|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:17:42 GMT 9
CIA và các ông Tướng (Phần chót: ôn cố tri tân)
Cảm Nghĩ Của dịch giả Trần Bình Nam
Với nhan đề: “CIA và các ông Tướng” và liên tiếp trong 6 Phần *10 chương), tôi đã giới thiệu và tóm tắt nội dung một tài liệu mật của Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) nói về mối quan hệ làm việc giữa CIA với các tướng lãnh miền Nam Việt Nam (*) từ tháng 11 năm 1963 sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ cho đến ngày 30/4/1975 khi quân đội Bắc Việt tiến chiếm Sài gòn. Tài liệu đã được giải mật bởi cơ quan CIA ngày 19 tháng 2 năm 2009.
Đọc và tóm tắt tài liệu “CIA và các ông Tướng” (CIA And The Generals) tôi nhận ra rằng những gì đa số chúng ta biết về cuộc chiến Việt Nam và sự kết thúc bi thảm của nó chỉ là những sự việc thấy từ bên ngoài.
Các cựu tướng lãnh quân đội VNCH cũng như một số chính khách đã viết nhiều tập Hồi Ký, hồi ký chiến tranh cũng như hồi ký chính trị, có giá trị và hữu ích cho kho tàng sử liệu Việt Nam. Nhưng đọc xong tài liệu “CIA và các ông Tướng” của cơ quan CIA tôi nhận ra thêm rằng, các cuốn Hồi Ký nói trên đều là những tập sách ghi lại sự việc mà mỗi tác giả trong hoàn cảnh và vị trí riêng đã đóng và đã thấy như là những nhân vật trong một cuốn phim. Và cuốn “CIA và các ông Tướng” là cuốn sách của người đạo diễn, cuốn sách giúp chúng ta hiểu các nhân vật trong cuốn phim. Nó giải thích tại sao vai này hành động thế này, vai kia hành động thế kia.
Trong thời gian 12 năm từ khi ông Ngô Đình Diệm bị lật đổ cho đến ngày 30/4/1975, mọi việc tại Sài Gòn hầu như đều ở trong tay người Mỹ. Các tướng lãnh xuất hiện trên chính trường miền Nam chỉ để thi hành chính sách của người Mỹ qua tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, chính yếu là Sở phụ trách tình báo CIA. Các tướng lãnh mỗi người một khả năng, một hiểu biết về chính trị khác nhau và có thể có phản ứng khác nhau trước các diễn biến, nhưng nếu không theo đường lối của Hoa Kỳ thì sẽ bị gạt ra ngoài trò chơi.
Các cuộc đảo chánh liên tiếp từ tháng 11/1963 cho đến lúc tướng Nguyễn Văn Thiệu tuyên thệ nhậm chức tổng thống năm 1967 đều là những biến cố chính trị do quyết định của tòa đại sứ Hoa Kỳ nằm trong chiến lược “be bờ” (containment) để chận đứng làn sóng xâm lăng của cộng sản quốc tế do Liên bang Xô viết chủ xướng và yểm trợ, mà bên cạnh sườn là sự đe dọa bành trướng của chủ nghĩa cộng sản từ Trung quốc xuống vùng Đông Nam Á châu.
Trước hết người Mỹ giúp ông Diệm để duy trì một miền Nam không cộng sản. Khi ông Diệm không củng cố nổi một chính quyền vững mạnh được sự hậu thuẩn của nhân dân Nam Việt Nam, người Mỹ muốn gởi quân đến giúp. Ông Diệm không đồng ý. Ông quan niệm một cách hữu lý rằng sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam sẽ làm cho cuộc chiến đấu bảo vệ tự do của nhân dân miền Nam Việt Nam mất chính nghĩa. Và khi ông Ngô Đình Nhu, bào đệ ông Diệm, người cố vấn thân cận của ông gặp riêng đại diện của Hà Nội để tìm một giải pháp giữa người Việt Nam với nhau thì Hoa Kỳ quyết định tổng thống Diệm phải ra đi để thay bằng một nhân vật lãnh đạo khác sẵn sàng cho phép Hoa Kỳ đưa quân đến Việt Nam.
Cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã bố trí sẵn một số tướng lãnh “thân hữu” và chỉ cần bật đèn xanh là các vị tướng này hành động. Và cũng với cung cách như vậy Hoa Kỳ thực hiện các cuộc thay thế lãnh đạo từ năm 1963 cho đến ngày 30/4/1975.
Sau khi đảo chánh ông Diệm, tướng Dương Văn Minh và nhóm “5 tướng” (Minh, Đôn, Xuân, Kim, Đính) có ý liên lạc với Hà Nội để tính chuyện trung lập hóa miền Nam theo đường lối của Pháp thì lập tức nhóm “5 tướng” bị tướng Nguyễn Khánh “chỉnh lý”. Đến khi Khánh cho Đại tá Lê Văn Nhiều (Giám đốc Trung ương Tình báo của Khánh) tiếp xúc với Hà Nội để bàn chuyện chấm dứt chiến tranh thì Khánh phải ra đi.
Tướng Nguyễn Văn Thiệu và tướng Nguyễn Cao Kỳ có lập trường chống cộng sản dứt khoát nên hai tướng Thiệu Kỳ được sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Nguyễn Cao Kỳ nếu khéo léo có thể được Hoa Kỳ ủng hộ. Nhưng tính Kỳ bốc đồng, đôi khi tuyên bố “khó hiểu” như muốn đào ngũ ra với người anh em miền Bắc nên Hoa Kỳ nghi ngờ và dồn sự ủng hộ cho Thiệu, và dùng Thiệu kềm chế Kỳ để không xảy ra điều gì đáng tiếc.
Thiệu với lập trường “4 Không”, hoàn toàn đáp ứng chính sách của Hoa Kỳ trong giai đoạn đó. Nhưng đến khi Hoa Kỳ nói chuyện với Bắc Kinh và giải quyết bàn cờ Đông Nam Á một cách khác hơn là chính sách “be bờ” thì Hoa Kỳ không còn cần “4 Không” của Thiệu. Và như một quy luật Thiệu phải ra đi, nhường chỗ cho một nhân vật trước kia Hoa Kỳ đã mời đi chỗ khác là tướng Dương Văn Minh để đóng lại ván bài Việt Nam.
Về mặt quan hệ quốc tế Hoa Kỳ không làm điều gì sai trái vì quốc gia nào cũng có chính sách bảo vệ quyền lợi của mình, và các liên minh liên kết đều có tính cách giai đoạn, nhất là Hoa Kỳ là quốc gia lãnh đạo “Thế giới Tự do” chống lại cuộc chiến tranh “nhuộm đỏ toàn cầu” của Liên bang Xô viết.
Các quốc gia liên kết với Hoa Kỳ trong sách lược thế giới (của Hoa Kỳ) nếu muốn có tiếng nói trong sách lược chung, quốc gia đó cần có 2 điều kiện. Thứ nhất là có tiềm năng kinh tế riêng của mình. Thứ hai là có người lãnh đạo giỏi.
Sau Thế chiến 2, Hoa Kỳ giúp nước Đức, Nhật Bản, và năm 1953 sau khi cứu Nam Hàn khỏi bị Bắc Hàn thôn tính, Hoa Kỳ cũng muốn sai bảo các quốc gia đó như Hoa Kỳ sau này đã từng sai bảo Nam Việt Nam. Nhưng người Đức, người Nhật và người Nam Hàn biết cách tự đứng vững trên đôi bàn chân của mình. Trong một thời gian dài được sự bảo vệ của Hoa Kỳ, các nước Đức, Nhật, Nam Hàn tự tay chấn hưng nền kinh tế quốc gia và đóng góp vào sự phồn thịnh chung của thế giới. Họ có thể nuôi lính, nuôi dân bằng tự lực sản xuất. Và trong tình thế nhờ vả Hoa Kỳ, các nước Đức, Nhật, Nam Hàn có những nhà lãnh đạo xứng đáng với thời cuộc.
Những điều kiện đó, không may miền Nam Việt Nam không có. Chúng ta không có những nhà lãnh đạo giỏi biết dựa vào nhu cầu chiến lược của Hoa Kỳ sau 1954 để xây dựng một miền Nam tự lập, một điều có thể làm được vì miền Nam là đất trù phú và là một vựa lúa thiên nhiên không lúc nào cạn. Sống trên một vựa lúa thiên nhiên mà trong suốt thời gian từ 1963 trở đi Nam Việt Nam phải dùng gạo của Hoa Kỳ! Và khi không nuôi nổi dân, nuôi nổi lính, thì làm thế nào Nam Việt Nam có thể tự trang bị để đương đầu với một cuộc chiến tranh xâm lược bởi người anh em miền Bắc được sự ủng hộ của khối cộng sản quốc tế nếu không dựa vào đôi cánh tay luôn luôn rộng mở của Hoa Kỳ.
Vì không có kinh tế riêng, những người lãnh đạo Nam Việt Nam, dù là xuất thân từ hàng quan lại Nam Triều, từ các trường quân sự và dân sự của Pháp, hay được đào tạo tại Sài gòn và Hà Nội, có bằng tiến sĩ hay chỉ mảnh bằng Tú Tài cũng không thể không vâng lời ông đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
Sự vâng lời mỗi người một khác. Tài liệu “CIA và những ông Tướng” cho chúng ta thấy có những ông Tướng hợp tác với tình báo Hoa Kỳ, có người có lương, có người không lương, và mỗi người hợp tác trong một cung cách khác nhau.
Tình báo trong thời đại nào cũng là một nghề nguy hiểm và bị nghi ngờ. Và dư luận thường cho rằng làm việc với CIA là xấu. Điều này không đúng. Hợp tác với tình báo của một nước đồng minh để cùng phục vụ quyền lợi chung của hai nước trong đó phục vụ quốc gia mình là chính thì chẳng những không sai trái mà còn là một công tác mang ý nghĩa một sự hy sinh đáng ca ngợi. Nhưng nếu hợp tác với tình báo nước bạn để phản lại quyền lợi của quốc gia mình thì sự hợp tác đó là một sự hợp tác cần ghi vào sử sách để nhớ.
Tình chiến hữu quốc tế giữa Hoa Kỳ và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không còn thắm thiết khi Hoa Kỳ muốn quyết định tất cả mọi việc theo ý mình tại Paris nhưng ông Thiệu không đồng ý. Ông có đủ sáng suốt để thấy mối nguy cho Nam Việt Nam nếu Hoa Kỳ đồng ý cho Hà Nội để lại quân đội Bắc Việt đã xâm nhập Nam Việt Nam trong bản Hiệp định Paris.
Hoa Kỳ phối hợp hai gọng kềm để áp lực ông Thiệu phải theo ý của Hoa Kỳ để Hoa Kỳ có thể rút quân đội ra khỏi Việt Nam và đòi lại tù binh. Gọng kềm thứ nhất là dọa cắt viện trợ. Gọng kềm thứ hai là dùng những nhân vật cao cấp và cận kề nhất với ông Thiệu để áp lực ông.
Ông Thiệu rất cô đơn trước hai gọng kềm này. Trước gọng kềm viện trợ ông có thể cười, nhưng trước gọng kềm thứ hai từ những người thân tín nhất của mình ông chỉ có thể khóc. Và quả thật ông Thiệu đã hai lần khóc, trong đó có một lần khóc chung với Phó tổng thống Trần Văn Hương. Đó là những giọt nước mắt nóng hổi đổ cho quê hương cần được ghi vào lịch sử.
Về con người chúng ta có nhiều khuyết điểm hơn là ưu điểm. Do giòng giống hay là hậu quả của một nền giáo dục thiếu căn bản quá lâu qua nhiều thế kỷ là câu hỏi dành cho các nhà nghiên cứu. Chúng ta thông minh và là một dân tộc cần cù chịu thương chịu khó, nhưng chỉ thông minh và cần cù cho cá nhân chứ không thông minh và cần cù vì đất nước.
Do đó chúng ta thiếu người lãnh đạo có tầm vóc. Chúng ta có tinh thần vọng ngoại và ít tin tưởng vào chính mình. Chúng ta chạy theo những cái đang lên và coi thường những thế lực đang xuống. Nói đơn giản chúng ta không có cái nhìn xa, và do đó chúng ta không có chính sách.
Vào đầu thế kỷ 20, trước sự du nhập của văn hóa và văn minh cơ khí Tây phương và sự lu mờ của nước Trung Hoa phương Bắc người trí thức Việt Nam chúng ta chỉ biết cóp nhặt văn hóa Tây phương vô điều kiện và chúng ta coi thường “chú chệt” mà không biết rằng “chú chệt” cười cười “nị ngộ” sao cũng được nhưng chú nắm hết kinh tế của Việt Nam trong tay và chú biết văn hóa của chú đã yên vị lâu đời trong đầu mỗi người Việt. Và chỉ chờ thời điểm (như hôm nay) là chú nắm cổ toàn bộ vận mạng của nước Việt Nam.
Lãnh đạo quân sự và chính trị của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam có nhiều khuyết điểm, nhưng chưa chắc quyết định chiến lược can thiệp của người Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam là một quyết định sai lầm. Nhưng phía miền Nam chúng ta – vì thiếu người tài, vì thiếu chí - đã không lợi dụng cơ hội để xậy dựng một miền Nam tự túc về kinh tế và đặt một nền móng cho sự canh tân đất nước. Cho nên khi người Mỹ nhận ra rằng miền Nam không phải là một đồng minh có bãn lãnh họ liên miên thay đổi lãnh đạo và khi nhận ra rằng đồng minh Nam Việt Nam không có ý chí để tự tồn họ phải tìm một sách lược khác và bỏ rơi chúng ta một cách tàn nhẫn theo đúng cung cách của người Tây phương quyết định là làm.
Miền Bắc Việt Nam cũng không khá gì hơn. Hà Nội chạy theo một lý thuyết kinh tế lỗi thời làm thui chột kinh tế miền Bắc, và trước áp lực của Liên bang Xô viết dồn mọi tiềm năng nhân lực cho cuộc chiến bành trướng chủ nghĩa mà họ nhất định phải thắng “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn!”
Miền Bắc toàn thắng. Việt Nam thống nhất trong điêu tàn. Và khi người đồng minh Liên bang Xô viết sụp đổ không đủ sức viện trợ kinh tế như Hà Nội chờ đợi Việt Nam chỉ còn một con đường là lệ thuộc vào Trung Quốc.
Bài học gì người Việt Nam cần rút ra hôm nay, đứng trước thế kỷ 21 mới bắt đầu non một thập niên và hứa hẹn nhiều biến chuyển quan trọng có thể quyết định sự mất hay còn của Việt Nam trên bản đồ thế giới?
Sự hâm nóng của bầu khí quyễn đang thay đổi môi sinh buộc con người, trong đó có chúng ta, phải biến đổi để thích ứng. Con người không đủ khôn ngoan và tự chủ để hủy bỏ vũ khí nguyên tử nên thứ vũ khí nguy hiểm này sẽ trở thành một thứ vũ khí thông thường và thế giới lúc nào cũng ở trong một bầu thuốc súng chỉ chực nổ. Cuộc tranh chấp văn minh Tây phương và văn minh Hồi giáo sẽ là một trong những thực tế của đời sống thế giới sau khi Hoa Kỳ chấm dứt thí nghiệm đưa một người da đen lên làm tổng thống.
Nhưng biến chuyển lớn nhất của thế kỷ là quyết tâm trở thành siêu cường của Trung quốc và cuộc đụng độ khó tránh khỏi giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc. Biến chuyển này sẽ chi phối mọi sinh hoạt chính trị và kinh tế trên toàn thế giới.
Việt Nam nằm ngay trên chiến trường nhỏ là chiến trường Đông Nam Á và nếu không khôn khéo rút bài học cũ chúng ta lại sẽ biến thành một thứ tiền đồn.
Quan sát tình hình Á châu và Đông Nam Á ai cũng đồng ý rằng Việt Nam đang bị Trung quốc đe dọa, và Việt Nam đang rơi vào đôi cánh tay thủ đoạn của Trung Quốc.
Chính sách nào để Việt Nam tồn tại như một quốc gia độc lập? Trong thế kỷ trước mắt Việt Nam không có con đường nào khác hơn là liên kết với các quốc gia trong vùng, nhưng quan trọng hơn hết là liên kết với Trung quốc và Hoa Kỳ. Cả hai khối thế lực này đều cần Việt Nam để chuẩn bị cho cuộc so kiếm thư hùng của thế kỷ.
Nhưng muốn có chính sách trước hết cần hai điều kiện rút ra từ bài học của cuộc chiến vừa qua. Thứ nhất Việt Nam phải có khả năng tự lực trong khung cảnh mới của thế giới. Tự lực đây không phải là chỉ có đầy đủ lương thực để có thể ăn no mặc ấm mà phải có tiềm năng kỹ nghệ và sản xuất.
Thứ hai là phải đào tạo những con người Việt Nam. Vì thiếu bản lãnh chúng ta đã để cuộc tranh chấp ý thức hệ trên thế giới thành một cuộc nội chiến tương tàn. Cần đạo tạo lại một lớp người lãnh đạo có “tâm” và có “hồn” . Cần sửa đổi hệ thống giáo dục, trước hết từ cấp Sơ học cho đến cấp Trung Học hướng về những khái niệm yêu người, yêu đất nước, biết quý trọng những giá trị Việt Nam, những ý niệm sơ đẳng phổ cập về dân chủ, đạo đức và tự do tín ngưỡng, quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc. Và nền giáo dục này cần được làm gương bởi lãnh đạo các cấp. Cấp đại học cần hướng về giáo dục thực tế, liên kết chặt chẽ sinh hoạt đại học với các cơ sở sản xuất lớn để khuyến khích sáng kiến khoa học kỹ thuật và khả năng phát minh. Chính sách của Việt Nam là sẵn sàng làm Thợ để sẽ làm Thầy, và sự chuyển nhượng khoa học kỹ thuật qua các cơ sở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam phải là một chính sách quốc gia.
Dùng thế liên kết Trung quốc và Hoa Kỳ để trước hết bảo vệ lãnh thổ và bảo tồn nền độc lập dân tộc, bảo vệ quặng mõ và túi dầu dưới đáy biển của chúng ta. Chúng ta sẽ học bài học “bầu ơi thương lấy bí cùng”của Đức quốc sau khi thống nhất. Chúng ta sẽ học bài học xây dựng kinh tế của Nhật Bản trong điêu tàn sau Thế chiến 2.
Tài liệu “CIA và Các Ông Tướng”cho chúng ta một bức tranh ảm đảm của một giai đoạn lịch sử Việt Nam, nhưng là một bức tranh rất thật trong bang giao quốc tế “bụng đói đầu gối phải bò”. Nó cho chúng ta những dữ kiện để nhìn lại con người Việt Nam. Chúng ta sẽ không hãnh diện tự mãn với “bốn ngàn năm văn hóa”. Chúng ta cần nghiêm chỉnh tự vấn: Bốn ngàn năm văn hóa ở đâu mà lại làm cho Việt Nam, với đất nước phong phú như vậy, con người thông minh như vậy lại rơi vào hoàn cảnh chỉ chực mất nước hiện nay?
Có những bài học cá nhân cần suy ngẫm:
Với tất cả khuyết điểm về lãnh đạo và nghệ thuật trị quốc, tổng thống Ngô Đình Điệm nhất định không chịu để người Mỹ đưa quân đến Việt Nam mà hậu quả là cái chết của ông và người em là một tấm gương yêu nước và dũng cảm. Và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu khóc mà ký bản Hiệp định Paris biết rằng đó là bản văn khai tử Nam Việt Nam là cái khóc đáng thương.
Thế còn ông Hồ Chí Minh? Ông Hồ Chí Minh là một người Việt Nam nổi tiếng trên thế giới hơn bất cứ một người Việt Nam nào trong hậu bán thế kỷ 20. Và không ai chối cãi ông là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà tổ chức tài ba. Nhưng gia tài ông để lại là một “nước Việt buồn”. Và mới đây tài liệu “Sự thật Hồ Chí Minh” bằng DVD do linh mục Nguyễn Hữu Lễ và ông Trần Quốc Bảo, chủ tịch Tổ Chức Phục Hưng Việt Nam (TC/PHVN) thực hiện dù không tránh được những khuyết điểm về kỹ thuật và nội dung, nhưng qua sự tham dự đông đảo của đồng bào Việt Nam trên toàn thế giới không trừ một góc trời nào trong những lần ra mắt trình chiếu cho thấy “dân Việt đã bỏ phiếu bằng chân” về chỗ đứng của ông Hồ Chí Minh trong lịch sử Việt Nam. Cụ Hoàng Văn Chí, một người từng làm việc với ông Hồ chí Minh đã phán đoán về ông Hồ một cách ấn tượng trong cuốn sách “Từ Thực Dân đến Cộng Sản” rằng ông Hồ Chí Minh sáng như mặt trời, nhưng nếu mặt trời mang ấm áp đến cho nhân loại thì ông Hồ đem cái sáng đốt cháy nhân dân. Thật là bất hạnh cho dân tộc Việt Nam!
Một vài gương cá nhân trong cuốn “CIA và các ông Tướng” cần được ghi lại:
Út, một người tài xế làm việc cho CIA phút chót đã an toàn trong tòa đại sứ Hoa Kỳ chờ di tản đã liều chết vượt bức tường người đang vây kín tòa đại sứ để tìm những người bạn ông biết cần cứu.
Và tấm gương phục vụ đất nước của đại sứ Graham Martin là một tấm gương sáng cho những nhà lãnh đạo trên thế giới. Để giữ cho Hoa Kỳ khỏi mang tiếng bỏ chạy ông quyết định ở lại chu toàn công việc và quyết định ra đi với những người lính TQLC cuối cùng trên chuyến trực thăng cuối cùng. Ông phải ra đi sớm hơn một chút trước đe dọa bị lính TQLC dùng sức mạnh áp tải lên máy bay do lệnh của tổng thống Hoa Kỳ, Gerald Ford.
Đó là những bài học “Ôn Cố Tri Tân” của cuốn “CIA và Các Ông Tướng”.
Oct. 1, 2009.
Ghi chú: (*) Trong bài này các cụm từ : * Nam Việt Nam: được hiểu là miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống. * Bắc Việt Nam: được hiểu là miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở lên. * Việt Nam: được hiểu là nước Việt Nam từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. * Chúng ta: được hiểu là mọi người Việt Nam trong và ngoài nước
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:26:49 GMT 9
"In this world it is often dangerous to be an enemy of the United States, but to be a friend is fatal," "Follow me if I advance! Kill me if I retreat! Revenge me if I die!" The beleaguered man sat in Freedom Palace, small, chunky, tan-tinted and surrounded by a few intimate possessions—a wooden crucifix, a picture of the Virgin, a slide projector, a gaudy spittoon, books entitled Social Justice and Thought of Gandhi. Before him on a shabby desk lay an ultimatum, a blunt threat to tear down the government of South Viet Nam. An odd procession passed in and out of the palace doors for hours on end to deal with the crisis—three of the man's brothers, one in the cloth of a Roman Catholic bishop; his beautiful, politics-minded sister-in-law; U.S. diplomats and U.S. military officers in mufti; eye-rubbing ministers of state summoned from their sleep for emergency consultations. The ultimatum came from the leaders of three religious-political sects* of South Viet Nam, an exotic consortium of religious fanatics, feudal warlords, uniformed hoodlums and racket bosses bound loosely behind an ambitious general who keeps pet crocodiles. Together, the sects have private armies of some 40,000 men. Their leaders, now losing the subsidies and prerogatives accorded to them by the French colonials, are dangerous. "Reorganize your government within five days," said their ultimatum. "Replace it with one that is suitable." The man at the desk bristled with stubborn irritation. "While we permit ourselves foolishness like this," he snapped, "there is a monolith against us." But his advisers—including those from the U.S.—cautioned him to go slowly. You are too weak to fight now, they counseled. Invite negotiations; play for time. The advice was accepted. While soldiers and tanks moved through the tense streets of Saigon, the weanling government of the weanling state of South Viet Nam thingyered and maneuvered to avert civil war and whittle down the warlords of the sects. Communists & Calendar. The man who has to do the job is Premier Ngo Dinh Diem,† a resilient, deeply religious Vietnamese nationalist who is burdened with the terrible but challenging task of leading the 10.5 million people of South Viet Nam from the brink of Communism into their long-sought state of sovereign independence. No man in troubled Asia is confronted by more obstacles on the road to order and justice. The sects, in control of a third of the southern portion of the country, threaten not only his control but his life. The refugees from the Communist half of Viet Nam, now exceeding 500,000 and still pouring south at the rate of 10,000 a week, are pleading for food, housing and jobs. Inexperience—his own and his people's—make leaders hard to find, ideas scarce, and decisions difficult to make. ("This government," said one of the U.S. officials anxiously trying to help, "is stuck together by Scotch tape, bits of string and putty.") The French, striving to maintain by fair means and by sly means a remnant of influence and profit in the land they have exploited for seven decades, obstruct him with the wily rearguard maneuvers of colonialism. Read more: www.time.com/time/magazine/article/0,9171,866120,00.html#ixzz0Xuti8uQQ
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:30:12 GMT 9
But, above all, Diem's enemy is a coalition of Communists and the calendar. With no personal political organization, a civil service that is amateur and an army still in training, the Premier of South Viet Nam is charged with building a government and a popularity strong enough to overcome the strength and skill of Ho Chi Minh's Communist regime in North Viet Nam. Under the Geneva pact, which sliced the country in two, the South Vietnamese have only 15 months to prepare to meet Ho's Communists in a nationwide test at the polls, winner take all.
Neither mathematically nor politically is free Viet Nam remotely ready for the contest and, with Ho assured of a population edge over the South, it may never be. Unless the Communists agree to open the north to full and free campaigning and voting, the contest may never come off.
The question of South Viet Nam's survival will then press even more harshly. Less than six months ago, Western diplomats were gloomily pronouncing South Viet Nam a sure-to-be-lost cause; a quick survey in the hinterlands showed that Diem's nationalist regime could count on the electoral support of no more than a fourth of the villages. The rest leaned for Communism, or at least leaned against the unknown, unproved regime in Saigon. But by last week, the song of surrender was fainter and there were many who had ceased to sing it. A fresh survey showed that Premier Ngo Dinh Diem's nationalists are picking up, that they now stand about 50-50 with the Communists in the minds of the people of South Viet Nam. They are still gaining.
The progress, slow but clearly discernible, represents an almost personal triumph for single-minded Nationalist Diem. It also represents a tentative endorsement of the judgment of the U.S., the voluntary heir to the disorder left by France and the pledged defender of what remains of Indo-China. Though Washington did not choose him, it has invested its hopes, its experts, and some $400 million a year of its money in South Viet Nam. The U.S. is convinced that Ngo Dinh Diem, a man with his share of imperfections, is the best fitted to lead Vietnamese to true independence.
No Room for Both. Ngo Dinh Diem seems at first glance an improbable man for a fight against Ho Chi Minh, the wispy, twisting onetime chef's assistant who is so resolutely Communist, yet so clever that much of Asia still toys with the notion that he is really just a Vietnamese patriot. Diem's career has grown mostly out of negative decisions. He is a sparsely gifted administrator, and of politics he says: "Clever maneuvers only betray, demoralize and divide the people." To some of the more sophisticated in the game, he rates as a marginal man.
Yet such is Viet Nam, disgusted with colonialism and its vices, frustrated in its yearning for freedom, that a leader's integrity is more important than his ability. Communist Ho has built popular support not altogether with wiliness and Communist doctrine, but also with incorruptibility and his undeviating enmity for French colonial rule. Ngo Dinh Diem brings into the battle an incorruptibility even greater and his own record of a lifetime's opposition to French rule and influence. "There are only two real leaders in Viet Nam," Ho's chief of staff, General Vo Nguyen Giap, recognized some time ago. "One is Ho Chi Minh. The other is Ngo Dinh Diem. There is no room in the country for both."
Chastity & Stuffed Cabbage. Diem is a stocky (5 ft. 4 in., 143 Ibs.), young-looking man of 54, with thick black hair and a penchant for white Western-style sharkskin suits. His eyes peer out distantly from beneath heavy lids. He is a lonely man, unused to self-expression, who lets others bring up the subject and then blurts, interminably and at random, not always expressively. He is a man of contrasts. Monkish and inward-looking, fascinated by Gandhi, the Christian saints and by books (he assembled a personal library of 10,000), he long ago pledged himself to chastity; he is so uncomfortable around women that he has none on his personal staff and he once put a sign outside his office: WOMEN FORBIDDEN. Yet Diem is also— indulgent and demonstrative, downs huge breakfasts of such dishes as stuffed cabbage, and sometimes at formal receptions he handles his chopsticks like a coolie, shoving bowl to mouth and shoveling. He likes to hunt (duck and tiger). He may erupt into sudden violence. Considering someone he dislikes, he will sometimes spit across the room and snarl, "dirty type!"
Though Diem was born in a straw hut on his father's estate near Hue (where his ailing, 87-year-old mother still lives behind a wall to keep off evil spirits), he is of the upper class, and he talks without self-consciousness of "the little people." He is proud of his Vietnamese heritage: "We are a country of principles, an old country, a country built village by village. Viet Nam is a solid thing . . ." And he is reluctant to change it, but: "Sometimes I think we Asians are too reserved, talk too much by nuance. We ought to learn to be rude in our talk like the Americans, and get things done." Diem rarely speaks harshly of fellow Vietnamese who are Communists, because he hopes to convert them; he intends to oppose the twisted dialectic of Ho Chi Minh with the lotus of morality. Yet he recognizes that Communists are not creatures to be toyed with. "You must be sure to kill when you hunt tigers," he once said. "A wounded tiger becomes a mankiller to get food ..."
Fingernails & Farmers. Ngo Dinh Diem comes from a clan of leaders who for 1,000 years defended the Vietnamese against invaders from China. In the zyth century, the Ngo Dinh clan was converted to Roman Catholicism, and they held to their faith at a grisly price: as recently as 1870, no fewer than 100 of the Ngo Dinh were surrounded in their church and burned alive. (Today Viet Nam, essentially Buddhist, has about 2,000,000 Catholics.)
Ngo Dinh Diem's father, one of the clan's few survivors, was a mandarin first class at the court of the old emperor, wearing the traditional silken robes and two-inch fingernails. Among his jobs: commanding the eunuchs of the royal harem. But the father, Ngo Dinh Kha, was also one of Viet Nam's foremost educators, and'his nine children got the benefit of it. Each morning at 6 o'clock, he would hustle the children off to Mass; in the family rose garden, he would give his third son Diem some extra tuition. He put Diem to work in the paddies with the peasants. "A man must understand the life of a farmer," father Kha explained.
"Assiduousness." Diem took to this austerity, prayed a couple of hours every day, got up at 5 a.m. to study, exploding into tantrums if interrupted by his brothers or sisters. At six he won his first school prize for "assiduousness." "When there were floods," one of his brothers recalls, "father would make us stay home. The rest of us loved it, but Diem would sneak off along the d**es and go to school just the same." When he returned home, with no sense that any injustice was being done, Diem would accept his father's whipping for disobedience.
At 15, Ngo Dinh Diem took the first of his big negative decisions: having begun training for the priesthood, he decided after a few weeks not to go through with it. At 17 he took his second: he decided not to go to college in France. "Those of us who did go to France came back a mixture of many things," another brother said, "but Diem is pure Vietnamese." At 20 Diem graduated top of his class from the French-run civil service school at Hanoi, soon made his way up to district chief, administrator of 225 villages.
Undeviatlng Course. These were the days in which Communist Ho Chi Minh was building up his first underground organization. Diem read Communist leaflets, books and periodicals, and he developed his own counterstrategy: he would arrest Ho's agents, then "reeducate" them. Diem would parade the more arrogant of the Communists in rags and tell the villagers: "They say they stand for poor people . . . Well, let them dress like it."
More pertinent to the role Diem was to play later as the first leader of free Vietnamese was his persistent opposition to French colonial rule. In 1929, at 28, he became a provincial governor; at 32 he became Minister of the Interior in the puppet government of the French. Three months later, he demanded more independence. The French would not give it. Diem resigned.
Diem spent the next seven years in passive resistance to the French exploitation of his country. While they helped to develop resources and bring treasures of culture to Indo-China, the French missed few chances to turn an extra franc. Small salt workers were compelled to sell to the French, who sold it back to the Vietnamese at higher prices. Each village had its alcohol quota, a specific amount, based on population, to be bought from the French-controlled sources. "I saw the danger from the Communists," said Ngo Dinh Diem, "and I could see how they would exploit such injustices. We had to have democratic reforms, or it was clear "even then that the Communists would win."
Triple Negative. During World War II and its aftermath, the Japanese, the French and Ho Chi Minh's Communists all fought one another for Indo-China (TIME, Nov. 22); all three wanted support from Nationalist Diem but he refused them all because none of them stood for "true independence."
In 1945, Ho's Communist troops struck at the nationalist Ngo Dinh clan, raiding the mansion at Hue and burning Diem's collection of 10,000 books. The Communists arrested Diem; they took hold of Diem's respected elder brother, Ngo Dinh Khoi and buried him alive. But only four months later Ho Chi Minh, concluding that he needed the backing of some pure nationalists, summoned Ngo Dinh Diem from prison. "Come and live with me at the palace," Ho put it to him.
Diem: You killed my brother. You are a criminal.
Ho: I know nothing about your brother . . . You are upset and angry. Stay with me. We must all work together against the French.
Diem: I don't believe you understand the kind of man I am. Look me in the face. Am I a man who fears?
Ho: No.
Diem: Good. Then I will go now.
Ho let him free. Dilemma in Washington. In December 1946, when Ho and the French broke into the Indo-China war, Diem proclaimed himself against both sides. In April 1947 he started his first positive, political movement, a third-force, nonviolent outfit called the "National Union Front." The French promptly banned it. Three years later Ngo Dinh Diem turned to the outside for friends of Vietnamese independence, and took off for Europe and the U.S. For the best part of two years (1951-53) he made his home at the Maryknoll Junior Seminary in Lakewood, N.J.. often going down to Washington to buttonhole State Department men and Congressmen and urge them not to support French colonialism. "The French may be fighting the Communists," Diem argued, "but they are also fighting the people."
Perhaps, in hindsight, the advice should have been taken more to heart. But the U.S. dilemma was that the French were in charge in Indo-China. A shooting war was on, and the central problem was to save the land from Communist absorption. While the tragedy played toward its climax, disappointed Ngo Dinh Diem sadly took himself off to a monastery, in Belgium, there to live and wait in a cell. "We must continue the search for God's Kingdom and His justice," Diem wrote home, "all else will come of itself."
The Deluge. What came was the crash of Dienbienphu. During that decisive battle, Diem discerned that his time to serve might be at hand. He quit the monastery and moved into a garret in Paris. The French, in part because they needed someone on whom to unload catastrophe, offered Diem the Viet Nam premiership, with their first acceptable promise of independence. On June 15, 1954, Ngo Dinh Diem took the job and headed back to Saigon. "We don't know where we're going," said one of his aides, contemplating chaos, "but the captain is reliable and our boat is clean."
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 8:33:22 GMT 9
Diem's record of nationalist purity did not, at first, get Premier Diem very far. France's Premier Mendes-France was advocating "concessions . . . large concessions" to end the war, and at Geneva he made them. "We weren't even consulted," complained Diem's Foreign Minister Tran Van Do. Back in Saigon, Diem found that he could not depend on a single Vietnamese battalion; he had nothing in the treasury; he could not make contact with about 85% of his villages. Hundreds of thousands of refugees were coming down from the Communist north, choosing freedom, however chaotic, and needing care. Diem's first crisis came from the headquarters of General Nguyen Van Hinh, flamboyant. pro-French commander of the Vietnamese army. General Hinh tried to edge into power by edging his 200,000 men into a gradual, nonviolent kind of mutiny. Diem was cool, but with the resources at his command he could not cope with Hinh. But through U.S. influence, he finally won. "I had only to lift my telephone," the general explained, "and the coup d'etat was on. But I was told that if it happened, the Americans would cut off all dollar aid." Pickup from Disaster. Diem's victory put General Hinh into exile and his nationalists into forward motion. Those who had waited to see who would win, now began to move over toward the Premier. U.S. aid and advice began to take hold. In the next four months, Diem: ¶Launched a well-received onslaught against corruption and sin, closing down gambling dens and cracking down on the VTPs who were getting rich on graft. ¶Drafted plans for a national assembly —the country's first democratic institution—and for land reforms that would cut yearly tenant rents from about 50% of their crop to about 15%. ¶Reorganized Hinh's army so that it could take over South Vietnamese districts abandoned by the Communists under the Geneva evacuation plan. The U.S., in effect, took over its training. ¶Took over from the French the control of currency and launched South Viet Nam into international trade. Never very close to the people, Diem set out on a grass-roots tour of central Viet Nam and got a welcome that astonished his advisers. "Long live Ngo Dinh Diem!" the people cheered. "I've seen so-called 'spontaneous demonstrations' all over Asia." said an American after one demonstration, "but this was different ... Fifteen thousand people came charging across the field toward him, screaming, waving straw hats, like the stampede in King Solomon's Mines." Encouraging as they are, Diem's accomplishments are minor compared to what remains to be done in attaining law and order and building public confidence. Stubborn and negative-minded, Diem disquiets some of his countrymen by his continued withdrawal, and by his tendency to lean for advice more on three of his brothers, Bishop Ngo Dinh Thuc, Ngo Dinh Luyen and Ngo Dinh Nhu, than on his Cabinet. His reluctance to delegate authority has led him to fantastic time-consuming pettiness. Samples: recently he took over himself the granting of all entry and exit visas and the scrutiny of all currency exchange applications. But the U.S. military, diplomatic and technical experts, while noting the shortcomings, have not let them dull the conviction that Diem is Viet Nam's soundest hope. "After some doubts about Premier Diem," said one high U.S. official, "I think that they have been resolved in his favor and that he is entitled to full and unqualified support." "They Don't Lie." An Asian tradition has it that if one saves a man's life, one is thenceforth responsible for his destiny. The U.S. in a sense is lumping those two missions into one simultaneous undertaking in South Viet Nam. In addition to its millions and its prestige, Washington invested the talents of 1,000 Americans in the country, with the ex-Army chief of staff, General J. Lawton Collins, as the top U.S. emissary. Among them: for land reform, Wolf Ladejinsky, the celebrated Agriculture Department expert who did the land reform job in postwar Japan; for maneuvering against the Communists, Colonel Edward Lansdale, the officer who played such a helpful role in the rise of Philippines President Ramon Magsaysay that Filipinos gave him a post-election title of "General Landslide." The Americans are finding Premier Diem increasingly receptive to advice and ideas, and by no means a puppet. He refuses to be pushed or rushed. When Joe Collins proposed recently that General Vy be named army commander, Diem insisted on his own candidate. General Ty. "Sometimes," Diem confided, "Mr. Collins uses some very rough language." On other times it has been Collins who complained. "Get your experts out, get them working," he once prodded the Premier, to which Diem later referred: "It is easy for Mr. Collins to say it. He has experts. We have none." But out of the occasional buckings and tight moments has come a partnership that shows progress and promises more. Premier Diem admires Americans because "they don't lie." One of the most crucial tests of the partnership will come next July 20, when the Northern and Southern Vietnamese must, under Geneva, set the terms for the 1956 elections. Communist Ho, though he has doubled his army—in violation of Geneva—and is acquiring the beginnings of an air force, is openly confident that he will not need to use them to capture South Viet Nam. Packed Votes. The vote of Ho's 12 million northerners, packed by tyranny, outcounts the free but divided vote of the 10¶ million southerners. But Geneva also provided that the elections must be "free" and "by secret ballot." On July 20, if they feel strong enough to buck Ho Chi Minh, the U.S.-backed nationalists can make a case for postponing the elections, or put them off altogether unless they get ironclad assurance of 1) proper supervision at the polls and 2) the right of nationalists to campaign in the north and try to woo away some of Ho's votes. Should such a policy prevail, the U.S. and South Viet Nam would be committing themselves to a policy of partition, two Viet Nams—a strong, aggressive Communist Viet Nam nourished by Moscow and Peking; a weak, divided but free Viet Nam that will need for some time the pledges and help of the U.S. Haircuts & Chickens. It is one of the discomfiting truths of South Viet Nam that not all are sure they prefer the unfulfilled hopes of non-Communist rule to the confidently touted certainties of Red government. For Premier Ngo Dinh Diem there is a hard shell of resistance to crack. In one characteristic village of the south last week, some of the people demonstrated what the problem is. "When the French bombed the villages and schools and drove us into the jungle, the Communists were our friends." The Communists were now replaced by young nationalist soldiers and officials of Premier Diem. How did the villagers like them? The young local barber answered: he was uncertain of them at first, but he was beginning to feel that they were good men and could be trusted. Were things any better since the Communists went away? Some things, the barber replied. "There is peace." And one can travel (the Communists had required a permit for travel even to the nearest market town), and there is medicine from the U.S., and good days for his trade. The Communists, he went on, had made him cut a regular quota of heads of hair every day, regardless of whether the customers could pay. The nationalists allow him to charge a fair price, and for that he is pleased. But then, on the other hand, there is the price of chicken. Under the Communists, a chicken cost half as much as it does today. "One does not have occasion to buy a chicken very often." As of now, said the barber, he would welcome the Communists back; they were his friends. But he is ready to see what the nationalists can do. Most of all, he said, the villagers want peace. Thus goes the crucial struggle for men's devotion in South Viet Nam. With time and ingenuity, the side of freedom can hope to prevail. "If the people can be sure the Communists will not return," a village elder suggested, "then the people will turn against them. But how can we be sure?" The answer lies in great part beyond the beleaguered man in the Freedom Palace of Saigon. "The Vietnamese people have the will," said Ngo Dinh Diem's ambassador to Washington, "but only the U.S. has the might." *Two of the sects say they are religious; one is political. Cao Dai is a mixture of Christianity, Buddhism, Confucianism and Taoism with its own Pope and cardinals, and a Vatican headquarters 55 miles northwest of Saigon. Cao Dai has an expanding pantheon that includes Clemenceau, Victor Hugo and Joan of Arc and, in nomination pending his death, Sir Winston Churchill. Its Pope, Pham Cong Tac, was formerly a Saigon customs clerk. Hoa Hao is a rowdy sect of dissident Buddhists professing its belief in abstinence and prayer. Its founder, the late Huynh Phu So, augmented his fame as a healer when, the story goes, he was sent to a lunatic asylum and converted his psychiatrist. Binh Xuyen is an organization of bandits, in mustard-colored uniforms, who control both the brothels and the police of Saigon under a handy arrangement with the absentee chief of state, Bao Dai. Their commander, General Le Van Vien, was once a river pirate. Pronounced 'n go (as in come 'n go) din d'zee-em www.time.com/time/magazine/article/0,9171,866120,00.html
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 9:01:59 GMT 9
In this 1962 family photo, then South Vietnamese President Ngo Dinh Diem, left, presents the Sword of Honor to Thong Ba Le, right, father of U.S. Navy Cmdr. Hung Ba Le in Vietnam. On the day his side lost the Vietnam War, Hung Ba Le fled his homeland at the age of 5 in a fishing trawler crammed with 400 refugees. Thirty-four years later, he made an unlikely homecoming as the commander of a U.S. Navy destroyer. Read more: www.nypost.com/t/Ngo_Dinh_Diem#ixzz0Xv2oLkMM
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 9:07:39 GMT 9
www.presidency.ucsb.edu/index_docs.phpEISENHOWER'S LETTER TO NGO DINH DIEM October 23, 1954 (Department of State Bulletin, November 15, 1954) Dear Mr. President; I have been following with great interest the course of developments in Vietnam, particularly since the conclusion of the conference at Geneva. The implications of the agreement concerning Vietnam have caused grave concern regarding the future of the country temporarily divided by an artificial military grouping, weakened by a long and exhausting war, and faced with enemies without and by their subversive collaborators within. Your recent requests for aid to assist in the formidable project of the movement of several hundred thousand loyal Vietnamese citizens away from areas which are passing under a de facto rule and political ideology which they abhor, are being fulfilled. I am glad that the United States is able to assist in this humanitarian effort. We have been exploring ways and means to permit our aid to Vietnam to be more effective and to make a greater contribution to the welfare and stability of the Government of Vietnam. I am, accordingly, instructing the American Ambassador to Vietnam [Donald R. Heath] to examine with you in your capacity as Chief of Government, how an intelligent program of American aid given directly to your Government can serve to assist Vietnam in its present hour of trial, provided that your Government is prepared to give assurances as to the standards of performance it would be able to maintain in the event such aid were supplied. The purpose of this offer is to assist the Government of Vietnam in developing and maintaining a strong, viable state, capable of resisting attempted subversion or aggression through military means. The Government of the United States expects that this aid will be met by performance on the part of the Government of Vietnam in undertaking needed reforms. It hopes that such aid, combined with your own continuing efforts, will contribute effectively toward an independent Vietnam endowed with a strong Government. Such a Government would, I hope, be so responsive to the nationalist aspirations of its people, so enlightened i purpose and effective in performance, that it will be respected at home and abroad and discourage any who might wish to impose a foreign ideology on your free people. KENNEDY'S LETTER TO NGO DINH DIEM December 14, 1961 (Department of State Bulletin, January 1, 1962) Dear Mr. President: I have received your recent letter in which you described so cogently the dangerous conditions caused by North Vietnam's effort to take over your country. The situation in your embattled country is well known to me and to the American people. We have been deeply disturbed by the assault on your country. Our indignation has mounted as the deliberate savagery of the Communist programs of assassination, kidnapping, and wanton violence became clear. Your letter underlines what our own information has convincingly shown - that the campaign of force and terror now being waged against your people and your Government is supported and directed from outside by the authorities at Hanoi. They have thus violated the provisions of the Geneva Accords designed to ensure peace in Vietnam and to which they bound themselves in 1954. At that time, the United States, although not a party to the Accords, declared that it "would view any renewal of the aggression in violation of the Agreements with grave concern and as seriously threatening international peace and security." We continue to maintain that view. In accordance with that declaration, and in response to your request, we are prepared to help the Republic of Vietnam to protect its people and to preserve its independence. We shall promptly increase our assistance to your defense effort as well as help relieve the destruction of the floods which you describe. I have already given the orders to get these programs underway. The United States, like the Republic of Vietnam, remains devoted to the cause of peace and our primary purpose is to help your people maintain their independence. If the Communist authorities in North Vietnam will stop their campaign to destroy the Republic of Vietnam, the measures we are taking to assist your defense efforts will no longer be necessary. We shall seek to persuade the Communists to give up their attempts to force and subversion. In any case, we are confident that the Vietnamese people will preserve their independence and gain the peace and prosperity for which they have sought so hard and so long.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 9:11:10 GMT 9
Letter to President Ngo Dinh Diem on the Sixth Anniversary of the Republic of Viet-Nam. October 26, 1961 John F. Kennedy 1961 Font Size: Report Typo [Released October 26, 1961. Dated October 24, 1961] Dear Mr. President: On the sixth anniversary of the Republic of Viet-Nam, the United States of America is proud to pay tribute to the courage of the Vietnamese people. We have seen and marked well the anguish--and the glory-of a nation that refuses to submit to Communist terror. From the people that twice defeated the hordes of Kublai Khan, we could expect no less. America, and indeed all free men, must be grateful for the example you have set. Mr. President, in 1955 we observed the dangers and difficulties that surrounded the birth of your Republic. In the years that followed, we saw the dedication and vigor of your people rapidly overcoming those dangers and difficulties. We rejoiced with you in the new rice springing again from fields long abandoned, in the new hospitals and roads and schools that were built, and in the new hopes of a people who had found peace after a long and bitter war. The record you established in providing new hope, shelter and security to nearly a million fleeing from Communism in the North stands out as one of the most laudable and best administered efforts in modern times. Your brave people scarcely tasted peace before they were forced again into war. The Communist response to the growing strength and prosperity of your people was to send terror into your villages, to burn your new schools and to make ambushes of your new roads. On this October 26, we in America can still rejoice in the courage of the Vietnamese people, but we must also sorrow for the suffering, destruction and death which Communism has brought to Viet-Nam, so tragically represented in the recent assassination of Colonel Hoang Thuy Nam, one of your outstanding patriots. Mr. President, America is well aware of the increased intensity which in recent months has marked the war against your people, and of the expanding scale and frequency of the Communist attacks. I have read your speech to the Vietnamese National Assembly in which you outline so dearly the threat of Communism to Viet-Nam. And I have taken note of the stream of threats and vituperation, directed at your government and mine, that flows day and night from Hanoi. Let me assure you again that the United States is determined to help Viet-Nam preserve its independence, protect its people against Communist assassins, and build a better life through economic growth. I am awaiting with great interest the report of General Maxwell Taylor based on his recent talks and observations in Viet-Nam, supplementing reports I have received from our Embassy there over many months. I will then be in a better position to consider with you additional measures that we might take to assist the republic of Viet-Nam in its struggle against the Communist aggressors. Mr. President, we look forward in these perilous days to a future October 26, when Viet-Nam will again know freedom and peace. We know that day is coming, and we pray that it may be soon. I speak for the American people when I say that we are confident of the success of the Vietnamese nation, that we have faith in its strength and valor, and that we know that the future of the Vietnamese people is not Communist slavery but the freedom and prosperity which they have defended and pursued throughout their history. Sincerely, JOHN F. KENNEDY
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 9:34:23 GMT 9
Assassinations Anyone? July 23, 2009 by TMO · Leave a Comment CIA claims of cancelled campaign are hogwash
By Eric Margolis
CIA director Leon Panetta just told Congress he cancelled a secret operation to assassinate al-Qaida leaders. The CIA campaign, authorized in 2001, had not yet become operational, claimed Panetta.
