|
Post by Vĩnh Long on Dec 28, 2006 5:43:40 GMT 9
Tư Bản Luận - Karl Marx Phạm Văn Tuấn
Tiểu sử Karl Marx
Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản bắt đầu bằng lời xác nhận rằng Lịch Sử của Nhân Loại là “lịch sử của đấu tranh giai cấp” (history of class struggle). Chính sự tranh chấp giữa các giai cấp đã gây nên các hoạt động của xã hội. Trong thời đại La Mã, đã có các giai cấp quý tộc, hạ lưu và nô lệ. Tới thời Trung Cổ của châu Âu, các giai tầng là hầu tước, kẻ bộ hạ, giới chủ nhân nghề nghiệp (guild-master), các kẻ học nghề và giới nông nô (serf). Sang thế kỷ 19, đã có các tranh chấp giữa giới tư sản (the bourgeoisie) với đa số thuộc giai cấp trung lưu thành thị mới, sở hữu các cơ xưởng sản xuất, và giới vô sản (the proletariat) gồm các công nhân làm việc cho các kỹ nghệ sản xuất.
Marx và Engels đã mô tả sự phát triển của giới tư sản là do giới này đã nắm được quyền lực chính trị cùng với sức mạnh kinh tế nhờ vào nền kỹ nghệ sản xuất. Do bành trướng thị trường, giới tư sản đã thiết lập được các mạng lưới mậu dịch nhờ đó mang về các nguyên liệu rẻ tiền đồng thời giới tư sản này siết chặt quyền kiểm soát tư bản, các phương tiện sản xuất và trao đổi. Sự bành trướng kỹ nghệ đã khiến cho gia tăng giai cấp công nhân vô sản, họ là những người giỏi làm việc hay không có tay nghề, và gồm cả các phụ nữ. Một số người thuộc tầng lớp thấp kém của giai cấp tư sản cũng dần dần tham gia vào giai cấp vô sản đang lớn mạnh này.
Theo Marx và Engels, trước các bóc lột, giới vô sản sẽ tham gia vào các nghiệp đoàn để đòi hỏi tăng lương. Các vụ rối loạn đôi khi xẩy ra, nghiệp đoàn có khi bị coi là bất hợp pháp nhưng các công nhân dần dần đoàn kết lại, để chống lại các kẻ đàn áp. Sẽ có một cuộc cách mạng, chế độ mới được gọi là “cộng sản”, sẽ kiểm soát chính quyền vì quyền lợi của giới vô sản. Trong xã hội cộng sản này, quyền tư hữu sẽ bị bãi bỏ, các nhà máy và các phương tiện sản xuất sẽ thuộc về Nhà Nước (state). Nhà Nước kiểm soát ngân hàng, nền kinh tế, các phương tiện giao thông và truyền thông. Nhà Nước chăm lo công việc giáo dục. Sẽ có thuế nặng để chi trả các chi phí nhưng mục đích của các hoạt động xã hội là sự an lạc của giai cấp lao động, giai cấp này lớn mạnh dần khiến cho sẽ không còn sự phân biệt giai cấp nữa và mọi người sẽ “làm việc theo năng lực, hưởng thụ theo nhu cầu”.
Những lời tiên đoán của Marx và Engels đã bị chứng minh hoàn toàn sai, bởi vì sau khi chế độ cộng sản lan tràn tại nước Nga và tại phần Đông Âu sau Thế Chiến Thứ Hai, giới đảng viên Cộng Sản đã khéo léo bóc lột nhân dân hơn cả bọn tư bản, đã hưởng thụ mọi đặc quyền đặc lợi một cách kín đáo nhờ tuyên truyền bịp bợm về công bằng trong khi ngoài xã hội, hai tầng lớp “công nhân và nông dân” thực sự vẫn nghèo khổ, vẫn bị bóc lột và khai thác tàn tệ mà không được phép kêu than bởi vì mọi tổ chức xã hội do Đảng Cộng Sản độc quyền nắm giữ, mọi sinh hoạt xã hội do bọn Công An canh chừng và theo dõi nghiêm ngặt.
Do quan niệm về Tiến Hóa đã được mọi người quan tâm trong thế kỷ 19, Karl Marx đã dùng lý thuyết về “Đấu Tranh Giai Cấp” để cắt nghĩa lịch sử và tin rằng điều này không thể bác bỏ được. Ngoài ra, một đóng góp khá sâu xa của Karl Marx về kinh tế, lịch sử và các ngành khoa học xã hội là cách phát triển một nguyên tắc được gọi là “Duy Vật Biện Chứng” (dialectical materialism), một danh từ vừa mơ hồ, vừa khó hiểu.
Phương pháp biện chứng (dialectical method) bắt nguồn từ nhà triết học người Đức Georg Wilhelm Hegel (1770 – 1831) chủ trương rằng mọi sự vật đều ở trong trạng thái biển đổi. Sở dĩ có sự tiến bộ là do phản lực của các lực đối kháng. Thí dụ hệ thống thuộc địa của người Anh đối nghịch do cuộc Cách Mạng tại Bắc Mỹ đã sinh ra nước Hoa Kỳ và như vậy “định luật của đời sống là các tương phản do chiến tranh với kết quả là các phát triển”. Chủ đề này đã dẫn Karl Marx tới cách thành lập lý thuyết về Duy Vật Sử Quan (the theory of historical materialism) hay cách cắt nghĩa lịch sử bằng kinh tế. Marx và Engels đã cho rằng “lịch sử của các xã hội hiện hữu là lịch sử của giai cấp đấu tranh. Người tự do và kẻ nô lệ, giới quý tộc và giới hạ lưu, hạng hầu tước và hạng nông nô, giới chủ và giới thợ, tóm lại các kẻ áp chế và các kẻ bị áp chế luôn luôn đối đầu với nhau, họ thường xuyên gây chiến với nhau”.
Trong bài điếu văn nói về Marx, Engels cho biết rõ hơn: “Karl Marx đã khám phá ra một sự việc đơn giản, ẩn nấp dưới sự phát triển ý thức hệ, đó là các con người trước tiên cần tới đồ ăn và nước uống, quần áo và nơi trú ẩn trước khi quan tâm tới chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo. Điều này có nghĩa là việc sản xuất ra các phương tiện sinh tồn và các giai đoạn của cuộc phát triển kinh tế của một quốc gia hay một thời đại, đã tạo nên nền móng của các định chế của quốc gia, cũng như các quan niệm về luật pháp, nghệ thuật và ngay cả các ý tưởng tôn giáo”. Tóm lại, cuộc tranh giành vì đồ ăn và nơi trú ẩn rõ ràng xác định mọi hành động của con người.
Theo Karl Marx, lịch sử của nhân loại bao gồm các bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp kia. Trong thời tiền sử, chỉ có các bộ lạc, đây là loại xã hội không giai cấp nhưng cũng theo Marx, các giai cấp lớn dần theo thời gian, đầu tiên xuất hiện các nô lệ rồi các nông nô, kế tới là giới nô lệ không tài sản và lãnh lương trong chế độ tư bản. Áp dụng lý thuyết Duy Vật Biện Chứng, Karl Marx kết luận rằng bước tiến không tránh khỏi là một cuộc cách mạng của các công nhân, là “nền độc tài của giai cấp vô sản” rồi tới quyền sở hữu cộng đồng và sự quay về cách tổ chức một xã hội không giai cấp. Trong cuốn “Tư Bản Luận”, Marx đã làm phát triển một trường hợp chống lại hệ thống tư bản để chứng minh rằng chế độ này về sau sẽ bị tiêu diệt, một điều không tránh khỏi.
Những người Cộng Sản coi sự đóng góp quan trọng thứ hai của Karl Marx vào nền khoa học xã hội là “lý thuyết về giá trị lao động” (the theory of labor value). Thực ra, căn gốc của lý thuyết này cũng không phải của Karl Marx. Dựa theo các nhà kinh tế của các thời đại trước như Adam Smith và David Ricardo, Marx xác nhận rằng lao động là nguồn gốc của mọi giá trị. Marx đã dẫn chứng lời nói của Benjamin Franklin theo đó “một cách tổng quát, mậu dịch là sự trao đổi giữa các lao động, giá trị của mọi thứ được đo lường bằng lao động”. Từ Adam Smith, Marx đã mượn định nghĩa về tư bản như sau: “tư bản là một lượng lao động được lưu trữ”, còn Ricardo đã từng nói rằng giá trị (value) và giá tiền (price) của bất cứ một vật dụng nào phải được xác định theo số lượng lao động bên trong.
Dùng các tiêu chuẩn kể trên, Karl Marx làm phát triển lý thuyết về “giá trị thặng dư”, vấn đề này được xác định trong cuốn sách “Phê Bình nền Kinh Tế Chính Trị Học” (Critique of Political Economy, 1859) và cũng được xét lại trong tác phẩm “Tư Bản Luận” theo đó người công nhân vì không có tài sản nên chỉ có một thứ hàng hóa (commodity) để bán hầu mong tránh khỏi bị chết đói, đó là sức lao động của chính mình. Chủ nhân đã mua thứ hàng hóa này với giá rẻ mạt, vì vậy giá trị thực của sức lao động không đúng theo số tiền lương đã trả cho người công nhân. Người công nhân được trả 4 xu do làm việc 6 giờ, nhưng đã bị bắt buộc lao động trong 10 giờ. Số 4 giờ dư này đã bị giới tư bản ăn chặn. Karl Marx lý luận rằng vì vậy, lợi tức, tiền lời v.v. đều xuất ra từ sự thặng dư lao động do người công nhân bị bóc lột và như vậy hệ thống tư bản chỉ là một chế độ khai thác và bóc lột giới lao công.
