Post by NhiHa on Mar 7, 2007 9:53:49 GMT 9
Hiệu ứng tay nghề
Đặng Đình Cung 21/09/2006
Mỗi ngày, mọi người chúng ta đều có thêm kinh-nghiệm về đời sống và tay nghề. Khi ở lớp trung-học, chúng ta bỏ nhiều thì-giờ để giải lần đầu tiên một phương-trình. Sau đó, nếu mỗi ngày chúng ta giải thêm phương-trình cùng loại thì chúng ta sẽ giải mỗi ngày mỗi mau hơn. Giải được phương-trình mỗi ngày mỗi mau hơn là do chúng ta tích-lũy "tay nghề giải phương-trình". Nhưng, nếu trong một thời-gian dài, chúng ta không tiếp-tục giải phương-trình thì tốc-độ giải phương-trình sẽ giảm thậm chí có khi còn phải học lại cách giải.
Khi chúng ta mới đến một thị-xã thì chúng ta phải bỏ ra nhiều thì giờ để đi từ nơi này đến nơi khác vì chúng ta phải tham-khảo bản-đồ, hỏi thăm đường, đi lầm đường,... Sau đó thì chúng ta biết đường nên đỡ tốn thì-giờ đi lại trong tỉnh. Lâu dần chúng ta còn biết thêm những ngõ tắt và có thể di-chuyển mau hơn nữa. Điều đó là nhờ chúng ta đã bỏ công để biết rành địa-thế. Nhưng nếu trong một vài năm không trở lại thị-xã đó thì chúng ta lại phải bỏ thì-giờ để tìm đường như xưa.
Một xí-nghiệp cũng vậy. Vào những năm 1930, kỹ-sư T. P. Wright, giám-đốc một nhà máy sản-xuất phi-cơ, nhận thấy rằng cứ mỗi lần nhân đôi tổng-số máy bay đã được sản-xuất thì thời-gian cần thiết để sản-xuất thêm một máy bay giảm đi 20 phần trăm[1]. Khi một công-nhân lập lại nhiều lần một công-việc thì người đó bỏ ra càng ngày càng ít thời-gian và/hay công-lao để thực-hiện việc đó. Khi người đó lập lại nhiều lần một sản-phẩm thì chúng ta cũng nhận thấy người đó
bỏ ra càng ngày càng ít thời-gian và/hay công-lao để thực-hiện sản-phẩm đó,
· chất-lượng của sản-phẩm càng ngày càng cao,
· dùng càng ngày càng ít vật-liệu để sản-xuất cùng một sản-lượng
Những tiến-bộ về năng-suất mỗi khi lập lại một việc hay một sản-phẩm gọi là "hiệu-ứng tay nghề" (learning effect) hay là "hiệu-ứng kinh-nghiệm" (experience effect). Nhiều chuyên-gia về chiến-lược công-nghiệp dùng cụm từ "hiệu-ứng tay nghề" khi nói về tỷ-số giảm thời-gian hoàn-tất một việc của một cá-nhân hay một xí-nghiệp và cụm từ "hiệu-ứng kinh-nghiệm" khi bao-hàm hiệu-ứng tay nghề cũng như tất cả những tiến-bộ khác như giảm giá-thành, gia-tăng chất-lượng, củng-cố an-toàn,... Thực ra thì hai khái-niệm đó có cùng nguồn gốc, được mô-hình-hóa bằng cùng một tập-hợp hàm-số toán-học và dẫn đến cùng một số kết-luận thực-tiễn về quản-lý chiến-lược. Vì thế những nhà quản-lý xí-nghiệp không phân-biệt hai khái-niệm đó trong đời sống hàng ngày.
Trong bài này, chúng tôi xin trình bày nguồn gốc hiệu-ứng tay nghề, mô-hình toán học của hiệu-ứng, quan-trọng của hiệu-ứng trong chiến-lược công-nghiệp và những việc phải làm để gây nên và duy-trì hiệu-ứng đó.
1. Mô-hình toán học của hiệu-ứng tay nghề
Trong phần này chúng tôi xin trình bày ba mô-hình :
·mô-hình tích-lũy tay nghề theo sản-lượng,
·mô-hình tích-lũy tay nghề theo thời-gian,
· và mô-hình mất tay nghề.
