|
Post by Can Tho on Dec 11, 2006 5:34:51 GMT 9
Nguời cổ Đông Nam Á Nguyễn Đức Hiệp (1) Đông Nam Á, thời băng hà - Đất tổ của người AustroAsiatic, Austronesian Thời kỳ địa chất Cenozoic, cách đây 65 triệu năm cho đến ngày nay, là thời kỳ động vật có vú và chim bắt đầu. Thời địa chất Cenozoic gồm có hai kỷ - kỷ thứ ba (Tertiary) và kỷ thứ tư (Quaternary) — Trong 2 kỷ này gồm có 7 kỷ nguyên (epochs). Kỷ thứ ba có 5 kỷ nguyên Paleocene, Eocene, Oligocene, Miocene, và Pliocene và Kỷ thứ tư chỉ gồm hai kỷ nguyên, thời kỳ Pleistocene và Holocene. Con người bắt đầu xuất hiện vào thời kỷ nguyên Pleistocene, nhưng chỉ bắt đầu có ảnh hưởng to lớn đến môi trường sống trên trái đất vào đầu thời Holocene cách đây gần 12000 năm. Kỷ thứ ba (Tertiary) Paleocene : 65-57 triệu năm trước Eocene : 57-34 triệu năm trước Oligocene : 34-23 triệu năm trước Miocene : 23-5 triệu năm trước Pliocene : 5-2 triệu năm trước Kỷ thứ tư (Quarternary) Pleistocene : từ 2 triệu năm đến 13,000 năm trước đây Holocene : 12,000 năm trước đây đến ngày nay Tiến bộ then chốt nhất về khoa học trái đất là sự khám phá trong thập niên 1990 khí hậu địa cầu trong quá khứ 100000 năm đã qua: từ thời băng hà cuối của kỷ nguyên Pleaistocene đến thời Holocene ngày nay. Dữ kiện khoa học về thời tiết và nhiệt độ nước biển đã được biết qua các nghiên cứu các lớp san hô, những mẫu phù sa, các tầng nước đá ở Bắc cực trước đây trong nhiều ngành khoa học khác nhau. Nhưng chỉ hơn 15 năm gần đây, qua sự tổng hợp và các hợp tác nghiên cứu liên ngành để giải thích các sự kiện lịch sử con người trong quá khứ cũng như tiên đoán khí hậu môi trường sống trên trái đất trong tương lai, các nhà khoa học đã cấu tạo lại các dữ kiện khí hậu xưa kia trên trái đất rất chi tiết cho đến các đây hơn 100,000 năm để làm nền tảng cho các nghiên cứu sau này. Quan trọng nhất là qua các lớp nước đá lấy ở đảo Greenland gần bắc cực từ trên mặt băng xuống sâu đến tận đất, các nhà khoa học dùng tỉ lệ đồng vị oxygen 18 và oxygen 16 để kiến tạo lại nhiệt độ trong khoảng 120000 năm cách đây, cho thấy thời kỳ Holocene, khi thời kỳ băng hà cách đây 12000 năm chấm dứt, là thời kỳ mà sự thay đổi khí hậu nhiệt độ ít biến động và thay đổi với mực độ không to lớn so với thời băng hà ở kỷ nguyên Pleistocene. Thời kỳ băng hà này có nhiều sự thay đổi lớn lao đột ngột qua giai đoạn ấm rồi trở lai lạnh (xem Hình 2c). Những biến động từ lạnh đến ấm trong thời băng hà được gọi là biến động Dansgaard-Oeschger, và ngược lại từ ấm đến lạnh là biến động Heinrich. Trong giai đọan chuyển tiếp từ thời băng hà đến Holocene lúc nhiệt độ tăng và ấm trong một thời gian thì thình lình cách đây 12000 năm, nhiệt độ giảm mạnh thay đổi khí hậu trở lại lạnh như trong thời băng hà. Thời kỳ này các nhà khoa học khí hậu gọi là Young Dryas. Đây cũng là lúc con người phải sống dựa vào thực vật, bước ra khỏi thời đá cũ và canh nông ra đời. Sau thời Young Dryas rất ngắn, khí hậu trở lại ấm và đi vào kỷ nguyên Holocene ngày nay. Vào thời Holocene, cách dây khoảng 8200 năm (6200BC), hơn 3000 năm sau Young Dryas, nhiệt độ bổng nhiên tụt xuống lạnh trong vòng 60 năm, làm vùng Mesopotamia (gần Iraq ngày nay) bị hạn hán tàn phá canh nông. Đa số con người phải bỏ đi, xuôi theo sông Tigris và Euphrate xuống hạ lưu gần vịnh Ba Tư và từ đó canh nông dẫn nước ra đời. Và cách đây 4200 năm (2200BC), sự thay đổi khí hậu đột ngột đã làm vùng Sahara xanh tươi, ẩm và ấm trở thành sa mạt và nền văn minh Harappa, ở lưu vực sông Ấn hà (Indus), cũng như nhiều đế quốc và triều đại ở Cận đông và Ai Cập biến mất. Hình 1 - Ảnh vệ tinh vùng Đông Nam Á dưới độ sâu 100m của thềm lục địa Hình 2a - Độ dâng nước biển cuối thời Pleistocene đến ngày nay Hình 2b - Độ dâng nước biển thời Holocene đến ngày nay Hình 2c - Nhiệt độ ở giữa đảo Greenland trong 100000 năm vừa qua, tái tạo từ sự đo nồng độ oxygen và đồng vị oxygen 18 trên tầng nước đá lấy được trong chương trình nghiên cứu GISP2 giữa thập niên 1990 (8). Để ý là trong thời kỳ băng hà cuối Pleistocene, có nhiều biến động thay đổi khí hậu đột ngột lên xuống bất thường, biến động ấm Dansgaard-Oeschger, và ngược lại từ ấm đến lạnh (biến động Heinrich). Giai đoạn cuối trước khi vào thời Holocene cách đây khoảng hơn 12000 năm, từ ấm thình lình chuyển đến thời kỳ lạnh goi là Young Dryas (YD), là lúc con người bắt đầu thuần hóa thực vật bước vào thời kỳ canh nông. (a) Địa lý - Động vật và thảo vật Cả vùng biển hiện nay từ nam mũi Cà mau, vịnh Thái Lan đến các eo biển giữa các đảo Sumatra, Borneo, Java đều rất nông cạn và được gọi là thềm Sunda (Sunda shelf). Trong thời kỳ băng hà Pleistocene từ cách đây 20000 đến 18000 năm, thềm Sunda còn ở trên mặt nước biển. Lúc nước biển còn thấp (từ 100m đến 150m dưới mực nước hiện nay) thì phần lớn thềm lục địa ở biển Đông và cả vùng vịnh Thái Lan, nam Việt Nam nối dài với bán đảo Mã Lai vẫn còn là đất liền trên mực nước biển hiện nay và các đảo lớn ở Nam Dương, như Sumatra, Java, Borneo, Bali .. còn gắn liền với lục địa Á châu. Hình 1 chụp từ vệ tinh cho thấy rõ thềm Sunda nối với các đảo tạo thành Sundaland gắn liền với lục địa Á châu. Vết tích của thời kỳ này còn có thể tìm thấy được qua sự nghiên cứu về sự phân phối ở các động vật trên các vùng ở Đông Nam Á. Tê giác 1 sừng, Rhinoceros sondaicus, trước đây không lâu (đầu thế kỷ 20) có ở các vùng trải dài từ Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam, Cam Bốt, bán đảo Mã Lai, Sumatra và Java. Ngày nay, do sức ép và sự bành trướng của con người ảnh hưởng đến môi trường sống, chúng chỉ còn ở Java và một ít ở Việt Nam thuộc khu vực rừng quốc gia Nam Cát Tiên, Lâm Đồng. Cũng vậy, tê giác 2 sừng loại Sumatran rhino (Dicerorhinus sumatrensis) hiện hữu sống phân phối từ Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, đảo Sumatra và Borneo. Loài Orang Utan (“người rừng”), hiện nay vẫn còn ở rừng nhiệt đới nóng ẩm Sumatra và Borneo, cho ta thấy là khi Borneo còn gắn liền với Sumatra và lục địa Á châu, chúng đã đi lại qua các vùng nhiệt đới xích đạo ở hai nơi (1). Lạ hơn là giống Orang Utan ở Tây Nam Borneo và Sumatra rất gần gụi giống nhau hơn là giữa Orang Utan phía Tây Nam Borneo và các nơi khác trên cùng đảo Borneo. Thêm một sự kiện nữa là các giống cá ở sông Kapuas, phía tây Borneo hầu như giống y như các loài cá ở các sông phía đông đảo Sumatra mà lại rất khác với các giống cá ở sông Mahakam phía đông Borneo cách sông Kapuas qua một rặng núi mà thôi. Điều này cho thấy xưa kia sông Kapuas và các sông đông Sumatra cùng chung một lưu vực (catchment) nối liền hai đảo Sumatra và Borneo hiện nay. Cũng vậy loài voi hiện diện ở khắp vùng Nam lục địa Á châu từ Sri Lanka, Ấn độ, Miến Điện, Thái Lan, Nam Trung Quốc (Vân Nam), Đông Dương, Mã Lai đến các đảo hiện nay Sumatra, và Borneo. Loại voi, Elephas maximus sumatranus, ở đảo Sumatra và Borneo giống như loài Elephas maximus maximus ở Sri Lanka và Elephas maximus indicus ở Ấn độ và các nơi khác. Các dữ kiện trên cho thấy Sundaland trước thời biển tiến là vùng đất lớn nối các đảo Đông Nam Á với lục địa Á châu cho phép các loại động vật đi lại phát tán trên vùng này. Con người cũng đã đi đến lục địa Úc châu từ Đông Nam Á và Sundaland qua các eo biển hẹp ngăn cách Úc với Sundaland. Con người đã đến Úc cách đây hơn 50000 năm, sớm nhất từ Phi Châu. Vào thế kỷ 19, nhà sinh học Wallace đã quan sát, nghiên cứu các động vật ở các đảo Indonesia. Ông tìm thấy có 48 loài động vật giống nhau ở bán đảo Mã Lai, đảo Sumatra, Borneo và Java. Trong số này có 7 loài vượn khỉ là những động vật sống trong rừng, không bao giờ lội và chắc chắn không thể vượt qua 1 dặm nào ở biển; 19 loài thú săn, một vài trong số này có thể vượt biển bằng lội, nhưng chúng ta không thể nói rằng có nhiều loài trên vượt qua được các eo biển từ 30 đến 50 dặm cách xa hai bờ (trừ 1 eo), và 5 loài thú có sừng, ngà, gồm loài tapir, 2 loài tê giác và 1 loài voi (đã đề cập như trên). Ngoài ra còn có 13 loài chuột, 4 loại ăn bọ, gồm có chuột chù (shrew-mouse) và 6 loại sóc mà sự vuợt biển qua 20 dặm còn khó cho ta có thể tưởng tượng hơn là các loài thú lớn hơn. Điều trên cho thấy là trước đây đã có thời kỳ các đảo này nối chung với lục địa Á châu. Trái lại đảo Celebes và các đảo xa hơn băng qua đường gọi là “đường Wallace” (Wallace line) chạy qua giữa biển của hai đảo Borneo và Celebes đã không nối với lục địa Á châu trong thời băng hà đã qua trước đây. Vì độ sâu ở biển giữa đảo Celebes (Sulawesi) và Borneo rất sâu, nên ngay cả khi mực nước biển thấp hơn hiện nay hơn 100m, eo biển vẫn còn là biển chia cách hai đảo. Đảo Celebes từ 160 triệu năm tách rời từ lục địa cổ Gondwana (cũng như Madagascar tách rời Phi Châu trong khoảng thời gian này). Vì thế Celebes biệt lập từ lâu đời và nơi đây có nhiều loài thú đặc biệt khác với Á châu và không nơi nào khác chung quanh vùng có như loài khỉ Tarsier spectrum (giống con lemur ở Madagascar), một loại khỉ nhỏ khoảng 10cm và đuôi dài 20cm, và một loài thú lạ kỳ giống loài heo mà ta thường biết gọi là Babirusa. Cả hai tương tự như các loài sống ở Phi châu hơn là Á châu. Heo Babirusa đặc biệt có răng nanh hàm trên cong vòng gần đến mắt, giống như ngà voi. Hình dáng bên ngoài giống như hà mã. Thật ra loài liên hệ gần giống với heo Babirusa là loài tổ tiên của hà mã sống cách đây 30 triệu năm được tìm thấy trong các hóa thạch ở bắc bán cầu. Hoá thạch của con hà mã sơ khai (Merycopotamus) đã được tìm thấy ở Siwalik, Ấn độ. Đây có thể là tổ tiên của loài heo Babirusa hiện nay. Sống biệt lập hàng triệu năm, heo Babirusa đã tiến hóa ở đảo Celebe đến một dạng không giống loài heo nào trên thế giới. Ở đảo Celebes, nếu không tính các loài dơi, thì các loài thú vật có vú hoàn toàn 100% chỉ nơi đây mới có (endemic), hơn cả Úc châu, lục địa đảo đặt biệt cũng chưa có số lượng như vâ.y. Ngoại trừ trường hợp đặc biệt của đảo Celebes, thì nói chung đường Wallace chạy dài ngăn chia từ giữa đảo Bali và Lombok lên giữa Borneo và Celebes và là ranh giới động thực vật giữa Á châu và Úc. Phía bên trái là các đảo Bali, Java, Borneo, Sumatra. Phía bên phải là các đảo Celebes, Flores, Timor, Lombok, Sumba và các đảo trong quần đảo Moluku gần New Guinea và Úc. Cũng như đảo Celebes, trên đảo Flores có nhiều đông thực vật khác với các đảo bên trái đường Wallace: có loài voi nhỏ Stegodon sondaari lớn bằng con trâu nước đã tuyệt chủng, và vào năm 2004 đã tìm thấy hài cốt của người xưa bé lùn (homo floresiensis) mà giới khoa học nhân chủng và khảo cổ đã nghiên cứu tranh luận xôn xao gần đây.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 11, 2006 5:38:47 GMT 9
(c) Con người Trước khi biển tiến cách đây 14,000 năm thì thềm Sunda vẫn còn trên mực nuớc biển, nối liền lục địa Á châu với các đảo Sumatra, Borneo, Java. tạo thành Sundaland cho phép người cổ Đông Nam Á phân tán và đi qua các “cầu đất liền” trên vùng rộng lớn này. Thời đá cổ (Paleolithic) và đá mới Tiến bộ của khoa học di truyền gần đây cho thấy con người hiện đại đã khởi xuất từ Đông Phi qua nhiều đợt di cư đã đến Á châu, Trung Đông và phát tán đi đến các nơi khác. Đợt di cư đầu tiên trong thời kỳ đầu băng hà là dọc đường biển nam Arabia, Nam Ấn Độ (ghé các đảo Andaman, Nicobar hiện nay ở Ấn Độ Dương gần Miến Điện) đến Đông Nam Á và đến Úc châu. Người thổ dân Úc châu hiện nay là các giống dân lâu đời, cũng như người Dravidian (Nam Ấn), người Melanesian ở Guinea, người Orang Asli trong rừng ở bán đảo Mã Lai và các giống bộ lạc còn sót lại trong rừng rậm ở các đảo Andaman như các bộ lạc người Jarawa, Onge. Nghiên cứu di truyền về các tộc trên cho thấy họ là những giống người cổ ở Á châu vẫn còn sống trong rừng khi người thời đá mới với kỷ thuật canh nông xuất hiện sau này (10). Ngôn ngữ của họ thuộc loại ngôn ngữ cổ Indo-Pacific. Người thổ dân Andaman lùn đen, giống người pygmie ở Phi châu và các thổ dân negritos Orang Asli như Semang, Aeta, Boloven ở rừng rậm Mã Lai và Phi Luật Tân. Hiện nay còn rất ít chỉ dưới 500 người, họ là hậu duệ của người cổ thời đá cũ. Nghiên cứu di truyền học gần đây cho thấy sự liên hệ của họ với các giống thổ dân ở Úc châu hiện nay. Về hình dáng bên ngoài, khó có thể phân biệt và ta thấy sự giống nhau rất nhiều giữa người Semang với người thổ dân Úc hiện nay. Hình 2 – Người Jarawa (thổ dân đảo Andaman) và nơi trú ngụ. Hình 3- Người Semang ở bán đảo Mã Lai rất giống thổ dân Úc Hình 4 - Người đảo Nicobar và người Semoi, ở thung lũng Talun, Mã Lai (1932) Một bộ xương hầu như còn nguyên vẹn đã được tìm thấy tại một di chỉ gọi là Gua Gunung Runtuh ở Mã Lai vào đầu thời kỳ Holocene. Phân tích bộ xương này cho thấy xương rất giống thổ dân Úc ngày nay ở hình thái răng và chân tay (3), và giống những mẫu sọ người ở thời kỳ Mesolithic (đá trung kỳ) ở Mã Lai và đảo Flores. Sự khám phá này, cùng với các xương tìm thấy ở Tabon và Niah, cho thấy những người cổ ở Sundaland trong thời Pleistocene muộn có thể là tổ tiên của người thổ dân Úc hiện nay. Các đặc tính qua đo lường ở răng và xương chân ở người cổ Sundaland cho thấy các đặc tính này vẫn còn thấy ở các dân cư trong vùng Đông Nam Á cho đến đầu thời kỳ Holocene. Tuy vậy các khác nhau ở đặc tính về sọ đã được tích tụ từ cuối thời kỳ Pleistocene ở thổ dân Úc và các dân cư đầu tiên vùng Đông Nam Á so với các sọ cổ Sundaland. Cách đây từ khoãng 20000 đến 10000 năm, những giống dân cư này bắt đầu toã ra đi đến cư ngụ ở vùng thượng du phía bắc và nam Đông Nam Á. Từ đó trong những môi trường mới, họ bắt đầu thuần hóa các cây quả và thú vật lần lần một cách có hệ thống. Sự kết hợp đời sống đánh cá với hái lượm trong rừng, và sự vun xới các cây như cây đậu, đã cho phép họ thiết lập được đời sống vĩnh viễn, không đi đâu xa, ở các hang, chủ yếu là gần nguồn nước; đây là cách sống lần lần được các nhóm khác, sống trãi rộng trong khắp vùng, tiếp thu và thâu nhận. Văn hóa của những nhóm người này được gọi là văn hóa Hòa Bình, do sự khám phá các di chỉ có cùng đặc tính chung vào đầu thế kỷ 20 đầu tiên ở tỉnh Hòa Bình, Việt Nam. Sau này các di chỉ tương tự được khám phá ở nhiều nơi khác trong vùng Đông Nam Á. Các đặc tính chung mà ta có thể thấy được về kỹ thuật, tập quán và đời sống hàng ngày trước đây và cho đến tận ngày nay của nhiều sắc dân ở Đông Nam Á. Năm 1933 là năm mà bà M. Colani, nhà thực vật học và khảo cổ Pháp, đã khám phá ở các hang đá vôi và hầm ở tỉnh Hòa Bình là các nơi trú ngụ của người xưa với các dụng cụ đá sỏi dẻo thô sơ. Bài báo cáo khoa học của Colani trên tạp chí của trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp đã đưa ra ánh sáng đầu tiên của văn hóa cổ gọi là “Hòa Bình”. Hang Con Moong, một di tích khảo cổ phát hiện vào năm 1977, trong vườn quốc gia Cúc Phương, cho thấy người Hòa Bình đã cư ngụ lâu đời trong hang với nhiều dụng cụ đá đẻo và các xương động vật như sóc, khỉ, chó, heo, tê giác, bò (rừng), hưu và các võ sò, trai, ốc. Người Hòa Bình là ai?. Trong hang Con Moong còn tìm thấy nhiều hài cốt, đa số xương đã mũn nát, nhưng còn một bộ với răng sọ, cho thấy chủng tộc là Australoid negrito (6). Tại đây đã phát hiện các tầng văn hóa (5) chia ra như sau: tầng trên là văn hóa Hòa Bình III, tiếp nối với văn hóa Bắc Sơn, có rìu mài lưỡi và gốm, tầng kế dưới là văn hóa Hòa Binh II cổ điển mà Colani đã phát hiện và mô tả và tầng cuối cùng là văn hóa Hoà Bình I với công cụ đá đẻo rất thô sơ có nhiều đặc trưng của nền văn hóa Sơn Vi. Vì thế nhà khảo cổ Phạm Huy Thông đã cho rằng văn hóa Hòa Bình nảy sinh từ nền văn hóa củ hơn, nền văn hóa Sơn Vi. Tổng hợp các dữ kiện trên có thể cho ta kết luận là người Andaman, Orang Asli (negritos) ở Mã Lai, Phi Luật Tân và thổ dân Úc là hậu duệ không thay đổi nhiều qua thời gian của những người cổ ở Sundaland và chủ nhân của văn hóa Hòa Bình là cư dân về hình thái giống như hay có liên hệ rất gần với các giống dân trên. Cách đây khoảng 14000 năm, mực nuớc biển tăng lên ở cuối thời kỳ băng hà đã cắt đứt các “cầu” đất liền nối các đảo ở phía nam Đông Nam Á với lục địa Á châu. Và qua đó đã làm tăng nhanh quá trình phân hóa và cách ly giữa các văn hoá bản sứ trong vùng đã bắt đầu phát triển, nhất là ngôn ngữ. Tuy vậy sự kiện xảy ra sau đó không phải là một thời kỳ của sự cách ly xa dần của các nhóm mà là sự phát triển cùng thời của các văn hóa bản sứ này dựa trên một nền tảng chung có cốt rễ là văn hóa Hòa Bình thích ứng với điều kiện riêng ở mỗi địa phương, cộng với sự truyền đạt ý tưởng và kỹ thuật đã cho phép các phát minh tỏa ra trong một vùng địa hình thiên nhiên. Trong thời kỳ mà Wilhem Soldheim gọi là “thời kỳ phát tỏa” cách đây từ khoảng 10000 đến 2000 năm, đã xảy ra ở Đông Nam Á sự phát triển của hầu như tất cả nhu liệu mà ta có thể gắn liền với từ ngữ “văn minh”, không có liên hệ hay du nhập các sáng chế từ bên ngoài vào. Trong thời kỳ này, heo bò và gà vịt đã được thuần hóa và lúa đã bắt đầu được trồng. Ở các vùng gần biển, hay dọc theo các sông rạch, nghề hàng hải bắt đầu từ sự sáng chế ra thuyền có mái chèo. Và người Đông Nam Á đã vượt biển đi xa đến tận Nhật, Melanesia, Ấn Độ, và đảo Madagascar ở bờ biển phía đông Phi Châu. Kỹ thuật văn hóa Hòa Bình hiện diện ở nhiều nơi ở Đông Nam Á lục địa, ngoài hang ở Hòa Bình, Con Moong còn có thể thấy ở các hang Pha Chang, Moh-Kiew, Lang Rongrien và Lang Kannam ở Thái Lan. Trong hội nghi kỷ niệm 60 năm Colani khám phá di chỉ và văn hóa Hòa Bình năm 1993 ở Hà Nội, các học giả Trung Quốc cũng trình bày những địa điểm khảo cổ ở Nam Trung Quốc có dấu vết của văn hóa Hòa Bình. Người Hòa Bình đã đến xuống đồng bằng Bắc Việt định cư dọc sông ngòi và bờ biển. Trong khoảng 20000 năm, ho đã tiến hóa song song và có liên hệ với các dân cư khác ở Đông Nam Á hải đảọ Trước khi biển tiến thì Đông Nam Á hải đảo vần còn nối liền với lục địa, miền nam Việt Nam hiện nay và Cam Bốt còn nối với Borneo cũng như vịnh Thai Lan còn là đồng bằng mênh mông. Biển tiến bắc đầu cách đây 15000 năm mà cao điểm là 14,500 chỉ trong vòng một thời gian ngắn khoảng 300 năm, mực nước biển lên nhanh khoảng 20m đến mực độ cao cách độ cao hiện nay khoảng 80m gần như nhận chìm thềm Sunda (pulse 1A) (7). Thềm Sunda bị chìm hoàn toàn cách đây khoảng 8000 năm. Lúc bắt đầu thời kỳ biển tiến, người Đông Nam Á dọc bờ biển và sông đã tiến hóa qua môi trường khác với người cổ vẫn còn trong rừng rậm sống hái lượm. người ở đồng bằng vịnh Bắc bộ, Trung Việt, Borneo (như người Dayak), bán đảo Mã Lai, Sumatra, Java đã có sự liên hệ về nhân chủng và văn hóa. Cách đây khoảng 12000 năm vẫn trong thời kỳ biển tiến, thời tiết trên thế giới thình lình trở lại lạnh, khô kéo dài 1300 năm trước khi trở lại ấm bình thường. Hiện tượng khí hậu này gọi là Young Dryas (tên của một loài cây thuộc họ hồng, hoa trắng sống trong môi trường núi rất lạnh khô cằn, đã để lại dấu vết trong các lớp địa chất) đã làm cuộc sống xã hội loài người thay đổi hoàn toàn, buộc một số phải đi xa sinh sống và còn lại sinh sống bằng canh nông, thuần hóa thú vật. Đây cũng là thời kỳ canh nông và thuần hóa súc vật xuất hiện đầu tiên ở xã hội người vùng Cận Đông. Hiện nay chúng ta chưa biết được cuộc sống của người Hòa Bình đã thay đổi như thế nào trong thời kỳ Young Dryas. Trong một nghiên cứu di truyền mới nhất (9) về sự liên hệ của người cổ thổ dân negrito ở bán đảo Mã Lai với các giống dân hiện nay ở Đông Nam Á và Đông Á. Qua phân tích mitochondria DNA (mtDNA) từ mẫu tóc của người negrito ở Mã Lai trong bộ sưu tập Duckworth Collection và các nhóm người khác cho thấy lúc đầu họ chỉ trong phạm vi tây nam Trung quốc, bán đảo Đông Nam Á và Indonesia nhưng sau đó họ đã phát tán nhanh chóng khắp Đông Nam Á vào giữa cuối thời băng hà và thời Holocene đá mới cách đây 13000 năm.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 11, 2006 5:41:06 GMT 9
(2) Đông Nam Á sau biển tiến Sau biển tiến một thời gian khoảng 10000 năm, Đông Nam Á bắt đầu vào thời đại đồng cách đây gần 2500 năm, gọi là thời kỳ Đông Sơn. Đây cũng là thời kỳ Hùng Vương dựng nước trong lịch sử Vi ệt Nam. Thời kỳ Đông Sơn là thời kỳ mà dân tộc Lạc Việt và các nhóm Bách Việt khác ở nam sông Dương Tử đã đạt đến trình độ văn minh cao mà trống đồng là những di vật tiêu biểu. Người Đông Sơn là ai ? Hình 5 - Hai ảnh bên trái là bộ mặt của một người đàn ông Đông Sơn khoảng 40 tuổi và hai ảnh phải là của một phụ nữ Đông Sơn khoảng 17 tuổi Năm 2002, ở làng Đông Xa, tỉnh Hưng Yên, một di chỉ khảo cổ đã được khai quật bởi các nhà khảo cổ Úc và Việt Nam (từ Trung tâm Nghiên cứu Tiền sử Đông Nam Á). Ở di chỉ này, đã tìm được các mộ chứa hài cốt và di vật chôn theo của người xưa Nhà nhân chủng học và khảo cổ Việt Nam Nguyễn Văn Việt, học trò của nhà sử học nổi tiếng Hà Văn Tấn, chuyên về kiến tạo lại gương mặt người qua xương sọ. Ông Việt học từ Đan Mạch các khóa học nắn đúc dùng đất sét và để tái tạo lại gương mặt từ xương sọ, ông dùng phương pháp của nhà nhân chủng học người Nga Mikhail Gerasimov mà ông đã học và được biết trước đây. Việt là người đầu tiên ở Việt Nam dùng xương sọ để kiến tạo lại gương mặt người xưa. Hình 5 cho thấy bộ mặt của hai người Đô ng Sơn mà ông đã tái tạo. Công trình của ông đã gây nhiều thảo luận trong giới nghiên cứu khảo cổ và nhân chủng học ở Việt Nam. Nguyễn Lan Cường nhà khảo cổ nghiên cứu về văn hóa Hòa Bình và Đông Sơn trước đây (6) cho rằng phưong pháp tính toán cơ mặt của ông Việt vẫn còn có nhiều sai số. Tuy vậy ông Cường nói sẽ tiếp nối công việc của Việt trong vài năm tới để tái tạo lại gương mặt và chủng tộc của người Hòa Bình sống cách đây 10000 năm. Lời kết Hiện nay chưa ai tái tạo lại hình ảnh người Hòa Bình qua một số rất ít xương sọ tìm được nguyên vẹn vì phần lớn đã bị mũn. Tôi hình dung người Hòa Bình qua các người của các bộ lạc sống biệt lập trong rừng còn sót lại ở Đông Nam Á và người liên hệ là thổ dân Úc. Tôi sống ở Úc đã lâu và có nhiều cơ hội gặp và tiếp xúc vớI thổ dân Úc. Tôi còn nhớ lúc còn là sinh viên cách đây hơn 25 năm, cả trường đại học Sydney chỉ có một sinh viên gốc thổ dân duy nhất trong số hơn 10000 sinh viên. Hiện nay thì đã có nhiều tiến bộ về tình trạng thổ dân trong xã hội so với trước đây nhưng vẫn còn khoảng cách khá lớn về mức sống . Đa số ít có cơ hội tiến thân trong xã hội. Ở đ ảo Tasmania (một tiểu bang của Úc), họ đã bị tuyệt chủng từ cuối thế kỷ 19. Mặc dầu có nhiều bộ lạc khác nhau, nhưng trên toàn lục địa thổ dân hầu như không khác nhau và không thay đổi nhiều trong 50000 năm qua. Họ là người cổ nhất, nhóm người đầu tiên đến từ Phi châu dọc theo ven biển Arabia, Ấn Độ, và Sundaland. Xương tìm thấy ở di chỉ khảo cổ hồ Mungo (nay đã cạn) được định tuổi là hơn 50000 năm, cổ hơn tất cả các xương người hiện đại đã tìm thấy ở Đông Nam Á. Sự thuần chủng của ngư ời thổ dân Úc và mối liên hệ của họ với người đảo Andaman và người còn sống trong rừng ở Mã Lai và Phi Luật Tân cho ta nhận diện chung về hình ảnh của người “Hòa Bình” xưa, tổ tiên của nhiều dân tộc ở Đông Nam Á và Nam Trung quốc. Tham khảo (1) Penny van Oosterzee, “Where worlds collide - The Wallace line”, Reed Books Australia, 1997. (2) Vietnam news Agency, Ancient faces brought to life, 14/08/2005, vietnamnews.vnagency.com.vn/showarticle.php?num=01SUN140805(3) Hirofumi Matsumura , Majid Zuraina, Metric analyses of an Early Holocene human skeleton from Gua Gunung Runtuh, Malaysia, Am J Phys Anthropol 109:327-340, 1999. (4) Nguyễn Khắc Sử, Hang Con Moong-Giới thiệu và nhận xét, Khảo Cổ Học, tr. 26-35, số 2(22), 1977. (5) Nguyễn Huy Thông, Hang Con Moong-Một phát hiện khảo cổ học đáng chú ý ở Việt Nam, Khảo Cổ Học, tr. 36-43, số 2(22), 1977. (6) Nguyễn Lan Cường, Di tích người cổ, Khảo Cổ Học, tr. 24, số 2(22), 1977. (7) T. Hanebuth, K. Stattegger, P. M. Grootes , Rapid Flooding of the Sunda Shelf: A Late-Glacial Sea-Level Record, Science 12 May 2000, Vol. 288. no. 5468, pp. 1033 – 1035. (8) J. Cox, Climate Crash: Abrupt Climate Change and What It Means for Our Future, JHP Press, 2005. (9) F. Ricaut, M.Bellatti, M. Lahr, Ancient mitochondrial DNA from Malaysian hair samples: Some indications of Southeast Asian population movements, Am J Hum Biol. 2006 Sep-Oct;18(5):654-67. (10) K. Thangaraj, L. Singh et al, Genetic Affinities of the Andaman Islanders, a Vanishing Human Population, Current Biology, Volume 13, Issue 2 , 21 January 2003, Pages 86-93
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 3:39:12 GMT 9
Lâm Ấp, Champa và di sản Vietsciences-Nguyễn Đức Hiệp Trong chuyến về lại Việt Nam vào đầu năm 2004, tôi có dịp viếng thăm miền trung Việt Nam chủ yếu là ở ba thành phố chính: Huế, Đà Nẵng và Hội An. Huế thơ mộng đượm nét Việt Nam, Hội An cổ kính với nhiều ảnh hưởng của văn hoá Hoa kiều (Minh Hương), và Đà Nẵng thì lại mới mẻ và năng động. Có lẽ đa số khách du lịch sẽ chọn Huế hay Hội An là địa điểm đáng thăm nhất qua bề dầy lịch sử và nét cổ kính của hai thành phố này. Nhưng chính Đà nẵng là nơi tôi chú ý hơn vì ở đấy có Viện bảo tàng văn hoá Chăm chứa đựng nhiều bảo vật quý giá của nền văn minh cổ Champa. Trong lứa tuổi tuổi học trò ở trung học, tôi rất thích môn học lịch sử và tò mò về vương quốc Chăm. Sự tò mò pha lẫn lãng mạn và nuối tiếc một nền văn minh đã tàn lụi, có lẽ một phần bị ảnh hưởng từ tập thơ “Điêu tàn” của Chế Lan Viên. Gần đây, tôi có dịp đọc tập thơ “Tháp Nắng” và các bài nghiên cứu có giá trị về văn hoá Chăm của Inrasara (Phú Trạm), một người Việt gốc Chăm. Cuộc hành trình trở về nguồn gốc Chăm của Inrasara được kể lại rất chân tình và cảm động, làm tôi ray rứt và càng muốn học hỏi thêm về một bộ phận dân tộc và văn hoá ít được quan tâm đến ở Việt Nam. Tôi đến thăm Viện bảo tàng Đà Nẵng với mục đích tìm hiểu về quá trình phát triển mỹ thuật Chăm qua các phong cách khác nhau của các tháp Chăm. 1. Số phận các di tích Champa đã biến mất cách đây gần 2 thế kỷ, nay chỉ còn để lại các di tích Chăm, rải rác ở các tỉnh Trung phần Việt Nam, như Trà Kiệu, Mỹ Sơn, Đồng Dương, Khương Mỹ, Tháp Mẫm.. Viện bảo tàng Chăm, do nhà nghiên cứu Pháp Parmentier thành lập năm 1919, đã thu thập các bảo vật, như tượng, bệ, công trình kiến trúc, điêu khắc của các đền, cung điện.. từ nhiều nơi để tồn giữ. Nhưng ngay tại đây, trải qua nhiều biến cố lịch sử, các di sản đặc sắc của văn minh Chăm cũng không thoát qua nhiều sự mất mát, lưu lạc. Ngày 9 tháng 12 năm 1946, trong những ngày đầu của chiến tranh Việt-Pháp, giữa sự hỗn loạn và thiếu an ninh ở Đà Nẵng, viện bảo tàng đã bị xâm nhập. Rất nhiều bảo vật cũng như tư liệu trong thư viện đã bi đánh cắp (1). Hơn một năm sau, vào năm 1948, Trường Viễn Đông bác cổ đã gởi ông Manukus đến để hồi phục lại viện bảo tàng. Hơn 150 bảo vật này đã được tìm lại từ nhà dân, trại lính, phi trường và tận ở Lào (Savanakhet). Năm 1954, Viện bảo tàng là nơi trú ngụ của khoảng 300 người dân di tản chiến tranh. Năm Mậu Thân 1968, trong trận đánh chiếm lại Huế, Viện bảo tàng này đã trở thành trại tập trung và là nơi ăn ở của quân đội Nam Việt Nam. Giữa những sự xô bồ, hỗn độn, va chạm và không có sự bảo vệ và bảo trì như vậy, thì sự hư hại, hay mất mác các tượng đá, các công trình điêu khắc tất nhiên đã xảy ra. Gần đây trong năm 1996, các nhân viên viện bảo tàng đã tình cờ tìm ra được 157 mảnh cổ vật đã được chôn dưới lòng đất trong khuôn viên của viện bảo tàng. Champa đã biến mất qua những cơn bão lịch sử, nhưng di sản của nền văn minh này cũng đã chịu đựng nhiều sự cố không may mắn. Một số phận hẩm hiu của nền văn minh Chăm? Trải qua nhiều thế kỷ, các ngôi tháp Chăm ở nhiều nơi bị hư hại và đổ nát bởi thời gian và do thiên nhiên tác động. Theo Lê Quí Đôn thì Ngô Thế Lân, vào thế kỷ 18, đã để lại bài thơ, Chà bàn cố thành hoài cổ, cho thấy tình trạng xơ xác, bỏ hoang của các tháp, điện đài của vương quốc Champa cách đây hơn 200 năm (8). Bóng tà dừng ngựa đứng Man mác nỗi hư vong Lăng uyển làm chùa Phật; Cung đình thành ruộng cày Núi tàn trơ tháp cổ; Nước cũ hiện thành hoang Thần đạo nguyên vô cứ; Cửa tây tràn khắc bia (bản dịch) Không khác chi tình trạng hiện nay của nhiều tháp cổ khắp miền trung Việt Nam.Trong cuộc chiến vừa qua, di tích Đồng Dương hầu như bị huỷ hoại hoàn toàn do bom đạn . Một mất mát to lớn đối với những thế hệ về sau. 2. Các công trình Chăm học Hầu như tất cả những gì ta biết về văn minh Chăm là đứng từ góc độ của người không phải Chăm. Ngày nay, trong sách giáo khoa Đại học của giáo sư D. Hall về lịch sử Đông Nam Á (2), ta có thể biết tổng quát về lịch sử đất nước Champa. Tuy vậy phần lớn dữ kiện từ sách của Hall là dựa vào những công trình nghiên cứu tiên phong của các học giả Pháp như G. Coedes, H. Parmentier và H. Maspero ở đầu thế kỷ 20. Nói chung về khảo cổ và sử của các nước Champa, Cam Bốt và một số nước khác ở Đông Nam Á thì chỉ vào đầu thế kỷ 20 người ta mới biết được nhiều mà thôi. Trước đó không mấy ai biết nhiều về Cambodia có một nền văn minh Angkor rực rỡ, cả sử của Nam Dương cũng mù tịt cho đến khi Coedes khám phá ra vương quốc SriVijaya ở Sumatra, còn sử của Champa thì mù mờ, chỉ biết qua tư liệu của các nước láng giềng như Việt Nam (Đại Việt sử ký toàn thư) hay của Trung quốc (Tống sử, Minh sử..) đến khi Finot, Parmentier, Majumdar và Maspero khám phá ra bằng phương pháp có hệ thống. Ngay cả trong sử của Ấn độ, trước đây hoàng đế Ashoka chả ai biết nhiều, chỉ nghe tên trong vài kinh điển Phật giáo, đến khi Princep khám phá ra qua bia ký là có thật, một nhà vua hiền triết chuộng đạo Phật với một vương quốc rộng lớn. Hầu như tất cả khám phá về vương quốc Champa là từ những ký tự trên đá và những gì biết qua từ sử ký của Trung quốc nói về các dân tộc trên. Từ đó lịch sử các nước đã được viết và ghi lại. Giải những ký tự trên đá để biết đến văn minh cổ ở Đông Nam Á cũng không kém khó khăn và mang tính cách đột phá như giải ra được chữ viết cổ Ai cập qua tảng đá Rosetta của nền văn minh Ai Cập. Phải nói là văn minh Trung Hoa đã đóng góp không lớn vào văn minh nhân loại qua sự phát minh ra giấy và dùng nó trong quan triều để ghi và truyền lại cho hậu thế những tham khảo rất giá trị về các nước chung quanh. Việt Nam cũng như Trung Quốc có những tư liệu lịch sử quí giá (như Đại Việt sử ký toàn thư), còn các nước khác ở Đông Nam Á, không có truyền thống viết sử đánh dấu giai đoạn của các triều vua, mà dùng lá và đá để viết nay thì tất cả chữ viết có giá trị trên lá đều đã ra tro bụi hoặc còn rất ít rải rác ở các thôn Chăm, chỉ để lại một vài chữ trên các tảng đá mà thôi. Hiện nay nghiên cứu về văn minh và văn hóa Chăm đã được quan tâm và đã có một số công trình nghiên cứu có giá trị được xuất bản gần đây ở Việt Nam. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho sự nghiên cứu Chăm học ở Việt nam. Trước đây, trong các thập niên 1970 và sau giải phóng, có sự dè dặt trong sự nghiên cứu Chăm học, vì ngành này đa số là do các nhà nghiên cứu nước ngoài, chủ yếu là Pháp, khai phá và phát triển với sự cộng tác của một số cộng tác viên Chăm và Việt. Sự dè dặt nghi kỵ của người Việt về mục đích chính trị đối với các công trình nghiên cứu Chăm học không phải là không có lý do. Vì đã có nhiều thế lực chính trị lợi dụng để chia rẽ, hay muốn tách rời địa phận để độc lập làm khó khăn cho Việt Nam trong những năm chiến tranh chống thực dân, giảm đi tiềm năng và bước tiến của lịch sử. Nhưng sự dè dặt và nghi ngờ này nếu đi quá cũng có hệ quả là trong lãnh vực Chăm học, “sân chơi” chỉ dành cho lực lượng người nước ngoài nghiên cứu mà Việt Nam thì chỉ có lưa thưa vài người. Năm 1984, tôi có dịp về thăm Việt Nam và nhân dịp này có tiếp xúc với nhóm nghiên cứu ở viện Khoa học Xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh. Khi tôi đề cấp đến sở thích về nghiên cứu văn minh Chăm thì mọi người đổi thái độ và hơi dè dặt lo âu, anh trưởng ban chuyển qua đề tài về các lực lượng chống chính quyền ở Tây Nguyên và sau đó không còn bàn về đề tài Chăm học nữa. Chỉ có bác quản gia già ở thư viện sau đó nói chuyện với tôi vui vẻ về các sách về Chăm học mà bác biết rất nhiều từ khi bác làm việc ở đây từ trước năm 1945. Khoảng cuối thập niên 1990, tổ chức Toyota Foundation đã tài trợ cho Gs Trần Kỳ Phương xuất bản bộ sách tổng hợp về sự hiểu biết hiện nay về văn minh Champa ở Việt Nam như trước đây họ đã tài trợ cho bộ sách về văn minh Đông Sơn do Gs Hà Văn Tấn xuất bản. Không may là sự việc đã không thành. Ngày nay Việt nam đã khác nhiều và tự tin hơn về đất nước mình qua sự chuyển mình về kinh tế và tìm năng trong tương lai. Tư duy cũng đã thay đổi từ thời chiến qua thời bình mặc dầu có những khó khăn trong những năm chuyển tiếp. Sự vững tin này cũng thể hiện trong lãnh vực văn hóa, văn học và nghiên cứu trong những năm gần đây. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đã thành lập. Việt Nam ngày nay là thành viên của tổ chức ASEAN. Cộng đồng Chăm ở Việt Nam là gạch nối với các thành viên Indonesia, Mã Lai cùng tôn giáo và liên hệ ngôn ngữ. Các nước này đã có những chương trình hoạt động văn hóa, nghiên cứu chung với cộng đồng Chăm. Sợi dây liên hệ giữa Việt Nam và Đông Nam Á sẽ càng đan kết và thắt chặc. Bài này có mục đích giới thiệu và tóm tắt lịch sử, văn hóa Chăm và một số thành quả nghiên cứu gần đây ở Việt Nam và nước ngoài. Hy vọng sẽ giúp chút ít cho độc giả thấy một hình ảnh toàn cảnh về sự hiểu biết về văn minh Chăm trong lãnh vực Chăm học hiện nay. Lần đầu tiên sau nhiều năm qua đã có một hội nghị Chăm học vào tháng 8/2004 ở Singapore qui tụ một số học giả từ nhiều nước như Việt Nam, Singapore, Nhật, Anh, Mỹ, Pháp. Nhiều báo cáo, khám phá mới có giá trị đã được thông báo: những hiểu biết về văn minh Sa Huỳnh và Chăm qua địa điểm khảo cổ Trà Kiệu, liên hệ giữa ngôn ngữ Chăm và các ngôn ngữ dân tộc ở Tây Nguyên. Một điểm đáng chú ý trong các bản báo cáo là các tài liệu Trung quốc trước kia chưa được quan tâm đến nay đã được một số học giả nghiên cứu: Minh sử, Tống hội yếu tập cao và Cửu Phiên Chí. “Tổng hội yếu tập cao” có nhiều thông tin về Champa từ 960-1180 như sự liên hệ của Champa với triều đình Tống, Chân Lạp, Srivijaya, Đại Việt (thuộc Giao Châu thời bị Trung quốc đô hộ và sau khi độc lập năm 960), phong tục Chăm, nông nghiệp, thương mại hàng hải... Tiếp nối công trình bỏ dở của Boisselier khi ông này mất, Emmanuel Guillon năm 2002 đã xuất bản tác phẩm về nghệ thuật Chăm qua những bảo vật ở viện bảo tàng Đà Nẵng. Sách có giá trị tham khảo, tổng hợp sự hiểu biết từ trước đến nay kể cả những khám phá các di vật khảo cổ mới thu thập được. Ở Việt Nam, các sách về văn hóa, văn học, nghệ thuật Champa của Ngô Văn Doanh, Insara, Trần Kỳ Phương... với những hiểu biết mới cũng đã được xuất bản. Lãnh vực Chăm học như có luồng sinh khí mới mở đầu cho thời kỳ Phục hưng trong nghiên cứu mà trước đây đã bị bỏ quên, ít được quan tâm trong một thời gian dài, sau những công trình khám phá tiên phong của các học giả Pháp trong giai đoạn nữa đầu thế kỷ 20. 3- Địa thế lịch sử Champa 3.1-Indrapura Nói về vùng đất từ Đèo Ngang, Hoành Sơn đến đèo Hải Vân (Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên) là vùng giao điểm của hai văn minh từ hướng Bắc và hướng Nam hải đảo. Đây là vùng đất "đệm" của hai nền văn minh Ấn-Hoa. Di tích Chăm trong vùng này còn ở Mỹ Đức, Quãng Bình, Hà Trung, Thạch An, Bích La (5) cũng như ở dãi cồn ở Cửa Tùng, Cửa Việt. Di tích Tháp Chăm được tìm thấy ở An Xá (Do Linh), Cam Giang, Cam Lộ, Cổ Thành Ái Tử và Trà Liên (6). Tại vùng này, người ta cũng tìm được nhiều đồ gốm xưa của văn hoá Chăm và Trung quốc từ thời Đường, Tống, Minh.. chứng tỏ xưa kia ở đây cũng có thể là nơi có các hải cảng thương mại sầm uất không kém cảng Hội An về sau này. Xa hơn nữa vào thời tiền sử, vùng này là nơi chuyển tiếp của giao lưu văn hóa Sa Huỳnh và văn minh Đông Sơn qua Đèo Ngang. Nơi đây còn có các di tích văn hóa Sa Huỳnh ở Cồn Bàu, đảo Cồn Cỏ, Cổ Trai ở Cửa Tùng. Đồ đồng Đông Sơn đã được tìm thấy ở Tam Mỹ, Phú Hòa và mới đây tận mãi Bình Định, còn những khuyên tai hai đầu thú và các hạt chuổi thuỷ tinh thuộc văn hoá Sa Huỳnh, thì tìm thấy được ở Xuân An, Làng Vạc (Nghệ An, Hà Tĩnh). Văn hoá Sa Huỳnh được các nhà khảo cổ Việt Nam và nước ngoài cho là có không gian chính từ Quảng Nam đến Đồng Nai. Tháng 8, 2001 ở Thừa Thiên, Huế, tình cờ tìm được một ngôi tháp Chăm nhỏ, đỉnh tháp đã mất, thân tháp cao khoảng gần 2m. Theo Ngô Văn Doanh, ngôi tháp này (gọi là tháp Mỹ Khánh) có niên đại ở thế kỷ 8. Như vậy là ngôi tháp Chăm cổ nhất hiện còn thuộc phong cách Mỹ Sơn E1. Trong chiến tranh chống Mông cổ dưới đời vua Trần Nhân Tông, liên minh Chăm-Việt đã thành công đẩy lui hiểm họa xâm lăng từ phương bắc qua đường bộ và thủy. Từ sự liên kết này qua chính sách chiến lược sáng suốt của vua Trần Nhân Tông, mà Jaya Simhavarman III (Chế Mân) cũng đã đồng ý theo lời đề nghị của thượng hoàng Nhân Tông, trong dịp ông rời nơi tu dưỡng ở núi Yên Tử đi viếng Champa, để lấy công chúa Trần Huyền Trân, em gái của vua Trần Anh Tông. Trong hôn nhân Chăm-Việt này, lãnh thổ Chăm là châu Ô và châu Rí (Quảng Trị và Thừa Thiên) đã được nhượng tặng cho Đại Việt. Trong thời trị vì của vua Chế Mân, quyền lực Chăm rất mạnh trãi rộng đến tận Tây Nguyên nam phần. Tháp Yang Prong ở Tây Nguyên và tháp Jaya Simhalingesvara (tháp Pô Klaung Garai) nổi tiếng ở Phan Rang là do chính Chế Mân xây dựng. Tuy nhiên sau khi Nhân Tông và Jaya Simhavarman mất, vua Anh Tông hoàn toàn thay đổi chánh sách. Chiến tranh Chăm-Việt trở lại khốc liệt hơn khi Champa đòi lại vùng đất đã nhượng. Theo Minh sử, một trong những lý do nhà Minh đã gởi tướng Trương Phụ xâm lăng Đại Việt là Đại Việt đã nhiều lần xâm phạm lãnh thổ Champa. Sứ giả Chăm lúc này đã dùng chiến thuật ngoại giao rất có tác dụng. Họ đã báo cáo thường xuyên rất nhiều lần và nhờ nhà Minh trợ giúp quân sự hay mua võ khí để đánh trả Đại Việt. Nhưng cũng chính sự chiếm đóng và đô hộ Đại Việt của nhà Minh trong một thời gian đã đưa đến các nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của vương quốc Chăm sau khi Đại Việt giành lại được độc lập. Theo Wade (14) thì có 2 nguyên nhân chính: (a) Sự chiếm đóng và quản lý của nhà Minh ở Đại Việt và các quận ở Indrapura đã mỡ rộng phạm vi Đại Việt khi quân Minh rút đi (b) Sự chuyển giao kỷ thuật quân sự (súng ống) của nhà Minh vào Đại Việt. Ðến thời Lê Thánh Tông, vương quốc Chăm hoàn toàn bị mất thế trong tương quan lực lượng quân sự. Champa bắt đầu tàn lụi sau khi thủ phủ Vijaya bị tàn phá với dân số một phần bị tiêu diệt và phần khác bị bắt làm tù binh mang về Đại Việt Theo Shiro Momoki, qua các tư liệu như Tống hội yếu tập cao, Chư Phiên Chí thì Champa vào thế kỷ 10 đến 11 vẫn còn các cơ cấu xã hội, chính quyền ở phía bắc đèo Hải Vân. Như vậy quan điểm cho rằng người Việt liên tục mở rộng xuống phía Nam từ thế kỷ 10 là không đúng. Ngay cả ở thế kỷ 14, Champa không suy tàn như ta nghĩ, mà vẫn phát triển hoạt động thương mại với Trung Quốc và các nước trong vùng. Vải bông, đồ gốm Chăm xuất khẩu đến các nước Đông Nam Á hải đảo. Cửa Thị Nại là cảng quan trọng ở biển Nam mà Kublai Khan coi là cảng tiếp nối từ cảng Quảng Châu đến cảng Quilam ở nam Ấn Độ. Như vậy sự nam tiến của Đại Việt sau 1390 chỉ có thể được coi như là một chiến thắng len lõi từ sau lưng. 3.2 Amaravati Từ đèo Hải Vân (Quảng Nam) xuống phía nam đến giáp Bình Định là vùng trọng điểm của văn minh Chăm với các di tích lớn như Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Khương Mỹ, Chiên Đàn. Nơi đây ở Đồng Dương đã tìm thấy tượng phật đồng rất đẹp đầy mỹ thuật (hiện còn tàng trữ ở viện bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh). Đặc biệt các tượng điêu khắc, kiến trúc ở đền Đồng Dương chịu ảnh hưởng của Phật giáo đại thừa. Trong tất cả các di tich Chăm, nghệ thuật Chăm Đồng Dương là độc đáo sáng tạo và là nơi duy nhất có chịu ảnh hưởng tư tưởng từ Trung quốc phương bắc. Di tích Đồng Dương hầu như đã bị huỷ diệt hoàn toàn trong cuộc chiến tranh vừa qua. Trà Kiệu hay Simhapura (Thành phố sư tử, từ chữ Simha, Singha nghĩa là sư tử và pura là thành phố) là kinh đô xưa nhất của Champa ở Amaravati. Trước cả 2 thành phố "sư tử" khác ở Đông Nam Á là Singapore (Lion City, từ Singha và pura) và Singburi (Singha và buri (thành phố)), gần Ayuthaya, Thái Lan. Xưa kia sư tử còn hiện diện ở Cận Đông và Bắc Ấn (các vua người Assyria thường đi săn bắn sư tử như trên các bia khắc đền đã mô tả), sau này sư tử Á châu tuyệt chủng chỉ còn lại sư tử ở Phi Châu. Theo Ngô Văn Doanh (16) thì từ Trà Kiệu hiện nay là biến âm từ chữ Chăm cổ ya – sông, nước và chữ Phạn: keo - ngọc, mà người Việt gọi là thành Sông Ngọc để chỉ thành phố Simhapura. Mariko Yamagata, Ian Glover, Nguyễn Kim Dung của nhóm nghiên cứu Việt-Anh-Nhật khai quật ở Trà Kiệu (1997-2000) và ở Gò Cam (2000) gần sông Thu Bồn, cách thành cổ Trà Kiệu 3.5km về phía Đông. Tại đây đã tìm thấy các hủ đất giống các hiện vật ở Trà Kiệu, các đồ gốm, đồng, dấu ấn thời Hán, di tích nhà gổ cổ nhất (được xác định khoảng ). Dưới tầng khai quật trên là các di vật thuộc văn hóa Sa Huỳnh, cho thấy có sự liên tục và người Chăm là hậu duệ của người Sa Huỳnh. Địa điểm Gò Cam gần ba di tích mộ chôn Sa Huỳnh: Gò Miếu Ông, Gò Mả Voi, Gò Vàng. Ông Yamagata cho rằng Trà Kiệu và Gò Cam xuất hiện ngay sau sự suy tàn của văn hóa Sa Huỳnh. Tầng cuối nhất của địa điểm khảo cổ Hoàn Châu (Trà Kiệu) và Gò Cam được thẩm định ở nửa đầu thế kỷ 2. Mỹ Sơn là di tích Chăm lớn nhất, nằm trong thung lũng, dọc theo một con suối. Nơi đây có nhiều đền, tháp, bia ký được nhiều triều đại trong lịch sử Chăm xây dựng. Nhờ bia ký tìm được mà người ta biết được là người sáng lập ra Mỹ Sơn vào thế kỷ thứ 4 là vua Bhadravarman I . Dù thủ đô có dời hay ở nơi nào khác do thời cuộc, các vua chúa Chăm vẫn hướng về Mỹ Sơn để tưởng nhớ và xây đền thờ. Thánh địa Mỹ Sơn vì thế có nhiều kiến trúc khác nhau theo các phong thái riêng của mỗi thời.. Phần lớn những công trình kiến trúc hiện còn ở Mỹ Sơn được xây dựng vào thế kỷ thứ 10 có chung một phong cách kiến trúc được các nhà nghiên cứu gọi chung là phong cách Mỹ Sơn A1. Trước phong cách Mỹ Sơn A1 là các nhóm tháp thuộc thế kỷ 8 đến 9. Qua lịch trình phát triển kiến trúc Chăm thì trong 2 thế kỷ 8 và 9, có ba phong cách khác nhau được nhận ra là phong cách Mỹ Sơn E1, phong cách Hoà Lai và phong cách Đồng Dương. Trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ vừa qua, đền Mỹ Sơn A1 và vài di tích lân cận đã bị phá huỷ khi trúng bom máy bay Mỹ trong một phi vụ oanh kích. Vào năm 1988, trong một công trình thủy lợi, người ta tình cờ khám phá ra di tích tháp An Mỹ, Tam Kỳ với nhiều điêu khắc đá như bộ linga-yoni, trang trí kiến trúc (đỉnh, cột tháp), mảnh vở của tấm bia… Niên đại được thẩm định vào đầu thế kỷ 10, thuộc phong cách chuyển tiếp từ Đồng Dương đến Mỹ Sơn A1. Vào năm 1997, tỉnh Quảng Nam và chính phủ Việt Nam đã đề nghị và xin Liên Hiệp Quốc đưa Trà Kiệu, Mỹ Sơn và Đồng Dương lên danh sách những di sản của thế giới (World Heritage list) để bảo tồn. Đây là những di tích văn hóa xưa nhất ở Trung Việt Nam, lâu hơn Huế hơn 12 thế kỷ. Hiện nay quần thể Mỹ Sơn được công nhận là một di sản văn hoá thế giới. Đồng Dương (Indrapura) một thời là kinh đô của Champa dưới triều đại Indrapura. Triều đại Indrapura, do vua Indravarman II sáng lập, bắt đầu từ năm 875. Các đền tháp của phong cách Mỹ Sơn A1 đều được xây dựng dưới triều đại Indrapura. Sau hơn một thế kỷ phát triển, kinh thành Indrapura bị tiêu hủy trong trận chiến với vua Lê Đại Hành vào năm 982. Năm 1000, vua Chăm Harivarman II rời hẳn thủ đô về Vijaya ở phía Nam. Một số người Chăm cũng đã di cư qua đảo Hải Nam (và hiện nay họ vẫn còn) sau cuộc chinh phạt của Lê Hoàn vào Amaravati. Một tướng của Lê Hoàn là Lưu Kỳ Tông, phản lại nhà Lê, tự xưng vương ở Amaravati (986-988) đã cai trị hà khắc và huỷ diệt đền đài và nhiều bia ký ở Mỹ Sơn nên một số người Champa đã chạy đến đảo Hải Nam (Trung Quốc). Theo sử gia Maspero thì, vì bị mất nhiều bia ký (thế kỷ 8 – 10), nên trong giai đoạn này lịch sử Champa không được biết nhiều (9). 