Post by Vĩnh Long on Dec 30, 2006 5:45:19 GMT 9
Lịch sử ít ðýợc biết về Swastika
Vietsciences- Phạm Việt Hýng 29/12/2006
SWASTIKA
Rất nhiều ngýời thắc mắc không hiểu tại sao chữ Vạn của Phật giáo lại có hình thức trùng lặp với “chữ thập ngoặc” của Ðức quốc xã.
Gọi là “chữ”, nhýng thực ra cả hai ðều là những biểu týợng. Ngýời Việt Nam ðã khéo léo phân biệt 2 biểu týợng này bằng cách dùng hai tên gọi khác nhau. Nhýng với ngýời tây phýõng, cả 2 biểu týợng ðều ðýợc gọi là Swastika, vì hình thức của chúng hoàn toàn nhý nhau.
Trýớc ðây, trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” trên Vãn Nghệ ngày 15-06-2002, tôi ðã nêu lên nhận xét cho rằng ðây không phải là một sự trùng lặp ngẫu nhiên, mà phải có chủ ý – chủ nghĩa quốc xã Ðức ðã cố tình lợi dụng Swastika ðể làm biểu týợng của chúng. Tuy nhiên, mọi nhận ðịnh trong bài viết ðó vẫn mang tính chất suy luận cá nhân, chýa thể hiện ðánh giá chính thức của lịch sử thế giới.
Hôm nay tôi ðã có ðủ tài liệu ðể giới thiệu với ðọc giả những sự thật lịch sử ðýợc ghi chép trên các tài liệu chính thức, trong ðó cho biết ðích thân Hitler ðã chọn Swastika làm biểu týợng của ðảng quốc xã, nhà nýớc quốc xã và quân ðội quốc xã.
Trýớc khi tìm hiểu cụ thể, xin chú ý rằng:
· Swastika không phải là biểu týợng của riêng Phật giáo, mà là biểu týợng của rất nhiều nền vãn hoá và tôn giáo khác nhau.
· Swastika của Ðức quốc xã hoàn toàn không liên quan gì ðến chữ Vạn của Phật giáo, mà chỉ liên quan ðến Swastika của ngýời Aryan.
Vì thế ðể tránh nhầm lẫn, bài viết này sẽ sử dụng tên gọi chung của biểu týợng này là “Swastika”. “Chữ Vạn” sẽ chỉ ðýợc dùng cho Swastika của Phật giáo.
Vậy Swastika có xuất xứ từ ðâu? Ý nghĩa nguyên thuỷ của nó là gì? Ngýời Aryan là ai? Tại sao Hitler lại sử dụng Swastika của ngýời Aryan? Ðó là những câu hỏi sẽ ðýợc trả lời trong bài viết này.
1-Hành trình và ý nghĩa nguyên thuỷ của Swastika:
Swastika là một trong những biểu týợng cổ xýa nhất mà loài ngýời ðã sử dụng. Nó ðã ðýợc phát hiện trên những di chỉ khảo cổ có ðộ tuổi ít nhất hõn 3000 nãm tại khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris và một số vùng trong thung lũng Indus (Bản ðồ 1). Swastika cũng xuất hiện trên các bình gốm và những ðồng xu cổ trên ðống ðổ nát của thành Troy (Bản ðồ 2), chứng tỏ nó ðã ðýợc sử dụng ít nhất từ 1000 nãm trýớc C.N.
Bản ðồ 1
Bản ðồ 2
Mặc dù chýa ai vẽ ra ðýợc một “lộ trình di cý” chính xác của Swastika qua các thời ðại, nhýng có thể biết chắc chắn rằng trải qua hàng ngàn nãm, Swastika ðã có mặt ở hầu khắp các lục ðịa Á, Âu, Mỹ. Vì thế, Swastika có rất nhiều tên gọi khác nhau. Tiếng Hán gọi là “wan” (Vạn), tiếng HyLạp – tetraskelion, tiếng Pháp – croix gammé, tiếng Anh – fylfot, tiếng Ðức – hakenkreuz, tiếng Ý – croce uncinata, v.v… Nhýng tên gọi phổ biến nhất vẫn là swastika, bắt nguồn từ chữ svastika (ðọc là suastika) trong tiếng Sanscrit – ngôn ngữ cổ Ấn Ðộ.
Trong tiếng Sanscrit: Sv, ðọc là su, có nghĩa là tốt lành (good, well); asti có nghĩa là tồn tại (to be); ka là một tiếp vĩ ngữ thể hiện một sự vật hay sự việc nào ðó. Vậy swastika là một sự vật hay một sự việc tồn tại tốt lành, hoặc có trạng thái tốt lành (well-being).
