|
Post by Huu Le on Sept 9, 2007 5:11:15 GMT 9
Trường Lam Chuyện ở sân sau: Về ông nội và người cha của Chủ tịch Hồ Chí Minh Năm 1993, trong tập Trong cõi [1] xuất bản tại Hoa Kì, Giáo sư Trần Quốc Vượng (1934-2005), một trong những sử gia nổi tiếng nhất tại Việt Nam, đã công bố ghi chép của mình từ "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia!", trong đó phần liên quan đến dòng dõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gây nhiều dư luận. Theo đó, tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thêm một phần không được nhắc đến trong sử sách chính thống: Thân sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh vốn là con đẻ nhưng không được thừa nhận của ông cử Hồ Sĩ Tạo, thuộc dòng họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nam Đàn, Nghệ An. Hồ Chủ tịch, nổi tiếng với tên gọi Nguyễn Ái Quốc trong thời kì hoạt động tại nước ngoài, tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung [2] , tự là Nguyễn Tất Thành, song từ năm 1945 cho đến khi qua đời năm 1969 lại được người Việt Nam và toàn thế giới biết đến với tên là Hồ Chí Minh. Mới đây, một nhà thơ xứ Nghệ đã nhiệt tình dẫn một cộng tác viên talawas từ Vinh về vùng sơn cước, đến xóm Nghĩa Thái, xã Nam Nghĩa, huyện Nam Đàn để tìm gặp ông Hồ Sĩ Sênh (bút hiệu Trường Lam, hội viên Hội Văn nghệ Nghệ An), một người cháu mà theo gia phả họ Hồ, gọi cụ Hồ bằng bác. Khi nghe khách bày tỏ nguyện vọng, ông đến tủ sách, lục đưa cho khách xem bản phô-tô bài bút ký viết tay của ông, nhan đề “Chuyện ở sân sau”, kể về sự thật cuộc đời của ông Hồ Sĩ Tạo, ông Nguyễn Sinh Sắc và hậu duệ. Bài ký này được viết ở Trại viết văn của Hội Văn nghệ Nghệ An đầu năm 2007. Ông Trường Lam cho biết, trong buổi tổng kết trại viết, người ta đã đánh giá rất tốt bài ký này, đã đọc bài ký cho các trại viên nghe. Nhưng là chuyện “huý kỵ”, nên không có báo nào trong nước dám in. Ông Trường Lam đã đồng ý cho chúng tôi công bố nguyên văn bài ký trên talawas. Chúng tôi chân thành cảm ơn ông Trường Lam và hân hạnh giới thiệu cùng độc giả. talawas Mọi điều tưởng như đã vĩnh viễn chìm vào bóng đêm của quá khứ mông lung, huyền ảo, có hồn ma bóng quỷ, có những hình nhân vật vờ, thấp thoáng, bỗng rơi vào quên lãng, lặng im… Người ta thở dài, tiếc những sự thật, hoặc giả là những lời đồn đại không thể xác minh, sẽ mãi mãi chôn vùi… Đột nhiên, một ngọn đèn le lói thắp lên, xua đi bao điều huyễn hoặc, mơ hồ. Đầu tháng Bảy nhuận (Bính Tuất), quê tôi trời bỗng ào ạt tuôn mưa. Những tưởng mùa thu này rồi vẫn vời vợi cao xanh, nắng đẹp cứ dịu dàng trôi, ai ngờ lại có tuần mưa gió sụt sùi! Giữa ngày mưa như vậy, tôi nhận được tin: Có một vị sư đạo cao đức trọng từ miền Nam ra, đã tìm đến và thắp hương viếng mộ cụ Cố chúng tôi, một Giải nguyên xứ Nghệ. Cụ là người đầu tiên giành được thứ hạng này ở tổng Võ Liệt (Thanh Chương). Thật là may, ngôi mộ mới được xây lại cách đây chưa lâu. Ông bác của chúng tôi, nguyên Giám đốc Học viện An ninh Khu vực II, sau khi nghỉ hưu đã tìm về lo lắng, sửa sang. (Bác là Hồ Nhã Chương, khi làng quê không tồn tại [3] đã đổi tên là Hồ Thanh Chương, cháu nội cụ Hồ Sĩ Tạo, bắt đầu từ bà thứ tư ở Quảng Trạch, Quảng Bình, hiện trú tại 257A, đường Nguyễn Trãi, phường Cư Trinh, TP Hồ Chí Minh). Vị sư đó là Thượng toạ Thích Chân Quang, sư trụ trì chùa Phật Quang, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Ông xưng danh là Hồ Chí Việt, chắt nội của cụ Giải nguyên, một đứa con lạc loài, nay tìm về với tổ tông. Đội mưa gió, theo sau xe Thượng toạ là bảy xe chở Phật tử, trong đó có hai xe ca… Chuyện đó thật không ngờ! Mãi sau ít lâu tôi mới được biết Thượng toạ cũng đã về thăm nhà bia tưởng niệm Đức nguyên tổ Hồ Hưng Dật tại Quỳnh Lâm, thăm nhà thơ họ Hồ tại Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu). Ghi vào sổ vàng lưu niệm của dòng họ, Thượng toạ đã nói rõ mình là: “đứa con lạc loài” nay mới tìm về với gia tộc… Ngoài ra Thượng toạ còn thắp hương viếng mộ cụ Hà Thị Hy và bà Hoàng Thị Loan… Những điều đột ngột diễn ra khiến tôi không khỏi suy nghĩ về những mối quan hệ huyết thống, dòng tộc đang bền bỉ, âm thầm bén rễ sâu trong tiềm thức con người. Và những kỷ niêm tuổi ấu thơ đã xa lắc xa lơ, đang chìm dần vào bóng tối bỗng nhiên chậm chạp hiện về, hệt như những cuốn phim quay chậm, có quãng mơ hồ, quãng lại hiện rõ như in. * Làng Lai Nhã quê tôi nay đã không còn tên trên bản đồ hành chính. Nó bị xoá sổ từ năm 1978 khi người ta tiến hành cuộc cách mệnh “thay trời đổi đất, xếp đặt lại giang sơn”. Ngót ba mươi năm trôi qua bóng dáng làng xưa đâu có dấu ấn gì với thế hệ con cháu bây giờ! Nhưng đối với chúng tôi, những ông già cổ hủ, đêm nó vẫn hiện về trong mơ. Và riêng tôi: một làng Lai Nhã cổ truyền tươi xanh, vẫn nguyên lành bóng dáng êm đềm, hiện hữu đời đời… Từ nửa cuối Hậu Lê, một nhánh họ Hồ Quỳnh Lưu lập làng ở vùng Cương Gián (Nghi Xuân) cảm thấy thiên nhiên quá khốc liệt, đe doạ cuộc sống, phải bỏ đất tìm nơi khác định cư. Một gia đình họ Hồ như vậy theo ông Đậu Quận Công đến vùng Lòi Nhã, xã Thất Thôn dựng nhà sửa cửa, khai phá đất đai, lập thành một trong bảy thôn của Đậu Quận Công (vùng đất ngày trước đã có người thiểu số sinh sống. Bà nội tôi gọi họ là người Mường. Những địa danh còn lại như Bến Mường, Động Mường… nói lên điều đó. Khi người Kinh tiến vào, họ lập tức rút lui đi.) Thế hệ sau, họ có con cháu là cụ Hồ Yên Định, làm quan đến hàm tứ phẩm (không qua thi cử) mới đổi thôn thành Lai Nhã, xã Thất Thôn thành Thái Nhã. Con cháu li tổ phải lấy chữ Nhã đệm vào để luôn nhắc nhớ tới quê hương. Khi vua Quang Trung ra Bắc diệt quân Thanh, họ có cụ Hồ Hữu Tiềm đầu quân giết giặc và hi sinh tại Thăng Long (mùng 5 tháng Giêng âm lịch là ngày giỗ). Nhà thờ họ Hồ được cất lên thời đó. Khi giác móng và lấy hướng, ông thầy địa lý người Tàu phán rằng: “Thuỷ đáo từ đường. Hồ gia vi vương”. Ông ta bảo đây là thế đất “Phượng Hoàng ẩm thuỷ”. Thời bấy giờ sông Rộ còn ngoằn nghèo chảy bên phía núi xa, cách nhà thờ chừng non cây số. Biết khi nào nước sông chảy đến cho chim Phượng Hoàng uống? Trước Cách mạng tháng Tám, họ Hồ Lai Nhã cũng mới chỉ vài chục gia đình nhưng đã có bốn cử nhân và khá nhiều tú tài. Có người khá nổi tiếng như cụ Giải nguyên Hồ Sĩ Tạo. Làng Lai Nhã với con sông Rộ chảy vòng ôm lấy những vườn cây quả mướt xanh như một nét chấm phá thật thơ mộng và dịu dàng. Tôi có ông chú, con cô của bố tôi, làm chủ nhiệm Khoa Sinh vật, kiêm Bí thư Đảng uỷ Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội (chú là Phạm Đức Dục, quê xã Thanh Long, Thanh Chương, cháu ngoại cụ Cử Hồ Sĩ Hạp, gọi Thị lang Phạm Hoàn là bác). Chú bị bệnh tâm thần phân liệt, vợ con nhốt vào một xó… Vậy mà khi tôi tới thăm, ông vẫn còn ước ao được về làng Lai Nhã để đi câu cá. Ông kể chuyện cụ Phủ Tạo và ông ngoại là cử nhân Hồ Sĩ Hạp, nhưng lẫn lộn lung tung… (Về làng Lai Nhã, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Hữu Dụng, cháu ngoại cụ Cử Hồ Sĩ Huấn cũng có ấn tượng rất đẹp.) Làng tôi có những khu vườn um tùm, rập rạp với vòng ngoài chen đặc song mây, tre nứa và cây cọ cùng những cái tên đặc trưng như: Vườn Cụ Phủ, Cụ Huyện, Cụ Cử, ông Tú, ông đồ… đầy cây ăn quả và bốn mừa líu ríu tiếng chim. Cụ Tạo về hưu đã trồng bốn cây đa ngoài cổng đoài của làng. Có hai cây sau này thành tam quan nhờ một rễ phụ căng ngang, nom rất kỳ thú. Đây là nơi ông Tạo mắc võng nằm vào những trưa hè. Sau này tôi mới biết, nhờ những khu vườn này mà các bậc cha chú có tiền trọ học thành tài, bởi ruộng đất ở đây rất xấu, chưa nắng đã khô, chưa mưa đã lụt, có thu hoạch được là bao! Ôi, những khu vườn trong mơ và làng xưa cũng chỉ còn lại trong mơ, nơi đã bay bỗng tuổi thơ tôi, nơi chúng tôi tha hồ quậy phá: trèo bắt tổ chim, tìm hái những chùm quả chín và cắp sách tới trường… Khoảng mấy năm đầu thập kỷ 40 của thế kỷ trước, nước sông Rộ vòng về, xói lở một góc vườn nhà thờ và nhà thờ họ Hồ Lai Nhã thấp thoáng soi bóng xuống mặt nước sông trong. Chim Phượng Hoàng ơi! Hãy uống nước đi… * Cụ Hồ Sĩ Tạo tự Tiểu Khê, sinh năm 1834 (Tổng tập Văn học Việt Nam tập 19 nói cụ Tạo sinh năm 1831. Cụ Cao Xuân Dục, học trò ông Tạo, trong sách Nghệ An khoa bảng nói ông Tạo sinh năm 1841. Chúng tôi theo người già trong họ nói ông Tạo thọ 73 tuổi và bà Hồ Thị Từ, con út ông Tạo nói bà ra đời lúc cha đã 70 tuổi, lên 3 thì cha mất…, mà suy ra), mất năm 1907, là người tài hoa nổi tiếng cả vùng. Theo gia phả nói thì cụ thuộc phe chủ chiến, chủ trương đánh Pháp tới cùng, nên bị vua Tự Đức đánh hỏng (?). Trong cuộc đời làm quan, dạy học, giao du với bạn bè khắp vùng, ông Tạo đã có quan hệ gắn bó với năm người phụ nữ. Theo các cụ trong họ (trong đó có cụ Hồ Sĩ Huề) từng kể với cháu con thì: Người phụ nữ thứ nhất chính là người vợ cả của cụ được gia đình cưới cho ngày còn trẻ. Bà người họ Phan ở xã Xuân Trường (Thanh Chương) và đã cho ông Tạo hai người con trai trưởng thành. Người phụ nữ thứ hai là bà Hà Thị Hy, còn gọi là cô Đèn, quê ở làng Sài, Nam Đàn. Ông Tạo nổi tiếng khẩu khí, đam mê hát phường vải, ứng đối nhanh và giỏi. Bà Hy là người hát hay, giọng tốt và rất đỗi xinh đẹp. Tài tử gặp giai nhân cũng ví như cá gặp nước, rồng gặp mây. Khi họ quen biết nhau, tuy ông Tạo ít tuổi hơn nhưng đã có vợ và đang dạy học trong nhà họ Hà. Vì quá tài hoa nên mãi năm cô Đèn ba mươi vẫn chưa có đám nào lọt vào mắt xanh… Trai làng không với tới nên họ phong toả, hình thành thế bao vây, không cho con trai nơi khác đến. (Theo bác Hồ Thanh Chương, ông Tạo yêu cô Đèn trước khi có vợ. Bà Hy có thai, ông Tạo về xin cha mẹ được cưới, nhưng gia đình không đồng ý vì đã dạm hỏi đám khác. Cụ Hà Văn Cẩn đành ngậm ngùi gả bà Hy cho ông Nhậm, một ông già lụ khụ.) Vậy là cái gì phải tới đã tới. Cô Đèn mang thai và ông Nguyễn Sinh Nhậm mồ côi vợ, cheo cô về làm mọn. Năm 1863, bà Hy sinh con trai. Cậu con ông Hồ Sĩ Tạo mang họ Nguyễn Sinh được ông Nhậm đặt tên là Sắc. Nguyễn Sinh Sắc lên 3 tuổi thì ông Nhậm chết. Bà Hy vốn bị người nhà họ Nguyễn Sinh coi là dân “xướng ca vô loài”, nên họ buộc hai mẹ con phải ra sống trong một căn lều ngoài đồng khoai, cạnh làng. Chỉ hơn một năm sau, bà Hy cũng bỏ cậu Sắc mà ra đi. Bà chết trong khổ cực âm thầm và trong sự hắt hủi của gia đình nhà chồng! Con trai làng Sài hối hận, thương người con gái mệnh bạc, đã kéo sang làng Sen làm lễ chôn cất. Chính ông Tạo là người đọc điếu văn. Cậu Sắc đành phải về dựa vào anh cả để khỏi chết đói. Và dần dà, lên thêm một tí cũng được anh cả cho một buổi chăn trâu, một cuổi cắp sách tới trường. Việc cậu Sắc được đi học cũng nhờ phần lớn ở thầy Tú Vương. Thầy xin anh Thuyết cho Sắc đến lớp mà không phải chịu khoản phí nào. Thầy Vương đã xem tướng tay, xem chữ viết và tấm tắc khen là con nhà nòi: “Nòi xướng ca và nòi nhả ngọc phun châu cô Đèn thầy Tạo… Con hãy cố lên, tài hoa lắm, thầy sẽ giúp…” Rồi một hôm ông họ Hoàng bên làng Chùa sang làng Sen thăm thầy Tú Vương. Học trò được ra chơi. Đôi bạn trò chuyện với nhau rất lâu. Ngoài chuyện thơ phú, văn chương, thi cử… còn có chuyện cậu bé Sắc. Họ bàn với nhau những gì không rõ. Chỉ biết rằng ít lâu sau, ông Tú Hoàng Đường đến nhà Nguyễn Sinh Thuyết xin được nhận chăm nuôi cậu bé Sắc. Vợ chồng Thuyết mừng rơn. Thuyết còn chút tình người, song vợ Thyết từ lâu hậm hực, căm ghét, sợ phải chia gia tài, phải nuôi tốn kém… nên đã đồng ý liền, coi như trút được hết gánh nặng tội nợ… Ông Hoàng Đường vội mang cậu bé Sắc về ngay. Ngày xưa, người hiểu biết cũng thường quan tâm tới nòi giống. Ngày nay lại nói tới nguồn gien và tin theo thuyết di truyền. Nguồn gien quý thường được nuôi dưỡng, giữ gìn. Thấy lúa tốt phải hỏi giống gì, thấy con tốt phải xem cha mẹ chúng… Từ ngày ông Tú Hoàng Đường mang Sắc về, ông trở thành cha nuôi và là thầy giáo của cậu bé. Năm Sắc mười tám tuổi, cậu được ông Đường gả con gái đầu lòng của mình là bà Hoàng Thị Loan, mươì ba tuổi, cho. Ba năm sau bà Loan sinh cô Thanh, bốn năm tiếp sinh cậu Khơm (Khiêm) và vài năm sau nữa lại sinh cậu Côông (Công)… Người phụ nữ thứ ba (của ông Hồ Sĩ Tạo) là bà vợ kế ở quê nhà. Khi bà cả qua đời, gia đình không người chăm lo, ông Tạo đã cưới người vợ thứ. Bà sinh hạ cho ông một con trai rất thông minh, học giỏi, nhưng chỉ đi thi hộ người khác lấy tiền cờ bạc rượu chè, không màng tới tiến thân. Người phụ nữ thứ tư là cô gái quê ở Quảng Trạch, Quảng Bình. Ông nói dối là ông không còn vợ để được cưới bà. Bà con nhà gia thế, nên về sau, khi chuyện vở lỡ, gia đình đã kiện quan về chuyện này. Bà sinh hạ được hai người con trai. Thời gian sau đó, ông Tạo cáo quan về nhà dạy học. Người phụ nữ thứ năm là một cô gái nghèo ở thôn Nam Lĩnh, cùng xã, nơi ông Tạo dạy học những ngày cuối đời. Hàng ngày cô vẫn thường đi bán chổi đong gạo. Khi có một con gái với ông Tạo, người ta gọi là cô Chổi. Lúc này ông Tạo đã bảy mươi tuổi. Ba năm sau, ông Tạo qua đời. Nhà cũng chẳng có gì, con trai cờ bạc, rượu chè phá phách hết, ông chỉ để lại cho con gái một chiếc áo bông cũ, đắp lấy hơi cha! Người con gái út này của ông Tạo là bà Hồ Thị Từ (tên khai sanh là Thuyến). Hoà bình lần thứ nhất, bà vẫn sống khoẻ mạnh. Bà lấy chồng họ Tôn. Ông là bác ruột của giáo sư Tôn Tích Thạch. Và vì không có con trai nên đã coi Thạch là con, cho tới 1955, Thạch qua Lien Xô du học. Hơn 7 năm sau trở về thì ông bà đã qua đời. Ông Tôn Quang Phiệt cũng họ này.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 9, 2007 5:11:58 GMT 9
Tôi còn nhớ như in mỗi lần bà về quê là đi khắp bà con xóm làng, ăn trầu luôn miệng và nói cười ha hả, rất vui. Bà kể biết bao nhiêu là chuyện, trong đó có chuyện cái huyệt mộ ông Tạo được cải táng. Ông Tạo bị cảm bệnh tại thôn Nam Lĩnh trong xã, con cháu đưa về nhà thì ông qua đời. Ông chết trong lặng lẽ, giữa ngày thời tiết không thuận nên chỉ có xóm giềng biết với nhau. Chỉ khi cải táng (1911) học trò mới làm lễ lớn. Cái huyệt mộ cải táng là do ông Tạo chọn cho mình ngày còn dạy học ở quê vợ, xã Xuân Trường.
Theo bà Từ: Mộ được táng dưới một khối đá ngầm, phải đào hố sâu bên cạnh, khoét ngang rồi đun tiểu sành đựng hài cốt vào, nén đất lại, trên dựng một mộ chí đơn sơ. Bà bảo đó là cái hàm dưới của Miệng Rồng (Chuyện này, khi xây dựng đường điện siêu cao thứ nhất, bác Hồ Nhã Đỉnh, ở Viện Năng lượng, về vùng Nam Đàn giám sát, bác cháu gặp nhau, trò chuyện, bác còn nhắc lại cho nghe lần nữa). Nay bia mộ ông Tạo chỉ là một mảnh đá nhỏ. Phía trên bị đập vỡ chỉ còn lại một chữ thiếu nét và một chữ “Nhã”. Đọc bên phải: “Mậu Thìn Giải nguyên” (ông Hồ Sĩ Tạo đậu Giải nguyên triều Nguyễn, Huế, khoa Mậu Thìn (1868), cùng khoa thi này Hoàng Cao Khải đậu cuối bảng. Theo cụ Hồ Sĩ Huề kể: Có lần ông Tạo ra Hà Nội. Hoàng Cao Khải đã tự tay bưng nước đến để ông Tạo rửa mặt mũi, tay chân. Có lẽ ngoài việc trong vọng, đây còn nhằm mực đích mua chuộc sĩ phu…). Dọc bên trái bia mộ: “Tri phủ Quảng Trạch”. Chính giữa phía dưới: “Hồ Tiểu Khê chi mộ”. Việc cải táng hoàn toàn do học trò ông Tạo tuân theo di huấn của thấy mà làm, rất long trọng, có nhiều vị khoa bảng của hai huyện Thanh Chương, Nam Đàn tới dự (nhưng chắc chắn là không có ông Nguyễn Sinh Sắc. Bởi ông đã vào Kinh nhậm chức theo lệnh vua).
Năm người đàn bà gắn bó với một người đàn ông, chuyện thật khó tin. Chắc ông Tạo tài hoa lắm và cũng đa tình lắm mới cuốn hút được như vậy.
Sách vở ông Tạo để lại đã bị đốt hết trong Cải cách Ruộng đất. Còn sót một tập thơ nhỏ ở nhà cụ Hồ Sĩ Huề, phó giáo sư Ninh Viết Giao đã mượn, nay chắc còn chỗ ông ấy!
*
Cụ Nguyễn Sinh Sắc đậu cử nhân khoa thi Hương năm Ngọ (1894) tại Trường Nghệ, nhưng trượt khoa thi Hội tiếp theo. Để chuẩn bị cho Sắc vào tiếp khoa thi năm Tuất (1898), ông Tạo suy nghĩ rất nhiều. Các con trong giá thú ở quê chẳng đứa nào nối được chí cha. Thông minh thì cũng có đủ, nhưng lười học, chỉ thích cờ bạc, rượu chè. Duy chỉ có đứa con ngoài giá thú là Nguyễn Sinh Sắc lưu tâm tới việc học hành, không thể để nó bỏ dở sự nghiệp và phụ lòng mong mỏi của bao người. Nghĩ tới đây, ông sai người mài mực, lấy giấy bút viết thư. Ông nhớ tới ông Thượng thư họ Hồ ở An Truyền đã nhận đồng tông với mình. Nhớ tới ông Cao Xuân Dục, một học trò, đang là quan to của triều đình. Đằng nào cũng phải nhờ họ giúp. Xưa nay mình đã nhờ vả họ gì đâu!
Vậy là nhờ có bức thư ấy, mà các vị đại thần họ Hồ, họ Cao ra tay giúp đơc để ông Sắc được vào học Trường Quốc Tử Giám. Đó là việc rất dễ nhận biết: Trường Giám là trường của Hoàng gia, quý tộc, con dân làm sao mà vào nổi?
Ông Sắc vào Trường Quốc Tử Giám mang cả gia đình đi theo, chỉ trừ cô Thanh ở nhà với bà ngoại, làm phận sự thay cho bố mẹ. Vào Huế, ông đổi tên là Nguyễn Sinh Huy. được sự giúp đỡ cả vật chất lẫn tinh thần của các vị đại thần quen biết ông Tạo, cùng các quan khác người Nghệ Tĩnh. Bà Loan dệt vải nuôi con. Ở chốn Kinh thành, cuộc sống có dễ dàng gì đâu!
Khoa thi Mậu Tuất, ông Sắc lại rớt. Bà Loan sinh thêm cậu Xin. Và vì quá kham khổ, lao động quá sức, bà lâm bệnh và qua đời cuối năm Canh Tý (1900). Chỉ ít lâu sau, cậu Xin cũng quy tiên theo mẹ. Ba cha con ông Sắc lại dắt díu nhau về Nghệ.
Khoa thi năm Tân Sửu (1901) ông Sắc trúng Phó bảng nhưng không ra làm quan mà xin ở nhà nuôi mẹ già yếu. Thời kỳ này ông lên dạy học ở Thanh Chương. Ông nghĩ mình trước hết phải trọn đạo hiếu với cha mẹ. Nếu không, sao đáng làm người. Giai đoạn đầu ông Sắc dạy học ở nhà thờ họ Lê ở Nguyệt Bổng (nhà thờ này nay vẫn còn ở chân cầu Rộ), sau chuyển sang nhà ông Hàn Kháng, họ Phan ở Võ Liệt - là một họ khoa cử, có người nổi tiếng như tiến sĩ Phan Sĩ Thực - Ngôi nhà này đã bị tịch thu chia cho nông dân trong Cải cách Ruộng đất). Chỗ ở này cách nhà ông Tạo có con sông Rộ nhỏ thó, xắn quần là có thể lội qua. Như các cụ trong dòng họ kể lại thì ông Sắc đã dẫn cậu Công qua chơi với ý định nhận cha, nhưng việc đó chưa kịp làm thì năm 1904 bà đồ An qua đời. Đầu năm 1905, ông Sắc được triệu vào kinh nhậm chức Thừa biện Bộ Lễ do cụ Phan Chu Trinh giao lại. (Việc chưa nhận cha còn có thể do quy ước khắt khe của dòng họ – Ví như cụ Hồ Sĩ Tôn, 2 lần đậu đầu khoa: “Thiên hạ sĩ vọng vã”, “Thiên hạ cống sĩ”, là bố ông nghè Hồ Sĩ Tân. Thời trẻ dạy học ở Hưng Nguyên, có một con trai với cô con dâu nhà ho Bùi. Về sau anh này cùng con mình đều đậu tiến sĩ. Hai cha con về Quỳnh Đôi nhận họ, nhưng vì quy định đó mà không thành. Hai cha con đành đứng ngoài cổng nhà thờ họ, vái lạy rồi quay về. Nên đến nay con cháu vẫn mang họ Bùi…)
Cuộc đời làm quan và phiêu bạt của ông Sắc tính từ đây. Năm 1907, ông Sắc được bổ Tri huyện Bình Khê và chỉ bốn năm sau đã vướng vào trọng tội…
… Bữa đó, ông Sắc đang ngồi tự lự, mượn chén rượu giải sầu, lòng tràn nỗi niềm thương cảm đối với vợ con. Ông tuy làm quan nhưng nhà vẫn nghèo khổ, mái tranh, vách đất, chẳng chút tài sản nào dư dả để nuôi con… Bỗng có lính bẩm báo:
“Thưa quan, mấy gã chống thuế hôm qua lại đến.”
Ông lập tức truyền cả bọn vào và giữa lúc ngà ngà say, ông bảo:
“Bọn bây phải biết rằng, chỉ có vua mới miễn được thuế. Còn ta chỉ có đồng lương ít ỏi phải bù cho số thuế thiếu kia. Ta đã cho người dò la kỹ rồi: Nhà tụi bây còn giàu hơn cả quan đây. Làm ruộng thì phải đóng thuế, chống lại là cớ làm sao?”
Cả đám lập tức nhao nhao nói hỗn, chửi bới, chỉ trích quan tham nhũng, ông Sắc nổi cáu, truyền:
“Lôi ra ngoài đánh bọn chúng cho ta.”
Bọn lính lôi cả đám ra ngoài đánh đập thỏa sức. Bất đồ một người trong bọn trúng chỗ hiểm, lăn ra chết… Lệnh ông ban quên không hạn chế mấy roi, nên bọn lính đã quá tay. Triều đình triệu ông về Kinh chịu tội. Vua phê: “Trảm!”. May nhờ có các ông Thượng thư họ Hồ, họ Cao và Đào Tấn cùng rập đầu xin vua tha chết. Cả ba ông đều tâu vua: “Nguyễn Sinh Huy làm quan thanh liêm, xử án công minh, bốc thuốc chữa bệnh người rất tận tâm… Việc xảy ra chỉ là do sơ suất và bọn lính đã quá tay…”
Vua cũng biết Nguyễn Sinh Huy là quan thanh liêm, không hề có tư túi gì, nên sau một lúc suy nghĩ đành giảm xuống “Trảm giam hậu!” (giam chờ chém sau) và phạt đánh 100 roi. May nhờ có Thượng thư Bộ binh Đào Tấn lo lót cho bọn lính nên được nhẹ đòn và ông Huy thoát chết. “Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách”. Nhân buổi lộn xộn chưa quyết, nhờ có người ngầm giúp, ông Huy chuồn thẳng! Các cụ già quê tôi, người thì bảo ông cải trang làm phu xe theo đoàn khách thương chở hàng vô Nam, kẻ lại bảo ông xuống một thuyền buôn dông thẳng vào Gia Định. Mỗi người một phách, nhưng cũng chẳng sao. Điều cơ bản là ông Huy đã thoát khỏi cái lưỡi dao thái thịt người đang lơ lửng trên đầu và có thể hạ xuống bất ký lúc nào…
*
Cậu Công gặp lại cha ở một địa điểm kín ở Gia Định, trong một buổi, trước khi cậu xuống tàu đi xa. Dặn dò con xong ông Huy lặn sâu vào giữa vùng Đồng Tháp Mười, chẳng để lại dấu vết nào với người đời, rằng mình đã từng là một Phó bảng thứ thiệt, là ông Huyện Bình Khê…
Ngày ấy Đồng Tháp Mười còn rậm rì năn lác, đường bộ chưa có là bao. Giao thông chủ yếu là nhờ vào những chiếc xuồng tam bản tự tạo của đồng bào sống ở miệt sình lầy. Ông Nguyễn Sinh Huy lặn lội đến vùng Cao Lãnh ngày nay thì dừng lại, ở nhờ một ngôi chùa. Nơi đây ông giấu biệt tông tích của mình, tự xưng là Cụ Vương, hành nghề bốc thuốc chữa bệnh.
Nhà Phật vốn chủ trương “cứu nhân độ thế”, các sư cũng luôn làm nhiệm vụ bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Bấy giờ làm gì có bệnh viện hay hiệu thuốc ở những vùng sâu, xa như thế. Thấy Cụ Vương giỏi y thuật, lại sống độc thân nên các sư rất mừng, lưu cụ ở luôn tại chùa để giúp đỡ bao nông dân nghèo khó đang hàng ngày vất vả kiếm sống và cũng vất vả chống lại tật bệnh, ốm đau. Phong trào chống thuế ở miền Trung đang nổi lên rần rần, nên nhà vua cũng làm ngơ luôn cái án của ông Tri huyện Bình Khê. Vậy là ông Nguyễn Sinh Huy được triều đình “bỏ quên”.
Chẳng bao lâu, cái tiếng của vị thầy thuốc giỏi, lại nhân từ, sẵn sàng chữa bệnh không công cho người nghèo, theo những chiếc xuồng nhỏ, len lỏi trên sông nước, trên kênh rạch lan truyền đi khắp vùng. Người ở xa chở con bệnh tới để chữa trị hoặc mua thuốc mang về. Người gần mời cụ ngồi xuồng tới nhà bắt mạch điều trị. Nhà nghèo cụ miễn luôn mọi khoản. Đức độ của cụ hoà vào nước Đồng Tháp Mười, thấm sâu vào đất đai, tạo nên vựa lúa bạt ngàn hôm nay…
Có lần chữa trị dài dài, cứu được mấy mạng người trong một gia đình, giúp họ thoát khỏi dịch bệnh, ông già Mai Nhuận trả ơn bằng cách gả cô con gái út của mình cho ông Vương.
“Không dám…”, Ông Vương cười. Chữa bệnh cứu người là công việc hàng ngày, tôi đã nguyện theo đuổi suốt đời, đâu dám mong có ân huệ đền đáp. Cô nhà đây còn nhỏ tuổi hơn cả con trai út của tôi. Nhận lời cụ chẳng hoá ra tôi là thằng khốn nạn hay sao?
“Chúng tôi không quan tâm tới việc thiên hạ dư luận, chỉ cần cụ nhận lời và nuôi cháu là nhất định gia đình sẽ có ngày mở mày mở mặt. Nó đến với cụ cũng đã sung sướng cho bản thân nó. Công việc nấu nướng, chợ búa… giúp cụ chuẩn bị thuốc men, so với việc đồng áng khác nhau một trời một vực, việc gì nó chẳng làm được. Cụ đừng lo…”
Năm ấy, ông Sắc đã ngoại lục tuần. Cô gái họ Mai mới ngoài hai mươi, nhỏ hơn cậu Công.
Ít lâu sau cuộc tình duyên muộn mằn ấy, cậu Vương Chí Nghĩa chào đời (1927). Ông Vương Chí Nghĩa là bố của Vương Chí Hùng và Vương Chí Việt cùng năm người con gái khác. Theo Thượng toạ Thích Chân Quang, khai sinh lấy họ Vương, nhưng trong tiềm thức, trong gia phả là họ Hồ. Cụ Vương dặn như vậy. Lấy họ Vương là để che mắt kẻ thù. Việc rời Đồng Tháp lên Tây Nguyên cũng là vậy. Phải tránh sự khủng bố, truy bắt, bảo vệ mình và mở ra con đường kiếm sống lâu dài. Thượng toạ Thích Chân Quang sinh ở Tây Nguyên tháng 12.1959. Tốt nghiệp đại học Khoa tiếng Anh, xuất gia năm 1980 cùng chị gái là Hồ Thị Minh Nguyệt, hơn ông hai tuổi.
(Ngày làm lễ Nhập hồn Tượng cho vua Hồ Quý Ly và nữ sĩ Hồ Xuân Hương tại nhà thờ họ Hồ Quỳnh Đôi, Thượng toạ Thích Chân Quang cười nói với tôi: “Em viết việc tìm họ của anh đơn giản và dễ dàng quá! Thật ra là bọn anh phải dằn vặt, đau khổ, đi xác minh cẩn thận, có thu âm, ghi hình đầy đủ, người ta mới công nhận. Những người trông coi Khu di tích cụ Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp cứ một mực bảo ông Sắc không có vợ lẽ ở đây! Anh sẽ ghi lại cụ thể chuyện này gửi em sau. Báo để em biết, anh đã đến thăm chú Hồ Thanh Chương, tình cảm của chú cháu là vô cùng nồng ấm.” Thượng toạ đã đối chiếu gia phả và gọi tôi là em, mặc dù tôi nhiều tuổi hơn.)
*
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 9, 2007 5:12:16 GMT 9
Việc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy họ Hồ làm họ mới của mình có gì giống với con cháu cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp nhận mình là dòng dõi họ Hồ không? Điều đó chắc chắn chúng ta đã vĩnh viễn không còn được biết. Trong mịt mờ quá khứ xa xăm, trăm ngàn mối quan hệ chằng chịt, đan xen, không ghi âm, chụp ảnh, không quay phim, ghi chép… làm sao lần mò ra được?
Cuốn Ngục trung nhật ký của Bác với 132 bài thơ (từ số 1 đến 133, nhưng bài số 100 chỉ có tên bài đề “Liễu Châu ngục” mà không có thơ), mở đầu bằng bài “Khai quyển”, kết thúc là bài “Kết luận” (Nay sách in mới, bài “Kết luận” được thay bằng bài “Mới ra tù tập leo núi”, một bài Bác ghi bên lề tờ Nhật báo Quảng Tây, không phải làm ở trong tù). Bài “Kết luận”, Bác viết:
Hạnh ngộ anh minh hầu chủ nhiệm Như kim hựu thị tự do nhân “Ngục trung nhật ký” tòng kim chí Thâm tạ hầu công tái tạ ân.
(Tạm dịch: May mắn được gặp Chủ nhiệm họ Hầu sáng suốt. Mà nay tôi lại là người tự do, “Ngục trung nhật ký” từ nay chấm dứt. Cảm tạ sâu sắc ơn tái tạo của ông Hầu.)
Hầu công mà Bác nhắc ở đây là ông Hầu Chí Minh, thiếu tướng, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu Hoa Nam của Quốc dân Đảng, người rất mực mến phục Bác, đã can thiệp tích cực để Bác thả ra, trở về lãnh đạo Cách mạng Việt Nam. Điều đó cũng chứng minh rằng, nơi nào trên trái đất này cũng có người tốt!
Cái tên mới của Bác, ta có thể đoán mò một cách không chắc chắn rằng, Bác lấy tên người đã dũng cảm cứu mình để làm kỷ niệm. Tên ông là “Sáng Suốt” và việc làm của ông dành cho Bác cũng rất sáng suốt. Còn cái họ thì xin chịu. Liệu có sự dặn dò nào của cụ Phó bảng từ một ngày rất xa, khi hai cha con còn sống bên nhau không?
Bác đi bôn ba thế giới “tìm đường cứu nước”, trải qua một vòng trái đất và mãi hơn 50 năm sau mới về lại quê nhà. Ý định nhận cha, nhận họ của cụ Phó bảng ngày dạy học ở nhà ông Hàn Kháng… cũng chưa thực hiện được. Vào Huế làm quan rồi trốn mãi vào miệt sình lầy Đồng Tháp, cụ không có điều kiện trở về. Ông Hồ Chí Nghĩa cũng vậy, không thể về bởi binh lửa liên miên và đất nước chia cắt. Chỉ mãi hôm nay Thượng toạ Thích Chân Quang mới hoàn thành việc đó.
Từ ngày cụ Phó bảng đi làm quan đến ngày Thượng toạ Thích Chân Quang tìm về, thời gian dài hơn thế kỷ. Chúng tôi lấy làm tiếc, nhà thờ họ Hồ Lai Nhã đâu còn ở chốn xưa! Ngày di dân, lòng tôi như vừa chịu một trận động đất mạnh 9 độ rich-te. Dân quân cả huyện ào ào đến dỡ làng kéo đi, hệt như chạy loạn. Hàng chục chiếc máy ủi màu đỏ son gầm gừ húc cây cối đổ ngổn ngang, san phẳng mọi vườn tược mà không có pháp luật nào giải thích, không một xu đền bù giải toả!... Cha con, anh em, họ hàng phải chia lìa nhau. Người bốc được thăm ở cuối rừng, kẻ bốc được thăm nằm đầu xã, cách nhau ba bốn cây số là chuyện bình thường. Mối quan hệ tộc họ từ ngàn xưa bị rạn vỡ. Nhà thờ họ vốn có vườn riêng đầy cây trái, nay đột nhiên không có đất đứng, phải hốt vào trong hẻm núi sâu, nơi bác tộc trưởng bắt được thăm, phong cảnh thật u ám, thê lương. Thật tiếc, trong thời khắc bối rối ấy, con cháu ở quê cũng không dám đấu tranh đòi cho nhà thờ họ một chỗ xứng đáng! Con cháu đi xa muốn tranh thủ về thăm quê cũng khó khăn. Vùng chân Trường Sơn mưa nhiều hơn nơi khác, đường sá không một tấc nhựa, lầy lội, nhớp nháp bởi thứ đất mến người, lại trèo đèo lội suối quanh co, khúc khuỷu. Anh em bà con nghèo túng hơn, về vài ngày là không thể đi thăm hết được, mà có về cũng vất vả lắm! Thôi đánh chịu lỗi với Tổ Tiên!
Thượng toạ Thích Chân Quang về đúng những ngày mưa tháng bảy. Sau khi dâng hương viếng mộ cụ Hồ Sĩ Tạo xong, mấy chú cháu trong họ, những người đi đón bàn nhau: Xin Thượng toạ hoãn việc về thăm nhà thơ họ Hồ Thanh Khê lại, vì đường quá xấu, xe không vào được. Nếu đi lỡ gặp tai nạn, thật là không nên… Và Thượng toạ đã đồng ý.
Chúng tôi chép toàn là chuyện ở sân sau. Người ta nói: Đời là một sân khấu lớn với hàng ngàn vở diễn, bi có, hài có… ồn ào và sôi động trải ra. Đó là ở sân trước. Sân sau khác hơn. Nó âm thầm, lặng lẽ… Nhưng có lẽ xin được dừng lại ở đây. Dã sử vốn có chỗ dị đồng với chính sử là thế! Cũng với khoảng thời gian chưa xa, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có buổi trò chuyện thân mật với một số con cháu họ Hồ. Chắc rằng mọi chuyện vẫn chưa phải đã hết. Còn có những điều sâu kín, dài dài, chưa thể nói ra, nhưng cũng rất con người, đang ở sân sau…
Mong ông bà, chú bác, anh em… cùng hương hồn Liệt Tổ Liệt Tông tha thứ cho.
Mùa xuân Đinh Hợi (2007)
(Địa chỉ: Hồ Sĩ Sênh, xóm Nghĩa Thai, xã Nam Nghĩa, huyện Nam Đàn, Nghệ An. ĐT: 0383 785248)
-------------------------------------------------------------------------------- [1]Trăm Hoa xuất bản, California 1993, 288 trang (các chú thích trong bài đều của talawas) [2]Các cách ghi âm khác: Nguyễn Sinh Côông, Nguyễn Sinh Côn, Nguyễn Sinh Công [3]Do dời làng lên núi để làm kinh tế
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2009 4:50:04 GMT 9
Kinh tế miền Nam Việt Nam trước 1975
-------------------------------------------------------------------------------- Ngược dòng lịch sử Ý kiến độc giả Tinman Thật ra thì vào trước năm 1975 tôi còn nhỏ tuy không đủ sức nhận định toàn cảnh tình hình kinh tế chung của Việt Nam, nhưng nghe các bậc cha chú thời đó hay đi đây, đi đó so sánh thì vào thời điểm đó VN ở trên cơ các con rồng Đông Nam Á, Đông Á như Thái Lan, Malaisia, Philippine, thậm chí Hàn Quốc rất nhiều.
Một điều mà người Mỹ và bọn tư bản xanh không chọn Việt Nam làm thị trường đầu tư mà chọn Đài Loan và các nước khác để châm vốn là vì Việt nam là một quốc gia đang có chiến tranh. Không một người đầu tư nào lại dại dột quăng tiền cùa mình vào chổ dầu sôi lửa bỏng này. Lúc đó ở miền Nam, người miền Nam ngoài việc kiếm sống hàng ngày vẫn phải luôn có nguy cơ đối đầu với các cuộc khủng bố, thanh trừng của người cộng sản nhằm đánh vào kinh tế cũng như các vị trí quân sự của miền Nam nhằm tạo tiếng vang trong cuộc chiến "chống Mỹ cứu nước" của họ. Chúng ta không thể phủ nhận được là kinh tế miền Nam Việt Nam lúc đó không đủ khả năng để tự chi trả ngân sách cho cuộc chiến lúc bấy giờ, cho nên những khoảng viện trợ quân sự và kinh tế Mỹ giúp cho miền Nam có những bước tiến cao hơn so với các nước trong khu vực.
Tuy tài liệu vào báo chí trước năm 1975 đã không còn được lưu giữ nhiều ở miền Nam sau năm 1975 do chủ trương đốt sách kiểu Tần Thủy Hoàng sau ngày người cộng sản chiếm trọn đất nước, nhưng những thành quả công và nông nghiệp, sự phát triển xã hội, đời sống kinh tế của miền nam là không thể phủ nhận được.
Trong khi ngoài Bắc người cộng sản chủ trương cải cách ruộng đất bằng phương pháp thanh trừng địa chủ, gây thù hằn oán hận giai cấp thì trong Nam, chính phủ do Ngô Đình Điệm đã đưa ra các phong trảo cải cách điền địa, thúc đấy nền nông nghiệp miền Nam có những bước hiện đại hóa cao hơn. Những phim ảnh hay phóng sự trong TV chiếu về nông thôn miền Nam lúc đó với những dàn máy cày, máy bừa nhập từ nước ngoài, làm tôi cứ khắc khoải gần cả chục năm sau khi "giải phóng" vì người miền Nam lại trở ngược lại với cảnh con trâu đi trước, cái cày đi sau.
Miền Nam không có những ngành công nghiệp mạnh do đầu tư nước ngoài và xã hội miền Nam trở thành một xã hội tiêu thụ theo nền kinh tế thị trường tự do cho nên những ngành tiểu công nghệ như dệt may, kim khí điện mày nhỏ, các hoạt động thương mại rất sầm uất. Miền Nam không có những ngành công nghiệp mạnh do đầu tư nước ngoài và xã hội miền Nam trở thành một xã hội tiêu thụ theo nền kinh tế thị trường tự do cho nên những ngành tiểu công nghệ như dệt may, kim khí điện máy nhỏ, các hoạt động thương mại rất sầm uất. Tôi nhớ vào những năm 1973 - 1974 được bố mẹ đưa tới viếng thăm những siêu thị khổng lồ lúc bấy giờ, thậm chí viếng thăm khu thương xá Tax (Công ty Tổng hợp bán lẻ thành phố Hồ Chí Minh ở đường Lê Lợi, đối diện rạp Rex) và thương xá Tam Đa (Intershop) hiện nay, bước chân lên những thang máy tự động... những cảnh đó chỉ thấy từ nhỏ và mãi gần 20 năm sau mới thấy lại tại Mỹ và gần 30 năm sau mới thấy ở Việt Nam khi trở lại thăm Việt Nam vào những năm 2003. Tuy hàng VN lúc bấy giờ chưa thể so sánh với hàng Mỹ, nhưng tinh thần yêu chuộng hàng nội hóa của người VN rất cao. Điển hình như bố tôi, khi bước chân tới Mỹ du học vẫn thủ theo cây kem đánh răng Hynos, cục xà phòng Cô Ba và chai dầu cù là "Made in Vietnam". Tuy bột giặt ngoại trên thị trường có đầy, nhưng hãng Viso bột giặt của người Việt Nam sản xuất cũng là mặt hàng ưa chuộng. Tại nhà tôi và toàn bộ nhà các cô bác tôi trong ngành chế biến thực phẩm lúc bấy giờ chỉ sử dụng hoàn toàn bếp ga. Với sự kinh doanh chăm chỉ của họ người nào người đó cũng xây những ngôi nhà lầu khổng lồ 4 - 5 tầng thúc đấy khá mạnh vào công nghiệp xây dựng lúc bấy giờ...
Ngoài các ngành kinh tế tiểu công nghệ thì sự phát triển về công nghiệp điện tử cũng không tệ. Bằng chứng khu công nghiệp Biên Hòa, những cơ sở xưởng xi măng, điện tử... đã trở thành những căn nhà hoang sau 1975. Tuy Việt Nam không có một ngành công nghệ ô tô nhưng lúc đó thì Việt Nam đã có những cơ xưởng lắp ráp ô tô theo mẫu mã riêng của mình mà chiếc LaDalat là chiếc xe hơn đầu tiên "Made in Vietnam" cho dù đa số là dùng phụ tùng ngoại. Trong khi đó ở xứ kim chi xa xôi, họ vẫn chỉ có những xưởng lắp ráp và sản xuất xe đạp. Sự phát hiện các mỏ dầu ở các giếng Bạch Hổ ngoài khơi Vũng Tàu vào những năm 1973...
Luồng du học sinh người miền Nam về các lãnh vực kinh tế, điện tử, nông nghiệp ở miền Nam lúc bấy giờ cũng khá đông và còn nhiều nhiều nữa đã cho chúng ta thấy kinh tế miền Nam lúc đó có nhiều cơ hội phát triển rất cao nếu như không có chiến tranh và không có cuộc nội chiến và không có sự trả thù một cách mù quáng của những người dốt nát và thiển cận.
Những hình ảnh sung túc của một nền kinh tế thị trường miền Nam trước năm 1975 mà bạn có thể tìm thấy trên những website mang tính hoài cựu đã phản ánh lên phần nào xã hội miền Nam tại các thành phố lớn, đã có những bước phát triển và có điều kiện vươn lên cạnh tranh với những con rồng châu Á như Nhật bản và Đài loan,... Nhưng rất tiếc sau năm 1975 nó không được tận dụng, không được tiếp tục mà trái lại các biện pháp quốc hữu hóa, tịch thu tài sản kinh doanh, ruộng đất, các biện pháp ngăn sông cấm chợ đã làm thụt lùi cả cuộc sống người miền Nam nói riếng và cả dân tộc nói chung.
Những sản phẩm yêu thích do chính người miền Nam sản xuất và sử dụng từ từ bị thay thế bằng những sản phẩm tồi tệ cả về chất lượng và hiếm hoi cả về số lượng từ những họp tác xã quốc doanh, hay những xi nghiệp quốc doanh khổng lồ do những người không có trình độ quản lý và vận hành. Những thước vải kaki nhăn nhúm, thô kệch được bán theo chỉ tiêu đầu người. Thay vì ăn những thứ gạo ngon trước của miền Nam, hay đường cát trắng tinh mua xài thoải mái thì giờ đây mỗi tháng chỉ còn vài ký, mà trong đó biết bao nhiêu là thóc và sạn. Đường cát trắng thì cứ vàng dần và vàng dần... đôi lúc người ta không còn biết nó là cát vàng hay đường cát nữa. Trong suốt 15 năm đầu tiên sau 1975, tôi chưa từng chứng kiến có căn nhà lầu nào được xây lên trong những vùng tôi đã sống qua... vì ai cũng nơm nớp sợ rằng sự khoe của sẽ trờ thành tai họa của họ nếu nhà nước lại tiến hàng quốc hữu hóa hay đổi tiền, hay dùng một hình thức cướp công khai như họ đã làm từ khi chiếm được cả một miền Nam trù phú.
Nói dài quá... sau hơn 32 năm, có lẽ Đảng ta đã tìm ra đúng con đường đi của mình: chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không phải là mục đích của họ mà là chủ nghĩa dollar mới là cứu cánh của họ và cả dân tộc. Từ khi quăng bỏ các giáo điều Mác - Lê, tránh xa những tư tưởng lạc hậu và theo đuổi một chủ nghĩa xây dựng trên nền tảng thiếu công bình về phân phối sản phẩm: Bác và Đảng đã thực hiện được bước đầu những gì họ đã hứa...
Tuy vậy Bác và Đảng hứa rất nhiều và rất nhiều: tự do, dân chủ, độc lập dân tộc, bình đẳng... nhưng họ chưa làm được bao nhiêu. Ngoài trừ vượt được xã hội miền Nam về tham nhũng và sự lộng quyền của quan chức cộng với sự xuống cấp về đạo đức trong môi trường giáo dục, họ vẫn còn kém rất xa và rất xa xã hội miền Nam trước năm 1975 về những mặt khác. Nhưng hy vọng thêm một cái 30 năm nữa thì chắc chắn họ sẻ bắt kịp thôi với tốc độ chậm chạp như hiện nay. Nhân dân VN không cần gấp, cứ từ từ chờ, Đảng và Bác sẻ không nuốt lời hứa của họ vì họ đang cố gắng thực hiện và mọi người phải cố gắnh nhẫn nại chờ.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 28, 2009 15:39:14 GMT 9
Có nên kiên định con đường Xã Hội Chủ Nghĩa? Tác Giả Nguyễn Thanh . Chuẩn bị Đại hội XI đảng CSVN Có nên kiên định con đường Xã Hội Chủ Nghĩa?
Đại hội XI đảng CSVN sẽ khai mạc trong quý 1 năm 2011. Nguy cơ tiếp tục đưa đất nước theo con đường XHCN, để qua bước quá độ này tiến lên Chủ nghĩa Cộng sản, hầu như vẫn là một khẳng định của những người lãnh đạo đảng CSVN. Bài viết này nhằm góp phần ngăn chặn nguy cơ đó.
I - HÌNH HÀI CNXH TRONG LỊCH SỬ HIỆN ĐẠI
Gương mặt CNXH từ buổi lọt lòng đến nay thật dữ dằn, nếu không muốn nói là ghê sợ. Nói về cái xấu, cái sai, cái tàn ác của CNXH đã diễn ra trong thế kỷ qua là chuyện tưởng đã nhàm chán bởi hai lẽ: Một là, vì những chuyện ấy có quá nhiều. Hai là, thực tế đã chứng minh quá rõ. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là, nhiều giới hữu quan vẫn cứ tuồng như không nghe, không thấy, không biết; cho nên ở đây, để làm cứ liệu cho việc bàn thảo, xin vẫn được lược qua đôi chút:
1 - Về chính trị Được chỉ đạo bởi tinh thần đấu tranh giai cấp, lợi dụng chuyên chính vô sản, các nhà nước XHCN và đảng Cộng sản đã tiến hành nhiều cuộc thanh trừng nội bộ hết sức tàn bạo. Không kể chiến tranh giữa các nước, riêng các cuộc “cách mạng nội bộ” đã tàn sát hàng chục triệu người.
a - Ở Liên Xô Với chủ trương quốc hữu hóa ruộng đất triệt để, Stalin đã lùa nông dân Nga vào các trại tập trung một cách dã man và khủng khiếp không thua gì các trại tập trung của Đức Quốc Xã ở Auschwitz Ba Lan. Khoảng 61 triệu 911 ngàn công dân Liên Xô bị chết trong các trại tù Gulag của Liên Bang Xô Viết. Lãnh tụ cộng sản không chỉ giết công dân mà giết cả đồng chí của họ, Khroutsev đã báo cáo trong phiên họp Đảng ngày 25 tháng 11 năm 1956: “Cuộc điều tra cho thấy: 98 người trong số 139 ủy viên TW chính thức và dự khuyết do Đại hội XVIII (năm 1934) bầu ra, tức là 70%, đã bị bắt và bị xử bắn (phần lớn vào những năm 1937 – 38 )… Không những các ủy viên TW mà đa số dại biểu dự Đại hội XVII của Đảng cũng chịu chung số phận. Trong số 1956 đại biểu chính thức và dự bị thì 1108 người (tức hơn nửa số đại biểu) bị bắt và bị ghép tội phản cách mạng”.
b - Ở Trung Quốc Nhằm gò ép đất nước vào con đường XHCN theo cách hiểu, cách nghĩ của mình, Mao Trạch Đông đã tiến hành hàng loạt cuộc thanh trừng nội bộ qua những cái gọi là “Chống xét lại, phòng ngừa xét lại”, “Ngăn chặn diễn biến hòa bình”, “Tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản”, “Ngăn chặn phục hồi chủ nghĩa tư bản”, “Chống phái đương quyền đi con đường tư bản chủ nghĩa trong Đảng”, “Lôi ra nhân vật kiểu Khrousev” ….
Riêng cuộc Đại Cách mạng Văn hóa tiến hành trong 10 năm đã giết chết 20 triệu người, 100 triệu người bị đem ra đấu tố. (Theo Diệp Kiếm Anh tiết lộ tại lễ bế mạc Hội nghị công tác Trung ương ĐCSTQ ngày 13/12/1978). Tám mươi phần trăm đảng viên cộng sản cương trung bị xử lý trong cuộc Đại cách mạng này. Từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa thành lập năm 1949 đến ngày Mao Trạch Đông chết (1976), không chính thức có nội chiến, không có thiên tai nghiêm trọng mà số người chết không bình thường lên tới 57,55 triệu. Lớn hơn rất nhiều so với số tử vong trên toàn cầu trong Đại chiến Thế giới thứ hai.
Chế độ độc tài toàn trị kiểu Cộng sản cho phép các “lãnh tụ tối cao” không chỉ tàn sát dân lành mà cả các đảng viên của Đảng. Không chỉ đảng viên thường mà cả các lãnh tụ khác. Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ cũng bị Mao Trạch Đông hạ sát rất thê thảm. Lâm Bưu, người từng được Mao hứa truyền ngôi song chỉ vì dám làm phật ý, đã bị cho nổ máy bay chết tan xác cùng vợ, con trên đường trốn chạy.
c - Ở Campuchia Quan triệt tinh thần cách mạng triệt để, cách mạng vô sản phải thông qua bạo lực tiêu diệt toàn bộ những tàn tích các chế độ cũ, xây dựng một thiên đường cộng sản hoàn toàn mới, chính quyền cộng sản Camphuchia trong thời gian cai trị từ 14/04/1975 đến 07/01/1979 đã tàn sát 2.035.000 người dân Campuchia vô tội. Tuân theo giáo huấn của “Tuyên ngôn ĐCS”: “Chủ nghĩa Cộng sản phải xóa bỏ buôn bán, xóa bỏ chế độ sản xuất tư sản, xóa bỏ ngay cả giai cấp tư sản nữa”, đối tượng tiêu diệt của chính quyền Cộng sản Campuchia gồm:
- Bất cứ ai có liên hệ đến chính quyền cũ hay các chính quyền ngoại quốc. - Những người trí thức hoặc chuyên gia, nhất là những người có đeo kính vì cho rằng họ đã đọc nhiều! - Những người thuộc sắc tộc Việt Nam; những người theo Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo và các tu sĩ Phật giáo. - Tiểu chủ, thương nhân… vì bị coi là những người không có khả năng sản xuất ra của cải vật chất
d - Ở Việt Nam Không kể cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn vì ý thức hệ, cuộc chiến tranh không phải “vì ta ba chục triệu con người”, mà “vì ba ngàn triệu trên đời” (Thơ Tố Hữu) đã tiêu phí 1,1 triệu liệt sỹ, 559 200 thương bệnh binh, hơn 300.000 người mất tích, hơn 2 triệu dân thường bị chết, hơn 2 triệu người lớn và trẻ em bị tàn tật, nhiều cuộc đàn áp phi nhân tính đã diễn ra, nhiều vết thương tinh thần còn xiết đau tâm can dân tộc không biết đến bao giờ mới nguôi ngoai:
- Học tập cách mạng thổ cải của Trung Quốc, Cải cách Ruộng đất ở Việt Nam đã treo cổ, chôn sống, xử bắn, đầy đọa cho đến chết hàng loạt người dân Việt Nam không chỉ vô tội mà còn là những nhân tài kinh tế nông nghiệp bị quy địa chủ, phú nông. Không ai đếm xuể và ước định chính xác được con số thảm họa này. Mười lăm ngàn theo tuần báo Times ngày 1 tháng 7 năm 1957 hay 500.000 người theo nhà văn-nhà báo Pháp Michel Tauriac. Thống kê chính thức của nhà nước Việt Nam được đăng trong cuốn “Lịch sử kinh tế Việt Nam” (tập hai) cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông mà theo quan điểm của những người thực hiện cuộc cải cách ruộng đất lúc bấy giờ, đây là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị "đào tận gốc, trốc tận rễ". Điều này đồng nghĩa với việc họ có thể bị bắn tại chỗ hoặc bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam.
