|
Post by Can Tho on Dec 13, 2006 8:51:19 GMT 9
www.thoughtco.com/about-us Tham Khao Tư-duy tự-doVietsciences- Phan Huy Đường 25/01/2009 Tu Do & Thuc Dan CSIII. Những nền tảng của kiến-thức 10. Chính-trị, nghệ-thuật làm-người Nếu nhân-loại mảy may còn chút tương-lai hờ, thì sẽ không do chuyện kéo dài quá-khứ kia hay hiện tại này. Nếu chúng ta định xây dựng thiên niên kỷ thứ ba trên cơ sở đó, chúng ta sẽ thất bại. Và giá phải trả cho sự thất bại ấy, trả cho sự từ chối thay đổi xã-hội, là màn đêm. Eric J. Hobsbawm[1] Tự-do, bình-đẳng, đồng-nhất Aristote đã từng nói : con người là một con-vật-chính-trị. Ngày nay, người ta vẫn thích trích dẫn ông. Trong một ý-nghĩa hiện-đại đáng buồn. Con vật đó đã xuống giá thảm hại. Người ta bàn về nó với cảm-giác kỳ quặc nửa như khâm phục một vận-động viên nửa như lờ mờ ghê tởm. Ta khâm phục thiên tài mánh khóe, bộ mặt nhập nhằng, nghệ-thuật tuyệt luân chơi chữ và ăn nói nước đôi, khả-năng quyến rũ bằng media, nỗi đam-mê, tài chinh phục và ý chí quyết liệt ôm quyền-lực của nó. Nhưng ta không sao cản được cảm-giác lờ mờ ghê tởm đối với sự vô nghĩa cỏn con của nó. Câu nói trên đã khơi nhiều suy-luận đáng chú ý về chính-trị. Con người đúng là con vật phải phục-tùng nhu-cầu và bản-năng của loài người. Nó mãi mãi là con vật bất kể những nền văn-hoá sẽ phát-triển ra sao. Tư-tưởng của người Hy-Lạp cổ lớn ở chỗ thẳng thắn công nhận điều ấy : khi chào đời, con người chưa là người. Nó nên-người bằng cách kế thừa văn-hoá do tiền nhân để lại trên quả đất này nhờ sự giáo dục mà người đương thời ban bố cho nó. Mọi nền văn-hoá công nhận sự-thật ấy. Không nền văn-hoá nào coi thường tầm quan trọng cơ-bản của giáo dục, trước tiên do gia đình[2], sau đó do xã-hội ban bố, trong quá-trình nhân-hoá hay phi-nhân-hoá con người. Con người đúng là toàn bộ quan-hệ xã-hội của nó. Xuyên qua ngôn-ngữ, quan-hệ xã-hội ấy lan rộng tới toàn bộ người đời xưa. Nội chuyện nêu danh Aristote ở đây cũng đủ thấy. Con người nên-người và tiếp tục làm-người xuyên qua quan-hệ xã-hội của nó. Dựa vào và xuyên qua quan-hệ xã-hội, nó tái-tạo nhân-loại của quá-khứ, sáng-tạo nhận loại của tương-lai. Có thể lý do đó khiến Socrate, khi bị ép lựa-chọn giữa lưu vong hay chết, thà chết còn hơn ra đi. Phải chăng, đối với ông, ra đi không chỉ là chết trong lòng một tí mà còn hơn là chết vĩnh-viễn ? Rời bỏ thành-quốc, ông sẽ tan mình cả xác lẫn hồn trong Hư-vô. Nuốt thuốc độc cần[3] trong lòng cộng đồng, ông chết với tư cách người và, qua hành-động ấy, tiếp tục sống ở ta. Vì thế ta còn nhớ cuộc tự-sát của ông : nó tạo ý-nghĩa và giá-trị. Người Hy-lạp cổ khác các dân tộc khác[4] bởi quan-niệm của họ về quan-hệ xã-hội : đó là quan-hệ giữa những con người đoàn-kết[5], tự-do và bình-đẳng, giữa những « công-dân » của Thành-quốc[6]. Nói rằng những con người thuộc một cộng đồng đoàn-kết, gắn bó, chung thân phận quả là nói một ý hai lần. Nhưng đoàn-kết trên cơ sở tự-do và bình-đẳng là một tính đặc-thù Hy-lạp. Công-dân Hy-lạp tự-do vì họ không lệ-thuộc người khác về mặt vật-chất để sống : nô-lệ đảm bảo cho họ nhu yếu phẩm để sống và thời-gian rảnh để lo việc của Thành-quốc. Họ không bình-đẳng trên cơ sở sức lực, tiền của, tài năng. Họ bình-đẳng với nhau trong tư cách người tự-do. Đây là dân tộc đầu tiên trong lịch-sử phát minh thể chế chính-trị dân-chủ trên nền tảng kinh-tế nô-lệ. Chưa ai giải thích vì sao chuyện ấy không những có thể hình dung mà còn có thể thực-hiện được. Một bài thơ ngông cuồng lộng lẫy trong quá-trình nhân-hoá của các nền văn-minh. Sự bình-đẳng xã-hội của người Hy-lạp cổ ăn khớp với sự đồng-nhất về nhân-tính của họ. Nói rằng con người là toàn bộ quan-hệ xã-hội của nó cũng có nghĩa là nói « nó bằng chính nó » trong chừng mực nó là cả loài người, là người và, vì thế, mọi người « bằng nó », rằng họ là người như nhau. Chính vì thế người Hy-lạp cổ coi nô-lệ như một loại thực-thể khác biệt, không là người như họ, công-dân của Thành-Quốc. Khả-năng loại trừ người khác khỏi nhân-giới vạch giới hạn của thế-giới-quan của họ. Flaubert đã minh hoạ điều ấy ở con người, một cách đáng phục, trong truyện Salammbô. Amilcar Barca định dùng con một người nô-lệ thế mạng cho con trai mình để tế thần Moloch. Người bố già quỳ xuống ôm đầu gối ông, xin ông tha mạng đứa trẻ. Amilcar hết sức ngạc nhiên[7] : làm sao nô-lệ có thể có tình cảm hao hao giống như tình cảm của chính-mình ? Trong mắt Amilcar, người nô-lệ già, tuy đã từng nuôi nấng chàng, chưa bao giờ là người cả. Ý-niệm bình-đẳng giữa người với người có nội-dung lịch-sử cụ-thể gắn liền với kích-thước có-thực của sự đoàn-kết giữa họ. Nó từ từ phát-triển, từ kích-thước giới hạn của những bày đàn nguyên thủy tới cả nhân-loại. Quan-hệ giữa người với người thiết lập, phát-triển tới đâu, hành-động và văn-hoá của họ xâm nhập vào nhau đến đâu, nội-dung ấy lan rộng đến đó. Mới đây, nó đã đạt một nội-dung phổ-cập. Như thế, sự bình-đẳng đó không có tính tự-nhiên, nó có tính xã-hội[8]. Nó chỉ có thể có được nhân danh sự đồng-nhất về nhân-tính của con người mà ta gọi là đoàn-kết. Vì sự đồng-nhất nhân-tính kia tự-hiện-thực dưới hình-thái của một đám người cá-biệt mà ý-niệm bình-đẳng hình thành : một quan-hệ bình-đẳng đòi hỏi ít nhất hai tác nhân. Nói rằng mọi con người đều bình-đẳng trong tư cách người, có nghĩa là thừa nhận tính ba-chiều-kích của con người. Với tư cách vật-thể, nó chỉ có một và là độc-nhất trong không-thời-gian. Với tư cách sinh-thể, nó có thể tạng và lịch-sử riêng không thể quy-nạp về bất cứ sinh-thể nào khác. Với tư cách tinh-thần, nó là toàn bộ nhân-loại và, trên danh nghĩa đó, nó bình-đẳng với mọi người : « một con người trọn vẹn, cấu tạo bằng cả nhân-loại, ngang giá với mọi người và bất cứ ai cũng ngang giá với mình. »[9] « Một người, một phiếu ». Một người bằng giá-trị một người. Giá-trị đó không dính dáng tới con-người-vật-chất hay con-người-sinh-vật. Nó chỉ có thể ám chỉ con-người-tinh-thần, con-người-văn-hoá, con người « cấu tạo bằng cả nhân-loại ». Nhưng con người ấy chỉ hiện-thực dưới hình-thái một thực-thể cá-biệt. Tùy ý, ta có thể ứng-xử với nó như với vật-thể, sinh-thể, trí-thể, một cách riêng biệt hay như một tổng-thể. Những khả-năng đó đều hiện-thực. Chúng quy định cái khung của những quan-hệ giữa người với người. Khi ta quy con người về vật-thể mà nó là, ta gán cho từ « bình-đẳng » một nội-dung đơn thuần lượng, gán cho nó ý-nghĩa của một quan-hệ bằng-nhau vật-lý[10]. Quả nhiên, trong nền văn-hoá của ta, người ta ứng-xử như thế khi người ta nói rằng con người này nặng[11] một tỷ đôla hay trị giá 1500 Euro một tháng. Đối với tuyệt đại đa số người, sự quy-nạp bản-thể ấy tự-hiện-thực mỗi ngày trong thị-trường cơ-bản nhất của nền văn-minh dân-chủ thị-trường, thị-trường lao-động, thị-trường nhân công. Tại Hà Nội có một thị-trường kiểu ấy mà người ta đặt tên một cách hiện-thực khủng khiếp : chợ cơ bắp hay chợ người. Khi người ta ứng-xử với con người như với con thú mà nó là, người ta đề nghị thay quan-hệ bình-đẳng bằng quan-hệ công-bằng[12] : do thể tạng và lịch-sử cá-nhân của nó, nó ít nhiều khỏe, khéo, thông minh hơn người khác và vì thế xứng đáng nhận bao nhiêu hay bao nhiêu đồng lương[13]. Nhưng lấy đơn vị nào để đo lường sự xứng đáng kia ? Vòng lá thắng phù du của vận-động viên điền kinh Hy-lạp hay một triệu đôla cho người vô địch quần vợt tại Flushing Meadow ? Người thua nhận 200.000 đôla ít hơn. Số tiền ấy đâu đo đếm được độ chênh lệch về tài năng của nó so với người thắng trận. Thắng và thua đều tuyệt-đối. Đôi khi chỉ tùy thuộc một sự-kiện mong manh, một may rủi, thậm chí một sai-lầm của trọng tài. Đó là một giá-trị trong một trò giải trí xã-hội. Những đối thủ cảm-nhận rõ điều ấy : họ không khóc vì bắt hụt một số tiền có thể kiếm thêm mà vì không nắm được cái cúp để dương lên trước mắt quần hào[14]. Tìm cách thay thế lý-tưởng bình-đẳng giữa người bằng ảo ảnh của sự « công-bằng » đối với thú-vật trong thế-giới này, nơi những quan-hệ cơ-bản nhất giữa người với người, những quan-hệ đảm bảo sự tồn-tại của xã-hội và của những cá-nhân, bắt buộc phải quy thành một quan-hệ về lượng, một quan-hệ giữa những vật-thể, là chuyện hão. Chỉ mới bước ra khỏi bài diễn thuyết, chỉ mới trở về thế-giới thực, ta bắt buộc phải nói một con người trị giá bao nhiêu. Tất cả ? Chẳng gì cả ? Bằng một cái gì ? Một cuộc đời khác ? Một người khác ? Một đôla ! Con người bình-đẳng với nhau trong tư cách người. Đó là cách nói dung tục, cách nói đúng ! Chuyên-gia biện-chứng am hiểu truyền thống kinh-viện, si mê tiếng Pháp, sẽ viết : thể đồng-nhất của loài người tự-hiện-thực xuyên qua sự khác biệt giữa họ và tự-giải-quyết trong sự công nhận sự bình-đẳng với nhau[15]. Thật là rắc rối, uyên bác, bí hiểm, hơi buồn cười, bàn dân hoàn toàn không thể hiểu được. Tuy thế, ta không nên cười những lời hư ảo đó. Nó không chỉ đơn thuần là một trò chơi chữ nghe rất kêu nhưng bất-lực, một thuật đau đớn để luyện ảo[16] khái-niệm. Đó là cách trình bày vô-xác, tuyệt vọng của những người của Thực-thể và của chữ nghĩa[17], để miêu tả một hiện-thực ta có thể chứng kiến mỗi ngày trong quá-trình nên-người của một đứa trẻ. Ta nên chú ý tới tính đặc-thù của tự-do của người Hy-lạp. Đó là tự-do của con người trong Thành-quốc. Nó không thể tách rời sự đoàn-kết giữa họ, nó hình-thành trên cơ sở sự bình-đẳng giữa họ. Nó biểu-hiện sự đồng-nhất nhân-tính của họ. Những nhà cách-mạng Pháp năm 1789 không nhầm lẫn trong hoài bão của họ khi họ tạo ra khẩu hiệu của nền Cộng hoà : Tự-do, Bình-đẳng, Trong-tình-anh-em. Con người trở nên tự-do và bình-đẳng tùy theo mức độ họ trở thành anh em, gắn bó với nhau trong quá-trình nên-người, làm-người. Gắn bó thì họ đã gắn bó với nhau rồi, nhưng trong quá-khứ, trong bản-chất, trong khả-năng, với tư cách thực-thể văn-hoá. Nhưng nếu họ muốn tiếp tục làm-người, họ phải quyết định tiếp tục trở-thành-người, thực-hiện điều ấy trong cuộc sống hiện tại bằng cách hành-động cùng với người khác vào thế-giới chung, bằng cách ứng-xử như một con-vật-chính-trị, bằng hành-động chính-trị. Thế gọi là tự-do. Trong bối-cảnh, đương nhiên. Nhưng khá hơn, trong nhân-tính. Vì nếu ý-thức của con người luôn luôn là ý-thức về một điều gì, nó chỉ như thế trong thuyết-trình[18]. Nhờ người đời xưa, thuyết-trình ấy có thể có được để thuyết phục người đời nay và thử quyến rũ một vài người đời sau. Một khi con người chỉ có thể áp-bức con người thôi thì con người chỉ có thể trở-thành-người tự-do đối với những người tự-do và bình-đẳng với mình. Tự-do của ta đòi hỏi mọi người phải tự-do và bình-đẳng. Trong nghĩa đó, nó là, nó muốn nhân-tính. Ngày nào, dưới hình-thái này hay hình-thái kia, vẫn còn « chủ » và « nô-lệ » trong thế-giới này, các ông « chủ » dù áp đặt được quyền-lực của họ bằng tên lửa hay Thị-trường, thì sự-thật của họ vẫn chỉ có thể đọc được trong ánh mắt của những người « nô-lệ » họ. Họ không có gương nào khác để nhận diện chính-mình, căm thù hay yêu chính-mình. Tiếc thay, có những mối tình còn kinh khủng hơn tất cả những mối thù trên quả đất này. Hai bộ mặt của tính chính-đáng của quyền-lực chính-trị Một đặc điểm nữa trong tư-duy chính-trị của người Hy-lạp cổ là ý-chí hiểu bản-chất của Nhà-nước, của chính-quyền, là mang lại cho nó một tính chính-đáng hợp-lý. Ý-chí ấy gắn liền với quan-điểm của họ về con người như một sinh-vật chính-trị. Nếu con người chỉ là con thú, sức-mạnh và mưu mẹo đủ để khiến quyền-lực của nó trở thành chính-đáng. Loại quyền-lực ấy không có tính chính-trị. Vì nó là một con-vật-chính-trị, bản-chất chính-trị của nó không tùy thuộc vật-tính hay sinh-tính của nó và do đó không tùy thuộc những quan-hệ vật-tính hay sinh-tính mà nó có với thế-giới, bản-chất ấy tùy thuộc thực-thể-ở-Thành-quốc của nó, tùy thuộc những quan-hệ văn-hoá[19] mà những đồng-công-dân của nó sáng-tạo ra để tạo giá-trị cho hành-động chung của họ vào thế-giới. Trong những hình-thái xã-hội ở đó con người không nhìn nhận nhau như tự-do và bình-đẳng, họ phải tìm sự chính-đáng của quyền-lực ngoài bản thân họ, ngoài quan-hệ giữa họ, trong tôn-giáo hay thú-giáo. Những thượng-đế, thần-linh, mệnh trời hay những quan-hệ huyết-thống, bộ-lạc, bộ-tộc, gia-tộc... làm nền tảng cho quyền-lực. Nhưng một khi họ nhìn nhận nhau như người tự-do và bình-đẳng, quyền-lực điều hành quan-hệ giữa họ chỉ có thể do họ tạo ra, do trí-thể mà có. Hành-động chung tạo ra nhu-cầu phối hợp hành-động của những cá-nhân để đảm bảo thực-hiện mục đích chung. Nhu-cầu ấy có thể khai sinh một quyền-lực. Điều kiện đó cần-thiết, không đầy đủ. Khi hành-động chung giới hạn trong không-gian, thời-gian hay độ phức tạp, những cá-nhân có thể phối hợp hành-động mà không cần đến môi-giới của một cơ quan độc-lập. Ta chứng kiến điều ấy trong những cộng đồng người chưa phát-triển lắm nơi đó hành-động chung không khai sinh bất cứ một hình-thái quyền-lực đặc biệt nào[20], trong nhiều trò giải trí xã-hội không cần trọng tài. Khi hành-động chung đạt quy mô nào đó, trở thành phức tạp, nó tạo nhu-cầu phối hợp thường xuyên những hành-động cá-nhân. Phải có người tập trung đảm bảo sự phối hợp đó. Nhu-cầu phối hợp hành-động biến thành một chức-năng độc-lập tập trung ở một con người là cơ sở quyền-lực của nó. Người được trao chức-năng đó nhận một quyền-lực tinh-thần và phương-tiện cưỡng bức đối với những đồng-công-dân của nó. Người sử dụng quyền-lực đó tìm thấy tính chính-đáng của mình trong sự thừa nhận khả-năng gánh vác vài trò ấy để thực-hiện những mục đích chung. Như thế, tính chính-đáng của nó dựa lên hai đòi hỏi : tính đại biểu và hiệu quả. Hai đòi hỏi đó là nền tảng của tính chính-đáng chính-trị. Sự chính-đáng đó chấm dứt khi mục đích đã đạt được[21]. Nó cũng chấm dứt khi người được trao quyền-lực mất tín nhiệm của cộng đồng hay khi nó chứng tỏ không có khả-năng thực-hiện nhiệm vụ nó được trao. Điều đó, cuối cùng luôn luôn tước bỏ mọi tính chính-đáng của nó. Đó là nội-dung cơ-bản của cuộc khủng hoảng văn-minh ta đang sống. Khi ông François Mitterrand thản nhiên tuyên bố rằng trong vấn đề chống nạn thất nghiệp, ông đã làm mọi chuyện, không có gì thành công, không thể làm gì khác ngoài chịu đựng, cam tâm, ông công nhận ông không có khả-năng thực-hiện nhiệm vụ mà người ta đã trao cho ông. Nếu thế, ông còn đại diện ai để làm gì ? Ông chỉ còn đại diện sự bất-lực của người Pháp khi họ muốn xây dựng một xã-hội trong đó họ cảm-thấy họ được làm người một cách trọn vẹn. Sự chính-đáng của ông quy về (điều không ai uỷ quyền cho ông cả) sự phục-tùng những « thị-trường tài-chính », những « quy-luật thị-trường », những uy quyền không có gì là tự-nhiên và không do ai bầu ra cả. Thế mà chính chúng vạch ra ranh giới của cái mà người ta gọi là sự-khả-thi, chứ không phải khoa-học hay những giới hạn sinh-tính của con người. Phục-tùng chúng nghĩa là tiêu diệt chính-trị khỏi không-gian công cộng, vứt bỏ mọi tính chính-đáng của hành-động chính-trị. Khi tính « chính-đáng » về quyền sở-hữu của vài đứa trên phương-tiện-sản-xuất do người khác tạo ra tiêu diệt khả-năng hành-động của tất cả người khác, nhốt mọi người vào sự bất-lực, cam chịu, phục-tùng, nó tiêu diệt tận gốc ý-niệm chính-trị, biến tính đại biểu nhân dân thành tuồng hát tinh khiết, thành kịch câm. Không nên mất thời giờ lên án các media. Chúng không trực tiếp trách-nhiệm điều ấy. Cơ-bản, chúng dựa hơi và khuếch đại màn hài kịch. Chúng chỉ là những đứa nịnh thần phi thường : chúng đúc nỗi bất-lực của ta thành hình ảnh, vẽ một vẻ mặt cho tính phi-nhân quá hiển nhiên của ta. Qua chúng, chính-trị-gia trở thành lá nho mà nó là, để che dấu sự bất-lực của con người trong một thời đại, khi nó muốn quyết định tương-lai của nó. Chính-trị-gia đó là hình ảnh trung thực của chính ta, một lớp phấn son sặc sỡ được tô vẽ với sự từ bỏ chính-mình, sự lừa gạt, sự phét lác. Nó là cầu vồng day dứt tiết ra từ sự tan rã của một nền văn-minh. Nó không là một con-vật-chính-trị nữa. Nó đơn giản là một con vật, con vật huy hoàng nhất trong muôn ngàn thú-vật, con tắc kè hoa, thể-hiện qua một hay nhiều người, nếu cần qua toàn bộ giới chính-khách, con vật có lớp da đượm màu sắc bạo liệt hay run rẩy của Thị-trường huyền-bí, mà tâm-hồn thu gọn trong màu da, thực-thể tưởng rằng có thể mua hồn mình với giá bán bộ da của mình. Điều bất-khả-thi không thuộc nhân-giới Chúng ta, người Pháp, yêu chuộng những câu bỏ nhỏ, những cách nói khéo, dù chẳng còn ai điên tới mức thèm đùa một câu duyên dáng vì một chính nghĩa đẹp, rồi chết[22]. Đã bao lần ta miên man trước khẳng-định sâu sắc đến chóng mặt sau : chính-trị là nghệ-thuật của sự-khả-thi. Nâng chính-trị thành nghệ-thuật, rồi tức khắc giới hạn nó ở mức khả-thi[23] để cho phép và biện minh một cách ít tốn kém cả tiền lẫn nước bọt cho đủ loại chính-trị, lộn vòng nhảy nhót như thế quả là tuyệt vời ! Thú vui tinh khiết chơi ngôn-từ riết cũng có khả-năng che dấu con người hiện-thực. Khi người ta nêu chính-trị như nghệ-thuật của sự-khả-thi, một cách rất uyên bác, người ta mời mọc ta đừng rơi vào luận-điểm mị dân, giữ tinh-thần trách-nhiệm. Phục-tùng sự-khả-thi[24] là có tinh-thần trách-nhiệm. Không ai có quyền buộc ai làm chuyện bất-khả-thi ! Như thế, ai khôn ngoan cứ hứa hẹn[25] mọi điều bất-khả-thi để hốt phiếu và, vừa được bầu, phục-tùng ngay những điều khả-thi. Làm như thế, họ nói với ta, là ứng-xử với phong cách của một thủ lĩnh có tầm cỡ Nhà-nước. Khinh bỉ cử tri một cách khốn nạn đến thế là cùng ! Con người không điên tới mức như người ta xuyên tạc. Họ có thể điên thật trong đời sống tinh-thần, thơ văn, nghệ-thuật của họ, những lĩnh-vực ở đó cái gì cũng khả-thi, hay trong sự tuyệt vọng khi không còn gì có khả-năng cấm họ làm bất cứ gì. Ngoài ra họ rất thực tế. Nhưng ta cứ thử chơi trò chơi này một cách lương thiện. Nghệ-thuật của sự-khả-thi ? Đồng ý. Nhưng khả-thi trong lĩnh-vực nào ? Trong quan-hệ giữa người với vật-chất ? Những quan-hệ đó tùy thuộc khoa-học và cộng nghệ, không tùy thuộc chính-trị ngay cả dưới dạng nghệ-thuật. Hiện nay, ta có thể, nội vài giây, xoá bỏ Paris khỏi mặt đất, nhưng ta chưa thể dạo một vòng trên hành tinh Vệ Nữ rồi về nhà nội trong một tiếng đồng hồ hỏa tiễn. Hiện nay ta chưa thống-nhất được kiến-thức của ta về bốn lực vật-lý điều hành sự vận-động của vũ trụ. Để làm những chuyện ấy, ta nên kiên nhẫn tin tưởng vào những nhà khoa-học. Ta chẳng nên chờ đợi bất cứ điều gì ở những chính-trị-gia[26]. Trong quan-hệ giữa con người với sự-sống ? Một phần đã rơi vào lĩnh-vực khoa-học. Người ta đã biết làm tuyệt sinh sản những hạt giống[27], tạo những cây với hệ gien bị thay đổi, những đứa trẻ thụ thai trong ống nghiệm, người ta đã biết sao chép thú-vật và con người[28]. Phần còn lại, điều khả-thi giới hạn trong những bó buộc sinh-học riêng của từng loài sinh-vật. Ta có thể ăn khác đi và ngon hơn, ta không thể vĩnh-viễn nhịn ăn. Vậy, chỉ còn lĩnh vưc quan-hệ giữa người với người. Nhưng đó lại là lĩnh-vực duy nhất mà mọi điều đều khả-thi. Thiện nhất cũng như ác nhất. Điều chắc chắn cũng như điều không thể hình dung được. Thế kỷ 20 chứng minh quá rõ điều ấy với những cuộc sát sinh vĩ đại, Hiroshima và Nagasaki, những chủ-nghĩa phátxít, thực dân, chiến tranh đế quốc, cuồng tín tôn-giáo hay ý-thức-hệ đủ loại, những cuộc thanh lọc chủng tộc, đào thải con người khỏi xã-hội, sự bành trướng của chủ-nghĩa kỳ thị chủng tộc trong xã-hội của ta, chiến tranh kinh-tế đương đại, hiện-tượng buôn bán đàn bà, bóc lột trẻ con... và Gandhi. Nếu tất cả đều có thể, điều tệ nhất không đương nhiên. Quá-trình nhân-hoá hay phi-nhân-hoá con người không có tiền-định. Trong nghĩa đó, chính-trị chính là nghệ-thuật thực-hiện sự bất-khả-thi. Người Hy-lạp cổ chứng minh điều ấy khi họ sáng-tạo thể chế dân-chủ trên cơ sở kinh-tế nô-lệ, điều không thể tưởng tượng và không ai tưởng tưọng ra ở thời đại họ. Sự bất-khả-thi không thuộc thế-giới của người Hy-lạp. Sự bất-khả-thi không thuộc nhân-giới. Vì con người tự-do. Chính-trị, quan-niệm như nghệ-thuật của sự-khả-thi mơ hồ mà người ta đã đặt và áp đặt[29], tất-yếu dẫn tới sự cam phận của những công-dân, sự vô liêm sỉ của chính-khách. Do đó họ chẳng có ý-nghĩa, giá-trị gì cả. Do đó người đời ngày càng dửng dưng đối với chuyện công, ngày càng ghê tởm chính-trị và chính-trị-gia : đó chỉ là những bức ảnh phản-chiếu sự thoái hoá chết người không thể chấp nhận được của chính họ. Là người sử dụng tài tình nghệ-thuật chính-trị ấy, ông Mitterrand chắc chắn sẽ để lại Đại Khải Hoàn Môn, Kim tự tháp ở Louvre và Thư viện mang tên ông trên nhựa đường thành phố Paris. Còn lại, ông chỉ thành công trong chuyện an ủi người Pháp về sự bất-lực của họ, ông đã giúp họ nuốt chửng giấc mộng « đổi đời », đổi xã-hội. Một cách rất « nghệ-thuật » ông đã giúp họ học phục-tùng (một cách kiêu hãnh, nghĩa là qua ngôn-từ phiếm[30]) hiệu lệnh của một thế-giới do người khác quan-niệm và áp đặt. Dường như những kẻ khốn nạn ấy không có nhu-cầu nhớ-lại lắm. Ông rất ít khả-năng lưu lại kỷ-niệm lớn trong giấc mộng làm-người của ta[31]. Trong lĩnh vưc quan-hệ giữa người với người, mọi chuyện đều tùy thuộc con người và chỉ tùy thuộc nó thôi. Điều đó không có nghĩa là nó có thể làm bất cứ gì, bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu, bất cứ thế nào, trong mọi lĩnh-vực. Điều nó có thể làm, cách thực-hiện, thời điểm thuận lợi nhất để thực-hiện điều ấy trong quan-hệ của nó với vật-giới hay sinh-giới, đều bị giới hạn khắt khe bởi kiến-thức hay cơ cấu sinh-tính của nó. Nhưng, trên cơ sở đó, điều ta muốn làm đối với chính ta, đối với quan-hệ giữa ta với nhau, chỉ tùy thuộc ta. Ta muốn chung sống trong thế-giới chung như thế nào ? Tùy quyết định ấy, ta sẽ sử dụng hay không sử dụng kiến-thức và phương-tiện mà loài người đã tích lũy cho tới ngày nay. Ta có thể cho phép đứa trẻ sinh ra ngoài hôn thú hưởng hay không những quyền lợi của đứa trẻ do một cặp có hôn thú sinh ra. Ta có thể cho phép một người ném bom hạt nhân trên đầu người khác hay cấm đoán điều ấy. Ta có thể lựa-chọn sản-xuất vũ khí hay cung cấp cho cả nhân-loại cơm áo và học hành. Ta có thể lựa-chọn giữa đánh thuế lợi nhuận tài-chính hay lương lao-động, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp[32] hay cải thiện đời sống của các gia đình, theo những tỉ lệ khác nhau... Khi ta lựa-chọn một hình-thái xã-hội, ta lựa-chọn thế-giới trong đó ta thèm sống, vì nó ta dám đấu tranh và đồng thời lựa-chọn ta nên làm gì với gia tài nhân-loại đã qua để lại cho ta. Trong sự lựa-chọn đó, không có gì bất-khả-thi cả. Sự lựa-chọn chung đó quyết định ranh giới của chính-trị, ranh giới của hành-động có ý-thức, có sự ưng thuận của con người. Trong tư cách thực-thể văn-hoá, ta bị giới hạn ở đó[33]. Trong khuôn khổ những giới hạn đó, không có giới hạn nào khác ngoài giới hạn do khoa-học và sự-sống ràng buộc hành-động của ta. Trong chừng mức con người có khả-năng sáng-tạo, có khả-năng nghệ-thuật, chính-trị không là nghệ-thuật của sự-khả-thi. Nó là nghệ-thuật sáng-tạo, trong những hoàn cảnh lịch-sử nhất định, những hình-thái quan-hệ mới giữa người với người cho phép mọi người sống một cách nhân-đạo, cho phép những kẻ đang hay sẽ chào đời học-làm-người. Đó là nghệ-thuật nhân-hoá thế-giới, nghệ-thuật làm-người. Con người là một con-vật-chính-trị vì nó là một thực-thể-tự-do, một thực-thể-xã-hội, một con vật văn-hoá. Hiện nay thiên hạ bàn liên miên về nhu-cầu đặt lại nền tảng cho chính-trị. Mọi người đều cảm-nhận lờ mờ là phải trả lại công-dân vai trò của nó, phải cho nó quyền tham dự đầy đủ vào hành-động chính-trị. Nó phải trở thành lại tác nhân có ý-thức và có hiệu-lực của tương-lai của chính nó trong một dự-kiến về tương-lai trong đó mọi người, với tư cách là thành viên của Thành-quốc, có đầy đủ chân đứng của mình. Như thế là công nhận rằng ta chỉ có thể đặt lại nền tảng của chính-trị trên văn-hoá, toàn bộ quan-hệ với thế-giới mà con người tái-sinh, tái-tạo, sáng-tạo hàng ngày xuyên qua quan-hệ chung của họ với thế-giới này. Nhưng chính văn-hoá này, văn-hoá của ta, đã đưa nền văn-minh của ta vào ngõ cụt hiện nay. Ta không thể tạo lại một nền tảng cho chính-trị mà không tạo lại nền tảng văn-hoá của ta, không cách-mạng hoá quan điểm của ta về những quan-hệ giữa con người với vật-chất, sự-sống, tha-nhân và chính-mình. Những nhà khoa-học lo hai chuyện đầu rất hữu hiệu. Còn chuyện thứ ba. Chính trong lĩnh-vực này thì mọi chuyện mới khả-thi. Chỉ trong lĩnh-vực này ta mới có thể, cùng nhau hay mạnh ai nấy làm, quyết định ta sẽ dùng vào việc gì những kiến-thức, của cải do lao-động và trí-tuệ của người đời xưa đã tích lũy, những ý-tưởng của người đời xưa, đời nay và, trong chừng mực nào đó, của người đời sau. Dùng để phục vụ nhân-loại trong quá-trình nhân-hoá của nó hay để tăng lợi nhuận trước mắt của một thiểu số, tăng sự giàu có của chúng ? Một cuộc động não triết-học rất đáng làm, rất cần-thiết. Chỉ nó mới có khả-năng tạo lại nền móng cho công-ước xã-hội[34] bằng cách đào sâu, cải tiến những giá-trị cũ của nền văn-minh của ta, sáng-tạo những giá-trị mới. Nó chỉ có khả-năng thành công nếu nó kéo theo nó đa số công-dân trong xã-hội. Trong quá-trình này, trí thức, chủ và nô-lệ thực thụ của ngôn-ngữ, giữ một vai trò cơ-bản, chịu một trách-nhiệm không thể trốn tranh.
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2010 8:17:29 GMT 9
[1] L’Âge des extrêmes, Histoire du court XXe siècle, tr. 749, Eric J. Hobsbawm, éditions Complexe, 1999. [2] Bất kể hình-thái « gia đình » nào. [3] cigüe. [4] đã đạt cùng trình độ phát-triển kinh-tế, kỹ thuật… [5] Trong chương này, nội-dung chính của khái-niệm đoàn-kết là : có quan-hệ hữu-cơ với nhau, chung một thân phận và ý-thức điều đó. Thí dụ : người trong giai cấp tư-bản cơ-bản đoàn kết với nhau tuy hàng ngày vẫn cạnh tranh với nhau đến mức có thể thịt nhau. [6] Từ politique (chính-trị) có gốc Hy-lạp là từ politikos nghĩa là : liên quan tới Thành-quốc. [7] nghệ-thuật ở đó ! [8] Nói chinh xác hơn : nó tự-nhiên đối với con người vì con người trong tư cách trí-thể là một thực-thể xã-hội-tính. [9] J-P Sartre, Les mots, Éditions Gallimard, 1964, tr. 213 [10] Égalité có nghĩa bằng-nhau hay bình-đẳng, có thể ứng dụng cho cả vật-giới lẫn nhân-giới. Trong tiếng Việt bình-đẳng chỉ có thể áp dụng cho nhân-giới. Tiếng Việt khá hơn tiếng Pháp ở điểm này. Ngay trong nghĩa đó, nói rằng trong thế-giới vật-lý có hai vật-thể bằng-nhau là nói sai hay thiếu chính xác. Giữa hai vật-thể đó, dưới một góc độ quan sát nào đó, trong khuôn khổ của một hành-động nào đó, có một quan-hệ chính xác về lượng. Thế thôi. Ta gọi quan-hệ đó là bằng-nhau. Ta đặt hai vật-thể trên hai cái khay của một bàn cân và ta xác-nhận : chúng nặng bằng-nhau xuyên qua quan-hệ cân. Về mặt khác, chúng không có gì bằng-nhau cả, ngay cả khi chúng có hình thù y-hệt nhau, chỉ vì chúng vĩnh-viễn khác nhau trong không-thời-gian. Thí dụ này cho thấy rõ : khác biệt ngôn-ngữ giữa tiếng Pháp và tiếng Việt ảnh hưởng trực tiếp suy-luận của con người. Trong tiếng Việt « bằng-nhau », tương đương với khái-niệm égalité, có thể ứng dụng trong cả ba thế-giới : nặng bằng-nhau, khỏe bằng-nhau, đẹp bằng-nhau. Nhưng bình-đẳng chỉ có thể áp dụng cho con người thôi. Không có hai cái bàn hay hai con chó bình-đẳng với nhau. Tuy vậy con người có thể cư xử bình-đẳng với hai con chó ! Kể ra, ý của Kant cũng không ngoa : triết-lý là xào xáo khái-niệm. La philosophie, c'est le travail du concept. Dịch « tự-do » ! [11] Một kiểu nói thời thượng ở Pháp. [12] Équité. Do một nhà tư-tưởng Pháp, Alain Minc (lúc đó rất thời thượng, mỗi năm ra một quyển sách bán chạy) đề xướng và gây nhiều tranh luận trong báo chí. Ngày nay đã bớt ồn ào. [13] Thường thường người ta nói một xét xử công-bằng khi nó tính tới những « tình tiết giảm tội » hay, trong nỗi lo âu thực-hiện công-lý, nó « đếm xỉa tới hoàn cảnh » và lặp lại sự bình-đẳng xã-hội-tính giữa con người bằng cách giảm bớt sự bất-bình-đẳng tự-nhiên. Một xét xử chỉ biết khẳng-định sức-mạnh của kẻ mạnh và tuyên án sức yếu của kẻ yếu không công-bằng. [14] Trước khi chiếm được ngôi vô địch đầu tiên trong bốn vòng đấu quần vượt lớn nhất trên thế-giới, Lendl, người « vô địch về nhì », kiếm nhiều tiền hơn McEnroe, cầu thủ hạng nhất thế-giới ! [15] Nếu chỉ hiểu theo chữ nghĩa, ngoài quá-trình đọc, một câu như thế đáng lĩnh đủ phê-phán sau của Marx đối với Proudhon : «... Vật liệu của ông Proudhon chính là những giáo-điều của những kinh-tế gia. Nhưng một khi ta đã không theo rõi quá-trình vận-động lịch-sử của những quan-hệ-sản-xuất, mà những phạm-trù biểu-đạt chúng chỉ là hình-thái lý-thuyết, một khi ta chỉ muốn quan-niệm những phạm-trù ấy như những ý-tưởng, những ý-nghĩ hồn-nhiên, độc-lập với những quan-hệ có-thực trong thế-giới thực, ta bắt buộc phải lấy sự vận-động của lý-trí thuần-khiết làm nguồn gốc của những ý-niệm. Lý-trí thuần-khiết, vĩnh-cửu, không có chủ-thể làm cách nào để khai sinh ra những ý-niệm ? Nó tiến hành ra sao để sản sinh ra chúng ? Nếu ta liều lĩnh như ông Proudhon trong lĩnh-vực tư-duy kiểu Hegel, ta sẽ nói : Nó tự nó phân hoá với nó. Thế nghĩa là gì ? Lý-trí phi-chủ-thể, vì nó không có ngoài nó một mảnh đất để tự-đặt mình xuống đó, không có đối tượng để chống đối, không có chủ-thể khác để thoả hiệp, bị bắt buộc phải lộn nhào bằng cách tự-đặt mình, tự-chống mình, thoả hiệp với chính-mình – position, opposition, composition. [Thuật ngữ triết đặc-thù biện-chứng của Âu Tây. Chỉ có thể dịch ý thôi.] Để nói tiếng Hy-lạp, chúng ta có chính-đề, phản-đề, tổng-hợp-đề. Riêng với ai không biết ngôn-ngữ của Hegel, chúng ta sẽ tuyên bố công-thức thánh lễ : khẳng-định, phủ-định và phủ-định của phủ-định. Đấy, ăn nói rõ ràng là thế đấy. Đâu đến nỗi khó hiểu như tiếng Do Thái, mặc dù sẽ làm ông Proudhon không hài lòng. Đó là ngôn-ngữ của cái lý-trí quá đỗi thuần-khiết, cắt đứt khỏi con người cá-thể. Thay vì con người cá-thể bình thường với cách nói và suy-luận bình thường của nó, chúng ta chỉ còn lại cách nói bình thường ấy dưới dạng thuần-khiết, mất tuốt con người cá-thể. » [nghĩa là chỉ còn lời nói và tư-duy không có chủ-thể. PHD]. Marx Engels, Études Philosophiques, Éditions Sociales, 1974, tr. 90. Ứng dụng phê-phán trên vào bài của tôi, những « vật liệu » được nêu lên là những ngôn-từ đồng-nhất, khác-biệt, bình-đẳng. Đúng, đó là những giáo-điều. Đặc biệt đối với triết gia, và nói chung đối với những nhà tư-tưởng trong « khoa-học nhân-văn ». Ngôn-ngữ là một hình-thái quan-hệ giữa người với thế-giới. Chỉ xuyên qua những quan-hệ đó và ở trong từng con người cá-thể nó mới có ý-nghĩa. Tôi trích đoạn văn tuyệt vời này của Marx để mời độc giả đọc văn bản của tôi một cách biện-chứng, mời độc giả tự-giải-phóng mình tới mức có thể làm được khỏi cái vỏ cứng đã vật-thể-hoá ngôn-ngữ của chúng ta. [16] Alchimie. Giấc mơ hão luyện kim thành vàng của thời Trung Cổ của Âu Tây. [17] Hommes de l’Être et de lettres. Đùa tiếng Pháp : l’Être và lettres phát âm như nhau. Lẫn lộn chữ-nghĩa với hiện-thực. Một nội-dung quan trọng của tác-phẩm Les mots, Ngôn-từ của Sartre. [18] Nó khác « ý-thức » của súc vật ở điểm đó vì súc vật cũng là những thực-thể có ý-hướng như ta. [19] Toàn bộ những quan-hệ với thế-giới xuyên qua môi-giới của văn-hoá. [20] Xưa, trong một số bộ lạc người da đỏ ở Bắc Mỹ, có những hình-thái quan-hệ như thế. Tới mùa săn, họ bầu một xếp điều khiển những cuộc săn. Hết mùa, ai về « nhà » nấy sống, không ai là xếp của ai nữa. [21] Tổ quốc đời đời biết ơn có thể xây một đài tưởng niệm vĩ nhân của nó vì những kỳ công của vĩ nhân ấy trong quá khử và đồng thời trao lại quyền-lực cho người khác để thực-hiện những chuyện khác cho tương-lai. Điều ấy đã xảy ra với Churchill và De Gaulle sau Chiến tranh thế-giới 2. [22] Et je voudrais mourir, un soir, sous un ciel rose En faisant un bon mot, pour une belle cause ! Và ta muốn chết, trong hoàng hôn, dưới một bầu trời ửng hồng Trong một lời đùa duyên dáng, cho một chính nghĩa đẹp Cyrano de Bergerac, Edmond Rostand, Le livre de poche, 1972, tr. 246. [23] Điều mà không nghệ-sĩ đích thực nào có thể chấp nhận. [24] mà người ta cẩn thận không định-nghĩa.. [25] một cách nhập nhằng nhất. [26] Mặc dù họ có khả-năng cúp hay tăng ngân quỹ dành cho nghiên cứu khoa-học. [27] Để, khi cần, bỏ đói một phần nhân-loại ? [28] Thực nghiệm này đã được một số nhà khoa-học Nam Triều Tiên thực-hiện và chấm dứt khi họ đã thành công trong những giai đoạn đầu. [29] Trời ơi, do ai vậy ? [30] Người ta đã từng nói tới Tổng-thống-ngôn, Verbe présidentiel ! Than ôi, ngôn-ngữ ! [31] Chính-trị-gia tự lừa dối mình khi họ tưởng họ sẽ tồn-tại trong ký-ức của loài người xuyên qua những thế kỷ bằng cách khắc tên họ vào đá. Ta không có một bức tượng của Parménide. Nhưng một đầu óc tò mò sẽ xúc động nhớ rằng đó là người Hy-lạp đầu tiên đã nói với loài người về thế-giới : « Nó là ». Ngược lại, ta chiêm ngưỡng kim tự tháp của Khéops, nhưng con người Khéops hoàn toàn không thiết thân với ta. Nó có thể chưa hề tồn-tại. Tên của nó chỉ đủ dùng làm bảng nêu danh một đống đá. [32] đúng hơn : của những chủ doanh nghiệp. Kiểu nói này có một chức-năng : che dấu một sự-thật. [33] Những giới hạn đó là giới hạn của một nền văn-minh, của những giá-trị mà nó lưu truyền. Nhưng chính con người phải khẳng-định, phủ-định những giới hạn đó, phải sáng-tạo ra những biên giới mới. Dường như hôm nay, chủ-nghĩa tân-tự-do đã trở thành chân trời không thể vượt qua được của nền văn-hoá của ta, ít nhất là nền văn-hoá có cờ trong media và trong giới cầm quyền. [34] Contrat social, theo định-nghĩa của J-J Rousseau. @@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@ CONG HOA Chính thể không do một vị quân chủ cầu đầu gọi là chính phủ Cộng Hòa. Thê” chế Cộng Hòa (Republic) ngày này có nguồn gốc xa xưa từ Hy Lạp. Tuy nhiên danh từ “Cộng Hòa” mình dùng ngày nay lại bắt nguồn từ Trung Quốc! Năm 840 BC, Thiên Tử thứ 10 của nhà Chu là Lệ Vương, bạo tàn làm cua được 38 năm vì Thiên Tử tước đoạt những quyền lợi kinh tế của giới quý tộc, cộng thêm sự thống trị bạo tàn lâu năm, triều thần nổi loạn. Chu Lịch Vương bỏ chạy đi lưu vọng. Con của Lịch Vương là Tịnh sắp bị quần thần đêm ra giết hại, nhờ hai vị đại thần có uy tín là Chu Công và Chiêu Công ngăn cản. Chu Công và Chiêu Công cùng nhau quyết định việc nước, cho nên gọi là Cộng Hòa. Cộng Hòa có nghĩa là cùng chung sinh sống trong sự hòa hoản. Chu Công và Chiêu Công cai trị Nhà chu trong 14 năm, khi Lịch Vương chết thì trao quyền lại cho Tịnh. Tịnh thành Chu Tuyên Vương. Chu Tuyên Vương là cha của Vua Trụ. Vua Trụ là người mê Bao Tự, đốt phong hỏa để các chư hầu vội vả đến tiếp cứu, rồi chỉ thấy Vua Trụ và Bao Tự ngồi trên thành đàn ca, uống rượu và cười ha hả! Sau đó cha của Hoàng Hậu bị truất phế cùng quân Khuyển Nhung vào giết Vua Trụ, bắt cóc Bao Tự và đốt thành. Nhà Chu phải dời Thủ Ðô về phía Ðông. Chuyện Tàu xẩy ra sau đó được ghi trong truyện Ðông Chu Liệt Quốc! Trong 14 năm từ 840 BC đến 827 BC là thời kỳ Trung Quốc có chính thể Cộng Hòa đầu tiên. Danh từ Cộng Hòa bắt nguồn từ đó. Trong giai đoạn cầm quyền này, Chu Công và Chiêu Công để chứng tỏ họ không làm bậy, mướn người ghi lại tất cả lời nói, việc làm khi hai người lâm triều. Nó mở đầu cho cái lệ lời Thiên Tử nói đều được Thái Sử ghi chép cẩn thận. Nhờ vậy mà ngày nay Trung Quốc có một kho tàn lịch sử độc nhất vô nhị của nhân loại. Lịch sử được ghi chép cẩn thận hơn 2,800 năm trong đó chỉ có khoản thời gian 40, 50 năm là không có dữ kiện (sách, văn hiến) để kiểm chứng. Danh Từ Cộng Hòa Sau đây là đoạn văn trích từ Thế Gia số 9, Tấn Thế Gia, Quyển 39 của bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên viết vào thế Kỷ 2 BC. “Tịnh Hầu thập thất niên, Chu Lệ Vương mê hoạt bạo ngược, quốc nhân tác loạn, Lệ Vương xuất bôn ư Tri, đại thần hành chánh, cố viết Cộng Hòa.” Dịch nghĩa : Năm Tịnh Hầu thứ 17, Chu Lệ Vương mê hoạt bạo ngược, người trong nước nổi loạn, Lệ Vương trốn qua đất Tri, đại thần điều hành việc nước, nên gọi là Cộng Hòa. Từ câu trích trong bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên chứng tỏ danh từ “Cộng Hòa” đã có ít nhất từ thế kỷ thứ 2 BC. Dĩ nhiên danh từ Cộng Hòa không do Tư Mã Thiên phát minh ra, và cũng không do Khổng Tử vì bộ sử Xuân Thu do Khổng Tử soạn chỉ bao gồm giai đoạn 722 BC đến 481 BC!!!! Danh từ Cộng Hòa nguyên thủy là để dùng chỉ giai đoạn Chu Công và Triệu Công (không phải họ Triệu mà là Triệu như trong danh từ Triệu Tập) cùng nhau điều hành việc nước từ năm 840 BC (hay 841 BC) đến 827 BC. Khi dịch thể chế “Republic” của Tây Phương người Tàu dùng danh từ Cộng Hòa vì trong ngữ vựng Trung Hoa không có gì tương đương, và chữ gần nhất là Cộng Hòa! Chế độ “Cộng Hòa” sau khi Tôn Dật Tiên lật đổ nhà Thanh không gọi là “Công Hòa” mà gọi là Dân Quốc. Trung Hoa Dân Quốc chứ không phải Trung Hoa Cộng Hòa! Ðiều này chứng tỏ các nhà cách mạng Quốc Dân Ðảng khi lấy quốc hiệu họ hiểu rất rỏ rằng danh từ Cộng Hòa dịch cho Republic không được ổn lắm! Khi Trung Cộng thắng ở Ðại Lục, cái tên Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc do một người học giả không phải là đảng viên đảng Cộng Sản đề nghị vì cái tên Trung Hoa Dân Quốc (tên thích hợp nhất đã bị lấy trước!!!), Mao Trạch Ðông, Chu Ân Lai...toàn bộ cán bộ cao cấp lo lăn xăn tiếp thu chính phủ Trung Quốc! CSTQ không ngờ thắng nhanh như vậy, trước đó Trung Cộng không bao giờ bàn đến quốc hiệụ Quốc hiệu do Mao và những cán bộ cao cấp nghĩ đến trước, khi họ sắp ra tuyên bố thành lập chính phủ mới thấy không ổn (có lẽ những tay CSTQ cứ nghĩ sẽ lập Liên Bang Soviet Trung Hoa hay gì đó), mới có vụ bàn thảo và một giáo sư đại học nghĩ ra cái tên Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc! Và GS đó không phải là GS Sử !!!!! Từ câu chuyện lịch sử trên chúng ta thấy cái danh từ Cộng Hòa không có gì sát nghĩa với thể chế Republic của Tây Phương, không được những nhà cách mạng lật đổ chế độ quân chủ, lập chế độ “republic” dùng. Rồi CSTQ ấm a ấm ớ dùng nó làm quốc hiệu!!!! Ngày nay danh từ Cộng Hòa là danh từ để chỉ thể chế Republic, nhưng nguyên thủy nó chỉ để chỉ thể chế không có quân chủ cầm đầu, và do hai người điều hành quốc sự trong không khí hòa hoản.... Cộng Hòa!!! Chu Công và Triệu Công sau này bất đồng ý kiến với nhau, một người bảo rằng khi Chu Tuyên Vương cầm quyền mình nên rút vào bóng tối (hay về hưu), một người thấy không có gì không tốt trong việc tiếp tục phục vụ nhà Chu!!!! Hai đầu não Cộng Hòa “đầu tiên” của Trung Hoa kết cục “Bất Hòa”!!!! Ðó là cái thú nghiên cứu lịch sử! Chế độ nô lệ không ăn nhậu gì đến thể chế quốc gia! Nước Mỹ là nước “Cộng Hòa” từ khi lập quốc, Tổng Thống Mỹ thứ 16 là Abraham Lincoln mới đá động tới việc giải phóng nô lệ, và Nội Chiến bùng nổ!!! Tất cả nô lệ Mỹ được thật sự có tự do rất lâu sau nội chiến Mỹ! Một nước Cộng Hòa không có nghĩa là nó phải dân chủ tự do! Nó càng không có nghĩa là không được có nô lệ! Cộng Hòa, hay Republic chỉ có nghĩa là quyền hành không tập trung vào một người mà thôi! Liên Bang Soviet là liên bang 13 nước Cộng Hòa, dân trong các nước đó có hưởng sự bảo đảm về quyền tự do hay không? Mạc Sum K26 California, USA Theo tôi, danh từ “Cộng hoà” được người đương thời... gọi; rồi sử gia dựa theo mà đặt tên cho một giai đoạn, ở đó Chu Công (*) và Triệu Công chung nhau, cùng thoả thuận (”CỘNG HOÀ” ) nhiếp chính thay Lễ Vương bạo ngược bị dân chúng nổi loạn đánh đuổi trong thời khoản 14 năm đó mà thôi. Sử sách dùng nhóm chử “Chu Triệu Cộng Hoà” thay vì tên (vua) để đánh dấu thời khoản 2 khanh-tướng nhiếp chính; cũng giống như thời khoản liên hệ cuả các vua tiền nhiệm Vũ Vương, Thành Vương hay các vua kế nhiệm, Tuyên Vương, U Vương,.... trị vì. Theo tôi, sử khó co thể chính xác rằng “cộng hoà” là thể chế được...”Chu Triệu cộng hoà” áp dụng trong 14 năm triều đại 2 ông khi mà chế độ nô lệ vẫn tồn tại tuy không phát triển cực độ; và kế tiếp là chế độ phong kiến sắp thành hình.
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2010 8:25:25 GMT 9
Tư-duy tự-do
III. Những nền tảng của kiến-thức 11. Nghệ-thuật, bập bẹ làm-người
Anh sẽ là gì nếu thiếu em ngoài tiếng bập bẹ này ?
Aragon Ba mặt nạ của Điều-không-nói-lên-được
Đối với một số người, nghệ-thuật thuộc lĩnh-vực của Điều-không-nói-lên-được[1]. Dường như ta không tài nào nói về nghệ-thuật một cách hiểu được. Những thuyết-trình giải thích vì sao một tác-phẩm đẹp khiến ta cảm phục người thuyết-trình. Ta không cần chúng để thấy nó đẹp. Chúng cũng chẳng thể ngăn cản ta thấy nó xấu. Giọng văn say đắm của nhà bình luận nghệ-thuật thỉnh thoảng xúc động ta, nhưng chính nó xúc động ta chứ không phải vật-thể nó nói tới. Ta có thể thích một áng văn hay về một tác-phẩm nghệ-thuật ta chưa từng xem. Áng văn ấy có thể chi phối cảm-nhận tương-lai của ta về tác-phẩm ấy. Nhưng luôn luôn chính quan-hệ trực tiếp của ta với tác-phẩm khiến ta linh-cảm vẻ đẹp của nó.
Kant định-nghĩa sự phán-xét thẩm-mỹ là sự phán-xét theo sở-thích[2]. Kiểu nói này đáng chú ý. Phán-xét theo sở-thích không liên quan tới lý-trí, niềm-tin, đạo-đức. Nó tùy thuộc quan-hệ cá-biệt giữa một sinh-thể với một vật-thể hay một sự-kiện trong thế-giới. Quan-hệ đó, chỉ sinh-thể nghiệm-sinh nó mới cảm-thấy, mới biết. Như thế, nói rằng một vật-thể đẹp là chẳng nói gì hết. Tuy vậy, khi ta tuyên bố điều ấy, ta chắc chắn người đối thoại với ta hiểu ta dù người ấy thấy vật-thể ấy xấu. Ý-chung về cái đẹp, về nghệ-thuật (những từ-ngữ ấy có-thực mà) từ đâu ra, làm sao ta có thể hiểu được ? Những ngôn-từ ấy có nội-dung gì chung ở mọi người ? Phải chăng đó là một điều bẩm sinh, do hệ gien « chung » quyết định ? Nếu thế, không sao hiểu được vì sao một người có thể thấy một tác-phẩm đẹp trong khi người khác thấy nó xấu. Phải chăng bản-chất của nó thuộc thế-giới thần linh ? Nếu thế, ta nên thả mình trôi theo « sự huyền-diệu của nghệ-thuật », không nên bàn tới nó. Nhưng ai có thể tự tước bỏ thú vui khen một tác-phẩm đẹp ?
Tự nó nghệ-thuật không có-thực. Có những vật-thể ta thấy đẹp. « Cái đẹp » dường như là một hình-thái quan-hệ giữa người với vật-thể. Vật-thể nghệ-thuật có thuộc-tính của mọi vật-thể, nó có hình-thái tồn-tại vật-chất mà ta có thể cảm-nhận : khối-lượng, hình thù, âm-thanh, màu sắc... Nhưng dường như nó có một thuộc-tính đặc biệt, khả-năng khơi ở ta cảm-giác đẹp[3]. Dường như nó mang trong nó một ý-nghĩa nào đó mà ta có thể nắm bắt và gọi là đẹp. « Ý-nghĩa » biểu lộ qua sự tiếp cận của ta với vật-thể không do thuộc-tính vật-lý hay hoá-học của nó. Quan-hệ vật-chất giữa con người với vật-thể chỉ là quan-hệ về lượng. Nó thuộc lĩnh-vực khoa-học, không thuộc lĩnh-vực nghệ-thuật.
Phải chăng cái đẹp của vật-thể hình thành xuyên qua quan-hệ-sống của ta với nó, tùy thuộc « khẩu vị » của ta ? Mặc dù người ta nói đến chuyện thưởng thức hương vị[4] của nghệ-thuật, đã mấy ai ăn tác-phẩm nghệ-thuật[5] để sống ? Trong quan-hệ-sống giữa con người với vật-thể, có những phẩm-chất như xanh, đỏ, nóng, lạnh, ngọt, mặn, ngon, dở... Có những điều thuận hoặc nghịch sự tồn-sinh hay sự khoan khoái của cá-thể, thuận hay nghịch với sự tái sản-xuất giống nòi. Để đề cập tới chúng, ta dùng những từ-ngữ biểu-đạt phẩm-chất của những quan-hệ-sống với thế-giới, « phẩm-chất của sự-sống ». Không có cái đẹp.
Như thế, cái đẹp xuất phát từ quan-hệ giữa người với văn-hoá ? Không sai, một khi ta đã nói tới nó. Chính vì thế người ta thích dạy ta nhìn[6] những tác-phẩm nghệ-thuật. Nội-dung của những bài học đó thường biểu-hiện dưới dạng pha trộn hỗn tạp đủ thứ kiến-thức : kỹ thuật thực-hiện, lịch-sử nghệ-thuật của một nền văn-minh, những lý thuyết nghệ-thuật... những kiến-thức liên quan tới quan-hệ giữa con người với vật-chất hay những ý-niệm. Vì không có gì nhạt nhẽo, phi-nhục-cảm hơn loại quan-hệ đó, người ta thường thêm mắm muối, trộn thêm một mớ từ-ngữ thường dùng để mô tả những quan-hệ-sống với thế-giới. Làm chuyện đó rất dễ. Độc giả khó phát hiện vì trong ngôn-ngữ của ta, những từ-ngữ ấy thường cũng được dùng để biểu-hiện những quan-hệ giá-trị giữa người với người. Nhưng làm như thế, người ta dạy ta đọc tác-phẩm, không dạy ta nhìn nó. Một khi ta bắt đầu giải mã một bức tranh, tìm trong nó những kiến-thức kia, ta không nhìn nó nữa, nó tự lẩn tránh, vẻ đẹp của nó biến đi. Kiến-thức có thể làm cảm-nhận của ta về cái đẹp phong phú thêm. Nó không là nguồn gốc của cái đẹp. Vẻ đẹp của một tác-phẩm tự hiến mình trọn vẹn xuyên qua quan-hệ của nó với một cá-nhân. Vẻ đẹp không dựa vào bất cứ gì ngoài bản thân nó. Vì thế, trong tác-phẩm của một trường phái hội hoạ, thậm chí của một hoạ sĩ, có tác-phẩm ta thấy đẹp và có tác-phẩm khiến ta dửng dưng. Một mặt khác, làm sao hiểu được vì sao ta thấy một bức tượng nhỏ của người Jômon đẹp ? Dân tộc ấy sống cách đây 12.000 năm ở Nhật. Ta không biết gì hết về họ. Về mặt văn-hoá, ta không có gì chung với họ, ngoài khả-năng thấy đẹp, « ý-niệm bẩm sinh » về nghệ-thuật.
Đúng thế, cái đẹp thuộc lĩnh-vực quan-hệ giữa con người với văn-hoá. Nhưng không phải phần văn-hoá khoa-học-tính hay phần văn-hoá biểu-hiện những quan-hệ-sống của ta với thế-giới. Nó thuộc thế-giới giá-trị, thế-giới những quan-hệ « đơn thuần » nhân-tính. Một phán-xét theo sở-thích vẫn là một phán-xét, một quan-điểm biểu-đạt trong một ngôn-ngữ mà con người hiểu xuyên qua những ý-chung. Đó là một quan-hệ giữa người với người. Nhưng không có gì đối trọi với nghệ-thuật hơn là những ý-chung, những giá-trị thành lệ. Khoa-học, sự-sống, những giá-trị thành lệ không có điều gì để nói với ta về cái đẹp. Chúng chỉ là những mặt nạ của Điều-không-nói-lên-được.
Tuy đã nói vậy, vật-thể nghệ-thuật vẫn là một vật-thể-tạo-nghĩa, là một loại ngôn-ngữ. Nó có vật-tính và vật-tính ấy cũng chỉ được dùng làm điểm tựa cho « ý-nghĩa » nó chuyên chở[7]. « Ý-nghĩa » đó do một con người tạo ra cho người khác. Đó là một quan-hệ nhân-tính núp sau hình-hài của một vật-thể, quan-hệ xuyên qua tác-phẩm giữa người nghệ-sĩ và công chúng. Nghệ-thuật chào đời xuyên qua quan-hệ ấy. Không-gian thích hợp với nó nhất là những nơi công cộng, viện bảo tàng, nhà hát, métro, công viên, công trường làng... Ở đó, tác-phẩm của một người tự hiến thân cho mọi người, cái đẹp lóe ra trong thế-giới, một sản-phẩm thuần nhân-tính tự-hiện-thực dưới dạng nghệ-thuật. Không gì tệ hại đối với tác-phẩm nghệ-thuật hơn là bị nhốt vào bóng đêm bọc thép của một tủ bạc[8].
Người ta nói rằng tự-nhiên bắt chước nghệ-thuật[9]. Câu ấy chỉ có vẻ ngược đời thôi, nó chứa một sự-thật. Trong thiên-nhiên có những vật-thể, phong cảnh, sự-kiện ta thấy đẹp. Chẳng ai gọi chúng là tác-phẩm nghệ-thuật. Điều ấy dễ hiểu : chúng không có tác giả. Chúng thuộc phạm vi quan-hệ giữa người với vật-thể, không thuộc phạm vi quan-hệ giữa người với người xuyên qua một vật-thể do một con người tạo ra cho mọi người thưởng thức. Thiên-nhiên chỉ đẹp khi ăn khớp với « cảm-nhận thẩm-mỹ » của ta. Cảm-nhận ấy đến với ta từ những quan-hệ giữa người với người. Không chỉ có vật-thể !
Thói quen nói tới những vật-thể nghệ-thuật[10] xuất phát từ sự rạn-nứt-khoa-học-luận của Descartes[11] đã quy quan-hệ của con người với thế-giới về quan-hệ giữa trí-thể với vật-thể và những ma-thuật của Kant đã lồng thêm vào đó màn ảnh của hiện-tượng[12]. Trong khuôn khổ ấy, làm sao ta có thể thấy cú sút làm bàn đầu tiên của Platini ở Ý đẹp ? Hành-động đẹp ấy đương nhiên đòi hỏi có những vật-thể, nhưng nó không quy về một vật-thể nào cả, nói riêng cũng như nói chúng. Như Pélé đã từng nhận xét, một cú sút làm bàn đẹp khi, trong một hoàn cảnh nhất định, dự-kiến của một con người tự-hiện-sinh trong sự hoàn-hảo của một động tác. Platini vừa phác thảo động tác của mình, khán giả đã kéo dài nó, dự-kiến trước ý-đồ hành-động của chàng và đi theo nó tới lúc nó kết thúc, xuyên qua thao-tác tinh xảo trác tuyệt của chàng. Chỉ cần nói thêm rằng sự hoàn-hảo đó được thực-hiện trong khuôn khổ luật lệ tùy tiện, phi-tự-nhiên của một trò chơi xã-hội, rằng về bản-chất nó là điều cho không, thì ta có một định-nghĩa rất đàng hoàng về nghệ-thuật. Khi Platini sút vào gôn, trong khoảnh khắc một tia xét, ta là chàng trong tưởng tượng, chàng là ta trong khát vọng của ta đối với chính ta và chàng là toàn thể khán giả đang cùng chờ đón sự thành công hay thất bại của dự-kiến chung của chúng ta[13]. Khi điều ấy do hành-động phối hợp của nhiều cầu thủ, thậm chí của cả đội bóng đá, nói tới một kiệt tác tập-thể thật không ngoa. Rất hiếm, nhưng có-thực.
Quan-hệ giữa người với người mà ta gọi là nghệ-thuật có thể thực-hiện dưới nhiều dạng khác dạng vật-thể. Khi nó dùng bản thân con người làm điểm tựa như trong nghệ-thuật múa, hát hay kịch nó biểu lộ bản-chất thuần nhân-tính của nó : nó chỉ tồn tại trong khoảnh khắc có quan-hệ đó. Người ta có lý khi nói tới sáng tác nhân dịp diễn một vở kịch, một nhạc kịch, một vở múa, ngâm một bài thơ, đọc một áng văn. Tác-phẩm hiện thân ở đó chỉ có trong thời điểm diễn xuất thôi. Nghệ-sĩ kịch, múa, hát dễ khiến ta mê hồn : chỉ có thể-xác, giọng, động tác, vẻ mặt, ánh mắt của họ mới có thể đánh thức ở ta, trong khoảnh khắc phù du của một cuộc gặp gỡ, cả một thế-giới đẹp không tồn-tại ở đâu cả. Họ là nghệ-sĩ của sự phù du. Bí mật của Điều-không-nói-lên-được
Nghệ-thuật đã là một quan-hệ giữa người với người xuyên qua quan-hệ của họ với một « vật-thể », ta cần làm sáng tỏ quan-hệ ấy khác những quan-hệ nhân-tính khác ở chỗ nào, vạch ra nội-dung đặc-thù của nó.
Trong thực tế, tác-phẩm nghệ-thuật hiện-diện như một vật-thể hay một hành-động mang « ý-nghĩa », nó là một « ký-hiệu », nó thuộc một loại ngôn-ngữ. Ngôn-ngữ ấy có tính đặc thù là nó tồn-tại toàn bộ trong tác-phẩm và dưới một bản độc-nhất, và ý-chung duy nhất nó chuyên chở, khi nó đạt ý-nghĩa là đẹp. Mặc dù đặc điểm ấy, nó là một loại ngôn-ngữ. Ta không ngại ngùng tí nào khi ta nói tới ngôn-ngữ của nghệ-thuật mặc dù ta vừa muốn nắm bắt nó, nó tức khắc tan rã thành vô vàn ngôn-ngữ cá-biệt. Như thế, chỉ có cách quan sát sự nhú mầm của ngôn-ngữ trong một ý-thức, đặc biệt là sự nhú mầm của từ đẹp, mới có thể học được một điều gì về khả-năng thấy đẹp của ta. Hãy xem lại thí dụ của một đứa trẻ đang học nói. Mẹ chỉ cho nó một vật-thể tròn, âu yếm nói : « quả bóng ». Nó nhại theo : « quả bóng ». Nó học phân biệt một vật-thể với các vật-thể khác trong thế-giới, nó học nhìn. Nó ý-thức về sự hiện-hữu của vật-thể ấy và, tức khắc, ý-thức lờ mờ về chính-mình như không là vật-thể ấy[14]. Cùng lúc, nó kết-hợp trong óc vật-thể đó với một chuỗi âm-thanh : « quả bóng ». Thế là vật-thể ấy có tên, « nó là » quả bóng. Đứa trẻ lặp lại ở nó hành trình đằng đẵng đi từ thú-giới tới nhân-giới, tái-tạo trong nó khả-năng đặt tên cho vật-thể, khả-năng khái-niệm-hoá thế-giới[15]. Tuy quan-hệ giữa người với thế-giới đó là quan-hệ giữa người với vật-thể, nó luôn luôn tự-hiện-thực ở con người trong ba chiều-kích của thực-thể-người : một quan-hệ vật-chất[16], nhục-cảm[17], tinh-thần[18]. Trong tư cách ấy, quan-hệ ấy chẳng khác gì những quan-hệ khác của con người với thế-giới. Nhưng mẹ lại cuồng nhiệt thủ thỉ : « đẹp quá ! » Đứa trẻ nhắc lại : « Đẹp quá ! » Mẹ hôn con, ve-vuốt con. Tuyệt vời thay, lời giả dối ấy. Ta biết ngôn-từ không là vật-thể nó diễn-đạt. « Quả bóng » không là vật-thể cá-biệt tròn tròn mà ta thấy. Trong tư cách ấy, nó là một vật-thể độc-nhất trong không-thời-gian. Ngôn-từ ấy cũng dùng để ám chỉ một số lớn vật-thể hao hao như thế, kể cả vật-thể người ta dùng để cất nước uống của thiên đường[19]. Dù sao, tuy nó không là vật-thể ấy, chí ít nó cũng ám chỉ một số thuộc-tính của vật-thể ấy, hình thù tròn chẳng hạn. Nó biểu-hiện một quan-hệ giữa hai con người xuyên qua quan-hệ chung của họ với vật-giới. Còn ngôn-từ đẹp, nó ám chỉ cái gì ? Hình thù của một vật-thể ? Không. Vật-thể ấy có thể vuông, tròn, hình chữ nhật, tam giác, nó có thể bẹp, méo mó, rách nát. Ngôn-từ ấy ám chỉ một khẩu vị, một quan-hệ-sống giữa con người với thế-giới chăng ? Cũng không nốt. Mẹ ta sẽ khiến ta sờ nó và nói : « Mềm quá ! » Cái đẹp ở đây không ám chỉ bất cứ một vật-thể nào trong thế-giới, bất cứ một phẩm-chất nào trong sự-sống. Nó là một quan-hệ trực tiếp giữa mẹ và ta, bên kia vật-giới và sinh-giới. Trong nghĩa đó, nghệ-thuật là một lời gian dối thiêng-liêng, một ký-hiệu không ám chỉ gì hết, ngay cả chính nó. Nó là hồi-ức mong manh về một quan-hệ trực tiếp giữa người với người đã viện bất cứ cớ nào để tự-biểu-đạt. Quan-hệ cho không vô-lý[20] ấy, ta gọi là tình-người. Đâu phải do tình cờ mà trong mọi nền văn-hoá, con người đều coi tình-người như nền tảng cuối cùng của nghệ-thuật.
Vì nó không là quan-hệ giữa người với vật-chất, vẻ đẹp của tác-phẩm không tùy thuộc vật-tính của nó. Nó không tùy thuộc vật-liệu, hình-thù, màu sắc, âm-thanh, vẻ hiện-thực, siêu-thực, tượng-hình, trừu-tượng... thể-hiện nó. Đương nhiên, nó tùy thuộc những thứ ấy để tồn-tại. Nhưng nó không tùy thuộc những thứ ấy trong tư cách đẹp, trong tư cách nghệ-thuật. Chính vì thế nó phi-lịch-sử-tính, phi-thời-gian-tính. Bất kể hình-thái, nơi, lúc nó nảy sinh trong thế-giới, nó có thể xúc động lòng ta. Điều đó chỉ tùy thuộc khả-năng « tái-sinh » tình-người ở người chiêm ngưỡng nó, nhắc lại cho người đó sự-thật này : nhân-tính không có bất cứ giới hạn nào ngoài chính nó, Tha-nhân ở nó. Vì thế ta có thể thấy một bức tượng nhỏ của người Jômon đẹp. Nó nói với ta một điều gì đó về nhân-tính, nó « nhắc » ta một điều gì đó về chính-mình. Như thế, ta hiểu tại sao người nghệ-sĩ luôn luôn muốn sáng tác cho mọi người và cho vĩnh-cửu. Thỉnh thoảng có thể hơi tự-phụ. Nhưng không hề sai trái. Khả-năng ấy có-thực. Nó sẽ còn mãi khi trong thế-giới này vẫn còn một người mẹ đánh thức ý-thức của con với mấy từ : « Đẹp quá ! »
Mẹ nói về cái gì thế ? Về quả bóng ? Đã đành. Nhưng hình thù tròn, màu xanh của nó, ta dễ dàng tìm thấy trong vật-thể khác, nghiệm-sinh khác, không cần tới mẹ. Ngay cả giọng ve-vuốt, làn da ấm áp, mùi thơm xác thịt, ánh mắt trìu mến của mẹ, ta sẽ gặp lại trong những dịp khác trong đời ta. Điều ta sẽ không bao giờ tìm lại được trong đời ta là khoảnh khắc độc-nhất khi ta nhận được tất cả cùng một lúc, vũ trụ của đồ-vật, thế-giới của cảm-giác, tình-yêu của một người mẹ, ý-thức về chính-mình và ngôn-từ-đó để nói lên tất cả : đẹp. Đẹp là nghiệm-sinh cá-biệt, độc-nhất qua đó ta vươn lên ý-thức về chính ta và về thế-giới trong sự toàn hảo của nhân-cách xuyên qua tình-yêu của một người mẹ[21], xuyên qua hành-động mẹ cho lại ta nhân-cách của mẹ. Nó là nhân-tố cấu tạo ý-thức của ta. Qua nó, ta trở thành ta, ta là mẹ-ở-ta. Ta là sự dâng hiến ấy. Con người là con của người trong nghĩa đó. « Thiên đường [bập bẹ] xanh tươi của những tình-yêu thời thơ ấu[22] » ấy, không ai có thể thực sự quên. Ẩn nấp đâu đó trong gan ruột của ký-ức, nó luôn luôn nhắc nhở ta nghiệm-sinh toàn hảo về nhân-tính của ta, thể thống-nhất ở ta của con người và thế-giới, thế-giới của chúng ta. Sau này, tình-yêu của một người đàn bà có thể thức tỉnh lại trong ta sự thần-diệu ấy của tuổi thơ. Trong cuộc sống thường ngày, tình-yêu chính là loại quan-hệ hay đá đít ta về nỗi khao khát cái đẹp. Trong tình-yêu, qua vài khoảnh khắc cùng say mê hiếm hoi, ta cũng được tha-nhân cho ta gần như tất cả, vật-chất của một cơ-thể, nhục-cảm của một sinh-thể, tâm-hồn của một con người, hiện-thực nhân-cách chung của chúng ta. Vì thế nghệ-thuật thích liếc tình-yêu và ngược lại. Nhưng sau đó cũng nghĩa là đã quá muộn. Ta đã sống, đã học, đã nhập-thân đủ thứ đểu giả của thế-giới này, ta đã quen tin rằng : sự-vật là sự-vật, sự-sống là sự-sống, người là người, ngôn-từ chỉ là ngôn-từ và em không là anh[23]. Sự khao khát cái đẹp, nỗi nhớ nhung khoảnh khắc huyền-diệu khiến ta trở thành chính ta, một thực-thể đồng thời ý-thức thế-giới và chính-mình trong sự đồng-nhất hoàn-hảo với tha-nhân xuyên qua quan-hệ chung của chúng ta với thế-giới, ta chỉ có thể thỉnh thoảng thoáng thấy lại, một cách lu mờ, trong tình-yêu của một người đàn bà, trong sự vô tư của một trò chơi. Một đòi hỏi nhân-cách
Suốt đời ta, ta sẽ tìm cách tái-sinh nhân-cách hoàn-hảo ấy. Do điều kiện cho phép nó nhú mầm, ta chỉ có thể hy vọng tìm lại nó trong sự hồn-nhiên của cảm-hứng. Chí ít, đó là tìm kiếm đam-mê của nhiều nghệ-sĩ. Ta có thể hiểu Picasso khi ông nói ông đã mất cả một đời để vẽ được như một đứa trẻ con ! Nhưng ta cũng biết lờ mờ rằng điều đó vô vọng. Ngay trong vòng tay say đắm của một người đàn bà yêu ta, ta cũng không thể nào trở thành đứa bé đang vươn lên ý-thức về mình trong thể đồng-nhất trìu mến của thế-giới. Tuy vậy, xuyên qua nghệ-thuật, ta có thể tìm lại một thoảng rùng mình của cái nghiệm-sinh, tuy chung của con người, nhưng độc-nhất trong mỗi cuộc đời. Sống là tái-sinh từng giây từng phút vào cuộc sống và « có ý-thức » là không ngừng vươn tới ý-thức. Vũ trụ không ngừng vận-động, mọi sự đều đổi thay. Ở mọi lúc, mọi nơi ta đều có khả-năng thiết lập một quan-hệ mới với thế-giới. Do tính mới lạ và cá-biệt của nó, quan-hệ ấy hao hao giống quan-hệ ta đã từng nghiệm-sinh khi lần đầu ta vươn tới ý-thức về chính-mình và về thế-giới. Ta có thể thử biểu-đạt nó dưới hình-thái này hay hình-thái khác, đặc biệt dưới hình-thái một vật-thể nghệ-thuật. Còn thiếu điều gì để ảo ảnh đó « toàn hảo » ? Sự nhìn nhận trìu mến của tha-nhân xuyên qua quan-hệ của nó với vật-thể ấy. Sự nhìn nhận ta tìm kiếm không là một bài diễn thuyết dài, uyên bác hay nên thơ chính vì nó dùng ngôn-ngữ. Sự nhìn nhận duy nhất đáp ứng sự chờ đợi của ta chỉ có thể biểu-đạt qua một ngôn-từ không có nghĩa : đẹp. Ta không muốn bất cứ nghĩa nào của từ « nghĩa »[24] mà người đời thường dùng để nói tới tác-phẩm nghệ-thuật. Ta không tìm cách điều khiển một hướng nhìn, tạo một cảm-giác, khơi một ý-nghĩa, khích một phán-xét. Những điều ấy đều ở ngoài ta, ta vĩnh-viễn không với tới được, chúng vĩnh-viễn mơ hồ. Điều ta muốn, xuyên qua tác-phẩm của ta, là tất cả những điều ấy, nhưng trong sự hợp-nhất toàn hảo giữa Tha-nhân với ta. Ta tìm một sự nhìn nhận lẫn nhau để cùng tái-sinh trong tình người[25]. Tác-phẩm của ta là một lời kêu gọi câm lặng miên man, không nhân nhượng, để đồng-sinh vào thế-giới. Chỉ trong sự đồng-sinh ấy ta mới có thể nhận-diện-lại chính ta. Cứ cho rằng điều ấy xảy ra, và thỉnh thoảng nó xảy ra thật, sự nhìn nhận ấy khác kinh nghiêm đầu của ta một cách cơ-bản. Ta không tái-sinh vào thế-giới bằng cách vươn ra khỏi sinh-giới. Vì ta đã nên người rồi, ta tái-sinh vào nó bằng cách vươn ra khỏi cái nhân-giới-này đang khiến ta ngộp. Như thế, tác-phẩm của ta là lời kêu gọi vươn ra khỏi thế-giới-này để tái-sinh vào một thế-giới-khác trong sự toàn hảo của nhân-tính. Trong nghĩa đó nghệ-thuật, tự bản-chất, phản kháng mọi chuẩn. Mọi quyền-lực đều nghi ngại nó. Quyền-lực luôn luôn dựa vào những chuẩn cố định, tôn-giáo, đạo-đức, chính-trị, ý-thức-hệ, kiến-thức, v.v. Những con người quyền-lực có thể có nhu-cầu nịnh hót, sử dụng nghệ-sĩ, nhưng dứt khoát phải nghi-ngờ người nghệ-sĩ. Ai đoán nổi tác-phẩm của nó sẽ tác-động không-gian và thời-gian của con người ra sao ? Hàng loạt, chúng rơi béng, hoặc sau một khoảnh khắc thời thượng, vào quên lãng. Nhưng thỉnh thoảng, một ký hoạ, một bài hát, một áp phích, một tấm hình làm rúng động lâu dài cả thế-giới. Làm sao tin cậy mấy anh tếu này ? Ngay cả khi chúng chia sẻ niềm-tin, ý-nghĩ, đấu tranh của ta, ta không thể nào tiên đoán được cái gì sẽ phụt ra từ tính « điên » của họ : kịch Dom Juan của Molière, một chân dung phạm thánh Stalin dưới bút lông của Picasso hay một Hành trình tới tận cùng đêm[26] ?
Rõ ràng, họ sẽ không ngừng ở đó. Ta có thể hiểu họ. Ta không đang sống đằng sau chân trời không thể vượt qua được của Thị-trường và Tư-bản đó sao ? Những nền văn-minh của Sở-hữu sản sinh ra những tôn-giáo của Thực-thể trong đó con người kiệt sức với nỗi ám ảnh chiếm-hữu hay bị-chiếm-hữu[27]. Trong những nền văn-minh kiểu ấy, nghệ-thuật chân-chính nhất, chính là nghệ-thuật của Hư-vô. Chính vì thế, dưới hình-thái này hay hình-thái khác, niềm-tin, tiền của, luật pháp hay bạo liệt, mọi quyền-lực đều luôn luôn tìm cách thuần dưỡng những con « người hoang »[28] đó. Ước mơ đó hão. Lời kêu gọi tiền-ngôn-ngữ để thiết lập nhân-giới toàn hảo ta thoáng thấy trong tuổi thơ, bập bẹ xuyên qua cơn cuồng loạn của hình thù, âm-thanh, màu sắc, ngôn-từ, là một nhân-tố cấu tạo con người, thuộc quá-trình nên-người của nó. Mẹ ơi, trong thế-gian này, sao mẹ nỡ dạy con chữ Đẹp ?
[1] L’Indicible. Không nhớ ai đã sáng tạo khái-niệm này.
[2] Jugement de goût. Goût vừa có nghĩa sở-thích vừa có nghĩa khẩu vị.
[3] Le Beau, la beauté.