Mô-hình tích-lũy tay nghề theo sản-lượng thích-hợp với những quy-trình sản-xuất một sản-lượng nhỏ từ vài đơn-vị cho tới vài trăm đơn-vị. Mô-hình tích-lũy tay nghề theo thời-gian thích-hợp với những quy-trình sản-xuất đại-tràng và liên-tục. Mô-hình mất tay nghề có thể áp-dụng cho những cá-nhân sau khi đã có tay nghề cao nhưng không còn tiếp tục lập lại công-việc hay sản-phẩm nữa vì nhiều lý-do chính-đáng hay không.
Trong phần này, chúng tôi dùng cụm-từ "công-suất" để chỉ mọi thể-hiện của năng-suất : nhịp lao-động khi sản-xuất hay bán hàng, tỷ-số đơn-vị thích-ứng với tiêu-chuẩn chất-lượng (gọi là tỷ-số thích-ứng), thời-gian sửa chữa một cỗ máy, số ngày máy vận-hành không có vấn-đề, số ngày nhà máy vận-hành không có tai-nạn,...
1.1 Mô-hình tích-lũy tay nghề theo sản-lượng
Giả tỷ mỗi lần nhân đôi số đơn-vị đã được sản-xuất thì thời-gian sản-xuất của một đơn-vị giảm 20 phần trăm. Chúng ta có bảng sau đây :
Tổng-số
sản-lượng
Tổng-số
thời-gian
sản-xuất
Thời-gian
sản-xuất
trung-bình
1 đơn-vị
1.000 giờ
1.000 giờ
2 đơn-vị
1.800 giờ
900 giờ
4 đơn-vị
3.240 giờ
810 giờ
8 đơn-vị
5.832 giờ
729 giờ
Bảng đó cho thấy rằng mỗi khi tổng-số sản-lượng đã được nhân đôi thì thời-gian sản-xuất trung-bình để sản-xuất mỗi đơn-vị giảm chỉ còn lại có 90 phần trăm. Tỷ-số 0,90 đó gọi là tỷ-số học nghề (learning rate).
Người ta nhận thấy hiệu-ứng tay nghề ở mọi ngành nghề, kể cả những ngành dịch-vụ. Những ngành công-nghiệp có hiệu-ứng tay nghề mạnh nhất là không-gian vũ-trụ, điện-tử, đóng tầu, xây-dựng, quân-khí,... Những ngành dịch-vụ như là ngân-hàng, phân-phối, khách-sạn, hiệu ăn,... có hiệu-ứng tay nghề gần như không đáng kể. Kinh-nghiệm cho thấy một công-việc càng phức-tạp, càng cần đến sự đóng góp của con người, thì hiệu-ứng tay nghề càng mạnh và, suy ra, tỷ-số học nghề càng thấp. Dựa trên những những nghiên-cứu thống-kê, tiến-sĩ R. D. Stewart[2] nhận thấy một số tỷ-số học nghề như sau :
Lắp ráp 75% bằng tay và 25% bằng máy
80%
Lắp ráp 50% bằng tay và 50% bằng máy
85%
Lắp ráp 25% bằng tay và 75% bằng máy
90%
Trong ngành không-gian vũ-trụ
85%
Trong ngành đóng tầu
80-85%
Trong ngành chế-tạo
những máy công-cụ phức-tạp
75-85%
Chế-tạo lập lại trong ngành điện-tử
90-95%
Gia-công lập lại cơ-khí
90-95%
Động-tác lập lại trong ngành điện
75-85%
Động-tác lập lại trong ngành hàn
90%
Trong ngành vật-liệu thô
93-96%
Mua bộ-phận
85-88%
Xin chú ý những tỷ-số đó có thể biến-đổi từ xí-nghiệp này sang xí-nghiệp khác, từ phân-xưởng này sang phân-xưởng khác mặc dù vẫn cùng một ngành nghề, cùng một sản-phẩm. Điều nữa, hiệu-ứng tay nghề chỉ có thể phát-hiện nếu xí-nghiệp có chính-sách cải-thiện liên-tục.