I respect Panetta, but his claim is humbug. The U.S. has been trying to kill al-Qaida personnel (real and imagined) since the Clinton administration. These efforts continue under President Barack Obama. Claims by Congress it was never informed are hogwash.
The CIA and Pentagon have been in the assassination business since the early 1950s, using American hit teams or third parties. For example, a CIA-organized attempt to assassinate Lebanon’s leading Shia cleric, Muhammad Fadlallah, using a truck bomb, failed, but killed 83 civilians and wounded 240.
In 1975, I was approached to join the Church Committee of the U.S. Congress investigating CIA’s attempts to assassinate Fidel Castro, Congo’s Patrice Lumumba, Vietnam’s Ngo Dinh Diem, and Egypt’s Gamal Abdel Nasser.
Add to America’s hit list Saddam Hussein, Afghanistan’s Gulbuddin Hekmatyar, Indonesia’s Sukarno, Chile’s Marxist leaders and, very likely, Yasser Arafat.
Libya’s Moammar Khadaffy led me by the hand through the ruins of his private quarters, showing me where a 2,000-pound U.S. bomb hit his bedroom, killing his infant daughter. Most Pakistanis believe, rightly or wrongly, the U.S. played a role in the assassination of President Zia ul-Haq.
To quote Josef Stalin’s favourite saying, “No man. No problem.”
Assassination was outlawed in the U.S. in 1976, but that did not stop attempts by its last three administrations to emulate Israel’s Mossad in the “targeted killing” of enemies. The George W. Bush administration, and now the Obama White House, sidestepped American law by saying the U.S. was at war, and thus legally killing “enemy combatants.” But Congress never declared war.
Washington is buzzing about a secret death squad run by thingy Cheney when he was vice-president and his protege, the new U.S. commander in Afghanistan, Gen. Stanley McChrystal. This gung-ho general led the Pentagon’s super secret Special Operations Command, which has become a major rival to the CIA in the business of “wet affairs” (as the KGB used to call assassinations) and covert raids.
Democrats are all over Cheney on the death squad issue, as are some Republicans — in order to shield Bush. But the orders likely came from Bush, who bears ultimate responsibility.
Americans are now being deluged by sordid scandals from the Bush years about torture, kidnapping, brutal secret prisons, brainwashing, mass surveillance of American’s phones, e-mail, and banking.
In 2001, as this column previously reported, U.S. Special Forces oversaw the murder at Dasht-e-Leili, Afghanistan, of thousands of captured Taliban fighters by Uzbek forces of the Communist warlord, Rashid Dostum.
CIA was paying Dostum, a notorious war criminal from the 1980s, millions to fight Taliban. Dostum is poised to become vice-president of the U.S.-installed government of President Hamid Karzai. Bush hushed up this major war crime.
America is hardly alone in trying to rub out enemies or those who thwart its designs. Britain’s MI-6 and France’s SDECE were notorious for sending out assassins. The late chief of SDECE told me how he had been ordered by then-president Francois Mitterrand to kill Libya’s Khadaffy. Israel’s hit teams are feared around the globe.
History shows that state-directed murder is more often than not counterproductive and inevitably runs out of control, disgracing nations and organizations that practise it.
But U.S. assassins are still at work. In Afghanistan and Pakistan, U.S. drones are killing tribesmen almost daily. Over 90% are civilians. Americans have a curious notion that killing people from the air is not murder or even a crime, but somehow clean.
U.S. Predator attacks are illegal and violate U.S. and international law. Pakistan’s government, against which no war has been declared, is not even asked permission or warned of the attacks.
Dropping 2,000-pound bombs on apartment buildings in Gaza or Predator raids on Pakistan’s tribal territory are as much murder as exploding car bombs or suicide bombers.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 27, 2009 4:40:38 GMT 9
Sự Kiện Tháng Tư: Triển Lãm Về Eddie Adams- ĐINH TỪ BÍCH THÚY Sự Kiện Tháng Tư: Triển Lãm Về Eddie Adams ĐINH TỪ BÍCH THÚY Một chuyện chiến tranh xác thực không bao giờ có luân lý. Nó không dạy người, không khuyến khích chuyện đạo đức, không làm gương, hay kìm hãm con người để họ đừng làm những chuyện họ vẫn làm từ trước. Nếu một câu chuyện về chiến tranh có vẻ như tiềm ẩn một bài học, đừng tin tưởng vào nó. Nếu đoạn kết của một câu chuyện về chiến tranh làm bạn cảm thấy phấn khởi, hay nhận ra rằng một điều chính trực nào đó đã được cứu vớt từ những suy bại, thì bạn đã trở thành một nạn nhân của một sự dối trá kinh khủng và trường kỳ. Không có một sự chính trực nào hết. Không có một sự đạo đức nào hết. nhà văn Hoa Kỳ Tim O’ Brien [trong tiểu thuyết The Things They Carried (Hành Lý của Người Lính)] Sự kiện Tháng Tư: Triển lãm về Eddie Adams, lần đầu công bố đủ loạt ảnh Đặc Công VC Và Tướng Loan Truyền thông Mỹ kỷ niệm 30 Tháng Tư 1975 bằng triển lãm và chiếu phim tài liệu về cuộc đời Eddie Adams, người chụp tấm ảnh Tướng Nguyễn Ngọc Loan xử tử đặc công Việt Cộng tại mặt trận Tết Mậu Thân. Tạp chí văn chương trên mạng: damau.org/ vừa có bài viết của nhà văn Đinh Từ Bích Thuý về sự kiện này, với tựa đề “Oan/Nghiệp: Nghệ Thuật Nhiếp Ảnh của Eddie Adams”, kèm theo nhiều hình ảnh đặc biệt. Sau đây là một số trích đoạn từ bài viết. Oan/Nghiệp: nghệ Thuật Nhiếp Ảnh của Eddie Adams Đinh Từ Bích Thúy Tháng 3 vừa qua, phòng triển lãm nhiếp ảnh Umbrage ở Nữu Ước đã có một cuộc triển lãm ảnh của cố nhiếp ảnh gia Eddie Adams, người đã đoạt giải Pulitzer với bức ảnh iconic mà người Mỹ gọi là Hành Quyết ở Sài Gòn (Saigon Execution), ghi khắc mãi mãi vào trí nhớ thế giới bức hình tướng Nguyễn Ngọc Loan xử tử một sĩ quan Việt Cộng trong biến cố Mậu Thân. Cuộc triển lãm hình ảnh của Eddie Adams (kết thúc ngày 30 tháng 4), được đi liền với dịp ra mắt của tuyển tập nhiếp ảnh Eddie Adams: Vietnam (Umbrage: 2009), trong đó có những ảnh đen trắng chưa bao giờ được xuất bản về chiến tranh Việt Nam của ông. Sau khi Eddie Adams qua đời năm 2004 vì bệnh Lou Gehrig (bệnh teo cơ bắp), vợ ông, bà Alyssa Adams, đã tuyển chọn những tấm ảnh này từ kho ảnh nhiều năm bỏ xó "trong một bao plastic dùng để đựng rác" kiếm thấy tại phòng làm việc của ông. Lần đầu tiên, toàn thể bộ ảnh về tay đặc công VC trước và sau khi bị xử tử được công bố. Đồng thời, vào ngày mùng 10 tháng Tư vừa qua, Đại Hội Liên Hoan Phim Ảnh của thành phố Nữu Ước đã chiếu phim tài liệu An Unlikely Weapon: the Eddie Adams Story (Một Vũ Khí Lạ Lùng: Cuộc Đời Eddie Adams). Phim có sự xuất hiện và lời phát biểu của những bạn đồng nghiệp và thân hữu của ông như phóng viên nhiếp ảnh Nick Út, Bill Eppridge, các nhà báo Peter Arnett, George Esper, Tom Brokaw, Morley Safer, v.v.... Trong phim, nhà báo Morley Safer đã có sự nhận xét sau đây về Eddie Adams: "Eddie không phải là một nhiếp ảnh viên bình dị, hay cân nhắc. Hắn là tên tay chân, thích xông xáo. Hắn làm tròn nhiệm vụ của mình trong cách luôn sục sạo tìm kiếm "những vấn đề," lúc làm việc cũng như lúc nhàn rỗi."[1] Eddie Adams, Việt Nam, 1966 Thật ra, vì không phải là một nhiếp ảnh gia chỉ hành động theo trực giác hay phản xạ khi đánh hơi "những vấn đề," như lời của Morley Safer, trong lúc còn sống Eddie Adams đã trải qua nhiều thăng trầm trong cách ông tự đánh giá bức ảnh nổi tiếng nhất của mình. Thời trẻ, ông là một phóng viên nhiếp ảnh nhiều tham vọng, và đã lập sự nghiệp bằng cách "nhập ngũ" với Associated Press sang Việt Nam làm phóng viên chiến tranh thời điểm 1965-1968. Nhớ lại quãng đời xưa, ông đã nói, "Ai ai trong [hàng ngũ phóng viên] cũng muốn làm kẻ xuất chúng. Tôi không hiểu tạị sao ... Toàn là chuyện cứt ... Chả có nghĩa gì cả. Chả có ai ngoài chúng tôi tha thiết. Chúng tôi vẫn say mê nghề dù cả bọn có thể chết như chơi."[2] Vì trách nhiệm nghề nghiệp, và có lẽ cũng thúc đẩy bởi tham vọng "được xuất chúng," Eddie Adams, vào buổi sáng ngày Tết (ngày mùng Một tháng Hai năm 1968), vừa trở về Sài gòn sau chuyến công tác ở Nha Trang, đã quyết định "đi bộ theo sát tội phạm" (tiếng lóng chuyên môn gọi là perp walk -perpetrator walk- cách một phóng viên thời sự theo sát nghi phạm cho đến khi nghi phạm bị còng tay và dẫn lên xe chở về sở cảnh sát). Trong lúc phóng viên Võ Sửu của đài NBC quay phim, Eddie Adams chụp lia lịa một loạt ảnh, từ lúc sĩ quan Việt Công Nguyễn văn Lém bị quân lính VNCH kéo ra từ một tòa nhà gần chùa Ấn Quang cho đến giây phút Thiếu tướng Loan rút súng bắn người này, và chỉ dừng lại trong một khoảng khắc: "tôi quay đi vì tôi tránh không muốn chụp điều mà tôi vừa nhìn thấy ... một tia máu khoảng 3-4 gang tay vọt lên như vòi phun nước ... không có lý do gì để chụp cái cảnh đó. Tôi nhắc mọi người, -cho biết chừng nào xong.- Sau đó tôi chụp một vài bức khi cái xác đã ngã xuống ....[3] Vào thời điểm 1968, ảnh chụp của Associated Press về chiến tranh Việt Nam được phổ biến nhanh hơn phim thời sự, vì phim chụp có thể được rửa ngay, trong khi phim quay phải gửi sang Nhật hay Hồng-Kông để rửa rồi mới được xuất hiện trên đài truyền hình Hoa Kỳ. Sau khi chụp loạt ảnh này, Eddie Adams về văn phòng Associated Press để nộp phim. Lúc đó đã giữa trưa. Theo lời tường thuật của những nhân chứng, ông hứng thú thông báo với mọi người rằng ông đã chụp được những ảnh đặc sắc.[4] Sau đó, như thường lệ, ông đi ăn cơm trưa và chỉ trở lại để duyệt lại ảnh -lúc đó đã được rửa và in ra từ phòng tối- trước khi những tấm ảnh này được phổ biến khắp thế giới. Eddie Adams đã nhận định rằng, "tôi có quan niệm riêng về chuyện sống còn. [Trong thời chiến], người ta chỉ chú tâm đến những điều trước mắt, và chỉ những điều trước mắt. Cho dù người ta có vợ, có người yêu, trong những lúc căng thẳng không ai nghĩ đến người thân yêu của họ."[5] Eddie Adams đã linh cảm chuyện ông "trúng sổ số" vì ông đã có mặt đúng lúc tại địa điểm lịch sử. Ông không ngờ vực và phán đoán hành động của mình trong lúc chụp bức ảnh hành quyết, hay ngay sau đó. Ông đã đi ăn cơm trưa sau khi nộp phim. Ông đã làm xong nhiệm vụ phóng viên nhiếp ảnh thời chiến. Những dằn vặt và phán xét đến sau đó. Có một thời gian Eddie Adams kết án bức ảnh như là một oan khiên/đầy đọa của mình: Khi tôi nhìn tấm hình lần đầu tôi đã chả thấy nó có gì đặc sắc. Ngay bây giờ nó cũng không phải là tấm hình có nhiều nghệ thuật nhiếp ảnh. Thứ nhất, thời điểm chụp không lý tưởng. Đó là một tấm hình thời sự. Cấu trúc ảnh quá xấu. Nhưng có lẽ [nó ghi lại] một giây phút quan trọng. Cho đến bây giờ tôi không hiểu sao nó lại quan trọng như vậy. Tôi nghe nhiều chuyện người ta kể về tác dụng của bức ảnh này ...như chuyện nó giúp kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Tôi không hiểu nhiều về chuyện này. Nhưng hai mạng người, hai cuộc đời đã bị kết thúc ngày hôm đó. Cuộc đời tướng Loan, cuộc đời người Việt cộng. Tôi không muốn phá hại đời ai cả. Đó không phải là trách nhiệm của tôi.[6] Trong buổi ra mắt triển lãm những bức ảnh của ông ở Nữu Ước, bà Alyssa Adams nói rằng nếu Eddie Adams còn sống, chắc ông sẽ không bao giờ cho phép chuyện bức ảnh Hành Quyết ở Sàigòn làm hình bìa quyển sách Eddie Adams: Vietnam. Bà nói, "hình ảnh này đã ám ảnh chồng tôi trong nhiều năm. Ông ấy lúc nào cũng vật lộn với trách nhiệm và hậu quả của nó. Ông ghét chuyện [sự nghiệp] ông đã bị định nghĩa bởi duy nhất một hình ảnh, trong khi khả năng của ông hẳn vượt ra ngoài khuôn khổ của bức ảnh ấy."[7] Vì cảm thấy có trách nhiệm trong việc gây dư luận xấu cho cuộc đời về sau của tướng Loan, Eddie Adams đã tìm gặp tướng Loan sau đó, và cũng đã tường thuật về những thành quả Tết Mậu Thân của tướng Loan trong những bài báo cho Associated Press để làm thăng bằng dư luận đằng sau bức ảnh. Dù với những nỗ lực từ phía Eddie Adams, tướng Loan vẫn mãi mãi là một nhân vật huyền bí. Trong suốt thời gian sau khi bức ảnh được xuất bản, và cho đến lúc qua đời năm 1998 vì bệnh ung thư, tướng Loan không bao giờ thảo luận chuyện ông xử tử Nguyễn văn Lém. Eddie Adams cho rằng tướng Loan đã "tha thứ" việc chụp ảnh của mình. Hai tuần sau khi bức ảnh xuất hiện trên báo chí Sàigòn và quốc tế, Eddie đến tìm gặp tướng Loan tại văn phòng làm việc của ông. Khi nhìn thấy người phóng viên Mỹ, tướng Loan nói, "tôi biết được tên phóng viên người Việt đã chụp tấm ảnh này," và cho Eddie Adams hiểu rằng nếu ông (Eddie Adams) không có ở đó, một phóng viên khác vẫn có thể chụp tấm ảnh này. Người ta có thể kết luận rằng tướng Loan đã có một cái nhìn định mệnh về tính chất "không thể tránh được của bức ảnh" khi ông kết luận với Adams: Anh làm việc của anh, tôi làm việc của tôi ... Theo Eddie Adams, tướng Loan đã tiết lộ rằng sau khi bức ảnh được phổ biến khắp thế giới, ông đã bị vợ mắng rằng sao ông không tịch thu cuộn phim của người chụp ảnh. Tướng Loan đã than phiền với Eddie Adams, "Vợ tôi nghĩ rằng tôi chỉ phải lo chuyện tịch thu phim từ phóng viên là xong ...Bà ấy không có một khái niệm gì cả...."[8] Mấy chục năm sau buổi gặp gỡ đầu tiên với tướng Loan, Eddie Adams đã giận dữ khi nhớ lại lúc ông sang Hòa Lan nhận giải thưởng nhiếp ảnh của World Press, một người trong khán giả đã hỏi tại sao ông đã không ngăn cản chuyện tướng Loan bắn sĩ quan Việt Cộng. Ông coi đó là "một câu hỏi ngu xuẩn," vì "người ta không hiểu gì về chiến tranh và những điều xảy ra trong chiến tranh." Về sau, Eddie Adams lại "tu sửa" nhận định của mình, đặt vị trí của nhiếp ảnh lên trên văn chương: Một tấm ảnh không nói lên hết mọi khía cạnh của một câu chuyện. Khi người ta nhìn một tấm ảnh, người ta chỉ nhìn thấy 1/500 của một giây và đó chỉ là một khoảnh khắc. Nó không tiết lộ cho người xem tại sao khoảnh khắc đó đã xảy ra. Nó không nói lên nhiều điều ... nhưng những tấm ảnh rất quan trọng vì người ta tin vào những bức ảnh..... Cho dù Norman Mailer, [sử gia] David Halberstam, có viết một câu chuyện hay nhất thế giới ...và [câu chuyện đó] có thể hoàn toàn chính xác từng chữ, từng dấu đánh, nhưng ai đó trong quần chúng sẽ đọc câu chuyện đó và sẽ bắt đầu hoài nghi rằng không biết nó có thực sự xảy ra. Người ta sẽ phân vân, "Ừ có thể. Ừ, nhưng mà cũng chả biết thế nào là thế nào ...." Nhưng khi có một tấm ảnh đi sát với câu chuyện, thì chính đó là nhân chứng ... nó sẽ khẳng định niềm tin của một cá nhân vào câu chuyện. Tuy bức ảnh vẫn là một sự dối trá, người ta sẽ nhìn thấy nó là sự thật. Vì vậy hình ảnh rất quan trọng. Người ta thường nói, "chữ viết toàn là láo toét." Vì vậy, hình ảnh là trên hết! [9] Vì hình ảnh chiến tranh thời sự vừa có khía cạnh lịch sử, vừa có tác dụng nhiều về cảm tính gây ra những hậu quả không lường trước, đối với Eddie Adams nó đòi hỏi nhiều ở một nhiếp ảnh gia hơn là những chân dung chụp theo kiểu thời trang, hay đã được "bố trí" sẵn với kỹ thuật, ánh sáng. Ông tuyên bố (với tay đặt trên tim),"tim tôi đã bị chà đạp vì thời sự, còn những nhân vật nổi tiếng, họ không cướp đoạt gì ở tôi.[10] Eddie Adams không để quan niệm chính trị của ông ảnh hưởng việc chụp những nhà lãnh đạo độc tài quốc tế như Fidel Castro, Zia ul-Haq, vì vậy qua nhiếp ảnh ông đã có dịp khai phá khía cạnh "nhân bản" của những con người bi Hoa Kỳ hay thế giới coi là tham quyền, độc ác hay thiển cận. Ông đã ngạc nhiên khi gặp Indira Gandhi lần đầu tiên. Bà không "cứng cỏi hay mập ú," mà rất "nhỏ nhẹ, quyến rũ, lôi cuốn."[11] Eddie Adams ăn nhậu và đi săn vịt với Castro. Eddie Adams chụp ảnh Zia-ul-Haq -lãnh đạo quân phiệt độc tài của Pakistan- qua guồng máy của bộ Tư Pháp đã ra án treo cổ Thủ Tướng Zulfikar Bhuto vào năm 1979. Eddie Adams kể lại buổi chụp ảnh Tổng Thống Zia: Zia muốn tôi chụp ảnh của ông với con gái. Rồi ông mang con bé xuống, nó bị bệnh chậm tiến. [Nhưng] ông hãnh diện vì nó. Rõ ràng ông thương nó lắm. Đối với tôi chuyện đó chứng tỏ ông là một con người tốt -tôi bất cần đường lối chính trị của ông.[12] Có lẽ Eddie Adams đã bị xâu xé chính vì tính chất cố hữu của nghệ thuật nhiếp ảnh thời sự: nhiếp ảnh thời sự không phải là hội họa hay văn chương. Trên lý thuyết nó chụp lại một khoảnh khắc của hiện thực và vì vậy nó khó bị tách rời ra khỏi hiện thực. Như Eddie Adams đã nhận xét, một bức ảnh thời sự thường được coi như một tang chứng của lịch sử, thường được xem "chính xác" hơn văn chương và chữ nghĩa. Một nhiếp ảnh gia thời sự vì vậy cảm thấy mình phải có "trách nhiệm" với dư luận. Hội họa và văn chương, vì không cần phải "chụp" thẳng từ hiện thực, trên lý thuyết -it nhất ở những nước tư bản tự do- độc lập và phóng khoáng hơn nhiếp ảnh. Qua những lời phát biểu của Eddie Adams, người ta có thể đoán rằng ông coi nhiếp ảnh thời sự là loại nghệ thuật đòi hỏi những phản ứng liên hệ đến trách nhiệm và luân lý, còn nhiếp ảnh thời trang/nhiếp ảnh chân dung gần hơn với nghệ thuật của hội họa và văn chương vì khi chụp chân dung của một nhân vật nổi tiếng, người chụp ảnh tạo tác và đồng thời dự trù vị trí của người được chụp ra ngoài khuôn khổ của thời gian, với cái nhìn về thiên thu. Người chụp ảnh chân dung là người chủ động dàn cảnh, họ không bị đối tượng trong ảnh "tước đoạt" tâm hồn của họ, như Eddie Adams đã tự thú. Trái lại, người chụp ảnh thời sự thường bị thời sự áp chế. Dù có "chụp" ảnh, nhiếp ảnh gia thời sự cũng không đóng vai chủ động. Nhưng những lập luận này chỉ đúng một nửa. Trong tiểu thuyết The Things They Carried (Hành Lý của Người Lính), nhà văn Hoa Kỳ Tim O’ Brien đã nhận xét như sau: Một chuyện chiến tranh xác thực không bao giờ có luân lý. Nó không dạy người, không khuyến khích chuyện đạo đức, không làm gương, hay kìm hãm con người để họ đừng làm những chuyện họ vẫn làm từ trước. Nếu một câu chuyện về chiến tranh có vẻ như tiềm ẩn một bài học, đừng tin tưởng vào nó. Nếu đoạn kết của một câu chuyện về chiến tranh làm bạn cảm thấy phấn khởi, hay nhận ra rằng một điều chính trực nào đó đã được cứu vớt từ những suy bại, thì bạn đã trở thành một nạn nhân của một sự dối trá kinh khủng và trường kỳ. Không có một sự chính trực nào hết. Không có một sự đạo đức nào hết.[13] Tuy vậy, Tim O’ Brien, ở vị trí của một nhà văn, đã lập luận rằng văn chương hư cấu (fiction) diễn tả chiến tranh xác thực và đầy đủ hơn những bài báo, hình ảnh chụp, hay phim thời sự về chiến tranh, vì "sự thực của hư cấu ("story-truth") chính xác hơn sự thực của diễn biến (happening-truth). Sự thực hư cấu là sự thực từ cảm tính." Thật thú vị khi ta thấy một nhà văn, khi định nghĩa "sự thực" của văn chương, cũng không khác một phóng viên nhiếp ảnh khi định nghĩa "sự thực" của một bức ảnh thời sự. Tuy cá nhân mỗi người nghĩ rằng nghệ thuật của họ "cao" hơn của người kia, Tim O Brien và Eddie Adams đều công nhận "sự thực từ cảm tính" khi mọi khái niệm khác về "sự thực" đã bị chất vấn hay lật đổ. Eddie Adams cho rằng một bức ảnh thời sự chỉ tiêu biểu 1/500 của một giây trong đời người, nhưng vẫn có thể sống động và "thực" hơn chữ nghĩa vì nó tạo ra một niềm tin, nó khẳng định một lối nhìn cá nhân từ phía người xem ảnh. Tương tự, Tim O Brien không muốn khẳng định một chân lý gì trong những tiểu thuyết chiến tranh của ông. Ông nhận định trong hồi ký, "Có thể nào một binh sĩ quèn biết dạy người đời những điều quan trọng về chiến tranh chỉ vì hắn có mặt ở chiến trường? Tôi không nghĩ như vậy. Hắn chỉ có thể kể những câu chuyện về chiến tranh."[14] Trong Hành Lý của Người Lính, qua cách pha trộn thể Ký với cấu trúc hư cấu, Tim O’ Brien khai triển những mâu thuẫn về cách người lính Mỹ tiếp nhận "hiện thực" trong chiến tranh Việt Nam. Hành lý của lính Mỹ: la bàn, bản đồ, những lá thư từ những người thân yêu, hòn sỏi, chân thỏ làm bùa hộ mạng .v.v..... tượng trưng cho lý lịch, hoài bão, tình yêu, và những sự sợ hãi thầm kín của họ. Nhưng những hành lý này không giúp người Mỹ thoát khỏi cái chết, mà chỉ cho người đọc thấy sự thiếu chuẩn bị về tinh thần của họ. Ở một khía cạnh nào đó, người ta có thể đối chiếu Hành Lý của Người Lính -một tác phẩm metafiction- với Nhật Ký Đặng Thùy Trâm. Khác với những người lính Mỹ trang bị "hơn 20 pao nào vũ khí, thức ăn, giấy vệ sinh, thuốc an thần nhưng khi bị bắn thì chỉ ngã nhào như một khối nặng mà không kịp dẫy,"[15] người lính Bắc Việt khi di chuyển thì có vẻ "nhẹ nhàng" hơn, "với những chiếc ba lô vụng về may bằng những tấm bao Mỹ đã gọn gàng trên vai."[16] Nhưng thật ra, sự "nặng nề" của người Mỹ, và sự "nhẹ nhàng" của lính Bắc Việt cũng chỉ là một ảo tưởng. Hành lý và vũ khí của lính Mỹ không cứu được họ, hay giúp họ thắng chiến tranh Việt Nam, cũng như lòng nhiệt huyết của Đặng Thùy Trâm, qua những trang nhật ký của người con gái như lên cơn sốt trong sự cô đơn, mong mỏi, trong những tình cảm hỗn độn giữa tình yêu, tình bạn, và tình thương dành cho những bệnh nhân thời chiến, chỉ phản ảnh một khoảnh khắc của quá khứ. Đặng Thùy Trâm không được may mắn để sống qua chiến tranh. Nhiếp ảnh thời sự, nhiếp ảnh chân dung, văn chương hư cấu, hồi ký -tất cả là những phương tiện chụp lại/dừng lại thời gian, để duy trí ký ức, để xua đẩy cái chết của thể xác, để thách thức sự biến chuyển của cuộc đời. "Sự thực" của những tài liệu nhiếp ảnh, văn chương hư cấu, hay hồi ký được hiện hữu ngay trong những gì nó đã được chụp lại, không hơn, không kém. Tất cả những điều khác ngoài khung là cảm tính, là những câu chuyện, là khuynh hướng, là luận bàn, là những nỗ lực tiếp nối ảo tưởng với cuộc sống ở ngoài khung.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 27, 2009 4:41:34 GMT 9
Trong những bức ảnh của Eddie Adams, người ta thấy sự mong manh, gần như lõa lồ của tất cả những mạng người trong bối cảnh chiến tranh. Trong tấm ảnh Hành Quyết, nghi phạm Nguyễn Văn Lém giống như vừa bị lôi dậy từ một giấc ngủ, khuôn mặt sưng múp, thân người xốc xếch trong "ngụy trang" là chiếc áo ca-rô và quần đùi, đi chân đất. Tấm ảnh chụp các lính Mỹ rảo bộ đi tắm trên một con đường làng xế nắng, trên người quấn vỏn vẹn tấm khăn tắm dưới cây súng dắt bên hông -hình ảnh này cho ta thấy một tension thâm trầm- nỗi sợ bị đột kích của lính Mỹ -của nhóm người phải biết cách ứng biến trong hoàn cảnh xa lạ- đi liền với những sinh hoạt riêng tư, thường nhật. Người xem ảnh thấy gần gũi với những đối tượng trong ảnh. Chiến tranh và cái chết ở khắp mọi nơi, ở chiến trường, ở khu dân sự, rình rập ở ngoài chỗ tắm, chỗ ngủ. Bức ảnh một lính Việt Công bị thương, với bộ quần áo như bộ pyjama trĩu xuống vì bùn đất, cánh tay bị thương băng bó một cách cẩu thả. Người xem tự hỏi: Đây có phải là một trò chơi của trẻ con? Máu, trong những hình ảnh đen trắng chụp từ hơn 40 năm trước, không giống máu thật. Màu máu trông quá tự nhiên, như một cách ngụy trang, nó chìm vào bức ảnh, không khác gì lời than, cũng rất "nhẹ nhàng," và thắm thiết, sâu xa của Đặng Thùy Trâm, "Chết quá dễ dàng, không có cách nào đề phòng được những tổn thất ấy cả. Buồn làm sao!"[17] Ở một phương diện nào đó, Eddie Adams gần như muốn chối bỏ tính chất "không sạch/nhất thời" của khung ảnh thời sự. Sau khi đã dãi dầu qua 13 cuộc chiến, ở thời tạm gọi là yên ắng, Eddie thiết lập Barnstorm, khóa dạy học miễn phí hàng năm về nhiếp ảnh cho những nhiếp ảnh gia có triển vọng. Trong lúc dạy học, ông thường nhấn mạnh về bố cục -coi như sự tự hãm mình- của một bức ảnh: một bức ảnh phải có cấu trúc sạch (clean composition), không làm người xem bị chia trí vì những thứ vụn vặt kéo cặp mắt ra ngoài cái bố cục đã tạo nên "tâm hồn"của bức ảnh. Eddie Adams nói ông chỉ có hai bức ảnh mà ông ưa chuộng nhất trong suốt cuộc đời chụp ảnh. Ông không nói rõ là bức nào nhưng những đồng nghiệp thân thiết của ông đoán đó không phải là những tấm ảnh thời sự về chiến tranh mà là hai bức chân dung chụp kiểu classic: tấm ảnh chụp Louis Armstrong và tấm chụp người thợ mỏ ở West Virginia. Trong tấm thứ nhất, Eddie Adams chụp nhạc sĩ jazz Louis Armstrong ngồi một mình trong phòng sửa soạn (dressing room) với cái saxophone đã đánh bóng. Trong bức hình đen trắng, chụp vào năm 1970 ở Las Vegas, người nhạc sĩ cúi nhìn chăm chú dụng cụ âm nhạc như đang suy niệm, tĩnh tâm về nó. Người xem không thấy Louis Armstrong trong bức ảnh -hay đúng hơn, chỉ thấy Louis Armstrong khi ngắm nhìn cái saxophone. Mọi vật chung quanh bố cục "nghệ sĩ và saxophone" như chìm lắng xuống, sạch, gần như khổ hạnh, austere. Tấm thứ nhì là tấm chân dung chụp năm 1969, cũng đen trắng: người thợ mỏ da trắng -một cựu chiến binh Việt Nam- đứng trước miệng mỏ, bên cạnh con lừa của ông, với ánh mắt đầy nghi ngờ, chất vấn nhìn thẳng vào ông kính ("cái mông con lừa trầy xơ xác vì ngày ngày phải cọ vào thành tường cái mỏ thấp nghẹt," Eddie Adams kể lại). Chân dung người thợ mỏ làm người xem nghĩ đến những bức tranh với ánh sáng vừa mờ vừa rực của Delacroix, hình như nó cố nén lại sự uất ức yên phận của người cựu chiến binh bị bạc đãi sau khi trở về quê quán. Chính ra, trong những bức ảnh Việt Nam của Eddie Adams, các chi tiết "chia trí" ở một góc ảnh, hay ở một chỗ nào ngoài trung điểm của bức ảnh, chụp vội trong một khoảnh khắc, cũng tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ, kinh khiếp và bất ngờ. Trong loạt ảnh Hành Quyết, ở bức cuối, phía trái khung ảnh là một đứa bé trai, khoảng 7, 8 tuổi, nhìn xuống xác người Việt Cộng. Người xem không biết đứa bé có phải đã đứng xem cuộc xử tử từ lúc đầu, hay chỉ nhìn thấy xác người nằm dài trên đất sau đó? Là một trong những nhân chứng đầu tiên của hình ảnh này khi nó chưa được "chụp" thành một bức hình lịch sử, đứa bé đó đã nghĩ gì trong đầu? Cuộc đời về sau của nó sẽ ra sao? Rõ ràng hậu quả của chiến tranh đã bắt nguồn -dưới mắt người trong cuộc- từ một trạng thái gần như ngẫu nhiên, quen thuộc, thờ ơ, từ một biến cố nào đó trước cuộc hành quyết, mà không cần đến sự can thiệp của nhiếp ảnh thời sự hay của bất cứ một nghệ thuật nào? Có phải kinh nghiệm, ký ức có từ trước buổi hành quyết ngày mùng Một tháng Hai năm 1968 đã tạo ra cái nhìn bình tĩnh của đứa bé -cả một bối cảnh quá bình tĩnh- trước xác người? Có phải sự phẫn nộ của người Hoa Kỳ, và quốc tế ngay sau đó, vẫn là phản ứng của những con người, tuy có thể lớn tuổi hơn đứa bé trong ảnh, là những phản ứng còn "trong trắng"? Ở một bức ảnh khác, chụp mùng 8 tháng 5 năm 1968, trong cuộc tấn công lần thứ nhì của Việt Cộng vào phía Nam Sàigòn, người ta nhìn thấy một người đàn ông chỉ mặc vỏn vẹn quần xà-lỏn cõng người vợ bị thương nhẹ ở chân. Gương mặt khắc khổ nhưng vương vấn hy vọng, sự kiên nhẫn của người đàn ông hướng nhìn về một quãng trống ngoài khung ảnh, thế đứng của ông, với chân phải bước chéo trước chân trái -có một cái gì thật cảm động và uyển chuyển trong toàn bức hình. Người xem ảnh bỗng chợt nghĩ đến huyền thoại Chử Đồng Tử chia khố mặc với bố. Hình như tình nghĩa vợ chồng của người tị nạn trong ảnh cũng gắn bó như tình phụ tử trong huyền thoại của một nước Việt Nam tiền sử. Tương tự, vẻ đẹp bất ngờ cũng phát hiện trong bức ảnh chụp cảnh cầu sập ở Huế vào biến cố Mậu Thân. Người xem nhận ngay ra nét duyên dáng, lãng mạn ... gần như thách thức hoàn cảnh của cô gái Huế mặc áo dài trắng với đôi chân trần ở góc cầu gẫy, đôi guốc cao gót xếp gọn ghẽ phía trước cô trong khi cô nghiêng người người duyên với ai đó ngoài khung ảnh. Hình như cô biết cô đang được chụp ảnh. Xung quanh cô những người dân và người lính Cộng Hòa lặng lẽ, trầm mặc, vác, dắt xe đạp bước qua những đoạn cầu còn lành lặn. Tương phản với sự đỏm dáng giữ kẽ của gái Huế là sự vô tư tươi trẻ của gái Sàigòn thời loạn. Ở bức ảnh "Đợi Mưa Tạnh," chụp ngày 30 tháng 5 1968, với đám con gái Sàigòn mặc váy đầm ngắn đứng trên vỉa hè nhìn cơn mưa đang xối xả chảy ở ngoài khung, chi tiết "chia trí" ở đây là những vết sẹo và mụn ghẻ trên những cặp đùi được phô trương một cách tự tin, bất cần. Miền Nam thời chiến là một miền Nam không đắn đo miền Nam ngoái lại thấy bùi ngùi vì nó tàng chứa một tương lai không bao giờ có. Người miền Nam hồn nhiên, hết mình, trong hiện tại, không màng đến những vết sẹo và mụn ghẻ trên da thịt để hở làm chia trí cho người xem ảnh từ một tương lai khác, ở một chân trời khác. * * * Vào năm 1977, vẫn còn dằn vặt vì dư luận sau bức Hành Quyết, Eddie Adams sang Thái Lan để chụp ảnh những thuyền nhân tị nạn Việt Nam bị chính quyền Thái Lan từ chối việc nhập cảnh. Ông dùng 100 đô-la mua xăng, gạo, rồi xin phép được leo lên một chiếc tàu đánh cá đang lênh đênh ở hải phận Thái Lan. Ảnh chụp người tị nạn, từ đứa bé sơ sinh, đến người già hơn 70 tuổi, ngồi lả mệt, nhồi ép trong khoang thuyền, được ông đính kèm với bản tin Associated Press với tựa đề Con Thuyền Không Nụ Cười (The Boat of No Smiles). Eddie Adams giải nghĩa tựa đề này như sau: Tôi gọi con thuyền ấy là Con Thuyền Không Nụ Cười vì ở thời điểm đó, trải qua bao nhiêu chiến tranh [là phóng viên nhiếp ảnh], tôi đã có mặt ở hầu hết những trại tị nạn trên thế giới. Khi giơ máy ảnh chụp hình trẻ em ở các trại tị nạn, thường tôi thấy là tự động chúng nó cười, cho dù đằng sau chúng người ta có thể thấy hàng chục cái xác chết nằm chồng chất lên nhau. Nhưng khi tôi chụp hình các thuyền nhân Việt Nam trên con thuyền đánh cá đó, thì không có ai cười, cả những đứa bé cũng không cười, cho dù tôi đứng kè kè đó với cái máy ảnh ...và vì thế tôi gọi nó là Con Thuyền Không Nụ Cười.[18] Trích từ quyển sổ tay của Eddie Adams: Boong tàu và dưới mặt boong chật đến nỗi chỉ có một vài người có thể nằm xuống, còn số đông phải ngủ ngồi. Không có một mặt cười nào trên con thuyền đánh cá không tên, 1977. Sự nhận định của Eddie Adams về "những con người không biết cười"-dưới con mắt một dân tộc đã thấm nhuần những nỗi đau đến lúc gần như chai đá, bình tĩnh- coi bộ cũng khá lạ lùng, nó có tính cách áp chế hoặc gần như ngây ngô, nhưng thật ra là một lời kêu gọi cứu tế sắc sảo và hiệu quả khi nhắm vào xã hội Mỹ. Vào cuối thập niên 70-đầu thập niên 80 ở Hoa Kỳ, trước một dư luận chưa hoàn toàn hồi phục lại sau cuộc chiến Việt Nam, trong thời điểm mà ngay cả Tổng Thống Carter, một vị Tổng Thống về sau được tôn vinh qua những thành quả về nhân quyền, đã thốt, "Chúng tôi không nợ Việt Nam điều gì cả, vì sự sát hại đã là chuyện tương đồng," không ai muốn nhắc nhở đến "vấn đề Việt Nam" hay mổ xẻ hậu quả của nó. Nhưng nước Mỹ vẫn là một xứ sở còn trẻ -một xứ sở yêu nụ cười của trẻ thơ, một xứ sở lúc nào cũng tin tưởng vào một tương lai khả quan- bức ảnh Con Thuyền Không Nụ Cười của Eddie Adams đã đánh trúng tâm lý "nghĩa hiệp" của người Mỹ. Nhờ bức ảnh này, Quốc Hội Mỹ, dưới thời Carter, đã ra luật giúp hơn 200,000 người tị nạn Việt Nam được định cư ở Hoa Kỳ. Trong quyển Eddie Adams: Vietnam, thành quả của bức Con Thuyền Không Nụ Cười được viết lại như lời kết (epilogue), đối chiếu và "đóng lại" bức Hành Quyết. Eddie Adams cảm thấy ông đã có dịp "giải oan"- cá nhân ông đã có một "đoạn kết" mà người Mỹ gọi là "closure" cho vấn đề Việt Nam. Thật ra, sau nửa buổi trên Con Thuyền Không Nụ Cười, Eddie Adams đã bị cảnh sát Thái Lan ép phải rời thuyền, và con thuyền này bị bỏ mặc ở ngoài khơi. Sau đó không ai tìm thấy dấu vết nó. Eddie Adams không ưa chuộng những "điều chia trí" ở ngoài khung nghệ thuật. Ông nghĩ rằng nhiếp ảnh, như hội họa, phải có không khí tĩnh lặng, phải vượt ra ngoài sự áp chế của thời gian, phải trở thành classic theo nghĩa truyền thống của nó. Nhưng trong thâm tâm, ông cũng hiểu rằng khái niệm bất diệt của nghệ thuật không ở trong một cấu trúc gọn ghẽ, mà được khai thác vừa từ động cơ tự phát/không kềm chế của một khoảnh khắc trong đời người, vừa từ cảm tính đa hóa của những con mắt bên ngoài khoảnh khắc đó. Một bức ảnh bất diệt, như một tác phẩm văn chương bất diệt, thường không có đoạn kết. Đinh Từ Bích Thuý ________________________________________ Chú thích: [1] Paul Brenner, "Điểm phim An Unlikely Weapon." [2] Như trên. [3] Eddie Adams, trong Eddie Adams: Vietnam, (Umbrage:2009), tr. 144. [4] Như trên. [5] Phỏng vấn với Eddie Adams, www.pbs.org/speaktruthtopower/hr_eddie.htm[6] Eddie Adams, trong Eddie Adams: Vietnam, tr. 147. [7] Tin thuật lại buổi ra mắt cuộc triển lãm nhiếp ảnh của Eddie Adams, www.nypost.com/seven/03102009/gossip/pagesix/defining_image_158804.htm[8] Eddie Adams, trong Eddie Adams: Vietnam, tr. 147. [9] Như trên. [10] Phỏng vấn với Eddie Adams, xin xem tại đây [11] Như trên. [12] Như trên. [13] Tim O Brien, "How to Tell a True War Story," trích từ The Things They Carried (nxb Houghton Miflin: 1990), tr. 76. Nguyên văn: "A true story is never moral. It does not instruct, nor encourage virtue, nor suggest models of proper human behavior, nor restrain men from doing the things men have always done. If a story seems moral, do not believe it. If at the end of a war story you feel uplifted, or if you feel that some small bit of rectitude has been salvaged from the larger waste, then you have been made the victim of a very old and terrible lie. There is no rectitude whatsoever. There is no virtue." [14] Tim O Brien, If I Die in a Combat Zone, Box Me Up and Ship Me Home (Delacorte Press: 1973). [15] Tim O Brien, "How to Tell a True War Story, tr. 7. [16] Nhật Ký Đặng Thùy Trâm, ngày 10-4-68, link [17] Nhật ký Đặng Thùy Trâm, ngày 17-05-68. [18] Eddie Adams, trong Eddie Adams: Vietnam, tr. 203. www.examiner.com/x-722-Conservative-Politics-Examiner~y2009m2d6-The-Vietnam-War-everything-you-know-is-wrong-Part-Onewww.allbusiness.com/services/business-services-miscellaneous-business/4705682-1.htmlarticle.nationalreview.com/?q=M2QxNWY0N2ZkY2IxMWJhZGQ4MTU3ZjhlZjg3NTk0NzE=------------------------------ Cái “đề từ” (epigraph) của bài này được dịch không rõ nghĩa lắm, tôi xin dịch lại như sau: Một chuyện chiến tranh chắc chắn không bao giờ có luân lý. Nó không dạy người,không khuyến khích chuyện đạo đức,không làm gương, hay kìm hãm thú tính của con người để họ đừng làm những chuyện mà đồng loại từng mắc phải. Nếu một câu chuyện về chiến tranh có vẻ ngầm nói lên một bài học nào đó, đừng tin !!! Nếu đoạn kết của một câu chuyện chiến tranh làm bạn cảm thấy phấn khích hay nhận ra rằng một điều công chính nào đó đã được chắt lọc ra từ những băng hoại, thì bạn đã trở thành một nạn nhân của một sự dối trá khủng khiếp và trường kỳ. Không có một chút chính trực nào hết. Không có một chút đạo đức nào hết. -Tim O’ Brien- Lê Tùng Châu ---------------------------------------------------------- Bài đã đăng của Đinh Từ Bích Thúy " Oan/Nghiệp: nghệ Thuật Nhiếp Ảnh của Eddie Adams - 30.04.2009 " Chuyến Hành Hương Man Dã - 19.03.2009 " Nâng Cao Xà Nhà, Hỡi Những Nhà Phê Bình Nghệ Thuật: Đọc "Là Con Người" của Lê thị Thấm Vân - 11.03.2009 " "tri thức" về một bài thơ: Nói Chuyện Với Nhà Thơ Nguyễn Đức Nguyên - 12.12.2008 " Em Không Mềm Không Trong Không Thẳng Không Trắng (2/2) - 04.11.2008 " Em Không Mềm Không Trong Không Thẳng Không Trắng (1/2) - 03.11.2008 " Văn Chương Nobel 2008: Chìa Khóa và Nhà Tù - 09.10.2008 " Trung Thu 2008, 1928, 1968 - 30.09.2008 " café diem - 04.06.2008 " Đinh Từ Bích Thúy: Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài - 19.04.2008 ---------------------------------------------------------------------------------- 4 bình luận " Thái" viết: Trong bài viết trên, tác giả Đinh Từ Bích Thúy ghi quân hàm của ông Nguyễn Ngọc Loan khi vụ hành quyết hồi Tết Mậu Thân xảy ra là Thiếu Tướng. Điều này phù hợp với một số hồi ký đăng trên mạng Internet. Nhưng tôi nhớ- cũng như một số người ghi lại trên Internet- là ông Loan lúc đó chỉ là Chuẩn Tướng. Nhưng ông phó nhòm Eddie Adams thì lại giáng chức ông Loan thành Đại Tá! Xin ghi lại đoạn văn sau ghi lại lời của Adams trích trong cuốn To Bear Any Burden của Al Santoli (1985): Every day for at least a week I d go to Loan s office. I d knock on the door and some colonel would answer. I d say, "Can I see Colonel Loan?" [His rank at the time.] And the response would be, "No, he s all tied up. He doesn t have any time." At the end of the week they said, "Okay." So I go in. And the first thing Loan says to me is, "The only reason I m seeing you is because you re so persistent. Sit down." So I sat down. I never mentioned the picture at all. And I hoped he didn t know that I took it. I said, "Colonel, I d like to do a story on you for the AP, and live with you and go around with you for a while." And he walks over to me. Pushed his nose up against mine. He said, "I know the Vietnamese who took that picture." It was too much, man. He said, "Vietnamese." In other words, he wasn t blaming me. Then he sat down and said, "You know, after that happened, wife wife gave me hell for not taking the film from the photographer. She thinks that all I had to worry about was some photographer s film." (p. 185) - 30.04.2009 vào lúc 9:54 pm " Ba Bàm viết: Bài viết công phu và hay, nhưng thiếu những chi tiết để người đọc hiểu thực sự cái gì đã hành hạ Eddie Adams suốt bao nhiêu năm quanh bức ảnh "Hành quyết ở Sài Gòn". Mời đọc thêm ở đây: "...Sau khi giết người tù nhân bị bắt, viên cảnh sát trưởng đã nói với các nhà báo, "Nhiều người Mỹ đã bị giết trong ít ngày qua và nhiều bạn bè người Việt Nam thân thiết nhất của tôi nữa. Giờ các ông có hiểu không? Đến Đức Phật cũng sẽ phải hiểu." Bức ảnh đã giúp cho Eddie Adams nổi tiếng, song ông đã ước mong sao ông chưa bao giờ chụp bức ảnh đó. Bởi vì tai tiếng của nó, bức ảnh đã hủy hoại cuộc đời của viên cảnh sát trưởng, đẩy ngược ông ta thành ra một kẻ tội đồ đáng ghét (và bị hiểu lầm) trên bình diện quốc tế suốt từ đó tới nay. Adams không bao giờ tha thứ cho bản thân mình về điều này..." (Có nghĩa trước đó nhiều đồng đội của tướng Loan đã bị Lém giết) - 30.04.2009 vào lúc 10:20 pm " Đinh Từ Bích Thúy viết: Kính thưa ông Ba Bàm, Cám ơn ông đã đọc và gửi lời nhận xét. Khi tra cứu trước khi viết bài bình luận về phóng viên Eddie Adams, tôi cũng đã đọc được những chi tiết ông đã đề cập ở trên. Theo lời tường thuật của chính Eddie Adams, Thiếu tướng Loan, sau khi bắn Nguyễn văn Lém, đã nói: Hắn giết nhiều người lính của tôi và của các anh." ("He killed many of my men and many of your people"), Eddie Adams cũng kể thêm rằng, "Và [sau đó] ông tiếp tục rảo bước ... ông chỉ nói có thế thôi." ("And he just kept walking ... and that s all he said.") Những tài liệu tôi tham khảo không đề cập điều Thiếu tướng Loan nói thêm, "Giờ các ông có hiểu không? Đến Đức Phật cũng phải hiểu." Nếu có thể, xin ông cho biết nguồn tài liệu này. Những bài báo Việt trên mạng có đề cập đến lý do tại sao Thiếu tướng Loan đã bắn chết Nguyễn văn Lém ngay trên đường phố mà không xử người này như một tù nhân chiến tranh trước tòa án VNCH, nhưng những tài liệu này thường đưa ra những chi tiết mâu thuẫn và hầu hết vẫn chưa được kiểm chứng theo nguyên tắc khoa học. Tôi thiết nghĩ nếu ai nhìn thấy bức ảnh này, và đã sống qua những thập niên 60-70 và biến cố 1975, đều có thể đoán tại sao sau đó ông Eddie Adams đã bị dằn vặt, mà không cần đưa ra những chi tiết mà ngay trong lúc này vẫn chỉ là những "luận bàn." - 01.05.2009 vào lúc 5:01 am " Ba Bàm viết: Trong phần nhận xét, tôi đã đưa đường dẫn để tham khảo thêm tư liệu, nhưng có lẽ tác giả bài báo chưa kịp coi hết. Vậy xin dẫn tư liệu gốc Nhưng dù có xem đó là "tư liệu gốc", cũng chỉ là một "tham khảo" mà thôi, để chúng ta cùng nhau ý thức mạnh mẽ hơn về thực trạng quá nhiều sự kiện lịch sử bị che đậy hoặc bóp méo mà không được công khai trao đổi, được đối chiếu kỹ càng; nhất là "lời nói gió bay", và lại về những vấn đề hệ trọng. Mong rằng tác giả bài báo không coi quá nặng nề việc có hay chưa có được vài tư liệu này.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2010 3:15:30 GMT 9
Tướng Hưng, 30 thang 4 1975
“... Anh cố gắng nhớ và ghi lại những gì xảy ra vào những ngày hấp hối của Quân Đoàn IV và cái chết bi hùng của Tướng Lê Văn Hưng. Không là văn sĩ, anh cũng không làm khung trước, nhớ gì viết nấy. Anh mong những vị chỉ huy trực tiếp của Tướng Hưng, những người đã từng trù dập, bôi bẩn vị danh tướng khi ông còn tử thủ ở An Lộc địa. Anh muốn nói tới Tổng Thống Thiệu, tướng 3 sao Nguyễn Văn Minh hiện còn sống tại Mỹ. Nếu quý vị còn sĩ khí của một vị tướng lãnh, hãy viết lên sự thật, để tỏ lòng sám hối về những ngày tháng hè 72 An Lộc – Bình Long.