[4] goûter à l'art. Tiếng Pháp, goûter có hai nghĩa : nếm hay thưởng thức. Tiếng Việt, khó nói tới chuyện nếm nghệ-thuật, nhưng vẫn có thể nói đến hương vị của nghệ-thuật.
[5] Trừ khi nó hiện-diện dưới dạng một món ăn đẹp của nghệ-thuật nấu nướng của Pháp chẳng hạn. Đây là trường hợp đặc biệt. Thực ra, đồ ta ăn là đồ ăn được nấu nướng, trình bày, dọn ra một cách nghệ-thuật. Đây là trường hợp duy nhất ta có thể nói một cách phải chăng rằng ta nhậu nghệ-thuật, như ăn hay nếm đòn.
[6] hoặc nghe, nếm, v.v. Để cho đơn giản, ta giới hạn đề tài vào một hình-thái cảm-nhận thôi, nhãn quan.
[7] Người ta có lý khi bàn đến ngôn-ngữ điện ảnh của một nhà đạo diễn như nói tới ngôn-ngữ của một nhà văn. Nhưng nói tới văn-phong điện ảnh (écriture cinématographique) thì sai. Chẳng có nghĩa gì cả. Người ta viết một kịch bản, không viết một cuốn phim. Trong xi nê, những thuyết-trình cũng là nhân-tố quan trọng của tác-phẩm. Chúng không là nhân-tố duy nhất, và cũng chẳng là nhân-tố quan trọng nhất. Cứ xem những tác-phẩm trác tuyệt trong xi nê câm thì thấy. Nói tới văn-phong điện ảnh là giới hạn một cách vô-lý nghệ-thuật điện ảnh, không hiểu tính đặc-thù của xi nê và của văn-chương. Cách nói như thể có thể giải thích được vì ta linh-cảm lờ mờ rằng có một điều gì chung giữa tất cả các hình-thái nghệ-thuật, đó là cảm-nhận cái đẹp mà những tác-phẩm khơi ở ta.
[8] Tuy điều ấy đáng mừng cho người nghệ-sĩ và người kế thừa gia tài của nó trong nền văn-minh của ta.
[9] La Nature imite l’Art. Một câu văn nổi tiếng của Pháp.
[10] Lối nói của người Pháp : objets d'art. Người Việt ăn nói nhân-đạo hơn : tác-phẩm nghệ-thuật : nghệ-thuật chỉ có thể là sáng tác của con người.
[11] Xin lỗi Descartes, thật oan uổng cho ông, bản thân ông cũng suy-luận bằng ngôn-ngữ đã có trước ông. Nếu là hôm nay, chắc ông sẽ không viết như vậy.
[12] Điều ấy cho phép ông định-nghĩa cái đẹp như sự trùng hợp, xuyên qua hiện-tượng (cảm-nhận vật-thể xuyên qua giác-quan của con người), của những thuộc-tính của vật-thể với những khả-năng bẩm sinh của tinh-thần.
[13] Ngay trong trường hợp khán giả ủng hộ đội bóng đối-lập, mong muốn Platini thất bại, điều mà nó dự-kiến trong đầu khi theo rõi hành-động, chính là bóng lọt gôn. Do đó nó thở phào khi quả bóng trượt ra ngoài.
[14] Luận-điểm cơ-bản của Husserl, Sartre và Trần Đức Thảo dùng lại trong triết-lý của họ.
[15] Hiện nay đang có « mốt » sàng lọc, sắp xếp, dán nhãn hiệu cho những ngôn-từ trong ngôn-ngữ của con người theo loại ngôn-ngữ phàm tục hay loại khái-niệm. Chỉ khái-niệm mới xứng đáng bàn trong thuyết-trình triết-học. Dường như người ta quên rằng bản thân « khái-niệm » cũng chỉ là một... ngôn-từ. Cái « mốt » này đã xâm chiếm thế-giới kinh doanh, đặc biệt thế-giới quảng cáo. Trong những năm 70-80, một vài thầy-cúng trong ngành tin học ngày đêm đi rao bán « khái-niệm cấu-trúc » và ngày nay « khái-niệm vật-thể » (concept objet) hay « khái-niệm Internet ». Trong lĩnh-vực khác người ta thích thú rao bán khái-niệm « sức-mạnh thanh thản » [khẩu hiệu của ông Mitterrand trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1981], « khái-niệm an ninh » [khái-niệm thời thượng hiện nay của các chính-trị-gia Pháp], v.v. Có nên khuấy lưỡi dao trong vết thương để nhớ-lại những khái-niệm đẹp đẽ đó đã xỏ mũi chúng ta đến mức nào chăng ? Triết-học xét cho cùng là câu chuyện về lịch-sử của những ngôn-từ, thậm chí là chuyện xào xáo ngôn-từ. Điều chán nản là ta chỉ có thể định-nghĩa một khái-niệm bằng những khái-niệm khác và cứ thế liên miên bất tận. Cuối cùng, nếu ta muốn người đời hiểu ta, ta phải dùng những ngôn-từ có một ý-nghĩa chung đối với mọi người, ta phải dừng ở những ý-chung. Cứ nói tiếng Hy-lạp hay tiếng Phạn mãi, ta giam mình trong tháp ngà hay, khá nhất, trong những biệt cư bé tí xíu.
[16] ánh sáng đập vào vật-thể, dội lại con ngươi của ta.
[17] ta thấy một hình thù, một màu sắc...
[18] Khái-niệm « quả bóng ».
[19] Rượu nặng, alcool.
[20] Gratuit, có 2 nghĩa : cho không, và vô-lý như trong affirmation gratuite, khẳng-định không cần lý lẽ.
[21] Thường thường là như thế. Nhưng điều ấy cũng có thể xảy ra trong tình-yêu của một người cha, người anh, người chị, người bạn hay bất cứ một con người nào. Có lần bố tôi nhận xét : để nên người ta chỉ cần được một người khác yêu thương trong tuổi thơ.
[22] Le vert paradis des amours enfantines.
[23] Và ngược lại. Dĩ nhiên. Mọi người đã từng hay sẽ trả giá để biết điều đó.
[24] Sens. Không thể dịch được. Sens có nghĩa trong cả ba chiều-kích của con người : hướng (vật-lý), cảm-giác (sinh-học) và ý-nghĩa (văn-hoá).
[25] Re-co-naissance. Không thể dịch được. Naissance : sinh ra đời, co : cùng nhau, co-naissance : đồng sinh, re : tái-lập, re-co-naissance : cùng nhau sinh ra đời trở-lại. reconnaissance : nhìn nhận, nhận ra, biết ơn.
[26] Voyage au bout de la nuit, tiểu thuyết của Ferdinand Céline.
[27] Ta chỉ có thể sở-hữu được những gì có-thực, những gì là. Nhưng ta có thể sở-hữu một lượng vô-tận. Đạo-đức duy-lượng mà Camus khơi trong Le Mythe de Sisyphe thuộc lĩnh-vực tôn-giáo tôn thờ Thực-thể. Nó rất ăn khớp với bản-chất của tư-bản, tiền đẻ ra tiền. Vô tận, vì lượng không có giới hạn. Nó thôi miên ta : điều đó khả-thi. Nó xúc động ta : hão. Vì chắc chắn sẽ có ngày ta phải chết.
[28] Sauvageons, trẻ con hoang, « khái-niệm » thời thượng lúc đó, ông Chevènement (đảng xã-hội, bộ trưởng bộ nội vụ) đã dùng để nói tới đám thanh niên sống trong ngoại ô có vấn đề, mong vớt ít phiếu của phe hữu ? Hão.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 4:48:50 GMT 9
VŨ TÀI LỤC NHỮNG QUY LUẬT CHÍNH TRỊ TRONG SỬ VIỆT [shadow=red,left,300]VIỆT CHIẾN XUẤT BẢN Bản đánh máy thực hiện tại Biên Hòa tháng 4 – 2008 bởi Lê thị Thanh Nguyệt [/shadow] Không đọc sử không đủ tư cách
nói chuyện chính trịTỰA Các nhà lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ theo thói quen cũng như do thực tế của kinh nghiệm đấu tranh đưa họ lên nắm quyền nặng tính chất của một thứ “businessmen” (người kinh doanh) cho nên họ không đánh giá đúng mức nếu không muốn nói là họ hoàn toàn thiếu khả năng nhận thức lịch sử. Họ coi quốc gia nào cũng là một hiện tượng chung, để đưa ra một giải pháp giống hệt nhau khi các quốc gia ấy gặp khó khăn. Các chính trị gia Hoa Kỳ chỉ chăm sóc đến vấn đề nào khi họ mang trách nhiệm với vấn đề ấy, họ khoanh chân họ trong phạm vi một cục bộ mà chẳng thèm biết đến toàn bộ, đồng thời họ lại hay nhìn vấn đề một cách hết sức đơn giản, ưa chú trọng bề ngoài qua vài lời nói, ít diễn từ chứ không tìm hiểu những điều kiện lịch sử. Tỉ dụ: thái độ của Hoa Kỳ đối với De Gaulle là trường hợp khá rõ ràng, nếu De Gaulle đã chống Mỹ thì Mỹ chẳng có chuyện gì nói hay bàn với De Gaulle. Tóm lại, Hoa Kỳ về việc dùng khoa học và kỹ thuật có thể tạo ra những thành quả rất tốt nhưng khi phải đương đầu với vấn đề thuộc diễn tiến lịch sử thì lại rất bết bát. Bởi vậy, trong những năm sắp tới, vấn đề quan trọng nhất cho chánh sách của Hoa Kỳ là tính chất triết của nó (Le problèm le plus grave de la politique américaine sera philosophique). Trên đây là lời nói của Henry Kissinger trong một bài viết phê bình chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Nó đã được phát biểu sau khi thấy có những dấu hiệu đầu tiên về sự vô hiệu quả của hành động can thiệp trực tiếp bằng quân sự ồ ạt. Và nó được tán thưởng bởi đa số lực lượng chính trị nắm quyền ở Mỹ sau khi chính sách đã rõ rệt thất bại gây thành rối loạn nội bộ đến nỗi Tổng Thống Johnson, bằng nét mặt buồn thảm, phải tuyên bố không tái ứng cử. Sự thất bại ấy không giống như thất bại một “áp phe” vì nó kéo theo khủng hoảng trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, xã hội, tinh thần và luôn cả lòng tin cậy cho quốc gia Hoa Kỳ. Hầu hết phần tử trí thức Hoa Kỳ đều mong mỏi hoặc phấn đấu để có thể có được cơ hội nghiên cứu, tìm hiểu biến cố quan trọng này. Tất cả đều đồng ý rằng các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã thiếu hẳn một ý thức lịch sử đứng đắn. Bắt đầu kể từ lúc Tổng Thống Roosevelt chỉ có hiểu biết rất mơ hồ nghĩ Việt Nam là một quận huyện của Trung Quốc, vậy hãy trả nó về với sự cai quản của chính phủ Tưởng Giới Thạch. Do sai lầm căn bản đó mà đi thành một chuỗi cho tới ngày toàn bộ vấn đề buộc phải đặt lại. Đặt lại vấn đề cũng như Pháp quốc năm 1952, sau 6 năm chiến tranh Việt Pháp, đã tìm hiểu duyên do thất bại trong cuốn sách: “Việt Nam Sociologie d’uneguerre” của Paul Mus với câu kết luận trên chương chót “Que faire: La nation vietnamienne est pleinement formée et consciente d’elle même” (Nước Việt Nam đã là một quốc gia hoàn chỉnh và hoàn toàn ý thức được lịch sử của mình)… “Une conviction traditionnelle, inséparble de son patriotisme l’assure bien qu’il est le dernier juge de son destin” (Người Việt với niềm tin truyền thống gắn chặt vào lòng yêu nước để nghĩ rằng chỉ có người Việt là kẻ quyết định cuối cùng vận mệnh nước Việt). Niềm tin truyền thống ấy là niềm tin lịch sử, lòng yêu nước ấy là tinh thần sử được nung đúc qua bao ngàn năm đấu tranh. Khối tình yêu thiên cổ dòng kim cương Ngày khai sinh nhưng chọn chốn quê hương Hòn núi Trắng sông Xanh của nòi Việt Cỏ hoa còn gìn giữ mặc tang thương Tất cả bởi cháu con bền bỉ mãi Nền kế khai đạo thống dãi Viêm Phương (1) Ông A. Pazzi, một người Ý từng ở Việt Nam hơn hai mươi năm, đã viết trong tác phẩm: “Người Việt cao quí” rằng: “Dân Việt là một dân tộc tự cường bất khuất đến một mức độ khá cao và tinh thần ấy giúp họ trở thành một kẻ bé nhỏ nhất mà lại mạnh nhất bị chèn ép nhiều nhất nhưng lại quật khởi oai hùng bậc nhất. Người ta sẽ không bao giờ hiểu hết được sức mạnh ấy và sự cao lớn của tinh thần ấy nếu không đi vào bề sâu lịch sử của nòi giống Việt, nếu chỉ quan sát hời hợt sinh hoạt bình thường. Với một nhận định theo lối hình thức Tây phương người ta không sao hiểu được giá trị đích thực của nó… Kẻ thù của dân tộc Việt chỉ bắt đầu thấy được sức mạnh ấy khi bọn họ đã thất bại và thật là quá muộn màng”. (2) (1) Trích thơ Thái Địch (2) Theo bản dịch của Hồng Cúc SỬ HỌC VÀ TINH THẦN SỬ VIỆT Hồn lịch sử sống trong dây nguyện ước Vẫn chu lưu tồn tại há phong sương Bừng tỉnh ngộ bằng đồ thư đất nước Kín uyên nguyên sâu thẳm đáy cửu trường Thái Địch Phải biết dân tộc bằng đời sống lịch sử. Sống về mồ về mả Không ai sống về cả bát cơm Chúng ta thường hiều sai lầm phương ngôn trên nảy sinh từ khoa phong thủy để đất để cát. Nếu đem ghép liền với câu: Mồ cha không khóc khóc đống mối Mồ mẹ không khóc khóc bối bòng bong thì sẽ thấy rằng đó là căn bản ý thức lịch sử của người Việt. Trong cuộc đấu tranh để sống, không chỉ dành bát cơm manh áo cho sinh mệnh cá nhân mà còn điều quan trọng hơn là bảo vệ mồ mả. Mồ mả không có nghĩa là ba thước đất vùi chôn một xác người đã tận số trần gian. Mồ mả đây là anh linh tiên tổ hay anh linh lịch sử. Cho nên suốt dòng lịch sử Việt, cái thất bại chính trị lớn nhất bao giờ cũng là chuyện: Rước voi về dầy mồ từng xảy ra cuối đời nhà Hồ, đời Lê mạt và đầu triều Nguyễn Gia Long. Lịch sử là gì? Tri thức của loài người tuy nói rằng còn ngàn vạn cửa mênh mông không bến bờ nhưng nếu thu lại cũng chỉ còn hai loại: - một thuộc tự nhiên, và - một thuộc nhân văn Mọi hiện tượng trên thế giới không đi ra ngoài hai loại đó. Tự nhiên là tất cả những gì thuộc nhân dĩ ngoại, nhân văn là tất cả những gì thuộc bản thân xã hội loài người. Đành rằng một người sinh vào cõi đời hoàn toàn là một chuyện thuộc tự nhiên, nhưng vì ta đứng trên lập trường người và xem trọng địa vị nhân sinh cho nên ta mới phân thế giới thành hai đại loại tự nhiên và nhân văn. Điều này chẳng có chi nghịch lý, vì có thể nói một cách rất thường thức rằng: Tự nhiên từ buổi khai thủy chỉ thuần là vật chất, rồi do sự đào dã tự nhiên mà thành ra có sinh mệnh rồi lại do sự đào dã của sinh mệnh mà sản sinh tâm linh, từ tâm linh sản sinh thành lịch sử. Lịch sử tức là nhân sinh, toàn bộ nhân sinh và toàn bộ kinh nghiệm nhân sinh. Bản thân lịch sử là tất cả những kinh nghiệm dĩ vãng. Dùng văn tự ghi chép hoặc gìn giữ những kinh nghiệm dĩ vãng để cho người đời sau liễu giải tìm về nhận thức những việc đời trước gọi là sử học. Phải suy xét gốc ngọn, tìm tòi căn nguyên những việc đã qua để hiểu rõ những vận hội tri loạn của một nước, những trình độ tiến hóa của một dân tộc. Chủ đích là để làm cái gương chung kim cổ cho người cả nước được đời đời coi vào đấy mà biết sự sinh hoạt cùa người trước đã phải lao tâm lao lực như thế nào mới chiếm giữ được cái địa vị ở dưới bóng mặt trời này. (Trần Trọng Kim- Việt Nam sử lược). Nghiên cứu và liễu giải sử học như vậy không phải chỉ để bảo lưu kinh nghiệm nhân sinh mà còn để phát huy giá trị cùng ý nghĩa trọng đại của lịch sử truyền tới, hậu thế căn cứ vào đó mà chỉ đạo tương lai bởi vì lịch sử không phải là một thứ dĩ vãng chết mà là dĩ vãng đã đúc kết thành tinh thần kiên cố và những sức mạnh tối lonh (Force obscures) vượt khỏi tầm với của lập luận “logique” tầm thường. Nếu không vượt khỏi tầm của lập luận “logique” tầm thường hỏi làm sao vua Quang Trung sau khi nghe bọn Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm dâng lời chịu tội kể chuyện quân Tầu thế mạnh sợ đánh không nổi nên phải lui thì cười mà nói rằng: “Chúng sang phen này là mua cái chết cả đó thôi. Ta chuyến này thân coi việc quân đánh giữ đã định mẹo rồi, đuổi quân Tầu về chẳng qua mười ngày là xong việc”. Vấn đề quan trọng chỉ ở chỗ có vận dụng hay không vận dụng được sức mạnh lịch sử. Vậy thôi. Cái “logique” tầm thường ấy đã từng được nhân dân Việt trả lời bẳng thần thoại: Thánh Gióng Phù Đổng Thiên Vương. Sách “Lĩnh Nam Chích Quái” kể: “Về đời Hùng Vương thứ sáu thiên hạ thái bình, dân gian sống yên vui, vua không đem lễ vật triều cống nhà Ân bên Tầu. Bạo chúa nhà Ân thấy vậy, mượn cớ đi tuần thú nhưng ngầm mang quân sang cướp nước Nam. Vua Hùng Vương lo sợ, vời quần thần vào hỏi kế đối phó, có người tâu: “Bệ hạ nên kêu khấn với Long quân để ngài giúp mới xong”. Vua nghe lời lập đàn cúng tế ba ngày đêm. Bỗng trời nổi cơn giông, sấm sét ầm ầm mưa như trút nước. Có một ông cụ già mặt mũi to lớn, đầu râu bạc trắng cao đến 9 thước ngồi ở ngã ba đường vừa cười vừa nói, ngâm hát múa may. Ai trông thấy cũng cho làm lạ mới báo cho vua hay. Vua thân hành ra mời ông cụ ấy và dâng cơm rượu thết đãi. Ăn xong, ông cụ ấy chẳng nói câu gì. Vua mới hỏi: - Sắp có giặc Bắc xâm phạm nước Nam, được thua thế nào xin cụ dạy bảo cho. Ông cụ lâu mãi mới nói rằng: - Sau ba năm nữa, giặc Bắc tất kéo đến đây. Nha vua nên tìm khắp cả thiên hạ mà cầu lấy người kỳ tài phá được giặc. Nếu được người giỏi mà phá giặc thì không khó gì nữa. Nói đoạn ông cụ bay vụt lên trời biến mất. Vua hiểu ông cụ đó tức là Long quân giáng hiện. Vừa đúng ba năm, quan quân trấn giữ biên ải cáo cấp về triều có giặc Ân kéo tới. Vua liền cho người đi khắp nước tìm người dẹp giặc. Bầy giờ ở làng Phù Đổng huyện Võ Ninh có một nhà hiếm hoi sinh độc một đứa con trai mà khốn nỗi nó đã bốn tuổi mà chưa biết nói, không ngồi đứng được chỉ nằm ngửa. Khi sứ giả nhà vua đến làng ấy, người mẹ cười nói bỡm con rằng: - Đẻ được một mụn con trai chỉ biết ăn uống, ngồi đứng còn không được thì đánh thế nào được giặc mà lĩnh thưởng vua ban. Thằng bé nghe vậy, bỗng nhiên bật nói thành tiếng bảo mẹ gọi sứ giả lại đây. Mẹ nó lấy làm lạ, nói chuyện với chòm xóm. Ai ai cũng khuyên bà ta hãy làm theo lời thằng bé. Sứ giả đến trông thấy nó bé bỏng hỏi: - Tiểu nhi kia, mày còn nhỏ mới bập bẹ, gọi ta đến làm gì? Thằng bé ngồi dậy bảo với sứ giả rằng: - Mau về tâu với vua đúc cho ta một con ngựa sắt cao 18 trượng, một thanh kiếm dài bảy thước, một chiếc nón sắt đem lại đây cho ta. Giặc đến trông thấy ta tự nhiên phải sợ mà chạy, nhà vua chẳng cần phải nhọc công lo lắng. Sứ giả mừng rỡ về tâu với vua. Vua vui sướng bảo đám quần thần: - Đây là Long quân cứu ta đây. Rồi hối hả sai thợ rèn đúc ngựa sắt, kiếm sắt sai người đem lại đưa cho thằng bé làng Phù Đổng. Sứ giả sắp tới nơi, người mẹ ở nhà lo lắm, chỉ sợ con nói xằng bậy thì vạ lây đến cả nhà. Thằng bé cười ầm lên nói rằng: - Mẹ cứ kiếm rượu thịt cho nhiều để con ăn uống còn việc đánh giặc mẹ khỏi phải lo. Thằng bé từ đấy ăn mỗi ngày một lớn, cơm mẹ kiếim không đủ cho con, nên xóm giềng phải xúm vào kẻ đỡ tiền người cho thóc, người dâng rượu thịt, thế mà thằng bé ăn vẫn không đủ. Khi giặc Ân kéo đến núi Châu Sơn thì sứ giả đem ngựa kiếm đến nhà giao cho thằng bé. Gặp sứ giả, nhận đủ đồ binh giáp, nó bỗng đứng lên vươn vai mạnh một cái, mình liền cao vọt hơn mười trượng, ngẩng mặt lên trời gầm vài mươi tiếng, rồi rút thanh trường kiếm khỏi vỏ, nhảy lên mình ngựa sắt, chân đạp vào mình ngựa, ngựa hét ra lửa mà phóng chạy như bay. Phù Đổng trỏ gươn đi trước quan quân kéo theo sau, tiến sát đến trại giặc. Giặc bày trận dưới chân núi Châu Sơn, ngài xông vào trận đánh giết một hồi lâu, gãy mất cả kiếm, mới lấy tre mọc bên được nhổ cả tảng mà quật vào đám giặc. Quân giặc tan nát tựa hồ đất lở ngói tan, tranh nhau lạy phục xuống đất xin hàng”. Thằng bé làng Phù Đổng chính là lực lượng tối linh nung luyện bởi kinh nghiệm dĩ vãng của lịch sử. Long quân là tri thức để vận dụng sức mạnh tối linh kia. Bằng ấy thứ đánh bạt hẳn cái “logique” tầm thường cho rằng một nước nhỏ đánh với một nước quá lớn thì khác chi chuyện châu chấu đá voi. Nhờ đó, lịch sử Việt đã lập nên những đại công mà văn chương bình dân ca tụng với vẻ ngạo nghễ đầy tự tin: Nực cười châu chấu đá xe Tưởng rằng chấu ngả ai ngờ xe nghiêng Chim chích cắn cổ diều hâu Gà con tha quạ biết đâu mà tìm Có người hỏi quá khứ nhân sinh trên lịch sử làm sao diễn lại một lần nữa được? Quang Trung, Lê Lợi, Gia Long đã đi hẳn vào quá khứ không thể có Quang Trung, Lê Lợi, Gia Long nữa. Việc cũ xong, chúng ta nên hướng về phía trước mà tìm kiếm những điều mới. Lịch sử đã thành quá khứ làm sao chúng ta có thể dựa trên quá khứ để chỉ đạo tương lai? Câu hỏi nêu lên một vấn đề trọng đại. Thời gian trên lịch sử khác hẳn với thời gian thường nói hôm nay ngày mai. Thời gian của lịch sử qua đi, ta có thể bảo rằng nó chưa thật sự quá khứ và vị lai lịch sử, ta có thể bảo rằng vị lai ấy đã từng đến rồi vậy. Thời gian của lịch sử mang tính chất miên diên (dắt dây kéo dài) trong chớp mắt của biến hóa lịch sử đã cô đọng thành một đặc thù tính (sự ngưng đọng này xây dựng nên tinh thần sử và dân tộc tính). Nói cho dễ hiểu hơn, tỉ dụ: giáo sư giảng bài, những lời giảng của giờ trước ảnh hưởng đến lời giảng của giờ sau. Nếu coi giờ giảng trước là hoàn toàn quá khứ thì ta sẽ chẳng hiểu những lời giảng sau. Thành Lục Niên gai liếc kiếm rùa thần Bóng ngàn u thiên nhận dấn kinh luân Vua Lê Lợi một bữa ngự thuyền rồng chơi trong hồ Tả Vọng, bỗng thấy một con rùa to lớn bơi trên mặt nước, ngài cầm thanh kiếm thần bắt được khi trước mà chỉ xuống, không ngờ bị con rùa ấy đớp lấy rồi lặn mất, vua Lê mới đổi hồ Tả Vọng bằng tên hồ Hoàn Kiếm nghĩa là trả kiếm trời. Tích bắt được thanh gươm báu đến việc rùa thần đòi gươm báu lặn xuống hồ chính là một hình ảnh triết lý sử diễn tả sự liên hệ miên diên giữa quá khứ với vị lai trên thời gian của sử. Quá khư vị lai là thanh thần kiếm, rùa thần là vận động lịch sử. Lê Lợi là anh hùng lịch sử. Do rùa thần mà quá khứ với vị lai cùng anh hùng sử xanh quấn quít nhau thành: Một vòng không đáy đáy sinh người Ngoảnh lại trông đi mấy việt khơi Thường vậy vô danh văng vẳng Mà nay hữu thực bời bời Lịch sử giảng dạy cho chúng ta kinh nghiệm và sự nghiệp nhân sinh. Sự nghiệp bao giờ cũng bền bỉ lâu dài cho nên phàm đã thuộc sự kiện lịch sử thì tất phải là sự kiện có tính chất trì cửu nối liền quá khứ với hiện tại và vươn qua tương lai. Nghiên cứu lịch sử tuyệt đối không chỉ nghiên cứu quá khứ của sự kiện mà thực là căn cứ vào quá khứ để hiểu hiện tại và tương lại đi theo một tinh thần lịch sử nhất quán. Người nào đó đặt chân tại Cao Ly, quốc gia bị Nhật Bản đô hộ non trăm năm, những điều người ấy nhìn thấy không phải chỉ là Hàn Quốc ngày nay, còn cần nhìn thấy vết tích 100 năm đô hộ Nhật Bản nữa. Nếu không biết lịch sử 100 năm đô hộ kia tất sẽ không thể hiểu tường tận Hàn Quốc ngày nay. Mới non 100 năm đã ảnh hưởng đến thế huống chi cả chuỗi dài lịch sử mấy ngàn năm. Nói gì xa xôi, một người nào đó ở bệnh viện chừng ba năm không liên lạc tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Lúc ra, cầm tờ báo đọc mười việc thì có đến chín việc không hiểu. Chẳng phải vì đã quên mất văn tự, chính bởi tại đã cắt đứt với dòng lịch sử cho nên khi không rõ quá vãng ra sao đương nhiên cũng khó biết được hiện tại. Chứng tỏ rằng cái hiện tại bây giờ là một mặt của lịch sử, theo diễn biến của toàn bộ lịch sử triển khai tích lũy mà thành. Lịch sử là sinh mệnh, sinh mệnh không thể nửa đường gián đoạn nói sinh mệnh hôm nay chẳng dính dấp chi đến sinh mệnh hôm qua thì thật khó nghe. Sinh mệnh hôm nay chẳng qua chỉ là tầng bình diện của một đoạn thời gian được khai triển tích lũy từ một sinh mệnh quá vãng. Tỉ dụ đơn giản: giả thử không có biến động lịch sử 1954 chia đôi đất nước, chắc hẳn miền Nam không có bộ mặt như bây giờ, chắc hẳn còn cả triệu người chưa biết miền Nam là gì? Sinh mệnh dĩ vãng như vậy đã không hề qua đi, vì qua đi kể như là chết, nhưng sinh mệnh lại không thể chết, quá khứ, hiện tại tương lai sống mãi trong nó. Tìm hiểu lịch sử xin hãy tìm hiểu qua ý nghĩa trên. Sách “Trung Dung” của Khổng Khâu có câu: “Sở quá giả hóa, sở tồn giả thần” Quá khứ lịch sử đều đã hóa, hóa đi để tạo thành hiện tại, đem cái thần đó cho hiện tại rồi lịch sử hôm nay đều cũng sẽ phải hóa đi để tạo thành tương lai, đem cái thần đó cho tương lai. Đấy dòng nước băng băng chảy mãi Chớp bể mưa nguồn nào có ngơi Cái thần ấy là tinh thần lịch sử chảy như dòng nước còn mãi mãi như chớp bể mưa nguồn. Có tinh thần này thì mới hình thành lịch sử. Nếu quá khứ buột đi không tồn lưu thần cho hiện tại tức là quá khứ vô sinh mệnh, không mang ý nghĩa lịch sử và giá trị lịch sử. Tôn Thất Thuyết bỏ vua lập vua, tranh quyền tranh lợi, những hành động ấy làm gì có ý nghĩa và giá trị lịch sử. Nhưng Tôn Thất Thuyết nửa đêm nổ súng đánh Tây thất bại chạy sang Tầu hóa điên, hằng đêm uống rượu mài gươn chém đá lại là hành động có ý nghĩa và giá trị lịch sử vì cái “thần” muốn tuyết quốc sỉ. Thẹn đất nước dưới chân giầy uế sú Người Lâm Thao Bến Ngự luống tâm cơ Mà bướm hồn, xuân nửa não lòng thơ Để đàn nhạn Cô Tô đài thoi thóp Giả thử chỉ có ngày hôm nay mà không có ngày mai thì cũng chẳng có luôn giá trị luôn cả ý nghĩa lịch sử. Hôm nay phải có ngày mai thì hôm nay mới là hôm nay của lịch sử. Ý nghĩa nhân sinh ở đấy, giá trị nhân sinh cũng ở đấy. Lịch sử là cái gì từ quá khứ thẩm thấu vào hiện tại rồi trực đạt đến tương lai. Như A. Pazzi viết : “Trên khuôn mặt người Việt Nam có cả vết hằn lịch sử của họ. Các vết hằn ấy ở khóe mô, ở vừng trán, ở trong ánh mắt nụ cười, ở trên màu da và trong tiếng nói”. Thời gian lịch sử khác hẳn với một giây một khắc qua đi là qua dứt của thời gian vật lý. Phần sinh mệnh nói đây không phải là sinh mệnh tự nhiên mà là sinh mệnh lịch sử, không phải là sinh mệnh vật chất mà là sinh mệnh tinh thần. A. Pazzi viết: “Khuôn mặt người Việt Nam là do quá trình gian khổ của dân tộc họ làm thành và sức quật cường lớn lao của dân tộc họ tạo nên. Cặp mắt họ biết quắc mắt nhìn giận dữ mà không tàn bạo, đôi môi họ biết mím chặt căm hờn mà không ác tâm”. Một người cho dù có thọ lắm chẳng qua sống được 90 hay 100 tuổi. Đó chỉ là một sinh mệnh tự nhiên. Nhưng một quốc gia, một dân tộc có thể có đời sống sử xanh cả nhiều ngàn năm. Đó mới là sinh mệnh văn hóa, sinh mệnh tinh thần hay sinh mệnh lịch sử. Văn hóa tinh thần, lịch sử, dân tộc, ba danh từ cùng chung một thực chất. Dân tộc không tồn tại tự nhiên vì tự nhiên chỉ có thể sinh dục loài người không thể sinh dục dân tộc. Người Việt Nam phải có một tâm linh Việt, một tinh thần Việt mới thành người Việt Nam được. Tâm linh và Tây Tạng ở đâu ra? Do văn hóa lịch sử dân tộc nung đúc thành, không thể tự nhiên mà có. Khả dĩ đưa ra một định nghĩa như sau: “Người tự nhiên dung hợp với văn hóa lịch sử mới xây dựng thành dân tộc. Vậy văn hóa lịch sử dân tộc tuy ba danh từ nhưng cùng chung một thực chất”. “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn, voi uống nước, sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kinh ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi Hoàng Phục tự trói để ra hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường Xương Giang Bình Than máu trôi đỏ nước”. Mấy câu trong bài “Ngô Ngô đại cáo” nhưng cũng là tinh thần Sử Việt ngàn đời. Lịch sử các dân tộc trên thế giới. từ hồng hoang đến nay, có 4 loại tinh thần nguyên hình (prototype):: a) Tinh thần hòa đồng (harmonieux b) Tinh thần tu ẩn (ascétique) c) Tinh thần anh hùng (héroique) d) Tinh thần cứu thế (messiaque) Tinh thần hòa đồng tìm thấy trong đạo Khổng, trong các nhân vật sử của Homère hay trong tâm hồn người theo thiên chúa giáo ở thời kỳ (gothique) quan niệm vũ trụ là một khối thái hòa, con người hãy tan biến vào khối tái hòa đó mà sống đừng cố gắng bắt vũ trụ chung quanh phải theo y mình, cứu cánh là đi đến một thế giới thái hòa (harmonie du mande). Tinh thần tu ẩn tìm thấy trong Ấn Độ giáo, trong triết lý Hy Lạp phái tân Plato (néo-platonicien), trong đạo Tiên của Lão Trang, quan niệm cuộc đời là sự lầm lạc, hãy tránh sự lầm lạc đó mà đưa ta tới cõi thanh thản huyền vi, hãy xuất thế diệt dục với không một tham vọng chấn chỉnh sửa đổi, cứu cánh là chối bỏ thế gian (renoncement au monde). Tinh thần cứu thế tìm thấy trong giáo lý của Thiên Chúa giáo ở thời kỳ phát đoan, trong tư tưởng dân Slave (Nga quốc) và tinh hoa Hồi Giáo với cứu cánh muốn đem cho trái đất một trật tự siêu việt (ordre supérieur) hoặc phi phàm (divine). Tinh thần anh hùng tìm thấy trong hình ảnh vị thần Prométhée của thần thoại Hy Lạp, kẻ ăn cắp lửa trời cho xuống nhân gian, trong thời La Mã đế quốc, trong đa số triết gia Đức hiện thời và cũng trong hai câu thơ của Lý Thường Kiệt: Cớ sao giặc dám hoành hành Rồi đây bay sẽ tan tành cho coi (Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư) quan niệm cõi đời là một cuộc trường kỳ đấu tranh, hãy đem sức ra để tồn tại. Tinh thần sử Việt là tinh thần anh hùng đấu tranh bám chặt lấy đất nhưng không ngước nhìn lên trời như tinh thần cứu thế. Người Việt có thể tôn kính Khổng học nhưng nhất quyết không chấp nhận tinh thần hòa đồng với giống Hán gọi người đàn bà Viết lấy Tầu là thằng Ngô con đĩ, người Việt có thể sùng bái và cúng tế Phật đạo, tôn trọng nhà tu hành nhưng luôn luôn bài bác cái chuyện đi ở chùa. Lý Công Uẩn ở chùa Ứng Tâm, hàng ngày đem oản lên cúng Phật, Uẩn thường khoét ruột ăn trước. Long thần thấy vậy báo mộng cho nhà sư trụ trì, nhà sư mắng Uẩn. Khi biết việc Long thần mách lẻo, Uẩn liền tới đánh vào cổ Long thần ba cẳng, viết trên lưng Long thần mấy chữ “Lưu đày đi ba ngàn dặm”. Long thần phải khóc xin nhà sư vận động với Uẩn mới yên. Tích Lý Công Uẩn cho thấy cái giá trị con người lãnh đạo thế tục cao gấp bội thần thánh và tu hành. Đến ngay như vị đại cao tăng đời Lý là Từ Đạo Hạnh tu thành chính quả mà vẫn trở lại kiếp đời là vua Thần Tôn. A. Pazzi viết: “Nếu người ta quay trở lại khởi điểm để thấy người Việt từ lúc vùng dậy ban đầu với những vũ khí thô sơ, những gậy tầm vông và giáo mác thì người ta sẽ hiểu rõ hơn nữa sức tiềm tàng nơi họ phi thường như thế nào. Những kẻ thù vốn tự hào là hùng mạnh nhất của dân tộc Việt không thể nhìn thấy điều ấy. Làm sao mà nhìn thấy được khi cái ý chí bất khuất của dân tộc Việt bắt nguồn từ trong lịch sử ngàn xưa, thấm sâu ở trong xương tủy, chan hòa trong máu huyết, bàng bạc trong niềm kiêu hãnh vô biên của một giống nòi không chịu sống trong tủi nhục, luôn luôn có sự gắn bó mãnh liệt vào mảnh đất quê hương, vào di sản của dân tộc, di sản đau thương mà rất kiêu hùng”. Kiêu hùng như tiếng thơ sang sảng của Trần Quang Khải ngất ngưởng ngâm giữa bữa tiệc khao quân sau khi đã phá tan quân Mông Cổ: Đoạt sào Chương Dương đó Cầm hồ Hàm Tử quan Thái Bình nghi nỗ lực Vạn cổ thử giang san Văn hóa, lịch sử và dân tộc để được tồn tại đời đời phải đấu tranh trên hai mặt: vừa trì tục vừa biến hóa. Nhất tại cầu kỳ biến Nhất tại cầu kỳ cửu Vừa nghe như có vẻ mâu thuẫn, đã biến hóa thì làm gì còn trì tục (tiếp nối gìn giữ) và ngược lại. Tự nhiên giới hơi đã biến thành nươcó tất thể hơi hoàn toàn tiêu diệt. Văn hóa sinh mệnh khác hẳn trong trì tục có biến hóa, trong biến hóa có trì tục. Giảng lịch sử hay làm lịch sử phải nắm vững đươct quy luật “cầu biến cầu cửu” mới khỏi làm mất ý nghĩa lịch sử và tiêu diệt mệnh sử. Năm 1921, phong trào vận động văn học, nhà sử học gọi bằng phong trào “Ngũ Tứ” (vì nó phát khởi nhằm ngày 4 tháng 5) do nhu cầu biến quá mạnh nên phong trào mới thành quá khích với những lời thống mạ lịch sử: - Trung Quốc nhân hai ngàn năm nay toàn nô lệ tính. - Đả đảo bọn Khổng học (Khổng gia điếm) - Tội ác ở tên Khổng Tử - Toàn ban Tây hóa (hãy Tây hóa suốt lượt) (Sau này khi tình trạng bồng bột của huyết tính ngàn xuống, mọi người mới nhận thấy cái nộ khí ấy thật là điên, dấu hiệu của tuyệt vọng). Việt Nam tuy cũng ở vào hoàn cảnh tương tự, hơn nữa Khổng học còn là thứ học vay mượn mà không có phong trào chối bỏ lịch sử điên đến như vậy. Người Việt không hề bị văn minh Tây phương nắm cổ mình dù rằng nó đã làm cho người Việt thất trận. Trước sau thằng Tây vẫn là giặc cướp nước sao lại Tây hóa làm gì? Học Tây có thể được nhưng Tây hóa tuyệt đối không. Cho nên tất cả phong trào do âm mưu của giặc muốn hóa nhất loạt đều bị xa lánh chửi rủa, ngoại trừ một số vong quốc nô hí hửng tham dự, rốt cuộc rồi cũng đi tới chỗ vui đấy bao nhiêu nhục bấy nhiêu. Ngày Tây tưởng niệm hải quân đại tá Henri Rivière, bắt người Việt dự lễ, ngày ấy bài văn tế Rivière được sáng tác bí mật truyền tay nhau đọc: “Hỡi ôi! Ông ở bên Tây. Ông qua bảo hộ. Cái tóc ông quăn. Cái mũi ông lõ. Đít ông cưỡi lừa. Miệng ông huýt chó. Lưng ông mang súng lục liên. Chân ông đi giày có mỏ. Ông dẹp cờ Đen. Để yêu con đỏ. Ai ngờ. Nó bắt được ông. Nó chặt mất sỏ. Cái đầu ông đâu? Cái đít ông đó. Khốn khổ thân ông. Đéo mẹ cha nó. Nay tôi có. Cau một buồng. Xôi một chõ. Rượu một ve. Trứng một ổ. Vâng lời quan trên. Cúng ông một cỗ. Mời ông xơi cho. Ông ăn cho no. Ông nằm cho yên. Ô hô thượng hưởng”. Tây là Tây, Việt là Việt. Tây tóc quăn, mũi lõ, miệng huýt chó, đi giày có mỏ. Việt vẫn giữ nếp cau một buồng, xôi một chõ. Rivière chắc không dễ dàng gì ăn được những thứ đó. Phải ngăn cách để khỏi bị đồng hóa để hoàn thành mặt đấu tranh gìn giữ lâu bền (cầu kỳ cửu). Tuy nhiên, không vì thế mà người Việt lãng quên mặt đấu tranh cầu biến. Đời sống Việt từ ngày mở nước là một thời gian dài tìm mọi cách jấp thụ cái hay, cái đẹp của người, tài trí hấp thụ tài tình đến độ thường hóa luôn của người làm của mình chứ không để mình hóa ra người. Chữ Hán là một điển hình thứ nhất học Hán tự nhưng ta có lối đọc riêng và thường gọi là chữ Nho chứ không kêu bằng chữ Hán, rồi lại ghép chữ Hán để biến thành chữ Nôm. Thật là lý thú biết chừng nào khi một người Việt đọc bản “Chinh phụ ngâm” thấy bên trái là những dòng chữ Hán người Việt sáng tác: Thiếp tâm tùy quân tự minh nguyệt Quân tâm vạn lý thiên san tiễn Trịch ly bôi hề vũ long tuyền Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt lại thấy bên phải là những dòng chữ Nôm, viết giống như chữ Hán nhưng người Hán không đọc được, do người đàn bà Việt dịch: Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi Chàng sầu sa tìm cõi thiên san Múa gươm rượi tiễn chưa tàn Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo Điển hình thứ hai là tiếng nói Việt Nam đã được La Mã hóa và phát triển thật mau, vất bỏ chữ Nôm không thương tiếc vì tính cách thiếu thuận lợi, không hợp với thời đại. Đọc “Tế Cấp bát điều” của Nguyễn Trường Tộ qua những đoạn: “Nước ta thời ngoại thuộc và triều Tiền Lê về trước cũng ví như tuổi thành đồng: từ nhà Trần trở về trước, cũng như tuổi thiếu niên. Kịp đến ngày nay mới thật là lúc tuổi giàu sức mạnh, tức cái thời kỳ đại hành vi, đại hoạt động. “ … Đến ngày nay mà còn có nhiều người không lãnh hội được cái thế sự biến thiên qua đời xưa và đời nay, mà lại cực lực ngợi khen đời thượng cổ cho rằng đời sau không theo kịp họ, làm gì cũng muốn trở về xưa. Bọn Tống Nho làm cho nước nhà lầm đường và trở thành ủy mị không thể chấn hưng được, cũng vì thế… ” Các nước Đông phương tuy là thủy tổ của bách nghệ nhưng họ có tính đam mê an lạc, không thích canh cải. Vả ngày xưa họ cũng đã từng uy hành thiên hạ nên họa giàu lòng tự túc, nghĩ rằng thiên hạ không ai hơn mình. Một khi có ngoại địch thốt đến thì họ cho là nhân vật kỳ dị mà không biết rằng cơ xảo ngày nay của nó đều là những thừa thãi của Đông phương chúng ta ngày trước. Chúa Tạo Vật đã đem cái đó cho chúng ta trước mà chúng ta chưa dùng được một cách tận thiện, thì lại do chúng ta, sự chúng ta gây vạ cho họ mà đem trao cái đó cho họ. Họ nhận được cái thừa của ta thì cho là rất quí, ngày ngày trau dồi cho thật tinh xảo rồi trở lại đem bán cho chúng ta để kiếm lợi to. Nhưng đại phàm một vật đã phát triển đến chỗ cùng tột, thì phải trở. Cổ lai không có cái luật gì là bất khả phá. Không ngoài trăm năm nữa thì các nước Đông phương cũng sẽ dùng cái đó mà thắng họ… Người Tây phương là kẻ buôn trí xảo, nếu ta biết mua nó một cáh khéo léo thì không lâu của họ sẽ chuyển thành của ta… Lấy trí lực của ta vốn có lại đem cái trí lực mua được nơi họ mà thêm vào. Trí xảo của họ sẽ cũ dần mà trí xảo của ta thì đổi mới. Đem hai trí địch một trí, lẽ nào không thắng? Mới chỉ tiếp xúc với Tây phương một thời gian rất ngắn, Nguyễn Trường Tộ đã nhìn thấy nhu yếu cầu biến để tồn tại, ông đi trước cả Minh Trị, Duy Tân của Nhật Bản, trước cả đề nghị biến pháp của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Sau Nguyễn Trường Tộ là ông Nguyễn Lộ Trạch viết tập “Thời Vụ Sách” (1877) gửi đến triều đình, xin trích một đoạn: “Lấy ta so đọ với chúng (Tây) thì thấy bên yếu bên mạnh rõ ràng như thế. Vậy bàn đến việc đóng tàu thủy thì tốn tiền nhiều quá, bàn đến việc chế súng đạn thì nói việc làm khó quá, nên tìm một phép lạ gì để sáng chế ra thì hơn. Đó cũng giống như chuyện sợ bữa sớm bữa tối phải thổi nấu lôi thôi mà muốn dùng cây cỏ để ăn cho khỏi đói. Nhưng nếu cây cỏ có thể ăn được no thì ruộng đất không bằng rừng hoang mà cày cấy cũng chẳng cần thiết nữa, tàu và súng nếu có thể dùng ảo thuật để chế tạo ra thì hình người gỗ có thể đâm chém, gươn Mạc Gia (?) cũng thành vô dụng. Vậy thì tàu và súng đã không thể dùng phép lạ gì để chế tạo ra được, mà lại không chịu dụng tâm để tìm hiểu nguyên do vì sao mà người ta làm được bền được tốt nếu sau này có lúc ra đối địch ở chiến trường có lẽ ta sẽ xin chịu nhận mình là thua kém hay sao? Hay là rồi cũng theo lề lối cũ của ta mà chịu để cho xe chạy quáng cờ lướt xuống hay sao? Vả chăng cái mạnh của giặc là vì chúng nó nắm được phương pháp, cái yếu của ta chứa sẵn từ lâu rồi, nếu biết sửa chữa cái nếp yếu hèn đã lâu, cố gắng lo tìm phương pháp vươn lên thì biết đâu không nhân lúc thua này mà làm nên việc?”. Qua tác phẩm của Nguyễn Trường Tộ, của Nguyễn Lộ Trạch cà của đa số những danh nhân học sĩ Việt Nam khác, người ta thấy chung một điểm tinh thần văn hóa anh hùng đi tìm học và nghĩ với mục tiêu đem về cho mình một quyền lực nhưng không coi tư tưởng và học thuật như một động cơ giải phóng của đời sống (Seul l’homme de culture héroique envisage le science ou la pensée comme un facteur de puissancr et non comme un facteur de libération). Đấy cũng là cái lý khá vững để giải thích tại sao nhà Trần lại cướp ngôi nhà Lý rồi phát động phong trào tư tưởng Nho để đánh dẹp tư tưởng Phật đang hồi cực thịnh. Nhà Lý đổ vỡ nhanh chóng vì tinh thần tu ẩn (ascétique) muốn tràn lấn có thể làm tiêu mòn ý chí đấu tranh của dân tộc, tinh thần tu ẩn quá phổ biến đã xóa nhòa phong độ phá Tống bình Chiêm ngày trước. Người Việt bao giờ cũng hãnh diện và hoài bão tinh thần truyền thống đấu tranh anh hùng. Nam nhi tự hữu xung thiên chí Hưu hướng Như Lai hành xé hành (Tài trai có chí xông trời thẳm Dẫm vết Như Lai uổng nhọc mình) hơn là cái cảnh: Chống gậy non cao rũ bụi đời Nằm trong mộng huyễn ngắm mây trôi Quạnh quẽ am mây, ai gõ cửa Chuông chùa xa lắng dạ khôn nguôi Để thay thế cho tinh thần tu ẩn ảnh hưởng quá mạnh của đời Lý, Nho phái mới cho đặt câu vè: Tu đâu cho bằng tu nhà Thờ Cha kình Mẹ mới là chân tu Và câu ngạn ngữ: “Bụt trong nhà không thờ lại đi thờ Thích Ca ngoài đường”. *
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 4:52:12 GMT 9
Trong quan niệm người Việt Nam thì sức mạnh của đất quan trọng hơn sức mạnh của máu, vấn đề thuần túy giống nòi không bằng vấn đề giang sơn gấm vóc. Đôi bàn chân Giao Chỉ còn hay mất không đáng quan tâm bằng bờ cõi bị xâm phạm. Mã Viện dựng cột đồng ở chỗ phân địa giới khắc sáu chữ: “Đồng trụ chiết Giao Chỉ diệt”, người Giao Chỉ đi qua chỗ ấy ai cũng bỏ vào chân cột đồng trụ một hòn đá, cho nên về sau chỗ ấy thành ra núi, đến bây giờ không biết cột ở chỗ nào? Cứ làm thế nào xua giặc ra khỏi bờ cõi đã, không bao giờ để cái đồng trụ phân địa giới đổ. Còn như vấn đề giòng giống máu huyết, trước cả Anh quốc từ mấy ngàn năm người Việt đã bằng lòng nhận làm dân Việt tất cả trẻ sinh trên đất Việt dù cha mẹ nó có thể vẫn giữ quốc tịch gốc, luật “jus soli” ưu tiên hơn luật “jus sanguinis”. Có những thời kỳ người Tàu tranh đấu chống lại luật trên nhưng cũng chỉ dành được quyền cho đứa trẻ đầu lòng mang quốc tịch bố, từ đứa thứ hai là của Việt. Vào thời kỳ Nam Tiến, luật này được áp dụng chặt chẽ đối với người Tàu theo nhà Minh chống giống Mãn chạy sang nước ta được triều đình cho tham gia chính sách Nam Tiến. Tuy nhiên, không phải vì luật “jus soli” được coi trọng hơn luật “jus sanguinis” mà ý thức luân lý bảo vệ nòi giống không được đặt nặng. A. Pazzi có nhận xét sau đây: “Bài học lịch sử của dân tộc Việt là chuyện cô gái Mỵ Châu lấy người ngoài nước tên là Trọng Thủy mà cơ nghiệp nhà vua sụp đổ tan tành, đất nươcó bị sự lệ thuộc lâu dài. Có lẽ do những phản ứng sâu xa, do những kinh nghiệm lịch sử, người Việt vẫn khinh ghét rất đậm đà tất cả những phụ nữ lấy chồng nước ngoài, nhất là khi nước ngoài ấy thuộc về các dân tộc đã làm phương hại đến quyền lợi vật chất hay tinh thần của họ. Trong ngôn ngữ ngày xưa có câu thành ngữ “Thằng Ngô con đĩ” để chỉ người Tàu và các bà vợ Việt mặc dầu họ vẫn tiếp đón niềm nở văn hóa Trung Quốc và quí trọng nền văn hóa ấy. Đối với lớp người lấy Pháp, họ vẫn quen gọi bằng tiếng Me Tây và bất cứ người nước nào đến xứ sở của họ và có vợ con như Mỹ chẳng hạn thì các người vợ sẽ đươc gọi bằng Me Mỹ. Tiếng Me của họ là tiếng gọi rất đặc biệt ngụ ý chỉ trích, khinh miệt hết sức. Tất nhiên chỉ có những người đàn bà gọi là hư hỏng ở trong xã hội Việt Nam mới lấy chồng ở ngoài nước. Cũng có một số con nhà gọi là khá giả, có học nhiều năm ở trường hay du học ở nước ngoài, lấy chồng ngoại quốc và cho đó là dấu hiện văn minh, nhưng xét cho cùng lớp phụ nữ này vẫn bị đa số đồng bào của họ khinh miệt rõ rệt hoặc âm thầm vì họ xem như là mất gốc lạc nòi của một bọn người đã đứt cội rễ. Nếu ta đi sâu thêm một tí nữa thì ta có dịp thấy rõ rằng giữa những người đàn bà hạ lưu trụy lạc đi lấy chồng nước ngoài vẫn cảm thấy sự âm thầm tủi nhục, xót xa hơn là lớp phụ nữ có trình độ học vấn được sinh trưởng trong những gia đình gọi là tử tế. Tại sao những lớp người đàn bà cùng khốn bị đẩy vào thế lấy chồng nước ngòai vì kế mưu sinh lại có ý thức dân tộc hơn là những lớp tự gọi là có học. Điều này chỏ giải thích được như sau: lớp gọi là có học này đã bị văn hóa nước ngoài đầu độc làm cho mất hết ý niệm quốc gia dân tộc của những người Việt yêu nước. Tất nhiên lớp người đàn bà này không nhiều ở trong xã hội Việt Nam và hình như thế nào về sau họ cũng cảm thấy chán chường, xấu hổ hoặc là âm thầm hối hận về sự đi lấy chồng ngoài nước vốn đã bị dân tộc của họ xem như là sự phản bội, là sự đe dọa nhân cách”. Thế nhưng, trong trường hợp để đổi lấy cái lợi thực tiễn cho công cuộc mở mang bờ cõi thì vua Anh Tôn nhà Trần sẵn sàng gả con gái yêu của mình là Huyền Trân công chú cho Chế Mân để lấy hai Châu Ô, Châu Rí. Tản Viên sơn thần xưa có một quyển sách ước, trong sách hoàn toàn để trắng không có viết gì cả. Qua tích thần thoại Tản Viên, tổ tiên ta muốn dạy bảo con cháu đời sau rằng: “Mỗi hành động hãy bắt đầu bằng sự nhận thức những điều căn bản, những điều kiện riêng biệt của chính trị đương thời. Muốn được như vậy cần phải có một tinh thần thực tiễn sáng suốt đầy tin tưởng vào nghị lực phấn đấu của lịch sử, đừng để bị giam hãm trong huyền hoặc hay tình tự nông nổi của quần chúng”. (L’action doit-être commencée par l’acceptation des conditions fondamentales de toute politique, des conditions propres à l’époque donnée. Il faudrait être capable de lucidité et de foi: croire à une volonté historique sans croire ni aux mythes ni aux foules. - Raymond Aron) Sách ước để trắng có nghĩa là: “Lịch sử hoàn toàn tự tại bởi vì lịch sử không bao giờ đã định đoạt từ trước”. (L’histoire est libre parce qu;elle người;est pas écrite d’avance). Lịch sử phải được xây dựng theo điều kiện của thực tiễn chính trị, thực tiễn đấu tranh, lấy tùy thời và thời trung làm nguyên tắc. Người Việt thường nói: “Thời nào theo kỷ cương ấy, một câu thông tục mà đầy đủ ý nghĩa của triết lý sử học”.
QUỐC PHÒNG
Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của đất nước. Lê Thánh Tôn
Nước Mê Linh trăng thu còn vằng vặc Sóng Bạch Đằng sóng vỗ thuyền cắc cắc Non Chi Lăng gió cuốn rừng cung đao Đồng Đống Đa xương người phơi man mác Buổi Sát Thát chàm vai thề đầu mất Ngày bình Ngô nổi cờ không khuất tất Khi Cần Vương nhổ mặt lũ gian hùng Lúc Cứu quốc vòng bôn lao uất uất Thái Địch
Bởi những điều kiện đặc thù của địa lý, của lịch sử, trọng tâm chính trị Việt là vấn đề quốc phòng, cho nên văn minh cổ đại của Việt tộc mới là văn minh trống đồng. Trống đồng là dấu hiệu của sự kêu gọi nhân dân, điều động ba quân thúc quân thu quân, trống cầm canh, trống ngũ liên nhằm đưa sinh hoạt đoàn thể khuôn theo nhịp trống. Tiếng trống đồng vang lên như tiếng sấm rền rĩ rung chuyển trời đất. Giáo sư Nguyễn Đăng Thục viết ngụ ý triết học của trống đồng rằng: “Vì trống đồng dùng làm trống trận, cụ thể hóa cái ý thức vật tổ thần bí tức là ý thức đoàn thể dân tộc cho nên tiếng trống đồng càng có hiệu lực, uy linh đại diện cho tiếng nói của đoàn thể mà sớm được thần hóa, phụng thờ như một vị thần linh, như là ý chí tối cao toàn năng của quốc gia vậy. Nhân dân đã dựng đền thờ hằng năm hương khói cúng tế. Đến khi dân tộc đã quật cường bằng xương máu của biết bao anh hùng liệt nữ thì ý thức tập thể quốc gia càng trở nên uy linh để bảo vệ đất nước, nhà vua với quần thần lãnh đạo quốc gia càng phải đồng tâm nhất trí, cho nên thần Đồng Cổ tức thần Trống đồng đã được gọi lên làm chứng cho lời thề trung thành với tổ quốc của quần thần một triều đại, vì thần Trống đồng cũng như thần Sấm Sét biểu thị ý chí toàn dân có uy lực chu diệt kẻ phản quốc, phản dân tộc. Vì thế mà nhân dân đã chọn ngày 4 tháng 4 hàng năm để cho quần thần uống máu ăn thề vì thần Trống đồng đã đồng nhất hoàn toàn với thần Sấm hằng năm chỉ bắt đầu lên tiếng vào giao tiết cuối Xuân sang Hạ báo hiệu nhân dân nông nghiệp có nước để cày cấy”. Quốc phòng đối với người Việt đã thành ra một tôn giáo. Tất cả những vị anh hùng cứu nước diệt giặc bất kể thuộc đẳng cấp nào, vua, quan hay dân giả đều được lập miếu, lập đền thờ cúng. Thờ cúng anh hùng (Culte des héros) mà Thomas Carlyle mãi đến 1922 mới đưa ra và được thế giới nồng nhiệt tán thưởng thì người Việt đã thực hành từ lúc mới bắt đầu lập quốc. Không phải chỉ lúc sống đánh nhau với giặc, ngay cả lúc ở ngôi vị thần thánh rồi vẫn còn tiếp tục nhiệm vụ quốc phòng. Sách “Lĩnh Nam Chích Quái” kể: Khi nước Nam nội thuộc nhà Đường, Cao Biền sang làm Đô Hộ, muốn trấn yểm các nơi linh tích, bắt đứa con gái 17, 18 tuổi chưa chồng cho ăn đồ hoa quả, mặc áo quần tề chỉnh, sang trọng đặt ngồi lên ngai rồi rình khi cất nhắc chân tay, thốt nhiên chém đi. Thường hay dùng thuật ấy để trấn áp bách thần. Khi Biền dùng mẹo ấy để trấn áp thần núi Tản thì thần cưỡi ngựa trắng đứng trên đám mây mà đi. Cao Biền than rằng: “Linh khí nước Nam còn thịnh vượng lắm, không tài nào mà trừ được”. Thời vua Ý Tôn nhà Đường, Cao Biền được làm Tiết Đô Sứ bên nước Nam tự xưng là Cao Vương. Cao Biền thông hiểu thiên văn địa lý, cho xây môt thành mới đặt tên là Đại La Thành. Mé bắc thành ấy có con sông, tự sông Lư chảy vào phía tây bắc rồi xuống phía nam, vòng quanh La thành rồi lại đổ vào Sông Cái. Mỗi năm đến tháng 6 mùa mưa nước sông tràn lên mông mênh. Có lần Cao Biền ngồi thuyền chơi trong sông bỗng thấy một cụ già đầu bạc phơ phơ, râu mày trắng xóa, hình dung kỳ dị đang bơi tắm trên sông cười nói vui vẻ. Biền lấy làm lạ, hỏi tên họ thì nói là họ Tô tên Lịch, hỏi chỗ ở thì nói ở trong sông. Nói đoạn vỗ tay cười ầm lên rồi tự nhiên trời đất tối sầm, ông cụ ấy biến mất. Cao Biền biết là thần, nhân thế gọi sông ấy là sông Tô Lịch. Lại một buổi sớm, Cao Biền đứng ở cửa đông nam La thành trông ra sông Tô Lịch thấy trong sông nổi cơn gió to, sóng đánh cuồn cuộn, mây kéo mù mịt rồi có một người dị dạng mặc áo vàng đầu đội mũ đỏ, tay cầm hốt vàng có bóng thấp thoáng như mây phủ, mãi đến lúc mặt trời gần cao ba trượng mà chưa tan. Cao Biền lấy làm lạ, muốn dùng thuật trấn áp, bèn đem vàng bạc đồng sắt chọn huyệt mà chôn xuống cùng với lá bùa yểm. Đêm ấy, mưa gió ấm sét ầm ầm, có tiếng quỉ thần hò hét quát tháo kinh thiên động địa. Một lát sau bùa yểm cùng vàng bạc đồng sắt đều bị sét đánh bật tung lên tan ra như gió rồi bay tản vài trong không mất cả. Cao Biền sợ hãi than rằng: “Ở xứ này có thần thiêng như thế, ta nên về Tàu chớ ở đây lâu tất có ngày mang họa”.
* **
Tục truyền sau khi Hùng Vương nhờ Phù Đổng Thiên Vương dẹp xong giặc Ân, nước nhà thái bình rồi, vua mới tính chuyện truyền ngôi cho con, bèn hội hai chục người con lại mà phán rằng: “Ta muốn truyền ngôi cho đứa con nào tìm được vật phẩm cúng tiên tổ quí báu nhất”. Các công tử người nào cũng lo đi tìm sơn hảo hải vị bằng cách vào sâu trong rừng săn bắn hoặc mò dưới đáy biển khơi. Duy người con thứ chín tên là Lang Liêu ngày đêm thao thức ăn ngủ không yên vì chưa biết lấy gì dâng lên vua cha. Gần đến kỳ hạn bỗng có thần đến báo mộng cho Lang Liêu bảo rằng: “Trong trời đất không có vật gì quí hơn gạo, vì gạo là của nuôi dân, ngày ngày con người ăn mãi mà không thấy chán. Nếu lấy gạo nếp nấu lên gói thành hình tròn tượng trưng cho vòm trời, đồng thời cũng gói thành hình vuông tượng trưng cho đất”. Lang Liêu tỉnh dậy mừng rỡ làm theo lời thần dậy, đem lựa hốt gạo nếp nào trắng tinh vo đi cho sạch, dùng lá xanh gói thành hình vuông đặt vị ngon vào giữa đem nấu chín đặt tên là bánh chưng. Lại lấy gạo nếp đồ xôi, giã cho nhuyễn nặn thành hình tròn gọi là bánh dày. Tới kỳ hạn, các con tề tựu trình lên vua cha các loại báu vật, chỉ có Lang Liêu đem bánh tròn, bánh vuông lên dâng vua. Hùng Vương lấy làm lạ mới hỏi Lang Liêu tại sao lại coi hai loại bánh bằng gạo đó là báu vật? Lang Liêu kể hết tự sự. Vua nếm bánh thấy ngon vô cùng, chấm cho Lang Liêu được giải nhất rồi truyền ngôi cho. Truyền kỳ trên đây cho biết, sau khi định cương thổ (phá giặc Ân xâm lăng) thì kế hoạch xây dựng văn hóa, nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp được áp dụng, vấn đề quốc phòng cũng phải dựa trên những nguyên tắc mới, tổ chức quốc phòng qua định cư làng xã canh tác chứ không còn ở tình trạng nửa du mục du lịch, nửa nông canh như trước kia nữa. Việc xây dựng văn hóa và kinh tế nông nghiệp mãi đến đời Lý mới hoàn chỉnh, mới thành Nam quốc sơn hà. Paul Mus trong cuốn “S’ciogie d’une guerre” viết: “Nhờ sức mạnh bám chặt lấy đất, nhờ lối tổ chức làng xã mà gần một ngàn năm Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam chẳng những đã không bị tiêu mòn trái lại, còn lợi dụng được văn hóa Trung Hoa để sống mạnh hơn lên”. Cũng theo lời Paul Mus: “Cho tới ngày chế độ thực dân Pháp, quân đội Pháp cũng bị chính sức mạnh thần bí đó đánh bại” Mỗi làng là một đơn vị chiến đấu có thể tự túc trên mọi mặt, kinh tế vũ trang và văn hóa. Đô hộ Tần và đô hộ Pháp xưa và nay đều đã chỉ đặt được uy quyền của họ trên một vài trung tâm tỉnh thị nhưng năng lực quốc phòng chủ yếu vẫn không hề bị tiêu diệt vì nó tiềm ẩn vào trong tổ chức làng xã vây bọc bởi lũy tre xanh ngắt rải rác trong đồng ruộng mông mênh, ngun ngút cả ngàn cây số khắp giang sơn đất nước, làng nọ tiếp làng kia, thôn xóm đan vào nhau ngoằn ngoèo chằng chịt những bờ ruộng, những con đường đắp. Một kẻ lạ nào đến đó là bị nhìn bằng con mắt nghi ngờ, nếu là một ngoại nhân chắc chắn không bao giờ được chứa chấp.
