các sản phẩm mà nhà máy làm ra, các thị trýờng bị ứ ðọng, sức lao ðộng giảm ði và tiếp theo là các suy thoái kinh tế. Trong khi tìm tòi các lối thoát cho các nhà kho chứa ðầy hàng hóa, nhà tý bản chuyển sản phẩm sang các thị trýờng ngoại quốc, cố gắng tìm kiếm các xứ chậm tiến ðể ðổ tháo các hàng hóa mà ngýời công nhân không có khả nãng mua vào. Sự cố gắng này và việc tìm kiếm các nguyên liệu rẻ tiền ðể giữ cho các nhà máy tiếp tục hoạt ðộng ðã dẫn tới các xung ðột quốc tế và các cuộc chiến ðế quốc.
Karl Marx tin týởng rằng kết quả của các xung ðột và rối loạn của chủ nghĩa tý bản là sự gia tãng việc tập trung và ðộc quyền bởi vì “một nhà tý bản sẽ giết chết các nhà tý bản khác”. Nhý vậy giới trung lýu sẽ biến ði, các tý bản nhỏ sẽ bị các tý bản lớn nuốt mất và cuối cùng chỉ còn một số nhỏ tý bản gộc ðối ðầu với giới vô sản là ða số. Lúc này là cõ hội của giai cấp vô sản. Trong cuốn Tý Bản Luận, có ðoạn nói nhý sau: “Trong khi số các tài phiệt lớn giảm dần thì cũng tãng dần số lýợng nghèo khó, ðàn áp, nô lệ hóa, xuống cấp và bóc lột. Ðồng thời cũng gia tãng lòng phẫn nộ của giai cấp lao ðộng, một hạng ngýời mỗi ngày một ðông hõn, có kỷ luật hõn, biết ðoàn kết và có tổ chức. Sự ðộc quyền của chế ðộ tý bản trở thành cách kiềm chế phýõng pháp sản xuất trýớc kia ðã phát triển. Việc tập trung các phýõng tiện sản xuất và xã hội hóa lao ðộng ði tới một ðiểm không thích ứng với lớp vỏ ngoài tý bản khiến cho lớp vỏ này bị vỡ ra từng mảnh. Sẽ vang lên hồi chuông báo tử của nền tý sản và các nhà tý bản sẽ bị tịch thu tài sản”.
Theo Karl Marx, cuộc ðấu tranh giai cấp sẽ chấm dứt bằng chiến thắng của giai cấp vô sản. Sau khi nắm chính quyền, giai cấp này sẽ thiết lập nền ðộc tài và Karl Marx báo trýớc rằng “ðây là giai ðoạn chuyển tiếp tới việc hủy bỏ mọi giai cấp và tới việc tạo ra một xã hội tự do và công bằng”. Karl Marx không nói rõ nền ðộc tài của giai cấp vô sản sẽ kéo dài trong bao lâu. Ðất nýớc Liên Xô nằm trong tầm tay của chế ðộ cộng sản ðộc tài sắt máu hõn 70 nãm mà ngýời dân Nga vẫn nghèo ðói, vẫn ngạt thở. Hõn nữa Karl Marx rất mõ hồ trong việc mô tả một xã hội không giai cấp mà chỉ nói rằng mục ðích chính của xã hội cộng sản là “mỗi cá nhân ðýợc phát triển toàn diện và hoàn toàn tự do” theo ðúng nguyên tắc cộng sản là “mọi ngýời làm việc theo nãng lực và hýởng thụ theo nhu cầu” (From each according to his abilities, to each according to his needs!)
Giấc mõ không týởng hoàn toàn ðẹp ðẽ này rất týõng phản với công cuộc ðấu tranh giai cấp ðẫm máu và vô cùng tàn ác ðã từng xẩy ra trong các xứ cộng sản. Ngoài ra Karl Marx còn công bố rằng các tôn giáo cổ xýa nhý Thiên Chúa giáo, ðã dạy cho mọi ngýời cách cam chịu số mệnh, khuyến khích các ðức tính nhẫn nhục và khiêm tốn, vì vậy Karl Marx coi tôn giáo là “thuốc phiện của dân chúng”, ðã làm cho giai cấp vô sản mù lòa, không nhìn thấy ðýờng lối phải ði và tôn giáo ðã ðặt các chýớng ngại trên con ðýờng cách mạng.