“... Nếu có thể, em liên lạc với Thiếu Tá Phương, Trung Úy Phúc, đi diện HO, hiện sống tại Mỹ để biết thêm chi tiết về Tướng Hưng trong thời gian ông ở Sư Đoàn 5 BB mà anh không biết...”
Lúc đó khoảng 8h30 tối ngày 30-4-75. Bộ quân phục nghiêm chỉnh vẫn còn trên người chuẩn tướng và tôi. Bên trong phòng ngủ chuẩn tướng, ngay sát đầu cầu thang trên lầu, sau nụ hôn vĩnh biệt của phu nhân vừa kịp đặt trên má chồng, ông Tướng đã vội vã đẩy bà ra phía ngoài và đóng nhanh cánh cửa. Lúc quay người lại, thấy tôi còn đứng lại trong phòng, giọng ông thảng thốt:
- Nghĩa! Mầy đi ra...
Vừa nói ông vừa nắm lấy tay tôi lôi về phía cửa. Tôi bệu bạo:
- Tôi ở lại cùng thiếu tướng!?...(*)
Sự dứt khoát của nghiêm lệnh hằng ngày trong giây phút xúc động mãnh liệt làm giọng chuẩn tướng lạc đi. Cái níu đẩy tôi ra ngoài, sự cọ xát ngắn ngủi đầy bi thương ấy khiến tôi có cảm giác mình như là thỏi sắt đang bị rút ra khỏi cục nam châm. Ôi! Cái chết hoàn toàn được sắp đặt trước, lần đầu tiên trong đời tôi mới chứng kiến. Tôi chợt oà khóc!
Đứng bên ngoài, tôi và phu nhân tai còn vọng nghe tiếng rít cài then khô khốc từ bên trong. Bất giác, tôi và bà tướng mọp người xuống nền gạch, cố đưa mắt nhìn vào khe hở dưới cửa. Mọi sự diễn ra không đầy 1 phút sau đó. Một tiếng nổ chát chúa vang lên bên trong cánh cửa. Tôi hoảng hốt ngưng khóc, đứng bật dậy. Với tiếng nổ đó, tôi đau đớn nhận rõ chắc chắn chuyện gì đã xảy ra rồi! Trong phòng không còn tiếng động nào. Tôi đưa tay thử lay động cánh cửa. Vô hiệu! Tôi lùi lại nhìn xuống phía chân cầu thang kêu lớn khi thấy có 3-4 cái đầu đang nhớn nhác nhìn lên (hình như có cả Thiếu Tá Phương):
- Kiếm một con dao... cạy cửa mau...
Người tài xế tên Giêng cầm con dao to, nhọn, chạy nhanh lên và đích thân nạy cánh cửa bật ra. Mọi người cùng ùa vào phòng. Tôi bàng hoàng khóc ngất. Tất cả cũng khóc và chạy đến chỗ giường ngủ của chuẩn tướng. Ông đang ngửa người, nửa thân trên nằm trên tấm nệm trải drap trắng, 2 cánh tay buông ngang, khuy cổ và ngực áo bung ra, màu máu tươi nhuộm thắm phần ngực trái chiếc áo thun trắng bên trong. Cả phần chân Chuẩn Tướng buông thõng bên ngoài, 2 gót giày chấm đất. Có lẽ chuẩn tướng đã ngồi cạnh thành giường, 1 tay cổi 2 khuy áo trên, tay kia đưa nòng colt 45 ấn vào chỗ trái tim...
Chúng tôi đặt chuẩn tướng ngay ngắn lại trên giường, gương mặt ông xanh tái, lấm tấm mồ hôi, miệng há, đôi mắt chưa khép, biểu lộ sự đau đớn cực độ. Vừa đặt đầu ông lên gối, bà tướng vuốt mắt cho chồng... Chuẩn tướng đã yên nghỉ! Viên đạn oan nghiệt đã xuyên thật chính xác quả tim người anh hùng.
Đứa con đầu lòng, Lê Uy Hải, lúc đó vừa tròn 6 tuổi, đã nhặt được đầu đạn đưa cho mọi người xem, rồi mím môi khép 5 ngón tay giữ chặt “kỷ vật”. Nhìn cử chỉ ấy, tôi nghĩ tuổi thơ ngây dại của cháu đã trôi qua mất kể từ buổi tối hôm nay rồi. Khoảng một tiếng đồng hồ trước đó hai anh em (em gái 3 tuổi) còn đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch cạnh phòng cha, hai đứa bé không hề hay biết lát nữa đây vành khăn tang trắng sẽ phủ lên tuổi ấu thơ hồn nhiên của mình.
............ .......
...Quả thật tôi chỉ biết rõ quãng đời của chuẩn tướng vào thời điểm Cần Thơ, thủ phủ Miền Tây, thật sự đã vô chủ. Cần Thơ gần như chỉ bước vào cuộc trong đêm 29-4. Mười giờ đêm, lúc tôi đang mơ màng, điện thoại từ T.O.C/ Quân Đoàn gọi sang trình chuẩn tướng diễn tiến tình hình: Các trực thăng từ Quân Đoàn 3 , từ Sài Gòn... bay lẻ loi về miền Tây đáp bất kỳ nơi nào đáp được... Tôi thức luôn tới sáng vì điện thoại gọi đến liên tục.
12 giờ khuya, nghe có tiếng xôn xao ồn ào ngoài cổng dinh, tôi bước ra và nhìn thấy hàng dòng người cuồn cuộn tuôn trên đại lộ phía bên kia công viên. Cuộc diễu hành náo loạn như đang giữa ban ngày. Tôi kinh ngạc hỏi người lính gác cổng mới biết đó là đoàn người kéo nhau ra bến Ninh Kiều để lên tàu Hải Quân... ra đi. Tôi ngỡ ngàng tự nhủ: “Như vậy là Phó Đề Đốc Thăng tự động dẫn đoàn tàu của ông di tản ư?” (Các lực lượng Không Quân, Hải Quân, lực lượng Đặc Chủng ở miền Tây đều nằm trong hệ thống điều động của BTL/ QuĐ IV) Trong làn sóng người lục tục kéo đi, bất chợt tôi nhìn thấy xe của Chuẩn Tướng Chương Dzềnh Quây, tham mưu trưởng Quân Đoàn IV. Tôi quay vào, gọi ngay cho Thiếu Tá Trưởng Toán Trực TOC hỏi ông có biết vụ nầy không, rồi vội vã lên lầu trình chuẩn tướng. Chính ông cũng đang thức như tôi, và bảo tôi gọi Đại Tá Trang, tư lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi để ông nói chuyện.
Lúc đó đã 3 giờ sáng ngày 30-4. Tôi đã thấm mệt nhưng vẫn cố nhướng mắt chịu đựng. Giờ nầy giá có Phúc thì hết chê. Phúc khoẻ mạnh, tháo vát, giỏi giắn... Nhưng Trung Úy Phúc đang kẹt lại Sài Gòn sau một chuyến “quá giang” trực thăng về Sài Gòn, ngày trở lại đơn vị bằng đường bộ, quốc lộ Sài Gòn – Long An bị Cộng quân cắt đứt với trận chiến dằng dai nhiều ngày, chưa khai thông được.
7 giờ 30 sáng 30-4, tại phòng họp BTL, như thường lệ, Phòng 3 thuyết trình tình hình trong đêm vừa qua trước 2 vị Tướng và các quan chức. Lần nầy có vẻ nghiêm trọng về việc lực lượng Hải Quân Vùng 4 Duyên Hải bỏ đi, mang theo chuẩn tướng tham mưu trưởng, Đại Tá Diệp, tiểu khu trưởng Phong Dinh (Cần Thơ), Thiếu Tá Chánh văn phòng tư lệnh, Đại Tá Đạt, chánh sở Hành Chánh & Tài Chánh Số 5.
8 giờ 30 Đại Tá Thiên được cử tạm thời đảm trách chức vụ tiểu khu trưởng Phong Dinh. 9 giờ 30 hai vị tướng lãnh gặp nhau trong phòng việc của tư lệnh phó. Chuẩn tướng bảo tôi gọi Chuẩn Tướng Lạc, tư lệnh Sư Đoàn 9 đang chỉ huy công cuộc giải toả quốc lộ Long An, nói ông khẩn dùng trực thăng bay về Bộ Tổng Tham Mưu để biết rõ tình hình thực tại. Trên đường bay, Tướng Lạc không bắt liên lạc được với không phận Sài Gòn, nên phải quay về. Chuẩn tướng lại ra lệnh cho tôi gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để ông gặp Tướng Trưởng Phòng 3. Tôi lạnh người khi nghe tiếng người tuỳ phái cho biết:
‘“Tổng Tham Mưu hiện không còn ai. Các tướng tá, sĩ quan cao cấp đang ở tại cơ quan MACV của Hoa Kỳ.”
Tôi hiểu liền các vị ấy có mặt tại đó để làm gì! Sau vị nguyên thủ quốc gia (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu), B/TThM cũng đã lặng lẽ đóng cửa!... Và như vậy, có nghĩa là riêng Quân Đoàn IV phải tự lo liệu lấy. Buông ống điện thoại xuống, tôi đứng ỳ tại chỗ, một cảm giác tê buốt chạy dọc thân thể: “Đất nước thực sự đã mất rồi!...” Tôi bước vào phòng trình tự sự lên 2 vị tướng. Tôi thấy mắt chuẩn tướng hơi chùng xuống, rồi gật đầu tỏ ý không cần thêm gì nữa. Tôi bước ra ngoài, một nhân viên văn phòng trao chiếc radio và cho biết đài phát thanh Sài Gòn thông báo dân chúng đón nghe thông điệp khẩn của Tổng Thống Dương Văn Minh. Tôi quay trở vào phòng trình chuẩn tướng. Lúc nầy Thiếu Tướng Nam đã trở về phòng ông. Chuẩn tướng vội vã rời phòng bước xuống bậc thềm hướng về toà nhà Tư Lệnh. 15 phút sau, tôi ghi vội nội dung lời phát biểu cuối cùng của Tổng Thống Minh, định sang trình 2 vị tướng. Gặp chuẩn tướng đang bước xuống bậc tam cấp, tôi vừa trao tờ giấy vừa nói vắn tắt:
- Tổng Thống Minh đã đầu hàng!...
Chuẩn Tướng quày quả đẩy cửa vào phòng Tư Lệnh. 15 phút sau, Chuẩn tướng trở lại văn phòng mình và bảo tôi gọi để ông nói chuyện cùng 16 Tiểu Khu Trưởng. Đó là lệnh ban hành thiết quân luật trên toàn lãnh thổ Vùng IV kể từ giờ phút nầy. Các đơn vị dừng quân và bố trí tại chỗ chờ lệnh Quân Đoàn. Nếu nó “bung” thì làm lại liền. Thiếu tướng tư lệnh cũng gọi cho 3 Tư Lệnh Sư Đoàn 7, 9 và 21.
Mặc dù nhận rõ thông điệp của Tổng Thống Minh, nhưng hai vị tướng Lãnh trách nhiệm sinh tử Vùng IV lúc nầy muốn ngăn trở những hỗn loạn có thể xảy ra trong cảnh tối tăm nầy. Chính vì vậy mà giờ phút nầy, chuẩn tướng vẫn liên lạc cùng Tướng Tần, tư lệnh Vùng IV Không Quân, hỏi ông về việc sử dụng bom CPU. Tôi không rõ chuyện thảo luận của 2 vị về việc nầy, nhưng 1 tiếng sau đó, sau khi rời phòng họp, Tướng Tần cùng các sĩ quan của ông đã lên các phi cơ rời căn cứ... nối gót lực lượng Hải Quân!
Giờ phút nầy, tôi đang giúp Chuẩn Tướng điều chỉnh lại bộ dây ba chạc trên người ông, Chuẩn Tướng như đang trong tư thế đối đầu tại chiến tuyến. Cửa phòng xuỵt mở, 3-4 Đại Tá tất bật kéo nhau vào. Các vị nầy trong số 7 vị Đại Tá được Tư Lệnh Quân Đoàn đề cử vào chức vụ Phụ Tá Tư Lệnh Phó đặc trách về Xây Dựng & Bình Định, Địa Phương Quân & Nghĩa Quân... Thấy điệu dạng họ như vậy, Chuẩn Tướng cười mỉm:
- Các ông làm gì vậy? Tôi còn đây mà.
Thì ra các vị đến để yêu cầu ông Tướng trình Tướng Tư Lệnh để họ được đảm nhiệm chức vụ Trung Đoàn Trưởng, lấp chỗ các vị đã tự ý rời nhiệm. Tôi ngầm hiểu ý nghĩa về việc yêu cầu đó: Thông thường các Trung Đoàn Trưởng được cấp trực thăng C & C sử dụng trong ngày. Tôi được biết Đại Tá Bùi Huy Sảnh, Trung Đoàn 33 cũng vừa rời bỏ chức vụ. Chẳng biết ông có di tản được không?
Ban hành thiết quân luật, Vùng IV đang có vẻ chuẩn bị đối phó với tình hình hơn là treo cờ hàng. Ngay khi hay tin Sài Gòn thất thủ, chợ búa, hàng quán được dân chúng Cần Thơ mua vội bán vội, cố thu xếp nhanh chóng trở về nhà, vẻ mặt ai nấy đều lo âu. Xe lướt nhanh hơn, người đi bộ gần như chạy, đường phố như chuẩn bị đón cơn mưa lớn.
Sau bức thông điệp đầu hàng của Tổng Thống Minh, mọi liên lạc viễn thông với Sài Gòn đều bị cắt đứt. Chúng tôi không biết gì về tình hình Thủ Đô. Tuy vậy, cho đến trưa, tình hình Cần Thơ và 16 tỉnh lỵ vẫn yên tĩnh, chưa có bóng dáng một nhóm Cộng quân nào vào các Thị Xã. Các Tiểu Khu vẫn còn liên lạc tốt với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn.
Buổi cơm trưa thật lạnh lẽo, tôi không thấy đói, nuốt vội qua loa, rồi để nguyên binh phục, kể cả giày, ngả lưng trên giường. Tôi biết, kể từ giờ phút nầy, biến cố sẽ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Buổi sáng, tôi đã tự ý gọi Đại Đội Trưởng Tổng Hành Dinh yêu cầu cho đổ đầy xăng chiếc Jeep Tư Lệnh Phó, xe tôi, xe Ford Custom mang số ẩn tế dùng cho gia đình Chuẩn Tướng. Cho tới giờ phút này, tôi chưa hề được Chuẩn Tướng ra lệnh lạc nào cả...
13 giờ, chúng tôi trở vào Bộ Tư Lệnh, cách tư dinh Tư Lệnh Phó độ 300 mét. Tôi thấy xe Falcon đen cũng đưa bà Tướng cùng 2 con rời cổng dinh. Tôi hơi ngạc nhiên và lo lắng... Có tiếng ồn ào phía Phòng 2 Quân Đoàn: Một núi giấy tờ đang được đốt cháy ngùng ngụng. Có lẽ các hồ sơ quan trọng được thiêu huỷ? Tôi không rõ Đại Tá Trưởng Phòng có còn đó không, và việc thiêu huỷ giấy tờ nầy do lệnh của ai? Tôi cũng không rõ giờ phút nầy có còn đủ các Trưởng Phòng không? Chuẩn Tướng cũng không gọi đến vị Trưởng Phòng nào, ngay cả Trung Tá Tòng, Trưởng Phòng 3! Tôi tự hỏi, “Trong tình huống nầy, 2 vị Tướng có còn chỉ huy cấp dưới được nữa hay không” Khuôn viên Bộ Tư Lệnh vắng ngắt, nghẹt thở.
14 giờ 30, Chuẩn Tướng lại trở về tư dinh. Ông bước lên bực thềm, nhưng không bước vào trong như mọi khi, mà đứng tại hiên tiền đình, nhìn mông lung ra khoảnh sân phía trước. Tôi đứng bên trái Chuẩn Tướng, cách vài bước, hơi chếch phía sau, hướng tầm mắt theo ông. Mới vào Hè mà cảnh vật như đã Thu, Đông. Trời chiều ảm đạm, thê lương, từng mảng mưa bụi lạnh lẽo thả xuống tàn phượng vĩ đang nở hoa đỏ ối giữa sân, thêm hình ảnh bất động của Chuẩn Tướng trước mặt, tất cả mang đến cho tôi một cảm giác u buồn, tan tác... Bất chợt, Chuẩn Tướng quay lại hỏi tôi:
- Cô đi đâu?
- Thưa, cô đến nhà thờ xin lễ rửa tội.
Vừa lúc đó cửa cổng dinh mở toang, chiếc Falcon trườn vào. Tôi thở ra nhẹ nhõm.
Mấy ngày nay, tình hình chiến sự, tình hình đất nước đen tối như vậy, mà người thợ may riêng không ngớt giải quyết mớ vải vóc mới tinh cho bà Tướng cùng thân quyến. Bây giờ lại đi xin rửa tội. Tôi không bao giờ nghĩ ra chuyện ông bà Tướng đã âm thầm cùng bàn bạc chuẩn bị cái chết cho toàn gia đình. Và phần bà đã dọn mình bằng chính cung cách riêng của bà. Bà muốn khi từ giã cõi đời sẽ cùng con cái được đón nhận là con chiên của Chúa, và bước vào áo quan với bộ đồ mới tinh, trong trắng... Nhưng vào phút cuối cùng, khi nhìn thấy 2 con thơ dại, Chuẩn Tướng thay đổi ý và nằn nì bà ở lại đùm bọc 2 con.
Buổi sáng, ngay sau khi bản thông điệp của Tổng Thống Minh vừa dứt, bà Tướng gọi sang văn phòng bảo tôi tìm cho bà càng nhiều càng tốt thuốc valium 5mg. Bà Tướng vốn bị bệnh mất ngủ đã nhiều năm, nên việc bà cần loại thuốc nầy không có gì đặc biệt, tôi nghĩ vậy. Nhưng khi gọi cho Trung Tá Lưu, Liên Đoàn Trưởng 74 Quân Y, ông khuyên tôi đừng nên can dự vào, để lương tâm khỏi bị ray rứt sau nầy. Rốt cuộc tôi xuống trạm xá Quân Đoàn và người sĩ quan trợ y đã dốc hết số thuốc còn lại trên trăm viên. Bà Tướng nhận số thuốc rất điềm nhiên trước giờ đi nhà thờ xin lễ rửa tội.
Gương mặt Chuẩn Tướng thoáng chút rạng rỡ khi thấy vợ con về đến dinh an toàn. Ông bước đến bên xe đón bà, trao đổi vài lời rồi lên xe trở lại Bộ Tư Lệnh.
Đã 3 giờ chiều. Tôi được biết có cuộc hẹn gặp gỡ thảo luận về việc tiếp thu Cần Thơ giữa BTL/QuĐ IV với đại diện của phía Cộng quân. Mọi sự sẽ diễn ra tại văn phòng Tư Lệnh. Tôi không rõ ngoài 2 vị Tướng còn có những ai khác, phía Cộng quân bao nhiêu người và ai đã thảo ra văn bản để đôi bên cùng đồng ý ký kết.
16 giờ, Chuẩn Tướng rời Bộ Tư Lệnh và đây là lần hiện diện cuối cùng của ông tại bản doanh nầy. Xe chúng tôi vừa ra khỏi cổng chánh, ông ra hiệu dừng lại và bước xuống xe xem coi chuyện gì xảy ra ở phía trước. Bên kia đường, đối diện vòng đai và cổng chánh Bộ Tư Lệnh có rất nhiều thanh niên, kẻ quần tây, người quần đùi ở trần đang nối đuôi thành hàng dài phóng chân rảo nhanh. Tôi ra hiệu cho anh quân cảnh sang bên kia đường đón chận hỏi 1 người trong số họ. Thì ra những thanh niên nầy thoát ra từ trại Tuyển Mộ Nhập Ngũ đã bỏ ngõ. Giờ phút nầy có lẽ không gì thần tiên bằng là họ đang được trở lại nhà. Hèn gì họ vừa chạy vừa biểu lộ vẻ vui mừng rối rít. Nhìn cảnh tượng trước mắt, tự dưng tôi thấy dâng lên trong lòng nỗi cô độc, trống vắng làm sao! Hình như chỉ còn mỗi một xe jeep chúng tôi độc hành trên con đường ngắn quen thuộc, mà giờ đây như xa lạ và dài lê thê ra...
Đến ngã tư nơi tiếp giao giữa Bộ Tư Lệnh với dinh Tư Lệnh Phó và dinh Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh, Chuẩn Tướng ra hiệu dừng xe. Ông bước xuống, đứng nhìn bao quát, có vẻ như đang sắp xếp một thế trận. Tôi nhìn ra 4 phía lộ, và nhận ra vẻ trống vắng rờn rợn. Lác đác vài xe gắn máy, xe thồ, xe đạp đang hối hả gò lưng. Cả một góc phố thoi thóp, im ỉm khiến tôi liên tưởng đến những đoạn film có cảnh tương tự: Les Sept Mercenaires, O.K Coral... thời còn đi học. Bỗng từ phía chân cầu Nhị Kiều xuất hiện một chiếc xe jeep đang theo đại lộ Hoà Bình lao nhanh về phía chúng tôi. Chiêc jeep dừng lại cạnh xe Chuẩn Tướng. Người ngồi trên xe là Tướng Mạch Văn Trường, tân Tư Lệnh Sư Đoàn 21. Ông là 1 trong vài vị Tư Lệnh được Tổng Thống Thiệu ra sắc lệnh thăng cấp trước khi lên phi cơ rời Việt Nam. Tướng Trường xuống xe trình Tướng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn điều gì tôi không nghe được, nhưng với vẻ hấp tấp và gương mặt đầy lo âu, cộng với tình hình trước mặt, tôi đoán chắc Bộ Tư Lệnh của ông hiện đã tan rã. Chuẩn Tướng bảo Tướng Trường theo ông về dinh.
Tại phòng khách, hai vị cùng ngồi trên ghế “canapé”. Với giọng nói cứng cỏi, quả quyết, ông nói với Tướng Trường rằng giờ nầy ông chỉ huy. Ông bảo Tướng Trường cùng Trung Tá Thành, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh đến đóng bản doanh tại dinh Tiểu Khu Trưởng. Chuẩn Tướng bảo Trung Tá Thành lệnh cho 2 Chi Đoàn thiết vận xa M.113 đang ở vùng quận lỵ Bình Minh lập tức quay về Cần Thơ và cho người đến tận bến phà lệnh cho toán chuyển vận phải túc trực ưu tiên chở đoàn thiết vận xa vượt sông. Ra lệnh xong, Chuẩn Tướng đứng lên, vào phòng rửa mặt trong lúc Tướng Trường vội vã ra xe đến dinh Tiểu Khu Trưởng.
Đèn phòng vừa bật sáng, tôi nhìn ra cửa sổ, bóng tối đã nhợt nhờ ngoài sân. Phía cuối phòng, bà Tướng và gia đình đã ngồi vào bàn ăn, có vẻ vẫn an bình như mọi bữa cơm tối hằng ngày. Người lính phục dịch đặt trên bàn tiếp khách, chỗ Chuẩn Tướng đang ngồi, 1 cái dĩa, muỗng và 2 trứng gà ngâm trong ly nước sôi.
Tôi đứng cạnh bàn viết đặt sát cửa sổ phòng khách, trên bàn có 2 máy điện thoại: 1 tự động và 1 qua tổng đài viên. Tối nay tôi tăng cường thêm 1 PRC 25 mở tần số của BTL/SĐ 21 và Thiết Đoàn 9 để liên lạc, theo dõi. Hình như hệ thống truyền tin của Bộ Tư Lệnh đã ngưng hoạt động từ 17 giờ, vì tôi gọi không có tiếng tổng đài viên trả lời. Còn máy tự động dường như bị cắt. Lúc nầy, Thiếu tá Trịnh Đức Phương, nguyên Chánh Văn Phòng, cũng từ dưới phòng anh bước lên đứng phía trái Chuẩn Tướng. Cả 3 chúng tôi im lặng, hồi hộp nhìn về phía màn hình TV vẫn sáng trong, im ỉm.
Phái đoàn 2 bên rời BTL/QuĐ đã gần 2 tiếng đồng hồ và chính lúc nầy là giờ qui định phát thanh. Chúng tôi không phải chờ đợi lâu thêm. Có tiếng nói vọng ra từ TV, tự xưng là phát ngôn viên của BTL/Quân Đoàn và đọc văn bản thông báo “BTL đã đầu hàng. Các đơn vị phải buông trao vũ khí...” Bản văn vắn tắt, nhưng thật rõ ràng, đầy đủ. Nghe đọc bản văn như vậy, tất cả chúng tôi, những người hiểu rõ nội dung bản văn chung trong phiên hợp 2 bên đều chết điếng: Đây không phải là bản văn đã được 2 bên thoả thuận ký kết. Lập tức Chuẩn Tướng bảo tôi chuyền máy PRC 25 đến chỗ ông ngồi, đích thân ông cầm ống liên hợp gọi “Hổ Cáp” (danh hiệu Trung Tá Thành trong đặc lệnh truyền tin) bảo ông Thành dùng M 113 lái đến dinh để đi cùng Chuẩn Tướng đến đài phát thanh. Nghe đến đó, tôi lùi một bước về phía cửa, ra hiệu cho Trung Sĩ Sao (cận vệ) chuẩn bị sẳn sàng để di chuyển. Tôi trở lại chỗ cũ vừa kịp nghe lời đáp của Trung Tá Thành vang lên trong loa khuếch đại. Lời lẽ vẫn còn mang vẻ lễ độ của một cấp thừa hành, nhưng rõ ràng đó là lời từ chối thi hành lệnh. Thật khó đoan chắc có lực lượng đáng kể nào của cộng quân đã có mặt ở Thị Xã Hay Bộ Tư Lệnh chưa, nhưng với văn bản vừa phát ra, chắc chắn sẽ hung hiểm vô cùng nếu tự nhiên xuất hiện một chiến xa rầm rộ di chuyển trong đường phố lúc nầy. Tôi tin rằng Chuẩn Tướng hiểu rõ điều đó. Trong cảnh biến động nầy, tuy lòng có lo âu, sợ hãi, nhưng nhìn thấy đức tính gan dạ, bất khuất của ông, như là dũng tướng tới bước đường cùng vẫn tả xung hữu đột, tôi khâm phục ông xiết bao! Với tinh thần tự nhận trách nhiệm tối cao, hai vị Tướng Lãnh muốn quân nhân phải được bảo đảm an toàn, ít nhứt cũng cho những binh sĩ khi họ không còn được quyền cầm vũ khí trong tay nữa. Sau bản thông điệp của Tổng Thống Minh, có ai biết được chắc chắn về số phận của những đơn vị trước đó đang trực tiếp giao tranh ác liệt cùng các lực lượng cộng quân và rồi bổng dưng họ phải buông súng trong cơn hận thù còn sôi sục của đối phương?
Đang miên man nghĩ suy, tôi giựt mình khi điện thoại reo vang. Nhấc ống nghe lên, tôi vội chuyển liền cho Chuẩn Tướng khi nhận ra giọng trầm trầm, chậm rãi của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Có lẽ Thiếu Tướng hỏi Chuẩn Tướng về bản văn phát thanh vừa rồi. Tôi nghe Chuẩn Tướng trình bày là mọi việc đã giao cho Đại Tá Sáu, ThMPh/ ChTrChTr/QuĐ đại diện cùng đi với phe cộng quân. Vì sao bản văn chung bị tráo? Và tình trạng Đại Tá Sáu ra sao chỉ duy nhứt Đ/T Sáu biết mà thôi. Tôi không nghe Chuẩn Tướng báo với Thiếu Tướng chuyện ông tính đến đài phát thanh mà không thành. Cuộc điện đàm giữa 2 vị Tướng kết thúc. Buông ống liên hợp xuống, Chuẩn Tướng thừ người, ngồi bất động. Lần đầu tiên tôi nhận ra vẻ mệt nhọc tuyệt vọng trên gương mặt ông. Chỗ dựa cuối cùng đối với đơn vị và những đàn em thân tín mà ông từng chỉ huy giờ đã bật gốc. Trong một cử chỉ buông xuôi, Chuẩn Tướng đưa 2 tay về phía trước, bằng một giọng nói oai mãnh, bất khuất ông đã quất về phía tôi và Thiếu Tá Phương một tràng lanh lảnh và đanh thép, khiến tôi rụng rời, vì biết sắp phải xa ông, vị Tướng tôi luôn kính quý. Tôi cúi đầu lặng thinh, cả một khoảnh khắc chơi vơi để 3 chúng tôi mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng...
Chuẩn tướng đứng lên bảo tôi tập hợp toán lính gác để ông nói chuyện. Thượng sĩ trưởng toán tiểu đội bảo vệ dinh Tư Lệnh Phó tập hợp quân thành 2 hàng bên hông dinh. Bằng một giọng cảm động, chân tình, Chuẩn Tướng cám ơn họ đã vẫn ở bên ông đến giờ phút cuối cùng nầy và bảo anh em bây giờ ai muốn rời dinh cứ tuỳ ý... Bỗng có tiếng người lính gác ở trên cao báo động có xe Cộng quân đến. Lập tức Chuẩn Tướng chạy vào trong nhà. Tôi hô toán cận vệ vào vị trí, rồi xách máy PRC 25 theo ông lên lầu. Chuẩn Tướng vào phòng ngủ rồi trở ra với khẩu XM 18 trên tay, chạy ra bao lơn, nằm xuống nhìn ra phía đường. Lúc nầy tôi mới nhận ra đường phố đang tối thui. Điện toàn bộ thị xã bị tắt ngúm. Như vậy điện trong dinh hiện có là do đường dây từ máy phát điện riêng của BTL/Quân Đoàn. Trong bóng đêm u-uất đó, 2 vệt sáng rực phát ra từ 2 đèn pha chiếc xe jeep vừa rời cổng dinh Tiểu Khu, quét thẳng về phía chúng tôi trông thật ghê rợn. Nhưng khi ra đến ngả tư, ánh đèn lại rẻ trái theo đại lộ Hoà Bình hướng về BTL/QuĐ. Họ không đến chỗ chúng tôi. Chuẩn Tướng đứng lên, lùi trở về phòng. Tôi dùng máy PRC 25 thử gọi danh hiệu của Tướng Trường và Trung Tá Thành. Gọi 3-4 lần vẫn khong có tiếng đáp lại. Có vẻ như hệ thống máy đầu bên kia đã ngưng. Chắc chắn phải có biến cố bên dinh tiểu Khu Trưởng, chỗ Tướng Trường và Tá Thành đến đóng bản doanh hồi chiều. Dinh TKhTr và dinh TLPh chỉ cách nhau hơn 300m thôi, nếu có tiếng súng nổ chúng tôi phải nghe được, nhưng sự việc máy không còn mở túc trực chứng tỏ tình trạng Tướng Trường rất bi quan. Có thể ông và Trung Tá Thành đã bị bắt. Và như vậy tình hình trong dinh chúng tôi cũng rất nguy ngập, không rõ địch sẽ xuất hiện lúc nào. Có lẽ Chuẩn Tướng thấy rằng thì giờ đang rất cấp bách, nên ông bước đến đẩy cửa vào phòng bà. Và đây chính là giờ phút ông thuyết phục bà cần phải sống. Hai cháu bé đang vô tư đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch lối ra bao lơn. Tôi trở xuống nhà để tìm gặp, dặn dò toán gác. Thật ra tìm họ cũng là để tự trấn an mình.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2010 3:18:53 GMT 9
10 phút sau, Chuẩn Tướng gọi tôi lên lầu gặp ông. Tại đây tôi thấy ngoài tôi và Thiếu Tá Phương, còn có đông đủ những binh sĩ đã từng phục dịch Chuẩn Tướng cùng gia đình rất lâu năm. Chuẩn Tướng đứng tại phòng ngủ, hai cánh tay ghì chặt đứa con gái 3 tuổi để cho đầu cháu tựa vào má ông. Bà Tướng đứng bên cạnh. Hai bàn tay măng non của cháu bé hồn nhiên lùa vào mái tóc cha làm loả xoả vài lọn tóc rối trên trán Chuẩn Tướng. Bức tranh bi thảm ấy khiến lòng tôi ngậm ngùi tê cứng. Bằng giọng nói tha thiết, ân cần, Chuẩn Tướng gởi lại bà cùng 2 con cho chúng tôi. Ông quả quyết từ giờ cho tới sáng sẽ không có chuyện gì xảy ra, bảo chúng tôi cố gắng hộ tống bà cùng gia đình về Sài Gòn rạng sáng ngày mai, 1-5. Đó là lời uỷ thác cuối cùng của Chuẩn Tướng. Dù đã từng xông pha bao chiến trận, nhưng trong giờ phút tử biệt nầy, Chuẩn Tướng không nén được nỗi uất nghẹn trong lời nói. Ông lấy lại trầm tĩnh thật nhanh, quát bảo tất cả trở xuống dưới nhà, chỉ còn mình tôi và bà Tướng ở lại. Để rồi giây phút vĩnh quyết đã đến!...