* **
Gần như toàn bộ lịch sử Việt đúc kết vào vấn đề đối phó với phương bắc. Bởi vậy nói đến quốc phòng của nước ta tất phải đề cập Trung Quốc (mà người Việt gọi bằng danh từ nôm na miệt thị là nước Tàu) để nghiên cứu so sánh. Từ rất sớm, dân tộc Trung Quốc đã dựng nước trên nông nghiệp và toàn thiện một nền văn hóa nông nghiệp. Nông nghiệp lên phía Bắc đến một ranh giới buộc phải ngừng lại vì quá nửa khí hậu rất lạnh, không có mưa, chỉ có sa mạc và những cánh đồng cỏ, chẳng cách gì phát triển được nông nghiệp thành thử toàn vùng cực bắc Trung Quốc tạo thành một biên cương giữa hai nền kinh tế du mục và nông nghiệp luôn luôn có sự cướp bóc. Đời Tần Thủy Hoàng đã phải cho xây Vạn Lý trường thành để làm phòng tuyến chống giữ. Vũ trang của dân tộc du mục lấy kỵ binh làm chủ, loài ngựa chịu rét ưa vùng khô, cứ cuối mùa thu đến, lông ngựa mọc dài, sức lực sung mãn. Cọn kỵ binh dùng chất dẻo chế thành dây cung, trời trở lạnh chất dẻo cứng lại bắn tên rất xa. Cũng vào giữa lúc này thì lương thực dân tộc du mục đã cạn. Trong khi dân tộc nông nghiệp gặt hái vừa xong đem thóc về cất vào kho, chọn gạo tốt mà ủ men nấu rượu khiến cho dân tộc du mục thèm rỏ rãi, liền tập trung quân đội chọn một khâu yếu nhất của phòng tuyến Vạn Lý trường thành mà ào ạt tấn công cướp lương thực và tàn phá, sức mạnh như một cơn cuồng phong. Đường xa xôi diệu vợi, đợi lúc viện binh tới nơi thì giặc đã cao chạy xa bay. Vạn Lý trường thành trở nên vô dụng. Trung Quốc phải chuyển đổi thế thủ sang thế côong, huấn luyện một đạo quân viễn chinh cơ động tìm chủ lực đối phương mà đánh trước, gọi là chính sách quốc phòng “Nhất lao vĩnh dật” (Một lần khó nhọc để được yên ổn lâu dài). Chính sách này chỉ có hiệu lực một thời gian vì nó lại gặp khó khăn, thứ nhất đại quân viễn chinh, sự vận chuyển lương thực hết sức nan giải, dân du mục xuống miền nam chỉ cần người ngựa cung tên đi đâu cướp lương ăn đấy; đại quân viễn chinh không được hưởng lợi thế đó cho nên mỗi lần mở cửa quan xuất kích (khai tái xuất kích) là phải tính làm sau thắng mau; thứ hai dân tộc du mục liền tìm mọi cách để không cho đại quân viễn chinh thắng mau, họ rút vào vùng sa mạc hoang vu, bảo toàn chủ lực đợi khi đại quân Trung Quốc triệt thoái lại tràn xuống. Muốn nhất lao vĩnh dật không thể không tiến thêm một bước nữa là tuyệt mạc cùng truy (đuổi đến cùng tận của sa mạc) triệt để thực hành tiêu diệt chiến lược. Nhưng đâu phải dễ dàng, nhiều lần cả mấy vạn quân thọc sâu vào vùng thảo sục sạo mà không kiếm thấy một tên địch. Rút cuộc vẫn phải trở về kiện toàn chiến lược phòng thủ. Vấn đề phương bắc của Việt Nam ngược hẳn lại vấn đề phươngbắc của Tàu. Tàu tràn xuống nước ta dễ thích ứng với phong thổ hơn cho nên luôn luôn dùng mưu toan đặt chính sách đô hộ lâu dài mà đồng hóa mở mang bờ cõi về phía nam. Dân tộc Việt muốn tồn tại không thể áp dụng chính sách và chiến lược như các dân tộc du mục miền bắc Trung Quốc. Nước ta không có sa mạc, không có đồng cỏ, không có khí hậu rét cắt da để luyện tên nuôi ngựa. Tạo khó khăn cho xâm lược Tàu trí năng văn hóa cần hơn sức mạnh vũ lực. Trước hết là nhu yếu cầu biến, nhanh chóng chuyển từ tình trạng nửa du mụ du liệp, nửa nông nghiệp sang hẳn nông nghiệp với một nền tảng văn hóa nông nghiệp vững chắc, học cái hay của kẻ địch phương bắc để làm vũ khí mà chống lại nó, rồi lại dùng thứ vũ khí đó mà mở mang bờ cõi xuống phương nam. Kinh tế nông nghiệp làm kinh tế quốc phòng, tổ chức làng xã làm muôn vàn thành lũy, văn hóa nông nghiệp làm văn hóa dân tộc, quốc lực đời này qua đời khác là vùng nông thôn rộng lớn. Đền thờ quan thái thú Nhâm Diên, người đã đem văn hóa cùng kỹ thuật nông nghiệp sang truyền cho dân các quận Giao Chỉ, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam là chứng tích của thời kỳ biến hóa dài của sử Việt mà sách vở thường quen gọi là thời kỳ Bắc thuộc kéo từ năm 111 trước Tây lịch đến năm 931 sau Tây lịch chia làm ba thời kỳ cách nhau bởi nhiều cuộc nổi dậy của bà Trưng, bà Triệu và các ông Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục, Bố Cái Đại Vương, cha con nhà Khúc, Ngô Quyền thảy đều là những vị anh hùng cứu quốc tiền phong của sử Việt. Nhưng, bấy giờ Việt Nam chưa hoàn toàn chình bị một nền thống nhứt chính trị nên sự nổi dậy lẻ tẻ dễ bị quan quân Tàu dẹp tan. Xem như vụ xảy ra ở đời Tiền Lý thì đủ rõ. Chỉ vì chia rẽ mà Lý Phật Tử đánh úp Triệu Việt Vương để rồi lại xin hàng. Trung Quốc mở vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba. Với binh lực lẻ tẻ nổi dậy từng địa phương tất nhiên không thể đương đầu bằng một cuộc chiến tranh qui mô với Tàu được. Tuy nhiên, những cuộc nổi dậy đã gặt hái khá nhiều kinh nghiệm chiến đấu cho hậu thế đồng thời khởi sự xây dựng tinh thần yêu nước thành một tôn giáo anh hùng bằng đền thờ hai bà Trưng, đền thờ bà Triệu Ẩu, đền thờ vua Lý Nam Đế, đền thờ Dạ Trạch Vương v.v… Phải đến đời Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn thập nhị sứ quân nước Việt mới thống nhất, có một binh lực khả dĩ tiến hành chiến tranh, tiến sang thời đại một quốc gia tự chủ. Cờ bông lau dập dìu đầy non nước Ánh huy hoàng rực rỡ khắp đông tây Đường vua Đinh đã bước Nghiệp vua Đinh còn đây Hang Luồn, giốc Sỏi mấy ghềnh Mây Giặc Tống quân Hầu nép móng vây Sông Hoàng Long dạt dào sóng vỗ Động Hoa Lư rầm rập bào bay Phục lại ngàn năm giờ phút ấy Theo sử chép thì đánh dẹp xong loạn Thập Nhị Sứ Quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế đóng đô ở Hoa Lư, cho xây cung điện chế triều nghi định phẩm hàm các quan văn võ. Việc quan trọng nhất là kiến tạo binh lực giao chức thống súy cho Lê Hoàn phong làm Thập đạo tướng quân. Năm 981, binh lực đảm nhiệm sứ mạng quốc phòng lần đầu, đánh nhau với quân xâm lăng phương bắc dưới triều Tống trên hai mặt thủy bộ, thủy ở Bạch Đằng Giang, bộ ở Chi Lăng (Lạng Sơn). Tướng Tàu là Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đại bại ở Chi Lặng bị quân ta chém chết. Mặt trận Bạch Đằng nghe tin thua quay đầu chạy. Từ đấy mà đi, cuộc chiến giữa ta với phương Bắc không còn mang tính cách nổi dậy vũ trang quận huyện mà là cuộc chiến giữa hai binh lục của hai quốc gia. Phương bắc như vậy, phương nam sự thắng lợi của ta cũng chẳng kém phần huy hoàng. Lê Hoàn phá xong quân Tống rồi liền đặt vấn đề bang giao với Chiêm Thành ở phương nam. Trước kia, Chiêm Thanh thường đem quân sang cướp phá, giết hại dân ta nhiều lắm, ta căm giận mà không làm gì được bao giờ cũng phải nhờ quân Tàu đi đánh dẹp. Nay tình thế đã đổi khác. Lê Hoàn cho sứ giả là Từ Mục và Ngô Tử Cảnh qua bên Chiêm Thành. Vua quan Chiêm Thành khước từ quan hệ bang giao mới với Việt Nam, bắt giam hai sứ giả. Lê Hoàn mang binh đi đánh giết được tướng Chiêm Thành là Từ My Thuế cướp nhiều châu báu, vàng bạc mang về cùng với 100 cung nữ Chiêm. Binh lực dưới sự lãnh đạo của Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn nay là vua Đại Hành mang lại thắng lợi rực rỡ. Phương bắc Lê Hoàn không chỉ áp dụng chính sách thủ, ông còn nhiều lần mưu toan tấn công ngược lên, đem chiến thuyền vào trấn Như Hồng đánh phá, thả dân ven biển tràn vào nội địa Trung Quốc khiến cho vua quan Trung Quốc nể sợ để tiến lên chính sách ngoại giao bình đẳng với Tàu, xóa bỏ hẳn vết tích của một ngàn năm Bắc thuộc. Mỗi lần tiếp sứ giả Tàu, ông Lê Hoàn thường ngồi trên mình ngựa mà thi lễ, rồi cùng dong cương với sứ giả mà tiến bước. Để uy hiếp tinh thần sứ giả Tàu, nhà vua ưa dắt hai con cọp đến chầu cuộc đàm phán. Binh lực Việt phát triển mau lẹ đến nỗi vào đời Lý Thái Tôn, nhà Tống đã có lúc nhờ binh lực Việt đánh dẹp hộ giặc Nùng hay sang quấy nhiễu Quảng Đông, Quảng Tây. Năm 1044, vua Thái Tôn nhà Lý ngự giá đi đánh Chiêm Thành về tội Chiêm Thành không chịu thông sứ và cứ quấy nhiễu ở vùng duyên hải. Đánh trận nào thắng trận ấy, tướng lãnh Chiêm Thành nổi loạn chém đầu quốc vương là Xạ Đẩu để xin hàng. Lý Thái Tôn tiến binh vào quốc đô Chiêm Thành là Phật Thệ (thuộc huyện Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên bây giờ) bắt vương phi là nàng Mế Hệ và các cung nữ đem về. Năm 1075, lúc Vương An Thạch ở chức tể tướng Tống triều, có quan Tàu lên Lưu Gi trấn nhiệm vùng biên cương Hoa Việt có ý muốn gây sự để tìm cớ xâm lăng nên hạ lệnh cấm dân không cho buôn bán với người Việt, lại còn bắt bớ nhiều thuyền bè hàng hóa của dân Giao Châu. Triều đình nhà Lý thấy sự tình như thế mới viết thư sang hỏi Tống triều thì Tống triều lờ đi. Vua Lý Nhân Tôn mới sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem 10 vạn binh chia ra hai đường thủy bộ sang đánh nhà Tống chiếm luôn một hơi ba châu lớn của Tàu là Châu Ung, Châu Liêm, Châu Khâm, giết nhiều quân tướng nhà Tống. Triều đình Tống sai Quách Quì cử đại binh mật hội với Chiêm Thành hai mặt giáp công đánh chiếm nước Nam. Quân tàu giáp chiến với quân Lý Thường Kiệt ở sông Như Nguyệt. Hai bên giằng co, trận đánh kéo dài sáu bảy tháng ròng, quân Tống chết quá nửa đành rút về. Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư Bốn câu thơ của Lý Thường Kiệt được phổ biến trong dân chúng, có thể gọi đây là bản quốc ca đầu tiên của Việt Nam. Nhà Tống và nhà Lý nối lại bang giao. Lý Nhàn Tôn đuổi người Tàu về nước và cho thích vào trán, con trai từ 15 tuổi thì thích ba chữ Thiên Tử binh, 20 tuổi thích ba chữ Đầu Nam Triều, con gái thích hai chữ Quan khách. Đời nhà Trần, vùng bắc Trung Quốc bị đặt dưới thống trị Mông Cổ, đe dọa xâm lăng còn nặng hơn trước, nước Chiêm Thành đã chịu uy sang tiến cống nhưng vẫn chưa từ bỏ chính sách cướp phá nên việc kiện toàn binh lực càng cần thiết, nhân lực trong nước đều bị động viên để tham gia chiến đấu và học tập quân sự, thành thử khi chiến tranh với Mông Cổ, nước Việt Nam nhỏ bé đã có một binh lực to tát đến 20 vạn người. Năm 1257, tướng Mông Cổ trấn giữ Vân Nam là Wouleanggotai (Ngột Lương Hợp Thai) cho người sang bảo vua Trần Thái Tôn về thần phục. Thái Tôn thấy tên Mông Cổ có thái độ hỗn láo cho bắt giam lại rồi cử Trần Quốc Tuấn đem binh lên phòng bị phía Bắc. Ngột Lương Hợp Thai ồ ạt từ Vân Nam kéo sang địa phận nước ta, đi theo đường sông Thao đánh thẳng vào Thăng Long. Ban đầu, để tránh nhuệ khí của giặc, Trần Quốc Tuấn lui về Sơn Tây đợi cho quân Mông Cổ mệt mỏi mới tiến binh đánh trận Đông Bộ Đầu, Mông Cổ thua chạy.Thấy việc chinh chiến ở đây chưa lợi nên Mông Cổ lui binh. Khi dứt nốt khu vực Nam Tống, mặc dầu Trần triều chịu đi sứ và triều cống nhưng Mông Cổ, phần muốn trả thù cũ, phần muốn phát triển đế quốc về phương Nam nên lại tìm cách gây sự gửi lễ bộ thượng thư là Sai Thung qua nước ta để hạch hỏi vụ vua Trần Nhân Tôn lên ngôi mà không xin phép Nguyên triều và đòi đích thân vua Trần Nhân Tôn phải sang bệ kiến Nguyên Thái Tổ. Năm 1282, Nguyên Chủ xuống chiếu lập Tòa Tuyên Phủ đặt hệ thống liêu thuộc đưa sang đòi cai trị nước Nam. Tuyên Phủ Ti sang đến nơi bị Trần Nhân Tôn không nhận lời đuổi về Tàu. Năm 1284, chiến tranh Nguyên Việt bùng nổ chia làm hai đợt. Đợt thứ nhất do con trai Nguyên Chủ là Thoát Hoan cùng với các tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi mang một lúc sang nửa triệu quân, thế lực lượng mạnh như chẻ tre, tiến binh như cuộn đất. Vua nhà Trần phải chạy vào mãi Thanh Hóa tiếp tục kháng chiến khắp nơi. Ba tháng sau, quân ta tổng phản công đại thắng tại Hàm Tử Quan rồi Chương Dương Đô, rồi Tây Kiết, rồi Vạn Kiếp. Toa Đô tử trận. Ô Mã Nhi trốn về Tàu, Thoát Hoan không còn hồn vía nào nữa cũng bỏ chạy. Tính ra cuộc chiến kéo dài 6 tháng kể từ tháng chạp năm Giáp Thân (1284) đến tháng 6 năm Ất Dậu (1285). Quân dân nước Nam đuổi sạch 50 vạn hùng binh Mông Cổ ra khỏi bờ cõi. Thoát Hoan khi mới sang uy thế hùng dũng bao nhiêu lúc chạy về tan tác bấy nhiêu. Mùa xuân năm Đinh Hợi (1287), Nguyên Chủ lại cử Thoát Hoan làm Đại nguyên súy đem hơn 30 vạn quân thủy bộ rầm rộ kéo sang đánh nước Nam. Triều đình nước ta rời Thăng Long ẩn vào Thanh Hóa lần nữa. Đợi cho nhuệ khí của giặc sút giảm bấy giờ mới vây đánh khắp nơi. Tướng Trần Khánh Dư cắt đứt đường lương địch trong trận Vân Đồn khiến cho quân Nguyên ở Vạn Kiếp mất tinh thần chiến đấu, Thoát Hoan vốn là con chim mộgt lần bị tên nên lo sợ muốn bỏ về cho rảnh. Trần Hưng Đạo đoán biết ý giặc, sai người lên thượng lưu sông Bạch Đằng dùng cây tre vót nhọn đóng cọc giữa dòng sông rồi sau ba bốn mặt tiến đánh, chiến thuyền của Ô Mã Nhi mắc cạn đắm vỡ mất cả, quân Nguyên chết như rạ, các tướng giặc là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc đều bị Trần Hưng Đạo bắt sạch. Thoát Hoan nghe tin thủy quân tan vỡ, hồn vía lên mây cố sức mở đường máu mà chạy. Xa giá Thượng hoàng và Trần Nhân Tôn trở lại kinh sư, khi đến Long Hưng, tiếp nhận lễ hiến phù của bọn Ô Mã Nhi quì dâng ấn ngọc. Vua Trần Thánh Tôn có làm hai câu thơ kỷ niệm: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã Sơn hà thiên cổ điện kim âu A. Pazzi viết: “Nếu người ta nghĩ đến giặc Mông Cổ và cái đế quốc mênh mông chừng nào, có lẽ người ta mới thấy được sức chiến đấu lạ lùng của người Việt Nam. Người ta có thể nhận định một cáh rõ ràng và dứt khoát rằng chỉ mình dân tộc Việt Nam duy nhất trên địa cầu này đã đánh bại quân Mông Cổ. Đó là đoàn quân xâm lược lớn lao, đã đặt Trung Hoa dưới ách thống trị bạo tàn, đã chiếm Tây Hạ, Tây Bá Lợi Á, cai trị Trung Âu, uy hiếp Áo Đức… vậy mà đoàn quân bách thắng của họ khi vào Việt Nam đã bị đánh cho thảm bại tiếp liền ba lần”. Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tí (1300) Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn bệnh nặng sắp mất, vua Trần Anh Tôn đến thăm, hỏi rằng: - Thượng phụ một mai khuất núi, phỏng có quân Bắc lại sang thì làm thế nào? Hưng Đạo Vương tâu rằng: - “Nước ta thủa xưa Triệu Võ Vương dựng nghiệp, Hán đế đem binh đến đánh. Võ Vương sai dân đốt sạch đồng áng không để lương thảo cho giặc chiếm được rồi đem đại quân sang châu Khâm, châu Liêm dùng đoản binh mà đánh, được đó là một thời. Đến đời Đinh Lê, nhiều người hiền lương giúp đỡ, bấy giờ nước Nam đang cường, vua tôi đồng lòng, bụng dân phấn khởi, mà bên Tàu đang lúc họ suy nhược cho nên ta đắp thành Bình Lỗ phá được quân Tống, đó là một thời. Đến đời nhà Lý quân Tống sang xâ, Lý đế sai Lý Thường Kiệt đánh mặt Khâm Liêm đồn đến Mai Lĩnh, quân hùng tướng dũng đó là có thế đánh được. Kế đến bản triều giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh mới bắt được tướng kia, cũng là lòng trời giúp ta mới được thế. Đại để, kẻ kia cậy có tràng trận mà ta thì cậy có đoản binh, lấy đoản chống nhau với tràng, phép dùng binh thường vẫn phải thế. Còn như khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm như gió, như lửa thứ ấy lại dễ chống. Nếu có dùng cách dần dà như tầm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy máu, việc thế ấy mới khó trị thì ta nên kén tướng giỏi liệu xem quyền biến ví như đánh cờ phải tùy cơ mà ứng biến, dùng binh phải đồng lòng như cha con một nhà thì mới có thể đánh được. Cách ấy cốt phải tự lúc, bình thì khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả”. Giặc Nguyên ba lần thua trận không còn dám có ý dòm dỏ nước ta nữa. Bây giờ là lúc thuận tiện để lo phát triển phương nam. Nhân một chuyến ngự giá thân chinh đi dẹp đám giặc cỏ Ai Lao, vua Nhân Tôn có ghé sang Chiêm Thành xem phong cảnh. Nhìn thấy đất đai Chiêm Thành rõ ràng là một hậu cứ không thể thiếu cho nước Việt trong công cuộc chống lại giặc phương bắc. Mở đầu cho chính sách xây dựng hậu cứ đó, vua Nhân Tôn dùng chiến lược hòa bình kế thân bằng việc ước gả Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm Thành là Chế Mân. Đổi lại, Chế Mân dâng cho nước ta hai châu Ô và châu Rí làm lễ cưới. Hai châu này có một lợi thế chiến lược quan trọng cho cả hai mặt phòng thủ lẫn tấn công đối với các lân quốc phương nam. Năm 1306 (đời vua Anh Tôn), công chúa về Chiêm Thành… Đầu năm 1307, vua Anh Tôn thu nhận hai châu Ô, Rí và đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu rồi sai quan là Đoàn Như Hài vào kinh lý sắp xếp việc cai trị. Huyền Trân công chúa lấy Chế Mân chưa được một năm thì Chế Mân mất, Chế Chí lên làm vua Chiêm Thành, vốn là người tâm tính phản trắc thường không giữ những giao ước trước, cho nên năm Tân Hợi (1311) Anh Tôn mới cùng các võ tướng phân binh làm ba đạo sang đánh Chiêm Thành bắt được Chế Chí đem về và phong cho người em là Chế Đà A Bà làm vua Chiêm Thành. Năm 1334, Trần Minh Tôn đi đánh giặc Ai Lao xâm phạm bờ cõi, quấy nhiễu vùng Kiềm Châu (Nghệ An bây giờ), quân Ai Lao vừa nghe tin đại quân ta kéo tới liền bỏ chạy hết. Trần Minh Tôn sai Nguyễn Trung Ngạn làm bia khắc tên trên núi để ghi công. Bài bia ấy chữ to bằng bàn tay, khắc vào đá thật sâu, đến nay vẫn còn. Bài bia viết như sau: “Chương Nghiêu Văn Triết Thái Thương Hoàng là vua thứ 6 đời nhà Trần, nước Hoàng Việt chịu mệnh trời, nhất thống cõi trung ba, trong đất ngoài bể đâu ccũng thần phục. Nước Ai Lao nhỏ mọn kia dám ngạnh vương hóa, cuối mùa thu năm Ất Hợi, vua thân đem sáu quân đi tuần cõi tây. Thế tử nước Chiêm Thành, nước Chân Lạp, nước Xiêm La và tù trưởng các đạo mán là Quì, Cầm, Xa, Lạc. Tù trưởng rợ Bồ Nam mới phụ và các bộ mán Thanh Xa đều mang phương vật tranh nhau đến đón rước. Chỉ có tên nghịch Bổng cứ giữ mê tối sợ phải tội chưa lại chầu ngay. Cuối mùa đông, vua đóng quân ở cánh đồng Cự thuộc châu Mật, sai các tướng và quân rợ mọi vào tận nước nghịch. Bổng theo gió chạy trốn. Vua mới xuống chiếu đem quân về. Lúc bấy giờ là ngày tháng chạp nhuận năm Ất Hợi, niên hiệu Khai Hữu thứ 7 khắc vào đá”. (Theo bản dịch nôm của Trần Trọng Kim). Bài bia của Nguyễn Trung Ngạn là một văn kiện công khai nói lên đường lối chính trị quyền lực (politique de puissance) đối với phương nam. Người Chiêm Thành vì chịu ảnh hưởng trực tiếp với ý đồ Nguyễn Trung Ngạn nên đến đời vua Dụ Tôn (1367) chính sự nhà Trần bắt đầu suy yếu, Chế Bồng Nga một anh quân Chiêm Thành, ngày đêm ra sức tập trận luyện binh với mục đích đánh nước Nam rửa những thù trước. Năm 1376, đời vua Duệ Tôn, quan trấn thủ Hóa Châu là Đỗ Tử Bình ăn cắp những đồ tiến cống của Chiêm Thành rồi dâng sớ nói dối rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ tự ý bãi bỏ việc tiến cống. Duệ Tôn liền cất binh đi hỏi tội giao chiến với quân Chiêm Thành ở trận Đồ Bàn, ta thua to, Duệ Tôn tử trận. Chế Bồng Nga thừa thắng đánh tràn lên quốc đô Thăng Long tha hồ cướp phá rồi rút, qua mấy năm sau cũng vậy, quân Chiêm Thành ra vào nước Nam ta như đi vào chỗ không người, ba lần vua và triều đình phải bỏ kinh thành mà chạy. Dân gian khổ sở vì giặc Chiêm Thành không biết thế nào mà kể. Mãi đến năm 1390, nhờ may mắn tướng Trần Khắc Chân bắn chết được Chế Bồng Nga trong một trận thủy chiến ở sông Luộc (tỉnh Hưng Yên bây giờ). Tự đấy nạn giặc Chiêm mới yên. Phương nam yên ổn chưa được bao lâu thì mối lo phương bắc tái phát. Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần, tự xưng làm vua thiết lập triều đại nhà Trần. Cùng lúc ấy nhà Minh bên Tàu cũng đã chấn chỉnh xong các vấn đề nội bộ, có ý dòm dỏ nước Nam. Hồ Quí Ly biết lắm nên mỗi lần thiết triều ông thường hỏi các đại thần: “Ta làm thế nào cho có 100 vạn quân để đánh giặc Bắc?”. Năm 1405, nhà Minh sai sứ mang chiếu sang đòi đất Lộc Châu. Để đánh đổi, Hồ Quí Ly đành phải cắt ra 59 thôn ở Cổ Lâu nhường cho Tàu. Làm sao cho vừa miệng cọp, nhà Minh vẫn cứ mượn cớ nhà Hồ về tội tiếm nghịch. Sứ nhà Hồ sang Tàu thì nhà Minh giữ lại không cho ai về. Hồ Quí Ly nhận thấy khó lòng qua khỏi chiến tranh với “giặc phương Bắc” bèn sai đắp thành Đa Bang (tỉnh Sơn Tây) bắt lấy gỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc, chia các vệ quân ở Đông Đô ra giữ mọi đường hiểm yếu. Cuối năm 1406, nhà Minh phát động chiến tranh xâm lăng, cử Chu Năng làm đại tướng cùng với các tướng Trương Phụ, Mộc Thạch chia binh làm hai đạo mà tiến vào Nam quốc. Khi nhà Minh đến Long Châu thì đại tướng Chu Năng chết, Trương Phụ lên thay. Tuy rằng nhà Hồ trước đã phòng bị nhưng Trương Phụ biết rằng nhà Hồ không được lòng dân, bèn làm hịch kể tội họ Hồ, viết hịch ấy vào những mảnh ván nhỏ bỏ xuống sông, trôi đến đâu quân sĩ ta bắt được, nhiều người chán nản không muốn đánh nhau nữa. Nhờ thế quân Trương Phụ tiến được mau hơn. Quân nhà Hồ phải lui về giữ thành Đa Bang. Đa Bang thất thủ, thêm trận Mộc Phàm Giang, rồi trận Hàm Tử Quan, Hồ Quí Ly chạy trốn vào Nghệ An và bị quân Minh bắt ở cửa Kỳ La (Hà Tĩnh). Nhà Minh chiếm giữ nước Nam đặt nền đô hộ hơn 20 năm.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 4:58:10 GMT 9
Mùa xuân Mậu Tuất (1418), Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn dòng dã 10 năm chiến tranh cách mạng dân tộc, kết quả thắng lợi được ghi trong bài Bình Ngô đạo cáo đoạn sau đây “Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy, miền Trà Lân trúc phá tro bay. Sĩ khí đã hăng, quân Thanh càng dậy. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan. Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh. Đánh Tây Kinh phá tan thế giặc, lấy Đông Đô thu lại cõi xưa. Dưới Minh triều máu chảy thành sông, bến Tụy Động xác đầy ngoài nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng, Lý Lương lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo lường. Mã Anh không đườc cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt bó tay không biết tính sao, ta mưu phạt tâm công chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đởi dạ hiểu lời lẽ tới lui, ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương dây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bõ bày trò dở duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Đức (chỏ vua nhà Minh bên Tàu) nhàm võ không thôi, lại sai đồ nhút nhát như Thành Thăng đem dầu chữa cháy. Năm Đinh Mùi tháng 9, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiến sang, Mộc Thạnh từ Vân Nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lới Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo. Mười tám Liễu Thăng thua ở Chi Lăng, hai mươi Liễu Thăng chết ở Mã Yên. Hai mươi lăm Lương Minh trận vong, hai mưới tám Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành hẹn đến rằm tháng mười diệt giặc. Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn, voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước. Gớm ghê thay, sắc phong vân cũng đổi, thảm đạm thay sáng nhật nguyệt phải mờ. Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạch tan chưng cần Trạm chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh Câu nước sông rền rĩ thành xương Đan Xá cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu cổi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội, thể lòng trời bất sát ta cũng mở đườc hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiến thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực, Vương Thông Mã Anh phát cho vài ngàn cỗ ngựa về đến Tàu còn đổ mồ hôi…”. Đánh đuổi xong quân Minh, bờ cõi phương bắc yên được nhiều năm, phần vì đường lối ngoại giao khéo léo của nước Nam, phần vì thế lực thống trị Minh triều đang đi sâu vào đường hủ bại, phần vì quan quân nhà Minh e dè vũ lực quân Nam. Bây giờ là lúc thuận tiện để tính chuyện bờ cõi phương nam. Nhân vì vua nước Chiêm Thành là Bí Cai cứ hay xua quân sang cướp phá đất Hóa Châu nên năm 1446, vua Lê Nhân Tôn sai bọn Lê Thu, Lê Khả đem binh sang đánh Chiêm Thành lấy được Đồ Ban (kinh đô Chiêm) bắt được Bí Cai và cả phi tần đem về, rồi lập người cháu vua Bồ Đề là Ma Khu Qui Lai lên làm vua. Do trận đánh năm 1446, hai năm sau có một bộ tộc ở phía tây nam dâng thơ xin nội thuộc nước ta, đó là bộ tộc Tồn Man mà biên cướng giáp với các tỉnh Nghệ An, Quảng Bình và Hưng Hóa. Vua Nhân Tôn thu nhận đặt làm châu Qui Hợp. Năm 1470, vua nước Chiêm Thành là Trà Toàn muốn gây dự trở lại, đem quân sang đánh phá đất Hóa Châu rồi cho người sang cầu viện nhà Minh bên Tàu. Vua Lê Thánh Tôn cho sứ sang Tàu cho biết việc Trà Toàn quấy nhiễu rồi ngài tự làm tướng cử đại binh hơn 20 vạn sang đánh Chiêm Thành chiếm cửa Thi Nại (Bình Định) xong rồi tấn công Đồ Ban, phá thành bắt được Trà Toàn. Có tướng Chiêm Thành là Bô Trì Trì chạy về đất Phan Lung, sai sứ vào cống và xưng thần. Thánh Tôn có ú muốn làm nước Chiêm Thành yếu thế đi, mới chia đất ra làm ba nước phong cho ba vua, một nước gọi là Chiêm Thành, một nước gọi là Hóa Anh và một nước nữa là Nam Phan. Còn đất Đồ Bàn, đất Đại Chiêm và đất Cổ Lũ thì vua Lê Thánh Tôn cho sát nhập vào nước ta mà lập đạo Quảng Nam gồm 3 phủ 9 huyện. Trà Toại, em vua Trà Toàn trốn vào núi, sai người sang Tàu nhờ can thiệp. Nhà Minh có sai sứ sang cầu vua Lê phải trả đất Chiêm Thành. Thánh Tôn không chịu, bảo tướng Lê Niệm đi bắt Trà Toại đem về giam giữ ở kinh sư. Thấy nước Nam đương hồi cường thịnh, vua Minh cũng lờ luôn cái chuyện Chiêm Thành. Kể từ đấy thanh thế nước Nam lừng lẫy, nước Lào và các mường mán ở phía tây đều về triều cống. Năm 1611, nước Việt chia làm Nam Bắc triều, họ Trịnh làm chúa xứ Bắc, họ Nguyễn làm chúa phương Nam. Để mở mang khu vực mình, Nguyễn Hoàng đánh vào nước Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên. Năm 1653, vua nước Chiêm Thành là Bá Thấm sang khuấy phá đất Phú Yên, chúa Nguyễn Phúc Tần sang đánh Bá Thấm phải xin hàng. Chúa Nguyễn liền vạch ranh giới để từ sông Phan Lung trở vào cho vua Chiêm, còn từ Pham Lung trở ra sát nhập vào nước Việt lập ra phủ Diên Khánh (tức Khánh Hòa bây giờ). Năm 1693, vua nước Chiêm Thành bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu đem binh đi đánh bắt được vua Chiêm là Bá Tranh và bọn thần tử là Tả Trà Viên, Kế Bà Tử, Bà Ân đem về Phú Xuân. Lần này, chúa Nguyễn đổi luôn đất Chiêm Thành làm Thuận phủ cho Tả Trà Viên, Kế Bà Tử, Bà Ân làm đề đốc cai trị, lại bắt phải đổi y phục theo như người Việt Nam. Từ đó nước Chiêm Thành mất hẳn. Vấn đề quốc phòng phương nam chuyển sang một giai đoạn khác với những điều kiện chính trị mới, nhiều tính chất chính trị hơn quân sự. Nước Chiêm Thành bị xóa bỏ để sát nhập và đồng hóa với nước Việt nên bây giờ biên giới phía Nam của nước Việt tiếp giáp với nước Chân Lạp, tuy nhiên việc bang giao giữa Chân Lạp với chúa Nguyễn đã có từ lâu rồi. Năm 1620, chúa Sãi đã gả Ngọc Vạn công chúa cho vua Chân Lạp tên là Chei-Chetta, sau khi đã hai lần mang quân giúp Chân Lạp đánh đuổi giặc Tiêm La (Thái Lan ngày nay). Lấy vợ Việt, Chei-Chetta có ý muốn người hờ người lân bang giúp đỡ khi quốc biến, Chetta từng sống trên đất Tiêm La nhưng lại ghét người Tiêm La và quí người Việt hơn. Nhân đó, chúa Nguyễn mới điều đình với vua Chân Lạp mở một khu đồn điền tại Bà Rịa cho dân vào khẩn hoang làm ruộng vì đất Chân Lạp bỏ trống nhiều quá. Trên danh nghĩa chính thức chỉ nói có một khu, thực tế nó kéo theo cả một cuộc di dân và một chính sách đồn điền vào đất hứa với đất đai phì nhiêu, rộng mênh mông, sông ngòi chằng chịt rất thuận lợi cho nông nghiệp. Tất nhiên, đi kèm chính sách di dân đồn điền phải có quyền lực hậu thuẫn đằng sau để giữ được êm ả tới 40 năm. Tới năm 1658 thì tình hình chính trị Chân Lạp rối loạn triền miên, con cháu các dòng vua cùng một máu mủ gây nội chiến can qua không dứt, kẻ đi cầu viện Tiêm La, người nhờ chúa Nguyễn thành thử sinh mệnh chính trị Chân Lạp suy kiệt dần, lãnh thổ Chân Lạp biến ra vùng tranh chấp giữa chúa Nguyễn với Tiêm La. Cuối cùng, Tiêm La yếu thế hơn phải lùi bước chịu để gần nửa lãnh thổ Chân Lạp đặt dưới quyền bảo hộ của chúa Nguyễn rồi cũng bị đồng hóa cùng chung số phận của Chiêm Thành. Bang giao Chân Lạp với chúa Nguyễn tổng cộng được chừng 140 năm. Khi không còn là quan hệ bang giao nữa thì lãnh thổ nước Việt nới rộng xuống đến mũi Cà Mau. Do những tranh chấp nội bộ nhà Nguyễn, do cuộc xâm lăng của Pháp nên việc mở mang bờ cõi ở phương nam đang tốt đẹp bị dừng lại. Trở lại phương bắc, mặc dầu nước ta phản đối tranh chấp Trịnh Nguyễn, ngoài bắc còn có thêm nội chiến Trịnh Mạc dòng dã cả trăm năm, nhưng bờ cõi được yên ổn là vì Minh triều bên Tàu cũng ở trong tình trạng nội loạn thường trực, cuối cùng giống Mãn Châu tràn vào xâm lược đô hộ lập thành Thanh triều. Cho mãi tới năm 1788, sau khi đặt nền thống trị vững vàng rồi, Thanh triều mới dòm ngó phương nam, tính ra từ ngày Lê Lợi đánh dẹp giặc Minh đến đó khoảng cáh thời gian là hơn 300 năm. Cái cớ mà Thanh triều mượn để làm danh nghĩa xâm lăng là do lời yêu cầu của vua Lê Chiêu Thống, vị vua cuối cùng của nhà Lê. Đại nguyên súy của đoàn quân viễn chinh Thanh triều là Tôn Sĩ Nghị với hai phó tướng Sầm Nghi Đống và Hứa Thế Hanh, kéo một hơi từ Lạng Sơn, Cao Bằng về thủ đô Thăng Long. Tướng Ngô Văn Sở sợ thế yếu đánh không nổi bèn rút quân thủy bộ về đóng giữ núi Tam Điệp, rồi cho người về Phú Xuân cáo cấp. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ hay tin quân Thanh đã sang đóng ở Thăng Long liền tự mình dẫn thủy bộ đại binh ra đánh giặc. Đúng đêm trừ tịch khua trống, phất cờ kéo ra bắc. Nửa đêm mồng 5 tháng Giếng năm Kỷ Dậu (1789), quân vua Quang Trung đến làng Hà Hồi âm thầm vây kín các đồn giặc, bố trí xong đâu đấy mới cho nổi trống rầm rầm như sấm sét, bắc loa gào thét như thiên binh trên trời rầm rầm kéo xuống. Vua Quang Trung quấn chiếc khăn vàng ổ cổ cưỡi voi đi đầu hô quân xung phong. Đoàn tượng binh cả trăm con xông xáo làm cho hàng ngũ địch tan vỡ ngay, chúng vội cã rút vào trong thành cố thủ. Năm 1784, Nguyễn Ánh (Gia Long) cử bộ tướng Chu Văn Tiếp sang Tiêm La cầu viện về đánh Tây Sơn. Vua Tiêm La đem 300 chiến thuyền sang giúp đánh úp lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Sa Đéc. Quân Tiêm La thả cửa cướp bóc, hãm hiếp dân lành. Tướng Tây Sơn là Trường Văn Đa cáo cấp về Qui Nhơn. Nguyễn Huệ thân chinh đi diệt giặc Tiêm La, bày trận ở Rạch Gằm và Soài Mút, chỉ có một trận ấy thôi mà 10 vạn quân Tiêm La tan tác chết quá nửa, chạy về đến nước nhà còn lại vài ngàn. Địch cấm chông tua tủa, đạn tên bắn ra như mưa. Quân ta lấy ba mảnh ván gỗ ghép ba mảnh làm một, dùng rơm cỏ dấp nước quấn bên ngoài, cứ mười người khênh ván đi trước lại hai mươi người đắt đoản binh theo sau lăn xả vào quăng ván xuống đè lên chông ào ào như thác lũ. Hai bên đánh xáp lá cà, lớp này ngã, lớp kia xông tới. Muôn ngàn tiếng hò hét, tiếng loa, tiếng trống, mùi máu cùng mùi thuốc súng. Chém giết càng lúc càng thêm ác liệt, quân Thanh chịu không nổi cắm đầu cắm cổ chạy. Đoàn quân chiến thắng reo hò tiến thẳng ra Thăng Long. Trận chiến còn ác liệt hơn, đề đốc Hứa Thế Hanh, tiền phong Trương Triều Long, tả dực Thượng Duy Thắng và một số tướng Tàu khác bỏ mạng ngay tại mặt trận. Sầm Nghi Đống trốn lên một gò cao rồi thắt cổ tự vẫn trên cành đa (gò này gọi là Gò Đống Đa). Tôn Sĩ Nghị mất tinh thần không kịp đóng yên ngựa dẫn vài đội quân vượt cầu phao sông Nhị Hà qua tỉnh Bắc Ninh. Quân đội cũng chạy theo chủ tướng, cầu đổ nát hất cả vạn người ngựa xuống sông. Tôn Sĩ Nghị vứt lại cả sắc thư lẫn ấn tín trên dọc đường. Vỏn vẹn 7 ngày, hai mươi vạn quân Thanh bị đánh vỡ tan tành. Trong thời gian nội chiến giữa Nguyễn Tây Sơn với Nguyễn Gia Long, nước Chân Lạp (Cao Miên) nay chỉ còn phần đất phía tây đặt dưới quyền bảo hộ của Tiêm La. Khi Gia Long dứt được Tây Sơn rồi, Nặc Ông Chân vua Chân Lạp lại bỏ TiêmLa mà xin thần phục vua Gia Long theo lệ tiến cống cứ ba năm một lần. Đời vua Minh Mệnh (1834) thừa dịp nước ta có loạn Lê Văn Khôi, vua Tiêm La sai quân thủy bộ chia ra làm 5 đạo sang đánh. Đạo thứ nhất là thủy quân với 100 chiến thuyền tấn công Hà Tiên, đạo thứ hai bộ quân sang đánh Nam Vang rồi tiến chiếm Châu Đốc, An Giang, đạo thứ ba đánh Cam Lộ, đạo thứ tư đánh Cam Cát, Cam Môn, đạo thứ năm đánh Trấn Ninh. Chia ra 5 đạo nhưng chủ ý Tiêm La là dòm ngó Chân Lạp và các tỉnh miền Nam nước Việt. Tướng Trương Minh Giảng đánh tan quân Tiêm La ở Cổ Cắng đuổi quân Tiêm La ra khỏi bờ cõi rồi lấy lại thành Nam Vang, trao trả quyền cho vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân. Các mặt trận khác, quân Tiêm La đều thất bại như trận Cổ Cắng. Cuộc chiến kéo dài chừng 4 tháng Tháng 3 năm Nhâm Dần (1782), vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem hơn 100 chiến thuyền vào cửa Cần Giờ đánh nhau với Nguyễn Vương ở Thất Kỳ Giang. Trận ấy quân Nguyễn Vương thua lớn, có một chiếc tàu Pháp mà thuyền trưởng tên Manuel bị quân Tây Sơn vây và đốt chìm. Đó là cuộc giáp chiến đầu tiên giữa Việt Nam với một kẻ xâm lăng mới, một thứ du mục thời đại theo định nghĩa của sử gia Oswald Spengler. Hơn 50 năm sau (1847), đời vua Triệu Trị có hai chiến hạm Pháp vào Đà Nẵng bắn phá. Sau hai giờ tác chiến, tất cả các chiến thuyền, hàng trăm thuyền bè của ta chỉ còn là những mảnh vụn trôi lều bều. Kể từ sau đó, giặc Pháp nhờ có thuyền kiên pháo lợi tiến hành mưu mô xâm lược hết Nam Kỳ rồi ra Trung và Bắc. Hết đời vua Tự Đức thì mưu mô xâm lược cũng vừa hoàn tất, nước ta mất về tay người Pháp, sống dưới nền đô hộ mới gọi là thực dân địa. Khắp nơi chỉ còn có những cuộc kháng Pháp của nhân dân từng địa phương, vẫn còn vua còn quan, còn triều đình nhưng đấy chỏ là hình ảnh của một đám vong quốc nô. Ngai vàng nặng để ê chề non nước.
* **
5000 năm sử Việt là 5000 đấu tranh sắt máu không dứt với nòi Hán để tồn chủng, với các giống khác để khỏi bị cướp lấn, tàn phá triền miên trong hàng chuỗi chiến tranh chống xâm lược, chiến tranh cách mạng dân tộc và chiến tranh mở mang bờ cõi vì lẽ sống còn. Chiến tranh đối với người Việt là cuộc đổ máu đầy ý nghĩa. Chiến tranh bắt thời đại đi vào những con đưòng mà thời đại ngại ngùng do dự mãi không dám tiến vào. Chiến tranh là thời cơ sống chết, ngàn năm một dịp của những ai bị đè nén và áp bách mong chờ. Nó để cho mình một thuận tiện: lấy vũ lực ra cứu nước, đem sắt lữa với máu ra tranh đòi lấy: chủ quyền, cái chủ quyền của tự mình được tự do, dùng ý chí của mình đối với đất đai dân chúng, việc làm, đường đi và vận mệnh của tự mình. Không đổ máu tuyệt không mong xoay chuyển được thời đại, lịch sử. (Trích Huyết Hoa). Lúc nào cũng sẵn sàng với tranh chiến như vậy nhưng người Việt lại càng sẵn sàng hơn với việc chấm dứt chiến tranh, lựa đúng lúc đổi vũ thành văn, đổi binh thành lễ, đem can qua mà biến thành lụa ngọc chứ không quá hăng như “dân Sparte bảo rằng nếu gươm anh quá ngắn thì hãy tiến lên một bước cho nó dài ra”. (Si ton épée est trop courte, allonges-la d’un pas!). Đọc tinh thần bức thư của vua Quang Trung gửi cho vua nhà Thanh sau khi 20 vạn quân Tôn Sĩ Nghị đã không còn mảnh giáp chạy về: “Trộm nghĩ binh đao vẫn là việc bất đắc dĩ của thánh nhân. Đại hoàng đế thâm nghiêm ngự nơi cửu trùng. Những truyện cương trường, Tôn Sĩ Nghị không hề tâu rõ từng một việc một. Hắn che lấp tai mắt nhà vua đến nỗi làm cho sự thể rối ren đến thế. “Châu chấu đá xe, tôi thật không dám, song cửa vua xa cách muôn dặm, hễ tôi nhúc nhích gì thì liền bị kẻ khổn thần hiếp đáp không sao chịu nổi, nên hình tích mới dường như chống cự. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . “Ví bằng chút tình trước đây không được bày tỏ, Thiên triều không chịu khoan dung một chút nào cứ muốn động binh để tranh chiến thì bấy giờ Đại quốc có dạy bảo gì, tôi cũng chỉ xin theo ý thôi”. Vẫn sẵn sàng đánh mà vẫn cầu hòa, cái tinh thần tự chế cao nhường ấy chứng tỏ người Việt có một bản chất cực hiếu hòa. Thắng lớn nhưng không hề kiêu dũng. Tinh thần quốc phòng luôn luôn đặt ở điểm quân bình giữa thắng bại, thắng không vênh vác, trễ biếng, bại không hèn hạ, tuyệt vọng, tuyệt đối thực tế không viển vông. Phàm đã là người anh hùng cứu quốc thì dù thành công hay thất bại, dân chúng vẫn mãi mãi thờ phụng. Thắng lợi thì lấy lý trí mà phê phán, thất bại thì đem tình cảm mà tôn kính. Đền thờ vua Lê không lớn hơn đền thờ bà Triệu Ẩu hay đền thờ Triệu Quang Phục và lòng sùng kính của dân chúng chẳng đặt ai hơn ai. Hai mươi mốt Lê Lai, hai mươi hai Lê Lợi, người Việt đơn giản nhớ ngày giỗ của hai người với sự đối đãi hoàn toàn bình đẳng. Dù Gia Long làm đủ mọi cách để hạ nhục Quang Trung, thậm chí đến đem sọ của Nguyễn Huệ làm bô đi tiểu, nhưng càng làm nhục thì lòng dân càng thương xót sùng bái người anh hùng áo vải Tây Sơn.
* **
Sử Trung Quốc, đời Xuân Thu chỉ có quí tộc binh, sang thời Chiến Quốc mới có việc mộ binh. Tần đại có trưng binh và tới đời Hán bắt đầu có chính sách binh dịch. Sử Việt không hề nói tới quí tộc binh, sự tích đức Thánh Gióng được sứ giả vua đi tìm, cho thấy chính sách một binh và bình dân được đầy đủ quyền hành trọng vọng để tham dự việc binh của nước ta đã có từ lâu lắm. Cuộc cách mạng dân tộc vũ trang do hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị lãnh đạo đưa ra phương châm để động viên toàn dân. Về sau này, chế độ binh dịch của ta đặt trên tinh thần, tinh thần phương châm đó, cho nên không xảy ra những thảm kịch ác nghiệt như vụ nàng Mạnh Khương tìm chồng bị trưng binh lính thú ở Vạn Lý Trường Thành, như chuyện người con trai của Tái Ông bị ngã ngựa mà khỏi phải đi lính, hay những cảnh bắt lính gây ai oán tả trong các bài thơ của Đỗ Phủ. Tất nhiên cũng có những chia ly buồn bã: Thùng thùng trống đánh ngũ liên Bước chân xuống thuyền nước mặt như mưa và những cực nhọc khổ sở: Chém tre đẵn gỗ trên ngàn Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai Phàn nàn cùng trúc cùng mai nhưng không là nạn nhân của tội ác. Nếu phải chống giặc là tự nguyện khắc hai chữ “sát đát” vào cánh tay, khắc như vậy để chấp nhận thực sự sống chết với giặc. Mỗi trận chiến tranh xảy ra trên đất Việt đều thấy có cảnh tượng toàn dân vi binh. Nếu lần nào không có tất là quân sự quốc phòng thất bại, tỉ dụ nhà Hồ chống quân Minh, quân chúa Trịnh vào miền nam đánh nhau với chúa Nguyễn. Binh thì vậy, còn tướng thì sao? Sách “Nam Hải Dị Nhân” của Phan Kế Bính chép: “Một khi Phạm Ngũ Lão ngồi vệ đường vót tre đan sọt, sực có Hưng Đạo Vương từ trại Văn An vào kinh, quân truyền kéo đi rất đông. Quân truyền hô thấy Ngũ Lão ngồi xếp bằng tròn bên cạnh đường, quát lên bắt phải đứng dậy. Ngũ Lão cứ ngồi nghiễm nhiên như không nghe tiếng. Quân lính cầm ngọn giáo đâm vào đùi, Ngũ Lão vẫn cứ ngồi vững không động mình. Đến lúc xe Hưng Đạo Vương đến nơi trông thấy thế lấy làm lạ, gọi đến hỏi thù bấy giờ mới biết là có quan quân đi qua và quân lính đâm vào đùi mình. Hưng Đạo Vương hỏi: “Nhà thầy ở đâu sao ta đi qua đây mà cứ ngồi lỳ làm vậy?”. Lão đáp: “Tôi đang mãi nghĩ một việc cho nên không biết ngài qua đây”. “Hưng Đạo Vương lấy làm kỳ, hỏi đến sự học hành thì hỏi đâu nói đó, kinh truyện thao lược không thiếu một chỗ nào, ứng đối nhanh như nước chảy. “Hưng Đạo Vươong mới sai đi lấy thuốc dịt vào chỗ giáo đâm rồi cho ngồi xe đem về kinh dâng lên vua Thánh Tôn. Sau Phạm Ngũ Lão theo Hưng Đạo Vương đi đánh giặc Mông Cổ nên công trạng rất nhiều. Hưng Đạo Vương có lòng yêu mến mới gả con nuôi là Nguyên quận chúa cho. “Đào Duy Từ khi ở ngôi trọng thần của chúa Nguyễn trong nam, một hôm nằm mộng thấy có con hổ đen chạy vào chợt lại mọc hai cánh mà bay lên được. Sực tỉnh dậy thì thấy Nguyễn Hữu Tiến mặc áo thâm, cầm quạt từ ngoài vào đứng hầu ở dưới thềm. Duy Từ trông trạng mạo phi thường của Tiến mới hỏi chuyện rồi lân la đàm đạo về các việc chính sự, quân sự, Tiến phân tích, lý luận rất hay. Duy Từ liền tấn cử Nguyễn Hữu Tiến với chúa Nguyễn, sau Tiến trở nên một tướng giỏi thường được gọi là Nam triều hổ tướng”. Tướng vị theo truyền thống nước ta đều lấy tài thao lược làm chuẩn và căn cứ trên công tích để lên cao không có vấn đề bè phái. Do đó, chiến trận thường rất gay gắt, thua được không bao giờ dễ dàng, nếu có thua thì cũng đã giáng vào đầu quân địch những tổn thất nặng. Một truyền thống khác là Nguyễn Xí, Nguyễn Trãi lặn lội đi tìm Lê Lợi coi chính trị việc chung, mỗi người đều có bổn phận đóng góp, khác hẳn tinh thần tự đề cao thân giá của Khổng Minh trong tích Tám Cố thảo lư chờ Lưu Bị gội mưa đạp tuyết cầu hiền. Binh sự Việt đều đặt trên nền tảng “văn vũ hợp nhất”. Tối cao chỉ huy thường thường là một văn nhân, nếu không thì vị võ tướng cũng phải có khả năng văn học hơn người. Bởi vì từ ngàn xưa dân Việt phải đương đầu với nòi Hán có nhiều kinh nghiệm về tính chất quan trọng của tư tưởng chiến tranh. Sự thắng bại của đôi bên trong một cuộc chiến tranh không ở nơi trận địa cục bộ. Một vị tướng lãnh theo tiêu chuẩn của lịch sử Việt là văn hóa rèn luyện, đạo đức tu dưỡng, hiểu biết nhiều mặt đầu não chính trị, ngoại giao phong độ phối hợp với nhau. Lý Thường Kiệt là điển hình.
* **
Sách “Cảnh Phạm” viết: “Từ xưa đến nay, định đứng ở phương nào, trước nhất phải xem xét kỹ càng đại thế thiên hạ, nếu không xem xét mà cứ xông bừa thì công lẫn thủ tuy khác nhau đấy nhưng bại vong vẫn là một, ý bảo rằng dựng nước thì phải có kế hoạch quốc phòng, kế hoạch ấy chỉ có thể hoạch định sau khi đã hiểu rất rõ hoàn cảnh địa lý. “Quốc phòng tuyến nước ta sáng tạo từ đời Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh chan hòa khắp giang sơn đất nước, mỗi làng xã là một phòng tuyến chiến đấu linh động, uyển chuyển không chết đứng như Vạn Lý Trường Thành. Nay rước vua vào Thanh Hóa, mai đã thiết lập triều đình tại Hải Dương (thời kỳ đánh giặc Mông Cổ) không cố thủ bằng thành lũy nào hết, làng xã vốn có khả năng tự cấp tự túc nên cũng không có trung tâm kinh tế nào lọt vào tay giặc mà tạo thành quyết định sinh tử cho cuộc chiến”. Sách “Cảnh Phạm” viết: “Hữu căn bản chi địa, hữu khởi sự chi địa, lập bản tất thẩm thiên hạ chi thế, nhi khởi sự giả bất trạch địa”. nghĩa là có đất làm nơi khởi sự, lập căn cứ phải xét thế của thiên hạ, có khởi sự không cần chọn chỗ đất nào”. Rừng núi, nơi thẳm sâu của nội địa ta thường được dùng làm căn cứ địa, chỗ khởi sự đánh giặc thì ở bất cứ nơi nào. Hếu hết mọi cuộc chiến tranh trên đất Biệt, trận địa chiến bao giờ cũng xảy ra vào phút chót, phút sắp phân thắng bại. Nhiều lần những nút giao thông lọt cả vào tay giặc mà ta vẫn không rơi vào thế tuyệt vọng là nhở ở căn cứ địa vững vàng, đúng thế, nhờ phạm vi khởi sự quá rộng, sự đối kháng vẫn không giảm sút. Vận động biện chứng giữa căn cứ địa với khởi sự luôn luôn đẩy quân xâm lược vào thế bao vây và phản bao vây nói theo từ ngữ mới. Sở dĩ nhà Tống bên Trung Quốc không chống nổi quân Mông Cổ là vì hồi ấy Tống có quá nhiều trung tâm kinh tế lớn lao quyết định sinh hoạt toàn bộ dân chúng, quân Mông Cổ chỉ việc chiếm các trung tâm ấy là lập tức sinh hoạt rã rời. Khi sang ta, Mông Cổ áp dụng cùng một chiến lược gặp phải quốc phòng tuyến Việt không đặt ở các trung tâm cho nên sự chiếm cứ thật mau các trung tâm đã chẳng mang lại cho Mông Cổ cùng một hiệu quả như đã xảy ra bên Trung Quốc. Nước ta vốn dĩ sống trong tình trạng giặc giã thường trực nên quốc phòng tuyến bắt buộc phải ghép liền với chiến tranh thường kỳ. Quan trọng hơn hết là kinh tế quốc phòng. Sách “Cạnh Phạm” viết: “Tự cổ lai vị hữu bất sự dân sinh nhi khả dĩ lập quốc gia”, nghĩa là: “Từ xưa đến nay chưa thấy ai không hoàn tất việc dân sinh mà có thể lập quốc. Kinh tế mới thật là cơ sở quốc phòng”. Anh ơi phải lính thì đi Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi Tháng Chạp là tiết trồng khoai Tháng Giêng trồng đậu, tháng Hai trồng cà Tháng Ba cày bở ruộng ra Tháng Tư reo mạ thuận hòa mọi nơi Tháng Năm gặt hái xong rồi Trời đổ mưa xuống nước trôi đầy đồng Anh ơi giữ lấy việc công Để em cày cấy mặc lòng em đây Câu ca dao bình dị nơi dân giả cho thấy sự khắng khít giữa quân sự và kinh tế trong chiến đấu. Tối cao nguyên tắc của chiến tranh là sự nhất chí của điều kiện sinh hoạt với điều kiện chiến đấu. Tỉ dụ: Cổ đại nông nghiệp dân tộc đã áp dụng phương trận nông điền để chống với du mục dân tộc, mỗi phương trận trở thành một tiểu đơn vị phòng thủ, đã áp dụng đồn điền để tràn lấn vào lãnh thổ các dân tộc du mục. Nói chiến đấu nào tất nhiên phải có kế hoạch kinh tế thích hợp với lề lối chiến đấu ấy. Điều kiện sinh hoạt mà nhất chí được với điều kiện chiến đấu thì mạnh, rời rã thì yếu, tương phản thì thua. Một quân sự gia Trung Quốc trong thời kháng Nhật viết: “Chiến lược du kích trường kỳ chỉ có thể thành công nếu công tác vận động sinh sản tự cấp tại nông thôn thực hiện tốt đẹp”. Sức mạnh quốc phòng của nước ta tự lúc lập quốc đến nay đều ở trong sự kết hợp nhất chí giữa trí tuệ vũ lực chính quyền với một hệ thống làng xã đan kết chặt chẽ nơi đồng ruộng bao la. (Elle s’installe sous une forme végétative mais capable de durer dans la justaposition à perte de vue de ses villages en rizière-Paul Mus). Với một lịch sử cả 5000 năm đấu tranh tích lũy kinh nghiệm đã tạo cho dân tộc Việt một cái trí tuệ quốc phòng thật hoàn bị. Thời kỳ mà cái trí tuệ đó không được đôn đốc, khai triển đều đưa ta đến vong quốc. Như đời Tự Đức ngự duyệt cuộc thao diễn binh lực. Giữa lúc ông đang ntồi tại hành cung bỗng nghe ngoài khơi có tiếng súng nổ. Thì ra thuyền vận tải của ta bị hai chiếc tàu của Tầu Ô đánh cướp. Thuyền của ta tuy đông mà vẫn thua, thậm chí hai chiếc tàu của giặc có một chiếc dám cả gan xông vào bờ không thèm đếm xỉa đến vua quan ta đang tụ tập cả ở Cửa Thuận. Tức thì lực lượng thủy quân ta được lệnh ra tiếp cứu đoàn thuyền bị nạn, nhưng súng có bắn ra mà chẳng viên đạn nào trúng đích. Thấy tận mắt võ lực triều đại mình, vua Tự Đức quá xúc động về làm một bài thơ nôm gửi sang bên võ quở trách mà đoạn chót như sau: Phen này mắt thấy tai nghe Tham sinh úy tử một bè như nhau Đến khu có giặc rút đầu rút đuôi Cũng xưng là đấng làm tôi Cớ sao chẳng biết hổ ngươi trong mình “Trí tuệ quốc phòng Việt mở ra từ luật tắc biện chứng: “Xích hữu sở đoản, thốn hữu sở trường”. Thước mà ngắn tấc mà dài, cái lẽ ưu thế liệt thế mạnh yếu của tương quan lực lượng không đứng chết một chỗ, nó xoay chuyển không ngừng, cần phải nắm được giềng mối vận động biện chứng của nó. Đấy là lý do tại sao “Thế giặc mạnh ta yếu mà ta địch nổi, quân giặc nhiều ta ít mà ta được luôn. Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái”. “Dĩ chiến vi thủ, thủ tất cố, dĩ thủ vi chiến, chiến tất cường”, lời Đức Trần Hưng Đạo ghi trong “Vạn Kiếp bí truyền” nghĩa là : dùng chiến để thủ, thủ kiên cố, dùng thủ để chiến thì chiến phải cường, chính là biện chứng của chiến lược. Đối với phương Bắc, chiến lược thường nghiêng về dùng chiến để thủ, đối với phương Nam chiến lược thường nghiêng về dùng thủ để chiến, lấn đến đâu dựng đồn điền phương trận đến đó. Tuy nhiên, nếu nói về toàn bộ diễn tiến của chiến tranh thì biện chứng thủ chiến càng hết sức linh hoạt, có nơi thủ chẳng bằng chiến, có nơi chiến chẳng bằng thủ” Bao trùm lên hết tất cả là tinh thần quốc phòng. Sách “Cảnh Phạm” viết: “Công thủ vạn đoan, sảo chuyết di dụng, thần nhi minh chi diệc tồn hồ kỳ nhân nhi dĩ”, nghĩa là “tấn công hay phòng ngự trăm ngàn hình thái, giỏi hay vụng khác nhau ở nơi tinh thần con người mà thôi”. “Thiết hiểm dĩ đắc nhân vi bản, bảo hiểm dĩ trí kế vi tiên, nhân thắng hiểm vi thượng, hiểm thăng nhân vi hạ, nhân dữ hiểm quân, tài đắc trung sách”, nghĩa là: “Gây một hiểm địa điều gốc là phải được người phòng giữ hiểm địa trí và kế là cần nhất, thượng sách ở chỗ đắc nhân, chỉ dựa vào hiểm địa là hạ sách; người với hiểm địa ngang nhau là trung sách”. “Địa lợi diệc hà thường chi ữu tai, Ham Quan Kiếm Các, thiên hạ chi hiểm dã, Tấn dụng Hàm Quan khước lục quốc chi hữu dư, đại kỳ mạt dã, cự quần đạo nhi bất túc. Gia Cát Vũ Hầu xuất Kiếm Các chấn Tần Lũng, qui Tam Phụ; Lưu Thuyền hữu Kiếm Các nhi thành đô bất năng bảo. Cố kim thành, thang trì bất đắc kỳ nhân dĩ thủ chi tằng bất cập bồi lũ chi khâu, phiếm lãng chi thủy, đắc kỳ nhân tắc khô mộc hủ thù giai khả dĩ vi địch nạn”, nghĩa là: “Địa lợi trong thiên hạ chỗ nào mà chẳng có, cửa Hàm Quan, cửa Kiếm Các đều là hiểim địa của thiên hạ. Nhà Tần dùng Hàm Quan đã thừa sức thôn tính lục quốc, thế mà cuối đời Tần, Hàm Quan không còn đủ sức để ngăn kẻ trộm cướp. Gia Cát Khổng Minh ra cửa Kiếm Các chấn định Tần Lũng, qui phục Tam Phụ trong khi Lưu Thuyền cũng từng giữ Kiếm Các mà cung điện thành đô cũng không giữ nổi. Thành đồng, tường sắt mà làm gì nếu không có người để bảo vệ nó, giá trị của nó chẳng bằng mô đất bùn, vũng nước, cỏ mục cây khô, nếu có lòng người quyết tâm thì bùn nước, cỏ cây cũng dư sức để làm cho địch quân khốn khổ”. Tinh thần quốc phòng tức là sự xác định chiến chí. Tại làng An Nhân ngoài Bắc, dân lập đền thờ ông Đoàn Thượng, đền thờ ấy là tượng trưng cho cái chiến chí hằng tại của nòi giống. Thời Huệ Tôn nhà Lý, Đoàn Thượng phụng mệnh trấn thủ ở Hồng Châu. Khi Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho vua Trần Thái Tôn, Đoàn Thượng chiếm giữ một châu không chịu theo nhà Trần. Thái sư nhà Trần là Trần Thủ Độ sai sứ đến dụ hành. Thượng nhất định không nghe, chiêu tập binh mã có ý muốn khôi phục nhà Lý. Trần Thủ Độ đem quân xuống đánh nhau luôn mấy năm không phá nổi. Cuối cùng là trận Văn Giang, quân nhà Trần hai mặt đánh dồn vào một, quân Đoàn Thượng vỡ chạy tán lạc mất cả. Đoàn Thượng bị một tướng nhà Trần chém trộm một nhát vào cổ gần đứt. Đoàn Thượng ngoảnh lại thì tướng kia sợ hãi chạy mất. Đoàn Thượng mới cởi dây lưng ra buộc vào cổ cho khỏi rơi đầu, rồi hầm hầm tế ngựa chạy về phía Đông. Chạy đến đâu quân nhà Trần phải rãn đường cho chạy chớ không dám đánh. Khi chạy đến làng An Nhân, có một ông cụ già, áo mũ chững chạc, chắp tay đứng bên đường nói rằng: - Tướng quân trung dũng lắm. Thượng Đế kén ngài làm thần xứ này rồi đây. Có một cái gò bên cạnh kia, đó là hương quả của tướng quân xin tướng quân lưu tâm cho. Đoàn Thượng vâng một tiếng rồi đến chỗ gò ấy xuống ngựa gối đầu vào ngọn mác mà nằm, một lát thì mất, mối đùn lên lấp thành mồ. Một khi chiến chí đã được xác định, người Việt nào cũng sẽ gan dạ chiến đấu như Đoàn Thượng. Cái đáng quí nhất cho quốc phòng không có gì bằng tinh thần quốc phòng, tức cái chí quyết chiến. Có chiến chí ấy thì mới có dốc một lòng phụ tử vác cần câu mà đánh giặc. Có chiến chí ấy thì mới “thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Có chiến chí mới có lời nói “Nếu bệ hạ muốn hàng xin hãy chặt đầu tôi trước đã”. Năm Đinh Sửu niên hiệu Tự Đức thứ 30, người Pháp hứa trả lại bốn tỉnh và nối lại hòa hiếu, triều đình vui mừng cho là đã được vô sự. Cho nên trong khoa thi hội, đã lấy việc “Sứ nước Pháp vào chầu, hòa hiếu hợp lễ” để ra đầu đề bài thi. Với cái tinh thần quốc phòng như thế nước mất là điều đương nhiên. Tinh thần quốc phòng Việt là kết tinh của bốn nhân tố: - Lòng yêu với người thân, nhiễu điều phủ lấy giá gương. - Hai bàn tay với đất đai, nước mắt và mồ hôi xây dựng giang sơn. - Trí tuệ sáng tạo như trăm ngàn hoa nở. - Máu đào và tranh đấu với giặc, tổ tiên con cháu cùng nhuộm máu trên giải đất từng chứng kiến bao nhiêu trận oanh liệt còn ghi dấu anh hùng (Trích “Chu tri lục”).
*
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 4:58:59 GMT 9
CHÍNH TRỊ
Một lập trường cỗi gốc, một cương lĩnh siêu nhiên, một sách lược tất thắng (Chu Tri Lục)
Vấn đề chính trị là một bộ môn trọng yếu nhất của văn hóa nhân loại. Nếu như chính trị có biện pháp thì mọi vấn đề khác sẽ theo nó mà có biện pháp, nếu như vấn đề chính trị không giải quyết thì xã hội không thể tồn tại. Tiền Mục
Một người ngoại quốc đến Việt Nam có thể dễ dàng nhận thấy rằng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau không hề có những kiến trúc vĩ đại chứng tỏ thời đại huy hoàng lịch sử như Vạn Lý trường thành, Angkor Vat v.v… Ngay cả ở những nơi đông đô ngàn xưa và bây giờ Phong Khê, Thăng Long, Hoa Lư, Phú Xuân v.v… cũng không thấy dấu tích đền đài, cung điện tráng lệ bao giờ. Điều này chứng tỏ chính trị Việt trải mấy ngàn năm không có vấn đề ai thống trị ai. Với một bên là tập đoàn thống trị và một bên là quần chúng nhân dân mà triết lý chính trị phương Tây cho là vấn đề then chốt, bởi vì một hoàn cảnh lập quốc, cùng với vị thế địa dư đặc thù, chính trị Việt chỉ có cuộc đấu tranh gốc là hoàn chỉnh. Một quốc gia, một dân tộc trong cái hình ảnh Việt điểu sào nam chi (chim Việt đậu cành Nam) đồng thời tìm mọi cách thoát khỏi vị thế địa dư cùm kẹp. Đền đài, cung điện tráng lệ để làm gì khi luôn luôn sẵn sàng phải bỏ kinh đô dùng đồng ruộng núi rừng mênh mông để bao vây kẻ xâm lược từ ba bốn phía thường xuyên đe dọa chiếm kinh đô. Chỉ một lần, vua An Dương Vương Thục Phán xây Loa Thành, hào sâu thành rộng nhưng đã bị Triệu Đà dùng kế cho con là Trọng Thủy sang lấy Mỵ Châu rồi ăn cắp nỏ thần và dò địa thế Loa Thành, rồi đem quân sang đánh mà mất nước. Lời Thần Kim Qui còn văng vẳng: “Giặc ngồi sau lưng nhà vua đấy”, đã khải phát cho tư tưởng chính trị Việt đời đời về sau chớ trông cậy vào nỏ thần, thành trì kiên cố, hãy tin tưởng nơi trí tuệ và tình ý của con người, đó mới thật là yếu tố quí báu nhứt để giữ nước. Kẻ hại nước dù vì lầm lỡ, dù là con gái ruột thịt cũng phải chết chém. Nợ nước tuyệt đối cao hơn tình nhà. Đã không lâu đài tráng lệ, do bóc lột như A Phòng cung với 3000 cung nữ, như Cô Tô đài để tình tự cùng Tây Thi, lại không cả thành cao hào sâu ngăn cách thì làm gì có sự thống trị và bị thống trị. Quan hệ giữa chính quyền với nhân dân thuần túy là quan hệ giữa lãnh đạo với bị lãnh đạo. Đào luyện bằng những kinh nghiệm đau thương của ngàn năm đô hộ, quan hệ lãnh đạo với bị lãnh đạo chẳng còn cơ sở nào khác hơn là phương châm của chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, hình ảnh khăng khít của những người trong một nước. Trong lịch sử không phải không có những ông vua ác, hoặc hoang dâm vô độ như Lê Long Đĩnh tức Ngọa Triều hoàng đế nhưng đấy chỉ là một cá nhân lầm đường lạc lối lập tức bị chối bỏ ngay, cho nên trị vì được hai năm, Long Đĩnh mất, đình thần tôn Lý Công Uẩn làm vua chấm dứt hẳn sự nghiệp chính trị nhà tiền Lê. Câu vè: Con vua thì lại làm vua Con nhà chùa thì lại quét lá đa là nói về tính chất thế tập trung của chính trị quân chủ cha truyền con nối cốt để tránh những cuộc khủng hoảng lãnh đạo chứ không ngụ ý căm thù “tập đoàn thống trị” hay chống bọn quí tộc vì ở nước Việt đã không còn danh phận quí tộc kể từ ngày công chúa Tiên Dong, con vua Hùng Vương thứ 3 lấy anh chàng đánh dậm Sử Đồng Tử, rồi sau cả hai hóa thành tiên. Căn bản quan hệ lãnh đạo với bị lãnh đạo của chính trị Việt từng được ghi rõ trong bài hịch của Trần Hưng Đạo bằng mấy câu: “Lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì cùng nhau vui cười… Dẹp tan được giặc mà lập nên công danh, chẳng những là thái ấp của ta được vững bền mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng lộc; chẳng những gia quyến của ta được yên ổn, mà các ngươi cũng đều được vui với vợ con, chẳng những tiên nhân của ta được vẻ vang mà các ngươi cũng đượoc phụng thờ tổ phụ trăm năm vinh hiển, chẳng những là một mình ta được sung sướng mà các ngươi cũng được lưu truyền sử sách thơm tho ngàn đời…” Và biểu hiện qua lời nói của vua Lý Thái Tôn: “Trẫm ở cung điện ăn mặc như thế này còn rét nghĩ những tù phạm giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc, vả lại có người xét hỏi chưa xong, giam lâu ngày chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương lắm. “Lòng trẫm yên dân cũng như yêu con trẫm vậy hiềm vì những kẻ bách tính ngu dại làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ nay về sau tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi” nó được thể hiện bằng một hội nghị Diên Hồng. Vua Nhân Tôn cho triệu cả các bô lão dân gian hội tại Diên Hồng để bàn xem nên cầu hòa hay nên đánh Mông Cổ. Các bô lão đều đồng thanh xin đánh. Vua thấy dân gian một lòng như vậy cũng quyết ý phát động chiến tranh sống chết với giặc”. Thật là khác hẳn với tình trạng: “Guerre aux chateaux, paix aux cabanes” (Để mặc bọn ở lâu đài chinh chiến, anh em nhà lá cứ sống hòa bình) của Tây phương. Chẳng phải vì nòi giống Việt đã có một khả năng màu nhiệm nào đó để đi ra ngoài luật tắc chung của chính trị. Mà chính là do những điều kiện thực tế bắt buộc. Chính trị Việt luôn luôn cần sự đùm bọc, nếu không thế, nếu chỉ biết thống trị tất sẽ bị nô lệ hóa ngay trước các lân quốc luôn luôn sẵn sàng tiêu diệt dân tộc Việt. Mạc Ngọc Liễn dòng họ Mạc Đăng Dung, người cướp ngôi nhà Lê theo phò Mạc Kính Cung chiếm giữ châu Yên Bác ở Lạng Sơn để làm căn cứ địa. Chúa Trịnh sai tướng Hoàng Đình Ái đem binh lên đánh. Mạc Kính Cung và Mạc Ngọc Liễn phải chạy sang Long Châu. Ít lâu sau, Mạc Ngọc Liễn chết có thư để lại dặn Mạc Kính Cung rằng: “Nay họ Lê lại dấy lên được, ấy là số trời đã định còn dân ta thì có tội gì mà ta nỡ để khổ sở mãi về việc chiến tranh. Vậy ta nên đành phận lánh mình ở nước ngoài, chứ đừng có đem lòng cạnh tranh mà lại mời người Tàu sang làm hại dân mình”. Ngọc Liễn không đặt vấn đề thống trị của dòng họ Mạc làm trọng mà coi sự đùm bọc giữa những người Việt với nhau làm quyền lợi tối thượng. Khi quan niệm chính trị bằng thống trị thì mới cần chủ quyền vào tay mình nhưng khi đã quan niệm chính trị bằng lãnh đạo thì quyền lãnh đạo ấy dễ dàng nhường cho ai đưa nước đưa dân vào con đường quang minh, dễ dàng lùi bước để tránh một cuộc tương tàn máu mủ ruột thịt tai hại cho sinh mệnh dân tộc. Để có quyền chính người phương Tây thường lý luận: “Uy quyền chính trị không tự rơi vào tay ai xứng đáng, phải dành đoạt mà lấy. Kẻ quyết định là kẻ nhiều người sợ nhất hoặc lớn tiếng nhất”. (L’autorité politique ne se mérite pas, elle Suzanna’obtient. Le dernier mot appartient à celui qui fait le plus peur on crie le plus fort). Machiavel nói: “Thành công tạo nên sự xứng đáng” (Le succès fait le mérite). Cho nên khi chọn vị lãnh đạo, họ thường đi theo ai đã đoạt chính quyền hoặc bầu cho ai đã lớn tiếng. Trong lịch sử chính trị Việt, muốn lãnh đạo cần có công to với nước, phải đóng góp cho sự lớn lên của dân tộc. Trong ba điều: lập đức, lập ngôn, lập công thì lập công là hàng đầu. Khơi mở là vụ tể tướng Lữ Gia giết Cù Thị và Ai Vương vì Cù Thị thái hậu âm mưu với sứ thần giống Hán An Quốc Thiếu Quí định đem nước Nam về dâng cho nhà Hán, rồi cùng thái tử Kiến Đức lãnh đạo chống Bắc phương. Một nổi dậy dù nhỏ nhoi như vụ Phùng Hưng đánh phá phủ Đô hộ cũng đủ cho dân lập đền tôn làm Bố Cái đại vương kính thờ bằng cha mẹ. Từ đấy về sau, người lãnh đạo toàn là những anh hùng của những cuộc cách mạng dân tộc phản đế. Cái chuyện cướp chính quyền chỉ để mà thống trị không bao giờ được chấp nhận. Kiều Công Tiễn cướp quyền của Dương Diên Nghệ bị Ngô Quyền vây đánh, Tiễn sang cầu cứu nhà Nam Hán đưa Hoằng Thao về cướp nước đã bị đánh bẹp chỉ với một trận Bạch Đằng. Âm mưu thoán đoạt kiểu Mạc Đăng Dung tất bị dân chán ghét. Theo sử chép: “Khi vua Lê Chiêu Tôn chết, Mạc Đăng Dung bắt các quan nhà Lê thảo bài chiếu truyền ngôi cho nhà Mạc Cung Hoàng và bà Hoàng thái hậu bị giết tất cả. Bấy giờ triều thần phần lớn là người khoa bảng đều tỏ ý phẫn nộ, có ông nhổ vào mặt Mạc Đăng Dung, có ông lấy nghiên mực ném vào mặt hay chửi bới kẻ quyền thần bị Mạc Đăng Dung giết chết đi, có ông nhảy xuống sông mà chết, có ông quay đầu về Lam Sơn, nơi khởi nghĩa chống Minh của vua Lê Thái Tổ, lạy rồi rút kiếm tự đâm vào cổ”. Hành động quay đầu về Lam Sơn nói lên bao nhiêu ý nghĩa: Cái công diệt giặc Minh mấy trăm năm sau vẫn còn đời đời ghi nhớ. Trước đấy, Hồ Quí Ly cũng bị hãm vào cảnh tương tự, dân sở dĩ không theo họ Hồ bởi vì cái công đánh giặc Mông Cổ chưa ai quên được. Trở về trước xa nữa, khi Đinh chuyển vào tayLê, sử chép như sau: “Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích ám sát. Đình thần tìm bắt Đỗ Thích làm tội và tôn Đinh Tuệ lên làm vua. Đinh Tuệ mới có 6 tuổi, nhà Tống nghe tin Tiên Hoàng mất, trị quân còn dại, muốn thừa thế sang lấy nước ta mới hội đại binh ở biên giới. Bên ta được tin quân Tàu sắp sang, Thập Đạo tướng quân sai Phạm Cự Lượng đem binh đi chống giữ. Trước khi khởi hành, Phạm Cự Lương họp cả quân sĩ lại ở trong điện rồi nói rằng: “Bây giờ giặc sắp vào cõi mà vua thì còn bé, lấy ai thưởng phạt cho chúng mình. Dẫu mình có hết sức lập công thì rồi có ai biết cho. Chi bằng nay ta tôn Thập Đạo tướng quân lên làm vua rồi ra đánh thì hơn. “Quân sĩ nghe nói đều hô vạn tuế. Thái hậu thấy quân sĩ thuận cả mới sai lấy áo long cổn mặc vào cho Lê Hoàn. Lê Hoàn lên làm vua giáng Đinh Tuệ xuống làm vệ vương người đời gọi là phế đế”. Nếu đem hành động triều thần nhà Lê nhổ nước bọt vào mặt Mạc Đăng Dung đặt bên cạnh bà Thái hậu nhà Đinh đích thân lấy áo long cổn khoác lên vai Lê Hoàn và bằng lòng cho con mình trở thành phế đế thì thấy rõ ngay chính trị Việt không chìm ngập trong tham vọng thống trị như chính trị Tây phương “l’Etat c’est Moi” (Quốc gia là trẫm đây) qua lời vua Louis thập tứ. Tìm chọn người lãnh đạo, dựa trên ba điểm căn bản: a) Tôn hiền b) Thượng công c) Thân thân Tôn hiền tức là đem khách quan hóa chính trị, hết sức tự kiềm chế cái tôi muốn rộng rỡ của mình dành đoạt những quyền lợi vị kỷ hại cho việc chung cho tập thể. Tô Hiến Thành giúp vua Lý Cao Tôn trị nước. Lúc tuổi già bị đau có quan tham tri chính sự là Vũ Tán Đường ngày đêm chầu chực chăm nom. Sắp mất, bà Đỗ thái hậu sang thăm hỏi xem ngày sau ai thay được ông, Tô Hiến Thành tâu rằng có quan Gián Nghi đại phu Trần Trung Tá. Thái hậu ngạc nhiên nói: “Sao không cử Vũ Tán Đường?”. Ông đáp rằng: “Nếu bệ hạ hỏi người biết chăm nom săn sóc thì tôi xin cử Vũ Tán Đường, nhưng nếu hỏi người giúp nước thì tôi xin cử Trần Trung Tá”. Thượng công (lấy công nghiệp làm cốt) tức là hiệu xuất hóa chính trị, ai có công nghiệp hữu ích là dân yêu dân theo. Công nghiệp diệt trọn 20 vạn quân Thanh của Bắc Bình vương Quang Trung chẳng những dân nhớ ân đức mà ngay cả Ngọc Hân công chúa, con gái vua Lê Chiêu Thống đã chống luôn phụ thân để đứng về phía chồng. Bài Ai Tư Vãn chính là cái triết lý “thượng công” được diễn tả bằng tình cảm. Nguyễn Hoàng chống nhau với họ Trịnh, tìm cách xin vào trấn Thuận Hóa mang trong đầu óc sách lược: “Đất Thuận Quảng bên Bắc thì có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, bên Nam thì có núi Hải Vân và núi Bi Sơn thật là một nơi trời cho người anh hùng dụng võ, hãy yêu thương nhân dân, luyện tập quân sĩ để mà gây dựng công nghiệp muôn đời”. Công nghiệp muôn đời mà Nguyễn Hoàng mong muốn không cốt để trả thù họ Trịnh, công nghiệp ấy là mở mang bờ cõi về phương nam. Thân thân tức là chính trị được tình vị hóa, đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo. Ông Lê Lợi vừa thái thịt vừa bỏ vào miệng ăn, đấy là một thái độ thân thân, hòa đồng, không tự gán cho mình một thân giá cao. Nếu không có thái độ thân thân như vậy thì làm sao có được Lê Lai chịu chết thay cho chúa? “Dĩ nhân thuận ngã, dĩ ngã đồng nhân” (Người thuận theo ta, ta hòa đồng với người). Bởi thế nên mới có hình ảnh thân thân đầy tình vị: “Có lẽ trời muốn trao gánh nặng bắt phải trải qua bách chiết thiên ma cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phấp phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc rượu khao quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử”. Tình vị ấy từng tràn dâng trong thơ của người tuổi trẻ cách mạng thời Pháp thuộc khi nhìn về cố quốc:
Cách dòng nước ta là người mất nước Nước non ta ai ngăn trở ta về Thấy người quê không tỏ được tình quê Rõ trước mắt mà tìm đâu cho thấy Thái Địch
* **
Kinh Dịch có câu: “Thiên địa tắng nhi kỳ sự đồng dã, nam nữ tắng nhi kỳ chí thông dã, vạn vật tắng nhi kỳ sự loại dã”, nghĩa là: “Trời với đất khác nhau nhưng việc trời việc đất là một, nam nữ khác phái nhưng nhở ở sự khác đó mà tình chí thông, vạn vật trăm ngàn dị biệt nhưng cùng có một quy luật sống”. Triết lý chính trị Việt cho rằng: “Thiên hạ chi tạp, nhi bất khả ác, thiên hạ chì động nhi bất khả loạn”, cuộc sống phức tạp mâu thuẫn là lẽ tự nhiên, không thể dùng phương pháp ác độc để tiêu diệt mâu thuẫn và phức tạp, tuy nhiên, thiên hạ có thể động thì được chớ không thể loạn, nếu loạn là phải trừ khử. Thập nhị sứ quân làm loạn nước cứ đem quân đánh lẫn nhau làm cho dân gian khổ sở. Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp mãi mới xong cái loạn sứ quân, thu giang sơn về một mối. Khi lo liệu đến việc chính trị thì còn có nhiều người quen thói lúc loạn không chịu theo luật lệ. Vua phải dùng oai để trừng trị những bọn gian ác, đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo ở trong vườn rồi hạ lệnh rằng hễ ai phạm tội thì bỏ vạc dầu hay là cho hổ báo ăn thịt. Nhưng lại chính bắt đầu từ đời nhà Đinh, việc phát triển tự trị làng xã đã được củng cố vững chắc, phép vua còn thua lệ lạng. Vạc dầu, hổ báo chỉ là những hình phạt đối với tội ác. Vạn Thắng theo Thái Địch có nghĩa là: - Thắng hơn ngàn năm đô hộ và đồng hóa lập nên một nền tảng của độc lập và tồn chủng. - Thắng tất cả mọi cuộc thất bại trên đấu tranh cũ lập nên xuất phát điểm của cuộc thắng lợi mai sau bảo vệ nòi giống. - Thắng tất cả mọi chia rẽ và cắt cứ bên trong, lập nên cuộc thống nhất. - Thắng tất cả các tính ươn hèn và quị lụy của mặt tầng lập nên thói quen của tranh đấu. - Thắng tất cả các sự phân hóa trong trận doanh tranh đấu. Qua sang nhà Lý, đời vua Lý Thái Tôn, sau vụ tranh chấp nối ngôi và tướng Lê Phụng Hiểu định loạn vua mới lập lệ hàng năm các quan phải đến đền Đồng Cổ làm lễ đọc lời thề rằng: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu bất trung xin quỉ thần làm tội”. Lời thề ở Đồng Cổ đòi hỏi từng người trong tập thể hãy tự xét mình mà hành động dành tất cả cho đại sự chung. Dập tắt loạn chí nhưng không cần dùng đến sát khí. Lệ làng vượt phép vua là biểu hiện của một trị thể dĩ đồng nhi dị, chấp thuận những tiểu dị trong trị thể thống nhất, chấp thuận đa luận trong nhất lý (Unity in Variety- Unity in Multiplicity).
* **
“Thánh nhân chi đại bảo viết vị”. Lãnh đạo tất nhiên phải ở ngôi tôn, quyền lực lãnh đạo từ ngôi tôn ấy mà có. Các quốc gia quân chủ Âu Châu, khi vua đăng quang lễ đặt vương miện do vị đại giáo chủ ý rằng quyền lực lãnh đạo do Thượng Đế ban cho. Các quốc gia dân chủ, khi nhiệm chức Tổng Thống tuyên thệ trước một pháp quan ý rằng quyền lực lãnh đạo do nhân dân trao cho Đại giáo chủ là đại biểu của tín ngưỡng thần quyền. Pháp quan là đại biểu của hiến pháp. Từ Thượng Đế cho đến nhân dân trao cho quyền lực lãnh đạo chính trị của Tây phương vẫn mang cùng một tính chất, đem lãnh đạo hoặc hiến cấp Thượng Đế, hoặc hiến cấp hiến pháp nên sinh mệnh người lãnh đạo cũng không thể khách quan hóa. Văn hóa Việt vốn là văn hóa nông nghiệp, bởi thế chính trị Việt đặt trên sự ứng theo tự nhiên. Lúa chiêm phơ phất đầu bờ Hễ nghe sấm động phất cờ lúa lên Chính trị thuận theo yêu cầu tự nhiên của đạo người mà đến, chính trị thuận theo sự đồng nhất của nhân dân mà thành, như cây lúa chiêm chờ sấm động. Quyền vị lãnh đạo là chiếc ghế bỏ trống, dành cho bất cứ ai có khả năng giải quyết nhu cầu của đạo người, dành cho bất cứ ai được lòng người theo về. Quyền lực lãnh đạo hiển phát từ nội tâm tự tính tình, nó cố hữu trong sự tu dưỡng tâm thành và đấu tranh, chứ không dựa vào Thượng Đế hay hiến pháp vốn là công cụ của một quyền lực thống trị. “Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán hận. Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ, ngược bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn ngàn khóe, ác chứ ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả càn khôn, nặng khao liễm vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống biển mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc, nheo nhóc thay quan quả điên liên. Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc rừng không ghi hết tội, dơ bẩn thay, nước biển không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho ai bảo thần nhân chịu được. Ta đây. Núi Lam Sơn khởi nghĩa, chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng quân nghịch tặc. Đau lòng nhức óc là mười mấy năng mưa, nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược suy xét đã tinh, ngẫm trước đến nay lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đổ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh…” Bình Định Vương Lê Lợi nắm được quyền lãnh đạo vì đã nếm mật nằm gai, đau lòng nhức óc, quên ăn vì giận, ngắm non sông căm nỗi thế thù nên lòng người tin cậy; ông cũng nắm quyền lực lãnh đạo đạo người quyết diệt những tội ác của giặc Minh. Đi trước Bình Định Vương trong công cuộc đánh nhau với Minh là Giản Định Đế và Trần Quí Khoách. Nhưng vì phẩm chất của hai ông này thiếu, lòng người chán ghét nên chẳng tạo thành công nghiệp gì. “Nhân giai khả dĩ vì Nghiêu Thuấn”, ai cũng có thể làm Nghiêu Thuần, điều cần là phải có phẩm chất và tâm thành đấu tranh, đáp ứng được nhu cầu tự nhiên của đạo người và dành được sự đồng nhất của nhân tâm. Quyền lực lãnh đạo hiển phát tự nội tâm, tự tính tình, tự sự tu dưỡng tâm thành và tranh đấu nên vua quan Việt thường có một mức tự ngã hạn chế rất cao. Ông Thân Trọng Huề tả hình dáng vua Dục Tôn (Tự Đức) như sau: “Ngài hình dung như một người nho sĩ, không cao không thấp, trạc người bậc trung không gầy không béo, có một phần hơi gầy một tí. Da không trắng không đen. Mặt hơi dài, cằm hơi nhỏ, trán rộng mà thẳng, mũi cao mà tròn, hai con mắt tinh mà lành. “Ngài hay chít cái khăn vàng mà nhỏ và mặc áo vàng, khi ngài có tuổi thì hay mặc quần vàng đi giày hài vàng của nội vụ đóng. Ngì không ưa trang sức mà cũng không cho các bà nội cung đeo đồ nữ trang, chỉ cốt lấy sự ăn mặc sạch sẽ làm đẹp. Tính ngài siêng năng, sáng chừng 5 giờ đã thức dậy, chừng 6 giờ ngài đã ra triều, cho nên các quan ở Kinh buổi ấy cũng phải dậy sớm mà đi chầu. Thường thấy các quan thắp đèn ăn cháo để vào triều cho sớm. “Ngài thường làm việc ở chái Đông điện Cần Chánh, trong chái này lát ván đánh bóng. Gần cửa kinh có mấy chiếc chiếu, trên giải một chiếc cạp bằng hàng vàng để một cái yêu với nghiên bút, một chiếc gối dựa chứ không bày bàn ghế chi cả. Cách một khoảng có để một cái đầu hổ với thẻ. Ngài làm việc mỏi thì đứng dậy đánh đầu hồ (?) hay là đi bách bộ. Ngài ngồi làm việc một mình , vài tên thị vệ đứng hầu mài son, thắp thuốc hay là truyền việc khác. Ngài vốn là người hiếu học, đêm nào cũng xem sách đến khuya”. Vua còn đạm bạc như vậy huống hồ chi là các quan. Thời Tam Quốc bên Tàu, Gia Cát Lượng lúc chết viết sớ kể rõ cảnh nghèo của mình, nói khi ở Long Trung, gia tư chừng mươi mẫu ruộng, nay sau bao năm làm thừa tướng, gia tư cũng vẫn chỉ là mươi mẫu ruộng. Ở Việt Nam, cái nghèo gần như người bạn đeo đẳng các vị đại thần. Nguyễn Trãi làm khai quốc công thần, khi về ẩn thường ăn cơm dưa muối và vài chén rượu nhạt thơ thẩn ngắm cảnh núi Côn Sơn. Nguyễn Công Trứ nhiều lần được cai trị những vùng rộng lớn bờ sôi ruộng mật mà hễ lúc nào bị biếm chức là sống trong sự túng bấn, phe phẩy chiếc quạt lá, cưỡi xe bò đi thăm dân. Đọc sử Trung Quốc, sử Tây phương thường thấy các quyền thần giàu phú gia địch quốc, xa hoa lãng phí, sử Việt chưa xảy ra trường hợp nào tương tự. Đọc sử Trung Quốc, sử Tây phương thường thấy những người đàn bà yêu quái làm điên đảo quốc gia như Bao Tự, Đát Kỷ, Tây Thi, Vũ Tắc Thiên, Tây Thái hậu, Agrippine, Marie Antoinette v.v… Sử Việt chưa từng có một. Trường hợp Đặng Thị Huệ không đáng kể. Sử còn chép một câu chuyện lý thú là việc vua Lý Thánh Tôn thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Đánh lần đầu không thành công đem quân trở về. Đi đến châu Cự Liên nghe thấy dân đồn đại khen bà Nguyên Phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị. Thánh Tôn nghĩ bụng: “Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm à?”. Lại đem quân trở lại đánh bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ. Chế Củ xin dâng ba châu để chuộc tội. Lý Thánh Tôn thu lấy đất và tha cho Chế Củ về. Tối cao lý tưởng của tính chất chính trị Việt là: Thứ nhất, đại biểu cho thiện ý chứ không chỉ đại biểu cho thống trị. Thấy dân đói rét nghĩ mà thương Vậy phải lên ngôi gỡ mối dường (Lê Thánh Tôn) Thứ hai, đại biểu cho quang minh chứ không chỉ đại biểu cho sách lược. Chiếc thuyền lơ lửng bên sông Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay (Nguyễn Trãi) Thứ ba, đại biểu cho chân lý, chứ không chỉ đại biểu cho quyền lực. Có đàn thì mới có ta Đàn là rất trọng ta là rất khinh Dù khi sóng gió bất bình Lợi đàn mà có thiệt mình cũng cam. (Đông Kinh Nghĩa Thục) Tây phương, qua Machiavel và Marx, cho sách lược là căn bản của chính trị, những tư tưởng thiên về đạo lý một chút, tỉ dụ: tư tưởng của Platon, của Saint Simon đều bị liệt vào loại không tưởng (Utopie). Tất cả mọi sách vở nào không bàn đến sách lược là đi ngược thời đại. Tư tưởng chính trị Việt không đổ nghiêng về một phía như vậy. Đạo lý và sách lược là hai mặt của một thể, thể là đạo lý, dụng là sách lược. Không đem cắt rời sách lược ra khỏi đạo lý. Hồ Quí Ly bị quân Minh đánh bại rồi đưa Hồ Hán Thương và bọn liêu thuộc chạy ra bể rồi về Thanh Hóa, vào đến Lỗi Giang gặp quân Minh đuổi đến, quân Hồ không đánh đã tan. Tướng nhà Hồ là Ngụy Thức bảo Quí Ly rằng: “Nước đã mất, làm vua không để cho người ta bắt được, xin bệ hạ tự đốt mà chết đi còn hơn”. Quí Ly giận lắm bắt Ngụy Thức chém rồi chạy vào Nghệ An. Rút cục chạy đến sông Kỳ La, giặc Minh chặn bắt được hết. Quí Ly chỉ biết trông cậy vào thủ đoạn bất cố đạo lý thành thử cái cơ hội chót để Quí Ly thành con người có liêm sỉ cũng mất luôn. Ông Nguyễn Phi Khanh vị nhà Minh đưa đi đầy, Nguyễn Trãi theo cha khóc lóc đến cửa Nam Quan không chịu trở lại. Ông Phi Khanh quay lại bảo: “Con phải trở về mà lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo ta khóc lóc mà làm gì?”. Nguyễn Trãi quay về tìm vào giúp Bình Định Vương bày mưu định kế giết thù. Cái đạo lý hiếu trung của Nguyễn Trãi sẽ chẳng đem kết quả nếu không có mưu kế đem thắng lợi cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Bất cố đạo lý để thành loại chính trị chim mồi kiểu Ngô Tam Quế bênTàu. Hỡi chim mồi trong lồng Tịch mịch có thương không Tháng tháng ăn mấy đấu Ngày ngày giả mấy công Ví thung thăng ngoài nội Đâu phản bội tổ tông Gáy hót đau hoa lá Xun xoe chạnh cánh lông Đem thân người bú mớm Làm gương lắm kẻ trông. (Thái Địch) Vô trí tuệ sách lược là loại chính trị vô dụng như PhanThanh Giản trong sạch, nhưng bất lực trước tình thế đi đến chỗ đầu hàng bọn xâm lăng. Làm ơn vua đền nợ nước Đành cam gánh nặng ruổi trường xa Lên ghềnh xuống thác thương con trẻ Vượt biển trèo non cám phận già Cũng tưởng một lời an bốn cõi Nào hay ba tỉnh lại chầu ba (Phan Thanh Giản) Câu chót có nghĩa rằng đã mất ba tỉnh miền Đông rồi lại còn mất luôn ba tỉnh miền Tây nữa. Đạo lý là gì? Lý là Việt lý của lịch sử nhất thiết được qui định bởi hoàn cảnh đặc thù của dân tộc trên khắp mặt văn hóa, chính trị, kinh tế v.v… Đạo là con đường phải đi hay một lộ tuyến, một phương pháp để hoàn thành tất cả những gì mà lý đã qui định. Lý thì bất biến, nhưng đạo khả dĩ biến. Người xưa từng sử dụng đạo Nho, đạo Phật tùy theo điều kiện thực tế để củng cố Việt lý. Con đường nào cũng tốt nếu nó cần thiết cho Việt lý, con đường nào cũng là xấu nếu nó gây họa hại cho Việt lý.