3.3 Vijaya Mặc dầu Indrapura và Amaravati vẫn là lãnh thổ Chăm khi dời đô về Vijaya vào năm 1000, Indrapura và Amaravati đã trở thành các tỉnh ngoại vi, không còn chiếm vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị của Champa. Năm 1286, đất Indrapura phía bắc đèo Hải Vân nhượng cho Đại Việt khi vua vua Chăm cưới công chúa Huyền Trân. Vua Champa Chế Bồng Nga lấy lại được trong chiến tranh với Đại Việt. năm 1390, khi Chế Bồng Nga mất, Indrapura mất hẳn, và sau đó không lâu Amaravati cũng rơi vào tay Đại Việt. Sau khi bị mất Indrapura và Amaravati vào tay Đại Việt thì vùng đất từ Bình Định đến Phú Yên là nơi dân tộc Chăm rút về tập trung ra sức chống chỏi lại cuộc nam tiến của Đại Việt. Khi dân Việt đi vào định cư, thì người Chăm có đặc tính và khuynh hướng là không bám trụ ở lại. Đa số họ dời đi ở chỗ khác xuống phía Nam, chứ không ở lại với người Việt. Có thể đây là vì hai văn hóa có sự khác biệt nhiều. Tập trung quanh khu vực kinh đô mới Trà bàn (Vijaya), họ cũng cố gắng lấy lại một cách vô vọng những vùng đất phía bắc đã bị mất. Nhưng đến năm 1471, kinh đô Trà bàn cũng đã bị thất thủ và tàn phá khi vua Lê Thánh Tông đem quân chinh phạt Chiêm Thành. Lê Thánh Tông đã dùng chính sách phá hủy văn hóa để tiêu diệt dân tộc và năng lực tinh thần nước Chăm: đền đài, cung điện, tháp, bia ký, tư liệu phản ảnh đặc trưng của văn hoá Chăm đều bị phá hủy, quân dân và nghệ nhân bị tàn sát hay bị bắt đi. Mất Vijaya coi như vận mệnh của Champa đã tàn. Đối với Đại Việt thì Lê Thánh Tông là vị vua thành công nhất dưới triều Lê trong lãnh vực văn hóa, kỷ cương xã hội dựa vào nho học. Lê Thánh Tông là đại diện tiêu biểu cho văn minh Trung quốc phương bắc đối chọi với văn minh Đông Nam Á. Cốt lõi văn minh bản địa Đông Nam Á của Đại Việt đã bị đè nén và dần dần bị tan loãng dưới lớp văn hóa Hán nho. Trong cuộc “xung đột văn minh” sống còn này, văn minh Champa Đông Nam Á đã phải lùi một bước dài quyết định trước bước tiến của văn minh nho học Trung quốc. Không những bị áp lực từ Đại Việt ở phương Bắc, mà Champa còn đối diện với vương quốc Khmer ở phía Nam. Vào thế kỷ 12, quyền lực Khmer ở Angkor lan rộng và ảnh hưởng đến Champa gây ra các cuộc xung đột giữa Angkor và Vijaya. Từ thế kỷ 12 đến 15, Champa đã chịu hai sức ép từ Đại Việt và Angkor. Đó cũng là nguyên nhân dẫn tới sự suy vong của Champa. Sau khi Champa đánh chiếm và tàn phá Angkor năm 1177, vua Khmer Jayavarman VII đã giải phóng thủ đô Angkor năm 1181, tiến đánh chiếm Vijaya và Champa. Từ năm 1203, Champa trở thành một tỉnh của Khmer cho đến năm 1220 thì Champa dành được lại độc lập, sau cuộc thảm bại của liên quân Khmer, Xiêm, Pagan đánh vào Đại Việt, dưới triều vua Sri Jaya Paramesvaravarman II mà bia ký đá ở Chợ Dinh (Phan Rang) cho thấy. Cũng không lạ gì mà rất nhiều kiến trúc, điêu khắc đền tháp ở Vijaya chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer. Hiện nay thành Vijaya (Trà Bàn) không còn, chỉ còn chút vết tích tường thành để lại. Chính giữa thành, trên một gò nhỏ còn trơ lại duy nhất tháp Cánh Tiên (tháp Đồng). Ngoài ra có hai con voi đá và hai con sư tử đá rất lớn gần lăng Võ Tánh. Điêu khắc và mô típ của tượng voi và sư tử đá cho thấy chúng thuộc giống các tượng điêu khắc ở tháp Dương Long. Các công trình kiến trúc khác còn lại hiện nay ở vùng Vijaya là các tháp Bánh Ít, Bình Lâm, Thủ Thiện, Phú Lộc, tháp Nhạn. Phong cách kiến trúc này được gọi là phong cách Bình Định hay phong cách Chánh Lộ. Phong cách Bình Định có niên đại vào khoảng cuối thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 11. Tháp Bình Lâm là tháp duy nhất ở đồng bằng thay vì như các tháp khác ở trên đồi. Tháp Bình Lâm gần một thành cổ. Thành này đã bị đổ nát, không còn dấu tích nữa. Nơi đây chính là vị trí cảng Thị Nại, mà quân Đại Việt và quân Nguyên Mông Cổ lúc đi đánh Champa đã đổ bộ trước khi tiến về Vijaya theo đường bộ từ cảng. 3.4 Kauthura Vùng đất này hiện nay thuộc địa phận tỉnh Khánh Hòa. Kauthura nổi bật vào thời kỳ sau Lâm Ấp mà sử Trung quốc gọi là nước Hoàn Vương. Sử Trung quốc không còn đề cập đến Lâm Ấp sau đó nữa. Quyền lực của Champa chuyển từ phía bắc xuống Kauthara ở phía nam. Vì thế thời Hoàn Vương, Champa có nhiều liên hệ và ảnh hưởng với Chân Lạp và Java. Tính chất thờ thần Visnu và theo Phật giáo trội hơn theo đạo thần Siva. Thời Hoàn Vương, Champa chịu nhiều đợt tấn công từ Java như bia ký ở đền Po Nagar cho thấy giặc Java đến cướp tượng thần và phá đền. Vua Satyavarman đã cho dựng lạ vào năm 784 tượng Yan Pu Nagara (nữ thần mẹ đất nước). Đây là bằng chứng đầu tiên và cổ nhất về tục thờ nữ thần mẹ xứ sở Po Nagar của Champa. Theo bia ký thì thủ đô của Champa thời Hoàn Vương là Virapura. Vị trí của Virapura chưa được xác định, nhưng chắc là ở vùng Kauthura hay Panduranga. Vào thời Hoàn Vương (758-859), các kiến trúc Chăm được xây dựng theo phong cách Hòa Lai (từ tên tháp Hòa Lai ở đông bắc Phan Rang). Phong cách kiến trúc rất gần vớI phong cách Chân lạp và Indonesia. Ở Po Nagar, gần Nha Trang có nhiều bia ký, kể cả hai bia của vị vua cuối cùng thời Hoàn Vương, Vikrantavarman III. 3.5 Panduranga Đây là vùng cứ địa cuối cùng còn sót lại của vương quốc Chăm. Năm 1692, khi vua Po Saut định chiếm lại lãnh thổ Chăm Kauthura bị mất trước đây, chúa Nguyễn đã gởi quân đánh chặn và bắt được Po Saut. Chiếm được Panduranga, chúa Nguyễn đổi tên Champa Panduranga thành trấn Bình Thuận và sáp nhập vào lãnh thổ đàng trong. Lãnh thổ cuối cùng của một nước Champa độc lập coi như bị mất và chính thức không còn hiện diện nữa. Tuy vậy vào năm 1693, dân Panduranga đã nổi dậy. Thấy khó lòng dẹp được cuộc nổi loạn này, chúa Nguyễn buộc phải bãi bỏ Bình Thuận và trả lại Panduranga cho vua Po Saktiraydaputih (em của vua Po Saut) với điều kiện là mỗi năm Champa Pandugara phải triều cống. Trong gần suốt thế kỷ 18, Panduranga nằm giữa vùng tranh chấp của Tây Sơn và chúa Nguyễn. Năm 1802, khi Nguyễn Ánh Gia Long thắng được Tây Sơn, vùng Panduranga được Gia Long cho thiết lập là vùng tự trị, cai quản bởi Po Sau Nun Can, một bạn đồng hành thân thiết của Gia Long trong thời kỳ chinh chiến với Tây Sơn. Suốt dưới triều Gia Long, Panduranga được tự trị như một tiểu quốc dưới sự bảo hộ của vua Gia Long và tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt. Khi Gia Long mất năm 1820, Minh Mạng lên ngôi với chính sách trung ương tập quyền và tư tưởng dựa theo mô hình Thanh triều ở Trung quốc. Panduranga trở thành con chốt trong sự tranh chấp quyền lực giữa Minh Mạng và Lê Văn Duyệt. Năm 1828 khi vua Panduranga mất, Minh Mạng tấn phong một viên chức Chăm thân với Minh Mạng lên thay thế, nhưng Lê Văn Duyệt đã thay viên chức này với người con của Po Sau Nun Can. Vị này thân với Lê Văn Duyệt chịu qui thuận, trả thuế và triều cống Gia Định thành. Kể từ năm 1828, số phận Panduranga vì thế gắn liền với Lê Văn Duyệt. Khi Lê Văn Duyệt mất (1832), Minh Mạng đã ra tay trừng phạt không những các lãnh đạo, chức sắc ở Gia Định thành và vị vua Champa đã cả gan triều cống tổng trấn Gia Định thành mà tất cả dân ở Gia Định thành và Panduranga cũng bị vạ lây qua sự trả thù của Minh Mạng: ruộng bị tịch thu và dân bị bắt sung vào lao công. Sự hà khắc đối xử tàn nhẫn của Minh Mạng với dân ở Gia Định thành và Panduranga mà trước đây đã trung thành và giúp đỡ Gia Long trong cuộc chiến với Tây Sơn, đã gây ra làn sóng bất bình, phẫn nộ nổi dậy khắp miền Nam. Lê Văn Khôi đã tập trung nhiều thành phần trong xã hội, nhiều sắc tộc (Hoa kiều ở Gia Định, Chăm ở Panduranga) nổi lên chống lại Minh Mạng. Ở Panduranga, cuộc nổi dậy được lãnh đạo bởi Katip Sumat, một người Chăm theo đạo Hồi. Cuối năm 1833, cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi và Sumat không thành công. Minh Mạng đã xử tội dân Gia Định và Panduranga tàn khốc hơn. Sau khi cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi bị dập tắt, vua Minh Mạng đã bãi bỏ tiểu quốc Panduranga, sác nhập vào tỉnh Bình Thuận. Đầu năm 1834, Thak Va lãnh đạo dân Panduranga nổi lên lần cuối cố lập lại vương quốc Champa nhưng chỉ trong vòng một năm, giấc mộng cuối cùng của Champa đã bị dập tắt. Lê Thánh Tông ở thế kỷ 15 khởi đầu cho sự suy vong của Champa. Đến đời Minh Mạng ở thế kỷ 19, vị vua nho học theo mô hình văn minh Hán Trung quốc này đã khai tử vương quốc Champa của văn minh Đông Nam Á. Khác với những vùng khác, Panduranga hiện vẫn còn cộng đồng người Chăm sinh sống, đa số tập trung ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Vì thế nhiều tháp trong vùng (như Po Rome, Po Klaung Garai) vẫn còn được dùng để thờ cúng và trong các dịp lễ hội, chứ không bị bỏ hoang như ở các đền tháp ở Amaravati, Vijaya và Kauthura. Tháp Pô Klaung Garai nổi tiếng ở Phan Rang là do Chế Mân (Jaya Simhavarman III) xây lên để thờ cá nhân mình vào thế kỷ 14. Đền này trước đây còn có tên là Jaya Simhalingesvara. Tháp vẫn còn được người Việt và Chăm dùng để thờ cúng. Trên các trụ cửa của tháp chính, có các ký tự kể lại việc vua Jaya Simhavarman III dâng đất và nô lệ cho thần Jaya Simhalingesvara.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 3:39:50 GMT 9
3.6 Lâm Ấp
Theo sử Trung quốc (Lương thư) thì người lãnh đạo lập ra Lâm Ấp (Lin-yi) là một thổ hào địa phương tên là Khu Liên. Trước đó những người ở vùng này đã quấy vùng Nhật Nam dưới sự bảo hộ người Hán, Lương thư cũng gọi dân ở Tượng Lâm là "bọn man di" Khu Liên. Cho nên từ Khu Liên có thể không là tên một người mà là tên chuyển âm từ ngôn ngữ Đông Nam Á cổ, Khu Liên - Kurung, có nghĩa là tộc trưởng, vua.
3.6.1 Người Lâm Ấp họ là ai ?.
Trước hết ta hãy xem sử liệu Trung quốc sau đó các khám phá về bia ký ở Mỹ Sơn và Trà Kiệu (Simhapura) còn sót lại để tìm hiểu về con người Lâm Ấp.
Mã Đoan Lâm (Ma Tuan-Lin), sử gia người Trung Hoa thế kỷ 13 viết về các dân tộc phía Nam Trung quốc dựa vào sử của nhà Lương, Hán và Tùy đã miêu tả như sau về những người và phong tục dân Lâm Ấp vào thế kỷ thứ 4. Đây có thể coi là tài liệu cổ nhất và lý thú nhất về dân tộc học nói về người Đông Nam Á bằng tiếng Hán. (Trích từ G. Coedes (3, dịch từ tiếng Hán ra Pháp rồi sang Anh ngữ từ bản "Ethnographie des peuples étrangers à la Chine, ouvrage compose au XIIIe siècle de notre ère, trans., Marquis d' Hervey, Geneva, 1883)
"Cư dân ở đây xây tường nhà bằng gạch nung, phết trên gạch là một lớp vôi. Nhà được xây trên một nền hay sân gọi là kan-lan (chú thích: kan-lan tiếng Chăm nghĩa là nền sân, hiện nay người Chăm gọi sân tháp Chăm là kan-lan). Cửa nhà thường đặt ở hướng bắc, đôi khi ở phía đông hay tây không có một qui tắc nhất định nào .. Đàn ông và đàn bà không có một y phục nào khác ngoài một đoạn vải ki-peh quấn quanh người (chú thích: từ Chăm). Họ khoét lỗ bông tai để đeo các vòng trang sức nhỏ. Những người có chức sắc đều đi chân đất. Những phong tục này cũng được theo ở vương quốc Phù Nam và tất cả các vương quốc khác phía xa quá Lâm Ấp. Vua đội nón cao trang trí với hoa màu vàng và chung quanh viền nón được tỉa gọn với núm tua bằng lụa. Khi ra ngoài nhà vua cỡi voi; đi trước là các kèn tù và và trống, vua được che dưới một dù làm bằng vải ki-peh, chung quanh là nô tì cầm cờ xí cũng được làm bằng vải ki-peh.
Đám cưới lúc nào cũng được tổ chức vào ngày thứ tám của trăng. Chính người con gái đi hỏi con trai, vì con gái được xem là thứ yếu. Hôn nhân giữa những người cùng họ không bị ngăn cấm. Những người ngoại quốc này có cá tính dữ dằn và ác. Vũ khí của họ gồm có cung, tên, kiếm, giáo, và nỏ làm bằng gỗ tre.
Nhạc cụ họ dùng rất giống nhạc cụ của chúng ta : đàn tì bà, đàn bầu 5 dây, sáo v.v… Họ cũng dùng kèn tù và và trống để báo hiệu cho dân chúng.
Họ có mắt to và sâu, mũi thẳng và cao, tóc quăn đen. Đàn bà búi tóc trên đỉnh đầu thành hình như búa riều… (chú thích : đây đúng là người thuộc giống Austronesia ở dọc quần đảo Malay, Indonesia..)
Nghi lễ tang của vua bắt đầu 7 ngày sau khi vua mất, còn các quan đại thần thì 3 ngày sau khi mất, và người dân thường 1 ngày sau khi chết. Bất kể chức tước của người mất, thi hài đều được bó lại cẩn thận, sau đó được mang đến bờ biển hoặc bờ sông giữa nhạc trống và điệu múa, và được hỏa thiêu trên dàn củi. Sau khi thi hài của vua được hỏa táng, xương cốt còn lại được bỏ vào hũ làm bằng vàng và ném xuống biển. Còn xương cốt của các quan lại thì đựng trong hũ bạc và ném xuống cửa sông. Với thường dân, hũ đất đựng cốt ném xuống sông là đủ (chú thích: đây đúng là phong tục xưa của người Chăm indonesian với nguồn gốc văn hoá sông, nước, biển).
…
“
Mã Đoan Lâm (Ma Tuan Lin) viết về người Lâm Ấp (Lin-yi) ở thế kỷ thứ 4 chứng tỏ cho ta thấy họ là người nói tiếng Indonesian và là tổ tiên của người Chăm hiện nay. Người Chăm lúc này đã biết khai thác trầm hương, quế, ngà voi (vùng họ cư ngụ rất nhiều voi), sừng tê, vàng..
Đặc biệt họ biết dùng cát trắng để nấu thuỷ tinh làm bát, đồ trang sức. Tất cả các đặc sản vùng này đã có mang sang Trung Quốc trong những hành trình của các sứ giả Chăm Lâm Ấp. Sử sách Trung Hoa gọi những thuỷ tinh này là "lưu li" (từ chữ Phạn (sanscrit) verula).
Thế thì bia ký có xác thực sử liệu Trung quốc như vậy không ở thế kỷ thứ 3 và 4?.
Năm 1898, kiến trúc Mỹ Sơn được khám phá tình cờ bởi một người Pháp tên O. Paris trong rừng ở một thung lũng hẹp. Nó đã hoang tàn qua bao thế kỷ. Điểm lạ là sử ta từ đời Lê không nhắc đến thành phố cổ này và nó biến mất trong bóng tối đến khi được khám phá.
L. Finot và H. Parmentier, G. Coedes đã đến và nghiên cứu tìm ra được bao văn tự bia ký trong vùng này và phụ cận Trà kiệu, Đông Dương. Một trong những bia ký (thế kỷ 4) là bia nói về vua Bhadravarman lập ra Mĩ-sơn và Trà Kiệu trên vùng đất mà người Chăm gọi là Amaravati (Quảng nam). Đây là bia cổ nhất bằng tiếng Chăm hay bằng tiếng thổ ngữ Indonesian trong thế giới người Indonesian. Bia nói về sùng bái vật thánh thiêng của nguồn rạch hay giếng nước của vua. Điều này cho thấy vùng Amaravati (Quảng Nam) là nơi cư ngụ của người nói tiếng Chăm ở thế kỷ thứ 4. Theo nhà khảo cổ Madeleine Colani thì các giếng cổ, được tìm thấy nhiều ở Quảng Trị khám phá từ đầu thế kỷ 20 và các năm gần đây của các nhà khảo cổ Việt Nam, là có nguồn gốc của dân Chăm Indonesian.
Sử nước ta có nhắc tới vùng đất Việt Thường và dựa vào một số tài liệu Hán của Trung Quốc. Như trong Đại Nam Nhất Thống Chí, nói về vùng Quảng Nam: "Nguyên xưa là đất Việt-Thường Thị, đời Tần (246-207 trước Dương lịch), thuộc về Tượng quận, đời Hán (206-1 trước dương lịch, 1-129 sau dương lịch) thuộc quận Nhật Nam"
Theo Hán thư: quận Nhật Nam có huyện Lư Dung và Châu Ngô. Ở Lư Dung có bến nước Lượm vàng, theo truyền thuyết tại Sông Tranh và Sông Tu thuộc đạo Trà Nộ phủ Thăng Bình thường có sản xuất vàng.
Vậy thì từ 2 thế kỷ trước Dương lịch cho đến thế kỷ 4 (khi Lâm Ấp là dân tộc Chăm Indonesia chủng Austronesian), đất Việt-Thường hay Tượng Lâm có những dân tộc nào ở đó?.
Theo sử Trung quốc, thì sau Khu Liên, các vua kế tiếp của Lâm Ấp là Phạm Hùng (Fan Hsiung), Phạm Dật (Fan Yi), Phạm Văn (Fan Wen), Phạm Phật (Fan Fo, sau này theo bia ký thì đó là Bhadravarman) và Phạm Tu Đạt (Fan Hu-ta). Dưới thời Phạm Hùng, Phạm Dật và Phạm Văn sứ Lâm Ấp đã dùng "chữ viết Hồ" (tức chỉ Ấn độ chữ Phạn) trong văn thư. Điều này chứng tỏ ảnh hưởng từ phía Phù Nam và Nam Chăm.
Riêng Phạm Văn, cố vấn cho Phạm Dật, một số sử liệu Trung quốc có nói là người Hán từ Giang Châu. Theo Coedes thì Phạm Văn là người Lâm Ấp sống ở Trung quốc từ 313 đến 316 và đã hấp thụ văn hóa Hán chứ không phải là người Hán.
Trước khi Khu Liên thành lập nước Lâm Ấp (năm 192), thì trước đó vào năm 137, vùng Tượng Lâm đã bị xâm lăng bởi những người xứ phía Nam biên giới Nhật Nam. Theo Coedes thì giặc "man di" đó nếu không là Chăm thì là cũng những người chủng tộc Indonesian.
Các vị vua trên chắc chắn không phải là họ Phạm mà là Hán phiên âm của chữ địa phương. Rất có thể đó là phiên âm của từ Pô hay Pha. Pô tiếng Chăm Indonesian là chúa, vua hay lạc trưởng (như Po Nagara).
Như vậy có thể nói là từ giữa thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 4 thì vùng đất sử ta gọi là Việt-Thường cơ bản là nơi người Chăm Austronesian cư ngụ. Trước đó, rất có thể là những bộ lạc Môn-Khmer, Mường .. đã bị người Chăm đẩy lùi và tiêu diệt.
Hiện nay ở vùng xứ Quảng trên các cao nguyên có các dân tộc Mon-Khmer như Vân Kiều, Pa kô, Tà ôi.. vẫn còn cư trú, và trên Tây Nguyên Nam Trung bộ, người Gia Rai, Rhade của chủng Austronesian xưa vẫn còn và có ít ảnh hưởng từ Chăm Austronesian.
Tóm lại, đất Việt Thường xưa kia có các bộ lạc thuộc chủng Mon-Khmer như Vân Kiều, Bru, Pa kô, Tà Ôi hay có thể Mường và Austronesian cư ngụ trong cùng một không gian. Sau đó đến thế kỷ thứ 2 thì thành phần Austronesian từ bờ biển đến. Thành phần này đã bị Ấn hóa, có thể từ Funan hoặc các vương quốc Ấn hóa trong vùng Đông Nam Á. Chủng Chăm Austronesian này văn hóa cao hơn đã đẩy những những dân tộc khác vào trong nội địa. Sau này ta cũng biết là sau đó người Chăm đã cố gắng chinh phục các dân tộc vùng Tây Nguyên mà dấu vết Chăm trên Tây nguyên hiện nay vẫn còn. Đến thế kỷ 3 và 4 thì đất Việt-Thường, hay Tượng Lâm, Lâm Ấp hoặc Amaravati đã là của người Chăm Indonesian.
3.6.2 Vương quốc Lâm Ấp hay Champa ?
Sách Hán "Thuỷ kinh chú" ghi tên gọi của nước Lâm Ấp là: "Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm.. sau bỏ chữ "Tượng" chỉ gọi là Lâm Ấp
Thực sự nói Lâm Ấp, Hoàn vương hay Champa là một quốc gia hay nước thì cũng không đúng lắm theo sự định nghĩa của ngày nay. Từ dùng đúng hơn là Mandala, từ ngữ mà nhà nghiên cứu O. Wolters (13) đã đề nghị cho thể chế Champa trong giai đoạn này. "Mandala" một loại liên hiệp các "tiểu quốc". Người Champa có hai bộ tộc lớn: bộ tộc Cau và bộ tộc Dừa. Dòng Cau (kramuk vansh) trị vì miền Bắc gồm Indrapura (Bình Trị Thiên), Amaravati (Quảng nam, Quảng Ngãi) và Vijaya (Bình Định, Phú Yên). Dòng Dừa trị vì miền Nam gồm Kauthura (Khánh Hoà), Panduranga (Bình Thuận). Dòng Cau là dòng trống (cha) và dòng Dừa là mái (mẹ). Vương quốc Champa là tên mà người Chăm đặt cho đất nước và dân tộc của họ là tập hợp của hai tiểu quốc trên.
Khi dòng tộc Cau bị Đại Việt đẩy lùi và tiêu diệt mà nơi trấn thủ cuối cùng là Vijaya (Đồ Bàn, Bình Định) thì họ đã chạy về tiểu quốc dòng Dừa mẹ ở phía nam. Coi như thành luỹ của dòng cha đã tan vào thế kỷ 15. Vận Champa tàn sau 12 thế kỷ tranh đấu trên vùng giao thoa Ấn-Hoa. (Ở Âu châu có một vùng tương tự, đó là vùng Balkans nơi nền văn minh Ki-tô Châu Âu (Công giáo & Chính thống giáo) và Hồi giáo Trung Đông giao thoa: vùng "đệm" của 2 văn minh Âu-Á)
4. Vài nét về văn hóa và văn học Champa
Minh sử viết như sau về một số tục lệ và tư tưởng của người Chăm, đầu thế kỷ 16 (4):
“Xứ sở này không giàu lắm, nhưng tê giác và voi thì rất nhiều. Họ lấy gỗ mun và gỗ kala để dùng làm củi đốt. Còn kỳ nam thì chỉ có ở một nơi trong núi, các thủ lãnh đều gởi người đến đó để bảo vệ. Người thường không được phép lấy, nếu vi phạm thì sẽ bị cắt mất tay.
Ở xứ này cũng có một hồ cá sấu. Nếu một vụ xử án không giải quyết được hay còn hoài nghi thì hai người trong cuộc được ra lệnh cỡi con trâu nước qua hồ. Cá sấu sẽ nhảy lên và ăn sống người có lỗi. Còn người đúng thì dù có cỡi trâu qua lại nhiều lần cũng không bị hề hấn gì. “Thi thủ man” (đầu tử thi của mọi), hay còn gọi là “thi trí ngư”, thực sự là đàn bà, chỉ khác là chúng không có tròng đen trong mắt. Ban đêm chúng ngủ chung với những người khác, nhưng rồi thình lình đầu chúng bay rời khỏi thân thể và đi hút ăn phân của người ta. Khi đầu trở về, nhập với thân thể chúng sẽ sống lại như bình thường. Nếu người ta biết được những người đàn bà như vậy, thì họ sẽ che phủ cổ của chúng (khi đầu đang rời thân thể đi nơi khác) hoặc dời thân thể chúng đi chổ khác, thì chúng sẽ chết. Ở xứ này, người ta đã thiết lập những sự cấm đoán chặc chẽ, nếu có người nào biết người đàn bà ma quái như vậy và không thông báo cho ai biết, thì hình phạt sẽ áp dụng tới toàn thể gia đình người ấy.
…
“
Truyền thuyết “ma lai rút ruột” của người Chăm, mô tả như trên, tương tự như truyền thuyết “pontianak” của các dân tộc Mã Lai, Nam Dương và Phi Luật Tân ở hải đảo.
Cũng như nhiều dân tộc ở Đông Nam Á, người Chăm thích ăn trầu. Theo các tư liệu cổ, vua đi đâu cũng có vị quan bưng trầu đi sát bên.
Ngoài các bia ký, văn học Chăm có nhiều thể loại gồm có các sử thi (Akayet) như Akayet Deva Muno, các trường ca như Ariya Cam-Bini, Ariya Sah Pakei, các giai thoại, cổ tích cổ điển... Akayet Deva Muno là thi phẩm ca nổi tiếng, đóng vai trò quan trọng trong văn học Chăm và được phổ biến rất rộng rãi. Có lẽ đây là tác phẩm đầu tiên được sáng tác bằng chữ akhar thrah (chữ viết Chăm thông dụng). Tác phẩm kể về cuộc chiến đấu cam go anh hùng của Deva Muno chống lại Deva Samulaik, cứu công chúa Ratna và mang lại hòa bình cho thế giới trần gian. Năm 1975, G. Moussay đã xác định nguồn gốc Mã Lai của thi phẩm Akayet Deva Muno. Sử thi Akayet Deva Muno vay mượn cốt truyện Hikayat Deva Mandu của Mã Lai. Bản in sử thi này đã được chuyển tự ra tiếng Pháp, Việt, Mã Lai. Gần đây, Insara (7) trong một bài nghiên cứu đã hiệu đính và sửa chữa một số sai lầm trong các bản chuyển tự.
Sau thời đại Po Rome vào thế kỷ 18, có hai tác phẩm Ariya Sah Pakei và Ariya Bini-Cam xuất hiện. Ariya Sah Pakei nói về một chuyện tình và phản ảnh nhân sinh quan Chăm. Ariya Bini-Cam nói lên sự xung đột giữa hai tôn giáo Bàlamôn Ấn độ và Hồi giáo qua một chuyện tình đổ vỡ giữa một hoàng thân Chăm và công chúa Hồi giáo. Sự xung đột và mất niềm tin của người Chăm với văn hóa Ấn Độ dẫn đến sự sụp đổ của vương quốc Chăm (7).
5. Nghệ thuật
Đứng trước những đền, tháp Chăm còn lại không bị hủy mất qua chiến tranh và thời gian với các điêu khắc đặc sắc khác nhau đã làm nhiều người phải rung động trước cái uy nghi, hùng tráng và vẻ đẹp huyền bí của chúng. Với rất ít ký tự để lại, việc thẩm định niên đại, xếp loại các kiến trúc, điêu khắc và tìm hiểu quá trình phát triển nghệ thuật Chăm là một công trình khó khăn cần sự nghiên cứu công phu tỉ mỉ không những qua tư liệu lịch sử mà còn qua tín ngưỡng tôn giáo, phong cách cấu trúc, điêu khắc của tháp, đền, và nghệ thuật trang trí tạo hình.
Từ một số các tháp, đền đã biết được niên đại qua bia ký hay tư liệu lịch sử làm chuẩn, ta có thể thẩm định thời kỳ hay xếp loại các công trình khác chưa biết qua các phong cách kiến trúc hay nghệ thuật tạo hình của các tháp. Các nhà nghiên cứu nghệ thuật Chăm như H. Parmentier, P. Stein, J. Boisselier ở thế kỷ trước đã sắp xếp và phân loại để phát họa ra những nét chính của quá trình lịch sử phát triển nghệ thuật Chăm. Hiện nay cách phân loại phong cách nghệ thuật tạo hình của P. Stein (và cải tiến thêm bởi Boisselier năm 1963) vẫn còn được coi là khuông mẫu chuẩn có giá trị khoa học làm nền tảng cho những ai nghiên cứu về nghệ thuật Chăm.
Trong di tích quần thể Mỹ Sơn, thì đền Mỹ Sơn E1 là xưa nhất dưới thời trị vì của vua Prakasadharma (Vikrantavarman I) vào thế kỷ 7. Điêu khắc ở mỗi cửa đền bằng đá rất đẹp với hoa văn trang trí thật phong phú và điêu nghệ. Tượng ở đền Mỹ Sơn E1 ít nhưng đều là các kiệt tác trong nghệ thuật Chăm, vì thế phong cách của nghệ thuật này được đặt theo tên đền. Phong cách Mỹ Sơn E1 bắt đầu sắc thái bản địa trong nghệ thuật, thoát khỏi sự sao chép máy móc của phong cách Ấn độ. Phong cách Mỹ Sơn E1 được coi là phong cách cổ điển Champa. Tính cách lý tưởng của truyền thống Gupta Ấn độ kết hợp hài hòa với sức sống tự nhiên bản địa. Các điêu khắc tượng, thú vật được thể hiện rất sống động. Ở đây có sự tương tự với nghệ thuật Dvaravati của người Mon (vùng Miến điện và Thái Lan hiện nay) và nghệ thuật Indonesia. Ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer tiền-Angkor cũng được nhận rõ. Điều này cho phép các học giả xác định niên đại của chúng bằng cách so sánh với các tác phẩm điêu khắc Khmer mà niên đại đã được biết. Sự ảnh hưởng của hai nghệ thuật phong cách Mỹ Sơn E1 và Khmer tiền-Angkor là do sự liên hệ gia đình giữa vua Champa và hậu duệ vua Khmer Ishanavarman I, người xây dựng Sambor Prei Kut.
Vào thời Hoàn Vương (758-859), các kiến trúc Chăm được xây dựng theo phong cách Hòa Lai. Phong cách Hòa Lai bắt nguồn ở phía nam có những sắc thái khác với phong cách Mỹ Sơn E1 phát triển ở phía bắc vào thời kỳ trước trong thế kỷ 7. Đặc trưng của phong cách Hòa Lai là chú trọng về kiến trúc hơn là trang trí. Di tích Hòa Lai có ba tháp lớn, thon cao rất đẹp thể hiện ưu thế nổi bật của kiến trúc lên trên điêu khắc trang trí. Đền Mỹ Sơn C7 cũng thuộc phong cách Hoà Lai. Vào thời kỳ này, nhiều tượng đồng đã được tìm thấy ở Champa và chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa. Các tượng này chỉ có thể là có nguồn gốc từ Java mang đến Champa hay được đúc lại ở địa phương phỏng theo tượng đồng Java của phong cách nghệ thuật Nalanda. Sự hiện diện của các tượng đồng này dĩ nhiên có liên quan đến những cuộc tấn công của Java vào Champa và khắp Đông Nam Á lục địa ở cuối thế kỷ thứ 8. Mặc dầu không nhiều nhưng các tượng này có ảnh hưởng đến nghệ thuật Chăm suốt một thế kỷ rưỡi sau đó (1). Không những nghệ thuật tạo hình bị ảnh hưởng từ Java mà cả tín ngưỡng Phật giáo đại thừa từ Java đã được các vua Chăm cuối thế kỷ 9 áp dụng. Vua Chăm trở thành tín đồ trung thành của tôn giáo mới này.
Sau phong cách Hòa Lai là phong cách Đồng Dương. Các tượng ở đền A13, B4 trong quần thể Mỹ Sơn đều bắt nguồn từ phong cách Đồng Dương. Các đền ở Đồng Dương được xây cất rất đồ sộ, nhưng khác với Hòa Lai là trang trí trên đền rất dầy đặt và nổi bật chứ không bị kiến trúc đền lấn át. Đa số các mô típ trang trí Đồng Dương có ảnh hưởng từ Indonesia và các tượng điêu khắc thể hiện rõ ràng tín ngưỡng Phật giáo đại thừa. Khuôn mặt trên tượng được điêu khắc với những nét phóng đại các đặc tính chủng tộc của người Chăm (như môi dầy, mũi rộng).
Kế tiếp phong cách Đồng Dương là phong cách Khương Mỹ. Phong cách Khương Mỹ thể hiện sự chuyển tiếp từ Đồng Dương đến phong cách Mỹ Sơn A1 và Trà Kiệu (thế kỷ 10). Nghệ thuật và kiến trúc Chăm theo phong cách Mỹ Sơn A1 và Trà Kiệu được coi là thời kỳ hoàng kim của nghệ thuật Chăm. Về kiến trúc, phong cách Mỹ Sơn A1 có sức sống mạnh mẽ, tinh tế, trang nhã. Kiến trúc đền Mỹ Sơn A1 thể hiện sự cân bằng, quí phái về hình dáng với các trang trí ở đền rất kín đáo thanh tao, không có quá nhiều chạm trổ chi tiết không cần thiết. Các cửa và mặt đền có những cột tạo thành những khuôn chứa các tượng những người thờ phụng rất trang nhã. Về điêu khắc, các tượng ở Mỹ Sơn A1 và Trà Kiệu mặc dù có chút ảnh hưởng Indonesian nhưng rất là đặc thù nguyên tác Chăm. Các tượng thú vật rất thật và sống động. Tượng vũ công apsara có thân hình uốn cong cân xứng với khuôn mặt trầm tỉnh, đẹp đẽ và mỉm cười thoát trần (như tượng vũ công Trà Kiệu ở viện bảo tàng Đà Nẵng). Sự quí phái và trang nhã của các tượng vũ công đạt đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật Chăm.
Sau phong cách Mỹ Sơn A1 và Trà Kiệu là phong cách Chánh Lộ thể hiện thời kỳ biến động trong chiến tranh với Đại Việt khi Champa dời đô về Vijaya (Bình Định). Tháp Chánh Lộ (Quảng Ngãi), đền Mỹ Sơn E4 và khu tháp Chiên Đàn (Quảng Nam) là tiêu biểu của phong cách Chánh Lộ vào thế kỷ 11. Tính tự tin trong nghệ thuật kiến trúc và tạo hình có vẻ mất đi. Như Trà Kiệu, các điêu khắc người (như vũ nữ, nhạc công) của Chánh Lộ vẫn còn các động tác cân xứng với thân mình thường cong lại. Nhưng cái mỉm cười thần bí hấp dẫn của Trà Kiệu không còn. Đồ trang sức ít, miệng lớn và nét chạm khô khan hơn. Chỉ có điêu khắc các thú vật huyền bí là còn có thể so sánh ngang hàng được với Trà Kiệu. Các tượng Gajasimha (đầu voi người sư tử) ở các tháp Bằng An và Thu Bồn cũng thuộc phong cách Chánh Lộ. Sau Chánh lộ, ta thấy điêu khắc Chăm có tính trang trọng và thô cứng, thể hiện trong các quần thể kiến trúc ở Vijaya ở các tháp Po Nagar, Bình Lâm, Thủ Thiện, Cánh Tiên (tháp Đồng), Dương Long, Hưng Thạnh, Phước Lộc (Tháp Vàng). Ảnh hưởng kiến trúc Khmer (như prasat) được nhận thấy ở một số tháp. Các tháp này đánh dấu sự chuyển tiếp đến phong cách đặc sắc cuối cùng của nghệ thuật Chăm: phong cách Tháp Mắm Bình Định.
Tháp Mắm không còn, nhưng những tượng thần, môn thần, bệ đá điêu khắc, các mảng trang trí đền hầu như còn được giữ khá toàn vẹn và đầy đủ. Tên tháp Mắm được nhà khảo cổ Pháp J.Y. Claeys gọi khi ông khai quật chung quanh một cái tháp đã bị đổ và tàn phá. Tên tháp được đặt theo tên ông Nguyễn Mắm chủ nhân khu đất mà nhà khảo cổ người Pháp đã đào và khai quật. Theo Ngô Văn Doanh (8), trong năm 1987 khi đi khảo sát có gặp cụ Nguyễn Mắm lúc đó vẫn còn sống ở tuổi 77. Vì thế phải gọi là Tháp Mắm chứ không phải Tháp Mẫm mà nhiều nhà nghiên cứu thường gọi.
Phong cách Tháp Mắm (giữa thế kỷ 12) đặc sắc ở điêu khắc những tượng môn thần và thú vật huyền thoại. Những tượng này dường như mục đích chủ yếu là trang trí. Cảm tưởng chung trước điêu khắc tượng là rất dầy đặc, nặng nề, quá nhiều chi tiết, được chạm trổ rất chi li. Tượng động vật có nét chung là có xu hướng huyền thọai, hoang đường hóa, phóng đại hơn là hiện thực. Các con gajasimha, cá sấu makara, chim garuda, rồng đã biến thành những trang trí kiến trúc đẹp. Các tượng chim thần garuda trang trí góc tháp với hai tay đưa cao cho thấy ảnh hưởng của nghệ thuật Angkor. Phong cách Bayon của kiến trúc và nghệ thuật Angkor nói chung có ảnh hưởng nhiều đến phong cách Tháp Mắm (như tháp Hưng Thạnh có dáng của một đền thờ Khmer). Trong nghệ thuật Chăm, phong cách Tháp Mắm nổi bật không kém hai phong cách Đồng Dương và Trà Kiệu.
6. Một vài di sản
Người Champa đã để lại ở Việt Nam ngoài di sản văn hoá và kiến trúc còn có các di sản địa vật và kinh tế mà người Việt đã nhận lại.
Quảng Nam có lụa Phú Bông
Có khoai Trà Đoá có sông Thu Bồn
Như Mã Đoan Lâm đã viết về "vải bông ki-pei", "trồng bông", dệt vải lụa màu người Chăm rất giỏi và sản xuất nhiều. Người ta đã tìm thấy ở nhiều di tích Sa Huỳnh những "con lăn" bằng đất nung là cùng với màu sắc hoa văn trên vải lụa và nhiều dọi xe sợi bằng đất nung. Trong 31 đồ triều cống cho nhà Minh, có tới 13 đồ vật bằng vải bông như vải in hoa đỏ, vải in hoa cải củ, vải bông trắng, vải bông đen, khăn tay, khăn vấn đầu…
"Khoai đất lạ", thịnh hành với đất cát ven biển, sông, cũng như mía, vốn có nguồn gốc quê hương từ hải đảo Thái Bình Dương và Châu Mỹ, được cư dân Nam Đảo Mã Lai du nhập vào khu vực hàng hải Đông Nam Á. Quê hương của cây bông là Ấn Độ. Cư dân cổ Sa Huỳnh, cư dân Chăm cổ thường xuyên có mặt ngoài khơi, ngoài đảo xa. Vì thế họ đã có sự giao lưu kinh tế văn hoá với thế giới hải đảo Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Họ đã nhập và thuần hóa các thực vật để trồng trọt như khoai, mía, bông và xây dựng được các vùng đặc sản mà ngày sau người Việt thừa kế: Khoai Trà Đoá, đường mía Quảng Ngãi, bông Điện Bàn, Phan Rang, Phan Rí... (6).
Lúa Chiêm từ Champa đã được đưa vào Việt Nam từ thế kỷ 10. Theo Lê Quý Đôn (15), có nhiều loại lúa từ Chiêm Thành đã được mang vào Trung quốc như lúa tẻ có lông, lúa tẻ chín sớm (lúa tiên), lúa tiễn tử (lúa 60 ngày, lúa chín trễ hơn gọi là lúa 80 ngày, lúa 100 ngày). Lúa Chiêm từ Việt Nam đã lan qua Trung quốc tạo nên một cuộc cách mạng kinh tế lớn lao. Có thể so sánh đây là cuộc cách mạng xanh (green revolution) đầu tiên trước cuộc cách mạng xanh sau này ở thế kỷ 20. Vua Tống Chân Tông (998-1022) đã mang lúa Chiêm vào Trung Quốc, sau này đã được áp dụng khắp nơi ở Nam Trung quốc, người Trung quốc gọi loại lúa này là “lúa tiên”. Lúa Chiêm Thành, theo sử Trung quốc, được nhà Tống mang áp dụng vào đầu thế kỷ 11, bắt đầu từ tỉnh Phúc Kiến, mang đến Triết Giang để cấy trồng sau những vụ mất mùa do hạn hán và để tăng thêm thu hoạch. Lúa Chiêm Thành tăng trưởng và chín rất nhanh nên có thể trồng được hai vụ lúa trong năm. Năng suất vì thế rất cao. Đến thời nhà Minh thì các tỉnh phía nam sông Dương Tử từ Triết Giang, Phúc Kiến đến Hải Nam đều dùng lúa Chiêm Thành. Cuộc cách mạng sản xuất nông nghiệp đã đưa đến sự tăng trưởng nhanh chóng về dân số và kinh tế với sự bành trướng và xuất hiện của các trung tâm đô thị mới. Người Trung quốc còn gọi lúa Chiêm Thành là lúa do trời ban cho (lúa tiên). Đại Việt và Trung quốc lớn mạnh cũng một phần do sự phát triển nông nghiệp qua lúa Chiêm.
Âm nhạc, văn hoá Chăm có ảnh hưởng vào xã hội Việt Nam, nhất là trong đời Lý-Trần. Chiêu văn vương Trần Nhật Duật là một thí dụ điển hình. Giỏi âm nhạc, Trần Nhật Duật cũng có niềm say mê đặc biệt các ngôn ngữ nước ngoài, rất thích chơi với người nước ngoài, tìm hiểu phong tục, tập quán, văn hóa và triết lý của họ. Từ Thăng Long, ông thường cưỡi voi đến chơi thôn Da-da-li - một thôn gồm người Việt gốc tù binh Chiêm Thành (Champa), sau gọi trệch là thôn Bà Già, có lẽ ở mạn Cổ Nhuế, Từ Liêm - có khi ba bốn ngày mới về. Văn hóa Chăm nhất là về âm nhạc, triết lý không những lôi cuốn ông mà có ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, văn hóa Việt Nam trong các triều đại Lý, Trần. Các điệu nhạc cung đình, chèo và quan họ trong dân gian đều có nguồn gốc ảnh hưởng từ văn hóa Chăm (3)(12). Một số kiến trúc chùa đình thời Lý-Trần trong giai đoạn này cũng có mang nét ảnh hưởng kiến trúc Chiêm Thành như một số hình tượng chim thần Garuda (12). Triết và đạo lý giữa hai dân tộc Việt Nam-Chiêm Thành cũng giao lưu và ảnh hưởng nhau. Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông lúc về hưu cũng đã không ngại đường xa thân hành qua Chiêm Thành để bàn bạc, trao đổi, học hỏi văn hóa đạo Phật và sống chung như anh em với vua quan Chiêm Thành trong một thời gian (3).
Theo An Nam Chí lược của Lê Tắc, tháp Bảo Thiên 11 tầng ở hồ Hoàn Kiếm là do tù binh Chăm xây dựng. Nhiều chùa ở Hà Nội như chùa Châu Lâm, quận Ba Đình có các tượng “bà banh”, một số tượng đứng trên bệ đá có điêu khắc chim thần Garuda. Ngay cả ở Thanh Hóa, Nghệ An người Chăm đã cư ngụ từ thế kỷ 7-9 để lại đi tích “nhạn tháp” ở Nghệ An. Dọc sông và bờ biển Thanh Hóa đã tìm thấy các di tích điêu khắc Chăm. Mai Hắc Đế nổi dậy chống Trung Quốc ở thế kỷ 8 chống Trung quốc có cha là người Chăm, mẹ Việt.
Ngôn ngữ Chăm còn để vết ảnh hưởng trên các dân tộc Tây nguyên. Từ thuở xưa, người Chăm ở bờ biển đã tiến vào vùng Tây nguyên nơi các dân tộc nói tiếng Mon-Khmer (nhánh Bahnaric) cư ngụ. Qua đó một số các dân tộc chuyển ngữ và nói các ngôn ngữ mà ngày nay ta gọi là Jarai, Rhade, Roglai.. Những ngôn ngữ này, cùng với tiếng Chăm, được gọI chung là ngôn ngữ Chamic. Vào thế kỷ 12, vua Jaya Harivarman đánh chiếm vùng Tây nguyên của người Thượng mà các bia ký Chăm thường gọi là người Kiratas. Rãi rác trên Tây nguyên có các tháp (như Yang Prong, Đắc Lắc), các tượng, tác phẩm điêu khắc tìm được ở Yang Kum (kontum), Drang-Lai (Đắc Lắc).
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 3:40:52 GMT 9
7. Lời bạt
Hiện nay người Chăm còn ở rải rác các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang. Nghiên cứu về văn hoá và văn minh Champa được chú ý hơn gần đây ở trong nước qua các công trình của Inrasara, Ngô Đăng Doanh, Trần Kỳ Phương … Kho tàng văn minh và văn hóa Chăm bắt đầu được khai thác trở lại. Ngoài ra ở các thôn Chăm còn có những văn tự viết trên lá buông truyền từ nhiều đời, hiện chưa được sử dụng thiết thực. Ngoài Inrasara có những bài viết giá trị về văn hoá Chăm, đầu năm 2004, tôi có đọc trên báo ở Việt Nam nói về ông Lâm Gia Tịnh, người Chăm, trước đây là thành viên biên soạn từ điển Chăm-Việt-Pháp, xuất bản năm 1971, nay đã về hưu ở Ninh Thuận đã bỏ ra cả đời để sưu tầm thư tịch cổ trên lá buông và chữ viết của người Chăm. Theo ông, thư tich cổ trên lá buông là vật gia bảo nên rất khó sưu tầm. Truyền nhau qua nhiều đời cho đến lúc mối mọt đục nát thì đem ra thả sông hoàn trả về đất trời chứ không mua bán hoặc biếu tặng. Người ta không hiểu nội dung thư tịch nói gì nhưng phải giữ lại vì sợ mang tội với người xưa. Phần lớn thư tịch cổ trên lá buông chép lại các chuyện cổ tích, các sự kiện, đạo bùa, sấm truyền, tập tục xưa…Những bó lá buông thường được cất giữ trên mái nhà. Dù chiến tranh loạn lạc hay bất trắc người Chăm cũng nghĩ đến lá buông trước tiên. Hy vọng trong nay mai, kho tàng này sẽ được sử dụng đúng mức và nhân lực nghiên cứu văn hóa Chăm sẽ được tăng cường và hổ trợ thêm.