Hồi Kết
Lúc đó đã 9 giờ đêm 30-4. Chúng tôi xúm quanh giường ngủ giúp bà Tướng lau rửa thân thể, thay y phục cho ông. Chừng đỡ lưng Chuẩn Tướng lên, mọi người lại đau lòng rấm rứt khóc khi thấy vẫn còn máu tươi rỉ ra chỗ viên đạn thoát ra khỏi thân thể ông. Chuông điện thoại lại reo lên. Tôi lật đật mời bà Tướng tiếp chuyện với Thiếu tướng Tư Lệnh. Bà sụt sùi báo tin Chuẩn Tướng đã... ra đi... Cuối cùng bà nghẹn ngào cảm ơn Thiếu Tướng Tư Lệnh đã gọi đến thăm hỏi, an ủi bà... Để rồi... 8 tiếng đồng hồ sau, lúc 5h30 sáng ngày 1-5, hai vị Tướng cao cấp nhất lãnh thổ vùng IV cùng gặp được nhau ở bên kia thế giới, với cùng ý chí “Tướng phải chết theo thành”
Chuông điện thoại lại reo. Tôi nhắc ống nghe lên, giật mình khi nhận ra tiếng nói của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện. Giọng ông thật khẩn cấp, ông cầàn nói chuyện với Tướng Tư Lệnh Phó. Tôi quyết định nhanh trong trí, “Không cho Đại Tá biết Chuẩn Tướng đã tuẫn tiết!” Tôi nghĩ, hệ thống điện thoại đã bị ngắt hoặc do đơn vị nầy đã bỏ nhiệm sở từ chiều, không lý gì bây giờ lại tái lập? Chắc cộng quân đã chiếm đóng và đang kiểm soát các cuộc điện đàm... Sau nầy khi hồi tưởng lại, tôi mới thấy mình thật ngu khờ: Chỉ vì muốn bảo toàn thi hài Chuẩn Tướng mà tự ý trả lời Đại Tá Cẩn là Chuẩn Tướng đang bận chỉ huy các đơn vị nên không thể rời máy tiếp chuyện Đại Tá được. Tôi nghĩ chỉ có cách đó mới ngăn được Đại Tá, để ông không đòi gặp Chuẩn Tướng nữa. Tôi còn tự ý trả lời “Lệnh của ông Tướng truyền đi hồi sáng vẫn không thay đổi” khi Đại Tá hỏi đến điều nầy. Hậu quả là Đại Tá tiếp tục cho Tiểu Khu mình tử thủ, để rồi ông bị bắt, sau đó đưa về Cần Thơ và Cộng quân đã đưa Đại Tá ra xử bắn trước đám đông dân chúng. Trong lúc chỉ huy chiến đấu, Đại Tá Cẩn đã bị thuộc hạ của mình phản trắc, khống chế từ sau lưng. Tôi tin rằng chính vì vậy mà ông không kịp thực hiện được hành động can trường như Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó và Thiếu Tướng Tư Lệnh đã làm, khi Tiểu Khu thất thủ, mà đành để bị bắt sống. Ông vốn là Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 9 tăng viện chiến trường An Lộc mùa hè 72, được vinh thăng Đại Tá và trở thành Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện sau đó. Pháp trường của kẻ thắng càng tô đậm thêm ý chí hiên ngang, bất khuất của người dũng sĩ trước mũi súng quân thù. Tổ quốc sẽ mãi mãi ghi nhớ ơn Ông cùng những người, cho dù là hàng binh sĩ, trong những giờ phút nầy vẫn còn ngả gục và thắm máu đào trên khắp đất nước non sông.
Có tiếng rè rè từ máy PRC 25 và loa khuếch đại vang lên tiếng gọi danh hiệu Chuẩn Tướng. Tôi nhìn lại bản đặc lệnh truyền tin và nhớ ra giọng nói của Thiếu Tá Điệp, Tiểu Đoàn Trưởng 1/31 đang trong vùng hành quân thuộc quận Bình Minh, chắc anh không liên lạc được với Bộ chỉ huy Trung Đoàn và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, nên mới gọi thẳng về Chuẩn Tướng. Tôi báo cho Thiếu Tá Điệp biết chuyện của Chuẩn Tướng và cầu chúc anh may mắn. Trong đêm nay còn bao nhiêu đơn vị đang trong tình trạng bơ vơ, lạc đàn như Tiểu Đoàn của anh, kêu gọi cấp chỉ huy trong vô vọng và đành chờ đợi ánh bình minh để nhận lãnh số phận mình... Từ đó tôi quyết định tắt hẳn máy PRC 25.
Tôi bước trở lại phòng Chuẩn Tướng và nhìn thấy ông ngời sáng trong bộ lễ phục với đầy đủ quân hàm trên 2 cầu vai, cùng dây biểu chương, huy chương. Bà Tướng đang xếp gấp tư lá cờ vàng ba sọc đỏ và lần tay mở nút áo đặt lá cờ ngay ngắn chỗ phần ngực ông. Xong xuôi, bà ngước lên nói cùng tôi, bà mong muốn lễ tang Chuẩn Tướng được tổ chức đúng lễ nghi quân cách. Tôi gật đầu im lặng. Trong bối cảnh nầy, tôi thấy mình cần phải tận lực giúp đỡ bà, còn việc thành bại là hướng sắp tới.
Trời đã khuya, chỉ còn độ ơ tiếng nữa là sang ngày hôm sau. Thân nhân của Chuẩn Tướng vẫn còn đó cạnh ông. Có lẽ cũng không ai nhắm mắt được đêm nay. Tôi đến cầu thang, trở xuống nhà dưới, theo cửa sau vòng ra sân với đầu óc trĩu nặng lo nghĩ. “Khi hay tin Chuẩn Tướng tuẫn tiết, liệu bọn Cộng Sản có chấp nhận để yên cho mai táng ông không, mai táng bình thường thôi, chớ chưa nói đến chuyện đúng lễ nghi quân cách? Hay là đêm nay mình tìm nơi an táng ông chính tại trong khuôn viên dinh?...” Tôi lắc đầu, bỏ ý nghĩ đó và dừng lại chỗ cuối sân, nhìn ra cổng sắt. Đêm đen ghê rợn trùm phủ vạn vật. Trời tối đến độ tôi không nhận ra cánh cửa cổng. Còn vọng gác thì im sửng trên cao, không biết có còn người gác hay không? Sự im lặng chết chóc khiến tôi hoảng sợ đứng ỳ tại chỗ, không dám nhích tới. Tôi có cảm giác đang bị bao vây, rình rập, dòm ngó từng động tác. Tôi trở gót, theo cửa sau, bước lên phòng khách nhìn quanh quẩn, nơi đây cũng tối om, chỉ có chút ánh sáng của ngọn đèn trên lầu hắt xuống cầu thang cho tôi nhìn rõ nhà dưới trống vắng, không còn người lính phục dịch nào ở đó. Tôi quyết định nghỉ lại nơi đây. Đêm nay nếu có sự kiện gì xảy ra từ phía ngoài vào, tôi sẽ là người đón nhận, hay biết trước tiên. Trong bóng đêm cô tịch, tôi ngồi nhớ lại những việc vừa xảy ra, tất cả nhanh chóng kết thúc, tưởng chừng như một giấc chiêm bao! Sự đời như bọt nước bèo trôi, tụ rồi tan, mới hạnh phúc đó đã tan vở, mới cười vui đó đã ôm ra khóc. Lòng tôi bổng chơi vơi rung động nhớ lại lời nói ôn nhu của Trung Tá Nghiêm, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chánh Tri Sư Đoàn 21, khi ông giới thiệu một pháp môn tu thiền cho tôi vào những ngày cuối năm 73 tại văn phòng Tư Lệnh ở Chương Thiện. Sự thôi thúc dâng lên kỳ lạ, tôi xúc động ngồi lại ngay ngắn, chắp tay trước ngực, tâm thành khẩn hướng vọng đến đức thầy Lương Sĩ Hằng, xin ông nhận tôi là môn sinh. Từ đó đến nay đã 24 năm trôi qua, không ngờ nỗi đam mê với môn học nầy, tôi vẫn tiếp tục đeo đuổi và tôi tin chắc sự ổn định được đầu óc nhờ hành thiền, đã giúp tôi viết lại bài anh hùng ca nầy một cách tuần tự, rõ ràng, nhớ rõ như mọi chuyện mới vừa xảy ra.
Sau đó tôi nằm xuống và tạm quên được mọi việc và chìm trong giấc ngủ. Lúc tôi trở giấc, trời vẫn còn tối, lòng tôi lại nặng trĩu khi đối diện với thực tại. Tôi bước ra sau, về phòng mình, gắp rút lo việc cá nhân khi thấy kim đồng hồ đã chỉ gần 5 giờ sáng..
Tôi trở lên lầu, gặp Thiếu Tá Thuyên, Phụ Tá Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Quân Đoàn, đang đứng cạnh giường Chuẩn Tướng thút thít khóc. Anh vừa mới đến. Như vậy, tin về Chuẩn Tướng trong đêm đã lan truyền ra ngoài. Sự tao ngộ cũng thật vội vàng, ngắn ngủi. Anh rời dinh liền sau đó, lúc trời vẫn còn mờ tối. Đó là vị sĩ quan duy nhứt của BTL/QuĐ đã đến nghiêng chào trước thi hài Chuẩn Tướng. Tôi bàn định cùng bà Tướng lo thu xếp những gì cần thiết mang đi, đề phòng trước, nếu bị buộc phải rời dinh. Thâm tâm tôi nghĩ đến người bạn chí thân hồi cùng ở Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 31, Trung uý Nguyễn Vĩnh Thành. Mấy năm nay Thành đã thuyên chuyển về Sở Hành Chánh & Tài Chánh Số 5 và cùng gia đình đang ở Cần Thơ, nhờ vậy chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau. Hiện tại chắc chắn tôi phải nhờ Thành rất nhiều. Trong lúc chờ trời sáng, tôi bàn với Thiếu Tá Phương là anh đảm trách phần việc tại dinh, còn tôi ra ngoài tìm Thành và đi mua quan tài. Lúc tôi tiến đến cổng chuẩn bị ra ngoài, tôi sững sờ khi thấy thái độ của mọi người, trong ánh mắt của họ, tôi đọc được nỗi hoang mang nghi ngại: Họ đánh giá tôi một ra khỏi đây, không bao giờ trở lại!
Lúc đó gia đình Chuẩn Tướng còn ở trên lầu. Tôi mở hé cánh cổng để vừa đủ đi qua, mắt tôi nhìn thấy Đại Tá C. một trong những Phụ Tá của Tư Lệnh Phó đang đứng nơi công viên Hoà Bình nhìn về phía cổng ra vào. Khi thấy tôi đã nhận ra ông, Đại Tá lật đật rảo bước, may mà tôi chưa kịp gọi ông! Tôi vòng bên trái dinh, theo đường tắt rảo bộ đến nhà Thành. Tôi bổng mừng rở khi thấy Đại Tá Vinh đang hàn huyên cùng với 3-4 người tại trước cổng BTL/Đặc Nhiệm 4 của ông (Chức vụ cùng danh xưng có tính cách điều hành nội bộ của BTL/QuĐ IV do Tư Lệnh đề ra, phần lớn nhằm giải quyết số sĩ quan cao cấp “ối động” tại BTL) Tôi thầm ngợi khen ông trông vẫn tỉnh táo và trẻ trung trong bộ áo quần thường dân. Trong buổi sáng hôm nay, không hẹn mà tất cả chúng tôi đều mặc thường phục, hoà nhập vào lớp thường dân. Gặp được Đại Tá, tôi đặt thẳng vấn đề Chuẩn Tướng đã chết và bà Tướng muốn chôn ông đúng theo lễ nghi quân cách, xin Đại Tá với tư cách một sĩ quan cao cấp, đến gặp họ (CS) để nói giúp. Tôi tưởng đã giải quyết được một gánh nặng to lớn khi Đại Tá Vinh đoan quyết đó là trách nhiệm của ông trong lúc nầy.
Đến nhà cha mẹ vợ Trung Uý Thành, tôi thật sự cảm động khi thấy mọi người trong gia đình đều ùa ra đón tôi. Tất cả đã biết tin Chuẩn Tướng tuẫn tiết, nên rất lo cho số phận của tôi. Tôi kể sơ cho mọi người biết Chuẩn Tướng chết như thế nào, trước đó ông dặn dò điều gì, và tôi đang rất cần được giúp đỡ đễ thực hiện lời uỷ thác của người chết. May mắn là nhà Thành có khoảng sân khá rộng, tôi xin được gởi chiếc Falcon và chiếc jeep sơn màu xanh với số ẩn tế dân sự. Chuyện gia đình Thành chấp nhận giữ 2 chiếc xe giúp tôi giữa lúc đen tối nầy là một hành động can đảm, như chấp nhận một bản án, nếu có người tố giác (mà lúc đó thiếu gì bọn ba-mươi-tháng-tư) Tôi biết như vậy, nhưng trong cơn nguy cấp, tôi không có cách nào hơn, đành phải nhờ Thành. Rất may là những ngày sau đó, khi chúng tôi đã rời Cần Thơ, biết tin gia đình Thành vẫn yên ổn. Viết lại những dòng nầy, tôi luôn ghi nhớ tấm lòng của cả hai bên gia đình Trung Uý Thành đối với gia đình Chuẩn Tướng.
Tôi cùng Thành lên chiếc vespa của anh đi đặt mua chiếc quan tài, rồi trở lại Sở của anh. Do ý của Thành, tôi tìm gặp Trung Tá Bia, Phụ Tá Chánh Sở Hành Chánh & Tài Chánh số 5 để nhờ ông chỉ dẫn và giúp lo việc tẩn liệm Chuẩn Tướng. Ông đang thay Đại Tá Chánh Sở hiện vắng mặt, chờ đợi người của Cộng Sản đến để bàn giao. Trung Tá hứa là ông sẽ đến liền sau khi xong việc ở đây và căn dặn tôi chuẩn bị những thứ gì cho việc tẩn liệm. Tôi cùng Thành hướng xe về phía chợ. Khác với ngày 30-4, buổi sáng hôm nay, 1-5, Thị Xã Cần Thơ thật ồn ào, rộn rịp. Gần như mọi nhà đều có người đổ xô ra đường, có nhiều con lộ bị nghẹt cứng. Dân chúng đi bộ tràn ra cả lòng đường, chúng tôi phải xuống xe dẫn bộ, len lỏi tìm lối vượt qua. Tôi chợt nhìn thấy Trung Uý Việt, Tuỳ Viên Tư Lệnh đang đứng trong sân nhà của Trung Uý Minh, sĩ quan Quân Sử BTL, tôi lật đật kéo Thành tấp vào. Gặp Việt, tôi hỏi ngay tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Buổi sáng, trước khi rời dinh, một hạ sĩ quan văn phòng đã đến trao cho tôi tờ giấy ghi tên họ của tôi đã “đăng ký trình diện” và cho tôi biết tin Thiếu Tướng Nam cũng đã tự sát. Tôi hỏi lại và được Trung Uý Việt xác nhận điều đó. Anh còn cho biết thêm, xe cứu cấp Quân Y Viện Phan Thanh Giản do anh và Trung Uý Danh gọi đã đến và mang Tư Lệnh về Quân Y Viện trong tình trạng hấp hối. Việt kể, lúc đó khoảng 5 giờ sáng, Thiếu Tướng đang ở dưới hầm, ông bảo 2 tuỳ viên lên nhà, rồi dùng colt tự sát khi ông còn lại một mình. Tôi không tiện hỏi han thêm, vì còn quá nhiều việc để làm.
Xe chúng tôi chạy ngang qua nhà Thiếu Tá Qu., Trưởng Phòng 1/SĐ 21, tôi nhìn thấy Thiếu Tá ngồi sau một cái bàn đặt ở ngoài sân, đang hí hoáy ghi. Một số người đứng vây quanh bàn ông. Tôi vỗ vai Thành bảo chạy chậm lại để kịp đọc được dòng chữ ghi trên tấm bảng đặt sát bàn viết “Nơi đăng ký trình diện nguỵ quân” Tôi ngờ ngợ nghĩ “Như vậy, Th/T Qu. Là người do CS cài đặt vào Quân Đoàn ư? Hay ông nhạy cảm, muốn lập thành tích để được là người cách mạng ba-mươi-tháng-tư?”
Ra đến khu chợ, tôi ghi nhận một điều là hầu hết các tiệm ăn đều chật cứng thực khách. Lúc đó tôi bổng thấy đói và nhớ ra từ đêm qua tôi chưa có thứ gì vào bụng. Tôi cùng Thành tìm chỗ ngồi để ăn sáng. Tiếng cười nói trao đổi giữa thực khách vang lên ỏm tỏi. Có 2 người khách ngồi cùng bàn với chúng tôi, nói với nhau:
- Ăn cho đã! Ngày mai biết còn xài tiền được nữa không?!...
Tôi để Thành ngồi tại quán, một mình đi sâu vào chợ. Mắt tôi choáng ngộp với toàn màu đỏ: Cờ Cộng Sản cùng những cây vải đỏ bày bán khắp nơi. Dân chúng nơi đây quả đã sớm hội nhập với hoàn cảnh mới! Tôi mua các thứ trà, nhang, đèn cầy, vải liệm... rồi trở ra cùng Thành phóng nhanh về dinh.
Quan tài đã được đem đến và được đặt trên 2 giá gỗ chính giữa nhà. Tôi hơi phập phồng khi thấy có 2 cán binh Cộng Sản miền Nam đang trên vọng gác. Họ không đả động gì tới bên trong dinh. Hình như họ được lệnh chỉ ở đó mà thôi? Có lẽ thấy yên tâm phần nào, bà tướng nói với tôi và Thiếu Tá Phương, ý bà dự định quàng lại 3 ngày. Tôi thấy cổ áo quan cũng “khiêm tốn”, nên bàn với Thành đến Quân Y Viện Phan Thanh Giản tìm xin bộ ny-lông. Tôi muốn nhân dịp nầy để biết đích xác tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Xe chúng tôi tới cổng Quân Y Viện, lác đác còn vài thương binh đang khập khễnh cùng thân nhân hối hả ra cổng. Khi vào sâu bên trong, tôi nhận ra nơi đây im lìm, trống vắng. Y-sĩ, nhân viên lẫn thương bệnh binh... đều đã rời viện tự bao giờ rồi. Một ít thương binh tôi còn gặp có lẽ vì thân nhân ở xa mới vừa đến để đón họ. Duy nhứt chỉ một người đàn ông trạc tuổi tôi còn đứng trong sân cạnh chiếc xe gắn máy của anh. Tôi thầm mong gặp được nhân vật có vai trò đúng như Trung Tá Bia. Tôi liền đến gần và đánh bạo bộc bạch cùng anh việc tôi đến đây. Rất may, tôi gặp đúng người. Anh trao cho tôi bộ ny-lông giấu nơi yên xe kèm theo lời nói:
- Thật may quá, chỉ còn một bộ duy nhứt. Từ sáng tới giờ phát hết rồi!
Tôi hỏi thêm:
- Thiếu Tướng Nam nằm ở đâu?
Anh chỉ Phòng Lựa Thương cách đó chừng 30m và dặn dò tôi coi chừng, đã có chúng nó. Tôi cẩn thận nhìn quanh một lượt. Khi thấy chỉ có 3 chúng tôi, tôi cảm ơn anh, rồi bảo Thành chạy xe đến đậu sát bậc thềm căn phòng, rồi ngồi trên xe chờ tôi. Tôi vừa bước vào cửa phòng là thấy ngay một thi thể được phủ kín bằng tấm drap trắng, chỉ ló ra ngoài 2 chân vẫn còn mang đôi giày da quân đội. Thi hài nằm trên chiếc băng-ca đặt trên 2 giá sắt cao gần 1m. Một chiếc bàn nhỏ đặt trước đầu băng-ca, trên có một lon nhôm đựng cát dùng thay bát hương, một hộp quẹt diêm và một thẻ nhang nhỏ đã bốc ra. Trong Phòng Lựa Thương vắng ngắt. Tôi đoán chắc đây là thi thể của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Tôi bùi ngùi mục kích nỗi cô độc của ông. Tôi bước tới đưa tay kéo nhẹ tấm phủ trên đầu để được nhìn thấy gương mặt Thiếu Tướng hiền từ như người đang ngủ. Một vết đạn khoét từ thái dương trái trổ một đường kính cỡ trái chanh nơi thái dương phải, vệt máu đã thẩm đen chạy dài từ đó xuống gò má, đến cổ và động lại trên bâu áo phải làm lem lấm 2 ngôi sao thêu màu đen. Bộ quân phục chiến đâu vẫn trên người Thiếu Tướng đến giây phút cuối cùng. Tôi đốt một nén hương cặm vào lon cát đã có 3 chân nhang của ai đó đã đến đây trước tôi. Tôi kéo tấm vải phủ lại như cũ, rồi lặng lẽ rời Quân Y Viện, với nỗi lòng thật nặng nề, mệt mõi như người bệnh. Giờ phút cấp bách nầy, tôi không thể làm gì hơn được cho vị Tướng Tư Lệnh kính quý!
Nhưng tôi hy vọng quý vị quân y sĩ của Quân Y Viện sẽ không bỏ mặc Thiếu Tướng. Tôi trở về dinh để chờ đón Trung Tá Bia. 20 phút sau Trung Tá đến.
Sau lớp vải liệm là đến chiếc túi ny-lông ôm chặt thi thể Chuẩn Tướng. Chúng tôi đưa thi hài xuống nhà dưới. Trung Tá Bia bảo tôi nâng phần đầu. Lễ tẩn liệm đơn sơ, nhanh chóng do Trung Tá Bia chỉ dẫn thực hiện. Tôi đứng ở đầu quan tài lặng nhìn Trung Tá Bia điều khiển mấy người lính trong dinh làm động tác cuối, từ từ đậy nắp áo quan. Bổng có tiếng la lớn uất nghẹn:
- Trời ơi!... Ông “thầy” ơi!
Rồi bóng một người lao đến bên quan tài, anh xúc động gần như quỵ xuống. Tôi nhận ra đó là Thiếu Tá Lành, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 3/33. Tiểu đoàn của anh sáng nay cũng đã tuân lệnh giải giáp, giao vũ khí, cởi bỏ quân phục tại chỗ, rồi từ trong vùng hành quân lội bộ ra lộ, mạnh ai nấy tự tìm phương tiện về nhà. Thiếu Tá Lành được tin cái chết của Tướng Hưng nên tìm đến tư dinh. Anh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân, sau khi rời quân trường, về Tiểu Đoàn 2/31 cuối năm 1968. Do đã từng phục vụ dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Văn Hưng, thuở đó là Trung Đoàn Trưởng 31, nên anh vẫn nhớ và kính quý vị “thầy” của mình...
Đúng lúc đó Trung Uý Phúc xuất hiện. Anh cùng vợ con đáp xe đò từ Sài Gòn xuống tới. Mọi việc xong xuôi, Trung Tá Bia từ giã chúng tôi để về nhà gặp gia đình. Từ hôm qua, 30-4, tên ông vẫn còn nằm trong sổ cấm quân ban hành từ hơn 1 tuần nay của BTL/QuĐ. Một người lính vào nói nhỏ cho tôi biết một nguồn tin rất bất lợi cho chúng tôi. Do vậy, tôi, Phúc và Thiếu Tá Phương thuyết phục bà Tướng nên an táng ngay cho ông và rời dinh càng sớm càng tốt. Chúng tôi phân chia công việc cho nhau: Phúc cùng vài nhân viên đến khu đất nhà ở Cái Răng lo đào huyệt. Phần tôi lo xe tang. Thành đưa tôi đến Hội Mai Táng Từ Thiện của Hiệp Hội Xe Đò Cần Thơ. Rất may cho chúng tôi là người đại diện cho Hiệp Hội chấp thuận, dù biết đó là đám tang của một vị Tướng. Ông cho biết là phải lo cho đám tang khác lúc 15 giờ. Vậy chúng tôi cần phải chuẩn bị sẵn sàng, lúc xe tang đến là phải di chuyển liền.
Từ lúc đó cho đến khi xe tang xuất hiện, chúng tôi thu xếp mọi thứ đem theo để khi rời dinh sẽ không trở lại nữa. Riêng phần gia đình Chuẩn Tướng, buổi sáng sớm sau khi gặp Thành tôi đã trở về hướng dẫn xe Falcon và xe jeep dân sự đến gởi bên nhà Thành rồi, với số hành lý chứa trong cóp sau xe.
Giờ phút trôi qua chậm chạp với nỗi lo lắng chờ đợi của tôi. Từ 16 giờ tôi bắt đầu sốt ruột, bứt rứt không yên. Mảng nắng chiều vàng vọt còn cố níu lại trên đỉnh tàn sao cao ngất. Đúng lúc tôi đang bối rối với chút mong manh hy vọng, bổng có tiếng ồn ào, rồi cánh cửa cổng mở toang. Chiếc xe tang đen ngòm đưa phần đuôi trườn vào sân. Các nhân viên trên xe nhanh nhẩu nhảy xuống chạy vào nhà. Đã chuẩn bị sẵn, chúng tôi cùng họ đưa quan tài lên xe. 5 phút sau tất cả chúng tôi bắt đầu rời dinh. Anh Phương, Phúc và tôi cùng gia đình bà Tướng ngồi trên xe tang. Thành và những nhân viên khác dùng phương tiện riêng chạy theo sau xe tang. Lúc xe rời cổng lớn một đoạn, tôi nhìn lại thấy có nhiều người chạy ùa vào dinh. Vĩnh biệt tất cả, vĩnh biệt cả con chó berger chúng tôi đau lòng phải bỏ nó lại!... Xe quẹo ra đại lộ Hoà Bình để hướng về Cái Răng.
Tại huyệt mộ, một cậu bé trạc độ 14 tuổi, nhưng đôi tay thật thông thạo, nhịp nhàng với miệng hô khẩu lệnh điều khiển lên xuống đòn tay, rút dây khéo léo, đưa êm thắm quan tài đến đáy huyệt. Họ nhanh chóng phụ giúp chúng tôi lấp đất và đấp vung lên thành hình ngôi mộ. Chúng tôi ngậm ngùi chào từ biệt chuẩn tướng, để lại mình ông đơn độc như cố Thiếu Tướng Nam mà tôi đã gặp vào buổi sáng.
Chúng tôi về đến Cần Thơ thì trời đã tối. Bà tướng và gia đình cùng Thiếu Tá Phương, Trung Uý Phúc đến nương náu tại một ngôi chùa. Sau nầy chính các vị sư ở đây đã giúp xây mộ cho Chuẩn Tướng. Tôi về nhà Thành để trông coi 2 chiếc xe. Chúng tôi hẹn gặp nhau lúc 8 giờ sáng ngày mai, 2-5, để về Sài Gòn. Tôi khẩn khoản yêu cầu Thượng Sĩ nhất Triệu, tài xế xe Falcon, cố gắng giúp đưa gia đình bà Tướng về đến Sài Gòn, một lần nầy nữa thôi. Buổi tối, tôi mở tất cả va-li trong cóp xe ra kiểm soát lại, đem thiêu huỷ tất cả hình ảnh binh bị của Chuẩn Tướng. Ban chiều tôi đã trình bày cùng bà Tướng là không nên giữ lại những gì sẽ có hại cho gia đình bà, trên đường về không biết bất trắc ra sao. Hơn 10 giờ đêm, tôi vào giường thao thức không ngủ được. Tôi lo nghĩ đến chuyện di chuyển ngày mai. Nếu vì bất cứ lý do gì, người tài xế vắng mặt, thì tôi phải đảm trách phần việc khó khăn nầy của anh. Tôi chỉ từng lái xe jeep mà chưa từng lái chiếc xe tương đối cồng kềnh nầy, khó khăn nhứt là lúc lên xuống phà. Chiếc jeep giao cho Thiếu Tá Phương, Trung Uý Phúc và gia đình.
Buổi sáng 2-5, tôi vô cùng mừng rỡ và cảm động khi thấy Thượng Sĩ Triệu xuất hiện. Không chỉ riêng chúng tôi mà người hạ sĩ quan già nầy, trong thời gian chờ giấy xuất ngũ, vẫn tận tuỵ với chuẩn tướng đến giờ phút hiểm nguy nhất. Đêm qua, khi về đến nhà Thành, Trung Sĩ Sao, cận vệ của chuẩn tướng mới bịn rịn từ giả tôi ra bến xe để về với gia đình chắc chắn đang rất trông chờ anh.
Không biết có còn dịp gặp lại nhau nữa không, tôi nghẹn ngào chia tay người bạn tâm đầu ý hợp và gia đình Trung Úy Thành rồi lên xe đến điểm hẹn. Xe tôi đi đầu, xe Phúc theo sau, bắt đầu xuống phà Cần Thơ trực chỉ Sài Gòn. Chúng tôi cùng chung tâm trạng mong nhanh chóng rời khỏi nơi đây. Qua bên kia bờ, mới đi được vài cây số, xe tôi gặp một toán cộng quân miền Nam đứng rải trên đường chận lại xét hỏi. Nhờ vậy xe Phúc thoát qua lọt. Một nữ cán binh, có vẻ là Trưởng Toán, cổ quàng khăn rằn, biểu tượng cán binh miền Nam, vai mang chiếc radio nhỏ đang phát vang rền một bài ca vọng cổ. Cô ta tiến đến bảo tôi mở cửa xe. Thấy chiếc va-li, họ lôi xuống bảo mở ra xem. Trong đó chỉ toàn là quần áo. Tôi mừng thầm là họ không khám phá ra chỗ cóp xe. Đến lượt cái bóp tay của bà tướng, trong đó có một xấp tiền độ một trăm ngàn. Tôi choáng váng khi thấy cô ta lôi ra một xấp hình. Cô ta chú mục từng tấm một. Toàn là hình ảnh của Chuẩn Tướng mặc quân phục tại chiến trường. Có tấm chụp chung với cố vấn Hoa Kỳ nữa. Không kịp trấn tĩnh, tôi trả lời họ đây là vị tướng đã chết rồi. Thế là họ ra lệnh bắt giữ bà tướng và tôi với những tang vật đó. Trong lúc rộn ràng, tôi lấy cớ đến đóng cửa xe, rồi ra dấu bảo tài xế rồ máy chạy đi, mặc bà tướng và tôi tự lo liệu sau. Tôi hy vọng, khi không thấy xe tôi, Phúc sẽ dừng xe lại chờ.
Chúng tôi bị đưa về Bộ Chỉ Huy quận Bình Minh hiện do Cộng quân chiếm giữ. Cùng chung số phận bị bắt còn có đôi nam nữ tuổi trạc 20-25 với lý do khá ngộ nghĩnh: Họ mang theo người số tiền gần 40 ngàn mà không có... “đăng ký”! Tại Bộ Chỉ Huy quận, nữ cán binh áp giải chúng tôi đứng ra “tố giác tội trạng” chúng tôi trước hơn chục dân chúng hiếu kỳ, tính tình vốn chất phác của người miền Nam, họ chưa quen hình thức “đấu tố” nầy, nên chỉ trố mắt đứng nghe. Thao thao đã mồm rồi cô ta giao cả 4 chúng tôi cho một ông già, nói là cô cần đi dùng cơm trưa. Trong phòng bây giờ chỉ còn lại một nhân viên nầy. Tôi thầm khấn nguyện vong linh chuẩn tướng độ trì cho chúng tôi sớm rời được nơi đây. Một lát sau, bỗng dưng ông già trông giữ chúng tôi đem giao trả mọi thứ và cho chúng tôi đi. Có lẽ ông ta không phải là Cộng Sản chính cống. Chúng tôi lập tức lên xe thồ ra quốc lộ đón xe đò hướng về Vĩnh Long. Ngồi yên trên xe đò rồi, tôi lần dò kiểm lại các thứ: Mặc dù số tiền vơi đi, nhưng tôi vẫn hoàn lại đôi nam nữ số tiền họ bị mất trắng. Trước đó tôi đã thầm ước nguyện có mất tiền cũng được miễn sao được tự do thì thôi.
Trên chuyến xe đò ọp ẹp, chật ních người, nhưng ai nấy đều biểu lộ nỗi rạng rỡ, sung sướng. Họ cùng nhau phát biểu ca tụng cảnh hoà bình hôm nay, tha hồ đi suốt từ Nam chí Bắc... Thậm chí có người còn không tiếc lời chê bai, nguyền rủa đội quân trước đây đã từng bảo vệ họ. Tôi lơ đãng nhìn qua cửa hông xe, ngắm cảnh đồng ruộng bên ngoài, nhưng những âm điệu trong xe vẫn nhức nhối lọt vào tai. Cảnh vật vút qua như dòng đời trôi chảy. Tôi nghĩ ngợi mông lung đến một ngày không xa, năm mười năm nữa, có còn chăng cái vẻ “hồ hỡi phấn khởi” hôm nay? Sống và chờ xem!
Chúng tôi về tới Phú Lâm gặp Phúc đang đứng chờ. Xe Phúc đã đợi gặp xe Falcon và cùng nhau về đến Sài Gòn an toàn. Tuy vậy, chiếc xe jeep cũng bị giữ lại và bị “xung vào tài sản của nhân dân” khi gần đến Mỹ Tho.
Rốt cuộc chúng tôi cũng đến được Sài Gòn đông đủ. Ngày hôm sau đến lượt chiếc Falcon cũng rời chúng tôi, lại bị “xung vào tài sản nhân dân”!? . Người tài xế nhắn lời từ giã để trở lại Cần Thơ trong lúc tôi vắng nhà.
Khi bà Tướng cùng gia đình tạm có chỗ ở cũng là đúng lúc tôi phải vào “trại cải tạo”
Buổi trưa ngày 26-6-75, thời hạn chót, tôi cùng em trai là Trung Uý HquTr, P2/TKh Kiên Giang thu xếp hành trang gọn nhẹ lên đường, chúng tôi rủ thêm vài “sĩ quan nguỵ” cùng xóm, bước vào cuộc đời mới, vào cuộc sống khổ sai trung cổ ẩn dưới cái tên phỉnh phờ “học tập cải tạo”.
Tại trại tập trung, một cán binh mang khẩu AK, mặt còn non choẹt, đứng ngáng tại cổng ra vào, ra lệnh cho mọi người bày biện hành trang ra khám xét. Chúng tôi ngồi xổm trên nền xi-măng với mớ vật dụng trước đôi mắt cú vọ của tên cán binh “con nít còn hôi sữa”. Cảnh tượng đó khiến tôi chua chát nhớ lại lời nói của chuẩn tướng đêm 30-4, âm hưởng giờ đây vọng lại hồn tôi rõ ràng từng lời, nhức nhối như từng vết dao đâm: “Nghĩa, tùy mầy! Tao đã quyết định đời của tao. Tướng, tá, hay úy không là gì cả. Cái quan trọng là sống nhục được hay không?!”
Chúng tôi dành riêng đoạn kết nầy, kính xin phép phu nhân Cố Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng được thay mặt bà để chân thành tri ân gởi đến Hội Đoàn, Quí Tôn Giáo, cùng cá nhân bạn bè kê dưới đây, đã không ngần ngại trước hiểm nguy, tận tình giúp đỡ chúng tôi hoàn tất việc mai táng thi hài chuẩn tướng:
. Quý Đại Sư ngôi chùa ở Thị Xã Cần Thơ, . Hội Mai Táng Từ Thiện của Hiệp Hội Xe Đò Cần Thơ, . Gia đình 2 bên của Trung Úy Nguyễn Vĩnh Thành, . Quý vị tiễn đưa, . Sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ đã tận tuỵ vì chuẩn tướng. 28 - 4 - 1999.
------------ ------
(*) Trong bản viết tay, ông Nghĩa dùng dấu 1 sao (*) để thay chữ Tướng (Tướng 1 sao), tức Chuẩn Tướng. Tướng Hưng lúc bấy giờ ở cấp Chuẩn Tướng
Ghi chú của người đăng:
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay.
Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
Tháng 4-99, tôi đọc được bài viết của bà Lê Văn Hưng (Phạm Thị Kim Hoàng) có nhắc đến vị sĩ quan tên Nghĩa ở kề cận với Tướng Hưng đến giây phút chót, chắc đó là ông Nghĩa đã viết đoạn hồi ký mà tôi may mắn có được.
Gần cuối năm 1999, tôi đọc truyện dài Nửa Sơn Hà của nữ văn sĩ Kathy Trần có đoạn viết về Tướng Nam, Tướng Hưng, tác giả chú thích là lấy tài liệu từ Phạm Trung Nghĩa. Nghĩa nầy chắc là Nghĩa khác.
Tôi không truy tìm được tông tích tác giả của xấp tài liệu nầy để ngỏ ý xin phép được phổ biến. Tôi nghĩ đây là tài liệu quý hiếm để người viết sử đối chiếu với các tài liệu khác, nên tôi tự ý cho phổ biến trước và sẽ xin phép sau, khi nào biết được tác giả. Mong ông Nghĩa hoặc người em của ông Nghĩa có đọc được thì hãy liên lạc với tôi (qua nhà báo).
Hồi ký hay ký ức là những bài viết kể lại sự kiện đã qua theo trí nhớ, theo chủ quan của người viết. Do vậy, nhiều người cùng chứng kiến chung một sự kiện mà khi kể lại, từng câu chuyện của từng người đem đối chiếu thấy không giống nhau 100%. Người viết sử muốn được trung thực thường hay tìm đọc những tài liệu từ các hồi ký, nhứt là hồi ký của những người viết không nhằm mục đích riêng tư nào, để chọn lựa lấy những chi tiết đáng tin cậy, thuyết phục được người đọc mà dựng lại lịch sử. Đọc đoạn hồi ký ngắn của ông Nghĩa, tôi nghĩ đây là người viết hồi ký không có dụng tâm gì cả, đáng tin cậy là trung thực trong tầm nhìn, trong giới hạn hiểu biết của ông, cạnh vị Tướng anh hùng của Quân Lực VNCH, người đã quyết định can đảm vào phút chót cuộc đời quân nhân của mình “Tướng chết theo thành”.
