|
Post by NhiHa on May 6, 2011 4:58:12 GMT 9
3. Phần viết thêm (Postscript) Trong năm qua tình hình kinh tế xã hội của Trung Quốc chỉ xấu thêm chứ không khá hơn. Theo các công bố chính thức của chính phủ Trung Quốc vào đầu tháng 3 năm 2009 thì trong 5 tháng trước đó đã có hơn 20 triệu công nhân trong các xí nhiệp đã bị mất việc và đã phải chạy về nông thôn. Đây là một con số lớn bằng tổng dân số của Australia. Cũng theo các báo cáo chính thức, Trung Quốc cần tăng trưởng GDP khoảng 9-10% mới có thể cung cấp việc làm cho khoảng 24 triệu người đến tuổi lao động mỗi năm. Thủ tướng Ôn Gia Bảo tuyên bố là GDP của Trung Quốc sẽ tăng khoảng 8% năm 2009.[30] Nhưng theo phân tích của nhiều kinh tế gia nước ngoài thì GDP Trung Quốc sẽ tăng tối đa khoảng 6,5% vì một số lý do như sau. Lý do thứ nhất là tuy chính phủ Trung Quốc đã công bố (ngày 9 tháng 11 năm 2008) một chương trình kích cầu với tổng số tiền là 586 tỷ Mỹ kim cho 2 năm 2009-10 (khoảng 7,5% GDP mỗi năm), trong thực tế thì chính quyền Trung Ương chỉ hứa sẽ bỏ ra khoảng 175 tỷ Mỹ kim mà thôi. Số còn lại là do đầu tư của địa phương và tư nhân. Khó mà hiểu được trong lúc tình trạng kinh tế trong nước và thế giới sa sút như trong năm qua thì làm sao địa phương và tư nhân muốn đầu tư thêm. Nên nhớ rằng 40% GDP của Trung Quốc là từ công nghiệp chế biến, 40% GDP là do xuất khẩu; và xuất khẩu ròng (tức xuất siêu) là 12% GDP năm 2007-2008. Đầu tư cho sản xuất các năm trước trung bình khoảng 45% GDP và vì thế đã giúp Trung Quốc tăng xuất khẩu sang Mỹ, chẳng hạn, khoảng 20% mỗi năm. Nhưng các con số trao đổi mậu dịch song phương Trung-Mỹ trong 6 tháng đầu năm 2009 đã cho thấy là xuất siêu của Trung Quốc đối với Mỹ đã giảm gần đến số không. Năm 2007 xuất siêu Trung Quốc sang Mỹ là 252 tỷ Mỹ kim, tức khoảng 100 tỷ Mỹ kim nhiều hơn số tiền mà chính quyền Trung Ương Trung Quốc nói là sẽ dành cho kích cầu trong hai năm 2009-2010. Nếu Trung Quốc vẫn dựa vào xuất khẩu để phát triển thay vì tìm cách tăng mại lực của nhân dân, nhất là cho những người có thu nhập thấp, thì kinh tế Trung Quốc khó mà phục hồi nhanh chóng. Vì Trung Quốc không có quỹ an sinh xã hội, người dân Trung Quốc phải để dành, khoảng 20% thu nhập, để phòng những lúc khó khăn hay rủi ro. Các xí nghiệp lớn của Trung Quốc cũng để dành tiền. Cho nên tổng số tiền để dành của Trung Quốc là khoảng 45-50% GDP. Chính phủ lấy tiền nầy để đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu. Đó là lý do tại sao tỷ lệ đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu chiếm khoảng 45% GDP. Phần lớn tiền để dành của các xí nghiệp quốc doanh là tiền dự trữ ngoại tệ giữ ở nước ngoài để cho nước ngoài vay mua hàng của Trung Quốc. Theo một bài nghiên cứu đăng trong tờ The Wall Street Journal thì phần lớn của cải của Trung Quốc đang nằm trong tay của 140 tổng công ty quốc doanh.[31] Từ năm 2003-2008 tài sản (assets) của các tổng công ty nầy mỗi năm tăng trung bình khoảng 1,5 nghìn tỷ nhân dân tệ (1.5 trillion yuan) và giá trị hàng bán ra (sales) mỗi năm tăng trung bình khoảng 1,3 nghìn tỷ. Các công ty nầy được các ngân hàng quốc doanh cho vay 1,08 nghìn tỷ nhân dân tệ trong 6 tháng đầu năm 2009, con số lớn hơn tổng số cho vay năm 2008. Trong khi đó chưa đến 5% của số tiền nầy được cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay. Phần lớn các xí nghiệp nhỏ và vừa nầy là của tư nhân và chính phủ Trung ương ngăn cấm họ hoạt động trong những ngành nghề kinh doanh có lợi nhuận lớn nhất. Cũng theo bài báo trên thì người giàu càng ngày càng giàu thêm và người nghèo càng ngày càng nghèo thêm. Hiện nay tại Trung Quốc có khoảng 300 nghìn người có tài sản trên 10 triệu đồng nguyên mỗi người. Trong khi đó thì thu nhập của nông dân và công nhân (hơn 65% của tổng số 1,3 tỷ người) đã giảm xuống đến 41,4% GDP năm 2006—tức năm cuối cùng có số liệu chính thức—so với 53% năm 1998. Ở các nước phát triển như Nhật và Mỹ thu nhập của công nhân và nông dân thường là từ 50-60% GDP. Thêm vào đó y tế và giáo dục cho nông dân và công nhân một là, không có, hai là, nếu có, thì rất tồi tệ. Theo báo cáo năm 2008 của Bộ Y Tế có khoảng 200 triệu công nhân và nông dân mắc bệnh từ những công việc làm của họ. Không phải giới cầm quyền Trung Quốc không biết là khoảng cách giàu-nghèo đã đến mức trầm trọng. Trong một bài báo đăng ngày 26 tháng 6 năm 2009 một tác giả khác cho biết là trước đó vài ngày một thành viên của Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc công bố một vài con số chính thức về phân cấp giàu-nghèo như sau: 70% của tất cả của cải tài sản tại Trung Quốc tập trung trong tay của 0,4% dân số (tập trung cao hơn tại Mỹ). Hay nói cách khác, 99,6% tổng dân số Trung Quốc chỉ hưởng có 30% của cải của nước họ.[32] Giới cầm quyền Trung Quốc biết là phân cấp giàu-nghèo nầy, chủ yếu là qua tham nhũng và lạm quyền của quan chức các cấp, đã và sẽ gây thêm nhiều cuộc nổi dậy của quần chúng mà họ dùng mỹ từ “sự kiện đại chúng” để gọi. Vì thế, giới cầm quyền Trung Quốc đã dùng mọi thủ đoạn ̶ từ làm “công tác tư tưởng” đến đàn áp bằng vũ lực ̶ để “trị an.”[33] Theo Perry Link và Joshua Kurlantzick, hai học giả về Trung Quốc, “Điều rất đáng lo ngại hơn là chính phủ [Trung Quốc] đang chuyển sự thành công của họ trong nước ra thành sự thành công ở nước ngoài, nơi mà “mô hình Trung Quốc” về chủ nghĩa tư bản độc đoán đang rất ăn tiền. Chính phủ các nước từ Syria đến Việt Nam đang ca ngợi Trung Quốc.”[34] Nhiều người đang quan tâm, nếu không nói là quan ngại, trước thái độ khâm phục Trung Quốc của một số lãnh tụ và trí thức Việt Nam hiện nay cũng như trước các hoạt động bành trướng của Trung Quốc tại Việt Nam và trong khu vực Đông Nam Á. Các hành động khiêu khích của Trung Quốc trên biển Đông Nam Á như vây quanh hay va chạm chiến thuyền của Mỹ và bắt ngư dân Việt Nam buộc Mỹ gần đây phải đưa ra hàng loạt chính sách cụ thể để chứng tỏ rằng Hoa Kỳ vẫn còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của họ cũng như của những quốc gia khác trong khu vực.[35] Đây là vấn đề khá phức tạp và ngoài phạm vi bài nầy. Nhưng cũng đã có một số phân tích về chính sách hiện nay của Mỹ và Trung Quốc trên một số diễn đàn khác.[36] Tháng 7-2009 Ngô Vĩnh Long Chú thích [1] Hai tên gọi, Trung Quốc (中國 zhongguó) và Trung Hoa (中華 zhonghuá), đã được sử dụng từ thời nhà Chu (周) — từ thế kỷ thứ 10 đến năm 221 trước công nguyên — để phân biệt với “thiên hạ” (天下 tian xìa), tức là những nước và dân tộc chưa được nhà Chu thôn tính và khai hóa. [2] Ngay sau khi nhà Chu vừa mới thôn tính nhà Thương (商) thì Chu Công đã nói là người ta có thể chiếm một nước trên lưng ngựa nhưng không có thể giữ nước đó trên lưng ngựa được. Nghĩa là không có thể dùng vũ lực và bạo lực để cai trị một cách ổn định được. Để trị an, Chu Công quan niệm rằng phải có một ý thức hệ bao trùm tạo ra được sự đồng thuận trong xã hội, đặc biệt là trong các tầng lớp cai trị. Vì thế, Chu Công và các vị vua đầu tiên của triều đại Tiền Chu hay Tây Chu (1122-771 trước công nguyên) giới thiệu hai khái niệm đi đôi với nhau là “Thiên” (天 ) và “Đức” (德). Thiên là một động lực đạo đức bao quát cai quản toàn thể vũ trụ và loài người và được nhà Chu dùng để thay thế “Thượng Đế” (上 帝), ông tổ của nhà Thương và cũng là vị thần làm mưa làm gió. Đức là hành động đứng đắng của con người, hài hòa với các nguyên lý đạo đức của vũ trụ. Thiên ngồi trên phán xét, một cách không thiên vị, các hành động của người cầm đầu thiên hạ và cho người nầy có quyền, gọi là “thiên mạng” (天 命), để làm trung gian giữa thiên ý và nhân mạng, tức là vận mạng của con người. Người có thiên mạng để cai trị (thiên tử 天 子) là người phải có Đức, tức là phải có trách nhiệm đối với xã hội loài người bằng cách làm cho dân chúng được “an cư lạc nghiệp.” An cư lạc nghiệp có nghĩa là xã hội ổn định và kinh tế phát triển cho hạnh phúc của quần chúng. Khái niệm trên được coi như là một khế ước giữa trời và người (thiên và thiên hạ) và trời không có quyền tự hủy cái giao kèo đó. Khi có “thiên tai” làm cho con người bị đau khổ, đó không phải là vì trời thất hứa mà là vì giới cầm quyền không có chính sách đứng đắng và hài hòa với các nguyên lý đạo đức của vũ trụ nên mới gây mất ổn định. An lạc là nguyên lý trọng tâm. Nếu dân chúng bị đau khổ, vì thiên tai hay là vì chính sách không đứng đắng của nhà cầm quyền, thì quần chúng có quyền “cách mạng” (革 命). Hai luận điểm trên được nhà Chu phát triển như là một ý thức hệ giúp cho triều đại nầy cai trị ổn định mấy trăm năm. Sáu trăm năm sau giai đoạn Chu Công thi hành hai luận điểm trên thì Khổng Tử dùng chúng làm cốt lõi cho hệ thống tư tưởng của ông. Sau đó, các trường phái Nho học, đặc biệt dưới thời Hán, thể chế hóa các luận điểm nầy thành nền tảng của ý thức hệ cai trị mà các triều đại đế chế Trung Quốc đã liên tục sử dụng để ổn định xã hội và bảo vệ chính quyền. Một tầng lớp sĩ phu đã được đào tạo và liên tục trưởng thành trong hơn hai nghìn năm để điều hành và củng cố các thể chế đặt ra. Vị trí của “Sĩ” phản ánh qua câu: Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt Dân hữu tứ Sĩ vi chi tiên Có giang sơn thì Sĩ đã có tên Thời Chu Hán vốn Sĩ nầy là quí… (Kẻ Sĩ—Nguyễn Công Trứ) [3] Bài tham luận đó có tựa đề là: “Một vài nhận xét về quan hệ giữa ‘trách nhiệm xã hội, ổn định và phát triển’ trong lịch sử một vài nước Á Châu.” Vì lý do kỹ thuật, chỉ có phần nói về Trung Quốc đã được đưa lên mạng hội thảo trước và hiện nay còn nằm tại đây: hoithao.viet-studies.info/2008_NgoVinhLong.pdf. Trong bài tham luận của tôi tại hội thảo tôi đã dùng hơn một nửa thời gian trình bày diễn tiến của mô hình phát triển Hàn Quốc từ đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước cho đến năm 2007. Sau hội thảo tôi đã phát triển phần Hàn Quốc nầy đến gần 50 trang và hiện nay còn đang hiệu đính để có thể cho xuất bản. [4] “China’s New Order and Past Disorders…”, như trên, trang 348-349. [5] Như trên, trang 339. Li Rui, Lushan huiyi shilu (Báo cáo trung thực về Hội nghị Lư Sơn). Changsha: Hunan jiaoyu chubanshe, 1989. [6] “China’s New Order and Past Disorders…”, như trên, trang 341-342. [7] Wang Hui, như trên. “China’s New Order and Past Disorders…”, như trên, trang 330-331. [8] Perry Link and Andrew Nathan, eds. The Tiananmen Papers. New York: Public Affairs, 2001. [9] “China’s New Order and Past Disorders…”, như trên, trang 330-339. Muốn có thêm chi tiết, xin xem The Tiananmen Papers. [10] Xem: William H. Thortorn, “Hu Goes There? Sino-globalism and the Ghost of Tiananmen,” ZNet, ngày 25 tháng 4 năm 2006. Bài nầy có thể tải về từ: www.zmag.org/content/print_article.cfm?itemID=10153§ionID=103[11] Richard Baum, “Where is China Going?” UCLA Asia Institute, ngày 13 tháng 12 năm 2002. Bài nầy có thể tải về từ: international.ucla.edu/asia/print.asp?parentid=2799. [12] Richard Spencer, “China Rich-Poor Gap is World’s Worst,” Telegraph, ngày 17 tháng 2 năm 2004. Bài nầy có thể tải về từ: www.telegraph.co.uk. [13] Jim Yardley, “Farmers Being Moved Aside by China’s Real Estate Boom,” The New York Times, ngày 8 tháng 12 năm 2004. Bài nầy có thể tải về từ: www.nytimes.com/2004/12/08/international/asia/08china.html[14] Jim Yardley, “Bad Air and Water, and a Bully Pulpit in China,” The New York Times, ngày 25 tháng 9 năm 2004. Bài nầy có thể tải về từ: www.nytimes.com/2004/09/25/international/asia/25fprofile.html[15] Xem: Thomas G. Rawski, “What’s Happening to China’s GDP Statistics?” China Economic Review 12:4 (2001), Bài nầy có thể tải về từ: www.pitt.edu/~tgrawski/papers2001/gdp912f.pdf. Arthur Waldron, “China’s Economic Façade,” Washington Post, ngày 21 tháng 3 năm 2002. Bài nầy có thể tải về từ: www.taiwandc.org/wp-2002-01.htm[16] William H. Thornton, “Sino-Globalization: Politics of the CCP/TNC Symbiosis,” New Political Science, Volume 29, Number 2, June 2007, trang 217. [17] Như trên. [18] Guy Ryder, “Whose Miracle in China?” New Perspectives Quarterly 23:1 (2006). Bài nầy có thể tải về từ: www.digitalnpq.org/archive/2006_winter/ryder.hmtl[19] “Sino-Globalization…”, trang 219. [20] “Who Should Own the Good Earth of China,” The Christian Science Monitor, ngày 15 tháng 3 năm 2006. Bài nầy có thể tải về từ: www.csmonitor.com/2006/0315/p08s01-comv.html[21] Jim Yardley, “China Unveils Plan to Aid Farmers, but Avoids Land Issue,” The New York Times, ngày 23 tháng 2 năm 2006. Bài nầy có thể tải về từ: www.nytimes.com/2006/02/23/international/23rural.html[22] Xem: Robert Marquand, “Hu Sets Out Blueprint for China’s Future,” The Christian Science Monitor, ngày 6 tháng 10 năm 2005. Bài nầy có thể tải về từ: www.csmonitor.com/2005/1006/p06s02-woap.htm. Minxin Pei, “The Chinese Communist Party,” Foreing Policy, September/October 2005. Bài nầy có thể tải về từ: www.foreignpolicy.com/story/cms.php?story-id=3174&print=1. [23] C. T. Kurien, “Giants of the East,” FrontLine 23:26, ngày 30 tháng 12 năm 2006—ngày 12 tháng giêng năm 2007. Bài nầy có thể tải về từ: www.hinduonnet.com/fline/fl2326/stories/20070112000507400.htm. [24] Pranab Bardhan, “Does Globalization Help or Hurt the World’s Poor?” ScientificAmerican.com, ngày 26 tháng 3 năm 2006. Bài nầy có thể tải về từ: www.sciam.com. [25] Jim Yardley, “China is Paying a Price of Modernization: More Beggars,” The New York Times, ngày 7 tháng 4 năm 2004. Bài nầy có thể tải về từ: www.nytimes.com/2004/04/07/international/asia/07beggars.html. [26] Zijun Li, “Luxury Spending: China’s Affluent Entering ‘Enjoy Now’ Phase of Consumption,” World Watch Institute, ngày 16 tháng 12 năm 2005. Bài nầy có thể tải về từ: www.worldwatch.org/features/chinawatch/stories/20051216-1. [27] Antonio Gramsci, Selections from the Prison Notebooks. London: Lawrence and Wishart (1971), trang 124, 238, 263, 363. [28] Một ví dụ là: William A. Callahan, “History, Identity, and Security: Producing and Consuming Nationalism in China,” Critical Asian Studies 38: 2 (2006), trang 179-208. [29] Một số bài tiếng Việt đã đăng trên Tạp Chí Thời Đại Mới: tapchithoidaimoi.info. [30] “Wen says China to grow about 8% despite crisis.” Bài nầy có thể tải về từ trạm: www.channelnewsasia.com/stories/afp_asiapacific_business/view/413312/1/.html. “PM Wen says China faces ‘unprecedented’ challenges over crisis.” Tải về từ trạm: www.channelnewsasia.com/stories/afp_asiapacific_business/view/413202/1/.html. [31] Willy Lam, “Rich China, Poor Peasants: A Country where weatlh trickles up,” The Wall Street Journal, July 24, 2009. Bài nầy có thể tải về từ: online.wsj.com/article/SB10001424052970203946904574301110723410346. [32] Alice thingy, “"A Country Whose People Are Poor Cannot Be Called a Rich Country." Nguyên văn câu tiếng Anh như sau: “A few days ago, Politburo member 蔡繼明 quoted a report issued by the authorities that says presently 0.4 percent of China’s population controls about 70 percent of the country’s wealth – the degree of wealth concentration is higher than in America. In other words, the remaining 99.6 percent of China’s citizens share only 30 percent of its wealth.” Bài nầy có thể tải về từ: www.asiasentinel.com/index2.php?option=com_content&task=view&id=1951&pop=1&page=0&Itemid=324. [33] Xem: Hugo Restall, “China Enters a Period of Eruptions,” Far Eastern Economic Review, July 2009. Bài nầy có thể tải về từ: www.viet-studies.info/kinhte/china_period_of_eruption.htm. [34] Perry Link và Joshua Kurlantzick, “China's Modern Authoritarianism: The Communist Party's ultimate goal is to stay in power, not to liberalize,” The Wall Street Journal, May 25, 2009. Bài nầy có thể tải về từ: online.wsj.com/article/SB124319304482150525.html#printMode. Nguyên văn tiếng Anh: “Even more worryingly, the government is translating its success at home into success abroad, where the "China model" of authoritarian capitalism is gaining currency. Governments from Syria to Vietnam have sung its praises.” [35] Những tài liệu về chính sách của Mỹ gần đây cũng như những bài vở về hoạt động của Trung Quốc tại Việt Nam và khu vực trong những tháng qua có thể tải về từ trạm: www.viet-studies.info/kinhte/kinhte.htm. [36] Một ví dụ là bài phỏng vấn Radio France Internationale (RFI) tại đây: www.rfi.fr/actuvi/articles/115/article_4360.asp. www.tapchithoidai.org/ThoiDai16/200916_NgoVinhLong_TQ.htm
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 4:58:50 GMT 9
Ổn định và phát triển:
Trí thức Trung Quốc đang nghĩ gì?
Trần Hữu Dũng Như Việt Nam, Trung Quốc hiện phải đương đầu với nhiều thử thách kinh tế, xã hội, môi trường, vv.. Kinh nghiệm của họ đặc biệt hữu ích vì, cũng như Việt Nam, họ là một nước “xã hội chủ nghĩa” (trên danh nghĩa) và chỉ thực sự bắt đầu cải cách khoảng ba mươi năm nay (trước Việt Nam độ 10 năm). Đó là chưa nói đến một lý do quan tâm thiết thực nhất cho chúng ta: Trung Quốc là một quốc gia cận kề, ảnh hưởng lớn lao đến Việt Nam về văn hóa, về chính sách (và nhiều phương diện khác nữa!). Hiển nhiên, đã có vô số văn kiện, báo cáo của nhà nước Trung Quốc về các kinh nghiệm này, và cũng đã có rất nhiều nghiên cứu của các tác giả Tây phương về Trung Quốc, song, đối với những người muốn nhìn vấn đề từ nhiều phía thì vẫn còn một điều muốn biết: thế còn những trí thức Trung Quốc ngoài chính quyền, tương đối độc lập, thì họ nghĩ sao? Bài này giới thiệu một số nhận định và phân tích của các học giả Trung Quốc về những vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường... của nước họ. (Những ý kiến về chính trị, ngoại giao và quốc phòng sẽ được dành cho một bài khác.) Đây là những công trình được thấy trên các ấn phẩm được phép xuất bản ở Trung Quốc, nhưng không phải là trong các văn kiện chính thức của Đảng và chính phủ nước này. Theo nhiều nhà bình luận thì tác giả của những ý kiến này có thể được xếp (một cách đại thể) thành hai “phe”: một phe là nhóm trí thức thường được gọi là Tân Tả, và phe kia là nhóm thường được mệnh danh “phóng khoáng” (đôi khi cũng được gọi là Tân Hữu). Song, phải thêm: giữa hai phe này có những người... không thuộc phe nào. Đó cũng là cấu trúc của bài viết này.[1] I. Phái Tân Tả Nhớ lại, ngay từ những năm 1990, sau hơn một thập kỷ theo đuổi và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, chính sách cải cách theo hướng thị trường của Trung Quốc đã bị nhiều trí thức nước này chỉ trích. Tuy chuyên về nhiều ngành khác nhau (sử học, kinh tế, xã hội, môi trường, vv.. ) và theo nhiều tiếp cận khác nhau, những trí thức này có chung một số quan tâm về đất nước họ. Một là, họ bất bình về tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng và sự suy đồi đạo đức (theo họ) của Trung Quốc. Dù không có ý hô hào Trung Quốc trở lại như trước thời kỳ cải cách, họ nhớ lại thời kỳ này với nhiều luyến tiếc. Hai là, đa số tin rằng hầu hết những hụt hẫng sâu đậm của Trung Quốc ngày nay là bắt nguồn từ những lỗ hổng của tư bản chủ nghĩa (chính xác hơn, cơ chế thị trường) và tham nhũng. Ba là, phần lớn nhóm này là những học giả, những trí thức được đào tạo bài bản, tốt nghiệp từ các đại học hàng đầu và, đáng chú ý hơn, đã sống nhiều năm, thậm chí khá thành danh, ở Mỹ và Anh. Họ quen thuộc với tư tưởng Tây phương hiện đại (với các tên tuổi như Michel Foucault, Edward Said, Paul Baran, Immanuel Wallerstein... , những lý thuyết như “tân Mác”, “hậu hiện đại”, “hậu thực dân”), nhưng họ không sùng bái các trào lưu thời thượng này như các thế hệ trước. Họ cho rằng nhiều quan điểm về tính tân thời, về phát triển..., phát xuất từ Tây phương, là không thích hợp với Trung Quốc. Vài tác giả còn đi xa hơn nữa, cho rằng cần “vượt qua” (không nhất thiết là “dung hợp”) những phạm trù tương phản ̶ giữa xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, giữa “cái tân thời” và “cái cổ truyền”, giữa Trung Quốc và phương Tây. Họ muốn vạch một con đường mới trong suy nghĩ về Trung Quốc. Những nhân vật chủ chốt của nhóm này là nhà xã hội học Uông Huy và các nhà kinh tế Thôi Chi Nguyên, Vương Thiệu Quang, Hồ An Cương, và nhà sử học Tiễn Lí Quần. Họ thường được biết qua danh hiệu “Tân Tả”. Có lẽ nhóm Tân Tả đã không để lại dấu ấn sâu đậm trong sinh họat trí thức Trung Quốc như đã thấy – thậm chí đã không là một “nhóm” ̶ nếu không có Độc Thư, nguyệt san được nhà ngôn ngữ Trần Nguyên sáng lập từ năm 1979. Nguyệt san này lúc đầu chỉ là một ấn phẩm hàn lâm, ít người đọc. Tuy nhiên, từ khi Uông Huy và Hoàng Bình cùng đuợc bổ nhiệm đồng tổng biên tập năm 1996, cho đến khi Uông và Hoàng bị miễn nhiệm năm 2007, thì Độc Thư trở thành diễn đàn trụ cột của luồng tư tưởng ngoài dòng ý thức hệ chính thống đương thời. Trên tạp chí này người ta có thể đọc những phân tích về nhiều vấn đề hệ trọng mà, cho đến nay, rất hiếm thấy trên báo chí “chính thống” Trung Quốc. Chẳng hạn, đó là những phân tích về khủng hoảng nông thôn ở Trung Quốc (nghiêng về giải thích cho rằng khủng hoảng này là hậu quả trực tiếp của chính sách “thân tư bản chủ nghĩa” của Bắc Kinh). Độc Thư cũng đưa ra ánh sáng những yếu kém của hệ thống y tế, giáo dục, và sự xuống cấp trầm trọng của môi trường ở nước này. Tạp chí này cũng là diễn đàn cho những tranh luận sôi nổi về nước Nga hậu-Xô viết, và các biến chuyển chính trị ở châu Á.[2] Đáng để ý là danh hiệu “Tân Tả” chẳng những không do những người trong nhóm này tự gọi, họ cũng hơi “dị ứng” với danh hiệu ấy – ít ra là lúc đầu.[3] Uông Huy giải thích: Thứ nhất, tên “Tân Tả” là do những người thiếu thiện cảm với họ (cụ thể là phe thường được gọi là “phóng khoáng” (liberal)) gán cho họ, với ngụ ý rằng họ (“Tân Tả”) chẳng qua chỉ là hậu duệ của phe “cựu tả” thời Mao, và mơ ước khôi phục một nước Trung Quốc như dưới thời Mao.[4] Thứ hai, danh xưng này đã được dùng ở Tây phương trong một truyền thống tư tưởng hoàn toàn khác. Theo Uông Huy, nhóm của ông không dính líu gì đến những người thường được gọi là Tân Tả ở phương Tây,[5] và ông thích được gọi là “trí thức phê phán” (critical intellectual) hơn.[6] Dù được xem là cùng “nhóm”, một đặc điểm (mà có người cho là nhược điểm) của Tân Tả là họ không có chung một hệ tư tưởng quy mô, chặt chẽ, và nhất quán. Nói theo ngôn ngữ Tây phương hiện đại, họ không có chung một “lý thuyết phê phán” (critical theory) – tức là một cách nhận định và phê bình trên nền tảng khoa học xã hội và nhân văn. Mỗi “thành viên” thường chỉ chuyên về một vấn đề cục bộ, có người (như Thôi Chi Nguyên) thì quan tâm đến vấn đề sở hữu (và liên hệ là vấn đề quản lý xí nghiệp), có người (như Vương Thiệu Quang, Hồ An Cương) thì tập trung phân tích chính sách thu chi (fiscal policy) của chính phủ, còn đối với Tiễn Lí Quần thì vấn đề giáo dục là trọng tâm. Nếu phái Tân Tả có một mẫu số chung thì đó là sự quan tâm đặc biệt, gần như là ám ảnh, đến công bằng xã hội, đến môi trường. Một điều nữa: nói chung, họ không phải là thành phần “chống đối” (muốn lật đổ) nhà nước Trung Quốc, hoặc chủ trương “thay đổi chế độ”. Thực vậy, ảnh hưởng của phe Tân Tả đã có phần lên cao sau khi Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo lên cầm quyền. 1. Uông Huy: “hiện đại tính” và “Trung Quốc tính” Uông Huy (sinh năm 1959, người gốc Dương Châu, tỉnh Giang Tô), được Hàn lâm viện Khoa học Xã Hội Trung Quốc cấp tiến sĩ năm 1988, hiện là giáo sư văn học Trung Quốc ở Đại học Thanh Hoa (Bắc Kinh). Là một nhà xã hội học[7] có hạng (tác giả bộ sách bốn cuốn “Sự hưng khởi của tư tưởng Trung Quốc hiện đại”,[8] được đánh giá cao) Uông Huy gây dấu ấn sâu sắc cho nhóm Tân Tả từ khi ông ta, cùng với Hoàng Bình[9], được bổ nhiệm làm đồng Tổng biên tập nguyệt san Độc Thư vào năm 1996. như đã nói ở trên Trước biến cố Thiên An Môn năm 1989, cũng như nhiều trí thức trẻ lúc ấy, Uông Huy cực lực ủng hộ chính sách mở cửa của Đặng Tiểu Bình, rất mực tin tưởng ở “kinh tế thị trường”. Sau biến cố Thiên An Môn, vì là một người tham gia (dù lúc ấy ông không còn là sinh viên) Uông Huy bị “lưu xứ” đến miền sơn dã ở Tần Lĩnh, Thiên An (một vùng thuộc hàng nghèo nhất Trung Quốc). Sống với nông dân và người lao động, Uông Huy có những nhận định mới về xã hội Trung Quốc.[10] Nói như Paul Baran, một kinh tế gia mác xít Mỹ mà Uông Huy chịu nhiều ảnh hưởng: Từ một người “trí thức cấp tiến”, Uông đã trở thành một “cấp tiến trí thức”. Theo Uông Huy thì từ rất sớm (khoảng giữa thập niên 1980) đã có thể thấy là những cải cách theo hướng thị trường đã làm giảm đi rất nhiều những lợi ích của xã hội chủ nghĩa mà Trung Quốc đã gặt hái được từ khi giải phóng năm 1949. Do đó, theo Uông, mục tiêu cuộc nổi dậy của một bộ phận sinh viên và lao động trong biến cố Thiên An Môn không phải là phản kháng chế độ chính trị lúc ấy, nhưng nhắm chống đối một thể chế không còn tồn tại, thể chế đã mất đi vì chính tiến trình chuyển đổi của Trung Quốc.[11] Nói cách khác, Uông Huy cho rằng khả năng thay đổi của nhà nước đã không theo kịp kỳ vọng thay đổi của quần chúng. Oái oăm thay, sự đàn áp (mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc cho là) cần thiết để giải tán những người biểu tình đã trở thành một công cụ để áp đặt cải cách thị trường và, qua đó, mở cửa xã hội Trung Quốc. Uông Huy nghi ngờ sự công bằng của một nền kinh tế thị trường hoàn toàn thả lỏng. Theo ông, đối với hầu hết dân Trung Quốc thì trách nhiệm của nhà nước hiển nhiên là lo cho dân, và mọi người trong xã hội phải hợp tác, đùm bọc nhau. Uông Huy cho là nhà nước phải ngăn ngừa bất bình đẳng trong xã hội. Ông khẳng định “(sự ngăn ngừa ấy) không phải (chỉ) là một lý tưởng của xã hội chủ nghĩa” bởi vì, “ngay trong thời quân chủ, những người cai trị Trung Quốc bao giờ cũng phải giữ một sự quân bình nhất định giữa người giàu và người nghèo, qua hệ thống thuế má và chẩn tế”. Quan trọng hơn, theo Uông Huy, chưa chắc là thị trường sẽ tất yếu đưa đến dân chủ. Để dẫn chứng, Uông Huy bảo cứ nhìn vào liên minh giữa các thành phần “ưu tú” (elites) – tức là phi dân chủ – mà tiến trình tư nhân hóa đã tạo ra. Uông Huy cho rằng nhà nước chỉ thật sự thay đổi khi nó bị áp lực mạnh mẽ của xã hội, đặc biệt là từ công nhân thợ thuyền và nông dân. Theo Uông Huy, đa số học giả (Tây phương lẫn Trung Quốc) đã lầm khi xem cải cách như là một cách “tạ lỗi quá khứ” (“apologia for the past”). Xã hội chủ nghĩa có thể không còn là thời thượng, Uông Huy nhấn mạnh, song chừng nào mà thế giới (và nhất là Trung Quốc) chưa thể loại trừ, ngăn chặn, những hậu quả bất công của thị trường tự do – những bất công tiềm ẩn trong tư bản toàn cầu ̶ thì xã hội chủ nghĩa vẫn còn lý do để tồn tại. Theo Uông Huy, Trung Quốc ngày nay bị kẹp giữa hai thái cực: một bên là thứ xã hội chủ nghĩa nhầm đường (misguided socialism), bên kia là thứ chủ nghĩa tư bản bồ bịch (crony capitalism). Trung Quốc, do đó, “lãnh đủ” những gì tồi tệ nhất của hai chế độ này. Uông Huy ủng hộ cải cách kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên, theo ông, phát triển của Trung Quốc phải bình đẳng hơn, cân đối hơn. Uông Huy nhấn mạnh đến con đường phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa đặc thù của Trung Quốc và cho rằng tư tưởng của Mao đã xuất hiện như một lựa chọn khác (alternative) cho “tính hiện đại” của tư bản chủ nghĩa. Mục tiêu của chủ nghĩa Mao, theo Uông, là tránh những mặt khắc nghiệt, những liên hệ có tính bóc lột ẩn chứa trong chủ nghĩa tư bản của phương Tây. Dựa vào những lập luận khá giống lập luận của Immanuel Wallerstein (một nhà kinh tế thiên tả nổi tiếng của Mỹ), Uông Huy chỉ trích chủ nghĩa tư bản quốc tế, phê phán các quan hệ quyền lực làm chi phối những tiến trình kinh tế toàn cầu. Ông cho rằng toàn cầu hóa cốt yếu chỉ là sự bành trướng và triển khai của các công ty đa quốc gia, cộng với sự cấu kết giữa các công ty này với những nhóm lợi ích tại địa phương và quốc gia liên hệ. Toàn cầu hóa, như thế, chẳng những sẽ ngấm ngầm lũng đoạn dân chủ (về mặt chính trị) mà còn đe dọa tự do thị trường (về mặt kinh tế). Uông Huy cũng thường viện dẫn những nghiên cứu của Fernand Braudel (một sử gia người Pháp nổi tiếng với cách giải thích lịch sử căn cứ trên các yếu tố kinh tế và xã hội) về thế giới trước chủ nghĩa tư bản, và thời kỳ sơ khai của chủ nghĩa này. Tuy không phải là nhà kinh tế nhưng Uông Huy rất tâm đắc với (những nhà kinh tế danh tiếng) John Stuart Mill, Joseph Stiglitz, Amartya Sen và George Akerlof. Đặc biệt Uông Huy bị quyến rũ bởi lý thuyết của Akerlof (và Paul Romer) trong bài “Cướp bóc: Kinh tế xã hội đen dùng phá sản để thủ lợi” . Trong bài ấy, Akerlof và Romer báo cáo một hiện tượng thường xảy ra ở các doanh nghiệp (lớn) nhà nước sau khi được cổ phần hóa. Những doanh nghiệp này được các ngân hàng nhà nước ưu đãi, mà những ngân hàng ấy (vì là của nhà nuớc!) lại rất biếng lười, chểnh mảng, trong việc đòi nợ... Hậu quả là, quản lý các doanh nghiệp (nhà nước, sau khi cổ phần hóa) có xu hướng vay thả cửa cho mục đích cá nhân của họ mà không hề có ý định trả nợ! Khi doanh nghiệp phá sản thì các nhà quản lý này chuồn mất, hoặc trơ mặt, phủi tay, để lao động ở doanh nghiệp ấy và những cổ đông khác... lãnh đủ. Theo Uông Huy, phát hiện này của Akerlof và Romer chứng minh sự không hoàn toàn đúng của ý kiến cho rằng tư hữu có lợi vì nó khích lệ sản xuất. Uông Huy chê những người tán tụng tư hữu vì nó khuyến khích lao động là chỉ thấy một nửa vấn đề. Tuy nhiên, theo người viết bài này (THD), Uông Huy xé chuyện bé ra to. Tư hữu có thể bị phê phán trên nhiều mặt, không nhất thiết phải đơn cử Akerlof và Romer.[12] Ngược lại, ít có nhà kinh tế nghiêm túc nào lại ngây thơ tin rằng tư hữu là liều thuốc vạn năng, không có những hiệu ứng xấu. Tuy vậy, Uông Huy kết luận (khá đúng, theo ý người viết bài này) rằng, khi thiết lập chính sách tư hữu hóa, nhà nước không nên chỉ chú ý đơn thuần đến cơ cấu sở hữu mà còn phải chú trọng đến những khích lệ về tài chính (financial incentives) và các biện pháp điều tiết. 2. Thôi Chi Nguyên và các vấn đề về xí nghiệp Một nhân vật chủ chốt khác (và bạn thân của Uông Huy) trong nhóm Tân Tả là nhà kinh tế Thôi Chi Nguyên (Cui Zhiyuan). Ông sinh năm 1963 tại Tứ Xuyên trong một gia đình trí thức (cha là một kỹ sư nguyên tử). Thôi Chi Nguyên học ở Hồ Nam, rồi sang Mỹ du học vào năm 1987. Sau khi lấy Ph.D. về chính trị học ở Đại học Chicago, ông được bổ nhiệm làm giáo sư ở Viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Năm 2004 Thôi Chi Nguyên trở về Trung Quốc để phụng dưỡng cha mẹ già vì ông là con một. Hiện nay ông giảng dạy môn chính sách công và quản trị (public policy and management) ở Đại học Thanh Hoa (Bắc Kinh). Điều đáng ngạc nhiên là, dù được đào tạo trong “sào huyệt” kinh tế học tân cổ điển của Đại học Chicago và MIT, Thôi Chi Nguyên lại là một trong những học giả Trung Quốc mạnh dạn nhất, năng nổ nhất bày tỏ hoài nghi về tính thích hợp (relevance) của chủ nghĩa tự do kinh tế, và của kinh tế học tân cổ điển nói chung, cho Trung Quốc. Ông cho rằng xã hội chủ nghĩa kiểu Mao, xuất phát từ hoàn cảnh đặc thù của Trung Quốc, là một mô hình phát triển thích hợp cho Trung Quốc hơn bất cứ mô hình nào của Tây phương. Thôi Chi Nguyên là người tích cực biện hộ cho những chính sách “Mao-ít” như Đại Nhảy Vọt và Cách Mạng Văn Hóa. Theo ông, những thành tựu của Trung Quốc trong thập niên 1980, cũng như nền tảng tự trị địa phương và các xí nghiệp hương trấn (được xem là đã tạo những điều kiện thuận lợi cho cuộc cải cách sau này), đều là kết quả trực tiếp của chế độ công xã và của chính sách Đại Nhảy Vọt. Còn cuộc Cách Mạng Văn Hóa, mặc dù có nhiều mặt thái quá, đã được phát động như một thử nghiệm cần thiết, và có chủ ý tốt, để chống lại những người có quyền lực trong một nền hành chính quan liêu (Thôi Chi Nguyên gọi là sự “khống chế hành chính”) luôn luôn là một tai ương trong suốt chiều dài lịch sử. Có lẽ “lỗi lầm” (gần như lập dị!) lớn nhất của Thôi Chi Nguyên là ông bị “ám ảnh” bởi cái gọi là “thí nghiệm Nam Nhai”. Nam Nhai là một thị trấn khá nhỏ ở Hà Nam, xưa chỉ là một thôn trại bình thường. Tuy nhiên, từ năm 1979 thì thị trấn này có những cải cách đặc biệt, cốt yếu là kết hợp chủ nghĩa tập thể (collectivism) và kinh tế thị trường để xây một loạt (26) nhà máy, và hiện thời là một trong những nơi sản xuất ... mì ăn liền lớn nhất Trung Quốc. Nam Nhai ngày nay có khoảng 13.000 dân, lượng xe hơi có thể được đếm trên đầu ngón tay. Ngoài xe đạp, phương tiện giao thông công cộng chủ yếu là xe buýt (với khẩu hiệu “Tình nguyện” và “Hi sinh” được sơn bằng chữ đỏ bên hông xe!). Không có thẩm mỹ viện, rạp hát, tiệm karaoke hay quán cà phê Internet nào ở đây. Đập vào mắt du khách khi đến Nam Nhai không phải là các panô quảng cáo mà là chân dung của Marx, Engels, Lenin, Stalin... Ảnh và tượng Mao Trạch Đông có mặt khắp nơi, từ công viên có lính gác đến trường học, công sở, bệnh viện... Tiếng loa phát thanh các bài hát ca ngợi chế độ và chủ tịch suốt ngày vang khắp đường phố. Thu nhập trung bình của người dân Nam Nhai là khoảng 80-250 nhân dân tệ/tháng (tương đương 9,66-30,2 USD). Mọi khoản tiền bệnh viện, tiền nhà, học phí từ mẫu giáo đến đại học đều được miễn, các nhu yếu phẩm (từ điện, nước, khí đốt… đến dầu ăn, trứng, thịt, sữa, bia…) đều được bao cấp. Công nhân sống trong các ký túc xá, tám người một phòng. Hàng ngày cứ mỗi sáng và đầu giờ trưa đến nhà máy họ phải xếp hàng và hát bài ca tụng Mao Trạch Đông trước khi làm việc. Tối về phải đi học các lớp chính trị. Trong khi đó, các quan chức và các nhà đầu tư nước ngoài vẫn sống trong các biệt thự sang trọng. Tuy nhiên người dân ở đây rất hiền hòa và hầu như chẳng mấy ai than phiền. Cuộc sống nơi đây vẫn y hệt như 20, 30 năm trước. Tuy rằng Nam Nhai có thể được xem là thành công theo cách mà người dân ở đó muốn, song ngay như bạn bè Tân Tả của Thôi Chi Nguyên cũng xem trường hợp này là quá cá biệt và ít ai cho rằng đó là một mô hình phát triển cho toàn Trung Quốc, như Thôi Chi Nguyên thường cổ vũ. Dù sao, từ những phân tích của ông, Thôi Chi Nguyên hô hào xã hội hóa vốn và cải cách quyền tài sản để người lao động có tiếng nói trong các công ty mà họ đang làm. Ông cũng chủ trương lợi nhuận của các xí nghiệp quốc doanh phải được phân phát thẳng cho dân chúng thay vì nộp cho nhà nước hoặc những người đã giàu có. Một nhà kinh tế khác là Tả Đại Bồi (Zuo Dapei) cũng có nhiều phân tích về chính sách tư hữu hóa xí nghiệp của Trung Quốc. [13] Trong khối Tân Tả thì nhóm kinh tế gia như Thôi Chi Nguyên tương đối “mạnh miệng” về mặt chính trị hơn những người khác. (Trong thời kỳ đại hội Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 2007 Thôi Chi Nguyên là người hay công khai bình luận trên các phương tiện truyền thông, kề cả báo chí nước ngoài, về các diễn biến ở đại hội.) Chính Tả Đại Bồi đã cùng với Hàn Đức Cường (Han Deqiang) và Dương Phàm (Yang Fan) viết một kháng thư phản đối những sơ hở trong tiến trình tư hữu hóa (sẽ nói thêm dưới đây, đoạn nói về Hàn Đức Cường). Hay đi chung với Thôi Chi Nguyên là Lang Hàm Bình (Lang Xianping), cũng được đào tạo ở Mỹ. Lang Hàm Bình thường viết cho báo ở Hồng Công, chỉ trích kịch liệt các tập đoàn doanh thương của Trung Quốc nên có lần bị kiện. 3. Vương Thiệu Quang và Hồ An Cương: Nhà nước lớn hay nhỏ? Hồ An Cương (Hu Angang) thường được gọi là “đứa bé ngỗ nghịch” (enfant terrible) của nhóm Tân Tả ̶ tương đối trẻ, rất giỏi, nhưng lý luận “không giống ai”, thậm chí “hơi ngông”. Vào những năm 80, 90 của thế kỷ trước, khi mà hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng “nhà nước lớn thì xấu, nhỏ thì tốt” thì Hồ An Cương và Vương Thiệu Quang (Wang Shaoguang), bạn tâm giao từ hồi ở Đại học Yale, lại có ý kiến trái ngược. Trong một báo cáo gây nhiều ảnh hưởng vào đầu thập niên 1990,[14] Hồ và Vương khẳng định rằng quyền lực trong tay nhà nước Trung Quốc hiện nay là một thứ quyền lực sai. Đó là thứ quyền lực chuyên chế (despotic) thay vì cai trị (governing). Đúng là nhà nước này rất “mạnh” trong việc kiềm chế quyền tự do cá nhân của dân chúng, nhưng về phương diện quản lý quốc gia thì họ lại thuộc vào hạng bạc nhược nhất thế giới! Hai ông này ghi nhận sự suy giảm rõ rệt trong khả năng chính trị và quyền lực tài chính của chính phủ trung ương Trung Quốc. Sự suy giảm này là hậu quả của một sự thoái hóa (devolution): quyền lực và quyền kiểm soát ngân sách và tài nguyên thay vì đi theo tiến trình từ địa phương đến trung ương thì ở Trung Quốc lại đi ngược lại, từ trung ương phân tán xuống địa phương. Dùng các chỉ số gọi là “khả năng tách chiết” (extractive capabilities) dựa vào thuế má, Vương và Hồ kết luận rằng những cải cách thu chi (fiscal reforms) bắt đầu vào những năm 1980 đã làm giảm đi rất nhiều số tiền thuế mà nhà nước trung ương đáng lẽ thu được. Họ dẫn chứng: số thu cho ngân sách của chính phủ trung ương, tính theo phần trăm của GDP, đã liên tục giảm từ 31,2% năm 1978 xuống còn 14,2% năm 1992. Vương và Hồ báo động rằng Bắc Kinh đang đứng trước nguy cơ “chết đói tài chính” (fiscal starvation). Trong lúc ngân sách của chính phủ trung ương giảm như thế thì số thu của các địa phương lại ngày càng tăng, tạo thêm cơ hội cho các “lãnh chúa đỏ” dùng những lệ phí này một cách tùy tiện để vừa tự làm giàu, vừa tăng ngân quỹ địa phương và củng cố quyền thế của họ. Đến cuối thập niên 1980 thì quyền lực của các “lãnh chúa đỏ” này không thua gì chính quyền trung ương. Kết cục là, khả năng khai thác nguồn lực quốc gia của nhà nước trung ương ngày càng giảm, trong lúc những “của cải ẩn” (hidden wealth) thì bị các chính quyền địa phương và xí nghiệp quốc doanh tom góp. Theo ước tính của Hồ An Cương thì tổng cộng lãng phí do chạy chọt, đút lót (rent-seeking activities), trốn thuế, lệ phí địa phương tùy tiện và trộm cắp công khai của quan chức, hàng năm lên đến 15% GDP của Trung Quốc. Ông ta cho rằng chính các quan chức địa phương, không sợ cấp dưới (dân) mà cũng chẳng ngán cấp trên (Bắc Kinh), là đầu dây mối nhợ của những tham ô lãng phí này. Do dó, theo Hồ An Cương, Trung Quốc phải tập trung quyền thu thuế để tránh sự tràn lan của những lệ phí tùy tiện và để xây dựng những cơ chế ở trung ương hòng đối phó hiệu quả với tham nhũng. Phân tích của Vương Thiệu Quang và Hồ An Cương đưa phe Tân Tả đến kết luận: Hầu như tất cả khó khăn cho cải cách của Trung Quốc (tham nhũng, kinh tế quá nóng, đầu tư xấu, nợ xấu, tiêu thụ trong nước quá thấp, và bất bình đẳng ngày càng tăng) đều là hậu quả của sự quá bạc nhược của chính phủ trung ương chứ chẳng phải vì chính phủ này quá “mạnh” như nhiều người lầm tưởng. 4. Hồ An Cương và “Phát triển mèo xanh” Nhóm Tân Tả còn một đặc điểm nữa, đó là sự quan tâm đến môi trường. Sự quan tâm này xuất phát từ (a) lo lắng cho sự bền vững của phát triển, (b) bất ổn chính trị. (1) Phát triển bền vững. Ít người quên được câu nói nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình “Mèo trắng hay mèo đen không phải là điều quan trọng, cái quan trọng là mèo bắt được chuột” (Bạch mao hắc mao thuyết). Hồ An Cương cho rằng chính vì tư duy “phát triển mèo đen” này mà môi trường Trung Quốc bị hủy hoại. Theo Hồ An Cương và những người như ông, Trung Quốc không thể theo con đường mà Tây phương đã đi: Phát triển cái đã, còn việc “tẩy uế” môi trường thì sẽ tính sau. Lộ trình này không khả thi cho Trung Quốc vì tốc độ và mức độ phát triển chưa từng có của Trung Quốc sẽ khiến việc “dọn dẹp” môi trường, nếu đợi phát triển xong mới bắt tay, sẽ là quá trễ. Hồ An Cương đưa ra khái niệm “phát triển mèo xanh” – một sự phát triển “thân thiện” với môi trường – để phân biệt với “phát triển mèo đen, mèo trắng” của Đặng Tiểu Bình mà Trung Quốc đang theo, một cách phát triển tuy thực dụng, không giáo điều, nhưng tàn phá môi trường. Hồ An Cương dùng một phiếm dụ: Trung Quốc ngày nay quả là phát triển rất nhanh, nhưng giống như một người vừa nhảy ra từ một chiếc phi cơ đang bay, ban đầu hí hửng tưởng là mình biết bay... đến khi rơi đụng đất thì quá muộn! (Hồ kể cho Thomas Friedman – nhà bình luận của tờ New York Times nổi tiếng với ý niệm “thế giới phẳng” ̶ nghe phiếm dụ này, Friedman rất thích và nhắc lại trong nhiều bài báo). Hồ An Cương rất may là được sự ủng hộ của Phan Nhạc (Pan Yue), phụ trách môi trường cho Trung Quốc.[15] (Phan Nhạc cũng là con rể của Đề Đốc Lưu Hoa Thanh (Liu Huaqing), chỉ huy hải quân Trung Quốc những năm 1982-1988, người được xem là có công hiện đại hóa hải quân này, từng là ủy viên Bộ Chính Trị.) (2) Thật ra, quan tâm về môi trường của lãnh đạo Trung Quốc (thúc đẩy bởi nhóm Tân Tả) cũng có lý do chính trị trong đó: họ sợ rằng hủy hoại môi trường sẽ dẫn đến bất ổn xã hội. Theo Chu Sanh Hiền (Zhou Shangxian), viên chức cao nhất phụ trách môi trưởng Trung Quốc, cho biết thì chỉ trong năm 2005 đã có đến 51.000 vụ phản kháng của dân chúng liên quan đến môi trường, trong đó nhiều vụ thu hút hàng vạn người. Nhưng điều này lại rơi vào cái nhược điểm khác mà Hồ An Cương và Vương Thiệu Quang đã vạch ra: sự bạc nhược của chính quyển trung ương, bởi vì các địa phương không bao giờ hăng hái chống hủy hoại môi trường bằng trung ương. Địa phương nào cũng muốn vùng của mình phát triển,[16] bất chấp hậu quả cho nơi khác. Thực vậy, chính vì sự phản đối của điạ phương mà ý định tính toán chỉ số “GDP xanh” của Phan Nhạc – một cách để báo động sự suy thoái của môi trường – rốt cuộc chẳng đi đến đâu cả! 5. Tiễn Lí Quần và vấn đề giáo dục Tiễn Lí Quần (Qian Liqun) là một trí thức Tân Tả quan tâm đặc biệt đến những vấn đề giáo dục và văn hóa. Thần tượng của Tiễn Lí Quần là nhà giáo dục nổi tiếng Thái Nguyên Bồi (Cai Yuanpei 1868-1940), một người có uy tín lớn trong Đảng Cộng Sản Trung Quốc vì là sư phụ của hai sáng lập viên Đảng này là Trần Độc Tú và Lý Đại Chiêu. Tiễn Lí Quần nhận xét rằng từ khi Trung Quốc cải cách thì trong các đại học của nước này tinh thần độc lập quả đã nở rộ. Tuy nhiên, các đại học cũng bị áp lực vô cùng nặng nề để cung cấp những “tài năng thực tế” cho sự phát triển kinh tế của Trung Quốc. Áp lực này đã khiến đại học Trung Quốc đi ngược lại với những lý tưởng khai sáng của Thái Nguyên Bồi là muốn đại học (nhất là các đại học tinh hoa như Đại học Bắc Kinh) chỉ có nhiệm vụ đào tạo những nhà trí thức độc lập đứng ngoài “cơ chế nhà nước, những người luôn luôn có một tinh thần phán đoán, và luôn luôn ý thức về những ưu và khuyết điểm về tính độc lập của họ và hậu quả của sự độc lập ấy”. Ngày nay, đại học Trung Quốc lại phải loay hoay trực diện với câu hỏi mà ngày xưa Thái Nguyên Bồi đã từng bức xúc: Đại học ấy phải như thế nào? Tiễn Lí Quần kêu gọi đại học Trung Quốc trở lại với mục đích rèn luyện những tài năng có tư duy phán đoán độc lập. Đại học phải lưu tâm đến lợi ích của quốc gia và nhân loại nói chung (chứ không phải của cá nhân). Đại học phải là nơi đào tạo những nhà tư tưởng, những nhà văn .... Đó phải là nơi khám phá những tư tưởng mới, những tiếp cận mới không chỉ cho Trung Quốc mà còn cho cả nhân loại. Tiễn Lí Quần cũng than phiền sự lan tràn của chủ nghĩa thương mại và sự phai lạt ký ức về lịch sử. Cũng nên kể thêm một người tuy không thường được xem là thuộc nhóm Tân Tả, nhưng là một nhà báo có ảnh hưởng đặc biệt, đó là Hà Thanh Liên (He Qinglian) tác giả cuốn Cạm bẫy của hiện đại hóa (“Hiện đại hóa đích hãm tịnh”, The pitfalls of modernization).[17]
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 5:00:40 GMT 9
II. Phe Tân Hữu
Tuy là phe Tân Tả có phần “phát” lên từ khi Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo lên nắm quyền, họ chưa phải là “một mình một chợ” trong sinh họat văn hóa Trung Quốc. Chống lại họ là một nhóm có thể được gọi là “Tân Hữu” (cũng được gọi là “phóng khoáng” (liberal) hoặc “tân phóng khoáng” (neoliberal)).[18] Hai phe này đã đôi co với nhau về nhiều vấn đề như: (1) cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997, (2) những hậu quả của trị trường hóa và tư hữu hóa, nhất là (a) nạn tham ô, (b) bất bình đẳng thu nhập, và (c) hủy hoại môi trường. Cũng nên để ý rằng, như phe Tân Tả, phe Tân Hữu cũng có nhiều nhánh. Cụ thể, phía Hữu cũng có những người biện hộ cho công bình xã hội, cho trách nhiệm đạo đức trong phát triển kinh tế.
1. Trương Duy Nghênh
Người nổi tiếng nhất trong phe Tân Hữu là Trương Duy Nghênh (Zhang Weiying), hiện là giáo sư kinh tế ở Đại học Bắc Kinh. Trương Duy Nghênh lấy PhD ở Đại học Oxford dưới sự hướng dẫn của nhà kinh tế James Mirrlees. Trương cho rằng không gì quan trọng bằng tự do hóa thị trường, và sẵn sàng “chung sống” với một chế độ chính trị chuyên chế nếu chế độ này chủ trương chính sách ấy.
(1) Muốn hiểu Trương Duy Nghênh thì nên biết về thầy của ông ta, tức James Mirrlees, người được giải Nobel kinh tế năm 1996 (chia giải với William Vickrey). Đóng góp lớn của Mirrlees là về lý thuyết gọi là “hệ thống thuế thu nhập tối hảo” (optimal income taxation), trong đó ông “giải” bài toán khó khăn là làm thế nào để khắc phục sự bất đối xứng thông tin (asymmetric information), và đồng thời khích lệ người chịu thuế đến mức tối ưu (theo một nghĩa nhất định). Nói cách khác, Mirrlees cho rằng tuy thị trường có nhiều lỗ hổng (nhất là do sự thiếu thốn thông tin) nhưng vẫn có cách, qua hệ thống thuế má, để vượt qua những lỗ hổng này mà không cần một thay đổi căn bản về thể chế.
(2) Một nhà kinh tế khác có ảnh hưởng nhiều đến Trương Duy Nghênh là Steven Cheung, “thành viên” của trường phái thị trường tự do của Đại học Chicago. Bắt chước Cheung (1969, 1973), Trương Duy Nghênh ví nền kinh tế của một quốc gia như một con thuyền đánh cá mà chủ thuyền là một nhóm ngư dân cùng ra khơi trên chiếc thuyền ấy. Tuy nhiên, nếu vì là “chủ” mà mỗi người trên thuyền đều có quyền chỉ huy chiếc thuyền thì sẽ không làm được gì cả. Muốn đánh cá hữu hiệu, những người “chủ” – “sở hữu phương tiện sản xuất” ̶ này phải thuê một thuyền trưởng để chỉ huy họ!
Nhìn qua lý thuyết của Mirrlees cũng như của Cheung, và qua chính những bài viết của Trương Duy Nghênh thì có thể thấy là những nhà kinh tế “khuynh hữu” như ông ta, tuy ngoài mặt thì hay thích nói đến sự “thu nhỏ” của nhà nước, nhưng thật sự là họ mong muốn có một nhà nước chuyên chế (theo lối của họ) để thực thi những chính sách mà họ đề nghị.[19]
Mới nhìn qua thì sự khác biệt giữa Tân Tả và Tân Hữu không phải là lớn lắm, nó chỉ ở mức độ quan trọng mà họ gán cho mỗi vấn đề, và thứ tự (thời gian) mà nhà nước nên theo trong việc thực thi. Chẳng hạn, phe Tân Hữu cũng quan tâm đến môi trường, cũng ái ngại về tình trạng thu nhập bất bình đẳng, v.v, nhưng họ cho rằng ưu tiên số một phải là làm cho nền kinh tế hiệu quả hơn, và theo họ thì điều ấy chỉ có thể thực hiện được bằng cách thu nhỏ khu vực quốc doanh. Trong mục đích chỉ trích doanh nghiệp nhà nước, họ cho rằng lao động trong các doanh nghiệp này cũng là hưởng lợi. Nói cách khác, sự bất bình đẳng mà phái Tân Tả thường nói đến (giữa lao động và quản lý) thì, dưới cái nhìn của phái Tân Hữu, không tai hại bằng sự bất bình đẳng giữa quốc doanh và tư doanh.
Song những người “Tân Hữu” không đi sâu vào nội bộ xí nghiệp và đặc biệt là không quan tâm đến sự khác biệt trong cách ứng xử của ban quản trị và công nhân trong những xí nghiệp ấy. Trái lại, nội bộ xí nghiệp là vấn đề mà phe Tân Tả đặc biệt lưu ý. Uông Huy, như đã nói ở trên, nêu nghi vấn về giả định (của kinh tế tân cổ điển mà phái Tân Hữu chấp nhận) rằng chính vì các “xí nghiệp gia” (entrepreneur) quyết liệt chạy theo lợi nhuận mà họ sẽ là đầu tàu làm cho kinh tế hiệu quả hơn.
2. Chu Học Cần
Một người nữa cũng không có thiện cảm với Tân Tả là Chu Học Cần (Zhu Xueqin), sinh năm 1952, giáo sư sử học Đại Học Thượng Hải từ năm 1992.[20] Chu Học Cần là đàn em của Cố Chuẩn (Gu Zhun, 1915-1974), nạn nhân của phong trào “phản hữu” (“phản hữu phái vận động”) do Mao phát động cuối thập niên 50, đầu 60 để thanh trừng nội bộ.[21]
Khác với Trương Duy Nghênh, Chu Học Cần để ý nhiều đến những vấn đề ngoài kinh tế. Ông kêu gọi Trung Quốc cải cách theo định hướng kinh tế thị trường nhanh hơn nữa, đồng thời lưu ý rằng cái “hụt hẫng hiện đại” không phải là ở kinh tế thị trường, nhưng ở sự bất bình đẳng của những quyền phi kinh tế.[22] Thực vậy, đối với Chu, một nền kinh tế hoàn toàn tự do sẽ đảm bảo những tự do khác (ngoài kinh tế). Một nền kinh tế tự do cũng không thể, chí ít là trong hình thức lý tưởng của nó, tách rờ khỏi dân chủ.
Nhưng Chu Học Cần có một mối lo khác, đó là những tiềm năng của kinh tế thị trường sẽ bị ngăn chặn, bị làm xơ cứng, vì một thứ văn hóa tiêu dùng hạ cấp. (Về thái độ phê phán văn hóa vật chất thô lậu của Trung Quốc ngày nay, Chu Học Cần rất tâm đầu ý hợp với Vương An Ức, tác giả tiểu thuyết Trường Hận Ca)
Nói cách khác, Chu Học Cần, cũng như đa số các trí thức “phóng khoáng” Trung Quốc ngày nay, ủng hộ cải cách theo hướng thị trường. Tuy nhiên, họ chỉ trích nhà cầm quyền ở chỗ đã không hiện đại hóa theo con đường mà, theo họ, mới thực sự là quan trọng: đó là cho dân chúng quyền mà chính pháp luật và hiến pháp nhìn nhận (legal and constitutional rights). Trái với những trí thức “Tân Tả”, Chu Học Cần cho rằng Trung Quốc cần nhiều cải cách thị trường hơn nữa, và khẳng định rằng việc ngày càng có nhiều bất bình đẳng và bất công là do sự can thiệp quá đáng của nhà nước vào cơ chế thị trường (không để cơ chế ấy được tự do) – cái “bàn chân hữu hình” (của nhà nước) đang dẫm lên “bàn tay vô hình” (của Adam Smith). Quan điểm này của Chu Học Cần đã bị Uông Huy (lãnh tụ Tân tả mà ta gặp ở trên) cực lực phản bác. Uông nói thẳng là không đồng ý với quan điểm với Chu Học Cần khi Chu cho rằng nhà nước và kinh tế thị trường phải là đối nghịch lẫn nhau.
Sự khác biệt giữa cánh Tân Tả và Tân Hữu ở Trung Quốc có thể quy về vấn đề phân phối thu nhập (hay nói rộng hơn là sự quân bình xã hội). Cánh tả thì cho rằng một yếu tính của xã hội chủ nghĩa phải là làm cho thu nhập được phân phối đồng đều hơn; cánh hữu, mặc dù đồng ý rằng đây là một vấn đề về công bằng và xã hội hòa đồng, nhưng lại không cho rằng đó là một điều kiện cần thiết của xã hội chủ nghĩa. Thực vậy, Đặng Tiểu Bình cho rằng chút ít bất bình đẳng có thể là cần thiết để kích động những sinh hoạt dẫn đến tăng trưởng kinh tế, và chính tăng trưởng kinh tế (chứ không phải giảm bớt bất bình đẳng) là điều kiện cần cho sự tồn tại của xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, xã hội chủ nghĩa có thể được hiện thực hóa ở nhiều mức độ thu nhập bình đẳng (hoặc bất bình đẳng) khác nhau, nhưng, họ nhìn nhận, sự “an hòa xã hội” (social peace) có thể đòi hỏi một mức độ bình đẳng lớn hơn là mức độ cần thiết để xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Một điều oái oăm là Chu Học Cần (và đa số các đồng minh “phóng khoáng” của ông ta) tuy đã lớn lên hoàn toàn ở Trung Quốc (không du học như các người Tân Tả), lại “mở cửa” đối với Tây phương, so với các trí thức Tân Tả mà, ta đã thấy trên đây, phần lớn là những trí thức bài bản và thành danh ở phương Tây, nhất là Mỹ. Ngược lại, những người Tân Tả lại kêu gọi nhiều hơn vào “tinh thần quốc gia” xem đó như một nội lực. Chu Học Cần xem đó chỉ là dụng tâm của nhóm này để tạo “tính chính đáng” cho chế độ.
III. Không Tân Tả, chẳng Tân Hữu
Tần Cối (Qin Hui, sinh năm 1953), giáo sư môn Sử Kinh Tế ở Đại Học Thanh Hoa, có một vị thế đặc biệt trong sinh hoạt trí thức Trung Quốc tường thuật trên đây.[23] Trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa, vì gia đình ông bị “đày” đi Quảng Tây, ông đã phải tự học, chật vật mưu sinh, bị nhiều trù ếm. Ông tin vào thị trường, xã hội chủ nghĩa, lẫn chủ nghĩa tự do. Tần Cối chỉ trích thái độ mà ông cho là “sô vanh” dân tộc của Tân Tả; ông bác bỏ luận điệu của phái Tân Tả hô hào sự kiểm soát của nhà nước, mà cũng không đồng ý với cánh Tân Hữu là phải “dung thứ” sự kiểm soát này. Ông cho rằng không thể tách rời tư hữu hóa và dân chủ hóa. Chúng phải đi đôi với nhau. Tần Cối khẳng định: tư hữu hóa mà không dân chủ hóa, hoặc ngược lại, đều sẽ gây đại họa. Ông mong muốn một nước Trung Quốc “nhiều tự do kinh tế (laissez-faire) hơn, mà cũng nhiều trợ giúp phúc lợi từ nhà nước hơn”. Ông không cho mình là người “đối kháng” mà chỉ đóng góp để hoàn thiện chính sách nhà nước mà thôi.
Trong một bài thuyết trình đọc ở Đại học Monash gần đây, Tần Cối bắt đầu như thế này:
Mao Trạch Đông hay nói: “Chỉ xã hội chủ nghĩa mới có thể cứu Trung Quốc”. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước cộng sản Đông Âu, nhiều người nói rằng “chỉ Trung Quốc mới có thể cứu vãn xã hội chủ nghĩa”. Nhưng điều này có vẻ ngày càng mỉa mai (ironic). Đã hơn một thập kỷ từ năm 1992 đã cho thấy rõ ràng rằng chỉ Trung Quốc mới có thể hủy diệt xã hội chủ nghĩa”[24]
Tần Cối có một ý kiến khá độc đáo. Đó là, thể chế hiện nay của Trung Quốc (một loại tư bản chủ nghĩa mà nhà nước là khống chế, và một hệ thống phúc lợi “nhẹ”[25]), đã giúp Trung Quốc xuất khẩu hàng rẻ, và chính điều này làm rung rinh cả những truyền thống xã hội dân chủ của… phương Tây! Theo Tần Cối, sở dĩ Trung Quốc có những thành công kinh tế kỳ diệu là vì họ đã tước mất quyền lập hội và thương lượng của nông dân và người lao động.
Ông gọi nhóm Tân Tả là Dân Túy (populists). Theo Tần Cối, chủ tâm của nhóm này là phục hồi truyền thống “cộng đồng” của Trung Quốc nhằm ngăn chận sự lan truyền của tự do chủ nghĩa kiểu Tây phương. Họ xem di sản xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc như một liều thuốc giải độc (antidote) cho căn bệnh của chủ nghĩa phóng khoáng.
Tần Cối cũng chỉ trích phe “phóng khoáng”. Theo ông, thực chất phe này chỉ là những người tôn sùng chế độ “hoạt đầu chính trị” (oligarchy), xem tài sản nhà nước như một thứ “chiến lợi phẩm” để chôm chia, theo nguyên tắc “ai nắm quyền lực thì được hưởng” (to each according to its power).
IV. Thay lời kết
Hi vọng bài viết này đã phác họa được một góc của sinh hoạt trí thức Trung Quốc khoảng hơn mươi năm gần đây. Cần nhấn mạnh, một lần nữa, rằng đây chỉ là một mảng nhỏ, và phiến diện, của các luồng tư tưởng hiện đại ở Trung Quốc. Không thể nghi ngờ là, ở quốc gia ấy, tư tưởng chính ngạch của Đảng Cộng Sản vẫn là khống chế.[26] Một mảng khác, cũng khá lớn, mà bài này không đề cập đến là những tranh luận về chính sách ngoại giao và quốc phòng của nước này (như quan niệm “hòa bình quật khởi” của Trịnh Tất Kiên, chẳng hạn). Song, qua lược thuật trên đây cũng đủ thấy là sinh hoạt trí thức Trung Quốc rất sống động (một cách làm ngạc nhiên nhiều nhà quan sát ở nước ngoài[27]), có những tranh luận khá thẳng thắn, không giáo điều, về những vấn đề mà nước này phải đương đầu.
Trong khuôn khổ “được phép”, giới trí thức Trung Quốc đã có nhiều cuộc tranh luận với chất lượng khá cao. Nhìn những trí thức “công khai” bày tỏ ý kiến này cũng thấy được một điều: đó là những ý kiến (cụ thể là trong khoảng hai thập kỷ vừa qua) mà nhà cầm quyền Trung Quốc “dung thứ”, thậm chí lắng nghe,[28] là đa chiều, đa dạng, không đơn điệu như nhiều người tưởng.
Đáng chú ý nhất có lẽ là nhóm Tân Tả. Sau những cực đoan “thị trường hóa” “tây phương hóa” trong cuộc cải cách của Trung Quốc, và sau những thành công cũng như nhiều mặt xấu của nó, rõ ràng là đã có nhiều phản ứng ngược lại mà tiêu biểu là nhóm Tân Tả. Một “ưu điểm” của nhóm này (và nhờ ưu điểm này mà họ có thể “chung sống”, thậm chí có đồng minh trong cấp lãnh đạo) là họ chỉ phê bình những chính sách cụ thể của nhà nước, chứ không (công khai) thách thức tính chính đáng (legitimacy) và uy quyền của Đảng. (Tuy nhiên, lối phê bình “cục bộ” này đôi khi cũng đụng chạm đến những vấn đề nhạy cảm, chẳng hạn như khi họ chỉ trích một số chính sách hiện nay, cho đó là một hình thức bóc lột, thậm chí cưỡng chiếm, của cải và công sức của nông dân và người lao động… và những sự bất công khác). Nhưng rõ ràng là nhóm Tân Tả đã tạo một đối trọng cần thiết trong việc nhắc nhở nhà nước những lý tưởng của xã hội chủ nghĩa... “May mắn” cho những người này (và cũng thể hiện phần nào sự “sáng suốt” của chính quyền Trung Quốc), họ không bị xem là “phản động”, mà đôi khi còn là cố vấn, là những nhà lý luận “quan phương” cho cấp lãnh đạo hiện nay... Nhưng điều này có thể nhìn ngược lại: rằng họ vẫn còn bị thấy, phần nào, phải biện hộ cho sự phát triển (đúng hơn là sự tiến hóa) của Trung Quốc trong “khung tư tưởng” Tây phương.
Nhưng nhóm Tân Hữu (và những người chỉ trích cả hai phe Tân Tả lẫn Tân Hữu) cũng có một số ý kiến đáng ghi nhận. Họ chú ý nhiều hơn đến Trung Quốc trong bối cảnh thực tế (không quá “triết lý” như phe Tân Tả) của những liên hệ kinh tế tài chính quốc tế (nếu không muốn dùng cụm từ “toàn cầu hóa” thời thượng) và là một phản biện cần thiết cho nhóm Tân Tả mà, trong lúc hăng say nhấn mạnh đến nét đặc thù của Trung Quốc, lập luận của họ (Tân Tả) đôi khi phảng phất một mùi “sô vanh” dân tộc nguy hiểm! Việc nhóm Tân Hữu nhìn nhận và sẵn sàng tranh luận về những chọn lựa khó khăn: giữa dân chủ và chuyên chế, giữa bình đẳng và phát triển ít ra cũng thể hiện một sự lương thiện trí thức.
Chúng ta cũng không thể loại trừ trường hợp lý luận của phe này hoặc phe kia được dùng như những vũ khí chính trị nội bộ (và bị vứt bỏ, thậm chí trở cờ, khi tình thế xoay chiều và những hậu thuẫn trí thức không còn cần đến).[29] Cũng phải nhấn mạnh rằng Trung Quốc vẫn còn là một quốc gia chuyên chế, không có tự do ngôn luận. Sự kiện Uông Huy và Hoàng Bình bị bãi nhiệm tổng biên tập Độc Thư (dù có kháng thư của trên 400 trí thức) khi tình hình trở nên “nhạy cảm” trước Đại hội Đảng năm 2007, và nhiều hạn chế khác (như việc thu hồi cuốn sách của Hà Thanh Liên), đã chứng tỏ (mà chắc không ai còn cho là cần thiết!) sự chuyên chế này. Tuy nhiên, sinh hoạt trí thức Trung Quốc như lược thuật trên đây vẫn cho thấy dù một xã hội có là chuyên chế, cũng còn một số “vùng trống”, lúc rộng, lúc hẹp, mà sinh hoạt trí thức chân chính có thể phát triển, và những phân tích học thuật cao vẫn có thể nẩy mầm.
Tháng 7, 2009
Trần Hữu Dũng
(Bài này là bản hoàn chỉnh báo cáo đọc tại Hội Thảo Hè (27-29/7/2008) tại Nha Trang)
Chú thích
[1] Gần đây, có ba bài về phái Tân Tả đã được dịch ra tiếng Việt: Leslie Hook (2007), Mark Leonard (2008), và Zhang Yongle (2008).
[2] Ngoài tờ Độc thư, những tạp chí thường đăng bài của nhóm Tân tả là: Biên giới (Tianya) Thế kỷ hai mươi mốt, Chiến lược và Quản Lý (Strategy and Management). Bán nguyệt san Tài kinh (Caijing), chuyên về tin xí nghiệp và kinh doanh, cũng có nhiều tiếng nói của nhóm này.
[3] Danh hiệu này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1994 trên tờ Bắc Kinh Thanh Niên Báo, xem Mierzejewski (2009).
[4] Thậm chí, có người như Misra (2003) còn gọi nhóm này là “tân Mao-ít”
[5] Tuy rằng chính tạp chí “New Left Review” xuất bản ở Anh (của các trí thức thiên tả nổi tiếng như Perry Anderson, Robin Blackburn, Tariq Ali) là nơi đã thường đăng nhiều bài (dịch ra tiếng Anh) của Uông Huy và thân hữu, và đã đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá nhóm này cho độc giả Tây phương.
[6] Xem, chẳng hạn, Pocha (2005)
[7] Nhưng trước đó thì Uông Huy thường được coi là một chuyên gia về Tam Quốc
[8]“Hiện đại Trung Quốc tư tưởng đích hưng khởi”(2004)
[9] Hoàng Bình (Huang Ping, sinh 1958) lấy PhD về xã hội học ở Trường Kinh Tế Luân Đôn (London School of Economics), là tác giả của nhiều bài về phát triển nông thôn và sự cân bằng giữa các miền (regional balance) ở Trung Quốc.
[10] Xem, chẳng hạn, Wang Hui (1994, 2003)
[11] Về những cách diễn nghĩa khác nhau sự cố Thiên An Môn, đọc, chẳng hạn, Wang (2003)
[12] Thực ra, bài này của Akerlof và Romer hình như chỉ gây ấn tượng cho Uông Huy! Ít có nhà kinh tế Tây phương nào biết đến nó.
[13] Cha (2009) là một bài dài về Tả Đại Bồi.