Charles Messenger trong cuốn “Lịch sử Thế Chiến II bằng hình” (The Pictorial History of World War II) nói rằng Swastika thể hiện sự phồn thịnh (prosperity) và sáng tạo (creativity).
Swastika trong nghệ thuật của ngýời Hindu có các dấu chấm trong các cung phần tý (Hình 1-1), nhýng Swastika của Hindu giáo (Ấn giáo) không có những dấu chấm này, thể hiện sự thiêng liêng cao cả.
Hình 1-1
Phật giáo ðã thừa hýởng Swastika của Hindu giáo. Trong các kinh Phật, Swastika thýờng xuất hiện ngay ở phần mở ðầu. Trong tiếng Hán, chữ Vạn (wan) biểu thị cái bao trùm tất cả (all) và sự vĩnh hằng (eternality).
Cuốn “Phật Học Quần Nghi” xuất bản tại Ðài Loan viết:
Theo truyền thuyết cổ Ấn Ðộ, phàm là thánh výõng chuyển luân cai trị thế giới ðều có 32 týớng tốt. Phật là một thánh výõng trong Pháp nên cũng có 32 týớng tốt. Ðiều này ðýợc ghi trong kinh Kim Cýõng Bát Nhã. Chữ Vạn là một trong 32 týớng tốt của Phật. Theo kinh Trýòng A Hàm thì ðó là týớng tốt thứ 16 nằm trýớc ngực của Phật.
Tại Nhật Bản, chữ Vạn của Phật giáo ðýợc gọi là manji, thể hiện Dharma – sự hài hoà và cân bằng âm dýõng trong vũ trụ (giống tý týởng của Dịch và Lão học) – trong ðó manji quay trái ðýợc gọi là một omote manji, thể hiện tình yêu và lòng nhân từ, khoan dung; manji quay phải ðýợc gọi là ura manji, thể hiện sức mạnh và trí thông minh.
Tại Nam Âu, khu vực tiếp giáp với châu Á, dấu vết Swastika cũng ðã ðýợc tìm thấy trong các công trình kiến trúc thuộc nền vãn hoá Byzantine – nền vãn hoá thuộc khu vực Biển Ðen và Ðịa Trung Hải kéo dài từ thế kỷ thứ 7 trýớc CN ðến tận thời trung cổ.
Dấu vết Swastika cũng xuất hiện trong các ðền ðài thuộc nền vãn hoá Celtic (ðọc là Seltic hoặc Keltic) – nền vãn hoá ðậm nét Âu châu phi Ðịa Trung Hải, có xuất xứ từ Tây và Trung Âu từ khoảng 1000 nãm trýớc CN kéo dài mãi ðến nhiều thế kỷ sau CN, ảnh hýởng sâu rộng khắp Âu châu. Chủ nhân của nền vãn hoá này là ngýời Celt – ngýời nói tiếng Celtic – những ngýời nổi tiếng thông minh, yêu tự do, dũng cảm trong chiến ðấu.
Cần ðặc biệt chú ý rằng ngôn ngữ Celtic là một bộ phận của một nhóm ngôn ngữ rộng lớn hõn ðýợc gọi là ngôn ngữ Aryan hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu. Vậy ngôn ngữ Aryan và ngôn ngữ Ấn-Âu là gì?
2-Ngôn ngữ Aryan và ngýời Aryan:
Những ngýời ít quan tâm ðến ngôn ngữ học có thể sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết các thứ tiếng Âu châu ngày nay hoá ra lại có chung một thuỷ tổ với tiếng Hindi (tiếng Ấn Ðộ).
Thuỷ tổ ấy là ngôn ngữ Aryan, hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European languages) – ngôn ngữ của những cý dân sinh sống từ xa xýa trên vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay (Bản ðồ 3). Những cý dân này tự gọi mình là ngýời Aryan.
Bản ðổ 3
Vào khoảng 1500 nãm trýớc CN, ngýời Aryan ðã xâm chiếm vùng tây bắc Ấn Ðộ. Họ mang theo một nhánh ngôn ngữ của họ ðến ðó, và trong suốt 1000 nãm ðầu tiên tại Ấn, họ ðã hoàn thiện ngôn ngữ này ðến mức tìm ra cách ðể viết. Ðó chính là ngôn ngữ Sanscrit mà ngày nay ta gọi là tiếng Ấn Ðộ cổ. Tiếng Hindi, ngôn ngữ chính của Ấn Ðộ ngày nay, cũng bắt nguồn từ ngôn ngữ Sanscrit. Chính nhờ các vãn bản cổ viết bằng tiếng Sanscrit vẫn còn lýu giữ ðýợc trong các di tích tôn giáo và vãn hoá của ngýời Hindu mà ngày nay ta biết ðýợc lịch sử của ngýời Aryan. Những vãn bản này mô tả ngýời Aryan có nýớc da sáng mầu (fair-skinned), có máu mê chiến tranh (warlike), và bản thân chữ Aryan trong tiếng Sanscrit có nghĩa là ngýời phú quý (nobleman) hoặc chúa tể ðất ðai (lords of land)!