Trân trọng giới thiệu cùng độc giả đoạn hồi ký đặc biệt nầy. San Jose, tháng 3-2000 Nguyễn Phước Đáng
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2010 3:54:42 GMT 9
Tại sao phố cổ Hà Nội bị từ chối công nhận là di sản văn hóa thế giới ?Bài phỏng vấn bà Irina Bokova đăng trên blog “http://banmaixanhblog.tk” dù là thực hay giả tưởng cũng phản ảnh rất đúng thực trạng chỉnh trang Thủ đô Hà Nội để chuẩn bị lễ hội Nghìn năm Thăng Long mà chúng ta đang gấp rút tiến hành lâu nay, tiêu tốn hàng chục tỷ đồng tiền thuế của dân. Nó làm tôi lo ngại và liên tưởng đến kỷ niệm cười ra nước mắt sau đây! Hồi tôi còn sống ở Paris vào thập niên 1975-80, ăn mặc xập xệ một cách bình thường theo lề thói tự do sinh hoạt của cộng đồng giới Đại học. Có một nữ trí thức Hà Nội khá xinh sang làm thực tập. Tháng đầu mỗi khi phải đi ăn restaurant trong campus cùng với bà ta, nhiều khi tôi ngượng chín người vì nhiều đồng nghiệp nhìn theo “mốt đầm à la HN“. Bà ta lại càng “se faire remarquer” (tự làm cho người ta chú ý) tợn và nói với tôi: - Em phải bỏ nhiều tiền tìm những tiệm “mode thời thượng ở HN” để may đấy ! Một tháng sau tôi thấy trên thân thể bà ta biến mất những “mode thời thượng” và ngạc nghiên. Bà ta cười xòa trả lời: - Bây giờ em đã biết “mình chả giống ai !”. - Chị tiến bộ cực nhanh! “Ta có cách làm của ta”, câu nói đó của một vị lãnh đạo đâu từ nhiều thập niên trước vốn là cách nghĩ tiểu nông của kẻ vừa thắng Mỹ nên đâm ra hoang tưởng, nhưng không hề tư vị, nay thì hình như đã được thế hệ lãnh đạo mới tiếp nhận theo một quan điểm thực dụng khác hẳn. Tuân theo sự “chỉ đạo” của túi tiền mà họ có thể vay được và thu lãi được, mặc cho bộ mặt Hà Nội cổ truyền cần gìn giữ ra sao, họ có thể đập phá đi tất cả, nhào nặn lại tất cả, để có một Hà Nội theo con mắt “thời trang” của họ. Đúng là “Mốt đầm à la HN” đấy. GSTS Nguyễn Thu 15h paris tức khoảng 22h Hà Nội ngày 12-4-2010, tại Paris, Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên hiệp quốc (Unesco) đã chính thức từ chối công nhận Phố cổ Hà Nội là di sản văn hóa thế giới. Trong thông cáo chính thức, Tổng Giám đốc UNESCO, bà Irina Bokova cho biết: “Unesco đã có những điều tra độc lập và không tìm thấy bất cứ bằng chứng nào chứng tỏ Hà Nội có những di sản như hồ sơ mà họ đã đệ trình”. Quyết định của Unesco đã giáng mạnh vào tham vọng của Hà Nội khi thành phố này chuẩn bị mừng đại lễ 1000 năm tuổi với sự tham gia của chính Unesco: Chỉ riêng trong năm 2009, Unesco đã công nhận không gian văn hóa Quan họ Bắc Ninh và Ca trù là di sản văn hóa phi vật thể. Unesco cũng đã đồng ý tham gia đại lễ hội nhân sự kiện 1000 năm Thăng Long, tuy nhiên, những cuộc điều tra và khảo sát và độc lập của Unesco cho thấy riêng đối với Khu phố cổ Hà Nội, không có bất cứ bằng chứng gì chứng tỏ khu phố này đã từng tồn tại hàng trăm năm nay. Bà Bokova trả lời phỏng vấn PV TTXVH tại Paris. Bà Irina Bokova PV: Nhưng thưa bà, những khu phố cổ của Hà Nội hiện vẫn đang tồn tại?! Bà Bokova: Với tư cách đứng đầu cơ quan Unesco, chính tôi đã trực tiếp tới Hà Nội. Hà Nội chỉ còn lại những nhà vệ sinh thật cổ, và cũng “thật khổ”. Kiến trúc những ngôi nhà tại các tuyến phố Hàng Than, Hàng Lược, Hàng Giấy, Hàng Đậu…có vẻ là kiến trúc hộp diêm, nhưng thực chất nó đã được làm mới. Không có một công trình cổ nào lại có màu hồng hoặc màu xanh. PV: Thưa bà, nhân dịp đại lễ 1000 năm, Hà Nội đang tu bổ lại các di tích cổ để chúng sạch sẽ và đẹp hơn mà thôi Bà Bokova: Tôi hiểu những điều các bạn đang làm, nhưng điều đó thực chất lại đang giết chết yếu tố thời gian của di tích. Trên thế giới hiện có 2 cách bảo tồn: Thứ nhất, người ta giữ nguyên trạng di tích, cố gắng tạo cho chúng một môi trường tốt nhất chứ không động chạm tới di tích. Thứ hai, là cách mà các bạn đang làm, tu bổ, thay thế gần như là một sự làm mới. Thật khó có thể chấp nhận một ngôi chùa với toàn gạch men được giới thiệu đã 400-500 năm tuổi, một ngôi nhà trăm tuổi có màu vàng nhạt và mới kính coong; Hoặc một tháp nước có màu xanh da trời. PV: Nhưng không trùng tu thì di tích sẽ biến thành phế tích, không sơn sửa lại thì di tích trông sẽ rất bẩn thỉu. Bà Bokova: Nhưng nếu các bạn, gọi theo cách của người Việt là “vôi ve” khu phố cổ, thì sẽ phải đóng hộp quần tây-cà vạt cho vua Lý Thái Tổ? PV: Thế còn Tháp Rùa, thưa bà, nom nó vẫn cổ kính đấy chứ? Tháp Nước Hàng Đậu trước và sau khi cải tạo Bà Bokova: Vâng. Đã có nhiều ý kiến nói Tháp Rùa thực chất chỉ là một ngôi mộ. Unesco coi trọng tất cả các di tích cổ, chứ không phân biệt tính chất của di tích. Ngay tại quê hương Bulgari của tôi 2 di tích được Unesco công nhận là di sản văn hóa thế giới đều là các công trình lăng mộ. Quần thể các công trình tôn giáo được đục trong đá tại làng Ivanovo và Mộ người Thrace ở Kazanlak. Riêng đối với Mộ người Thrace, tôi có thể tự hào nói rằng trong đó vẫn còn giữ được những bức tranh cổ được coi là những tuyệt tác nghệ thuật của Bulgari từ thời Hy Lạp cổ và được bảo quản tốt đến ngày nay. Chúng tôi hoàn toàn không hề vôi ve hay trùng tu kiểu làm mới như các bạn mà vẫn có thể giữ gìn được. Xin lưu ý đây là ngôi mộ được xây từ thế kỷ thứ 4 trước công nguyên. Còn Tháp Rùa của các bạn đã được “vôi ve” từ cách đây 20 năm, cùng đợt với một ngôi chùa khác là Trấn Quốc. PV: Xin nhắc lại câu hỏi, thưa bà, Tháp Rùa vẫn giữ được vẻ cổ kính đấy thôi? Bà Bokova: Tôi đã đến chiêm ngưỡng Tháp Rùa và trực tiếp sờ tay vào những bức tường. Tôi xin nói thật, có vẻ nó đã được sơn bằng loại sơn không đạt chất lượng nên chỉ 20 năm nó đã có vẻ… cổ kính. Nhiều người trong Ủy ban điều tra độc lập cho rằng Tháp Rùa chỉ có tuổi thọ là 20 và vẻ cổ kính là ngẫu nhiên khi chất lượng vôi ve thấp và được làm cẩu thả một cách tình cờ. Khi đến Hà Nội, tôi được Ủy ban Unesco Việt Nam giới thiệu những tấm ảnh Tháp Rùa được các viên chức người Pháp chụp hồi đầu thế kỷ nhưng chúng tôi không tìm thấy sự liên quan giữa ngôi tháp trong ảnh và ngôi tháp mới hiện đang tồn tại. Hơn nữa, về mặt giá trị kiến trúc, trong sách Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội, từ năm 1971, tác giả Hoàng Đạo Thúy cũng đã đánh giá: “Bang Kim biếu Tây cái Tháp Rùa. Cái tháp này nhìn mãi cũng quen mắt, nhưng dưới thì cửa lối gô-tích, trên thì nóc vụn vặt, kiến trúc không ra lối gì”. Còn chùa Trấn Quốc. Nói thật tôi thấy cách thức trùng tu kiểu xây mới và việc bố trí những bộ bàn ghế gỗ trong hiên nom ngôi chùa này giống với một quán cà phê hơn. PV: Thưa bà, không lẽ phố cổ không còn chút ấn tượng nào đối với bà? Không lẽ hơn 50 tỷ đồng bỏ ra để làm mới di tích cho du khách lại khiến những người nước ngoài không thích? Bà Bokova: Câu trả lời thứ hai có thể nói được ngay: Không ai thích ở những ngôi nhà mới sáng choang và toàn mùi sơn nhưng lại rúm ró chật hẹp như thế cả. Người ta sẽ chỉ ấn tượng khi chiêm ngưỡng và hít thở sự cổ kính của di tích. Còn ấn tượng của tôi thì lại nằm ở sự ngạc nhiên với cách sống, thích nghi và đầy sáng tạo của cư dân phố cổ. Thật thích thú khi đi trên phố Hàng Bạc chúng tôi bất ngờ bắt gặp một nhà vệ sinh trên ban công tầng hai. Nếu các bạn gìn giữ được những di tích này, hy vọng trong tương lai, Unesco sẽ xem xét lại việc công nhận cho Hà Nội. Xin trân trọng cảm ơn bà! Nguồn: banmaixanhblog.tk/ aTháp nước cổ nhất Hà Nội được 'tân trang' Mấy ngày nay, nhiều người dân Hà Nội ngỡ ngàng khi thấy tháp nước cổ bằng đá nằm ở đầu phố Hàng Đậu (quận Hoàn Kiếm) được công nhân xây dựng đục phá để "tân trang" Tháp nước Hàng Đậu - công trình kiến trúc hơn 100 tuổi nằm tại ngã sáu của các phố cổ Hàng Than, Hàng Lược, Hàng Giấy, Hàng Đậu, Quán Thánh và đường Phan Đình Phùng. Sáng 10/4 tháp nước cao hơn 25 m, đường kính 19 m được quây kín bằng lưới. Công nhân đang đục phá những lớp vữa cũ, trát vá bằng vữa bê tông mới. Ngoài ra, tháp nước còn được lắp đặt trạm điện, hệ thống chiếu sáng. Vỉa hè quanh khu vực này cũng được lát gạch mới. Trong tấm pano giới thiệu dự án ghi rõ, tháp nước sẽ được phủ màu sơn xanh và trắng. Tháp nước Hàng Đậu được quây kín để sửa chữa. Ảnh: Hoàng Hà. Tháp nước cổ nhất Hà Nội được "tân trang" đã gây sự chú ý đặc biệt của người dân thủ đô, đặc biệt là khu vực phố cổ. Chị Thanh Hà, ở phố Hàng Than nhận xét, tháp nước Hàng Đậu ấn tượng bởi màu nâu trầm cũ kỹ, nếu sơn ve làm mới thì không còn dấu tích xưa. "Những lớp vữa mới đã xóa đi nét gồ ghề, cũ kỹ của công trình tồn tại hơn một thế kỷ. Nếu tu tạo như vậy không chỉ tốn kém mà còn phá hỏng di tích", chị Hà nhận xét. Theo ông Hoàng Nam Sơn, Phó ban chỉnh trang đô thị Hà Nội, dự án “Cải tạo, chỉnh trang khu vực Tháp nước Hàng Đậu" phục vụ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội có chi phí hơn 3 tỷ đồng. Đơn vị thi công sẽ phá bỏ các lớp vữa cũ và trát lại bằng vữa bê tông. Những lớp gạch hư hỏng cũng bị đục bỏ, vỉa hè được thay mới. Đề cập việc tháp nước được sơn màu trắng xanh hiện đại, ông Sơn cho rằng, do đơn vị thiết kế pano in sai màu nên đã gây hiểu lầm cho người dân. Lớp vữa mới xóa đi lớp áo cổ kính của tháp nước. Ảnh: Hoàng Hà. "Tháp nước Hàng Đậu đã qua 2 lần sửa chữa, song nhiều hạng mục của tháp đã bị hư hỏng nên cần được chỉnh trang. Chúng tôi tiếp tục sửa chữa bằng cách trát mộc để giữ màu gạch trước đây, hoàn toàn không sơn màu khác", ông Sơn nói. Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, năm 1894 người Pháp xây dựng 2 tháp nước ở Hàng Đậu và Đồn Thủy (cuối phố Đinh Công Tráng), để cung cấp nước cho khu Thành cổ - lúc này là nơi tập trung quan chức và binh lính người Âu cùng với khu dân cư “36 phố phường”. Đá tảng dùng để xây được lấy từ đá hộc dỡ của thành cổ. Khi Hà Nội phát triển áp dụng những công nghệ mới, 2 khối kiến trúc này không còn đảm nhiệm công năng ban đầu là tháp nước nữa. Đoàn Loan b- Hà Nội 'tân trang' phố cổ Vài ngày nay, các nhà cổ trên phố Hàng Khay, Hàng Đào, Bà Triệu.. được phủ lớp áo mới màu vàng, chuẩn bị cho đại lễ 1000 năm. VnExpress.net ghi lại những hình ảnh này. Là một trong số 75 tuyến phố được tân trang chào đón 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, mặt tiền các ngôi nhà ở đầu phố Hàng Đào rực một màu vàng trên tầng 2. Tương tự, tầng 2 các nhà trên phố Hàng Khay được lăn sơn màu vàng. Ngôi nhà hơn 100 năm tuổi (xây năm 1886) ở đầu phố Hàng Khay sau khi được tân trang. Từng tốp công nhân được bố trí gấp rút sơn sửa mặt tiền các ngôi nhà. Theo quyết định của UBND thành phố Hà Nội, số tiền bỏ ra để tân trang 75 tuyến phố của các quận nội, ngoại thành là khoảng 50 tỷ đồng. Trên phố Hàng Đào, nhà cổ được quét vôi ve còn nhà mới xây được lăn sơn. Cho rằng đây là chủ trương của thành phố, lại không phải bỏ tiền nên chủ số nhà 21 đồng ý cho tân trang mặt tiền. Tuy nhiên, không ít lần bà chủ chạy ra phàn nàn về việc màu sơn không đẹp như trước đây. Bên cạnh đó, không ít ý kiến cho rằng, phố cổ hấp dẫn du khách bởi có những ngôi nhà rêu phong cổ kính. Vì vậy, họ lo ngại việc khoác áo mới cho các ngôi nhà này có làm giảm đi sự hấp dẫn? Bên trên, các công nhân thi công, còn bên dưới việc kinh doanh, sinh hoạt vẫn diễn ra bình thường. Tuy nhiên, một số hộ dân cho rằng, việc tân trang được thực hiện khá ẩu khiến mặt tiền nhiều ngôi nhà bị lem nhem. Tháng 6 tới sẽ là hạn cuối của việc tân trang phố phường nhưng điều không ít người dân băn khoăn là, liệu với việc bỏ ra hàng chục tỷ đồng, Hà Nội có đẹp hơn trong dịp kỷ niệm tròn 1000 tuổi. Khánh Chi c-'Đừng làm mới đồng loạt nhà phố cổ' Nguyên Giám đốc Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội cho rằng, bảo tồn không phải là việc làm mới như hiện đại mà phải gìn giữ giá trị của di sản, theo đặc trưng của từng tuyến phố và loại hình công trình. Ngày 2/4, sau khi VnExpress.net thông tin việc Hà Nội đồng loạt tân trang 75 tuyến phố, trong đó nhiều tuyến phố cổ đang được sơn đồng màu, ông Đào Ngọc Nghiêm, nguyên Giám đốc Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội, tỏ ra khá ngạc nhiên bởi "chưa được nghe thông tin này dù vài ngày trước có dự hội thảo tại trung tâm thông tin phố cổ". Theo ông Nghiêm, tại cuộc hội thảo đó, nhiều ý kiến cho rằng, để tôn tạo thì trước mắt cần xác định giá trị của khu phố cổ cũng như thay đổi điều lệ quản lý, điều hành và bảo tồn phố cổ được ban hành từ năm 1999. Hơn nữa, bảo tồn càng không phải là việc làm mới như hiện đại mà phải gìn giữ giá trị của di sản theo đặc trưng của từng tuyến phố và loại hình công trình. "Nghĩa là phải có thiết kế cải tạo, chỉnh trang cho từng tuyến phố chứ không phải có quy định chung chung cho cả khu vực. Quản lý không phải chỉ về hình thức mà còn là cách thức khai thác và sử dụng giá trị của khu phố cổ", ông Nghiêm nhấn mạnh. Ảnh: Khánh Chi. Ông Đào Ngọc Nghiêm: "Đừng mới hóa di tích mà phải làm sao để nâng tầm giá trị của di tích đó". Ảnh: Khánh Chi. Nhắc lại chuyện quét vôi Tháp Rùa, chùa Trấn Quốc... khiến dư luận phản ứng, ông Nghiêm cho rằng những bài học này càng khẳng định thêm rằng đừng mới hóa di tích mà phải làm sao để nâng tầm giá trị của di tích đó. Cũng theo ông Nghiêm, phố cổ có 6 hình thái kiến trúc (phong kiến, thuộc địa kiểu Pháp, nghệ thuật trang trí...), mỗi hình thái này đều có sự khác nhau không chỉ về không gian, chi tiết mà cả là màu sắc nên không thể sơn đồng màu trong khu phố cổ được. Để gìn giữ chừng 1.000 công trình kiến trúc có giá trị trong khu phố cổ, ông Nghiêm dẫn giải: “Nhiều nước cũng đã thực hiện bằng cách hỗ trợ cho người dân tôn tạo nhà cổ theo hướng nhà nước đề xuất chứ không phải là người dân muốn làm gì thì làm, không phải là cứ sơn phết lên để đón chào sự kiện nào đó”. Ảnh: Khánh Chi. Nhiều nhà trong khu phố cổ đang xuống cấp từng ngày nhưng thành phố vẫn chưa có quy hoạch chính thức bảo tồn. Ảnh: Khánh Chi. Đồng tình với quan điểm này, PGS TS Nguyễn Văn Hùng, nguyên Hiệu trưởng ĐH Xây dựng ví von: "Người phụ nữ dùng son phấn mà đẹp hơn thì cũng tốt, nhưng nếu cứ trát vào mà không hợp thì sẽ mất tác dụng. Đối với khu phố cổ, cần phải quy hoạch đồng bộ, nhất quán để làm sao bảo tồn được khu vực này". Theo ông Hùng, phố cổ phải có màu của thời gian. Vì vậy, việc chọn màu nào để tạo sự hài hòa mới là điều quan trọng. Nguyên tắc của bảo tồn là để phát triển vốn cổ, làm tôn vẻ đẹp lên. Vì thế theo ông cần nghiên cứu lại lịch sử cũng như xem lại ảnh chụp cũ để đưa ra phương án tu bổ phù hợp. Trao đổi với VnExpress.net, bà Trần Thị Lan, Trưởng ban Tuyên truyền - Đối ngoại Ban Quản lý Phố cổ Hà Nội cho biết, Ban quản lý đang quét vôi, tháo bỏ những thứ mất mỹ quan trên tuyến phố Hàng Đào để tạo không gian thoáng đãng, đẹp mắt hơn. "Khi thực hiện chỉnh trang bằng ngân sách nhà nước, chúng tôi cũng hỏi ý kiến người dân thì đa phần đồng tình. Hơn nữa, làm đẹp bề ngoài chẳng ảnh hưởng gì đến các nhà", bà Lan nói thêm. Khu phố cổ Hà Nội rộng khoảng 100 ha với chừng 85.000 dân nằm trên địa bàn 10 phường của quận Hoàn Kiếm. Trong toàn bộ khu 36 phố phường, hiện có khoảng 1.000 nhà có giá trị bảo tồn. Tuy nhiên, do càng ngày mật độ dân số ở đây càng tăng khiến phố cổ xuống cấp nghiêm trọng. Để bảo tồn di sản khu phố cổ, năm 1995, Bộ Xây dựng đã đưa ra nguyên tắc bảo tồn và trùng tu khu phố cổ. Năm 2004, khu phố cổ đã được Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận là Di sản Lịch sử Quốc gia. Lộ trình xây dựng hồ sơ khu phố cổ Hà Nội để đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới đang được xây dựng. Tuy nhiên, những di tích trong khu 36 phố phường vẫn đang xuống cấp từng ngày trong khi thành phố vẫn chưa có quy hoạch chính thức bảo tồn khu vực này. Khánh Chi
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 7:34:38 GMT 9
ĐÒI ĐOẠN XA GẦN Lãng Nhân CÂU CHUYỆN GIỮA NGƯỜI DÂN MIỀN NAM SAU THÁNG TƯ 1975Không bao lâu sau tháng 4 năm 75, một buổi tối khoảng 10 giờ, B ghé thăm A. cửa ngoài đóng kín rồi, B nhìn quanh không thấy đàn bà con trẻ lảng vảng nữa, mới rút tập giấy đã kẹp chặt giữa thắt lưng và bụng, ngước đôi mắt u buồn nhìn A, nói với giọg nửa tức tối nửa nghẹn ngào: _ Thế này thì rối chúng ta đi đến đâu! _ Còn đi đến đâu nữa! Không phải chỉ riêng chúng ta, mà chính một số đồng bào ngoài Bắc cũng đã nói rồi. Xã hội chủ nghĩa là Xuống Hố Cả Nút. Nhưng ta cũng còn có ít nhiều may mắn hơn ngoài Bắc, là ở đây ta có đức Trần Hưng Đạo ... _ Đức thánh Trần thì ở đâu chẳng thờ cứ gì ở đây? Hay là anh muốn nói tờ giấy 500 chăng? Thì họ cũng tịch thu nhẵn rồi còn đâu? _ Tôi nói đức Thánh là nói bức tượng của ngài ở bờ sông Sài Gòn ấy chứ. Anh nhớ là từ cuối 75, nhân dân thấy như sắp hết gạo, nên có kẻ vui tính đã kể một chuyện khôi hài hòng dẹp mối lo âu ấy. Chuyện rằng dân kéo nhau đi hỏi ông Hồ xem gạo còn đủ ăn bao nhiêu tháng nữa, ông Hồ giơ thẳng tay len trời như kiểu chào của bọn phát xít, xòe 5 ngón ra. Dân hiểu là còn 5 tháng, nhưng không tin, lại đi khấn Phật Tổ. Phật đưa tay bắt quyết, ngón giữa gấp vào ngón cái, dân thấy là còn 3 ngón tức là 3 tháng, cũng lại chưa lấy gì làm chắc, bèn tìm đến Chúa Giê Su, thì Chúa buông 2 tay thõng xuống, ngửa mặt lên trông Trời. Thế là hết cả rồi sao? Thử đi cầu Đức Thánh xem, ngài vốn là rất giỏi trừ tà. Ra đến bờ sông thấy ngài chỉ tay xuống dòng nước. Nhảy xuống mà tự tử cả hay sao? Sông nào cuốn đi được cả triệu người mà không nghẽn? Nhưng mấy ông lamø tàu và mấy ông chở thuyền vội giải thích để trấn an: Đức Thánh vốn là bậc anh hùng, ngài có ý khuyên chúng ta nên đi xuống thuyền vượt biển để ra nước ngoài. _ Thế là cùng đường rồi. _ Cùng thì phải biến chứ, Thánh dạy mà! Chính sách ngu hóa và bần cùng hóa, ai mà chịu thấu. Một người Ba Lan đi tị nạn đã nói: khi quân Đức tới, chúng tôi đâu có phải bỏ nước mà đi. Nhưng cộng sản thì không sao chấp nhận được. Sống với họ là không được làm người, không được sống như con người. Cộng sản vừa là quỷ vừa là thú vật. _ Chúng mình già yếu rồi không mong thi thố gì được nữa nhưng mỗi khi nhìn đến đàn con tôi không cầm được nước mắt. Cụ Ngô Đức Kế ngày trước nói thế mà đúng: Thọ lắm lại càng thêm nhục lắm, nhỏ cu li lớn cũng cu li! _ Hẳn là không khi nào. Lũ nhỏ nhà tôi nỡ nào để cho sau này làm kiếp tôi tớ. Cho nên tôi cũng muốn đi lắm chứ. Ngặt vì không phải dễ gì mà đi được. Trong tình thế của tôi, lo sao cho mỗi xuất 10 lượng vàng? À mà sao bây giờ ai cũng gọi lượng vàng là cây? _ Ý hẳn vàng là hình chữ nhật. Gói vào giấy trông như cây bài, nên đặt ra tên mới để gọi tránh đi, cho khỏi lộ liễu. Ai muốn đi cũng lo thu vén bán chác để lấy tiền mua cây mà chạy chọt. Mỗi khi lận đận đi kiếm cây để t?ng vào họng quỷ sứ cho được việc, người ta mới thấy thấm thía câu hát Trồng cây nhớ Bác, thật là nhớ như chôn vào ruột. _ Mà có cây rồi cũng đã xong đâu! Còn phải tìm ra mối thuyền, sắm đủ gạo nước muối mắm, thuốc men, xăng nhớt ,v.v... Rồi mới cử người đi giao thiệp để mua bến, nghĩa là dàn xếp với công an biên phòng ở địa phương mình chọn để xuống thuyền ra khơi. _ Ồ anh quên rằng từ nhà ra chỗ thuyền đậu còn nhiêu khê lắm. Phải qua bao nhiêu trạm công an nữa chứ. Cho nên quần áo mỗi người chỉ được đem theo một bộ, người già và trẻ em thì thêm một áo lạnh, tất cả xếp gọn vào một túi cối. Hải bàn, ống nhòm đã giấu sẵn trong nhà người hướng dẫn ở địa phương, mỗi người đều tay không chia nhau từng tốp lặng lẽ tiến đến chỗ hẹn. Chuyến nào có đem theo trẻ nít, còn cẩn thận cho uống thuốc ngủ để khỏi khóc ở dọc đường. Thế mà có chuyến đi, gần đến đồn công an thì thuốc rã, đứa trẻ tỉnh giấc khóc vang lên, dỗ thế nào cũng không nín, mọi người sợ lộ, đành lại đem nhau lộn về. _ Không bị bắt là may rồi. Bị bắt mới thật khổ. Bây giờ tôi đọc anh nghe đoạn hồi ký của một người bạn vượt biên trượt, bị giam đến tám tháng. Nhưng mà ta hãy uống chén trà đã, vì trong hồi ký có thơ ....Đây nhé: “ Ba tháng đã qua, từ ngày bị giữ để cải tạo tư tưởng tại trung tâm cải huấn Vũng Tàu, năm 1976 bắt đầu, còn hơn 2 tuần nữa đến Tết Nguyên Đán. Một buổi, bỗng nghe ba tiếng gõ vào vách gỗ, anh giáo sư phòng bên phone cho tôi: tết này chúng nó mở cuộc thi đua câu đối đấy. Mình không thi đua lao động thì ít ra cũng phải thi đua văn ngh? chứ. Tôi mỉm cười, loay hoay nghĩ hai câu, viết vào giấy, ném sang cho giáo sư: Khai bút. Khai xuân, khai hội mới Sạch đường, sạch phố, sạch nhà trơn. Anh giáo sư cười to và nói: Sạch đối với Khai, thật là tuyệt cú. Vơ vét hết tàisản của nhân dân, nhà nào cũng trống trơn, còn bày trò bắt thanh niên đi làm công tác vệ sinh cho sạch đường sạch ngõ! Sẵn đà cao hứng, tôi viết thêm hai câu: Lao động vinh quang, muôn hộ gượng cười khai hội mới Hòa bình thống nhất, toàn dân gạt lệ đón xuân hồng. Hồi đó chỉ mới có cở giải phóng nửa xanh nửa đỏ, dân chúng còn tưởng miền Nam trung lập dưới một chế độ màu hồng. Hai câu này chỉ đọc cho một vài bạn thân nghe. Báo hại không rõ vì đâu, tổ trưởng phòng, một giáo viên tư cũng vượt tuyến chung với tôi một chuyến, lại dò biết và lén lút lên bộ chỉ chuy trại, tố ngang xương (anh B ạ, chỗ nào cũng có cái giống này mọc ra). Một buổi tối, bất thần, thủ trưởng trại đến lục soát giấy tờ của tôi, mặt đầy sát khí. Nhưng tôi đã đề phòng, câu đối đã viết khác đi rồi: Khai bút, khai xuân, khai hội mới Sạch đường, sạch phố, sạch quân thù Lao động vinh quang, muôn hộ tưng bừng khai hội mới, Hòa bình thống nhất, toàn dân hồ hởi đón xuân sang. Đọc đến câu này, anh thủ trưởng đổi ngay sắc mặt, lập tức cho gọi anh trưởng ban hội họa, ra lệnh cho chép lại câu này, kẻ chữ thật đẹp ở ngoài cổng trại, và phải làm gấp cho xong trước tết. Số là hồi ấy ban chỉ huy đang lo xây một cổng gạch để ngày tết đón ủy ban nhân dân đến dự tiệc chiêu đãi. Cổng đã xây xong, ảnh Bác vĩ đại ngồi trên nóc, nhưng cột hai bên còn để nguyên vôi trắng. Nay chộp được câu đối, thật là trúng tủ. Ngày xuân cao hứng viết đôi câu Vết mực còn ghi dấu Vũng Tàu, Chữ nghĩa đảo điên, thời buổi loạn Bỗng thành bồi bút, có ngờ đâu ..... Sau Tết, sinh hoạt tập thể trong trại trở lại nhịp độ đều đều buồn tẻ. Có một vài đợt thả, song vẫn không thấy tên chúng tôi , chính sách khoan hồng chỉ nhỏ giọt. Xuân qua, hè đến, có chừng 50 can nhân được ra. Trong khi, cứ một hai tuần, giữa đêm khuya còi xe bộ đội lại rú lên rùng rợn, đổ vào trại hàng loạt người vượt tuyến mới. Nhìn bản hộ khẩu phòng hỏa thực (nhà bếp) số can nhân từ 180 hồi chúng tôi mới đến, nay đã tăng lên đến hơn 500. Giam rất nhiều mà thả chẳng bao nhiêu. Ngày hai buổi, tiếng kẻng vang lên báo giờ đi làm, anh em lại cuốc xẻng lên vai đi đào mương xới đất. Tôi tuổi già được miễn, nhưng nằm mãi trong phòng cũng buồn, nên thường tự nguyện ra sắp hàng theo các bạn đi nhổ cỏ, bắt sâu. Mỗi ngày hai buổi kẻng kêu vang Thất thểu ra đi chẳng vội vàng Aùo rách, nón mê, quần móng lợn Góp phần lao động, góp vinh quang... Sáu tháng trời qua. Một tối, anh bạn trẻ cùng phòng nổi hứng bảo tôi: Nóng ruột quá bác ơi! Nửa năm hương lửa rồi. Bác làm một bài thơ để anh em ngâm nga cho vui. Nói xong anh quay lại phía trưởng phòng, nói móc: " Anh tổ trưởng cũng đồng ý chứ? Thơ vui đâu có hại!” Đêm ấy trăng tròn nhòm qua song sắt, tôi viết mấy giòng: Hỏi Trăng Bỡn cợt nhau chi, hỡi chị Hằng Lửa hương chốc đã sáu tuần trăng Lỡ làng một phút nên duyên nợ Hãy cởi cho nhau sợi xích thằng Anh em đều tán thưởng, anh tổ trưởng cũng phụ họa không rõ thực tâm hay muốn lấy lòng tôi. Anh bạn ra đề thơ khoái trá vô cùng, lại đề nghị sửa phút thành phát: Lỡ làng một phát nên duyên nợ. Anh khác cũng góp ý: sửa cho nhau thành ra mau: Hãy cởi ra mau sợi xích thằng. Ngày qua ngày lại, sợi xích thằng vẫn chưa cởi ra. Mãi hơn 3 tháng sau, tôi và 6 anh em cùng phòng mới được ra về. Một anh mừng quá, khi xách ba lô ra cổng ngoảnh lại chào người ở lại, hét to bye bye. Cán bộ nón cối vác ngay súng đến mời anh trở về phòng, anh bị giữ thêm 3 tuần nữa. Giờ này chắc bạn đồng tù với tôi đều được thoát nạn. Ô Cấp giam chung thập thất hiền Tội gì? Toan tính vượt ra biên Cơm chan nước mắt và qua bữa Muỗi đốt trầy da, thức trắng đêm. _ Đấy, chả cải tạo nữa đi, những người đã mất cả của cải, lại bị giam cầm và làm cỏ ve, vậy mà vẫn nở được nụ cười chế giễu, thì cải tạo nỗi gì? _ Ấy thế mà họ cho là đắc sách đấy. Họ yên chí rằng đem tẩy óc thế là sạch hết cả tư tưởng mà họ gọi là hủ hóa, đâu có biết là những khúc cuộn trong óc nạn nhân trước sau vẫn nằm tròn như cũ. Là bởi đem bơ sữa đến còn không thay được nước mắm, nữa là lại đem bo bo, thứ bo bo chưa biết cách pha chế. Trở lại câu chuyện vượt biên, tôi phải nói thêm rằng xuống được thuyền rồi chưa chắc đã êm thấm mà ra khơi. Công an còn nhồi thêm một số người đã móc nối riêng với họ, khiến cho thuyền chở 40 người chẳng hạn là đủ nặng, nay tăng lên đến 60, mạn thuyền chỉ còn độ 10 phân nữa là đến mặt nước, không cần phải gặp bão lớn, một cơn sóng to cung đủ lật nhào... _ Tội quá nhỉ, bao nhiêu người vùi thây vào lòng đại dương! Thảo nào dư luận quốc tế sôi nổi lên dữ dội ... _ Người ta ức đoán rằng trong số 1000 người ra đi, có tới 1/3 đi thoát, 1/3 đắm thuyền, còn 1/3 bị bắt trở lại. Bị bắt là vì ra khơi còn gặp phải tàu hải quân hay hải quan, không có tiền mãi lộ thêm thì đi sao được. Ngay những người đi thoát ra khỏi hải phận cũng còn lo lắng gặp phải hải tặc, lo nước ngoài không cho nhập cảnh ... _ Nghe như vì dư luận quốc tế quá gắt gao nên nhà nước đã phải thay đổi chính sách .... _ Thay đổi bằng cách cho đi bán chính thức, nghĩa là cho phép người Trung Hoa đứng ra tổ chức những cuộc xuất ngoại bằng tàu lớn thuê ở Hương Cảng. Cho đi như vậy an toàn hơn, nhà nước thu được một số vàng cỡ đống hơn, dưới một cái tên huê dạng là "Vàng Nghĩa Vụ" còn tai tiếng thì trút lên đầu bọn con buôn Trung Hoa. _ Nghĩ kỹ ra thì thấy rằng nhà nước cộng sản tính toán giỏi thật. Đương khi thiếu lương thực, cho người đi là bớt được miếng ăn, đẩy gánh nặng này cho nước khác, vừa thu được nhiều vàng lại vừa trừ được một cách êm thấm những phần tử bất mãn, những phần tử này khó mà cảm hóa được, chỉ là cái gai cho chính thể .... _ Cũng khác nào khi trước, cho người cầm súng trà trộn vào một làng không nhiệt tâm ủng hộ, chờ lúc có quân Pháp đi qua, bắn chỉ thiên một phát rồi chạy, để quân Pháp kéo vào triệt hạ cả làng .... Nhưng khôn ngoan giảo quyệt đến đâu, có lúc cũng bị lừa .... _ Họ ranh mãnh lắm, lừa được cũng khó. Vả lại có một bọn 30 dòm ngó dùm cho từ câu nói lỡ lời từ cái cử chỉ vô ý ... _ Ấy thế mà ông Hồ đã có lần ủng hộ cho người tị nạn đấy. Số là ai cũng bị khám xét kỹ lưỡng, tịch thu hết của cải trước khi xuống thuyền hay xuống tàu. Đồng bào biết vậy nên tìm hết cách giấu giếm vàng, kim cương, ngoại tệ đem theo. Sau nhiều lần bị khám phá, họ nghĩ ra một kế độc đáo: Mua những tượng Hồ bán thân bằng thạch cao, đục ra để nhét hột xoàn hay đô la vào, rồi trét xi măng trắng cho kín đáo, đem đi để làm kỷ niệm. Bọn cán bộ thấy nhiều người mang tượng theo, sinh nghi vì biết dân chúng đã bỏ chế độ ra đi, còn quyến luyến gì chủ tịch nữa mà xắm nắm đem theo. Thế là ít lâu sau, hễ ai ôm tượng xuống thuyền, họ tịch thu ngay rồi đạp nát tượng ra để tìm vật báu. Sở dĩ phải hành động bất kính như vậy, vì si măng trét cứng quá, không cách nào khác mới được của. Mới biết của quý hơn người, dù người ấy họ tôn sùng hơn Thần Thánh. Cho nên việc này, tôi gọi đùa là "Xúi Hồ Chuyển Ngân". Lãng Nhân
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 4:22:16 GMT 9
Lê Quí Đôn đi sứ nước ThanhHoàng Xuân Hãn Ông kể chuyện rằng : « Khi ta mới tám chín tuổi, học sách Luận Ngữ (Khổng Tử) với cha, đến câu « Làm việc biết điều đáng thẹn, đi sứ bốn phương mà không làm nhục mệnh Vua, như thế có thể gọi là kẻ Sĩ » cha tôi hỏi : « Mầy có thể làm như vậy không ? » Tôi đáp : « Chỉ biết thẹn là khó mà thôi. Còn đi sứ làm vẻ vang Nước nhà, làm trọng mệnh Vua, thì có khó gì ? »Lê Quí Đôn đi sứ nước Thanh Hoàng Xuân Hãn Nếu ai xét lịch sử Nam tiến của dân tộc Trung Quốc, thì không thể không ngạc nhiên trước sự ngày nay còn có nước Việt Nam tự chủ trong khi các bộ lạc "Man-di" đã bị thôn tính từ triền sông Dương Tử đến sơn tuyến từ Ấn Độ sang Đông Hải nước ta. Các nước ở phương Nam đã không bị quận huyện, chính nhờ sơn tuyến ấy, chỉ trừ đất Lạc Việt thì có năm đường thủy lục từ biên giới Bắc, châu vào trung nguyên triền sông Nhị, lớn chỉ bằng một phủ của Trung Quốc mà thôi. Sự tồn tại ấy đã nhờ vào các đức tính thông minh, bền bỉ, tự hào của con cháu Lạc dân; biết học tập văn hóa người mà không để thâu hóa; biết lợi dụng hình thế, thời tiết, khí hậu nước mình; biết thừa cơ thế yếu tạm thời của Trung Quốc mà giải phóng nước mình; biết khống chế Nam thùy không để Trung Quốc lừa gạt liên minh để phân tán thế lực ta; biết thâu hóa những dân tộc hoặc cá nhân dị chủng, kể cả những người đến đô hộ mình; và biết nhún nhường, hòa hảo đối với Trung Quốc khi họ không tỏ ý xâm lăng. Với ý thức ấy, các triều đại nước ta đã nhận quan điểm Thiên Triều và Phiên Quốc, cũng như Triều Tiên, Lưu Cẫu, Miến Điện, vân vân ; nghĩa là coi đất mình là Hoàng Đế Thiên Triều phong cho, để làm phên giậu ngăn cản ngoại xâm cho Trung thổ. Vậy muốn làm vua "chính thức" ở Phiên Quốc, phải được Thiên Triều thừa nhận bằng cách ban sắc phong và ấn; khi mất thì kẻ quyền nối phải cáo ai và phải cầu phong. Đáng lí mỗi năm phải tới Thiên Triều ra mắt một lần, nhưng cũng có thể sai phái bộ thay mình mang phẩm vật tới cống, ấy là lễ tuế cống. Nước ta ở xa, cho nên lễ ấy được giảm dần: lễ vật ít, thời kì ba năm một lễ và đưa tới sáu năm một lần. Với những điển lễ không phiền hà và tốn kém bao nhiêu, mà Bắc thùy được yên, và khi có nội loạn hoặc ngoại xâm, vua mình có chỗ cầu cứu. Vì vậy, ngày xưa khi chưa có luật lệ ngoại giao quốc tế, những hình thức phụ thuộc này được coi là dĩ nhiên. bacsu phatphamNhững người cầm đầu sứ bộ đều chọn trong đám Triều quan trong ngoài năm mươi tuổi, đời Lê ít ra cũng đậu tiến sĩ giỏi văn từ, mẫn tiệp, hoạt bát. Người được chọn coi sự ấy là một danh dự rất cao. Ngoài những lợi lộc như thăng thưởng phẩm hàm, cung cấp bổng lộc, còn là dịp độc nhất được du lịch nước ngoài, nhất là nước mà họ đã chịu văn hoá hoàn toàn, viếng những xứ, thăm những chùa đền thờ những vị tên tuổi rất quen qua sử sách; lại có dịp ngâm vịnh những cảnh cũng rất quen qua các thi hào, được tiếp xúc với các văn nhân Trung Quốc hoặc Triều Tiên. Lúc về, cũng có thể đem về một số sách và đồ dùng hiếm lạ. Sự sáu năm chỉ mới có ba người được hân hạnh ấy, làm cho cái danh "phụng sứ" được đề cao hơn hết các phẩm tước của vua ban. Khi về, phần lớn góp những sự kiến văn có ghi chép, những thi văn thù ứng và đề vịnh, thành sách để lại cho con cháu và bạn hữu. Gần cuối triều Lê, đời Cảnh Hưng, hai lễ tuế cống năm 1756 và 1759 cử hành từ kinh đô Thăng Long vào đầu năm 1760. Vả chăng ở nước ta, trước đó 20 năm, đã có chuyện đổi vua mà giấu Thiên Triều. Nguyên là, năm 1735, khi vua Long Đức (Thuần Tông) mất, chúa Trịnh Giang lập em vua lên ngôi với niên hiệu Vĩnh Hựu. Vua Thanh cũng chịu sắc phong. Nhưng đến năm 1740, có phe đảng lập kế truất Trịnh Giang để lập Trịnh Doanh và nhân đó bỏ vua Vĩnh Hựu mà lập con vua trước, với niên hiệu Cảnh Hưng. Việc này tất nhiên không để vua Thanh biết. Vậy thì vua Cảnh Hưng ở ngôi trong 20 năm mà không có sắc phong của vua Thanh. Đối với Thanh, ta vẫn phải lấy tên vua Vĩnh Hựu để giao thiệp, và đối nội thì vua này được tôn làm Thái Thượng Hoàng. Trong khi đang sửa soạn việc tuế cống này, Thái Thượng Hoàng mất (8-6 Kỉ Mão 1759). Triều đình ta nhân dịp, xin phó thêm sứ vụ: việc cáo ai và cầu phong. Sứ bộ gồm : chánh sứ Trần Huy Mật 45 tuổi, người huyện Đông Sơn xứ Thanh Hóa, đậu tiến sĩ năm 1736; giáp phó sứ (phó sứ số 1) Lê Quí Đôn 33 tuổi, người huyện Diên Hà xứ Hải Dương, đậu bảng nhãn khoa 1752; và ất phó sứ (phó sứ số 2) là Trịnh Xuân Chú 55 tuổi, người huyện Đông Ngạn xứ Kinh Bắc, đậu tiến sĩ khoa 1748. Công chức phụ tá gọi là hành nhân, có 9 người, 3 thông sự (phiên dịch), 2 trung thư (thư kí), 2 y viện (y sĩ) và 2 người thường vụ. Các sứ lại được chọn một số tùy nhân để giúp việc riêng, số là 11 người; và có thể đem theo một người bà con thân cận gọi là môn tử. Lần này với 2 môn tử, sứ bộ gồm tất cả 25 người. Ngày 28 tháng giêng năm Canh Thìn 1760, sứ bộ qua sông Nhị, đi đường bộ tiến lên Lạng Sơn, rồi tới Ninh Minh là bến đò đầu tỉnh Quảng Tây. Từ đó xuống thuyền, định theo đường sông đến Bắc Kinh, qua Nam Minh, Ngô Châu, Quế Lâm; vượt các cống Linh Cừ nối sông Quế với sông Tương, rồi xuôi dòng đến hồ Động Đình, xuôi sông Dương Tử đến Nam Kinh; chuyển sang sông đào Vận Hà thẳng lên Bắc, vượt Hoàng Hà rồi tới vùng Bắc Kinh. Đến đây đã mùa đông, sông bị giá đóng, sứ bộ phải lên bộ. Ngày mồng 8 tháng 12 mới tới Bắc Kinh. Sứ bộ lưu ngụ Bắc Kinh gần ba tháng, làm trọn các nhiệm vụ sứ thần: hành các lễ Tiến Biểu (dâng tờ trình tuế cống) và Cáo Ai (10-12), lễ Triều Kiến (chào Vua Càn Long, 15-12), lễ Triều Hạ (mừng năm mới 1-1 năm Tân Tị 1761), lễ Yết Văn Miếu (cốt để điều-tra các lệ nghi và tự-khí, 10-l) Sứ bộ muốn xin về gấp để đón các sứ thần vua Càn Long sai sang phong vương cho vua Cảnh Hưng. Nhưng phải đợi đến ngày mồng 1 tháng 3 mới xuống thuyền về. Lại bị những kẻ tiễn về, lợi dụng sự hộ tống Nam Sứ để buôn bán lậu muối dọc đường, cho nên ngày 24 tháng 12 mới về đến Thái Bình gần bến đổ bộ để về nước. Lệ xưa, quá ngày 23 tháng chạp, thì các việc quan đều đình. Cho nên sứ bộ phải lưu lại trong những ngày tết, và có lẽ phải đợi