[14] Xem Wang Shaoguang và Hu Angang (2001)
[15] Chính Phan Nhạc là người tuyên bố một câu trên báo Der Spiegel (của Đức) vào cuối năm 2006, được trích khắp thế giới: "Để sản xuất hàng hóa đáng giá 10000 USD, chúng tôi [Trung Quốc] phải dùng gấp 7 lần lượng tài nguyên mà Nhật Bản dùng, gần 6 lần lượng tài nguyên mà Mỹ dùng, và – điều này là đáng đặc biệt hổ thẹn – gần 3 lần lượng tài nguyên mà Ấn Độ dùng” . Xem Elizabeth C. Economy, The Great Leap Backward?, Foreign Affairs, Sep/Oct 2007
[16] Một biến thể của quan niệm “bi kịch của cái chung” (“tragedy of the commons”) mà nhà kinh tế Mỹ Garrett Hardin (1968) đã làm nổi tiếng.
[17] Xem thêm: Cam Dương (Gan Yang) trong Trương Húc Đông (Zhang Xudong) (2001)
[18] Misra (2003) gọi nhóm này là “tân chuyên chế” (neo-authoritanism”)
[19] Bạn đọc trong ngành kinh tế có thể để ý điều này: sự khác biệt giữa tư duy Tân Hữu và Tân Tả có thể xem như phản ảnh sự khác biệt giữa”truyền thống Oxford” (Alfred Marshall, John Hicks) và “truyền thống Cambridge” (Joan Robinson)
[20] Xem, chẳng hạn, Mishra (2006)
[21] Chu cũng là người viết lời tựa cho cuốn Cạm Bẩy của Hiện Đại Hóa (Pitfalls of modernization) của Hà Thanh Liên nói ở trên
[22] “We believe the market economy is not a sin. On the contrary, the sin comes from inequality of non-economic rights. It is this inequality of rights that distorts China's market economy, and that also leads to omnipresent corruption and peasant problems in China” (Harmony stems from democracy, Chinadaily 2-12-05)
[23] Xem, chẳng hạn, Garnault (2008). Vợ của Tần Cối, Kim Yến, bút hiệu Tô Văn, cũng là một học giả nổi tiếng.
[24] " 'Only socialism can save China', Mao Zedong used to say. After the collapse of Soviet and Eastern European communism, some said that 'only China can save socialism'. But this now seems more and more ironic. The decade and more since 1992 above all shows that only China can destroy socialism."
[25] State-dominated, welfare-lite capitalism
[26] Bài này cũng không nói đến những luồng tư tưởng “ngầm” trong xã hội Trung Quốc cũng như trong cộng đồng người Hoa ở nước ngoài.
[27] Xem, chẳng hạn, Leonard (2008)
[28] Chẳng hạn, nhiều nhà quan sát cho rằng chính sách tích cực trợ giúp lao động nhập cư của chính phủ Ôn Gia Bảo là do đề nghị của nhóm Tân Tả.
[29] Đó là không nói đến một thực tế khá “thô lậu”: một số trí thức này hiển nhiên đã được sự bao che của nhiều “ô dù” cao cấp trong Đảng. Chẳng hạn như đàng sau Hồ An Cương là Phan Nhạc (và Phan Nhạc là con rễ của Đề Đốc Lưu Hoa Thanh). Tiễn Lí Quần thì dựa thế của Thái Nguyên Bồi, thầy của nhị vị khai quốc công thần Trần Độc Tú và Lý Đại Chiêu. Cũng dễ thấy sự gần gũi của phe Tân Hữu với nhóm Thượng Hải của Giang Trạch Dân, và của phe Tân Tả với Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo.
Tham Khảo
Akerlof, George A., và Paul M. Romer, 2003, “Looting: The Economic Underworld of Bankruptcy for Profit” Brookings Papers on Economic Activity, Bộ 1993, Số 2, tr. 1-73
Cha, Ariana Eunjung, 2009, For China's New Left, Old Values, Washington Post, 19 tháng 4
Chaohua Wang, 2003, One China, Many paths, New York: Verso
Cheung, Steven N S, 1969, The Theory of Share Tenancy, Chicago: University of Chicago Press
Cheung, Steven N S, 1973, "The Fable of the Bees: An Economic Investigation," Journal of Law and Economics, Bộ 16, Số1, tr. 11–33.
Dowd, Douglas, 2005, “The dynamics, contradictions, and dissent of today’s China”, Review of Radical Political Economics, Mùa Đông, tr. 116-125.
Garnaut, John, 2008, “China's economic power needs the party”, Sydney Morning Herald, 7 tháng 1.
Hardin, Garrett, 1968, "The Tragedy of the Commons". Science 162, tr. 1243-1248
Hook, Leslie, 2007, “The Rise of China's New Left,” Far Eastern Economic Review, 170, Số 3. tr. 12-27. Bản dịch của Vũ Quang Việt: Sự trỗi dậy của cánh tả mới ở Trung Quốc, Thời Đại Mới số 10, tháng 3/2007
Leonard, Mark, 2008, “China’s New Intelligentsia”, Prospect, tháng 3. Bản dịch của Phạm Toàn: Giới trí thức mới của Trung Quốc, talawas, 20-3-2008
Leonard, Mark, 2008, What does China Think?, N.Y.: Public Affairs
Mierzejewski, Dominik, 2009, ‘Not to Oppose but to Rethink’: The New Left Discourse on the Chinese Reforms, Journal of Contemporary Eastern Asia, Bộ 8, Số 1, tr. 15-29
Minqi Li, 2008, “The New Left in China,” Monthly Review, 22 tháng 8
Mishra, Pankaj, 2006, Getting Rich, London Review of Books, 30 tháng 11
Misra, Kalpana, 2003, “Neo-left and neo-right in Post-Tiananmen China,” Asian Survey, Tháng 9 - Tháng 10, tr. 717-744
Nguyễn Hải Hoành, 2009, Trung Quốc không vui, Hội Nhà Văn, 14 tháng 4
Pocha, Jehangir, 2005, China Today: Misguided Socialism Plus Crony Capitalism, New Perspectives Quarterly, Bộ 22, Số 2
Wang Hui, 1994, The Gradual Society, N.J.: Transaction Publishers
Wang Hui, 2003, China’s New Order: Society, Politics, and Economy in Transition, (Theodore Huters biên tập) Cambridge: Harvard University Press
Wang Hui, 2005, “China’s New Left,” New Perspectives Quarterly, 7 tháng 3.
Wang Shaoguang và Hu Angang, 2001, The Chinese Economiy in Crises, New York: M.E Sharpe
Zhang Xudong, 2001, Whither China?, Durham: Duke University Press.
Zhang Yongle, 2008, “No forbidden zone in reading?”, New Left Review 49, Tháng 2 - Tháng 3. Bản dịch của Hoài Phi: “Không có vùng cấm trong lĩnh vực đọc? “Ðộc thư” và giới trí thức Trung Quốc”, talawas, 15-9-2008
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 5:03:41 GMT 9
Học thuyết Marx:
Từ “giá trị-lao động” đến “tư bản”
Lữ Phương Nhiều người đã nói đến ba nguồn tư duy tạo thành học thuyết Marx: kinh tế Anh, triết học Đức, chủ nghĩa xã hội Pháp. Mục đích của bài viết này là làm sáng tỏ nguồn đầu tiên, tập trung vào một chủ đề cụ thể: đó là lý luận giá trị-lao động (théorie de la valeur-travail) hoặc lý luận lao động về giá trị (labour theory of value), đặc biệt qua sự diễn giải của Adam Smith và David Ricardo của trường kinh tế cổ điển mà Marx đã tiếp thu những khái niệm, những tiền đề, đồng thời phê phán, điều chỉnh để phác hoạ ra luận đề chính trị-triết học đặc trưng macxit gọi là giải phóng lao động với cuộc cách mạng vô sản của ông. Phương pháp biện luận nào đã dẫn đến sự chuyển hoá những khái niệm căn bản của trường kinh tế cổ điển thành những trung giới logic tạo nên cuộc cách mạng đó? Tư bản trong kinh tế cổ điển đã trở nên khác đi so với “tư bản” trong tư duy của Marx như thế nào? Dựa trên nền tảng giá trị nào Marx tiến hành công việc mà ông đeo đẳng suốt đời là phê phán kinh tế chính trị? Những giá trị ấy thực chất có bao hàm nội dung đi ngược lại những nguyên lý pháp quyền tư sản? Lý luận lao động của Marx có thật sự đoạn tuyệt hay chỉ là một cách giải thích về lý luận giá trị-lao động của trường kinh tế cổ điển? Tác dụng thực sự của những khái niệm “sức lao động”, “giá trị thặng dư”, “lợi nhuận” trong biện luận của Marx có ý nghĩa gì trong sự phê phán kinh tế tư sản? Những kết luận của Marx về cuộc cách mạng giải phóng lao động là sự vận động sinh thành tất yếu của những mầm móng tồn tại trong bản thân hiện thực hay chỉ là những va chạm tư biện của những khái niệm triết học? Nhiều câu hỏi như vậy đã được đặt ra trong bài viết cùng với những câu trả lời có thể gây bất ngờ, nhưng tất cả đều dựa vào chính các luận cứ mà Marx đã trình bày minh bạch qua hai bản thảo ngày càng được giới nghiên cứu cho là cực kỳ quan trọng của ông: Grundrisse (1857-1858) và Các học thuyết về giá trị thặng dư (1861-1863). Bài viết gồm có 8 phần như sau: 1. A. Smith và lý luận giá trị-lao động 2. Sự phê phán của David Ricardo 3. Mấy ý kiến của K. Marx 4. Một số điều chỉnh về lý luận 5. Sự hình thành một khái niệm 6. Sự bành trướng và sức cản 7. Những tín hiệu của tương lai 8. Vài nhận xét 1 Adam Smith và lý luận giá trị-lao động Adam Smith mở đầu cuốn The Wealth of Nations (1776) [Bản tiếng Việt: Đỗ Trọng Hợp, Của cải của các dân tộc, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997 ] của mình bằng câu: “Lao động hàng năm của mỗi dân tộc là cái quỹ vốn cung cấp ban đầu cho dân tộc đó mọi thứ cần dùng và tiện nghi của đời sống mà nó tiêu thụ hàng năm, quỹ vốn ấy cốt yếu bao giờ cũng là kết quả trực tiếp của lao động đó, hoặc là các thứ mua được từ những dân tộc khác với kết quả đó”. (“Lời giới thiệu”, Bản tiếng Việt (BTV): tr 47, có sửa). Cần chú ý đến từ “quỹ vốn” được sử dụng ở đây như là sở hữu thuộc về một dân tộc với ý nghĩa khái quát của nó: sản phẩm của một quá trình tạo ra của cải cho toàn xã hội, điều mà bây giờ chúng ta gọi là sự tăng trưởng kinh tế. Vấn đề Smith đặt ra như vậy chủ yếu là tìm hiểu nguồn gốc có tính chất xã hội của của cải một cách vĩ mô, tổng thể. Để triển khai việc tìm hiểu nói trên, Smith cho rằng cần phải xác định cái nhân tố chủ thể hướng về mục tiêu đó, coi nhân tố đó như động lực thúc đẩy sự phát triển mà cũng là tiêu chuẩn đo lường mức độ của sự phát triển ấy. Với Smith, động lực ấy và thước đo ấy chính là lao động của con người – lao động nói chung, không phân biệt chi tiết – mà hiệu quả của nó là tạo ra những giá trị đại biểu cho những vật thể, có thể sờ mó, định lượng, tái tạo, nhân lên được và diễn ra thường xuyên trong không gian và thời gian một cách khách quan . Những thứ sản phẩm quá cá biệt, độc đáo, thuộc lĩnh vực thẩm mỹ, cá nhân, thuần tuý tinh thần, tuy là hiện thực nhưng không nằm trong phạm trù kinh tế gọi được là “sản xuất” và có thể “tái sản xuất”. Quan niệm lấy lao động làm thước đo sản phẩm trên đây, Smith đã thừa kế một cách tự nhiên từ rất nhiều người đi trước ông, trong đó John Locke, William Petty… là những phát ngôn minh bạch nhất. Với những tác giả này, khởi đầu, mọi thứ vật thể trên trái đất đều là quà tặng của tự nhiên, chỉ nhờ có lao động mà những thứ có nguồn gốc tự nhiên mới trở thành có giá trị với con người, do con người tạo ra làm cho con người không còn phụ thuộc vào tự nhiên nữa. Nói cách khác lao động tạo ra thế giới văn hoá cho con người, xét về mặt nhu cầu lẫn mối quan hệ xã hội. Những giá trị của những vật thể tạo ra ấy, William Petty cho đó là sự kết hợp giữa đất đai và lao động, như một câu nói thường hay được nhắc lại của ông: “Lao động là Cha, nguyên lý năng động của Của cải, cũng như Đất là Mẹ”. Khái niệm về tư bản với Petty do đó đã mang nội dung của một thứ lao động đã được vật thể hoá và thuộc về quá khứ, gọi là “lao động quá khứ” sau này được John Locke chuyển thành nội dung chính trị về quyền tư hữu cho trường kinh tế chính trị cổ điển: đất đai nguyên liệu là của trời đất, ai bỏ lao động ra khai thác được thì sẽ là chủ sở hữu một cách tự nhiên. Từ những tiền đề mặc nhiên nói trên, Smith đã đưa lý luận giá trị-lao động vào những giới thuyết cụ thể hơn, đặc biệt trong lĩnh vực trao đổi trong thời kỳ sự phân công lao động đem đến hiệu quả mở rộng cho sản xuất. Trong sự trao đổi này, Smith có nói đến khái niệm “giá trị sử dụng” để chỉ tính chất “có ích” của sản phẩm làm ra đối với người tiêu dùng, và đưa ra nghịch lý bỏ ngỏ mà về sau người ta thường nhắc lại và gọi là nghịch lý kim cương/nước [“không có gì có ích hơn nước, nhưng hầu như không thể dùng nước để mua được bất cứ cái gì khác” (tr. 83)] . Thật sự thì trong những tình huống nước trở thành khan hiếm, nhận xét này không còn đúng nữa, nhưng Smith không thảo luận thêm vì ông muốn tập trung làm sáng tỏ khái niệm đi song hành với “giá trị sử dụng” là “giá trị trao đổi”: giá trị này được ông định nghĩa một cách cô đọng ngay từ đầu để về sau luôn được nhắc lại: đó là cái “khả năng mua” một vật thể khác khi ta có sẵn trong tay một sản phẩm “có ích” mà mình muốn nhường lại. Và cũng qua cách diễn đạt này, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa tiềm ẩn của giá trị sử dụng trong mối quan hệ của nó với giá trị trao đổi: giá trị sử dụng chứa đựng trong những vật thể có ích, theo cách nói của Marx sau này, là cái giá đỡ đưa những vật thể ấy vào lĩnh vực trao đổi, để chúng có thể mang được ý nghĩa của những vật thể có giá trị trao đổi. Nôm na là: chỉ có những vật có ích thì mới có thể đem đi trao đổi. Và như chúng ta đã ta biết, với Smith, cũng như với tất cả những nhà lý luận theo trường phái kinh tế cổ điển, thước đo của những sản phẩm đem trao đổi là số lượng lao động hàm chứa trong sản phẩm ấy, số lượng lao động này chỉ có thể trao đổi lấy một sản phẩm khác cùng chứa một lượng lao động tương đương. Sự ngang giá trong trao đổi ở đây đã trở thành nguyên lý để một nền kinh tế dựa trên trao đổi có thể vận hành có lợi cho toàn xã hội: một người trong khi chỉ có thể sản xuất ra một số mặt hàng đặc biệt thì vẫn có thể hưởng được thành quả của những người sản xuất khác trên khắp thế giới, một cách sòng phẳng, công bằng. Sự bình đẳng đã trở thành tiền đề của nền kinh tế dựa trên trao đổi, điều này cũng đã trở thành nguyên lý của lý luận kinh tế trao đổi. Tuy vậy điều rất đáng chú ý qua những nguyên lý chung ấy, Smith đã mang đến cho nội dung của lao động một ý nghĩa rất đặc biệt,: đó là điều ông gọi là “cái giá” mà người lao động phải bỏ ra để hoàn tất số lượng lao động đem trao đổi ấy. Cái giá ấy phảng phất ý tứ câu trong Kinh thánh về việc Adam và Eva, vì cãi lời Chúa nên đã phải “đổ mồ hôi trán” để có thức ăn: theo lời lẽ của Smith thì đó là “sự nhọc nhằn, phiền muộn” của người lao động , là sự “hy sinh” mà họ buộc phải chấp nhận để “gác lại” mọi “sự thoải mái, tự do và hạnh phúc” khi tạo ra của cải cho xã hội. “Các đại lượng ngang nhau của lao động vào bất cứ thời nào, lúc nào, cũng được coi như có giá trị ngang nhau đối với người lao động. Trong tình trạng bình thường về sức khoẻ, thể lực và tinh thần; trong mức độ bình thường về kỹ năng và tài khéo, anh ta luôn phải gác lại (hy sinh) cái phần giống nhau của sự thoải mái, sự tự do và hạnh phúc của bản thân. Cái giá mà anh ta trả phải luôn như nhau, bất kể số lượng hàng hoá mà anh ta nhận được để bù đắp cho sự hy sinh ấy.” (Smith, Ch. V, BTV: tr. 89, có sửa) “Equal quantities of labour, at all times and places, may be said to be of equal value to the labourer. In his ordinary state of health, strength and spirits; in the ordinary degree of his skill and dexterity, he must always laydown the same portion of his ease, his liberty, and his happiness. The price which he pays must always be the same, whatever may be the quantity of goods which he receives in return for it”. Vấn đề giá trị trao đổi trong quan niệm của Smith cũng đã dựa hoàn toàn vào quan niệm “hy sinh” trên đây để triển khai thêm từ định nghĩa cô đọng nói trên về cái “khả năng mua được” những gì mình không có, khi bằng cách nào đó chúng ta chiếm hữu được những lượng lao động nói trên như những giá trị tiềm ẩn, có thể dự trữ và tích luỹ thành một thứ “quyền lực” có thể “đặt mua” [“chỉ huy”] được các hình thái lao động của người khác trên thị trường, hoặc là dưới hình thái hàng hoá vật thể hoặc là dưới hình thái lao động sống. Tính chất hai mặt trong quan niệm về lao động của Smith đã bộc lộ rõ trong khái niệm mà sau này người ta đã đặt cho cái tên là lao động đặt mua (commanded labor) toát ra từ sự trình bày của Smith – một mặt nếu lao động là nguyên nhân đem lại sự giàu sang và tiến bộ cho xã hội, thì mặt khác nó lại mang ý nghĩa của cái đi ngược lại với bản thân nó: nó là phản đề của sự “thoải mái, tự do và hạnh phúc” của con người. Phản đề này chứa đựng thật nhiều ý nghĩa hàm chứa trong quan niệm lao động nói trên: nếu sỡ hữu được loại giá trị này, chúng ta sẽ thoát khỏi được tình cảnh khổ nhọc vì lao động. Quan niệm đó về sau sẽ bị K. Marx cho là “tiêu cực” xét theo một chuẩn mực khác về triết học nhưng với Smith, đứng về sản xuất thì với cái giá của sự hy sinh vì “nhọc nhằn và phiền muộn” đó, sự công bằng cho những người lao động phải được coi như là hậu quả tất yếu của nền kinh tế lấy sự trao đổi ngang giá làm nguyên tắc. Ý tưởng này, Smith đã viết nơi dòng đầu Chương 8 của tác phẩm của mình: “Kết quả của lao động là phần thưởng tự nhiên hoặc tiền công của lao động”. Và điều này có nghĩa là : những người lao động phải được hưởng toàn bộ sản phẩm do mình làm ra như một “sự đền bù tự nhiên”, còn nếu phải nhận lãnh sự đền bù ấy dưới hình thức tiền công thì tiền công ấy phải là tiền công thực tế quy ra ngang bằng với giá trị của sản phẩm. Như vậy, lượng tương đương của lao động phải là tiêu chuẩn của trao đổi, sản phẩm lao động phải trả hết về cho người lao động, rõ ràng những mệnh đề đó phải được xem như những tiền đề trong lý luận lao động về giá trị của Smith. Tuy vậy, xét về mặt thực tế và lịch sử thì vấn đề lại không hoàn toàn đơn giản: Smith cho rằng nguyên tắc đó không lúc nào cũng áp dụng giống nhau. Ông giả định một thời kỳ sơ khai, ở đó “trước khi có tích luỹ tư bản và chiếm hữu đất đai”, đương nhiên toàn bộ sản phẩm phải là “phần thưởng” của người lao động. Nhưng Smith cho rằng tình hình không còn như cũ nữa khi trong lịch sử đã có sự hiện hữu của những chủ tư bản và ngay khi “tư bản đã tích luỹ trong tay những người cá biệt” thì “… một số những người này tự nhiên sẽ dùng vốn đó để thúc đẩy những người dân cần cù làm việc, cung cấp vật liệu và phương tiện sinh sống cho họ, mục đích kiếm lời bằng việc bán sản phẩm của họ, hoặc bằng [việc hưởng] cái phần mà lao động của họ thêm vào giá trị của những vật liệu. Khi đem trao đổi toàn bộ sản phẩm để lấy tiền, lấy lao động, hoặc những hàng hoá khác, vượt khỏi và cao hơn phần đủ để chi trả cho vật liệu, tiền công của công nhân, thì một cái gì đó phải dành ra cho lợi nhuận của người đem vốn liếng chấp nhận rủi ro trong cuộc phiêu lưu. Giá trị mà công nhân đem thêm vào vật liệu , như vậy, trong trường hợp này, giải quyết thành hai phần, một phần trả cho tiền công của công nhân, phần kia là lợi nhuận dành cho ông chủ mà toàn bộ vốn vật tư và tiền công đã ứng trước cho họ”. (Smith, Ch. VI, BTV: tr. 108, có sửa) Đoạn văn trên đây của Smith đã đặt ra nhiều vấn đề tranh cãi có liên hệ đến lý luận giá trị - lao động. Quan trọng nhất là câu hỏi sau đây: nếu cho rằng lý luận này là đúng cho trường hợp thứ nhất (thời sơ khai) thì với Smith, trong trường hợp thứ hai (thời đã có tư bản), nó có còn duy trì được không hay đã bị từ bỏ, không thể áp dụng nữa? Nói cách khác: lao động bây giờ có còn là thước đo duy nhất của giá trị hàng hoá và kết quả toàn bộ sản phẩm có còn là phần thưởng duy nhất cho người lao động? Đã có nhiều câu trả lời, nhưng trước hết chúng ta cần bám sát văn bản của Smith và thử nhớ lại hai trường hợp do Smith đặt ra. Trong trường hợp thứ nhất (không có địa tô và tư bản), hãy giả định người lao động đi săn với công cụ (được gọi là tư bản theo nghĩa vật thể) sau đó bỏ qua phần vật liệu + bảo trì, thì hiển nhiên giá trị sản phẩm thu hoạch được sẽ bằng (=) tiền công cộng với (+) “lợi nhuận”của tư bản công cụ và do lúc đó chưa xuất hiện giai cấp chủ tư bản, nên cả hai thành phần này tất nhiên đều thuộc về người lao động vốn vừa là chủ tư liệu vừa là công nhân. Bây giờ qua trường hợp thứ hai (đã có địa tô và tư bản), không tính đến vật liệu + bảo trì, chúng ta thấy kết quả sản phẩm làm ra cũng nằm trong cùng một công thức: giá trị sản phẩm bằng (=) tiền công cho lao động cộng với (+) lợi nhuận của tư bản. Chỉ có điều khác là trong trường hợp thứ hai này, toàn bộ sản phẩm của người công nhân đã bị khấu trừ – chữ của Smith – một phần để nhường cho lợi nhuận tư bản, và thứ tư bản này bây giờ thuộc về người khác, không phải công nhân, do đó thứ “tiền công” định nghĩa như phần thưởng cho lao động làm chủ của thời nguyên thuỷ trong tình thế này đã trở thành cái giá mua lao động làm thuê trong thời kinh tế tư bản tư nhân. Sự so sánh cho chúng ta thấy tuy có sự khác biệt về phân chia nhưng luận cứ của Smith về lượng lao động dùng làm thước đo giá trị hàng hoá vẫn không thay đổi, sự trao đổi công bằng giữa lao động và tư bản vẫn được duy trì; logic trước sau vẫn nhất quán : công nhân không còn là chủ tư liệu nữa nên phải san sẻ kết quả lao động của mình cho người chủ mới của nó, coi như sự trả công cho cuộc đầu tư có thể gặp bất trắc. Cũng chính vì vậy mà lý luận giá trị- lao động vẫn còn nguyên: lợi nhuận tư bản nhận được từ công nhân vẫn là cái giá của sự nhọc nhằn mà người lao động đã bỏ ra và do đó vẫn được xem như một thứ gíá trị dự trữ để chủ tư bản có thể đặt mua bất cứ hàng hoá nào, cũng như chi phối, điều khiển lao động đang tồn tại trên thị trường. Quan trọng hơn: để tích luỹ vốn, cải tiến tư liệu, mở rộng sản xuất. Vì thế sẽ hoàn toàn thuận lý khi theo quan điểm của mình, Smith căn cứ vào đó nói về “Các cấu phần hợp thành giá cả của hàng hoá” trong chương VI của tác phẩm của ông như sau: “Giá trị thực của tất cả mọi bộ phận cấu thành của giá cả, quan sát cho thấy, được đo lường bằng lượng lao động mà những thành phần ấy có thể mua hay chỉ huy. Lao động đo lường giá trị không phải chỉ cái phần giá cả chuyển cho lao động, mà còn cho phần địa tô, và cho cả phần lợi nhuận nữa”. ” (Smith, Ch. VI, BTV: tr. 111). Khái niệm lao động đặt mua, lao động chỉ huy (commanded labor) ở đây vẫn nhất quán với khái niệm lao động bao hàm, lao động hiện thân (embodied labor) chứa đựng trong sản phẩm, hợp thành các nhịp vận hành tất yếu của quá trình tạo ra của cải biểu hiện trong quỹ vốn của một dân tộc như Smith đã nói từ đầu: phần do lao động tạo ra cộng với phần lao động đặt mua của người khác. Và cũng từ nguyên tắc cấu tạo giá trị sản phẩm và sản xuất nói chung đó, theo logic của Smith, lợi nhuận tư bản nhận được từ sự chia sẻ của lao động vẫn được coi như là giá trị thu nhập được từ tư bản, cũng giống như tiền công là thu nhập của lao động, tất cả có thể cùng với địa tô hợp thành những yếu tố sản xuất trong điều kiện xuất hiện quyền tư hữu về tư liệu sản xuất. Sự khác biệt giữa lao động nói chung và tiền công của lao động cụ thể trong trường hợp này cũng là tất yếu: khái niệm lao động xét như phần thưởng, do toàn bộ sản phẩm mang lại bây giờ không còn đồng nhất với khái niệm lao động xét như tiền công trong quy trình sản xuất có tư bản (và địa tô), nhưng cả hai vẫn nằm trong phạm trù giá trị của hàng hoá dùng lượng lao động làm thước đo, sự khác nhau chỉ là những hình thức cấu tạo và phân bố trong những điều kiện khác nhau. Vấn đề rốt ráo trong sự trình bày của Smith vì vậy không phải là từ bỏ lý luận lao động về giá trị mà là sự khẳng định tác động có tính chất lịch sử của chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đến quy trình sản xuất mới trong đó vai trò của người chủ lao động đã chuyển thành vai trò của người làm thuê cho chủ tư bản. Chính sự tồn tại thực tế của từng lớp tư hữu mới này đã trở thành tiền đề trên đó tồn tại toàn bộ cơ cấu sản xuất hiện đại. Smith coi những định chế phân chia giai cấp ấy là đương nhiên, cho nên sự phân chia thu nhập theo kiểu lợi nhuận và tiền công cũng mang ý nghĩa đương nhiên, không cần xem xét gốc gác của nó. Hơn nữa với Smith, sự phân chia đó lại chỉ là sự nhân nhượng hợp lý: nó biểu hiện tinh thần hợp tác giữa lao động và tư bản trong việc tạo ra sự giàu sang cho xã hội. Vấn đề giá trị thặng dư – về sau này được Marx đưa lên thành chủ đề số 1 trong học thuyết của mình – cũng đã được Smith đặt ra với một nguồn gốc khá minh bạch: ngoài tiền công được thuê mướn, công nhân đã phải tạo ra thêm giá trị lao động để chia cho chủ tư bản với tư cách là lợi nhuận của công cụ sản xuất. Nhưng với Smith thì điều đó cũng là chuyện đương nhiên trong một định chế tư hữu về tư liệu sản xuất được bảo vệ một cách tự nhiên về mặt pháp lý theo lý luận của John Locke, giả định được đặt trên nguyên lý ngang giá của nền kinh tế trao đổi phổ biến.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 5:04:33 GMT 9
2 Sự phê phán của David Ricardo
Lý luận giá trị của Adam Smith 41 năm sau đã được David Ricardo, trong cuốn On the Principles of Political Economy and Taxation (1817), [ bản tiếng Việt: Nguyễn Đức Thành &Nguyễn Hoàng Long: Những nguyên lý của kinh tế chính trị học và thuế khoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002] thừa kế có kèm theo những phê phán điều chỉnh.
Sau khi cho rằng Smith đã “định nghĩa thật đúng đắn nguồn gốc ban đầu của giá trị trao đổi, và buộc phải giữ trước sau như một, rằng mọi vật sẽ trở nên có giá hay ít giá trị hơn phụ thuộc vào lượng lao động dành cho sự sản xuất ra chúng tăng lên hay giảm đi”(Ricardo, Ch. 1, Tiết 1, BTV: tr. 70, có sửa ), Ricardo đã trách Smith không nhất quán với mình khi “dựng nên” hàng loạt những tiêu chuẩn khác về đo lường giá trị sản phẩm, như một số hàng hoá khác, ngũ cốc, vàng bạc v.v… vốn là những thứ rất hay thay đổi. Chắc hẳn là Ricardo đã dựa vào câu sau đây của Smith để phê phán:
“Dù lao động là thước đo thực sự của giá trị trao đổi của mọi hàng hoá, nhưng giá trị của hàng hoá lại thường không được đánh giá bằng lao động”. (Smith, Ch V, BTV: tr. 86)
Tuy vậy khi theo dõi sự phát triển của câu chủ đề này của Smith, chúng ta thấy đây chỉ là sự than phiền của ông về sự không phù hợp hoàn toàn giữa nguyên lý với những gì diễn ra trong thực tế. Những thứ tiêu chuẩn mà Ricardo cho rằng Smith đã “dựng nên” chỉ là những dẫn chứng cho sự than phiền đó, và điều này đã được Smith giải thích bằng sự “trừu tượng” của khái niệm (ở đây là lượng lao động dùng làm thước đo), khái niệm này theo Smith, mặc dù có thể làm cho hiểu được nhưng lại “không phải là một điều tự nhiên và rõ ràng” (Smith, Ch.V, tr. 87). Cách lý giải này chắc hẳn không thoả đáng trước sự phê phán vì vẫn không làm rõ được tại sao có sự sai biệt giữa cái “trừu tượng” của nguyên lý với những cái cụ thể của thực tế. Nhưng dù vậy những phê phán của Ricardo vẫn chưa đủ sức nặng phá vỡ hoàn toàn cái mạch logic của Smith: sau khi than phiền về sự không phù hợp giữa nguyên lý và thực tế, cuối cùng Smith vẫn quay về nhắc lại nguyên lý đã nêu ra và bảo vệ nó đến cùng :
“Vào bất kỳ thời nào và nơi nào, cái đắt thì khó đạt tới, hoặc phải trả nhiều lao động để có được; và cái rẻ thì có được dễ dàng, hoặc với rất ít lao động. Vì vậy, chỉ có lao động, do không bao giờ thay đổi giá trị riêng của nó, mới là chuẩn mực duy nhất và tối hậu căn cứ vào đó đánh giá và so sánh giá trị của mọi hàng hoá vào bất cứ nơi nào và thời nào. Lao động chính là giá cả thực sự của hàng hoá; tiền đơn thuần chỉ là giá cả danh nghĩa” (Smith, Ch. V, BTV: tr. 89, có sửa).
Sự phê phán quan trọng hơn của Ricardo với Smith xoay quanh vấn đề mà chúng ta có nhắc qua, thường được những nhà nghiên cứu nêu ra để thảo luận: đó là vấn đề lao động hiện thân, lao động bao hàm (embodied labor) và lao động đặt mua, lao động chỉ huy (commanded labor). Ricardo cho rằng khi một lượt thừa nhận hai quan niệm lao động trên đây, Smith đã không giữ được sự nhất quán cho lý luận lao động về giá trị:
“Khi thì ông ta coi ngũ cốc, lúc khác lao động, là thước đo tiêu chuẩn; không phải là lượng lao động dành cho việc sản xuất bất cứ một vật phẩm nào mà là lượng lao động có thể đặt mua trên thị trường; như thể đó là hai biểu hiện tương tự và cũng như thể nếu lao động của một người có thể trở nên hiệu quả gấp đôi nên anh ta có thể sản xuất gấp đôi số lượng của một hàng hoá, do đó tất yếu khi đem đi trao đổi anh ta có thể nhận được gấp đôi số lượng lao động hàm chứa trong hàng hoá đã được sản xuất trước đó.
Nếu điều này là đúng thực sự, nếu phần thưởng cho người lao động luôn tương ứng với những gì anh ta đã sản xuất thì lượng lao động dành cho (hàm chứa trong) một hàng hoá và lượng lao động mà hàng hoá ấy mua được sẽ bằng nhau và cũng là thước đo chính xác cho những thay đổi của các hàng hoá khác. Nhưng những đại lượng ấy không bằng nhau…” (Ricardo , Ch. 1, Tiết 1, BTV: tr. 70-71, có sửa).
Qua đoạn trình bày trên, ta thấy Ricardo muốn giữ cho sự nhất quán của lý luận giá trị lao động bằng cách cho rằng chỉ nên duy trì khái niệm đã được Smith nêu ra mà Ricardo tán thành – đó là thứ lao động đã được kết tinh trong hàng hoá để đem trao đổi với một hàng hoá chứa đựng lượng lao động tương đương trên thị trường. Ricardo cho đó mới là nội dung đích thực của khái niệm giá trị trao đổi. Đọc thêm những gì Ricardo dẫn giải về sau chúng ta nhận thấy rõ hơn nội dung ấy: giá trị của hàng hoá đem trao đổi = tư bản + tiền công lao động, trong đó tư bản qua cái logic của Ricardo chủ yếu là loại lao động đã vật hoá thành “lao động quá khứ” của Petty (sau được Smith gọi là tư bản cố định). Như vậy tính luôn vật liệu và những chi phí linh tinh thì giá trị lao động chứa đựng trong sản phẩm sẽ bằng (=) lao động quá khứ cộng (+) vật tư cộng (+) lao động hiện tại (lương trả cho công nhân quy ra lượng lao động tương đương) để tạo thành chi phí lao động của hàng hoá.
Hiển nhiên dựa vào giá trị của hàng hoá đã được tạo nên bằng các yếu tố đó (trừ đi khấu hao công cụ và vật tư), đi đặt mua một lượng lao động tồn tại thực sự trên thị trường thì lượng lao động này không thể tìm thấy ở đâu ngoài lượng lao động do những người công nhân cung cấp, mà như vậy thì cũng hiển nhiên là lượng lao động đó chỉ là một bộ phận cấu thành chi phí sản xuất ra sản phẩm, giá cả không bao giờ ổn định vì tuỳ thuộc rất nhiều yếu tố thay đổi thực tế. Một thành phần thì không thể tương đương với một toàn thể. Một yếu tố hay thay đổi thì không thể tạo ra thước đo có một chuẩn mực ổn định. Cũng chính vì vậy nếu duy trì khái niệm lao động đặt mua của Smith sẽ không giữ được sự thuần nhất cho lý luận, không giữ được tính chất bất biến của lượng lao động được xem như thước đo sự thay đổi của các hàng hoá, hơn nữa lại làm lẫn lộn giữa các khái niệm lao động hiện hữu trong những tình thế khác nhau: một bên là lao động-thước đo bao hàm trong sản phẩm đem trao đổi và một bên là lao động-tiền công chi phí cho việc thuê mướn lao động để hoàn tất sản phẩm ấy.
Chúng ta sẽ nói đến hậu quả của lập luận đó của Ricardo trong việc hình thành một quan niệm mới cho lý luận giá trị-lao động của trường cổ điển, nhưng bây giờ xét xem sự phê phán của Ricardo với Smith trong vấn đề này, chúng ta thấy không hoàn toàn xác đáng. Smith không hề lẫn lộn giữa lượng lao động tạo ra chi phí cho sản phẩm với lượng lao động mà công nhân được hưởng trong thực tế vì ông đã nói rõ rằng lượng lao động mà công nhân hưởng được trong điều kiện đã xuất hiện chủ tư bản là bằng (= ) giá trị cấu thành sản phẩm trừ đi (–) lượng lao động mà công nhân phải bị khấu trừ để chia cho lợi nhuận của tư bản. Smith cũng lưu ý đế tính chất bất ổn của tiền công lao động trong thực tế, xét từ quan điểm của người đi thuê lao động:
“Mặc dù đối với người lao động, các lượng lao động bằng nhau luôn luôn có giá trị bằng nhau, song với đối với người thuê lao động thì các lượng lao động này hình như khi thì có giá trị lớn hơn khi thì nhỏ hơn. Người thuê lao động khi thuê bằng một số lượng hàng hoá nhiều hơn khi thì ít hơn , và đối với người này giá lao động hình như cũng thay đổi như giá của tất cả các thứ khác” [Smith, Ch. V, BTV: tr. 90-91].
Cơ sở của sự thay đổi, Smith cho rằng khi xuất hiện trên thị trường, là do lao động cũng là một hàng hoá như bao hàng hoá khác, vì thế nó cũng vừa mang hình thức giá thực và giá danh nghĩa. Hiển nhiên với tiền công được thuê mướn theo giá trên thị trường như vậy thì người công nhân không thể đặt mua được một cái gì đó vượt khỏi giá trị thực của nó, ở đó cái tổng số lao động mà anh ta làm ra đã bị khấu trừ một phần để chia cho chủ tư bản. Như chúng đã biết, Smith không hề lẫn lộn giữa chi phí lao động dành cho việc tạo ra sản phẩm với tiền công lao động thuê mướn để tạo ra sản phẩm đó. Và cũng thật là không thoả đáng khi muốn loại trừ khái niệm lao động đặt mua, lao động chỉ huy khỏi cái hệ phương pháp của Smith: chính khái niệm này đã dẫn tới sự phân biệt triệt để giữa khả năng đặt mua của người công nhân với khả năng đặt mua của người chủ tư bản. Với công nhân nếu đó là cái giá trả cho “sự nhọc nhằn, phiền toái” chỉ đủ để công nhân, với tư cách là một giai cấp, “tồn tại và duy trì nòi giống mà không gây nên bất cứ sự gia tăng hay suy giảm nào” (Ricardo, Ch. V, BTV tr. 137) thì với chủ tư bản đó lại là cái khả năng tích luỹ của cải do người khác chia cho, không cần phải lao động, nhưng lại có thể nhân lên, qua đó thu hút ngày càng nhiều giá trị thặng dư của những người sản xuất trực tiếp, để mở rộng “quyền lực” cho tư bản bành trướng sức mạnh của nó đối với toàn xã hội.
Người ta có thể cho rằng sự suy luận trên đây là của K. Marx, nhưng không phải: đó chính là cái logic của Smith về lao động chỉ huy với cái hậu quả tất yếu của nó về hai phương diện liên hệ đến sự tích luỹ của tư bản và nguồn gốc giá trị thặng dư trong quá trình hình thành nên sự tích luỹ đó. Phủ nhận khái niệm lao động đặt mua và chỉ muốn duy trì khái niệm lao động bao hàm khi phê phán Smith, Ricardo chỉ căn cứ vào thực tế để chứng minh tính chất không còn tồn tại cái logic về lao động mà Smith giả định: công nhân không còn có thể một mình tạo ra toàn bộ giá trị sản phẩm rồi đem một phần chia sẻ cho tư bản, mà ngay từ đầu lao động của công nhân đã bị quy định một cách cụ thể trong quy trình sản xuất hàng hoá, với tư cách là giá trị của lao động được thuê mướn để tạo ra hàng hoá đó, dưới danh nghĩa cụ thể là tiền công. Sự tranh cãi tưởng chừng như xoay quanh chữ nghĩa ấy với Ricardo thật sự là rất quan trọng: căn cứ vào tình thế mới của sản xuất, Ricardo đã muốn đưa lý luận giá trị-lao động sang một viễn cảnh mới so với khởi nguyên của nó: lao động trực tiếp từ nay trở đi không còn là nguồn gốc tạo ra của cải nữa, nó phụ thuộc hoàn toàn vào tư bản, hơn nữa là một thành phần của phương thức sản xuất đặt nền trên tư bản, cho nên trong tình huống đó khái niệm lao động nói chung chỉ còn giữ vai trò thước đo của sản phẩm do tư bản tạo ra. Đoạn dẫn sau đây có thể tóm tắt toàn bộ lý luận của Ricardo về mối quan hệ của hai hình thái lao động kết hợp thành lượng lao động tổng thể tạo ra giá trị hàng hoá:
“Tất cả các công cụ cần thiết để săn hải ly và nai có thể thuộc về một giai cấp và lao động được sử dụng cho việc săn bắt được một giai cấp khác cung cấp; dù vậy giá cả so sánh của chúng [của công cụ và lao động] sẽ phụ thuộc vào mối tương quan giữa lượng lao động thực tế dành ra để làm nên dụng cụ săn bắn và lượng lao động thực hiện việc đi săn bắn. Tuỳ theo các tình trạng dư thừa hay khan hiếm khác nhau của tư bản so với lao động, tuỳ theo sự phong phú hay hiếm hoi của thức ăn và các nhu yếu phẩm cần thiết nuôi sống con người, những kẻ cung cấp cùng một giá trị tư bản cho một công việc này hay một công việc khác sẽ nhận được một nửa, một phần tư hay một phần tám số sản phẩm đạt được, số còn lại sẽ được trả dưới dạng tiền công cho những người đã cung cấp lao động; tuy vậy sự phân chia này không ảnh hưởng đến giá trị tương đối của các hàng hoá đó [của tư bản và tiền công lao động], vì dù cho lợi nhuận của tư bản có nhiều hay ít, dù cho chúng có là 50, 20 hay 10%, hoặc dù cho tiền công của lao động có thấp hay cao thì chúng đều tác động giống nhau vào hai công việc khác nhau” (Ricardo, Ch. 1, tiết 3, BTV: tr. 81, có sửa).
Trong đoạn văn này, Ricardo khi thì dùng mấy chữ “giá cả so sánh” (their comparative prices) khi thì dùng mấy chữ “giá trị tương đối” (the relative value of these commodities) nhưng tất cả đều để nói về hai loại lượng lao động khác nhau kết hợp lại thành giá trị của sản phẩm được đem ra trao đổi trên thị trường: lượng lao động dành cho việc tạo ra công cụ làm phương tiện sản xuất sản phẩm và lượng lao động bỏ ra trực tiếp để sản xuất sản phẩm ấy – sự kết hợp giữa hai lượng lao động này nếu được diễn tả như là bài toán cộng của lao động quá khứ với lao động sống hoặc của tư bản với tiền công thì nội dung cũng hoàn toàn như nhau. Vấn đề cần làm rõ ở đây là mối tương quan của hai hình thái lao động tạo nên giá trị tổng thể cho sản phẩm: để giải quyết, Ricardo đã giả định trường hợp một lượng tư bản nhất định nào đó được đầu tư thuê mướn lao động thực hiện hai công việc khác nhau và cho rằng dù tỷ phần phân chia giữa lợi nhuận cho tư bản và tiền công cho lao động trong hai trường hợp khác nhau ấy có sai biệt nhau như thế nào thì chúng vẫn chỉ giằng co với nhau trong phạm vi tổng giá trị không thay đổi của sản phẩm đã được tạo ra như trên. Với lập luận này, rõ rệt vấn đề lao động với tư cách là thước đo giá trị đã được đưa lên hàng chính diện như một tiêu chuẩn bất biến để trao đổi hàng hoá, trong khi đó vấn đề nguồn gốc lao động tạo ra giá trị tổng thể cho sản phẩm cùng với vấn đề nguồn gốc giá trị thặng dư tạo ra lợi nhuận cho tư bản mà Smith đã gợi ra đã bị bỏ qua hoàn toàn. Nội dung khái niêm lao động-thước đo từ đây trở đi trong lý luận của Ricardo cũng hoàn toàn được phân biệt rạch ròi với khái niệm lao động-tiền công (cũng thường được các nhà lý luận gọi là giá trị của lao động) – tuy vậy, sự phân biệt này không có tác dụng nào khác là tạo ra sự phụ thuộc của lao động vào tư bản khi chúng ta biết rằng trong phương thức sản xuất đặt trên tư bản, lao động-tiền công dù có thuộc về người lao động, thì đó cũng chỉ là thứ tư bản ứng trước không khác gì các thứ công cụ và vật tư được tư bản ứng trước để sản xuất.
Như vậy, trong lý luận lao động của Ricardo về giá trị, vai trò của tư bản, ngược với Smith, đã trở thành chủ thể của toàn bộ quy trình sản xuất. Tư bản đã được Ricardo định nghĩa đúng như vậy khi ông viết: “Tư bản là phần của cải của một quốc gia được sử dụng trong sản xuất, bao gồm lương thực, thực phẩm, quần áo, công cụ, nguyên liệu thô, máy móc v.v… cần thiết để tạo điều kiện cho người lao động làm việc” (Ricardo, Ch 5, BTV: tr. 139). Định nghĩa đó phải được lĩnh hội là tư bản đã tạo điều kiện để lao động hoạt động, đúng hơn cũng phải hiểu thêm rằng trong điều kiện đó, lao động cũng chính là cái nguồn vốn do tư bản đầu tư để thực hiện quy trình sản xuất theo sự chỉ huy của nó. Ricardo đã giải thích rõ điều đó khi đề cập nguyên nhân quyết định sự tăng/giảm giá trị hàng hoá được sản xuất đem ra trao đổi: lao động tiền công bây giờ không còn giữ vai trò quan trọng để tạo ra sự thay đổi giá trị của sản phẩm như trong quan niệm của những người theo Smith nữa mà ngược lại chính sự tăng/ giảm của tư bản trong việc đầu tư mới tạo ra sự thay đổi đó (Ricardo, Ch. 1, tiết 3, BTV tr. 75).
Việc sử dụng lao động để tăng năng suất cũng được đặt ra trên cơ sở thay đổi hiệu năng sản xuất cho tư bản cố định mà bí quyết không thể tìm thấy ở đâu ngoài việc làm giảm lượng lao động cần thiết (chủ yếu nhờ máy móc) để sản xuất ra hàng hoá, từ đó làm cho hàng hoá được sản xuất nhiều hơn, giá rẻ hơn. Nói tóm lại, sự góp phần của lao động trực tiếp trong quy trình sản xuất này do đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào tư bản: lao động không còn là chủ thể, là nhân tố tạo ra giá trị của sản phẩm như trong lý luận của Smith mà đã bị cuốn hút hoàn toàn vào guồng máy tư bản. Đây chính là điều rất mới mà Ricardo đã đưa vào lý luận lao động về giá trị, đặc biệt tập trung làm rõ vai trò của tư bản cố định đối với quy trình sản xuất:
“Mọi tiến bộ máy móc, công cụ, nhà xưởng, nâng cao nguyên liệu, đều tiết kiệm lao động, cho phép chúng ta sản xuất ra hàng hoá áp dụng được dễ dàng hơn những cải tiến, và kết quả là giá trị của nó thay đổi . Như vậy, khi đánh giá nguyên nhân của những biến đổi giá trị của hàng hoá, dù cho sẽ sai lầm hoàn toàn khi bỏ qua tác động của sự tăng hay giảm do lao động gây ra, nhưng cũng sẽ không đúng khi coi tác động ấy quá quan trọng. (Ricardo, Ch.1, tiết 4, BTV: tr 94, có sửa).
Vấn đề phân phối lợi nhuận của tư bản và tiền công lao động đã được giải quyết trên cơ sở không thay đổi của giá trị tương đối của sản phẩm theo nội dung của các luận cứ nói trên. “Toàn bộ giá trị của hàng hoá chỉ được chia thành hai thành phần: một phần tạo nên lợi nhuận của vốn, phần còn lại dùng để trả tiền công của lao động” (Ricardo, Ch. VI, tr. 157). Nói cách khác, tư bản và lao động sẽ chia nhau giá trị sản phẩm làm ra theo một tỷ phần tương đối giữa hai bên: “lợi nhuận cao hay thấp phụ thuộc hoàn toàn vào việc tiền công trả thấp hay cao” (tr. 84). Sự khác nhau giữa Ricardo với Smith về mối quan hệ giữa lao động với tư bản cũng rõ rệt: lợi nhuận tư bản không còn là sự san sẻ tự nguyện đến từ phía người lao động trực tiếp nữa mà lại tuỳ thuộc hoàn toàn vào mức độ căng kéo giữa lợi nhuận với tiền công.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 5:05:17 GMT 9
3 Mấy ý kiến của Marx
Trong số rất đông các tác giả mà Marx đề cập, Adam Smith và Ricardo được ông quan tâm rất kỹ vì cho rằng đây là những tác giả tiêu biểu của trường phái kinh tế cổ điển, có nhiều đóng góp tích cực mang ý nghĩa khoa học cho công cuộc nghiên cứu khoa kinh tế chính trị, khác hẳn với một số tác giả mà ông cho là “phản động tầm thường” hoặc sùng bái “nịnh bợ một cách hèn hạ”. Trong Grundrisse (1857-58) rồi sau đó là Theories of Surplus-Value (1861-1863), Marx đã để rất nhiều trang và nhiều chương đi khá sâu vào hai tác giả này.
Marx cho rằng khái niệm lao động được Smith sử dụng như tiền đề quan trọng cho lý luận giá trị-lao động, tuy bắt nguồn từ chủ nghĩa trọng nông, nhưng đã được nâng lên thành một thuộc tính trừu tượng, khái quát, cần thiết cho việc đánh giá, quan niệm và đo đạc trình độ phát triển mới của sản xuất. Tuy vậy về một mặt khác, Marx cũng cho rằng trong khi cố ý gạt sang bên giá trị sử dụng chỉ để tập trung nói đến giá trị trao đổi thì Smith lại mặc nhiên trình bày lao động như một sức mạnh xã hội tự nhiên, mang ý nghĩa một bản thể (substance) có nội dung như một giá trị sử dụng, mà không đi sâu vào phân biệt cho được những hình thái và những tính chất đặc trưng của lao động trong các phương thức sản xuất riêng rẽ, đặc biệt tính chất đặc trưng về giá trị trao đổi mà nó hàm chứa trong trong xã hội tư sản.
Đối với việc này, Marx đã bày tỏ nhiều lần sự đồng ý với Ricardo, phê phán sự “lẫn lộn” [tính từ này thật ra không hoàn toàn thoả đáng như đã trình bày bên trên] của Smith giữa lao động thước đo, lao động bao hàm (đại lượng lao động cần thiết để tạo ra hàng hoá) với giá trị của lao động được thuê mướn làm ra hàng hoá đó (tức tiền công của lao động), để chỉ ra nhiều luận điểm thiếu nhất quán của Smith trong mối quan hệ giữa lao động và tư bản. Rất đáng quan tâm là khi nhắc đến cái khả năng của những người đã tích tụ được giá trị để đặt mua, chỉ huy các hình thái lao động, hoặc lao động sống hoặc lao động vật hoá, Marx cho rằng Smith cũng đã “lẫn lộn” [tính từ cũng không hoàn toàn thoả đáng] thêm giữa hai khái niệm này (trong ngôn ngữ của Smith là “lao động” và “sản phẩm của lao động”), chung quy lại cho rằng Smith đã không hiểu hết tính chất của lao động trong xã hội tư sản, với tư cách là lao động làm thuê khi sản xuất ra sản phẩm mang danh hàng hoá để những chủ tư bản đem đi trao đổi trên thị trường.
“… tư bản, với ông ta, – vì, dù ông ta có định nghĩa lao động như sản xuất ra giá trị, ông quan niệm đó như là giá trị sử dụng, như sự sản xuất-vì nó, như là sức mạnh tự nhiên của con người nói chung (điều này làm cho ông ta khác với những nhà trọng nông), nhưng không phải là lao động tiền công, lao động làm thuê (wage labour/salariat), không phải trong tính chất riêng biệt của nó như hình thức đối lập với tư bản – không phải là cái chứa đựng tiền lương lao động như sự mâu thuẫn nội tại từ nguồn gốc, nhưng là trong hình thức phát sinh từ lưu thông, với tư cách là tiền, và như vậy tạo ra ở bên ngoài lưu thông, với tư cách là sự tiết kiệm. Tư bản như thế từ nguồn gốc không tự thực hiện [làm tăng] giá trị – vì sự chiếm hữu lao động của người khác không bao hàm trong khái niệm của nó. Tư bản chỉ xuất hiện sau đó, sau khi đã được giả định trước như tư bản – một vòng lẩn quẩn – với tư cách là chỉ huy đối với lao động của người khác” (Grundrisse BTA, Notebook III, Chapter on Capital; Fondements Vol I, tr.278-279).
Tính chất phản logic của Smith trong lý luận về “các yếu tố sản xuất” đã được phân tích theo hướng trên. Theo Marx, Smith đã đúng khi cho rằng giá trị trao đổi của hàng hoá bao gồm một số đại lượng lao động nhất định. Giá trị của đại lượng lao động nằm trong giá trị trao đổi đó, sau khi trừ đi vật liệu, khấu hao máy móc… thì sẽ dành một phần trả cho lao động-tiền công của công nhân, một phần khác chi cho tư bản với tư cách là lợi nhuận (sẽ phân ra thêm thành địa tô và lợi tức). Nhưng khi đã xác định như vậy rồi, đáng lẽ một cách thuận lý, phải coi đại lượng giá trị lao động còn lại trong tổng giá trị trao đổi nói trên là nguồn gốc phân giải thành tiền công, địa tô, lợi nhuận thì Smith lại biến tiền công, địa tô và lợi nhuận thành những thứ giá trị riêng biệt, độc lập, sau đó đem cộng tất cả lại để tạo thành giá trị trao đổi của hàng hoá và từ đó cũng coi ba thực thể độc lập đó là ba nguồn gốc ban đầu của mọi giá trị, có thể phân bổ thành các nguồn thu nhập khác nhau dẫn xuất từ đó. Marx cho rằng làm như vậy Smith đã lộn ngược lại cái tiền đề ban đầu do ông đặt ra: thay vì coi giá trị là nguồn gốc của tiền công, lợi nhuận và địa tô thì tiền công, lợi nhuận, địa tô lại trở thành nguồn gốc tạo ra giá trị.
Tuy thế điều chúng ta cần ghi nhận trong biện luận của Marx về giá trị trao đổi của hàng hoá ở đây là ông đã cố gắng bảo vệ cho được tiền đề của Smith về lao động tạo ra giá trị hàng hoá và tất cả giá trị này đều do công nhân làm ra, qua đó cũng bảo vệ ý kiến ban đầu của Smith giải thích rằng trong phương thức sản xuất đặt trên tư bản, thành quả lao động ấy công nhân không hưởng một mình mà phải san sẻ cho chủ tư bản. Chính cái đại lượng giá trị không công này được Marx ghi nhận đặc biệt để giải thích sự vận hành nội tại của phương thức sản xuất dựa trên tư bản: đó mới chính là nguồn gốc sinh ra lợi nhuận, địa tô và theo quan niệm này thì lợi nhuận và địa tô chính là giá trị thặng dư không công do công nhân làm ra chia cho nhà tư bản và chủ đất. Phương pháp nhận thức của Smith gồm hai cách trình bày không nhất quán đã được Marx nêu ra:
“… trong đó một cách thì đi sâu vào mối liên hệ nội tại của hệ thống tư sản, có thể nói là đi sâu vào hiện tượng sinh lý của nó, còn một cách thì chỉ mô tả, phân loại, kể lại và đem những cái thể hiện ra bên ngoài trong quá trình của cuộc sống, dưới cái hình thái mà nó đã thể hiện ra và bộc lộ ra bên ngoài, xếp thành những định nghĩa công thức hoá của các khái niệm, – cả hai cách nhận thức ấy ở Smith không những cùng chung sống với nhau một cách rất yên tĩnh, mà lại còn quyện chặt với nhau và thường xuyên mâu thuẫn với nhau” (Theoríes of Surplus-Value, Ch. X & Bản tiếng Việt).
Những khái niệm giá trị tự nhiên, chi phí sản xuất, giá trị thị trường mà Smith sử dụng trong phân tích và trình bày đã được Marx đưa ra để dẫn chứng với những vấn nạn tương tự. Nếu căn cứ cái yếu tính nội tại của tư bản để cho rằng lợi nhuận và địa tô là do giá trị lao động thặng dư của công nhân tạo ra thì, cũng như trong biện luận về “các yếu tố sản xuất”, Smith đã biến lợi nhuận, địa tô thành những giá trị biệt lập rồi đem cộng với tiền công để làm nên giá trị hàng hoá và gọi đó là giá trị tự nhiên. Marx cho rằng, ở đây Smith cũng vấp lại khuyết điểm không thống nhất được yếu tính bên trong của giá trị với biểu hiện bên ngoài của nó: cái gọi là giá trị tự nhiên đó thật sự không phải cái gì khác hơn là giá cả chi phí, kết quả của sự cạnh tranh thị trường, thứ giá trị biểu hiện trên thị trường này không thể đồng nhất hoá với giá trị của hàng hoá xuất phát từ nguyên lý lao động tạo ra giá trị do chính Smith đề xuất từ đầu. (Theoríes of Surplus-Value, Ch. X). Để hiểu được sự phê phán này của Marx đối với Smith cần nhớ lại rằng điều mà Marx đánh giá cao nhất ở Smith và cũng dựa vào đó để phê phán những bất nhất của chính Smith là luận điểm của ông ta về nguồn gốc lao động của giá trị hàng hoá và cũng là nguồn gốc lao động thặng dư của lợi nhuận và địa tô.
Đó là về Smith. Còn về Ricardo, khi so sánh với Smith về vấn đề đang bàn luận, Marx cho rằng lý luận của Smith tỏ ra kém hẳn Ricardo về tính chất thực tế do lẽ vào thời kỳ của Ricardo mối quan hệ tư bản/lao động đã bộc lộ hết tính chất mâu thuẫn gay gắt của nó. Giả định của Smith về cái tình thế ở đó người lao động có thể tạo được toàn bộ giá trị cho sản phẩm rồi đem chia một phần cho tư bản gọi là lợi nhuận, giả định ấy hoàn toàn không còn cơ sở thực tế nào để thuyết minh nữa. Giá trị của lao động đã trở thành một hình thái tư bản (Marx gọi là “tư bản khả biến”) do chủ tư bản đặt mua, mệnh danh là tiền công của lao động (ta có thể nói gọn là lao động-tiền công để phân biệt với lao động-thước đo trong lý luận của Ricardo), kết cấu như một bộ phận của tư bản ứng trước, hoàn toàn bị khống chế bởi quyền lực sản xuất dựa trên tư bản. Vì thế tuy vẫn còn giữ danh nghĩa “lao động” cho lý luận về giá trị, hơn nữa vẫn được tôn vinh như thước đo trao đổi giữa các hàng hoá, nội dung khái niệm lao động trong biện luận của Ricardo hoàn toàn chỉ có ý nghĩa hình thức, thụ động.
Có một số nhà nghiên cứu cho rằng khi dựa vào Ricardo để phê phán Smith và sau đó phát triển lý thuyết của mình, Marx hầu như trở thành một “môn đệ” của Ricardo. Điều này không đúng hoàn toàn vì Marx cho rằng dù Ricardo phê phán Smith một cách xác đáng (thật sự không xác đáng hoàn toàn), để sau đó đưa ra luận điểm “giá trị trao đổi của sản phẩm là kết tinh của lượng lao động ”, Ricardo vẫn vấp phải hàng loạt những mơ hồ, nhầm lẫn, mâu thuẫn trong biện luận. Việc Ricardo phê phán Smith như trên, xét cho cùng, chỉ đơn giản là sự xác nhận “ tình hình là như thế” chứ không đẩy được vấn đề đi xa hơn những biểu kiến của sự vật. Tuy không nói gì đến giá trị thặng dư, nhưng trong công thức cấu thành giá trị của sản phẩm (sau khi trừ vật liệu và linh tinh) = lợi nhuận + tiền công thì cái gọi là “lợi nhuận” ở đây không có gì khác hơn chính là giá trị thặng dư, và với nội dung đó thứ giá trị thặng dư này đã bị đồng hoá một cách tự nhiên với lợi nhuận, như vậy không thoả đáng vì lẽ, một cách chính danh, trong khi lợi nhuận phải đặt để mối quan hệ của nó với toàn bộ tư bản ứng trước (m/ c+v ) [ m: giá trị thặng dư, c: tư bản, v: tiền công) thì giá trị lao động thặng dư lại phải đặt để với giá trị lao động cần thiết (m/v), phân tích một cách có so sánh hai khái niệm này, m/c+ v (tỷ suất lợi nhuận) bao giờ cũng nhỏ hơn m/v (tỷ suất giá trị thặng dư): m/c+v<m/v.
Như vậy xét về mặt này, theo Marx, Ricardo lại kém xa Smith: Ricardo đã không quan tâm một chút gì đến cái thực tế nằm ngay trong những câu chữ mà ông biện luận: đó là sự tồn tại của cái phạm trù lao động không công mà tư bản chiếm hữu được của những người lao động trực tiếp (Marx gọi là “lao động của người khác”), sự tồn tại này Smith đã nhận ra, tuy không lý giải được một cách đến nơi đế chốn, trong khi đó Ricardo, một cách không tự giác, lại che giấu nó dưới hình thức lợi nhuận, nghĩa là dưới tác động trực tiếp của tư bản. Mà với Ricardo trong khi tư bản là "lao động đã được tích lũy" không được minh định về nguồn gốc – đối diện với "lao động trực tiếp" (lao động sống của công nhân) trong vận hành – và được coi như là một cái gì chỉ có tính chất vật thể, “giản đơn chỉ là một nhân tố trong quá trình lao động”, thì cũng chính vậy mà “từ cái đó không thể nào rút ra được mối quan hệ giữa lao động và tư bản, giữa tiền công và lợi nhuận”.
“Theo đúng toàn bộ tính chất của công trình nghiên cứu của mình, ông ta chỉ hạn chế trong việc chứng minh rằng giá trị biến đổi của lao động – nói tóm lại, là tiền công – không bác bỏ luận điểm cho rằng giá trị các hàng hoá, khác với bản thân lao động, được quy định bởi lượng lao động tương đối chứa đựng trong các hàng hoá đó. “Chúng không bằng nhau”, cụ thể là “lượng lao động đã chi phí để làm ra một hàng hoá nào đó, và lượng lao động mà người ta có thể mua được với hàng hoá đó”. Ricardo tự thoả mãn với việc nêu sự kiện đó. Nhưng hàng hoá - lao động khác với các hàng hoá khác như thế nào? Trong trường hợp thứ nhất, đó là lao động sống, trong trường hợp thứ hai – là lao động đã vật thể hóa. Do vậy, đó chỉ là hai hình thái khác nhau của lao động mà thôi. Nếu như sự khác nhau ở đây chỉ là hình thức mà thôi thì tại sao một quy luật có hiệu lực đối với hình thái này lại không có tác dụng đối với hình thái kia? Ricardo không giải đáp được vấn đề đó, thậm chí cũng không đặt vấn đề đó nữa”(Theories of Surplus-Value, Bản tiếng Việt, Chương XV, “Học thuyết Ricardo và giá trị thặng dư”).
Từ những mâu thuẫn trên đây, Marx phê phán Ricardo về phương pháp, cho rằng về mặt này, Ricardo không khác gì bao nhiêu với Smith. Ông ta vẫn đứng trên bề mặt của các sự kiện để mô tả sự vận động của chúng, không đi sâu được vào cái cốt tuỷ của lao động trong phương thức sản xuất tư bản. Sự biện luận của Ricardo vẫn nặng về trừu tượng. Tiên quyết ông ta đưa ra một thước đo bằng lao động cho hàng hoá như là nguyên lý, sau đó đem ướm với thực tế rồi căn cứ vào đó mà phán xét xem chúng có phù hợp hay không. Coi giá trị là điểm khởi hành để đi tới nhưng ông ta bằng lòng dừng lại ở mức độ của khái niệm, chứ không nghiên cứu giá trị dưới cái hình thái cụ thể mà lao động mang lấy với tính chất là thực thể của giá trị. Một mặt khác, ông ta cũng chỉ chú tâm “nghiên cứu các đại lượng của giá trị, tức là những lượng này hay lượng kia của thứ lao động trừu tượng chung đó, và dưới hình thái đó, là những lượng này hay lượng kia của lao động xã hội, – những lượng này quyết định sự khác nhau trong các đại lượng giá trị của hàng hoá”. Cách thao tác khái niệm đó của Ricardo, theo Marx, là cách biện luận trực tiếp, không đi qua những phác đồ trung gian, vì thế trong rất nhiều trường hợp không giải thích được tính chất phức tạp trong vận động của sự vật.
Mặc dù vậy, Marx vẫn coi cái tinh thần nghiên cứu khách quan của Ricardo là mẫu mực, một tinh thần nghiên cứu khoa học như vậy, dẫu có dẫn tới kết quả bất lợi cho bất cứ giai cấp xã hội nào thì cũng là đương nhiên, tất yếu. Những ý kiến của Ricardo về sự căng kéo trong việc phân chia giữa lợi nhuận và tiền công, biểu lộ mâu thuẫn công khai giữa tư bản và lao động, – “lợi nhuận cao hay thấp phụ thuộc hoàn toàn vào việc tiền công trả thấp hay cao”, như ta đã biết – còn xu hướng giảm sút lợi nhuận của tư bản bị quy về lý do địa chủ tăng tô, trong khi được Marx coi là sự phát hiện được “bản thân cái gốc rễ của cuộc đấu tranh lịch sử và quá trình phát triển lịch sử” thì lại bị một nhà nghiên cứu người Mỹ tên Carey tố cáo là luận điệu của một tổ sư … cộng sản, kẻ đi gieo rắc “bất hoà giữa các giai cấp và các dân tộc”, cẩm nang của những tên mị dân tìm kiếm quyền lực bằng chiến tranh, cải cách ruộng đất và tước đoạt ...! (Marx dẫn trong Theories of Surplus Value, Ch. X ].
4 Một số điều chỉnh về lý luận
Trước khi đi sâu hơn vào những điều chỉnh này, cần khẳng định điểm cốt yếu sau đây để tránh những tranh cãi vô ích: Marx không hề khai sinh ra lý luận giá trị-lao động, ông chỉ thông qua sự phê phán lý luận này để tiến hành sự phê phán đối với nền kinh tế chính trị tư sản thời ông. Tất cả những khái niệm như giá trị, giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, tư bản cố định, tư bản lưu động v.v… đều dẫn xuất từ lý luận nói trên. Ngay cả khái niệm đặc trưng macxit là “giá trị thặng dư”, tuy không được các tác giả cổ điển sử dụng minh bạch, cũng đã bao hàm trong sự mô tả của Smith và cả của Ricardo. Tuy vậy để lĩnh hội vấn đề trên tổng quát thiết nghĩ chúng ta cần quan tâm đến hai tiền đề sau đây mà Marx tiếp nhận trong kinh tế cổ điển để đi sâu vào yếu tính của phương thức sản xuất tư bản, qua đó thăm dò một số khả năng chuyển hoá xuất phát từ chính bản thân cái phương thức sản xuất đó. Hai tiền đề ấy là: 1) nhất quán trước sau phải xem lao động là nguồn gốc giá trị tạo ra của cải xã hội, 2) nguyên tắc ngang giá phải được tuân thủ triệt để làm cơ sở cho việc trao đổi các loại hàng hoá khác nhau. Theo dõi sự phát triển các tiền đề trên, chúng ta thấy Marx đã đưa kinh tế cổ điển vào một số chiều hướng mới hoàn toàn và tất cả những luận cứ này đã được Marx trình bày đầy đủ trong các bản thảo Grundrisse và Theories of Surplus-Value.
Về câu trả lời có liên quan đến tính chất sản xuất hay phi sản xuất của lao động Marx lấy lại hoàn toàn quan niệm của những nhà kinh tế cổ điển mà qua sự trình bày của Smith được gọi là “lao động sản xuất” những sản phẩm
“làm tăng thêm giá trị cho các nguyên vật liệu mà họ sử dụng để họ gia công chế biến lao động đó, lao động đó nuôi sống họ và mang lại lợi nhuận cho người chủ thuê mướn họ. Trái lại lao động của người đầy tớ không mang lại giá trị nào cả” (Smith, Phần II, Ch. III, BTV: tr. 476).
Tiêu chuẩn mà Smith đưa ra để cho rằng sản phẩm nằm được trong phạm trù “sản xuất” là nó có thể cất giữ lại để đổi lấy một lượng tương đương với lượng lao động đã làm ra mặt hàng đó. Trái lại lao động của người đầy tớ thường hoàn toàn biến mất ngay khi công việc đã hoàn thành. Smith cho rằng công việc của vua chúa , quân đội, thầy tu, bác sĩ, văn sĩ v.v…. không thể liệt vào hạng lao động “đầy tớ” nhưng xét về kinh tế thì vẫn thuộc loại “phi sản xuất”. Marx đã căn cứ vào tiêu chuẩn ấy để xác định không có sự phân biệt giữa các loại lao động mà người ta gọi là dịch vụ và sản xuất: nếu tác dụng của những hành vi lao động ấy góp phần làm tăng giá trị thặng dư cho tư bản thì chúng thuộc loại “sản xuất”, còn nếu ngược lại thì không. Marx đưa ra thí dụ công việc của người thợ may khi nhận vá áo cho chủ tư bản tại nhà riêng là không giống về bản chất với công việc cũng của người thợ may đó khi đi làm công nhân trong xưởng may cũng của người chủ tư bản đó. Marx cũng dẫn thí dụ về một nhà văn trong trường hợp tự ấn hành tác phẩm và trường hợp đưa tác phẩm cho một công ty tư bản xuất bản. Qua các thí dụ này chúng ta có thể thể lĩnh hội được ý nghĩa về “tính sản xuất” hay không của tình trạng nhiều hình thái sản xuất đan xen nhau (phong kiến, thủ công, phường hội…) trong thời kỳ kinh tế tư bản đã phát triển bao trùm lên toàn bộ xã hội mà tính chất quyết định ở đây là mối quan hệ của chúng có trực tiếp phục vụ cho tư bản thực hiện giá trị hay không chứ không phải là cái gi khác.
Tính chất xã hội, tổng thể của sản xuất trong kinh tế cổ điển (Smith: “quỹ vốn cung cấp ban đầu cho một dân tộc”) cũng đã được Marx phát triển nhất quán hơn. Cái quỹ vốn đó chính là thành tích sản xuất của toàn thể một xã hội trong một tình trạng chung về trình độ phát triển, diễn ra trong một giai đoạn nào đó. Trong tình trạng ấy, tất cả mọi hình thái lao động cá biệt, riêng rẽ, chất lượng khác nhau đều được hoà tan, trung bình hoá thành một trạng thái đơn giản, đồng nhất, trừu tượng nhưng có thể đo lường được qua một vật thể trung gian, đại biểu [với Marx, đó chính là tiền, biểu hiện phổ quát của giá trị lao động hàm chứa trong hàng hoá]. Cách đặt vấn đề phổ quát mang ý nghĩa xã hội về của cải trên phạm vi quốc gia như vậy, rõ rệt đã trừu xuất mọi hiện tượng hiện thực nhưng thuộc lĩnh vực tâm lý cá nhân riêng biệt, độc đáo, khan hiếm, hoặc xuất phát từ những chọn lựa chủ quan về mặt giá trị (như của trường phái cận biên). Trong kinh tế cổ điển cách đặt vấn đề này đã được Ricardo nêu ra và giải quyết rồi; ngày nay người ta có thể nêu ra theo một chiều hướng khác để bổ sung hoặc thay thế về nội dung chứ không thể phủ nhận sự cần thiết của bản thân cách đặt vấn đề .
Mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi trong hàng hoá mà Smith nêu ra cũng được Marx đẩy đến tận cùng logic của nó. Trong lý luận của Smith, như chúng ta đã biết, giá trị sử dụng biểu hiện cho tính chất cụ thể, có ích của hàng hoá đối với người tiêu dùng. Marx gọi đó là cái giá đỡ mang chở giá trị trao đổi, làm cho giá trị sử dụng ấy mang ý nghĩa giá trị sử dụng cho người khác, cho rằng đây là lĩnh vực thương phẩm học chưa được nhiều người quan tâm vào thời ông. Tuy vậy trong quy trình thực hiện giá trị (làm tăng giá trị tư bản), giá trị sử dụng đã bị gạt sang một bên, bị đình chỉ, để cho giá trị trao đổi vượt lên, tự biến thành một chủ thể độc lập, theo một lộ trình riêng biệt, thoát ly mọi ràng buộc cụ thể của thực tế. Nhưng Marx cho rằng đó mới chính là mục tiêu của phương thức sản xuất đặt nền trên tư bản: phương thức sản xuất đó không bao giờ màng đến việc thực hiện giá trị sử dụng, phục vụ nhu cầu tiêu thụ cụ thể của con người mà chỉ hướng tới giá trị trao đổi như mục tiêu tối hậu và duy nhất, coi đó như lẽ sống của bản thân, xa rời là mất lý do tồn tại. Nói rằng mục đích sản xuất của tư bản chỉ vì tiền thì dễ hiểu hơn nhưng vẫn hoàn toàn phù hợp với lý luận về tiền của Marx. Nguồn gốc nguyên sơ của tiền là phương tiện trao đổi và cũng là đại biểu của giá trị trao đổi, nhưng trong sự vận hành của phương thức sản xuất tư bản, tiền đã mang một thuộc tính hình thức thuần tuý, một thứ hình thức ý niệm, vận động tự thân. Với Marx, cuộc hoá thân của giá trị trao đổi khi tách biệt khỏi cái nền đất giá trị sử dụng của nó đã diễn ra từ cái tiền đề thứ nhất là như vậy.
Về tiền đề thứ hai thì Marx lại đi theo cách suy luận khác hẳn: căn cứ vào chính những nguyên lý của kinh tế cổ điển, ông đã chứng minh khi đi vào vận dụng, những nguyên lý ấy đã bị đảo ngược lại hoàn toàn. Với Smith điều này là rất rõ ràng, nó hiện ra ngay ở cái tình thế ở đó ông này cho rằng khi bước sang thời kỳ có tư hữu tài sản thì toàn bộ kết quả do người lao động làm ra phải đem san sẻ một phần cho tư bản với tư cách là lợi nhuận, nhưng bởi vì xét đến cùng lợi nhuận không dính dáng một chút gì đến lao động , dù là lao động quản lý hay chỉ huy, cho nên thực chất đó chỉ là sự chiếm hữu lao động không công của người khác nhân danh sở hữu tài sản. Nguyên lý trao đổi bình đẳng, ngang giá bị lật ngược cũng đã diễn lại với Ricardo, khi xuyên qua công thức gọi là “lượng lao động chi phí để làm ra một hàng hoá”, ông ta muốn giải quyết mối quan hệ giữa lao động vật hoá và lao động sống và đã giải quyết không thoả đáng. Theo nguyên lý thì hai thứ lao động này chỉ khác nhau về hình thức, nhưng tại sao những thứ lao động vật hoá (hàng hoá) trao đổi với nhau lại theo nguyên tắc ngang giá, trong khi đó những thứ lao động vật hoá đó khi trao đổi với lao động sống thì lại theo “nguyên tắc khác hoàn toàn” như Smith thừa nhận và được Marx nêu lại dưới hình thức một vấn nạn: “ Nếu như sự khác nhau ở đây chỉ là hình thức mà thôi thì tại sao một quy luật có hiệu lực đối với hình thái này lại không có tác dụng đối với hình thái kia?” Tại sao giá trị sản phẩm trao đổi với nhau phải lấy lượng lao động vật hoá làm tiêu chuẩn đo lường nhưng khi những sản phẩm ấy đem trao đổi với chính chủ thể lao động tạo ra sản phẩm ấy thì lại không được áp dụng đồng bộ?