Lý thuyết về giá trị và thặng dư lao động của Karl Marx đã được dùng trong các công tác tuyên truyền và khuấy động. Ngày nay, các nhà kinh tế đã coi lý thuyết này vô giá trị. Một lý do để bác bỏ lý thuyết về sức lao động của người công nhân là việc dùng tới các máy móc (machinery) nhờ đó đã có các thay đổi lớn lao về sức lao động cần dùng. Solomon Bennett Freehof đã viết rằng: “nhà hóa học đã khám phá ra cách làm cho đất đai phì nhiêu gấp 100 lần sức sản xuất của 10 triệu nông dân. Năng suất (productivity) được tạo nên do nhà hóa học”. Một học giả khác lý luận rằng: “người ta lặn xuống nước mò ngọc trai bởi vì ngọc trai có giá trị, ngọc trai có giá trị không vì công sức của thợ lặn”. Karl Marx đã không biết rằng khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, các cách quản lý và tổ chức đã góp phần vào các giá trị (values) và các giá tiền (prices). Mặt khác, các nhà kinh tế cũng không đồng ý với Karl Marx về cách đo lường giá trị. Các tiêu chuẩn được chấp nhận là sức cầu (demand) và công dụng (utility) của món hàng.
Trở về lý thuyết giá trị thặng dư (surplus value theory), Karl Marx tin rằng các nhà tư bản cố công bóc lột các công nhân bằng cách kéo dài thời giờ làm việc, giảm bớt lương bổng, dùng các lao động rẻ tiền hơn như đàn bà và trẻ em. Karl Marx mô tả như sau: “giới tư bản đã cắt xén người lao động thành một phần của con người, làm giảm giá con người tới mức độ là một thành phần của máy móc, phá hủy những điều thích thú trong việc làm và biến người công nhân thành một dụng cụ đáng ghét. Giới tư bản đã bóp nghẹt các tiềm năng trí thức của người công nhân, làm lệch đi các điều kiện lao động, bắt người công nhân phải sống trong một chế độ độc đoán, khiến cho người công nhân phải thêm giờ làm việc và lôi cuốn vợ con của người công nhân nằm dưới bánh xe khủng khiếp của tư bản”.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 28, 2006 5:43:57 GMT 9
Karl Marx nhấn mạnh rằng việc trang bị các máy móc để gia tăng sản xuất không làm dễ dàng cho người công nhân mà còn tạo ra nạn thất nghiệp, nạn khai thác đàn bà và trẻ em; cách sản xuất quá mức các hàng hóa làm mất đi hứng thú của người công nhân trong việc làm. Karl Marx xác nhận rằng “máy móc là vũ khí mạnh nhất để đàn áp các vụ đình công, tức là các vụ nổi loạn của giới công nhân chống lại nền độc tài của giới tư bản. Máy hơi nước là bước đầu tiên của nhà tư bản đạp lên các đòi hỏi của các công nhân. Kể từ năm 1830 có cả một lịch sử các phát minh được dùng làm vũ khí chống lại các vụ nổi dậy của giới công nhân”.
Karl Marx còn cho rằng “sự quá đông dân” (overpopulation) luôn luôn đi kèm với con đường tư bản, khi mà các kỹ nghệ mới được tạo ra, các kỹ nghệ cũ được sửa lại thì hệ thống tư bản cần đến “một đạo quân trừ bị của kỹ nghệ” (an industrial reserve army). Sự thặng dư lao động dẫn tới các suy thoái kinh tế (depressions) và các khủng hoảng (panics). Bởi vì các công nhân bị trả lương tối thiểu, họ không thể mua nổi các sản phẩm mà nhà máy làm ra, các thị trường bị ứ đọng, sức lao động giảm đi và tiếp theo là các suy thoái kinh tế. Trong khi tìm tòi các lối thoát cho các nhà kho chứa đầy hàng hóa, nhà tư bản chuyển sản phẩm sang các thị trường ngoại quốc, cố gắng tìm kiếm các xứ chậm tiến để đổ tháo các hàng hóa mà người công nhân không có khả năng mua vào. Sự cố gắng này và việc tìm kiếm các nguyên liệu rẻ tiền để giữ cho các nhà máy tiếp tục hoạt động đã dẫn tới các xung đột quốc tế và các cuộc chiến đế quốc.
Karl Marx tin tưởng rằng kết quả của các xung đột và rối loạn của chủ nghĩa tư bản là sự gia tăng việc tập trung và độc quyền bởi vì “một nhà tư bản sẽ giết chết các nhà tư bản khác”. Như vậy giới trung lưu sẽ biến đi, các tư bản nhỏ sẽ bị các tư bản lớn nuốt mất và cuối cùng chỉ còn một số nhỏ tư bản gộc đối đầu với giới vô sản là đa số. Lúc này là cơ hội của giai cấp vô sản. Trong cuốn Tư Bản Luận, có đoạn nói như sau: “Trong khi số các tài phiệt lớn giảm dần thì cũng tăng dần số lượng nghèo khó, đàn áp, nô lệ hóa, xuống cấp và bóc lột. Đồng thời cũng gia tăng lòng phẫn nộ của giai cấp lao động, một hạng người mỗi ngày một đông hơn, có kỷ luật hơn, biết đoàn kết và có tổ chức. Sự độc quyền của chế độ tư bản trở thành cách kiềm chế phương pháp sản xuất trước kia đã phát triển. Việc tập trung các phương tiện sản xuất và xã hội hóa lao động đi tới một điểm không thích ứng với lớp vỏ ngoài tư bản khiến cho lớp vỏ này bị vỡ ra từng mảnh. Sẽ vang lên hồi chuông báo tử của nền tư sản và các nhà tư bản sẽ bị tịch thu tài sản”.
Theo Karl Marx, cuộc đấu tranh giai cấp sẽ chấm dứt bằng chiến thắng của giai cấp vô sản. Sau khi nắm chính quyền, giai cấp này sẽ thiết lập nền độc tài và Karl Marx báo trước rằng “đây là giai đoạn chuyển tiếp tới việc hủy bỏ mọi giai cấp và tới việc tạo ra một xã hội tự do và công bằng”. Karl Marx không nói rõ nền độc tài của giai cấp vô sản sẽ kéo dài trong bao lâu. Đất nước Liên Xô nằm trong tầm tay của chế độ cộng sản độc tài sắt máu hơn 70 năm mà người dân Nga vẫn nghèo đói, vẫn ngạt thở. Hơn nữa Karl Marx rất mơ hồ trong việc mô tả một xã hội không giai cấp mà chỉ nói rằng mục đích chính của xã hội cộng sản là “mỗi cá nhân được phát triển toàn diện và hoàn toàn tự do” theo đúng nguyên tắc cộng sản là “mọi người làm việc theo năng lực và hưởng thụ theo nhu cầu” (From each according to his abilities, to each according to his needs!)
Giấc mơ không tưởng hoàn toàn đẹp đẽ này rất tương phản với công cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu và vô cùng tàn ác đã từng xẩy ra trong các xứ cộng sản. Ngoài ra Karl Marx còn công bố rằng các tôn giáo cổ xưa như Thiên Chúa giáo, đã dạy cho mọi người cách cam chịu số mệnh, khuyến khích các đức tính nhẫn nhục và khiêm tốn, vì vậy Karl Marx coi tôn giáo là “thuốc phiện của dân chúng”, đã làm cho giai cấp vô sản mù lòa, không nhìn thấy đường lối phải đi và tôn giáo đã đặt các chướng ngại trên con đường cách mạng.
Theo thực tế, lý thuyết và các tiên đoán của Karl Marx đã hàm chứa các sai nhầm căn bản bởi vì chế độ tư bản đã đi theo một con đường khác, bởi vì trong khi xã hội tư bản phát triển thì các sửa chữa vẫn được thực hiện. Tại các quốc gia tư bản, giai cấp công nhân đã không bị nghèo đói. Các nghiệp đoàn lao động và các luật lệ của chính quyền đã kiểm soát sự cạnh tranh, loại bớt các bất công và các xấu xa của chế độ tư bản, mang lại sự phong phú cho mọi người. Karl Marx đặt hy vọng vào tình đoàn kết quốc tế của các công nhân trên toàn thế giới nhưng thực tế cho thấy đã xẩy ra các trận chiến cục bộ giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và Trung Cộng, giữa Trung Cộng và Việt Cộng, giữa Việt Cộng và Khmer Đỏ, và các xung đột giữa các xứ cộng sản như Liên Xô và Nam Tư, Liên Xô và Albany. Karl Marx cũng tiên đoán rằng các cuộc cách mạng vô sản sẽ bùng nổ tại các quốc gia kỹ nghệ cao như nước Anh, nước Đức, Hoa Kỳ v.v. trong khi Liên Xô và Trung Quốc bị Karl Marx khinh rẻ, không coi là các nơi thích hợp cho chế độ cộng sản. Nhìn lại lịch sử của Liên Xô, mọi người thấy rằng quốc gia này không phải là một đất nước Cộng Sản và Stalin không phải là một con người Cộng Sản theo như Karl Marx đã định nghĩa, và các lãnh tụ Cộng Sản kể từ Lenin đã dễ dàng tuyên truyền Chủ Nghĩa Mác Xít hơn là thực hiện đúng theo chủ nghĩa này, cho nên có người đã nói rằng “nếu Karl Marx sống vào thời Stalin, ông ta sẽ chết sớm”.