Từ những nhận-xét trên, chúng ta có thể thiết-lập phương-trình tính thời-gian trung-bình Y để sản-xuất một đơn-vị sau khi đã sản-xuất tổng-cộng x đơn-vị là :
Y = A.xb
với
A Thời-gian để sản-xuất đơn-vị đầu tiên
x Tổng-số đơn-vị đã được sản-xuất
b Hằng-số, gọi là hằng số tay nghề, tính từ tỷ-số học nghề l như sau:
b = Ln(l )
Ln(2)
Một thí dụ
Sau khi đóng 10 tầu đánh cá, ban kế-toán báo-cáo tổng kết như sau :
Thời-gian để đóng chiếc tầu thứ nhất
15.000 giờ
Tổng-số thời-gian để đóng 10 tầu
70.000 giờ
Xí-nghiệp vừa nhận được đơn tham-khảo giá cả để đóng thêm 5 tầu nữa.
Từ những số-liệu đó, chúng ta có thể tính hằng-số tiến-bộ tay nghề bằng phương-trình
70.000
10 = 15.000 x 10b
và suy ra
10b = 70.000
10 x 15.000 = 7
15
vàb = Ln(7) - Ln(15)
Ln(10) = -0,331 = Ln(l)
Ln(2)
Suy ra, tỷ-số học nghề là
l = 2-0,331 = 0,795 hay là 79,5 phần trăm
Thời-gian trung-bình để sản-xuất mỗi tầu khi đã sản-xuất tổng-cộng 15 tầu là
15.000 x 15-0,331 = 6.121 giờ
và tổng-số thời-gian để đóng 15 tầu là
15 x 6.121 = 91.811 giờ
Vậy, để đóng thêm 5 tầu nữa thì phải bố-trí
91.811 - 70.000 - 21.811 giờ
1.2 Mô-hình tích-lũy tay nghề theo thời-gian
Công-suất Ym(t) sau t giờ làm việc có thể tính như sau :
Ym(t) = Yc + Yf [ 1- exp ( -t
T )]
với
T
= Hằng-số thời-gian tiêu-biểu của đà tiến-bộ tay nghề, gọi là hằng-số tiến-bộ tay nghề
Yc
= Công-suất khởi đầu
Yf
= Tiến-bộ tay nghề tối-đa sau một thời-gian vô-tận
Yc + Yf là công-suất tiệm-cận, công-suất tối-đa có thể đạt được.
Công-suất khởi đầu Yc không bắt buộc phải là công-suất khi sản-xuất đơn-vị đầu tiên.
Một thí dụ
Khi sản-xuất 1.000 đơn-vị sản-phẩm một công-nhân mới được đào-tạo sinh ra 20 đơn-vị không thích-ứng hay là 20.000 ppm (phần một triệu, parts per million). Như vậy có nghĩa là tỷ-số sản-phẩm thích-ứng mà người ấy có thể làm ra là 0,98. Theo kinh-nghiệm của ban thiết-kế, hằng-số tiến-bộ tay nghề là 100 giờ.
Từ những số-liệu đó, tiến-bộ tay nghề tối-đa là 0,02 và hàm-số tiêu-biểu của tỷ-số sản-phẩm thích-ứng là
Ym(t) = 0,98 + 0,02 [ 1-exp( - t
100 ) ]
Tiến-bộ dự báo của công-nhân đó là như sau
Số giờ sản-xuất
Tỷ-số đơn-vị
sản-phẩm thích-ứng
Tỷ-số đơn-vị
không thích-ứng
(ppm)
40 (một tuần)
0,986 593 6
13 406,4
480 (ba tháng)
0,999 835 4
164,6
1.000 (chừng ba tháng)
0,999 999 1
0,9
Nếu phảỉ giao hàng với tỷ-số đơn-vị không thích-ứng dưới 1 ppm thì, thì sau ba tháng kinh-nghiệm, vẫn còn phải kiểm-tra chọn loại sản-lượng của công-nhân này trước khi gửi đến khách hàng. Nhưng sau sáu tháng thì chúng ta có thể tin cậy và gửi đến khách hàng sản-lượng của công-nhân này mà không cần phải kiểm-tra trước.
1.3 Mô-hình mất tay nghề
Khi ngưng sản-xuất trong một thì thời-gian công-nhân có thể mất tay nghề và công-suất sẽ giảm xuống.
Mô-hình mất tay nghề tương-tự như mô-hình tích-lũy theo thời-gian và chỉ áp-dụng cho tay nghề của nhân-viên thôi. Công-suất Ym(t) sau t ngày nghỉ việc có thể tính như sau :
Ym(t) = Yc - Yf [ 1-exp( - t
100 ) ]
với
T
= Hằng-số thời-gian tiêu-biểu của đà mất tay nghề, gọi là hằng-số mất tay nghề
Yc
= Công-suất khởi đầu
Yf
= Thoái-lui tay nghề tối-đa sau một thời-gian nghỉ việc vô-tận
Yc - Yf là công-suất tiệm-cận, công-suất tối-thiểu của một người không có tay nghề.
