|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 9:58:36 GMT 9
Bí mật của những “Điểm chết” Có những khu vực trên trái đất được gọi là "điểm chết". Tại đó có sự bất thường về trọng lực và khí quyển. Thỉnh thoảng những chiếc xe chạy ngang qua đột nhiên bị một lực vô hình kéo đi trên một đoạn, những tín hiệu vô tuyến không còn tác dụng... Athena - 1970 Có những khu vực trên trái đất được gọi là điểm chết. Tại đó có sự bất thường về trọng lực và khí quyển. Thỉnh thoảng những chiếc xe chạy ngang qua đột nhiên bị một lực vô hình kéo đi trên một đoạn, những tín hiệu vô tuyến không còn tác dụng... Hiện các nhà khoa học vẫn chưa có lời giải về những hiện tượng trên. Tại Mexico có một khu vực kỳ lạ được gọi là điểm chết thuộc vùng Chihuahua, bang Ceballos. Đó là một hoang mạc rộng lớn gồm những bụi cây dại và xương rồng. Giống như những hoang mạc khác, nơi đây có rất nhiều rắn độc và bọ cạp sinh sống. Điều kỳ lạ là tại khu vực này, những tín hiệu vô tuyến đều không còn tác dụng và người ta đặt giả thuyết rằng đây có thể là do người hành tinh khác gây ra. Theo tiến sĩ Santiago Garcia ngay từ giữa thế kỷ 19, người ta đã phát hiện ra những tính chất không bình thường của khu vực này. Khi ấy, những người nông dân nhận thấy vào ngày đẹp trời có những hòn đá cuội nóng từ trên trời rơi xuống khu vực điểm chết. Vào năm 1930, một phi công người Mexico tên là Francisco Sarabia thông báo rằng máy bay của anh không thể truyền được tín hiệu radio khi bay qua khu vực này. Tuy vậy, phải đến năm 1970 thì điểm chết mới được biết đến một cách rộng rãi: Một chiếc tên lửa Athena được phóng từ căn cứ tên lửa White Sand của Mỹ khi bay qua vùng này bỗng nhiên bị lệch quỹ đạo bay một cách khó hiểu và rơi xuống đất. Hai năm sau đó, một phần trên của tên lửa đẩy Saturn sử dụng cho tàu vũ trụ Apollo của Mỹ cũng bị rơi khi bay ngang qua đây. Người ta cũng không tìm ra được nguyên nhân sau khi đã điều tra kỹ lưỡng. Kỹ sư Harry de la Pena là người đầu tiên phát hiện ra những đặc tính kỳ lạ gây nhiễu sóng radio của khu vực này. Pena và những đồng nghiệp trong nhóm nghiên cứu của ông nhận thấy tại nơi này, các máy vô tuyến điện đều không thể liên lạc được. Cho tới nay, tín hiệu sóng truyền hình cũng không thể thu được tại Ceballos và các vùng phụ cận. Dường như tại đây có một lực hút từ trường nào đó làm vô hiệu hoá tất cả các loại sóng vô tuyến truyền thanh và truyền hình. Kể từ sau phát hiện của kỹ sư Pena, các nhà khoa học khắp nơi trên thế giới đã đổ về khu vực này với mong muốn tìm ra lời giải đáp cho những bí ẩn trên. Chính phủ Mexico thậm chí còn cho xây một trung tâm nghiên cứu ngay tại khu vực. Một điều kỳ lạ là về mặt địa lý, Điểm chết nằm ngay trên hạ chí tuyến và nam vĩ tuyến thứ 30, cùng trên một đường thẳng hàng với các khu bí ẩn khác của trái đất như tam giác quỷ Bermuda. UFO - 1976 Nhiều người kể lại rằng họ đã tận mắt nhìn thấy đĩa bay và người ngoài hành tinh tại khu vực này. Vào năm 1976, một du khách người Đức đã chụp được các bức ảnh đĩa bay đỗ gần khu vực đồi nam châm ở Điểm chết. Các bức ảnh cho thấy rõ một vật thể giống nồi hầm khổng lồ có đường kính 10 m phát ánh bạc. Ngoài những hiện tượng kỳ lạ, tại điểm chết ở Chihuahua còn có những tàn tích khảo cổ mà cho đến nay vẫn chưa thể xác định độ tuổi của chúng. Đó là một đài thiên văn cổ được xếp lên từ những khối đá cao 15 m, nặng 20 tấn/khối. Chúng có hình gần giống những cột đá ở bãi đá cổ Stonehenge nước Anh. Một thiên thạch rơi tại Chihuahua vào năm 1959 có cấu trúc tinh thể có độ tuổi nhiều hơn cả hệ mặt trời. Theo nhà thiên văn học Luis Maeda Villalobos, thiên thạch này có cùng độ tuổi với vũ trụ, khoảng 13 tỷ năm tuổi, trong khi hệ mặt trời mới hình thành cách đây 6 tỷ năm. Cho đến nay, những bí ẩn xung quanh điểm chết như đĩa bay và người ngoài hành tinh, hiện tượng từ trường bí ẩn, vẫn chưa có lời giải thoả đáng. Và các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục công việc tìm hiểu của mình. (Theo khoahoc.com ) Hai lần thoát chết trong vũ trụ - 3/4/2006 Kazakhstan Talgat Musabayev (Ảnh: Spacefacts) Nhà du hành vũ trụ đầu tiên của loài người là Yuri Gagarin - phi công vũ trụ của Liên Xô cũ - với thành tích: Tháng 4-1961 bay trên quỹ đạo vòng quanh trái đất 108 phút trong con tàu vũ trụ Vostok 1. Năm 1968, Gagarin đã hy sinh trong một chuyến bay thử nghiệm máy bay mới. Hơn 30 năm sau, nhà du hành vũ trụ người Kazakhstan Talgat Musabayev là người đầu tiên bước ra khoảng không vũ trụ trong chuyến du hành vũ trụ kéo dài 207 ngày trên trạm vũ trụ Hòa Bình MIR năm 1998. May mắn hơn Gagarin, ông thoát chết 2 lần khi đi bộ trong vũ trụ. Năm nay ông Musabayev đã 55 tuổi, là Thiếu tướng Tổng Giám đốc căn cứ tên lửa vũ trụ Bayterek của Nga tại Kazakhstan. Trong sự nghiệp du hành vũ trụ, tướng Musabayev đã có 3 chuyến bay lên vũ trụ, trong đó có chuyến thứ hai, ông chỉ huy đội bay quốc tế 6 người gồm các quốc tịch: Nga, Kazakhstan, Mỹ và Pháp trên trạm Hòa Bình. Hồi đó, trạm vũ trụ Hòa Bình trong 7 năm hoạt động đã nhiều lần để xảy ra sự cố kỹ thuật như hỏng hệ thống máy tính, thiết bị vận hành trục trặc. Cuối cùng, trạm Hòa Bình được điều khiển cho rơi xuống Thái Bình Dương năm 2001, sau 15 năm bay trên quỹ đạo. Có một lần trạm kiểm soát từ mặt đất ở Moscow phạm một sai lầm nghiêm trọng làm cho trạm Hòa Bình mất điện, bay lơ lửng tự do trong không trung. Đây là sự cố nghiêm trọng đầu tiên trong lịch sử du hành vũ trụ của Liên Xô và Nga. Tướng Musabayev kể: “Hôm đó toàn bộ hệ thống trên trạm Hòa Bình ngừng hoạt động. Chúng tôi không có hệ thống trợ giúp sự sống, không có dưỡng khí, không nước, không có thiết bị lọc dioxide cacbon. Chúng tôi phải dựa vào lượng oxy tỏa trong trạm vũ trụ. Không điện, không ánh sáng. Màn tối đen là tuyệt đối. Tất cả là sự tĩnh lặng và sợ hãi”. Bảy ngày sau mới phát hiện sai lầm, sửa sai kịp thời. Nhưng cái chết trong gang tấc đối với Musabayev đã xảy ra trong một lần ông rời trạm bước ra không gian vũ trụ trong 5 lần mạo hiểm suốt chuyến bay. Khi ông bước ra không trung, một đầu dây nối ông với con tàu bị tuột và “tôi bay lơ lửng trong không gian, mỗi giây lại xa thêm trạm Hòa Bình. Chẳng thể làm gì để tự cứu mình. Thật khủng khiếp”. Rồi có một sức mạnh vô hình nào đó đã níu kéo ông và đẩy ông vào trạm. Bây giờ kể lại ông vẫn còn bàng hoàng: “Tôi lập tức dùng cả 2 tay bám chặt vào trạm. Nếu không đội mũ bảo hiểm, chắc tôi cũng cắn răng vào trạm”. Trả lời câu hỏi: “Sức mạnh thần bí nào kéo ông trở về trạm?”, tướng Musabayev cười, nói vui: “Chắc là Chúa trời đã cứu tôi. Vì chúng tôi bay trên quỹ đạo vì mục đích hòa bình nên thượng đế đã ra tay cứu giúp”.
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 10:00:22 GMT 9
Chăm sóc lan đai châu
Loại này có nhiều tên gọi khác nhau, miền Trung gọi là nghinh xuân, miền Nam gọi là ngọc điềm, còn miền Bắc là đai châu. Đây là loại lan rừng có nhiều ở Việt Nam, đặc biệt là các vùng nóng. Khi trồng, bạn nên hiểu và tuân thủ những điều sau.
Độ bền hoa: 20-35 ngày.
Thời gian nở hoa: Tết Nguyên đán hàng năm, trừ những năm nhuận thì cây nở sớm hơn.
Tránh ánh sáng trực tiếp vì dễ làm cây bị cháy lá.
Nhiệt độ phát triển tốt nhất là 26-30 độ C.
Độ ẩm 40-70%.
Nên tưới nước 1 lần/ngày, thường là vào buổi sáng và chiều mát để giữ cho cây có độ ẩm thích hợp. Khi thời tiết chuyển lạnh đột ngột thì không nên tưới ngay mà để cách 1-2 ngày sau để cho cây thích hợp với môi trường mới.
Cứ 7 ngày thì tưới phân một lần với liều lượng quy định vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Nên tưới qua nước một lần, sau đó 10-15 phút thì tưới phân để cây hấp thụ tốt hơn.
Với cây lan con hoặc cây mới ghép nên dùng phân NPK: 30.10.10. Lan trưởng thành dùng NPK: 20.20.20. Khi thấy cây nhú hoa thì dùng NPK: 6.30.30 để cho hoa mập hơn, bền và tươi hơn.
Hằng tháng nên phun thuốc phòng sâu bệnh, nấm.
Chú ý: Mùa đông, nếu nhiệt độ dưới 15 độ C, cây không phát triển, nụ sẽ bị hỏng, vì vậy cần chuyển cây đến chỗ ấm hơn hoặc có biện pháp che chắn.
( nguồn lấy từ báo vnexpress)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 6, 2007 2:11:32 GMT 9
Topics - Đời sống Giáo dục Monday, 08 May 2006 Quả xoài theo Đông y lúc chín có vị ngọt (có loại hơi chua), tính bình. Có sách nói xoài tính ấm hoặc mát, nhưng ấm có lẽ hợp lý hơn vì quả này chứa nhiều đường ngọt, ăn nhiều sẽ bị "phát nhiệt", trẻ em bị rôm sảy.
Quả xoài chín kích thích tiết nước bọt, chống khát khô họng, lợi tiểu chống phù thũng, nhuận tràng chống táo bón.
Xoài là thức ăn bổ não, rất tốt cho những người lao động trí óc, học sinh ôn thi. Tuy nhiên, không nên ăn xoài lúc đói quá và sau bữa ăn no, khi đang có các bệnh nhiệt sốt. Xoài xanh và xoài chín đều không nên ăn nhiều.
Quả xoài theo Đông y lúc chín có vị ngọt (có loại hơi chua), tính bình. Có sách nói xoài tính ấm hoặc mát, nhưng ấm có lẽ hợp lý hơn vì quả này chứa nhiều đường ngọt, ăn nhiều sẽ bị "phát nhiệt", trẻ em bị rôm sảy.
Quả xoài chín kích thích tiết nước bọt, chống khát khô họng, lợi tiểu chống phù thũng, nhuận tràng chống táo bón.
Chất glucozit trong xoài có tác dụng chống viêm, chống ung thư, diệt khuẩn. Xoài làm giảm cholesterol, hạ huyết áp, phòng chống bệnh tim mạch, tăng nhu động ruột giúp thải nhanh chất cặn bã trong ruột nên phòng chống được bệnh ung thư ruột kết.
Cách ăn xoài chín an toàn là thái nhỏ, làm nhuyễn, không để cả lát to, không nhai dối, nuốt chửng (chú ý đối với trẻ em và người già răng yếu).
Thịt quả xoài
Chống khát khô giọng miệng, ho khản cổ, mất tiếng, viêm họng: Ăn uống xoài tươi hoặc lấy nước, ngậm xoài khô, mứt. Dùng tốt cho thầy cô giáo, ca sĩ...
Chống say tàu xe, buồn nôn: Ăn sống hoặc nấu chín còn cứng giòn.
Chữa ăn không tiêu, trẻ bị cam tích: Ăn xoài chín tươi vào các buổi tối.
Chữa táo bón và đau dạ dày thừa toan: Ăn xoài chín.
Chảy máu chân răng (thiếu vitamin C): Dùng quả xoài gần chín còn chứa nhiều vitamin C làm các dạng thích hợp. Hoặc ăn xoài chín, uống nước ép.
Trẻ còi xương, suy dinh dưỡng: Ăn xoài chín thái nhỏ hoặc nghiền. Hoặc làm bột khô hòa nấu với sữa để được cung cấp vitamin A.
Ho đờm nhiều do phế nhiệt: Ăn xoài chín tươi.
Bồi bổ trí não, chữa suy nhược thần kinh: Ăn xoài tươi chín hằng ngày trước bữa ăn.
Chữa bỏng nước sôi, bỏng lửa: Lấy phần thịt xoài chín cắt lát hoặc giã nhuyễn đắp có tác dụng tiêu viêm, giảm đau, diệt khuẩn.
Chữa các bệnh đường hô hấp: Dùng xoài xanh tươi hoặc khô nấu với thịt heo nạc. Có thêm 1 miếng trần bì (vỏ quýt lâu năm).
Giải nhiệt, chống mỏi mệt mùa hè: Nấu canh chua xoài xanh với các loại cá đồng.
Vỏ quả xoài
Cầm máu ở các trường hợp chảy máu: Ho, nôn, đại tiểu tiện, rong kinh... Vỏ quả xoài chín khoảng 30 g sắc nước uống, hoặc nấu thành cao lỏng rồi lấy ra pha loãng để uống. Uống mỗi lần 1 thìa con (thìa cà phê 15 ml), cách nhau vài giờ.
Viêm da, chàm: Vỏ quả xoài 150 g nấu lấy nước để rửa, bã đắp.
Thủy thũng: Vỏ quả xoài 15 g, nhân hạt xoài 30 g. Sắc uống ngày 1 lần. Chu ý nhân hạt xoài có độc gây say.
Lá xoài
Chữa cao huyết áp: Sắc nước lá xoài khô để uống. Hái để sau 1 ngày thì dùng được, thái nhỏ hãm nước sôi sau 1 giờ lọc lấy nước uống thay nước uống hàng ngày hoặc ngày 2 bát trong 3 ngày liền, nghỉ 1 ngày uống tiếp. Lá xoài có tác dụng an thần.
Chữa đái tháo đường. Do lá xoài có chất anthxyanidin có tác dụng hạ đường huyết, phòng các biến chứng ở mắt và mạch máu do đái tháo đường.
Lưu ý: Xoài nếu ăn ít sẽ giúp nhuận tràng, ăn nhiều có thể gây tiêu chảy cũng do quá ngọt. Quả xanh chua chát gây táo bón nếu ăn nhiều. Cũng do tanin và xơ, ăn vào lúc đói nồng độ dịch vị cao sẽ tạo điều kiện gây vón làm tắc ruột.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 25, 2007 1:20:31 GMT 9
MẠN ÐÀM VỚI ÐẠI TÝỚNG CAO VÃN VIÊN (LÊN MẠNG Thứ bảy 18, Tháng Ba 2006) Lâm Lễ Trinh (VNN)
Từ Hoa Thịnh Ðốn, tin cho biết Ðại týớng Cao Vãn Viên, nay 85 tuổi, phải một lần nữa nhập viện Virginia Hospital Center vì bệnh tim tái phát trầm trọng. Ngày mùng hai Tết Bính Tuất, chúng tôi có nói chuyện khá lâu với ông qua ðiện thoại khi ông vừa từ bệnh viện trở về cý xá cao niên tại số 4435 N. Pershing Drive, Arlington. Ông có linh cảm khó thoát khỏi, tuy trí tuệ vẫn còn sáng suốt. Tình trạng sức khoẻ sút kém của vị týớng ðàn anh trong Quân ðội VNCH gây lo ngại trong Cọng ðồng ngýời Việt Hải ngoại vì ông từng giữ lâu nãm nhiều chức vụ then chốt thời Ðệ nhứt và Ðệ nhị Cọng Hoà: Tham mýu trýởng Biệt bộ tham mýu Phủ Tổng thống (thời chính phủ Ngô Ðình Diệm), Tý lệnh Lữ ðoàn Nhảy dù, Tý lệnh Quân ðoàn, Tham mýu trýởng Liên quân, Tổng Uủy viên Chiến tranh, Ủy viên Quốc phòng, và Tổng Tham Mýu trýởng (từ tháng 11.1967 cho ðến ngày 27.4.1975, gần một thập niên). Mối thân tình giữa chúng tôi bắt ðầu từ 1958 khi Trung tá Viên thay thế Ðại tá Nguyễn Vãn Là, ðảm trách chức Tham mýu trýởng Biệt bộ Tham mýu Phủ Tổng thống trong giai ðoạn ngýời viết là Bộ trýởng Nội vụ trong Nội các Ngô Ðình Diệm từ 1954 cho ðến cuối 1959.
Trung tâm Lubbock giúp hiệu ðính lại The Final Collapse
Lối tháng 2.2002, Ðại týớng Viên gởi tặng cho chúng tôi hai quyển sách tiếng Anh: tập tiểu thuyết best seller "Monkey Bridge, Cầu khỉ" do ái nữ của ông là Lan Cao, giáo sý luật quốc tế ở Ðại học Brooklyn, New York, sáng tác, và "The Final Collapse", tài liệu chuyên khảo dày 184 trang, do chính ông khởi viết vào khoảng 1976-1978 và ðýợc Center of Military History, United States Army, Washington DC, xuất bản nãm 1983. Một số chuyên gia danh tiếng Mỹ về chiến tranh Ðông Dýõng nhý Ronald S Spector, Jeffrey Clark, Philip Davidson.. hợp tác với Trung tâm Quân sử này. Về phiá Việt Nam, có các týớng Cao Vãn Viên, Ngô Quang Trýởng, Ðồng Vãn Khuyên, Trần Ðình Thọ, Nguyễn Duy Hinh, ðại tá Hoàng Ngọc Lung.. Sáu tác giả vừa kể sáng tác ðýợc 16 tập nghiên cứu, tất cả ðýợc xếp vào bộ Indochina Monographs. Týớng Viên viết riêng quyển Leadership (1981), The Final Collapse (1983) và viết chung với Ðồng Vãn Khuyên Reflections on the Vietnam War (1980).
The Final Collapse phân tích các lý do sụp ðổ của Miền Nam VN về mặt quân sự và chính trị. Tuy nhiên, có ba ðiểm trong quyển sách này không làm cho týớng Viên vừa ý: 1) nhà xuất bản Mỹ cho in trên bìa hình một chiến xa mang cờ Việt Cộng, khiến các ðộc giả có thể hiểu lầm ông, 2) một số ðoạn trong sách, khi ðýợc biên tập viên dịch ra tiếng Anh, ðã diễn ðạt sai lạc ý kiến của tác giả và 3) ông chýa thực hiện ðýợc bản tiếng Việt ðồng lúc với bản tiếng Anh ðể trình bày quan ðiểm cá nhân trong chi tiết.
Vì tình bạn, ngýời viết ðã giúp ÐT Viên liên lạc với ông Nguyễn Xuân Phong, cựu Quốc vụ khanh phụ trách Hoà ðàm Paris và hiện là ðồng giám ðốc VN Center thuộc Ðại học Texas Tech University, Lubbock, Texas. Với sự hỗ trợ của giới tài phiệt Hoa kỳ, trung tâm này hiện tàng trữ nhiều sử liệu VN nhứt trên thế giới về quân sự, vãn hoá và chính trị. Trung tâm có phýõng tiện ðể hiệu ðính, bổ túc, in lại và phổ biến The Final Collapse. Vì týớng Viên phải ngồi xe lãn và di chuyển khó khãn cho nên ông Nguyễn Xuân Phong ðã nhiều lần ðích thân từ Texas lên Hoa Thịnh Ðốn ðể phỏng vấn và ghi lại trong gần hai nãm các ðoạn cần ðiều chỉnh trong The Final Collapse. Vốn tốt nghiệp Ðại học Oxford và là một nhà ngoại giao kỳ cựu, ông Phong chu toàn mọi việc về mặt sinh ngữ.
Một trong các lý do khiến Trung tâm Lubbock nhận giúp là týớng Viên liên tục thay mặt gần một thập niên chính phủ VNCH ðể bàn thảo về chiến lýợc quân sự chống Cộng sản với các tý lệnh ðồng minh Mỹ, từ Paul Harkins, William Westmoreland, Creighton Abrams cho ðến Frederic Weyand. Trong vị thế ấy, ÐT Viên có dịp thu thập kinh nghiệm quý báu về cuộc chiến không quy ýớc giữa Nam và Bắc Việt, một cuộc chiến trong ðó Hànội chủ trýõng ðấu tranh toàn diện, khai thác tối ða tuyên truyền, ðẩy mạnh dân vận và ðột nhập dýới vĩ tuyến 17, bất chấp các Hiệp ýớc ký kết.
Công việc viết lại The Final Collapse vừa hoàn tất, sách sắp xuất bản một ngày gần ðây. Ðiều an ủi trong hiện tại là The Final Collapse ðýợc dịch giả Nguyễn Kỳ Phong chuyển ngữ qua tiếng Việt nãm 2003 dýới tên Những Ngày Cuối của VNCH (nhà xuất bản VN Bibliography, Virginia) gồm có 10 chýõng, 295 trang và một số chú thích của týớng Viên. Theo tác giả tâm sự với ngýời viết, The Final Collapse không thể ðề cập ðầy ðủ ðến mọi sự việc vì bị giới hạn trong phạm vi xử dụng các sử liệu, một số lớn chýa ðýợc Ngũ Giác Ðài, Nga, Tàu và chính quyền Bắc Việt giải mật vào nãm 1983.
Cuộc mạn ðàm với Ðại týớng Cao Vãn Viên tại West Virginia.
Từ 1975 ðến nay, Týớng Viên giữ một sự im lặng có liêm sỉ và từ chối phê bình ðến những biến cố tại VN cũng nhý bí mật trong hậu trýờng. Ngýời viết ðã mất nhiều nãm thuyết phục ông nên góp phần ðánh tan những dý luận không ðúng - từ phía quốc gia, ðồng minh cũng nhý cộng sản - liên hệ ðến cuộc chiến ðã qua. Cuối cùng, trýớc Giáng sinh 2004, ngýời viết ðã thực hiện ðýợc tại tý thất của nguyên Trung tá Lý Thanh Tâm, một chuyên viên ðịa ốc thành công ở Springfields, Virginie, cựu bí thõ thân tín của ÐT Cao Vãn Viên (CVV), một buổi mạn ðàm thân mật bốn tiếng ðồng hồ có ghi hình. Týớng Viên nhận trả lời cởi mở nhiều câu hỏi liên hệ ðến ðời công và tý của ông.
Ðúng theo lời giao kết, toàn nội dung cuộc nói chuyện chýa ðýợc tiết lộ tới giờ này. Nay Ðại týớng Viên quá yếu về sức khoẻ, ngýời viết nghĩ ðã ðến lúc có thể công khai hoá vài ðiều tâm tình của ông. Ðây cũng là cách nói lên sự nguỡng mộ ðối với một ngýời bạn thân quý, ðồng thời một nhân chứng hàng ðầu trong chính trýờng Miền Nam VN.
Dýới ðây là những câu vấn ðáp chính của cuộc mạn ðàm giữa Ðại týớng Viên (CVV) và ngýới viết (LLT) có thể tiết lộ trong phạm vi bài này:
LLT: Vào tháng 4.1975, nãm cuối của cuộc chiến, VNCH có 1.100.000 lính tại ngũ, một trong những quân ðội lớn nhứt ở Á châu. Lúc ðó, Quân ðoàn 4, với trên dýới 200.000 quân, chýa ðánh một trận lớn nào, chýa một Tý lệnh nào bỏ chạy. Tại sao chúng ta lại thua CS mau nhý thế, trong hỗn loạn? có ðáng thua hay không, thýa anh? CVV: (một phút suy nghĩ): Có nhiều lý do. Ðây là một vấn ðề phức tạp. Chỉ nói về phiá Hànội mà thôi, CS - dýới sự lãnh ðạo của Hồ Chí Minh - có kế hoạch xâm lãng Miền Nam ngay từ sau Hiệp ðịnh Genève, 1954. Hiệp ýớc Paris, 1973, ðã bắt cầu thêm cho chúng, ðánh dấu býớc lùi cuối cùng của Thế giới Tự do. Kế hoạch thôn tính Miền Nam do Chính trị bộ nghiên cứu kỹ, thi hành liên tục, với quyết tâm chiến thắng bằng mọi giá, bằng mọi hy sinh. Hànội ðýợc ðồng minh Nga, Tàu hỗ trợ toàn lực, với khối xã hội chủ nghĩa ðứng sau lýng. Bắc kinh và Mạc tý khoa không trực tiếp xen vào ðể chỉ huy. Tại Miền Nam, chúng ta thiếu các yếu tố thuận lợi ấy, chúng ta không liên tục trong sự lãnh ðạo. Với một ðồng minh nhý Hoa kỳ, thử hỏi làm gì ðýợc? Ðồng minh với Mỹ khó hõn là kẻ thù của Mỹ. VN không phải là quốc gia ðầu tiên thí nghiệm bài học ðau ðớn này! VNCH chỉ là một con cờ trong chiến lýợc toàn cầu của ðại cýờng Hoa kỳ. Chiến lýợc ấy ðạt ðýợc mục tiêu sau khi Nixon gặp Mao Trạch Ðông nãm 1972 tại Bắc kinh.
LLT: Trong vụ nhóm Nguyễn Chánh Thi âm mýu ðảo chính hụt ngày 11.11.1960, chuyện gì ðã xảy ra cho anh? Anh biết gì về việc thýõng thuyết giữa Chánh vãn phòng Võ Vãn Hải (ðại diện cho TT Diệm) và phe Výõng Vãn Ðông? về vấn ðề TT Diệm có trao cho týớng Nguyễn Khánh một tờ giấy viết tay cam kết trao quyền lại cho Quân ðội, theo lời ông Khánh tiết lộ với tôi? CVV: Vài tuần trýớc ðó, ðể giúp tôi làm việc dễ hõn, ông Quách Tòng Ðức, Ðổng lý Phủ Tổng Thống, có cấp cho tôi, Tham mýu trýởng Biệt bộ, một cãn nhà gần bệnh viện Grall và một chiếc xe Peugeot 202 mang số ẩn tế. Ngày 11 tháng 11, khi nghe tiếng súng ðầu tiên nổ lớn, tôi ðích thân lái xe ðến Phủ ði vòng phía výờn Tao Ðàn. Một lính nhảy dù võ trang tiểu liên, hùng hổ la to bảo ngừng xe, tôi chýa kịp quay kiếng xuống ðể hỏi ất giáp thì anh ta nổ súng, kiếng trýớc bể tung, may phýớc tôi không bị thýõng. Vừa býớc khỏi xe, tôi ðýợc lệnh ðến ngồi dýới gốc một cây me với vài quân nhân bị bắt nhý tôi. Liền lúc ðó, một xe jeep nhà binh trờ tới, anh lính nhảy dù vừa hô, výà bắn xối xả vào xe, ngýời tài xế chết tức tốc. Tôi không thấy tận mắt những gì diễn tiến sau ðó tại Dinh Ðộc lập. Ðýợc biết týớng Khiêm về kịp ðể can thiệp, týớng Khánh nhảy rào giờ chót vào Dinh ðể chỉ huy. Phiến quân tan rã, số sĩ quan mýu loạn trốn qua Cam bốt, bắt theo týớng Thái Quang Hoàng làm con tin. CIA giúp Ls Hoàng Cõ Thụy, trong Bộ Tham mýu của Ðông, thoát khỏi VN. Tôi nghĩ Hoa kỳ ðã xử dụng cuộc ðảo chính hụt ngày 11.11.1960 và vụ hai phi công Phạm Phú Quốc - Nguyễn Vãn Cử ném bom Dinh Ðộc lập vào tháng 2.1962 nhý hai cảnh cáo, warnings liên tiếp ðối với TT Diệm, trýớc khi tiến vào giai ðoạn chót là lật ðổ ông ngày 1.11.1963.