- Chỉ vì đòi được tư do tư tưởng để tinh thần văn nghệ sỹ có cơ hội thăng hoa trong tác phẩm, đòi văn nghệ được thoát khỏi xiềng chính trị, đòi trả văn nghệ về phục vụ cho nhân dân chứ không chỉ phục vụ Đảng mà văn nghệ sỹ, trong đó có cả những đảng viên Cộng sản kỳ cựu, những trí thức tiền bối của cách mạng bị quy chụp, bị mạt sát là “ một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm…. đủ mặt các loại "biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt” (**). Họ là những trí thức tài ba, giầu lòng yêu nước, từng có công đầu đối với cách mạng nhưng hoặc bị cách mạng “ăn thịt”, hoặc bị đầy đọa đằng đẵng.
- Chỉ vì đấu tranh chống lại việc áp dụng CNXH theo Mao-ít, một vụ đàn áp trí thức dã man lại được lãnh đao đảng CSVN xúc tiến dưới tên goi “Vụ án Xét lại Chống Đảng”. Trong vụ này, nhiều công thần cách mạng như Dương Bạch Mai, Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang, Nguyễn Minh Cần, Ung văn Khiêm, Trần Minh Việt, Hoàng Minh Chính, Nguyễn văn Vịnh…; nhiều học giả, nhà văn, nhà báo trứ danh như Nguyễn Kiến Giang, Phạm Viết, Hoàng Thế Dũng, Văn Doãn, Vũ Thư Hiên, Minh Tranh, Đào Phan, Bùi Ngọc Tấn… hoặc bị giết hoặc bị đầy đọa khốn đốn.
2 - Về kinh tế Sau Đại chiến Thế giới lần thứ Hai, trừ Mỹ, tất cả các nước đều phục hồi đất nước theo con đường kinh tế TBCN. Không kể Nhật Bản từ đống tro tàn của mấy quả bom nguyên tử đã vươn cao vời vợi thành một trong hai cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới, tất cả các nước TBCN ngày nay không chỉ dân chủ hơn, công bằng hơn mà còn giầu mạnh hơn, văn minh hơn các nước XHCN.
Trong khi đó, Cuba khi mới gia nhập gia đình XHCN đã mang theo một La Habana hoa lệ nổi tiếng toàn cầu, đời sống nông dân không kém các nước TBCN là bao, thế mà nay, phải ngửa tay xin cái anh bạn nghèo Việt Nam mấy tấn gạo, vài cái computer ....
Triều Tiên xác xơ đến nỗi nhân dân tìm mọi con đường trốn khỏi đất nước không chỉ để thoát khổ nghèo mà còn để thoát khỏi cái địa ngục tinh thần XHCN ấy. Trong khi đó Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của ĐCS đang trở thành “kẻ cố cùng” đem vũ khí nguyên tử ra quấy rầy cộng đồng quốc tế, để ân vòi, ăn vạ và dọa phá bĩnh ! Sự tương phản oái oăm giữa CNTB và CNXN càng phơi bày trực diện hơn ở các nước bị chia cắt hai miền.
Nếu Hàn Quốc chưa được là thiên đàng thì Triều Tiên là địa ngục.
Thu nhập bình quân đầu người ở Tây Đức gấp 4 lần Đông Đức. Đến năm 1961 dã có 2,7 triệu người Đông Đức bỏ đi hoặc chạy trốn sang Đông Đức, phần vì tỵ nạn chế độ chính trị hà khắc, phần vì không chịu được cuộc sống nghèo khổ do chế độ XHCN đem lại. Ngày mới sáp nhập hai nước, giá trị sản phẩm của Tây Đức chiếm 93% trong toàn bộ, Đông Đức chỉ có 7%.
“Chế độ XHCN bạo lực – giai đoạn đầu của chủ nghĩa Cộng sản – trải qua hơn 70 năm nỗ lực hết sức mình để đuỏi kịp và vượt các nước tư bản chủ nghĩa, chỉ riêng Liên Xô và Trung Quốc đã phải trả giá 50 triệu người chết đói (Liên Xô 13 triệu, Trung Quốc 37 triệu) mà cũng không đuổi kịp các nước TBCN chủ yếu trên phương diện “sản xuất và tái sản xuất trong đời sống hiện thực” (*).
“GDP của Trung Quốc năm 1955 chiếm 4,7% thế giới, năm 1980 tụt xuống 2,5%; năm 1955 gấp 2 lần Nhật Bản đến năm 1980 chỉ còn bằng 1 phần tư. GDP bình quân đầu người năm 1955 bằng một nửa Nhật Bản, đến năm 1980 còn chưa được một phần 20. Năm 1960 GDP Trung Quốc chỉ kém Mỹ 460 tỷ USD, đến năm 1980, con số này vọt lên tới 3.680” (*).
“Mao phát động phong trào Đại tiến vọt và Công xã hóa, tiến hành cuộc thực nghiệm CNXH không tưởng lớn chưa từng thấy và cũng gây ra tấn thảm kịch lớn chưa từng thấy trong lịch sử loài người: 35,55 triệu người chết đói”(*). “Nạn ăn thịt người đã diễn ra ở Tứ Xuyên và nhiều nơi khác: khi chôn người chết chỉ vùi nông, tối đến bới lên xẻo lấy thịt ăn, hoặc tang chủ đã lóc thịt thân nhân trước khi mai táng.... Kẻ nhẫn tâm thì làm thịt con ngay tại nhà mình. Kẻ mềm yếu hơn thì “gạt nước mắt đánh đổi với hàng xóm”, trao con mình cho người khác ăn, mang con người khác về làm thịt”(*).
Trong khi nền kinh tế Phương Tây chưa phát triển đáng kể thì Việt Nam đã có Kinh Kỳ, Phố Hiến, tuy nhiên nói đến sự tụt hậu quá xa so với thế giới ngày nay, người ta thường ngụy biện đổ lỗi cho chiến tranh, nhưng, hết chiến tranh rồi mà năm 1975 Sài gòn có tiềm lực kinh tế ngang với Băng Cốc, và được xem là Hòn Ngọc của Viễn Đông, thì 20 năm sau, Sài Gòn tụt hậu so với Băng Cốc 20 năm. Đây là nhận xét của ngài Lý Quang Diệu – người được lãnh đạo Việt Nam mời làm cố vấn một cách rất cung kính.
II - AI ĐƯA VIỆT NAM VÀO CON ĐƯỜNG XHCN?
“Một số người cộng sản ngày nay nói một cách khẳng định rằng: “chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam”. Đúng thế chăng? Tôi xin phép được nghi ngờ. Có lẽ không có gì rõ hơn sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam trong thời kỳ cách mạng Tháng Tám. Hồi đó, nhân dân lựa chọn cái gì? Lựa chọn độc lập, tự do, hạnh phúc, lựa chọn Nhà nước cộng hòa dân chủ, lựa chọn Việt Minh như một mặt trận thống nhất dân tộc thật sự với những thành viên khác nhau của nó, lựa chọn những người có đức có tài lãnh đạo quốc dân. Lựa chọn bằng những cuộc khởi nghĩa tháng Tám đầy khí thế. Lựa chọn bằng tham gia Giải phóng quân, Vệ quốc đoàn, Nam tiến… Lựa chọn bằng Tổng tuyển cử (6/1/1946) một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do, có sự tham gia của nhiều tổ chức và cá nhân thuộc những xu hướng chính trị khác nhau. Lựa chọn bằng Hiến pháp thật sự dân chủ tháng 11/1946 do Quốc hội đầu tiên thông qua”. Đấy là ý kiến của học giả Nguyễn Kiến Giang trong tiểu luận “ Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lenin vào Việt Nam”.
Đại văn hào Pháp Victor Hugo đã rất đúng khi ông nói: “Chủ nghĩa Cộng sản là giấc mơ của một vài người, nhưng là cơn ác mộng cho mọi người”.
Các nhà lãnh đạo đảng CSVN ngày nay hết vu vạ cho nhân dân, lại “đổ tội” cho Cụ Hồ là người đã chọn con đường XHCN nhằm gỡ thế bí trước cả thực tiễn lẫn lý luận, đồng thời để làm khiên chắn cho mình,. Kể ra thì cũng có những sự thực trớ trêu như:
Trong báo cáo chính trị đọc tại Đại hội 2 (tháng 2 năm 1951) Hồ Chí Minh từng thành thực giãi bầy: “Cách mạng Việt Nam phải học nhiều kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc. Kinh nghiệm và tư tưởng Mao Trạch Đông đã giúp chúng tôi hiểu thấu đáo hơn học thuyết của Mác-Anghen-Lênin-Stalin”.
Trong “Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1959” Cụ cũng khẳng định: “chế độ ta phải xóa bỏ các hình thức sở hữu không XHCN, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể”.
Tuy nhiên, trong buổi nói chuyện ngày 11 tháng 4 năm 2001 tại Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục, nhà văn Sơn Tùng lại cho rằng: “Bây giờ họ sai lầm đến mức nói đi theo con đường Bác Hồ đã chọn, có đi theo Bác đâu. Bác Hồ là đảng Lao động, là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa….. Thế rồi từ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại đổi thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, rồi đảng Lao động thành đảng Cộng sản… những cái mà Bác Hồ đặt ra thì người ta xóa bỏ. Và năm đó, họ định sau Đại hội 5 sẽ rời thủ đô vào Đắc Lắc. Đó là chuyện của ông Lê Duẩn”.
Quả đúng như vậy. Cụ Hồ đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và cho đến ngày Cụ qua đời, nước ta vẫn là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong suốt thời kỳ nước ta bị Pháp đô hộ, tinh thần chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc không ngừng âm ỷ và đã từng bùng phát qua nhiều phong trào: phong trào Cần Vương (1885-1912), phong trào Văn Thân (1907-08), phong trào Đông Du (1905-39) và Việt Nam Quốc dân Đảng (1925-22 và 1945-46)..
Phong trào Cần Vương bao gồm nhiều vụ nổi dậy vũ trang như: vụ Tôn Thất Thuyết chống Pháp và mang vua Hàm Nghi ra khỏi kinh thành (1885-88), vụ Phan Đình Phùng khởi nghĩa (1885-95), vụ Bãi Sậy (1885-89), vụ Hoàng Hoa Thám lập chiến khu ở Yên Thế (1890-1913). Tất cả những vụ này đã nổ ra liên tiếp và có khi đồng thời nhưng rời rạc không liên kết, và đã lần lượt thất bại.
Phong trào Văn Thân, tiêu biểu là Phan Chu Trinh, tin rằng bằng cách đề huề hợp tác với Pháp, khai dân trí, chấn dân khí thì có thể canh tân được xứ sở và dân chủ hoá được chế độ. Tuy nhiên, mặc dầu lời kêu gọi của Cụ được giới trí thức nhiệt liệt hoan nghênh, nhưng kết quả đấu tranh chưa buộc người Pháp nhân nhượng được là bao thì tiếc thay cụ đã qua đời.
Phong trào Đông Du tin tưởng ở tinh thần đoàn kết Á Châu, dưới sự lãnh đạo của |Nhật Bản có thể vũ trang vùng dậy giành lại chủ quyền. Tuy nhiên sau khi lãnh tụ Phan Bội Châu bị bắt thì phong trào cũng tan rã. Dựa vào tinh thần dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ qua các cuộc bãi khóa khi cụ Phan Bội Châu bị bắt năm 1925 và bùng phát khi nhiều học sinh, sinh viên bị đuổi khỏi trường và cấm không được thi cử vì tham gia phong trào để tang Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học - một sinh viên Đại học Sư phạm - đã lập nên Việt Nam Quốc dân đảng. Số đảng viên đã từng lên tới hàng ngàn nhưng phần đông là trí thức, học sinh, sinh viên, tiểu thương, tiểu chủ và hạ sĩ quan trong quân đội. Thế mà, sau tiếng bom Phạm Hông Thái vang rền, phong trào cũng vỡ theo. Trước ngổn ngang những con đường đã dẫn những người đi trước đến thất bại đau lòng, Nguyễn Ái Quốc bật khóc khi lần đầu tiếp cận được với luận cương cách mạng của Lênin. Ông nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (***)
Năm 1960, nhân dịp sinh nhật thứ 70, Người tâm sự: “Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế Thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lê, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 28, 2009 15:40:26 GMT 9
Trong bài viết “Niềm tin và nỗi lo” nhà báo, nguyên ủy viên Ban Bí thư TW ĐCSVN Hoàng Tùng kể rằng: “Lê văn Lương nói với tôi: Trong những tháng nằm giường bệnh, Bác Hồ dặn lại ông: Mình không có điều gì ân hận, chỉ tiếc không loại trừ được ảnh hưởng của chủ nghĩa tả khuynh của Liên Xô và Trung Quốc vẫn còn kéo dài trong nội bộ Đảng ta. Nhờ đường lối độc lập tự chủ mà ta đã tập hợp được lực lượng của toàn dân tộc, đưa cách mạng nước nhà đến những thắng lợi vẻ vang. Do tác động từ bên ngoài, ta đã phải chịu đựng những tổn thất to lớn. Vì cuộc kháng chiến còn kéo dài, tôi chưa thể nêu vấn đề này ra. Sau này các chú phải làm cho được”. Vậy là chủ yếu Nguyễn Ái Quốc chỉ muốn sử dụng chủ nghĩa Mác-Lenin như một phương tiện để chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc. Sau này Cụ cũng có lúc nói đến CNXH nhưng không nhiều, cũng không sâu sắc mặn mà lắm.
Có thể nói, Hồ Chí Minh đã góp phần du nhập chủ nghĩa Mác vào Việt Nam, nhưng tập đoàn Lê Duẩn- Lê Đức Thọ mới là người chính thức đưa nước ta vào con đường XHCN ! Sự thực là, Hồ Chí Minh cũng chưa có điều kiện để đọc nhiều và tìm hiểu tường tận chủ nghiã Mác-Lênin. Điều này không có gì lạ cả, chủ nghĩa Mác vốn đã mù mờ, sau đó lại còn bị Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông … bẻ quẹo đi rất nhiều.
Nó mù mờ đến nỗi, ngay từ năm 1936 Stalin đã dám ngang nhiên tuyên bố: Liên Xô đã xây dựng thành công CNXH. Có lẽ Stalin còn tin rằng ngay trong kiếp sống của ông, ông đã có thể đưa Liên Xô vào thiên đường Cộng sản. Bởi vì, Lênin đã định chuẩn một cách dễ dàng: “Chủ nghĩa Cộng sản là chính quyễn Xô viết cộng với điện khí hóa toàn quốc”.
Trong bài “Những trang nhật ký của một nhà chính luận” Lênin còn giảng giải: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên CNXH. Như thế là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động”.
Hãy văn học hóa lời giảng giải kia bằng mẩu chuyện sau: Cắm một ngọn cờ bằng kim cương óng ánh trên một đỉnh núi cao ngàn mét rồi hỏi: Ai muốn lên chiếm lĩnh ngọn cờ vinh quang và quý báu đó? Tất cả đều trả lời muốn. Lại hỏi, làm thế nào để lên được? Mọi người, kể cả các lãnh tụ tài ba, các trí thức uyên thâm còn đang suy ngẫm lao lung thì cậu bé lên ba trả lời ngay, trèo! Lại hỏi, trèo theo phương hướng, đường lối nào? Cậu bé nhanh nhảu: toán học đã dạy, đường thẳng là đường ngắn nhất, cứ theo đường nối từ chân cháu lên lá cờ mà trèo! (bỏ qua phát triển tư bản). Lại hỏi: ai trèo?, “lực lượng giai cấp nào dẫn đường”? Cậu bé lên ba: Ông cháu là lão nông đã ngoại tám mươi dẫn đường cho cháu trèo! Cho nên chính tổng bí thư ĐCS Liên Xô Brezhnev từng nói với em trai mình: “Chủ nghĩa Cộng sản cái quái gì, đều là những lời nói trống rồng lừa bịp” (Theo Hồi ức của Liuba, cháu gái Brezhnev).
III - CHỦ NGHĨA XÃ HỘI NÀO?
Nói Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông đã bẻ quẹo chủ nghĩa Mác là mới nói nửa chừng. Thực tế, Lênin, Stalin và đặc biệt Mao Trạch Đông đã chống lại Mác. Đến lượt mình, chính Mác già đã phủ định Mác trẻ.
Trong cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội” Tân Tử Lăng có kể một truyện cười chính trị: “Một người Trung Quốc đến thăm nơi ở cũ của Mác tại thành phố Trier hỏi người giữ của: “Nước Đức các ngài sản sinh ra Mác, vì sao không tôn thờ chủ nghĩa Mác?” Người gác cửa nói: “Mác là người học vấn uyên thâm, để lại cho đời hai cuốn kinh điển, một cuốn chủ nghĩa Mác nghèo và một cuốn chủ nghĩa Mác giầu. Nghe các cụ già nói thế kỷ trước, có một người tên gọi Lênin rất lợi hại, ông ta cướp mất cuốn chủ nghĩa Mác nghèo, chúng tôi chỉ còn lại cuốn chủ nghĩa Mác giầu, cũng chẳng chính thống gì, nhưng cuộc sống thật dễ chịu”,.( * ).
Nói về sự bẻ quẹo chủ nghĩa Mác của Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông e lại rơi vào chuyên “nói xấu” CNXH, mà đây là chuyện “khổ lắm, biết rồi, nói mãi”, bây giờ xin nói qua về sự phủ định chủ nghĩa Mác của chính Mác-Anghen.
Về quyền tư hữu của con người, Tuyên ngôn ĐCS viết: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ tư hữu”. Mác xem tư hữu là “vật đáng ghét nhất” và nhiệm vụ cơ bản của cách mạng vô sản là xóa bỏ tư hữu. Nhưng trong tiểu luận “Tư hữu và khát vọng cá nhân”, Vũ Cao Quận lại cho rằng “… phải đến khi khác với các loài vật đi kiếm ăn bằng các sản vật tự nhiên, các cụ tổ ngày xưa đã biết gieo trồng, cấy hái…. để có của ăn của để và làm kho cất dấu để dự trữ. …. Với riêng tôi, tôi xin viết hoa hai chữ “Tư Hữu”, là sáng tạo vĩ đại để từ con vật tiến lên thành con người ngày càng giầu có. Hai anh em: “Động lực Cá nhân” và “Tư Hữu” chính là “Động lực phát triển của xã hội loài người” …. “Tư Hữu” được các cụ loài vượn của chúng ta phát minh ra và “vác” chúng trên vai lừng lững đi trên con đường tiến hóa nhân loại, xuyên qua bao chế độ xã hội, bao thể chế chính trị, đưa cuộc sống từ hồng hoang man dại đến văn minh hôm nay”.
Đòi tiêu diệt chế độ tư hữu, tiêu diệt giai cấp tư sản, chấm dứt phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tuyên án tử hình ngay chủ nghĩa tư bản là sai lầm lớn của Mác-Anghen. Đành rằng Mác là một trong những bộ óc vĩ đại của nhân loại, nhưng khi công bố “Tuyên ngôn ĐCS” Mác mới có 30 tuổi, cho nên rất có thể lúc ấy, ở Mác còn rơi rớt cái tuổi xốc nổi.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1866 các công ty cổ phần và các ngân hàng đầu tư quy mô lớn ra đời, tích lũy tư bản không còn dựa vào các chủ xí nghiệp tự tập hợp vốn qua tiết kiệm và dự trữ mà dựa vào dự trữ của toàn xã hội. Các công ty cổ phần ra đời dựa vào quy trình thu hút vốn xã hội để xây dựng xí nghiệp. Thực trạng đó đưa Mác đến nhận định rằng các công ty cổ phần “đã từ bỏ sản nghiệp tư hữu của CNTB trên cơ sở bản thân hệ thống TBCN”. Nhà tư bản không còn xí nghiệp tư nhân, mà chỉ có tài sản tư nhân, phần tài sản tư nhân này là bộ phận tài sản xí nghiệp được lượng hóa bằng tiền. Việc tách quyền sở hữu và quyền quản lý là một cuộc “cách mạng” hòa bình, tạo khả năng quá độ hòa bình sang một chế độ mới. (*)
Công ty cổ phần ra đời khiến Mác chẳng những tìm được hình thức coi tư liệu sản xuất “là tài sản chung của những người cùng sản xuất, tài sản xã hội trực tiếp”, mà còn tìm được điểm quá độ “tư bản chuyển hóa thành sở hữu của người sản xuất” (*).
Anghen cho rằng: “Sản xuất TBCN do các công ty cổ phần kinh doanh, không còn là sản xuất tư nhân, mà là sản xuất mưu lợi cho rất nhiều người kết hợp cùng nhau”.
Ngay trong “Tư bản luận” tập Một, Mác đã đã phủ định luận điểm xóa bỏ chế độ tư hữu trong “Tuyên ngôn ĐCS” bằng câu: “thiết lập lại chế độ sở hữu cá nhân, trên cơ sở cùng chiếm hữu tư liệu sản xuất”. Về vấn đề xác định lực lượng sản xuất tiên tiến của xã hôi, Tân Tử Lăng cho rằng: “Lực lượng sản xuất” và “lực lượng sản xuất tiên tiền” là hai khái niệm khác nhau. Lực lượng sản xuất duy trì dây chuyền sản xuất vận hành cân bằng theo tiêu chuẩn chất lượng và số lượng nhất định; lực lượng sản xuất tiên tiến phải phá vỡ sự cân bằng cũ, tạo ra tiêu chuẩn chất lượng và số lượng mới, nâng sản xuất lên một mức thang mới. Công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất, nhưng không đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến; người đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến là nhà tư bản. Đó là điều đã được lịch sử phát triển lực lượng sản xuất chứng minh”. (*).
Muốn tiên tiến trong sản xuất phải coi trọng sáng kiến, phát minh và máy móc mới. Vì sợ mất ổn định cuộc sống, sợ việc ứng dụng phát minh và máy móc mới sẽ buộc phải ngừng việc để đi hoc thêm, phải đổi nghề hoặc mất việc, công nhân thậm chí thù ghét máy móc mới. Chính Mác đã nói: “Máy móc không những là người cạnh tranh rất hùng mạnh, lúc nào cũng có thể khiến công nhân làm thuê trở nên dư thừa, mà nó còn được các nhà tư bản công khai tuyên bố là lực lượng thù địch công nhân, và ra sức lợi dụng. Máy móc trở thành vũ khí mạnh mẽ nhất đàn áp bãi công tức những cuộc bạo động mang tính chu kỳ của lao động phản kháng ách chuyên chế tư bản…. Có thể viết cả một pho sử chứng minh rằng nhiều phát minh từ 1830 đến nay chỉ nhằm bảo hộ nhà tư bản đối phó với các cuộc bạo động của công nhân” (*).
Phát minh, sáng chế của các nhà khoa học nếu chỉ dừng lại trên văn bản thì không thể hình thành lực lương sản xuất. Do được thôi thúc bởi lợi nhuận siêu ngạch, các nhà tư bản trở thừnh những người nhiệt tình nhất, tích cực nhất, dù phải chấp nhận rủi ro để thử nghiệm rồi chuyển hóa thành quả nghiên cứu thành lực lượng sản xuất.
Là người phổ cập hóa kỹ thuật mới, máy móc mới, vật liệu mới, các nhà tư bản là người nắm vị trí chủ đạo trong xí nghiệp hiện đại, họ mới chính là người đại diện cho quan hệ sản xuất tiên tiến, đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, chứ không phải giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân không nên và không thể thông qua đấu tranh giai cấp để đào mồ chôn giai cấp tư bản. Ngày 6 tháng 3 năm1895, trong lời nói đầu cuốn “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, Anghen đã viết: “Lịch sử chứng tỏ chúng ta từng mắc sai lầm, quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là một ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều hơn: không những đã loại bỏ được những sai lầm mê muội của chúng ta hồi đó, mà còn thay đổi hoàn toàn điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản. Phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mặt… Không có cái gọi là mục tiêu lớn “Cộng sản chủ nghĩa”, đây là mệnh đề mà người sáng lập chủ nghĩa Mác nêu ra khi còn trẻ và từ bỏ lúc về già”.\z
Ở tuổi 73, trong lời phát biểu với phóng viên báo Le Figaro Pháp ngày 11 tháng 5 năm 1893 ông càng khẳng định đoạn tuyệt với Chủ nghĩa Cộng sản: “Chúng tôi không có mục tiêu cuối cùng, chúng tôi là những người theo thuyết không ngừng phát triển, chúng tôi không tính chuyện áp đặt cho loài người quy luật cuối cùng nào”.
IV - VÌ SAO CẦN PHẢI TỪ BỎ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI?
Vào khoảng cuối thập kỷ 70, thế kỷ trước, phó thủ tướng phụ trách công nghiệp Trung Quốc Vương Chấn sang thăm Vương quốc Anh, trở về, ông phát biểu: “Tôi thấy nước Anh làm hay lắm, vật chất cực kỳ dồi dào, ba chênh lệch lớn cơ bản không còn nữa, xã hội công bằng, phúc lợi xã hội được tôn trọng, nếu cộng thêm đảng Cộng sản cầm quyền thì nước Anh là xã hội Cộng sản chủ nghĩa trong lý tưởng của chúng ta”. Câu nói đó bộc bạch tâm can của những “nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc thông minh”:
Hãy xây dựng xã hội tư bản dưới sự lãnh đạo của ĐCSTQ và gọi đấy là Chủ nghĩa Cộng sản. Muốn duy trì được quyền cai trị của ĐCSTQ hãy cứ hô cộng sản nhưng phải dốc lòng xây dựng chủ nghĩa tư bản. Đây chính là sách lược “Bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải” của “những nhà cải cách thông minh” Trung Quốc. Thực tế cho thấy Trung Quốc đã từ bỏ CNXH. Tại Hội nghị Trung ương 3 khóa 14 ĐCSTQ do Giang Trạch Dân chủ trì đã quyết định loại bỏ kinh tế kế hoạch, thực hiện kinh tế thị trường. Tháng 3 năm 2004, Hồ Cẩm Đào vừa nhậm chức, kỳ họp thứ 2 quốc hội Trung Quốc khóa 10 đã đưa tư tưởng quan trọng “Ba đại diện”, và điều khoản quan trọng bảo vệ chế độ tư hữu vào Hiến pháp. Hiến pháp sửa đổi đã bẻ quặt hẳn tay lái ĐCSTQ khỏi đường lối chính trị cũ:
- Khôi phục cơ sở chính trị kiến quốc, thừa nhận và bảo vệ chế độ tư hữu, khôi phục chính sách hợp tác với giai cấp tư sản.
- Thừa nhận chủ xí nghiệp tư nhân (giai cấp tư sản) là lực lượng xây dựng CNXH. Họ không còn bị xem là giai cấp bóc lột, chỉ được tồn tại trong thời gian nhất định rồi sẽ bị tiêu diệt.
- Thừa nhận lực lượng sản xuất do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra là lực lượng sản xuất tiên tiến, các xí nghiệp tư nhân đại diện cho quan hệ sản xuất tiên tiến. Sau những chiến dịch cách mạng XHCN Đại nhảy vọt, Đại Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông làm cho Trung Quốc sắp hấp hối, khẩu lệnh cứu nguy “Mèo trắng, mèo đen, miễn bắt được chuôt” của Đặng Tiểu Bình lúc bấy giờ có thể hiểu là: TBCN hay XHCN, miễn Trung Quốc thoát đói khổ, tiến lên no ấm; XHCN hay TBCN miễn cứu được ĐCSTQ.
Tay lái ngoằn ngoèo của Đặng Tiểu Bình tài ba ở chỗ ông dùng giọng cộng sản để hô lớn: “Một yêu cầu đặt ra trong quá trình lâu dài của công cuộc xây dựng CNXH là phải cho phép một số người và một số địa phương giầu trước, người giầu trước lôi cuốn người giầu sau, cuối cùng tất cả cùng giầu”.
Đấy là cách nói lái của nội dung sau: phải để cho giai cấp tư bản phát triển rồi mới xây dựng được CNXH. Trung Quốc cũng giỏi ở chỗ biết dõng dạc tuyên bố: Xây dựng CNXH mang đặc sắc Trung Quốc. Độ mở của lời tuyên bố này rất rộng, cho phép họ muốn làm gì thì làm, muốn na ná XHCN cũng được, muốn giống hẳn chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng chẳng ai dễ dàng bắt bẻ.
Trong khi đó, ở Việt Nam, người ta muốn nói dối cũng không biết đường nói dối! Cũng phải thôi. Trong khi Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào …. đều có trình độ học vấn cơ bản tương đối cao thì các Tổng Bí thư của ta chỉ tương đương tiểu học, trung học! Cầm đầu công tác lý luận của Đảng lại nếu không phải hai cụ tiểu học, trung học chỉ được học lỏm về Mác -Lênin thì cũng chỉ mấy ông thư lại viết mướn diễn văn cho các cụ, được các cụ sơn vẽ cho mấy cái tước danh giáo sư tiến sỹ nhưng, mấy ông này, đến thực tế cuộc sống xã hội cũng không có chứ đừng nói đã qua trui rèn cách mạng. Sao lại cứ phải là “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” nhỉ? Trong tâm khảm mọi người bốn chữ XHCN có tốt đẹp gì đâu, hấp dẫn gì đâu. Cụ Trần Độ vốn là người thích hài hước nhưng Cụ đã nói rất đúng: “Đinh hướng XHCN là định hướng vào chỗ chết thì định hướng làm gì!”.
Hãy bắt chước người ta mà tuyên bố “Xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN mang đặc sắc Việt Nam” cũng được chứ sao. Rồi muốn vẽ rồng vẽ voi gì chẳng được. Tất nhiên chưa thể đủ tầm trí tuệ làm khác các nước tư bản hiện đại được đâu. Có người bảo thôi đừng tranh luận làm gì, nhỡ mang vạ vào thân, họ nói gì mặc họ, họ đang làm tư bản đấy mà. Không được. “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” là biểu hiện dốt nát của vài người này nhưng là sự gian ngoan, xảo trá của bọn người kia. Người ta lợi dụng kinh tế thị trường (không theo định chuẩn của kinh tế thị trường) để làm giầu bất chính và trở thành tư bản đỏ. Người ta lợi dụng định hướng XHCN để cướp đọat, bóc lột công nhân và nông dân tàn tệ hơn CNTB và đàn áp chính trị dã man kiểu chuyên chính vô sản. “Định hướng XHCN” cho phép người ta đổ vô tội vạ xương máu, nước mắt, mồ hôi của nhân dân vào các doanh nghiệp nhà nước rồi đem chia chác tư bản cho nhau. “Định hướng XHCN” cho phép người ta không cần đa dạng hóa sở hữu ruộng đất, cứ để vậy mà biếu xén, ban phát cho nhau; cho cả tư bản nước ngoài để được lại quả tỷ tỷ đồng! Dân lành bị cướp đất bỗng biến thành dân oan và bị trừng trị thẳng tay, bất kể cựu chiến binh, bất kể bà mẹ Việt Nam anh hùng!. Còn đeo đẳng Mác-Lênin và CNXH thì nhiều cộng đồng dân lành vẫn có nguy cơ bị coi là kẻ thù của ĐCSVN. Làm sao mà hết Thái Hà đến Tam Tòa; hết Loan Lý đến An Hải… và nay lại đang Bát Nhã! Phải chăng trong đầu người ta vẫn còn lởn vởn lời dạy của Lênin: “Chúng ta phải đấu tranh với tôn giáo. Đó là điều sơ đẳng của toàn bộ chủ nghĩa duy vật và do đó của chủ nghĩa Mác”, bởi vì Lênin coi tôn giáo là “một trong những thứ đê tiện nhất đã từng có trên trái đất này”. Có thể có câu hỏi: Không định hướng XHCN thì là cái gì? Câu trả lời sẽ phải bằng nhiều bài viết khác nữa. Nguyễn Thanh Giang Số 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội Điện thoại : 35 534 370
-------------------------------------------------------------------------------- (*) Rút trong cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội” của Tân Tử Lăng (**) Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại " Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958. (***) Lời tựa viết cho bản tiếng Nga quyển “Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói chọn lọc”
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:49:12 GMT 9
Hà Dương Dực Lịch sử 1 2 Lời mở đầu: Độc lập và phát triển không thể tách rời nhau và còn phải gắn liền với nhiều vấn đề bức xúc như tăng tiến dân trí trong đoàn kết, tăng tiến hiệu năng sản xuất, diệt trừ tham nhũng, giải quyết vấn đề sở hữu trí tuệ, nhà cửa, ruộng đất…
Trong khi đó, thực tế về đường hướng phát triển đòi hỏi sự hài hòa rất khó khăn giữa an ninh trật tự, tự do, dân chủ, nhân quyền, và lý thuyết của đảng cầm quyền.
Sau lý thuyết là phương thức tổ chức: tổ chức Chính quyền, ngoài chính quyền; cơ cấu kinh tế, ngoại kinh tế…
Thêm vào đó, ta có tâm lý rất phức tạp và không đồng bộ của một dân tộc đã qua quá nhiều khó khăn và có một bộ phận không nhỏ sinh sống ở nước ngoài.
Đặt bốn yếu tố kể trên – thực tế, lý thuyết, tổ chức, tâm lý – trong bối cảnh toàn cầu hiện nay (với các khác biệt văn hóa, tôn giáo, các đòi hỏi năng lượng và môi trường, sự phát triển và cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia và với các tập đoàn kinh doanh siêu quốc gia…) để đi tìm chiến thuật và chiến lược cho Việt Nam trong những năm tới, chúng ta hiển nhiên có một bài toán cực kỳ phức tạp.
Phát triển kinh tế như hiện nay hay hơn nữa đương nhiên rất cần thiết nhưng không phải chỉ cần có thế mà thôi. Cần phát triển mà không lệ thuộc, cần phát triển kinh tế và văn hóa. Cần giàu mạnh và cần giàu mạnh trong công bình, bác ái. Cần tự do dân chủ, cần xã hội đa nguyên, cần xã hội trọng pháp, nhưng cần hơn cả là toàn bộ xã hội được tổ chức chu đáo để vừa nâng cao dân trí, vừa phục vụ con người, để đại đa phần dân chúng được tự do mưu cầu hạnh phúc.
Ôn lại lịch sử (trong vòng 100 năm qua) trong đòi hỏi sòng phẳng với quá khứ, hiện tại và tương lai là bước đầu để đặt nền móng cho việc tìm kiếm lời giải, hay những lời giải, cho mong ước đó. Nhưng lịch sử là một môn học phức tạp. Lịch sử đã và vẫn còn được diễn tả, giải thích tùy theo quan điểm triết học, tôn giáo hay kinh nghiệm cá nhân của người viết sử và, trong rất nhiều trường hợp, tùy thuộc thiên kiến hay quyền lợi của người viết…
Ôn lại lịch sử ở đây chưa phải là vấn đề định công luận tội. Lịch sử còn quá sớm, tâm lý người sống còn có rất nhiều ràng buộc, liên hệ, chưa có thể có mức độ vô tư giống nhau. Chúng ta không làm việc phê phán công tội, việc chúng ta bắt buộc phải làm là rút ưu khuyết điểm trong tinh thần ôn cố tri tân, vì cách nào thì một Dân tộc vẫn cần có một quan điểm chung được đại đa số chấp nhận về lịch sử của mình, nhất là lịch sử cận đại.
Ví dụ như lịch sử Việt Nam từ sau Hòa ước Giáp Tuất (1883) tới tháng 9 năm 1945 là lịch sử tranh đấu giành lại Độc lập và Thống nhất. Chúng ta đã tranh đấu như thế nào? Tại sao chúng ta giành được Độc lập? Và sau đó tại sao chúng ta đi vào cuộc chiến hết sức tàn khốc? Thời gian đã trên 30 năm, ngày nay chúng ta phải làm gì hơn để sự hy sinh vô cùng vĩ đại của Dân tộc được có kết quả xứng đáng, và có thể có những bài học nào cho các thế hệ tương lai?
Trong bài này chúng tôi sẽ:
A. Tóm lược lịch sử Việt Nam từ thời tự chủ (939) tới 1883 để đưa ra một luận điểm góp phần trong giải thích lịch sử Việt Nam (LSVN) cận đại mà chúng tôi tạm gọi là: Thế tất yếu của LSVN.
B. Với thế tất yếu của LSVN và dựa vào bốn yếu tố thường được coi là quan trọng nhất – Chính nghĩa, Văn minh, Văn hóa và Thời cơ – giúp giải thích thắng bại trong mọi xung đột vũ lực, chúng tôi sẽ đưa ra quan điểm giải thích LSVN cận đại, cùng với một vài suy nghĩ về công việc chúng ta phải cùng làm cho tương lai.
A. Thế tất yếu của lịch sử Việt Nam
Sau ba lần Bắc thuộc, tổng cộng trên dưới 1 000 năm, với sự nổi dậy của Hai Bà Trưng, Bà Triệu Ẩu…, năm 939 dương lịch chúng ta đi vào thời đại tự chủ.
Năm 980 Lê Đại Hành lên ngôi vua. Năm 981 nhà vua thành công trong việc chống xâm lăng của nhà Tống bên Tàu. Ngay sau khi phá quân Tàu, vua Lê Đại Hành xin hòa, triều cống Tàu, sau đó mang quân đánh Chiêm Thành, bằng vào hành động đó, vô tình hay hữu ý, Lê Đại Hành đã vạch chiến lược rất lâu dài cho Việt Nam: đó là hòa phương Bắc, bành trướng về phương Nam.
Kể từ 981 tới 1788, chúng ta phải chống lại 7 lần xâm lăng từ phương Bắc: 2 lần Tống, 3 lần Mông Cổ, 1 lần nhà Minh và một lần nhà Thanh. Sau mỗi lần thắng, chúng ta lại sai sứ sang xin hòa và triều cống. Chúng ta bảo vệ Độc lập, khi có quân đội ngoại quốc xâm lăng thì chúng ta đánh, chúng ta thắng, nhưng nhường nhịn nước lớn – việc triều cống thực tế chỉ là hình thức, không thiệt hại gì. Đó là hòa phương Bắc (nước lớn).
Kể từ năm 981 đến 1759 (đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát) ngoài hai ba lần đánh Lào, chúng ta đã trên 20 lần Nam tiến. Chúng ta diệt Chiêm Thành, rồi cộng tác với hai đợt dân quân Trung Quốc phản đối nhà Thanh (Dương Ngạn Đình, Hoàng Tiến năm 1679 ở Biên Hòa, Mỹ Tho; và Mạc Cửu ở Hà Tiên năm 1798). chúng ta lấy đất Chân Lạp lập ra sáu tỉnh miền Nam. Không có triều đại nào, chúng ta không bành trướng về phương Nam trong khi cố gắng giữ vững phía Bắc.
Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh thì Trịnh và Mạc lo giữ gìn phương Bắc, nhà Nguyễn bành trướng về phương Nam. Trịnh Nguyễn có đánh nhau 7 lần trong vòng 45 năm, nhưng phải đợi tới Nguyễn Huệ, Việt Nam mới lại thống nhất.
Ý chí gìn giữ Độc lập, Thống nhất, và bành trướng về phương Nam để đề phòng phương Bắc như vậy đã nằm sâu trong tâm linh người Việt Nam, nó có từ thời Lê Đại Hành.
Đó là thế tất yếu của LSVN. [1]
Ngay sau khi Triều đình Huế ký Hòa ước (1883) chấp nhận quyền đô hộ của người Pháp thì nhân dân Việt Nam lập tức nổi dậy đòi lại Độc lập. Cuộc tranh đấu đó kéo dài tới năm 1945 chúng ta mới thành công (phần nào). Rồi từ 1945 tới 1954, tới 1975, tới 1986, và tới 2005: hơn 100 năm tranh đấu có nhiều giai đoạn, và mặc dầu có sự trùng lấn nhưng một vài sắc thái chuyên biệt vẫn nổi bật ở mỗi giai đoạn lịch sử.
Chúng tôi tạm chia:
I. Từ 1883 tới 1916: Cần Vương (còn gọi là phong trào Văn Thân) II. Từ 1905 tới 1945: Tìm tòi, học hỏi, thử thách, chuẩn bị, và vùng dậy. III. Từ 1945 tới 1954: Cuộc chiến gìn giữ Độc Lập. IV. Từ 1955 tới 1975: Cuộc chiến hợp lý rất vô lý, chưa thật chấm dứt. V. Từ 1975 tới 1986: Hãnh tiến ngự trị. VI. Từ 1986 tới 2005: Cố gắng của thế hệ mới.
I. Giai Đoạn Cần Vương (còn được gọi là phong trào Văn Thân)
Giai đoạn này có thể nói là nối tiếp cố gắng kháng chiến đã bị triều đình nhà Nguyễn buông xuôi, do vua Hàm Nghi, Duy Tân, nhà nho và võ quan yêu nước lãnh đạo. Chúng ta có thể kể: Khởi đầu là vua Hàm Nghi từ 1885. Tới 1888, vua Hàm Nghi bị bắt và bị đày sang Algérie.
Trong Nam có Trương Định [2] , Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân ở Mỹ Tho, và cả ba con trai của Phan Thanh Giản nổi lên ở Bến Tre, Trà Vinh và Vĩnh Long.
Trung có: Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như ở Quảng Trị, Nguyễn Phạm Tuân ở Quảng Bình, Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh, Lê Doãn Nhạ và Nguyễn Xuân Ôn ở Nghệ An, Phạm Bành và Tống Duy Tân ở Thanh Hóa, Trần Văn Dư, Nguyễn Hiệu và Nguyễn Thành ở Quảng Nam, Lê Trung Đình ở Quảng Ngãi, Mai Xuân Thưởng ở Bình Định…
Bắc có Hoàng Hoa Thám hay Đề Thám ở Hưng Yên và Hải Dương, Tạ Hiện ở Thái Bình và Nam Định, Nguyễn Quang Bích ở Hưng Hóa…
Kết thúc phong trào này là khi vua Duy Tân bỏ kinh thành Huế đi kháng chiến chống Pháp cùng với tướng Trần Cao Vân năm 1916. Vua Duy Tân bị bắt ngay sau đó và bị đầy sang đảo Réunion, tướng Trần Cao Vân bị xử tử.
Từ Nam chí Bắc, rất đông sĩ phu yêu nước nổi dậy nhưng vẫn thất bại vì lực lượng quân sự quá chênh lệch và cũng thiếu phối hợp.
II. Giai đoạn tìm kiếm, học hỏi, thử thách, chuẩn bị và vùng dậy
Nhìn thấy vấn đề vũ khí là yếu tố rất quan trọng trong việc khôi phục nền độc lập của quốc gia, các nhà ái quốc của chúng ta túa ra nước ngoài như Tàu, Nhật, Pháp, Nga để vừa tìm ngoại viện, vừa nghiên cứu cách thức cứu quốc, và thử lửa bằng các cuộc nổi dậy cục bộ… Khởi đầu từ năm 1904 tới ngày 19/ 8/ 1945 và có thể chia làm ba nhóm: sang Tàu-Nhật, sang Âu châu và nhóm ở lại trong nước.
A. Nhóm Đông Du: Nhật và Tàu
Năm 1904 tại Quảng Nam, Phan Bội Châu [3] thành lập nhóm Duy Tân có chừng 20 người, tôn hoàng thân Cường Để làm lãnh tụ (Cường Để là dòng giõi vua Gia Long). Năm 1905, bị ảnh hưởng bởi việc hạm đội Nhật đánh bại hạm đội Nga ở eo biển Đối Mã nên Phan Bội Châu hô hào lập phong trào Đông du. Tới năm 1907, phong trào có chừng trên 100 người và thành lập Việt Nam Cống Hiến Hội ở Nhật để vừa học hỏi vừa bàn luận về các vấn đề của Việt Nam.
Vì bị áp lực của Pháp, năm 1909 chính phủ Nhật trục xuất nhóm này về Việt Nam. Một số bỏ chạy sang Tàu. [4]
Hồi tháng 4/1906, Phan Chu Trinh có gặp Phan Bội Châu ở Đông Kinh. [5] Phan Bội Châu viết: “Chính kiến của hai người rất phản đối nhau: cụ với tôi vẫn đồng một mục đích, mà thủ đoạn thì khác nhau. Cụ thì muốn dựa Pháp đánh đổ quân quyền, mà tôi thì bài Pháp phục Việt, mâu thuẫn là thế. Tuy nhiên chính kiến vẫn trái nhau, mà ý kiến vẫn ưa nhau.”
Bị trục xuất khỏi Nhật, Phan Bội Châu và một số khác chạy sang Tàu, đi lại giữa Tàu, Thái Lan và Việt Nam. Ảnh hưởng bởi cách mạng 1911 của Tôn Dật Tiên, Phan Bội Châu cùng một số nhà yêu nước lưu vong (trong đó có Nguyễn Hải Thần), thành lập Việt Nam Quang phục Hội ở Quảng Đông năm 1912 [6] với tôn chỉ “Khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt Nam Cộng hòa Dân quốc”. Thời điểm này, Phan Bội Châu đã từ bỏ tư tưởng quân chủ, và ngả theo Dân chủ Cộng hòa của Tôn Dật Tiên. Để tìm đường giành Độc lập, Phan Bội Châu tìm cách liên lạc cả với cả Đức, Nga, Ấn Độ. [7]
Tháng 12 năm 1913, Phan Bội Châu và Mai Lão Bạng bị Tàu bắt và cầm tù gần 4 năm, đến tháng 3 năm 1916 mới được thả. Ra khỏi tù, Phan Bội Châu lại ráo riết vừa hoạt động vừa trước tác và đến năm 1924 Phan Bội Châu đổi tên Quang phục Hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng. [8]
Năm 1925, Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải và dẫn về Việt Nam. Năm 1940, Phan Bội Châu mất.
Sau 1909, không thấy nói có nhà cách mạng Việt Nam nào sang Nhật nữa, nhưng sang Tàu thì nhiều và kéo dài tới hết thời kỳ thứ hai. Nhóm này rất đa dạng.
a. Nhóm Việt Nam Quốc dân Đảng: QDĐ do Phan Bội Châu sáng lập, càng về sau càng bị ảnh hưởng nhiều bởi QDĐ Trung Hoa, và cuối cùng thì dùng ngay khẩu hiệu của Tôn Dật Tiên: Dân tộc Độc lập, Dân quyền Tự do, Dân sinh Hạnh phúc (Sau này Hồ Chí Minh dùng: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc). Nguyễn Hải Thần là lãnh đạo của nhóm VNQDĐ sau này (ít nhất là những người VNQDĐ ở Tàu), và chỉ trông cậy vào sự giúp đỡ của QDĐ Trung Hoa. Nhóm này không để lại văn bản gì quan trọng trong vấn đề lập thuyết cho Việt Nam khi giành được độc lập (trừ trước tác của Phan Bội Châu).
b. Nhóm Cộng sản Đảng: Đảng Cộng sản chỉ dùng đất Trung Hoa (trước khi Mao Trạch Đông chiến thắng) như một nơi dưỡng quân, huấn luyện cán bộ, thu thập tin tức.
c. Lý Đông Á: Lý Đông Á hình như chỉ sang Tàu để đọc sách, nghiên cứu, sau đó trở về nước mới lập thuyết và lập đảng Duy Dân.
B. Nhóm Tây du:
a. Có thể kể một số người trong thành phần bị bắt đi lính, đi làm lao động sang Pháp, sang tới nơi thì cố gắng học hỏi và rồi làm chính trị. Những người này về sau phần lớn theo Cộng sản (đệ tam hay đệ tứ.)
b. Du học sinh: nhóm này có hoặc chưa có ý thức chính trị khi rời nước, nhưng khi đi học thì đã có dịp so sánh tình trạng quê hương và tình trạng nước sở tại (phần lớn là ở Pháp) và từ đó lòng yêu nước nổi dậy, ý thức chính trị được phát triển mạnh, xu hướng chính trị đủ loại, từ tả sang hữu, từ Cộng sản sang Tự Do.
Nhóm này có vài người nổi tiếng và về các lãnh vực chuyên môn khác nhau như Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Trịnh Đình Thảo, Nguyễn An Ninh, Phạm Văn Đồng… và một số chuyên viên cấp cao của miền nam sau này như Nguyễn Quang Trình, Lê Văn Thới, Nguyễn Đăng Thục…
Trong cách mạng tháng tám 1945, 90% những du học sinh thành tài của ta đã chứng tỏ là những người yêu nước. (Mặc dầu những người được đi du học thời Pháp thuộc đều là xuất thân từ con nhà làm quan cho Pháp hay con nhà giàu.)
c. Nhóm những người trốn sang Âu Châu (chủ yếu là Pháp): Có Hồ Chí Minh là nổi tiếng nhất.
Khi Phan Bội Châu đi Nhật, Tàu, Thái Lan, liên lạc với Ấn Độ, mong lập thế Đông Nam Á, nghiên cứu, cầu viện, viết hịch, viết sách, lập đảng, thì Hồ Chí Minh sang Anh, Mỹ, Pháp, đưa kiến nghị “tám điểm yêu cầu” cho hội nghị hòa bình tại Versailles ở Pháp năm 1919 [9] … Cùng Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh lập nhóm “Người Việt Yêu nước”, viết các bài văn cho báo chí và chính quyền Pháp để yêu cầu sửa đổi chính sách về Việt Nam… (Phan Chu Trinh là bị đày sang Pháp, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh là du học sinh?).
Khi thấy việc không có kết quả, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền về nước để trực tiếp tranh đấu tại quê hương. Trong khi đó, Hồ Chí Minh gia nhập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 [10] và sang Nga năm 1923 [11] nghiên cứu lý thuyết Marx-Lenin, rồi đi lại giữa Tàu, Nga, Thái Lan, và Việt nam để huấn luyện đảng viên, lo phát triển và củng cố Đảng Cộng sản, và cuối cùng về nước năm 1944.
Hồ Chí Minh cũng như Phan Bội Châu đều bị Tàu cầm tù. Phan Bội Châu ở tù gần 4 năm từ 12/1913 tới 3/1916, [12] Hồ Chí Minh từ 8/1942 tới 8/1944. [13]
Phan Bội Châu lập hết nhóm này tới đảng khác, liên lạc với trong nước (Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Tăng Bạt Hổ…), hy vọng khơi dậy lòng yêu nước của toàn dân để lật đổ ách đô hộ của Pháp.
Muốn nhờ Nga Sô Viết giúp đỡ, Hồ Chí Minh gia nhập Đảng Cộng sản Nga, dựa theo đúng sức mạnh đang lên hồi đó là phong trào Cộng sản quốc tế. Từ 1943 tới 1945, Hồ Chí Minh còn cố gắng nhờ cậy Hoa Kỳ bằng cách lo cứu các phi công Mỹ ở Việt Nam (thời này phi cơ Hoa Kỳ ném bom các căn cứ Nhật ở Việt Nam). [14]
Đến đây ta thấy rõ từ Phan Bội Châu tới Hồ Chí Minh mọi người đều chỉ vì Đôc lập dân tộc mà phải đi tìm ngoại viện, không kể là Nhật, Tàu, Nga hay Mỹ.
c. Nhóm những người trong nước: có thể chia nhóm này làm hai thành phần, thành phần chủ trương dùng võ lực và thành phần chủ trương dùng văn hóa.
1. Nhóm dùng võ lực: Có thể nói chỉ có hai đảng lớn là QDĐ và ĐCS. cả hai đảng này đã chỉ huy ba cuộc nổi dậy nhưng đều thất bại. QDĐ ở Yên Bái năm 1929 do Nguyễn Thái Học cầm đầu. ĐCS năm 1930-31 ở Nghệ Tĩnh mà sau này thường được gọi là cuộc nổi dậy Sô Viết Nghệ Tĩnh do Trần Phú (?) cầm đầu, và cuộc nổi dậy được gọi là Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940. Ngoài ba cuộc nổi dậy đó, còn có những bất mãn của dân chúng được bùng lên nhưng lẻ tẻ, không có chỉ huy nên bị chính quyền đô hộ đè bẹp dễ dàng.