Để kết thúc bài này, tôi xin thuật lại chuyện nhỏ xảy ra ở Tháp Chăm Thủ Thiện (Bình Định). Đầu thế kỷ 20, khi nhà nghiên cứu Parmentier đến tháp thì tháp đã hoang vắng từ bao đời, và bị một cây đa lớn mọc trên đỉnh tháp. Thân và rễ cây phủ kín tháp giữa thiên nhiên hoang dại. Theo ông Ngô Đăng Doanh thì khi ông khảo sát tháp vào những năm cuối 1970 và đầu 1980 thì cây đa càng lớn không còn thấy gì ở tháp nữa (8). Không ai dám chặt cây đa vì cả tháp và đa như đã trở thành linh thiên và thần bí. Năm 1985, có cơn bão lớn thổi qua Bình Định, cây đa bị thổi ngã trốc cả rễ. Nhưng lạ thay cây đa lớn bám chặt như vậy mà khi đổ lại không làm hư hại tháp nhiều. Sau khi cây đổ tháp Thủ Thiện lộ ra hết vẻ đẹp hoành tráng và cổ kính. Trong trường hợp này chính thiên nhiên (cây đa) đã bảo vệ tháp, nhưng tháp lại gặp hiểm họa mới: vài năm sau, các tường quanh tháp đã bị đục phá sâu vào để lấy gạch và tác phẩm điêu khắc bị mất trong giới buôn bán đồ cổ. Đúng thay, hiểm họa do con người gây ra vẫn nguy hại hơn sức phá của thiên nhiên.
Tham Khảo :
(1) Emmanuel Guillon, Cham Art – Treasures from the Da Nang museum, Vietnam, River Books Ltd, Bangkok, Thailand, 2001.
(2) D.G.E Hall, History of South East Asia, Macmillan, London, 1968
(3) G. Coedes, the Indianized states of South East Asia, East West Center Press, University of Hawai, Honolulu, 1968,
(4) G. Wade, The Ming shi account of Champa, Asia Research Institute, Singapore, Working papers Series 3, June 2003
(5) J. Sharma, Temples of Champa in Vietnam Tháp Chăm ở Việt Nam, NXB Khoa Học Xã Hội, 1992, Hanoi
(6) Trần Quốc Vượng - "Theo dòng lịch sữ", Nhà xuất bản Văn Hoá, 1996
(7) Inrasara, “Văn hoá - xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại”, Nhà Xuất bản Văn học, 2003.
(8) Ngô Văn Doanh, Văn hoá cổ Chămpa, Nhà Xuất bản Văn hoá Dân tộc, 2002
(9) Maspero, "Histoire du royaume Champa”, Librarie National d’Art et d’Histoire, Paris, 1928
(10) Nguyễn Thế Anh, Traditional Vietnam’s Incorporation of External Cultural and
Technical Contributions: Ambivalence and Ambiguity, Southeast Asian Studies, Vol. 40, No. 4, March 2003
(11) Lê Quí Đôn, Phủ biên tạp lục, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1977
(12) Cao Xuân Phổ, Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, Bài trong Hội nghị Sử học Đông Nam Á, Kualua Lumpur 1982
(13) O. W. Wolters, History, Culture and Relgion in Southeast Asian Perspectives,1982
(14) G. Wade, Ming China and Southeast Asia in the 15th Century: A reappraisal, Asia Research Institute, Singapore, Working papers Series 28, July 2004.
(15) Lê Quí Đôn, Vân đài loại ngữ, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1995.
(16) Ngô Văn Doanh, Thánh địa Mỹ Sơn, Nhà xuất bản Trẻ, 2003.
(17) Ngô Văn Doanh, Tháp cổ Chămpa sự thật và huyền thoại, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1994. Diễn Đàn Forum, Paris, số 144 tháng 10/2004
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 15, 2011 4:43:05 GMT 9
LẦN THEO DẤU VẾT MỘT THỜI NGANG DỌC CỦA CHẾ BỒNG NGA Hồ Bạch Thảo Một người bạn tại Hà Nội, anh N. B. D., biết tôi hiện đang dịch Minh Thực Lục nên có nhã ý gửi cho website bản dịch bằng Anh ngữ về Minh Thực Lục liên quan đến vùng Đông Nam Á (Southeast Asia in the Ming Shi-lu), do Singapore thực hiện. Xem xong, tôi trả lời anh D. rằng : - Tài liệu rất có ích trong việc tham khảo để dịch các văn bản liên quan Việt Nam ; riêng về các nước khác như Chân Lạp, Chiêm Thành, Java, Tiêm La vv… thì hiện nay tôi chưa có ý định làm. Anh D. có ý kiến : Nghiên cứu bộ sử Trung Quốc Minh Thực Lục, và đối chiếu với các bộ sử Việt Nam, tác giả Hồ Bạch Thảo đã mang lại cho chúng ta nhiều thông tin về nước Chiêm Thành và về quan hệ giữa hai nước Đại Nam và Chiêm Thành, hai yếu tố cấu thành của quốc gia Việt Nam ngày nay. Nghiên cứu này gồm hai bài. Bài đầu đã công bố trên mạng Talawas. Để bạn đọc có thể theo dõi một cách mạch lạc, chúng tôi đăng toàn văn cả hai bài trong cùng một tài liệu. - Chiêm Thành hiện nằm trong lãnh thổ nước ta, vậy sử Chiêm Thành là sử Việt Nam ; anh không nên bỏ qua. Nhận thấy đây là nói phải của một người bạn trẻ, tuy xa cách quan san nhưng gần gũi trong gang tấc, bởi cùng chung một tấm lòng yêu sử Việt ; nên tôi bắt tay vào việc sưu tầm bản gốc để dịch tiếp. Nhân tiện rút ra một vài sử liệu liên quan đến đấng anh hùng của Chiêm Thành để giới thiệu, qua nhan đề LẦN THEO DẤU VẾT MỘT THỜI NGANG DỌC CỦA CHẾ BỒNG NGA. * Không rõ năm sinh của Chế Bồng Nga, nhưng vào năm Hồng Vũ thứ 2 (1369) khi vua Thái Tổ nhà Minh sai sứ báo tin cho các nước về việc nhà Minh giành ngôi từ nhà Nguyên, thì Chế Bồng Nga đã làm vua (tên xưng với Trung Quốc là Ha Đáp Ha Giả) và sai sứ sang triều cống Trung Quốc. Chế Bồng Nga bị quân nhà Trần bắn chết tại sông Hoàng Giang vào năm Hồng Vũ thứ 23 (1390) như vậy thời gian trị vì của họ Chế cũng xấp xỉ với vua Minh Thái Tổ. Riêng các vua nhà Trần nước ta thì một phần yểu mệnh, một phần gặp biến cố nên trong thời gian này tính có đến 6 đời vua : Dụ Tông, Dương Nhật Lễ, Nghệ Tông, Duệ Tông, Phế Đế, Thuận Tông. Nay thuận theo dòng lịch sử, sự việc được đề cập kể từ khi vua nhà Minh gửi chiếu thư đầu tiên liên lạc ngoại giao với Chiêm Thành và một số nước như Nhật Bản, Ja Va, Tây Dương vào tháng giêng năm Hồng Vũ thứ 2 : NGÀY 20 THÁNG 1 NĂM HỒNG VŨ THỨ 2 [26/2/1369] “ Sai Sứ-giả mang tờ chiếu lên ngôi dụ các nước Nhật Bản, Chiêm Thành, Trảo Oa [Java ], và Tây Dương ( 1 ) ”. ( Minh Thực Lục v. 2 , t. 0775; Thái Tổ q. 38, t. 11a ). Riêng đối với nước Chiêm Thành thì lúc Sứ-giả chuẩn bị ra đi, Chế Bồng Nga đã nhanh tay cho người đến trước ; triều cống cọp, voi và sản vật : NGÀY 4 THÁNG 2 NĂM HỒNG VŨ THỨ 2 [12/3/1369] “ Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả [Chế Bồng Nga] sai quan là Hổ Đô Man cống cọp, voi, và sản vật địa phương.” ( Minh Thực Lục v.2 q. 39 t. 0785; Thái Tổ q. 39, t. 2a ). Sứ giả Trung Quốc đưa đi, đều mang thư có dấu ấn tỷ của Minh Thái Tổ gửi cho các nước. Nội dung tỷ thư nhà Minh tỏ ra ân cần với Chiêm Thành, Ja Va ; riêng đối với Nhật Bản thì có thái độ rất nghiêm khắc với lời đe doạ nặng nề, do bởi lúc bấy giờ đám cướp biển người Nhật thường ra vào cướp phá tại bờ biển Trung Hoa : NGÀY 6 THÁNG 2 NĂM HỒNG VŨ THỨ 2 [14/3/1369] “ Sai bọn Ngô Dụng, Nhan Tông Lỗ và Dương Tải đi sứ các nước Chiêm Thành, Trảo Oa [Java], Nhật bản. Ban cho Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả [Chế Bồng Nga] tỷ thư ( 2 ) như sau : “ Ngày mồng 4 tháng 2 năm nay, Hổ Đô Man đến dâng cọp, voi ; lòng thành của Vương, Trẫm đã hiểu rõ. Tuy nhiên lúc Hổ Đô Man chưa tới, Sứ giả của Trẫm cũng sẵn sàng trên đường đi đến nước Quốc vương. Sứ giả của Trẫm đến để báo cho Quốc vương biết rằng trước đây nước Trung Quốc bị rợ Hồ [Mông Cổ] trộm chiếm hàng trăm năm, khiến tập tục man di đầy rẫy, phế bỏ Trung quốc phong hóa. Trẫm khởi binh trong vòng 20 năm, dẹp sạch bọn chúng, làm chủ Trung Quốc, thiên hạ bình an. Sợ các Di (3) trong bốn phương chưa biết, nên sai Sứ giả báo tin cho các nước. Không ngờ Sứ giả nước của Vương tới trước, lòng thành thể hiện vững vàng, khiến Trẫm rất vui. Nay ban một bản lịch Đại Thống, 40 bộ y phục lụa là, lụa ỷ (4) dệt kim tuyến ; sai người đưa Sứ giả về nước. Lại dụ vương về đạo [thờ nước lớn], Vương nên phụng thừa coi như đạo trời, khiến dân Chiêm Thành yên với nghề nghiệp, Vương giữ được lộc vị truyền đến con cháu ; trời đất soi xét sự cố gắng, Vương chớ xem thường. Hổ Lao Man và đám tùy tùng cũng được ban lụa là, lụa ỷ hoa văn, có phân biệt. “ Ban tỷ thư cho Quốc-vương nước Trảo Oa [Java] như sau : “ Rợ Hồ trộm chiếm nước Trung Hoa chính thống hơn một trăm năm, cương thường đọa lạc, mũ nón điên đảo. Trẫm khởi binh dẹp chúng suốt 20 năm, đất nước bình định, bèn phụng mệnh trời làm chủ Trung Quốc. Sợ nơi xa xôi chưa biết tin này, nên sai Đặc sứ báo cho Vương biết. Khi Sứ giả sẵn sàng ra đi ; lại được tin người của Vương là Niết Chỉ Mổ Đinh đến cống nhà Nguyên, lúc về đến Phúc Kiến thì được tin nhà Nguyên mất, bèn trở lại kinh sư. Trẫm nghĩ y xa Trảo Oa đã lâu ngày, tất nặng lòng tưởng nhớ, nên sai người đưa trở về. Lại cho một bản lịch Đại Thống để Vương nhớ ngày Chính Sóc (5) ban tại đây, tất phải chuyên tâm phụng thờ như đạo trời, để giúp dân Trảo Oa yên ổn trong cuộc sống, Vương được giữ lộc đời đời, truyền đến con cháu. Hãy gắng chăm lo, chớ coi thường.” “ Ban cho Quốc vương Nhật Bản tỷ thư như sau : “ Thượng đế hiếu sinh, ghét kẻ bất nhân. Nhà Triệu Tống xưa (6) chế ngự sai lầm, để rợ Hồ phương Bắc tràn vào, truyền bá thói tục hôi tanh, đến nỗi phong hóa trung thổ suy sụp, lòng dạ muôn người ai mà không hưng phẩn ? Từ năm Tân Mão [1351] đến nay, Trung Quốc loạn lạc, bọn giặc Nụy (7) các ngươi đến cướp tại Sơn Đông, bất quá thừa dịp khi bọn Hồ [nhà Nguyên] suy đốn. Trẫm vốn thuộc gia đình Trung Quốc xưa, hổ thẹn vì vua trước chịu nhục, hưng binh quét sạch rợ Hồ ; ngày đêm quên ăn, lo tính đã hai mươi năm nay. Từ năm ngoái đến nay, bọn giặc phương bắc diệt hết, lên làm chủ Trung Quốc. Sự việc chưa báo rõ cho các Di bốn phương, thỉnh thoảng Sơn Đông lại tâu về rằng bọn Nụy mấy lần cướp phá vùng duyên hải, kẻ chết lìa vợ lìa con, làm tổn thương vật chất và mạng sống. Nay soạn đặc thư báo quyền chính thống và dụ về việc quân Nụy vượt biển quấy phá. Khi chiếu thư đến nơi, như muốn làm bề tôi thì hãy dâng biểu đến triều đình ; nếu không chịu thì hãy luyện binh để tự giữ, lo đời đời cho lãnh thổ được bình an để đối phó với uy trời. Nếu còn cướp phá, Trẫm sẽ mệnh các đạo thủy quân dương buồm truy bắt sạch tại các đảo, rồi tiến thẳng vào trói Vương nước này, há chẳng phải là thay trời phạt bất nhân đó ư ! Vương hãy lo tính lấy ! ” (Minh Thực Lục v. 2 q. 39 t.0785-0787; Thái Tổ q. 39,t. 2a-3a). Lúc này chiến tranh xẩy ra giữa Việt Nam và Chiêm Thành. Chế Bồng Nga bèn sai sứ sang tố cáo với Trung Quốc, do đó vua nhà Minh sai sứ giả mang thư đến Việt Nam và Chiêm Thành để dàn hòa : NGÀY MỒNG 1 THÁNG 12 NĂM HỒNG VŨ THỨ 2 [30/12/1369] “ Sai Hàn Lâm Viện Biên tu La Phục Nhân, Chủ sự bộ binh Trương Phúc mang chiếu thư dụ An Nam và Chiêm Thành rằng : “ Trẫm vốn xuất thân từ bình dân, nhân thiên hạ loạn bèn khởi binh để bảo vệ làng xóm, không ngờ hào kiệt theo rất đông. Trẫm cầm binh vài năm, đất đai mở rộng, quân lính cường thịnh, được thần dân tôn lên làm vua trị thiên hạ, nối dòng chính thống, đến nay đã được 3 năm. Các nước ngoài đến triều cống thì An Nam là nước đầu tiên, thứ đến Cao Ly, rồi Chiêm Thành ; tất cả đều dâng biểu xưng thần, hợp với chế độ xưa, khiến Trẫm rất vui lòng. “ Mới đây Chiêm Thành sai Bình chương Bồ Đán Ma Đô đến cống, tâu rằng An Nam mang binh đến xâm nhiễu, Trẫm xem tờ trình tâm không được yên. Nghĩ rằng hai nước các ngươi từ xưa đến nay, cương vực đã định sẵn, đó là ý trời không thể cậy mạnh mà làm càn. Huống đất đai các ngươi, cách Trung Quốc hết núi đến biển, lời nói về sự xâm nhiễu nhất thời khó mà biết được để trình bày rõ ràng cho Trẫm hay. Các ngươi được truyền đời nối đời đã lâu, việc giữ đất an dân, trên phụng theo đạo trời, tôn kính Trung Quốc ; những việc này Vương trước của các ngươi chắc đã để lại lời dạy bảo, không đợi Trẫm dụ mới biết. Trẫm làm chủ thiên hạ, việc đáng làm là trị loạn dẹp nguy ; nay sai sứ đi quan sát sự việc, hiểu dụ các ngươi phải sợ trời, thủ phận. Nếu như cả hai dùng binh, năm này qua năm khác không ngừng, làm độc hại sinh linh, thượng đế hiếu sinh sẽ không bằng lòng ; e rằng trên thì trời ghét, dưới thì lòng dân oán hận, mối họa sẽ không tránh được. Vương hai nước hãy nghe lời Trẫm, tuân theo đạo lý, yên phận mình, để con cháu các ngươi được hưởng phúc lâu bền, há lại không tốt đẹp hơn ư ! Khi chiếu thư tới, hai nước hãy tuân mệnh bãi binh.” (Minh Thực Lục v. 3, q. 47, t. 0934-0935) Tuy vua Minh đã cho Sứ giả đến hòa giải, nhưng sự việc không dừng tại đó. Vào tháng 3 năm Hồng Vũ thứ 4 (1371) Chiêm Thành đến cướp phá thành Thăng Long, vua Nghệ Tông phải đi thuyền sang lánh nạn tại Đông Ngàn, Bắc Ninh. Bấy giờ thái bình đã lâu, thành quách biên cương không phòng bị, giặc đến không có quân nào ngăn được. Chúng đốt trụi cung điện ; nhà cửa thư tịch, sổ sách do vậy sạch không. (8) Vừa ăn cướp vừa la làng, 3 tháng sau biến cố này, vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga lại sai sứ sang Trung Quốc dâng biểu, văn bản được trân trọng viết trên vàng lá, tố cáo An Nam xâm lấn ; xin được viện trợ cho vũ khí, nhạc khí cùng dạy cho âm nhạc để An Nam không còn coi thường : NGÀY 25 THÁNG 7 NĂM HỒNG VŨ THỨ 4 [ 5/9/1371 ] “ Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả [Chế Bồng Nga] sai bầy tôi Đáp Ban Qua Bốc Nông đến triều đình dâng biểu về việc An Nam xâm lấn đất. Biểu viết trên vàng lá, dài hơn 1 xích (9), bề ngang 5 thốn (10), bằng chữ nước này, dịch giả dịch văn bản, ý như sau : “ Hoàng đế Đại Minh lên ngôi cao quý, chức vị coi sóc bốn biển, như trời đất che chở ; mặt trời, mặt trăng soi sáng. Ha Đáp Ha Giả chỉ đáng là một cây cỏ mà thôi, được ơn Hoàng đế ban cho ấn vàng, phong làm Quốc vương ; lòng trung thành hân hoan đội ơn vạn bội. Duy việc An Nam dùng binh xâm nhiễu bờ cõi, giết bắt quan lại nhân dân ; nguyện được Bệ hạ nghĩ đến ban cho binh khí, nhạc khí, chuyên viên về âm nhạc ; khiến An Nam biết Chiêm Thành được trang bị thanh giáo, là nước triều cống Trung Quốc, thì An Nam không dám khinh thường.” Thiên tử cảm động bởi lòng mong muốn, nên khi Đáp Ban Qua Bốc Nông từ giã bệ rồng bèn ra lệnh cho Trung Thư Tỉnh chuyển văn thư cho viên Quốc vương như sau : “ Lân quốc giao thiệp, đạo lý là phương sách hay để giữ đất, thờ nước lớn tận lòng thành để làm trọn lễ của bề tôi. Vả lại Chiêm Thành và An Nam đã là bề tôi thờ triều đình, cùng phụng thừa lịch Chính Sóc, lại gây việc binh khiến độc hại sinh linh, đã trái lễ phụng sự bề trên, lại sai đường giao hảo giữa lân bang. Đã báo cho Quốc vương An Nam bãi binh ngay, bản quốc cũng nên để hai bên tôn trọng giữ gìn cương thổ. Việc xin Thiên tử binh khí thì nào có tiếc gì, nhưng Chiêm Thành và An Nam đang tranh chấp, mà triều đình lại cho riêng Chiêm Thành, là giúp ngươi đánh nhau, rất trái với đạo chiêu an. Việc xin nhạc khí và chuyên viên âm nhạc, thì về thanh luật Trung Quốc và nước ngoài không khác, nhưng về ngữ âm thì có sự sai biệt giửa Hoa và Di, như vậy khó có thể điều khiển. Nếu nước ngươi có kẻ tập nói được tiếng Hoa, có thể dạy cho âm luật ; hãy tuyển chọn một số người đến kinh đô học tập. Lại dụ Hành tỉnh Phúc Kiến nếu thuyền bè Chiêm Thành ghé bờ thì cho miễn thuế, để tỏ ý mềm dẻo quyến luyến.” (Minh Thực Lục v. 3, q. 67, trang 1260-1261) Quân đội Chiêm Thành kể từ thời Chế Bồng Nga, được cải cách rèn luyện nên khá hùng hậu. TOÀN THƯ nhận xét như sau : “ Chiêm Thành từ thời Lê, Lý tới đây, quân lính hèn nhát, hễ quân ta đến là đem cả nhà chạy trốn hoặc họp nhau khóc lóc xin hàng. Đến đời Bồng Nga, La Ngai mới tập hợp dân họ lại bảo ban dạy dỗ, thay đổi dần thói cũ, trở nên can đảm, hăng hái, chịu được gian khổ, nên thường hay sang cướp, trở thành tai họa của nước ta.” (11) Không chỉ cướp phá Việt Nam mà thôi, hải quân của Chiêm Thành còn vươn ra hoạt động tận biển Đông, bắt dùm bọn cướp biển cho Trung Quốc : NGÀY 12 THÁNG 11 NĂM HỒNG VŨ THỨ 6 [26/11/1373] “ Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả [Chế Bồng Nga] sai bọn bầy tôi Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích Duyệt Văn Đán dâng biểu, cống phương vật. Lại tâu rằng bọn giặc bể Trương Nhữ Hậu, Lâm Phúc tự xưng là Nguyên soái cướp phá trên biển, bị Quốc vương đánh bại. Bọn Nhữ Hậu bị chết trôi. Bắt được 20 chiếc thuyền biển, 7 vạn cân tô mộc, cùng tên giặc Ngô Đệ Tứ đem đến hiến. Thiên tử vui lòng, mệnh ban cho Vương nước này 40 tấm lụa là, văn ỷ ; cho Sứ giả 2 tấm lụa là, 4 tấm văn ỷ, 1 bộ y phục, 1 vạn 2000 đồng tiền ; những người đi theo được ban thưởng có phân biệt.” (Minh Thực Lục v. 4, q. 84, t. 1505) Vết thương nhức nhối cho các triều đại nhà Minh là nạn cướp biển hoành hành, cầm đầu bởi người Nhật mà sử Trung Quốc gọi là “ giặc Nụy ”. Liên hệ đến văn học nước ta, ngay cuộc đời thực của anh hùng Từ Hải trong truyện Kiều cũng đã từng tham gia “ giặc Nụy”. Giặc Nụy hoành hành tại biển Đông và vùng duyên hải từ cuối đời Nguyên cho đến triều Minh, bởi vậy việc nước Chiêm Thành trực tiếp tham gia vào việc đánh cướp biển, phải được vua Minh Thái Tổ đặc biệt o bế : NGÀY 4 THÁNG 8 NĂM HỒNG VŨ THỨ 7 [11/9/1374] “ Thiên tử phán bảo quan Trung Thư Tỉnh rằng : “ Mùa thu năm ngoái Quốc vương Chiêm Thành sai sứ là Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích Duyệt Văn Đán đến cống, chỉ ban cho lụa văn ỷ, lụa là đáp lại ; còn công bắt giặc thì chưa thưởng. Nay gần ngày sứ trở về nước, có thể sai người mang đồ vật đem cho. Liền sai Tuyên sứ Kim Cừ mang rượu Thượng Tôn, cùng 24 tấm lụa văn ỷ dệt kim tuyến, lụa là, đến Quảng Đông giao cho sứ nước này là Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích Duyệt Văn Đán mang về để tặng Quốc vương.” ” (Minh Thực Lục v. 4, t.1607-1608; Thái Tổ q. 92,t. 4a-4b) Lúc này Quốc vương Chế Bồng Nga muốn Trung Quốc biết rõ hơn về sức mạnh của Chiêm Thành, nên đã sai sứ sang tâu về việc đánh thắng Việt Nam : NGÀY 12 THÁNG 11 NĂM HỒNG VŨ THỨ 6 [26/11/1373] Nước Chiêm Thành sai sứ tâu : “ An Nam dùng binh xâm lăng, nước thần nhờ uy linh của thiên triều, đánh bại chúng tại biên giới. Nay kính cẩn sai sứ báo tin chiến thắng.” Thiên tử nói với các quan tại Trung Thư Tỉnh (12) rằng : “ Các nước hải ngoại cách trở núi biển, mỗi nước lo tự phòng thủ biên giới, lâu lâu mới đến triều đình. Năm ngoái An Nam dâng biểu tâu rằng Chiêm Thành xâm phạm biên giới, năm nay Chiêm Thành lại tâu tiếp là An Nam quấy nhiễu biên cương. Hai nước đều thờ triều đình, không xét được hai bên ai đúng ai sai. Nay sai người đến dụ hai bên nên bãi binh để yên dân, không được xâm lấn lẫn nhau. Vẫn ban cho Quốc vương Chiêm Thành cùng Sứ giả văn ỷ, rồi sai trở về nước.” (Minh Thực Lục v. 4, q. 86, t. 1524-1525) Tình trạng quân Chiêm Thành quấy phá tại Việt Nam khá trầm trọng và lâu dài, đến nỗi bọn Sứ thần nhà Minh mượn đường nước ta đi sứ Miến Điện, phải kẹt lại đến 2 năm trời : NGÀY 18 THÁNG 11 NHUẦN NĂM HỒNG VŨ THỨ 6 [1/1/1374] “ Bọn Điền Nghiễm đi sứ nước Miến nhưng không đến nơi, bèn trở về. Nước Miến tại vùng tây nam Vân Nam ; giáp giới với nước Bát Bách và nước Chiêm Thành, còn được gọi là Miến Điện. Đời Nguyên rất thịnh, sau khi bình Thịnh Lộc Xuyên, nước Miến bèn phụ thuộc. Thiên tử nghe rằng nước này từng nạp cống cho nhà Nguyên, nên sai Điền Nghiễm, cùng Trình Đẩu Nam, Trương Vỉ, Tiền Cửu Cung mang chiếu thư đi sứ. Bọn Nghiễm đến An Nam, gặp lúc Chiêm Thành mang binh đến tấn công, đường trở ngại không lưu thông, phải lưu lại 2 năm tại đây, không tiến được. Ban chiếu gọi trở về, chỉ con Nghiễm về được còn những người khác chết trên đường.” (Minh Thực Lục v. 4, q. 1534) Thời gian tương tự như sự kiện được ghi trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Minh Thực Lục chép về việc vua Trần Duệ Tông nước ta tử trận tại Chiêm-Thành : NGÀY 28 THÁNG GIÊNG NĂM HỒNG VŨ THỨ 10 [8/3/1377] “ Trần Đoan [vua Trần Duệ Tông] nước An-Nam mang binh giao tranh với Chiêm-thành, bị đại bại tại đất Chiêm-Thành. Đoan tử trận.” (Minh Thực Lục v. 5, t. 1842) Chiêm Thành chiến thắng càng lừng lẫy bao nhiêu, càng được vua nhà Minh o bế bấy nhiêu. Tuy Thiên tử Trung Quốc vẫn còn ban những lời hòa giải lấy lệ, nhưng đặc biệt tặng riêng cho vua Chế Bồng Nga y phục dát vàng, chứng tỏ sự sủng ái đặc biệt : NGÀY 1 THÁNG 10 NĂM HỒNG VŨ THỨ 12 [10/11/1379] “ Sai sứ ban cho Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả [Chế Bồng Nga] lịch Đại Thống, y phục văn ỷ dát vàng, lụa là ; lại ban tỷ thư dụ rằng : “ Đạo của Đế Vương đối xử cùng chung một lòng nhân, nên cũng muốn nơi hải ngoại được yên ổn vô sự. Chiêm Thành vị trí tại phía tây nam, cách biển, cách núi ; nhưng biết lấy lễ bầy tôi phụng sự Trung Quốc, mấy lần cống phương vật. Mới đây sai sứ cống voi, lòng thành đáng khen. Trong tờ biểu tâu rằng vẫn còn giao tranh với An Nam, đến nay vẫn chưa chấm dứt. Tuy nhiên Chiêm Thành và An Nam cương giới đã định từ xưa, mỗi nước nên giữ đất an dân, chớ nên tranh giành, đạo trời vốn ghét, không thể không lấy làm răn. Nay ban cho khanh y phục thêu rồng vàng, ngựa tốt. Khi vật đưa đến, hãy nhận lấy.” (Minh Thực Lục v. 5, t.2017) Sự hợp tác giửa Trung Quốc và Chiêm Thành có phần chặt chẽ hơn, qua sự kiện vua Minh Thái Tổ ra lệnh cho Quảng Đông, Phúc Kiến chuẩn bị mấy trăm chiếc thuyền để đến Chiêm Thành bắt bọn “giặc Nụy”. Việc này chứng tỏ lúc bấy giờ Chế Bồng Nga ngoài việc xâm lăng nước ta, còn sử dụng thuỷ quân vươn ra ngoài Biển Đông gây hấn với cả Nhật Bản : NGÀY 12 THÁNG 6 NHUẦN NĂM HỒNG VŨ THỨ 20 [27/7/1387] “ Sắc cho Đô Chỉ huy Sứ ty Phúc Kiến tạo 100 chiếc thuyền đi biển; Quảng Đông chế tạo gấp bội số này, trang bị đầy đủ khí giới và lương thực tập trung tại Chiết Giang để chuẩn bị đến Chiêm Thành bắt bọn giặc Nụy [người Nhật-Bản] ”. (Minh Thực lục V. 6, t. 2752; Thái Tổ q. 182, t. 7b) Sử dụng quân thuỷ, quân bộ, gặt hái được nhiều chiến thắng ; Chế Bồng Nga tỏ ra kiêu mạn “ dọc ngang nào biết trên đầu có ai ”, coi thường ngay cả Trung Quốc. Qua một sắc dụ nhắm uốn nắn đứa con kiêu của Thiên tử, Minh Thái Tổ vạch cho biết Chế Bồng Nga nói một đường làm một nẻo, giả làm đảng cướp ăn chặn số voi nước Chân Lạp cống Trung Quốc và cố tình lơ là trong việc triều cống : NGÀY 8 THÁNG 4 NĂM HỒNG VŨ THỨ 21 [14/5/1388] “ Sai Hành nhân Đổng Thiệu đến dụ Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả [Chế Bồng Nga] rằng : “ Ngươi sống tại nơi hải đảo, hiệu lệnh cho dân Di dưới quyền, nếu không dùng ân và tín để cai tri nuôi dạy dân chúng, thì làm sao có thể làm chủ một phương, truyền cho con cháu, giữ được không có mối lo. Mới đây ngươi sai con đến triều đình, ta sai Trung sứ đưa về nước ; rồi viên sứ này trở về trình rằng hành động của ngươi trái với điển lệ. Lúc đầu Trẫm chưa tin, đến lúc Ma Lâm Cơ trình bày việc trong nước ngươi, đem so sánh thấy lời trên thật đáng tin, không phải là vu cáo. “ Tháng 4 năm nay lại được An Nam tâu như sau : “ Hành Nhân Lưu Mẫn trên đường ra khỏi Chiêm Thành đưa 52 con voi do Chân Lạp cống ; Chiêm Thành sai người giả làm kẻ cướp đọat mất ¼ số voi cùng bắt 15 tên quản tượng.” Ta biết rằng ngươi là Di phương nam ; nhưng không nghĩ rằng ngươi vừa tôn kính Trung Quốc, lại lấy việc cướp cướp bóc làm nghề nghiệp. Dù rằng hàng ngày ngươi cướp bóc làm điều bất nghĩa, thì cũng phải biết kẻ lớn người nhỏ, kẻ trên người dưới ! Há lại đứng đầu một nước lại dám buông tuồng khinh lờn Thiên tử. Như năm ngoái ngươi dâng voi và 2 người quản tượng ; từ khi cho con ngươi trở về, thì trốn tránh không dâng tiếp ! Việc làm của ngươi cứ tiếp tục như vậy thì một đàng không có lòng thờ nước lớn, một đàng thì mất sự tín nghĩa để giao thiệp với lân quốc ; ngươi phải suy nghĩ sửa đổi, chớ để hối về sau.” (Minh Thực Lục v. 7, t. 2864-2865; Thái Tổ q. 190, t. 1b-2a) * Cuối đời, tuy Chế Bồng Nga chết trước họng súng của quân nhà Trần, nhưng người chỉ điểm là một viên quan nhỏ Chiêm Thành chạy sang trại quân ta, cho biết chiếc thuyền sơn xanh là thuyền của Quốc vương hắn. Rồi Thủ tướng La Ngai cho hỏa táng xác Chế Bồng Nga bên bờ sông, mang quân Chiêm Thành trở về chiếm nước, tự lên làm vua. Con và em Chế Bồng Nga sợ bị giết, phải chạy sang nước ta lánh nạn. Tấn bi kịch này được dàn dựng bởi kẻ nội thù ; thủ phạm chính là La Ngai, tên xưng với nhà Minh là Các Thắng. Một văn bản trong Minh Thực Lục chép rằng sau khi lên làm vua Các Thắng sai sứ sang Trung Quốc dâng biểu bằng vàng tiến cống, nhưng bị vua Thái Tổ nhà Minh cự tuyệt bởi tội mưu giết vương nước này để lên làm vua : NGÀY 7 THÁNG 11 NĂM HỒNG VŨ THỨ 24 [2/12/1391] Nước Chiêm Thành sai viên Thái sư Đào Bảo Gia Trực dâng biểu bằng vàng, tiến cống tê giác, nô tỳ, vải vóc. Thiên tử bảo các quan bộ Lễ rằng : “ Đây do viên quan soán nghịch ! Đồ tiến cống đừng nhận. Trước đây viên quan Chiêm Thành là Các Thắng giết Vương nước này tự lập, nên cự tuyệt.” (Minh Thực Lục v. 7, t. 3157; Thái Tổ q.214, t. 1a) CHÚ THÍCH : 1. Theo Từ Hải, nước thời Minh gọi là Tây Dương nay thuộc quần đảo Nam Dương. 2. Tỷ thư : thư của vua, có đóng dấu ấn tỷ. 3. Di : Trung Quốc gọi các nước lân bang bốn phương là “Tứ Di” ; nói chung các dân tộc không phải là Trung quốc gọi là Di. 4. Ỷ : Một loại lụa dệt sợi xiên, có hoa văn. 5. Chính Sóc tức ngày đầu năm, mồng 1 tháng giêng. Ngày xưa hàng năm Trung Quốc ban lịch Chính Sóc cho các nước lân bang, tượng trưng uy quyền Thiên tử. 6. Vua nhà Tống họ Triệu. Vua mở đầu triều đại là Tống Thái Tổ tức Triệu Khuông Dẫn. 7. Giặc Nụy tức giặc lùn, chỉ người Nhật. 8. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 2, trang 154 (Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1998) 9. Xích = 0.32 mét 10. Thốn = 1/10 xích 11. Toàn thư, tập 2, trang 169 12. Trung thư tỉnh : Đổng lý văn phòng của nhà vua.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 15, 2011 4:45:06 GMT 9
Lịch sử Chiêm Thành : thời kỳ suy vong
Bảng tóm tắt các triều đại
Các đời vua Thời gian trị vì Chú thích
La Ngai
1390-1400
Sau khi Chế Bồng Nga chết bèn giành ngôi vua
Chiêm Ba Ðích Lại
1400-1441
Ðược truyền ngôi từ cha
Ma Ha Bí Cai
1441-1446
Cháu Chiêm Ba Ðích Lại, bị quân vua Lê Nhân Tông bắt trong cuộc tấn công vào thành Chà Bàn
Ma Ha Quí Lai
1446-1449
Cháu Chiêm Ba Ðích Lại, bị em là Ma Ha Quí Do cướp ngôi
Ma Ha Quí Do
1449-1458
Bị bầy tôi Bàn La Duyệt cướp ngôi
Bàn La Duyệt
1458-1460
Mất, em là Bàn La Trà Toàn kế vị
Bàn La Trà Toàn
1460-1471
Bị quân vua Lê Thánh Tông bắt tại thành Chà Bàn
Bàn La Trà Duyệt ( Trà Toại )
1471-1475
Thay Trà toàn, bị quân vua Lê Thánh Tông bắt
Nước Chiêm Thành bị chia làm ba Chiêm Thành
Vị trí tại phía nam Qui Nhơn cho đến Bình Thuận ngày nay, gồm 3 châu 2 huyện Hoa Anh?
Vị trí tại vùng Qui Nhơn, gồm 1 châu 3 huyện Nam Bàn
Theo Cương Mục vị trí tại vùng Hỏa Xá, Thủy Xá thuộc tỉnh Gia Lai, Kôn Tum, Ðắc Lắc hiện nay
Tề Á Ma Vật Yêm ( 1475-1481 ): Do nhà Lê đặt, sau khi chết em là Cổ Lai lên thay
Ðề Bà Ðài Gỉả ( 1475-1486 ): Do nhà Lê đặt, bị con Cổ Lai giết vào năm 1486
Cổ Lai ( 1481-1499 ): có thời lưu vong sang Trung Quốc, nhường ngôi cho con là Sa Cổ Bốc Lạc
Sa Cổ Bốc Lạc ( 1499- )
Công Sa
Nhật Ðể Tề ( ? – 1543 - ? )
Bà Thấm ( ? – 1653 - ? )
Bà Tranh ( ? – 1693 - ? )
Nước Chiêm Thành mất ( 1697 )
Mãi cho đến nay, các bộ sử nước ta chép về lịch sử nước Chiêm Thành còn rất sơ lược ; ngay các đời vua kế tiếp trị vì, lý do thay đổi triều đại, lãnh thổ còn mất, cũng chưa đề cập được một cách rõ ràng. Bổ sung cho những thiếu sót đó, chúng tôi dùng những sử liệu trong Minh Thực Lục tham khảo với các bộ sử nước ta như Ðại Việt Sử ký Toàn Thư, Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Việt Nam Sử Lược cùng bộ sách địa chí Ðại Nam Nhất Thống Chí, để trình bày thêm về giai đoan suy vi của Chiêm Thành sau khi vị vua anh hùng Chế Bồng Nga tử trận.
Vào tháng giêng năm Quang Thái thứ 3 [1390] sau khi Chế Bồng Nga bị quân nhà Trần giết tại sông Hải Triều (1), tướng La Ngai đưa tàn quân về Chiêm Thành, rồi tự lập lên làm vua. Năm sau La Ngai dùng tên là Các Thắng, sai sứ dâng biểu viết trên vàng lá tiến cống Trung Quốc, nhưng bị vua Thái Tông nhà Minh cự tuyệt vì cho rằng y đã giết vua để cướp ngôi :
Ngày 7 tháng 11 năm Hồng Vũ thứ 24 [2/12/1391]
Nước Chiêm Thành sai viên Thái sư Đào Bảo Gia Trực dâng biểu bằng vàng, tiến cống tê giác, nô tỳ, vải vóc. Thiên tử bảo các quan bộ Lễ rằng :
“ Đây do viên quan soán nghịch ! Đồ tiến cống đừng nhận.”
Trước đây viên quan Chiêm Thành là Các Thắng giết Vương nước này tự lập, nên cự tuyệt. (Minh Thực Lục v. 7, tr. 3157; Thái Tổ q.214, tr. 1a)
Phải chăng vua nhà Minh biết được sự việc tên tiểu thần Bà Lậu Kê chạy sang quân nhà Trần xin hàng, chỉ điểm chiếc thuyền sơn xanh của Chế Bồng Nga nên thuyền này bị bắn phá, là do âm mưu của La Ngai ?
Sau đó tại Trung Quốc vua Minh Thái Tổ mất, nước này trải qua thời gian nội chiến ; rồi Yên vương Ðệ giành được ngôi của cháu, lên làm vua tức Minh Thái Tông hay còn gọi là Thành Tổ. Vị vua này muốn gây ảnh hưởng với lân bang, bèn sai sứ đến báo tin lên ngôi và khuyến khích các nước đến triều cống.
Tại Chiêm Thành La Ngai đã mất vào năm 1400, con là Chiêm Ba Ðích Lại nối ngôi, vội sai sứ đến triều cống nhà Minh và tố cáo An Nam mấy lần đến xâm lăng. Việc này được sử nước ta chép (2) nội dung rằng năm Nhâm Ngọ (1402) vua nhà Hồ sai Ðô tướng Ðỗ Mãn sang đánh Chiêm Thành ; Chiêm Ba Ðích Lại sợ, sai cậu là Bồ Ðiền sang dâng đất Chiêm Ðộng để xin bãi binh. Hồ Quý Ly lại bắt dâng thêm đất Cổ Luỹ ; chia đất này thành 4 châu Thăng, Hoa (3) Tư, Nghĩa (4) rồi đặt quan cai trị : Ngày 22 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 1 [9/8/1403]
Quốc vương Chiêm Thành Chiêm Ba Đích Lại sai sứ là bọn Bà Phủ Tức dâng biểu văn viết trên vàng lá, triều cống phương vật. Lại nói rằng Chiêm Thành giáp giới với An Nam, mấy lần bị nước này xâm lược khổ sở ; xin giáng sắc dụ để răn đe. Thiên tử chấp thuận, lại ban cho Sứ giả tiền giấy, bộ y phục hoa văn. (Minh Thực Lục V.10,tr. 0400; Thái Tông q. 21,tr. 12b)
Về phần Minh Thái Tông, sau khi nhận được lời tâu, bèn gửi sắc mệnh sang nước ta can thiệp. Lúc này vua Hồ Hán Thương (tên xưng với Trung Quốc là Hồ Ðê) trị vì nước ta, hứa sẽ không mang quân sang xâm lấn Chiêm Thành nữa, Thái Tông bèn sai sứ sang trấn an nước này : Ngày 15 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 2 [25/2/1404]
Sai sứ mang sắc dụ Quốc vương nước Chiêm Thành Chiêm Ba Đích lại rằng :
“ Ngươi tâu rằng mấy lần bị nước An Nam xâm lấn. Ta đã sai người đến dụ nước này phải bãi binh, an dân. Nay Vương An Nam là Hồ Đê ngỏ lời chịu tội, không dám vượt qua xâm lấn nữa. Người đã sửa sai thì không sai nữa, ngươi nên hòa mục với lân bang và bảo vệ người dưới.” (Minh Thực Lục quyển 27, v. 10, t. 0494-495; Thái Tổ q. 27, t.2b-3a)
Ðáp lời, Quốc vương nước Chiêm Thành lại tiếp tục tố cáo An Nam chiếm thêm đất và nặng nề hơn là tịch thu những đồ vật do sứ giả Chiêm Thành từ Trung Quốc mang về, và bắt phải dùng những phẩm phục do An Nam ban cho : Ngày mồng 1 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 2 [5/9/1404]
Quốc vương Chiêm Thành Chiêm Ba Đích Lại sai sứ Bộ Cai Tự Bãi Ni đến triều cống tê giác, sản phẩm địa phương, và tâu rằng :
“ Trước đây đã tâu việc An Nam đánh phá, cướp bóc người và súc vật ; ngưỡng ơn triều đình giáng sắc dụ bắt bãi binh. Nhưng Quốc vương Hồ Đê nước này không tuân lời giáo huấn của thánh Thiên tử ; tháng 4 năm nay lại mang thủy quân xâm nhập biên cảnh, dân chúng chịu độc hại. Gần đây sứ giả [đi Trung Quốc] mang đồ vật được ban cho trở về, đều bị tước đọat ; lại áp bức thần phải nhận mũ, y phục, ấn chương ; bắt làm thuộc quốc, chiếm cứ các xứ Sa Li Nha ; nay lại đánh cướp Mộc Dĩ. Thần sợ không thể tự tồn được, nên phải nạp đất đai để họ cho người cai trị.”
Thiên tử giận dữ, mệnh bộ Lễ mang sắc dụ Hồ Đê, cùng ban cho sứ Chiêm Thành tiền giấy. (Minh Thực Lục v. 10, t.0582-0583; Thái Tông q. 33, t. 4b-5a)
Lúc này Minh Thái Tông đang thực hiện chính sách kềm chế An Nam, nên trong chiếu thư hạch sách nặng nề, cùng nêu thêm cả những lời tố cáo về việc chiếm đất tại phủ Tư Minh : Ngày mồng 3 tháng 8 năm Vĩnh Lạc Thứ 2 [7/9/1404]
Sai sứ mang sắc dụ Quốc vương An Nam Hồ Đê rằng :
“ Trước đây ngươi mấy lần xâm lăng Chiêm Thành, ta đã dụ ngươi phải thành khẩn hòa mục với lân bang. Rồi nhận được tờ tâu của ngươi hứa rằng từ nay trở về sau dám đâu không bãi binh ! Ta vui vì ngươi chịu sửa sai lầm, nên giáng sắc dụ khuyến khích. Gần đây Chiêm Thành tâu rằng ngươi lại cho thủy quân đánh phá biên cảnh, cướp đoạt dân chúng ; sứ triều cống trở về, mang những đồ vật ban cho, đều bị tước đoạt ; lại cưỡng bách phải nhận mũ, áo, ấn chương của ngươi để bắt làm thần thuộc. Trái lễ, ngược ngạo tăng thêm không ngớt !
Phủ Tư Minh Quảng Tây lại tâu ngươi chiếm đoạt châu Lộc, châu Tây Bình, trại Vĩnh Bình. Những vùng này là đất của Trung Quốc mà ngươi đoạt lấy, phóng túng không kiêng kỵ, việc làm như vậy thì nước mất sớm đó thôi. Trẫm không nỡ thảo phạt ngay bởi vậy lại dụ rõ ràng quỷ thần hoạ phúc. Ngươi phải sửa sai ngay đi, nếu không sẽ không có lợi cho An Nam nữa ! ” (Minh Thực Lục v. 10, t.0583; Thái Tông q. 33, t. 5a)
Rồi đến giai đoạn chuẩn bị đánh nước ta, vua nhà Minh cho điều một toán quân tinh nhuệ sang giúp Chiêm Ba Ðích Lại ngăn chặn tại vùng biên giới, sự kiện này chứng tỏ Chiêm Thành chính thức giúp nhà Minh trong việc xâm lăng : Ngày 13 tháng 7 nhuần năm Vĩnh Lạc thứ 4 26/8/1406
Sắc ty Đô chỉ huy Quảng Đông tuyển 600 quân tinh nhuệ, cùng 2 Thiên hộ, 6 Bách hộ có khả năng đảm đang công tác ; lãnh lương thực, khí giới, binh giáp theo đường biển đến Chiêm Thành phối hợp với quân mã để phòng chặn giặc họ Lê. (Minh Thực Lục v. 11, tr. 839; Vĩnh Lạc q. 57, tr. 3a)
Nhờ vậy sau khi cuộc chiến kết thúc Chiêm Thành giành lại được vùng đất Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa đã bị mất trước kia ; Chiêm Ba Ðích Lại bèn dâng biểu tạ ơn nhà Minh, cùng giải giao một số tù binh người Việt bị nước này bắt được : Ngày 18 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 5 [19/9/1407]
Quốc vương Chiêm Thành Chiêm Ba Đích Lại tấu :
“ Thần ngưỡng vọng thiên uy, tháng 5 năm nay đã lấy được đất bị xâm lấn, bắt đồ đảng giặc là bọn Hồ Liệt, Phan Ma Na, bèn sai Đầu mục Tế Mỵ đến kinh sư hiến tù và dâng biểu, tiến cống phương vật, tạ ân.”
Thiên-tử khen, cho thu nạp. (Minh Thực Lục v.11, tr. 0982; Thái Tông q. 70, tr. 1b)
Ðáp lại Minh Thái Tông sai viên Thái giám Vương Quí Thông đến ủy lạo và ban thưởng : Ngày 30 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 5 [ 30/10/1407]
Sai Thái giám Vương Quý Thông mang sắc đến uỷ lạo Quốc vương Chiêm Thành Chiêm Ba Đích Lại. Ban cho Vương 300 lạng bạch kim, 20 tấm lụa quyên; khen về việc từng mang binh giúp đánh An Nam. (Minh Thực Lục, v.11, t. 999; Thái Tông q. 71,t. 7a)
Sự việc không dừng lại tại đó ; sau khi Trương Phụ, Mộc Thạnh dẹp tan được nỗ lực kháng chiến của nhà hậu Trần tại đất Hoá Châu ; với binh uy sẵn có nhà Minh tiếp tục bành trướng, cho thiết lập phủ Thăng Hoa bao gồm 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa rồi giao cho những người An Nam đã hàng nhà Minh cai trị : Ngày 27 tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [16/4/1414]
Ngày hôm nay lập 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa ; tất cả đều lệ thuộc phủ Thăng Hoa. Phủ này ở phía nam Hoá Châu, gồm 11 huyện bao gồm cả Lê Giang. Vì giặc họ Lê [Hồ Quí Ly] lấy đất này của Chiêm Thành, để cho bọn Nguyễn Suý, Hồ Cụ, Đặng Cảnh Dị, Đặng Dung trông coi. Đến lúc bọn Nguyễn Suý làm phản, Chiêm Thành lại sai người cai quản. Nay bọn nổi loạn đã bị bắt, quan Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ cùng Kiềm quốc công Mộc Thạnh bàn lập lại 4 châu, theo thể chế giao cho những người xin hàng gồm Nguyễn Nhiêu, Dương Mộng Tùng, Phạm Công Nghị, Nguyễn Kiệm chức Tri châu ; Hồ Giao, Trương Nguyên Chú, Vũ Chinh, Phạm Phưởng chức Đồng tri ; lại gửi thư cho Sứ giả Chiêm Thành biết về việc xếp đặt này ; cùng tâu trình về triều. Hoàng thái tử chấp thuận. (Minh Thực Lục v. 13, t. 1742-1743; Thái Tông q. 149, t. 4b-5a)
Sách Ðại Nam Nhất Thống Chí cho rằng dưới thời thuộc Minh các châu Thăng, Hoa [Quảng Nam] Tư Nghĩa [Quảng Ngãi] tuy được đặt tên, nhưng người Chiêm Thành vẫn còn cai trị (5). Ðiều này không đúng, bởi lẽ ngoài văn bản nêu trên đã đề cập đến việc dùng người nước ta làm Tri châu, Minh Thực Lục còn cho biết hệ thống hành chánh phủ Thăng Hoa được đặt xuống tận huyện và những người được bổ làm Tri Châu vào năm Vĩnh Lạc thứ 12 [1414] vẫn tiếp tục làm việc cho đến sau năm Tuyên Ðức thứ nhất [1426] : Ngày 5 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [13/5/1415]
... Quy định phủ Thăng Hoa gồm 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Châu Thăng lãnh 3 huyện : Lê Giang, Đô Hoà, An Bị. Châu Hoa lãnh 3 huyện : Vạn An, Cụ Hi, Lễ Đễ. Châu Tư lãnh 2 huyện Trì Bình, Bạch Ô. Châu Nghĩa lãnh 3 huyện : Nghĩa Thuần, Nga Bôi, Khê Cẩm. (Minh Thực Lục v 13, t. 1843-1844; Thái Tông q. 163, t. 1b-2a) Ngày 15 tháng 2 năm Tuyên Đức thứ nhất [23/3/1426]
Các thổ quan Giao Chỉ gồm những viên sau đây đến kinh đô khảo mãn, tiến cống y phục lụa quyên bản xứ, cùng hương liệu :
………………………………………………………………………….
Dương Mộng Tùng, Tri châu châu Hoa cùng Đồng tri Trương Nguyên Chú ;
Phạm Công Nghị, Tri châu châu Tư cùng Đồng tri Vũ Chinh ;
Phạm Phưởng Đồng tri châu Nghĩa ;
Nguyễn Sung, Tri châu châu Thăng ;
…………………………………………….
(Minh Thực Lục v. 16, t. 382; Tuyên Tông q. 14, t.5b)
Tại Chiêm Thành, Chiêm Ba Ðích Lại làm vua trong thời gian dài (41 năm) đến năm 1441 thì mất, người cháu là Ma Ha Bí Cai sai sứ sang triều Minh dâng biểu xin nối ngôi : Ngày 14 tháng 6 năm Chính Thống thứ 6 [2/7/1441]
Quốc vương Chiêm Thành Chiêm Bà Đích Lại mất ; cháu là Ma Ha Bí Cai lãnh di mệnh lên thay. Bèn sai người cháu của Vương là bọn Thuật Đề Côn dâng biểu, triều cống sản phẩm địa phương cùng xin được nối ngôi. (Minh Thực Lục v. 25, t. 1591; Anh Tông q.80, t. 6a)
Vua Anh Tông nhà Minh bèn sai bọn Chánh sứ Cấp sự trung Thư Ðồng đi cùng với sứ Chiêm Thành Thuật Ðề Côn đến phong cho Ma Ha Bí Cai : Ngày 12 tháng 7 năm Chính Thống thứ 6 [29/7/1441]
Chiếu dụ Quốc vương Chiêm Thành :
“ Trước đây tổ tiên ta được mệnh trời anh minh, cho làm chủ thiên hạ. Trong nước ngoài nước, bốn phương vạn quốc, không kể xa gần đều đối xử chung một lòng nhân. Muốn mọi nơi an phận, toại nguyện cuộc sống, bởi vậy bèn lập ra thống thuộc để cai trị mọi vùng. Trẫm thừa tiếp ngôi lớn, thể theo cựu chương ; bởi vậy Quốc vương Chiêm Ba Ðích Lại, kể từ thời tiền triều đến ngày hôm nay cung kính thờ triều đình, chăm lo chức cống, càng lâu càng bền chặt, trước sau một lòng thành. Nay hay tin mới mất, cần có người kế tục. Người cháu là Ma Ha Bí Cai, đôn hậu cẩn thận cung kính, có thể nối gót tổ tiên, trên biết thờ nước lớn, dưới biết bảo vệ nhân dân. Nay đặc cách sai Chánh sứ Cấp sự trung Thư Ðồng, Phó sứ Hành nhân Ngô Huệ mang sắc phong Ma Ha Bí Cai làm Quốc vương Chiêm Thành, để làm chủ việc nước. Các ngươi đầu mục lớn nhỏ hãy tuân theo Trẫm mệnh, tận tâm phù trợ, kính cẩn làm theo đường lành, để trong nước hưởng được phúc thái bình, đáp ứng lòng nhân của Trẫm muốn che chở sinh dân. Lại mệnh lai sứ là Thuật Ðề Côn Bô Sa mang sắc dụ Ma Ha Bí Cai cố gắng trong phận bề tôi, chăm lo chức cống, khéo vỗ về dân, hoà mục với lân bang. Lại ban cho Quốc vương, Vương phi các vật như lụa trữ dệt kim, tơ, lụa là. (Minh Thực Lục v. 25, t. 1618-1619; Anh Tông q. 81, t. 5b-6a)
Tuy được lời khuyên là hoà mục với lân bang, nhưng vua mới Ma Ha Bí Cai không muốn yên phận, gửi biểu văn sang Trung Quốc ngõ ý muốn khôi phục lại đất đai bị mất. Vua Anh Tông nhà Minh bèn ngăn cản : Ngày 8 tháng 5 năm Chính Thống thứ 8 [5/6/1443]
Sắc dụ Quốc vương Chiêm Thành Ma Ha Bí Cai rằng :
“ Trước đây triều đình Vương được ban tế lễ, Vương được phong tước, bèn sai cháu là Dương Lạc Thôi dâng biểu và cống những sản phẩm địa phương tạ ân ; thấy được lòng thành kính cẩn, mệnh quan ban thưởng và cho trở về. Từ nay về sau Vương nên kính trời, thờ nước lớn, che chở người dưới, theo ý đối đãi chung một lòng nhân của Trẫm.