Tập sách đầu tiên của Bộ “Tư Bản Luận” được xuất bản vào năm 1867, đã được coi là “Thánh Kinh của giai cấp lao động”. Sau khi Karl Marx qua đời vào năm 1883, Fredrick Engels đã thu thập các tài liệu của Marx một cách thiếu đầy đủ, thiếu xếp đặt phân minh rồi Tập II ra đời vào năm 1885 và Tập III vào năm 1894. Hai tập sách này đề cập tới “sự lưu thông của tư bản” (the circulation of capital) và phương pháp sản xuất của chế độ tư bản. Đối với 3 tập sách, nhiều người chỉ đọc Tập I và danh tiếng của Karl Marx nhờ vào tập sách này. Ngoài ra Karl Marx còn viết ra tập thứ tư, tên gọi là “Lý thuyết của Giá Trị Thặng Dư” (The Theory of Surplus Value) do Karl Kautsky biên tập từ các bản thảo của Karl Marx và xuất bản tại nước Đức từ năm 1905 tới 1910.
Cuốn “Tư Bản Luận” (Das Kapital) là một cuốn sách khó hiểu. Nhà phê bình Barzun đã mô tả cuốn này là “viết dở, thiếu thứ tự, thiếu lý luận và tính đồng nhất về tài liệu”. Nhà sử học William Henry Chamberlin bình luận rằng phương pháp Duy Vật Sử Quan của Karl Marx đã bỏ qua các yếu tố quan trọng như sắc dân, tôn giáo và đặc tính quốc gia, đã không kể tới sự quan trọng của bản chất con người. Một nhà phê bình khác nhận xét rằng Karl Marx gây nên nhiều chết chóc, nghèo khổ, suy thoái và thất vọng cho nhân loại, nhiều hơn tất cả các nhà tư tưởng khác. Theo Thomas Patrick Neill, Karl Marx là “lãnh tụ đại diện cho các kẻ không có gì (the have-nots) trong công cuộc chống lại các kẻ có tài sản (the haves)”. Karl Marx thôi thúc lòng tham vọng và ghen tuông về quyền lực, chủ trương phá bỏ nền đạo lý đương thời, bởi vì ông ta quá kiêu căng, nhiều ghen tức.
Karl Marx vì sống trong cảnh nghèo túng, đã nói lên các bất công trong xã hội tư bản khiến cho xã hội này phải sửa chữa các sai lầm; mặt khác, lý thuyết của Karl Marx có sức tàn phá ghê gớm, đã từng giết hại hàng chục triệu con người vô tội trong chính các xứ cộng sản do chủ trương “đấu tranh giai cấp”.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 11, 2007 9:59:47 GMT 9
Richard Pipes Chủ nghĩa cộng sản Phạm Minh Ngọc dịch 1 Lời nói ðầu
Ðây là cuốn sách nhập môn và ðồng thời cũng là lời ai ðiếu cho chủ nghĩa cộng sản. Vì rõ ràng rằng nếu một lúc nào ðó trong týõng lai, việc tìm kiếm một sự bình ðẳng hoàn toàn, một tý týởng từ thời cổ ðại ðã thúc ðẩy các chiến sĩ ðấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản không týởng, có ðýợc tái tục thì cõ sở của những sự tìm kiếm nhý thế sẽ không phải là chủ nghĩa Marx-Lenin nữa. Chủ nghĩa này ðã không còn một chút hấp dẫn nào, ngay cả những ngýời cộng sản thời hậu Xôviết ở Nga cũng nhý tại nhiều nýớc khác, trong các chiến dịch tranh cử, ðã phải thay nó bằng cýõng lĩnh dân chủ xã hội pha trộn thêm màu sắc dân tộc chủ nghĩa. Vì thế hôm nay chúng ta ðã có ðủ ðiều kiện lập bảng tổng kết cái phong trào ðã từng giữ thế thýợng phong trong suốt thế kỉ XX và xác ðịnh xem liệu sự sụp ðổ của nó có phải là hậu quả của những sai lầm của một số ngýời nào ðó hay ðây là kết quả của những khiếm khuyết trong chính bản chất của nó.
Từ chủ nghĩa cộng sản xuất hiện ở Paris vào nãm 1840, liên quan ðến ba khái niệm khác nhau nhýng gắn bó mật thiết với nhau: lí týởng, cýõng lĩnh hành ðộng và chế ðộ nhận lãnh trách nhiệm biến lí týởng thành hiện thực.
Lí týởng bình ðẳng tuyệt ðối (thí dụ trong một số trýớc tác của Platon) ðòi hỏi cá nhân phải tan biến vào tập thể. Vì bất bình ðẳng về mặt xã hội và kinh tế có nguyên nhân chủ yếu từ sự bất bình ðẳng về tài sản, muốn bình ðẳng thì từng ngýời phải từ bỏ “của tôi” và “của anh”, nói cách khác từ bỏ tý hữu. Lí týởng này có nguồn gốc lịch sử lâu ðời và thỉnh thoảng lại tái xuất hiện trong lịch sử tý týởng phýõng Tây, kể từ thế kỉ thứ VII trýớc công nguyên cho ðến tận ngày nay.
Cýõng lĩnh cộng sản xuất hiện vào khoảng giữa thế kỉ XIX và gắn bó trýớc hết với tên tuổi của Karl Marx và Friedrich Engels. Trong Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản nãm 1848, Marx và Engels viết: “những ngýời cộng sản có thể tuyên bố học thuyết của mình bằng một câu thôi: bãi bỏ tý hữu”. Engels khẳng ðịnh rằng bạn ông ðã ðýa ra một lí thuyết khoa học chứng minh tính tất yếu của sự cáo chung của những xã hội dựa trên khác biệt về mặt giai cấp.
Mặc dù trong lịch sử loài ngýời lí týởng cộng sản cũng ðã ðôi ba lần ðýợc ðýa ra thực hiện, nhýng sử dụng toàn bộ sức mạnh của nhà nýớc cho một thí nghiệm nhý thế chỉ mới ðýợc thực hiện lần ðầu tiên ở nýớc Nga từ nãm 1917 ðến nãm 1991. Vladimir Lenin, ngýời sáng lập chế ðộ ðó, cho rằng ðấy là một xã hội bình ðẳng, không còn tý hữu, sinh ra nhờ chuyên chính vô sản, một nền chuyên chính gánh trên vai trách nhiệm bãi bỏ tý hữu và ðặt nền móng cho con ðýờng tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Chúng ta sẽ theo dõi chủ nghĩa cộng sản theo ðúng trình tự nhý thế vì nhý thế là hợp lôgích và vì chủ nghĩa này cũng xuất hiện theo trình tự: ðầu tiên là lí týởng, sau ðó là kế hoạch thực hiện và cuối cùng là biến lí thuyết thành hiện thực. Nhýng chúng ta sẽ quan tâm chủ yếu ðến việc thực hiện bởi vì tự bản thân lí týởng và cýõng lĩnh là những thứ vô hại, trong khi việc thực hiện chúng, nếu lại sử dụng toàn bộ sức mạnh của nhà nýớc, có thể dẫn tới những hậu quả không thể lýờng ðýợc.
I. Lí thuyết và cýõng lĩnh của chủ nghĩa cộng sản
Tý týởng về một xã hội phi giai cấp xuất hiện lần ðầu tiên tại Hy Lạp cổ ðại. Hy Lạp cổ ðại là nýớc ðầu tiên trên thế giới công nhận quyền tý hữu ruộng ðất, ruộng ðất ðýợc coi là hàng hoá vì vậy cũng là nõi ðầu tiên ðối mặt với sự bất bình ðẳng xã hội có nguồn gốc từ quyền tý hữu. Hesiodos, một ngýời ðýõng thời với Homer (thế kỉ thứ VII trýớc công nguyên), trong trýờng ca Lao ðộng và ngày tháng ðã ca ngợi “Thời hoàng kim” huyền thoại, khi con ngýời chýa “nhiễm thói xấu là chạy theo ðồng tiền”, khi của cải vẫn còn dý thừa và mọi ngýời ðều ðýợc quyền sử dụng nhý nhau, nhân loại sống trong một nền hoà bình vĩnh viễn. Ðề tài “Thời hoàng kim” còn trở lại trong tác phẩm của hai thi sĩ ngýời Roma là Vergilius và Ovidius; Ovidius viết về những giai ðoạn khi con ngýời chýa biết ðến các khái niệm nhý “cột mốc biên giới và hàng rào”.
Lí týởng cộng sản lần ðầu tiên ðýợc Platon ðịnh danh về mặt lí luận trong các trýớc tác của mình. Trong tác phẩm Cộng hoà, thông qua Socrates, Platon khẳng ðịnh rằng bất hoà và chiến tranh có nguồn gốc từ sở hữu:
“Sự khác nhau nhý thế thýờng xảy ra do bất ðồng về những từ nhý ‘của tôi’ và ‘không phải của tôi’, ‘của anh ta’ và ‘không phải của anh ta’… Chả lẽ việc xây dựng một nhà nýớc, nõi ða số ngýời cùng sử dụng những từ nhý ‘của tôi’ và ‘không phải của’ ðối với cùng một loại ðồ vật không phải là cách làm tốt nhất hay sao?”