Công-suất khởi đầu Yc không bắt buộc phải là công-suất khi sản-xuất đơn-vị đầu tiên.
2. Những áp-dụng của hiệu-ứng tay nghề
Hiệu-ứng tay nghề không phải là hậu-quả của những tiết-kiệm nhờ quy-mô mà cũng không phải là một công-cụ để làm giảm gía thành. Nhưng khái-niệm hiệu-ứng tay nghề giúp chúng ta thiết-lập một số chính-sách quản-lý dựa trên giá thành.
2.1 Quản-lý nhân-lực
Khi một người mới được tuyển vào hãng thì có công-suất thấp. Nhưng khi quen việc rồi thì sẽ có năng-suất cao. Từ những những mô-hình toán-học của hiệu-ứng tay nghề trình bày ở trên, chúng ta suy ra công-suất của một người mới ra nghề tăng mau hơn là sau khi đã thâm-niên. Vậy, lý-tưởng là tất cả nhân-viên của một ngành nghề đều tích-lũy kinh-nghiệm tay nghề ngang nhau. Từ mô-hình mất tay nghề chúng ta suy ra tốc-độ mất tay nghề khi mới ngưng việc cao hơn là sau một thời-gian lâu.
Vậy chính-sách quản-lý nhân-lực của một xí-nghiệp cần theo hai hướng :
· ưu-tiên trao việc cho những nhân-viên mới được tuyển và những nhân-viên trẻ mới tốt-nghiệp, mặc dù năng-suất của họ kém, để họ mau chóng có kinh-nghiệm bằng những đồng-nghiệp thâm-niên,
· để duy-trì tay nghề của nhân-viên xí-nghiệp nên tạo điều-kiện để họ có dịp lập lại có định-kỳ những việc họ đã có kinh-nghiệm.
2.2 Chính-sách giá bán một sản-phẩm mới
Khi một xí-nghiệp khai-triển một sản-phẩm mới thì kỹ-sư, nhân-viên vận-hành, nhân-viên bảo-quản phải bỏ công ra để tìm hiểu quy-trình sản-xuất, quy-trình kinh-doanh và để tìm cách làm cho mọi việc được tối-ưu. Vì những lý-do đó giá thành của sản-phẩm lúc đầu bao giờ cũng cao hơn là sau khi một sản-lượng lớn đã được sản-xuất.
Trong tình-huống đó, xí-nghiệp có thể bán với giá cao để cân bằng ngay những chi-phí ban đầu. Nhưng xí-nghiệp cũng có thể bán với giá tương-xứng với giá thành tương-lai để mau chóng có thị-truờng lớn, gây cơ-hội mau chóng tich-lũy tay nghề và để mau chóng giảm giá thành.
Những xí-nghiệp khai-phá trước một thị-trường tích-lũy được nhiều sản-lượng, nhiều kinh-nghiệm mà không phải so-sánh với đối-thủ. Tay nghề của họ đã cao, suy ra, giá thành của họ đã giảm trước khi đối-thủ vào cuộc. Ngược lại, nếu đặt chân vào một thị-trường đã có đối-thủ rồi thì phải đắn đo giá thành tương lai sẽ có thể cạnh-tranh được không : quy-trình sản-xuất có hữu-hiệu hơn, tích-lũy sản-lượng tương-lai sẽ vượt tích-lũy sản-lượng của đối-thủ trong một thời-gian có thể chấp-nhận được...
2.3 Tiêu-chuẩn-hóa
Một công-nhân sẽ mau tích-lũy lượng tay nghề nếu không thay đổi sản-phẩm phải sản-xuất. mau tổng-số Ngược lại nếu xí-nghiệp liên-tục đổi mặt hàng thì nhân-công sẽ không kịp tích-lũy tay nghề. Mỗi lần đổi sản-phẩm thì một phần tay nghề trước của xí-nghiệp sẽ mất đi. Để tích-lũy tay nghề thì xí-nghiệp phải sản-xuất những gì có thể bán được nhiều hay có thể được lắp ráp từ những bộ-phận chung sản-xuất đại-tràng.