đến ngày 28 tháng giêng mới qua cửa Nam Quan về nước. Trong vụ đi sứ lần này, Lê Quí Đôn đã soạn một sách chép hết sức tường tận mọi sự việc, mọi văn từ và đề là BẮC SỨ THÔNG LỤC gồm 4 quyển: Quyển 1 chép tất cả mọi việc và mọi công văn có liên quan đến sứ vụ trong thời kì trù bị (20-l0 Mậu Dần 1758 - 20-12 Kí Mão 1759). Quyển 2 và quyển 3 chép hành trình đi đến Bắc Kinh, các việc làm dọc đường và lúc ở Bắc Kinh; rồi chép hành trình đi về đến quá Nam Kinh. Chẳng may hai quyển nầy có lẽ đã mất. Quyển 4 kể hành trình khi về, từ Sa Châu, trên sông Dương Tử đến Thái Bình trên sông Tả Giang (từ ngày 26-6 Tân Tị 1761 đến quá 7-1 Nhâm Ngọ 1762). Trong quyển nầy, tác giả chép nhật kí, ghi rõ tên đất, tên người, độ đường, câu chuyện vân vân. Qua đó ta thấy rằng quả thật Lê Quí Đôn là một nhà học giả lỗi lạc, có óc khoa học, thiết thực, cụ thể, đủ mọi tài về văn chương, biết làm thơ, biết kể chuyện, biết kí tải, biết giao thiệp. Không những về lí học, mà cả về sử học, lúc mới hơn 33 tuổi mà đã tinh tường. Ông có trí nhớ lạ thường. Chính ông kể lại, trong khi tham quan mọi nơi, ông đọc các câu đối các biển, lúc về thuyền nhẩm lại đều nhớ hết. Tục truyền rằng ông đọc sách gì một lần đủ nhớ luôn, kể cả những sổ bạ. Người ta lại kể chuyện rằng có lúc ông đọc một bia bị nước lũ dâng chóng ngập chân, ông đã đọc ngang từ dưới lên trên, mà khi về ông cũng chép lại bài bia được. Ví với ngày nay những kẻ có thể đánh cờ trầm mấy chục ván một lần, hay những người tính nhẩm những phép nhân chia hàng chục con số, thì ta thấy rằng những chuyện kể về trí nhớ của ông không ngoa. Từ thủa nhỏ, ông đã nổi tiếng thần đồng. Thi đậu tam khôi (ba lần đầu: ở tỉnh, ở kinh và ở cung điện) trong khi cha, là Lê Phú (sau đổi ra Viết) Thứ đang làm quan Triều và cũng xuất thân Tiến Sĩ. Tuy vậy, ông cũng không đậu đại khoa sớm như hai thần đồng đời Trần: Nguyễn Hiền (13 tuổi) và Nguyễn Trung Ngạn (16 tuổi). Nhờ vậy, ông đã có thời giờ đọc và viết sách nhiều trước lúc ra làm quan. Khoa Nhâm Dần 1752 chỉ có 6 tên trên bảng ; ông đứng đầu với bực Bảng Nhãn (năm bực là : Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa, Hoàng Giáp và Tiến Sĩ). Tuy bực rất cao, nhưng ai cũng cầm chắc ông đáng bực Trạng Nguyên, nhưng trong bài thi có câu hỏi một chuyện chính trị đời Đường Thái Tông mà Đường Thư không chép và chỉ có ghi trong sách Trinh Quan Chính Yếu. Riêng ông, ông rất tiếc vì tủ sách nhà vốn có sách ấy nhưng có người mượn mất. Chuyện ông được đi sứ, thì cũng lẽ tất nhiên. Trong bài Đề Từ sách Bắc Sứ Thông Lục, ông kể chuyện rằng : « Khi ta mới tám chín tuổi, học sách Luận Ngữ (Khổng Tử) với cha, đến câu « Làm việc biết điều đáng thẹn, đi sứ bốn phương mà không làm nhục mệnh Vua, như thế có thể gọi là kẻ Sĩ » cha tôi hỏi : « Mầy có thể làm như vậy không ? » Tôi đáp : « Chỉ biết thẹn là khó mà thôi. Còn đi sứ làm vẻ vang Nước nhà, làm trọng mệnh Vua, thì có khó gì ? » Cha tôi cười mà bảo: « thằng bé này có hào khí ! » và dạy rằng: « Ý khí thì cố nhiên nên hào, nhưng không nên quá. Nên không nhún, không rời phẩm cách, nhưng phải nhã nhẵn, nhẹ nhàng, đừng để lộ ra một chút thô suất » Tôi thưa : « vâng.» Trong tựa sách trên, tựa viết năm 1763, ông lại kể rằng: « Ở nước Nam ta, tiền bối đi sứ có để lại nhiều tập thơ nhưng chưa ai kể lại các sự việc. Năm Vĩnh Hưu Đinh Tị (1737). Tổn Trai tiên sinh họ Lê (Lê Hữu Kiều, người huyện Đường Hào, đậu Tiến Sĩ khoa 1715) được sung phó sứ đi mừng vua Càn Long lên ngôi, có chép việc sử, nhật trình, đường đi, thơ văn thù ứng, vấn đáp và các sự tích, phong tục nghe thấy, viết thành sách đề là Sử Bắc Kí Sự. Khi ta chưa đậu, ông từng đưa cho ta xem và bảo : « Đây là sách ta lược biên để có thể mang theo trong túi áo. Cậu ngày sau chắc sẽ được chọn đi sứ. Cậu nên sẽ tiếp tục chép nhiều thêm để cho được nhiều sự trạng và lời văn vẻ hơn ». Theo các chuyện trên, nhiều người đoán trước rằng ông sẽ phụng sứ. Năm 1758, ông được triều đình đề cử trong số sáu người đưa chúa Trịnh Doanh lựa chọn. Trong bài Đề Từ, ông kể rằng: " Chúa thật không muốn ta đi xa. Mùa thu năm Kỉ mão (1759) Chúa bảo Cổn quận công rằng muốn lưu ta ở lại để hầu chính sự; rồi hỏi ý ta. Ta quì tâu: « Cám ơn Thánh Thượng muốn tài bồi cho. Tôi, trên luyến Vua, dưới nhớ cha, há lại không muốn xin ở lại. Nhưng tôi nghĩ rằng từ xưa làm quan, ất nên lịch duyệt cho đủ. Ba năm đi về cũng không phải là lâu. Vậy xin vẫn được đi sang xem chính trị của Thượng Quốc ra sao, nhân vật họ ra sao ? » Chúa bằng lòng ". Vì còn ít tuổi, chức tước chưa cao, cho nên ông chỉ được sung phó sứ số một, nhưng kì thật thì trong các cuộc ứng đối, ông đứng hàng đầu. Trong phần nhỏ sách kí sự của ông còn lại, ta cũng thấy người Trung Quốc để ý đến ông hơn chánh sứ nhiều. Lời ông viết nối trong Đề Từ: " Từ trước đến nay, văn thần được tuyển đi sứ là trên dưới 50 tuổi. Mà tôi vâng mệnh đi lần này, tuổi mới hơn 30, bề ngoài còn hăng hái sỗ sàng. Tự vui thích chơi bời bay nhảy, cảm tình với xưa, tò mò với nay. Đến đâu cũng đề vịnh (xướng họa với chánh sứ đến vài trăm bài). Đến những chỗ công sảnh, nhà quan, hễ thấy đối liễn, thơ đề trên quạt, ta đều nhẩm ghi để khi về thuyền sao lại . Ta lại được các bậc cao sĩ phu Trung Châu đem thi từ thân tặng. Cho nên trong lúc này có ghi nhiều văn từ thấy ở các công thự, ở phong cảnh núi sông, những lời hỏi đáp với các quan liêu ". Sự thành tựu của sứ vụ, thì ông tự phê bình trong Đề Từ : " Ta vừa qua Nam Quan, liền gặp quan Tuần Kiêm họ Tra đưa thơ thách họa. Dọc đường gặp các quan liêu, bậc cả, sĩ phu đặt những câu hỏi hóc búa, họ bắt bẻ tranh luận như là kẻ địch. Lại có sứ Triều Tiên, quan Khâm Sai bạn tống đều là những bậc văn hào. Họ đã không coi mình là người nước ngoài mà khinh, đã tiếp chuyện nhiều lần. Tôi may nhờ hồng phúc, dùng văn tự nói chuyện, may khỏi bị khinh khi, mà còn được tán khen. Các sách Quần Thư Khảo Biện và Thánh Mô Hiền Phạm Lục là những sách tôi soạn trước 30 tuổi, được các người thích và giữ như của quí. Vậy mới biết lòng người không khác nhau. Lấy lòng thành thật chính trực đãi nhau, lấy văn tự làm quen nhau thì người bốn bể đều là anh em cả ... Vả chăng nếu mình rụt rè, tự coi mình là người nơi xa vắng, ít giao tiếp, ít nói năng thì bị người ta khinh bạc, mà dùng tiếng Di Ngôn Di Sứ (lời mọi, sứ mọi) mà chỉ chúng ta ". Chính vấn đề các viên chức Thanh ở biên giới vẫn luôn luôn dùng tiếng DI (mọi) để trỏ người mình, kể cả sứ thần, là một điều mỗi lúc sứ ta sang, đều phải tranh biện phản đối và đòi cải cách. Khi đi về đến Quế Lâm, sứ bộ gửi tờ trình cho viên Tuần phủ Quảng Tây xin cho các viên chức sắp gặp sứ bộ, thôi dùng chữ DI. Đại ý tờ trình như sau : Trong các công văn và khi tiếp đón sứ thần mọi nơi đều gọi hai tiếng An Nam . " Thế mà ngày chúng tôi đến cửa Quan, quan đạo Tả Giang tới mở khóa, sứ thần vào lạy Long Đình, thì lễ sinh xướng lễ chỉ hô : Di quan, Di mục, trỏ rõ sự nghiêm ngặt, làm chúng tôi hổ thẹn rất sâu. Đến khi tới Nam Ninh, yết quan Đạo Đài, đến Ngô Châu yết quan Hiệp, giữa đám đông người mà vẫn dùng chữ DI ". Sứ thần xin theo lệ đời Ủng Chính thứ 9 (173l) giới thiệu các sứ thần bằng chức danh. Viên Bố Chánh biện luận một cách khôn khéo rồi nhận lời, như ta sẽ thấy trong tờ trình của sứ bộ gửi về chúa Trịnh Doanh.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 4:24:59 GMT 9
Tờ trình nầy rất quí, vì được làm bằng tiếng Việt, có lẽ để người Thanh không đọc được, nếu chúng tò mò. Tuy cả ba sứ thần cùng kí tờ nầy, nhưng tôi tôi tin rằng chính Lê Quí Đôn đã thảo. Cũng như trong các văn kiện bằng nôm thời xưa, bài trình nầy thường dùng Hán văn xen vào trong câu Việt ngữ. Tôi sẽ viết những phần ấy bằng chữ nghiêng và kèm lời tôi diễn nôm ở sau trong vòng đơn. Sau đây tôi sẽ trích một vài đoạn (Toàn bài đã được in với chử nôm trong Tập san Sử địa số 6, Sàigòn 1967) : " Tháng 10 ( năm Tân Mão 1761) ngày mồng 7, chúng tôi đến Quảng Tây tỉnh thành (Quế Lâm) ... Ngày mồng 9, quan phủ Quế Lâm xuống khám thuyền (xét đồ quốc cấm đem về nước). Kì trước, chúng tôi tiến quan (qua cửa Nam Quan) với vào chí kiến (chào) quan Nam Ninh, thì nó cũng chiếu cựu lệ, nó xướng rằng : « Di quan kiến » (quan mọi chào). Kì nầy chúng tôi cũng có đầu văn (nộp thư) nơi quan vũ viện đạo đạt tình diêu xin hành văn đạo, phủ, hễ nghi chú văn thư, đình DI QUAN tự (đến quan Tuần Vũ, kể rõ thắc mắc, xin gửi tờ sức cho các đạo, các phủ, bảo: phàm trong nghi lễ, văn thư, sẽ thôi dùng chữ di quan, nghĩa là Quan mọi). Tối hôm ấy, quan Bố Chánh họ Diệp (tên Tồn Nhân) truyền hai quan bạn tống (quan Thanh đi kèm sứ bộ) với thông sự (phiên dịch) lên Công đường; trước hỏi: « Ủy vấn Cống sứ nhất lộ tân khổ ? » (thăm hỏi các Cống sứ, dọc đường khó nhọc không). Sau lấy trình văn bảo rằng: « Nghiện cá thậm hảo, thuyết đắc hoạt lí. Đạn cổ ngữ văn : THUẤN sinh ư Gia phùng, đông di chi nhân dã; Văn vương sinh ư Kì chu, tây di chi nhân dã. DI tự nguyên phi khinh mạn Quí quốc. Kim Sứ thần dĩ thử vi ngôn, dĩ mông Vũ đài chuẩn doãn, hành nhất giác công văn, truyền Tả giang đạo cấp các phủ, tự hậu đình hô DI tự xưng AN NAM quốc sứ ...» (Văn này rất hay, nói rất đúng lí. Nhưng lời xưa đã nói : vua Thuận sinh đất Gia phùng, là người mọi phía đông; vua Văn vương sinh đất Kì Chu, là người Mọi phía Tây. Dùng chữ Di vốn không phải để kinh nhờn Quí quốc. Nay sứ thần đã đem sự nầy bày tỏ nên lời thì đã được nhờ ơn quan Tuần vũ bằng lòng nghe. Đã gửi một ống công văn truyền cho đạo Tả giang và các phu, dặn từ rày về sau đừng hô chữ DI nữa, và gọi là Cống sứ nước AN NAM. Sứ có thể về nước thưa với Quốc vương được rõ. . .) " Vả tiết nầy, chúng tôi trộm xem quan Trung Quốc có lòng kính trọng Bản quốc, dĩ cập kì sứ (vì đó trọng cả sứ ta). Từ ngày chúng tôi tiến Kinh, Hồ Nam, Hồ Bắc, An Huy, Giang Nam, Sơn Đông, ngũ tỉnh ấy, quan Tổng đốc, Tuần vũ đều đặc ủy thuộc liêu, quan viên hộ tống. Khi khởi lục, thì duyên đồ châu huyện bôn tẩu cung ứng, trương mạc kết thể (khi lên bộ thì dọc đường các quan châu huyện chạy cung cấp đồ ăn đồ dùng, trương màn kết vải màu để đón rước). Khi vào triều hạ (chầu mừng vua Càn Long) thì quan Nội các, Lục bộ đại-thần đều tựu vấn, hữu lời tưởng lao (tới hỏi thăm, có lời khen lao). Mấy (với) như cống sứ Cao Li cống sinh nước Lưu Cầu, gặp chúng tôi cũng hỏi han thư từ vãng phục. Kẻ thì rằng lập chí trung hậu, kẻ thì rằng Văn vật chi thịnh. Chúng tôi đều tùy sự đối đáp. Chuyện đối là sứ thần chức phận, chúng tôi không dám ghi lai lịch phiền độc (kể chi tiết làm nhàm tai). " Chúng tôi bồi thần tam viên, với hành nhân cửu danh, tùy nhân thập tam danh (ba sứ thần, 9 phái viên, 13 tùy phái) muôn nhờ hồng phúc đều được bình ninh. Như môn tử (con em) chúng tôi cũng có đem sang, cũng đều được mạnh khoẻ cả. Chúng tôi gửi dộng (tâu) lạy BỀ TRÊN muôn muôn năm. Tư cẩn khải (nay kính thưa) ". Tờ khái này có lẽ viết ngày 13 tháng Chạp năm Tân Mão 1761. Sứ bộ tưởng trước Tết sẽ về đến nhà, nhưng phải đợi gần một tháng ở Thái Bình, quan Thanh mới chịu mở cửa Quan. Tiếc rằng bản Bắc Sứ Thông Lục đã bị mất phần cuối, cho nên ta không còn biết hành trình từ Thái Bình về và có quả thật bọn biên lai Trung Quốc có bỏ tiếng DI chăng. Tuy vậy phần còn lại cho ta biết nhiều câu chuyện giữa Lê Quí Đôn với các nhân vật nước Thanh khi phải đợi lâu và ăn Tết ở Thái Bình. Sau đây sẽ kể một vài chuyện. Chuyện khám thuyền - Khi thuyền về đến Quế Lâm, theo lệ, quan Thanh xuống khám thuyền để tịch thu các vật và sách cấm. Đồ cấm có vũ khí và diêm tiêu dùng làm thuốc súng. Các cống sứ phải làm tờ cam kết, trong đó có nói : " Năm Càn Long thứ 25, chúng tôi vâng mệnh Quốc vương mang tuế cống và tờ biểu và nghi vật tới dâng. May được Thánh ân ban cho quốc vương vải vóc, trong đó có thứ đoạn hoa Đại Mãng, Thổ Qua. Còn như diêm tiêu, quân khí và tất cả những món hàng cấm thì không hề mang về. Đó là điều chúng tôi cam-kết là thật ". Tất cả sứ bộ phải khai các sách đã mua, rồi phải gánh các hòm sách lên Trạm Ân Đình. Quan Thanh giữ lại một số, rồi bảo khai giá tiền mua để được bồi thường. Trong số sách bị thu có bộ UYÊN GIAM LOẠI HÀM là một thứ tự vựng bách khoa về văn học gồm 450 quyển, vua Khang Hi sai soạn. Lê Quí Đôn phải làm đơn xin trả lại, viện lẽ rằng trong sứ vụ Phạm Khiêm Ích (1724) vua Ủng Chính đã ban bộ sách ấy cho vua mình. Quan Thanh bằng lòng, nhưng giữ lại 23 bộ sách khác trị giá chỉ hơn 4 lạng bạc. Đó là những sách có tính cách chính trị, kinh tế, bói toán, địa lí, y khoa, thần tiên. Của riêng Lê Quí Đôn, có 5 sách bị thâu : Phong Thần Diễn Nghĩa, Nam Du Bắc Du, Uyên Hải Tử Bình, Tử Vi Đẩu Số và Mai Hoa Dịch Số. Qua những tên sách nầy ta có thể đoán rằng ông tin bói toán và thích tiểu thuyết phong thần. godongdaChuyện bút đàm với học giả Trung Quốc - Ngoài những nhịp dọc đường, Lê Quí Đôn tiếp chuyện với những quan địa phương, tặng thơ đáp câu đối, hoặc đàm đạo thường xuyên, Bắc Sứ Thông Lục còn giữ được lời ghi những buổi bút đàm với một Nho gia và sử gia có học uyên thâm, là CHU BỘI LIÊN bấy giờ được phái đến Quảng Tây chấm hương thi. Ý chừng y đang khảo cứu về địa dư vùng Nam qua lịch đại; cho nên y hỏi Lê Quí Đôn về sự biến cải địa danh ở nuớc ta từ đời Tần Hán đến đời Minh. Ông trả lời rất đầy đủ , ghi đến hơn 2000 chữ. Đọc qua, ngày nay chúng ta thấy ông đã thuộc những phần địa chí trong các sử thư Trung Quốc. Không những ông đã dẫn chứng lấy trong Nhị Thập Tứ Sử, mà còn dẫn những ngoại thư như Giao Quảng Xuân Thư của họ Vương và Nhĩ Thu của Trương Tân. Không những ông bàn địa dư Giao Chỉ mà còn so sánh với sử địa Triều Tiên. Trái với nhiều học giả nước ta đời xưa, ông đã để ấn tượng là người uyên bác về quốc sử khi mới hơn 30 tuổi. Ông lại đưa hai quyển sách đã soạn, Thánh Mô Hiền Phạm Lục và Quần Thư Khảo Biện cho Chu xem và xin đề tựa. Chu đã thấy rằng ông có chí, học rộng, cảm thấy nước ta có văn học, và " tiếc rằng Quế Đường (hiệu ông) sinh ở Nam Phiên, không thể ở lâu tại Trung Châu. Nếu được ở Trung Châu vài năm, cùng thầy có tiếng đạo đức văn chương giảng giải và nghiên cứu để tìm tình tứ Chu Công, Khổng Tử, thì ta không thể lường được ông sẽ tiến đến đâu " (Xem tựa sách Thánh Mô Hiền Phạm Lục). Qua câu phê bình đạo mạo của một văn gia đứng tuổi ớ Trung Châu đối với một dân phiên thổ, tuy đậu bảng nhãn, nhưng trẻ vào bậc học trò mình, ta cảm thấy sự ngạc nhiên và kính nể của người cao sĩ Trung Quốc đối với Lê Quí Đôn và đối với nước ta. Nguyên Thủy Chu Bội Liên đã nghe người khác mách rằng sách Thái Tử Tuyên Kí nói rằng An Nam thờ Giải Tấn (một quan nhà Minh sai sang cai trị nước ta sau khi Hồ Quí Li bị bắt. Xem tập-san Khoa-học Xã hội số 4 trang 121) và coi y như bậc Thánh, cho nên khinh thường trình độ văn học nước ta. Y có nói đến sự ấy trong bài tựa dẫn trên. Vì vậy Lê Quí Đôn đã phải biện bác dông dài, kể những người nước ta có văn danh trước khi Giải Tấn tới, Trương Hán Siêu, Nguyễn Bá Quát, Nguyên Trung Ngạn, Phạm Sư mạnh, Chu Văn An đời Trần. Trước nữa đời thuộc Đường, đã có bảy người đậu Tiến Sĩ và Khương Công Phụ lại đậu chế khoa. Cho đến những người Minh sang cai trị An Nam, thì Hoàng Phúc còn để tiếng lại; chứ Giải Tấn thì không ai biết đến. Ông nói tiếp: « Nó là một khách thương qua chơi, sao có thể đến Quốc tử giám (Văn miếu), mà biết rõ điển chương, văn hiến của nước tôi » (trong Thuyết Linh nói An Nam không thờ Khổng Tử, mà thờ Giải Tấn). Chuyện kiến trúc thành quách - Chu Bội Liên chấp nhận lời biện bác ấy rồi chuyển sang hỏi về cửa thành. Y hỏi : « Tôi nghe nói rằng thành xứ Phù Nam (Cam-bu-chia) có bốn cửa, cửa Tiền hướng Đông. Thấy chép như vậy trong sách Giang Đông Cựu Sự, nhưng tôi lấy làm nghi, vậy cửa Tiền ở Quí quốc quả như thế không ? » Ông đáp : « Từ xưa, dựng đô lập ấp, phải xem âm dương, xét trời đất, nhắm trước sau, thẩm cao thấp; kết-quả là chưa có cửa Tiền thành nào không quay về hướng mặt trời. Ngày xưa, đương triều nhà Nguyên trước, có thể cửa Tiền ở thành Phù Nam ngảnh về Đông, nhưng tôi không thể biết (Lê Quí Đôn có lẽ đã đọc sách Chân Lạp Phong Thổ Kí của Chu Đạt Quan đời Nguyên tả thành Angkor). Còn như Đô Thành nước tôi, thì cùng một chế với thành quách xưa nay. Vả chăng, chín cửa thành Kinh sư (Bắc Kinh) và những dinh thự sáu bộ và các Tự, các Viện đều bởi quan thái-giám nước tôi tên Nguyễn An xây nên đời Vĩnh Lạc Việc ấy được chép trong sách Hoàng Minh thông kỉ. Nhân tiện xin trình ». Chu nói : « Quí quốc có nhiều người tài nghệ như thế, mà tôi nghe rằng hiện nay, các trị sở tại trấn, phủ, huyện đều không có thành quách, là tại sao ? » Lê Quí Đôn đáp : « Sách Hán chí chép : Giao chỉ có hơn 60 thành. Gần đây, trong khoảng triều Minh cai trị, cũng đắp hơn 20 thành. Không phải rằng nước tôi không biết giữ nếp cũ, nhưng ban đầu, khi quốc triều (Lê) mới lập, đã san bằng hết. Chỉ ở trấn thị, đắp luỹ đất mà thôi . Tôi trộm nghĩ rằng đó bởi có thâm ý...» Chu hỏi : « Tại sao ? » Đáp : « Nước nhỏ tôi và nước lớn Ngài, sự thể không giống nhau. Nay may được Thánh triều ôm ấp vỗ về, hai nước thành một nhà, không phải trở lại lo nữa. Nhưng trong buổi đầu triều Nguyên và triều Minh, bị tụi biên thần tham công mà sinh sự với nước tôi. Chúng tôi sợ bị đột nhập. Nếu tụ nhau ở trong một thành, ngồi để chịu vây đánh, thì chẳng là kế hay. Dân chúng là lính, làng mạc là của. Nếu ở linh tinh phân tán, thì muốn đánh cũng không chỗ nào mà đánh, muốn cướp cũng không thấy đâu mà cướp. Trái lại, nhân chỗ họ mà phá rối, đặt phục mà cản đường. Làm như vậy mới có thể giữ nước ». Những câu trả lời trên thật là lí thú. Một mặt, nhờ Lê Quí Đôn nhắc lại, chúng ta được biết cái cửa Thiên An Môn cùng 8 cửa khác của thành Bắc Kinh là công trình của người nước ta, cũng như doanh thự trong thành. Việc nầy người Trung Quốc đời nay vẫn biết. Một mặt khác, ông đã giải thích một cách chí lí chiến lược " của không nhà trống ", phân tán du kích, để cảnh giác người Thanh. Chu Bội Liên phải khen rằng: « Sứ quân biện cực tài ! Nhưng cuối cùng, tôi cho rằng như thế không bằng xây thành quách làm hiểm trở mà tự thủ ... ! » Rồi sau khi Lê Quí Đôn lí luận bác thuyết Việt Thường hiến bạch trị cho Chu Vương và Chu Vương cho xe chỉ nam, Bội Liên mừng rỡ mà khen : « Bàn luận thật là khoái, khiến người thán phục và kính trọng ! ». Và ngày nay, đọc đến đây, cũng phải thán phục một người trẻ tuổi, học tiếng nước ngoài, phải theo đòi cử nghiệp, mà đã kiến thức mông mênh, lí luận chắc chắn, ứng đối mẫn tiệp như Lê Quí Đôn. Thật ông đã làm đúng như lời hứa với cha khi tám chín tuổi: làm vẻ vang Nước nhà. Mùa đông năm Kỉ mùi Hoàng Xuân Hãn (bài đã đăng Đoàn Kết số Giai Phẩm Xuân 80)
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 4:27:17 GMT 9
Tưởng Nhớ Phan Anh Hoàng Xuân Hãn
Chính Phan Anh thuộc thế hệ ấy. Sau khi tốt nghiệp luật khoa tại Hà Nội, Anh đã tới Paris, soạn các đề án về luật hiến pháp và ngoại giao, để tính đường tương lai giảng dạy luật khoa. Nhưng năm 1939, tình hình Âu châu thành nguy ngập. Anh cùng các bạn du học phải trở về nước.
Tưởng nhớ Phan Anh
Hoàng Xuân Hãn
Sau những năm các phong trào thanh niên cách mạng bùng nổ, 1929-31, chính quyền thuộc địa thấy cần phải nới rộng trung học và đại học tại Đông Dương. Dân ta hiếu học, đã hưởng ứng ngay.
Tại Hà Nội, các trường công tư đào tạo từng lớp thanh niên đủ kiến thức tài năng để dự học các trường đại học : khoa Y, khoa Dược và khoa Luật. Kết quả là kề trước cuộc đại chiến 1939 tại Âu Châu và nhất là cuộc đại chiến Thái Bình Dương, tại nước ta sẵn có một thế hệ thanh niên trí thức, có đủ tài cán chuyên nghề, nhiều lòng muốn phục vụ tổ quốc. Họ sau nầy sáp nhập với nhóm cách mạng bấy giờ hoặc đang bị giữ trong lao tù, hoặc đang náu tiếng với nhân dân, để gây một phong trào yêu nước vô song, từ bàn tay trắng mà chống nổi mọi cuộc ngoại xâm.
Chính Phan Anh thuộc thế hệ ấy. Sau khi tốt nghiệp luật khoa tại Hà Nội, Anh đã tới Paris, soạn các đề án về luật hiến pháp và ngoại giao, để tính đường tương lai giảng dạy luật khoa. Nhưng năm 1939, tình hình Âu Châu thành nguy ngập. Anh cùng các bạn du học phải trở về nước. Chẳng bao lâu, nhân Pháp bị bại trận, Nhật Bản tăng áp lực đối với Đông Dương. Chính quyền ở đây muốn lấy lòng trí thức, phải cho người bản xứ hành nghề luật sư. Nhờ vậy Phan Anh mới vào tập sự nghề luật sư tại một phòng cạnh nhà lao Hoả Lò, khá gần nhà tôi.
Tôi thuộc vào lớp hơi sớm hơn Anh. Năm 1936, tôi đã từ Pháp về dạy khoa toán tại Trường Bưởi, trường mới được mang huy hiệu " Lycée ". Bấy giờ hiếm giáo sư, cho nên tôi phải phục vụ nhiều lớp, nhiều trường. Chung quy tôi không có thời giờ tiếp xúc nhiều với thế hệ Phan Anh. Vả tình hình chiến tranh tại Âu Châu, tư thế quân đội Nhật bản tại Đông Dương thúc giục tôi phải để tâm hoàn thành và công bố công trình mà tôi đã ôm ấp trong gần mười năm : DANH TỪ KHOA HỌC. Bấy giờ lòng ái quồc nồng nàn của nhân dân, nhất là của thanh niên, đã bộc lộ. Một hôm Phan Anh tới tìm tôi và bày tỏ ý kiến của một nhóm trí thức trẻ muốn ra một tờ báo nguyệt san, đặt tên là THANH NGHỊ (1), hỏi ý tôi nên bàn luận thế nào và nhờ tôi cộng tác. Tôi đã đáp rằng:
« Bây giờ trăm mắt đổ xô vào hành động của thanh niên trí thức ta : quốc dân, chính quyền, thực dân Pháp và cả quan sát nhân Nhật. Tuy trong thực tế mình không có quyền chính trị, nhưng hãy cứ tự coi mình như con dân một nước độc lập. Đối với mọi việc đáng suy nghĩ, thì cứ nêu lên mà bàn với tư tưởng mới, thực tế. Chắc rằng toà kiểm duyệt cũng không cấm viết, mà độc giả sẽ dần quen với những suy nghĩ đứng đắn và trách nhiệm (Phan Anh rất đồng ý). Ví như tôi, tôi nghĩ một dân tộc độc lập phải có đủ danh từ để biểu diễn mọi ý về văn hóa. Vì lẽ ấy, tôi đã soạn một tập DANH TỪ KHOA HỌC và đang bàn, với anh em khoa học cho ra một tạp chí KHOA HỌC, nó bổ túc cho báo THANH NGHỊ của các anh. Nhưng cũng vì thế mà tôi không có thời giờ viết thường xuyên giúp Anh về khoa học. Trái lại, sở thích riêng của tôi là sử và cổ văn. Tôi nhận thày có nhiều khả năng góp phần mới. Nếu tôi có những điểm mới thuộc các đề tài ấy tôi sẽ đăng vào tạp chí của các anh » (2).
Từ đó, chúng tôi thành bạn thâm giao ; một lẽ nữa là các nội nhân chúng tôi là đôi bạn đồng môn và đồng nghiệp. Trong hơn bốn năm liền, thỉnh thoảng tôi rảo bước trên phố Trường Thi, quay sang phố Quán Sứ, đến góc phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, nhìn xuống một cửa sổ dưới thấp ; nếu thấy một cái đầu tóc cắt vuông đang cúi xuống bàn trên các hồ sơ, thì biết đó là Phan Anh đang làm việc. Tôi xuống, gõ cửa bước vào. Anh đứng dậy, mắt cười, rồi chúng tôi bàn tán chuyện nước nhà và chuyện thế giới. Mà thực vậy ! Tương lai chúng ta chắc chắn đổi nhiều ! Thế Pháp đã tàn. Thế Nhật đầu bùng sau xẹp. Đức chắc sẽ thua ; Mỹ đã tiến dần về phía tây, chiếm lại Phi-lip-pin, chắc chẳng bao lâu nữa sẽ đổ bộ vào đất ta. Các nước thực dân cũ trên Đông Nam Á, như Anh, Mỹ, Hà Lan đều đã hứa độc lập cho các thuộc quốc mất vào tay Nhật. Nhờ hiệp ước " Cùng bảo-vệ Đông Dương " ký vào giữa năm 1941, mà hai quân đội Nhật và Pháp vẫn dung nhau trên đất nước ta. Tổng thống Mỹ doạ cất quyền của Pháp sau khi giải phóng Đông Dương. Trong những lúc được mời tiếp xúc hoặc với toàn quyền đô đốc Decoux, hoặc với thủ lĩnh kháng Nhật trung tướng Mordant, tôi chỉ nghe họ khuyên trí thức ta đừng nghe những lời hứa Anh Mỹ. Trong lúc ấy, họ không giấu nổi sự dự bị đón tiếp quân đồng minh. Phan Anh và tôi cùng nhau phân tích quân đội Pháp và quân Mỹ có thể đổ bộ cứu quân Pháp ở đây. Nếu quân Pháp không được cứu, thì chắc rằng Nhật sẽ đem Kì Ngoại Hầu Cường Để từ Nhật Bản về và đảng Ngô Đình Diệm sẽ cáng đáng lâm thời vận mệnh nước trước lúc hoà bình. Nhưng nếu Mỹ đổ bộ cứu Pháp thì ắt Nhật ở đây sẽ thua. Bấy giờ cơ cấu thuộc quốc vẫn nguyên, mà mình không vũ lực, thì sẽ mất một cơ hội độc lập như đã mất cơ hội đại chiến trước : cuộc khởi nghĩa Duy Tân hỏng vì nội phản, việc tiếp nhập Phục Việt hỏng vì bất lực ; còn bản yêu sách độc lập của Nguyễn Ái Quốc trước nhân viên Hội Nghị Hoà Bình Versailles thì cũng chỉ có tính cách tượng trưng ". Trong phòng giấy nhỏ ở cạnh Hỏa Lò, tôi đã ngỏ những thắc mắc lo lắng ấy. Vào cuối năm 1944, tại.thành phố Hà Nội đã có những việc rải truyền đơn, hô khẩu hiệu cách mạng, kêu gọi dân đánh Nhật, đánh Pháp; ngoài đường lại có một vài vụ phá cột đèn, phá điếm điện thế. Tôi lại bảo Phan Anh:
« Mặc dầu Pháp đàn áp, nhưng đảng cách mạng vẫn còn tổ chức. Nghe nói Liên Hợp Quốc Cộng Trung Quốc và cố vấn Mỹ cung cấp vũ khí cho ta để đánh Nhật; nếu sự ấy là thật, thì may gì ta cũng sẽ dự phần chiến thắng Nhật, và có cơ đòi lại độc lập cho ta. Trong nhóm Thanh Nghị, nghe nói có người trong đảng. Vậy, ngoài tuyên truyền, mặc dầu là vũ trang. Cách mạng có thực lực cơ bản gì không ? »
Phan Anh chỉ cười mà đáp rằng : « Tôi cũng nghe như vậy ! »
Chúng tôi chẳng lấy làm lạ khi nghe tiếng súng nổ suốt đêm mồng 9 tháng 3 năm 1945, và rạng ngày sau các đài truyền thanh cho hay rằng quân đội Pháp tại Đông Dương đã bị Nhật giải giáp. Sự lạ là không thấy Mỹ phản ứng giúp Pháp và Nhật không đưa Cường Để về. Trái lại, chính phủ Nhật sai sứ thần tới Huế chuyển lời chính phủ Nhật Bản cho vua Việt Nam rằng chính quyền thuộc địa Pháp đã bị khử trừ, và nếu Việt Nam tuyên bố độc lập, thì chính phủ Nhật Hoàng thừa nhận. Hơn một tuần sau, chúng tôi mới được tin rằng Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam độc lập, quyết định tự cầm quyền với tôn chỉ " DÂN VI QUÍ " (3) và kêu gọi tất cả nhân dân hỗ trợ.
Ngày 23 tháng ấy, một viên lãnh sự Nhật tới đưa tôi ba bức thư, một gửi cho tôi ; hai thư kia nhờ tôi chuyển hộ. Những thư này do văn phòng vua ở Huế, nhờ sứ quán Nhật chuyển mời Vũ Văn Hiền, Phan Anh và tôi vào Huế để bàn cùng Bảo Đại nên thực hiện độc lập tương lai cho nước bằng cách nào. Sau khi gặp nhóm Thanh Nghị, Hiền và Anh bằng lòng cùng tôi đáp lời mời và cùng đi. Bấy giờ ở Huế, cũng như khắp nước, lòng ái quốc của nhân dân lên cực độ. Cho đến nhà Vua, cũng chịu ảnh hưởng chung. Vậy đã có thư mời nhiều trí thức, nhiều chính khách có tiếng, ngoài những người đang bị lao tù. Riêng được mời một số nhân vật mà quân đội Nhật đã giấu để khỏi bị công an thực dân bắt, nhất là Trần Trọng Kim và Ngô Đình Diệm. Nhưng quân đội Nhật không chuyển thư mời cho Diệm, vì Diệm chủ trì đưa Cường Để thay Bảo Đại, mà Nhật lại không muốn có chuyện xáo lộn trên đất Việt Nam. Tuy vậy, Kim, Hiền, Anh và tôi đồng ý rằng : " Thế Nhật Bản chỉ còn đứng được hơn một năm là cùng. Chính phủ nào bắt đầu từ bây giờ cũng chỉ có chừng nấy để củng cố thế độc lập của nước ta mà thôi. Vậy nên khuyên Vua mời Ngô lập chính phủ vì y được người Nhật tin và nhóm nhân dân " thân Nhật " ủng hộ ". Không ai bảo ai, những người được mời đều khuyên Bảo Đại như vậy. Đổng lý văn phòng vua bấy giờ là Phạm Khắc Hoè, tuy thuộc quan trường bảo hộ, nhưng có " óc tân tiến ", lại là dây liên lạc giữa Bảo Đại với thanh niên và nhiều chính khách yêu nước ở Huế. Hoè lại viết thư cho Diệm, nói Vua mời về lập nội các. Lần nầy Nhật chịu chuyển thư, nhưng Diệm từ chối, lấy cớ bệnh không về. Cuối cùng Trần Trọng Kim, tuy còn ốm, phải nhận lời Bảo Đại nằn nì tha thiết lập một chính phủ cách tân, trong ấy Phan Anh phụ trách bộ Thanh niên để tránh tiếng bộ Quốc phòng, vì ta chưa có bộ đội và không muốn để ai hiểu lầm và lợi dụng. Còn mục tiêu chung thì gấp rút trong khoảng một năm, tập cho quốc dân quen với tính cách độc lập tự tin, để đến khi hoà bình trở lại, Đồng minh không có cớ đặt ách ngoại trị vào cổ dân ta. Trong khoảng ba tháng, Phan Anh đã lập được tại nhiều tỉnh những thanh niên đoàn học tập vũ nghệ, và nhất là lập được tại Huế một trường võ bị cao cấp, gọi là trường THANH NIÊN TIỀN TUYẾN để một số sinh viên đại học cũ tập thành sĩ quan. Chính phủ lại yêu cầu quân đội Nhật trả lại những khí giới họ đã tịch thu, và thả ra những quân nhân người Việt, để họ huấn luyện thanh niên học tại các trường võ bị.
Tuy biết rằng chúng tôi chỉ nhận nhiệm vụ mang tính cách tạm thời với hi sinh, nhưng chính phủ và tất cả nhân viên say sưa với công việc, tranh thủ với thời gian. Nhưng thế Nhật tan chóng hơn mình đoán. Chính phủ toan từ chức để Vua có thời giờ họp những người cách mạng chống Nhật, phòng khi đối thoại với Đồng minh. Đầu tháng bảy, nguyên soái Nhật, trung tướng Suchi Hachi, báo tin muốn trao trả chính quyền Nam bộ, Bắc bộ và sự quản lí các công vụ Đông Dương cũ. Một nửa chính phủ ra Hà nội, đi cùng thủ tướng. Đến nơi, Hiền và Anh được các bạn Thanh Nghị cho hay rằng phong trào cách mạng chống Nhật đã bành trướng từ Cao Bằng đến vùng Bắc Kạn, Thái nguyên. Họ có tổ chức và có vũ khí Mỹ cho. Chúng tôi hơi yên tâm, nhưng cũng tự hỏi rằng vũ khí Mỹ đã cho có bằng khí giới Nhật sẽ cho khi Mỹ đổ bộ. Thủ tướng nhờ bắt liên lạc với nhân vật cao cấp trong phong trào để thương lượng lợi chung, nhưng rồi lại gặp một đảng viên rất trẻ chỉ biết tuyên truyền. Không đợi lâu được, chính phủ trở về Huế để lo việc tiếp thu chủ quyền Nam phần. Tôi phải ở lại Hà Nội, tiếp tục thu nhận cơ quan đại học. Trước lúc từ giã Phan Anh, tôi dặn các sự đã bàn : tôi sẽ đồng tình từ chức và khuyên những người cách mạng sẵn sàng lập chính phủ mới. Trần Trọng Kim trở về Huế, đề cử Nguyễn Văn Sâm làm khâm sai Nam phần. Trước khi rút lui chính phủ giúp Vua hiệu triệu người mới. Nhưng biến cục chiến tranh Thái Bình Dương giồn giập. Bom nguyên tử ném vào đất Nhật. Nhật hoàng ra lệnh cho quân đội mình đầu hàng. Có tin quân đội Anh và Trung Quồc sẽ vào Việt Nam nhận sự đầu hàng của quân Nhật. Ở Bắc phần, khâm sai Phan Kế Toại từ chức, đảng VIỆT MINH kháng Nhật ra lệnh tổng khởi nghĩa. Lãnh tụ đảng, Hồ Chí Minh, về Hà Nội ; thực ra không mấy ai biết đó là ai. Những tin đồn "đoàn quân Việt Mỹ" sắp về, làm cho toàn dân say sưa phấn khởi. Hành động cuối cùng của Chính phủ Huế là giúp Vua, đại diện chính thức quốc tế của Việt Nam, đánh điện cho chủ tịch năm nước Đồng minh, yêu cầu nhìn nhận sự độc lập đã thành của nước. Rồi phái Hồ Tá Khanh vào Nam, Phan Anh ra Bắc để trấn tĩnh nhân dân và tra xét tình hình. Phong trào cách mạng không đáp lời mời hợp tác của Bảo Đại. Trái lại, ngày 21 tháng 8, yêu cầu vua thoái vị. Bấy giờ đã biết Hồ Chí Minh cũng là Nguyễn Ái Quốc, Bảo Đại bèn tuyên bố thoái vị (24-8), để chính phủ cách mạng dễ thương thuyết độc lập với Đồng minh. Trên đường ra Bắc và vào Nam, Phan Anh và Hồ Tá Khanh đều bị cách mạng bắt giữ rồi được thả ra.
Ngày 28 tháng 8, Hồ Chí Minh chính thức lập chính phủ cách mạng đầu tiên, trong đó ít ra cũng có ba bốn bạn Phan Anh trong nhóm Thanh Nghị. Trong Nam, nhờ quân Anh giúp, quân Pháp chiếm lại Sài Gòn rồi đánh lên miền Bắc. Những sĩ quan đầu tiên điều khiển cuộc Nam tiến là những cựu sinh viên trường Tiền Tuyến lập bởi Phan Anh. Quân Trung Quốc ồ ạt kéo vào Bắc việt để tiếp thu vũ khí quân Nhật. Những người Việt chống Pháp từ trước lưu vong, nay theo về, với danh nghĩa Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội. Họ được quân Trung Quốc hỗ trợ để tranh quyền với chính phủ lâm thời. Một mặt khác, quân Pháp đã được quân Trung Quốc bằng lòng cho ra Bắc thay thế mình. Muốn ngăn cản quân Pháp thì chính phủ lâm thời bất lực ; muốn điều đình để đợi thời thì phải có hoà khí bên trong. Vì vậy Hồ Chí Minh đã cấp tốc tổ chức bầu quốc hội, dành riêng cho các đảng quốc gia 70 ghế, và ngày 2 tháng 3, nhóm quốc hội giải tán chính-phủ " Việt Minh " lâm thời. Một chính phủ liên hiệp và kháng chiến được thành lập với một số nhân vật tựng trưng '' quốc gia " : Nguyễn Hải Thần (phó chủ tịch), Huỳnh Thúc Kháng (nội vụ), Nguyễn Tường Tam (ngoại giao), Vĩnh Thụy (tức là Bảo Đại, cố vấn) và Phan Anh giữ bộ quốc phòng, có lẽ vì Anh đã từng giữ bộ thanh niên dưới triều Bảo Đại.
Phan Anh tìm tôi để bàn chuyện. Anh cho biết rằng tình hình nước rất bối rối. Tại Trùng Khánh, Tưởng Giới Thạch đã bán rẻ Bắc kì cho Pháp và đành ép ta nhận các điều kiện Pháp đã đưa ra để đem quân ra Bắc. Anh Mỹ không bênh ta vì họ cần Pháp ở Âu Châu để chống Nga. Các người đảng quốc gia thì không tự lượng sức mình, cứ tưởng có thể mượn sức quân Tưởng ngăn Pháp đổ bộ. Nghe nói có hôm Lư Hán (tướng Vân Nam) toan bắt cụ Hồ, và có lúc cụ Hồ đã toan cùng Bảo Đại trao đổi chức năng, chủ tịch chính phủ và cố vấn, cho dễ điều đình. Anh nói : ''Chính trị phải thực tế. Chi bằng toàn dân đoàn kết, tuỳ sức mình mà kí với Pháp hiệp ước thuận lợi nhất để tồn tại và điều đình kiên trì về sau " .
Anh cũng đồng ý với tôi, chức vị bộ trưởng quốc phòng chỉ là tượng trưng. Bộ đội ở trong tay chủ tướng Võ Nguyên Giáp. Như thế là hợp lí trong trường hợp này. Bấy giờ chỉ có Việt Minh mới có điều kiện thực tế tổ chức gấp một bộ đội làm hậu thuẫn cho chính phủ chống thực dân, có phương tiện tổ chức du kích khắp thôn quê nếu quân Pháp muốn đặt đô hộ trở lại. Liền sau đó, ngày 6 tháng 3, Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh (Quốc Dân Đảng) kí với Sainteny (cả ba tên đều là giả) hiệp ước để quân đoàn Leclerc đổ bộ lên Hải Phòng, đáp lại lời hứa của nước Pháp " nhận Cộng Hoà Việt Nam là một nước tự do, có chính phủ riêng, có quốc hội riêng, có quân đội riêng, và có tài chính riêng ; nhập phần Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp. Về điều thống nhất ba Kỳ, thì chính phủ Pháp cam đoan sẽ chấp nhận sụ quyết định của nhũng dân tộc sẽ được trưng cầu ý kiến ".