Tôi có nghe nói TT Diệm bảo ông Hải ra trýớc cổng Dinh ðiều ðình với phe phiến loạn. Hình nhý họ yêu cầu ông bà Nhu phải ra ði. Bà Nhu lồng lộn phản ðối ðòi hỏi này khi ông Hải trở vào trình với TT Diệm, trýớc thái ðộ im lặng của ông Nhu. Về chuyện ông Khánh tiết lộ, tôi không tin Tổng Thống Diệm sẵn sàng trao quyền lúc ðó. Ðây chỉ là một kế hoãn binh.
LLT: Sau khi Tổng thống Diệm bị ðảo chính nãm 1963, các týớng Miền Nam có ðýợc chuẩn bị về chính trị ðể lãnh ðạo cuộc chiến chống Bắc Việt hay không? Anh nghĩ sao về Hội ðồng Quân nhân Cách Mạng? Nếu ông Diệm thoát khỏi cuộc ðảo chính 1963 thì anh nghĩ Miền Nam có thể tránh sụp ðổ chãng nãm 1975? CVV: Họ thiếu chuẩn bị về chính trị. Họ chia rẽ. Không ai có ðủ khả nãng và uy tín ðể thay thế Tổng thống Diệm. Nhóm ðảo chính tự phong cho mình danh xýng Cách mạng. Thật ra mục tiêu của họ là giết TT Diệm chớ không phải thay ðổi tốt xứ sở. Bằng chứng là họ ðã gây ra sau 1.11.63 hỗn loạn liên miên và tự loại. Không có một lãnh tụ nào có tầm vóc hay cýõng lĩnh kiến quốc cỡ Nasser, Sukarno, Lý Thừa Vản..
Ðể trả lời phần hai câu hỏi của anh: Ông Diệm là một lãnh tụ ðýợc biết nhiều về mặt quốc tế, hõn ông Thiệu. Dù sao, ông chỉ là một symbol, một biểu týợng mà thôi, ông không thể làm gì nếu không có cố vấn Nhu bên cạnh. Tất cả các bài diễn vãn của TT Diệm ðều do ông Nhu soạn thảo. Khổ nỗi, Hoa kỳ muốn tách ông Nhu khỏi ông Diệm. Ông Nhu là một trở ngại. Trở ngại lớn hõn TT Diệm. Vì ông Nhu có nhiều mýu lýợc. Ông Nhu chống Mỹ hõn chống Pháp. TT Diệm thì trái lại. Rốt cuộc, ông Diệm trở thành nạn nhân của Mỹ.
LLT: Việc Tổng thống Thiệu gom hết quyền bính trong tay, qua mặt Quốc hội và Tối cao Pháp viện, một mình quyết ðịnh bỏ Cao Nguyên và Miền Trung là ðiều có lợi hay hại? Trong quyển hồi ký "Ðôi dòng ghi nhớ" (1994, trang 191-215), cựu Chánh vãn phòng của anh là ðại tá Phạm Bá Hoa có kể lại cuộc rút quân bi thảm của týớng Phạm Vãn Phú theo ðýờng số 7 và nhắc lại hai khẩu lệnh của anh bằng ðiện thoại cho ðýõng sự ngày 15 và 18.3.1975 bảo gởi phi cõ vận tải C130 cho Quân ðoàn 2 và chở các quân dụng ðắt tiền khỏi Pleiku "mà không cho biết lý do". Ông Hoa than phiền Tổng Cục Tiếp vận, thuộc bộ Tổng Tham mýu, không hề ðýợc thông báo về tình hình suy sụp ở Cao Nguyên. Anh nghĩ sao về lời than phiền này? CVV: Tất nhiên không có lợi. Một cá nhân không thể quyết ðịnh ðõn phýõng vận mạng của Ðất nýớc. Ông Phạm Bá Hoa trình bày không ðúng về một số sự kiện trong quyển hồi ký mà tôi ðã nhận ðýợc. Tôi có gởi cho y một bổn The Final Collapse ðýợc bổ túc ðể làm sáng tỏ vấn ðề nhýng không thấy y nói gì. Phạm vi cuộc mạn ðàm hôm nay không cho phép ði sâu vào chi tiết. Xin ðể dịp khác.
LLT: Anh có nghĩ rằng chuyện rút khỏi Miền Trung quá sớm, quá hấp tấp và thiếu chuẩn bị hay không? Ðây có phải là một ván bài tố của TT Thiệu ðể thử coi Nixon có giữ lời cam kết riêng hay không? Trung týớng Ngô Quang Trýởng từng xác nhận với chúng tôi rằng ðầu nãm 1975, quân lực của chúng ta tại Miền Trung không quá yếu ðến nỗi phải tháo chạy tán loạn nhý vậy, anh nghĩ sao? CVV: Không chuẩn bị. Về mặt quân sự, rút quân khó hõn tấn công. Khởi ðầu nan, mọi sự ðã hý do Mỹ cúp quân viện. Theo tôi, thời cuộc ðã diễn ra ngoài ý muốn của týớng Trýởng, ông không làm gì ðýợc. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ ngày 10.3.1975, dân chúng vùng 1 nghe tin ðồn Chính phủ sẽ cắt ðất nhýờng cho ðịch nên họ hoảng sợ, tự ðộng ào ào bỏ chạy, không ai ngãn nỗi. Trong bài "Vì sao tôi rút khỏi Miền Trung?" ðãng trên báo, týớng Trýởng có nói rằng Bộ Tổng Tham Mýu không tãng quân số theo lời ông xin. Ðiều này không ðúng. Hai ðõn vị tổng trừ bị là sý ðoàn thủy quân lục chiến và sý ðoàn dù ðã ðýợc tãng cýờng cho ông, mỗi sý ðoàn gồm có bốn chiến ðoàn. Trong tay tôi lúc ấy không còn gì nữa. Chính sách của Hoa Kỳ ðã khóa tay chúng ta.
Tôi không ðọc ðýợc sự suy tính thầm kín của TT Thiệu. Nay ông ðã qua ðời, hãy ðể ông ngủ yên. Anh còn nhớ TT Thiệu từng nói: "Je suis responsable mais pas coupable." Mỗi Tổng thống có nỗi khổ tâm riêng. Vào việc rồi mới biết.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 25, 2007 1:20:58 GMT 9
LLT: Tôi ðã hỏi cựu Ngoại trýởng Trần Vãn Lắm (lúc còn sống) và Phó Thủ týớng Nguyễn Lýu Viên (hiện ở Virginia) kể từ lúc nào họ nhận thức ðýợc Miền Nam sụp ðổ. Mỗi ngýời trả lời khác nhau. Với tý cách Tổng Tham Mýu trýởng Quân ðội VNCH, từ thời ðiểm nào anh thấy tình hình Miền Nam vô phýõng cứu chữa? CVV: Trýớc khi trả lời câu hỏi, tôi xin nêu ra một ðiểm: Trong quân sử, có trýờng hợp - nhýng rất hiếm- những týớng tài với ít quân thắng ðịch ðông hõn. Ðó là trýờng hợp của Alexandre Ðại ðế, của Nã Phá Luân... Về vấn ðề týõng quan lực lýợng, bên nào có quân nhiều thì bên ðó ở thế thýợng phong. Khi Mỹ rút lui sau Hiệp ðịnh Bá Lê thì họ tròng vào cổ Miền Nam một chiếc dây thòng lọng, lần hồi cúp quân viện ðể gây áp lực, hãm doạ ðủ ðiều. Bắc Việt có quân số và võ khí dồi dào hõn, không ngớt ðýợc tãng cýờng. Giữa Nam và Bắc, cán cân mỗi ngày thêm quá chênh lệch. Tình thế hết mong cứu vãn ðối với Sàigòn. Hiệp ðịnh Bá lê là án tử hình cho Miền Nam. Mỹ ðánh mà không muốn thắng, họ sợ thắng. Phần thì phong trào phản chiến sôi sục bên trong Hoa kỳ. Xì-cãn-ðan Watergate ðã xúc tiến sự bức tử của VNCH.
LLT: Anh có nghĩ rằng quyết ðịnh giết Tổng thống Diệm sớm làm Miền Nam sụp ðổ hay không? Chuyện gì ðã xảy ra cho cá nhân anh ngày 1.11.1963? CVV: Giết ông Diệm là một lỗi lầm nguy hại. Ngày 1.11.63, tôi là ðại tá tý lệnh Lữ ðoàn Nhảy dù (thay thế Nguyễn Chánh Thi). Khi Hội ðồng Cách mạng hỏi tôi có ủng hộ phe ðảo chính hay không, tôi trả lời: "Lật ðổ Chính phủ là một chuyện quốc gia ðại sự, tôi không ðýợc hỏi ý kiến trýớc. Tôi chỉ là một quân nhân, không làm chính trị." Quân cảnh liền còng tay tôi, tôi ngồi chờ trýớc cửa vãn phòng ông Dýõng Vãn Minh. Tôi tự hỏi: Sẽ chung số phận với Lê Quang Tung, Hồ Tấn Quyền chãng? Ông Tôn Thất Ðính býớc ra can thiệp mở còng cho tôi. Hôm sau, tôi ðýợc thả nhýng bị quản thúc tại gia ở ðýờng Ngô Quyền, Chợ Lớn. Lối một tuần sau, tôi về chờ lệnh tại Bộ Tổng Tham Mýu. Tôi vô cùng chán nản, không tha thiết ở lại Quân ðội vì tình huynh ðệ chi binh không còn nữa, anh em một nhà giết hại lẫn nhau. Nếu có lệnh ðẩy tôi làm tùy viên quân sự tại Lào, tôi chấp nhận ngay. Vientiane là nõi tôi ra ðời. Tên tôi, Viên, là vần ðầu tiên của thủ ðô Vientiane.
Một hôm, trong khi ngồi rầu tại vãn phòng, tôi bỗng nhận ðýợc cú ðiện thoại của vợ tôi. Bà hỏi: "Buồn lắm hả?" Nýớc mắt tôi tự nhiên trào lên. Vợ tôi tiếp: "Nếu "ngýời ta" ðýa anh trở lại chỉ huy nhảy dù, anh chịu không?" Tôi nghẹn lời vì không thể tin ðýợc. Do sự dàn xếp sao ðó mà tôi không ðýợc biết giữa vợ tôi và bà Trần Thiện Khiêm (hai ngýời thân thiết với nhau), tôi nhận ðýợc sự vụ lệnh, ordre de mission, của týớng Khiêm, Tham mýu trýởng Liên quân, ðýa tôi về nắm lại Nhảy dù. Ông Khiêm cho tôi biết mật rằng ðây là một quyết ðịnh riêng của ông, chắc sẽ gặp phản ứng vì không hỏi ý kiến cấp trên. Ðúng vậy, việc bổ nhiệm chính thức bằng một công vụ lệnh, ordre de service thuộc thẩm quyền Tổng tham mýu trýởng Quân ðội. Một thời gian ngắn sau, ông Khiêm mất chức Tham mýu trýởng Liên quân, bị ðổi về chỉ huy Quân ðoàn 3. Vài ngày trýớc 30.1.1964, Khiêm ðiện thoại kín cho tôi, hỏi: "Sẵn sàng chýa?". Ðây là ám hiệu hành ðộng. Ðêm 30 tháng giêng, lữ ðoàn dù của tôi giúp hai trung týớng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm chỉnh lý phe Dýõng Vãn Minh. Việc "hốt" các týớng "trung lập" thực hiện dễ nhý trở bàn tay. Không ðổ máu, không tốn một viên ðạn vì sau 1.11.1963, các týớng này ðều dùng quân dù của tôi ðể canh gác nhà họ. Thật nhý "gởi trứng cho ác!"
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 25, 2007 1:22:43 GMT 9
Việc tôi giúp ông Khiêm là chuyện dĩ nhiên, ðể ðáp õn "thả hổ về rừng". Tôi không ðể ý ðến ðiểm Minh, Ðôn, Ðính, Xuân và Kim có thật sự chủ trýõng trung lập hay không.
LLT: Ai ra lệnh giết anh em Tổng thống Diệm? Ai thi hành lệnh ấy? CVV: Chính týớng Dýõng Vãn Minh ðã ra lệnh giết hai ông Diệm và Nhu. Nguyễn Vãn Nhung, vệ sĩ của Minh, thãng Thiếu tá sau vụ ám sát, có nhiệm vụ thi hành lệnh dýới sự giám sát của hai týớng Mai Hữu Xuân và Nguyễn Vãn Quan (ngýời thay Ðỗ Mậu trong chức Tổng giám ðốc An ninh Quân ðội). Nhung bị An ninh Quân ðội bắt trong vụ chỉnh lý nói trên và ðem về giam tại Lữ ðoàn dù của tôi. Hôm sau, tôi ðýợc phúc trình Nhung ðã tự treo cổ bằng một sợi dây giày nhà binh. Có lẽ vì Nhung biết không tránh khỏi tử hình nếu bị giải ra trýớc Toà vì Nhung phạm quá nhiều tội ác.
LLT: Trong hồi ký "Vietnam. Histoire secrète d'une victoire perdue" (nxb Perrin, Paris, 1986), giám ðốc CIA William Colby xác nhận kế hoạch Ấp Chiến Lýợc, Strategic Hamlets (mà ông Ngô Ðình Nhu là cha ðẻ) làm Bắc Việt khiếp ðảm vì rất hữu hiệu. Ðúng nhý vậy không? Vì sao Hội ðồng Cách Mạng lại hủy bỏ kế hoạch ấy? CVV: Kế hoạch Ấp Chiến Lýợc là một việc phải làm ðể tách CS ra khỏi nhân dân, tách cá khỏi nýớc, nhý ðã từng thí nghiệm tốt ở Mã Lai với týớng Robert Thompson. Tại VN, có những sõ sót trong việc thi hành bởi một số tỉnh trýởng dàn cảnh, ðể lấy ðiểm với thýợng cấp. Thay vi chỉnh ðốn lại ðể tãng hiệu lực, Dýõng Vãn Minh và HÐCM ðã hấp tấp hủy bỏ kế hoạch Ấp Chiến Lýợc liền sau vụ ðảo chính vì lý do họ thù ông Nhu. Họ thay vào ðó cái mà họ gọi là Ấp Tân Sinh. Ðây là một lỗi lầm ghê gớm. Tôi không biết rõ họ ðã thảo luận với nhau ra sao. Lữ ðoàn dù, do tôi chỉ huy lúc ðó, bị nghi trung thành với ông Diệm nên không ðýợc hành quân, chỉ ðýợc giao làm những công tác vớ vẩn tại vùng Long An, Mỹ Tho.
LLT: Nếu so sánh TT Diệm với TT Thiệu thì ai ðộc tài hõn ai? Xin so sánh hai ðảng Cần Lao (của ông Diệm) và Dân chủ (của ông Thiệu). CVV: Mỗi ngýời ðộc tài theo cách riêng. TT Diệm cai trị nýớc nhý một quan lại của thời quân chủ, ông bẩm sinh chống cộng, tự ban cho mình "thiên mạng" cứu nýớc. Có lẽ anh còn nhớ vụ ông tỉnh trýởng Bình Tuy sãn ðýợc một con hà mã, dấu cái sừng tê giác, không khai báo. Khi hay ðýợc, cụ Diệm nổi trận lôi ðình, cách chức và ðòi giam viên tỉnh trýởng về tội "tẩu tán tài sản Nhà nýớc." TT Diệm tự hào về dân tộc, tự ðại về gia ðình, thích ðộc thoại, không chấp nhận dễ dàng sự chỉ trích. Ông chủ trýõng "tiết trực tâm hý." nhýng bị ảnh hýởng nặng của gia ðình. Còn ông Thiệu thì theo ðýờng lối "ðộc tài trong dân chủ", vỏ ngoài dân chủ nhýng bên trong chi phối cả hai ngành lập pháp và tý pháp. Bàn tay sắt trong ðôi gãng nhung.
Vì không vững kiến thức nhý ông Diệm, ông Thiệu chịu khó thãm dò ý kiến của các chuyên viên, lắng nghe, ðúc kết lại ðể quyết ðịnh một mình. TT Diệm dễ tin ngýời xu nịnh nên dễ bị phản trắc. Ông Thiệu ða nghi Tào Tháo và không e ngại ban phát ân huệ ðể tạo phe cánh và chia rẽ ðối phýõng nhý ông ðã làm tại Quốc hội. Ông chủ trýõng "làm chính trị phải lì". Bởi thế TT Thiệu "lật" ông Kỳ không khó và tồn tại lâu hõn TT Diệm nhýng ông không khí khái bằng ông Diệm. Ông Thiệu mýu sĩ, ông Diệm ðạo ðức. Những nãm tại chức, ông Thiêu bị ám ảnh bởi cái chết của TT Diệm.
Ðảng Cần Lao - dựa vào thuyết Cần Lao Nhân Vị - tổ chức quy củ hõn, với sự chỉ huy trực tiếp của hai ông Nhu và Cẩn, ði sâu vào Quân Ðội với các quân ủy, nhý CS. Ðảng Dân chủ yếu hõn, không dựa vào cýõng lĩnh vững chắc nào, chỉ có hình thức, ðýợc ông Thiệu thành lập ðể củng cố ðịa vị, không có ảnh hýởng trong Quân ðội và quần chúng. Tôi không có gia nhập Ðảng Cần Lao.
Theo tôi ðýợc biết, vào giờ phút chót tháng 11.1963, TT Diệm cho ðại sứ Cabot Lodge biết ông sẵn sàng ðiều ðình một giải pháp nhýng ðã quá trễ, phe chủ trýõng "diệt Diệm" trong Bộ Tham mýu của John Kennedy thắng thế. Les dés sont jetés! Les jeux sont faits!
LLT: Trong hồi ký Our Endless War và Việt Nam Nhân chứng, týớng Trần Vãn Ðôn ghi rằng trong tất cả các vụ chính biến ở Miền Nam từ 1960 trở về sau, ðại týớng Trần Thiện Khiêm ðóng vai trò chủ ðộng, giựt dây sau hậu trýờng, ðiều này có ðúng hay không? CVV: Tôi không biết rõ. Tôi chỉ liên hệ với týớng Khiêm về công vụ. Chúng tôi quen nhau từ hồi còn ở trong Quân ðội Pháp, sau khi tôi ra trýờng Võ bị Cap Saint Jacques, Vũng Tàu, nãm 1949. Vợ tôi là bạn thân của bà Khiêm. Ông Khiêm có lần tuyên bố không thích chính trị. Nhýng nói và làm là hai chuyện khác biệt !
LLT: Nới trang 428-429 của hồi ký "Việt Nam Nhân Chứng" (nxb Xuân Thu,1989), týớng Trần Vãn Ðôn viết: "Có lần ông Thiệu than phiền ông Cao Vãn Viên không làm việc nhiều..Ông Thiệu nhờ tôi nói với Ðại týớng Viên, Tổng Tham Mýu trýởng, về việc ông này cứ ở mãi Tổng Tham mýu làm việc, không chịu ði ra ngoài, ông Viên trả lời: Tôi ðã xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp nhận nên tôi cứ ở vãn phòng làm việc mà thôi!" Mặt khác, trong quyển hồi ký "Ðôi dòng ghi nhớ " nêu trên, cựu ðại tá Phạm Bá Hoa cũng có nhận xét rằng trong gần 9 nãm rýỡi giữ chức Tổng Tham Mýu trýởng - chức vụ quan trọng bậc nhất trong Quân ðội - anh ðã nhiệt tình hoạt ðộng 7 nãm ðầu nhýng hai nãm sau cùng, vị "Nguyên soái" của Quân ðội Miền Nam không cáng ðáng hết trách nhiệm, ðến vãn phòng cho có lệ, tập luyện yoga và ði học lấy bằng cử nhân vãn khoa ngoài giờ làm việc. Mong anh ðại týớng vui lòng, nếu tiện, giải thích thái ðộ. CVV: Tôi sẵn sàng trả lời. Trýớc khi cuộc ðàm phán tại Paris tiến ðến giai ðoạn kết thúc nãm 1973, tình hình quân sự thêm cãng thẳng. Tổng thống Thiệu, với tý cách Tổng tý lệnh Quân ðội, tập trung hết quyền bính trong tay, cho ðặt một hệ thống máy truyền tin tại Dinh Ðộc lập ðể liên lạc thẳng với các quân khu, ðiều ðộng các ðõn vị, bổ nhiệm tý lệnh vùng và ra lệnh trực tiếp hành quân. Bộ Tổng Tham Mýu lần hồi bị dồn vào vai trò tuân hành và thị chứng. Bộ Quốc phòng chỉ còn là hộp thõ giữa Tổng thống và Bộ Tổng tham mýu. Vì không có ðiều kiện làm việc ðýợc nhý trýớc, tôi ðã nãm, sáu lần vô ðõn xin từ chức. Ông Thiệu yêu cầu tôi nán lại, ðợi ngýời thay thế nhýng ông không quyết ðịnh. Tôi không có quyền bỏ ra ði một cách vô trách nhiệm.
Tuy nhiên khi Tổng thống Trần Vãn Hýõng nhýờng ghế cho týớng Dýõng Vãn Minh tháng 4.1975, tôi cýõng quyết xin giải ngũ vì tôi không phục ông Minh từ lâu, tôi từng là nạn nhân của ông Minh. TT Hýõng chấp nhận ðõn của tôi. Ngày 27.4.1975, tôi rời VN trong tình trạng hợp lệ. Vấn ðề tôi tập luyện yoga và thiền có một lý do riêng. Khi giữ chức tý lệnh nhảy dù, tôi výớng phải một bệnh nan y về khớp xýõng, một loại phong thấp nặng, gây nhức nhối vô cùng. Tôi giữ kín việc này, tìm cách tự trị liệu. Là chỉ huy nhảy dù mà bệnh hoạn, không nhảy ðýợc thì coi kỳ quá, không còn gì thể thống. Tôi ðã thử ðủ thứ thuốc Tây lẫn Ta, mọi thứ dýợc thảo, nhân ðiện, dýỡng sinh, tổ ong chính gốc..v..v.. Tôi ðã lợi dụng một cuộc viếng thãm chính thức Ðài Loan ðể tìm hiểu khoa châm cứu. Bệnh tình không thuyên giảm với thời gian, với tuổi tác.
Về chuyện ði học vãn khoa, môn tôi thích từ lúc còn trẻ, tôi thấy cần trau dồi thêm kiến thức. Ðó cũng là một lối thoát khỏi những chuyện bực bội của cuộc sống cãng thẳng hằng ngày.
LLT: Anh nghĩ gì về vụ Phật giáo chống TT Diệm nãm 1963? Về vụ Phật gíáo nổi lọan ở Miền Trung ðầu 1966? Vai trò của Hoa kỳ trong hai vụ? Tại sao Hoa Thịnh Ðốn có thái ðộ khác nhau trong hai trýờng hợp? Theo Trần Vãn Ðôn (hồi ký VNNC, trang 372)) thì trong vụ thứ hai, có trên 200 ngýời chết và bị thýõng, lối 6.000 quân nhân ðào ngũ và một số ngýời chạy vào chiến khu Việt cộng. Có ðúng nhý thế hay không? CVV: Phật giáo thống nhất hõn khi chống ông Diệm, vai trò của Thích Trí Quang quá rõ. Có tay Hoa kỳ và CS nhúng vào. Trong vụ Phật tử dấy loạn ở Miền Trung, Phật giáo chia làm hai khối Ấn Quang (Thích Trí Quang, chống Chính phủ) và Vĩnh Nghiêm hay VN Quốc Tự (Phật giáo Bắc Việt di cý với Thích Tâm Châu, thân Ủy ban lãnh ðạo Thiệu Kỳ). Mặt khác, một số tý lệnh Quân ðoàn 1 có cảm tình với phiến lọan nhý Nguyễn Chánh Thi, Tôn Thất Ðính, trong khi Nguyễn Vãn Chuân và Hùynh Vãn Cao thì lừng khừng. (Cao và Ðính chạy vào Bộ Tý lệnh Thủy Quân Lục chiến Mỹ ở Ðà Nẵng xin tị nạn chính trị). Vì thế có một lúc Miền Trung gần nhý không có Chính phủ: Thị trýởng Ðà Nẳng, Bs Nguyễn Vãn Mẫn, cũng nhý ða số quân nhân, công chức.. tuân lệnh của tãng ni ðem bàn thờ Phật xuống ðýờng biểu tình. Phong trào có nguy cõ lan tràn xuống Miền Nam, làm tiêu chế ðộ. Týớng Kỳ, chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ýõng, xin tôi (lúc ðó Tổng Tham mýu trýởng) ðổ quân tái chiếm Ðà nẵng, mặt khác yêu cầu tôi cấp gần 20.000 cây súng cũ của Pháp (Mass 36, tiểu liên, lựu ðạn..) cho Nguyễn Ngọc Loan, TGÐ Công an - Cảnh sát, hầu võ trang các ðảng phái ở Miền Trung lập thãng bằng với lực lýợng Phật giáo. Tôi ðề nghị ðể týớng Loan hành ðộng trýớc. Hai tuần sau, tình hình thêm nguy kịch. Tôi quyết ðịnh can thiệp. Theo lối của tôi: týõng kế tựu kế. Lúc ðó, tôi có một tiểu ðoàn thủy quân lục chiến ðang hành quân tại Bình Ðịnh. Tôi ra lệnh chính thức cho ðõn vị này tập trung ðúng ngày, giờ ấn ðịnh, tại sân bay Quảng Ngãi nói là ðể không vận về Sàigòn, thay bằng một tiểu ðoàn khác. Phải dùng mýu ấy ðể ðánh lạc hýớng Viện Hoá Ðạo có ngýời gài khắp nõi. Ðêm hôm ðó, ðúng 12 giờ, tôi ðýa thêm 4 tiểu ðoàn khác nhập chung với tiểu ðoàn có sẵn, thành 5, giao cho ðại tá Ngô Quang Trýởng chỉ huy, tràn vô các chùa bắt các phần tử nguy hiểm, giải tán bằng biện pháp mạnh các ổ dân quân, buộc họ buông súng. Cuộc hành quân cýõng quyết này ðã ðem lại kết quả. Trong hồi ký "The Buddha's Child", Nguyễn Cao Kỳ ba hoa dành hết công trạng về mình.
Tôi không thể xác nhận với anh về những thiệt hại sinh mạng. Con số của týớng Ðôn ðýa ra có vẻ quá ðáng. Dù sao, Hoa Thịnh Ðốn không lên tiếng phản ðối nhý ðã làm thời TT Diệm. Về phía Hoa kỳ, cần ghi rằng ông tổng lãnh sự Mỹ tại Ðà Nẵng nghiêng theo phía Phật giáo, trong khi toà Ðại sứ Mỹ tại Sàigòn giữ thái ðộ thận trọng wait and see, nếu không nói ðồng ý ngầm với Ủy Ban Lãnh ðạo quốc gia. Thật vậy, nãm 1963 ðại sứ Cabot Lodge ra mặt ủng hộ Phật giáo vì TT Diệm chống việc Mỹ hóa chiến tranh. Nãm 1969, tình hình thay ðổi, Hoa kỳ cần giữ lại ê-kíp Thiệu Kỳ và bắt ðầu Việt nam hoá cuộc chiến. Từ ðồng minh, cánh Phật giáo thiên tả ðã biến thành ðối lập với Mỹ.
Kêt luận.
Trên ðây là những ðoạn - buồn nhiều hõn vui - trích từ bộ VCR mạn ðàm với ðại týớng Cao Vãn Viên. Phần còn lại, không kém hệ trọng, sẽ phổ biến khi thuận tiện.
Với một nụ cýời mệt mỏi, hõi thở phều phào, (vì lúc ấy sức khoẻ của ông ðã rất suy kém, thân hình của ông co rút lại), Týớng Viên - một sĩ quan có tiếng "bô trai" trong Quân ðội, - kết thúc bằng một câu nói khiêm nhýờng: "Xin ðừng xem những lời của tôi là lịch sử. Mỗi ngýời giải thích sự thật theo lối riêng, nhý trong phim "Rashomon". Một trãm chứng nhân, một trãm sự thật. Ðịnh kiến làm cho lịch sử sai lệch. Tôi chỉ tâm tình với lòng thành. Hảy ðể cho hậu thế lýợng ðịnh và phán xét. Chýa thấy quan tài, chýa ðổ lệ".