Từ những thực tế đó, Marx đã nói đến biện chứng của điều mà ông gọi là “sự phóng chiếu lộn ngược” (inverted projection) trong kinh tế tư sản để trả lời những nhà “xã hội chủ nghĩa”, hiển nhiên không thuộc hàng “những kẻ tán dương hèn hạ” nhưng vẫn chưa dứt khỏi giấc mơ bình đẳng tự do tư sản. Với những người “có thiện chí” này, Marx đã nói với họ như sau:
“Thật là đạo đức giả cũng như đần độn khi mong mỏi rằng giá trị trao đổi sẽ không biến thành tư bản, lao động tạo ra giá trị trao đổi không biến thành lao động tiền công. Cái chia rẽ các vị ấy với những nhà tán tụng tư sản , một mặt là sự nhạy cảm của các vị ấy trước những mâu thuẫn nằm trong hệ thống; mặt khác là sự bất lực không tưởng để nắm bắt được sự khác biệt tất yếu giữa cái hình thái thực tế và lý tưởng của xã hội tư sản, điều này là nguyên nhân của sự ham muốn đảm nhận công việc thừa thãi thực hiện một lần nữa cái biểu hiện lý tưởng mà thực tế chỉ là sự phóng chiếu lộn ngược của cái hiện thực ấy” (Grundrisse BTA, Notebook II, Chương về tư bản).
“Một nguyên lý khác”, bắt nguồn từ cảm hứng của Smith được Marx hình thành và được đặt cho một cái tên đặc biệt: đó là cái “biện chứng tất yếu về sự ly dị tuyệt đối của lao động với quyền tư hữu tài sản”, có cùng nội dung với “quy luật trao đổi bị trực tiếp chuyển sang cực đối lập của nó”. Ai cũng biết rằng cái quyền này rất thiêng liêng trong luật pháp tư sản, nó thể hiện ngay trên những trang viết của Smith: toàn bộ lao động kết tinh trong sản phẩm phải là phần thưởng của lao động tạo ra sản phẩm. Nhưng trong thực tế thì hoàn toàn ngược lại: khi ký hợp đồng làm thuê cho tư bản người lao động không sở hữu gì ngoài hai bàn tay trắng, và tất yếu chỉ có hai bàn tay trắng, nghĩa là không có chút sở hữu nào về tư liệu sản xuất thì mới gia nhập hàng ngũ những công nhân làm thuê. Tất nhiên người ta hoàn toàn tự do khi ký hợp đồng đó. Nhưng ngay từ đầu sự đối tác đó chỉ bình đẳng trên danh nghĩa; về thực chất nó là một cưỡng bức bị che giấu: hoàn toàn không thể gọi được là tự do khi anh chỉ được tự do đi làm thuê để khỏi phải tự do chết đói. Marx đã nói thật rõ về ý nghĩa của sự trao đổi gọi là “ngang giá” này:
“Sự trao đổi của những cái ngang giá, có vẻ như quyền sở hữu sản phẩm lao động được xem là tiên quyết – như vậy có vẻ mặc nhiên thừa nhận là đồng nhất sự chiếm hữu qua lao động, quá trình kinh tế thực sự biến một cái gì đó thành cái của riêng với quyền sở hữu của lao động đã vật hoá. Điều này – xuất hiện trước đây như là một quá trình thực tế thì bây giờ được thừa nhận như là một quan hệ pháp lý, nghĩa là một điều kiện tổng quát của sản xuất và như thế được thừa nhận bởi luật pháp, đặt định như biểu hiện của ý chí chung. Nhưng trong thực tế, điều được thừa nhận đó đã bị lật ngược, tự thân bộc lộ qua cái biện chứng tất yếu như là sự ly dị tuyệt đối của lao động với tài sản, và sự chiếm hữu lao động xa lạ mà không hề có trao đổi, không hề có sự tương đương” (Grundrisse BTA, Notebook V, Chương về Tư bản &Fondements Vol I, tr. 480).
Chúng ta đang được Marx dẫn đến một tình thế ở đó cái biện chứng về “sự ly dị tuyệt đối của lao động với tài sản” đã diễn ra một cách thật ly kỳ. Như thông thường, tất cả vẫn là bình đẳng và tự do về danh nghĩa nhưng trên thực tế tất cả đều ngược lại – chỉ có điều khác và mới thêm vào, đó cái biện chứng ngược đầu đó đã được thực hiện bằng một thứ thủ đoạn lén lút và phi pháp rất mực vô tư, rất mực “tự nhiên”. Trên thị trường, lao động được rao bán theo giá trị trao đổi dưới danh nghĩa sự ngang giá của một hàng hoá mệnh danh “vốn người”, một yếu tố trong những yếu tố sản xuất, không ai có thể phàn nàn. Nhưng khi đã rơi vào tay các ông chủ tư bản rồi thì Marx cho rằng lao động lại được đem ra “xài” theo cái giá trị sử dụng chứa đựng tiềm ẩn trong bản thân nó, không đúng với giá trị đã trao đổi: hoặc là bằng cách trực tiếp buộc lao động phải tăng thêm một số lượng thời gian dôi ra (“giá trị thặng dư tuyệt đối”) hoặc là dùng kỹ thuật tăng năng suất cho công cụ (tư bản cố định) làm giảm số lượng thời gian lao động cần thiết buộc lao động cố gắng tăng số lượng thặng dư nhiều hơn để tiếp tục thực hiện giá trị cho tư bản (“giá trị thặng dư tương đối”). Marx cho rằng qua việc chủ tư bản sử dụng lao động như vậy, nguyên tắc ngang giá trong trao đổi đã bị huỷ bỏ hoàn toàn: tư bản thực chất không mua lao động mà chính là mua sức lao động của người khác để khai thác giá trị vượt khỏi và cao hơn cái mà sức lao động ấy phải cung cấp theo thoả thuận. Tất cả những thứ gọi là bình đẳng, tự do trong các hợp đồng nhân danh “thuê mướn lao động” đều chỉ là bịp bợm, dối trá. Người ta không thể không nghĩ đến cuốn sách mới của Daniel Bensaid tựa là Marx, “Mode d’emploi” (Zones, France, 2009) để hình dung tư bản như một cái xưởng chế tạo giá trị thặng dư bí hiểm (không khác gì xưởng chế tạo ma tuý của các thế lực xã hội đen)!
Sức lao động, đó chính là khái niệm chìa khoá mà Marx đã tìm ra để lý giải mối quan hệ giữa tư bản và lao động trong phương thức sản xuất đặt nền trên tư bản. Nó thay thế cho khái niệm lao động trống trơn và huyễn hoặc mà các tác giả cổ điển hay dùng. Và để có được khái niệm này, Marx đã không làm gì hơn là dựa vào chính những tiền đề mà các tác giả kinh tế cổ điển (như Smith và Ricardo) đã diễn giải, không làm gì hơn là nhân danh chính nội dung của những tiền đề ấy để tháo gỡ những mâu thuẫn và phục hồi sự nhất quán về logic cho lý luận về giá trị-lao động mà kinh tế cổ điển dựa vào để xây dựng cơ sở. Với thao tác lý luận đó, Marx đã làm một cuộc cách mạng cho chính trường phái kinh tế cổ điển, nhưng đồng thời cũng lại mang đến cho nó những điều chỉnh kinh hoàng về lý luận. Những luận điểm mới của Marx đã phá tan cái huyền thoại về tư bản mà người theo trường phái kinh tế ấy thường quan niệm như các thứ vốn vật thể (công cụ sản xuất, vật tư, tư bản ứng trước …) để tạo điều kiện cho công nhân “sản xuất”: tư bản không phải như vậy, với Marx đó chỉ là cái phần bộc lộ biểu kiến của yếu tính, chúng chỉ có thể tồn tại được trên cái nền xã hội đã nâng đỡ chúng, trên đó những thứ gọi là “vốn tư bản” đã được sử dụng như những miếng mồi để thu hút lao động sống; định chế xã hội ấy đã tước đoạt ngay từ đầu quyền tư hữu tài sản của người lao động, biến họ thành những kẻ vô sản trắng tay, qua đó buộc họ chấp nhận số phận làm thuê cho chủ tư bản – những người này vốn cũng không có gì trong tay như họ, nhưng được nuôi dưỡng bởi một định chế giúp họ thao túng được quyền lực chính trị, chi phối được toàn bộ của cải của quốc dân theo lợi ích của mình, nên đã nhân danh sự tăng trưởng kinh tế phổ quát, nhân danh quyền làm chủ công cụ sản xuất, nhân danh những bất trắc trong đầu tư, để khai thác sức lao động của người khác theo phương thức, không phải san sẻ, thoả hiệp (như Smith đã cho là vậy), mà là thống trị, tước đoạt. Tư bản, tồn tại trong một nền pháp quyền tư sản, trong điều kiện lao động bị đối xử như một hình thức lệ thuộc, ở đây không chỉ là vấn đề kinh tế, vấn đề làm ra của cải vật chất mà từ chiều sâu của nó, và cũng là bản chất của nó, chính là vấn đề xã hội, vấn đề quan hệ đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 5:06:35 GMT 9
5 Sự hình thành một khái niệm
Chúng ta đã bước vào một bước ngoặt quan trọng của sự chuyển hoá lý luận đối với kinh tế cổ điển theo quan điểm macxit: từ chỗ là một vật thể quan hệ với lao động để sản xuất, tư bản bây giờ đã mang một nội dung khác hẳn: một quan hệ phi vật thể, một quan hệ xã hội về sản xuất, một quan hệ giữa người và người. Dưới nhiều hình thức Marx đã trình bày nội dung này của tư bản với cái nghĩa lịch sử cần phải truy tầm cho nó. Ông cho rằng xét về mặt kinh tế thì bất cứ hình thái sản xuất nào cũng cần “tư bản”, định nghĩa như công cụ lao động, để vận hành [ngay như khi ta dùng tay để nhặt thóc thì bàn tay ta đã là công cụ rồi]. Tư bản ở đây chính là một trong những yếu tố vật chất của toàn bộ quy trình lao động. Khi sản phẩm hoàn thành, muốn đem trao đổi với người khác thì cần thiết phải đưa nó ra thị trường đồng thời với việc sử dụng tiền tệ để tính toán, thanh toán, lưu trữ giá trị, v.v… Nói cách khác trước khi có sản xuất tư bản thì đã có nhu cầu sản xuất nói chung, và tuỳ theo từng thời kỳ mà ra đời những điều kiện sản xuất riêng biệt. Nhìn vấn đề theo quá trình phát triển của xã hội, Marx cho rằng phương thức sản xuất tư bản chỉ là một hình thái mang tính lịch sử, nếu đã dựa trên những tiền đề nào đó để ra đời thì đến lượt nó, nó cũng tạo ra cho chính nó những tiền đề dẫn tới giai đoạn chấm dứt cái vòng sinh tồn của bản thân. Những tính chất độc đáo của tư bản mà Marx tìm ta được chính là kết quả của sự suy lý biện chứng về lịch sử đó của ông.
Để lĩnh hội được tính chất độc đáo này, chúng ta cần ghi nhớ rằng, đối với Marx, hình thái sản xuất dựa trên tư bản được xem là giai đoạn phát triển cao nhất có thể dẫn đến một chuyển hoá cao hơn của quá trình xã hội con người trên đường chinh phục tự nhiên để cải tạo cuộc sống của mình, về phương diện của cải vật chất lẫn phương diện văn hoá, khoa học. Phải căn cứ vào đỉnh cao của cái xã hội mà ta đang sống đó để hiểu những hình thái đã dọn đường cho nó, giống như, theo cách diễn tả nhiều lần của Marx, phải dựa vào giải phẫu học về cơ thể con người để hiểu giải phẫu học về vượn-người. Trong sản xuất, hình ảnh đó giả định một quá trình tiến hoá từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của xã hội con người, vấn đề đặt ra là phải tìm ra những bước quá độ về phẩm mà xã hội tư sản đã tự nhào nặn, tự hoá thân để vươn tới những tính chất đặc trưng tiêu biểu của nó.
Một cách khái quát, Marx đã mệnh danh cho cả cái giai đoạn quá độ ấy là giai đoạn sản xuất đơn giản mà đặc tính bao trùm là sự đứt đoạn trong cả quy trình. Một người bỏ tiền ra mua công cụ, vật liệu, tự sản xuất, cùng gia đình hoặc có thể thuê mướn một số nhân công, sau đó đem ra tiêu thụ để thu hồi lại vốn liếng và công sức, cũng có thể kiếm được một số giá trị thặng dư, tất cả dưới hình thức tiền, nhưng rồi tất cả cũng sẽ dừng nơi đó để chấm dứt một quy trình. Marx gọi cái quy trình trao đổi ấy là một quy trình trao đổi đơn giản ở đó sự sản xuất chia ra từng đoạn riêng rẽ , rời rạc. Động cơ của quy trình này cũng có cùng một tính chất: người ta sản xuất cốt yếu chỉ để phục vụ nhu cầu tiêu dùng; trong những cộng đồng còn chưa phát triển, của cải làm ra còn ít ỏi, khan hiếm, cho đến những cộng đồng có trình độ cao hơn, sản phẩm dồi dào hơn nhưng nếu trong quan hệ chỉ giới hạn ở việc trao đổi những sản phẩm thừa, chưa cấp thiết dùng đến, thì vấn đề sản xuất cũng chỉ như vậy mà thôi: ở đây giá trị sử dụng trong sản phẩm được xem là đích ngắm chủ yếu.
Cũng cần ghi nhận rằng trong hình thái sản xuất này, tất cả những yếu tố cấu tạo thành quy trình sản xuất tổng quát đều có đủ (phân công lao động, kiến thức, kỹ thuật sản xuất, thị trường, tiền tệ v.v….) , tất nhiên không thể không kể đến những quan hệ xã hội tổ chức và phân phối (từ công xã, gia đình, thủ công, phường hội, hợp tác…đến những hình thái tiếp giáp với tư bản hiện đại như tư bản thương mại, tư bản cho vay …), tuy vậy theo Marx có một điều quan trọng ở đây là tất cả đều không có hoặc chưa có: sự sản xuất xét trên tổng thể chủ yếu chưa hướng về việc kiếm lời, việc buôn bán không phải vì mục đích đơn thuần đuổi theo giá trị trao đổi. Có nghĩa là lúc ấy người ta chưa có nhu cầu để coi trao đổi theo nghĩa hiện đại như một thiên hướng “tự nhiên” theo cách nói của Smith.
Từ phương thức sản xuất đơn giản nói trên, khi chuyển qua phương thức sản xuất tư bản theo lý giải của Marx, thiết nghĩ cần phải ghi nhận cái ý tưởng quan trọng mà Marx đã phát biểu nhiều lần: từ trong nội tại của nó, phương thức sản xuất tư bản không chứa đựng điều gì có thực chất để hiện thể ra ngoài một cách quá “hoành tráng” như những người ta thường nghĩ về nó. Với Marx, tất cả những gì mà tư bản có được đều chỉ là những cái mà nó thu nhặt, thừa hưởng, lợi dụng hoặc chiếm đoạt từ bên ngoài hoặc của người khác. Lao động thặng dư của công nhân hiển nhiên là điều được Marx nói đến nhiều nhất, chúng ta đã nói qua và chắc chắn sẽ còn phải nhắc lại. Nhưng không phải chỉ như thế mà là tất cả: từ sự hợp lý hoá sản xuất nhờ phân công lao động, những cuộc thám hiểm mở rộng không gian trao đổi, sự tăng trưởng về dân số, sự phát triển của khoa học, những phát minh công nghiệp, kỹ thuật chế tạo máy móc v.v… Marx cho rằng tất cả đều được tư bản khai thác lợi dụng không tốn một đồng xu nào. Vốn là kết quả của một sự chuyển động phát triển của lịch sử, tư bản đã thừa hưởng được tất cả những thành quả mọi mặt mà loài người tích tụ được. Không thể hiểu được ý nghĩa của nhận xét trên đây của Marx nếu không nắm rõ nội dung cái “bộ công cụ” thao tác mà tư bản đã tạo ra trong những điều kiện đó để sử dụng như bí quyết mở rộng tầm chinh phục rộng khắp của nó.
Marx đã viết rất nhiều về tiền và cái mà ông gọi là tiền-tư bản (money-capital/argent-capital) như công cụ vạn năng đó. Chúng ta đều biết với Smith, tiền chỉ là biểu hiện giá trị danh nghĩa của cái gọi là giá trị thật của hàng hoá, tức là số lượng lao động tích chứa trong sản phẩm, cho phép người sở hữu nó có thể căn cứ vào đó “đặt mua” một lượng lao động tương đương bao hàm trong những hình thái lao động của người khác mà không cần phải khó nhọc làm ra. Marx cho rằng với chức năng đó, tiền chỉ là một phương tiện trao đổi trong quy trình sản xuất đơn giản: sau khi đã trao đổi xong, hàng hoá sẽ bị tiêu huỷ trong tiêu thụ, còn tiền thu được sau khi hàng hoá bán đi, sẽ trở thành công cụ lưu trữ, nằm chết một chỗ, nếu không được đưa vào quy trình sản xuất một lần nữa. Đó là chức năng của thứ tiền mà Marx gọi là tiền thông thường rất khác với tiền-tư bản với những thuộc tính mới là làm công cụ cho tư bản thực hiện giá trị. Loại tiền này không đặc biệt gì mà thật sự chỉ là sự chuyển hoá của tiền thông thường trong quá trình trao đổi đơn giản đến trao đổi tư bản.
Marx cho rằng trong sản xuất đơn giản đã có sự hiện hữu của tiền cùng với giá trị trao đổi rồi và tiền chính là đại biểu cho giá trị trao đổi; và ngay trong hình thái sản xuất này, khi giá trị trao đổi đã hiện thân thành tiền thì tiền đã tách biệt khỏi hàng hoá để đi vào thế giới trừu tượng của những ý niệm, và trở thành đại biểu cho của cải tổng thể. Một vật thể riêng biệt nhưng cũng là một biểu tượng phổ quát.
“Tiền như như vậy tồn tại như là giá trị trao đổi của tất cả hàng hoá đứng bên cạnh và bên ngoài hàng hoá. Đó là một vật thể phổ quát mà hàng hoá phải nhúng vào, mạ vàng, tráng bạc để trở thành độc lập với tư cách là những giá trị trao đổi. Hàng hoá chuyển dịch thành tiền, biểu hiện trong tiền. Tiền trở thành sự thống trị phổ quát của những giá trị trao đổi, của những hàng hoá với tư cách là những giá trị trao đổi” (Grundrisse BTA: Notebook 1, Chapter on Money, part II) .
Việc giá trị trao đổi tách khỏi hàng hoá, rồi đến lượt nó, giá trị trao đổi chuyển thành tiền, đó chính là bước đầu giá trị trao đổi thoát ly khỏi giá trị sử dụng để đi vào một cuộc hành trình độc lập. Tách khỏi hàng hoá, tiền thực hiện trao đổi hàng hoá nhanh hơn, dễ dàng hơn, nhưng cũng vì vậy mà từ chỗ là phương tiện trao đổi, tiền trở thành mục đích tự thân trong sản xuất và cũng là “quyền lực” trong xã hội, như Smith đã nói. Tiền-thông thường bây giờ đã có điều kiện để trở thành tiền-tư bản với cái chức năng riêng biệt trong quy trình trao đổi đặc trưng tư bản là làm cho giá trị tư bản tự nhân lên, tự phình ra một cách tự động và liên tục, khác hẳn với vai trò nó từng giữ một cách đứt đoạn trong quy trình trao đổi và lưu thông trước đó. Marx đã dùng cách diễn đạt sau đây để biểu hiện hai quy trình (mà cũng là hai giai đoạn) sản xuất khác nhau:
1) H–T–H . Hàng–Tiền–Hàng trong lưu thông và quan hệ trao đổi giản đơn: hàng đổi hàng thông qua tiền (dưới nhiều hình thức); mục đích chính là tiêu thụ, tiền chỉ là phương tiện trao đổi. Trường hợp này vẫn có công cụ, có tiền, có trao đổi, có quyền tư hữu nhưng chưa có tư bản đúng nghĩa. Mọi thứ đều chấm dứt trong tiêu thụ, chấm dứt lưu thông, sau đó tái diễn một cách gián đoạn.
2) T – H… H’– T’. H (vốn ban đầu) = tiền công lao động + công cụ, vật tư. H’(sản phẩm hoàn thành) = tiền công lao động + lao động thặng dư + công cụ, vật tư. T’ > T vì trong T’ đã có giá trị thặng dư. Đây là trường hợp sự vận động của tiền diễn ra trong quy trình sản xuất tư bản: tư bản đã tăng giá trị trong quá trình sản xuất, có nghĩa là H đã trở thành H’ rồi mới chuyển lại thành tiền có giá trị T’ trong lưu thông. Marx cho rằng theo quy luật trao đổi ngang giá, xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất, giữa bán và mua không thể có sai lệch về giá trị để tạo ra lợi nhuận cho tư bản.
Ngoài việc làm cho tư bản tăng thêm giá trị, tiền-tư bản trong giai đoạn này còn có chức năng làm cho giá trị ấy tăng lên một cách không đứt đoạn trong một dòng lưu thông liên tục. Tính chất hai mặt của tiền ở đây đã mang ý nghĩa chức năng: từ chỗ tách rời hàng hoá để trở thành giá trị trao đổi, sau đó thành đại biểu cho của cải phổ quát, tiền vẫn biểu hiện sự tồn tại của mình như một hàng hoá riêng biệt (có thể mua qua bán lại) và chính từ sự hiện diện này, nó đã giao tiếp với lao động sống với tư cách tiền công, rồi hoà mình và nhập thân vào quy trình sản xuất, hút từ quá trình này phần giá trị thặng dư do lao động sống tạo ra, cuối cùng nhẩy ra khỏi lưu thông với tư cách là tiền đại biểu giá trị trao đổi, mang theo một đại lượng giá trị mới cao hơn giá trị ban đầu. Điều đặc biệt là với tính chất hai mặt của nó, tiền có thể lúc là mặt này lúc mặt khác, ra vào lưu thông một cách liên tục, lúc đưa giá trị thặng dư (dưới danh nghĩa lợi nhuận và thu nhập) về cho chủ tư bản để tiếp tục đầu tư, tăng cường tư bản cố định, lúc tiếp cận với lao động sống để điều chỉnh hoặc thúc đẩy sản xuất và thu hút giá trị thặng dư, làm cho các thành tố cấu tạo trong quy trình lưu thông của tư bản, luôn luôn được nhen nhúm, khởi động lại và vận hành như một chuyển động vĩnh cửu (perpetuum mobile).
Khái niệm này đã được Marx sử dụng nhiều lần, có lẽ đã lấy cảm hứng từ vai trò tự động của hệ thống máy móc mà ông cho là thích hợp nhất với quy trình sản xuất dựa trên tư bản, qua đó cũng được sử dụng như một công cụ thống trị lao động. Cũng như Ricardo, Marx cho rằng tính chất quan trọng của máy móc là nó rút ngắn được thời gian lao động cần thiết, làm giảm bớt sự nhọc nhằn và đem cho công nhân thời gian rỗi rảnh hơn. Nhưng điều này chỉ đúng trong điều kiện nội dung hoạt động của máy móc đồng nghĩa với công cụ lao động, do áp dụng khoa học, kỹ thuật mà tăng thêm giá trị sử dụng áp dụng cho việc tăng sức sản xuất. Còn trong điều kiện sản xuất theo phương thức tư bản, mà mục đích duy nhất là tăng thêm giá trị trao đổi, Marx cho rằng máy móc đã được tư bản sử dụng ngược hẳn lại: nó không “thay thế lao động hoặc thực hiện những gì mà bản thân lao động không thể tự lực thực hiện được” như ý kiến của những người như Lauderdale mà chỉ nhân đó “làm tăng tỷ lệ của lao động thặng dư so với lao động cần thiết, tạo cho lao động khả năng trong một thời gian ngắn, sản xuất ra được nhiều sản phẩm cần thiết cho việc duy trì sức lao động sống hơn hẳn bằng cách tăng sức sản xuất của nó”. Nói cách khác:
“tư bản chỉ sử dụng máy móc trong chừng mực máy móc tạo khả năng cho người công nhân dùng một phần thời gian của mình nhiều hơn để làm việc cho tư bản, coi phần lớn thời gian của mình là không thuộc về mình, làm việc lâu hơn cho người khác. Thật vậy, thông qua quá trình ấy, số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một vật phẩm nào đó được rút xuống con số tối thiểu, nhưng chỉ để một lượng lao động thặng dư tối đa được thực hiện trong một lượng tối đa những vật phẩm như thế” (Fondements , Vol II, tr. 217 & Bản tiếng Việt).
Với logic của sự chuyển hoá, công cụ sản xuất trở thành tư bản cố định được sử dụng như hình thức lao động vật hoá để thống trị lại lao động sống trong điều kiện công cụ sản xuất đã trở thành máy móc, việc tìm kiếm lao động thặng dư để thực hiện giá trị cho tư bản cũng mang tính chất thích hợp : sức người phải được giả định như một sức ngựa cơ giới đứng ngoài mọi quy chiếu về nhân tính để khai thác tối đa . Với thuộc tính đó, tư bản đứng lên trên các giai đoạn khác nhau của quá trình vận động, điều động mọi chuyển hoá diễn ra trong cuộc tuần hoàn sản xuất, dưới hình thức của một vòng xoáy trôn ốc phát sinh từ một vòng tròn mở rộng.
“Sự phát triển tư liệu lao động thành hệ thống máy móc không phải là điều ngẫu nhiên đối với tư bản, mà là một sự cải tạo lịch sử những tư liệu lao động truyền thống được kế thừa, sự chuyển hóa của chúng thành những tư liệu lao động thích hợp với tư bản. Do vậy, sự tích lũy kiến thức và kỹ năng, sự tích lũy những lực lượng sản xuất phổ biến của khối óc xã hội được tư bản thu hút, đối lập với lao động và do đó biểu hiện ra là thuộc tính của tư bản, và biểu hiện ra một cách rõ ràng hơn nữa là thuộc tính của tư bản cố định một khi nó bước vào quá trình sản xuất với tính cách là tư liệu sản xuất thực thụ” (Fondements Vol II, tr. 213 & Bản tiếng Việt).
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy phê bình Smith, Ricardo chỉ nhắm mục đich xoá bỏ nguồn gốc lao động thặng dư tạo nên tư bản (ở đây là tư bản cố định, tư bản quá khứ) và giao cho tư bản bất biến (công cụ và vật tư) chức năng tạo ra giá trị (ngược với lý luận về lao động), biến luôn cả lao động sống thành tư bản dưới hình thức tư bản ứng trước cho tiền công, nói tóm lại chuyển hoá tư bản vốn là kết quả của lao động thành tư bản chủ thể của toàn bộ quy trình sản xuất mà mục tiêu duy nhất là thống trị và chiếm hữu lao động không công của người khác để tự mở rộng về trương độ lẫn không gian.
6 Sự bành trướng và sức cản
Qua những gì đã trình bày, chúng ta thấy với Marx, tư bản không phải chỉ là một quan hệ xã hội, một quá trình tự nhân lên giá trị mà còn là một quan niệm về phát triển của cải vật chất khác hẳn với những cách đã từng xảy ra: hạ vị thế con người xuống hàng vật thể để khai thác tối đa lao động thặng dư của họ với tư cách là một giá trị trừu tượng, phổ quát. Để đạt tới những kết luận ấy, như chúng ta đã biết, Marx đã kết hợp việc bảo vệ một số khái niệm và tiền đề của kinh tế cổ điển với những suy lý của riêng ông về thế giới trong đó tính lịch sử của mối quan hệ giữa điều kiện lao động và lao động là then chốt. Với Marx trong phương thức sản xuất dựa trên tư bản, tư bản chỉ là tư bản theo nghĩa thống trị lao động, còn lao động chỉ là lao động làm thuê cho tư bản. Vì thế tư bản chỉ có thể tồn tại trong vị thế đối lập với lao động và lao động chỉ là lao động đối lập với tư bản. Marx cho rằng những tác giả theo trường phái kinh tế cổ điển là những nhà “khoa học” theo nghĩa là họ đặt ra được vấn đề đó, nhưng do vẫn bị cầm tù bởi quan điểm tư sản nên cách lý giải của họ vẫn không thoát khỏi những phần huyễn hoặc, sai lầm. Cũng vì vậy khi phê phán, Marx vẫn giữ lại những đóng góp của kinh tế cổ điển, vẫn coi lý luận giá trị-lao động là nền tảng để đẩy vấn đề đi tới một lý giải thoả đáng cho mối quan hệ nói trên, trong điều kiện nền văn minh nhân loại bước vào một khúc quanh mới về chất. Những suy tưởng xa hơn của Marx về vai trò lịch sử của tư bản trong việc hình thành những viễn cảnh mới cho một hình thái kinh tế-xã hội có thể có trong tương lai đã được hình dung ra từ công việc dọn đường đó.
Trước khi đi sâu hơn vào vấn đề này, chúng ta cần nhớ lại điều quan trọng mà Marx đã từng nói đến: không có sự đồng nhất giữa điều kiện sản xuất của tư bản với điều kiện sản xuất nói chung của con người qua các thời đại, và điều đó có nghĩa là ngay trong phương thức sản xuất tư bản đã có hai sức sản xuất khác nhau, có thể gặp nhau trong biểu hiện nhưng không đồng nhất với nhau về bản chất. Một là sức sản xuất xã hội do bản thân lịch sử tạo ra, có nguồn gốc từ những nỗ lực chinh phục của nhân loại trong quá khứ (Marx thường nói đến sự phân công lao động và sự phát triển của khoa học) . Hai là sức sản xuất mà tư bản đã thừa kế được từ cái đã qua để tạo ra phần riêng cho nó, phần riêng này Marx cho rằng không có thực chất mà toàn bộ chỉ là thành quả chiếm hữu của người khác.
“… tư bản không tạo ra thế giới lại từ đầu, nhưng sản xuất và sản phẩm đã có sẵn trước khi tư bản bắt sản xuất và sản phẩm phải tuân theo quá trình của nó. Khi tư bản đã hoạt động rồi, khi nó xuất phát từ chính nó, thì nó thường xuyên tự đặt để dưới những hình thái khác nhau của mình với tư cách là sản phẩm tiêu dùng cá nhân, nguyên liệu và công cụ lao động, để thường xuyên tái sản xuất ra bản thân dưới các hình thức ấy” (Fondements Vol II, tr.190-191& Bản tiếng Việt).
Là một quan hệ xã hội, tư bản thực sự không bao giờ đặt mục đích tạo ra giá trị sử dụng để phục vụ nhu cầu tiêu thụ của con người, và như nhận xét của Marx: nếu có quan hệ thì nó chỉ giả định là cái giá đỡ cho giá trị trao đổi, tức chỉ là phương tiện gián tiếp để tư bản làm tăng giá trị cho bản thân – mà tiền là biểu hiện. Máy móc được gọi là tư bản cố định nhưng thực chất chỉ là lao động vật hoá, tích tụ được từ chính lao động thặng dư “nhọc nhằn, phiền muộn” của hàng hàng lớp lớp các thế hệ công nhân. Tư bản như vậy không chỉ không liên hệ gì đến bất cứ một hành vi lao động nào để được trả công (như Smith đã khẳng định) mà còn đối lập với lao động, và trong vị thế đối lập trở thành thống trị, nó thâu tóm được tất cả thành quả lao động của người khác, để sau đó được những nhà lý luận sùng bái tư bản gây ngộ nhận về vai trò “sáng tạo ra giá trị” mà nó không hề có.
Từ nhận xét trên đây, chúng ta có thể hình dung ra tính đặc trưng có một không hai của tư bản: tư bản đã đem đến cho quá trình tạo ra của cải của loài người một quan niệm về sự giàu có chưa từng có – một sự giàu có phổ biến, trừu tượng, tự động bành trướng, tự phình ra, tự nhân lên cùng nhịp với sự lạnh lùng, vô cảm của các loại máy móc thời hiện đại và như ta đã biết, thứ của cải đó chính là đồng tiền ý niệm. Và cái phương pháp được đem ra thực hiện để chiếm hữu thứ của cải ấy cũng không kém phần đặc biệt: dựa trên bề mặt của một định chế kinh tế trao đổi dưới danh nghĩa ngang giá, một nền pháp chế dân chủ và bình đẳng về hình thức, nó đã tìm được cách qua mặt mọi thứ để phá vỡ mọi quy ước và cam kết, sau đó tạo nên những tiền đề ảo để con người dựa vào đó sản xuất ra những sản phẩm thật mà hiệu quả không đưa đến đâu ngoài sự đối nghịch với bản chất của mình. Lý luận lao động tạo ra giá trị ở đây đã biến thành lao động bị tước đoạt giá trị, đẩy lao động vào tình trạng bị vong thân, điều mà Marx đã nói trong một bản thảo thời còn trẻ (1844), 14 năm sau (1857-1858 ) – hẳn là không còn “trẻ” nữa – vẫn tiếp tục nói lại để mô tả mối quan hệ giữa lao động và tư bản trong phương thức sản xuất tư bản mà cũng là mối quan hệ nội tại của con người với nhau trong một tình thế đặc biệt của lịch sử: con người đánh mất bản thân trong chính sản phẩm của mình làm ra – lao động vật hoá chống lại lao động sống.
“Giới hạn của tư bản là toàn bộ sự phát triển của nó diễn ra một cách đối kháng và quá trình tạo ra lực lượng sản xuất, của cải phổ biến, của khoa học v.v. diễn ra như sự tha hoá của người lao động; người lao động xử sự với những điều kiện do chính họ tạo như đối với thứ của cải của người khác và sự nghèo túng của chính mình. Nhưng hình thức đối kháng này chỉ nhất thời và tạo ra những điều kiện thực tế để thủ tiêu chính nó” (Fondements Vol II, tr. 35).
Như vậy theo cái logic của Marx về lịch sử thì tất cả những “thành tích” của phương thức sản xuất tư bản trên đây không chỉ mang ý nghĩa đơn giản ở sự biểu hiện của chúng. Trong biện chứng của Marx, tư bản muốn tồn tại vĩnh viễn như một thực tại tự nhiên, muốn mở rộng vòng hiện diện của nó đến chỗ vô giới hạn, nhưng trong khi tìm cách vượt qua những rào cản để tự thực hiện thì cũng chính ở trong công việc này nó đã tạo ra những rào cản tự chống lại mình: và cái tác nhân đối kháng đó không phải là cái gì khác hơn là cái thực thể bị nó thống trị, nhưng lại ấn định và tạo ra cho nó hình hài để tồn tại, đồng thời cũng nội tại trong nó như một tiềm thể đợi chờ ngày đập vỡ cái hiện hữu huyền thoại của nó để giành lại tính chủ thể sáng tạo ra giá trị của mình: cái tác nhân ấy chính là lao động mà trường kinh tế cổ điển đã coi là tiền đề giải thích nguồn gốc mọi nỗ lực tạo ra của cải xã hội. Marx đã nói khá nhiều về những dạng mâu thuẫn sinh tử (gián tiếp hoặc trực tiếp) do lao động tạo ra cho tư bản, chúng ta sẽ chỉ nói đến hiện tượng được xem là quan trọng gọi là “khuynh hướng giảm sút lợi nhuận của tư bản” được những người nghiên cứu Marx nói đến rất nhiều từ trước đến nay.
Thật sự thì hiện tượng này là do Smith và Ricardo đưa ra, Marx chỉ lấy lại chứ không hề dựng nên. Smith cho rằng nguyên nhân là do cạnh tranh, còn Ricardo thì quy về lý do tăng lên của địa tô, nhưng dù sao tất cả đều dựa trên mối tương quan căng kéo giữa tư bản và tiền công để lập luận. Marx đã làm rõ hơn mối quan hệ này theo quan điểm toàn cục của ông đối với phương thức sản xuất tư bản, và coi đó như tất yếu trong quá trình bành trướng của nó: để đối phó với xu hướng tiền công ngày càng tăng, sự cạnh tranh ác liệt giữa các thế lực tư bản với nhau, tư bản đã áp dụng những thành tựu của khoa học, chế tạo máy móc để cải tiến công cụ làm tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, lấy số lượng chiếm lĩnh thị trường để bù lại, và kết quả không tránh khỏi là làm cho cơ cấu của tư bản tổng thể bị mất cân bằng – quy mô phần tư bản tổng thể (công cụ+tiền công) vượt khỏi phần tư bản bỏ ra thuê lao động sống (tiền công). Vấn đề giảm sút tỷ suất lợi nhuận của tư bản cũng bắt nguồn từ đó. Tức là khi tư bản bành trướng đến tình trạng thích hợp nhất với nó và trở thành tư bản máy móc, giá trị thặng dư tương đối tăng lên được vật hoá ngày càng nhiều trong công cụ, còn máy móc thì ngày càng chiếm vị trí bao trùm trong quá trình sản xuất, kết quả là làm cho bộ phận lao động trực tiếp sản xuất nhỏ đi so với bộ phận lao động đã vật hoá, nghĩa là bộ phận tư bản được dùng để đổi lấy lao động sống càng nhỏ đi so với tư bản tổng thể, thì khi ấy hiện tượng tỷ suất lợi nhuận giảm sút cũng là tất yếu. Nói cách khác: mặc dù tỷ lệ giữa lao động thặng dư với lao động cần thiết giả định là không thay đổi, lợi nhuận do giá trị thặng dư tạo ra cứ ngày càng ít đi so với sự phình ra ngày càng lớn của tư bản cố định vốn là bộ phận cốt yếu tạo thành tư bản bất biến (gồm thêm vật tư). Marx cho rằng tư bản có nhiều phương cách để ngăn chận hiện tượng giảm sút tổng thể đó mà người ta có thể hình dung như tăng cường độ bóc lột, hạ tiền lương, sử dụng hoặc nhập khẩu tư bản bất biến giá rẻ, giảm bớt sự thay đổi cơ cấu tư bản, di chuyển tư bản tới các khu vực có lao động và nguyên liệu rẻ … nhưng tất cả đều chỉ là tạm thời và giới hạn. Xét từ nền tảng, xu hướng đó là trầm kha, nó phản ảnh sự mâu thuẫn không lối thoát giữa lao động vật hoá với lao động sống nằm ngay trong phương thức sản xuất dựa trên tư bản.
“Vì hiện tượng sút giảm lợi nhuận tương ứng với sự sút giảm tương đối của lao động trực tiếp so với lượng lao động vật hóa do lao động trực tiếp tái sản xuất và mới tạo ra, nên tư bản tìm mọi cách ngăn trở sự giảm đi của lao động sống so với lượng tư bản tổng thể, tức cũng ngăn trở sự giảm đi của giá trị thặng dư biểu hiện dưới hình thức lợi nhuận so với tư bản có trước. Nó cũng cố giảm cái phần dành cho lao động cần thiết và tăng thêm nhiều hơn số lượng lao động thặng dư so với toàn bộ lao động được sử dụng. Vì vậy, sự phát triển đến tối đa của sức sản xuất cũng như sự trương nở tối đa của của cải hiện có sẽ trùng khớp với sự mất giá của tư bản, sự thoái hóa và sự kiệt quệ sinh lực ngày càng tăng của người công nhân” (Fondements, Vol. II, p. 277 & Bản tiếng Việt).
Marx coi hiện tượng giảm sút lợi nhuận là quy luật căn bản của tư bản. Ông cho rằng những mặt tiêu cực nói trên chính là nguồn gốc của những bùng nổ, những cuộc khủng hoảng làm cho lao động tạm thời bị ngưng lại, huỷ hoại một bộ phận lớn các loại tư bản riêng biệt, tất cả sẽ kéo tư bản nói chung tuột xuống cái mức ở đó nó còn có thể tiếp tục hoạt động mà chưa đến nỗi tự sát. Marx cũng cho rằng những tai hoạ cứ tái diễn đều đặn, ngày càng với quy mô lớn hơn, có thể có tác dụng điều chỉnh sắp xếp lại để quy trình sản xuất tư bản gượng dậy và phục hồi, nhưng cuối cùng sẽ không tránh khỏi rơi vào chỗ sụp đổ dữ dội. Xét về mặt kinh tế đơn thuần, cuộc khủng hoảng cuối cùng của phương thức sản xuất tư bản do giảm sút lợi nhuận có xảy ra với kết quả dự đoán của Marx hay không là điều có thể bàn cãi hoặc phủ định khi đem đối chiếu với những diễn biến thường nghiệm. Nhưng đây không phải là chỗ để chúng ta nói về điều đó mà chỉ muốn, trong khi tìm hiểu, làm rõ hơn cái logic biện luận mà Marx đã vận dụng để giải thích hiện tượng này: đó không có gì khác hơn là cái logic của sự tác động ngược lại của lao động đối với quy trình sản xuất của tư bản. Những phần lao động bị tư bản tước đoạt bây giờ lại chuyển hoá thành những nhân tố chống lại việc tư bản thực hiện giá trị để bành trướng: giá trị sử dụng của lao động sống đã được chuyển vào lao động vật hoá, dần dà tích tụ thành sức mạnh đủ để ngăn cản tư bản với tới mục tiêu của nó là giá trị trao đổi.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 5:08:14 GMT 9
7 Những tín hiệu của tương lai
Những tín hiệu này là tích cực và có thể được nhận ra trong cái đà suy luận của Marx: chúng bao hàm ngay trong những biểu hiện tiêu cực của tư bản mà qua sự diễn tả của Marx, tính chất hứa hẹn của chúng có thể gây ra ngạc nhiên với chúng ta: trong những mặt xấu xa nhất, tệ hại nhất của tư bản đã hàm chứa tất cả những cái ngược lại, nghĩa là tiến bộ nhất, có ý nghĩa giải phóng con người ở mức độ kỳ diệu nhất.
Chúng ta hãy nói thêm về hiện tượng máy móc làm giảm thời gian lao động cần thiết so với thời gian lao động thặng dư đã đề cập ở trên để làm rõ nhận xét đó. Như chúng ta biết, vấn đề này Ricardo đã nói đến, bây giờ được Marx khai triển theo một viễn cảnh rộng lớn đụng chạm đến bản chất của tư bản: qua tất cả những chuyển hoá trung giới quanh co, rút lại sự tước đoạt của tư bản không có gì khác hơn là chiếm hữu thời gian lao động của người khác – lượng thời gian mà Smith cho biết là do công nhân thêm vào sản phẩm để chủ tư bản đem bán và thu về giá trị với tư cách là lợi nhuận của tư bản – bây giờ người ta gọi là “khoản chi trả cho tư bản” để chỉ nội dung của nó. Người chủ tư bản như vậy không thể tự định nghĩa cách nào khác hơn là đại diện nhân hoá của tư bản – ở một nơi khác Marx gọi đó là một tư bản pour-soi để đối với tư bản vật thể mà ông gọi là tư bản en-soi – , một hình thái đại diện của một vật thể chết mà sự tồn tại được bồi đắp bằng sức lao động của những sinh thể người còn sống. Và cái mà đại diện nhân hoá ấy chiếm hữu được và gọi đó là “giá trị” theo định nghĩa của Smith, chính là cái khả năng “đặt mua” được các loại hình lao động bày bán trên thị trường mà không cần đem “niềm vui, hạnh phúc và tự do” của bản thân ra trả giá. Thời gian của tư bản vì thế là thời gian phi lao động, và do đó cũng là thời gian phi sản xuất cũng theo tiêu chuẩn của Smith. Nhưng khi tư bản dùng quyền lực buộc lao động “hy sinh” cho mình rồi đem giá trị lao động thặng dư tích tụ dần dà vào tư bản cố định, tăng cường sức mạnh cho nó (ở đây là máy móc) để tiếp tục làm phương tiện bòn rút thêm giá trị thặng dư trong lao động sống thì vô tình nó đã dấn mình vào một cuộc phiêu lưu đầy bất trắc: nó đã tự làm mình bị giảm giá một cách trầm trọng. Lúc trước vốn là một công cụ lao động trong quy trình sản xuất đơn giản, sau khi chuyển hoá thành tư bản cố định trong điều kiện tư bản đã thống trị được toàn bộ nền sản xuất, bây giờ, trong sự bành trướng để trở nên hùng mạnh thêm, lại là lúc nó tạo ra những điều kiện để cho cái mà nó coi là phương tiện trước đây, là giá trị sử dụng, ngoi dần lên mặt tiền sân khấu, xoay tư bản cố định về hướng hoạt động phục hồi lại chức năng công cụ ban đầu của sản xuất – là làm vơi đi sự nhọc nhằn của lao động bằng cách làm giảm thời gian cần thiết cho quá trình lao động.
“Bản thân tư bản là một mâu thuẫn đang thực hiện quá trình, mâu thuẫn ấy là ở chỗ tư bản, một mặt, tìm cách giảm thời gian lao động xuống mức tối thiểu, và mặt khác, làm cho thời gian lao động trở thành thước đo duy nhất để đo của cải và trở thành nguồn của cải. Vì vậy tư bản giảm thời gian lao động dưới hình thái thời gian lao động cần thiết, để tăng thời gian lao động dưới hình thái thời gian lao động dư thừa; vì vậy tư bản ngày càng biến thời gian lao động dư thừa thành điều kiện – thành vấn đề sống còn – đối với thời gian lao động cần thiết. Một mặt, tư bản làm nảy sinh tất cả sức mạnh của khoa học và của giới tự nhiên, cũng như những sức mạnh của sự kết hợp xã hội và của sự giao tiếp xã hội, – nhằm làm cho việc tạo ra của cải trở nên độc lập (một cách tương đối) với thời gian lao động đã chi phí vào sự sáng tạo ấy. Mặt khác, tư bản muốn đo những sức mạnh xã hội to lớn đã được tạo ra theo cách đó bằng thời gian lao động và nhét những sức mạnh ấy vào những phạm vi cần thiết để duy trì giá trị đã được tạo ra với tính cách là giá trị. Lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội – cả hai thứ đó đều là những mặt khác nhau trong sự phát triển của cá nhân xã hội – đối với tư bản chỉ là phương tiện và chỉ dùng làm phương tiện cho tư bản để tiến hành sản xuất trên cơ sở hạn hẹp của nó. Nhưng trên thực tế chúng là những điều kiện vật chất để phá đổ cơ sở ấy”. (Fondements Vol. II, tr. 222-223 & Bản tiếng Việt)
Marx cho rằng tư bản máy móc, khi phát triển sức sản xuất của nó đến chỗ có hiệu quả cao nhất, sẽ mở ra ngay trong lòng phương thức sản xuất tư bản khả năng giải phóng lao động khỏi nội dung của hình thái lao động cũ, theo định nghĩa của Smith để mang ý nghĩa tích cực hơn: sự vượt qua những trở ngại bên ngoài của con người với tư cách là chủ thể để hiện thực hoá tiềm năng nội tại của mình; lao động bây giờ không còn là khổ dịch mà trở thành một hoạt động tự do của “con người toàn diện”, mang tính chất sáng tạo của một nghệ sĩ, hấp dẫn và đam mê trong căng thẳng và nghiêm túc. Tình trạng ấy chỉ có được khi lao động hoàn toàn làm chủ được máy móc, coi máy móc là giá trị sử dụng đúng nghĩa của công cụ giúp những người lao động thoát khỏi những vướng bận lam lũ vì sinh kế, có nhiều thời giờ nhàn rỗi hơn để tham gia vào đời sống văn hoá, trước đây vẫn là lĩnh vực độc quyền của những thành phần thiểu số “phi sản xuất”.
Vấn đề tiết kiệm thời gian lao động vì vậy đã được Marx đặc biệt quan tâm. Kinh tế tư bản lấy thời gian của người khác làm phương thức phát triển của cải, rút đời người thành phương tiện, thành vật dụng do đó trong sự phát triển của mình đã đi vào một mâu thuẫn không lối thoát. Một mặt dùng khoa học kỹ thuật rút bớt thời gian lao động cần thiết trong sản xuất nhưng mặt khác lại tìm mọi cách tước đoạt thời gian lao động dôi ra của công nhân để tăng trưởng của cải một cách vô độ, mâu thuẫn này biểu hiện ở phương thức tổ chức sản xuất đặt nền trên một triết lý phủ định tính toàn diện của con người. Nhưng mặt khác, trong đà phát triển của nó, với việc chế tạo ra máy móc, tư bản lại mở ra một viễn cảnh mới: biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp thay cho việc khai thác khối lượng thời gian lao động trực tiếp trong việc tạo ra của cải xã hội; và với chiều hướng đó, Marx cho rằng tư bản đang đứng trên nấc thang lịch sử cuối cùng của phương thức sản xuất tước đoạt thời gian lao động của người khác diễn ra từ lâu, nhưng cũng chính từ nấc thang đó, với tính chất riêng biệt của một mô thức chuyển tiếp, chiếm hữu được di sản của quá khứ, ngoài ý muốn của mình, nó đã nhón chân qua cái nấc thang đó với những thể nghiệm tích cực cho tương lai.
“Trong sự chuyển hóa ấy, cơ sở chủ yếu của sản xuất và của của cải không phải là lao động trực tiếp do chính con người thực hiện và không phải là thời gian trong đó anh ta lao động, mà là sự chiếm hữu sức sản xuất phổ biến của chính con người, là nhận thức của con người về giới tự nhiên và sự thống trị giới tự nhiên do sự tồn tại của con người với tư cách là một cơ thể mang tính xã hội, tóm lại – đó là sự phát triển của cá nhân mang tính xã hội. Sự ăn cướp thời gian lao động của người khác – sự ăn cướp này là nền tảng mà sự giàu có ngày nay dựa trên đó – được quan niệm là cái cơ sở thảm hại so với cái cơ sở vừa mới phát triển lên cách đây không lâu, do chính nền đại công nghiệp tạo ra. Một khi lao động dưới hình thái trực tiếp của nó không còn là nguồn của cải vĩ đại nữa thì thời gian lao động không còn là và phải không còn là thước đo của cải nữa, do đó giá trị trao đổi không còn là thước đo giá trị sử dụng nữa. Lao động thặng dư của quần chúng công nhân không còn là điều kiện để phát triển của cải phổ biến, cũng giống như sự không lao động của một số ít người không còn là điều kiện cho sự phát triển những sức mạnh phổ biến của đầu óc con người nữa. Do đó, nền sản xuất dựa trên giá trị trao đổi bị sụp đổ, và hình thái sự nghèo nàn và sự đối kháng được trút bỏ khỏi chính quá trình sản xuất vật chất trực tiếp (Fondements, Vol. II, p. 222 & Bản tiếng Việt).
Câu cuối của đoạn dẫn trên đây của Marx đã đưa chúng ta đến kết luận chung cuộc cho lý luận giá trị-lao động mà những nhà kinh tế cổ điển đã dựa vào để lý giải sự vận hành của tư bản: trong khi coi lao động là nguồn gốc tạo ra của cải ích dụng cho xã hội nhưng lại đẩy sang bên lề giá trị sử dụng của của cải và coi giá trị trao đổi là mục đích và phương cách duy nhất để tự bành trướng, tư bản đã đẩy mô thức phát triển dựa trên giá trị trao đổi ấy đến những kết quả tận cùng của nó với những mâu thuẫn có tác dụng tự huỷ hoại. Nhưng đây mới là điều đặc biệt đáng chú ý: đó là những mâu thuẫn huỷ hoại mang tính biện chứng đặc trưng mácxit: những mâu thuẫn tất yếu phải tạo ra huỷ hoại để làm sinh thành những giá trị mới cho xã hội mới đang tượng hình. Những giá trị tích cực này do Marx gợi ra, tuy không bất ngờ vì cách biện luận logic quen thuộc của ông, nhưng vẫn gây ra cho chúng ta nhiều bỡ ngỡ; chúng hiện hữu ngay trong bản thân khái niệm “giá trị trao đổi”, nền tảng lý luận của sự trao đổi hàng hoá trong xã hội tư sản – đại biểu phổ quát cho hàng hoá sau đó chuyển hoá thành tiền để trở thành đại biểu phổ quát cho của cải – như là sự ẩn tàng của bình minh trong đêm đen, của hy vọng trong tuyệt vọng.
Giá trị trao đổi đó, sự khái quát trừu tượng tột độ về giá trị của cải vật chất được toàn bộ xã hội theo đuổi như mục đích tự thân, thay thế cho những quan hệ trực tiếp, làm cho các cá nhân xa lạ với người khác và bản thân thì ở một mặt khác nó lại có tác dụng tích cực trong sự hình thành một hình thái giá trị mới: thoát khỏi được những xiềng xích trói buộc của những thống trị cụ thể thời tiền tư bản, tự đặt để từ tiên khởi như những bản vị tự trị, độc lập, nhào nặn trong cuộc cạnh tranh sinh tử lấy tính phổ quát làm chuẩn mực để tồn tại và vươn lên, các cá nhân nhờ đó hấp thụ được những phẩm chất mới trước đây chưa hề có. Marx đã đưa ra một so sánh rất đặc biệt để trình bày quan niệm này: giá trị trao đổi trong sự biểu hiện thành tiền của nó, với tư cách là một vật thể riêng biệt nhưng đồng thời là hiện thân quyền lực cao nhất cho giá trị, có thể trao đổi với bất cứ một vật thể thứ ba nào, không cần phân biệt, Marx cho rằng cái khả năng trao đối phổ quát đặt nền trên những mục đích vật chất và vị kỷ đó đã rất giống với tình trạng ở đó sự suy đồi, tham nhũng đã phát triển đến mức phổ quát , do đó ông đã đặt cho hiện tượng ấy một cái tên cực kỳ độc đáo là “sự đánh đĩ phổ biến”, “đánh đĩ mười phương” (prostitution universelle) cùng với một nhận định cũng cực kỳ độc đáo về sự chuyển hoá giá trị: sự tiêu cực cùng cực đó chính lại là giai đoạn cần thiết để các cá nhân học được bài học về “sự phát triển tính cách xã hội, tài năng, năng lực, hoạt động mang tính cách cá nhân”, thông qua sự thử thách về “mối quan hệ phổ biến của tính hữu dụng và vị lợi”.
“Khả năng có thể trao đổi với bất cứ sản phẩm nào, hành động và quan hệ với một vật thể khác mà đến lượt nó lại có thể trao đổi với bất cứ cái gì, không phân biệt bất cứ cái gì – nói cách khác là sự phát triển của các giá trị trao đổi và các mối quan hệ tiền bạc – khả năng đó tương ứng với tính hám lợi và sự đồi bại nói chung. Tình trạng đánh đĩ phổ biến – hay nói lễ phép hơn: nguyên lý thực dụng phổ biến – là một giai đoạn cần thiết cho sự phát triển xã hội của các năng khiếu, năng lực, hoạt động của con người” (Fondements, Vol I, p. 100).
Hiện tượng lao động thặng dư mà tư bản dựa trên hình thức giá trị trao đổi ngang giá để chiếm đoạt sức lao động giúp nó bành trướng với những kết quả làm tha hoá con người cũng được Marx xét đến ở một số khía cạnh tích cực mà nó mang lại cho sự phát triển xã hội và cá nhân. Ông nói đến cái đặc điểm lịch sử lớn lao mà việc khai thác lao động thặng dư theo phương thức tư bản đã ảnh hưởng đến nhu cầu tạo ra của cải trong viễn cảnh sung mãn của thời kỳ sẽ đến, thời kỳ mà quan điểm đơn thuần về giá trị sử dụng hiểu theo nghĩa thuần sinh kế sẽ không còn được coi là quan trọng nữa. Việc tư bản sử dụng máy móc để khai thác giá trị thặng dư tương đối, thúc đẩy sản xuất đi về phía trước một cách vũ bão, cũng gợi ra khả năng sử dụng khoa học như một lực lượng sản xuất trực tiếp, thay cho việc tập trung khai thác thời gian lao động để giải quyết sự tăng trưởng kinh tế như đã từng xảy ra ở các thời kỳ khan hiếm mà tư bản đã đưa lên hàng đầu. Riêng đối với những người lao động trực tiếp, Marx chú ý đặc biệt đến vai trò tổ chức và quản lý của tư bản trong việc hình thành những thói quen kỷ luật khắt khe trong lao động, nhất là thói quen làm cho sự cần cù trở thành một thái độ sống phổ biến trong hoạt động, một đức tính mà Marx cho rằng sẽ “tác động vào các thế hệ kế tiếp theo như là thuộc tính phổ quát của giống loài mới” trong tương lai.
“Cố gắng không ngừng của tư bản trong khi hướng về hình thái phổ quát của sự giàu sang đã thúc đẩy lao động vượt khỏi giới hạn của sự tầm thường của nó, và vì thế tạo ra những nhân tố vật chất cho sự phát triển của tính cách cá nhân phong phú, toàn diện trong sản xuất lẫn trong tiêu thụ, và lao động của nó vì thế cũng không còn như lao động mà là sự phát triển đầy đủ của bản thân hành động ở đó sự tất yếu tự nhiên trong hình thái trực tiếp của nó đã chấm dứt vì lẽ một nhu cầu tạo ra một cách lịch sử đã thay chỗ cho nhu cầu tự nhiên” (Grundrisse BTA, Notebook III, “Chapter on Money” ).
Một ý quan trọng cần được ghi nhận trong đoạn văn trên đây của Marx, ý này đã được ông lặp lại nhiều lần, và phương thức sản xuất tư bản đã coi là tiền đề để phát triển của cải, bây giờ được nêu lại theo một hướng mới hoàn toàn: đó là vị trí của chủ thể sản xuất với tư cách là những cá nhân trừu tượng trong giả định của Smith và Ricardo, những cá nhân ấy trong xã hội lấy giá trị lao động thặng dư làm chuẩn mực thử thách để tồn tại, theo Marx, vẫn có khả năng nương theo cuộc cạnh tranh khắc nghiệt đó để vượt qua những thói nhỏ nhen, lợi dụng những yếu tố tích cực tồn tại trong xã hội tư sản, hình thành cho bản thân những tố chất của sự phát triển “toàn diện” và “phong phú” chuẩn bị cho một tương lai sung mãn, ở đó những cá nhân sẽ trở thành những cá nhân mang tính xã hội trong một hoàn cảnh lịch sử mới mẻ hoàn toàn: không còn là những thực thể bị đè bẹp bởi các thứ tôn ti thời tiền tư bản, cũng không còn là những Robinson tư sản độc lập với nhau một cách hư ảo, mà là những nhân cách xã hội đã cá biệt hoá trong điều kiện phát triển tổng thể với những nhân tố tích cực toàn diện về mặt vật chất lẫn văn hoá.
“Mối quan hệ của sự phụ thuộc cá nhân (hoàn toàn tự phát khi khởi thuỷ) là hình thức xã hội đầu tiên ở đó khả năng sản xuất của con người chỉ phát triển ở mức vừa phải và ở những điểm biệt lập. Sự độc lập cá nhân đặt trên sự phụ thuộc vật thể khách quan là hình thái lớn thứ hai ở đó một hệ thống của sự trao đổi chất xã hội, của mối quan hệ phổ quát, của những nhu cầu về mọi mặt được hình thành lần đầu tiên. Tính chất độc đáo tự do, dựa trên sự phát triển phổ quát của những cá nhân và sự phụ thuộc của họ vào cộng đồng của mình đó là giai đoạn thứ ba. Giai đoạn thứ hai tạo điều kiện cho giai đoạn thứ ba”. (Grundrisse BTA, Notebook I, October 1857, “Chapter on Money”, Part II).
Với Marx, cá nhân không hề bị hoà tan vào một cái tổng thể khách quan nào đó như người ta đã tưởng mà là những thực thể độc đáo có khả năng tự mình thoát ra khỏi những ảo tưởng về những quy định tất yếu xa lạ với tính chủ thể đích thực của con người. Kiến tạo ra những môi trường thuận lợi để cá nhân phát triển toàn diện đó chính là mục đích tối hậu của cuộc giải phóng lao động mà Marx đã nói đi nói lại rất nhiều lần: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Phương thức sản xuất tư bản trong khi coi những chủ thể sản xuất như những cá thể tự trị ảo tưởng thì đồng thời qua hình thái đó cũng đã cung cấp cơ sở vật chất tạo ra tiềm năng để họ có thể vượt qua và trở thành đích thực. Một khi những cá nhân ý thức được tình thế hiện thực của cái xã hội đã tước bỏ tự do của mình thì khi ấy họ sẽ bắt đầu đi tìm viễn cảnh hiện thực cho một xã hội cần phải có để bảo vệ sự tự do của họ.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 5:09:17 GMT 9
8 Vài nhận xét Qua tất cả những gì đã trình bày, chúng ta thấy tuy tư tưởng Marx đã được cấu tạo nên từ nhiều nguồn nhưng điểm xuất phát của nó rõ ràng là từ lý luận giá trị-lao động của trường kinh tế cổ điển. Đó là điểm xuất phát quan trọng vì tất cả cái hệ thống lý luận mà Marx xây dựng nên đều đặt trên căn bản của kinh tế cổ điển cho rằng lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị cho sản phẩm. Luận điểm lao động bị tha hoá trong phương thức sản xuất tư bản – cơ sở để xây dựng học thuyết giải phóng lao động với cuộc cách mạng gọi là vô sản về sau – chỉ là logic phát triển từ tiền đề đó. Tuy vậy chỉ với kinh tế cổ điển không thì không đủ. Để có được luận cứ hình thành học thuyết về lao động nói trên, Marx đã vận dụng phương pháp biện chứng lịch sử để phê phán những kết quả mà ông cho rằng mâu thuẫn, sai lầm do chính các nhà kinh tế cổ điển đã suy ra từ chính cái tiền đề tạo nên học thuyết của họ. Nguồn gốc của phương pháp phê phán này xuất phát từ Hegel, Marx chỉ ám chỉ đây đó, nhưng được các nhà nghiên cứu chứng minh rõ rệt, thể hiện trong các tác phẩm của ông, đặc biệt trong Grundrisse vào thời ông không còn gọi được là “trẻ” nữa . Người ta có thể kể đến một nguồn tư duy khác trực tiếp tạo nên học thuyết Marx là tư tưởng xã hội chủ nghĩa của những nhà tư tưởng Pháp, nhưng thật sự đây chỉ là sự gọi tên cuối cùng cho một cuộc tìm kiếm mà kết quả đã được nhận ra ngay trong cuộc hành trình. Khi nhìn lại kết quả tổng hợp trong học thuyết Marx, qua sự vận động của những khái niệm, những phạm trù mà Marx sử dụng, nhiều tác giả đã có cơ sở để cho rằng quan điểm phê phán của Marx với kinh tế tư sản chỉ là sự phê phán triết học về kinh tế – có thể hình dung như một thứ biện chứng luận macxit về kinh tế – nghĩa là tìm cách khai triển ý nghĩa triết học trong các sự kiện kinh tế, và việc phê phán ấy chỉ nhắm mục đích coi kinh tế như điểm xuất phát để suy tưởng về những vấn đề khái quát thuộc lĩnh vực chính trị, những hình thái xã hội thay nhau trong lịch sử nhân loại từ khởi thuỷ cho đến ngày nay. Sự kiện hiện thực bị phóng chiếu qua lăng kính của những phạm trù triết học đã bộc lộ rất rõ trong biện chứng về mối quan hệ tư bản/lao động, đã trình bày ở các phần trên, như là sự thống nhất và đối nghịch quyện vào nhau trong quá trình đấu tranh, chinh phục, đồng hoá và triệt tiêu nhau. Tư bản thống trị lao động khi tư bản biến được lao động vật hoá trong công cụ thành tư bản cố định, lao động sống thành tư bản đầu tư vào tiền công. Lao động sẽ theo lộ trình đó mà đảo ngược lại, phục hồi tất cả, lấy lại vai trò chủ thể của sản xuất để vượt qua tư bản. – “Chỉ có một mình lao động mới sản xuất; lao động là thực thể duy nhất của các sản phẩm với tính cách là những giá trị” (Fondements Vol II, tr. 115) –. Chung cuộc thì lao động sẽ thắng vì lao động là cái tầng nền tảng của thực tại. Còn tư bản sẽ qua đi là do tư bản chỉ là cái váng của lịch sử, là cái phi lao động xuất hiện nhất thời trên đường đi của một nhân loại tự thực hiện yếu tính của mình là lao động. Bây giờ chúng ta hiểu tại sao trong khi phê phán lý luận của mọi trường phái kinh tế tư sản, Marx luôn đối lập giá trị sử dụng với giá trị trao đổi, sản phẩm với hàng hoá, công cụ lao động với tư bản cố định, lao động sống với lao động vật hoá, tiền thông thường với tiền-tư bản v.v… Tư bản như vậy không còn là tư bản tự thân nữa mà đã trở thành tư bản của một hệ tư duy. Lao động cũng vậy. Sự thao tác trừu tượng trong những phân tích đó là quá hiển nhiên: đó không phải sự mô tả về mối quan hệ hiện thực của những tập hợp người trong đời sống – ở đây là quan hệ “bóc lột” cụ thể của những chủ tư bản với những người làm thuê – mà là sự va chạm của những khái niệm trong đó con người chỉ là những hiện thể nhân cách. Thực sự thì nhiều lần Marx cũng đã xác nhận như vậy và điều đó đã tiếp sức cho những khái niệm trong văn bản của ông một cái đà vận động không hề chịu sức cản của thực tế, cũng không hề bị thuộc tính của thực tế quy định. Lao động và tư bản phải là hai thực thể sống mái cùng hiện hữu trong một khoảng thời tạm bợ: nếu lao động được gọi đúng tên của nó là lao động thì tư bản là phi lao động, nếu có dính dáng gì đến lao động – lao động vật hoá, lao động quá khứ – thì cũng chỉ là những cái đã mất bản sắc, là công cụ để tư bản thống trị, nô dịch lao động sống, lao động đích thực. Khi đã là hai thực thể có được sự tồn tại siêu hiện thực như vậy thì chúng sẽ được phép tung hoành với tốc độ tối đa để phát triển bản chất cố hữu của chúng. Tính đặc trưng của tư bản là khai thác lao động để tự động nhân lên, tự phình ra một cách vô độ cho nên nó phải dốc hết tiềm năng để bóc lột, rồi cũng vì đó mà tự đào huyệt chôn mình theo cái biện chứng của sự sinh thành: xuất hiện trong lịch sử như kết quả của một xu hướng phát triển đã có cơ sở vật chất để trở thành phổ biến nên tư bản chỉ nương theo đó mà thúc đẩy cho sự phổ biến ấy đi đến tận cùng hậu quả rồi sau đó sẽ tự tạo ra cho mình những điều kiện tự diệt bằng cách tạo ra trong bản thân những mầm móng tích cực, để cho lực lượng đối lập thay thế thừa kế tạo ra một hợp đề phát triển phổ biến hơn trong tương lai. Một số khái niệm mà Marx tìm ra được qua sự phê phán trường kinh tế cổ điển đã chứa đựng những nội dung siêu hiện thực như vậy. Chúng ta hãy lấy khái niệm sức lao động được coi là chìa khoá mở cửa vào hệ thống của Marx làm thí dụ. Trước hết đó là một khái niệm không thể kiểm chứng được một cách cụ thể trên thực tế, những cái mà Marx gọi là “những sức tự nhiên thuộc về thân thể của con người” (Tư bản, Phần 1, Quyển 1, Sự thật, Hà Nội, 1984, tr. 230) khi nó được quy vào cái phạm trù gọi là thời gian lao động xã hội cần thiết, kết quả tổng hợp của một tình trạng xã hội với một sức sản xuất nhất định nào đó nhưng lại khá mơ hồ, không thể tìm ra được cột mốc nào để định lượng, tính toán về phương diện kinh tế. Tính chất “trừu tượng” của khái niệm lao động khi vận dụng vào thực tế làm “thước đo”, gặp khó khăn như thế nào trong thực tế đã được Smith đề cập; Ricardo khi sử dụng lại khái niêm đó cũng không đẩy xa hơn việc xác định như một thứ bản thể nằm sâu trong sản phẩm, coi là cơ sở để tính toán giá trị nhưng hiện thể trên thị trường lại không tìm được điểm tựa ở đâu ngoài giá cả tính bằng tiền. Khi khái niệm lao động nói chung đó được Marx chuyển thành sức lao động cho rằng có thể lý giải tình trạng làm thuê trong phương thức sản xuất tư bản một cách xác thực hơn, nhưng ngoài việc duy trì tính biểu tượng nói chung cho một trường phái coi lao động là nguồn gốc duy nhất tạo ra của cải, trên thực tế, mặc dù ngược lại với tính chất tư duy lạnh lùng học được từ Ricardo, Marx đã không mang cho khái niệm ấy một ý nghĩa cụ thể nào khác hơn là một công cụ tố cáo phẩm chất đạo đức của tư bản cực kỳ gay gắt mà chúng ta đã biết nội dung: sự khai thác của tư bản đối với giá trị thặng dư của lao động vừa xảo quyệt gian dối (mua theo giá trị trao đổi nhưng xài theo giá trị sử dụng) lại vừa vô độ, phi nhân tính (coi lao động như vật thể để bóc lột bằng mọi cách). Tính chất tố cáo thật triệt để nhưng xét kỹ thì nó lại không hề đụng chạm đến những nguyên tắc căn bản của phương thức sản xuất tư bản, mà trái lại, đã nhân danh sự ngang giá và bình đẳng trong trao đổi hàng hoá, bao gồm luôn cả tính chất hình thức của pháp quyền tư sản, để chống lại sự áp dụng sai, áp dụng ngược lại những nguyên tắc mà phương thức sản xuất tư bản coi là tính chính đáng để tồn tại. Sự tố cáo bao hàm trong khái niệm “sức lao động” đó cũng giống khái niệm “lợi nhuận” mà Marx lấy lại của Smith để phơi bày tính chất ăn bám của tư bản – thực chất được ông gọi là là “giá trị thặng dư” –, coi tư bản như một thứ danh nghĩa không có thực lực nhưng biết lợi dụng và tước đoạt mọi thành quả lao động của người khác để tự nhân lên giá trị của bản thân, coi lợi nhuận là mục đích tự thân, tham lam vô độ, bất chấp tất cả. Chỉ vì đã là một cơ cấu sản xuất vô nhân tính nên những gì mà tư bản thực hiện cho nhân loại, được Marx thừa nhận và biểu dương hết mực – đặc biệt việc áp dụng khoa học vào sản xuất làm giảm thời gian lao động cần thiết, tạo thời gian nhàn rỗi cho công nhân –, có chỗ xưng tụng đến phi lý, nhưng xét đến cùng vẫn bị phủ định bằng cách coi đó chỉ là những kết quả “ngoài ý muốn” của nó, có làm gì đi nữa thì nó cũng hoàn toàn “xa lạ” với công nhân, hơn nữa chỉ để tạo điều kiện tước đoạt lao động của công nhân một cách tự động, liên tục. Với tính chất đó, tư bản giống như một cái gì đó vượt lên trên xã hội, chi phối vận mệnh con người như một thế lực siêu hình, phi vật thể như Sísmondi đã viết: “Tư bản, giá trị thường trực, tự nhân lên, không bao giờ huỷ hoại. Giá trị đó tự rứt ra khỏi hàng hoá đã tạo ra nó; như một tính chất siêu hình, phi vật thể, nó luôn khống chế cùng một anh nông dân, đội lốt cho anh này nhiều hình thức khác nhau” (Dẫn trong Grundrisse BTA, Notebook V). Một thứ tư bản được mô tả như vậy chỉ có thể hình dung như một cấu trúc phi nhân loại, máy móc, lạnh lùng, thủ đoạn biến hoá tài tình, rất đáng khâm phục nhưng cũng đáng sợ hãi, thù ghét. Chính hai khái niệm “lợi nhuận” (hoặc “giá trị thặng dư”) và “sức lao động” phối hợp tác động lẫn nhau trong lập luận của Marx đã tạo ra hiệu quả tố cáo đến mức tối đa về bộ mặt ghê gớm đó của tư bản. Ở đây tính chất ý thức hệ của sự mô tả biếm hoạ và cường điệu bộc lộ rất rõ rệt, nó làm cho sự xuất hiện của tư bản với tư cách là một hiện thực lịch sử trở thành một kết cấu khái niệm tạo nên thuần bằng logic và suy đoán, khác xa với tư bản tồn tại trong thực tế: một phương thức tổ chức sản xuất, một mô hình phát triển thời công nghiệp. Tính chất tư biện trong lập luận của Marx về mối quan hệ tư bản/lao động trong lý luận giá trị-lao động đã được nhiều tác giả phân tích như là thuộc tính đặc trưng của học thuyết Marx nhưng về sau được một số khác coi đó chỉ là sự biến thể ngược chiều từ một bản chất chung nằm sẵn trong lý luận về lao động của trường kinh tế cổ điển ra đời vào lúc xã hội tư sản và nền công nghiệp đang hình thành. Theo nhận định này thì lý luận về lao động của Marx, mặc dù dẫn tới những kết luận trái ngược với khởi nguồn của nó, nhưng vẫn là sự tiếp nối của một truyền thống lấy lao động giải thích giá trị sản phẩm, vì vậy vẫn chỉ là một sự diễn giải khác về lý luận giá trị-lao động của trường kinh tế cổ điển. Nói cách khác, tính chất tư biện trong lập luận của Marx cũng chính là tính chất tư biện trong lập luận về lao động của trường phái này. Đi sâu vào xuất xứ của lý luận lao động trước khi Adam Smith tổng kết, nhiều tác giả cho đó là một phản ứng chống học thuyết trọng thương, không chú ý đến sản xuất mà chỉ lo buôn bán với bên ngoài, và cũng do nhu cầu nội tại đó, mà lao động đã được đề cao cổ vũ cho đường lối xây dựng xã hội công nghiệp, hình thành từng lớp doanh nhân theo đuổi sự nghiệp “sản xuất” theo tiêu chuẩn của Smith (giúp cho quá trình tích tụ tư bản), cũng trên giá trị đó đả kích những thói tiêu xài xa xỉ, hoang phí của các tầng lớp “phi sản xuất”, cũng theo tiêu chuẩn của Smith. Dù vậy, từ trọng nông đến kinh tế cổ điển, mỗi trường phái đưa ra những lý lẽ khác nhau, nhưng do đều coi lao động là nhân tố quan trọng hoặc duy nhất làm ra của cải, cho nên vẫn bị coi là một thứ ý thức hệ về lao động; không ít tác giả còn đi xa hơn khi chứng minh thứ triết học về lao động đó thực chất chỉ là một “huyền thoại”. Bản thân Marx cũng đã tham gia việc phê phán này bằng cách chỉ ra một cách khá chính xác những mâu thuẫn, bất nhất trong lập luận của Smith và Ricardo khi hai tác giả này dựa vào lao động để giải thích mọi vận hành của guồng máy sản xuất tư bản. Tuy vậy đến lượt mình, do không thoát khỏi cái tiền đề của thứ lý luận mà mình đã ra công điều chỉnh, bản thân Marx đã tạo ra một huyền thoại mới về giải phóng lao động, giải phóng loài người với những kết luận huyễn hoặc. Nhận xét này trước đây thường rất khó khăn để thuyết phục nhưng ngày nay hầu như đã trở thành hiển nhiên và phổ biến: không ai nghiên cứu tư tưởng Marx đến tận nguồn gốc mà còn đơn giản coi những kết luận của ông về sự hình thành và thay nhau của những hình thái kinh tế-xã hội là “khoa học” nữa. Cũng vì vậy mà rất nhiều trường phái về sau này trong khi tìm cách làm sáng tỏ tính chất tư biện và ảo tưởng trong lý luận lao động của Marx, cũng đã tìm cách bác bỏ luôn cả lý luận nguồn gốc trong trường kinh tế cổ điển mà Marx lấy cảm hứng để đẩy xa hơn. Những cố gắng ấy mang hiệu quả đến mức nào, có khả năng tạo ra một thứ phủ định thay thế tích cực hay không, ở đây không phải là chỗ bàn luận, nhưng dù sao thì có một điều rất rõ: tất cả đều không làm gì khác hơn là đặt những phê phán của họ trên cái nền hiện thực thường nghiệm của các hoạt động kinh tế trong đời sống: ở đây của cải xã hội là kết quả tổng hợp của cả một mô hình phát triển trong đó lao động chỉ là một nhân tố trong nhiều nhân tố sản xuất, chứ không phải là duy nhất, ở đây chỉ cần nói đến giá cả để có thể tính toán trực tiếp trong việc làm ăn chứ không cần giá trị lao động để lập thuyết dài dòng về những hình thức chuyển hoá, chỉ cần bàn về chi phí sản xuất để nói chuyện lời lỗ một cách cụ thể trong kinh doanh chứ không cần đưa ra khái niệm chi phí lao động về sản xuất để tranh cãi triền miên về ý thức hệ v.v… Tuy vậy cũng nên quan tâm đầy đủ rằng trong hàng ngũ những người nghiên cứu Marx, vấn đề không hoàn toàn đơn giản. Nếu tính chất không tưởng trong viễn cảnh giải phóng macxit ngày càng hiển nhiên thì không vì thế mà có thể xoá bỏ luôn những phần phê phán tích cực của Marx đối với phương thức sản xuất tư bản, chẳng hạn về phương diện xã hội học, (một ý của Joseph A. Schumpeter trong Capitalísme, socíalísme et démocratie, Payot, Paris, 1963) qua đó tìm ra được những yếu tố thiết thực để giải quyết mối quan hệ lao động/tư bản có lợi cho giới cần lao, mà mấu chốt là vấn đề bảo vệ sự bình đẳng pháp lý cho quyền tư hữu lao động. Nếu nhớ lại những gì đã trình bày ở các phần trên, thiết nghĩ đây là điều rất đáng coi là quan trọng vì trong biện luận của mình, Marx đã nhân danh quyền tư hữu về kết quả của lao động, nhân danh nguyên lý trao đổi ngang giá, và cả quyền bình đẳng trong pháp quyền hiện đại để chống lại sự phóng chiếu lộn ngược được ông gọi là cái “biện chứng ly dị tuyệt đối của lao động với tài sản” mà ông cho rằng tư bản đã thực hiện một cách phi pháp như chúng ta đã biết. Nhận định này phải được coi là quan trọng vì, tuy không được Marx khai triển đầy đủ, mặt khác “sự phóng chiếu lộn ngược” nói trên cũng cần phải xác định lại nội dung, nhưng dù vậy ý nghĩa tích cực về mặt giá trị của nó đã là đương nhiên, tồn tại trong tầng sâu của hiện thực, dựa vào đó khi đối chiếu, so sánh, đã làm bật ra được ý nghĩa tiêu cực của tầng biểu hiện với tư cách là sự biểu hiện có nội dung phủ định, đối nghịch với cái tiền đề xuất phát của nó. Nhận ra được giá trị tích cực này trong bản thân đối tượng mà Marx phê phán, chúng ta cũng nhận ra được điểm tựa về mặt giá trị mà Marx dựa vào để thực hiện sự phê phán: sự phê phán ấy vẫn không vượt ra khỏi được cái nền giá trị hàm chứa trong đối tượng bị phê phán. Kết quả là khi được đặt trên cái nền giá trị đó sự mâu thuẫn giữa tư bản và lao động trong phương thức sản xuất tư bản (đối tượng phê phán của Marx) sẽ xuất hiện như một mâu thuẫn cục bộ nằm trong những mâu thuẫn tổng thể mang tính cơ cấu, nhiều mặt của một mô hình phát triển, không duy nhất, bao trùm, giả định rằng giải quyết được thì cũng thanh toán xong cái hình thức tồn tại của đối tượng phê phán. Khả năng giải quyết mâu thuẫn cục bộ đó do vậy cũng bao hàm khả năng giải quyết mâu thuẫn đó một cách hiện thực và tương đối, nghĩa là ở bên ngoài cái logic không rào cản về triết học dẫn tới cuộc cách mạng chung cuộc về lịch sử của Marx – và cũng do vậy tính chất hiện thực trong mối quan hệ giữa tư bản và lao động theo phương hướng này có thể được lý giải từ một hình thức lý luận nào đó vẫn còn dính dáng đến Marx nhưng đã được tẩy trừ đi rất nhiều màu tư biện: lý luận này sẽ tìm thấy tính chính đáng cho nó trong mối quan hệ pháp lý phổ quát ở đó phương thức sản xuất tư bản tồn tại, coi đó là cơ sở để ngăn chặn mọi hình thái vi phạm quyền tư hữu tài sản về lao động với tư cách là một giá trị mà loài người đã đạt được qua thời gian. Sự phân biệt các tầng ý nghĩa trong lý luận của Marx về phương thức sản xuất tư bản cũng sẽ quyết định chiến lược khác nhau về tranh đấu của các từng lớp lao động làm thuê cho chủ tư bản. Chấp nhận đưa lên hàng chính diện hình thức lý giải hiện thực (phi triêt học, phi tư biện) như đã nói ở trên, phong trào lao động sẽ mang tính chất hoàn toàn thiết thực nhưng không kém phần quyết liệt: nếu những cuộc đấu tranh trực tiếp của giai cấp công nhân đương nhiên được xem là thiết thân để bảo vệ quyền lợi của mình về mặt kinh tế thì, về phương diện ngoài kinh tế như Marx đã từng đề cập, các cuộc đấu tranh mang nội dung xã hội và chính trị của giai cấp công nhân, liên hiệp với tất cả mọi thành phần khác trong xã hội công dân để ngăn chặn mọi độc quyền và thao túng của giai cấp chủ tư bản trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống, nhất là việc chiếm đoạt nhà nước, biến nhà nước thành công cụ thống trị, những cuộc đấu tranh mang tính chất “quyền lực chống quyền lực” đó mới có ý nghĩa quan trọng thật sự để những người lao động và những đồng minh của họ thoát khỏi sự khống chế khắc nghiệt của tư bản. Định chế hiện đại về chính trị lẫn xã hội đã quy định tất cả những điều đó trên mặt pháp lý, các từng lớp đi làm thuê cho tư bản chắc hẳn phải biết khai thác để bảo vệ quyền tư hữu tài sản của mình đồng thời cũng là quyền tư hữu nhân thân của con người. “Muốn chống lại “con rắn gây ra những nỗi thống khổ của họ”, công nhân phải hợp nhất lại, và với tư cách là một giai cấp, họ buộc nhà nước phải ban hành một đạo luật để làm một chướng ngại xã hội mạnh mẽ ngăn cản ngay chính bản thân họ, thông qua một hợp đồng tự nguyện với tư bản, tự bán mình và bán nòi giống mình vào chỗ chết chóc và nô lệ” (Tư bản, Quyển I, Tập 1, Sự thật, Hà Nội, 1984, tr. 384). Trong khi chờ đợi cuộc cách mạng vô sản giải phóng lao động sắp đến, Marx đã khuyên chúng ta như vậy, và về phần mình, mặc dù không tin cuộc cách mạng ấy sẽ có cơ sở hiện thực để xảy ra, cũng không coi tư bản thuộc phạm trù rắn rết, chúng ta vẫn có thể nghe theo những lời khuyên rất thực tế đó của ông đứng lên tranh đấu, không nhằm cứu vớt ai mà chỉ để được sống như những người lao động mà cũng là những công dân lương thiện, bình thường. Xong ngày 5-9-2010 L.P Tài liệu sử dụng ADAM SMITH: The Wealth of Nations (1776) www.econlib.org/library/Smith/smWN.html – Bản tiếng Việt: Đỗ Trọng Hợp, Của cải của các dân tộc, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997 DAVID RICARDO: On The Principles of Political Economy and Taxation (1817) www.econlib.org/library/Ricardo/ricP.html – Bản tiếng Việt:Nguyễn Đức Thành &Nguyễn Hoàng Long: Những nguyên lý của kinh tế chính trị học và thuế khoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 KARL MARX: Grundrisse , Bản tiếng Anh: Outlines of the Critique of Political Economy – www.marxists.org/archive/marx/works/1857/grundrisse/ ; Bản tiếng Pháp: Roger Dangeville: Fondements de la critique de l’économie politique (Ébauche de 1857-1858), I&II, Editions Anthropos, Paris, 1968, 1969; Bản tiếng Việt: Các bản thảo kinh tế những năm 1857-1858 , Phần II, “Báo diện tử Đảng Cộng sản Việt Nam” – 123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/4lanhtu/details.asp?topic=3&subtopic=88&leader_topic=2&id=BT170769365KARL MARX: Bản tiếng Anh: Theories of Surplus-Value (TSP) – www.marxists.org/archive/marx/works/1863/theories-surplus-value/index.htmBản tiếng Việt: Các học thuyết về giá trị thặng dư , Phần II, “Báo diện tử Đảng Cộng sản Việt Nam” – 123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/4lanhtu/details.asp?topic=3&subtopic=88&leader_topic=2&id=BT311087936KARL MARX: Contribution à la critique de l'économie politique (1859) classiques.uqac.ca/classiques/Marx_karl/contribution_critique_eco_pol/contribution_critique.htmlNHIỀU TÁC GIẢ: Karl Marx’s Grundrisse– Foundations of the Critique of Political Economy 150 years later (Edited by Marcello Musto, with a special foreword by Eric Hobsbawm), Routledge, USA, 2009 NHIỀU TÁC GIẢ: A Dictionary of Marxist Thought (Edited by Tom Bottomore), Harvard University Press, Cambridge, Massachusetts, 1983 BERNARD GUERRIEN, Nguyễn Đôn Phước dịch: Từ điển phân tích kinh tế, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2007 LESZEK KOLAKOWSKI: Main Currents of Marxism [Translated from Polish (1976) by P.S. Falla (1978)], W.W. Norton & Company, New York– London, 2005 ANTONIO NEGRI: Marx au-delà de Marx – Cahíer de travail sur le “Grundrisse” (Traduit de l’italien par Rosane Silberman), Editions L’Harmattan, Paris, 1979 DANIEL BENSAID: Marx – Mode d’emploi, Zones, France, 2009 TRẦN HẢI HẠC: Relire “Le Capital” – Marx, critique de l’économie politique et objet de la critique de l’économie politique, Tome I, Cahiers libres – Éditions Pages Deux, France, 2003 HIROSHI UCHIDA: “Marx's Grundrisse and Hegel's Logic” www.marxists.org/subject/japan/uchida/index.htm#Preface PAUL TREJO: “Summary of Hegel's Philosophy of Mind”, 1993 evans-experientialism.freewebspace.com/hegel_summary_phen_of_mind.htmKEPA M. ORMAZABAL SÁNCHE: “Adam Smith on Labor and Value: Challenging the Standard Interpretation” – ideas.repec.org/p/ehu/ikerla/200626.htmlROBERT P. MURPHY: “The Labor Theory of Value: a Critique of Carson’s Studies in Mutualist Political Economy”, mises.org/journals/jls/20_1/20_1_3.pdfPETER C. DOOLEY: “The Labour Theory of Value: Economics or Ethics?” www.compilerpress.atfreeweb.com/Anno%20Dooley%20Labour%20Theory%20of%20Value.htm#5.0%20Ricardo%20corrects%20Smith
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 6:48:54 GMT 9
Nhận xét và suy nghĩ về Công bằng trong Mậu dịch (Fair Trade) Vietsciences- Ngô Vĩnh Long Trong bài về sự bí ẩn trong “thế giới hàng hóa” của Marx,[1] tác giả Lữ Phương có viết những dòng sau đây về trao đổi hàng hóa (trang 1):
Trừ những trường hợp riêng biệt, nguyên tắc của trao đổi là ngang giá, hai bên đều có lợi, mình cần cái mình không có mà không bị thiệt thòi. Muốn như vậy thì phải tìm ra một chuẩn mực chung giữa hai hàng hoá để làm cơ sở cho cuộc trao đổi đó.