Trong các phẩm Các qui luật, Platon còn dự báo một xã hội, nõi ngýời ta không những sở hữu chung tất cả, kể cả vợ con mà còn:
“riêng tý và tý hữu bị loại bỏ khỏi ðời sống, những thứ về bản chất là riêng, thí dụ nhý mắt và tay cũng trở thành của chung và ở mức ðộ nào ðó ngýời ta cùng nhìn, cùng nghe và cùng hành ðộng, tất cả mọi ngýời cùng ca tụng hay cùng lên án, cùng vui cùng buồn vì cùng những lí do nhý nhau”
Aristotle, học trò của Platon, lại ngờ rằng cái Utopia cộng sản ðó sẽ không ðem lại hoà bình vì một lí do ðõn giản là khi cùng sở hữu thì ngýời ta dễ sinh ra cãi cọ hõn là tý hữu. Hõn nữa, ông khẳng ðịnh rằng nguồn gốc của các tranh chấp không nằm ở sự tý hữu mà ở ýớc muốn ðýợc sở hữu: “không cần cào bằng sở hữu mà phải san bằng ýớc muốn của con ngýời”.
Nhiều ngýời có quan niệm lầm lẫn rằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản chỉ là kiến giải mang tính thế tục, hiện ðại, của Thiên chúa giáo mà thôi. Nhýng sự khác nhau, nhý Vladimir Sovoliev ðã chỉ rõ, nằm ở chỗ nếu Chúa Giêsu chỉ kêu gọi các ðồ ðệ của ông từ bỏ sở hữu của chính họ thì các nhà xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa lại muốn týớc ðoạt sở hữu của ngýời khác. Hõn nữa, Chúa Giêsu chýa bao giờ kêu gọi ngýời ta phải sống trong nghèo ðói, ông chỉ nói rằng ngýời nghèo thì dễ ðýợc cứu chuộc hõn mà thôi. Câu nói nổi tiếng của Thánh Phao Lồ về tiền bạc cũng hay bị ngýời ta trích dẫn sai: ông không nói rằng “tiền là nguồn gốc của tội lỗi” mà cho rằng nguồn gốc của tội lỗi là “tình yêu ðối với tiền bạc”, nói cách khác, nguồn gốc của tội lỗi là lòng tham. Thánh Augustine từng hỏi: “Vàng là vật không tốt sao?” và ông ðã trả lời: “Không, vàng là tốt. Nhýng kẻ ác dùng vàng ðể làm ðiều ác, còn ngýời thiện thì dùng vàng vào việc thiện”.
Những ngýời sáng lập nhà thờ Thiên chúa giáo và các nhà thần học sau này ðều có quan ðiểm thực dụng ðối với vấn ðề sở hữu. Theo Thánh Augustine, xã hội không có sở hữu chỉ có thể tồn tại trên Thiên ðýờng, chỉ tồn tại trong “Thời hoàng kim”, do mắc tội tổ tông mà loài ngýời ðã ðánh mất. Vì sự thiếu hoàn thiện của chính con ngýời cho nên sở hữu là phù hợp với ðạo lí nếu ngýời ta sử dụng nó một cách thông minh và cho những mục ðích từ thiện. Nhà thờ Thiên chúa giáo không những không cổ xuý cho sự nghèo ðói mà còn từ bỏ, thậm chí sãn ðuổi những kẻ cố tình làm nhý thế. Những ngýời sáng lập ðạo Tin lành, ðặc biệt là Calvin, coi giầu có là hạnh phúc và dấu hiệu của lòng nhân từ của Chúa.
Nhýng quan niệm về “Thời hoàng kim” luôn luôn hiện diện trong tâm trí ngýời châu Âu. Các nhà hàng hải thời xa xýa khát khao tìm kiếm không chỉ eldorado [1] và các vùng ðất huyền thoại khác, nõi vàng bạc nằm ðầy dýới chân chẳng khác gì bụi ðất mà còn khát khao tìm kiếm những hòn ðảo thiên ðýờng trên trái ðất, truyền thuyết về những vùng ðất nhý thế từng lýu hành ở châu Âu thời Trung cổ. Và, khi lần ðầu tiên cập cảng châu Mĩ, nhìn thấy những ngýời da ðỏ trần truồng thì họ tin chắc rằng ðã thành công: không có cảm giác xấu hổ không phải là dấu hiệu của cuộc sống trýớc khi phạm tội tổ tông ðó ý? Nếu quả thật các thổ dân ðó sống trong thiên ðýờng thì nhất ðịnh họ không có khái niệm gì về sở hữu. Khi quay trở về, Columbus thông báo rằng thổ dân ở ðấy là những ngýời “chất phác” và “nếu hỏi xin thì không bao giờ họ từ chối chia sẻ những thứ họ có; ngýợc lại, ai họ cũng mời”. Ông không rõ họ có khái niệm về tý hữu hay không, nhýng nhận xét thêm: “Tất cả mọi ngýời ðều dùng chung, ðặc biệt nếu nói về thức ãn”.
Những cảm giác ngây thõ ðầu tiên về ngýời da ðỏ châu Mĩ mau chóng nhýờng chỗ cho những ðánh giá thực tế hõn, nhýng chúng ðã kịp giúp tạo ra một nền vãn chýõng không týởng, một phần không thể tách rời của tý týởng phýõng Tây từ ðó ðến nay. Vùng ðất Utopia ðặc trýng nhất ðýợc mô tả trong tác phẩm cùng tên của Thomas More, xuất bản nãm 1516, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, chính là lấy cảm hứng từ báo cáo của Columbus và các nhà thám hiểm khác. Nhýng ðấy không phải là vùng ðất tốt ðẹp nhý ngày nay ta quan niệm về Utopia, ðấy là một xã hội rất nghiêm khắc và tuân theo các qui ðịnh rất khắt khe, tất cả mọi ngýời ðều mặc nhý nhau, ðều sống trong những ngôi nhà giống nhau, không ðýợc ði ðâu nếu chýa có giấy thông hành, không ðýợc tự ý thảo luận các vấn ðề xã hội, hình phạt có thể là tử hình. Tiền bị bãi bỏ, vàng bạc ðýợc dùng ðể chế tạo ra những cái bô dùng vào ban ðêm. Ðề tài chung của những tác phẩm không týởng sau này, cũng nhý của More, ðều xoay quanh việc thiếu vắng sự giàu sang cá nhân, cũng nhý việc sử dụng bạo lực của xã hội ðối với cá nhân con ngýời: cả trong lí thuyết lẫn trên thực tế, Utopia nghĩa là cá nhân phải khuất phục chính quyền, con ngýời buộc phải làm cái mà nếu ðýợc tự do anh ta có thể không muốn làm.
Cần phải nói rằng lí týởng về một “Thời kì vàng son” mà không có tý hữu chỉ là một huyền thoại, một sản phẩm của ýớc mõ chứ không phải là sản phẩm của trí nhớ vì các nhà sử học, các nhà khảo cổ học và các nhà nhân chủng học ðã thống nhất rằng chýa ở ðâu và chýa bao giờ có chuyện tý liệu sản xuất từng là của chung. Tất cả các sinh vật sống, từ những thực thể ðõn giản nhất cho ðến những sinh vật phát triển nhất ðều cần phải kiếm thức ãn, mà nhý thế, phải có quyền sở hữu không gian sinh tồn. Trong hàng ngàn nãm, trýớc khi ðịnh cý và chuyển sang chãn nuôi và làm nông nghiệp, con ngýời ðã sống bằng sãn bắn và hái lýợm, các nhóm ngýời gắn bó với nhau bằng quan hệ họ hàng ðã khẳng ðịnh ðộc quyền chiếm hữu của mình trên những vùng ðất nhất ðịnh, họ luôn luôn xua ðuổi hoặc giết hại những kẻ ngụ cý. Yêu sách về sở hữu càng cãng thẳng thêm khi ngýời ta chuyển sang sản xuất nông nghiệp, tức là cách ðây khoảng mýời ngàn nãm về trýớc, vì làm ðất là một công việc nặng nhọc và không thể có kết quả tức thời.
Trong những nền vãn minh cổ ðại, cách ðây khoảng nãm ngàn nãm về trýớc, tại Ai-Cập và Lýỡng Hà, ruộng ðất là tài sản của triều ðình. Chúng ta có thể khẳng ðịnh chắc chắn rằng Israel cổ ðại là nýớc ðầu tiên có sở hữu tý nhân về ruộng ðất. Chúa Trời trong Cựu Ýớc nguyền rủa bất cứ kẻ nào dám di chuyển các phiến ðá ngãn cách, trong Kinh Cựu Ýớc còn có mấy cuốn có những ðoạn nói về các gia ðình hoặc một số ngýời có ruộng ðất và bãi chãn thả riêng. Nhýng việc sở hữu ruộng ðất ở Israel cổ ðại còn bị hạn chế bởi một loạt qui ýớc về tôn giáo và chủng tộc. Chỉ ở Hy Lạp cổ ðại là từ xa xýa ðất ðai ðã là tài sản riêng. Nói cách khác, không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng ở một thời rất xa nào ðó ðã từng có những xã hội không biết ðến “cột mốc biên giới và hàng rào”, chýa từng có xã hội nào không công nhận “của tôi” và “của anh”.