Ðại týớng Cao Vãn Viên sẽ lýu lại trong ký ức các ngýời từng biết ông - thân hữu, bạn ðồng ðội nhý kẻ bất ðồng ý kiến - hình ảnh của lòng chung thủy, "trýớc sau nhý một", không a dua, không phản trắc, từ tốn khi phê bình, chủ trýõng ðoàn kết trong tình huynh ðệ chi binh. Ông không bon chen trên chính trýờng, không ðạp trên xác ðồng ðội ðể tiến thân. Ông là một nhà týớng phi chính trị bị thời thế cuốn hút vào chính trýờng gió tanh mýa máu. Khi hai ðịch thủ Thiệu, Kỳ dành giựt với nhau cân ðai, áo mão, Hội ðồng Quân lực ðịnh ðýa ông Viên lên chức Quốc trýởng vì ông là vị týớng có thâm niên nhứt. Ông ðã một mực từ chối vì nhận thức lýõng thiện khả nãng của mình. Tuy nhiên ông vẫn không tránh ðýợc số phận một con thiêu thân - trong vô số con thiêu thân khác - bị chiến tranh Việt Nam ðốt cháy.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 10:39:37 GMT 9
SAU KHI ĐÃ ĐẾN PHÁP TỊ NẠN, CỰU ĐẠI TƯỚNG, TỔNG THỐNG NẰM VÙNG DƯƠNG VĂN MINH VẪN CÒN THÈM KHÁT DANH VỌNG, MUỐN VỀ V.N. PHỤC VỤ CHẾ ĐỘ C.S.!
* TRONG CUỘC PHỎNG VẤN ĐẶC BIỆT DÀNH CHO BÁO "NHÂN BẢN" CUẢ TỔNG HỘI SINH VIÊN BA LÊ, DƯƠNG VĂN MINH TUYÊN BỐ:
- TÔI KHÔNG ĐẦU HÀNG MÀ TRAO QUYỀN!
- ĐẶT QUYỀN LỢI TỔ QUỐC TRÊN QUYỀN LỢI CÁ NHÂN VÀ PHE PHÁI.
- CHUYỆN HÀNG TRIỆU NGƯỜI VƯỢT BIÊN THÌ KHÔNG CÓ AI ĐOÁN TRƯỚC ĐƯỢC!
Đặng Văn Nhâm
Lời toà soạn.- Sau cái chết cuả ông Dương Văn Minh, một cựu đại tướng nằm vùng cho CS, cựu quốc trưởng, cựu tổng thống 24 giờ ngày cuối cùng ở miền Nam VN, để cho việc "cái quan định luận" cuả một nhân vật lịch sử được thêm phần xác đáng, chúng tôi xin cống hiến bạn đọc bài sau đây cuả nhà báo Đặng Văn Nhâm. Bài này đã viết sau khi chính ông Minh , hồi còn ở Pháp, đã công khai dành một cuộc phỏng vấn hãn hữu cho một số sinh viên, chủ biên báo Nhân Bản, ở Paris, trước khi ông sẽ về VN để phục vụ đất nước, theo lời mời cuả chánh phủ CSVN.
Nhận xét như thế nào về những lời tuyên bố cuả ông Minh cũng như lời phê bình cuả tác giả Đặng Văn Nhâm đều thuộc quyền cuả mỗi người đọc.
ĐÁNH TRỐNG KHUA CHUÔNG
Đây là một chuyện khá hi hữu, có thể coi như một sự phá lệ của ông Dương Văn Minh. Từ khi ngấm ngầm ra lịnh cho bộ hạ là đại úy Nhung, giết chết 2 anh em ông Diệm cho đến nay đã ngót 34 năm, lần đầu tiên ông Minh đã dành cho báo Nhân Bản, phát hành ở Paris, một cuộc phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn ấy đã diễn ra nhân dịp ông tiếp xúc với Tổng Hội Sinh Viên VN tại Paris. Như vậy, ai cũng có thể nhận ra cuộc phỏng vấn này hoàn toàn không có tính cách bất ngờ, nếu không muốn nói là dàn xếp trước. Một điểm đặc biệt đáng chú ý nhất là: trước đó không lâu, báo "TUỔI TRẺ CHỦ NHẬT" của CSVN xuất bản tại Sài Gòn đã chánh thức loan tin ông Minh sẽ về nước. Với chỉ dấu rõ rệt và cụ thể ấy, mọi người đều thừa biết: ông Minh đã ngấm ngầm liên lạc,và thoả thuận với chánh quyền CSVN về việc ông ta sẽ trở về VN.
Trước đây, trên mặt báo này, tôi cũng đã loan báo tin CSVN đã sửa sang lại dinh Hoa Lan, số 3 Trần Quý Cáp, để đón ông Minh về nước. Tin ấy cũng đã được các báo CS trong nước loan báo. Đó là mặt nổi. Còn mặt chìm, chắc chắn trước khi ra lịnh sửa sang lại dinh Hoa Lan, nhà cầm quyền CSVN đã phải thu xếp xong chuyện hồi hương của ông Minh rồi. Đây hiển nhiên không phải là chuyện ngẫu nhiên, cao hứng, như chuyện của các Việt kiều khác về thăm gia đình, bà con. Còn chuyện ông Minh về nước để làm gì cho CSVN, thì không ai có thể đoán biết được. Dù vậy, căn cứ trên những hành động của ông Minh từ 1962 đến ngày 30.4.75, ngưòi Việt tị nạn ở hải ngoại vẫn có thể hình dung được một cách khá chính xác vai trò của ông Minh khi trở về VN như sau:
- Tiếp tục đóng vai TAY SAI, CÒ MỒI cho CSVN.
- Làm bù nhìn, tạo cớ cho CSVN tuyên truyền lừa bịp dư luận thế giới Tây phương và đồng bào VN trong cũng như ngoài nước về vấn đề DÂN CHỦ, và HOÀ HỢP, HOÀ GIẢI DÂN TỘC. Vì hiện nay VN vẫn còn bị các cơ quan quốc tế nhân quyền tố cáo nặng nề, và dân chúng VN đã mất hết tin tưởng vào chế độ.
Ngay trong lời tuyên bố của ông Minh dành cho báo Nhân Bản, chúng ta cũng đã thấy được mục tiêu ấy lộ dạng. Nguyên văn như sau: "...Việc xây dựng đất nước phải có sự hợp tác của cả 2 bên, ở trong cũng như ở ngoài... Tôi rất muốn thấy tự do và hoà bình dân tộc trên đất nước VN... Bây giờ tôi muốn tự tôi thấy... Tranh đấu với sự đả phá thì tôi thấy nó không hay bằng việc xây dựng... Tôi mong rằng chúng ta sẽ xây dựng trong tinh thần hoà giải, dân chủ, tự do..."
Sau khi đã đọc hết những hàng chữ vắn tắt nêu trên, tôi nghĩ bạn đọc cũng như tôi, chúng ta đã thấy hiển lộ rõ ràng những điểm sâu kín sau đây trong tâm trạng của Dương Văn Minh, một phản tướng, đã lỡ lầm nằm vùng cho CSVN từ năm 1962 đến ngày 30.4.75. Sau một thời gian chung sống với CSVN, thấy không chịu nổi, ông Minh đã xin qua Pháp tị nạn, sống nhờ vào đồng lương truy lãnh chật hẹp của quân đội Pháp, với cấp bực trung úy. Thoạt tiên, ông Minh tưởng rằng, ra hải ngoại, ông sẽ có dịp được tiếp tục múa may trong cộng đồng người VN hải ngoại. Ông không ngờ, khi ông đặt chân đến Paris dư luận báo chí VN đã không thèm đếm xỉa gì đến ông. Đồng bào VN tị nạn khắp nơi ở hải ngoại đã coi ông như một món đồ phế thải, bẩn thỉu, và vô dụng hoàn toàn. Bùi Tín, Nguyễn Chí Thiện còn được báo chí đề cập đến ít nhiều, và đồng bào ở một vài nơi còn chịu tốn kém mời mọc đến nói chuyện, và thuyết trình lăng nhăng nọ kia. Riêng ông Minh không ai thèm nhắc đến, cũng chẳng ai muốn tốn một xu ten nào cho ông. Từ ngày dắt díu vợ con đến Paris , ông Minh đã phải sống trong âm thầm tủi nhục của quên lãng. Thực không có gì đau đớn cho bằng tâm trạng của một anh kép hát vô duyên lúc về gìa, không còn ăn khách dưới ánh đèn sân khấu phường tuồng nữa. Nay ông công khai tuyên bố sẻ trở về VN. Chuyện ở hay đi của ông Minh, chắc cũng chẳng mấy ai trong cộng động ngư?i Việt tị nạn hải ngoại quan tâm làm gì. Ngày xưa ông đến Paris trong âm thầm tủi hổ. Nay chẳng lẽ ông quay trở về cũng với cung cách ấy. Chẳng khác nào như mấy chú bồi nhà hàng, rửa chén bát trong tiệm ăn Tàu,sau 22 năm ở hải ngoại, mặc áo gấm về làng để lấy le với bà con chòm xóm chơi. Ông phải đánh trống thổi kèn lên, để cho mọi người đừng quên rằng: dù sao trong cộng động người VN hải ngoại này cũng đang có mặt của một kẻ mang cái tên Dương Văn Minh sắp về nước đây.
Nếu ông Minh chỉ đánh trống thổi kèn, kêu gọi sự chú ý của đồng bào thôi, chúng tôi không thừa thì giờ để bàn đến chuyện của ông làm gì. Nhưng ngặt nỗi, khi tuyên bố với báo Nhân Bản, ông còn tỏ ra vô cùng gian trá và ngụy biện, đến mức khiến cho những ai đã từng biết ít nhiều về tông tích và hành vi của ông trong dĩ vãng đều không khỏi ngứa ngáy, nhột nhạt. Tôi là một trong số những người ấy, nên chẳng đặng đừng, phải chịu mất thêm chút thì giờ, để "lật tẩy" ông một lần nữa trước công luận. Tôi hy vọng, ông Minh sẽ trả lời những điểm tôi lật tẩy ông sau đây, để cho dư luận được thêm phần sáng tỏ. Dĩ nhiên, nếu tôi có sai lầm nào, tôi sẽ sẵn sàng tự nhận lỗi ngay.
TÔI KHÔNG ĐẦU HÀNG CHỈ TRAO QUYỀN THÔI!
Thực quả ông Minh là người danh bất hư truyền. Từ thời ờ VN, danh ông đã nổi như cồn. Cha ông phải cái danh cầm quân đánh giặc, chẳng phải cái danh làm quốc trưởng bù nhìn dưới thời Nguyễn Khánh, cũng chẳng phải cái danh phản tứơng nằm vùng cho CSBV từ năm 1962, qua trung gian của người em là Dương Văn Nhựt, một sĩ quan cấp tá của CSBV. Ông cũng chẳng phải nổi danh, vì đã mưu sát anh em TT Diệm, để rửa hận tư thù. Ông nổi danh vì một câu vè đã phổ biến rất rộng rãi trong dân chúng miền Nam như sau: "MIỀN NAM CÓ 4 YÊN HÙNG: THIỆU GIAN, KỲ LÁO, HƯƠNG KHÙNG, MINH NGU"!
Nhận xét của dân gian sao mà chính xác đến thế. Ở đời, ai cũng biết: hễ đã gian thì phải ngoan. Khi muốn nói láo thì phải nói láo cho có căn, mới hòng lừa gạt được dư luận. Ngược lại, chỉ rước thêm nhucỳ nhã vào người. Thí dụ như câu ông vừa tuyên bố ở trên: "Tôi không đầu hàng chỉ trao quyền thôi!" Khi báo Nhân Bản hỏi tiếp: "Thưa ông, vậy thì lúc trao quyền chánh thức khi đó là đối với ai?"
Ông Minh đã trả lời: "Tôi không nhớ rõ đúng ngày, nhưng bữa sau thì có một phái đoàn đi vào dinh. Tôi cũng không biết ai là ai. Trong số đó,tôi nhớ có một người tự xưng là tướng Trà. Ông đến để nhận lãnh trao quyền hành "...
Năm nay ông Minh đã 82 tuổi. Đã gìa rồi. Tôi không biết ông đã lú lẫn chưa, đã lâm vào cảnh "đi ỉa không biết đường lại, đi đái không biết đường về hay chưa", nhưng nghe câu trả lời kể trên của ông, tôi cảm tưởng như ông đã lẩm cẩm lắm rồi. Nếu những dự đoán kể trên của tôi mà không đúng, thì chắc chắn ông Minh đã gian trá và ngụy biện một cách thiếu khôn ngoan. Tôi xin mạn phép nhắc cho ông biết rằng: Trong thời kháng chiến chống Pháp, chính ông Minh tự khai đã có một thời gian theo kháng chiến, nhưng bị bỏ rơi, nên tìm về đầu thú với Pháp. Thời này, ông Trần Văn Trà cùng một lứa tuổi với ông Minh cũng đi theo kháng chiến chống Pháp ở vùng quê hương ông Minh là Phú Lâm, Chợ Gạo v.v...
Ông Minh đã làm nên tới đại tướng trong quân đội VNCH, đã trải qua nhiều nhiệm vụ, đã từng đánh nhau với CSVN suốt mấy chục năm trời, mà ông không biết đối phương của mình là ai,và ông Trần Văn Trà là ai, thì nghe thực không xuôi tai chút nào. Giả thiết ông Minh chỉ là một chú binh nhì, loại lính kiểng, trong QĐ-VNCH, và ông Trần Văn Trà chỉ là một tên du kích xã vô danh tiểu tốt, thì ông Minh nói như vậy còn nghe tạm được. Câu này ông Minh đã để lòi cái đuôi gian trá ra dài quá!
Chưa hết, ông Minh còn ngụy biện. Ông phủ nhận 2 chử "ĐẦU HÀNG" và chỉ chịu 2 chữ "TRAO QUYỀN" mà thôi.
Phải rồi thân làm đến đại tướng, trong mấy ngày cuối cùng, lại còn khổ công chạy đôn chạy đáo, lạy lục ông Trần Văn Hương, kể cả nhẫn nhục, chịu nghe lời ông Hương sỉ vả "vẽ bùa lấy mà đeo" và gọi bằng thằng này thằng kia, coi như thứ đồ vô loại, để xin ông Hương chịu trao quyền tổng thống chưa đầy 24 giờ để "ĐẦU HÀNG" thì tệ quá. Ông Minh đã phải cố gắng cưỡng ép danh từ, gọi chuyện ĐẦU HÀNG của ông bằng 2 chữ "TRAO QUYỀN", nghe cho nó có vẻ rồng rắn, hoa lá cành một chút. Nhưng ông Minh đã quên mất rằng, dù cho ông có vận dụng đến danh từ hoa mỹ nào chăng nữa, ông vẫn không thể nào xoá bỏ được sự thật, và những chứng tích của lịch sử hãy còn ràng ràng trên giấy trắng mực đen của phe bên kia, đã ghi chép tại chỗ, ngay lúc bấy giờ, giữa thời điểm của lịch sử.
Đây tôi xin trích dẫn nguyên văn một đoạn tường thuật của nhà báo Thành Tín, tức Bùi Tín, trong quyển "SAÌ GÒN TRONG ÁNH CHỚP CHÓI LỌI CỦA LỊCH SỬ" nhà x.b.tp. Hồ Chí Minh, 1978, trang 14-15-16:
- "Đài phát thanh vắng quá... Tùng (tức đại tá Bùi Văn Tùng) và Thệ tranh thủ hội ý về nội dung bản tuyên bố đầu hàng của tổng thống ngụy. Trong chừng 10 phút, Tùng thảo xong. Anh đưa Dương Văn Minh xem.Minh chỉ xin bỏ 2 chữ "tổng thống". Cuộc đối thoại như sau:
- Tôi đề nghị các ông cho bỏ chữ tổng thống.
- Sao lại bỏ? Chức của ông hiện nay là tổng thống ngụy quyền, có phải không?
- Tôi xin nói thật, tôi không thích cái chữ tổng thống.
- Không thích là một chuyện. Ông đọc tuyên bố này trên cương vị là tổng thống chính quyền Sài Gòn chứ có phải với cương vị nào khác đâu.
- Dạ đúng. Nhưng thưa qúy ông, chỉ cần nói cấp và tên của tôi: đại tướng Dương Văn Minh, là binh sĩ nghe theo tôi.
- Không được. Đây là cương vị của ông. Cách mạng yêu cầu ông phải nói cho rõ, cho đúng cương vị này.
Minh vẫn lưỡng lự. Tùng biết đã đến lúc phải quyết đoán. Anh nghiêm nét mặt, nói dằn từng chữ:
- Ông không thích, nhưng chúng tôi biết, hôm kia ông đã chính thức làm lễ nhậm chức tổng thống từ Trần Văn Hương chuyển qua. Thế là Minh ngồi xuống, chăm chú chép lại trên một tờ giấy rời nguyên văn bản dự thảo: "Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn kêu gọi quân lực VNCH hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải Phóng Miền Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn chính quyền từ trung ương đến địa phương cho chánh phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam VN". (xin xem phóng ảnh bản tuyên bố đầu hàng viết tay đính kèm).
Tùng lại nghĩ: đã có đầu hàng thì phải có tiếp nhận sự đầu hàng. Anh lại lấy giấy thảo: "Chúng tôi đại diện lực lượng vũ trang cách mạng, đơn vị đánh chiếm dinh Độc Lập, long trọng tuyên bố thành phố Sài Gòn hoàn toàn giải phóng và chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống nguỵ quyền" (xin xem phóng ảnh đính kèm).
Phóng ảnh bản thảo tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh và lời tuyên bố chấp nhận sự đầu hàng của đại tá CSBV Bùi Văn Tùng không tìm thấy trong tác phẩm của Bùi Tín, mà trong tài liệu của đại tá nhà văn Nguyễn Trần Thiết, sanh năm 1929, tại Thanh Hoá, người đã thẩm cung các thành viên trong nội các Dương Văn Minh, ngày 30.4.75.
Hơn thế nữa,chắc ông Minh vẫn chưa quên chuyện sáng ngày 30.4. 75, một tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn LÔI HỔ đã vào dinh Độc Lập, đòi gặp ông Minh, để phản đối quyết định đầu hàng. Chuyện này do Nguyễn Văn Diệp, cựu tổng trưởng kinh tế trong nội các của Trần Thiện Khiêm, một cán bộ CS nằm vùng, bộ hạ thân cận nhất của ông Minh trong những ngày cuối cùng của miền Nam đã tự thuật nguyên văn như sau:
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 16:07:08 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Cụ Hà Hữu Chi Orange County (CA). Tôi được nghe nhiều người ca tụng công trình xây dựng Vạn Lý Trường Thanh, bà cụ có biết qua về sự tích xây dựng kỳ quan này không? nếu được xin bà cụ vui lòng trình bày cho chúng tôi rõ. Kính cẩn cám ơn bà cụ.
* Vạn Lý Trường Thành xây lên cách nay 2500 năm, có chiều dài 5000 cây số tức lối 3000 dặm Anh. Bức trường thành này nối dài từ ải Gia Du thuộc tỉnh Cam Túc dẫn đến Liên Minh gấp ba lần ải Nam Quan đến mũi Cà Mau của VN ta. Vạn Lý Trường Thành do tần Thủy Hoàng xây lên sau khi chiếm cả khu vực sông Hoàng Hà. (Bức tường này nối dài với bức tương cũ của hai nước Yên, Triệu). Bức Vân Lý Trường Thành này không dừng tại đây mà nó vẫn được tiếp tục xây đến các triều Hán, Bắc Ngụy, Bắc Tề, Bắc Châu... Đầu đời nhà Minh lại được mở rộng thêm ra hoàn thành một bức trường thành vĩ đại. Các du khách ngày nay đến viến Trung Hoa đều đến chiêm ngưỡng kỳ quan lớn nhất thế giới. Các phi hành gia khi đặt chân lên mặt trăng nhìn xuống địa cầu họ chẳng nhìn thấy gì trên trái đất, ngoại trừ bức Vạn Lý Trường Thành.
Cụ Vũ Đình Linh Humble TX. Bà cụ biết bốn chữ "Lương sĩ cù cù" là nghĩa gì không? 2. Hàn Tín xuất xứ ở đâu và cuối cuộc đời của Hàn Tín như thế nào?
* Đó là bốn chữ trong Kinh Thi. Nó có nghĩa nói về tướng sĩ giỏi mạnh mẽ. 2. Hàn Tín là con cháu cua hàng quí tộc. Vì vậy người lúc bấy giờ gọi là Hàn vương tôn. Ông người đất Hoài Âm, danh tướng của vua Hán Cao Tổ. Khi xuất thân, Hàn Tín ra mắt Hạng Vũ nhưng Hạng Vũ không thu nhận bèn đi theo vua Hán và được phong làm tề vương, sau đổi làm Sở vương. Sau này, có kẻ tố cáo là Tín muốn tạo phản, vua Cao Tổ giả cách đến thăm chơi Vân Mộng bắt Tín nhưng rồi tha mạng sống, giáng xuống làm Hoài âm hầu. Nhưng về sau bị bà Lũ hậu tức vợ vua cao Tổ hạ lệnh giết chết.
Bà Vương Bá Hạnh và cụ bà Huyền Tâm Canada: Những người sùng đạo tiên thường nói đến tên Đức Tùng. Vậy Đức Tùng đó là ai, bà cụ biết không?Lại nghe có tích nói về ba con chim xanh theo hầu thần thánh... Tôi tò mò muốn biết bà cụ giải thích luôn hộ. Cám ơn bà cụ vô cùng.
* Đức Tùng đó là Xích Tùng Tử, tên của một vị tiên. Còn về chuyên ba con chim xanh, đó là thanh điểu. Ba con thanh điểu này thường theo hầu Tây vương mẫu. Trong bài thơ "Yến Mai Đạo Sĩ Sơn Phòng" của Mạnh Hạo Nhiên nói đến tên của Đúc Tùng và chuyên ba con thanh điểu, như sau:
Lâm ngọa sầu xuân tận
Khiên duy lãm vật hoa.
Hốt phùng thanh điểu sử
Yêu nhập Xích Tùng gia...
(Lâm cư buồn nỗi xuân qua,
Vén màn ngắm cảnh đậm đà trước hiên.
Chim xanh chợt thấy đem tin,
Mời vào nhà ở của tiên Xích tùng...
Ông Nguyễn Duy Vĩ qua Thái Kỳ Philadelphia: Nghe nói khi bên Trung Hoa có tục tảo hôn, chú rể chỉ mới 8 tuổi, còn nàng dâu... thì vỏn vẹn 6 tuổi. Có không?
* Có. Theo sách Khảo về lễ tục hôn tang đời Hán của Dương thụ Đạt, đến đời Hán, con trai mới 15, 16 tuổi lấy vợ, con gái 13, 14 tuổi bước xuống thuyền hoa... Ngay cả nước Việt nam ngày xa xưa cũng có tục đó, nên thường mang câu "Nữ Thập Tam, Nam Thập Lục" ra nói về khuôn phép này. Tuy nhiên, tuồi này cũng còn khả dĩ, điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên là có cả trường hợp đứa con trai mới lên 8 tuổi đầu, còn con gái thì mới tròn... 6 tuổi đã làm lễ cưới nhau. Đứa con trai bé tí xíu đó là Hán Chiêu đế khi mới lên ngôi, tuổi vừa lên 8, đã lập con gái của Thượng Quan An lên làm làm hoàng hậu (tí hon) vừa tròn 6 tuổi...
Cụ Hoàng Vũ Duy Westminster (CA) Ngày xưa, tôi có lần được thấy có nhà viết lên bốn chữ "Đẩu Bính Hồi Dần" rồi mang dán trước cửa nhà, là gì, xin bà cụ giải thích hộ.
* "Đẩu Bính Hồi Dần" có nghĩa là chuôi sao Bắc Đẩu lại trở về phương vị Dần, tức biểu thị tháng Giêng lại về, có nghĩa lại bắt đầu trở lại năm mới.
Cô Bùi Hằng Nga Mc.Laughling San Jose. Bà cụ cho biết có phải ăn canh chua giải nhiệt không? Nếu được xin bà cụ giải thích đặc tính của các món nấu đó.
* "Canh Chua Giải Nhiệt" gồm các vật liệu như: A. 1/ thịt gà, thịt heo hoắc cá. 2/ Rau nấu canh, đậu bắp , khế me... 3/ Rau sống, hoa so đũa, bông điên điển, hoa thiên lý, giả đậu... hay rau muống chẻ, rau hoa chuối, ngó bông súng (cuống hoa). Tất cả đều có tính giải nhiệt.
B. Cá diếc có vị ngọt, tính ấm, không độc. Có tính điều khí, hòa trung, giải nhiệt. Cà trạch cũng được. Cá này có vị ngọt, tính lành không độc, dùng dể giải say rượu và trị được bệnh đái đường. Hoặc cái lưỡi trâu hoặc cá thờn bơn (có thân hình dẹp lép)- đặc biệt giống cá này miệng méo lệch về một bên. Ăn vào bổ hư thêm khí lực dùng chữa bệnh rất tốt.
Ông Đỗ Phú Trung Monterey Park (CA): Các loại nhạc cụ ngày xưa, mỗi loại phát ra một âm hưởng khác nhau. Bà cụ có biết về các âm hưởng đó không?
* Tam Tự Kinh có đoạn nói về nhạc cụ như sau: "Bào Thổ Cách. Mộc Thạch Kim. Ty Chỉ Trúc. Nãi Bát Âm. Viết Bình Thượng. Viết Khứ Nhập. Thử Tứ Thanh. Nghi Điều Hiệp."
Theo nghĩa từng chữ:
BÀO: là một loại bầu. Một loại nhạc cụ bằng trúc tím còn gọi là Sanh.
THỔ: loại nhạc cụ làm bằng đất sét nung.
CÁCH: loại nhạc cụ làm bằng da bò.
MỘC: Loại nhạc cụ bằng gỗ.
THẠCH: loại nhạc cụ bằng đá, gọi là khách.
KIM: loại nhạc cụ làm bằng kim loại.
TY: loại nhạc ụ làm bằng tơ, như Tỳ Bà.
TRÚC: loại nhạc cụ bằng trúc, nhu sáo, tiêu.
TỨ THANH gồm: Bình, Thượng, Khứ, Nhập là bốn loại âm điệu.
Dịch nghĩa: Tám loại âm thanh do tám loại nhạc cụ phát ra. Ví như tiếng nhạc cụ bằng trúc gọi là Bào, như tiếng các nhạc cụ làm bằng đất sét nung gọi là Thổ, như tiếng của loại nhạc cụ làm bằng da bò gọi là Cách, như tiếng của nhạc cụ bằng gỗ gọi là Mộc, như tiếng của nhạc cụ bằng đá gọi là Khánh hay Thạch. Như tiếng của loại nhạc cụ bằng Kim loại như chuông đồng gọi là Kim, như tiếng của loại nhạc cụ bằng tơ sợi như Tỳ Bà gọi là Ty. Như tiếng của loại nhạc cụ bằng ống tre gọi là Trúc.
Còn cách phát âm của tiếng nói có bốn âm điệu là Bình, Thượng, Khứ, Nhập. Bốn âm điệu này cần phải điều hòa thì mới nghe được rõ ràng...
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 16:10:21 GMT 9
BẠN BIẾT GÌ VỀ...?
Người thứ Chín biên soạn
Vói chuyện thương tâm xảy ra tại New York ngày 9-11 vừa qua và kéo đến trân chiến diệt ổ khủng bố của Osama bin Laden, làm hàng triệu dân chúng Afghanistan, đã khổ càng thêm khổ. Kỳ này chúng tôi trình bày về những Hội Từ Tâm đã có mặt trên Thế Giới từ lâu, và luôn tại Hoakỳ, một vùng đất tạm dung đầy lòng nhân đạo cho Việt kiều chúng ta. Nay vùng đất tạm dung đã có người nằm sâu trong lòng đất này rồi.