*
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 4:59:47 GMT 9
**
Tử Cống hỏi Khổng Tử về chính trị. Khổng Tử đáp: - Đủ ăn, đủ binh và được dân tin cậy. Tử Cống nói: - Nếu phải bỏ đi một điều thì trong ba điều ấy điều nào có thể bỏ được? Khổng Tử trả lời: - Bỏ binh. Tử Cống lại hỏi: - Nếu còn phải bỏ đi điều nữa trong hai điều còn lại, điều nào có thể bỏ được? Khổng Tử đáp: - “Khứ thực, tự cổ nhân giai hữu tử, dân vô tín bất lập”, bỏ ăn từ xưa ai cũng phải chết, nhưng nếu dân bất tín thì chính trị không đứng vững. Cái thực tế của chính trị là no đủ (dụng túc). Túc thực, túc binh. Nói rằng có thể bỏ binh bỏ thực là phủ nhận thực tế sao? Cái nghĩa không phải vậy. Bỏ binh đây có nghĩa là chớ đem binh đội biến thành móng vuốt của thống trị. Ca dao ta có câu: Bộ binh, bộ hộ, bộ hình Ba bộ đồng đình bóp vú con tôi Chính trị Việt thiên về văn tự, khi nói đến võ chỉ dùng hai chữ võ công. Võ để chống xâm lược, để thực thi quốc phòng chính sách, không để dùng làm qua nha. Đời Lê, Trịnh vì binh đã biến thành móng vuốt cho chính trị nên loạn lạc triền miên. Nhà Nguyễn Tây Sơn bắt đầu đi xuống kể từ lúc binh lực đã được dùng làm qua nha cho ba anh em Nhạc, Lữ, Huệ chống lẫn nhau. Bỏ thực đây có nghĩa là đừng để nước giàu dân nghèo, cốt thừa sức mạnh mà thống trị. Cổ thư bàn rằng: “Lo cho dân no đủ trước đi, khi dân đã no đủ thì vua tất phải dư dụ”. Dân no đủ, vua quan dư dụ, diàu nghèo giữa quyền chính và dân chúng hoặc giữa những giai cấp không chênh lệch nhau quá xa thì chính trị sẽ không rơi vào tình trạng như Saint Just nói: “Dân chỉ có một kẻ thù nguy hiểm đó là chính phủ” (Le peuple n’a qu’un seu; ennemi dangereux, c’est son gouvernement). Trong bức thư trả lời cho Hoàng Cao Khải, ông Phan Đình Phùng viết: “Nhưng tôi bình tâm nghĩ lại nước ta ngàn trăm năm đến nay, đất không rộng, binh không mạnh, của không giàu, cái chỗ dựa để dựng nước chỉ ở nơi luân thường vua tôi, cha con, đồng bào ruột thịt mà thôi. Xem như mấy triều Hán, Đường, Nguyên, Minh đã bao phen muốn chiếm đất ta lập thành quận huyện mà rút cuộc không thể làm được… “Gần mười năm nay, những người ứng nghĩa có thể bị trách phạt, có kẻ bị chém giết, thế mà trước sau vẫn không có ai nản lòng thoái chí vẫn xuất của xuất sức đi theo tôi ngày lại thêm nhiều, há phải nhân tình vui thích điều tai họa mà làm như thế đâu, chẳng qua chỉ vì họ có lòng tin tôi đó thôi”. Ông Phùng đã nói rõ cái nghĩa của dân vô tín bất lập cùng trong bức thư trên, ông viết: “Thử xem bọn họ (nòi Hán) với chúng ta đất thì liền nhau, sức hơn muôn lần, mà cuối cùng không lấy sức mạnh đè bẹp chúng ta được, điều đó không có gì lạ, chỉ vì sông núi nước Nam ta đã định phân rõ ràng vả lại cái ơn giáo hóa của thi thư thật quả có thể làm chỗ dựa vững chắc cho chúng ta đó vậy”. Nho đạo đã đem cho người Việt tinh thần: “Bỉ dĩ kỳ phú, ngã dĩ ngô nhân, bỉ dĩ kỳ tước, ngã dĩ ngô nghĩa ngô hà úy tai” (Nó cậy giàu, ta dùng nhân, nó cậy quyền thế ta dùng nghĩa, ta đâu sợ gì nó). Vũ, Tắc, Nhan Hồi đồng đạo, dịch địa tắc giai nhiên. Ông vua Vũ trị nạn hồng thủy, ông Hậu Tắc dậy giồng bách cốc đều là những công lớn đối với thiên hạ, còn ông Nhan Hồi chỉ có lẵng cơm bầu nước. Giá trị ba người tuy khác nhau nhưng không có định ai lớn ai nhỏ, ai cao ai thấp, thất bại hay thành công, miễn là cùng mang cái nhân cách thánh hiền. Dân tin cậy nơi nhân cách thánh hiền đó, tin cậy nơi chính nghĩa chứ không tin cậy vào quyền thế, cho nên mới tôn thờ các vị anh hùng thất bại, cho nên thường ưa thích những chính trị gia bình dị cận dân.
* **
Chính trị Việt đặt trên chủ nghĩa nhất chí: a) Nhất chí của quan niệm với sinh mệnh b) Nhất chí của thời đại với tính cách c) Nhất chí của đa số với thiểu số, của cao với thấp, của lớn với nhỏ, của lời nói với việc làm. Thế nào là nhất chí của quan niệm với sinh mệnh? Trần Hưng Đạo vương bảo quân sĩ: “Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa lột được da thịt của giặc, dẫu thân này ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa thì cũng đành lòng”. Phải đem cả sinh mệnh của mình vào cuộc chiến như vậy thì mới mong bảo người khác hy sinh chống giặc. Nếu chỉ đưa ra một quan niệm kháng chiến cứu nước mà sinh mệnh thì lại đem thả lỏng cho an dật vuốt ve, hỏi làm sao mà có thể hiệu triệu dân gian ứng nghĩa. Muốn lấy về cho giang sơn hai châu Ô, Rí tất phải không ngần ngại trước sự mất mát hòn máu yêu thương là công chú Huyền Trân. Đã biết đau lòng trước cảnh “non sông của ta mà hóa thành bờ cõi của họ” (lời Phan Đình Phùng) thì phải chấp nhận một cuộc sống khói hương nguội lạnh thân tích tan lìa” (cũng lời họ Phan). Kinh luân chút nợ chửa yêu tuyền Nên liệu ba sinh phải báo nguyền Thiết huyết thiên thu nhiều loạn đảo Bạch Vân tể tướng mới thần tiên Như không gặp gỡ ngày Ngô, Thát Thì đã nhàn du chốn phố viên Một chiếc hồ lô mươi hoàng quyển Tiêu dao mây nội hạc chân huyền (Thái Địch) Vì nợ kinh luân nên phải đem thân thế mà báo đáp, nguyện ý nhấn sinh mệnh của chính mình vào sắt máu. Ngày Ngô, Thát (đuổi giặc Ngô và Sát Thát) không cho phép người Việt yêu nước được nhàn du phố viên dưới thuyền giữa dòng nước cùng bầu rượu và mươi cuốn sách để tiêu dao nội hạc chân huyền. - Thế nào là nhất chí của thời đại với tính cách? Kinh Dịch có câu: “Thánh nhân dĩ thuận động, thiên địa dĩ thuận động”. Mỗi việc làm không đi ngược với thời đại. Tính cách ví như đất, thời đại ví như sấm sét. Lúc sấm động là lúc điện trời chuyển màu mỡ xuống cho đất, đất phải đón ngay lấy cơ hội mà thu hút, ý chỉ việc nắm thời cơ. “Khả dĩ tốc nhi tốc, khả dĩ cửu nhi cửu”, có thể nhanh được thì nhanh, cần phải chậm thì chậm, ý chỉ việc biết thời cơ. Tính cách vẫn y nguyên vững chắc, nhưng thời đại thì xoay chuyển đến vô cùng. Tính cách luôn luôn thích ứng với thời đại hay nói khác đi là phải thời đại hóa tính cách bám rất chắc vào những điều kiện thực tế khách quan. Ra đánh quân Thanh, vua Quang Trung lệnh cho quân sĩ ăn Tết Nguyên Đán trước mấy ngày, chuyển quân chớp nhoáng từ Trung ra Bắc mấy ngày và tấn công thật mau nội trong một thời gian rất ngắn đại phá quân địch. Thanh bại rồi, vua Quang Trung sai Ngô Thời Nhiệm thảo thư gửi sang Tàu xin hòa. Ông bảo với Nhiệm: “Nhờ ông dùng lời khéo léo cho khỏi sự đao binh và tranh thủ cho ta mươi năm yên ổn, sau ta sẽ chuyện với chúng”. Chính trị Việt bao giờ cũng tìm cách giữ cho thường đạo bền bỉ kinh cửu, củng cố thật vững chắc trước đã. Những hành động chớp nhoáng, tốc xuất chính trị đều được tính toán kỹ lưỡng chắc chắn mang lại thực hiện thì mới làm, tuyệt đối không ham tiểu lợi. - Thế nào là nhất chí của cao với thấp, lớn với nhỏ, đa số với thiểu số, lời nói với việc làm? Trong “Bình Ngô đại cáo”, câu mở đầu: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân! Nhân nghĩa là cái lý cao minh siên việt nhưng nếu nó không xuống để kết hợp với thấp là yên dân thì cao minh siêu việt trở nên vô dụng. Ông Kim Định viết: “Ở những nền văn minh Âu, Ấn triết học được sáng tạo hoặc do những người quí tộc hoặc do hàng tư tế tăng lữ là những giới không san sẻ cùng một đối tượng, cùng một mối bận tâm như bàn dân. Người trí thức quí tộc Hy Lạp mải đi tìm ý niệm trừu tượng. Giới tăng lữ Ấn Độ lo cầu đảo kinh sách, còn người dân đâu đâu cũng như nhau lo ăn, lo làm, lo tình ái, lo về những mối giao liên giữa người với người. Vậy mà trong xã hội Việt Nho lại không có trí thức quí tộc chủ trương sống bám trên lưng nô lệ, cũng như không có tư tế biệt lập khỏi dân, chỉ có đối tượng là dân”. (Trích “Triết lý cái đình”) Quan niệm thì thật lớn rộng mà hành động thì rất tinh vi, lớn phải nhất chí với nhỏ. Làm thế nào ngày 25 tháng chạp hãy còn xa địch hàng ngàn dặm mà ngày 5 tháng Giêng đã có thể giao chiến với giặc ở Thăng Long. Vua Quang Trung liền chấp nhận đề nghị của một nông dân dùng cách “ba bị chín quai mười hai con mắt”, quân sĩ thay phiên cáng lẫn nhau để đủ sức vượt đường xa ngày đêm ra Bắc. Giặc Mông Cổ mạnh nhường ấy nhưng đã thua mấy chiếc cọc tre ở sông Bạch Đằng. Văn hào Đức Goethe nói: “Nghĩ dễ, hành động mới khó, hành động được theo ý nghĩ lại càng khó nữ” (Penser est facile, agir est difficile, agir suivant sa pensée est ce qu’il y a de plus difficile). Nếu không có những hành động tinh vi thì chắc chắn không thể thực hiện được cái chí viễn đại. Lê Thái Tổ vua ta thuở ấy Ngoại mười năm cày cấy cùng nhau Công trình khai thác bao lâu Trên cùng với dưới một màu tương thân Mấy dòng thơ trên là của Mai Lão Bang, người cách mạng chống Pháp kêu gọi sự đồng tâm. Đó cũng là việc làm thường trực của chính trị Việt từ mấy ngàn năm trước cho sau này và mãi mãi, xóa bỏ đa số với thiểu số lập thành một trận tuyến nhất chí. Ngày nào mà vuông nhiễu đỡ mờ mờ hoen nét rỉ chỉ có biết tranh chấp, không biết đồng tâm là ngày đó quân Minh vào, quân Thanh tới và quân Tây lại. Gộp cả ba sự nhất trí của cao với thấp, lớn với nhỏ, đa số với thiểu số tạo dựng một chủ nghĩa thực tiễn bền bỉ và linh động cao thấp, lớn nhỏ nhiều ít mỗi loại đều có một nhiệm vụ và đều có chỗ dùng không bỏ điều nào. Văn với chất nhất chí cho nên chính trị không mị dân, văn hóa không thành tuyên truyền. Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần, hàng chữ viết bằng mỡ trên lá cho kiến đục, phải đi đôi với mười năm kháng chiến gian khổ, nếu không thì chỉ là chuyện nói láo.
* **
Chính sách trị tài của chính trị Việt như thế nào? Nhân tài chính trị có thể chia ra làm chín loại: 1) Người hiền, bác học và thanh cao như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, La Sơn Phu Tử, Nguyễn Thiệp. 2) Pháp gia giỏi trị nước ổn định trật tự như Lý Đạo Thành, Tô Hiến Thành, Lữ Gia, Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo. 3) Thuyết gia nhiều sách lược mưu kế như Nguyễn Trãi, Đào Duy Từ, Trịnh Kiểm. 4) Tài cán, có đức trị nhân một địa phương như Nguyễn Công Trứ, Phạm Đình Trọng, Lương Đắc Bằng. 5) Mẫn cán thừa hành kỹ lưỡng như Lê Phụng Hiểu, Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm. 6) Quyền trí nhưng kém lòng công chính như Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh. 7) Nho gia chỉ có tài truyền lưu sự nghiệp thánh nhân nhưng thiếu tài thi chính như Phùng Khắc Khoan, Lương Thế Vinh, Lê Quí Đôn. 8) Biện thuyết ngoại giao như Mạc Đĩnh Chi, Ngô Nho, Nguyễn Hiền. 9) Đởm lực và tài sức hơn người như Trần Quang Khải, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Văn Thành. “Bình Ngô Đại Cáo” viết: Tuấn kiệt như sao buổi sớm Nhân tài như lá mùa thu Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Đôi phen vùng vẫy đăm đăm con mắt dục đông, mấy thủa đợi chờ luống đằng đẵng cỗ xe hư tả…” Tìm hiểu hiền tài là vấn đề hàng đầu, tiếp theo sau là dụn, dục, giáo. Cầu hiền tài không căn cứ vào lòng yêu ghét, dụng không do hỷ nộ, dục không bằng tư trí, giáo không bằng tư tâm. Tất cả đều hoàn toàn khách quan. Cầu hiền với tiêu chuẩn khách quan, dụng tài qua nhu yếu khách quan, giáo bằng đạo lý khách quan, dục bằng tinh thần khách quan. Mỗi thời đại nhân tài thường thịnh thường suy, sự thịnh suy đó lại cũng thường do nhân vật lãnh đạo mà ra. Gặp ông vua thích đá cầu thì tên Cao Cầu làm tể tướng. Gặp ông vua thích chọi dế thì tên họ Trần được làm quan đến bảy đời. Sách cổ có câu: “Vân tòng long, Phong tòng hổ”, mây theo rồng, gió theo hổ. Có rồng là có mây, có hổ là có gió. Có ông vua khai quốc thì mới có đại thần khai quốc. Có vua Lê Lợi mới có Nguyễn Trãi, nếu Lê Lợi không xuất hiện thì Nguyễn Trãi sẽ mãi mãi là một nhà nho nghèo. Trong quan niệm Việt, nhân tài xuất hiện qua đấu tranh, anh hùng phát động đấu tranh rồi nhân tài xuất hiện. Vào thời bình, nhân tài được tìm bằng chế độ khảo thí. Khảo thí bắt đầu từ đời vua Lý Nhân Tôn, khoa trước nhất để lấy người văn học vào làm quan mở vào năm Ất Mão (1075), chọn được mười người, thủ khoa là ông Lê Văn Thịnh sau làm đến chức thái sư. Năm Bính Dần (1086) lại mở khoa thi chọn người văn học vào Hàn Lâm Viện có Mạc Hiển Tích đỗ đầu, được bổ làm Hàn Lâm học sĩ. Qua đời nhà Trần, việc thi cử được đẩy mạnh hơn, đặt ra tam khôi Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa rồi thi hương, thi hội, thi đình. Chính quyền khai phóng cho hết thảy mọi tầng lớp, hễ có học có thi là có thể tham gia quốc sự. Nguyễn Hữu Cầu nổi loạn, vua sai Phạm Đình Trọng đi tiễu trừ. Hai bên dàn trận thế. Một hôm Nguyễn Hữu Cầu sai người cầm tờ giấy tới trại quân Phạm Đình Trọng bên trong có viết mấy chữ: “Ngọc Tàng nhất điểm xuất vi chúa nhập vi vương” nghĩa là chữ ngọc dấu đi một nét chấm thó lên thì là chữ chúa, thụt xuống thành chữ vương, ý nói chí của mình muốn làm vua chúa. Phạm Đình Trọng đáp luôn vào tờ giấy đó như sau: “Thổ triệt bán hoành, thuận giả thượng nghịch giả hạ”, nghĩa là chữ thổ cắt bỏ đi nửa nét ngang để nguyên thì thành chữ thượng, lộn ngược xuống ra chữ hạ, ý nói kẻ phản nghịch bao giờ cũng ở thế thấp. Câu chuyện Nguyễn Hữu Cầu, Phạm Đình Trọng là điển hình cho cuộc tranh chấp chính quyền và kẻ chống đối chính quyền, hay nói một cách khác là cách mạng. Ngoại trừ những biến động do những cuộc khởi nghĩa chống xâm lược là cách mạng giải phóng dân tộc, sử Việt còn xảy ra rất nhiều vụ nổi lên chống chính quyền tương tự vụ Nguyễn Hữu Cầu nhưng tất cả đều đã không giống như một cuộc cách mạng từng xảy ra ở bên Trung Quốc, kiểu giặc khăn vàng đời Tam Quốc, Hoàng Sáo, An Lộc Sơn, Thái Bình Thiên Quốc, Lý Tự Thành v.v… ấy là chưa đem ví với những cuộc cách mạng lớn lao hơn như cách mạng Pháp, cách mạng Nga. Tại sao vậy? Tại vì ở sử Việt chính trị không nặng về thống trị nên chỉ có những phản kháng mà không có cách mạng. Thêm nữa, vấn đề quốc phòng bao giờ cũng đặt lên trên hết, cho nên cách mạng không được hưởng ứng vì lẽ rối loạn nội bộ bao giờ cũng là miếng mồi ngon nhử xâm lược tới. Hầu hết những biến động chính trị nội bộ đđều do những cuộc đảo chính trong triều đình (Palace revolution). Tỉ dụ: Từ Lý sang Trần so Trần Thủ Độ lật Lý Huệ Tôn- từ Trần sang Hồ do Hồ Quí Ly giết vua Thuận Tôn- từ Lê sang Mạc do Mạc Đăng Dung đem quân giết vua Chiêu Tôn. Những vụ phản kháng nổi dậy thường xảy đến khi nào vua quan đi ngược lại truyền thống chính trị biến chính trị thành một tổ chức thống trị để hà hiếp và bóc lột hay dùng nó để thỏa mãn ác tính. Tỉ dụ: Vua Uy Mục đời Lê thường làm điều bạo ngược đêm đêm cùng với cung nhân uống rượu đến khi say sai người mang giết đi. Sứ Tàu gọi Uy Mục là Quỉ vương. Các quan trong triều liền mưu với người tôn thất là Giản Tu Công giết vua Uy Mục. Vua Tương Dực đời Lê tính hay chơi bời, sai người thợ tên Vũ Như Tô làm một cái điện một trăm nóc và xây Cửu trùng đài bắt quan dân làm cả mấy năm trời không xong, thật là hao tổn tiền của, chết hại nhiều người. Sứ Tàu gọi Tương Dực là Chư vương vì ông có tướng như con heo. Ít lâu sau quần thần lập kế giết chết Tương Dực. Cả hai đời vua Uy Mục và Tương Dực đều giặc giã như ong, tạo thành áp lực lật đổ hôn quân. Dưới thời vua Tự Đức có nhà thơ Cao Chu Thần Bá Quát làm hai câu thơ: Bình Dương Bồ Đản vô Nghiêu Thuấn Mục Dã Minh Điều hữu Vũ Thang Ý rằng: nếu ở Bình Dương Bồ Đản mà không có những vị vua anh minh như vua Nghiêu vua Thuấn thì nơi Mục Dã Minh Điều sẽ có vua Thang vua Vũ. Hai câu ấu giặc Châu Chấu lấy làm khẩu hiệu dấy loạn. Kết quả giặc Châu Chấu đã đem lý tưởng cách mạng của Cao Chu Thần mà lưu khấu hóa cho nên chẳng ai hưởng ứng cả, khiến Cao Chu Thần bị bắt đưa lên đoạn đầu đài với tội danh làm giặc. Người Việt không ghét ai vì nước là làm giặc bao giờ, có câu cách ngôn: “Được làm vua, thua làm giặc” chứng tỏ cách mạng thường năm trong máu huyết người Việt. Nhưng do hoàn cảnh thực tế của chính trị nên cách mạng Việt phải mang một sắc thái riêng biệt đó thôi. Con người làm giặc như Nguyễn Hữu Cầu mang cái phong độ của một tay cách mạng thật đáng cho dân yêu mến.
*
**
Nền tự chủ của nước Việt gắn liền với công cuộc thống nhất. Không thống nhất không tự chủ. Mất thống nhất mất tự chủ. Từ Hồng Bàng đến Trưng Vương là thời kỳ cự tuyệt nòi Hán. Thời họ Khúc là thời kỳ dung hòa. Thời phản tỉnh là đời Ngô Vương với chế độ tự trị vương và 12 sứ quân. Thời thống nhất tự chủ là đời nhà Đinh. Vào những năm 968-980 khi mà các nước phương Tây hãy còn ở trong tình trạng phân cắt rất vụn, thì Vạn Thắng Vương đẽ thiết lập xong một chính phủ trung ương với những cơ cấu hành chánh thật vững chắc đi đôi với chính sách hương thôn tự trị. Từ đó, vấn đề thống nhất trở nên cái gốc của tự chủ. Qua phân hay chia rẽ cũng nguy hiểim như bị xâm lược. Xâm lược tới sẽ tìm cách để qua phân chia rẽ; tự qua phân chia rẽ có nghĩa là kêu gọi xâm lược tới. Thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ là thời kỳ thống nhất Nam Bắc. Trải qua bao nhiêu năm Trịnh Nguyễn phân tranh chia đôi đất nước, may nhờ phương Bắc cùng thời bị bộ tộc Mãn Châu tràn xuống chiếm cứ nên ta không bị đô hộ. Lúc nhà Thanh khỏe rồi có ý dòm dỏ phương Nam thì anh em Tây Sơn đã đánh bại chính trị thối nát của Nguyễn Mạt và quyền thần Trương Thúc Loan, rồi đem quân ra Bắc diệt họ Trịnh đuổi xâm lược Thanh mà thu giang sơn về một mối. Nguyễn Gia Long được thừa kế công cuộc thống nhất này, hoàn chỉnh một sinh mệnh chính trị mới chạy suốt từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, đều là bờ cõi nước Việt bất khả phân ly. Phan Thanh Giản để cho thực dân cắt đất Nam Kỳ làm bàn đạp xâm lược Trung, Bắc biết tội mình lớn đến thế nào nên tự xử uống thuốc độc chết. Nguyễn Văn Thinh, thủ tướng chính phủ Nam Kỳ tự trụ khi hay tin người Pháp chấp nhận đòi hỏi thống nhất của Bảo Đại, hoang mang trước sự bỏ rơi tàn nhẫn của đế quốc, tủi hổ với hành động mãi quốc cầu vinh, bị dư luận lên án, nên đã bắn vào đầu tự tử. Thẹn những đứa cân đai mang xóng xả Chí đội trời đạp đất đã bù nhìn Chạy trước hươu, gớm lũ chó săn nền Chi trách được Cù tâm dạ Hán
* **
Mấy ngàn năm truyền thống, trên chính trị người Việt có rất nhiều kinh nghiệm quí báu, những kinh nghiệm ấy đều có hai mặt lợi và hại, đại lược phê phán như dưới đây: Thứ nhất: Chính trị luôn luôn xu hướng bình đẳng hóa khắp các giai tầng xã hội, với chính sách tiết chế tư bản, phế trừ đặc quyền, không kể những thời kỳ bị đô hộ, ngoại nhân dùng chính sách đặc quyền kể từ nhà Đinh mà đi, xã hội Việt thật là một xã hội bình đẳng, nếp sống không có sự chênh lệch nhau quá xa. Ai ai trên vấn đề ẩm thực cũng đặt trên căn bản: thịt cá là hương hoa, tương cà là gia bản. Rất hiếm chuyện họ hàng vua quan, hay thế lực môn đệ chẳng thấy xuất hiện hoành hành Câu tục ngữ: “Một người làm quan cả họ được nhờ” có lẽ đã nảy sinh trong thời kỳ bị đô hộ. Xã hội bình đẳng khiến xã hội thuần phác giản đơn, đẹp vui và sạch, tuy nhiên, cái hại của nó là khó gây lực lượng mỗi khi cần tạo biến động chính trị thành thử chính trị thiếu cách mạng tính, thiếu canh cải, tiến bộ. Tỉ dụ: triều Tự Đức, vua và triều đình tăm tối với chính trị bảo thủ đã không có một lực lượng nào đủ mạnh để phá vỡ sự tăm tối đó như dòng họ Đức xuyên bên Nhật ảnh hưởng đến phong trào duy tân dưới thời vua Minh Trị. Với chế độ khảo thí, truyền thống chính trị cho những người đọc sách tiến bước vào quyền hành, người đọc sách qua cửa trường thi để làm quan. Làm quan có nghĩa là khởi gia, tuy vật chất không tuyệt đỉnh sung túc nhưng phẩm giá đã lên cao. Chính quyền khai phóng cho bất cứ ai, nên người thông minh tài trí đều chạy theo con đường làm quan mà lãng quên tất cả mọi con đường khác như công thương nghiệp. Nhiều người làm quan quá khiến chính trị mắc bệnh phù thũng. Thứ hai: Tập vào thói quen trường trị cửu an, mỗi nhà thường thường năm chính quyền cả thế kỷ, nhà Lý hơn một trăm năm, nhà Trần gần hai trăm năm, nhà Lê hơn hai trăm năm, nhà Nguyễn ngoài một trăm năm. Chính trị theo lề lối thể tập, cứ mãi mãi rập khuôn cũ, nên nhân tài và tư tưởng chính trị bị trói buộc đến nỗi không còn khả năng ý thức được những việc làm mới mẻ như đã từng xảy ra dưới thời Hồ và Nguyễn Quang Trung.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:01:06 GMT 9
KINH TẾ
Cơm ba bát, áo ba manh, đói không xanh, rét không chết. Tục ngữ Việt
Kinh tế là vấn đề cơ bản của nhân sinh, là một bộ phận cực trọng yếu của nhân sinh. Nếu vấn đề kinh tế không giải quyết tốt đẹp thì tất cả mọi vấn đề khác sẽ bị ảnh hưởng. Có thực mới vực được đạo, ăn no mới vác được nặng. Tuy nhiên, không phải kinh tế bao trùm toàn bộ nhân sinh, cũng không phải kinh tế có thể giải quyết luôn được mọi vấn đề nhân sinh. Vì vậy kinh tế cần đủ không cần thừa thiếu ăn thì thật nguy, nhưng kinh tế ở quá mức đủ, giá trị chẳng bao nhiêu mà lại dễ đưa đến xa hoa phù phiếm băng hoại nếp sống thuần phác, nếp sống đấu tranh trường kỳ. Ăn lấy chắc mặc lấy bền, đó là quan niệm kinh tế căn bản của nền kinh tế Việt. Ở đâu mà nên quan niệm đó? A. Pazzi có viết một đoạn trong cuốn “Người Việt cao quí” sau đây: “Tôi nghĩ đến cái áo dài màu đen thích hợp với những sinh hoạt ruộng đồng cũng như không khí trang nghiêm của cái xã hội nông nghiệp phong kiến thủa xưa. Cái áo dài ấy thật là giản tiện một cách bị đát, che dấu một cách tài tình và chịu đựng khá oanh liệt bốn mùa mưa nắng phôi pha. Nó nói lên cái nhu cầu ăn mặc sao cho thích ứng với những điều kiện sinh hoạt khó khăn, nói một cách khác, ngay trong quần áo, người Việt cũng mang khá rõ lịch sử chiến đấu gian nan, oanh liệt của dân tộc mình”. - Cơm không rau đau không thuốc - Ăn cơm với mắm thì ngắm về sau - Ăn cơm với rau ngắm sau ngắm trước Như vậy là ăn lấy chắc: ăn cho thật đơn giản mà lại có đủ chất bổ dưỡng nên phải chế tạo mắm, ăn dễ tìm dễ kiếm nên phải tận dụng món rau. Tại sao phải ăn lấy chắc mặc lấy bền? Chương trên đã nói tới sự nhất chí của điều kiện sinh hoạt với điều kiện chiến đấu. Ăn chắc mặc bền là luật tắc kinh tế của dân tộc Việt vì phải chiến đấu thường trực và trường kỳ chiến đấu nên kỹ thuật ăn để mà đánh giặc đã được phát triển tới cao độ. Ca dao có câu: Ở đời Kiệt Trụ sướng sao Có rừng nem béo, có ao rượu đầy Ở đời Nghiêu Thuấn khổ thay Giếng đào mà uống ruộng cày mà ăn Biết thế đấy nhưng người Việt vẫn chọn thứ kinh tế Nghiêu Thuấn đem mồ hôi đổi lấy bát cơm bình đẳng, phân tán và không bao giờ chạy theo thứ kinh tế Kiệt Trụ tập trung và thống trị dù nem béo rượu đầy. Vấn đề quốc phòng phía Bắc chống xâm lược thôn tính của nòi Hán, phía Tây và phía Nam chống xâm lược, cướp bóc của giống Chiêm đã ảnh hưởng lớn đến sự lựa chọn chính sách kinh tế này. Kể từ Tây Hán, Tàu đối với các lân quốc (mà họ gọi là man di) đã xác định rõ rệt một sách lược thôn tính: a) trước khi giao chiến b) trong khi giao chiến c) sau khi chinh phục Trước chiến tranh, tìm cách phá hoại kinh tế- tiêu diệt chiến chí- tiêu mòn chiến thức. Phá hoại kinh tế là bần hóa chính sách. Tiêu diệt chiến trí là hủ hóa chính sách. Tiêu mòn trí thức là ngu hóa chính sách. Trong chiến tranh, tìm cách hủy hoại kinh tế- viễn giao cận công phân hóa- dĩ di diệt di. Hủy hoại kinh tế là tàn phá mùa màng, rối loạn thương trường. Viễn giao cận công là cấu kết với Chiêm Thành, Ai Lao đồng thời tấn công ba bốn mặt. Phân hóa là qua phân lãnh thổ chia để trị. Dĩ di diệt di dùng người “man di” giết người “man di”, dùng dân bản địa diệt người bản địa. Chinh phục xong rồi thìdùng mọi thủ đoạn tàn nhẫn chia quận huyện ra mà cai trị, một mặt đồng hóa một mặt tuyệt chủng. Lấy việc đô hộ nhà Minh làm điển hình. Chúng sang đây lập một chính phủ cai trị tam đầu chế tập trung quyền hành dưới đầu quân sư tức Đô chỉ huy sứ. Án sát sứ và Bó chính sứ chỉ huy quyền tư pháp và dân sự. Chế độ quân sư tập quyền ấy đem tất cả người, vật, đất, tiền việc làm cõi Việt ta võng la lại thành một thể chế cực kỳ nghiêm mật: công nhân bị khống chế dưới các tạp tạo cục, nông dân bị khống chế dưới các hương lẫm thu hết thóc gạo tập trung lại cũng ví như tạp tạo cục bóc lột hết sức và phẩm lao động cho quan nha sử dụng, nhà buôn bị khống chế dưới các thương vụ cục ở đấy thuế má chiếm hết các lãi lời mà quyền đối ngoại mậu dịch bị bóc lột hết. Tăng giới bị khống chế dưới tăng khu, tăng kỷ và tăng cương. Đạo giới bị khống chế dưới đạo khu, đạo kỷ và đạo cương. Thầy bói bị khống chế dưới quyền một ty cục sở tại. Muối bị khống chế dưới điêm thuế cục. Ngoài các quân khu, tư pháp khu còn các hành chính, tất cả các cơ cấu ấy đan lát nhau lại thành những gọng kìm sắt nóng ép người Việt dưới cuộc thống trị lấy quân sự đem chủng tộc đi xâm lược. Những cơ cấu ấy đều thống nhất dưới một chính sách tối cao là tiêu diệt và đồng hóa nòi giống Việt mà các thi chính thực tiễn đã chứng thực bằng lưỡi lê bắt ép người Việt mặc áo Tàu, nói tiếng Tàu, cắt tóc, để răng trắng, mặc áo khách (áo cộc là di sỉ đến ngày nay), bắt các nhân tài Việt (như Lê Tắc làm quyển “An nam chí lược”), Nguyễn Văn An xây thành Bắc Kinh đủ mọi mặt (nho văn, nghệ thuật, chính trị v.v…) giả vờ dụ các nhân tài lâm tuyền ra rồi giết đi, hiếp tróc đàn bà con gái, di dân và tù tội sang tranh cướp, bá chiếm tài sản người Việt, thu hết sách vở, văn hóa phẩm, nghệ thuật quý vật của người Việt về dùng hay hủy đi, tiêu diệt bằng dân tộc hết thảy dân tộc ý thức và tự tín tâm, hạn chế và cố ý giảm bớt sinh hoạt thủy chuẩn của người Việt bằng cách lao dịch sử dụng người Việt vào hết thảy các công việc khó nhọc và nguy hiểm (mò trai đáy bể, kéo gỗ trên rừng, săn tê giác trên núi) bằng giết và cưỡng bách nuôi trẻ con, hạn chế hết kinh tế năng lực và văn hóa thủy chuẩn của người Việt, giao thông hoàn toàn kiểm tra và trở cáh v.v… tất cả một gia pháp của tụi đô hộ đồng hóa ngày xưa thêm vào chính sách cá nhân của tụi Thái thú và quan lại hiếp bách không thể lấy gì mà tả cho hết cái tàn ác của văn minh trên tổ chức và kỹ thuật diệt chủng vong quốc người ta. (Trích Chu tri lục). Chặt chẽ và tinh Việt như vậy mà Bình Định Vương Lê Lợi vẫn đánh đổ được chế độ đô hộ của nhà Minh. Sự thành công ấy, theo luận giải thông thường, và có thể đúng cho bất cứ sự thành công nào với bốn điểm là: - Có chủ nghĩa, đặt trên tư tưởng dân tộc cách mạng hiệu triệu đuổi Minh. - Có nhân tài như Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Lê Lai, Lê Sát, v.v… - Có dân chúng, sau khi khởi binh quân kỷ nghiêm minh, không vong sát cướp bóc lại thêm lòng người oán ghét giặc thấu gan. - Có sách lược. Có một điểm không ai nói tới vì nó từng có trước Lê Lợi cả ngàn năm đó là nền kinh tế bình đẳng tản mát vào một hệ thống thôn xã mênh mông khắp lãnh thổ khiến cho toàn bộ kế hoạch tập trung để dễ bề kiểm soát của địch, không một lúc nào đạt được kết quả ngoài những hành động tàn ác khơi sâu căm thù oán ghét. Đói thì thèm thịt thèm xôi Hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường Cũng thèm thịt them xôi nhưng quan trọng nhất vẫn chỉ là no cơm tẻ. Với nếp sống kinh tế tước giảm tối đa nhu cầu và chối bỏ hẳn mọi thèm muốn thừa đã phá tan âm mưu địch dùng kinh tế để tiêu diệt chiến chí, dùng đặc quyền kinh tế để hủ hóa và dĩ di diệt di. Người Việt có tự hào về tổ chức xã hội của mình đã dùng được ý chí dân tộc mà lãnh đạo và khống chế kinh tế và đã không để cho vấn đề kinh tế lãnh đạo và khống chế xã hội. Trong cuốn “Hitlers zweites buck” viết:
“C’est la lutte et non l’économie qui assure la vie!” (Chính sự chiến đấu chứ không phải kinh tế bảo tồn đời sống).
Un peuple sain recherchera toujours la satisfaction de sol (Một dân tộc lành mạnh luôn luôn tìm cáh thỏa mãn nhu cầu sống ngay tại xứ sở và trong lòng đất của nước mình).
- Le commerce mondial, l’économie mondiale les exportations etc…ect…sont autant de moyens éphémères d’alimenter un peuple. Ils dépendent de facteurs qui sont indéphendants des jugements et de la force propre d’un peuple. Le sol en tant que tel et la terre en tant que telle furent de tous temps les principes fondamentaux les plus certains, pour assurer l’existence d’un peuple. (Mậu dịch quốc tế, kinh tế thế giới, xuất cảng v.v… và v.v… hết thảy đều chỉ là những phương tiện tạm bợ để nuôi dân. Những phương tiện đó thường không tùy thuộc vào ý chí và sức mạnh của dân tộc. Vì thế chỉ có ruộng vườn mãi mãi là nguồn cung cấp bất tận cho sự sống của một dân tộc).
Điều Hitler nói trên đây, người Việt đã áp dụng nó từ ngày lập quốc.
Anh ôi cố chí canh nông Mười phần ta cũng giữ trong chín phần
Kinh tế Việt là nền kinh tế nông nghiệp, cả văn hóa Việt cũng là nền văn hóa nông nghiệp. Canh nông là chín phần mười của sinh hoạt kinh tế. Sức mạnh của nước Việt đặt tất cả trên tinh thần nông dân của dân tộc: a) Không sợ gian khổ: Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Gian khổ bao nhiêu cũng không sợ, cũng chịu đựng. b) Biết rõ những nỗi lo: Trông trời trông đất trông mây Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm Trông cho chân cứng đá mềm Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng Quanh năm lúc nào cũng lo công lo việc, lo ứng phó với thời tiết năng mưa không một phút được thiếu cảnh giác, trễ biếng. c) Không quan tâm đến sống chết: Tre già măng mọc Sống gửi thác về Nhật vãng tắc nguyệt lai, nguyệt lai tắc nhật vãng, bất tri lão chi tương chí. Mặt trăng lặn thì mặt trời mọc, mặt trời lặn đến mặt trăng lên, không để ý đến cái già đã tới. Với tinh thần như thế, kinh tế Việt là một nền kinh tế bền bỉ, chăm chỉ, không nhiều thị dục càn rỡ và rất thiết thực. A. Pazzi viết: “Người Việt Nam ka hề có óc viển vông và đó là cái thế quân bình làm nên sức mạnh của giống nòi họ. Nếu người ta biết rằng dân Chiêm Thành sống trên mảnh đất nghèo nàn hơn nhiều, lại có những ngôi nhà tháp cổ công phu ngày nay vẫn còn cố đứng rầu rĩ trên các sườn đồi miền Trung thì ta mới hiểu được tại sao người Việt lại là những kẻ chiến thắng. Tôi đã có dịp quan sát nhà cửa người Việt và tôi thấy những nơi trí ngụ của họ đều rất phù hợp với các điều kiện thực tế, ngoại trừ những ngôi nhà tranh ở một đôi nơi trong vùng Bình Định có một kiến trúc quy mô vững chãi ảnh hưởng sót lại của dân tộc Chàm. Chính sự vững chãi phi lý làm cho sinh lực mong manh nên ta có thể nói rằng người Chàm đã bị suy vong vì óc xa rời thực tế của mình”. Sách “Luận Ngữ” có chép câu chuyện Nam Cung Khoát hỏi ông Khổng Tử rằng: “Nghệ thiện xạ, Ngạc đãng châu câu bất đắc kỳ tử, nhiên Vũ Tắc cung oanh nhi hữu thiên hạ” (Hậu Nghệ giỏi bắn cung, họ Ngạc giỏi bơi thuyền đều bất đắc kỳ tử, ông Vũ Tắc chăm chỉ cày ruộng mà được thiên hạ). Khổng Tử lặng thinh không đáp, am Cung Khoát đi khỏi, Khổng Tử mới khen: “Quân tử tai nhược nhân, thưỡng đức tai nhược nhân” (Người ấy thật là quân tử, người ấy thật là người yêu đạo đức). Rồi ngoảnh lại bảo học trò: “Quan ư hương nhi tri vương đạo chi dịch dịch” (Hãy nhìn vào làng xã để biết chính trị vương đạo uyển chuyển nhường nào). Kinh tế nông nghiệp mới chính là kinh tế vững chãi vì nó xây dựng trên đất. Tinh thần nông nghiệp rất uyển chuyển vì nó phải dựa theo thời bốn mùa mưa nắng. Đời sống nông nghiệp tiếp nối đến vô tận vì nó sinh ra rồi lại nảy sinh nữa (thóc giống gieo xuống sinh ra cây lúa cây lúa lại sinh hạt giống). Đất tạo nên sự bình tĩnh và đơn thuận. Nước Việt bốn mặt thù địch nhưng vẫn bình tĩnh ứng phó một mặt hấp thấu những cái hay cái tốt của văn hóa địch, một mặt cầm cự và mở mang bằng cách bám lấy đất, không vội vã ồ ạt. Chiến đấu trường kỳ đòi hỏi tính tình đơn thuần, một nếp sống kinh tế giản dị, thanh đạm ăn chắc mặc bền. Giàu thì cũng chẳng có thèm Khó khăn ta liệu ta làm ta ăn
* **
Nông nghiệp kinh tế chính sách gọi tắt là nông chính có mục đích là khai phát ruộng đất đồng thời khai phát tâm linh. Cho nên cày ruộng đi đôi với đọc sách, nhất sĩ nhì nông hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ. Nay mừng tứ hải đồng xuân Tam dương khai thái muôn dân hòa bình Sĩ thời chăm chỉ học hành Một mai khoa bảng để dành công danh Nay mừng cho kẻ nông phu Cầu cho hhòa cốc phong thu bình thời Vốn xưa nông ở bực hai Thuận hòa mưa gió ấy thời lên trên Kinh tế liên kết cùng giáo hóa. Khai phát ruộng đất với khai phát tâm trí ví như hai bánh xe của cỗ xe chuyển động đều đặn không ngừng, hai công tác song hành và vĩnh hằng chính giáo hợp nhất, chính dĩ đắc tài giáo dĩ đắc tâm. Tác giả Trần Trọng Kim trong sách “Việt Nam Sử Lược” có chép một đạo dụ của vua Lê Thánh Tôn như sau: 1) Cha mẹ dạy con phải cóo phép tắc, trai gái đều có nghề nghiệp, không được rượu chè cờ bạc, tập nghề hát xướng để hại phong tục. 2) Người gia trưởng tự mình phải giữ lễ phép để cho cả nhà bắt chước; nếu con em làm càn thì người gia trưởng cũng gánh một phần lỗi. 3) Vợ chồng cần kiệm làm ăn, ân nghĩa trọn vẹn duy chỉ có khi nào người vợ phạm tội thất xuất thì mới được bỏ, chứ không được thiên ái, cẩu dung để làm hại tới phing hóa. 4) Làm đệ tử nên yêu mến anh em, hòa thuận với hương đảng, phải lấy lễ nghĩa mà cư xử nếu trái pháp thì người tôn trưởng trừng trị dạy bảo, có tội to thì phải đem nộp quan để làm tội. 5) Ở chốn hương đảng, tông tộc có việc hoạn nạn thì phải giúp đỡ lẫn nhau, nếu ai có tiếng là người hạnh nghĩa tốt, thì các quan phủ huyện sở tại phải bẩm lên tòa Thừa tòa Hiến để tâu vua mà tinh biểu cho. 6) Đàn bà có lỗi mà cha mẹ và chồng đã trách mắng nên phải sửa mình đổi lỗi không được tự tiện trốn đi làm hư mất nết đàn bà. 7) Người đàn bà góa không được chứa những đứa trẻ ở trong nhà nói dối là con nuôi để âm hành những việc gian dâm. 8) Người đàn bà góa chồng, đối với các con vợ cả, vợ lẽ, nàng hầu nên có lòng thương xót không được mưu mô chiếm đoạt gia tài làm của riêng mình. 9) Đàn bà góa chồng, chưa có con cái, phải ở nhà chồng để giữ đủ tang lễ, không được chuyển vận của cải mang về nhà mình. 10) Làm đàn bà thì phải theo chồng, không được cậy cha mình phú quí mà khinh nhà chồng, nếu không như thế thì bắt tội đến cha mẹ. 11) Kẻ sĩ nên quý phẩm hạnh và giữ phép quan nếu cư xử xu nịnh những kẻ quyền quí để cậy thế làm càn thì phải cách bỏ đi không kể đến nữa. 12) Kẻ thư lại chỉ việc giữ sổ sách giấy má để làm việc quan, nếu làm những sự điên đảo án từ, thì quan trên sẽ xét ra trừng trị. 13) Quan dân đều phải hiếu đễ và chăm chỉ làm ruộng, cùng giúp đỡ lẫn nhau, khi đi làm việc quan không được trễ biếng, trốn tránh. Nếu ai có tiếng là người lương thiện thì các quan Phủ Huyện phải trình tòa Thừa tòa Hiến để tâu vua mà tinh biểu cho. 14) Kẻ thương mãi phải tùy thời giá mà buôn bán với nhau không được thay đổi thưng đấu và tụ tập đồ đảng để đi trộm cướp, nếu phạm điều ấy thì tị tội rất nặng. 15) Việc hôn giá tế tự phải giữ lễ phép không được làm càn. 16) Chỗ dân gian có mở trường du hí hoặc cúng tế thì con trai, con gái đến xem, không được đứng lẫn lộn ể khỏi thói dâm. 17) Các hàng quán bên đường, có phụ nữa đi xa đến trọ, thì phải phòng giữ. Nếu để hà hiếp ô nhục người ta, việc phát giác ra, thì người phạm cùng với chủ nhà đều phải trị tội cả. 18) Phủ huyện phải lập bia ở các nơi sở tại để cấm con trai con gái không được cùng tắm một bến, để cho có phân biệt. 19) Các xã thôn phải chọn một vài người già cả đạo đức làm trưởng. Những ngày thong thả đem dân ra đình tuyên giảng những lời cáo dụ, để khiến dân bắt chước làm điều thiện thành ra mỹ tục. 20) Trong hạt phủ huyện có kẻ cường hào xâm chiếm điền thổ, ức hiếp cô độc và xúi giục người ta kiện tụng, thì cho xã thôn cáo giác lên quan để xử trị, nếu mà tuân ẩu thì phải biếm bãi. 21) Các nhà vương, công, đại thần dung túng những đứa tiểu nhân, đưa người khấn lễ và để cho người nhà đi ức hiếp dân gian mà mua rẻ các đồ vật, thì cho dân đước đầu cáo để trọng trị. 22) Những người làm quan Phủ, Huyện mà biết khuyên bảo dân gian làm điều lễ nghĩa khiêm nhượng, có quan Thừa chính. Hiến sát xét thực thì cho vào hạng tốt; nếu ai không chăm dạy bảo dân thì cho là người không xứng chức. 23) Các huynh trưởng ở chốn xã thôn và phường biết dạy bảo con em trong làng cho nên được phong tục tốt thì quan Phủ, Huyện phải bẩm tòa Thừa, tòa Hiến để tâu vua ban khen cho. 24) Các dân Mường Mán, ở ngoài bờ cõi, nên giữ lời di huấn không được trái đạo luân thường như cha anh, chú bác đã chết thì con em không được chiếm lấy những thê thiếp, nếu mà trái phép sẽ trị tội rất nặng. Để kiện toàn đạo dụ trên, về sau vua Lê Huyền Tôn thêm vào một khoản nữa: - Dân làng phải tôn trọng lẫn nhau theo ngôi thứ, tuổi tác, chỉ bảo cho nhau để giữ lấy sự công bằng, chân thật và liêm sỉ. Người già phải rộng lượng với người trẻ, đừng cậy tuổi tác tỏ vẻ khinh bỉ kẻ ít tuổi. Người trẻ phải kính trọng người già đừng ỷ thế giàu có coi người có tuổi không ra gì. Trong những ngày hội, những buổi tiệc làng, người trẻ phải kính cẩn những người có địa vị và già cả lựa chọn khẩu phần, không nên vì ly rượu miếng thịt mà gây xích mích trái với tình tương thân tương ái giữa dân làng. Dân làng không được ỷ quyền cậy thế, dựa vào số anh em đông mà hạ uy tín của các xã trưởng tự nhận quyền phát xét các việc tranh tụng hà hiếp người cô quả. Nếu trong làng có những kẻ xấu ấy, xã thôn trưởng hãy bắt lên quan để trị tội. Riêng các xã thôn trưởng, nếu trong làng có sự tranh tụng, phải vô tư phán xét và hòa giải, không được xui nguyên dục bị rồi lại tự nắm lấy việc phân xử. Cũng không được tự đặt ra những luật lệ riêng rồi dựa vào những luật lệ ấy mà chiếm đoạt tài sản khiến cho các nạn nhân phải bán nhà bán cửa cho đến khánh kiệt, cô lập họ không cho họ tham dự các buổi tập hợp, hội hè mà trái với phép nước. Bầu cử xã trưởng dân làng phải chọn trong các hàng danh giá, học thức có khả năng, đủ niên kỷ được sự tín nhiệm và quí mến của mọi người. Không được vì tiền bạc hoặc tiệc tùng mà bầu lên những người không đủ tư cách hoặc tìm cách thành lập thôn hộ riêng gieo rắc sự hiểu lầm và chia rẽ. Ai phạm tới luật này sẽ bị phạt”. Những đạo dụ đời Lê cho thấy rõ ràng hình tượng của thể chế hương thôn tự trị và sinh hoạt kinh tế nông thôn. Nó cũng là căn bản sinh hoạt kinh tế của cả nước vì lẽ vốn là một xã hội nông nghiệp, nông dân chiếm tối đa hộ khẩu, nông thôn là cơ tầng lớn nhất. Hương thôn tự trị đặt trên nguyên tắc: “Dụng quan bất như dụng dân, dụng dân bất như dân tự dụng” (Dùng quan để trị dân không bằng để dân trị lấy dân, để dân trị lấy dân không bằng mỗi người dân trị dụng lấy mình). Do đó, nhiệim vụ của nông chính có 6 điểm: a) Tập trung tín ngưỡng nhân dân, tạo thành một lý tưởng Việt mà không phải tập trung để thống trị, trói buộc. b) Tăng đại nhân khẩu để phát triển công cuộc khai phá đất ruộng. c) Lấy nông nghiệp làm căn bản phồn vinh cho các sự nghiệp khác. d) Hưng phát nhân tâm, người người hòa thuận tương kính tương ái. e) Gây dựng cái gốc tài chính của quốc gia, đồng thời làm xuất phát điểm cho kinh tế quốc dân giữ thế quân bình không cho tài chính quốc gia áp bách kinh tế quốc dân. f) Đôn hậu phong tục, thuần hóa nhân tâm, cố kết dân tộc, mở rộng văn hóa. Mục tiêu của nông chính có 4 điểm: 1) Điền dã và đô thị tranh dân: phân tán đô thị tránh tình trạng nhân khẩu tập trung quá nhiều. Ngay cả các đô thị cũng có kế hoạch điền viên hóa, hãy lên Phong Khê, đến Hoa Lư rồi tìm hiểu phong cảnh Thăng Long cũ đem so với kinh đô Huế ngày nay sẽ thấy những vẻ duyên dáng của công cuộc điền viên hóa đô thị của người xưa. Ngược lại công nghiệp thường di thực vào nông thôn, có những người chuyên làm đồ đồng, chuyên làm đồ sắt, làm gạch và đồ sứ, đồ sành v.v… 2) Thăng bằng nhà nước, tài chính quốc gia phải đặt ở bên dưới kinh tế quốc dân, chính sách ktr là dân sinh trước tiên, gia đạo phong nghiêu để tạo thành quốc giàu thịnh, làng xã sung túc rồi mới đến nước phú cường. Làng ta phong cảnh hữu tình Dân sư giang khúc như hình con long Nhờ trời hạ kế sang đông Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi Vụ năm cho đến vụ mười Trong làng trai, gái người trai đua nghề Trời ra gắng, trời lặn về Ngày ngày tháng tháng nghiệp nghề cần chuyên Dưới dân họ, trên quan viên Công bình giữ mực cầm quyền cho hay 3) Vàng với gạo tranh quí, tấc đất nảy sinh cây lúa hạt gạo là tấc vàng. Công thương nghiệp phụ thuộc vào sinh sản nông nghiệp đẩy mạnh sự khai thác thiên nhiên tới mức tối cao để có thể tự cấp tự túc từ nhà cho đến nước, người người đều tự vui, nhà nhà không thiếu thốn, công nghiệp sinh sản đầy đủ. Tác dụng của thị trường tập trung không còn là vấn đề cấp thiết đến độ có thể làm cho kinh tế sống hay chết, vàng so với gạo không thể tuyệt quí hơn gạo khiến cho lòng người bớt tham mà cùng quí vào điều nhân. 4) Lệ làng thi với phép vua, triều đình trị song hành cùng hương trị, quyền lực chính trị một khi đã phân tán vào làng mạc ruộng đất thì chính trị cực quyền không nảy sinh được nữa. Lực lượng chính trị nảy mầm bén rễ trong dân gian và hương thôn nhờ cái gốc rễ lớn như thế nên quyền lực tự chủ của dân tộc chẳng dễ dàng gì bật nó lên. Binh với nông hợp nhất thành thử binh lực chẳng vì một hai trận mà tiêu diệt. Lực lượng chính trị ví như dã thảo (cỏ đồng) dù cho bị đốt cháy nhưng mưa xuân đến thì cỏ lại đồng loạt mọc lên khắp cả. Giống Mông Cổ tự kiêu rằng họ đi đến đâu ngọn cỏ cũng bị tiêu diệt, nhưng sang đến đây ngựa Mông Cổ đã bị cỏ Việt thiêu rụi mảnh giáp không còn.
* **
Kinh tế nông nghiệp Việt là kinh tế gạo: Lạy trời mưa xuống Lấy nước tôi uống Lấy ruộng tôi cày Lấy đầy bát cơm Lấy khúc cá to Kinh thi đời nhà Chu có câu: Vũ ngã công điền Toại cập ngã tư (Trời mưa ruộng công cho tôi no đủ) Người nông dân cầu trời mưa, mưa thì phải mưa khắp dân gian thiên hạ, mưa vào công điền để mình ăn no, đó thật là một nguyện vọng kinh tế công tư toàn vẹn. Cho nên chính trị nông nghiệp là: - Hãy làm cho có gạo đi tồi dân sẽ theo. - Túc (gạo) giả dã dân chi sở qui (Có gạo thì vấn đề dân sinh cả nước sẽ giải quyết trên căn bản) - Hãy làm cho có nhiều gạo ắt tài chính phải dồi dào. Túc giã dả tài chi sở qui Có nhiều gạo là nền tài chính quốc gia có một tài nguyên vững chắc nhất, công thương nghiệp để lấy tiền quốc ngoại về chỉ là nguồn tài chính bấp bênh. - Hãy lấy gạo để bảo vệ lãnh thổ Túc giả dã địa chi sở dân no đủ mới có thể giải quyết vấn đề quốc phòng theo phương châm tam thời vụ nông nhất thời giảng võ.
* **
Điểm khác biệt như hai màu đen trắng giữa nông chính phương Đông với trọng nông chủ nghĩa (physiocrats) phương Tây là phương Đông nói kinh tế tất liên hợp với giáo hóa, phương Tây nói kinh tế tất hợp liên với lợi lộc. Điều tối trọng yếu của nông chính là lấy sĩ đãi nông, làm ruộng và đọc sách đi đôi với nhau. Thiêu vi điền xá lang Mộ đăng tể tướng đường (Buổi sáng làm bác nông phu Buổi chiều ngồi ở ngôi vị tể tướng) Lê Lợi từ địa vị một nông dân lên ngôi đế vương anh hùng. Nguyễn Huệ Quang Trung, một thôn dân áo vải thành bậc vua chúa thực hiện thống nhất. Người đọc sách do nông dân xuất bản hoặc do khoa cử mà vào lang miếu, hoặc do tiến cử mà làm quân sư. Gặp thời tao loạn nhiễu nhương, người nông dân chiêu binh mãi mã mà khởi nghĩa trở thành anh hùng khai quốc. Sĩ tử, tướng tướng phần lớn là nông dân. A. Pazzi viết: “Một người V.N bảo với tôi rằng: “Ở trên đất nước chúng tôi nơi nào cũng có anh hùng. Hãy đi vào các xóm làng, hỏi các nấm mồ và các bụi cây, hốc đá quí ngài sẽ nghe kể lể biết bao nhiêu chuyện phi thường về giống nòi Việt”. Điều đó là sự thực hết sức hiển nhiên đúng như lời nói của một con người quật cường khởi miền Nam- Ông Nguyễn Trung Trực- khi ông trả lời trước bọn đế quốc xâm lược rằng đến bao giờ cỏ còn mọc trên đất Việt thì người dân Việt vẫn còn mãi mãi chống đối để tiêu diệt kẻ xâm lăng và cái phi thường của họ đã thành một tác phong hết sức bình thường. Hương thôn, đồng ruộng cũng còn là nơi để cho vương hầu tướng tướng đại quan quí nhân trở về vui thú điền viên. Học nhân, văn nhân, sử sĩ, ẩn sĩ thường qui điền lý: Chẳng nên cơm cháo gì đâu Trở về đất bãi trồng dâu nuôi tằm Ai ơi trời chẳng trao quyền Túi thơ đủng đỉnh dạo miền thú quê Lấy đạo đức và lao động lập quốc Lấy văn hóa và sinh sản dựng nước. Đó là hai niềm tin trong ý thức kinh tế Việt. Trong “Sử Lược” của Trần Trọng Kim có đoạn sau đây: “Nhà cửa phần nhiều là nhà tranh vách đất, ít khi có nhà ngói nhà gạch. Kiểu làm nhà cũng phải theo kiểu thường mà làm chứ không được làm nhà lầu và kiểu chữ công hay chữ môn. Ai làm nhà cửa mà không theo đúng phép thì cho là lộng hành phải tội. Cách ăn mặc thì chỉ có đồ vải nâu, người nghèo khổ chỉ có manh áo cánh và thường thì đóng cái khố, có đi đâu mới mặc cái quần vải dài đến đầu gối. Người giàu sung túc mới có vài cái áo nâu đen và vài cái quần hoặc nhuộm nâu hoặc để trắng chứ không được mặc đồ gấm vóc và đi giày. Nhà vua cấm như thế là cũng có ý muốn cho dân không quen thói xa hoa lãng phí”. Trên đây là hình ảnh sinh hoạt dưới thời vua Tự Đức, có lẽ cụ Trần Trọng Kim đã nhìn vào cái quá ư nghèo nàn dưới thời Tây để mà tả thì đúng hơn. Tuy nhiên, về cái sự không cho thói xa hoa lãng phí thì vốn vẫn là tư tưởng truyền thống của kinh tế. Do tư tưởng truyền thống này nên kinh tế nước Việt không bao giờ hướng mục tiêu vào con đường đại phú cường. Chỉ cần làm sao không bị xâm lược, dân no đủ để chống giặc, yên vui làng xã, nhu cầu kinh tế không vượt ra ngoài những vấn đề sinh hoạt căn bản, mọi thừa thãi vô ích đều bị gạt bỏ. Nếu để kinh tế tập trung quá độ xa xỉ làm cho văn hóa băng hoại, quốc gia chìm ngập trong dâm và lợi tất sẽ chẳng khỏi nạn vong quốc. Bởi vậy mới đem gốc rễ kinh tế, văn hóa ký thác nơi hương thôn với nếp sống đơn giản, thuần hậu và tìm cách hạn chế công thương nghiệp tại các đô thị, đây chính là nhược điểm của nền kinh tế Việt, ảnh hưởng của nó làm cho không nhận thức được sự thực dụng của khoa học khi tiếp xúc văn hóa, văn minh công thương nghiệp Tây phương để đến nỗi sinh mệnh lịch sử bị luân hãm gần một thế kỷ.
*
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:01:48 GMT 9
**
“Người Việt có một giang sơn tuy chẳng so bì được cái bề rộng bề dài với các dân tộc khác, nhưng lại có đủ khả năng sinh sản dồi dào sức chứa tài nguyên. Nếu so với biết bao nhiêu lãnh thổ của biết bao nhiêu dân tộc trên địa cầu này, ta thấy đất nước Việt Nam đã khéo tự hoàn thành lấy và tự khắc phục được nhiều nhược điểm thiên nhiên. Với trên hai ngàn cây số biển đầy đủ hải sản, với núi rừng trùng điệp phong phú quặng mỏ, gỗ cây, với đồng ruộng mông mênh chất đất phì nhiêu và những thác nước dòng sông tràn trề sinh lực. Sở dĩ người Việt không ngừng tiến bước về Nam, bởi vì mảnh đất miền Nam có đủ khả năng đdể mà bổ túc cho sự thiếu sót của đất đai miền Bắc và cái sở trường ở miền Bắc được đem bồi dưỡng cho sở đoản của đất miền Nam. Sự gắn bó của hai miền đất phong phú ấy tạo nên cái thế quân bình quan trọng ở trọng năng lãnh thổ, bởi vì thiếu một trong hai miền ấy, đất nước Việt Nam không phồn thịnh lâu dài. Do đó, người Việt vẫn quen nhìn hai miền ấy như hai bó lúa mà giải đất miền Trung là chiếc đòn gánh lịch sử, một thứ xương sống mãnh liệt làm bằng một dãy Trường Sơn tràn đầy lâm sản”. (Trích “Người Việt cao quí” của A. Pazzi). Giữa lúc đang tiến hành công cuộc tổ chức và giáo hóa miền Nam thì thực dân Pháp tới làm ngăn trở, cắt ngang những gì còn bỏ dở. Việc đô hộ của Pháp thi hành trên đất này là hủy diệt sự thống nhất ba miền Trung Nam Bắc bằng ba chế độ cai trị khác nhau, trên kinh tế xây dựng một giai cấp tư sản mại bản, trong các thành phố nhằm tách rời thành thị với hương thôn, tại nông thôn tìm cách kiến tạo giai cấp điền chủ và tay sai cường hào ác bá. Nông dân phải chịu gánh nặng của đô hộ. Một nhà ái quốc viết về tình trạng đó như sau: “Là người Việt Nam họ bị áp bức, là người nông dân họ bị cướp đoạt. Chính họ là những người làm mọi việc lao dịch, chính họ là những người làm ra cho lũ người ăn bám, lũ người đi khai hóa và những bọn khác nữa hưởng. Mà chính họ lại phải sống cùng khổ trong khi những tên đao phủ của họ sống rất thừa thãi, hễ mất mùa thì họ chết đói. Đó là vì họ bị ăn cắp khắp mọi phía bằng mọi cách do nhà nước thực dân, do bọn phong kiến tân thời v.v… Xưa kia theo thể chế V.N thì ruộng đất xếp thành nhiều hạng tốt, xấu. Thuế đánh theo sự phân hạng ấy. Dưới chế độ thuộc địa hiện nay, tất cả những cái đó đều thay đổi. Khi cần kiếm tiền, các quan cai trị Pháp chỉ việc bắt thay đổi hạng ruộng. Chỉ một nét bút thần kỳ là họ biến một đám ruộng xấu thành ruộng tốt. Như thế vẫn chưa hết. Người ta còn tăng diện tích ruộng đất một cách giả tạo bằng cách rút ngắn đơn vị đo đạc. Bằng cách đó, thuế lập tức tăng lên nơi thì một phần ba, nơi hai phần ba. Điều đó chưa đủ để thỏa mãn lòng tham không đáy của nhà nước bảo hộ, cứ mỗi năm lại tăng thuế mãi lên. Người V.N cứ chịu cho người ta dóc thịt như thế mãi và các quan lớn bảo hộ thì quen ăn bám mùi cứ tiếp tục giở trò bóc lột. Năm 1895, viên công sứ một tỉnh ở Bắc Kỳ đã tước mất của một làng nọ hàng bao nhiêu mẫu ruộng đất để đem cấp cho một làng khác là một làng đi đạo. Những người mất ruộng khiếu nạu thì người ta bắt bỏ tù. Các bạn đừng tưởng chế độ cai trị vô liêm sỉ ấy chỉ có như thế thôi. Người ta còn bắt những kẻ xấu số bị mất ruộng phải nộp thuế mãi cho đến năm 1910 mặc dù ruộng đất của họ đã bị tước đoạt từ năm 1895. Hết các quan cai trị ăn cắp, đến bọn chủ đồn điền ăn cắp. Người ta cấo những đồn điền cò bay thẳng cánh nhiều khi quá 20.000 mẫu cho những người Âu chỉ có cái bụng phệ và cái màu da trắng. Những đồn điền ấy phần nhiều được lập ra bằng lối ăn cắp hợp pháp hóa. Trong thời kỳ xâm lược, người dân cày Việt Nam đã bỏ ruộng đất của mình lánh sang những vùng còn tự do. Khi họ trở về thì ruộng đất của họ đã thành đồn điền mất rồi. Hàng bao nhiêu làng đã bị tước đoạt đi như thế và người bản xứ lâm vào cảnh phải lao động cho bọn vua chúa phong kiến tân thời, bọn này chiếm đoạt có khi đến 90% thu hoạch. Lấy cớ khuyến khích việc khai khẩn thuộc địa, người ta miễn thuế điền thổ cho rất nhiều chủ đồn điền lớn. Đã được không ruộng đất rồi, bọn chủ đồn điền lại còn được không hoặc gần như được không cả nhân công nữa. Bọn quan cai trị cung cấp cho họ một số tù khổ sai làm công không hoặc dùng uy quyền để mộ cho bọn chủ đồn điền những nhân công làm việc với một đồng lương chết đói. Nếu những người làm công đến không đủ số hoặc không bằng lòng thì người ta dùng võ lực. Bọn chủ đồn điền liền bắt bọn hương lý nện vào cổ họ, hành hạ họ cho đến khi những kẻ khốn khổ này chịu ký giấy cam đoan nộp đủ số nhân công cần thiết mới thôi. Bên cạnh cái thế lực phần đời ấy, còn có nhứng đấng cứu thế phần hồn, các đấng này trong khi truyền bá đức nghèo cho người V.V cũng không quên làm giàu bằng mồ hôi và máu của người bản xứ. Một viên thanh tra hầm mỏ người Pháp tên Desrousseau, trong bản báo cáo mật gửi viên toàn quyền Pháp ở Đông Dương, viết: “Có một sự thực không thể chối cãi và một tâm trạng không thể thay đổi được là bọn nhà quê chỉ chịu bỏ làng khi chúng sắp chết đói, cho nên phải đi tới một kết luận ngụy biện để chúng ta thoát được nỗi khó khăn hiện nay về tuyển mộ phu, nhân công thì phải làm sao cho dân quê nghèo mạt”. L. Bonafaut, trong “Trente ans de Tonkin” viết: “Cả tỉnh Vĩnh Yên chìm dưới nước. Sở công chánh đã đóng một cống cách đồn điền Phù Lỗ 8 cây số cho nên đã tạo thành một hồ nước mênh mông trên 10 cây số vuông, dìm cả vùng trong cảnh lầm than đen tối. Ngày nào cũng có những đoàn đại diện nông dân đến Bắc Ninh, lên tận Hà Nội nữa để cúi xin chính phủ đừng giết họ, đừng để cả vùng bị ngập, đừng đóng cống. Song chính phủ vẫn làm ngơ và tàn nhẫn nhìn cảnh tưỡng cả tỉnh đang chết”. Cùng thời gian này, tại miền Trung có một bài văn tế được lưu truyền, đầu đề là văn tế vụ xin sưu mà tác giả không biết ai để tả thảm trạng người nông dân lúc đó, xin trích một đoạn dưới đây: Thương dân nay Đầu cũng đội trời Sinh không gặp hội Đã chẳng may giặc Pháp cầm quyền Lại cứ mực dã man quen thói Tội tội tội đặt mâm xuống khoai chất lẫn rau Khổ khổ khổ rướn đũa lên cơm van không muối Chồng cũng cày năm ba vạt ruộng, thuế ngày nộp mà làm chẳng thấy ăn Vợ cũng chạy ba bốn cửa hàng, sưu tăng mãi lời không thấy ngọi (tiếng Trung là có được) Thương một nỗi hôm nay chực đình, hôm mai canh điếm, mò cả đêm như vạc khắc canh Thương một bề, buổi tay gánh đá, buổi tay đào sông, cahỵ cả ngày như chó phải lói (pháo tre) Sưu chưa kịp liệu, phòng chánh đến phong phó đến cả phòng cai đều buộc ngành thắt cổ, phút xui nên nọc nọc vồ vồ.Thuế chưa có ra, bán gà đi, bán lợn đi lại bán bò đi, bán trốt lột xương may mới khỏi gông gông trói trói. Cám cảnh nhẽ tiền không gạo hết, lấy gì nuôi con trẻ thơ ngây Xót xa thay thịt nát xương mòn, lấy gì cấp mẹ cha yếu đuối Trách vì ai không biết lo toan Để cho nó phải nên nông nổi Ôi dân ôi Chết đã đến sau Sống chi cho tội Mọi việc thực dân Pháp làm chẳng có gì là mới mẻ, bởi vì hơn 500 năm trước nhà Minh đã từng áp dụng trong mấy chục năm đô hộ. Tất nhiên cũng như năm thế kỷ về trước nó rơi vào những thất bại tương tự. Họ đều đã vấp phải sứ đối kháng mãnh liệt của đất, của văn hóa nông nghiệp mà Paul Mus gọi là “Politique d’un sol” của đạo Gạo (Religion du riz). Nông dân theo truyền thống lịch sử vẫn mãi mãi là chủ lực để giải phóng dân tộc dành lại tự chủ. Một khi nông dân là lực lượng chính trị chủ yếu thì đương nhiên nông dân cũng là lực lượng chủ yếu để kiến thiết nền kinh tế vững vàng cho xứ sở. Nông dân còn là tiền thân của công nhân tiến nhập vào các đô thị khi nào quốc gia cần xây dựng cơ sở công nghiệp lớn mạnh.
* **
Từ ngày bị văn minh Tây phương đè ép, một số người Việt thường mắc vào căn bệnh có ý thức phủ nhận vết cũ nhưng vô ý thức tiếp thụ đường mới, thiên về tinh thần Tây phương mà quên mất tinh thần dân tộc, thiếu hẳn khả năng dung thông, đối với vấn đề kinh tế chỉ biết ngưỡng vọng sự hào nhoáng của thương nghiệp, sự ồn ĩ của công nghiệp. Ta về ta tắm ao ta Dù trong dù đục ao nhà đã quen Cái ao ở đây có nghĩa là bài học kinh nghiệm lịch sử cùng mọi điều kiện chủ khách quan của xứ sở. Cái ao ấy chôn dấu những khuôn vàng thước ngọc cho đời sau: - Bất sinh túc chi quốc vong (Nước không có gạo nước mất) Nếu nước Việt bị suy sụp cơ sở kinh tế nông nghiệp thì các vấn đề nhân khẩu, tài phú và quốc phòng chắc chắn vô biện pháp giải quyết. - Túc sinh nhi tử giả bá (Có gạo mà vẫn chết là bá đạo) Nông nghiệp hưng thịnh nhưng rút cục bị công thương nghiệp chèn ép, nông nghiệp bị hy sinh, bị phá hoại để cho công thương nghiệp phát triển. Chính sách này tuy có thể khiến cho quốc lực lớn mạnh nhưng chỉ là chính sách đưa đến nhất thời cho bá không lâu bền, vững chãi. Tỉ dụ: nước Nhật trước thế chiến và bây giờ. - Túc sinh nhi bất tử giả vương (Gạo nhiều dân vui là vương đạo) Công thương nghiệp phải phối hợp cùng nông nghiệp để kiến thiết, quan trọng hàng đầu là củng cố lâu dài bản thân nông nghiệp. Sự phát triển công thương nghiệp đặt trên nguyên tắc ăn chắc mặc bền không để phục vụ những nhu cầu kỳ hình quái trạng như kinh tế gia Walter Rostow thường vẫn khoe rằng kinh tế tiêu thụ là nền kinh tế tốt đẹp nhất, sung sướng nhất kỳ thực nó chỉ là một thứ văn minh ăn không ngồi rồi (Civilisation des loisirs). Vương đạo là gì? Yêu cầu thứ nhất của vương đạo là cầu cho dân giàu sung sướng mà gạo nhiều sống no là giàu, là sung sướng. Yêu cầu thứ hai của vương đạo là thịnh trị không có sự bóc lột, lừa đảo, dối trá. “Phú nhi trị vương chi đạo dã” (Giàu và thịnh trị chính là vương đạo vậy). Các hình ảnh của vương đạo đã được vẻ vào trong ca dao bình dân: Trời thu vừa gặp tiết lành Muôn dân yên khỏe thái bình âu ca Muốn cho yên nước yên nhà Một là đắc hiếu hai là đắc trung Trong bốn nghiệp ra công gắng sức Đường nghĩa phương ta phải khuyên con Còn trời còn nước còn non Còn cô bán rượu, ta còn say sưa
*
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:02:55 GMT 9
ĐẠO ĐỨC TÂM
Ta thà làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc Trần Bình Trọng
Ở đời muôn sự của chung Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi Nguyễn Công Trứ
Cá nhân tự do chủ nghĩa của Hy Lạp. Tổ chức đoàn thể tinh thần của La Mã. Thế giới tôn giáo tín ngưỡng của giống Hebreu. cả ba do vận động lịch sử trộn lẫn với nhau mà tạo thành tâm hồn người Tây phương ngày nay. Tâm hồn Việt trước sau nguyên vẹn là một tâm hồn đạo đức của đạo Nho. Văn hóa lấy đạo đức làm trung tâm. Lịch sử diễn tiến với đạo đức. Nhân vật anh hùng và kẻ sĩ do đạo đức rèn luyện. Không kể riêng vấn đề nào từ chính trị, kinh tế, quân sự, giáo dục, các loại chế độ, các việc xảy ra đều hoàn toàn được đem ra giải thích và phân tích bằng tinh thần đạo đức, đều được phê phán qua lăng kính : Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ Trung hiếu, nhân nghĩa, liêm sỉ, tiết tháo Khác hẳn với Tây phương chỉ nói: Tự do, bình đẳng, độc lập. Ai muốn làm cái gì, hành động phải đặt vào trong đạo đức quan niệm và đạo đức trách nhiệm. Đời Xuân Thu, quan Thượng Khanh nước Lỗ tên là Thúc Tôn Báo sang sứ bên nước Tấn gặp quan Thượng Khanh nước Tấn là Phạm Tuyên Tử. Sau khi bàn việc xong xuôi, hai người đàm đạo sang vấn đề triết học. Phạm Tuyên Tử hỏi Thúc Tôn Báo rằng: - Làm thế nào để cuộc sống không mục nát (bất hủ) như cỏ cây? Thúc Tôn Báo chưa trả lời ngay, hỏi lại: - Theo ý ngài thì sao? Phạm Tuyên Tử đáp: - Nhà họ Phạm tôi từ đời Nghiêu Thuấn đến nay qua thêm ba đời Hạ, Thương, Chu tính ra hơn hai ngàn năm vẫn giữ mãi là một thế gia, kể cũng đáng gọi là bất hủ đấy chứ. Thúc Tôn Báo nói: - Theo tôi, đó mới là thế lộc không thể gọi là bất hủ. Nhân sinh chỉ có ba điều bất hủ: Lập đức- Lập công- Lập ngôn. Lời Thúc Tôn Báo chứng tỏ mọi sự trên đời đều được xét đoán bằng lý luận đạo đức. - Tu đâu cho bằng tu nhà Thờ cha kính mẹ mới là chân tu - Học là học đạo làm người Làm người phải giữ lẽ trời dám sai - Ai ơi mang bát cơm đầy Dẻo thơm một hột đắng cay muôn phần - Được mùa chớ phụ môn khoai Đến năm thân dậu chẳng ai bạn cùng - Làm trai quyết chí tang bồng Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam - Làm trai yêu nước quên nhà Nước kia có vẹn thì nhà mới xong Hết thảy đều là những lời thường nói hàng ngày, đạo đức chính trị hóa, xã hội hóa thậm chí cả kinh tế hóa nữa hay nói chung là giáo hóa. Đạo đức theo quan niệm Việt là sự nói rõ quan hệ giữa con người với con người, quan hệ giữa người với xã hội, mà hình thái cao nhất của xã hội là tổ chức chính trị, vậy điểm cao nhất của đạo đức cũng là đạo đức chính trị từ đấy mà đi chùm xuống dưới. Nếu ở một mình trên hoang đảo như Robinson Crusoe thì chẳng cần nói chuyện đạo đức gì cả. Trái lại, đạo đức luân lý Tây phương không căn cứ vào xã hội hay chính trị mà lý luận và thường căn cứ vào huyền học, theo nhận thức với bản thể học để hoàn thành một thể hệ lý luận. Tỉ dụ: đạo Gia Tô bảo “Chúng ta sống trong tâm ý của Thượng Đế”, còn người Việt nói “con người sống trong tâm ý của người khác, một người xấu cả bọn mang nhơ”. Platon phải tưởng tượng ra một thiên quốc, một thế giới trên từng trời, đem cái mơ nhân gian trừu tượng hóa cùng lý niệm hóa đi. Khí đã lý niệm hóa nó rồi tức là cắt đoạn hẳn với hiện thực chính trị, thoát ly hẳn sự khiêm chế của hiện thực xã hội, đến lúc mang nó trở về nhân gian, nó trở thành một mệnh lệnh của Thượng Đế, đạo đức biến ra mệnh lệnh tuyệt đối và vô điều kiện. Do đó thời Trung Cổ mới có những thượng đế luật bắt buộc người ta phải tin theo tuyệt đối chẳng cần “nên hay không nên”, kẻ nào đi ngược lại chống đối tức thì kẻ đó là bọn “phù thuỷe” (sorcier) bắt đem hỏa thiêu. Gia Tô giáo phân ranh chia cách chính trị và đạo đức, bên giữ phần đời, nên giữ phần hồn. Đọc những sách của Kant, của Hegel, của Locke, của Rousseau thấy rất rõ sự phân ranh do Gia Tô giáo ảnh hưởng lớn đến thế nào. Mãi tới thời kỳ tôn giáo cải cách, văn nghệ phục hưng thì luân lý đạo đức từ tay Thượng Đế mới được đem trả về cho nhân gian, trả về cùng chính trị. Tuy nhiên, nó cũng không vì vậy mà giống đạo đức Đông phương. Đông phương giảng đạo đức theo thuận tự: tu thân- tề gia- trị quốc- bình thiên hạ. Tây phương thì lý luận đạo đức bằng cách tách rời cá nhân khỏi quốc gia- thiên hạ. Con người bây giờ không sống trong tâm ý của Thượng Đế nữa thì sống trong tâm ý của chính bản thân mình (cá nhân chủ nghĩa). Đạo đức thành tựu do tập tục chứ không vì lòng tin tưởng, con người thiện lương vì sợ xã hội trừng phạt, đạo đức không là tự nguyện mà là tâm lý e dè. Đạo đức được bảo vệ bởi một nghị ước và pháp luật. Cá nhân có quyền làm theo ý mình, nhưng quốc gia sẽ trừng phạt nếu hành động cá nhân phản lại xã hội. Như vậy xã hội giữ vai trò chủ yếu, đạo đức chỉ là thứ yếu.