Bằng cách ðýa ra quan niệm về bản chất của con ngýời, các nhà tý týởng thời Khai sáng ðã có ðóng góp to lớn vào lí thuyết của chủ nghĩa xã hội. Tại phýõng Tây ngýời ta thýờng quan niệm rằng con ngýời gồm có hai phần là thể xác và tinh thần, do Chúa Trời sáng tạo nên; ngýời ta tin rằng tinh thần ðã mang sẵn các tý týởng và giá trị ngay từ khi lọt lòng mẹ. Ðấy là quan ðiểm bảo thủ vì nó khẳng ðịnh sự bất biến của bản chất con ngýời: bản chất của một ngýời ðã và sẽ mãi mãi nhý thế. Nói cách khác nếu một ngýời nào ðó có máu tham thì anh ta sẽ mãi mãi là một ngýời tham lam.
John Locke, triết gia ngýời Anh ðã phản ðối quan ðiểm nhý thế; trong tác phẩm Kinh nghiệm về nhận thức của con ngýời, ông ðã phủ nhận sự tồn tại của “các tý týởng bẩm sinh”. Theo Locke, trí não (hay tâm hồn) khi mới sinh ra vốn là một tờ giấy trắng: tất cả các tý týởng và giá trị ðều có nguồn gốc từ kinh nghiệm. Lí thuyết này cho rằng bản chất của con ngýời là mềm dẻo, không cố ðịnh, vì vậy có thể giáo dục ðýợc, trong khuôn khổ mà tính thiện của họ - các nhà triết học công nhận rằng bản chất con ngýời vốn là thiện – có thể lấn lýớt ðýợc thói ích kỉ. Claude Adrien Helvetius, một tý týởng gia ngýời Pháp thế kỉ XVIII còn chứng minh rằng việc giáo dục ðúng cách và pháp luật không những có thể tạo ðiều kiện mà còn bắt buộc ngýời ta ðạt ðýợc phẩm hạnh hoàn hảo. Lí thuyết về tâm lí học cực kì ðáng ngờ này ðã trở thành di sản của chủ nghĩa tự do phóng khoáng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; các chủ nghĩa này, ở những mức ðộ khác nhau, ðều dựa vào giáo dục và/hoặc bạo lực nhằm ðạt ðýợc các mục ðích của mình. Ở một số khía cạnh nào ðó, nhà nýớc cộng sản do Lenin thành lập ở nýớc Nga vào tháng 11 nãm 1917 chính là một cuộc thí nghiệm vĩ ðại trong việc giáo hoá xã hội, theo mô hình của Helvetius nhằm tạo ra con ngýời hoàn toàn mới, con ngýời ðã giải thoát khỏi những thói hý tật xấu cũ, kể cả ýớc muốn tìm kiếm sự giầu sang.
Các nhà tý týởng cấp tiến ngýời Pháp thế kỉ XVIII là những ngýời ðầu tiên ðýa ra cýõng lĩnh cộng sản, kêu gọi bãi bỏ tý hữu vì ðấy là nguyên nhân của mọi tai hoạ trên ðời. Morelly, trong bản luận vãn Le Code de la Nature, ðã viết nhý sau:
“Thói xấu duy nhất ở trên ðời mà tôi biết chính là lòng tham, tất cả những cái khác, dù có gọi là gì thì cũng chỉ là hình thức hoặc mức ðộ của nó mà thôi… Hãy phân tích thói háo danh, tính kiêu ngạo, giả dối, ðạo ðức giả, sự ðộc ác; hãy tự khảo sát phần lớn các ðức tính tốt của chúng ta, hoá ra tất cả ðều hoà tan trong cái bản nãng quỉ quyệt và tai hại, là khát vọng chiếm hữu.”
Nhý vậy, luận ðiểm cho rằng tâm lí của con ngýời ðýợc quyết ðịnh bởi các ðiều kiện kinh tế chính là nền tảng của tất cả các học thuyết xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 11, 2007 10:05:30 GMT 9
Cho ðến giữa thế kỉ XIX lí týởng bình ðẳng vẫn chỉ là hoài bão, ðôi khi cũng gây ra những vụ bạo lực, nhýng chýa hề có lí luận hay chiến lýợc gì. Thí dụ, thế kỉ XVII ở Anh có Winstanley, lãnh tụ của một nhóm cấp tiến lấy tên là Digger, kêu gọi những ngýởi ủng hộ mình chiếm các công ðiền và biến chúng thành các khu chãn nuôi gia súc. Ông ta ðýa ra lí luận týõng tự nhý học thuyết cộng sản: bãi bỏ việc buôn bán ðất ðai và các sản phẩm của nó. Một thế kỉ rýỡi sau, trong thời Cách mạng Pháp, một nhà cách mạng cấp tiến tên là Francois-Noel Babeuf ðã thành lập một tổ chức gọi là “Âm mýu vì sự công bằng”, kêu gọi tập thể hoá toàn bộ tài sản. Nhýng cả hai ông này ðều không thể ðýa ra ðýợc lí luận chứng tỏ cho ngýời ta thấy cuộc cách mạng xã hội mà họ hýớng tới sẽ ðýợc thực hiện nhý thế nào. Vào ðầu thế kỉ XIX, những nhà xã hội không týởng khác nhý Saint-Simon Fourier hi vọng có thể thuyết phục ðýợc những ngýời giàu có từ bỏ một phần tài sản của mình.
Thỉnh thoảng ở phýõng Tây lại xuất hiện các công xã cộng sản tự nguyện. Một trong những công xã nhý thế là Công ty Virgin ở Jamestown, ðýợc thành lập vào nãm 1607; nãm 1825 Robert Owen thành lập một công xã lấy tên là “Sự hoà hợp mới” ở Indiana. Tất cả các thử nghiệm nhý thế trýớc sau gì cũng thất bại vì không thể giải quyết ðýợc vấn ðề “những kẻ lýời biếng”, tức là những thành viên công xã chỉ muốn ãn mà không muốn làm.
Ðóng góp của Karl Marx và Friedrich Engels cho chủ nghĩa xã hội là lí thuyết chứng tỏ rằng thiên ðýờng bình ðẳng không những là ðáng mong muốn mà còn có thể xây dựng ðýợc, hõn nữa còn là tất yếu. Ðể chứng minh, họ ðã sử dụng các phýõng pháp của khoa học tự nhiên là những môn khoa học ðã có uy tín rất cao trong xã hội lúc ðó.
Marx và Engels ðýa ra học thuyết “chủ nghĩa xã hội khoa học”, nói rằng lí týởng về một xã hội bình ðẳng không còn tý hữu không những có thể thực hiện ðýợc mà nhất ðịnh sẽ phải ðýợc thực hiện, ðấy chỉ là kết quả phát triển tự nhiên của nền kinh tế mà thôi. Quan ðiểm Mác-xít về tiến hoá xã hội xuất hiện dýới ảnh hýởng của học thuyết Darwin, ðýợc trình bày trong Nguồn gốc các loài (1859). Cuốn sách của Darwin giải thích sự xuất hiện của các loài sinh vật nhý là kết quả của chọn lọc tự nhiên, chính sự chọn lọc này ðã giúp cho các loài thích nghi với môi trýờng thù ðịch. Ðây là một quá trình ðộng, các loài phát triển từ thấp lên cao theo các qui luật ðã ðýợc xác ðịnh. Các nhà nghiên cứu về hành vi của con ngýời lập tức chớp lấy lí thuyết này, họ còn thành lập cả trýờng phái gọi là “Tâm lí học tiến hoá”, mô tả lịch sử nhý là quá trình phát triển theo “giai ðoạn”, từ thấp ðến cao. Ảnh hýởng của Darwin ðối với Marx và Engels cao ðến nỗi Engels, trong ðám tang bạn mình, ðã nói: “Giống nhý Darwin phát minh ra qui luật phát triển của thế giới hữu cõ, Marx phát minh ra qui luật phát triển của lịch sử loài ngýời”.
Ðýa tý duy về sự tiến hoá vào lí thuyết xã hội chủ nghĩa làm nảy sinh khái niệm không thể ðảo ngýợc. Theo “chủ nghĩa xã hội khoa học” thì hoạt ðộng của con ngýời chỉ góp phần thúc ðẩy hay làm chậm lại sự tiến hoá của xã hội nhýng không thể làm thay ðổi ðýợc xu hýớng vì xu hýớng tiến hoá phụ thuộc vào các nhân tố khách quan. Nhý thế, theo các nguyên nhân sẽ ðýợc trình bày dýới ðây, chủ nghĩa tý bản nhất ðịnh phải nhýờng chỗ cho chủ nghĩa xã hội. Tác ðộng về mặt tình cảm của niềm tin này cũng chẳng khác gì niềm tin vào ý Chúa, nó là nguồn ðộng viên rất lớn ðối với những ngýời tin týởng tuyệt ðối rằng dù có phải výợt qua biết bao nhiêu trở ngại, nhất ðịnh họ sẽ giành ðýợc thắng lợi cuối cùng. Lí thuyết này ðã có một hấp lực rất mạnh ðối với các nhà trí thức, vì nó hứa hẹn sắp xếp lại cuộc ðời ðầy lộn xộn này, biến ðời sống thành ra có trật tự mà trí thức chính là những ngýời thày, ngýời hýớng dẫn cho cái trật tự ðáng mong ýớc ðó. Marx ðã giải thích ðiều ðó bằng một câu nổi tiếng sau ðây: “Các nhà triết học giải thích thế giới bằng những cách khác nhau, nhýng vấn ðề là cải tạo nó”. Ai là ngýời sẵn sàng cho việc cải tạo thế giới? Không phải trí thức thì còn ai nữa?