Chuẩn mực chung đó là gì? Trong trao đổi đơn giản, Marx cho rằng nếu đó là sự chi phí sức lao động tính bằng độ lâu (durée) về thời gian của các loại lao động riêng biệt thì trong xã hội mà sự trao đổi hàng hoá đã trở thành hiện tượng “chi phối”, phổ biến, sự chi phí về sức lao động đó đã biểu hiện như một hình thái đồng nhất, trừu tượng mang ý nghĩa của một bản thể xã hội gọi là giá trị. Không có cái bản thể chung quy định cho hình thái giá trị này làm cơ sở thì việc trao đổi hàng hoá sẽ trở nên tuỳ tiện, không thể bảo đảm được nguyên tắc ngang giá, có lợi cho các đối tác trên phạm vi toàn xã hội.
Đoạn trích ở trên có hai câu gây cho tôi ít nhiều suy nghĩ: “Trừ những trường hợp riêng biệt, nguyên tắc của trao đổi là ngang giá, hai bên đều có lợi” và “Không có cái bản thể chung quy định cho hình thái giá trị này làm cơ sở thì việc trao đổi hàng hoá sẽ trở nên tuỳ tiện, không thể bảo đảm được nguyên tắc ngang giá, có lợi cho các đối tác trên phạm vi toàn xã hội.” Lữ Phương đã trình bày rất chi tiết phân tích của Marx về “hình thái giá trị” đề cập ở trên; và việc đánh giá nguyên tắc ngang giá của Marx như thế nào là tùy người “đọc.”
Nhưng vì hiện nay tại nhiều nước trên thế giới người ta nói rất nhiều đến việc “hai bên đều có lợi” (“giải pháp cùng thắng,” win-win solution) trong trao đổi hàng hóa (mậu dịch) và việc “có lợi cho các đối tác trên phạm vi toàn xã hội” (mà tiếng Anh người ta gói trong các khái niệm như “cosmopolitan egalitarianism” và “global justice”), nhân cơ hội nầy tôi xin trình bày một vài nhận xét và suy nghĩ về công bằng trong mậu dịch. Theo tôi công bằng trong mậu dịch (Fair Trade) là một nhân tố của công bằng cho toàn xã hội loài người (global justice, cosmopolitan egalitarianism) nhưng, khác với khái niệm global justice hay cosmopolitan egalitarianism, có một quan niệm với những mục tiêu rất thiết thực mà người ta có thể, từng bước, đạt được từ các cấu trúc kinh tế, xã hội và chính trị hiện hữu qua những cuộc vận động hay đấu tranh kiên trì. Những nguyên tắc bình đẳng toàn cầu “mới” và “cũ” Các lý thuyết gia về “cosmopolitan egalitarianism” hình dung một xã hội hay một cộng đồng toàn cầu (có hay không có một chính quyền toàn cầu) và đi từ những lý thuyết về tính chất nguyên thủy của xã hội toàn cầu hay từ những quan niệm đạo đức về bình đẳng tương tự để tạo ra những nguyên tắc về công bằng toàn cầu mà họ cho là phải cao hơn hay phải kiềm hãm được các nguyên tắc về công bằng của các quốc gia cá thể[2]. Những nguyên tắc toàn cầu nầy gồm có “nguyên tắc khác biệt trên toàn cầu” (global difference principle)[3], “cơ hội bình đẳng toàn cầu” (global equality of opportunity)[4], “bình đẳng về tài nguyên cho toàn cầu” (global equality of resources)[5], và “tự do thật sự cho tất cả” (real freedom for all).[6] Theo khái niệm “cosmopolitan egalitarianism” thì vấn đề công bằng trong mậu dịch chỉ là một phần phụ, nếu không nói là ngoại vi, trong việc coi nền kinh tế toàn cầu như là một cơ cấu hợp tác xã hội độc nhất, với sự đối đãi và tôn trọng mọi cá nhân trên toàn cầu một cách bình đẳng. Khái niệm bình đẳng hay công bằng toàn cầu nầy không quan tâm đến vai trò của các quốc gia cá thể, hầu như coi nó không quan trọng hay cần thiết. Các lý thuyết gia chống khái niệm bình đẳng toàn cầu đưa ra khái niệm mà ta có thể gọi là khái niệm công bằng toàn cầu tối thiểu, tức là nguyên tắc đòi nhân sinh và nhân quyền của mọi người trên thế giới phải được nâng cao lên và đãm bảo đến mức tối thiểu có thể. Nhưng để thật sự có công bằng toàn cầu được thì trước hết là phải thành lập được một một chính thể hay một chúa tể cho toàn cầu (“global sovereign”) để thẩm định các yêu sách một cách có hệ thống như đề nghị của Thomas Nagel[7]; hay như kêu gọi của John Rawls là các nước trên thế giới phải có trách nhiệm trợ giúp các “xã hội bị oằn lưng” (burdened societies), nhưng trách nhiệm trợ giúp nầy phải có mục tiêu rõ ràng và phải có thời hạn dứt điểm (cutoff)[8]; và như đề án “Global Resource Dividend” của Thomas Pogge, tức là một quỹ được thành lập từ thuế tiêu dùng nguyên liệu của thế giới để nâng thu nhập của mọi người vượt được ngưỡng nghèo đói tối thiểu của Liên Hiệp Quốc (United Nations poverty line.)[9] Nhưng khái niệm công bằng toàn cầu tối thiểu nầy cũng không đề cập gì đến vấn đề công bằng trong mậu dịch và dường như cũng cho nó là vấn đề ngoại vi, nếu không nói là không quan trọng. Hai khái niệm về công bằng toàn cầu trên được đưa ra vì người ta thấy quan niệm “cùng thắng ” (win-win) trong trao đổi hàng hóa (mậu dich, thương mại) là quá eo hẹp và không còn thích hợp trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay nữa. Họ cho là nếu hai cá thể (hai cá nhân, hai công ty, hai quốc gia) nào đó thấy họ “đều có lợi” và đều hài lòng mỹ mãn trong việc trao đổi hàng hóa đi nữa thì việc nầy không có nghĩa là những người khác không bị thiệt thòi (thiệt hại). Trong ba thập kỷ vừa qua, tuy đã giúp phát triển mậu dịch và tăng tổng thu nhập quốc dân (GDP) chưa từng thấy cho nhiều nước trên thế giới, toàn cầu hóa đã càng ngày càng làm tăng sự cách biệt giàu-nghèo giữa nhiều nước cũng như giữa những thành phần xã hội trong mỗi nước. Ngay tại Hoa Kỳ, một quốc gia giàu có nhất trên thế giới và được hưởng lợi lớn nhất qua toàn cầu hóa, số người thất nghiệp cũng đã tăng đến khoảng 10% (theo các con số chính thức phần lớn là trong các khu vực sản xuất và chế biến) và khoảng 50 triệu người (trong tổng số 300 triệu) không có bảo hiểm sức khỏe vì quá nghèo. Do đó, người ta có lý do hoàn toàn chính đáng để yêu cầu một sự đền bù—hay công bằng—nhất định đối với những phần tử xã hội bị thiệt thòi hay thiệt hại. Công bằng “cực đoan” hay Utopia Cho nên, đứng về mặt lý tưởng mà nói tôi không phản đối khái niệm công bằng toàn cầu, kể cả khái niệm công bằng tối thiểu mặc dầu tôi không tán thành phần lớn các lập luận “ảo tưởng” được áp dụng (như việc phân phối cho công bằng phải cần có một chính thể toàn cầu hay một chúa tể toàn cầu, hay như việc đền bù những thiệt hại phải có thời hạn dứt điểm làm như các thiệt hại đó chỉ có xảy ra hay tồn tại trong một thời gian nhất định thôi). Nếu nhân dân thế giới đạt được những mục tiêu tối thiểu đề cập đến trong khái niệm nầy thì đây cũng đã là một thành quả rất to lớn vì hiện nay có khoảng một nữa nhân loại đang đói khổ ngặt nghèo. Hai khái niệm trên không thực tế; và càng không hiểu tại sao những lý thuyết gia của hai khái niệm ấy (và những người ủng hộ nó) lại cho rằng quan điểm công bằng trong mậu dịch là ngoại vi. Có thể họ cho rằng xu hướng toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện tại sẽ dẫn đến một sự hòa nhập sâu đậm và do đó hai khái niệm công bằng trên sẽ rất cần thiết và sẽ nhận được sự đồng tình của số đông. Nhưng như Dani Rodrik[10] ̶ một kinh tế gia đại học Harvard rất nổi tiếng về các vấn đề toàn cầu hóa và phát triển ̶ đã nhận định: “Với các cấu trúc chính trị và những thực tế kinh tế hiện hành, hòa nhập sâu đậm là một điều không tưởng” (Under current political configurations and economic realities, deep integration is a utopia).[11] Tuy nhiên Rodrik cũng cho biết trong bài viết nầy của ông là nếu nhân dân lao động có nhiều tự do di chuyển và di dân thì các nước đang phát triển sẽ có lợi lớn hơn gấp 25 lần tất cả các khoản mục đang được ghi trong các chương trình nghị sự của các tổ chức mậu dịch quốc tế.[12] Không biết có phải đây là một trong những lý do làm cho nhiều người nghĩ rằng công bằng trong mậu dịch là vấn đề phụ, là vấn đề không quan trọng lắm hay không? Nhưng nếu việc tự do di chuyển và di dân thật sự có lợi nhiều hơn việc đòi hỏi bình đẳng trong các tổ chức mậu dịch quốc tế và việc tự do di dân và di chuyển nầy là việc khả thi như Rodrik nói (chứ không phải lại là một việc không tưởng) thì câu hỏi vẫn có thể được đặt ra là trong hai điều kiện, cái nào khả thi hơn “với các cấu trúc chính trị và những thực tế kinh tế hiện hành”? Trên thực tế hiện nay chưa thấy có những cơ cấu hay tổ chức đặc biệt nào dành cho việc bảo đãm sự tự do di trú của nhân dân lao động trên thế giới. Nhưng hiện nay đã có nhiều tổ chức mậu dịch đa phương như NAFTA (North American Free Trade Agreement), AFTA (Asia Free Trade Agreement), APEC (Asia Pacific Economic Cooperation), và WTO (World Trade Organization) qua đó người ta có thể không những tranh đấu cho có công bằng hơn trong mậu dịch mà cũng có thể tranh đấu cho có công bằng hơn trong việc tự do di trú của nhân dân lao động. Vấn đề là cụ thể phải làm gì, “chuẩn mực chung” như thế nào để các hoạt động đấu tranh cho có công bằng hơn trong mậu dịch khỏi phải “tùy tiện”, và chuẩn mực chung nầy làm sao có thể hướng dẫn việc làm chính sách hay đánh giá chính sách và những cơ chế hiện hành chứ không phải chỉ là ý niệm luân lý trừu tượng chung chung? Trước hết là Công bằng trong Mậu dịch theo tiêu chí nào Hiện nay phong trào đòi hỏi công bằng trong mậu dịch đang lan tỏa tại nhiều nước trên giới. Ở Mỹ, chẳng hạn, phong trào công bằng trong mậu dịch (Fair Trade Movement) được chia ra làm hai cánh. Cánh thứ nhất chú trọng vào sự lựa chọn của các cá nhân và tổ chức trong việc mua bán hàng hóa và đặt ra những tiêu chuẩn mà họ cho là công bằng trong việc đối xử với những người sản xuất những hàng hóa đó. Các tiêu chuẩn nầy, theo định nghĩa của Fair Trade Federation (Liên Đoàn Công Bằng trong Mậu Dịch) gồm có: trả lương công bằng trong bối cảnh địa phương (paying fair wages in local context), ủng hộ sự tham gia của tất cả mọi người tại các chỗ làm việc (supporting participatory work places), bảo đảm sự bền vững của môi trường (ensuring environmental sustainability), cung cấp sự trợ giúp về mặt tài chính và kỹ thuật (supplying financial and technical support), tôn trọng văn hóa bản xứ (respecting cultural identity), có trách nhiệm trước công chúng (offering public accountability), và giáo dục những người tiêu dùng (educating consumers).[13] Vấn đề giáo dục người tiêu dùng về thực trạng của nông dân và công nhân tại các nước đang phát triển là đóng góp rất quan trọng của phong trào Fair Trade nầy. Ở Mỹ khi người tiêu dùng thấy trên nhãn hiệu các hàng hóa như cà phê, trà, ca-cao, sô-cô-la, chuối, vải cô-tông có đóng mộc với chữ “Fair Trade Federation” hay “Fair Trade Certified” thì họ biết là các mặt hàng đó đã đạt được những tiêu chuẩn nói trên. Ngoài những thông tin có thể tìm được trên trạm của Fair Trade Federation (http://www.FairTradeFederation.org) người ta còn có thể tìm thấy nhiều thông tin cụ thể tại các trạm như www.fairtraderesource.org/.[14] Trạm này là của Fair Trade Resource Network ở Philadelphia, Pennsylvania, và ngày 13 tháng 7 năm 2009 có đăng một bản tin là mặc dù kinh tế toàn cầu suy thoái những mặt hàng “Fair Trade Certified” bán ra trên toàn cầu năm 2008 tăng 22%, với tổng giá trị là 4 tỷ Mỹ kim. Ở Mỹ tăng 10% (1,06 tỷ Mỹ kim), ở Anh tăng 43% (1,23 tỷ Mỹ kim), ở Đức tăng 50%, ở Ca-na-đa tăng 67%, ở Tân Tây Lan tăng 72% và ở Thụy Điển tăng 75%. Các mặt hàng với giá trị tăng cao nhất là trà (tăng 112%) và cô-tông (tăng 94%). Các mặt hàng với số lượng tăng cao nhất là cà phê (tăng 14%, đạt đến 66.000 tấn) và chuối (tăng 28%, đạt 300.000 tấn). Đến cuối năm 2008 trên toàn thế giới có 746 tổ chức sản xuất được danh hiệu Fair Trade Certified và những tổ chức nầy làm đại diện cho hơn 1 triệu rưỡi nông dân cá thể và công nhân. Thêm vào đó có hơn 700.000 người trong các chi nhánh (affiliated organizations) của các nhóm có danh hiệu Fair Trade Certified, nhưng không trực tiếp sản xuất các món hàng bán ra, cũng được hưởng lợi gián tiếp. Mặc dầu chỉ số tăng trên trông rất lạc quan so với sự suy thoái trung bình khoảng 30% của tổng giá trị mậu dịch thế giới từ năm 2008 cho đến cuối quý đầu năm 2009, tổng giá trị các mặt hàng Fair Trade Certified được bán ra chỉ là một phần không đáng kể của tổng giá trị mậu dịch thế giới.[15] Để có những thay đổi to lớn hơn cho đời sống của những người bị ảnh hưởng bởi mậu dịch ở các nước đang phát triển, cánh thứ hai trong phong trào tại Mỹ đòi hỏi công bằng trong mậu dịch cho rằng người ta phải chú trọng đến các điều kiện về mậu dịch do các hiệp định thương mại dựng lên. Do đó, cánh nầy tập trung vào việc cải cách NAFTA, WTO và các hiệp định hay cơ chế tương tự. Cụ thể thì các phần tử trong cánh nầy hiểu vấn đề (hay đặt vấn đề) công bằng trong mậu dịch như thế nào? Phần lớn các tổ chức trong cánh nầy đều quy tụ và đoàn kết xung quanh đạo luật “Trade Reform, Accountability, Development and Employment Act of 2008”—gọi tắt là TRADE Act (H.R. 6180.S.3083). Do đó, các điều khoản của đạo luật cũng như các biện luận và phân tích ủng hộ đạo luật nầy là những nơi ta có thể tìm thấy những tiêu chuẩn về công bằng của các phần tử trong cánh nầy.[16] Ở đây tôi không thể đi vào chi tiết về các điều khoản của đạo luật nầy và những biện luận ủng hộ nó vì chúng ta chưa có một “chuẩn mực chung” để có thể phân tích hay đánh giá các điều khoản của đạo luật nầy cũng như các lập luận ủng hộ một cách có hệ thống. Làm sao có thể xét được là sự đòi hỏi về công bằng trong mậu dịch của cánh nầy là thật sự công bằng, là đem lại lợi ích cho mọi người và không gây thiệt hại cho bất cứ ai ở các nước đang phát triển hay ở tại Mỹ cả? Bốn quan niệm về Công bằng trong Mậu dịch Thiết nghĩ một chuẩn mực chung về công bằng trong mậu dịch (chứ không phải công bằng cho toàn xã hội hay toàn cầu) cũng cần phải có một tiêu chuẩn bình đẳng. Vì thế công bằng trong mậu dịch cần được phân biệt với những quan niệm về công bằng hay bất công bằng sau đây mà người ta thường thấy trong những tài liệu về mậu dịch: 1. Quan niệm bất công bằng trên khía cạnh luật lệ (legal unfairness), tức là việc vi phạm các điều khoản trong các hiệp định mậu dịch. Nếu các điều khoản trong các hiệp định đó đã không công bằng thì bắt phạt những người vi phạm những điều khoản không công bằng đó là không công bằng. Một ví dụ là các điều khoản của WTO về bảo vệ quyền sở hữu trí thức (protections for intellectual property rights) mà các nước phát triển muốn đẩy mạnh để chống việc vi phạm quyền sở hữu (piracy) tại các nước nghèo. Nhưng như Aaron James, một giáo sư triết tại đại học University of California (Irvine), đã trình bày rất thuyết phục là trong nhiều trường hợp vi phạm quyền sở hữu là công bằng và có thể, về mặt đạo đức mà nói, chấp nhận được.[17] 2. Quan niệm không phân biệt đối xử (non-discrimination). Đây là nguyên tắc về thủ tục rất cơ bản đối với các luật lệ trong các hiệp định, nhưng không thể có tiêu chí chung cho công bằng trong mậu dịch được. Xin lấy ví dụ về một trường hợp được nhiều người biết đến. Đó là việc một nhóm chuyên gia (panel) của WTO phán quyết rằng chính sách hạn chế nhập khẩu xăng tái chế (reformulated gasoline) của Sở Bảo Vệ Môi Trường (Environmental Protection Agency) của Mỹ là việc không công bằng trong mậu dịch. Vấn đề chính ở đây không phải là vấn đề công bằng trong mậu dịch được coi là quan trọng hơn những qui định bảo vệ môi trường (mặc dầu có nhiều người diễn dịch phán quyết nầy như thế), mà là các qui định nầy phân biệt đối xử giữa những nhà cung cấp dầu trong nước và nước ngoài.[18] 3. Quan niệm không công bằng gọi là “mercantilist unfairness” hay “mercantilism,” tức là khi một quốc gia dựng hàng rào thuế quan hay trợ giá (bao cấp) trong khi các quốc gia khác không làm việc đó. Ví dụ như thuế quan cao ở Ấn-độ hay việc trợ giá cho các tập đoàn nông nghiệp ở Mỹ đã giúp hai nước này bán nông phẩm trên thị trường thế giới rẽ hơn là giá của nông dân Mê-hi-cô.[19] Nhiều kinh tế gia phủ nhận những giả định “mercantilist” vì họ cho đây là những quan niệm lỗi thời về mậu dịch.[20] Do đó họ cũng hoài nghi luôn về công bằng trong mậu dịch.[21] Đối với nhiều kinh tế gia, nhất là những người theo thuyết thị trường tự do, thì nói đến công bằng trong mậu dịch là thừa vì lợi ích của mỗi nước, mỗi xã hội, là giảm thiểu các hàng rào ngăn cản gây bất lợi cho mậu dịch (trade barriers) và trao đổi theo lợi thế so sánh của chính mình, bất chấp các nước khác làm gì. Khi một nước tháo bỏ hàng rào ngăn cản của mình thì kết quả là những hàng nhập sẽ rẻ hơn và vì thế sẽ có lợi rất lớn. Do đó nếu các nước khác không khôn ngoan và không chịu tháo gỡ hàng rào để có lợi thì mình cũng phải thủ lợi cho riêng mình bằng cách chấp nhận thị trường tự do.[22] Paul Krugman, giáo sư kinh tế giải Nobel năm 2009, cho rằng: “Nếu các kinh tế gia cai trị thế giới thì sẽ không cần có Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới…Mậu dịch tự do toàn cầu sẽ tự phát từ những theo đuổi thoải mái của lợi ích quốc gia.”[23] 4. Quan niệm công bằng thực dụng (utilitarian fairness). Đây là quan niệm trong nhiều lập luận về mậu dịch tự do (free trade). Những lập luận nầy cho rằng mậu dịch tự do là một phương cách để cải thiện phân phối nguyên liệu, để tăng hiệu xuất/năng xuất (vì có cạnh tranh của nước ngoài), để tăng sự đa dạng của hàng hóa, và để đem đến những lợi ích gián tiếp khác như là giảm thành kiến, phát huy dân chủ và củng cố hòa bình. Những lợi thế tương đối sẽ đem đến lợi ích tổng thể cho tất cả các đối tác trong trị trường tự do. Về tính thực dụng của mậu dịch tự do Nhưng mậu dịch tự do có thật là mậu dịch công bằng không? Đã có nhiều sách phê bình tính thực dụng của các lập luận mậu dịch tự do.[24] Vấn đề cần đặt ra là nếu mậu dịch là tự do thì việc đòi hỏi được có công bằng (hay công bằng hơn), mặc dầu chỉ áp dụng trực tiếp trong mậu dịch mà thôi, có quan trọng gì đối với mậu dịch và những chính sách liên quan đến mậu dịch? Để câu hỏi trên có thể được sáng tỏ hơn, tôi xin lấy ví dụ bài viết với tựa đề “Spreading the Wealth” (Trải rộng sự Giàu có) của hai kinh tế gia Ngân Hàng Thế giới, David Dollar và Aart Kraay, đăng trên tạp chí Foreign Affairs năm 2002. Trong bài nầy Dollar và Kraay dùng các số liệu thống kê để biện hộ cho việc tự do hóa mậu dịch và vốn đầu tư kết hợp với các “chính sách kinh tế vĩ mô bảo hộ tăng trưởng thông thường” (standard pro-growth macro-economic policies.) Để chứng minh Dollar và Kraay nói rằng các chính sách nầy đã làm giảm nghèo một cách rất ấn tượng tại Ấn-độ và Trung Quốc sau 30 năm “toàn cầu hóa.” Họ nói rằng nghiên cứu về xu hướng bất bình đẳng trong 150 năm trước đó, so sánh sự khác nhau giữa thu nhập của bất cứ một cá nhân nào được lựa chọn một cách ngẫu nhiên và thu nhập trung bình chung, cho thấy rằng bất bình đẳng trong thu nhập đã được ổn định hay đã đảo ngược (trang 123.) Từ đó Dollar và Kraay đi đến kết luận họ không tìm ra được mối tương quan giữa tự do hóa mậu dịch và sự tăng trưởng bất bình đẳng trong tất cả các xã hội trên thế giới. Họ nói rằng ở mỗi nước thu nhập của các hộ thuộc thành phần 20 phần trăm nghèo nhất tăng trưởng cùng nhịp độ với tăng trưởng GDP. Bất bình đẳng trong thu nhập có tăng ở những nước như Trung Quốc, nhưng lại giảm tại các nước như Phi-líp-pin và Mã-lai. Theo Dollar và Kraay, sự khác nhau giữa các nước nói trên là do chính sách đối nội khác biệt trong lĩnh vực giáo dục, thuế má, và bảo hiểm xã hội chứ không phải là do sự khác biệt về chính sách mậu dịch (trang 128). Hàm ý bài của Dollar và Kraay là chính sách mậu dịch và những chính sách liên hệ khác trong toàn cầu hóa không cần phải quan tâm đến việc phân phối các lợi lộc đạt được từ mậu dịch như thế nào. Đối với họ không phải là không có những lựa chọn khác như kết hợp các chính sách mậu dịch và đối nội làm sao nhằm chuyển tốc độ tăng tưởng kinh tế (có thể cho nó chậm hơn) để giảm nghèo và giảm bất bình đẳng nhanh hơn trong từng nước và trên toàn cầu. Theo quan niệm công bằng thực dụng thì nếu tính hữu dụng được tăng tối đa cho tổng thể qua mậu dịch (qua toàn cầu hóa) và các đối tác đều đạt được ít nhiều lợi lộc thì không còn có ràng buộc gì khác đối với việc nên phân phối các lợi lộc hay các gánh nặng như thế nào. Phân phối không công bằng dù kinh tế tăng trưởng Phân phối công bằng là nhân tố rất quan trọng của công bằng trong mậu dịch. Một ví dụ là người ta có thể sẽ nghĩ rằng Ấn-độ và Trung Quốc không toàn cầu hóa thành công nếu sự giảm nghèo ở các thị thành, vì hậu quả của mậu dịch, đã làm cho sự nghèo khổ ở các vùng nông thôn tăng lên cho dù thu nhập ròng cho toàn xã hội có tăng trưởng. Mặc dầu đây là nhận định về việc phân phối không công bằng trong hai xã hội nói trên, người ta cũng có thể áp dụng suy luận nầy đối với việc phân phối giữa các xã hội khác nhau. Giả dụ như vì Ấn-độ và Trung Quốc gộp lại có phần lớn dân số và phần lớn người nghèo trên thế giới thì người ta có thể tối đa hóa sự xóa đói giảm nghèo bằng cách chỉ buôn bán riêng với hai nước nầy mà thôi. Và để cho việc xóa đói giảm nghèo nầy càng có hiệu quả hơn có lẽ người ta cũng nên dựng hàng rào mậu dịch rất cao đối với các nước phát triển và đang phát triển khác. Nhưng không biết có ai gọi sự tối đa hóa lợi ích tổng hợp (aggregate welfare) như thế nầy là công bằng trong mậu dịch hay không? Aaron James cho rằng các tiêu chuẩn của trường phái mậu dịch tự do là “hẹp không thể tưởng tượng” (implausibly narrow) bởi vì “ít nhất thì một quan niệm công bằng phải quan tâm đến những tổn thương của mậu dịch” (if nothing else, fairness surely concerns the harms of trade) trong khi quan điểm của trường phái mậu dịch tự do làm ngơ trước những tổn thương nảy sinh từ những yếu thế trước sức áp đảo của thị trường.[25] Vì thế James nhận xét: “Rõ ràng một trong những yêu cầu về công bằng trong mậu dịch là phải có những điều chỉnh đặc biệt qua các hình thức bảo hộ quá độ và những trợ giúp về mặt kỹ thuật và tài chính để nuôi dưỡng các cơ chế bảo hộ đó. Đây là việc phải có dù mục tiêu chỉ là phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thương không cần thiết.”[26] Từ nhận định nầy James đưa ra một nguyên tắc mà ông ta gọi là “Collective Due Care” (Quyền được bảo hộ tập thể), hay ngắn gọn là “Due Care,” mà ông định nghĩa là một tổ chức tập thể phải tìm mọi cách để phòng ngừa những hậu quả tiêu cực có thể xảy ra từ những hoạt động chung và phải có chính sách bồi thường những tổn thương nảy sinh từ những hoạt động đó.[27] Nguyên tắc nầy ăn khớp với những đề nghị của những kinh tế gia phê phán các giả định của trường phái thị trường tự do chính thống như Joseph Stiglitz và Ha-Joon Chang. Thêm vào đó nó cũng đã trở thành nền tảng của những đòi hỏi về bồi thường cho những người bị tổn thương ở những nước giàu do hậu quả của mậu dịch gây ra.[28] Vì người ta có thể đi xa hơn là chỉ không gây tổn thương, nguyên tắc “Due Care” của James được ông ta bổ sung thêm nguyên tắc mà ông ta gọi là “Fair Distribution” (Phân phối công bằng). Ông ta dành 7 trang để định nghĩa và phân tích nguyên tắc nầy và đề cập đến hàng loạt các trường hợp mà lợi ích của các nước phát triển có thể có ưu tiên hơn là những mục tiêu của các nước đang phát triển.[29] Với lý do cho rằng sự tồn tại của mậu dịch là cùng có lợi, ở đây không có tiền giả định là các nước phát triển là các nước phải chịu thiệt thòi để có được công bằng, nhưng có nhận định là có các cá nhân trong các nước phát triển đó bị thiệt hại. Trong trường hợp những việc làm của các công nhân Mỹ bị mất đi vì ảnh hưởng của NAFTA, thì nguyên tắc Due Care bắt phải bồi thường cho những mất mát đó. Nhưng “vì các nước giàu có thể luôn luôn chi trả cho các biện pháp bồi thường, nó không gây chi phí cho các nước đang phát triển.”[30] Trừ những trường hợp tương tự như trên, James nói rằng ông ta không tìm ra được tình huống hợp lý nào khác mà lợi từ mậu dịch phải chuyển qua cho các nước phát triển thay vì cho các nước đang phát triển. James thuyết phục: “vì các lý do của nguyên tắc ‘ưu tiên cho trường hợp xấu nhất’—tức là quan niệm lợi ích được coi là quan trọng hơn, từ khía cạnh luân lý và khía cạnh công bằng, thì người nghèo nhất là người có ưu tiên tuyệt đối.”[31] Cũng như “nguyên tắc khác biệt” của Rawl được nêu trên, ở đây một cái lợi nhỏ cho người nghèo có ưu tiên hơn cái lợi lớn cho người giàu. Sự phân phối nầy có thể tiếp tục đến mức mà những người giàu ở những nước giàu “không khá thêm” (left no better off) nhưng “không dễ bị tổn thương” (cannot fairly be harmed.)[32] Nên nhớ rằng ở đây ta chỉ bàn đến lợi ích từ mậu dịch. Ưu tiên phân phối công bằng cần một tiêu chí phổ cập Các suy xét về ưu tiên sẽ giảm dần khi có được càng nhiều người bước qua ngưỡng nghèo khổ. Nhưng vì lĩnh vực của nguyên tắc đang được đề cập đến là lợi từ mậu dịch, chứ không phải là giảm nghèo, quan điểm về bình đẳng “vẫn được áp dụng kể cả trong một thế giới mà sự nghèo khổ đã được xóa bỏ” (can still apply even in a world in which poverty has been eliminated.”[33] Do đó, nguyên tắc “phân phối công bằng”, khác với quan niệm “công bằng toàn cầu tối thiểu”, là không có mục tiêu nhất định hay thời hạn dứt điểm. Nguyên tắc “phân phối công bằng” vẫn mãi có hiệu lực và như thế cuối cùng là nguyên tắc bình đẳng hơn cho dù, trong hoàn cảnh hiện tại của thế giới, một sự chú tâm tối thiểu đến việc xóa đói giảm nghèo có thể tạm thời chuyển nhiều lợi ích đến các nước đang phát triển hơn. Như đã đề cập từ đầu bài nầy, công bằng trong mậu dịch chỉ là một phần của lý thuyết về công bằng toàn cầu. Quan niệm công bằng trong mậu dịch, qua việc phân phối bình đẳng như nhau các lợi ích thu được từ mậu dịch, không loại trừ việc các nước phát triển cần phải chi thêm để giảm nghèo tại các nước đang phát triển và việc phải phân phối lại nguyên liệu để có công bằng thêm trên thế giới. Hay là việc những nước bị bỏ rơi ngoài các cơ chế mậu dịch hiện hành thì vấn đề công bằng trong mậu dịch chưa được áp dụng cho họ, nhưng vấn đề làm sao để họ có thể gia nhập các cơ chế mậu dịch một cách công bằng cần được thảo luận. Vấn đề đáng lưu ý ở đây là mậu dịch phát sinh một số nguyên tắc riêng của nó; và quan niệm công bằng trong mậu dịch phải có nhân tố bình đẳng là có lý hơn những khái niệm của trường phái mậu dịch tự do như đã trình bày ở trên. Có thể công bằng trong mậu dịch là ngoại vi đối với những lý thuyết về công bằng toàn cầu, nhưng thiết tưởng vấn đề phân phối công bằng, chẳng hạn, sẽ có thể đem lại hòa nhập sâu đậm hơn trong mỗi nước, trong nhiều vùng (như trong vùng EU và NAFTA), và (biết đâu?) dần dần sẽ đem đến nhiều đổi thay trên thế giới. Do đó quan niệm công bằng trong mậu dịch mà tôi trình bày ở trên không những có thể được áp dụng như là một tiêu chí phổ cập cho các phong trào đấu tranh trong hiện tại mà cũng có thể dùng cho việc đánh giá các hiệp định mậu dịch, các tổ chức mậu dịch, và các điều khoản trong các đạo luật thương mại như TRADE Act (H.R. 6180.S.3083) như đã đề cập ở trên. Chú thích [1] Lữ Phương, 2009, “Về điều bí ẩn trong “thế giới hàng hoá” của Marx,” Thời Đại Mới số 16, tháng 7 (Số này) [2] Một ví dụ là: Tan, K. 2004. Justice Without Borders: Cosmopolitanism, Nationalism and Patriotism. Cambridge: Cambridge University Press. [3] Beitz, C. 1979. Political Theory and International Relations. Princeton: Princeton University Press. [4] Caney, S. 2001. “Cosmopolitan Justice and Equalizing Opportunities.” Metaphilosophy 32: nos. 1-2: 113—134. Moelledorf, D. 2002. Cosmopolitan Justice. Boulder, Colorado: Westview Press. [5] Barry, B. 1991. “Humanity and Justice in Global Perspective.” In Liberty and Justice: Essays in Political Theory, 2: 182—210. Oxford: Clarendon. [6] Van Parijs, P. 1995. Real Freedom for All. Oxford: Clarendon Press. [7] Nagel, T. 2005. “The Problem of Global Justice.” Philosophy & Public Affairs 33: no. 2: 113-147. [8] Rawls, J. 1999. The Law of Peoples. Cambridge, Mass.: Harvard University Press. [9] Pogge, T. W. 2002. World Poverty and Human Rights: Cosmopolitan Responsibilities and Reforms. Cambridge: Polity Press. [10] Xem Trần Hữu Dũng, 2009, "Về kinh nghiệm phát triển: Đọc Rodrik và Chang, hai kẻ nghi ngờ," Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, số Tết Dương Lịch. [11] Rodrik, D. 2002. “Feasible Globalizations.” Research Paper, July, trang 24. Bài nầy có thể tải về từ: ksghome.harvard.edu/~drodrik/papers.html. [12] Như trên, trang 20. [13] Xem: greenlivingideas.com/topics/food-and-cuisine/fair-trade/fair-trade-vs-free-trade. [14] Sau đây là một vài trạm chính: www.GlobalExchange.org www.SierraClub.org/trade www.EqualExchange.org www.tenthousandvillages.com/ [15] Xin xem chi tiết trong: The collapse of global trade, murky protectionism, and the crisis: Recommendations for the G20, A VoxEU.org publication. Cuốn sách nầy có thể tải về từ: www.voxeu.org/reports/Murky_Protectionism.pdf. Cũng nên xem thêm bài “Demystifying the collapse in trade” của Caroline Freund đăng ngày 3 tháng 7 năm 2009 tại: www.voxeu.org/index.php?q=node/3731. [16] Chi tiết về các điều khoản và các biện luận được trình bày ở các trạm sau đây: thomas.loc.gov/cgi-bin/query/z?c110:H.R.6180:www.washingtonwatch.com/bills/show/110_HR_6180.htmlwww.citizen.org/trade/tradeact/www.citizen.org/trade/wto/[17] Xem: “When International Intellectual ‘Piracy’ is Fair.” Bài nầy có thể tải về từ trạm: www.faculty.uci.edu/profile.cfm?faculty_id=4884[18] Xem: Irwin, Douglas A. 2002. Free Trade Under Fire. Princeton: Princeton University Press, trang 193-196. [19] Như trên, trang 55-62 và trang 181. [20] “Mercantilism” là chủ nghĩa và cơ chế kinh tế chính trị thịnh hành ở Âu-châu sau khi chủ nghĩa phong kiến suy sụp. Cơ chế nầy dựa trên các chính sách quốc gia về tích lũy vàng bạc, thành lập các thuộc địa và các hạm đội thương thuyền, phát triển kỹ nghệ và khai thác mỏ để dành lợi thế trong cáng cân thương mại. [21] Paul Krugman, giáo sư về kinh tế tại đại học Princeton và là người được giải Nobel kinh tế năm 2008, giải thích như sau: Anyone who has tried to make sense of international trade negotiations eventually realizes…they are a game scored according to mercantilist rules, in which an increase in exports—no matter how expensive to produce in terms of other opportunities forgone—is a victory, and an increase in imports—no matter how many resources it releases for other uses—is a defeat. Ai mà đã muốn hiểu ý nghĩa của những cuộc thương lượng về mậu dịch quốc tế thì cuối cùng thấy rằng… nó là một trò chơi được tính điểm theo các nguyên tắc mercantilist, trong đó một sự tăng gia trong xuất khẩu—mặc dù có phải trả giá đắt đến đâu để sản xuất so với những cơ hội khác bị bỏ qua—là một thắng lợi, và một sự tăng gia trong nhập khẩu—dù có dành được không biết bao nhiêu tài nguyên để sử dụng cho các việc khác—là một thất bại. Xem: Krugman, P. (1977). "What Should Trade Negotiators Negotiate About?" Journal of Economic Literature 35(1): 113-120, trang 113-4. [22] Nhưng theo Jagdish Bhagwati, một giáo sư kinh tế nữa, nếu hai nước cùng chấp nhận thị trường tự do thì kết quả sẽ càng lớn hơn cho cả hai. Bhagwati, J. (2002). Free Trade Today. New Jersey, Princeton University Press, trang 102. Joseph Stiglitz, một giáo sư kinh tế giải Nobel nữa, không đồng ý với nhiều quan niệm của trường phái thị trường tự do chính thống. Xem: Stiglitz, J. và Charleton, A. 2005. Fair Trade for All: How Fair Trade Can Promote Development. Oxford: Oxford University Press [Trần Hữu Dũng (2006) điểm cuốn sách này: "Đọc “Công bằng thương mại cho tất cả” của Joseph E. Stiglitz và Andrew Charlton," Tia Sáng, Xuân Bính Tuất] [23] Krugman, như trên, trang 113. Nguyên văn: “If economists ruled the world, there would be no need for a World Trade Organization. (…) [G]lobal free trade would emerge spontaneously from the unrestricted pursuit of national interest.” Lập luận trên của Krugman có thể diễn dịch một cách khác như sau (cho dễ hiểu hơn?): Nếu (giả định?) một người khôn ngoan, thận trọng, và nhìn xa hiểu rộng (như các kinh tế gia?) không bao giờ đi giết người vì có khả năng bị thương tích hay bị tổn thương danh dự (vân vân và vân vân) thì trong một thế giới có những người khôn ngoan, thận trọng và nhìn xa hiểu rộng đó không cần có những đạo luật xử phạt người giết người hay các cơ chế nhà tù để giam cầm những người đó. Nhưng nếu, trong thực tế, đã có những đạo luật và cơ chế nhà tù dành cho những người giết người và ta thấy rằng một nhóm người thuộc chủng tộc hay giới tính nào đó thường bị xử phạt khắc nghiệt hơn nhóm người khác thì ta có thể phản đối sự không công bằng đó mà không cần phải so sánh ai khôn ngoan và nhìn xa hiểu rộng hơn ai. Cùng một thể ấy, giả dụ như hiệp định WTO đã được thành lập vì sự thiếu khôn ngoan và không nhìn xa hiểu rộng của các quốc gia (hay các nhà lãnh đạo các nước nầy) trên thế giới đi nữa, nếu người ta thấy các điều lệ mậu dịch hiện hành trong hiệp định nầy không công bằng vì có ảnh hưởng xấu hay đem lại thiệt hại cho nhóm người nào đó hơn thì ta có quyền phản đối và đưa ra những đề nghị thay đổi các điều khoản đó. [24] Xem: Stiglitz, J. và Charleton, A. 2005, như trên; Chang, Ha-Joon. 2003. Kicking Away the Ladder. London: Anthem Press; và Chang, Ha-Joon và Grabel, I. 2004. Reclaiming Development. New York: Zed Books. [25] “When International Intellectual ‘Piracy’ is Fair”, như trên, trang 23. [26] Như trên, trang 23. Nguyên văn: “Special accommodation in the form of transitional protections, and technological and financial assistance to support them, seem a clear demand of fairness in trade. This is so even if the goal is limited to the prevention and mitigation of unnecessary harm.” [27] James, A. 2005. “Distributive Justice without Sovereign Rule: The Case of Trade.” Social Theory and Practice 31:4, trang 10. Nguyên văn: “when people (or their activities) are organized as a governable social practice, we can expect them, as a collectivity, to take reasonable precautions to prevent foreseeable negative consequences of their joint activity, and to compensate for any resulting harm.” Bài nầy có thể tải về từ: webfiles.uci.edu/ajjames/DistributiveJusticewithoutSovereignRule.pdf[28] “When International Intellectual ‘Piracy’ is Fair”, như trên, trang 25. [29] James, A. 2005. “Distributive Justice without Sovereign Rule: The Case of Trade.” Social Theory and Practice 31:4, trang 10-17. [30] “When International Intellectual ‘Piracy’ is Fair”, như trên, trang 25. Nguyên văn: “because rich countries can almost always afford such measures, they do not entail a cost to developing countries.” [31] Như trên, trang 25. Nguyên văn: “for reasons of ‘priority for the worse off’—the idea that a benefit matters more, from a moral or fairness point of view, the worse off a person is in absolute terms.” [32] Như trên, trang 26-27. [33] Như trên, trang 28.
|
|
|
Post by Can Tho on May 17, 2011 16:24:29 GMT 9
Ai làm chủ thế giới / Thế giới quan của Hoa Kỳ Vietsciences- Nguyễn Trường 11/05/2011 TỪ THẾ GIỚI A RẬP ĐẾN WISCONSIN Sự trỗi dậy của phong trào dân chủ trong thế giới A Rập - một biểu tượng dấn thân can đảm và ngoạn mục của lực lượng quần chúng - bất ngờ trùng hợp với sự trỗi dậy đáng ngạc nhiên của hàng chục nghìn người ủng hộ giới lao động và dân chủ ở Madison, Wisconsin, và nhiều thành phố khác ở Mỹ. Tuy nhiên nếu quỹ đạo hai phong trào chống đối ở Cairo và Madison gặp nhau, hai phong trào lại theo hai hướng đi trái ngược: Ở Cairo, mục tiêu là giành các nhân quyền sơ đẳng bị chế độ độc tài chối bỏ, ở Madison lại nhằm bảo vệ những quyền lợi đã giành được sau nhiều năm tranh đấu cam go và nay đang bị tấn công nghiêm trọng. Mỗi phong trào là một thế giới vi mô các xu thế xã hội toàn cầu, dõi theo hai hướng khác nhau. Đã hẳn cả hai sẽ mang lại nhiều hậu quả lớn lao: một trong trung tâm kỹ nghệ suy sụp của một xứ giàu có và hùng mạnh nhất trong lịch sử nhân loại; và một trong "vùng chiến lược kỳ diệu và có lẽ là phần thưởng kinh tế phong phú nhất thế giới trong địa hạt đầu tư nước ngoài,"[1] như T T Dwight Eisenhower đã từng gọi, hay, theo ngôn từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong thập kỷ 1940, một phần thưởng nước Mỹ nhất định phải chiếm giữ cho chính mình và đồng minh trong Trật Tự Thế Giới Mới đang diễn ra vào thời đó. Cho đến nay, chúng ta vẫn có đủ lý do để tin, các nhà làm chính sách, trong căn bản, vẫn tuân theo phán đoán của A.A. Berle, cố vấn thân cận của T T Franklin Delano Roosevelt: kiểm soát tiềm năng năng lượng vô song ở Trung Đông có nghĩa "kiểm soát được phần lớn thế giới".[2] Điều đó cũng có nghĩa: đánh mất quyền kiểm soát có thể đe dọa dự án thống lĩnh toàn cầu đã ra đời trong Đệ Nhị Thế Chiến, và luôn được duy trì và củng cố trước nhiều đổi thay quan trọng trên thế giới. Ngay từ ngày đầu của Đệ Nhị Thế Chiến năm 1939, Hoa Thịnh Đốn đã tiên liệu chiến tranh sẽ chấm dứt với Hoa Kỳ giữ địa vị cường quốc áp đảo. Suốt trong thời gian cuộc chiến tiếp diễn, các quan chức cao cấp của Bộ Ngoại Giao và các chuyên gia đối ngoại đã sọan thảo các kế hoạch cho thế giới thời hậu chiến. Họ đã hoạch định Khu Vực Rộng Lớn -Grand Area, Hoa Kỳ sẽ thống lĩnh, gồm Tây Bán Cầu, Viễn Đông, và các vùng nguyên thuộc đế quốc Anh, và giàu tài nguyên năng lượng ở Trung Đông. Trong khi Nga bắt đầu đánh bại quân Đức Quốc Xã sau Stalingrad, đối tượng của Grand Area đã được nới rộng đến nhiều nơi trong hai châu lục Âu-Á (Eurasia), ít ra trong vùng kinh tế cốt lõi Tây Âu. Bên trong Grand Area, Hoa Kỳ sẽ duy trì "quyền lực vô điều kiện", với "bá quyền kinh tế và quân sự", trong khi làm mọi cách "hạn chế cách hành xử quyền tối thượng" của các quốc gia khác có thể gây khó khăn cho kế hoạch toàn cầu của Mỹ. Ngay sau đó, các kế hoạch thời chiến đã được thực thi. Người Mỹ luôn tin Âu châu có thể chọn lựa theo đuổi một đường lối độc lập. NATO ra đời một phần nhằm ngăn chận đe dọa đó. Ngay sau khi lý do biểu kiến chính thức mất hết hiệu lực vào năm 1989, NATO đã được mở rộng về phía Đông - vi phạm những cam kết với lãnh tụ Xô Viết Mikhail Gorbachev. Từ đó, NATO đã trở thành lực lượng can thiệp do Mỹ lãnh đạo, với pham vị hoạt động rộng lớn hơn. Và Tổng Thư Ký NATO, Jaap de Hoop Scheffer, đã thông báo trong một hội nghị: "lực lượng quân sự NATO có nhiệm vụ bảo đảm an ninh các tuyến dẫn dầu và hơi đốt cho các xứ Tây Phương," và nói chung, phải bảo vệ các tuyến đường hàng hải cho các tàu dầu và các "hạ tầng cơ sở quan trọng khác" của hệ thống năng lượng[3]. Chủ thuyết Grand Area rõ ràng đã cho phép can thiệp quân sự khi cần. Kết luận đó đã được chính quyền Clinton chính thức diễn dịch khi tuyên bố: Hoa Kỳ có quyền sử dụng quân lực để bảo đảm khả năng "tự do tiếp cận các thị trường then chốt, các nguồn cung năng lượng, và các tài nguyên chiến lược," và phải duy trì những lực lượng quân sự lớn ngay trong địa bàn Âu châu và Á châu "khả dĩ định hình các ý niệm của dân địa phương về chúng ta và định hình các biến cố ảnh hưởng đến đời sống và an ninh của chúng ta"[4]. Cùng những nguyên tắc đã biện minh cho kế hoạch xâm lăng Iraq. Vì mục tiêu chiến lược ở Iraq đã rõ ràng thất bại, người Mỹ không còn có thể che đậy kế hoạch xâm lược bên sau các chiêu bài và mỹ từ. Tháng 11-2007, Tòa Bạch Ốc đã buộc lòng phải công bố Tuyên Ngôn các Nguyên Tắc đòi hỏi lực lượng quân sự Hoa Kỳ phải lưu lại Iraq vô hạn định và dành đặc quyền ở Iraq cho các nhà đầu tư Mỹ. Hai tháng sau, T T Bush đã thông báo với Quốc hội: ông sẽ bác bỏ mọi dự luật có mục tiêu hạn chế sự đồn trú thường trực các lực lượng quân sự Hoa Kỳ ở Iraq hay "quyền kiểm soát của Mỹ đối với các tài nguyên dầu lửa của Iraq" - những mục tiêu Hoa Kỳ ít nhiều đã phải từ bỏ ngay sau đó trước phong trào kháng chiến kiên cường của người Iraq. Ở Tunisia và Ai Cập, các phong trào trỗi đậy của quần chúng đã ghi được nhiều thắng lợi ấn tượng. Tuy nhiên, theo phúc trình của Carnegie Endowment, trong khi danh tánh các lãnh đạo đã thay đổi, các chế độ vẫn còn y nguyên: "Một thay đổi trong giới thượng lưu lãnh đạo và hệ thống cai trị vẫn còn là một mục tiêu xa vời"[5]. Phúc trình đã thảo luận những trở ngại nội bộ đối với dân chủ, nhưng đã làm ngơ trước các rào cản luôn lớn lao và quan trọng từ bên ngoài. Hoa Kỳ và các đồng minh Tây Phương chắc chắn sẽ làm tất cả những gì có thể để ngăn ngừa dân chủ chân chính trong thế giới A Rập. Để hiểu rõ, chúng ta chỉ cần lưu ý đến công luận trong thế giới A Rập, như đã được các cơ quan thăm dò công luận của chính Hoa Kỳ phản ảnh. Mặc dù chỉ được phổ biến hết sức hạn chế, các nhà hoạch định Mỹ chắc chắn đều am tường: đại đa số người A Rập xem Hoa Kỳ và Do Thái như những đe dọa lớn lao họ đang đối diện - 90% người Ai Cập và 75% trong toàn vùng. Một số ít người A Rập, 10%, xem Iran như một đe dọa. Lập trường chống đối chính sách của Hoa Kỳ mạnh đến nỗi đa số người A Rập, và 80% dân Ai Cập, tin: an ninh sẽ được cải thiện nếu Iran có được vũ khí hạt nhân. Một bách phân tương tự trong nhiều lãnh vực khác. Nếu công luận có thể được phản ảnh trong chính sách, Hoa Kỳ và các đồng minh, không những không thể kiểm soát toàn vùng, mà còn có thể bị trục xuất khỏi thế giới A Rập, phương hại đến các nguyên tắc căn bản thống trị toàn cầu của Mỹ. BÀN TAY VÔ HÌNH Yểm trợ dân chủ là sở trường của các nhà ý thức hệ và tuyên truyền. Trong thế giới thực tế, giới thượng lưu thường chẳng yêu thích dân chủ. Bằng chứng rất hiển nhiên: dân chủ chỉ được hậu thuẫn trong chừng mức đóng góp vào các mục tiêu kinh tế xã hội của Mỹ và các đồng minh - một kết luận chỉ những nghiên cứu nghiêm túc hơn bất đắc dĩ phải thú nhận. Thái độ khinh thường dân chủ của giới thượng lưu đã được biểu lộ một cách bi hài trong phản ứng đối với các tiết lộ của WikiLeaks. Những tiết lộ được chú ý nhiều nhất, với những lời bình lạc quan, là các công điện tường trình người A Rập hậu thuẫn lập trường Hoa Kỳ về Iran. Đó chỉ là thái độ của những nhà cầm quyền độc tài trong khu vực. Thái độ của quần chúng không hề được nhắc tới. Nguyên tắc chỉ đạo được diễn tả bởi chuyên viên Trung Đông Marwan Muasher thuộc Carnegie Endowment, nguyên một viên chức cao cấp của chính quyền Jordan: " Chẳng có gì sai, mọi sự đều trong vòng kiểm soát."[6] Tóm lại, nếu giành được hậu thuẫn của các lãnh đạo độc tài, chẳng còn gì khác quan trọng để phải âu lo. Chủ thuyết Muasher là duy lý và đáng kính. Chỉ cần ghi lại một trường hợp rất thích ứng, trong thảo luận nội bộ năm 1958, T T Eisenhower đã tỏ ra quan tâm đến "chiến dịch căm thù" (the campaign of hatred) đối với người Mỹ trong thế giới A Rập, không phải bởi chính quyền, mà bởi chính người dân. Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (NSC) đã giải thích: trong thế giới A Rập, người ta có nhận thức Hoa Kỳ hỗ trợ các chế độ độc tài và ngăn chận dân chủ và phát triển, nhằm bảo đảm quyền kiểm soát các tài nguyên trong vùng. Hơn nữa, NSC kết luận, nhận thức trong căn bản là đúng, và đó là "điều chúng ta nên làm", căn cứ trên chủ thuyết Muasher. Các nghiên cứu của Ngũ Giác Đài sau sự kiện 11-9 cũng đã xác nhận cùng thực tế hiện nay. Kẻ thắng thường ném lịch sử vào sọt rác và nạn nhân luôn đọc lịch sử nghiêm túc. Thái độ đó là thường tình. Có lẽ một vài nhận xét về vấn đề quan trọng nầy có thể hữu ích. Ngày nay không phải là lần đầu Ai Cập và Hoa Kỳ cùng đối diện nhiều vấn đề tương tự, nhưng theo hướng đối nghịch. Điều nầy cũng đúng vào đầu thế kỷ 19. Các sử gia kinh tế đã đưa ra luận cứ: Ai Cập trước đây cũng đã ở trong vị trí khá thuận lợi để phát triển kinh tế nhanh chóng như Hoa Kỳ. Cả hai đều giàu , kể cả bông vải, nhiên liệu của cách mạng kỹ nghệ thời đó - mặc dù khác với Ai Cập, Hoa Kỳ đã phát triển ngành sản xuất bông vải và lực lượng lao động bằng các chính sách chinh phục, tàn sát, và nô lệ, với hậu quả rất hiển nhiên hiện nay trong những vùng dành riêng cho những người còn sống sót và trong các nhà tù đã bành trướng nhanh chóng từ thời Reagan, nơi cư trú của số dân thừa thải còn sót lại sau thời giải-thể-kỹ-nghệ-hóa -- deindustrialization. Một dị biệt căn bản là Hoa Kỳ đã được độc lập, và nhờ đó, đã có thể tự do làm ngơ trước những đòi hỏi của lý thuyết kinh tế Adam Smith đương thời, những huấn lệnh tương tự như những những lời thuyết giảng đối với các xã hội đang phát triển ngày nay. Smith đã khuyến cáo các cựu thuộc địa vừa được giải phóng nên sản xuất các sản phẩm nhất đẳng để xuất khẩu và nhập khẩu những sản phẩm biến chế cao cấp của Anh Quốc, và nhất là đừng tìm cách nắm độc quyền các sản phẩm cốt lõi, đặc biệt là bông vải. Smith cảnh cáo, bất cứ con đường nào khác cũng "làm chậm trễ thay vì tăng tốc sự gia tăng hơn nữa trong giá trị sản xuất hàng năm của mình, và có thể gây trở ngại, thay vì phát huy, đà tiến bộ đến thịnh vượng và cao cả thực sự của các xứ sở tại." [7] Sau ngày độc lập, các thuộc địa đã được tự do ở Bắc Mỹ, thay vì đi theo khuyến cáo của Smith, đã theo chân Anh Quốc, phát triển theo đường lối độc lập, với nhà nước giữ vai trò lãnh đạo, với thuế quan cao để bảo vệ kỹ nghệ non trẻ đối với hàng xuất khẩu của Anh Quốc, trước là vải vóc, về sau là thép và nhiều biến chế phẩm khác, và chấp nhận nhiều phương cách tăng tốc phát triển kỹ nghệ. Cộng Hòa độc lập cũng tìm cách giữ độc quyền bông vải khả dĩ đè bẹp các xứ khác, nhất là kẻ thù Anh quốc, như T T Jackson đã loan báo khi chinh phục Texas và phân nửa Mexico. Đối với Ai Cập, Anh Quốc đã ngăn chặn con đường phát triển tương tự. Lord Palmerston tuyên bố "không ý niệm công bằng nào [đối với Ai Cập] được ngăn đường các quyền lợi lớn lao và cao cả" như bảo tồn quyền bá chủ kinh tế và chính trị của Anh quốc, bày tỏ sự "thù ghét" đối với "tên man rợ dốt nát" Muhammed Ali dám tìm kiếm một đường lối độc lập, và gửi hạm đội và dùng sức mạnh tài chánh của Anh quốc để bóp chết chính sách phát triển kinh tế độc lập của Ai Cập. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, khi đã thay thế Anh quốc trong vai trò bá chủ toàn cầu, Hoa Kỳ cũng chọn cùng lập trường, nói rõ: Hoa Kỳ sẽ không cấp viện cho Ai Cập trừ phi Ai Cập theo đúng các quy luật chuẩn của một tiểu nhược quốc - những quy luật Hoa Kỳ tiếp tục vi phạm, áp đặt thuế quan cao để ngăn chặn bông vải Ai Cập và gây nạn thiếu hụt đồng dollar, phương hại cho kinh tế xứ nầy - dĩ nhiên luôn sử dụng lối giải thích thông thường dựa trên các nguyên tắc thị trường. Chẳng trách Ai Cập đã phát động"chiến dịch căm thù" đối với Hoa Kỳ; và Eisenhower đã phải quan tâm và công nhận: Hoa Kỳ luôn hỗ trợ các lãnh tụ độc tài, ngăn chận dân chủ và phát triển; không khác các đồng minh của Mỹ. Để công bằng với Smith, tưởng cần nói thêm Smith đã công nhận những gì có thể đã xẩy ra nếu Anh quốc theo đuổi các quy luật kinh tế lành mạnh, ngày nay được gọi là tân tự do - neoliberalism. Smith đã cảnh cáo: nếu các kỹ nghệ gia , các thương gia, và các nhà đầu tư Anh quốc quay ra ngoại quốc, họ rất có thể thủ lợi nhưng Anh quốc lại có thể đã phải chịu thiệt. Nhưng ông linh cảm với thiên kiến quốc gia (home bias), và tác động của"bàn tay vô hình" trong kinh tế cổ điển, Anh quốc vẫn có thể tránh tai họa của quy luật kinh tế duy lý. Tác động vừa nói rất khó bỏ quên. Đó chính là câu bất hủ "bàn tay vô hình" trong tác phẩm The Wealth of Nations. Một sáng lập viên hàng đầu trường phái cổ điển khác, David Ricardo, cũng đã rút tỉa những kết luận tương tự, hy vọng thiên kiến quốc gia có thể khiến giới sản xuất biến chế phẩm "bằng lòng với một tỉ suất lợi nhuận thấp trong nước, thay vì tìm kiếm một cách sử dụng tài sản một cách hữu lợi hơn ở các nước ngoài," những tình cảm, ông nói thêm,"tôi cảm thấy buồn vì đã bị suy yếu." Tạm quên đi những tiên đoán của cả hai tác giả, linh tính của các kinh tế gia cổ điển luôn khá lành mạnh. ĐE DỌA CỦA IRAN VÀ TRUNG QUỐC Phong trào dân chủ trong thế giới A Rập đôi khi được so sánh với Đông Âu năm 1989, nhưng trên những nền tảng đáng nghi ngờ. Năm 1989, phong trào dân chủ ở Đông Âu đã được người Nga chấp nhận, và được các cường quốc Tây phương hậu thuẫn, đúng theo chủ thuyết chuẩn: cuộc nổi dậy rõ ràng phù hợp với các mục tiêu kinh tế và chiến lược, và vì vậy, là một thành tựu cao thượng, được tán thưởng và đề cao , không như những phong trào đấu tranh bảo vệ các nhân quyền căn bản cùng thời ở Trung Mỹ, theo lời Tổng Giám Mục El Salvador đã bị ám sát, một trong hàng trăm nghìn nạn nhân của các lực lượng quân sự được Hoa Thịnh Đốn huấn luyện và trang bị. Không có một Gorbachev ở Tây Phương trong suốt những năm ghê rợn thời đó, và ngay cả hôm nay. Vì nhiều lý do riêng, các cường quốc Tây Phương vẫn luôn thù nghịch với dân chủ trong thế giới A Rập. Chủ thuyết Grand Area vẫn tiếp tục được áp dụng để đối phó với các khủng hoảng và xung đột hiện nay. Trong giới làm chính sách và bình luận chính trị Tây Phương, đe dọa từ Iran được xem như nguy cơ lớn nhất đối với trật tự thế giới, và do đó, phải là mục tiêu căn bản của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, với Âu châu lẽo đẽo theo sau một cách ngoan ngoãn. Nói một cách chính xác, đe dọa Iran là gì? Câu trả lời có thẩm quyền của Tây Phương đã đến từ Ngũ Giác Đài và Hệ Thống Tình Báo Hoa Kỳ. Phúc trình về an ninh toàn cầu năm 2010 nói rõ: đe dọa không mang tính quân sự. Cả Ngũ Giác Đài lẫn Cơ Quan Tình Báo Trung Ương đều kết luận, ngân sách quốc phòng của Iran tương đối thấp so với phần còn lại của khu vực. Chủ thuyết quân sự của Iran mang tính "triệt để tự vệ, được thiết kế nhằm giảm tốc độ một cuộc xâm lăng và đem lại một giải pháp ngoại giao cho sự thù nghịch."[8]Iran chỉ có "một khả năng hạn chế về quân sự bên ngoài lãnh thổ quốc gia"[9]. Với khả năng nguyên tử, "chương trình hạt nhân của Iran và ước muốn duy trì khả năng khai triển các vũ khí nguyên tử chỉ là phần cốt lõi của chiến lược răn đe"[10]. Đã hẳn chế độ thần quyền hà khắc là một đe dọa đối với nhân dân Iran, tuy vậy, vẫn kém xa các đe dọa từ phía các đồng minh Hoa Kỳ. Nhưng một đe dọa khác của Iran là khả năng răn đe tiềm tàng hay cách hành xử chủ quyền "thiếu chính đáng" có thể gây khó khăn cho khả năng tự do hành động của Hoa Kỳ trong khu vực. Đó mới là lý do thật sự tại sao Iran đã phải tìm kiếm khả năng răn đe. Chúng ta chỉ cần nhìn lại các căn cứ quân sự và lực lượng nguyên tử trong vùng để hiểu rõ. Thực vậy, cách đây 7 năm, nhà sử học quân sự Do Thái đã viết: "Thế giới đã chứng kiến bằng cách nào Hoa Kỳ đã tấn công Iraq, như sự thật nay đã rõ - chẳng có lý do nào. Nếu Iran đã không tìm cách sản xuất vũ khí hạt nhân, thì có lẽ họ đã là những người điên,"[11] nhất là họ thường xuyên sống dưới sự đe dọa của các cuộc tấn công vi phạm Hiến Chương LHQ. Họ có điên hay không vẫn còn là một vấn đề chưa có giải đáp, nhưng có lẽ là như vậy. Ngũ Giác Đài và Cơ Quan Tình Báo còn nhấn mạnh, đe dọa Iran còn vượt quá răn đe. Iran cũng tìm cách mở rộng khu vực ảnh hưởng trong các xứ láng giềng, và vì vậy, gây "bất ổn định" trong khu vực ( theo từ kỹ thuật trong ngành ngoại giao). Chiến lược xâm lăng và chiếm đóng quân sự của Hoa Kỳ trong các xứ láng giềng của Iran là để đem lại "ổn định". Nỗ lực của Iran nhằm mở rộng ảnh hưởng đến các xứ nầy là yếu tố gây "bất ổn định", và vì vậy, rõ ràng "không chính đáng". Sử dụng ngôn từ như vậy là thường tình. Trong nghĩa nầy, nhà phân tích chính sách đối ngoại nổi tiếng James Chace đã sử dụng đúng từ "ổn đinh" trong nghĩa kỹ thuật của từ nầy khi ông giải thích: để đạt được ổn định ở Chí Lợi, người ta cần phải bất ổn định xứ nầy (bằng cách lật đổ chính quyền dân cử Salvador Allende và thay thế bằng chế độ độc tài của tướng Augusto Pinochet). Cố nhiên, còn nhiều quan ngại khác về Iran cũng cần được thăm dò phân tích. Tuy nhiên, thiết tưởng chừng đó cũng đã đủ để hiểu rõ những nguyên tắc chỉ đạo và vai trò của những nguyên tắc nầy trong ngôn từ và văn hóa đế quốc. Như các nhà hoạch định của Franklin Delano Roosevelt đã nhấn mạnh ngay từ lúc khởi đầu hệ thống trật tự thế giới đương đại, Hoa Kỳ không thể tha thứ bất cứ cách hành xử chủ quyền nào gây trở ngại cho trật tự toàn cầu do mình thiết kế. Hoa Kỳ và Âu châu hiện đang đồng lòng trừng phạt Iran như một đe dọa tình trạng ổn định trong khu vực. Tuy nhiên, tưởng cũng cần nhắc lại tình trạng cô lập của chính họ. Khối phi liên kết đã ủng hộ mạnh mẽ quyền làm giàu uranium của Iran. Trong khu vực, công luận A Rập còn hậu thuẫn mạnh mẽ hơn, ngay cả quyền có vũ khí hạt nhân của Iran. Thổ Nhĩ Kỳ, một đại cường trong khu vực, đã cùng với Brazil, một cường quốc được nhiều quốc gia thán phục trong vùng Nam Mỹ, gần đây nhất, đã bỏ phiếu chống nghị quyết chế tài do Mỹ đề xướng trước Hội Đồng Bảo An LHQ -UNSC. Thái độ bất phục tùng của hai cường quốc đã đưa đến những lời lên án gay gắt, nhưng không phải là lần đầu: năm 2003, Thổ Nhĩ Kỳ đã từng bị lên án khi --tuân theo đa số ý dân - 95% -- từ chối tham gia vào cuộc chiến xâm lăng Iraq; do đó, chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đã chứng tỏ chưa hiểu rõ dân chủ theo kiểu Tây Phương. Sau hành động "ngỗ ngược" trước UNSC năm rồi, Thổ Nhĩ Kỳ đã bị Philip Gordon, quan chức ngoại giao hàng đầu về Âu châu trong chính quyền Obama, cảnh cáo: "Thổ Nhĩ Kỳ phải chứng tỏ sự cam kết của mình như một đối tác với Tây Phương".[12] Một học giả bên cạnh Hội Đồng Đối Ngoại đã hỏi, "Làm cách nào chúng ta có thể giữ người Thổ Nhĩ Kỳ trong lối đi dành riêng cho họ?"[13] -- đúng như một thành viên dân chủ tốt. Nguyên Tổng Thống Brazil "Lula" cũng đã bị cảnh cáo trong một hàng tít lớn trên báo The New York Times: nỗ lực của ông cùng với Thổ Nhĩ Kỳ đem lại một giải pháp cho vấn đề làm giàu uranium bên ngoài khuôn khổ của Hoa Kỳ là một "Chấm đen trong Di Sản của nhà Lãnh Đạo Brazil".[14]Một cách ngắn gọn, làm theo chỉ thị của chúng tôi, bằng không, hãy coi chừng! Một chuyện bên lề khá thú vị, đã bị nhận chìm một cách hiệu quả, là đề xuất Iran-Turkey-Brazil đã được Obama chuẩn y trước, với ước đoán là sẽ thất bại, do đó, trở thành một vũ khí ý thức hệ chống lại Iran. Khi đề xuất thành công, sự chấp thuận đã tức khắc trở thành lời khiển trách. Để thay thế, theo tạp chí Foreign Affairs số mới nhất, Hoa Thịnh Đốn đã hậu thuẫn thành công một nghị quyết khác trước UNSC, èo ọp đến độ TQ đã sẵn sàng ký, và nay đang bị chỉ trích vì đã chấp hành đúng với nghị quyết, nhưng không đúng với chỉ thị đơn phương của Hoa Thịnh Đốn. Trong khi Hoa Thịnh Đốn, dù rất bực bội, có thể tha thứ thái độ thiếu kỷ luật của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng với Trung Quốc, Hoa Kỳ thật khó lòng làm ngơ và rất khó xử. Báo chí cảnh cáo: "các thương gia và các nhà đầu tư TQ hiện đang lấp vào khoảng trống ở Iran khi giới doanh thương từ nhiều xứ khác, nhất là Âu châu, rút khỏi thị trường"[15], và đặc biệt hơn cả, TQ đang bành trướng địa vị vốn sẵn áp đảo của mình trong phạm vi kỹ nghệ năng lượng. Hoa Thịnh Đốn đang phản ứng với ít nhiều tuyệt vọng. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã cảnh cáo: nếu muốn được chấp nhận trong cộng đồng thế giới -- một từ kỹ thuật ám chỉ Hoa Kỳ và những xứ đồng ý với họ -- TQ không nên "luồn lách và trốn tránh các trách nhiệm quốc tế, rất rõ ràng"[16]: nói rõ ra, phải theo chỉ thị của Mỹ. TQ chắc chẳng mấy ấn tượng. Ngoài ra, đe dọa quân sự ngày một gia tăng của TQ cũng là một quan tâm lớn. Một nghiên cứu gần đây của Ngũ Giác Đài đã cảnh cáo ngân sách quân sự của TQ đang nhích lên gần "1/5 ngân sách Ngũ Giác Đài dành cho hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan"[17], đã hẳn chỉ một phân số của ngân sách quân sự của Mỹ. Báo The New York Times còn thêm: Sự kiện bành trướng lực lượng quân sự của TQ có thể "chối bỏ khả năng các tàu chiến Hoa Kỳ hoạt động trong hải phận quốc tế bên ngoài bờ biển TQ."[18] Đó mới chỉ là bên ngoài bờ bể của TQ; có lẽ TQ còn phải đề nghị Hoa Kỳ nên thanh toán các lực lượng quân sự đang chối bỏ khả năng các tàu chiến TQ qua lại trong hải phận quốc tế trong vùng biển Caribbean. Sự thiếu hiểu biết quy luật của thế giới văn minh của TQ còn được minh chứng qua những phản kháng đối với các kế hoạch hàng không mẫu hạm nguyên tử tiền tiến của Hoa Kỳ tham gia các cuộc thao diễn hải quân một vài dặm ngoài bờ bể TQ, có đủ khả năng tấn công Bắc Kinh. Ngược lại, Tây Phương hiểu rõ tất cả các hoạt động và thao diễn thuộc loại nầy đều được hoạch định để bảo vệ ổn định và an ninh của chính Tây Phương. Tờ báo thuộc khuynh hướng tự do New Republic đã tỏ ra quan ngại "TQ đã gửi tàu chiến xuyên qua hải phận quốc tế đến phía ngoài đảo Okinawa của Nhật." Quả thật, đó là một khiêu khích -- không giống như sự kiện, không được ghi nhận, Hoa Thịnh Đốn đã biến hải đảo nầy thành một căn cứ quân sự khổng lồ chẳng quan tâm gì đến làn sóng chống đối kịch liệt của người dân Okinawa. Đây không phải là một khiêu khích, trên căn bản một nguyên tắc chuẩn: Thế giới thuộc về Hoa Kỳ hay "America owns the world". Trong mọi trường hợp, các quốc gia láng giềng cũng có đủ lý do để quan ngại trước sức mạnh kinh tế và quân sự ngày một gia tăng của TQ. Và mặc dù công luận của thế giới A Rập đã hậu thuẫn mạnh mẽ cho chương trình vũ khí hạt nhân của Iran, người Mỹ cũng chẳng nên làm như thế. Các sách báo về chính sách đối ngoại đầy dẫy những đề nghị đối phó với đe dọa. Phương cách rõ ràng nhất, nhưng rất ít khi được thảo luận: vận động thiết lập một khu vực phi nguyên tử (Nuclear-Weapons-Free-Zone -- NWFZ) trong vùng Trung Đông. Vấn đề đã được nêu lên trong hội nghị Cấm Phổ Biến Nguyên Tử (Non-Proliferation-Treaty -- NPT) tại LHQ tháng 5-2010. Ai Cập, trong tư cách chủ tịch 118 quốc gia thuộc Phong Trào Phi Liên Kết, đã kêu gọi thương nghị về một NWFZ, như đã được các quốc gia Tây phương, kể cả Hoa Kỳ, đồng ý , tại hôi nghị tái thẩm NPT (review conference), năm 1995. Đề nghị đã được đại đa số các quốc gia trên thế giới hậu thuẫn mạnh mẽ, đến nỗi Obama đã phải chính thức đồng ý. Tuy nhiên, Hoa Thịnh Đốn đã thông báo cho hội nghị: đây là một ý kiến hay, nhưng không phải bây giờ. Vả chăng, Hoa Kỳ cũng nói rõ Do Thái là một ngoại lệ: không một đề nghị nào có thể kêu gọi đặt chương trình nguyên tử của Do Thái dưới sự bảo trợ của Cơ Quan Năng Lượng Nguyên Tử Quốc Tế (IAEA) hay phổ biến thông tin về "các cơ sở và hoạt động nguyên tử của Do Thái."[19] Bấy nhiêu đó là phương pháp đối phó với sự đe dọa nguyên tử của Iran.
|
|
|
Post by Can Tho on May 17, 2011 16:26:08 GMT 9
TƯ NHÂN HÓA HÀNH TINH
Tuy chủ thuyết Grand Area vẫn còn thắng thế, khả năng thực thi, trong thực tế, cũng đã suy giảm. Quyền lực của Hoa Kỳ đã lên đỉnh điểm ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến, khi Hoa Kỳ sở hữu khoảng 50% tài sản toàn cầu. Nhưng tình trạng dĩ nhiên phải suy giảm, khi các nền kinh tế kỹ nghệ bị chiến tranh tàn phá đã hồi phục và phong trào giải thể chủ nghĩa thực dân đã vượt qua quá trình hấp hối. Vào đầu thập kỷ 1970, tài sản của Hoa Kỳ đã sụt xuống còn 25% toàn cầu, và thế giới kỹ nghệ đã trở thành tam cực: Bắc Mỹ, Âu châu, và Đông Á (lúc đó dựa trên Nhật).