A.- Cơ quan Red Cross:
Cơ quan Hồng thập Tự Quốc Tế khởi duyên lành từ một tạp chí nhan đề: "Un Souvenir de Solferino (1862)" (tạm dịch là chuyện khó quên tại Solferino) do Jean Henri Dunan chủ biên. Năm 1859 tại chiến trường Solferino, Dunan (người Thụy Sĩ) thấy nhiều thương binh bị bỏ lại mặt trận, không người chăm sóc vì lúc đó đôi bên đều không muốn nhận thương binh của mình làm chi, vì trị cũng vô ích, tốn công... nên Dunant ra tạp chí khởi động lòng từ tâm của loài người, từ cuộc chiến này. Anh kêu gọi thành lập một đoàn người giàu lòng từ tâm, nên bỏ gia đình no ấm mà đưa bàn tay cứu người gặp cảnh nguy nàn...
Cơ quan Xã Hội Thụy Sĩ (The Société genovoise d' Utilité publique) rúng động lương tâm sau khi đọc bài báo của Jean henri Dunan, nên họ cho thành lập một cơ quan chuyên về chuyện này (1863). Và Hội Hồng Thập Tự (Hội Chữ Thập Đỏ / từ Cộng Sản) mà nay chúng ta ai ai cũng đều biết đến. Năm 1864, có 16 quốc gia Âu Châu gặp nhau tại Geneva danh xưng là: "the Amelioration of the Condition of the Wounded and Sick of Armies in the Field" (nghĩa là Hội Cứu cấp các Thương bệnh Binh tại Chiến Trường). Để vinh danh Jean Henri Dunan, cha già thành lập) Âu Châu đồng ý chọn màu cờ cho Hội này là nền trắng Chữ Thập Đỏ (vì Dunan quốc tịch Thụy Sĩ, màu cờ là nền đỏ, chữ thập trắng). Sau đó Hội Hồng Thập Tự đi đến thành lập một cơ quan, có Hiến Chương về Tù Binh... phải đối xử nhân đạo với các Tù Binh khi họ bị bắt tại chiến trường.
Năm 1917, 1944 Hội Hồng thập Tự này được vinh danh Nobel Hòa Bình từ Thụy Điển phát ra (vì hai năm này là Đệỉ Nhất Thế Chiến và Đệ Nhị Thế Chiến).
a.- Hội Hồng thập Tự Hoakỳ:
Hội này được thành lập năm 1881 do Bà Clara Barton, sau này được Liên bang Hoakỳ thừa nhận vào năm 1900. Đến năm 1905 thì Hội Hồng Thập Tư Hoakỳ rất sát cánh với chánh phủ Hoakỳ, như hai anh em sanh đôi vậy. Còn Hội Hồng Thập Tự Quốc tế tại Geneva (Thụy Sĩ) thì chánh phủ Thụy Sĩ và Thế giới đứng sau lưng mà thôi. Hiến chương của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế được Thế Giới tuân thủ bằng giấy tờ và chữ ký của nước mình.
Năm 1947 Tổng đà Chủ American Red Cross (xin lỗi dùng danh từ Kiếm hiệp trong này, vì nó sát nghĩa hơn dịch là: Headquarters = Cơ quan đầu não) lập tại Washington DC. Tổng thống Hoakỳ được mời ghế Chủ tịch Danh Dự (the Honorary Chairman of the Society), có nhiệm vụ bổ nhiệm Chủ tịch Hành Sự (President) và 7 Phụ Tá. Cơ quan này chuyên trách về: Cứu trợ Thiên tai, Giúp Quân Đội Hoakỳ, Cứu trợ Ytế và An Toàn Công Cộng... Nhưng mục đích chánh nằm sâu trong American Red Cross là tiếp nhận máu, phân phối máu cho những bệnh nhân khắp Hoakỳ, sau đó nhận tiền rồi phân phối khắp Hoakỳ.
Sau này American Red Cross mới bắt tay chặt chẻ với Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế... vì lúc đó Hoakỳ tự xem mình là độc tôn, họ ngầm tự phụ với Slogan (Câu Châm Ngôn) mà ai ai cũng biết: "American is Number One". Quả thật vậy, lúc đó Hoakỳ có tàu lớn nhất Thế gới, sản xuất xe nhiều nhất và vang danh Thế Giới về nhiều nhất và tốt nhất: như Ford và Ca-di- dắc (Cadillac), Radio nhiều nhất, điện thoại nhiều nhất, Truyền hình nhiều nhất... Nay họ tỉnh mộng rồi: Xe hơi hư hoài nhất thế giới, Đồng hồ Timex chậm sai nhất Thế Giới, máy chụp hình dở nhất thế giới, Tivi màu dở nhất Thế giới...
Thành thử Hội này lập ra mang danh Hồng thập Tự Hoakỳ nhưng mục đích chánh là cho dân Hoakỳ mà thôi. Họ có Hiến chương riêng của Hội Chữ Thập Đỏ này. Hiện nay, bà chủ tịch Hội American Red Cross là Elizabeth Dole (vợ của Thượng nghị Sĩ Bob Dole và đã tranh cử chức vị Tổng Thống Hoakỳ vừa qua). Bà Elizabeth Dole được bầu năm 1991 (người đàn bà thứ nhất là người sáng lập Hội: Bà Clara Barton, người đàn bà thứ nhì là Bà Dole). Năm 1993 Bà Dole cải tổ Hội này cho đi sát với quần chúng như giáo dục văn hóa và ngăn ngừa phá thai và bệnh AIDS, và ngừa Tự Vận...
So sánh Hội Red Cross Quốc tế và Hội Red Cross Hoakỳ, thì Hội Hoakỳ làm việc siêng năng hơn, và có nhiều tiền hơn. Hội thường lên Quốc Hội Hoakỳ mà xin thông qua luật này luật kia liên quan đến hoàn cảnh dân chúng Hoakỳ. Còn Hội Quốc Tế thì khi Thế Giới có chuyện như động dất, thiên tai, chiến tranh, thảm sát chủng tộc... thì Hội Quốc tế mới can thiệp, nhưng đôi khi không hiệu quả lắm, ví dụ nhóm Khmer Đỏ khát máu theo sát chủ nghĩa của Mao trạch Đông là càng giết nhiều người thì càng bớt miệng ăn. Nhóm Khmer Đỏ tàn sát dân Khmer của họ, và Hội Chử Thập Đỏ kêu gào mà lãnh tụ Khmer Đỏ không thèm nghe đến. Chút xíu nữa nhóm này... bỏ đói vua Norodom Sihanouk cho đến chết tại Hoàng thành Nam Vang, nếu không có Bà cụ Tôn dật Tiên bay phi cơ sang can thiệp, vì Bà này họ Tống rất được lòng Cộng Sản Trung Hoa. Và sau đó vua Norodom Sihanouk được phép sang Bắc Hàn cùng vợ mà trị bệnh, còn Hoàng tử thứ hai và Công chúa thứ ba thì bị bọn Khmer Đỏ dẫn đi... cày ruộng đến nay chưa thấy về.
b.- Hội Trăng Lưỡi Liềm Đỏ (The Red Crescent):
Hội này do nhóm Ả rập lập ra, các thành viên đều là người Ả Rập. Mục đích y như Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế, nhưng vì người Ả rập không muốn các bàn tay Tây Phương rớ vào vết thương chiến trận của dân Ả Rập với dân Ả Rập, nhất là các bàn tay phụ nữ Tây Phương mang cờ Hồng thập Tự rớ vào thì mấy trự Ả Rập này... khó lên Thiên đàng mà ở gần Allah lắm. Họ rất kỵ bàn tay phụ nữ Tâây phương đụng chạm lắm. Hội này Trăng Lưỡi Liềm Đỏ (Red Crescent) gia nhập vào Hội hồng Thập Tự Quốc Tế từ năm 1986, tuân thủ theo điều lệ Hội Quốc tế chánh này. Nhưng Tổng Đà Chủ đóng tại Thủ đô Saudi Arabia (vì xứ này rất giàu về dầu hỏa) nhưng Hội này bị Do Thái không cho phép vào lãnh thổ Israel... vì khác đạo vì tử thù của đạo giáo với nhau. Củng cùng trong Đại lục Ả rập (mà ta gọi bán đảo Á Rập, danh từ này không trúng lắm) cùng có lạc đà, cùng ăn thịt dê cùng mầân ăn với nhau, nhưng khi Israel bị chuyện thì họ cho phép The International Red Cross hay Americam Red Cross vào lo cho họ mà thôi, họ đây là dân Israel.
The International Red Cross nổi danh trong việc cứu trợ nạn đói Hung gia Lợi (1956) mặc dầu lúc đó xứ này vẫn còn trong bàn tay sắt thép của Moscow (Nga sô), Somalia (1992), nạn diệt chủng Rwanda (1994)... Trong năm 1952 Hội Red Cross Quốc Tế chứng giám việc trao trả tù binh Bắc và Nam Hàn, sau đó đến chuyện Vietnam khi vĩ tuyến 17 chia đôi và dân Bắc bỏ Cộng Sản vào Nam hay trao trả tù binh... Mặc dầu đôi khi Hội Chữ Thập Đỏ thiên vị với Cộng Sản Miền Bắc về vấn đề thanh tra tù binh, nhưng vì CS Miền Bắc rất khép thủ đoạn che dấu, họ làm khó dễ và sau đó cho phái đoàn Hồng thập Tự Quốc tế đến viếng những nhà tù chiến tranh mà họ... chuẩn bị cờ xí xong rồi. Còn miền Nam họ đến thẳng các nơi giam giữ tù binh chiến tranh như thình lình đến thẳng Côn Đảo mà thăm hỏi Cộng Sản Tù Binh... Nhưng dù sao đi chăng nữa họ, đôi bên Nam Bắc đều nể trọng hội Chữ Thập Đỏ Quốc Tế lắm. Nay tại Hà Nội có cơ quan của Red Cross, nhưng để làm kiểng mà thôi... vì đã có Hội Chữ Thập Đỏ ViệtNam, với Hiến chương riêng của Việt Nam như bên Hoakỳ vậy. Tuy tất cả hiện nay đều là thành viên của Hội này tại Geneva (Swiss) gồm 175 Quốc Gia tham dự và ký Hiệp Ước của Hội Quốc Tế này.
B.- Hội Con Đường Hợp Nhất (danh từ này khó dịch sát nghĩa, dịch Con Đường Thống Nhất... thì càng kỳ nữa). Nó chính tên là: the United Way of America. Hội United Way of America.
Hội này đặc biệt dành cho dân chúng Hoakỳ mà thôi. Tổng đà Chủ đóng tại Alexandria, Virginia. Mỗi Tiểu bang Hoakỳ đều tự thành lập mà ra Hội này.Mổi tiểu bang lập ra, lạc quyên tiền bạc, vật chất... thì tiểu bang được hưởng, không chia ra cho tiểu bang kế cận. Khác với Hội American Red Cross là nghe lệnh Tổng Đà Chủ tại Washington DC.
Vì luật lệ địa phương (hay từng tiểu bang) đều khác nhau, nên không ai áp dụng luật lệ Liên bang vào Hội này được. Họ dùng chung phù hiệu là bàn tay mặt khum lại, có một người đứng giữa lòng bàn tay, từ cổ tay đến tận ngón tay có 4 vòng tròn hào quang màu cam bao phủ. Châm ngôn là: "The Best Way to Care".
Từng tiểu bang Hoakỳ, có nhiều Hội chi nhánh, xuống đến từng County. Mỗi County thành lập Hội viên Điều hành. Mỗi cơ xưởng có nhiều nhân viên thì hy vọng Hội United Way mạnh nhất, như hãng xưởng đóng xe hơi General Motors (trước đó đóng tại Burbank, chuyên sản xuất xe Trans Am và Fire Bird và Mustang...), có trên 20 ngàn nhân công làm việc 3 ca luân phiên, chính hãng này đóng góp rất lớn. Sau đó đến hãng Rockwell, Hughes và Litton (chuyên về hợp đồng tạo món hàng cho Quân Đội Hoakỳ...) Thường thấy nhiều vị Supervisors (Giám Thị) mỗi lần ba tháng các vị này đưa giấy cho nhân viên khoanh tròn ô vuông, như hiến tặng Contribution bao nhiêu phần trăm lương tuần của mình cho Hội United Way. Vì Supervisor mỗi tuần cầm phong thư phát lương cho từng nhân viên của mình, rồi Supervisor đứng chờ nhân viên khoanh tròn số tiền phần trăm lương bổng của mình... nên nhân viên khó lòng khoanh ô cho tiền in ít hơn bạn của mình được. Nhân viên có người khoanh cho 0.5% tiền lương thì Supervisor không vui lắm. Còn khoanh cho 5% thì Supervisor rất vui, bù lại được làm overtime thứ bảy, có khi chúa nhật... Rồi cứ 6 tháng được Review cho tăng lương kèm theo phụ cấp đắt đỏ... Cho nên hệ thống United Way từng tiểu bang lại rất mạnh về tiền bạc. Nhất là những tiểu bang giàu như California chẳng hạn, còn tiểu bang nghèo như Alaska có lạnh queo râu thì ráng chịu. Cơ quan United Way có thêm văn phòng phụ lập ra khuyên bảo những người sắp... tự vận, nên gọi họ trước rồi... tự vận sau. Và có văn phòng khuyên trẻ vị thành niên chớ phá thai vv.vv... Địa chỉ và điện thoại đều có sẵn tại Telephone Books.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 16:12:16 GMT 9
Bởi vậy năm 1992 President của United Way of America, Bill Aramony thấy tiền thiên hạ tưởng tiền gia đình mình, nên bị kết án 7 năm tù (đối với Hoakỳ 7 năm tù là tội trọng hình cao nhất), Tòa ra lệnh tên này bồi hoàn tiền mà y nhũng lạm (dùng tiền đi đánh bạc, đi nghỉ hè những nơi cực kỳ sang trọng, mua nhẫn kim cương cho vợ vv.vv...) Từ đó United Way được bài học kinh nghiệm là kẻ trộm tiền chính là vị Chủ tịch khả kính của mình.
C.- The Salvation Army (Đạo quân Cứu Rỗi):
Tên này là biết phát xuất từ nhánh nhà thờ rồi. Quả như vậy, nó là một phần của Christian Church, mặc dầu ngày nay nó vượt khỏi phạm vi nhỏ bé của nhà thờ Đạo Tinh Lành bên United Kingdom. Dựa theo lời Kinh Thánh họ tin rằng giúp người nghèo cũng là một chuyện làm tốt đẹp vinh danh Thượng Đế.
Từ đó đến miếng cơm manh áo, đến chuyện học hành, đến chuyện chăm sóc sức khỏe bệnh nhân nghèo. Do vị mục sư William Booth, sáng lập tại thành phố London, sau đó lan rộng khắp nước Anh và Ái nhỉ Lan (Ireland). Nay thì khắp Thế Giới rồi. Danh từ Army nghĩa là Đạo quân của Chúa Trời, nên họ có đồng phục riêng rất dễ nhận diện. Tin Lành nhưng là gốc từ Evangelistic. Hiện nay tại London hay tại Nottingham (gần London) có Viện Bảo Tàng vị mục sư sáng lập Dòng Phước Thiện này. Hình ảnh một vị mục sư gầy, nhiều râu (loại râu của nhóm Tin Lành thủ cựu ngày xưa).
Ấn Hiệu là một Thập Giá, chữ S quấn quanh, có hai thanh kiếm nho nhỏ trong trung tâm, vòng tròn ngoài ghi là Blood and Fire, vòng ngoài là mặt Trời tua gai ra, dưới đó là một băng nơ ghi là The Salvation Army. Sở dĩ có chữ Blood là Chiến Tranh gây máu đổ, mạng người... Còn Fire là nhà cháy, thiên tai v.v... Ai mà bị cháy nhà thì thấy chữ Fire này rất linh thiêng.
Còn Phù hiệu là một cái khiên chắn ghi: "The Salvation Army", chữ trắng, nền đỏ.
Đạo quân này xuất hiện nhiều nhất vào dịp lễ Giáng Sinh, tại những nơi Shopping hay Mall lớn của Hoakỳ, họ rung chuông... Tiền thu được họ dùng cho những người nghèo cần một món quà hay một miếng ăn vào dịp Chúa Cứu Thế xuống trần. mùa Đông lạnh lẽo.
Họ có cơ sở nhận những quần áo cũ, vật dụng cũ thay vì vất vào thùng rác, họ cho người đến chở và phân phối cho gia đình nghèo cần đến. Có nơi, cơ sở này họ bán những vật dụng cũ cho những người nghèo với giá rất rẻ.
Năm 1975 chính đạo Quân này giúp rất nhiều những người Việt Tị nạn Chính Trị mà ta gọi là Vietnamse Refugees, tại những trại tạm trú đều có cơ sở này chung với American Red Cross. Họ tổ chức dạy Anh Ngữ, và nhiều lớp cho phụ nữ Việt tị nạn biết đi... chợ mua những món cần dùng cho phụ nữ. Cho nên những quý bà Việt kiều hiện nay rất giỏi trong việc đi... shopping này. Phải không?
Riêng về việc American Red Cross, chúng tôi và một anh giàu lòng từ tâm (tại tỉnh nhỏ gần Los Angeles) đã có một kinh nghiệm như sau: năm 2000 tại Việt Nam bị Thiên tai Bão lụt từ Miền Trung đến Hậu Giang, Đồng Bằng Sông Cửu Long bị ngập lụt nặng nề. Chúng tôi có tổ chức một Hội Mùa Xuân nhằm Cứu Trợ Nạn Nhân Bão Lụt tại Việt Nam. Số tiền thu được... chúng tôi đâu dám đưa cho Hội Trưởng Hội Người Việt của một vị tuổi rất lớn, nhưng tâm địa như Nhạc bất Quần vậy. Chúng tôi bèn trao số tiền mọn này cho Hội Hồng Thập Tự địa phương. Có hình chụp và tấm check số tiền đó. Được biết Cơ quan Hồng thập Tự (American Red Cross) tại địa phương sẽ chuyển số tiền đó qua Việt Nam qua ngã Hội Chữ Thập Đỏ tại Thành phố Hồ chí Minh. Dĩ nhiên số tiền này, cơ quan Hồng thập Tự Hoakỳ sẽ lấy 15% (mười lăm phần trăm) làm tiền... tem cò. Và dĩ nhiên tại Việtnam, Hội Chữ Thập Đỏ cũng sẽ lấy ra không dưới 15% tiền... tem cò... vv... Rồi đi đến Thị Xã, rồi Quận lỵ nhỏ... số tiền sẽ còn lại rất ít. Nhưng còn đỡ hơn là đưa nguyên gói cho nhóm Hội Người Việt... mà báo Đại Chúng đã vạch mặt chỉ tên nhưng rất ít quý độc giả tin chuyện này. Hội Người Việt tại Hoakỳ rất thua xa Hội Người Việt tại Toronto / Canada... vì chúng tôi qua đây từ 1975 nên những trò dâu biển chúng tôi đều thuộc nằm lòng như chỉ tay trong lòng bàn tay chúng tôi vậy.
Đó là những Hội Thiện Nguyện có tổ chức quy mô và lâu đời, ai ai cũng biết. Nhưng gần đây có một Hội Thiện Nguyện tư nhân vừa thành lập, nhóm này bỏ tiền riêng lập Hội, số tiền nghe mà chóng mặt $ 15 tỉ USD (Vâng, mười lăm tỉ Dollars Hoakỳ). Đó là hội của vợ chồng Bill Gates. Cách đây không lâu Hội này tuyên bố là sẽ không còn những trẻ em Đông Nam Á bị bệnh sốt Tê Liệt, và Bệnh Đậu Mùa trong vòng 5 năm tới. Buổi lễ chích mũi thuốc ngừa đầu tiên được tồ chức tại Phnom Penh (Thủ đô của Cambodge) vào đầu năm 2001 vừa qua, rồi sau đó sẽ đến ViệtNam, AiLao và TháiLan...
Vì khuôn khổ tờ báo Đại Chúng chật hẹp, chúng tôi không thể đăng hết những cơ quan Từ Thiện của Tư Nhân tại Hoakỳ hay tại Ngoại Quốc. Kỳ tới, chúng tôi sẽ nói đến những cơ quán giúp ích rất nhiều cho Nhân Loại... như Hội Bác Sỉ Không Biên Giới mà Tổng đà Chủ tại Paris (Pháp). Xin đón chờ ý kiến cùng tài liệu thêm của quý bạn. Nhiều khi không cần Tài Lực nhưng nếu có Lòng Tha Lực thì cũng được Thượng Đế mến thương. Phải không?
Người Thứ Chín
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 16:13:03 GMT 9
Phương Pháp Trị Liệu Bằng Âm Nhạc (Musicothérapie)
Trương Thị Quỳnh Hạnh
Đàn Bầu ai gãy này nghe
Làm thân con gái cho nghe Đàn Bầu
Quỳnh Hạnh xin phép mượn hai câu ca dao Việt Nam để mở đầu cho bài viết về Musicothérapie.
Musicologie là một môn học đã có lâu đời, chương trình nghiên cứu các loại hình âm nhạc đã có của một dân tộc. Từ các thăng âm, điệu thức các làn điệu trong từng vùng văn hóa địa lý âm nhạc.
Musicothérapie hay phương pháp trị liệu bằng âm nhạc dùng âm nhạc để trị bệnh về tâm thần. Thực vậy ngày nay với sự tiến bộ của khoa hoc, nhiều thuốc men được bào chế ra do các hãng dược viên nổi tiếng trên thế giới nhằm xoa dịu phần nào hoặc là trị dứt những loại bệnh nào đó. Nhưng về những bệnh thuộc về trung tâm thần kinh não tủy, những bệnh thuộc về tâm bệnh, thần kinh các bộ phận trong cơ thể như thần kinh tiêu hóa v.v... chúng ta nhờ một phương pháp trị liệu khác, ít dùng thuốc mà là dùng âm thanh, điệu nhạc để giúp đỡ người bệnh trở lại trạng thái bình thường.
Về lịch sử thì musicothérapie (phương pháp trị liệu bằng âm nhac) có từ thời Hy Lạp. Nền văn minh Hy Lạp đã có nhiều phương pháp trị bệnh mà không cần dùng hay ít dùng đến thuốc men như thalasso-thérapie là một điển hình giúp con người trở về trạng thái thoải mái, hết bẹng hoạn, vui vẻ yêu đời.
Theo lịch sử âm nhạc thì nước Việt Nam chúng ta cũng có Musicothérapie. Theo huyền thoại trong truyền thuyết thì Ca Trù (một loại ca cổ truyền với kỹ thuật ca hát, phát âm hoàn toàn Việt Nam) thì vào thế kỷ 15 đời Lê, nước ta có mọt danh cầm, danh thu kỳ tài về đàn dân tộc. Chàng tên là Đinh Lê, nhờ có vị tiên Lý Thiết Hoài, và Lu Đại Tiên cho chàng miếng gỗ ngô đồng để làm đàn, nên tiếng đàn của chàng có thể trù ma, diệt quỷ, trị lành bệnh nan y và làm hết đau nhức. Chàng lạy tà hai vị tiên, cám ơn Trời Đất đã cho chàng một cây đàn cứu nhân độ thế. Với tài ba nghệ thuật đàn, chàng có thể làm cho cá trong hồ ngừng lội, chim đậu trên cành quên bay, người ta quên đường về nhà. Tiếng đàn của chàng Đinh Lê có thể làm cho người ta hết buồn, hết bệnh u uất.
Tại một làng kia có một trưởng giả tên là Bạch Đinh Sa giàu có vô song, tiền bạc, của cải nhiều vô hạn, nhung vì trưởng giả vẫn buồn vì cô con gái duy nhất, đẹp nhất bị câm từ thuở nhỏ. Nàng tên là Hoa, mặc dù đã tốn rất nhiều tiền, đã rước biết bao thầy hay thuốc giỏi, cuối cùng cô gái vẫn hoàn câm. Theo truyền thuyết, nàng rất đẹp, cặp mắt nàng là cả bầu trời thỏ, suối tóc nàng là trời mây, dáng đi của nàng thanh thản, nhẹ nhàng. Đẹp, rất đẹp, rất dịu dàng nhưng có điều không nói được, có lẽ nàng đã biết bằng lòng với số phận tật nguyền nên nàng bình thản. Suốt ngày nàng cùng thị nữ thơ thẩn vào ra vườn hoa, rất nhiều kỳ hoa dị thảo, mà vị trưởng giả đã tốn công sức vun trồng để làm vui cho cô con gái không nói được.
"Con không nói được, thì cha làm vườn hoa để con thưởng thức vẻ đẹp của trời đất, của thiên nhiên, của vườn hoa cây cảnh, để cha cũng bớt buồn vì cha thấy con vui”. Vị trưởng giả thường ưa nói thì thầm với cô con gái, cô gái quay lại nhìn cha, đôi mắt nàng mở to, cả bầu trời tự hiêu như muốn nói với cha rằng. “Thật là cảm ơn tấm lòng trời biển, cha mẹ thương con biết chừng nào"
Ngày kia Đinh Lê vì mãi mê bầu rượu túi thơ mà tới ngôi làng vào lúc trời tối. Không có quán trọ chàng đành tá túc vào nhà người nông dân trong xóm, nghỉ đêm, và sáng mai chàng sẽ tiếp tục đi.
Rạng ngày mai tiếng chim hót líu ló làm chàng thức giấc, ánh sáng xuyên qua khung cửa như báo hiệu của một ngày nắng ấm, chan hòa ánh sáng và tiếng chim hót, và mùi hương thơm của các loài hoa, các loài cây của miền đồng quê làm chàng cảm thấy vui vẻ yêu đời.
Chàng từ giã người chủ nhà, rồi ra đi, bước chân lần theo đường mòn, nhưng chàng bỗng sửng sốt vì nhà ai có khu vườn đẹp quá. Chàng xin phép vào hỏi thăm chủ nhân ngôi nhà để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên của trời đất bao la và vườn hoa cây cảnh. Tức cảnh sinh tình, chàng ngâm thơ, tiếng của chàng trầm ấm, thơ của chàng như vang dội vào vách đá, vườn hoa cây cảnh như bừng sống dậy với tiếng thơ của chàng.
Vị trưởng giả đã thức dậy từ lâu, sau vài tuần trà, ông đã thấy tâm hồn thư thái và rất hoan hỉ khi thấy có người thi nhân nhạc sĩ thăm viếng vườn nhà.
Sau vài đoạn hàn huyên tâm sự, thì người nhạc sĩ xin từ giã, cất bước ra đi theo tiếng gọi của tâm hồn thơ và nhạc, sau khi chúc vạn sự bình an cho chủ nhà. Vị trưởng giả nhận lời chúc bình an và chúc lại chàng thượng lộ bình an nhưng nét mặt vẫn có một sự u hoài, một nét buồn uẩn khúc. Người nhạc sĩ tìm hiểu nguyên nhân gia cảnh và vị trưởng giả kia có lòng mời người thi nhạc sĩ ở lại để có người nói chuyện, bàn chuyện thi phú.
Nhìn thấy nét khẩn khoản và tấm lòng tốt của vị trưởng giả, Đinh Lê nhận lời ở lại.
Ngày kia như thường lệ, vị tiểu thư đi ngoạn cảnh cùng vài thị nữ. Cảnh đẹp, không khí trong lành, yên tĩnh, màu sắc muôn vẻ của các kỳ hoa dị thảo, hoa lan hương thơm của các loài hoa làm nàng vui vẻ. Nàng mỉm cười khi ngắm nhìn dung nhan xinh đẹp của mình soi bóng trên mặt hồ. Khi ấy Đinh Lê và vị trưởng giả cùng đi dạo, tiểu thư thi lễ chào cha, chào khách và theo thị nữ bước đi. Tất cả là yên lặng, một sự yên lặng dịu dàng, khó nói. Ngày qua ngày, những sự gặp gỡ tình cờ như thế làm chàng ngây ngất. Nàng đẹp quá, đôi mắt nàng muốn nói, đôi môi mấp máy, náng cười qua đôi mắt dịu dàng, suối tóc mây chập chờn bay trong gió, hương gây mùi nhớ, dù chỉ là sự nhớ nhung ảo tưởng nào đó không có thật. Bởi vì nàng có nói gì đâu, có hứa hẹn gì đâu.
Qua những lần tâm sự với vị trưởng giả, Đinh Lê biết rằng nàng Hoa bị câm từ thuở nhỏ. Ngậm ngùi cho số phận an bài trong cảnh tật nguyền của người con gái đẹp, chàng ôm đàn gãy khúc nhạc Tương Tư.