Lời tấu của Vương muốn khôi phục đất đai bị An Nam xâm lấn, nhưng từ hai đời trước cha ông Vương không đòi lại, là có lý do nào đó. Nay Vương mới lên ngôi nên lấy sự hòa mục với lân bang và giữ gìn cương vực làm đầu ; hai bên tranh giành không phải là điều phúc cho người trong nước. Trẫm lấy những điều ân, tín, an bình để khuyên các nước ; Vương hãy suy xét, cư xử thể theo ý Trẫm.
Mệnh Dương Lạc Thôi mang lụa là, ngựa tốt thể theo lời xin để ban cho Vương cùng Vương phi (Minh Thực Lục v. 27, tr. 2102-2103; Anh Tông q. 104, tr. 3b-4a)
Không nghe lời khuyên của vua Anh Tông, Ma Ha Bí Cai cho mang quân đánh phá các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Tại nước ta, vua Lê Nhân Tông bèn sai sứ thần Trình Chân sang nhà Minh trình bày sự việc Chiêm Thành gây hấn : Ngày 27 tháng 6 năm Chính Thống thứ 11 [20/7/1446]
Sắc dụ Quốc vương Chiêm Thành Ma Ha Bí Cai rằng :
“ Gần đây Lê Tuấn Quốc vương An Nam sai Bồi thần bọn Trình Chân triều cống. Khi đến kinh đô tâu rằng Vương khinh lờn [Vương nước họ] nhỏ tuổi mồ côi, nên mang quân xâm lăng 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa ; nay lại đánh vây Hoá Châu mấy lần ; giết cướp người, súc vật, của cải. Vương và nước An Nam đều nhận triều mệnh, được phong đất đã lâu, cương vực hai bên đều có định giới, sao lại hưng binh gây oán, trái với ý nghĩa hòa mục giữa lân bang ! Người xưa nói rằng : “ Người quân tử không lấy lý do nuôi dưỡng người, để hại kẻ khác.” Vương từ nay hãy nghiền ngẫm ý này, giữ đúng lễ và bổn phận, nghiêm sức các Đầu mục giữ vững biên cương, nhưng không xâm nhiễu đất đai lân quốc, gây hoạn cho sinh linh rồi tự rước lấy hoạ. Đạo trời làm thiện gặp phước, làm ác gặp điều dữ ; đó là lẽ thường, Vương tuân theo lời Trẫm.
“ Lại dụ Quốc vương An Nam Lê Tuấn cũng nên cho phòng bị nghiêm hơn, nhưng chớ ôm lòng báo thù, để hai bên được yên ổn, thể hiện ý cùng đối xử chung một lòng nhân của Trẫm. (Minh Thực Lục v. 28, t. 2818-2819; Anh Tông q. 142, t.7b-8a)
Việc gửi sứ sang nhà Minh là chỉ muốn làm sáng tỏ điều chính nghĩa, thực ra vua Lê Nhân Tông [tên xưng với nhà Minh là Lê Tuấn] nước ta không mong chờ được giải quyết ; vì ngày 6 tháng 2 năm Bính Dần [1446] Sứ thần Trình Chân khởi hành sang Trung Quốc, thì ngày 23 cùng tháng nhà vua sai Lê Thụ mang quân đi đánh Chiêm Thành. Quân ta tấn công thành Chà Bàn, bắt sống Ma Ha Bí Cai. Người cháu là Ma Ha Quí Lai đầu hàng, được triều đình ta chấp nhận cho làm vua ; sau đó y dâng biểu sang nhà Minh xin cầu phong và trình bày sự việc : Ngày 9 tháng 7 năm Chính Thống thứ 12 [20/8/1447]
Cháu của cố Quốc vương Chiêm Thành Chiêm Ba Ðích Lại là Ma Ha Quí Lai sai bọn Sứ thần Bô Sa Phạ Chiêm Trì tâu rằng :
“ Khi tiên Vương thần ốm bệnh, đã phong thần làm Thế tử, muốn cho nối ngôi. Lúc bấy giờ thần tuổi còn nhỏ, chưa có thể trị nước được, nên nhường cho người cậu là Ma Ha Bí Cai. Sau đó Ma ha Bí Cai mấy lần mang binh đánh nước An Nam ; Quốc vương An Nam sai tướng đến các xứ Cựu Châu, Cổ Luỹ bắt giết trăm họ gần hết, Ma Ha Bí Cai cũng bị bắt. Thần dân trong nước cho rằng thần là cháu của tiên Vương, từ xưa đã có di mệnh, nên xin thần lên thay thế để coi việc nước. Thần từ chối, bị ép ba bốn lần đành phải làm việc tại phủ thần, riêng Vương vị thì không dám tự chuyên, cúi xin Thiên tử giáng chiếu rõ ràng để an ủi lòng ước vọng của kẻ xa xôi.”
Thiên tử chấp nhận lời thỉnh cầu, sai Cấp sự trung Trần Nghi làm Chánh sứ, Hành nhân Tiết Cán làm Phó-sứ, mang phù tiết sách phong Ma Ha Quí Lai làm Quốc vương Chiêm Thành. Ban sắc dụ phải cẩn thận giữ tiết bề tôi, chăm lo chức cống, khéo vỗ về người trong nước, hoà mục với lân bang, ngõ hầu vĩnh viễn hưởng phúc trạch, cùng vui thái bình. Ban cho Ma Ha Quí Lai cùng Vương phi các vật như nhung dệt kim thêu hoa, gấm, trữ, lụa là. Lại chiếu dụ Ðầu mục lớn nhỏ, người trong nước lo phụ trợ Quốc vương. (Minh Thực Lục v. 29, t. 3040; Anh Tông q. 156, t. 2b)
Sau khi phong Vương cho Ma Ha Quí Lai, vua nhà Minh lại một lần nữa đưa chỉ dụ hòa giải và yêu cầu vua nước ta thả Ma Ha Bí Cai về nước : Ngày 15 tháng 5 năm Chính Thống thứ 13 [15/6/1448]
………………………………………………………..
Lúc này An Nam và Chiêm Thành cùng đánh phá lẫn nhau, Tuấn thường sai tướng xâm lược đất đai Chiêm Thành đến cửa Châu Cảng [cảng tại Thị Nại], giết dân, bắt Quốc vương Ma Ha Bí Cai đem về nước. Thiên tử đã sai sứ sang lập cháu Vương cũ là Ma Ha Quí Lai làm Vương để trông coi việc nước. Nên đã dụ Tuấn rằng nên làm ơn bỏ oán, sai người đưa Ma Ha Bí Cai trở về. Đừng kết oán khiến di hại đến sinh linh. (Minh Thực Lục v.29, t.3212-3214; Anh Tông q. 166, t. 3b-4b)
Kể từ khi thua trận dưới thời Tuyên Ðức [1426], uy lực nhà Minh đối với nước ta hoàn toàn sa sút ; giải quyết việc Chiêm Thành chỉ hoà giải lấy lệ, không trực tiếp sai sứ sang nước ta sách hạch, nên chỉ gửi sắc qua Sứ gỉả Chiêm thành để trong trường hợp Sứ giả nước ta đến thì trao lại : Ngày 22 tháng 3 năm Cảnh Thái thứ nhất [3/5/1450]
Sắc dụ Quốc vương An Nam Lê Tuấn :
“ Trẫm nhận mệnh trời chúa tể Hoa Di, đối xử chung một lòng nhân, không phân biệt xa gần. Vì rằng trời có phép tắc, không dám trái nghịch ; đạo trời hết sức công bằng, không chút tơ tóc sai lệch. Phàm yên phận theo lẽ phải được khuyến khích bằng phúc thiện ; nếu cậy mạnh hiếp yếu, sự trừng phạt sẽ đến nơi bằng hoạ hoạn.
Mới đây nước Chiêm Thành tố cáo Vương mấy lần xâm hại, bắt người nước này kể cả nam lẫn nữ đến 33.500 ; lại dạy bảo Chiêm Thành không thuận theo đạo trời, chỉ theo điều lợi mà thôi. Có thể lừa Chiêm Thành, nhưng đối với trời thì lừa sao được !
Những điều tố cáo Vương như vậy, đúng hay sai Trẫm không đáng tin hết. Khi sắc đến, Vương hãy yên phận giữ lễ, hoà mục với lân bang ; việc trước nếu đã xảy ra thì sửa đổi, nếu không xảy ra thì cố gắng làm tốt thêm. Nếu quả có bắt số người Chiêm Thành kể trên, nên trả tất cả về nước, khiến mọi người đều an sinh lạc nghiệp ; ngõ hầu trên thì thuận với đạo trời, dưới thì thuận lòng người ; hai điều vẹn toàn, vĩnh viễn hưởng phúc thái bình.
Nay nhân Sứ giả Chiêm Thành về nước, bèn trao sắc này, đợi khi Sứ giả Vương tới nước này, sẽ nhận sắc mang về cho Vương. Vương nhớ tuân theo mệnh của Trẫm, chớ quên !
Lại dụ Quốc vương Chiêm-Thành Ma Ha Qui Lai :
“ Nhận được lời tâu của Vương rằng Quốc vương An Nam mấy lần sai quân đến xâm lăng, cướp 33.500 người, lại dạy Vương đừng thuận theo đạo trời, đừng kính trọng triều đình, việc gì có lợi thì làm. Thật sự chống trời, chống lẽ phải không gì lớn hơn ! Nhưng Vương vẫn giữ vững tiết bề tôi, không bị mê hoặc bởi lời dụ dỗ, vẫn đến triều cống như cũ ; Thấy rõ Vương trung thành, biết thuận theo lẽ phải. Phàm lẽ phải tức đạo trời , người xưa nói : “ Thuận với trời thì thịnh vượng, nghịch với trời thì tiêu vong ” ; kết quả đúng như vậy, không mảy may xê dịch !
Khi sắc đến, Vương càng thêm thuận đạo trời hơn, để bảo tồn sự thịnh vương. Riêng sắc dụ Vương nước An Nam, lệnh cho Sứ thần của Vương mang về, đợi Sứ An Nam đến Chiêm Thành thì trao cho họ và cũng luôn thể để Vương biết qua. (Minh Thực Lục v.31, t.3920-3921; Anh Tông q. 190, t.12b-13a)
Rồi trong nước Chiêm Thành có biến, người em là Ma Ha Quý Do dành ngôi của anh ; vua nước ta gửi thư khiển trách nặng nề (6) “ Các ngươi xin lập Quý Lai làm vua, chưa quay xong gót đã lại phế đi và lập Quý Do. Các ngươi là bọn phản phúc bất trung, xem vua như con cờ, thế là đạo gì vậy ? ”; riêng vua Anh Tông nhà Minh thì coi như không biết, khen lao người nối ngôi và sắc phong như thường lệ : Ngày 1 tháng 7 năm Cảnh Thái thứ 3 [17/7/1452]
Mệnh Cấp sự trung Phan Bản Ngu, Hành nhân Biên Vĩnh làm Chánh Phó sứ đến điếu tế cố Quốc vương Chiêm Thành Ma Ha Quí Lai, lại phong cho người em là Ma Ha Quí Do làm Quốc vương Chiêm Thành. Chiếu rằng :
“ Trẫm ứng mệnh trời, chủ tể Hoa Di, phong các chư hầu xa gần như một ; đó là đại điển của quốc gia, hiến ước của tổ tông đã có sẵn.
Huống nước Chiêm Thành ở nơi góc biển chân trời xa xôi, để sai khiến dân này há lẽ không có người quân trưởng ! Vì vậy Quốc vương Ma Ha Quý Lai được thế tập phong tước, kính trời thờ nước lớn, trước sau một lòng thành, cai trị nhân dân, chăm lo chức cống ; nay mất cần có kẻ thừa kế. Người em Ma Ha Quí Do tính vốn trung thuần, dân trong nước hướng theo, nay đặc cách phong làm Quốc vương Chiêm Thành, kế thừa làm chủ nước. Phàm dân chúng tước vị lớn nhỏ trong nước, ngày đêm lo tận tâm khuông phò, không được lấn người trên, giữ tấm lòng trung thuận để hưỏng phúc thái bình mãi. (Minh Thực Lục v. 33, t. 4695; Anh Tông q.218, t. 1a)
Tiếp đến việc Bàn La Duyệt (7) (sử nước ta chép là Bàn La Trà Duyệt) con nguời vú nuôi giết chúa cướp lấy nước. Thời xưa vua thông dâm với thị tỳ là chuyện thường, ở đây có thể hiểu là Bàn La Duyệt con riêng của Ma Ha Quý Lai cướp ngôi. Rồi viên Quốc vương này sai sứ dâng biểu triều cống, cũng được vua nhà Minh chấp nhận : Ngày 11 tháng 6 năm Thiên Thuận thứ 2 [21/7/1458]
Quốc vương Chiêm Thành Bàn La Duyệt sai bọn Bồi thần Bô Sa Phạ Bà Lợi Thủy đến triều đình dâng biểu, cống các sản vật địa phương như tê giác, ngà voi. Ban yến, cùng mũ, dây đai, y phục bằng lụa ; lại sai Bô Sa Phạ Bà Lợi Thủy mang sắc cùng lụa nõn trong ngoài ban cho Quốc vương và Vương phi (Minh Thực Lục v. 36, t. 6238; Anh Tông q. 292, t. 4b)
Bàn La Duyệt làm vua chưa được 4 năm thì mất, sứ giả Chiêm Thành lại đến Trung Quốc xin phong cho người em là Bàn La Trà Toàn : Ngày 13 tháng 9 năm Thiên Thuận thứ tư [27/9/1460]
Chiếu dụ nước Chiêm Thành :
“ Từ xưa đến nay các Ðế Vương ngự trị thiên hạ, không ai là không cư xử chung với một lòng nhân ; vì vậy chốn hoang vu cõi ngoài được phổ cập giáo hóa. Nước Chiêm Thành các ngươi, vị trí nơi góc biển hoang tịch, đất riêng một phương tất phải lập người đứng đầu để thống trị dân chúng. Bởi vậy Quốc vương Ma Ha Bàn La Duyệt mới đây được phong tước Vương, nối nghiệp quản lý việc nước, chưa được 4 năm đã vội mất, cái lý kế thừa không thể thiếu. Người em là Bàn La Trà Toàn, tính tình đôn hậu, biết giữ lễ khiêm cung ; nên đặc cách sai Cấp sự trung Vương Nhữ Lâm làm Chánh sứ, Hành nhân Lưu Thứ làm Phó sứ mang chiếu thư phong chức Quốc vương Chiêm Thành. Phàm dân chúng trong nước đều phải thần phục, tuân theo lẽ phải sống yên ổn, không được tranh giành phạm pháp. Tất cả một lòng giúp dập, khiến đất nước hòa bình anh ninh, thấm nhuần phong tục nhân hậu, vĩnh viễn hưởng phúc thái bình.
Lại sắc dụ Bàn La Trà Toàn rằng :
“ Vương các ngươi đời trước, có nước nơi góc biển xa xôi, hết lòng trung kính, thuận theo trời thờ nước lớn, càng lâu càng bền. Nay Vương lại biết thừa kế, sai người trong họ là Thả Dật Ðà Bằng mang sản vật địa phương đến cống, lòng thành khẩn đáng khen. Sứ trở về đặc cách ban cho Vương cùng Vương phi gấm lụa để đáp lại ý tốt ; Vương càng kiên định, vĩnh viễn giữ tiết bề tôi, để đáp ứng sự ưu đãi.” (Minh Thực Lục v. 37, t. 6648; Anh Tông q.319, t. 4b)
Vua mới Bàn La Trà Toàn lại dẫm vào vết chân của Quốc vương Ma Ha Bí Cai, vị vua Chiêm Thành bị quân vua Lê Nhân Tông bắt vào năm 1446. Trà Toàn sai sứ gia tăng liên lạc ngoại giao với Trung Quốc, tố cáo An Nam xâm nhiễu, xin Trung Quốc can thiệp, rồi đích thân mang quân đánh úp châu Hóa : Ngày 5 tháng 3 năm Thiên Thuận thứ 8 [11/4/1464]
Quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn sai Sứ thần dâng biểu viết trên vàng lá ; cống voi thuần và các sản vật địa phương. Ban cho Chánh Phó sứ dây đai vàng có hoa văn, y phục dệt vàng, các loại lụa là, lụa đoạn có phân biệt. Nhân Thiên tử mới lên ngôi, bộ Lễ thỉnh cầu ban cho Vương và Phi nước này 2 tấm gấm ; 10 tấm lụa đoạn ; lụa thường và lụa thượng hạng mỗi thứ 7 tấm. Giao cho Sứ thần mang về. (Minh Thực Lục v. 39, t. 75; Hiến Tông q. 3, t. 8a)
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 15, 2011 4:46:24 GMT 9
Ngày 7 tháng 3 năm Thiên Thuận thứ 8 [13/4/1464]
Quốc-vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn sai sứ tâu rằng nước An Nam xâm lăng quấy nhiễu để đòi hỏi voi trắng. Xin căn cứ theo việc làm dưới thời Vĩnh Lạc [1403-1424] cử Sứ giả đến chiêu an, lập bia đá tại biên giới để khỏi xâm phạm ; chấm dứt thù hằn gây hấn. Lời xin được đưa xuống bộ Binh bàn, rồi phúc tấu :
“ Xin Thông sự bảo Sứ thần trở về nói với Quốc vương rằng hãy cẩn thận giữ lễ pháp, giữ vững biên cảnh chống lại ngoại xâm, đừng nông nỗi gây họa.”
Thiên-tử chấp thuận. (Minh Thực Lục v. 39, t. 76-77; Hiến Tông q. 3, t. 8b-9a)
Theo Toàn Thư (8) vào tháng 8 năm Canh Dần [1470] Quốc vương Chiêm Thành Trà Toàn thân hành đem hơn 10 vạn quân thủy bộ cùng voi ngựa đánh úp châu Hoá. Tướng trấn giữ biên thuỳ tại châu Hóa là Phạm Văn Hiển đánh không nổi, phải dồn dân vào thành rồi chạy thư cáo cấp.
Sự việc diễn tiến tiếp theo cũng giống như cuộc chuẩn bị tấn công Chiêm Thành thời vua Lê Nhân Tông ; để dành lấy chính nghĩa, trước khi ra quân vua Lê Thánh Tông [tên xưng với nhà Minh là Lê Hạo] sai sứ sang nhà Minh tâu việc Chiêm Thành quấy phá biên giới. Nhưng triều đình nhà Minh không tin, cho rằng vua nước ta bề ngoài đặt lời là bị xâm lăng, nhưng bên trong muốn thôn tính Chiêm Thành, nên ra sắc dụ ngăn cản : Ngày 27 tháng 5 năm Thành Hóa thứ 7 [15/6/1471]
Quốc vương An Nam Lê Hạo sai bọn Bồi thần Quách Đình Bảo, Nguyễn Đình Anh đến triều đình tâu :
“ Nước thần và Chiêm Thành kế cận, từ triều trước đã bị xâm lăng. Thời Tuyên Đức [1426-1435] 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa bị mất ; từ đó châu Hóa bị vây mấy lần, khiến người một phương phải mệt nhọc chạy để cứu lấy mạng sống. Trộm nghĩ đất đai nhân dân nhận của triều đình, truyền cho con cháu đễ vĩnh viễn làm phiên thần. Nay Chiêm Thành phản lễ nghĩa, dối trời, dày xéo dân biên giới, không một năm nào yên ổn. Thần muốn mang binh đi đánh dẹp, lại sợ sai lời dạy bảo của Thánh Thiên tử, nhịn đi thì phụ tấm lòng ân nghĩa của bề tôi, tiến thoái lưỡng nan ! Nay kính cẩn sai Bồi thần đến kinh khuyết trần tấu.”
Bản tấu được đưa xuống bộ Binh bàn bạc, rồi được tâu lên rằng : “ Lòng tham của Hạo không cùng, âm mưu thôn tính [Chiêm Thành] lại dương ngôn là nạn nhân. Xin ban sắc văn để ngăn ngừa sự gian trá. Thiên tử bèn sắc rằng :
“ An Nam ngươi và Chiêm Thành đều được triều đình ban tước và đất, đời đời nạp cống làm phiên thần Trung Quốc nơi biên giới, há lại gây oán, hưng binh đánh lẫn nhau. Sách Xuân Thu (9) nêu trách nhiệm người hiền phải yên phận, thuận theo lý, giữ lãnh thổ, bỏ oán thù , dập tắt tranh giành. Ngươi trước hết phải làm trọn đạo hòa mục với lân bang, lại cấm đoán bọn đầu mục không sinh sự gây hấn. Nếu như có mưu kế thôn tính, thì không phải là phước cho nước ngươi, nên cẩn thận, cẩn thận !
Về phần Chiêm Thành, đợi khi Sứ nước này đến, xét kỹ sự thực, sẽ có sắc ngăn ngừa. Trẫm thay trời cai trị vạn vật, đối xử chung một lòng nhân, không nỡ để hai nước các ngươi vướng vào họa binh đao ; nên đặc biệt ra chỉ dụ khuyên răn để biểu thị sự lo lắng. Ngươi hãy thừa theo Trẫm mệnh, không được sơ hốt.” (Minh Thực Lục v. 43. t. 1771-1772; Hiến Tông q. 91, t. 7a-7b)
Sau khi bị đánh, Sứ giả Chiêm Thành đến cấp báo rằng Bàn La Trà Toàn bị bắt, người em là Bàn La Trà Duyệt [sử nước ta gọi là Bàn La Trà Toại] tạm thời lên nối ngôi, xin được nhà Minh phân xử. Thượng thư bộ Binh nhà Minh xin sai sứ sang nước ta trách vấn, nhưng vua Hiến Tông thấy rõ uy lực nước ta lúc này, nên e dè không tỏ thái độ quyết liệt : Ngày 21 tháng 5 năm Thành Hoá thứ 8 [27/6/1472]
Nước ChiêmThành sai Sứ thần Lạc Sa đến cáo cấp rằng :
“ Nước chúng tôi tiếp giáp với An Nam, mấy lần bị nước này xâm đoạt. Mới đây sai người đến đòi tê giác, ngà voi, đồ vật quý ; lại đòi hỏi phải phụng sự người An Nam đưa đến, nghi lễ giống như phụng sự Sứ thần Thiên triều. Nước chúng tôi nghĩ rằng đã cùng An Nam nhận lịch Chính Sóc của Hoàng triều, nên không chịu khuất tuân theo, vì lý do đó nên An Nam gây hấn.
Vào tháng 2 năm Thành Hoá thứ 7, quân An Nam đến đánh phá kinh thành, bắt Quốc vương Bàn La Trà Toàn cùng gia thuộc hơn 50 người, tịch thu ấn quý, phá huỷ nhà cửa, cướp giết quân dân nam nữ nhiều không kể xiết. Nay em của Vương là Bàn La Trà Duyệt tạm thời coi việc nước, cúi xin được phân xử.”
Tờ tâu giao xuống dưới, Thượng thư bộ Binh Bạch Khuê tâu rằng :
“ Vào năm Thành Hoá thứ 7, nhân An Nam tâu rằng “ Chiêm Thành vượt biên giới xâm lăng, cần ngăn cản sự tàn ngược”. Bọn thần đã dâng lời rằng Hạo [Lê Thánh Tông] có âm mưu thôn tính Chiêm Thành, nên dương ngôn bị tấn công. Rồi mấy lần đánh phá Chiêm Thành, lại bắt vua nước này. Nếu không có cách gì xử trí, thì mất lòng quy phụ của Chiêm Thành, lại dung dưỡng kẻ ngang ngạnh. Nên sai quan mang sắc dụ bắt phải trả lại ấn tín, Quốc vương cùng gia quyến bị bắt, để khỏi xẩy ra tai họa.”
Chỉ dụ phán : “ Bất tất phải sai quan đi, đợi Sứ thần An Nam đến sẽ trao sắc dụ.” (Minh Thực Lục v.43, t. 2045-2046; Hiến Tông q. 104, t. 8a-8b)
Chờ đến khi Sứ thần nước ta đến cống và nhân tiện trình bày việc đánh Chiêm Thành, vua nhà Minh mới ngỏ lời khuyên răn hòa giải lấy lệ : Ngày 13 tháng 9 năm Thành Hóa thứ 8 [14/10/1472]
Sắc dụ Quốc vương An Nam Lê Hạo chớ xâm vượt lãnh thổ Chiêm Thành. Hạo sai Sứ thần Nguyễn Đức Trinh dâng thư tự trình bày rằng :
“ Mới đây Chiêm Thành xâm lấn đất Hoá Châu nên gửi binh đến tiếp viện ; vì người trong nước này tự làm phản, nên bị thua bại.”
Thiên tử bèn ra lệnh Đức Trinh, mang sắc về dụ Hạo :
“ Mới đây Chiêm Thành tâu rằng, vào tháng 2 năm Thành Hoá thứ 7 [2-3/1471] ngươi đánh phá thành nước này, bắt Quốc vương và thân thuộc hơn 50 người. Lại cướp ấn, đốt nhà cửa, giết người già và trẻ em không kể xiết. Trẫm cho rằng lời riêng của một bên chưa có thể tin được ; nay nhận được tâu, lời nói và ý đều khác. Nhưng nước Vương với Chiêm Thành thế lực lớn, nhỏ không cần phải biện thuyết ; nếu bọn họ gây hấn trước, thì thật không biết độ đức lượng sức, nên gây ra sự bất nghĩa ; nếu Vương vin vào việc họ quấy phá nhỏ, rồi giận lên hiếp kẻ yếu, gây hấn lớn , thì hợp với đạo nghĩa ư ! Khi sắc đến, Vương nên bỏ qua những mất mát nhỏ, tăng điều đại nghĩa, trả lại những người bị bắt, răn đe quan lại nơi biên giới đừng sinh sự lập công, hưng binh gây oán, hoặc chuyên việc báo thù gây nên sự đau buồn ; ngõ hầu trời soi sáng, vĩnh viễn hưởng danh thơm. Khâm thử.” (Minh Thực Lục v. 44, tr. 2100-2101; Hiến Tông q. 108, t. 3b-4a)
Mấy năm sau phái đoàn nhà Minh cầm đầu bởi Cấp sự trung Trần Tuấn đi sứ Chiêm Thành để phong Vương cho Bàn La Trà Duyệt [Trà Toại ?], theo thông lệ ghé đến cảng Tân Châu [gần thành Chà Bàn, Qui Nhơn], thì được biết vùng này đã bị An Nam chiếm. Hàng hải tiếp đến Linh Sơn thì được tin cả nhà Bàn La Trà Duyệt bị An Nam bắt. Vì trên thuyền chở nhiều hàng hoá nên phải hành trình tiếp đến Mãn Thứ Gia thuộc vùng đất Mã Lai hiện nay để bán hàng, rồi mới trở về Trung Quốc : Ngày 14 tháng 12 năm Thành Hóa thứ 10 [21/1/1475]
Công khoa Cấp sự trung Trần Tuấn đi sứ Chiêm Thành không vào được, bèn nạp trở lại những thứ đã mang đi như chiếu sắc, ấn mạ vàng bạc, các vật như lụa, đoạn. Bọn Tuấn đi sứ Chiêm Thành để phong cho Quốc vương Bàn La Trà Duyệt, khi hàng hải đến cảng Tân Châu, Chiêm Thành, quân phòng thủ từ chối không cho vào, người Thông dịch cho biết đất này đã bị An Nam chiếm, còn Quốc vương Chiêm Thành tỵ nạn tại Linh Sơn. Khi đến Linh Sơn thì được biết cả nhà Bàn La Trà Duyệt bị An Nam bắt và đất Chiêm Thành bị đổi tên thành châu Giao Nam. Bọn Tuấn không dám ghé vào ; nhưng thuyền chở hàng hóa tư, cùng nhiều thương nhân, nên giả lấy cớ bị gió bão rồi hàng hải tiếp đến Mãn Thứ Gia (10) buôn bán, lại dụ Vương nước này sai sứ đến triều cống. Đến nay trở về tâu đầy đủ việc An Nam chiếm cứ Chiêm Thành, cùng việc Quốc vương Mãn Thứ Gia cung cấp thức ăn và các nhu yếu phẩm khác, đối đãi lễ nghi rất đầy đủ.
Sự việc được đưa xuống cơ quan hữu trách, bộ Lễ tâu nên đợi Sứ thần Mãn Thứ Gia nhập cống, lúc trở về giáng sắc khen thưởng Vương nước này. Bộ Binh cũng tâu nước An Nam cậy mạnh, thôn tính nước được triều đình phong tước, sự việc quan hệ thật không nhỏ, nên giao cho các Công Khanh bàn luận một cách rộng rãi. Lúc đó bọn Anh quốc công Trương Mậu tâu rằng An Nam cường bạo vốn nên hài tội thảo phạt ; nhưng Đế vương đối với Di địch lấy bất trị để trị ; nay chưa biết được nguyên do Chiêm Thành diệt vong, không nên khinh động. Chờ năm sau vào kỳ An Nam triều cống, đợi Bồi thần đến, sai Thông dịch đem việc này ra hỏi, mới bắt đầu khu xử. Lại lưu ý thêm Vân Nam, Quảng Tây, cùng Quỳnh, Liêm, Quảng Đông tiếp giáp với đất này nên ra lệnh cho các quan Trấn thủ, Tổng binh đôn đốc thuộc cấp cố thủ để đề phòng xâm lấn.
Thiên tử đều chấp thuận. (Minh Thực Lục v. 45, t. 2553-2554; Hiến Tông q.136, t. 6a-6b)
Căn cứ lời tường trình của Sứ giả Trần Tuấn tại văn bản nêu trên thì vào thời điểm năm 1475 vùng đất Quy Nhơn bị nước ta chiếm ; nhưng theo nội dung hai biểu văn của vua Lê Thánh Tông trình bày với nhà Minh dưới đây thì nguyên nhân sự loạn lạc tại Chiêm Thành là do người trong nước tranh giành lẫn nhau. Có lẽ để hợp thức hoá lập luận nêu trên và nhắm làm suy yếu Chiêm Thành, căn cứ theo sử nước ta, nhà vua đã chia nước này thành 3 nước nhỏ : Chiêm Thành, Hoà Anh, Nam Bàn Ngày 25 tháng 8 năm Thành Hóa thứ 11 [24/9/1475]
Quốc vương An Nam Lê Hạo [Lê Thánh Tông] tâu :
“ Năm trước nhân Quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn xâm phạm đạo Hóa Châu, bị người em là Bàn La Trà Toại giết. Toại tự lập lên làm vua, sắp xin cầu phong ; lại bị con Bàn La Trà Duyệt là Trà Chất Đài Lai giết, từ đó nước trong nước này loạn lạc nỗi lên, không có một ngày yên ổn. Việc đó không phải là lỗi của nước thần. Nay tuân theo chỉ dụ của Thiên tử dẹp binh đao, hòa mục với lân bang ; số người nước này bị bắt gồm 740 trai gái đều cho trở về nước.” (11)
Đưa lời tâu xuống dưới, bộ Binh trình rằng :
“ Lời của Hạo sơ lược, không nói đến việc xâm chiếm Chiêm Thành ; so với lời tâu của bọn Hữu Cấp sự trung Trần Tuấn thì không giống nhau ; thực tình hoặc gian trá không quyết được.”
Thiên tử nhân Bồi thần Lê Hoằng Dục về nước bèn ban sắc dụ Hạo rằng :
“ Trước đây nhân Bàn La Trà Duyệt tâu rằng Vương nước này là Bàn La Trà Toàn bị nước ngươi bắt, Chiêm Thành hiện nay không có chủ, nên đến xin phong tước. Trẫm thể theo đức hiếu sinh của trời đất, chấp nhận lời trần tình, sai sứ đến phong. Đến lúc sứ trở về tâu rằng đất nước Chiêm Thành quả bị nước ngươi chiếm đoạt, đổi thành châu ấp. Trẫm nghi nhưng chưa tin, nay được ngươi tâu rõ ràng rằng Chiêm Thành dùng binh gây oán, xâm nhiễu biên cảnh lân bang, đến nỗi bản thân chết, nước bị phá ; tất cả đều tự gây ra. Sự việc chưa rõ ràng, nhưng lý có thể như vậy ; huống lời và ý của Vương khẩn khoản, chắc không phải dùng lời lẽ để che giấu lỗi lầm. Nhưng Chiêm Thành là nước truyền từ lâu đời, trước kia há không có một lực lượng nào mạnh có sức thôn tính nước này, nhưng sử sách chưa từng nghe, vậy bài học được mất có thể thấy được. Nay nếu nước này thình lình bị tiêu diệt, không những trái với chiếu chỉ của triều đình ; mà lại còn e bị các nước Phiên tại hải ngoại sinh nghi sợ, rồi gây sự tranh giành, như vậy đối với Vương có lợi ư !
Sắc đến Vương nên sửa đổi, cho người trong họ vua Chiêm cùng dân chúng trở về, khôi phục đất đai, để cho không tuyệt nòi giống. Làm được vậy thì việc nối dòng bị đứt, kính trời thờ nước lớn của Vương vẹn cả hai đường. Vương hãy gắng cho được. (Minh Thực Lục v. 45, t. 2660-2661; Hiến Tông q. 144, t. 3b-4a)
Ngày 26 tháng 3 năm Thành Hoá thứ 14 [28/4/1478]
Quốc vương An Nam Lê Hạo tâu rằng :
“ Đầu mục Chiêm Thành Ba Lung Ma Ha trước đây thông hiếu với nước thần. Vào năm Thành Hoá thứ 11 [1475-1476] nước y thu hoạch được nhiều thuyền của nước Lưu Cầu, do gió thổi trôi dạt đến ; bèn mang quân đến nước thần xâm lược, bị quân tại biên giới đánh bại. Nay Bồi thần Lê Hoằng Dục từ Thiên triều trở về dâng đặc dụ trách thần chiếm đọat đất đai Chiêm Thành, đổi thành châu ấp. Vì việc này, thần không thể không lọc máu viết lời trần tình để đoan chắc rằng không có.
“ Phàm đất đai mà Chiêm Thành được phong rất cằn cỗi, nhà thì nghèo nàn, vườn không có tơ dâu, núi không có của báu, biển thiếu lợi về cá muối ; chỉ có ngà voi, tê giác, tô mộc, trầm hương mà thôi ; mà nước thần sản xuất những thứ đó nhiều, nên không cho là quý. Lấy được đất đó không thể ở được, lấy được dân đó không thể dùng được, được sản phẩm đó không đủ để giàu, được cái thế đó cũng không trở nên mạnh được. Giữ gìn đất đó rất khó, mà lợi thì ít. Phàm mất nhiều, mà lợi thì ít, họa thì rõ ràng, mà danh thì mờ mịt ; đó là lý do tại sao thần không chiếm đoạt đất đai Chiêm Thành để biến thành châu quận.
“ Nay triều đình lại dụ thần trả lại đất đai cho Chiêm Thành, để nước đó không mất chỗ thờ tự. Thành thực thần cho rằng Thiên sứ trong lúc vội vã, hỏi han điều tra không rõ ràng ; mà dân Chiêm Thành chạy loạn thì có mối thù với nước thần nên lời nói không đáng tin. Vậy xin đặc sai Sứ giả Thiên triều đích thân đến xem đất đai, và phục hưng dòng bị tuyệt, khiến cho nước Chiêm Thành trên dưới được an tập ; nơi biên thùy của thần được yên ỗn để làm phiên Trung Quốc, có ích cho người phương xa, đó là ý nguyện của thần vậy. Kính cẩn sai Bồi-thần Nguyễn Đạt Tế tâu lên.”
Thiên-tử mệnh đem tấu chương này xuống dưới bàn luận. (Minh Thực Lục v. 46, t. 3185-3186, Hiến Tông q. 176, t. 11a-11b)
Tìm hiều về nước Chiêm Thành mới, có thể căn cứ theo lời tâu của Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai, rằng sau khi An Nam bắt Bàn La Trà Duyệt [Trà Toại], sợ bị rắc rối với nhà Minh, nên cho anh Cổ Lai là Tề Á Ma Vật Yêm lên làm Vương ; lãnh thổ phía nam từ nước Chiêm Lạp [Chân Lạp] phía bắc đến Ha Mộc Thứ Bố gồm 5 xứ, trong khi đất cũ của Chiêm Thành có 27 xứ. Tham khảo sử nước ta (12) thì lãnh thổ nước Chiêm Thành chỉ bằng 1/5 đất cũ như Minh Thực Lục xác nhận và tên viên Quốc vương dùng để xưng với An Nam là Bồ Trí Tri : Ngày 26 tháng 9 năm Thành Hóa thứ 17 [18/10/1481]
Chiếu dụ Quốc vương An Nam Lê Hạo trả lại đất cho Chiêm Thành. Lúc bấy giờ Cổ Lai nước Chiêm Thành sai sứ tâu :
“ Vào tháng 4 năm Thiên Thuận thứ 5 [1461](13) Giao Chỉ hưng binh xâm lăng nước thần, bắt Quốc vương, phá hủy thành trì, cướp ấn quý rồi đi. Em Vương là Bàn La Trà Duyệt trốn chạy đến Phật Linh Sơn. Vào năm Thành Hóa thứ 6 [1470] tấu xin ấn và thỉnh phong, Thiên sứ đến nơi ; nhưng trước đó Bàn La Trà Duyệt đã bị Giao Chỉ bắt (13). Thần cùng anh là Tề Á Ma Vật Yêm trốn trong rừng ; sau đó người Giao sợ Thiên triều, tự sai người tìm kiếm con cháu người nước thần, cho trở về đất cũ. Giới hạn từ quốc đô tới Chiêm-Lạp [Chân-Lạp?] gồm 5 xứ, lập Tề Á Ma Vật Yêm làm Vương. Chẳng bao lâu Tề Á Na Vật Yêm chết, nay thần đang tạm giữ chức nhưng không dám tự tiện ; thỉnh cầu triều đình sai Thiên sứ mang ấn quý đến, phong chức Vương. Xin dụ người Giao trả toàn lãnh thổ nước thần gồm 27 xứ gồm 4 phủ, 1 châu, 22 huyện ; phía đông tới biển đông, phía nam tới Chiêm Lạp, phía tây tới núi Lê Nhân, phía bắc tới Ha Mộc Thứ Bổ gồm hơn 3500 dặm, ngưỡng ơn Thiên tử vì tiểu quốc chủ trì việc này.”
Thiên tử mệnh hội các quan bàn định. Thượng thư bộ Binh Trần Nhung, Anh quốc công Trương Mậu, Thượng thư bộ Lại Duẫn Mân bàn rằng Chiêm Thành bị An Nam xâm đoạt đã lâu, triều đình thường răn dụ, An Nam chỉ trả lại 5 xứ. Nay Cổ Lai không ngại xa xôi đến tố cáo, nếu không chấp nhận lời xin, thì không có gì an ủi người xa xôi có lòng ngưỡng vọng. Nên sai 2 cận thần có uy vọng, giỏi về văn từ lý lẽ, đi sứ An Nam, dụ Vương nước này trả lại đất cũ của Chiêm Thành.
Chiếu dụ rằng không cần sai quan đi, đợi khi Sứ thần An Nam trở về bèn sắc dụ Hạo rằng :
“ Trẫm phụng mệnh trời, coi dân như con; suốt biển trong ngoài đều đối xử chung một lòng nhân. Mà các ngươi An Nam và Chiêm Thành thời Tần Hán trở xuống đều là quận huyện của Trung Quốc ; cũng không quá xa kinh đô. Mới đây Chiêm Thành tố cáo rằng ngươi hưng binh bắt sống Quốc vương nước này, giết nhân dân, đoạt thành trì đất đai. Trẫm động lòng trắc ẩn, hai lần xuống chiếu lệnh ngươi trả lại những thứ đã lấy, để hợp với nghĩa lớn. Ngươi tâu rằng số đàn ông đàn bà bị bắt đã trả về, lại nói lãnh thổ đã yên, há lại có việc xâm tranh. Trẫm tin lời ngươi, không nghi ngờ. Nay Cổ Lai sai người đến thỉnh phong, hỏi lý do mới biết rằng đất này bị nước ngươi chiếm cứ, số lượng trả lại chỉ bằng một phần năm. Xét việc này thì ra ngươi âm mưu thôn tính, nhưng bề ngoài thì nói rằng hòa mục lân bang thực hiện việc đại nghĩa ; phải như vậy chăng ?
Trẫm sở dĩ một mực sắc dụ ngươi, không phải có ý tư vị Chiêm Thành ; muốn ngươi thể theo ý Trẫm, đối xử cùng một lòng nhân, hòa mục lân bang, thương xót nhân dân, đó là phúc cho hai nước. Nếu không thèm nghe, không thèm biết, há không xem đến việc đời trước Chiêm Thành phục thù nước ngươi ư ! Hãy soi kỹ việc này, những người già cả tại nước ngươi chắc còn nhớ điều đó, đáng xét và suy nghĩ. Người xưa nói rằng một nước có đạo lý cậy đức chứ không cậy sức. Ngươi từ khi thụ phong đến nay không chỉ xâm đọat Chiêm Thành, mới đây giết Sứ thần tiến cống của Mãn Thứ Gia, xâm đen bọn tuỳ tùng bắt làm nô bộc ; gây oán với lân quốc, họ khống tố đến nơi, ngươi tự cho là phúc đấy ư !
Phàm sợ trời, giữ nước, sợ kẻ lớn, thương người nhỏ ; các bậc hiền triết đều làm, sao ngươi không lo làm việc đó. Khi sắc tới ngươi nên nghĩ đến việc đoàn kết, hữu nghị với lân quốc, trả hết đất đai cũ cho Chiêm Thành, đời đời nối dõi, không đến nỗi tuyệt tự ; không những sinh linh hai nước không bị vướng vào họa binh đao, mà tiếng tốt của ngươi được để lại trong sử sách, con cháu mãi hưởng ân trạch vô cùng. Hãy thực hành kỹ việc này, đừng để hối hận về sau. (Minh Thực Lục v. 48, trang 3795-3798; Hiến Tông q. 219, t. 6a-7b)
Khi nhà Minh được yêu cầu đến phong vương cho Tề Á Ma Vật Yêm, theo thông lệ Sứ giả đến kinh đô Chà Bàn thì không thấy viên này tại đây, bèn phong vương cho một người khác tên là Ðề Bà Ðài Giả do An Nam lập nên. Phe Ðề Bà Ðài Giả tâu với Sứ giả rằng Tề Á Ma vật Yêm đã bị Cổ Lai giết ; trong khi đó Cổ Lai xác nhận rằng y là em của Tề Á Ma Vật Yêm và được truyền ngôi sau khi anh chết. Ai đúng ai sai không cần đi sâu vào, duy qua sự kiện có thể khẳng định rằng phần đất thuộc nước Chiêm Thành mới nằm ở phía nam ; riêng tại Quy Nhơn An Nam đã lập một nước khác mà người đứng đầu là Ðề Bà Ðài Gỉả. Chiếu theo sử nước ta, phải chăng tên của nước này là Hoa Anh, một trong ba nước mà vua Lê Thánh Tông đã lập. Riêng nước thứ 3 được gọi là Nam Bàn thì Cương Mục (14) cho biết tại đất Hoả Xá, Thuỷ Xá tức thuộc các tỉnh Gia Lai, Kôn Tum, Ðắc Lắc hiện nay : Ngày 15 tháng 10 năm Thành Hoá thứ 17 [6/11/1481]
Hành nhân Trương Cẩn, thuộc Hữu phó ty, đi sứ Chiêm Thành ; mắc tội bị hạ ngục. Trước đó Cẩn cùng Cấp sự Phùng Nghĩa phụng mệnh mang sắc ấn phong Vương cho cháu Quốc vương Chiêm Thành Tề Á Ma Vật Yêm. Bọn chúng mang nhiều hàng hóa để bán kiếm lời ; khi đến Quảng Đông nghe tin Tề Á Ma Vật Yêm đã chết, người em là Cổ Lai sai bọn Cáp Na Ba đến xin phong. Nghĩ rằng về không sẽ mất lời, bèn đi vội đến Chiêm Thành.Người Chiêm Thành cho biết sau khi người cháu xin phong bị Cổ Lai giết, An Nam ban sắc ngụy lập Đề Bà Đài Giả nắm quyền quốc sự. Bọn Cẩn không đợi mệnh của triều đình, mang ấn trao cho Đề Bà Đài Giả, phong làm Vương. Bọn chúng được hối lộ hơn 100 lạng vàng, rồi đi qua Mãn Thứ Gia [Melaka] bán hết hàng hóa để trở về. Nghĩa chết trên đường vượt biển. Cẩn trình sự việc và nạp sắc ngụy lên triều đình. Bộ Lễ hặc tội Cẩn tự tiện phong tước, đáng tội hình, bèn ra lệnh giam tại vệ Cẩm Y để điều tra, biết được lời khai như trên. Quan tòa kết vào tội đại thần tự tiện tuyển quan, xử chém. Lúc bấy giờ Sứ giả Chiêm Thành Cáp Na Ba tại quán dịch bộ Lễ, trả lời qua Thông dịch rằng Cổ Lai chính là em của Vương, Tề Á Ma Vật Yêm chết vì bệnh không phải bị giết, người được gọi là Đề Bà Đài Giả thì không biết đó là ai. Bèn ra lệnh Cáp Na Ba tạm trở về Quảng Đông, lệnh quan chức địa phương lấy lễ ưu đãi. Đợi sứ tạ ơn của Đề Bà Đài Giả đến ; thẩm xét phải trái rồi có cách đối xử riêng. (Minh Thực Lục v. 48, q. 3807-3808; Hiến Tông q.220, tr. 4a-4b)
Vua Hiến Tông nhà Minh muốn làm sáng tỏ việc hai nước Chiêm Thành xin phong tước, nên lưu giữ Sứ giả của Cổ Lai trên một năm nhắm chờ Sứ giả của Ðề Bà Ðài Giả đến để đối chất. Nhưng chờ lâu không gặp, bèn cho tạm trở về nước : Ngày 16 tháng 9 năm Thành Hóa thứ 18 [27/10/1482]
Mệnh cấp cho Sứ thần Ha La Sa của Cổ Lai nước Chiêm Thành thuyền đi biển để trở về nước. Bọn Ha La Sa trú tại Quảng Đông đợi Sứ thần Đề Bà Đài đến tạ ân, để đối chứng việc Trương Cẩn tự tiện phong tước. Đợi đã hơn một năm, lại không chịu được rét nên trình lên Giám sát Ngự sử Vương Biện, rồi viên này tâu lên, bộ Lễ lại tấu tiếp. Lệnh cho tạm trở về nước này, đợi khi Đề Bà Đài sai người đến tạ ơn, lại đến kinh đô để đối mặt làm chứng; nên có mệnh này. (Minh Thực Lục v. 48, t. 3962; Hiến Tông q.232, t. 3b)
Vì không muốn có hai nước Chiêm Thành do An Nam lập nên, nên vua Hiến Tông mệnh Cổ Lai khuyến dụ Ðề Bà Ðài Giả trả lại ấn : Ngày 7 tháng 7 năm Thành Hoá thứ 20 [28/7/1484]
Sắc dụ Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai hãy phủ dụ Đề Bà Đài ; lệnh nạp ấn Quốc vương Chiêm Thành trước kia đã trao cho y. Tha tội cho Đề Bà Đài đã nhận sắc phong ngụy của An Nam ; lệnh cho làm Đầu mục của nước này. (Minh Thực Lục v. 49, t. 4289-4290; Hiến Tông q. 254, t. 2a-2b)
Cuối cùng thì Sứ giả của Ðề Bà Ðài Giả đến Trung Quốc. Nhân dịp này nhà Minh sắp xếp một kế hoạch mới, cho sứ giả của Ðề Bà Ðài Giả về trước báo tin sẽ phong Vương cho Cổ lai, rồi sai Cấp Sự trung Lý Mãnh Dương làm Chánh sứ chuẩn bị sang phong : Ngày 5 tháng 8 năm Thành Hóa thứ 20 [25/8/1484]
Ban cho người Đề Bà Đài sai đến gồm bọn cháu là Ba La Chất, Phó sứ Man Đê, Thông sự Mai Giả Lượng, lụa thải, đoạn có sai biệt. Trước đó Đầu mục Đề Bà Đài được phong nhầm làm Quốc vương, sai bọn Ba La Chất đến tạ ơn ; biểu văn và sản vật địa phương đã được lệnh trả lại. Bọn Ba La Chất [Bọn Sứ giả] dâng biểu rằng cô độc, nghèo, xin ban cho y phục. Bộ Lễ tâu rằng kẻ từ hải ngoại xa xôi đến, xin xét được gia ơn. [Thiên tử] chấp nhận. (Minh Thực Lục v. 49, t. 4305-4306; Hiến Tông q. 255, t. 1a-1b) Ngày 17 tháng 8 năm Thành Hoá thứ 20 [6/9/1484]
Sai Hộ Khoa Cấp sự trung Lý Mãnh Dương sung Chánh sứ ; Hành nhân Diệp Ưng thuộc ty Hành nhân sung Phó sứ mang chiếu thư cùng lễ vật phong cho em Quốc vương Chiêm Thành Tề Á Ma Vật Yêm là Cổ Lai làm Quốc vương Chiêm Thành. Bọn Mãnh Dương tâu rằng :
“ Chiêm Thành bị Đề Bà Đài chiếm cứ lâu rồi, vậy trước khi làm lễ phong nên cho Sứ giả của Đề Bà Đài trở về nước, loan báo việc triều đình định phong cho Cổ Lai, để dân chúng yên lòng ; người cháu của Vương cũ do Đề Bà Đài đưa đến tạ ơn, rồi bị lưu lại làm con tin tại Quảng Đông cũng nên cho về luôn. Bọn thần định khi thuyền làm xong, thuận gió, sẽ đến nơi Cổ Lai trú đóng để tuyên đọc sắc văn.”
Thiên tử họp đình thần bàn bạc và chấp thuận. (Minh Thực Lục v. 49, t. 4308-4309; Hiến Tông q. 255, t. 2b-3a)
Nhân nhờ lời khai của các Sứ giả Chiêm Thành, nên Hành nhân Trương Cẩn trước kia phong nhầm cho Ðề Bà Ðài Giả được xét tha tội chết rồi biếm trích làm lính thú tại Quảng Tây : Ngày 5 tháng 10 năm Thành Hóa thứ 20 [24/10/1484]
Tha cho Ty phó thuộc ty Hành nhân Trương Cẩn tội chết ; đày làm lính thú tại vệ biên giới thuộc Quảng Tây. Cẩn đi sứ Chiêm Thành, tự tiện phong Đề Bà Đài làm Quốc vương, bị xử chém. Bèn 5 lần dâng lời tâu lên để biện minh, nên được xét tha cho tội chết, biếm trích làm lính thú. (Minh Thực Lục v. 49, t. 4341; Hiến Tông q. 257, t. 3a)
Rồi một biến cố xảy ra, con Cổ Lai giết Ðề Bà Ðài Giả. Có lẽ hành động này phá hư kế hoạch chia nhỏ nước Chiêm Thành của vua Lê Thánh Tông, nên An Nam mang quân đến biên giới đòi cho được mạng sống của Ðề Bà Ðài Giả. Lời đe dọa như là một tối hậu thư, Cổ Lai lâm vào bước đường cùng phải đem hơn 1000 bộ hạ đến lưu vong tại Trung Quốc : Ngày 12 tháng 11 năm Thành Hóa thứ 22 [7/12/1486]
Bọn Giám sát Ngự sử Tuần Án Quảng Đông Từ Ðồng Ái tâu :
“ Con Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai đánh giết ngụy vương Đề Bà Đài, do Giao Chỉ đặt lên. Giao Chỉ giận, mang binh đến biên giới đòi cho được mạng sống của Đề Bà Đài. Cổ Lai sợ hãi, mang Vương phi, cháu Vương, bộ lạc hơn 1000 người, cùng sản vật địa phương vượt biển đến Nhai Châu, Quảng Đông.”