Đặng Đình Cung 21/09/2006
Mỗi ngày, mọi người chúng ta đều có thêm kinh-nghiệm về đời sống và tay nghề. Khi ở lớp trung-học, chúng ta bỏ nhiều thì-giờ để giải lần đầu tiên một phương-trình. Sau đó, nếu mỗi ngày chúng ta giải thêm phương-trình cùng loại thì chúng ta sẽ giải mỗi ngày mỗi mau hơn. Giải được phương-trình mỗi ngày mỗi mau hơn là do chúng ta tích-lũy "tay nghề giải phương-trình". Nhưng, nếu trong một thời-gian dài, chúng ta không tiếp-tục giải phương-trình thì tốc-độ giải phương-trình sẽ giảm thậm chí có khi còn phải học lại cách giải.
Khi chúng ta mới đến một thị-xã thì chúng ta phải bỏ ra nhiều thì giờ để đi từ nơi này đến nơi khác vì chúng ta phải tham-khảo bản-đồ, hỏi thăm đường, đi lầm đường,... Sau đó thì chúng ta biết đường nên đỡ tốn thì-giờ đi lại trong tỉnh. Lâu dần chúng ta còn biết thêm những ngõ tắt và có thể di-chuyển mau hơn nữa. Điều đó là nhờ chúng ta đã bỏ công để biết rành địa-thế. Nhưng nếu trong một vài năm không trở lại thị-xã đó thì chúng ta lại phải bỏ thì-giờ để tìm đường như xưa.
Một xí-nghiệp cũng vậy. Vào những năm 1930, kỹ-sư T. P. Wright, giám-đốc một nhà máy sản-xuất phi-cơ, nhận thấy rằng cứ mỗi lần nhân đôi tổng-số máy bay đã được sản-xuất thì thời-gian cần thiết để sản-xuất thêm một máy bay giảm đi 20 phần trăm[1]. Khi một công-nhân lập lại nhiều lần một công-việc thì người đó bỏ ra càng ngày càng ít thời-gian và/hay công-lao để thực-hiện việc đó. Khi người đó lập lại nhiều lần một sản-phẩm thì chúng ta cũng nhận thấy người đó
bỏ ra càng ngày càng ít thời-gian và/hay công-lao để thực-hiện sản-phẩm đó,
· chất-lượng của sản-phẩm càng ngày càng cao,
· dùng càng ngày càng ít vật-liệu để sản-xuất cùng một sản-lượng
Những tiến-bộ về năng-suất mỗi khi lập lại một việc hay một sản-phẩm gọi là "hiệu-ứng tay nghề" (learning effect) hay là "hiệu-ứng kinh-nghiệm" (experience effect). Nhiều chuyên-gia về chiến-lược công-nghiệp dùng cụm từ "hiệu-ứng tay nghề" khi nói về tỷ-số giảm thời-gian hoàn-tất một việc của một cá-nhân hay một xí-nghiệp và cụm từ "hiệu-ứng kinh-nghiệm" khi bao-hàm hiệu-ứng tay nghề cũng như tất cả những tiến-bộ khác như giảm giá-thành, gia-tăng chất-lượng, củng-cố an-toàn,... Thực ra thì hai khái-niệm đó có cùng nguồn gốc, được mô-hình-hóa bằng cùng một tập-hợp hàm-số toán-học và dẫn đến cùng một số kết-luận thực-tiễn về quản-lý chiến-lược. Vì thế những nhà quản-lý xí-nghiệp không phân-biệt hai khái-niệm đó trong đời sống hàng ngày.
Trong bài này, chúng tôi xin trình bày nguồn gốc hiệu-ứng tay nghề, mô-hình toán học của hiệu-ứng, quan-trọng của hiệu-ứng trong chiến-lược công-nghiệp và những việc phải làm để gây nên và duy-trì hiệu-ứng đó.
1. Mô-hình toán học của hiệu-ứng tay nghề
Trong phần này chúng tôi xin trình bày ba mô-hình :
·mô-hình tích-lũy tay nghề theo sản-lượng,
·mô-hình tích-lũy tay nghề theo thời-gian,
· và mô-hình mất tay nghề.