“Những gì không thể nói được, không thể bày tỏ được trong kiếp số này, thì ta nguyện nhờ âm thanh tuyệt diệu của tiếng đàn mà nói dùm ta ”, chàng thì thầm với cây dàn thần tiên của chàng
Nàng Hoa lắng nghe tiếng đàn của Đinh Lê và lạ lùng thay nàng cất tiếng hát. Nàng dùng đôi đũa đang ăn cơm làm phách gõ nhịp vào chén cơm. Tiếng hát nàng vang lên làm ngạc nhiên mọi người trong nhà, và hạnh phúc nhất là người cha của nàng. Ông lẩm bẩm trong tiếng nghẹn ngào "Trời ơi, con tôi nói được", đôi giọt lệ từ từ lăn trên đôi má răn reo của ông, sự chờ đợi của gia đình tưởng chừng như tuyệt vọng, nhưng nhờ tiếng đàn âm thanh tuyệt hảo, âm vang vào tai và rung động được thần kinh não tủy, con gái ông nói được.
Không bút mực nào tả xiết được sự mừng rỡ của gia đình và làng xóm, và sau đó không nói thì các bạn cũng rõ kết thúc một truyện tình có hậu.
Đinh Lê và nàng Hoa được coi như tổ của ngành Ca Trù. Nàng Hoa được dân chúng truyền tụng dưới tên là Man Đào Hoa Công Chúa. Vì so thế sau này trong các dạng từ chữ Hoa được đổi thành chữ Huê vì sợ kỵ húy.
Ví dụ như chữ hoa lài (hoa nhài) được đổi thành huê nhài "bứt ngọn cái bông huê nhài", trích trong bài dân ca quan họ "Ngồi tựa song dao". Cây đàn mà Đinh Lê đàn là Đàn Dây, có thùng đàn hình thang, cần đàn rất dài so với đàn nguyệt, và đàn dây là một nhạc cụ chỉ dùng trong Ca Trù mà thôi.
Qua truyền thuyết dân gian ta thấy rằng phương pháp trị liệu bằng âm nhạc (musicothérapie) có từ thời nhà Lê.
Những yếu tố chính cho sự thành công trong phương pháp trị liệu ấy chính là nhờ âm thanh rung động, màu sắc hài hòa làm dịu mát bệnh nhân, khung cảnh thanh bình, cách đối xử nhân đạo, hay là cách khêu lên câu chuyện để bệnh nhân nói, hay là người trị bệnh nói để khơi lại môt ký ức nào đó bị lãng quên trong tiềm thức.
Hệ thống dây thần kinh não tủy là một hệ thống kỳ diệu của con người, chỉ bị một sự lưu thông tắt nghẽn là con người bị hư hại một bộ phận nào đó của cơ thể và ngược lại nếu triển khai được sự lưu thông là các bộ phận kia được cứu sống ngay.
Khi chúng ta sống trong trạng thái thần kinh căng thẳng (stress), lo âu, thì tự nhiên một bộ phận trong cơ thể bị đau, không hoạt động bình thường.
Ví dụ có bạn bị thần kinh tiêu hóa, hễ khi nào có sự lo lắng thái quá của một vấn đề nào đó thì tự nhiên bệnh đau bụng xuất hiện, khi nào sự lo âu kia được giải quyết xong, là bệnh tự nhiên khỏi.
Thần kinh thính giác con người cũng vậy, tai ta chỉ được phép nghe trong một phạm vi âm thanh nào đó thôi, nếu vượt qua bức tường âm thanh cho phép thì tai bị khó chịu, nhiều khi tưởng chừng như bị điếc. Khi nào thần kinh thính giác bình thường trở lại thì chúng ta cảm thấy dễ chịu.
Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà cuộc sống vội vã, tất cả mọi công việc đều phải làm nhanh cho kịp với thời gian, ngay cả kỷ nghỉ hè cũng vội vã và trái tim chúng ta nhiều khi cũng khong chịu nổi với sức ép của thời gian, nhiều bệnh tim mạch xuất hiện và may mắn thay ngay cảnh đó cũng có những phương pháp trị liệu.
Thưởng thức và học âm nhạc là cách thư giãn thần kinh hữu hiệu và được nhiều người chọn, không những cho các bạn lớn tuổi hay tuổi về hưu, mà ngay cả giới trẻ cũng chọn môn âm nhạc là môn giải trí làm bớt căng thẳng thần kinh sau những giờ học mệt mỏi ở học đường.
Ngoài ra, cách nghe và chọn âm nhạc cũng được áp dụng trong lãnh vực công nghiệp. Trong các cơ sở nuôi bò sữa, người ta nhận thấy rằng bò nghe âm nhạc êm dịu, âm nhạc cổ điển sẽ cho nhiều sữa hơn, hay là trong kỹ nghệ trồng hoa, người ta nhận thấy rằng để hoa gần loa phóng thanh đàn guitar điện là hoa mau bị héo tàn, trái lại để gần loa phát ra âm nhạc êm dịu thì màu hoa sẽ giữ được lâu hơn.
Gần đây nhất trong những báo cáo khoa học về sự trẻ trung của con người, sự tái sinh ra những tế bào mới thay thế những tế bào bị lão hóa, thì chính là yếu tố âm nhạc đấy các bạn ạ. Câu hỏi được đưa ra "Tại sao các nghệ sĩ cứ trẻ hoài ?", thì sự giải đáp sẽ là vì nghệ sĩ lúc nào cũng gắn liền với nghệ thuật, họ say sưa tập luyện trong các bộ môn nghệ thuật như âm nhạc, múa, trượt băng v.v. với tất cả tấm lòng thì hệ não tủy của họ sẽ sinh ra một loại tế bào đặc biệt chống lại sự lão hóa.
Musicothérapie hay phương pháp trị liệu bằng âm nhạc giúp chúng ta tìm lại sự quân bình cho thần kinh. Một bản nhạc hay một điệu nhạc nào đó trong khoảnh khắc mua xuan của con người sẽ giúp chúng ta chống lại bien lo âu, phiền muộn trong lòng.
Musicologie (Musikwissenschaft) là âm nhạc học, nghiên cứu văn hóa phân chia trong các vùng địa lý âm nhạc. Danh từ Musicologie hay Musikwissenschaft xuất hiện đầu tiên vào năm 1827 trong một cuốn sách về sư phạm bằng tiếng Đức. Âm nhạc học và sự nghiên cứu các thang âm, điệu thức (echelles, modes) trong các ngành văn hóa âm nhạc đã giúp ích rất nhiều cho phương pháp trị liệu bằng âm nhạc. Thực vậy làn điệu dân ca, cau hò, điệu hát quê hương xứ sở là điều quan trọng không thể thiếu vắng trong các sinh hoạt văn hóa trong các dân tộc, con người từ thuở sơ sinh cho đến khi tuổi già đều luôn luôn gắn liền với văn hóa của dân tộc đó.
Có những người lớn tuổi,đau yếu, bệnh hoạn nếu họ nghe được điệu nhạc xa xưa nào đó của thế hệ của họ thì làm như họ sống lại trong thời kỳ đó, và bệnh tim mạch giảm đi. Chúng ta thường ưa nghe những câu như "nhạc này làm tôi trẻ lại vài chục tuổi", những câu ca dao mộc mạc, giản dị như hơi thở sẽ làm chúng ta sống lại khi cảm thấy bị căng thẳng (stress), vì nó chính là oxy nuôi dưỡng tinh thần và tình thương, ví dụ như "Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra", khi tuổi già đau ốm, co quanh, hay tủi thân khi nghe các trẻ trong nhà học câu ca dao đó ở trường dạy tiếng Việt Nam, thì chúng ta thấy ấm lòng, phiền não biến mất.
Nếu cuộc đời có những biến động nào đó làm thần kinh rối loạn thì cũng nhờ âm nhạc giúp họ trở lại cuộc sống bình thường. Ví dụ tôi có đi thăm bệnh viện tâm thần, thăm bệnh nhân bị bệnh mất trí, thì lạ thay, khi tôi hát bài chào cờ thì họ đứng dậy nghiêm chỉnh, khi tôi hát những câu ca dao, hát ru em, ầu ơ ví dầu thì họ im lặng thưởng thức như có lúc lời mời trong trí óc ra một khoảng thời gian nào đó họ được sống trong cảnh êm đềm, ấm cúng của gia đình.
Khi bệnh nhân bị cơn "sốc" nặng ngã quị, thì trong hệ thần kinh não tủy của họ còn một "hộp đen" của bộ nhớ, chỉ cần biết cách khai thông "hộp đen" này là bệnh nhân sẽ được trở lại bình thường và sau đó tiếp tục điều trị bằng các phương pháp liên ngành khác.
Âm nhạc học phối họp với dân tộc học (ethnologie) thành ra môn dân tôc-âm nhạc học (ethnomusicologie) cùng với các ngành nghiên cứu khác khảo cổ học, sử học giúp chúng ta khơi lại thời gian và tìm thấy lại những gì tưởng chừng như đã mất nhưng rất còn trong hiện tại bàng bạc qua văn hóa dân tộc. Qua phương pháp trị liệu bằng âm nhạc (musicothérapie) thì văn hóa của một dân tộc nói chung và ngành âm nhạc nói riêng là điều không thể thiếu được khi nghiên cứu về một số bệnh về trung tâm thần kinh bên cạnh các phương pháp trị liệu khác. Những dân tộc cùng một nền văn hóa thì dễ hiểu nhau hơn và cảm thông nhau hon qua cách tìm lại những nền văn hóa đã mất.
Quỳnh Hạnh
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 16:16:56 GMT 9
MỖI KỲ MỘT DANH NHÂN
(Trong Phần Hiểu Biết là Sức Mạnh - Knowledge is Power)
Lạc Việt sưu tầm
Từ lâu lắm rồi, thời Thượng Cổ. Loài người lúc đó còn thời kỳ phát triển, trí óc bắt đầu nở nang, thông minh hơn trước. Không còn rượt đuổi hay bị rượt đuổi bởi thú dữ hơn mình. Có thể những người tiền sử đó, rãnh rỗi vào một buỗi tối trời, họ đã ngước đôi mắt tò mò nhìn lên trời. Hàng vạn đốm lấm chấm lấp lánh trên màn trời đen, lâu lâu có một vệt xẹt chạy ngang chân trời mà họ không biết cái gì? Sau này họ mới biết đó là sao xẹt, rồi sau này nữa thì đó là một vẫn thạch chạm vào bầu khí quyển trái đất mà cháy tan ra bụi. Mỗi lần biết như vậy thì thời gian bước đến con số ngàn năm rồi.
Hôm nay, nhân loại chúng ta rất thích thú nhìn lên không gian vũ trụ bao la, chúng ta ai ai cũng đều hiểu hết chuyện trên trời. Có người hiểu nhiều có người hiểu ít... nhưng tất cả đếu vô cùng thích thú và sảng khoái khi nhìn lên không trung vô cùng tận. Hàng vạn tỉ ngôi sao lấp lánh, hàng vạn điều kỳ bí mà chúng ta mong đợi hơn nữa. Trước đây chừng 50 năm, thì vũ trụ mà chúng ta được biết chưa có âm thanh và màu sắc. Người có công đầu trong phần trang trí âm thanh, màu sắc mà vũ trụ của chúng ta nhìn hôm nay... rất đẹp màu, có âm nhạc và tiếng nói của đủ mọi ngôn ngữ hiện hữu của loài người hiện nay. Người đó chính là khoa học gia, hay nói đúng hơn Vật lý Vũ Trụ Gia: “Carl Sagan”
Lúc xưa còn một thời sinh viên tại Khoa Học đại Học Đường Saigon, trước khi bị động viên vào Thủ Đức, chúng tôi rất tò mò đọc những bái báo tại quốc nội và quốc ngoại nói về một khoa học gia trẻ. Người này đang mở màn cho thế giới biết đến có rất nhiều có thể là sinh vật sống trên một hành tình nào đó... trong không gian vô tận khôn cùng. Người này sau đó trở thành một giáo sư tên tuổi tại đại học Cornell Hoakỳ. Người này tên là Carl Sagan.
Lúc đó vào năm 1960, Carl Sagan được 26 tuổi. Giữ một phân khoa mới thành lập tại Cornell University, một trong 10 đại học nổi danh nhất hoàn vũ. Chính nơi này có nhiều khoa học gia tạo được một loại kính (hay là ống dòm/ binocular) nhìn được hình ảnh động vật di chuyển trong màn đêm thăm thẳm không một chút ánh sáng, họ... những khoa học gia dùng ánh sáng yếu ớt của ngôi sao chiếu xuống, được khuếch đại hàng chục ngàn lần bởi một cục pin nhỏ bằng 3 ngón tay chụm lại. Trường này nổi tiếng về ánh sáng, vũ trụ và kính thiên văn. Kính Thiên Văn Hubble từ nơi này làm ra.
Trở lại chàng trai trẻ Vật Lý Vũ Trụ Gia Carl Sagan, khi được ngôi vị phân khoa trưởng vế Vật Lý Vũ Trụ (astrophysicist), anh đã làm phân khoa này sinh động vô cùng. Anh có thể diển tả bằng đủ loại như bằng nắm tay co lại, bằng đôi bàn tay mườn tượng như cánh bướm, bằng lời nói luôn miệng: “billion of billion” (hàng tỉ của hàng tỉ) anh diển tả được một vũ trụ vô cùng và tối tăm vô tận trở thành tươi sáng màu sắc. Thật sự như vậy, khi chúng ta ra khỏi Thái dương Hệ của chúng ta, nghĩa là chúng ta ra khỏi ánh sáng của Mặt Trời, thì chúng ta sẽ thấy một màn đen vô cùng tận... rồi nếu chúng ta ví dụ, dùng một phi thuyền chạy ngang với ánh sáng (300 ngàn cây số / một giây) thì chúng ta đi chừng vài trăm năm ánh sáng thì chúng ta sẽ chạm đến một Vùng thuộc ảnh hưởng Thái Dương Hệ nào đó, và chúng ta sẽ được lại ánh sáng. Ánh sang này có thể khác màu ánh sáng của Thái Dương hệ chúng ta, có thể một màu xanh dương chói lọi, hay một màu vàng yếu ớt vì Mặt Trời này đang dần dần tắt lịm...
Với đủ ngôn từ và cử động thân thể như vậy, Carl Sagan cho chúng ta thấy rất rõ vũ trụ mà anh gọi là một trong: “billion of billion of planets”. Có lần Ban Khoa Học của Đức Giáo Hoàng Pope John Paul II có mời anh và một khoa học gia chuyên về Vật Lý Vũ trụ là: “Stephen Hawkings” đến điện Vatican đến diễn giải Vũ trụ cho các Hồng Y Vatican đang háo hức ngồi chờ từ lâu.
Cũng nhờ sự diễn giảng của Carl Sagan Professor of Cornell University mà chúng ta có thể hiểu dễ dàng sinh vật đầu tiên được tạo hình từ đại dương bát ngát đang còn âm ỉ nóng trên Trái đất mới thành hình. Vâng chúng ta từ một hành tinh nóng đỏ đã nguội lần lần, từ điểm nguội lần lần đó mà có sinh vật đầu tiên được thành hình. Đó là đơn sinh tế bào, mà ngày nay các khoa học có thể lập lại trong phòng thí nghiệm của mình.
Trong khi đó NASA (National Aeronautics and Space Administration) - một nơi mà Hoakỳ tự hào là tụ tập nhiều đầu óc lỗi lạc về Khoa học và Vũ Trụ nhất thế giới. Khi NASA tạo phi thuyền Pioneer 10 và 11 để bay vào hành tinh Jupiter và Saturn, thì cơ quan này vô tình tạo được một vật bay vào vũ trụ vô tận (spacecraft). Năng lực để đến được Jupiter vô cùng to lớn, như vậy Pioneers phải bay rất nhanh để thát khỏi sức hút Mặt Trời kéo nó lại. Nó sẽ bay trôi nổi trong dãy Ngân Hà (Milky Way) đến hàng tỉ năm trường. Như vậy, nó sẽ được một nền văn minh nào đó... chụp được. Như vậy tại sao không gởi theo Pioneers một giấy... giới thiệu cho nền văn minh ấy biết được nó từ đâu đến.
Nhưng ai có thể viết được giấy giới thiệu đó mà không biết văn tự loại nào mà nền văn minh ấy... đọc được? Nhưng NASA biết chắc rằng nền văn minh ấy, nếu chụp được Pioneers của địa cầu gởi đến thì hẳn rất giỏi về...toán học là cái chắc.
Đương nhiên chuyện này ngoài Carl Sagan thì ai làm nổi? Carl Sagan đem dự án của NASA về nhà mà suy nghĩ ngày đêm. Bắt buộc loài người chúng ta phải cho nền... văn minh xa lạ ấy biết là Trái đất ở đâu, hay là từ nơi nào mà đến mới được. Nhưng nếu vẻ mặt Trời và mặt Trăng thì chưa chắc họ hiểu, vì trong dãy Ngân hà (Milky Way) có hàng triệu hệ thống Thái Dương hệ như chúng ta vậy. Nhưng trong dãy Ngân hà ấy chỉ có một Super Nova duy nhất mà thôi. Nova là một ngôi sao như hình dáng mọi loại sao trên vũ trụ, nhưng thình lình nó tự sáng lên rồi sau đó lu mờ trở lại, rồi tắt mất... sự tự bừng sáng lên và từ từ tắt mất có thể kể đến hàng... triệu năm ánh sáng tính theo thước đo thời gian của Trái đất. Nhưng loại Super Nova này dù đã tất mất hàng ngàn năm ánh sáng rồi, nhưng nó vần phát ra đều đặn những làn sóng Radio mà hành tinh nào trong dãy Ngân hà đều nhận được. Nguồn sóng Radio này sẽ làm chuẩn cho các phi thuyền vũ trụ khi đi ra khỏi Trái đất và phải trở về Trái đất, như tại Trái đất người xưa đều ngó đến sao Bắc đẩu vậy.
Còn vẽ hình loài người ra làm sao? Chẳng lẽ vẽ cặp đàn ông và đàn bà ăn mặc theo kiểu Paris hay London... hay quấn tùm hụp áo quần? Vậy phải vẽ cặp đán ông đàn bà này với một nét vẻ không có áo quần vậy. Khi NASA nghe lời nhà bác học VậtLý không gian trẻ tuổi là Carl Sagan thì NASA nhận rất nhiều thơ ... than phiền của mấy vị linh mục và các nhà đạo đức là: “Tại sao lại đem cặp đàn ông đàn bà với... không mảnh vải che thân vậy? Bộ hết hình nào khác sao?” NASA trả lời những bức thơ đó: “Thật sự chúng tôi, ráng hết sức vẽ một cặp đàn ông đàn bà... như thế vậy. Hết cách rồi.” Và Carl Sagan vẽ người đàn ông đưa bàn tay ra... như chào hỏi và có tánh cách... hòa bình thân thiện. Và tấm sắt làm bằng nickel được gắn vào võ phi thuyền Pioneers, rồi cho phóng lên không gian vô cùng tận.
Nhưng Carl Sagan và người vợ tương lai, Ann Druyan không quên nhét vào phi thuyền này một Cassette thu thanh hàng ngàn lời nói của loài người. Tiếng Anh thì chỉ cần thu: “Xin chào các bạn, chúng tôi là những người từ hành tinh gọi là Trái đất, nằm trong dãy Thái Dương và cách Super Nova chừng 2 triệu năm ánh sáng”... và ngoài tiếng Anh còn có tiếng Nhật, tiếng Hoa, tiếng Ả Rập... thêm cả tiếng thổ dân Da đỏ nữa, còn tiếng thổ dân của Nam Mỹ như giống dân Aztec và Mông Cổ cùng Tây Tạng cũng không được bỏ sót.
Trong phi thuyền Pioneers này các khoa học gia cho mang thêm những máy Tivi truyền hình chỉ cần bấm nút là hình ảnh xinh đẹp của Trái đất hiện lên. Núi non, sông hồ, con người đi nườm nượp tại Tokyo, tai New York hay tại khu đông dân chật hẹp tại một ngỏ hẽm của Hongkong vậy. NASA còn gởi thêm những âm thanh thiên nhiên như: mưa, sấm sét, tiếng sóng biển vỗ ầm ĩ vào tảng đá, tiếng cười trẻ thơ, tiếng nói chầm chậm của một cụ già, hay tiếng cười thành thót của thiếu nữ đang xuân... Khoa học gia họ không quên cho Pioneers mang theo nhiều bản nhạc nổi danh từ trước đến nay. Như thiên tài âm nhạc Beethoven với bài bất hủ là: “Fifth Symphony”, với Johnny B. Goode cùng những bài ca vang danh ngày xưa của nhóm Tứ Quái: “Beattles”...
Họ, Carl Sagan cùng khoa học gia NASA đang cố cho một nền văn minh nào đó ngoài trái đất chúng ta được hiểu... đại khái loài người chúng ta là gì với nền văn minh đó.
Tấm bảng đồng “plaques” mang hình ảnh con người hiện nay đang cách xa chúng ta vạn dặm.
Với sự giúp đỡ ngân khoản... muốn gì cũng được của nhóm NASA, đã làm Carl Sagan và bạn đồng nghiệp Bruce Murray lập ra một cơ quan phi chánh phủ, chuyên nghiên cứu về một nền văn minh nào đó... ngoài chúng ta ra. Được gọi là SETI (Extraterrestrila Intelligence). Và được nhiều quốc gia trên thế giới ghi danh tham dự làm hội viên, như: Ý, Nhật, Nga và ngay cả Trung quốc nữa. Hiện nay số hội viên này lên đến 300 ngàn người rồi. Vâng! khắp thế giới người ta cũng tin là có một nền văn minh thứ nhì ngoài Trái đất. Sau khi phi thuyền Voyagers bay từ Jupiter đến Saturn, nó gởi rất nhiều tấm hình màu rõ nét cho Địa Cầu. Vùng bảo tố Gió lạnh cực Nam của Jupiter mà chúng ta nhìn qua viễn vọng kính mạnh nhất với một màu xanh dương cực lạnh.
Carl Sagan viết sách nổi danh trên thế giới gọi là: “Một nền văn minh trong Vũ Trụ” (Intelligent Life in the Universe, kỳ lạ là Nga Sô lúc đó (1960) rất... kỵ những sách vở từ ngoại quốc nhập vào Nga, kể luôn sách khoa học, vì họ cho khoa học của Nga là... tốt rồi, không cần gì đọc thêm sách Ngoại nữa. Nhưng lần này Hội Khoa Học Gia của Soviet Union xin Carl Sagan được dịch trọn quyển sách này ra tiếng Nga và tiếng Slavic cho xứ họ. Quyển này sau đó trở thành như Kinh Thánh cho các sinh viên thi tốt nghiệp Tiến Sĩ về Vật Lý Vũ Trụ.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 16:17:22 GMT 9
Đến năm 1982 Carl Sagan được ngân khoản vô cùng lớn của tư nhân và của chính phủ Hoakỳ và Anh, Carl Sagan lập ra một nguyệt san lấy tên là: “Science”. Trong Nguyệt san vang danh thiên hạ này, Carl Sagan có hơn 120 khoa học gia trên thế giới làm biên tập viên, trong đó có trên một chục vị có giải Nobel về Khoa học viết bài cho báo Science này. Nghĩa là toàn thể khoa học gia trên Trái đất đọc nguyệt san “Khoa Học” (Science) của Carl Sagan một cách nồng nhiệt. Sách được in ấn làm 70 ngôn ngữ trên thế giới, vượt sách Hiểu biết của Liên Hiệp Quốc là 60 ngôn ngữ. Sau khi Cộng Sản Nga xập đổ một cách không ai ngờ, với chánh sách Tự Do nên nhiều nhà khoa học bí mật nhưng rất giỏi của Nga thú thật với báo Times là tháng nào mà báo Science chậm gởi qua Nga là tháng đó.. họ thấy... ăn không ngon miệng rồi, và họ khen không dè các nước Tư Bản sao mà họ giỏi quá vậy?
Người ta còn nhớ, lúc Carl Sagan cùng với Vật lý Gia Nga Shklovysky cùng đàm luận với nhau tại Hội nghị của URSS, rất nhiều máy TV chạy chầm chậm, khán giả Nga nín thở mà nghe Carl Sagan diễn tả về Vũ Trụ. Bởi bàn tay linh động, đôi lúc uốn lượn như hai cánh bướm và ngôn từ đặc biệt... Carl Sagan đã làm khán thính giả Nga một cách say mê, và họ vui mừng là loài người không còn đơn lẻ trong Vũ Trụ vô cùng tận nữa, và như vậy tại sao loài người chúng ta lại... ghét nhau?
Những sách Carl Sagan viết ra đều trở thành best sellers nhiều tháng năm, như: “The Shores of the Cosmic Ocean”, “The Dragon of Eden”, “Travelers’ Tales”, “Pale Blue Dot”, “The Demond- Haunted World”, “The Man on the Moon and the Face on Mars”, “Broca Brain” (Broca là phần quan trọng nằm trong óc, thuộc về phần diễn tả như nói, suy nghĩ và phát âm...) , “Shadows of Forgotten Ancestors”, “Who speaks for Earth?”
Carl Sagan được tưởng thưởng cao quý nhất về không gian như: “NASA’s Apollo Achievement Award, The John. F. Kennedy Astronautics Award, The Masursky Award từ American Astronomical Society, the Konstantin Tsiolkolvsky từ Soviet Cosmonauts Federation....”
Năm 1987, Carl Sagan đến Pasadena (gần Los Angeles) diễn thuyết tại Caltech, hân hạnh chúng tôi có đến dự, hội trường nhỏ đã đủ người từ lâu. Khi Carl đến thì mọi người kể cả vài giáo sư tại Caltech có giải Nobel Vật lý hay Hóa học, cũng đứng lên vỗ tay luôn. Đề tài: “The Burden of Skepticism” (Tạm dịch là gánh nặng của sự hoài nghi), Carl Sagan nói trên gần 1 giờ 45 phút, và để dành trên 30 phút cho khán giả đặt câu hỏi. Câu hỏi quan trọng từ khán giả là: “liệu có thật một nền văn minh xa vời ngoài trái đất không?”... Carl Sagan trả lời: “Khi Trái đất được thành hình, qua hàng ngàn năm hàng triệu triệu năm mới có sinh vật, từ đơn tế bào đến đa tế bào... thì cùng lúc đó cũng có hàng tỉ tỉ hành tinh cùng gốc như chúng ta vậy, nó cũng đi từng bước từ sinh vật đơn bào đến sinh vật đa bào, nhưng có cái đi trước chúng ta, dĩ nhiên xa hơn chúng ta hàng triệu triệu dặm đường. Đi trước chúng ta nên sinh vật chắc chắn sẽ có trước chúng ta, có trước hàng triệu triệu năm nay rồi. Nhưng vì khoảng cách nở của vũ trụ quá xa nên chúng ta chưa nhận được tín hiệu của họ. Vì nền văn minh điện tử chúng ta chỉ mới thành hình.... từ chiều hôm qua, nếu tính theo thước đo thời gian của Trái đất”. Cả Hội trường vỗ tay rất lâu vì câu trả lời rất đơn giản mà chúng ta hoài nghi hàng ngày, khi ngó lên bầu trời về đêm, với hàng vạn ngôi sao lấp lánh mãi mãi triệu năm nay rồi.
Môt câu hỏi của giáo sư Ph. D dạy tại U.C.L.A hỏi đến: “Thưa Giáo sư, có thể nào phát họa một chút gì về sự lớn rộng của không gian này không?” Câu hỏi làm nhiều người cười khẽ, nhưng thật sự là câu hỏi mà chính chúng tôi cũng không tự giải đáp được. Vũ trụ quá bao la, nhưng bao la đến đâu? Đơn vị đo lường là vận tốc ánh sáng là 300 ngàn km đi trong một giây, là đơn vị tột cùng (absolute) do Albert Eisntein đặt ra, và chúng ta tin như vậy đi... Giáo sư Carl Sagan sau đó lôi ra một cái dĩa bàn, một chén đất sét và một lọ nhỏ mà trong đó chứa bột lóng lánh. Giáo sư hỏi: “Các bạn biết cái gì đây không?” Cả hội trường cười rần: “Cái đĩa”. Carl Sagan tiếp lời: “Vâng! Cái đĩa, còn đây là đất sét dùng để tạo thành cái đĩa, đây là bột nhôm nên các bạn thấy nó lóng lánh khi ánh sáng rọi vào... Khi tôi nhào đất sét này với bột nhôm rồi nặn thành cái đĩa... nó thành cái đĩa nhưng sẽ có chất lấp lánh vì bột nhôm tỏa ra. Trình độ hiểu biết của chúng ta ngày nay không vượt quá phạm vi cái đĩa này.”