Một nhánh khác của ngýời Aryan ðã di cý sang xâm chiếm Âu châu và truyền bá ngôn ngữ của họ ở ðó. Vì thế ngôn ngữ của phần lớn ngýời Âu châu ngày nay rất giống nhau – thực ra hầu hết ngýời Âu ðều nói một thứ ngôn ngữ có nguồn gốc Aryan (trừ tiếng Thổ, Hung, xứ Basques, PhầnLan, LátVia, Estonia, và một vài nhóm nhỏ ở Nga).
Vì thế ngôn ngữ Aryan ðýợc gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu, ngýời Aryan ðýợc gọi là ngýời Ấn-Âu tiền sử (proto-Indo-European). Ngýời Ấn ở miền bắc Ấn Ðộ còn ðýợc gọi là ngýời Ấn-Âu. Họ cao lớn, nýớc da sáng mầu, trong khi ngýời Ấn ở miền nam có nguồn gốc Dravidian, vóc dáng nhỏ bé hõn, nýớc da tối mầu hõn.
Việc khám phá ra ngôn ngữ Aryan vào những nãm 1790 ðýợc coi là một trong những khám phá vĩ ðại nhất của ngôn ngữ học. Ngýời Âu châu thời ðó ðã sửng sốt khi biết rằng không chỉ các dân tộc ở Âu châu, mà ngay cả một xứ “xa tít mù tắp” vào thời ðó nhý Bắc Ấn, hoá ra cũng có chung một nguồn gốc ngôn ngữ với họ, thậm chí chung một tổ tiên với họ. Từ ðó, các nhà khảo cổ học lao vào nghiên cứu mối liên hệ giữa ngýời Âu châu tiền sử với ngýời Aryan cổ ðại.
Trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” (ðã dẫn), tôi ðã ðặt dấu hỏi: “Dân tộc Iran ngày nay và ngýời Aryan xýa kia có liên hệ gì với nhau không? Về mặt âm ngữ, hai từ Iran và Aryan rất giống nhau. Về mặt lịch sử, chẳng lẽ ngýời Aryan ði chinh phục Ấn Ðộ và Âu châu hết mà không ðể lại một chi nhánh nào của dòng họ ở nõi xuất xứ là cao nguyên Iran hay sao?”.
Và tôi ðã tìm thấy câu trả lời. Bách khoa toàn thý Wikipedia viết: “Vào khoảng nửa ðầu của thiên niên kỷ thứ nhất trýớc CN, ngýời Aryan ðã có mặt trên cao nguyên Iran và tiểu lục ðịa Ấn Ðộ. Thực ra, thuật ngữ Iran là kết quả của thuật ngữ Ariana (Airyana) có nghĩa là xứ sở của ngýời Aryan. Nhóm ngôn ngữ Aryan có hai nhánh chủ yếu: Ngôn ngữ Sanskrit và ngôn ngữ cổ-Iran … trong tiếng Ba-Tý thời trung cổ, chúng ta thấy chữ Ariana ðýợc gọi là Eran, và cuối cùng trong tiếng Ba-Tý hiện ðại, ðýợc gọi là Iran”.
Nhà triết học nổi tiếng Hegel từng viết trong cuốn Triết học Lịch sử (The Philosophy of history) rằng: "Lịch sử của loài ngýời bắt ðầu từ lịch sử của Iran”. Các di chỉ khảo cổ tại Tây Nam Á cho thấy nền vãn minh Iran có trýớc nền vãn minh Ai Cập quãng 3000 nãm, khởi ðầu ít nhất từ 12000 nãm trýớc ðây.
Tóm lại, ngýời Aryan một phần ðã chinh phục Bắc Ấn, một phần ở lại Iran, và một phần ðã di cý sang Âu châu và chinh phục hầu khắp Âu châu, lai tạp với cý dân bản ðịa Âu châu cổ ðại ðể dần dà trở thành ngýời Âu Mỹ nhý ngày nay.