2. Nhóm chủ trương văn hóa: lập trường học, ra báo, viết truyện, viết sách.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:50:15 GMT 9
Bối cảnh lịch sử: Khi thực dân Pháp chiếm xứ ta và thấy là thứ chữ mới (lúc bấy giờ gọi là chữ Quốc ngữ) do các vị cố đạo đặt ra có vẻ tiện dụng hơn, dễ học hơn thì tìm cách cho dùng trên toàn quốc một cách chính thức nhưng hạn chế. [15] Cũng trong chiều hướng ngu dân và muốn áp đặt nền văn hóa của nước Pháp vào xứ ta (văn hóa và tôn giáo), người Pháp từ từ bãi bỏ các khóa thi bằng chữ Hán (năm 1915 ở Bắc kỳ, 1919 ở Trung Kỳ). Khi bỏ các khóa thi thì hệ thống các trường học chữ Hán-Nôm từ làng tới quận huyện được thiết lập từ thời Lê tự nhiên biến mất. Trường học chữ Hán-Nôm không còn, trường do Pháp lập ra dùng chữ Pháp là chính. Nguy cơ rất lớn là dân ta sẽ bị nạn mù chữ tập thể, không còn đọc được sách vở nói về văn minh và văn hóa xưa, và nguy hiểm hơn nhiều là mất gốc. [16] Năm 1883 người Pháp đã chiếm trọn Việt Nam, vậy mà phải đợi 19 năm sau, tới 1902 mới có một trường y học đầu tiên mở ra ở Hà Nội, có 15 sinh viên. Năm năm sau, 1907, có 5 vị bác sĩ ra trường [17] (Dân số hồi đó cỡ 15 tới 18 triệu người?). 35 năm sau, năm 1918, mới có trường cao đẳng đầu tiên ở Hà Nội. Trong thời Pháp thuộc, cả nước Việt Nam chỉ có ba trường trung học đệ nhị cấp (thi tú tài 2). (Thời 1940, với dân số cỡ 18 triệu, số học sinh thi tú tài như vậy nhiều nhất là 300; với tỷ số đó, dân số 80 triệu sẽ có trên 1000 học sinh thi tú tài, không phải trên 1.000.000 như ngày nay. Nói cách khác, với tỷ số ngày nay, số học sinh thi tú tài năm 1940 lẽ ra phải cỡ trên 200.000 chứ không ít ỏi có 300 như vậy). Đối đầu với chính sách xâm lăng văn hóa và ngu dân tàn bạo như vậy, các nhà ái quốc của chúng ta, dưới nhiều hình thức đã cố gắng tranh đấu bằng cách lập trường học tư, ra báo, viết sách, viết chuyện bằng chữ mới… a. Đông Kinh Nghĩa Thục (ÐKNT): là một tổ chức văn hóa thành lập năm 1907 với chủ trương: - Lập trường học: từ tiểu học tới trung học và đại học, không lấy học phí dạy cả tiếng Pháp lẫn Hán ngữ và chữ quốc ngữ; - Diễn thuyết về mọi vấn đề, kể cả các đề tài như: cách mạng ở Pháp năm 1789, sự nghiệp của Hoa Thịnh Đốn... (Phan Chu Trinh thường diễn thuyết tại đây); - In sách, như: Nam quốc địa dư, Nam quốc vĩ nhân truyện, Kêu hồn nước, Văn minh tân học sách... Nhóm ĐKNT do Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Quyền, Vũ Trác, Hoàng Tăng Bí… sáng lập. Dạy học có thêm Dương Bá Trạc, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học… Chỉ trong vòng vài tháng, nhóm này đã bành trướng ra nhiều tỉnh: Hà Đông, Hải Dương, Nam Định… Khi xảy ra vụ chống sưu thuế ở Trung Kỳ (tháng 3/1908) và vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội (tháng 6/1908), thực dân Pháp nhân đó quy trách nhiệm cho sĩ phu Duy Tân và thẳng tay đàn áp. Hàng trăm “khoa mục” bị tù đày, xử tử. ĐKNT bị đóng cửa. [18] Ngoài ĐKNT, còn có một số các trường học khác như trường của Hội Trí Tri, trường Mai Lâm ở Hoàng Mai, ngoại ô Hà Nội… b. Báo chí: Báo đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ là tờ Gia Định báo của Trương Vĩnh Ký, xuất bản năm 1876; sau đó là tờ Đông cổ tùng báo của Nguyễn Văn Vĩnh (NVV) năm 1907-1909; vào thập niên 1920, còn có các tờ như Phụ nữ tân thời, Phụ nữ thời đàm … Các tờ báo đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh mặc dầu là chỉ có ý tuyên truyền văn hóa Pháp bằng chữ quốc ngữ, nhưng đó là một khởi đầu của việc phát triển chữ quốc ngữ. Có ảnh hưởng nhiều là năm tờ: Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí, Ngày nay, Thanh nghị và Tri tân. Đông Dương tạp chí (1913) do Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương, dịch nhiều tác phẩm văn học của Pháp và là nơi đầu tiên đăng các bài báo viết bằng tiếng việt mới. Nam phong tạp chí (1917) do Phạm Quỳnh (chủ trương, chú trọng nhiều tới vấn đề làm sao áp dụng giá trị văn hóa Tây phương mà vẫn gìn giữ được các giá trị cổ truyền của dân tộc. Ngày nay (thập niên 1930) do Nhất Linh chủ trương, chú trọng về các vấn đề xã hội và văn chương. Thanh nghị và Tri tân: từ 1941 tới 1944 xuất bản hàng tuần ở Hà Nội, bắt đầu chú trọng tới các vấn đề tôn giáo và triết học- Đạo Phật, Lão được bàn tới với các triết gia như Vương Dương Minh, Tagore, và những bài viết của Tôn Dật Tiên… c. Truyện: Cuốn truyện đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ là cuốn Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Chánh Chiếu in năm 1910 ở Sài Gòn; sau đó là các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh (như Ngọn cỏ gió đùa, 1926…), Hoàng Ngọc Phách (Tố Tâm) và Nguyễn Trọng Thuật (Quả dưa đỏ). Tới thập niên 1930-1940 chúng ta có thơ châm biếm của Tú Mỡ, Tản Đà, khá nhiều tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài… và của Tự Lực Văn Đoàn, nêu lên các tệ đoan xã hội, các khó khăn của đụng chạm giữa mới và cũ… d. Sách: Ngoài các sách của nhóm kể trên, ta có: - 1921: Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim; - 1925: Cổ học tinh hoa của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân; - 1930: Nho giáo của Trần Trọng Kim; - 1932: Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh; - 1938: Viêt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh; - 1941: Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm; - 1942: Tự điển khoa học của Hoàng Xuân Hãn… Các sách trên sau này đã trở nên các tác phẩm cổ điển rất quan trọng cho việc học hỏi. Trong giai đoạn này, chúng ta đã tranh đấu trên hai mặt trận: Mặt trận thứ nhất: gìn giữ phát huy văn hóa, kiện toàn thứ chữ mới do đế quốc áp đặt ta phải dùng để nâng cao dân trí (vì là thứ chữ dễ học dễ viết). Sống trong một nước bị đô hộ mà thực dân không cho dùng chữ viết của ta, áp đặt ta dùng chữ mới, mà lại cho dùng rất giới hạn, cho đến 1945, chúng ta vẫn không có máy đánh chữ; các nhà văn hóa của ta (và đại đa số dân ta) phải nói là đã thành công tốt đẹp trong việc kiện toàn chữ đó, để nó trở thành văn tự chính thức của ta, đủ dùng để chuyên chở ý tưởng và giao dịch, dễ viết, dễ đọc và đồng thời dịch lại sách cổ xưa hay viết về văn minh, văn hóa xưa bằng chữ mới cho dân chúng đọc để bảo tồn giá trị văn hóa xưa của đất nước, đồng thời nâng cao dân trí. Đến thập niên 40, một nền văn học mới bằng chữ quốc ngữ khá phổ biến đủ cả thơ, nhạc tiểu thuyết, hát chèo, hát nói… đã được xây dựng làm cho đời sống phong phú thêm không ít, và nền văn học đó đã nói nhiều tới độc lập tự do. Không ít thì nhiều, diễn tả của các nhà văn hóa cũng đưa tới những suy nghĩ, đòi hỏi sửa sai và thay đổi. Từ Phan Chu Trinh tới Nguyễn Văn Vĩnh, Hồ Biểu Chánh, Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Tố, Vương Hồng Sển… và rất nhiều các nhà văn hóa khác đều là những người yêu nước. Hơn nữa, sự tranh đấu của họ trong thời Pháp thuộc không hẳn là không nguy hiểm tới tính mạng. Vụ đóng cửa ĐKNT và tiếp đó là hàng trăm khoa mục bị tù đày và xử tử là bằng chứng cụ thể. Khi có phong trào bình dân học vụ (1944), cả nước đi học, thì nạn mù chữ còn rất ít. Đó là một lợi khí không nhỏ khi ta phải bước vào cuộc tranh đấu bằng võ lực. Chúng ta đã thắng trên mặt trận văn hóa. Xin mở một dấu ngoặc lớn: Trong mặt trận văn hóa ta thấy Gia tô giáo vắng mặt, và sự đóng góp rất ít của Phật giáo. Các vị truyền đạo Gia tô giáo bấy giờ chưa nhìn thấy sự hài hòa cần thiết giữa tôn giáo và văn hóa dân tộc nên đã không đóng góp vào sự bảo tồn và phát triển của nền văn hóa, ví dụ điển hình là văn hóa thờ phụng tổ tiên. Phải đợi tới Công đồng Vatican 2 (1962-1965), người theo đạo Gia tô ở Việt Nam mới được phép thờ tổ tiên. Đạo Phật, vốn là đạo được đại đa số dân ta theo, đã không chịu dịch kinh Phật ra chữ Quốc ngữ; quan trọng không kém là tác phẩm của các nhà Phật học đời Trần. Đến khi chữ Nôm không còn được dạy thì kinh Phật, sách về đạo Phật của đời Trần bằng chữ Hán hay chữ Nôm, rất ít người đọc và hiểu (có thể ngay cả một số các vị sư, sãi). Đạo Phật còn lại là các buổi đi lễ và đọc kinh như đọc thần chú, đi dần tới chỗ mê tín dị đoan, mất dần sức hấp dẫn với trí thức. (Bốn mươi tám bài kinh nhật tụng quen thuộc trong Phật giáo Việt Nam phải đợi tới năm 1994 mới được dịch ra chữ Quốc ngữ!). Mặt trận thứ hai: giành lại Độc lập bằng võ lực. Về mặt này, ta đã có rất nhiều nhà ái quốc phải hy sinh tính mạng (với ba cuộc nổi dậy như đã kể trên). Được biết đến nhiều nhất là Nguyễn Thái Học và các liệt sĩ chết ở Yên Bái. Ngoài ra còn rất nhiều những người xuất ngoại và chết vô danh, những nhà cách mạng trong nước bị giết hay chết ở Côn Đảo, và những người chết cho cuộc cách mạng tháng tám 1945 thành công. Công cuộc sửa soạn, tìm kiếm tiến hành liên tục cho tới gần Ðệ nhị Thế chiến thì hầu hết trí thức, sinh viên, người làm chính trị của ta nhìn thấy cơ hội dành Độc lập đã sắp tới vì Pháp đang phải đương đầu với Đức-Nhật. Khoảng 1938-39, các đảng phái chính trị mọc lên khá nhiều: Đại Việt Dân chính, Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc xã, Đại Việt Duy dân, Phục quốc Đồng minh Hội… [19] Trong Nam có hai phong trào tôn giáo là Cao Đài (1926) và Phật giáo Hòa Hảo (1939) nổi lên giảng đạo bằng tiếng Việt và chữ Việt, phát triển mạnh như là một nỗ lực vừa ngăn chặn ảnh hưởng của văn hóa Tây phương, vừa khuyên vừa giúp người bị áp bức, vừa tìm kiếm một biểu tượng, một lý thuyết tâm linh, một xương sống cho đời sống xã hội sắp tới của Việt Nam Độc Lập. Vì liên lạc và ủng hộ hoàng thân Cường Để ở Nhật, Phạm Công Tắc, vị hộ pháp đầu tiên của đạo Cao Đài, và năm vị chức sắc cao cấp bị Pháp bắt năm 1941 và đày sang đảo Madagascar. [20] Tuy vậy, chúng ta vẫn phải chờ tới khi có ba yếu tố sau đây cuộc tranh đấu mới có kết quả: a. Nhật vô Việt Nam năm 1941, tước quyền cai trị của Pháp ngày 9/3/1945: hậu quả là hào quang quyền lực của Pháp không còn. b. Nhật và Pháp liên đới trách nhiệm về nạn đói năm Ất Dậu 1944: lòng căm phẫn của toàn dân lên cao nhất. c. Nhật đầu hàng đồng minh ngày 15/8/1945. Đất nước gần như vô chủ. Mặc dầu trước đó, từ 5/8/1945, Nhật đã giao quyền hành chánh cho vua Bảo Đại và Trần Trọng Kim đã thành lập chính phủ, nhưng tình hình lúc đó rất rối loạn vì các đảng phái tranh nhau, vì Chính phủ Trần Trọng Kim chưa đủ thời gian để củng cố quyền hành và trật tự... (Ông chủ Toàn Quyền còn đi tù thì ông vua bù nhìn có oai quyền gì? Vả lại, khi dân đói thì vua quan ở đâu?) Trong hoàn cảnh đó, Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng là có sửa soạn lâu đời, có cương lĩnh, có cán bộ trên khắp lãnh thổ, có cán bộ vũ trang, có chiến khu ở các tỉnh miền Bắc (QDĐ ở Cao Bằng, Lạng Sơn, ĐCS ở Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cay). Các đảng phái mới được thành lập từ khoảng 1938 thì chưa đủ cán bộ, chưa kiện toàn cương lĩnh…, hay như Duy Dân thì đảng trưởng Lý Đông Á còn quá trẻ. Hồi ký của cụ Nguyễn Tường Bách trang 144 viết: “Năm 1944 một mặt trận lấy tên là Đại Việt Quốc gia Liên minh” gồm có đại diện Tân VNQDĐ, Đại Việt Quốc xã, Đại Việt Dân chính, Đại Việt Quốc dân Đảng được thành lập. Căn cứ trên tình hình đặc biệt trong nước, liên minh có khuynh hướng dựa vào thế lực của Nhật để đánh đổ sự thống trị của Pháp trước đã.” và trang 278: “Vì lực lượng người Việt Quốc gia quá ít, quá yếu, lại thiếu hậu thuẫn quần chúng. Lãnh đạo thiếu sách lược đúng đường, chủ động và có viễn kiến.” Tình hình quốc tế lúc đó rất phức tạp, một phần vì tin tức không được phổ biến (thời đó, máy thu thanh là sản phẩm hiếm hoi, ở Việt Nam rất ít người có,) một phần vì các cường quốc hành xử theo quyền lợi riêng biệt nhất thời của họ, mà ta không đủ thông tin để dự đoán. Ví dụ như Nhật, ở trong trục Đức-Nhật-Ý chống nhau với Anh-Mỹ-Pháp-Nga, nhưng từ 1940 tới 1944 lại thỏa hiệp với Pháp trong vấn đề Đông Dương, vì vậy xảy ra vụ Lạng Sơn. Khi Nhật vào Việt Nam qua ngả Lạng Sơn 22/9/1940 thì đoàn quân do Hoàng thân Cường Để thành lập ở Thượng Hải năm trước (do Trần Trung Lập chỉ huy?) đi theo với danh nghĩa là quân của Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội, rồi Nhật thỏa thuận với Pháp rút khỏi Lạng Sơn để quân Pháp kéo vô diệt quân của Trần Trung Lập. [21] Nhật và Pháp đã thỏa thuận với nhau về Việt Nam từ năm 1909 khi trục xuất Phan Bội Châu. Liên minh Anh-Mỹ-Pháp-Nga nêu lá cờ độc lập dân tộc để chống lại trục Đức-Nhật-Ý, nhưng lại sẵn sàng để Việt Nam bị cai trị bởi Tàu hay Pháp. Khi còn đang lưu vong ở Anh để tranh đấu giành độc lập cho chính nước Pháp (tháng 10/1940), Tướng De Gaulle vẫn coi Đông Dương là thuộc Pháp. [22] Tàu tranh đấu để có độc lập tự do, nhưng vì lúng túng giữa tự do, lãnh chúa và Cộng sản nên lại sẵn sàng để Pháp xâm chiếm Việt Nam khi được Pháp nhượng bộ một số quyền lợi. Ngày 28-2-1946, Tưởng Giới Thạch ký hiệp ước thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Lịch sử sôi động trong quãng thời gian từ ngày 9/3/1945 đến ngày 19/12/1946 đã được David G Marr viết rất chi tiết trong một cuốn sách dày 600 trang. Đọc nó, chúng ta thấy rõ âm mưu tranh giành Việt Nam của các cường quốc Pháp, Nhật, Tàu, mọi khó khăn của các nhà văn hóa và chính trị thời đó: sau khi Nhật đầu hàng thì nên cướp chính quyền của triều đình Huế do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng hay chờ đợi? Ở thời điểm phừng phừng khí thế của tháng 8 năm 1945, qua hồi ký của cụ Nguyễn Tường Bách, ta thấy phe Quốc gia thiếu lãnh tụ có viễn kiến… và qua sự trình bày của David G Marr, trong quyển sách kể trên, trong tất cả các lãnh tụ các đảng phái, chỉ có Hồ Chí Minh là hiểu rõ tình hình quốc tế. Hồ Chí Minh lại ở trong nước từ 1944 nên biết rõ sức sôi động của trào lưu cách mạng giành Độc Lập (vì ba yếu tố kể trên). Hơn nữa, ông lại có tổ chức vững, có cán bộ trên khắp đất nước, nên đã nắm được thời cơ và giành được quyền lãnh đạo cuộc nổi dậy của dân tộc vào ngày 19/8/1945 trước khi quân đội Tàu và Anh đổ bộ vô Việt Nam để tước khí giới quân Nhật. Góp gió thành bão, lòng yêu nước được nói tới từ bao năm nay đã được thể hiện oai hùng. Thành công trong mặt trận văn hóa tuy âm thầm, tiệm tiến nhưng rất hữu hiệu. Không có sách vở nói về văn minh, văn hóa của dân tộc Việt thì chắc chắn sẽ có nhiều người hoài nghi sự khả thi của nền độc lập, nhiều người sẽ không biết mình là ai và muốn gì. Không có phong trào bình dân học vụ thì nạn mù chữ chắc chắn sẽ gây nhiều khó khăn trong công việc thông tin và quảng bá đường lối. Thành quả của ngày 19/8/1945 là do tim óc, do xương máu của toàn dân, của lớp trí thức tranh đấu gìn giữ phát huy văn hóa của dân tộc, của các chiến sĩ từ chiến khu Ba Đình, Yên Bái…, không phải là của Đảng Cộng sản không thôi, và càng không phải được chỉ đạo bởi lý thuyết cộng sản. Với sự góp sức của toàn dân, Hồ Chí Minh và ĐCSVN đã thành công trong mặt trận thứ hai, mặt trận dùng vũ lực, vì đã giương lá cờ chính nghĩa: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc của dân tộc đúng lúc, đúng thời. Diễn văn ở Ba Đình không mô phỏng tuyên ngôn của Cộng sản quốc tế. Diễn văn ở Ba Đình trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Pháp và Mỹ. © 2006 talawas -------------------------------------------------------------------------------- [1]Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, nhà XB Sống Mới in tại Hoa Kỳ năm 1978: Những lần chống ngoại xâm: - Trang 90: năm 981, Lê Đại Hành phá quân Tống; - T 104: năm 1076 Lý Thường Kiệt phá Tống; - T 126: năm 1257 Mông Cổ xâm lăng lần thứ nhất, đời Trần Thánh Tông; - T 137: năm 1283 MC xâm lăng lần thứ hai, đời Trần Nhân Tông; - T 152: năm 1287 MC xâm lăng lần thứ ba, đời Trần Nhân Tông - T 248: năm 1428 Lê Lợi lên ngôi vua sau khi thành công đuổi quân nhà Minh. - T 131: năm 1788 Quang Trung lên ngôi vua và phá quân nhà Thanh. Bành trướng về phương nam, những năm đánh Chiêm Thành: - T 90: năm 981 Lê Đại Hành; - T 97: năm 1044 Lý Thái Tông; - T 100: năm 1069 Lý Thánh Tông; -T 106: năm 1075 Lý Nhân Tông, Tướng là Lý Thường Kiệt; - T 107: năm 1104 Lý Nhân Tông và Lý Thường Kiệt; - T 125: năm 1252 Trần Thái Tông; - T 167: năm 1307 Trần Anh Tông gả Công chúa Huyền Trân để lấy hai châu Ô Và Rí; - T168: năm 1311 Trần Anh Tông đánh Chiêm; - T 175: năm 1367 Trần Dụ Tông; - T 177: năm 1376 Trần Duệ Tông; - T 178: từ 1377-1380, Chế Bồng Nga ba lần đánh Thăng Long. - T 189: năm 1400 Hồ Quý Ly; - T 190: năm 1402 Hồ Hán Thương chiếm đất Quảng Nam, Quảng Ngãi; - T 192: năm 1403 nhà Hồ lại đánh Chiêm; - T 262: năm 1470 Lê Thánh Tông; - T 79 (quyển 2): năm 1611 Nguyễn Hoàng lấy đất Phú Yên; - T 79 q2: năm 1653 Nguyễn Phúc Tân lấy đất Khánh Hòa; - T 79 q2: năm 1697 Nguyễn Phúc Chu lấy đất Phan Rí, Phan Rang. Chiêm Thành bị diệt. [2]Với tất cả niềm kính trọng tiền nhân, trong bài này chúng tôi xin mạn phép chỉ dùng tên và không có thêm chức tước. Riêng với Đại tướng Võ nguyên Giáp, vì Đại tướng đã là nhân vật lịch sử toàn cầu biết tiếng nên chúng tôi xin phép được dùng tên không. Chắc chắn chúng tôi có sơ sót trong việc xưng hô; xin quý vị rộng lượng tha thứ. [3]Theo sách Tự phán của Phan Bội Châu trang 54 do nhóm Nhân chủ học xã tái bản lần thứ hai, năm 1983. [4]Sách đã dẫn, trang 143. [5]Sách sđd trang 88. [6]Sách sđd trang 160. [7]Sách sđd trang 192-203. [8]Sách sđd trang 218. [9]Sách Hồ Chí Minh tại Trung Quốc của Tưởng Vĩnh Kính, nhà sách Văn Nghệ xb 1999, trang 40. tám điểm yêu cầu là: đòi hỏi người Việt nam phải được tự trị, tự do, dân chủ, phải xá miễn cho các chính trị phạm, người Pháp và người Việt phải được bình đẳng về quyền lợi, bãi bỏ chế độ làm xâu, thuế muối, và sự ép buộc tiêu thụ rượu. [10]Sách sđd trang 46. [11]Sách sđd trang 56. [12]Tự phán trang182. [13]Việt Nam 1945: The Quest for Power của David G Marr do nhà xb University of California, năm 1995, trang 177-178. [14]David G Marr, sđd từ trang 279-291. [15]David G Marr. sđd trang 123. Hạn chế ở điểm trong thời Pháp thuộc ta không có cả máy chữ. Máy chữ dùng trong cơ quan nhà nước thời Pháp thuộc chỉ đánh được chữ Pháp, không có dấu đánh chữ Việt. [16]Nhớ nghĩ chiều hôm của Đào Duy Anh, nhà xb Trẻ 1989, trang 49-50. Khi soạn Hán Việt tự điển và Việt Nam văn hóa sử cương, Đào Duy Anh đã lo lắng cho việc “mất gốc” của giới Tây học lúc bấy giờ. [17]100 năm Đại học Y Hà Nội. Tài liệu đăng trên báo Nhân Dân 11/12/02. [18]Theo Vũ Văn Sĩ trong “Hà Nội xưa và nay: Đông Kinh- Một nghĩa thục ở Hà Nội đầu thế kỷ”. Tìm trong www.google.com mục Đông kinh nghĩa thục. [19]Hồi ký của cụ Nguyễn Tường Bách, nhà xb Thạch Ngữ -1988 Cali, trang 117. [20]David G Marr, sđd trang 83. [21]David G Marr, sđd trang 21. [22]David G Marr, sđd trang 328.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:51:10 GMT 9
III. Cuộc chiến gìn giữ Độc lập
Đầu năm 1945, ta có nạn đói Ất Dậu chết cả triệu người.
Tháng tám 1945, đê sông Hồng bị vỡ ở nhiều nơi, 300 000 mẫu ruộng ở Thái Bình bị ngập lụt, nguy cơ lại có nạn đói thật trầm trọng. [1]
Ngày 1/9/1945, một ngày trước khi làm việc trọng đại: Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh, Hoàng Minh Giám và Võ Nguyên Giáp chính thức mời Patti, liên lạc của chính phủ Mỹ, ăn cơm trong 3 giờ để vừa tìm hiểu chính sách của chính phủ Mỹ, vừa đoan chắc rằng Việt Nam không thể là chư hầu của Nga (nước Tàu lúc đó còn do Tưởng Giới Thạch nắm quyền), vừa đưa ra viễn ảnh tốt đẹp của sự hợp tác kinh tế, mong có sự ủng hộ của Mỹ nhưng không thành công [2] . Phải kể thêm là từ tháng 10/1945 tới 2/1946, Hồ Chí Minh viết 8 lá thư cho Tổng thống MỸ Truman mà không đươc hồi đáp.
Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh chính thức tuyên bố Việt Nam Độc lập. Ngày 9/9/1945: quân Tàu vô Hà Nội. Ngày 12/9/1945: quân Anh vô Sài Gòn. Ngày 22/9/1945: Pháp lại bắt đầu cuộc chiến xâm lược ở miền Nam. [3] Và không có lấy một đồng minh ủng hộ cho nền độc lập son trẻ của ta.
Trong hoàn cảnh đó, Hồ Chí Minh không thể làm gì khác hơn là điều đình để ở trong Liên hiệp Pháp và chỉ đòi hỏi Độc lập sau 5 năm (nếu điều đình không có kết quả thì cũng để trì hoãn cuộc xâm lược của Pháp, điều đình để quân Tàu không quá can thiệp vào nội bộ Việt Nam, hô hào đoàn kết và củng cố lãnh đạo để đương đầu với nạn ngoại xâm).
Người Pháp được sự ủng hộ của Hoa Kỳ và sự ưng thuận của Trung Hoa, đã không chấp nhận cho Việt Nam đươc tự trị trong Liên hiệp Pháp. Pháp muốn lập lại chế độ thuộc địa ở Việt Nam.
Ngày 19/12/1946, hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh, dân Hà Nội tản cư đi kháng chiến như đi trảy hội, lòng người lo nhưng không buồn vì tin tưởng ở chính phủ, ở tài lãnh đạo của Hồ Chí Minh và tuyệt đối tin ở chính nghĩa gìn giữ Độc lập. Đại đa số nhân dân đặt quyền lợi của Tổ Quốc trên hết, nên mặc dầu với võ khí đơn sơ, kém xa quân xâm lược, lại trơ trọi không có đồng minh, Hồ Chí Minh và nhân dân ta vẫn cầm cự được với quân đội Pháp hơn ba năm.
Để có thể tranh đấu giành Độc lập chống lại thực dân Pháp có sự hỗ trợ của Mỹ, sự đồng loã của Tàu Tưởng Giới Thạch, Việt Nam gần như bắt buộc phải chọn con thuyền Cộng sản, và chờ đợi thời cơ thuận tiện. Thời cơ đó bắt đầu từ năm 1950.
Năm 1949 Mao Trạch Đông chiến thắng Tưởng Giới Thạch, chiếm toàn lãnh thổ Trung Quốc (trừ Đài Loan). Tháng 1 năm 1950, Trung Hoa là chính phủ đầu tiên chính thức công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và bắt đầu viện trợ ào ạt, nhất là vũ khí. [4]
Cuộc chiến chống Pháp kéo dài gần 9 năm gian khổ, oai hùng và không thiếu phần sáng tạo, chiến lược và chiến thuật đánh thắng trên mặt trận đường số bốn, Đồng Tháp hay Điện Biên đã được nói tới nhiều; ở đây chỉ xin nhắc tới một sáng kiến nhỏ của nhân dân nhưng cũng khá lý thú và quan trọng, đó là: xe đạp thồ của dân Thanh Hóa, nhờ đó mỗi người có thể vận chuyển từ 200 tới 300kg, gấp mười người gánh vai. 300 000 nhân công chuyên chở 26 000 tấn lương thực từ khắp nơi đổ về Điện Biên đã góp phần vào chiến thắng lịch sử năm 1954. [5]
Cuộc chiến chống Pháp cũng như các cuộc chiến chống xâm lăng trước đây, như Nguyễn Trãi đã nói, “Hào kiệt đời nào cũng có”. Đời Trần có Trần Bình Trọng “thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc”, có nhiều binh sĩ thích trên tay hai chữ “Sát Thát” để nếu bị bắt thì thà chết còn hơn hàng giặc. Thời 1945, ta có nhiều chiến sĩ ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch, ôm bộc phá xông vào hàng rào giây kẽm gai. Ta đã có Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt… và Võ Nguyên Giáp. Nếu không có Trần Hưng Đạo thì cũng có Trần Hưng… Thành, không có Võ Nguyên Giáp tất có Võ Nguyên... Nhung.
Đó là Văn Hóa Dân Tộc un đúc mà thành. Chỉ có biểu tượng thành tựu của văn hóa dân tộc mới giải thích được cái nhìn sáng suốt khi đánh Điện Biên. (Cái nhìn sáng suốt, cái Tâm vị Dân tộc của từ người chiến binh tới ông Đại tướng).
Điện Biên đã giúp nước Việt Nam hồi đó vang danh trên toàn cầu là nước bị trị đầu tiên đánh bại thực dân Âu Châu trên chiến trường vũ lực. Đó là điều làm Âu Châu ngạc nhiên, nhưng với dân tộc Việt Nam thì không có gì đáng ngạc nhiên cả. Tổ tiên chúng tôi đã từng đánh bại nhiều đạo quân xâm lăng hùng mạnh, đông đảo hơn quân đội viễn chinh Pháp nhiều lần. (Đạo quân Mông Cổ khi xâm lăng Việt Nam là đạo quân đã đánh bại nhiều nước Bắc Âu, Nga và Trung Quốc, trong khi quân Pháp là đạo quân ô hợp (Pháp, Maroc, Tunisie…) của nước thua Đức, Pháp chỉ được độc lập khi Mỹ, Nga và Anh đánh bại Đức.) Khi chúng tôi có khí giới tương đương quân đội xâm lăng, (chống Pháp là lần đầu tiên chúng tôi phải đi vay mượn vũ khí) thì Chính nghĩa và Văn hóa của chúng tôi đã giúp chúng tôi chiến thắng mọi ý đồ xâm lăng. Đã được chứng nghiệm hơn bảy lần rồi.
Lịch sử luôn luôn phải lo chống xâm lăng từ phương Bắc đã để lại cho con cháu tâm lý yêu quý Độc lập Thống nhất, hoàn cảnh một cổ hai tròng thời 1941-1945, cực khổ và tủi nhục vì nạn đói là những yếu tố quan trọng của cuộc nổi dậy ngày 19/8/1945, và sau đó cũng là những yếu tố quan trọng nhất giúp ta có sức chịu đựng và quyết tâm trong chín năm tranh đấu. [6]
Năm 1953 khi kháng chiến sắp sửa thành công thì không biết vì lý do gì – Vì phải vay mượn vũ khí? Vì áp lực của Trung Quốc? hay ngù ngờ với lý thuyết đấu tranh giai cấp, hay chỉ muốn tranh công? – mà ĐCS phát động phong trào đấu tố. Đấu tố chia rẽ nhân tâm, làm hao hụt nhân lực và tài lực quốc gia, làm giảm thành quả của cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Nếu không có đấu tố thì liệu toàn dân ta có thể chống lại được ý đồ của ba phía bốn bên muốn chia đôi đất nước ta không?
Với sức ép của nhiều nước, Hồ Chí Minh phải chấp nhận Hiệp định Geneva!
Một hiệp định chia vùng đóng quân của hai bên để chờ ngày bầu cử thống nhất, nhưng thực chất là chia đôi đất nước và để những người yêu tự do có một cơ hội ở miền Nam. Đó là một hiệp định bất lợi cho người Cộng sản, nhưng lại rất có lợi cho người quốc gia.
Ở miền Nam, những người Việt Nam yêu chuộng Tự do, không cộng sản, đã hân hoan ủng hộ Ngô Đình Diệm khi ông chấm dứt chế độ quân chủ nhà Nguyễn, khi ông dẹp xứ quân Bình Xuyên, khi ông giải giới quân đội Cao Đài và Hòa Hảo.
Miền Nam, một phần của Việt Nam, ở trong chế độ dân chủ, chỉ có thể có một đạo quân, một quốc hội, và một Tổng Thống. Miền Bắc theo chế độ Cộng sản nhận viện trợ của Nga Tàu, miền Nam theo chế độ dân chủ nhận sự giúp đỡ của Mỹ; không tất yếu chúng ta là tay sai của ai cả.
Những người yêu chộng tự do tụ tập ở miền Nam:
- là những người theo dấu chân Phan Bội Châu đi tìm Độc lập Tự do; đã từng trăn trở với ý tưởng dân chủ, tự do, công bình, bác ái – cuộc cách mạng 1879 của Pháp – hay sự nghiệp của Hoa Thịnh Đốn khi được ĐKNT truyền giảng từ nhiều năm trước;
- là những người đã đọc thơ Phan Chu Trinh: Công quyền là thánh, tự do là thần Khắp thế giới toàn dân làm chủ [7]
- là những người đã đọc Nho giáo của Trần Trọng Kim, theo dõi cuộc tranh luận giữa Trần Trọng Kim và Phan Khôi, nghe Trần Trọng Kim lý luận: “chỉ đáng sợ nhất là cái học tôn nhất, rồi cứ dùng thế-lực mà đè-nén mất sự ngôn-luận tự-do thì cái học ấy dẫu hay đến đâu rồi cũng hóa ra dở.” [8]
- là những người đã từng nghiền ngẫm ý tưởng xã hội, tinh thần dân tộc, của Lý Đông Á qua lời nhắn nhủ:
Áo cơm là Đạo Cả Nên, hư bởi tại người. [9]
hay: “Cho nên chúng ta đừng vì học Anh, Nga, Mỹ, Đức, Ý, Nhật, Pháp,Tàu mà vội vàng đứng vào lập trường những người đó.” [10]
Và sau cùng,
- là những người kháng chiến chống Pháp, có thể đã theo Chính phủ Hồ Chí Minh nhưng không theo CS. đây là thành phần đông đảo và phức tạp, gồm trước hết là người dân bình thường yêu nước, sau đó là thành viên của các đảng phái chính trị có từ thập niên 30, các tín đồ theo đạo Phật, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Gia tô giáo… Thật ra, nếu không có kháng chiến chống Pháp thì làm gì có miền Nam hay miền Bắc.
Với đòi hỏi của chiến tranh lạnh, lại không đủ tài ba và đức độ để cùng làm việc với các nhóm kể trên, (công bằng mà nói thì cũng có thể là các nhóm kể trên đã không có lãnh đạo đủ tài ba và đức độ, để cùng chung sức xây dựng Miền Nam), Ngô Đình Diệm không dừng ở mức dân chủ của chế độ Tổng thống hai nhiệm kỳ. Ngô Đình Diệm muốn toàn quyền nên dẹp luôn cả các đảng phái quốc gia. Ông làm mất chính nghĩa của người Quốc gia, khi không chấp nhận đàm phán trong tinh thần tìm đường hướng để thống nhất đất nước (đi ngược lại thế tất yếu của lịch sử). Ngô Đình Diệm làm mất chính nghĩa của người yêu chuộng tự do khi không chấp nhận những người đi kháng chiến trở về, khi dẹp các đảng phái khác. Các chế độ độc tài quân phiệt thối nát sau này lại nhờ lính ngoại bang trong trận chiến giữa anh em; vì vậy chính phủ miền Nam đã hoàn toàn mất chính nghĩa trong cuộc chiến.
Nhưng một thành phần đông đảo nhân dân miền Nam, như đã liệt kê, rất có chính nghĩa khi bảo vệ nền tự do, dầu là rất khiêm nhượng, của mình. Cũng trong lý luận tương tự, một thành phần cũng khá đông dân miền Nam Việt Nam không phải là không có lý do khi coi quân đội ngoại quốc trên đất nước là quân xâm lược.
Thế giới trong tình trạng chiến tranh lạnh nhưng chúng ta lại đi vào cuộc chiến rất nóng.
IV. Cuộc chiến hợp lý rất vô lý và chưa thật chấm dứt
Trịnh Nguyễn đã đánh nhau nhiều lần để thống nhất đất nước, bảy trận lớn trong vòng 45 năm. Trận chiến từ 1956 tới 1975 chưa được 20 năm.
Thống nhất đất nước là ước muốn muôn đời của dân Việt Nam có gì gọi là bất thường? Miền Bắc mạnh thì đánh miền Nam để thống nhất và ngược lại, trận chiến trên căn bản là rất hợp lý, không những hợp lý mà tất yếu phải xảy ra, sớm hay muộn, cách này hay cách khác, bằng hòa đàm thì tốt, nếu phải đánh nhau thì… đánh nhau, miễn sao cho giá phải trả hợp lý, hợp tình.
Trận chiến rất hợp lý trở nên thậm vô lý khi:
- chỉ vì ý muốn thống nhất đất nước ngay tức khắc mà nhà lãnh đạo bắt dân phải hy sinh quá mức, làm con người và tổ quốc kiệt quệ.
- nhà lãnh đạo đi vay mượn phương tiện hay để ngoại quốc dùng những phương tiện hủy hoại quá ư tàn khốc trên quê hương.
- các nhà lãnh đạo đã không cưỡng lại được áp lực của các nước gọi là đồng minh, muốn dùng đất nước ta làm nơi thí nghiệm võ khí hay thí nghiệm một triết thuyết, một mưu đồ. …
Hòn bấc ném đi hòn chì ném lại, cuộc chiến bom đạn rất phi lý đó kéo dài triền miên. Chưa kể bom đạn do Nga và Tàu viện trợ cho miền Bắc, riêng số bom của Mỹ ném ở Việt Nam cỡ 7 triệu tấn, cũng đã gấp đôi số bom ném trong Ðệ nhị Thế chiến.
Đến năm 1966, lương tâm thế giới bắt đầu có phản ứng. Phong trào hòa bình nổi lên ở khắp thế giới tự do, đặc biệt trong giới giáo sư đại học và sinh viên. Giới này thấy một nước lớn như Mỹ mang quân sang đánh một nước nhỏ như Việt Nam là hoàn toàn vô lý, vô căn cứ, nhất là chính phủ miền Nam lại không phải là chính phủ đáp ứng được các đòi hỏi của nhân quyền, tự do...
Tuy vậy đầu 1966, vẫn có trên 70% dân Mỹ ủng hộ chiến tranh. Tỉ lệ này từ sau trận Mậu Thân (từ ngày 30/1/1968 tới 6/8/1969) bắt đầu đi xuống. Sở dĩ như vậy là vì báo chí và đặc biệt là truyền hình đã đưa hình ảnh tàn khốc của chiến tranh vô từng nhà, ngay khi đang bữa ăn tối. Chính hình ảnh tàn bạo của chiến tranh được truyền đi khắp thế giới đã làm phong trào phản chiến được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới, cũng như nhân dân Mỹ.
Hình ảnh con người bất lực, đứng đó để bị bắn trên đường phố; hình em bé bị bom napalm đốt cháy trần truồng, đau khổ chạy trên con đường dài vô tận, không người cứu giúp, không tương lai… và nhiều nữa… Mậu Thân là giọt nước cuối cùng.
Đây cũng là cơ may rất lớn của Việt Nam. Chúng ta hãy thử hỏi, nếu không có truyền hình để người dân nhìn thấy nhiều cảnh chết chóc vô nghĩa lý và tàn nhẫn của chiến tranh thì nhân dân Mỹ liệu có phản đối chiến tranh Việt Nam như đã có hay không? Hay miền Bắc sẽ có kinh nghiệm như dân da Đỏ ở Mỹ trước đây, hay dân Chàm hay dân địa phương ở Nam Mỹ trong thế kỷ qua? Với thuốc khai quang, với các trận ném bom sau Mậu Thân, hay hành vi ủng hộ Pol-Pot, nguy cơ diệt chủng, với dân Cao Mên, dân Lào, cũng như Việt Nam là có khả năng xảy ra, không ít thì nhiều. [11]
Lịch sử đã có quá nhiều các cuộc tàn sát diệt chủng.
Lại xin mở dấu ngoặc lớn.
Các nhà sử học và phê bình của Mỹ nhìn chiến tranh Việt Nam qua con mắt và sự hiểu biết của một người ở quốc gia có quân đội đến nước khác gọi là để chặn cộng sản hay để giữ vững vùng đất gọi là Tự do, hay chỉ vì nhu cầu kinh tế của Mỹ và đồng minh của Mỹ… Họ thường tranh cãi với nhau về chiến lược, chiến thuật của quân đội Mỹ, của chính quyền Mỹ, với yếu tố phụ là chính phủ Sài Gòn... Sự tranh cãi như vậy dĩ nhiên đưa tới nhiều kết luận với nhiều giả thuyết để đổ tội cho nhau… Chúng ta không lạ gì cái gọi là hội chứng Việt Nam (Mặc dầu là dân xứ Tự do, nhưng vì tinh thần Quốc gia mù quáng, họ không thể hiểu nổi, trong tương quan thế giới, thế nào là Chính phủ thua mà nhân dân thắng, họ chỉ hiểu nổi với các vấn đề quốc nội của nước Mỹ mà thôi). Chúng ta cũng không ngạc nhiên về sự thay đổi lập trường của các sử gia Mỹ. Nếu hiểu qua sử Việt Nam, thì các nhà sử học đó đã phải thấy rằng – ít nhất – với Việt Nam một cuộc chiến sẽ được quyết định bởi: Chính nghĩa, Văn hóa, Văn minh và Thời cơ.
Với Việt Nam, cuộc chiến chưa bao giờ được quyết định bởi chiến lược, chiến thuật của nước xâm lăng. Việt Nam đã trên 8 lần chứng nghiệm điều đó.
Với tự do báo chí và truyền hình, ở thời điểm 1967-1970, phía Hà Nội hội đủ cả 4 điều kiện để thắng. Đóng ngoặc.
Nói về chính nghĩa của cuộc chiến thống nhất, chúng ta có thể nói miền Nam thua ngay từ khi Ngô Đình Diệm làm mất chính nghĩa Dân tộc, Tự do.
Theo cách nhìn khác, phải nói là nhờ TV mà lương tâm nhân loại, lương tâm nhân dân Mỹ đã thức tỉnh. Dân Mỹ đã thắng. Đó là điểm son. Cũng phải nói thêm rằng cuộc tranh đấu của giới phản chiến, hay nói khác đi là của lương tâm nhân loại, đã không nhẹ nhàng như lầm tưởng, nhiều trăm ngàn người bỏ công việc để đi biểu tình nhiều ngày, nhiều người đã đi tù, nhiều người phải bỏ xứ Mỹ, và cũng có cả sinh viên bị bắn chết. Khi nhân dân Mỹ đã không chấp nhận cuộc chiến phi lý thì họ có quyền cắt mọi ngân khoản chính phủ Mỹ dùng cho cuộc chiến đó, kể cả ngân khoản viện trợ cho miền Nam Việt Nam. Khi người dân xứ tự do muốn thì đúng là trời muốn.
Kissinger và Nixon dù có muốn dùng, nhờ, Chu Ân Lai hay Mao Trạch Đông can thiệp vào chiến tranh Việt Nam thì thời điểm sau Mậu Thân (1969) đã là quá trễ. Kissinger chỉ có thể, với sự làm ngơ của Bắc Kinh, ném bom tàn phá và điều đình để có được một khoảng thời gian… đỡ mất mặt. Nixon có đe dọa, có hứa thì cũng chỉ là lời nói của một Tổng thống ở nước dân chủ. Tổng thống muốn làm gì cũng còn phải được Quốc hội do dân tự do bàu ra cho phép.
Khi miền Bắc tiếp tục nhận được súng ống do Nga và Tàu giúp đỡ thì miền Nam không còn một đồng minh nào cả. Cuộc chiến hợp lý rất vô lý thế tất phải ngưng.
Cuộc chiến mà ngày nay nhìn lại chúng ta có thể nói người Việt yêu tự do ở miền Nam đã bị Ngô Đình Diệm và Mỹ gạt sang bên lề từ 1956. Họ không bao giờ đích thực được đóng góp vào xây dựng phú cường và tự do của Miền Nam. Họ bắt buộc phải đóng vai chàng lính dũng cảm, can trường mang trong tâm khảm niềm tin và lý tưởng, nhưng lại phải chiến đấu cùng với đồng minh người Mỹ mà trong truyền thuyết đúng là tượng trưng của con gấu to mạnh (Con gấu thấy người bạn mình ngủ trưa có con ruồi đậu trên mặt liền lấy tảng đá đập cho con ruồi chết…) và dưới quyền của các chính quyền độc tài, tham nhũng, thối nát…
Văn nghệ sĩ miền Nam đã nói rõ cái đau đớn, uất ức của người lính trong hoàn cảnh đó cũng như cái vô lý, phi lý của chiến tranh.
Phan Nhật Nam nói rõ đau khổ, uất ức đó trong Dấu binh lửa [12] :
“Quân lực ta không những thiếu sự tinh xảo của vũ khí, chúng ta còn thiếu sự bén nhọn của chính nghĩa...” (trang 326).
Người lính đã được đối xử như thế nào? Phan Nhật Nam kể lại:
“Mẹ, ‘nó’ kêu mình lên hành quân mà không cho ngủ trong quận, lại đút ra ngoài đường nằm, nó coi mình như chó.” (trang 75).
Khi người lính hy sinh, họ được lấy ra từ nhà xác để nhập quan trước mặt thân nhân , Phan Nhật Nam quan sát:
“Đâu còn là vóc dáng của người thương mến, chỉ là một tảng thịt đã rữa nát đầy dòi bọ hôi thối đến kinh khiếp.” [13]
Đối đầu với cái vô lý đó, chiến binh thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn làm thơ:
Mai ta đụng trận ta còn sống Về ghé sông Mao phá phách chơi Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm Đốt tiền mua vội một ngày vui.
(bài “Mật khu Lê Hồng Phong”)
và:
Chiến chinh chinh chiến bao giờ dứt Sắt đá ồ sao lại nhớ nhà.
(bài “Thảo khấu”)
Trong thành phố nầy ta là người phản chiến Ngày qua ngày ta chỉ thích đi câu
(bài “Cười lên tiếng khóc bi hùng”) [14]
Ngay trong chiến tranh, chúng tôi vẫn sống hòa hợp với người phản chiến; đa số chúng tôi là những người sau mỗi lần đụng trận đều buồn vui lẫn lộn; vui… là vui gượng kẻo mà!!!!
Vậy mà đa số chúng tôi vẫn phải… đánh nhau. Chúng tôi còn nghĩ rằng đánh thắng thôi không đủ, thắng mà vẫn còn giữ được nhân tình mới là quý.
Tưởng cũng cần nhắc lại ý tưởng của Trần Trọng Kim ở đây: Cái chúng tôi sợ nhất là không có tự do ngôn luận và nhà nước dùng bạo lực để bắt dân chúng tôi đi mò trăng đáy nước.
Đó đích thực là cuộc chiến giữa hai anh Khổng Lồ Bịt Mắt Duy Lý Trí. Một anh khổng lồ về súng đạn, một anh khổng lồ về ý chí; hai anh đều không biết đối phương của mình nó Khổng Lồ tới chừng nào. Hai anh khổng lồ đó đã đưa nhân dân Việt nam tới mấp mé bờ vực thẳm (coi lại chú thích 35).
Cuối cùng, khổng lồ của ý chí, với sự hỗ trợ của phong trào phản chiến, đã thắng, đó phải kể như thắng lợi của lương tâm thế giới nhất là lương tâm nhân dân Mỹ. [15] Cả thế giới đã ít nhiều giúp chấm dứt cuộc chiến.
Lịch sử còn dài cho các phê bình, suy đoán, ý kiến về cuộc chiến, về thời cơ về tương quan thế giới, về cái giá phải trả…, nhưng đó là chuyện mai sau. Truyện trước mắt là chúng ta có Độc lập và Thống nhất.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:52:20 GMT 9
V. Hãnh tiến ngự trị
TV truyền hình chỉ giúp lương tâm dân Mỹ thức tỉnh sau gần 20 năm tranh đấu gian khổ của nhân dân Việt Nam (trong 20 năm đó Việt Nam chết khoảng trên hai triệu người? có gia đình nào không bị ảnh hưởng của chiến tranh?)
Có sự giúp đỡ quốc tế, nhưng chính thể miền Bắc thật đã rất tài giỏi trong việc duy trì kỷ luật, huy động dân miền Bắc hy sinh, truyên truyền để được sự ủng hộ của đa số nhân dân miền Nam, những người Việt Nam ở nước ngoài, và của thế giới.
Nguyễn Trãi mới qua có mười năm kháng chiến mà khi thắng trận còn kiêu hãnh, sinh chướng, chọc gẹo con gái nhà lành bên bờ Hồ Trúc Bạch, rồi lấy làm nàng hầu. [16]
Người cộng sản qua 20 năm gian khổ, khi thắng trận tất phải có chút tự kiêu và chút chất hoang tưởng, âu cũng là điều dễ hiểu. Chỉ tiếc là đa số lãnh đạo Đảng Cộng sản lúc đó tự kiêu quá lố và hoang tưởng hơi nhiều (coi mình là đỉnh cao trí tuệ của nhân loại).
Trước hết, Lê Duẩn tự kiêu không theo đúng thế tất yếu cúa lịch sử Việt Nam (Hòa nước lớn), vì thế nhân dân Việt Nam đã gặp quá nhiều khó khăn, cực khổ trên 10 năm sau chiến tranh, đất nước lâm vào tình trạng tụt hậu đáng lo ngại.
Đảng CS lại không hiểu rằng nhân dân sẵn sàng chịu hy sinh đến tận cùng vì mục đích Thống nhất Độc lập Hòa bình, không phải vì mục đích xây dựng một thiên đường cộng sản.
Bác sĩ Ðặng Thùy Trâm, một trí thức tiểu tư sản, phấn đấu để được vô ĐCS, tình nguyện đi chiến trường, viết trong nhật ký:
“Ngày 2/6/1968: Ôi, giấc mơ Hòa Bình Độc lập đã cháy bỏng trong lòng cả ba mươi triệu đồng bào ta từ lâu rồi. Vì nền Hòa bình Độc lập ấy mà chúng ta đã hy sinh tất cả.
Ngày 1/1/1969: Tuổi xuân của mình đã qua đi trong khói lửa, chiến tranh đã cướp mất hạnh phúc trong tình yêu và tuổi trẻ… Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước.
Ngày 24/1/1970: Cái gì làm cho cuộc sống bọn mình vẫn bừng lên mãnh liệt? Đó phải chăng là tình nhân ái giữa những con người.
Ngày 14/6/1970: Ước mơ của em chỉ là hòa bình trở lại để em được về với má em. Có thế thôi.” [17]
Và ngày 22/6/1970, Bác sĩ trẻ Đặng Thùy Trâm được thấy hòa bình vĩnh cửu trên đồi hoa sim tím quận Đức Phổ…, không được gặp lại người mẹ thân yêu.
Ngày nay đã có rất nhiều người nói tương tự như Đặng Thùy Trâm.
Đảng Cộng sản thời đó, bị thao túng bởi Lê Duẩn, đã không hề quan tâm tới đời sống người dân miền Bắc, lại càng không hiểu dân Nam:
- không hiểu nổi biện chứng của cuộc sống, lý do của cuộc chiến, cái hợp lý và cái vô lý của nó, nên gán ghép và gọi chúng tôi là Ngụy, đối xử với chúng tôi thật tàn tệ; giam cầm hàng trăm ngàn người trong các trại gọi là “trại học tập” trong một thời gian dài.
- kiêu hãnh quá đáng đưa dần tới vô cảm đã làm Lê Duẩn và ĐCS không hình dung được bước chuyển hóa từ chiến tranh sang hòa bình.
Chiến tranh có tàn bạo, chiến tranh có dối trá, chiến tranh và cái chết kề cận đưa tới tâm lý bất an; vì thế ý trí quyết thắng trong chiến tranh như bóng mây, nhiều khi làm mờ át lương tri. Và quả thật: “chiến tranh quá dài nên người quá khác” [18] nên người sống sót sau chiến tranh cần:
Xin giã từ vũ khí huy chương Xin trở về như một kẻ hoàn lương Xin vứt hết, xin bắt đầu lại hết.
Dân một nước không thể sống mãi trong tâm lý bất an của thời chiến, tâm lý tự hào sau chiến thắng, và tâm lý dung túng sự dối trá. Ba trạng thái tâm lý đó phải được giải tỏa bằng luật đại xá và lời xin lỗi, phải nhận thức sự thật rằng trong chiến tranh, ta cũng có lầm lỗi như tất cả mọi phe phái; bây giờ đã có hòa bình rồi chúng ta tha thứ cho nhau, quên lầm lỗi trong chiến tranh. Và nhận thức rằng trong chiến tranh có sự dối trá, nhưng thời bình chúng ta không thể sống theo tâm lý dối trá mà phải thẳng thắn, như văn hóa dân tộc từ bao năm, để cùng xây dựng đất nước.
Đảng CSVN chưa làm hai điều đó. Đảng CSVN chưa chính thức công nhận những lầm lỗi của mình. Đảng CSVN chưa sòng phẳng với quá khứ, hiện tại, và tương lai.
VI. Cố gắng của thế hệ mới
Tôi đã đi trên đường Láng Hòa Lạc “đường ta rộng thênh thang tám thước” [19] , đã nhìn nhiều khuôn mặt sáng ngời của sinh viên từ Hà Nội tới An Giang; đã thấy nhiều nhà ngói hơn nhà tranh.
Sau 30 năm chinh chiến, một quốc gia kiệt quệ, người người ăn cơm trộn bo bo với rau muống, mà mới đây hội nghị giáo dục đã dám bàn tới một đại học quốc tế tầm cỡ Harvard.
Tiến bộ là có.
Nhưng 30 năm rồi, tiến bộ hiện tại có xứng đáng với sự hy sinh của một, hai triệu người từ Nam chí Bắc trong trận chiến?
Đất nước ta và láng giềng ra sao?
Xin coi vài con số thống kê trong “Pocket World in Figures 2006” của báo The Economist:
Tổng sản lượng nội địa tính trên đầu người (GDP per head) theo US$:
Việt Nam = 480; Phi Luật Tân = 1.010; Thái Lan = 2.280; Tàu = 1.090; Đài Loan = 12.670.
Trong 44 nước có điểm cao về khả năng cạnh tranh kinh tế có: Hong Kong, Singapore, Taiwan, Japan, China, Philippines, Thailand... Không có Việt Nam.
Lợi tức của dân ta kém, khả năng cạnh tranh để vươn lên lại càng kém tệ.
Nhiều bất cập đã được nói tới từ lâu, 5, 6 năm rồi. Về nạn tham nhũng chẳng hạn, từ năm 2001, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh đã báo động [20] , Giáo sư Hoàng Tụy cũng đã đưa ra giải pháp [21] . Năm 2006, tệ nạn trên có phần tăng chứ không giảm.
Trong bài “Hiện đại hóa cách điều hành xã hội”, Bà Nguyễn Thị Oanh nói rất rõ ràng: “Quả thật rất khó đi vào thế kỷ 21 trong khi bộ máy quản lý, các đầu tàu còn ở thế kỷ 18, 19. Do đó cứ “làm mới” cái đầu tàu, các toa tàu khác sẽ theo sau một cách suôn sẻ.” [22]
Thế hệ mới đã có cố gắng, nên về mặt vật chất tương đối có tiến bộ, nhưng các mặt khác còn quá khiêm tốn mà chúng ta cần phải đẩy mạnh.
Kết luận
Thế giới đã không ngừng biến chuyển khi tiền nhân ta tranh đấu cho Độc lập. Cuộc cách mạng vô sản ở Nga, quân phiệt Đức, Nhật, cách mạng Dân chủ ở Tàu, Ðệ nhị Thế chiến, Cách mạng Cộng sản ở Tàu, và chiến tranh lạnh giữa hai khối Nga và Mỹ. Tiền nhân ta đã đi tìm một con thuyền, do hoàn cảnh và sự tiếp cận khác nhau (đạo Phật nói là theo cơ duyên khác nhau) mỗi vị đã dùng một con thuyền.
Chúng ta đã đến bờ Độc lập Thống nhất qua sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh với con thuyền cộng sản, nhưng chúng ta cũng đã phải trả một giá khá cao. Tại sao chúng ta phải trả giá cao? Và chúng ta có cần đội con thuyền đó để đi tiếp không?
Cuộc tranh luận chắc chắn sẽ gay cấn, sẽ kéo dài…
Nhưng chắc chắn không ai có thể phủ nhận: sở dĩ chúng ta phải trả giá đắt là vì chúng ta ở vào vị trí địa dư rất quan trọng cho đường vận chuyển nguyên liệu và hàng hóa của thế giới. Vì thế, chúng ta đã bị các cường quốc chỉ cho ta thiên đường ở các mặt trăng xa xôi, và rồi chính chúng ta đã bị ám ảnh đó, chúng ta xả thân để được thống nhất để đi tới ảo thiên đường như ngoài Bắc đã làm, hay bằng mọi cách giữ vững miền Nam để được thấy thiên đường ảo đó.
Sự thực lịch sử đã cho thấy, thiên hạ chỉ muốn đô hộ chúng ta, chia đôi chúng ta, cho chúng ta yếu kém để không thể ảnh hưởng tới đường đi của họ. Dầu sao chúng ta đã thống nhất, và ảo thiên đường đã tan như bọt biển ở Nga, ở Tàu, ở Đông Âu.
Nhưng vị trí địa dư vẫn còn đó, sự quan trọng chỉ có tăng chứ không giảm với nhu cầu vận chuyển càng ngày càng tăng của hơn một tỷ người Tàu, gần trăm triệu người Nhật và Đại Hàn. Chúng ta sẽ bị lôi kéo, bị áp lực nặng nề hơn là thời 30 năm trước; lúc đó chỉ có các quốc gia và hai chiều hướng tự do và cộng sản; bây giờ còn thêm các tập đoàn kinh tế liên quốc và sự cọ sát giữa các tôn giáo – Gia tô giáo, Hồi giáo và Phật giáo.
Chúng ta đang phát triển nhanh, nhưng các phát triển đó còn phụ thuộc quá nhiều ở tài lực và vật lực của ngoại bang. Đó là nguy cơ không nhỏ, như thời chiến khi ta phải vay muợn vũ khí vậy.
Chúng ta không thể hy vọng tránh khỏi bị lệ thuộc kinh tế bằng xảo thuật đi dây. Phát triển kinh tế mà không lệ thuộc (có thể phụ thuộc lẫn nhau) là phát triển dựa trên “nội lực” của ta. Có thể tóm tắt nội lực như sau: Một nền hành chính hữu hiệu dựa trên nhân sự được trả lương đủ sống, xứng đáng, bổn phận và trách nhiệm được quy định rõ ràng; một môi trường cạnh tranh tự do lành mạnh, vốn liếng (tư bản) của ta, phương pháp sản xuất của ta tinh vi, và mồ hôi nước mắt của ta.
Chúng ta cũng không thể trông đợi ở phép lạ của một vài lộ trình cổ điển dân chủ Âu Mỹ hay Á Châu, mặc dầu các lộ trình đó có giá trị của nó và chúng ta phải rút kinh nghiệm.
Sau trên 30 năm chiến tranh với nhiều triệu người chết, lại 30 năm sau đó với một số tiến bộ về kinh tế và những bất cập đã kể, và với đòi hỏi trên trường quốc tế mà chúng ta đang chứng nghiệm, chúng tôi nghĩ rằng chúng ta phải có những bước tiến mạnh bạo hơn, Việt Nam hơn.
Chúng ta đã phải tranh đấu lâu dài mới giành được Độc lập, thời gian an bình quá ngắn chưa đủ để hàn gắn các xung đột giữa anh em, chưa kịp làm sáng tỏ các dữ kiện, các khác biệt gây ra bởi ta, bởi bạn, bởi thù, bởi nhu cầu tuyên truyền trong thời loạn, thì chúng ta lại phải đi vào một cuộc chiến quá ư tàn khốc mà các vết thương hoặc tự gây cho nhau hoặc vì áp lực ngoại bang đã để lại tâm lý rất không lành mạnh cho hiện tại cũng như tương lai.
Như Nguyễn Trãi đã nói, việc đầu tiên là an dân, như Hồ Chí Minh hô hào đoàn kết. Để nhân tâm vui vẻ đoàn kết cùng chung sức xây dựng Tổ quốc chúng tôi nghĩ:
A. Đảng Cộng sản cần làm:
1. Ra Luật Đại xá với ý nghĩa như trình bày; 2. Trang trọng xin lỗi toàn dân vì những bất cập của Đảng trong thời chiến và sau đó (Dối trá trong chiến tranh, trại cải tạo, đi ra ngoài thế tất yếu của lịch sử mà ông cha ta đã để lại…); 3. Một tóm tắt về chủ nghĩa cho toàn dân (không phải cho một giai cấp); 4. Từ bỏ độc quyền lãnh đạo, hay ít nhất trong hiện tại. từ bỏ quyền đứng trên luật pháp; 5. Đề nghị một lộ trình đi tới;
B. Trong lộ trình đó, việc đầu tiên là xác định việc lập các hội tư (xin phác họa):
1. Tất cả các chuyên gia, các khoa học gia, các nhà văn hóa (bác sĩ, kỹ sư mọi ngành, sử gia, nhà văn…, các nhóm chuyên nghiệp mọi ngành…, được định nghĩa và liệt kê chi tiết sau) bắt buộc phải tổ chức thành ba hội theo mỗi ngành nghề, và chỉ ba hội thôi. Hội đồng nhất không đươc có quá 48% chuyên viên trong ngành của mình, hội ít nhất không đươc ít hơn 24%, thí dụ vậy.
2. Tất cả các chuyên viên đều phải gia nhập một trong ba hội thuộc phạm vi nghề nghiệp của mình thì mới được hành nghề.
3. Các hội như vậy được tự do tổ chức và thành lập, không phải xin phép chính quyền và hoạt động tự do. (Khi các nhóm chuyên gia đã tự động chia làm ba hội thì thông báo trên báo chí và cho chính quyền biết để bắt đầu hoạt động).
4. Các hội đó bắt buộc phải ra báo hàng tháng hay ít nhất là hàng ba tháng để bàn về tất cả các vấn đề liên quan tới hội và phúc lợi của toàn dân. (Có thể trong một ngành ba hội ra chung một tờ báo).
5. Các hội trên bắt buộc phải có lộ trình hàng tháng và hàng năm lo về việc nâng cao dân trí, bảo vệ quyền lợi nhân dân và phải thông báo cho dân và chính quyền biết.