Cả hội trường “ Ồ” lên một tiếng. Carl Sagan tiếp lời: “Cho ví dụ cái đĩa nầy dầy khoảng 15 ly đi, và bán kính cái đĩa này khoảng 200 ly, nghĩa là từ rèm này đến rèm kia được 400 ly. Và thử tưởng tượng một chút, cái đĩa này chính là vũ trụ của chúng ta. Từ tâm đĩa đi ra ngoài viền bạn sẽ tốn khoảng 200 triệu năm ánh sáng, và từ tâm đĩa xuyên qua mặt bên kia bạn sẽ tốn đoạn đường 15 triệu năm ánh sáng vậy ... Còn những đốm chấm sang long lanh của bột nhôm, thì các bạn tưởng tượng như một Thái Dương Hệ (Solar System), Thái Dương Hệ chúng ta gồm có tổng cộng 10 hành tinh như: Sun, Mercury, Venus, Earth, Mars, Jupiter, Saturn, Unranus, Neptune, Pluto, giữa Sun và Earth là Moon...”, Giáo sư Carl Sagan cầm cục phấn trắng chấm một chấm trên bảng đen, rồi nói tiếp: “...đó như vậy Thái Dương Hệ của chúng ta tượng trưng là một chấm trắng như vậy... và các bạn thấy trong cái đĩa mà tôi đang cầm đây có hàng chục ngàn chấm trắng nhu vậy đó là đại diện cho Thái Dương hệ như vậy, nhiều Thái Dương Hệ sẽ lập thành một Thiên hà (galaxy), nhiều Galaxy sẽ tạo một Milky Way (Ngân Hà).... đó như vậy đó. Và vũ trụ mà chúng ta đang hiểu được là gọn trong một cái đĩa. Nhưng khoan đã, Cosmos mà ta gọi là ví dụ như phòng Hội của chúng ta, không gian như vậy sẽ có hàng chục ngàn cái đĩa bay lơ lửng trong không gian là phòng này, có cái đứng dọc, có cái nằm nghiêng mà theo một định luật vũ trụ ngoại biên mà hiện nay chúng ta chưa có công thức... Rồi không gian trong phòng Hội này đang nở dần dần, thì dĩ nhiên hàng chục ngàn cái đĩa cũng sẽ tách ra xa những cái đĩa khác. Vận tốc nở của không gian vũ trụ thì chúng ta mới đoán được một phần nhỏ mà thôi, nhưng chắc chắn nó sẽ nhanh bằng vận tốc ánh sáng đi trong một giây hay là hơn nữa mà chúng ta chưa kiểm nghiệm được. Hiện giờ chúng ta như là một đứa bé nhỏ, chưa biết nói mà chỉ biết sờ hay nắm chụp mà thôi... và chúng ta chưa đặt tên những ngoại vật thuộc về Cosmos là danh từ gì.”
Giáo sư Carl Sagan còn nói nhiều nữa về sự lớn rộng của vũ trụ, nhưng chúng tôi đang bị shock. Vâng! bị shock vì không tưởng tượng được sự rộng lớn của vũ trụ là ngần nào. Khi tan giờ Hội nghị mà thật sự hình như chỉ mình giáo sư Carl Sagan nói mà thôi. Sự hiểu biết của ông giáo sư rất trẻ này rộng vô ngần. Có nhiều sinh viên tại CalTech xin chụp hình chung với giáo sư. Còn chúng tôi ra về lặng lẽ, bâng khuâng. Lái chiếc xe cũ ra khõi sân trường đầy cây râm bóng mát, xe chúng tôi nhập vào đường cái ồn ào của thành phố Pasadena. Thì thình lình, một tên Mễ vọt xe đạp băng ngang... Chỉ trong phần một triệu giây vận tốc ánh sáng... là chúng tôi cho thằng Mễ này... lên Vũ Trụ bao la rồi. Thắng gần chết! Dĩ nhiên nó Xổ Nho chùm bằng tiếng Mể, còn chúng tôi chỉ biết gụt gặc cái đầu: “I am sorry! sorry!”. Vũ trụ bao la vô tưởng tượng, còn con người thì chỉ một cái thắng xe hơi, chỉ cách có vài cự ly thì cả hai lên Thái Dương Hệ rồi.
Lạc Việt
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 27, 2007 3:40:15 GMT 9
Chỉ chi 3,5% GDP cho giáo dục, Ấn Độ không thể cất cánh! Thứ sáu, 21/9/2007, 08:14 GMT+7 Sự chuyển đổi kinh tế của Ấn Độ là một trong những thành công vĩ đại nhất của thời đại chúng ta. Từ một nước nghèo, Ấn Độ hiện đã là trung tâm về công nghệ thông tin và dược phẩm. Song cản trở lớn nhất trên con đường trở thành siêu cường kinh tế của nước này là giáo dục. Câu chuyện của Ấn Độ sẽ là bài học cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam Các công ty Ấn Độ như Infosys và Wipro đã trở thành các tập đoàn đa quốc gia. Bên cạnh đó, các tập đoàn phương Tây như G.E và I.B.M đã thiết lập những trung tâm nghiên cứu chính ở Ấn Độ thu hút hàng ngàn nhân công. Nguồn nhân lực tưởng như bất tận, các nhà quản trị, các nhà khoa học và các kỹ sư trẻ tuổi đầy nhiệt huyết ở Ấn Độ hứa hẹn sẽ cung cấp những dịch vụ có chất lượng ngang với các nước phát triển. Các công ty Ấn Độ như Infosys và Wipro đã trở thành các tập đoàn đa quốc gia. Nhưng ngạc nhiên là Ấn Độ đã chững lại trên con đường đạt đến vị trí siêu cường, nguồn nhân lực tưởng như vô tận nay bỗng chốc trở nên kiệt quệ. Mặc dù Ấn Độ là một trong những quốc gia có lực lượng lao động trẻ nhất trên hành tinh, người đứng đầu Infosys gần đây tỏ ý lo ngại rằng có một sự "thiếu hụt trầm trọng nguồn nhân lực có kỹ năng". Một dự án nghiên cứu của tổ chức Hewitt cho thấy, trong năm nay, lương của những nhân sự có kinh nghiệm chuyên môn sẽ tăng từ 14-50%. Đây là một dấu hiệu chắc chắn cho thấy nhu cầu về nhân lực có kỹ năng đang vượt xa nguồn cung. Làm sao điều này lại có thể xảy ra đối với một quốc gia mỗi năm có hơn 2,5 triệu sinh viên và bốn trăm ngàn kỹ sư tốt nghiệp? Thực tế là chỉ 10% người Ấn được hưởng lợi ích từ giáo dục sau phổ thông, so với tỷ lệ 50% của nước Mỹ. Hơn nữa, trong số 10% đó, phần lớn chỉ được học ở một trong số 17.000 trường cao đẳng của Ấn Độ. Ấn Độ có hơn 300 trường đại học, nhưng một điều tra gần đây của tổ chức Times Higher Education Supplement ở London, chỉ có hai trường đại học trong số đó được xếp vào danh sách những trường top của thế giới. Vì vậy rất nhiều sinh viên Ấn tốt nghiệp đại học vẫn gia nhập vào lực lượng lao động phổ thông. Một nghiên cứu vừa được trường Đại học Duke thực hiện đã cho thấy rằng nếu định nghĩa từ "kỹ sư" theo chuẩn Mỹ, thì mỗi năm các trường đại học của Ấn Độ chỉ đào tạo được 170.000 kỹ sư, chứ không phải 400.000 như đã thống kê. Theo Infosys, trong số 1,3 triệu hồ sơ xin việc năm vừa qua, chỉ có 2% trong số đó là được chấp nhận. Đã có thời nhiều nhà kinh tế tin rằng giáo dục sau phổ thông không có nhiều ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Họ cho rằng lợi ích quan trọng nhất của giáo dục là việc cung cấp các kỹ năng cơ bản cho số đông (mà với điều này, Ấn Độ cũng đang cần nỗ lực để vươn đến - với ít nhất là 30% dân số mù chữ). Họ tin rằng, việc đầu tư cho giáo dục bậc cao sẽ mang lại rất ít hiệu quả về mặt kinh tế. Nhưng chỉ chi 3,5% GDP cho giáo dục ,Ấn Độ không thể cất cánh được Nhưng sau đó giả định này đã bị phủ nhận, và lợi ích xã hội nhận được từ đầu tư vào giáo dục bậc cao ở Ấn Độ đã được nhìn nhận ở con số ấn tượng với 9 hoặc 10%. Tuy vậy Ấn Độ vẫn chỉ chi khoảng 3,5% GDP cho giáo dục, thấp hơn nhiều so với Mỹ. Mặc dù với dân số trẻ hơn, chi tiêu cho giáo dục của Ấn Độ lẽ ra phải cao hơn mới tương ứng. Điều mỉa mai là trong tình trạng hiện nay, Ấn Độ đã từng có lần được đánh giá là đất nước có nền giáo dục chu đáo. Trong thập niên 70 của thế kỷ trước, cùng với sự suy giảm của nền kinh tế, có vẻ như có quá nhiều nhân sự có bằng kỹ sư và tiến sĩ phải làm việc ở vị trí của các nhân viên bình thường trong các văn phòng chính phủ. Tuy vậy, một khi môi trường kinh doanh của Ấn Độ được nới lỏng, điều đó có nghĩa là các công ty có thể tùy ý sử dụng hàng ngàn nhân công lành nghề từ nguồn dự trữ này. Thật không may là hệ thống giáo dục đã không điều chỉnh bắt kịp với thực tế mới. Giữa năm 1985 và 1997, số giáo viên ở Ấn Độ giảm đi rõ rệt, trong khi tỷ lệ sinh viên nhập học vào các trường đại học hoặc cao đẳng tăng chậm hơn so với các nước trên thế giới. Ngay cả khi nhu cầu về nhân lực có kỹ thuật cao, có tay nghề và trình độ chuyên môn đang tăng nhanh, Ấn Độ đã dành quá ít các nguồn lực cho để đẩy mạnh nền giáo dục. Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ở những nước đã có những bước tiến nhảy vọt về kinh tế, chuyển từ một nước đang phát triển sang nước phát triển, họ đã đầu tư rất nhiều tiền vào giáo dục. Ví dụ tỷ lệ chi cho giáo dục trên thu nhập quốc dân ở Hàn Quốc cao hơn hầu hết các quốc gia khác trên thế giới. Đài Loan cũng đã có một hệ thống giáo dục tiểu học phổ cập trước khi quá trình tăng trưởng siêu tốc của nó bắt đầu. Và mới đây nhất, sự bùng nổ kinh tế của Ireland xuất phát một phần từ việc mở cửa và tăng quy mô các trường trung học, cùng với việc tăng ngân sách cho các trường đại học. Vì trọng điểm kinh tế Ấn Độ là ngành dịch vụ và công nghệ nên nước này sẽ cần phải có nhiều hơn các lao động có kỹ năng và được đào tạo tốt. Dù truyền thống văn hóa Ấn Độ rất coi trọng tri thức Ấn Độ đang cố gắng từng bước khắc phục việc thiếu hụt nguồn nhân lực có kỹ năng như việc chính phủ hiện tại đã thông báo về việc tăng gấp đôi chi phí dành cho giáo dục. Con số các trường cao đẳng, đại học đã tăng vọt từ giữa thập niên 90. Nhưng thành tích ấn tượng của nền kinh tế Ấn Độ đã khiến cho vấn đề này thu hút ít sự quan tâm hơn. (Trong một quốc gia có hơn 300 triệu người sống với mức thu nhập 1 đô la/ngày, thì việc tăng số sinh viên tốt nghiệp có vẻ như được xếp với mức độ ưu tiên thấp). Tuy nhiên, để tiến hơn nữa, chính phủ Ấn độ phải giải cho được bài toán hóc búa này. Trường Thiên (Dịch từ The New Yorker)
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 5, 2007 4:16:27 GMT 9
Máy bay chiến đấu không người lái
TTCT - Tháng giêng 2006, ngày 13. Ngay giữa đêm, trong một ngôi làng Pakistan gần biên giới Afghanistan, một loạt tiếng nổ ầm vang làm mọi người thức giấc. Hỗn loạn chỉ kéo dài trong vài giây nhưng dân làng đã nhìn thấy nhiều căn nhà bị phá hủy.
Trong số những người chết, một số là thủ lĩnh của tổ chức Al-Qaeda. Chiến dịch thành công. Một lần nữa Predator, chiếc máy bay không người lái được điều khiển từ xa, đã lặng lẽ phát hiện mục tiêu. Và những người lính ở cách đó hàng trăm kilômet đã ấn nút khai hỏa, giống như trong trò chơi... video game! (ảnh 1)
Máy bay không người lái (MBKNL) dường như đã thật sự thay thế các phi đội cổ điển. Lợi ích của nó là rất lớn. Nếu một chiếc bị bắn hạ, người ta chỉ mất một đống sắt trị giá chừng 3 triệu USD, thay vì một chiếc máy bay đắt gấp 100 lần kèm theo viên phi công.
Mô hình đầu tiên bằng gỗ
Ngay từ Thế chiến thứ nhất, một kỹ sư người Mỹ đã chế tạo một máy bay bằng gỗ, hai cánh, không người lái, có thể tự biến thành một quả bom. Nhưng “cỗ máy” này chẳng bao giờ được sử dụng. Trong suốt các cuộc xung đột của thế kỷ 20, từ Thế chiến thứ hai cho đến chiến tranh VN, người ta vẫn tiếp tục thử nghiệm dù thành công ít hay nhiều. Nhưng chính Israel mới làm cho loại MBKNL phát triển nhanh, sau chiếc Scout năm 1979.
Không to hơn chiếc máy bay đồ chơi trẻ con, nó được dùng để thám thính. Mô hình này chẳng bao lâu sau được nhân rộng khắp thế giới. Chẳng hạn năm 2002, khi tấn công Afghanistan, Mỹ mang theo ba loại MBKNL trong balô với các nhiệm vụ khác nhau: trinh sát, chiến tranh điện tử và bắn tên lửa!
Loại vũ khí hấp dẫn này có một nhược điểm lớn: thiếu khả năng tự hành. Nếu bị mất liên lạc với mặt đất (như bị nhiễu sóng thông tin hay trung tâm chỉ huy bị tiêu diệt) nó không thể tự mình tồn tại trên bầu trời. Tương lai gần sẽ thuộc về những đội quân biết kết hợp cả máy bay cổ điển và các MBKNL.
Các loại vụ khí điều khiển trong tương lai
Chuồn chuồn trinh sát - dự án của Công ty SilMach và TĐH Franche - Comté, hoàn tất 2020.
Với kích thước côn trùng (4cm) chiếc MBKNL mini này có thể chui vào một căn phòng chứa đầy đối phương, nấp ở một góc, rồi quay phim tất cả sự việc đang diễn ra và gửi thông tin về cho chủ nhân, cho đến khi... hết pin! (ảnh 2).
Ressac: cứu cấp các phi công bị bắn hạ - dự án Onera, hoàn tất 2010.
Một chiếc máy bay bị bắn hạ trên lãnh thổ kẻ thù! Nhiệm vụ của Ressac là cứu viên phi công! Chiếc máy bay trực thăng mini này bay rất thấp để tránh rađa đối phương. Nó có thể bay không cần người lái đến tận nơi lâm nạn và tìm thế đất bằng phẳng để đáp xuống.
Trong chiến dịch này, càng giới hạn thông tin liên lạc càng tốt để tránh bị nghe lén. Khi Ressac đáp xuống đất, viên phi công đang lâm nạn chỉ cần leo lên, không cần phải lái và liên lạc với tổng hành dinh. Chiếc máy bay được bọc kín như xe thiết giáp.
Anh ta chỉ có hai chọn lựa: hoặc chui vào bằng con đường ngắn nhất, hoặc chỉ điểm bằng một màn hình mang theo bên mình để nó biết tránh né đối phương đang chặn đường (ảnh 3).
MBKNL bỏ túi, để chiến đấu trên đường phố - dự án Onera, hoàn tất 2008.
Nó có thể đựng trong balô của người lính và được anh ta ném đi bằng tay. Đây là cải biên của loại “trái sáng tay” được sử dụng trong chiến tranh VN. Được điều khiển từ xa bằng một cái hộp điện từ, nó đi trước bộ binh.
Nhờ camera quan sát, nó có thể nhìn thấy cả ban ngày lẫn ban đêm đối phương đang ẩn nấp sau các cửa sổ hay công sự trên đường phố và gửi thông tin về cho người điều khiển. Binh sĩ có thể tiến lên mà không sợ lọt ổ phục kích (ảnh 4).
Các loại MBKNL đang có mặt trên chiến trường
Global Hawk, MBKNL ở độ cao:
Là loại duy nhất hoạt động ở độ cao hiện nay, Global Hawk gần như tàng hình và nằm ngoài tầm đạn của đối phương (độ cao tối đa 19.812m. Hoạt động liên tục 48 giờ, trong tầm xa 22.000km). Nó là một điệp viên tối lợi hại với vô số thiết bị mang theo: rađa nhìn xuyên qua mây, khả năng phát hiện mục tiêu di động, kính viễn vọng điện tử khổng lồ, kính hồng ngoại nhìn ban đêm... Nhờ đó, trong 24 giờ nó có thể quét một diện tích bằng 1/4 nước Pháp, không sót một chi tiết nào!
Predator, MBKNL tầm trung:
Bay ở tầm cao tối đa 7.000m, Predator có thời gian hoạt động 40 giờ, tầm xa 740km. Nó không chỉ quan sát đối phương từ xa mà còn có thể tấn công: làm nhiễu loạn sóng điện từ, dùng tia laser chỉ điểm, và... bắn tên lửa!
Spewer, MBKNL chiến thuật:
Trái với hai loại kia, MBKNL chiến thuật lại không cần bãi đáp cũng như cất cánh. Được bắn đi từ giàn phóng của chiếc xe tải, nó có thể đáp xuống bất kỳ nơi đâu bằng cách bung dù và “thắng lại” bằng những túi khí. Như vậy Spewer có thể bắn đi trực tiếp từ chiến trường để quan sát cách chuyển quân của kẻ thù. Nó cũng có thể làm nhiễu loạn sóng thông tin và dùng tia laser chỉ điểm cho pháo binh và tên lửa. Spewer có độ bay cao tối đa 5.000m, tầm hoạt động sáu giờ, trong khoảng cách 400km.
1. Global Hawk xuất phát... 2. Từ trên cao, nó quan sát toàn cảnh chiến trường 3. Hai chiếc Predator được phóng đi 4. Chiếc thứ nhất phá sóng thông tin đối phương 5. Chiếc thứ hai phóng tên lửa Hellfire xuống chiếc xe đầu não của đối phương 6. Sau đó nó báo cáo kết quả cho Global Hawk chuyển về tổng hành dinh 7. Bộ chỉ huy tiền phương phóng đi một Spewer 8. Nó bay trên đầu đối phương và chỉ điểm cho pháo binh
TRUNG LÊ (Theo Science & Vie Junior)
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 5, 2007 4:17:04 GMT 9
Hầm trú bí mật của nội các Mỹ
TTCT - Thời điểm này cách đây năm năm, nhiều thành viên chủ chốt nội các Mỹ hẳn đang trú tại một nơi bí mật bởi sự kiện kinh hoàng 11-9-2001. Địa điểm đó ở đâu? Ngay cả một số nghị sĩ và thậm chí vài bộ trưởng còn chưa bao giờ được đặt chân đến.
Bí mật của hầm trú an toàn này gần như được giữ tuyệt đối. Thông tin tổng hợp dưới đây sẽ giúp biết thêm một số chi tiết liên quan nơi trú tuyệt mật của tổng thống cũng như nội các Mỹ một khi có biến...
Siêu mật
Trung tâm tình huống khẩn cấp FEMA tại núi Weather Ngay sau sự kiện 11-9-2001, báo chí Mỹ đưa tin “những nhà lãnh đạo hàng đầu quốc hội đã được đưa đến một trụ sở chính phủ an ninh tuyệt đối cách tây Washington DC 120km”. Theo phóng viên Tom Vanderbilt (The Guardian), ngày 19-6-2006 cuộc diễn tập tình huống khẩn cấp mang tên Forward Challenge '06 (lần diễn tập thứ ba từ sau vụ 11-9-2001) đã được thực hiện với chiến dịch đưa khoảng 4.000 viên chức thuộc hơn 50 cơ quan cấp liên bang đến địa điểm bí mật trên.
Đó là một thành phố ngầm nằm trong lòng núi Weather, cách trung tâm Washington DC một giờ xe. Từ Nhà Trắng, đánh xe lên đường Route 66 về hướng tây rồi vào xa lộ highway 50; 50 phút sau rẽ vào đường Route 601 hai làn xe, đánh lượn lên một cây cầu; đi thẳng xe sẽ đụng một khu vực có hàng rào vây kín với bảng “cấm vào” thuộc địa phận Bluemont (bang Virginia). Đó chính là thành phố ngầm tuyệt mật, được xây từ thời chiến tranh lạnh phòng trường hợp đụng độ vũ khí hạt nhân với Liên Xô.
Theo globalsecurity.org, thành phố ngầm Weather nằm dưới sự điều hành của Cơ quan Quản lý tình huống khẩn cấp liên bang (FEMA), được cải tạo từ một trạm dự báo thời tiết thành nơi trú bom hạt nhân cho những gương mặt chủ chốt Chính phủ Mỹ.
Trong phóng sự về hầm Weather, phóng viên Ted Gup (Time) cho biết trên giấy tờ, boongke Weather không hề tồn tại. Nó không có tên trong bảng ngân sách FEMA. Trong danh bạ điện thoại, cơ sở FEMA tại núi Weather được ghi ngắn gọn “SF” (Special Facility - cơ sở đặc biệt). “Tôi làm việc tại FEMA gần hai năm mới nghe nói đến núi Weather” - lời kể của Julius Becton, giám đốc FEMA từ 1985-1989.
Nó chẳng hề có địa chỉ liên lạc và chỉ có một hộp thư tại Berryville (bang Virginia) - ngôi làng nhỏ yên tĩnh cách đó hơn 12km. Bị khuất bởi rặng núi rậm rạp rừng cây nằm vắt ngang hạt Loudoun và Clarke, núi Weather gần như không thể thấy. Nhiều cư dân địa phương thậm chí không biết gần vùng mình có một khu vực đặc biệt như vậy. Theo biên bản tường trình Tiểu ban thượng viện về quyền hiến pháp năm 1975 của tướng không quân Leslie W. Bray, thời điểm đó Quốc hội Mỹ gần như không biết gì về Weather. Năm 1974 một máy bay TWA - 727 bị rơi xuống khu vực khiến lần đầu tiên dân Mỹ mới nghe nói đến cái tên núi Weather, khi tờ Washington Post tung ra bài điều tra...
Bên trong boongke ngầm Weather
Washington DC, 11-9-2001
5 giờ 30 chiều 11-9, Tổng thống Bush có mặt ở Nhà Trắng và lập tức được đưa xuống PEOC. Vợ chồng thingy Cheney cũng có mặt. Colin Powell mới từ Peru về. Trong PEOC, Bush tiến hành phiên họp thứ hai với Hội đồng an ninh quốc gia (phiên họp thứ nhất thực hiện từ trên Air Force One). Nửa đêm 11-9, đang ngủ, vợ chồng Bush bị đánh thức: “Thưa tổng thống, thưa tổng thống, có một máy bay lạ đang hướng về Nhà Trắng!”. “Chúng tôi nhảy khỏi giường. Tôi vẫn còn mặc quần cộc...” - Bush kể với phóng viên Newsweek. Vội vàng ôm hai con chó Barney và Spot, vợ chồng Tổng thống Bush lao đến thang máy để đi xuống PEOC. “Tôi đang nghĩ điện thoại đâu rồi, chuyện gì xảy ra nữa đây, lại bị tấn công sao...” - Bush kể tiếp. Sau đó, một tùy viên bước vào báo: “Thưa tổng thống, tin lành, đó là một máy bay của chúng ta”... Năm 1958, quân đoàn công binh hoàn thành “Khu vực B” trong lòng đất. Tổng phí xây dựng lên đến 1 tỉ USD. Mái hệ thống đường hầm được đỡ bằng khoảng 21.000 buloong khoan sâu 2,4-3m vào tường đá. Lối vào là cánh cổng thép khổng lồ nặng 34 tấn, cao hơn 3m, rộng 6m và dày 1,5m. Boongke ngầm có bệnh viện, lò thiêu rác, khu vực ăn-nghỉ-ngủ, bồn nước dự trữ, nhà máy điện, phòng phát sóng radio, phòng ghi hình... Có tổng cộng 20 tòa nhà trong hệ thống đường hầm mà vài trong số đó cao đến ba tầng!
Theo phóng sự điều tra của Ted Gup (dựa vào quá trình phỏng vấn hơn 100 viên chức đương nhiệm cũng như nghỉ hưu của nhiều cơ quan liên quan, trong đó có FEMA), việc xây hệ thống đường hầm cũng như boongke khổng lồ trong lòng Weather được tiến hành liên tục trong ba thập niên (1938-1969). Công nhân chia ca mỗi ba giờ.
Nhân chứng Gilbert Fowler (từng làm tại công trình Weather) cho biết người ta còn làm một số hồ nước bằng cách khoét vào nền đá cứng như thép, với vài cái sâu đến 3m và rộng 60m - có cái được sử dụng làm hồ chứa nước sinh hoạt; có cái dùng làm mát không khí... Từ năm 1968, thành phố ngầm Weather nằm dưới sự chỉ huy của Bernard Gallagher, một phi công quân đội từng bay xuyên qua cột nấm hạt nhân trong 12 lần thử nghiệm vũ khí hạt nhân!
Được thiết kế nhằm duy trì tính liên tục của điều hành chính phủ trong trường hợp bộ máy đương nhiệm bị tổn thất vào thời chiến, thành phố ngầm Weather có thể chứa hàng ngàn người. Bộ máy chính phủ lâm thời được chia thành ba nhóm: Alpha, Bravo và Charlie (nhóm Alpha ở Washington DC; Bravo ở núi Weather; và Charlie được di tản đến các địa điểm an toàn khác).
William Brock chẳng hạn - bộ trưởng lao động thời Ronald Reagan từ 1985-1987 - được xếp thứ 11 trong danh sách thứ tự thay thế tổng thống và tất nhiên có tên trong danh sách di tản đến Weather. Trong một diễn tập, Brock đến một siêu thị ở Washington DC rồi được đưa bằng trực thăng đến Weather (trực thăng bay từ Nhà Trắng đến Weather mất khoảng 20 phút). Nội các chính phủ chuyển tiếp tại Weather gồm chín bộ (nông nghiệp, thương mại, y tế - giáo dục - phúc lợi cộng đồng, phát triển nhà ở - quản lý đô thị, nội vụ, lao động, ngoại giao, giao thông và tài chính) cùng năm cơ quan cấp bang (truyền thông...).
Giữa thập niên 1950, phi đội trực thăng đặc biệt 2857th Test Squadron đậu thường trực tại căn cứ không quân Olmsted ở Pennsylvania để sẵn sàng ứng cứu và di tản bộ sậu Nhà Trắng. Trên tất cả trực thăng đều có mặt nạ chống phóng xạ, trang phục bảo vệ phóng xạ cho tổng thống và gia đình; và thậm chí các thứ linh tinh chẳng hạn xà beng hoặc đèn xì hàn gió đá để phá tường hầm boongke bên dưới Nhà Trắng nhằm giải cứu tổng thống. Phi công 2857th Test Squadron trong trang phục bảo vệ phóng xạ nặng hơn 9kg, tập bay đêm thường xuyên. Thập niên 1960, 2857th Test Squadron chuyển đến căn cứ không quân Dover tại Delaware...
Kế hoạch “nước Mỹ thời chiến” định hình vào thời Eisenhower. Mỗi năm, chính phủ Eisenhower đều thực hiện diễn tập di tản khẩn cấp - đó là khi nội các Eisenhower chuyển đến khu vực Raven Rock rộng 24.619m2 - một Lầu Năm Góc dưới lòng đất gần Gettysburg (Pensylvania) mang mật danh “Địa điểm R” hoặc Weather mang mật danh “High Point” rộng 18.580m2; trong khi đó thành viên quốc hội được đưa đến trung tâm mật bên dưới Greenbrier (khu nghỉ mát hạng sang tại White Sulphur Springs, West Virginia) mang mật danh “Casper”. Khi gần đến Weather, phi công phải trả lời mật hiệu “Bluegrass Tower” mới được phép bay vào cổng. Tiếp đó, họ được kiểm tra nồng độ phóng xạ. Quần áo họ bị thiêu hủy.