Mô-hình tích-lũy tay nghề theo sản-lượng thích-hợp với những quy-trình sản-xuất một sản-lượng nhỏ từ vài đơn-vị cho tới vài trăm đơn-vị. Mô-hình tích-lũy tay nghề theo thời-gian thích-hợp với những quy-trình sản-xuất đại-tràng và liên-tục. Mô-hình mất tay nghề có thể áp-dụng cho những cá-nhân sau khi đã có tay nghề cao nhưng không còn tiếp tục lập lại công-việc hay sản-phẩm nữa vì nhiều lý-do chính-đáng hay không.
Trong phần này, chúng tôi dùng cụm-từ "công-suất" để chỉ mọi thể-hiện của năng-suất : nhịp lao-động khi sản-xuất hay bán hàng, tỷ-số đơn-vị thích-ứng với tiêu-chuẩn chất-lượng (gọi là tỷ-số thích-ứng), thời-gian sửa chữa một cỗ máy, số ngày máy vận-hành không có vấn-đề, số ngày nhà máy vận-hành không có tai-nạn,...
1.1 Mô-hình tích-lũy tay nghề theo sản-lượng
Giả tỷ mỗi lần nhân đôi số đơn-vị đã được sản-xuất thì thời-gian sản-xuất của một đơn-vị giảm 20 phần trăm. Chúng ta có bảng sau đây :
Tổng-số
sản-lượng
Tổng-số
thời-gian
sản-xuất
Thời-gian
sản-xuất
trung-bình
1 đơn-vị
1.000 giờ
1.000 giờ
2 đơn-vị
1.800 giờ
900 giờ
4 đơn-vị
3.240 giờ
810 giờ
8 đơn-vị
5.832 giờ
729 giờ
Bảng đó cho thấy rằng mỗi khi tổng-số sản-lượng đã được nhân đôi thì thời-gian sản-xuất trung-bình để sản-xuất mỗi đơn-vị giảm chỉ còn lại có 90 phần trăm. Tỷ-số 0,90 đó gọi là tỷ-số học nghề (learning rate).
Người ta nhận thấy hiệu-ứng tay nghề ở mọi ngành nghề, kể cả những ngành dịch-vụ. Những ngành công-nghiệp có hiệu-ứng tay nghề mạnh nhất là không-gian vũ-trụ, điện-tử, đóng tầu, xây-dựng, quân-khí,... Những ngành dịch-vụ như là ngân-hàng, phân-phối, khách-sạn, hiệu ăn,... có hiệu-ứng tay nghề gần như không đáng kể. Kinh-nghiệm cho thấy một công-việc càng phức-tạp, càng cần đến sự đóng góp của con người, thì hiệu-ứng tay nghề càng mạnh và, suy ra, tỷ-số học nghề càng thấp. Dựa trên những những nghiên-cứu thống-kê, tiến-sĩ R. D. Stewart[2] nhận thấy một số tỷ-số học nghề như sau :
Lắp ráp 75% bằng tay và 25% bằng máy
80%
Lắp ráp 50% bằng tay và 50% bằng máy
85%
Lắp ráp 25% bằng tay và 75% bằng máy
90%
Trong ngành không-gian vũ-trụ
85%
Trong ngành đóng tầu
80-85%
Trong ngành chế-tạo
những máy công-cụ phức-tạp
75-85%
Chế-tạo lập lại trong ngành điện-tử
90-95%
Gia-công lập lại cơ-khí
90-95%
Động-tác lập lại trong ngành điện
75-85%
Động-tác lập lại trong ngành hàn
90%
Trong ngành vật-liệu thô
93-96%
Mua bộ-phận
85-88%
Xin chú ý những tỷ-số đó có thể biến-đổi từ xí-nghiệp này sang xí-nghiệp khác, từ phân-xưởng này sang phân-xưởng khác mặc dù vẫn cùng một ngành nghề, cùng một sản-phẩm. Điều nữa, hiệu-ứng tay nghề chỉ có thể phát-hiện nếu xí-nghiệp có chính-sách cải-thiện liên-tục.