* **
Người trồng cây cảnh người chơi, ta trồng cây đức để đời về sau. Đạo đức Việt hoàn toàn là một sự lựa chọn nguyên ý cái đạo làm người, cái lẽ trời, trên căn bản “dĩ nghĩa vi lợi” và “chỉ ư chí thiện”. Không phải cho đời này thôi mà còn cho đời sau nữa, không phải cho cá nhân mình thôi mà còn cho cả tập thể nữa. Tại huyện Nam Sang tỉnh Hà Nam, dân đều nhớ truyền thuyết về cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến như sau: “Hồi còn trẻ, Nguyễn Khuyến cùng với đám đồng môn ra sông tắm gặp đoàn thuyền giấy trên có voi, ngựa và hình nhân của dân cư cúng cô hồn và lễ quan ôn cầu mát, lễ xong bỏ sông trôi vào chỗ anh em tắm. Có người gạt ra thuyền giấy lại trôi vào. Nguyễn Khuyến liền nói đùa: “Thuyền bè lính tráng, voi ngựa oai hùng thế kia sao không vượt sông ra bể phù dân giúp nước trong lúc quốc gia hữu sự này lại luẩn quẩn đây cầu ăn con gà nắm xôi”. Nguyễn Khuyến vừa nói xong thì đoàn thuyền giấy đó dạt ngay sang phía sông bên kia, sau đó dân làng bị ốm đau như bị ma quỉ quấy nên người ta phái người sang cầu cứu cụ Nghè. Cụ Nghè liền gọi Nguyễn Khuyến và bọn học trò tắm sông hôm đó hỏi đầu đuôi câu chuyện và bảo phải ra khấn khứa cho đoàn thuyền trôi đi. Ông Nguyễn Khuyến liền tới bờ sông hô to yêu cầu đoàn thuyền trôi đi nơi khác. Sau đấy dân cư đều khỏi ốm đau và được bình an như thường”. Xem thế đủ biết, con người chết đi vất vưởng mà thành lũ cô hồn còn biết liêm sỉ, cảm thấy đau khổ khi có người nói đến cái thân phận vô dụng của mình, huống nữa là con người lúc đang sống ở trong trời đất. Phần người sống là Nguyễn Khuyến, sau khi đỗ đầu cả ba khoa thi Hương, Hội, Đình cụ được bổ nhiệm Đốc học rồi Bố chánh. Cụ là một văn quan có tiếng hay chữ, có tiếng liêm khiết lại mẫn cán và thao lược. Mẹ Nguyễn Khuyến càng khe khắt, nghiêm ngặt cùng ông về sự liêm khiết. Mỗi lần thấy ông dâng tặng một chút lễ mọn là bà cụ liền hỏi căn nguyên lễ vật ấy ở đâu mà có. Nếu không chứng minh được rõ ràng thì mặc dầu con có hiếu thảo dâng, bà cũng vẫn từ chối, còn trách mắng nữa là khác. Bà cụ thường bảo: “Con lấy lễ của dân mà tặng cho cha mẹ tức là lấy của cha mẹ mà tặng thì đâu còn lòng hiếu thảo nữa”. Đức hạnh của ông đã cảm hóa được lòng người. Trong việc chấp đạo an dân, ông đã tỏ rõ một bậc khéo khuyên dân chúng cải tà qui chánh. Triều đình mấy lần cử ông vào những trọng trách lớn hơn, ông đều từ chối vì lúc đó ông nhận thấy có một số quan lại quá mục nát kéo bè kéo cánh làm càn. Can ngăn không được, dân tình than oán, ông liền dâng sớ về nghỉ nhưng vua Tự Đức không cho và bổ nhiệm ông làm Tổng Đốc ba tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang. Nhưng hồi này, ông thấy bọn thực dân Pháp càng ngày càng bành trướng, một số bọn triều thần bán nước đã a dua với ngoại nhân mưu đồ phú quí chẳng nghĩ gì đến dân đến nước. Nhiều bạn học của ông như các ông nghè Du Lâm, Nguyễn Kham, Nguyễn Xuân Ôn đều đã từ tiết không chịu theo giặc. Hết sức buồn phiền, ông liền giả đau mắt từ quan rút lui về chốn điền viên để giữ cho trọn vẹn danh tiết. Sau này thực dân muốn dùng ông để lợi dụng thanh thế ông mà thu phục nhân tâm mới giao cho tên mãi quốc Hoàng Cao Khải tới mời. Ông nhất định chối từ. Biết không thể lấy mồi phú quí lay chuyển được lòng son sắt, bọn thực dân liền bảo Hoàng Cao Khải kiểm soát gắt gao mọi hành động của ông bằng cáh giam lỏng tại tư dinh của quan Kinh lược. (Theo tài liệu của ông Đạm Nguyên trong cuốn “Tam Nguyên Yên Đổ”). Châu chấu làm sao dám đá voi Đứng xem ai chẳng bật lên cười Xun xoe nhảy lại dương hai vế Ngứa ngáy không hề động tí đuôi Say tỉnh cuộc này ba chén rượu Được thua chuyện ấy một trò chơi Cả gan cũng sợ cho mình nhỉ Theo đít còn hơn một lũ ruồi. Đó là bài thơ của ông Nguyễn Khuyến để vịnh cái việc ông nhất định không chịu ra làm quan với Pháp, nó chính là cái tinh thần đạo đức: tri kỳ bất khả vi nhi vi chi, biết rằng không thể chống nổi mà vẫn chống, thế chẳng hơn bọn ruồi nhặng theo đít voi sao? Tuy nhiên, thái độ Nguyễn Khuyến không phải là vô ích vì nhờ tinh thần cấy mà sau này đã xảy ra cảnh: Nực cười châu chấu đá voi Châu chấu đá mãi voi lòi ruột ra Cụ Tam Nguyên Yên Đổ đã lập đức cũng như cụ Nguyễn Đình Chiểu trong Nam mặc dầu vừa mù vừa điếc vẫn làm thơ giết giặc viết sách để truyền bá đạo đức. Trong lúc nghèo đói cùng cực, cụ Nguyễn Đình Chiểu vẫn một mực từ chối món tiền khá lớn do thực dân đem đến để mua chuộc. Đặc biệt hơn nữa là suốt quãng đời khổ sở khốn đốn của mình, cụ Chiểu chỉ giặt quần áo bằng thứ nước tro chứ không chịu dùng xà phòng mà cụ cho là một thứ sản phẩm của Tây. Cụ cũng không chịu đi trên con đường quốc lộ mà cụ cho là công trình xây đắp của bọn thực dân và phải băng đồng, lội ruộng hết sức vất vả mỗi khi xê dịch. A. Pazzi viết: “Đây là một câu chuyện thực dân nói lên ý thức luân lý cố chấp của một sĩ phu, nhưng xét cho cùng trong đó có cái căm thù những kẻ xâm lược hết sức sâu xa, hết sức cảm động và cũng hết sức lớn lao, trở thành một sự khuyến cáo khó lòng phai nhạt đối với bao nhiêu thế hệ đến sau. Những thứ tinh thần cứng rắn như thếh không thể đem ra bình phẩm hời hợt và xem là một bảo thủ lỗi thời. Thực ra phải đứng vào vị trí dân tộc cùng cái nhu yếu tự vệ khẩn thiết của dân tộc ấy mới nhận định đúng cái giá trị ấy. Đó là một thứ tinh thần kết tinh của nhiều thế hệ chống đối, một loại kim cương đọng lại từ lớp đá than sinh hoạt của bao nhiêu đời. Và các ảnh hưởng phá hoại từ bên ngoài đến dù có khả năng quyến rũ, lung lạc bao nhiêu đã thành vô dụng như cơn gió cuồng dội vào núi đá lớn hay nói theo thành ngữ V.N “nước đổ lá khoai”. Có thể nói rằng hầu hết các tác phẩm cổ điển V.N đều chan chứa những tinh thần đạo đức cương thường, và tuy xã hội đổi thay nó không hẳn còn phù hợp, nhưng tinh hoa ấy vẫn là nòng cốt tinh thần dân tộc, cái tinh hoa ấy là sống sao cho hợp lẽ phải, hợp với đạo lý làm người trong một xã hội, là sự hướng về điều thiện và những giá trị cao đẹp. Đạo đức tâm chan hòa trong máu người Việt, nó đi vào chính trị bằng đòi hỏi để phẩm đức lãnh đạo, nhân vật trung tâm của chính trị trước hết phải là con người có phẩn đức đã, bởi vì chính trị đến từ yêu cầu tự nhiên thuận với nhân đạo, thuận với nhân tâm. “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, giai dĩ tu thân vi bản”, từ vua cho đến dân đều phải lấy sự tu thân làm gốc. Không phải vua có quyền làm gì thì làm, vua cũng cần tu thân như dân. Lịch sử Việt chưa bao giờ xuất hiện những chính trị gia có cái phong cách múa may quay cuồng, hò hét, chứa chất nhiều ý lòe nạt như: Mussolini, Krouthehev, Hitler, Clémenceau, Soekarno v.v… Phần lớn, những người lãnh đạo chính trị đều có cái vẻ chân thật nhưng tinh anh, thân ái như trong gia đình với nhau, trông bề ngoài hết sức bình dị.
* **
Đạo đức tâm đi vào kinh tế bằng đòi hỏi tính cần kiệm. Làm người phải biết tiện tần Đồ ăn thức mặc có ngần ấy thôi Những người đói rách rạc rời Bởi phụ của trời làm chẳng nên ăn Sách “Đại học” có câu: “Sinh tài hữu đại đạo, sinh chi giả chúng, thực thi giả quả, vi chi giả tật, dụng chi giả thư”, nghĩa là : Phép sinh tài có con đường lớn; làm ra cho nhiều, ăn ít thôi, làm ra cho nhanh, tiêu chậm thôi. Làm nhanh, làm nhiều là chăm chỉ, cần mẫn. Ăn ít, tiêu ít là tằn tiện, tiết kiệm. Lấy chăm chỉ, cần mẫn mà đuổi kịp người trên mọi lãnh vực kinh tế những gì mình còn kém. Lấy kiệm, tằn tiện để khỏi có một sinh hoạt kinh tế xoay sở, lọc lừa lường gạt, vay mượn. Dù cá nhân hay một quốc gia đều phải hiểu rằng: “Ngã tử sự tiểu, thất tiết sự đại” (chết đói là việc nhỏ, thất tiết mới là chuyện to). Một khi đã rơi vào cái thế cơ hàn sở bách (đói rét đe dọa) và phùng nhân tất hữu cầu (gặp ai cũng xin xỏ) là lập tức mọi sự hỏng. Đạo đức đi vào tổ chức xã hội bằng sự gây dựng tình nghĩa cho quan hệ giữa người với người, như đời xưa có ngũ luân: “Giáo nhân dĩ luân, phụ tử hữu thân, quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự, bằng hữu hữu tín” (Dạy người nhân luân, cha con thâm tình, vua tôi có nghĩa, vợ chồng ai nấy làm tròn bổn phận, già trẻ thứ tự, bạn bè trung tín. - Lời Mạnh Tử) Có sự đoàn kết nội bộ để chống với địch quốc: - Khôn ngoan đối đáp người ngoài Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau - Một giọt máu đào hơn ao nước lã Trong các làng xã tôn trọng bậc cao niên tuổi tác chẳng kém gì người chức tước. Chức tước là quyền uy về thân phận, tuổi tác là quyền uy về niên linh. Thầy Mạnh Tử nói rằng: “Thiên hạ hữu đạt tôn tam, tước nhất, sỉ nhất, đức nhất. Triều đình mạc như tước, hương đẳng mạc như sỉ, phụ thế trưởng dân mạc như đức” (Có ba điều đáng tôn trọng thiên hạ: chức tước là một, tuổi tác là hai, đạo đức, đạo đức là ba. Nơi triều đình không gì quan trọng bằng chức tước, ở làng xã không gì quan trọng bằng tuổi tác, giúp đời chăn dân không gì quan trọng bằng đạo đức).
* **
Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi: “Con phải trở về mà lo trả thù cho cha rửa nhục cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm gì?”. Lập công là một điều quan trọng của tinh thần đạo đức Việt. Người Việt thường nói: công đức và công ơn của ai, tỉ dụ: công ơn cha mẹ, công đức của tiền nhân. Theo triết lý hành động thì công là một hành động vào thực tế của đạo đức. Lòng yêu nước là đức, cầm súng đánh giặc là công. Nếu cầm súng đánh thuê cho giặc thì hành động ấy không thể lấy danh từ lập công cao đẹp kia mà định nghĩa. Triết lý hành động của Tây phương chú trọng vào phương pháp còn triết lý hành động của Đông phương ngoài phương pháp phải có cả đạo đức. Tây phương nói: “Agir c’est transformer volontairement par des destes, le monde extéricur”. Đông phương nói: “Lập công để lưu danh thiên cổ” trước khi hành động cần xem hành động có hợp với đạo đức không đã, một khi đã chấp nhận đó là điều “đạo đức” thì làm cho đến chết mới thôi mặc dù đứng trên phương pháp mà xét nó không hề có một khả năng thành công nào cả. Không thành công thì thành nhân của Nguyễn Thái Học là vậy. Ở Pháp, nếu người nào chấp nhận chính phủ Vichy, họ mang cờ đi đón thống chế Pétain như vị anh hùng cứu nước Pháp. Ở Việt Nam, dân chúng sống trong khu vực Pháp chiếm đóng khi đi đón vị “thủ tướng” Việt do Pháp đưa ra, đã ngấm ngầm bảo nhau căng bốn chữ “đại điểm công thần” trong cuộc lễ đón rước chính thức bằng hình thức ẩn dấu, dân Việt đã chửi công khai vị thủ tướng kia bằng hai chữ đại điểm kết với nhau thành chữ “khuyển” ý bảo là tên chó săn của giặc, tuy hình thức bên ngoài nó mang nghĩa là “công to” cho đất nước. Tây phương rất tán thưởng câu Machiavel nói: “Le succès fait le mérite” (Thành công sẽ làm thành người xứng đáng). Việt Nam đòi thành công phải đi đôi với xứng đáng, nếu xứng đáng thì dù là kẻ thù người Việt cũng lập đền thờ như đã thờ Sầm Nghi Đống bên gò Đống Đa vì hắn là người trung liệt với nước của hắn. Công lớn nhất là công thuộc về chính trị. Thấp hơn một tầng nữa là công về kinh tế, các làng xã thường thờ vị thành hoàng nào dạy dân một nghề để sinh sống, đa số hằng năm tế ông Thần Nông, sự thờ cúng tế tự này trên quan niệm ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn.
*
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:03:55 GMT 9
**
Trần Bình Trọng thấy quân nhà Nguyên đã đến bãi Đà Mạc (Hưng Yên) liền đam binh ra đánh nhưng chẳng may bị vây phải bắt. Quân Nguyên đưa Bình Trọng về nộp cho Thoát Hoan. Hoan biết Bình Trọng là tướng khỏe mạnh muốn khuyên dỗ về hàng, thết đãi cho ăn uống, nhưng Bình Trọng không ăn, dỗ dành hỏi dò việc nước, Bình Trọng cũng không nói. Sau Thoát Hoan hỏi rằng: “Có muốn làm vương đất Bắc không?”. Bình Trọng quát lên: “Ta thà làm quỉ nước Nam chớ không thèm làm vương đất Bắc. Tao đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì phải hỏi lôi thôi”. Thoát Hoan thấy dỗ không được, sai quân đem Trọng đi chém. Lời nói của Trần Bình Trọng đã trở thành lời nói của dân tộc cho mãi mãi. Một lời nói một đọi máu. Người Việt thường bảo như thế. Câu phương ngôn trên không chỉ áp dụng vào phong tục ăn thề thôi đâu mà nó chính là một triết lý lập ngôn. Nguyễn Hoàng vào hỏi kế, cụ Trạng Trình dạy rằng: “Hoàng Sơn nhất đái vạn đại dung thân”. Nguyễn Hoàng làm theo Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tạo thành công nghiệp vĩ đại cho lịch sử, mở mang bờ cõi xuống phía Nam. Khi vua Trung Tôn mất không có con, Trịnh Kiểm muốn tự xưng làm vua nhưng lại lưỡng lự chưa quyết, mới sai người ra Hải Dương hỏi Trạng Trình. Cụ không nói gì cả, chỉ ngoảnh lại bảo đầy tớ rằng: “Năm nay mất mùa thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ”. Nói rồi lại sai đầy tớ ra bảo tiểu quét dọn chùa mà đốt hương để ông ra chơi chùa, rồi bảo chú tiểu rằng: “Giữ chùa thờ phật thì được ăn oản”. Lịch sử chính trị Việt chịu ảnh hưởng rất lớn của hai lời nói trên. Chắc chắn không phải tin vào tài tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà vì phục nhận thức chính trị sắc bén của cụ. Và cũng chắc chắn rằng Trạng Trình trước khi nói hai lời đó, cụ đã suy nghĩ kỹ về sự cần thiết của chính trị thời ấy. Lập ngôn được chia ra làm hai loại: Một là giáo dục tâm lý, nung đúc tinh thần, Hai là huấn luyện tri thức. Từ một câu hát dạy trẻ em hát chơi như: Băm bầu, băm bí, băm chị thằng Ngô đến một câu vè chế giễu như: Em ơi anh dạy tiếng tàu Tỉu nhà ma nị đâm đầu lấy Ngô
hay
Muốn coi lên núi mà coi Kìa kia chú khách mọc đuôi đằng đầu
đến một bài ru em ngủ như:
Chớ chơi, chớ có đi chơi Dạy em em phải nghe lời Đắp cao núi Thái, tát vơi sông Thù Em em em, chị yêu em Nẻm nèm nem, nắm nem không thèm Một nhà đằm thắm ơn trên Khơi dòng hào kiệt, rạng nền tổ tông
đến một bài thi ca yêu nước như:
Hồn cố quốc biết đâu mà gọi Thôi khóc than rồi lại xót xa Trời Nam xanh ngắt bao la Ngàn năm cơ nghiệp ông cha còn gì Thôi đừng trách kẻ kia rằng tệ Ngẫm mà xem thôi thế không oan Dân ta là chủ nước non Ta không biết giữ thôi còn trách ai. . . . . . . . . . . . . . . . . . . Người Việt lúc nào cũng tìm cơ hội để lập ngôn, nung đúc tinh thần và giáo dục tâm lý. Chỉ tiếc một điều, người ta thấy ít quá loại lập ngôn để huấn luyện tri thức như Vạn Kiếp Bí Truyền, Phương Đình Dư Địa Chí v.v… đến nỗi ông Lê Quí Đôn phải tuyệt vọng mà kêu: “Tôi đã từng đọc mấy tập “Nghệ Văn Chí” của các đời Hán, Tùy, Đường, Tống thấy tên sách vở ghi ở trong đó kể có hơn trăm vạn cuốn, giàu thịnh biết chừng nào. Những sách vở ấy, ở kho chứa sách của các vị vua chúa cất chứa cực kỳ tề chỉnh, rồi ở nhà các sĩ phu thâu lượm, tàng trữ càng cẩn thận, sự truyền bá của nó cũng rất rộng rãi cho nên dù có trải qua mấy cơn binh lửa cũng không tan lạc bao nhiêu”. Nước ta gọi là nước văn hiến, trên từ các bậc đế vương, dưới đến kẻ thần thứ, phần nhiều đều có trứ thuật. Vậy mà gom góp cả lại chẳng qua độ hơn trăm pho, so với sách vở của Tàu chưa bằng một phần trăm. Theo tín ngưỡng của Gia Tô thì thế giới loài người là căn bản tội ác vì tổ tiên loài người đã phạm tội khiến cho chúa Jésu phải xuống trần đại diện cho ý chí của Thượng Đế mà truyền giáo đem đạo đức đến cho nhân gian. Đạo đức Việt không hàm chứa một ý chí của Thượng Đế bao giờ, tất cả vấn đề đạo đức chỉ là một mênh lệnh của lương tâm tức là cái năng lực thâm biện mọi hành vi tự kỷ có trong mỗi con người từ khi sinh ra đời, nó mừng vui với điều thiện và xấu hổ trước điều ác. Mọi người đều y cứ theo lương tâm để hành động, nếu làm trái mệnh lệnh của lương tâm thì lòng bất an khiến cho cuộc sống kém thoải mái. Thời Pháp thuộc có một vị tổng đốc chí sĩ trở về quê dưỡng già, ông vốn là nhà nho xu thời theo Pháp, nhân ngày giỗ Henri Rivière, ông làm bài văn tế có câu khen nịnh: “Nhất nhật nhi hạ ngũ thành”. Ý nói Rivière là tướng tài trong một ngày hạ liền năm thành trì của An Nam. Nhờ bài văn tế đó, chức tước của ông lên rất mau, đổi lại ông cũng phải chịu miệng tiếng cười. Càng về già ông càng cảm thấy cái quá vãng nhục nhã của mình. Một hôm, vào buổi chiều ông đang đứng chơi mát ở cổng nhà, bỗng có thằng đánh dậm đuổi con mèo, vừa chạy qua mặt ông vừa chửi: “Đ.M. mày, nhất nhật mày lại hạ ngũ ngư của ông à?”, (ý nói con mèo một ngày dám vồ của hắn năm con cá). Biết tên đánh dậm đó chửi xỏ mình, đau quá, đêm ấy vị tổng đốc chí sĩ về uống thuốc độc chết, làng nước khinh, lương tâm bất an, ông không còn thiết sống để ngày ngày phải hứng chịu mãi sự sỉ nhục. Người đời hữu tử hữu sanh Sống lo xứng phận, thác dành tiếng thơm Lương tâm chính là một lực lượng thiên phú sách động con người hướng thượng, nhờ lương tâm mà nhân thế hỗn loạn, hắc ám một ngày kia sẽ lại hồi phục quang minh. Người Việt luôn luôn tin như vậy.
* **
TRÍ THỨC PHẦN TỬ
Trị loạn cách mạng, hòa bình, chiến tranh có nhiều nguyên nhân: địa dư, kinh tế, văn hóa, chính trị v.v… Nhưng quyết định đều lở nơi kết quả vận chuyển của phần tử trí thức. Phần tử ưu tú (élite) trong xã hội không bao giờ nằm im, trái lại nó luôn luôn vận động, đấu tranh nắm quyền bính để đưa vận mạng chính trị vào con đường mới. Viltredo Pareto
Lịch sử có phải là một khoa học khả dĩ giảng được bằng một phép tắc? nghĩa là đoán trước những gì sẽ xảy ra hay lịch sử chỉ là một mớ hoang thoại? (lời Henri Ford)
Người Ấn Độ xưa, người Hy Lạp và Henreu cổ thời nghĩ lịch sử biến hóa theo luật tắc luân hồi. Một vài giống người nói lịch sử giống như cái thang, leo từng nấc tức là từng giai đoạn sử. Cho đến cận đại, hai sử gia danh tiếng Spengler và Toynbee đưa ra thuyết lịch sử văn hóa biến hình theo phép tắc: sinh-trưởng-suy-vong. Trong lúc nhiều tôn giáo cho rằng lịch sử do Thượng Đế an bài, lại có những người khác lập luận lịch sử là một chuỗi liên tiếp những sáng tạo anh hùng, chứ chẳng chịu phép tắc nhất định nào cả, chỉ có bọn nô lệ mới chịu làm bù nhìn trước lịch sử. Lịch sử biến động, điều ấy ngày nay không còn ai dám chối cãi, nhưng vấn đề đặt ra là hoàn cảnh quyết định lịch sử hay ý chí con người quyết định? Người Việt không hỏi tách ra là hai như vậy vì cho rằng lịch sử là tác dụng tương hằng (interaction) giữa người với hoàn cảnh. Nhờ tác dụng đó mà sản sinh ra văn hóa. Ảnh hưởng vào tốc độ và phương hướng của văn hóa đến từ kết quả của tác dụng tương hằng giữa ý chí con người với hoàn cảnh. Chiếc gậy mang đầu sinh đầu tử trong tay thần Tản Viên, quay trở trong vòng càn khôn là hoàn cảnh. Kể từ khi loài người rời bỏ tự nhiên sử đi vào nhân loại sử thì loài người trở thành một động vật văn hóa, dùng văn hóa để mở đầu lịch sử. Văn hóa đem cho loài người một năng lực mới chiến đấu với hoàn cảnh, văn hóa làm tăng trưởng nhân lực. Trong văn hóa, sự đối lập tâm với vật đã mất hết ý nghãi. Từ hòn đá mài dùng như một khí cụ đến quả bom nguyên tử chẳng có vật nào khả dĩ phân biệt đâu là tinh thần đâu là vật chất. Do hoàn cảnh khác biệt, văn hóa khác biệt. Những nền văn hóa ấy tiếp xúc với nhau mà thành ra hiện tượng văn hóa giao lưu. Lịch sử thông qua văn hóa mà biến động. Vận hành lịch sử không đi theo một vệt thẳng và cũng không có giai đoạn nhất định. Chỉ những nhân tố lợi và những nhân tố bất lợi làm cho lịch sử tăng hay giảm, thừa hay trừ. Tình thế trước sau, hoàn cảnh trong ngoài có thể ảnh hưởng đến sự sáng sủa hay đen tối của lịch sử. Nếu văn hóa lịch tích súc, nội bộ đoàn kết tất quốc lực mạnh, xã hội tiến bộ. Nếu tự mãn cô lập tất quốc lực bạc nhược, xã hội trì trệ. Tính theo thế lớn thì lịch sử là kết quả tối hậu của quá trình tiêu diệt và lớn lên của các lực lượng, hiện lên qua một sự thế nhất định. Tuy nhiên, nhân lực hay ý chí một dân tộc kể cả một sức cá nhân chẳng phải vì vậy mà mất hết địa vị. Ngược lại là khác. Lịch sử còn có một vấn đề nữa: cá nhân với xã hội ai trọng yếu hơn? Anh hùng với thời thế ai làm chủ thể? Đấy là vấn đề quả trứng với con gà, đặt trong quá trình liên tỏa phản ứng. Một xã hội giả thử không những kẻ sĩ biết sớm, biết rộng đương nhiên văn hóa sẽ không tiến bộ, tuy nhiên, kẻ sĩ ấy là người tiền phong chăng nữa thì cũng không thể không là là con đẻ của một hoàn cảnh văn hóa nào đó, nếu kẻ sĩ ấy nổi lên, cô lập thiếu hậu viên sẽ bị bóp chết ngay (trường hợp Nguyễn Trường Tộ đời Tự Đức). Vậy muốn thành việc chuyển động lịch sử cần phải có cả một đội ngũ trí thức. Cho nên khả dĩ nói được rằng phần tử trí thức chính là động lực cho tiến bộ lịch sử. Phần tử trí thức là những người ngôn ngữ Việt xã hội cũ thường nhắc đến: thánh hiền, nhà nho, văn nhân học sĩ, cụ đồ nho, thầy khóa, ông cử ông tú, nói chung là những người đọc sách. Vì văn hóa tăng trưởng sức mạnh nhân loại nên trí thức tức là quyền lực. Phần tử trí thức nắm quyền lựa ấy. Người Việt quan niệm phần tử trí thức phải đảm nhiệm việc sáng tạo văn hóa, giáo dục nhân dân và duy trì đạo nghĩa. Ở vào đời suy vi, sa đọa thì tìm cách cổ vũ lương tâm, ở vào thời loạn vong thì tìm cách bảo vệ ngọn lửa văn hóa. Phong trần lặn lội xót hoa hường Tìm người đồng tình dạ vấn vương Buồn theo gió đông gửi bốn phương Lân ẩn trong nội Phượng ẩn trong ngàn Rồng ẩn trong ao Lều tranh cỏ rậm vùi anh hào Tìm người đồng chí dạ khát khao Trông theo cánh buồm hỏi mây sao Mấy câu thơ trên là hình ảnh cô quạnh của người trí thức cách mạng Việt thời Pháp.
* **
Theo những nghiên cứu của sử gia Arnorld Toynbee viết trong “A study of History” và “Civilization on Trial” thì văn minh thế giới tự cổ đại tới giờ có chừng 19 tôn phái, nhưng đã nhiều tôn phái suy vong, nay chỉ còn sống được 5: a) Văn hóa Trung Quốc b) Văn hóa Ấn Độ c) Văn hóa Hồi Giáo d) Văn hóa Slave (Nga) e) Văn hóa tây phươong Đời sống văn hóa Việt chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc. Bởi vậy khi đề cập đến phần tử trí thức tất không thể không có một nghiên cứu đối chiếu Trung Quốc và Việt Nam. Phần tử trí thức Việt trải mấy ngàn năm lịch sử cũng có những đặc điểm chung với phần tử trí thức Trung Quốc nếu mang so sánh với phần tử trí thức của các quốc gia khác, những đặc điểm chung đó do Nho đạo mà ra. Những đặc điểm ấy là: 1) Lấy tinh thần nhân văn làm hạch tâm lãnh đạo giải phóng khỏi kìm hãm tôn giáo rất sớm cho nên phần tử trí thức không là những giáo sĩ tu sĩ, kiểu Hồi giáo, Gia Tô giáo hay Rabbis của Do thái giáo hay Bà La Môn của Ấn Độ giáo. 2) Đối tượng trí thức tập trung vào hiện thực nhân sinh trên các mặt xã hội, chính trị, giáo dục, văn nghệ. 3) Thiếu hẳn khuynh hướng tìm biết về tự nhiên khoa học. 4) Không có cái say mê cuồng tín của tôn giáo tính. 5) Khác hẳn với phần tử trí thức Hy-La, đa số là nô lệ chủ, phần tử trí thức Nho là đại biểu của bình dân đem trí lực ra để chống với vũ lực và kim tiền lực. Người trí thức đạo Nhi tuân theo truyền thống xem chính trị là con đường duy nhất để cho mình phát triển lý tưởng và hoài bão đối với xã hội nhân sinh.
Vũ trụ chức phận nội Đấng trượng phu một túi kinh luân Thượng vi đức hạ vi dân Nên nỗi phải xuất thân mà gánh vác Có sự nghiệp đứng cùng trời đất Không công danh nát với cỏ cây Trí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuấy Phải tùy thế mà ra tay kinh tế Người đời thế trả nợ đời là thế Của đồng lân thiên hạ của chung Hơn nhau hai chữ anh hùng (Nguyễn Công Trứ)
Khổng Tử chỉ về giảng học viết sách khi thấy mình đã về già, cũng như cụ Phan Bội Châu than thở: “lập thân tối hạ thị văn chương”. Tuy nhiên, không ai quên cho được chính trị. Vì say mê chính trị, vì chỉ chú trọng đến các vấn đề quốc gia bình trị, kinh tế mãn túc và giáo hóa sương minh nên các loại trí thức khác như thiên văn, y họa, âm nhạc v.v… đều được coi làm một nghệ, một kỹ, thì giờ dư dả mới xem xét đến cho rộng đường kiến thức mà thôi, cho nên đa số trí thức đã không phát triển. Toàn bộ trí thức Nho đạo “không quên được chính trị” như vậy, tại sao tư tưởng chính trị nho cũng không được đa hình đa dạng, không phồn vinh như tư tưởng chính trị Tây phương hiện đại? Giáo sư Tiền Mục, một sử gia Trung Quốc viết: “Ấy là tại phần tử trí thức trong lý tưởng của họ không vì chính trị mà làm chính trị, không đem chính trị thoát ly khỏi trung tâm nhân văn”. Giáo sư Hồ Thu Nguyên viết: “Ấy là tại phong độ nho và hiệp của phần tử trí thức đã tìm mọi cách gạt bỏ cái mặt ác của chính trị mà đẩy mạnh lý tưởng hóa chính trị. Nếu không làm được như thế thì chính trị cũng chỉ là nhất nghệ nhất kỹ mà thôi chứ chẳng hay đẹp gì nữa mà đáng trọng”. Trong lịch sử đời Trần có vụ sau khi nhà Nguyên thất trận hai lần nên phải chịu hò hiếu bang giao với nước ta. Vua Nhân Tôn liền sai quan đưa bọn tướng tá tù binh Mông Cổ về Tàu như Tích Lệ, Cơ Ngọc, Phàn Tiếp. Riêng tướng Ô Mã Nhi là tên đã giết hại nhiều người Việt, để rửa hận cho nhân dân Việt nên vua mới dùng mưu của Trần Hưng Đạo đem ra giữa bể rồi sai người đánh đắm thuyền cho chết đuối. Về sau vua Dực Tôn xem hồ sơ vụ này có phê bốn chữ “Bất nhân phi nghĩa”. Giết kẻ thù tàn ác mà còn bị phê phán là bất nhân phi nghĩa trong khi tư tưởng Machiavelli bên Tây phương nổi bật bằng sự ca tụng các việc làm thật tàn nhẫn của César Borgia. Học trò ông Khổng Tử có lắm người tài giỏi: Tử Lộ giỏi dùng binh, Nhiêm Cầu giỏi tài chính, Công Tây giỏi ngoại giao, thế nhưng Khổng Tử lại chịu nhất Nhan Hồi lẵng cơm bầu nước ôm ấp lý tưởng cửu đức: khoan nhi túc, như nhi lập, nguyện nhi cung, loạn nhi kính, nhiễu nhi nghị, trực nhi ôn, giản nhi liêm, cường nhi nghĩa. Không vì chính trị mà làm chính trị, chính là vì dân, vì lý tưởng của toàn thể nhân văn mà làm chính trị cho nên trí thức chuyên tài không được chuộng bao nhiêu. Cổ nhân nhất định không chịu để chính trị thoát ly toàn thể con người đem chính trị độc lập hóa, như thế ý nghĩa nguyên hữu của chính trị sẽ mất đi. Ở sách Luận Ngữ, Khổng Tử nói: “Hiếu hồ duy hiếu, hữu ư huynh đệ thi ư hữu chính, hề kỳ vi chính” nghĩa là: “Hành động hiếu nghĩa với cha mẹ, thân mật với anh em cũng kể là chính sự cứ gì phải làm chính trị mới là chính trị?”. Ý bảo rằng sinh hoạt thường ngày trong gia đình chính là sinh hoạt chính trị vậy. Cổ nhân mang chính trị tan hòa với toàn thể đời sống con người. Nếu ai có chuyên ý để đưa mình thành một chính trị gia tức thị người ấy khó thành một chính trị gia theo lý tưởng nho đạo. Lý tưởng ấy nhằm đem thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ xâu vào một chuỗi. Hành động với phương châm nội thánh ngoại vương. Nội thánh là thánh ý, chính tâm, tu thân, ngoại vương là trị quốc bình thiên hạ. Thánh đây hoàn toàn chỉ là một nhân cách phổ thông ai cũng có thể thành thánh nhân nếu người ấy có: - Trách nhiệm tâm tu thân để yên trăm họ (quân tử tu kỷ dĩ an bách tính) - Tự tôn tâm không lo, không sợ và không lầm lỡ (bất ưu, bất cụ, bất hoặc) - Phong độ nho gia trang, cung kiệm nhượng nhưng rất uy nghiêm, cương nghị.
* **
Phần tử trí thức quên không được chính trị nên chính trị sinh mệnh với trí thức phần tử gắn liền với nhau. Nhìn vào lịch sử Việt, sự quan hệ giữa phần tử trí thức với chính quyền bình thường là hợp tác, nếu mâu thuẫn là biến thái. Hợp tác tạo thành thịnh trị như đời Lý, đời Trần và đời Lê. Mâu thuẫn gây thành suy đồi như đời Trịnh, đời Nguyễn (triều Tự Đức). Khi phần tử trí thức phấn phát hoạt động thì chính trị chuyển động như đời Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Gia Long với Nguyễn Hữu Chỉnh, Ngô Thời Nhiệm, Đặng Trần Thường v.v… Khi phần tử trí thức tuyệt vọng với thời đại thì chính trị bại vong như lúc phong trào Cần vương thất bại, đô hộ thực dân được củng cố. Cho đến lúc phần tử trí thức sau thời gian mai danh ẩn tích, sự nghiệp rèn luyện giáo hóa thành thì chính trị phục hưng. Nếu phần tử trí thức hèn hạ từ bỏ tự tôn tâm trách nhiệm trở nên hư nhược và tì ô thì chính trị nô lệ. Ở chính trị Việt, sĩ khí với dân tâm quan trọng ngang nhau. Sĩ khí một khi đã trụy lạc thì tài trí cũng tiêu ma. Muốn cho xã hội băng hoại không gì bằng tiêu tự tôn tâm của phần tử trí thức, muốn cho quốc gia diệt vong thì hãy chinh phục văn hóa của quốc gia đó rồi thay vào đó một đội ngũ trí thức bán nước. Vào cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, đế quốc luôn luôn áp dụng chính sách trên. Hình ảnh này đã được tác gỉ Nam Xương tả trong vở kịch “Ông Tây An Nam”. Vở kịch kể chuyện: “Cửu ông cho con đi Pháp học mới đỗ cử nhân trở về nước. Cửu ông bảo vợ đi đón. Cử Lân đã quên hết tiếng mẹ đẻ phải dùng thông ngôn, đã nhờ cảnh sát bỏ bót mẹ vì cái con mụ đàn bà bản xứ bẩn thỉu này cứ theo nó lẽo đẽo để ăn cắp. Hai ông bà rất khổ tâm về cái ngây ngô mất gốc của thằng con. Bị lạc lỏng, cử Lân đâm hối tiếc việc trở về An Nam của mình và nó nhất định về Pháp để làm cái luận án tiến sĩ về những thủ tục của dân An Nam thấp hèn, rồi sẽ ở hẳn bên đó”.
Xin trích dẫn một đoạn:
Cử Lân : C’est ici ma maison? Cửu ông : Ấy kìa con, con đã về, con đã về! Cử Lân : (cau mặt) Quel est ce vieux fou là? Cửu ông : Thầy ra đón con không được, thật là bất đắc dĩ. Nhưng mẹ con đâu? Mẹ con ra đón con đó mà. Cử Lân : Que signifie? Cửu ông : Vậy con ngồi xuống, xuống đây. Cử Lân : Veut-il par hasard me manger? Khiếu (thông ngôn) : Me xừ lúy điếc papa me xừ. Cử Lân : Monn père? Oh hơ hơ! Khiếu : Có thật cụ là bố quan cử tôi không? Cửu ông : Chao ôi, con quên thầy rồi hay sao? Hồi con đi Tây, thầy đưa con xuống tận Hải Phòng đấy mà. Tháng tháng thầy vẫn gởi tiền cho con ăn học đấy mà. Cử Lân : (hơi nhận ra) Possible (rồi ôm lấy Cửu ông mà hôn) Excuse-moi papa, je ne trí thức’avais pas reconnu. Khiếu : Quan tôi xin lỗi cụ vì trước không nhận ra. Cửu ông : (cũng bá chặt lấy cổ Cử Lân và ấn xuống ghế bảo ngồi). Con đi lâu về thường quên thật. Thôi thầy chả bắt lỗi con đâu. Cử Lân : (sẽ đẩy ông Cửu ra). Oh pouf! Il m’étouffe avec son odeur indigène. Dis-lui de ne plus recommencer, je te prie (cầm mùi soa phe phẩn trước mũi). Khiếu : Cụ ạ, cụ làm quan tôi suýt chết ngạt về cái mùi bản xứ của cụ. Bận sau chớ thế nữa nhé. Cửu ông : (ngạc nhiên) Con nói thế ấy ư con (rồi ngoảnh lại nhìn Khiếu). Hay là mày nói láo? Khiếu : À cái nhà ông cụ này cho tôi là ai? Cử Lân : Qu’est-ce? Khiếu : Moa lúy điếc moa anh tê dét me xừ moa ba bồi lúy (ngoảnh lại Cửu ông nói) Tôi chẳng gì cũng là thông ngôn cho quan Cử. Cửu ông : Thì mày cũng là đày tớ con tao chứ gì? Khiếu : Đày tớ con cụ chớ đày tớ cụ à? San vi ơ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trí thức nô lệ kiểu “Ông Tây An Nam” qua kinh nghiệm sử Việt chỉ có thể xóa bỏ đi bằng một phong trào thư sinh hào kiệt khi loạn thế, đã tạo cơ hội cho anh hùng khai quốc, chỉ có thể ngăn chặn bằng đấu tranh thường trực của phần tử trí thức yêu nước chưa bị đế quốc tiêu diệt bằng vũ lực hay bằng dụ dỗ hay bằng văn hóa.
*
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:04:51 GMT 9
**
Theo truyền thống, phần tử trí thức Việt là đại biểu của quần chúng bình dân. Họ có nhiệm vụ phải đem lý trí tự giác của họ phổ biến hóa vào đại chúng. Công năng trí thức biểu hiện trên thân phần tử trí thức, nhưng mục tiêu tối hậu và đối tượng của trí thức là đại chúng. Nhà Nho có câu: “Môn sắt đàm chính” nghĩa là vừa bắt rận vừa nói chuyện lớn trong thiên hạ. Xin chớ đứng trên quan điểm “vệ sinh” kiểu “Ông Tây An Nam” mà phê phán câu này vì nó thực là một hình ảnh đẹp của người trí thức đại chúng hóa chứ chẳng phải vấn đề sạch hay dơ, nó cũng là con đường cứu nước quen thuộc mỗi khi dân tộc ta rơi vào tay thống trị ngoại bang, con đường đi đến đồng ruộg ngun ngút với đông đảo nông dân, nó cũng là nơi dụng võ của anh hùng mỗi lần quốc biến. Em khôn em ở trong hồ Chị dại chị ở kinh đô chị về Kinh đô thì mặc kinh đô Chị đi chỗ ấy thì đồ chị tan Câu ca dao trên nói lên tình cảnh khôn dại của kinh đô với “trong hồ” khi nước ta bị đặt dưới đô hộ nhà Minh, cuộc sống kinh đô phè phỡn thật đấy nhưng nhục nhã ê chề. Trên phương pháp, đành rằng phần tử trí thức thường phải từ thượng tầng chính trị để ảnh hưởng xuống hạ tầng xã hội, có thế hiệu quả mới dồi dào. Nhưng có nhiều thời kỳ phần tử trí thức mong theo khoa cử tới với lợi lộc mà quên hẳn trách nhiệm đại chúng hóa. Những thời kỳ ấy thảy đều là những thời kỳ chính trị đen tối, như hồi Trịnh làm chúa ở xứ Bắc và triều đại Tự Đức gây thành xung đột đối kháng giữa phái khoa cử lợi lộc với phái đọc sách giảng học sống cùng đại chúng. Điển hình là vụ Cao Bá Quát chống nhóm thi xã của Tùng Thiện Vương Tuy Lý Vương đẩy bọn giả sĩ sang một bên, tự mình trương cờ lập trận tuyến cho bọn chân sĩ. Ở những cuộc xung đột này, bọn giả sĩ lúc nào cũng dùng đủ mọi thủ đoạn để đoạt thắng lợi, còn nhóm chân sĩ chỉ có tấm lòng cao thượng gây dựng lực lượng tại hạ tầng xã hội. Cao Bá Quát uất hận về sự hủ bại của triều đình và cảnh lầm than cơ khổ của dân chúng, ông liền cùng Lê Duy Cự mưu khởi nghĩa, khôi phục Lê triều đánh đổ một chế độ thối nát. Việc không thành, Cao Bá Quát bị bắt và bị kêu án tử hình. Ngán cho cái mũi vô duyên Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An Mùi thối đây chẳng những là thối của văn chương mà còn là mùi thối của cả tập đoàn trí thức khoa cử lợi lộc nữa. Ông Cao Bá Quát đã từng nhiều lần đi thi nhưng vốn là một chân sĩ mong dùng chính tài để suy tấn xã hội, khác hẳn bọn giả sĩ chuyên dựa vào chế độ khoa cử để lẩn vào chính trị mong kiếm tước vị. Vì vậy, Cao Bá Quát không lần nào thi đỗ cả. Ông cũng biết như vậy nên khi học trò tiễn đưa ông vào kinh thi hội, ông có nói mấy lời tạm biệt, những lời đó cho thấy người chân sĩ thời ấy cô đơn nhường nào: Xa xa từ đất cũ Thăm thẳm lên đường dài Ngoài thành trời lành lạnh Lấm tấm hạt mưa mai Học trò tiễn ta đi Bước theo không nỡ rời Nam nhi mà thế ư Nước mắt đầm đìa rơi Nhớ xưa ta đã từng Đường xa rong ruổi hoài Chuyến này lại lẽo đẽo Nào đã chắc hơn ai Vào đời có văn chương Thì đem mà góp chơi. Cổ nhân bảo nước ta là một nước văn hiến chi bang, câu nói thông thường của các nhà sử học là bốn ngàn năm văn hiến. Nếu chỉ chấp nhận ý nghĩa văn hiến để làm biện luận đầu lưỡi thì văn hiến chi bang sẽ dễ trở nên khôi hài trong cái đầu óc nông cạn của bọn tân học. Văn hiến mà cổ nhân nói đây không phân biệt tân cựu, tổ tiên chỉ muốn dạy con cháu rằng sinh mệnh đặt trong tay văn hóa học thuật. Câu đó cũng cho chúng ta một quy luật chính trị lưu cữu cả bốn nồan năm: sinh mệnh lực đất nước đặt trong tay phần tử trí thức, đặt trọng trách nhiệm tâm và tự tôn tâm của phần tử trí thức. Đấu tranh của trí thức làm chính trị phục hưng, trí thức đi xuống làm chính trị trì trệ, suy vong. Giáo sư Hồ Thu Nguyên viết: “Cái tội lớn nhất, ác độc nhất của bọn thống trị là tìm cách phá hoại liêm sỉ của người đọc sách, nó còn ghê gớm gấp bội sự phá hoại văn hóa học thuật. Có người hỏi rằng đạo đức và trí thức là hai vấn đề khác hẳn, liêm sỉ với văn hóa đâu có liên quan gì với nhau. Kỳ thực đạo nghĩa là rễ của văn hóa bởi vì nguồn gốc tội ác do nơi vô tri. Người sở dĩ thành người chỉ ở điểm ngoài mình ra còn tưởng nghĩ đến tha nhân, ngoài ngày hôm nay còn biết nghĩ đến ngày mai. Từ đó mới gắng sức dùng trí lực giao cảm cùng nhân quần mà phát triển đức tính và tài trí để sáng tạo văn hóa. Vô liêm sỉ tức là mất trách nhiệm tâm, mất tự tôn tâm chỉ biết dùng trí để kiếm ăn cho thân, thu trí hẹp vào trong bản năng sinh kế, mọi việc xã hội, giang sơn coi như việc lạ thì chuyện vong quốc làm sao tránh được? Bởi vậy mới nói rằng quốc vận luân lạc trước tiên lỗi ở bọn trí thức hèn hạ, sau đến lỗi ở bọn trí thức vô năng rồi mới đến lỗi ở các nguyên nhân khác”. Khi quốc gia ở cửa ngõ của loạn vong mà nước không mất là nhờ ở phần tử trí thức đấu tranh chống xâm lược, cự tuyệt hợp tác với thối nát, bồi dưỡng, bảo trì và cổ động sinh cơ của dân tộc xã hội. Nguyễn Cao, thủ khoa năm Đinh Mão (1867) làm tán lý quân vụ. Khi triều đình ký hòa ước với Pháp, ông bất mãn xin treo ấn từ quan. Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn xuống chiếu cần vương, Nguyễn Cao tìm đến khu Bãi Sậy phụ lực với Nguyễn Thiện Thuật chuyên giữ việc huấn luyện du kích thường đánh phá các đồn Pháp. Sau Pháp phải dùng đại binh hợp cùng quân Hoàng Cao Khải và Lê Hoan thắt chặt vòng vây Bãi Sậy. Nguyễn Thiện Thuật phải chạy lên Thái Nguyên vượt biên sang Trung Hoa. Nguyễn Cao về nương náu tại làng Kim Giảng mở trường dạy học. Vốn người đạo đức nên Nguyễn được khắp vùng kính nể. Ngày kia, một nhà nho đến xin đôi câu đối mừng một ông tiến sĩ đang làm quan to, Nguyễn Cao viết cho. Không dè khi ông tiến sĩ kia đọc câu đối, ngờ tác dụng mỉa mai mình bất trung vì đã ra hợp tác với Tây, bèn ngầm báo cho quan trên cho bắt Nguyễn Cao. Khi giải Nguyễn đến trước mặt quan Tây và Nam trong số có Hoàng Cao Khải, Lê Hoan, chúng dụ dỗ Nguyễn Cao ra làm quan. Ông từ chối. Chúng dọa nạt tra tấn. Ông thản nhiên nói: “Tôi đâu có sợ chết, tôi sẽ có cách tự tử khỏi phiền đến ai”. Nói xong, ông thò tay vào trong áo lấy mảnh sành đã dấu sẵn, mạnh tay khoét rốn, rút ruột ra vứt lên mặt Hoàng Cao Khải mà chửi rủa thậm tệ. Lát sau, miệng Nguyễn Cao trào máu ra, ông đã cắn lưỡi tự tận. Phan Văn Trị, 20 tuổi đỗ cử nhân nhưng tính khí phóng khoáng không chịu ra làm quan, ở nhà dạy học hốt thuốc độ nhật. Lúc Pháp sang chiếm Gia Định, Phan Văn Trị là người hăng hái cổ động chống Pháp. Đồng thời với Phan Văn Trị có Tôn Thọ Tường hợp tác cùng Pháp muốn lôi cuốn bằng hữu vào một đường với mình, chẳng ngờ các bạn từ đó đều quay mặt đi, ai cũng mỉa là tên bán nước. Tôn bị cô lập lại bị mạt sát dữ dội, tự thấy hối hận và bởi trót mắc vào vòng rồi, mới làm 10 bài thơ chữa cho tội của mình và thanh minh với dư luận. Mười bài thơ ấy khi đem phổ biến ra liền bị Phan Văn Trị họa lại gây thành một cuộc bút chiến sôi nổi. Kế đấu tranh của phần tử trí thức thường biểu hiện trên bốn phương diện: - Tại trung ương chính quyền dùng cái chết tuẫn đạo để noi gương trung liệt. - Rút lui về các địa phương làm công tác giáo hóa bảo vệ quốc gia chính khí. - Vũ trang chống nhau với giặc. - Tìm cách phục hưng chủ lực bằng tìm một phương hướng mới cho đấu tranh, trở về cùng dân gian xây dựng phong khí tiến bộ và ái quốc.
* **
Giữa triều Minh bên Tàu, có vị danh nho làm bài thơ chất phác sau đây để giáo hóa dân tộc: Mỗi nhật thanh thần nhất chú hương Tạ thiên tạ địa tạ tam quang Đản nguyện xứ xứ điền hòa thục Hựu nguyện nhân nhân thọ mạnh trường Quốc hữu hiền thần an xã tắc Gia vô nghịch tử não già nương Vạn phương bình tĩnh can qua tức Ngã túng bần cùng dã bất phương nghĩa là: Mỗi buổi sáng sớm thắp một nén hương Tạ ơn trời đất, tạ ơn tam quang Cầu nguyện nơi nơi đầy đồng lúa chín Lại cầu cho mọi người sống thọ trường Giúp nước có hiền thần an xã tắc Trong nhà không nghịch tử phiền mẹ cha Bốn phương yên ổn, lửa chinh chiến tắt Thì dù tôi nghèo tôi cũng chẳng buồn Bài thơ đó diễn tả tâm lý thiện lương của sĩ đại phu đương thời. Nhưng đồng thời nó cũng nói lên cái nọa tính của chính trị “nhân nghĩa”. Nọa tính của chính trị “nhân nghĩa” đã khiến cho phần tử trí thức thường ôm chặt lấy lý tưởng chính trị mà không tích cực thỏa hiệp với hiện thực chính trị. Đám sĩ phu Việt dưới triều Nguyễn đã chiêm nhiễm vào trong máu huyết cái nọa tính của chính trị “nhân nghĩa” này. Do đó, họ thiếu hẳn chuyên tài chính trị cần thiết. Hãy nhìn những hoạt động của Phan Thanh Giản và cả triều đình Tự Đức trong việc thương thuyết với Pháp thì thấy rõ. “Sứ bộ Phan Thanh Giản gồm có Trần Tiến Thành, Phan Huy Vinh với hai thông ngôn Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Văn Sang cùng 62 tùy viên đem sang cái kiệu lớn sơn son thếp vàng, 4 cái lọng làm tặng phẩm cho hoàng đế Napoléon III và nữ hoàng Isabelle. Vào thời gian này, Pháp đang theo đuổi chiến tranh với Mễ Tây Cơ, một cuộc chiến làm cho Pháp kiệt quệ, nội bộ phản đối lung tung. Phe phản đối chống chính quyền Pháp đã để bị lôi cuốn vào những cuộc chiến tranh tại những nơi quá xa chính quốc. Lẽ đương nhiên Napoléon III bấy giờ rất sợ chiến tranh An Nam bùng nổ. Vua Pháp chưa biết tìm cách gì trấn áp nội bộ thì vừa dịp sứ bộ Phan Thanh Giản tới đặt vấn đề bỏ tiền ra chuộc 3 tỉnh về. Napoléon liền vin vào vụ chuộc này cho báo chí loan tin sẽ có 100 triệu đồng vàng để lấp lỗ hổng công quỹ này. Khi đến gặp vua Pháp ở điện Tuileries, triều đình Pháp dựng lên cả một lễ nghi long trọng để đón tiếp. Ông Phan Thanh Giản dâng quốc thư lên. Pháp hoàng bước xuống một bước để tiếp nhận. Rồi Ông Phan Thanh Giản vẻ mặt ủ dột, nước mắt đầm đìa bày tỏ mục đích của sứ bộ ta. Kết quả, Phan Thanh Giản chuộc được 3 tỉnh nhưng lại dâng cho Pháp quyền cai trị Sài Gòn, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Vũng Tàu, đảo Côn Lôn. Phan Thanh Giản vừa dâng tiền vừa mất thêm đất. Cả chì lẫn chài đều tiêu ma. Thuận thiên ứng dân (lời thánh hiền dạy) nay phải chạm trán một loại xâm lược mới của văn minh thương công nghiệp, của khoa học với thủ đoạn tàn nhẫn vũ khí mới lạ với phương pháp tổ chức, tương quan chính trị khác hẳn thì sự tai hại của nọa tính do chính trị “nhân nghĩa” hiện lên. Thuận thiên ứng dân không tuyệt đối hiệu lực như trước kia nữa vì bọn cướp nước có thuyền kiên pháp lợi, súng đạn nổ như sấm sét”. Học thuật, văn hóa và phần tử trí thức dưới thời Tự Đức chúi mũi vào từ chương thi phú bỏ mặc hiện thực xã hội: Nhai văn nhá chữ buồn ta Con giun còn biết đâu là cao sâu Giật mình khi ở xó nhà Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi. (Cao Bá Quát) Nay thấy người da trắng trong một ngày trời, bằng một số quân ít ỏi , đã hạ của ta năm thành thì hoảng hồn không hiểu ất giáp gì nữa. Cụ Hoàng Giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị có tả tình trạng hỗn loạn ấy trong bài “Phú kể lại giặc Pháp đánh Bắc Kỳ lần đầu”, xin trích một đoạn dưới đây: “Vua sẵn tính cao Tôi sum tài lạ Văn thì ông cử, ông nghè, ông hoàng, ông bảng khoa trước khoa sau Võ ròng ông quản, ông lĩnh, ông thống, ông đề phẩm kia phẩm nọ Có mũ, có xiêm, có cờ, có biển rõ ràng khoa mục phong lưu Nào phủ, nào việt, nào ủng, nào hia chĩnh chện triều đình danh giá Gươm bạc tô đầu hổ, dàn trước mặt cũng oai linh Lọng xanh kéo cổ gà, che trên đầu càng nghiêm nhã Kẻ ở ngoài phiên ra sức chi gác Tôn Ngô Người vào trong các bày mưu, mắt không Đổng Giả Văn võ ấy mà giang sơn ấy, dẫu hùng binh Ô Mã có làm gì Thành quách này lại giáp binh này, dẫu cường lỗ Hoàng Sao coi chẳng sá Quái nhỉ Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình, Hà Nội thành vàng áo nóng mấy lần Kìa như tổng đốc, bố chánh, án sát, lãnh binh tiền bổng, gạo lương bao tá Sao thấy thằng trọc đầu răng trắng, gối run như chứng kinh phong (chỉ bọn cờ đen) Sao thấy thằng mũi lõ, tóc quăn, mặt xám như hình lôi đả? Nghe cửa tiền rầm pháo nổ, ngọn cờ theo gió phất xuôi Mở nẻo hậu cho quân lui, bỏ giáo rơi đường tơi tả…
* **
Tiếng súng thần công của Tây đã đẩy phần tử trí thức từ trong đống giấy từ chương chui ra ngoài rồi hoảng nhiên bảo nhau: “Vì chúng ta không có tân học thuật nên không có tân nhân tài mà thành ra không ứng phó được với tân cục diện”. Loại bọn trí thức đem đầu “lạy Tây mà chẳng hổ bảng vàng bia đá” ra bên ngoài không kể, còn lại phần tử trí thức vẫn hoài bão kháng Tây thì một số lớn chủ trương bất hợp tác để vẹn toàn danh tiết: Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ Ấy hồn Thục Đế chết bao giờ Năm canh máu chảy đêm hè vắng Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ Có phải tiếc xuân mà đứng gọi Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ Thâu đêm ròng rã kêu ai đó Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ (Nguyễn Khuyến) Mợ vẫn bảo vần Tây chẳng khó gì Cho tiền đi học để chờ thi Thôi thôi lạy mợ “xanh căng” lạy Mả tổ tôi không táng bút chì Một số khác chủ trương tìm học văn minh phương Tây để đánh Tây: Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si Nguyên trục trường phong Đông hải khư Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi (Phan Bội Châu) nghĩa là: Non sông mất rồi chỉ là nhơ nhuốc Sách vở thánh hiền tẻ ngắt đọc chỉ mụ người Ta muốn đuổi theo gió đi qua biển Đông Cùng bay nhảy với muôn ngàn sóng bạc. Ông Phan Châu Trinh làm bài phú “Danh sơn lương ngọc” có những câu: Nguyên nước ta từ khi dựng nước Ở vào miền Đông Á một phương Dưới đến Trần Lý Trên tự Hồng Bàng Lòng người thuần phúc Khí dân quật cường Đuổi Tô Định ở Lĩnh Biền Bắt Mã Nhi ở Phú Lương Vừa vẫy cờ mà Chiêm Thành đã mất nơi hiểm yếu Mới rung kiếm mà Châu Lạp đã phải mở biên cương Mạnh thay nước tổ Dễ ai dám đương Chỉ vì một phen thất sách Nên để muôn đời tai ương Tục chuộng văn chương Người ham khoa mục Vế lớn vế nhỏ, suốt tháng dùi mài Ngũ ngôn thất ngôn, quanh năm lăn lóc Ngóng hơi thở của quan trường để làm văn sách Chích có thể cho là phải, Thuấn có thể cho là trái Nhặt cặn bã của Trung Quốc để làm phú từ biền thì nhất định phải tứ, ngẫu thì nhất định phải lục Nhâu nhâu phường danh lợi chợ Tề đánh cắp vàng Lơ thơ kẻ hiền tài, sân Sở buồn dâng ngọc . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* **
Văn hóa là gì?
Hãy để ra ngoài những giá trị và ý nghĩa trừu tượng, giản đơn ta có thể trả lời như sau: “Văn hóa là tổng hòa tất cả những sáng tạo trong trường kỳ lịch sử và sinh hoạt của một dân tộc. Giản đơn hơn nữa để mà giảng thì văn hóa là một thủ đoạn để tranh sống”. Bởi vậy cho nên ngày nào văn hóa không mãn túc nổi yêu cầu căn bản là tranh sống thì văn hóa đó cần được cải biến nhằm thích ứng với hoàn cảnh mới. Hãy đọc lại những ý của ông Phan Chu Trinh: Trần Lý Hồng Bàng khí dân quật cường; đuổi Tô Định, bắt Mã Nhi, vẫy cờ chinh phục Chiêm Thành vung kiếm mở cõi biên cương, nói lúc văn hóa Việt đang thời rạng rỡ. Rồi chỉ vì một phen thất sách nên để muôn đời tai ương, nói thời kỳ nọa tính tạo thành khuyết hãm của văn hóa Việt khi chạm trán với Tây phương. Nguyên nhân của một cuộc thất sách là tục chuộng văn chương người ham khoa mục do chính sách thư lại từ đời Gia Long lưu lại. Vì khổ nhục với Quang Trung nhiều phen nên Nguyễn Gia Long rất thù ghét những bộ óc sáng tạo và chính sách khai phóng rực rỡ của văn hóa đầy cách mạng dưới triều đại Nguyễn Tây Sơn để thay vào đấy một bộ máy thư lại chặt chẽ bảo thủ. Do đó, Nguyễn Gia Long tuy là người rất sớm có những liên hệ mật thiết với Tây phương nhưng lại là người không học hỏi được gì ở văn hóa của văn hóa Tây phương mặc dầu ông đã cho hoàng tử Cảng sang Pháp, mặc dầu bên cạnh ông có những người Pháp giữ việc huấn luyện quân sự, làm tàu, đúc súng cho ông. Rút cục cái chuyện “nhờ Tây” của ông thành ra một đại tội với lịch sử cõng rắn cắn gà nhà sau này. Bọn Pháp mà đặt ông làm quan tại triều đã trở thành con ngựa thành Troie (Cheval de Troie nghĩa là tổ nội phản) của việc đánh chiếm nước Việt Nam. Khi Gia Long chết đi, vua Minh Mệnh có một đôi lần nói với triều thần về chính sách văn hóa thư lại rằng: “Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Trẫm nghĩ văn chương vốn không có qui củ nhất định mà nay những văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hủ sáo khoe khoang lẫn nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày mỗi kém đi. Song tập tục đã quen rồi khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại”. Nói bỏ đấy nhưng vì chính trị thư lại đã ăn sâu bén rễ chắc quá lắm rồi khó lòng nhổ bật lên được. Phải chờ đến lúc nước mất nhà tan mới phản tỉnh và trách nhiệm vận động cứu nước lại được trao vào tay phần tử trí thức.
* **
Vấn đề dân tộc là vấn đề lịch sử và văn hóa. Vấn đề lịch sử là vấn đề của dân tộc và văn hóa. Vấn đề văn hóa là vấn đề của lịch sử và dân tộc. Chỉ có lịch sử và dân tộc mới tạo thành văn hóa. Chỉ có dân tộc và văn hóa mới tạo thành lịch sử. Cả ba không tách rời. Trong đó chính trị là bộ môn trọng yếu nhất của văn hóa, dân tộc và của lịch sử. Chính trị vấn đề không giải quyết, lịch sử văn hóa và dân tộc sẽ theo đó đi vào ngõ bí. Như trên đã nói: “Nọa tính của chính trị nhân nghĩa khiến cho phần tử trí thức thường ôm chặt lấy lý tưởng chính trị mà không tích cực thỏa hiệp với thực tiễn chính trị. Đến lúc phải đương đầu với thực tiễn chính trị đám sĩ phu như chim chích lạc vào rừng. Tỉ dụ: trường hợp cụ Phan Bội Châu mắc vào lưới đế quốc, qua Nhật bị Nhật bắt tay với Pháp đuổi đi, sang Tàu bị bọn Long Vân, Đường Kế Nghiêu nhận tiền của Pháp bắt giải về cho Pháp. Tỉ dụ: trường hợp Nguyễn Thái Học khởi nghĩa ở Yên Bái bằng những quả bom ném nổ nhưng không chết người mà sau này một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng khai trước tòa án Tây đó là những quả bom “nhân nghĩa”. Trải qua nhiều thất bại, đám sĩ phu chết dần mòn hoặc đã gì không còn sức tiếp tục đấu tranh nữa thì chủ trương học tập Tây để đánh Tây do phần tử trí thức “kinh đô” chuyển dần thành Tây hóa, từ vầu biến để thích ứng đổi sang phủ nhận văn hóa chế giễu bọn nhà quê Lý Toét, Xã Xệ. Vì thiếu chuyên tài chính trị, nhóm vận động Tây hóa đã lọt bẫy đế quốc bằng việc cắt đoạn sinh mệnh xã hội Việt ra làm hai, tỉnh thị và nông thôn, cành tự lìa bỏ gốc để sống “tháp” vào sinh hoạt luân hãm. Người trong nước bị phân ra hai thế giới, hai hệ thống, hai tâm trạng cách nhau như hai hành tinh. (Les deux systèmes, les mentalités Suzanna’écartaient sur place d;une distance interplanétaire-Paul Mus). Người nông dân dai dẳng chống Pháp để dành quyền làm dân Việt trong khi trí thức phần tử tranh đấu cố bắt chước sao cho giống Tây (Paul Mus). Bọn thực dân không mong gì hơn, sau vụ nông dân nổi dậy chống thuế ở Trung Kỳ, chúng đã hiểu chúng không thể nào kiểm soát mãi cái lực lượng làng xã mênh mông lũy tre xanh ngắt, khu vực tiềm ẩn của quốc lực Việt. Jean Chesneaux viết: “Ce sont les paysans sur qui pèse le plus lourdement l’occupation qui vont prendre l’initiative d’un mouvement d’émancipation. Contre les garnisons chinoises, la résistance Suzanna’organise spontanément dans là vieille, la résistance Suzanna’organise spontanément dans la vieille région de paysannerie pauvre d’òu partiront par la suite bien d’autres mouvements”. (Chính nông dân là áp lực đè nặng lên chế độ chiếm đóng, nó cũng là lực lượng phát động phong trào giải phóng. Để chống quân đội chiếm đóng Tàu, cuộc kháng chiến được tổ chức ở các vùng đồng ruộng nghèo nàn cũ kỹ nơi khởi sự cho cả nhiều phong trào khác nữa). A. Pazzi viết: “Có một số trí thức vong bản không hề nhìn thấy giá trị đích thực của dân tộc họ, họ không nhìn thấy sức mạnh chứa đựng nơi vùng đồng ruộng Việt Nam. Nói về xứ sở của họ sẵn có những thành kiến nguy hại, thiên về chỉ trích để chứng tỏ biết nhiều về các nước ngoài, hoặc đã được các nước ngoài giáo dục. Dù nước ngoài ấy là kẻ muốn làm ô nhục nòi giống của họ, họ không có tấm lòng gắn bó thiết tha để nhìn thấy mảnh xương phơi trên núi, giọt mồ hôi tưới trên luống cày của bao nhiêu đời cay đắng gây dựng”. Truyền thống đấu tranh của văn hóa Việt là văn hóa “hóa”, tìm học người đem hóa làm của mình, chứ không học người để phủ nhận tất cả những gì của mình. Tự chủ và nô tính nằm ở ranh giới đó. Chính trị nhân nghĩa gây ra nọa tính cần trừ khử nhưng dân tộc, tinh thần lại cần phải giữ. Nếu nhận thức chính trị sai, nếu học vấn không được điều khiển bằng trí tuệ thì cuộc đấu tranh cho dân tộc, văn hóa lịch sử sẽ đi vào tử địa.
*
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:06:21 GMT 9
GIÁO DỤC
Giáo dục là khởi điểm và chung điểm của chính trị. Thái Địch Lý Đông A
Pour bâtir il faut savoir. Mikhail Kalinine
La vraie politique de l’Ecole, c’est l’histoire de la Patrie, du long effort par lequel elle Suzanna’est constitué, c’est l’intelligence de ses traditions de sa culture, de son rôle dans le monde. Gabriel Séailles
Chính trị, kinh tế, quốc phòng đương nhiên là ba vấn đề trọng yếu, nhưng giáo dục lại căn bản và trọng yếu hơn vì muốn xây dựng, muốn chiến đấu thì trước hết phải biết đã. Nuôi con chẳng dạy chẳng răn Thà nuôi lợn béo mà ăn bộ lòng Người nông dân mộc mạc nơi điền dã mà còn đặt nặng vấn đề giáo dục đến thế huống hồ một quốc gia. Trước hãy nói qua về tình hình giáo dục trong lịch sử Tây phương để chúng ta có một ý niệm khái quát mà so sánh. Giáo dục Tây phương ở đây bắt đầu từ Hy Lạp, lúc ấy xã hội Hy Lạp có những người được gọi là triết nhân hoặc ngụy biện gia thường đi đấy đi đó dạy cho đám thanh niên nhiều loại biện luận về các vấn đề gây thành một phong khí học vấn đầy tranh cãi sôi nổi, tư tưởng không thể khơi thành một chính lưu. Về sau mới nổi bật lên hiền triết Socrate đánh bạt tệ hại của các phái ngụy biện bằng lý luận chân lý cho cộng đồng nhân sinh. Tuy nhiên, ở Socrate, người ta vẫn còn thấy rất đậm sắc thái của phương thức ngụy biện dùng để dạy học. Người học trò giỏi của Socrate là Platon có viết một cuốn sách nhan đề: “Lý tưởng quốc”, bên trong có đoạn khá dài nói rõ về một chế độ giáo dục của cái lý tưởng quốc như sau: “Đứa bé sinh ra đời phải được giao cho quốc gia và quốc gia sẽ nuôi nó trong một cơ quan chuyên giữ nhiệm vụ giáo dục. Đứa bé không cần phải biết cha mẹ nó là ai, nó chỉ biết nó là công dân của quốc gia mà thôi”. Cũng theo chủ trương của Platon, con người được chia ra làm nhiều loại trong lý tưởng, như: triết học gia, quân nhân, thương nhân, nông dân. Chính phủ căn cứ vào thi cử trắc nghiệm rồi phân định rõ rệt đào tạo, tạo thành những nhân vật tuyệt đối khác hẳn nhau. Lãnh tụ trị quốc đặt vào tay triết học gia. Như vậy, quốc gia trở nên một hiện thực của lý tưởng triết học. Toàn bộ công tác giáo dục phải phối hợp chặt chẽ với lý tưởng triết học ấy. Sách lý tưởng của Platon còn một thiên nói về chế độ vợ chung và chủ nghĩa tài sản chung. Thật là cuốn sách khá kỳ quặc, thế nhưng tư tưởng Platon rất có ảnh hưởng đối với Tây phươong sau này. Học trò Platon là Aristocrate khi đặt vấn đề giáo dục, ông đã loại bớt những ý tưởng quá khích của thầy và nhận rằng: giáo dục phải phối hợp với chính trị. Chính thể là trụ cột, giáo dục chỉ là công cụ của chính thể. Aristocrate nói: “Loài người là một động vật chính trị, người chỉ khác loài vật ở điểm người hiểu chính trị, tham gia chính trị, bởi thế giáo dục mới cần phải gắn liền với chính thể”. Qua sách đời Trung Cổ, nền giáo dục Tây phương hoàn toàn ở trong tay giáo hội Cơ Đốc. Cơ Đốc là tôn giáo xuất thế nhìn nhân gian như một nơi chứa chất tội lỗi, tất cả nên nhìn về nước Chúa và Thượng Đế. Cận đại quốc gia, trải qua thời gian khá dài của Trung Cổ, thời kỳ tranh đấu để thoát ly giáo dục giáo hội gây dựng quốc dân giáo dục, chính phủ dành lại quyền giáo dục dân chúng từ tay giáo hội đem giáo dục quay về lý thuyết của Platon và Aristocrate xưa kia. Đại đế nước Phổ nói, trong buổi diễn thuyết về giáo dục: “Những điều mà đại tướng Molke cống hiến cho nước Phổ không bằng vị giáo sư tiểu học của chúng ta”. Đúng thế, nước Đức lúc đó, giáo dục được phối hợp chặt chẽ với quốc sách của chính phủ. Từ bực tiểu học đã có quân sự giáo dục. Dân tộc chủ nghĩa được đặt làm mục tiêu tối cao của công tác giáo dục tinh thần. Sau này, Hitler lên nắm chính quyền còn đẩy mạnh hơn nữa kế hoạch và phương châm giáo dục của Phổ trước đây. Ông nói với Herman Rauschning: “Chúng ta giáo dục mộtt hế hệ thanh niên Đức sẽ làm đảo lộn thế giới, một thế hệ thanh niên tàn bạo, kiên quyết và lạnh lùng… Tôi muốn thanh niên phải là những con thú dữ hung hăng”. (Nous formerons une jeunesse qui fera trembler le monde: une jeunesse brutale, exigeante et cruelle… Je veux qu’elle soit pareille à de jeunes fauves). Hitler đã thực hiện tất cả những gì mà Platon ước mơ trong lý tưởng quốc về phương diện giáo dục. Ngoài giáo dục, giáo hội và quốc giáo dục, Tây phương còn có giáo dục tự do cá nhân cà chủ nghĩa hưởng lạc (hédonisme), trí thức và chân lý qua kỹ thuật và chức nghiệp đều đuổi theo một mục tiêu tối hậu là cá nhân chủ nghĩa cùng hưởng lạc tại hiện thế. Nói gọn lại giáo dục Tây phươngngày nay có ba đại loại: - tôn giáo giáo dục - quốc gia giáo dục - cá nhân tự do giáo dục Tuy trên lịch sử ba loại giáo dục này chống đối thay thế nhau nhưng trên thực tế, cả ba vẫn phối hợp với nhau tồn tại.
* **
Nền giáo dục Việt chính thức có hệ thống hẳn hoi bắt đầu từ đời Đinh-Lý do Phật giáo nắm giữ. Phật giáo đại thừa sang Việt Nam qua ngã Trung Quốc. Sách Lĩnh Nam trích Quái ghi: “Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ sau này, khi tuổi mới lên tám học ông sư ở chùa Tiêu Sơn”. Người Việt Nam làm quen với Phật giáo bằng những sách vở từ chữ Hán vào giữa lúc mà tôn giáo này đang phát triển mạnh tại Trung Quốc. Rồi tự đó có tác dụng ngược lại, Phậtgiáo sang Việt Nam làm cho Hán học ở đây rực rỡ thêm lên. Lý Công Uẩn gốc gác chùa chiền nay lên ngôi thiên tử, lẽ đương nhiên Phật giáo phải được chuộng, phải được giữ phần vụ lãnh đạo tư tưởng. Ngay lúc mới lên ngôi vua, Thái Tổ đã ban áo mặc cho tăng lữ. Sang năm sau lại trích ra hai vạn quan tiền để cất lên tám ngôi chùa ở phủ Thiên Đức. Rồi ở trong và ngoài thành Thăng Long cũng dựng lên mấy chùa lớn như chùa Hưng Thiên, Vạn Tuế, Thắng Nghiêm, Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ, Thiên Quang v.v… Sang năm thứ tám, Thái Tổ lại sai sứ thần sanga Tàu xin kinh Tam Tạng. Khi được vua Tống ban cho ông lại bắt một người Thiền sư tên là Phi Trí đi đến tận Quảng Tây đón về. Cách hai năm sau, Thái Tổ lại độ hết bàn dân thiên hạ làm sư và phát vàng bạc đúc mấy quả chuông để đem treo ở các chùa Hương Thiên, Đại Giáo Thắng Nghiêm. Đến năm Thuận Thiên thứ 15, ngài lại xây chủa Chân Giáo ở trong thành và bắt các sư vào đó tụng kinh rồi ngài thân hành đến nghe. Vua Thái Tôn nhà Lý trong năm Thiên Thành thứ tư xây dựng vừa chùa cừa quán tất cả chín trăm rưỡi sở. Đến năm Thiền Thụy thứ nhất lại đúc tượng Phật ở Đại Nguyên đặt ở thềm rồng. Sang năm Kiều Phú thứ hai, vừa vẽ vừa tạo mỗi đằng hơn một ngàn pho tượng và may hơn vạn lá phướn để đem phân phát cho các chùa. Qua năm Sùng Hưng đại bảo thứ hai lại dựng lên chùa Diên Hựu và cho sư vào tụng kinh. Rồi năm Long Thụy thứ ba lại cất ngôi chùa ở phường Báo Thiên và xây lại một ngọn tháp 12 tầng cao vài chục trượng và phát hai vạn cân đồng đúc một quả chuông. Đối với Phật giáo thì như thế, đối với Nho giáo nhà Lý chỉ có một lần xây Văn Miếu, đúc tượng Chu Công và vẽ tượng 72 học trò của Khổng Tử rồi bắt thờ cúng quanh năm và bắt Thái Tử tới đó mà học. Chủ ý của Lý triều là muốn mượn Phật giáo để tổ chức hóa, làm “xi măng” tư tưởng cho lực lượng chính trị. Khốn nỗi Phật giáo phươong nam Trung Quốc bấy giờ vào đời nhà Tống đã suy vi, chỉ phát triển qua chủ nghĩa cá nhân dùng tôn giáo Phật trọn vẹn bằng không tịch tinh thần, khác hẳn với Phật giáo phương bắc Trung Quốc lấy đau khổ phấn đấu mà đón nhận. Thành thử Phật giáo đời Lý vì tiếp cận với tinh thần không tịch nên không đáp ứng được với chủ ý của Lý triều, quan trọng hơn nữa là không đáp ứng được lịch sử phấn đấu của dân tộc. Bởi vậy, tới lúc Phật học đời Lý thiên hẳn về tinh thần không tịch thì nhà Lý mất, nhà Trần lên thay cho phục hưng và phát huy Nho giáo. Kể từ đấy, giáo dục Việt chuyển sang Nho phái lãnh đạo. Triết lý Phật trở thành một phần của sinh hoạt văn hóa khắp dân gian, còn thành phần tăng lữ thì không được trọng vọng như trước nữa.
*
**
Khổng Tử nói: “Đại chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sĩ thả cách”. (Lấy chính trị mà dẫn dắt, dùng hình phạt mà sai khiến, dân tuy sống trật tự nhưng lòng vô sỉ. Lấy đức mà dẫn dắt, dùng lễ mà tổ chức dân vừa sống khuôn phép lại biết liêm sỉ). Nho gia nói chính trị chỉ có mục đích duy nhất là đề cao dân cách, chỉ có thủ đoạn duy nhất là giáo dục. Chính trị ở đâu giáo dục ở đó. Điều kiện căn bản cho một lãnh tụ nhân tài là học thức phải tương xứng với địa vị. Thực tế, chính trị đều phải được giải quyết với ý nghĩa và giá trị giáo dục “Sĩ nhi ưu tắc học, học nhi ưu tắc sĩ”. Khổng Tử đề ra chữ “Nhân” để trộn đạo đức vào chính trị mà nung luyện, tiến hành kế hoạch mà gắn liền cá nhân vào xã hội. Giáo dục truyền thống đặt trên ba cơ sở văn hóa: a) Tôn tộc và gia tộc xã hội. Sống với quá khứ tổ tiên, sống với hiện tại gia đình họ hàng, làng xóm. b) Dân tộc và sự thân thân giữa người trong một nước: Nay ta hát một thiên ái quốc Yêu gì hơn yêu nước nhà ta Trang nghiêm bốn mặt sơn hà Ông cha ta để cho ta chum vàng Trải bao lớp tiền nhân dựng mở Bốn ngàn năm dãi gió dầm mưa Làm trai đứng ở trên đời Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta Ghé vai gánh đỡ sơn hà Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu c) Kinh tế nông nghiệp: Qui hồ nhiều lúa là tiên Rõ ràng phú túc bình yên cả nhà Giáo dục Nho có những đặc tính: 1) Tư tưởng luân lý 2) Tinh thần khoáng đạt 3) Trung dung chi đạo 4) Cần thực tế 5) Tôn sùng tình cảm Triết gia Mỹ Dewey nhận định rằng Nho học dạy con người: biểu hiện thuần tự nhiên, tri túc, an phận, khoan dung, hòa bình, trọng thế lực đạo đức văn hóa, coi thường thế lực vật chất. Luân lý tư tưởng là trung tâm vấn đề của triết học. Chính trị triết học, nhân sinh triết học, giáo dục triết học đều có một xuất phát điểm chung là luân lý. Làm trai nết đủ trăm đường Trước tiên điều hiếu đạo thường xưa nay Sách “Hiếu Kinh” viết: “Phù hiếu thiên chi kinh dã địa chi nghĩa dã, dân chi hạnh dã, đức chi bản dã giáo chi sở do sinh” (Hiếu là luật tắc của trời đất, nết của người dân, gốc của đạo đức, nguồn của giáo dục). “Dĩ hiếu sự quân tắc trung” (Lấy hiếu đạo mà thờ vua là trung). Sách “Đại học” viết: “Hiếu giả sở dĩ sự quân dã, đễ giả sở dĩ sự trưởng dã, từ giã sở dĩ sử chúng dã”. (Hiếu để trung quân ái quốc, đễ để tin cậy nơi huynh trưởng, từ ái để lãnh đạo dân chúng). Nho gia rất trọng chữ “Thứ”, trung rồi tiếp ngay đến thứ. Thứ là tinh thần rộng rãi khoáng đạt nhìn mọi sự, mọi vật trên đời như của công, “ông nhi phi tư”. Đem áp dụng chữ thứ vào chính trị thành ra chính sách “tuyển hiền dụng năng” và chế độ thi cử. Thứ cũng là thái độ dễ dung nạp ý kiến người khác, tuyệt đối không cố chấp, chủ trương tín ngưỡng tự do. Câu tục ngữ: “Của đời người thế nước non tiên” biểu thị cái tinh thần khoáng đạt đó. Tâm hồn Việt là tâm hồn trung dung “Đứng thắm chớ phai, thoang thoảng hoa nhài (lài) mà lại thơm lâu”. Chiến đấu dai dẳng bền bỉ đời này qua đời khác do tinh thần trung dung mà có. Một mặt tri thiên mệnh, một mặt tin nhân định thắng thiên. Nghĩ rằng miếng ăn quá khẩu thành tàn nhưng cũng nghĩ luôn rằng có thực mới vực được đạo. “Chấp kỳ lưỡng đoan dụng kỳ trung ư dân” (Nhìn hai cực đo lấy điểm giữa mà thi hành). Bởi vậy, chính trị cũng như đãi nhân tiếp vật, sử thế của người không bao giờ quá khích, không có những nhân vật bị quỉ ám như nhà văn Dostoievsky tả trong cuốn “Les Possédés). Học hành thì ích vào thân Chức cao, quyền trọng dần dần theo sau Lòng hiếu học chủ yếu là để mở rộng hiểu biết, chuyện chức cao quyền trọng là chuyện phụ. Đi học biết chữ là một ích lợi thiết thực. Nghèo mà hay chữ thì hơn Giàu mà hay chữ như sơn thếp vàng Giàu hay nghèo đều cần phải biết chữ. Những kẻ dốt nát bao giờ cũng bị khinh miệt bất kể kẻ đó giàu hay nghèo. Dốc một lòng lấy chồng hay chữ Để ra vào kinh sử mà nghe
* **
“Hà tự hữu tình duyên sắc hữu, hà duyên tạo sắc vị tình sinh; như hoàn tình sắc thành thiên cổ, diệm diệm huỳnh huỳnh họa bất thành” (Thế gian vì có sắc nên có tình và có lẽ sắc sinh ra cũng vì tình, đã có tình sắc là cái vòng bất tận của thiên cổ mãi mãi sáng rỡ mà không thể vẽ nên hình). Cảnh như vẽ, khéo ai bày. Hoa đào mỉm miệng liễu dương mày. Bướm nhởn nhơ bay, oanh vàng líu lo trong bụi, én đỏ ríu rít trên cây. Buồng xuân dìu dặt mối tình ngây (Xuân từ). Trời đất nhiều phần nóng người ẫu. Đầu cành rức giọng ve, bãi cỏ vang tiếng chẫu, vò võ cuốc kêu sầu, eo éo oanh hót ngẫu. Dường bảo nhau chúa xuân đi rồi thôi cũng hảo. Cảnh sắc dường kia, ngao ngán cầm lòng khôn đậu. May đâu thần Chúc Dong gảy một khúc nam huân, hương sen thoảng đáo một trận gió bay, sạch lòng phiền não (Hạ từ). Mặt nước trong veo non tựa ngọc, gió vàng hây hẩy khua khóm trúc. Hoa lau muốn dậm trắng phau, cây cối vẻ hồng pha vẻ lục. Cung Thiềm sáng quắc ả Hằng ngủ, dạo bước thềm giao tình rạo rạc. Chi bằng đến thẳng dưới giậu hoa cúc thơm thảnh thơi dạo đàn gẩy một khúc (Thu từ). Khí đen mờ mịt tỏa non sông, hồng về nam xong, nhạn về nam xong. Gió bấc. Gió bấc căm căm tuyết giá như đồng, ngồi chẳng yên lòng, nằm chẳng yên lòng. Dậy xem phong cảnh lúc trời đông, hoa quên lạnh lùng, người quên lạnh lùng (Đông từ). Bốn bài từ của Liễu Hạnh công chúa mà dân Việt tôn thờ làm Thánh Mẫu cho thấy người Việt trong việc giáo dục nhìn nhận thế giới của “tình” cũng quan trọng ngang với thế giới của pháp. Phải đem tình vào thực tế thì cuộc sống mới có ý vị, mới thăng hoa. Tuy nhiên, không để “tình” nặng quá kéo pháp xuống thành nhu nhược, cũng không để pháp tung hoành quá diệt tình đi mà thành tàn nhẫn hung bạo. Trong đấu tranh tình với pháp cùng nhau tiến bước. Nếu không có “tình” làm sao nghe thấy những tiếng của đời xưa theo cái dòng sóng người, ngược lại cái dòng sử ngược vang vọng lại hiện tại để mà cảm lấy những tiếng vi nang đó ở trong mỗi động tác, mỗi cái tầm thường, mỗi cái ngây ngốc si mê tức là hứng lấy Quốc hồn và Sử hồn qua những tiếng ai oán, ước vọng, hằn học, hò hét và thúc giục. Dùng tình để bù đắp chỗ yếu của pháp, dùng pháp để thực hiện những mơ ước của tình. Sự giáo dục đều đặn Tình và Pháp đã làm cho dân tộc Việt thành một dân tộc vừa yêu hòa bình, chịu nhẫn nhục lại vừa chiến đấu dũng mãnh và dai dẳng. Giáo dục Việt có những ưu điểm: A) Nhân cách cảm hóa. - Rất trọng đức dục cho nên chính sách giáo dục là thực hiện cảm hóa, hóa dân thành tục tất do ư học. Nhiệm vụ của thầy là cảm hóa, nguyên tắc cho công tác cảm hóa là dĩ thân tác tắc, lấy bản thân mình ra để làm gương. Không phải giảng mà vẫn dạy (bất ngôn nhi giáo). B) Nhân văn chủ nghĩa được phát huy cao độ. - Những điều răn dạy đều thuộc khoa học nhân văn. Thảo luận toàn là các vấn đề chính trị xã hội, luân lý, đạo đức.