Giả như xảy ra chiến tranh hạt nhân...
Cho đến tháng 5-1991, trạm quan sát thời tiết ngầm trong Weather vẫn thực hiện báo cáo hằng ngày về hướng và tốc độ gió, đồng thời dò hạt phóng xạ. Thời Eisenhower, Weather có cất cuộn băng ghi âm sẵn của tổng thống với bài phát biểu cùng toàn dân rằng “Thưa đồng bào, chiến tranh hạt nhân đã nổ ra” và rằng dù như vậy nhưng “Chính phủ Mỹ vẫn tồn tại và thực thi quyền hạn lẫn chức năng để lãnh đạo đất nước thoát khỏi cơn khủng hoảng”.
Hệ thống ngầm Weather còn có một phòng tuyệt mật gọi là “Bomb Alarm” - hệ thống cảm ứng liên kết toàn nước Mỹ để giúp điều hành phản ứng đối với cơn khủng hoảng hạt nhân. Trong “Bomb Alarm”, trên một bản đồ nước Mỹ rất to, có hàng trăm bóng đèn nhỏ xíu - đèn đỏ dành cho các địa điểm bị trúng bom hạt nhân.
Đỉnh núi Weather có vô số camera được điều khiển từ xa và thiết bị cảm ứng hạt nhân giám sát toàn bộ khu vực. Nếu không kể vụ 11-9-2001, nội các Mỹ từng được đưa đến Weather trong tình trạng khẩn cấp thật sự. Đó là ngày 9-11-1965 (không phải 11-9!), khi xảy ra vụ mất điện toàn bộ khu vực Đông Bắc Mỹ. Sợ rằng đó là ảnh hưởng từ một vụ tấn công hạt nhân, J. Leo Bourassa yêu cầu Washington sơ tán khẩn. Vụ ám sát John F. Kennedy cũng khiến Bourassa áp dụng qui chế báo động khẩn đối với Weather...
Trong vụ 11-9-2001, bộ sậu chủ chốt nội các Mỹ tất nhiên được đưa đến Weather. Theo Stephen I. Schwartz trong bài viết trên Bulletin Of The Atomic Scientists, Phó tổng thống thingy Cheney được nhân viên mật vụ (SS) đưa đến Trung tâm các chiến dịch khẩn cấp tổng thống (PEOC, boongke nằm bên dưới chái đông Nhà Trắng) vài giờ sau vụ tấn công Trung tâm Thương mại thế giới, cùng cố vấn an ninh quốc gia Condoleezza Rice, Bộ trưởng Giao thông Norman Mineta và một số người khác. Tiếp đó, Cheney ra lệnh sơ tán những nhân vật chủ chốt trong chính phủ chuyển tiếp đến Weather. Tuy nhiên, xét riêng trong trường hợp chiến tranh hạt nhân, Weather chưa chắc có thể bảo vệ được nội các Mỹ.
Một nghiên cứu từ Bộ Quốc phòng Mỹ năm 1962 cho biết nếu một quả bom hạt nhân 100 megaton được dùng, bất kỳ sinh vật nào trong phạm vi khoảng 80km cũng tan tành, huống hồ phi đội trực thăng di tản tổng thống. Trong một lần diễn tập, khi đang trên con đường hẹp gần đến cổng Weather, đoàn xe Eisenhower đã bị chặn đứng bởi một xe tải chở lợn và bác tài xế xe lợn được yêu cầu phải nhích lùi từng chút để tránh chỗ cho Eisenhower vào Weather (... trú bom hạt nhân!).
MẠNH KIM
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 5, 2007 4:28:42 GMT 9
Nixon đi thăm Mao
Lúc 11g20 thủ tướng Chu Ân Lai và tổng thống Mỹ Nixon duyệt hàng quân danh dự TTCT - Tháng 2-1972, lần đầu tiên một tổng thống Mỹ đến thăm Trung Quốc. sau đây là những bí mật ở hậu trường của một trong những sự kiện lớn nhất thế giới vào hậu bán thế kỷ 20.
21-2-1972. Air Force One, chiếc máy bay của tổng thống Mỹ, lao về hướng Bắc Kinh. Có mặt trên đó: Richard Nixon. Chuyến đi không tưởng này đã được chuẩn bị trong hậu trường từ nhiều tháng. Các điệp vụ bí mật, nhắn tin qua nhiều trung gian, những cuộc mặc cả lén lút, chỉ nhằm vào một mục tiêu là cho phép Nixon bắt tay với lãnh tụ nước Trung Hoa cộng sản: Mao Trạch Đông. Quả thật, kể từ khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời ngày 1-10-1949 đến nay, cả hai quốc gia vẫn chưa bao giờ đối thoại với nhau.
Trong máy bay, Nixon đang thật bối rối. Ông không biết có được người cầm lái vĩ đại tiếp kiến hay không. Đây là một cuộc phiêu lưu rất lớn: nếu bị Mao khinh khi ra mặt, Hoa Kỳ sẽ bị nhục nhã chưa từng có trong lịch sử. Ngay trong giữa thời kỳ chiến tranh lạnh này, một chút sai lầm có thể dẫn đến những tác hại khôn lường. Nhưng nếu Mao chấp nhận gặp ông thì diện mạo thế giới sẽ có thể thay đổi, và - tại sao không?- sự đối đầu ý thức hệ giữa hai khối sẽ bị xóa bỏ vì một cân bằng quốc tế mới...
“Đến Trung Quốc cũng giống như đi lên mặt trăng"
Chiếc Air Force One đã sẵn sàng cất cánh từ Washington. Bộ trưởng Ngoại giao William Rogers cùng cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger đang đợi Richard Nixon và phu nhân. Hôm ấy là ngày 17-2-1972. Tổng thống đến bằng trực thăng. Khi chuẩn bị bước lên máy bay, một nhà báo đưa cho ông tấm bản đồ TQ, đóng dấu của CIA. Nixon nói đùa: “Anh có tin rằng họ cho phép tôi vào với cái này chăng?”.
Chuyến đi dài ngày hôm đó là “một chuyến đi vì hòa bình” như ông đã mơ ước từ lâu. Nhưng “đến TQ cũng giống như đi lên Mặt trăng vậy”. Thật ra lúc đó hiếm có người phương Tây nào am hiểu đất nước này, nơi không một tin tức nào lọt ra được bên ngoài và chưa có tổng thống Mỹ nào đến thăm. Tệ hơn nữa là từ năm 1949, Hoa Kỳ và TQ lại không hề có quan hệ ngoại giao nào.
Chiếc Air Force One cất cánh, nhắm hướng Hawaii, nơi nó nghỉ lại hai ngày. Sau đó đến Guam, thuộc quần đảo Mariannes, để thẳng đường đến Thượng Hải cho một tuần lễ thương thuyết tập trung. Trong máy bay, Nixon cố ngốn những tư liệu mà các cố vấn đưa cho mình, truy sát Kissinger bằng nhiều câu hỏi hóc búa và tập ăn... bằng đũa!
Ngày 21-2, chiếc Air Force One đáp xuống Thượng Hải. Điều hết sức bất thường: phi công TQ thay tay lái. Chính họ sẽ lái chiếc máy bay đến điểm dừng chân cuối cùng. 11g20, máy bay chuẩn bị hạ cánh xuống phi trường dân sự của thủ đô TQ. Lúc đó là 22g20 ở bờ biển phía đông Hoa Kỳ và 19g20 trên bờ biển phía tây: tất cả các đài truyền hình Mỹ có thể loan báo tổng thống vừa đặt chân đến đất Trung Hoa. Một bản tin gây chấn động loan đi khắp thế giới.
Cái bóng của Mao...
Hôm đó là một buổi sáng lạnh lẽo và xám xịt tại Bắc Kinh. Thủ tướng TQ Chu Ân Lai mặc áo khoác màu xanh đen và bộ đồ đại cán kiểu Mao màu xám, xuất hiện với gần 20 quan chức. Họ đứng giữa một đoàn quân danh dự lẫn lộn màu áo xanh lá của quân giải phóng và màu xanh dương của hải quân. Ngôi sao đỏ rực sáng trên mọi chiếc mũ. Lá cờ Mỹ và TQ bay phần phật trước gió. Tại phi trường vắng tanh, nhân chứng duy nhất là những nhà báo Mỹ, họ đã có mặt tại chỗ từ trước đó mấy hôm để ghi lại sự kiện này. Còn đối với một số nhà ngoại giao phương Tây tỏ ý muốn tham dự lễ đón tiếp này, Chính phủ TQ đã khuyên họ nên nộp đơn xin phép... trước khi nói rõ: không cấp giấy phép cho ai cả!
Cũng không có đám đông dân chúng nào tiếp đón cả. Tháng 10-1971, cũng tại phi trường này, hoàng đế Ethiopia Hailé Sélassié đã được hàng trăm trẻ em, công nhân và ca sĩ nồng nhiệt đón chào... Nhưng bóng dáng của Mao ngự trị khắp nơi. Một trong những câu nói của ông ta được viết trên bức tường ở cuối phi đạo: “Khiêu khích bằng cách gây rối loạn, thất bại. Khiêu khích tiếp tục, lại thất bại, và cứ thế cho đến khi sụp đổ hoàn toàn. Đó là cái lôgic của bọn đế quốc và phản động trên toàn thế giới đối với chính nghĩa của nhân dân”.
Do Chu Ân Lai vẫn mặc áo khoác nên Nixon cũng không cởi chiếc áo khoác mặc ngoài bộ quần áo màu xanh biển của mình. Ông bước khỏi máy bay trước tiên, tiếp theo là vợ ông, và bất chấp lời khuyên của các chuyên gia Mỹ về TQ, đệ nhất phu nhân Pat vẫn mặc chiếc áo màu đỏ. Nixon tiến về phía Chu. Hai người đàn ông nắm tay nhau thật lâu. Khi Kissinger xuất hiện, Chu mỉm cười: “À! Chào ông bạn cũ!”. Họ đã bí mật gặp nhau trước đó hai lần để chuẩn bị chi tiết cho chuyến đi này.
Quốc ca hai nước vang lên, tiếp đến là những bài ca cách mạng, trong lúc Chu và Nixon duyệt hàng quân danh dự. Sau buổi lễ chỉ kéo dài chừng 15 phút, các nhà báo quay trở lại xe buýt và các quan chức chui vào những chiếc Limousine màu đen. Trên đường đi, dân chúng khá lèo tèo, tất nhiên rồi, như không mấy chú ý đến đoàn xe lạ. Họ đã nhận được thông báo từ phía chính quyền: không tỏ ra tò mò gì cả đối với người Mỹ. Còn trên các phương tiện truyền thông hôm ấy, thông tin về chuyến viếng thăm của tổng thống Nixon là tin tức cuối cùng được đề cập.
“Chủ tịch đang ở đâu?”
Những chiếc Limousine chạy qua quảng trường Thiên An Môn, nơi đặt một bức tượng Mao khổng lồ. Trong xe, Chu Ân Lai quay qua nói với Nixon: “Bàn tay của ngài đã vượt qua đại dương lớn nhất thế giới: 25 năm vắng bóng đối thoại”. Câu nói này không phải vô tình. Năm 1954, tại hội nghị Genève, khi vấn đề Đông Dương được quyết định và khi khả năng thống nhất Triều Tiên trở thành vô vọng, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ John Foster Dulles đã công khai... không bắt tay Chu Ân Lai. Một hành động khinh thường mà người TQ vẫn chưa quên.
Đoàn xe đi về hướng phía bắc thành phố, đến Điếu Ngư Đài - nơi được canh giữ cẩn mật mà người TQ quen dành cho khách nước ngoài trú ngụ. Xưa kia, nơi nổi tiếng với hồ nước và kỳ hoa dị thảo này đã được các nhà quí tộc xây dựng những tòa biệt thự lộng lẫy và câu cá từ trên... sân thượng. Xung quanh nơi yên tĩnh này là tường cao, kẽm gai, đèn pha và tháp canh. Vào lúc ấy, Mao và phu nhân mỗi người đều nó một biệt thự ở đây. Trước Nixon, Kim Il-Sung, Nikita Khrouchtchev, Che Guevara và thủ tướng Bắc Việt Nam cũng từng cư trú ở đây. Ba ngày trước khi tổng thống Mỹ đến là ông hoàng Sihanouk của xứ Cambodge.
Khi vừa đến nơi, Nixon và Chu Ân Lai ngồi cạnh nhau trên một chiếc tràng kỷ ở phòng tiếp tân, đối diện là các quan chức TQ và Mỹ đang theo dõi cuộc chuyện trò - xem ra say sưa- của họ quanh một tách trà. Các phiên dịch TQ đảm nhận việc dịch mặc dù phía Mỹ có hẳn một đội thông dịch riêng của mình. Sau cuộc tiếp đón sơ bộ này, phía TQ dành thời gian cho khách nghỉ ngơi. Nhưng Kissinger vốn ở chung biệt thự với tổng thống Mỹ không sao ngồi yên được. Ông có hẹn lúc 15 giờ với Chu Ân Lai. Nixon tỏ ra lo lắng vì cuộc tiếp đón có phần sơ sài này. Dù sao ông cũng cảm thấy an ủi khi người TQ đã hát lên quốc ca Hoa Kỳ, bản Star Spangled Banner.
Trong lúc đó, ở phía nam thành phố Bắc Kinh, trong khu Trung Nam Hải, Mao mặc một bộ đồ mới và mang đôi giày vừa đóng để ông mang vào dịp này. Ông đang bệnh, huyết áp cao, tim đập yếu và chưa dứt ho. Ông chỉ mới chịu cho chữa bệnh từ 20 ngày qua. Bệnh viện Trung Nam Hải đã dọn sạch các thiết bị cấp cứu. Tất cả được chuyển sang nhà của Mao.
Mao rất phấn khích. Ông muốn gặp Nixon ngay từ lúc xuống máy bay, nhưng đã bị thủ tướng can ngăn. Lúc 14g30, Mao không còn kiên nhẫn được nữa. Chu Ân Lai gọi Kissinger: Mao muốn gặp Nixon. Rất nhanh. Chẳng cần nói cũng thấy tổng thống Mỹ đón nhận thông tin này với sự nhẹ nhõm: cho đến lúc này, ông chẳng biết mình có thể gặp được người cầm lái vĩ đại hay không! Đi cạnh Kissinger, ông tức khắc nhảy lên một chiếc Limousine. Chu Ân Lai, Winston Lord, phụ tá của Kissinger, và một nhân viên mật vụ đi theo họ. Chuyện gì sẽ xảy ra? Chủ tịch Mao đang ở đâu?
Giai đoạn này đánh dấu một khúc quanh trong cuộc chiến tranh lạnh và đã được nhà sử học Margaret MacMillan thuộc Trường đại học Toronto kể lại với những chi tiết chưa từng được biết trong quyển sách mang tựa đề Nixon và Mao - Một tuần lễ làm thay đổi thế giới (NXB Random House, 2007). Bằng ngòi bút của một tiểu thuyết gia cùng sự nghiêm túc của một nhà sử học, bà kể lại một cách đầy hấp dẫn những chi tiết bằng cách nào Hoa Kỳ và TQ đã nối lại đối thoại sau bao năm tháng vắng bóng hầu như mọi quan hệ.
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 10, 2007 5:40:20 GMT 9
Chuyện về các nhà khoa học tìm ra tia X và tia xạ - 21/9/2007 9h:36 Phạm Tiếp May mắn xảy ra vào tối ngày 8/11/1895, sau khi rời phòng thí nghiệm một quãng, sực nhớ quên chưa ngắt cầu dao điện cao thế dẫn vào ống tia catod, Wilhelm Conrad Roentgen (1845-1923) quay lại phòng và nhận thấy một vệt sáng màu xanh lục trên bàn tuy phòng tối om. Với đầu óc nhạy bén, đầy kinh nghiệm của một nhà vật lý học, việc này đã lôi cuốn ông và 49 ngày sau ông liên tục ở lỳ trong phòng thí nghiệm, cơm nước do bà vợ tiếp tế, mỗi ngày ông chỉ ngừng công việc nghiên cứu ít phút để ăn uống, vệ sinh và chợp mắt nghỉ ngơi vài giờ. Nhờ thế, ông đã tìm ra tính chất của thứ tia bí mật mà ông tạm đặt tên là tia X và mang lại cho ông giải Nobel về vật lý đầu tiên vào năm 1901. Wilhelm Conrad Roentgen (1845-1923) (Ảnh: Calstatela.edu) Tương tự, Pierre Curie (1859-1906) và vợ là Marie Curie (1867-1934) theo sự gợi ý của Henri Becquerel (1852-1908) về việc tìm xem có chất lạ nào đóng vai trò quan trọng trong các chất bức xạ, đã tiến hành đề tài nghiên cứu (luận văn tiến sĩ của Marie Curie): "Bản chất và đặc tính của tia xạ" (tia Becquerel). Và khi đã tìm ra chất phóng xạ mới: radi, nhưng khi trình bày ở Viện Hàn lâm khoa học Paris, có ý kiến: "Các vị nói rằng đã tìm ra một nguyên tố mới. Xin đưa nó ra đây cho chúng tôi xem, lúc đó chúng tôi mới tin các vị nói đúng". Chấp nhận lời thách thức đó, hai ông bà Curie đã phải lao động cả trí óc lẫn chân tay (khuân vác, bốc dỡ các bao tải quặng radi). Với tỷ lệ quá nhỏ radi có trong quặng: 1/100.000, ông bà Curie sau 48 tháng vất vả mới thu được 0,1g radi, lượng này vừa đủ để nói lên tính phóng xạ của radi, mạnh gấp một triệu lần urani và xác định được nguyên tử lượng của nó: 225, đủ để thuyết phục những người còn nghi ngờ. Tất nhiên ông bà Curie và nhà khoa học Becquerel (người tìm ra tia xạ) đã được tưởng thưởng xứng đáng: Giải Nobel về vật lý. Số tiền thưởng được chia đã giúp ông bà Curie giảm bớt khó khăn đang gặp túng thiếu sau những năm tháng nghiên cứu trên cơ sở tự túc. Không màng danh lợi, tiền bạc Sau khi nhà khoa học Roentgen chụp được bàn tay vợ bằng tia X, khi tráng ảnh đã thấy rất rõ từng đốt xương và cả chiếc nhẫn cưới trên ngón tay bà. Ảnh này đã được đưa ra trong hội nghị của Hội vật lý học thành phố Wurtzbourg (Đức) có sự tham dự đông đảo của các nhà khoa học nhiều nước nhằm chứng minh khả năng đâm xuyên của tia X qua cơ thể con người, tiến hành vào ngày 23/11/1896. Trước thành tựu tuyệt vời đó, chủ tịch hội đã đề nghị gọi tia X là tia Roentgen và gọi năm 1896 là năm của tia Roentgen. Nhưng suốt đời Roentgen vẫn gọi những tia đó là tia X và có giai thoại sau: Một nhà vật lý học đồng hương với ông tên là Lêna, trước những vinh quang đó đã tìm cách tranh công với ông và đề nghị phải gọi tên trên là tia Roentgen Lêna. Ông bình thản trả lời: "Tia X được gọi bằng tên ai, tôi không hề quan tâm. Tôi chưa bao giờ gọi những tia đó bằng tên mình. Mong ông hãy trao đổi với những ai gọi như vậy". Có người của Cục Hải quân Đức đến gặp ông và nói: sẵn sàng chi một số tiền lớn và cung cấp đủ mọi phương tiện cần thiết nếu ông đồng ý đưa những tia X vào sử dụng trong tàu ngầm và đề nghị ông đăng ký phát minh để giữ độc quyền về tia này, không cho nước ngoài sử dụng. Nhà khoa học Roentgen chụp được bàn tay vợ bằng tia X, khi tráng ảnh đã thấy rất rõ từng đốt xương và cả chiếc nhẫn cưới trên ngón tay bà. (Ảnh: uab.edu) Ông kiên quyết từ chối không tham gia công việc nhà binh và việc đăng ký. Ông muốn tia X được dùng vào việc chăm sóc sức khỏe con người, nó thuộc về toàn thể nhân loại, còn dùng làm phương tiện phục vụ chiến tranh không bao giờ có trong ý định của ông. Việc phát minh ra tia X đã mang lại nguồn thu nhập cho rất nhiều công ty lợi dụng nhưng vợ chồng Roentgen vẫn sống trong thiếu thốn và thường phải có sự trợ giúp của họ hàng, bè bạn, điều này do tính khảng khái và ý chí kiên quyết phản đối chiến tranh. Có lẽ, giống như phát minh tia X, sau khi phát hiện ra radi đã bị những nhà kinh doanh lợi dụng chất này để làm giàu qua việc bán trên thị trường các sản phẩm có chứa radi từ nước uống, vòng đeo tay, savon, sữa, ngũ cốc, thức ăn gia súc với các lời quảng cáo: bổ dưỡng, chữa thấp khớp, diệt khuẩn... Trong cuộc cạnh tranh đó, nhiều người đã tìm đến ông bà Curie khuyên ông bà nên đăng ký phát minh độc quyền để có thể làm giàu chính đáng vì 1g radi lúc đó có giá 75 vạn franc. Nhưng cũng như Roentgen, ông bà Curie đã từ bỏ quyền phát minh của mình để tạo điều kiện cho ngành công nghiệp phóng xạ non trẻ đầy hứa hẹn phát triển. Điều an ủi cho ông bà Curie là sự nghiệp khoa học của hai người đã được tiếp tục thực hiện do người con gái Irène Julio Curie và người con rể là Frederich Julio Curie. Đôi vợ chồng này đã phát hiện ra các chất phóng xạ nhân tạo và được giải thưởng Nobel vào năm 1935. Hy sinh vì phóng xạ Tính đến năm 1936, năm ở Đức có dựng một tượng đài để tưởng niệm các nhà khoa học đã hy sinh vì tia X và phóng xạ, con số đã là 110 người (!). Người được coi là đầu tiên: Antoine Henri Becquerel (Đức), người đã phát hiện ra tia xạ, qua sự gợi ý của nhà toán học lừng danh Henri Poincaré. Trong một buổi lên lớp ở Đại học Khoa học Paris, ông bỏ vào trong túi áo khoác của mình một lọ chứa radi có đóng gói cẩn thận trong một hộp giấy nhỏ, nhằm minh họa cho bài giảng. Ai ngờ, 10 ngày sau trên ngực, nơi túi áo đựng lọ radi, xuất hiện một vết đỏ nho nhỏ và nó tiếp tục ran rộng và chỉ dừng lại khi đạt kích thước vừa đúng bằng cái lọ đựng radi. Chuyện xảy ra vào tháng 4/1901. Không để ý đến vết đỏ, ông tiếp tục nghiên cứu nhưng dần dần ông cảm thấy mệt mỏi, suy nhược, đau đớn ngày càng tăng, da tay bị nứt nẻ tạo những vết loét rộng. Và đến năm 1908, ở tuổi 56, ông đã từ giã cõi đời sau những tháng năm mòn mỏi, suy kiệt, đau đớn. Người tiếp theo là Pierre Curie (Pháp), người góp sức vào việc tìm hiểu bản chất của phóng xạ. Thấy Becquerel bị radi gây bỏng, ông muốn thử nghiệm trên mình xem có chính xác không? Ông đã từng buộc vào cánh tay mình trong 10 giờ một chế phẩm phóng xạ và bỏ một mảnh radi trong vòng nửa giờ vào túi quần và như Becquerel, ở tay và ở đùi, ít ngày sau đều có một vết bỏng. Không may ông mất sớm vì một tai nạn ô tô nhưng cũng may là chưa phải chịu đựng những tác hại toàn thân do chất phóng xạ. Người thứ ba là Marie Curie (Pháp gốc Ba Lan) người đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về bản chất và đặc tính của tia xạ. Do công tác nghiên cứu, bà thường xuyên phải tiếp xúc với các chất phóng xạ mà lúc đó chưa có các biện pháp phòng ngừa vì hiểu biết về phóng xạ còn hạn chế. Bà thường bỏ trong túi xách một lọ chứa radi và đêm ngủ thường để ở đầu giường để ngắm ánh dạ quang phát ra từ chiếc túi. Vào tuổi 65, sức khỏe của bà suy giảm rõ rệt và bước sang tuổi 66 bà phải nằm liệt giường để rồi đến gân cuối năm bà qua đời (!). Theo Sức Khỏe & Đời Sống
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 10, 2007 9:24:54 GMT 9
Railcab: Taxi không ngýời lái @9/10/2007 Các nhà khoa học Ðức ðang phát triển một loại xe taxi nhỏ không ngýời lái, có thể vận chuyển hành khách hoặc hàng hóa trên ðýờng ray xe lửa. Sử dụng ðộng lực là từ trýờng, loại xe này có vận tốc trung bình 160 km/giờ. Nhóm nghiên cứu thuộc trýờng Ðại học Paderborn ðã chế tạo thành công hệ thống vận chuyển tự ðộng Railcab và ðang tiếp tục thử nghiệm ðể hoàn thiện hệ thống trýớc khi ðýa vào sử dụng. Theo giáo sý kỹ thuật Joachim Lückel, thành viên nhóm nghiên cứu, Railcab chạy bằng lực ðẩy của từ trýờng sinh ra từ các solenoids, tức các cuộn dây kim loại trở nên có từ tính khi có dòng ðiện chạy qua. Railcab sẽ tạo ra một luồng sinh khí mới cho ngành vận chuyển ðýờng sắt và sẽ trở thành ðối thủ cạnh tranh ðáng gờm của các loại xe tải trong týõng lai. (Ảnh: Spiegel) Khi ðýợc nạp ðiện liên tục, các cuộn solenoids sẽ di chuyển giữa các thanh ðýờng ray và tạo ra một từ trýờng có tác dụng ðẩy xe chạy về phía trýớc. Railcab, trông giống nhý toa xe lửa, có thể chạy riêng rẽ từng chiếc trên ðýờng ray. Với hệ thống ðịnh vị toàn cầu, mỗi chiếc có khả nãng chọn lộ trình nhanh nhất ðể di chuyển tới ðiểm ðến. Nhýng trên những tuyến ðýờng chính, chúng có thể chạy nối ðuôi nhau ðể thành một chiếc xe lửa – khi ðó, mỗi chiếc railcab ðýợc xem nhý 1 toa của xe lửa, và các toa này chạy sát với nhau nhýng không hề chạm vào nhau. Các chuyên gia ðang cố thu hẹp khoảng cách giữa các toa xuống còn 20cm. Do từng chiếc Railcab có thể ðýợc kiểm soát ðộc lập, khi ðến nõi cần rẽ, từng toa sẽ tự ðộng tách ra ðể chuyển hýớng mà không ảnh hýởng gì ðến hýớng di chuyển và vận tốc của các toa khác. Với cách vận hành nhý vậy, Railcab sẽ giúp tiết kiệm nãng lýợng do tận dụng ðýợc “slip-stream”, tức vùng có áp suất bị giảm ðýợc tạo ra ở ðằng sau một vật ðang chuyển ðộng trong một môi trýờng, thýờng là không khí. Theo nhóm nghiên cứu, loại xe taxi ðặc biệt này có thể chạy với vận tốc trung bình lên ðến 160 km/giờ. Do chạy suốt, tức không dừng lại trong quá trình vận chuyển giữa các ðịa ðiểm, Railcab sẽ rút ngắn ðáng kể thời gian chuyên chở hành khách và hàng hóa. Tính ðến nay, hõn 15,5 triệu USD ðã ðýợc ðầu tý vào nghiên cứu Railcab trong 4 nãm qua, và các chuyên gia cho biết họ cần thêm khoảng 28 triệu USD nữa ðể tạo ra một mô hình mẫu có kích thýớc phù hợp với nhu cầu sử dụng trong thực tế. Railcab có thể vận chuyển hành khách với vận tốc 160 km/giờ và chạy suốt giữa các ðịa ðiểm, giúp rút ngắn thời gian chuyên chở. (Ảnh: Spiegel) Theo giáo sý Joachim, Railcab sẽ không ðắt tiền hõn bất cứ loại xe nào có cùng kích thýớc. Chi phí vận hành hệ thống Railcab hiện chýa ðýợc xác ðịnh, nhýng nhóm nghiên cứu khẳng ðịnh nó sẽ thấp hõn phí tổn vận hành một hệ thống xe lửa. Và một ýu ðiểm lớn là Railcab không ðòi hỏi phải xây dựng hệ thống ðýờng ray mới, mà nó có thể chạy trên các hệ thống ðýờng sắt hiện hành ở Ðức sau khi những hệ thống này ðýợc cải tiến. Với những ðặc ðiểm nói trên, các chuyên gia tin rằng mô hình taxi không ngýời lái này sẽ tạo ra một luồng sinh khí mới cho ngành vận chuyển ðýờng sắt và sẽ trở thành ðối thủ cạnh tranh ðáng gờm của các loại xe tải trong týõng lai. Quang Thịnh Theo Spiegel, Earth Times
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 14:00:25 GMT 9
Những tiên đoán thiên tài của Leonardo da Vinci
Thế kỷ 15, Leonardo da Vinci đã báo trước sự tồn tại của những phương tiện chỉ ra đời 400-500 năm sau đó như điện thoại, truyền hình. Và nhiều thiết bị mới xuất hiện thực ra đã nằm trong bản thiết kế của ông từ lâu.