Kinh tế Hoa Kỳ cũng đã trải nghiệm một thay đổi đột ngột trong thập kỷ 1970, đổi qua hướng tài chánh hóa và xuất khẩu sản xuất. Một số yếu tố hội tụ đã tạo nên vòng lẫn quẩn tập trung tài sản quá độ, nhất là trong 1% dân số sang giàu nhất - hầu hết là các CEO, các nhà quản lý các hedge funds, và các người cùng tầng lớp. Khuynh hướng nầy đã đưa đến hiện tượng tập trung quyền lực chính trị, và từ đó, chính sách tăng gia tập trung kinh tế của nhà nước: chính sách tài chánh, luật lệ quản lý các công ty, bãi bỏ giám sát, và nhiều thứ khác. Trong lúc đó, phí tổn vận động tuyển cử tăng vọt, các đảng phái chính trị ngày một lệ thuộc nhiều hơn vào túi tiền của giới đại tư bản, ngày một mang tính tài chánh: Cộng Hòa trước, rồi Dân Chủ tiếp theo sau không xa.
Bầu cử đã trở thành trò chơi dối trá vô nghĩa, điều khiển bởi kỹ nghệ PR (Public Relations - Quan Hệ Quần Chúng) hay Marketing. Sau khi đắc cử vào cuối năm 2008, Obama đã được kỹ nghệ PR trao giải thưởng Chiến Dịch Marketing thành công nhất trong năm. Các lãnh đạo kỹ nghệ doanh thương nhởn nhơ vui mừng. Báo chí doanh thương giải thích: họ đã Marketing hay rao bán các ứng viên như các món hàng kể từ thời Ronald Reagan, nhưng 2008 là năm thành công nhất và có thể làm thay đổi phong cách trong phòng hội ban quản trị các công ty. Người ta dự phóng cuộc bầu cử 2012 sẽ tốn khoảng 2 tỉ, phần lớn tài trợ bởi các đại công ty. Chẳng trách Obama luôn lựa chọn các lãnh đạo doanh thương vào các chức vụ hàng đầu. Quần chúng căm giận và khó chịu, nhưng chừng nào nguyên tắc Muasher thắng thế, điều đó cũng chẳng quan trọng gì.
Trong khi tài sản và quyền lực tập trung vào một thiểu số, đối với tối đại đa số quần chúng, thực lợi tức hay real income ngưng trệ và người dân vất vã kiếm sống hàng ngày phải lao động nhiều giờ hơn, với nợ nần và lạm phát tích sản luôn tiêu tan với khủng hoảng tài chánh - những tai họa bắt đầu với guồng máy giám sát được gỡ bỏ kể từ thập kỷ 1980.
Tất cả những điều đó không còn là vấn đề đối với 1% dân giàu có. Họ thủ lợi qua chính sách bảo kê của chính quyền, mệnh danh "quá lớn để thất bại" -"too big to fail”. Các ngân hàng và các xí nghiệp đầu tư tham lam có thể lao vào những giao dịch liều lĩnh đầy bất trắc, với lợi nhuận kếch sù, và khi hệ thống đổ vỡ, họ có thể trông cậy vào nhà-nước-vú-em để vòi tiền cứu trợ từ người dân chịu thuế, không quên mang theo các sách giáo khoa kinh tế của Friedrich Hayek và Milton Friedman.
Đó là diễn tiến bình thường kể từ thời Reagan, khủng hoảng lần sau luôn nghiêm trọng hơn lần trước, dĩ nhiên chỉ đối với công chúng. Hiện nay, số thất nghiệp thực sự, khoảng trên dưới 25 triệu, ngang mức thời Đại Khủng Hoảng, trong lúc Goldman Sachs, một trong các kiến trúc sư chính gây nên đại suy thoái đang tiếp diễn, lúc một giàu hơn. Goldman Sachs vừa thầm lặng phân phối món thù đáp 17,5 tỉ trong năm 2010, với CEO Lloyd Blankfein nhận khoản tiền thưởng 12,6 triệu cùng với lương căn bản tăng gấp ba.
Tập trung sự chú ý vào những sự thật trên đây không mấy bổ ích. Vì vậy, guồng máy tuyên truyền phải tìm cách đổ lỗi: trong mấy tháng vừa qua, cho giới công nhân viên nhà nước, mức lương béo bở, hưu trí hậu hĩnh, v.v..: tất cả đều tưởng tượng, mô phỏng theo hình ảnh bà mẹ da đen ngồi xe limousine đi lãnh chi phiếu trợ cấp xã hội của Reagan -- và nhiều mô hình khác chẳng cần phải liệt kê. Người dân được chờ đợi thắt lưng buộc bụng nhiều hơn nữa - có nghĩa, hầu hết mọi người.
Giới giáo viên là mục tiêu đặc biệt tốt, một phần trong nỗ lực quyết tâm phá hủy hệ thống giáo dục công lập, từ vỡ lòng cho đến đại học, qua chương trình tư nhân hóa, một lần nữa, có lợi cho giới nhà giàu, nhưng một tai họa đối với quần chúng cũng như kinh tế về lâu về dài. Nhưng đây chỉ là một trong số các vấn đề ngoại vi có thể gạt qua một bên, chừng nào các Nguyên Tắc Thị Trường còn thắng thế.
Một mục tiêu tốt khác, dĩ nhiên, là các người nhập cư. Đây là một sự thật trong suốt lịch sử Hoa Kỳ, nhất là trong các thời kỳ khủng hoảng kinh tế, đặc biệt trầm trọng hiện nay bởi ý tưởng Hoa Kỳ đang bị xâm chiếm: dân da trắng sẽ trở thành thiểu số trong nay mai. Chúng ta có thể hiểu sự căm giận của các cá nhân đang phiền muộn, nhưng tính tàn nhẫn của chính sách lại quá phủ phàng.
Nhưng dân nhập cư nào được chọn làm mục tiêu? Ở phía Đông tiểu bang Massachusetts, nhiều người Mayan trong các vùng cao nguyên Guatemala, lánh nạn diệt chủng bởi những tên sát nhân sủng ái của Reagan. Một số di dân nhập cư khác người Mexico là nạn nhân của thỏa ước NAFTA thời Clinton, một trong những thỏa ước gây tổn thương cho giới lao động trong cả ba xứ thành viên. Khi Quốc Hội phê chuẩn NAFTA trước sự chống đối của dân Mỹ năm 2004, Clinton đồng thời cũng quân sự hóa biên giới Hoa Kỳ-Mexico, trước đó có thể qua lại tương đối tự do. Ai cũng biết campesinos của Mexico không thể cạnh tranh với khu vực nông doanh Hoa Kỳ được chính quyền trợ cấp, và các doanh thương Mexico không thể cạnh tranh với các công ty đa quốc gia của Mỹ luôn được thụ hưởng" quy chế đối xử quốc gia" hay "national treatment", qua các thỏa ước "mậu dịch tự do" [một nhãn hiệu sai lầm] -- một đặc ân chỉ dành cho các pháp nhân hay corporate persons, loại ra ngoài các thể nhân hay individual persons. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các biện pháp nầy đã đưa đến các làn sóng tỵ nạn tuyệt vọng, và các làn sóng chống đối nhập cư cuồng loạn bởi các nạn nhân của chính sách ưu đãi các pháp nhân sở tại (state-corporate policies).
Tình trạng tương tự cũng thường gặp ở Âu châu, nơi phân biệt chủng tộc còn lan tràn và trầm trọng hơn cả Hoa Kỳ. Người ta chỉ có thể nhìn với ngạc nhiên khi Ý Đại Lợi than phiền làn sóng tỵ nạn từ Libya, nơi diễn ra nạn diệt chủng đầu tiên sau Đệ Nhất Thế Chiến, trong khu vực Đông Âu nay đã được giải phóng, dưới tay chính quyền phát xít Ý. Hay khi Pháp, ngày nay vẫn còn bảo vệ các chế độ độc tài chuyên chế trong các cựu thuộc địa, đang cố tình làm ngơ trước những tàn bạo đáng ghê tởm của chính mình ở Phi châu, trong lúc Tổng Thống Pháp, Nicolas Sarkosy, nghiêm khắc cảnh cáo "làn sóng nhập cư", và Marine Le Pen phản đối tổng thống đã không làm gì để chận đứng. Đó là chưa kể nước Bỉ, có thể xứng đáng được giải thưởng về điều Adam Smith gọi sự "bất công dã man của người Âu châu"[20].
Sự trỗi dậy của các đảng tân-phát-xít trong khắp Âu châu là một hiện tượng đáng sợ ngay cả khi chúng ta không nhắc lại những gì đã xẩy ra trong lục địa Âu châu trong một quá khứ gần đây.
Những ai có đầu óc châm biếm có thể nhớ Benjamin Franklin, một trong những gương mặt lãnh đạo thời Khai Sáng, đã cảnh cáo các thuộc địa mới được giải phóng nên thận trọng trong việc nhận người Đức nhập cư, bởi lẽ da họ quá ngăm đen; người Thụy Điễn cũng vậy. Ngay trong thế kỷ 20, những chuyện hoang đường lố bịch về tính thuần khiết Anglo-Saxon vẫn rất phổ thông ở Hoa Kỳ, kể cả các tổng thống và các gương mặt lãnh đạo khác.
Văn hóa phân biệt chủng tộc là điều độc hại tồi tệ; càng bỉ ổi hơn trong thực tế. Có thể quả quyết diệt trừ polio còn dễ hơn tệ nạn phân biệt chủng tộc, một dịch bệnh càng độc hại hơn trong thời kinh tế khủng hoảng.
Tưởng cũng cần nhắc đến một vấn đề ngoại vi rất dễ bị xem thường trong hệ thống thị trường. Các bất trắc trong hệ thống tài chính có thể bổ cứu bởi giới chịu thuế, nhưng không ai có thể cứu trợ khi môi trường bị hủy hoại. Và hủy hoại môi trường hiện đang được xem như một việc cần và phải làm trong định chế thị trường. Các lãnh đạo doanh thương đang phát động chiến dịch tuyên truyền nhằm thuyết phục dân chúng: hiện tượng hâm nóng toàn cầu bởi con người chỉ là một trò dối trá lường gạt - mặc dù họ hiểu rất rõ tính nghiêm trọng của tai ương nầy. Nhưng trong đoản kỳ họ phải tối đa hóa thị phần và doanh lợi. Nếu họ không làm, người khác sẽ làm.
Vòng lẩn quẩn có thể trở nên nguy hiểm. Để hiểu rõ tính trầm trọng của tai họa thay đổi khí hậu, chúng ta chỉ cần nhìn ở Quốc Hội mới của Hoa Kỳ, phần lớn được giới doanh thương hậu thuẫn và tài trợ. Hầu như tất cả đều là những thành phần chối bỏ hiện tượng thay đổi khí hậu. Họ đã bắt đầu cắt xén ngân sách dành cho các biện pháp tiết giảm tai họa môi trường. Tệ hơn nữa, vài người đang thực sự tin tưởng ở việc làm của họ. Chẳng hạn, người đứng đầu tiểu ban môi trường mới đã giải thích: thay đổi khí hậu không là một vấn đề vì Thượng Đế đã hứa với Noah sẽ không có nạn lụt nào khác.
Nếu những việc như thế xẩy ra trong vài xứ nhỏ bé xa xôi, chúng ta có thể mỉm cười. Nhưng không ai có thể mỉm cười khi xẩy ra trong xứ giàu có nhất, hùng mạnh nhất thế giới.
Trong mọi trường hợp, nguyên nhân chính của khủng hoảng kinh tế hiện nay là lòng cuồng tín và giáo điều "bàn tay vô hình của thị trường", hay nói chung, là điều kinh tế gia Joseph Stiglitz, người đã được giải thưởng Nobel 15 năm trước đây, đã gọi là "tôn giáo thị trường hiểu biết hơn ai hết" hay "markets know best". Chính thái độ cuồng tín vừa nói đã là nguyên nhân ngăn ngừa các ngân hàng trung ương và các kinh tế gia ghi nhận bong bóng bất động sản 8,000 tỉ USD không có cơ sở nào trong các học thuyết kinh tế - bong bóng 2008, khi xìu xẹp, đã hủy hoại kinh tế thế giới.
Tất cả những gì trên đây, và nhiều hơn nữa, có thể tiếp diễn chừng nào chủ thuyết Muashar thắng thế. Chừng nào quần chúng còn thụ động, còn thờ ơ, bị lung lạc bởi chủ nghĩa tiêu thụ hay thái độ thù ghét những người dễ bị tổn thương, lúc đó giới giàu có và quyền hành có thể làm bất cứ điều gì họ muốn và những người sống sót sẽ chỉ có thể ngồi chiêm nghiệm hậu quả.
Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
05-5-2011
[1] President Dwight Eisenhower: ...the most strategically important area in the world -- a stupendous source of strategic power and probably the richest economic prize in the world in the field of foreign investment.
[2] ...substantial control of the world.
[3] Jaap de Hoop Scheffer: "NATO troops have to guard pipelines that transport oil and gas that is directed for the West," and more generally to protect sea routes used by tankers and other "crucial infrastructure" of the energy system.
[4] The U.S. has the right to use military force to ensure "uninhibited access to key markets, energy supplies, and strategic resources," and must maintain huge military foeces "forward deployed" in Europe and Asia "in order to shape people's opinions about us" and "to shape events that will affect our livelihood and our security."
[5] A change in ruling elites and system of governance is still a distant goal.
[6] There is nothing wrong, everything is under control.
[7] Adam Smith: ...Any other path "would retard instead of accelerating the further increase in the value of their annual produce, and would obstruct instead of promoting the progress of their country towards real wealth and greatness".
[8] Its military doctrine is strictly "defensive, designed to slow an invasion and force a diplomatic solution to hostilities."
[9] Iran has only "a limited capacty to project force beyond its borders."
[10] With regard to the nuclear option, "Iran's nuclear program and its willingness to keep open the possibility of developing nuclear weapons is a central part of its deterrent strategy."
[11] The world has witnessed how the United States attacked Iraq for, as it turned out, no reason at all. Had the Iranians not tried to build nuclear weaponns, they would be crasy.
[12] Turkey must "demonstrate its commitment to partnership with the West."
[13] How do we keep the Turks in their lane?
[14] ...a Spot on Brazilian Leader's Legacy.
[15] China's investors and traders are now filling a vacuum in Iran as businesses from many other nations, especially in Europe, pull out.
[16] ...China must not "skirt and evade international responsibilities, [which] are clear": namely, follow U.S. orders.
[17] China's military budget is approaching "one-fifth of what the Pentagon spent to operate and carry out the wars in Iraq and Afghanistan," a fraction of the U.S. military budget, of course.
[18] The New York Times: China's expansion of military forces might "deny the ability of American warships to operate in international waters off its coast."
[19] The U.S. made clear that Israel must be exempted: no proposal can call for Israel's nuclear program to be placed under the auspices of the International Atomic Energy or for the release of information about Israeli nuclear facilities and activities.
[20] ...the savage injustice of the Europeans.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 24, 2011 5:05:41 GMT 9
Lãi suất: con dao hai lưỡi Vietsciences-Hồng Lê Thọ Khi lạm phát cao hơn lãi suất Từ tháng 11/2007 giá tiêu dùng tăng vọt, báo động dấu hiệu của nạn lạm phát sẽ ập tới trong những ngày cuối năm khi chỉ số giá cả của “rổ hàng hoá” tăng trên 12% , vượt mức tăng trưởng GDP là 8-8.5%. Sự thật đã diễn ra đúng như dự đoán của các nhà kinh tế, nhìn lại chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2007 đã tăng 12,6% , qua tháng 1/2008 tăng 2,38% và chưa có dấu hiệu giảm tốc trong tháng 2 trong khi GDP là 8,43%(năm 2007). Giá xăng dầu nhấp nhỏm tăng theo thị trường quốc tế, lôi cuốn vật giá leo thang trở lại* sẽ đẩy mức độ lạm phát vượt mức 14% một cách dễ dàng. Nguyên nhân gây ra lạm phát có nhiều, được phân tích khá kỹ trên các báo; các yếu tố khách quan (giá dầu thô, vàng trên thị trường thế giới, khủng hoảng tiền tệ tại Mỹ, suy thoái kinh tế xảy ra khắp nơi cùng với những cuộc tranh chấp chính trị, dầu mỏ tạo ra một sự bất ổn…) và chủ quan (cách điều hành kinh tế vi mô chậm chạp, không bắt kip chuyển động của nền kinh tế, lượng ngoại tệ thu vào để dự trữ hơn 9 tỷ đô la, tốc độ thực hiện dự án đầu tư nước ngoài chậm, chỉ 6 tỷ trong 20,3 tỷ đăng kí, nhập siêu hơn 12 tỷ đô la trong năm 2007…đã làm giảm ý nghĩa tích cực và nội dung tăng trưởng kinh tế…) mà Thủ tướng chính phủ cũng như các bộ liên quan đã nêu trong những phiên họp tổng kết cuối năm. Trước nguy cơ đe doạ nghiêm trọng nầy, bước vào tháng 2, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện “cấp tốc” một chính sách khống chế lạm phát khá mạnh tay gồm 4 biện pháp(xem bảng tóm tắt) trong đó ưu tiên tìm cách thu hồi lượng tiền đồng tương đương 20,300 tỷ đồng qua việc bắt buộc các Ngân hàng Thương mại(NHTM), mua tín phiếu của NHNN với lãi suất rất thấp 7,8%/năm so với thị trường đang ở mức 11-14%/năm), liệu ai sẽ là người bù lỗ ? Bên cạnh đó, các ngân hàng còn phải tăng tỷ lệ tiền dự trữ bắt buộc, từ 10 lên 11% điều nầy có nghĩa là các NHTM phải thu hồi --từ các nơi đã cho vay-- thêm 20,000 tỷ đồng về tủ sắt của mình theo lệnh của NHNN. Với 2 biện pháp nầy trên thị trường tiền tệ đã xảy ra nạn khan hiếm tiền mặt, ít nhất là 40,300 tỷ đồng trong một thời gian cực ngắn đe doạ đến hoạt động tín dụng, cho vay, thanh toán…bình thường của khối NHTM, mở ra một cuộc chạy đua nâng cao lãi suất để hút lượng tiền trong nhân dân nhằm duy trì hoạt động “chịu lỗ”. Hiệu ứng nầy không dừng lại ở đây, thể hiện qua chỉ số VN-Index trên thị trường chứng khoán đỏ rực từ khi năm mới bắt đầu, liên tục hạ mức sàn còn 650-700 điểm, giảm giá trị thực tế 30-35%, gây thiệt hại không nhỏ cho các nhà đầu tư ngắn hạn và tạo ra một cơ hội bằng “vàng” cho các nhà đầu cơ trường vốn trong và ngoài nước. Vòng xoáy lốc nguy hiểm Song song với diễn tiến nầy, giá nhà đất đô thị (đặc biệt là các chung cư cao tầng…) nhảy vọt đến mức khủng khiếp, chỉ trong vòng 8 tháng qua, có nơi đã tăng 200-300 lần hơn như các cuộc điều tra mới đây, trong đó giá vàng đã tác động không nhỏ vì vậy nhiều nhà đầu tư chứng khoán vội vàng chuyển hướng, nhảy sang lĩnh vực đầu cơ địa ốc vì siêu lợi nhuận còn tiếp tục trong khung cảnh đầu tư nước ngoài đang có khuynh hướng ngày càng tăng, nạn khan hiếm văn phòng, nhà ở… dự đoán vẫn còn tiếp diễn trong 5-7 năm tới. Khó khăn nhất là các công trình xây dựng nửa chừng bị hụt vốn, không thể vay thêm cũng như những cá nhân đã cầm cố tài sản đê vay trong cuộc chơi chứng khoán. Chắc chắn sẽ có cảnh bán chạy nợ, xiết của cải nhà đất, gây xáo trộn lớn trong xã hội. Mặt khác những người gửi tiết kiệm cũng không để yên khi đồng tiền trong ngân hàng của mình ngày càng giảm giá trị, mất khoảng 4-5% trong ba tháng qua vì lãi suất tiết kiệm không bắt kịp tốc độ lạm phát trên 14 % hiện nay**. Một cơn lốc xoáy đang cuốn hút những thành quả mà sự phát triển kinh tế trong những năm qua mang lại, hai nói khác đi những ảo ảnh hay ảo tưởng về nền kinh tế thị trường đang làm vỡ tan những cuộc chơi về tiền tệ (money game) thông qua sàn giao dịch chứng khoán, mua bán nhà đất tự do, không phải đóng thuế lợi tức trong hệ thống “mở” hiện nay. Việc cho vay để đầu tư vào thị trường chứng khoán cũng đã bị siết chặt bởi quyết định sửa đổi số 03/2008 của NHNN đã hạn chế hoạt động cho vay của NHTM, là một trong những nguyên nhân vay” nóng” với lãi suất đột biến. Cuộc chạy đua về lãi suất, trong đó lãi xuất qua đêm có thể lên đến 30-35%/năm như đã thấy trong ngày 18/2 vừa qua. Hành động chạy đua nầy có thể đưa đến khủng hoảng tài chính, gây hiệu ứng dây chuyền về một nạn lạm phát mới rất nguy hiểm nếu không có biện pháp tháo ngòi nổ. Ngày 22/2/2008, trước sức ép quá nóng nêu trên, NHNN đã phải bơm vào thị trường 39,000 tỷ đồng trong vòng một tuần lễ, một biện pháp chữa cháy một mức hổ trợ thanh khoản chưa từng có nhưng các NHTM cổ phần cũng đành bó tay vì không có khả năng “vay” lại của nhà nước và đành phải chấp nhận lãi suất qua đêm 30-43%/năm của thị trường vốn liên ngân hàng. Ba tuần trước đây NHNH đã “bức dây động rừng” bằng sáng kiến “giảm lạm phát” thô bạo, không thể cứu vãn dù đã phải “trả lại” bằng cách “nhả” tiền ra thị trường như đã nói, kết quả vẫn “trở tay không kịp” khi những tác động về tâm lí của người dân đã rơi vào trạng thái hoang mang, mất tin tưởng vào biện pháp “lợi bất cập hại”. Chưa ai biết diễn tiến của thị trường tiền tệ sẽ bi đát, nghiêm trọng hơn đến mức nào, nhưng rõ ràng là những dấu hiệu khả quan hi vọng khôi phục lại sự năng động của nhà đầu tư cũng như hoạt động cho vay tín dụng-thế chấp vẫn ảm đạm , trong khi phát triển kinh tế mà tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2008 sẽ phải là 8,5-9 % như mục tiêu đã đề ra đang bị đe doạ sụt giảm như lời cảnh báo của ông Kuroda Haruhiko , Chủ tịch Ngân hàng Phát triển Châu Á ngày 21/2/2008 vừa qua tại Hà nội. Đừng tạo thêm gánh nặng cho sản xuất-đời sống VN đã được nhiều nước công nhận là một nước có nền kinh tế thị trường sau khi gia nhập WTO nhưng hình như quên đi điều tối kỵ là nền kinh tế nầy vận động theo qui luật cân đối cung cầu của bản thân nó, không thể cưỡng bức theo mệnh lệnh hay ý muốn chủ quan, chịu sự chi phối bằng tư duy bao cấp xưa kia mà những biện pháp khống chế lạm phát đã phơi bày trong 3 tuần qua. Đành rằng biện pháp dùng lãi suất để điều tiết thu hồi lượng tiền lưu thông, hạn chế cho vay tín dụng hay tăng lượng quĩ dự phòng của các NHTM..nhằm ngăn chận lạm phát là những biện pháp kinh điển nhất nhưng trên cơ sở là lãi suất phải cao hơn tỷ lệ lạm phát đồng thời tất cả những điều nầy phải thực hiện để củng cố và phát triển sản xuất, cân bằng cán cân thương mại, hạn chế chi tiêu của chính phủ, hạn chế đầu tư quá sức gây mất cân đối…mới khắc phục được như chúng ta thấy TQ vẫn giữ vững phát triển với mức tăng trưởng cao, trên 11% GDP trong khi mức độ lạm phát là 7,1% và liên tục xuất siêu mặc dù những lời chỉ trích về chất lương hàng hoá, an toàn thực phẩm xuất khẩu vẫn chưa nguôi. Bài học nầy rất đáng tham khảo, nhất là đừng vì biện pháp tiền tệ mà gây cản trở, tạo thêm gánh nặng cho người đầu tư vào các ngành sản xuất-xuất khẩu và đời sống của người dân. Việt nam vẫn là một nước có GDP còn thấp, sản xuất bấp bênh vì vậy những đại gia cố tình “thổi” giá, làm giá trong thị trường nhà đât, chứng khoán tạo chênh lệch lợi nhuận lớn, kiếm lời nhanh hơn là đầu tư vào công nghệ để tăng năng suất, giảm giá thành tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường như đã thấy trong năm qua là điều không mấy khó hiểu vì vậy chủ trương hạn chế cho vay vào những lĩnh vực nầy là đúng mặc dù tiếng than vãn của họ không nhỏ. Bước vào năm mới, nhu cầu về vốn để đẩy mạnh sản xuất rất lớn nhưng nếu bị đối sử hạn chế cho vay như lĩnh vực địa ốc sẽ tác động rất lớn cho phát triển kinh tế và an sinh xã hội.Cần tiếp tục kích thích sản xuất kể cả biện pháp cho vay với lãi suất ưu đãi không thể không tính đến vì điều nầy không hề là nhân tố tạo ra hay thúc đẩy lạm phát. Để phát triển bền vững: trở về với giá trị thật Thiết nghĩ điều cần nhất hiện nay là tạo một tâm lý ổn định, không gây hoảng loạn(panique) thêm bằng những thông tin chính xác ,nhanh nhạy và kịp thời từ phía NHNN hay của người đứng đầu bộ máy điều hành vĩ mô. Nêu lên những biện pháp đề xuất, tạo ra dịp hiến kế để chia sẻ khó khăn và sự đồng thuận xã hội, đồng thời để cho thị trường nhà đất và chứng khoán trở về với giá thật của chúng, không cần nuôi dưỡng một thị trường bong bóng, tạo cơ hội cho những nhà đầu cơ trục lợi trong lúc “dầu sôi lửa bỏng”. Việc sớm hoàn chỉnh luật thuế sát sao hơn, phù hợp với lợi tức siêu ngạch từ mua bán nhà đất và chứng khoán cần phải được tính đến, xem đây là một trong những biện pháp chống lạm phát tích cực. Dòng chảy đầu tư nước ngoài vào Việt nam sẽ còn tăng nhanh trong vài năm tới, nhưng tình hình bất ổn hiện nay sẽ là cản trở lớn, có nguy cơ đánh mất cơ hội đang ở trong tầm tay. Tuần qua, tổ chức phát triển mậu dịch JETRO của Nhật bản vừa công bố kết quả thăm dò các giới công nghiệp sản xuất, chế tạo ở Nhật bản, 96% trả lời rằng sẽ chuyển qua Việt nam để đầu tư phát triển thay vì TQ như từ trước đến nay, cho thấy nước ta không còn là thị trường đầu tư tiềm năng mà đang trở thành điểm đến đầy hi vọng của các nhà đầu tư nước ngoài.. Mong rằng sự bình ổn sẽ sớm được xác lập trong trật tự để chào đón những nhà đầu tư mới từ các nước trong đó việc “bình thường hoá” các hoạt động kinh tế cạnh tranh lành mạnh kể cả hoạt động kinh doanh tiền tệ, đầu tư vào bất động sản, chứng khoán là điều tất yếu...những biện pháp dồn khó về người dân, nhất là người nghèo chiếm đa số trong xã hội, trong đó biện pháp “đổi tiền” tối hậu để giảm lạm phát (deflation) sẽ gây tai hoạ khôn lường mà chúng ta nên tránh. Hồng Lê Thọ 3/2008 Box 1. Tin mới nhất *Liên bộ Tài chính- Công thương đã có quyết định điều chỉnh tăng giá xăng dầu lúc 11 giờ sáng nay. Theo đó, giá xăng bán lẻ thêm 1.500 đồng/lít (giá dầu tăng theo quyết định của Liên bộ). Như vậy, xăng A92 có giá 14.500 đồng/lít. Mức tăng 1.500 đồng/lít cũng áp dụng cho xăng A90 và A83.(ngày 25/2/2008). Ngày 27/2/2008 Tổng cuc thống kê công bố mức tăng giá cả trong 2 tháng đầu năm 2008 là 6,04%, mức cao nhất trong vòng 12 năm nay. **NHNN ra lệnh các ngân hàng phải giữ mức lãi suất 12%/năm, không chạy đua cạnh tranh về lãi suất để thu hút vốn bên ngoài(ngày 27/2/2008). (Box 2) 4 biện pháp thắt chặt tiền tệ 1. Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%. Theo đó từ đầu tháng 2/2008 tổng cộng có gần 20.000 tỷ đồng các NHTM phải nộp dự trữ bắt buộc tăng thêm cho NHNN. 2. Ngày 15/2/2008 NHNN quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc. tỷ đồng/ngân hàng. Các NH phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1.000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ. 3. Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng cao hơn trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm. 4. NHNN ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các NHTM, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây. Box 3. Chuyên gia Bùi kiến Thành: TTCK có thể còn xuống nữa, mà xuống nữa chưa chắc đã không hợp lý. Giá cả của chứng khoán VN trong thời gian qua quá cao, không có một tiêu chuẩn nào thực sự để nó có giá cao như vậy. TTCK điều chỉnh trong những tháng vừa rồi, theo tôi là hợp lý, không có gì để Nhà nước phải quan tâm, để biện pháp cứu thị trường này. ----chú: có thể bỏ bớt box 2 nếu các bài trước cũng đã có đề cập chi tiết---
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 24, 2011 5:09:01 GMT 9
Kinh tế học và chính sách kinh tế Vietsciences- Lê Văn Cường Trong bất kỳ một quốc gia nào, mọi công dân, từ những nhà lãnh đạo đến người dân bình thường, đều mong muốn kinh tế học phục vụ tốt để phát triển kinh tế cho nước mình. Đó là một đòi hỏi chính đáng. Nhưng một người lãnh đạo, theo ý tôi, cần phải nhận thức được những hạn chế sau đây của kinh tế học: 1. Đó là một ngành thuộc phạm trù khoa học xã hội, không thể được thử nghiệm được như ngành khoa học tự nhiên. Dĩ nhiên, kinh tế học dựa trên sự quan sát, sự vận hành của xã hội. Nhưng cũng vì vậy, theo góc độ và thời điểm chúng ta quan sát, nẩy sinh ra nhiều học thuyết kinh tế khác nhau. Ví dụ: Muốn nâng cao tăng trưởng của GDP chúng ta nên làm gì? Không có một phương án trả lời duy nhất. (a) Nếu xã hội ở trong trạng thái cung hàng hóa lớn hơn cầu, ta nên tăng lương, thu nhập để tăng cầu và từ đó tăng sản xuất (mô hình kinh tế dựa trên học thuyết Keynes). (b) Nếu xă hội ở trong trạng thái cầu cao hơn cung, tăng lương chỉ làm tăng lạm phát và thâm hụt cán cân ngoại thương (mô hình cổ điển). Như vậy phải tác động lên những yếu tố làm tăng cung. Nếu cung hàng hóa bị "nghẽn" vì các chi phí sản xuất (lương nhân công, thuế,...) quá cao, thì nhà nước nên giảm các chi phí ấy để đẩy mạnh sản xuất. Nếu cung hàng hóa bị "nghẽn" vì làm ăn thiếu hiệu quả (máy móc quá cũ, lao động quá nhiều,...) thì phải tìm những biện pháp để thúc đẩy năng suất. Qua thí dụ đơn giản ở trên, ta có thể nhận thức rằng cần phải đẩy mạnh: (i) hiểu biết sâu rộng các học thuyết kinh tế (ii) nghiên cứu lý thuyết về kinh tế nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng. Hai ý này không phải là "xa xỉ phẩm" ngay cả trong tình hình kinh tế hiện nay ở Việt Nam. 2. Tương đối hóa lòng tin vào học thuyết vì những lý do sau đây: 2.1. Mỗi học thuyết chỉ "đúng" trong một hoàn cảnh kinh tế xã hội nhất định (thí dụ, sử dụng học thuyết Keynes nếu xã hội ở trong trạng thái cung cao hơn cầu). Do đó, cần phải có số liệu trung thực, hoàn chỉnh, đầy đủ nhằm xác định chính xác tình hình cụ thể của nền kinh tế để biết nên sử dụng học thuyết gì để đáp ứng đúng nhu cầu của xã hội về kinh tế. Do vậy, số liệu liên quan đến kinh tế phải được công bố. 2.2. Các học thuyết kinh tế không bất di bất dịch mà luôn luôn cần được bổ sung thêm. Nếu những dự báo kinh tế dựa trên một học thuyết kinh tế không phù hợp với số liệu, cần phải tìm hiểu tại sao. Bản thân học thuyết ấy có thiếu sót gì không? 2.3. Đừng có ảo tưởng rằng một mô hình kinh tế được định lượng có thể giúp đưa ra những dự báo hoàn toàn chính xác vì những chuỗi số liệu bao giờ cũng có sai số . Trong thực tế, có nhiều vấn đề kinh tế mà mô hình chưa nắm bắt được. Nhưng mô hình có thể cho biết một chính sách kinh tế có tác động tốt hay xấu với một độ tin cậy nào đó. Chúng ta có thể không hoàn toàn thỏa mãn nhưng ít nhất là biết được còn hơn không biết gì cả. 2.4. Mỗi học thuyết đều có chức năng của riêng nó. Ví dụ, theo ý tôi, không thể sử dụng học thuyết kinh tế Marx để làm chính sách kinh tế vì mục đích của học thuyết kinh tế Marx là phân tích và phê phán tư bản chủ nghĩa. Nhưng để vận dụng học thuyết Marx hay một học thuyết nào khác vào thực tế kinh tế xã hội Việt Nam để xây dựng một xã hội công bằng, giàu mạnh, văn minh là một thách thức cho các nhà nghiên cứu kinh tế Việt Nam. Lê Văn Cường Giám đốc nghiên cứu thuộc Trung tâm Quốc gia nghiên cứu khoa học Pháp.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 2:44:36 GMT 9
Khủng hoảng năng lượng toàn cầu
Vietsciences-Nguyễn Trường Trước hết, tin vui về năng lượng: Với giá dầu ngày một gia tăng và tình hình kinh tế toàn cầu ngày một suy sụp, Cơ Quan Năng Lượng Quốc Tế (Internatioal Energy Agency - IEA) gần đây đã phúc trình: số cầu dầu khí toàn cầu sẽ không gia tăng nhiều trong năm 2011 như đã dự phóng, và nhờ vậy, giá dầu tại các trạm xăng tạm thời sẽ không tăng nhiều. Trong Phúc Trình Thị Trường Dầu Khí (Oil Market Report) tháng 5-2011, IEA đã hạ thấp số dầu tiêu thụ ước tính hàng ngày xuống mức 89,2 triệu thùng - 190,000 thùng ít hơn. Vì vậy, giá bán lẻ có thể sẽ không lên cao như tiên liệu vào hồi đầu năm, mặc dù vẫn sẽ ở mức cao hơn bất cứ lúc nào kể từ những tháng đỉnh điểm trong năm 2008, trước suy thoái kinh tế toàn cầu. Cần nhớ đây là tin vui. Và bây giờ đến với tin buồn: thế giới đang đối mặt với một loạt các vần đề năng lượng khó giải quyết, và ngày một trầm trọng hơn trong những tuần lễ gần đây. Đây là các vấn đề ngày một gay cấn trên mặt địa cầu cũng như trong lòng đất. Bên dưới bề mặt, trữ lượng dầu lửa, hơi đốt, và than đá dễ khai thác, một thời dồi dào, hiện đang ngày một cạn kiệt. Trên mặt địa cầu, tính toán sai lầm của con người và địa chính trị đang giới hạn ngạch số sản xuất và khả dụng trong số cung năng lượng các loại. Với nhiều vấn đề ngày một nghiêm trọng trên và dưới mặt đất, viễn tượng năng lượng chỉ có thể ngày một u ám hơn. Một sự kiện đơn giản cần ghi nhớ vì sẽ giúp chúng ta hiểu được tính nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng năng lượng: kinh tế thế giới được cơ cấu trong phương cách một sự dậm chân tại chỗ trong ngạch số năng lượng sản xuất không phải là một lựa chọn. Để thỏa mãn nhu cầu khổng lồ của các cường quốc kỹ nghệ kỳ cựu như Hoa Kỳ cùng với nạn cực kỳ khát dầu của các cường quốc đang lên như TQ, sản lượng dầu khí toàn cầu phải tăng trưởng đáng kể mỗi năm. Theo dự phóng của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ (DOE), sản lượng toàn cầu, căn cứ trên mức sản xuất năm 2007, phải tăng trưởng 29% lên 640 triệu tỉ BTU (640 quadrillion British thermal units) vào năm 2025, mới đủ để thỏa mãn nhu cầu ước tính. Ngay cả khi tiêu thụ năng lượng tăng trưởng chậm hơn đôi chút so với dự phóng, mọi bất cập trong việc đáp ứng nhu cầu năng lượng của thế giới đều đưa đến nhận thức khan hiếm, có nghĩa giá nhiên liệu sẽ tăng vọt. Trên đây chính là những điều kiện chi phối kinh tế thế giới hiện nay và mãi mãi trong tương lai. Trong bối cảnh đó, ba hiện tượng đang diễn tiến trong năm 2011 sẽ làm thay đổi lối sống của nhân loại trong tương lai có thể tiên liệu. DẦU KHÓ KHAI THÁC Cú sốc năng lượng quan trọng đầu tiên trong năm 2011 là chuỗi biến động dồn dập từ Tunisia và Ai Cập đến Mùa Xuân A Rập trong vùng Trung Đông nới rộng. Cả Tunisia lẫn Ai Cập trong thực tế đều không phải những xứ sản xuất nhiều dầu, nhưng làn sóng chính trị gây sốc do các biến động đã lan ra toàn vùng, kể cả Libya, Oman, và Saudi Arabia. Hiện nay, cấp lãnh đạo Saudi và Oman tỏ ra còn có khả năng chế ngự các mầm phản kháng, nhưng số dầu Libya sản xuất trên dưới 1,7 triệu thùng mỗi ngày đã sụt xuống gần số không. Khi bàn đến số lượng dầu khả dụng trong tương lai, thật khó lòng nói quá tầm quan trọng của các biến cố trong mùa xuân vừa qua trong vùng Trung Đông, những biến cố không ngừng đe dọa các thị trường năng lượng. Theo dự báo sản lượng dầu toàn cầu, Saudi Arabia và các xứ trong vùng Vịnh Ba Tư luôn được chờ đợi cung cấp một bách phân lúc một gia tăng trong tổng số cung dầu toàn cầu, trong khi sản lượng các xứ then chốt trong các vùng khác ngày một sụt giảm. Đạt được sự gia tăng trong sản ngạch vừa nói là điều thiết yếu. Tuy nhiên, mục tiêu khó lòng được thể hiện trừ phi lãnh đạo các xứ nầy chịu bỏ ra một số tiền đầu tư khổng lồ để khai triển các trữ lượng dầu mới -- đặc biệt là dầu nặng và khó khai thác đòi hỏi những cơ sở hạ tầng tốn kém hơn so với các trữ lượng dầu rẻ tiền dễ khai thác hiện hữu. Trong một bài trên trang đầu nhan đề "Đối Diện với Ngày cuối của Dầu Dễ Khai thác," [hay rẽ tiền] (Facing Up to the End of "Easy Oil"), báo The Wall Street Journal đã ghi nhận: mọi hy vọng đáp ứng nhu cầu dầu cuả thế giới trong tương lai sẽ lệ thuộc vào sự sẵn sàng chi tiêu hàng trăm tỉ mỹ kim vào các trữ lượng dầu nặng [khó khai thác và đắt tiền]. Nhưng hiện nay, đối diện với một dân số gia tăng nhanh chóng và viễn tượng biến động theo kiểu giới trẻ Ai Cập, cấp lãnh đạo Saudi hình như đang quyết chí sử dụng tài nguyên khổng lồ của mình vào những chương trình tạo công ăn việc làm và tăng cường kho vũ khí lớn lao, thay vì các cơ sở mới khai thác dầu nặng giá đắt. Đó cũng là thái độ của các vương quốc khác trong vùng Vịnh Ba Tư. Các nỗ lực vừa nói có thể mang lại hiệu quả hay không là một điều chưa ai biết rõ. Nếu các thanh niên Saudi, đối diện với những hứa hẹn công ăn việc làm và tiền bạc, cũng như viễn tượng trấn áp tàn khốc đối với những thành phần phản kháng, đã tỏ ra ít đối kháng hơn các thanh niên Tunisia, Ai Cập, và Syria, điều đó không có nghĩa hiện trạng hay status quo sẽ được duy trì mãi mãi. Jaafar Al Taie, giám đốc điều hành của nhóm Manaar Energy Consulting, đã đưa ra lời bình: "Saudi Arabia là một bom nổ chậm. Tôi không tin những gì Quốc Vương đang làm hiện nay đủ để ngăn ngừa một sự trỗi dậy."[1] Đó là phát biểu của Jaafar Al Taie, mặc dù hoàng gia Saudi đã loan báo một kế hoạch 36 tỉ USD nâng cao mức lương tối thiểu, gia tăng phụ cấp thất nghiệp, và xây nhà rẻ tiền. Hiện nay, thế giới có thể thích nghi với sự kiện mất mát dài lâu số dầu Libya. Saudi Arabia và vài xứ khác có đủ khả năng thặng dư để bù vào số sai biệt. Tuy nhiên, nếu Saudi Arabia xẩy ra biến động, tình hình sẽ hoàn toàn đổi khác. Sheikh Zaki Yamani, nguyên bộ trưởng dầu khí của Vương Quốc, đã nói hôm 5-4-2011: "Nếu Saudi Arabia xẩy ra biến động, [dầu] sẽ tăng giá lên khoảng 200 USD đến 300 USD một thùng. Trong hiện tình, tôi không chờ đợi điều nầy sẽ xảy ra, nhưng trước đây đâu có ai đã chờ đợi điều đó ở Tunisia?"[2] NĂNG LƯỢNG HẠT NHÂN TRÊN ĐƯỜNG TUỘT DỐC Trên thị trường năng lượng, một biến cố quan trọng thứ hai trong năm 2011 đã xẩy ra vào ngày 11-3 khi động đất và sóng thần ập vào Nhật Bản. Khởi đầu, hai tai họa đã tàn phá phần lớn hạ tầng cơ sở năng lượng Bắc Nhật, kể cả các nhà máy lọc dầu, hạ tầng cơ sở thương cảng, hệ thống đường ống dẫn dầu, các nhà máy phát điện, và mạng lưới truyền điện. Ngoài ra, thiên tai cũng đã hủy hoại bốn nhà máy hạt nhân ở Fukushima; và theo U.S.DOE, khả năng phát điện, vì vậy, cũng đã vĩnh viễn đánh mất 6.800 megawatts . Do đó, Nhật Bản đã phải nhập khẩu thêm dầu lửa, than đá, và hơi đốt thiên nhiên. Khỏi cần phải nói, số cung năng lượng toàn cầu, một lần nữa, phải chịu thêm áp lực. Với Fukushima và các nhà máy điện hạt nhân khác đã ngưng hoạt động, các nhà phân tích năng lượng ước tính năng lượng nhập khẩu mỗi ngày của Nhật có thể tăng thêm 238.000 barrels dầu lửa, khoảng 1,2 tỉ cubic feet hơi đốt, phần lớn dưới hình thức LNG (liquified natural gas). Đây là hậu quả quan trọng trong đoản kỳ của nạn sóng thần. Dĩ nhiên, chúng ta còn cần phải lưu ý đến các hậu quả trong trường kỳ. Thực vậy, chính quyền Nhật đã cho biết sẽ hủy bỏ kế hoạch xây thêm 14 lò phản ứng hạt nhân mới trong hai thập kỷ tới. Ngày 10-5, Thủ Tướng Naoto Kan loan báo, chính quyền sẽ phải hoạch định một chính sách năng lượng hoàn toàn mới cho Nhật. Mặc dù ông đã nói rõ sẽ thay thế các lò phản ứng nguyên tử bằng các hệ thống năng lượng tái tạo như gió và mặt trời, thực tế đáng buồn là phần lớn các loại năng lượng trong tương lai cũng nhất thiết phải đến từ dầu, than đá, và hơi đốt nhập khẩu - đặc biệt dưới hình thức LNG. Tai họa ở Fukushima, với các sai lầm được tiết lộ trong thiết kế và duy trì bảo quản tại nhà máy, đã đem lại hiệu ứng domino, khiến giới trách nhiệm về năng lượng trong nhiều xứ đã phải hủy bỏ các kế hoạch xây dựng các nhà máy điện hạt nhân mới hay gia hạn hoạt động cho những nhà máy hiện hữu. Đức là quốc gia đầu tiên đi theo con đường nầy. Ngày 14-3-2011, Thủ Tướng Angela Merkel đã đóng cửa hai nhà máy nguyên tử cũ, và tạm ngưng các kế hoạch gia hạn hoạt động cho 15 nhà máy khác. Ngày 30-5, chính quyền của bà cũng đã quyết định ngưng vĩnh viễn thay vì tạm ngưng. Tiếp theo sau các cuộc biểu tình lớn chống năng lượng nguyên tử và một cuộc bầu cử thất bại, bà đã hứa đóng cửa tất cả các nhà máy điện hạt nhân kể từ năm 2022. Theo các chuyên gia, quyết định nầy sẽ làm tăng thêm việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch. TQ cũng đã có phản ứng nhanh chóng. Ngày 16-3, TQ đã loan báo ngưng cấp giấy phép xây dựng các lò phản ứng mới trong lúc chờ đợi tái thẩm định các phương thức an toàn, mặc dù chính quyền TQ đã không loại bỏ khả năng đầu tư vào các lò phản ứng mới. Nhiều quốc gia khác, kể cả Ấn Độ và Hoa Kỳ, cũng đã tái thẩm định các phương thức an toàn tại các lò phản ứng, có nghĩa đang xét lại tính an toàn của các chương trình điện hạt nhân đầy tham vọng. Ngày 25-5, chính quyền Thụy Sĩ cũng đã loan báo sẽ hủy bỏ các kế hoạch xây ba nhà máy điện hạt nhân mới, và sẽ từng giai đoạn từ bỏ điện hạt nhân, và đóng cửa nhà máy điện hạt nhân cuối cùng vào năm 2034, gia nhập hàng ngũ các quốc gia vĩnh viễn từ bỏ điện hạt nhân. HẠN HÁN VÀ NĂNG LƯỢNG Sự kiện quan trọng thứ ba trong năm 2011, mặc dù ít liên hệ hiển nhiên tới năng lượng, là chuỗi hạn hán kỷ lục và kéo dài trong nhiều nơi trên hành tinh. Hậu quả tức thời và nghiêm trọng là sản xuất nông nghiệp sụt giảm, dẫn đến giá thực phẩm ngày một lên cao và nhiều xáo trộn xã hội. Nạn hạn hán trong năm rồi ở Úc, TQ, Liên Bang Nga, nhiều vùng ở Trung Đông, Nam Mỹ, Hoa Kỳ, và gần đây nhất ở Bắc Âu, cũng đã góp phần làm tăng giá thực phẩm lên mức kỷ lục, vì vậy, đã là yếu tố căn bản trong tình trạng xáo trộn chính trị đang lan tràn ở Bắc Phi, Đông Phi, và Trung Đông. Hạn hán cũng đã tác động lên năng lượng - giảm thiểu thủy lượng trong nhiều hệ thống sông ngòi lớn, đưa đến nạn sụt giảm năng suất của các nhà máy thủy điện, như đang xẩy ra trong nhiều nơi trên thế giới. Đe dọa lớn nhất đối với thủy điện đang xẩy ra ở TQ, quốc gia đang bị hạn hán nghiêm trọng nhất từ trước đến nay. Theo China Daily, vũ lượng trung bình từ tháng giêng đến tháng tư trong lưu vực sông Dương Tử, con sông dài và quan trọng về kinh tế của TQ, đã sụt giảm 40% - nhiều nhất trong hơn 50 năm qua. Điều nầy đã gây sụt giảm đáng kể trong số thủy điện sản xuất và nạn thiếu hụt điện năng trầm trọng khắp trung bộ TQ. Người Hoa phải sử dụng than đá để sản xuất nhiệt điện, nhưng các mỏ than quốc nội không còn đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của cả nước. TQ, vì vậy, đã trở thành quốc gia lệ thuộc nhiều vào than đá nhập khẩu. Số cầu gia tăng cùng với số cung bất cập đã khiến giá than đá tăng vọt. Trong lúc đó, giá điện do nhà nước ấn định không tăng theo kịp, nhiều công ty điện lực đã phải hạn chế mức sử dụng điện thay vì nhập khẩu than đá với giá cao và phải chịu thua lỗ. Trước tình trạng đó, kỹ nghệ điện lực đã phải lệ thuộc nhiều hơn vào các nhà máy dự phòng phụ trợ chạy bằng diesel, và số cầu dầu nhập khẩu gia tăng làm gia tăng áp lực trên giá nhiên liệu. HÀNH TINH LÂM NGUY Vào tháng 6 - 2011, đối diện với biến động đang tiếp diễn ở Trung Đông, thế giới đang chứng kiến một viễn ảnh điện hạt nhân thê lương, và nạn thiếu điện trầm trọng ở TQ cũng như trong nhiều xứ khác. Chúng ta còn thấy những gì trên chân trời năng lượng toàn cầu? Mặc dù Cơ Quan Năng Lượng Quốc Tế - IEA - dự báo số tiêu thụ năng lượng trong tương lai giảm thiểu, số cầu năng lượng toàn cầu vẫn tiếp tục vượt quá mọi gia tăng trong số cung. Tất cả các chỉ dấu đều chứng tỏ tình trạng mất quân bình sẽ tiếp diễn. Dầu lửa là ví dụ điển hình. Ngày một đông các nhà phân tích năng lượng hiện nay đều nhất trí: kỷ nguyên dầu dễ khai thác đã chấm dứt và thế giới ngày một trông cậy nhiều hơn vào trữ lượng dầu khó khai thác. Hơn nữa, nhiều người tin số lượng dầu hiện có thuôc loại nầy khá nhiều trên địa cầu - nằm sâu dưới lòng đất, ngoài khơi các đại dương, các cấu tạo địa chất như tar sands ở Canada, và ở vùng Arctic với băng tuyết đang tan. Tuy nhiên, khai quật, tinh lọc loại dầu khó khai thác sẽ rất tốn kém và đầy bất trắc về nhân sự và môi sinh. Để hiểu rõ, chúng ta chỉ cần nhớ lại tai họa Deepwater Horizon của BP trong tháng 4-2010 tại Vịnh Mexico. Trước tình trạng đói dầu của thế giới, một lượng ngày một lớn loại dầu nầy chắc chắn sẽ được khai quật, với nhịp độ và kích cỡ cần thiết, đủ để thay thế số dầu dễ khai thác tiệm giảm. Trước tình trạng bất ổn liên tục ở Trung Đông và trữ lượng dầu khó khai thác, các nhà phân tích hình như đã có đủ cơ sở để tin giá dầu sẽ lên cao trong những năm sắp tới. Kết quả cuộc thăm dò lãnh đạo các công ty năng lượng toàn cầu của Viện Năng Lượng Toàn Cầu KPMG (KPMG Global Energy Institute) trong tháng tư 2011 đã cho thấy 64% các người được thăm dò đã tiên đoán giá dầu thô sẽ vượt mức 120 USD mỗi thùng trước cuối năm 2011. Khoảng 1/3 những người nầy tiên đoán giá dầu có lẽ sẽ lên cao hơn, với 17% tin lên khoảng 131- 140 USD một thùng; 9% , 141-150 USD một thùng, và 6% , trên 150 USD một thùng. Giá than đá cũng đã tăng vọt trong những tháng gần đây, do số cầu toàn cầu lên cao trong khi số cung năng lượng hạt nhân và thủy điện sụt giảm. Nhiều quốc gia đã nỗ lực phát động phong trào thúc đẩy triển khai năng lượng tái tạo, nhưng tiến độ đã không đủ nhanh hay kích cỡ không đủ lớn để kịp thời thay thế các kỹ thuật truyền thống. Theo các chuyên gia, điểm sáng sủa duy nhất là việc khai thác ngày một gia tăng hơi đốt thiên nhiên từ shale rock (đá sét) ở Hoa Kỳ, sử dụng kỹ thuật hydraulic fracturing hay hydro-fracking. Những người đề xuất hơi đốt lấy từ đá sét tin: loại hơi đốt nầy có thể cung cấp phần lớn nhu cầu năng lượng trong những năm tới, cùng lúc có thể giúp tiết giảm ô nhiễm môi trường so với dầu lửa và than đá (vì hơi đốt thải ra ít carbon dioxide tính theo đơn vị năng lượng sản xuất). Tuy nhiên, số người chống đối cũng ngày một đông, đã cảnh cáo và âu lo trước các bất trắc đối với nguồn nước cung cấp cho thành phố do việc sử dụng các hóa chất độc hại trong quá trình tách biệt số hơi đốt sản xuất. Những báo động nầy đã tỏ ra đủ sức thuyết phục, khiến các nhà lập pháp trong nhiều tiểu bang khởi sự ban hành những hạn chế đối với phương thức sử dụng, do đó, sẽ ảnh hưởng đến khả năng đóng góp trong tương lai của hơi đốt vào số cung năng lượng toàn quốc. Ngày 12-5, Hạ Viện Pháp đã bỏ phiếu, với 287 phiếu thuận và 146 phiếu chống, và trở thành quốc gia đầu tiên cấm sử dụng phương thức hydro-fracking để sản xuất hơi đốt. Các vấn đề gây ô nhiễm môi trường của shale gas cũng không hẳn duy nhất. Sự kiện tất cả các chiến lược sử dụng nhằm kéo dài kỷ nguyên dầu lửa, than đá, và hơi đốt thiên nhiên đều lôi kéo theo nhiều bất trắc và phí tổn kinh tế và môi trường nghiêm trọng . Thực vậy, chính sự sử dụng nhiên liệu hóa thạch các loại đang diễn tiến đúng vào lúc những số liệu đầu tiên của IEA trong năm 2010 đều cho thấy lượng khí thải nhà kính trong khí quyển đã vượt quá mức kỷ lục đối với nhân loại. Với các khu dầu khí khổng lồ và dễ tiếp cận ở Texas, Venezuela, và Trung Đông, hoặc đã cạn kiệt hoặc đã tiêu tan, tương lai của dầu lửa chỉ còn mong đợi ở tar sands, shale oil, và dầu thô cực nặng, đòi hỏi nhiều năng lượng để khai quật , tinh lọc, gây nhiều khí thải nhà kính làm ô nhiễm môi trường. Shale oil là trường hợp điển hình. Mặc dù phong phú, shale oil chỉ có thể khai quật từ các lớp hóa thạch - shale hay đá sét sâu trong lòng đất - qua việc sử dụng chất nổ và nước chịu áp suất cao, trộn lẫn với các hóa chất độc hại. Vả chăng, để khai quật đủ số lượng shale oil cần thiết, người ta cần phải đào hàng chục nghìn giếng sâu vào lòng đất khắp nơi - những tai họa tiềm tàng đối với môi trường. Cũng không mấy khác, tương lai than đá sẽ lệ thuộc vào các kỹ thuật ngày một bất trắc, như san bằng các đỉnh núi, đỉnh đồi, bằng chất nổ, và phân tán các đá vụn và rác thãi độc hại xuống các thung lũng. Nói một cách khác, hiệu ứng nhà kính do việc sử dụng than đá gia tăng sẽ tác động trầm trọng đến hiện tượng thay đổi khí hậu, vì than đá tiết ra nhiều khí thải carbon dioxide hơn dầu lửa và hơi đốt thiên nhiên. Tóm lại, mọi chờ đợi số cung năng lượng ngày một gia tăng hầu đáp ứng số cầu trong những năm sắp tới chắc chắn sẽ đưa đến thất vọng. Thay vào đó, nạn thiếu năng lượng thường xuyên, và giá cả tăng cao khó tránh sẽ gây bất bình, xáo trộn chính trị, xã hội trong tương lai. Nếu chúng ta không từ bỏ ý tưởng tăng trưởng kinh tế không giới hạn là quyền lợi bẩm sinh không thể chuyển nhượng, và chọn lựa các loại năng lượng tái tạo nhiều hứa hẹn tuy đòi hỏi nhiều đầu tư tốn kém, nhân loại chắc chắn sẽ phải đối diện với một tương lai thật sự u ám. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 29-6-2011 [1] Saudi Arabia is a time bomb. I don't think that what the King is doing now is sufficient to prevent an uprising. [2] Sheikh Zaki Yamahi: "If something happens in Saudi Arabia, [oil] will go to $200 to $300 [per barrel]. I don't expect this for the time being, but who would have expected Tunisia?"