* **
Lịch sử giáo dục Việt có thể chia ra làm ba đại thời kỳ: - Đệ nhất thời kỳ bao quát từ Văn Lang đến nhà Đinh. Chính trị từ bộ lạc tổ chức sang phong kiến tổ chức, rồi từ phong kiến tổ chức sang trung ương tập quyền thống nhất. Kinh tế do du mục chài lưới chuyển thành nông nghiệp. Giáo dục từ chính giáo hợp nhất sang quan biện giáo dục, chưa có thầy dạy, chỉ có người cai trị, giáo dục đi thẳng vào dân gian. - Đệ nhị thời lỳ bao quát từ Lý, Trần đến Nguyễn Tự Đức. Tuy lịch sử có nhiều biến động chính trị lớn nhưng trên văn hóa, ngoại trừ sự rực rỡ đời Lý, Trần càng về sau càng tĩnh chỉ không thấy những biến cách to tát, một thời gian rất ngắn vụt sáng lên là đời Quang Trung rồi tắt ngay. Tư tưởng Nho vẫn là trung tâm. Chế độ chính trị vẫn là xã hội của bản vị gia tộc. Kinh tế vẫn là kinh tế nông nghiệp. Về mặt giáo dục vẫn tiếp tục chính sách đào tạo sĩ quân tử, phong túc tập quán, tín ngưỡng vẫn theo xưa. - Đệ tam thời kỳ bắt đầu từ lúc tiếp sức với văn hóa Tây phương, chiến sự thảm bại, chịu sự áp bách vủa vũ lực, chính trị kinh tế đến mất nước. Xã hội bàng hoàng, dao động gây thành phong trào Tây học, tôn phục văn minh, đòi hỏi duy tân. Đông Kinh Nghĩa Thục cho phổ biến một bài văn xuôi nghị luận bằng chữ Hán nhan đề “Văn minh tân học sách”. Bài này có thể xem là căn bản cương lĩnh hành động của Đông Kinh Nghĩa Thục. Đã được dịch ra như sau: “Thiết nghĩ văn minh là một danh từ đẹp đẽ không phải do sự hào nhoáng, màu mỡ mà làm nên. Các món học văn minh là những phúc tốt lành, không phải chuyện một sớm một chiều có thể lấy được. Muốn làm nên và lấy được là nhờ có một chủ nghĩa lớn. Chủ nghĩa gì thế? Ấy là chủ nghĩa mở trí khôn cho nhân dân. Kể các nước trên quả địa cầu này, nước này còn là dã man, nước kia đã bán khai, nước nọ thì văn minh. Ấy là tùy theo chỗ dân trí từng nước thông hay tắc, nhiều hay ít, chóng hay chậm mà khác nhau. Câu nói của học giả phương Tây: Văn minh không phải là có thể mua được bằng giá trị mà thôi mà còn mua bằng đau khổ nữa. Giá trị là gì? Tức là tư tưởng. Đau khổ là gì? Là cạnh tranh. Càng tư tưởng thì càng cạnh tranh, càng cạnh tranh thì càng tư tưởng. Rồi do đấy, hết thảy các khoa thanh học, quang học, trọng học, điệin học, khoáng học, thủy học, khí học, địa dư, thiên văn, toán pháp và cơ khí, không món học nào mà không phừng phực nảy ra. Lý do để đi tới chỗ cực điểim của văn minh là bởi thế đó. Văn minh với dân trí hai đàng cũng làm nhân quả lẫn nhau. Nhưng muốn mở dân trí, trước hế phải tìm cho thấy bế tắc là ở chỗ nào và sự phát đạt bắt đầu từ đâu, bấy giờ mới có chỗ hạ thủ được. Bằng không thì chỉ có thể nhìn biển cả mênh mông rồi than thở mà thôi. Từng xét thánh nhân đời thượng cổ đã chế được đủ đồ vật để dùng, lập thành khí cụ cho thiên hạ tiện lợi. Khoa học, cách trí đã thấy tản mác ở bộ Chu Quan, các sách Quản Tử, Mặc Tử. Á châu vẫn là ngọn nguồn văn minh đấy. Nước Đại Nam ta vốn là một nước lớn văn minh. Nói về vị trí thì ở vào khoảng giữa miệt nhiệt đới và ôn đới. Đất tốt, khí hậu điều hòa, thóc lắm, tằm nhiều, các nguồn lợi miền núi, miền biển hơn cả thiên hạ. Dân trong nước làm ăn dễ dàng. Trải các triều đại vua thánh tôi hiền cùng nhau làm cho thịnh vượng, rực rỡ thêm to tát ra. Trong Lao Sứ tinh tự, Phong Nhã thống biên có nói ta được các nước trong, nước ngoài đều khen là nước thanh danh văn vật. Cái đó đã đành rồi. Nhưng nay thì sao? Của báu núi rừng, nguồn lợi đó ta không được hưởng. Trăm thứ hàng hóa, quyền lợi đó ta không được nắm. Cho đến các hàng vóc nhiễu, nhung len, vải lụa, giày dép, khăn tay, mục kỉnh, dù che, dầu hỏa, đồ sứ, đồ pha lê, đồng hồ, phong vũ biểu, hàn thử biểu, ống nói, kính hiển vi, kính ảnh, bút giấy, son tàu, mực tàu, kim chỉ, khuy cúc, phẩm nhuộm, xà bông, nước hoa, diêm, bánh sữa, kẹo mứt, dược phẩm, thuốc lá, chè rượu v.v… không mua của Tàu thì mua của Tây cả. Thử lấy cái bảng kê số xuất khẩu, nhập khẩu trong một năm mà tính thì sẽ thấy rằng một khi gánh nặng vàng đi đổ ra ngoài rồi thì không sao mong châu về hiệp phố nữa. Của nước như thế thật đáng tiếc. Nông học có hội, người ta đương cạnh tranh về nghề nông đấy. Còn ta thì vẫn như cũ. Hỏi ta có cày máy để giúp việc cày, điện khí để làm cho lúa tốt, các phương pháp mới để cứu hạn hán trị sâu keo không? Thương chính có sở, người ta đang tranh cạnh về nghề buôn đấy. Còn ta thì vẫn như cũ. Hỏi có hạm đội để hộ thương, thị trường để thông thương, công ty lớn do chính phủ và nhân dân góp cổ phần lại để lập nên không? Công tác có xưởng, người ta đương tranh cạnh về công nghệ đấy. Còn ta thì vẫn như cũ. Hỏi trong công nghệ có ai trổ khéo, phô tài ngày một mới, tháng một lạ như bọn Watt và Edison không? Tài của nhân dân như thế, thật đáng hãi hùng. Kìa những kẻ ham mê đàn sáo, đầu hồ, bài lá, cờ tướng, đố thơ, đánh chữ số tướng địa lý, phù thủy ngày ngày dốc cả trí khôn vào những thứ vô dụng, sống say chết mộng thì chả kể làm gì. Những hạng cao hơn, đỗ đạt lên một tí, được cái tiếng quèn đã vội khủng khỉnh ta đây là kẻ cả tự xưng là bực giữ gìn thế đạo, ngày ngày khoe câu văn hay, khư khư ngồi giữ những thuyết hủ lậu, khinh bỉ hết thảy học mới văn minh. Hạng kém hơn nữa thì chỉ nghe có vấn đề thăng quan lên mấy bực, cất nhắc mấy người, chứ không hề biết đến vấn đề nào khác. Có một ông nào đã nói với các bạn hậu tiến: “Các thầy muốn ra làm quan thì phải cẩn thận, đừng đọc sách mới, xem báo mới”. Ôi nếu không biết đến sách báo mới thì thôi chứ một khi đã biết đến mà lại bưng bít che lấp đi khiến cho không nghe, không thấy chuyện gì để tự mình lại củng cố một căn tính nô lệ, nhân cách như thế thiệt nên lấy làm đau đớn. Nghĩ lại văn minh nước ta còn một đặc tính luôn luôn tĩnh như vậy, văn minh Âu Châu thì có tính luôn luôn động mãi như thế kia. Cái đó ai cũng biết. Nhưng vì sao lại như thế? Ấy là do cái ảnh hưởng tương phản và nguyên nhân khởi điểm đấy. Nay xin lần lượt kể ra. Thế nào là ảnh hưởng tương phản? Xét ra các nước châu Âu, trên có nghị viện duy trì quốc thị, dưới có báo quán để đạo đạt hạ tình. Đại trước tác thì có Dàn ước luận của Lư Thoa, Tiến hóa luận của Tư Tân Tắc, Dân quyền thiên của Mạnh Đức Tư Cưu. Suy rộng ra nào diễn thuyết, nào thi ca đều cốt để phát huy cái chủ nghĩa yêu nước, yêu nòi giống? Nước ta có thế không? Làm văn cách thì chỉ sợ phạm húy, dâng thơ cho người trên thì chỉ e mang tiếng vượt phận nói leo, chỉ chừng đó đã khác hẳn với các nước. Huống chi nào chuyện trích quái, nào chuyện truyền ký, thơ bao nhiêu quyển văn bao nhiêu tập, văn hoa lòe loẹt thì có, còn nói về mở mang trí khôn cho dân thì không hề có gì. Đó là điều ta trái với người về giới tư tưởng. Người châu Âu đặt giáo dục chia ra làm bực: tiểu học, trung học và đại học cứ bốn năm một kỳ. Khi vào học lấy những món văn tự nước nhà ngày nay, cổ văn La Mã, văn tự tiếng ngoại quốc, toán học, địa dư làm những môn học đầu tiên. Khi học đã mãn khóa, lần bực tiến lên thì cứ tùy theo năng khiếu của học sinh hợp cho môn học nào thì dạy cho môn học ấy, chia ra luật học, thiên văn học, võ bị học, y học, cách trí học v.v… Học thành tài rồi mới dùng, dùng làm có được việc thì sau mới thăng chức. Nước ta có thế không? Những món ta học và nhớ ấy chỉ là sách Tàu, những bài ta thi ấy chỉ là kinh nghĩa, thơ ngũ ngôn văn biền ngẫu tứ lục. Đó là điều trái với người về giới giáo dục. Người Âu Châu họ tổ chức chính quyền trong nước có chính thể lập hiến, có chính thể quân dân cộng hòa. Cứ số bao nhiêu người đấy thì cử một người làm nghị viên. Hễ bàn đến một việc gì thì trước phải khai hội, kẻ bàn người nói, sớm sửa đi chiều sửa lại cốt làm cho đúng chân lý hợp với tình hình. Nước ta có thế không? Hành chánh thì cấm thay đổi, sửa sang, dùng người thì quá im lìm lặng lẽ, chiếu theo lệ cũ nhưng lệ không nhất định, luật cũng có thể ban bố đấy nhưng dân gian không được đọc luật. Đó là điều trái nhau về giới kinh tế. Người Âu cho nước và dân là có quan hệ mật thiết với nhau, cho nên có chính thể cộng hòa mà quốc thể tức là gia thể; có tục thượng võ mà quốc hồn tức là gia hồn; có lệ hỗ trái mà quốc mạch tức là gia mạch; có lối kiêm biện mà quốc sự tức là gia sự; có phái tự do mà quốc quyền tức là gia quyền. Nước ta có thế không? Ngoài văn chương không có gì là quí, ngoài áp chế không có gì là tôn chỉ, ngoài phục tòng không có gì là nghĩ xa. Đó là sự trái nhau về giới tình hình. Người Âu trọng du lịch, xem thường hiểm trở gian nan. Mà Tây (Moise) dời đi Già Nam có 40 năm. Kha Luân Bố bàng hoàng ở Đại Tây Dương cũng có đến vài mươi năm. Lợi Mã Đậu (Mattéo Ricci) lặn lội ở Tàu cũng đến 19 năm. Ngoài ra đi thám hiểm Băng Dương, đi vòng quanh địa cầu đều là những việc thường thấy. Nước ta có thế không? Môn học thực dân ta chưa hề nghĩ đến, thị trường hàng hóa chưa hề đi tìm. Lìa nhà mươi dặm đã bùi ngùi những mưa gió hoa vàng. Nói gì đến Tiêm La, Diến Điện, Nam Chưởng (Lào), Cao Man là đất nước hẻo lánh quê kệch không ai chịu đặt chân tới, nhưng đến ngay Trung Hoa đối với ta vẫn là chỗ cùng tộc loại, cùng đạo giáo, cùng lễ giáo, văn học cho đến phương diện giao tế cái gì cũng giống nhau, thế mà người Tàu thì ở nhan nhản khắp nơi kinh đô đô hội bên ta còn nước ta thì chưa một ai đến thành Ngũ Dương cả. Đó là sự trái ngược nhau về phong tục. Thế nào gọi là người nguyên nhân khởi điểm? Một là khởi ở cái điểm nội hạ ngoại di, không thèm hỏi đến chính thuật và kỹ năng của nước khác. Hai là khởi ở cái điểm quý đạo vương khinh đạo bá không thèm giảng đến cái học phú cường cơ xảo của nước ngoài. Ba là khởi ở cái điểm lấy xưa làm phải, nay là quấy, không chịu xét xem kiến thức và những suy nghĩ bàn luận của người sau. Bốn là khởi ở cái điểm trọng quan mà khinh dân, nên không thèm kể đến tình hình hay dở ở chốn hương thôn. Bốn điểm này chính là mở đầu cho năm giới và năm giới ấy cũng tức là kết quả của bốn điểm. Thành thử mấy ngàn năm nay, văn minh tiến hóa của ta mới có cáo tĩnh mãi mà không có cái tính động mãi. Thiệt cũng đáng ngậm ngùi buồn bã vậy! Vậy thì sống ở đời mà muốn cầu cho văn minh không thể không lo mở mang dântrí. Nay dân mà có trí là cái công lệ thiên diễn. Người da vàng chúng ta có kém gì người da trắng đâu. Có điều là tai mắt chưa thấy qua thì chưa thể phát triển, hình thức có cái còn thiếu thì không biết bắt chước vào đâu, vốn liếng chưa dồi dào thì không thể làm nên được. Vậy nếu không nhờ người đại biểu để mở mang cho thì quyết là không thể được”. Đông Kinh Nghĩa Thục cũng cho phổ biến nhiều bài ca, bài phú như: Cáo hủ lậu văn, Cần phải học đúng, Bài hát khuyên nhà nho, Hú hồn thiếu niên, Dạy con, Khuyên con, Vợ khuyên chồng v.v… Tất cả đều đã hô hào duy tân giáo dục. Nhất sự bất tri nho sở sỉ Nông công hay mà thương sĩ cũng hay Trên cõi đời nào ai dở ai hay Vẫn viết có kẻ gầy người béo Nhà Nho hủ vẫn cậy mình khôn khéo Đem văn chương mà vênh váo với đời Năm ba câu hát cổ dông dài Trừ cử nghiệp, chuyện ngoài chi nỏ biết Những văn phẩm của Đông Kinh Nghĩa Thục đưa ra 4 nhược điểm của giáo dục Việt: A) Tôn cổ quan niệm. - Cổ đại học giả thiếu hẳn một quan niệm tiến hóa, đối với bất cứ sự vật nào cũng cứ cho cổ là tốt, lấy bất biến làm nguyên tắc. Giáo dục cũng thế. Chế độ khảo thí, chính phủ trước sau chỉ chú trọng việc bạt thủ nhân tài, nhưng không hề lưu tâm mấy đến vấn đề phải giáo dục nhân tài như thế nào? Về mặt khóa trình giảng học chỉ lấy kinh thư, tác văn, tập tự, chữ tốt văn hay làm trọng yếu. Quanh đi quẩn lại mấy cuốn kinh, sử, tử, thi từ là hết. Giáo tài không bao giờ thay đổi.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:07:22 GMT 9
B) Thiên trọng ký ức (cứ nhớ là được) ưa bắt chước hơn là tư khảo độc lập, thiếu sáng tạo. Mục đích của giáo dục là làm sao cho người đời nay “theo kịp” người đời xưa, muốn thế phải nhớ lời nói và hành động của cổ nhân, hoặc cố tìm hiểu cổ nhân. Cổ thánh hiền, cổ học thuyết bao giờ cũng đúng bất khả phê bình, bất khả hoài nghi như Hàn Dũ từng nói: “Tàng kinh thánh nhân thủ, nghị luận an cảm đáo” (đã từng qua tay thánh nhân thì còn bàn cãi thế nào được). C) Thiên trọng văn nghệ, bỏ quên khoa học và thực dụng. Kể từ triều Nguyễn thống nhất, tinh thần người đi học hoàn toàn bị tiêu mòn vào văn từ học tập, ngoài mấy quyển sách ra chẳng còn giáo dục nào khác. Đọc sách với vầu học mục đích chỉ khoanh vào trong việc hiểu ý nghĩa và tìm cách vắt chước văn thể, cố làm văn cho hoa mỹ bất cần tri thức thực tế. Thư sinh dần dần thành con người vô dụng dài lưng tốn vải. D) Không có tổ chức và kế hoạch giáo dục. - Sĩ tử cứ học thế nào cho đủ bài, có khả năng làm văn trúng ý khảo quan là xong. Không có trường chính thức cho người theo học. Trường học do các bậc danh nho tự mở ra để dạy văn cũng như võ.
* **
Đông Kinh Nghĩa Thục là phong trào yêu nước hô hào cầu học duy tân để tìm khả năng hiện đại hóa mà đánh Tây, bị thực dân chuyển thành phong trào theo Tây bằng cách một mặt phá vỡ tổ chức Đông Kinh Nghĩa Thục dùng chính sách khủng bố bắt bớ, mặt khác đưa tay sai ra với chủ trương có đồng bằng mới bình đẳng để củng cố cho chính sách giáo dục bảo hộ, thuộc địa nhằm đào tạo một số nô tài và gây một tinh thần chủ bại cho người Việt, chia dân Việt ra thành ba loại: a) loại mù chữ b) loại biết đọc biết viết chữ Việt (Quốc ngữ), biết thêm chút ít tiếng Pháp để làm thông ngôn cạo giấy cho guồng máy cai trị. c) và thiểu số có giáo dục về Pháp ngữ mà Pháp dùng làm tay sai thống trị. Đồng thời, thực dân tìm đủ mọi cơ hội, đủ mọi phương thức để đào hố sâu ngăn cách ba loại trên. Về phương diện giáo tài, sách vở đều hướng về khuynh hướng phỉ báng văn hóa dân tộc và đề cao ngoại nhân xứng đáng làm thầy. Giáo sư K. M. Panikkar, người Ấn, viết: “Faire maitre un défaitisme moral parmi le peuple semble avoir été un des buts de l’éducation coloniale” (Làm sinh sôi nảy nở chủ nghĩa chủ bại trong dân chúng là một trong những mục tiêu của giáo dục thựa dân). “Promouvoir une éducation incitant à l’agitation intellectuelle người’est pas l’intérêt d’un gouvernement étranger” (Đẩy mạnh một nền giáo dục để mở mang trí thức không bao giờ là điều quan tâm của chế độ ngoại nhân). Kết quả học Tây để tìm đến dân chủ, khoa học đâu chẳng thấy, chỉ thấy thanh niên, học sinh đua nhau viết thiệp chúc tết, thiệp giáng sinh bằng tiếng Pháp: “Bonne Année- Parfait amour- A toi seul- A toi pour toujours”, hoặc thuộc lòng bài Hành Vân bằng tiếng Pháp: Chers enfants Vous êtes des jeunes gens Travaillez Et rappelez-vous… (Là sẹ cái dâng phần, Vu dét đờ jơ nớ jâng Trờ ra mà ra vây dế Ê ráp cái pờ lê vu…) Thật đúng là một lũ điên dại cuồng chữ, học lếu láo. Giáo dục sẽ hoàn toàn phá sản nếu nó không gắn liền với sinh mệnh dân tộc lịch sử. Học vấn là để đấu tranh, giải quyết những vấn đề thực tiễn chứ không phải học vấn chỉ là đi học và cầu học. Giáo dục phá sản và học vấn vô dụng đã hiện nguyên hình trông thật thê thảm qua thiên chuyện kể của nhà văn Nguyễn Vỹ trong cuốn “Tuấn chàng trai đất Việt”: “Một buổi tối, Tuấn đến nhà thầy Đông Sĩ Bình, thầy ở một mình một căn nhà mướn trong một ngõ hẻm gần bờ sông. Thầy chỉ cho Tuấn bài thơ bằng chữ nho ký tên Phan Chu Trinh do tự tay thầy chép ra bằng nét chữ đậm và thật đẹp lồng trong khung kính treo trên tường. Tuấn không biết bài thơ này do thầy chép ở đâu nhưng Tuấn học thuộc lòng ngay: Thế sự hồi đầu dĩ nhất không Giang sơn hòa lụy khắp anh hùng Vạn dân nô lệ cường quyền hạ Bát cổ văn chương túy mộng trung Trường thử bách niên cam thóa mạ Bất tri hà nhật xuất lao lung Chư quân vị tất vô tâm huyết Thỉnh bả tư văn khán nhất không Tuấn đã được học chút ít chữ Hán nhưng lần đầu tiên nghe nhiều tiếng mới là: anh hùng nô lệ, cường quyền lao lung, tâm huyết nên chưa hiểu rõ nghĩa cho lắm. Thầy Bình ngâm từng câu, giảng từng ý rồi thầy ngâm đi ngâm lại nhiều lần. Thầy giảng rộng ra và nói: - Nước An Nam đã mất, nhà An Nam đã tan, dân An Nam bị làm nô lệ. Đồng bào như người ngủ mê chưa tỉnh ngộ để cho Tây nó đè đầu, đè cổ, nó áp chế. Một trăm năm nữa cũng đành chịu hay sao? Thầy nói bằng tiếng Tây rất hăng hái, rất say mê. Thầy đập tay xuống bàn, thầy dậm chân xuống đất, thầy hét lên: - Trời ơi! Trời ơi! nước An Nam là con Rồng cháu Tiên mà dân An Nam ngày nay là tôi tớ, là mọi, là rợ bị xiềng xích, gông cùm, áp chế. Thế có tủi nhục cho hồn thiếng đất nước này không? Bỗng thầy òa ra khóc, thầy gục đầu xuống bàn. Tuấn bị quá cảm xúc, cũng rưng rưng nước mắt ngồi khóc ngây ngô. Tuấn nhìn bài thơ đóng khung treo trên tường, càng nhìn càng khóc. Mỗi câu thơ mà thầy Bình đọc đi đọc lại, kêu gào lên rồi khóc làm trò Tuấn có cảm tưởng như đấy là tiếng nói đau khổ, tiếng rên xiết bi thương của một hồn thiêng hiện về kêu gọi con cháu bằng giọng ai oán, lâm ly. Không khí bi thảm ấy kéo dài một lúc lâu. Rồi thầy Đông Sĩ Bình ngước đầu lên, mắt còn đẫm lệ, bảo trò Tuấn: - Tuấn ơi, chúng ta là con cháu của Hùng Vương, của Lạc Long Quân ta phải làm thế nào chứ? Làm thế nào để phá tan cái xiềng xích nô lệ để đòi lấy độc lập, tự do chứ? Tuấn chỉ biết cúi đầu nghe. Thầy Đông Sĩ Bình đứng dậy, đôi mắt thầy đỏ ngầu, tay thầy run lên, thầy chỉ ngón tay lên bài thơ chữ nho của cụ Phan Chu Trinh và nói bằng tiếng Pháp có vẻ căm hờn, oán than nhấn mạnh từng câu: - Notre grand patriote Phan Châu Trinh a dit: “Nous sommes des esclaves! Nous sommes des esclaves!” Rồi thầy nói liên tiếp bằng tiếng Pháp, nói thao thao bất tuyệt, nói cho đến trào nước miếng hai bên mép, đổ mồ hôi trên trán, trên má. Thầy hô hào: “Cách mạng! Phải làm cách mạng! Phải làm cách mạng! Il faul faire la Révolution. Il faul faire la Révolution”. Đúng thế, giáo dục dân chủ, khoa học thực nghiệp sẽ chẳng bao giờ có nếu nó không được mở đường bằng một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
* **
Những chủ trương “Giáo dục phải thuần túy nhân loại”- “Giáo dục sự điều hòa phát triển của bộ óc, con tim và bàn tay”- “Giáo dục là đào dã phẩm tính” đều là những điều nói để mà nói. Vào thực tế, không làm gì có giáo dục thuần túy nhân loại bởi lẽ dân tộc bất đồng, quyền lợi bất đồng, đấu tranh thường trực thì nội dung phẩm tính, bộ óc, con tim làm sao có thể qui định thành một tiêu chuẩn phổ biến giữa người Việt với người Pháp, người Ấn Độ với người Anh, người Tàu với người Nhật? Chủ trương giáo dục thuần túy nhân loại của Jean Jacques Rousseau chỉ là một chủ trương muốn thoát khỏi sự trói buộc của hiện thực, muốn biến thế giới hiện thực thành thế giới lý tưởng. Nó sẽ là một câu chuyện khôi hài trước thực tiễn tàn nhẫn. Cơ sở giáo dục không thể không kiến trúc trên một tổ chức xã hội nhất định, trên một cuộc đấu tranh nhất định. Nếu như giáo dục mà mất cơ sở xã hội dân tộc, mất cơ sở đấu tranh thì chẳng có gì đáng gọi là giáo dục nữa. Đương nhiên ngoài dân tộc ra còn có những xã hội khác trong một hoàn cảnh nào đó đã thành những lực lượng chi phối dân tộc. Tỉ dụ như phục hưng văn nghệ (la renaissance) phát khởi bởi tinh thần Ý Đại Lợi rồi lan tràn ảnh hưởng ra toàn Âu Châu, như cải cách tôn giáo của Luther phát khởi bởi tinh thần Đức rồi lan tràn ảnh hưởng ra toàn Âu Châu. Tuy nhiên, mỗi nước ở Âu Châu đều đã tiếp thụ ảnh hưởng đó bằng quyền lợi và tinh thần dân tộc của mình trong công cuộc đấu tranh thời đại, tiêu diệt sinh hoạt tối tăm của đời Trung Cổ và chống sự cai trị thần quyền của trung tâm tôn giáo Roma. Nhà triết học Kant nói: “Nhân loại do giáo dục mới thành nhân loại”. Một triết gia khác của Đức đã nói lại: “Giáo dục có thông qua quốc gia mới thành giáo dục, một dân tộc chỉ sau khi đã qua giáo dục quốc gia mới thành dân tộc đầy đủ sinh lực”. Muốn hiểu thấy ý nghĩa của dân tộc tinh thần thì phải tìm về lịch sử. Nội dung xã hội dân tộc có: ngôn ngữ, đạo đức, chính trị, kinh tế, nghệ thuật và niềm tin, tất cả thường được gọi chung là tài sản văn hóa truyền từ đời nọ sang đời kia và không ngừng phát triển. Quá trình phát triển hay lịch sử đã đào tạo cho mỗi dân tộc một cộng đồng tri thức tình tự, ý chí, hành động truyền thống. Bởi thế, hoạt động giáo dục chỉ có giá trị chân thực khi nó được đặt vào cơ sở dân tộc xã hội. Lịch sử là do sự đối lập giữa dân tộc này đối với dân tộc khác hoặc do sự xung đột gây nên bởi tình trạng bất bình hành giữa các thế lực nội bộ của dân tộc. Bởi thế, hoạt động giáo dục chỉ có giá trị thực tiễn khi nó được đặt vào một trong hai đấu tranh đó. Nhớ những thuở cầm Hồ, đoạt sao Nhạc Bình Ngô, ca Quỳnh uyển rập rình Vàng chảy, bạc sinh, gió to mưa lúa Cờ Vạn Thắng, công Thái Bình Hội rồng mây cỏ hiển thánh Cực vũ công, văn trị cảnh vinh quang Há một ngày nên được nghiệp vương hoàng Bao gan nát óc lầy, đan thành hàng huyết lệ Thuở Hồng Bàng rẽ nước rạch hoang Vận nhiễu nhương nằm gai nếm mật Thái Tổ nhân như trời đất Thánh Tông trị đọ đời vàng Dám khoe khoang công giá huy hoàng Trước xã miếu hãy ưng đường tông tổ Vạn ngôn thư Thất trảm sớ Chúc Hưng Đạo Sử Lê Hưu Khóc quỉ thần oanh liệt khi xung tiêu Lòng sáng thủ ấy bao nhiêu lao khổ Cành Nam chim đỗ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Nếu giáo dục Việt mà quay lưng lại với những điều trên thì đâu còn là giáo dục Việt nữa mà chỉ là thứ giáo dục mất nước đấy thôi. Văn hào Lâm Ngữ Đường (bên Trung Quốc) đã nói về nỗi tủi nhục đó vì hồi nhỏ ông chỉ được theo học giáo hội công giáo, sống tách biệt hẳn với các trẻ em khác, không được vô hí viện Trung Hoa, không được nghe hát Trung Hoa, không biết chút gì về lịch sử và truyền thuyết Trung Hoa mà lại thuộc làu làu đời của nữ thánh Maria, Chúa Ki Tô, Abraham, David. Ông viết: “Chưa tới mười sáu tuổi tôi đã biết rằng kèn đồng của Josné đã làm sụp đổ tường ở Jéricho nhưng tới hồi tôi ba mươi tuổi mà vẫn chưa biết chuyện nàng Mạnh Khương, chồng chết vì xây Vạn Lý Trường Thành, nàng lặn lội tới nơi tìm được hài cốt của chồng khóc nức nở tới nỗi nước mắt làm trôi một khúc thành vĩ đại đó. Những người Trung Hoa dù vô học cũng không đốt sử như tôi hồi đó”.
*
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:08:45 GMT 9
VĂN HÓA NÔNG NGHIỆP
Họ là những người quê mùa non nước Việt Sống cần lao bên ruộng lúa đồng khoai Lúa xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi Nước Việt sống vì mồ hôi họ đổ Bàng Bá Lân
A la société vietnamienne- qu’on saisit avec lui dans son fondement- il người’a cessé de procurer au cours de l’histoire une raison d’être, une structure stable et une discipline pour ses travaux et ses célébrations collectives: contracts avec ellémême, le sol et le ciel. Paul Mus
Tìm trong non một thế kỷ luân hãm, chiến tranh và hỗn loạn, người ta vẫn thấy tất cả đều hàm chứa tinh thần văn học Việt trong chứng minh rằng tinh thần văn hóa Việt vẫn tiếp tục làm chủ tể con đường lịch sử của dân tộc, mọi âm mưu nhằm phủ nhận hoặc triệt để cải tạo nó đều thất bại. Văn hóa Việt thế nào? Nói đến văn hóa Việt tức là nói đến văn hóa nông nghiệp. Trên thế giới, chỗ nào chẳng có nghề nông nhưng văn hóa nông nghiệp thực sự thành thế hệ vững chắc trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn học, giáo dục, quốc phòng, sinh hoạt, xã hội thì ngoài Trung Quốc ra, phải kể ngay đến Việt Nam. Văn hóa nông nghiệp là văn hóa của sự kết hợp chân chính giữa người với đất, là văn hóa của sự khai phát đất ruộng đi cùng với sự khai phát tâm linh. Trong đó nông dân là lực lượng cốt cán và sĩ nhân là đầu não. Kinh thánh của Gia Tô giáo chép chuyện Thượng Đế sáng tạo thế giới trong thời gian bảy ngày. Thần thoại Hy Lạp cũng chép chuyện thần nhân tạo ra thế giới. Nhưng ở Việt Nam cũng như Trung Quốc qua thần thoại Bàn Cổ khai thiên tị địa thì tin rằng thế giới này do chính bàn tay người khai phá sáng tạo và gìn giữ. Thần thoại Hy Lạp bảo sở dĩ thế giới có lửa là bởi Prométhée đã ăn trộm lửa của trời mang xuống. Trong khi dân gian Việt và dân gian Trung Quốc bảo là có lửa nhờ Toại Nhân khi cọ gỗo vào nhau mà lấy ra. Phục Hi thì dạy kết thừng làm lưới đánh cá. Ông Vũ Tắc chế cày bừa trồng thóc lúa. Bàn Cổ với hình ảnh vạm vỡ, tay cầm búa đá là sức mạnh lao động của nông dân. Toại Nhân, Phục Hi, ông Vũ Tắc với vẻ văn nhã là sức mạnh của tâm linh khai phát. Nông nghiệp không chỉ đơn thuần là một trạng thái kinh tế mà còn là một đạo, nông nghiệp chi đạo. Đạo nông nghiệp đại biểu cho sự sống bao la, đại biểu cho đất ruộng vườn, rừng mênh mông cà đại biểu cho thời gian, khi tiết mưa thuận gió hòa hay giông tố bão lúc nào tốt, lúc nào xấu. Công việc chủ yếu của nghề nông là trồng trọt, cày bừa, vun bón gặt hái thực vật (cây cỏ, hoa trái), đồng thời nuôi dưỡng động vật (gà, vịt, heo, trâu bò). Kể việc làm ruộng mọi đường Tôi xin kể được rõ ràng hử ai Tháng Chạp là tiết trồng khoai Tháng Giêng tưới đậu, tháng Hai cấy cà Tháng Ba cày bửa ruộng ra Tháng Tư bắc mạ thuận hòa vui thay Tháng Năm cắt lúa vừa rồi Tháng Sáu mưa xuống nước trôi đầy đồng Tháng Bảy cày cấy đã xong Tháng Tám thấy lúa tốt dòng vui thay Tháng Chín tôi kể lại nay Bắc mạ xem được mới hay trong lòng Tháng Mười lúa chín đầy đồng Cắt về đổ cót để phòng năm sau Tháng Mười là tiết cấy sâu Một năm kể cả tự đầu đến đuôi . . . . . . . . . . . . . . . . . . Nhờ trời mưa thuận gió hòa Nào cày nào cấy trẻ già khuyên nhau Chim gà cá lợn cành cau Mùa nào thức ấy giữ màu hương quê Vừa tài bồi (vun tỉa), vừa dưỡng dục sự sống, vừa để nuôi mình sống. Hiện tượng “sống” có ba loại: - Sinh liễu hựu sinh (sinh sôi nảy nở) - Do chủng nhi sinh (bởi trồng cấy mà sinh) - Do tính nhi sinh (do tình yêu mà sinh) Vũ trụ là một dòng “sông” dài vạn cổ đời đời kiếp kiếp. Sông nọ tiếp nối sông kia là do cơ bản nguyên tắc của dịch lý, sinh sinh chi vi dịch. Một gọng cỏ, một cành cây đâm chồi nẩy lộc mà sinh ra cây cỏ khác. Sách có câu “Nhất dương sơ động xứ, vạn vật thủy sinh thời” (ánh dương vừa động, vạn vật sống dậy) cũng như ca dao ta có câu: “Lúa chiêm phơ phất đầu bờ, hễ nghe sấm động phất cờ lúa lên. Một hạt giống gieo xuống đất qua sự điều hòa của trời đất, hạt giống tự tách ra nẩy mầm thành một cơ thể mạnh sống và lớn lên. Cho nên mới nói: “Thiên hạ chi đại đức viết sinh” (Đức lớn torng thiên hạ là cho sự sống). Nông nghiệp thường trực hành động để thực hiện đức lớn đó. Hoa nhờ phấn đực mà kết thành trái, động vật do tinh trùng mà sinh đẻ đều là những điều tốt rất thường thấy trong nghề nông, nhưng nó lại hàm chứa một triết lý gốc “nhất âm nhất dương chi vi đạo”, hay “càn khôn chi đạo”. Âm dương tuy cực khác nhau mà rất tương ái tương thành. Cho nên nông nghiệp văn hóa mới là thứ văn hóa trong sự hòa hợp tự nhiên. Nhiệm vụ của càn hay dương là tự cường bất tức lúc nào cũng dũng mãnh chiến đấu. Nhiệm vụ của khôn hay âm là hậu đức đới vật bao giờ cũng trải tâm tình rộng rãi. Làm trai phải anh hùng, làm gái phải hiền thục, chăm chỉ và chịu đựng.
* **
Đại biểu cho đất ruộng mênh mông, cái đất đai yêu quí đã từng nuôi sống ta, từng để yên nghỉ ông cha và sinh sôi con cháu, cái đất đai mà đầu mày cuối mắt ta đều nhớ, đều quen, đều từng ghi nhớ mỗi cái khổ, cái vui, cái hy vọng, cuộc sống cuộc chết, cuộc bể dâu của đời đời nó đã nói ra bao ý nghĩa và gồm bao nhiêu giá trị. Trên tinh thần, văn hóa và đại biểu cho trạng thái vững chải và bình tĩnh và quyết ý không dời đổi, lay chuyển. Nông nghiệp là sự nghiệp kinh tế, đồng thời cũng là sự nghiệp đạo đức, như Hiếu kinh viết: “Dụng thiên chi đạo, phân địa chi nghi, cận thân tiết dụng dĩ dưỡng phụ mẫu” (Dùng đạo trời, lựa nơi đất tốt, cần cù chăm chỉ, tiết kiệm mà nuôi cha mẹ). Nông nghiệp là một sự nghiệp sinh sản nhưng đồng thời cũng là một sự nghiệp nghệ thuật như ca dao ta hát: “Cô kia tát nước bên đàng. Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”. Như một thi sĩ Trung Quốc muốn tả hương thơm của cánh đồng, đã hạ bút viết: “Đạp hoa qui khứ mã đđề hương” (Con ngựa trở về dẫm lên hoa mà bước khiến móng ngựa còn thơm). Chính cái tinh thần nông nghiệp bàng bạc khắp vườn tược, đồng rừng đã khiến cho văn nhân, thi sĩ làm thành thơ văn dạy cho người thích nghe giọt mưa lộp độp trên tàu lá chuối, dạy cho cảm thấy cái đẹp của ngọn khói từ mái nhà tranh tỏa lên lẫn với mây chiều ở lưng chừng ngọn đồi, dạy cho biết ngắm cái vẻ trắng nuột của hoa thỏ tí ở bên đường, nghe tiếng tu hú hót mà nhớ tới lời than thở của kẻ tha hương nhớ mẹ, mến yêu cảnh các cô thôn nữ hái trà, dạy cho biết hòa đồng với mọi vật núi sông hoa cỏ, xuân tới thì lòng dào dạt hương xuân, hè tới thiu thiu nghe tiếng ve sầu như gõ nhịp thời gian qua, thu tới thì bâng khuâng nhìn lá vàng rơi rụng và đông tới thì ngâm thơ tuyết bay. Nông nghiệp là một sự nghiệp lao động nhưng đồng thời còn là một sự nghiệp thờ phượng và tin tưởng. Khôn ngoan nhờ ấm cha ông, làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ. Phương ngôn ta có câu: “Tháng Tám giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ”. Cha đây là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người có công đánh giặc Nguyên giữ vững bờ cõi, mẹ đây là thánh mẫu Liễu Hạnh công chúa, người đàn bà dung nhan tuyệt thế, thông minh dị thường, lúc chết hiển linh thường giáng bút bảo cho dân biết về quốc sự. Lao động sự nghiệp không chỉ để kiếim bát cơn ăn mà còn để tạo dựng giang sơn đất nước. Bàn tay với đất đai, sức lao động và chí cần cù đem mồ hôi ra trộn với nước mắt của lòng yêu, tất cả để không dứt mở mang đất đai, xây đắp cõi sống, đem máu đào rỏ ra vì lòng yêu từ người thân với những con người mà máu chảy ruột mềm đã bén tới, máu đào đã rỏ ra để sống và thờ phụng cuộc đấu tranh với quân thù, cùng tẩm nhuần với quân thù trong đồng ruộng của xứ sở qua các thời gian. Cho nên, nói đến kinh tế nông nghiệp thì phải nghĩ ngay đến một nền tảng kinh tế, đến chính sách kinh tế hàm chứa đạo đức, không lọc lừa tranh giành để thủ lợi như kinh tế thương nghiệp và tàn bạo đổ máu như kinh tế du mục. Nói đến sinh sản nông nghiệp với vẻ đẹp của khóm cúc bên dậu, của ao thu lạnh lẽo nước trong veo, một chiếc thuyền con bé tẻo teo. Nói lến lao động nông nghiệp thì phải nhớ đến việc dồn sức vào sự nghiệp yêu nước. Trải qua bao biến cố, sức đất vẫn bình tĩnh, vững chãi mà ứng phó, cả mấy ngàn năm tinh thần bình tĩnh vững chãi đó đã vượt hết các khó khăn, trở ngại để đẩy mạnh dòng sông chảy đời đời sinh sôi nảy nở. An thổ đôn hồ nhân, bám chắc lấy đất, dựng dụng tinh thần lạc quan chiến đấu. “Bất năng an thổ, tiện hội thắng không, tức bất trước địa, diệc bất trước thiên, chung ư hôn mê, chung ư nhuyễn nhược, chung ư hoành bạo, chung ư đảo hạ” (nếu không bám chắc lấy đất tất không có đất chiến đấu lại thiếu cả thiên thời tất sẽ hôn mê, nhuyễn nhược sinh ra làm rông rỡ mà sụp đổ).
* **
Dịch hệ từ viết: “Nhật vãng tắc nguyệt lai, nhật lai tắc nhật vãng, nhật nguyệt tương di nhi minh sinh yêu. Hàn lai tắc thự vãng, thự lại tắc hàn vàng, hàn thự tương suy nhi thế thành yên” Mặt trời lặn, mặt trăng lên, mặt trăng lặn mặt trời lên chuyển đổi nhau. Giữa hai vầng nhật nguyệt mà có ánh sáng. Lạnh hết đến nóng, nóng hết lại đến lạnh, lạnh nóng đuổi nhau mà thành bốn mùa năm tháng…) Nông nghiệp gần với sinh vật, đất ruộng và cũng không lúc nào rời khí tượng tứ thời. Tháng Giêng chân bước đi cày Tháng Hai vãi lúa ngày ngày siêng năng Thuận mưa lúa tốt đằng đằng Tháng Mười gặt lúa ta ăn đầy nhà Như vậy là cái lý “dữ thời giai hành” trong kinh Dịch. Nông nghiệp không đi ngược với lẽ sống, không làm trái với ý muốn của đất và thứ nhất phải cho đúng thời không trái mùa. Quả nào, hoa nào kết thực khai hoa có thời gian nhất định, lúc nẩy mầm, lúc sinh trưởng và lúc chín để gặt hái. Không thể cưỡng ép thời gian sớm hơn, cũng không thể trễ nải thời gian muộn hơn. Do lý đó đem vào chính trị mà thành nguyên tắc “thời trung”, “quân tử thời trung”, linh hoạt thích ứng với bốn điểm: Thời-Vị- Trung-Chính. Thời là thời gian lúc nào có thể và lúc nào không thể. Vị là không gian hay vị thế chiến lược. Trung là giao điểm của thời gian và không gian. Chính là hành động cho thích đáng.
* **
Nông nghiệp đối với sinh mệnh là thuận, không đi trái lý thiên nhiên: nông nghiệp đối với quốc gia là gốc, là căn bản. Thuận cho nên cái học của nông nghiệp có tiết điệu tình tự như bài thơ. Gốc và căn bản cho nên cái học của nông nghiệp là thực học phác tố ít viển vông. Bất thị nhất phiên bàn triệt cốt Tranh đắc mai hoa phác tị hương là một câu dân dao rất đẹp của nông dân Trung Quốc ý nói: nếu không có cơn gió lạnh buốt tận xương thì làm sao có hương hoa mai thơm ngát cả vầu trời? Gió lạnh ai không sợ, nhất là nông dân sống dầm mưa dãi tuyết? Nhưng vì thuận theo thời tiết trời đất thì gió lạnh buốt tận xương vẫn là điều cần thiết vì nhờ có mai mới nở đem hương ướp đượm cả trời đông. Vậy chẳng có gì đáng buồn, đáng trách. Cơn gió lạnh ví như một thời kỳ đánh đuổi giặc trăm ngàn gian khổ, đắng cay nhưng nhờ thế mới có ngày thanh bình, chiến thắng đẹp như mai nở. Ơn trời mưa nắng phải thì Nơi thì bừa cạn nơi thì cày sâu Công lênh chẳng quản lâu lâu Ngày nay nước bạc ngày sau cơm vàng Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu Thiên địa thuận nhi tứ thời đương, dân hữu đức nhi ngũ cốc sương (Trời đất thuận bốn mùa mưa nắng đúng cộng với sự chăm làm của người nên ngũ cốc nhiều). Nông nghiệp lấy thuận làm chủ lao động hòa nhịp với tứ thời để xây dựng một đời sống no ấm. Dĩ nông lập quốc và quốc dĩ nông vi bản chuyển sang chính trị thành chính trị dĩ nhân di bản. Một thể chế chính trị xưa đặt dưới tay Thương Ưởng áp dụng chính sách “trọng nông” thế mà dân đã đuổi bắt và giết Thương Ưởng. Nhà Tần nhờ chính sách của Thương Ưởng thôn tính được lục quốc rồi cũng vì chính sách ấy chịu diệt vong. Tại sao? Tại Thương Ưởng chỉ biết cái gốc nông nhưng lại không nhìn đến gốc dân, đã xem nông như một thủ đoạn, kết quả nước giàu thịnh mà dân lại nghèo khổ, binh lực lớn mạnh mà dân lại yếu cực, tạo thành tình trạng mâu thuẫn giữa dân sinh với quốc phòng đưa đến sự đối lập của nhân dân với quân đội. Bởi vậy nông dân đã nghiến răng thề không đội trời chung với bạo chính: thời nhật yết táng dư dữ nhữ giai vong (tao sẽ cùng chết với mày). Pháp gia Thương Ưởng và chính sách trọng nông quá chuyên chú vào lãnh vực kinh tế cốt để xây dựng một chính sách tài chính thuần túy và một chính sách quân sự tuyệt đối đã không hướng tới sự bón gốc nữa, ngược lại còn hy sinh nông dân và phá hoại nông nghiệp khiến cho gốc nước lung lay, chính quyền pháp gia phá sản đẩy đến việc nhà Tần vong. Nông nghiệp như thế là đi vào nghịch đạo trái với ý chí của văn hóa nông nghiệp vốn vẫn không ngừng đề cao chính trị dân bản và chống đối bạo chính thống trị. Khai phát đất ruộng phải đi đôi với khai phát tâm linh, trên quốc sách thì dân sinh phải hợp nhất với quân đội, sinh hoạt phải hợp nhất với chiến đấu, ch phải hợp nhất với kinh tế. Đó là căn bản của nông nghiệp chi đạo vậy. Khai phát thổ địa đi đôi với khai phát tâm linh đã trở thành một khúc anh hùng ca tiến xuống miền Nam của dân tộc Việt. Bài “Chuyến du khảo vào nông trại Thới Sơn” đăng trong tập san Sử Địa số 22, tác giả Nguyễn Văn Hầu đã cho độc giả một hình ảnh tuyệt đẹp của khúc anh hùng ca đấy. Tác giả viết: “Xin hãy lùi về hơn trăm năm trước để tưởng lại cảnh vật của miền rừng núi bao la này. Xa xa một vài sóc thổ mỗi sóc thổ thì đâu lối năm bảy mái tranh, còn bao nhiêu là rừng. Cọp beo, rắn độc cùng những muỗi mòng, con ve, con vắt cùng nhau ngự trị như một giang sơn riêng. Vậy mà có người đã hướng dẫn quần chúng vào đây để khai hoang lập ấp. Người ấy là thầy Đoàn Minh Huyền tức đức Phật thày Tây An. Chính Phật thày đã thực hiện giáo lý tự tu, tự độ để gắng gổ độ tha cho nên mới hướng dẫn môn đệ khai hoang nhiều chỗ mà trước hết là ở đây giang sơn của ác thú. Thêm vào đó, một nỗi đe dọa khác nữa là phải sống bên cạnh người Mên đầy gồng ngải bùa thư, thù hằn và giận dữ. Phật thày đã làm cách nào để động viên nhân lực mà làm nổi việc phi thường này? Với giáo lý Tứ Ân (Ân Tổ Tiên cha mẹ- Ân Đất Nước- Ân Tam Bảo- Ân Đồng Bào Nhân Loại), Phật thày đã đưa vào lòng người một niềm tin vô biên. Qua huyền diệu của đức Phật và khả năng tu tỉnh của con người, tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương không còn biết sợ một thế lực tà mị nào khác. Do đó mà họ rất tích cực và nhờ vậy thày Tây An đã thành công. Có hai đệ tử của Phật thày là Đình Tây tên thật là Bùi Văn Tây và cụ Tăng chủ Bùi Văn Thân đã góp tay đắc lực cho Phật thày trong việc mở ruộng và lập làng ở vùng này. Hai cụ có đức lớn, đạo pháp uyên thâm, võ dũng cũng phi thường nên rất được nhân dân tòng phục. Những người dân lam lũ, chất phác cần phải được hướng dẫn chân chính, hai cụ Tăng chủ và Đình Tây là những người có đủ tác phong đạo đức để làm nên việc đó. Ban ngày người tín đồ đi khai hoang, đêm về thì làm lễ niệm Phật, tham thiền và lĩnh hội những lời hay ý đẹp của các cụ. Những ngày sóc vong, các cụ thuyết pháp giảng kinh. Ngôi chùa của Bửu Sơn Kỳ Hương không có tượng Phật. Ngay đại điện cũng chỉ thờ một khung vải đỏ gọi là Trần Điều mà thôi. (Vuông vải màu điều này mang ý nghĩa nhiễu điều phủ lấy giá gương, còn có thuyết nói Đức Phật thày là dòng dõi Tây Sơn đổi tên, chạy ẩn vào Nam cho nên vuông vải điều đó mang ý nghĩa non tây áo vải cờ đào). Đi thăm chùa chúng tôi (lời tác giả) được cụ trưởng ban Quản trị của nhà chùa tiếp đãi. Cụ giảng: Nơi này xưa kia là trại ruộng của đức Phật Thày Tây An. Ngài di dân đến đây vào khoảng năm Tân Hợi để vừa mở cơ hoằng pháp vừa khai phá rừng hoang. Hồi đó, cọp beo dữ lắm mà đường sá không có. Cụ còn kể cho chúng ta nghe chuyện tăng chủ Bùi Văn Thân trị cọp như sau: Một lần cọp về xóm vào chập tối, người ta rút lên trên gác đóng cửa kín mít, đánh mõ tre báo động vang trời. Ông Tăng một mình cầm mác trèo xuống thang rượt cọp. Dưới ánh trăng mờ, cọp nhào tới phủ lên mình ông Tăng. Ông Tăng lẹ làng ngồi xuống, một tay dựng đứng cây mác lên, một tay thủ thế chờ cọp rơi xuống. Cọp hoảng hồn khi gặp tọa bộ của ông Tăng cùng ánh sáng lấp lánh của ngọn mác, liền né sang một bên. Trong lúc cọp mất thăng bằng chao mình trên lưng chừng thì ông Tăng đấm vào hông nó một quả đấm thôi sơn và thuận chân bồi thêm vào hạ bộ nó một cú đá nặng đòn. Cọp rống lên một tiếng vang rồi ngã lăn bất tỉnh. Ông Tăng không giết cọp, bước tới giựt nó dậy miệng lẩm bẩm: “Tao tha cho mày, từ nay phải bỏ tánh ngang tàng đừng tới đây nữa mà mất mạng”. Cọp gầm mặt xuống đất kéo la lết cái chân què vào rừng và từ đó không còn dám bén mảng đến xóm nữa. Ông Tăng không muốn sát sanh mà chỉ muốn tâm phục lũ thú dữ. Việc đánh cọp vừa nói không chỉ một lần mà cả năm ba lần nữa. Lần nào ông cũng tha cho chúng. Riết rồi con nào con ấy chạy mặt lùi xa. Cụ Quản còn dẫn chúng ta đi một vòng nội điện rồi đưa ra ngoài đến một gốc cổ thụ ở cạnh chùa, nơi một khoảng đất trống bằng phẳng, cụ trỏ tay nói: “Đây là di tích của ông Sấm ông Sét tức là đôi trâu của Phật thày. Trâu có công lớn trong việc vận tải và khai phá vùng này. Hồi Đức Phật Thày viên tịch, đôi trâu vẫn chưa già nhưng người ta quá ngưỡng mộ ngài và nhớ ơn trâu nên không bắt làm những việc nặng nề nữa. Cho đến khi trâu già người ta vẫn nuôi hoài rồi khi chết, đem chôn cất cẩn thận tại đây và xưng gọi như thế để tỏ lòng ghi nhớ”.
*
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:10:34 GMT 9
**
Tinh thần nông dân của dân tộc Việt là: a) Biết sâu xa những ưu hoạn b) Không sợ khó nhọc, gian khổ c) Không có quan niệm về sự chết Tại sao lại phải lo lắng sâu xa? Gần cận với thiên nhiên nên người nông dân hiểu rằng: Khi một đứa bé chào đời, mang tiếng khóc ôm đầu mà ra, nó cần biết bao nhiêu ngoại duyên để được sinh ra. Tục ngữ có câu mang nặng đẻ đau là thế. Khi một chú gà nhỏ bé thoát vỏ trứng, kêu chiêm chiếp đau đớn, nó phải cẩn thận biết bao để chui ra ngoài vỏ trứng. Khi một hạt giống nẩy mầm, cái mầm mềm yếu, nó pahỉ cần vô số điều kiện mới nhô lên khỏi mặt đất. Nhất nhất đều khó khăn, nhất nhất đều phải trải qua một quá trình ưu hoạn, nào mong sao cho được mưa thuận gió hòa, mong sao cho khỏi tật bệnh tử vong. Người nông dân do tinh thần biết sâu những ưu hoạn tích lũy mà có một tâm hồn bình dị để nhìn mọi sự, mọi vật trong trời đất rồi chọn thái độ bình tĩnh lo toan vằng lý tính. Người nông dân do tinh thần biết sâu những ưu hoạn tích lũy mà có một tâm hồn siêu việt để chuyển thành ý thức tôn giáo nhưng là ý thức tôn giáo lý tính hóa không có tín điều giáo chỉ và hệ thống tăng lữ và giáo chủ. Người nông dân tế trời, kính trời một cách thân mật chứ không sợ sệt như bị hầm hè đe dọa, đem đến cho tôn giáo tình vị và thi vị. Trời mưa cho lúa chín vàng Cho anh đi gặt cho nàng đem cơm . . . . . . . . . . . . . . . Chàng ơi, đi trẩy kẻo trưa Cửa nhà cậy mẹ, nắng mưa nhờ trời Em đi khấn Phật cầu trời Biết than cùng trời biết thở cùng ai? Trời ơi trời ở chẳng công Người ba bốn vợ người không vợ nào . . . . . . . . . . . . . . . Lạy trời, lạy Phật, lạy vua Cho tôi sức khỏe tôi xua con ruồi Do biết sâu những ưu hoạn mà tinh thần nông dân mới không sợ khó nhọc gian khổ, với một tâm hồn kiên cươòng vô tỉ. Cày sâu cuốc bẫm khai phá đất hoang tất phải khó nhọc, gian khổ, sự nghiệp của đất vốn là kết tinh của những nỗi tân khổ. Sách có câu: “An thổ đôn hồ nhân cố năng ái” (Vỡ đất xây dựng điều nhân cho nên biết thương yêu). Trải tân toan cay đắng nước mắt trộn mồ hôi mới thương người đồng cảnh. Nỗi khổ ấy giống như nỗi khổ trong bài “Thảo Từ” của Tân Giá Hiên: Nhân gian bất thức tinh thành khổ Tham khán thanh xuân vũ (Nếu nhân gian chưa biết đến nỗi khổ của tấm lòng tinh thành xin hãy nhìn mưa xuân). Càng khổ bao nhiêu càng chân thành bấy nhiêu. Khó khăn thay công việc nhà quê Cùng năm khó nhọc dám hề khoan thai Tháng Chạp thì mắc trồng khoai Tháng Giêng trồng đậu tháng Hai trồng cà Tháng Ba cày vỡ ruộng ra Tháng Tư bắc mạ thuận hòa mọi nơi Tháng Năm gặt hái xong rồi Bước sang tháng Sáu nước trôi đầy đồng Nhà nhà, vợ vợ, chồng chồng Đi làm ngoài đồng sá kể sớm trưa Tháng Sáu tháng Bảy khi vừa Vun trồng giống lúa, bỏ chừa có gianh Tháng Tám lúa rỗ đã đành Tháng Mười cắt hái cho nhanh kịp người Khó khăn làm mấy tháng trời Lại còn mưa nắng vất thời khổ trông Cắt rồi nộp thuế nhà công Từ rày mới được yên lòng ấm no. Càng tân khổ nên sự đối xử thập phần thân thiết, tìm mọi cách đùm bọc lẫn nhau, sự thân thiết đùm bọc chuyển thành luân thường. Lòng tinh thành đối với luân thường chuyển thành lý tưởng. Lý tưởng ấy là đạo đức và lo khai hoang trồng cấy. Trong tinh thần không sợ tân khổ, đạo đức luân thường dung hợp với lao động khai phá khẩn thực nên toàn dân chỉ là một người, đấu tranh thường trực tự cường bất tức. Trong tinh thần không sợ tân khổ, khai phá khẩn thực đi đôi với lý tưởng, người nông dân đã xây dựng cho mình một xã hội làng xã chi chít và bát ngát trên rừng, dưới biển, vừa đoàn kết chặt chẽ, vừa tự do bình đẳng. Mỗi cá nhân đều có ruộng vườn, giang sơn và nhân cách riêng biệt. Chức vị chú mõ làng thấp nhất nhưng vào hội hè đình đám, chú được trọng vọng ngồi ăn một mình một chiếu. Trong tinh thần không sợ tân khổ, đạo đức kết hợp với luân thường, người nông dân xây dựng cho mình một nếp sinh hoạt gia tộc vững chãi. Bằng tinh thần không sợ tân khổ, người nông dân đã bằng hai bàn tay trắng chuyển rừng thành ruộng, biến núi thành vườn suốt từ ải Nam Quan đến mỏm Cà Mau. Chỉ vì không sợ tân khổ, mỗi người nông dân chịu đói rét nhưng vẫn canh cánh bên lòng ý niệm: “Chớ để nhà tan, nước mất, chớ để lê dân đói rách”. Với tinh thần không sợ tân khổ, người nông dân mặc áo tơi nón lá vẫn cảm thấy mình chẳng thua kém chi kẻ mặc áo lông cừu. Với tinh thần không sợ tân khổ, người nông dân tuy chẳng biết một chữ nhưng vẫn đường đường là con người đầy đủ nhân cách. Nhất sĩ nhì nông hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ. Thiên địa có khai phá được hay không? Đồng ruộng có được xanh tốt màu mỡ hay không? Đất nước có được bảo vệ hay không? đều tùy thuộc tinh thần không sợ tân khổ. Một con người khả dĩ đường đường chính chính ấy cũng nhờ tinh thần không sợ tân khổ. Hình ảnh đi dép cỏ vào nói chuyện với thiên tử, áo rách hở hai khuỷu tay là hình ảnh nhà thơ nông dân Đỗ Phủ. Thật là khí khái đại biểu cho lớp người mang tinh thần không sợ tân khổ. Chỉ vì tinh thần không sợ tân khổ nên mọi hành động cướp nước trên đất Việt thường thất bại. Nếu không nhìn thấy sức mạnh của cải tinh thần “bất yểm tân khổ” của dân Việt, người ta sẽ không hiểu tại sao người Việt với những điều kiện chiến đấu cực kỳ thiếu thốn mà vẫn hăng hái, dai dẳng vô cùng. Nông dân bằng một tinh thần thâm hậu và một sinh mệnh cực độ kiên cường, đứng trước tình thế trời xoay đất đảo, loạn lạc lưu ly nhưng vẫn tin rằng: thế giới này từ trạng thái hoang vu đã do hai bàn tay người sáng tạo, vậy thì tất cả mọi việc đều cũng có thể do hai bàn tay người giải quyết được hết, chắc chắn trời xanh chẳng phụ khổ tâm nhân. Đời sau kế tiếp đời trước. làm mãi phải xong. Người nông dân trông trời trông đất quanh năm ngày tháng, đem tự kỷ chi tâm hòa vào với thiên địa chi tâm. Vái trời khấn đất có nghĩa là thần thánh hóa tự kỷ chi tâm, thần thánh hóa tinh thần chịu tân khổ chiến đấu. Vì đời sau tiếp đời trước nên phải lễ tổ kính tổ, không quên ông bà, cha mẹ, tổ tiên chuyển thành tổ quốc, thờ kính tổ tiên là thờ kính tổ quốc. Một tấc đất một tấc vàng, tấc đất được bàn tay lao động tân cần canh tác trở nên tấc vàng, nguồn sống không bao giờ kiệt. Một mẫu ruộng tượng trưng của bao công lao “tân khổ” nhưng đồng thời cũng tượng trưng cho sự quang vinh của công lao tân khổ đó.
*
**
Tinh thần không sợ tân khổ khiến cho nông dân bước vào đấu tranh lịch sử bằng ý chí kiên cường. Không có quan niệm về sự chết khiến cho nông dân tin tuyệt đối vào sự bất hủ của tâm linh. Ngạn ngữ có câu “sống gửi thác về”. Quá trình của mỗi sinh mệnh, khởi đầu bằng sinh, trong sinh đã tiềm phục “tử”. Nó chẳng khác chi ngày với đêm, hoàn toàn là chuyện rất thường. Sống thì tận nhân lực lo toan ưu hoạn, không sợ khó nhọc, chết thì về cõi khác. Người phương Tây lúc chết, thân nhân để tang bằng khăn đen, linh sàng toàn một màu đen vì họ nghĩ chết là đen tối, tuyệt vọng bi ai. Người Việt lúc chết thân nhân để tang bằng khăn trắng, linh sàng bày biện màu sắc rực rỡ, màu trắng đại biểu cho quang minh, thuần khiết đem mọi nỗi thê thảm trong trắng hóa khiến cái chết không còn là một điều đen tối tuyệt vọng nữa. Gậy thần của Tản Viên có một đầu sinh một đầu tử để sinh sinh hóa hóa, tử để hóa chứ không tiêu diệt. Các cụ già cứ đến tuổi 60 là bảo con cháu mua cái hòm để sẵn trong nhà làm cỗ hậu, ngày ngày các cụ sáng tối vừa uống trà vừa lau cho bóng cỗ hậu như luôn luôn săn sóc nhà mới mà mình sắp tới ở. Vương Long Khê đời Tống viết trong sách “Long Khê ngữ” rằng: “Sinh tử như trú dạ, nhân sở bất miễn tứ thời chi tự thành công giả thoái, nhân sinh thiên địa gian, thử thân đồng ư đại hư, nhất nhật diệc khả bách niên diệc khả”, nghĩa là: Lẽ sống chết ở đời như ngày với đêm, như bốn mùa thay đổi, hoàn thành nhiệm vụ rồi đi, con người sinh ra trong trời đất cái thân này đồng với đại hư không, một ngày cũng tốt mà trăm năm cũng xong. Câu nói ấy bắt nguồn từ triết lý nghề nông mà ra vì nông nghiệp vốn là sự nghiệp gắn chặt với chữ thời. Thiệu Nghiêu Phu (danh nho đời Tống) lúc sắp chết còn nói chuyện hài hước vui như pháo nổ. Lục Tượng Sơn (danh nho đời Tống) biết mình sắp chết, ông đi tắm gội mặc quần áo tề chỉnh xong ngồi nghiêm trang chờ phút lâm chung. Chu Hối Âm (danh nho đời Tống) trước khi thở hơi cuối cùng thấy bốn phương trời sáng rực. La Cận Khê (danh nho đời Tống) lúc chết bảo học trò: “Thần thông biến hóa là chuyện dị đoan, thầy đây chỉ bình bình một người thường và thầy thích như thế”. Cao Bá Quát vươn cổ cho đao phủ chém mà vẫn còn làm thơ rồi ngâm vang lên. Do tinh thần không có quan niệm về sự chết nên người nông dân Việt lập bàn thờ tổ tiên phụng dưỡng như lúc ông bà, cha mẹ còn sống và đời đời kiếp kiếp nối nghiệp tiên tổ. Nỗi đau khổ nhất của người sắp từ bỏ cõi trần là không thấy có ai nối dõi, chứ không đau khổ vì bản thân mình.
* **
Nhà Nho nước ta thường áp dụng chính trị gốc ấy là liên kết và giáo hóa tinh thần nông dân của dân tộc để thực hiện 4 công tác: - Dĩ nông dân vi thiên địa chi tâm (Lấy nông dân làm con tim của trời đất). Lòng em có đất có trời Có câu nhân nghĩa có lời hiếu trung - Dĩ nông dân vi đại địa chi tử (Lấy nông dân làm con yêu của đất lớn). Lạy trời mưa thuận gió đều Cho đồng lúa tốt cho chiều lòng em - Dĩ nông dân vi tinh thần chi thực thể (Lấy nông dân làm thực thể của tinh thần) Nhác trông sao Đẩu về Đông Chị em ra sức cho xong ruộng này Lấm lem tay cắm chân cày Hay trồng cây ngọc có ngày hữu thu - Dĩ nông dân vi an định chi lực lượng (Lấy nông dân làm lực lượng nền móng) Nông nghiệp là cái gốc của một nước. Sách “Luận Ngữ” chép: Ông Tử Lộ theo thầy học là Khổng Phu Tử, gặp một ông lão nhà quê đứng bên đường, mới hỏi: “Cụ có trông thấy Phu Tử không?”.Ông lão đáp: “Chân tay chẳng chịu làm việc, ngũ cốc chẳng biết phân biệt, có gì đáng gọi Phu Tử?”. Nói rồi chống gậy đi. Ông Tử Lộ chắp tay vái. Ý “Luận Ngữ” muốn bảo người đọc sách không thoát ly sản xuất. Nông dân Âu Châu từ xưa đã tập trung vào những nông trường lớn mà thời Trung Cổ gọi là lãnh thổ của quí tộc hay tăng lữ (manoir) để chịu cái kiếp nông nô. Nông nô nếu không được lãnh chúa cho phép thì không bao giờ có thể bỏ thái ấp này sang thái ấp khác. Nông nô chỉ được làm những gì lãnh chúa ra lệnh. Tất cả tài sản của nông nô từ cái bàn, cái ghế, cái giường đến thúng thóc đều là của lãnh chúa. Còn người nông dân Việt sống với mảnh đất, mảnh vườn nhỏ tự canh tác mà ăn, làm chủ mảnh đất mảnh vườn đó để đại biểu cho cái tâm của đất trời, làm con của đất ruộng cha ông đóng góp vào thực thể tinh thần dân tộc và đoàn kết, chung đúc nên lực lượng an định cho đất nước, hàng triệu mảnh đất, mảnh vườn nhỏ này chính là một pháo lũy quốc phòng hàng hàng lớp lớp vững mạnh cả mấy ngàn năm. Giặc định phá hoại nông thôn? Nông dân đã có quá nhiều kinh nghiệm với mọi nỗi ưu hoạn. Giặc định khống chế sinh hoạt? Nông dân vốn không bao giờ sợ tân khổ, sẽ chiến đấu dù hoàn cảnh ngặt nghèo đến mấy. Giặc định đem cái chết ra dọa nạt bằng khủng bố, tàn sát tập thể? Nông dân chẳng hề có mảy may quan niệm về sự chết thì đâu có sợ chết, đã không sợ chết thì đem cái chết ra đe dọa sao được. Chống với mọi loại giặc, nông dân luôn luôn có thái độ thật lì: Dù ai nói đông nói tây Lòng ta vẫn vững như cây giữa rừng Dù ai nói ngả nói nghiêng Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân Lòng ta đã quyết thì đánh Đã đẵn phải đẵn cả cành lẫn cây Pierre Gourou nhận xét: “Hãy nhìn sự bành trướng mở mang của dân tộc Việt trong lịch sử, với ruộng lúa xanh ngắt, làng xã khắp nơi với những con người quen bám chặt lấy đất cùng nền văn hóa nông nghiệp kiện toàn. Giống như loài hà ngoài biển tới đâu là sinh sôi nẩy nở gắn chặt lấy đó, xúm xít lại không cách gì làm cho nó rời ra. Rồi một lối sống được xây dựng chặt chẽ. Bởi vậy, dân tộc Việt, mặc dầu đã nhiều lần trong quá khứ bị giống Chàm thiện chiến, hung tợn đánh bại, nhưng kết cuộc dân tộc Việt đã tiêu diệt giống nòi Chàm. Đến nay, vết tích Chàm gần như mất hẳn, trong khi lối sống Việt đã tràn ngập, chỉ còn lại ít khác biệt còn có thể nhận thấy trên hình thù phần mộ, kiểu mái nhà ở và các loại cây mang tính chất địa phương mà thôi”. Sức mạnh của nông dân vốn tiềm ẩn như sức mạnh của đất, trông ngoài có vẻ vô lực mà kỳ thực lại là địa lực, có vẻ yếu mà rất khỏe, có vẻ nhát mà rất gan, xưa nay chiến sĩ thường 80% thuộc thành phần nông dân. Trong khi dân du mục tác chiến trông thật là cuồng phong bạo vũ nhưng chỉ được lúc đầu, không có sức chịu đựng bền bỉ. Lý tất thắng là thế, chỉ còn chờ thêm cái thế thắng nữa thôi.
* **
Đạo nông nghiệp, văn hóa nông nghiệp nay đứng trước sự thách đố của văn minh Âu Mỹ và cái đạo công thương nghiệp với tinh thần cạnh tranh bất cố nhân nghĩa thì sao? Vấn đề đặt ra là: Đừng để đạo công thương nghiệp phá hoại nền móng văn hóa nông nghiệp và cái đạo nông nghiệp bằng sự phủ nhận hoàn toàn giá trị cũng như ý nghĩa. Nhưng ngược lại, không nên độc tôn văn hóa nông nghiệp mà bài xích mọi giá trị cũng như ý nghĩa cần thiết của công thương nghiệp. Hãy tận lực mà học cho kỹ phương pháp tính và tổ chức tính của văn hóa công thương nghiệp để có thể khai thác tối đa những khả năng vật chất cho sinh hoạt. Đa số khi nói đến ruộng đất thường nghĩ ngay đến danh từ lạc hậu, khi nói đến nhà máy kỹ nghệ thường nghĩ đến danh từ tiến bộ. Sự thực lạc hậu hay tiến bộ không quá đơn sơ sốc nổi như vậy. Ở văn minh công thương nghiệp tiến bộ, người ta tìm thấy nào khoa học, số học và “logique học” rồi đến vật lượng, lực lượng và tốc xuất. Nhưng quả tình là người ta không sao tìm thấy vẻ trang nghiêm trong “logique học”, âm tiết hòa trong số học và tính tình ôn hậu trong khoa học. Ở văn minh công thương nghiệp tiến bộ, sinh mệnh bị vật lượng, lực lượng và tốc xuất chèn ép đến nỗi ngộp thở. Quay cuồng vào cơn lốc sản xuất thật nhiều, tiêu thụ thật nhiều, sản xuất thật nhanh, tiêu thụ thật nhanh. Lẽ ra vật lượng phải làm cho sinh mệnh sung túc thảnh thơi trái lại vật lượng quay cuồng vào cơn lốc kia lại làm cho sinh mệnh dễ lâm vào khủng hoảng và luôn luôn khẩn trương. Sau một thế kỷ say văn minh, các kinh tế gia, triết gia và trí giả bây giờ đang phản tỉnh để đặt lại toàn bộ mọi vấn đề, hết cả tin tưởng lạc quan như trước đây. Họ cảm thấy nỗi lo âu (angoisse), họ chán ngấy sự vội vã và mong mỏi được có những phút thảnh thơi, ninh tĩnh. “Logique học” của văn hóa công thương nghiệp đang cần có cái lý “dị giản” của văn hóa nông nghiệp để cho nó được trang nghiêm, để nó tự giảm bớt sự quá chuyên chú vào việc theo đuổi vật chất mà quay về với việc di dưỡng và tác nhân. Toán số học của văn hóa công thương nghiệp đang cần có con tim của đạo nhân, của văn hóa nông nghiệp để nó thành âm tiết (điều độ nhịp nhàng cho con người trở lại cùng tâm linh và tình cảm). Khoa học của văn hóa công thương nghiệp đang cần cái đạo trung thứ của văn hóa nông nghiệp để cho đời sống có tính tình ôn hậu. Chính trị học của văn hóa công thương nghiệp đang cần triết lý được lòng người thì thắng, mất lòng người thì bại, không lấy người làm đối tượng thù hận để cho chính trị bớt tàn nhẫn. Những danh từ “lạc hậu, chậm tiến” chỉ nhằm mục đích gây mặc cảm nhiều hơn là đánh giá thực trạng một cách tuyệt đối khách quan, rơi vào mặc cảm đó tức là rơi vào bẫy. Theo sử gia Oswald Spengler: “Mỗi nền văn hóa đều có riêng văn minh của nó”. Vậy thì nếu phải cần một biến đổi nào thì chỉ là sự thích ứng với thời đại thôi. Cuối thế kỷ 19, nước Việt thua Pháp trước sức hùng mạnh của máy móc, súng ống tối tân. Tuy nhiên, cái thua đó giống như thành Rome xưa kia đã bị đàn voi của Hannibal dầy xéo. Rome thua chẳng phải vì voi là một sức mạnh không có gì chống lại được mà là tại người thành Rome đã không hề có một quan niệm rõ rệt nào để chống lại sự bất ngờ này. Chỉ có thế thôi.
*
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:12:21 GMT 9
LỊCH SỬ VÀ CHÍNH TRỊ
Việc muôn năm trước lắm người đương Việc muôn năm sau nhiều kẻ nối Non sống không thiếu khách trì trương Vận mệnh phần tay ai giềng mối
Thái Địch
Tư tưởng chính trị không thể hoàn toàn độc lập với thực tiễn cũng như không hoàn toàn là một tên nô lệ cho thực tiễn, vậy thì hành động chính trị phải gắn liền với thực tiễn nhưng tuyệt đối không chỉ là tay sai của thực tiễn. Làm sao có thể cứ nhất định muốn xây dựng một chế độ mà chẳng thèm ngó ngàng đến những điều kiện khách quan của một vị thế, của một thời đại nói chung là toàn bộ một thực tiễn trước mắt. Tuy nhiên, nếu chịu bó tay qui hàng thực tiễn thì chính trị tất sẽ mất luôn sinh mệnh. Hãy dấn thân vào trong cuộc và hãy chọn cái đạo trung dung, vừa “thời trung” là nhận thức chính xác thực tiễn lại vừa “doãn chấp quyết trung” là chấp nhận thựa tiễn để biến thực tiễn thành có lợi cho cuộc đấu tranh. (C’est dans la zone intermédiaire que se développe la pensée politique qui exprime à la fois le conditionnement et la liberté de la réflexion humaine- Raymond Aron). Mỗi hoàn cảnh đều dành ra một khoảng trống cho sự chọn lựa và khoảng trống đó rất hạn chế. (Une situation laise toujours une marge de choix et la marge n’est jamais illimitée). Hạn chế bởi những yếu tố khách quan. Ngô Thời Nhiệm trả lời Đặng Trần Thường rằng: “Gặp thời thế thế thời phải thế”. Một câu ấy là đủ để nói rõ mối liên hệ giữa lịch sử và chính trị. Lịch sử là một cuộc đối thoại bất tận giữa quá khứ và hiện tại. Hiện tại, chính trị còn gọi là thời thế đúng như cái nghĩa thời thế thế thời phải thế. Thời thế như Tibor Mende viết: “Ce monde n’était plus le mème que celui où ils étaient nés, un autre avait pris sa place”. (Thế giới này không còn là thế giới của lúc họ mới sinh ra, một thế giới khác đã thay nó rồi). Thời thế chẳng những phải hiểu là hiện tại sự thực mà còn cần được nhìn vào vị lai biến hóa nữa. Thời thế như kinh Hoa Nghiêm nói là “cái võng cảnh Đà La” trùng trùng điệp điệp mỗi loại sự vật trên thực tế có một cái thế, rồi tất cả họp lại thành một đại thế. Sách “Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa” mở đầu bằng câu: “Phù đại thế trong thiên hạ” ngụ ý chỉ trạng huống của thế giới thực tế trong một thời nào đó. Thời Nghiêu Thuấn thì ấp nhượng, chắp tay lại nhường ngôi cho nhau, nhưng thời Thang Vũ lại vũ trang chu diệt để lật đổ một triều chính. Bởi vậy tư tưởng chính trị cần linh hoạt như Trình Minh Đạo nói: Tâm thông thiên địa hữu hình ngoại Tư nhập phong vân biến thái trung Chính trị cũng như gió như mây thươòng trực biến thái, nếu tư mà không nhìn thấy những biến thái đó thì làm sao hành động cho đúng. Dịch Kinh viết: “Dữ thời giai hành” (đi kịp với mọi biến chuyển của thời) Vận mệnh phần tay ai giềng mối có nghĩa là nắm được giềng mối của vận động lịch sử. Muốn nắm được giềng mối ấy thì phải biết cái thế chính trị thời đại. Triết lý về “thế” thật rất thâm ảo, bao la quán triệt. Người ta nói: “Thế nó phi như vậy”, lý cố nhiên là như thế, thế đấy, cái thế của tôi rất khó và còn rất nhiều câu có liên quan đến chữ thế nữa, thật khó lòng mà tìm thấy ngôn ngữ của dân tộc nào lại quan tâm đến vấn đề thế như dân tộc Việt. Có lý cũng không bằng có thế, mặc dầu lý với thế vẫn phải đi đôi với nhau. Có lý rồi đấy nhưng sự vật trên thực tế chưa chắc đã có, phải đợi đến lúc có cả thế nữa rồi sự vật mới sản sinh. Tỉ dụ: cái lý của chiếc máy bay người ta đã nghĩ đến từ lâu rồi, tuy nhiên, cả bao năm phi cơ mới được thực hiện nhờ cái thế kết hợp bởi chất kim khí nhẹ để làm thân phi cơ, nhờ nhiên liệu mới khám phá ra máy nổ v.v… Rồi khi đã hội đủ khí thế thì ngành hàng không phát triển thật mau chóng từ cánh quạt sang phản lực, từ bé nhỏ chở chừng vài trăm ký sang đến cả trăm tấn. Tỉ dụ: Kháng chiến Algérie đánh Pháp trải nhiều lần thất bại phải chờ đến lúc Ai Cập có cách mạng và Pháp thất trận ở Đông Dương cộng với phong trào giải phóng thuộc địa trên thế giới, lại nhờ vào Đông Dương còn tiếp tục chìm ngập thêm một cuộc chiến tranh khác, nên Algérie từ giành độc lập chuyển rất nhanh sang một trung tâm hội nghị của các quốc gia chống đế quốc và không liên kết. Hegel bảo: “Tất cả những gì tồn tại được đều phải hợp lý”. Câu này có thể nói thêm rằng: “Tất cả những gì tồn tại được không những phải hợp lý mà còn phải hợp thế, chỉ hợp lý mà không hợp thế thì khó lòng tồn tại”. Trên thế gian này có biết bao nhiêu loại xã hội, mỗi xã hội đều mang cái lý của nó. Nếu nói phần lý không thôi thì lý bất quá chỉ là lý, trên thực tế nó chưa đủ những yếu tố cần thiết để tồn tại, nó còn cần được gắn liền hoặc liên quan đến một cái thế nữa mới xong. Chế độ của Fidel Castro chỉ có thể tồn tại cô đơn ở Châu Mỹ La Tinh nhờ cái thế sống chung hòa bình Nga-Mỹ. Ngày nào cái thế sống chung chấm dứt tất chế độ xã hội hiện tại của Cuba sẽ phải biến thành một chế độ xã hội khác cho hợp với thế mới. Chế độ Allendé tại Chí Lợi đã chuyển vào thế khác kể từ sau cuộoc thử thách thành công của phe “Peronist” tại Á Căn Đình khi người ta không còn lo sợ những biến đổi ở Chí Lợi có thể làm tình hình ở Á Căn Đình ung thối luôn, khi người ta tin chắc chế độ Péron đã có khả năng giữ vững Á Căn Dình không để lợi thế rơi vào tay tả phái. Lão Tử nói: “Vi giả bại chi, chấp giả thất chi”. Câu này nghĩa rộng của nó là: Một cái thế chưa đến chỉ dựa vào nguyện vọng của một số người để cầu thực hiện một sự vật tất bất năng thành công, tức là vi giả bại chi. Thế đã đi, thế đã mất, chỉ dựa vào nguyện vọng của một số người để mong ngăn không cho một sự vật tiêu diệt thì cách gì mà ngăn nổi, tức là chấp giả thất bại. Việc làm của Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi cùng việc Cần Vươnh của đám văn thân khả dĩ gọi là “chấp” vì muốn xây dựng lại những gì mà cái thế đã hoàn toàn mất. Cũng như tài phiệt thực dân Đông Dương năm 1945 muốn Đông Dương lại trở về chế độ thuộc địa cũ. Việc làm của Nguyễn Thái Học trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái và việc làm của Nguyễn An Ninh khả dĩ gọi là vi giả bại vì lẽ thế chưa đến. Trước sau chỉ là một hành động yêu nước anh hùng, lý thì thừa mà thế không đủ. Xã hội hảo hay hoại đều tồn tại bằng lý và bằng thế của nó. Nếu chưa thay đổi được cái thế thì dù trên lý và trên thực tế nó là hoại rồi đấy nhưng nó vẫn tồn tại. Ấy hễ mà thế biến thì chỉ sớm chiều là thay. Trang Tử nói: “Phù thủy hành mạc như dụng châu nhi lục hành mạc như dụng xa, dĩ châu chi khả hành ư thủy dã, nhi cầu suy chi ư lục tắc một thế bất hành”, nghĩa là: Đi dưới nước không gì hơn thuyền, đi trên bộ không gì hơn xe, nay mang thuyền lên trên bộ mà kéo thì nó chẳng đi. Thế cũng ví như trên bộ hay dưới nước đối với thuyền hay xe vậy. Không có thế tất nhiên bất thành. Thế ở đâu mà tới? Ở hoạt động lịch sử đó. Lịch sử là bộ phận chủ yếu để tạo thành thế. Trong lịch sử có nhiều sự việc, mỗi sự việc đều dựng nên một cái thế. Đành rằng sự việc lịch sử đã qua đi không hiện trở về nữa nhưng không tái hiện không có nghĩa là vô hữu, nó còn mang bất khả cải và mang sức ảnh hưởng lớn nữa. Cuộc kháng chiến chống Pháp, từng chi tiết đều có dấu tích của quá vãng lịch sử kể từ Gia Long sai con là Hoàng tử Cảnh qua cầu cứu Pháp với cố Bá Đa Lộc. Người xưa nói: “Phát tự cổ chi u tình” nghĩa là: Phát hiện những tình u uẩn của lịch sử. Đất đỏ trời xanh, giữa một ta Chung quanh vẫn của nước non nhà Theo đưởng tiên mở đem chiêng xuống Vạch lối rồng xây lấy ngọc ra Tim óc xoay vần được tuế nguyệt Tay chân tạo tác nổi sơn hà Đấy ai suốt hết thần cơ nhỉ Tảng đá đầu ghềnh chốc nở hoa Phát hiện những tình u uẩn của lịch sử để làm gì? Để hoàn thành sứ mạng: “Thừa bách đại chi lưu nhi hội hồ đương kim chi biến” (Thừa kế việc của trăm đời để mà đương đầu với cái biến trước mắt).