Sự việc đưa xuống bộ Lễ bàn, rồi Thiên tử phán :
“ Cổ Lai trong lúc tàn bại, còn chút hơi thừa, vượt qua vạn dặm, mang quyến thuộc đến quy phụ Trung Quốc ; tình cũng đáng thương. Nay lệnh cho các quan Tổng binh, Trấn thủ, Tuần phủ lưu tâm an ủi, ban cho lương thực, chọn chỗ thích hợp để cư trú, không để đến chỗ đói khát. Vẫn ra lệnh nghiêm nhặt canh phòng biên giới.” (Minh Thực Lục v. 50, t. 4806; Hiến Tông q. 284, t. 3b)
Nhà Minh không muốn Cổ Lai cùng bộ hạ lưu tại Trung Quốc lâu, nên chưa đến một năm sau sai Hữu Ðô Ngự sử Ðồ Dung đến Quảng Ðông thu xếp. Sau khi thương lượng, Dung tâu lên rằng Cổ Lai xin được phong chức tại Quảng Ðông rồi hộ tống về nước. Về lãnh thổ Cổ Lai xác nhận nguyên có 8 châu 25 huyện bị An Nam chiếm tất cả [1471] sau đó Chiêm Thành tố cáo với triều đình nhà Minh nên An Nam trả lại 4 châu 5 huyện, sau đó lấy ra 1 châu 3 huyện giao cho Ðề Bà Ðài Giả [Hoa Anh? ] ; nay Chiêm Thành [nước Chiêm Thành mới] chỉ còn 3 châu, 2 huyện. Có lẽ vì lý do này nên khi Hành nhân Trương Cẩn đến thành Chà Bàn phong vương [1481], đã phong nhầm cho Ðề Bà Ðài Giả.
Ngoài ra để việc hộ tống Cổ Lai về nước khỏi bị An Nam cản trở, vua Hiến Tông đã gửi văn thư trách vấn việc làm của An Nam : Ngày 13 tháng 10 năm Thành Hoá thứ 23 [29/10/1487]
Phong Vương cho con Quốc vương Chiêm Thành, Cổ Lai, tại Quảng Đông rồi hộ tống về nước và sắc cho nước An Nam trả đất xâm chiếm. Trước kia sai Cấp sự trung Lý Mãnh Dương, Hành nhân Diệp Ưng làm Chánh Phó sứ đến Chiêm Thành sắc phong. Nhưng chưa tới nơi thì Cổ Lai bị An Nam xâm đoạt nên bỏ nước, hàng hải đến Quảng Châu và định đến triều đình tố cáo. Tuần phủ, Đô ngự sử trình lên, bèn sai Đô sát viện Nam Kinh Hữu Đô ngự sử Đồ Dung đến Quảng Đông để thu xếp việc nên làm. Dung đến nơi, rồi tâu lên rằng :
“ Theo lời xưng của Cổ Lai, thì nước đó nguyên có 8 châu, 25 huyện, bị An Nam thôn tính tất cả. Vào năm Thành Hóa, người Chiêm Thành đến tố cáo với triều đình, nên được An Nam trả lại các xứ Bang Đô Lang, Ma Na Lý, 4 châu, 5 huyện. Sau đó Đầu mục Chiêm Thành Đề Bà Đài làm phản theo An Nam ; An Nam bèn cho y 1 châu, 3 huyện ; Chiêm Thành chỉ còn 3 châu, 2 huyện. Nay Đề Bà Đài đã chết, An Nam đòi cho được mạng sống của y, ý đồ lấy hết đất như Bang Đô Lang và lập con của Đề Bà Đài làm Vương. Sau đó Lũ Ma, con Cổ Lai, cùng Đầu mục Vạn Nhân Phương cố thủ để đợi. Ý của Cổ Lai muốn được thụ phong tại Quảng Đông, xin bộ binh tống về nước, lại xin văn thư công nhận cương thổ để được an toàn. Bọn Thần muốn lời xin được chấp thuận, xin mệnh bọn Mãnh Dương đến nơi này sắc phong, đến mùa đông sai quan võ hộ tống trở về nước. Bọn Mãnh Dương không cần phải thân hành đến đó. Lại xin sắc cho An Nam trả lại đất đã xâm lấn.”
Bộ Binh phúc tấu đồng ý theo ; bèn ban cho Quốc vương An Nam Lê Hạo sắc văn như sau :
“ Mới đây được các quan coi giữ Quảng Đông tâu rằng con Quốc vương Chiêm Thành, Cổ Lai, tố cáo rằng nước này nguyên có 8 châu, thành Ban Nhược Ban [Chà Bàn ?] và 25 huyện. Vào năm Thành Hóa thứ 7 [1472] nước ngươi mang binh chiếm hết số đất nêu trên. Vào tháng 3 năm Thành Hóa thứ 13 [1477] trả lại 4 châu, 5 huyện trong đó có Bang Đô Lang, Mã Na Lý. Rồi đem 1 châu 3 huyện trong đó có Mai Đả Lý, Bôn Để Ba Để cho tên Đầu mục phản phúc Đề Bà Đài. Sau đó lại ngầm ra lệnh Đề Bà Đài mang binh tìm giết Cổ Lai ; nên bị Cổ Lai bộ hạ giết chết. Bọn ngươi lại sai Đầu mục mang quân bức phải trả lại Đề Bà Đài sống. Vì lý do đó Cổ Lai quẫn bách, mang gia thuộc vượt biển từ xa đến tố cáo. Lại tra xét lời các ngươi trước đây tâu rằng đất đai Chiêm Thành do Thổ tù nước đó tranh giành cát cứ ; nay xét lại lời tố cáo của Cổ Lai thì ra các ngươi chiếm đoạt rồi đuổi họ đi. Nếu không vậy thì làm sao Cổ Lai lâm vào cảnh lưu ly đến như vậy. Nhưng nước ngươi vốn xưng lễ nghĩa, há lại ngoài mặt làm vẻ thiện, nhưng ngầm trong chứa điều ác, chỉ trang sức trên văn từ, trên thì thiếu lòng trung thờ nước lớn, dưới thì mất nghĩa hòa mục với lân bang. Hoặc giả Vương không biết, nhưng ở dưới quan phòng thủ, Đầu mục, đảng nghịch gây oán ; che giấu mọi điều đến như vậy ư ! Ty Bố chánh Quảng Đông đã thông báo cho nước ngươi, nhưng vẫn chưa nhận được phúc đáp. Nay nhân sứ trở về, đặc mệnh ban sắc cho Vương hãy đem lòng giúp đỡ kẻ hoạn nạn để đáp ứng với ý muốn phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt của triều đình ; nghiêm khắc cấm chỉ những người phòng giữ biên giới cậy mạnh hiếp người yếu, gây điều độc ác ; lấy 8 châu, 25 huyện, phía ngoài núi Mao Lãnh trả lại cho Cổ Lai, tạo nên sự hòa mục giửa lân bang, cùng chung hưởng thái bình.
Chẳng phải riêng việc Chiêm Thành, quan trấn thủ Vân Nam cũng mấy lần tâu rằng tên Thổ quan nước ngươi tên là Đèo Chúc, đánh phá 5 bang và các trại tại Man My, giả xưng danh hiệu chủ nhân châu Ninh Viễn, nhiễu hại biên dân, đã bị quan binh đánh đuổi. Nhưng niềm lưu luyến của nó chưa dứt, rồi sẽ có ngày trở lại. Vương nên gia tâm kiểm soát ; sai người bắt Đèo Chúc và gia thuộc câu lưu ; phải đem chúng ra pháp luật, không được che chở. Nếu nó còn bí mật đến, xưng danh hiệu giả, thì cái mà ngươi tự cho là trung nghĩa không còn nữa. Những sự việc này người hãy hồi tấu để thấy được lòng thành của ngươi. Nếu không ngay thẳng, vu khống, thì đạo trời làm phúc được thiện, họa đến cho kẻ ác ; Vương hãy nên lo xét. Khâm thử ! (Minh Thực Lục v. 51, t. 79-82; Hiếu Tông q. 4, t. 13a-14b)
Sau khi được về nước an toàn, Cổ Lai lại sai em sang tố cáo An Nam. Nhưng lần này thì nhà Minh từ chối không muốn can thiệp thêm, lấy lý do rằng An Nam đã chịu để yên không mang quân đánh lại Cổ Lai :
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 15, 2011 4:46:54 GMT 9
Ngày 13 tháng 10 năm Hoằng Trị thứ 2 [5/11/1489]
Quốc vương Chiêm Thành trở về nước, lại sai em là bọn Bốc Cổ Lang thông báo cho quan Đại thần coi giữ Lưỡng Quảng rằng :
“ An Nam vẫn còn chiếm cứ, không có chỗ để ở. Xin như thời Vĩnh Lạc [1403-1424], mang binh che chở.”
Trấn thủ Thái giám Vi Tái, Tuần phủ Đô ngự sử Tần Huyền hợp tấu thỉnh ý. Sự việc đem xuống bàn, bộ Binh tâu tiếp như sau :
“ An Nam và Chiêm Thành vị trí nơi bờ biển hoang tịch, đời đời triều cống, tổ tiên có di huấn là những nước không nên chinh phạt. Mới đây Cổ Lai mang gia quyến đến Quảng Đông ; triều đình đã giáng sắc cho An Nam lệnh xem xét xót thương, nhưng đến nay chưa nhận được lời tâu trở lại. Còn việc thời Vĩnh Lạc sai tướng mang quân đi chinh phạt là do Lê Quý Ly thoán đoạt giết vua, không phải là do sự xâm lấn nước láng giềng. Mới đây Lê Hạo lo việc triều cống rất cẩn trọng, nhưng Cổ Lai tố cáo nặng nề ; như vậy cũng có phần quá đáng. Nếu chỉ căn cứ lời một bên, rồi mang binh mạo hiểm vượt biển để đánh kẻ không đáng đánh, thì sai với đạo mềm dẻo với nước xa xôi. Nên lệnh các quan Trấn thủ báo lại cho Cổ Lai rằng :
Trước đây Quốc vương đến tố cáo với triều đình, đã mệnh quan Đại thần giúp đỡ săn sóc đầy đủ. Bây giờ hộ tống người của Vương trở về xong. Sự tình được biết người Giao giết con của Vương là Cổ Tô Ma, Vương mang binh đánh bại chúng, sự rửa thù đã xong ; sau đó không thấy An Nam mang quân đến đánh nước của Vương. Đất của Vương trước kia mất nay đã lấy lại được ; bộ lạc của Vương đã tan nay đã tụ lại được ; đó là nhờ uy của Thiên triều mới được như vậy. Nay lại kêu An Nam muốn chiếm đoạt đất trước kia ; An Nam vốn xưng là nước biết lễ nghĩa ; há lại hôn ám chuốc lấy sự sai trái. Nay viên quan phòng thủ nước ta trình lời của Vương lên triều đình, mà lời hồi tấu của An Nam thì chưa đến, sự kiện chưa rõ ràng minh bạch ; lại e Vương oán xưa chưa bỏ được, nói quá sự thực ; ta không thể chỉ nghe riêng một bên mà quyết định.
Khi lời tâu của An Nam đến, ta sẽ xem xét, rồi báo cho ngươi hay. Vương hãy tự tín, điều hành quản trị, an ủi nhân dân và bảo vệ đất đai. Vương cũng nên tìm cách nối lại bang giao tốt với An Nam, quên hết đi những sự nghi ngờ. Từ xưa đến nay, không có một nguyên tắc nào cho nhà cai trị không tự tin ở mình, lại cầu xin triều đình mang quân đi đến từ miền xa xôi để bảo vệ họ. Sắc dụ của Thiên tử sẽ giao cho Bốc Cổ Lang, y cũng được thưởng quà, rồi mang về nước. (Minh Thực Lục v. 52, tr. 694-696; Hiếu Tông q. 31, tr. 7b-8a)
Cổ Lai lại tiếp tục tố cáo An Nam xâm chiếm đất đai, tịch thu đồ vật do triều đình ban cho nên xin mang quân cứu giúp ; nhưng triều đình nhà Minh cũng không có phản ứng rõ rệt : Ngày 21 tháng 5 năm Hoằng Trị thứ 3 [8/6/1490]
Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai sai người em là Bốc Cổ Lang cống sản vật địa phương, cùng tâu Quốc vương An Nam xâm chiếm đất đai, cho người chặn lấy những đồ vật như lụa nõn trong ngoài do triều đình ban cho, xin đưa quân đến cứu giúp. Mệnh đưa xuống các ty có trách nhiệm hay biết. (Minh Thực Lục v. 53, tr. 812; Hiếu Tông q. 38, tr. 6b)
Từ địa vị một người lưu vong tại Trung Quốc, lại được trở về nước an toàn, không bị An Nam hăm dọa tiêu diệt, như việc trước kia đã đòi hỏi phải trả lại người sống của Ðề Bà Ðài Giả ; nên Cổ Lai cho Sứ thần sang tạ ơn triều đình nhà Minh và cả Hữu Ðô Ngự sử Ðồ Dung : Ngày 26 tháng 7 năm Hoằng Trị thứ 3 [11/8/1490]
Đô sát viện Hữu Đô ngự sử Đồ Dung phụng mệnh đến Quảng Đông sắp xếp sự việc về Chiêm Thành đã trở về. Quốc vương nước này, Cổ Lai, sai Sứ thần bọn Ban Bả Để đến tạ ơn triều đình ; lại còn mang phẩm vật tặng Đồ Dung. Có chỉ dụ bảo Dung nhận, Dung từ chối, nhưng không được chấp thuận. Dung bèn dâng sớ rằng :
“ Thần trước đây quyền nghi xử trí công việc, tuy hết sức làm, có được chút hiệu quả bởi tuân theo chỉ thị của triều đình, do sự tính toán của Hoàng thượng. Nay Chiêm Thành từ chổ diệt vong mà phục hưng, đều do uy đức của Hoàng thượng, còn Thần thì chẳng có sức lực gì ! Đáng cho Cổ Lai và con cháu đời đời báo đền công đức của triều đình, sao lại phải tạ ơn Thần ! Vả lại Thần ở địa vị đứng đầu hiến quan, phong cách đòi hỏi phải trọng kỷ luật ; nếu cẩu thả nhận đồ tặng, sau này sự việc sẽ đưa ra thiên hạ, truyền xuống hậu thế. Việc này không phải là điều vinh cho Thần, mà lại lụy đến danh tiếng của triều đình, nên đồ lễ vật này Thần không dám nhận. ”
Thiên tử chấp nhận lời tâu, lúc bấy giờ Sứ thần Chiêm Thành trở về chưa xa ; bộ Lễ xin sai người đuổi theo mang đầy đủ lễ vật trả lại cho Chiêm Thành, để vua tôi nước ngoài biết được phong cách tự xử của vị Đại thần. Thiên tử chấp thuận. (Minh Thực lục v. 53, tr. 845. Hiếu Tông q. 40, tr. 9a)
Cổ Lai vẫn tiếp tục đòi hỏi nhà Minh can thiệp. Sự việc trải qua những cuộc bàn cãi sôi nổi, cuối cùng đành phài chấp nhận lời phân tích đầy tính thuyết phục của Ðại học sĩ Từ Phổ Cảnh “ Nay nếu nếu giáng sắc, sai quan đến nước xa xôi này cũng chỉ phí lời, khó mà thi triển uy lực của triều đình, mặt khác hải đảo rộng mênh mang không có cách gì khám xét đất đai ; hơn nữa làm sao An Nam có thể tự động cải hối, bỏ cả mối lợi hàng mấy chục năm của chúng ! Nhỏ thì che giấu lỗi lầm, lớn thì chống cãi lại ; như vậy Sứ thần không thể thi hành lệnh của triều đình, tướng không thể dương oai nơi cõi ngoài, chỉ làm giảm quốc thể, gây sự nguy hại cho địa phương. Đến lúc đó, thì xử sự ra sao đây ? Nếu bỏ qua mà không hỏi đến, thì tổn thương uy danh ; đem sự việc ra hạch hỏi thì phải hưng binh , mối lo lại càng lắm ! ”. Vua Hiếu Tông đành chấp nhận bỏ qua : Ngày 28 tháng 10 năm Hoằng Trị thứ 8 [14/11/1495]
Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai tâu rằng nước này bị An Nam chiếm đất, giết người. Tuy được triều đình giáng sắc dụ phải hòa mục, nhưng An Nam ngoài mặt ra vẻ thuận tòng, còn âm mưu thì ác độc không ngừng. Nên sai cháu là Sa Cổ Tính đến kinh khuyết xin Đại thần đến nơi để giảng hòa, lời tâu rất bi ai. Sự việc đưa xuống để đình thần tập hợp bàn bạc, lời bàn cho rằng từ xưa chưa có lệ sai quan Đại thần ra nước ngoài để hòa giải giửa các Di. Xin giao Lưỡng Quảng gửi văn thư cho An Nam, dụ phải hòa mục với lân bang, hoàn lại đất đã xâm chiếm. Cùng sắc dụ Cổ Lai chăm sóc nhân dân, tu luyện võ bị, để làm kế lâu dài. Khi sự việc đã yên, lệnh hai nước trình bày đầy đủ sự thực rồi tâu lên.
Lời bàn được dâng lên, ý Thiên tử muốn sai quan Đại thần đi xem xét. Đại học sĩ Từ Phổ Cảnh tâu :
“ Nước Chiêm Thành xin sai Đại thần đến nước họ, bảo An Nam trả lại hết tất cả đất đai đã xâm chiếm ; các nha môn hai lần hội nghị đều cho rằng không nên làm như như vậy. Bộ Lễ được yêu cầu nêu rõ vấn đề rằng Thánh Thiên tử muốn sai quan đến dụ ; nhìn lên thấy được Thánh ý đối xử chung một lòng nhân không phân biệt Di Hạ (15) ; tuy nhiên bọn Thần phân tích bằng sự lý, thấy sách Xuân Thu (9) dạy “ không cai trị Di” (bất trị Di) ; vì rằng sự chế ngự Di Địch và cai trị trong nước không giống nhau. An Nam tuy tuân phụng theo lịch Chính Sóc, làm tròn chức cống, nhưng vốn là ngoại Di ; cậy hiểm và sức mạnh, thường làm chuyện xâm nhiễu ngoài vòng trật tự ; các triều đại trước cũng thường bỏ qua. Còn nước Chiêm Thành kia thì quá nhỏ mà sơ viễn ; bọn Thần kính cẩn xem xét lời dạy của tổ triều Minh rằng Chiêm Thành và một vài nước khác triều cống lại đưa hàng đến bán, có nhiều sự gian trá nên từ năm Hồng Vũ thứ 8 (1375-1376) bị cấm, mãi đến năm Hồng Vũ thứ 12 (1379-1380) mới được triều cống trở lại. Sau đó vào năm Thành Hóa thứ 7 (1471-1472) bị An Nam xâm chiếm, mấy lần đến tố cáo. Hiến Tông Hoàng đế mấy lần sắc Tổng trấn Lưỡng Quảng, Đô ngự sử khu xử. Nhưng An Nam khẳng định rằng họ đã trả lại đất ; thực ra thì chúng không khai thực và không chịu nhận tội.
Nay nếu nếu giáng sắc, sai quan đến nước xa xôi này cũng chỉ phí lời, khó mà thi triển uy lực của triều đình, mặt khác hải đảo rộng mênh mang không có cách gì khám xét đất đai ; hơn nữa làm sao An Nam có thể tự động cải hối, bỏ cả mối lợi hàng mấy chục năm của chúng ! Nhỏ thì che giấu lỗi lầm, lớn thì chống cãi lại ; như vậy Sứ thần không thể thi hành lệnh của triều đình, tướng không thể dương oai nơi cõi ngoài, chỉ làm giảm quốc thể, gây sự nguy hại cho địa phương. Đến lúc đó, thì xử sự ra sao đây ? Nếu bỏ qua mà không hỏi đến, thì tổn thương uy danh ; đem sự việc ra hạch hỏi thì phải hưng binh, mối lo lại càng lắm. Hãy nghiền ngẫm những lời giáo huấn của tổ tiên :
“ Di Địch bốn phương, cách núi ngăn biển, riêng biệt một góc trời ; có được đất đó không đủ cung cấp cho nhu cầu, có được dân đó không đủ để sai khiến. Nếu chúng đến quấy phá biên giới của ta, tự nó sẽ gặp điều không lành ; nếu nó không làm hại đến Trung Quốc, mà ta khinh suất mang quân đi chinh phạt cũng là làm điều không lành vậy. Ta sợ con cháu sau này, ỷ thế Trung Quốc cường thịnh, tham chiến công nhất thời, mang quân đi đánh gây thương tổn thất chết chóc ; điều đó không được phép làm.”
Lời Thánh Thiên tử đáng làm khuôn phép vạn đời. Cho dù hiện nay kế hoạch quốc gia hư thực như thế nào, binh lực mạnh yếu ra sao; thì việc hao phí tài nguyên không kể hết, để tranh dành mảnh đất cằn cỗi cây cỏ không mọc được, là việc làm vô ích, càng không thể làm ! Như việc Cáp Mật (16) bị Thổ Phiên xâm đọat trong hai ba mươi năm ; mang quân khiển tướng, giành đi giành lại đến nay vẫn chưa yên. Bọn Thổ quan các xứ thù nghịch nhau, không thể lấy Vương pháp mà cấm đoán được ; vì thế việc bọn chúng đánh nhau là sự thường tình.
Nay Chiêm Thành danh hiệu vẫn như xưa, triều cống cũng không khác ; việc bị xâm đọat có hay không, thực hay dối trá, vẫn chưa biết rõ. Tuy tình cảnh đáng thương, nhưng về lý không nên can thiệp đến cùng. Nay quan ty chỉ dùng văn thư hiểu dụ cũng được rồi ; hà tất phải nhân danh Thiên tử sai quan Đại thần đi khám. Huống việc đại sự của triều đình không thể không hỏi quần thần. Nay mọi người đều một lòng tâu là không nên, nhưng chỉ nói chung về sự lý, chưa trình bày hết về lợi hại được mất. Bọn Thần ở địa vị thân cận, là kẻ tâm phúc, nếu không trình bày hết, vạn nhất việc xấu nảy sinh, thì đến chết cũng không chuộc hết tội. Bởi vậy không nề rờm lời khó nghe ; trình bày những vấn đề liên quan đến Hoàng thượng, xã tắc, sinh dân ; chứ không phải muốn về hùa với đám đông. Nếu như thời thế có thể làm được, sự việc không gây tai hại, bọn Thần đáng phải giúp Hoàng thượng ; đâu dám dâng lên những lời trái tai này.”
Thiên tử nghe lời, bèn theo lời bàn của quần thần. (Minh Thực Lục v. 55, tr. 1922-1925; Hiếu Tông q. 105, tr. 6b-8a)
Tiếp đến qua một biểu văn khác, Cổ Lai xin cho con trưởng thay chức và xác nhận chưa lấy được cảng Tân Châu [Thị Nại]. Trong khi đó An Nam khẳng định rằng “ ngoài 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đều do Thổ tù cát cứ, nước tôi hoàn toàn không can thiệp ” ; như vậy có thể hiểu vùng cảng Tân Châu vẫn do con cháu Ðề Bà Ðài Giả trông coi, An Nam chỉ kiểm soát theo lối ky my (17) : Ngày 21 tháng 6 năm Hoằng Trị thứ 12 [28/7/1499]
Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai tâu rằng :
“ Vùng cảng Tân Châu của bản quốc đã bị An Nam xâm đoạt từ lâu, chúng cướp giết nhân dân, mối lo chưa hết. Nay Thần già lão, khi chưa chết muốn cho con trưởng là Sa Cố Bốc Lạc được nối ngôi, mong ngày sau có thể giữ được đất tại cảng Tân Châu.”
Thiên tử mệnh bộ Lễ, bộ Binh họp lại để bàn bạc, rồi cả hai bộ đều trình lên rằng :
“ An Nam gây hại tại Chiêm Thành không phải mới xẩy ra trong một ngày, triều đình thường nhân Chiêm Thành tố cáo bèn gửi tỷ thư chỉ dạy, lại sai Thủ thần lấy đại nghĩa trách vấn, giảng điều họa phúc ; nhưng An Nam trước sau tâu lên đều xưng rằng :
“ Đã tuân theo mệnh lệnh của triều đình, trả lại hết tất cả đất đai và nhân dân ; ngoài 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đều do Thổ tù cát cứ, nước tôi hoàn toàn không can thiệp.”
Nhưng An Nam vừa mới đưa lời biện bạch thì Chiêm Thành lại tố cáo ; khó biết được đâu là thật tình. Xin lệnh Thủ thần gửi văn thư nghiêm khắc dụ An Nam chớ tham dân và đất đai sẽ gây nên họa hoạn, nếu không tuân sẽ bàn định mang quân đi hỏi tội. Về việc con trưởng của Vương Chiêm Thành, thì khi cha còn sống không có lý được phong thế tập, hãy lập lên làm Thế tử để coi việc quốc sự ; sau này như lệ định sẽ phong thế tập.”
Điều này được chấp thuận. (Minh Thực Lục V. 27, tr. 2674-2675; Hiếu Tông q. 151, tr. 8b-9a)
Năm 1505 con Quốc vương Cổ Lai lại sai sứ sang nhà Minh xin phong, lần này xác nhận địa điểm Sứ giả đến tại Tân Châu [cảng Thị Nại], như vậy nước Chiêm Thành mới đã lấy lại được phần đất của nước Hoa Anh. Tuy nhiên nhà Minh lấy cớ Chiêm Thành chưa sai sứ đến cáo ai (18), nên viện cớ từ chối : Ngày 17 tháng 6 năm Hoằng Trị thứ 18 [17/7/1505]
Con Quốc vương Chiêm Thành Sa Cố Bốc Lạc sai sứ Sa Bất Đăng Cổ Lỗ đến cống sản vật địa phương, xin Đại thần đến nước này, vẫn tại các xứ cảng Tân Châu, phong tước ; nhưng không tâu rõ về việc cha y đã mất, lại nói qua về số đất bị chiếm đọat. Bọn Cấp sự trung Nhiệm Lương Bật tâu rằng :
“ Việc thỉnh phong cần phải xem xét kỹ. Lời di huấn của Hoàng tổ (Minh Thái Tổ) cho rằng Chiêm Thành triều cống mang thương nhân đi theo, nhiều trí trá, cần ngăn cấm. Đến thời Thái Tông có việc tại An Nam, nước này với Chiêm Thành như môi với răng, nên bắt đầu đi lại phong tước. Tuy nhiên thời gian triều cống so với Triều Tiên, An Nam thì không giống. Mới đây nước này suy nhược ; nên mượn việc cống tiến, sắc phong để báo động lân quốc rõ ; kỳ thực Quốc vương nước này lập hay không, không lệ thuộc vào việc phong tước, hay không phong của triều đình. Trước đây Cổ Lai đã xin phong cho Sa Cố Bốc Lạc nhưng chưa được chấp thuận, nay lại xưng Cổ Lai đã mất, thực hư khó biết. Vạn nhất nếu Sứ giả đến, Cổ Lai vẫn còn sống, lại phong cho người con ư ? Hoặc xét điều nghĩa không thể được, nên từ chối, rồi xẩy ra hiếp bách ; nếu sự việc đến thì thật khó xử ! Như trước đây Cấp sự trung Lâm Tiêu đi sứ, vua Mãn Thứ Gia [Melaka] không chịu hướng về phương bắc quì lạy, bắt Sứ giả giam đói ; nhưng không thể mang quân đi hỏi tội ; mệnh vua, quốc thể, thực lấy làm đáng tiếc !
Xét về đại thể, những nước nơi biển xa nếu vô sự thì phế triều cống, tự lập ; có việc thì mượn việc triều cống xin phong. Nay Chiêm Thành đến không phải vì việc cầu phong cấp thiết, mà thực ra muốn được An Nam trả lại đất, muốn ta trả lại những người đã trốn sang Quảng Đông. Về việc An Nam xâm chiếm đất, trước đây từng ban tỷ thư, lệnh phải trả lại đất, nếu không trả sẽ làm rõ tội. Bọn họ đoán tình thế khó xẩy ra, nên dù lời của Thiên tử đinh ninh, nhưng vẫn xâm chiếm như trước, nếu chỉ dụ tiếp đến thì họ cũng coi thường, mà uy tín của Thiên tử bị tổn thương. Nay nếu không xử trí được vấn đề lãnh thổ, lại đến phong, nếu Sứ giả bị câu lưu để chờ phân xử, không biết triều đình xử trí thế nào ? Số người chạy trốn đến Quảng Đông, bộ Binh đã gửi văn thư cho quan trấn phủ lệnh điều tra, đến nay chưa nhận được báo hồi. Nếu nhân việc này, bọn chúng câu lưu sứ giả của ta để đòi cho được người bỏ trốn, như vậy thì hóa ra Sứ giả Thiên triều bị bắt làm con tin vì những tên Di vô danh vậy. Nên đối xử như lệ trước đây, Cổ Lai đến Quảng Đông tựu phong, sai sứ đưa đến biên giới Quảng Đông, rồi mang sắc trở về nước. Bộ Hộ gửi cho quan trấn phủ Lưỡng Quảng trách vấn An Nam dụ điều họa phúc, lệnh trả hết đất xâm chiếm. Còn bọn dân Phiên bỏ trốn, nên sai quan trấn thủ phủ dụ cho trở về nước, ngõ hầu toàn vẹn chính sách nhu viễn, không tổn thương uy tín Trung Quốc.”
Sự việc đưa xuống dưới, bộ lễ họp bàn rồi tâu lên :
“ Theo lệ Quốc vương mất trước hết phải sai người trong họ đến cáo ai, nay không làm như thế. Vả lại trong tờ tấu xin phong của Sa Cổ Bốc Lạc không nói rõ năm tháng Cổ Lai mất ; vậy nên sai ty Bố chánh Quảng Đông gửi văn thư để nước này trình báo, rồi bàn xét sau.”
Thiên tử chấp thuận. (Minh Thực Lục v. 61, tr. 72-74; Vũ Tông q. 2, tr. 18b-19b)
Chiêm Thành lại tiếp tục xin sai sứ đến phong, viên quan được cử đi là Cấp sự trung Lý Quán tìm cách thoái thác, xin phong tại Quảng Ðông để giao cho Sứ giả Chiêm Thành mang về. Nhưng triều đình sợ viên Sứ giả đưa sắc phong cho người khác, nên đòi hỏi Lý Quán phải đi : Ngày 13 tháng 12 năm Chính Đức thứ 7 [19/1/1513]
Trước kia Lễ khoa Cấp sự trung Lý Quán, Hành nhân Lưu Mật nhận sắc để phong cho Quốc vương Chiêm Thành Sa Cổ Bốc Lạc. Đến Quảng Đông Mật bị bệnh mất. Sai Hành nhân Lưu Văn Thụy đi thay. Thụy chưa đến, Quán tâu rằng Chiêm Thành có những năm vào đầu triều đại đã không đến cống, mới đây các quan bàn không nên đi xa để phong ; vậy xin tuyên sắc phong tại quán dịch Hoài Viễn tại Quảng Thành, cùng ban thưởng cho Vương và Phi những đồ vật ; lệnh cho Sứ giả là bọn chú Vương, Sa Hệ Bả Ma, lãnh mang về. Sự việc đưa qua bộ lễ bàn rằng Sa Cổ Bốc Lạc nước Chiêm Thành xin phong đã hơn 2 năm rồi, nay vô cớ dừng lại không phong, là sai với chế độ phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt. Nếu trong muôn một Sa Hệ Bả Ma không tuân theo, hoặc phong người khác, rồi đi đến tranh chấp, thì xử sự làm sao đây ? Xin như cũ, sai bọn Quán đến sắc tại nước này, để khỏi thất tín Di bên ngoài, mà thể chế của Trung Quốc cũng không bị tổn thất. Thiên tử chấp thuận. (Minh Thực lục v. 65, tr. 2007-2008; Vũ Tông q. 95, tr. 3a-3b)
Cuối cùng được viên Tuần Án Quảng Ðông tâu thêm cho Lý Quán, viện cớ rằng Thế tử Sa Cổ Bốc Lạc con Quốc vương Cổ Lai hiện sống trong rừng núi không thể đến được, nên triều đình nhà Minh quyết định ban sắc phong tại Quảng Ðông rồi sai sứ giả mang về : Ngày 16 tháng 7 năm Chính Đức thứ 10 [25/8/1515]
Sứ thần Chiêm Thành bọn Lực Na Ba lãnh sắc sách phong trở về nước.
Trước đây Sa Cổ Bốc Lạc sai sứ đến thỉnh phong, sai Cấp sự trung Lý Quán mang sắc đưa đi. Quán đến Quảng Đông, xin theo lệ năm trước đây sách phong cho Cổ Lai, cho Sứ thần lãnh sách phong trở về. Đình thần bàn rằng :
“ Đã sai sứ đi trên hai năm, nay nếu dừng lại nửa chừng, thì không hợp với đạo phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt ! Nếu Sứ thần không chịu lãnh sắc phong, hoặc lãnh sắc rồi lúc trở về không trao đúng người nhận, thì lại một lần nữa gây mối tranh chấp, lấy cách gì để xử đây ? Vậy nên lệnh Quán đi gấp.”
Quán lại tâu :
“ Đi sứ nơi xa cần có hướng đạo biết đường, Thông dịch viên biết ngôn ngữ và chữ viết ; nay tất cả đều không có, xin bàn và phân xử.”
Đình thần bàn lại :
“ Lệnh các quan Tuần Phủ địa phương, bằng mọi cách tìm cho được người hướng đạo và thông dịch. Nếu không có được, chấp nhận theo lệ cũ thi hành.”
Rồi Quán lại tâu thêm :
“ Phụng mệnh đã hơn 5 năm, mấy lần dâng sớ lên nhưng chưa quyết định được cách đi. Ai mà chẳng biết rằng sóng gió nguy hiểm đáng sợ ; nhưng đáng lưu ý là đất Chiêm Thành từ đời Cổ Lai, sau khi bị An Nam thôn tính, thì vị trí không rõ ràng. Y chạy trốn đến Xích Khảm bang, Đô Lang quốc [Phan Rang?] ; không còn ở chỗ cũ, xét không thể đi được. Huống Cổ Lai là Đầu Mục của vua Chiêm Thành Tề Á Ma Vật Yêm, đã giết vua đoạt ngôi, vua có 3 con, hiện còn một người. Theo đạo nghĩa hành động của y không đúng ; xét theo sử Xuân Thu nếu không mang quân đi hỏi tội thì cũng nên chấm dứt con đường triều cống. Thần cho rằng cho họ lãnh sắc phong mà đi, còn giữ được điều lễ nghĩa ; thì cần gì phải tìm kiếm hướng đạo, thông dịch, rồi đình thần họp bàn vô ích ! ”
Gặp dịp Tuần Án Quảng Đông Ngự sử Đinh Giai tấu tương tự như lời của Quán ; bèn đem xuống họp phủ, bộ, khoa đạo ; bàn như sau :
“ Trung Quốc đối với các Di Địch, đến thì vỗ về, không đến thì cắt đứt. Nay Thế tử (con Cổ Lại) ở nơi rừng núi bưng biền không đến được; vậy nên ra lệnh Tuần Án Quảng Đông triệu Chánh sứ Lực Na Ba đến dụ rằng Sứ thần không thể đi xa được, rồi lấy sách phong cùng lễ vật từ Quán trao cho Sứ thần mang về ; như vậy không mất lòng nước Di xa xôi, mà toàn vẹn thể chế của triều đình.”
Chiếu chấp nhận, rồi lệnh Quán trở về. (Minh Thực Lục v. 67, tr. 2546-2547; Vũ Tông q. 127, tr. 6b-7a)
Ðến đời vua Gia Tĩnh triều Minh, Quốc vương Sa Bất Ðăng Cổ Lỗ [không rõ có liên hệ huyết thống với Quốc vương Sa Cổ Bốc Lạc hay không] cho sứ dâng biểu văn viết trên vàng lá triều cống nhà Minh, cùng tố cáo bị An Nam đánh phá không trở về được : Ngày 21 tháng 6 năm Gia Tĩnh thứ 22 [22/7/1543]
Nước Chiêm Thành Công Sa Nhật Ðể Tề sai chú là Sa Bất Ðăng Cổ Lỗ dâng biểu văn khắc trên vàng lá, cống sản vật địa phương. Ban yến, thưởng lụa là, sa, quyên như lệ ; lại ban gấm vóc cho Vương này. (Minh Thực Lục v. 83, tr. 5395; Thế Tông q. 275, tr. 6a) Ngày 11 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [11/8/1543]
Sứ-thần nước Chiêm Thành bọn Sa Bất Đẳng Cổ Lỗ viện dẫn lệ cũ, tấu xin cấp cho mũ và dây đai. Lại than rằng nước này mấy lần bị An Nam đánh phá, đường sá trở ngại không về được, xin cho người hộ tống xuất cảnh. Chấp nhận. (Minh Thực Lục v. 83, tr.5407; Thế Tông q. 276, tr.2a)
Kể từ thời điểm nêu trên [1543] cho đến năm nhà Minh mất [1664] Minh Thực Lục không ghi thêm văn bản nào về Chiêm Thành. Có lẽ lúc bấy giờ trong nước Chiêm Thành nội bộ chia rẽ, lại thường bị An Nam đánh phá, hoàn cảnh quá suy yếu nên không còn liên lạc ngoại giao với Trung Quốc Riêng sử nước ta chép thêm những sự kiện sau đây (19) :
Năm Tân Hợi [1611] chúa Nguyễn Hoàng vào đánh nước Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên, chia ra 2 huyện Ðồng Xuân và Tuyên Hoà.
Năm Quý Tỵ [1653 ]vua nước Chiêm Thành là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần sai Cai cơ Hùng Lộc sang đánh ; Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang [Phan Rang] trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Lang trở ra lập phủ Thái Ninh, sau đổi thành phủ Diên Khánh [tức Nha Trang], đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm Thái thú.
Năm Quí Dậu [1693] vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan Tổng binh Nguyễn Hữu Kính đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh và bọn bầy tôi là Tả Trà Viên, Kế Bà Tử, cùng thân thuộc là Bà Ân đem về Phú Xuân. Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành thành Thuận phủ, cho Tả Trà Viên, Kế Bà Tử làm chức Khám lý, con của Bà Ân làm Ðề đốc giữ Thuận phủ, lại bắt phải đổi y phục như người Việt Nam. Qua năm sau lại đổi Thuận phủ làm trấn Thuận Thành , cho Kế Bà Tử làm Tả Ðô đốc.
Năm Ðinh Sửu [1697] chúa Nguyễn đặt phủ Bình Thuận lấy đất Phan Lý, Phan Lang làm huyện Yên Phúc và huyện Hòa Ða. Kể từ đó nước Chiêm Thành mất. Hồ Bạch Thảo
CHÚ THÍCH :
1. Sông Hải Triều : tức khúc sông chảy qua huyện Phù Tiên, Hải Hưng và huyện Hưng Hà, Thái Bình.
2. Toàn Thư, N.X.B. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1998, tập 2, tr. 202.
3. Thăng, Hoa : đất thuộc các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam hiện nay.
4. Tư, Nghĩa : đất thuộc các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Ðức, Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.
5. Ðại Nam Nhất Thống Chí, tập 2, tr. 387, tr. 468.
6. Theo Toàn Thư, q. 2, t. 374 vào năm Kỷ Tỵ [1449] vua Lê Nhân Tông nước ta gửi thư trách Chiêm Thành phế Ma Ha Quí Lai lập Ma Ha Quí Do. Sự kiện xảy ra trước sắc phong của nhà Minh 3 năm.
7. Bàn La Duyệt : xin lưu ý Bàn La Duyệt sử nước ta gọi là Bàn La Trà Duyệt ; riêng người thừa kế Trà Toàn sử Trung Quốc gọi là Bàn La Trà Duyệt, thì sử nước ta gọi là Bàn La Trà Toại.
8. Toàn Thư, s.đ.d., tập 2, tr. 440-441.
9. Xuân Thu : tên bộ sử Khổng Tử viết cho thời đại từ Chu Bình Vương thứ 49 [ -723] đến Chu Kính Vương [ -481] gồm 242 năm ; nên thời đại này được gọi là Xuân Thu.
10. Mãn Thứ Gia : tức Melaka, một tiểu bang của nước Mã Lai
11. Theo Toàn Thư Bàn La Trà Toàn bị nhà Lê bắt năm 1471, sau đó bị bệnh chết. Bàn La Trà Toại bị bắt vào tháng 8 năm 1471.
12. Toàn Thư, s.đ.d., tập 2, tr. 450.
13. Lời tâu của sứ gỉả Chiêm Thành sai năm tháng. Theo Toàn Thư sự việc vua Lê Thánh Tông đánh bắt Quốc vương Trà Toàn vào năm Thành Hóa thứ 7 [1471] ; ngoài ra Minh Thực Lục trong văn bản đề ngày 27/6/1472 cũng khẳng định Sứ thần Chiêm Thành đến triều đình nhà Minh, cáo cấp việc An Nam chiếm nước, bắt Quốc vương vào tháng 2 năm Thành Hóa thư 7 [1471]. Riêng việc Sứ thần nhà Minh đến phong, nhưng không thực hiện được phải bỏ đi, xảy ra vào năm Thành Hóa thứ 10 [1475 ], chứ không phải vào năm Thành Hóa thứ Thành Hóa thứ 6 [1470 ]
14. Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Chính biên, quyển 12, tr. 524.
15. Di Hạ : Hạ là tên một triều đại xưa của Trung Hoa, nên họ tự gọi là Hoa Hạ. Di là tiếng dùng có tính cách kỳ thị chủng tộc, gọi các nước ngoại quốc xung quanh.
16. Cáp Mật : một bộ tộc tại vùng Tân Cương ngày nay.
17. Ky my : một cách cai trị uyển chuyển thời xưa, chỉ bắt nạp cống hàng năm, không khống chế chặt chẽ nội bộ.
18. Cáo ai : tâu việc vua trước đã mất.
19. Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, bản trên mạng của Viện Việt Học, trang 136.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2011 5:49:27 GMT 9
Văn minh cổ và nguồn gốc dân tộc Việt Nam Nguyễn Văn Tuấn - Cung Ðình Thanh - Nguyễn Ðức Hiệp I. Có lẽ, phát biểu rằng thế kỷ 21 là thế kỷ của văn hóa chắc không quá đáng, bởi vì một khuynh hướng chung hiện nay là các quốc gia trên thế giới đang (hay sắp) qui tụ với nhau thành nhiều nhóm dựa trên văn hóa, mà không dựa trên ý thức hệ (như Chủ nghĩa Cộng sản và Chủ nghĩa Tư bản trong thời gian qua). Trong thế kỷ 21, người ta sẽ hỏi "Anh là ai", thay vì "Anh thuộc phe nào" trong thế kỷ vừa qua. Tức là một sự chuyển biến về nhận dạng từ ý thức hệ sang văn hóa.