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 30, 2011 5:03:37 GMT 9
Giã từ ảo tưởng Hậu thuộc địa (I)
Nguyễn Văn Lục Khi viết xong bài Hội chứng hậu thuộc địa tôi nhận được một số ý kiến phản biện của giới bác sĩ. Nói chung là chấp nhận được, ôn hòa, chừng mực, tuy có một hai phản ứng quá đà. Hiểu được khi đụng chạm đến một tổ chức có sinh hoạt nội bộ chặt chẽ nhất hải ngoại, số thành viên đông nhất, có đóng niên liễm có nhiều báo chí điện tử, có tập san y sĩ, có hội y sĩ vùng và ngay cả hội y sĩ thế giới. Đó là những mặt mạnh của giới y sĩ Việt Nam ở hải ngoại. Chỉ riêng có một trường hợp là lá thư của bà bác sĩ, giáo sư Nguyễn (Đỗ) Thị Nhuận (Chủ nhiệm Bộ môn Ký sinh trùng khoa Y, ĐH Y khoa, 1961 - DCVOnline) tôi nhận được coi như một trao đổi “ngoài luồng”. Nội dung phê phán “ngoài văn bản” như việc các bà đi chợ gặp nhau. Tôi tự cho phép mình dẹp qua bà giáo sư Nhuận ra một bên. Tôi hy vọng sau loạt bài thứ hai, thứ ba với các nhan đề Sự hàm hồ của chế độ thuộc địa (Amiguous Colonization) đã viết xong và bài Tự chủ nghĩa dân tộc sang chủ nghĩa cộng sản và chính sách bên lề (Marginalization) chúng ta sẽ nhận thức rõ được tính lưỡng tính - có thể xấu nhiều, tốt ít - của của chủ nghĩa thuộc địa và từ đó hiểu được hậu quả của Hội chứng hậu thuộc địa. Tôi nhận thấy có một thứ vô thức tập thể mà nói một cách thông tục là “Bả tiếng Tây”. Giới có ăn học bị tiêm nhiễm cái “Sức mạnh mềm” (soft power) của chủ nghĩa thuộc địa như bị nhiễm độc. [“Sức mạnh mềm” là khả năng để có được những gì người ta muốn bằng sự hợp tác-nhiệm ý và sự lôi kéo - DCVOnline] Họ đánh mất cái cảm thức “da vàng”, mất cái tình tự, mất cái điều mà Bloke Modisane trong Blame me in History, 1963 muốn nhắc nhở, “Something in me died, a piece of me died with the dying of Sophiatownn ...” Hay mất cái cảm thức xem ra quá xa vời của một quá khứ về những câu hỏi nhức nhối, “Do you sense that those speaking would never think of trying to find out how things seem to you, from where you are? That you live in a world of others, a world that exits for others?” (Trích Postcolonialisme, Robert J.C Young, Oxford, 1) Và ảnh hưởng ấy đôi khi trở thành cái nếp sống văn hóa - nếp sống, nếp nghĩ, nếp hành động - thuộc địa mất rồi. Ngay cả những tài sản phi vật chất cũng đượm nét văn hóa ngoại lai, trở thành “chính ta” mất rồi. Tôi vẫn thấm thía với lời cảnh tỉnh sau đây của một người Việt Nam: “Chúng ta ở nhà tây, đội nón, mặc áo tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe đạp, xe lửa cho đến những nơi hang cùng ngõ hẻm. Cuộc sống không còn giữ nguyên hình hài ngày trước. Nào dầu tây, điện tây, nào vải, nào chỉ tây, kim tây, đinh tây. Đừng tưởng tôi ngụy biện. Một cái đinh cũng đem theo nó một chút quan niệm về phương tây về nhân sinh, về vũ trụ và có ngày sẽ thay đổi cả quan niêm về phương Đông. Những đồ dùng kiểu mới, chính là dẫn đường cho tư tưởng mới.” (Trích “Một thời đại mới trong thi ca Việt Nam”, lời tựa cho cuốn thi nhân Việt Nam.) Thật không khỏi ngạc nhiên và đầy tín hiệu Ambiguous Colonization trong những tiếp thu hai mặt sau đây của giới bác sĩ. - Khi nói chuyện hoặc điện thoại thì các bác sĩ đều thẳng thừng trong những suy nghĩ phê phán lộ ra sự thực bóc trần khá tiêu cực về ngành nghề của mình. Chẳng hạn, ông X nói, Ông Y dạy “đéo” hiểu gì cả. Ông nói đâu đâu! Hai năm đầu thật là vô tích sự. Tôi đã “trót” ghi lại nguyên văn như thế. - Nhưng khi phát biểu công khai trên mạng thì lại đầy niềm tự hào và hãnh tiến, nói đến cái success history đến độ im lặng một cách rất triết nhân, đến độ bảo vệ ngay cả những điều không đáng bảo vệ. Hình như chúng ta đang chơi một Comédie? Nó cho thấy rõ ràng là có những điều được nói trong chỗ riêng tư và những điều không được nó công khai, điều viết ra và điều không được viết ra. Và đối với tôi điều nói riêng tư quan trọng hơn điều nói công khai và không nên để ý lắm vào những điều được viết ra. Sự thật nằm ở chỗ nào? Thật khó cho những người ở bên này Pyrénées biết được những gì xảy ra ở bên kia Pyrénées Tây Ban Nha (The Pyrenees, Spain – DCVOnline) nó như thế nào. Phải chi chúng ta có được Wikileaks sớm hơn thì đỡ biết mấy. Mặc dầu vậy với thời đại Tin Học, nhiều việc tưởng đã bị quá khứ nuốt chửng nay được vực dậy. Và từ trước đến nay, những bài viết về Y Khoa Sài Gòn đều viết về những cái được phép viết. Góc tối ấy của y tế Việt Nam thường được tránh né, e ngại, và giữ sự im lặng. Cùng lắm tôi chỉ là người làm công việc phá vỡ một sự im lặng. Một bác sĩ cho rằng tôi là người ngoại cuộc, không học y khoa thì không có đủ tư cách viết về y Khoa Saigon. Viết như thế cũng không ổn. Tự tạo cho mình một ghetto đấy! Với tư cách một nhà báo, tôi có thể dòm ngó vào tận sân sau trường Y Khoa để nói về bên trong “bức tường nội trú”. Và bài này thật không hẳn tôi nói, tôi viết. Mà một phần bài này, tôi nói thay cho những kẻ muốn nói mà phải làm thinh. Và phá vỡ một số ảo tưởng do cái tình hàm hồ của chủ nghĩa thuộc địa để lại. Chẳng hạn làm sao tôi biết được ở miền Nam cũng có một Hội Y sĩ. Ông Hội trưởng ngồi trước bản đồ vạch một đường kính 10Km và ra cái thông cáo: các y sĩ thuộc ngành quân y không được phép mở phòng mạch trong chu vi đường kính 10km. Y sĩ quân y muốn mở phòng mạch thì ra ngoại ô mà mở. Những việc như thế có nên nói ra ở đây hay không? Không nói ra. Để lâu, nó thành ung thư mất. Và vì không ai lên tiếng trong một số vụ nên cuối cùng cộng sản đã trà trộn trong Y Khoa Sài Gòn như Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Trương Thìn (Trương Thìn không phải là đảng viên cộng sản như Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy). Ông nằm trong phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”đấu tranh chống Mỹ đòi Hòa bình cùng với những người như Trần Thiện Tứ, Nguyễn Văn Sanh, Tôn Thất Lập, Võ Thành Long, Trần Xuân Tiến) đã lợi dụng tình thế để gây xáo trộn, dẫn đưa đến hai cái chết oan uổng của hai giáo sư Y Khoa. Sau đó theo nguyên văn trong sách của GS. Trần Ngọc Ninh: “Sau đó, một giáo sư có tiếng là thân Pháp phải trốn sang Pháp. Rồi đến vụ “hạ bệ” Khoa trưởng bởi một ủy ban 5 người để điều hành việc trường.” (Trích “Một chút lịch sử Y Khoa Đại Học đường Sàigon”, Trần Ngọc Ninh, trang 156). Đọc sách báo của Y khoa thì chỉ nói bác sĩ Hữu sang Pháp như đi “du lịch”. Sang Pháp và trốn sang Pháp là hai chuyện khác hẳn nhau. Áp lực nào khiến ông phải trốn đi? Áp lực nào đi đến chỗ hạ bệ giáo sư Phạm Biểu Tâm? Áp lực từ phía đồng nghiệp hay áp lực chính trị từ phía Mỹ hay từ phía cộng sản? Tất cả đều chưa rõ ràng mà người đọc như người đi trong sương mù khi đọc những điều tiết lộ của giáo sư Trần Ngọc Ninh với nửa sự thật. Chuyện tranh chấp trong Y khoa giữa hai phe không phải là chuyện nhỏ. Đó là điều tôi muốn nhấn mạnh. Nhìn lại thấy nó lớn lắm. Nó là Hội chứng điển hình nhất của chủ nghĩa hậu thuộc địa. Nó là con đẻ của chủ nghĩa ấy, được khai sinh, được lớn lên và trưởng thành đến 54 và được kéo dài tiếp sau đó. Phần kéo dài này đáng lẽ phải chấm dứt sau 1954. Trong một bài báo thuật lại trên tờ Time Magazine vào thời đó, có nói đến hai chuyện mà bây giờ cần được lưu ý. Chuyện thứ nhất, bác sĩ Trí, học trò của ông Trần Văn Hương được chỉ định làm tổng trưởng giáo dục là để điều tra chuyện bê bối, tham nhũng về các học bổng du học dành cho các thành phần con ông cháu cha. (Huong's charge to clean up the scandal). Ông có nhiệm vụ bạch hóa, lôi ra ánh sáng những bê bối ở Hội đồng Du Học. Công việc mới bắt đầu được 4 tháng thì ông bị ám sát. Và những bạn bè, người thân của ông đều đặt những nghi vấn về cái chết này. Dư luận hồi đó rất xôn xao về vụ này. Nó không “đơn giản” như vụ giáo sư Trần Anh, hay sinh viên Chương bị xô từ lầu ba xuống chết ngay lập tức (Chương là con thẩm phán Trần Thúc Linh, ngả theo bên kia và đương sự đã trốn ra bưng theo MTGPMN, rồi quay trở về học lại Y Khoa trở lại thì bị giết.) Huỳnh Tấn Mẫm (trái) và Trịnh Bá Lộc, 2005. Trịnh Bá Lộc nguyên là thiếu tá tùy viên của cựu tướng Dương Văn Minh Nguồn: T. B. LộcNó chỉ không ồn ào đi đến biểu tình như vụ giết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật. Đường phố Sài gòn lúc ấy treo đầy biểu ngữ màu tang tóc, tiếc thương LKSN và tố cáo đích danh Huỳnh Tấn Mẫm, sinh viên Y Khoa là kẻ sát nhân. (Cảnh sát lùng bắt Mẫm, y vào số 294, Công Lý. Cảnh sát vây 294 Công Lý. Hồ Ngọc Nhuận, dân biểu đối lập dùng xe chở y về dinh Quốc Khách ở góc Công Lý - Hiền Vương, chỗ ở của Phó Tổng thống (Nguyễn Cao Kỳ - DCVOnline). Thế là yên. Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi sống.) Chuyện thứ hai, bác sĩ Trí nhận được cả thảy 4 lần đe dọa tính mạng ông hoặc bằng điện thoại, hoặc bằng thư từ. Ai đe dọa ông? Ai có dự mưu ám sát giáo sư Trí? Theo giáo sư Trần Ngọc Ninh xác định thì “Việt Cộng còn giết giáo sư Lê Minh Trí nữa, không phải vì ông Trí làm Tổng trưởng giáo dục lúc đó, mà vì ông cầm đầu nhóm giáo chức thân Mỹ trong trường Y Khoa Sài Gòn.” (Trích Trần Ngọc Ninh, Ibid, trang 33). Mặc dầu cộng sản nhìn nhận công khai việc giết bác sĩ Lê Minh Trí (LMT), nhưng theo tờ Time Magazine thời đó đã tường thuật lại khác với ý kiến của bác sĩ Trần Ngọc Ninh. Bài báo trên tờ Time Magazine có nhan đề “The Price of Honesty” xem ra để ám chỉ gián tiếp bác sí LMT bị nhóm tham nhũng giết. Tờ báo cho biết tiếp một vụ ám sát như thế thì chính quyên thường sẽ đổ ngay cho thủ phạm là cộng sản. Nhưng lần này cả chính phủ và cảnh sát đều đặt nghi vấn vì những mảnh lưu đạn cho thấy là lựu đạn của Mỹ không phải của Trung Cộng mà cộng sản thường dùng. Cảnh sát sau này có bắt môt trung sĩ mà không bị buộc tội có ghi lộ trình thường ngày và số xe của bác sĩ Trí (chiếc Toyota, EG 001 ghi trên lòng bàn tay). Usually after such attacks, Saigon accuses the Viet Cong. This time both police and the government looked elsewhere. A minister of education, especially one in office not quite four months, is an odd target for terrorism. Moreover, examination of fragments showed that the grenade was a U.S. model rather than the Chinese type that the Viet Cong are likely to use. Police soon arrested a discharged South Vietnamese marine sergeant on the basis of what they described as incriminating evidence: a motorbike, notes on Tri's daily routine, and the Toyota's license (EG 0011) written in ink on his hand. Premier Tran Van Huong, who had appointed Tri, one of his former pupils in Huong's schoolmaster days, cried when he heard the news. President Nguyen Van Thieu, Vice President Nguyen Cao Ky and U.S. Ambassador Ellsworth Bunker all attended the funeral, and Thieu honored Tri posthumously with the National Order, second class. Meanwhile the dead man's friends bitterly suggested a motive for someone more highly placed than a marine sergeant. Huong had tossed out the previous education minister after discovering that scholarships to universities abroad, which carry built-in exemptions from military duty, were being sold to rich men's sons instead of awarded on merit. Tri, an ear-nose-and-throat specialist and plastic surgeon who had been teaching at the National Medical School, accepted Huong's charge to clean up the scandal. He apparently was making progress. He had been threatened four times by telephone as well as in several unsigned letters. Nguồn: www.time.com/time/magazine/article/0,9171,838867,00.html#ixzz1Z3MD2s2G Nguyên nhân về cái chết của bác sĩ Trí vẫn còn có điều chi chưa được sáng tỏ. Nhưng nhờ sự tiết lộ của giáo sư Trần Ngọc Ninh hé lộ một chút, sau mấy chục năm, mọi người mới biết thêm một số chi tiết khác nữa. “Công an Việt Nam liền tiếp tay theo (có ý nói là tiếp tay với cộng sản) mở chiến dịch ngầm để khủng bố tinh thần một giáo sư mà người ta cho là thân Pháp nhất, là giáo sư Nguyễn Hữu. Giáo sư Hữu đi Pháp dự một hội nghị và không dám về Việt Nam nữa vì ở Sài Gòn hồ sơ của ông đã được đưa ra tòa án quân sự 10 ngày sau khi ông để quá hạn sự vụ lệnh mà chưa về nhiệm sở”. (Trích Trần Ngọc Ninh, “Một chút lịch sử y khoa Đại Học Đường, Sài Gòn”). Sự khủng hoảng ấy đẩy sự “nghi ngờ” cho đến bây giờ ngay trong cuốn sách của GS. Trần Ngọc Ninh. Cuốn sách có tên GS. Trần Ngọc Ninh và các bác sĩ Hoàng Tiến Bảo, Trần Xuân Ninh và Nguyễn Lương Tuyền. Tên của giáo sư Hoàng Tiến Bảo - một người tốt nghiệp ở Mỹ về cổ súy việc nới rộng sinh viên nội trú. Tự nhiên tên giáo sư Hoàng Tiến Bảo biến mất không một lời giải thích với độc giả. Những người trách nhiệm in ấn cuốn sách này cho GS.Trần Ngọc Ninh nên có một lời giải thích hay cáo lỗi với độc giả cho phải phép. Đây là một khủng hoảng Y khoa thực sự có tầm mức quan trọng vượt khỏi chuyên môn và cổng trường Y khoa, lây lan sang cả các phân khoa khác. Đồng thời tạo ra những căng thẳng giữa hai hệ đào tạo theo Pháp, theo Mỹ. Phái theo Pháp có thể vì sợ mất chỗ đứng, mất uy thế. Theo Mỹ thì cảm thấy bị “lép vế” theo nghĩa một tranh chấp quyền lợi như giáo sư Ninh thẳng thắn khẳng định. Xin đọc tài liệu phúc trình sau đây của AMA (American Meddical Association) để hiểu rõ thêm cái thảm trạng tranh chấp ở Y Khoa Sài gòn: Sau khi giáo sư Phạm Biểu Tâm bắt buộc phải từ nhiệm cũng như hai cái chết của giáo sư Trí và Trần Anh chỉ cách nhau một vài tháng có một bầu khí bí mật bao trùm và như có âm mưu với bất cứ chuyện gì xảy ra. Lại có sự đe dọa thường xuyên của cộng sản, v.v... Bầu không khí như thế thật nặng nề và không có ở các phân khoa đại học khác. “Long after the AMA project began, Dr. De (Giao su Tran Quang De) went to France, as he did customarily for long periods each year. Later that year, Dr. Tri (Dr. Le Minh Tri, MD, PhD, Chair man of the Department of Otolaryngology) by then Minister of Education, declared Dr. De’s absence to be de facto resignation, and he was replaced as rector by Tran Anh, MD who also continued to serve as chairman of the Department of Anatomy. Like Dr. De, Dr. Anh held the French agrege, but he was much more supportive of the American presence in the medical school. He and Dr. Tri were both members of the faculty committee appointed to administer the school after Pham Bieu Tam, MD, had been deposed as Dean (Although he continued to serve as Chairman of Surgery, Department “B,” at Binh Dan Hospital). Dr. Tri and Dr. Anh were both assassinated within the year in separate, unrelated incidents. Changes of this nature in the administrative leadership were very disturbing to Vietnamese and Americans alike. There was a pervasive air of mystery and intrigue in almost everything that happened. There was a constant threat from the Viet Cong and the North Vietnamese, which erupted in the Tet Offensive of 1968 when the Cholon section of Saigon (where the medical school was located) was overrun. But even during periods of relative calm in the war itself, there was an underlying political turmoil that may or may not have been related to the war. Agitation and violence were never far from the surface. (Trich phúc trình Saigon Medical School, An experiment In International Medical Education). An Account of the American Medical Association’s Medical Education Project In South Vietnam, 1966-1975. By C. H. William Ruhe, M.D., Norman Hoover, M.D. and Ira Singer, Ph. D. (American Medical Association ,1988). Mặt chính trị thì tạo ra mối căng thẳng giữa Pháp và Mỹ. Mà Pháp thì cùng lắm “phá đám”chơi chẳng có khả năng tài trợ cho Y Khoa Việt Nam. Tôi cũng xin tiết lộ thêm một chi tiết sau đây. Việc giết hai giáo sư y Khoa làm các khoa trưởng trường Luật khoa, Văn Khoa “rét lây”. Khoa Trưởng Văn khoa vội họp Hội Đồng Khoa để bầu một khoa trưởng văn khoa mới vì ông sợ “chết lãng nhách” như giáo sư Trí. Ông đề nghị một giáo sư vốn có tiếng là loại trí thức thiên tả, chủ nhiệm chủ bút một vài tờ tập san “nổi tiếng bị tịch thu” như Hành Trình, Đất Nước in ronnéo vào thời đó. Hội đồng khoa yêu cầu ông nhận chức khoa trưởng cho, vì dù sao Việt cộng cũng để yên cho. Nếu trường Y Khoa hoạt động bình thường, không có tranh chấp nội bộ trong Hội đồng khoa - một sự tranh chấp mà chính giáo sư Trần Ngọc Ninh thẳng thắn nhìn nhận: Đó là những tranh chấp về quyền lợi giữa hai phe. Thì hai cái chết của hai vị giáo sư có thể không xảy ra chăng? Sự chia rẽ ấy tóm gọn đầy đủ trong lời nhận xét của giáo sư Trần Ngọc Ninh trong cuốn sách của ông: “Ở đây, tức là ở miền Nam tự do chẳng có ai có nhìn thấy bề sâu của vấn đề. Các cố vấn Mỹ phạm vào cái lỗi đại kị về chính trị, là tỏ ra một thái độ bảo hộ đối với những người đi học ở Mỹ. Đồng thời có một áp lực để cải tổ chương trình, cải tổ để sự học y khoa sát với sự học Y khoa ở Hoa Kỳ hơn nữa. Trong một buổi họp của Hội Đồng giáo sư mở rộng, một vị giáo sư thạc sĩ xưa nay rất hiền lành, ít nói, đã sạt một giáo sư không thạc sĩ rằng muốn được thấy lá cờ có sao có sọc treo trên trường thuốc Việt Nam.” (Trích Trần Ngọc Ninh, Ibid, trang 33) Nói như thế có nghĩa là đã có một nền y khoa Việt Nam dựa trên Y Khoa của Pháp là hoàn chỉnh, không cần cải sửa. Đã có một lá cờ ba mầu treo rồi, không cần cờ nhiều sao nữa? Nói như thế có nghĩa Y Khoa để lại của thời Pháp là không bị ảnh hưởng chính trị Pháp? Nhưng thử hỏi “bản chất” của cái nền y khoa Sài Gòn là gì? Hay nó chỉ là bản sao chép toàn vẹn, nguyên con chương trình dành cho các sắc dân “bản địa”. Đó là một chương trình dành chung cho bác sĩ dân bản xứ tại một số nước như Ấn Độ, Tầu, Phi Châu và Việt Nam. Tất cả đều theo một chương trình đào tạo, cách giảng dạy, thi cử, tốt nghiệp, giá trị bằng cấp,… chung cho các xứ bản địa gồm các trường sau đây: trường Pondichéry ở Ấn Độ, dạy bằng tiếng Pháp, (sau này chuyển sang tiếng Anh). Ở bên Tàu có nhiều trường hơn như Tch'eng-Tou, T'tien-Tsin, école de Canton và nhất là trường Aurore ở Chang-Hai. (Trường Aurore bị đóng cửa ít lâu sau khi Mao Trạch Đông thống nhất nước Tàu, một số lớn giáo sư triết của họ sang Việt Nam giảng dạy tại Đà Lạt, về y khoa có giáo sư Lichtenberger...) Các trường ở Madagascar, ở Phi Châu da đen, ở Cameroun, ở Việt Nam đều có chung một quy chế. Cùng một trình độ. Cùng một cách chữa bệnh. Bằng cấp được công nhận tương đương bằng ở Pháp. Điều hành và giảng dạy chủ yếu là người Pháp. Và nếu tự trị rồi thì bằng cấp không còn có giá trị tương đương ở Pháp nữa (sans validité de plein droit en France). Phải chăng đây là điều mà chúng ta hãnh diện bảo vệ đến cùng trong khi các nước Ấn Đô, Phi Châu, Tầu đều tách ra khỏi quỹ đạo quy chế trường bản địa khi họ có được độc lập? Về phương diện chính trị- dù nó có hay đi nữa. Nó cũng phải chấm dứt. Trường đại học Y khoa của Pháp ở Pondichéry đã bỏ việc dạy tiếng Pháp. (Mới đầu còn vừa dạy tiếng Pháp vừa tiếng Anh, sau bỏ hẳn tiếng Pháp) khi thu hồi độc lập. [Pondicherry là một Lãnh địa Liên hiệp của Ấn Độ, sau đổi tên thành Puducherry (Làng mới) – DCVOnline)]. Bốn trường đại học Y khoa ở nước Tàu đã bị hủy bỏ quy chế trường bản địa Pháp. Trường Y Khoa Pháp ở Phi Châu cũng làm tương tự Chỉ còn Y Khoa Việt Nam nắm cái đuôi y khoa bản địa của Pháp. Có điều gì cho phép chúng ta -một trong các trường thuộc bản địa- tự hào và xuất sắc hơn các trường Y Khoa bản địa trên khi có một mẫu số chung về mọi mặt với hệ thống các trường thuộc địa của Pháp? Cái lỗi “đại kị” của Hoa Kỳ thì sẽ phải giải thích thế nào về sự lệ thuộc và được coi như một trường bản địa của Pháp? (Les Écoles de médecine autochtones). (Còn tiếp) © DCVOnline Chú thích : Les Écoles de médecine Autochtones Toutes ces écoles ont eu une évolution comparable. En dehors de la Chine, leur répartition suit la dispersion du domaine colonial français. L’enseignement y est donné par le Corps de santé colonial, en exclusivité ou en quasi exclusivité. L’innovation pédagogique y est constante et féconde. Les diplômés formés, appelés médecins auxiliaires, jouent un rôle essentiel. Ces écoles de médecine dites indigènes ou coloniales, non universitaires, constituent la première étape. Autour des années 1950, elles laissent la place à des facultés de médecine et pharmacie de nature universitaire. Dans le démarrage de celles-ci, l’expérience et la compétence des personnels du Corps de santé colonial ont été largement appréciées L’Indochine L’empire d’Annam avait, avant l’arrivée des Français, son école de médecine qui dispensait, à Hué, un enseignement traditionnel, loin des normes occidentales. Elèves de l'école indochinoise de médecine (Hanoi 1929) (Nguồn: Trần Ngọc Ninh, Ibid, trang 29-31) En 1888, E. Boinet, agrégé des facultés de médecine françaises, servant en Indochine à titre militaire, crée à Hanoi un établissement privé, connu sous le nom de “petite Faculté tonkinoise”. Bientôt, Paul Doumer envisage l’implantation à Saigon (possession française depuis 1863) d’une école de médecine officielle. Finalement, c’est au Tonkin, à proximité d’Hanoï, que s’installe l’établissement. Il est inauguré le 27 janvier 1902 et placé sous la direction de Yersin*. Quelques années plus tard, il est transféré en pleine ville, à l’emplacement qu’occupe encore aujourd’hui la faculté de médecine. Les élèves viennent du Tonkin, de l’Annam et de la Cochinchine mais également du Cambodge et plus tard du Laos. Quant aux enseignants, ils appartiennent en quasi totalité au Corps de santé colonial. En 1904, l’établissement porte le nom d”école de médecine de l’Indochine”, puis en 1919, celui d’école supérieure de médecine et pharmacie”, la section pharmacie ayant été créée en 1914. En dehors des trois filières classiques: médecins, pharmaciens et sages-femmes auxiliaires, qui seules subsisteront, d’autres sections sont temporairement ouvertes : aides médecins militaires, médecins et pharmaciens chinois, etc. Les médecins et pharmaciens auxiliaires, parfois dénommés “officiers de santé” ou “médecins et pharmaciens indochinois” se font très rapidement apprécier par l’administration et la population. L’un des plus brillants fut Nguyen Van Tinh (1888-1946) qui poursuivit des études à la faculté de médecine de Paris et devint le président du Conseil de la première République de Cochinchine. A partir de 1936, commence la transformation en établissement universitaire, les premiers diplômes de doctorat étant délivrés par la faculté de Paris. En 1941, la faculté mixte de médecine et de pharmacie de l’Indochine est créée et le Corps de santé colonial participe aux enseignements (Huard*, Rivoalen*). En plus de cette maison mère, trois autres établissements ont été créés avec une forte implication du Corps de santé colonial: - A Saigon, une “école d’assistants de médecine sociale”, comparable aux autres écoles de médecine indigènes est créée, en Cochinchine, en 1941. Dès 1945, l’évolution se fait vers une faculté de médecine et pharmacie dépendante de celle de Hanoi, ensuite, à partir de 1954, entièrement autonome”). Theo giáo sư Trần Ngọc Ninh, ngay từ 1955, chính phủ Ngô Đình Diệm muốn dùng viện trợ Mỹ để thực hiện ba kế hoạch lớn sau đây. Xây xa lộ Biên Hòa và thiết lập nhà máy xi măng Hà Tiên (Nằm trong khu kỹ nghệ Biên Hòa) và cuối cùng cải tổ nên giáo dục Y Khoa... Cũng theo giáo sư Trần Ngọc Ninh, từ khởi điểm ấy, thời gian 1956, chúng tôi lao mình vào việc nghiên cứu và thực hiện. 1957 thảo luận và nghiên cứu với 10 đại học Hoa Kỳ và Canada Liên lạc trực tiếp với giáo sư Jacques May. Các phái đoàn Hoa Kỳ vẫn tiếp tục đến Sai Gòn, rồi lại đi. Rồi chính giới Hoa Kỳ tính bỏ rơi kế hoạch giáo dục Y Khoa Việt Nam... Hết trích. (Chú thích: Trần Ngọc Ninh, Ibid, trang 29-31)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 27, 2011 18:06:56 GMT 9
Kinh tế thế giới đang đi về đâu?
Duy Anh Trong thời gian vừa qua, kinh tế của Âu Châu đang có dấu hiệu bị suy sụp liên tiếp với những cuộc khủng hoảng tài chánh xảy ra tại Bồ Đào Nha (Portugal), Hy Lạp (Greece) và nay đang lan qua Ý (Italy), được coi là cường quốc lớn thứ ba về kinh tế trong khối Liên Hiệp Âu Châu sau Đức và Pháp. Một trong những lý do chính dẫn đến khủng hoảng là các chính sách mang tính cách xã hội mà các quốc gia trên đã áp dụng trong nhiều thập niên qua. Nói nôm na là chính quyền các quốc gia này đã “vung tay quá trán”, tài trợ cho những chương trình an sinh xã hội nhằm kiếm phiếu một cách vô tội vạ khiến cho ngân sách bị thâm thủng nặng nề, dẫn đến nợ nần quá mức, có khả năng không trả nổi tiền lãi, đừng nói chi đến chuyện trả vốn. Trên nguyên tắc, khi cần tiền trang trải chi phí, chính quyền một quốc gia phát hành công khố phiếu (government bonds) để vay nợ. Trong trường hợp kinh tế phát triển tốt, tiền thu thuế được sẽ dồi dào, dư sức trả lãi và vốn nếu cần. Theo thời gian, các nhà kinh tế nhận thấy chính quyền không cần phải trả hết vốn mà có thể sử dụng tài khoản nợ để thúc đẩy kinh tế phát triển thêm, tạo công ăn việc làm cho người dân. Vấn đề quan trọng là làm cách nào cân bằng được ngân sách, tiền thuế thu vào đủ sức trang trải các chi phí và tiền lãi là đủ. Nguyên tắc căn bản này tưởng chừng như dễ thực hiện nhưng lại rất khó làm được vì trong thời kỳ kinh tế suy thoái (một lẽ tất nhiên của kinh tế thị trường), chính quyền các quốc gia lại vay thêm tiền khiến cán cân thâm thủng ngân sách chỉ có tăng mà không hề giảm. Tình hình kinh tế Nguồn: topnews.in Một trong những chỉ số để đánh giá tình hình “sức khỏe” của một nền kinh tế là tỉ lệ nợ đối với GDP. Đối với những quốc gia có tỉ lệ nợ cao sấp sỉ 100% đối với GDP thì mức 7% lãi suất đối với công khố phiếu được coi là mức giới hạn mà quốc gia đó có thể chấp nhận nổi, cao hơn 7% thì coi như là “điểm không thể trở lại” (point of no return) và khả năng “quỵt nợ” (default) rất cao. Ý hiện có tỉ lệ nợ/GDP vào khoảng 120%. Với tổng số nợ khoảng $2.6 ngàn tỷ, hàng năm chính quyền Ý phải trả lãi hết $192 tỷ, hoặc gần 20% so với ngân sách non $1 ngàn tỷ. Lãi suất bonds 10 năm của Ý hiện đang ở mức 7.4% (ngày 9/11/2011). Qua hai kỳ khủng hoảng vừa qua đối với Bồ Đào Nha và Hy Lạp, giới dầu tư nhận thấy là khi lãi suất vượt giới hạn 7% thì chính quyền có khả năng bị sụp đổ, dẫn đến bất ổn về an sinh và kinh tế. Hai cường quốc kinh tế còn lại của Âu Châu là Đức và Pháp đã nhảy vào cứu hai quốc gia trên nhưng nay đến lượt Ý thì khả năng có vẻ như đã cạn kiệt. Các nhà chính trị Âu Châu bây giờ phải trông chờ Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF) nhảy ra cứu vãn và thậm chí còn “dòm ngó” khối ngoại tệ dự trữ phong phú của Trung Quốc, mong đợi được giúp cho qua cơn bĩ cực này. Tình hình khó khăn của kinh tế thế giới khiến một số nhà kinh tế học đặt lại vấn đề là các lý thuyết hiện nay về sự phát triển kinh tế có còn đúng nữa hay không? Đặc biệt là các lý thuyết về tiền tệ (monetary theory) và GDP đã từng thịnh hành trong nhiều thập niên vừa qua từ sau thế chiến thứ hai. Lý thuyết này nhấn mạnh đến sự can thiệp của chính quyền vào khối lượng tiền lưu hành để thúc đẩy kinh tế. Từ đó, mỗi khi kinh tế đang gặp thời kỳ suy thoái, chính quyền các quốc gia thường bơm thêm tiền vào lưu lượng hiện hữu nhằm tạo sự dễ dàng cho các doanh nghiệp được vay mượn để làm ăn. Lượng tiền tạo ra từ thinh không này còn được gọi là “fiat money” và không có một thứ vật chất nào (chẳng hạn quý kim) làm vật bảo đảm ngoại trừ uy tín của chính quyền sẽ trả vốn và lãi dựa vào nguồn ngân sách thu được qua thuế má. Khi uy tín của chính quyền bị giảm sút thì giới đầu tư mua vào công khố phiếu với giá hạ và tự nhiên đẩy lãi suất lên cao. Thói quen xài tiền một cách vô tội và đã dẫn đến hiện tượng nguy hiểm là các chính trị gia thường mị dân, hay cố tình kiếm phiếu bằng cách hứa hẹn những chương trình an sinh xã hội quá đáng. Kết quả là ngân sách luôn luôn bị thâm hụt, khiến chính quyền càng lúc càng lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Từ đó, một điều dễ nhận ra là vấn nạn chính không phải là ở lý thuyết tiền tệ sai mà là cách thực hành lý thuyết không đúng. Một ví dụ dễ hiểu là trường hợp một gia đình cha mẹ có công ăn việc làm ổn định nhưng lại có cái tật xấu là sử dụng thẻ tín dụng (credit card) một cách vô tội vạ để mua sắm cho con em những thứ vật chất dư thừa, nào xe cộ đắt tiền, nào quần áo, vật dụng máy móc, đồ chơi v.v... khiến lũ con càng ngày càng ỷ lại, trở thành lười biếng không chịu lao động. Cuộc sống của gia đình đó có thoải mái thật nhưng nợ nần càng lúc càng chồng chất, tiền trả lãi ăn dần vào thu nhập đến một lúc nào đó không trả nổi phải khai phá sản và để nhà băng tịch thu tài sản. Chiều hướng kinh tế thế giới cũng đang đi về hướng đó, nếu không có sự can thiệp mạnh mẽ của chính quyền các quốc gia có liên quan. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự sụp đổ kinh tế của một vài quốc gia lớn có khả năng lôi cuốn toàn thế giới vào một cuộc đại khủng hoảng vô tiền khoáng hậu(1). Trao đổi thương mãi toàn cầu sẽ bị đình trệ, các công ty sẽ lần lượt bị phá sản, thị trường chứng khoán các nơi bị suy sụp, của cải bị tan biến đi và người dân sẽ càng lúc càng nghèo đói đi. Giải pháp tất nhiên hiện nay của các quốc gia đang bị nạn là “thắt lưng buộc bụng,” cắt giảm ngân sách một cách quyết liệt nhằm thực hiện những điều kiện đưa ra của IMF và những quốc gia giàu có (như Đức, Pháp, Hoa Kỳ) để đổi lấy sự tài trợ của các tổ chức và quốc gia này. Cụ thể là họ sẽ bỏ tiền ra mua công khố phiếu (một hình thức cho vay nợ) với những điều kiện dễ dàng hơn. Nói nôm na là gia đình nguy khốn đã gặp được một người thân chịu tạm thời lãnh dùm những món nợ để khỏi phải khai phá sản. Nhìn qua về phía Trung Cộng thì ta thấy có một sự khác biệt lớn trong phương cách thực hiện lý thuyết tiền tệ. Trung Cộng tương tự như một anh mới giàu keo kiệt, cương quyết không tiêu xài cho con cái. Dựa vào một guồng máy cai trị không lồ của đảng cộng sản, Trung Cộng thẳng tay đập tan mọi phản kháng của người dân muốn đòi hỏi một chế độ an sinh xã hội tốt hơn. Đảng cộng sản Trung Hoa tập trung tất cả những lợi nhuận thu được qua buôn bán với thế giới trong nhiều thập niên qua để tạo một sức mạnh kinh tế, và từ đó tạo một bộ máy quân sự nhằm khống chế các quốc gia lận cận để thực hiện âm mưu bá quyền vùng Á Châu, và biết đâu cả vùng Phi Châu với hi vọng tạo nên một thế chiến lược “Tam Quốc Chí” đối với Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu. Đụng độ thẳng với hai khối này thì Trung Cộng không bao giờ dám nghĩ đến vì buôn bán với hai khối này là “miếng cơm manh áo” của Trung Cộng. Điều đáng buồn là Đảng Cộng sản Việt Nam như một anh học trò ngoan ngoãn, nhìn qua “mô hình Trung Quốc” một cách thèm thuồng chỉ vì mô hình này bảo đảm sự hiện diện của một đảng cai trị độc quyền mà bất kể đến nguyện vọng khát khao dân chủ độc lập và ấm no hạnh phúc của người dân. Đảng cộng sản Việt Nam đã cam tâm đưa đất nước trở vể thời kỳ đô hộ mới và chuyện Việt Nam sẽ đổi tên thành “Tân Giao Chỉ Châu” có lẽ sẽ thành hiện thực chẳng bao lâu nữa. Điều may mắn cho thế giới là khủng hoảng tài chánh lần này không xảy đồng loạt như thời kỳ 2008-2009 mà có vẻ như tạm thời khu trú vùng Euro (Euro Zone) của lục địa Âu Châu. Dĩ nhiên nếu không ngăn chận ngay lập tức, nguy cơ lan rộng ra toàn thế giới rất có thể xảy ra. Một khi kinh tế Ý Đại Lợi sụp đổ, lập tức khối Euro sẽ mất đi một thành phần thương mãi quan trọng và sẽ đi vào khó khăn. Kinh tế của khối Euro bị khó khăn sẽ lập tức lan truyền đến toàn thế giới, quan trọng nhất là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc. Do đó, dù muốn dù không, những quốc gia sau này bắt buộc phải can thiệp vào để cứu vãn tình thế. Một điều may mắn nữa là Hoa Kỳ dù chưa thoát hoàn toàn ra cơn khủng hoảng vừa qua nhưng đã có nhiều dấu hiệu phục hồi rất khả quan, GDP có tăng trưởng đều hòa tuy còn khiêm nhường. Tỉ lệ thất nghiệp có chiều hướng giảm dần, tuy còn chậm nhưng có còn hơn không. Đặc biệt là chính quyền Obama đã quyết tâm cắt giảm ngân sách nhằm đưa đến sự cân bằng thu chi trong vòng 10 năm nữa. Sau khi giết được Bin Laden và làm suy tàn Al-Qaeda, nguy cơ khủng bố đã giảm thiểu đáng kể. Chính quyền Hoa Kỳ có cơ hội triệt thoái quân đội ra khỏi vùng Trung Đông vào dịp cuối năm nay. Chi phí quốc phòng sẽ dư ra hàng năm cả trăm triệu USD để đầu tư vào các lãnh vực kinh tế khác. Có lẽ rồi một lần nữa, Hoa Kỳ sẽ trở lại vị trí đầu tầu để kéo con tàu kinh tế thế giới ra khỏi hố sâu hiện tại. California, ngày 11/11/2011
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 4:44:55 GMT 9
Bất-Ổn-Hoá vòng Cung Bất Ổn
Vietsciences-Nguyễn Trường Đây là câu chuyện bất-ổn-hóa vòng cung bất ổn. Chúng ta đang nói đến 97 quốc gia Nam Bán Cầu, đa số tọa lạc bên trong các trung tâm dầu lửa của hành tinh. Phần lớn hiện đang trong tình trạng biến động đáng ngạc nhiên, và bên trong mỗi quốc gia - từ Afghanistan và Algeria đến Yemen và Zambia - Hoa Thịnh Đốn đều có can dự quân sự, lộ liễu hay ngụy trang, chiến tranh hay dưới lớp sơn hòa bình.
Thiết lập căn cứ quân sự khắp hành tinh chỉ là một phần của chiến lược. Ngũ Giác Đài và các cơ quan tình báo của Mỹ cũng đang kín đáo giàn trải các lực lượng đặc biệt và các hoạt động tình báo, phát động các cuộc tấn công bằng phi cơ không người lái, xây dựng căn cứ và nhà tù bí mật, huấn luyện, võ trang, và tài trợ các lực lượng an ninh địa phương, tiến hành nhiều hoạt động quân sự, ngay cả chiến tranh quy mô. Tuy nhiên, khi đứng trước thực trạng, bạn phải luôn nhớ một điều: Hoa Kỳ đang can dự quân sự ở bất cứ quốc gia nào trong vòng cung bất ổn.HIỆP ƯỚC CHI PHỐI VÒNG CUNG Trong bài nói chuyện, T T Obama nói: "Tự do đang bùng nổ trong toàn vùng Trung Đông nới rộng. Hy vọng có được tự do nay lan tràn từ Kabul đến Baghdad đến Beirut và xa hơn nữa. Chậm rãi nhưng chắc chắn, chúng ta đang giúp cải biến vùng Trung Đông nới rộng từ một vòng cung bất ổn thành một vòng cung tự do."[1] Vòng cung tự do: Bạn có thể được tha thứ nếu nghĩ đây là một trích dẫn từ bài nói chuyện "Mùa Xuân A Rập"(Arab Spring Speech) của TT Barack Obama, khi ông nói "đó sẽ là chính sách của Hoa Kỳ nhằm ...hổ trợ các chuyển tiếp đến dân chủ."[2] Trong thực tế, đây là lời nói của người tiền nhiệm George W. Bush. Cụm từ không được nhắc lại là "vòng cung bất ổn," môt "ý niệm cường điệu nòng cốt"[3] trong viễn kiến toàn cầu của Bush và của phe tân bảo thủ ủng hộ ông. Giấc mơ của chính quyền Bush là khống chế vòng cung vừa nói về quân sự, phần lớn trải dài từ Bắc Phi đến biên giới TQ, còn được biết dưới tên gọi Trung Đông nới rộng, và đôi khi được xem như khu vực trải dài từ châu Mỹ La Tinh đến Đông Nam Á. Trong khi cụm từ đã không được nhắc lại dưới thời Obama, khi cần phóng chiếu quyền lực quân sự, T T Obama đang trong quá trình vượt qua người tiền nhiệm. Ngoài việc mở rộng chiến tranh trong các "quốc gia vòng cung" , Obama cũng đã theo dỏi việc gửi các lực lượng hành quân đặc biệt đến trong vùng, đã chuyển giao hay bán nhiều số lượng vũ khí quan trọng trong khi tiếp tục xây dựng và mở rộng các căn cứ quân sự với một nhịp nhanh chóng, cũng như huấn luyện và tiếp liệu một số lớn các lực lượng bản xứ. Tài liệu của Ngũ Giác Đài và thông tin đại chúng cho thấy không một quốc gia vòng cung nào tránh được sự hiện diện và hoạt động của các cơ quan tình báo và quân sự Hoa Kỳ. Điều nầy nêu ra nhiều câu hỏi về vai trò mang tính quyết định của Hoa Kỳ trong tình hình luôn thay đổi, và bất ổn định ngày một gia tăng trong vùng. TRÀN NGẬP VÒNG CUNG Trước tầm quan trọng thiết yếu của vùng vòng cung bất ổn trong tư duy của chính quyền Bush, không ai lấy làm ngạc nhiên khi Bush phát động hai cuộc chiến Afghanistan và Iraq, và tấn công có giới hạn vào ba quốc gia khác -- Yemen, Pakistan, và Somalia. Cũng không ai nên bị sốc khi biết chính quyền còn gửi những lực lượng quân sự tinh nhuệ và các nhân viên tình báo đặc biệt đến nhiều nơi khác trong vùng. Trong cuốn The One Percent Doctrine (Học Thuyết Một Phần Trăm), nhà báo Ron Suskind đã tường thuật các kế hoạch của CIA, được tiết lộ trong tháng 9- 2001 và được biết dưới tên gọi " 'Ma Trận Tấn Công Khắp Thế Giới', với chi tiết các cuộc hành quân chống khủng bố trong 80 quốc gia."[4] Vào cùng lúc, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng, Donald Rumsfeld, tuyên bố: Hoa Kỳ đã phát động "một nỗ lực lớn nhằm nhiều mục đích có lẽ trải rộng trong 60 quốc gia."[5] Thực vậy, vào cuối nhiệm kỳ của Bush, Ngũ Giác Đài đã có nhiều lực lượng hành quân đặc biệt trong 60 quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, chẳng phải chờ lâu, chính quyền Obama cũng đã vồ vập trọn vẹn ý niệm can dự trong toàn bộ địa bàn rộng rãi hơn. Trong năm 2010, báo Washington Post đã tường trình: Hoa Kỳ đã gửi các lực lượng hành quân đặc biệt đến 75 quốc gia, từ Nam Mỹ đến Trung Á. Tuy nhiên, mới đây phát ngôn nhân Bộ Tư Lệnh Hành Quân Đặc Biệt Hoa Kỳ , Đại Tá Tim Nye, đã tiết lộ: hàng ngày các đội quân tinh nhuệ của Hoa Kỳ đang làm nhiệm vụ trong 70 quốc gia, và vào cuối năm 2011, con số có thể lên tới 120 quốc gia. Các lực lượng nầy đã tham dự vào nhiều sứ mệnh, từ biệt động quân - Army Rangers, trực tiếp tham dự vào chiến tranh quy ước ở Afghanistan, cho đến các toán biệt kích Navy SEALs đã từng ám sát Osama bin Laden ở Pakistan, đến các sĩ quan huấn luyện của Bộ Binh, Hải Quân, Không Quân, và Thủy Quân Lục Chiến dưới quyền Bộ Tư Lệnh Hành Quân Đặc Biệt của Hoa Kỳ hoạt động trên toàn cầu từ Cộng Hòa Dominican đến Yemen. Hiện nay, Hoa Kỳ đang tham chiến trong sáu "quốc gia vòng cung": Afghanistan, Iraq, Libya, Pakistan, Somalia, và Yemen. Hoa Kỳ cũng đã gửi binh sĩ đến làm việc trong nhiều xứ, bao gồm Algeria, Bahrain, Djibouti, Egypt, Israel, Jordan, Kuwait, Lebanon, Oman, Pakistan, Qatar, Saudi Arabia, Tunisia, và United Arab Emirates. Trong những xứ nầy, Afghanistan, Bahrain, Djibouti, Iraq, Kuwait, Oman, Qatar, Saudi Arabia, và United Arab Emirates cũng là nước chủ nhà của các căn cứ quân sự Mỹ, trong khi CIA đang xây một căn cứ bí mật đâu đó trong khu vực để sử dụng trong các cuộc chiến phi cơ không người lái ở Yemen và Somalia. Hoa Kỳ cũng đang sử dụng những cơ sở có sẵn ở Djibouti, Ethiopia, và United Arab Emirates trong cùng mục đích, và một căn cứ bí mật ở Somalia sử dụng cán bộ bản xứ với nhiệm vụ huấn luyện kỷ thuật chống khủng bố cho các đối tác địa phương. Bên cạnh các nỗ lực quân sự, chính quyền Obama cũng đã sắp xếp bán vũ khí cho các chế độ vùng Trung Đông, như Bahrain, Egypt, Iraq, Jordan, Kuwait, Morocco, Saudi Arabia, Tunisia, United Arab Emirates, và Yemen. Người Mỹ cũng đang giáo dục, huấn luyện, nhồi sọ các đối tác quân sự địa phương qua chương trình "Giáo Dục và Huấn Luyện Quân Sự Quốc Tế của Bộ Ngoại Giao và Ngũ Giác Đài."[6] Trong năm 2010, Hoa Kỳ đã huấn luyện hơn 7000 sinh viên từ 130 quốc gia. Kay Judkins, quản lý chính sách của chương trình gần đây đã nói với Sở Báo Chí Quân Lực Hoa Kỳ, " cần nhấn mạnh vào Trung Đông và Phi châu vì chúng ta biết chủ nghĩa khủng bố sẽ lớn mạnh, và chúng ta biết các quốc gia dễ thương tổn là mục tiêu phải được tập trung nhiều nhất."[7] Theo tài liệu mới được tiết lộ hồi đầu năm của Ngũ Giác Đài, Hoa Kỳ đã gửi nhân viên -- đôi khi chỉ một số tượng trưng, đôi khi khá đông -- đến 76 quốc gia trong vòng cung bất ổn sau đây: Angola, Botswana, Burundi, Cameroon, Chad, Congo, Côte d'Ivoire, Ethiopia, Gabon, Ghana, Guinea, Kenya, Liberia, Madagascar, Mali, Mauritania, Mozambique, Niger, Nigeria, Rwanda, Senegal, Sierra Leone, South Africa, Sudan, Tanzania, Togo, Uganda, Zambia, Zimbabwe, Sri Lanla, Syria, Antigua, the Bahamas, Barbados, Belize, Bolivia, Colombia, Costa Rica, Cuba, Dominican Republic, Ecuador, El Salvador, Guatemala, Guyana, Haiti, Honduras, Jamaica, Mexico, Nicaragua, Panama, Paraguay, Peru, Suriname, Trinidad and Tobaga, Uruguay, Venezuela, Albania, Bosnia and Herzegovina, Macedonia, Romania, Serbia, Kazakhstan, Kyrgystan, Turkmenistan, Uzbekistan, Bangladesh, Myanmar, Cambodia, Indonesia, Laos, Malaysa, the Philippines, Singapore, Thailand, and Việt Nam. Trong khi việc bắt giữ 30 thành viên ổ gián điệp CIA ở Iran hồi đầu năm, cũng như các nhóm tình nghi gián điệp Mỹ trước đó, có thể chỉ là vỡ tuồng tuyên truyền quốc nội hay để mặc cả quốc tế, không ai có thể nghi ngờ người Mỹ hiện đang có nhiều hoạt động bí mật ở Iran. Năm ngoái, tin tức báo chí đã tiết lộ nhiều toán hoạt động bí mật đã được trao nhiều sứ mệnh bên trong Iran, và nhiều gián điệp và các nhóm được ủy nhiệm chắc chắn đang hoạt động bên trong Iran. Mới gần đây, báo Wall Street Journal đã tiết lộ một chuổi "các hoạt động bí mật dọc biên giới Iran-Iraq" của quân đội Mỹ và các chiến dịch hoạt động ngầm của CIA nhằm chận đứng nạn buôn lậu vũ khí Iran vào Iraq. Tất cả những điều kể trên cho thấy trong thực tế, không một 'quốc gia vòng cung' nào trong đó Hoa Kỳ không có căn cứ hay nhân viên quân sự hay tình báo, hay không có các ðặc vụ chỉ điểm hoạt động, cung cấp vũ khí, các hoạt động chìm, hay lâm chiến. VÒNG CUNG LỊCH SỬ Ngay sau khi T T Obama nhận chức vào năm 2009, Dennis Blair, Giám Đốc Tình Báo Quốc Gia lúc đó, đã tường trình trước Ủy Ban Chọn Lọc Thượng Viện về hoạt động tình báo. Đặc biệt tập trung vào vòng cung bất ổn, Blair đã tóm tắt tình hình toàn cầu như sau: "Một vùng rộng lớn từ Trung Đông đến Nam Á là địa điểm có nhiều thách thức đối với Hoa Kỳ trong thế kỷ 21."[8] Từ đó, cũng như đối với những cụm từ mang sắc thái Bush như "cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố", chính quyền Obama và giới quân sự Hoa Kỳ phần lớn đã tránh dùng cụm từ "vòng cung bất ổn", thay vào đó, họ ưa lựa chọn những lối diễn tả mập mờ hơn. Chẳng hạn, trong hội nghị chuyên đề hàng năm về các cuộc hành quân đặc biệt cường độ thấp của Hiệp Hội Kỹ Nghệ Quốc Phòng hồi đầu năm, Đề Đốc hải Quân Eric Olson, lúc đó cầm đầu Bộ Tư Lệnh Hành Quân Đặc Biệt Hoa Kỳ, đã chỉ vào một hình ảnh vệ tinh của thế giới về đêm và nói: Trước 11-9-2001, phần được soi sáng của hành tinh - những quốc gia kỹ nghệ hóa phía Bắc - được xem như khu vực then chốt. Từ đó, ông nói với cử tọa, 51 quốc gia, hầu hết trong vòng cung bất ổn, đã được dành ưu tiên. Ông tiếp tục: "tiêu điểm chiến lược của chúng ta phần lớn đã dịch chuyển về phía Nam ...chắc chắn là bên trong cộng đồng các cuộc hành quân đặc biệt, vì chúng ta đang đối phó với những đe dọa đang trổi dậy từ những chỗ không có ánh đèn."[9] Gần đây hơn, trong những nhận xét tại Trường Cao Học Quốc Tế Paul H. Nitze, ở Washington, D.C., John O. Brennan, trợ tá tổng thống về an ninh quốc nội và chống khủng bố, đã phác họa Chiến Lược Quốc Gia Chống Khủng Bố mới, nhằm thực hiện các sứ mệnh trong "vùng Pakistan-Afghanistan" và với "tiêu điểm là những vùng đặc biệt, kể cả những nơi có thể gọi là ngoại vi -- những xứ như Yemen, Somalia, Iraq, và Maghreb [Bắc Phi]." Brennan nhấn mạnh: "Điều nầy không đòi hỏi một cuộc chiến toàn cầu", -- và thực vậy, mặc dù thuật ngữ thời Bush, không bao giờ cần. Chẳng hạn, trong lúc việc hoạch định các cuộc tấn công 11/9 đã xẩy ra ở Đức, và nghi phạm cho nổ bom dấu trong giày Richard Reid được hoan nghênh từ Anh Quốc, các quốc gia tiền tiến, đa số là sắc dân da trắng Tây phương, chưa bao giờ là mục tiêu của Hoa Kỳ. Vòng cung đã chẳng bao giờ kéo dài ra khỏi phía Nam địa cầu, và các xứ nằm bên trong vòng cung luôn được hiểu tự bản chất cơ bản đã bất ổn và các vấn đề của các xứ nầy có thể chữa trị bằng biện pháp can thiệp quân sự. XÂY ĐẮP BẤT ỔN Bằng chứng của cả một thập kỷ đã chứng tỏ rõ ràng các cuộc hành quân của Hoa Kỳ bên trong vòng cung bất ổn luôn mang tính gây bất ổn định. Để lấy một thí dụ, Hoa Thịnh Đốn đã nắm giữ mọi chương trình viện trợ quân sự, các hành động quân sự, và sức ép ngoại giao đến độ đã làm suy yếu chính quyền Pakistan, khuyến khích tư tưởng bè phái bên trong các giới quân sự và tình báo, và nhen nhúm các cảm nghĩ chống đối Hoa Kỳ trong dân chúng Pakistan. Theo một cuộc thăm dò gần đây, chỉ 12% dân Pakistan có cách nhìn tích cực đối với Hoa Kỳ. Cuộc chiến úp mở do các phi cơ không người lái dọc biên giới các bộ lạc Pakistan, với hàng trăm cuộc tấn công bằng tên lửa gây nhiều thương vong cho thường dân, đã chỉ đem lại tác động phân hóa lớn lao nhất. Riêng đối với các hoạt động của CIA , kết quả một cuộc thăm dò dân Pakistan của tổ chức Pew cho thấy 97% người trả lời có cái nhìn tiêu cực, một bách phân khó lòng tìm thấy trong bất cứ hình thức thăm dò nào. Ở Yemen, sự ủng hộ lâu ngày - dưới hình thức viện trợ, huấn luyện quân sự và vũ khí, cũng như các cuộc tấn công bởi phi cơ không người lái - dành cho lãnh tụ độc tài Ali Abdullah Saleh đã đưa đến một quan hệ đặc biệt giữa Hoa Kỳ và các lực lượng tinh nhuệ Yemen do các họ hàng thân thuộc của Saleh lãnh đạo. Trong năm nầy, các đơn vị vừa nói đã là công cụ đàn áp cuộc tranh đấu đòi tự do, giết hại người biểu tình và cầm tù các sĩ quan từ chối thi hành lệnh bắn giết các thường dân. Không có gì đáng ngạc nhiên, ngay cả trước khi Yemen rơi vào tình trạng thiếu vắng lãnh đạo (sau khi Saleh bị thương trong một âm mưu ám sát), một cuộc thăm dò người Yemen đem lại kết quả 99% các người trả lời đã xem quan hệ của chính quyền Hoa Kỳ với thế giới Hồi Giáo rất tiêu cực, trong khi chỉ 4% hoặc một phần nào hoặc tích cực chấp thuận sự hợp tác của Saleh với Hoa Thịnh Đốn. Tuy nhiên, thay vì rút khỏi Yemen, Hoa Kỳ lại tăng gia ủng hộ. Với sự trợ lực của cơ quan tình báo Saudi Arabia, Hoa Kỳ đã tiếp tục hoạt động qua trung gian các đặc vụ địa phương cũng như chiến dịch phi cơ không người lái chống lại các chiến binh Hồi Giáo. Lực lượng quân sự Hoa Kỳ cũng đã tiếp tục các cuộc oanh tạc riêng, cũng như gửi huấn luyện viên đến làm việc với các lực lượng bản địa, trong khi các "đội hoạt động đen" phát động những đợt công tác giết người bên cạnh các đồng minh Yemen. Các nỗ lực nầy đã đem lại những phản ứng tiêu cực , bất ổn chính trị, và có thể cả phản tác dụng. Mới năm ngoái, một cuộc tấn công của phi cơ không người lái đã vô tình giết chết Jabr al-Shabwani, con trai của Sheikh Ali al-Shabwani. Trong một hành động trả thù, Ali liên tục tấn công một trong những tuyến dẫn dầu lớn nhất của Yemen, gây thiệt hại hàng tỉ đô la trong số thu nhập của chính quyền Yemen, và đòi hỏi Saleh phải chấm dứt cộng tác với các cuộc tấn công của Hoa Kỳ. Hồi đầu năm, ở Ai Cập và Tunisia, các nỗ lực lâu dài của Mỹ nhằm cải thiện sự ổn định trong khu vực - qua các quan hệ đồng minh, viện trợ, huấn luyện, và vũ khí - đã sụp đổ trước các phong trào quần chúng chống lại các nhà độc tài cai trị trong các xứ liên hệ do Mỹ ủng hộ. Cũng tương tự như vậy, ở Bahrain, Iraq, Jordan, Kuwait, Morocco, Oman, Saudi Arabia, và United Arab Emirates, các cuộc xuống đường phản đối của quần chúng đã bùng nỗ, chống lại các chế độ độc tài đối tác và được quân đội Mỹ vũ trang. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi, trong cuộc thăm dò gần đây, được hỏi về thành tích đáp ứng những sự chờ đợi trong bài diễn văn năm 2009 của T T Obama ở Cairo, đặc biệt là đề nghị một bắt đầu mới giữa Hoa Kỳ và người Hồi giáo trên thế giới, chỉ 4% người Ai Cập, 6% người Jordan và 1% người Lebanon đã trả lời tích cực. Cuộc thăm dò Zogby gần đây trong sáu xứ A Rập - Ai Cập, Jordan, Lebanon, Morocco, Saudi Arabia, và United Arab Emirates - cũng cho thấy: thay thế một tổng thống trước đó đã đưa phong trào chống Mỹ trong thế giới Hồi Giáo lên một mức cao hơn bao giờ hết, Obama đã chỉ có thể làm tình trạng thêm phần trầm trọng: đại đa số quần chúng A Rập ngày nay đều xem Hoa Kỳ như đã không đóng góp gì vào hòa bình và ổn định trong thế giới A Rập. BẤT ỔN ĐỊNH NGÀY MỘT GIA TĂNG KHẮP ĐỊA CẦU Sự can thiệp của Hoa Kỳ vào vòng cung bất ổn đã hẳn chẳng có gì mới lạ. Tạm bỏ ra ngoài các cuộc chiến hiện nay, trong thế kỷ 20 Hoa Kỳ cũng đã can thiệp quân sự vào Nam Bán Cầu ở Cambodia, Congo, Cuba, Dominican Republic, El Salvador, Egypt, Grenada, Guatemala, Haiti, Honduras, Iraq, Kuwait, Laos, Lebanon, Libya, Panama, Philippines, Mexico, Nicaragua, Panama, Somalia, Thailand, Việt Nam, và trong nhiều nơi khác. CIA đã tổ chức nhiều chiến dịch ngầm trong nhiều xứ nói trên, cũng như ở Afghanistan, Algeria, Chile, Ecuador, Indonesia, Iran, và Syria, chỉ kể một số ít quốc gia. Cũng như người tiền nhiệm, Barack Obama rõ ràng đã có cùng quan tâm đến phần "thế giới không được thắp sáng" - "unlit world", và xem đó là nguồn cội của bất ổn toàn cầu và nguy cơ đối với Hoa Kỳ. Câu trả lời củng đã chỉ là giàn trải thế lực quân sự để chận đứng bất ổn, tăng cường đồng minh, và bảo vệ người Mỹ. Mặc dù bài học quan trọng 11/9 -- can thiệp ở hải ngoại luôn mang lại hậu họa cho quốc nội -- Obama cũng chỉ biết dùng sức mạnh quân sự để đối phó với hậu quả nhãn tiền, do đó, đã tiếp tục vòng nhân quả luân hồi, để rồi lại phải đối diện với cùng những hậu quả tương tự trong tương lai. Cuộc thăm dò công luận Rasmussen cho thấy phần lớn dân Mỹ không đồng ý với tổng thống khi đối diện với ý tưởng và phương cách can dự của Hoa Kỳ ở hải ngoại. Chẳng hạn, trong cuộc thăm dò gần đây, 75% cử tri đã đồng ý chọn lựa: "Hoa Kỳ không nên sử dụng lực lượng quân sự vào hành động can thiệp ở hải ngoại trừ phi đó là vấn đề sống còn đối với quyền lợi quốc gia chúng ta."[10] Vả chăng, đa số người Mỹ rõ ràng đều gạt bỏ lý do bảo vệ Afghanistan, Iraq, Pakistan, Saudi Arabia, và nhiều xứ khác trong vòng cung bất ổn, ngay cả khi các nước nầy bị các cường quốc bên ngoài tấn công. Sau nhiều thập kỷ can thiệp công khai hoặc ngấm ngầm vào các xứ trong vòng cung, kể cả trong 10 năm chiến tranh liên tục mãi cho đến nay, hầu hết các xứ nầy ngày một nghèo nàn, thiếu mở mang, và rõ rệt bất ổn hơn trước. Trong năm nầy, trong danh sách "chỉ số nhà nước thất bại" hàng năm (failed state index) -- bảng xếp hạng các quốc gia bất ổn nhất trên hành tinh -- tạp chí Foreign Policy và Quỹ Hòa Bình đã xếp hai quốc gia trong vòng cung đang chịu sự can thiệp quân sự lớn nhất của Hoa Kỳ - Iraq và Afghanistan - trong nhóm 10 nước tệ hại nhất. Pakistan và Yemen đứng thứ 12 và 13, trong khi Somalia - nơi sự can thiệp của Hoa Kỳ dưới thời Clinton trong thập kỷ 1990, dưới thời Bush trong thập kỷ 2000, và một lần nữa dưới thời Obama - chiếm hạng danh dự số I. Riêng về nỗ lực xây-dựng-quốc-gia (nation-building efforts) trong vòng cung, những gì chúng ta đã từng chứng kiến hàng ngày là một thập kỷ tàn-phá-quốc-gia (nation-unbuilding), chỉ chấm dứt khi người dân trong các xứ A Rập đã vùng dậy giành lại quyền quyết định tương lai với chính bàn tay và thể xác của mình ngoài đường phố. Như một thăm dò công luận gần đây trong các xứ vòng cung, quần chúng trong phần thế giới miền Nam đang chứng kiến Hoa Kỳ luôn suy tôn hay nuôi dưỡng, thay vì ngăn ngừa bất ổn định. Và các biện pháp thẩm định khách quan đã minh chứng nhận thức của họ. Trong thực tế, bằng chứng hùng hồn nhất là các phong trào quần chúng chống lại các nhà cầm quyền độc tài đồng minh của Hoa Kỳ đã diễn ra suốt năm ở khắp nơi trong vùng vòng cung. Trước sự phủ nhận lý do bảo vệ các quốc gia trong vòng cung bất ổn của nhân dân Hoa Kỳ, trước những bằng chứng không thể chối cãi can thiệp quân sự không hề phát huy ổn định , trước cuộc khủng hoảng ngân sách và tài chánh với tầm cỡ tai họa, người ta đang chờ xem chính quyền Obama đang dựa vào duyên cớ nào để tiếp tục một chính sách thất bại - một chính sách hình như chắc chắn gây thêm bất ổn định trên thế giới và đặt công dân Hoa Kỳ trước những nguy cơ lớn lao hơn. MỘT BÀI HỌC ĐANG CHỨNG NGHIỆM "Camp Victory", một cái tên không hợp thời, là một tập hợp quân sự khổng lồ, gồm một số căn cứ, đã được xây cất chung quanh một nhà nghỉ và 9 dinh thự sang trọng giàu có của lãnh tụ Saddam Hussein trước đây, gần phi trường quốc tế Baghdad. Trong vòng ít tháng sau ngày quân đội Mỹ chiếm đóng Baghdad tháng 4-2003, Camp Victory đã là căn cứ Hoa Kỳ lớn nhất ở hải ngoại kể từ Chiến Tranh Việt Nam. Căn cứ cũng đã trở thành nơi thăm viếng của các chính trị gia Hoa Kỳ, đến đây mà tưởng tượng như đang đến tiểu bang thứ 51 của mình. Đó là tổng hành dinh của nỗ lực quân sự và về sau là chiến lược tăng cường tấn công(surge strategy) ở Iraq. Đó cũng là căn cứ gốc của ít ra 46.000 quân Mỹ, các nhà thầu, lính đánh thuê, nhân viên dân sự của Bộ Quốc Phòng, và nhân công lao động của thế giới thứ ba. Trại binh còn có cả Burger King, PX khổng lồ, và một chu vi dài 27 dặm với tường chống bom mìn, dây kẻm gai, cũng như bệnh viện, nhà máy nước riêng. Tóm lại, tự nó đã là một thành phố, một thế giới. Phóng viên báo chí Hoa Kỳ thường ghé qua, tuy nhiên đa số người Mỹ đều không hay biết sự hiện diện của tiền đồn khổng lồ bên trong trung tâm dầu lửa của hành tinh vừa mô tả. Với tất cà khối lượng tin tức đến với người Mỹ, Camp Victory tự nó chưa bao giờ được giới báo chí đặc biệt lưu ý đưa tin, cũng như hàng tỉ đô la chi phí xây dựng hơn 500 căn cứ quân sự lớn nhỏ ở Iraq, ngày nay được biết đã được xây cất với tiền thuế của người Mỹ. Tất cả những điều trên đều đúng cho đến khi Camp Victory, đang tiến dần đến bờ vực "chiến bại sau cùng", và cuối cùng đã tìm thấy, nếu không phải phóng viên chép sử, thì là người viết cáo phó, Annie Gowan - của tờ Washington Post. Với người Mỹ cuối cùng đã được đưa lên danh sách rời Camp Victory (mặc dù chưa phải Iraq) vào đầu tháng 12, với các cánh cữa sắp đóng lại, và chìa khóa trao lại cho chính quyền Iraq, Gowan đã trích lời Trung Tá Sean Wilson, sĩ quan Bộ binh phụ trách công tác thông tin, về căn cứ sắp bỏ rơi như sau: "Tất cả nơi đây đang trở thành một thành phó ma. Bạn có cảm giác như người cuối cùng trên Địa Cầu."[11] Rõ ràng giới quân sự Hoa Kỳ sẽ cử hành lễ an táng cuối cùng, lúc đó căn cứ sẽ được đổi tên thành "Camp Defeat" (Căn cứ Chiến Bại) trước khi bỏ lại phía sau. Tuy nhiên, ngay cả khi Hoa Thịnh Đốn đang quyết tâm bám víu những chỗ đứng quân sự còn lại ở Iraq, cáo phó đó có thể là cáo-phó-tóm-tắt-trong-một- dòng cho cuộc phiêu lưu vĩ đại ở Iraq. Đã hẳn, trong khi đang rút dần xuống còn lại "bộ xương" ở Iraq, người Mỹ trong thực tế vẫn tiếp tục xây dựng lực lượng , các cuộc hành quân, và hạ tầng cơ sở ở Trung Đông Nới Rộng. Tuy vậy, người ta có thể tự hỏi: ở một nơi nào đó trong câu truyện Camp Victory, có thể tìm thấy một bài học khiêm tốn Hoa Thịnh Đốn có thể rút tỉa. Nguyễn Trường Irvine, California, USA 29-9-2011 [1] Freedom is on the march in the broader Middle East. The hope of liberty now reaches from Kabul to Baghdad to Beirut and beyond. Slowly but surely, we're helping to transform the broader Middle East from an arc of instability into an arc of freedom. [2] t will be the policy of the United States to...support transitions to democracy.
[3] ...a core rhetorical concept....
[4] Worldwide Attack Matrix for detailed operations against terrorists in 80 countries.
[5] ...a large multi-headed effort that probably spans 60 countries.
[6] It has been indoctrinating and schooling indigenous military partners through "the State Department's and Pentagon's Internatioal Military Education and Training program."
[7] The emphasis is on the Middle East and Africa because we know that terrorism will grow, and we know that vulnerable countries are most targeted.
[8] The large region from the Middle East to South Asia is the focus for many of the challenges facing the United States in the twenty-first century.
[9] Our strategic focus has shifted largely to the south...certainly within the special operations community, as we deal with the emerging threats from the places where the lights aren't.
[10] The United States should not commit its forces to military action overseas unless the cause is vital to our national interest.
[11] This whole place is becoming a ghost town. You get the feeling you're the last person on Earth.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 5:06:21 GMT 9
Cải cách toàn diện để phát triển đất nước
Các tác giả:
Hồ Tú Bảo, Nguyễn Tiến Dũng, Trần Hữu Dũng, Giáp Văn Dương, Nguyễn Ngọc Giao, Ngô Vĩnh Long, Vĩnh Sính, Nguyễn Minh Thọ, Trần Văn Thọ, Cao Huy Thuần, Nguyễn Văn Tuấn, Hà Dương Tường, Vũ Quang Việt, Phạm Xuân Yêm
Lời giới thiệu
Văn bản dưới đây được soạn thảo trong mùa hè vừa qua, khi Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Là người Việt Nam, không ai không khỏi giật mình tự đặt câu hỏi: làm sao đối phó với hiểm họa ngoại xâm khi nội lực của chúng ta đang có nhiều vấn đề đáng lo ngại: kinh tế bấp bênh, giáo dục và y tế xuống cấp, khoa học và công nghệ non yếu, đạo đức xã hội suy đồi, tham nhũng tràn lan, bộ máy nhà nước thiếu hiệu quả.
Qua trao đổi giữa các đồng nghiệp trong giới đại học và nghiên cứu làm việc ở nhiều nơi trên thế giới, văn bản này được viết ra, nhằm phân tích những yếu kém của nội lực Việt Nam và đề nghị những biện pháp cải cách. Xuất phát từ nhiều chỗ đứng khác nhau, nhưng cùng bức xúc như nhau trước tình hình nghiêm trọng của đất nước, những người soạn thảo đã làm việc trên tinh thần đồng thuận. “Bản Ý Kiến” này là kết quả của vài trăm điện thư trao đổi, đúc kết nhiều quan điểm khác nhau để đi đến một “mẫu số chung”: Sự cần thiết của cải cách thể chế, con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để tăng cường nội lực, thực hiện đoàn kết, bảo vệ đất nước, và phát triển bền vững.
Văn bản này không phải là một bản kiến nghị, cũng không phải đưa ra để lấy chữ ký, mà cốt chia sẻ suy nghĩ về cải cách toàn diện để phát triển đất nước. Văn bản đã được gửi đến các ủy viên trong Bộ Chính trị cách đây khoảng một tháng và đến Quốc hội cùng Chính phủ gần đây hơn. Nay xin trân trọng gửi đến bạn đọc.
Nội dung
Lời giới thiệu Tóm tắt A. Mở đầu B. Việt Nam nhìn từ thế giới bên ngoài C. Việt Nam hiện nay: Thực trạng và nguyên nhân
1. Về kinh tế 2. Về văn hóa 3. Về giáo dục 4. Về y tế 5. Về khoa học và công nghệ 6. Về quan hệ đối ngoại 7. Tổng kết: Đâu là những nguyên nhân sâu xa?
D. Cải cách vì một nước Việt Nam giàu mạnh và tự chủ
1. Cải cách thể chế là quan trọng nhất 2. Củng cố bộ máy nhà nước 3. Về chiến lược, chính sách phát triển kinh tế 4. Về văn hóa, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học và công nghệ 5. Chiến lược đối ngoại
E. Kết luận
Đồng ký tên
Tóm tắt
Việt Nam chúng ta đang đứng trước một khúc ngoặt lịch sử. Theo dõi những diễn tiến của xã hội Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần đây, chúng tôi thật sự lo âu về tương lai của đất nước. Bản ý kiến này không nêu lại những thành tựu Việt Nam đã đạt được, mà tập trung vào vấn đề nội lực Việt Nam đang suy yếu: Kinh tế bấp bênh, giáo dục và y tế xuống cấp, khoa học và công nghệ non yếu, đạo đức xã hội suy thoái, tham nhũng tràn lan, bộ máy nhà nước nhiều bất cập. Trong lúc đó, kinh tế ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc và đe dọa về an ninh từ nước láng giềng phương Bắc ngày càng rõ nét.
Năm 2008 lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam vượt qua ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị trí của nước thu nhập thấp. Nhưng ta đã mất gần 35 năm kể từ khi đất nước thống nhất, nếu kể từ khi đổi mới cũng gần một thế hệ mới đạt được thành quả còn khiêm tốn này. Trong cùng thời gian đó, nhiều nước ở châu Á đã đạt thành quả được cả thế giới ngưỡng mộ. So với các nước trong vùng và trên thế giới có cùng điều kiện phát triển trước đây, nước ta hiện nay vẫn còn ở vị trí rất thấp trong hầu hết mọi lĩnh vực, từ kinh tế, giáo dục đến khoa học. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra vẫn còn rất xa. Hiện nay chưa có dấu hiệu cho thấy Việt Nam có thể đạt mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020.
Khi phân tích vấn đề, chúng tôi thấy có hai nguyên nhân sâu xa, liên quan đến thể chế nói chung, và cơ chế tuyển chọn người lãnh đạo và quản lý nhà nước nói riêng.
Thứ nhất, thể chế còn thiếu dân chủ. Có thể nói rằng thể chế hiện nay là di sản của thời chiến tranh, bao cấp và chủ nghĩa xã hội kiểu Lênin-Stalin, với đặc điểm cơ bản là hạn chế dân chủ, hạn chế tự do tư tưởng, thiếu tinh thần thượng tôn pháp luật. Hệ quả là xã hội suy giảm tính năng động và hiệu quả, hạn chế sáng tạo trong khoa học và giáo dục, không chống được suy thoái giá trị đạo đức và văn hóa, bất công và cách biệt xã hội tăng lên, và không khuyến khích việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển. Chế độ tiền lương bất hợp lí trong cơ chế “xin cho” đã đẩy nhiều công chức vào con đường tham nhũng, và làm cho nhiều nhà giáo, bác sĩ, nhà khoa học,... không chuyên tâm với nghề nghiệp và không giữ được đức tính cao đẹp vốn có từ xưa. Hoàn toàn đáng lo ngại khi thể chế hiện nay đang hạn chế sức mạnh của đất nước và làm lung lay nền tảng của xã hội.
Thứ hai, là hệ quả của nguyên nhân thứ nhất, trong thành phần lãnh đạo đất nước chưa có nhiều người tài giỏi, bản lĩnh, chịu trách nhiệm cao và quy tụ được bên mình những trí thức và cộng sự chân chính. Từ trung ương đến địa phương, nhiều quan chức thiếu cả năng lực và đạo đức cần thiết. Tình trạng bằng cấp giả và chạy chức chạy quyền đã trở thành vấn nạn nhức nhối. Việc lợi dụng vị trí công quyền để trục lợi cá nhân đang là hiện tượng phổ biến ở nhiều cán bộ nhà nước.
Theo chúng tôi, phải có một cuộc cải cách mang tính cách mạng về thể chế mới giải quyết được hai vấn đề này. Chúng tôi nghĩ rằng trách nhiệm này trước hết thuộc về đảng cầm quyền và trên thực tế hiện nay cũng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới đảm nhận được vai trò này.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị Đảng Cộng sản Việt Nam xem xét thực hiện 8 điểm sau:
1. Kiên quyết xây dựng nhà nước dân chủ pháp quyền.
Không có ai và tổ chức nào đứng trên và đứng ngoài pháp luật. Để thực hiện được điều này, cần triệt để tôn trọng Hiến pháp và đảm bảo sự thực thi Hiến pháp theo tinh thần hiến pháp là trên hết. Đồng thời, cần có cơ chế kiểm soát quyền lực, cần có hệ thống tòa án độc lập để chế tài được các hành vi lạm dụng quyền hành, tham nhũng, làm giàu bất chính và ức hiếp dân chúng.
Triệt để dân chủ hóa, đúng như mục tiêu mà Hiến pháp đề ra. Đảng cần chứng minh bằng hành động thực tế rằng đó không phải là khẩu hiệu mà chính là thao thức thường xuyên của lãnh đạo, của các cơ quan công quyền. Để thực hiện dân chủ trong khuôn khổ pháp lý hiện nay, cần thật sự triển khai và áp dụng nội dung của Hiến pháp. Trước hết, phải thật sự tôn trọng các quyền mà Hiến pháp đã ghi rõ, đặc biệt là quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, và được quyền lập hội, quyền biểu tình trong khuôn khổ pháp luật, và quyền bình đẳng trước pháp luật.
Pháp luật nhằm bảo đảm quyền tự do của người này không xâm phạm đến quyền tự do của người khác chứ không phải nhằm hạn chế hoặc triệt tiêu tự do. Tất nhiên, tự do cá nhân phải tôn trọng lợi ích tập thể, nhưng không nên viện lợi ích tập thể với mục đích triệt tiêu tự do. Cụm từ "theo quy định của pháp luật" phải được hiểu trong tinh thần đó để các quyền được Hiến pháp công nhận có giá trị thực sự chứ không phải chỉ có tính cách lý thuyết. Hiện nay, không thiếu thí dụ luật được viết nhằm hạn chế quyền công dân được ghi trên Hiến pháp. Thí dụ điển hình là luật bầu cử và Quyết định 97. Luật bầu cử hạn chế quyền ứng cử của công dân vì đòi hỏi người tự ứng cử phải được Mặt trận Tổ quốc thông qua. Quyết định 97 của Thủ tướng nhằm hạn chế quyền phản biện chính sách của trí thức. Thật ra, tất cả các quyền của công dân đều đã nằm trong Hiến pháp Việt Nam, chỉ cần triển khai và thật sự áp dụng.
Cần bảo đảm nền móng của dân chủ: đó là tự do ngôn luận. Quyền tự do ngôn luận mà Hiến pháp đã ghi rõ cần đi vào thực chất với việc bảo đảm tính công khai và minh bạch của các hoạt động công quyền và quyền tranh luận của xã hội và công dân đối với những hoạt động đó. Những hạn chế cần thiết của tự do ngôn luận, như các bí mật quốc gia (thuộc phạm vi hình sự) hay bí mật kinh doanh, đời tư của công dân (dân sự), phải được ghi rõ trong các đạo luật (được quốc hội thông qua) chứ không phải là qua các nghị định, quyết định của hành pháp.
2. Tiếp thu các tư tưởng tiến bộ nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Không nên tự ràng buộc vào một ý thức hệ duy nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh nếu chỉ biết học thuyết Mác-Lênin, không tiếp thu mọi tư tưởng tiến bộ của thế giới thì đã không viết được bản Tuyên ngôn độc lập gói ghém những giá trị phổ quát của nhân loại. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là rất hợp lòng dân. Các hệ tư tưởng là công cụ nhằm giúp đạt mục tiêu trên. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy một xã hội muốn phát triển cần có tự do tư tưởng và tự do ngôn luận do đó cần thoát khỏi sự ràng buộc vào một ý thức hệ duy nhất. Ra khỏi sự ràng buộc vào ý thức hệ đó cũng sẽ cho thấy Việt Nam độc lập với Trung Quốc về mặt tư tưởng và đi trước Trung Quốc về cải cách thể chế.
3. Xây dựng một nhà nước vững mạnh bằng cách minh bạch hóa việc bổ nhiệm các chức vụ cao cấp, thực hiện việc tuyển chọn công chức theo qui trình khách quan dựa trên khả năng, cải cách chế độ tiền lương cho hợp lý.
Nêu cao trách nhiệm cá nhân trong hệ thống công quyền. Tất cả công chức và người lãnh đạo trong hệ thống nhà nước phải chịu trách nhiệm cá nhân về nhiệm vụ của mình, không được ẩn náu dưới danh nghĩa trách nhiệm tập thể. Cơ chế tập trung dân chủ khi đem áp dụng trong việc điều hành chính phủ đã bị nhiều người lợi dụng để bao biện cho thói vô trách nhiệm, ỷ lại, đổ lỗi cho tập thể, cơ hội, bè phái, “cha chung không ai khóc”. Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế tách bạch sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước để tránh sự chồng chéo, áp đặt, kém hiệu quả.
Minh bạch hóa trong bổ nhiệm tất cả các chức vụ, kể cả vị trí cao cấp. Tạo cơ chế công khai và dân chủ hóa để có thể tuyển chọn những nhà lãnh đạo tài đức và đáp ứng được đòi hỏi của dân tộc, được dân tin tưởng và được thế giới nể trọng. Không nên tiếp tục cách làm hiện nay là dàn xếp trong nội bộ Đảng rồi đưa ra Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm. Những người đủ tài đức nhưng không phải đảng viên cũng cần được xem xét bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng. Chính phủ Hồ Chí Minh sau Cách mạng Tháng tám cũng đã có phương châm này.
Xây dựng bộ máy công chức làm việc có trách nhiệm và hiệu quả, và có cơ chế tuyển chọn khách quan dựa trên tài năng chuyên môn. Hiệu suất của bộ máy công quyền là điều kiện tối cần thiết để kinh tế, giáo dục, văn hóa phát triển nhanh và lành mạnh. Cho nên, việc tuyển chọn công chức phải dựa trên tiêu chí chuyên môn và đạo đức, độc lập với quan điểm chính trị ở nhiều loại công việc.
Cải cách chế độ tiền lương nhằm bảo đảm người công chức có thể sống bằng đồng lương của mình. Công chức phải được bảo đảm sống bằng đồng lương để tập trung vào công việc. Chế độ tiền lương cần hợp lí và phù hợp với khả năng, cống hiến thực của công chức để có thể thu hút được những người có khả năng nhất trong xã hội vào bộ máy công quyền. Đây là một trong những vấn đề cốt lõi cần đặt thành mục tiêu ưu tiên phải thực hiện ngay.
4. Phát triển kinh tế theo hướng bền vững trong đó ưu tiên hàng đầu là tạo công ăn việc làm và nhanh chóng cải cách việc điều hành và quản lý doanh nghiệp quốc doanh trong đó có các tập đoàn kinh tế.
Về việc phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động cần được đặt thành ưu tiên hàng đầu. Để phát triển bền vững và hướng tới toàn dụng lao động cần đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng ngày càng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và chú trọng phát triển nông thôn.