6. Các hội có bổn phận bảo trợ báo chí (một hay nhiều báo tùy) về mặt chuyên nghiệp của mình. Không phải bảo trợ về tiền bạc…
7. Và rất quan trọng là trong tiến trình thành lập và hoạt động, các hội tư phải đặc biệt quan tâm tới tổ chức làng xóm Việt Nam. (Về điểm này, chính quyền và hội tư cần tham khảo rộng rãi). Lịch sử đã chứng tỏ, tổ chức làng xóm rất hữu hiệu trong việc chống xâm lăng, nhưng ngày nay với xa lộ thông tin với nhu cầu phát triển dân trí, làng mạc không thể là những ốc đảo được vây quanh bằng lũy tre xanh. [23] …
Phan Chu Trinh đã nhấn mạnh mức quan trọng của dân trí, Phan Bội Châu đã đồng ý; bây giờ là thời điểm thuận lợi vì ta có Độc lập Thống nhất và tương đối có đủ tài nguyên cho nhu cầu cấp bách đi vào nền kinh tế tri thức này.
Trong thời chiến, trí thức phần nào đã không có cơ hội đóng góp tích cực thì nay thời bình, chính là lúc trí thức có bổn phận đóng góp tích cực hơn; hơn nữa, nền kinh tế tri thức đòi hỏi như vậy. Chẳng hạn:
- Nhân dân ở các làng quận cần chuyên viên ngân hàng chỉ dẫn cho biết giá trị của tấm chi phiếu, giá trị của đồng tiền tiết kiệm, hay sự tiện ích của các nghiệp vụ ngân hàng cung ứng cho nhân dân.
- Nhân dân cần nha sĩ chỉ dẫn phương pháp phòng ngừa sâu răng, gìn giữ, và bảo vệ hàm răng… Chúng ta không thể để các chuyên gia tham lam lợi dụng sự kém hiểu biết của nhân dân để lừa lọc.
Chúng ta cũng không thể để vài ba cá nhân có quyền lập hội tư, đó là một xa xỉ của các nước đã phát triển lâu đời, dân trí đã cao và tương đối đã thuần nhất.
Sau việc hội tư, là vấn đề tự do báo chí.
Để việc tự do báo chí không mất đi phần nào ý nghĩa vì bị chi phối bởi tài phiệt hay đảng phái chính trị, chúng tôi hình dung tự do báo chí như sau:
- Một người hay một nhóm người đều có quyền ra báo nếu được 5, 3 (?) hội kể trên bảo trợ.
- Báo hàng ngày nào cũng phải có chỗ dành cho tiếng nói khiếu nại, tố cáo… của nhân dân.
- Báo hàng ngày nào cũng phải có chỗ đăng các bài do các hội bảo trợ viết (các bài có tính cách chuyên môn để mở mang dân trí). Hội bảo trợ chịu chi phí về trang này.
- Các cơ quan công quyền không có quyền ra báo hay bảo trợ báo, nhưng các hội chuyên nghiệp có bổn phận đăng các bài báo nói về các vấn đề chuyên môn của các bộ tương ứng như là những đối thoại của dân và công quyền.
- Đảng chính trị có quyền ra báo không cần các hội bảo trợ và chỉ một báo thôi.
Từ xưa tới nay, vấn đề dân trí không lúc nào là không quan trọng. Vấn đề Tự do Dân chủ cũng rất cần thiết, cấp bách cần thiết. Mặc dầu chế độ Tự do Dân chủ vốn là chế độ tự nó luôn luôn thay đổi, tự nó cải thiện, nhưng với một nước nông nghiệp vừa đi vào nền kinh tế tri thức toàn cầu, vừa đi vào tự do dân chủ, thì tiến trình sẽ rất phức tạp.
Hiển nhiên là chúng ta chưa thấy, có thể không bao giờ thấy, một chế độ toàn hảo cho con người vừa khó tính vừa nhiều dục vọng trong việc đi tìm hạnh phúc.
Nhưng chúng ta vẫn phải cố gắng để có chế độ tự do dân chủ, trong đó không những chính quyền mà tất cả toàn dân phải giúp nhau đi tới: Nước mạnh và dân giàu và tự do mưu cầu hạnh phúc.
Sự hy sinh của nhiều thế hệ phải mang lại kết quả nhiều hơn nữa mới được.
Chặng đường kế tiếp trong lộ trình phải uyển chuyển, phải độc đáo để thích hợp với đất nước và con người Việt Nam.
Để các thế hệ sau không bao giờ còn phải hy sinh quá mức trong việc bảo vệ Độc lập Thống nhất.
© 2006 talawas
-------------------------------------------------------------------------------- [1]David G Marr, sđd trang 508. Từ trang 96-102, David G Marr nói khá chi tiết về nạn đói 1944-1945. [2]David Marr, sđd trang 500. [3]Một số thời điểm quan trọng: - nạn đói năm Ất Dậu cuối 1944 đầu năm 1945; - Ngày 9/3/1945, Nhật tước quyền cai trị của Pháp ở Đông Dương; - ngày 18/3/45, Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng tổ chức mít tinh ở Sài Gòn ủng hộ việc Nhật lật Pháp. (VNQGĐLĐ do các chức sắc cao cấp của đạo Cao Đài thành lập); - Ngày 2/5/1945, Đức thua trận; - Ngày 15/8/1945, Nhật thua trận; - Ngày 19/8/1945, nhân dân Hà Nội do Việt minh lãnh đạo vùng dậy giành chính quyền; - Ngày 24/8/1945, Bảo Đại tuyên bố xin làm công dân nước Việt Nam Độc Lập; - Ngày 25/8/1945, Trần Văn Dầu ra mắt Ủy ban Hành chánh Nam Bộ; - Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập; - Ngày 9/9/1945, quân Tàu tới Hà Nội, phụ trách tước khí giới quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở lên; - Ngày 12/9/1945, Quân Anh đổ bộ vô Sài Gòn, phụ trách tước khí giới quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở xuống; - Ngày 22/9/1945, Anh thả 5000 lính Pháp và ngưới Pháp bắt đầu đánh chiếm miền Nam; - Ngày24/2/1946, dưới áp lực của Tiêu Văn, Hồ Chí Minh và Nhuyễn Hải Thần thành lập chính phủ liên hiệp; - Ngày 6/3/1946, Việt Nam và Pháp ký Hiệp định Xanh Tơ Ni cho Pháp đổ bộ vô Hải Phòng, Hà Nội và vài thành phố khác, thay cho quân đội Trung Hoa để tước khí giới quân đội Nhật; - Cuối tháng năm 1946, quân đội của Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh chạy theo; - Ngày 21/11/1946, Pháp gây hấn ở Hải Phòng; - Ngày 19/12/1946, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp; [4]David Marr, sách đã kể trang 544. [5]Diễn Đàn số 141 6/2004. [6]Với các yếu tố đó và với quá khứ cai trị rất thâm độc về văn hóa như đã kể, Pháp lại được Hoa Kỳ và Tàu ủng hộ thì thiết tưởng ước muốn mà ngày nay có người nhắc tới là tranh đấu bất bạo động là một lựa chọn không thực tế, không thể có ở thời điểm 45-54. [7]Thơ Phan Châu Trinh, nhà xb Hà Nội, trang 249. [8]Sách Nho giáo của Trần Trọng Kim lần xb thứ 3, nhà xb Tân Việt, trang 418. Thư của Trần Trọng Kim trả lời bài phê bình của Phan Khôi đăng trên Phụ nữ tân văn số 54 ra ngày 29/5/1930. [9]Huyết hoa của Lý Đông Á, tái bản lần thứ hai tại Hoa Kỳ bởi Nhóm Nghiên cứu Văn hóa Dân tộc Việt, trang 185. Tập Huyết hoa gồm một số tài liệu thuộc Bộ Đại Việt Nhã, là một phần nhỏ trong bộ Đại Việt duy dân chủ nghĩa quốc sách đại cương thảo án toàn pho, do Lý Đông Á soạn thảo trước năm 1945. [10]Huyết hoa, sđd trang 81. [11]Trong Pentagon Papers do Daniel Ellsberg tiết lộ: năm 1971 Nixon ngoài mặt nói là sẽ cố chấm dứt chiến tranh, và rút khỏi Đông Nam Á nhưng lại sửa soạn mật một chương trình oanh tạc Bắc Việt, trong đó có thể dùng tới bom nguyên tử. Nếu không có biểu tình phản đối chiến tranh nổi lên mạnh mẽ trên khắp thế giới thì thật không ai biết cuộc chiến sẽ đi về đâu. [12]Nxb Tiến Hóa 1973. Nhà xuất bản Tinh hoa miền Nam tái bản tại Cali không ghi rõ năm nào. [13]Xem bài “Nguyễn Bắc Sơn” của Đặng Tiến đăng trên Diễn Đàn số 155 tháng 10/1955. [14]Có thể đọc tài liệu qua sách People’s History Of The United States của Howard Zinn, do nhà xuất bản HarperCollins in năm 1999, hay qua các bài nói về Tết Offensive trên Google.com… Trong trào sinh viên phản chiến ở Mỹ lúc bấy giờ, có vài chục sinh viên Việt Nam du học. Nhóm này ngày đi biểu tình chống chiến tranh, đêm đi bán hamburger để sống. (Từ 1966 tới 1970, chính phủ Mỹ cho chừng cỡ 450 sinh viên miền Nam Việt Nam sang Mỹ du học). Từ Mỹ, từ Pháp, ở Âu châu, từ Úc châu, đâu đâu cũng chống chiến tranh. Pháp là mạnh nhất vì có rất nhiều sinh viên Việt Nam, rồi tới Mỹ... [15]Văn học sử ghi rằng khi làm quan, có lần đi dạo bên bờ hồ Trúc Bạch, Nguyễn Trãi thấy có người con gái bán chiếu bèn làm thơ đùa bỡn. [16]Nhật ký Đặng Thùy Trâm, nhà xb Hội Nhà Văn, 2005. [17]Thơ Nguyễn Bắc Sơn trong Tủ sách Văn học miền Nam trước 1975 của talawas, bài “Nhắc đến Ma lâm”. [18]Thơ Nguyễn Bắc Sơn, bài “Tiệc tẩy trần của người sống sót”. [19]Thơ Tố Hữu trong bài “Ta đi tới” (ghi theo trí nhớ)
Đường ta rộng thênh thang tám thước Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên Đường lên Tây Bắc đường qua Điện Biên … Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi!!! [20]“Tính truyền thống và yêu cầu đổi mới trong thiên niên kỷ tới” của Lê Đăng Doanh, đăng trong Một góc nhìn của trí thức. Nhà XB Trẻ, 4/2001, tr. 41: “Không thể tiến vào kỷ nguyên kinh tế dựa trên tri thức với cách làm ăn được chăng hay chớ, không xong hôm nay thì đã có ngày mai, hay thói làm ăn chụp giật, không coi trọng chữ tín. Nếu không thay đổi kịp thì không ai chờ chúng ta… Rõ ràng người Việt Nam chúng ta có nhiều đức tính để đón nhận sự thay đổi đó, nhưng cũng rất rõ ràng là chúng ta cần xây dựng một tương quan lành mạnh giữa truyền thống với hiện đại. Chú thích thêm: trong câu nói trên của TS LĐD, năm chữ cuối cùng “truyền thống với hiện đại” nếu thay bằng “Đảng Cộng sản với dân chúng” thì có nhẽ đúng ý tác giả hơn? [21]Trong bài viết: “Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, phát huy trí tuệ toàn dân, trọng dụng nhân tài để xây dựng đất nước” sđd trang 19, GS Hoàng Tụy viết: “Muốn diệt trừ nạn tham nhũng, mà chỉ dùng những biện pháp trừng trị như lâu nay thì chưa đủ, mà cần thiết cấp bách là phải cải cách chế độ quản lý tài chánh tiền tệ, và chế độ tiền lương.” [22]sđd trang 69. [23]Về tổ chức làng xóm Việt Nam, xin đọc các bài viết của GS Sử Phan Huy Lê đăng trong tập Tìm về cội nguồn, nxb Thế Giới in tại Hà Nội, 1999.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 6, 2009 16:33:45 GMT 9
Trí và Dũng nơi con người Ngô đình Diệm. ..........Người đã nằm xuống, nhưng lòng thương tiếc, cảm phục Người mỗi ngày mỗi tăng ở trong cũng như ở ngoài nước. Những kẻ đã trực tiếp hay gián tiếp nhúng tay vào vụ thảm sát Người đã chối leo lẽo. Họ đã có mặc cảm tội lỗi giết thầy phản bạn, mãi quốc cầu vinh, và đang bị đồng bào trong và ngoài nước nguyền rủa. Họ đã không có Trí nên thua mưu Cộng sản và bị ngoại bang lợi dụng đến nỗi phải mất nước, họ không có Dũng nên tham sinh úy tử, nhục nhã đầu hàng Cộng san hoặc lanh chân đào tẩu ra ngoại quốc bỏ rơi đồng bào và đồng ngũ. Hôm nay chúng ta tưởng niệm một vị lãnh tụ ái quốc, một đấng quân tử chân chính. Và cũng là một dịp cho chúng ta bày tỏ lòng thương xót quê hương yêu dấu đã phải mất chủ quyền từ năm 1963 đến năm 1975, và đã phải lọt vào vòng kiềm tỏa của Cộng sản từ năm 1 975 cho đến nay. Cách đây hai năm, cũng trong một buổi lễ tưởng niệm như hôm nay, tôi đã có hân hạnh trình bày về Thái Độ Kẻ Cả của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Hôm nay tôi xin mạn phép đề cập đến cái Trí và cái Dũng nơi con người đã một thời lãnh đạo Việt Nam, đưa một nước vừa mới thoát khỏi ách nô lệ, lạc hậu về kinh tế, hỗn loạn về chính trị, lên địa vị một quốc gia độc lập thật sự, có kỷ cương về mọi mặt, đứng vào hàng đầu ở Đông Nam Á
Vậy Trí là gì? Và Dũng là gì?
Trí là óc thông minh, sự sáng suất để trong mọi hoàn cảnh lượng định được tình hình, phân định được hư thực, xác quyết được phải trái, cân nhắc được lợi hại để sau đó quyết định đường hướng phải đi, giải pháp phải theo, kế hoạch phải dùng đặng hoá giải mọi khó khăn ngõ hầu giải quyết toàn bộ vấn đề. Tài đi theo Trí . Cần phải phân biệt Trí với những tiểu xảo chính trị để lừa dối dư luận và tự đề cao uy tín, những thủ đoạn gian hùng để làm hại kẻ khác đặng phục vụ quyền lợi riêng tư của bản thân hoặc của bè phái.
Dũng là lòng can đảm, sự quyết chí. Người có Dũng không e ngại khó khăn, không nao núng trước các mối đe dọa, không lùi bước trước các sự hiểm nguy có thể đưa đến mạng vong. Dũng giúp ta đi đúng đường hướng, thi hành được kế hoạch, áp dụng được giải pháp mà Trí đã vạch ra ngõ hầu đạt dược kết quả mong muốn. Dũng đi với Luợc . Dũng không có nghĩa là liều lĩnh mà là sự can trường có suy tính. Kẻ liều lĩnh hành động mù quáng, có ít cơ hội thành công vì chỉ trông cậy vào may rủi. Lãnh đạo quốc gia mà thiếu Trí và Dũng thì chỉ làm hại quốc gia, vùi chôn quốc thể mà thôi. Trí và Dũng là hai đức tính bổ túc cho nhau, được thấy nơi bất cứ một lãnh tụ chân chính nào. Và cố Tổng Thống Ngô Dình Diệm đã có đầy đủ Trí và Dũng. Nhiễu sự kiện và biến cố trong đời Người đã chứng minh điều đó.
Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một chính khách có Trí vì Người:
đã thấy rõ lòng ngoan cố của thực dân Pháp nên đã treo ấn từ quan năm 1933 sau bốn tháng cầm đầu nội các đầu tiên của Bảo Đại;
đã thấy rõ dã tâm của người Nhật nên đã không đứng ra thành lập nội các năm 1945 theo lời triệu thỉnh của Bảo Đại;
đã thấy rõ thâm ý của Hồ Chí Minh nên đã chối từ lời mời hợp tác với Việt Minh năm 1946 (l).
Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một kẻ sĩ có Trí vì Người:
đã lượng định đúng thời cơ để ra tham chính vào năm 1954 dù tình hình lúc bấy giờ không chút sáng sủa, nhân tâm rất đỗi xao xuyến;
đã trưng cầu dân ý để truất phế Bảo Đại vì vị vua này dưới sự chi phối của chính quyền thực dân Pháp là một trở ngại lớn lao cho việc dựng lại đất nước và canh tân xứ sở;
đã cương quyết không cho Hoa Kỳ đưa quân vào tham chiến tại Việt Nam vì sự hiện diện của quân đội ngoại quốc sẽ làm tiêu tan chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa ở quốc nội cũng như ở hải ngoại. Và những gì đã xảy ra cho Miền Nam sau khi Người nằm xuống đã hùng hồn nói lên sự sáng suất của Người.
Trí của Người ta đã thấy. Vậy còn Dũng thì ở đâu? Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một lãnh tụ có Dũng khi Người
nói thẳng với Hồ Chí Minh những cảm nghĩ của mình về chính sách chuyên chế của Cộng sản và hành động đẫm máu của cán bộ Cộng sản; (2)
khi Người chấp nhận dấn thân năm 1954 trong lúc Hội nghị Genève đang thảo luận việc chia đôi đất nước;
khi Người đương đầu với cuộc nổi loạn võ trang của các tướng tá làm tay sai cho thực dân Pháp, của đảng cướp Bình Xuyên và của các lãnh tụ đầy tham vọng cá nhân trong các giáo phái.
Chúng ta phải đi ngược dòng lịch sử, sống lại cái cảnh dầu sôi lửa bỏng của những ngày tháng trên mới ý thức được một cách đứng đắn cái Dũng nơi Ngô chí sĩ.
Năm 1946, Ngô chí sĩ diện kiến họ Hồ tại Bắc Bộ Phủ là lúc Người đang ở trong vòng sinh sát của họ Hồ. Hồ Chí Minh đã không dám ám hại Người mặc dầu ông ta rất bực mình về những lời lẽ bộc trực của Người. Năm 1954, để vớt vát quyền lợi, thực dân Pháp đã âm mưu với Cộng sản chia đôi lãnh thổ tại vị tuyến 17, ngang sông Bến Hải. Một triệu người đã ồ ạt di cư vào Nam tị nạn Cộng sản cần được định cư gấp rút mặc dầu Cộng sản vẫn tiếp tục khủng bố tại những vùng mà trước kia chúng chiếm đóng.
Năm 1955, bọn tướng tá bồi Tây đã vu khống, mạ lị Người ngày đêm trên đài Pháp Á. Đảng cướp Bình Xuyên thì hùng cứ vùng Chợ Lớn, công khai hiếp dân đoạt của, khai thác cờ bạc , đi điếm, ma túy. . . xem thường luật pháp quốc gia. Một số lãnh tụ các giáo phái, vì quyền lợi riêng tư của mình chứ không phải vì quyền lợi của đất nước, cũng nổi loạn tại miền Tây và miền Đông với sự tiếp tay của thực dân Pháp.Trong lúc đó thì Cơ quan An ninh, Việt Binh Đoàn, tuy thuộc quyền của Thủ Tướng, vẫn còn được điều khiển bởi tay chân của thực dân Pháp, quân đội viễn chinh Pháp vẫn còn chiếm đóng lãnh thổ, và người Pháp vẫn ngoan cố kéo dài việc điều đình trao trả chủ quyền.
Để đối phó với tình trạng hổn mang trong buồi giao thời, chí sĩ Ngô Đình Diệm đã thiếu hẳn cả phương tiện lẫn cán bộ, quân lực và nhất là quyền bính . vì Quốc Trưởng Bảo Đại bị thực dân Pháp khống chế đã không tận tình hổ trợ Người dù đã nài nỉ Người ra chấp chánh. Mặc dù tình thế thật bi đát và như vô vọng, Người vẫn vững tâm tiến bước và đã thành công đưa quốc gia qua cơn sóng gió.
Người đã có Trí và Dũng nên trong mọi biến cố Người đã tỏ ra rất bình tĩnh.
Trong vụ mưu sát ở Ban Mê Thuột ngày 22-2-1957 do Cộng sản chủ mưu, Người đã thản nhiên tiếp tục khai mạc hội chợ. Trên mặt Người không thoáng một chút hoảng hết (3).
Trong chính biến tháng 11 năm 1963, Người cùng bào đệ Ngô Đình Nhu quyết định ở lại, không xuất ngoại lưu vong theo lời gợi ý của vì Đại sứ bất lương Henry Cabot Lodge.
Đêm cuối cùng của Người tại tư thất ông Mã Tuyên, Người đã có phong thái trầm lặng của một đấng quân tử, khiến cho Mã tiên-sinh mến phục Người mãi mãi dù cho sau này tiên-sinh đã phải tan gia bại sản và lâm vào vòng lao lý chỉ vì đã để cho Người tá túc.
Buổi sáng cuối cùng tại nhà thờ Cha Tam, Người đã suy tư và cầu nguyện rất lâu và sau đó lạnh lùng chờ đợi quân phản loạn đến bắt Người.
Trong lịch sử Dông Tây cận đại, nói đến các lãnh tụ quốc gia có Trí và Dũng , chúng ta có thể kể cố Thủ Tướng Churchill của Anh quốc, cố Tổng Thống de Gaulle của Pháp-quốc, cố Tổng Thống Sadat của AI-Cập, cố Tổng Thống Phác Chánh Hy của Đại Hàn, và cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm của Việt Nam. Có thể còn nhiều vị khác nữa cũng có Trí và Dũng, nhưng chưa có cơ hội để làm sáng tỏ cái Trí và Dũng của mình.
Churchill và De Gaulle đã qua đời vì trọng tuổi. Ngô Đình Diệm, Phác Chánh Hy và Sadat đã bị thảm sát. Riêng cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, được cái vinh dự Vị Quốc Vong Thân.
Người đã nằm xuống, nhưng lòng thương tiếc, cảm phục Người mỗi ngày mỗi tăng ở trong cũng như ở ngoài nước. Những kẻ đã trực tiếp hay gián tiếp nhúng tay vào vụ thảm sát Người đã chối leo lẽo. Họ đã có mặc cảm tội lỗi giết thầy phản bạn, mãi quốc cầu vinh, và đang bị đồng bào trong và ngoài nước nguyền rủa. Họ đã không có Trí nên thua mưu Cộng sản và bị ngoại bang lợi dụng đến nỗi phải mất nước, họ không có Dũng nên tham sinh úy tử, nhục nhã đầu hàng Cộng san hoặc lanh chân đào tẩu ra ngoại quốc bỏ rơi đồng bào và đồng ngũ. Hôm nay chúng ta tưởng niệm một vị lãnh tụ ái quốc, một đấng quân tử chân chính. Và cũng là một dịp cho chúng ta bày tỏ lòng thương xót quê hương yêu dấu đã phải mất chủ quyền từ năm 1963 đến năm 1975, và đã phải lọt vào vòng kiềm tỏa của Cộng sản từ năm 1 975 cho đến nay.
Tuy nhiên trong cái rủi ro lớn lao ấy, chúng ta hãy tìm một cái may nhỏ nhoi để tự an ủi. Phải chăng Thượng Đế đã dành cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm một cái chết đau thương để cho đồng bào ở quốc nội càng thương tiếc con người ái quốc chân chính và càng tin tưởng ở chế độ quốc gia do Người chủ trương đù hiện nay phải chịu sự thống trị hà khắc của Việt Cộng, để cho chúng ta ở hải ngoại, mặc dù đang sống tạm gửi, còn hãnh diện với ngoại nhân là chúng ta đã có một lãnh tụ quốc gia chân chính có thừa Trí và Dũng .
Tài liệu tham khảo:
* Hai Mươi Năm Qua / Đoàn Thêm (Xuân Thu). * Những Bí ân Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt- Nam, Quyển I / Lữ Giang. * ( 1 ) Các tướng Tầu chỉ huy quân đội chiếm đóng là Lư Hán và Tiêu Văn đã nhận nhiều quà biếu bằng vàng khối của Việt Minh (vàng do dân chúng đóng góp trong ''tuần lễ vàng'') nên đã khuyến giục các lãnh tụ các đảng phái quốc gia (Việt Quốc, Việt Cách v.v) như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam v.v. tham gia Chính-phủ Liên-hiệp Quốc Cộng, khiến sau này họ phải ân hận vì bị Việt Minh lợi dụng và xuýt vong mạng. Nhà cách-mạng lão thành Huỳnh thúc Kháng, cũng chỉ vì nhiệt tình với quốc gia dân tộc nên đã nhận lời mời của Hồ Chí Minh tham gia chính quyền để rồi phải mang tiếng làm bình phong cho Việt Minh đàn áp và sát hại Việt Quốc trong vụ án ngụy tạo "Ôn Như Hầu", và cuối cùng âm thầm qua đời trong uất hận tại Nghĩa Hành, Quảng Ngãi.(Xin xem Những Bí ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam, Quyển I / Lữ Giang, từ trang 332-337.) * ( 2 ) Xin xem Những Bí ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam, Quyển I 1 Lữ Giang, từ trang 368-376. * ( 3 ).Khánh thành long trọng Hội-chợ Ban Mê Thuột. 8 giờ. 3 0 TT. Ngô Đình Diệm tới, gần đến khán đài, bị một thanh niên bắn bằng tiểu liên Mas.49 dấu dưới áo blouson. Nhưng đạn lại trúng BT. Cải Cách Điền Địa Đỗ Văn Công; ông Công bị thương nặng ở tay và ngực. Người bắn bị bắt ngay. Lễ khánh thành tiếp tục theo chương trình. Thanh niên bị bắt là Hà Minh Chí, tức Phạm Ngọc Phú, đã từng làm việc ở ty Thông Tin Tây Ninh.(Hai Mươi Năm Qua/Đoàn Thêm/ trang 212)
NguyễnVăn Lượng (TiếngThịPhi)
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 6, 2009 16:36:16 GMT 9
Cố Tổng Thống VNCH: Ngô Đình Diệm (Tôn Nữ Hoàng Hoa)
Mấy lâu nay bận bịu tôi không vào Net được. Hôm nay vào tình cờ đọc được những bài báo "dủa" Cố TT NDD mà lòng tôi thật xót xa.
Tôi nhớ lại khoảng thời gian 1963, khi đó ba tôi làm Phó Tỉnh Trưởng tại Bình Định Qui Nhơn. Sau ngày ông Dương Văn Minh và phe nhóm lật đổ chính quyền Dân Sự để Quân sự lên nắm chính quyền. Tối hôm đó Ba tôi bảo Me tôi hạ hình của Cụ TT Diệm xuống. Me tôi lại bảo tôi làm việc đó. Cho đến sáng hôm sau khi một quân nhân Quân Cảnh bước vào gõ cửa nhà tôi. Ba tôi bảo chúng tôi là nếu Ba tôi có bị bắt thì cũng bình tĩnh .
Cửa mở, người Quân Cảnh bước vào...cả nhà chờ đợi nhưng sau khi ông ta nghiêm chào Ba tôi rồi bảo: Cụ Phó vẫn ở lại. Me tôi thở phào nhẹ nhõm nhưng khi ông ta nhìn lên tường vẫn thấy hình cố TT Ngô Đình Diệm thì ông ta nhìn Ba tôi ái ngại. Tôi bước ra bảo: Ba tôi đã bảo tôi đem hình của Cụ xuống nhưng vì lo lắng qúa tôi quên mất và hầu như cả nhà tôi chắc có lẻ vì lo âu cho Ba tôi nhiều quá mà quên luôn sự hiện diện của cụ trên một góc tường vào khoảng thời gian đảo chánh.
Khi tôi hạ hình cụ xuống bất giác tôi khóc..Người Quân Cảnh thấy những giọt nước mắt đó của tôi và cũng đã thẳng người chào nghiêm trước hình của cố TT Ngô Đình Diệm trong khi tôi dần dần bước xuống với hình ảnh của cố TT NDD trên tay.
Tôi nhớ rõ nét cau mày áo não của người Quân Cảnh khi phải thi hành nhiệm vu. Từ đó hình ảnh của cụ Diệm đi vào ký ức của tôi với những nỗi thao thức bất an và một niềm thương mến bất diệt.Cho đến nay tôi vẫn chắc chắn rằng VN trong quá khứ không có ai có thể so sánh với cố TT Ngô Đình Diệm.
Thời gian làm nữ sinh trường Đồng Khánh từ 1956-1960 chúng tôi đã theo chân cố TT NDD đến những vùng thôn quê hẽo lánh như ở Cùa ở Quảng Trị để làm hai hàng danh dự đón cố TT đi vào trong tiếng hát rộn ràng " Ai bao năm từng lê gót nơi quê người. Cứu đất và tranh đấu cho tự do. Người cương quyết chống Cộng.....".
Hình ảnh thấp nhỏ trong bộ complet trắng với những bước chân đi dài hơn chân, cố TT NDD vui vẽ giơ tay chào đón dân chúng hai bên đường trong mối tương quan cần thiết cho người dân cảm thấy gần chính quyền hơn bất cứ lúc nào.. Không hiểu sao lúc đó cụ Ngô không sợ bắn sẽ mà cứ đi kinh lý hoài. Nếu bảo cụ Ngô đi trình diễn thì tội quá phải không? Ai lại dám bán mạng để đi trình diễn đâu....phải không?
Và, cũng trong thời gian này...Việt Gian CS ở Bắc Bộ Phủ lại đi vào lần dấu mặt thứ hai qua hình ảnh những văn nô những người đi Việt Bắc gốc Nam được bọn CS đưa về trá hành làm hình ảnh tự phát để phá nát chính quyền VNCH đệ nhất ... CSVN đã dùng Phật giáo làm phương tiện để phá nát chính quyền độc lập của dân Nam VN mà đáng lẽ ra dân ta lúc đó đang an hưởng thanh bình cũng như dân Miền Bắc di cư vào cũng đang dần dần lớn lên trên khu trù mật .
Đôi lúc bất chợt ghé ngang vào ký ức, tôi nhìn vào những thao thức để tiếc rằng nếu giả dụ lúc đó tất cả mọi người đều lên tiếng đều tham gia trong cuộc chống Cộng như hôm nay thì chắc gì bọn Việt Gian CS trong hình ảnh "tự phát" đâu có còn khả năng để phá nát, để bôi nhọ hai chính quyền VNCH đệ nhất và đệ nhị.Phải không?
Trong những năm gần đây đã có rất nhiều cuốn hồi ký xuất hiện. Đương hiên những hồi ký đó phải viết về con người ho. và đương nhiên họ không thể tách rời ra khỏi cuộc chiến . Một cuộc chiến tranh mà họ đã lớn lên trên hai chính quyền VNCH mà họ đã sống. Nhưng cho đến nay người đọc vẫn chưa thoả mãn những tích liệu mà người viết đã đưa ra vì những dữ kiện và bối cảnh vẫn còn chứa chấp nhiều kịch tính và chủ quan.
Đối với bất cứ những ai thích đọc về lịch sử, nhất là về VN thì nhu cầu đông đảo của người đọc là muốn tìm hiểu rất cặn kẽ về những sự kiện xác thực của cuộc chiến và những chính quyền liên hệ
Con người là một phần trong cái toàn thể. Không phải vì tôi sống trong chiến tranh VN mà tôi biết hết toàn thể cuộc chiến. Đã là con người thì luôn luôn phải chịu sự chi phối của hoàn cảnh và phải biết khắc phục với hoàn cảnh. Cố TT NDD khi còn tại quyền đã phải chịu quá nhiều chi phối của hoàn cảnh và đã phải cô đơn khắc phục hoàn cảnh trong thân phận nhược tiểu. Trong khi đó Việt Cộng miền Bắc bằng mọi cách phải huỹ diệt chính quyền NDD dưới mọi hình thức từ nội bộ qua hình thức "tự phát của văn nô và bọn CS nằm vùng" đến bên ngoài do cuộc chiến chúng tạo nên..
Xin qúi vị đừng coi thường sự hiểu biết của độc giả mà làm như VC đã làm là tuyên án trước khi luận tội.
Hệ quả của lý tưởng Quốc gia đã thể hiện qua hai chính quyền đệ nhất và đệ nhị VNCH. "Chửi" nhửng vị lãnh đạo và hai cơ cấu chính quyền VNCH là vô tình qúi vị đang tiếp hơi tiếp sức cho Việt Gian CS trong sự sống còn của chúng.
Xin đợi đến khi CSVN sụp đổ thì lúc đó muốn làm gì thì làm. Cuộc chiến Quốc Cộng đang đến hồi quyết liệt tại Hải ngoại. CSVN lại xài bỗn củ soạn lại qua vấn nạn tôn giáo qua hình thức dấu mặt của chúng cũng như đang dùng hình ảnh "tự phát" cũa bọn CS nằm vùng để phá nát Tập thể người Việt tại hải ngoại hiện nay như chúng đã xài từ hồi cướp chính quyền cũng như trong thời điễm xâm lăng Nam VN.
Mong qúi vị sáng suốt, để đừng đánh bật mình ra khỏi vị trí của mình trong hiện tại để rồi tự làm hoang mang nhau không cần thiết.
Riêng đối với Cố TT Ngô Đình Diệm, trong ký ức tôi xôn xao với bao thao thức với không biết bao biến chuyển đã đi qua cũng như ngày tháng vẫn thản nhiên tiếp nối nhau ra đi tuần tự. Chấm dứt rồi lại bắt đầu, và mỗi lần bắt đầu là mỗi lần ký ức tôi lại chập chờn trôi về quá khứ của tuổi thơ trong đó có vị TT NDD và những bước chân dài hơn chân của cụ cùng sự tháp tùng của không biết bao nhiêu người đi đàng sau lưng của cụ. Từ hình ảnh đậm đà khắc sâu trong tâm tư tôi với những bước chân đi kinh lý cũng như tuỳ tùng theo sau Cố TT NDD rất đông...cho đến khi tôi nghe cố TT NDD chết trong sự phản bội của con người tôi bỗng cảm thấy bất an cho đám tuỳ tùng theo đàng sau lưng của Cụ năm nào. Và, nỗi bất an đó lại có dịp trở về mỗi một lần tháng 11 năm nào cứ tuần tự thản nhiên đến.
Trong nỗi bất an đó tôi xin kính cẩn thắp một nén hương tưởng niệm đến Cố Tổng Thống Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm. Trước làn khói nhang mờ xám lung lay , tôi xin cầu nguyện Cố TT được đầy đủ tình thương bao la của đấng Toàn Năng và được yên nghĩ bình an trong cõi vĩnh hằng.......
Tôn Nữ Hoàng Hoa
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 6, 2009 16:37:28 GMT 9
Chuyện Tình Cảm Cố TT Ngô Đình Diệm www.bacaytruc.com/index.php?option=com_content&task=category§ionid=18&id=30&Itemid=49 Sau khi chế độ "Đệ nhất Việt Nam Cộng ḥoa" sụp đổ, người ta đă thêu dệt nhiều câu chuyện về Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Nào là Diệm ái nam ái nữ, nào là Diệm có tư t́inh với cô em dâu Trần Lệ Xuân (vợ Nhu). Rồi dựng lên chuyện về đứa con rơi của Diệm... Mối tình đầu của ông Diệm Về ngày sinh tháng đẻ, nơi sinh của Ngô Đình Diệm cho tới nay vẫn có nhiều tư liệu khác nhau. Tác giả C.Đ viết trên một tờ báo ở nước ngoài: Ông sinh ngày 21/7/1897 tại làng Đại Phong Lộc, tỉnh Quảng B́inh. Nhưng theo lời bà Ngô Đ́inh Thị Hiệp (vừa mới tạ thế tại Australia, thọ 102 tuổi) th́i ông Diệm được rửa tội tại nhà thờ Phú Cam, tên bổn mạng là Gioan Baotixita, sinh ngày 3/1/1901, do MệThuyên (tức ông Hường Thuyên, một người thuộc Hoàng phái) đỡ đầu. Ông Hường Thuyên là thân phụ của hai ông Ứng Đệ và Ứng Trạo, hai nhân vật này người dân Huế đều biết tên. Sau này, khi lê gót nơi xứ người (1945-1954), tại Thụy Sĩ, ông Diệm lập căn cước ngày sinh là 3/1/1901 tại Huế, theo đúng ngày ghi trong lễ rửa tội ở nhà thờ Phú Cam. Năm 1918, ông Diệm học tại Huế, Trường Pellerin, là trường ḍo`ng của Công giáo. Lúc này ông 17 tuổi, cái tuổi biết yêu. Thời gian này ông cũng có một mối t́inh. Chuyện này được một người kể như sau : Ông tri phủ Ngọa Thế Cầu làm quan thời Bảo Đại, từng là bạn thuở nhỏ của ông Diệm. Một lần, vào cuối năm trung học, cậu ấm Diệm cùng một bạn trai ra chân cầu Bạch Hổ đứng hóng mát. Ông Diệm tâm sự với bạn: "Do đă tự hứa với ḿinh là không bao giờ để chuyện yêu đương t́inh ái lăng nhăng trong tâm trí mà dồn tất cả vào việc học. Hai anh tôi là Ngô Đ́inh Khôi và Ngô Đ́inh Thục lần nào về thăm cũng dặn ḍo kỹ lưỡng: ḍong họ Ngô Đ́inh ta có gốc tích ở Phúc Thọ, Sơn Tây, sau lưu lạc vào Quảng B́inh, lúc nào cũng không được thua kém các ḍong họ khác. Các anh bảo tôi phải cố gắng học hành để có một tương lai tươi sáng. Thầy đă làm đến quan Thượng thư đầu triều, lẽ nào anh em ḿinh không nối bước được chí khí vinh quang và sự nghiệp của thầy". Ông Diệm c̣òn kể tiếp: "Chính nhờ những lời giáo huấn này mà cả hai năm Première Année cũng như Deuxième Année tôi đă đứng nhất ở trường Pellerin. Thú thật nếu anh Thục không đi tu th́i tôi sẽ là vị linh mục đầu tiên của ḍòng họ Ngô Đình". Ông kể tiếp: "Từ khi 12, 13 tuổi, tôi đă mơ ước được hiến đời ḿinh để phụng sự Chúa, nhưng anh Thục đă nhận lănh vinh dự và thầy tôi cũng không muốn trong gia đ́inh có đến hai người đi tu để quên phận sự kẻ sĩ". Kể về t́inh yêu, ông nói: "Không hiểu tôi gặp người con gái ấy có phải do Thánh y' hay không? Một buổi chiều, vừa đạp xe tới trước cửa nhà, từ phía nhà thờ Phú Cam, gia đ́inh của quan Thượng họ Nguyễn cũng vừa xem lễ chiều xong. Quan Thượng Nguyễn với thầy tôi là chỗ đồng học khi xưa ở Pénang và là bằng hữu nên khi quan Thượng Nguyễn gặp tôi là nhận ra ngay. Sau đó, ngài giới thiệu tôi với bà Thượng và mấy người con. Trong số đó có người con gái út là tiểu thư Trang Đài. Nàng đẹp tuyệt vời, khuôn mặt nàng tỏa ra vẻ thánh thiện. Tôi đánh bạo mời quan Thượng và gia quyến vào thăm nhà, nhưng ngài viện cớ phải về gấp. Cả hai ông bà đều gửi lời thăm hỏi thầy mẹ tôi, c̣òn nàng thì e thẹn cúi đầu lễ phép chào tôi. Khi họ đi rồi, tôi lẳng lặng nhìn theo. Tối hôm đó, tôi có mang cuộc gặp gỡ này trình với thầy mẹ tôi, và cũng nói cho thầy mẹ biết tôi đă thay mặt gia đình mời họ vào nhà xơi nước. Thầy tôi th́i không nói gì c̣on mẹ tôi quở trách: "lần sau con không được thay mặt gia đ́inh mời ông Thượng Nguyễn vào nhà mà chỉ nên lễ phép chào hỏi rồi kiếu từ liền". Tôi nghe trong giọng nói của mẹ không được vui và có điều khác lạ. Tôi nghĩ, có lẽ đều là quan quyền cả, thầy tôi làm đến quan Thượng thư nhưng đă treo ấn từ quan lâu rồi, cảnh nhà lại thanh bần, c̣òn quan Thượng Nguyễn vẫn c̣òn tại chức, vả lại họ giàu có nên thầy mẹ tôi không muốn giao thiệp? Hay là trong quá khứ họ Ngô Đình và họ Nguyễn có điều ǵi không hay? Tôi phân vân mà không dám hỏi. Mấy ngày sau, vào sáng chủ nhật, tôi vừa lên được mấy bậc tam cấp nhà thờ Phú Cam, thì thật bất ngờ tôi lại gặp Trang Đài cũng vào nhà thờ xem lễ. Tư thất của quan Thượng Nguyễn ở bên An Cựu, lẽ ra nàng phải đi lễ nhà thờ ḍòng Chúa Cứu thế. Khi nhìn thấy Trang Đài, tôi bối rối và nghĩ có nên chào nàng cho phải phép hay không. Giữa lúc chưa quyết định chào hay không thì nàng đă lễ phép cúi đầu chào tôi trước. Xong lễ, chúng tôi gặp nhau trước sân nhà thờ, lần này tôi đánh bạo chào hỏi nàng trước. Không giống như nhiều tiểu thư khác ở đất Thần kinh, cung cách đối xử của nàng không e lệ hoặc kênh kiệu quá đáng. Tất cả những lời nói, cử chỉ của nàng ḥoà nhă và nghiêm nghị. Cứ thế, hàng tuần vào sáng chủ nhật chúng tôi lại gặp nhau và không c̣òn rụt rè, ngần ngại nữa mà tỏ ra rất tự nhiên. Có khi hai chúng tôi tṛò chuyện, gia quyến nhà họ Thượng Nguyễn cũng nh́in thấy, các cụ chỉ gật đầu và tôi cúi đầu chào lại và họ không nói ǵi, ra xe về trước. C̣òn gia đ́inh tôi cũng chẳng có y' kiến khi nhìn thấy chúng tôi. Học hết trung học, tôi được gia đình cho ra miền Bắc học nên tôi và Trang Đài chưa nói với nhau chuyện yêu đương, nhưng trong ánh mắt, chúng tôi đă có cái gì quy' mến nhau. Khi gặp Trang Đài lần cuối, chúng tôi không thề non hẹn biển gì, tôi chỉ ngỏ lời tạm biệt nàng và hẹn khi nào học xong có dịp về Huế sẽ tới thăm nàng". Cụ tri phủ Cầu c̣òn kể tiếp: "Sau khi ông Ngô Đình Diệm ra Hà Nội học và ra trường đi làm việc, lúc này Trang Đài đă đi tu trong một ḍòng kín ở Sài G̣on". Đó là một mối tình đầu thầm kín của ông Diệm. C̣òn một chuyện tình khác của ông, được ông Phạm Văn Nhu (ông Nhu là bạn học thời nhỏ của ông Diệm cũng ở đất Thần kinh, sau làm giáo sư và làm dân biểu thời Đệ nhất Cộng ḥoa, rồi giữ chức Chủ tịch Quốc hội chế độ nhà Ngô) kể lại: Thuở nhỏ ông và ông Diệm thường tắm truồng ở sông An Cựu, ông thấy Diệm cũng bình thường như mọi thanh niên khác, không hề bị dị tật về cơ thể theo như người ta đă đồn. Năm 19 tuổi, khi còn là sinh viên Trường Hậu bổ, vào một buổi sáng mùa hè, ông Diệm đang ngồi đọc sách tại nhà bà cả Lễ thì có mấy cô gái Huế đến chơi. Bấy giờ vào buổi tân thời, nên các cô rất dạn dĩ chọc ghẹo và có những câu nói ong bướm với cậu ấm Diệm. Ông liền nổi nóng la mắng: "Con gái gì mà hư thân trắc nết như rứa". Từ đó vùng Phú Cam các cô gái rỉ tai nhau phê bình: "Cậu Diệm sợ đàn bà con gái " Khi trở thành tri phủ Ḥòa Đa, Tuần vũ Bình Thuận, ông Diệm chỉ sống độc thân dù rất nhiều gia đình quan lại danh giá đánh tiếng gả con gái cho ông. Năm 1948, khi ông đă ở tuổi ngũ tuần, giới thân cận của ông không ai nghe ông nói tới đàn bà con gái. Chính vì vậy mà trong giao tiếp mọi người chỉ toàn nói về chuyện tu hành, đạo đức thánh thiện, và không ai dám đề cập chuyện tình cảm riêng của ông.-
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 7:59:33 GMT 9
CIA and the Generals: Covert Support to the Military Government in South Vietnam, và, CIA and the House of Ngo: Covert Action in South Vietnam, 1954-1963.Tác Giả: Thomas L. Ahern, Jr. Center for the Study of Intelligence ấn hành. Lần đầu tiên trong lịch sử của Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA), ban biên tập của cơ quan cho giải mật hai tập tài liệu quan trọng về liên hệ CIA và Việt Nam. Trong nhiều năm qua, CIA theo luật bắt buộc đã giải mật nhiều tài liệu quan trọng, thí dụ như hơn 1.000 trang phân tích và ước lượng về chiến tranh Việt Nam (Estimative Products on Vietnam, 1948-1975, National Intelligence Council, 2005). Lần đầu tiên trong nghĩa này là hai quyển sách trên thuộc loại sử kể (narrative history), có đầu đuôi, chú thích và quan trọng hơn hết tác giả là người thật, đọc nhiều tài liệu và viết lại có ngọn ngành cho độc giả. Đa số những tài liệu giải mật của CIA trước đây thuộc loại nặc danh vì lý do nghề nghiệp, hay là những tường trình do nhân viên báo cáo về để kính tường. Người điểm sách (Nguyễn Kỳ Phong) không biết hai quyển sách trên thật sự được cho in lúc nào (nghĩa là được Center for the Study of Intelligence giải mật cho ra mắt công chúng theo dạng một quyển sách; Center for the Study of Intelligence là nhà in của CIA). Theo lời giới thiệu trong sách, quyển CIA and the Generals (CIA & Generals) được hoàn tất tháng 10-1998; và CIA and the House of Ngo (CIA & Ngo) viết xong tháng 6-2000. Hai quyển này được đưa lên web site của Center for the Study of Intelligence vào đầu tháng 3-2009, với dấu mộc ghi APPROVED FOR RELEASE DATE 19-Feb-2009. (Được Phép Đưa Ra Công Cộng Ngày 19 tháng 2-2009). CIA and the House of Ngo: Covert Action in South Vietnam, 1954-1963 (CIA và Những Điệp Vụ Mật ở Miền Nam, 1954-1963) nói về những hoạt động bên trong để giúp đỡ chánh phủ Ngô Đình Diệm, từ ngày ông Diệm về làm thủ tướng cho đến ngày tổng thống Diệm bị hạ sát trong cuộc cách mạng 1 tháng 11-1963. Qua tài liệu này, lần đầu tiên chúng ta biết được, từ năm 1950 cho đến năm 1956, CIA có hai Sở tình báo ở Sài Gòn: một Sở CIA Saigon Station nằm dưới sự điều khiển thông thường từ bản doanh CIA ở Langley, Virginia; Sở kia, có tên là Saigon Military Mission, làm việc trực tiếp, và chỉ trả lời cho Giám Đốc Trung Ương Tình Báo. Saigon Military Mission, theo Tài Liệu Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers) được giải mật trước đây, do đại tá Edward G. Lansdale chỉ huy. Lansdale đến Sài Gòn tháng 6-1954 với hai nhiệm vụ: 1. huấn luyện những toán tình báo Việt Nam để gài lại ở miền Bắc trước ngày di cư và tập kết hết hạn; và, 2. dùng mọi phương tiện ngầm (covert action) để giúp tân thủ tướng Ngô Đình Diệm. Theo tác giả Thomas L. Aherns, chính Giám Đốc CIA Allen Dulles chỉ định đại tá Lansdale cho điệp vụ ở Sài Gòn và cũng ra lệnh Lansdale làm việc trực tiếp cho ông. Tác giả Ahern viết, CIA có mặt từ năm 1950 để giúp đỡ quân đội Pháp xâm nhập và thu thập tin tức tình báo. Nhưng từ cuối năm 1953, khi thấy tình hình quân sự nguy ngập của Pháp, Hoa Thịnh Đốn thay đổi nhiệm vụ của CIA Saigon Station: Liên lạc và thu thập tình báo những thành phần quốc gia để lập một chánh thể chống cộng trong trường hợp Hoa Kỳ thay thế Pháp. Cùng lúc Hoa Thịnh Đốn gởi thêm một toán CIA để lo về quân sự, Saigon Military Mission (tác giả Ahern chú thêm, trong các công điện của CIA, Saigon Military Mission đôi khi được ghi là Saigon Military Station). CIA and the House of Ngo tiết lộ một số chi tiết ly kỳ như: CIA liên lạc và làm thân với ông Ngô Đình Nhu từ năm 1951, rất lâu trước khi Hoa Kỳ liên lạc với ông Diệm. Đầu năm 1954, khi có tin Hoa Kỳ chuẩn bị đề nghị quốc trưởng Bảo Đại và chánh phủ Pháp giải nhiệm hoàng thân Bửu Lộc và thay bằng ông Diệm, thì ông Nhu là người đầu tiên CIA gặp để bàn về liên hệ của Hoa Kỳ đối với thủ tướng tương lai Ngô Đình Diệm. Tháng 4-1954, một nữ nhân viên Mỹ làm việc ở CIA Saigon Station, thông thạo tiếng Pháp, quen biết và liên lạc thân thiện với Bà Ngô Đình Nhu. Từ nữ nhân viên Virginia Spence này, Sở CIA Saigon bắt được nhiều liên lạc với hầu hết những người thân trong gia đình, hoặc thân cận với Nhà Ngô. Tháng 4-1954, CIA ở Hoa Thịnh Đốn gởi Paul Harwood sang làm cố vấn riêng cho ông Nhu. Tuy là nhân viên CIA, nhưng Harwood đóng vai một nhân viên Bộ Ngoại Giao, làm việc từ Tòa Đại Sứ. Trong hai năm Hardwood cố vấn là làm việc với ông Nhu để xâm nhập và ảnh hưởng đường lối ngoại giao quân sự của nền đệ nhất VNCH với tổng thống Diệm. Paul Hardwood thân thiện với gia đình ông bà Nhu đến độ ông ta là người đỡ đầu cho Ngô Đình Lệ Thủy, ái nữ của ông bà Nhu. Từ tài liệu này chúng ta cũng biết thêm, ông bà Nhu được đưa qua thăm viếng Mỹ trước tổng thống Diệm. Để lấy tình cảm và ảnh huởng với ông Nhu, đầu tháng 3-1957 ông bà Nhu được CIA mời qua thăm Hoa Thịnh Đốn. Tuy không có một chức vụ gì chánh thức với chánh phủ nhưng ông Nhu được diện kiến tổng thống Dwight Eisenhower, hai Tổng Trưởng Ngoại Giao và Quốc Phòng, và Giám Đốc CIA Allen Dullles. Tài liệu cho biết, với tài ăn nói và sắc diện, bà Nhu gây được nhiều chú ý với các thẩm quyền Mỹ. Bà Nhu thường tỏ ra mình là một ngôi sao trong dạ tiệc do CIA khoãn đãi. Hai tháng sau chuyến thăm viếng âm thầm của ông bà Nhu, đầu tháng 5-1957, tổng thống Diệm lên đường công du theo lời mời của chánh phủ Hoa Kỳ. Một vài tiết lộ khác trong sách của Ahern: CIA bắt liên lạc được với những nhân vật quan trọng như Trần Chánh Thành, Trần Trung Dung, Trần Quốc Bửu. Và ít hay nhiều, CIA có thể nhìn vào nội tình của Nhà Ngô qua những tin tức do những nhân vật trên cung cấp. Trong cuộc tranh chấp rồi sau đó là giao chiến giữa chánh phủ Diệm và quân phiến loạn Bình Xuyên, CIA biết được hầu hết kế hoạch và khả năng của Bình Xuyên, nhờ một cận thần của Bảy Viễn đang làm việc cho CIA. Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, một đảng chánh trị thành lập để hổ trợ chánh phủ Diệm, nhận tài chánh và cố vấn từ CIA. Nhưng đến đầu năm 1960 thì CIA cắt ngân khoản vì cơ cấu nhân sự không còn hữu hiệu trong công tác tuyên truyền. CIA đã than phiền nhiều lần về những hoạt động của Đảng Cần Lao và hành vi của ông Ngô Đình Cẩn. Nhưng mỗi lần CIA than phiền với ông Nhu về những hoạt động bí mật, đôi khi trái phép của ông Cẩn, thì ông Nhu đưa hai tay lên trời với một thái độ buông xuôi vì ông không thể nào làm gì được. Ở một tài liệu khác cho biết, khoảng giữa năm 1956, CIA nhận được nguồn tin cho biết ông Ngô Đình Cẩn đang bàn kế hoạch để loại trừ Bộ Trưởng Thông Tin Trần Chánh Thành và Cố Vấn Ngô Đình Nhu ra khỏi vòng ảnh hưởng ở Dinh Tổng Thống. Qua nhiều trang, chúng ta đọc được sự bất lực của chánh phủ Sài Gòn đối với lãnh chúa Ngô Đình Cẩn ở miền Trung. Với hai Sở CIA ở Sài Gòn hoạt động độc lập nhau, báo cáo gởi về cho CIA ở Hoa Thịnh Đốn đôi khi trái ngược: Cố vấn Paul Hardwood thì báo cáo tốt, nhân nhượng cho ông Nhu và có ý chỉ trích ông Diệm; Edward Lansdale thì ngược lại: bảo vệ ông Diệm và nói xấu ông bà Nhu. Cuối năm 1956, sau khi Lansdale bị triệu hồi về Mỹ, Al Ulmer, Trưởng Vụ Viễn Đông CIA, ra lệnh giải tán những gì còn lại của Saigon Military Mission và thái độ của Hoa Kỳ cũng bắt đầu thay đổi với chánh phủ Ngô Đình Diệm. Đầu năm 1958 Hoa Kỳ cho phép CIA Saigon bắt liên lạc với các đảng chính trị đối lập. Tài liệu nói nhân viên của CIA mua chuộc và thành lập một lực lượng đối lập ngay sau lưng ông Nhu, để trong trường hợp phải thay đổi cấp lãnh đạo mới. Cuộc đảo chánh 11 tháng 11-1960 là một hăm dọa của Hoa Kỳ đối với tổng thống Diệm: Nhân viên CIA có mặt ở tại bộ chỉ huy của đại tá Nguyễn Chánh Thi và kế bên ông Hoàng Cơ Thụy để giới hạn bước tiến của quân đảo chánh. Điệp viên Russ Miller khuyên đại tá Thi nên thượng lượng với ông Diệm, trong khi biết rõ quân ủng hộ chánh phủ của đại tá Trần Thiện Khiêm đang trên đường từ Vùng IV về thủ đô tiếp cứu. Khi thấy thái độ trở mặt của CIA, màn lưới tình báo của ông Nhu cũng không hoàn toàn thụ động: Phó Sở CIA Saigon, Douglas Blaufarb, ngỡ ngàng khi ông khám phá ra người tài xế Việt Nam của ông không bị điếc như lúc được Trần Kim Tuyến giới thiệu vào làm việc; người tài xế này chẳng những không điếc mà lại còn thông thạo hai ngoại ngữ Anh và Pháp! Tài liệu thú nhận vào năm sau cùng của Nhà Ngô, Hoa Kỳ có một phần lớn trách nhiệm trong kế hoạch hạ bệ tổng thống Diệm. Nhưng chính gia đình ông Diệm cũng hủy hoại vì sự chia rẽ từ anh em trong nhà. Từ mùa xuân năm 1963 ông Nhu yêu cầu CIA đừng nói lại những gì ông và CIA trao đổi, và qua nhiều lần nói chuyện với CIA, ông Nhu tuyên bố ông muốn thay tổng thống Diệm! Trong khi đó bà Nhu thì thường làm hùng làm hổ với tổng thống Diệm: trong cuộc bầu cử Hạ Viện năm 1963, bà Nhu muốn ủng hộ 30 ứng cử viên mà ba ta ưng ý. Ông Diệm không đồng ý, nhưng bà Nhu cằn nhằn, to tiếng cho đến khi tổng thống Diệm nhượng bộ. Bà Nhu cũng thắng thêm một lần nữa, khi đòi làm người chủ tọa và đọc diễn văn ngày Lễ Hai Bà Trưng thay vì phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ như ông Diệm đã chỉ định. Riêng về ông Ngô Đình Cẩn: ông Cẩn từ chối không ủng hộ hay giúp ông Nhu về Chương Trình Ấp Chiến Lược ở Miền Trung. Ngày Lễ Quốc Khánh Hoa Kỳ, 4 tháng 7-1963, lần đầu tiên tổng thống Diệm cho phép các tướng lãnh VNCH tham dự tiệc ăn mừng do tòa đại sứ tổ chức. Sau tiệc rượu ở khuôn viên tòa đại sứ Hoa Kỳ, một vài tướng lãnh VNCH và nhân viên CIA kéo nhau ra quán để uống tiếp. Tại quán rượu, tướng Trần Văn Đôn nói với nhân viên CIA là các tướng lãnh muốn đảo chánh tổng thống Diệm. Thảm kịch của Nhà Ngô bắt đầu từ đó. CIA and the Generals: Covert Support to the Military Government in South Vietnam (CIA và Các Tướng Lãnh: Những Hỗ Trợ Ngầm Cho Chính Phủ Quân Sự Việt Nam Cộng Hòa), cũng là một tài liệu tương đối tối mật so với những tài liệu được CIA công bố trước đây. Những sự kiện biên niên trong quyển CIA & Generals (1963-1975) tiếp theo quyển CIA & Ngo (1954-1963), nhưng lại được cho giải mật trước CIA & Ngo. Có lẽ ban kiểm duyệt CIA thận trọng hơn về những chi tiết nằm trong CIA & Ngo. Tài liệu trong CIA & Generals bắt đầu sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11-1963. Những gì đến từ tài liệu cho thấy ngay sau đảo chánh, như một tập thể, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng không được hòa thuận; và, như những liên hệ cá nhân, các tướng lãnh đã nghi kỵ, ngờ vực lẫn nhau trước khi đảo chánh. Trước khi đảo chánh tướng Nguyễn Khánh đã nói xấu về hai tướng Dương Văn Minh và Trần Thiện Khiêm với tổng thống Diệm và một số nhân viên CIA. Qua nhiều chi tiết, chúng ta thấy các tướng lãnh VNCH làm việc chung vì phải tựa vào nhau để mưu cầu lợi quyền lợi riêng, chứ không thật sự có chung một lý tưởng. Trước ngày tướng Khánh chỉnh lý tướng Minh và bốn tướng Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, và Trần Văn Đôn, tướng Khánh thường xuyên rỉ tai với CIA về tin đồn những tướng lãnh nói trên sẽ theo Pháp để biến Việt Nam thành trung lập. Tháng 2-1964 tướng Nguyễn Văn Thiệu đã đưa nhiều sĩ quan thuộc Đảng Đại Việt nằm vào những chức vụ quan trọng trong quân đội. Khi được hỏi để làm gì, tướng Thiệu trả lời để triệt hạ cộng sản và những thành phần thân cộng. Nhưng CIA có nguồn tin cho biết ông Thiệu sẽ dùng sĩ quan Đại Việt để đảo chánh ông Khánh. Và chuyện xảy ra đúng như vậy. Tướng Khánh rất ngây thơ khi hù tướng Thiệu là Mỹ sẽ chơi ông. Nhưng, như chúng ta đã thấy, Mỹ chơi ông Khánh trước ông Thiệu! Một chi tiết khá lý thú về tướng Khánh: 25 tháng 2-1965, khi đại sứ Maxwell Taylor và các tướng trẻ hạ bệ và yêu cầu tướng Khánh rời Việt nam. Lúc ra đi vội vã tướng Khánh để quên lại một cặp táp nhiều tài liệu quan trọng. Nhớ lại, tướng Khánh yêu cầu CIA bằng mọi cách phải tìm lại cặp táp. CIA chuộc lại được và gởi qua Mỹ, giao lại cho tướng Khánh. Nhưng, trước khi cặp táp rời Việt Nam, đại sứ Maxwell Taylor yêu cầu cho ông một bản sao của tất cả tài liệu nói trên! Bản sao những tài liệu chắc chắn còn lưu trữ đâu đó trong văn khố chánh phủ Hoa Kỳ. Những chi tiết được giải mật trong CIA & Generals: * Trong các tướng lãnh VNCH, CIA kính trọng kiến thức của tướng Lê Văn Kim nhất. Trong một buổi thuyết trình về các kế hoạch kín đang thực hiện trên đất Bắc, trong khi mặt tướng Dương Văn Minh ngớ ra với những chi tiết tình báo quân sự, tướng Kim lấy được sự kính trọng của tình báo Hoa Kỳ với những câu hỏi rất chuyên nghiệp. * Tướng Nguyễn Đức Thắng cũng được người Mỹ kính nể. Trong một báo cáo, Giám Đốc CIA Richard Helms đề nghị cho tướng Thắng cùng một lúc giữ hai Bộ Quốc Phòng và Xây Dựng Nông Thôn, với tất cả cơ cấu và cố vấn Hoa Kỳ nằm dưới quyền thống thuộc của tướng Thắng. * Về tướng Nguyễn Ngọc Loan, mặc dù người Mỹ không thích tướng Loan vì sự thẳng thắn của ông, nhưng họ nhận định tướng Nguyễn Ngọc Loan là một người thật thà, can đảm, biết được ẩn ý của người Mỹ. Tướng Loan không sợ khi nói thật ý nghĩ của ông với tình báo Mỹ. Đầu năm 1967, khi biết được Hoa Kỳ đang đi sau lưng chánh phủ VNCH, liên lạc với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, ông Loan nói với CIA là người Mỹ từ đây sẽ đi sau lưng người quốc gia và sau cùng người Mỹ sẽ bỏ đi, chỉ còn VNCH một mình đơn thân chống lại Bắc Việt. Một lời phát biểu mà tình báo Hoa Kỳ cho là tiên tri. * Tình báo Mỹ cũng biết được tánh tình và quá khứ của một số tướng lãnh VNCH qua những lần đối thoại với tướng Trần Thiện Khiêm khi tướng Khiêm bị lưu đày qua Mỹ với cấp bậc đại sứ. Trong một bửa ăn ngày 19 tháng 4-1965 ở nhà hàng Sans Souci (một nhà hàng sang trọng bậc nhất ở Hoa Thịnh Đốn) tướng Khiêm thổ lộ ý nghĩ của ông về tướng Khánh và nhiều nhân vật khác. Qua nhiều chi tiết trong CIA & Genreals, đọc giả có thể suy luận, tướng Khiêm có một liên hệ lâu và thân mật với Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ. Cuối năm 1966 Hoa Kỳ có ý định bắt liên lạc với một vài nhân sự của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN). Lý luận của CIA là họ muốn xâm nhập vào nội bộ để gây chia rẽ giữa cấp lãnh đạo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Hà Nội. Muốn lấy lòng tin của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, CIA xin chánh phủ VNCH phóng thích vài nhân sự quan trọng của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đang bị Cảnh Sát Quốc Gia VNCH giam giữ, trong đó có vợ của Trần Bạch Đằng (bà Mai Thị Vàng) và Trần Bửu Kiếm (bà Phạm Thị Yến), và một số cán bộ giao liên. Ban đầu VNCH phản đối, nhưng sau cùng vì áp lực cũng phải cộng tác với Hoa Kỳ trong kế hoạch liên lạc với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Từ tháng 2-1967 cho đến tháng -1968, VNCH thả bà Vàng và bà Yến, cộng thêm 10 cán bộ giao liên phía bên kia. Đổi lại, phía Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chỉ thả ba tù binh Hoa Kỳ. Nhưng từ đó VNCH, nhất là tướng Nguyễn Ngọc Loan, thấy Hoa Kỳ sẳn sàng xé lẻ nếu tình thế phù hợp với đường lối ngoại giao của họ. Nhưng phải thành thật nhận xét, qua những lời úp mở trong sách, vì bị kiểm duyệt khá nhiều, CIA rất có thể đã xâm nhập hay bắt liên lạc được với Trần Bửu Kiếm hay một nhân vật nào đó trong nội bộ đầu nảo của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Qua các tài liệu giải mật sau này, chúng ta thấy CIA có một hồ sơ rất chi tiết về nhân sự và cơ cấu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Thêm vào đó, CIA cũng có luôn những báo cáo của Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam (là hậu thân của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam từ tháng 6-1969) gởi về cho Trung Uơng Cục Miền Nam, cập nhật những diễn tiến ở Hội Đàm Paris 1968-1973. CIA xâm nhập sâu vào cơ cấu hành chánh và nhân sự của VNCH trong khoảng 1967-1975, nhất là sau cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên của nền Đệ Nhị Cộng Hòa (1967). Vì kết quả bầu cử phải được Hạ Viện VNCH chứng nhận hợp pháp, nhất là một cuộc bầu cử mà hai ứng viên cùng chung liên danh (Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ), đã cấu xé nhau trước khi ngồi lại với nhau, và hầu hết liên danh thất cử nào cũng phản đối kết quả, Hoa Kỳ chỉ thị cho CIA phải tìm mọi cách bảo đảm Hạ Viện sẽ chứng nhận kết quả bầu cử. Hạ viện bỏ phiếu thuận 58 trên 43, xác nhận liên danh Thiệu-Kỳ đắc cử. Tài liệu trong CIA & Generals nói tình báo Mỹ đã khuynh đảo một số dân biểu trong hai lần bầu cử tổng thống 1967 và 1971 (và bầu cử Quốc hội của năm 1970). CIA mua chuộc được 10 dân biểu, nhưng muốn có thêm 10 tiếng nói ủng hộ nữa, để chắc ăn về những dự luật đang nghị luận! Tài liệu cho biết CIA đã tốn bao nhiêu tiền để thành lập hay giúp đỡ các đảng phái chính trị với hy vọng các lực lượng này sẽ ủng hộ và xây dựng một thế lực phía sau tổng thống Thiệu. Đảng Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc, (của thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn) được CIA tài trợ với hy vọng trên. Nhưng khi biết được người đứng ra tổ chức là Đặng Đức Khôi, một thân tín của ông Kỳ, thì ông Thiệu từ chối ủng hộ. Để có một tổ chức riêng, ông Thiệu cho ra đời Lực Lượng Dân Chủ. Sau Đảng Dân Chủ, CIA tài trợ một lực lượng chính trị khác, có tên là Đảng Liên Minh Cách Mạng Xã Hội, với hy vọng gom lại tất cả lực lượng chính trị thành một mặt trận chung, dưới sự lãnh đạo chung của tổng thống Thiệu và phó tổng thống Kỳ. Nhưng vấn đề là hai ông Thiệu, Kỳ không còn muốn xuất hiện chung với nhau ngoài công cộng! Sau cùng, với sự nài nỉ của người Mỹ, và vì lợi ích quốc gia, Khối Liên Minh được khai mạc ngày 4 tháng 7-1968, với sự chủ tọa của hai ông Thiệu và Kỳ. Khối Liên Minh tập họp hơn 25 đảng phái chính trị lớn nhỏ ở Miền Nam. CIA tài trợ Đảng này cho đến cuối năm 1969. Tuy nghe theo lời cố vấn của Hoa Kỳ, nhưng tổng thống Thiệu lúc nào cũng nghi ngờ dụng ý của người Mỹ. Ông nói với nhân viên CIA là không những VNCH phải đương đầu với sự xâm nhập của quân đội Bắc Việt vào Nam, mà còn phải đương đầu với sự xâm nhập của CIA vào nhân sự của chánh phủ! Tổng thống Thiệu tỏ thái độ dè dặt hơn vào cuối năm 1968, khi tổng thống Lyndon Johnson gởi cho ông một lá thư, cho biết có sự hợp tác của VNCH hay không, Hoa Kỳ cũng sẽ đơn phương xúc tiến hòa đàm với Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tổng thống Thiệu sau đó cắt đứt liên lạc với CIA hơn một tháng, chỉ cho họ tiếp xúc với phụ tá của ông, trung tướng Đặng Văn Quang. Nhưng khi ông Thiệu càng kín đáo, càng dè dặt, thì CIA lại càng muốn biết được những ý nghĩ của ông Thiệu bằng mọi cách. Những tiết lộ khác trong CIA & Generals: Tình báo của MACV biết rõ ngày giờ Bắc Việt sẽ tấn công qua vùng Phi Quân Sự trong trận tổng công kích Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, nhưng Hoa Kỳ không thông báo cho VNCH, hay tấn công vào các đơn vị Bắc Việt đang tập trung quân. Ngược lại, thái độ của đại tướng Creighton Abrams và đại sứ Bunker rất lạc quan, hai ông tuyên bố trong cao điểm của cuộc tấn công là Bắc Việt sẽ hết quân sau trận tổng tấn công. Những chi tiết này làm người đọc không khỏi thắc mắc, là có phải Hoa Kỳ đã cố ý để cho cuộc tấn công xảy ra? Chi tiết này làm cho đọc giả nhớ lại câu đối thoại của tổng thống Richard Nixon với Henry Kissinger là: "Sau trận này, hai bên phải có một bên hết quân." Từ tháng 8-1972, để chuẩn bị cho những thương lượng sau cùng của Kissinger và Lê Đức Thọ ở Paris, CIA được lệnh phải làm hao mòn sức chống đối của tổng thống Thiệu về một số điều khoản trong bản hiệp định (một trong những điều khoản ông Thiệu cực lực phản đối, là Hoa Kỳ đồng ý cho Bắc Việt để lại quân ở Miền Nam, Lào, Cam Bốt). Một số tài liệu giải mật ở giai đoạn này (tháng 8 1972 cho đến lúc ký Hiệp Định Paris, tháng 1-1972) cho thấy CIA có điệp viên nằm trong Trung Ương Cục, qua những tin tức họ nhận được về cuộc nói chuyện giữa Lê Đức Thọ và Kissinger. Từ tháng 6-1973, liên hệ giữa thủ tướng Khiêm và tổng thống Thiệu trở nên khó khăn. Ông Khiêm nói với Trưởng Sở CIA Saigon, Thomas Polgar, là ông Thiệu đang tập trung quyền lực và càng lúc càng cố vị. Nhưng cũng từ tài liệu CIA, chúng ta đọc biết ông Khiêm thường xuyên liên lạc với các Trưởng Sở CIA, từ Lewis Lepham đến Ted Shackley, đến Polgar. Từ tháng 10-1972 đến ngày ký Hiệp Định Paris 1973, CIA đến gặp thủ tướng Khiêm nhiều lần để tìm hiểu về trạng thái tinh thần của tổng thống Thiệu. Một ngày trước khi tướng Phạm Văn Phú gặp phái đoàn tổng thống Thiệu ở Cam Ranh (14 tháng 3-1975). đại tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, đã thông báo tin này ra cho CIA. Cho đến lúc đó, CIA và Phòng Tùy Viên Quốc Phòng (Tùy Viên Quân Sự) vẫn chưa biết tổng thống Thiệu quyết định gì về Vùng II. Khi CIA xác nhận tin này vào chiều ngày 14, thì Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đang chuẩn bị di tản. Căn cứ vài tài liệu giải mật này, cho đến ngày hôm nay, CIA vẫn chưa xác định được ông Thiệu ra lệnh gì cho ông Phú trong buổi họp định mệnh ngày 14 tháng 3-1975. Trong tuần lễ cuối cùng trước ngày ký Hiệp Định Paris, nhân viên của CIA, tòa Đại Sứ, và Phòng Tùy Viên Quốc Phòng cùng nhau làm áp lực với tổng thống Thiệu và các viên chức thân cận chung quanh ông Thiệu. Đại sứ Bunker được lệnh của Kissinger cho ông Thiệu coi một số hồ sơ mật của Nixon để hăm dọa ông Thiệu, mánh lới đó cũng được lập lại với các ông Hoàng Đức Nhã. Trần Thiện Khiêm và Đặng Văn Quang. Trong một cuộc đối thoại với Rodney Landreth, ông Nhã hỏi thẳng, Tại sao Hoa Kỳ làm áp lực với VNCH mà không là Bắc Việt ? Hoa Kỳ đang đi ngược lại những gì họ đã chủ định thực hiện Nhưng câu hỏi của ông Nhã không thành vấn đề vào tuần lễ cuối cùng của tháng giêng, 1973. Tuy là tài liệu được giải mật, nhưng một số lớn chi tiết, tên tuổi của những điệp viên, điềm chỉ viên trong sách vẫn còn bị kiểm duyệt. Nhưng nếu đọc giả gom những chi tiết trong CIA & Ngo, trong CIA & Generals, và so sánh với một số tài liệu đã được giải mật từ Bộ Ngoại Giao (Foreign Relations of the United States, Vietnam), đọc giả có thể suy luận ai là ai nằm dưới những lằn đen kiểm duyệt. Với giới hạn của của ban chủ biên, năm, sáu trang điểm sách chỉ nói lên được một phần của CIA and the House of Ngo: Action in South Vietnam, 1954-1963; và, CIA and the Generals: Covert Support to the Military Government in South Vietnam.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:02:06 GMT 9
CIA và CÁC ÔNG TƯỚNG VNCH Tài liệu: CIA and the Generals: Covert Support to Military Government in South Vietnam của Thomas L. Ahern, Jr. Dịch giả: Trần Bình Nam ★★★★★★★★★★★★★★★★★★★★★★★★★ CIA và CÁC ÔNG TƯỚNG (Phần 1) ** Lời giới thiệu của dịch giả: Trần Bình Nam ★★★★★★★★★★★★★★★★★★★★★★★★★ Lời Giới Thiệu: Hôm 19/2/2009 cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ (Central Intelligence Agency – CIA) đã cho giải mật tài liệu mang tên: “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam”. Tài liệu này do ông Thomas L. Ahern, Jr., một nhân viên CIA từng làm việc tại Sài gòn từ năm 1963 đến đầu năm 1965, đúc kết từ những tài liệu mật của CIA. Tài liệu được giải mật sau khi cơ quan CIA đã đọc lại và gạch bỏ những tên tuổi và địa danh không lợi cho hoạt động tình báo. Tuy nhiên nếu so chiếu với các tài liệu khác viết về cuộc chiến Việt Nam, người đọc có thể đoán hầu hết những tên tuổi bị gạch bỏ đó là ai. Tài liệu dài 243 trang gồm chính yếu là phần Nhập Đề của tác giả và 10 Chương. Tôi tóm tắt lại những sự việc chính của tài liệu trong 6 bài viết: phần Nhập Đề và sau đó hai Chương trong một bài, và sẽ lần lượt cho lên trang nhà www.tranbinhnam.com . Mục đích tóm tắt tài liệu là “ôn cố tri tân” về một giai đoạn lịch sử đã qua nhưng còn ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống của mỗi người Việt chúng ta trong cũng như ngoài nước. Và cũng là kinh nghiệm có thể hữu ích trong mối quan hệ hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Một điều cần nói là không có một tài liệu nào, nhất là tài liệu liên quan đến hoạt động tình báo, là hoàn toàn trung thực. Giải mật một tài liệu mật tự nó cũng có thể là một phần của một chương trình tình báo khác. Tài liệu “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam” cũng không ra ngoài quy luật đó. Cho nên sự sử dụng những thông tin do sự giải mật tài liệu này mang lại như thế nào là trách nhiệm của người sử dụng. oOo Trong phần nhập đề ông Thomas Ahern nhắc lại quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954 cho đến ngày 30/4/1975. Ông viết rằng, sau khi người Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, người Mỹ thay thế dần người Pháp vì người Mỹ cho rằng nếu Việt Nam sụp đổ, toàn vùng Đông Nam Á cũng sụp đổ theo thuyết domino. Người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Điệm củng cố miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, qua trung gian ông Ngô Đình Nhu, em ruột của ông Diệm. Cùng với các lực lượng vũ trang của ông Diệm, CIA phát động phong trào dân vệ (self-defense units) để bảo vệ nông thôn. Đây là kinh nghiệm chống nổi dậy đầu tiên của CIA tại Việt Nam. Chương trình của ông Diệm là tiêu diệt các thành phần Cộng Sản để lại miền Nam trước khi rút ra Bắc theo hiệp định Geneva. Đến năm 1959, hầu hết tổ chức Cộng Sản gài lại miền Nam đều bị tiêu diệt. Nhưng chương trình bài Cộng quá nặng tay và thi hành một cách bừa bãi đụng chạm đến các thành phần không cộng trong quần chúng như thành phần thiểu số và tôn giáo khác, mà không có chương trình nâng cao đời sống nông thôn để thu phục lòng dân nên chế độ Diệm mất dần sự ủng hộ của quần chúng. Cuối năm 1959, Hà Nội đưa người vào Nam và làm cho sự kiểm soát của ông Diệm tại nông thôn càng ngày càng lỏng dần. Để cứu chế độ Diệm, Hoa Kỳ tăng cường viện trợ quân sự và kinh tế. Đầu năm 1963, khi cao trào chống chế độ ông Diệm của Phật Giáo nổ ra tại miền Trung, Hoa Kỳ có 12.000 cố vấn quân sự tại miền Nam. Cung cách đàn áp phong trào Phật giáo của ông Diệm không phù hợp với quan niệm tự do tôn giáo của Hoa Kỳ làm cho Hoa Kỳ bất mãn, và đồng thời sự kiểm soát nông thôn của ông Diệm càng ngày càng sa sút, nên vào tháng 8 năm 1963 do đề nghị của đại sứ Henry Cabot Lodge, Hoa Kỳ quyết định hạ bệ ông Diệm. Sau khi quân đảo chánh chiếm bộ Tổng Tham Mưu và giết đại tá Lê Quang Tung, một người làm việc cận kề với CIA và là chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt. các tướng đảo chánh kêu gọi anh em ông Diệm đầu hàng. Ông Diệm và ông Nhu lợi dụng trời tối rời dinh Độc Lập và sau đó bị bắt tại một nhà thờ Công giáo ở Chợ Lớn. Trước đó đại sứ Cabot Lodge có hứa giúp hai anh em ông Diệm và ông Nhu an toàn rời khỏi Việt Nam, nhưng khi ông Diệm và ông Nhu bị bắt thì không thấy Hoa Kỳ nhắc lại. Các sĩ quan của tướng Dương Văn Minh, người lãnh đạo cuộc đảo chánh đã bắn chết hai ông Diệm và Nhu trên một xe thiết giáp. Các ông tướng làm đảo chánh nhưng không có chương trình gì khác hơn là lật đổ ông Diệm, nên sau đảo chánh các tướng lãnh yêu cầu CIA cố vấn trong việc cai trị quốc gia. Tuy nhiên CIA, theo lệnh của đại sứ Lodge, không đưa ra một chương trình gì ngoài việc yêu cầu các tướng đảo chánh tiếp tục con đường chống Cộng và để người Mỹ tham gia vào công cuộc đó một cách tích cực hơn. Tình hình miền Nam suy đồi không phải chỉ do ông Diệm, mà còn do nhiều nguyên nhân khác. Như một bộ máy hành chánh và một quân đội lỗi thời do người Pháp để lại cai trị dân với tác phong huynh trưởng và một nền móng chính trị chưa thành nếp, trong đó các tôn giáo, các thành phần thiểu số và các tầng lớp quần chúng trình độ khác nhau chống báng nhau. Đa số dân chúng theo Phật giáo không có thiện cảm với một chính quyền có quá nhiều người Thiên chúa giáo cầm quyền của chế độ Diệm. Sĩ quan trong quân đội cũng hiềm khích nhau vì tôn giáo, chưa nói giữa người miền Bắc và người miền Nam, giữa người Kinh với người Thượng và người thiểu số gốc Cambốt. Và trầm trọng nhất là chế độ tư hữu ruộng đất phong kiến lỗi thời – nhất là tại đồng bằng sông Cửu Long – làm cho người nông dân không có cơ hội thăng tiến, và vì thế mà dân chúng chỉ còn cách bám víu vào sự tuyên truyền của người Cộng Sản để vươn lên. Chế độ của các ông tướng thay thế ông Diệm tuy ít độc tài hơn chế độ Diệm nhưng không có chương trình gì để đẩy lui chương trình kiểm soát đất và giành dân của người Cộng Sản. Vào cuối năm 1964, Cộng Sản nắm thế thượng phong và miền Nam Việt Nam chỉ chờ sụp đổ. Tháng 8/1964 do vụ tàu Maddox của Hoa Kỳ bị tấn công trong Vịnh Bắc Việt, quốc hội Hoa Kỳ thông qua quyết nghị "Vịnh Bắc bộ" (Tonkin Gulf Resolution) cho phép tổng thống Johnson dùng vũ lực để bảo vệ sự tự do lưu thông trên biển của Hải quân Hoa Kỳ. Để trả đũa, Bắc Việt đưa quân đội chính quy vào miền Nam (chứ không giới hạn là cán bộ chính trị và những đơn vị gốc miền Nam tập kết trở về như trước). Đáp lại, từ tháng 3/1965, tổng thống Johnson bắt đầu đưa quân đội Mỹ đến miền Nam. Vào mùa hè 1965, quân Mỹ tại Việt Nam lên đến 125.000 người và tăng lên nhanh chóng theo thời gian. Lực lượng này giúp miền Nam khỏi sụp đổ và có thì giờ để ổn định chính trị. Tuy nhiên qua năm 1966, tình hình miền Nam cũng không thấy khả quan, trong khi tổn thất của quân đội Mỹ trên chiến trường tăng cao làm cho quốc hội và dân chúng Hoa Kỳ bắt đầu thấy khó chịu vì cuộc chiến dai dẳng. Trước bối cảnh này tổng thống Johnson bắt đầu tìm đường rút lui bằng cách tăng cường chương trình bình định và hủy diệt hạ tầng tổ chức chính trị của Cộng Sản, đồng thời tìm đường giây tiếp xúc với Hà Nội để mưu tìm một giải pháp chính trị. Tình hình chính trị tạm ổn định sau khi tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử tổng thống vào tháng 9 năm 1967 qua một bản Hiến pháp mới. Tháng 2/1968 Cộng Sản tổng tấn công vào các đô thị miền Nam (còn gọi là cuộc tổng tấn công Mậu Thân). Cuộc tấn công thất bại vì không làm sụp đổ được chính quyền ông Thiệu, ngoại trừ làm cho chương trình bình định của ông Thiệu dậm chân tại chỗ. Hạ tầng chính trị của Cộng Sản tại miền Nam sau cuộc tấn công gần như hoàn toàn bị tiêu diệt. Tuy nhiên cuộc tấn công tạo một tâm lý bi quan đối với dân chúng Mỹ và báo giới Hoa Kỳ nên không khí chống chiến tranh tại Mỹ lên cao, buộc tổng thống Johnson vào cuối tháng 3/1968 tuyên bố không ra ứng cử tổng thống lần thứ hai và đề nghị thương thuyết với Hà Nội. Vào tháng 5/1968 khi các cuộc tiếp xúc chính thức giữ Hoa Kỳ và Hà Nội bắt đầu tại Paris, Cộng Sản mở cuộc tấn công Mậu Thân lần thứ 2. Cộng Sản lại thất bại, quân đội Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ lấy lại thế tấn công và cuối năm 1968 xem như bình định và kiếm soát 73% dân chúng miền Nam. Tuy nhiên tình hình này không giúp cho Hubert Humphrey (ứng cử viên đảng Dân chủ) đắc cử để có thể tiếp tục đường hướng của Johnson. Tổng thống Nixon đắc cử và bắt đầu chương trình Việt Nam hóa chiến tranh. Giữa năm 1969 tổng thống Nixon tuyên bố đợt rút quân đầu tiên. Trong 3 năm sau đó, tình hình ngang ngữa với cuộc hòa đàm Paris (bắt đầu vào tháng 1/1969) và cuộc rút quân dần của Hoa Kỳ. Đặc điểm của tình hình chiến trường Việt Nam trong những năm 1969-1971 là trong khi Hoa Kỳ ra sức cải tiến và trang bị cho quân đội miền Nam thì Liên bang Xô Viết và Trung Quốc cũng dồi dào viện trợ cho Bắc Việt. Hai bên Nam - Bắc cố giành đất và dân, chuẩn bị cho một giải pháp chính trị từ cuộc hòa đàm Paris. Mùa Xuân năm 1972 Cộng Sản Bắc Việt mở cuộc đại tấn công miền Nam đe dọa các tỉnh cửa ngõ dẫn vào Sài Gòn, nhưng bị đánh bại bởi quân đội Nam Việt Nam với sự yểm trợ của không lực Hoa Kỳ. Tháng 10/1972 Hà Nội tuyên bố đồng ý về một bản văn ngưng bắn và chấm dứt chiến tranh. Dựa vào đó, trước ngày bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger tuyên bố “hòa bình ló dạng” (peace is at hand). Hòa bình thật sự chưa ló dạng nhưng lời tuyên bố của Kissinger đã giúp tổng thống Nixon đắc cử nhiệm kỳ 2 một cách áp đảo. Sau cuộc bầu cử, Hoa Kỳ đòi thay đổi vài điều khoản trong bản hiệp định dự thảo. Hà Nội phản ứng bằng cách rút ra khỏi cuộc hòa đàm. Tổng thống Nixon cho oanh tạc cơ B52 đánh vùng thủ đô Hà Nội và Hải Phòng trong dịp lễ Giáng sinh buộc Hà Nội trở lại bàn hội nghị và ký bản Hiệp định Paris vào tháng 1/1973. Bản Hiệp định không buộc quân đội Bắc Việt rút ra khỏi miền Nam. Hoa Kỳ tìm cách thi hành hiệp định và giúp Nam Việt Nam tự lực. Nhưng sau đó Nixon dính vào vụ Watergate phải từ chức (tháng 8/1974), Phó tổng thống Gerald Ford trở thành tổng thống Hoa Kỳ. Vào thời điểm này tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài gòn được tin tình báo cho biết quân đội Bắc Việt chuẩn bị tổng tấn công vào năm 1975. Cuộc tấn công mở màn ngày 10/3/1975 tại cao nguyên Trung phần Việt Nam, và kết thúc ngày 30/4/1975 khi xe tăng Bắc Việt tiến vào Sài gòn và trực thăng của đại sứ Hoa Kỳ rời mái nhà tòa đại sứ trước khi trời sáng. Nhân số CIA tại Sài gòn khi ông Diệm bị lật đổ gồm trên dưới 200 người. Một bộ phận lo việc bình định và tình báo. Bộ phận khác lo việc tuyển mộ người làm việc cho CIA hay nới rộng sự liên hệ với các viên chức chính quyền và thành phần đối lập không Cộng để thu lượm tin tức và thúc đẩy xây dựng dân chủ. Khi trận Mậu Thân xẩy ra, nhân số CIA đã lên đến 1000 người, trong đó có 600 nhân viên làm việc tại 4 văn phòng CIA tại 4 vùng chiến thuật. Từ năm 1969 khi Hoa Kỳ bắt đầu kế hoạch giảm quân, nhân sự CIA giảm dần. Bốn vùng vẫn duy trì văn phòng nhưng mọi công tác quan trọng đều dồn về trung tâm CIA tại Sài gòn. Tài liệu “CIA and the Generals: Covert Support to Military Government in South Vietnam” nói về hoạt động của CIA trong nỗ lực không cho Hà Nội chiếm miền Nam sau khi ông Diệm bị lật đổ. Thoạt tiên đại sứ Cabot Lodge cấm không cho CIA liên lạc mật thiết với các ông tướng (VNCH) để duy trì tính độc lập của chính quyền miền Nam trước dư luận quốc tế. Nhưng mấy tháng sau, khi thấy tình hình bất ổn (vì các ông tướng bất lực), đại sứ Lodge cho phép CIA làm việc chặt chẽ với các ông tướng để theo dõi và điều hướng tình hình đảo chánh lên đảo chánh xuống. Quan hệ đặc biệt này của CIA đối với các ông tướng làm cho CIA đóng một vai trò quan trọng trong các biến chuyển chính trị tại Sài gòn, chính yếu là ổn định chính trị, không khác gì ảnh hưởng CIA đã có dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm. Vào năm 1966 CIA dùng ảnh hưởng của mình để thuyết phục các ông tướng hưởng ứng chính sách của chính quyền Johnson lúc đó đang tìm cách liên lạc với các thành phần ôn hòa của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGP). Trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 9 năm 1967, CIA nhận được chỉ thị của Washington ủng hộ liên danh tướng Thiệu và tướng Kỳ, nhưng cần tỏ vẻ trung lập và dùng ảnh hưởng tạo ra một cuộc bầu cử ngay thẳng. Sau khi thắng cử, ông Thiệu loại hết những người Bắc thân tướng Kỳ trong chính quyền, CIA lại phải một phen vận động và tuyển mộ người miền Nam (làm việc cho CIA). Sau cuộc tấn công Mậu Thân, CIA triển khai một kế hoạch thành lập những đảng chính trị có căn bản quần chúng theo mô thức của Hoa Kỳ, nhưng ông Thiệu chưa sẵn sàng xây dựng một căn bản dân chủ cho miền Nam nên nỗ lực này không đưa đến kết quả nào. Tuy nhiên Hoa Kỳ nghĩ rằng ông Thiệu cần thiết cho sự ổn định chính trị nên Hoa Kỳ không thúc bách ông Thiệu. Từ đầu năm 1970 CIA đã có kế hoạch giúp ông Thiệu tái đắc cử nhiệm kỳ 2 dự trù vào cuối năm 1971 nhưng vẫn với cung cách thế nào để tạo ra một hình ảnh bầu cử dân chủ. Qua cuộc tấn công Mậu Thân, CIA nhận ra rằng chừng nào Nga và Trung Quốc còn ồ ạt giúp Hà Nội thì chừng đó Hoa Kỳ còn cần cố vấn và yểm trợ không lực cho Nam Việt Nam nếu muốn Nam Việt Nam sống còn. Khi cuộc tấn công lắng xuống, hòa đàm Paris bắt đầu, công tác chính yếu của CIA là vận dụng để ông Thiệu chấp thuận hướng thương thuyết của Hoa Kỳ tại Paris, và trong công tác này CIA vận dụng nhân sự đã gài trong chính quyền ông Thiệu để áp lực ông Thiệu một cách hữu hiệu. Sau khi ký hiệp định Paris nhiệm vụ của CIA là thúc đẩy ông Thiệu thi hành hiệp định. Vào cuối năm 1974, CIA biết Hà Nội sắp mở cuộc đại tấn công vào đầu năm 1975, nhưng không có kế hoạch gì để ngăn chận. Sau khi ông Thiệu ra lệnh rút quân khỏi cao nguyên trung phần Việt Nam tạo ra sự hỗn loạn, và trước cảnh hỗn loạn tại Đà Nẳng CIA biết rằng khó có đủ thì giờ di tản nhân viên Mỹ, quân nhân và viên chức Nam Việt Nam an toàn ra khỏi Việt Nam, CIA đã thi hành kế hoạch trì hoãn bằng cách vờ thương thuyết với Hà Nội để có thì giờ rút lui. Đó là công tác cuối cùng của CIA trong cuộc chiến Việt Nam. oOo
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:03:32 GMT 9
Chương 1: CIA sau đảo chánh ông Diệm
Một ngày sau ngày đảo chánh, ông Bùi Diễm, một chính trị gia gốc đảng Đại Việt có nhiều quan hệ với CIA cho CIA biết các tướng đảo chánh sẵn sàng nghe lời khuyến cáo của CIA trong việc xây dựng chế độ mới. Nhưng đại sứ Cabot Lodge không muốn CIA quan hệ quá cận kề với các ông tướng.
Thêm nữa, mới mấy ngày đầu, giữa tòa đại sứ Hoa Kỳ và tướng Minh đã có sự bất hòa. Tòa đại sứ Mỹ yêu cầu trả tự do cho ông Trần Quốc Bửu, một lãnh tụ Nghiệp đoàn Lao công, nhưng ông Minh không đồng ý. Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ, bạn của tướng Minh, can thiệp với ông Minh cũng không có kết quả.
Ngày 4/11/63 do sự khẩn khoản của tướng Trần Văn Đôn, đại sứ Lodge cho phép CIA thuyết trình tướng Minh về các chương trình “mật” CIA đang tiến hành, và CIA muốn nhân cơ hội này cố vấn tướng Minh về một số vấn đề chính trị. Nhưng đại sứ Lodge chỉ cho phép CIA cố vấn trong lĩnh vực tình báo và an ninh thôi. Trưởng cơ sở tạm thời của CIA ở Sài gòn là David Smith sau này nhớ lại việc này cho rằng sự hạn chế của đại sứ Lodge đã làm mất một cơ hội tốt cho CIA giúp chính quyền quân nhân đặt một nền móng chính trị cho chế độ mới.
Theo các báo cáo hằng ngày CIA gởi về Tổng hành dinh CIA ở Langley (bang Virginia gần thủ đô Washington D.C.) thì sau đảo chánh không khí chính trị Sài Gòn rất bấp bênh vì thiếu lãnh đạo. Tướng Dương Văn Minh có uy tín hơn các tướng khác, nhưng chỉ đủ để giữ các ông tướng đảo chánh và các chính trị gia ngồi làm việc với nhau. CIA miêu tả tướng Minh như một quân nhân kín đáo và “đơn giản đến độ thơ ngây về chính trị” như ông Mohammad Naguib, tổng thống đầu tiên của Ai Cập (6/1953-11/1954) . CIA đặt một câu hỏi giả tưởng: “Nếu tướng Minh là Naguib thì ai sẽ là Nasser (người lật đổ ông Nuguib và trở thành tổng thống thứ nhì của Ai Cập) của ông Minh?” và câu hỏi đã trở thành sự thật.
Ngoài tướng Minh, CIA còn nhức đầu với tướng Tôn Thất Đính. Tướng Đính yêu cầu CIA cho đại tá Gilbert Layton về nước vì ông này là cố vấn của đại tá Lê Quang Tung. Trong khi đó Phó giám đốc CIA Richard Helms ngỏ ý muốn đại tá Lucien Conein, người liên lạc với hội đồng tướng lãnh trong vụ đảo chánh nên rời nước một thời gian, nhưng David Smith cho rằng Conein còn cần trong nhiệm vụ liên lạc và kềm chế các tướng lãnh tại Sài gòn. Ngày 5/11/1963 William Colby, người phụ trách Cục Viễn Đông tại Langley đến Sài gòn và mở nhiều cuộc tiếp xúc chính trị với các tướng lãnh, một công tác đại tá Conein không đủ kinh nghiệm để làm.
Qua chuyến công tác ông Colby báo cáo về Langley rằng đại sứ Cabot Lodge muốn chỉ huy mọi chuyện ở Sài gòn theo ý ông. Trước đây đại sứ Lodge đã thuyên chuyển John Richardson, trưởng cơ sở CIA ở Sài gòn và nay đang muốn vận động để thay tướng Paul Karkins, người cầm đầu phái bộ yểm trợ quân sự của Mỹ tại Việt Nam (MACV – Miilitary Assistance Command/Vietnam). Richardson và tướng Paul Harkins đều muốn được tự do hơn trong lĩnh vực chuyên môn của mình.
Lúc này tướng Khánh bất mãn với các tướng đảo chánh. Tướng Khánh vốn là người đầu tiên yêu cầu CIA nên sẵn sàng một kế hoạch đảo chánh ông Diệm, nhưng sau đó CIA chọn tướng Trần Văn Đôn làm người liên lạc chính. William Colby sau khi gặp tướng Khánh ở Đà Lạt để nghe tướng Khánh tố cáo sự bất tài của các tướng đảo chánh báo cáo với Langley rằng tướng Khánh để một chùm “râu dê” và thề chỉ cạo râu sau khi tình hình tại Sài gòn sáng sủa hơn.
Kể từ ngày tổng thống Kennedy nhậm chức cho đến khi bị ám sát tại Dallas (22/11/1963) lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam tăng từ 875 người lên đến 16.000 người. Nhân viên dân sự kể cả nhân viên CIA cũng tăng theo đà tăng quân số nhưng đã không làm cho tình hình miền Nam sáng sủa hơn. Tổng thống Johnson thay Kennedy cương quyết giải quyết tình trạng bế tắc. Cuối tháng 12/1963 ông gởi một phái đoàn gồm bộ trưởng quốc phòng McNamara và giám đốc Trung ương tình báo John A. McCone đến Sài Gòn. Tổng thống Johnson yêu cầu John McCone bổ nhiệm một nhân vật đủ trọng lượng để thay trưởng cơ sở CIA tại Sài Gòn John Richardson (đã rời Sài gòn và đang được Phó cơ sở David Smith tạm thời thay thế.) John McCone chọn Peer de Silva. Trước khi Peer de Silva rời Washington đi Sài gòn nhậm chức tổng thống Johnson mời ông vào tòa Bạch ốc vào phút chót dặn dò rằng đừng quên năm tới (1964) là năm bầu cử tổng thống Hoa Kỳ. Tổng thống Johnson không muốn thấy tòa đại sứ và cơ sở tình báo cứ chống báng nhau như giữa Lodge và Richardson. Ngày 7/12/63 tổng thống Johnson điện cho đại sứ Lodge rằng ông muốn thấy một mối quan hệ làm việc tốt giữa đại sứ và tân trưởng cơ sở.
Ngày 18/12/1963 phái đoàn McNamara đến Sài Gòn. CIA báo cáo Hội đồng Quân nhân bất lực vì chia rẽ và tham nhũng và lực lượng cộng sản mạnh hơn trước. McCone kết luận rằng tình hình sống còn của miền Nam rất mong manh và những gì được báo cáo về Washington những năm trước đây đều xa với sự thật.
Trước tình hình đó các tướng vẫn không ngừng chia rẽ và hất cẳng nhau. Giữa tháng 12/1963 tướng Dương Văn Minh thuyên chuyển tướng Nguyễn Khánh ra Vùng I chiến thuật ở Đà Nẵng. Đầu tháng 1/1964 tướng Minh tự phong làm Tổng Tư Lệnh quân đội. Hai tuần sau, CIA nhận được một báo cáo của Chỉ huy trưởng Lực lượng Đặc biệt (người thay đại tá Lê Quang Tung) rằng tướng Trần Văn Đôn có thảo luận giải pháp trung lập hóa Nam Việt Nam với một giới chức người Pháp đang thăm viếng Sài gòn. Trước tin này CIA không động tỉnh gì vì vắng hai nhân vật chính yếu là Al Spera, nhân viên CIA liên lạc với tướng Khánh (và đã được tướng Khánh cho biết dự định đảo chánh) và Lucien Conein. Al Spera bị đổi về Mỹ vì tính tình nóng nảy khó làm việc với người khác. Còn Lucien Conein thì được bộ Ngoại giao triệu về Washington để tham khảo. Conein đề nghị nên phái cho mỗi vị tướng đảo chánh một cố vấn Hoa Kỳ làm việc trực tiếp dưới quyền đại sứ Mỹ. Đại sứ Lodge bác bỏ ý kiến này.
Khi Peer de Silva đến Sài Gòn tướng Khánh muốn gặp để thông báo tin tức ông có về vụ các tướng âm mưu trung lập hóa miền Nam nhưng Peer de Silva chần chừ chưa muốn gặp. Tướng Khánh bèn chuyển tin cho một người quen cũ là đại tá Jasper Wilson thuộc phái bộ MACV rằng chính phủ Pháp đang vận động trung lập miền Nam qua tướng Mai Hữu Xuân, vốn là một nhân vật tình báo của Pháp. Cùng với các nguồn tin khác Peer de Siva báo cáo âm mưu trung lập về Washington. Ngày 29/1 tướng Khánh cho đại tá Wilson biết thêm rằng ngoài tướng Mai Hữu Xuân, hai tướng Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim cũng theo phe trung lập và tướng Khánh cho biết sẽ dùng vũ lực để bẻ gảy âm mưu này. Đại sứ Lodge (khi được đại tá Wilson báo cáo) điện tin này về Washington và thông báo ngay cho tướng Harkins. Riêng Peer de Silva chỉ được thông báo sau khi CIA vặn hỏi tòa đại sứ mục đích của tướng Khánh khi gặp đại tá Wilson.
Vào lúc 3:15AM sáng ngày 30/1/64 đại tá Wilson từ bộ chỉ huy Lữ đoàn Dù thông báo tòa đại sứ rằng tướng Khánh cùng tướng Trần Thiện Khiêm sẽ làm đảo chánh trong vòng vài giờ nữa để loại các tướng trung lập ra khỏi thành phần chính phủ, và rằng tướng Minh đã được thông báo và đồng ý. Cuộc đảo chánh (gọi là chỉnh lý) đã diễn ra như dự tính (của tướng Khánh và CIA?). Năm tướng trung lập Xuân, Kim, Đôn, Đính và Nguyễn Văn Vỹ bị bắt và được quản thúc tại gia tại Đà Lạt. Tướng Minh tạm thời được giữ lại ở chức vụ quốc trưởng.
Sau chỉnh lý không lâu, CIA nhận ra rằng Khánh không có khả năng huy động quân đội và quần chúng đoàn kết lại để ngăn chận cộng sản, do đó CIA chuyển nỗ lực qua sự tuyển mộ và làm quen với các sĩ quan hay nhân viên dân sự cấp dưới, những người không tuyệt đối trung thành với Khánh để chuẩn bị thế hành động về sau. Một trong những sĩ quan đó là đại tá Không quân Nguyễn Cao Kỳ, vừa mới nhận chức Tư lệnh Không quân. CIA miêu tả Kỳ là một sĩ quan thích “bề ngoài” (flamboyant) nhưng có khả năng làm người khác theo mình (charismatic). Tháng 2/1964, Kỳ nói với Russ Miller, một nhân vật CIA đang viếng Sài Gòn rằng các sĩ quan trẻ cần được giao các chức vụ chỉ huy xứng đáng, nếu không chế độ của tướng Khánh cũng sẽ có cùng số phận như chế độ Dương Văn Minh!
Người khác là tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Tham mưu trưởng liên quân. Thiệu là người kín đáo, âm thầm bổ nhiệm các sĩ quan gốc Đại Việt vào các chức vụ quan trọng và giải thích với David Smith rằng các sĩ quan này có kinh nghiệm và khả năng phá hủy tổ chức của cộng sản. Nhưng CIA biết rằng tướng Thiệu muốn dùng các sĩ quan Đại Việt để âm mưu lật ông Khánh.
Như từng làm đối với tướng Minh, Peer de Silva thuyết trình cho tướng Khánh các chương trình của CIA về bình định và tình báo. Khánh đồng ý với chương trình bình định và ủy nhiệm phó thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn (Đại Việt) làm việc với CIA về chương trình bình định. Ông Nguyễn Tôn Hoàn có những quan hệ đặc biệt với CIA từ giữa thập niên 1950. Peer de Silva cho Khánh biết CIA cũng đang làm việc với các chính trị gia đối lập không cộng và khuyên tướng Khánh không nên lo ngại gì vì mục đích của CIA là nắm bắt không khí chính trị tại Sài Gòn. Cũng do yêu cầu của tướng Khánh, CIA huấn luyện toán vệ sĩ bảo vệ tướng Khánh.
Theo đánh giá của CIA tướng Khánh thông minh, năng động và có tài tổ chức, nhưng ông không làm được việc gì vì một phần do không khí chia rẽ tại Sài gòn, một phần vì “cái tôi” của ông quá lớn. Trong bối cảnh đó, Khánh – cũng như ông Diệm và ông Minh – chỉ biết trông cậy vào sự ủng hộ của người Mỹ. Khánh yêu cầu CIA vạch một kế hoạch giúp Khánh đào tẩu trong trường hợp bị đảo chánh, trái lại CIA dùng ảnh hưởng bên cạnh Khánh để bảo đảm an ninh cho các tướng “Đà Lạt”.
Bước vào mùa Xuân năm 1964 tình hình an ninh miền Nam xấu hơn. Tướng Khánh và đại sứ Lodge cùng nhận định rằng, với tình hình này tướng Võ Nguyên Giáp có thể xua quân sang vĩ tuyến 17 chiếm 5 tỉnh tại địa đầu miền Trung. Tướng Khánh đề nghị giải pháp “tiên hạ thủ vi cường” Hoa Kỳ nên tấn công ra Bắc trước để gỡ áp lực cho miền Nam. Khi McNamara đến thăm Sài Gòn lại vào giữa tháng 5-1964, tướng Khánh nhắc lại đề nghị này, nhưng McNamara không “ừ hữ” gì . McNamara chỉ nhấn mạnh với tướng Khánh rằng từ lúc ông Diệm bị lật đổ đến nay miền Nam mất thêm vào tay Việt Cộng 200 xã, tức 12% đất đai. Vào lúc này do áp lực của Hoa Kỳ, Khánh trả tự do cho 5 tướng Đà Lạt. Lucien Conein gặp các tướng Đà Lạt sau khi được trả tự do chỉ để nghe các tướng than phiền và chỉ trích Khánh, ngoại trừ tướng Đôn nói ông có thể ủng hộ tướng Khánh (trong nỗ lực chống cộng sản).
Khánh có khả năng hơn tướng Minh, nhưng ít uy tín đối với sĩ quan hơn, và tình trạng chia rẽ trong quân đội vào thời điểm này báo hiệu sự ra đi của Khánh vào đầu năm sau.
Câu hỏi đối với CIA là: giúp tướng Minh, rồi giúp tướng Khánh, Hoa Kỳ có làm cho các tướng đoàn kết với nhau và có huy động được sự ủng hộ của quần chúng miền Nam trong công cuộc chống Cộng không? Câu trả lời hình như là “không”. Theo CIA , mọi nỗ lực của Hoa Kỳ đối với ông Ngô Đình Diệm trong năm 1955, cũng như sau này đối với tướng Minh, tướng Khánh chỉ có kết quả kéo dài một tình trạng không tránh được là sụp đổ.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:04:39 GMT 9
Chương 2: Cabot Lodge đi, Taylor tới. Nguyễn Khánh đi và ngôi sao Thiệu-Kỳ xuất hiện.
Tháng 6/1964 Cabot Lodge về Mỹ tham gia cuộc vận động tranh cử tổng thống cho ứng cử viên Barry Goldwater. Tổng thống Johnson bổ nhiệm đại tướng Maxwell Taylor thay thế. Maxwell Taylor nổi tiếng là một viên tướng tài, từng chiến đấu trong Thế chiến 2, từng là Tham mưu trưởng liên quân và cố vấn quân sự của cố tổng thống Kennedy.
Đến Sài Gòn, tướng Maxwell mở cuộc tiếp xúc với thành phần quân dân chính, nhưng với tác phong huynh trưởng tự cao tự đại ông đã làm mất lòng các tướng lãnh Việt Nam buộc CIA phải làm trung gian hòa giải, một điều cần thiết nhưng đại sứ Maxwell Taylor không muốn CIA làm. Cuộc tranh cử tại Hoa Kỳ làm cho quan hệ giữa tướng Khánh và Maxwell Taylor trở nên nặng nề hơn. Như đã nói, vào tháng 5 tướng Khánh thuyết phục McNamara oanh tạc miền Bắc để gỡ áp lực cộng sản đang đè nặng các tỉnh địa đầu Nam Việt Nam. Các chiến lược gia Hoa Kỳ cũng có tính toán như vậy nhưng chưa quyết định dứt khoát nên Washington khuyên tướng Khánh không nên tuyên bố gì vì đảng Dân chủ đang tố cáo ông Barry Goldwater muốn mở rộng chiến tranh. Nhưng ngày 19/7/64 tướng Khánh kêu gọi “Bắc tiến”, và sau đó tướng Kỳ nói đã đến lúc dội bom Bắc Việt. Maxwell Taylor nổi giận thì Khánh bảo đó là ý của Hoa Kỳ chứ không phải ý kiến cá nhân của ông.
Số phận của tướng Minh là một nguồn bất hòa khác giữa tòa Hoa Kỳ và tướng Khánh. Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Dean Rusk muốn tướng Khánh dùng uy tín của tướng Minh và khối Phật giáo đang ủng hộ tướng Minh cho nỗ lực chiến tranh, trong khi các sĩ quan Công giáo trong quân đội muốn đẩy tướng Minh ra khỏi chức vụ quốc trưởng dù chỉ là một chức hờ.
Tháng 8/1964 do tình hình suy đồi và (có thể) nhu cầu tranh cử, nhân các tiểu đỉnh Bắc Việt hai lần (ngày 2 tháng 8 và ngày 4 tháng 8) tấn công tàu chiến của Hoa Kỳ (vụ Maddox) tổng thống Johnson ra lệnh oanh tạc các căn cứ tiểu đỉnh của Bắc Việt. Ngày 7 tháng 8 quốc hội thông qua quyết nghị Vịnh Bắc Bộ cho phép tổng thống Johnson rộng tay xử dụng sức mạnh quân sự.
Lợi dụng tình hình, ngày 16/8 các tướng họp mật tại Vũng Tàu (không có tướng Minh tham dự), và do đề nghị của tướng Kỳ, biểu quyết cách chức tướng Dương Văn Minh cử tướng Khánh làm quốc trưởng, và công bố Hiến chương Vũng Tàu.
Các thành phần Phật giáo và Công giáo đều xuống đường phản đối (CIA nghi có bàn tay bên trong của tướng Trần Thiện Khiêm) buộc tướng Khánh hủy bỏ Hiến chương, thành lập “tam đầu chế” gồm Khánh-Minh-Khiêm do Khánh cầm đầu để lãnh đạo đất nước và hứa sẽ thành lập chính phủ dân sự trong vòng 60 ngày. Thời gian này trong quân đội có hai tụ điểm quyền lực kình chống nhau, một do đa số người gốc miền Bắc và một do các thành phần thuộc đảng Đại Việt. Tướng Khánh ở trong nhóm thứ nhất ra sức bứng các thành phần Đại Việt ra khỏi chính phủ; trong khi nhóm Đại Việt tính toán đảo chánh tướng Khánh.
Thời gian này CIA bắt đầu chán tướng Khánh vì quân đội chia rẽ và sự bất hòa gia tăng giữa tướng Khánh và đại sứ Maxwell Taylor. Một hôm tướng Khánh mời Lucien Conein lên Đà Lạt để than phiền đại sứ Taylor và yêu cầu Conein trình lại cho đại sứ Taylor. Conein bàn với Peer de Silva và Silva đồng ý nên cho đại sứ Taylor biết (vì quyền lợi chung?). Sau khi nghe Conein thuật lại, đại sứ Taylor nén giận và hỏi Conein “có hiểu tiếng Pháp không?”(tướng Khánh và Conein dùng tiếng Pháp). Mấy hôm sau vào ngày 2/9 đại sứ Taylor nói với Peer de Silva ông nghĩ Conein không có việc gì phải làm ở Sài Gòn nữa.
Ngày 11/9 tướng Khánh cho Peer de Silva biết ông có nhận được một lá thư của Thượng Tọa Thích Trí Quang, lãnh tụ khối Phật giáo Ấn Quang hứa ủng hộ, nhưng tướng Khánh nói ông không tin vào lời hứa này. Trong khi đó có nguồn tin cho CIA hay các sĩ quan Đại Việt sắp hành động chống tướng Khánh. Phần Khánh thì đang cùng tướng Kỳ với Phạm Ngọc Thảo tính toán kế hoạch thanh trừng nhóm Đại Việt.
Ngày 13/9 một nhóm sĩ quan Công giáo miền Nam và Đại Việt cùng chuẩn tướng Nguyễn Văn Thiệu chuyển quân về Sài gòn định đảo chánh tướng Khánh, nhưng bất thành do sự can thiệp của tướng Kỳ, Tư lệnh Không quân. Tướng Khánh nhân cơ hội này loại trừ các sĩ quan Đại Việt ra khỏi các chức vụ quan trọng.
Ỷ vào công trạng Kỳ tuyên bố linh tinh làm CIA rất lo âu. Mặc dù Kỳ là người chủ trương dội bom miền Bắc, đường giây của CIA báo cáo rằng Kỳ nói Kỳ có thể bỏ trốn ra Hà Nội. Tổng hành dinh CIA ở Langley yêu cầu CIA Sài gòn tích cực điều tra xem thật sự Kỳ đang suy tính gì. CIA Sài gòn đánh giá Kỳ là một người tầm thường, không có tham vọng chính trị. Ông ta chỉ là người ưa nổi tiếng cho rằng mình có tư thế tạo ra người lãnh đạo (king maker). Cũng theo CIA, ông Kỳ đôi khi hành động bốc đồng vô trách nhiệm, thiếu thông minh và không làm người khác kính nể. CIA nghĩ nên cho Russ Miller (một nhân viên CIA thân thiết với Kỳ và Khánh) trở lại Sài gòn làm việc với Kỳ.
Cuối tháng 9/1964 Miller đến Sài Gòn công tác . Gặp Kỳ (bây giờ tự coi mình như đại diện cho nhóm tướng trẻ -young Turk) và tướng Cao Văn Viên, Tham Mưu Trưởmg Liên quân. Kỳ xác nhận vẫn ủng hộ Khánh. Riêng tướng Viên nhận xét với Miller rằng, “cuộc chiến này chỉ có thể thắng nếu các tướng miền Nam có thêm uy tín chính trị”
Ngày 3/10 William Colby, giám đốc Viễn Đông Sự Vụ của Langley đến Sài gòn tìm hiểu tình hình. Khánh than phiền CIA đã thuyên chuyển những người thân tín của ông như Spera và Conein ra khỏi Sài Gòn trước cuộc binh biến 13/9 là có hậu ý. Ông Colby giải thích rằng Spera và Conein đã “hết công tác” tại Việt Nam và hứa sẽ chuyển người thân tín khác với Khánh là Miller đến Sài Gòn. Ông Colby báo cáo về Langley rằng cần phục hồi quan hệ giữ hai chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ vì sự bất hòa giữa đại sứ Taylor với Khánh vào cuối tháng 9/64 quá căng thẳng và “không phải không có lý do” ám chỉ thái độ kênh kiệu của đại sứ Maxwell Taylor cũng là nguyên nhân của tình trạng này. Tình hình xáo trộn nội bộ phía các tướng Việt Nam làm cho CIA thiếu cảnh giác đối với tướng Trần Thiện Khiêm. Khiêm là người liên lạc chính yếu của Miller và có một vai trò quan trọng và khó hiểu trong chính quyền Khánh. Khiêm là bộ trưởng quốc phòng của Khánh, nhưng người ta nghi ông đã xúi giục cuộc biểu tình chống Khánh mùa hè 1964. Tháng 8 Khánh từ chức, Khiêm trở thành một trong “tam đầu chế”. Tháng 10 Khánh thành công sắp xếp gởi Khiêm đi công tác Tây Đức. Trong buổi làm việc cuối cùng với Russ Miller, Khiêm than phiền Khánh quá nhượng bộ phe Phật giáo và vì chưa có bằng chứng gì rõ ràng phe Phật giáo đang chủ trương trung lập và chống Hoa Kỳ nên ông ta chưa đảo chánh ông Khánh thôi.
Như đã hứa thành lập chính phủ dân sự, tháng 10 Khánh mời ông Trần Văn Hương làm thủ tướng. Riêng Khánh vẫn giữ chức tư lệnh quân đội, đồng thời “nói ra nói vào” để làm suy giảm uy tín tướng Minh đối với Hoa Kỳ. Trong khi đó Russ Miller theo sát sự chuyển biến động thái của tướng Kỳ. Kỳ bắt đầu ý thức về các vấn đề chính trị và nói với Miller ông ngại rằng sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ sẽ thôi không giúp Nam Việt Nam nữa. Lúc này Kỳ nghiễm nhiên là lãnh tụ của nhóm tướng trẻ và CIA đánh giá là người có quyền lực nhất tại Sài Gòn.