Nhưng câu hỏi "Chúng ta là ai" tuy đơn giản, câu trả lời thì không đơn giản chút nào. Tổ tiên chúng ta xuất phát từ đâu, họ đến Việt Nam bằng cách nào, vẫn còn là những vấn đề khoa học, đòi hỏi nhiều nghiên cứu về di truyền học, khảo cổ học, và ngôn ngữ học. Từ thập niên 60 thế kỷ trước, nhiều người, nhất là giới trẻ, đã khao khát muốn tìm về nguồn gốc dân tộc. Nhiều đoàn thể đã tự chọn cho mình cái mục tiêu "về nguồn". Đến khi chiến tranh trên quê hương chấm dứt năm 1975, rồi cả triệu người phải bỏ nước ra đi, sự khao khát tìm về cội nguồn trong những người xa quê hương này lại có phần gia tăng, dù người ta đã phải vất vả nhiều hơn cho cuộc sống mới. Nhưng khi tìm trong cổ sử Việt, về đời sống tinh thần của người xưa, để thực hiện việc về nguồn này, người ta chỉ gặp một cảnh hoang sơ: ngoài một số truyền thuyết, và những lời răn thực tế trong tục ngữ ca dao, những tác phẩm để lại, phần lớn do người ngoại quốc viết, thường đã bị khoa học ngày nay vượt qua từ lâu, không kể một số không ít đã được sáng tác với dụng ý xuyên tạc sự thực, bôi bác nguồn gốc dân tộc, hạ thấp giá trị văn hóa cổ truyền. Trong cảnh tiêu sơ đến thảm hại đó, cũng đã xuất hiện vài quyển sách có thiện ý muốn viết lại cho trung thực nguồn gốc dân tộc mình (1). Nhưng được thực hiện trong hoàn cảnh tư liệu thiếu thốn, các sách này chưa đạt được mục đích, vả cũng đã nhanh chóng bị khoa học ngày nay vượt qua. Ở trong nước, nhờ có đội ngũ những nhà biên khảo khoa học xã hội đông đảo, có những cơ quan chuyên nghiên cứu về triết học, văn hóa và khoa học xã hội có tổ chức, nên có được nhiều biên khảo chuyên ngành và công phu hơn. Nhất là về phương diện khảo cổ, từ thập niên 60 (thế kỷ trước), ngành này đã đạt được những kết quả vô cùng ngoạn mục. Nhưng những tác phẩm nghiên cứu có hệ thống và khoa học vẫn còn cực kỳ ít, ngoại trừ tập một vài tác phẩm mới xuất bản gần đây (2). Đặc biệt về phương diện triết học tư tưởng, nhiều hội nghị đã được triệu tập, nhưng vẫn đi đến kết luận hết sức lạ lùng là: trong hoàn cảnh tài liệu hiện tại, còn quá sớm để có thể hình thành một tác phẩm loại này(3). Trong bối cảnh như vậy, chúng tôi, một nhóm tư nhân rất thiếu phương tiện, nhưng đã quyết tâm làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn, không có tài trợ từ bất cứ nguồn nào, đã tự cho mình trách nhiệm góp phần trong việc soạn thảo những tài liệu cung ứng cho khát vọng tìm về cội nguồn, mà chúng tôi biết trước là rất khó khăn, này. Một tập san mang tên Tư Tưởng, với mục đích phi thương mại, chỉ lưu hành trong nhóm thân hữu và các nhà biên khảo có lòng với văn hóa dân tộc, sống rải rác khắp mọi nơi trên thế giới, đã được phát hành từ đầu năm 1999 để làm cây cầu nối những ai muốn thực hiện con đường tìm về cội nguồn. Đến nay Tập san đã ra được 19 số. Cách đây không lâu, Giáo sư Stephen Oppenheimer, một nhà nghiên cứu y học nhưng từng nghiên cứu về thời tiền sử, có xuất bản quyển sách "Eden in the East" bàn về văn minh Đông Nam Á. Cuốn sách làm chấn động giới nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á. Nhận thấy quyển sách có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc tìm hiểu nguồn gốc dân tộc, nên một người trong nhóm chúng tôi (Gs. Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn) có viết một bài điểm sách, và nhân đó, đưa đề nghị "Đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam" đăng trên Tập San Tư Tưởng số 15 tháng 8 năm 2001. Bài điểm sách đã được nhiều tạp chí trong và ngoài nước in lại, và chúng tôi đã nhận được khá nhiều góp ý cũng như phê bình. Vấn đề đặt ra được sự hưởng ứng nồng nhiệt của nhiều người ở trong cũng như ngoài nước. Trong số những tác giả đã khai triển thêm đề tài này bằng những bài phê bình hết sức xây dựng, Tác giả Nguyễn Quang Trọng, trong bài "Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và ?Địa đàng ở phương Đông? của ppenheimer" (Hợp Lưu, số 64) là đáng bàn thảo thêm, và đó cũng là đề tài chính của bài viết này của chúng tôi. Chúng tôi cám ơn tác giả Nguyễn Quang Trọng và các tác giả khác đã bỏ công viết những bài thảo luận có giá trị về vài điều mà chúng tôi đã nêu ra một cách vắn tắt trong bài điểm sách. Bởi bài viết trước của chúng tôi nằm trong dạng "điểm sách", nên chúng tôi không có cơ hội khai triển thêm những điều đã phát biểu. Trong bài này, chúng tôi muốn trình bày thêm một vài quan điểm chung quanh những ý kiến của tác giả Nguyễn Quang Trọng, và chắc cũng là ý kiến của một số bạn đọc quan tâm khác. Cố nhiên, có một số điểm chúng tôi sẽ không đề cập đến, không phải vì chúng tôi đồng ý (hay không đồng ý) với tác giả, mà chỉ vì muốn hạn chế trong phạm vi những điều có liên quan đến bài điểm sách của chúng tôi. II. Trước hết, chúng tôi muốn bàn và phát triển thêm những điểm trong bài viết của Nguyễn Văn Tuấn mà tác giả Nguyễn Quang Trọng cho rằng có thể gây ngộ nhận : Thứ nhất, về giả thuyết người Hòa Bình tràn lan về phía Nam (Indonesia), lên hướng Bắc (Trung Hoa) và sang hướng Tây (Thái Lan), tác giả Nguyễn Quang Trọng, tuy không bác hẳn, nhưng tỏ vẻ không đồng ý với quan điểm này vì có hàm ý văn hóa Hòa Bình (Bắc Việt) còn trẻ hơn các văn hóa kể trên. Dụng cụ đá ở Hòa Bình có niên đại trẻ hơn dụng cụ đá ở Úc Châu, và "Theo tôi (NQT), chữ ?người Hòa Bình? dùng cho các di tích ở nơi khác không có nghĩa là người Hòa Bình - Bắc Việt - vào thời điểm đó (7.000 đến 12.000 năm trước) đã tràn lan đến những nơi khác như Thái Lan, Indonesia, Úc, Trung Hoa". Thực ra, niên đại văn hóa Hòa Bình là một vấn đề đương đại, vì cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa nhất trí. Cụm từ "Văn hóa Hòa Bình" được giới khảo cổ học chính thức công nhận từ ngày 30-01-1932, do đề xuất của Madeleine Colani, sau khi đã được Đại hội các nhà Tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua. Khởi thủy, cụm từ này được dùng để nói đến nền văn hóa cuội được ghè đẽo trên khắp chu vi hòn cuội để tạo ra những dụng cụ từ thời đá cũ đến thời đá mới (Choppers, hay chopping tools). Qua thời gian, tất nhiên cụm từ này đã được đề nghị mang những tên khác nhau và có những ý nghĩa cũng khác nhau. Lúc đầu, nó chỉ nói về nền văn hóa có khoảng không gian là Bắc phần Việt Nam, và khoảng thời gian không quá 5.000 năm trước đây (4). Nhưng khoảng không gian lẫn thời gian trên được nới rộng dần. T. M. Matthews có lẽ là người đầu tiên đã đem Văn hóa Hòa Bình vượt khỏi lãnh thổ Việt Nam đến các vùng Đông Nam Á, và rồi người ta nói đến Văn hóa Hòa Bình ở Miến Điện, Kampuchia, Lào, Mã Lai Á, Sumatra, Thái Lan, Ần Độ, Tứ Xuyên ... Nhưng có lẽ không ai mở rộng ảnh hưởng của Văn hóa Hòa Bình bằng Gs. W. G. Solheim II. Về không gian, ông đã đưa Văn hóa Hòa Bình, phía Đông Bắc đến Phi Luật Tân, Nhật Bản, phía Tây đến Thái Lan, phía Nam đến tận Úc Đại Lợi và phía Bắc bao trùm cả hai nền văn hóa cổ của Trung Hoa là Ngưỡng Thiều (Yan Shao) và Long Sơn (5). Về thời gian, ông không định rõ, nhưng tuyên bố không ngạc nhiên nếu thấy việc thuần hóa cây lúa nước đã có tại Hòa Bình từ 15.000 năm trước Công Nguyên, và những dụng cụ đá mài có lưỡi bén tìm thấy ở Bắc Úc Châu có tuổi khoảng 20.000 năm trước Công Nguyên đo bằng C14 có nguồn gốc từ nền Văn hóa Hòa Bình. Đấy là chưa kể đến dự phóng của ông về niên đại Hòa Bình lên đến 50.000 năm trước khi ông viết "Đông Nam Á và tiền sử học thế giới" đăng trong Viễn Cảnh Châu Á, tập XIII năm 1970 (6). Riêng trong phạm vi nước Việt Nam ngày nay, Văn hóa Hòa Bình được khoa học khảo cổ phân chia thành ba thời kỳ: • Hòa Bình sớm hay Tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là di chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 trước Công Nguyên (TrCN)), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 TrCN). • Hòa Bình giữa hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 BC), Làng Vành (16.470 ± 80 TrCN). • Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn - 1541/I). Tính cách rộng lớn và phức tạp của Văn hóa Hòa Bình đã đến độ có đề nghị đổi tên Văn hóa Hòa Bình thành Phức hợp Kỹ thuật Hòa Bình (7). Chúng tôi đồng ý cụm từ "Văn hóa Hòa Bình" nay được dùng để chỉ nền văn hóa đá mới có đặc tính chung rộng khắp tại Đông Nam Á, Bắc lên đến Nhật Bản, Nam xuống tận Úc Châu, và không nhất thiết nó phải phát xuất từ Hòa Bình, Việt Nam. Nhưng văn hóa thiên di theo con người, và gần đây đã có dữ kiện di truyền học cho thấy có lẽ người Đông Nam Á, gần gốc Phi Châu hơn Đông Bắc Á và người Việt Nam có lẽ là sắc dân cổ nhất của Đông Nam Á (chúng tôi sẽ bàn thêm về điểm này trong phần sau). Thứ hai, có phải kỹ thuật làm đồ đồng thau (dụng cụ, vũ khí) của cư dân Đông Sơn có trình độ cao nhất, nhì thế giới? Tác giả Nguyễn Quang Trọng không đồng ý với phát biểu này của chúng tôi, ông cho rằng trình độ đúc đồng của cư dân Đông Sơn (từ 700 năm trước CN về sau) quả rất cao, nhưng không thể nói là cao hơn các nơi khác, nhất là những nơi này đã có kỹ thuật đúc đồng xưa hơn Đông Sơn rất nhiều. Tác giả nêu một thí dụ về kỹ thuật đúc đồng ở Sanxingdai (Bắc Trung Hoa) cổ hơn Đông Sơn mấy ngàn năm, Thái Lan, xưa hơn Đông Sơn 1.000 năm, và ở các nơi khác như Irak, Ai Cập, vùng Cận Đông cũng sớm hơn Đông Sơn rất nhiều. Rất tiếc là tác giả không dẫn chứng được những niên đại chính xác ("mấy ngàn năm" là mấy ngàn? Sớm hơn là sớm như thế nào?), và nguồn gốc của những dữ kiện được nêu ra. Nhưng chúng ta cứ giả thiết kỹ thuật đồng của những nơi này đã có trước mấy ngàn năm, cái niên đại 700 năm trước CN (mà ông gắn cho là niên đại của văn minh Đông Sơn) đi nữa, thì cũng không chắc đã có trước kỹ thuật của văn minh Đông Sơn, bởi một lẽ giản dị, niên đại 700 trước CN chỉ là niên đại của Đông Sơn trễ, Đông Sơn trẻ nhất. Như sẽ được dẫn chứng dưới đây, Văn hóa Đông Sơn kể từ thời Phùng Nguyên cho đến nay, vẫn có thể coi là nền văn hóa đồng thau có niên đại xưa nhất so với niên đại văn hóa đồng thau ở các nơi khác trong vùng Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Bốn nhà nghiên cứu có uy tín khác viết về Văn hóa Đông Sơn đầu tiên ở Việt Nam là V. Gouloubew, R.H. Geldern, B. Karlgrenvà O. Jansé, đều lầm khi cho nền văn minh độc đáo này có nguồn gốc ngoại lai, từ nơi khác truyền đến. Người thì cho nó bắt nguồn từ Trung Hoa; người đi xa hơn, cho nó bắt nguồn từ văn minh Hallstatt ở Ấu Châu, truyền qua vùng thảo nguyên Ấu Á, đến Trung Hoa trước khi truyền vào Đông Sơn (8). Có người lại dựng lên một nguồn gốc xa xôi từ văn minh Mycèle Hi Lạp và theo một hành trình rất nhiêu khê qua trung gian các nền văn minh Trung Ấu, rồi Trung Á, đến đây mới chia hai ngả, một theo đường Tế Xuyên, Vân Nam truyền vào Việt Nam, và một theo lưu vực sông Hà, sinh ra văn hóa đồng thau đời nhà Thương ở Trung Hoa (9). Những nhận xét này tuy có tính ngạo mạn, nhưng có thể hiểu được, bởi lúc đó chưa phát hiện được những nền văn hóa đồng thau nội địa xưa hơn và là tiền thân của văn hóa đồng thau ở Đông Sơn, kể từ Phùng Nguyên, nên các nhà nghiên cứu trên cứ nghĩ, văn hóa đồng thau tìm thấy ở Đông Sơn, là văn hóa đồng thau duy nhất tại Việt Nam. Thực ra, đồng thau tìm thấy ở Đông Sơn chỉ là giai đoạn chót của một nền văn hóa đồ đồng đã có lâu đời ở Việt Nam kể từ Phùng Nguyên. Hơn nữa, thời đó khoa học chính xác chưa tiến bộ, văn minh Tây phương đang hồi cực thịnh, văn minh đồng thau Đông Sơn lại quá rực rỡ, chứng tỏ nó phát xuất từ một nền văn minh tối cổ cực kỳ cao. Những nhà nghiên cứu gốc Tây phương này, có thể do niềm tự tôn làm lu mờ sự khách quan của mình, nên không thể ngờ một nền văn minh lớn, đã để lại những di vật hoành tráng như vậy lại do tổ tiên những người mà dưới mắt họ, thấy đang bị ngoại bang đô hộ, sống lam lũ, nghèo khổ, thiếu văn minh - đã sáng chế ra! Nhưng sự hiểu lầm đó đến nay đã thuộc về dĩ vãng, ít nhất là sau Hội nghị Quốc tế họp ở Berkeley bàn về Nguồn gốc văn minh Trung Hoa năm 1978, mà các bản tham luận, sau khi các dữ kiện được kiểm nghiệm, so sánh với ý kiến của các học giả khác, đã được xuất bản năm 1980 (10). Cho đến lúc này (tức 1980), người ta thấy đồ đồng Đông Sơn có niên đại xưa nhất (đồ đồng tìm thấy được ở Tràng Kênh thuộc Văn hóa Phùng Nguyên có niên đại C14 = 1425 ± 100BC [BLn - 891] so với đồ đồng cổ nhất của Trung Hoa ở Anyang có niên đại C14 = 1300 BC theo Anderson hay 1384 BC theo Lichi) (11); đồ đồng Đông Sơn cũng có kỹ thuật cao nhất vì đã biết pha với chì khiến hợp kim có độ dai bền đặc biệt (hợp kim đồng ở Thái Lan hay nhiều nơi khác có thể pha chế đồng với sắt, thiếc, antimoin như Đông Sơn nhưng không có chì) (12). Có lẽ Nguyễn Quang Trọng đã hiểu đồ đồng Đông Sơn theo nghĩa hẹp là đồ đồng tìm thấy ở làng Đông Sơn, Thanh Hóa. Tuy đồ đồng tìm thấy ở đây đầu tiên, nhưng tuổi của nó không phải sớm nhất mà trẻ nhất trong nền văn hóa mang tên Đông Sơn. Người ta đã chứng minh được nó là hậu duệ của những sản phẩm đồng từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun trước khi đến vùng Đông Sơn, Thanh Hóa. Bốn nền văn hóa này, mỗi nền văn hóa có những nét độc đáo riêng, nhưng cùng thuộc một chủng tộc làm chủ. Chúng kế thừa nhau một cách chặt chẽ, liên hệ với nhau một cách khắng khít. Bởi vậy khoa học ngày nay gọi chúng một tên chung là Văn hóa Đông Sơn. Như trên đã nói, Đông Sơn là nơi tìm ra đồ đồng ở Việt Nam đầu tiên nhưng lại là giai đoạn sau cùng của văn minh đồng thau này, kéo dài hơn 2.000 năm, khởi đầu từ Phùng Nguyên khoảng 4.000 năm cách ngày nay (C14 Gò Bông = 1850 ? 60 BC [BLn - 3001]). Đây là một hiểu lầm đến nay thì không còn nhiều người mắc phải và cũng không tai hại như sự hiểu lầm ở điểm 3 dưới đây mà nhiều nhà nghiên cứu về cổ học Việt Nam còn đang lúng túng chưa có câu giải đáp minh bạch. Thứ ba, về đồ gốm Việt Nam xuất khẩu khắp Đông Nam Á, đến tận Malanesia, trước khi có ảnh hưởng của Ần Độ, tác giả Nguyễn Quang Trọng viết "tôi e rằng có sự nhầm lẫn về điểm này", vì theo tác giả, "Hòa Bình là văn hóa không có đồ gốm, hay có rất ít vào thời kỳ cuối (Bắc Sơn)". Có lẽ tác giả viết như thế vì ông đã căn cứ vào mẫu đồ gốm tìm được ở Hang Đắng thuộc rừng Cúc Phương, có niên đại C14 = 7.665 năm trước đây, mà các nhà khảo cổ Việt Nam cho thuộc thời kỳ Văn hóa Bắc Sơn hay Văn hóa Hòa Bình muộn. Viết như thế là rất thận trọng, cũng giống như sự thận trọng của những nhà khảo cổ học Việt Nam, những người đã đích thân đào những di tích khảo cổ trên đất nước mình và khai quật được những di vật - ở đây là đồ gốm - và khi định niên đại thì những gốm này, ngay cả những gốm cổ nhất, cũng có niên đại trẻ hơn niên đại của gốm ở các nơi khác (Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan, cả một số những đảo Thái Bình Dương), nghĩa là những nơi mà những ngành khác đã chứng minh được do người thuộc văn hóa Hòa Bình di cư đến đem theo cả văn hóa của mình. Sự bất lực không giải thích được điều mâu thuẫn này dẫn đến những hiểu lầm đáng tiếc. Gốm là một di vật rất quan trọng nếu không muốn nói là quan trọng nhất trong ngành khảo cổ, vì nó phản ảnh rõ nhất, đầy đủ nhất nếp sống, tư duy, nói chung, văn hóa của người xưa. Vậy thì, dù các ngành khoa học khác cho thấy người thuộc văn hóa Hòa Bình có thể là nguồn gốc của nhân loại Đông Á, mà gốm Hòa Bình lại có niên đại trẻ hơn gốm các nơi khác cũng sẽ làm cho nguồn gốc nhân loại Đông Á từ người thuộc văn hóa Hòa Bình trở thành có tì vết! Chính vì hiểu rõ sự quan trọng của gốm trong vấn đề giải thích đời sống tiền sử và sự mâu thuẫn có tính sinh tử này mà chúng tôi đã cố công tìm hiểu. Và chúng tôi nghĩ là chúng tôi đã tìm ra được câu trả lời cho vấn đề khó khăn này bằng bài "Gốm cổ tại Việt Nam và vai trò của nó trong văn hóa tiền sử", đăng trong Tập San TƯ TƯỞNG số 12 tháng 2 năm 2001. Những ý kiến đã giúp chúng tôi tìm được câu giải đáp, ngoài những di vật khảo cổ rất phong phú mới tìm thấy ở Việt Nam và Nam Trung Hoa trong những năm gần đây, trước hết, phải kể đến kiến giải của GS. W. G. Solheim II, khi ông giả thiết gốm Văn Thừng, đặc trưng của gốm Hòa Bình phải có niên đại 15.000 năm cách ngày nay dù ông chưa có trong tay tài liệu để chứng minh. Tiếp đến, ý kiến của GS. S. Oppenheimer trong sách "Địa đàng tại phương Đông" giả thiết về một sự hiện hữu của vùng Sundaland coi như nguồn gốc của nhân loại Đông phương, có thể của cả thế giới. Rồi thuyết về ngôn ngữ học của nhà ngữ học Johana Nichols và các nhà ngôn ngữ mới khác chứng minh ngôn ngữ Đông Nam Á Austronesian và Austro - Asiatic từ miền biển, miền thấp, ngược các con sông tiến lên miền cao, miền núi, chứ không phải từ miền núi xuôi xuống miền biển theo dọc dòng sông (13). Quan trọng nhất là các bằng chứng về di truyền học khẳng định rằng nguồn gốc người Hiện Đại (Homo Sapiens - Sapi-ens) từ Đông Phi Châu đến Đông Nam Á, rồi từ đó mới thiên di đi các nơi khác (14). Việc tìm hiểu về đời sống tiền sử, đời sống thời chưa có chữ viết, chúng ta không thể chỉ trông cậy vào một ngành khảo cổ học mà phải phối hợp các ngành đó để tiếp cận sự thực. Và một khi những lý thuyết này có điều gì chồng chéo, mâu thuẫn nhau thì bổn phận của nhà viết cổ sử, các nhà phân tích nói chung phải so sánh, cân nhắc và thực hiện một sự tổng hợp các khoa ngành một cách thận trọng. Nếu sự tổng hợp này vẫn còn khó khăn để rút ra một kết luận, phải biết trong trường hợp này khoa học nào nói tiếng nói quyết định. Ngày nay, di truyền học DNA, tuy sinh sau đẻ muộn, nhưng có độ chính xác cao nhất, và thường nói tiếng nói quyết định khi những mâu thuẫn trong những ngành cổ học khác không giải quyết được vấn đề. Có lẽ cũng nên nói thêm về một điểm nhỏ, Nguyễn Quang Trọng đã nói đến là gốm Lapita nổi tiếng nhất Đông Nam Á tìm được ở các đảo Thái Bình Dương, cụ thể đó là vùng bờ biển phía Tây đảo New Caledonia. Không thấy Stephen Oppenheimer hay Peter Bellwood đề cập đến trong các thuyết "Chuyến tầu nhanh, chậm" hay "chuyến tầu nhanh" của ông là do từ gốm Phùng Nguyên mà ra. Chúng tôi xin nói ngay rằng gốm Phùng Nguyên không phải là gốm cổ nhất ở Việt Nam (Phùng Nguyên nay thuộc vùng Vĩnh Phú, sâu trong đất liền). Những gốm cổ nhất, sau Hang Đắng, là gốm tìm thấy ở bờ biển từ Hạ Long, Cái Bèo, Đa Bút, Quỳnh Văn vào đến Bầu Tró, Sa Huỳnh. Đây là một điều trái với qui luật bình thường của khảo cổ, như đã trình bày trong bài viết trên nên xin miễn nói lại ở đây. Chỉ xin nhấn mạnh rằng khảo cổ học đã chứng minh được gốm Lapita mà Nguyễn Quang Trọng nói ở trên có nguồn gốc từ gốm trong hang động ở Thường Xuân (Thanh Hóa), Quỳ Châu (Nghệ An), Xóm Thân (Quảng Bình), là con đẻ của các gốm Đa Bút, Quỳnh Văn, Bầu Tró nói ở trên (15). Thứ tư, về quê hương của kỹ thuật trồng lúa mà chúng tôi phát biểu là ở quanh vùng Đông Nam Á đã được giới khoa học trên thế giới bàn luận đến từ lâu, đã tạm thời đi đến kết luận trong đại hội bàn về nguồn gốc dân tộc Trung Hoa ở Berkeley như nói ở trên. Riêng Tập San TƯ TƯỞNG cũng đã nhiều lần bàn đến, cụ thể là trả lời mục Bạn Đọc Góp Ý trong TƯ TƯỞNG số 12 (trang 27 - 28). Chúng tôi xin không bàn vào chi tiết nữa. Trong phần trên, Nguyễn Quang Trọng có nhắc đến bữa cơm tiền sử nấu với gạo của lúa mọc hoang tìm thấy ở hang Diaotonghuan 13.000 năm trước, và một số địa danh đã biết thuần hóa lúa nước từ 9.000 năm trước trở lại đây. Chúng tôi mong sẽ có dịp bàn lại về vấn đề này. Ở đây, chỉ xin nói ngay vào chủ đề điều 4, rằng đề tài này hầu như đã được giới khoa học quốc tế, kể cả khoa học gia hàng đầu Trung Hoa đồng thuận : quê hương lúa nước ở vùng Đông Nam Á. Quê hương lúa nước ở vùng Đông Nam Á là một sự thực, dù còn nhiều chi tiết cần tìm hiểu, bàn luận thêm. Nay nếu cứ đem những tiểu tiết che lấp đại thể thì vấn đề chỉ thêm rối rắm. Ngay sự thực trước mắt ngày nay cũng cho thấy người Hoa Hán ăn mì, người Hoa Nam, cả Nhật Bản, Đại Hàn và các dân Đông Nam Á khác ăn gạo. Chính thuyết trình viên người Trung Hoa, GS. Te-Tzu-Chang, phát biểu trước hội nghị quốc tế cũng trình bầy rõ, xét theo lịch sử Trung Hoa, lúa mạch là thực phẩm chính từ thời tiền sử đến nhà Chu, lúa tắc, mạch và đậu nành là thực phẩm thời Xuân Thu - Chiến Quốc, lúa nước chỉ là thực phẩm phổ biến tại Trung Hoa từ đời Hán về sau. Như vậy, phải chăng ông đã khẳng định lúa nước thuộc văn hóa phương Nam, chỉ trở thành thực phẩm chính ở Trung Hoa khi đất đai phương Nam thuộc tộc Bách Việt đã sát nhập vào Trung Hoa (16). Ngay cả tác giả Nguyễn Quang Trọng sau khi đã nêu ra một số những địa danh từ Trường Giang trở về Nam có niên đại lúa nước xưa hơn vùng châu thổ sông Hồng, cũng xác nhận người Cổ Việt, nhưng đây là U Việt ở vùng Cối Kê (Hemedu ngày nay) đã dậy Hoa Hán trồng lúa nước (chứ không phải dân Lạc Việt ở châu thổ sông Hồng, mà di vật liên quan đến lúa nước tìm được ở Sũng Sàm mới chỉ không quá 3.500 năm cách ngày nay). Mặt khác, ông lại quay sang phía Tây để phát biểu di tích hạt lúa ở Thái Lan tuy xưa hơn ở Việt Nam, nhưng không xưa bằng ở Nam Trường Giang (ông không tin vào niên đại C14 = 9260 - 7620 BP đã dẫn trong sách của S. Oppenheimer), nên quê hương lúa nước không phải ở Thái Lan. Những con số tác giả nêu ra đều có cơ sở. Có điều ông không để ý đến yếu tố quan trọng nhất là toàn bộ đồng bằng Bắc Việt ngày nay đã bị nhận chìm dưới làn nước biển suốt từ 8.000 năm đến 5.000 năm trước đây (5.500 năm trước nước biển mới bắt đầu rút). Đấy là nói đồng bằng ngày nay. So với đồng bằng sông Hồng từ 18.000 năm đến khoảng 30.000 năm trước đây, nó nhỏ hơn nhiều. Lúc ấy, nước biển thấp hơn ngày nay 130m, châu thổ sông Hồng xưa (cứ gọi như vậy) kéo dài đến tận đảo Hải Nam. Vậy nếu lúa nước có được thuần hóa thì di tích phần lớn đã bị hủy hoại (ở phần nước biển đã rút trả lại đất đai như ta thấy ngày nay) hay hãy còn ở sâu dưới lòng biển (ở phần vẫn bị nước biển tràn ngập). Việc không tìm ra di vật lúa nước có niên đại tối cổ (cổ hơn ở phần đất nay là Trung Hoa hay Thái Lan) cũng như việc không tìm ra di vật gốm tối cổ, ngoài lý do nó bị nước biển tàn phá, còn có thể vì nền khảo cổ của ta còn non trẻ lại thiếu phương tiện, nước ta trước đây có chiến tranh lại không quan tâm đến việc kêu gọi các nhà khảo cổ quốc tế tới thực hiện việc thám quật khảo cổ như các nước lân cận, chứ không hẳn vì không có. Vả lại, dù quê hương cây lúa ở Thái Lan, ở Nam Trường Giang, hay ở châu thổ sông Hồng, vấn đề quê hương của kỹ thuật trồng lúa nước ở quanh vùng Đông Nam Á cũng vẫn đúng, chẳng có gì phải đặt dấu hỏi, đặt nghi vấn cho một sự thực đã được khoa học và dư luận quốc tế chấp nhận như vậy. Theo thiển ý, lý giải như vậy mới không trái với kết quả nghiên cứu di truyền học, hải dương học, ngôn ngữ học như đã trình bày. Và như vậy tưởng mới là tiếp cận sự thực (17). Thứ năm, về câu phát biểu của chúng tôi rằng trước khi tiếp xúc với người Hán, tổ tiên chúng ta có một nền văn minh rất cao, nếu không muốn nói là cao nhất Đông Nam Á. Thực ra, tổ tiên chúng ta với tổ tiên những người vùng Đông Nam Á, nếu xét tự nguồn gốc thì cũng chỉ là một. Tổ tiên chúng ta và tổ tiên những người thuộc các nước vùng Đông Nam Á chỉ coi như khác nhau trong thời gian sau này mà thôi. Nguyễn Quang Trọng đặt câu hỏi đúng "Thế nào là văn hóa (văn minh) cao nhất Đông Nam Á?" Bởi riêng từ văn minh cũng đã có nhiều nghĩa mà cho đến nay vẫn chưa có nghĩa nào được mọi người cùng chấp nhận, vậy làm sao có thể chấp nhận thế nào là văn minh cao nhất? Nương theo lý luận của tác giả, đại khái ta có thể nói văn minh Tây phương (Western civilization) là cao nhất. Chẳng thế mà suốt hơn bốn thế kỷ qua, nền văn minh này đã thực hiện được những tiến bộ khoa học rất ngoạn mục, chinh phục các phần đất khác trên thế giới, bắt dân các nơi đó làm nô lệ cho họ. Nhưng cũng chính nền văn minh này là nguyên nhân của những cuộc chiến triền miên (thế chiến I, thế chiến II) có thể đưa nhân loại đến chỗ diệt vong. Trong trường hợp này thì văn minh nhất lại đồng nghĩa với man rợ nhất. Nay, nếu lấy tiêu chuẩn của những nhà viết văn minh cổ sử mà xét, thì một xã hội được coi là văn minh khi có được những sáng chế đưa nhân loại thoát khỏi thời kỳ mông muội. Ba sáng chế quan trọng nhất trong tiêu chuẩn này là sự phát minh ra kỹ thuật thuần hóa lúa nước, kỹ thuật hàng hải và kỹ thuật xây dựng đô thị (18). Và theo cái chuẩn này thì những ngưới chủ nhân của Văn hóa Hòa Bình, như các mục trên đã đề cập, được hiểu là những người phát xuất từ Đông Nam Á, tổ tiên của người Bách Việt, đáng gọi là có nền văn minh cao nhất thời ấy, nghĩa là thời mà nhân loại mới bước từ đời sống mông muội sang đời sống văn minh. Đó mới chỉ nói đến nền văn minh vật chất, chưa nói đến văn minh tinh thần. Khảo về văn minh tinh thần, về triết học tư tưởng của người cổ Việt, thì hiện tại, gần như chưa có ai nói tới một cách có hệ thống. Những tư tưởng Đông phương rất cao thâm như Nho, Lão, Phật . đều nói là hoặc của người Trung Hoa, hoặc của người Ần Độ, không có gì là của tổ tiên người Việt. Nhưng nếu đã khẳng định bằng di truyền học DNA, ngôn ngữ học, hải dương học, khảo cổ học, dân tộc học, tập tục truyền thống học... rằng người Hòa Bình, tức người Bách Việt ở Đông Nam Á đã có sớm nhất và là nguồn gốc của văn minh Đông phương thì cũng phải khẳng định tư tưởng đầu tiên, nền văn minh tinh thần đầu tiên của nhân loại Đông phương cũng do người Hòa Bình này khởi động. Điều này đến nay không có văn bản nào nói như vậy vì từ khi con người sáng chế được ra chữ viết đủ để ghi chép lại thành sách, người thuộc Đại tộc Bách Việt đã mất độc lập về tay người Hoa Hán, vì vậy những văn minh văn hóa của người Bách Việt, nếu có, (và chắc phải có), đều đã trở thành văn minh Trung Hoa. Nằm trong khung "văn minh" đó, tư tưởng của người Cổ Việt cũng đã được mang nhãn hiệu Trung Hoa cả. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều thứ như di vật khảo cổ, văn minh truyền khẩu, tập tục truyền thống . nếu biết "đọc" chúng, biết khai thác thì chúng sẽ cho ta biết nền văn hóa, văn minh tinh thần đó gốc gác nó từ đâu, nội dung chân chính của nó như thế nào. Nay chỉ nói về hoa văn trên trống đồng Đông Sơn, nếu biết giải mã, ta sẽ thấy chúng thuộc một nền văn minh tinh thần rất cao, gần với văn minh hậu nguyên tử, văn minh lượng tử như điều Giáo sư F. Capra đã nói đến (19). Nhưng đó không phải là đối tượng của đề tài này. Nói như vậy chỉ để làm cơ sở để phát biểu rằng, trước khi tiếp xúc với người Hoa Hán, quả người Hòa Bình, tổ tiên chúng ta đã có một nền văn minh rất cao. Còn việc nghi ngờ văn minh này không chắc là "cao nhất", bằng cớ là đã bị người Hoa Hán đánh thua vì họ có kỹ thuật quân sự dựa trên văn minh đồ sắt cao hơn văn minh đồng thau của tổ tiên ta thì lại là một vấn đề khác. Nó không hề phủ định đã có thời tổ tiên ta có nền văn minh cao nhất. III. Bây giờ, chúng tôi muốn phát biểu vài điều về vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt. Phải nói ngay rằng đây là một vấn đề phức tạp, vì chúng ta vẫn còn thiếu thốn dữ kiện khoa học liên quan đến người Việt để phát biểu một cách khẳng định. Vì thế, người ta vẫn còn suy đoán, và có khi suy đoán thiếu cơ sở. Có thể nói hai giả thiết phổ thông liên quan đến vấn đề này: một là giả thiết [có lẽ chiếm đa số quần chúng] cho rằng người Việt có nguồn gốc từ người Trung Hoa; và giả thiết hai [có lẽ phần thiểu số] cho rằng người Việt có nguồn gốc từ Mã Lai (tức là kết luận của Bình Nguyên Lộc). Chúng tôi cho rằng cả hai giả thiết này đều cần phải xét lại, bởi một lý do đơn giản: hai giả thiết đó thiếu dữ kiện khoa học làm cơ sở, và chưa được phản nghiệm. Giả thiết về nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt phần lớn dựa vào các dữ kiện khảo cổ và ngôn ngữ. Những dữ kiện về đặc tính cơ thể và các chỉ số nhân trắc (như màu da, xương, sọ, khuôn mặt, v.v..) từng được dùng làm các đơn vị thông tin để nghiên cứu nguồn gốc dân tộc và sự tiến hóa của loài người. Nhưng các đặc tính này thay đổi theo thời gian, và chịu ảnh hưởng vào môi trường sinh sống. Chẳng hạn như chiều cao của con người trong vòng 200 năm qua đã tăng một cách đáng kể do những cải thiện về dinh dưỡng và môi trường sinh sống. Ngay cả cấu trúc xương cũng thay đổi theo thời gian và môi trường. Do đó các đặc tính nêu trên không phải là những thông tin lý tưởng cho việc nghiên cứu lịch sử di truyền của con người. Những dữ kiện về ngôn ngữ cũng có nhiều khiếm khuyết, vì mức độ tương đương về từ ngữ không thể nói lên một cách đầy đủ khuynh hướng di cư của các sắc dân. Ngay cả việc xác định mức độ tương đồng từ ngữ giữa các ngôn ngữ cũng là một vấn đề mang tính kỹ thuật mà các nhà nghiên cứu vẫn chưa đồng ý về phương pháp làm. Vả lại, sự tương đồng giữa các ngôn ngữ có thể là một hằng số mang tính văn hóa, chứ không hẳn do các cơ chế sinh học và di truyền. Nói tóm lại, những bằng chứng khảo cổ và ngôn ngữ không phải là những loại thông số đáng tin cậy để xác định nguồn gốc dân tộc. Trong quá khứ, giới khảo cổ học và nhân chủng học dựa vào các bằng chứng về khảo cổ, xương, hóa thạch, v.v. để phát triển lý thuyết, nhưng những đối tượng này hàm chứa nhiều hạn chế thông tin về tiến hóa, vì mối quan hệ phức tạp giữa môi trường và tiến hóa. Hậu quả của sự tập trung vào các đối tượng như thế trong một thời gian dài đã làm cho chúng ta xao lãng các dữ kiện cho chúng ta nhiều thông tinhơn: đó là gien (20). Không giống như xương sọ, những thay đổi trong gien thường xảy ra theo những qui luật mà chúng ta hiểu khá rõ, và vì thế gien và các đặc điểm của gien, như tầng số gien, cấu trúc DNA, phân phối gien, v.v... cho chúng ta những thông tin cực kỳ quí giá về sự tiến hóa của con người. Ngày nay, những tiến bộ phi thường trong ngành di truyền học và sinh học phân tử (molecular biology) trong mấy năm gần đây đã cung cấp cho ngành nhân chủng học một phương tiện cực kỳ quan trọng trong việc xác định lịch sử tiến hóa của con người và mối liên hệ giữa các dân tộc. Giá trị của di truyền học trong việc truy tầm nguồn gốc dân tộc đã được đánh giá cao về mức độ tin cậy. Di truyền học là một cửa sổ để chúng ta nhìn lại quá khứ của chúng ta.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2011 5:50:41 GMT 9
Tuy nhiên, những nghiên cứu về di truyền học trong người Việt còn cực kỳ khiêm tốn, nếu không muốn nói là không đáng kể. Trong thời gian khoảng 10 năm trở lại đây, đã có một số bằng chứng, tuy gián tiếp, nhưng cũng đủ để chúng ta có lý do để xem xét lại lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt. Những bằng chứng này là:
• Trong một nghiên cứu trên 103 người ở Hà Nội, các nhà nghiên cứu Việt - Pháp phân tích DNA trong hai gien (HLA-DR và DQB1), và so sánh kết quả này với các sắc dân thuộc châu Đại Dương (Oceania) và Đông Á. Sau khi ước tính khoảng cách di truyền (genetic distance) giữa các sắc dân, các nhà nghiên cứu kết luận rằng cấu trúc di truyền của hai gien này trong người Việt gần với người Thái và người Hoa. Các nhà nghiên cứu này kết luận rằng dữ kiện của họ phù hợp với giả thuyết người Việt có nguồn gốc từ người Trung Hoa và Thái-Nam Dương (21). Tuy nhiên, sau khi xem xét kỹ phần phương pháp nghiên cứu, chúng tôi cho rằng kết luận này rất có thể không đúng, vì : (a) nghiên cứu này chỉ dựa vào hai gien mà thôi (con người có khoảng 35 đến 39 ngàn gien), và với những yếu điểm của mtDNA, các ước đoán về khoảng cách di truyền không ổn định; (b) ngay cả trong bài báo các nhà nghiên cứu không xây dựng được một cây di truyền nào, và cũng chẳng phân tích phát sinh chủng loại thì không thể phán đoán về chiều hướng di cư hay nguồn gốc dân tộc được.
• Khoảng hai năm sau, các nhà nghiên cứu này lại tiến hành một nghiên cứu khác trên 50 người cũng ở Hà Nội, và cũng qua dùng kỹ thuật PCR (polymerase chain reaction) họ phân tích 6 "restriction enzymes", và ghi nhận khoảng cách di truyền (22) giữa người Việt và người Hoa rất thấp (chỉ 0.0022), nhưng giữa người Việt và Ần Độ thì tương đối cao hơn (0.0468), có nghĩa là quan hệ giữa giống người Việt và Hoa gần nhau hơn so với quan hệ Việt và Ần (23). Nghiên cứu nàycũng có những yếu điểm như nghiên cứu trình bày phần, tức là số lượng gien quá ít (trong trường hợp này chỉ có một gien), và tác giả cũng không tính toán mức độ biến thiên của chỉ số khoảng cách di truyền, nên không thể nào phát biểu khoảng cách giữa Việt - Hoa gần hơn khoảng cách giữa Việt - Ần. Thực ra, sau khi tính toán lại, chúng tôi thấy hai khoảng cách di truyền (Việt - Hoa và Việt - Ần) không có sự khác biệt đáng kể (non-significant)! Tuy nhiên, một nghiên cứu khác trên 5 gien trong nhiễm sắc thể Y trong hai nhóm dân: Bắc Á (Bắc Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, và Mông Cổ), và Nam Á (Nam Dương, Phi Luật Tân, Thái, và Việt Nam) cho thấy người Việt gần với các nhóm dân Bắc Á (nhất là Hàn Quốc) hơn là các nhóm dân Nam Á (24)! Chúng ta biết rằng, qua nghiên cứu của Giáo sư Chu (14), người Hoa phía Bắc Trung Quốc có cấu trúc di truyền khác với người Hoa phía Nam Trung Quốc. Do đó, phát hiện này quả rất khó giải thích. Càng khó giải thích hơn nữa khi phần lớn những người Việt trong nghiên cứu này là cư dân ở Hà Nội, tức gần miền Nam Trung Quốc.
• Trong một nghiên cứu dùng mtDNA, Ballinger và đồng nghiệp (24) ghi nhận rằng chỉ số biến thiên (trong di truyền học gọi là Fvalue) trong người Việt cao nhất trong các sắc dân vùng Đông Nam Á. Tuy nhiên, các tác giả kết luận một cách mơ hồ rằng các dữ kiện này cho thấy "người Á châu có nguồn gốc từ nhóm dân Nam Mông" (nguyên văn : "The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNA with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians") (25). Thực ra, các dữ kiện mà tác giả trình bày không cho phép họ kết luận như thế, bởi vì họ chỉ 7 nhóm dân Á châu mà thôi, và cũng chỉ nghiên cứu trên vài mẫu gien rất nhỏ. Nhưng qua số liệu của các nhà nghiên cứu này, chúng tôi có thể phát biểu rằng trong hai gien mà họ nghiên cứu, người Việt có lẽ là một sắc dân cổ nhất trong vùng Đông Nam Á.
• Năm 1998, Giáo sư Chu và đồng nghiệp (thuộc Trường Đại học Texas (14)) phân tích 15 đến 30 mẫu "vi vệ tinh" DNA (microsatellites) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á (hai thuộc thổ dân Mỹ, một thuộc thổ dân Úc châu, và một thuộc Tân Guinea), 4 nhóm dân da trắng (Caucasian), và 3 nhóm dân Phi châu. Bằng một phương pháp phân tích thống kê có tên là "phân tích phát sinh chủ?g loại" (Phylogenetic analysis)", một số kết quả đáng ghi nhận như sau:
(i) hai nhóm dân có sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi châu và các dân không thuộc Phi châu;
(ii) tất cả các nhóm dân Đông Nam Á "tập hợp" thành một nhóm, và nhóm dân có đặc tính di truyền gần họ nhất là người thổ dân Mỹ châu, kế đến là thổ dân Úc châu, và Tân Guinea (Những kết quả này cũng phù hợp với thời gian định cư ở Úc châu (khoảng 60,000 đến 50,000 năm trước đây, và thời gian định cư ở Mỹ châu (từ 30,000 đến 15,000 năm trước đây);
(iii) các nhóm dân miền nam Trung Quốc phân phối thành ba nhóm, gọi là S1, S2, và S3 (ngoại trừ nhóm S2 là người Hán từ tỉnh Henan, phần còn lại (S1 và S3) gồm các sắc dân trong vùng Yunnan); và
(iv) các sắc dân miền bắc Trung Quốc phân phối thành hai nhóm, gọi là N1 và N2. Nhóm N1 gồm 6 sắc dân nói tiếng Altaic, một nhóm Hán tộc miền bắc từ tỉnh Yunnan. Nhóm N2 gồm 4 sắc tộc thiểu số có lịch sử sinh sống lâu đời ở miền bắc, trong đó có một sắc tộc từ tỉnh Ninxia [6].
Từ những phát hiện trên, chúng ta có thể đặt ra một số mô hình để giải thích, nhưng mô hình thích hợp với dữ kiện của Giáo sư Chu và đồng nghiệp là các dân tộc miền Bắc Á được tiến hóa từ các dân tộc Đông Nam Á châu. Các dữ kiện liên quan đến răng, sọ [26-27] cũng nhất quán với mô hình này. Do đó, Giáo sư Chu và đồng nghiệp kết luận rằng: "Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á."
• Nhưng nghiên cứu của Giáo sư Chu và đồng nghiệp có một điểm yếu, đó là họ dựa vào vi vệ tinh DNA, một chất liệu di truyền rất "nhạy" (sensitive) và dễ bị đột biến (mutation [28]). Để khắc phục nhược điểm này, một nhóm nghiên cứu khác đã tiến hành một nghiên cứu độc lập và qui mô hơn để xác định nguồn gốc Đông Nam Á của dân tộc Trung Hoa. Nhóm nghiên cứu Mỹ - Trung Quốc phân tích DNA trong nhiễm sắc thể Y [29] trong các nhóm dân Hán (thuộc 22 tỉnh của Trung Quốc), 3 nhóm dân Đông Bắc Á (Buryat, Đại Hàn, và Nhật Bản), 5 nhóm dân Đông Nam Á (Cambốt, Thái Lan, Mã Lai, Batak, và Java), và 12 nhóm dân ngoài Á châu (3 nhóm từ Phi châu, 3 từ Mỹ châu, 2 từ Ấu châu, và 4 từ châu Đại dương). Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng mức độ biến thiên đa hình thái (polymorphic variation) trong các nhóm dân Đông Nam Á cao hơn trong các nhóm dân thuộc vùng Bắc Á. Điều này có nghĩa là các sắc dân ở Đông Nam Á có một quá trình định cư lâu dài hơn là các nhóm dân Bắc Á. Dùng các phương pháp phân tích di truyền quần thể (population genetics), các nhà nghiên cứu kết luận rằng con người thời đó đã di cư từ Phi châu sang đến Đông Nam Á [30] vào khoảng 60 ngàn năm về trước, và sau đó đã di chuyển lên phía Bắc Á (kể cả Trung Quốc ngày nay) và Siberia [29]. Ngoài ra, còn có bằng chứng di truyền cho thấy các nhóm dân Polynesians cũng có nguồn gốc từ Đông Nam Á [31].
Những dữ kiện di truyền học mà chúng tôi tóm lược trên đây tuy chưa hoàn toàn đầy đủ để chúng ta khẳng định nguồn gốc dân tộc Việt, nhưng đủ để chúng ta phát biểu rằng: xác suất mà người Việt có nguồn gốc [hay di dân] từ Trung Quốc là cực kỳ thấp, nếu không muốn nói là con số gần zêrô.
Bây giờ chúng tôi muốn nhân cơ hội này để bàn thêm vài điều chung quanh vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam. Theo Nguyễn Quang Trọng, dân Đài Loan ở trên núi, ít bị Hán hóa, có thể coi như nhóm dân tiêu biểu cho người nói tiếng Nam Đảo vì họ còn giữ được gien nguyên thủy và còn sống theo văn hóa cổ. Mặt khác, những cư dân sống ở vùng Phúc Kiến, Kim Môn, Quảng Đông, Bắc Việt có thể cũng cùng một gốc với dân cổ Đài Loan này, và quê hương của họ có thể là thềm lục địa chung quanh đã bị biển tràn ngập. Vì vậy, [tác giả viết] "tại sao không thể xem vùng thềm biển này, trước khi hồng thủy đến, là một trung tâm văn hóa lớn của dân nói tiếng Nam Đảo". Dữ kiện ông đưa ra để minh chứng cho thuyết này là chày đập vỏ cây cho mềm để làm khố che thân đã tìm được ở bờ biển Nam Trung Hoa từ Hồng Kong đến Bắc Việt. Về điểm này chúng tôi cũng đã từng đề nghị, ngoài vùng đất Sundaland, đồng bằng Nanhailand, châu thổ sông Hồng xưa, là trung tâm văn minh Đông Nam Á thời đó, cũng có thể là nguồn gốc của văn minh toàn cầu (32). Có điều chúng tôi không khẳng định đây là trung tâm văn hóa của dân nói tiếng Nam Đảo (Austronesian) vì chúng tôi nghĩ, cũng như W. Solheim II, dân thời đó còn nói chung tiếng Austric chưa chia hai Nam Đảo và Nam Á.
Về quá trình tiến triển dân tộc Việt, Tác giả Nguyễn Quang Trọng đưa ra vài đề nghị rất đáng bàn thêm, mà theo cách hiểu của chúng tôi, như sau :
Bước 1: Người cổ thiên di từ Phi Châu đến Đông Nam Á, khi gặp biển Đông ngăn chặn, họ chia theo hai hướng : một lên phía Bắc đến sống ở miền Nam Trung Hoa, và càng ngày càng tiến về Bắc đến tận Mông Cổ; một đi về phía Nam đến thềm Sunda, khi đó còn nối liền lục địa với các đảo phía Nam, đến tận Úc Châu. Tất cả đều là người chủng tộc Australoid (da đen, tóc quăn, mũi to...)
Bước 2: Lớp di dân lên phía Bắc Đông Á, đổi dần nhân dạng vì môi trường lạnh, gió, ít nắng. Khoảng 15.000 năm trước giống này lai với chủng Altaic thiên di từ Tây Á đến đổi thành chủng Bắc Mongoloid (da trắng vàng, mắt hí, tóc thẳng ...)
Bước 3: Chủng Bắc Mongoloid này bành trướng về phía Nam lai với chủng Australoid vào khoảng giữa đất Trung Hoa (nay) để tạo thành chủng Nam Mongoloid (da ngăm đen, tóc gợn sóng ...) Theo tác giả, chủng lai Nam Mongoloid này chính là tổ tiên của người Cổ Việt, Khmer, Thái, Miến, Mã Lai, Nam Dương, cả những người ở hải đảo Thái Bình Dương.
Bước 4: Xin trích nguyên văn của tác giả: "Trên đất Việt Nam, vào thời đồ đá, cư dân thuộc chủng Australoid ban đầu nói cùng tiếng gốc Austric, dần dần phân thành hai nhóm dân nói tiếng khác nhau theo vùng họ ở, vì cách sinh sống khác nhau. Nhóm nói tiếng tiền Nam Á sống phía trong lục địa, trú trong hang động vùng cao (văn hóa Hòa Bình). Nhóm thứ hai nói tiếng tiền Nam Đảo, sống vùng đồng bằng ven biển, vào lúc ấy mức biển thấp, vùng này lan ra xa ngoài đường biển hiện tại trên vịnh Bắc Việt do thềm lục lài thoai thoải. Tại vùng vịnh Bắc Việt, dọc từ bờ biển Móng Cái tới Quảng Ngãi qua đến đảo Hải Nam", và ông kết luận : "Trong chừng mực nào đó, vùng vịnh Bắc Việt, kể cả (đảo) Hải Nam có thể xem là lãnh thổ của một phần tổ tiên người Việt, thuộc thành phần nói tiếng Nam Đảo, từ 15 ngàn năm trước ! Văn hóa Hạ Long và các văn hóa tiền Nam Đảo khác sau đó đã góp phần quan trọng vào sự hình thành văn hóa và con người Việt Nam".
Bước 5: Bắt đầu từ thời đá mới, dân nói tiếng Nam Á trong đất liền và dân nói tiếng Nam Đảo dọc bờ biển đều tăng nhanh nên cùng tràn về châu thổ các sông. Sự hợp chủng của hai sắc dân này có lẽ xẩy ra khoảng 4.000 năm cách ngày nay. Và tác giả đặt câu hỏi phải chăng sự gặp gỡ này đưa đến truyền thuyết Lạc Long Quân Nam Đảo từ phía biển lên và Ấu Cơ Nam Á từ vùng núi xuống, và đi đến kết luận : "Như vậy Tiên Ấu Cơ Nam Á và Rồng Lạc Long Quân Nam Đảo là tổ tiên Lạc Việt lẫn Bách Việt (phía Nam Trường Giang), và những Viêm Đế, Thần Nông của huyền thoại Hán xa xưa, nếu có, có lẽ không dính dáng đến tổ tiên tộc Việt". Cũng theo tác giả: "Cuộc phối hợp văn hóa hoàn tất vào thời Đông Sơn tạo thành một văn hóa chung cho cư dân bản địa".
Bước 6: Cũng xin trích nguyên văn : "Như đã nói ở trên, cuộc sống chung này tương đối hòa bình vì các di tích khai quật cho thấy tại Đồng Đậu, cư dân ?đột nhiên? biết chế tạo vũ khí. Để tự vệ ? Để giải quyết những tranh chấp về quyền lợi và ảnh hưởng ? Từ đó đưa đến những khủng hoảng mất mát chia lìa (năm mươi con theo cha, năm mươi con theo mẹ ?) hoặc đến lúc suy vi sau thời kỳ sung mãn". Và để kết luận, ông cho rằng người dân Việt đã lai nhiều suốt thời tiền sử và trong thời Hoa thuộc, nhưng văn hóa Việt thành hình từ văn hóa bản địa của những tộc nói tiếng tiền Nam Á trong lục địa và tiền Nam Đảo vùng thềm lục địa nên giữ được độc lập quốc gia trong khi toàn vùng Trường Giang đều bị Hán hóa.
Trong những giai đoạn này, ba giai đoạn sau có nhiều điều khó hiểu cần bàn lại, nhiều chỗ hình như chưa được thống nhất, và về thời gian hình như có nhiều chỗ chồng chéo. Có điểm chúng tôi đồng ý (ba giai đoạn đầu), và cũng đã từng chủ trương như vậy, nhưng cũng có điểm chúng tôi không đồng ý.
Nguyễn Quang Trọng giả thiết người Đông Nam Á đi ra hải đảo Thái Bình Dương hay lên phía Bắc đều thuộc chủng Australoid (da đen, tóc quăn, mũi to), rồi vì sống trong môi trường lạnh, gió, ít nắng ở miền Bắc, họ biến đổi nhân dạng với chủng Altaic mà dần dần thành chủng Bắc Mongoloid (tóc thẳng, mắt hí, da vàng trắng). Chủng Bắc Mongoloid này khi bành trướng về phương Nam một lần nữa lại lai với chủng Australoid đã sống trước ở đó mà tác giả gọi là giữa đất Trung Hoa, để thành người Nam Mongoloid (da ngăm đen, tóc dợn sóng ...). Theo tác giả, đây là tổ tiên của người Việt, Khmer, Thái, Miến, Mã Lai, Nam Dương, cả những người ở hải đảo Thái Bình Dương. Điều này cũng tương đồng với một giả thiết mà các nhà nghiên cứu về nguồn gốc người Trung Hoa đã tranh cãi nhau về ba mô hình (33):
• Mô hình 1: Giả thiết người Hoa Nam là từ Hoa Bắc di xuống pha trộn với dân bản địa mà hình thành.
• Mô hình 2: Ngược lại, giả thiết người Bắc Trung Hoa là hậu duệ của người phương Nam.
• Mô hình 3: Dân cư ở cả hai miền tiến hóa và phát triển độc lập.
Như đã thấy, Nguyễn Quang Trọng theo mô hình 1. Mô hình này có ưu điểm là nó có vẻ phù hợp với bản đồ ngôn ngữ ở Trung Quốc, đã một thời được nhiều nhà ngôn ngữ học công nhận. Chúng tôi sẽkhông đi vào chi tiết bởi nó rất phức tạp mà cũng không cần thiết. Nhưng qua phân tích DNA của nhóm Giáo sư Chu (mà chúng tôi đề cập trên đây), mô hình này không còn thích hợp nữa. Nói một cách khác, các dữ kiện di truyền học cho thấy tổ tiên của những người nói tiếng Altaic từ Đông Á đã di cư vào Á châu từ ngã Đông Nam chứ không phải từ ngả Trung Á (14). Nghiên cứu của các nhà nhân chủng học uy tín khác Lugi Luca Cavallli-Sforza (Đại học Stanford), Li Yin (Đại học Stanford và nhiều học giả khác cũng nhất quán với mô hình này (34).
Liên quan đến sự khác biệt về đặc tính cơ thể (người hải đảo da sậm, tóc quăn, trong khi người sống trong lục địa có da vàng, tóc đen, không quăn), chúng tôi thấy có vài điều cần thảo luận như sau:
Thứ nhất, không có gì chứng minh được người Australoid da đen, tóc quăn, mũi to đã lên phía Bắc đến tận Mông Cổ ngày nay. Nếu tại đất nay thuộc lãnh thổ Bắc phần Việt Nam, trong 70 xương sọ mà ta sưu tầm được cho đến ngày nay, 38 xương sọ thuộc thời Đồ Đá (cũng không xác định được niên đại rõ ràng), phần lớn do học giả Pháp tìm ra trước 1945 (29 sọ trên 38 cái) cho là thuộc chủng Australoid, Indonesian, Malanesian Ẫ và 32 sọ, đa số do học giả Việt tìm thuộc thời Đồng Sắt ngược lại, phần lớn là chủng Mongoloid vào những năm chưa có sự chứng minh ngược lại của di truyền học, đã một thời là nguyên nhân cho thuyết nguồn gốc người Việt tại đất liền là do cư dân hải đảo Thái Bình Dương di cư vào (35).
Chúng ta không thấy bảng xương sọ tương tự như ở Trung Quốc. Những xương cốt thường được nói đến nhiều nhất và được coi là tổ tiên của người Trung Hoa là 3 bộ xương do J. Anderson tìm được ở Chu Khẩu Điếm (Chou-Kon-Tien). Thời đó, vì thiếu những phương tiện khoa học đo đạc chính xác nên có người đã cho xương này là tổ tiên của người Hoa có từ rất xa xưa! Sau này nhờ có phương tiện định tuổi bằng C14, Noel Bernard đã chứng minh được niên đại của xương đó chỉ là 16.922 năm trước CN (2k - 136-0; Bernard 1980) (36). Cũng có người chứng minh được đó chẳng phải là xương của một gia đình vì ở ba tầng lớp khác nhau trong hang (Weiderich, 1939), lại thuộc ba chủng khác nhau và chẳng liên hệ gì đến người Trung Hoa hiện nay cả (Wu, 1961) (27). Sở dĩ có hiện tượng đó vì phương pháp cổ điển để tìm chủng tộc và niên đại của các sọ thời trước chỉ là phương pháp so sánh (so cái chưa biết với mẫu đã biết gốc tích). Trong trường hợp đó, giá trị của các kết luận rất tương đối. Xương cốt cổ đào được nhiều nhất ở Yang-Shao là xương thuộc chủng Nam Mongoloid, giống với người Hoa hiện đại mà cũng giống cả với người Việt và các chủng Đông Nam Á khác. Vậy lấy gì để khẳng định người Australoid da đen, tóc quăn, mũi to đã di cư đến tận cực Bắc Trung Hoa ngày nay ?
Thứ hai, giả thiết người Australoid đến Bắc Đông Á, rồi vì sống trong môi trường lạnh, gió, ít nắng nên dần dần thay đổi nhân dạng là cho con người thay đổi hình dạng chỉ do yếu tố môi sinh ngoại tại. Thực sự, muốn có sự thay đổi hình dạng phải có sự đột biến di truyền (28). Đó là một sự kiện sinh học xẩy ra trong tế bào, do sự tương tác giữa môi trường và sinh học. Giả thiết rằng người Australoid lai với người Altaic (các dân tiêu biểu là Buryat, Yakut, Uyghur, Mãn Châu, Hán, Đại Hàn, Nhật) thì lại càng khó hiểu vì người Altaic, theo di truyền học đã chứng minh cũng do người Đông Nam Á di lên chứ không phải từ Trung Á đi lại như trên vừa trình bầy. Có thể họ lai với một sắc dân đến muộn hơn từ Trung Á và Ấu Châu, như sẽ nói rõ hơn ở sau, nhưng đó là chuyện xẩy ra về sau khi băng hà lần cuối cùng đã tan.
Thứ ba, chủng Bắc Mongoloid vì nhu cầu bành trướng, tràn xuống phương Nam, gặp chủng Australoid đã cư ngụ sẵn nơi đây, lai giống mà thành người Nam Mongoloid. Đây là tổ tiên của chủng Bách Việt. Ý kiến này rất mới, chỉ tiếc tác giả đã không đưa dữ kiện chứng minh để có thể kiểm nghiệm lại một cách khoa học. Mặt khác, những dữ kiện khoa học có được đến ngày hôm nay hình như không hỗ trợ cho giả thiết của tác giả. Về phương diện di truyền học, phân tích di truyền của Giáo sư J. Y. Chu và đồng nghiệp, cộng với nhiều phân tích DNA gần đây như trên vừa trình bầy, đã cho thấy ngược lại phát biểu của Nguyễn Quang Trọng rằng người Nam Mongoloid đã từ Đông Nam Á, phía Nam Trung Hoa, bành trướng lên phía Bắc. Nói rõ hơn, người Hoa Bắc là hậu duệ của người Hoa Nam. Cây hệ di truyền từ cuộc nghiên cứu của Giáo sư Chu cũng cho thấy đã không có sự hợp chủng giữa dân Hoa Nam (Nam Mongoloid) với dân Altaic. Chỉ có sự hợp chủng giữa dân Altaic với các dân cư đến muộn hơn từ Trung Á và Ấu Châu, sau thời băng hà cuối cùng (15.000 trở lại đây). Về phương diện khảo cổ học, hầu hết xương cốt tìm thấy được ở văn hóa Ngưỡng Thiều đều thuộc chủng Nam Mongoloid, giống người Trung Hoa hiện đại, cũng giống với những người hiện đại tại các quốc gia Đông Nam Á khác, đặc biệt ở Việt Nam. Không thấy dấu hiệu hợp chủng có tính toàn diện giữa Bắc Mongoloid và Australoid như Nguyễn Quang Trọng phát biểu.
Nói tóm lại, qua các dữ kiện di truyền học gần đây, tuy còn hạn chế (vì những nghiên cứu về di truyền học trong vùng Đông Nam Á, nhất là với người Việt, còn ít), nhưng chúng tôi thấy có thể phát biểu rằng người hắc chủng từ Phi Châu di cư đến Đông Nam Á lục địa, khi tiếp cận biển Đông, thì một phần đi thẳng ra các hải đảo Thái Bình Dương và Úc Châu, lúc đó vẫn còn là hắc chủng; phần khác trụ lại tại Đông Nam Á, ở địa điểm đâu đó, có thể là lưu vực con sông nay mang tên sông Hồng, vì may đã hội đủ cơ duyên nên có đột biến di truyền, và do đó, từ giống hắc chủng (da ngăm, tóc xoăn) đã biến đổi thành giống hoàng chủng (da vàng, tóc đen, sợi thẳng). Từ đó, họ mới bắt đầu di chuyển lên hướng Bắc, nay là đất Trung Hoa. Giả thiết của chúng tôi dựa trên ba cơ sở như sau :
Một, mực nước biển lên xuống. Trước thập niên 60 thế kỷ trước, người ta chỉ biết có độ 5 thời kỳ bằng hà (nước biển xuống), gián băng (nước biển tăng), nhưng ngày người ta đã biết được có đến 20 kỳ trong khoảng 2 triệu năm qua. Riêng trong hậu kỳ Pleistocène khoảng từ 125.000 năm đến 10.000 năm trước ngày nay, nghĩa là khi loài người Hiện Đại (Homo Sapiens Sapiens) đã xuất hiện thì mực nước biển ở Đông Nam Á cũng đã 5 lần lên xuống. Những lần xuống đó là vào khoảng 115.000 năm, 90.000 năm, 55.000 năm, 35.000 năm và lần cuối cùng 18.000 năm cách ngày nay (37). Ở 90.000 năm trước khi nước biển xuống thì người Hiện Đại chưa đến vùng Đông Nam Á. Họ đến khoảng 60.000 năm trước đây, vậy khi nước biển xuống khoảng 55.000 năm trước, chính là lúc người Hiện Đại Đông Nam Á đất liền bắt đầu thiên di ra các hải đảo Nam Thái Bình Dương, vì lúc đó nước biển cạn dần, đã nổi lên những triền đất nối liền với đại lục. Vậy gần như người Hiện Đại từ Đông Phi Châu thiên di đến Đông Nam Á đã có dịp tiến thẳng ra hải đảo vì khí hậu thích hợp và vì thuận đường lui tới. Lúc đó họ vẫn còn thuộc dân hắc chủng. Khảo cổ học đã có dấu tích của người Hiện Đại ở Úc Châu, khoảng 50.000 năm trước đây, ở New Guinéa 40.000 năm .