Quân Pháp đổ bộ liền lên bến Hải Phòng, mặc dầu một nhóm bộ đội Trung Quốc đột kích. Chỉ một mình Giáp và Phan Mỹ, em ruột Phan Anh, tiếp xúc với Leclerc. Bộ trưởng quốc phòng hoàn toàn ngoài cuộc ! Bắt đầu từ ngày 18-3, quân đội thiết giáp Pháp ồ ạt thị oai ở các đường Hà Nội. Bấy giờ ai cũng nhận thấy rằng chính phủ mình, cộng hoà hay quân chủ, quốc gia hay cộng sản, nếu không quân đội nghiêm túc, nhân dân ủng hộ, ngoại giao khôn khéo, thì cánh thực dân lập lại chế độ thuộc địa như xưa. Bấy giờ đã hay tin rằng đô đốc d'Argenlieu với đoàn cố vấn hành chánh không đồng ý " rộng rãi " với đại tướng Leclerc và tay mật vụ Sainteny. Hồ Chí Minh quyết định bước sang giai đoạn điều đình cấp tốc với chính phủ Pháp. Hiền và tôi đi dự Hội nghị trù bị Đà Lạt với Nguyễn Tường Tam và Võ Nguyên Giáp làm trưởng và phó chủ tịch (19-4 / 11-5-1946). Trù bị đây là trù bị cho hội nghị chính thức tại Paris định họp vào mùa hè năm ấy. Đã dự bị Nguyễn Tường Tam và Phạm Văn Đồng làm trưởng và phó phái đoàn, Vũ Văn Hiền và Phan Anh sẽ là chân quan trọng. Nhưng d'Argenlieu định phá hội nghị. Ông đã bịa ra Hội nghị trù bị để có thời giờ lập nước Nam kì tự trị, rồi họp một hội nghị Đà lạt thứ hai (1-8) với các nước Mên, Lào, Nam kì và xứ Mọi. Những chính khách Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội đều bỏ chức và trốn tránh sang Trung Quốc. Nguyễn Tường Tam không đi dự Hội nghị Paris nữa. Vũ Văn Hiền bị bệnh cũng không đi. Ngày 31 tháng 5, Phan Anh từ giã tôi, theo Chủ tich nước ta và phái đoàn điều đình lên máy bay đi Pháp, mặc dầu d'Argenlieu muốn hoãn chuyến đi này lại, vì tại Pháp chưa có quốc hội, chưa có chính phủ chính thức.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 4:27:53 GMT 9
Khi Chủ tịch và phái đoàn ta tới đất Pháp, họ phải đợi ở miền nam nước Pháp, " du lịch " chung quanh Biarritz đến gần cuồi tháng 6, sau khi những đảng hữu thắng trong cuộc bầu cử 2-6 và G. Bidault thành lập chính phủ. Chủ tịch phải đợi đến 22-6 mới lên Paris và được tiếp đón long trọng. Còn các phái viên, như Phan Anh, thì lên Paris sớm, kẻ tham quan phong cảnh, người nối dây liên lạc. Phan Anh chú ý về sở học của mình là luật khoa. Muốn làm bớt uy thế của Việt Nam và tránh ảnh hưởng của các tả đảng Pháp, chính phủ Bidault quyết định hội nghị họp tại Fontainebleau. Hội nghị bắt đầu ngày 6-7. Chủ tịch đoàn là Phạm Văn Đồng, tổng báo cáo viên là Phan Anh. Phan Anh lại là chân lí luận chắc chắn, biện từ sắc bén ; thân hình thấp nhưng đầy đặn, đầu tóc vuông vắn. Bấy giờ, các nhà báo có kẻ chú ý đến Anh, và nói đùa Phan Anh là " một cái lon thuốc hút (pot à tabac) nhưng mà thuốc cay đậm ".
Rồi hội nghị nầy, cũng như hội nghị Đà Lạt, thất bại vì ta không thể chịu ách nặng Liên bang Đông Dương và nhất là không thể chịu để lìa tách Nam bộ. Phái bộ đành bỏ dở Hội đàm ra về. Xuống tàu Pasteur ngày 14-9, để chủ tịch chính phủ ta ở lại kí với M. Moutet, bộ trưởng hải ngoại, một " tạm ước " trước khi ra về. Ngày 19-9, cụ Chủ tịch xuống tàu binh Dumont-d'Urville đi Đông Dương, ngày 18-10 hội đàm với d'Argenlieu ở vịnh Cam Ranh. Ngày 20-10 về đến Hà Nội. Trong gần 5 tháng, Chủ tịch đi vắng mà chỉ trở về với một tạm ước kém hiệp ước tháng 3 ! Trong nước, phái thực dân lấn áp dần dần : thành-lập Nam kì tự trị, chiếm các vùng dân tộc thiểu số, một vài điểm chiến lược hay kinh tế như tỉnh lị Lạng Sơn, Bắc Ninh, phủ Toàn quyền, toà Tài chánh, và tự thu quan thuế ở Hải Phòng.
Cụ Chủ tịch vẫn giữ thái độ trấn tĩnh. Nhưng các nhân viên, sau 5 tháng ở Pháp về với nhiều nỗi lo âu và thất vọng. Coi chừng mỗi người phải quyết đi vào một chí hướng. Tôi còn nhớ khi gặp thi sĩ Xuân Diệu. Đại biểu báo chí vừa về, anh ta bảo với mọi người : '' Có nhiều thể chế cộng hoà, ta phải liệu chọn ". Phan Anh, về hình thức vẫn là bộ trưởng quốc phòng, chắc đã được Giáp, nhất là Phan Mỹ, cho biết rõ tình hình nguy ngập về võ bị. Tôi phải đợi đến hôm cụ Chủ tich về, chiêu đãi thân sĩ, mới có dịp gặp lại Phan Anh. Tôi cũng được mời vì là nhân viên hội nghị Đà Lạt. Bước vào phòng khách, tôi thấy người kết cụm trò chuyện xôn xao. Trông sang một góc buồng, thấy Phan Anh ngồi một mình với một cuốn sách ở tay. Tôi liền bước thẳng tới. Anh đứng dậy, tươi cười bắt tay. Tôi đùa đọc câu Kiều:
" Chi bằng riêng một biên thuỳ ! "
Anh vội mỉm cười mà bảo:
" Chớ đọc nối câu sau ".
Chúng tôi đều biết đến câu sau : " Sức này đã dễ làm gì được nhau ". Tôi hiểu ý của Anh, nhưng tôi cũng đùa đáp:
'' Sao lại sợ ? Đó là lời phái đoàn ta phải nói với Pháp ! ".
Câu nói ấy là ngẫu nhiên, chứ bấy giờ tôi chưa biết lời tướng Salan đã bảo Hoàng Minh Giám sau khi ta từ chối mọi điều ức hiếp của Pháp, rằng : "Sự đã rõ ràng, chỉ còn cách đánh nhau giữa chúng ta !".
Tôi hỏi : '' Đọc sách gì thế ? "
Anh giở bìa sách. Tôi đọc : " LE ZERO ET L' INFINI ".
Tôi hơi ngạc nhiên, Anh liền bảo : " Không phải sách toán đâu ! Sách này hiện là best-seller bên Pháp, tôi mới mua về ". Tôi hỏi qua nội dung thì Anh chỉ cười không đáp. Vừa lúc ấy viên lãnh sự Anh, Trebor Wilson, là một người Anh đã làm lãnh sự nhiều năm ở Hà Nội, và người ta cho là một thám tử đặc sắc, đi lại gần chúng tôi, vì y đã biết tôi qua thư kí của y là một đàn bà người Anh và vợ bạn tôi là Hà Văn Vượng. Y chào Anh và tôi, rồi nhìn trừng trừng bìa sách của Anh, tủm tỉm cười và nói : " Bonne lecture ! ", nghĩa là " Đọc tốt nhỉ ! ". Bấy giờ tôi không hiểu câu khen bí mật kia. Sau tôi mới biết sách ấy có một tiếng giội lớn bên Âu Châu vì chỉ trích thâm trầm chế độ và tư tưởng của Staline trong các vụ giết các bạn hữu đồng chí (4).
Sau đó tôi gặp Anh, nói chuyện lâu. Anh cho hay rằng mình tưởng có thể tựa vào các tả đảng ở Pháp để dễ điều đình hơn. Nhưng họ còn khắc nghiệt hơn cả hữu đảng, vì trong khi tranh giành bầu cử, họ sợ mang tiếng đã phá sản quyền lợi quốc gia. Kết luận là sự nhượng bộ trước áp lực thực dân cũng không đủ ; sự hoà giải giữa các đảng phái trong nước cũng chỉ làm yếu tổ chức binh bị. Vì vậy một chính phủ mới được thành lập, thải những phần tử tượng trưng. Võ Nguyên Giáp trở lại bộ quốc phòng. Ấy vào ngày 3 tháng 11 năm 1946. Từ đó đến tháng 5 năm 1954, tôi không gặp lại Phan Anh nữa. Từ bấy giờ, cánh thực dân và cánh quân nhân nhất quyết lập lại chính quyền Pháp trên đất Việt. Họ dùng phép " làm trước cãi sau " mà lấn dần dần, để cho ta phản ứng lại thì ta thành khiêu khích. Bấy giờ họ sẽ dùng vũ lực là thanh toán " dễ dàng " vấn đề Việt Nam.
Ngày 20 tháng 11, vịn vào việc tranh chấp quan thuế ở Hải Phòng, tướng Valluy đã tàn sát và chiếm thị trấn: dân Hà Nội sợ bị tập kích như vậy, nên phần lớn tản cư. Tôi không biết Phan Anh đi về đâu. Hai bộ đội sợ nhau, nên hành động bảo vệ bị coi là hành động khiêu khích (5). Trong tinh thần ấy, chiến tranh Pháp Việt bùng nổ từ tối ngày 19-12. Năm sau tôi mới biết Phan Anh đã lên Chiến khu Việt Bắc với Cụ Hồ. Hoàng Xuân Hãn
(bài đã đăng Đoàn Kết số 431, 02.1991)
(Bài này lẽ ra còn một phần thứ nhì. Trên thực tế, phần chưa viết này ẩn tàng trong bài Cố Điện nói về thân sinh ông Phan Anh - chú thích của Diễn Đàn)
(1 ) THANH NGHỊ : nghị luận trong trẻo của kẻ trí thức. Một tháng ra một số từ 1-5-1941 ; rồi mỗi tháng ra hai số từ 1-5-1942. Trong báo KHOA HỌC 1-5-1942, có lời quảng cáo sau : " Báo Thanh Nghị do một nhóm thanh niên trí thức chủ trương, gồm có các giáo sư, luật gia, bác sĩ, dược sĩ, cùng các hoạ sĩ, nhạc sĩ, và văn gia... Trong số 1-5 có những bài : Lập hiến : Phan Anh ; Ấn Độ kinh tế và chính-trị : Vũ Văn Hiền ; Mặt trời mọc giữa ban đêm ở Pháp : Ngụy Như Kontum ; Vấn đề đi vay đối với dân quê : Vũ Đình Hoè ; quan niệm bài thơ : Đoàn Phú Tứ , Phạm Văn Hanh, Nguyễn Sanh; Công việc bảo vệ hài nhi ở các nước : bà Phan Anh ; \/ấn đề hồi môn : Phan Mỹ ; Kỷ niệm Phan Thiết : Đinh Gia Trinh ; âm nhạc lối hát ả đào : Nguyễn Xuân Khoát ; Đạo nghị định mới về luật thuê nhà : Đỗ Xuân Sảng ; Sự quan hệ giũa hai học thuyết Lão và Khổng : Đặng Thái Mai ; Công việc bài trừ bệnh lao bên Pháp : Bác sĩ Trịnh Văn Tuất ; Lược-khảo về thi hội năm Duy Tân thứ bảy : Nguyễn Văn Huyên ; Một nhà toán-học có tiếng, ông Cauchy : Hoàng Xuân Hãn ; và những bài về văn chương. Mỹ thuật và khảo cứu của các ông Tô Ngọc Vân, Đỗ Đức Thu, Trần Văn Giáp, Nguyễn Văn Lô, Nguyễn Trọng Phấn, các bác sĩ Phan Huy Quát, Trần Văn Bảng, Đặng Huy Lộc... Chủ-nhiệm : Vũ Đình Hoè. "
(2) Tôi có viềt ba bài cho báo Thanh Nghị : 1 ) La Sơn phu tử (với bức thư của vua Quang Trung gửi mời Nguyễn Thiếp), 2) Nguồn gốc văn Kiều (hát phường vải và bài " văn tế Trường lưu nhị nữ " của Nguyễn Du). 3) Mai đình mộng ký (một áng văn thuộc Văn phái Hồng Sơn, tác giả là Nguyễn Huy Hổ, con Nguyễn Huy Tự, tác giả chuyện Hoa Tiên).
(3) DÂN Vl QUÍ : dân là quí nhất. Châm ngôn nầy trích từ sách Mạnh Tử, thiên Tận Tâm hạ. Nguyên cả câu là : Dân vi quí xã tắc thứ chi, quân vi khinh, nghĩa là : Dân là quí nhất rồi mới đến nhà nước, còn vua là nhẹ. Các nhà Nho lấy ba chữ đầu để khuyên vua phải yêu dân. Báo Le Constitutionnel (?) của nhóm Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn đã dùng cả câu làm biểu ngữ cho báo. Lúc bấy giờ, chúng tôi tưởng rằng văn phòng đã xui Vua dùng khẩu hiệu DÂN Vl QUÍ. Nhưng Phạm Khắc Hoè lại đổ cho " nhà Nho học " Trần Trọng Kim xui. Sự ấy không đúng, vì Kim cũng như chúng tôi, tới Huế hơn hai tuần sau khi tờ " Dụ DÂN Vl QUÍ " được ban ra.
(4) Tác giả sách này tên Arthur Koestler, gốc Hung, lấy quốc tịch Anh và viết bằng tiếng Anh. Những tiểu thuyết y viết liên hệ đến cá thể con người đối với những lí tưởng chính trị hiện hành. Cuốn " Cái không và các vô tận " (dịch ra tiếng Pháp Le zéro et l'infini) được dịch ra tiếng Pháp năm 1945.
(5) Devillers trong sách Histoire du Vietnam (3ème édition, Seuil, trang 352) có mách lại lời tướng Valluy đến Hải Phòng ngày 17-12 (hai ngày trước chiến-tranh) nói với hai đại diện Pháp ở Bắc, Sainteny và tướng Morlière rằng : " Les nhacs veulent la bagarre, ils l' auront ", nghĩa là : " Tụi nhà quê muốn chiến tranh thì chúng sẽ có chiến tranh ".
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 6, 2011 4:18:55 GMT 9
Kỷ Niệm 100 Năm Phong Trào Đông Du (1905-2005) - Suy Nghĩ thêm về Đông Kinh Nghĩa Thục Trần Viết Ngạc 1. Nhờ ông giúp sức khơi dòng đầu, Người vượt trùng dương ngày càng nhiều.(1) Người khơi dòng đầu cho Phong trào Đông du không ai khác hơn là Tăng Bạt Hổ. Chẳng những Phan Bội Châu và Đặng Tử Mẫn khắc tên Ông đầu tiên trên bảng Việt Nam Nghĩa Liệt vì ông là "ngọn sóng trước tiên của lớp thuỷ triều mới đang bành trướng, ngọn lửa đầu tiên của bộ máy đang bộc phát" (2) mà Nguyễn Thượng Hiền cũng đánh giá cao hành động của ông là "kết thúc nghĩa hội cũ mà mở ra nghĩa hội mới". (3) Tăng Bạt Hổ (1858- 1906) tên thật là Tăng Doãn Văn, "tên chữ là Sư Triệu, người tỉnh Bình Định, bổn tính hào mại, kiến thức thấu suốt, khí phách cương nghị. Trong lúc nói năng thì thái độ hoà nhã, dịu dàng, gần gũi người ta"... (4) đã chiến đấu trong nghĩa hội Cần vương Bình Định. Khi Cần Vương Bình Định tan rã, ông thoát sang Trung Hoa. Người Pháp xem ông là một phái viên rất đắc lực của Tôn Thất Thuyết bấy giờ đang an trí ở Thiều Châu. Ông đi về thường xuyên giữa Quảng Đông và Huế, nhờ thế mà sĩ phu ở Huế biết đến những biến động ở Viễn đông. Chẳng những đọc tân thư, ông còn lặn lội khắp vùng đông Á: Trung Hoa, Nhật Bản, Đài Loan và từng xuống đến Nam Dương (Indonesia). Mối quan hệ giữa phái viên và chàng rể quan Phụ Chính hẳn đã gợi mở ra nhiều vấn đề: - Sự lạc hậu của nền giáo dục từ chương khoa cử trên nền tảng tứ thư ngũ kinh. - Phong trào Cần vương thất bại, con đường giải phóng dân tộc lâm vào cuộc khủng hoảng tư tưởng và bế tắc. - Phải phá vòng kiềm hãm của thực dân đế quốc để đặt mối quan hệ với Đông Nam Á: nước Nhật đã duy tân và hùng cường, Trung Hoa đang thức tỉnh... Nguyễn Thượng Hiền đã nhớ lại một trong những lần gặp gỡ ấy: "Mùa Xuân năm Mậu Tuất (1898) Sư Triệu từ nước ngoài trốn về, gặp tôi ở Hà Thành, mới một lần mà đã như bạn cũ... Tôi mới bàn với Sư Triệu là muốn cứu nước mà không lo kết nạp anh hào và thăm dò con cháu các nhà có thù với giặc thì không được..., nên đem họ xuất dương , tôi luyện tài họ để ngày sau làm rường cột cho nước" (5) Thật không thể tin được rằng chính trong năm 1898 khi mà cuộc khởi nghĩa vô vọng của Võ Trứ và Trần Cao Vân ở Phú yên thất bại thảm hại thì phong trào Đông Du đã manh nha dù cho kế hoạch của Tăng và Nguyễn đã không thực hiện được. Chúng tôi ngờ rằng những cuốn tân thư đầu tiên mà Nguyễn Thượng Hiền đã có may mắn tiếp cận đã từ tay Tăng Doãn Văn. Phan Bội Châu đã được đọc tân thư và nghe chuyện Tăng Bạt Hổ từ Nguyễn Thượng Hiền: "... Tôi xem những pho sách ấy mới hiểu qua được tình trạng cạnh tranh ở trong hoàn hảo, thảm trạng quốc vong diệt chủng càng kích thích trong vẻ sâu lắm. Tiên sinh lại kể những việc nghĩa dũng của ông Tăng Bạt Hổ cho tôi nghe, tôi chôn sâu người ấy ở trong lòng, và cái tư tương phá cửa sổ lồng đến lúc đó mới manh động"(6) Chẳng những là "khơi múi, mở đầu", Tăng Bạt Hổ còn là người dẫn đường cho Phan Bội Châu đông du và tích cực giải quyết những khó khăn buổi đầu một cách hiệu quả. Phan Bội Châu đã khắc hoạ chân dung Tăng một cách tuyệt đẹp: "Ông tuổi ngoài bốn mươi mà râu mày cốt cách, trời hạ sương thu, trông qua một lần mà biết chắc là người duyệt lịch đã dày lắm. Ngồi nói chuyện, ông kể tình hình ngoài bể rất kỹ, mà nói đến nhân vật nước Tàu hiện thời càng rạch ròi như đếm tiền trong túi. Tôi được gặp ông, mừng là trời trao..." (7) 2. Phan Bội Châu và Cường Để Sau khi gặp Tiểu La và thống nhất ý kiến với vịêc tìm kiếm một Lê Trang Tông để ủng phù làm minh chủ và không bằng lòng với một Tôn Thất Toại " khí thức ngó cũng tầm thường", Phan Bội Châu đã ra Huế lân la giao tiếp với con cháu Hiệp Hoà và con cả Đồng Khánh nhưng không thấy ai tâm hợp. Cuối cùng, đã lâu ngày mới thăm dò được kỳ Ngoại hầu là người "sẵn có chí lớn". Kỳ ngoại Hầu Cường Để thuộc dòng trưởng của vua Gia Long; hậu duệ của Anh Duệ Đông cung Nguyễn Phúc Cảnh. Chẳng may, Đông cung mất sớmnên không thể kế thừa ngôi vị và Gia Long đã chọn Hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm kế vị thay vì cháu đích tôn là Phúc đường (Mỹ Đường) (8) mà đa số đại thần ủng hộ: Ông của Cường Để là con của Mỹ Đường: Cảm Hoá công Lệ Chung ( Duệ Chung) Hàm hoá Hương công, con của Cảm Hoá, là thân phụ của Cường Để. Theo Cường Để, sau khi vua Hàm Nghi bị bắt và bị đày, Phan đình Phùng đã cho người liên lạc với Hàm Hoá và muốn Hàm Hoá thay Hàm Nghi ở ngôi vị lãnh đạo tinh thần cho phong trào Cần Vương. Hàm hoá lấy cớ tuổi già muốn giao lại địa vị ấy cho Cường Để lúc bấy giờ mới mười hai tuổi (1894). Việc không thực hiện được vì phái viên của Phan đình Phùng là Hồ quý Châu lâm bệnh mất và năm sau cuộc khởi nghĩa Hương Khê cũng chấm dứt cùng với sinh mệnh của người lãnh đạo.(9) Mùa thu năm Quý Mão (1903), khâm sứ Pháp Auvergne muốn truất phế Thành Thái, có thăm dò Cường Để để thay thế nhưng việc không thành. Lần thứ ba Cường Để có cơ hội để trở thành bậc chí tôn là vào năm 1907. Vua Thành Thái bị truất phế và Pháp cũng như triều đình Huế tìm người kế vị. Thượng thư bộ công là Nguyễn hữu Bài, theo Thiên Chúa giáo, đã không ngần ngại đề nghị với người Pháp cho rước Cường Để, đang lưu vong ở Nhật Bản với cương vị Hội chủ Duy tân hội, về Huế để đưa lên ngôi! Giải thích sự kiện này, tài liệu Pháp cho biết từ khi đặt nền đô hộ, một phe phái đã hình thành trong giới quan lại và tín đồ Thiên Chúa giáo với mục đích đưa dòng trưởng của Đông cung Cảnh lên ngai vàng ở Huế (10). Không có gì khó hiểu ước muốn của dòng trưởng và ý đồ của tín đồ Thiên chúa giáo nếu ta biết rằng Đông cung Cảnh có mối quan hệ thân thiết với Bá Đa Lộc và muốn cải đạo. Xu hướng đó cũng thể hiện trong vịêc Cường Để giới thiệu Nguyễn Hữu Bài, Đốc vận Hiền... tham gia Duy Tân hội năm 1904.(11) Phải chăng chí lớn của Cường Để xuất phát từ nhân thân của ông? Phải chăng vì cảm nhận được điều đó mà Phan Châu Trinh bài bác vị minh chủ của Duy Tân hội ? Sự thực lịch sử cho thấy rằng Cường Để không cam chịu thân phận của một Lê Trang Tông - vị minh chủ danh nghĩa- mà dần dà muốn có thực quyền, càng không phải thực quyền của một người lãnh đạo Duy Tân hội mà là thực quyền của một vị vua tương lai. Trong giai đọan đầu khi Duy Tân hội mới thành lập (1904) bên cạnh những Tiểu la Nguyễn Thành (1863) Châu Thương Văn (1856), Đỗ đăng Tuyển (1856), Tăng Bạt Hổ (1858), Phan Bội Châu (1867) thì hội chủ chỉ là một thanh niên mới ngòai hai mươi tuổi chưa có chút thành tích gì trong khoa bảng, học vấn cũng như đấu tranh. Vai trò một vị minh chủ danh nghĩa còn non tuổi đời đã thể hiện rõ nét trong buổi đầu xuất dương. Tại nhà Lưu vĩnh Phúc, nơi Tán tương Nguyễn Thiện Thuật tá túc, hai vị lãnh đạo họ Phan - một của Duy tân hội, một của Phong trào Duy tân công khai - bàn luận chính trị. Phan Tây Hồ đã chỉ trích chế độ quân quyền thậm tệ, cho rằng cái tệ quân chủ chuyên chế không trừ được thì tuy phục quốc cũng chưa phải là hạnh phúc! Chẳng những Cường Để chỉ "tựa cột mà nghe" mà sau đó trong một bức thư gởi cho hòang tộc ở Huế đã tư xưng là người thừa kế "giặc của dân". (12) Dân tặc hậu Cường Để bái cáo ư ngã tôn nhân liệt tôn... Theo tài liệu của Pháp, chữ dân tặc để chỉ ngôi quân chủ là một từ của Phan Châu Trinh đặt ra khi đàm luận với các môn sinh của Lương Văn Can ở Hà Nội nhân khoa thi Hội năm Giáp Thìn (1904), manh nha ý tưởng vềmột nền cộng hòa... Cả những quan lại trung thành với thực dân như Lê Hoan, Hòang Trọng Phu cũng nhận được văn bản này. (13) Và thật hợp lý khi Phan Bội Châu đưa vị hội chủ vào học trường Chấn Võ để được rèn luyện cùng với Nguyễn Thức Canh, Lương Ngọc Luyến và Nguyễn Điển. Cường Để đã không chịu được sự khổ luyện. Theo Nguyễn Thức Canh đến cuối năm 1906 Cường Để mới nhập trường và rời trường và tháng 11-1907. Một năm học tập "lơ đểnh bài vở nhà trường nên thành tích bỉ nhân ở trường Chấn Võ bấy giờ thường vào hạng kém" (14) Trước khi về nước, Phan Châu Trinh đã căn dặn Phan Bội Châu "quốc dân hy vọng chỉ nơi mình ông. Kỳ ngọai hầu không cần gì đâu". Lại ngõ lời với du học sinh trong bữa liên hoan tiễn đưa "Khuyên anh em nên ra sức học hành, đến như vấn đề quốc thể và chính trị tương lai thì không muốn phát biểu ý kiến" (15) Trong một bức thư gởi riêng cho Cường Để, Phan Châu Trinh đả kích mạnh mẽ: "Nhữ đặc bất quá nhất học sinh, nhĩ ký vô quốc hỷ, hà sở vị dân? Ký vô dân hỹ, hà sở vị chủ..." (Anh bất quá chỉ là một sinh viên bình thường. Đã không có nước làm sao anh có quốc dân? Đã không có quốc dân, anh xưng chủ với ai?...) Tư liệu của Pháp cho biết tức giận vì những lời đả kích trên, Cường Để đã viết thư cho các quan lại thân thiết của ông ở triều đình Huế tố cáo thái độ chống quân chủ của Phan mà hậu quả là bản án nặng nề dành cho Phan nhân vụ Chống thuế 1908. (16) Thực ra chẳng cần thư của Cường Để (nếu có), Phan Châu Trinh đã mua chuốc óan thù với trìều đình Huế bằng thư gởi toàn quyền Paul Beau rồi! Cường Để sau khi rời trường Chấn Võ cũng là lúc học sinh Nam Kỳ du học ngày càng đông. Sự ngưỡng mộ của đồng bào Nam Kỳ đối với hội chủ dòng dõi Đông Cung cũng như sự tôn sùng vị hội chủ của học sinh Nam Kỳ đã tạo cho Cường Để một tư thế mới. Các du học sinh diện kiến Cường Để đều phải lạy 5 lạy như là nghi lễ quân thần!(17). Khác với du học sinh Bắc Kỳ và Trung kỳ luôn coi Phan Bội Châu là người lãnh đạo quan trọng và thực sự của Hội, các học sinh Nam Kỳ còn nặng tư tưởng tôn quân đã xem Cường Để là người lãnh đạo cao nhất và Phan Bội Châu chỉ giữ vai trò phụ tá. Cường Để lấy lại họ Nguyễn Phúc, một cách từ chối cách đặt tên theo phiên hệ mà Minh Mệnh áp đặt cho tất cả hậu duệ của 11 anh em của ông. Ông lấy tên Nguyễn Phúc Dân, tương tư như tên của hai người con của Đông cung Cảnh là Phúc Thùy và Phúc Đường. Aán của ông khắc Gia Thành (vương hiệu hay niên hiệu ?) khiến người ta liên tưởng đến niên hiệu Gia Long của Thế tổ nhà Nguyễn (18). 3. Về tấm ảnh Cường Để - Phan Bội Châu Ảnh Cường Để và Phan Bội Châu Tấm ảnh mà chúng tôi muốn đề cập ở đây là tấm ảnh Cường Để và Phan Bộ Châu. Mấy điểm cần chú ý: - Cường Để và Phan Bội Châu đều mặc lễ phục Tây phương rất trang trọng. - Ảnh được chụp trong một tiệm ảnh chứ không phải ở trong nhà hay ngòai trời. Hai điểm đó cho thấy đây là là một tấm ảnh chính thức được chụp với một mục đích sử dụng nào đó. Có điều Hội chủ thì đứng trong khi vị tổng lý thì ngồi ngay ngắn trên ghế. Tấm ảnh vì thế sẽ là lời cải chính những ai tin rằng Hội chủ Cường Để là người lãnh đạo đích thực và Phan Bội Châu chỉ là người phụ tá, cho dù là một phụ tá đắc lực. Phải chăng không tiện nói rõ với học sinh Đông Du và nhất là học sinh gốc Nam Kỳ, Phan Bội Châu đã chủ động và có dụng ý khi cho chụp tấm ảnh trên? Dù thế nào chăng nữa, sau khi cả hai bị trục xuất ra khỏi đất Nhật, Phan Bội Châu và Cường Để đã không còn gắn kết trong họat động. Khi thành lập Việt Nam Quang Phục hội năm 1912 thì hợp tác giữa Cường Để và Phan Bội Châu chỉ còn là danh nghĩa. Việc Việt Nam Quang Phục hội minh định tôn chỉ của hội là "Khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt Nam Cộng hòa Dân quốc" đã bị các đại biểu Nam Kỳ phản đối. "Đồng bào trong Nam dối với Kỳ ngoại hầu tín ngưỡng rất sâu, não chất ấy chưa bỗng chốc mà đổi được". (19) Cường Để lúc bấy giờ ở Hồng Kông đã tránh mặt không tham dự. Dù vậy, hội nghị thành lập VNQPH vẫn dành cho Cường Để chức vụ Hội trưởng kiêm Bộ trưởng Tổng bộ. Ông hội trưởng Cường Để nói gì về tổ chức vừa được cải tổ: "Tháng 5 năm Nhâm Tý (1912), ông Phan Bội Châu mời bỉ nhân về Quảng Châu để tiến hành sự cải tổ Việt Nam Quang Phục hội, song bỉ nhân khi ấy mắc bệnh không về được, nên viết thư giao quyền cho ông Phan tiện nghi hành sự. Oâng Phan được bầu chọn là tổng lý, tức là người thay quyền hội chủ chấp hành việc hội. Hoàng Trọng Mậu làm bí thư" (20) Vị hội trưởng đã không nói gì đến sự thay đổi tôn chỉ của VNQPH, cũng không buồn nói đến tổ chức của hội gồm Tổng vụ bộ mà Cường Để đứng đầu, Bình nghị bộ và Chấp hành bộ gồm tất cả 15 người phụ trách. Hoàng trọng Mậu chỉ giữ chức Quân vụ ủy viên lại được Cường Để xem là nhân vật thứ hai sau Phan Bội Châu và không thừa nhận minh bạch chức hội trưởng của mình. Nhận xét về tổ chức mới được thành lập, Cường Để viết: "Nhưng làm việc mà kinh tế tự mình không có, chỉ có người ngoài giúp đỡ khó có kết quả tốt nên những họat động của ông Phan hồi ấy lúc đầu tuy có rộn rực nhưng sau chẳng khỏi im dần đi, cho đến cuối năm thì cơ hồ không có gì nữa". Việc của VNQPH là việc của ông Phan, và cơ hồ không còn gì vào cuối năm 1912. Không còn gì hay còn gì thì trên thực tế VNQPH không còn chỗ trong tâm trí Cường Để. Và Cường Để có những họat động độc lập: về Nam Kỳ ba thánng (1913) quyên góp chừng 50.000 đồng, đi Aâu Châu tám tháng (1913-1914). Từ đó Cường Để hầu như không còn họat động nào liên quan đến VNQPH dù trên danh nghĩa ông vẫn là hội trưởng. Thậm chí khi đề cập đến cuộc khởi nghĩa năm 1916 mà vua Duy Tân đồng ý tham dự , cũng không biết (và làm như không biết?) rằng cuộc khởi nghĩa đó là do VNQPH trong nước tổ chức. Cường Để cũng không hề nhắc đến cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên (1917) do Lương Ngọc Quyến (người đồng chí đã cùng ông học một thời gian ở trường Chấn Võ) với danh nghĩa VNQPH. Từ năm 1912 cho đến lúc Phan Bội Châu bị bắt (1925), Cường Để và Phan Bội Châu đã thực sự không còn chung chí hướng và họat động. Trần Viết Ngạc
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 19, 2011 3:41:13 GMT 9
Bãi cọc Bạch Ðằng Giang
Viên Linh Cách đây ba năm, người viết bài này được đọc một bản tin khảo cổ, cho biết Việt Nam mới tìm thấy những cây cọc gỗ vĩ đại có đai bằng sắt. Ngô Quyền đại phá quân Tầu trên sông Bạch Ðằng, thế kỷ thứ mười. Tranh mộc bản dân gian. Bản tin nói rằng để khảo sát những cây cọc gỗ này, các chuyên gia người Nga đã được mời đến tham khảo. Họ tìm được 38 cây cọc như thế. Tin chi tiết cho hay: “Các nhà khảo cổ học đã tìm được 38 cây cọc khi khai quật một diện tích 100 mét vuông tại khu vực di tích Bãi Cọc Bạch Ðằng Giang trong vùng Vạn Muối, xã Nam Hoa, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh.” Cọc có đường kính 10-22 phân, một đầu vót nhọn và cắm thành từng bó cụm. Theo một nhà khảo cổ học ước đoán, những cọc này đóng ven sông, vừa dùng ngăn cản các chiến thuyền xông vào bờ, vừa cản quân bộ tràn từ thuyền lội lên đất liền. Như thế, đây là những cây cọc có sứ mệnh chống lại những kẻ ngoại bang xâm nhập, vậy đây là những linh vật thuộc về lịch sử. Theo Việt Nam Sử Lược của Lệ Thần Trần Trọng Kim, nước Việt Nam ta trải qua bốn ngàn năm văn hiến đã bị Bắc thuộc bốn lần. Lần thứ nhất vào năm 111 trước Công nguyên được ghi dấu bằng một nhân tài ở Việt Nam là ông Lữ Gia. Ðến năm 40 sau Công nguyên, hai chị em nữ lưu Trung Trắc Trưng Nhị phá Bắc thuộc đem lại nền tự chủ cho Việt Nam. Nhưng chỉ được 3 năm, đến năm 43 sau Công nguyên, Mã Viện kéo quân sang và đặt nền Bắc thuộc lần thứ hai. Ðến năm 544 sau Công nguyên, dân tộc Việt Nam lại nổi dậy phá Bắc thuộc với triều đại nhà tiền Lý là Lý Nam Ðế (Lý Bôn), rồi đến Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục) và đến năm 602, tướng Lưu Phương nhà Tùy đem quân sang Giao Chỉ thuyết phục Lý Phật Tử, là hậu duệ của Lý Nam Ðế, đánh lại Triệu Việt Vương và chiếm thành Long Biên, lúc đó là thủ phủ Giao Châu, lập nên nước Nam Việt. Lưu Phương lấy lý lẽ thiệt hơn khuyến dụ Lý Phật Tử hàng. Lý Phật Tử biết mình yếu thế không cự nổi đành xin hàng. Việt Nam lại bị Bắc thuộc lần thứ ba. Và lần Bắc thuộc thứ tư xảy ra vào thời Hồ Quí Ly 1407. Mãi tới năm 1428, Bình Ðịnh Vương Lê Lợi mới đánh bại nhà Minh, lấy lại nền tự chủ cho nước nhà. Nhân vụ tìm được bãi cọc và những cây cọc lịch sử đã giúp chiến thắng quân Tàu hai lần trên sông Bạch Ðằng Giang được tìm thấy trong lúc này phù hợp với tình hình đảng CSVN đang dâng đất dâng biển để giữ thế cai trị độc quyền quê hương Việt Nam, với ý đồ chấp nhận làm một chư hầu nhỏ mọn, chúng ta nên đọc lại sử Việt để thấy tiền nhân anh hùng bất khuất như thế nào trước Bắc phương. Và bài này được hình thành trong những suy nghĩ ấy, lần giở những trang sử chống Bắc phương theo những suy nghĩ ấy. Ðầu năm 900, nhà Ðường bên Tàu sắp suy tàn với loạn lạc trong nước. Tại đất Giao Châu có người tên Khúc Thừa Dụ, một hào phú nổi dậy xưng vương và được nhà Ðường phong cho chức Tiết Ðộ Sứ. Nhà Ðường mất, rồi đến nhà Hậu Lương, rồi đến nhà Nam Hán cai trị miền Nam nước Tàu. Khúc Thừa Mỹ, là cháu Khúc Thừa Dụ, vì chỉ thần phục nhà Hậu Lương, liền bị tướng Nam Hán là Lý Khắc Chính kéo quân sang đánh và đô hộ. Ðến năm 931, Dương Diên Nghệ, thuộc hạ của Khúc Thừa Hạo, cha của Khúc Thừa Mỹ, nổi lên đánh bọn Lý Khắc Chinh và lên làm Tiết Ðộ Sứ. Sau đó Dương Diên Nghệ bị thuộc hạ là Kiều Công Tiễn giết và cướp quyền. Dương Diên Nghệ có người tướng tên là Ngô Quyền, được Nghệ gả con gái cho vì có tài và phong cho giữ đất Ái Châu là Thanh Hóa ngày nay. Nghe tin cha vợ bị giết, năm 938, Ngô Quyền bèn chiêu mộ quân lính, đánh Kiều Công Tiễn trả thù cho chúa. Kiều Công Tiễn bèn chạy sang Nam Hán cầu cứu. Vua Nam Hán bèn sai Thái Tử Hoằng Tháo đem quân sang đánh Ngô Quyền theo đường sông Bạch Ðằng Giang. “Khi quân Hoằng Tháo vào gần đến sông Bạch Ðằng, thì bên này Ngô Quyền đã giết được Kiều Công Tiễn. Một mặt ông truyền hịch cho quân sĩ phải hết sức phòng bị, một mặt sai người lấy gỗ cặp sắt nhọn, cắm ngầm ở dưới sông Bạch Ðằng, xong rồi chờ đến lúc thủy triều lên, cho quân ra khiêu chiến. Quân Nam Hán đuổi theo, đến lúc nước xuống, Ngô Quyền hồi quân đánh ập lại, quân Nam Hán thua chạy, bao nhiêu thuyền mắc vào cọc gỗ thủng nát mất cả, người chết quá nửa. Hoằng Tháo bị Ngô Quyền bắt được đem về giết đi.” (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược) Ngô Quyền phá quân Hán, chấm dứt cuộc Bắc thuộc lần thứ ba, lên làm vua lập triều đại nhà Ngô và khởi đầu cho một trang sử tự chủ vẻ vang tiếp nối bởi các triều đại Ðinh Lê Lý Trần. Trương Hán Siêu, một danh sĩ đời Trần đã làm bài phú về trận Bạch Ðằng Giang trong có trích đoạn sau đây: Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, Ðã có giang san. Quả là trời đất cho nơi hiểm trở, Cũng nhờ nhân tài giữ cuộc trị an. Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã, Trận nào bằng trận Duy Thủy, có quốc sĩ họ Hàn. Khi trận Bạch Ðằng mà đại thắng, Bởi đại vương coi thế giặc nhàn. Tiếng thơm còn mãi, Bia miệng không mòn. Ðến chơi sông chừ ủ mặt, Nhớ người xưa chừ lệ chan. Rồi vừa đi vừa ca rằng: “Sông Ðằng một dải dài ghê, Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Ðông. Những phường bất nghĩa tiêu vong, Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!” Khách cũng nối tiếp mà ca rằng: “Anh minh hai vị thánh quân, Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh. Giặc tan muôn thuở thanh bình, Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.” (Trương Hán Siêu, Bài phú Sông Bạch Ðằng) Lịch sử Bạch Ðằng Giang lại tái diễn với trận đánh lẫy lừng vào năm 1288. Lúc này nước Tàu đang bị người Mông Cổ cai trị với triều đại nhà Nguyên. Nhưng, khác với trận Bạch Ðằng Giang của Ngô Quyền, quân Tàu kéo chiến thuyền vào đánh nước ta, thì lần này quân Nguyên lại kéo chiến thuyền về nước qua ngả Bạch Ðằng Giang. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim tả trận Bạch Ðằng giang này như sau: “Lúc ấy, các tướng bèn bàn với Thoát Hoan (con trai vua Nguyên bị bại trận lần trước, lần này kéo sang phục thù): “Quân ta đóng ở đây, thành trì đã không có, kho tàng lại cạn cả, và bây giờ là đang lúc hết Xuân sang Hạ, khí trời nồng nực, mà lại những chỗ hiểm yếu đều mất cả, chi bằng hãy rút quân về, rồi sau sẽ liệu kế khác.” Ðây là lần thứ hai quân Nguyên sang xâm lăng Việt Nam. “Thoát Hoan thấy quân Hưng Ðạo Vương mạnh lắm, chưa có thể phá được, bèn nghe lời các tướng, sai Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp dẫn thủy quân theo đường sông Bạch Ðằng về trước. Hưng Ðạo Vương biết được, bèn sai tướng thuộc hạ là Nguyễn Khoái dẫn binh lẻn đi đường tắt lên mé sông thượng lưu sông Bạch Ðằng, kiếm gỗ đẽo nhọn bịt sắt đóng khắp giữa dòng sông, rồi phục binh chờ đến lúc nào thủy triều lên thì đem binh ra khiêu chiến, nhử cho thuyền giặc qua chỗ đóng cọc. Hễ lúc nào nước thủy triều xuống thì quay hình lại hết sức mà đánh.” “Các tướng đi đâu đấy cả rồi, Hưng Ðạo Vương tiến quân lên đánh giặc, sực nghe tin báo rằng Ô Mã-Nhi đã kéo quân về đến Bạch Ðằng, Hưng Ðạo Vương mới hô quân sĩ, trỏ sông Hòa giang mà thề rằng: ‘Trận này không phá xong giặc Nguyên, thì không về đến sông này nữa!’ Và đúng như tin báo, chiến thuyền của Ô Mã-Nhi và Phàn Tiếp đang xuông dòng sông Bạch Ðằng thì ‘bỗng chốc thấy tướng nhà Trần là Nguyễn Khoái dẫn chiến thuyền ra khiêu chiến, Ô Mã-Nhi tức giận thúc quân xông đánh, Nguyễn Khoái bèn quay thuyền chạy. Bấy giờ đang lúc thủy triều lên, mặt nước mênh mông, Ô Mã-Nhi vô tình thấy địch quân chạy, cứ thúc thuyền đuổi theo.” Các nhà khảo cổ học Nga và Việt Nam đang quan sát 1 trong 38 chiếc cọc gỗ có đai sắt khai quật từ sông Bạch Ðằng. Những chiếc cọc này là linh vật của đất Việt từng đánh bại Tầu từ bảy đến mười thế kỷ trước.Và như chúng ta đã biết, quân nhà Trần đại thắng quân Nguyên, một triều đại Mông Cổ đang cai trị dân Tầu, đi đến đâu thắng đến đấy, tràn qua Âu Châu như chốn không người, nhưng đã thua, và chỉ thua, ở Việt Nam. [Việt Nam khi lãnh thổ còn nhỏ, phía Nam mới tới khoảng Nghệ An, phía Bắc mới tới Ải Bắc, sau này các hủ nho không biết mình đang đứng ở đâu, cứ gọi đó là ải “Nam Quan.” Chỉ người đang ở phía Bắc mới gọi cái cổng ngăn chia Nam Bắc là cổng phía Nam, thế mà người đang đứng ở phía Nam, cũng gọi cái cổng ngó về phía Bắc là à Nam Quan, (như thế là tự đồng hóa mình như người ở phía Bắc) thì mất nước là phải.] Từ tính nể nang thế-nào-cũng-được dẫn tới sự ba phải, từ cảnh huống không quyết đoán dẫn tới sự nhịn nhục buông xuôi, lâu ngày trở thành căn-tính, đến nỗi trong tháng 6, 2011, trong cuộc thảo luận quốc tế về Biển Ðông ở Washington, D.C., người Tầu phải ngạc nhiên nói ra miệng: “Sao trước đây các anh không chống, bây giờ lại hung hăng thế?” Cho nên việc ôn lại lịch sử chống giặc Bắc phương của ông cha ta là việc vô cùng cần thiết. Các trận đánh thắng Tầu trên sông Bạch Ðằng đã xảy ra từ thế kỷ X và thế kỷ XIII, những chiếc cọc gỗ có đai sắt đã có mặt trong lòng sông ít ra là bảy hay 10 thế kỷ rồi, hãy nhớ lại và hãy xem lại lịch sử, biết đâu người ta sẽ bớt đi những mặc cảm chỉ nảy sinh trong những kiếp sống vô căn, vô tích, và... vô sản, nhất là vô sản tinh thần.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 29, 2012 7:18:00 GMT 9
TÂM THƯ gửi các vị lãnh đạo Việt Nam cùng đồng bào trong và ngoài nước về việc cải tổ hệ thống chính trị Cách đây 20 năm, bản TÂM THƯ gửi các vị lãnh đạo Việt Nam cùng đồng bào trong và ngoài nước về việc cải tổ hệ thống chính trị (sau này vẫn được biết dưới tên gọi ngắn là TÂM THƯ) đã được công bố, với hơn 700 chữ ký của những người đã tham gia phong trào ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Úc ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất, chống chính sách xâm lược của Hoa Kỳ ở Việt Nam.