Dù tuân theo phýõng pháp khoa học nhýng chủ nghĩa Marx ðã vi phạm một yêu cầu cãn bản của phýõng pháp này, ðấy là không ðịnh kiến và sẵn sàng làm cho lí thuyết thích nghi với các nhân tố mới. (Theo lời của Bertrand Russell thì chủ nghĩa Bolshevik, con ðẻ của chủ nghĩa Marx, là một “tôn giáo” vì “không ðýợc phép tranh luận ngay cả khi nói về những vấn ðề còn chýa rõ ràng về mặt khách quan”). Ðây là một học thuyết cứng nhắc, không chấp nhận bất kì một quan ðiểm khác biệt nào. Marx không hề che giấu thái ðộ ðối với những ngýời bất ðồng ý kiến với ông: phê bình, có lần ông ðã viết “không phải là con dao mổ mà là vũ khí. Ðối týợng của nó cũng là kẻ thù của nó, một ðối týợng mà nó không muốn cải chính mà là muốn tiêu diệt”. Vì vậy có thể khẳng ðịnh rằng chủ nghĩa Marx là một giáo ðiều ðeo mặt nạ khoa học.
Làm cho chủ nghĩa Marx thích nghi với truyền thống khoa học chỉ là một trong những khía cạnh hấp dẫn của nó mà thôi. Khía cạnh khác có liên quan ðến những biến ðổi của ðiều kiện xã hội diễn ra trong thời gian ðó. Trýớc cuộc cách mạng công nghiệp, sản xuất nông nghiệp là cõ sở của nền kinh tế thế giới. Cho ðến lúc ðó, 80 cho ðến 90 phần trãm ngýời châu Âu và Mĩ sống bằng canh tác nông nghiệp hoặc nhờ canh tác nông nghiệp: họ giầu là nhờ thu hoạch từ ruộng ðất hoặc phát canh thu tô. Dĩ nhiên là công thýõng nghiệp ðã từng tồn tại từ những ngày xa xýa, nhýng chỉ có vai trò thứ yếu trong nền kinh tế. Ðất là tài sản chủ yếu cho nên các phong trào ðòi bình ðẳng cũng dành nhiều sức lực cho ðòi hỏi bãi bỏ quyền tý hữu ruộng ðất.
Quan ðiểm của các phong trào ðòi bình ðẳng ðã thay ðổi hoàn toàn kể từ khi xuất hiện nền sản xuất công nghiệp ðại trà. Tiền từ công thýõng nghiệp, chứ không phải ðịa tô, ðã trở thành tài sản chủ yếu. Xuất hiện một hình thức nghèo ðói mới vì quá trình cõ khí hoá làm hạ giá thành sản phẩm, các nghề sản xuất truyền thống trở nên lỗi thời, nhiều thợ thủ công thất nghiệp.
Công nghiệp hoá không chỉ tạo ra những xáo ðộng ðầy ðau ðớn trong xã hội mà còn dẫn ðến những thay ðổi cãn bản và thýờng xuyên trong quan hệ giữa ngýời sử dụng lao ðộng và kẻ làm thuê. Ðiền chủ và tá ðiền là những ngýời hàng xóm và theo một nghĩa nào ðó thì họ chính là những ðối tác của nhau. Mặc dù thỉnh thoảng tá ðiền vẫn bị ðuổi hàng loạt, thí dụ nhý ở Anh thời kì có Luật hàng rào, nhýng nói chung cuộc sống nông thôn týõng ðối ổn ðịnh, ðặc biệt là những nýớc nhý Mĩ, nõi ða số nông dân cũng là chủ mảnh ðất mà họ canh tác.
Trong các xã hội kĩ nghệ, mối liên hệ giữa chủ tý sản và ngýời làm thuê ðã yếu hõn lại không bền vững vì ngýời chủ có thể cho công nhân thôi việc khi nhu cầu giảm. Sự khác biệt lối sống là một thách thức ðối với xã hội, những tên nhà giầu mới cố tình trýng ra tài sản của mình.
Sự phát triển nhý thế ðã làm phát sinh lòng cãm thù ðối với “chủ nghĩa tý bản”. Chủ nghĩa xã hội, cho ðến lúc ðó mới là một lí týởng ðýợc giới trí thức chia sẻ, bắt ðầu nhận ðýợc sự ủng hộ của những nhóm công nhân nhất ðịnh.
Các trýớc tác của Marx và Engles gồm hàng chục tập, riêng bộ Tý bản ðã là một ngàn bốn trãm trang in với rất nhiều thuật ngữ chuyên môn. Ít ngýời ðủ sức ðọc hết những tác phẩm cực kì khó nhý thế, giải thích cho dễ hiểu lại càng khó khãn hõn. Nhýng vấn ðề là các nguyên lí cãn bản của học thuyết “chủ nghĩa xã hội khoa học” có thể qui về một vài luận ðiểm týõng ðối ðõn giản.
Trong ðiếu vãn ðọc tại ðám tang của Marx, Engles ðã trình bày “qui luật của lịch sử nhân loại”, theo lời ông là ðýợc Marx phát minh nhý sau:
“Ngýời ta trýớc hết phải ãn, uống, có nhà ở và quần áo mặc, trýớc khi có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo v.v…, nghĩa là sản xuất các tý liệu trực tiếp của ðời sống và nhý vậy mỗi một nấc phát triển kinh tế của một dân tộc hay một thời ðại ðều tạo ra hạ tầng cõ sở, trên ðó sẽ phát triển các cõ quan nhà nýớc, các quan ðiểm pháp lí, nghệ thuật và ngay cả các quan niệm tôn giáo của ngýời dân, vì vậy chúng phải ðýợc giải thích trên cõ sở ðó chứ không phải ngýợc lại nhý ngýời ta vẫn làm lâu nay.”
… Tóm lại kinh tế là hạ tầng cõ sở của một ðời sống có tổ chức, tất cả những cái khác ðều là “thýợng tầng kiến trúc”.
Từ tiền ðề ðó, Marx và Engels ðã ðýa ra lí thuyết về sự phát triển của xã hội mà luận ðiểm cõ bản của nó nói rằng chính tý hữu tý liệu sản xuất ðã dẫn ðến việc hình thành các “giai cấp” xã hội. Khởi kì thuỷ chýa có tý hữu tý liệu sản xuất: mọi ngýời cùng nhau sở hữu ruộng ðất. Nhýng cùng với thời gian, chế ðộ “cộng sản nguyên thuỷ” nhýờng chỗ cho sự phân chia giai cấp, một nhóm ngýời ðã giành ðýợc ðộc quyền ðối với các nguồn tài nguyên quan trọng sống còn và sử dụng sức mạnh kinh tế của mình ðể bóc lột và áp bức nhân dân thông qua các thể chế chính trị và pháp lí, những thể chế chỉ có nhiệm vụ bảo vệ những quyền lợi giai cấp của họ. Nhóm ngýời này ðã sử dụng vãn hoá bao gồm tôn giáo, luân lí, vãn học và nghệ thuật cho cùng mục ðích nhý thế. Các phýõng tiện này ðã tạo ðiều kiện cho giai cấp cầm quyền bóc lột nhân dân.
Dĩ nhiên là các giai cấp hạ lýu không chấp nhận bị bóc lột; họ luôn ðấu tranh chống lại, nhýng khi còn tý hữu thì thành quả của họ chỉ là thay một hình thức bóc lột này bằng hình thức bóc lột khác mà thôi. Vì vậy, nói theo Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản, cho ðến nay lịch sử xã hội loài ngýời là lịch sử ðấu tranh giai cấp.
Những suy tý nhý thế về quá khứ chỉ là khúc dạo ðầu của vấn ðề mà Marx quan tâm hõn cả, ðấy là phân tích thế giới “tý bản” ðýõng thời với ông. Ông ðã bỏ ra nhiều nãm ròng rã ðể nghiên cứu lịch sử kinh tế nýớc Anh nhằm tìm cách chứng minh rằng chủ nghĩa tý bản là giai ðoạn tột cùng của xã hội có giai cấp và chế ðộ này sẽ phải sụp ðổ trong một cuộc cách mạng do những ngýời công nhân công nghiệp ðang bị bóc lột tiến hành. Ðấy sẽ là cuộc cách mạng cuối cùng vì nó sẽ dẫn ðến việc thành lập xã hội không còn giai cấp nữa. Và ðấy sẽ là sự cáo chung của lịch sử.