Hai, điều kiện môi trường và khí hậu. Người Hiện Đại Đông Phi tiến được ra hải đảo Thái Bình Dương nhưng lại chưa thể tiến ngay lên phía Bắc vì lúc đó miền Bắc đang trong thời băng hà. Không khí chỉ ấm dần từ 40.000 năm trước cho đến 21.000 năm trước lại bắt đầu thời kỳ băng hà cuối cùng thường gọi là băng hà Wurm. Sau lần băng hà cuối cùng này, không khí ấm lại dần cho đến nay khoảng từ 15.000 năm trước (34). Chính trong thời kỳ ấm lại giữa hai khoảng băng hà (- 400.000 đến - 21.000 năm) người Hiện Đại đã tiến lên phía Bắc là đất Trung Hoa ngày nay. Khảo cổ học cho thấy dấu tích của họ ở đại lục khoảng 35.000 năm trước, ở Đài Loan khoảng - 30.000, họ vượt eo biển Beringa khoảng - 30.000 (lúc đó nước biển xuống như trước lần biển xuống cuối cùng nên eo biển đã thành một giải đất liền). Ta thấy dấu tích người Hiện Đại ở bờ biển Tây Mỹ Châu khoảng - 30.000. Họ là tổ tiên của văn hóa Maya, còn dấu vết ở Nam Mỹ ngày nay (38). Tất cả những điều trên đã được khoa di truyền hiện đại ngày nay xác định là đúng : người da đỏ ở Mỹ Châu, người thổ dân ở Úc Châu có yếu tố di truyền giống với người Đông Nam Á, và Đông Á (đều thuộc chủng Nam Mongoloid) và khác với người Bắc Á (thuộc Bắc Mongoloid).
Ba, hội đủ tính đột biến di truyền. Về điểm này, còn cần thêm nhiều phân tích, nhiều chứng cớ, mới có thể trở thành một giả thuyết có tính khoa học. Tuy nhiên, khảo cổ học đã chứng minh được những người thiên di lên phía Bắc, cả những người sang Mỹ Châu, không còn hay còn rất ít yếu tố hắc chủng. Không thể kết luận họ lên phía Bắc vì lạnh, vì ánh sáng mặt trời hay nhiều gió mà biến đổi đi như vậy (như từ da đen, tóc xoăn thành da vàng hay trắng, tóc thẳng, mũi nhọn), dù không ai phủ nhận môi trường bên ngoài có làm thay đổi hình dạng con người. Nhưng để thay đổi cả hình dáng, màu da, râu tóc một cách triệt để như da đang đen trở thành trắng hay vàng, tóc đang quăn trở thành thẳng, mắt đang nâu trở thành xanh . thì phải có sự thay đổi nhiễm sắc thể DNA trong gien mà giới di truyền học gọi là có sự đột biến di truyền. Sinh học phân tử cho chúng ta biết rằng đột biến di truyền là một quá trình chậm, do nhiều yếu tố (trong đó có yếu tố môi trường, như tia sáng mặt trời, và tiến hóa) gây nên. Đột biến DNA dẫn đến nhiều thay đổi (và bệnh tật), trong đó có cả những thay đổi về hình dáng cơ thể như tóc, tai, da, mắt.
Tác giả Nguyễn Quang Trọng cho rằng vào thời kỳ Đồ Đá (không minh định đá cũ, đá giữa hay đá mới) dân Cổ Việt lúc ấy thuộc chủng Australoid nói tiếng Austric vì cách sinh sống khác nhau, dần dần phân chia thành hai nhóm: nhóm nói tiếng Nam Á (Austro-Asiatic) sống trên đất liền và nhóm nói tiếng Nam Đảo (Austranesia) sống ở vùng đồng bằng ven biển. Bắt đầu thời đá mới, trước là vì nhu cầu dân số gia tăng, sau vì biển tiến, hai tộc đã phân chia, lại cùng tìm về đồng bằng các sông nay thuộc Bắc Việt, sống đan xen với nhau và kết hợp lại với nhau. Tác giả đã ví sự kết hợp này, mà ông gọi là kết hợp yếu tố văn hóa Biển - Lục Địa, với chuyện Ấu Cơ kết hợp với Lạc Long Quân, một cuộc kết hợp êm thắm vì là kết hợp giữa hai tộc người vốn cùng một chủng tộc và một ngôn ngữ. Chuyện đó xẩy ra vào khoảng 4.000 năm cách ngày nay và ông kết luận "Cuộc phối hợp văn hóa hoàn tất vào thời Đông Sơn (850 trước CN đến 280 sau CN), tạo thành một văn hóa chung cho cư dân bản địa". Về điểm này, chúng tôi xin được nhắc lại quan điểm của chúng tôi đã phát biểu trước đây.
Thứ nhất, vào thời điểm trước khi có nạn Đại hồng thủy cuối cùng (từ 18.000 năm trước, nước biển bắt đầu dâng mỗi năm 1cm, đến 8.000 năm trước nước biển đột ngột dâng cao nhận chìm toàn bộ đồng bằng Nanhailand đến tận Việt Trì ngày nay), dân cư đồng bằng Nanhailand còn thống nhất, nói tiếng Austric chứ chưa chia làm hai Austronesian và Austro-Asiatic.
Thứ hai, vào lúc này (từ 18.000 năm đến khoảng 50.000 năm trước) chắc đã có sự đột biến di truyền, và người nói tiếng Austric ấy chắc đã là da vàng, tóc thẳng mà khảo cổ học gọi là Nam Mongoloid, chứ không còn da đen, tóc quăn, mũi rộng thuộc Hắc chủng, mà khảo cổ học gọi là Australoid. Sự đột biến di truyền xẩy ra vào thời điểm nào thì còn cần có thêm những cuộc sưu khảo, nhất là những thí nghiệm về di truyền học DNA mới có thể khẳng định được.
Thứ ba, khi nước biển dâng, chia Đông Nam Á ra thành Đông Nam Á hải đảo và Đông Nam Á đất liền thì lúc đó người nói tiếng Austric cũng bắt đầu chia hai : phần ở hải đảo và ven biển nói tiếng Austronesian và phần ở sâu trong lục địa nói tiếng Austro-Asiatic.
Thứ tư, chỉ khi nước biển bắt đầu rút (khoảng 5.500 năm cách ngày nay), trả dần lại đồng bằng sông Hồng mới thì người đã di tản đi nơi khác vì nạn Đại hồng thủy nay mới đổ về tái htiết đồng bằng này, và đó cũng là thời kỳ dựng nước Văn Lang. Lạc Long Quân Nam Đảo và Ấu Cơ Nam Á kết hợp với nhau vào lúc này. Và đây là điểm khác biệt giữa chúng tôi với tác giả. Lạc Long Quân gặp Ấu Cơ khoảng từ 5.500 năm trước, từ lúc nước biển bắt đầu lui chứ không phải vào 4.000 năm trước đây khi biển tiến. Nhưng tại sao Lạc Long Quân và Ấu Cơ lại chia lìa, người đem 50 con lên núi, người đem 50 con xuống biển? Sự chia lìa đó xẩy ra vào lúc nào? Truyền thuyết chỉ nhắc lại lời Lạc Long Quân: "Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, ở lâu với nhau không được, nay phải chia ly". Dù có nói thêm một câu: "Hữu sự bảo cho nhau biết, đừng quên". Cái thông điệp mà truyền thuyết đómuốn gửi đi, qua câu nói của Lạc Long Quân, vẫn còn là một bí ẩn.
Nói tóm lại, về vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam, đã đến lúc chúng ta đặt vấn đề với giả thiết Bắc xuống Nam, và nghiêm túc thử nghiệm giả thiết Nam lên Bắc. Thực ra, chúng ta cũng chẳng còn quyền lựa chọn nào khác vì khoa học, nhất là khoa di truyền học, đã lựa chọn dùm chúng ta: Khởi thủy, người Hiện Đại (Homo Sapiens - Sapiens) từ Đông Phi đến Đông Nam Á; rồi từ đó họ tiến lên phía Bắc. Sau vì có sự phối hợp với chủng từ Tây Bắc xuống, họ hợp thành cái cốt lõi của dân sống ở Trung Quốc ngày nay. Đó là giai đoạn Nam lên Bắc. Giai đoạn này khoảng từ sau 40.000 năm cách ngày nay cho đến 3.000 năm cách ngày nay thì Trung Hoa bắt đầu có loạn Xuân Thu Chiến Quốc. Đến khi nhà Tần thống nhất lục quốc, nhất là từ khi nhà Hán cai trị Trung nguyên, những dân thuộc Đại tộc Bách Việt ở các nước lưu vực sông Dương Tử xuôi về Nam, không chịu sự đồng hóa của người Hoa Hán đã di dần về phương Nam. Một số những người thuộc nhóm này đã sát nhập với dân Lạc Việt. Giai đoạn này kéo dài cũng cả ngàn năm, nhưng những thiên di từ đời Tần đến đời Đông Hán (khoảng 300 năm trước CN đến 100 năm sau CN) có lẽ là quan trọng hơn cả. Chúng tôi tin rằng đó là một phần của kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2011 5:51:38 GMT 9
Tài liệu tham khảo và chú thích:
1. Nguyễn Khắc Ngữ, "Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam", Nhóm Nghiên cứu Sử Địa Việt Nam xuất bản, Montréal: 1985; Bình Nguyên Lộc, "Nguồn gốc Mã Lai của Dân tộc Việt Nam", Nhà xuất bản Lá Bối, Sài Gòn: 1971.
2. Gần đây mới thấy có "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" của Trần Ngọc Thêm - Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng 3/2001.
3. Đọc "Một số vấn đề lý luận về Lịch sử Tư tưởng Việt Nam", sách lưu hành nội bộ, Hà Nội: 1984 - Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Triết học xuất bản.
4. Phạm Huy Thông, "Năm mươi năm tìm hiểu văn hóa Hòa Bình", Khảo cổ học, số 1 & 2/1984.
5. W. G. Solheim II, "Thắp sáng lại quá khứ bị lãng quên", Tạp chí National Geographic số tháng 3/1971, bản dịch của Hoài Văn Tử & Vĩnh Như, trong Tập San TƯ TƯỞNG số 2, tháng 4/1999.
6. W. G. Solheim II - Bài đã dẫn [5].
7. Ngô Thế Phong ,"Dấu vết văn hóa Hòa Bình ở Đông Nam Á", Khảo cổ học, số 1 & 2/1984. Chữ Phức hợp Kỹ thuật Hòa Bình (Techno-complex) là đề nghị của C. F. Gorman, học trò của W. G. Solheim II. Xem thêm "The Hoabinhnian and after : subsistence pattern in S.A. during the Latest Pleistocene and Early Recent periods" - Word Archaeology 2: 300-320, 171; "Hoabinhnian: A pebble-teal complex with Early Plant association in S.A.", Science, CL XIII No.3868, 14 Feb 1969.
8. Higham C, "The Bronze Age of Southeast Asia", Cambridge University Press, 1966.
9. R. H. Geldern, "Research on Southeast Asia : Problems and Suggestions", American Anthropologist, No.4, New York, 1996.
10. David N. Keightly (biên tập), "The Origins of Chinese Civilization", University of California Press, Berkeley, Los Angeles: 1983.
11. Li Chi, "The Beginnings of Chinese Civilization", Seattle: 1957.
12. I. R. Solin Khanov, 1979 : 37. Theo Trịnh Sinh, "Những hiện vật đồng đỏ trong văn hóa Đông Sơn", Khảo cổ học số 1/1992; "Nhận dạng trống giả cổ", Khảo cổ học, số 4/1997. Đọc thêm "The Cradle of the East" của Ping-Ting- Ho, phần Appendix I", "Excavation at Non Nok Tha, Northeastern Thailand, 1968", Interim Report, Asia Perapective XIII (1970), p.139; "Early Bronze in Northern Thailand", 1968 của W.G. Solheim II.; "Further Evidence to Support the Hypothesis of Indigenous Origins of Metallurgy in Ancient China" do Noel Barnard đọc trong Hội nghị Berkeley 1978 và in trong The Origins of Chinese Civilization - University of California Press, 1980.
13. "It will use the big rivers as language conduct, but the direction of dipersal is the exact reverse of the Himalaya centrifugal radiation hypothesis" - "Linguistic Diversity in Space and Time" - Johana Nicols, trích theo Eden in the East, trang 138-139.
14. J. Y. Chu và đồng nghiệp, "Genetic relationship of populations in China", Proc. Natl. Acad. Sci, USA 95, 11763-11768, 1998.
15. Cung Đình Thanh, "Gốm cổ tại Việt Nam và vai trò của nó trong văn hóa tiền sử", Tập San TƯ TƯỞNG số 12 tháng 2/2001.
16. Đọc "The Origins and Early Cultures of The Cereal Grains and Food Legumes" của Te-Tzu Chang, Chương 3 trong "The Origins of Chinese Civilization" - sđd [10].
17. Cung Đình Thanh, "Khái niệm về biển tiến ở Việt Nam" và bài "Sự thuần hóa cây lúa nước và ảnh hưởng của nó đối với tư duy người Việt Cổ", Tập San TƯ TƯỞNG số 3, tháng 7/1999.
18. Trích Eden in the East (trang 70-71) của Stephen Oppenheimer: "The prime "home" the most likely of rice - where climatically, the least manipulation is required to grow it - are in tropical Indo-China down to the Malay border Burma Bangladesh and the extreme South coast of China" - Peter Bellwood - "The Prehistory of Southeast Asia and Oceania" - Collins, Auckland, 1978; "Rice, though, was clearly pivotal t the Neolithic stay-athome mainland Indo-China from a very early stage, that is, if the Sakai cave findings are confirmed we now have a strange new image : Instead of the sinocentric model with the Chinese inventing rice cultivation, we have Austro- Asiatic speaking "Southern Barbarians" from Indo-China teaching the knowhow about rice to the Chinese".
19. Fritjof Capra, "The Tao of Physics", Fontana Paperbacks, London, 1983.
20. Con người được cấu tạo bằng nhiều tỷ tế bào. Tất cả các tế bào đều có cấu trúc giống nhau: trong mỗi tế bào đều có một cái nhân (nucleus) nằm chính giữa. Cái nhân này có chứa những chất liệu di truyền mà ta thường gọi là DNA (viết tắc từ chữ deoxyribonucleic acid). Mỗi nhân thường có hàng triệu DNA. DNA gồm có bốn mẫu tự (yếu tố hóa học): A (adeline), C (cytosine), G (guanine), và T (thymine). Một mảng DNA tạo thành một gien. Và nhiều gien tạo thành một bộ di truyền hay nhiễm sắc thể, còn gọi là chromosome. Con người có 23 nhiễm sắc thể.
21. A. Vu-Trieu và đồng nghiệp, "HLA-DR and DQB1 DNA polymorphisms in a Vietnamese Kinh population in Ha Noi", Tập san European Journal of Immunogenetics, năm 1997, bộ 24, trang 345-356.
22. Khoảng cách di truyền (hay còn gọi là genetic distance) là một thông số di truyền học đo lường mức độ khác nhau giữa các nhóm dân. Chỉ số này có giá trị tối thiểu là 0 (tức hai nhóm dân giống nhau về mặt di truyền), và giá trị tối đa là 1 (tức hai nhóm dân hoàn toàn khác nhau).
23. R. Ivanova và đồng nghiệp, "Mitochondrial DNA polymorphism in the Vietnamese population", Tập san European Journal of Immunogenetics, năm 1999, bộ 26, trang 417-422.
24. W. Kim và đồng nghiệp, "Y chromosomal DNA variation in East Asian populations and its potential for inferring the peopling of Korea", Tập san Journal of Human Genetics, năm 2000; bộ 45, trang 76-83.
25. S. W. Ballinger và đồng nghiệp, "Southeast Asian mitochondrialDNA analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration," Tập san Genetics, năm 1992, bộ 130, trang 139-45.
26. C. G. Turner, "Major features of Sundadonty and Sinodonty, including suggestions about East Asian microevolution, population history, and late Pleistocene relationships with Australian aboriginals", Tập san American Journal of Physical Anthropology, năm 1990; bộ 82, trang 295-317.
27. T. Hanihara, "Population prehistory of east Asia and the Pacific as viewed from craniofacial morphology: the basic populations in east Asia, VII", American Journal of Physical Anthropology, năm 1993, bộ 91, trang 173-87.
28. Đột biến (mutation) là một sự kiện sinh học xảy ra ở trong tế bào. Gien được cấu trúc bằng một chuỗi DNA gồm 4 mẫu tự A, G, C, T. Khi một chuỗi DNA bị thay đổi, tức đột biến (chẳng hạn như từ GCAATGGCCC thành GCAACGGCCC) thì các đặc tính sinh học liên quan đến gien, chẳng hạn như mật độ xương, có thể bị thay đổi.
29. Bing Su và đồng nghiệp, "Y-chromosome evidence for a northward mi-gration of modern humans into eastern Asia during the last Ice Age," American Journal of Human Genetics, năm 1999, bộ 65, trang 1718-1724.
30. Yuehai Ke và đồng nghiệp, "African origin of modern humans in East Asia: a tale of 12000 Y chromosomes," Science, năm 2001, bộ 292, trang 1151-1153.
31. Bing Su và đồng nghiệp, "Polynesian origins: insights from the Y chromosome," Tập san Proceedings of the National Academy of Science (USA), năm 2000, bộ 97, trang 8225-8228.
32. Xin đọc bài "Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang", Tập San TƯ TƯỞNG số 13, tháng 4/2001, trg 7.
33. Alberto Piazza, "Human evolution: towards a genetic history of China", Nature, Vol. 395, No. 6703, 1998.
34. Li Yin và đồng nghiệp, "Distribution of halstypes from a chromosome 21 region distinguishes multiple prehistoric human migrations", Proc. Natl. Acad. Sci. USA, Vol. 96, pp. 3796-3800, 1999.
35. Kwang-Chih-Chang, "The Archaeology of Ancient China", New Haven, Conn: 1968.
36. Barnard Noel, "Radiocarbon Dates and Their Significance in the Chinese Archaeological Scene: A list of 420 Entries from Chinese", Sources Published up to Close of 1979, Canberra.
37. Hà Văn Tấn dẫn theo Chapell (1987 - 83), "Năm lần nước biển lên xuống ở Đông Nam Á thời hậu kỳ Pleistocène", Khảo cổ học, số 1/1992; và "Sự biến chuyển từ Pleistocène đến Holocène ở Đông Nam Á" cũng cùng số. Cũng có thể xem thêm Tập San TƯ TƯỞNG các số 2, 3, 4, 7, 12, 13, 18.
38. Dẫn theo "The Cambridge Encyclopedia of Human Revolution", Cambridge University Press.
THÁP BÀ NHA TRANG VÀ LƯỢC SỬ CHIÊM THÀNH B.S. Trần Văn Ký
Nói đến Nhatrang, "phố biển hiền hòa", "miền thùy dương cát trắng", nằm cách Huế khoảng 624 cây số về phía nam và cách Sàigòn khoảng 442 cây số về phía bắc; không ai lại quên nhắc đến một thắng cảnh độc đáo và cũng là một thánh tích quan trọng, đó là Tháp Bà Nhatrang hay Tháp Po Nagar. Tháp Po Nagar
Tháp Bà hiển nhiên là một kiến trúc tôn giáo đặc thù của người Chàm (hay Chăm, hay Champa) được họ gọi là Klmer. Người Chàm là cư dân bản địa xa xưa đã bị lịch xử oan khiên xóa nhòa trước đà Nam tiến của giống Việt càng ngày càng phát triển. Âu cũng là nạn nhân của luật đào thải, mạnh được yếu thua, thế nhưng thói thường thì kẻ xâm chiếm lại quay ra tôn sùng những thần linh, và tiếp thu dễ dãi văn hóa và tín ngưỡng của dân bị diệt vong. Nhiều nét của văn hóa Chàm từ ngôn ngữ, trang phục, ca dao, truyện cổ, âm nhạc, ca vũ, vv... đã thấm nhập êm ả vào đời sống của dân tộc Việt.
Tháp Bà nằm ở phía bắc thành phố Nhatrang khoảng 4, 5 cây số, trên một ngọn đồi cao cách mặt bể độ chừng 50 thước, được gọi là núi Cù Lao cạnh cửa sông lớn đổ ra biển Đông. Con sông này vốn mang khá nhiều tên theo thời gian là sông Cái, sông Ngọc Hội và cuối cùng là sông Nhatrang. Nhatrang mà thành phố biển này mang tên có nguồn gốc từ tiếng Chàm Eatran hay Yatran mà ra. "Ea" hay "Yja" hay "Ya": có nghĩa là nước là sông; còn "tran": là lau sậy, vì hai bên bờ sông toàn là lau sậy. (Có lẻ dân ta về sau biến chữ "tran" thành "trảng" như trảng bom, trảng bàng vv... chăng?) Như thế Eatran hay Nhatrang có nghĩa là "con sông sậy", thuộc vùng Kauthara của Chiêm thành mà tổ tiên ta tiếp thu vào năm 1653. Một điều đáng ghi nhận là hiện nay đồng bào thượng Rhadé hay Êđê vùng Ban Mê Thuột vẫn dùng nhiều từ ngữ gốc Chàm và vẫn gọi nước hay sông là Ea. Như thế cho thấy sự liên hệ của họ với người Chàm xưa cũng gần gũi lắm.
Dưới chân núi Cù Lao về phía đông, cạnh quốc lộ số 1 vốn là bến xe ngựa ở thời Pháp thuộc cho đến thời đệ Nhất Cộng hòa, về sau theo sự tăng tiến kỹ thuật trong đời sống, xe ngựa được thay thế bằng xe lam rồi xe buýt Renault. Bên kia quốc lộ là Xóm Bóng hay Xóm Chài, vì xóm này nguyên được lập nên bởi những người chuyên làm nghề đồng bóng ở tháp Bà (tiếng Chàm gọi là patjao), và về sau ngư phủ người Việt tập trung sinh sống quanh đấy càng ngày càng đông. Vào thời cao điểm của cuộc chiến vào khoảng năm 1969, công binh quân đội Đại hàn làm một xa lộ mang tên là "Cải lộ tuyến" hay "xa lộ Đại hàn" đi tắt từ phía bắc đèo Rù Rì đến Thành, và từ đó các chuyến vận tải xuyên Việt không còn phải chạy cạnh chân Tháp Bà, qua cầu Xóm Bóng, cầu Hà Ra để vào thành phố như trước.
Trong những năm cuối của thời Pháp thuộc, vùng phía bắc của Tháp Bà như Đồng Đế, Ba Làng vv.. vẫn còn hoang vu lắm. Việc đi thăm hay cắm trại ở Hòn chồng, bãi Dương là những dịp hãn hữu; còn việc lễ bái ở tháp thì chỉ náo nhiệt nhất là vào dịp tết âm lịch. Lý do dễ hiểu là thời ấy thành phố Nhatrang còn bé và việc đi lại còn lắm khó khăn, và chẳng ai có nhu cầu gì để phải đi xa như thế. Có lẻ nguồn giải trí lành mạnh của dân Nha thành vừa tiện lợi và ít tốn kém vẫn là bãi biển cát trắng và nước biển trong xanh bên cạnh.
Toàn bộ Tháp Bà được xây dựng khoảng từ đầu thế kỷ thứ 8, thời mà dân Việt vẫn còn bị Tàu đô hộ (dựa vào niên đại những bia ký dựng ở tháp) và tiếp tục được phát triển và trùng tu cho đến thế kỷ thứ 13. Thế kỷ thứ 8, cũng là thời kỳ vua Chàm ở phía bắc là Vikrantavarman II thôn tính vùng Kauthara (Khánh hòa) của các tiểu vương Chàm ở phía nam, nhưng vẫn chưa tiến chiếm hết vùng Panduranga (Ninh và Bình thuận).
Mặt tiền của các tháp đều hướng ra biển Đông. Tổng thể kiến trúc gồm ba tầng, đi từ dưới lên trên. Tầng thấp ngang mặt đất bằng là ngôi tháp cổng mà nay không còn nữa. Từ đấy có những bậc thang bằng đá dẫn lên tầng giữa, nơi đây hiện chỉ còn hai dãy cột chính bằng gạch hình bát giác, mỗi bên 5 cột có đường kính hơn 1 thước và cao hơn 3 thước. Ở hai bên các dãy cột lớn có 14 cột nhỏ và thấp hơn, và tất cả lại nằm trên một nền bằng gạch cao hơn 1 thước. Dựa vào cấu trúc này người ta cho rằng đây vốn là một tòa nhà rộng lớn có mái ngói, là nơi để khách hành hương nghỉ giải lao và sắm sửa lễ vật trước khi lên dâng cúng ở các điện bên trên. Từ tầng giữa này, lại có một dãy bậc thang bằng gạch dốc hơn dẫn lên tầng trên cùng, cũng là nơi các tháp được xây dựng, ngay trước mặt ngôi tháp chính. Những bậc thang này từ lâu đã không hề được xử dụng. Bậc thang bằng đá ong mà ta thấy hiện nay ở phía nam tháp Bà rộng lớn hơn được xây vào thập niên 60 do nhu cầu du lịch gia tăng.
Ở tầng trên, có hai dãy tháp được bao quanh bởi bốn bức tường đá mà nay chỉ còn lưu lại tường phía tây và nam mà thôi. Dãy tháp phía trước chỉ có 3 ngôi, và dãy phía sau vốn có dấu vết của 3 ngôi tháp khác, thế nhưng nay chỉ còn một. Tháp thờ chính khá lớn và cao khoảng 23 thước, là tháp Po Nagar, mà ta hay gọi là tháp Bà. Nguyên thủy chính là tháp thờ thần Parvati, vợ của Shiva (hay Xiva). Trên đỉnh tháp có tượng thần Shiva cỡi thần ngưu Nandin, và các tượng linh vật như chim thiên nga, dê, voi vv. Mặt ngoài tường tháp lại được trang trí bởi những hình điêu khắc vào đá như những vũ công, kẻ chèo thuyền, kẻ xay gạo hay kẻ đi săn với cung và tên. Cửa chính ở phía đông dẫn vào một tiền sảnh, ở hai bên cửa có hai trụ đá được khắc truyền ký, đỡ một phiến đá hiønh thuẩn có khắc hình nữ thần Durga đang múa giửa hai nhạc công. Bên trong tháp thì âm u và mát lạnh. Cuối tháp có một bệ thờ bằng đá bên dưới tượng Bà Po Nagar với mười cánh tay. Hai bàn tay dưới đặt trên hai đầu gối, các bàn tay khác thì cầm những vât dụng như đoản kiếm, mũi tên, chùy và cây lao ở bên phải và chuông, đĩa, cung và tù và ở bên trái.
Từ Yang Po Inư Nagar đến Thiên Y A-Na: Trên các bia ký lưu lại ở tháp, nếu ghi bằng chữ Phạn cổ thì tên của Bà là Bhagavati Kautharesvati, và ghi bằng chữ Chàm thì gọi đầy đủ là Yang Po Inư Nagar, theo đó thiø "Yang" là Thần; "Pô" là tôn kính, là ngài; Inư là mẩu, là mẹ; và Nagar: xứ sở, đất nước. Người thượng tây nguyên vẫn còn duy trì những lễ cúng "Yang" (mà ta hay gọi là cúng Ông Giàng: có nghĩa là Thần đất, thần rừng) rất công phu tốn kém hằng năm. Nói gọn lại là Đức Thần Mẹ Đất Nước. Như thế Bà được tôn thờ vừa là Thổ mẫu, vừa là Nông thần vì đã dạy dân biết cách trồng trọt và làm ruộng. Tượng thờ của thần Po Nagar thực ra cứ bị quân xâm lăng tàn phá hoặc đánh cắp mãi. Bia đá ở tháp Bà còn ghi năm 918 vua Indravarman II dựng pho tượng Bhagavati (tức Po Nagar) bằng vàng; pho tượng này về sau bị người Chân Lạp (Khmer) xâm lăng cướp đi vào năm 950, và đã được thay thế bằng tượng bằng đá. Năm 1203 tháp Po Nagar lại bị quân Chân Lạp chiếm đóng tàn phá lần nữa, và 7 năm sau vua Paramesvaravarman II mới giải phóng được Chiêm thành cho trùng tu lại. Nhưng rồi loạn lạc vẫn tiếp diễn liên miên, cho đến gần đây pho tượng Bà vốn được tạc từ gỗ trầm hương, lại bị người Pháp cướp đi vào năm 1946, về sau được dân địa phương thay thế bằng một tượng khác mang màu sắc Việt, còn được gọi là Thánh mẫu Thiên Y A Na.
Những Tháp Thờ Khác
Bên cạnh tháp chính về phía nam khoảng 20 thước là một ngôi tháp khác bé và ít trang trí điêu khắc hơn, cao chừng 12 thước, có lẻ là tháp thờ thần Shiva. Cách ngôi này cũng về hướng nam là một tháp còn nhỏ hơn.ngôi thứ hai. Bên trong tháp không có bệ thờ mà chỉ có một linga (thạch trụ), và đây là tháp thờ thần Ganesa, thân người đầu voi, con của Shiva. Nhiều tác giả cho rằng linga là linh tượng có hình thù dương vật tượng trưng cho Shiva, dựa theo sự diễn dịch của Tây phương hơi thiên về tình dục. Điều này là một sự ngộ nhận đáng tiếc. Thực ra linga tiêu biểu là một trụ đá thấp có ba phần khác nhau tượng trưng cho ba linh thể: phần dưới là hình vuông tượng trưng cho Brahma, phần giữa hình bát giác tượng trưng cho Vishnu, và phần trên cùng hình tròn tượng trưng cho Rudra (hay còn gọi là Shiva). Vì thế ta nên gọi là "linh thạch trụ" thì thích hợp hơn.
Ở dãy tháp phía sau có một ngôi tháp tương đối ít hư hại nhất ở mạn bắc, với mái dài hình yên ngựa. Kiểu mái này chỉ thấy bắt đầu ở những tháp vùng Đồ Bàn - Vijaya (Bình định ngày nay) sau khi kinh đô được dời xuống từ Mỹ sơn, Trà Kiệu ở thế kỷ thứ 11. Ở tường lại có những hình điêu khắc như thần điểu Garuda, sư tử, các tiên nữ Apsara, xà thần Naga. Chính dưới nền của tháp này trong khi tu sửa đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp đã khám phá và cuổm mất một kho tàng được cất dấu gồm những vật cúng dường bằng vàng và bạc.
Huyền Thoại Việt Về Po Nagar
Có khá nhiều huyền thoại về nữ thần Po Nagar tùy theo ảnh hưởng cương thịnh từng thời. Khi tháp Bà rơi vào thay người Việt và biến thành Thiên Y Thánh Mẫu thì vào năm 1856 Phan Thanh Giản cho khắc một truyền thuyết đầy màu sắc Việt lên bia đá được dựng ở tháp, và toàn văn bài bia Tháp cổ Thiên Y đã được chép lại vào sách Đại Nam Nhất Thống Chí. Theo đó xin được tóm tắt đại khái như sau: Xưa trong vùng Đại Điền có hai vợ chồng già trồng dưa hấu sinh sống. Khi dưa chín thì về đêm cứ bị phá trộm. Ông lão rình và thấy một cô gái mới lớn dùng dưa để đùa giởn dưới trăng. Ông lão vặn hỏi thì biết là trẻ mồ côi bèn đem về làm con nuôi, và hai vợ chồng rất thương yêu cô gái. Một ngày mưa lụt lớn, nhớ chốn cũ ở Tam thần Sơn, cô nhập vào một khúc gổ kỳ nam đang trôi về phương bắc. Dân phương bắc thấy gổ thơm trôi giạt đua nhau gắng sức kéo về nhưng không nổi. Thái tử đang ở tuổi 20, con của vua cai trị nghe tin liền tiøm đến bải biển và lạ thay một mình khuân được gổ về cung. Từ đấy thường vổ về cây kỳ nam và bồi hồi ngẩn ngơ. Bỗng một đêm thấy có bóng một cô gái diễm kiều hiện ra, thái tử vội nắm tay giử lại gặn hỏi và biết được sự tích. Thái tử tâu rõ mọi chuyện với vua cha và được vua cho kết hôn. Hai vợ chồng sinh được hai đứa con, trai tên là Trí và gái là Quý. Một thời gian sau lại nhớ chốn cũ ở phương nam, vợ thái tử dắt hai con nhập vào gổ kỳ nam trôi về cửa Cù Huân, rồi lần về núi Đại Điền nhưng ông bà lão trồng dưa đã qua đời. Bà liền lập đền thờ. Từ đó bà dạy dân trong vùng biết cách trồng lúa. Về sau Bà còn cho đục đá ở núi Cù Lao tạc tượng bà, rồi giửa ban ngày bà thăng thiên biến mất.
Thái tử mãi sau cho người kéo thuyền đi tìm vợ, nhưng bọn người này khi đến cửa Cù Huân lại hiếp đáp dân lành và khinh miệt linh tượng, nên chợt có một trận cuồng phong nổi lên đánh úp thuyền biến thành một tảng đá to. Từ đó dân làng thấy Bà hiển linh thường cỡi voi trắng đi dạo trên đỉnh núi với tiếng sấm vang động. Có khi bà cỡi tấm lụa bay giữa không trung hay cỡi cá sấu trong vùng dảo Yến, núi Cù. Dân trong vùng bèn xây tháp thờ trên núi Cù Lao, cầu khấn việc gì cũng linh ứng. Tháp giửa thờ Chúa Tiên (tức Thần Thiên Y), tháp bên trái thờ vợ chồng lão trồng dưa, bên phải thờ thái tử. Phía sau lập đền nhỏ thờ hai ngừơi con. Người Chàm tôn Bà là Ana Diễn Bà Chúa Ngọc Thánh Phi. Triều Nguyễn phong tặng Hồng Nhân Phổ Tế Linh Ứng Thượng Đằng Thần và cử ba người dân làng Cù Lao làm Từ phu.
Câu chuyện trên của cụ Phan cốt để giải thích một cách thi vị các nhân vật được thờ ở tháp Bà, và nó cũng tương tự như truyền thuyết nàng Mưjưk của người Chàm hiện đang được truyền tụng ở vùng Ninh thuận và Bình thuận. Khi ảnh hưởng Hồi giáo phát triển vào các thế kỷ 14 và 15 thì các huyền thoại về Thánh Mẫu lại biến đổi theo màu sắc Muslim với tên là Đại nữ thần Mơ-mai-sahai-cadông.
Các Bia Ký Lịch Sử Khu tháp Bà còn lưu lại nhiều bia ký cổ nhất của người Chàm. Bergaigne, một nhà khảo cứu người Pháp đã liệt kê các bia ký theo thời gian như sau: Nhóm A: trên bia đá hình lục giác, do vua Satyavarman dựng năm 781 ghi chuyện tháp bị giặc biển đốt phá năm 774, việc xây dựng tượng thần Sri Satya Mukhalinga vào năm 784. Nhóm B: do vua Vikrantavarman III ghi lại công lao xây dựng của các tiên vương. Hai nhóm C và D: do vua Vikrantavarman II ghi các lễ vật dâng cúng chư thần. Nhóm E ghi việc vua Indravarman II dựng pho tượng Bhagavati (tức Po Nagar) bằng vàng vào năm 918 (thực ra chữ Bhagavati chỉ là tiếng xưng tôn kính, chứ chẳng phải là tên thần, mà tác giả Ngô Văn Doanh ở trong nước hiểu nhầm); pho tượng này về sau bị người Khmer xâm lăng cướp đi, và đã được thay thế bằng tượng bằng đá vào năm 965. Bia đá ở hai bên cửa của tháp chính ghi việc cúng ruộng và dân công nô lệ cho nữ thần. Bia ở phía nam của tháp chính ghi việc vua (Jaya) Harivarman I ca tụng thần Yang Po Nagar vào năm 1178. Bia ở phía bắc tháp chính ghi việc dựng đền thờ thần Bhagavati Matrilingesvara vào năm 1256.
Ngoài ra còn bia đá dựng năm 1050 của vua Paramesvaravarman I ghi việc tái lập tượng Bà, việc dâng cúng ruộng đất và nô lệ đủ sắc tộc: người Campa (Chàm), Kvir (Khmer), Lov (Tàu), Pukan (Mã), Syam (Xiêm) vv... Bia của vua Rudravarman III (Chế Củ) dựng năm 1064 ghi việc xây cổng tháp rất tốn kém, và liệt kê những cống phẩm quí giá. Bia năm 1143 ghi lời xưng tụng Bà. Bia năm 1165 của vua Indravarman IV ghi việc dâng cúng một kim mão cho nữ thần Bhagavati Kautharesvati (Dựa vào lời ghi này ta có thể tạm dịch là "Đức thánh mẫu vùng Kauthara" và so sánh với các bia khác, có thể đoán là người Chàm chỉ thờ thần Parvati như Thánh Mẫu của từng địa phương; ví dụ ở Phú Yên và Ninh thuận cũng có tháp thờ Thánh Mẫu của vùng đó, chứ chưa hẳn là ở mức độ toàn xứ Chiêm thành, như tác giả Ngô Văn Doanh quyết đoán). Các bia sau cùng ở thế kỷ thứ 13 hay 14 tiếp tục ghi những vật dâng cúng Bhagavati.
Nguồn Gốc Và Văn Hóa của Người Champa
Như thế thì tháp Bà có một lịch sử rất lâu đời. Nhìn ngắm những công trình xây dựng uy nghi thanh nhả đứng trơ gan cùng tuế nguyệt hằng bao thế kỷ, không khỏi làm kẻ lãm du chợt dậy một mối hoài niệm bồi hồi cho một dân tộc suy vong. Vậy người Chàm là ai?
Thực khó mà định được niên đại những giống dân cổ đã từng sinh sống ở giải giang sơn miền trung và nam Việt hiện nay. Năm 1909, người ta đào được khoảng 200 hũ cốt ở Sa Huỳnh, phía nam Đà Nẵng, và tiếp đến ở hơn 50 địa điểm khác gần đấy. Dùng phương pháp định tuổi theo phóng xạ Carbon, người ta thấy là nhóm cư dân thuộc văn hóa Sa huỳnh (từ Nghệ tỉnh đến Biønh định) hay là thời kỳ tiền-Champa, biết chế tạo đồ gốm và kim khí cùng thời với các nhóm thuộc văn hóa Đông sơn, tức khoảng 1500 năm trước CN. Không chừng hai nền văn hóa này có cùng một nguồn gốc từ lâu đời, nhưng hậu duệ của văn hóa Đông sơn đã chịu ảnh hưởng của Trung hoa quá sớm, có lẻ do sự xâm lược chiếm đóng của nước này, và cư dân ở phía nam lại chịu ảnh hưởng của Ấn bằng hòa nhập qua thương mãi. Mãi đến thế kỷ thứ 2, sử Tàu mới ghi nhận có nước Lâm Ấp với giống Chàm, hậu duệ của nền văn hóa Sa Huỳnh cư ngụ ở đấy. Họ có lẻ là dân thuộc các hải đảo vùng Đông Nam Á trôi dạt vào đất liền định cư, và đã tiếp nhận nền văn hóa và tín ngưỡng Ấn độ. Ngôn ngữ của họ thuộc nhóm Mã-Hải đảo (Malayo-polynesian). Chữ viết của họ dựa vào tiếng Bắc Phạn (Sanscrit) cổ cho mãi đến giữa thế kỷ 16 lại được canh tân với văn phạm Ả rập khi ảnh hưởng đạo Hồi bắt đầu lấn át các tôn giáo cũ, chữ Chàm được gọi là Khâr-Tapuk. Đơn cử một từ mà ta hay nói về đảo nhỏ là "cù lao"; nó lại bắt nguồn từ chữ Pulao (ví dụ Pulao Bidong).
Văn hóa Ấn anh hưởng rất sớm và khá sâu đậm trên xã hội Chàm và các kiến trúc tháp cổ. Cao điểm của sự du nhập nền văn hóa này có lẽ từ cuối thế kỷ thứ 6 do sự hùng mạnh của vương quốc Sri-Vijaya ở Java và Sumatra, và đế quốc này đã khống chế đường hàng hải huyết mạch ở vùng Đông Nam Á trong suốt 700 năm (từ thế kỷ thứ 7 đến 13). Người Chàm thờ phụng những thần linh của đạo Bà La Môn (Brahman), trong đó nổi bậc nhất là 1) Phạm Thiên (Brahma) là đấng sáng tạo ra những cảnh giới. Phạm Thiên có bốn tay và bốn mặt tượng trưng cho bốn hướng, thường cỡi con thiên nga Hamsa. Vợ của ngài là Saravasti. 2) Vishnu: Thần bảo bọc; thần có bốn tay mỗi tay cầm một khí cụ, thường cỡi thần điểu Garuda. Vợ ngài là Laksmi, nữ thần của sắc đẹp. Ngoài ra còn có ảnh tượng của những thần khác như Ganesa: thần thông minh, Indra: thần mưa, hay thần sấm, Kama: thần tình yêu, Apsara: đoàn vũ nữ thiên giới, và xà thần Naga. 3) Shiva (hay Xiva), thần hủy diệt (nói rõ hơn là diệt vô minh), có lúc cũng nhân ái và dâm dật. Shiva có nhiều tay, nhiều mặt và thêm một mắt ở giữa trán, thường cởi thần ngưu Nandin. Thần có nhiều vơ (nói đúng hơn là thần thể hiện ra năng lực chuyển động dưới dạng nữ tính - shakti), trong đó phải kể đến Parvati hay Uma: thổ mẫu; và Durga hay Kali: thần chiến đấu. Theo cách thờ phượng của người Chàm thì họ cò lẻ theo phái Sakta của Ấn độ giáo đã nâng thần Parvati lên cao cả hơn hết, trong khi phái chính thống thì chỉ cho là thứ yếu.
Vào thế kỷ thứ 8 và 10 (từ 758- 915), ảnh hưởng của Phật giáo lại thịnh hành, nhất là trong thời Hoàn Vương. Một tấm bia tại Đồng Dương (xưa chính là kinh đô Indrapura, thuộc huyện Thăng biønh, tỉnh Quảng nam ngày nay) được vua Chiêm Indravarman II dựng lên vào năm 875 đã ghi: "do lòng tin vào Phật, vua đã cho dựng lên một tu viện Phật giáo và đền thờ Laksmindra Lôkesvara Svabhayada". Cũng ở Đồng dương, vào năm 1901người Pháp đã đào được nhiều cổ vật mà đặc sắc nhất là một tượng Phật bằng đồng cao hơn 1 thước, mang nhiều nét vẻ của tượng Phật Amaravati ở Ấn độ. Một bia đá khác gọi là Ròn hay bia Bắc Hạ gần đèo Ngang ghi năm 889, vua Indravarman II xây dựng một tu viện Phật giáo thờ Bồ tát Avalokitesvara. Do đó có thể nói Phật giáo Đại thừa đã một thời rất hưng thịnh tại Indrapura (thành của thần Indra), đến nổi các vua Chiêm đặt tên cho lãnh thổ này là Amaravati. Sau khi người Chàm thiên đô về Đồ Bàn, cũng cùng lúc đế quốc Sri-Vijaya bắt đầu suy vi nhường chỗ cho các thế lực Hồi giáo phát triển, mạnh nhất là khoảng thế kỷ thứ 15 trở về sau, vì thời ấy nước Chiêm Thành giao thương nhiều với các vương quốc vùng Indonesia và Mã Lai, là những nước bắt đầu chuyển theo Hồi giáo từ thế kỷ 13. Đế quốc Hồi giáo Malacca sau rốt sụp đổ vào cuối thế kỷ 16, do sự xuất hiện của người Tây phương, nhất là người Bồ Đào Nha và người Hòa Lan. Theo thống kê trước năm 1975 thì hai phần ba người Chàm theo Ấn Độ giáo ở miền Trung, còn một phần ba theo Hồi giáo thì ở Nam phần.
Lược Sử Champa Lịch sử Chiêm thành đầy rẩy can qua chinh chiến với các lân bang từ khi lập quốc. Xem lại sử ta thấy rằng năm 111 trước CN vua Vũ-đế nhà Hán sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc sang diệt nhà Triệu lấy nước Nam Việt đổi lại thành Giao chỉ bộ, và chia ra làm 9 quận mà 3 quận phía nam là Giao-chỉ, Cửu-chân và Nhật-nam bao gồm đất Bắc Việt và bắc Trung Việt ngày nay, mở đầu thời kỳ Bắc thuộc của nước ta. Sách Khâm Định Việt Sử chép rằng phía nam quận Nhật-nam có huyện Tượng-lâm (khỏang Trà Kiệu, tỉnh Quảng Nam bây giờ), vào năm 102 đời vua Hòa-đế nhà Đông Hán, người huyện ấy cứ hay sang cướp phá quận Nhật-nam. Đến cuối đời nhà Hán, khoảng năm 192 ở huyện Tượng lâm có người tên Khu-Liên giết huyện lệnh đi rồi tự xưng làm vua, đặt tên nước là Lâm Ấp (Lin Yi: Ấp của dân Tượng lâm). Thực ra chữ Khu-Liên không phải là tên, mà là tiếng xưng tụng như "thủ lãnh". Dòng dõi Khu-Liên thất truyền nên cháu ngoại là Phạm-Hùng (ta dịch âm từ Fan Hiong trong sử Tàu; mà Fan lại âm theo Varman của tiếng Chàm) lên nối nghiệp.
Ban đầu thiø lãnh thổ Lâm Ấp còn gọi là Indrapura, là vùng từ phía nam đèo Ngang, cạnh sông Gianh, đến hết vùng Amaravati (Quảng nam ngày nay). Tiếp đến trở xuống là các vùng tự trị của các tiểu vương như Vijaya (Bình định), Aryaru (Phú yên), Kauthara (Khánh hòa) và Panduranga (Bình và Ninh thuận). Có nhiều tác giả cho là lãnh thổ của Lâm-Ấp bấy giờ chỉ đến đèo Hải Vân mà thôi. Điều này không đúng, bởi vì những bia ký ở thánh địa quan trọng Mỹ sơn - Srisanabhadresvara (nằm cách Đà nẵng hiện nay về hướng tây nam khoảng 70 km) đã ghi là thánh địa thờ thần Bhadresvara, là thần chủ giang sơn Chàm, do vua Lâm Ấp là Phạm Phật (Bhadravarman, trị vì từ 349 - 361) dâng cúng. Nhiều bia đá ở Mỹ Sơn đã cho biết khá nhiều về giai đoạn lịch sử ban đầu của Lâm Ấp.
Theo thời gian, Phù Nam (Fu-nan), một vương quốc ở phương nam hoàn toàn theo văn minh Ấn Độ - tồn tại từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ 6 tại vùng đồng bằng sông Cữu Long bây giờ, đã từng triều cống Trung Hoa trong khoảng thời gian từ năm 253 đến năm 519, và có cảng Óc Eo rất nhộn nhịp - mạnh dần và thôn tính Kauthara (Khánh hòa) và Panduranga (Bình và Ninh thuận). Còn Vijaya (Bình định) thì thuộc về Lâm Ấp. Vùng Aryaru (Phú yên) trở thành vùng trái độn.
Suốt thời Tam quốc sang đến nhà Tấn người Lâm ấp vẫn thường sang quấy nhiễu quận Nhật nam, có khi tiến đánh đến quận Cửu chân nữa. Năm 353 đời vua Mục đế nhà Đông Tấn sai quan thứ sử Giao châu là Nguyễn Phu đánh bại vua Lâm Ấp là Phạm Phật (Bhadravarman) phá hủy hơn 50 đồn lũy. Năm 399 vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt lại đánh phá đến tận Giao chỉ bị quan thái thú Đỗ Viện đánh đuổi. Năm 413 lại tái diễn, nên năm 420 con của Đỗ Viện là Đỗ tuệ Độ phải kéo quân sang tiểu trừ tận đất Lâm Ấp, từ đó ngưới Lâm Ấp mới chịu hàng phục cống tiến Trung hoa hàng năm.
Sang đến thời loạn lạc Nam Bắc triều ở Tàu (420-588) thì nhà Nam Tống cai trị đất Giao châu. Năm 433 vua Lâm Ấp Phạm Dương Mại cho sứ sang Tàu xin làm chủ đất Giao châu, vua Tống không thuận, nên quân Lâm Ấp luôn sang quấy phá Nhật nam và Cửu chân. Vua Tống sai quan thứ sử Đàn hòa Chí đem quân sang đánh Lâm Ấp, tàn phá kinh đô Trà Kiệu (Đồng dương, Quảng nam bây giờ) và lấy được vô số vàng bạc châu báu. Sử chép Đàn Hòa Chí thu được một tượng bằng vàng nặng đến nổi mấy người khuân không xuể.
Cuối thế kỷ thứ 5 ảnh hưởng của Lâm Ấp mở rộng về phía tây đến Nam Lào (Champassak), nhưng đầu thế kỷ thứ 6 thì vùng này lọt vào tay người Khmer (Chân lạp), lãnh thổ Lâm Ấp bành trướng đến đèo Cù mông (Phú yên). Người ta đã tìm thấy tấm bia Vat Luang Kau gần chùa Vat Phou (Champassak, nam Lào), cho biết là vào thế kỷ thứ 5, biên giới Chiêm Thành mở rộng đến bờ sông Mekong.
Vào giửa thế kỷ thứ 6, nước Phù nam lại bị người Khmer thôn tính, trở thành Thủy Chân lạp. Vị vua cuối của Phù Nam được sử Tàu nhắc đến là khoảng năm 550. Nước Chân lạp (Chen-la hay Zhenla) được hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 5, mà truyền thuyết thần thoại theo văn minh Ấn kể rằng thần Shiva kết hợp đạo sĩ Kambu Svayambhuva ở xứ Kambujadesha (nên mới có chữ Kampuchea hay Cambodia bây giờ) với tiên nữ của Đại hồ tên là Mera, từ đó có giống Khmer (do hai chữ Kambu và Mera ghép lại).
Năm 539- 577, dưới triều vua Rudravarman khu Mỹ sơn lại bị đốt phá, và đã được vua Sambhuvarman (mất năm 629) trùng tu lại. Đến đời nhà Tùy, năm 602 vua sai tướng Lưu Phương kéo quân sang Giao Châu dẹp cuộc nổi dậy của Lý Phật Tử, sau khi bình định xong Lưu Phương tiến xuống đánh Lâm Ấp để cướp của, vua Lâm Ấp là Phạm Phạm-Chí (Cambhuvarman) thất trận chạy thoát. Sau khi Lưu Phương vào kinh đô Trà Kiệu gom góp được vô số của cải, đã lấy đi 18 tấm miếu chủ đúc bằng vàng. Lâm Ấp từ đấy lại xin triều cống như cũ.
Đến đời nhà Đường có ba sự kiện đáng ghi là:
1) Vào đời Thái tông, nước Lâm Ấp đổi quốc hiệu là Hoàn Vương (?). Cụ Trần trọng Kim chép trong Việt nam sử lược trang 60: "Đến quãng năm Trinh-quan đời vua Thái tông nhà Đường, (tức khoảng từ năm 627 đến 630) vua Lâm Ấp là Phạm Đầu Lê mất, con là Phạm Trấn Long cũng bị người giết, người trong nước lập một người con của bà cô Phạm Đầu Lê, tên là Chư Cát Địa (? Vikrantavarman I) lên làm vua. Chư cát Địa đổi quốc hiệu là Hoàn Vương quốc." Họ Chư lại kéo quân sang đánh Giao châu và chiếm giữ châu Hoan và châu Ái.
Nhưng có tác giả lại viết là từ năm 758, sử Trung Hoa không còn gọi nước nầy là Lâm Ấp mà đổi tên gọi là nước Hoàn Vương (Huan Wang). Dựa vào các bia đá ở Mỹ Sơn thì năm 758 là triều vua Vikrântavarman II kế vị. Vikrântavarman II là thái tử Prakasadharma, con của một hoàng thân Chàm tên là Jagadharma đã sang Chân Lạp cưới công chúa Carvâni (con của vua Icanavarman). Về sau chính vua Chàm ở phía bắc Vikrantavarman II này (của bộ tộc Dừa - Narikelavamsa) đã thôn tính vùng Kauthara (Khánh hòa) của các tiểu vương Chàm ở phía nam (của bộ tộc Cau - Kramukavamsa). Như thế thì chưa rõ thuyết nào đúng về niên đại của sự đổi tên Hoàn Vương Quốc.
2) Năm 679 vua Đường Cao tông (Phụ chú: là ông vua yếu đuối đa tiønh đã tằng tịu với Võ Tắc Thiên, cung tần của vua cha và đã đưa bà lên ngôi Hoàng hậu. Vào năm này Cao tông đã ngã bệnh liệt giường, có lẽ bởi tai biến mạch máu não do chấn động sau cái chết đột ngột của Thái tử Lý Hoằng. Mọi việc triều chính đều do Võ hậu quyết định cả, và người ta nghi chính Võ hậu đã đầu độc con trai trưởng của miønh bởi vì sợ vai trò của bà bị đe dọa), ra lệnh chia đất Giao chỉ bộ ra làm 12 châu và đặt chức An nam đô hộ phủ, và từ đó có tên An nam.
3) Nạn giặc biển từ Java và Sumatra mà Sử chép là "Năm 767 có quân Côn lôn và quân Đồ bà từ hải đảo kéo vào cướp phá đất Giao châu. Quan kinh lược sứ Trương Bá Nghi (Tchang-po Yi) cho đắp La-thành để chống giữ." Thành Đại la về sau trở nên thành Thăng Long. Thực ra quân hải đảo là lực lượng hải thuyền của một vương quốc hùng mạnh Sri-Vijaya ở Sumatra lúc bấy giờ (đã từng khống chế đường hàng hải huyết mạch ở vùng Đông Nam Á trong suốt 700 năm (từ thế kỷ thứ 7 đến 13). Quân này không những đánh phá riêng Giao châu mà liên tục tàn hại dân Chàm ở ven biển như Eatran (Nhatrang ngày nay) năm 774 và Panra (Phan Rang ngày nay), vào năm 787. Một bia ký ở tháp Bà còn ghi lại nổi kinh hoàng này của năm 774. Nếu giả thử quân của đế quốc Sri-Vijaya chiếm đóng thành công vùng duyên hải Đông dương thì lịch sử khu vực này đã chắc không như bây giờ.