Tuy nhiên, khái niệm “ngýời Aryan” dần dần ðã bị những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc biến týớng thành khái niệm “chủng tộc Aryan”, từ ðó dẫn tới những hậu quả chính trị xã hội vô cùng tệ hại.
3-Về cái gọi là “chủng tộc Aryan”:
Nhý ðọc giả ðã thấy, những vãn bản cổ mô tả ngýời Aryan là những ngýời có những “ýu ðiểm výợt trội”: những ngýời “phú quý” hoặc “chúa tể ðất ðai”! Trong thực tế, ngýời Aryan ðã chinh phục một dải ðất vô cùng rộng lớn từ Á sang Âu! “Thành tích výợt trội” của ngýời Aryan ðã làm nức lòng những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu cuối thế kỷ 19 ðầu thế kỷ 20. Trong con mắt của họ, “ngýời Aryan” ðồng nghĩa với “chủng tộc Aryan” (Aryan race) – một “chủng tộc ýu tú hõn” (superior race) so với bất kỳ chủng tộc nào khác. Ngay từ thời ðó, tý týởng này ðã bị phê phán. Nhà Sanscrit học lỗi lạc Max Muller từng nhấn mạnh: “Khi tôi nói ðến chữ Aryan, tôi không hề có ý ðịnh ðề cập ðến những khái niệm liên quan ðến hộp sọ”. Nói cách khác, theo những tiêu chuẩn của chủng tộc học, không hề có cái gọi là “chủng tộc Aryan”, mà chỉ có ngýời Aryan mà thôi. Nhýng bất chấp mọi giải thích, những kẻ có ðầu óc dân tộc tiếp tục truyền bá khái niệm “chủng tộc Aryan” nhý một sự thật lịch sử và khoa học.
Ðến những nãm 1920, chủ nghĩa quốc xã Ðức ðã nâng lý thuyết “chủng tộc Aryan lên ðến mức cực kỳ phản ðộng: “Chủng tộc Aryan là chủng tộc thýợng ðẳng (master race) có quyền thống trị thế giới”. Lý thuyết này dựa trên nền tảng của một học thuyết ðýợc coi là “khoa học” vào thời ðó: Học thuyết Ðác-uyn-xã-hội (Social-Darwinist Ideology) – một học thuyết chủ trýõng áp dụng nguyên lý ðấu tranh sinh tồn của Darwin vào trong xã hội loài ngýời.
Nhýng tại sao Ðức quốc xã lại chọn Swastika làm biểu týợng của chúng?
Trýớc khi biết rõ bối cảnh nào ðã dẫn Hitler tới chỗ ðích thân hắn chọn Swastika làm biểu týợng cho ðảng quốc xã, ðọc giả cần biết rõ sự kiện sau ðây:
Cuối thế kỷ 19, nhà khảo cổ học nổi tiếng Heinrich Schliemann, ngýời ðã khám phá ra Swastika trên ðống ðổ nát của thành Troy, trong một công trình nghiên cứu công phu kết hợp khảo cổ học với Sanscrit học, ðã ði ðến một kết luận vô cùng quan trọng rằng Swastika là một biểu týợng ðặc trýng Ấn-Âu. Nói cách khác:
Swastika là biểu týợng ðặc trýng của ngýời Aryan!
Muốn biết Swastika của ngýời Aryan ðã bị Hitler lợi dụng ra sao, xem bài ký sau sẽ rõ.
(Kỳ sau: Từ một học thuyết bệnh hoạn ðến chữ thập ngoặc )
Sydney ngày 06 tháng 09 nãm 2005
Phạm Việt Hýng
Chú Thích Minh Hoạ:
Bản ðồ 1: Khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris và một số vùng trong thung lũng Indus, một trong những cái nôi vãn minh của loài ngýời. Tại ðó tìm thấy nhýng Swastika có ðộ tuổi khoảng 3000 nãm.
Bản ðồ 2: Vị trí Thành Troy trên bản ðồ. Swastika cũng ðýợc tìm thấy trên các bình gốm và những ðồng xu cổ trên ðống ðổ nát của thành Troy, chứng tỏ nó ðã ðýợc sử dụng ít nhất từ 1000 nãm trýớc C.N.
Bản ðồ 3: Vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay, nõi xuất xứ của ngýời Aryan. Từ ðây, một bộ phận ngýời Aryan di cý ðến Bắc Ấn, một bộ phận ở lại Iran, một bộ phận chinh phục châu Âu, trở thành ngýời Ấn-Âu tiền sử.
Hình 1-1: Swastika trong nghệ thuật và vãn hoá của ngýời Hindi, trong ðó có 4 dấu chấm ở các cung phần tý, nhýng Swastika của Hindu giáo không có 4 dấu chấm ðó, thể hiện sự thiêng liêng.