Hệ thống tý bản ðặt cõ sở trên sự bóc lột lao ðộng làm thuê theo ý nghĩa là nhà tý sản chiếm ðạt “giá trị thặng dý” của món hàng mà ngýời công nhân sản xuất ra. Theo Engels thì khái niệm “giá trị thặng dý” là phát hiện vĩ ðại thứ hai của Marx, giúp ta hiểu ðýợc xã hội loài ngýời. Toàn bộ giá trị ðều ðýợc tạo ra bởi lao ðộng. Nhýng trong hệ thống tý bản, ngýời sử dụng lao ðộng chỉ trả cho công nhân một phần nhỏ giá trị mà ngýời công nhân này làm ra, chỉ ðủ cho ngýời lao ðộng sống qua ngày mà thôi. Phần còn lại, tức là “thặng dý” thì ngýời chủ ðút vào túi mình.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 11, 2007 10:06:04 GMT 9
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, lãi suất của nhà tư sản cũng như tiền lương trả cho công nhân sẽ liên tục giảm. Đấy là do trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, nhà tư bản phải chi tiêu nhiều hơn cho việc trang bị máy móc, nguyên liệu v.v… và phải trả lương cho người lao động ít đi. Giá nhân công rẻ đi, tiền lương hạ xuống, mức sống sẽ thấp đi. Thêm nữa, trong các cuộc khủng hoảng, xuất hiện thường xuyên do kết quả của sản xuất thừa, các xí nghiệp lớn sẽ nuốt chửng các xí nghiệp nhỏ hơn, năng lực sản xuất công nghiệp sẽ ngày càng tập trung vào tay một số ít người hơn. Như vậy nghĩa là nhà tư bản và người công nhân cùng ngồi trên một con thuyền: tư bản thì bị mất nghiệp vào tay những kẻ giàu có hơn, còn công nhân thì trở thành nạn nhân của quá trình “bần cùng hoá”. Cùng với thời gian, tiến trình này nhất định sẽ dẫn đến cách mạng:
“Cùng với việc giảm liên tục số nhà đại tư bản, những kẻ chiếm đoạt và giữ độc quyền tất cả các món lợi của quá trình chuyển hoá này thì quần chúng nghèo khổ, bị áp bức, nô lệ, suy đồi, bị bóc lột cũng tăng thêm, nhưng đồng thời cũng gia tăng sự bất mãn của giai cấp công nhân, một giai cấp đang ngày càng tăng về số lượng, họ sẽ học tập, sẽ liên kết lại và tham gia tổ chức theo đúng cơ chế của chính quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Độc quyền tư bản sẽ trở thành gông cùm đối với phương thức sản xuất đã từng phát triển bên trong và bên dưới nó. Việc tập trung phương tiện sản xuất và xã hội hoá lao động sẽ đạt đến mức mà tự chúng sẽ trở thành không còn phù hợp với vỏ bọc tư bản chủ nghĩa nữa. Nó sẽ nổ tung. Giờ cáo chung của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã điểm. Những kẻ tước đoạt sẽ bị tước đoạt.” [2]
Những cuộc cải cách của chủ nghĩa tư bản cũng không có khả năng ngăn chặn cái kết cục ấy: sự cáo chung của chủ nghĩa tư bản là tất yếu.
Kết quả cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ là sự giải phóng hoàn toàn con người. “Tự do” trong quan niệm của Marx và Engels không có gì chung với quan điểm phóng khoáng về quyền công dân và sự bảo vệ những quyền đó từ phía nhà nước: “Tự do chính trị là tự do ảo”, Engels đã viết như thế, “là một dạng nô lệ thấp kém nhất; nó chỉ có vẻ tự do và vì vậy mà trên thực tế là nô lệ [3] ”. Tương tự như Engels, Marx cũng coi các quyền tự do và quyền công dân là sự lừa mị vì chúng làm cho con người trở thành nô lệ của phúc lợi vật chất; tự do chân chính sẽ giải phóng con người khỏi tình trạng nô dịch như thế. George Lukacs, một lí thuyết gia Mac-xít giải thích điều đó như sau:
“Tự do” của những người đang sống hiện nay là tự do của các cá nhân, bị phân tán bởi sở hữu… Đấy là tự do của những cá nhân vis-à-vis (so với) những người khác. Tự do của một kẻ ích kỉ; tự do của một người tự tách mình khỏi những người khác.” [4]
Vì vậy việc loại bỏ tư hữu chính là điều kiện cần thiết của tự do chân chính. Phải giải thoát khỏi sự phụ thuộc đó thì nhân loại mới đạt đến sự tự thể hiện hoàn toàn. Phân công lao động sẽ biến mất và người ta có thể tự do chuyển từ công việc này sang công việc khác. Marx mơ mộng:
“Trong xã hội cộng sản, nơi không có ai bị giới hạn lĩnh vực hoạt động nhất định… xã hội điều tiết toàn bộ quá trình sản xuất và vì vậy sẽ tạo điều kiện cho tôi hôm nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, sáng đi săn, giữa trưa đi câu cá, chiều chăn gia súc, sau bữa ăn tối thì làm phê bình - tuỳ thích – và không vì thế mà biến tôi thành thợ săn, ngư dân, người chăn nuôi hay nhà phê bình.” [5]
Lí thuyết của Marx và Engels đặt nền móng cho cương lĩnh của Hiệp hội Công nhân Quốc tế, vẫn thường được gọi là Quốc tế I, do họ lập ra ở London vào năm 1864 nhằm chuẩn bị cho người lao động ứng phó với cuộc khủng hoảng tư bản chủ nghĩa đang đến gần. Tổ chức này đã bị chia rẽ ngay từ đầu bởi những cuộc tranh cãi bất tận giữa những người xã hội và những người vô chính phủ. Mặc dù những người vô chính phủ và những người xã hội có chung mục đích, đấy là xã hội phi giai cấp, không còn chính phủ và cùng coi cách mạng bạo lực là phương tiện, nhưng họ lại khác những người xã hội ở ba điểm. Những người vô chính phủ cho rằng không chỉ công nhân công nghiệp mà nông dân không có ruộng và những người vô nghề nghiệp cũng là lực lượng tiềm tàng của cách mạng. Thứ hai, những người xã hội cho rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một giai đoạn chuyển tiếp (đôi khi vẫn được gọi là “chuyên chính vô sản”), đấy là giai đoạn mà giai cấp cầm quyền mới sử dụng sức mạnh cưỡng bức của nhà nước nhằm tước đoạt giai cấp tư sản và tiến hành quốc hữu hoá tư liệu sản xuất. Trong khi đó những người vô chính phủ phủ nhận mọi hình thức nhà nước, họ tiên đoán rằng “chuyên chính vô sản” sẽ biến thành phương tiện nô dịch mới, lần này là do những người trí thức giật dây vì quyền lợi của chính họ. Cuối cùng, nếu những người xã hội tin vào sự tiến bộ diễn ra một cách tự nhiên của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và chính sự tiến bộ này sẽ dẫn tới cách mạng thì những người vô chính phủ lại kêu gọi “hành động trực tiếp”, nói cách khác, tấn công ngay lập tức vào hệ thống hiện hành.
Thời gian đã chứng tỏ rằng những người vô chính phủ đã dự đoán đúng cả ba vấn đề: các cuộc cách mạng xã hội không bùng nổ trong các nước công nghiệp mà diễn ra trong các nước nông nghiệp, còn “chuyên chính vô sản” thì biến nhà nước cộng sản thành một nền chuyên chính vĩnh cửu của những người không phải là công nhân đối với những người lao động chân tay và tầng lớp nông dân. Cuộc cách mạng Bolshevik vào năm 1917 ở Nga là kết quả của một cuộc tấn công trực diện vào chính phủ của một nước, nơi mà chủ nghĩa tư bản còn đang ở trong giai đoạn phát triển ban đầu.
Như vậy nghĩa là, hoá ra trên thực tế tất cả các dự đoán của Marx đều sai, ngay từ khi Marx còn sống điều đó càng ngày càng trở nên rõ ràng và sau khi ông mất thì trở thành sự kiện không thể tranh cãi.
Mặc dù chủ nghĩa tư bản đã trải qua những giai đoạn khủng hoảng, nhưng khủng hoảng có thể dẫn tới sụp đổ thì chưa. Đấy là nhờ một phần ở các bộ luật chống độc quyền, phần khác là nhờ sự phát triển của kĩ thuật, mở ra khả năng mới cho các doanh nghiệp nhỏ, phần nữa là nhờ sự phát triển không ngừng của lĩnh vực dịch vụ, một lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn ngành công nghiệp chế biến, quá trình tập trung tư bản và sản xuất đã không dẫn đến việc bóp chết các xí nghiệp nhỏ và chỉ còn lại các tập đoàn khổng lồ. Sự ra đời của các công ty cổ phần lại góp phần vào việc tái cấu trúc tài sản của xã hội.
Còn về những người lao động thì họ cũng không trở thành nạn nhân của quá trình bần cùng hoá. Ngay lúc Marx đang viết Tư bản, ở Anh đã có những bằng chứng chứng tỏ tiền lương của người lao động đã gia tăng, nhưng Marx cho rằng đấy là điều không đáng quan tâm. Một sự kiện còn quan trọng hơn, đấy là sự ra đời của các chương trình bảo trợ xã hội của chính phủ. Các nước có nền dân chủ đã công nghiệp hoá lo lắng về thành tựu của các tổ chức của người lao động cũng như việc các đại biểu của họ trúng cử vào quốc hội đã phải ban hành các đạo luật về bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế cũng như các ưu tiên ưu đãi khác, không để giai cấp công nhân bị chìm đắm mãi trong cảnh bần hàn. Đức là nước đầu tiên bước chân lên con đường ấy, Đảng Dân chủ Xã hội Đức là một đảng rất mạnh có thể đạt được đa số trong quốc hội. Cùng với việc nhiều nước châu Âu theo gương Đức, công nhân cũng ngày càng quan tâm hơn đến việc bảo tồn hiện trạng (Status-Quo), họ không còn nghe theo lời hiệu triệu cách mạng của những người xã hội nữa: họ có thái độ hoàn toàn ngược lại với khẳng định của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản rằng “giai cấp vô sản không có tổ quốc”. Người lao động đã không còn là vô sản theo nghĩa ban đầu của từ này nữa, nghĩa là không còn là giai cấp chỉ có nhiêm vụ sinh con (cu li) cho nhà nước nữa. Người lao động coi trọng hoạt động công đoàn hơn, họ chấp nhận trật tự tư bản và hướng tất cả cố gắng của mình vào việc giành thêm phần từ lợi nhuận mà chủ nghĩa tư bản mang lại. Như vậy là người lao động đã trở thành một phần của chính cái hệ thống mà theo Marx là phải bị tiêu diệt.