* **
Lịch sử và cái thế chính trị hiện tại thế nào? Chúng ta hãy mở lại những bản đồ của tổ tiên, của cận đại và của hiện đại để mà tìm câu trả lời. Trước hết nó bắt đầu bằng cuộc cách mạng công nghiệp (révolution industrielle) tại Âu Châu. Với cơ khí và phương pháp tổ chức các lực lượng sản xuất, người Tây Âu một giờ làm việc sản xuất gấp 20 lần một giờ làm việc của người Nga, người Ấn, người Trung Hoa. Nhờ thế, dân Tây Âu đã có đủ số thời gian nhàn rỗi để thực hiện ít nhiều tự do chính trị. Sức máy và sản xuất càng mạnh lên, Tây Âu phát triển thế lực ra bên ngoài, ban đầu là các quốc gia lân cận rồi lan đi khắp thế giới. Từ đời Louis 13 (1643) đến trận đánh Trafalgar (1803), dân số Âu Châu chỉ tăng thêm 60 triệu thêm vào 100 triệu đã có. Nhưng từ ngày Robert Fulton thí nghiệm máy hơi nước lần đầu tiên trên sông Seine đến khi anh em nhà Wright thử máy bay (1903) thì dân số Âu Châu được tăng vọt gấp ba lần hơn 400 triệu. Trong khi dân số Á Châu tuy vẫn nhiều gấp đôi dân số Âu Châu nhưng vì không có những phương tiện kỹ thuật để cải tiến kinh tế nên Á Châu trở thành mồi ngon nguyên liệu cho kỹ nghệ Âu Châu. Kỹ thuật mới lúc chiến tranh “Napoléon” chấm dứt chỉ mới phồn thịnh ở Anh Quốc, tiếp tới nó truyền vào lục địa thay đổi Đức Quốc, Bắc Âu lần lần tới biên giới Nga và qua Bắc Mỹ Châu, âm vang của nó còn khuấy động cả Nhật Bản nữa. Nguyên liệu mỗi ngày mỗi thiếu, xâm lược và thực dân địa là những gì kỹ thuật mới đòi hỏi phải cung cấp cho nó. Thế là Phi Châu vỏn vẹn trong thời gian 20 năm của cuối thế kỷ 19 bị người da trắng chia nhau cắt từng miếng như chiếc bánh ngày sinh nhật. Sau đấy là Á Châu, việc Nhật dễ dàng đánh bại Trung Hoa (1894) đã ngậy lên mùi xác chết lôi kéo lũ kên kên ào ào vào đây đòi quyền đoạt lợi, tác oai tác phúc. Người da trắng là vua của trái đất khi thế giới chuyển vào thế kỷ 20 (Le sìecle approchait de son terme et l’homme blance était toi - Tibor Mende). Họ bàn bạc và chia chác với nhau cả trái đất. Anh Quốc cai trị đất đai rộng gấp 140 lần chính quốc. Bỉ Quốc cai trị vùng đất lớn gấp 80 lần nước Bỉ. Đế quốc Hòa Lan cai trị khu vực to gấp 60 lần nước Hòa Lan. Lá cờ Bồ Đào Nha cắm trên vùng đất rộng gấp 20 lần so với chính quốc. Tổng cộng cả Anh, Pháp, Nga của triều đại quân chủ Tsar chiếm hết quá nửa hoàn cầu. Dân bản xứ bị đạp dẹp dưới gót giày đế quốoc, nhất là Anh Quốc với thái độ cao ngạo khinh rẻ bậc nhất, đến nỗi chính báo chí Âu Châu còn phải lêu lên: “L’arrogance et la mauvaise foi des Anglais l’ont rendu intolérable à tous” (Trích “Liberté” ngày 3-11-1899). Nhưng sự lạ kỳ về mức lớn mạnh do kỹ nghệ thúc đẩy phải dành cho Hợp Chủng Quốc. Trong vòng non một thế kỷ, dân số Hợp Chủng Quốc vọt lên từ 4 triệu đến 76 triệu vào đầu thế kỷ 20. Kỹ nghệ có sức mạnh như hơi nổ, ồ ạt một cách rất Mỹ.Thành thị mọc lên như nấm làm mất hẳn bộ mặt chủ nghiệp trước đây lúc mới di dân khiến cho Hợp Chủng Quốc rất nhanh chóng bước lên hàng đầu thế giới về mặt kỹ nghệ và đứng vào hạng cường quốc bậc nhất bỏ lại đàng sau đế quốc to lớn Tây Ban Nha vốn là quốc gia khai thác châu Mỹ trước tiên. Tuy nhiên, Hợp Chủng Quốc vẫn chưa tranh được ngôi bá chủ của Âu Châu. Năm 1890, nông phẩm Mỹ mới có 3% và dụng cụ chế tạo Mỹ mới có 6% đem xuất cảng. Ở Âu Châu, nội bộ đế quốc bắt đầu bất ổn. Nước Anh dầu vẫn mạnh nhất nhưng có nhiều nước khác trên đà phát triển đe dọa ngôi tôn ấy. Đức Quốc do chính sách sắt máu của Bismarck đã thống nhất, thêm với hệ thống đường sắt nối liền các quốc gia châu Âu thành ra mối lo ngại của Anh, Pháp. Xa hơn nữa về phía Đông, dưới sự điều khiển của nội các Witte, Nga Quốc khởi sự áp dụng kỹ thuật vào kinh tế, thứ kỹ thuật từng đưa Tây Âu nắm bá quyền thế giới. Báo chí Anh tỏ vẻ lo ngại sự bành trướng của Nga sang Á Châu. Tuy nhiên, Tây Âu vẫn còn là trọng tâm của sinh hoạt kinh tế và chính trị. Pháp quốc sản xuất 1,7 tiệu tấn thép, Anh quốc sản xuất hơn 5 triệu tấn, Đức quốc riêng nhà máy Krupp sản xuất 7,3 triệu tấn. Cách ít lâu sau, Mỹ quốc sản xuất 13,4 triệu tấn. Rõ ràng trong tương lai, Mỹ sẽ là quốc gia khổng lồ có nhiều triển vọng nhất. Nhưng khả năng kỹ thuật, khả năng nắm quyền kiểm soát nhiên liệu và khả năng thương trường Anh-Pháp vẫn dẫn đầu. Năm 1900, tỷ lệ xuất cảng Anh cho mỗi đầu người là 7 đồng liu (livres), Pháp 4 đồng liu, Đức hơn 3 đồng liu, Mỹ chỉ mới 3 đồng liu thôi. Hàng Anh còn là hàng tốt nhất. Anh bán ra ngoài nước một số máy móc nhiều gấp hai lần rưỡi Pháp. Mỹ gần ngang với Anh về xuất cảng cơ khí nhưng về thương thuyền thì Anh lại vượt trội hơn tất cả bằng 10 triệu tấn trọng tải của thuyền bè được ghi nhận chính thức so với 2 triệu của Đức, 1 triệu của Pháp. Mỹ thì chưa có gì. Việc chuyên chở trên hoàn cầu gần như ở trong tay Anh quốc bao thầu hết. Gia súc, lúa mạch Á Căn Đình, bông của Ai Cập, mía của Java đều theo tàu Anh sang Âu Châu. Tập đoàn tài chính Âu Châu nắm giữ mọi then chốt thương mại quốc tế. Họ muốn bóp chết khu vực nào tất khu vực ấy phải chết. Tất cả để phụng sự người da trắng, từng giải đất rộng mênh mông chịu đói, chịu khổ, chịu chết bệnh tật để cho Âu Châu phồn thịnh huy hoàng. Nơi nào nổi dậy chống cự, khối da trắng liền cấu kết với nhau dập tắt ngay. Tỉ dụ: vụ Nghĩa Hòa Đoàn bên Trung Hoa giết vài người Âu ở Bắc Kinh. Lập tức các nước Âu họp lại tiến hành tức khắc một cuộc hành quân trừng phạt mà báo Times của Anh thời đó đã viết như sau: “Trong những điều kiện hiện thời, đường lối của chúng ta phải thật rõ ràng. Dĩ nhiên chúng ta không trừng trị bọn tiểu lại để cho chúng biết sự khủng bố của người Âu ghê gớm như thế nào mà hãy lôi mấy tên to đầu ra hỏi tội, in vết tích khủng bố lên đầu chúng để cho cả nước Trung Hoa biết từ nay chẳng có thứ quyền hành nào của nước họ có thể cứu họ khỏi bị trừng phạt một khi họ dám hỗn hào với người Âu Châu”. Những việc làm tương tự được nhà văn Ruyard Kipling xưng tụng là: “Sứ mạng khó nhọc của người da trắng” (The white men ‘Suzanna burden). Phần người dân Anh, toàn thể đều mang niềm tự hào: “Thật là hạnh phúc cho chúng ta được sinh ra làm con dân Anh quốc” (Quel bonheur pour nous d’être nés sous l’égide de ce nom). Tóm lại, lịch sử cận đại của nhân loại là lịch sử của Âu Châu phát triển làm cho thương nghiệp càng phồn thịnh. Âu Châu trở nên quá bé nhỏ với sự phồn thịnh ấy tất nhiên thế lực của nó phải tràn ra ngoài xâm chiếm các thị trường mới ở Phi Châu, Á Châu, Mỹ Châu kiến lập nên những thực dân địa ở khắp nơi trên thế giới. Âu Châu hoàn toàn làm chủ tể sinh hoạt thế giới được non một thế kỷ. Thời kỳ này được các nhà văn, nhà báo Pháp mệnh danh là “Thời Vàng Son”. Các cơ sở tài chính của Anh Pháp chỉ hơi rức đầu thôi cũng đủ làm cả thế giới hỗn loạn.
* **
Thời vàng son không kéo dài bất tận. Thủ tướng Bulow của Đức điều trần trước Quốc Hội có nhắc đến một tình thế mới mẻ đang hiện lên: “Anh em trong gia đình Tây phươong không còn thuận hòa được với nhau nữa” (Les membres de la famille occidentalle commencait à plus s’entendre entre eux). Đây là một lời cảnh cáo cho biết bão tố sắp nổi dậy. Sự bành trướng thế lực thuộc địa không còn thênh thang nữa thì cuộc đấu tranh giành quyền ảnh hưởng bắt đầu xảy ra giữa các cường quốc Âu Châu, nó âm ỉ tự sắp xếp thành chiến tuyến. Chẳng những chỉ có xung đột giữa các nước mà còn có cả xung đột nội bộ. Tháng 8 năm 1914, thế chiến thứ nhất bùng nổ tạo ra mấy biến động lớn: a) Chấm dứt độc quyền bá chủ của Âu Châu đưa Hoa Kỳ lên ngôi minh chủ. b) Cuộc cách mạng xã hội thành hình tại Nga năm 1917. c) Một đế quốc Á Châu xuất hiện: Nhật Bản. Thế chiến thứ hai chấm dứt, Âu Châu chỉ còn là hình hài của một lão già trác táng ốm yếu. Mỹ quốc thừa kế hết vinh quang của Âu Châu lúc trước. Nga Sô viết đứng vai trò lãnh đạo của đám quần chúng bất mãn trên toàn thế giới. Ở kinh tế có một luật tắc áp dụng cho cả anh bán hàng xén lẫn quốc gia đó là nếu tiêu thụ nhiều, sản xuất ít, ăn quá số tiền kiếm ra ắt hẳn lụn bại. Bằng hai trận chiến tổng cộng kéo dài hơn mười năm tốn phí, tàn hoại, các quốc gia Âu Châu cơ hồ kiệt quệ. Sau đệ nhị thế chiến, Âu Châu chi nhiều hơn thu, ngân quỹ đầy những lỗ hổng rất lớn. Trước kia oai hách bây giờ phải vượt Đại Tây Dương ăn mày đô la mong che lấp tình cảnh bệ rạc. Họ như kẻ tàn phế khập khễnh chống vào đôi nạng viện trợ Mỹ. Trong khi kỹ nghệ Hợp Chủng Quốc phát triển thật sấm sét, khoảng năm 1950, theo thống kê, tỷ lệ cứ một người sống ở thôn quê thì phải có hai người sống ở thành thị. Chiến tranh đã làm lực lượng sản xuất kỹ nghệ và mức sống của Hoa Kỳ vọt lên như tên bắn, mức sống của dân Mỹ cao nhất thế giới. Với sức mạnh của Samson, Hoa Kỳ có thể dễ dàng gây khủng hoảng kinh tế cho toàn trái đất bất cứ lúc nào. Taạihội nghị Yalta, Staline đã nói với tổnt thống Hoa Kỳ Rooveselt: “Dù Hiệp Chủng Quốc có muốn hay không, họ bây giờ là một đại cường quốc của thế giới, họ phải chấp nhận trách nhiệm chính trị trên cái cỡ thế giới của họ. Nếu không có họ can thiệp vào hai cuộc thế chiến thì có lẽ Đức không thua. Nói trắng ra, lịch sử trong vòng 30 năm trở lại đây, nước Mỹ đã vượt xa các nước khác để làm quen với thế cường quốc thế giới của mình”. Câu nói ấy nay đã trở thành một sự thật hiển nhiên. Với 200 triệu so với gần 3 tỷ con người trên trái đất, dân số Mỹ chẳng đáng bao nhiêu. Nhưng Mỹ đã có một sức mạnh trên mọi lãnh vực, thứ nhất là kinh tế và quân sự. Đô la Mỹ là một thứ quyền lực tại bất cứ đâu. Quân đội Mỹ có mặt ở nhiều nơi, với không lực mạnh nhất. hạm đội thứ 7 của Mỹ làm bá chủ toàn vùng biển Thái Bình Dương và hạm đội 6 vô địch ở Địa Trung Hải. Chẳng khác chi một phép lạ, suốt cả thế kỷ 19 tư bản Âu Châu đổ vào đầu tư ở Bắc Mỹ để mở mang xứ này. Bước sang thế kỷ 20, với hai trận thế chiến, tình hình đảo ngược hẳn, thứ nhất là sau trận thế chiến thứ hai, vốn Mỹ tràn ngập khắp thế giới. Kinh tế của Mỹ ở hải ngoại kiểm soát gần hết những ngành kỹ nghệ quan trọng, chẳng thế mà tháng 10-1966 đại hội đảng Tự Do của Gia Nã Đại đã phải hô hào: “Chúng ta phải làm gì để ngăn cản sự kiểm soát của Hoa Kỳ?” Lúc ấy, một nửa kỹ nghệ và hơn nữa tài nguyên quặng mỏ Gia Nã Đại đang nằm trong tay người Mỹ. Tháng 6 năm 1066, ông Geoge C. Mc. Ghee, đại sứ Mỹ ở Tây Đức phải làm bản nhận định chống lại những lời phản kháng của chính khách và phần tử trí thức Tây Đức cho rằng sự đầu tư của vốn Mỹ là một mối đe dọa cho nền độc lập kinh tế Đức. Rồi đến Bỉ, Pháp và Anh, đâu đâu cũng kêu ca lo sợ vì vốn Mỹ đầu tư, bằng cùng một luận điệu e ngại cho chủ quyền quốc gia hoặc cho rằng Mỹ chỉ biết thủ lợi không cần biết đến chính trị. Tại nước Anh, rất nhiều nhà máy sản xuất xe hơi đã sát nhập vào những hãng Mỹ khiến cho công nhân phẫn nộ. Một người Thụy Sĩ giàu có với rất nhiều cổ phần trong các hãng Mỹ đã nói rằng: “Chỉ trong vòng mươi năm mà nhóm áp phe Mỹ đã chiếm hết tài nguyên Âu Châu”. Tác giả cuốn sách “L’ Amérique impériale”, ông Armaury de Riencourt viết: “Le fait est que l’expansion monde est irrésistible”. (Sự thực là sự bành trướng thế lực kinh tế của Mỹ trên thế giới không có gì chống lại nổi). Từ năm 1960, số vốn đầu tư Mỹ ra ngoài chừng 30 tỷ đô la, đến năm 1965 số tiền ấy tăng lên 106 tỷ, ấy mới chỉ là con số có ghi chính thức còn những con số đi đường ngang ngõ tắt chưa kể loại và sau này cũng nhiều khủng khiếp. Mọi trung tâm quyết định kinh tế của thế giới tự do bằng cửa này hay cửa khác, đều chuyển về Hoa Kỳ. Một nửa số xe hơi sản xuất ở Âu Châu do vốn Mỹ, phần ba kỹ nghệ dầu hỏa Anh quốc và thị trường chung Âu Châu nằm trong tay Hoa Kỳ. Hàng chục ngành khác như vỏ ruột xe, dao cạo, máy khâu, hóa chất v.v… do tư bản Mỹ điều khiển. Dù tức giận vì tự ái quốc gia bị thương tổn nhưng các tay tư bản Âu Châu vẫn phải luôn luôn xin Mỹ tiếp tay, kinh tế vẫn theo quy luật khách quan mà! Ngày 17 tháng 1 năm 1967, bộ trưởng bộ thực nghiệp Anh Anthony Wedgood Benn ,báo cho Hạ viện biết rằng vấn đề hãng Rootes Motors (sản xuất xe hơi) lâm vào tình trạng bế tắc không giải quyết được và sự bế tắc này do lỗi chương trình khắc khổ của chính phủ Anh. Ông cũng cho hay chính phủ bảo thủ trước đây đã trói tay chính phủ lao động kế tiếp bằng việc đã để cho hãng Chrysler của Mỹ bỏ vốn một phần vào hãng Rootes. Việc ấy đưa đến chỗ cả hai hãng phải tổ hợp với nhau trên những lãnh vực quan trọng: quản trị thị trường và làm cho hãng Rootes không trí thức hể tổ hợp với các công ty khác của Anh. Các dân biểu đưa ý kiến: Chính phủ Anh sẽ mua lại những gì mà Chrysler đã mua của Rootes. Bộ trưởng Benn đáp: “Nay đã muộn quá rồi, các kế hoạch của Rootes phát triển hiện giờ hoàn toàn tùy thuộc vào thỏa hiệp năm 1965 về trao đổi thực nghiệp với hãng Chrysler.Chrysler tuy chỉ có một phần hùn nhỏ nhưng họ đã nắm trọn quyền tài chính to tát. Chính phủ Anh không thể ngăn cản sự thắng lợi đã quá rõ rệt của Chrysler”. Cuối năm ấy, báo Sunday Telegraph, khi viết về hãng Rootes đã kết luận: “Hãng Rootes trở lại hoạt động mạnh sau khi qua sự giải phẫu của Mỹ”. Bá quyền kinh tế Mỹ làm cho Hoa Kỳ phải can thiệp vào nội chính của nhiều quốc gia. Chỉ có lục trong hồ sơ ngoại giao mới khả dĩ kể hết được những vụ can thiệp ấy, sách vở hay báo chí mới chỉ ghi được phần nào thôi. Đế quốc Mỹ là đế quốc lớn nhất lịch sử từ ngàn xưa đến nay, nó bao la không ranh giới, khác hẳn với đế quốc Anh, Pháp trước thế lực rất hạn chế với từng khu vực, từng lãnh thổ. Còn đế quốc Mỹ, thế lực lan tràn suốt Tây Âu, Phi Châu, Á Châu, Trung Đông và Nam Mỹ Châu, Úc Châu. Đi bên cạnh đế quốc, kinh tế, chính trị là một đế quốc quân sự (empire militaire) đã khiến cho Mỹ mạnh hơn bao giờ hết so với tất cả các đế quốc đã có trong lịch sử. Một quốc gia có thể cho đến phút này hạn chế được sự xâm nhập của đế quốc kinh tế Mỹ nhưng vẫn không thể thoát được chuyện phụ thuộc vào kho vũ khí của đế quốc quân sự Mỹ. Bởi vậy, khi nói đến Mỹ, người ta không thể quên mặt đế quốc quân sự của nó. Ngót 1/4 thế kỷ, Mỹ quốc đã hoàn thành một đế quốc quân sự và kinh tế, và đang có tham vọng tiến đến một đế quốc văn hóa (empire culturel). Ngày xưa khi tổng thống Monroe lên diễn đàn nói câu lịch sử: “Xin đừng đụng đến nước Mỹ” (Ne touchez plus l’Amérique) để thiết lập chủ nghĩa cô lập thì ngày nay lời nói bất hủ ấy lại mang ý nghĩa khác “Chớ có đụng đến nước Mỹ” để chứng tỏ sức mạnh đế quốc.
* **
Liên bang Sô viết Nga bằng một hệ thống kinh tế và xã hội riêng biệt, đã lần từng bước để leo lên hàng lãnh đạo những nước sinh sau đẻ muộn vào thế giới kỹ nghệ. Cuối thế kỷ 19, đế quốc Nga hãy còn xác xơ chẳng hơn Ấn Độ bao nhiêu về mặt kỹ nghệ. Vài hầm mỏ để tìm các loại kim quí như vàng ngọc hay mặt đá chứ chưa phải để lấy nguyên liệu cho kỹ nghệ. Chuyên chở còn cổ lỗ, mức sống rất thấp. Năm 1903, sức mạnh máy móc Nga chỉ bằng 1/8 của Đức, 1/15 của Anh hay Mỹ. Trái lại, Nga đứng đầu nhiều nước về xuất cảng ngũ cốc với sức cáng đáng một phần ba hay hơn nữa tổng số nhập cảng thực phẩm của Tây Âu. Nga phải nhập cảng tất cả các sản phẩm kỹ nghệ. Một vài kỹ nghệ tiêu thụ nhẹ như dệt vải đã được thiết lập nhưng đều do vốn ngoại quốc cai quản. Trước năm 1914, Anh, Pháp, Đức nắm giữ quá nửa số ngân hàng mở tại Nga. Bốn mươi năm sau, Nga nhảy lên địa vị cường quốc kỹ nghệ lớn bậc nhì. Số sản xuất thép ngang của Anh Đức cộng lại. Tuy nhiên, vẫn chỉ bằng một phần ba của Mỹ. Số sản xuất than nhiều hơn Anh Pháp Bỉ cộng lại, tuy nhiên vẫn chỉ bằng một nửa của Mỹ. Số sản xuất điện lực vượt xa của Anh Pháp cộng lại, tuy nhiên vẫn chỉ bằng một phần tư của Mỹ. Cùng một lúc với phát triển kinh tế, Nga cho gấp rút xây dựng một nền kỹ nghệ chiến tranh vĩ đại. Với thời gian 30 năm Nga đã có thể cung ứng đầy đủ cho một trong những bộ máy chiến tranh lớn nhất hoàn vũ và xây dựng một hạm đội tiềm thủy đĩnh lớn gấp mười lần của Đức trước đây. Nhà văn Fénélon, trong bức thư gửi cho Louis 14, có nói: “Bất cứ quốc gia nào lớn lên quá độ đều có một chính sách xâm chiếm các lân bang”. Nga cũng không đi ra khỏi thông lệ này, mặc dầu văn hào Dostoievski viết: “Cái ý nghĩa của người Nga rõ ràng là vừa Âu Châu lại vừa toàn thế giới. Là một người Nga thật sự, là một người Nga đầy đủ thì phải thấy mình là người cha của tất cả mọi người. Nêu ra chủ nghĩa Nga Tư lạp phu (Slavophilisme) để phân biệt với chủ nghĩa Tây phương (Occidentalisme) chỉ là một sự hiểu lầm giữa chúng ta cần thiết cho giai đoạn lịch sử. Với một người Nga chân thực thì Âu Châu cùng số phận của chủng tộc “Aryen” cũng quý báu như dân tộc Nga vậy. Bởi vì số mạng chúng ta là số mạng chung của nhân loại, chúng ta sẽ không thu gom bằng gươm giáo mà bằng tình huynh đệ toàn thể loài người vào làm một”. Nước Nga đã bành trướng thế lực của mình bằng tất cả các phương thức tàn bạo của một đế quốc và giải thích chính sách của mình bằng quyền lực luận (Power interpretations). Staline trong bàn hội nghị tay ba ở Yalta, đã tuyên bố một cách nóng nảy khi hội nghị đề cập đến vấn đề quyền bình đẳng của mọi quốc gia trong Liên Hiệp Quốc, ông nói: “Cái nước Albanie nhỏ bé ấy quyền chi mà ngang với đại cường Nga sô. Con đại bàng phải cho bọn chim nhỏ hót nhưng nó không cần phải lo ngại về việc chúng hót cái gì?”. Ít lâu sau, ngoại trưởng Vichinsky đập bàn quát lên với chính phủ Roumanie: “Yalta hả, Yalta là tôi” và quốc gia Roumanie từ đấy rơi vào khu vực chư hầu Nga sô cùng với một số nước khác của vùng Đông Âu như Tiệp Khắc, Ba Lan, Hung Gia Lợi. Nhìn bao quát thì đế quốc Sô viết cũng lớn lao ghê gớm, nó bao trùm một đại lục chạy liền 25% đất đai hoàn cầu, kiểm soát 38% dân số và nguyên liệu và 1/3 sản lượng kỹ nghệ của thế giới. Để kiểm soát cho được chặt chẽ ngay từ lúc đầu, Nga đã ngăn chặn khuynh hướng quốc gia bằng cách làm cho các nước chư hầu trong khối Sô viết không liên kết được với nhau, do đó, Nga khôn ngoan áp dụng phương pháp ký tay đôi khiến cho bất cứ chuyện gì của quốc gia chỉ có thể nói riêng với Nga thôi, nếu Nga không chịu là kể như hết bàn cãi. Sở dĩ minh ước Bắc Đại Tây Dương hoàn thành năm 1949 mà mãi đến tháng Năm 1955 Nga mới hoàn thành minh ước Varsovie cũng chỉ vì Nga không muốn vội vã kiến tạo một phòng tuyến chính trị, quân sự khiến cho các nước chư hầu có thể mượn cớ mà đòi thêm quyền hạn, ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại của Nga. Cho nên, tất cả những hội nghị của minh ước Varsovie chỉ là chiếu lệ chứ không tích cực cho lắm. Trên thực tế, Nga vận dụng lề lối trực tiếp song phương trên hàng lãnh đạo chính trị, quân sự của hai nước, như thế Nga bao giờ cũng giữ ưu thế và vẫn nắm trọn quyền chi phối hệ thống đồng minh. Quân đội Nga đóng trên lãnh thổ các nước thuộc khối Nga được hưởng những đặc quyền có thể đem so sánh với quân đội chiếm đóng. Về mặt kinh tế chính phủ Nga cũng được hưởng những đặc lợi đối với các nước không kém gì mẫu quốc đối với các thực dân địa.
* **
Hai nước Nga, Nỹ nắm trọn quyền bá chủ làm cho thế giới chính trị trở thành lưỡng cực hóa (bipolarisation) và quyền lực chính trị quốc tế đi vào khuynh hướng tập trung. Thủ đoạn để thực hiện bá quyền ấy mang những đặc điểm sau đây: a) Ngụy trang và gian tạo b) Ẩn nấp hành động xâm lược dưới hình thức tự vệ c) Ẩn nấp hành động xâm lược dưới những lý do bất vụ lợi d) Dùng những hiệp ước thân thiện cốt để ru ngủ đối phương e) Khu vực hóa xung đột và chiến tranh f) Khai thác mâu thuẫn nội bộ đối phương g) Khai thác những mâu thẫun quyền lợi và mâu thuẫn chủng tộc h) Ngầm xúi giục phe bên kia nổi dậy chống bá quyền i) Đe dọa và khủng bố j) Bảo vệ các nước yếu để lấy cớ thực hiện chính sách xâm lược Một mặt thỏa thuận chia nhau khu vực ảnh hưởng nhưng một mặt Nga Mỹ vẫn dùng đủ mọi cách để bành trướng thế lực tại những nơi mà sự thỏa thuận hãy còn lờ mờ hay trên những lãnh vực còn mới mẻ. Tác giả nhiều sách chính trị nổi tiếng, ông James Burnham, đã nói về mấy nguyên tắc cơ bản của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ như sau: 1) Hòa bình không phải và không thể là mục tiêu của chính sách đối ngoại 2) Hoàn toàn hủy bỏ cái chính sách mệnh danh là chính sách bất can thiệp vào nội bộ các nước vì chính sách đó là một chính sách rỗng tuếch. Đối phó với những vấn đề chính trị của thế giới phải áp dụng lề lối can thiệp nhanh, mạnh, đủ. 3) Hoa Kỳ phải dùng sức mạnh, sức mạnh quân sự. Quốc tế chính trị đã lấy chiến tranh làm trung tâm thì mọi hoạt động ngoại giao phải chịu chi phối của chiến lược. Chiến lược là biểu thị quân sự cho một đường lối chính trị nào đó. Dĩ nhiên do ảnh hưởng này mà tất cả những khu vực nào đó có liên hệ đến chiến lược quân sự quốc tế là những nơi bị nhiều tranh chấp chiến lược nhất (trường hợp điển hình Việt Nam). Đôi khi, những hoạt động ngoại giao, hòa bình hoặc ký kết đồng minh ở những khu vực này chỉ còn là tính cách thủ tục thôi, vì nhu cầu chiến lược các nước lớn có thể làm đại bất chấp dư luận cũng như bất chấp pháp lý quốc tế. Nhà ngoại giao có thêm một nhiệim vụ quan trọng khác là dẫn những ông tướng và bộ đội của nước nhà đến đóng ở một quốc gia khác với sự tiếp đón vui vẻ. Nếu không thì đã có những biện pháp bạo lực như kiểu Santo Domingo hay như số phận thủ tướng Lumumba ở Congo, vụ Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc.
*
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:13:29 GMT 9
* **
Quan hệ chính trị lưỡng cực kéo dài gần hai chục năm, thế giới chịu sự chi phối của hai nước siêu cường Nga Mỹ. Sau đệ nhị chiến, mở đầu là ngũ cường sắp xếp công việc. Rồi Pháp, Trung Hoa (Dân Quốc) và Anh bị gạt ra ngoài. Chính trị quốc tế lưỡng cực hóa. Mỹ đứng đầu một khối, Nga đứng đầu một khối, mỗi khối bao gồm các nước nhỏ yếu hơn, ở cùng một đường lối chính trị. Bề ngoài của nó chỉ là sự thành lập đồng minh chẳng khác chi những hiện tượng đồng minh đã từng có trong lịch sử như liên minh chống Napoléon, hiệp ước Anti-Komintern v.v… để nhằm mục đích làm cân bằng lực lượng (diplomatie d’équilibre). Nhưng có điểm khác là liên minh với đồng minh xưa kia thường chỉ là những cam kết giúp đỡ về quân sự khi xung đột xảy ra và chỉ lúc nào chiến tranh đã thực sự bùng nổ thì những lời cam kết đó mới thi hành. Còn khối liên minh liên kết bây giờ là nhảy luôn vào cuộc tranh chấp bất kể hòa bình hay chiến tranh. Một khi hiệp ước đã ký kết là tức khắc tất cả mọi hoạt động quân sự, kinh tế, chính trị, xã hội phải áp dụng theo đường lối chung của khối đồng thời tiêu diệt hết thảy những ảnh hưởng của khối kia. Nhưng kể từ 1962 trở đi, quan hệ chính trị lưỡng cực bị đánh phá dữ dội, một là do tranh chấp Nga Mỹ phải luôn luôn muốn lấn vòng ảnh hưởng của thế lực bên này qua phía bên kia, hai là nội bộ từng khối đã có nhiều quốc gia lớn mạnh lên và muốn tránh khỏi sự lệ thuộc. Về phía Mỹ, các đồng minh Âu Châu tìm mọi cách chống lại những quyết định của Mỹ về tiền tệ cũng như về chính trị, gay gắt đến độ tổng thống De Gaulle đã buộc trụ sở minh ước Bắc Đại Tây Dương do Mỹ làm minh chủ phải rời khỏi nước Pháp. Ông Henry A. Kissinger đã viết như sau: “Vào năm 1949, các quốc gia Âu Châu có hai mối lo sợ: a) Nga tấn công- b) Quân Mỹ rút đi”. Nhưng đến những năm 60 thì ám ảnh về một cuộc tấn công của Nga đã giảm thiểu rõ rệt, ngay cả đối với vụ Nga mang quân vào Tiệp cũng không khơi lại nỗi lo sợ đó nữa. Mặt khác với 20 năm đóng quân bên Âu Châu và tham dự vào mọi kế hoạch của minh ước Bắc Đại Tây Dương, Âu Châu không còn lo Mỹ bỏ rơi Âu Châu nữa vì quyền lợi Mỹ đã mắc míu khá nhiều. Khi mới bắt đầu thành lập minh ước Bắc Đại Tây Dương, mối đe dọa chủ yếu cho hòa bình thế giới khởi từ cuộc xâm lăng của Nga qua Âu Châu. Nhưng bây giờ chính Hoa Kỳ đã chứng minh cho thấy mối đe dọa ấy có thể xảy đến tại bất cứ đâu chẳng riêng gì Âu Châu. Cho nên, quan niệm Âu Châu đối với vấn đề cũng thay đổi, họ không thấy liên quan gì đến họ nếu mối đe dọa không trực tiếp ảnh hưởng đến an ninh và độc lập của xứ sở họ. Trước kia, trong những năm 50, dân Âu Châu kêu gọi sự ủng hộ của Mỹ giải quyết những vấn đề Á Châu và Trung Đông để bảo vệ những quyền lợi tối thượng của Tự Do. Mỹ đã giúp họ, đồng thời cũng cho họ biết là những quyền lợi tối thượng ấy đòi hỏi họ hãy rút ra khỏi các vùng đó. Bây giờ thì tình trạng ngược hẳn lại, Âu Châu hoàn toàn làm ngơ trước lời kêu gọi của Hoa Kỳ cho một hành động chung. Người Âu Châu thấy chẳng dính dáng gì đến họ đối với các việc mà Hoa Kỳ bị khó khăn ở bên ngoài Âu Châu. Âu Châu ngày nay đã lấy lại khá nhiều sức mạnh kinh tế, Âu Châu ngày nay tự tin vào sức mạnh khác hẳn những năm 50. Dĩ nhiên vấn đề thay đổi cơ cấu trong quan hệ quốc tế phải được đặt ra. Khi Âu Châu còn phải nhờ Hoa Kỳ bảo vệ kinh tế cũng như trên quân sự thì Âu Châu không thể không để Hoa Kỳ giữ địa vị bá chủ. Quan hệ của Âu Châu với Hoa Kỳ lúc đó là quan hệ của kẻ cầu cạnh hơn là quan hệ ngoại giao. Nhà ngoại giao Âu Châu phải gây được cảm tình cá nhân cho mình hơn là trông cậy vào thế lực quốc gia. Nay thì khác hẳn, Âu Châu đã phục hồi lại sức mạnh kinh tế thì chính trị phải biến đổi… Về phía Nga, tất cả mọi hy vọng khối cộng sản là đồng nhất (monolithique) nay đã vỡ bét. Chuyện Tito ly khai từ năm 1948 chỉ là dấu báo hiệu hãy còn xa. Nay thì Albanie cũng lớn tiếng chửi Nga là lũ phản bội chủ nghĩa ấy mới thật là rối loạn. Việc tối quan trọng là quan hệ anh em Nga Hoa bị cắt đứt. Nó khởi sự kể từ ngày Krouthchev kế vị Staline và đề ra đường lối mới đấu tranh bảo vệ hòa bình. Đường lối này là kết quả của bức thư mà thống chế Boulganine gửi cho tổng thống Eisenhower cùng lúc với các nguyên thủ Tây phương đề nghị họp hội nghị thượng đỉnh. Trung Quốc phản kháng ra mặt đường lối mới của Krouthchev. Tháng 9-1959, Krouthchev từ Mỹ về ghé viếng thăm Bắc Kinh. Trung Quốc nhìn ông bằng con mắt lạnh nạht và nghi ngờ. Trung Quốc đã thất vọng với người anh em Nga sô. Hội đàm giữa Mao-Krouthchev rất gay gắt. Hai bên dùng những lời lẽ không mấy đẹp để nói chuyện với nhau đến nỗi chẳng bao giờ bắt tay nhau lần nào khác nữa. Đến Đại hội cộng sản Bucarest thì tranh chấp bước vào giai đoạn quyết liệt. Ba tuần sau đại hội, chính phủ Nga báo cho Trung Quốc biết quyết định rút các chuyên viên Nga ở Tàu về nước, thời hạn rút rất nhanh. Đồng thời 343 giao kèo, 257 kế hoạch hợp tác khoa học, kỹ thuật Trung-Nga bị hủy bỏ. Nga chấm dứt cung cấp các vật dụng quan trọng để trang bị kỹ nghệ cho Trung Quốc. Vụ này cả Nga lẫn Tàu đều giữ kín bưng. Trung Cộng cắn răng chịu Nga muốn áp dụng chính sách mà Staline trước đây trừng phạt Nam Tư để buộc Trung Cộng phải khuất phục đi theo đường lối Nga. Thật là một đòn nặng cho Trung Cộng về mặt kinh tế cũng như về mặt tìm tòi khoa học. Thứ trưởng Bạc Nhất Ba trả lời ký giả Anne Louis Strong về câu hỏi liên quan đến vụ trên với giọng buồn bã: “Chúng tôi đang tiến hành hơn 300 kế hoạch đã mấy năm trời. Bây giờ trong một tháng tất cả đều ngưng, các chuyên viên Nga về nươcó mang theo họa đồ, dụng cụ không được gửi đến nữa. Tình trạng không khác gì người ta đã lấy hết đĩa bát trên bàn ăn”. Ký giả Robert Guillain qua thăm Trung Cộng (1964) tả lại cảnh thê lương đó: “Nhiều cơ xưởng chết, trông rõ rệt vết hoang phế từ lâu, phòng ăn công nhân trống huếch trống hoác. Nhiều nhà máy hoạt động cầm chừng nên vắng vẻ, tám phần mười ống khói lò không thấy khói bay lên, những xây cất bỏ dỡ nửa chừng không có cửa sổ, không mái che, không sự sống”. Các nhà lãnh đạo đỏ của Trung Quốc quyết định thà kỹ nghệ hóa chậm còn hơn van nài. Không những thế, họ còn gửi sang Nga nhiều văn thư đòi xét lại tất cả mọi thỏa ước đã ký kết giữa hai nước về việc hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và hủy bỏ luôn quan hệ mậu dịch Nga-Hoa. Quyết định này là một đòn trả miếng khá đau cho Nga vì nó ảnh hưởng lớn đến kinh tế Tiếp Khắc và Đông Đức. Tiến xa hơn nữa, Trung Cộng tìm mọi cách làm giảm uy thế của Nga ngay trong các nước cộng sản, thứ nhất là các nước Á Phi để mong thay thế Nga lãnh đạo hay nói khác đi là Trung Quốc cũng muốn tự mình trở thành một đế quốc nữa. Nếu đọc bài thơ mà Mao Trạch Đông làm trước khi đánh trận Trường Sa thì thấy rõ tham vọng đế quốc hiện lên rõ ràng: Hỡi dãy núi trùng trùng điệp điệp Cao vòi vọi và trên đỉnh đầy tuyết phủ Ta vung kiếm lên, đứng giữa trời bao la Chặt người ra làm ba khúc Một khúc ta cho Âu Châu Một khúc dành cho Mỹ Ta giữ lại một cho Trung Quốc Thế giới sẽ sống yên bình Và trái đất điều hòa nơi mưa nắng
* **
Cho đến 1914, phần lớn các nước ở Á Châu và Phi Châu đều trực tiếp hoặc gián tiếp dưới sự kiểm soát của Âu Châu. Sau đệ nhị thế chiến thì tất cả đã phá vỡ xiềng xích thuộc địa (domination coloniale). Lực lượng nào là chủ chốt cho phong trào giải phóng đó? Năm 1950, một trong những vị lãnh tụ, ông Jawahrlal Nerhu nói: “Những nét chính của bộ mặt Á Châu ngày nay là sự phản kháng chế độ thuộc địa, sự phục sinh chủ nghĩa ái quốc, niềm hy vọng một cuộc cải cách ruộng đất, lòng nhiệt thành muốn kinh tế tiến bộ và say mê tự do. Đấu tranh giải phóng của các nước Á Phi tất nhiên là qua nhiều gian khổ vì giải phóng khỏi chế độ thuộc địa Âu Châu là một chuyện và đương đầu với những đế quốc mới là một chuyện khác. Tỉ dụ: lúc cuộc chiến Thái Bình Dương vừa bước vào giai đoạn khốc liệt, tướng Mc Arthur đã tuyên bố: “Âu Châu bây giờ là một hệ thống chết. Nó sẽ tàn lụi rồi rơi vào quyền thống trị kinh tế và kỹ nghệ Sô viết. Những đất đai vùng Thái Bình Dương và hàng tỷ người sẽ là yếu tố quyết định lịch sử trong tương lai cả ngàn năm”. (Europe is a dying system. It is worm out and run down and will become an economic and industrial hegemony of Soviet Russia. The lands touching the Pacific with their billions of inhabitants will determine the course history in the next ten thousand years). Nga cũng quan tâm tới Á Châu chẳng kém, vì Lénine, ngay từ khi mới ngồi vào chính quyền đã bảo các đồng chí của ông rằng: “Con đường đi tới Paris vòng qua ngả Bắc Kinh”. Không phải chỉ có Nga và Mỹ có tham vọng tại khu vực Á Phi, ngày nay còn có thêm cả Trung Cộng và tàn dư của thế lực đế quốc Âu Châu trước đây. Đại sứ Joseph Grew (Mỹ) thật đã rất sai lầm với nhận định: “Sau khi phá hủy được lực lượng xâm lăng Nhật, chúng ta không còn địch thủ nào ở Thái Bình Dương nữa. Nhật Bản là kẻ thù duy nhất của các dân tộc hiền hòa vùng Thái Bình Dương”. Vì 24 năm sau, bộ trưởng Mc Namara đã nhận định trái ngược hẳn: “Mục tiêu dài hạn của cộng sản Trung Quốc là tìm cách ảnh hưởng vào các nước Á Phi và Châu Mỹ La Tinh để phá hoại hết thảy mọi thể thức tiến hóa hòa bình của các quốc gia trên con đường mở mang”. Bây giờ thế giới cần phải phân biệt giữa sự bành trướng của cộng sản với bành trướng của Trung Quốc (expansion chinoise). Trung Quốc cũng như Nga sô 20 năm trước, đầy tham vọng và đe dọa với chính sách đòi tiêu hủy nguyên trạng để thiết lập một trật tự quốc tế mới. Hiện tại, Mao Trạch Đông đang sửa soạn thực hiện tất cả những gì viết trong cuốn “Minh Di Đài Phỏng” của Hoàng Lê Chân (cuốn sách cổ nói về chính sách đế quốc Trung Hoa). Năm 1958, bình luận quốc gia chính trị tiếng tăm, ông Tibor Mende viết: - Những điều kiện cho một nước để trở thành cường quốc hiện đại gồm có: Thứ nhất: phải có chủ quyền trên một lãnh thổ hết sức rộng lớn. Thứ hai: phải có những tài nguyên thật lớn lao về nguyên liệu và những tay thợ lành nghề. Thứ ba: phải có khả năng chế tạo được những vũ khí đắt tiền ghe gớm và có khả năng cung cấp những sản phẩm tiêu thụ, máy móc để tranh thủ các quốc gia nhỏ yếu hơn đứng về phe mình. Tóm lại, một siêu cường quốc ngày nay là một nước có đủ khả năng tổng hợp sức mạnh sản xuất để giúp đỡ và gây ảnh hưởng đến thái độ của nhiều nước khác. Hiện tại chỉ có Nga và Mỹ là hội đủ những điều kiện ấy thôi. Nhưng trong tương lai không xa, sẽ còn có nhiều nước khác có thể trở nên cường quốc với đủ những điều kiện trên (Trích “Entre la peur et l’espoir). Mười năm sau, lời tiên đoán của Tibor Mende đã thành sự thật. Trước tình thế mới, vị cố vấn của tòa Bạch Cung, ông Kissinger (hiện là ngoại trưởng Mỹ) đưa ra chủ trương phải chấp nhận một quan hệ đa cực cho chính trị quốc tế (multipolarité politique). Ông viết: “La multipolarité politique nous interdit de songer à implanter partout le modèle américain. Nous devons aboir pour tâche essentielle d’éveiller la créativité d’un univers pluraliste et de fonder l’ordre international sur la multipolarité existante même si les deux super-puis-sances gardent leur supériorité écrasante en matière de force militaire” (Đa cực chính trị không cho phép chúng ta cứ giữ mãi cái chính sách đi trồng cấy chế độ chính trị theo kiểu Mỹ ở khắp nơi. Chúng ta hãy khơi dậy tính chất phong phú của sinh hoạt chính trị đa diện và xây dựng trật tự quốc tế trên nền tảng đa cực chính trị dù rằng hai siêu cường vẫn còn nắm ưu thế tuyệt đối về mặt quân sự). Như vậy, theo Kissinger thì quan hệ quốc tế hiện thời đặt trên cái thế lưỡng cực quân sự (bipolarité militaire) và đa cực chính trị (multipolarité politique) nghĩa là về quân sự, thế giới vẫn chỉ có hai nước khỏe nhất Nga-Mỹ, về chính trị đã có thêm nhiều nước hoặc khối mạnh. Ronald Steel, trong cuốn “Pax Americana” cũng công kích chính sách lỗi thời của những năm 1950-60 qua trường hợp tổ chức Liên Phòng Đông Nam Á viết tắt theo tiếng Anh là O.T.A.S.E. “Nó chẳng phải là một tổ chức đồng minh có cùng chung một kẻ thù, nó cũng không cùng một lý tưởng. Có thể gọi là một loại đồng minh đã lỗi thời, trong đó các hội viên lại ký kết với nhau thỏa thuận cứu đỡ nhau trong trường hợp bị tấn công. Ai tấn công? Vấn đề hết sức mơ hồ và mỗi nước giải thích theo tình thế riêng của nước đó. Theo Mỹ thì kẻ tấn công đích thị là cộng sản điều khiển bởi Mạc Tư Khoa hoặc Bắc Kinh. Nhưng với Phi Luật Tân thì kẻ thù là Cao Miên. Với Hồi Quốc kẻ thù địch là Ấn Độ. Thử hỏi ngày nào Ấn với Hồi vác quân đánh nhau, Mỹ sẽ vận động tổ chức O.T.A.S.E để cứu ai? Đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, tất cả các quốc gia đều có chính sách đối ngoại trong một xã hội quốc tế. Trước kia, mỗi lục địa biệt lập với các lục địa khác và hoạt động ngoại giao thu vào từng khu vực. Sang thế kỷ 18, 19 và đầu thế kỷ 20, những quyết định quan trọng lại tập trung vào mấy thủ đô lớn của mấy cường quốc. Kisssinger kể đại lược ra 3 vấn đề về cơ cấu của quan hệ quốc tế ngày nay như dưới đây: a) Số nước tham dự vào trật tự quốc tế nhiều lên và tính chất hoàn toàn thay đổi b) Bởi phát triển của kỹ thuật nên ảnh hưởng ràng buộc cũng như chống đối giữa các nước tăng gia đáng sợ. c) Phạm vi hoạt động cho những mục tiêu quốc gia mở rộng (cả về mâu thuẫn lẫn hợp tác). “Tình trạng ngược nhau về cơ cấu nội trị đủ mở ra một hố sâu ngăn cách không cho các quốc gia có thể thỏa thuận ngay từ đầu về những mục tiêu và phương pháp hợp lý” Cái hố sâu ấy càng trở nên nguy hiểm nếu một vài quốc gia lớn muốn mở rộng thể thức nội trị của mình nghĩa là tìm cách bắt các nước khác áp dụng khuôn mẫu thể chế (chính trị, kinh tế) giống mình. Sự kiện này chẳng những không làm ổn định tình thế mà chính nó lại là đầu mối tranh chấp gay gắt. Vào thời đại cách mạng 1789 ở Pháp, người bênh vực cho thể chế vương quyền là Edmond Burke đã nói về tình thế lúc bấy giờ như sau: “Tôi không thể nào nghĩ rằng chúng tôi khả dĩ hòa bình với họ, với hệ thống chính trị cuảa họ, bởi lẽ chúng tôi không chiến tranh, không thù nghịch nhau trên một mục tiêu nào mà cả chúng tôi lẫn họ muốn tranh đoạt, chúng tôi chỉ chống nhau vì tính chất hai hệ thống, hai thể chế chính đôi bên hàn toàn khác biệt”. Lời của Burke nếu đem đối chiếu với tình thế bây giờ thì chuyện lịch sử tái diễn chẳng phải là câu nói viển vông. Nội trị là nền tảng của ngoại giao. Chiến tranh giữa các vua chúa phong kiến dù khốc liệt đến đâu chăng nữa cũng có thể giải quyết trong một sớm một chiều. Nhưng chiến tranh giữa hai hệ thống, thể chế vương quyền và dân chủ tư sản thì phải một mất một còn. Ngoại giao ảnh hưởng dội lại nội trị. Không xã hội nào không ít nhiều chịu ảnh hưởng của những sinh hoạt chung quanh. Nếu để cách mạng Pháp lan rộng, đương nhiên vương quyền các quốc gia ở bên cạnh Pháp phải sụp đổ. Tuy nhiên, lời nói của Burke chỉ đúng đối với hoàn cành lịch sử cùng thời đại mà Burke đang sống, thời ấy quan hệ quốc tế chỉ thu hẹp vào trong phạm vi Châu Âu và ngày ấy chưa có thứ vũ khí giết cả trăm ngàn người trong vài ba phút. Còn bây giờ, khuôn khổ quan hệ gĩưa các nước mở ra khắp trái đất kể cả vùng Nam và Bắc cực, lại thêm các loại vũ khí hạt nhân thì thái độ cũng như nhận định để đặt thành chính sách đòi hỏi phải tế nhị, mềm dẻo hơn với nghiên cứu kỹ càng những yếu tố truyền thống lịch sử, giá trị xã hội, sinh hoạt và hệ thống kinh tế, hoàn cảnh chính trị để có thể tiến hành đấu tranh cho thật khôn khéo.
*
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:15:04 GMT 9
Gặp thời thế thế thời phải thế.
Vận động lịch sử Việt trong gần một thế kỷ qua tiến hành trong diễn biến của những cái “thế” vừa kể trên, đòi hỏi chúng ta lăn vào thực tiễn trước mắt, đồng thời cũng không bỏ quên biến hóa trong tương lại. Tất cả mọi cái “thế” quốc tế đều phải được coi là những cần thiết để hoàn thành cuộc đấu tranh dân tộc. Tân u hoài dám rắp tiếng thề xưa Dội ngàn trùng muôn sóng gọi hò đưa Chuyển giang sơn hình thế laị cho vừa Chuyển giang sơn hình thế laị cho vừa tất phải trở lại tiếng thề xưa tức là tìm về sức mạnh dân tộc, có vậy mới có sức nắm vững vận động của tất cả mọi cái “thế” quốc tế để biến nó thành những cần thiết cho cuộc đấu tranh dân tộc, nếu không thì tất cả mọi cái thế quốc tế chỉ là những tai họa trút lên đầu. Biến hóa trong tương lai là tiếp tục theo con đường mà cách đây một thế kỷ đã bị người Pháp cắt ngang ấy là việc mở rộng hậu phương quốc phòng, phá bỏ sự trói buộc trên vị trí địa dư, đồng thời đi tìm một sự quân bình lực lượng để đối phó phương Bắc, ấy là bắt tay một cường quốc đại dương mà chống với đe dọa từ đại lục.
- HẾT -
SÁCH THAM KHẢO
Regards sur L’hisroire de demain Tibor Mende Entre la peur et l’espoir Tibor Mende L’homme devant le jugement de l’histoire Reinhold Schneider L’Europe et l’âme de l’Orient Walter Schubart Dimensions de la conscience historique Raymond Aron Nationalisme et internationalisme Ramsay Muir Problèmes des Etats nouveaux K.M. Panikkar Sociologie d’une guerre Paul Mus Bandoung tournant de l’histoir Arthur Conte Pour une nouvelle politique étrangère américaine Henry A. Kissinger L’Amérique impérial Amanry de Riencourt Chine – U.R.S.S. Francois Fejto Nuclear weapon and foreign policy Henry A. Kissinger Pax Americana Ronal Steel International Politics Holsti The war business George Thayer Asia awakes thingy Wilson Polémiques Raymond Aron
***
Trung Quốc Thái Bình Yếu Nghĩa Trình Triệu Hùng Trung Quốc Văn Hóa Đại Nghĩa Trình Triệu Hùng Tây Trào Tưởng Mộng Lân Đông Tây Văn Hóa Đạo Luận Tiền Mục Trung Quốc Tư Tưởng Nghiên Cứu Pháp Sái Thương Lư Tân Thế Huân Phùng Hữu Lan Luân Lý Vân Đề Mao Dĩ Hanh Dân Tộc Tự Cứu Vận Động Lương Nộn Minh Việt Nam Sử Lược Trần Trọng Kim Quân Sử Lê Văn Dương Huyết Hoa Thái Dịch Lý Đông A Thiết Giáo Thái Dịch Lý Đông A Đao Trường Ngâm ( thơ) Thái Dịch Lý Đông A Tư Tưởng Việt Nam Nguyễn Đăng Thục Cơ Cấu Việt Nho Kim Định Căn Bản Triết Lý Trong Văn Hóa Việt Nam Kim Định Người Việt Cao Quý A. Pazzi ( bản dịch : Hồng Cúc ) Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp ở Việt Nam Nguyễn Văn Trung Tục Ngữ- Phong Dao Nguyễn Văn Ngọc Nam Hải Dị Nhân Phan Kế Bính Đại Việt Sử Ký Ngô Sỹ Liên Hòang Lê Nhất Thống Chí Ngô Thời Sỹ Lịch Triều Hiến Chương Phan Huy Chú Phương Đình Địa Dư Chí Nguyên Siêu Tuấn, Chàng Trai Nước Việt Nguyễn Vỹ
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
CÙNG MỘT TÁC GIẢ
ĐÃ XUẤT BẢN
- Nói chuyện Tam Quốc - Quốc tế chính trị - Thân phận trí thức - Thủ đoạn chính trị - Mưu kề chính trị - Adolf Hitler (do nhà xuất bản VIỆT CHIẾN) - Tướng Mệnh khảo luận - Tử Vi đẩu số toàn thư (dịch và bình chú) (do nhà xuất bản NGÂN HÀ)
SẮP XUẤT BẢN
- Một trật tự quốc tế mới - Đấu tranh thương thuyết - Tài phiệt trong chính trị thế giới ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
VIỆT CHIẾN ĐÃ XUẤT BẢN:
• MƯU KẾ CHÍNH TRỊ ( của VŨ TÀI LỤC) • TƯỚNG MỆNH KHẢO LUẬN ( của VŨ TÀI LỤC ) • TỬ VI ĐẨU SỐ TÒAN THƯ ( của VŨ TÀI LỤC) • HITLER VÀ ĐẢNG QUỐC XÃ ( của VŨ TÀI LỤC) • KISSINGER VÀ VẤN ĐỀ VIỆT NAM (của PHẠM VŨ DƯƠNG) • NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ LÀM GIÁN ĐIỆP (của VƯƠNG THÁI HUYỀN) • QUÁI ĐẢN ( của VƯƠNG THÁI HUYỀN) • NGHỆ THUẬT ĐIỆN ẢNH (của VƯƠNG THÁI HUYỀN)
------------------------------------------------------------------------------------------------------
In lần thứ nhất Số luợng : 2000 Phát hành ngày 4.1.1974
Nhà in Phong Phú 156 Bùi Thị Xuân – Saigon. KD. Số 5041/ PTUDV/KSALP/TP, ngày 29.11.1973.
------------------------------------------------------------------------------------------------------ ................ Có một điểm không ai nói tới vì nó có cả ngàn năm đó là nền kinh tế tản mát vào một hệ thống thôn xã mênh mông khắp lãnh thổ khiến cho tòan bộ kế hoạch tập trung để dễ bề kiểm sóat của địch, không một lúc nào đạt được kết quả ngòai nhũng hành động khơi sâu căm thù óan ghét. Đói thì thèm thịt thèm xôi Hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường. Cũng thèm thịt thèm xôi nhưng quan trọng nhất vẫn chỉ là no cơm tẻ.Với nếp sống kinh tế tước giảm tối đa nhu cầu và chối bỏ hẳn mọi thèm muốn thừa đã phá tan âm mưu địch dùng kinh tế để tiêu diệt chiến chí, dùng đặc quyền kinh tế để hủ hóa và dĩ di diệt di. Người Việt có tự hào về tổ chức xã hội của mình đã dùng dùng dược ý chí dân tộc mà lãnh đạo và khống chế kinh tế và không để cho vấn đề kinh tế lãnh đạo và khống chế xã hội. Trong cuốn “Hitlers zweites buck” viết :”Chính sự chiến đấu chứ không phải kinh tế bảo tồn đời sống. Một dân tộc lành mạnh luôn luôn tìm cách thỏa mãn nhu cầu sinh sống ngay tại xứ sở và trong lòng đất của mình. Mậu dịch quốc tế, kinh tế thế giới, xuất cảng v.v...và v.v...hết thảy đều chỉ là phương tiện tạm bợ để nuôi dân. Những phương tiện đó đều không tùy thuộc vào ý chí và sức mạnh của dân tộc. Vì thế chỉ có ruộng vườn mãi mãi là nguồn cung cấp bất tận cho sự sống của một dân tộc”. Điều Hitler nói trên đây, người Việt đã áp dụng nó từ ngày mới lập quốc. Kinh tế Việt là nền kinh tế nông nghiệp, cả văn hóa Việt cũng là nền văn hóa nông nghiệp. Canh nông là chín phần mười của sinh họat kinh tế. Sức mạnh của nước Việt đặt tất cả trên tinh thần nông dân của dân tộc: a) không sợ gian khổ b) biết rõ những nổi lo c) không quan tâm đến sống chết.
Với tinh thần như thế, kinh tế là một nền kinh tế bền bỉ, chăm chỉ,không nhiều thị dục càn rỡ và rất thiết thực..............
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------
VIỆT- CHIẾN XUẤT BẢN.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:27:12 GMT 9
Giáo dục đại học tại Việt Nam: Khủng Hoảng và Đáp Ứng Thomas J. Vallely & Ben Wilkinson “…Cải tổ toàn bộ cung cách điều hành của chính quyền là chìa khoá để cải tiến nền giáo dục đại học tại Việt Nam. Tuy nhiên, cải tổ các học viện giáo dục đào tạo ở bất cứ nơi đâu cũng là một tiến trình lâu dài. Đây là lý do tại sao chúng tôi tin rằng Việt Nam phải xây dựng một học viện đào tạo đại học mới, mà ngay từ đầu đã có cơ chế điều hành tốt …” I. Tổng quan: Bản phúc trình giản lược này nhằm cung cấp những phân tích có phẩm bình về sự khủng hoảng của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam dành cho các thành viên phía Hoa Kỳ trong Uỷ Ban Đặc Nhiệm Song Phương về Giáo Dục Đại Học những phân tích. Chúng tôi mở đầu với việc phân tích mức độ khủng hoảng và căn nguyên của nó. Kế đến, chúng tôi xem xét đến những nhân tố chính – nhà nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam, và cộng đồng quốc tế - đã phản ứng ra sao trước tình trạng đó. Phần kết luận sẽ nhấn mạnh đến việc đổi mới cơ chế là một thành tố quan trọng để tạo ra nền móng cải cách giáo dục hiệu quả. Cuối cùng chúng tôi đính kèm một tiểu luận về giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, do một nhà khoa học Việt Nam danh tiếng viết ra, xem như phần phụ lục để tham khảo. Bản ghi nhớ này được đúc kết qua kinh nghiêm thiết lập và điều hành Chương Trình Đào Tạo Kinh Tế Fulbright, một trung tâm giảng dạy và nghiên cứu chính sách công tại thành phố HCM [1]. Hiện nay, Viện nghiên cứu Ash là đối tác của chúng tôi trong một đề án nghiên cứu do Trường Tân Lập đề ra nghiên cứu những trở lực thuộc về cơ chế đối với công cuộc cải cách giáo dục đại học Việt Nam. II. Tầm mức khủng hoảng: Thật khó mà nói vống thêm nữa về sự nghiêm trọng của những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong giáo dục đại học. Chúng tôi cho là nếu không có những cải cách nhanh chóng và tận gốc dành cho giáo dục đại học, Việt Nam sẽ không thể phát huy tiềm năng to lớn của mình [2]. Phát triển kinh tế ở Đông và Đông Nam Á cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa phát triển và giáo dục đại học. Mặc dù mỗi một quốc gia thịnh vượng nhất trong khu vực này – Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và gần đây là Trung Quốc - đã đi theo hướng phát triển đặc thù của mình, nhưng quyết tâm xây đắp cho một một nền giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học phẩm chất cao luôn là mối quan tâm chung. Những quốc gia kém thành công hơn tại Đông Nam Á – Thái Lan, Philippines, Indonesia – cho chúng ta một lời cảnh giác. Những quốc gia này nói chung không đạt phẩm chất đào tạo cho giáo dục đại học, và không phát triển nổi những nền kinh tế hiện đại. Điều này chẳng hé lộ điều gì tốt lành cho tương lai Việt Nam cả, vì các đại học Việt Nam lạc hậu quá, so ngay cả với các nước láng giềng không có gì đặc sắc tại Đông Nam Á. Bảng 1: Công trình nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành trong năm 2007 Học viện -----------------------------------Quốc gia -----------------Công trình nghiên cứu Seoul National University --------------Đại Hàn------------------------------ 5060 National University of Singapore- ----Singapore ----------------------------3598 Peking University ------------------------Trung Quốc --------------------------3219 Fudan University -------------------------Trung Quốc --------------------------2343 Mahidol University ----------------------Thái Lan-------------------------------- 950 Chulalongkom University ------------- Thái Lan --------------------------------822 University of Malaya ------------------- Mã Lai----------------------------------- 504 University of the Philippines---------- Phi Luật Tân--------------------------- 220 Trường Đại Học Quốc Gia VN (Hanoi & Saigon) Việt Nam ------------------52 Viện Khoa Học & Kĩ Thuật VN --------Việt Nam-------------------------------- 44 Nguồn: Science Citation Index Expanded. Thompson Reuters Việt Nam không có được một trường đại học nào có chất lượng được công nhận. Không có một trường đại học Việt Nam nào được ghi nhận trên bất kỳ bảng xếp hạng quen thuộc các đại học hàng đầu tại Châu Á. Về mặt này, Việt Nam thua kém ngay cả so với các quốc gia khác ở Đông Nam Á, vì phần đông họ còn có thể trưng ra được đôi ba học viện có đẳng cấp. Trường đại học Việt nam nói chung bị lọt ra ngoài dòng kiến thức quốc tế, như những con số nghèo nàn các công trình nghiên cứu nêu ra trong Bảng 1, và giáo sư Hoàng Tuỵ đã khắc hoạ rõ trong bài tiểu luận của mình [3]. Đại học Việt Nam không đào tạo được một lực lượng lao động có đủ trình độ đáp ứng cho nhu cầu kinh tế và xã hội Việt Nam. Các cuộc khảo sát do các cơ quan có liên hệ với nhà nước cho thấy có tới 50% sinh viên Việt Nam tốt nghiệp đại học xong đã không thể tìm được việc làm phù hợp với chuyên môn của họ, chứng tỏ có một khoảng cách to lớn giữa giảng đường và thị trường lao động. Với mức độ 25% giáo trình đại học xoáy quanh các môn học chính trị giáo điều thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi sinh viên Việt Nam chỉ được chuẩn bị một cách tồi tệ cho công việc tương lại hoặc cho các học trình cao đẳng ở nước ngoài. Sự kiện công ty Intel đã phải vất vả để tuyển dụng kỹ sư cho cơ sở sản xuất của họ ở TP HCM là một ví dụ điển hình. Khi Công ty này tiến hành một cuộc thi tuyển cho 2000 sinh viên IT Việt Nam thì chỉ có 90 ứng viên, tức 5%, đạt tiêu chuẩn. Và trong nhóm này, chỉ có 40 ứng viên vừa hội đủ trình độ Anh ngữ để có thể thu dụng. Công ty Intel ghi nhận đây là kết quả tệ nhất mà họ gặp phải tại các nước mà họ đầu tư vào. Các nhà đầu tư Việt Nam và quốc tế đều bảo rằng việc thiếu hụt công nhân và lực lượng quản lý có trình độ là rào cản lớn đối với sự mở rộng của họ. Chất lượng giáo dục đại học nghèo nàn đã có một ảnh hưởng tiêu cực khác: Trái với những sinh viên Trung Quốc và Ấn Độ, sinh viên Việt Nam thường khó cạnh tranh để chiếm một suất học bổng tại các chương trình giáo dục trên đại học có đẳng cấp tại Mỹ hay Châu Âu. Bảng 2: Các công trình phát kiến ghi nhận trong năm 2006 Quốc gia -----------------------------Chứng nhận phát minh cấp phát năm 2006 Đại Hàn Dân Quốc -----------------------------------------102633 Trung Hoa ----------------------------------------------------26292 Singapore -------------------------------------------------------995 Thái Lan --------------------------------------------------------158 Mã Lai ----------------------------------------------------------147 Philippines -----------------------------------------------------76 Việt Nam ------------------------------------------------------- 0 Nguồn: World Intellectual Properties Organization: 2008 Statistical Review III. Nguyên do của khủng hoảng A. Di sản lịch sử: Những vấn nạn Việt Nam đang phải đối đầu trong hệ thống giáo dục đại học ngày nay một phần là do hậu quả của lịch sử bi thảm của đất nước này trong thời hiện đại. Chế độ thực dân Pháp cai trị Việt Nam trong nửa sau thế kỷ 19 cho đến năm 1945 đã đầu tư rất ít vào hệ thống giáo dục đại học so với các chế độ thuộc địa khác. Hậu quả là Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội khi làn sóng cách tân giáo dục đại học quét qua phần lớn lục địa Châu Á trong những thập niên đầu của thế kỷ 20, là thời điểm thành lập nhiều học viện hàng đầu trong khu vực. Hậu quả là sau khi giành độc lập, Việt Nam chỉ có một nền tảng giáo dục đại học rất kém cỏi để xây dựng. (Đây là một điểm tương phản rõ nét so với Trung Quốc, nơi mà cho đến ngày nay, phần lớn các trường đại học hàng đầu đã được thành lập từ trước cách mạng). Giai đoạn Pháp thuộc, cộng với tổn hại từ chiến tranh, rồi đến giai đoạn cai trị chuyên đoán khắt khe của chế độ xã hội chủ nghĩa, đã không phải điều kiện thuận lợi để tạo ra những học viện có chất lượng cao cho nền giáo dục đại học. B. Phương thức cai quản của Nhà nước: Nguyên nhân trước mắt của cuộc khủng hoảng nằm ở sự thất bại nghiêm trọng của chính sách quản lý của nhà nước. Các đại học Việt Nam hoàn toàn thiếu vắng những phẩm chất phổ biến tại khắp các đại học từ Boston đến Bắc Kinh [4]: Tự trị đại học: Tất cả mọi học viện tại Việt Nam đều phải chịu sự kiểm soát của một hệ thống quản lý tập trung cao độ. Chính nhà nước quyết định con số sinh viên được tuyển nhận, và mức lương của các giảng viên (đối với trường công lập). Ngay cả những quyết định về điều hành cũng như việc phát triển trường sở đều lệ thuộc vào sự kiểm soát trung ương. Hệ thống kiểm soát này không khuyến khích các trường đại học và học viện cạnh tranh và cải cách. Việc thăng thưởng dựa vào thâm niên và lương chính thức thấp kém đến nỗi các giảng viên phải làm việc phụ trội vượt mức mới đủ sống. Ngược lại với Trung Quốc, Việt Nam chưa có chế độ đãi ngộ những người Việt tốt nghiệp tại hải ngoại. Tuyển dụng theo thành tích: Tham nhũng tràn lan và ai cũng biết học vị và học hàm là những thứ có thể mua được [5]. Hệ thống nhân sự đại học thì khá nhập nhằng và mọi sự thăng thưởng đều dựa trên những tiêu chuẩn bên ngoài khả năng học thuật, như mức thâm niên, lý lịch chính trị và gia đình, cũng như quan hệ cá nhân. Nhân sự quản trị các phân khoa và cấp cao hơn của hệ thống đại học có khuynh hướng chọn người đào tạo từ Liên Xô hoặc Đông Âu, không nói được Anh ngữ và trong không ít trường hợp, tỏ ra ác cảm với các đồng nghiệp trẻ tuổi hơn được giáo dục từ phương tây. Quan hệ quốc tế và chuẩn mực: Mở mang kiến thức là một việc không cùng, nhưng các học viện tại VN thiếu hẳn những mối liên hệ quốc tế có ý nghĩa. Thực tế là các học giả trẻ, được đào tạo từ nước ngoài thường nại ra mối quan ngại rằng họ không thể cập nhật những kiến thức đương thời như một lý do để tránh không muốn làm việc tại các đại học Việt Nam. Như Giáo sư Hoàng Tuỵ mô tả, các học viện tại VN rất co cụm và không lượng giá chính mình dựa trên tiêu chuẩn quốc tế. Tinh thần trách nhiệm: Đại học Việt Nam không phải chịu trách nhiệm trước các giới liên quan ở ngoài, cũng như trước các cơ quan tuyển dụng trọng yếu. Trong hệ thống đại học công, ngân sách không dựa vào phẩm chất hoặc thành quả của trường. Tương tự như thế, tài trợ của nhà nước cho các công trình nghiên cứu được phân phát không dựa trên khả năng cạnh tranh, mà như là một hình thức lương bổng phụ trội. Vì số tuyển sinh trong các đại học rất thấp – chỉ có 1 trong 10 học sinh thuộc lứa tuổi đại học được nhận vào - do đó, trường đại học Việt Nam không bị ép buộc phải canh tân. Họ nắm một thị trường độc quyền, bởi chỉ có một số rất nhỏ mới đủ năng lực để ra nước ngoài học. Tự do trí thức: So với Trung Quốc thôi thì cũng thấy ngay là đại học Việt Nam rất thiếu tính năng động trí thức. Ngay cả khi các trường đại học đã được nhận một không gian thoáng hơn, một mạng lưới kiểm soát chính thức cũng như trá hình vẫn còn vây bọc, khiến các trường đại học Việt Nam vẫn ở trong tình trạng bị nghẽn về tri thức trong khi phong thái công luận thì đã ngày càng sắc hơn. Từ những bàn bạc trên đây có thể rút ra một số hệ luận. Trước hết, chướng ngại chủ yếu cho sự cải tiến trong nền giáo dục cao đẳng không nhất thiết là vấn đề tài chính. Thực vậy, tính theo tỉ lệ của GDP, Việt Nam chi tiêu nhiều hơn các quốc gia khác trong lĩnh vực giáo dục. Đó là chưa kể khoản tiền rất lớn mà các gia đình Việt Nam phải chi vào giáo dục cho con cái, tại nhà và ở nước ngoài. Cách sử dụng các nguồn tài chánh đó như thế nào là một vấn đề khác. Thứ nữa, đầu tư vào du học nước ngoài không đủ để cải tiến hệ thống. Trừ khi môi trường sinh sống và làm việc cho sinh viên du học được cải tổ, sẽ khó có thể lôi kéo được các sinh viên du học về công tác tại các trường đại học. IV. Đáp Ứng A. Các chính sách quản trị: Phần lớn thời gian kể từ năm 1986 khi Việt Nam bước vào giai đoạn đổi mới, tức là tiến trình cải cách kinh tế và tự do hoá, tốc độ của việc cải tổ nền giáo dục đại học vẫn ở trong tình trạng đóng băng. Trong giai đoạn này, chất lượng giáo dục trì trệ tới mức một số nhà khoa học Việt Nam đã tin rằng chất lượng giảng dạy ở những môn khoa học căn bản đã bị thoái bộ [6]. Trong ba năm qua, Nhà Nước đã đặt ra ưu tiên cao hơn cho cải cách giáo dục đại học. Năm 2005 Nhà Nước áp dụng chính sách được nêu ra trong Nghị Quyết 14 về việc “cải tổ toàn diện nền giáo dục đại học” tới năm 2020. Đây là một bước ngoặt kêu gọi cải cách trong việc điều hành, bao gồm trao quyền tự trị lớn hơn cho các trường, và sử dụng các cơ chế tuyển chọn dựa vào thành quả. Mặc dầu rất khó để đánh giá ảnh hưởng của Nghị Quyết 14 vào tiến trình đề ra chính sách, nhưng tốc độ thay đổi vẫn rất chậm. Gần đây hơn, nhà nước đã loan báo những sáng kiến thiết lập những học viện với các đối tác quốc tế, và bày tỏ sự sẵn sàng sử dụng nguồn vốn vay từ các nguồn cho vay đa phương như World Bank. Những kế hoạch này là những chỉ dấu tốt, chứng tỏ người ta đã nhận ra nhu cầu thiết yếu của các trường đại học mới, tuy vậy nhiều vấn nạn vẫn còn nguyên đó. Các quan chức ngành giáo dục Việt Nam vẫn giữ chặt quan điểm “nhà nước là trung tâm” khi nói về hợp tác đào tạo đại học, trong đó nhà nước, chứ không phải các học viện là đối tác chính với nước ngoài. Cách tiếp cận này hoàn toàn không phù hợp khi làm việc với hệ thống giáo dục tản quyền ở mức độ cao như ở Hoa Kỳ, trong đó mỗi trường đại học chiếm vai trò quyết định chính và chính quyền chỉ có vai trò rất hạn chế. Thứ hai, chính quyền vẫn phô bày não trạng “kế hoạch hoá tập trung” khi thiết kế các sáng kiến phát triển các trường đại học, bào gồm cả việc quyết định trước những môn học mà trường đại học mới mở sẽ tập trung vào dạy (Dự án ban đầu gợi ý tập trung chủ yếu vào các ngành khoa học và kỹ thuật, có lẽ để tránh các môn nhân văn và xã hội). Thứ ba, mặc dầu các dự án được hoạch định trên căn bản là các đối tác quốc tế sẽ cung cấp các nhà quản lí và giảng viên, nhưng cách thức phân phối các nguồn tài chính như thế nào thì không được xác định, không ai biết các khoản tiền vay từ các nhà tài trợ đa phương có được dành cho các đối tác quốc tế hay không. Cuối cùng, người ta phải chờ xem mức độ tự trị và tự quản mà các học viện này được phép như thế nào [7]. B. Hợp tác: Kể từ năm 1986, sinh viên Việt Nam ra du học nước ngoài ngày càng nhiều. Trong những năm đầu của đổi mới, phần lớn các sinh viên du học qua các chương trình học bổng song hoặc đa phương như các chương trình Fullbright hoặc chương trình World Bank… Khi xã hội VN trở nên khá giả hơn, các gia đình Việt Nam đã bắt đầu cho con cái đi du học tự túc. Những năm gần đây, con số sinh viên VN đi du học tại Mỹ gia tăng nhanh chóng một cách đặc biệt. VN nằm trong số 20 quốc gia hàng đầu gửi sinh viên đến Hoa Kỳ du học. Các kinh tế gia VN ước lượng các gia đình VN đang tiêu dùng ít nhất 1 tỉ đô la mỗi năm cho việc du học. Du học nước ngoài là một phản ứng quan trọng trước sự khủng hoảng giáo dục đại học tại VN, nhưng không thể là một giải pháp được. Trước hết và quan trọng nhất, du học chỉ là một lựa chọn của một thiểu số rất nhỏ, những người có tiền hoặc may mắn có được học bổng. Đang có một sự chênh lệch rộng và ngày càng gia tăng giữa thành thị và nông thôn, giữa tầng lớp thượng lưu giàu có và đại đa số dân chúng còn nghèo. Việt Nam là một quốc gia rộng lớn, và không thể khoán trắng nền giáo dục đại học cho các trường đại học nước ngoài. Thứ hai, ngày nào mà các trường đại học tại Việt Nam vẫn chỉ cung cấp được môi trường làm việc thảm hại và những tưởng lệ thiếu hấp dẫn, thì các chuyên viên được đào tạo từ nước ngoài vẫn tránh né làm việc tại môi trường đại học. Một thăm dò không chính thức dành cho sinh viên trên đại học Việt Nam ở Mỹ cho thấy đa số không muốn quay trở lại trường đại học Việt Nam, nhưng sẽ cân nhắc quay trở lại nếu môi trường làm việc hấp dẫn hơn. C. Yếu tố quốc tế: Nhiều năm nay, các cơ quan tài trợ quốc tế đã hỗ trợ các chương trình trao đổi sinh viên. Do yêu cầu của chính phủ Việt Nam, các cơ quan này đã đầu tư rất nhiều vào hệ thống giáo dục đại học. Theo quan điểm của chúng tôi, nỗ lực của các nhà tài trợ trong lĩnh vực này không hiệu quả, bởi vì họ làm rất ít, nếu không nói là không có gì, để giải quyết các vấn đề liên quan đến điều hành của chính phủ. Các khoản tài trợ đã không được phân phối trên cơ sở cạnh tranh, và những viện / trường được nhận tiền báo cáo rằng họ có ít quyền trong việc quyết định các khoản tiền được sử dụng như thế nào. Các trường đại học quốc tế đã được khuyến khích để thiết lập các chương trình đào tạo tại Việt Nam, một cách độc lập hoặc (thường xảy ra hơn) thông qua hợp tác với các học viện trong nước. Trừ một vài ngoại lệ, các dự án này chỉ nhằm mục tiêu trục lợi và do đó chỉ nhắm vào những ngành thực dụng đã sẵn có nhu cầu (như tiếp thị, quản trị, lập trình v.v.). Việc tuyển sinh phần lớn dựa vào khả năng trả học phí và phần lớn vượt quá tầm tay của đại chúng. Có thể nói rằng những chương trình như thế chỉ là phần nhỏ bé không đáng kể đối với hệ thống giáo dục đại học. Những học viện này không đáp ứng được nhu cầu giáo dục cao đẳng có chất lượng cao. Chính phủ Việt Nam rất mong thu hút sự tham gia hợp tác của những đại học hàng đầu trên thế giới, đặc biệt là các trường đại học Hoa Kỳ. Chúng tôi cho rằng cần 3 yếu tố chính để đạt được mục tiêu này. Thứ nhất, chính phủ phải nhận thức rằng các đại học có chất lượng cao sẽ không vào Việt Nam dưới vai trò những công ty đầu tư. Hơn nữa, trong cuộc chạy đua toàn cầu để tìm tài năng xuất sắc, các đại học Hoa Kỳ luôn luôn là những đối tác được nhiều người đeo đuổi. Nói thẳng ra là, Việt Nam phải chấp nhận trả giá cao. Thứ hai, cũng quan trọng không kém, chúng tôi phải nhấn mạnh rằng, các trường đại học danh tiếng sẽ không chấp nhận hạ thấp tiêu chuẩn của họ, và như thế chính phủ Việt Nam chỉ có cách cam kết theo đuổi một quy cách điều hành tốt hơn cho hệ thống giáo dục đại học, bao gồm chấp nhận chương trình giảng dạy và chế độ tự quản lớn hơn cho các trường đại học. Thứ ba, bởi vì hệ thống giáo dục đại học cao đẳng tại Hoa Kỳ có tính tản quyền cao độ, chính phủ Hoa Kỳ sẽ chỉ đóng một vai trò hạn chế, mang tính hỗ trợ trong việc thúc đẩy hợp tác của các viện đại học Hoa Kỳ. IV. Kết Luận: Cần cải cách cơ chế Cải tổ toàn bộ cung cách điều hành của chính quyền là chìa khoá để cải tiến nền giáo dục đại học tại Việt Nam. Tuy nhiên, cải tổ các học viện giáo dục đào tạo ở bất cứ nơi đâu cũng là một tiến trình lâu dài. Đây là lý do tại sao chúng tôi tin rằng Việt Nam phải xây dựng một học viện đào tạo đại học mới, mà ngay từ đầu đã có cơ chế điều hành tốt nằm trong DNA của nó [8]. Nỗ lực như thế sẽ tạo ra tác động có thể tạo chuyển biến hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam. Một học viện mới sẽ cung cấp một mái nhà hấp dẫn cho các nhà khoa học trẻ Việt Nam, những người mà hiện nay không tha thiết theo đuổi nghề giảng dạy đại học tại Việt Nam. Thứ nhì, một học viện mới như thế sẽ là kiểu mẫu cho các học viện khác học hỏi và noi theo, cũng như là một động lực cạnh tranh lành mạnh và rất mực cần thiết. Chúng tôi tin rằng Uỷ ban Đặc Nhiệm về Giáo Dục Đại Học có vai trò độc nhất vô nhị trong việc thúc đẩy tiến trình cải cách ở Việt Nam bằng cách xây dựng một lộ đồ toàn diện và khả thi cho cải cách cơ chế ở Việt Nam. Thomas J. Vallely & Ben Wilkinson Tháng 11/2008 Nguồn: Harvard Kennedy School, Ash Institute: “VIETNAMESE HIGHER EDUCATION: CRISIS AND RESPONSE” (November 2008) Xuyến Như chuyển ngữ [1] Chương Trình Việt Nam thuộc Chương Trình Châu Á của Học Viện Ash trực thuộc Trường Kennedy. Đường hướng của Học Viện Ash là nâng cao phẩm chất của chính quyền và chính sách công. Tại Châu Á Thái Bình Dương, kế hoạch này hướng trọng tâm vào Trung Hoa, Việt Nam, và một vài quốc gia khác. [2] Để có đánh giá một cách hệ thống và tương đối về các thách thức chính sách mà Việt Nam phải đối mặt, xem thêm “Choosing Success: The Development of East and Southeast Asia and Lessons for Vietnam” ( “Lựa chọn Thành công: Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam”) [3] Hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của hệ thống học viện Xô Viết, trong đó trường đại học chủ yếu là để giảng dạy, còn các nghiên cứu được thực hiện tại các viện nghiên cứu. Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực thúc đẩy nghiên cứu tại trường đại học, nhưng chỉ thành công rất nhỏ, vì lý do giải thích ở bên dưới đây. Như Bảng 1 cho thấy, các viện nghiên cứu ở Việt Nam cũng không làm tốt việc nghiên cứu cho lắm. [4] Phân tích của chúng tôi về thất bại của việc quản lý ở Việt Nam dựa theo những phân tích của Uỷ ban Đặc biệt về Giáo dục Đại học, Ngân hàng Thế Giới và UNESCO chủ trì, dưới sự chủ toạ của Giáo sư Henry Rosovsky (trường Harvard) và Giáo sư Mamphela Ramphele (trường University of Cape Town). Trong báo cáo kết quả của mình, "Peril and Promise: The Challenges of Higher Education in Developing Countries", Uỷ ban này đã kết luận rằng quản lý của chính quyền chính là rào cản lớn nhất khiến giáo dục không đạt kết quả tốt hơn. Giáo sư Rosovsky hiện là cố vấn cho công trình nghiên cứu đang được tiến hành tại Ash Institute về cải cách thể chế ở Việt Nam. [5] Cũng cần phải nhấn mạnh rằng còn một thứ trong hệ thống giáo dục chưa bị làm què quặt bởi tham nhũng và gia đình trị là các cuộc thi tuyển sinh đại học. Chính phủ đã bỏ khá nhiều công sức để đảm bảo rằng quá trình thi cử này không bị vẩn đục. Kết quả là những học sinh được nhận vào thường có tài năng và nhiều người đã thành công trong việc bổ sung kiến thức cho chương trình học lỗi thời bằng cách tự học. [6] Trong những năm gần đây, các trường đại học tư đã nở rộ. Tuy nhiên, những trường này vẫn phải chịu nhiều kiểm soát giống như đại học công. Hầu hết trong số đó là các tổ chức tìm kiếm lợi nhuận và dựa vào học phí để tạo ra lợi nhuận; và kết quả là chất lượng nói chung là thấp. [7] Trường "Đại học Việt Đức" là trường đại học mới đầu tiên kiểu này. Đây là một dự án liên kết giữa chính quyền Việt Nam và chính quyền Đức. [8] Chúng tôi đã khuyến nghị chính phủ Việt Nam là cần tập trung một tập đoàn các trường đại học Mỹ để xây dựng một trường nghiên cứu, ban đầu là để cung cấp giảng dạy đại học, rồi từ từ đưa ra các chương trình giảng dạy sau đại học. Phụ Lục 1 Giáo sư Hoàng Tuỵ được công nhận là một nhà khoa học Việt Nam có công trạng to lớn trong thế kỉ XX. Là nhà toán học, ông đã xuất bản những công trình khoa học trên các tạp chí quốc tế và có một định đề mang tên ông. Giáo sư Tuỵ đã nổi bật qua những phê phán sắc bén về giáo dục đại học và khoa học. Tiểu luận dưới đây đã phổ biến trên tạp chí Tia Sáng của Bộ Khoa Học & Kĩ Thuật. Chương Trình Việt Nam của Harvard đã dịch từ bản tiếng Việt.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 5:28:13 GMT 9
Năm mới, chuyện cũ
Cách đây mấy tháng, phát biểu trước Quốc hội khi từ nhiệm, nguyên Thủ Tướng Phan Văn Khải nhìn nhận chúng ta không thành công trên lĩnh vực giáo dục và khoa học. Gần đây, ông Lý Quang Diệu, một chính khách lỗi lạc của Singapore, lại có lời nhắc nhở chúng ta: thắng trong giáo dục thì sẽ thắng trong kinh tế.