Vietsciences- Phạm Việt Hýng 29/12/2006
SWASTIKA
Rất nhiều ngýời thắc mắc không hiểu tại sao chữ Vạn của Phật giáo lại có hình thức trùng lặp với “chữ thập ngoặc” của Ðức quốc xã.
Gọi là “chữ”, nhýng thực ra cả hai ðều là những biểu týợng. Ngýời Việt Nam ðã khéo léo phân biệt 2 biểu týợng này bằng cách dùng hai tên gọi khác nhau. Nhýng với ngýời tây phýõng, cả 2 biểu týợng ðều ðýợc gọi là Swastika, vì hình thức của chúng hoàn toàn nhý nhau.
Trýớc ðây, trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” trên Vãn Nghệ ngày 15-06-2002, tôi ðã nêu lên nhận xét cho rằng ðây không phải là một sự trùng lặp ngẫu nhiên, mà phải có chủ ý – chủ nghĩa quốc xã Ðức ðã cố tình lợi dụng Swastika ðể làm biểu týợng của chúng. Tuy nhiên, mọi nhận ðịnh trong bài viết ðó vẫn mang tính chất suy luận cá nhân, chýa thể hiện ðánh giá chính thức của lịch sử thế giới.
Hôm nay tôi ðã có ðủ tài liệu ðể giới thiệu với ðọc giả những sự thật lịch sử ðýợc ghi chép trên các tài liệu chính thức, trong ðó cho biết ðích thân Hitler ðã chọn Swastika làm biểu týợng của ðảng quốc xã, nhà nýớc quốc xã và quân ðội quốc xã.
Trýớc khi tìm hiểu cụ thể, xin chú ý rằng:
· Swastika không phải là biểu týợng của riêng Phật giáo, mà là biểu týợng của rất nhiều nền vãn hoá và tôn giáo khác nhau.
· Swastika của Ðức quốc xã hoàn toàn không liên quan gì ðến chữ Vạn của Phật giáo, mà chỉ liên quan ðến Swastika của ngýời Aryan.
Vì thế ðể tránh nhầm lẫn, bài viết này sẽ sử dụng tên gọi chung của biểu týợng này là “Swastika”. “Chữ Vạn” sẽ chỉ ðýợc dùng cho Swastika của Phật giáo.
Vậy Swastika có xuất xứ từ ðâu? Ý nghĩa nguyên thuỷ của nó là gì? Ngýời Aryan là ai? Tại sao Hitler lại sử dụng Swastika của ngýời Aryan? Ðó là những câu hỏi sẽ ðýợc trả lời trong bài viết này.
1-Hành trình và ý nghĩa nguyên thuỷ của Swastika:
Swastika là một trong những biểu týợng cổ xýa nhất mà loài ngýời ðã sử dụng. Nó ðã ðýợc phát hiện trên những di chỉ khảo cổ có ðộ tuổi ít nhất hõn 3000 nãm tại khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris và một số vùng trong thung lũng Indus (Bản ðồ 1). Swastika cũng xuất hiện trên các bình gốm và những ðồng xu cổ trên ðống ðổ nát của thành Troy (Bản ðồ 2), chứng tỏ nó ðã ðýợc sử dụng ít nhất từ 1000 nãm trýớc C.N.
Bản ðồ 1
Bản ðồ 2
Mặc dù chýa ai vẽ ra ðýợc một “lộ trình di cý” chính xác của Swastika qua các thời ðại, nhýng có thể biết chắc chắn rằng trải qua hàng ngàn nãm, Swastika ðã có mặt ở hầu khắp các lục ðịa Á, Âu, Mỹ. Vì thế, Swastika có rất nhiều tên gọi khác nhau. Tiếng Hán gọi là “wan” (Vạn), tiếng HyLạp – tetraskelion, tiếng Pháp – croix gammé, tiếng Anh – fylfot, tiếng Ðức – hakenkreuz, tiếng Ý – croce uncinata, v.v… Nhýng tên gọi phổ biến nhất vẫn là swastika, bắt nguồn từ chữ svastika (ðọc là suastika) trong tiếng Sanscrit – ngôn ngữ cổ Ấn Ðộ.
Trong tiếng Sanscrit: Sv, ðọc là su, có nghĩa là tốt lành (good, well); asti có nghĩa là tồn tại (to be); ka là một tiếp vĩ ngữ thể hiện một sự vật hay sự việc nào ðó. Vậy swastika là một sự vật hay một sự việc tồn tại tốt lành, hoặc có trạng thái tốt lành (well-being).