Tháng 10/2002, tại Anh, người ta đã chế tạo và thử nghiệm một thiết bị bay độc nhất vô nhị làm bằng gỗ, lông chim và chất bài tiết của con bọ dừa như Leonardo khởi thảo cách đây 500 năm. Đó là nguyên mẫu của chiếc dù hiện đại và tàu lượn hiện đại. Bằng những phát minh của mình, ông đã chứng minh con người có thể bay ở thời đại mà chưa ai dám mơ tưởng tới điều kỳ diệu đó.
Ngay từ năm 1483, Leonardo đã ghi lại bên lề bản vẽ: “Nếu như người ta tìm được một tấm vải gai có chiều rộng và chiều cao 12 ácđơ (đơn vị đo chiều dài Anh bằng 91,44 cm) thì anh ta có thể nhảy xuống từ bất cứ độ cao nào mà không việc gì”. Năm 1777, một tử tù người Pháp tên là Jean Dumie chấp nhận việc thử nghiệm “cái áo khoác biết bay” do giáo sư Fontagie chế tạo theo những phác họa của Leonardo. Với Jean Dumie, đây là một canh bạc: Nếu thoát chết sau cú nhảy, cơ quan thực thi pháp luật sẽ không có quyền lấy đi mạng sống của anh nữa. Dumie đã thực hiện cú nhảy từ trên mái ngọn tháp canh của nhà tù và đã sống.
Bản sao chính xác của chiếc khinh khí cầu mà Leonardo miêu tả mới đây đã được một người Anh tên là Edrian Nicolas thử nghiệm. Trên một thiết bị nặng 85 kg được chế tạo bằng những vật liệu vốn sẵn có ở thời Trung cổ, anh ta đã bay được gần 2.500 m trên những cánh đồng ở Nam Phi. Chiếc khí cầu này đã lên cao tới 3.000 m, bất chấp dự đoán của các chuyên gia rằng "cái hộp vớ vẩn bằng gỗ và vải gai" này không thể bay được. Người thử nghiệm khẳng định rằng, trong lúc bay, chính Leonardo đã “phù hộ độ trì” cho anh ta theo lời cầu nguyện của mình.
(Ảnh: Hschamberlain.net)
Trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự do Leonardo phát minh, “con rùa gỗ" (mô hình của chiếc ôtô hòm bọc thép) cách đây 500 năm chính là tiền thân của chiếc xe tăng hiện đại. Bên trong “con rùa” có thể chứa được 12 người: 8 người được bố trí bên những lỗ châu mai có nhiệm vụ nã súng vào đối phương, một người ở phía trên để quan sát chiến trường, những người còn lại điều khiển sự chuyển động của “con rùa”.
Khó có thể liệt kê hết những phát minh của Leonardo. Càng ngày thế giới càng thấy rõ rằng con người kỳ cục này đã vượt trước thời đại mình không phải là 500 năm mà nhiều hơn thế. Ngày nay, chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu vài ý tưởng của ông. Ôtô, máy bay, khí cầu chỉ là một số ít ỏi trong những bản thiết kế do ông khởi thảo.
Mới đây, tại kỳ họp lần thứ 40 tại “Chuyên đề về Vinci” diễn ra ở Florence, một kỹ sư cơ khí Mỹ - ông Elling Roshaim - đã tuyên bố: Bức vẽ trứ danh của Leonardo trong tập “Bản thảo Đại Tây Dương", vốn được coi là nguyên mẫu của chiếc xe ô tô hiện đại, kỳ thực “là sự mô tả robot được chương trình hóa”. Với sự hỗ trợ của các phim dương bản và sự tái hiện số trên máy tính, Roshaim giải thích rằng: Một trong những hình vẽ của tập bản thảo do Leonardo thực hiện năm 1478, ở tuổi 26, chính là thiết bị tự động được chương trình hóa, có khả năng khắc phục một hành trình rõ rệt, dừng lại, quay phải và quay trái theo chương trình được định sẵn cho nó.
Một số nhà nghiên cứu còn nhìn thấy trong những bản vẽ của Leonardo nguyên mẫu của máy tính tương lai, máy chụp ảnh số, vô tuyến truyền hình...
Da Vinci - Người đến từ tương lai?
Trong tập “ghi chép” của Leonardo, chúng ta đọc được những lời tiên đoán thiên tài về những thành tựu tương lai của khoa học kỹ thuật:
Về máy điện thoại: “Người ta sẽ nói chuyện với nhau từ những đất nước xa xôi nhất và sẽ trả lời nhau cứ y như đang ở cạnh nhau”.
Về ghi hình và tiếng trên băng: “Người ta sẽ đi lại mà không chuyển động, có thể nói với người vắng mặt, lắng nghe người im lặng”.
Về việc phát hình trên vô tuyến: “Mọi người trong nháy mắt sẽ tản ra khắp nơi trên thế giới mà không di chuyển khỏi vị trí”...
Những dự đoán như vậy về tương lai chiếm hàng trăm trang viết. Và ngày nay, không phải tất cả những dự đoán ấy đều được hiểu rõ. Tất cả những hiện tượng như thần thuật bay lên, khả năng ngoại cảm, thần giao cách cảm... đều được Leonardo miêu tả. Trong những trang viết của Leonardo, người ta thậm chí còn tìm thấy cả sự miêu tả người cá. Ông là người đề xuất những ý tưởng về tàu thủy, xe đạp, máy bay trực thăng, chiến hạm bọc thép, thấu kính tiếp điểm, kính viễn vọng mà nhờ nó “có thể nhìn thấy được mặt trăng và các vì sao ở mức phóng đại”...
Từ đâu mà Leonardo đã học được tất cả những điều đó? Liệu ông có thể đơn thương độc mã phát minh ra tất cả những điều kỳ diệu ấy không? Do đâu mà ông biết chuyện gì sẽ xảy ra? Những thắc mắc khó giải thích này khiến nhiều người có ý nghĩ rằng, Leonardo đã đến từ tương lai, nơi mà những công nghệ như vậy từ lâu đã trở thành hiện thực.
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 14:33:53 GMT 9
Sự tích tên gọi các cửa ải Vạn Lý Trường Thành - 26/5/2006 13h:52 Phía Bắc Sơn Hải Quan là dãy núi Yên Sơn, phía Nam là biển Bột Hải, non xanh nước biếc, đồi núi và biển cả soi bóng. Lên cửa ải phóng tầm mắt về phía trước, quang cảnh núi non và biển cả hoành tráng thu hút trong tầm mắt, bởi vậy mới có tên gọi Sơn Hải Quan. Sơn Hải Quan là cửa ải đầu tiên của Trường Thành, nằm ở nơi giáp ranh giữa hai tỉnh Hà Bắc và Liêu Ninh, khởi điểm của Trường Thành. Người đầu tiên xây dựng Sơn Hải Quan là Từ Đạt, vị tướng nổi tiếng của nhà Minh. Với con mắt sắc bén về quân sự, Từ Đạt đã xây dựng Sơn Hải Quan để kiểm soát được núi, lại khống chế được biển. Cửa ải này có 4 cửa, cửa phía Đông có một bức hoành phi với dòng chữ "Thiên hạ đệ nhất quan". Bức hoành phi dài 5,9 m, rộng 1,6 m. Chiều cao của chữ là 1,45 m, rộng 1,09 m do Tiêu Hiển, tiến sĩ, nhà thư pháp nổi tiếng của Nhà Minh viết, nhưng dưới bức hoành phi không có lạc khoản tên ông. Truyền thuyết kể rằng khi viết bức hoành phi này, Tiêu Hiển đã viết một mạch là xong, sau khi viết xong và ngắm lại ông có chút không hài lòng đối với chứ "Nhất", và nhiều lần viết lại, những vẫn không hài lòng. Ông liền quẳng bút và vào quán rượu dưới chân núi vừa uống rượu vừa nghiền ngẫm. Người hầu trong quán quen tay vạch một đường trên bàn, để lại vệt nước. Tiêu Hiển trông thấy vệt nước liền vụt đứng dậy là nói liến thoắng "Tuyệt quá, tuyệt quá". Thì ra vệt nước đó là chữ "Nhất" kỳ diệu. Tiêu Hiển liền viết chữ "Nhất" này lên bức hoành phi và trở thành bức hoành phi thiên cổ. Bởi vậy Tiêu Hiển không ghi tên mình vào chỗ lạc khoản, khiến cho bức hoành phi này là một trong số rất ít bức không có lạc khoản. Gia Dụ Quan, khởi điểm phía tây của Trường Thành nằm trên địa bàn thành phố Gia Dụ Quan, tỉnh Cam Túc, được xây dựng vào năm thứ 5 Hồng Vũ (1372). Do cửa ải xây dựng trên núi Gia Dụ nên mới có tên như vậy. Ngoài ra còn có tên gọi là Hòa bình quan, vì nơi đây chưa từng có chiến loạn. Nương Tử Quan nằm trên địa bàn huyện Bình Định, tỉnh Sơn Tây. Nơi đó địa thế hiểm trở, núi non trùng điệp, dễ phòng khó công nên được mệnh danh là "Tam tấn môn hộ". Cửa ải này trước kia có tên Vi Trạch Quan. Hồi đầu nhà Đường, công chúa Bình Dương, con gái thứ 3 của Lý Uyên từng dẫn vài vạn tướng sĩ canh giữ tại đây. Công chúa Bình Dương võ nghệ cao cường, đạo quân của công chúa được gọi là "nương tử quân". Bởi vậy mọi người đổi tên cửa ải này thành Nương tử Quan. Đến nay trên cánh cửa đông môn thành trì Nương Tử Quan còn có 5 chữ rằng "Trực thuộc Nương tử Quan". Cửa ải Ngọc Môn ở Tiểu Phương Bàn Thành phía tây Huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc có tên vậy là do tất cả đá ngọc sản xuất ở Hoà Điền, Tân Cương thời cổ đều phải đi qua cửa ải này. Cửa ải Biển Đầu Quan ở huyện Biển Đầu, tỉnh Sơn Tây nghe có chút lạ là vì Biển Đầu Quan nằm ở vùng đất không bằng phẳng, phía đông cao, phía tây thấp. Hơn nữa nơi này có chút nghiêng, nên mọi người mới gọi với cái tên Biển Đầu Quan như vậy. Nhạn Môn Quan nằm trên một thung lũng ở huyện Đại, tỉnh Sơn Tây, có khí thế hoành tráng. Hai bên là vách núi dựng đứng, những con nhạn con én không sao bay qua được mà chỉ bay dọc theo thung lũng qua phía trước cửa ải, bởi vậy mọi người mới gọi là Nhạn Môn Quan. Ngoài ra còn có Cư Dung Quan ở núi Tử Kinh, huyện Dị (tỉnh Hà Bắc).
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 14:40:38 GMT 9
Những sự trùng hợp kỳ lạ - 2/5/2006 14h:7 Trong cuộc sống có những sự trùng hợp khó tin và không thể giải thích được, khi đó một cách tự nhiên người ta bắt đầu nghĩ đến khía cạnh bí ẩn của số phận. Liệu có thể giải thích những chuyện trùng hợp kỳ lạ là trò chơi của sự ngẫu nhiên hay khoa học có những lý thuyết khác về vấn đề này? Ngày 28/7/1900, Vua Italy Umberto I ăn tối trong nhà hàng ở thành phố Monza. Người ta được biết chủ của nhà hàng cũng có tên Umberto, sinh ra cùng ngày với nhà vua, trong cùng một thành phố, vợ của họ có cùng một tên, đám cưới cũng diễn ra trong cùng một ngày, còn nhà hàng khai trương đúng vào ngày nhà vua lên ngai vàng. Nhà vua và người dân thường này rất vui vẻ nhân cuộc gặp gỡ kỳ lạ này và thống nhất sang ngày hôm sau sẽ đến sân vận động. Nhưng đến buổi sáng, chủ nhà hàng Umberto đột ngột qua đời, nhà vua tỏ lòng tiếc thương và chỉ vài giờ sau ông bị một kẻ vô chính phủ bắn chết. Số phận của họ chỉ không giống nhau ở điểm 2 người chết ở những nơi khác nhau. Vào năm 1944, vài ngày trước khi quân đồng minh đổ bộ lên Normandy, trên tờ Daily Telegraph ở Anh có in một trò đoán ô chữ “vô hại”, nhưng đáp án của nó là mã của chiến dịch mấu chốt trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ 2, thậm chí cả tên của chiến dịch nhảy dù Overlord. Tình báo Anh đã phải sửng sốt: chiến dịch có thể sẽ hoàn toàn đổ vỡ. Tuy nhiên, người ta tìm hiểu được là các ô chữ này do một thầy giáo phổ thông không liên quan gì tới vấn đề quân sự lập ra. Sự trùng hợp kỳ lạ từng xảy ra với con tàu Titanic. (Ảnh: Merchantnavyofficers) Vào năm 1896, nhà văn viễn tưởng Morgan Robertson đã xuất bản ở London cuốn tiểu thuyết Cái chết của Titan về chuyến đầu tiên và cũng là cuối cùng của chiếc tàu thủy chở khách lớn nhất thế giới, đã lâm nạn vì đụng vào núi băng trôi. Chiếc tàu hư cấu “Titan” và chiếc “Titanic” có trên thực tế, bị chìm vào năm 1912, giống nhau cả về vẻ ngoài và các điểm đặc trưng của tàu, thậm chí giống cả về số nạn nhân. Chiếc “Titan” được viết trong sách cũng lâm nạn vào tháng 4/1912... Ngày 6/8/1978, vào 21h40, chiếc đồng hồ báo thức yêu thích của Giáo hoàng Paolo VI bỗng nhiên rung chuông. Nó đã hoạt động suốt 55 năm mà không hỏng hóc gì và vẫn được đặt vào 6 giờ sáng, nhưng chính vào thời điểm đó chủ nhân của nó đã kết thúc cuộc sống trên thế gian. Nghệ sĩ nổi tiếng Antony Hopkins, khi nhận vai trong phim Những cô gái ở đường Petrovka, đã không sao tìm mua được cuốn tiểu thuyết này, nhưng ông lại nhặt được trên chiếc ghế ngoài đường chính cuốn sách như vậy với lời đề tặng của tác giả dành cho đạo diễn phim. Làm sao có thể giải thích sự trùng hợp ngẫu nhiên số phận bi thảm của các tổng thống Mỹ được bầu lên trong những năm có số kết thúc bằng số 0? Các tổng thống Lincoln (1860), Garfield (1880), McKinley (1900), Kennedy (1960) đều bị giết, Harrison (1840) chết vì viêm phổi, Roosevelt (1940) chết vì viêm tủy xám, Harding (1920) bị nhồi máu nặng. Tổng thống Reagan bị mưu sát vào năm 1980. Trong năm 2000 ông Bush bước vào Nhà Trắng. Số phận đã bảo vệ bản thân ông, nhưng chính trong thời gian ông cầm quyền, tại Mỹ đã xảy ra vụ khủng bố ngày 11/9 khủng khiếp nhất trong lịch sử.
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 14:52:53 GMT 9
Bức hoạ mất tích của Michelangelo tái xuất? Một kiệt tác của danh hoạ Michelangelo có thể đã ẩn cư hàng thế kỷ bên trong các bức tường của một nhà thờ địa phương ở Tuscan, gần Florence, Italy. Bức hoạ Pietà được cho là của Michelangelo. (Ảnh: Discovery) Bức bích hoạ, đặt trên bệ thờ của nhà thờ Santa Maria ở làng Chianti, thuộc Marcialla (cách Florence 45 km về phía Nam), có tên là Pietà, thể hiện sự thương tiếc của người dân đối với cái chết của chúa Giêsu. Cư dân của ngôi làng này từ lâu đã tuyên bố rằng tác phẩm trên được hoạ sĩ Michelangelo vẽ từ khi còn trẻ. Tuy nhiên, bằng chứng cụ thể đầu tiên về giả thuyết này chỉ mới được phát hiện gần đây, khi một người dân 60 tuổi thú tội với cha xứ Rosario Palumbo rằng ông đã nhìn thấy chữ ký đằng sau bức tranh khi đang nghịch ngợm ở ban thờ từ khi còn là một cậu bé. Lời thú tội đã khiến cha Palumbo tìm hiểu phía sau của bệ thờ. Khi một phiến gạch được rút ra, một chữ ký gồm các chữ cái M, B và F lồng vào nhau đã xuất hiện. "Đó là một kiểu chữ ký lồng độc đáo. Nó có thể là viết tắt của Michelangelus Buonarrotus Facibat (Michelangelo Buonarroti tạo nên tác phẩm này), hoặc là Michelangelo Buonarroti Florentine", Robert Schoen, một học giả Mỹ nhận định. Schoen, người đã tìm ra bức Cupid bị mất tích của Michelangelo ở New York năm 1984, đã nghiên cứu tác phẩm ở Marcialla trong 4 năm nay. Theo Schoen, chữ ký lồng của tác phẩm này có điểm tương đồng với các chữ ký trên nhiều tác phẩm khác của danh hoạ như chữ ký khắc trên bức hoạ Roman Pietà, chữ cái trên cửa hình bán nguyệt của nhà thờ Sistine, và trên mô hình cây thánh giá có hình chúa Giêsu trong nhà thờ Santo Spirito ở Florence. "Bức hoạ Pietà ở Marcialla rất quan trọng để hiểu được sự phát triển tài năng của Michelangelo, bởi nó bao gồm 2 nhân vật cầm thánh giá đứng 2 bên, từng là trộm cướp và đã được cải hoá thành thánh do lòng từ bi của chúa Giêsu. Điều này thể hiện bản chất tham vọng và suy nghĩ ẩn sâu bên trong của hoạ sĩ", Schoen nói. Michelangelo có thể đã vẽ bức hoạ sau sự sụp đổ của dòng họ Medici vào tháng 1/1494. Khi đó hoạ sĩ đã buộc phải chuyển tới Florence. Theo lời kể của dân địa phương, ông đã đến trú ẩn tại Marcialla, với sự bao bọc của các thầy tu. M.T.
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 14:54:47 GMT 9
Những cái chết bí ẩn khi “đụng” vào lăng mộ các Pharaong - Nhân loại chưa bao giờ thỏa mãn cơn khát khám phá nơi yên nghỉ của các đế vương Ai Cập Năm 23 tuổi, Huân tước Kanaphông người Anh được thừa kế một gia sản khổng lồ và đã quyết định dùng gia sản ấy vào việc tìm kiếm thăm dò các di tích cổ Ai Cập. Ông rời nước Anh đến sống ở Ai Cập, cùng một số chiến hữu bắt đầu công cuộc đào bới. Năm 1905, ông ký với nhà đương cục Ai Cập một văn bản tình nguyện bỏ kinh phí vào công tác khảo cổ, hiến toàn bộ các hiện vật tìm được vào Viện bảo tàng Ai Cập, đổi lấy quyền được đào bới sa mạc Mimphis vì mục đích khoa học. Hì hục suốt 17 năm trời không có kết quả, tiêu tán gần như toàn bộ gia sản, năm 1922, ông về Anh, trao lại công việc cho người bạn thân thiết là Hôvớc, một nhà khảo cổ có tiếng. Một ngày nọ, trong khi đào bới gần nơi có lăng mộ cổ đã bị bọn trộm lục lọi chán, Hôvớc tìm thấy một đường hầm. Ông cho thợ đào ra, quả nhiên trong là một hầm mộ. Nhận được điện báo, ngay hôm sau, Huân tước cấp tốc rời nước Anh. Không ai ngờ lại còn tồn tại một kho báu lớn đến như vậy! Một hầm mộ gần như còn nguyên vẹn: Đủ mọi đồ vật, hòm xiểng, đèn, bình, lọ, chế tác hết sức tinh xảo bằng châu ngọc, và đều mang dấu ấn hoàng đế Tutakamông. Tiếp đó, ba tuần sau, tìm ra hầm mộ số II cách đó 10m, do đá hoa cương, vàng, ngà voi chế tác thành. Tháng 2 năm sau, lại phát hiện hầm mộ thứ III, đó là một cung điện bằng gỗ quí dát vàng khảm ngọc bích, có quan tài hoàng đế. Toàn công trường nín lặng trước những kỳ quan như thế rồi trong phút chốc họ vội vã rút lên mặt đất. Ra khỏi căn hầm, đột nhiên Kanaphông vuốt má như vừa bị một thứ côn trùng gì từ trong ngôi mộ bay ra đốt ông, nhưng trong cảnh vui như hội này, không ai lưu ý đến sự việc đó. Pharaông 18 tuổi Tulankhamun Trong rất nhiều hiện vật lấy được, người ta đặc biệt chú ý chiếc quan tài vua Pharaông. Quan tài được quấn nhiều lớp vải bọc để giữ thi thể nhà vua. Lớp áo cuối cùng được dệt bằng kim tuyến cực kỳ tinh xảo, đến nay đã trải hơn ba ngàn năm mà sợi vàng vẫn còn lóng lánh rực rỡ. Ấn chương và các dòng chữ đã cho biết đây là chủ nhân chính của ngôi mộ: Pharaông 18 tuổi Tulankhamun, chết cách đây 35 thế kỷ. Từ khi phát hiện ra ngôi mộ cổ, người Kanaphông như rộc hẳn đi, vết cắn của con côn trùng hôm nào ngày càng sưng tấy, đau nhức không chịu nổi, nhiều ngày không ngủ được, các thầy thuốc chữa mãi không chuyển. Ngày 4/6, tức 45 hôm sau khi khai quật, Kanaphông qua đời. Hôvớc tiếp tục tiến hành các bước còn lại. Ông thấy chiếc quan tài rất lớn còn chứa bên trong ba cái quách nhỏ, khảm ngọc ngà, cái trong cùng bọc sợi kim tuyến ra, thì đó chính là xác ướp của Tulankhamun, dung mạo tươi tắn như đương ngủ, lạ lùng thay, trên mặt hoàng đế có một vết hệt như vết con côn trùng nọ đã đốt huân tước. Ngẫu nhiên hay tất nhiên? Không ai giải thích nổi. Điều đáng ngạc nhiên nữa là: sau đó 1 năm, toàn bộ những người tham gia khai quật đều lần lượt qua đời hết. Người thì bảo: Người Ai Cập chứa uranium trong hầm mộ, dùng tia phóng xạ để trừ khử những người dám xâm phạm đến nơi an nghỉ của các Pharaông. Lại có người bảo: người Ai Cập cổ đã dự trữ một bộ độc tố sau nhiều thế kỷ mới phát bệnh để nghiêm trị những tên đào bới mộ cổ. Nhưng cả hai cách giải thích ấy, chưa cách nào được nhiều người tán thành. Được biết, đối với khu đền Đế Thiên Đế Thích (Ăngko Thom và Ăngko Vát bên Campuchia) cũng có tình hình như vậy: các nhà thám hiểm người Pháp đều bỏ mạng sau cuộc phát hiện lịch sử. Dường như người xưa tỏ ra rất thiêng trong sự bảo vệ những công trình thần bí của mình. Hiện nay người ta chưa lý giải được hiện tượng bí ẩn đó.
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 14:59:00 GMT 9
Điều khiển người khác bằng ý nghĩ - Bancăng là vùng đất có nhiều người có tài ngoại cảm. Nổi bật trong số những người có khả năng đặc biệt ấy là ông Brancô Milôevis, 65 tuổi, nước CH Checnôgôrie. Hồi còn nhỏ, khi đi chăn cừu, cậu bé Brancô chỉ cần đưa mắt, không cần ra lệnh bằng lời mà cả đàn đã tuân theo răm rắp. Trong chiến dịch không kích kéo dài chống Nam Tư của máy bay Mỹ và NATO cách đây mấy năm, tài ngoại cảm của ông đã phát huy tác dụng tối đa để phục vụ đồng bào mình. Các nhà quân sự đem đến bản đồ yêu cầu ông chỉ ra những nơi mà đối phương sẽ oanh kích. Đại đa số những chỉ dẫn, báo trước của ông đều chính xác. Nhiều lần ông báo cho người dân không nên ẩn nấp dưới các cây sồi to. Quả nhiên chỉ ít lâu sau, bom ném xuống đã chặt đổ những cây đó. Vào thời bình, tài ngoại cảm của ông già Brancô tốt bụng được sử dụng chủ yếu vào việc tìm người lạc, súc vật, đồ trang sức quý bị mất. Để chỉ ra chính xác người hay vật báu hiện đang ở đâu, ông cần các đồ vật liên quan. Một lần, một người dân ở thị trấn bên cạnh nhờ ông tìm hộ chiếc ô tô bị mất. Cả tấm ảnh ô tô chủ nhân cũng không giữ được. Ông Brancô hỏi: “Vậy còn vật gì liên quan đến chiếc ô tô ấy không?”. Người mất ô tô dẫn ông xuống nhà kho và chỉ vào chiếc ghế da cũ, nói: “Đây là ghế của nó, tôi đã thay bằng chiếc khác mới hơn!”. Ông Brancô ngồi phịch xuống, rồi nói rất tự tin: “Chiếc xe của anh đã bị kẻ gian sơn mầu xanh nhạt, hiện nó đang ở tại một trạm bảo dưỡng tư nhân. Anh có thể nhớ thêm một vài đặc điểm của xe mình?”. “Phía trên nóc xe có chỗ hơi bị bẹp do một khúc gỗ rơi vào. Tôi đã cho sửa, nhưng từ bên trong xe có khi vẫn có thể thấy vết bẹp cho dù đã sơn lại”. Với đặc điểm đó cảnh sát đã đến. Trước những bằng chứng không thể chối cãi, kẻ gian đã nhận tội. Ông Brancô không được học đại học, cả đời làm nghề thợ mộc để kiếm sống, ngược lại ông đọc rất nhiều sách, đặc biệt những cuốn về những bí ẩn tâm lý và nhận thức ở con người. Về khả năng đặc biệt của mình ông có suy nghĩ riêng. Theo ông, vật lý về cơ thể sống là một chương trình đặc biệt bắt nguồn ngay từ giai đoạn thai nhi. Ví như nhấc bổng một vũ nữ balê 50kg sẽ dễ dàng hơn nhiều so với nhấc một bao khoai tây với trọng lượng ấy. Có nhiều người cho dòng điện cao thế đi qua cơ thể mình mà vẫn như không. Theo ông, ý nghĩ ở con người cũng là một đại lượng vật lý mà các nhà khoa học chưa đo được đơn vị như đo trọng lượng hay sức kéo. Do chưa đo được, chưa nghiên cứu đến đầu, đến đũa nên chưa biết sử dụng. Đầu tháng 12/2005, ngay trong làng, một người đàn ông, sau khi đi dự đám cưới ở làng bên cạnh về, đã gây sự với vợ. Nghe tiếng phụ nữ kêu cứu, Brancô đẩy cổng bước vào giữa lúc người chồng say rượu túm lấy vợ bằng chiếc ga trải giường vẫn còn ướt và đang thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Ông trừng mắt nhìn tên vô lại làm lập tức hắn phải ngừng tay. Ông nhìn thêm mấy giây nữa, tên kia rú lên, tay đau đến tê dại, người vợ tuột ra khỏi tay hắn. Rồi một điều kỳ diệu nữa: Tấm ga trải giường lúc nãy còn ướt nay đã khô cong. Tài ngoại cảm và khả năng sai khiến người khác bằng ý nghĩ chứ không phải mệnh lệnh bằng lời nói của cụ Brancô thực sự là hiện tượng thú vị, từ lâu đã lôi cuốn sự quan tâm chú ý của giới khoa học các quốc gia khu vực Bancăng. Nhiều lần Hội đồng Khoa học Viện Chăm sóc bảo vệ sức khỏe thuộc ĐH Tổng hợp Bengrát đã mời ông lên đối thoại và tham gia thử nghiệm, nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm được lời giải thích thỏa đáng dựa trên các luận chứng khoa học chắc chắn. Trịnh Văn Quý
|
|