Trong không khí rộn ràng chuẩn bị cho việc hội nhập quốc tế khi đất nước gia nhập WTO, mong rằng hai ý kiến đó sẽ tạo một cú hích mới cho giáo dục và khoa học Việt Nam.
Thật ra sự trì trệ triền miên của giáo dục và khoa học Việt Nam nhiều năm qua là sự thật khách quan dễ nhận thấy. Nhưng đây là lần đầu tiên sự thật đó được chính thức thừa nhận bởi người có trách nhiệm chính quyền cao nhất trong một thời gian dài. Nếu như trung thực với chính mình, không tự ru ngủ bằng những thành tựu ảo hay phóng to lên nhiều lần, là điều kiện đầu tiên để thành công trong hội nhập thì nhận định của vị cựu lãnh đạo không những không làm chúng ta bi quan mà ngược lại đã gây cho chúng ta niềm tin vào tương lai hơn, vì từ đây ta biết rõ hơn mình đang ở đâu và cần làm gì để gỡ lại sự chậm trễ.
Singapore là nước đã bứt phá ngoạn mục từ kém phát triển lên tiên tiến trong thời gian 3-4 thập kỷ, nhờ chủ yếu đã biết chăm lo giáo dục từ sớm. Cho nên lời khuyên của họ có trọng lượng thuyết phục hơn cả mọi lý thuyết. Phải nói rằng chúng ta cũng đã có những nhà lãnh đạo sáng suốt nhìn nhận tầm quan trọng “quốc sách hàng đầu” của việc phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ. Song thực tế nhiều năm qua cho thấy không dễ gì đưa được quan điểm ấy vào cuộc sống. Trong khi các văn kiện, nghị quyết nhấn mạnh quan điểm ấy, thì nhiều chính sách thực tế liên quan giáo dục và khoa học đều thể hiện tinh thần ngược lại. Hy vọng lần này tác dụng cộng hưởng của hai ý kiến trên của hai chính khách Việt Nam và Singapore sẽ làm thức tỉnh quan chức ở mọi ngành để có quyết tâm cao hơn góp sức chấn hưng giáo dục và khoa học vì sự phát triển của đất nước.
1. Cần một tầm nhìn chiến lược. Muốn vực giáo dục và khoa học lên, vấn đề đầu tiên không phải là “tiền đâu”. Thật sự nguyên nhân chính của sự suy thoái giáo dục, khoa học không phải do thiếu tiền mà do ta không biết cách làm, cách quản lý. Giáo dục, khoa học là một hệ thống phức tạp, chỉ có thể quản lý tốt trên cơ sở hiểu biết đầy đủ các đặc thù hệ thống của nó, và chú ý kinh nghiệm của thế giới và các thế hệ đi trước. Điều quan trọng trước hết là phải có một tầm nhìn chiến lược về mục tiêu trước mắt và lâu dài, hướng đi, nhu cầu, khả năng trong xu thế phát triển, tư tưởng chỉ đạo, đường lối tổng quát, cũng có thể gọi là triết lý làm giáo dục, khoa học thời nay, trong thế giới này.
Thiếu một tư duy hệ thống, một tầm nhìn chiến lược bao quát thì dễ sa vào sự vụ, nay thế này mai thế khác, “cải cách” liên miên nhưng vụn vặt, chắp vá, không nhất quán, rốt cục tiêu tốn nhiều mà kết quả chỉ là làm rối thêm một hệ thống vốn đã què quặt, không có sinh khí. Thế giới ngày nay biến chuyển mau lẹ, xây dựng giáo dục và khoa học trong thế giới đó đòi hỏi những người lãnh đạo không chỉ có tâm trong sáng và trung thực mà còn phải đủ tầm nắm bắt nhanh nhạy những biến chuyển đó và có khả năng suy nghĩ sáng tạo để tìm ra chiến lược phát triển thích ứng nhất.
2. Một lỗi hệ thống cần sửa. Không đâu cần bốn chữ cần kiệm liêm chính hơn trong lĩnh vực giáo dục, khoa học. Một nền giáo dục, khoa học đã thiếu vắng các đạo đức cơ bản ấy tất nhiên hoạt động không bình thường và sớm muộn lâm vào bế tắc. Khi đó chỉ bằng những điều chỉnh cục bộ theo cơ chế phản hồi trong điều hành không cứu nổi hệ thống, mà phải tìm cho ra các lỗi hệ thống và sửa các lỗi đó mới mong đưa được hệ thống ra khỏi khủng hoảng. Vậy cái lỗi hệ thống gì khiến cho giáo dục, khoa học của ta thiếu cần, thiếu kiệm và thiếu cả liêm, chính? Câu hỏi này đặt ra không chỉ cho giáo dục, khoa học mà cho cả bộ máy nhà nước ta. Chính vì cái lỗi hệ thống đó nên cuộc chiến chống tham nhũng cho đến nay vẫn chưa thành công.
Mấu chốt nằm ở nghịch lý lương/thu nhập: lương chỉ bằng một phần nhỏ thu nhập ngoài lương, thì đương nhiên người lao động giáo dục, khoa học phải dồn phần lớn tâm trí, khả năng để kiếm thu nhập ngoài lương, mà phần này thì phân phối tùy tiện, bất công, không có kiểm toán chặt chẽ, cho nên là nguồn gốc nhiều sự tiêu cực mà ai cũng biết. Vì sao nói đó là lỗi hệ thống? Vì nó chi phối, làm méo mó mọi quan hệ trong hệ thống. Đến mức bây giờ dù có tăng lương cho đủ sống mà không sửa cái lỗi hệ thống đó thì cũng chẳng thay đổi được tình hình. Thậm chí lỗi hệ thống đó đã sản sinh ra những quan hệ vận hành lâu ngày trở thành một phần cấu trúc của hệ thống nên ngay khi đã sửa lỗi đó rồi cũng phải đợi một thời gian và có thể phải sửa thêm một số lỗi hệ thống khác nữa mới đưa được hệ thống về hoạt động bình thường.
Dù sao, giải tỏa cái nghịch lý lương/thu nhập là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cần, kiệm, liêm, chính và do đó nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục, khoa học. Tôi dám cam đoan còn tồn tại nghịch lý đó thì giáo dục, khoa học còn hư hỏng. Mà giải tỏa cái nghịch lý đó hoàn toàn khả thi về tài chính, nhưng đương nhiên khó khăn tư tưởng khá lớn vì nó đụng chạm đến một bộ phận khá đông quan chức được hưởng lợi từ cách quản lý thiếu minh bạch này. Chung quy vấn đề là ta có thật sự muốn xây dựng một nền giáo dục, khoa học lành mạnh hay không, đó chính là câu hỏi phải trả lời trung thực.
3. Tư duy toàn cầu. Muốn thắng cuộc trong thế giới toàn cầu hóa, tất nhiên mọi suy nghĩ và hành động đều phải chú ý tới luật chơi chung. Phải hướng tới và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế trong mọi lĩnh vực hoạt động thì mới có thể hợp tác và cạnh tranh được. Tiếc thay, từ việc đào tạo tiến sĩ, việc tuyển chọn giáo sư, tiêu chuẩn đánh giá trình độ một công trình khoa học, một nhà khoa học, một trường đại học, chúng ta đều có tiêu chuẩn riêng chẳng giống ai. Có những công trình khoa học, những luận văn tiến sĩ của ta ngay cả về những ngành học thuật có tính quốc tế như khoa học cơ bản, kinh tế, v.v..., nếu xét theo tiêu chuẩn thông thường ở các nước thì thậm chí chỉ là những mớ giấy lộn. Đội ngũ GS của ta thì nhiều người hữu danh vô thực, số khá đông dưới xa chuẩn mực quốc tế bình thường nhất.
Oái ăm là trong khi đó nhiều người có năng lực xứng đáng, nhất là người trẻ, lại bị loại vì không đạt các tiêu chuẩn vớ vẩn, không giống ai, của ta. Chẳng lạ gì có những ông A bà B trong nước được coi là nhà khoa học nổi tiếng mà trên quốc tế hoàn toàn vô danh. Thời gian gần đây lại xuất hiện ngay trong hàng ngũ các quan chức hàng loạt viện sĩ “hữu nghị”, viện sĩ “chạy”, viện sĩ “mua”, hoàn toàn không xứng với danh hiệu mà nhiều người vẫn tưởng là dành cho những tài năng lỗi lạc.
Chuẩn mực xô bồ như vậy mà ngày nọ tôi còn thấy môt vị lãnh đạo của Hội đồng Chức danh GS tuyên bố trên báo rằng GS... phải là người xây dựng được trường phái học thuật của mình (!). Thật tình tôi không biết cái gọi là trường phái học thuật đó có gì chung với khái niệm trường phái học thuật theo cách hiểu thông thường ở các nước. Với chuẩn mực khác người như vậy, làm sao có thể hội nhập quốc tế dễ dàng được.
Cái nguy hại của việc huênh hoang bất chấp các chuẩn mực quốc tế là ta tự lừa dối ta quá dễ dàng, cuối cùng thật giả lẫn lộn, chẳng còn sự phân biệt nào giữa người có năng lực thật và những kẻ bất tài. Các chức danh GS, PGS ở Việt Nam bây giờ quá rẻ, đến độ khi bàn về nhân tài mà nêu GS nọ GS kia, nhiều người nghe cũng đủ ớn.
4. Trách nhiệm cộng đồng. Kinh tế tri thức thực chất là nền kinh tế dựa vào chất xám và tài năng. Cho nên công cuộc hội nhập muốn thành công phải coi trọng đặc biệt vấn đề thu hút nhân tài. Đã từ nhiều năm Nhà nước hô hào người Việt thành tài ở nước ngoài về nước làm việc. Chủ trương đó rất đúng đắn và cần thiết. Tuy nhiên sự thực thì vấp phải quá nhiều rào cản, mà rào cản lớn nhất là chủ trương chung thì thoáng nhưng đi vào cụ thể thì còn nhiều chính sách rất bí. Từ cấp lãnh đạo cao đến người dân chưa phải ai cũng đã thật sự thông suốt với chủ trương này.
Chẳng hạn các cơ quan quan trọng như Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ đều có nhiều quy định kỳ lạ, thể hiện những quan niệm rất bảo thủ và lạc hậu hoàn toàn không đếm xỉa gì đến những yêu cầu tối thiểu về điều kiện làm việc cho các nhà khoa học. Một vài ví dụ: theo quy định của bộ Tài Chính, tiêu chuẩn không gian nơi làm việc cho giáo sư thấp hơn cả trưởng phó phòng hành chính, giáo sư phải chen chúc nhiều người trong một phòng chật hẹp, tìm đâu có chỗ để nghiên cứu, thảo luận, gặp gỡ giúp đỡ sinh viên. Tiền thù lao giờ giảng thì phụ thuộc chức vụ hành chính một cách lố bịch (Thứ, Bộ trưởng được thù lao giờ giảng cao hơn hẳn GS, PGS). Xếp ngạch bậc lương thì GS bậc cao nhất cũng chưa bằng chuyên viên cao cấp bậc thấp nhất, và số bậc nhiều đến mức phần lớn nhà khoa học giỏi làm việc nghiêm túc đến khi nghỉ hưu vẫn chưa leo lên được đến bậc cuối cùng, trừ khi tuổi hưu được gia hạn đến... 90 hay 100.
Hôm nọ tôi thấy trên báo còn có độc giả phát biểu: những người được đi học thành tài ở nước ngoài chưa đóng góp được gì cho Tổ quốc mà đòi hỏi điều kiện đãi ngộ này nọ là không ổn.
Ai dám bảo ý kiến đó sai, nhưng sao mà nó giống với ý kiến: giáo sư là gì mà đòi hỏi buồng riêng, hoặc: anh là nhà khoa học Việt kiều, đã sống sung túc bao nhiêu năm, bây giờ về nước công tác sao còn đòi hỏi ưu đãi nọ kia. Với những quan niệm như thế thì thôi xin đành gác lại chủ trương thu hút người tài, và lùi cái thời hạn đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu sang thế kỷ 22 hoặc sau nữa.
5. Tư duy tốc độ. Để hội nhập thành công trong thế giới ngày nay, không chỉ cần hiệu quả mà còn cần tốc độ, hay nói đúng hơn đáp ứng nhanh trở thành một lợi thế đáng kể trong kinh doanh, nhiều khi còn quan trọng hơn hiệu quả.
Số là, cho đến gần đây, tiêu chí hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh là hiệu quả và thông thường các hãng tập trung vào dự đoán nhu cầu của khách hàng và tăng hiệu quả đồng vốn. Logic kinh doanh đó thích hợp khi thị trường ổn định và thay đổi chậm. Nhưng ngày nay, khi thị trường khó tiên liệu và thế giới biến chuyển nhanh chóng mặt, thì cái logic ấy không còn thích hợp mà phải nhường chỗ cho một logic mới đặt ưu tiên vào khả năng thích ứng mau lẹ nhiều hơn là hiệu quả. Trước kia cặm cụi “làm-ra-và-tiêu-thụ” - make-and-sell thì bây giờ phương châm hoạt động là thường xuyên “nắm-bắt-và-ứng-đáp” - sense-and-respond. Tốc độ, khả năng thích ứng mau lẹ trở thành yêu cầu tối quan trọng, nếu không muốn bỏ lỡ cơ hội.
Trong cái thế giới đổi thay cực nhanh này, khó ai chấp nhận kiểu làm việc lề mề, chậm chạp như chúng ta. Cải cách hành chính hơn mười năm chưa thấy kết quả gì, chỉ thấy làm rối thêm một số việc đơn giản. Nhiều lỗi hệ thống là nguyên nhân chủ yếu sinh ra tham nhũng, quan liêu, lãng phí tràn lan, nhưng vẫn cứ tồn tại năm này qua năm khác. Kỳ họp Quốc hội nào cũng lên án mạnh mẽ tham nhũng, thế mà rồi cái quốc nạn ấy không hề bị đẩy lui. Ngay cái tập quán phong bì là nét văn hóa đáng xấu hổ của xã hội ta mà hàng chục năm rồi vẫn ngang nhiên tồn tại, thậm chí văn phòng một cơ quan đầu não còn làm gương xấu.
Giáo dục, khoa học trì trệ, trong lúc chất xám bị sử dụng hết sức lãng phí. Năm này qua năm khác, hội thảo đi rồi hội thảo lại không biết bao nhiêu lần mà vẫn không có được một chính sách cụ thể khả dĩ đem lại chút niềm tin trong vấn đề này. Bàn đi tính lại mãi chuyện khuyến khích tài năng, cuối cùng chỉ làm được mỗi việc là ghi tên các thủ khoa đại học vào bảng vàng để ở Văn Miếu!
Từ hơn mười năm về trước đã có biết bao đề nghị hợp lý về cải cách, chấn hưng giáo dục, từ việc đào tạo tiến sĩ, công nhận GS, PGS, đến nhiều việc cụ thể khác về thi cử, phân ban, tuyển sinh, tự chủ đại học,v.v. có thể nói không có vấn đề gì thiếu những đề nghị cải cách cụ thể, nhưng mãi đền gần đây một số những đề nghị ấy mới bắt đầu được nghiên cứu. Cải cách quản lý luôn là những chủ đề nóng của giáo dục và khoa học, nhưng cũng không có lĩnh vực nào đổi mới chậm chạp hơn giáo dục và khoa học.
Ngay gần đây nhất cái ý tưởng hay lập một đại học đẳng cấp quốc tế, từ lúc được Thủ Tướng chấp nhận và nêu ra, được nhiều nhà khoa học Mỹ nhiệt tình ủng hộ, đến nay đã gần hai năm vẫn chưa thấy hình hài rõ ràng. Anh bạn tôi kể lại trong khi đó Thủ tướng Trung Quốc vừa sang thăm một nước Phương Tây, thỏa thuận với họ cho một đại học nổi tiếng mở chi nhánh ở Bắc Kinh thì chỉ mấy tháng sau họ đã chiêu sinh. Cơ hội gì cũng chỉ trong thời gian nào đó, có bao giờ là vĩnh viễn.
Sống trong thời đại internet, tên lửa vũ trụ, điện thoại di động, mà cứ giữ nếp tư duy chậm chạp và làm việc rùa bò thì mọi thời cơ bay đi hết. Không ai đủ kiên nhẫn chờ chúng ta. Thời đại công nghệ thông tin vừa mới bắt đầu chưa lâu la gì thì nay họ đã bàn chuyển qua thời đại công nghệ nano, chưa biết rồi sẽ còn những gì bất ngờ nữa đây để liệu mà vừa làm vừa nghĩ vừa chạy, vẫn không kịp “sense-and-respond”.
Hoàng Tuỵ
Nguồn: Tạp chí Tia Sáng
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 6:08:25 GMT 9
Bàn về khái niệm “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” của người cộng sản Việt Nam 07/10/2010 Tác giả: Nguyễn Xuân Phước
Tại sao phải đặt lại vấn đề “Tổ quốc”
“Tổ quốc” là một khái niệm rất quen thuộc trong ngôn ngữ Việt Nam. Đại tự điển tiếng Việt[1] định nghĩa “Tổ quốc” là “Đất nước, gắn liền với bao thế hệ ông cha, tổ tiên của mình: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổ quốc Việt Nam của chúng ta.”
Vấn đề tưởng như rất đơn giản nhưng lại không đơn giản!
Từ khi chủ nghĩa cộng sản Mác-Lênin du nhập vào Việt Nam, khái niệm “Tổ quốc” được hiểu một cách hoàn toàn khác với lối hiểu thông thường.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định khái niệm “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” như sau:
Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, nhân dân Việt Nam ta luôn hướng về Liên Xô, đất nước của Lênin vĩ đại và coi Liên Xô là Tổ quốc của cách mạng, Tổ quốc thứ hai của mình[2]. Quan điểm này được những người cộng sản Việt Nam coi là nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong truyền thống đó, ông Nguyễn Phú Trọng, GS TS Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, nhận định về khái niệm “Tổ quốc” như sau:
Khái niệm bảo vệ Tổ quốc cũng được xác định đầy đủ hơn: bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, bảo vệ sự nghiệp đổi mới…[3]
Vì Nguyễn Phú Trọng là nhân vật quan trọng trong giới lãnh đạo Đảng CSVN, chúng ta cần giải mã và làm sáng tỏ khái niệm “Tổ quốc” mà Hồ Chí Minh đã rao truyền; đồng thời xét đến những hệ lụy từ việc định nghĩa “Tổ quốc” mà không có “ông cha, tổ tiên của mình” qua khái niệm “bảo vệ Tổ quốc” đã được “xác định đầy đủ hơn” của Nguyễn Phú Trọng.
Khái niệm “Tổ quốc” của người cộng sản
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Marx tuyên bố là “người vô sản không có tổ quốc”.[4] Nhưng sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, dưới sự lãnh đạo của Lenin, Đảng Cộng sản thiết lập chính thể Sô-viết tại Nga, và Lenin đã bổ sung ý niệm “người vô sản không có tổ quốc” của Marx bằng khái niệm “tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Có nghĩa là từ khi có Cách mạng tháng Mười, người vô sản mới có được “Tổ quốc”, đó là Liên Xô.
Lenin giải thích khái niệm Tổ quốc như sau:
Tổ quốc là một sản phẩm cần thiết, và mô hình không tránh được, trong thời đại phát triển xã hội của giai cấp tư sản. Giai cấp công nhân không thể lớn mạnh, không thể trưởng thành, không thể tập trung sức mạnh, trừ khi “họ xây dựng họ thành một “Tổ quốc”, mà không trở thành dân tộc [national] (dù không phải theo ý nghĩa của giai cấp tư sản).[5]
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo Lênin là tổ quốc của người vô sản ở khắp nơi trên thế giới, không gắn liền với đất đai của tổ tiên cha ông và không chấp nhận sự tồn tại của các giai cấp khác trong xã hội.
Theo trung tướng PGS, TS Nguyễn Tiến Bình thì:
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười đã dẫn đến sự ra đời của Tổ quốc XHCN – một Tổ quốc kiểu mới trong lịch sử nhân loại được đặc trưng bởi chế độ xã hội XHCN, trong đó giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm chủ xã hội đồng thời làm chủ Tổ quốc.[6]
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa này đã phủ định khái niệm Tổ quốc kiểu cũ, là loại Tổ quốc của giai cấp tư sản luôn luôn gắn đất nước, gắn liền với bao thế hệ ông cha, tổ tiên của mình.
Mâu thuẫn về “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”
Trung thành với hai tổ quốc không phải là điều khó. Khó là khi quyền lợi của hai tổ quốc đó mâu thuẫn với nhau.
Trường hợp mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc là một bài học đáng để ý.
Sau khi cướp chính quyền ở lục địa Trung Hoa, Mao sớm hiểu rõ khái niệm “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” của Liên Xô chỉ là cái bánh vẽ. Mao thấy được âm mưu của Liên Xô dựa vào khối XHCN để trở thành một đế quốc mới. Do đó, Mao không ngần ngại vứt khái niệm “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” của Lenin vào sọt rác, quay ra chống lại Liên Xô và tố cáo Liên Xô theo chủ nghĩa Sô-vanh nước lớn để áp chế các nước nhỏ. Mâu thuẫn giữa hai nước đàn anh XHCN đã đưa đến những đụng độ biên giới đẫm máu từ 1959 và kéo dài cho đến ngày tàn của Liên Xô năm 1991.
Trường hợp của Đảng CSVN và Trung Quốc cũng là một bài học đáng để ý.
Trong thời gian tranh chấp giữa Trung Quốc và Liên Xô, do nhu cầu tiếp nhận viện trợ của cả Liên Xô và Trung Quốc để phục vụ chiến tranh nên Đảng CSVN phải cố gắng đi dây giữa hai lằn đạn, thân thiện với cả hai bên cho đến khi chiến tranh chấm dứt.
Sau năm 1975, Đảng CSVN quyết định đi hẳn vào quĩ đạo Liên Xô và quay mặt chống Trung Quốc. Hậu quả là Việt Nam bị sa lầy vào chiến trường Campuchia khi Trung Quốc gia tăng viện trợ cho Pol Pot để chống lại tập đoàn Hunsen do Việt Nam bảo hộ. Đồng thời Trung Quốc mở cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979, để dạy cho Đảng CSVN một bài học về thái độ phản trắc của Việt Nam.
Tái xây dựng “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” sau khi Liên Xô sụp đổ
Sự phá sản toàn diện của Liên Xô năm 1991 là một biến cố bất ngờ đối với Đảng CSVN.
Trong những giây phút hấp hối của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Liên Xô, Đảng CSVN đã tìm đến kẻ cựu thù là Trung Quốc để tìm cách bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong buổi họp của Bộ Chính trị ngày 10/4/1990 với sự hiện diện của Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên, Đảng CSVN đã thấy rằng con đường duy nhất để cứu vãn tổ quốc xã hội chủ nghĩa là phải liên kết với Trung Quốc.[7]
Nhưng làm thế nào Đảng CSVN có thể liên kết với Trung Quốc với một hiến pháp ghi đích danh Trung Quốc là kẻ thù của dân tộc? Xin thưa, phải tự tạo ảo tưởng.
Cái ảo tưởng đó được Trần Quang Cơ, cựu Thứ trưởng Ngoại giao, giải thích như sau:
Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới.[8]
Nói theo ngôn ngữ của Hồ Chí Minh, chiến lược bảo vệ chủ nghĩa xã hội thế giới của Bộ Chính trị Đảng CSVN thời điểm 1990 là Trung Quốc sẽ thay thế Liên Xô để làm “Tổ quốc thứ hai” của người cộng sản Việt Nam. Nhưng từ năm 1950 Trung Quốc đã không còn tin vào “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” của Liên Xô. Và sau khi thành công với bốn hiện đại hoá, Trung Quốc trở thành một ác quỉ ở Á châu.
Hậu quả của cái ảo tưởng ôm lấy một con ác quỉ để làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới đã đem lại bao nhiêu thảm hoạ cho dân tộc Việt Nam. Với thái độ hèn nhát thần phục Bắc Kinh, Đảng CSVN đã mở đường cho Trung Quốc ào ạt chiếm đất chiếm biển của Việt Nam qua những hiệp định phân chia biên giới, hiệp định Vịnh Bắc Bộ năm 2000, và cuộc xâm lăng quân sự trên biển Đông Nam Á để chiếm Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc trắng trợn bắn giết ngư phủ Việt Nam ngoài khơi Quảng Nam, Quãng Ngãi, thiết lập tô giới Bauxite tại Tây Nguyên, khai thác hàng ngàn hécta rừng ở các tỉnh biên giới, và ngang nhiên thiết lập các làng mạc Trung Quốc tại Việt Nam.
Vài suy nghĩ
1. Từ “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” đến “Đề cương văn hoá” 1943
“Đề cương văn hoá” năm 1943 là văn kiện quan trọng đầu tiên của Đảng CSVN do Trường Chinh soạn thảo và được coi là kim chỉ nam định hướng cho cuộc cách mạng xã hội tại Việt Nam dưới “ánh sáng” của tư tưởng Mác-Lênin. Luận về Tính chất của nền văn hóa mới Việt-nam, Trường Chinh viết như sau:
Văn hóa mới V. N. do đảng C. S. Đ. D. lãnh đạo chủ trương chưa phải là văn hóa xã hội chủ nghĩa hay văn hóa Xô-viết (như văn hóa Liên xô chẳng hạn)[9] Cụm từ chưa phải là phải được hiểu là tình trạng chưa thành hình của một cái gì sẽ thành trong tương lai. Văn hoá mới là khởi điểm và văn hoá Sô-viết là đích đến. Ở đây Trường Chinh xác định rằng nền văn hoá mới của Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo là sẽ trở thành văn hoá Sô-viết trong tương lai.
Để đảm bảo quá trình này, theo Trường Chinh, “Văn hóa mới V. N. là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung.”[10]
Trong khi người Việt chưa biết hình dáng của văn hoá tân dân chủ như thế nào mà Đảng CSVN đã định hướng lấy văn hoá dân tộc làm bình phong cho một thứ văn hoá mới thì quả lả một cuộc phiêu lưu để xoá sổ văn hoá dân tộc. Tâm thức nô lệ văn hoá ngoại bang bắt nguồn từ đây.
Hậu quả của tâm thức nô lệ này là văn hoá dân tộc vốn đã bị xâm thực bởi văn hoá Liên Xô trước đây, đang bị bào mòn bởi văn hoá Trung Quốc dưới nhãn hiệu văn hoá xã hội chủ nghĩa hay tân dân chủ. Điều này giải thích tại sao kỷ niệm 1000 năm Thăng Long của dân Việt năm 2010 mang đậm tính chất văn hoá Trung Quốc.
2. Việt điểu sào nam chi
Khi bàn về câu chuyện “Không quên cái cũ”, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc trong Cổ học tinh hoa viết như sau:
Ôi! Cáo chết ba năm quay đầu về núi, con người ta, dù cho lông bông xiêu bạt đến thế nào, còn có chút tâm tình cũng không sao quên được gốc tích xứ sở mình. “Hồ mã tê bắc phong, Việt điểu sào nam chi”. Con ngựa rợ Hồ (phía bắc nước Tàu) thấy gió bắc còn cất tiếng kêu, con chim đất Việt (phía nam nước Tàu) chọn cành nam mới chịu làm tổ, huống chi là người mà lại quên được nguồn gốc ư.[11]
Tổ quốc là gốc tích xứ sở mình, gắn liền với đất nước của ông bà tổ tiên mình. Chim Việt thì đậu cành nam. Nhà cách mạng Phan Bội Châu lấy hiệu là Sào Nam để nói lên tấm lòng suốt đời hướng về tổ quốc Việt Nam của ông. Cáo, ngựa, chim còn biết nhớ đến nguồn gốc huống chi là con người.
Thế nhưng trong bản di chúc để lại cho hậu thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết như sau:
Vì vậy tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột.[12]
Ước muốn đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin khi chết là ước mơ chính đáng của người cộng sản. Nhưng lịch sử dân tộc sẽ phán xét Hồ Chí Minh để xem ông coi Tổ quốc nào là quan trọng. Đồng thời lịch sử sẽ xét xem mục đích cuộc đời cách mạng của ông là đem lại sự giàu có thịnh vượng và hạnh phúc cho Tổ quốc Việt Nam như Minh trị Thiên hoàng đã làm cho Nhật Bản, hay đem máu xương của thanh niên Việt Nam phục vụ cho Tổ quốc xã hội chủ nghĩa dưới ngọn cờ dân tộc.
Kết luận
Sau khi thoát ra khỏi chế độ thực dân của Pháp, dân tộc Việt lại bắt đầu một giai đoạn vong thân với những khái niệm mơ hồ về Tổ quốc và văn hoá dân tộc.
Đã đến lúc người yêu nước phải vứt bỏ khái niệm “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” để trở về với Tổ quốc Việt Nam và phục hoạt văn hoá dân tộc. Phải dứt khoát xác định không có Tổ quốc nào đứng trên Tổ quốc Việt Nam, và Tổ quốc Việt Nam phải trên hết.
Đã đến lúc người Việt Nam chân chính trong đảng hay ngoài đảng phải dứt khoát vứt “Đề cương văn hoá” của Trường Chinh vào sọt rác vì nó chính là nọc độc hủy hoại văn hoá Việt Nam, nô lệ hoá văn hoá Việt Nam suốt 65 năm nay bằng văn hoá ngoại bang. Không có thứ văn hoá tân dân chủ hay xã hội chủ nghĩa nào có thể thay thế được văn hoá ngàn đời của dân tộc Việt Nam.
Chỉ có một cuộc cách mạng chân chính duy nhất mà dân tộc Việt Nam ước mơ từ hơn một thế kỷ qua, đó là cuộc cách mạng phục hưng dân tộc và phục hoạt văn hoá để đưa dân tộc Việt Nam cất cánh ở thế kỷ 21.
Phải dứt khoát xác định, ngoài nhân dân Việt Nam, không có một ngoại bang nào là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam. Chỉ có những cuộc cách mạng phản dân tộc mới phải dựa vào sức mạnh của ngoại bang và kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.
Đối với người dân Việt Nam chỉ có một Tổ quốc duy nhất, đó là Tổ quốc Việt Nam. Không có cái gì gọi là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, “Tổ quốc Liên Xô”, “Tổ quốc phong kiến”, hay “Tổ quốc của giai cấp tư sản”. Tổ quốc Việt Nam là Tổ quốc của mọi giai cấp, kể cả giai cấp tư sản hay vô sản. Tất cả các khái niệm Tổ quốc khác đều là bịp bợm. Cái gọi là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” hiện nay chỉ là vỏ bọc của “Đại Hán thiên triều chủ nghĩa” của Trung Quốc để cướp đất cướp biển và triệt tiêu văn hoá của Việt Nam.
Khi có mâu thuẫn với các nước khác, người Việt phải đứng trên lập trường của dân tộc Việt để giải quyết mọi vấn đề liên quan đến lợi ích và quyền lợi của dân tộc.
Chỉ có lúc đó, Việt Nam mới thực sự có độc lập chính trị và bảo toàn được đất nước và phục hưng được nền văn hoá của tổ tiên, cha ông để lại.
Chỉ có lúc đó, vấn đề Biển Đông, Hoàng Sa – Trường Sa mới được giải quyết thỏa đáng.
Dallas 1 tháng 10-2010
© 2010 Nguyễn Xuân Phước **************** [1] Đại từ điển tiếng Việt, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá Việt Nam thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo soạn thảo, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông Tin ấn hành năm 1998, trang 1663
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 11, trang 166
[3] Nguyễn Phú Trọng: “Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay”, Sài Gòn Giải phóng ngày 4 tháng 5 năm 2010
[4] C. Mác và Ph. Ăng-ghen, toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 623
[5] Roman Rosdolsky, The Workers and the Fatherland, A Note on a Passage in the “Communist Manifesto“
[6] TS Nguyễn Tiến Bình, “Cách mạng Tháng Mười và một số vấn đề chiến lược bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản Số 19 (139) năm 2007
[7] Trần Quang Cơ: Hồi ức và suy nghĩ, trang 61
[8] Trần Quang Cơ, sách đã dẫn, trang 61
[9] Trường Chinh, “Đề cương văn hoá” 1943
[10] Trường Chinh, bài đã dẫn
[11] Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc: “Không quên cái cũ”, Cổ học tinh hoa
[12] Di chúc Hồ Chí Minh ************************ Hoàng Trường Sa nói: 08/10/2010 Cám ơn tác giả Nguyễn Xuân Phước về bài viết rất hay này. Theo ngu ý, chính vì quan niệm Tổ quốc VN như là “tổ quốc xã hội chủ nghĩa” (nghĩa là một bộ phận khắng khít không phân ly của toàn phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô và Trung Quốc lãnh đạo, không có ranh giới quốc gia như trước) mà ông Hồ Chí Minh, sau Hiệp định Genève năm 1954, khi được Pháp giao trả phần lãnh thổ phía bắc vĩ tuyến 17, đã không ngần ngại giao đảo Bạch Long Vĩ cho Tàu quản lý HỘ cho VN, mặc dù ai cũng rõ TQ muôn đời vẫn có tham vọng xâm chiếm và đồng hóa Tổ quốc ta thành một bộ phận của Tàu (như họ đã làm với Tân Cương, Nội Mông, Mãn Châu, Tây Tạng v.v…).
Cũng chính do quan niệm “tổ quốc xã hội chủ nghĩa” này mà năm 1954 ông Hồ và toàn bộ Bộ Chính Trị đảng Lao Động VN (tức ĐCSVN) trong đó có Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, v.v… đã nhất trí, không chút đắn đo, ra lệnh cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký gửi Công hàm ngày 14/09/1958 cho Chu Ân Lai thừa nhận Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc vào Trung Quốc. Tại sao ? Xin thưa là trong nhãn quan của ông Hồ và ĐCSVN thời đó, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc vào TQ hay VN thì cũng RỨA THÔI, vì đó cũng đều là một phần lãnh thổ chung của tổ quốc xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản của toàn THẾ GIỚI không phân biệt màu da, ranh giới của quá khứ do đế quốc và phong kiến bày vẽ để chia rẽ giai cấp vô sản của họ. Rứa mới chết chớ. Than ôi ! *****************
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 11, 2011 8:04:30 GMT 9
Một ý tưởng sắp "duy vật biện chứng" Vietsciences-Phan Huy Đường Cho loài người, đâu là điều chung họ cần ? Ý thế này (coi bản gốc tiếng Pháp ở cuối bài) :
"Chúng ta tương thuộc[1] với toàn bộ vũ trụ… thế mà có người muốn khiến chúng ta tin rằng con người cá thể là một đơn tử[2] lẻ loi hoàn toàn tự do làm theo sở thích. Những đại biểu[3] của những tôn giáo thờ người theo hình ảnh của Chúa[4] và những kinh tế gia tự do[5] tin tưởng vào năng lực tuyệt đối của con người quả kém khả năng quan sát.
Cha xứ Jean Meslier đã vứt bỏ tôn giáo của mình ngay trước năm 1729 để chủ trương một quan điểm duy vật rất hiện đại : "Trên cơ sở nào mà họ dám khẳng định hão rằng Chúa có thực ? Vẻ đẹp, trật tự, sự hoàn hảo của những sản phẩm của tự nhiên ? Nhưng tại sao phải đi tìm một Chúa vô hình và không thể biết được để gán cho nó chức năng sáng tạo mọi thực thể, mọi sự vật, trong khi những thực thể, những sự vật là có thực và, do đó, đơn giản nhất là gán khả năng sáng tạo, tổ chức những gì chúng ta nhìn thấy, sờ thấy, cho chúng, nghĩa là cho chính vật chất. Tất cả những chất lượng và những tiềm năng mà ta gán cho một vị Chúa đặt ở ngoài tự nhiên, tại sao ta lại không gán cho chính tự nhiên vốn vĩnh cửu ?"
Làm sao có thể không tán thành quan điểm này ? Điều chung của chúng ta, chính là vật giới, chính là sinh giới, chính là tự nhiên.[6] Chúng ta đã quên điều ấy và chúng ta đã tàn phá môi trường sống của chúng ta. Thế mà vẫn có những vị giảng đạo đi ngang dọc thế giới để phổ biến những lời lẽ điên rồ của họ và những người cầm quyền chỉ còn biết nói tới phát triển kinh tế để bào chữa cho những hành động phá hoại của họ. Loài người điên, càng ngày càng có nhiều người quan sát sự điên cuồng của chúng ta bắt đầu nói thế."* Rõ ràng là triết lý duy vật. Lại đi xa hơn chủ nghĩa duy vật kinh điển[7] một bước : Thiên nhiên ở đây bao gồm vật giới và sinh giới. Và sinh giới không đơn thuần máy móc quy về vật giới : matière và biosphère. Không khác triết lý của Marx bao nhiêu (11 Luận đề về Feuerbach), tuy triết lý của Marx rất mơ hồ về sinh giới và Engels đành không bàn tới nơi tới chốn vì chàng công nhận mình và loài người thời ấy chưa có đủ kiến thức trong lĩnh vực này, nên chàng không muốn lạm bàn cho sướng miệng[8] thôi. Theo tôi, chỉ đi thêm một bước thì là triết lý "duy vật" biện chứng : 1/ Vật chất và thiên nhiên ở đây là những khái niệm chỉ có trong đầu của con người. 2/ Những khái niệm ấy do con người tạo ra, chỉ có trong nhân giới thôi. Chúng sẽ biến mất khỏi vũ trụ, kể cả sinh giới, khi nhân loại vong thân. Không có nghĩa là sinh giới vong thân nhe. Theo kiến thức của ta hôm nay, điều ấy ắt tới, tuy sớm muộn còn tùy tư duy và hành động của loài người. 3/ Con người có khả năng tạo ra chúng vì : a/ Nó có khả năng tư duy bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ đó do chính nó sáng tác. Ngôn ngữ là nguồn gốc và tương lai của tư duy. Nó là sáng tác tập thể[9] của loài người xuyên qua quan hệ chung giữa họ với thiên nhiên. b/ Điều ấy khả thi vì con người là một vật thể, nó là một bộ phận của vật giới ; do đó nó có khả năng trực tiếp hay gián tiếp tác động vào vật giới và qua đó mà hiểu vật giới. Nhưng nó cũng là một sinh thể, có khả năng cảm nhận, "ý thức" về vật giới và sinh giới ngoài mình và ở mình, cách này cách nọ, mức này mức kia, dưới hình thái này, hình thái nọ. Cuối cùng, là người, nó có khả năng nói cho nhau biết những điều ấy xuyên qua một ngôn ngữ có khả năng tồn tại sau khi nó chết, một cách rất đặc biệt : ngôn ngữ ấy lưu lại ở người còn sống tư duy và tình cảm của hằng hà sa số người đã chết và thấm vào bất cứ ai đón nhận nó, bất cứ ai học nói để nên người. Còn mỗi cá nhân học được gì thì… tuỳ, trước tiên là tuỳ hoàn cảnh nên người của riêng mình. Tóm lại, thiên nhiên, vật giới và sinh giới, xét cho cùng, là những vấn đề văn hoá (trong đó có tư duy khoa học !) Vì thế, trong kích thước ấy, ai cũng có quyền bàn, và có không ít người tào lao. Nên bàn, nếu không sợ phải bàn, vì, bàn tới cùng sẽ phải bàn về… chính mình. Chẳng thích thú gì ! Ở Tây Âu, chủ nghĩa duy vật, duy sinh, duy lý, đã có và thành văn bản trong văn hoá Hy Lạp cổ. Không phải lúc nào cũng thuần nhất. Phải qua bao nhiêu thế kỷ suy ngẫm chúng mới từ từ kết tụ lại, đặt cho con người những câu hỏi đáng hỏi hóc búa. Có thể thế kỷ 21 sẽ chứng kiến và bước đầu giải quyết điều ấy. Nếu thế, triết học sẽ phải kinh qua một cơn khủng hoảng không thể chỉ ghẹo chữ nghĩa mà giải quyết được, và sẽ xúc phạm không ít truyền thống văn hoá của mọi nền văn minh còn ở đời ngày nay. Cuộc khủng hoảng tư tưởng ngày nay trên thế giới, xét cho cùng, là một cuộc khủng hoảng văn hoá. Vì thế, ngày nay, ngoài khoa học đích thực thì triết lý, thơ văn và nghệ thuật rất cần thiết để làm người. Chán thật ? 2011-02-08 L’être humain n’est jamais seul, dès le départ il a besoin de sa mère et de son géniteur, d’un couple parental qui le socialise et l’ouvre sur les autres sinon il deviendrait un enfant sauvage, d’une famille élargie et d’un territoire d’appartenance, de gouvernance locale, nationale et internationale, de la biosphère et de la communauté des êtres vivants, d’une planète, d’un système solaire et d’une galaxie. Nous sommes interdépendants avec l’ensemble de l’univers… et certains veulent pourtant nous faire croire que l’individu est une monade isolée qui a toute liberté d’agir à sa guise. Ces représentants des religions de l’homme à l’image de dieu et ces économistes libéraux qui croient à la toute puissance de l’individu n’ont pas un très grand sens de l’observation. L’abbé Jean Meslier* rejetait dès avant 1729 sa religion pour mettre à la place une conception matérialiste très contemporaine : « Sur quelles bases ont-ils fondé cette prétendue certitude de l’existence d’un Dieu? Sur la beauté, l’ordre, sur les perfections des ouvrages de la nature? Mais pourquoi aller chercher un Dieu invisible et inconnu comme créateur des êtres et des choses, alors que les êtres et les choses existent et que, par conséquent, il est bien plus simple d’attribuer la force créatrice, organisatrice, à ce que nous voyons, à ce que nous touchons, c’est à dire à la matière elle-même? Toutes les qualités et puissances qu’on attribue à un Dieu placé en dehors de la nature, pourquoi ne pas les attribuer à la nature même qui est éternelle ? » Comment être en désaccord avec ce point de vue ? Notre collectif, c’est la matière, c’est la biosphère, c’est la nature. Nous avons oublié cela et nous avons saccagé notre milieu de vie. Pourtant les religieux parcourent encore ce monde de leurs paroles insensées et les gouvernants ne parlent que de croissance pour justifier leurs destructions. Homo demens, commencent à dire de plus en plus d’observateurs de nos folies. * Mémoire des pensées et des sentiments de Jean Meslier (1729), publié après sa mort -------------------------------------------------------------------------------- [1] interdépendants, lệ thuộc lẫn nhau. [2] Monade, khái niệm triết kinh điển của Tây Âu. Có nhiều định nghĩa. Đặc biệt có quan điểm của Leibniz, đối thủ cừ khôi của Descartes. Có lẽ, ở Châu Âu thời ấy, Leibniz là triết gia quan tâm nhất về vai trò đặc thù của "sự sống" đối với khả năng hiểu biết của con người. Tác giả bài này dùng monade trong nghĩa đơn giản nhất : một thực thể cô lập, đúng với kiểu tư duy của hậu duệ của Descartes, thậm chí Sartre. [3] Suy nghĩ như thế là suy nghĩ theo kiểu tôn giáo. [4] Dieu trong 3 tôn giáo lớn của miền Địa Trung Hải. Chúa đương nhiên là một đơn tử nhưng là một đơn tử đặc biệt: ngoài nó, không có gì cả vì nó là nguồn gốc của tất cả. Nó vừa là Một vừa là Tất Cả. Ôi, em… Hè hè. [5] Libéraux. Các học thuyết kinh tế Tự do và Tân tự do tin tưởng rằng kinh tế có thể hiểu được trên cơ sở của sở thích, ý muốn, e tutti quanti, của những cá nhân (quy luật Cung-Cầu) và… Bàn tay vô hình của thị trường… [6] PHĐ nhấn mạnh. Tự nhiên ở đây gồm vật giới và sinh giới, trong đó có… con người ! [7] Từ xa xưa cho tới Feuerbach. Ngày nay còn không ít đệ tử trong những triết phái duy lý (rationalisme) với ý ngầm : khoa học. [8] Dialectique de la Nature. Biện chứng của Tự nhiên. [9] và nhờ tập thể duy trì mà nên lời và tồn tại, nhưng được những cá nhân phát triển.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 4:57:02 GMT 9
Đàn áp để ổn định và phát triển: Mô hình Trung Quốc Vietsciences- Ngô Vĩnh Long 1. Lời nói đầu Bài “Ổn định và phát triển: Trí thức Trung Quốc đang nghĩ gì?” của Trần Hữu Dũng (Thời Đại Mới, số này) rất hữu ích vì không những nó cho biết trí thức Trung Quốc đang nghĩ gì về ổn định và phát triển trên đất nước họ mà còn cho thấy người trí thức nước nầy, tuy không giữ chức vị trong chính quyền, vẫn có những cơ hội và vai trò nhất định để đóng góp cho việc ổn định và phát triển của đất nước. Thật ra, trong suốt lịch sử của Trung Quốc từ thời nhà Chu (周) cho đến thời Mao Trạch Đông, giới trí thức (知識) mà ngày xưa gọi là kẻ sĩ (士), thường được coi là quan trọng hàng đầu (sau vua) trong việc trị quốc (zhì guo 治國) và bình thiên hạ (píng tian xìa 平天下).[1] Trong thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-476) chế độ quân chủ (君主) phát triển và ngày càng chuyên chế, gây nên mất ổn định triền miên. Khổng Tử, một trong những nhà “hiền triết” trưởng thành trong giai đoạn nầy, thấy không thể nào dẹp chế độ quân chủ được. Nhưng ông nghĩ rằng nếu có một tầng lớp sĩ phu được trau dồi với những giá trị đạo đức chung (nhân 仁, trí 智, nghĩa 義, trung 忠, thứ 恕) để làm cố vấn hay để phò các vị vua thì việc bạo chúa sử dụng bạo lực để “cai trị” sẽ được giảm bớt. Khổng Tử gọi những người có ngũ đức và có học nầy là “quân tử” (君子) và ông khuyên vua chúa nên sử dụng những người như thế. Nếu không thì sẽ có “cách mạng.”[2] Cuộc cách mạng trong nửa đầu thế kỷ 20 phần lớn do trí thức lãnh đạo, tuy thành phần nông dân là tuyệt đại đa số. Sau khi cách mạng thành công và đảng Cộng Sản Trung Quốc, do Mao Trạch Đông lãnh đạo, lên nắm chính quyền cuối năm 1949, các thành phần trí thức (kể cả những người theo Quốc Dân Đảng và Tưởng Giới Thạch không bỏ nước ra đi) vẫn còn được trọng dụng. Do đó, tuy có khác nhau về quan điểm, sự đóng góp của các tầng lớp trí thức đã giúp kinh tế và xã hội phục hồi và phát triển rất nhanh chóng trong 7 năm đầu. Để vận động các tầng lớp trí thức thi đua tích cực và thẳng thắn phát biểu những ý kiến của mình đối với các chính sách của nhà nước hòng thu được nhiều kết quả tốt đẹp hơn, đến cuối năm 1956 và đầu năm 1957 Mao đồng ý phát động phong trào “trăm hoa đua nở” (tiếng Trung Quốc gọi là “trăm hoa vận động” 百花運動). Tên của phong trào nầy được đặt ra từ một câu thơ của Mao mà tiếng Việt dịch ra là: “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” (Tiếng Trung Quốc là: 百花齊放,百家爭鳴 bǎi huā qífàng, bǎi jiā zhēngmíng). Trong câu nầy Mao muốn ám chỉ việc “hàng trăm” (tức là nhiều) nhà hiền triết thời Chiến Quốc đã thi đua trên bình diện ý thức hệ, chứ không phải trên bình diện bạo lực, để tìm ra những tiêu chuẩn tốt cho việc ổn định và phát triển. Mao nghĩ rằng vì các cuộc tranh luận thời Chiến Quốc đã phát sinh ra triết lý Khổng Tử và Lão Tử và bổ sung cho nhau như âm dương cuồn cuộn, thì phong trào “trăm hoa đua nở” cũng sẽ giúp chứng minh tính “hơn hẳn” của chủ nghĩa xã hội và tư tưởng của Mao (được trình bày trong “Mâu thuẩn Luận” và “Thực tiễn Luận” là hai trước tác kinh điển của Mao Trạch Đông.) Hàng triệu trí thức và sinh viên (cùng với nhiều phần tử xã hội khác) hưởng ứng nhiệt liệt. Chỉ từ đầu tháng 6 đến giữa tháng 7 năm 1957 họ đã gởi cho văn phòng thủ tướng Chu Ân-Lai và các cơ quan chính quyền các cấp mấy triệu bức thư. Nhiều bức thư này chỉ trích các chính sách của chính phủ cũng như sự tham nhũng của cán bộ đảng và quan chức nhà nước khá nặng nề. Thậm chí còn đòi đảng Cộng Sản phải tự giải tán vì nếu đảng nầy còn nắm quyền thì sẽ còn mất tự do dân chủ và trí thức sẽ còn tiếp tục bị ngược đãi. Mao thấy sẽ có nguy cơ cho chế độ nếu cái đà này tiếp tục nên ra lệnh cho dẹp phong trào, nói rằng (dịch nôm na ra tiếng Việt) “trí thức không bằng cục phân.” Đã có nhiều phân tích cho biết tại sao họ Mao nghĩ như thế, tại sao ông ta mở các chiến dịch đàn áp trí thức sau đó, và tại sao việc nầy dẫn đến hậu quả xã hội mất ổn định và kinh tế suy thoái trầm trọng trong gần hai thập kỷ. Việc tôi muốn đề cập đến ở đây là theo nghiên cứu và phân tích của Uông Huy (Wang Hui), cùng với nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước khác, bắt đầu từ năm 1976 Đặng Tiểu Bình đã cố tình tạo cơ sở cho việc hoàn toàn phủ định những thành quả trong thời kỳ Mao làm tiền đề cho việc ổn định và phát triển trong thời kỳ mới. Để thiết lập một trật tự mới, Đặng Tiểu Bình không những đã triệt tiêu các hình thức trại lính và “nhân dân công xã” mà còn (oái ăm thay!) đưa ra những chính sách đàn áp mới mà cuối cùng đã dẫn đến sự kiện đẫm máu Thiên An Môn năm 1989. Trong bài tham luận tại hội thảo “Trách nhiệm xã hội, ổn định và phát triển” tại Nha Trang tháng 7 năm 2008 tôi đã trích Uông Huy khá nhiều trong phần nói về Trung Quốc.[3] Theo trình bày của Trần Hữu Dũng tại hội thảo Nha Trang (cũng như đọc bài đã hoàn chỉnh trong số Thời Đại Mới nầy) về ba trường phái trí thức Trung Quốc hiện nay thì không “ba phải” đi nữa cũng phải công nhận là mỗi trường phái có những quan điểm đúng và sai ̶ có những quan niệm xây dựng và bổ ích, nhưng cũng có những nhận xét rất nguy hiểm không những cho nhân dân Trung Quốc mà còn cho các dân tộc khác nữa. Vì thế, nhân bài Trần Hữu Dũng đã hoàn chỉnh và đăng trong số Thời Đại Mới nầy tôi cũng xin trích phần tham luận của tôi về Trung Quốc (bắt đầu từ lúc tôi đề cập đến Uông Huy cho đến cuối bài) tại Nha Trang dưới đây ̶ một là, để nối kết với bài của Trần Hữu Dũng; và hai là, để độc giả xem cục diện đã có gì thay đổi sau một năm không. Trong “phần viết thêm” (postscript) tôi sẽ đề cập đến một vài số diễn biến và kèm theo những nhận định và phân tích trong năm qua của vài nhà nghiên cứu. Tại Nha Trang tôi đã mở đầu phần phát biểu của mình qua cách đặt vấn đề như sau: Có quan hệ gì giữa trách nhiệm xã hội, ổn định và phát triển không? Nếu có, thì ai có trách nhiệm chủ yếu? Ổn định như thế nào và với phương thức gì? Và phát triển những gì, cho ai và vì ai? Để có thể một phần nào giúp trả lời những câu hỏi trên, trong bài nầy tôi trình bày một số kinh nghiệm của một số nước Á Châu, đặc biệt là trong bối cảnh chiến tranh lạnh và toàn cầu hóa. Chúng ta hãy bắt đầu với Trung Quốc ̶ một là vì Trung Quốc lớn nhất ở Á Châu và có kinh nghiệm “trị quốc” và “bình thiên hạ” lâu nhất, hai là vì việc ổn định hóa và hiện đại hóa của Trung Quốc trong vài thập kỷ vừa qua đã làm cho một số người tung ra khẩu hiệu “Đồng thuận Bắc Kinh” (Beijing Consensus) để thay cho khẩu hiệu “Đồng thuận Hoa Thịnh Đốn” (Washington Consensus) như là mô hình phát triển tối ưu cho tất cả các nước đang phát triển, và ba là Trung Quốc “núi liền núi sông liền sông” với Việt Nam cho nên những kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc cũng có thể có ảnh hưởng trực tiếp với Việt Nam. 2. Trích trình bày về Trung Quốc tại Nha Trang Theo Uông Huy và một số nhà nghiên cứu khác thì cuộc đấu tranh chính trị trong những năm 1975-1976 phản ánh việc tranh luận sâu đậm về ý nghĩa của sự bình đẳng là phải như thế nào trong xã hội chủ nghĩa và dưới một thể chế do đảng và nhà nước lãnh đạo mà Mao Trạch Đông đã nêu lên trong năm 1974. Đây là vấn đề được gọi là “pháp quyền tư sản” (bourgeois right) trong hệ tư tưởng Mác-xít, tức là quan hệ giữa hệ thống của sự bất bình đẳng xã hội và cơ cấu nhà nước. Đặng Tiểu Bình cho đây là vấn đề giả tạo được đưa ra với mục đích tranh chấp phe nhóm và gây thêm mất ổn định. Đặng Tiểu Bình dùng từ ngữ chính thống Mác-xít để nói lên rằng vấn đề lúc nầy không phải là việc bàn luận về “pháp quyền tư sản” mà là làm sao phát triển các lực lượng sản xuất vẫn còn ở dạng tiềm năng. Bàn về quan hệ sản xuất, theo Đặng Tiểu Bình, là đề cập đến việc còn quá xa vời. Từ đó trở đi vấn đề bất bình đẳng bị đẩy ra khỏi chân trời chính trị của Trung Quốc và việc phát triển các lực lượng sản xuất đã giành được thế thượng phong. Mãi cho đến nay chế độ nhà nước đảng (party-state) Trung Quốc vẫn tự cho mình là đại diện của các “lực lượng sản xuất tiên tiến” gồm đủ các thành phần vô sản và tư bản.[4] A. Hai sự kiện quyết định: Phá vỡ “nhân dân công xã” và đàn áp Thiên An Môn Để phát triển các lực lượng sản xuất, chương trình hành động của Đặng Tiểu Bình là tìm cách triệt tiêu tất cả các thí nghiệm chính trị về bình đẳng và đàn áp các xã hội dân sự. Để dọn đường cho việc đàn áp các “công xã nhân dân” năm 1976 Đặng Tiểu Bình phục hồi “danh dự” cho Bành Đức Hoài (彭德懷 Péng Déhuai) người được xem là nạn nhân tiêu biểu của chính sách Mao-ít. Mao Trạch Đông đã ủng hộ Bành Đức Hoài trở thành nguyên soái của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tại Hội nghị Tuân Nghĩa tháng giêng năm 1934. Nhưng tháng 6 năm 1959, tại Hội nghị Lư Sơn, Bành Đức Hoài đã tranh cãi với Mao về Đại Nhảy Vọt; về việc quân đội phải chính quy, chuyên nghiệp và giảm tính chính trị; và về việc triệt tiêu các “nhân dân công xã.” Theo một cuốn sách có tựa đề Lushan huiyi shilu (Báo cáo trung thực về Hội nghị Lư Sơn), mà tác giả là một người đã ủng hộ Bằng Hoài Đức rất mạnh mẽ, thì đây không phải là một cuộc tranh chấp giữa một trung thần dám nói lên sự thật và một vị hoàng đế bạo tàn, mà là một cuộc đấu tranh chính trị công khai và trực diện. Lập trường của Bành Đức Hoài lúc đó đơn giản là phải nhất thiết triệt tiêu tất cả các hình thức hợp tác nông nghiệp. Ông ta có gần hai tuần để giải thích quan điểm của mình trước khi ông Mao trả lời ông ta.[5] Nhưng mãi đến sau cuộc Cách Mạng Văn Hóa thì tình hình mới cho phép bắt đầu triệt tiêu các “nhân dân công xã.” Cuộc Cách Mạng Văn Hóa đã phủ định tất cả các hình thức thí nghiệm chính trị mà cơ chế nhà nước đảng đã ủng hộ, mặc dầu các hình thức hợp tác xã là những thí nghiệm bắt nguồn từ những yêu cầu bức thiết của thực tế ở những vùng nghèo khổ của Trung Quốc. Mao đã nhiệt tình ủng hộ “nhân dân công xã” vì ông ta tin chắc rằng nông dân biết suy nghĩ, rằng họ có quan điểm chính trị, và có năng lực phát minh ra những quan hệ xã hội mới. Chiến lược chính trị của Mao từ những thập kỷ 20 bắt nguồn từ niềm tin nầy. Nhưng việc coi nông thôn như là nơi có thể phát minh những hình thái chính trị mới đã tạo thêm trọng trách cho nhà nước đảng. Việc triệt tiêu “nhân dân công xã” cho đến nay được chính thức giải thích là để giúp nông dân thoát ly khỏi những gánh nặng tàn bạo của hợp tác xã. Nhưng trên thực tế là giúp “nhà nước đảng” thoát khỏi trọng trách với nông dân, khỏi trách nhiệm phải xem họ là chủ thể chính trị một cách chủ quan. Đối với Đặng Tiểu Bình vấn đề không phải là nông dân có thể suy nghĩ hay không, mà là làm sao biến nông dân thành lực lượng lao động với giá rẻ mạt. Kết quả là phần lớn nông dân đã mất sở hữu đất đai và hiện nay có khoảng 150 triệu “du dân” (youmin) hay “lưu dân” đi lang thang khắp mọi nơi tìm việc làm. Trong khi đó thì có khoảng 150 triệu người khác làm trong các xí nghiệp quốc doanh với đồng lương rất thấp vì nếu họ tranh đấu đòi lên lương thì họ có thể lập tức bị sa thải và thay thế bởi những người khác đang thất nghiệp. Những người du dân thất nghiệp và bán thất nghiệp sẵn sàng bán sức lao động của mình với giá rẻ mạt nầy đã được Mác gọi là “đạo quân dự trữ công nghiệp.” Việc giải thể các “nhân dân công xã” là việc làm có chủ định để kiềm chế công nhân và các xí nghiệp và để tạo thêm sự phân hóa (bất bình đẳng) giữa thành thị và nông thôn hầu thúc đẩy phát triển kinh tế ở các thành thị.[6] Một sự kiện then chốt khác giúp “nhà nước đảng” Trung Quốc dựng lên “trật tự mới” là sự kiện Thiên An Môn. Uông Huy, trong cuốn sách đã dẫn, chứng minh rằng việc đàn áp đẫm máu phong trào tranh đấu năm 1989 là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của “chủ nghĩa tân tự do của Trung Quốc” từ đầu thập kỷ 90. Đây là luận điểm chính của cuốn sách. Luận điểm thứ hai bổ sung cho luận điểm trên là các phát triển kinh tế của Trung Quốc trong thập niên trước không bắt nguồn từ sự tự phát cá biệt của các quá trình kinh tế được tạo ra do sự rút lui của nhà nước ra khỏi lĩnh vực kinh tế. Ngược lại, những phát triển đó đã chỉ có thể xảy ra vì những can thiệp hàng loạt của nhà nước. Hai luận điểm nầy nói lên sự quan hệ giữa chính trị và nhà nước và giữa nhà nước và nền kinh tế. Trọng tâm của phong trào đấu tranh năm 1989 là một sự căng thẳng rất lớn về quan hệ bất bình đẳng trong xã hội. Những chính sách kinh tế của thập kỷ 90 chỉ có thể được thi hành sau khi căng thẳng ấy đã bị triệt tiêu.[7] Sự kiện Thiên An Môn đã được trình bày với rất nhiều chi tiết trong cuốn sách tập hợp các văn kiện chính thức gọi là The Tiananmen papers (Những văn kiện Thiên An Môn.)[8] Sách nầy gồm những tài liệu Uông Huy cung cấp trong cuốn sách của ông ta, và những nhận xét của Claudia Pozzana và Alessandro Russo (hai nhà nghiên cứu về Trung Quốc và cũng là nhân chứng sự kiện Thiên An Môn) đều cho biết rằng cuộc đấu tranh ở Thiên An Môn gồm nhiều phần tử xã hội khác nhau với nhiều đòi hỏi khác nhau. Nhưng ngay khi cuộc đấu tranh chưa lan rộng thì Đặng Tiểu Bình, theo các bản sao các cuộc họp của Đặng Tiểu Bình với Bộ Chính Trị, đã qui kết các cuộc biểu tình của sinh viên là đồng loạn gây mất ổn định và buộc phải đàn áp vô điều kiện. Ông ta cho rằng tất cả các hình thức tổ chức chính trị độc lập đều là nguyên nhân của mất ổn định và phải được dẹp lập tức. Đặng Tiểu Bình đọc từng chữ bài xã luận đăng trên các báo ngày 26 tháng 4 để công bố chính thức là ông ta sẽ đàn áp phong trào đấu tranh. Nhưng trong khi Đặng Tiểu Bình chưa điều động kịp quân đội để đàn áp thì phong trào đã dịu xuống từ giữa tháng 5, số người biểu tình ở Thiên An Môn đã thưa dần. Đến cuối tháng 5 thì hầu hết các nhà báo nước ngoài đã bỏ về nước vì họ cho rằng cuộc đấu tranh đã kết thúc. Nhưng đối với Đặng Tiểu Bình nếu để cho những người biểu tình còn lại ở Thiên An Môn tự giải tán một cách yên ổn thì không giải quyết được vấn đề là làm sao có thể đàn áp thẳng tay nhằm gây một dấu ấn kinh hoàng trong đầu óc của người dân khiến cho họ không dám màng đến những hoạt động chính trị nữa trong tương lai. Do đó, Đặng Tiểu Bình và Lý Bằng (Thủ tướng chính phủ đương nhiệm) đã ra lệnh cho các tướng lĩnh cố tình gây hàng loạt vụ khiêu khích chết người ngày 2 và ngày 3 tháng 6 để kéo dân chúng trở lại Thiên An Môn. Sau đó lấy cớ đàn áp một cách tàn bạo từ ngày 4 tháng 6 trở đi. Công nhân là những người bị đàn áp tàn nhẫn nhất vì họ có tổ chức.[9] B. Đàn áp và Phát triển sau sự kiện Thiên An Môn Như đã đề cập ở trên, Uông Huy đã chứng minh rất rõ là trong những tháng sau sự kiện Thiên An Môn chính quyền Trung Quốc thi hành hàng loạt các biện pháp kinh tế chống bình đẳng mà đã không thể thông qua được trước đó. Luận điểm chính của Uông Huy là cuộc đàn áp phong trào đấu tranh năm 1989 đã giúp đẩy mạnh chủ nghĩa tân tự do. Uông Huy cho biết là không có sự khác biệt giữa các nhóm “tân tự do” và các phe nhóm của “nhà nước đảng,” cả hai đều không khoan nhượng nhất là trong việc dùng bạo lực để đàn áp. Trên thực tế có sự liên minh chặt chẽ giữa các nhóm nầy; và các lực lượng kinh tế chóp bu của Trung Quốc chưa bao giờ độc lập đối với “nhà nước đảng.” Đảng Cộng Sản Trung Quốc bảo đảm trật tự tuyệt đối, không ai có thể nhúng tay vào các hoạt động của nhà nước từ bên ngoài, và chính trị là lĩnh vực biệt lập của tầng lớp thống trị. Do đó, trong 20 năm qua tầng lớp lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã bóp chẹt tất cả các nguyện vọng đổi mới trong hầu hết mọi lĩnh vực, trừ lĩnh vực tăng trưởng kinh tế một cách vô tội vạ.[10] Nhưng tăng trưởng kinh tế như thế nào, cho ai, và có mầm móng bền vững không? Theo nhiều nghiên cứu thì cuộc đổi mới theo chủ nghĩa tư bản “mang màu sắc Trung Quốc” trong 20 năm qua đã đưa Trung Quốc, vốn là một nước liệt vào hạng thu nhập thấp nhất thế giới, trở thành một nước có cách biệt giàu-nghèo cao nhất thế giới. Thu nhập ở Thượng Hải cao gấp 8 đến 10 lần thu nhập tại các địa phương khác.[11] Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Trung Quốc của Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng đã phải công nhận rằng sự cách biệt giàu-nghèo ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cao nhất thế giới, trong đó mức thu nhập ở các thành thị cao hơn nông thôn gấp 6 lần.[12] Đến năm 2006, trong khoảng trên dưới 10 năm, hơn 70 triệu hộ nông dân đã bị tước đoạt toàn bộ ruộng đất và khoảng 30 triệu hộ nữa đang trong danh sách sắp bị truất hữu.[13] Trong khi đó, để có được tăng trưởng GDP với tỷ lệ trung bình là 10% trong 20 năm qua, Trung Quốc đã gây ô nhiễm rất lớn và đã sử dụng cạn kiệt các nguồn nguyên liệu và nhiên liệu trong nước.[14] Hơn thế nữa, theo phân tích của nhiều kinh tế gia trên thế giới, con số tăng trưởng GDP được chính phủ Trung Quốc đưa ra là giả tạo, là trong thực tế tỷ lệ tăng trưởng chỉ khoảng 5% nếu không có đầu tư rất cao của tư bản toàn cầu.[15] Ngân Hàng Phát Triển Châu Á cho rằng các số liệu tăng trưởng GDP của Trung Quốc đã được thổi phồng quá lớn, phải trừ ít nhất là 2% ra khỏi các báo cáo chính thức. Họ cũng trừ thêm 3% khỏi tỷ lệ tăng trưởng GDP vì cho là việc nông dân bỏ đất đai trồng trọt để lên thành thị kiếm việc làm chỉ có thể kích thích phát triển kinh tế trong tạm thời, nhưng lâu dài sẽ gây rất nhiều khó khăn xã hội. Nếu không có đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI, Foreign Direct Investment), đến năm 2004 đã lên đến 60 tỷ Mỹ kim, thì kinh tế Trung Quốc đã có thể bị suy thoái liên miên.[16] Một đều lạ nên được lưu ý là mặc dầu những con số chính thức của Trung Quốc cho biết là trong 20 năm qua GDP tăng trưởng trung bình 10% một năm, tỷ lệ tăng việc làm chỉ trung bình có 1% một năm trong suốt thập kỷ 90. Trên thực tế số người có việc làm chỉ tăng trong khu vực kinh tế không chính thức, trong khi chất lượng việc làm giảm sút trầm trọng.[17] Số người thất nghiệp hiện nay rất lớn. Một số nghiên cứu cho biết là trong 10 năm tới Trung Quốc phải tìm việc làm mới cho 300 triệu người hầu mong có thể ngăn chặn được một sự bùng nổ của khủng hoảng xã hội.[18] C. “Phát triển khoa học, xã hội hài hòa”? Theo những con số chính thức chính quyền Trung Quốc đưa ra thì đã có những “sự cố” lớn bùng nổ trong nông thôn vì một số lý do như đất đai bị quan chức địa phương cướp: Năm 1993 có 8,700 vụ biểu tình và nổi loạn của nông dân, năm 1999 có 32,000 vụ, năm 2003 có 58,000 vụ, năm 2004 có 74,000 vụ, và năm 2005 có 87,000 vụ.[19] Đầu năm 2006 bộ trưởng an ninh công cộng của Trung Quốc, ông Zhou Yongkang (周永康 Chu Vĩnh Khang), công nhận là hàng năm có hàng vạn “sự cố lớn” (mass incidents) và những cuộc biểu tình nổi loạn đã tăng 10 lần trong thời gian 10 năm. Ông Zhou Yongkang cũng cho biết thêm rằng Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã bắt đầu truyền bá các “tiêu chuẩn đạo đức” của Khổng Tử hòng kiềm chế các sự bùng nổ khủng hoảng xã hội.[20] Hồ Cẩm Đào cũng đã thường phải đề cập đến “bình đẳng xã hội”, phát triển một cách khoa học để xây dựng một “xã hội hài hòa,” và một “nông thôn xã hội chủ nghĩa mới.” Nông dân được cam kết giáo dục sẽ miễn phí, y tế và các phương tiện công cộng sẽ tốt hơn, và bao cấp của nhà nước cấp sẽ lớn hơn. Nhưng quyền sở hữu đất đai mà nông dân đang cầy cấy thì không có trong danh sách hứa hẹn ấy vì Hồ Cẩm Đào phải làm vừa lòng các thế lực tư bản trong và ngoài nước.[21] Không có quyền cơ bản nầy thì nông thôn sẽ không có thể chui vào con lốc của quyền lực và lợi nhuận hiện nay tại Trung Quốc. Sự phân cấp xã hội-kinh tế sẽ tiếp diễn và sẽ không cho phép Hồ Cẩm Đào thực hiện lời hứa xây dựng một “xã hội hài hòa” cho Trung Quốc. Thật ra Hồ Cẩm Đào và hầu hết các lãnh tụ của “nhà nước đảng” Trung Quốc chỉ muốn cho “xì hơi” bớt để tránh bùng nổ và để cho hệ thống thống trị có thể tiếp tục hoạt động. Nếu không cải thiện, sự căng thẳng nầy sẽ đẩy một số công ty đa quốc gia chuyển đầu tư sang các nước khác ở Châu Á và sẽ tạo điều kiện cho các nước nầy có cơ hội cạnh tranh với Trung Quốc. Hồ Cẩm Đào dùng khẩu hiệu xây dựng một “nông thôn xã hội chủ nghĩa mới” và “phát triển khoa học, xã hội hài hòa” như là chiêu bài đấu tranh quyền lực với các nhóm tư bản thành thị, nhất là nhóm Thượng Hải. Từ khi trở thành chủ tịch nước năm 2002 Hồ Cẩm Đào đã cố gắng củng cố quyền lực của chính quyền trung ương và thiết lập một trật tự mới mà nhiều nghiên cứu cho rằng áp bức hơn tất cả các chính quyền nào khác từ thời Mao Trạch Đông.[22] Thế thì tại sao các chính quyền phương Tây, đặc biệt là Hoa Thịnh Đốn, đã hô hào là Trung Quốc càng ngày càng dân chủ và đã đối đãi với Trung Quốc đặc biệt hơn tất cả các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương? Đó là vì có các thế lực công ty đa quốc gia giựt dây phía sau, nhất là sau cuộc khủng hoảng tiền tệ/kinh tế năm 1997-98. Những năm phát triển “thần kỳ” đã giúp cho các nước Đông Nam Á có năng lực và thế cạnh tranh tốt hơn. Sau cuộc khủng hoảng thì các nước nầy và Hàn Quốc có cơ hội trở thành những nước dân chủ hơn, là những nước có nhiều tài nguyên; và sau các cuộc cải cách do áp lực của IMF cũng đã có thể cạnh tranh tốt hơn nhờ chi phí lao động còn rẻ. Trung Quốc có sức hấp dẫn lớn hơn cả vì có một chính quyền có thể ra tay trấn áp nhân dân lao động mạnh nhất và có chính sách thương mại khá thông thoáng. Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ tháng 4 năm 2006 ông Hồ Cẩm Đào cam kết sẽ mở cửa rộng thêm hơn nữa cho đầu tư nước ngoài vào vì ông ta biết rằng đối với các chính quyền tư bản, đặc biệt là Hoa Kỳ, vấn đề có hàng tiêu dùng rẻ vẫn quan trọng hơn những giá trị căn bản nhưng trừu tượng như là tự do và nhân quyền. D. Càng phát triển càng tự do? Mô hình phát triển của Trung Quốc là dùng tăng trưởng kinh tế để đè bẹp tự do và dân chủ. Đặng Tiểu Bình đã nói: “Làm giàu là vinh quang.” Nhưng làm giàu cho ai? Ai vinh quang? Theo số liệu chính thức của Trung Quốc thì từ năm 1980-1997, tức là những năm nền kinh tế Trung Quốc cất cánh, tỷ lệ bất bình đẳng tăng 50%. Sau đó, tốc độ còn tăng nhanh hơn; để rồi đến năm 2006 hơn 60% giá trị của tất cả của cải và tài sản nội địa Trung Quốc đã thu gom vào tay của dưới 1% tổng số hộ gia đình.[23] Gần 30% số hộ nông thôn không dủ ăn, thu nhập trung bình dưới 1 Mỹ kim một ngày.[24] Số người ăn xin trong các thành phố tăng lên gấp bội vì các chính quyền địa phương bất lực và vì chính sách hộ khẩu không còn có thể kiểm soát các luồng dân nông thôn chảy vào thành phố để kiếm việc làm.[25] Mặt khác, Trung Quốc đã trở thành nước tiêu dùng xa xí phẩm nhiều thứ ba trên thế giới.[26] Lý do chính cho sự cách biệt trên là chính trị chứ không phải kinh tế. Nếu người dân Trung Quốc có tiếng nói chính trị thì sự cách biệt nầy đã không xảy ra lớn và nhanh như vậy. Câu hỏi được đặt ra ở đây là liệu mô hình phát triển kiểu Trung Quốc nầy có thể tồn tại lâu dài và đem đến “an cư lạc nghiệp” cho nhân dân Trung Quốc không? Antonio Gramsci, nhà tư tưởng chính trị người Ý theo truyền thống Mác-xít, nói rằng bất cứ một chính quyền nào cũng cần có hai vòng đai bảo vệ: Vòng ngoài là vòng “thiết giáp của trấn áp”; vòng trong là vòng đồng thuận (vòng ý thức hệ) được thiết lập để củng cố vòng ngoài và để biện minh hay chính thống hóa sự trấn áp của chính quyền. Vòng trong được cấu tạo với xã hội dân sự và là vòng đai bảo vệ quan trọng nhất của chính quyền.[27] Vì “nhà nước đảng” Trung Quốc hiện nay chủ yếu chỉ có một vòng đai, vòng đai trấn áp bằng vũ lực, họ đã và đang phải cố gắng hô hào và cổ vũ cho một loại chủ nghĩa dân tộc (chủ yếu là chủ nghĩa Đại Hán) để tạo nên một ý thức hệ đồng thuận có thể dùng làm vòng đai phía trong. Chủ nghĩa dân tộc nầy được nhào nặn và sử dụng bằng nhiều hình thức mà một số nhà nghiên cứu đã phân tích.[28] Những thể hiện hết sức nguy hiểm của chủ nghĩa dân tộc nầy trong các lĩnh vực quân sự và ngoại giao cũng đã được người viết bài nầy phân tích trong một số nghiên cứu đăng trên các tạp chí nước ngoài.[29] Nếu Trung Quốc không thể giải quyết những mâu thuẫn trong nước bằng bạo lực được thì Trung Quốc sẽ có thể dùng vũ lực để xuất khẩu các mâu thuẫn đó ra bên ngoài như Nhật Bản đã áp dụng từ cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20 dưới học thuyết “phú quốc cường binh” hay không? Các nước khác ở châu Á có nên bắt chước mô hình phát triển Trung Quốc không?
|
|