Rạng sáng ngày 20/12/1964 Khánh gọi Miller và thông báo ông sắp công bố quyết định giải tán Thượng Hội đồng Quốc gia (thành lập hai tháng trước để khoác một chiếc áo dân sự lên chính quyền quân nhân) vì Hội Đồng này không đồng ý với các tướng trẻ cho các tướng già - trong đó có tướng Dương Văn Minh – nghỉ hưu. Trước đây đại sứ Taylor đã khuyên Khánh không nên ép tướng Minh nghỉ hưu, nên Taylor hết sức bất bình. Taylor mời 4 tướng trẻ liên hệ trong nội vụ (gồm Khánh, Khiêm, Thiệu, Kỳ) đến tòa đại sứ than phiền các tướng làm hư hỏng nỗ lực giúp đỡ Việt Nam của Hoa Kỳ. Khánh không tới và Maxwell Taylor đích thân đến bộ Tổng Tham Mưu gặp Khánh và tuyên bố thẳng thừng rằng Khánh không còn được sự ủng hộ của Hoa Kỳ nữa. Khánh nói (nếu vậy) ông sẽ từ chức và đại sứ Taylor nói ông không thấy trở ngại.
Nhưng mãi không thấy Khánh từ chức. Ngày 22/12 đại sứ Taylor gởi Miller xuống Vũng Tàu gặp Khánh để hỏi Khánh tính sao. Khánh nói Khánh sẽ từ chức để duy trì nỗ lực chiến tranh, và yêu cầu Miller nên sắp xếp để bộ trưởng McNamara và Giám đốc CIA McCone đến thăm Việt Nam cho biết tình hình. Khánh nói rằng ông ta hay các tướng trẻ có thể sẽ họp báo tố cáo sự can thiệp vào nội bộ của đại sứ Taylor và dọa rằng cuộc họp báo có thể đưa đến các cuộc biểu tình chống Mỹ tại Sài Gòn.
Cuộc họp báo không xẩy ra, nhưng các young Turk bắt đầu vận động Washington thuyên chuyển đại sứ Maxwell Taylor, đồng thời cũng áp lực đẩy Khánh đi để duy trì sự viện trợ quân sự và kinh tế của Hoa Kỳ. Tháng 1/1965 Khánh lập chính phủ dân sự với ông Phan Huy Quát (Đại Việt) làm thủ tướng. Đa số các bộ do các chuyên viên dân sự nắm giữ, ngoại trừ tướng Thiệu giữ chức bộ trưởng Bộ Quân Lực kiêm Phó Thủ tướng sau khi được thăng Thiếu tướng, và Kỳ giữ bộ Thanh Niên & Thể Thao kiêm Tư Lệnh Không quân.
Ngày 3/2/1965 Kỳ nói với Miller rằng các tướng trẻ không còn ủng hộ Khánh và đã đến lúc Khánh ra đi. Ngày 5/2/65, khi Cố vấn An ninh Quốc gia McGeorge Bundy đến Sài gòn chuẩn bị một đợt tăng quân thì Việt Cộng cho đánh bom một căn cứ không quân Mỹ tại Pleiku làm thiệt mạng 8 quân nhân. Hoa Kỳ trả đũa bằng một đợt dội bom Bắc Việt. Hai tuần sau, ngày 19/2 một cuộc đảo chánh để lật Khánh xẩy ra nhưng không bắt được Khánh. Vụ đảo chánh này do các sĩ quan Đại Việt và Công giáo trong đó có tướng Lâm Văn Phát (giống như thành phần chủ chốt cuộc đảo chánh tháng 9/1964). Cuộc đảo chánh bất thành vì không được các tướng trẻ ủng hộ. Ngày 21/2 Kỳ nói với Miller rằng cần để cho tướng Khánh tự nguyện từ chức hơn là lật ông ta.
Nhưng Khánh không từ chức một cách dễ dàng. Ngày 22/2 đại sứ Taylor họp ban tham mưu để tìm cách giải quyết bế tắc. Tướng Westmoreland (người thay tướng Harkins) tự nguyện đi Vũng Tàu thuyết phục Khánh, nhưng đại sứ Taylor thấy cương vị của tướng Westmoreland không đáng làm việc đó và cử Miller đi thay. Kết quả Khánh từ chức ngày 24/2 và được cử đi làm đại sứ lưu vong. Đại tá Lê Văn Nhiều, giám đốc Trung ương Tình báo của Khánh cũng xin đi lưu vong với Khánh. Tướng Trần Văn Minh nắm tư lệnh quân đội thay tướng Thiệu để Thiệu nắm chức Chủ tịch Hôi đồng Quân Lực thay tướng Khánh .
Chính phủ dân sự Khánh để lại hoàn toàn bất lực. Tình hình nông thôn bi đát hơn trong khi tướng Trần Văn Minh cũng không tỏ ra khá hơn gì mấy ông tướng khác. Trước tình trạng này giới chức cao cấp của Hoa Kỳ có ý tổ chức liên quân Mỹ-Việt để thống nhất lãnh đạo và các đơn vị quân đội Việt Nam sẽ hành quân chung với quân đội Mỹ. Chương trình này không được thực hiện.
Trả đũa vụ oanh tạc Bắc Việt sau vụ đánh căn cứ Không quân Pleiku, cộng sản đánh bom một căn cứ Mỹ tại Quy Nhơn giết 23 lính Mỹ. Ngày 2/3/65 Hoa Kỳ quyết định oanh tạc thường xuyên Bắc Việt trong một chiến dịch mang tên là Chiến Dịch Sấm Động (Operation Rolling Thunder), và ngày 8/3/65 các đơn vị Thủy Quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Đà Nẵng.
Quân đội Mỹ gia tăng quân số tại Việt Nam làm nhẹ gánh cho quân đội VNCH và CIA bắt đầu dùng các đường giây dân sự để thẩm định khả năng của tướng Trần Văn Minh và tướng Lê Nguyên Khang, tư lệnh TQLC và 8 tướng khác (ghi chú: tài liệu không ghi danh). Nhân vật chính trong đường giây này là thủ tướng Phan Huy Quát.
Lúc này Việt Cộng đẩy mạnh chiến dịch khủng bố. Hôm 29/3 một xe bom nổ cạnh tòa đại sứ Hoa Kỳ làm thiệt mạng một thư ký và cơ sở trưởng CIA Sài Gòn Peer de Silva bị thương. Peer de Silva được đưa về Mỹ điều trị. Phó trưởng phòng là Gordon Jorgensen thay. Jorgensen sinh ở Nhật khi bố mẹ đi truyền giáo ở đó. Ông gia nhập ngành tình báo quân đội trong Thế chiến 2 và gia nhập CIA năm 1953 ở cấp bậc Trung tá. Năm 1960, Jorgensen làm trưởng phòng CIA ở Lào. Sau đó trở về Langley phụ trách tổ chức các lực lượng bán quân sự trước khi được thuyên chuyển đến Việt Nam cuối năm 1963.
Thời gian trước khi tướng Khánh đi lưu vong CIA biết Khánh có tiếp xúc với Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng (MTGP). Tháng 4/65 Lucien Conein đến gặp Khánh ở New York và hỏi Khánh về các quan hệ này. Khánh nhận có những tiếp xúc này qua Đại Tá Lê Văn Nhiều. Khánh nói nếu Washington định tiếp xúc với Hà Nội và xâm nhập MTGP Khánh có thể nối lại đường giây. CIA cũng cử Al Spera gặp đại tá Nhiều tại Mỹ vào mùa hè 1965 để lấy thêm tin tức. Nhưng không thấy CIA đá động gì đến vụ này nữa.
Tháng 6 các tướng trẻ giải tán chính phủ dân sự và thành lập Hội Đồng Lãnh Đạo Quốc gia do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch (tương đương với quốc trưởng), và tướng Kỳ giữ chức chủ tịch Ủy ban Hành Pháp Trung ương (tức Thủ tướng).
Theo CIA, rất khó phán đoán Thiệu vì ông ta kín đáo và trong thành phần phụ tá cận kề của ông ít có người giao tiếp với CIA. Nhận định chung của CIA Thiệu là người thận trọng, đa nghi quá mức cần thiết và kỵ người ngoại quốc (xenophobic).
Trái lại, Kỳ rất dễ biết vì có nhiều nhân sự thân cận Kỳ có quan hệ với CIA.Theo CIA Kỳ là một phi công giỏi, có khả năng lôi kéo người khác theo mình (charismatic), nhưng không có kinh nghiệm hành chánh và thích làm chuyện giật gân nguy hiểm. Kỳ thích uống rượu, đánh bạc và ve gái. Một nguồn tin nói rằng sau khi bị ông Diệm tạm giữ một thời gian do vụ hai phi công thưộc Không quân bỏ bom dinh Độc Lập ngày 2/1/1962, ông Kỳ nói ông khoái những vụ bỏ bom như vậy vì tính gay cấn của nó chứ không phải vì chính trị.
Ông Kỳ làm việc hết mình ở chức vụ thủ tướng. Ông đưa ra một chương trình chiến tranh 26 điểm, nhưng tình hình chiến tranh không thấy xoay chuyển. Lúc này Hoa Kỳ có 50.000 quân tại Việt Nam và từ tháng 5/1965 tổng thống Johnson cho phép quân đội Hoa Kỳ trực diện đánh nhau với quân đội Bắc việt. Ngày 21/6 Jorgensen gặp thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ thuyết trình cho Kỳ biết chương trình tình báo và sự tiến triển của chương trình bình định. Nhân dịp này Kỳ yêu cầu CIA thông báo kịp thời cho ông nếu có âm mưu đảo chánh.
Sau khi chính phủ Phan Huy Quát sụp đổ, CIA rất lo ngại phản ứng của khối Phật Giáo Ấn Quang. Ấn Quang vốn có cảm tình với chính phủ của thủ tướng Quát. Mặt khác, Thượng Tọa Thích Trí Quang vốn không tin ông Thiệu và ông Kỳ, nay thấy Hoa Kỳ ủng hộ chính phủ Thiệu-Kỳ nên quan hệ giữa Phật giáo và tòa đại sứ Hoa Kỳ trở nên lạt lẽo.
Lúc này nhiệm kỳ đại sứ Maxwell Taylor vừa tròn một năm, và ông ta – do căng thẳng giữa ông với các tướng lãnh ở Sài gòn, và sự phản đối của ông đối với chính sách dùng quân đội Mỹ tác chiến tại Việt Nam - không được tổng thống Johnson mời ở lại. Ngày 8/7/1965 ông từ chức đại sứ và cựu đại sứ Henry Cabot Lodge trở lại Sài Gòn thay thế ông.
Sự trở lại của ông Lodge không cải thiện quan hệ với khối Ấn Quang vì đại sứ Lodge không muốn CIA dính líu nhiều đến chuyện chính trị nội bộ của Việt Nam. Một bất đồng ý kiến khác: khối Ấn Quang đòi hỏi tổ chức bầu cử để hợp pháp hóa chính quyền miền Nam trong khi đại sứ Lodge cho rằng tình hình chiến tranh không cho phép tổ chức bầu cử.
Để ve vãn khối Ấn Quang, CIA liên lạc với thầy Trí Quang hứa giúp tài chánh để Ấn Quang thực hiện chương trình đào tạo tăng ni nếu Ấn Quang không dùng số tiền này vào công việc chống chính phủ. Trao đổi qua lại đến tháng 8/1965 Ấn Quang đồng ý nhận sự trợ giúp của CIA. Sự trợ giúp này từ tháng 5 đến tháng 12/1965 tổng cọng gồm 2 triệu đồng (tương đương với thời giá 12.500 mỹ kim).
Chiến dịch bỏ bom Bắc Việt và sự tham chiến của quân đội Hoa Kỳ giúp tình hình quân sự của miền Nam trở nên sáng sủa. Lợi dụng tinh hình này CIA đẩy mạnh chương trình bình định. Trên danh nghĩa Hoa Kỳ chỉ cố vấn các giới chức Việt Nam, nhưng trên thực tế CIA điều hành trực tiếp chương trình bình định từ cấp tỉnh trở xuống.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:05:29 GMT 9
Chương 3: Hoa Kỳ tìm đường rút lui
Tháng 3, 1965 khi Trung đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ đổ bộ lên Đà Nẵng, quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam là 27.000 người. Ngày 6/4 quân Mỹ bắt đầu hành quân đánh nhau với quân Bắc việt. Tháng 5 Lữ đoàn 173 Dù tới. Và vào tháng 6 năm 1966 quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam lên đến 285.000 người.
Mùa hè năm 1965, trước khi tổng thống Johnson cho đưa quân đến Việt Nam, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ yêu cầu CIA dò dẫm tìm xem có sự bất hòa nào giữa Mặt trận Giải phóng miền Nam (MTGP) với Hà Nội không để mở đường thương thuyết, nhưng Phó giám đốc CIA Richard Helm cho rằng đó là một ý kiến thiếu thực tế, vì sự dọ dẫm qua một nước thứ ba không thể giữ kín và sẽ làm cho Hà Nội cũng như Sài gòn nghĩ rằng nỗ lực bảo vệ miền Nam của Hoa Kỳ đã suy mòn. Mãi một năm sau CIA mới thực sự mở đường dò tìm.
Trong khi đó lực lượng Phật giáo tại Huế mở màn cuộc tranh đấu phản đối chính phủ Nguyễn Cao Kỳ khi Kỳ định bổ nhiệm một Hội đồng nghiên cứu Hiến pháp thay vì tổ chức bầu cử một Quốc hội Lập hiến viết Hiến Pháp đặt căn bản cho sự thành hình một chính phủ dân sự.
Thời gian này nội bộ quân đội VNCH chia rẽ nhau. Nhóm sĩ quan Công giáo và trung thành với cựu tổng thống Ngô Đình Điệm chống nhóm ghét-Diệm và Đại Việt, và hai nhóm này cùng chống lại nhóm sĩ quan thân Phật giáo chủ trương trung lập. Tướng tư lệnh Vùng I chiến thuật có khuynh hướng thiên phe Phật giáo chống Kỳ. Lo ngại sự bất hòa nội bộ quân đội làm tổn thất nỗ lực chiến tranh, CIA và các tướng Westmoreland, tư lệnh quân đội Mỹ và tướng Lewis W. Walt chỉ huy TQLC Hoa Kỳ tại vùng địa đầu phải đứng ra hóa giải.
Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ thay tư lệnh này đến tư lệnh khác tại Vùng I vẫn không làm yên được tình hình chống đối chính quyền trung ương của Phật giáo. Ngày 19/5 Thiệu và Kỳ đưa quân ra Đà Nẵng nhanh chóng chiếm các chùa và doanh trại quân sự do phe chống đối chiếm. Tuy nhiên phong trào chống chính quyền vẫn chưa bị dập tắt, và tòa đại sứ Mỹ lo ngại dư luận quần chúng Hoa Kỳ sẽ bất lợi cho cuộc chiến tranh vì lúc này quân đội Mỹ đang lãnh phần hành quân.
Tại Huế, cuộc tranh đấu có màu sắc chống Mỹ. Các Phật tử biểu tình trước tòa lãnh sự Mỹ và đốt phòng thông tin Hoa Kỳ. Đại sứ Lodge hốt hoảng trước biến chuyển này và ông đánh điện báo cáo cho tổng thống Johnson rằng có những dấu hiệu “hiển nhiên” cho thấy cộng sản đã xâm nhập Phật giáo. Trong hồi ký của Peer de Silva, ông ta cũng dùng những danh từ nặng nề kết án Thượng Tọa Trí Quang, và William Colby cũng vậy. Tuy nhiên theo CIA về mặt tình báo không có thông tin nào vững chắc chứng tỏ rằng phong trào tranh đấu của Phật giáo do cộng sản chủ mưu. Cuối tháng 6, Kỳ dẹp tan nhóm quân nhân chống đối ở miền Trung và ổn định tình hình. CIA cũng chấm dứt chương trình trợ cấp cho thầy Trí Quang.
Giữa năm 1966 khi chính phủ Nguyễn Cao Kỳ tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến, CIA lại liên hệ với các ông tướng trong việc yểm trợ ngân khoản vận động . Qua yêu cầu của tướng Nguyễn Ngọc Loan, Giám đốc cảnh sát quốc gia và An ninh quân đội, với sự đồng ý của đại sứ Lodge, ngày 25/8 CIA cấp cho Loan 10 triệu đồng (tương đương 85.000 mỹ kim) để bù vào ngân khoản của cảnh sát Loan đã dùng để yểm trợ cuộc vận động tranh cử của các ứng cử viên thân Kỳ. Sau đó John Hart đến Sài gòn thay cho Gordon Jorgensen làm trưởng cơ sở CIA Sài gòn.
Hart muốn làm việc sát với các tướng hơn, và giữa tháng 11 đã yêu cầu Langley cấp 14 triệu đồng cho Loan để củng cố vị trí của Kỳ. Loan nói Kỳ cần số tiền này để tránh sự xoi mói của các tướng trong Hội đồng Lãnh đạo Quốc gia rằng Kỳ đã dùng quỹ đen của văn phòng thủ tướng cho mục tiêu chính trị, và sự xoi mói này đang đe dọa vị trí của Kỳ.
Langley không chấp thuận đề nghị của John Hart vì nghi ngờ Loan và đề nghị thay thế Loan. Số tiền 10 triệu đồng đã giúp Loan chỉ làm cho Kỳ bớt lúng túng (trước sự nhòm ngó của Hội đồng Lãnh đạo) nhưng đã không giúp ích gì vào kết quả cuộc bầu cử. Hai ứng cử viên thân Kỳ tại Đà Nẳng đều thất cử.
Tướng Nguyễn Ngọc Loan là một sĩ quan thông minh, quyền biến và tuyệt đối trung thành với Kỳ, nhưng Loan có tính độc lập ít nghe lời cố vấn của Hoa Kỳ và đôi khi có tác phong rất “hề” như đi làm mặt đồ trận, chân đi dép cao su và không bao giờ đúng hẹn, và đặc biệt coi thường quyền cá nhân của người khác và xem thường các chương trình của chính phủ để thu phục lòng dân. John Hart sau này nhận xét rằng, Hart thích tính của Loan dù chưa có lần nào Loan nghe lời ông ta, và có lẽ Loan là giới chức Việt Nam duy nhất dám thẳng thắn nói với giới chức Hoa Kỳ rằng ông không đồng ý khi ông không đồng ý việc gì. Khi Langley tính thay thế Loan, CIA và tòa đại sứ Hoa Kỳ đứng trước một vấn đề nan giải là ai có khả năng thay Loan. Hart nói rằng nếu Hoa Kỳ muốn ủng hộ Kỳ thì không thể thay thế Loan. Loan đã chứng tỏ rất hữu ích trong hai nỗ lực của CIA trong năm 1967 là: (1) Phát triển một đường giây tiếp xúc với thành phần MTGP có khả năng độc lập với Hà Nội và (2) Duy trì sự ổn định của chính phủ Kỳ.
Hoa Kỳ có ý tìm một giải pháp chính trị cho cuộc chiến Việt Nam từ mùa Xuân năm 1966 khi John Hart đến Sài gòn thay thế Peer de Silva. Hart cho mở một phòng (gọi là Viet Cong Branch) chuyên lo việc tìm đường giây tiếp xúc với MTGP không qua các thông tin từ phía VNCH. Đến cuối năm 1966 văn phòng này đã mở được vài đường giây.
Tại Washington, từ đầu năm 1966 bộ trưởng quốc phòng McNamara đã nghĩ cuộc chiến không thể thắng bằng quân sự và tổng thống Johnson đã có khuynh hướng tìm một giải pháp chính trị. Tổng thống Johnson bổ nhiệm đại sứ W Arerell Harriman làm đại sứ hòa bình (Ambassdor for Peace).
Qua tin tức cung cấp bởi một nhân viên người Việt làm việc với phái bộ viện trợ kinh tế Mỹ tại Sài gòn, Washington tưởng rằng đã có điều kiện cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ (chủ tịch MTGP) bỏ MT và ra lệnh cho tòa đại sứ Hoa Kỳ chuẩn bị một chiếc máy bay cho Thọ bay sang Cam bốt. Được lệnh chuẩn bị máy bay, CIA cho điều tra và khám phá ra đây là tin “dỏm”. Sau vụ này CIA tìm cách tiếp xúc với con gái của Thọ ở Sài gòn, nhưng cô ta nói cha con cô bất hòa và cô không chịu hợp tác.
Trong nỗ lực tiếp xúc với MTGP, CIA tìm cách tiếp cận với Trần Bửu Kiếm, ủy viên ngoại giao của MTGP, một người – theo hồ sơ CIA – có tư tưởng phóng khoáng và vợ của Kiếm đang bị cảnh sát của Loan giam giữ. CIA và đại sứ Lodge đề nghị Việt Nam trả tự do cho bà ta để lấy lòng Kiếm. Sự tiếp xúc này cũng là một cách đo lường xem MTGP và lực lượng quân sự của MT có độc lập với Hà Nội không và nếu có thì độc lập đến mức độ nào. Ngày 28/1 thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ cho đại sứ Lodge biết Việt Nam đồng ý kế hoạch tiếp xúc (mặc dù Kỳ biết khởi đầu Hoa Kỳ thực hiện việc tiếp xúc này sau lưng Kỳ). Russ Miller, phụ tá của John Hart sắp xếp vụ trao đổi tù nhân với Kỳ và Loan. Ngày 16/2 Loan giao bà Phạm thị Yến (vợ của Trần Bửu Kiếm ) cho CIA. Sau vài ngày tẩm bổ cho lại sức CIA làm việc với bà Yến và bà tiết lộ bà đồng ý một giải pháp chính trị hơn là giải pháp quân sự của Hà Nội. Bà Yến nói bà không tin có sự bất hòa nào giữa MTGP và Hà Nội. Bà từ chối đề nghị của CIA lén mang radio để liên lạc, nhưng hứa sẽ chuyển thư hay lời nhắn gì của CIA đến chồng bà. Russ Miller đích thân hộ tống bà Yến đến biên giới Miên-Việt trong tỉnh Tây Ninh ngày 28/2 và giao cho MT tại đó. Trong hai tháng CIA không được hồi âm. Ngoài Trần Bửu Kiếm, CIA còn mở đường tiếp xúc qua tướng Dương Văn Minh, khi đó đang lưu vong ở Bangkok. CIA muốn ông Minh tiếp xúc với người em là Dương Văn Nhựt, sĩ quan cao cấp trong quân đội Bắc Việt. Minh từ chối yêu cầu này nói rằng tuy là anh em, nhưng mỗi người một lý tưởng khác nhau.
Ngày 1/4/67, Quốc hội Lập hiến thông qua bản Hiến pháp và dự trù bầu tổng thống vào mùa Thu. Ngày 1/5/67 đại sứ Ellworth Bunker đến Sài gòn thay Lodge. Ông Bunker tích cực can thiệp vào cuộc bầu cử mà CIA đã chuẩn bị sân chơi từ tháng 2/67 khi yêu cầu Kỳ thành lập một MT đoàn kết quốc gia để chuẩn bị ra ứng cử tổng thống. Tướng Westmoreland và đại sứ Bunker có ý ủng hộ Thiệu. Trong khi đó Washington muốn Hoa Kỳ giữ thái độ trung lập giữa Thiệu và Kỳ. Tháng 3/67 một nhà xuất bản Hoa Kỳ đề nghị xuất bản một cuốn sách cho Kỳ. CIA muốn nhân dịp này yêu cầu Kỳ công khai xác định lập trường hợp tác với Hoa Kỳ, đồng thời (để tăng uy tín của Kỳ) đề nghị Kỳ tuyên bố tặng tiền bán sách cho các cơ sở từ thiện. Dự tính này rơi vào quên lãng. Ngày 12/5 Kỳ tuyên bố ra ứng cử tổng thống. Tháng 5/1967 Loan đi công tác Hoa Kỳ và công khai nói rằng tại sao Kỳ không thể dùng bộ máy chính quyền trong tay để vận động tranh cử. Phó giám đốc CIA Richard Helm và giám đốc Cục Viễn Đông của CIA William Colby nguội lạnh trước ý kiến này và lưu ý Loan nên để tâm đến việc tiếp xúc với MTGP. Loan không phản đối và đề nghị CIA cứ làm việc đó với đường giây riêng của mình. Việc Loan muốn dùng thế chính phủ vận động cho Kỳ, trong khi tòa đại sứ Hoa Kỳ muốn giữ thế trung lập giữa Thiệu và Kỳ buộc đại sứ Bunker tìm cách vận động cách chức Loan. Nhưng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ muốn dùng Kỳ bảo Loan không nên làm quá trớn.
Miller gặp Kỳ ngày 21/6 để áp lực. Kỳ hứa sẽ nói với Loan và sẽ chuyển chức vụ giám đốc An ninh Quân đội (của Loan) cho người khác. Trước đó Miller đã dùng hai đàn em thân tín của Kỳ (làm việc cho CIA) gặp Kỳ đề nghị Kỳ nên triệu tập các tỉnh trưởng và quận trưởng toàn quốc về họp và chỉ thị không được dùng thế chính quyền để ủng hộ Kỳ để chứng tỏ Kỳ không lạm dụng quyền lực. Trong buổi gặp này Kỳ nói với Miller rằng Kỳ có sáng kiến sẽ triệu tập các tỉnh, quận trưởng cũng với với mục đích như vậy. Miller biết “sáng kiến” này đến từ đâu!
Đại sứ Bunker hài lòng với cách thức gián tiếp “thuyết phục Kỳ” như vậy để thực hiện bề ngoài trung lập theo chỉ thị của bộ Ngoại giao.
Nhưng một biến chuyển bất ngờ xẩy ra (?). Hội đồng tướng lãnh Việt Nam sau 2 ngày họp, ngày 30/8/67 tuyên bố đã ép Kỳ đứng phó cho liên danh Thiệu-Kỳ để tránh chia rẽ quân đội. Kỳ giải thích quyết định này trong riêng tư rằng ông làm vậy vì “quyền lợi quốc gia” và rằng ông Thiệu đồng ý sau khi đắc cử mọi quyền hành đều giao cho Kỳ (như Kỳ là tổng thống) và Thiệu chỉ là tổng thống làm vì.
Ngoài liên danh Thiệu-Kỳ còn có nhiều liên danh dân sự trong đó có liên danh của ông Trần Văn Hương là nổi bật nhất. Hoa Kỳ không muốn thấy một tổng thống dân sự nhưng vẫn tỏ ra trung lập giữa hai ứng cử viên Thiệu và Hương. Ngày 21/6 Kỳ gặp Miller và đề nghị cử Nguyễn Xuân Phong, một nhân vật thân CIA và là một viên chức trong bộ máy tranh cử của liên danh Thiệu-Kỳ làm trung gian giữa liên danh Thiệu-Kỳ với CIA. Phong có nhiệm vụ thông báo cho Miller mọi kế hoạch tranh cử của liên danh và nhận đề nghị của Miller. Ngày 20/7 Phong báo cáo với Miller rằng Thiệu sẵn sàng đóng vai trò phụ sau khi đắc cử như Kỳ đã nói trước đây. Và qua Phong, trong tháng 7/67 Kỳ nhận của Hoa Kỳ 5 triệu đồng để tổ chức một Mặt Trận tôn giáo và chính trị ủng hộ liên danh quân nhân.
Dù yểm trợ như vậy, CIA vẫn lo ngại liên danh Thiệu-Kỳ có thể thất cử, nên đồng ý với đề nghị của Phong để cho Loan dùng cảnh sát công an “vận động” phiếu cho Thiệu-Kỳ trong những vùng Thiệu-Kỳ có khả năng không có phiếu. Ngày 26/7 Miller chuyển cho Phong một cương lĩnh vận động tranh cử (sau khi đại sứ Bunker đã duyệt) gồm hứa tăng lương cho quân nhân và công chức, chống tham nhũng và phát triển đời sống vùng nông thôn. Kỳ đồng ý và hình như không thông báo gì cho Thiệu. Kỳ yêu cầu Hoa Kỳ yểm trợ thêm tiền và dọa rằng nếu Hoa Kỳ không giúp Kỳ phải dùng Loan “mượn tiền” nơi một số người. Dù vậy Hoa Kỳ vẫn không giúp thêm, và vài ngày sau Phong cho Miller biết Kỳ đã giải tỏa 8 triệu đồng cho bộ máy tranh cử trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tiền đâu ra ? CIA thắc mắc thì Phong cho biết tiền do Loan xoay. Đại sứ Bunker còn một đề nghị sau cùng là Kỳ từ chức thủ tướng 2 tuần trước ngày bầu cử, nhưng Kỳ thẳng thừng gạt bỏ ý kiến của Bunker.
Giữa tháng 8/67 liên danh Trần Văn Hương yêu cầu Hoa Kỳ yểm trợ tài chánh tranh cử. Đã giúp liên danh Thiệu-Kỳ, đại sứ Bunker muốn giúp Hương để giữ thế trung lập, nhưng Washington không thuận. Một điều đáng ghi nhận là trong cuộc tranh cử, Thiệu âm thầm để Kỳ và Loan tự do làm việc với tòa đại sứ Mỹ qua trung gian Nguyễn Xuân Phong.
Ngày 3/9/1967 Thiệu-Kỳ thắng cử với 35% số phiếu bầu. một kết quả quá khiêm nhường so với ưu thế của liên danh quân đội. CIA cho rằng có lẽ nhân viên các cấp bỏ tiền vận động vào túi thay vì dùng để vận động. Sau cuộc bầu cử người ta thấy Thiệu không im lặng như trước bầu cử và không đóng vai trò phụ cho Kỳ như mọi người tưởng. Hoa kỳ lo ngại sự thể này có thể làm Kỳ từ chức Phó tổng thống hay tệ hơn là công khai kèn cựa với Thiệu tổn hại đến tinh thần quân đội và nỗ lực chiến tranh.
Đụng chạm đầu tiên: Đài truyền hình NBC muốn phỏng vấn Thiệu và Kỳ trong chương trình “Meet The Press”. Thiệu nói với NBC chỉ cần phỏng vấn tổng thống là đủ. Kỳ nổi giận và Miller phải tìm cách khuyên Kỳ tự chế. Trong khi đó Hart lo việc vận động Quốc hội Lập hiến hợp thức hóa kết quả bầu cử và dọn đường làm việc với Thiệu. Mười ngày sau Miller gặp Thiệu và Thiệu đồng ý nhận Miller làm trung gian giữa phủ tổng thống với tòa đại sứ. Ngày 2/10 Quốc hội Lập hiến hợp thức hóa sự đắc cử của liên danh Thiệu - Kỳ và ngày 31/10 tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ tuyên thệ nhậm chức.
CIA cũng bắt đầu bận rộn chuẩn bị cuộc bầu cử quốc hội dự trù tổ chức vào tháng 12/1967. Bộ Ngoại giao Mỹ đồng ý chi 3.000 mỹ kim cho mỗi đối tượng dân biểu thân Hoa Kỳ (Bunker chỉ đề nghị $1.500 mỹ kim).
Sáu tuần lễ trước đó Loan bắt được một đường giây với MTGP do việc cảnh sát bắt được một cán bộ cấp thấp của MT là Trương Đình Tòng. Anh ta mang một lá thư của Trần Bạch Đằng gởi đại sứ Bunker đề nghị trao đổi tù nhân. Đại sứ Bunker yêu cầu Thiệu giúp đồng thời làm việc với Loan. Ngày 9/7/67 Loan giao Trương Đình Tòng cho CIA để trả về Cục R theo đường Củ Chi. Hơn 10 ngày sau Tòng trở lại mang thư của Trần Bạch Đằng cho biết sẵn sàng nói chuyện với Hoa Kỳ về việc trao đổi tù nhân. CIA trang bị dụng cụ liên lạc cho Tòng (để tránh việc đi qua đi lại dễ bị lộ) và ngày 28/9 CIA đưa Tòng về cục R qua biên giới Việt Miên. CIA yêu cầu tướng Westmoreland ngưng tấn công trong vùng đó 24 giờ để bảo đảm an toàn cho Tòng.
MTGP không dùng dụng cụ liên lạc do CIA cung cấp. Ngày 25/10 Tòng trở lại mang thư cho biết ngoài việc trao đổi tù nhân MT sẵn sàng trao đổi các vấn đề khác nhưng khẳng định không nói chuyện với chính quyền của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Thời gian này Phó tổng thống Hubert Humphrey viếng Sài gòn và ông tỏ ra quan tâm nhiều đến việc móc nối với MTGP hơn là để thì giờ hỏi han sự tiến triển của chương trình bình định. Ngày 4/11 đại sứ Bunker đích thân thông báo tổng thống Thiệu về cuộc tiếp xúc với MTGP. Hôm sau 5/11 Miller gặp Thiệu để bàn vào chi tiết kế hoạch. Thiệu đồng ý để Loan làm việc với CIA về mặt kỹ thuật, riêng ông ta sẽ quyết định mặt chính trị. Hoa Kỳ cảm thấy khó khăn khi cùng làm việc với Thiệu và Loan để thảo bức thư trả lời cho MTGP. Thiệu lo rằng việc liên lạc với MTGP dù có chính phủ Việt Nam tham dự hay không cũng đều làm mất tư thế chính trị của chính phủ Việt Nam nếu bị tiết lộ. Thật ra đã có sự tiết lộ và CIA nghi Loan là thủ phạm. Loan dọa từ chức cho rằng tổng thống Thiệu bổ nhiệm nhiều nhân vật thân cộng vào chính phủ làm trở ngại chương trình “chống cộng sản phá hoại” (subversion) của ông.
Ở mức độ kỹ thuật, thời gian này, có sự bất đồng ý kiến giữa Loan và Hoa Kỳ. Loan chỉ đồng ý trả tự do cho Tòng và người mang thư đầu tiên của Trần Bửu Kiếm, trong khi Hoa Kỳ muốn trả tự do cho 10 tù nhân trong danh sách của MTGP. Được Miller thông báo chi tiết, tổng thống Thiệu cho rằng người Mỹ quá “ngây thơ” đối với cộng sản và cho rằng việc trao đổi tù nhân sẽ làm giảm uy tín của ông đối với quân đội và nhân dân miền Nam.
Đầu tháng 12/67 Bunker đích thân gặp Thiệu và thuyết phục Thiệu đồng ý trả tự do cho 3 người gồm bà Mai Thị Vàng, vợ của Trần Bạch Đằng, Tòng và người mang thư đầu tiên của Kiếm. Tòng và người mang thư của Kiếm được trả tự do tại phía Tây Sài gòn trong vùng cộng sản kiểm soát. Riêng bà Vàng sau thời gian dưỡng sức, CIA đưa bà đến căn cứ Củ chi, từ đó bà theo một đoàn xe của quân đội Mỹ đi Tây ninh và được thả dọc đường, nơi có hẹn trước vào ngày 5/1/68. Ngày 18/1 Tòng trở lại cho biết MTGP sẽ trả tự do cho 2 tù nhân Mỹ và 14 tù nhân Việt Nam.
Ngày 30/1, cộng sản mở cuộc tấn công Mậu Thân, nhưng Hoa Kỳ vẫn không lơ là theo dõi việc trao trả tù nhân. Ngày 3/2 Miller gặp Thiệu yêu cầu Thiệu thả thêm tù nhân đế đáp lễ MTGP. Theo một danh sách của Miller cộng sản đã trả tự do cho 70 quân nhân Mỹ Việt trong khi phía Việt Nam mới thả 40 tù nhân bị thương và bệnh hoạn. Miller áp lực Thiệu rằng Washington (ý là tổng thống Johnson) hết sức quan tâm đến vụ trao đổi tù nhân này.
Hy vọng Kỳ có thái độ hợp tác với Hoa Kỳ (về việc tiếp xúc với MT qua việc trao đổi tù nhân) hơn tổng thống Thiệu, ngày 8/2 Miller gặp Kỳ và cho Kỳ biết – theo Tòng – cộng sản đánh trận Mậu Thân là để tạo điều kiện cho cuộc thương thuyết nên Việt Nam nên thả thêm tù nhân.
Kỳ hứa sẽ thảo luận thêm với Thiệu. Sau đó ngày 22/2/68 Tòng và 4 tù nhân khác được trao trả cho cộng sản. Tòng không bao giờ trở lại Sài gòn nữa và cuộc trao đổi tù nhân với MTGP chấm dứt. Mấy tháng sau cuộc thương thuyết tìm một giải pháp chính trị cho Việt Nam chính thức chuyển sang bàn hội nghị tại Paris.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:08:54 GMT 9
Chương 4- Trận tấn công Mậu Thân và nỗ lực của Mỹ chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam
Khoảng tháng 12/67 tình báo Hoa Kỳ đoán biết cộng sản sắp mở một cuộc tấn công. Và cuộc tấn công đã diễn ra tại Sài gòn ngày 31/1 vào lúc ngưng bắn nhân dịp Tết Mậu Thân. Cộng sản không lật đổ được chính phủ Việt Nam như dự tính, nhưng làm trì trệ chương trình bình định nông thôn của Việt Nam. Tướng Westmoreland xin thêm quân số mặc dù lúc đó Hoa Kỳ đã có 495.000 binh sĩ tại Việt Nam.
Sự thể tình báo Hoa Kỳ không nắm được tin tức chính xác trước một cuộc tấn công rộng lớn toàn quốc như vậy làm cho CIA rất lúng túng. CIA chỉ biết vài tin tức và không đủ để có một bức tranh tổng quát. Do tin từ tỉnh Long An, CIA biết cộng sản định dùng cuộc tấn công để áp lực Sài gòn thành lập chính phủ liên hiệp với sự tham dự của MTGP. Do tin tức từ Nha Trang, CIA biết cộng sản dự tính chiếm Pleiku và Kontum. Hai ngày trước cuộc tấn công CIA biết thêm tin cộng sản cho thành lập 6 phân khu quanh Sài gòn, nhưng không đoán ra đó là sự chuẩn bị của cộng sản để đánh vào Sài gòn.
Trước các tin tình báo này Westmoreland cho chuyển mấy tiểu đoàn quân Mỹ về vùng Sài gòn và ra lệnh quân đội báo động. Ngày 29/1 tình báo Việt Nam biết rõ rằng cộng sản sẽ tấn công vào dịp Tết. Nhưng đã quá trễ để ban hành thêm những biện pháp đối phó. Một số quân nhân đã đi nghỉ phép nhân cuộc hưu chiến Tết. Và Hà Nội đã có lợi thế “bất ngờ chiến thuật”.
Khi quân đội VNCH và quân đội Mỹ đã chận đứng được cuộc tấn công của cộng sản, George Carver thuộc trung ương CIA phụ trách Việt Nam và ban tham mưu của ông bắt đầu bắt tay vào việc phân tích sự mạnh yếu quân sự và chính tri của Hà Nội và VNCH qua cuộc tấn công và phản công. Sau khi đúc kết George Carver đưa ra một kế hoạch chấn chỉnh rộng lớn mang tên là “Operation shock”. CIA nhận định rằng quân đội VNCH thắng về mặt quân sự vì đã gây tổn thất lớn cho quân đội cộng sản và tiêu diệt được hạ tầng. Nhưng sự việc cộng sản có thể giữ kín chi tiết một cuộc tấn công như vậy cho thấy VNCH chưa tranh thủ được sự ủng hộ của quần chúng nông thôn. Và trận tấn công Tết Mậu Thân đã tạo một cú “shock” lớn đối với chính quyền, báo chí và dư luận dân chúng Mỹ.
Phúc trình của George Carver kết luận rằng tâm lý của tướng lãnh Việt Nam là ỷ lại vào Mỹ nên VNCH không có chương trình vận động và tranh thủ quần chúng, và các tướng chỉ đánh giặc cầm chừng. CIA nhận định rằng cần thay đổi tức khắc tâm lý nguy hiểm này và cần chọn người có khả năng để giao trách nhiệm.
Hoa Kỳ đề nghị tổng thống Thiệu giao các bộ Quốc Phòng, Nội vụ và Phát triển nông thôn cho tướng Nguyễn ĐứcThắng. Và giao cho Kỳ thực hiện một chương trình thanh lọc sĩ quan và công chức cấp cao tham nhũng và bất tài và thành lập một Mặt Trận chính trị có căn bản quần chúng gồm mọi thành phần không cộng sản.
Hoa Kỳ dự tính yêu cầu Thiệu hoàn tất chương trình trong 100 ngày với sự giúp đỡ vật chất của Hoa Kỳ ngoài các chương trình viện trợ hiện hữu. Hoa Kỳ tính rằng sau 100 ngày nếu Thiệu không làm được Hoa Kỳ sẽ (1) áp lực Thiệu từ chức để thay thế bằng một nhân vật có khả năng, (2) Hoa Kỳ có thể oanh tạc Bắc Việt và mở đường thương thuyết với Hà Nội để chuẩn bị rút quân (3) Xem MTGP là một thực thể chính trị để tiến đến sự thành lập một chính phủ liên hiệp. Phó giám đốc CIA Richard Helm gởi bản phúc trình đến các cơ sở có trách nhiệm hoạch định chính sách về Việt Nam, nhưng không thấy cơ sở nào chính thức trả lời. Ngoại trừ những bồ câu như phụ tá bộ trưởng ngoại giao Nicolas Katzenback và thứ trưởng quốc phòng Paul Nitze khen bản phúc trình, trong khi những diều hâu như Walt Rostow ở bộ Ngoại giao và tướng Earl Wheeler Tham mưu Trưởng Liên quân thì chê, cho rằng thiếu thực tế.
Bản phúc trình George Carver rơi vào sự quên lãng.Tuy nhiên bản điều nghiên này của trung ương CIA là bản điều nghiên thấu triệt và dứt khoát nhất của Hoa Kỳ đối với cuộc chiến Việt Nam sau trận Mậu Thân. Nó ảnh hưởng lớn đến quyết định của tổng thống Johnson ngày 31/3/68 khi ông tuyên bố ngưng dội bom một phần Bắc Việt, đề nghị với Hà Nội mở cuộc thương thuyết và không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ 68-72 nữa. Tại Việt Nam CIA ghi nhận quân đội VNCH đã chiến đấu anh dũng và chận đứng được âm mưu thúc dân nổi dậy của cộng sản, và cho rằng bản điều nghiên của George Carver và ban tham mưu của ông không sát với thực tế. Trước sự đứng vững của chính phủ Thiệu và tổn thất lớn lao của quân đội cộng sản dân chúng miền Nam có vẻ yên tâm hơn. Và đại sứ Bunker thuyết phục tổng thống Thiệu nên nhân cơ hội lên tiếng động viên thêm nữa tinh thần nhân dân miền Nam và ban bố những biện pháp quân sự và tuyên truyền vận động quần chúng.
Nhược điểm trầm kha của miền Nam là không nhân sự có khả năng để giúp người lãnh đạo. Người có chút uy tín lúc đó là Thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn, cựu tướng lãnh, thông minh, có khả năng thu hút và còn được dân chúng mến chuộng. Đặng Đức Khôi, một người thân tín của Kỳ và có nhiều quan hệ với CIA đã giúp Đôn thành lập Mặt trận Cứu nguy Dân tộc ra mắt ngày 18/2/1968 với sự yểm trợ tiền bạc của CIA. Khôi, dù trung thành với Kỳ cũng nghĩ rằng việc kèn cựa giữa Thiệu và Kỳ cần chấm dứt và Hoa Kỳ hy vọng Mặt trận Cứu nguy sẽ làm việc với Thiệu. Nhưng tổng thống Thiệu không có ảo vọng Mặt trận Cứu nguy (vốn do người của Kỳ kiểm soát) sẽ ủng hộ mình nên ông xúc tiến thành lập một phong trào quần chúng khác lấy tên là Lực lượng Tự do Dân chủ (Free Democratic Force) ra mắt tại Sài gòn trong tháng 3/68. Bối cảnh chính trị chia rẽ này, theo CIA, thật không phù hợp với quyết định của Hoa Kỳ xuống thang chiến tranh và bỏ ý định đánh bại Hà Nội bằng quân sự qua tuyên bố của tổng thống Johnson ngày 31/3.
Nhân vật mới cầm đầu cơ sở CIA Sài gòn là Ralp Katrosh sang thay thế Russ Miller (Miller đã tạm thay John Hart trước đó). Katrosh làm việc con thoi với Thiệu và Kỳ và hứa rằng những gì người này nói sẽ không được ông rỉ tai cho người kia nên Thiệu và Kỳ đều tưởng rằng CIA chỉ ủng hộ mình. Trong khi đó Mặt trận Cứu Nguy của Kỳ và Lực lượng của Thiệu đều thất bại không đoàn kết được quần chúng đứng sau lưng chính phủ. Qua Katrosh, Bunker thuyết phục Thiệu và Kỳ lập một Liên Minh chung do hai người cùng đứng yểm trợ gồm mọi đảng phái. Liên Minh ra mắt ngày 4/7/68 với sự đồng hiện diện của Thiệu và Kỳ (do áp lực của tòa đại sứ) và gồm Mặt Trận của Kỳ, Lực Lượng của Thiệu, Nghiệp đoàn Công Nông của Trần Quốc Bửu và 25 nhóm chính trị nhỏ khác. Thiệu không có thiện cảm và cũng không có thì giờ dành cho Liên Minh nhưng ông tham gia chỉ vì áp lực của Hoa Kỳ. Tổng thống Thiệu thường bóng gió với Katrosh (để Katrosh báo cáo lại cho đại sư Bunker) rằng trò chơi mặt trận quần chúng kiểu tây phương không “ăn tiền” tại Việt Nam, tại đây trong chiến tranh tại nông thôn quân sự là chính.
Để làm việc với Thiệu và Kỳ, Katrosh dùng Nguyễn Xuân Phong và tướng Khiêm (do tổng thống Thiệu chuyển về từ Washington và đang giữ chức tổng trưởng Nội vụ). Vào tháng 5/68 đại tá Trần Văn Hai thay tướng Loan sau khi tướng Loan bị thương khi đánh nhau với cộng quân tại Chợ Lớn trong cuộc tấn công Mậu Thân đợt 2. Đại Tá Hai cũng là một nhân vật cận kề với CIA.
Tháng 6/1968 Thiệu hoàn tất chương trình cô lập Kỳ. Các nhân vật thân cận Kỳ và đa số làm việc với CIA đều bị gạt ra khỏi các chức vụ then chốt, và CIA lúng túng vì thiếu người trung thành hợp tác làm việc. Thành phần CIA đã móc nối còn làm việc cạnh ông Thiệu đều là người không đáng tin, trong đó có một nhân vật làm việc gần gũi và có một ảnh hưởng giới hạn nào đó đối với quan điểm củaThiệu về mặt nỗ lực vận động quần chúng. CIA không biết sự việc này do cộng sản giựt giây hay chỉ vì quyền lợi cá nhân và hiểu biết giới hạn. Thiệu biết nhân vật này làm việc với CIA và đôi khi dùng sự quan hệ giữa y với Russ Miller (và sau này với Katrosh) để gián tiếp chuyển quan điểm của mình đến đại sứ Bunker. Trong tháng 9 và tháng 10/1968 trước áp lực của Hoa Kỳ yêu cầu Thiệu đồng ý với đường lối thương thuyết của Hoa Kỳ tại Paris, Thiệu hai lần báo động có đảo chánh với gợi ý gián tiếp cho Hoa Kỳ biết Kỳ muốn đảo chánh. Để trấn an CIA báo cho các tay đàn em của Kỳ biết Hoa Kỳ không chấp thuận bất cứ âm mưu nào chống Thiệu.
Do nhu cầu bầu cử tổng thống Hoa Kỳ ngày 5/11/1968, ngày 31/10/1968 tổng thống Johnson ra lệnh ngưng oanh tạc trên toàn cõi Bắc việt, và trước đó tổng thống Johnson gởi một tối hậu thư cho tổng thống Thiệu biết Hoa Kỳ sẽ đẩy mạnh cuộc thương thuyết với Hà Nội dù Thiệu có đồng ý hay không. Đáp lễ, ngày 2/11 tổng thống Thiệu đọc diễn văn phản đối Hoa Kỳ, cho rằng việc ngưng dội bom và tiến hành thương thuyết với Hà Nội với mọi giá là chủ bại. Ngày 5/11 Richard Nixon đánh bại ứng cử viên đảng Dân chủ Hubert Humphrey và đắc cử tổng thống. Đảng Dân chủ và dư luận cho rằng thái độ chống thương thuyết của Thiệu đã giúp Nixon đắc cử. Sự việc này làm mối quan hệ giữa hai chính phủ Mỹ- Việt trở nên nguội lạnh gần cả tháng sau đó.
Ngày 19/11 Katrosh giúp Liên Minh 4 triệu đồng và cho Thiệu biết tổng thống đắc cử (president-elect) Nixon vẫn ủng hộ Thiệu.
Nixon duy trì đại sứ Bunker tại Sài gòn và thay trưởng cơ sở CIA Lapham bởi Ted Shackly. Nhiệm vụ của Shackly là chuẩn bị cuộc đấu tranh chính trị khi hòa đàn Paris có kết quả. Lúc này tổng thống Thiệu dùng tướng Đặng Văn Quang và Hoàng Đức Nhã để liên lạc với CIA và quan hệ Mỹ-Việt trở nên ấm áp dần.
Tháng 1/1969 Thiệu đuổi khéo Kỳ khỏi Sài gòn bằng cách cử Kỳ sang Paris quan sát cuộc thương thuyết. Tại đây Russ Miller, bạn thân của Kỳ bay sang để hy vọng nhờ Kỳ đẩy nhanh cuộc hòa đàm. Ngày 7/2/69 sau khi gặp Kỳ, Miller báo cáo với Cyrus Vance trưởng đoàn thương thuyết Hoa Kỳ rằng Kỳ chấp nhận đường lối thương thuyết với Hà Nội và MTGP của Hoa Kỳ một cách dễ dàng, khác hẵn với quan điểm cứng rắn của tổng thống Thiệu. Con đường chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam bắt đầu .
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:10:40 GMT 9
Chương 5: Sự bối rối và làm nản lòng
Vụ quân nhân Mỹ Bắn chết thường dân ở Mỹ Lai vừa bị phanh phui thì giữa năm 1969 CIA dính líu vào một vụ tai tiếng vì bị nghi ngờ có nhúng tay vào vụ thủ tiêu một điệp viên cộng sản tại Nha Trang. Một đơn vị Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ nghi một thanh niên Việt Nam làm việc cho Lực lượng là tay trong của cộng sản, nhưng không muốn giao cho cơ quan an ninh Việt Nam xử lý vì sợ lộ bí mật tình báo nên ngỏ ý nhờ CIA xử lý giúp. CIA không nhận nhưng không trả lời rõ ràng nên Lực lượng Đặc biệt tự xử lý bằng cách đem đương sự bắn bỏ rồi thả trôi ngoài biển Nha Trang.
Shackley báo cáo nội vụ lên đại sứ Bunker và tướng Abrahams, và vụ giết người trái phép bị báo chí phanh phui làm cho phong trào chống chiến tranh tại Hoa Kỳ thêm lửa.
Hai sự việc khác là vụ dân biểu Trần Ngọc Châu và Huỳnh Văn Trọng cũng làm cho quan hệ giữa tổng thống Thiệu với tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài gòn giữa năm 1969 trở nên căng thẳng lúc chương trình bình định và phát triển nông thôn đang tiến hành khả quan.
Trần Ngọc Châu là một nhân vật từng làm việc với CIA. Châu là người vạch ra chương trình bình định nông thôn sau khi ông Diệm bị lật đổ rất thành công tại tỉnh Kiến Hòa nơi ông làm tỉnh trưởng. Ông Châu lập chương trình cho phép dân khiếu kiện sự sai trái của chính quyền để qua đó tiếp cận lấy tin tức tình báo về nhân sự và cơ sở của Việt cộng. Châu còn giúp CIA thí nghiệm một chương trình săn lùng các đảng viên lãnh đạo của cộng sản trong tỉnh Kiến Hòa. Cuối năm 1965 CIA xin Châu về chỉ huy một Trung tâm huấn luyện tại Vũng Tàu. Nhưng “cái tôi” của Châu quá lớn làm mất lòng các giới chức cao cấp Việt Nam khác, nên vào năm 1967 Châu bỏ công tác bình định, ra ứng cử dân biểu Hạ nghị viện. Châu đắc cử và giải ngũ.
Tại quốc hội Châu chủ trương tiếp xúc với các thành phần không cộng sản trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGP), và đầu năm 1969 Châu yêu cầu CIA giúp tạo thanh thế để Châu có thể thực hiện kế hoạch của mình. CIA không nhiệt tình đáp ứng yêu cầu của Châu.
Tại quốc hội Châu chứng tỏ với mọi người Châu được Hoa Kỳ ủng hộ. Đến giữa năm 1969 ông Thiệu chịu hết nổi cuộc vận động chính trị của Châu và quyết định truy tố Châu về tội tiếp xúc với cộng sản không có phép. Trước khi ra tay Thiệu kiểm chứng với CIA và Shackley nói CIA thấy không trở ngại gì nếu mọi sự tiến hành trong luật pháp. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ hơi ngại vụ truy tố một dân biểu có thể tạo dư luận bất lợi tại Hoa Kỳ nên yêu cầu Bunker khuyên Thiệu thận trọng.
Thiệu vận dụng Hạ Nghị viện áp dụng nội quy bỏ phiếu tước quyền bất khả xâm phạm của Châu và đưa Châu ra tòa án quân sự xử 20 năm tù vào đầu năm 1970.
Tội của Châu là tiếp xúc với người anh ruột là Trần Ngọc Hiền, một nhân viên tình báo cao cấp của cộng sản vào cuối năm 1964. Châu thông báo việc tiếp xúc cho CIA nhưng không tiết lộ tung tích của người Châu tiếp xúc và yêu cầu gặp đại sứ Bunker để trình bày chi tiết và cũng không thông báo cho chính phủ Việt Nam biết. Bunker không tiếp Châu. Một năm sau Châu lại úp mở với CIA về vụ tiếp xúc nhưng vẫn không cho CIA biết giá trị của đường giây. Đến đây Jorgensen nghĩ rằng Châu khó chơi và muốn Châu xếp vụ này đừng bao giờ nhắc đến nữa.
Năm 1967, do một nguồn tin khác CIA biết đường giây của Châu và sau khi được chất vấn Châu tiết lộ tin tức về Trần Ngọc Hiền. CIA yêu cầu gặp Hiền nhưng Châu không đồng ý.
Dù Shackley xác nhận Châu không liên hệ gì với CIA nhưng Thiệu vẫn nghi Châu là người của CIA vì sau khi Châu bị truy tố John Paul Vann, một cố vấn cao cấp Hoa Kỳ và chính phủ Hoa Kỳ đã mạnh mẽ can thiệp cho Châu.
Vụ thứ hai là điệp viên cộng sản Huỳnh Văn Trọng được gài vào dinh Độc lập làm việc cạnh Thiệu. Đầu năm 1969 CIA phát giác nội vụ sau khi bắt được một đảng viên cộng sản chỉ đạo Huỳnh Văn Trọng. Tháng 7/1969 CIA yêu cầu tướng Đặng Văn Quang nói với Thiệu ra lệnh bắt Trọng và Thiệu tỏ ý muốn giải quyết nội vụ một cách kín đáo để khỏi gây tai tiếng trong dư luận. Nhưng tổng thống Nixon sắp viếng Sài gòn và CIA cho biết họ không thể không thông báo vụ Trọng cho Mật Vụ bảo vệ tổng thống Nixon, và Mật Vụ sẽ không thể để Nixon vào dinh Đốc Lập nếu Trọng chưa bị bắt. Thiệu buộc lòng bắt Trọng ngày 24/7/69.
Báo chí làm rùm beng và chỉ trích Thiệu dùng người không thận trọng. Thiệu quay lại phiền trách CIA đã thúc bách Thiệu bắt Trọng.
Qua điều tra người chỉ huy của Trọng CIA biết công tác của Trọng là thuyết phục Thiệu nên mở đường giây nói chuyện với MTGP.
Trước khi trở về Hoa Kỳ Ralph Kastrosh đã làm cho quan hệ giữa Hoa Kỳ và tổng thống Thiệu trở nên bình thường. Katrosh để lại lời khen tướng Nguyễn Khắc Bình vừa được bổ nhiệm làm giám đốc Đặc ủy Trung ương Tình báo và yêu cầu Thiệu cho biệt phái nhân viên xuất sắc giúp Bình. Thiệu không tha thiết với lời yêu cầu này vì Thiệu cho Đặc ủy Trung ương Tình báo làm việc gần Mỹ hơn gần chính phủ Việt Nam. Cơ sở này do Hoa Kỳ đề nghị thành lập từ năm 1960 và do Hoa Kỳ cung cấp ngân khoản điều hành. Katrosh được tổng thống Thiệu tặng thưởng Đệ ngủ đẳng Bảo quốc Huân chương. Sau này khi nhớ lại Katrosh nói có lẽ ông được tổng thống Thiệu có cảm tình vì cách tiếp cận thẳng thắn của ông. Katrosh thường bắt đầu câu chuyện với Thiệu rằng: “Đây là những gì ông đại sứ (hay chính phủ Hoa Kỳ) muốn” mà không quanh co. Quanh co với Thiệu chỉ tạo thêm căng thẳng và thường không đạt được kết quả như ý.
Ngày 3/11/69 qua một diễn văn Nixon xác định chính sách Hoa Kỳ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam. Ba tuần sau George Carver đến Sài gòn và ghi nhận Thiệu lên tinh thần. Tâm lý này tạo ra một kết quả không nằm trong đường lối của Hoa Kỳ là cần vận động thu phục lòng dân qua tổ chức chính trị. Tổng thống Thiệu nghĩ sự yểm trợ của Hoa Kỳ cần hơn là Liên Minh này, Lực Lượng nọ. Vận động quần chúng là ưu tiên thứ tư của Thiệu, sau các ưu tiên quân sự, bình định và kinh tế. Thiệu thường nói: “Người dân Nam Việt Nam không thích nhồi sọ chính trị. Họ thích người lãnh đạo tốt, cơm no áo ấm và sống không nơm nớp lo sợ.”