Charles Messenger trong cuốn “Lịch sử Thế Chiến II bằng hình” (The Pictorial History of World War II) nói rằng Swastika thể hiện sự phồn thịnh (prosperity) và sáng tạo (creativity).
Swastika trong nghệ thuật của ngýời Hindu có các dấu chấm trong các cung phần tý (Hình 1-1), nhýng Swastika của Hindu giáo (Ấn giáo) không có những dấu chấm này, thể hiện sự thiêng liêng cao cả.
Hình 1-1
Phật giáo ðã thừa hýởng Swastika của Hindu giáo. Trong các kinh Phật, Swastika thýờng xuất hiện ngay ở phần mở ðầu. Trong tiếng Hán, chữ Vạn (wan) biểu thị cái bao trùm tất cả (all) và sự vĩnh hằng (eternality).
Cuốn “Phật Học Quần Nghi” xuất bản tại Ðài Loan viết:
Theo truyền thuyết cổ Ấn Ðộ, phàm là thánh výõng chuyển luân cai trị thế giới ðều có 32 týớng tốt. Phật là một thánh výõng trong Pháp nên cũng có 32 týớng tốt. Ðiều này ðýợc ghi trong kinh Kim Cýõng Bát Nhã. Chữ Vạn là một trong 32 týớng tốt của Phật. Theo kinh Trýòng A Hàm thì ðó là týớng tốt thứ 16 nằm trýớc ngực của Phật.
Tại Nhật Bản, chữ Vạn của Phật giáo ðýợc gọi là manji, thể hiện Dharma – sự hài hoà và cân bằng âm dýõng trong vũ trụ (giống tý týởng của Dịch và Lão học) – trong ðó manji quay trái ðýợc gọi là một omote manji, thể hiện tình yêu và lòng nhân từ, khoan dung; manji quay phải ðýợc gọi là ura manji, thể hiện sức mạnh và trí thông minh.
Tại Nam Âu, khu vực tiếp giáp với châu Á, dấu vết Swastika cũng ðã ðýợc tìm thấy trong các công trình kiến trúc thuộc nền vãn hoá Byzantine – nền vãn hoá thuộc khu vực Biển Ðen và Ðịa Trung Hải kéo dài từ thế kỷ thứ 7 trýớc CN ðến tận thời trung cổ.
Dấu vết Swastika cũng xuất hiện trong các ðền ðài thuộc nền vãn hoá Celtic (ðọc là Seltic hoặc Keltic) – nền vãn hoá ðậm nét Âu châu phi Ðịa Trung Hải, có xuất xứ từ Tây và Trung Âu từ khoảng 1000 nãm trýớc CN kéo dài mãi ðến nhiều thế kỷ sau CN, ảnh hýởng sâu rộng khắp Âu châu. Chủ nhân của nền vãn hoá này là ngýời Celt – ngýời nói tiếng Celtic – những ngýời nổi tiếng thông minh, yêu tự do, dũng cảm trong chiến ðấu.
Cần ðặc biệt chú ý rằng ngôn ngữ Celtic là một bộ phận của một nhóm ngôn ngữ rộng lớn hõn ðýợc gọi là ngôn ngữ Aryan hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu. Vậy ngôn ngữ Aryan và ngôn ngữ Ấn-Âu là gì?
2-Ngôn ngữ Aryan và ngýời Aryan:
Những ngýời ít quan tâm ðến ngôn ngữ học có thể sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết các thứ tiếng Âu châu ngày nay hoá ra lại có chung một thuỷ tổ với tiếng Hindi (tiếng Ấn Ðộ).
Thuỷ tổ ấy là ngôn ngữ Aryan, hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European languages) – ngôn ngữ của những cý dân sinh sống từ xa xýa trên vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay (Bản ðồ 3). Những cý dân này tự gọi mình là ngýời Aryan.
Bản ðổ 3
Vào khoảng 1500 nãm trýớc CN, ngýời Aryan ðã xâm chiếm vùng tây bắc Ấn Ðộ. Họ mang theo một nhánh ngôn ngữ của họ ðến ðó, và trong suốt 1000 nãm ðầu tiên tại Ấn, họ ðã hoàn thiện ngôn ngữ này ðến mức tìm ra cách ðể viết. Ðó chính là ngôn ngữ Sanscrit mà ngày nay ta gọi là tiếng Ấn Ðộ cổ. Tiếng Hindi, ngôn ngữ chính của Ấn Ðộ ngày nay, cũng bắt nguồn từ ngôn ngữ Sanscrit. Chính nhờ các vãn bản cổ viết bằng tiếng Sanscrit vẫn còn lýu giữ ðýợc trong các di tích tôn giáo và vãn hoá của ngýời Hindu mà ngày nay ta biết ðýợc lịch sử của ngýời Aryan. Những vãn bản này mô tả ngýời Aryan có nýớc da sáng mầu (fair-skinned), có máu mê chiến tranh (warlike), và bản thân chữ Aryan trong tiếng Sanscrit có nghĩa là ngýời phú quý (nobleman) hoặc chúa tể ðất ðai (lords of land)!