Đề nghị lập một hội đồng tư vấn chiến lược phát triển để giúp chính phủ vạch ra chiến lược phát triển có trọng điểm, không dàn trải và dẫm chân lên nhau, kết hợp thỏa đáng lợi ích quốc gia và lợi ích vùng nhằm phát triển nền kinh tế có chất lượng. Hội đồng này tập trung những chuyên gia có trình độ, có chức năng xây dựng và giám sát việc thi hành chiến lược phát triển với đủ thẩm quyền và chế độ đãi ngộ thích hợp. Bộ phận này phải được đặt trên tất cả các bộ ngành liên quan tới lĩnh vực kinh tế, đứng đầu là Thủ tướng hoặc Phó thủ tướng thường trực, có những chuyên viên tài năng, có cơ chế tiếp thu ý kiến của giới doanh nhân và trí thức. Bộ phận chuyên trách này sẽ có tiếng nói quan trọng trong việc quyết định các dự án lớn, trong quy hoạch phát triển và xây dựng kết cấu hạ tầng.
Cải cách chế độ sở hữu ruộng đất và tạo cơ hội có việc làm ngoài nông nghiệp là hai trụ cột để nâng cao mức sống của người dân ở nông thôn. Cần có chiến lược về đất đai, qui hoạch rõ rệt các vùng chuyên canh nông nghiệp và vùng có thể phát triển công nghiệp, cải cách để xác định rõ đâu là đất tư hữu và đâu là đất công hữu, tiến tới xóa bỏ hẳn chính sách coi đất đai là sở hữu toàn dân như hiện nay. Tư hữu hóa sẽ là cơ sở để giải quyết việc tập trung ruộng đất manh mún hiện nay để thực hiện sản xuất lớn nông nghiệp và phục vụ công nghiệp hóa nông thôn. Mặt khác, như nhiều người đã chỉ ra, đất đai là một nguồn tham nhũng rất lớn, gây hàng ngàn vụ khiếu kiện của dân trong những năm qua, tệ nạn này sẽ được hạn chế rất nhiều nếu người dân trên nguyên tắc được toàn quyền sở hữu (thay vì chỉ có quyền sử dụng) đất đai của mình.
Cần xóa bỏ chế độ hộ khẩu để người dân khi đến đô thị làm việc có thể yên tâm với cuộc sống ở đó và không cần giữ lại quyền sử dụng đất ở nông thôn.
Cần nhanh chóng cải cách việc điều hành và quản lý doanh nghiệp quốc doanh đặc biệt là các tập đoàn kinh tế. Thời gian qua tập đoàn kinh tế đã trở thành nơi hội tụ của các nhóm lợi ích và người có quyền chức, gây ra bất ổn cho nền kinh tế và tình trạng tham nhũng bành trướng. Vì thế, cần đặt các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, trong khung pháp lý chung của luật pháp; xóa bỏ việc hành pháp trực tiếp lãnh đạo kinh doanh và thay vào đó là Hội đồng quản trị độc lập có nhiệm kỳ, do Quốc hội hay Hội đồng Nhân dân bổ nhiệm, nhằm tránh biến tập đoàn thành một phần của các nhóm lợi ích. Ngoài ra, cần xóa bỏ các ưu đãi đặc biệt (về tín dụng, thuế, bảo lãnh nợ,...) cho doanh nghiệp quốc doanh; và không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh.
5. Ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa và đạo đức xã hội.
Văn hóa và đạo đức xã hội đang xuống cấp nghiêm trọng. Kỷ cương phép nước và nhân phẩm của con người đang bị coi thường. Chưa bao giờ cái xấu, cái giả và cái ác, biểu hiện ở nhiều dạng nhiều mặt, lại xuất hiện nhiều như bây giờ. Các giá trị văn hóa tốt đẹp của nhân loại chưa kịp nuôi dưỡng và bén rễ thì đã bị những cái xấu, cái giả lấn át. Thói háo danh, hình thức phô trương, mê tín dị đoan lại càng được dịp lên ngôi. Vì thế, cần quảng bá, khuyến khích những giá trị văn hóa tiến bộ của nhân loại như tự do, bình đẳng, bác ái, pháp quyền… và khôi phục những tinh hoa văn hóa truyền thống để làm nền tảng cho mọi sinh hoạt của xã hội. Cần nghiêm khắc xử lý cán bộ ở các cấp cao khi có hiện tượng sai phạm đạo đức để làm gương. Đặc biệt quan trọng là việc sử dụng hiệu quả vai trò tích cực của công luận để phê phán và ngăn chặn sự suy thoái của đạo đức và văn hóa.
6. Thực sự làm cho giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Nguồn lực lớn nhất của Việt Nam là con người. Vì thế, chiến lược phát triển cần phải xây dựng theo hướng chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực ngày càng có kỹ năng và khả năng làm chủ công nghệ cao. Chiến lược phát triển cũng cần phải vì cuộc sống của đại đa số dân chúng nhiều hơn nữa. Do đó, phải có biện pháp hiệu quả nhằm cụ thể hóa các chính sách về giáo dục, khoa học và công nghệ. Đồng thời, lãnh đạo phải cho thấy quyết tâm chăm lo sức khỏe của người dân qua các cải cách về y tế. Cần tránh chính trị hóa học đường. Thay vào đó, cần giáo dục đạo đức, khích lệ tinh thần yêu nước, trách nhiệm công dân, và ý chí phấn đấu của tuổi trẻ. Điều tối quan trọng là cần đảm bảo tự do học thuật, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo.
Do tầm quan trọng và tình hình ngày càng xuống cấp của giáo dục, chúng tôi đề nghị Thủ tướng trực tiếp chịu trách nhiệm về giáo dục, cụ thể là chỉ đạo nội dung cải cách, theo sát việc triển khai các chiến lược, chính sách, và chịu trách nhiệm về kết quả của các cải cách lớn.
7. Thực hiện đoàn kết dân tộc
Chấp nhận và dung hòa với những người bất đồng chính kiến nhưng cùng mục tiêu phát triển đất nước. Đặc biệt trước những diễn biến phức tạp và nguy hiểm ở biển Đông, hòa hợp hòa giải dân tộc cũng có nghĩa là cổ vũ lòng yêu nước của mọi người dân không phân biệt chính kiến, quá khứ. Chúng tôi đặc biệt đề nghị nên có hình thức ghi nhận và biểu dương sự dũng cảm hy sinh của những quân nhân Việt Nam Cộng hòa bảo vệ Hoàng Sa năm 1974.
8. Triển khai một đường lối ngoại giao độc lập, dựa trên một thể chế dân chủ, chú trọng hơn đến quan hệ chiến lược với ASEAN và Hoa Kỳ, trong khi tiếp tục coi trọng quan hệ hữu nghị và bình đẳng với Trung Quốc.
Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc cần được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn bình đẳng, nhưng không xem đó là quan hệ đặc biệt, càng không thể coi đó là đồng chí tốt. Việt Nam không thể “hợp tác toàn diện” với một nước lớn và mạnh hơn mình hàng chục lần và có những quan hệ phức tạp về lịch sử và địa chính trị, nhất là đang thể hiện rõ tham vọng và đã có những hành động bành trướng, xâm hại chủ quyền và an ninh quốc gia của Việt Nam.
Về Biển Đông, Quốc hội Việt Nam cần ra một tuyên cáo đặc biệt về Công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, khẳng định đó không phải là sự thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ là thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan. Tuyên cáo này vừa để làm rõ quan điểm của Việt Nam trước dư luận quốc tế, vừa xóa bỏ những ngờ vực của không ít người Việt Nam ở trong và ngoài nước, góp phần tăng thêm tình đoàn kết dân tộc trước hiểm họa ngoại xâm.
Cần đoàn kết với Philippines, Malaysia và Brunei trong việc chống lại tuyên bố “Đường Lưỡi Bò” của Trung Quốc. Chúng tôi đề nghị Việt Nam đưa ra đề án với ASEAN đặt tên vùng biển Đông nước ta (mà Trung Quốc và nhiều nước gọi là biển Nam Trung Hoa) là Biển Đông Nam Á.
Trước bước ngoặt lịch sử của đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam mang một trách nhiệm nặng nề đối với tiền đồ dân tộc. Chúng tôi mong thấy một cuộc cách mạng mới về thể chế để Việt Nam có thể phát triển thành một nước giàu mạnh và tự chủ.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 5:07:08 GMT 9
A. Mở đầu
Việt Nam chúng ta đang đứng ở đâu trên bản đồ kinh tế và trên cục diện chính trị của khu vực và thế giới? Đất nước chúng ta sẽ thụt lùi về nhiều mặt, hay là sẽ phát triển mạnh mẽ, bền vững, đáp ứng khát vọng của dân tộc là mong thấy một nước Việt Nam giàu mạnh, phát triển hài hòa với thiên nhiên và xã hội, chia sẻ được những giá trị phổ quát của thế giới văn minh và giữ vững độc lập về kinh tế, chính trị, văn hóa? Nền tảng xã hội, văn hóa, giáo dục và thể chế của ta hiện nay có tạo đủ những điều kiện cơ bản để đất nước phát triển theo hướng tích cực không?
Theo dõi những diễn tiến của xã hội Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần đây, chúng tôi thật sự lo âu khi thử trả lời những câu hỏi nêu trên.
Từ gần 20 năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra mục tiêu phát triển đất nước là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là mục tiêu đúng đắn, có giá trị phổ quát và nước nào cũng muốn nhắm tới. Thế nhưng, hiện thực cho thấy Việt Nam không luôn tiến được theo hướng đó, nếu không nói là trên nhiều mặt Việt Nam đã đi ngược lại. Một bộ phận nhỏ giàu một cách bất hợp pháp, sinh hoạt xa hoa trong khi đa số dân chúng hằng ngày phải vật lộn với cơm áo, với chi phí cho giáo dục, y tế trong cơn lạm phát. Tham nhũng ngày càng trầm trọng, len lách vào mọi ngõ ngách của xã hội làm ảnh hưởng đến ý chí phấn đấu, tinh thần hướng thượng của người dân, và ngày càng có nhiều trường hợp công chức làm mất thể diện quốc gia. Bộ máy công quyền ở các cấp nổi lên quá nhiều người thiếu cả tài lẫn đức đến nỗi một lãnh đạo cấp cao của Đảng phải thừa nhận là bây giờ có quá nhiều “sâu”. Do tham nhũng, thiếu người tài đức gánh vác việc nước nên bộ máy nhà nước có nhiều bất cập. Tiếng nói của trí thức, của các nhà báo chân chính ngày càng mất hiệu quả. Đạo đức xã hội xuống cấp trầm trọng, bắt đầu lan tràn vào cả trong học đường, trong viện nghiên cứu khoa học, là những nơi lẽ ra phải đi đầu về đạo đức.
Năm 1996 Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa, chủ trương phấn đấu làm cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Từ đó đến nay đã 15 năm, đã đi gần 2/3 đoạn đường dự định mà cái đích còn quá xa vời. Việt Nam chưa có được một ngành công nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới. Chúng ta chủ yếu vẫn còn xuất khẩu hàng công nghiệp gia công, dùng nhiều lao động giản đơn và tùy thuộc sản phẩm trung gian nhập khẩu. Doanh nghiệp nhà nước nhất là tập đoàn kinh tế được dành mọi ưu đãi về vốn và đất nhưng cho đến nay chẳng những không đóng được vai trò chủ đạo như nhà nước chủ trương mà còn gây ra gánh nặng nợ nần và bất ổn cho toàn nền kinh tế.
Nền kinh tế yếu cùng với bộ máy nhà nước nhiều bất cập đã đưa đến một hậu quả nghiêm trọng là Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc. Về kinh tế thì đã quá rõ: Hàng công nghiệp của Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam, nhập siêu từ Trung Quốc cao ở mức dị thường, vừa gây bất ổn kinh tế vĩ mô vừa cản trở khả năng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của Việt Nam. Doanh nghiệp Trung Quốc chiếm phần lớn các gói thầu xây dựng, mua quyền sử dụng lâu dài rừng và bờ biển Việt Nam, đưa lao động vào Việt Nam dưới nhiều hình thức - kể cả bất hợp pháp - và nhiều nơi hình thành cộng đồng người Hoa mới... Về chính trị và tư tưởng, tuy không rõ ràng và dễ nhận biết như trong kinh tế, nhưng sự phụ thuộc là có. Cũng vì gắn bó với Trung Quốc về ý thức hệ, về thể chế chính trị mà ta không triển khai được đường lối ngoại giao khôn ngoan hiệu quả, không tận dụng được sức mạnh thời đại để làm cho dân giàu nước mạnh. Chẳng những thế, lệ thuộc về kinh tế và ngoại giao sẽ dễ dàng dẫn đến việc mất chủ quyền. Điều này đưa đến một thực tế nghiêm trọng: An ninh quốc gia bị đe dọa!
Từ tháng 5 năm nay (2011), vấn đề biển Đông trở nên nổi cộm. Ảnh hưởng của Trung Quốc đến an ninh của ta đã thấy rõ. Thật ra, chuyện Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông lần này không đáng lo bằng sự thâm nhập của họ ngày càng mạnh và sâu vào kinh tế, chính trị và văn hóa của ta. Khi kinh tế ta yếu, bộ máy nhà nước yếu, nền tảng đạo đức xã hội lung lay, Trung Quốc có thể thực hiện được mục tiêu biến Việt Nam thành một nước lệ thuộc toàn diện vào họ.
Chúng tôi, những người có tên trong danh sách dưới đây, vô cùng lo lắng, bức xúc trước nguy cơ Việt Nam bị thụt lùi trong tiến trình phát triển của thế giới mà hậu quả là Việt Nam có thể mất độc lập và tự chủ dưới hình thức này hay hình thức khác. Để tránh nguy cơ này, Đảng Cộng sản Việt Nam, với trọng trách đối với tiền đồ của đất nước, cần cải cách và triệt để đổi mới thể chế, nhằm củng cố và phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc, tận dụng thời cơ quốc tế, để mở ra con đường phát triển mới cho đất nước. Những nhận định về thực trạng và đề nghị cải cách dưới đây là xuất phát từ bức xúc về nguy cơ hiện nay đối với Việt Nam và ước vọng của chúng tôi về một nước Việt Nam thực sự giàu mạnh, văn minh và tự chủ. Chúng tôi tin rằng, đây cũng chính là ước vọng của toàn dân Việt Nam nói chung.
Trở về mục lục
B. Việt Nam nhìn từ thế giới bên ngoài
Nhìn kinh tế thế giới trong nửa thế kỷ gần đây ta thấy nhiều nước, nhất là những nước ở châu Á, đã phát triển nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước đi trước, thậm chí có nước đã tiến lên ngang hàng với các nước tiên tiến. Có mấy khi chúng ta xét xem một cách khách quan, nghiêm túc những yếu tố cơ bản, những đặc trưng chung nhất làm cho các nước ấy thành công? Cho đến nay, Việt Nam có nghiên cứu kinh nghiệm các nước nhưng chủ yếu là những chính sách, chiến lược cụ thể, còn những yếu tố thuộc nền tảng thể chế và xã hội, nền tảng văn hóa, giáo dục..., tức là những tiền đề để cho các chính sách, chiến lược cụ thể ấy thành công, thì hầu như không được chú trọng nghiên cứu, hoặc có nghiên cứu nhưng không được thực thi, áp dụng.
Ta thử lấy trường hợp Hàn Quốc làm thí dụ: Hàn Quốc vào đầu thập niên 1960 là nước kém phát triển nhưng sau đó vượt qua giai đoạn phát triển ban đầu và thành công trong giai đoạn phát triển bền vững, trở thành nước tiên tiến trong thời gian rất ngắn. Quá trình công nghiệp hóa của nước này bắt đầu từ năm 1961 nhưng chỉ sau một thế hệ, Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp phát triển đáng kể trên thế giới và đến năm 1996 được kết nạp vào Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) là tổ chức của các nước tiên tiến. Từ một nước nhận viện trợ nhiều vào các thập niên 1960 và 1970, Hàn Quốc bắt đầu chuyển sang vị trí của nước đi viện trợ từ cuối thập niên 1980. Hiện nay, nhiều công ty của Hàn Quốc trong các ngành công nghệ cao như điện tử, xe hơi đã vươn lên hàng đầu thế giới.
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu về sự thành công của Hàn Quốc ta có thể nêu lên mấy nguyên nhân chính. Thứ nhất là tố chất của người lãnh đạo. Đó là những nhà chính trị mà tinh thần yêu nước vượt qua những niềm tin ý thức hệ, luôn trăn trở về con đường đưa đất nước đuổi kịp các nước tiên tiến. Họ cũng là những người thức thời, biết học hỏi ở đâu, tham khảo thể chế, cơ chế nào và du nhập công nghệ gì để phát triển nhanh. Và họ cũng biết rằng để xây dựng chiến lược phát triển trên cơ sở hiểu rõ nội lực và ngoại lực không thể không dựa vào người tài thật sự. Bởi vậy, chung quanh lãnh đạo toàn người tài giỏi, nhất là nhiều người đã du học và làm việc ở các nước tiên tiến. Thứ hai, với ý thức rằng bộ máy hành chính mạnh, hiệu suất cao mới vạch ra được các chính sách cụ thể và thực thi có hiệu quả các chính sách ấy, Hàn Quốc từ rất sớm đã có cơ chế thi tuyển công chức nghiêm ngặt để có được đội ngũ quan chức tài giỏi, mang trong mình sứ mệnh lo việc nước. Thứ ba, trong quá trình phát triển, Hàn Quốc xây dựng được quan hệ lành mạnh, hiệu quả giữa nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước yểm trợ để doanh nghiệp vươn ra thị trường thế giới nhưng có cơ chế để doanh nghiệp không ỷ lại vào nhà nước như buộc doanh nghiệp phải có thành quả xuất khẩu mới tiếp tục được hỗ trợ. Thứ tư, giáo dục, nghiên cứu khoa học và công nghệ được quan tâm hàng đầu. Vào giữa thập niên 1980, nghĩa là chỉ sau khoảng 25 năm từ khi bắt đầu quá trình phát triển, Hàn Quốc đã có những đại học, những viện nghiên cứu đạt chất lượng thuộc đẳng cấp quốc tế.
Những đặc trưng trên hầu như xuyên suốt trong quá trình phát triển, kể cả giai đoạn đầu, dưới thể chế độc tài chính trị (1961-1987). Hàn Quốc không phải không có tham nhũng, nhưng không tràn lan trong xã hội mà chỉ giới hạn ở một vài chính trị gia và một số ít tập đoàn kinh tế. Đặc biệt hầu như không có hiện tượng bòn rút của công, rút ruột công trình xây dựng, càng không dám lạm dụng, lãng phí tiền viện trợ.
Trong 50 năm qua, những nền kinh tế khác tại châu Á phát triển nhanh trong thời gian dài như Đài Loan, Malaysia, Thái Lan cũng đều có những đặc trưng giống Hàn Quốc, tuy nội dung chi tiết có khác và thành quả ít ấn tượng hơn.
Bây giờ nhìn lại trường hợp Việt Nam. Năm 2008, lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam vượt qua ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị trí của nước thu nhập thấp theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới. Nhưng ta đã mất gần 35 năm kể từ khi đất nước thống nhất, nếu kể từ khi đổi mới cũng gần một thế hệ mới đạt được thành quả khiêm tốn đó. Mặt khác, cơ chế, chính sách trong thời gian qua, đặc biệt trong 4-5 năm gần đây, đã làm cho kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào vốn, hiệu quả đầu tư giảm và kéo theo lạm phát, lãng phí. Chất lượng phát triển cũng giảm nghiêm trọng: môi trường xuống cấp, phân hóa giàu nghèo tăng nhanh. Từ thành quả khiêm tốn và chất lượng phát triển thấp này, liệu từ nay Việt Nam có thể bắt đầu giai đoạn phát triển bền vững và kéo dài trong nhiều thập niên để thực sự có dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, có vị trí xứng đáng trong khu vực châu Á và trên thế giới?
Cũng theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới, tính theo giá năm 2009, thu nhập đầu người 4.000 USD là cái mốc của nước thu nhập trung bình cao và 12.000 USD là mốc vượt lên hàng các nước thu nhập cao. Ở châu Á, Hàn Quốc từ một nước nghèo đã vươn lên hàng các nước thu nhập cao chỉ trong 4 thập niên (thu nhập đầu người năm 2009 là 17.000 USD). Malaysia (7.000 USD) và Thái Lan (4.000 USD) đang nỗ lực tạo điều kiện để trở thành nước tiên tiến, có thu nhập cao trong vòng hai thập niên tới.
Chỉ kể từ thời kỳ sau đổi mới, Việt Nam đã nhận viện trợ gần 20 năm rồi mà chưa thấy lãnh đạo Việt Nam đưa ra kế hoạch tới bao giờ sẽ không còn nhận viện trợ. Ngược lại, ở Hội nghị các nhà tài trợ mới đây, chính phủ còn nhấn mạnh Việt Nam vẫn là nước nghèo, cần thế giới tiếp tục quan tâm, giúp đỡ! Sang Seoul gặp sinh viên ta đang du học ở đấy sẽ nghe họ buồn rầu nói về hình ảnh Việt Nam tại Hàn Quốc. Trong khoảng 95.000 người Việt Nam tại đây thì 60.000 là lao động xuất khẩu và 30.000 là phụ nữ sang lấy chồng vì lý do kinh tế. Vậy thì hình ảnh Việt Nam ở đây làm sao tốt được? Trí thức nước ngoài hiện nay khi nói về Việt Nam ít có ai lạc quan về tương lai kinh tế nước ta. Đó là họ mới chỉ thấy tình trạng tham nhũng, trình độ của quan chức mà họ tiếp xúc và những chính sách bất cập mà họ thấy được.
Phân tích trong phần tiếp theo cho thấy thực trạng đáng lo ngại về kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học & công nghệ và đối ngoại, cũng như những nguyên nhân chính đã đưa đến trình trạng đó. Trở về mục lục
C. Việt Nam hiện nay: Thực trạng và nguyên nhân
Phân tích hiện trạng Việt Nam, chúng tôi thấy có quá nhiều vấn đề đang làm cho nền tảng xã hội bị lung lay, đất nước suy yếu. Hầu hết những vấn đề đó bắt nguồn từ thể chế và cơ chế.
1. Về kinh tế
Hiện nay trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam tuy hàng công nghiệp chiếm khoảng 60% nhưng chủ yếu vẫn là những ngành dùng nhiều lao động giản đơn. Thêm vào đó, sản xuất các mặt hàng này phải phụ thuộc vào nguyên liệu và sản phẩm trung gian nhập khẩu. Các loại máy móc, những sản phẩm có hàm lượng kỹ năng lao động cao chỉ chiếm khoảng 10% tổng xuất khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nông sản, nguyên liệu. Từ năm 2002 nhập siêu của Việt Nam tăng nhanh và gần đây khuynh hướng này càng mạnh hơn. Nhập siêu quá lớn đang gây ra bất ổn vĩ mô.
Trong 5 năm qua, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã đi theo hướng hầu như mở toang cửa nền kinh tế mà không kèm theo việc thiết lập một hệ thống pháp lý cần thiết nhằm giám sát các mặt trái của nền kinh tế thị trường. Kết quả là Việt Nam đã vô tình xây dựng và củng cố một nền kinh tế tư bản hoang dã phục vụ các nhóm lợi ích (nhất là các tập đoàn kinh tế), phá hoại tài nguyên thiên nhiên, bòn rút của công làm giàu cho cá nhân trong khi lao động chân chính phải khổ sở với đồng lương thấp trước sự leo thang của vật giá.
Từ năm 2006 Việt Nam cho phép lập các tập đoàn kinh tế nhưng không đi kèm quy định giám sát cần thiết cũng như điều kiện buộc phải xác lập hệ thống quản lý doanh nghiệp, minh định rõ trách nhiệm và quyền hạn của lãnh đạo công ty. Điều này đã đưa đến hậu quả nghiêm trọng, trở thành một trong những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng hiện nay. Sự đổ vỡ của Vinashin cho thấy bản chất của các tập đoàn kinh tế.
Chính sách phân quyền xuống địa phương đã không phát huy được sức sáng tạo và cạnh tranh để phát triển mà ngược lại, mở cửa cho những người có chức có quyền ở địa phương lợi dụng cơ hội đào khoét tài nguyên đất nước để làm giàu cá nhân, kể cả việc giao đất và tài nguyên cho nước ngoài khai thác ở những nơi trọng yếu về an ninh và quốc phòng. Luật Đất đai coi đất đai là sở hữu công, do đó dành cho chính quyền quyền thu hồi đất của bất cứ ai. Luật lại giao quyền này cho Ủy ban Nhân dân ở mọi cấp, xuống tận cấp quận, huyện, với giá do chính Ủy ban Nhân dân quyết định nhằm mục đích “phát triển kinh tế”. Đây chính là lý do nhiều đất đai mầu mỡ của nhân dân bị thu hồi để làm khu phát triển công nghiệp, sân gôn, hay xây nhà kinh doanh. Do được phân quyền, nhiều địa phương giao đất rừng, hầm mỏ cho công ty Trung Quốc khai thác trong 50 năm, kể cả những vùng nhạy cảm về an ninh mà trung ương không biết. Ngoài ra, tình trạng thu hồi đất có tính cách cưỡng chế đã giải thích tại sao có quá nhiều vụ dân oan liên quan đến đất đai.
Chính sách phân quyền hoàn toàn hợp lý để tạo sự chủ động, sáng tạo cũng như nhằm giải quyết các vấn đề riêng của địa phương, kể cả tạo cạnh tranh giữa địa phương này và địa phương khác. Nhưng thực tế các yếu tố tích cực đó đã không phát huy tác dụng, ngược lại chỉ làm nảy sinh các mặt tiêu cực. Tại sao như vậy? Đó là do năng lực yếu kém và thiếu tinh thần trách nhiệm của nhiều lãnh đạo địa phương như sẽ nói dưới đây.
Quy hoạch phát triển cũng là vấn đề đáng lo ngại của ta. Nhìn chung, cho đến nay quy hoạch nặng tính chất áp đặt, nóng vội, duy ý chí, thiếu thiết kế tổng thể và nhiều khi thiếu tính chuyên nghiệp. Những yếu kém này thể hiện ở nhiều lĩnh vực. Trong phát triển đô thị thì đó là việc quy hoạch vội vã, thiếu khoa học dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông liên tục và kéo dài, ngập úng do mưa, đào đường, đắp đường, chắn lô cốt ... ở khắp mọi nơi. Trong đầu tư thì đó là tình trạng đầu tư theo phong trào, tràn lan kém hiệu quả như việc đầu tư trong nhiều dự án về kết cấu hạ tầng, về nhiều dự án phát triển công nghiệp và dịch vụ kém hiệu quả. Việc quy hoạch phát triển yếu kém dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên cạn kiệt, ồ ạt, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà không tính đến hiệu quả lâu dài; không xét đầy đủ đến tất cả các khía cạnh liên quan đến hiệu quả kinh tế, văn hóa, môi trường, v.v. Nhiều cảnh quan thiên nhiên và di tích văn hóa bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đặc biệt môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Điển hình của việc này là nhiều dòng sông đã và đang bị các công ty đua nhau “bức tử”. Nguồn nước sinh hoạt, nước trong các ao hồ từ các thành phố lớn đến nông thôn cũng bị ô nhiễm ở rất nhiều nơi. Chính do ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, ở nhiều vùng đã xuất hiện những “làng ung thư”. Điều này gióng lên hồi chuông cảnh báo cấp bách và đòi hỏi chính quyền phải có những biện pháp mạnh mẽ hơn nữa trong việc bảo vệ môi trường và chất lượng nguồn nước. Ngoài ra, ô nhiễm không khí cũng ở trạng thái báo động và ô nhiễm ở các làng nghề cũng ở mức nguy hiểm.
Nguyên nhân của tình trạng này là do thiếu nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của quy hoạch, do khả năng hạn chế của chính quyền địa phương, và không loại trừ những toan tính tư lợi hoặc lợi ích cục bộ của những người có trách nhiệm.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình hình kinh tế như hiện nay? Chúng tôi cho là có ba nguyên nhân sâu xa.
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì phương châm xây dựng “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” trong đó chủ trương vai trò chủ đạo của sở hữu nhà nước, của kinh tế nhà nước. Từ khi có phương châm này (1991), do sự thuyết phục của những người có tư tưởng cải cách, nội dung có thay đổi một phần nhưng cái cốt lõi vẫn giữ nguyên mà hiện thân của nó là các tập đoàn kinh tế do nhà nước lập ra. Nhiều tập đoàn kết nối với một số lãnh đạo làm thành những nhóm lợi ích chi phối chính sách kinh tế. Khi có sai phạm các lãnh đạo đó bám theo phương châm nói trên của Đảng để trốn trách nhiệm.
Thứ hai, trong cơ quan nhà nước, trách nhiệm cá nhân không rõ ràng và thiếu động cơ để quan chức, lãnh đạo các bộ phấn đấu để bộ mình giải quyết các vấn đề lớn của đất nước. Ngược lại, ta thấy nhiều trường hợp họ chạy theo những hoạt động ngoài công việc mình phụ trách, lãng phí thì giờ và công quỹ. Có bộ trưởng phụ trách kinh tế trong lúc kinh tế khủng hoảng lại dành thời gian hướng dẫn nghiên cứu sinh viết luận án tiến sĩ, vốn là việc của giáo sư đại học. Có cục trưởng phụ trách vấn đề giá cả trong lúc lạm phát người dân khốn đốn lại bỏ đi đóng phim! Suốt trong hơn 10 năm qua, ai cũng thấy rõ công nghiệp Việt Nam thiếu sức cạnh tranh, hàng hóa của Trung Quốc ào ạt tràn vào nước ta, doanh nghiệp nhỏ và vừa không phát triển được, v.v. Cũng đã có rất nhiều đề án, chiến lược được trí thức trong và ngoài nước đưa ra, kể cả phân tích của học giả nước ngoài và các cơ quan quốc tế, nhưng tất cả đều bị xếp lại, không được chuyển thành chính sách để thực hiện.
Thứ ba, một phần liên quan đến vấn đề thứ hai vừa đề cập, trình độ, năng lực, tư cách của rất nhiều quan chức các cấp ở trung ương và địa phương không đạt yêu cầu. Rất tiếc chúng ta chưa chứng kiến những hình tượng lý tưởng của nhà cầm quyền “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”, còn người ngược lại thì quá nhiều. Trong cơn bão giá làm dân chúng điêu đứng mà trách nhiệm chính ở những bộ liên quan, nhưng tiền mua xe hơi của quan chức cao cấp được tăng lên và được giải thích đó là chính sách đối phó với giá cả leo thang! Thí dụ tương tự về sự vô cảm, vô trách nhiệm của quan chức thì quá nhiều. Hậu quả tiêu cực của chính sách phân quyền đã nói phần lớn là do trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn và tư chất đạo đức của các chức trách địa phương. Chúng ta nghe nhiều về các hiện tượng tiêu cực ở địa phương hơn là những điển hình tiên tiến, ít thấy những lãnh đạo dấn thân vì dân giàu nước mạnh ở địa phương mình. Hiện tượng đưa người thân quen vào bộ máy công quyền rồi trang bị thêm bằng cấp đạt được bằng con đường bất minh cũng làm suy yếu bộ máy hành chính ở rất nhiều nơi
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 5:07:48 GMT 9
2. Về văn hóa
Văn hóa, đạo đức xã hội đang suy thoái trầm trọng. Chưa khi nào tin tức về tệ nạn xã hội lại có mật độ dày đặc như hiện nay. Dường như, cái xấu và cái ác đang hoành hành ngoài xã hội và tràn lên mặt báo mỗi ngày. Kỷ cương, phép nước bị coi thường, tính tự giác tôn trọng pháp luật và các quy ước xã hội và văn hóa rất thấp. Mê tín dị đoan lên ngôi, không chỉ ở tầng lớp đại chúng mà ngay ở cả một số cán bộ cao cấp ở các cơ quan công quyền. Hiện tượng “buôn thần bán thánh” trở thành phổ biến. Những chuẩn mực về văn hóa, những giá trị phổ quát như chân-thiện-mỹ đã bị sự giả dối, cái xấu và cái ác bóp nghẹt không nhân nhượng.
Hệ quả của điều này là các thang giá trị trong xã hội bị đảo lộn. Sự tự trọng, danh dự đã bị sự giảo hoạt, gian dối lấn át. Người ta sẵn sàng làm đồ giả để dâng cúng Quốc tổ, Quốc mẫu; sẵn sàng tranh cướp trong các lễ hội hoa; sẵn sàng túc trực chen lấn xô đẩy đến hỗn loạn trong lễ hội phát ấn.
Chưa bao giờ, nhân phẩm của con người có thể bị xúc phạm dễ dàng và tính mạng của con người có thể bị coi rẻ như vậy. Những vụ đánh giết nhau với hung khí xảy ra thường xuyên, nhiều khi chỉ vì những nguyên nhân không đâu. Không chỉ giữa những người dân bình thường với nhau, mà còn cả giữa đại diện của cơ quan công quyền với dân chúng. Vốn văn hóa dân tộc trở nên mỏng manh hơn bao giờ hết trước sự tấn công của văn hóa ngoại, đặc biệt là văn hóa Trung Quốc dưới mọi hình thức, thể loại.
Một điều hết sức đáng băn khoăn là thế hệ thanh thiếu niên đang lớn lên trong một môi trường thiếu hình mẫu cá nhân về lý tưởng và đạo đức, do vậy dễ quen một cách tự nhiên với các thói xấu như quay cóp, gian lận thi cử, đạo văn, hối lộ... Tính vị kỷ được đề cao, đi liền cùng sự thờ ơ với các vấn đề của xã hội, của đất nước.
Nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng suy thoái đạo đức, văn hóa này là sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan chức năng; sự băng hoại, tha hóa của nhiều công chức qua việc tham nhũng và hối lộ; và sự kiểm soát báo chí và truyền thông, - vũ khí mạnh nhất để chống lại tham nhũng, bất công, giả dối, ác độc - đã làm cho công luận bị hạn chế và vô hiệu hóa. Trở về mục lục
3. Về giáo dục
Giáo dục là vấn đề được toàn xã hội Việt Nam quan tâm nhất từ nhiều năm nay. Từ cuối thập niên 1990 nhà nước đã đưa giáo dục lên quốc sách hàng đầu, nhưng thực tế thì tình hình giáo dục ngày càng tụt hậu, sa sút, nhất là trong những năm gần đây. Một vài điểm nổi bật dễ thấy của giáo dục Việt Nam trong những năm qua như sau.
Một là chất lượng đào tạo sút kém, từ bậc phổ thông đến đại học và càng lên cao chất lượng càng yếu. Nhìn tổng thể, giáo dục Việt Nam chưa đào tạo đủ những người có kiến thức và năng lực để đáp ứng nhu cầu của phát triển đất nước. Nhân lực đào tạo ra ở cuối bậc đại học, cao đẳng và dạy nghề còn ở khoảng cách xa với đòi hỏi thực tế của các ngành nghề và xã hội.
Hai là hệ thống giáo dục phổ thông gây ra nhiều hiện tượng làm bức xúc trong xã hội như tổ chức quá nhiều kỳ thi, lãng phí sức người, sức của; dạy thêm, học thêm tràn lan; chương trình giáo dục và sách giáo khoa luôn thay đổi nhưng chất lượng không được cải thiện. Ngoài ra, bệnh thành tích và các tệ nạn tham nhũng trong giáo dục hết sức phổ biến.
Ba là giáo dục đại học có chất lượng nói chung còn thấp, gần đây lại phát triển hỗn loạn với nhiều trường tư chạy theo lợi nhuận lại được cấp phép bừa bãi, không đáp ứng một quy hoạch có cân nhắc nào. Tình trạng nói trên dẫn đến hiện tượng “tị nạn giáo dục”, khi những người giàu có ở Việt Nam, kể cả các quan chức trong Đảng và chính phủ, đều tìm cách cho con em ra nước ngoài học, thậm chí từ cấp phổ thông.
Bốn là bằng cấp trở thành mục đích, là cứu cánh của cả xã hội, và các tệ nạn học vẹt, học tủ, bằng giả, gian lận trong thi cử, … không hề được bài trừ một cách kiên quyết. Nhiều quan chức bị tố cáo trên báo chí về việc dùng bằng giả hay gian lận thi cử rồi cũng được bỏ qua, thậm chí được bổ nhiệm chức vị cao hơn. Hiện tượng mua bằng, sao chép luận án, thuê viết luận án, v.v. đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức học đường nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Năm là chế độ phong chức danh phó giáo sư và giáo sư ở đại học còn nhiều bất cập. Các tiêu chuẩn phong chức danh hiện nay không khuyến khích nhà giáo đại học hướng đến những nghiên cứu khoa học đích thực, có ý nghĩa mà thường làm những việc để dễ có “điểm” theo quy định không đâu có của việc phong chức danh. Ngoài ra, các chức danh này lẽ ra chỉ dành cho người giảng dạy đại học hoặc nghiên cứu khoa học, nay được phong ở nhiều ngành cho nhiều người vốn không có vị trí giảng dạy đại học hay nghiên cứu ở cơ quan khoa học, làm cho nhiều quan chức hành chính nhảy vào tham gia công việc của đại học một cách không thích đáng.
Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng sa sút của giáo dục đã được bàn luận rộng rãi, chúng tôi cho rằng các nguyên nhân sau đây là chính yếu.
Một là giáo dục của Việt Nam trong những năm qua thiếu một tầm nhìn chiến lược tổng thể; thiếu kiên quyết theo đuổi một triết lý giáo dục xác định; thiếu kế hoạch đồng bộ từ cơ cấu tổ chức đến triển khai các hoạt động giáo dục; ở rất nhiều nơi, sự cứng nhắc và áp đặt của hệ thống chính trị đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động giáo dục. Thêm nữa là nội dung giáo dục nặng nề, phương pháp dạy và học lạc hậu, chậm đổi mới; và trên hết là thiếu những người lãnh đạo ngành giỏi cùng một đội ngũ quản lý giáo dục hiệu quả. Những cố gắng thay đổi của ngành giáo dục trong những năm qua thường mang tính vụn vặt, chắp vá, nhiều khi do quyết định vội vã của một vài cá nhân và càng làm tình hình thêm rối.
Hai là lương của giáo viên quá thấp làm họ không thể vô tư toàn tâm toàn ý với công việc. Do giáo viên phải tự bươn chải trong một xã hội cha mẹ sẵn sàng làm mọi việc cho sự học của con cái, nhiều tiêu cực đã nảy sinh, ảnh hưởng đến tư cách và hình ảnh người thầy, vốn là điều kiện tiên quyết cho thành bại của giáo dục. Trở về mục lục
4. Về y tế
Tình trạng bệnh tật và y tế của nước ta thật hết sức đáng lo.
Số người chết vì tai nạn giao thông làm nhức nhối xã hội, nhưng nguyên nhân tử vong trong các bệnh viêm phổi, viêm họng, viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp, tiêu chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn, cúm, sốt rét còn cao hơn nhiều. Mẫu số chung của các bệnh này là tình trạng thiếu dinh dưỡng vì nghèo khó, là môi trường bị ô nhiễm trầm trọng, là sự bất cập trong chính sách về y tế và thiếu đạo đức nghề nghiệp của người thầy thuốc.
Dịch vụ y tế ở Việt Nam có phát triển trong những năm vừa qua (số lượng cán bộ nhà nước làm về y tế tăng xấp xỉ 40% trong giai đoạn 1995-2009, và có thêm nhiều cơ sở y tế tư nhân xuất hiện), nhưng tình trạng quá tải ở các bệnh viện công, với hiện tượng 2-3 người phải nằm chung một giường bệnh ở nhiều nơi, không giảm đi mà thậm chí có phần tăng lên. Lý do là, tuy dịch vụ y tế tăng lên, nhưng bệnh tật ở Việt Nam còn tăng nhanh hơn. Ví dụ, nếu năm 2000 cứ 100 nghìn người có 242 ca ung thư, thì đến năm 2010 con số này đã tăng lên thành 315 ca, so với trung bình trên thế giới là dưới 200 ca. Nếu như trong giai đoạn 2002-2006 cứ 100 người thì có 9 lượt nhập viện trong năm, thì đến năm 2009 con số đó đã tăng hơn 30% thành 12 lượt nhập viện, thuộc loại cao nhất trên thế giới. Tỷ lệ bệnh tật tăng nhanh là cái giá mà Việt Nam đang phải trả cho kiểu phát triển kinh tế thiếu bền vững, thói làm ăn giả dối dẫn đến môi trường bị ô nhiễm và thực phẩm độc hại.
Tương tự như đối với ngành giáo dục, nhà nước ở trung ương và địa phương chưa chú tâm đầu tư đúng mức đến ngành y tế, trong khi tiếp tục lãng phí trong việc xây dựng nhiều công trình không hoặc chưa cần thiết. Tỷ lệ chi phí mà nhân dân phải tự bỏ ra cho dịch vụ y tế tăng lên nhanh. Nhiều người nghèo có bệnh không được nhập viện, hay phải trốn viện vì không có tiền đóng viện phí. Lương chính thức trả cho các y bác sĩ không đủ sống và không xứng đáng với địa vị của họ. Những điều này góp phần làm cho các tệ nạn tiêu cực, sự suy đồi về đạo đức lan tràn vào trong ngành y tế. Người thầy giáo và người thầy thuốc vốn là những người được xã hội ta tôn trọng từ xưa, nhưng sự suy thoái về đạo đức đã làm phai nhạt đi truyền thống tốt đẹp này. Trở về mục lục
5. Về khoa học và công nghệ
Có thể nói những đặc điểm chính của khoa học và công nghệ (KH&CN) Việt Nam trong mấy chục năm qua là sự đóng góp còn rất hạn chế của KH&CN vào công cuộc phát triển đất nước; lực lượng làm KH&CN được đào tạo nhiều nhưng không làm việc hiệu quả; các chính sách và cách thức tổ chức hoạt động KH&CN còn nhiều bất cập.
Có thể tóm tắt những điểm nổi bật của bức tranh tổng quát về tình trạng khoa học và công nghệ của Việt Nam hiện nay, như sau:
Thứ nhất, có thể nói hoạt động nghiên cứu và ứng dụng KH&CN ở Việt Nam còn mờ nhạt: hoạt động nghiên cứu KH&CN có chất lượng thấp và KH&CN chưa có những đóng góp xứng đáng cho sự phát triển đất nước.
Chất lượng thấp này có thể thấy rõ qua các thước đo khách quan như số lượng các công trình công bố trên các tập san khoa học quốc tế uy tín và số bằng phát minh sáng chế. Trong 10 năm qua, số lượng công bố của các nhà khoa học Việt Nam chỉ bằng 1/3 của Thái Lan và 2/5 của Malaysia. Hơn nữa, ở nhiều lĩnh vực, phần lớn những nghiên cứu này là do hợp tác với nước ngoài, tức còn phụ thuộc vào “ngoại lực” quá nhiều. Trong giai đoạn 2000-2007, các nhà khoa học Việt Nam chỉ đăng kí được 19 bằng phát minh, trong khi cùng thời gian này Malaysia có 901 bằng phát minh. Thái Lan (310), Philippines (256) và Indonesia (85) cũng đều có số bằng phát minh nhiều hơn Việt Nam nhiều lần.
Ứng dụng và sáng tạo KH&CN trong sự phát triển của Việt Nam còn mờ nhạt, chưa tương xứng với lực lượng đông đảo cán bộ KH&CN được đào tạo và chưa đáp ứng được đòi hỏi của xã hội. Kinh phí đầu tư, chính sách và cách quản lý chưa cho thấy KH&CN khó có thể trở thành yếu tố quyết định để Việt Nam thoát ra khỏi nhóm quốc gia chủ yếu chỉ sản xuất sản phẩm đơn giản hay gia công hàng hóa. Hiện tại, phần lớn doanh nghiệp làm ăn chưa dựa trên KH&CN và hầu hết không có liên kết chặt chẽ với các cơ sở KH&CN.
Thứ hai là số người được đào tạo để hoạt động KH&CN tuy rất đông với nhiều bằng cấp, nhưng phần lớn không thật sự hoạt động KH&CN, mà lay lắt hoặc “chân trong chân ngoài” với danh nghĩa làm KH&CN.
Có thể nêu ra một số nguyên nhân chính của tình trạng trên:
Một là, Việt Nam thiếu một chiến lược KH&CN thích hợp nên chưa xác định được lộ trình của KH&CN, và tập trung vào những hướng quan trọng rất cần cho phát triển đất nước và có thể tạo ra thành quả ý nghĩa. Hạn chế này có phần do việc thiếu các chuyên gia đầu đàn ở mức độ am hiểu sâu sắc lĩnh vực chuyên môn, có kinh nghiệm và uy tín quốc tế, có thể lãnh đạo được những tập thể khoa học. Một nguyên nhân của tình trạng trên là: Tuy số lượng cán bộ KH&CN của ta được đào tạo nhiều, nhưng hầu hết chỉ ở mức vừa xong giai đoạn học việc (như có bằng tiến sĩ mới là xong giai đoạn học để thành người làm nghiên cứu), thường không được rèn luyện thêm trong môi trường KH&CN phát triển để thành nhà khoa học trưởng thành.
Hai là, các nhà khoa học Việt Nam chưa có được môi trường KH&CN thích hợp để có thể làm việc và sáng tạo. Môi trường này gồm ba yếu tố cơ bản: điều kiện làm việc đủ tốt, lương đủ sống để tập trung cho công việc, các chính sách hợp lý có tác dụng kích thích tinh thần sáng tạo, dấn thân vì khoa học. Điều kiện làm việc ở phần lớn các đại học và các viện nghiên cứu của Việt Nam nói chung còn thiếu thốn, chưa đủ để tiến hành nhiều đề tài quan trọng và tiên tiến trong khoa học. Một số nơi có trang thiết bị tốt, lại không giải quyết được vấn đề tiền lương. Tiền lương của người làm khoa học thấp vừa ảnh hưởng đến nội dung, chất lượng nghiên cứu vừa gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực, người có năng lực nghiên cứu cũng không chuyên tâm với nghề mà phải xoay xở tìm thêm thu nhập ngoài lương.
Nhiều chính sách và cách quản lý đề tài KH&CN chưa hợp lý cũng góp phần làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của nghiên cứu. Thí dụ tiêu biểu như cách tổ chức đề tài khoa học còn nặng tính xin-cho, làm nhiều người làm nghiên cứu mất nhiều thì giờ chạy dự án; việc tuyển chọn và nghiệm thu đề tài thiếu nghiêm túc nên rất nhiều đề tài không có ý nghĩa và giá trị khoa học. Những quy định, tiêu chuẩn hiện nay về việc phong các chức danh giáo sư, phó giáo sư không khuyến khích các nhà khoa học hướng đến những nghiên cứu quan trọng và thách thức, có giá trị khoa học cao hoặc cần cho sự phát triển, mà dễ hướng đến những nghiên cứu dễ làm, những nơi dễ công bố để có đủ “điểm” thỏa mãn các tiêu chuẩn phong chức danh, vốn không có ở bất kỳ nước nào khác. Đây thật sự là những điều rất không hợp lý đã được nhiều nhà khoa học góp ý gần hai chục năm, nhưng không được thay đổi.
Người làm nghiên cứu trong ngành khoa học xã hội còn luôn nỗi ám ảnh sợ “chệch hướng”, mất lập trường, nên nói chung sáng tạo bị hạn chế, khoảng cách so với cộng đồng khoa học thế giới càng lớn. Ngoài ra, ngược với yêu cầu rất cao về sự bình đẳng, sự tự do tư duy của môi trường khoa học, việc mất dân chủ ở các cơ quan khoa học thường rất lớn, nhiều trường hợp nội bộ mâu thuẫn, giành giật địa vị, hoàn toàn không xứng đáng với phẩm vị của người làm khoa học. Trở về mục lục
6. Về quan hệ đối ngoại
Sau khi gia nhập ASEAN và bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Việt Nam mở rộng quan hệ ngoại giao, kinh tế và giao lưu văn hóa với hầu hết các nước. Sau năm 2000, quan hệ đó được đẩy mạnh thêm một bước bằng Hiệp định thương mại Việt Mỹ và gia nhập WTO. Cùng với trào lưu toàn cầu hóa, kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ vào dòng chảy của thế giới, các quan hệ đối ngoại khác cũng nhộn nhịp hơn trước.
Có thể ghi nhận nhiều mặt tích cực của hiện tượng đó. Chẳng hạn xuất khẩu sang thị trường lớn nhất thế giới (Mỹ) được đẩy mạnh, cơ hội du học của sinh viên Việt Nam tăng nhanh, giành được vị trí trong các tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN, APEC, WTO. Nhưng nhìn kỹ ta thấy những mặt tiêu cực lớn hơn nhiều, rất đáng lo ngại.
Theo chúng tôi, so với thời mới đổi mới, mở cửa (đầu thập niên 1990), hình ảnh Việt Nam trên thế giới xấu đi nhiều. Tham nhũng lan ra cả trong các quan hệ quốc tế. Chỉ kể những sự kiện lớn (như dự án ODA của Nhật, vụ in tiền polymer ở Úc,…) cũng thấy thể diện đất nước bị tổn thương nhiều. Các vụ nhỏ hơn thì nhiều vô kể, chỉ cần gặp những doanh nhân nước ngoài có kinh nghiệm làm việc ở Việt Nam là biết rõ. Điều đáng nói là nhà nước Việt Nam đã không có thái độ thích đáng, không xử lý nghiêm những sự kiện bị nước ngoài chỉ trích. Điển hình là vụ in tiền polymer, báo chí nước ngoài nhiều lần nêu tên thật của cựu thống đốc ngân hàng nhà nước mà cả đương sự và chính phủ đều giữ im lặng. Là người Việt Nam có ý thức dân tộc ai cũng thấy hổ thẹn về sự kiện này.
Nhìn sang lĩnh vực đầu tư nước ngoài, ta thấy nổi bật lên sự hiện diện rất lớn của Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và gần đây là Trung Quốc. So với các nước tiên tiến như Mỹ, Nhật, Pháp,.. thì những nước mới nổi, mới phát triển chưa có nhiều những công ty đa quốc gia tầm cỡ; chưa có công nghệ cao; chưa coi trọng sự minh bạch, hoạt động đúng theo luật và nhất là giữ thanh danh đã được xác lập của mình. Không ít trường hợp các công ty của những nước mới nổi tạo những quan hệ bất chính với quan chức nhà nước Việt Nam, nhất là với chính quyền địa phương, để được cấp các dự án béo bở. Chúng tôi rất lo ngại khi thấy nhà nước Việt Nam quá dễ dãi để cho tư bản nước ngoài đầu tư ồ ạt vào việc xây dựng các khu nhà ở quy mô lớn, các khu du lịch, sân gôn, v.v. và hình thành những cộng đồng người Hàn, người Hoa trên đất nước mình. Trong khi giới doanh nhân trong nước còn non yếu, chưa có khả năng làm chủ đất nước và cuộc sống của tuyệt đại đa số người dân còn nhiều khó khăn, liệu có nên để cho nước ngoài xây dựng những vùng đặc biệt như vậy? Trong nhiều năm qua, đầu tư nước ngoài triển khai ồ ạt ở Việt Nam mà cơ cấu công nghiệp không chuyển dịch lên cao hơn, không tạo ra được những mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao.
Trong chiều hướng chung ấy, quan hệ với Trung Quốc là đáng lo nhất. Đầu tư của Trung Quốc chưa nhiều bằng những nước nói trên nhưng sự hiện diện của Trung Quốc trong những hình thái khác đang làm Việt Nam mất dần chủ quyền trong nhiều lĩnh vực. Nếu tình hình hiện tại không thay đổi thì đầu tư trực tiếp từ Trung Quốc sẽ tăng nhanh, không bao lâu sẽ chiếm vị trí số một tại Việt Nam.
Hiện nay, quan hệ ngoại thương Việt Trung gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô của Việt Nam, tiềm ẩn nguy cơ về an ninh kinh tế và gây khó khăn trên con đường công nghiệp hóa của ta. Mậu dịch giữa hai nước tăng nhanh từ năm 2000 nhưng ngày càng mất quân bình. Do nhập khẩu tăng nhanh, nhập siêu của Việt Nam đối với Trung Quốc ngày càng mở rộng. Hiện nay nhập siêu của Việt Nam đối với thế giới chủ yếu là nhập siêu với Trung Quốc.
Nhìn cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc ta thấy nguyên liệu và nông sản phẩm chiếm vị trí áp đảo. Cơ cấu này hầu như không thay đổi trong 10 năm qua. Nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc thì hầu hết là hàng công nghiệp. Các loại máy móc và các sản phẩm trung gian như sắt thép, thậm chí các loại vải để dệt may là những mặt hàng nhập khẩu chính. Theo Hiệp định thương mại ASEAN - Trung Quốc, đến năm 2015 Việt Nam sẽ bãi bỏ hàng rào quan thuế trên hầu hết các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, tình hình sẽ càng bi đát hơn nữa. Con đường công nghiệp hóa của Việt Nam sẽ rất khó khăn. Nhưng chính phủ Việt Nam không thấy nguy cơ đó dù đã được trí thức trong và ngoài nước cảnh báo nhiều lần. Ngược lại nhà nước còn cho tiến hành khai thác bô-xit để xuất khẩu sang Trung Quốc làm cho cơ cấu ngoại thương hiện nay đã bất lợi càng trở nên bất lợi hơn. Cần nói thêm rằng tính chất của ngoại thương Việt Trung hiện nay là quan hệ của một nước tiên tiến với một nước chậm phát triển. Tính chất này vừa tạo ra khó khăn cho kinh tế Việt Nam vừa làm hình ảnh Việt Nam trên thế giới xấu đi nhiều.
Thách thức từ Trung Quốc không chỉ trong ngoại thương. Các công ty Trung Quốc thắng thầu phần lớn các dự án trọng điểm quốc gia của Việt Nam. Trung Quốc với lối làm ăn không minh bạch, sẵn sàng mua chuộc, lại quả, nên dễ thắng phần lớn các gói thầu lớn ở Việt Nam. Theo ước tính, Trung Quốc chiếm khoảng 50% giá trị thầu trong vòng 10 năm nay, đặc biệt Trung Quốc thắng thầu tới 90% các dự án trọng điểm về điện, dầu khí, viễn thông, cơ khí, hóa chất và 100% dự án khai khoáng. Trong việc thực hiện các dự án này, Trung Quốc đưa nhiều lao động đi theo, kể cả các hình thức bất hợp pháp, thậm chí hình thành những khu cư trú đặc biệt cho người Hoa. Ngoài ra, nhiều chính quyền địa phương còn cho công ty Trung Quốc thuê rừng, thuê bờ biển hàng nửa thế kỷ, kể cả những nơi nhạy cảm nhìn từ góc độ an ninh quốc gia.
Một vấn đề nữa là Việt Nam ngày càng vay nợ từ Trung Quốc. Theo số liệu chính thức của Bộ Tài chính Việt Nam, nợ từ Trung Quốc tăng rất nhanh, gấp 10 lần trong 4 năm gần đây (1,4 tỉ USD năm 2009). Nếu khuynh hướng này tiếp tục, chẳng bao lâu Trung Quốc sẽ trở thành chủ nợ lớn nhất và lớn áp đảo đối với Việt Nam.
Quan hệ Việt Trung cũng ảnh hưởng nhiều đến đường lối đối ngoại của Việt Nam. Vấn đề này sẽ được bàn riêng trong một mục ở phần D.
Trong thời đại hội nhập, quan hệ đối ngoại của Việt Nam như được trình bày trên đây hoàn toàn không lành mạnh, ảnh hưởng đến con đường phát triển sắp tới của Việt Nam và tiềm ẩn nguy cơ mất chủ quyền. Yếu tố nào gây ra tình trạng đáng lo này? Có thể kể hai nguyên nhân chính:
Thứ nhất, nội lực của Việt Nam quá yếu nên khi hội nhập với thế giới không hoặc ít tranh thủ được thời cơ từ ngoại lực để phát triển, ngược lại bị ngoại lực chi phối. Thị trường Trung Quốc lớn và rộng nhưng hàng hóa của Việt Nam không chen vào được. Nội lực yếu vì sao? Vì trình độ của nhiều lãnh đạo và quan chức có hạn, không ít trường hợp họ không vì dân vì nước mà vì lợi ích riêng, sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho nước ngoài dù thấy bất lợi cho xã hội, cho đất nước. Mở tung cửa thị trường cho hàng hóa và tư bản nước ngoài mà không định hướng để phát triển những ngành mới và có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, không đi kèm các luật lệ, quy định cần thiết để giám sát cũng là một biểu hiệu yếu kém của nội lực.
Thứ hai, trong lúc nội lực của Việt Nam còn quá yếu, quan hệ “đặc biệt” với Trung Quốc càng làm cho Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào nước này. Kinh tế Trung Quốc lớn, mạnh áp đảo, phát triển nhanh, và lại ở cận kề Việt Nam, trong khi kinh tế Việt Nam nhỏ yếu, phát triển chậm hơn mà Việt Nam lại sẵn sàng đồng ý “hợp tác toàn diện” (4 trong 16 chữ vàng), tạo mọi điều kiện để hợp tác toàn diện thì dẫn đến kết quả như đã thấy. Trở về mục lục
7. Tổng kết: Đâu là những nguyên nhân sâu xa?
Trên đây chúng tôi đã điểm qua thực trạng kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học và đối ngoại của Việt Nam hiện nay và trình bày một số nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng đó. Nổi lên trên hết là hai nguyên nhân cơ bản, chung cho tất cả các mặt của xã hội:
Thứ nhất, thể chế còn thiếu dân chủ. Có thể nói rằng thể chế hiện nay là di sản của thời chiến tranh, bao cấp và chủ nghĩa xã hội kiểu Lênin-Stalin, với đặc điểm cơ bản là hạn chế dân chủ, hạn chế tự do tư tưởng, thiếu tinh thần thượng tôn pháp luật. Hệ quả là xã hội suy giảm tính năng động và hiệu quả, hạn chế sáng tạo trong khoa học và giáo dục, không chống được suy thoái giá trị đạo đức và văn hóa, bất công và cách biệt xã hội tăng lên, và không khuyến khích việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển. Chế độ tiền lương bất hợp lí trong cơ chế “xin cho” đã đẩy nhiều công chức vào con đường tham nhũng, và làm cho nhiều nhà giáo, bác sĩ, nhà khoa học, ... không chuyên tâm với nghề nghiệp và không giữ được đức tính cao đẹp vốn có từ xưa. Hoàn toàn đáng lo ngại khi thể chế hiện nay đang hạn chế sức mạnh của đất nước và làm lung lay nền tảng của xã hội.
Thứ hai, là hệ quả của nguyên nhân thứ nhất, trong thành phần lãnh đạo đất nước chưa có nhiều người tài giỏi, bản lĩnh, chịu trách nhiệm cao và quy tụ được bên mình những trí thức và cộng sự chân chính. Từ trung ương đến địa phương, nhiều quan chức thiếu cả năng lực và đạo đức cần thiết. Tình trạng bằng cấp giả và chạy chức chạy quyền đã trở thành vấn nạn nhức nhối. Việc lợi dụng vị trí công quyền để trục lợi cá nhân đang là hiện tượng phổ biến ở nhiều cán bộ nhà nước.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 5:08:38 GMT 9
D. Cải cách vì một nước Việt Nam giàu mạnh và tự chủ
1. Cải cách thể chế là quan trọng nhất
Có thể nói Việt Nam chúng ta đang đứng trước một bước ngoặt lịch sử. Phải có cuộc cách mạng về thể chế mới tránh được nguy cơ này và đưa đất nước phát triển bền vững. Ai sẽ đảm nhận cuộc cách mạng mới này và nội dung cốt lõi của cuộc cách mạng là gì?
Chúng tôi cho rằng ở thời điểm này chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới thực hiện được cuộc cách mạng này. Đảng Cộng sản Việt Nam cần tự thay đổi để lãnh đạo dân tộc bước vào một thời đại mới, thời đại củng cố và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc để đất nước trở nên giàu mạnh, tự chủ. Đó cũng chính là sức mạnh to lớn mà Đảng cộng sản Việt Nam (trước đây là Đảng Lao động Việt Nam) đã phát huy, đã phấn đấu, hy sinh trong suốt lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Cuộc cách mạng thể chế này, theo chúng tôi, bao gồm những khía cạnh sau:
Thứ nhất, không áp đặt một hệ tư tưởng, một ý thức hệ duy nhất vào thể chế chính trị, vào đời sống của dân, vào các hoạt động kinh tế - giáo dục - văn hóa - báo chí, để tạo điều kiện cho người dân, nhất là giới trẻ tiếp cận được những tinh hoa, những tiến bộ của thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh nếu chỉ biết Mác-Lênin, không tiếp thu mọi tư tưởng tiến bộ của thế giới thì đã không viết được bản Tuyên ngôn độc lập gói ghém những giá trị phổ quát của nhân loại. Trên thực tế, chính Đảng Cộng sản đã từ bỏ nhiều khẩu hiệu phi lý một thời đã được cường điệu. Chẳng hạn “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” từng là một trong những khẩu hiệu được phổ biến rộng rãi (sau năm 1975) nhưng đã dần dần biến mất. Đó là một sự thay đổi tích cực cần ghi nhận. Mong rằng Đảng Cộng sản tiến thêm một bước tránh dùng các cụm từ như “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” để các thế lực bảo thủ vì lợi ích riêng không thể dựa vào đó để làm cho đất nước trì trệ, lạc hậu. Chúng tôi cho rằng Đảng Cộng sản chỉ giữ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là hợp lòng dân.
Ra khỏi sự ràng buộc vào một ý thức hệ cũng sẽ giúp cho Việt Nam độc lập với Trung Quốc về mặt này và đi trước Trung Quốc về cải cách thể chế. Làm được điều này, Đảng Cộng sản vừa được lòng dân vừa tạo được uy tín trên thế giới.
Thứ hai, phải triệt để thực hiện dân chủ, đúng như quy định của Hiến pháp và đúng như trong Cương lĩnh mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra. Đảng phải làm thế nào để nhân dân thấy rằng đó không phải là khẩu hiệu mà chính là khát khao, trăn trở thường xuyên của lãnh đạo, của nhà cầm quyền để mọi người dân thật sự được tham gia bàn bạc và quyết định việc chung. Để thực hiện dân chủ trong khuôn khổ pháp lý hiện nay, chỉ cần triển khai và thật sự áp dụng nội dung của Hiến pháp.
Trước hết, phải thực sự tôn trọng các quyền mà Hiến pháp đã ghi rõ, đặc biệt là quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và quyền bình đẳng trước pháp luật. Đầu tiên là quyền tự do báo chí. Muốn biết một nước có dân chủ hay không, chỉ cần nhìn tình trạng báo chí là thấy. Mà tình trạng báo chí trong nước ta thì nhân dân thấy rõ là chưa làm được nhiệm vụ thông tin trung thực và soi sáng được dư luận. Tiếp theo là quyền bình đẳng trước pháp luật. Bình đẳng trước pháp luật có nghĩa rằng luật pháp là ở trên cao nhất, tối thượng, ai cũng ngang nhau và đều ở dưới pháp luật. Vậy mà nhân dân thấy quá nhiều người có quyền chức tự cho mình quyền đứng cao hơn người khác, thậm chí cao hơn cả pháp luật. Như vậy là ta chưa tiến được bước nào, thậm chí còn đi lùi, trên con đường "nhà nước pháp quyền" mà chính Hiến pháp đã đề xuất. Bình đẳng trước pháp luật bao hàm bình đẳng trước công vụ như một hệ quả tất nhiên. Do đó, những phân biệt đối xử như lý lịch, đảng viên hay không, đều là trái với Hiến pháp. Bình đẳng trước công vụ, ai cũng có quyền bầu cử, ứng cử như nhau, ai cũng phải được tuyển dụng vào các cơ quan hành chính trên cơ sở duy nhất là năng lực và tinh thần trách nhiệm. Chỉ với biện pháp đó, thực hiện triệt để, nền hành chính của ta, từ trung ương đến địa phương, mới có thể tuyển dụng được người tài giỏi xứng đáng.
Thứ hai, triệt để tôn trọng nguyên tắc “Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất”. Đảng Cộng sản phải thực sự thực hiện nguyên tắc đó để làm nhân dân tin rằng lá phiếu của mình chắc chắn góp phần vào việc xây dựng một cơ quan xứng đáng là đại diện toàn dân.
Thứ ba, bảo đảm có hệ thống tòa án độc lập là sự phân quyền vô cùng quan trọng. Để có được sự độc lập và bảo đảm khả năng chuyên môn về luật pháp, các thẩm phán cần phải được tuyển dụng như công chức, được bổ nhiệm theo một quy chế riêng có mục đích bảo vệ tính độc lập của họ. Thẩm phán ở cấp cao có trách nhiệm bổ nhiệm thẩm phán cấp dưới, cần có nhiệm kỳ dài, chỉ bị truất quyền giữa nhiệm kỳ nếu vi phạm luật pháp.
Cần nhấn mạnh điều này: Nếu Đảng đứng trên hiến pháp và quyết định thay cho Quốc hội và tòa án thì tình trạng mãi kéo dài như hiện giờ: Nhiều sai phạm lớn của cán bộ, đảng viên chỉ được xử lý nội bộ, được bao che, nên không phòng chống được tham nhũng, và kết quả là mất lòng dân và bộ máy nhà nước kém hiệu lực.
Thứ tư, cần tạo cơ chế công khai, minh bạch, thực sự dân chủ, trước hết là trong Đảng để có thể chọn lựa và làm xuất hiện những nhà lãnh đạo xứng tầm với trí tuệ của dân tộc, được dân tin tưởng và được thế giới kính trọng. Không nên tiếp tục cách làm hiện nay là dàn xếp trong nội bộ Đảng rồi đưa ra Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm.
Chúng tôi thẳng thắn nêu những vấn đề này chỉ với mong muốn Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là tổ chức lãnh đạo đất nước, không bị trói buộc bởi những giáo điều, những mô hình đã bị thực tế lịch sử loại bỏ. Những giấc mơ, những lý tưởng tốt đẹp cần được chứng minh từng bước bằng thực tế, bằng kết quả hiện thực chứ không chỉ bằng duy ý chí, và bị lợi dụng bởi một nhóm người cầm quyền, dùng giáo điều, dùng khẩu hiệu để củng cố quyền lực và lợi ích phe nhóm mà hậu quả là đất nước tụt hậu và tha hóa…
Nếu bốn điểm nói trên được thực hiện, dân chúng sẽ tin tưởng ở Đảng Cộng sản, tin tưởng ở người lãnh đạo và hy vọng về một đất nước tốt đẹp hơn. Do đó dân chúng nếu có bất mãn và phê phán lãnh đạo hay quan chức thì chỉ là đối với cá nhân chứ không phải đối với Đảng Cộng sản. Ngược lại, dân chúng được tự do sử dụng các quyền chính đáng của mình thì chính là giúp Đảng phát hiện ra những người không đủ tư chất đảm trách công việc lãnh đạo hay quản lý. Thực hiện dân chủ cũng là biện pháp hữu hiệu để phòng chống tham nhũng.
Ngoài ra, Đảng Cộng sản cần quan tâm hơn đến vấn đề đoàn kết dân tộc. Nếu những điểm nói trên được thực hiện thì kết quả là gắn bó được dân với Đảng và thực hiện được đoàn kết. Tuy nhiên, cần đưa ra các chính sách cụ thể, chẳng hạn nghiêm cấm việc lạm dụng quyền lực để đề bạt người thân, có quy chế luật lệ nghiêm khắc để xử lý các trường hợp sai phạm. Việc cất nhắc, đề bạt không dựa trên lý lịch chính trị mà theo năng lực và tư chất đạo đức. Đảng và Nhà nước cần nghiêm chỉnh thực hiện chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc đối với cựu quan chức và quân nhân của chế độ cũ ở Miền Nam, nhất là trong bối cảnh cần đoàn kết dân tộc trước yêu cầu tăng nội lực để phát triển đất nước và trước nguy cơ ngoại xâm. Đặc biệt trong tình hình phức tạp ở biển Đông, để cổ vũ lòng yêu nước của mọi người dân không phân biệt chính kiến, quá khứ, chúng tôi đề nghị nên có hình thức biểu dương sự dũng cảm hy sinh của quân đội Việt Nam Cộng hòa ở Hoàng Sa năm 1974.
Trong việc thúc đẩy sự hòa giải và hòa hợp dân tộc, cần có biện pháp hữu hiệu để người Việt ở nước ngoài hợp tác với các cơ sở trong nước, nhất là trong nghiên cứu khoa học, trong giáo dục và phát triển kinh tế, để cùng làm cho đất nước giàu mạnh. Trở về mục lục
2. Củng cố bộ máy nhà nước.
Một chính phủ mạnh và hiệu quả là điều kiện tối cần thiết để kinh tế phát triển nhanh và có chất lượng cao. Để củng cố bộ máy nhà nước, cần cải cách chế độ tiền lương và thực hiện việc thi tuyển quan chức. Đây là vấn đề cốt lõi của nhiều vấn đề.
Cải cách chế độ tiền lương là một việc tuy khó nhưng cấp bách và không thể trì hoãn, vì nếu không sẽ không thể giải quyết được vấn đề nào khác. Thiết nghĩ, đây là vấn đề nan giải nhưng không hẳn là không có giải pháp nếu nhà nước thực lòng quyết tâm. Trước mắt, chúng tôi đề khởi một số nội dung cải cách như sau:
Thứ nhất, hiện tượng phổ biến hiện nay là tiền lương chỉ chiếm một phần nhỏ trong thu nhập của quan chức, công chức, thầy giáo, v.v.. Do đó, trước tiên phải minh bạch hóa các nguồn thu nhập này và lần lượt đưa vào lương.
Thứ hai, cải cách thuế để tăng thu ngân sách. Đặc biệt cần đánh thuế lưu thông bất động sản, đánh thuế suất cao đối với những người sở hữu nhiều bất động sản, và đánh thuế thừa kế tài sản.
Thứ ba, tăng tỉ lệ tiền lương trong tổng thu ngân sách. Trước mắt giảm tỉ lệ đầu tư công lấy từ ngân sách, hoãn những dự án đầu tư lớn cần nhiều vốn nhưng chưa thật cần thiết..
Thứ tư, tinh giảm bộ máy công quyền ở trung ương và địa phương.
Chúng tôi đề nghị nhà nước lập ra ngay một ban chuyên trách về cải cách tiền lương gồm các chuyên gia kinh tế, tài chính, hành chánh. Ban chuyên trách này sẽ khẩn trương nghiên cứu, xem xét 4 nội dung cải cách nói trên, để trong thời gian ngắn đưa ra đề án cải cách khả thi.
Quan chức, công chức phải là những người được tuyển chọn nghiêm túc qua các kỳ thi định kỳ và cuộc sống của họ và gia đình họ phải được bảo đảm bằng tiền lương. Tiền lương cũng phải đủ sức hấp dẫn người có năng lực vào bộ máy công quyền. Nội dung các kỳ thi tuyển cho quan chức cấp trung trở xuống cũng cần chú trọng trình độ văn hóa và sự hiểu biết về luật pháp và cơ cấu hành chánh. Quan chức cấp trung ương, cũng với nội dung ấy nhưng ở trình độ cao cấp hơn và thêm các chuyên môn cần thiết. Trình độ văn hóa và sự khó khăn phải vượt qua các cửa thi tuyển sẽ nâng cao khí khái và lòng tự trọng của quan chức, tránh hoặc giảm được tệ nạn tham nhũng. Việc thi tuyển quan chức còn có tác dụng tạo niềm tin và động lực học tập trong giới trẻ vì ai cũng có cơ hội bình đẳng thi thố tài năng cho việc nước. Chế độ tiền lương và việc thi tuyển quan chức cần được thực hiện trong vòng 3-4 năm tới. Trở về mục lục
3. Về chiến lược, chính sách phát triển kinh tế
Đây là vấn đề khá rộng và lớn, ở đây chỉ xin nói đến mấy điểm chúng tôi cho là quan trọng nhất.
Nguồn lực lớn nhất của Việt Nam là con người. Chiến lược phát triển phải vì cuộc sống của đại đa số dân chúng và chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực ngày càng có kỹ năng cao qua giáo dục và đào tạo, qua khả năng làm chủ công nghệ.
Hiện nay xuất khẩu lao động và phụ nữ lấy chồng nước ngoài vì lý do kinh tế đang là hiện tượng làm bức xúc người dân và ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên thế giới. Chúng tôi đề nghị nhà nước đưa ra mục tiêu đến năm 2020 phải thực hiện toàn dụng lao động, không còn ai phải miễn cưỡng ra nước ngoài chỉ vì sinh kế.
Để phát triển bền vững và hướng tới toàn dụng lao động cần đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng ngày càng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và chú trọng phát triển nông thôn. Cho đến nay trí thức trong và ngoài nước đã đề xuất nhiều chiến lược, chính sách về các vấn đề này nhưng không được nhà nước quan tâm thực hiện. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi đề nghị nhà nước cần tập trung những chuyên gia có trình độ, thành lập một bộ phận chuyên trách để xây dựng và giám sát việc thi hành chiến lược phát triển với đủ thẩm quyền và chế độ đãi ngộ thích hợp. Bộ phận này phải được đặt trên tất cả các bộ ngành liên quan tới lĩnh vực kinh tế, đứng đầu là Thủ tướng hoặc Phó thủ tướng thường trực, có những chuyên viên tài năng, có cơ chế tiếp thu ý kiến của giới doanh nhân và trí thức. Việt Nam hiện nay cũng có những cơ quan như Bộ Kế hoạch & Đầu tư hay Bộ Công thương nhưng quyền hạn liên quan tới vấn đề này bị phân tán, ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ với cơ quan hay doanh nghiệp nhà nước, vì vậy thường khó có thể đề xuất được những chính sách hiệu quả, hoặc do phải cân nhắc lợi ích của quá nhiều đối tượng nên những nội dung thống nhất được cũng mang tính thỏa hiệp, chung chung.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng, chúng tôi đề nghị hoãn kế hoạch xây dựng đường sắt cao tốc vì chưa cần thiết, tốn kém lớn và đã được chứng minh bằng các phân tích khoa học là không có hiệu quả. Thay vào đó, cần tu bổ nâng cấp đường sắt Thống Nhất, mở rộng mạng lưới đường sắt phổ thông đến vùng đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Bắc, đồng thời xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam và xây dựng các tỉnh lộ, huyện lộ nối nông thôn với đường sắt và đường cao tốc này, nhất là nối nông thôn với các đô thị gần đường cao tốc. Kết cấu hạ tầng như vậy mới thúc đẩy công nghiệp hóa nông thôn.
Liên quan đến phát triển nông thôn, việc cải cách chế độ hạn điền, tư hữu hóa sở hữu ruộng đất cần được đẩy mạnh. Chế độ hộ khẩu đã được cải thiện nhiều nhưng mỗi đô thị lại có các quy chế riêng, cần cải cách theo hướng tự do hóa việc thay đổi chỗ ở hơn nữa để người dân khi đến đô thị làm việc có thể yên tâm với cuộc sống ở đó và không cần giữ lại quyền sử dụng đất ở nông thôn. Với sự phân tán, manh mún của ruộng đất hiện nay, việc tăng năng suất nông nghiệp gặp khó khăn. Tăng năng suất nông nghiệp và công nghiệp hóa nông thôn là hai trụ cột để nâng cao mức sống của người dân ở nông thôn nói riêng và phát triển kinh tế nói chung.