Ngày 4/12/69 tòa đại sứ và CIA đi đến nhận định đã đến lúc bỏ rơi các Lực lượng và Liên minh và ủng hộ một khối có người là Liên đoàn Công nông của ông Trần Quốc Bửu và khối quần chúng theo Phật giáo Ấn Quang. Vào tháng 3/1970 Washington chi 225.000 mỹ kim giúp Thiệu vận động các đối tượng trên.
Shackley sang thay Katrosh và dùng phương pháp gián tiếp để tiếp cận với Thiệu qua trung gian các nhân vật quanh Thiệu thân thiện với CIA. Áp lực của CIA qua khối nhân sự này (trong đó có Khiêm) đến độ làm Khiêm nghi ngờ thiện chí của Hoa Kỳ. Khiêm nghi có bàn tay của CIA trong các cuộc biểu tình của thương binh và sinh viên chống Thiệu để thành lập một chính phủ liên hiệp tại Sài gòn giúp Hoa Kỳ có điều kiện kết thúc chiến tranh.
Để mua thời gian cho Hoa Kỳ rút quân, cuối tháng 4/70 Nixon ra lệnh quân đội Hoa Kỳ đánh qua Cam bốt để phá hủy hậu cần của cộng sản và đuổi bắt các cấp lãnh đạo của Cục R (Trung ương Cục cộng sản miền Nam) và tháng 5/70 tái oanh tạc Bắc Việt. Cuộc tấn công vào Cambốt sinh ra nhiều cuộc biểu tình tại Hoa Kỳ và trong một cuộc chạm trán, lực lượng an ninh bang Kansas đã bắn chết 6 sinh viên thuộc đại học Kent State University và Jackson State College làm cho không khí chính trị tại Hoa Kỳ vô cùng căng thẳng. Tháng 6/70 Hoa Kỳ rút quân ra khỏi Cambốt và Nixon ra lệnh rút thêm quân tại Nam Việt Nam.
Cuộc tấn công của Hoa Kỳ vào Cambốt làm cho tinh thần quân đội VNCH lên cao, và Nixon muốn nhân cơ hội dùng Khiêm thúc bách Thiệu thi hành chương trình chống tham nhũng, giảm bớt sự lạm dụng quyền hành của các giới chức chính quyền và tôn trọng Tối cao Pháp viện.
Tình hình biểu tình trên đường phố Sài gòn trong giai đoạn này trông giống như những cuộc biểu tình trước khi ông Diệm bị lật đổ, và CIA muốn dùng cuộc bầu cử bán phần Thượng nghị viện (năm 1970) để đưa các đảng phái chính trị, Công giáo, Phật giáo vào sinh hoạt chính tri. Một liên danh Phật giáo do luật sư Vũ Văn Mẫu thụ ủy đắc cử làm cho phong trào chống đối của Phật giáo Ấn Quang lắng xuống.
Sau cuộc bầu cử bán phần Thưọng viện, CIA bắt tay vào chương trình chuẩn bị cuộc bầu cử Hạ nghị viện và cuộc bầu cử tổng thống năm sau. Hoa Kỳ muốn tổng thống Thiệu tái đắc cử nhưng Hoa Kỳ cần có một cuộc tranh cử có hai ba ứng cử viên để bảo đảm uy tín chính trị của Thiệu. Lúc này chưa biết Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ có ra tranh cử không, do đó Hoa Kỳ vận động tướng Dương Văn Minh ra tranh cử, mặc dù đại sứ Bunker đánh giá khả năng của Minh thấp và cho rằng Minh tính tình bất nhất. Đối với Hạ nghị viện lúc này CIA đã có trong tay 10 dân biểu “thân hữu”, nhưng Hoa Kỳ muốn qua cuộc bầu cử có thêm 10 dân biểu thân hữu nữa để nắm chắc sự thông qua các bộ luật cần thiết sau này. Hoa Kỳ cũng có kế hoạch yểm trợ tài chánh cho các ứng cử viên Hạ viện thân với Thiệu, dự trù tổng cọng chi phí lên đến 252.000 mỹ kim. Chương trình chính của CIA là kiếm thật nhiều phiếu cho Thiệu. Qua tướng Quang, CIA thúc tổng thống Thiệu ve vãn khối Công giáo, người Việt gốc Hoa và khối người Thượng.
Tại Paris cuộc đàm phán nhì nhằng, trong khi tại Việt Nam Hoa Kỳ tiếp tục đẩy mạnh chương trình Việt Nam hóa chiến tranh và giảm quân.
Tháng 2/71 để thử nghiệm hiệu quả của chương trình Việt Nam hóa Hoa Kỳ và Việt Nam đánh qua biên giới Lào với chiến dịch Lam Sơn 719. Cuộc hành quân hoàn toàn do quân đội VNCH đảm trách, Hoa Kỳ chỉ yểm trợ không lực. Quân đội VNCH bị tổn thất nặng trong chiến dịch này, nhưng tinh thần chung của quân đội không đến nổi nào và tướng Abrahams nhận định rằng sau cuộc tấn công Nam Việt Nam vẫn có khả năng sống còn. Tuy nhiên nhận xét của CIA tại vùng 3 khá bi quan. Don Gregg, phụ trách cơ sở CIA vùng 3 cho biết quân đội VNCH không lấp kịp khoảng trống khi quân đội Hoa Kỳ rút đi. Gregg cho rằng tình trạng này do chính sách của Thiệu không muốn thấy thêm tổn thất (sau tổn thất trong chiến dịch Lam Sơn) trong năm bầu cử.
Đầu tháng 7, 1971 Hoàng Đức Nhã tùy viên báo chí của Thiệu yêu cầu Shackley vận động mở một văn phòng để thông tin về cuộc bầu cử tổng thống tại Nam Việt Nam ở Washington, nhưng không thành công. Ngày 24/7, ngày 26/7 và ngày 4/8 tổng thống Thiệu, tướng Minh và Phó tổng thống Kỳ lần lượt nộp đơn ra tranh cử. Tối cao Pháp viện, cơ quan xét đơn tranh cử đã bác đơn của Kỳ vì các chữ ký giới thiệu (theo luật bầu cử do quốc hội thân Thiệu nhắm gạt Kỳ đã thông qua) không có giá trị. Sau khi đơn Kỳ bị bác, Minh dọa sẽ rút đơn. Lo ngại Thiệu độc diễn, Bunker gặp Minh yêu cầu ở lại và có tin Bunker hứa chi 3 triệu mỹ kim cho Minh làm chi phí tranh cử (CIA nói tin này không đúng), nhưng không có kết quả. Ngày 19/8 Minh rút đơn. Ngày 20 Tối cao Pháp viện chấp nhận một số chữ ký giới thiệu Kỳ và hợp thức hóa đơn tranh của của Kỳ. Nhưng ngày 23/8 Kỳ lại rút ra.
Kỳ rút đơn nhưng vẫn chuẩn bị vào lại nếu có điều kiện tranh cử thuận lợi. Kỳ lén gởi phụ tá thân tín Đặng Đức Khôi qua Phnom Penh, từ đó Khôi đi Hoa Kỳ. Tại Washington Khôi móc nối các nhân vật CIA quen biết ngỏ ý muốn cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger và phụ tá tại Bộ Ngoại giao William Sullivan để yêu cầu Hoa Kỳ hứa bảo đảm một cuộc tranh cử sòng phẳng giữa Thiệu và Kỳ. Hoa Kỳ không đáp ứng lời yêu cầu của Kỳ, và cuộc tranh cử độc diễn trở thành một thực tế.
Trước viễn ảnh này ngày 7/9 Shackley yêu cầu Thiệu cho phép cử tri bỏ phiếu bầu Thiệu hay bác Thiệu để ghi nhận tỉ số đối lập với Thiệu và đề nghị Thiệu tuyên bố trước được bao nhiêu phần trăm bầu cho mình Thiệu mới xem mình được sự ủy nhiệm của dân. Thiệu bác cả hai đề nghị.
Ngày 3/10 Thiệu đắc cử với 91.5% phiếu bầu, tính ra khoảng 90% cử tri có ghi danh. Ngày 8/10 cộng sản trả tự do cho trung sĩ John Sexton và qua Sexton gởi thư yêu cầu CIA nối lại đường giây trao đổi tù nhân. CIA và Việt Nam đáp lễ thả một trung úy quân đội cộng sản và chỉ dẫn cách liên lạc. Ngày 27/10 một đại diện của Trần Bạch Đằng liên lạc với tòa đại sứ Hoa Kỳ hứa thả ông Douglas Ramsey, một nhân viên của tòa đại sứ để đổi hai tù nhân cao cấp cộng sản. Được thông báo tổng thống Thiệu đồng ý trên nguyên tắc nhưng yêu cầu chờ sau khi ông tuyên thệ nhậm chức. Hoa Kỳ đề nghị một thể thức trao đổi khác nhưng không đạt được sự đồng thuận của cộng sản, CIA và tổng thống Thiệu. Việc trao đổi tù nhân chìm xuồng.
Sau khi Thiệu tuyên thệ nhậm chức, Sài gòn bắt đầu nghĩ đến hoạt động của cộng sản nhân dịp Tết sắp đến, nhất là thời gian này rơi vào thời gian tổng thống Nixon thăm viếng Bắc Kinh. Một bận tâm khác là Hoa Kỳ được Khiêm báo cáo Thiệu sắp thành lập đảng Dân Chủ theo mô thức đảng Cần Lao của ông Nhu, tổ chức nửa kín nửa hở và đảng viên được tuyển mộ trong khối sĩ quan và công chức với mục đích dùng đảng Dân Chủ để kiểm soát quân đội và bộ máy hành chánh. Các đảng viên đảng Dân Chủ thuộc toàn quyền xử dụng và sai phái của Thiệu.
Tháng 1/72 Thomas Polgar được Langley cử đến thay Shackley. Polgar gốc Hungary, gia nhập CIA từ năm 1947. Richard Helms nói với Polgar nhiệm vụ mới của CIA tại Sài gòn là thiết lập quan hệ tốt với tòa đại sứ, với MACV, với giới truyền thông và với các phái đoàn quốc hội, ý rằng chiến tranh sắp kết thúc và quan hệ với chính phủ Sài gòn không còn là công tác chính.
Các cuộc tấn công năm trước qua Cam bốt và Lào làm giảm tiềm năng chiến tranh của Bắc Việt và cho quân đội VNCH một thời gian xả hơi. Đến Sài gòn Polgar lạc quan nói với Nguyễn Khắc Bình, giám đốc cảnh sát quốc gia rằng “chúng ta sẽ thắng không bằng sức mạnh quân sự mà bằng tình báo và cảnh sát.” Mặt quan hệ với phủ tổng thống, Polgar được Khiêm tường trình cho biết tính tình Thiệu và cách làm việc với Thiệu. Khiêm nhấn mạnh với Polgar tính đa nghi của Thiệu.
Mấy tháng đầu năm 1972, quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam chỉ còn 180.000, và mọi việc trôi qua lặng lẽ. Không có cuộc tấn công nào đáng kể của cộng sản trong dịp Tết và dịp Nixon thăm viếng Bắc Kinh.
Ngày 30/3/72 quân đội chính quy Bắc Việt ồ ạt đánh qua khu phi quân sự, vùng Kontum, Pleiku và Lộc Ninh phía Bắc Sài gòn. CIA chỉ tiên đoán sẽ có cuộc tấn công vào cao nguyên, nhưng không tiên đoán cộng sản sẽ đánh qua biên giới phân chia Nam Bắc. Qua một tuần lễ quan sát chiến cuộc, Polgar nhận ra rằng chiến tranh chưa chấm dứt và tương lai của miền Nam Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào sự viện trở của Hoa Kỳ chừng nào Bắc Việt còn được Nga sô và Trung quốc viện trợ. Polgar tin tưởng quân đội VNCH sẽ đứng vững trước cuộc tấn công này dù bị tổn thất nặng.
Trong khi cuộc tấn công đang diễn tiến tại vùng giới tuyến, trên cao nguyên và Vùng 3 chiến thuật, CIA được báo cáo viên Tư lệnh Vùng 3 đã để cho cộng sản thu mua lương thực, thuốc men và quân dụng tại địa phương để tiếp tế cho quân đội Bắc Việt. CIA yêu cầu tòa đại sứ can thiệp để chận đứng sự việc này, nhưng Polgar không ghi nhận được một đáp ứng nào tích cực. Ngoài vụ “Vùng 3” Polgar còn nhức đầu về việc tướng Nguyễn Khắc Bình, giám đốc Đặc ủy Trung ương Tình báo kiêm Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia than phiền bộ tư lệnh cảnh sát có quá nhiều sĩ quan thời Pháp để lại và tổng thống Thiệu không chấp thuận biệt phái sĩ quan giỏi bên quân đội sang tăng cường.
Cũng như trận Mậu Thân, các giới chức Hoa Kỳ nhận định về trận tấn công Xuân 1972 khác nhau. Khi cộng sản còn đang bao vây An Lộc, đại sứ Bunker và tướng Abrahams vẫn lạc quan cho rằng sau cuộc tấn công này Hà Nội đuối sức vì chẳng còn gì nữa. Trong khi Polgar cho rằng nếu Liên bang Nga Xô viết và Trung quốc còn viện trợ và Hà Nội còn dùng được đất Lào và Cambốt thì cộng sản vẫn còn khả năng đánh. Phần Việt Nam, Polgar nhận xét khả năng chịu trận của quân đội VNCH vẫn còn cao và có thể cao hơn nửa triệu quân Mỹ mấy năm trước nếu vẫn được không lực Hoa Kỳ yểm trợ. Abrahams đánh giá quân đội Việt Nam thấp hơn và cho rằng các tướng lãnh quanh ông Thiệu không đánh giá đúng mức các sĩ quan cấp tá đang cầm quân và riêng Thiệu có nhiều quyết định sai vì không biết nghe các báo cáo của các sĩ quan ngoài chiến trường.
Tuy nhiên quan điểm của Polgar thay đổi theo tin tức ông thu thập được.Sau hai tháng đánh giá Polgar gởi Bunker một báo cáo phê bình rằng đa số các tướng chỉ huy chiến trường thiếu khả năng và được bổ nhiệm do trung thành với Thiệu.
Tướng Tư lệnh Vùng 2 Ngô Dzu chẳng hạn. Dzu không chuẩn bị gì để đón cuộc tấn công của cộng sản dù được tình báo cho biết chính xác ngày cộng sản có thể sẽ tấn công. Và khi cộng sản tấn công Ngô Dzu hoảng sợ bỏ bộ tư lệnh tại Pleiku về đóng tại bộ tư lệnh nhẹ ở Nha Trang giao toàn quyền chỉ huy tại chỗ cho cố vấn John Paul Van.
Bản báo cáo bi quan đến nổi Bunker và Abrahams không muốn gởi cho Thiệu, mặc dù khi tiếp xúc trực tiếp Abrahams đã nói thẳng những điều tương tự như vậy với Thiệu. MACV có thông lệ ít khi phê bình quân đội VNCH trong các báo cáo chính thức.
Thiệu định thay tướng Ngô Dzu bằng tướng Phan Trọng Chinh, một tướng nổi tiếng bất tài khác. Trước tình hình này đại sứ Bunker buộc lòng gởi tổng thống Thiệu một danh sách tướng lãnh khác để Thiệu chọn, trong đó không có Chinh. Tổng thống Thiệu chọn tướng Nguyễn Văn Toàn. Toàn là một tướng cầm quân giỏi, khổ nổi Toàn vốn là tư lệnh Sư đoàn 2 bị cách chức vì tham nhũng và đang nằm chờ tòa án truy tố về tội quan hệ bất chính với trẻ vị thành niên.
Qua tháng 6, tình hình chiến trường khả quan hơn nhờ không quân Hoa Kỳ không kích hậu cần làm giảm khả năng chiến đấu của bộ đội cộng sản. Toàn miền Nam không có cuộc nổi dậy nào kể cả những vùng quân đội cộng sản vừa chiếm được. Thiệu tin tưởng chừng nào Hoa Kỳ còn viện trợ ông còn chiến đấu được.
Cuộc trao đổi giữa William Colby (bây giờ là giám đốc CIA) và Polgar vào tháng 9/72 cho thấy đến lúc đó Hoa Kỳ vẫn chưa có một mục tiêu chính trị chính xác tại Việt Nam. Colby yêu cầu Polgar do có nhiều quan hệ đặc biệt với giới chức lãnh đạo Nam Việt Nam nên giúp Thiệu thành hình các cơ cấu và định chế chính trị lâu dài để chuẩn bị cho Nam Việt Nam đấu tranh chính trị với cộng sản sau khi hòa đàm tại Paris kết thúc. Polgar trái lại nghĩ rằng Hoa Kỳ đã tiêu tốn hằng tỉ mỹ kim vẫn chưa giúp Việt Nam đặt được một căn bản dân chủ kiểu Tây phương, vậy cách tốt nhất là Hoa Kỳ thành thật yểm trợ ông Thiệu về vật chất và tinh thần để ông tự định liệu lấy miễn là con đường của ông không làm thiệt hại quyền lợi của Hoa Kỳ. Polgar nói chính sách này có thể dẫn đến một chính phủ độc tài thiếu dân chủ nhưng có an ninh và có thể được dân ủng hộ. Polgar kết luận con đường dân chủ hóa Nam Việt Nam Hoa Kỳ đang theo đuổi có thể không giúp cho Nam Việt Nam tồn tại. Colby đồng ý với Polgar rằng khi chiến tranh thì không thể có dân chủ, nhưng độc tài cũng không có nghĩa là một chính quyền không đàng hoàng và không lo cho dân.
Cuộc tranh luận giữa Colby và Polgar cho thấy 18 năm sau khi Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam, Hoa Kỳ vẫn còn lúng túng về chính sách.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:11:53 GMT 9
Chương 6 - Mỹ áp lực tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Hiệp định Paris ký tháng 2/1973. Từ tháng 8/72 đến tháng 6/1973 công tác chính của CIA là thuyết phục, nói đúng hơn là áp lựcThiệu, theo đường hướng của Hoa Kỳ về nội dung bản văn Hiệp định Paris cũng như cung cách thi hành hiệp định. CIA vận dụng nhân sự đã bố trí quanh Thiệu để làm yếu sự phản đối của Thiệu về một điểm chính yếu trong bản Hiệp định là để cho quân đội cộng sản Bắc việt ở lại miền Nam sau khi ngưng bắn.
Ngày 17/8/1972 lần đầu tiên Kissinger đến Sài gòn để đích thân thuyết phục Thiệu. Polgar và Kissinger đều gốc Âu châu (Kissinger gốc Đức) và từng quen biết nhau từ năm 1958 và việc này giúp công tác của hai người bớt tạo nên căng thẳng trong quan hệ cá nhân. Một câu chuyện để ghi nhận sự căng thẳng: Tối ngày 17/8 Polgar được khẩn mời đến tòa đại sứ. Polgar thấy Kissinger mặc pyjama. Kissinger than phiền sự cứng rắn của tổng thống Thiệu và “chỉ thị” Polgar dùng các đường giây quanh Thiệu để áp lực Thiệu thay đổi lập trường. Polgar nói ông không thể áp lực lộ liễu như vậy. Kissinger bảo Polgar đó là “lệnh”, rồi lạnh lùng quay sang đại sứ Bunker hỏi ông xử lý thế nào nếu nhân viên không tuân lệnh cấp trên. Bunker cũng lạnh lùng trả lời ông đồng ý với Polgar!
Dù vậy Kissinger và Polgar vẫn giữ được hòa khí. Kissinger biết rằng nhờ các đường giây Polgar gài trong giới đầu não tại Hà Nội mà ông có lợi thế khi trao đổi với đại điện của Hà Nội tại cuộc hội đàm. (ghi chú của TBN: muốn biết rõ hơn điều này xin đọc cuốn “Decent Interval” của Frank Snepp, nhân viên phân tích chiến lược của CIA tại Sài gòn).
Sau khi Kissinger trở về Hoa Kỳ tổng thống Thiệu không tiếp ai trong gần một tháng. Ngày 15/9 Khiêm báo cáo với Polgar rằng Thiệu lo ngại rằng vì nhu cầu tranh cử có thể Nixon sẽ nhượng bộ những đòi hỏi phi lý của Hà Nội.
Để nắm vững chính quyền chuẩn bị đấu tranh chính trị với cộng sản, tổng thống Thiệu hủy bỏ lệ bầu các hội đồng hành chánh cấp xã và bổ nhiệm trực tiếp tỉnh thị trưởng và quận trưởng. Polgar yêu cầu Thiệu hoãn ban hành các biện pháp đó cho đến sau cuộc bầu cử tổng thống tại Hoa Kỳ, nhưng tổng thống Thiệu bác bỏ nói rằng tình hình đòi hỏi sự cứng rắn. Bunker nói với Polgar Thiệu cứng rắn vậy vì Kissinger đã nói thẳng với Thiệu rằng nếu Hà Nội đề nghị ngưng bắn và trả tù binh Mỹ thì Hoa Kỳ sẽ chấp thuận, dù tình hình quân sự tại Nam Việt Nam như thế nào.
Ngày 12/10 Kissinger và Lê Đức Thọ kết thúc bản dự thảo Hiệp định Paris, và ngày 18/10 Kissinger đi Sài gòn áp lực Thiệu. Chuyến đi này Kissinger gặp Thiệu và các phụ tá 6 lần. Lần gặp thứ hai Thiệu yêu cầu Kissinger cho xem bản văn Việt ngữ của Hiệp định dự thảo, Kissinger nói không có. Và Thiệu cho Kissinger xem bản Hiệp định tóm tắt tình báo Việt Nam lấy được. Sau khi CIA dịch ngược lại ra Anh ngữ cho Kissinger xem Kissinger bình luận: “Thật là một sự thật khó nuốt”. Việc này làm cho Kissinger nhức đầu thêm đối với Thiệu vì chẳng những Thiệu không chấp nhận điều khoản để quân đội cộng sản Bắc Việt ở lại miền Nam Thiệu còn không đồng ý nhiều điểm khác trong bản văn, đặc biệt khoản miêu tả chính quyền sẽ được thiết lập tại Sài gòn sau khi ký hiệp định.
Tổng thống Thiệu hoãn cuộc gặp gỡ Kissinger dự trù ngày 21/10. Bunker gọi phàn nàn, Nhã cúp điện thoại. Bunker giận dữ gọi Thiệu. Kết quả 8:00 sáng ngày 22/10 Thiệu gặp Kissinger. Thiệu bình tỉnh hơn thường lệ và dùng tiếng Anh để trao đổi. Nhưng vào buổi họp chiều Thiệu không dằn được cơn giận. Thiệu khóc và nói ông bác bỏ toàn bộ bản văn. Kissinger lập luận rằng nội dung Hoa Kỳ thỏa thuận với Hà Nội như vậy là điều không thể tránh được. Kissinger nói với Thiệu Nixon đang gặp khó khăn với quốc hội vì ông đã dùng ngân khoản nhiều tỉ mỹ kim quốc hội chưa chuẩn chi để bỏ bom Bắc Việt và chuyển quân dụng dự trữ cho Việt Nam.
Sáng ngày 23/10 Bunker tháp tùng Kissinger đến chào Thiệu trở về Hoa Kỳ. Kissinger không nói nhiều chỉ nói khéo rằng nếu Thiệu không ký thì không tránh được tai họa. Kissinger không nói tai họa cho ai hay cho quốc gia nào. Kissinger nói với Bunker ông đã ngán Thiệu và không bao giờ ông trở lại Sài gòn nữa.
Sự giận dữ của tổng thống Thiệu đối với Kissinger là do Thiệu đã quá tin vào Nixon là một vị tổng thống “thẳng tính, lương thiện và không bao giờ có thể phản bội chính phủ và nhân dân Nam Việt Nam” và cho Kissinger phản bội nhân dân Mỹ vì tham vọng và thành kiến. Polgar đồng ý phần nào với Thiệu cho rằng thái độ của Kissinger đối với Thiệu quá kênh kiệu và kẻ cả.
Chỉ còn chưa đầy một tháng nhân dân Mỹ sẽ đi bầu tổng thống. Thiệu tính rằng cách tốt nhất là giúp Nixon tái đắc cử. Thiệu ra lệnh cho giới chức chính phủ và quốc hội không được công khai chỉ trích chính phủ Mỹ.
Ngày 26/10 Hà Nội tuyên bố đã đạt được thỏa thuận với Hoa Kỳ, và tiết lộ rằng quân đội Bắc Việt có quyền ở lại miền Nam và Mỹ hứa cung cấp 7 tỉ mỹ kim tái thiết Bắc Việt. Đồng thời tại Washington Kissinger họp báo cho biết “hòa bình đã ở trong tầm tay” (peace is at hand).
Nhưng tại Sài gòn CIA báo cáo Thiệu vẫn chống bản văn của Hiệp định. Kissinger phong tỏa tin này tại Washington. Nhờ phong tỏa tin tức và lời tuyên bố “peace at hand” tổng thống Nixon đã đánh bại ứng cử viên đảng Dân chủ George McGovern và đắc cử tổng thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ hai ngày 7/11/1972.
Bước qua tháng 12 Thiệu vẫn chống điều khoản liên quan đến quân đội Bắc Việt và Bunker dọa Thiệu rằng Hoa Kỳ có thể cắt viện trợ nếu Hiệp định Paris cứ nhì nhằng vì thái độ của Thiệu. Mặt khác Polgar áp lực Thiệu qua Nhã. Tin riêng của CIA tại Sài gòn tiết lộ rằng theo Thiệu Hoa Kỳ cần cách chức Kissinger mới giải quyết được bế tắc. Nhưng Polgar không báo cáo tin này nghĩ nó làm tổn thương uy tín của Nixon. Thiệu còn tính dọa từ chức, ngầm ý cho Hoa Kỳ thấy nếu Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay ông Hương còn cứng rắn hơn. Và kịch bản là Thiệu sẽ trở lại chức vụ tổng thống do yêu cầu của quân đội và nhân dân.
Với áp lực dồn dập kịch bản từ chức không được thực hiện. Và ngày 10/12 Thiệu cho biết có thể đồng ý với bản văn để Hiệp định có hiệu lực nhưng không ký vì ký vào bản văn chứng tỏ Thiệu chỉ là hình nộm của Hoa Kỳ.
Sau một buổi họp gồm các thân tín thu hẹp tại dinh Độc Lập tướng hồi hưu Phạm Văn Đổng, bộ trưởng bộ Cựu Chiến binh báo cáo với CIA Thiệu nói rằng “ký hiệp định chấp nhận quân đội Bắc Việt ở lại Nam Việt Nam giống như uống một chén thuốc độc, nhưng nếu không ký thì Nam Việt Nam cũng từ từ sụp đổ vì Hoa Kỳ cắt viện trợ.” Theo Đổng, tổng thống Thiệu quả quyết bản Hiệp định bảo đảm sự toàn thắng của cộng sản, và do đó ông sẽ không ký.
Hà Nội nghi sự dùng dằng là mưu kế của Hoa Kỳ và Thiệu nên tại Paris Lê Đức Thọ tuyên bố Hà Nội cũng muốn thay đổi vài điều khoản đã thỏa thuận và ông ta phải về Hà Nội tham khảo. Nhân dịp này Hoàng Đức Nhã nói với Rodney Landreth (một nhân viên CIA tại Sài gòn) rằng đúng ra Hoa Kỳ nên áp lực Hà Nội hơn là áp lực Nam Việt Nam. Nhã nói Nhã biết Nam Việt Nam sẽ lâm vào thế bí nếu Hoa Kỳ cắt viện trợ, nhưng ông không hiểu tại sao “Hoa Kỳ đã hy sinh bao nhiêu tiền của và sinh mạng trong bao nhiêu năm bỗng nhiên từ bỏ mục tiêu nguyên thủy của cuộc chiến đấu. Lính Mỹ đến Việt Nam để chết chứ đâu phải đi nghỉ phép!” Nhã nói thêm rằng nếu Hoa Kỳ bỏ rơi Nam Việt Nam uy tín Hoa Kỳ đối với thế giới tự do sẽ bị tổn thất nặng nề.
Ngày 19/12 Alexander Haig, phụ tá Kissinger đến Sài gòn. Thiệu tiếp Haig một cách thoải mái hơn (với Kissinger). Haig chuyển cho Thiệu một thư tay của Nixon và Thiệu cũng đưa cho Haig một thư cầm về cho Nixon mà không nói gì nhiều với Haig. Bunker nói với Haig ông tin rằng nội dung lá thư của Thiệu sẽ không làm tổng thống Nixon hài lòng. Và Haig nói thẳng với Thiệu rằng ký Hiệp định Paris là một nhu cầu chính trị của Hoa Kỳ nên ngôn từ trong đó không phải là chuyện quan trọng. Hơn nữa dù là ngôn từ gì cũng không ai tin người cộng sản. Bunker nghĩ Thiệu hiểu tình hình, nhưng tâm lý bực bội Kissinger làm ông không thay đổi thái độ một cách dễ dàng được.
Ngày 21/12 Khiêm nói với Polgar ông hiểu sự thúc bách của dư luận và quốc hội Mỹ (muốn chấm dứt chiến tranh và thấy tù binh Mỹ trở về) và tốt hơn hết Thiệu nên ký Hiệp định để bảo đảm nguồn viện trợ. Khiêm nói Thiệu có thể được thuyết phục bằng cung cách mềm dẽo hơn là bằng áp lực và đe dọa như Kissinger và Haig đã làm. Hơn nữa Thiệu chỉ còn chống khoản liên quan đến quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam, và Khiêm nghĩ tổng thống Nixon có đủ uy tín để giải thích với quốc hội Hoa Kỳ về sự nhượng bộ phi lý đó. Tuy nhiên Khiêm hứa sẽ thuyết phục Thiệu và yêu cầu Bunker tiếp tục thúc bách Thiệu.
Sau khi Thọ trở về Hà Nội, Nixon ra lênh oanh tạc vùng Hà Nội, Hải phòng bằng B52 trong suốt một tuần lễ vào dịp lễ Giáng sinh. Hà Nội hoảng hốt ra lệnh Thọ trở lại Paris tiếp tục đàm phán. Hoa Kỳ ngưng dội bom.
Ngày 12/1/1973 sau khi Hoa Kỳ ngưng dội bom, tình báo CIA tại Hà Nội cho biết Hà Nội sẵn sàng ký Hiệp định vào ngày 20/1/1973.
Ngày 16/1 Haig đến Sài gòn với một thư tay khác của Nixon gởi cho tổng thống Thiệu rằng nếu vẫn không ký ông sẽ công khai tố cáo trước dư luận thế giới Thiệu ngăn cản hòa bình. Thiệu vẫn hoãn binh và cho biết sẽ trả lời Nixon vào ngày hôm sau.
Hôm sau, 15 phút sau khi máy bay Haig rời Tân Sơn Nhất, Thiệu triệu tập Hội đồng An Ninh thu hẹp, đọc tối hậu thư của Nixon cho Hội đồng nghe. Sau đó Hội đồng bàn về cung cách thi hành hiệp định. Việc ký kết đến đây xem như đương nhiên. CIA báo cáo rằng “trong thâm tâm Thiệu biết trước sau cũng phải ký theo ý Hoa Kỳ, nhưng ông đã làm những gì cần thiết có lợi cho sự tồn tại của Nam Việt Nam.”
Sáng ngày 20/1 Thiệu triệu tập Hội đồng An ninh quốc gia thông báo quyết định ký. Phó tổng thống Trần Văn Hương khóc nói rằng Nam Việt Nam đang ở trên một chiếc gãy, chạy hướng nào cũng không tránh được tai họa, và ký Hiệp định thì tai họa nhỏ hơn. Sau khi Hương dứt lời Thiệu nói Thiệu đồng ý với sự miêu tả của Hương.
Ngày 23/1 vào lúc tại Paris Hiệp định được ký kết, tổng thống Thiệu nói với Nôi các rằng bản Hiệp định Paris được bảo đảm của Hoa Kỳ, Liên bang Xô viết và Trung quốc và rằng thái độ cứng rắn của ông đã đưa đến vụ bỏ bom trong dịp lễ Giáng sinh và sẽ làm cho kế hoạch chiến tranh của Hà Nội bị chậm lại ít nhất 3 tháng. Haig nói với Bunker rằng vụ bỏ bom Hà Nội và Hải phòng đã là yếu tố cần thiết để Thiệu ký Hiệp định Paris.
Đầu tháng 4/73 Nixon mời Thiệu công du Hoa Kỳ và tiếp Thiệu tại San Clemente nơi làm việc và nghỉ ngơi của Nixon ở California. Bunker tháp tùng phái đoàn với Thiệu và Bunker mời Polgar cùng đi. Qua cuộc thăm viếng Nixon hứa viện trợ quân sự 1 tỉ mỹ kim (trên căn bản một đổi một) và 1 tỉ viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam. Thiệu rất hài lòng.
Tại Việt Nam sự thi hành Hiệp định không êm ả. Tổng thống Thiệu không chấp nhận Nghị định thư ấn định bản đồ da beo phân định ranh giới kiểm soát hai bên do Hà Nội và Hoa Kỳ đồng ý với nhau dự tính ký và phổ biến ngày 7/6/73 và Thiệu đề nghị thay đổi một số điểm nói về thể thức bầu cử. Hoa Kỳ lại áp lực Thiệu và cuối cùng Thiệu đồng ý. Theo đánh giá của CIA sau 6 tháng thi hành hiệp định Thiệu củng cố vị trí vững chắc trên diện địa nhưng cộng sản chuẩn bị dùng vũ trang yểm trợ cuộc đấu tranh chính trị bằng cách ồ ạt chuyển vũ khí vào miền Nam.
Thời gian từ 4/73 đến 11/74 là một thời gian kèn cựa báo trước một trận bão.
Tháng 6/73 bầu cử bán phần Thượng viện tại Sài gòn gồm 3 liên danh và 30 Thượng nghị sĩ. Nhân dịp này Hoa Kỳ muốn tạo một sinh hoạt đa đảng hài hòa, nhưng Polgar cho biết không phải đơn giản vì chính quyền và chính khách Nam Việt Nam không còn tin Hoa Kỳ nữa.
Ngày 18/6 sau khi gặp các nhân vật thân cận như Trần Quốc Bửu, tướng hồi hưu Huỳnh Văn Cao, Phạm Văn Đổng và Nguyễn Bá Cẩn chủ tịch Hạ nghị viện, Polgar thuyết phục Trần Quốc Bửu làm thụ ủy liên danh Xã hội Dân chủ đối lập, nhưng Bửu từ chối. Những người dự họp không ai tin một liên danh đối lập có thể đắc cử, một phần vì không có căn bản trong quần chúng, một phần cho rằng trước sau chính quyền cũng gian lận phiếu.
Cuối tháng 6/73 Bunker về Mỹ. Đầu tháng 7 tòa đại sứ nghe phong thanh Thiệu và Khiêm bất hòa. Ông Whitehouse, đại sứ tạm thời (trong khi chờ Graham Martin đến thay) yêu cầu Polgar hỏi Khiêm. Khiêm xác nhận có và nguyên nhân là Khiêm rút ra khỏi thụ ủy liên danh thân chính do Thiệu chủ trương. Thêm nữa, Khiêm không đồng ý với các cố vấn thân cận của Thiệu như Hoàng Đức Nhã và Nguyễn Văn Ngân. Hai nhân vật này cố vấn Thiệu thiết lập một chế độ tập trung quyền hành như chế độ của cựu tổng thống Ngô Đình Diệm. Khiêm nói Việt Nam có thể chưa sẵn sàng cho một chế độ dân chủ đa đảng, nhưng dù độc đảng cũng cần có tiếng nói đối lập.
Tháng 7/73 đại sứ Martin đến Sài gòn. Martin từng là đại sứ tại Ý và Thái Lan và có một người con trai tử trận tại Việt Nam. Theo Polgar, Martin từ tốn, hiền, và là một “gentleman” kiểu mẫu, nhưng cung cách làm việc cũng cứng rắn không kém Bunker.
Cũng như Bunker, Martin dùng sự tiếp cận của CIA đối với các tướng lãnh Việt Nam để kín đáo vận dụng chính sách của Hoa Kỳ. Qua trung gian của Khiêm, Quang và thỉnh thoảng Bình, và với các nhân vật trong quốc hội tòa đại sứ dò biết được suy nghĩ và tính toán của Thiệu. Các nhân vật này sẵn sàng khuyến cáo Thiệu theo chính sách Hoa Kỳ, dù đó là chính sách có thực chất hay có tính hào nhoáng.
Tháng 8 năm 1973 Nixon từ chức vì dính vào vụ Watergate. Lúc này Hoa Kỳ đã hoàn tất áp lực Thiệu ký Hiệp định Paris (2/73) và Nghị định thư (6/73) thi hành Hiệp định. Cả hai văn kiện đều bất lợi cho VNCH.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:13:03 GMT 9
Chương 7: Nỗ lực duy trì hiện trạng
Từ mùa Thu 1973 cho đến mùa Đông 1974, cộng sản Hà Nội chơi trò mèo chuột với quân đội VNCH, và cũng là thời gian quan hệ giữa tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và đại sứ Martin lạnh nhạt nhất.
Cuối năm 1974 tin tình báo cho biết cộng sản sẽ mở cuộc tấn công Đông Xuân 74-75. Và cuộc tấn công đã diễn ra cuối năm 1974. Ngày 6/1/75 tỉnh lị Phước Long thất thủ.
Trong buổi chất vấn của Thượng Viện Hoa Kỳ để phê chuẩn Henry Kissinger vào chức vụ bộ trưởng ngoại giao, Kissinger nói trước Thượng Viện rằng “chiến tranh Việt Nam xem như đã qua.” Polgar ở Sài gòn cho rằng Kissinger không diễn tả hiện trạng của cuộc chiến tranh. Cộng sản Hà Nội không tôn trọng Hiệp định Paris và do đó cuộc chiến chưa chấm dứt. Langley đồng ý với Polgar và tiên đoán chiến cuộc sẽ bùng nỗ vào khỏang tháng 11 năm 1974 .
Tháng 12, 1973 đại sứ Martin đi Paris tham dự hội nghị thi hành Hiệp định. Trở về Sài gòn ngày 22/12/73, Martin – theo khuyến cáo của Bộ trưởng ngoại giao Kissinger – yêu cầu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đơn phương tuyên bố ngưng bắn, chấp nhận bản đồ phân chia ranh giới kiểm soát (da beo) và trao đổi tù binh. Kissinger tiên đoán Hà Nội sẽ bác bỏ đề nghị của Thiệu và Ủy ban Quốc tế Kiểm soát Đinh chiến (UBQT/KSĐC) sẽ tuyên bố Hà Nội không có thiện chí thi hành Hiệp định Paris.
Cuối năm 1973 Polgar báo cáo về Langley rằng miền Bắc đang gặp khó khăn kinh tế, và Hà Nội đang muốn duy trì hiện trạng hơn là vi phạm hiệp định lật đổ ông Thiệu ngay. Nam Việt Nam cũng chỉ muốn duy trì hiện trạng.
Tình hình do đó lắng dịu cho đến năm 1974. Tháng 2/74 tổng thống Thiệu vận dụng quốc hội tu chính hiến pháp cho phép ông ra ứng cử nhiệm kỳ thứ ba, sau đó ông cải tổ nội các. Sự cải tổ làm CIA mất một số người cho tin quan trọng. Ông Nguyễn Văn Ngãi rời ghế bộ trưởng Bộ Phát Triển Nông Thôn sang ngồi chơi xơi nước bên đảng Dân Chủ. Bộ trưởng bộ Cựu Chiến Binh Phạm Văn Đổng bị rắc rối vì một vụ chứa bạc lậu nên cũng mất sự tiếp cận với Thiệu. Đổng dùng quan hệ với CIA để chạy tội nhưng CIA không giúp. Kết quả, tháng 4/74 Đổng bị bắt và bị tù cho đến tháng 7/74. Tuy nhiên tướng hồi hưu Trần Văn Đôn (kiêm Thượng nghị sĩ) trở lại chức vụ Phó Thủ tướng Đặc trách Thanh tra và An ninh. Đôn vốn có nhiều quan hệ với CIA và là một nguồn cho tin tốt. Khiêm thì vẫn hợp tác với CIA trên căn bản thường xuyên.
Đầu năm 1974 tại Hoa Kỳ lợi dụng lúc tổng thống Nixon đang gặp khó khăn về vụ Watergate, báo chí Mỹ - dẫn đầu bởi tờ báo NewYork Times- dấy lên phong trào nói xấu chính quyền Nam Việt Nam để thuyết phục Quốc hội thôi ủng hộ Nam Việt Nam. Báo chí Mỹ còn tố cáo CIA tiếp tay cho cảnh sát Việt Nam tra tấn tù nhân chính trị. Và đại sứ Martin đã yêu cầu Thượng nghị sĩ William Fulbright (Dân chủ, bang Arkansas) quan tâm đến vấn đề này.
Cuối tháng 4/74 Hà Nội đề nghị một phương thức thi hành Hiệp định, nhưng lần này, trước những hành động vi phạm Hiệp định một cách lộ liễu của Hà Nội, ông Thiệu bác bỏ, cho Hà Nội chỉ có mục đích tuyên truyền. Đại sứ Martin thì muốn Thiệu chấp thuận đề nghị của Hà Nội nhất là mục trao đổi tù nhân để ép Hà Nội đóng tiền cho ngân sách của UBQT/KSĐC và không ngăn cản sự thiết lập các trạm kiểm soát theo quy định của Hiệp định Paris.
Giữa tháng 4/74, đại tá Karoly Gambos người Hungary, thuộc phái bộ kiểm soát đình chiến tiếp xúc với Polgar cho biết Liên bang Xô viết đã tạm ngưng luồng tiếp vận vũ khí cho Hà Nội và yêu cầu Hoa Kỳ cũng ngưng tiếp vận cho Nam Việt Nam. Đại tá Gambos nói Nga chỉ muốn duy trì hiện trạng ngưng bắn tại chỗ và không muốn khuyến khích Hà Nội lật đổ Thiệu. Nghi ngờ âm mưu của phe cộng sản trong đề nghị này nên sự tiếp cận Polgar của đại tá Gambos không mang lại kết quả nào.
Trong khi đại sứ Martin nghi ngờ báo chí Mỹ muốn miền Nam Việt Nam sụp đổ thì tổng thống Thiệu nghi ngờ chính chính phủ Hoa Kỳ cũng có chủ trương này (TBN: ông Thiệu không thể không nghi như vậy vì ông biết quá nhiều về Kissinger, bây giờ Kissinger là bộ trưởng Ngoại giao).
Ngày 6/6/74 trước khi về Washington để tham khảo, Martin – theo khuyến cáo của Quang bàn trước với Polgar – quả quyết với Thiệu Hoa Kỳ không giúp đỡ gì việc chống Thiệu của Phong Trào Chống Tham Nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh, mặc dù Hoàng Đức Nhã quả quyết như vậy. Quang cũng yêu cầu Polgar nhắc Martin quan tâm đến chương trình viện trợ kinh tế và hứa rằng (để làm vui lòng Quốc hội Mỹ) ông Trần Ngọc Châu sẽ được trả tự do khi Martin đến Hoa Kỳ.
Sau khi Nixon từ chức (9/8/74), Shackley (bây giờ phụ trách Cục Viễn Đông của CIA) yêu cầu Polgar giám định mối nguy của Nam Việt Nam. Trong báo cáo Polgar tiên đoán: “cuộc tấn công định mệnh sẽ đến sớm và rất có thể sẽ đến trong mùa khô 1975 .”
Ngày 8/11/74 Polgar nhận được báo cáo tình báo từ Hà Nội qua cơ sở CIA tại Biên Hòa cho biết Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam vừa họp thông qua Nghị Quyết 75 quyết định tung một cuộc đại tấn công miền Nam trong năm 1975 và cuộc tấn công này sẽ lớn hơn mức độ cuộc tấn công 1972. Nghị Quyết 75 nhận định rằng cộng sản Hà Nội chỉ dùng 1/3 lực lượng hiện có tại miền Nam đã có thể kềm chế toàn bộ quân đội VNCH, và rằng cuộc tấn công trải rộng trên toàn quốc trên cả ba mặt quân sự, chính trị và kinh tế. Lệnh thu mua lúa gạo và các thực phẩm khác chuẩn bị cho một chiến dịch dài ngày đã được Hà Nội ban hành.
Polgar do dự chưa chuyển tin tình báo này về Langley thì giới tình báo Hoa Kỳ hỏi Polgar nghĩ gì về phân tích tình báo trước đó của Hội đồng Tình báo Trung ương rằng có thể Hà Nội sẽ không mở một cuộc tấn công quy mô trong mùa khô từ 8/74 đến 6/75. Trả lời ngày 11/11/74, Polgar không nhắc lại lời tiên đoán của ông phù hợp với nội dung của tin tình báo “khá tế nhị” mà ông vừa nhận được, và viết rằng CIA Sài gòn cũng chưa có cơ sở nào để nghĩ khác với Hội đồng Tình báo. (TBN: có lẽ Polgar không muốn làm mất lòng cấp trên). Tuy nhiên Polgar đính kèm “bản tin tình báo từ Hà Nội” để Hội đồng Tình báo xét với lưu ý rằng nguồn cung cấp tin này là nguồn đã cung cấp tin rất chính xác về vụ tấn công 1972. Tòa đại sứ cũng nhận được một tin đặc biệt từ Thượng Tọa Thích Trí Quang – qua một trung gian – rằng Hà Nội sẽ mở một cuộc tấn công lớn nếu trong vòng 3 hay 4 tháng tổng thống Thiệu chưa từ chức.
Về mặt tình báo, CIA nghĩ Hà Nội có thể mượn người tung những tin này để đe đọa và làm suy mòn tư thế chính trị của Thiệu. Nhưng vì tính khả tín của nguồn cung cấp tin từ Hà Nội nên Polgar quyết định yêu cầu đại sứ Martin và tướng Bình đặc biệt quan tâm đến toan tính đại tấn công của cộng sản.
Đường giây tình báo từ Hà Nội còn cho biết thêm chiến địch 1975 dự tính kéo dài qua năm 1976 cho đến cuộc bầu cử tổng thống tại Hoa Kỳ, và mọi chuẩn bị cho chiến trường miền Nam phải được hoàn tất vào cuối tháng 12/1974.
Trước tình hình quân sự không mấy sáng sủa cho miền Nam, Hoa Kỳ lấy lý do các nước A Rập phong tỏa dầu hỏa đã cắt bớt viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam. Tổng thống Thiệu nghi ngờ đây là đòn phép của Hoa Kỳ vì trước đó ông đã bác bỏ đề nghị cải tổ nội các của Martin.
Thiệu lượng định rằng, và Khiêm thông báo cho CIA biết, tình hình năm 1975 sẽ không sáng sủa về cả hai mặt quân sự và kinh tế. Khiêm nói với Hoa Kỳ rằng Hà Nội thừa biết quân đội VNCH không có khả năng bảo vệ tất cả 44 tỉnh miền Nam, và tổng thống Thiệu cũng không có ý định rải quân mỏng bảo vệ tất cả lãnh thổ. Sự thông báo này hàm ý tổng thống Thiệu có thể sẽ bỏ một số đất. Khiêm nói úp mở rằng thí dụ giữ được Kontum thì tốt, nhưng không có lý do gì phải hy sinh một sư đoàn để giữ Kontum.
Ngày 6/1/75 Phước Long thất thủ. Đại sứ Martin báo cáo với Washington rằng Hà Nội đã thành lập 4 sư đoàn với nhân lực địa phương nên có khả năng nới rộng sự kiểm soát đất mà không cần di chuyển các sư đoàn từ miền Bắc vào. Nhưng Martin cho biết, theo ông, Thiệu vẫn còn khả năng đáp ứng sự lấn đất của cộng sản. Polgar thì cho rằng tình hình ngang ngữa đó có thể sẽ nghiêng dần về phía Hà Nội, vì trong khi Liên bang Xô viết và Trung quốc ồ ạt viện trợ quân dụng cho Hà Nội thì Hoa Kỳ không viện trợ đầy đủ cho VNCH, ngay cả trên căn bản “một đổi một” vì sự cản trở của Quốc hội Hoa Kỳ. Ngay cả 700 triệu mỹ kim đã có trong ngân sách, Quốc hội cũng chần chừ không muốn chuẩn chi đến nổi Kissinger phải gọi Martin về Mỹ để vận động với Quốc hội. Tổng thống Thiệu nói – và Polgar chuyển lời về Washington- rằng “hình như Hoa Kỳ đang dối gạt VNCH trong khi Hoa Kỳ bị Liên bang Xô viết dối gạt.”
Một tướng người Úc châu, ông Ted Serong khuyên Thiệu nên bỏ 4 tỉnh địa đầu (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Nghĩa), nhưng Khiêm cho biết Thiệu nghĩ kế hoạnh đó không thực tế về cả hai phương diên quân sự và chính trị. Tuy nhiên tin đồn bỏ đất của Thiệu đang được dư luận báo chí Hoa Kỳ bàn tán theo hướng bất lợi cho Thiệu. Nhân vụ này Thiệu yêu cầu Polgar vận động với Martin giúp thành lập một hội Việt-Mỹ tại Mỹ để lobby chống lại các thành phần phản chiến chuyên loan tin bất lợi cho Nam Việt Nam.
Thiệu nghĩ một cách đơn giản rằng trước sau Quốc hội Mỹ cũng chuẩn chi 700 triệu mỹ kim và ông sẽ có đủ đạn dược, xăng nhớt chống lại cuộc xâm lăng 1975 của Hà Nội. Nếu không ông sẽ tái phối trí (TBN: được hiểu là bỏ đất). Để yểm trợ Thiệu, Polgar gởi điện văn về Washington rằng “nếu Hoa Kỳ không viện trợ cho Sài gòn thì Hà Nội không thấy có lý do gì thỏa thuận những đề nghị có tính hòa hoãn của ông Thiệu như Hoa Kỳ muốn” .
Cuối tháng 2/75 tổng thống Ford đề nghị một gói viện trợ 3 năm cho VNCH. Ngày 26/2 Polgar gởi điện văn yêu cầu Kissinger dùng “uy tín cá nhân và khả năng trí tuệ” của mình để vận động quốc hội thông qua gói viện trợ này. Polgar viết, gói viện trợ 3 năm này sẽ làm cho Hà Nội suy nghĩ lại về các toan tính của họ, và do đó mới có điều kiện thi hành Hiệp định Paris.
Theo lượng giá của Polgar số đạn dược Hà Nội chuyển vào Nam rất lớn, gồm đạn dược dự trữ bảo vệ miền Bắc và đạn dược do Liên bang Xô viết và Trung quốc viện trợ gộp lại. Lượng giá này cho thấy Hà Nội dự tính một cách liều lĩnh bỏ trống miền Bắc cho chiến dịch 1975. Polgar phân tích rằng nếu Hoa Kỳ viện trợ đầy đủ cho Nam Việt Nam thì sau khi dốc cạn vốn mà không thắng, Hà Nội bắt buộc phải từ bỏ ý định chiếm miền Nam bằng vũ lực. Đã có dấu hiệu Liên bang Xô viết mệt mỏi và chấp nhận sự tồn tại của hai nước Việt Nam như Hàn quốc và Đức quốc.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:14:09 GMT 9
Chương 8: Thời điểm sinh tử
Ngày 10/3/75 cộng sản mở màn cuộc tấn công 1975 và chiếm Ban Mê Thuộc, tỉnh lị tỉnh Darlac. Thành phố Pleiku bị đe dọa, và trưởng cơ sở CIA Don Nicol tại Pleiku gởi báo cáo khẩn trương hằng ngày về cơ sở CIA Nha Trang. Ngày 12/3, súng phòng không của quân đội Bắc việt bắn hạ một chiếc Dakota chở hành khách của hãng hàng không dân sự Air Việt Nam trên không phận ngoại ô Pleiku. Không nhận được chỉ thị nào của Sài gòn, ngày 13/3 Nicol họp nhân viên tình báo tại Pleiku và tự động phát họa một kế hoạch dự phòng di tản cho toàn bộ nhân viên Mỹ-Việt có liên hệ với CIA.
Trong khi đang họp, Nicol nhận được điện thoại của Đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 cho biết các vị trí của quân đội VNCH đang bị đe dọa và khuyên người Mỹ nên rút khỏi Pleiku. Lý cho Nicol biết ngày mai 14/3 tướng Phạm Văn Phú sẽ họp với tổng thống Thiệu tại Cam Ranh. Buổi họp được giữ kín và máy bay của tướng Phú sẽ đi Qui Nhơn trước để đánh lạc hướng. Lý hứa với Nicol có tin gì sau khi Phú đi họp về Lý sẽ cho hay.
Nicol báo cho Robert Chin, trưởng cơ sở CIA Nha Trang biết nội dung tin Lý vừa cung cấp. Ngày hôm sau 14/3 trước khi Nicol bay về Nha Trang họp thì được điện thoại của Chin cho biết cơ sở Qui nhơn cho hay tướng Phú có bay về Qui Nhơn thăm bộ chỉ huy một sư đoàn ở đó.
Chiều ngày 14/3, sau khi Nicol đã đi Nha Trang, Stephens (phụ tá của Nicol?) đến bộ tư lệnh quân đoàn 2 kiếm tin về cuộc họp giữa Phú và Thiệu. Stephens gặp Lý trước, Lý chưa nói được gì thì Phú bước vào. Stephens thấy Phú có vẻ thất sắc và mất bình tỉnh, nhưng Stephens nghĩ Phú đang lo về tình hình quân sự suy đồi của vùng 2 chứ không liên quan gì đến nội dung chỉ thị của Thiệu trong buối họp buổi sáng tại Cam Ranh.
Hôm đó Stephens không lấy được tin gì. Ngày mai Stephens trở lại với hy vọng có tin sốt dẽo. Khi xe chạy qua phi trường Pleiku Stephens không thấy các phản lực cơ của Không quân Việt Nam thường đậu ở đó. Đến bộ tư lệnh Stephens thấy đồ đạt vương vãi như đang dọn nhà. Nửa giờ sau Stephens tìm được Lý. Lý kéo Stephens ra một chỗ vắng và sau khi căn dặn tuyệt đối giữ kín, Lý cho Stephens biết Thiệu ra lệnh tướng Phú bỏ Pleiku và Kontum. Stephens vội vàng thông báo tin sơ khởi cho cố vấn tỉnh Darlac Earl Thieme, rồi đi tìm gặp Phú để xác nhận. Thi hành lệnh của tổng thống Thiệu không cho người Mỹ biết quyết định rút quân ra khỏi Pleiku và Kontum, tướng Phú nói với Stephens ông cho dời bộ chỉ huy Quân Đoàn về Nha Trang cho an toàn chứ không có ý bỏ Pleiku và Kontum. Tuy nhiên – cũng như đại tá Lý- Phú khuyên người Mỹ nên rời khỏi Pleiku.
Nhận được báo cáo của Chin, Polgar còn đang lượng định sự xác tín của nguồn tin, thì lãnh sự Mỹ tại Nha Trang Moncrieff Spear và Chin đã khẩn khoản yêu cầu, và Polgar chấp thuận cho tất cả nhân viên Mỹ rời khỏi Pleiku và Kontum. Sau khi toàn bộ nhân sự tình báo về đến Nha Trang với máy giải mã và vũ khí, phó CIA Sài gòn LaGueux dùng máy bay đích thân bay quan sát và chụp hình đoàn quân rút lui của tướng Phú trên đoạn đường Pleiku – Phú Bổn. LaGueux thấy cuộc rút lui vô cùng hỗn độn.
Polgar tiếp xúc với Quang và tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam (TQLC) để tìm hiểu toan tính thật sự của tổng thống Thiệu. Khang nói Khang không biết gì. Và rằng ông mới gặp tướng Cao Văn Viên cũng không thấy Viên nói gì. Quang thì nói úp mở rằng việc di tản ra khỏi Kontum là điều có thể xẩy ra. Còn Thiệu khi gặp Phó đại sứ Lehmann cũng không xác nhận ông đã ra lệnh di tản.
Vì không biết được một cách chính xác Thiệu tính gì, Polgar cho rằng việc bỏ Pleiku và Kontum là chiến thuật gom quân của Thiệu để chiếm lại Ban Mê Thuột.
Ngày 17/3, tướng Viên, với phép của Thiệu chính thức thông báo cho tướng Homer Smith, tùy viên quân lực Hoa Kỳ biết quân đội VNCH đang rút ra khỏi Pleiku và Kontum. Viên xin lỗi tướng Smith đã không thông báo sớm hơn vì lệnh của tổng thống Thiệu.
Ngày 14/3 trong khi tổng thống Thiệu gặp các tướng Phú, Khiêm, Viên, Quang tại Cam Ranh thì Polgar đang nhức đầu vì mất Ban Mê Thuột và áp lực cộng sản nặng nề tại tỉnh Tây Ninh. Theo Polgar cường độ của cuộc tấn công vượt quá trận tấn công 1972. Bình nói với Polgar rằng quân đội VNCH đang cố gắng tái chiếm Ban Mê Thuột, và việc chiếm lại được hay không sẽ quyết định vận mạng của Nam Việt Nam.
Sau này nhìn lại tình hình lúc đó Polgar cho rằng cuộc tấn công của cộng sản chưa đủ sức làm cho miền Nam sụp đổ. Nam Việt Nam sụp đổ vì lỗi lầm chiến thuật của VNCH. Vùng 2 rồi Vùng 1 sụp đổ nhanh chóng vì Thiệu quyết định rút ra khỏi Pleiku và Kontum quá vội vàng, và các tướng lãnh đã thực hiện cuộc rút lui một cách tồi tệ. Tuy nhiên thủ tướng Trần Thiện Khiêm cho rằng Hoa Kỳ đã gián tiếp làm miền Nam sụp đổ. Ông nói: “Chừng nào cái Quốc hội Hoa Kỳ ‘khốn kiếp’ đó còn chơi trò thắt chặt viện trợ thì chừng đó cộng sản Hà Nội càng được khuyến khích.” Một nhân vật khác (TBN: tài liệu không ghi là ai nhưng có thể đoán là tổng thống Thiệu) nói rằng “khi Hà Nội tấn công Nam Việt Nam trong năm 1972 Hoa Kỳ còn dùng B52 và hải pháo đánh phá trả đũa Bắc việt, bây giờ thì im thin thít. Hoa Kỳ sau khi chơi trò Kissinger, bây giờ đến trò Quốc hội, và chúng tôi có thể làm gì đây?”