Một nhánh khác của ngýời Aryan ðã di cý sang xâm chiếm Âu châu và truyền bá ngôn ngữ của họ ở ðó. Vì thế ngôn ngữ của phần lớn ngýời Âu châu ngày nay rất giống nhau – thực ra hầu hết ngýời Âu ðều nói một thứ ngôn ngữ có nguồn gốc Aryan (trừ tiếng Thổ, Hung, xứ Basques, PhầnLan, LátVia, Estonia, và một vài nhóm nhỏ ở Nga).
Vì thế ngôn ngữ Aryan ðýợc gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu, ngýời Aryan ðýợc gọi là ngýời Ấn-Âu tiền sử (proto-Indo-European). Ngýời Ấn ở miền bắc Ấn Ðộ còn ðýợc gọi là ngýời Ấn-Âu. Họ cao lớn, nýớc da sáng mầu, trong khi ngýời Ấn ở miền nam có nguồn gốc Dravidian, vóc dáng nhỏ bé hõn, nýớc da tối mầu hõn.
Việc khám phá ra ngôn ngữ Aryan vào những nãm 1790 ðýợc coi là một trong những khám phá vĩ ðại nhất của ngôn ngữ học. Ngýời Âu châu thời ðó ðã sửng sốt khi biết rằng không chỉ các dân tộc ở Âu châu, mà ngay cả một xứ “xa tít mù tắp” vào thời ðó nhý Bắc Ấn, hoá ra cũng có chung một nguồn gốc ngôn ngữ với họ, thậm chí chung một tổ tiên với họ. Từ ðó, các nhà khảo cổ học lao vào nghiên cứu mối liên hệ giữa ngýời Âu châu tiền sử với ngýời Aryan cổ ðại.
Trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” (ðã dẫn), tôi ðã ðặt dấu hỏi: “Dân tộc Iran ngày nay và ngýời Aryan xýa kia có liên hệ gì với nhau không? Về mặt âm ngữ, hai từ Iran và Aryan rất giống nhau. Về mặt lịch sử, chẳng lẽ ngýời Aryan ði chinh phục Ấn Ðộ và Âu châu hết mà không ðể lại một chi nhánh nào của dòng họ ở nõi xuất xứ là cao nguyên Iran hay sao?”.
Và tôi ðã tìm thấy câu trả lời. Bách khoa toàn thý Wikipedia viết: “Vào khoảng nửa ðầu của thiên niên kỷ thứ nhất trýớc CN, ngýời Aryan ðã có mặt trên cao nguyên Iran và tiểu lục ðịa Ấn Ðộ. Thực ra, thuật ngữ Iran là kết quả của thuật ngữ Ariana (Airyana) có nghĩa là xứ sở của ngýời Aryan. Nhóm ngôn ngữ Aryan có hai nhánh chủ yếu: Ngôn ngữ Sanskrit và ngôn ngữ cổ-Iran … trong tiếng Ba-Tý thời trung cổ, chúng ta thấy chữ Ariana ðýợc gọi là Eran, và cuối cùng trong tiếng Ba-Tý hiện ðại, ðýợc gọi là Iran”.
Nhà triết học nổi tiếng Hegel từng viết trong cuốn Triết học Lịch sử (The Philosophy of history) rằng: "Lịch sử của loài ngýời bắt ðầu từ lịch sử của Iran”. Các di chỉ khảo cổ tại Tây Nam Á cho thấy nền vãn minh Iran có trýớc nền vãn minh Ai Cập quãng 3000 nãm, khởi ðầu ít nhất từ 12000 nãm trýớc ðây.
Tóm lại, ngýời Aryan một phần ðã chinh phục Bắc Ấn, một phần ở lại Iran, và một phần ðã di cý sang Âu châu và chinh phục hầu khắp Âu châu, lai tạp với cý dân bản ðịa Âu châu cổ ðại ðể dần dà trở thành ngýời Âu Mỹ nhý ngày nay.
Tuy nhiên, khái niệm “ngýời Aryan” dần dần ðã bị những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc biến týớng thành khái niệm “chủng tộc Aryan”, từ ðó dẫn tới những hậu quả chính trị xã hội vô cùng tệ hại.