Đối với hoạt động của doanh nghiệp, thị trường lao động hiện nay có vấn đề không ăn khớp giữa cung và cầu: Ở các khu công nghiệp tại các thành phố lớn bắt đầu có hiện tượng thiếu lao động, doanh nghiệp khó tuyển dụng số lao động cần thiết, mặc dù ở nông thôn vẫn còn lao động dư thừa. Nguyên nhân là do thị trường lao động chưa phát triển, cung và cầu không gặp nhau. Một nguyên nhân nữa là chất lượng lao động (trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, khả năng tiếp thu tri thức về hoạt động của doanh nghiệp,...) không đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Biện pháp để cung cấp lao động một cách ổn định phải bao gồm chính sách ngắn hạn (phát triển thị trường lao động) và chính sách trung dài hạn (nâng cao chất lượng lao động, tăng cường giáo dục nghề nghiệp). Chính quyền địa phương ở nông thôn cần tích cực hơn nữa trong lĩnh vực này.
Nhà nước cần lắng nghe chuyên gia, trí thức về việc quyết định các dự án lớn. Đặc biệt, chúng tôi đề nghị tạm ngưng kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận vì những lý do chúng ta đã biết và các chuyên gia của ta cũng đã có những phân tích cho thấy dự án này quá tốn kém và chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn. Nhiều người trong chúng tôi cũng đã đề nghị ngưng kế hoạch khai thác bô-xit ở Tây nguyên vì các lý do về môi trường, an ninh, hiệu quả kinh tế, và sự lệ thuộc vào nước ngoài.
Vấn đề cuối cùng là cải cách doanh nghiệp quốc doanh trong đó có các tập đoàn. Cần đặt các doanh nghiệp đó trong khung cảnh chung của luật pháp, xóa bỏ việc để hành pháp trực tiếp lãnh đạo kinh doanh - dù dưới dạng Thủ tướng quản hay Bộ trưởng quản - và thay vào đó là Hội đồng quản trị độc lập và có nhiệm kỳ, do Quốc hội hay Hội đồng Nhân dân bổ nhiệm, nhằm hạn chế sự thao túng của các nhóm lợi ích. Doanh nghiệp quốc doanh dùng tiền của dân và nhằm phục vụ dân, do đó phải có tiếng nói của đại diện nhân dân. Hội đồng quản trị có đại diện của dân do các tổ chức hội chuyên nghiệp và Mặt trận Tổ quốc đề cử, có đại diện của người tiêu dùng chính do các ngành sử dụng đề cử, có các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp do các hội chuyên gia đề cử. Hội đồng quản trị sẽ bổ nhiệm chủ tịch công ty hay tập đoàn. Để cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả và thực sự phục vụ nhân dân thì phải có các tổ chức chỉ đạo, kiểm tra nghiêm túc. Ngoài ra, số lượng doanh nghiệp phải hạn chế, không thể để cho chính quyền các cấp tự do lập ra như hiện nay. Đặc biệt, phải công khai, minh bạch trong việc cấp vốn, việc cấp và sử dụng các nguồn lực quốc gia cho các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài những trường hợp đặc biệt ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước đã được công khai, minh bạch, chính sách cần bảo đảm công bằng cơ hội, bảo đảm hiệu quả sử dụng và không phân biệt giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt giữa các công ty, kiểm soát và hạn chế việc hỗ trợ các nguồn lực quốc gia theo kiểu chủ nghĩa tư bản thân hữu. Trở về mục lục
4. Về văn hóa, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học và công nghệ
Chúng tôi có mấy đề nghị cụ thể sau:
a) Cần có chính sách ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa và đạo đức xã hội. Tăng cường quảng bá và khuyến khích những giá trị phổ quát, tiến bộ của nhân loại như tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ, quyền con người,… Đồng thời, phục hồi những giá trị văn hóa truyền thống tích cực để làm nền tảng cho các ứng xử văn hóa, các chuẩn mực đạo đức trong sinh hoạt xã hội. Song song với việc này cần tích cực bảo tồn các di tích văn hóa, lịch sử của dân tộc và ngăn chặn sự xâm thực không chọn lọc của văn hóa ngoại lai, đặc biệt là từ Trung Quốc.
b) Cần giảm các hình thức thi đua, tuyên dương, trao huân chương như hiện nay: Các cơ quan, các đoàn thể tổ chức quá nhiều lễ kỷ niệm những mốc hoạt động (20 năm, 30 năm, v.v.) và vận động để được nhận huân chương. Đây là hình thức tốn kém thì giờ, ngân sách mà không có hiệu quả, chưa kể đến những tiêu cực trong quá trình xin-cho vốn rất phổ biến. Phong trào học tập đạo đức Hồ Chí Minh cũng không thật sự hiệu quả vì dân chúng thấy tình trạng tham nhũng ngày càng trầm trọng, người cần học tập đạo đức Hồ Chí Minh (cần kiệm liêm chính chí công vô tư, ...) trước hết phải là những người ở cấp lãnh đạo và quản lý nhà nước. Tổ chức học tập nghị quyết của Đảng sau các kỳ đại hội như cách làm hiện nay cũng tốn kém và làm ảnh hưởng đến việc quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương. Thay vào đó nên áp dụng các hình thức khác thích hợp và ít tốn kém thì giờ, ngân sách.
c) Việc cải tổ giáo dục được bàn quá nhiều trong thời gian qua nhưng không đưa lại kết quả. Do tầm quan trọng và tình hình ngày càng xuống cấp của giáo dục, chúng tôi đề nghị Thủ tướng trực tiếp chịu trách nhiệm về giáo dục, cụ thể là chỉ đạo nội dung cải cách, theo sát việc triển khai các chiến lược, chính sách, và chịu trách nhiệm về kết quả của các cải cách lớn.
Một trong những nội dung cải cách cấp bách phải là nâng cao vị thế của người thầy, bắt đầu từ đồng lương đủ sống và nuôi gia đình. Từ đó tiến đến việc thiết lập lại sự trung thực trong học tập và thi cử, trả lại tính trong sáng của tuổi trẻ cho học trò, tạo điều kiện cho những tài năng nảy nở.
Một nội dung nữa là tôn trọng quyền tự do học thuật và tư tưởng ở đại học cũng như trong các hoạt động trí thức, văn hoá nghệ thuật, tạo ra sức thu hút đối với tuổi trẻ và qua đó giúp thế hệ trẻ có động lực phấn đấu mạnh mẽ, có ý thức công dân cao và hoài bão phát triển đất nước. Nhân đây chúng tôi cũng đề nghị Thủ tướng hủy bỏ Quyết định 97 đòi hỏi trí thức chỉ được góp ý riêng với các cơ quan có thẩm quyền.
d) Cụ thể hóa các biện pháp làm cho giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Triệt để thực hiện miễn phí bậc tiểu học và trung học cơ sở (chậm nhất là đến năm 2015) và trung học phổ thông (đến năm 2020). Song song với việc nâng cấp các đại học đang có, cần có ngay kế hoạch xây dựng một hoặc hai đại học chất lượng cao, trong đó nội dung giảng dạy, cơ chế quản lý, và trình độ giáo sư cũng như tiêu chuẩn đãi ngộ tương đương với các đại học tiên tiến ở châu Á. Về các đại học và trường cao đẳng ngoài công lập, cần có biện pháp chấn chỉnh giải quyết ngay những nơi không đủ chất lượng và có quy chế để ngăn ngừa hiện tượng kinh doanh giáo dục hiện nay. Ngoài ra, cần ban hành các sắc thuế khuyến khích doanh nghiệp và những cá nhân có tài sản đóng góp vô vị lợi (chủ yếu là tặng không) cho sự nghiệp giáo dục. Những vấn đề này cũng cần có kế hoạch thực hiện cụ thể trước năm 2015.
Cần tăng cường mở rộng và xây dựng thêm các trường, các khoa liên quan khoa học tự nhiên và công nghệ, xây dựng nhiều trường cao đẳng công nghệ để cung cấp đủ lao động cho công nghiệp hoá trong giai đoạn tới. Hiện nay, một mặt, trong nhiều ngành, sinh viên tốt nghiệp ra truờng không có việc làm, trong khi một số ngành về công nghệ tin học, điện tử, hoá học, kế toán, nông cơ, v.v.. thì nguồn cung cấp thiếu hoặc không đủ chất lượng. Chính sách sắp tới cần chú trọng đầu tư xây dựng thêm các ngành ở các lĩnh vực này và cải thiện chương trình, nội dung giảng dạy để nâng cao chất lượng. Mặt khác, nhu cầu về lao động có trình độ trung cấp và cao đẳng kỹ thuật, cao đẳng kế toán,... đang và sẽ tăng nhanh nhưng khả năng cung cấp còn rất hạn chế. Tâm lý coi thường bậc trung cấp và cao đẳng trong xã hội Việt Nam rất lớn. Cần có chính sách khuyến khích học tập trong các bậc học này, chẳng hạn tăng cường chế độ cấp học bổng và quan tâm giới thiệu việc làm cho học viên sau khi ra trường. Tóm lại, cần đổi mới thể chế giáo dục và đào tạo hiện nay mới có thể thực hiện toàn dụng lao động và đẩy mạnh công nghiệp hoá trong thập niên 2010.
Nhiều cải cách trong giáo dục cũng nên được áp dụng trong y tế: tăng đầu tư xây dựng bệnh viện, xây dựng các cơ sở y tế ở nông thôn và phổ cập bảo hiểm y tế để người nghèo có thể tiếp cận dịch vụ y tế với phụ phí thấp. Nên có chính sách miễn phí khám bệnh và phí nhập viện cho người dân nghèo hoặc cận nghèo.
e) Tăng cường đầu tư và cải thiện việc sử dụng ngân sách cho nghiên cứu khoa học: Một trong những lý do thành quả nghiên cứu khoa học của ta còn khiêm tốn là do thiếu đầu tư. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ năm 2006 chẳng hạn chỉ có 428 triệu USD, chiếm khoảng 0,17% GDP. Trong cùng năm, Thái Lan đầu tư 1,79 tỉ USD (0,3% GDP) và Malaysia 1,54 tỉ (0,5% GDP). Đáng chú ý là Trung Quốc đầu tư 1,4% GDP cho khoa học và công nghệ trong năm 2010 và đặt mục tiêu đầu tư 4% GDP vào năm 2015. Ngân sách đầu tư cho khoa học công nghệ ở Việt Nam có đặc tính là tập trung vào việc xây dựng cơ sở vật chất thay vì chi tiêu cho việc thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học. Ngoài việc tăng đầu tư, cần phải xem xét lại việc sử dụng ngân sách khoa học. Theo cách làm hiện nay thì chúng ta có thể có những thiết bị khoa học tinh vi, nhưng không có người sử dụng hiệu quả những thiết bị này. Trong thực tế, tình trạng "thiết bị trùm chăn" đó đã trở nên phổ biến. Như đã phân tích ở trên, nền khoa học nước ta hiện nay còn lệ thuộc quá lớn vào các đồng nghiệp nước ngoài vì thiếu chuyên gia có trình độ cao. Do đó, thay vì đầu tư xây thêm phòng thí nghiệm, cần chú trọng đầu tư vào đào tạo chuyên gia có trình độ chuyên sâu.
Chẳng những cần tăng đầu tư cho khoa học và công nghệ, chúng ta cần phải cải cách hệ thống phân phối ngân sách cho nghiên cứu khoa học và quản lý khoa học. Hiện nay, các đề tài nghiên cứu cơ bản ở cấp nhà nước do các nhà khoa học xây dựng đã được quản lý khá tốt bởi Quỹ KH&CN quốc gia (Nafosted). Nhưng với các loại đề tài nghiên cứu ứng dụng và phát triển sản xuất ở các cấp - do cơ quan chủ quản ra đề tài, kêu gọi các nhà nghiên cứu nộp đơn xin và các cơ quan chủ quản xét duyệt và thẩm định - lại chưa có sự tham gia đúng mức của các nhà chuyên môn. Vì lý do này nhiều đề tài nghiên cứu của các bộ ngành, địa phương đề ra không theo kịp trào lưu và định hướng của khoa học quốc tế và nhu cầu thực tế.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 5:10:39 GMT 9
5. Chiến lược đối ngoại
Trong chiến lược đối ngoại của Việt Nam hiện nay, Trung Quốc, Mỹ và ASEAN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
"Đường lối ngoại giao của Việt Nam là thân thiện với mọi nước": nguyên tắc đó luôn luôn là lý tưởng. Nhưng lý tưởng đó cũng luôn luôn va chạm với một thực tế mà không nước nào tránh khỏi: đó là thực tế chiến lược mà vị trí địa dư là yếu tố then chốt.
Chẳng hạn quan hệ của ta với Trung Quốc. Dù Việt Nam muốn chân thành làm bạn với Trung Quốc đến đâu đi nữa, vị trí địa dư của Việt Nam cũng bắt buộc ta phải đồng thời nhìn Trung Quốc như một vấn đề an ninh cốt tủy và thường xuyên. Không việc gì ta phải giấu diếm quan tâm sinh tồn đó bằng 16 chữ vàng. Càng giấu, ngôn từ và hành động ngoại giao của ta lại càng để lộ yếu kém, sợ hãi, khiếp nhược. Chỉ bằng cách nói thẳng với Trung Quốc: "Nam quốc sơn hà nam đế cư", ta mới có thể làm bạn với Trung Quốc trên một vị thế không phải là khúm núm, thần phục. Ngày xưa, chỉ có ta với Trung Quốc thôi, ngoài trứng với đá không có ai khác, vậy mà tổ tiên ta vẫn có thể hiên ngang nói thẳng như thế, huống hồ bây giờ, thế giới đổi khác, quan hệ chiến lược có thể mở rộng với nhiều nước khác, cho phép Việt Nam lập hàng rào chiến lược bằng những quan hệ đặc biệt với nhiều nước.
Trung Quốc chắc phải hiểu cái thế tất yếu đó của Việt Nam. Cho nên họ vừa dụ dỗ, vừa uy hiếp để Việt Nam không thiết lập quan hệ đặc biệt với Mỹ và ngay cả không mơ tưởng đến một sách lược cân bằng lực lượng như nhiều nước trong khối ASEAN công khai áp dụng. Việt Nam có gì khác với các nước ASEAN khác khiến Trung Quốc có thể uy hiếp được? Không phải vì cái vị thế "núi liền núi sông liền sông" trong địa dư mà chính vì "núi liền núi sông liền sông" trong tư tưởng. Chẳng có ai phản đối: văn hóa Trung Quốc đã từng sáng chói cả một vùng trời Đông Á, ta chịu ảnh hưởng không phải là chuyện lạ, chuyện dở. Chuyện dở là chịu ảnh hưởng mà không biết sáng tạo như Nhật Bản. Chuyện dở là chịu ảnh hưởng đến cái mức phải làm cho giống nguyên bản để khỏi bị xem là man di. Từ trong tư tưởng, Trung Quốc đã là cái khuôn để rập theo. Họ Khổng giáo thế nào, ta Khổng giáo thế ấy. Họ Mao, ta cũng đã từng Mao. Họ đang là gì, ta cũng đang thế ấy. Suốt cả thế giới châu Á, có lẽ ngoài Việt Nam và Bắc Triều Tiên, không có nước nào làm cái bóng dưới mặt trời tư tưởng của họ. Trung Quốc biết rõ như thế, việc gì họ chẳng nắm cái điểm yếu đó để dụ và đe? Họ biết rõ ta sẽ không nghĩ đến cái thế cân bằng lực lượng, vì từ trong tư tưởng ta đã không có ý niệm cân bằng, đã lựa chọn nghiêng về một phía, đã nhượng bộ họ trên khắp lĩnh vực.
Họ lại còn tha hồ nắm cái điểm yếu đó vì biết chắc rằng không ai muốn sát cánh với ta thực sự khi quan hệ thân sơ của ta không rõ ràng. Về ngoại giao, dĩ nhiên ta cần giao hảo thân thiết với Trung Quốc như với Nhật, với ASEAN, nhưng về chiến lược, cả lịch sử lẫn thực tế ngày nay không cho phép ta xây dựng an ninh trường kỳ trên tư tưởng trụ cốt "Trung Quốc là bạn đặc biệt". Ta không minh bạch trên điểm đó, ai sẽ tin ta? Ai sẽ liên minh chiến lược với ta để ngăn chận kẻ mà ta vẫn nhận là "bạn đặc biệt"? Thế nhưng trên thực tế ta lại không thể minh bạch được vì một đằng quyền lợi quốc gia đòi hỏi ta phải cảnh giác Trung Quốc, một đằng tư tưởng chính thống lại xem Trung Quốc là bạn đặc biệt. Mâu thuẫn đó phải chấm dứt thì quan hệ chiến lược mới phân minh.
Vậy ai là đồng minh chiến lược với ta? Đồng minh ở đây không có nghĩa là gia nhập vào một liên minh quân sự mà bao gồm các trường hợp những nước có cùng quan tâm chiến lược trong các quan hệ ngoại giao. Trong định nghĩa rộng đó, thực tế ngày nay cho thấy dù muốn dù không chỉ có Hoa Kỳ mới có thể trở thành đối tác chiến lược của Việt Nam trong việc thiết lập thế cân bằng lực lượng để ta giữ nước. Câu hỏi duy nhất còn có thể đặt ra là: nước Mỹ có sát cánh với ta để cùng ta bảo vệ những quyền lợi thiết thân nhất của ta? Cụ thể, nước Mỹ có thể cùng ta ngăn chận bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông?
Nước Mỹ không dại gì trả lời câu hỏi đó rành rọt và công khai. Câu hỏi đó, chính ta phải trả lời, và chỉ ta mới trả lời rành rọt được mà thôi. Nếu ta làm cho người Mỹ thấy rằng quyền lợi của họ và quyền lợi của ta là một, không những chỉ trên Biển Đông mà cả trong chiến lược lâu dài của họ ở Đông Á và cả Á châu thì hai nước sẽ sát cánh với nhau. Hơn nữa, nếu ta giúp củng cố các thể chế ASEAN để vừa tăng đoàn kết và ổn định trong khu vực vừa tạo cho Mỹ cơ hội vận động nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới ủng hộ sự hiện diện của Mỹ tại Đông Nam Á thì ta lại càng thắt chặt quyền lợi của Mỹ với quyền lợi của ta hơn.
Nhưng quyền lợi mà thôi chưa đủ để xây dựng một quan hệ chiến lược bền vững, trường kỳ. Bởi vì đe dọa của Trung Quốc là trường kỳ, giải pháp đối phó cũng phải trường kỳ để quan hệ đồng minh (theo nghĩa rộng nói trên) không phải là quan hệ giai đoạn, chiến thuật. Cái gì tạo ra chất lượng cho một quan hệ chiến lược bền vững? Địa-chính trị ngày nay nói rõ: tư tưởng, văn hóa là yếu tố chiến lược cùng với vị trí địa dư. Chính thể dân chủ ở Đài Loan là yếu tố chiến lược gắn kết thêm với yếu tố quyền lợi trong quan hệ giữa Mỹ và xứ ấy. Nước Nhật quân phiệt phải dứt khoát viết lại hiến pháp để trở thành đồng minh chiến lược bền vững nhất của Mỹ trên thế giới. Do đó, cải cách thể chế theo hướng dân chủ hóa như đã trình bày ở trên ngoài mục đích tăng nội lực còn là điều kiện để mở rộng chiến lược ngoại giao.
Ai cũng biết: thực chất của ý thức hệ hiện nay ở Trung Quốc là chủ nghĩa dân tộc nước lớn. Dưới lớp áo xã hội chủ nghĩa, trái tim của Trung Quốc ra lệnh cho dân tộc họ phải trả thù nhục nhã của thế kỷ 19, nhanh chóng chiếm lĩnh địa vị đại cường, ngự trị như bá chủ trên vùng Đông Á. Làm sao ta đồng chí với họ được? Ngược lại, đó là tư tưởng mà ta phải triệt để chống như một đe dọa đè nặng trên sự sống còn của dân tộc. Tư tưởng chính trị của Việt Nam là tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng trên quan tâm duy nhất là độc lập của dân tộc. Vì độc lập, ta phải đoàn kết dân tộc, lấy đoàn kết làm tư tưởng, lấy dân tộc làm mục tiêu chứ không phải một lý thuyết nào xa lạ với thực tế mà người dân đang thấy trước mắt. Vì yếu tố tư tưởng quan trọng như vậy, chúng tôi đề nghị Việt Nam hãy dứt khoát cắt rốn tư tưởng với Trung Quốc. Ta đã có một Hồ Chí Minh đặt nền móng dân chủ cho một nước Việt Nam độc lập khác hẳn nền móng mà Mao đã đặt cho Trung Quốc năm 1954. Ta đã lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm tư tưởng chỉ đạo. Tư tưởng độc lập đó cần phải được vun xới sâu hơn trong bối cảnh ngày nay. Cần suy nghĩ rằng: một phần lớn tư tưởng đó đã được thoát thai từ tình trạng chiến tranh, hết chiến tranh thuộc địa đến chiến tranh chia cắt trong một thế giới chia hai theo lằn ranh ý thức hệ. Bây giờ nước ta không còn chiến tranh nữa, đã bắt đầu phát triển lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lại hội nhập vào một thế giới hoàn toàn đổi khác trong đó ý thức hệ tranh chấp ngày xưa đã biến mất rồi. Bối cảnh hoàn toàn đổi khác, tất nhiên tư tưởng của lãnh tụ cũng phải được hiểu theo một tinh thần mới, phải được chắt lọc lại, chỗ nào là tinh túy trường kỳ, chỗ nào là chiến thuật giai đoạn, chỗ nào thích hợp cho dân chủ ngày nay, chỗ nào đã đáp ứng xong rồi những nhu cầu trong quá khứ. Toàn dân sẽ tham gia thực hiện nền móng dân chủ mà lãnh tụ đã đặt viên gạch đầu tiên từ thuở khai sinh nhà nước. Ngôi nhà sẽ xây kết hợp hài hòa tư tưởng Hồ Chí Minh với những tư tưởng dân chủ của thế giới, vạch ra một mô hình dân chủ thích hợp với hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam. Mô hình đó cũng sẽ không chối bỏ nguyên tắc căn bản của chính thể hiện nay là "đảng lãnh đạo". Vấn đề là phải thiết lập cho kỳ được dân chủ thật sự trong đảng và định nghĩa lại cho minh bạch thế nào là "lãnh đạo" theo ý kiến của toàn dân.
Không khó khăn gì để thể chế hóa hai vấn đề đó. Nhân dân và trí thức Việt Nam không thiếu óc sáng tạo. Thách thức là có ý muốn hay không. Từ lâu, vấn đề đã được đặt ra, nhưng chẳng bao giờ giải quyết. Thời cuộc ngày nay không cho phép trì hoãn nữa. Không những lòng tin của nhân dân có hạn mà an ninh của đất nước bắt buộc phải thế. Đe dọa từ phương Bắc buộc ta phải từ giã con đường cụt trong tư tưởng. Hoặc ta không có đồng minh, hoặc có đồng minh thì phải minh bạch, không ai hứng đạn cho ta nếu không tin ta.
Tất nhiên ai cũng có thể chất vấn: đồng minh (trong ý nghĩa cùng một quan tâm chiến lược) với Mỹ, ta có mất độc lập chăng? Trong lịch sử thế giới từ sau 1945, có hai kinh nghiệm đồng minh trong đó một bên là siêu cường, một bên là nước bại trận, mất cả chủ quyền, mất cả tiềm năng kinh tế, mất cả quân đội: đó là nước Đức và nước Nhật. Cả hai nước đều trở thành cường quốc. Nước Đức liên minh chiến lược với Mỹ nhưng không mất độc lập ngoại giao với Liên Xô. Nước Nhật liên minh với Mỹ nhưng không mất độc lập ngoại giao với Trung Quốc. Quan hệ chiến lược có ảnh hưởng trên quan hệ ngoại giao, nhưng không trùng hợp. Ngay cả Hàn Quốc, liên minh với Mỹ, họ có mất độc lập ngoại giao với ai đâu?
Tại sao họ không mất? Tại vì hai lẽ. Thứ nhất, họ biết vận dụng nội lực, xây dựng ở bên trong một thể chế lành mạnh, hữu hiệu, đưa đất nước họ từ tình trạng lệ thuộc, độc tài, lên tình trạng dân chủ, cường quốc. Sức mạnh bên trong là yếu tố không thể không có để độc lập với thế giới. Chính vì vậy mà toàn thể nhân dân ta khát vọng một cải cách toàn diện để lãnh đạo cùng với toàn dân đưa đất nước lên địa vị độc lập, độc lập với Trung Quốc, dĩ nhiên, và độc lập với cả Mỹ.
Thứ hai, họ biết vận dụng thời cuộc quốc tế để không trở thành chư hầu của một cực. Hiện nay, ai cũng tưởng chừng như Mỹ và Tây Âu đang trên đà đi xuống, Trung Quốc đang ở thế thượng phong bất khả cưỡng. Đúng vậy. Nhưng tình hình đó lại có một mặt tích cực khác cho ta mà chính ta cần phải thấy rõ: cái thế thượng phong trịch thượng, ngạo mạn, thủ đoạn của Trung Quốc hiện nay là vấn đề của cả thế giới dân chủ, hòa bình, tự do, chứ không phải riêng gì của ta. Việt Nam đang có một cái thế rất lớn, lớn hơn cả thời 1945, là đứng chung với cả thế giới đó trong một mặt trận chung. Chúng tôi nói "đồng minh" hoặc "quan tâm chiến lược" là nói trong ý nghĩa đó. Việt Nam "đồng minh" với cả thế giới đó chứ không phải với riêng ai. Việt Nam "đồng minh" với cả những lực lượng tiến bộ, dân chủ, trong lòng xã hội Trung Quốc. Vấn đề là ta có đủ quyết tâm làm như thế hay không, thế giới có xem ta như vậy hay không mà thôi. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở, là quốc sách để cứu nước, chưa bao giờ có.
Việt Nam sẽ không bao giờ là chư hầu của ai nếu ta vận dụng được sức lực của toàn dân. Chọn dân tộc và chọn thế giới dân chủ, hòa bình, tự do, tôn trọng môi trường thì mới thoát ra được cái ách của Trung Quốc, hiện nay và mai sau.
Dĩ nhiên, dù đẩy mạnh quan hệ với Mỹ, ta vẫn coi trọng quan hệ với Trung Quốc trên nguyên tắc bình đẳng. Vì là láng giềng gần, sự giao lưu mật thiết giữa các tầng lớp dân chúng, nhất là giữa giới trí thức và lớp trẻ để tạo sự tương kính, hiểu biết nhau. Đó cũng là yếu tố góp phần gìn giữ hòa bình. Tuy nhiên, Việt Nam là nước nhỏ hơn nhiều về nhiều mặt, không thể theo phương châm “hợp tác toàn diện”, mà phải chọn lựa lĩnh vực và mức độ.
Riêng về vấn đề Biển Đông, chúng tôi có hai đề nghị: Một là, Quốc hội Việt Nam cần ra một tuyên cáo, một nghị quyết đặc biệt về Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, khẳng định đó không phải là sự thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ là thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan. Trung Quốc đã phản bội Việt Nam khi dùng công hàm đó để chủ trương chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa. Tuyên cáo này vừa để thanh minh trước dư luận quốc tế vừa xóa bỏ những ngờ vực trong không ít người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng thêm tình đoàn kết dân tộc trước hiểm họa ngoại xâm. Thứ hai, trên thực tế Việt Nam không làm chủ hết cả quần đảo Trường Sa nên cần đoàn kết với Philippines, Malaysia và Brunei trong việc gìn giữ quần đảo này và chống lại Đường Lưỡi Bò của Trung Quốc. Chúng tôi đề nghị Việt Nam chủ động đưa ra đề án với ASEAN đặt tên Biển Đông nước ta (mà Trung Quốc và nhiều nước khác gọi là biển Nam Trung Hoa) là Biển Đông Nam Á. Trở về mục lục
E. Kết luận
Trên đây là phân tích sơ lược về thực trạng của Việt Nam và đại cương về các giải pháp nhằm cải cách toàn diện để phát triển đất nước. Những nội dung chi tiết hơn không được đề cập để tránh loãng thông tin. Tuy nhiên, qua đó cũng có thể rút ra kết luận:
Việt Nam chúng ta đang đứng trước một khúc ngoặt lịch sử. Kinh tế, văn hóa giáo dục, khoa học đều suy thoái, nền tảng đạo đức xã hội lung lay và trên nhiều mặt ngày càng lệ thuộc vào nước láng giềng phương Bắc. Vì thế, Đảng Cộng sản Việt Nam cần làm một cuộc cách mạng mới để cứu đất nước khỏi nguy cơ này và mở ra con đường mới để dân tộc tiến nhanh về phía trước, để đất nước phát triển nhanh chóng, giàu mạnh và tự chủ. Cốt lõi của cuộc cách mạng mới là dứt khoát từ bỏ sự ràng buộc của một chủ nghĩa, một học thuyết đã không còn sức sống ở cả Việt Nam và trên thế giới. Gắn chặt với học thuyết ấy, chủ nghĩa ấy cũng làm nước ta ngày càng lệ thuộc vào quỹ đạo của phương Bắc ngày càng nặng.
Trí tuệ, khí khái, bản lĩnh và lòng yêu nước của tiền nhân ta là những bài học vô cùng phong phú, quý giá. Bây giờ là lúc phải học lại, học hơn nữa tầm nhìn chiến lược “khoan thư sức dân” của Trần Hưng Đạo, “khai dân trí, chấn dân khí” của Phan Châu Trinh, tư tưởng dân chủ, đoàn kết dân tộc và tinh thần học tập phóng khoáng của Hồ Chí Minh. Và hơn bao giờ hết chúng ta phải kế thừa khí phách Nguyễn Trãi “… Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương, tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có”.
Mong rằng với sự sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước chúng ta sẽ nhanh chóng ra khỏi thời kỳ khó khăn nghiêm trọng hiện nay và bước vào một kỷ nguyên phát triển mới./.
Đồng ký tên:
Hồ Tú Bảo Giáo sư Tin học, Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến Nhật Bản, Nhật Bản.
Nguyễn Tiến Dũng Giáo sư Toán học, Đại học Toulouse, Pháp.
Trần Hữu Dũng Giáo sư Kinh tế học, Đại học Wright State, Hoa Kỳ.
Giáp Văn Dương Nhà nghiên cứu (Vật lý), Đại học Quốc gia Singapore.
Nguyễn Ngọc Giao Nhà báo, nguyên Giảng viên Toán, Đại học Paris VII, Pháp.
Ngô Vĩnh Long Giáo sư Sử học, Đại học Maine, Hoa Kỳ.
Vĩnh Sính Giáo sư danh dự (Sử học), Đại học Alberta, Canada.
Nguyễn Minh Thọ Giáo sư Hóa học, Đại học Leuven, Bỉ.
Trần Văn Thọ Giáo sư Kinh tế học, Đại học Waseda, Nhật Bản.
Cao Huy Thuần Giáo sư danh dự (Chính trị học), Đại học Picardie, Pháp.
Nguyễn Văn Tuấn Giáo sư Y khoa, Đại học New South Wales, Úc.
Hà Dương Tường Giáo sư danh dự (Toán học), Đại học Công nghệ Compiègne, Pháp.
Vũ Quang Việt Chuyên gia tư vấn Thống kê Kinh tế cho Liên Hiệp Quốc, Myanmar, Philippines và Lào; nguyên chuyên viên cao cấp Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ.
Phạm Xuân Yêm Nguyên Giám đốc nghiên cứu Vật lý, Đại học Paris VI và Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học, Pháp.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 16, 2012 8:03:47 GMT 9
Tiểu luận của Zbigniew BrzezinskiBài của Zbigniew Brzezinski, Foreign Affairs, January/February 2012-01-27 mang tựa đề “Quân bình lực lượng phương Đông, nâng cấp phương Tây (Đại chiến lược của Mỹ trong một kỷ nguyên đầy biến động)”. Z.Brzeziński Bài tiểu luận này thể hiện tầm nhìn của 1 chiến lược gia Hoa Kỳ, người đã từng có ảnh hưởng rất lớn đến chính sách đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ với Trung Quốc. So với quan niệm chính thống của tổng thống Obama hiện nay, cách nhìn của Brzeziński là khác hẳn. Chiến lược của Hoa Kỳ hiện nay là tăng cường sự hiện diện tại Tây-Nam Thái Bình Dương, tự nhận có lợi ích quốc gia tại các tranh chấp trên Biển Đông từ quan điểm an ninh hàng hải quốc tế. Hoa Kỳ dăng lưới thưa quanh Trung Quốc, bằng cách sẽ bố trí 2500 binh lính tại căn cứ Darwin của Úc. Hoa Kỳ thành lập những liên minh không hình thức như Hoa Kỳ- Úc-Nhât Bản- Ấn Độ,..để cản Trung Quốc bành trướng trên Thái Bình Dương. Hoa Kỳ thúc đẩy hình thành 1 thị trường kinh tế rộng lớn 2 bên bờ Thái Bình Dương: nâng số các quốc gia tham gia Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) lên thành 12 quốc gia, đặt Trung Quốc ở ngoài. Ngoại trưởng Hillary Clinton luôn chỉ trích những điểm yếu cơ bản của Trung Quốc, như đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông mà không có bằng chứng pháp lý, ngăn cản tự do Internet như những tên hề của lịch sử,.. Hoa Kỳ đang sử dụng chiến thuật tăng cường ưu thế quân sự tại Thái Bình Dương, Châu Á, tránh đối đầu quân sự trực tiếp với Trung Quốc, nhưng quyết không tránh đối đầu về ngoại giao… Z.Brzeziński lại tung ra luận điểm: “Mỹ phải tôn trọng vai trò lịch sử và địa chiến lược đặc biệt của Trung Quốc trong việc duy trì ổn định trên phần lục địa Viễn Đông… Mỹ phải nhìn nhận rằng tình trạng ổn định tại châu Á không còn có thể bị áp đặt bởi một cường quốc phi-châu Á; Mỹ lại càng không thể trực tiếp sử dụng sức mạnh quân sự của mình tại đó”. Ảnh hưởng của nguyên cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ Z.Brzeziński trong chính trị của Hoa Kỳ chưa phải đã hết. Những quan điểm của ông ta, chắc vẫn có nhiều chính trị gia đối lập với chính trị Tổng thống Obama, pro-Trung Quốc ủng hộ. Nhất là những bộ phận đại diện cho quyền lợi của Wall Street. Do vậy, việc phân tích những quan điểm của tác giả bài tiểu luận là cần thiết. Nhất là những quan điểm liên quan đến trực tiếp đến Trung Quốc, Việt Nam, Đông Nam Á, đến Biển Đông …vì những quan điểm này, tác động đến cuộc đấu tranh dành lại Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.1. Z.Breziński là ai? Sinh ngày 28/3/1928 tại Warszawa-Ba Lan, hiện Z. Brzezinski là chính trị gia, tư tưởng gia đang tích cực hoạt động của Hoa Kỳ. Năm 1938, Z. Brzezinski sang Ca Na Đa cùng gia đình. Năm 1953 bảo vệ luận án tiến sĩ về chính trị học tại trường Havard. Năm 1958 nhập quốc tịch Mỹ. Từ 1977-1981 là cố vấn an ninh quốc gia USA của Tổng thống J. Carter. Cùng với H. Kissinger, ông Z. Brzeziński là 1 trong những chính trị gia hàng đầu của Hoa Kỳ về chuyên ngành địa chính trị. Hai chính trị gia này thiên về chiến lược cùng Trung Quốc điều khiển thế giới. Z. Brzezinski cũng ủng hộ, tuyên truyền cho 1 Trung Quốc đang trỗi dậy 1 cách hòa bình. Ý tưởng nhóm G2 gồm Trung Quốc và Hoa Kỳ cùng chia xẻ những khó khăn nẩy sinh trong lãnh đạo thế giới, có vẻ xuất phát từ xuất phát từ nhà chiến lược chính trị này. 2. Sơ lược về chính trị Hoa Kỳ. Nếu bỏ qua học thuyết giai cấp của Mác-Lênin, ta có thể nhận thấy rằng, cho đến hôm nay, loài người mới trải qua 2 hình thức tổ chức xã hội chính: 2.1. Hình thức xã hội không dân chủ. Đây là xã hội, mà công dân của xã hội này không bình đẳng với nhau trong hiến pháp và trước pháp luật. Pháp luật chỉ bảo vệ cho quyền lợi của 1 tầng lớp thiểu số nắm quyền hành. Ở chế độ phong kiến thì tầng lớp này là dòng họ của nhà vua và tầng lớp quí tộc phong kiến có công với triều đại phong kiến này. Ở chế độ độc tài, toàn trị do 1 chính đảng độc quyền lãnh đạo, pháp luật chỉ bảo vệ quyền lợi cho các thành viên xã hội có dính líu đến đảng lãnh đạo. Trong xã hội không dân chủ này, quyền làm Con Người chỉ dành cho nhóm nhỏ , 1 thiểu số. Trung Quốc, Việt Nam hiện nằm trong nhóm này. 2.2. Hình thức xã hội dân chủ. Đây là xã hội mà hiến pháp, pháp luật đảm bảo cho mọi công dân của xã hội này quyền làm chủ nhà nước, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do làm giầu,.. Trong xã hội dân chủ này, người dân được quyền làm chủ nhà nước thông qua hình thức bầu cử theo chu kỳ. Đây là xã hội mà mọi công dân, không phân biệt nguồn gốc, tín ngưỡng, của cải hay quan điểm chính trị… đều bình đẳng trước pháp luật, đều có Nhân quyền, đều là Con Người. Hoa Kỳ là 1 quốc gia dân chủ. Nhà nước Hoa Kỳ do 2 chính đảng là Dân chủ và Cộng hòa thay phiên nhau nắm giữ và điều hành, thông qua các cuộc bầu cử vào Hạ viện, Thượng viên, hay bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ,.. mặc dù tại Hoa Kỳ có trên dưới 200 đảng phái, hội, nhóm.. hoạt động, tuyên truyền ảnh hưởng cho tổ chức của mình. Thể chế bầu cử minh bạch, đảm bảo cho những nhân vật kiệt xuất được thể hiện trong các đóng góp cho chính trị Hoa Kỳ. Với Hiến pháp tiến bộ bậc nhất hành tinh khi đề cao dân quyền, bình đẳng các sắc tộc, nhân quyền, tự do, …Hoa kỳ thuộc vào các quốc gia có hệ thống chính trị rõ ràng, nhà nước được điều hành minh bạch. Trong 1 xã hội hiện đại, không phân biệt dân chủ hay không dân chủ, có 3 tầng lớp công dân tác động trực tiếp đến chính trị nhà nước: 2.1. Đại bộ phận những người dân lao động, những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Đảng Dân chủ Hoa Kỳ là chính đảng đấu tranh cho tự do dân quyền, tự do dân sinh, cho công bằng xã hội…tranh dành ảnh hưởng trong tầng lớp này. 2.2. Một bộ phận rất năng động của xã hội, tích tụ được 1 số lượng tài sản rất lớn từ việc nắm được các qui luật kinh tế, tuân thủ các qui tắc kinh tế do hệ thống chính trị đặt ra. Bộ phận này có tính đầu tầu thúc đẩy nền kinh tế, gây ảnh hưởng chính trị trên toàn xã hội. Phát biểu quyền lợi của tầng lớp tiên tiến này, từ những ngày thành lập(1854) tại Hoa Kỳ là đảng Cộng hòa. 2.3. Tầng lớp trung gian về kinh tế gồm các giảng viên đại học, nhà văn, nhà báo, những chủ nhân các hãng nhỏ, những chuyên viên bậc cao trong các hãng lớn,.. Đây chính là những thành phần tích cực trong nền kinh tế tư bản. Họ không phải là những người nghèo, tuy chưa hẳn giầu có. Số tiền, mà họ tạo ra hàng tháng, đủ để họ sẵn sàng mua các sản phẩm kỹ thuật mới …Tầng lớp này ngày một đông đảo và trở thành 1 động lực rất lớn cho phát triển kinh tế. Do chủ động về kinh tế gia đình, lại có tri thức cao, nên tầng lớp này rất được 2 chính đảng lớn tại Hoa Kỳ chú ý. Điều này giải thích tại sao tại Hoa Kỳ, dù có đến trên dưới 200 tổ chức chính trị nhỏ khác hoạt động, nhưng quan tâm của người dân, chỉ tập trung vào cương lĩnh tranh cử của 2 đảng Cộng hòa và Dân chủ. Như vậy, trên phương diện vĩ mô, chính trị Hoa Kỳ là nền chính trị đại nghị ổn định dựa trên tam quyền phân lập. Tuy là đảng phái chính trị, nhưng 2 đảng Cộng hòa và Dân chủ của Hoa Kỳ có cơ cấu lỏng lẻo không giống các chính đảng tại các nước khác, nhất là cơ cấu của các chính đảng cộng sản theo quan điểm Lênin. Do vậy, các nhóm áp lực chính trị có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành 1 chính sách của chính phủ Hoa Kỳ. Z. Brzezíńki là 1 trong những chính trị gia của 1 nhóm áp lực chính trị của Hoa Kỳ. 3. Tóm tắt nội dung bài viết” Quân bình lực lượng phương Đông, nâng cấp phương Tây (Đại chiến lược của Mỹ trong một kỷ nguyên đầy biến động)” liên quan đến “phương đông” và 1 vài phân tích. Đại chiến lược mà Z. Brzezíńki đề ra nhằm đảm bảo cho Hoa Kỳ tiếp tục ở vị trí cường quốc của thế kỷ 21 này. Việc đầu tiên, Z. Brzezíńki cho rằng Hoa Kỳ phải tạo sức sống mới cho chính mình. Thật vậy, một cường quốc mà nền kinh tế bị phá sản, không còn là cường quốc nữa. Tuy nhiên, lịch sử ngắn ngủi của Hoa Kỳ đã chứng minh rằng, Hoa Kỳ đã vượt qua những khủng khoảng kinh tế như 1929-1940 và mạnh lên sau khủng khoảng kinh tế. Z. Brzeziński đề nghị Hoa Kỳ quan tâm đến 1 Châu Âu dân chủ và rộng lớn bao gồm cả nước Nga. Một Châu Âu dân chủ sẽ hậu thuẫn mạnh cho Hoa Kỳ trong việc tranh dành ảnh hưởng với Trung Quốc trên toàn cầu. Trong bài viết này, tôi quan tâm đến những quan điểm của Giáo sư Z. Brzeziński liên quan đến Trung Quốc. Ta có thể liệt kê các quan điểm chính của Z. Brzeziński về Trung Quốc như sau: 3.1. Trung Quốc chưa hề đưa ra một tín hiệu ý thức hệ nào để khẳng định rằng thành tích gần đây của TQ có thể áp dụng đều khắp trên thế giới, và Mỹ đã đi những bước thận trọng để không biến vấn đề ý thức hệ thành trọng điểm trong mối quan hệ với Trung Quốc. 3.2. Vai trò của Mỹ tại châu Á phải là vai trò của một cường quốc có khả năng quân bình lực lượng trong khu vực, mô phỏng theo vai trò của Vương quốc Anh trên vũ đài chính trị giữa các nước châu Âu trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20. Để giải thích luận điểm 1, Z. Brzeziński cho rằng :”cả Washington lẫn Bắc Kinh đã chấp nhận quan niệm về “một quan hệ đối tác xây dựng” trong các vấn đề toàn cầu. Mỹ, mặc dù chỉ trích Trung Quốc về các vi phạm nhân quyền, nhưng đã thận trọng không bôi bác toàn bộ hệ thống kinh tế xã hội Trung Quốc.” Đồng thời, 1 kịch bản được mô tả cho trường hợp không khôn ngoan như vừa nêu ở giải thích luận điểm 1, nghĩa là khi cả Mỹ và Trung Quốc bắt đầu phản bác nhau: “Trong kịch bản đó, Washington sẽ tranh luận rằng sự thành công của Bắc Kinh đặt cơ cở trên một chế độ độc tài bạo ngược và đang gây tổn thương cho sức mạnh kinh tế của Mỹ; trong khi đó, Bắc Kinh sẽ lý giải rằng thông điệp mà Mỹ đưa ra là một mưu mô nhằm phá hoại và thậm chí có thể làm tan rã hệ thống chính trị TQ. Đồng thời, Trung Quốc sẽ nhấn mạnh sự kiện là TQ đã bác bỏ thành công tính ưu việt của phương Tây, tạo ra sức hấp dẫn đối với các quốc gia trong thế giới đang phát triển, tức những nước vốn đã chấp nhận một sử quan (a historical narrative) rất thù nghịch với phương Tây và đặc biệt đối với Mỹ. Một kịch bản như thế sẽ gây thương tổn và bất lợi cho cả hai quốc gia.” Tôi cho rằng Giáo sư Z. Brzeziński, ở đây, đã cố ý không nhắc lại quá khứ. Ta thử cùng nhau hỏi rằng :Tại sao 1971, Tổng thống Hoa Kỳ R.Nixon đã nhanh nhẩu bắt tay với Trung Quốc để chống lại Liên Xô và Phe XHCN Đông Âu? Một trong những lý do rất quan trọng tạo nên mối quan hệ Trung -Mỹ này, là việc các chiến lược gia Hoa Kỳ phát hiện ra rằng: Trung Quốc là đệ tử cuồng tín của Chủ nghĩa cộng sản Mác-Lênin, chỉ ở ngoài vỏ ở các khẩu hiệu, ở các bài xã luận. Ngọn cờ Mác-Lênin chỉ dùng để phất cao, tập hợp nhân dân lao động Trung Quốc ( thế giới) dưới ngọn cờ này, còn chủ nghĩa dân tộc Đại Hán mới là cái lõi tư tưởng của ban lãnh đạo Trung Quốc do Mao Trạch Đông đứng đầu. Tại thời điểm ấy, đối với Hoa Kỳ, thì mục tiêu chống Chủ nghĩa cộng sản, lý tưởng cộng sản là quan trọng nhất . Mọi dân tộc đều có quyền lo lắng cho tương lai của dân tộc mình, là tôn chỉ cao thượng của người Mỹ. Do đó, tại thời điểm này, Hoa Kỳ đã bỏ qua Chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc mà đồng minh với Trung Quốc. Thế nhưng, người Hoa Kỳ đã nhầm lẫn, và không hiểu người Trung Quốc chính ở điểm này : Chủ nghĩa dân tộc Đại Hán có 1 nội dung vượt qua chủ nghĩa dân tộc của 1 dân tộc bình thường. Thậm chí có thể so sánh nó với Chủ nghĩa Phát xít Nhật Bản hay Đức Quốc Xã.. Tuy rằng đất nước Trung Quốc to lớn hiện nay không hẳn là công lao của chủ nghĩa dân tộc Đại Hán, mà là công lao của Đế quốc Mông Cổ và Đế quốc Mãn Thanh, thì ta cũng thử nhìn gần xem Chủ nghĩa dân tộc Đại Hán của Mao Trạch Đông có nội dung gì? (A). Chắc chắn là Mao Trạch Đông muốn có 1 nước Trung Quốc cường thịnh về quốc phòng, kinh tế (3 Đại nhẩy vọt của Mao chứng minh điểm này), dưới sự chuyên chính tàn khốc của Đảng cộng sản Trung Quốc. (B). Mao Trạch Đông và Đảng cộng sản Trung Quốc có tham vọng lãnh thổ với Ấn Độ, Liên Xô cũ, với Đông Nam Á … (C). Mục đích của Mao Trạch Đông và Đảng cộng sản Trung Quốc là đứng đầu thế giới. Việc tranh chấp với Liên Xô về ngôi vị lãnh đạo phong trào cộng sản thế giới, việc tung khẩu hiệu Đế quốc Mỹ là con hổ giấy,…là những biểu hiện của mục đích này. (D). Để đạt mục đích: là trung tâm của vũ trụ, Mao Trạch Đông và Đảng cộng sản Trung Quốc sẵn sàng hi sinh 300 triệu người dân Trung Quốc cho mục đích này( khi Mao Trạch Đông tuyên bố, Trung Quốc có 600 triệu dân). (E). Mục đích gần nhất, để tranh dành ngôi bá chủ hoàn cầu với Hoa Kỳ của Đảng cộng sản Trung Quốc và Mao Trạch Đông, là kiềm chế Mỹ ở Thái Bình Dương và tiến ra Ấn Độ Dương. Họ đã chiến Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam để làm bàn đạp trông coi cửa ngõ đổ ra Ấn Độ Dương. (F). Làm yếu Việt Nam, dùng Việt Nam làm phên dậu che cho Trung Quốc, cũng như biến Việt Nam làm bàn đạp tiến xuống Đông Nam Á, gian đoạn đầu tiên trong chiến lược chinh phục thế giới. Như vậy thì Việt Nam, Hoàng Sa, Trường Sa, Đông Nam Á là mục tiêu gần của Trung Quốc. Mục tiêu xa của Trung Quốc là đạp đổ ngôi vị cường quốc thế giới của Hoa Kỳ. Trung Quốc đã đạt được mục tiêu chiếm Hoàng Sa, Trườn Sa của Việt Nam. Trung Quốc cũng đã làm Việt Nam suy yếu và lệ thuộc nhiều vào Trung Quốc. Ngày hôm nay, khi Hoa Kỳ đang rơi vào suy thoái kinh tế, họ đã cảm thấy được thanh gươm Trung Quốc đang từ từ, muốn chặt phứt cái sợi dây mà Hoa Kỳ dùng để điều khiển toàn thế giới: sợi dây ràng buộc về kinh tế. Vì vậy phải khẳng định rằng: để chiến thắng Chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô và phe XHCN Đông Âu, Hoa Kỳ đã trả 1 giá quá đắt: Nuôi dưỡng con rồng Trung Quốc, nuôi dưỡng chủ nghĩa Đại Hán Trung Hoa lớn mạnh. Hoa Kỳ đã nuôi ong tay áo, đã nuôi hổ dữ trong nhà. Hoa Kỳ đã giúp đỡ để Trung Quốc trưởng thành từ 1 đất nước nghèo, hèn, lạc hậu, thành 1 quốc gia có GDP thứ 2 thế giới. Đất nước này đang lăm le chờ cơ hội yếu kém của Hoa Kỳ, để vượt qua Hoa Kỳ, trở thành cường quốc số 1 của thế giới. Trở lại với quan điểm 3.1 của Z.Brzeziński:”Trung Quốc chưa hề đưa ra một tín hiệu ý thức hệ nào để khẳng định rằng thành tích gần đây của TQ có thể áp dụng đều khắp trên thế giới”. Tôi cho rằng Giáo sư Z. Brzeziński có sự nhầm lẫn. Thực ra Trung Quốc vẫn tự cho rằng họ đang theo đuổi Chủ nghĩa Mác-Lênin với tư tưởng Mao Trạch Đông và tính thực dụng Đặng Tiểu Bình cho hoàn cảnh Trung Quốc. Ở đoạn trên, ta đã hiểu tư tưởng Mao Trạch Đông chính là chủ nghĩa dân tộc Đại Hán cộng với sẵn sàng hi sinh 1 bộ phận lớn dân số Trung Quốc cho mục đích bá chủ toàn cầu của Trung Quốc. Còn tính thực dụng Đặng Tiểu Bình là gì? Tính thực dụng Đặng Tiểu Bình trong phiên bản “mở cửa, hội nhập với thế giới” đã thể hiện ở các điểm sau: (a). Cho phép “tư hữu” được thực hiện trong 1 giới hạn kinh tế, như 1 thỏa thuận ngầm của ĐCS TQ với người dân Trung Quốc. Quyền lãnh đạo đất nước, duy nhất thuộc về ĐCS TQ. (b). Cho phép các công ty đa quốc gia tư bản bóc lột vô tội vạ người dân lao động Trung Quốc. Như vậy ở cả 2 điểm trên, Trung Quốc đã xa rời Chủ nghĩa cộng sản, khi Mác và Lênin đã xác định bản chất của CNCS là : CNCS xây dựng nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân và dựa trên “Công hữu’. Chủ nghĩa cộng sản xóa bỏ bóc lột tư bản trên người công nhân, nông dân. CNCS có tính toàn cầu. Mô hình hệ thống kinh tế xã hội Trung Quốc không thể phát triển toàn cầu được. Tại sao vậy? Trả lời đơn giản nhất là nhìn vào lịch sử cận đại Trung Quốc. Giả sử có 1 quốc gia nào đấy, muốn bắt chiếc Trung Quốc, quốc gia này phải thỏa mãn các điều kiện sau đây: - đất nước phải trải qua giai đoạn suy yếu, bị sâu xé, để nhân dân nuôi lòng hận thù với các thế lực đế quốc ngoại bang ( (cuối Mãn Thanh, trước cách mạng Tân Hợi 1911). - Nhân dân phải bị tập trung vào các Công xã nhân dân và bị bỏ đói để 30-40 triệu nông dân bị chết đói (3 Đại nhẩy vọt và thành lập Công xã nhân dân 1950-1957). - Nhân dân bị truy bức tư tưởng, bị lừa lọc sau phong trào “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. - Chủ nghĩa cá nhân, sẽ bị gột rửa hết sau Đại cách mạng văn hóa vô sản ( điển hình có Lôi Phong, đêm tân hôn thì đọc trước tác Mao Chủ Tịch suốt đêm, quên cả người vợ trẻ). - Mọi người dân sẽ không còn khái niệm tư hữu, để khi Đặng Tiểu Bình “mở cửa”, họ đổ xô làm giàu, đổ xô tư hữu. - Khi đó, họ ngoan ngoãn làm nô lệ cho chính đảng cầm quyền, hi vọng bảo vệ chút tư hữu mà họ vừa có được. Chắc rất ít quốc gia nào trên quả đất này có thể thỏa mãn các điều kiện trên. Vì vậy, điển hình Trung Quốc nhân rộng ra thế giới là 1 dấu hỏi lớn, khó khả thi. Có thể thấy Khơmer đỏ, là 1 mẫu hình cho quốc gia nhỏ hơn Trung Quốc, thực thi quan điểm “làm trong sạch các giai cấp trong xã hội” của Mao; hay Bắc Triều Tiên với chuyên chính vô sản đến từng người dân, từng suy nghĩ của mỗi người dân. Như vậy kịch bản của giáo sư Z.Brzeziński là không thực tế. Ở đây, tôi phải nhấn mạnh 1 điểm, để những ai còn thành kiến với Hoa Kỳ về việc rút lui khỏi Việt Nam 1973. Hoa Kỳ cũng như bất cứ 1 quốc gia khác, có quyền trước tiên tính toán cho quyền lợi của dân tộc mình. Đối với Việt Nam cộng hòa, Hoa Kỳ đã giúp theo hết khả năng của mình. Giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, có sự khác nhau về cơ bản về quan niệm lợi ích. Trung Quốc chiếm trắng, cướp không của Việt Nam 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Hoa Kỳ cùng lắm, sẽ mua dầu hỏa do Việt Nam khai thác lên từ Hoàng Sa, Trường Sa với giá hữu nghị . Còn quan điểm 3.2 : “Vai trò của Mỹ tại châu Á phải là vai trò của một cường quốc có khả năng quân bình lực lượng trong khu vực, mô phỏng theo vai trò của Vương quốc Anh trên vũ đài chính trị giữa các nước châu Âu trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20,” thực tế là nhường Châu Á cho Trung Quốc thao túng. Chiến lược này, đã được Hoa Kỳ sử dụng trong 3 thập niên qua với kết quả là :Trung Quốc đang lớn mạnh, vượt qua tính toán của Hoa Kỳ. Tiếp tục chiến lược này là 1 sai lầm, mà hậu quả của nó sẽ phải đổi bằng vị trí suy yếu của Hoa Kỳ trên thế giới trong thế kỷ 21 này trước Trung Quốc. Trên lăng kính của thất bại 1975 tại Việt Nam, Z.Brzeziński còn kết luận rằng : “Mỹ phải tôn trọng vai trò lịch sử và địa chiến lược đặc biệt của Trung Quốc trong việc duy trì ổn định trên phần lục địa Viễn Đông.” và: “Mỹ phải nhìn nhận rằng tình trạng ổn định tại châu Á không còn có thể bị áp đặt bởi một cường quốc phi-châu Á; Mỹ lại càng không thể trực tiếp sử dụng sức mạnh quân sự của mình tại đó”. Quan điểm này đã nuôi dưỡng ý đồ bành trướng mạnh mẽ, bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc, khi cưỡng chiếm bằng bạo lực Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Quan điểm này đã giúp Trung Quốc nuôi ảo vọng làm: lại luật pháp quốc tế theo tinh thần “ lẽ phải thuộc về kể mạnh”. Đây là sự giật lùi của văn minh nhân loại, cần phê phán quan điểm để cho Trung Quốc làm mưa, làm gió trên Biển Đông, tại Đông Nam Á. Việc Hoa Kỳ của Obama quay trở lại Thái Bình Dương một cách mạnh mẽ đã được tất cả các nước trong khu vực hoan ngênh 1 cách chưa từng thấy. Từ Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, Philippine, tới Việt Nam, Miến Điện… Quan điểm của Z.Brzeziński “tình trạng ổn định tại châu Á không còn có thể bị áp đặt bởi một cường quốc phi-châu Á; Mỹ lại càng không thể trực tiếp sử dụng sức mạnh quân sự của mình tại đó” là phi thực tế. Châu Á rất cần sự hiện diện của Hoa Kỳ cả về chính trị tiên tiến, quân sự áp đảo lẫn thành lập khối kinh tế Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Bởi vì Châu Á, nói chung, là những nước còn lạc hậu về mặt xã hội. Các xã hội Châu Á chủ yếu còn trong bóng tối của chế độ phong kiến. Để xây dựng cho mình 1 xã hội dân chủ, bình đẳng , tự do,.. các quốc gia Châu Á rất cần đến tham vấn , kinh nghiệm của Hoa Kỳ. Trung Quốc là 1 xã hội phong kiến. Ở đây, họ mới hiểu được 1 nguyên tắc để có quyền lực trong chế độ phong kiến: “họng súng đẻ ra chính quyền”. Đảng cộng sản TQ không hiểu được rằng trong xã hội dân chủ, quyền lực có thể chuyển từ 1 chính đảng này sang chính đảng khác 1 cách hòa bình do quyết định của các lá phiếu công dân. Vì vậy, nói chính nghĩa, lẽ phải với Trung Quốc rất khó, phải có bóng dáng của sức mạnh kèm theo, của họng súng kèm theo, phải dùng ngôn ngữ của họ, thì người Trung Quốc bành trướng mới hiểu ra vấn đề. Đây là lý do, tại sao tôi ủng hộ Hoa Kỳ tăng cường sức mạnh tại Châu Á. Sau 3 thập niên tăng trưởng liên tục, Trung Quốc đang là 1 quốc gia có tiềm năng kinh tế lớn. Có quốc gia Châu Á nào không có quan hệ kinh tế với Trung Quốc? Việc xây dựng thành công khối kinh tế Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ kéo dần các quốc gia Châu Á đang phát triển kinh tế, đang lệ thuộc kinh tế vào Trung Quốc, đến 1 lụa chọn mới, tốt hơn. Khi nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, Giáo sư Z.Brzeziński không để ý tới qui luật “Hợp-Tan” của quốc gia Trung Quốc cổ đại. Ít nhất đã 2 lần đế quốc phong kiến này “Tan”, trên đỉnh vinh quang của nó. Lần thứ nhất là triều đại vương triều Tần Thủy Hoàng, kéo dài chỉ có 15 năm. Lần thứ 2 là triều đại nhà Tùy. Tùy Dạng đế Dương Quảng kết thúc nhà Tùy từ năm 605 đến năm 618. Hiện nay xã hội Trung Quốc đang mưng ung nhọt :Tây Tạng đòi độc lập, Tân Cương đòi thoát ly, nông dân oan ức đòi ruộng đất khắp nơi, người dân Hồng Kông coi thường người Trung Quốc lục địa, Đài Loan không muốn trở về trong khuôn khổ 1 quốc gia với Trung Quốc cộng sản… Những ung nhọt của xã hội Trung Quốc đang rất cần những tư tưởng tiên tiến thời đại như Tự do Internet, Quyền con người, Quyền tự do cá nhân, quyền phát biểu tư tưởng không bị cầm tù…làm thuốc chữa trị. Ngoại trưởng của Hoa Kỳ Hillary Clinton đang thực hiện xuất sắc nhiệm vụ này. Không thể để yên cho Đảng cộng sản Trung Quốc mặc sức nô lệ chính dân tộc của mình. Phải chỉ rõ những tồi tệ của Đảng cộng sản Trung Quốc. Một quốc gia Trung Quốc dân chủ, có nhiều khả năng phải từ bỏ tham vọng bành trướng lãnh thổ. Một quốc gia Trung Quốc dân chủ, có nhiều khả năng phải trả lại tự do cho các dân tộc Tây Tạng, Tân Cương… Một quốc gia Trung Quốc dân chủ, không có lý nào, không trả lại Hoàng Sa, Trường Sa về với Việt Nam. Một quốc gia Trung Quốc dân chủ có nhiều khả năng sẽ đảm nhiệm tốt hơn vai trò đầu tầu của họ tại Châu Á… Vì vậy Hoa Kỳ cần đối diện trực tiếp với Trung Quốc hiện nay, chứ không phải né tránh những hành động mù quáng của Trung Quốc, né tránh những tham vọng không thực tế của Trung Quốc, quét những vấn đề xấu xa của Trung Quốc xuống dưới tấm thảm ngoại giao. Khi nghiên cứu lịch sử tan rã của các đế quốc cổ đại, 2 Giáo sư H. Kissinger và Z. Brzeziński đã đi đến kết luận rằng : 1 dân tộc man rợ, có thể, có sức mạnh phá tan 1 đế quốc văn minh ( La mã cổ đai) vì vậy 2 vị giáo sư đáng kính này không quan tâm đến tổ chức xã hội phong kiến của nhà nước cộng sản Trung Quốc. Họ đã lầm. Nô lệ phong kiến , chuyên chính vô sản,.. hiện nay không làm người dân sợ hãi nữa. Mọi cuộc diệt chủng tàn bạo, đều bị đưa ngay lên Internet , và nhận sự phản đối của cả thế giới. Vì vậy tôi cho rằng Z.Brzeziński đã thể hiện những quan điểm không thực tế. Trường phái chính trị Obama là sáng suốt. Chắc chắn vị Tổng thống này sẽ thắng cử nhiệm kỳ 2. Kết luận. Hoa Kỳ sẽ không là cường quốc của thế kỷ 21, nếu kinh tế của họ cứ trượt dài trên con đường khủng khoảng. Mọi sợi dây của khủng khoảng tài chính đều dẫn về Wall Street. Nếu Tổng thống Obama không cắt thuốc cho căn bệnh nam giải này, thì mọi chiến lược tầm cỡ thế giới của Hoa Kỳ, chỉ nằm trên những trang bình luận của báo chí. Ta thử hỏi từ đâu mà lãnh đạo Trung Quốc có tư duy điều hành kinh tế xuất sắc như vậy trong 3 thập kỷ qua? Mao Trạch Đông rất muốn cho kinh tế Trung Quốc phồn vinh, nhưng không thành công. Chu Ân Lai chỉ điều hành chính phủ 1 cách cầm cự, để không có quá nhiều nông dân Trung Quốc chết đói trong những xáo trộn chính trị. Đặng Tiểu Bình thì cả cuộc đời chủ yếu viết kiểm điểm gửi cho Mao Trạch Đông. Tuy ông ta biết rằng tư hữu là động lực chính làm ra của cải xã hội, nhưng điều khiển nó, ở quốc gia 1300 triệu dân này như thế nào, Đặng không phải là ông thánh, để hiểu được các qui luật kinh tế. Có sự giúp đỡ vô tư của các chuyên gia đầu ngành kinh tế Hoa Kỳ. Chỉ riêng thống đốc Ngân hàng Liên Bang Hoa Kỳ, Alan Greenspan, ông đã hơn 100 lần sang Trung Quốc hội đàm, bỏ túc cho lãnh đạo Trung Quốc về kinh tế… Một sự giúp đỡ xả thân vô tư của các nhà kinh tế đầu bảng của Hoa Kỳ, muốn 1 Trung Quốc, nhiều tiềm năng nhưng đang còn đau khổ, tiến bộ, như khi các đảng viên các đảng cộng sản xả thân cho lý tưởng cộng sản thời 1930-1960. Vì vậy, Hoa Kỳ cần vạch trần hơn nữa tính phong kiến tàn bạo của Chủ nghĩa Đại Hán Trung Quốc, vạch trần hơn nữa lòng tham lam vô độ của bành trướng Trung Quốc hôm nay. Cho dù lãnh đạo mới của Trung Quốc là Tập Cận Bình hung hăng đến đâu, cũng cần đấu tranh ngoại giao trực diện, nêu rõ chính nghĩa Dân chủ, Nhân quyền, Tự do Internet, Bình đẳng các săc tộc.. của Hoa Kỳ. Như hiện nay Hoa Kỳ đang làm. Nguyễn Nghĩa.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 28, 2012 9:50:20 GMT 9
Tại sao thị trường không lên theo tin tức kinh tế Monday, May 10, 2004 Tuần qua, phải nói cả tháng vừa qua, rất nhiều tin tức tốt cho nền kinh tế. Nhưng Chỉ Số Công Nghiệp Dow Jones (DJIA) của thị trường chứng khoán New York đã xuống liên tiếp ba tuần liền, và hôm qua thì xuống dưới “ngưỡng cửa tâm lý” 10,000... sau khi đã lên được tới con số đó hồi năm ngoái. Nhiều người thắc mắc: Tại sao kinh tế lên mà thị trường lại xuống? Phải chăng thị trường chứng khoán không liên hệ gì đến nền kinh tế “thật” cả, và các nhà tư bản đầu tư trong thị trường là một giống người khác chúng ta, họ chỉ vui khi chúng ta lo lắng, đến lúc chúng ta bắt đầu mừng thì họ lại mất vui? Thực ra thì thị trường chứng khoán liên hệ rất chặt chẽ với cả nền kinh tế. Không có đời sống kinh tế, không có người làm việc, các xí nghiệp sản xuất, và người tiêu thụ thì làm gì có chuyện người mua, kẻ bán các cổ phiếu, tức là mảnh giấy chứng nhận quyền sở hữu một mảnh của các công ty. Khi người ta tiêu dùng, mua hàng, sản xuất nhiều hơn, thì các xí nghiệp có lời. Nhiều người thấy các xí nghiệp có lời bèn cho là nếu làm chủ cổ phần của các xí nghiệp đó thì trong tương lai sẽ được chia lời cao hơn. Họ tìm mua những cổ phần này, làm cho giá nó tăng lên. Ngược lại, nếu tình trạng kinh tế coi bộ xuống, chắc lợi nhuận các xí nghiệp sẽ giảm, người ta sẽ bán cổ phần đi, nhiều người bán ít người mua thì giá các cổ phần sẽ xuống. Nhưng những người có trách nhiệm đầu tư hàng tỷ bạc thì họ không thể chờ bao giờ đọc báo hay coi ti vi rồi mới quyết định. họ phải tính toán trước. Nếu hỏi tại sao thị trường không tăng lên khi có nhiều tin tức tốt trong tháng qua, thì phải trả lời rằng thị trường đã đoán trước các tin đó từ năm, sáu tháng trước rồi. Ðó chính là lúc nhiều nhà đầu tư lớn, các quản lý những quỹ đầu tư (tiền của bá tánh) đã đi mua thêm cổ phần từ lúc đó rồi. Bây giờ thị trường xuống là vì họ đoán trong nửa năm nữa số tin tốt sẽ giảm đi, hoặc không át được những tin xấu. Có hai câu hỏi: Khi thị trường xuống, nhiều người đem bán cổ phần thì bán cho ai? Bán cổ phần rồi, họ cũng phải dùng tiền đầu tư hay làm cái gì chứ? Khi thị trường xuống vẫn có người mua là vì họ thấy giá hạ quá, rất đáng mua, giống như người ta nói: Rẻ quá, chịu không nổi. Sở dĩ luôn luôn có người mua kẻ bán trong thị trường là vì người ta khác nhau; khác nhau về những tin tức họ nhận được; khác nhau vì giải thích các tin tức mỗi người một cách; khác nhau vì người thì nhát, kẻ thì bạo; càng khác nhau vì người nhiều tiền kẻ ít tiền. Vì vậy hễ có người mua là có kẻ bán, và ngược lại, có người muốn bán thì cuối cùng sẽ có kẻ mua miễn là giá xuống đến mức họ hài lòng. Những người chán cổ phần mà đem bán, là vì họ thấy đem cho vay có lời thấp nhưng chắc ăn hơn. Chúng ta luôn luôn có thể lựa chọn: Mua cổ phần thì nhiều hy vọng lời to, nhưng cũng nhiều may rủi trong đó. Còn mua trái phiếu để cho các chính phủ hoặc các xí nghiệp vay thì lời lãi ít nhưng chắc ăn không lo mất. Trong mấy tháng trước, người giàu thứ nhì nước Mỹ là ông Warren Buffett cho biết quỹ đầu tư do ông quản lý đã bán nhiều cổ phần và giữ hơn 30 tỷ đô la dưới hình thức trái phiếu ngắn hạn của chính phủ Mỹ. Những trái phiếu đó có thể nhấc máy điện thoại (hay bấm con chuột máy vi tính) là bán được liền, cũng lưu hoạt như giữ tiền mặt. Nhưng tại sao nhiều tin tức kinh tế tốt như thê mà giá các cổ phần nói chung lại xuống? Quả thật, rất nhiều tin tốt. Thứ nhất là số hàng hóa sản xuất ở Mỹ đang tăng lên. Ngành dịch vụ còn tăng sớm hơn, từ mấy tháng trước rồi. Số tiền dân Mỹ lãnh về sau khi trừ thuế cũng tăng, và số tiền tiêu thụ cũng tăng với nhịp độ vừa phải, không ghê gớm nhưng có vẻ sẽ còn kéo dài được lâu. Và cái lãnh vực bi quan nhất là công ăn việc làm thì trong trong hai tháng Ba và tháng Tư số công việc mới tăng lên một cách ngoạn mục. Hôm Thứ Sáu vừa rồi mới được biết trong tháng Tư cò 288 ngàn công việc mới. Kể từ tháng Mười Hai năm ngoái tới nay các ngành dịch vụ tạo thêm rất nhiều công việc: Ðứng bán hàng lẻ (thêm 157 ngàn việc); quán ăn và quán rượu (112 ngàn); dịch vụ y tế (100 ngàn); tài chánh, bảo hiểm (20 ngàn); ngành xây cất thêm được 100 ngàn, các xí nghiệp chế tạo thêm được 100 ngàn, vân vân. Tại sao có nhiều tin tốt như vậy mà thị trường lại xuống suốt ba tuần liền? Một lý do là người ta đoán với tình trạng tốt như thế Ngân hàng Trung ương Mỹ, gọi là Quỹ Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ tăng lãi suất. Ngân hàng Trung ương chỉ tăng lãi suất ngắn hạn thôi; và từ hai năm nay họ đã cắt giảm lãi suất đều đều, xuống tới mức thấp nhất trong 46 năm. Trong phiên họp tuần trước, Fed vẫn giữ không thay đổi lãi suất. Nhưng trong thị trường người ta đoán sắp tới ngày Fed tăng lãi suất rồi. Vì khi có những tin tốt về kinh tế thì người ta lo ngay mức lạm phát sẽ tăng lên. Lúc ít người mua nhiều kẻ bán thì khó tăng giá. Khi quá nhiều người đang lo đi xin việc thì cũng ít ai đòi tăng lương. Nhưng khi kinh tế khá lên rồi, hai món giá hàng và lương bổng sẽ tăng, tức là lạm phát sẽ cao hơn. Mà mỗi khi có dấu hiệu lạm phát tăng thì Ngân hàng Trung ương nào cũng thấy phải tăng lãi suất để người ta bớt vay, bớt dùng tiền, cho giá cả đừng tăng nhanh quá. Cho nên trước các tin tức kinh tế ngon lành, các nhà đầu tư nhìn thấy lãi suất sẽ lên. Thực ra tuy Ngân Hàng Trung Ương Mỹ không thay đổi lãi suất ngắn hạn nhưng trong thị trường người ta đã tăng lãi suất dài hạn rồi. Những món nợ bằng trái phiếu 10 năm, 30 năm bắt đầu tăng lãi suất từ cả tháng nay, khiến tiền vay mua nhà cũng tăng theo. Tại sao lãi suất lên người ta lại lo giá cổ phần sẽ xuống? Vì có ai hậu quả: Người tiêu thụ không tiêu pha hăng hái khi phải đi vay tiền mua nhà, mua xe trả lãi nhiều quá. Giá nhà không lên hoặc xuống vì bớt người mua cũng khiến cho nhiều người không cảm thấy họ giàu có nữa, họ bớt tiêu pha. Hậu quả thứ hai là các xí nghiệp nếu vay tiền làm ăn sẽ phải trả tiền lãi cao hơn; hiện nay họ đi vay mua máy móc vì lãi rẻ quá. Cả hai hậu quả đó, tiêu thụ không lên nhanh như trước mà lợi nhuận các xí nghiệp có thể giảm, làm cho giá trị các cổ phần xuống. Ngoài ra còn một ảnh hưởng khác, là lãi suất lên khiến việc đầu tư vào các trái phiếu coi bộ hấp dẫn hơn. Nhiều người bán cổ phần để đem cho vay cho an toàn. Nhưng Ngân Hàng Trung Ương Mỹ đã bắt đầu tăng lãi suất đâu? Chắc phải đến phiên họp Tháng Sáu hoặc Tháng Tám họ mới tăng. Nhưng trước đây trong thị trường người ta nghĩ rằng lãi suất sẽ không tăng trước Tháng Mười Một! Bây giờ họ ngờ rằng Ngân Hàng Trung Ương sẽ tăng lãi suất sớm hơn. Nhưng nếu chỉ nói riêng đến triển vọng lãi suất lên thì cũng không thể giải thích thị trường xuống nhiều như mấy ngày qua; bởi vì câu chuyện lãi suất lên có thể tiên đoán sớm hơn được, khi có các tin tức tốt về số sản xuất và công việc làm. Phải có những tin tức bất ngờ, khiến thị trường xuống hơi vội hơn mức bình thường. Một mối bất ngờ là giá xăng dầu. Giờ này năm ngoái mọi người tiên đoán giá dầu thô trên thế giới sẽ xuống 20 đô la một thùng, sau khi quân Mỹ chiến thắng nhanh chóng ở Iraq. Nhưng hiện nay giá dầu lên tới 40 đô la một thùng. Hơn 10 năm nay mới thấy lên tới giá đó. Tình trạng số sản xuất dầu không tăng, trong khi số tiêu thụ dầu ở Trung Quốc, ơ Ấn Ðộ, và ở Mỹ lên cao quá - cũng do kinh tế các xứ này đang lên - là một điều khó đoán trước được. Một bất trắc khác mới nổi lên là tình hình Iraq. Trong Tháng Tư số binh sĩ Mỹ chết ở Iraq cao hơn cả số tử vong trong suốt chiến dịch tấn công và chiếm Baghdad. Các vụ nổi dậy của cả người theo phái Sun Ni và phái Si A là điều trước đây năm sáu tháng trong giới đầu tư không ai ngờ được. Rồi tới vụ những bức hình trong nhà tù Abu Ghraib làm cho cả thế giới Á rập cảm thấy nhục nhã, không biết bao giờ mới làm cho họ nguôi được. Mà mối nhục đó sẽ sinh đẻ thêm ra nhiều tay khủng bố quyết tử. Ðó là một mối bất trắc khó ai lường trước được. Và không ai biết tình trạng này bao giờ sẽ được giải quyết. Tất cả các chuyện đó sẽ ảnh hưởng tới giá dầu lửa, tới số khiếm hụt trong ngân sách Mỹ, tới tinh thần người tiêu thụ nữa. Người đầu tư lúc nào cũng ghét chuyện may rủi. Vì vậy nhiều người tránh cổ phần, đi tìm trái phiếu để đầu tư. NGÔ NHÂN DỤNG
|
|