Trong khi Hà Nội đang mở cuộc tấn công, đại sứ Martin đang chữa răng ở Mỹ, và – theo Polgar- các phụ tá của Martin không đủ khả năng để nắm tình hình . Cho nên các báo cáo có chất lượng phản ánh thực tế đều do CIA báo cáo.
Ngày 20/3 Langley yêu cầu Polgar cho biết sự tính toán của Thiệu trước tình hình đổ vỡ nhanh chóng và cho Polgar biết Washington đang chuẩn bị một chương trình giúp người tị nạn từ miền Trung vào.
Phản ứng của Polgar : “Chương trình giúp người tị nạn thì giải quyết được gì ? Thiết giáp của Hà Nội chỉ có thể bị chận lại bằng vũ khí chống tăng chứ không thể bằng một chương trình nhân đạo. Hoa Kỳ đã không giữ lời cam kết thay thế vũ khí cho quân đội Nam Việt Nam trên căn bản ‘một đổi một’ và cũng không nhắc cho Hà Nội biết hậu quả họ sẽ gánh chịu nếu vi phạm Hiệp định Paris bằng cách mở một cuộc tấn công quy mô vào miền Nam là hai nhát búa kết thúc sinh mạng của một miền Nam tự do không cộng sản. Bây giờ nói gì thì cũng quá trễ.” Langley đồng ý trên nguyên tắc với Polgar, nhưng nhắc lại các giới chức cao cấp Hoa Kỳ cho rằng đổ vỡ là do cộng sản Hà Nội và lúc này điều cần thiết là giúp người chạy giặc.
Ngày 21/3 trong khi quân đội Nam Việt Nam đang rút chạy từ cao nguyên về miền duyên hải thì tòa đại sứ Hoa Kỳ một mặt làm ra vẻ bình tỉnh để trấn an dư luận, một mặt không cho thân nhân của nhân viên tòa đại sứ đến Sài gòn nữa và không làm gì khác hơn để đáp ứng với tình hình (TBN: có lẽ đây là tâm lý phản ánh cái nhìn của Bộ trưởng ngoại giao Kissinger, chuyện miền Nam Việt Nam xem như đã xong rồi).
Thấy được tâm lý đó Polgar và LaGueux ra sức làm những gì có thể làm được để che đậy tâm lý chủ bại của tòa đại sứ. Polgar thuyết phục tổng thống Thiệu tái tổ chức và tìm cách nâng cao tinh thần binh sĩ và không ngừng mời Quang, Bình, Nhã dùng cơm để bàn việc. Ngày 22/3 Polgar cho Khiêm và Quang xem các tấm không ảnh chụp cảnh rút quân hỗn loạn và những tổn thất của quân đội VNCH trên đường Pleiku – Phú Bổn. Ngày hôm sau Quang trình các tấm ảnh đó cho Thiệu xem. Đại tá William Legro cũng thuyết trình cho một số tướng lãnh Việt Nam tình hình bi đát qua không ảnh.
Ngày Chủ Nhật 23/3 Polgar báo cáo về Washington rằng: Hà Nội đang thắng lớn, Nam Việt Nam đang thua đậm trong khi tòa đại sứ Hoa Kỳ bất động! Polgar cho biết Hà Nội đã đưa 5 sư đoàn trừ bị (có nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc) vào Nam bỏ ngỏ miền Bắc và yêu cầu Langley thông báo cho Bộ trưởng ngoại giao Kissinger và Bộ trưởng quốc phòng Schlesinger rằng – theo nhận xét của ông – miền Nam Việt Nam đang sụp đổ. Chiều hôm đó Langley hỏi Polgar quân đội Nam Việt Nam tổn thất đến mức độ nào và Thiệu tính phản công ra sao để Hoa Kỳ kịp gởi vũ khí cần thiết tới. Langley lượng định ông Thiệu có thể sẽ mất Đà Nằng và có thể cả Tây Ninh và muốn biết ông Thiệu định giữ trận tuyến ở đường ranh nào. Trả lời trong ngày Polgar nói tình hình bi đát hơn người ta có thể tiên đoán 10 ngày trước. Nhưng các thành phố Đà Nẵng, Quy Nhơn, Phan Thiết có thể giữ làm nơi gom quân và bảo vệ tiềm năng quân đội cho một trận đánh quyết liệt sắp tới. Thiệu chưa có ý định lập một phòng tuyến nào ngoài nỗ lực cứu vãn những gì có thể cứu vãn.
Ngày 25/3 Langley định cho phép Polgar bắt đầu di tản những đối tượng cần di tản, nhưng tỏ ý quan ngại phản ứng bất lợi trong dân chúng. Polgar cho biết sự lo ngại đó không cần thiết vì với thái độ bất hợp tác của quốc hội Mỹ cộng thêm việc hàng ngàn nhân viên Việt – Mỹ hốt hoảng từ các tỉnh phía Bắc chạy xuống đã đủ gây kinh hãi cho dân chúng tại Sài gòn.
Về chiến lược, Polgar nhận thấy cả hai phía Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đều lúng túng thiếu đường lối chỉ đạo. Ông đề nghị tướng Fred C. Weyend, nguyên tư lệnh MACV nên đến Sài gòn tìm hiểu tình hình. Washington chấp thuận đề nghị của Polgar và phái đoàn gồm tướng Weyand, Shackley, George Carver và Martin quá giang lên đường ngày 27/3.
Ngày 26/3 Polgar báo cáo rằng tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân đội VNCH “như chúng ta từng biết” không còn nữa sau vụ rút ra khỏi cao nguyên và Hà Nội có thể kết thúc sự tồn tại của VNCH một cách nhanh chóng nếu họ muốn, ngoại trừ có áp lực quân sự và chính trị đối với Hà Nội, chẳng hạn như Hoa Kỳ khai thác miền Bắc đang bỏ trống, và vận động Nga khuyên Hà Nội đừng hấp tấp mà hố. Chiều ngày 26/3 Hoa Kỳ rút khỏi Tây Ninh bằng trực thăng.
Một báo cáo nội bộ CIA tại Sài gòn cho biết tướng Viên, Tham Mưu Trưởng quân đội rất bi quan. Theo Viên, tái phối trí hay không tái phối trí cũng không cứu được miền Nam, ngoại trừ một cuộc phản công mạnh mẽ bằng B-52 của không lực Hoa Kỳ .
Tại Sài gòn Thiệu ra lệnh cho Quang và Bình tìm mọi cách chận đứng các tiếng nói phản chiến của bà Ngô Bá Thành và của các linh mục Công giáo, và ngày 28/3, sau những cảnh hỗn loạn tại phi trường Đà Nẵng hôm 27/3, Shackley báo cáo cho Colby biết kế hoạch giữ Đà Nẵng không thể thực hiện được. Ngày 27/3 phi trường Đà Nẵng mất an ninh vì quân lính và dân chúng chen chúc nhau dành chỗ và chuyến bay thứ nhất của Hoa Kỳ chỉ chở được 1/3 số người trong danh sách do Hoa Kỳ thiết lập. Chuyến bay thứ hai phải lén đậu một chỗ khuất trên phi đạo mới lấy được đủ số người trong danh sách. Riêng nhân viên tình báo Hoa Kỳ an toàn rời Đà Nẵng trong ngày bằng phương tiện chuyên chở riêng của CIA.
Polgar thúc dục Quang cho Thiệu biết nếu không tái lập được an ninh tại phi trường thì Hoa Kỳ sẽ hủy bỏ nỗ lực di tản người Mỹ và người Việt bằng máy bay. Hình như tổng thống Thiệu không được báo cáo chính xác về tình hình hỗn loạn tại phi trường Đà Nẵng.
Được lệnh của Thiệu, nhưng tướng Ngô Quang Trưởng tư lệnh Quân đoàn 2 cũng khoanh tay không tái lập được trật tự phi trường. Ngày 28/3 lãnh sự Mỹ tại Đà Nẵng Albert Francis ra lệnh chấm dứt chương trình di tản bằng máy bay chuyển sang dùng đường biển.
Hừng đông ngày 28/3 lợi dụng trời còn tối Hoa Kỳ cho một chiếc phà cặp bến sông Đà Nẵng để di tản 3.000 người Việt làm việc với Hoa Kỳ. Tin bị lộ khoảng 1.000 người không có trong danh sách tràn lên bè, chen lấn xô đẩy nhau, té xuống sông và nhiều người chết đuối. Phà được vội kéo ra, một số đông trong danh sách 3000 người của Hoa Kỳ còn lại trên bờ. Đêm hôm sau tòa lãnh sự lại cho nhiều phà cập bến, nhưng chỉ có một số vào được.
Lãnh sự Mỹ nhờ một tàu kéo (tugboat) của Úc, chiếc Osceola giúp. Sáng ngày 29/3 chiếc Osceola rời bến sông Đà Nẵng an toàn chạy ra biển với nhân viên người Mỹ và một ít người Việt thuộc cơ sở CIA và tòa lãnh sự Mỹ. Đang còn trên sông một chiếc thuyền máy nhỏ chở lính TQLC chạy áp lại phía sau lái bất chấp chiếc Osceola bắn thị uy. Hank Boothe, một nhân viên an ninh Mỹ bước ra sau lái và lời qua tiếng lại rất căng thẳng với một binh sĩ TQLC lăm lăm một khẩu súng lục chĩa thẳng vào người Boothe. Sau cùng không khí bớt căng thẳng, người lính TQLC kéo ổ đạn cho thấy súng không có đạn. Boothe yêu cầu các binh sĩ TQLC hãy lên các thuyền đánh cá khác lúc này đang bu quanh chiếc Osceola.
Ra đến biển, từ chiếc Osceoala có thể thấy vô số thuyền máy đánh cá đủ loại chỡ lính có, thường dân có chạy lung tung trên biển. Hạm đội 7 dàn ngoài khơi trong hải phận quốc tế không biết đón được bao nhiều người. Osceola đánh điện kêu cứu theo luật hàng hải quốc tế và các thuyền buôn đang chạy qua vùng Đà Nẵng đã tích cực đáp ứng nhưng không giúp gì được vì hỗn loạn.
Đêm 29/3 bốn nhân viên CIA và những nhân viên tòa lãnh sự ngủ trên chiếc Osceola chờ trời sáng chuyển qua một chiếc tàu lớn hơn để vào Sài gòn. Khi Osceola cặp vào chiếc tàu buôn Pioneer Commander thì thấy trên tàu đã có hằng trăm lính TQLC với quang cảnh rất hỗn loạn. Tuy nhiên hành khách Mỹ Việt của chiếc Osceola lên tàu an toàn, và sau đó giúp thuyền trưởng tổ chức bảo vệ an ninh đài chỉ huy và phòng máy. Trong đêm 30/3 nhiều lính TQLC định lên chiếm đài chỉ huy, nhưng nhân viên an ninh Mỹ ngăn chận và đuổi đi.
Tổng kết lại, tòa lãnh sự Mỹ và CIA phối hợp nhau đã di tản được khoảng 50.000 người ra khỏi Đà Nẵng, nhưng nhiều người Việt trong số từ 3.000 đến 4.000 người làm việc với Hoa Kỳ và thân nhân của họ vẫn còn kẹt lại.
Ngày 27/3 trên chiếc máy bay chở phái đoàn tướng Weyand đi Việt Nam Shackley tóm tắt cho đại sứ Martin biết tình hình hỗn loạn tại phi trường Đà Nẵng, Martin có vẻ không tin. Đến Sài gòn, và sau khi Đà Nẵng đã rơi vào tay cộng sản Polgar đưa Vince Daly, một nhân viên CIA của trạm Đà Nẵng đến gặp để tường trình trực tiếp cho Martin, Martin vẫn chưa tin và nói có thể ông sẽ đi Đà Nẵng để đích thân quan sát tình hình. Polgar hỏi máy bay ông đại sứ làm sao có thể đáp xuống một phi trường do quân lính cộng sản kiểm soát? Hoạt cảnh này có lẽ là hoạt cảnh đại sứ Martin bắt đầu đóng để bảo đảm một cuộc rút chạy an toàn cho đến ngày 30/4/1975! Theo chính sách của đại sứ Martin, Polgar bắt đầu cho ra những tin tức lạc quan.
Đà Nẵng thất thủ trong hỗn loạn như một gáo nước lạnh dội suốt miền Nam. Tổng thống Thiệu cũng mất bình tỉnh. Ngày 30/3 không một viên chức nào có tầm cỡ ứng trực tại dinh tổng thống. Ngày 2/4 Shackley và Polgar gặp tổng thống Thiệu và thấy ông không kềm chế được xúc động phải bật khóc. Shackley ghi nhận Vùng 1 và Vùng 2 mất đã làm cho tinh thần binh sĩ và dân chúng miền Nam hoàn toàn suy sụp. Dân cũng như quân miền Nam đều cho Hoa Kỳ phản bội và đồng ý với nhau một điều là miền Nam chỉ có thể sống còn nếu Hoa Kỳ dùng B-52 dội bom vào các đoàn quân Bắc việt đang nghênh ngang tiến về Sài gòn.
Trong hai điệp văn Shackley gởi về Langley trong hai ngày 31/3 và 2/4 Shackley tiên đoán hau điều có thể xẩy ra. Thứ nhất là quân đội miền Bắc tiến thẳng vào Sài gòn thanh toán chính quyền miền Nam bằng vũ lực. Thứ hai, Hà Nội ngưng tiến quân, ép thành lập một chính phủ liên hiệp để hiến cho miền Nam một cách đầu hàng. Polgar và Martin luôn luôn chờ đợi tín hiệu thứ hai, nhưng nó không bao giờ tới. Phái đoàn Weyand cũng thấy không có gì để thuyết phục Hà Nội chớ nên dùng sức mạnh để chiếm miền Nam lúc này, ngoại trừ Hoa Kỳ dùng không lực yểm trợ và ồ ạt viện trợ xăng nhớt súng đạn cho quân đội VNCH.
Sau khi chiếm Đà Nẵng quân đội cộng sản tiến ra vùng duyên hải. Ngày 1/4 bộ đội cộng sản tiến sát Nha Trang. 10:30 sáng đại tá Lý Bá Phẩm, tỉnh thị trưởng Khánh Hòa Nha Trang kiêm tiểu khu trưởng báo cho Hoa Kỳ biết Nha Trang đã bỏ ngỏ. Tổng lãnh sự Mỹ vội rời Nha Trang và vào lúc 11:17AM cơ sở CIA đóng cửa và khoảng xế trưa chủ sự CIA Robert Chin và toàn bộ nhân viên rời Nha Trang bay về Sài gòn. Chương trình di tản nhân viên người Việt làm việc với Hoa Kỳ và thân nhân bằng đường biển không thực hiện được vì sự ra đi đột ngột của người Mỹ. Sau này kiểm điểm lại có 50% trong số này tự xoay xở vào đến Sài gòn.
Ngày 2/4 Langley cho Polgar biết Bộ ngoại giao sắp ra lệnh di tản toàn bộ nhân viên Mỹ và những người Việt có thể bị Hà Nội trả thù ra khỏi Sài gòn. Con số này ước lượng một triệu người. George Carver nói kế hoạch di tản này là kế hoạch của “người điên”, vì sự di tản sẽ tạo ra hỗn loạn còn hơn sự hỗn loạn trong trường hợp không làm gì cả. Carver chỉ thị Polgar không nên động tỉnh gì cho đến khi có lệnh, và nếu di tản rất có thể phải đổ bộ một sư đoàn TQLC được yểm trợ bởi Không quân chiến thuật. Phụ tá Bộ trưởng quốc phòng Philip Habib quyết định di chuyển thân nhân, còn nhân viên và công chức Mỹ thì cho di tản nhỏ giọt từng nhóm nhỏ để tránh tin đồn “Mỹ bỏ chạy”. William Colby, giám đốc CIA dặn rằng nếu phía chính quyền Việt Nam chất vấn thì nói Vùng 1 và Vùng 2 đã mất, công việc ít nên các cơ sở Hoa Kỳ tại Việt Nam giảm nhân số theo nguyên tắc hành chánh thôi (TBN: ông Colby quả có óc khôi hài!). CIA chỉ định William Johnson bố trí người ở lại sau khi Sài gòn sụp đổ để lấy tin. Không biết Johnson làm ăn thế nào sau này CIA không nhận được một tin tức tình báo nào cả.
Ngày 2/4 Thiệu cho Shackley và Polgar biết ông dự tính lập một chính phủ rộng rãi để hy vọng Hà Nội thấy thích hợp bàn chuyện ngưng bắn. Ngày 3 tháng 4 Polgar báo cáo với Langley rằng tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ và Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm cũng định thành lập một chính phủ như vậy mà không có Thiệu. Kế hoạch là Thượng viện thông qua một Quyết Nghị yêu cầu Thiệu từ chức. Polgar thấy kế hoạch của Kỳ khó thực hiện vì Thiệu sẽ không dễ bị ép như vậy.
Sáng ngày 8/4 Trung úy Nguyễn Thành Trung của Không quân VNCH đào ngũ dùng phản lực cơ ném bom dinh Độc Lập. Cũng trong ngày tin tình báo của CIA từ Hà Nội cho biết Hà Nội đã lấy quyết định thanh toán Nam Việt Nam bằng sức mạnh quân sự vào thời điểm do Hà Nội chọn lựa, không thương thuyết, không liên hiệp, dù Thiệu từ chức hay dù Hoa Kỳ mở lại đường tiếp vận quân trang vũ khí cho quân đội VNCH.
Lúc này Nội các của Khiêm hoàn toàn tê liệt. Tổng thống Thiệu cũng không buồn liên lạc với Martin. Ngày 10/4 khi báo cáo về Washington các cuộc tấn công của cộng quân quanh Sài gòn Polgar tiên đoán Hà Nội sẽ tiến vào Sài gòn khoảng tháng 6/75. Martin lúc này nghĩ Thiệu ra đi là tốt nhưng ông không thấy ai có thể thay thế. Riêng Polgar nhận định rằng, ngoại trừ Hoa Kỳ đổi ý mạnh tay can thiệp bằng vũ lực, cách tốt nhất còn lại để tránh đổ máu là Thiệu từ chức và thành lập một chính phủ gọi là “liên hiệp quốc gia” như một cách đầu hàng và Hoa Kỳ vận dụng mọi sức ép quốc tế (như cung cách Hoa Kỳ đã làm khi quân đội Do Thái tiến vào Ai Cập năm 1973) kêu gọi Hà Nội ngưng tiến quân. Nếu không, Nam Việt Nam sẽ bị đánh gục trong một thời gian ngắn và không một người Việt Nam nào có thể chạy thoát. Về phần di tản, có lẽ kinh nghiệm của các vụ di tản Pleiku, Đà Nẵng cho Polgar thấy một cuộc di tản đông đảo ra khỏi Sài gòn không phải là chuyện dễ làm nên Polgar trở nên dè dặt theo đường lối của Martin. Khác với một Polgar lúc nào cũng nhận định dứt khoát rõ ràng dựa vào thực tế của ông trước đây, bây giờ Polgar hay nói đến giải pháp liên hiệp và ngưng bắn. Ông dự tính chỉ di tản ồ ạt người Mỹ và thân nhân khi Biên Hòa mất và đường bộ Sài gòn – Vũng Tàu bị cắt.
Ngày 10/4 trong một báo cáo lời lẽ trung thật Polgar kết luận: “Tháng 2/1975 chúng ta có nhiều đường an toàn rút khỏi Việt Nam và Nam Việt Nam còn nhiều ưu thế để tồn tại, nhưng chúng ta đã để cho cơ hội vuột khỏi tầm tay (TBN: ý Polgar muốn nói sau khi cộng sản vi phạm Hiệp định Paris đánh chiến Phước Long mà Hoa Kỳ vẫn bất động) khuyến khích Hà Nội làm tới. Và bây giờ thì không còn gì nữa, ngoài sự thất bại!
Theo Polgar lúc này chỉ còn 4 bước: (1) di tản nhanh chóng người Mỹ ở một mức độ sao cho không tạo ra cảm tưởng Mỹ đang trốn chạy (2) vận động ngưng bắn qua Nga Sô và Pháp (3) ép Thiệu từ chức và thành lập chính phủ liên hiệp để đầu hàng [TBN: thực tế có ép Thiệu từ chức và đầu hàng nhưng không có khâu liên hiệp!] (4) thương thuyết với Hà Nội để có thì giờ di tản người Việt có thể bị Hà Nội trả thù [TBN: chương trình HO thực hiện điều này nhưng chỉ thực hiện được sau khi sĩ quan quân đội VNCH và công chức cao cấp của chính quyền miền Nam đã bị trả thù trong các trại cải tạo!]. Theo Polgar giải pháp 4 bước này giúp rữa mặt mày cho Hoa Kỳ và giúp Hà Nội tránh được tiếng vi phạm một hiệp định được quốc tế công nhận.
Lúc này vấn đề di tản an toàn là mối lo chung từ Washington đến Sài gòn. Hoa Kỳ có trách nhiệm đối với 250.000 người có quan hệ với Hoa Kỳ chưa kể toàn bộ sĩ quan, binh sĩ và công chức các cấp của chính quyền miền Nam Việt Nam.Tin cho biết nếu thấy người Mỹ “bỏ chạy” mà không ngó ngàn gì đến người Việt một số đơn vị quân đội VNCH có thể đơn phương lấy sáng kiến giữ người Mỹ lại làm con tin để bảo đảm sự ra đi của họ và vợ con.
Giải pháp đưa đến một sư đoàn TQLC để yểm trợ cuộc di tản được gạt bỏ vì những hệ lụy không thể lường trước được.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:15:12 GMT 9
Chương 9: Tìm lối đầu hàng và di tản
Ngày 11/4 quân đội cộng sản bị chận đứng ở mặt trận Xuân Lộc.Tại Sài gòn Khiêm từ chức thủ tướng, Nguyễn Bá Cẩn, Chủ tịch Hạ nghị viện thay thế. Dân Sài Gòn có vẻ phấn khởi, nhưng chính quyền vẫn tê liệt. Nhiều tổng bộ trưởng tìm đường ra đi. Ngày 19/4 Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ giảm nhân số tòa đại sứ xuống còn 1.250 người, trong số đó có 270 nhân viên CIA.
Đại sứ Martin và Polgar có hai công tác chính.Thứ nhất là khai triển một chương trình di tản người Mỹ và người Việt làm việc với Hoa Kỳ và thân nhân mà không làm cho dư luận xôn xao. Nhưng trước viễn ảnh một cuộc di tản khó thành công nếu Hà Nội dùng lực lượng quân sự ngăn cản, công tác chính thứ hai là thương thuyết với Hà Nội tìm một giải pháp chính trị để an toàn di tản mọi đối tượng liên hệ ra khỏi Việt Nam. Hoa Kỳ còn hy vọng qua vận động với Nga Xô duy trì một tòa đại sứ tại Sài gòn để duy trì sự liên tục ngoại giao.
Công tác chính trị chính yếu là thuyết phục tổng thống Thiệu từ chức, và tìm cách chuyển quyền cho tướng Dương Văn Minh để thành lập một chính phủ “liên hiệp” gọi là chính phủ “đoàn kết quốc gia” để chuyển chính quyền cho phe cộng sản. Hà Nội cho biết chỉ nói chuyện với Minh.
Thuyết phục Thiệu Hoa Kỳ không thấy khó. Khó là làm sao chuyển quyền cho Minh mà không vi phạm Hiến pháp VNCH.
Tuy nhiên, tin chiến sự càng ngày càng xấu. Ngày 16/4 quân đội Bắc Việt chiếm Phan Rang, quê của Thiệu, bắt sống tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và một sĩ quan tình báo Mỹ. Tin tình báo của CIA từ Hà Nội xác nhận tin đã biết rằng Hà Nội quyết định chiếm Sài Gòn bằng vũ lực càng sớm càng tốt, chậm lắm là trước ngày sinh nhựt của ông Hồ Chí Minh, 19 tháng 6.
Trong khi đó tại Washington có nhiều diễn biến không lợi cho sự ổn định tình hình tại Sài gòn. Thứ nhất, một viên chức cao cấp tuyên bố chính phủ Hoa Kỳ không can dự gì đến một giải pháp chính trị để cho Nam Việt Nam đầu hàng. Thứ hai , ông Thứ trưởng Ngoại giao Philip Habib khi được giới truyền thông yêu cầu Hoa Kỳ giúp di tản các phóng viên của họ làm việc tại Sài gòn trả lời rằng Hoa Kỳ không có chương trình di tản người Việt làm việc với các cơ sở của người Mỹ. Trong khi đó thật ra đại sứ Martin đã im lặng cho di tản hơn 350 người Việt làm việc với các cơ sở truyền thông Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam.
Ngày 18/4 Janos G. Toth, một đại tá người Hungary trong phái đoàn quốc tế kiểm soát đình chiến gặp Polgar và cho biết qua các cuộc nói chuyện với phái đoàn Hà Nội ông ghi nhận rằng Hà Nội chỉ muốn tăng sức ép để Sài gòn sụp dần chứ không muốn có một cuộc tấn công quân sự để kết thúc chế độ. Đại tá Toth nói Hà Nội không muốn ép Hoa Kỳ phải tháo chạy như đã tháo chạy tại Phnom Penh mấy ngày trước đó. Toth nói Hungary từng nếm mùi thất trận và tàn phá nên không muốn thấy Sài Gòn bị tàn phá như Berlin năm 1945. Polgar hiểu đây là lời nhắn của Hà Nội, nên bên cạnh việc di tản, Polgar và đại sứ Martin lo tìm cách thuyết phục Thiệu từ chức và thành lập một chính phủ liên hiệp gồm các thành phần thiên cộng để đầu hàng.
Về việc di tản nhân sự ra khỏi Việt Nam, với phương tiện hiện có tòa đại sứ Hoa Kỳ chỉ có thể di tản từng đợt mỗi đợt 1.600 người, và đại sứ Martin than phiền với Bộ Ngoại giao rằng một cuộc di tản như vậy không thể thành công và lịch sử sẽ phê phán ông. Kissinger an ủi Martin rằng nếu có gì xẩy ra lịch sử cũng sẽ phê phán ông nặng hơn phê phán ông đại sứ. Trong một điện văn gởi Martin, Kissinger viết một cách ấn tượng rằng, nếu “người ta treo cổ ông thì tôi cũng sẽ bị treo cao hơn ông vài thước”, và để yên lòng Martin Kissinger thông báo ông đang nói chuyện với Nga Xô về tình hình Việt Nam.
Trong khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chưa có chương trình dứt khoát di tản người Việt thì tòa đại sứ phải giải quyết vài trường hợp đơn lẻ do Washington nhờ. Ngày 19/4 Kissinger gởi Polgar một điện văn yêu cầu vào Chợ Lớn tìm gia đình vợ của Ken Quin, một nhân viên cao cấp của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, và đưa qua Mỹ. Polgar phái Chip Schofield, một nhân viên giỏi tiếng Việt và tiếng Hoa lặn lội vào Chợ Lớn tìm bà mẹ vợ của Quin và gia đình rồi gởi lén ra khỏi nước không có giấy phép của chính quyền Việt Nam bằng C-130 chở tiếp liệu đến Sài Gòn và trở về căn cứ Clark tại Phi Luật Tân. Cùng lén rời khỏi Việt Nam có một vài thân nhân của Polgar.
Ngày 21/4 Kissinger điện cho Martin thông báo Nga Xô hứa sẽ thuyết phục Hà Nội chấp nhận giải pháp chính trị và tránh không làm nhục Hoa Kỳ. Trong khi đó nhiều tin tức, thật có, giả có được loan truyền tại Sài gòn. Hai tin giả: Quốc hội Hoa Kỳ chuẩn chi 350 triệu mỹ kim viện trợ quân dụng; và chính phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CH/MNVN - do Hà Nội dựng nên) cho biết Martin phải đi nhưng tòa đại sứ Hoa Kỳ có thể được duy trì tại Sài Gòn. Tin thật: Hoa Kỳ áp lực Thiệu từ chức nhưng không muốn các tướng lãnh làm đảo chánh như năm 1963 đối với cựu tổng thống Ngô Đình Diệm.
Trước tình hình này thủ tướng Nguyền Bá Cẩn nói Cẩn không muốn ngồi ở ghế thủ tướng khi Minh thay Thiệu vì ông ngại các thành phần cực hữu trong quân đội sẽ giết ông và ông muốn từ chức. CIA yêu cầu Cẩn ngồi nán lại trước khi có một giải pháp rõ ràng hơn.
Ngày 19/4 trước đó, Martin yêu cầu tướng Timmes thuộc Phái bộ Tùy viên Quốc phòng (Defense Attache - hậu thân của MACV) gặp Thiệu để thảo luận một hình thức từ chức để Phó tổng thống Hương thay thế trước khi chuyển quyền cho Minh. Chiều ngày 19/4 và sáng ngày 20/4 Martin gặp Thiệu hai lần. Martin nói với Thiệu rằng “Tôi không ép ngài từ chức, nhưng ngài biết cộng quân có khả năng đánh vào Sài gòn bất cứ lúc nào, và nếu ngài không từ chức tôi ngại rằng các tướng của ngài cũng yêu cầu ngài từ chức”. Nhớ đến Lucien Conein với cuộc đảo chánh ông Diệm năm 1963 Thiệu im lặng nghe và trả lời: “Tôi sẽ làm những gì có lợi nhất cho đất nước tôi.” Martin nói: “Tôi biết ngài sẽ làm!”.
Ngày 21/4 Thiệu cho biết sẽ từ chức trong ngày. Polgar vội vàng thông báo cho Toth. Vài giờ sau Thiệu từ chức trao quyền tổng thống cho Phó tổng thống Trần Văn Hương. Thiệu đọc một bài diễn văn từ chức nảy lửa kết án Hoa Kỳ và Kissinger “đã đưa Nam Việt Nam vào chỗ chết.”
Ngay sau khi Thiệu từ chức, Hoa Kỳ bắt tay vào việc sắp xếp để Hương trao quyền cho Minh. Hà Nội cho biết sẽ không thương thuyết với Hương, một người nổi tiếng chống cộng sản. Vấn đề là tìm một cách hợp hiến để trao quyền cho Minh. Theo Hiến pháp VNCH nếu Hương từ chức thì quyền tổng thống vào tay chủ tịch Thượng nghi viện Trần Văn Lắm. Bế tắc vẫn bế tắc.
Một ngày trước khi Thiệu từ chức, Shackley yêu cầu Polgar tìm cách lấy những thư từ Nixon trao đổi với Thiệu trong những năm 1972, 1973 trước khi ký Hiệp định Paris. Shackley nói nếu những văn kiện đó lọt vào tay Hà Nội thì thật “bất tiện” cho Hoa Kỳ. Polgar trả lời, ông không biết đó là những thư từ gì và CIA cũng không thấy có cách gì lấy lại. Vã lại Hoa Kỳ đã không giúp Nam Việt Nam ngay cả trên tinh thần “một đổi một” thì không có lý do gì Thiệu sẽ không công bố những văn kiện đó để làm cho Hoa Kỳ lúng túng.
Ngày 23/4 lãnh sự quán Biên Hòa yêu cầu được di tản về Sài gòn vì tòa lãnh sự không tin cậy vào sự bảo vệ an ninh của tỉnh trưởng Biên Hòa Lưu Yêm. Đồng thời Minh than phiền với Hoa Kỳ -thông qua đại sứ Pháp Jean Marie Merillon- ông được tin Kỳ có thể đảo chánh nếu ông thay Hương. Merillon điện thoại cho tướng Timmes hay. Được tin đại sứ Martin yêu cầu tướng Timmes gặp Kỳ và Kỳ nói ông không hề có ý dịnh đó. Minh còn ngỏ ý muốn Hoa Kỳ tìm giải pháp càng chóng càng tốt để ông có thể nói chuyện với phe cộng sản và than phiền sự hiện diện của Thiệu tại Sài gòn làm cho sắp xếp gì cũng khó vì tuy từ chức Thiệu vẫn còn ảnh hưởng lớn trong quân đội.
Ngày 24/4 để tôn trọng Hiến pháp, Hoa Kỳ có sáng kiến đề nghị Minh thay Cẩn làm thủ tướng toàn quyền, nhưng Minh từ chối. Minh nói với tướng Timmes ông sẽ gặp Hương trong ngày để yêu cầu Hương từ chức. Đồng thời Polgar vận động các tướng nhắn lời với Hương rằng “các tướng đồng lòng ủng hộ Minh và nếu không nhường chức tổng thống cho Minh, các tướng có thể đảo chánh Hương”. Tuy vậy Hương vẫn chần chờ và yêu cầu giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thay Cẩn lập chính phủ. Giáo sư Huy từ chối.
Hết đường, chiều ngày 24, Hương gặp Martin đồng ý trao quyền cho Minh và yêu cầu Hoa Kỳ tìm một cách thức chuyển quyền hợp hiến. Hương cũng đồng ý với Minh yêu cầu Hoa Kỳ đưa Thiệu ra khỏi nước. Sự hiện diện của Thiệu tại Sài Gòn là một bất tiện cho mọi người.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:16:19 GMT 9
Chương 10 - Một quyết định quân sự
Trong ngày 24/4, Polgar tiếp xúc với đại tá Võ Đông Giang, người đại diện của Chính phủ CH/MNVN trong Ủy ban Quân sự 4 bên cho biết triển vọng thỏa thuận giữa Hương và Minh và yêu cầu Giang cho biết ý kiến của phía cộng sản. Giang hứa sẽ trả lời sau (TBN: Giang phải thỉnh ý của Hà Nội). Giữa trưa ngày 24/4 đài phát thanh của chính phủ CH/MNVN kêu gọi Hoa Kỳ rút đại sứ Martin về nước và rút hạm đội 7 đang nằm ngoài hải phận quốc tế đi chỗ khác. Polgar hỏi Giang có phải đó là tín hiệu đối phương có thể chấp nhận sự ở lại của tòa đại sứ Hoa Kỳ khi họ chiếm Sài Gòn không. Giang ởm ờ: “Có thể!” Polgar chuyển nội dung trò chuyện của ông với Võ Đông Giang về Langley và bày tỏ hy vọng. Shackley kinh nghiệm hơn Polgar, cho rằng trả lời của Giang chỉ là trả lời cho có trả lời, không mang một ý nghĩa thực tế nào. Shackley khuyến cáo Polgar làm gì thì làm nhưng đừng quên công tác di tản thành phần Mỹ-Việt có thể bị nguy hiểm nếu bị cộng sản bắt. Shackley nhắc Polgar đừng hy vọng gì nhiều ở giải pháp Dương Văn Minh vì ông ta quá “chậm chạp”.
Chiều tối ngày 24/4 đài phát thanh chính phủ CH/MNVN lại thông cáo đòi hỏi Hoa Kỳ rút mọi nhân viên tình báo ra khỏi Việt Nam và yêu cầu Hoa Kỳ cam kết không can thiệp vào chuyện sắp xếp nội bộ giữa người Việt Nam với nhau. Thông cáo vẫn không nói gì đến tư cách của tòa đại sứ Hoa Kỳ làm cho Polgar càng hy vọng tòa đại sứ có thể được duy trì và Hoa Kỳ có thể làm công tác cứu trợ. Được Polgar dò hỏi, Giang trả lời mọi chi tiết sẽ rõ ràng trong cuộc họp báo của phái đoàn cộng sản vào ngày 26/4 sắp tới.
Phe tướng Minh cũng ráo riết chuẩn bị. Minh gởi hai phụ tá sang Paris gặp phái đoàn Bắc Việt và xin gởi một phái đoàn ra Hà Nội. Đại diện Hà Nội trong Ủy ban Quân sự 4 bên đề nghị phương tiện di chuyển với phái đoàn Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ cho một máy bay đặc biệt đưa phái đoàn của Minh ra Bắc (TBN: Dân biểu Nguyễn Phúc Liên Bảo thuộc khối đối lập Dân Tộc Xã Hội là một nhân vật trong phái đoàn này).
Ngày 25/4 Polgar lái xe lên Tân Sơn Nhất gặp Giang. Giang xác nhận một giải pháp chính trị có thể thành hình và Hà Nội sẵn sàng chấp nhận Minh là đối tác và lần đầu tiên nói, chính phủ CH/MNVN không phản đối sự hiện diện của tòa đại sứ Mỹ tại Sài gòn. Giang nói Giang chờ đợi việc Minh thay Hương và yêu cầu Polgar thông báo nếu có diễn tiến. Cũng trong ngày 25/4 đại tá Toth gặp Polgar cho biết Hà Nội muốn biết có những ai trong danh sách Nội Các khi Minh thay Hương và hạm đội Hoa Kỳ túc trực ngoài hải phận quốc tế của Việt Nam để làm gì. Polgar nói hạm đội chờ làm công tác di tản và cứu trợ. Polgar yêu cầu Toth cho Hà Nội biết Hoa Kỳ không muốn thấy các cuộc không kích vào Sài gòn như đã xẩy ra trước đây. Những cuộc bỏ bom như vậy có thể làm cho các thành phần quân nhân cực hữu tại Sài Gòn bạo động và sẽ không thể sắp xếp một giải pháp êm thắm. Polgar nhấn mạnh việc Hương trao quyền cho Minh sẽ diễn ra nhanh chóng.
Để chuẩn bị việc chuyển quyền, ngày 24/4 Martin yêu cầu Polgar sắp xếp để Thiệu rời khỏi Việt Nam. Sự ra đi của Thiệu và Khiêm được Polgar sắp xếp một cách tối mật. Không một người Việt Nam nào biết (ngoài những người cùng đi với Thiệu và Khiêm) và chỉ những người Mỹ liên hệ sắp xếp kế hoạch ra đi mới được biết. Thận trọng đến nổi Polgar phải nhờ Frank Snepp, chuyên viên phân tích cao cấp của tòa đại sứ Hoa Kỳ làm tài xế cho Thiệu và Khiêm. Cuộc di tản được tổ chức vào đêm 25/4, và CIA dùng một máy bay trước nay không dùng tới. Chiếc máy bay C-118 tầm xa do tổng thống Johnson dành riêng cho đại sứ Bunker dùng để thỉnh thoảng đi thăm vợ là bà đại sứ Carol Bunker tại Katmandu, Nepal. Sau khi ông Bunker hết làm đại sứ tại Việt Nam, chiếc máy bay C-118 vẫn nằm trong kho Tân Sơn Nhất không ai dùng tới kể cả đại sứ Martin. Polgar hỏi và được biết chỉ cần vài giờ bảo trì và chuẩn bị máy bay có thể được khiển dụng.
Thiệu giao cho Khiêm quan hệ với Polgar sắp xếp nhân sự và hành trình . Đoàn người kể cả Thiệu và Khiêm được lên danh sách gồm 14 người. Mỗi người được mang một xách hành lý và tối ngày 25/4 tập trung tại tư thất của Khiêm trong vòng thành bộ Tổng Tham Mưu gần Tân Sơn Nhất. Từ nhà mình, cũng ở trong bộ Tổng Tham Mưu, Thiệu chờ trời thật tối mới bước qua nhà Khiêm. Polgar sau khi lên Tân Sơn Nhất gặp Giang tạt lại nhà Khiêm gặp tướng Timmes. Timmes và Polgar dùng chiếc đàn dương cầm nơi nhà Khiêm làm bàn viết để điền giấy tờ tị nạn (parolee) cho đoàn người. Tổng cộng 12 người. Có hai người bỏ cuộc.
Vào phi trường xe phải đi qua hai trạm Polgar cho là nguy hiểm: cỗng ra bộ Tổng Tham Mưu và nhất là cỗng vào phi trường nên Polgar thận trọng dùng công xa của đại sứ Martin với bảng số và cờ ngoại giao đoàn để chở Thiệu và Khiêm giả như một đoàn xe đưa đón một phái đoàn ngoại giao cao cấp. Qua cỗng phi trường Polgar yêu cầu Thiệu cúi thấp người, và Thiệu làm theo.
Đại sứ Martin đứng đợi tiễnThiệu tại chân cầu thang máy bay trong bóng tối mờ nhạt. Polgar lên máy bay cho phi trưởng biết mục đích của công tác và ông ta cần làm những thủ tục gì khi máy bay đến Taipei. Khi chiếc C-118 khuất dạng trong bóng đêm Polgar điện cho cơ sở CIA ở Taipei biết giờ phỏng định máy bay tới, sau đó gởi điện văn báo cáo với Langley: “Thông báo quý cấp, thi hành lệnh trên, CIA Sài gòn đã thành công di tản cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và thủ tướng Trần Thiện Khiêm và đoàn tùy tùng 10 người khác. Máy bay chuyển bánh lúc 21:20 phút ngày 25 tháng 4, giờ địa phương.”
Ngày 26/4 sau khi Thiệu đi, Hà Nội tăng áp lực quân sự quanh Sài gòn buộc phi trường Biên Hòa đóng cửa. Trong khi đó Thái Lan vẫn chưa quyết định có cho Hoa Kỳ di tản người Việt qua Thái không. Và phi Luật Tân cho biết không nhận người Việt làm việc với CIA.
Polgar cho rằng Hà Nội hành động vì sự chậm trễ của Hương. Trong khi đó đại tá Toth cho Polgar biết Hà Nội muốn có những ai trong danh sách Nội Các của Minh. Minh đồng ý bà Ngô Bá Thành (một thành phần thân Cộng chỉ mới tháng trước tướng Nguyễn Khắc Bình đã định nhốt nếu không có sự can thiệp của CIA) nhưng nhất định không chịu cho linh mục Chân Tín tham gia Nội Các.
Trong thời gian Polgar thảo luận với Minh nên giữ ai, từ chối ai trong danh sách Hà Nội đề nghị thì tờ New York Times tiết lộ một báo cáo của Polgar gởi cho cho Kissinger về công tác này và trả lời của Kissinger rằng ông không tin tưởng một giải pháp chính trị do Toth làm trung gian có thể thành công. Polgar nghi ngờ chính Kissinger tiết lộ tin này vì Kissinger không muốn thấy nỗ lực của chính phủ Hungary ảnh hưởng đến cuộc vận động của ông với Nga Xô.
Cho đến ngày 26/4, Cẩn theo khuyến cáo của CIA vẫn còn giữ ghế thủ tướng nhưng bắt đầu sốt ruột. Cẩn yêu cầu đại sứ Martin cho ông phương tiện rời nước. Ngày 27/4, Martin thấy không ai cần Cẩn nữa nên yêu cầu CIA sắp xếp cho Cẩn ra đi. Cẩn rời Sài gòn ngày 28/4 cùng gia đình tướng Nguyễn khắc Bình và vợ con của tướng Đặng Văn Quang trên một chiếc máy bay C-130. Quang nói ông không thể rời nước khi đang còn chức vụ. Sau khi Thiệu từ chức Quang đã xin tổng thống Hương giải nhiệm, nhưng không ai xét đơn của ông.
Trong ngày 27/4, với sự đồng ý của đại sứ Martin lưỡng viện quốc hội VNCH họp thông qua quyết định giao trọn quyền cho tướng Minh. Minh tuyên thệ nhậm chức tổng thống lúc 5:00 giờ chiều ngày 28/4 trong một bầu không khí ảm đạm. Minh ngỏ ý với Hà Nội muốn thương thuyết theo tinh thần của Hiệp định Paris. Các cuộc tiếp xúc có thễ diễn ra tại Paris trước khi hai bên đồng ý một địa điểm thích hợp tại Việt Nam.
Sự nhậm chức của Minh không thay đổi gì kế hoạch của Hà Nội kết thúc chiến tranh bằng vũ lực như nguồn tin tình báo từ Hà Nội đã cho biết. Sau khi Minh tuyên thệ nhậm chức Hà Nội dùng máy bay lấy được của Không quân VNCH bỏ bom phi trường Tân Sơn Nhất. Và 4 giờ sáng ngày 29/4 quân đội Bắc Việt pháo kích phi trường trong mấy giờ liền làm hư hỏng phi đạo, và phá hủy 4 chiếc trực thăng của CIA. Polgar vội vàng ra lệnh phân phối cho nhân viên mình mỗi người một phong bì đựng 1.000 mỹ kim tiền mặt và một ít tiền Hồng Kông, tiền Thái để dùng khi cần thiết.
Tại Washington Shackley được Polgar báo cáo Minh đã nhậm chức, nhưng Shackley không quan tâm lắm và chỉ lo việc di tản. Shackley biết Hà Nội có khả năng pháo kích phi trường Tân Sơn Nhất bất cứ lúc nào và đã chuyển lệnh của Washington cho tướng Homer Smith, Trưởng Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ rằng nếu phi trường bị pháo kích ông ta có quyền lấy quyết định khi nào thì ngưng các chuyến bay di tản bằng C-130.
Đại sứ Martin đang bị bệnh sưng phổi không nói được nhưng cũng đến tòa đại sứ lúc 6 giờ sáng cho yên lòng nhân viên, và mọi việc liên lạc với tướng Smith ở Tân Sơn Nhất, với Đô đốc Noel Gayler Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương ở Honolulu và với Kissinger Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ ở Washington đều do Polgar đảm trách.
8 giờ sáng, tòa đại sứ nhận được thông báo của Minh yêu cầu tất cả nhân viên thuộc Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ phải rời Sài Gòn trong vòng 24 giờ. Đại sứ Martin hứa thi hành và lệnh di tản toàn diện bắt đầu.
Tướng Smith báo cáo cho đại sứ Martin biết phi trường không thể xử dụng được nữa và đề nghị Martin chuyển qua chương trình di tản bằng trực thăng. Không tin, đại sứ Martin đích thân lên phi trường Tân Sơn Nhất để quan sát bất chấp sự ngăn cản của các phụ tá. Trở về tòa đại sứ, 10:30 sáng Martin ra lệnh chuẩn bị di tản bằng trực thăng. Một mặt chuyển yêu cầu của ông đến Đô đốc Gayler, một mặt cho đốn cây nhãn trong bãi đậu xe trong khuôn viên tòa đại sứ lấy chỗ cho trực thăng lên xuống (hôm trước, 28/4, Đô đốc Noel Gayler đã ra lệnh đốn cây đó nhưng Martin ngăn lại sợ rằng các thành phần hiếu động thấy cây chặt biết tòa đại sứ di tản sẽ có phản ứng bạo động bất lợi).
11 giờ sáng lệnh di tản bằng trực thăng của Lực lượng Thái Bình Dương được ban hành. Ngoài vòng thành tòa đại sứ nhiều người Việt bắt đầu tụ tập xin đi. Polgar đi một vòng kiếm soát an ninh và thấy tướng Đặng Văn Quang, âu phục xanh như thường lệ đang đứng chờ nơi cỗng. Polgar yêu cầu hé cỗng cho Quang len vào.
Vào khoảng 3 giờ chiều cuộc di tản bằng trực thăng do hạm đội 7 điều động bắt đầu. Trực thăng lớn C-53 di tản nhân sự tại phi trường Tân Sơn Nhất, ưu tiên cho nhân viên thuộc Phòng Tùy viên Quốc Phòng. Trực thăng C-47 nhỏ hơn di tản nhân sự tại tòa đại sứ. Mọi người phải ra đi ngoại trừ 200 nhân viên tối cần trong đó có 50 nhân viên CIA ở lại cho đến các chuyến bay cuối cùng để thanh lý mọi việc.
Trên nguyên tắc đại sứ Martin đã hết nhiệm vụ ông có thể rời tòa đại sứ bay ra hạm đội. Nhưng ông đại sứ đặc biệt xin phép tổng thống Ford để ông và vài phụ tá ở lại. Ông hy vọng – qua cuộc vận động của Kissinger với Moscow - phút chót Hà Nội chấp nhận tòa đại sứ Hoa Kỳ có thể ở lại và tránh được cái nhục cho Hoa Kỳ cuốn cờ bỏ chạy.
Ngoài một số lý do như quản lý kém, quân đội VNCH tan rã quá nhanh, lệnh di tản bằng trực thăng ban hành quá trễ là trở ngại lớn nhất làm cho Hoa Kỳ không thể thực hiện một cuộc di tản trong trật tự. Nhiều nhân viên người Việt và người nước ngoài làm việc cho Hoa Kỳ bị bỏ lại.
Vào phút chót Phó trưởng cơ sở LaGueux thấy mấy triệu mỹ kim tiền mặt của CIA vẫn còn trong két sắt tòa đại sứ. Ông khẩn cấp xin một trực thăng đặc biệt chở 4 nhân viên, mỗi người mang một bao tải nặng 35 kg gồm tiền mặt và giấy tờ kế toán bay thẳng ra chiến hạm USS Blue Ridge.
Chiều xuống, hàng chục ngàn người Việt chen lấn nhau vây kín tòa đại sứ. Nhân viên CIA và viên chức tòa đại sứ ra nhìn mặt xem ai quen để giúp. Polgar thấy một đại tá thuộc Nha Chiến Tranh Tâm Lý, người từng cung cấp tin tức cho ông. Polgar bảo viên đại tá gom người thân lại bảo vệ một khu nhỏ dưới chân tường rồi quẳng hành lý vào bên trong trước khi ông và nhân viên Mỹ kéo từng người leo tường vào bên trong . Không được dặn trước lính TQLC Hoa Kỳ thấy hành lý quẳng vào sợ chất nổ quẳng trở ra.
Toán người Việt phiên dịch tài liệu cho tòa đại sứ và nhân viên phòng viện trợ kinh tế cũng bị bỏ lại. Tổng đài điện thoại tòa đại sứ không có ai trực, Chip Schofield nói được tiếng Việt tình nguyện ngồi trực giúp.
Và việc di tản nhân viên CIA và nhân viên tòa tổng lãnh sự Cần Thơ là một giai thoại chiến tranh. Trạm CIA Cần Thơ có 4 trực thăng Air America. Ngày 26/4 trưởng trạm CIA Jim Delany xin di tản nhân viên CIA, tổng lãnh sự Francis McNamara không cho ngại rằng dư luận thành phố xôn xao. Delany và McNamara cãi vã nhau. McNamara dọa báo cáo Delany vô kỷ luật. Ngày 27/4 Delany trình nhu cầu di tản sớm lên đại sứ Martin và Martin đồng ý với Delany. Delany cho di tản đa số nhân viên CIA người Mỹ, riêng ông và một số người Mỹ cần thiết và nhân viên tình báo người Việt ở lại chờ lệnh. Ngày 29/4 George Jacobson, viên chức phụ trách di tản ra lệnh cho McNamara di tản toàn bộ nhân viên ra hạm đội. Bốn trực thăng sáng đó đã được điều động về Sài gòn thay cho 4 chiếc Air America bị pháo kích hư hại trong buổi sáng. Kêu gọi trực thăng của hạm đội bị từ chối, McNamara dùng tàu của tòa lãnh sự theo sông Hậu chạy ra biển không đếm xỉa gì đến Delany và nhân viên của ông. Giữa trưa Delany được tin McNamara đã đùng đường sông ra biển, ông gọi trực thăng. 1:20PM hai chiếc trực thăng đến, Delany gọi McNamara hẹn đón ông bên bờ sông, McNamara giận từ chối. Delany cùng với các người Mỹ và một số ít nhân viên Phi luật Tân và Việt Nam được nhét lên hai chiếc trực thăng bay ra chiến hạm USS Barbour County. Hơn 100 nhân viên Việt Nam bị bỏ lại.
Trong lúc bối rối, Polgar đã quên chỉ thị cho các cơ sở của mình tại các vùng chiến thuật khi nào thì cần di tản và di tản bằng cách nào. Sau này ông nói ông tin tưởng các nhân viên đầy kinh nghiệm tình báo của ông thế nào cũng tìm đường xoay xở an toàn!
Hôm 28/4 sau khi cộng sản dùng máy bay của không quân VNCH bỏ bom Tân Sơn Nhất Polgar cho Joe Hartman đến Đức Hotel chuẩn bị phương tiên liên lạc và bãi đáp để di tản nhân viên CIA vào ngày hôm sau. Ngày 29/4 máy bay trực thăng của hãng Air America bị pháo kích nên không có phương tiên di tản. Đến 14:30, Hartman thấy lính VNCH nổ súng chung quanh khách sạn, và chiếc xe buýt tòa đại sứ gởi tới bốc người không đến được. Hartman kêu cứu và Robert Cantwell, phụ tá của Polgar bảo Hartman chuẩn bị di tản người Mỹ thôi và bằng trực thăng. Cantwell thông báo cho người Mỹ gồm 33 người lén lên sân thượng. Hartman đốt lựu đạn khói và một chiếc trực thăng bay đến. Phi công cho biết cần hai chuyến, nhưng sau chuyến thứ nhất chở đến tòa đại sứ anh ta phải ra hạm đội lấy xăng. Số người Mỹ chờ chuyến thứ hai phải dùng sức mạnh ngăn cản nhân viên người Phi và người Việt trèo lên sân thượng, cho đến khi chiếc trực thăng tới chở họ ra hạm đội 7.
O .B. Harnage phụ trách di tản các điểm hẹn rãi rác trong thành phố với một chiếc trực thăng. Thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn và các phụ tá quan trọng của tướng Nguyễn Khắc Bình chờ tại điểm hẹn ở số 22 đường Gia Long trong khu chung cư nơi LaGueux ở, nhưng những người này đã không đến được tòa đại sứ.
Tại Tân Sơn Nhất sau 3 giờ chiều một số quân nhân quân đội VNCH bắn cháy vài chiếc trực thăng của hạm đội. Polgar báo cáo Langley “Sự việc kết thúc quá nhanh. Và trông không đẹp mắt chút nào!”
Về nhân sự CIA ông báo cáo: “Toàn bộ nhân viên CIA an toàn, hoặc đang bay ra hạm đội, hoặc đã ở trong khuôn viên tòa đại sứ chờ di tản”.
Một gương can đảm liều mình cứu người được ghi nhận. Út, xưa kia là tài xế của Shackley đã an toàn trong tòa đại sứ nhưng biết còn nhiều nhân sự tính mạng có thể bị đe dọa còn chờ tại Lee Hotel. Út vượt thành ra ngoài đến Lee Hotel tìm các đối tượng làm việc với CIA, gom lại đưa đến một địa điểm khác an toàn và sau đó được trực thăng di tản.
Nhân viên làm việc cho các đài tiếng Việt của CIA phát thanh ra Bắc (TBN: như đài Gươm thiêng Ái Quốc) gồm 4 sĩ quan CIA và gần 1.000 người Việt đã được chuyển ra đảo Phú Quốc trong ngày 28/4 và dự tính đưa ra hạm đội bằng trực thăng. Nhưng bối rối Sài gòn mất liên lạc với Phú Quốc. Washington phải yêu cầu Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Mỹ tại Thái Bình Dương thuê một thương thuyền đến chở toàn bộ rời khỏi Phú Quốc trước khi Phú Quốc bị các đơn vị cộng sản chiếm đóng.
Xế chiều các đơn vị cộng sản bố trí ở phía Đông Sài gòn bắt đầu pháo kích Tân Sơn Nhất, đạn bay rào rào qua thành phố tạo thêm kinh hoàng. Hạm đội 7 cho biết có thể ngưng di tản bất cứ lúc nào. Đại sứ Martin dù còn yếu vẫn lên máy kêu gọi Bộ Ngoại giao, Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Mỹ tại Thái Bình Dương và tòa Bạch Ốc duy trì các chuyến bay di tản tại tòa đại sứ. Ông không ước lượng giờ có thể chấm dứt vì số người lọt vào tòa đại sứ càng lúc càng đông.
8:00 giờ tối Washington cho lệnh cuộc di tản phải chấm dứt vào lúc 3:45 sáng ngày 30/4 (TBN: Washington có giờ chính xác do liên lạc với Nga Sô). Được lệnh, Polgar báo cáo cần 20 phút để phá máy truyền tin đặc biệt, và 3:20 sẽ là giờ chót chấm dứt mọi liên lạc bằng điện văn mật với Washington.
9 giờ tối, Polgar báo cáo còn 8 nhân viên CIA ở lại trong đó có ông, và CINCPAC yêu cầu Martin phải ra đi trước 11:00 giờ đêm để bảo đảm an toàn.
11:00 khuya, Langley thúc Polgar cho mọi người ra đi, cho biết chỉ còn 35 chuyến trực thăng nữa thôi. Polgar cho biết đại sứ Martin quyết định chỉ ra đi trong chuyến máy bay cuối cùng thôi.
Do lệnh từ Hà Nội các đơn vị cộng sản nằm im để cho Hoa Kỳ di tản, nhưng Polgar biết họ có thể pháo kích vào thành phố bất cứ lúc nào.
Colby giám đốc CIA gởi điện văn cuối cùng khen ngợi Polgar. Trả lời Polgar nói “mọi việc không kết thúc như ý muốn, nhưng tận trong thâm tâm tôi biết chúng ta đã nỗ lực tối đa.” Vào lúc 4 giờ sáng ngày 30/4/1975, một viên Thiếu Tá TQLC bước đến gần đại sứ Martin và thưa với ông rằng nếu ông không bước lên chiếc trực thăng đang chờ sẳn thì tôi “thừa lệnh đặc biệt của tổng thống” sẽ phải khiêng ông đi.
Không có sự lựa chọn nào khác đại sứ Graham Martin cuốn cờ bước lên trực thăng. Theo chân ông là Polgar, LaGueux và Jacobson. Máy bay đưa ông đại sứ ra chiến hạm USS Blue Ridge trực chỉ Subic Bay.
Bóng đêm trùm xuống thành phố Sài gòn!
|
|