3-Về cái gọi là “chủng tộc Aryan”:
Nhý ðọc giả ðã thấy, những vãn bản cổ mô tả ngýời Aryan là những ngýời có những “ýu ðiểm výợt trội”: những ngýời “phú quý” hoặc “chúa tể ðất ðai”! Trong thực tế, ngýời Aryan ðã chinh phục một dải ðất vô cùng rộng lớn từ Á sang Âu! “Thành tích výợt trội” của ngýời Aryan ðã làm nức lòng những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu cuối thế kỷ 19 ðầu thế kỷ 20. Trong con mắt của họ, “ngýời Aryan” ðồng nghĩa với “chủng tộc Aryan” (Aryan race) – một “chủng tộc ýu tú hõn” (superior race) so với bất kỳ chủng tộc nào khác. Ngay từ thời ðó, tý týởng này ðã bị phê phán. Nhà Sanscrit học lỗi lạc Max Muller từng nhấn mạnh: “Khi tôi nói ðến chữ Aryan, tôi không hề có ý ðịnh ðề cập ðến những khái niệm liên quan ðến hộp sọ”. Nói cách khác, theo những tiêu chuẩn của chủng tộc học, không hề có cái gọi là “chủng tộc Aryan”, mà chỉ có ngýời Aryan mà thôi. Nhýng bất chấp mọi giải thích, những kẻ có ðầu óc dân tộc tiếp tục truyền bá khái niệm “chủng tộc Aryan” nhý một sự thật lịch sử và khoa học.
Ðến những nãm 1920, chủ nghĩa quốc xã Ðức ðã nâng lý thuyết “chủng tộc Aryan lên ðến mức cực kỳ phản ðộng: “Chủng tộc Aryan là chủng tộc thýợng ðẳng (master race) có quyền thống trị thế giới”. Lý thuyết này dựa trên nền tảng của một học thuyết ðýợc coi là “khoa học” vào thời ðó: Học thuyết Ðác-uyn-xã-hội (Social-Darwinist Ideology) – một học thuyết chủ trýõng áp dụng nguyên lý ðấu tranh sinh tồn của Darwin vào trong xã hội loài ngýời.
Nhýng tại sao Ðức quốc xã lại chọn Swastika làm biểu týợng của chúng?
Trýớc khi biết rõ bối cảnh nào ðã dẫn Hitler tới chỗ ðích thân hắn chọn Swastika làm biểu týợng cho ðảng quốc xã, ðọc giả cần biết rõ sự kiện sau ðây:
Cuối thế kỷ 19, nhà khảo cổ học nổi tiếng Heinrich Schliemann, ngýời ðã khám phá ra Swastika trên ðống ðổ nát của thành Troy, trong một công trình nghiên cứu công phu kết hợp khảo cổ học với Sanscrit học, ðã ði ðến một kết luận vô cùng quan trọng rằng Swastika là một biểu týợng ðặc trýng Ấn-Âu. Nói cách khác:
Swastika là biểu týợng ðặc trýng của ngýời Aryan!
Muốn biết Swastika của ngýời Aryan ðã bị Hitler lợi dụng ra sao, xem bài ký sau sẽ rõ.
(Kỳ sau: Từ một học thuyết bệnh hoạn ðến chữ thập ngoặc )
Sydney ngày 06 tháng 09 nãm 2005
Phạm Việt Hýng
Chú Thích Minh Hoạ:
Bản ðồ 1: Khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris và một số vùng trong thung lũng Indus, một trong những cái nôi vãn minh của loài ngýời. Tại ðó tìm thấy nhýng Swastika có ðộ tuổi khoảng 3000 nãm.
Bản ðồ 2: Vị trí Thành Troy trên bản ðồ. Swastika cũng ðýợc tìm thấy trên các bình gốm và những ðồng xu cổ trên ðống ðổ nát của thành Troy, chứng tỏ nó ðã ðýợc sử dụng ít nhất từ 1000 nãm trýớc C.N.
Bản ðồ 3: Vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay, nõi xuất xứ của ngýời Aryan. Từ ðây, một bộ phận ngýời Aryan di cý ðến Bắc Ấn, một bộ phận ở lại Iran, một bộ phận chinh phục châu Âu, trở thành ngýời Ấn-Âu tiền sử.
Hình 1-1: Swastika trong nghệ thuật và vãn hoá của ngýời Hindi, trong ðó có 4 dấu chấm ở các cung phần tý, nhýng Swastika của Hindu giáo không có 4 dấu chấm ðó, thể hiện sự thiêng liêng.