Từ những nhận-xét trên, chúng ta có thể thiết-lập phương-trình tính thời-gian trung-bình Y để sản-xuất một đơn-vị sau khi đã sản-xuất tổng-cộng x đơn-vị là :
Y = A.xb
với
A Thời-gian để sản-xuất đơn-vị đầu tiên
x Tổng-số đơn-vị đã được sản-xuất
b Hằng-số, gọi là hằng số tay nghề, tính từ tỷ-số học nghề l như sau:
b = Ln(l )
Ln(2)
Một thí dụ
Sau khi đóng 10 tầu đánh cá, ban kế-toán báo-cáo tổng kết như sau :
Thời-gian để đóng chiếc tầu thứ nhất
15.000 giờ
Tổng-số thời-gian để đóng 10 tầu
70.000 giờ
Xí-nghiệp vừa nhận được đơn tham-khảo giá cả để đóng thêm 5 tầu nữa.
Từ những số-liệu đó, chúng ta có thể tính hằng-số tiến-bộ tay nghề bằng phương-trình
70.000
10 = 15.000 x 10b
và suy ra
10b = 70.000
10 x 15.000 = 7
15
vàb = Ln(7) - Ln(15)
Ln(10) = -0,331 = Ln(l)
Ln(2)
Suy ra, tỷ-số học nghề là
l = 2-0,331 = 0,795 hay là 79,5 phần trăm
Thời-gian trung-bình để sản-xuất mỗi tầu khi đã sản-xuất tổng-cộng 15 tầu là
15.000 x 15-0,331 = 6.121 giờ
và tổng-số thời-gian để đóng 15 tầu là
15 x 6.121 = 91.811 giờ
Vậy, để đóng thêm 5 tầu nữa thì phải bố-trí
91.811 - 70.000 - 21.811 giờ
1.2 Mô-hình tích-lũy tay nghề theo thời-gian
Công-suất Ym(t) sau t giờ làm việc có thể tính như sau :
Ym(t) = Yc + Yf [ 1- exp ( -t
T )]
với
T
= Hằng-số thời-gian tiêu-biểu của đà tiến-bộ tay nghề, gọi là hằng-số tiến-bộ tay nghề
Yc
= Công-suất khởi đầu
Yf
= Tiến-bộ tay nghề tối-đa sau một thời-gian vô-tận
Yc + Yf là công-suất tiệm-cận, công-suất tối-đa có thể đạt được.
Công-suất khởi đầu Yc không bắt buộc phải là công-suất khi sản-xuất đơn-vị đầu tiên.
Một thí dụ
Khi sản-xuất 1.000 đơn-vị sản-phẩm một công-nhân mới được đào-tạo sinh ra 20 đơn-vị không thích-ứng hay là 20.000 ppm (phần một triệu, parts per million). Như vậy có nghĩa là tỷ-số sản-phẩm thích-ứng mà người ấy có thể làm ra là 0,98. Theo kinh-nghiệm của ban thiết-kế, hằng-số tiến-bộ tay nghề là 100 giờ.
Từ những số-liệu đó, tiến-bộ tay nghề tối-đa là 0,02 và hàm-số tiêu-biểu của tỷ-số sản-phẩm thích-ứng là
Ym(t) = 0,98 + 0,02 [ 1-exp( - t
100 ) ]
Tiến-bộ dự báo của công-nhân đó là như sau
Số giờ sản-xuất
Tỷ-số đơn-vị
sản-phẩm thích-ứng
Tỷ-số đơn-vị
không thích-ứng
(ppm)
40 (một tuần)
0,986 593 6
13 406,4
480 (ba tháng)
0,999 835 4
164,6
1.000 (chừng ba tháng)
0,999 999 1
0,9
Nếu phảỉ giao hàng với tỷ-số đơn-vị không thích-ứng dưới 1 ppm thì, thì sau ba tháng kinh-nghiệm, vẫn còn phải kiểm-tra chọn loại sản-lượng của công-nhân này trước khi gửi đến khách hàng. Nhưng sau sáu tháng thì chúng ta có thể tin cậy và gửi đến khách hàng sản-lượng của công-nhân này mà không cần phải kiểm-tra trước.
1.3 Mô-hình mất tay nghề
Khi ngưng sản-xuất trong một thì thời-gian công-nhân có thể mất tay nghề và công-suất sẽ giảm xuống.
Mô-hình mất tay nghề tương-tự như mô-hình tích-lũy theo thời-gian và chỉ áp-dụng cho tay nghề của nhân-viên thôi. Công-suất Ym(t) sau t ngày nghỉ việc có thể tính như sau :
Ym(t) = Yc - Yf [ 1-exp( - t
100 ) ]
với
T
= Hằng-số thời-gian tiêu-biểu của đà mất tay nghề, gọi là hằng-số mất tay nghề
Yc
= Công-suất khởi đầu
Yf
= Thoái-lui tay nghề tối-đa sau một thời-gian nghỉ việc vô-tận
Yc - Yf là công-suất tiệm-cận, công-suất tối-thiểu của một người không có tay nghề.