Vì tất cả những lí do đó mà cách mạng đã không nổ ra ở bất cứ nước tư bản chủ nghĩa phát triển nào: trong suốt một trăm năm sau khi Marx qua đời, những cuộc cách mạng như thế chỉ diễn ra, theo đúng dự đoán của những người vô chính phủ, trong các nước thuộc thế giới thứ ba, những nước có nền kinh tế tư bản vừa mới thành hình, với khối quần chúng nông dân không ruộng đất hoặc có rất ít ruộng đất và chế độ độc tài.
Các khiếm khuyết của học thuyết Mác-xít sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu nó vẫn nằm trên giấy như một sơ đồ lí luận. Nhưng đây còn là một cương lĩnh hành động cho nên ngay khi các dự đoán của nó mới có vẻ là sai - chuyện này đã trở nên rõ ràng ngay sau khi Marx mất – thì những người xã hội và sau đó là chính những người cộng sản, dù vẫn tuyên bố trung thành với học thuyết, đã bắt đầu xem xét lại học thuyết Mác-xít. Trong các nước dân chủ phương Tây việc xét lại này thường chỉ làm giảm đi tinh thần cách mạng và đưa chủ nghĩa xã hội đến gần hơn với chủ nghĩa tự do phóng khoáng mà thôi. Kết quả là sự xuất hiện của phong trào dân chủ xã hội. Ngược lại, trong các nước Đông Âu và các nước thuộc thế giới thứ ba việc xét lại lại làm nổi rõ thêm thành tố bạo lực trong chủ nghĩa Marx. Chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện như thế. Còn chủ nghĩa Marx nguyên chất, không pha tạp thì chưa được chấp nhận ở bất kì đâu như một cương lĩnh chính trị vì nó không phù hợp với thực tế.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 11, 2007 10:06:23 GMT 9
Quốc tế thứ nhất tan rã vào năm 1876, nhưng được tái sinh vào năm 1889, sau khi Marx đã qua đời. Đấy là Quốc tế II, tổ chức tập hợp các đảng xã hội tất cả các nước (không còn những người vô chính phủ nữa), với hạt nhân là Đảng Dân chủ Xã hội Đức. Cách mạng trên các biểu ngữ, tiệm tiến trong thực tế, trước Thế chiến thứ nhất, Quốc tế II đã giữ thế thượng phong trong chính sách của những người xã hội. Cương lĩnh chính thức của tổ chức này, thường được gọi là Cương lĩnh Erfurt, được thông qua vào năm 1891, tuyên bố rằng quyền lợi của nhà nước “tư bản” và quyền lợi của giai cấp công nhân là không thể dung hoà, người công nhân không có trách nhiệm gì đối với đất nước: họ chỉ trung thành với giai cấp mình mà thôi. Cương lĩnh khẳng định tình đoàn kết quốc tế của những người lao động và tính tất yếu của cách mạng, một cuộc cách mạng sẽ đập tan chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản trên toàn thế giới.
Không phải tất cả những người xã hội đều chấp nhận cương lĩnh cấp tiến này. Trên khắp châu Âu đã vang lên những lời cảnh báo rằng điều kiện sống của giai cấp công nhân sẽ được cải thiện bằng các biện pháp chính trị và kinh tế chứ không phải bằng một cuộc cách mạng bạo lực. Jean Jaures, một đảng viên xã hội người Pháp tiên đoán:
“Giai cấp vô sản sẽ giành được quyền lực không phải bằng một cú bùng nổ bất ngờ của công tác cổ động chính trị mà phải dựa vào việc tổ chức công khai, có phương pháp lực lượng của mình trong điều kiện của nền dân chủ và phổ thông đầu phiếu. Xã hội chúng ta sẽ tiến dần đến chủ nghĩa cộng sản không phải bằng cách đập tan chế độ tư bản mà bằng việc tăng cường lực lượng của giai cấp vô sản một cách thường xuyên và liên tục.”
Ủng hộ mạnh mẽ nhất cho đường lối này là tổ chức gọi là Fabian ở Anh, trong đó có những thành viên vốn là những danh nhân văn học như George Bernard Shaw và Herbert George Wells. Cương lĩnh của tổ chức này yêu cầu “thuyết phục” đất nước giải thoát khỏi chủ nghĩa tư bản bằng cách quốc hữu hoá nền công nghiệp; cũng như các nhà xã hội chủ nghĩa tiền Mác-xít, những người Fabian cũng hướng đến lương tâm của dân tộc.
E. Bernstein là người tiến hành một cuộc công kích táo bạo nhất vào các nguyên lí và cương lĩnh của chủ nghĩa Marx. E. Bernstein là một yếu nhân của Đảng Dân chủ Xã hội Đức, người sáng lập ra “chủ nghĩa cải lương” trong phong trào xã hội. Ông đã sống nhiều năm ở Anh và đã từng tiếp xúc với phong trào Fabian. Cuối những năm 1890 ông kêu gọi những người dân chủ xã hội cải tiến lí thuyết của mình cho phù hợp với thực tiễn là chủ nghĩa tư bản chưa thể sụp đổ, còn quần chúng lao động cũng không rơi vào cảnh bần hàn. Vẫn tin vào chủ nghĩa xã hội, nhưng giống như Jaures, ông coi đấy là kết quả của quá trình phát triển kinh tế và chính trị một cách hoà bình trong lòng chủ nghĩa tư bản
Đảng Dân chủ Xã hội Đức, đảng mạnh nhất và có ảnh hưởng nhất ở châu Âu phủ nhận lí thuyết xét lại của Bernstein và tiếp tục đi theo cương lĩnh cách mạng được thông qua tại Erfurt. Nhưng trên thực tế, đảng này lại làm chính những điều mà Bernstein bảo vệ, tức là dành nhiều sức lực cho phong trào công đoàn và các cuộc bầu cử vào quốc hội. (Mãi đến năm 1959 đảng này mới chính thức li khai chủ nghĩa Marx).
Như vậy là trong giai đoạn sung sức nhất, tức là khoảng một phần tư thế kỉ trước khi nổ ra Chiến tranh Thế giới I, phong trào xã hội chủ nghĩa ở phương Tây trên thực tế đã từ bỏ con đường bạo lực và chuyển sang đường lối cảo tạo xã hội một cách hoà bình, tuy về mặt lí luận không phải lúc nào họ cũng nói như thế. Phong trào giữ vững niềm tin vào tình đoàn kết quốc tế của những người lao động. Quốc tế II cho rằng công nhân tất cả các nước đều là anh em và nhiệm vụ cao cả nhất của họ chính là ngăn chặn các cuộc chiến tranh mà chủ nghĩa tư bản cố tình gây ra. Đề tài này thường được đưa ra thảo luận tại các cuộc hội nghị của Quốc tế. Người ta đã đưa ra nhiều đề nghị nhằm ngăn chặn chiến tranh cũng như đã thảo luận về các hành động cần phải làm nếu chiến tranh vẫn cứ bùng nổ. Nghị quyết được thông qua tại Hội nghị ở Stuttgart vào năm 1907 (có V. Lenin và L. Martov tham gia) kêu gọi, trong trường hợp xảy ra chiến tranh, “phát động quần chúng và bằng cách đó đẩy nhanh quá trình sụp đổ của chính quyền tư sản”, nói cách khác, biến chiến tranh giữa các nước thành nội chiến giữa các giai cấp. Trong hội nghị tiếp theo vào năm 1910 các đại biểu thống nhất thông qua nghị quyết đòi các nghị sĩ xã hội biểu quyết phản đối ngân sách chiến tranh.
Nhưng hoá ra các đảng viên xã hội cũng như Quốc tế II của họ không đủ sức ngăn chặn sự bùng phát của cuộc chiến tranh trên toàn châu Âu vào mùa hè năm 1914. Những câu chuyện về một cuộc tổng đình công chẳng đưa đến đâu. Hơn thế nữa, cả những người dân chủ xã hội Đức lẫn các đảng viên xã hội Pháp, trái ngược với những thề bồi trước đây, đều biểu quyết thông qua ngân sách chiến tranh và bằng cách đó đã làm mất uy tín của chính tư tưởng về tình đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản. Lòng trung thành với tổ quốc hoá ra cao hơn tình hữu ái giai cấp; A. Hitler và B. Mussolini, hai kẻ mị dân và rất háo danh, sau khi chiếm được chính quyền dựa vào cơ sở cương lĩnh hợp nhất giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc, đã không bỏ qua sự kiện này.
Số phận của Quốc tế II đã được định đoạt khi nó không có khả năng thực hiện những lời hứa chống chiến tranh của mình. Chiến tranh rồi cũng qua đi, các đảng xã hội vẫn còn tồn tại nhưng càng ngày họ càng gắn bó với đất nước của mình hơn.
Sự nghiệp của quốc tế xã hội chuyển từ phương Tây, lúc đầu là sang Nga và sau đó là sang các nước càng ngày càng xa phương Tây hơn.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Vùng đất thần tiên (ND) [2]Karl Marx, Tư bản, Q 1, XXIV [3]K. Marx, F. Engels, Toàn tập, tập 1, Moskva 1955, trang 526 [4]George Lukacs, History and Class Consciousness. Cambridge, Mass, 1971, p. 32 [5]K. Marx, F. Engels, Toàn tập, tập 3, Moskva 1955, trang 32
Nguồn: dịch từ Bản tiếng Nga
|
|