Vào đầu thế kỷ thứ 9, năm 802 vua Hoàn Vương là Harivarman I lại đem thủy quân lên đánh phá một số tỉnh Trung Hoa, và liên tiếp các năm 803 và 806, còn kéo quân xâm lấn Giao Châu. Để trừng phạt, năm 808 quan đô hộ Giao Châu là Trương Chu đem binh thuyền vào tàn sát dân quân Chàm làm cho vua Hoàn Vương phải dới kinh đô xuống vùng Bằng An ngày nay, còn gọi là Vệ thành (thuộc xã Thăng Bình, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, mà vết tích thành cũ nay không còn nữa - theo Sách Đại Nam Nhất Thống Chí). Để tránh áp lực từ phương bắc, các vua Chàm Saktivarman và Bhadravarman II bành trướng lãnh thổ dần về phía nam và phía tây, thâu gồm Panduranga (Ninh và Bình thuận) và vùng tây nguyên thành một vương quốc mới được gọi là Chiêm thành (Champapura - Champa: hoa sứ; pura: thành, hay quốc gia).
Trong thời kỳ này việc bang giao giữa Hoàn Vương và Chân Lạp trở nên căng thẳng và đưa đến cuộc tương tranh tàn phá lẫn nhau trong khoảng hai thế kỷ. Khởi đầu vào năm 810, không rõ vì lý do gì tướng Chiêm Senapati Par đem quân tấn công Chân Lạp, mà bia ký ở tháp Bà Po Nagar còn ghi chiến tích.
Năm 877 dưới đời vua Indravarman II Chiêm thành lại xin triều cống Trung quốc như xưa. Những bia đá ở đền Kok Klor trong thung lũng Bla trên miền cao nguyên gần Kontum đề năm 914 ghi việc một tộc trưởng là Mahindravarman xây dựng tháp thờ Bồ tát Mahindra-Lokesvara. Thời kỳ này sự giao hảo giữa Chiêm Thành và đế quốc Sri-Vijaya rất là mật thiết. Một bia đá ở Nhan Biểu (thuộc tỉnh Quảng trị) ghi chuyện một vị hoàng thân tên là Rajadvara đã dựng hai ngôi tháp vào các năm 908 và 911, và đã hai lần đi hành hương thánh tích Phật ở Yavadvirapura (tức Java ngày nay).
Năm 950, Chân Lạp dưới quyền vua Rajendravarman sang đánh phá vùng Kauthara (Khánh hòa) của Chiêm Thành vào thời vua Indravarman III, và đã cướp đi tượng Bà bằng vàng do nhà vua dựng lên ở Po Nagar vào năm 918. Nhưng bia ký của Chân Lạp tại Pre Rup lại ghi rõ hơn là thành Kauthara bị phá hủy san bằng, vua Chiêm bị bắt và sau khi bị hành hạ đã bị tế sống cho thần Harisvayambhu trên bờ sông Visnupadi.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế đổi tên nước ta là Đại Cồ Việt, sau khi An nam dành dược độc lập với Ngô Quyền xưng vương tại Giao Châu năm 939. Năm 979, Lê Hoàn kế vị xưng là Đại Hành Hoàng Đế, sai Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ sang Chiêm Thành giao hảo. Vua Chiêm là Paramesvaravarman I, vốn liên kết với một trong 12 sứ quân thời hậu Ngô Quyền nhưng bất thành, đang đóng đô tại Indrapura (Đồng Dương, Quảng Nam) gần thánh địa Mỹ Sơn, bắt giam sứ giả. Năm 982 sau khi đuổi quân Tống, Lê Đại Hành bèn thân chinh đem quân đánh trừng phạt Chiêm, vua Chiêm bị giết ngay trong trận, vua Lê tiến vào kinh đô, đốt phá đền đài và lấy được rất nhiều của cải rồi rút về. Từ năm 983 kẻ kế vị ngôi Chiêm là (?) Lưu Kỳ Tông xin triều cống vua Lê và chịu làm chư hầu.
Để tránh áp lực ngày càng lớn của nước Đại Cồ Việt mới tự cường, nên năm 1000 vua Chiêm Thành Sriharivamadeva một năm sau khi lên ngôi đã dời đô từ Indrapura (Đồng Dương, Quảng Nam) xuống Vijaya (có nghĩa là chiến thắng, mà ta âm là Đồ Bàn hay Chà Bàn) ở vùng Bình Định ngày nay. Từ đó các bia ký ở Mỹ sơn gọi các vua mới là vua của Vijaya (hay Vijaya Sri), và vua Sriharivamadeva sau khi qua đời đã được thần hóa là Yang Pu Ku.
Năm 1068, vua Chiêm là Rudravarman III (Chế Củ), kế vị vua Harivarman II, đem quân xâm lấn đất Việt ở phía bắc. Bấy giờ vua Lý Thánh Tông, người đã dời đô về thành Đại la, cải danh là Thăng Long thành và đổi quốc hiệu ra Đại Việt khi mới lên ngôi, đã quyết định thân chinh xuống đánh Đồ Bàn năm 1069, bắt và giải Chế Củ về Thăng Long. Để đổi lấy tự do, Chế Củ xin dâng đất ba châu phía bắc Chiêm Thành là Bố Chánh (Hà Tĩnh và bắc Quảng Bình), Địa Lý (trung và nam Quảng Bình), và Ma Linh (bắc Quảng Trị).
Đến năm 1074, hoàng thân Than lên ngôi xưng là Harivarman IV (1074- 1080), nước Chiêm Thành hưng thịnh trở lại và vua Harivarman IV cho trùng tu khu thánh địa Mỹ sơn. Sau khi hòa hoãn với Đại Việt, vua Harivarman IV xua quân đánh Lục Chân Lạp, chiếm Sambor (bắc Phnom Penh và đông hồ Tonle Sap), giết vua Harshavarman III, tàn phá kinh thành Somesvara (Angkor), bắt nhiều người Chân Lạp làm tù binh. Năm 1145, vua Suryavarman II của Chân Lạp phục thù, đánh Chiêm Thành chiếm Đồ Bàn, tàn phá khu thánh địa Mỹ sơn. Mãi đến năm 1149 vua Chiêm mới đuổi được quân xâm lược. Khi tu bổ Mỹ sơn vua Harivarman IV cho dựng bia đá ghi lại cuộc tàn phá thánh địa này.
Năm 1166, vua Indravarman IV, một vị vua Chiêm Thành rất anh dũng lại xua đại quân xâm lăng Chân Lạp cướp được nhiều của cải. Sử Miên còn ghi "Jaya (vua) Indravarman IV, vua Chàm, có tính tự phụ như Râvana, đã vận chuyển quân trên những chiến xa, tiến đánh xứ 'Kam Bu". Mười năm sau, năm 1177, Indravarman IV lại gởi thuỷ quân xuống phía nam, vào cửa sông Cửu Long, tiến ngược dòng lên đánh thành Angkor, tàn phá kinh đô, giết vua Tribhuvanadityavarman và chiếm đóng Chân Lạp. Sau trận này vua Chiêm cũng thu đoạt được vô số châu báu, viø thế vua Indravarman IV đã dâng cúng nhiều vàng bạc cho các ngôi tháp ở Mỹ sơn. Mãi đến năm 1181, Hoàng thái tử Chân Lạp mới đẩy lui được quân Chiêm Thành, và lên ngôi vua là Jayavarman VII nuôi chí phục thù.
Năm 1190 vua Chân Lạp Jayavarman VII sai các tướng đem một hoàng thân Chiêm lưu vong tên là Vidyanandana về đánh Chiêm thành, chiếm đóng Đồ Bàn và cướp hết các linh tượng, bắt và giải vua Indravarman về Chân Lạp, chia nước Chiêm Thành làm hai chư hầu: tiểu quốc Vijaya (Đồ Bàn) do người em vợ của vua Chân Lạp cai trị với vương hiệu là Suryavarmadeva, và tiểu quốc Pandaranga (Phan Rang), do một hoàng thân Chiêm Vidyanandana cai trị, nhưng tùy thuộc vào Chân Lạp. Không lâu sau, một hoàng thân Chiêm tên là Rasupati nổi lên đánh đuổi quân Chân Lạp, lên ngôi là Indravarmadeva ở Vijaya nhưng lại không tồn tại lâu, và bị quân Chân Lạp quay lại bắt giết vào năm 1192. Vua Suryavarmadeva được tái lập nhưng lại quay ra không phục tùng Chân Lạp, mà bang giao với Đại Việt và Trung quốc. Vua Chân Lạp Jayavarman VII liền tấn công Chiêm Thành trong các năm 1192 và 1193 nhưng đều thất bại. Mãi đến năm 1203, vua Chân Lạp mới chiếm được Vijaya, và biến Chiêm Thành thành một lãnh địa của Chân Lạp. Nhưng sau khi Jayavarman VII chết quân Chân Lạp phải rút quân, và Chiêm Thành mới giành lại được độc lập năm 1220 dưới thời vua Paramesvaravarman II, khi Chân Lạp bận rộn đối phó với những cuộc xâm lăng của Xiêm La. Từ đó chấm dứt cuộc tương tranh giữa Chiêm Thành và Chân Lạp đã kéo dài 32 năm.
Vì cứ can qua chiến tranh liên tục nên Chiêm thành trở nên suy yếu. Khi vua nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt (Qubilai) sai tướng Toa Đô (Sogatu) cầm thủy quân xuống đánh Chiêm Thành năm 1282, quân Chiêm chống cự không nỗi nên quân Nguyên vào Thị Nại, tàn phá kinh đô Đồ Bàn và chiếm đóng nước Chiêm trong vòng 5 năm, Chiêm vương Indravarman V, cùng thái tử Bổ Đích (Harijit) thoát lên vùng cao nguyên và cầu cứu Đại Việt. Vua Trần Nhân Tông gởi hai vạn quân và 500 chiến thuyền sang giúp. Đến khi quân Việt đánh bại được quân Mông năm 1287, cũng giải phóng luôn nước Chiêm, nên năm 1307 tân vương Simhavarman III (Chế Mân) tặng vua Trần anh Tôn 2 châu Ô và Lý để làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân. Vua Chế Mân cũng xây dựng thêm nhiều ngôi tháp thờ phượng thần linh ở vùng Mỹ Sơn. Ba năm sau khi Chế Mân mất, vua Chế bồng Nga (Pô Bin Swơr) từng nuôi chí phục thù nên năm 1370 đã kéo quân thủy bộ đánh phá vào tận kinh đô Thăng Long, nhưng đến năm 1382 lại bị tử trận. Tuy vậy các vua Chiêm kế tiếp vẫn luôn gây chiến với nước Việt.
Vào thời kỳ này, lãnh thổ Chiêm thành khá rộng. Lảnh thổ Chiêm Thành trải dài từ các bình nguyên duyên hải nhỏ hẹp cho đến vùng rừng núi Trường Sơn cũng như các cao nguyên nam Trung phần ngày nay. Người Chiêm Thành không chỉ là người Chàm ở duyên hải là đa số mà còn gồm những nhóm dân thiểu số khác như giống Jarai, Rhade, Churu, Raglai, Stieng hiện vẫn còn sinh sống ở vùng Tây nguyên mà những câu tục ngữ vẫn còn lưu truyền như "Chăm anh, Raglai em" (Cam saai, Raglai adei), hoặc "Chăm với Raglai như hai anh em ruột" (Cam saung Raglai yơu adei ai sa tiam). Ngoài ra lịch sử Chàm còn cho thấy đầu thế kỷ 14, quốc vương Jaya Simhavarman III (Chế Mân) xây đền Yang Prong ở lưu vực sông Se San. Đền Yang Mun (gần Cheo Reo) ở lưu vực sông Ba và đền Phú Thọ gần Pleiku được xây dựng vào cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15. Vua Po Romê (mà bia ở tháp thờ tại Ninh thuận ghi là Pa Rrame) là người sắc tộc Churu, trị vì Chiêm Thành từ 1627 đến 1651, mở đầu một triều đại gồm 14 quốc vương kéo dài cho đến 1786.
Năm 1402, Hồ Quý Ly xâm lăng Chiêm thành ép vua Campadhiraya (Ba Đích Lại) nhường đất Indrapura - Chiêm động hay Đồng dương (Phủ Thăng biønh, Quảng Nam) và đất Amaravati - Cổ lụy (Quảng Nghĩa), rồi cải thành bốn châu là Thăng, Hoa, Tư và Nghĩa, đặt quan An phủ sứ cai trị và di dân vào khai khẩn. Khi quân Minh xâm lăng nước ta năm 1407, Chiêm Vương liền đánh chiếm lại vùng đất đã nhường năm năm trước.
Đến thời Hậu Lê: Dưới đời Nhân tông viø vua Chiêm là Ma Ha Bí Cái (Maha Vijaya) gây hấn đánh Hóa châu năm 1444, nên hai năm sau các tướng Lê Thụ và Lê Khả cầm quân đánh phá Đồ Bàn, bắt Bí Cái, đưa người khác lên thay, rồi rút quân về. Đến đời Thánh tông, vua mới của Chiêm Thành là Trà Toàn lại xua quân hai lần xâm lấn Hóa châu vào những năm 1468 và 1469, vua Thánh tông phải thân chinh kéo quân đánh dẹp và chiếm Đồ Bàn năm 1471 bắt giải Trà Toàn về giam ở Thăng Long. Vua Lê lấy vùng Amaravâti (Quảng Nam, Quảng Ngãi) và Vijaya (Bình Định) đặt thành "Quảng Nam thừa tuyên đạo" lấy đèo Cù Mông làm ranh giới, và chia phần đất Chiêm Thành còn lại làm ba nước nhỏ là Hóa Anh (Phú Yên, Khánh Hòa), Chiêm Thành, chỉ còn lại từ Phú yên đến mũi Kê gà (Phan Rang - Bình thuận), và Nam Phan (Gia Lai, Kontum, Darlac). Theo những tài liệu Mã Lai, khi Chiêm Thành bị Lê Thánh Tông tấn công năm 1471, một số quan chức triều điønh Chiêm Thành bị bắt, một số bỏ trốn qua Chân Lạp, Mã Lai tỵ nạn.
Vào thế kỷ thứ 16, người Chiêm Thành thường buôn bán với người Bồ Đào Nha ở Macao (Trung Hoa). Người Bồ Đào Nha hay ghé đến vùng Panduranga (Cam Ranh và Phan Rang ngày nay) và tài liệu của người Bồ Đào Nha đã ghi nhận sự hiện diện của thương thuyền Chiêm thành ở cửa khẩu sông Maenam (Menam), là cửa khẩu chính của nền ngoại thương Xiêm La.
Qua thế kỷ thứ 17, thời chúa Nguyễn: Năm 1611, nhân các bộ tộc người Chàm liên kết lại cùng đánh phá vùng biên giới phía nam, Nguyễn Hoàng sai chủ sự Văn Phong đem quân vượt đèo Cù Mông tiến chiếm vùng Phú Yên ngày nay, giữa Vijaya và Kauthara, đổi thành hai huyện Đồng xuân và Tuyên hóa. Sau đó không lâu vì thấy thuyền bè các nước Tây phương như Bồ Đào Nha và Hòa Lan đang lân la đến các hải cảng của Chiêm Thành. Sãi Vương Nguyễn Phúc Chu rất lo ngại, nên năm 1631 đã gả người con gái thứ ba là Nguyễn Phúc Ngọc Khoa cho vua Chiêm là Pô-Rômê để tạo sự hòa hiếu với Chiêm Thành. Sau năm 1639 thì cuộc giao thương giữa Chiêm Thành và người Bồ Đào Nha hầu như chấm dứt và người Chàm quay sang buôn bán với người Hòa Lan sau khi người Hòa Lan làm chủ Malacca vào năm 1641 và làm chủ con đường buôn bán hồ tiêu qua eo biển Malacca. Năm 1653, vua Chiêm là Bà Thấm, vốn là hậu duệ của hoàng gia Chân lạp, đem quân đánh phá Phú Yên nên chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần bèn sai cai cơ Hùng Lộc vượt đèo Cả sang trừng trị. Bà Thấm thất trận dâng thư xin hàng. Chúa Hiền lấy hẳn vùng Kauthara, lập thành phủ Thái Ninh, sau đổi thành phủ Diên Khánh, trong đó có thánh tích Chiêm là Po Nagar (Tháp Bà, Nha Trang ngày nay). Chiêm Thành chỉ còn lại vùng Panduranga, phía nam sông Phan Rang. Khi rút về vùng Panduranga, người Chàm tiếp tục lập thờ Thánh Mẫu Po Nagar ở một ngôi đền nhỏ ở làng Hữu Đức, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh thuận ngày nay.
Khoảng thời gian từ 1675 đến 1685, theo sử liệu của Thái lan đã cho biết một người anh em của quốc vương Chiêm Thành đến viếng triều điønh Xiêm La, có lẽ để cầu viện; và năm 1680 vua Chiêm còn gởi hai phái bộ đến Batavia (tức Jakarta, Indonesia ngày nay) để liên lạc ngoại giao.
Năm 1692, vua mới là Bà Tranh tự bỏ lệ triều cống. Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh (hay Kính) kéo quân xuống hỏi tội và đánh bắt được Bà Tranh và giải về Phú Xuân. Chúa Nguyễn lấy đất Chiêm Thành còn lại đặt ra Thuận phủ, năm sau lại đổi ra Thuận thành trấn. Đến năm 1697 chúa Nguyễn đặt ra Phủ Biønh thuận, lấy đất Phan lang, Phan lý làm huyện Yên phúc và huyện Hòa đa. Từ đó nước Chiêm thành mất hẳn, tuy vậy chúa Nguyễn vẫn cho người Chiêm còn lại được tự trị một vùng đất ở Bình Thuận cho mãi đến năm 1832, khi vua Minh Mạng ra lệnh bãi bỏ vùng tự trị. Người Chàm nổi dậy chống đối nhưng hai cuộc khởi nghĩa do Katip Sumat lãnh đạo từ 1833 đến 1834 và Ja Thak Va cầm đầu từ 1834 đến 1835 đều bị quan quân dẹp yên nhanh chóng. Trước kia những người Chàm theo Hồi giáo di tản sang định cư ở Ayudhya (bắc Bangkok, Xiêm La) đã tham gia vào một âm mưu lật đổ quốc vương Xiêm La và thay thế bằng người em của ông ta, vì thế triều đình Xiêm La cho phép những người Chàm tị nạn về sau, đến định cư ở vùng Bangkok. Con cháu những người nầy hiện vẫn sống tại đó.
Tuy nước Chiêm thành đã bị xóa nhưng cuộc nam tiến của dân Việt vẫn tiếp tục cho mãi đến năm 1714 sau khi thôn tính luôn vùng Thủy Chân lạp.
Lời Kết Tóm lại, tháp Bà Nhatrang là chứng tích lịch sử tương đối còn nguyên vẹn nằm cạnh sông Eatran thuộc vùng Kauthara của nước Chiêm thành xưa. Dân tộc Chàm lập quốc rất sớm và kéo dài hơn 15 thế kỷ, từ năm 192 TL. cho đến lúc vong quốc vào năm 1697, với nhiều quốc hiệu từ Lâm Ấp, đến Hoàn Vương và sau cùng là Chiêm thành. Người Chàm đã có một nền văn hóa khá rực rỡ nhưng vì cứ mãi lâm vào vòng chinh chiến nên kiệt quệ dần. Riêng vùng Kauthara đã bị Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần xáp nhập vào đất Việt vào năm 1653. Với ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Ấn độ, khu tháp Bà ban đầu được người Chàm xây dựng để thờ các vị thần Brama, Vishnu và Shiva của Ấn Độ giáo; nhưng họ lại đặc biệt tôn thờ các thần Parvati hay Uma là những biến tướng nữ của thần Shiva, được xưng tụng là Po Nagar (Thánh Mẫu) để cầu mong Bà che chở cho dân tộc Chàm. Đến khi người Việt làm chủ vùng này thì Bà được Việt hóa thành Thiên Y Ana.
Ngẫm cũng bồi hồi cho thế sự, thần linh cao cả rốt lại cũng không bảo vệ được cho một dân tộc luôn tôn thờ cầu khẩn khỏi bị diệt vong. Rồi một khi nước mất nhà tan, tín đồ phát tán để thần linh ở lại bơ vơ với kẻ lạ, cả tên cũng bị đổi. Thương thay!
B.S. Trần Văn Ký Seattle, Mùa thu 2000 - bổ sung 2004.
Tái Liệu Tham Khảo 1) Việt Nam Sử Lược, Q. 1, Trần Trọng Kim, Bộ Giáo Dục, TTHL, SG 1971, Đại Nam CA tái bản.
2) Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Dịch theo bản năm Chính hòa thứ 18, VKHXHVN, Hà Nội. 1998.
3) Tháp cổ Chămpa: Sự thật và Huyền thoại, Ngô Văn Doanh, NXBVHTT-Hà Nội, 1994.
4) Bí ẩn về những chiếc gương cổ được tiøm thấy trong các di chí Champa ở miền trung Việt
nam. Hồ Xuân Em, NXB Đà Nẵng, 1999.
5) The Encyclopedia of Eastern Philosophy & Religion, Shambhala, Boston 1994
6) The Encyclopedia of the World's Religions, R.C. Zaehner, Barnes & Noble Books, New York,
1997.
7) Chiêm Thành Vì Đâu Suy Thoái, TK 21, Trần Gia Phụng.
8) Khmer, The Lost Empire of Cambodia, Thierry Zéphir, Discoveries - Harry N. Abrams, Inc.
Publishers, N.Y. 1998.
9) The Land and People of Cambodia, David P. Chandler, 1991, Harper Collins Publishers, N.Y.
10) Angkor, Đế Thiên Đế Thích, Lê Hương, Xuân Thu CA tái bản
11) Discovery-The world of science, Mar 1996 - Empire of Uniformity, Jared Diamond
12) Microsoft Encarta 97.
13) Britannica.com
14) Nhiều tài liệu trên Internet.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 30, 2011 3:25:43 GMT 9
Ngành đường sắt và Việt Nam Vietsciences- Đặng Đình Cung 500 nghị sĩ do 90 triệu dân đề cử bao giờ cũng sáng suốt hơn một vạn tiến sĩ chuyên gia kỹ thuật và việc phủ quyết dự án đường sắt siêu tốc Bắc Nam năm ngoái có thể coi là quyết định sáng suốt nhất của Quốc hội khóa XII1. Vì thế mà, ngay khi nhậm chức Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải Đinh La Thăng đã tuyên bố "Chưa đủ điều kiện làm đường sắt cao tốc"2. Ở các nước dân chủ, công bộc của dân đều tuân theo đại biểu dân như vậy. Nhưng bãi bỏ dự án tầu siêu tốc không có nghĩa là bỏ rơi tất cả ngành đường sắt. Trong bài này chúng tôi xin trình bầy những vấn đề kỹ thuật mà ngành đường sắt Việt Nam phải giải quyết để đạt khả năng vận tải đa phương tiện (intermodal freight transport) và khả năng liên thông với các nước láng giềng (interoperability). Phần I – Vận tải đa phương tiện I–1. Sự cần thiết của tất cả những phương tiện GT–VT Ngành đường sắt có ba đặc điểm kỹ thuật : (a) bánh xe bằng thép quay trên một nền cũng bằng thép, (b) toa xe chạy trên một đường hướng dẫn và (c) nhiều toa xe chạy nối liền với nhau. Nhờ ba đặc điểm đó, so với các phương tiện giao thông–vận tải (GT–VT) khác thì sức cản di chuyển thấp, tiết kiệm năng lượng vận chuyển, xe chạy an toàn ở bên hông và tiềm năng công suất vận chuyển cao. Quy ra một hành khách–kilômét hay một tấn–kilômét thì đường biển và đường sông là những phương tiện GT–VT rẻ nhất, tiêu thụ năng lượng ít nhất và ô nhiễm môi trường ít nhất. Sau đó là đường sắt, tiếp theo sau rất xa là đường ô–tô và cuối cùng là đường hàng không. Ở một nước đông dân có nền kinh tế đáng kể (mặc dù vẫn còn nghèo) như nước ta thì giá thành một hành khách–kilômét hay một tấn–kilômét cũng theo thứ tự gia tăng đó. Ở những nước chậm tiến có chính thể chuyên chế người ta thường đặt ưu tiên vào việc xây những xa lộ hoành tráng nhưng vô dụng để cho dân bị ấn tượng và suy tôn nhà độc tài tại chức và/hay để thỏa mãn tiện nghi riêng của giai cấp thống trị3. Ở những nước Âu Châu, vận tải bằng ô–tô thống lĩnh thị trường GT–VT. Người ta đã khai triển phương tiện này vì lúc đầu cần phải hỗ trợ ngành công nghiệp ô–tô. Sau đó phải xây xa lộ cho ô–tô chạy. Rồi lại phải hỗ trợ thêm ngành công nghiệp ô–tô để có xe chạy trên xa lộ. Sau khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, những nước đó khám phá ra sai lầm của họ và đang chuyển sang dùng thêm những phương tiện GT–VT khác. Nhưng một hệ thống GT–VT của một nước cần đến cả chục năm, thậm chí cả nửa thế kỷ, mới xây dựng xong. Nếu sai lầm hay kết cấu kinh tế thế giới thay đổi thì cũng cần cùng thời gian đó để thay đổi4. Vì những lý do kinh tế và tôn trọng môi trường nêu ở trên, khi một chính phủ quy hoạch mạng GT–VT hay khi một xí nghiệp quy hoạch hệ thống hậu cần thì phải theo thứ tự ưu tiên đường biển, đường sông, đường sắt, đường ô–tô rồi đường hàng không. Chúng tôi nói về thứ tự ưu tiên chứ không nói rằng phải bỏ không khai triển các ngành ô–tô và hàng không. Hai phương tiện GT–VT này cũng có công dụng của chúng ở một phạm vi nào đó mà những phương tiện khác không thể thay thế được. Xe vận tải có khả năng đến tận điểm trao hàng và đến tận điểm nhận hàng dù là ở những nơi hẻo lánh. Tầu bay cần thiết khi phải chở gấp một kiện hàng đi xa. Về chuyên chở hành khách thì ô–tô có thể là một xe bốn chỗ cũng như một xe ca bốn chục chỗ và một tầu bay thích ứng nếu cần phải đi xa hơn 500 km. Vận tải đa phương tiện và liên thông là hai điều kiện cốt yếu trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay. Vì lý do đó mà UNESCAP (United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Kinh tế Xã hội Châu Á – Thái Bình Dương) khởi xướng dự án TAR (Trans Asian Railway, Đường sắt Xuyên Á) và dự án TAH (Trans Asian Highway, Đường Cái Xuyên Á). Hai dự án này đã được 24 quốc gia thông qua, trong đó có Việt Nam. Một kiện hàng gửi từ một nhà máy may mặc ở Phnom Penh đến một cửa tiệm ở Houston (Texas, Hoa Kỳ) sẽ được chở bằng ô–tô đến ga xe hỏa Phnom Penh, chở bằng đường sắt tới hải cảng Kompong Som, bằng đường biển đến San Francisco, bằng đường sắt đến Houston rồi bằng xe vận tải đến cửa tiệm quần áo ở trung tâm thành phố Houston. Nếu mạng đường sắt của ta liên thông với mạng của Kampuchia thì kiện hàng sẽ được chở từ ga Phnom Penh đến cảng Vũng Tầu thay vì cảng Kompong Som, tiết kiệm ít nhất một ngày tầu vòng qua mũi Cà Mau. Một hãng Pháp cần gửi một công–tê–ne thiết bị công nghiệp từ Villeurbanne, ngoại ô TP Lyon (Pháp), đến một nhà máy ở khu công nghiệp Sóng Thần II, tỉnh Bình Dương. Nếu mạng đường sắt của ta liên thông với mạng của Kampuchia và Thái Lan thì hành trình của công–tê–ne sẽ diễn biến như sau : (a) xe vận tải từ Villeurbanne đến một bến trên sông Rhône, (b) xà–lan tới Marseille, (c) tầu biển từ Marseille đến TP Hồ Chí Minh, (d) xe vận tải từ TP Hồ Chí Minh đến Sóng Thần II. Nếu mạng đường sắt của ta liên thông với mạng của Kampuchia thì công–tê–ne sẽ được nhấc lên bờ ở ở Singapore, được chở bằng xe hỏa từ Singapore đến TP Hồ Chí Minh hay ga Bình Dương và bằng xe vận tải từ nhà ga đến nhà máy ở Sóng Thần II, tiết kiệm được hai ngày đường. Chở bằng đường sắt thì mau hơn là chở bằng đường biển. Để tiết kiệm thời gian vận tải ở Đông Á, UNESCAP đề nghị chở hàng hóa bằng đường sắt từ Singapore đến Vladivostok xuyên qua Malaysia, Thái Lan, Lào và Trung Quốc. Tuyến đường này sẽ giải tỏa những địa phương ở phía Tây các tỉnh ven biển của Trung Quốc. Nhưng tuyến đường này phải vựơt nhiều núi cao hiểm trở và công suất quá nhỏ so với tiềm năng phát triển kinh tế Trung Quốc. Chúng tôi xin đề nghị khẩn cấp xây đoạn đường Phnom Penh – TP Hồ Chí Minh để mạng đường sắt do UNESCAP đề nghị có thêm một tuyến đường sắt Xuyên Á thứ hai (xem chi tiết ở phần II)5. I–2. Những vấn đề kỹ thuật Như trình bầy ở trên, từ Villeurbanne đến khu công nghiệp Sóng Thần II một công–tê–ne sẽ thay đổi phương tiện vận tải ít nhất ba lần và cần đến ít nhất ba phương tiệnGT–VT : xe vận tải, xuồng và tầu biển. Việc chọn lựa một phương tiện tùy ở tổng chi phí của chuyến đi, khả năng chịu tải của phương tiện và khả năng thuyên chuyển từ phương tiện này sang phương tiện khác. Vấn đề chịu tải chỉ là một vấn đề kỹ thuật xây dựng còn vấn đề thuyên chuyển từ phương tiện GT–VT này sang phương tiện khác chưa cớ giải đáp kỹ thuật thỏa đáng : (a) vỏ kiện hàng phải như thế nào để thuyên chuyển mà ít phải thay đổi vỏ chứa, (b) chọn tiêu chuẩn quốc tế (nếu có) nào để liên thông từ mạng vận tải này sang mạng khác, (c) dùng phương tiện vận chuyển nào để chuyển hàng từ vỏ này sang vỏ khác, từ phương tiện vận tải này sang phương tiện khác. Chúng tôi sẽ đề cập đến khả năng liên thông mạng đường sắt ở phần sau. Về vỏ kiện hàng và vận chuyển thì tùy ở loại sản phẩm và khả năng vận chuyển địa phương. Với những hàng rời như là ngũ cốc, quặng,... thì phương tiện vận tải có thể là vỏ chứa và phương tiện vận chuyển là băng công–voay–ơ, vít Archimede, ống và máy bơm,... Với những hàng lỏng như là dầu, nước,... thì vỏ chức cũng có thể là phương tiện vận tải nhưng cũng có thể là những bể chứa, thùng chứa, chai lọ, hộp kín,... Suy ra, những vỏ chứa và những phương tiện vận chuyển rất là đa dạng. Từ thập niên 1960, người ta bắt đầu chở hàng bằng công–tê–ne. Hầu như tất cả mọi loại hàng đều có thể chở được bằng công–tê–ne kể cả những hàng rời, hàng lỏng nếu đã được đóng gói trong những vỏ thích ứng. Nếu công–tê–ne được niêm phong kỹ thì phương pháp này giảm khả năng hàng bị hư hỏng, đánh cắp hay tráo đổi. Nhờ đó hàng chỉ cần được kiểm tra ở điểm đi và điểm đến dù đã được chở ở những cự ly dài, nhờ nhiều phương tiện vận tải khác nhau và qua nhiều nơi khác nhau. Điều này giảm chi phí và thời gian làm thủ tục chuyên chở, đặc biệt là các thủ tục hải quan. Để thuyên chuyển từ một phương tiện vận tải A sang một phương tiện B thì chỉ cần khuân công–tê–ne từ phương tiện A sang phương tiện B nếu phương tiện đó có sức chịu tải bằng hay mạnh hơn là phương tiện A. Ngoài ra, một công–tê–ne đặt trên một phương tiện vận tải phải có tổng tiết diện tương ứng với tiết diện các công trình cầu và hầm của mạng GT–VT. ISO (International Organization for Standardization, Tổ chức Quốc tế Tiêu chuẩn hóa) đã tiêu chuẩn hóa những công–tê–ne6 để ngành đường sắt có cơ sở thiết kế các hạ tầng và tính toán những tuyến đường. Những công–tê–ne thông dụng là những công–tê–ne 20 feet, 40 feet và high cube. Chúng có cùng một chiều rộng ở ngoài, 2,44 m (8 ft), cũng như ở trong 2,33 m. Chiều cao những công–tê–ne 20 feet và 40 feet là 2,59 m (8,5 ft) ở ngoài và 2,30 m ở trong. Chiều cao những công–tê–ne high cube là 2,74 m (9 ft) hay 2,90 m (9,5 ft). Chúng đều có thể được chở trên xe vận tải, toa tầu hỏa, tầu sông và tầu biển. Vì thế chúng rất thích ứng với phương pháp vận tải đa phương tiện. Người ta thường quy ra lượng công–tê–ne 20 feet để tính công suất hay năng suất của một cơ sở lưu kho, một phương tiện vận tải hay một phương tiện thuyên chuyểnvà để tính lượng hàng đã được vận chuyển hay thuyên chuyển. Đơn vị đó gọi tắt là TEU (Twenty Feet Equivalent Unit, Đơn vị Tương đương Hai mươi Feet). Một công–tê–ne 40 feet tương đương với hai công–tê–ne 20 feet. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 70 triệu công–tê–ne đủ loại, tương đương với 12 triệu EVP. Những công–tê–ne này chở qua đường biển 90 phần trăm những hàng không phải là hàng rời. Nước ta, đất hẹp, những xe vận tải chỉ có thể chở được những công–tê–ne 20 feet. Để bảo đảm khả năng vận tải đa phương tiện trên tầu biển, tầu sông, tầu hỏa cũng như trên xe vận tải, chúng tôi xin đề nghị dùng loại công–tê–ne này làm tiêu chuẩn cơ bản cho tất cả hệ thống hậu cần Việt Nam. Chúng tôi cũng xin đề nghị : (a) thiết kế lại hệ thống GT–VT trên bộ dựa trên đường sắt thay vì đường ô–tô như trong kế hoạch hiện nay của chính phủ, (b) và dành xe vận tải để chở hàng tối đa ở 50 km xung quanh một cảng biển, cảng sông, ga xe hỏa và khu công nghiệp và để chở hàng đến những vùng thưa dân hay kinh tế chưa phồn thịnh. Phần II – Khả năng liên thông Vì là một thành phần của hệ thống hậu cần thế giới, xe chạy trên một mạng đường sắt phải có khả năng dễ dàng chạy trên những mạng đường sắt khác. Khả năng đó gọi là sự liên thông. Như thấy trên bản đồ của UNESCAP (hình 1), mạng đường sắt của nước ta không liên thông với các nước láng giềng Lào và Kampuchia. Với Trung Quốc chúng ta có hai tuyến đường sắt qua cửa khẩu Lào Cai và Lạng Sơn. Nhưng hai nước dùng hai khoảng cách đường rầy khác nhau. Nói tóm lại mạng đường sắt chúng ta bị tách rời khỏi mạng đường sắt Thế giới. Trong một bài đã đăng, chúng tôi có đề nghị một số tuyến đường sắt nhằm giải đáp tình trạng này7. Để có thể liên thông thì các mạng đường sắt phải theo những tiêu chuẩn kỹ thuật chung về : (a) khoảng cách đường rầy, (b) cỡ tiết diện xe, (c) sức chịu tải ở trục xe, (d) chiều dài của đoàn tầu, (e) hệ thống tín hiệu và (f) điện hóa. Hình 1 – Dự án đường sắt Xuyên Á (Nguồn : UNESCAP) II–1. Khoảng cách đường rầy Khoảng cách đường rầy ở Trung Quốc theo tiêu chuẩn quốc tế, nghĩa là 1.435 mm (standard gauge). Nhưng ở tất cả các quốc gia thuộc khối MRS (Mekong River Subregion, Tiểu vùng Sông Mekong) cũng như trên tuyến đường sắt Hà Nội – Côn Minh thì khoảng cách là 1.000 mm (metre gauge). Nhiều người tưởng rằng một tuyến đường sắt phải có khoảng cách đường rầy theo tiêu chuẩn quốc tế 1.435 mm thì đoàn tầu mới có thể chạy nhanh, chở nặng và an toàn. Sự thật không hoàn toàn đúng như vậy : sai biệt về khả năng kỹ thuật của hai loại khoảng cách 1.435 mm và khoảng cách 1.000 mm không đáng kể. Người ta chọn khoảng cách 1.000 mm để giảm vốn đầu tư xây dựng nền đường8 và người ta chọn khoảng cách 1.435 mm để có thể liên thông dễ dàng với mạng đường sắt quốc tế9 và tại vì những đầu tầu và toa xe theo tiêu chuẩn quốc tế rẻ hơn đầu tầu và toa xe theo tiêu chuẩn khác10. Vì thế mà : (a) Thái Lan sẽ duy trì khoảng cách 1.000 mm cho những tuyến sẵn có và dự định xây mới những tuyến về hướng các nước láng giềng Myanmar, Lào (Vientiane và Pakse) và Kampuchia theo khoảng cách đó, (b) Kampuchia sẽ duy trì khoảng cách 1.000 mm, (c) đường sắt Lào tương lai Vientiane, Luang Prabang – Tường Vân (một huyện giữa Đại Lý và Côn Minh, tỉnh Vân Nam) sẽ có khoảng cách 1.435 mm để có thể liên thông với mạng Trung Quốc, (d) ở Việt Nam chỉ có tuyến Quan Triếu – Kép – Hạ Long là có khoảng cách 1.435 mm và tuyến Đồng Đăng – Kép – Hà Nội tạm thời là đường kép (dual gauge) với khoảng cách 1.435 mm và 1.000 mm. Mạng đường sắt Việt Nam bị kẹt giữa hai khối quốc gia có hai khoảng cách đường rầy khác nhau, chúng tôi xin đề nghị chính sách sau đây : (a) canh tân và xây mới tất cả những tuyến chở hành khách theo khoảng cách 1.000 mm (nếu cần thì nắn lại tuyến đường sẵn có để gia tăng an toàn và vận tốc), (b) xây mới tất cả những tuyến chở hàng theo khoảng cách 1.435 mm11, (c) khi có nhu cầu của phát triển kinh tế địa phương thì canh tân và xây mới tất cả các tuyến thành đường đôi (double track), mỗi đường dành cho một hướng12, (d) xây mới tuyến Phnom Penh – TP Hồ Chí Minh – Vũng Tầu (cảng Thị Vải) đường kép với khoảng cách 1.435 mm và 1.000 mm13, (e) canh tân tuyến Hà Nội – Lào Cai thành đường kép với khoảng cách 1.435 mm và 1.000 mm14, (f) xây mới những tuyến liên thông với Lào, Vũng Áng – Vinh – Vientiane và Đà Nẵng – Pakse, theo khoảng cách 1.435 mm. II–2. Điện hóa Một tầu chạy bằng động cơ Diesel có thể chạy trên một tuyến đã được điện hóa. Nhưng một tầu chạy bằng động cơ điện chỉ có thể chạy trên những tuyến đã được điện hóa thích hợp với động cơ và lối câu điện của tầu. Những động cơ điện thích hợp với việc kéo một đoàn tầu là động cơ một chiều. Nhưng, với những tiến bộ của điện tử cường độ cao, xu hướng là dùng điện xoay chiều một pha có tần số công nghiệp 50 hay 60 Hz và người ta đã xác định điện áp tối ưu kinh tế là 25.000 V. Loại điện này đã trở thành một tiêu chuẩn quốc tế bất thành văn của ngành đường sắt. So với một đoàn tầu Diesel thì một đoàn tầu điện sử dụng năng lượng hữu hiệu hơn, chi phí vận hành ít hơn, chi phí bảo hành cũng ít hơn. Trên phương diện kỹ thuật thì những động cơ điện có công suất lớn và có thể biến đổi mau nên thích hợp với những đoàn tầu nặng chạy trên những tuyến có độ dốc cao. Điện có thể được sản xuất từ nhiều nguồn năng lượng cơ bản khác nhau, không ô nhiễm ở nơi tiêu thụ, thích hợp với chuyên chở hành khách ở đô thị và những đường hầm dài. Nhưng đầu tư cho những thiết bị sản xuất điện, biến thế và kéo dây cáp cung cấp điện cho đoàn tầu cần đến nhiều vốn. Điện hóa một tuyến đường chỉ có lợi khi chu kỳ tầu đi lại trên tuyến đó đủ cao để chứng minh vốn đầu tư15. Trong tình trạng thiếu điện hiện nay, chúng tôi xin đề nghị (a) chờ ngày có đủ tài chính để điện hóa những tuyến đường có chu kỳ đi lại cao và tạm thời dùng động cơ Diesel để kéo tầu chở hàng và tầu chở khách liên tỉnh, (b) nếu điện hóa một tuyến đường sắt thì dùng điện 25.000 V, 50 Hz, một pha. Lẽ cốt nhiên những tầu chở khách ở đô thị sẽ chạy bằng điện. II–3. Những vấn đề kỹ thuật khác UNESCAP nhận xét các đường hầm hiện nay của ta đủ rộng để thích ứng với tiêu chuẩn UIC–B và chúng ta không có vấn đề liên thông vì tiết diện xe với các nước láng giềng16. Tiêu chuẩn UIC–B là tiêu chuẩn tiết diện xe của những đoàn tầu siêu tốc Âu Châu và những đoàn tầu chở công–tê–ne tiêu chuẩn ISO17. Sức chịu tải ở trục xe của một đường sắt tùy ở vận tốc đòan tầu, diện tích những tà–vẹt, bộ gắn tà–vẹt với thanh rầy, kết cấu của ba–lát,... sức chịu tải của những cây cầu và khối lượng mỗi mét của thanh rầy. Để tiện việc quản lý cung cấp và lưu trữ những thanh rầy, ở Âu Châu người ta mua và đặt những thanh rầy 60 kg/m. Lúc thanh rầy còn mới, người ta đặt ở các tuyến đường của mạng đường sắt cần đến sức chịu tải ở trục xe cao nhất. Sau đó, nhân chương trình bảo quản thường xuyên, người ta thay thế những thanh rầy đã bị yếu ở những tuyến cần sức chịu tải cao nhất để lắp chúng ở những tuyến cần sức chịu tải yếu hơn. Những thanh rầy này đủ để chịu tải những đoàn tầu chở những công–tê–ne ISO 20 feet với vận tốc 120 km/giờ. Chiều dài tối đa của một đoàn tầu tùy ở chiều dài của bến tầu dùng để chất hàng, sức kéo của đầu tầu, sức mạnh của phanh và sức bền của móc kéo toa tầu. Ở những vận tốc trên 100–120 km/giờ người ta chuyển tín hiệu vào buồng lái để bảo đảm người lái tầu có thì giờ nhận định và phản ứng kịp thời. Nhưng mỗi nước, mỗi mạng đường sắt có một mã truyền tin khác nhau. Một tầu muốn liên thông phải có một hệ mềm dịch những tín hiệu sang tiêu chuẩn hệ thông truyền tin của mình. Việc này không khó mấy nhưng sinh ra chi phí bội đáng lý có thể miễn được. Chúng tôi xin đề nghị : (a) những tuyến đường tương lai tiếp tục thích ứng với tiêu chuẩn UIC–B cho những đoàn tầu chạy bằng động cơ Diesel, (b) khi nào có điều kiện điện hóa thì chúng ta sẽ liệu đổi tuyến, nâng cao các cầu và/hay đào cao thêm những đường hầm18, (c) dùng những thanh rầy loại 60 kg/m khi canh tân và xây mới những tuyến đường sắt ở nước ta, (d) thiết kế hệ thống đường sắt, ga tuyển lựa (classification yard hay là marshalling yard) cũng như các khí cụ lưu động để có thể sắp xếp những đoàn tầu dài chừng 700–750 mét, (e) trang bị đoàn khí cụ lưu động bằng những toa tầu có thể chịu tải 60 tấn nghĩa là có thể chở dễ dàng hai công–tê–ne TEU19, (f) lắp đặt trên tất cả các tuyến đường và tất cả các đầu tầu một hệ thống chuyển tín hiệu vào buồng lái với một mã truyền tin duy nhất. *** So với một mạng đường ô–tô cùng công suất, tính theo tấn–kilômét, thì mạng đường sắt ở những vận tốc không quá 100–120 km/giờ cần đến vốn đầu tư từ ba đến năm lần ít hơn và chi phí vận hành sẽ kém hơn ít nhất hai lần20. So với một mạng đường ô–tô cùng cự ly, tính theo kilômét, thì mạng đường sắt có công suất cao hơn đến mức không thể so sánh được. So với một tuyến đường sắt siêu tốc (vận tốc từ 250 km/giờ trở lên) thì một tuyến đường sắt cao tốc (vận tốc 100–120 km/giờ) cùng cự ly rẻ hơn nhiều về vốn ban đầu cũng như về chi phí vận hành và một tuyến đường sắt giao thông đô thị cùng cự ly không những rẻ hơn mà lại có công suất, tính theo hành khách–kilômét, cao hơn rất nhiều. Về tiềm năng cách mạng công nghệ thì công nghệ đường sắt siêu tốc đã đạt hạn chế của nó. Những thiết bị cung cấp điện cho tầu, truyền tin và an toàn đã đạt mức gần hoàn hảo rồi21. Nếu muốn xây một tuyến đường sắt siêu tốc thì chúng ta chỉ có thể mua của nước ngoài theo dạng EPC (Engineering Procurement Construction, gọi nôm na là chìa khóa trao tay) hay giỏi lắm là mua thiết kế của họ và tự xây. Trên phương diện tiến bộ công nghệ chúng ta sẽ không hưởng được gì. Ngược lại, công nghệ vận tải bằng đường sắt và công nghệ đường sắt đô thị vẫn còn nhiều tiềm năng tiến bộ. Chúng ta vẫn còn kịp tham gia đóng góp vào những tiến bộ đó để trở nên một quốc gia công nghệ tiên tiến. Vì những lợi ích kinh tế và những tiềm năng tiến bộ công nghệ đó cho đất nước mà chúng tôi ngỡ ngàng không thấy thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đả động gì đến ngành đường sắt trong bài "3 khâu đột phá chiến lược của Chính phủ" của ông22. Đặng Đình Cung 1. "Quốc hội không thông qua dự án đường sắt cao tốc Hà Nội – TP Hồ Chí Minh" www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=0&article=1772542. "Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đinh La Thăng: Chưa đủ điều kiện làm đường sắt cao tốc" www.sggp.org.vn/moitruongdothi/2011/8/264477/3. Ở nước ta, vì nhu cầu GT–VT chưa được thỏa mãn rất lớn, một đường ô tô hay một cây cầu vừa mới khánh thành xong là đã quá tải. Một nước Phi Châu nọ không có một đường trải đá nào nhưng có một xa lộ, rộng và đẹp như đại lộ Nguyễn Văn Trỗi ở TP Hồ Chí Minh, dài một chục cây số bắt đầu từ phi trường quốc tế và kết thúc ở ven ruộng ngoài thủ đô. Hai bên đường chỉ có dinh tổng thống và những biệt thự xây từ hồi Pháp thuộc và đã xuống cấp. Ở Pháp, một ông vua ngoại quốc nọ tài trợ (với tiền túi cá nhân hay tiền ngân sách Nhà Nước, chúng tôi không biết và không muốn biết) xây một đường ngoặc từ một xa lộ công cộng đến lâu đài của ông. 4. Phải có thời gian lâu như vậy là do những định luật kinh tế vi mô (microeconomy) mà bạn đọc có thể tham khảo trong các sách giáo khoa (tỷ dụ Robert Pindyck, Daniel Rubinfeld: "Microeconomics", Prentice Hall, 2008). 5. Theo ước tính của chúng tôi thì tuyến đường sắt Singapore – Malaysia – Thái Lan – Lào (hay Myanmar) đến miền Đông Trung Quốc sẽ tốn nhiều vốn để nâng cấp hơn là vốn để liên thông mạng đường sắt Việt Nam với Thái Lan qua Kampuchia và chi phí vận tải qua tuyến đó sẽ cao hơn là qua tuyến Singapore – Malaysia – Thái Lan – Việt Nam. Đây chỉ là quan điểm cá nhân cần được xác định với những thông số cụ thể. 6. Tiểu ban chuyên môn của ISO chuyên về những công–tê–ne là TC–104 và những tiêu chuẩn chính mang mã số ISO 668 (1995) et ISO 1496–1 (1990). 7. "Việtnam : Căn cứ hậu cần của Đông Nam Á ? Phần 2 Đề nghị một mô hình hậu cần Việt Nam" www.diendan.org/viet nam/haucan-vn-2/ 8. Khoảng cách đường rầy hẹp cho phép tuyến đường có thể quay vòng với một bán kính nhỏ. Với khoảng cách 1.000 mm thì bán kính đường vòng có thể là 45 mét nếu tầu chạy rất chậm. Với khoảng cách quôc tế 1.435 mm thì bán kính phải lên tới ít nhất 60 m, thường thì cũng phải 100 m nếu tầu chạy rất chậm. Các tấu siêu tốc thì cần đến bán kính 7.000 m nếu muốn chạy 350 km/giờ. Ở những vùng núi non hiểm trở, so với những tuyến có bán kính đường vòng lớn thì những tuyến có bán kính nhỏ sẽ theo uẩn khúc sườn núi dễ hơn làm cho phải xây ít cầu và đào ít hầm hơn. Ngoài ra, với khoảng cách hẹp thì nền đường cũng hẹp hơn. 9. Chuyển xe hay chuyển tầu là một việc tốn của, tốn công và tốn thì giờ. Nếu các nước đều có cùng một khoảng cách đường rầy thì tầu sẽ có thể chạy trên tất cả mạng đường sắt của tất cả các nước đó mà không cần phải chuyển hàng từ xe này sang xe khác. 10. Áp dụng tiêu chuẩn quốc tế mới nhất thì sẽ hưởng thụ công nghệ hiện đại nhất, cho phép tham khảo nhiều nhà thầu và bên đấu thầu đã có nhiều kinh nghiệm nên có thể đề nghị những sản phẩm hay dịch vụ có chất lượng cao với giá tối thiểu. 11. Ở bên Nhật có 24.000 km đường sắt. Ngoại trừ 4.000 km đường siêu tốc Shinkansen (Tân Cán Tuyến) với khoảng cách đường rầy theo tiêu chuẩn quốc tế 1.435 mm, những tuyến đường khác đều có khoảng cách 1.067 mm, nghĩa là chỉ hơn có 67 mm khoảng cách hiện nay ở các nước MRS. Thế mà ngành đường sắt Nhật Bản vẫn nổi tiếng là có công suất, vận tốc trung bình và độ an toàn cao. 12. Nói chung thì việc chuyên môn hóa những đường, về khoảng cách đường rầy cũng như về hướng đi, sẽ bảo đảm an toàn và tính đều đặn của lịch trình các chuyến tầu. 13. Để tầu Kampuchia và tầu Việt Nam đều có thể chạy trên tuyến đó. 14. Tuyến Hà Khẩu (đối diện với Lào Cai) – Côn minh sẽ là tuyến duy nhất của Trung Quốc còn giữ khoảng cách 1.000 mm. Nhưng cũng có tin Trung Quốc đang nghiên cứu nâng cấp tuyến Hà Khẩu – Côn minh lên khoảng cách 1.435 mm. 15. Người ta ước chừng phải ít nhất mười chuyến mỗi ngày thì mới bõ điện hóa. Tuy nhiên, con số đó cần được xác định rõ hơn cho mỗi dự án cụ thể. 16. "Trans Asian Railway Route Requirements: Development of the Trans Asian Railway in the Indo China and Asean Subregion – Volume 3 – The Trans Asian Railway in Cambodia, Southern China, the Lao People's Democratic Republic, Myanmar, Thailand (North and East) and Viet nam" www.unescap.org/ttdw/Publications/TIS_pubs/pub_1679v3/Vol3full.pdf17. Tiết diện xe của tiêu chuẩn UIC–B là rộng 3,15 m và cao 4,32 m. 18. Một tuyến điện hóa có dây cáp điện treo ở trên đường rầy. Chiều cao của tiết diện công trình phải cộng thêm cỡ của đường dây cáp đó. 19. Theo tiêu chuẩn ISO thì trọng lượng tối đa một công–tê–ne 20 feet là 24 tấn và trọng lượng tối đa một công–tê–ne 40 feet là 30 tấn. 20. Những số liệu này cần được xác định cho mỗi dự án cụ thể. 21. Vận tốc một tầu hỏa có thể vô tận. Nhưng, lực ma sát tăng theo lũy thừa ba của vận tốc, vận tốc thương mại sẽ không bao giờ vượt 500 km/giờ. Nói rằng sẽ xây một tuyến đường với vận tốc 650 km/giờ là huênh hoang. 22. "3 khâu đột phá chiến lược của Chính phủ" www.thanhnien.com.vn/Pages/20110731/Thu tuong neu nhiem vu cua Chinh phu nhiem ky moi.aspx
|
|