Công-suất khởi đầu Yc không bắt buộc phải là công-suất khi sản-xuất đơn-vị đầu tiên.
2. Những áp-dụng của hiệu-ứng tay nghề
Hiệu-ứng tay nghề không phải là hậu-quả của những tiết-kiệm nhờ quy-mô mà cũng không phải là một công-cụ để làm giảm gía thành. Nhưng khái-niệm hiệu-ứng tay nghề giúp chúng ta thiết-lập một số chính-sách quản-lý dựa trên giá thành.
2.1 Quản-lý nhân-lực
Khi một người mới được tuyển vào hãng thì có công-suất thấp. Nhưng khi quen việc rồi thì sẽ có năng-suất cao. Từ những những mô-hình toán-học của hiệu-ứng tay nghề trình bày ở trên, chúng ta suy ra công-suất của một người mới ra nghề tăng mau hơn là sau khi đã thâm-niên. Vậy, lý-tưởng là tất cả nhân-viên của một ngành nghề đều tích-lũy kinh-nghiệm tay nghề ngang nhau. Từ mô-hình mất tay nghề chúng ta suy ra tốc-độ mất tay nghề khi mới ngưng việc cao hơn là sau một thời-gian lâu.
Vậy chính-sách quản-lý nhân-lực của một xí-nghiệp cần theo hai hướng :
· ưu-tiên trao việc cho những nhân-viên mới được tuyển và những nhân-viên trẻ mới tốt-nghiệp, mặc dù năng-suất của họ kém, để họ mau chóng có kinh-nghiệm bằng những đồng-nghiệp thâm-niên,
· để duy-trì tay nghề của nhân-viên xí-nghiệp nên tạo điều-kiện để họ có dịp lập lại có định-kỳ những việc họ đã có kinh-nghiệm.
2.2 Chính-sách giá bán một sản-phẩm mới
Khi một xí-nghiệp khai-triển một sản-phẩm mới thì kỹ-sư, nhân-viên vận-hành, nhân-viên bảo-quản phải bỏ công ra để tìm hiểu quy-trình sản-xuất, quy-trình kinh-doanh và để tìm cách làm cho mọi việc được tối-ưu. Vì những lý-do đó giá thành của sản-phẩm lúc đầu bao giờ cũng cao hơn là sau khi một sản-lượng lớn đã được sản-xuất.
Trong tình-huống đó, xí-nghiệp có thể bán với giá cao để cân bằng ngay những chi-phí ban đầu. Nhưng xí-nghiệp cũng có thể bán với giá tương-xứng với giá thành tương-lai để mau chóng có thị-truờng lớn, gây cơ-hội mau chóng tich-lũy tay nghề và để mau chóng giảm giá thành.
Những xí-nghiệp khai-phá trước một thị-trường tích-lũy được nhiều sản-lượng, nhiều kinh-nghiệm mà không phải so-sánh với đối-thủ. Tay nghề của họ đã cao, suy ra, giá thành của họ đã giảm trước khi đối-thủ vào cuộc. Ngược lại, nếu đặt chân vào một thị-trường đã có đối-thủ rồi thì phải đắn đo giá thành tương lai sẽ có thể cạnh-tranh được không : quy-trình sản-xuất có hữu-hiệu hơn, tích-lũy sản-lượng tương-lai sẽ vượt tích-lũy sản-lượng của đối-thủ trong một thời-gian có thể chấp-nhận được...
2.3 Tiêu-chuẩn-hóa
Một công-nhân sẽ mau tích-lũy lượng tay nghề nếu không thay đổi sản-phẩm phải sản-xuất. mau tổng-số Ngược lại nếu xí-nghiệp liên-tục đổi mặt hàng thì nhân-công sẽ không kịp tích-lũy tay nghề. Mỗi lần đổi sản-phẩm thì một phần tay nghề trước của xí-nghiệp sẽ mất đi. Để tích-lũy tay nghề thì xí-nghiệp phải sản-xuất những gì có thể bán được nhiều hay có thể được lắp ráp từ những bộ-phận chung sản-xuất đại-tràng.