Ở thời điểm mùa xuân năm 1990, khối Đông Âu sụp đổ, phong trào dân chủ ở Trung Quốc đã bị đàn áp đẫm máu ở Thiên An Môn. Ở Việt Nam, lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam hoảng sợ, kìm hãm cuộc đổi mới và đàn áp những tiếng nói dân chủ, phần lớn xuất phát từ trong nội bộ Đảng.
Ở nước ngoài, các tổ chức chống đối phấn khởi hi vọng vào sự sụp đổ nhanh chóng của chính quyền Việt Nam và Đảng cộng sản. Những tổ chức trước đó chủ trương vũ trang lật đổ nay tuyên bố chọn con đường hòa bình dân chủ.
Nhiều tuyên ngôn, tuyên cáo, hiệu triệu được phổ biến, kêu gọi "chuyển lửa về quê hương".
Ngay trong nội bộ phong trào Việt kiều ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng đã có ít nhất 4 bản tâm thư kêu gọi dân chủ hóa đời sống chính trị Việt Nam, song bản tâm thư mà chúng tôi công bố dưới đây có tiếng vang hơn cả, có lẽ vì nó tập hợp rộng rãi những thành viên tiêu biểu ở các nước, nội dung thể hiện một lập trường chân thành và trách nhiệm, kiên quyết mà ôn hòa.
Trong bối cảnh diễn biến tình hình trong phe các nước xã hội chủ nghĩa và sự hoảng sợ co cụm của lãnh đạo ĐCS VN, bản tâm thư đã gặp phản ứng tiêu cực của nhà cầm quyền -- sự tiêu cực dường như tỉ lệ với tiếng vang của nó trong dư luận, đặc biệt trong nội bộ ĐCS. Những người ký tâm thư hoặc không được cấp visa về nước, hoặc bị cật vấn, hù dọa. Những người được coi là chủ xướng bị theo dõi, cô lập, cấm cửa, có người được nêu tên trong suốt 14 năm trời ở "Viện bảo tàng tội ác Mỹ-ngụy" (đường Võ Văn Tần, TP HCM), danh sách 34 người ký tên đầu tiên (xem ở dưới) được niêm yết ở trụ sở các tỉnh đội và cơ quan công an, nhân viên sứ quán ở nhiều nước (kể cả đại sứ) được chỉ thị ngăn chận đồng bào ký tên hay thúc ép rút tên khỏi tâm thư...
Tuy nhiên, chủ trương mù quáng và thô bạo này không gặp sự đồng tình của cán bộ và đảng viên. Trong chừng mực an toàn cá nhân cho phép, nhiều người (kể cả ở cấp cao nhất) cũng đã kín đáo tỏ thái độ thông cảm, tôn trọng.
Nhân dịp kỷ niệm 20 năm bản Tâm Thư, chúng tôi công bố tài liệu này. Vì nhiều lí do. Trước hết, vì yêu cầu của một số bạn đọc ở trong nước và nước ngoài, bởi một lẽ khá đơn giản (và đáng ngạc nhiên) là nó chưa bao giờ được công bố trên tờ báo nào (Diễn Đàn, hay Đoàn Kết năm 1990, khi ban biên tập Diễn Đàn còn chịu trách nhiệm biên tập báo Đoàn Kết). Thứ nữa, để bản đọc có dịp nhìn lại, đánh giá quan điểm của Tâm Thư, xét xem những ý kiến nêu ra đã lỗi thời, hay vẫn còn là nhu cầu bức thiết của xã hội Việt Nam năm 2010.
Nguyễn Ngọc GiaoTrong vòng không đầy bảy tháng, cuộc đàn áp đẫm máu phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ ở Trung Quốc và sự sụp đổ của chế độ độc tài Ceausescu trước sự vùng dậy của nhân dân Rumani, bất chấp tàn sát, khủng bố, đã chứng minh sự phá sản toàn diện của mô hình xã hội chủ nghĩa do Stalin thiết lập ở Liên Xô từ những năm 1930, trong đó, nhân danh giai cấp vô sản, một cá nhân, một nhóm người hay một đảng phái tự cho mình quyền được đứng trên nhân dân, trên Nhà nước và pháp luật. Hoặc do ý thức rõ được sự phá sản đó hoặc do áp lực của quần chúng, từ mấy năm qua và đặc biết từ mấy tháng nay, hầu hết các đảng cộng sản Đông Âu, bắt đầu là Liên Xô, chính thức hay trong thực tiễn, đã từng bước đoạn tuyệt với chủ nghĩa Stalin và quan niệm chuyên chính vô sản, chấp nhận đối thoại hay hợp tác với những tổ chức khác, kể cả đối lập, cùng nhau xây dựng một nền dân chủ thực sư đa nguyên, nhằm huy động mọi sức lực, mọi tài năng đưa đất nước của họ ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay. Do những đường lối, chính sách không phù hợp với tình hình thế giới cũng như với thực tế của Việt Nam, nước ta đã bị cô lập về mặt kinh tế cũng như ngoại giao và vẫn chưa thoát ra khỏi cảnh nghèo khó. Đau lòng hơn nữa, cuộc đổi mới khởi động năm 1986 đã bị trì hoãn, bỏ lỡ một cơ may lớn, làm tổn thương lòng tin của nhân dân mới phần nào được phục hồi. Những biến cố vừa xảy ra ở Đông Đức, Tiệp Khắc và nhất là Rumani cho thấy là trong một tình hình chính trị, kinh tế, xã hội bế tắc kéo dài quá lâu, sự thụ động bề ngoài của quần chúng mà sức kiên nhẫn chịu đựng dẫu sao cũng có giới hạn, nhiều khi chỉ là sự bình lặng trước cơn bão lớn. Để tránh cho đất nước khỏi rơi vào thảm kịch Thiên An Môn hay Rumani, trước tiên cần nhận thức rằng không thề dùng đàn áp hay bạo động để giải quyết những vấn đề trầm trọng hiện nay của đất nước mà phải tìm được những phương pháp chính trị thích nghi. Chủ động đổi mới nhanh chóng và cơ bản hệ thống chính trị -- song song với đổi mới kinh tế -- chính là chìa khoá để thoát ra khỏi khủng hoảng, tránh những đổ vỡ cho xã hội ; đó vừa là yêu cầu khách quan cấp bách, vừa là bằng chứng của quyết tâm và thực tâm đổi mới đất nước. Từ những nhận định nói trên và nghĩ rằng Tổ quốc Việt Nam là của toàn thể nhân dân Việt Nam chứ không phải của riêng ai và nhất là không thể nào đổi mới và xây dựng đất nước nếu không có hoà bình ổn định, chúng tôi, những người ký tên dưới đây, không nhân danh gì khác ngoài lương tâm, lý trí và tình cảm dân tộc của chính mình, kêu gọi các nhà lãnh đạo hiện nay của Việt Nam, vốn đã có công lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước, hãy vì quyền lợi tối cao của dân tộc, sớm cải tổ hệ thống chính trị hiện có bằng cách : 1. thực sự tách rời các định chế của Nhà nước ra khỏi bộ máy chính đảng để cho Nhà nước thu hồi trọn vẹn những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của mình, để cho không một ai cũng như không một tổ chức nào có thể đứng trên và chi phối Nhà nước. 2. thiết lập một nền dân chủ đa nguyên, thực sự bảo đảm an toàn cá nhân và các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, lập đảng... nhằm tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam, không phân biệt quá khứ, chính kiến hay tôn giáo, tham gia luận bàn và, đặc biệt thông qua tuyển cử tự do, làm và kiểm tra việc nước. 3. ngay trước mắt, mở ra cuộc đối thoại thành tâm với toàn thể xã hội, để toàn dân bàn định một cương lĩnh hành động và đề ra những biện pháp cấp bách đặt nền tảng cho một chế độ thực sự lấy dân làm gốc. Chúng tôi xin gửi tới đồng bào trong nước những tình cảm thiết tha nhất và tin tưởng rằng rằng đồng bào sẽ vượt qua mọi khó khăn, đoàn kết thực hiện công cuộc dân chủ hoá đất nước. Chúng tôi kêu gọi mọi kiều bào từng băn khoăn, thao thức về tình hình và tương lai của quê hương hãy ký tên ủng hộ bức tâm thư và cùng chúng tôi, trong tinh thần hoà giải hoà hợp dân tộc đich thực, tìm những phương thức hoạt động thích ứng nhằm hỗ trợ đồng bào trong nước xây dựng một xã hội dân chủ, tự do, nhân ái, công bằng và ấm no. Ngày 22 tháng 1 năm 1990 DANH SÁCH những người ký tên đầu tiên (tháng 1.1990) : 1. Vĩnh Anh (Canada) 2. Lê Văn Cát (Tây Đức) 3. Huỳnh Trí Chánh (Nhật) 4. Nguyễn Văn Chuyển (Nhật) (*) 5. Lê Văn Cường (Pháp) 6. Nguyễn Văn Danh (Ý) 7. Nguyễn Phạm Điền (Úc) 8. Lê Văn Đồng (Berlin) 9. Nguyễn Ngọc Giao (Pháp) 10. Nguyễn Tuệ Hải (Úc) 11. Thái Thị Khánh Hạnh (Canada) 12. Nguyễn Văn Hiền (Bỉ) 13. Nguyễn Đức Hiệp (Úc) 14. Huỳnh Hơn (Berlin) 15. Nguyễn Đăng Hưng (Bỉ) 16. Lê Thành Khôi (Pháp) 17. Đinh Cao Minh (Pháp) 18. Lê Minh (Úc) 19. Lâm Thành Mỹ (Pháp) 20. Lương Châu Phước (Canada) 21. Trần Tử Quán (Ý) 22. Bùi Văn Nam Sơn (Tây Đức) 23. Nguyễn Văn Tạo (Berlin) 24. Lê Văn Tâm (Nhật) 25. Tôn Thất Nguyễn Khắc Thiêm (Bỉ) 26. Phạm Duy Thoại (Berlin) 27. Phạm Ngọc Thuần (Pháp) (*) 28. Đào Văn Thụy (Pháp) 29. Văn Thự (Pháp) (*) 30. Nguyễn Kỳ Toàn (Canada) 31. Trương Phước Trường (Úc) 32. Phan Quốc Tuyên (Thụy Sĩ) 33. Đỗ Khắc Uy (Nhật) 34. Vinh, tức Vĩnh Khoa (Bỉ) (*) đã mất
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 25, 2012 8:03:40 GMT 9
Từ Chủ nghĩa Thực dân đến chủ nghĩa Dân tộc sang Chủ nghĩa Cộng sản Nguyễn Văn Lục LTG: Tham vọng xâm chiếm thuộc địa ở Á Châu là theo đuổi một ảo tưởng và đùa giỡn với hiểm nguy. Các ông đã không hiểu đầy đủ về các dân tộc Châu Á cũng không thua gì chúng ta; rằng họ đã thừa hưởng một nền văn minh lâu đời hơn chúng ta; điều đó đã được khắc sâu trong trí nhớ của họ và trong niềm tự hào của họ. Họ đã có được tự do và họ mong muốn vẫn được tự do. Thật không khó khăn gì tiên đoán rằng khi tiếp xúc với nền văn minh của chúng ta, với ngọn gió về tư tưởng giải phóng đã lan truyền trên khắp thế giới, họ sẽ mau chóng cảm thấy nhu cầu dành được độc lập-một mục tiêu và một vinh dự của mọi con người, một sự thức tỉnh và niềm phấn khởi… Họ sẽ nổi dậy một ngày nào đó, và sự nổi dậy của họ sẽ đưa đến chiến thắng, bởi vì đó là đặc quyền của tự do để chiến thắng ở khắp nơi.” Jules Delarosse, nghị viên, phát biểu tại viện dân biểu, ngày 22 tháng 12, 1885. (Indochina An Ambiguous Colonization, 1858-1954. Pierre Brocheux, Daniel Hémery, trang 281) Nguyễn Văn Lục——————————————- Từ Chủ nghĩa Thực dân đến chủ nghĩa Dân tộc sang Chủ nghĩa Cộng sản với chính sách Tự-Thực-dân (Auto-colonization) và chính sách Bên Lề (Marginalization) Chủ nghĩa CS Lời trích dẫn trên đây ngay từ năm 1885 của Nghị Viên Jules Delarosse phải chăng là một lời tiên tri? Và lời tiên tri ấy sẽ còn đúng mãi cho mọi thời đại, mọi dân tộc trong đó có sự áp bức, chà đạp lên con người – bất kể nó là do chế độ thực dân – do chế độ độc tài phát xít hay là do chế độ độc tài cộng sản hiện nay ở Việt Nam gây ra. Tôi tin như thế và lịch sử sẽ diễn ra sau này như đã diễn ra cách đây một thế kỷ! Chúng ta nhìn lại quá trình tranh đấu dành độc lập tại Việt Nam đã diễn ra như thế nào? Nó đã khoác áo Chủ nghĩa Dân tộc, nêu cao được lòng ái quốc ngay từ đầu do những nhà ái quốc chân chính chủ xướng. Năm 1930 Khủng hoảng thuộc địa đã cho thấy dấu hiệu rạn nứt. Lợi dụng thời cơ chính trị sau thế chiến thứ hai và cùng lúc phong trào cộng sản lớn mạnh do Liên Xô lãnh đạo. Cộng sản Việt Nam cũng như một số nước Đông Âu đã đã thay đổi cuộc chiến tranh chống thuộc địa, hoặc chống Phát Xít biến thành cuộc chiến tranh Ý thức hệ Cộng sản-Tư Bản. Chú thích: Sau chiến chiến thứ hai, có 4 nước Đông Âu sau đây bị Hồng quân Liên Xô nhuộm đỏ là: Ba Lan (Poland – DCVOnline), Đông Đức, Romania và Bulgary. Còn có 4 nước rơi vào tình trạng ngoại lệ là Hung Gia Lợi (Hungary), Tiệp Khắc , Nam Tư và Albania. Trong những nước này đặc biệt là có phe cộng sản trong nước nổi lên chiếm chính quyền như ở Việt Nam. (Xem Đông Âu tại Việt Nam, Lý Thái Hùng, trang 58-59, Vietnews, 2006). Đó là một điều bất hạnh nhất cho mọi người Việt Nam. Bởi vì từ nay, sự hy sinh của người Việt Nam là sự hy sinh cho cộng sản Quốc tế. Xin hãy đi lại từ đầu. Chủ nghĩa thực dân đế quốc Sự phát triển kỹ nghệ lên đến tột đỉnh của Tây Phương đã đưa đến một tình trạng “khủng hoảng thừa”, khủng hoảng thặng dư hàng hóa. Khủng hoảng này có thể đưa đến sự suy sụp hệ thống tư bản phương tây. Và từ bối cảnh kinh tế các nước kỹ nghệ phương Tây đã dẫn đưa các nước này đến chỗ đi tìm thị trường tiêu thụ. Sự cạnh tranh tìm kiếm thị trường đã dẫn đến việc phải dùng sức mạnh quân sự để chinh phục và độc quyền về thị trường. Nước Anh là kẻ dẫn đầu của chủ nghĩa tư bản đế quốc thực dân trong vai trò người đạo diễn số một. Chế độ thuộc địa tự nó có mặt tối (Dark side) của một chủ trương “bành trướng thuộc địa”. Vì thế mà nước Pháp mới đầu sang Việt Nam chỉ để buôn bán như các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha rồi sau đó dần dần ý đồ xâm lược mới thành hình. Họ đã không phải chỉ xâm chiếm Việt Nam mà thôi mà tất cả những thị trường thế giới nào thuận lợi cho việc buôn bán. Chủ nghĩa thực dân tóm tắt trong 4 chữ: Xâm chiếm và khai thác. Tất cả những chuyện khác chỉ là phụ. Vì thế những người viết sử như Cao Huy Thuần trong luận án tiến sĩ sử “Les missionnaires et la politique coloniale Francaise au VietNam (1857-1914) xuất bản năm 1969 của ông đã cho rằng việc xâm lăng nước ta đi đôi với việc truyền đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam. Thiên Chúa giáo “mở cửa” cho người Pháp vào xâm chiếm Việt Nam. Đồng thời cũng muốn chứng minh sự tiếp tay của giám mục Puginier trong việc này. (Giám mục Paul Francois Puginier, 1835-1892, là người có trách nhiệm tán đồng và hỗ trợ chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam). Sự khoanh vùng về sự hợp tác giữa Thiên Chúa giáo Pháp và Thực dân Pháp trong khoảng thời gian 1857-1914 rơi đúng vào thời điểm Puginier đang làm giám mục ở Đàng ngoài. Khoảng thời gian 1857-1914 không tương ứng với chiều dài lịch sử của Thiên Chúa giáo có mặt ở Việt Nam vào năm 1533. Đồng thời cũng không tương ứng với chiều dài lịch sử của thực dân Pháp ở Việt Nam. Hơn nữa, một cá nhân Puginier không đủ mang sức nặng trách nhiêm lịch sử để đề ra một chính sách truyền đạo ở Việt Nam hoăc chỉ ra cho chính quyền Pháp phải làm gì. Và cũng đừng nên quên rằng trên cả nước Pháp, còn có một thẩm quyền cao hơn họ là Vatican để điều động những tăng lữ sang truyền đạo ở Việt Nam, trong đó có những giáo sĩ người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha. Họ có những giáo đoàn riêng và phân vùng truyền đạo riêng của họ. Họ không bị chi phối hoặc chỉ đạo bất cứ về phương diện gì bởi Hội truyền giáo Ba Lê. Và họ chỉ chịu trách nhiệm trực tiếp với thẩm quền Vatican mà vị đại diện là khâm sứ tòa thánh. Hơn nữa, chính sách của Vatican không đi theo đường hướng của nước Pháp mà ngược lại Vatican chủ trương “bản địa hóa” giáo hội bản xứ bằng cách truyền chức cho 4 vị Giám mục Việt Nam tiên khởi. Những vị này có nhiệm vụ thay thế dần các giám mục phương Tây. Luận án cho thấy không chú trọng cho đủ đến hai đối tác chính trong vấn đề xâm lăng của Pháp ở Việt Nam: Đó là triều đình Huế và chính quyền thực dân Pháp. Cả luận án hầu như không nói gì đến vai trò và trách nhiệm của triều đình Huế cũng như ý đồ xâm lăng của thực dân Pháp trong việc mất nước. Một nhóm gồm 600.000 giáo dân thời đó phần đông đều thuộc thành phần ít học, nhà quê nhà mùa, sống hẻo lánh ở các vùng ven biển không đủ tư cách để “bán nước”, mà muốn bán cũng không được. Không ai đặt câu hỏi là giả dụ không có những nguời Thiên Chúa giáo giáo quê mùa, dốt nát này thì liệu Việt Nam có mất vào tay Pháp hay không? Trên thực tế, các cuộc nhượng địa cho Pháp đều chính thức được ký kết giữa triều đình Huế và đám quan lại bất tài,cố chấp và nhu nhược và đại diện chính quyền Pháp. Những suy luận gán ghép, một chiều và võ đoán, không nhìn đầy đủ lịch sử thế giới. Nhất là không nhìn cho rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân là gì? Cùng lắm việc truyền đạo chỉ là cái cớ lợi dụng ắt có và đủ của một vài lãnh đạo tôn giáo mà người Pháp cố tình che dấu cái mục đích bành trướng thị trường thuộc địa của họ. Người viết có không biết bao nhiêu những lá thư của các linh mục người Pháp gửi về cho gia đình và được bà Đặng Phương Nghi dịch ra tiếng Việt để thấy được tấm lòng của họ, lý tưởng của họ cũng như những khó khăn mà họ phải đương đầu. Tại sao ông Cao Huy Thuần không muốn nhắc nhở đến một lá thư nào trong đống tài liệu ở thời kỳ ấy? Nếu có sự cấu kết giữa tôn giáo và chính trị, chúng ta sẽ giải thích thế nào về việc Pháp xâm chiếm Tunisie, Algérie, một phần Trung Hoa, các nước Châu Phi sau đó có Việt Nam, Cam Bốt, Lào? Mục đích truyền đạo nào ở những nước này? Trong khi đạo Thiên Chúa đã được đưa vào Việt Nam từ rất sớm trong khi Thực dân Pháp đến chậm hơn ba thế kỷ? Nhìn lại cho thấy việc khai thác thuộc địa tính đến cuối thế kỷ 19, nước Pháp đã cộng thêm diện tích đất đai của mình rộng thêm 4 triệu dặm vuông. Và riêng mảnh đất Đông Dương đã đem lại con số tổng cộng 270.000 dặm vuông. Vào năm 1890 đến 1914, một phúc trình về số đầu tư của tư nhân Pháp vào Việt Nam đạt con số kỷ lục 126.8 triệu đồng gold francs. Trong đó 57% đầu tư vào kỹ nghệ, 10% vào nông nghiệp và 33% vào thương mại. Trong đó 75% được đầu tư ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Tên các công ty nổi tiếng của Pháp ở Đông Dương như: công ty len sợi Bourgoin-Meiffre, Société-cotonnière de l’Indochine, Société cotonnière du TonKin, Société des ciments de Porland, công ty Francaise d’entreprise de dragages et de travaux publics. Compagnie des Tramways de l’Indochinevv. (Trích Indochina, Ibid, trang 161-162). Hai nước đông dân số nhất Á Châu là Trung Quốc và Ấn Độ như ta thấy hiện nay là những cường quốc đáng nể. Nhưng vào thời bấy giờ lại chỉ là những dân tộc cực kỳ nghèo đói không khác gì các nước Phi Châu hay Châu Mỹ La tinh. Họ trở thành một thị trường béo bở cho các nước đế quốc thực dân đến khai thác, xâu xé xẻ thịt chẳng khác gì đàn sư tử cấu xé một con nai. Nhưng chính từ những hoàn cảnh bị bóc lột, bị khai thác thị trường, bị xỉ nhục đã trỗi dạy và thức tỉnh tinh thần và niềm tự hào dân tộc của các nước này trên toàn thế giới như trong lời phát biểu của Jules Delarosse ngay từ năm 1885. Chủ nghĩa Dân tộc Chủ nghĩa Dân Tộc thường bắt đầu và thành hình từ một thể chế quốc gia hay từ một chính quyền. Lúc đó được gọi là một quốc gia có chủ quyền (Nation-State) phân biệt với các quốc gia khác. Khi có một quốc gia có chủ quyền, để bảo vệ quốc gia ấy, chủ Nghĩa Dân Tộc hay Chủ nghĩa yêu nước trở thành tiếng gọi lý tưởng của toàn dân chúng khi đất nước có lâm nguy. Đối với người Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc tồn tại, bàng bạc trong các chiến dịch quân sự của các vị anh hùng như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Tây Sơn nhằm chống lại sự xâm lăng của kẻ thù từ phương Bắc. Đến thời Thực Dân Pháp thì chủ nghĩa dân tộc đồng nghĩa với với việc chống lại Thực dân Pháp ngay từ 1900 đến 1939. Sự xâm lăng của người Pháp vào Việt Nam đưa đến hai thái độ tiêu biểu của giới sĩ phu trước khi có cộng sản nhập cuộc: Thái độ tranh đấu ôn hòa: Tranh đấu ôn hòa nhắm mục tiêu làm thế nào để Việt Nam phát triển đủ mạnh để có thể đương đầu với người Pháp. Đó là các Phong trào Cần Vương (1885-1912), phong trào Văn Thân (1907-1908), phong trào Đông Du ((1905-1939). Phong trào Duy Tân với Phan Bội Châu, tác gỉả cuốn Viet Nam vong Quốc sử. Hoặc những người như Nguyễn Trường Tộ (NTT). NTT đã dâng lên nhà vua những bản văn tham luận như Tế Cấp Luận, Giáo Môn Luận bàn về những việc phải làm ngay để canh tân, tự lực, tự cường phát triển đất nước. Tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ muốn đánh bại tư tưởng chủ bại- theo định mệnh thuyết – của một số quan lại trong triều đình và thức tỉnh niềm tự hào dân tộc. Triều đình đã ngoảnh mặt làm ngơ trước những tấu chương của NTT – một thái độ trái ngược hẳn với tinh thần của Nhật Bản. (Chú thích: xem thêm Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Trương Bá Cần, 1988). Ngoài khuynh hướng chủ bại, một số lớn sĩ phu chủ trương chống lại Pháp bằng võ lực. Họ không chấp nhận thái độ chủ bại của triều đình Huế. Chủ trương chống Pháp bằng võ lực xảy ra liên tục, nhưng lẻ tẻ, cá thể từ Nam chí Bắc rất là nhiều, gây khó khăn cho người Pháp như: Trương Công Định 1862, Tri huyện Toại và Thiên Hộ Dương 1865, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân 1868, Đoàn Công Bửu, Nguyễn Xuân Phụng 1874, Tôn Thất Thuyết, Tôn Thất Liệt 1885. Mai Xuân Thưởng rồi Trần Văn Dự, tiếp theo Nguyễn Phạm Tuân, rồi Nguyễn Xuân Ổn đến Phan Đình Phùng. Tiếp theo nữa là Tán Thuật rồi Đốc Quế, Đốc Thây, Tiền Đức, Ba Phúc, Hoàng Hoa Thám tức Đề Thám và những nhân vật có uy tín như Kỳ Đồng, Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Cường Để, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Trần Chánh Chiếu, Lê Hồng Phong… (Trích tóm lược trong Niên Lịch Công Đàn, ban sưu tầm gồm Nguyễn Ngọc Phách, Phạm Xuân Thái, Nguyễn Văn Hộ, Đặng Trần Lân, Nguyễn Văn Ry, Nguyễn Đình Tuấn, 1960, trang 153-15). Nhưng gây chấn động và biểu tượng nhất là cuộc nổi dậy của Nguyễn Thái Học, tại Yên Bái. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Tòa án Pháp kết án 80 án tử hình và 594 người bị tù khổ sai chung thân Nguyễn Thái Học, đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân đảng cùng với 12 đồng chí bị xử chém ngày 17.6.1930. Trước khi chết, họ còn hô to Viet Nam vạn tuế. (Trích tóm lược Indochina Pierre Brocheux, Daniel Hemery, trang 316). Cho nên đối với đa số người dân, chủ nghĩa dân tộc trở thành ý nghĩa, lý tưởng đời người. Tình tự dân tộc là tình tự quê hương, đất nước, con người. Tình tự dân tộc ấy có thể thấy nơi nhiều dân tộc khác trên thế giới như chủ nghĩa dân tộc của dân Ái Nhĩ Lan, dân Ấn Độ, dân Ai Cập, v.v… Và nó thể hiện cụ thể nơi các Liên minh dân tộc như Liên Minh các nước Ả Rập, 1945, Liên minh Phi Châu da đen (Panafrican, chống lại người Anh). Hoặc các đảng phái Quốc Gia như Quốc Dân Đảng, Sinn Fein, Congress, Wafd, Đồng Minh Hội, v.v… Và mỗi dân tộc có những biểu tượng anh hùng cho từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử. Những nhân vật lãnh đạo này là những người yêu nước tranh đấu cho quyền lợi dân tộc của đất nước họ. Từ Phi Châu sang Á Châu, từ các nước Ả Rập, từ các nước nói chung được gọi là nhược tiểu. Nước nào thì có anh hùng nấy. Họ là tiêu biểu, là những mẫu người của thời đại. Họ là những Nehru, Nasser, Sukarno, Nyerere, Nkrumah. Chính vì thế chủ nghĩa dân tộc thường được đồng hóa với chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng và được coi như chỗ đứng của con người, cội nguồn của mỗi con người. Đối với Lý Chánh Trung, một trí thức thiên tả, dấn thân và nhập cuộc chỉ có một tư tưởng nồng cốt: Tìm về dân tộc, đặt dân tộc lên trên tất cả. Dân tộc trên lý thuyết, trên chủ nghĩa, trên Quốc Gia, trên đảng phái, trên quyền lợi cá nhân. Và chỉ qua dân tộc, người thanh niên mới tìm được chỗ đứng cho mình. Ông viết: “Và qua dân tộc, người thanh niên trí thức đã tìm được chỗ đứng. Lòng chúng tôi cũng rợp bóng gươm đao như lòng dân quê đất Việt. Và ít nữa là trong lúc ấy, chúng tôi đã tìm được một chỗ đứng, trên mảnh đất Quê hương. (..) Vì tôi không thể chọn lựa dân tộc, cũng như không chọn lựa gia đình tôi, nhưng đã là người thì chỉ có thể thành người giữa một gia đình, một dân tộc”.(Trích Tìm về Dân tộc, Lý Chánh Trung, trang 86-88, nxb Trình Bày). Thật không có gì đúng hơn. Nhưng Lý Chánh Trung đã gián tiếp cài đặt “cũng rợp bóng gươm đao” một cách chỉ thị gián tiếp kháng chiến Việt Minh cộng sản. Đó là chỗ sai lầm, ảo tưởng. Cũng chính vì quan điểm cài đặt chủ nghĩa dân tộc vào phong trào kháng chiến do Việt Minh chủ động đã dẫn đưa cả một thế hệ thanh niên Việt Nam lao vào chiến tranh tiêu phí hàng triệu sinh mạng con người một cách oan uổng. Tại sao lại có một nhận định tiêu cực như thế về dân tộc? Sự lợi dụng chủ nghĩa dân tộc cho những chiêu bài chính trị. Vấn đề rõ rệt là không phải chỉ có một chủ nghĩa dân tộc mà có nhiều chủ nghĩa dân tộc. !Chủ nghĩa dân tộc có thể trở thành chiêu bài, bị lợi dụng, bị che đậy với nhiều ẩn ý và âm mưu khác. Sự lợi dụng chủ nghĩa dân tộc cho những chiêu bài chính trị cũng đã từng xảy ra trong lịch sử của nhiều nước .. Đến nỗi người ta có thể nói rằng có bao nhiêu quốc gia thì bấy nhiêu chủ nghĩa dân tộc! Tại Âu Châu, thế kỷ 19, những tư tuởng bành trướng thế lực của các đế quốc Âu Châu cũng khoác áo dân tộc để có cơ hội xâm chiếm các nước thuộc Phi Châu và Á Châu. Chủ nghĩa dân tộc được che đậy khéo léo dưới chiêu bài khai hóa văn minh mà thực chất chỉ là tham vọng bành trướng thuộc địa. Đức Quốc Xã tàn sát người Do Thái cũng nhân danh chủng tộc hay sự ưu thế của dân tộc Đức của mình, khích động tinh thần tự hào chủng tộc trong việc diệt trừ các chủng tộc bị coi là hạ đẳng, không xứng đáng. Ở Việt Nam, sau thế chiến thứ hai, khi mà chiến tranh lạnh bắt đầu xảy ra giữa Chủ nghĩa Tự Do và Chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa Dân Tộc được cất dấu trong túi áo đã được lôi ra dùng dưới những chiêu bài nửa thực, nửa hư như “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”, “yêu chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc Mỹ và tay sai bán nước”. Tôi đã nhìn thấy một bức hình rất ý nghĩa, hình ảnh 5 nghĩa quân mặc đồng phục màu đen, người đứng phía tay mặt có thể chỉ đeo bên mình một thanh gươm, người thứ hai có thể đeo súng và người chót cầm lá cờ đỏ sao vàng, đằng sau họ treo một biểu ngữ: Hy sinh vì tổ quốc! (Trích: Viet Nam, 1945, The Quest For Power, David G. Marr, trang 233) Tổ Quốc nào đây? Hàng triệu người Việt Nam đã hy sinh và bỏ mình vì bốn chữ: Hy sinh vì tổ quốc, vì độc lập dân tộc để chống thực dân trong thế kỷ 20 mà thực ra là để cổ súy và áp đặt chủ nghĩa xã hội, sau khi đã thu hồi được độc lập! Ông Bùi Tín trong Mặt Thật đã đặt câu hỏi, “Một vấn đề rất lớn về ông Hồ Chí Minh: Ông là người yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc hay là một người cộng sản?” Câu trả lời của ông Bùi Tín là: “Về sau dần dà, ông trở nên cán bộ của quốc tế cộng sản Ba, ông bị ảnh hưởng lớn của Stalin và Mao Trạch Đông, đích của ông là giải phóng, giành lại độc lập cho đất nước và đích cao hơn nữa là cách mạng vô sản ở Đông Dương, ở Châu Á và toàn thế giới”. (Trích Mặt Thật, Hồi ký chính trị của Bùi Tín, Thành Tín, Turpin Press, 1994, trang 97). (Còn nữa)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 25, 2012 8:05:48 GMT 9
Từ Chủ nghĩa Thực dân đến Chủ nghĩa Dân tộc sang Chủ nghĩa CS [2]
Tiếp theo phần I Thực dân Pháp ở Hà Nội. Ảnh thanglonghanoi.gov.vn Từ Chủ nghĩa Thực dân đến Chủ nghĩa Dân tộc sang Chủ nghĩa Cộng sản với chính sách Tự-Thực-dân (Auto-colonization) và chính sách Bên Lề (Marginalization) Phong trào giải thực trên toàn thế giới Cuộc khủng hoảng chủ nghĩa đế quốc thuộc địa ở Việt nam xảy ra ngay từ những năm 1932-1939. Toàn quyền Albert Sarraut viết năm 1931 như sau, “Vấn đề khủng hoảng thuộc địa xảy ra ở các nước thuộc địa của Pháp trong đó có Việt Nam. Đó là một khủng hoảng kéo dài và có tính cách toàn cầu.” Khủng hoảng thuộc địa có thể do sự suy yếu của các nước đế quốc có dính dáng đến chiến tranh thứ nhất và nhất là chiến tranh thế giới thứ hai. Kể từ 1940, các nước đế quốc thực dân như Anh, Pháp không còn khả năng duy trì được quyền kiểm soát các nước bị trị như trước nữa. Đó là thời kỳ khủng hoảng của chủ nghĩa thực dân. Họ mất tư thế chủ nhân ông trên các nước bị trị. Người Nhật làm chủ Đông Nam Á tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đông Á chống lại các nước đế quốc Âu Châu. Những hình ảnh mà David G. Marr thu thập được cho thấy cuộc đảo chính Nhật ngày 9 tháng 3 là một nỗi nhục cho người Pháp. Đông thời chứng tỏ cho người dân bản xứ thấy rằng người Pháp không phải là không có thể bị đánh bại như người ta tưởng. Đó là hình ảnh binh lính Pháp quỳ trước cổng sở hành Chánh tài chánh, trên con đường Đôi, đối diện nhà thờ Cửa Bắc, Hà Nội và hình các tướng lãnh Pháp như tướng Mordant, tướng Aymé, các ông Gautier, Chauvet,… tháng tư, 1945 ngồi xếp hàng trước quân đội Nhật. (Trích David G. Marr, Ibid, trang 58, hình 4 và trang 63 hình 5). Các nước thuộc địa lợi dụng tình trạng rối rắm của các nước đế quốc đã đứng lên đòi quyền tự trị và độc lập dân tộc. Năm 1942, khi người Mỹ đổ bộ lên Bắc Phi thì đó là một cuộc Giải Thực một cách êm thấm. Dân Bắc Phi đã gián tiếp được người Mỹ giúp loại người Pháp ra khỏi Bắc Phi. Vì thế, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai thật sự phải được nhìn lại ở hai mặt. Nó mang hai ý nghĩa lịch sử tầm vóc: - Một mặt giải giới phe trục Đức, Ý, Nhật là điều chính yếu và lịch sử thế giới hầu như chỉ chú trọng vào điều này. - Nhưng mặt ít ai nói tới là chiến tranh thế giới thứ hai là cơ may sống còn giúp các nước bị trị giải giới các nước đế quốc chủ nghĩa thực dân. Hiến chương Đại Tây Dương tháng 8, 1941 đưa ra nguyên tắc nền tảng cho hòa bình thế giới là “Quyền của mỗi dân tộc chọn một hình thức chính quyền mà theo đó mà họ sống.” Nguyên tắc đó cũng gián tiếp loại trừ tất cả những hình thức áp đặt của chủ nghĩa thuộc địa. Người ta nhận thấy một bình minh hy vọng của các nước nhược tiểu với phong trào giải thực xảy ra trên toàn thế giới từ Á Châu sang các nước Á Phi rồi Phi Châu da đen. Đó là một xu thế thời đại như hướng đi lớn của lịch sử con người. Phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa Quốc Gia (Nationalisme) đã làn tan băng chủ nghĩa thuộc địa trên thế giới. Nhiều quốc gia đã thoát khỏi tình trạng lệ thuộc của ngoại bang đi đến sự tự trị. Đó là trường hợp của hầu hết các nước Á Phi đã được giải thoát khỏi tình trạng bị trị. Đặc biệt có 49 nước thuộc khối Phi Châu mà nhiều nước được tách rời ra và nay trở thành một nước tân Lập. Cả hai bên -đế quốc và thuộc địa- đã tránh được những tranh chấp bằng quân sự làm tốn hao đến sinh mạng của người dân. (Xem thêm Culture and Imperalism, Edward W. Said, trang 197-199) Nói đúng ra, có hai hình thức giải thực. Một kiểu mẫu giải thực của Anh Quốc có tính cách chuyển tiếp, không bạo động (non violent) và hình thức của Pháp, có bạo động (violent) như đã xảy ra ở Việt Nam và ở Algérie. Để kết thúc các chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới John Strachey đã viết một cuốn sách nổi tiếng nhan đề The end of Empire cho thấy chủ nghĩa đế quốc coi như cáo chung. Nhưng cái sai lầm là ông đã dựa trên quan điểm Mác Xít Cộng sản như phương tiện chính thống để đánh phá chủ nghĩa thực dân thay vi` coi chủ nghĩa Dân tộc là nguyên do chính của công cuộc giải thực trên toàn thế giới. (The end of empire, John Strachey, tháng 2, 1960 nxb Socialist Review.) Bài học Việt Nam, kinh nghiệm giải thực thông qua chủ nghĩa cộng sản Chủ nghĩa cộng sản chỉ thật sự phát triển mạnh sau thế chiến thứ hai. Sự phát triển này không do các các cuộc cách mạng cộng sản trên toàn thế giới như sự rêu rao của cộng sản. Nói cho cùng, Chủ nghĩa Cộng sản Quốc tế chỉ đến thay thế chỗ của chế độc tài Phát Xít sau khi Đức bại trận. Độc tài cộng sản ở 8 nước Đông  đã làm các các nước này rơi vào tình trạng kinh tế tụt hậu so với các nước Tây Phương. Đó là số phận dành cho các nước Đông Âu như Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Hungary, Bulgary, Albania, vv… Ở Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản thành hình và phát triển mạnh mẽ từ đầu năm 1950 khi có sự ủng hộ, tài trợ của các nước Trung Cộng, Liên Xô cho Hồ Chí Minh. Chính vi` thế, khi so sánh công cuộc giải thực trên toàn thế giới, người viết có một ám ảnh khôn nguôi đặt ra câu hỏi là: tại sao chỉ có mình Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới phải “trường kỳ chiến đấu- 10 năm, 20 năm, 30 năm nếu cần- để đạt được độc lập dân tộc? Câu hỏi được dặt ra ở đây là về phương diện lịch sử, Việt Nam có nhất thiết cần đến hai cuộc chiến tranh để dành được độc lập và tự do dân chủ không? Phải chăng người cộng sản đã cố tình che đậy thực chất của hai cuộc chiến tranh ấy nhân danh chiêu bài chống thực dân Pháp năm 1946-1954 và đồng thời chống thực dân mới năm 1954-1975 là người Mỹ? Nhìn lại cho thấy người cộng sản đã hầu như phủ nhận xu hướng giải thực trên toàn thế giới. Họ có mục tiêu chiến lược riêng của đảng cộng sản Đông Dương? Hay chỉ vì người cộng sản không phải là đối tác chính thức ký kết bản thỏa hiệp nên bằng mọi giá họ phải phủ nhận Hiệp Hiệp định và gán cho Bảo Đại vai trò bù nhìn của Pháp. Phải chăng Bảo Đại là người hớt tay trên họ? Bảo Đại khi ký hiệp định Élysée cũng đã kỳ vọng vào xu hướng giải thực đang diễn ra tại các nước lân bang như Ấn Độ. Hiệp Định Élysée được ký kết giữa Pháp và Bảo Đại ngày 8/3/1949 -mặc dầu không phải là một Hiệp ước trọn vẹn- vẫn là một giải pháp giai đoạn cần thiết trong tiến trình Giải Thực như Bảo Đại nhìn nhận trong Hồi Ký: “Từ đây trở đi tôi đã thu hồi được đất Nam Kỳ, tôi coi như nhiệm vụ của tôi về điều đình đã chấm dứt. Sau nữa, thỏa hiệp này trước mắt tôi chỉ là một Giai Đoạn để tiên tới độc lập hoàn toàn.. Sự thành đạt về độc lập như thế đã xảy ra cho các nước lân cận ở Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Miến Điện, Ấn Độ làm tôi càng tin tưởng trong hy vọng. Tôi tin tưởng rằng thỏa ước mùng 8 tháng ba, 1949 phải là yếu tố nhất định đưa đến vãn hồi hòa bình. Hỏi Việt Minh còn có thể đòi hỏi gì nữa khi tôi đã thành công, mà họ thì bị thảm bại ở các Hội Nghị Fontainebleau và Đà Lạt vào năm 1946”. (Trích: Le Dragon d’Annam, Bao Dai, trang 219) Chú thích: Hội Nghị Fontainebleau ở Đà Lạt thất bại vì thái độ của Pháp muốn duy trì chế độ thuộc địa và sự có mặt của họ ở đó như qua lá thư của Max André, đại diện chính phủ Pháp trao một lá thư cho Võ Nguyên Giáp gửi chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Pháp mới không tìm cách đô hộ Đông Dương, nhưng nhất quyết có mặt tại đó. Không cho rằng công cuộc của mình ở đó đã xong. Không chịu từ bỏ nhiệm vụ văn hóa của mình. Tự thẩm rằng chỉ có mình là có thể đảm bảo sự kích thích, sự điều hòa về kỹ thuật, kinh tế, ngoại giao và phòng thủ. Cuối cùng, bảo vệ quyền lợi tinh thần và vật chất của người dân nước mình. Làm các việc này mà vẫn kính trọng hoàn toàn bản lệnh quốc gia với sự hiệp tác cần mẫn và hiến hữu của dân Đông Dương. Đà lạt ngày mồng 5 tháng năm, 1946 Ký tên: MAX ANDRÉ” (Trích: Hồi ký: Một vài ký vãng Hội Nghị Đà Lạt, Hoàng Xuân Hãn; trích lại từ bài Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Nguyễn Văn Lục, Tân Văn, trang 15-17, số 10/2008). Phần Việt Minh, họ dứt khoát đi tìm sự ủng hộ của khối Cộng Sản với Liên Xô và Trung Quốc vào năm 1950. Làm như thế, họ đã chính thức từ bỏ chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa Quốc gia để chọn chủ nghĩa cộng sản như lá bài cuối cùng. Đứng trên lập trường Dân Tộc, việc cộng sản tiếp tục cuộc chiến tranh nhân danh lá bài chủ nghĩa Mác Xít-Lê nin là có tội với lịch sử, với đất nước. Học giả Hoàng Văn Chí, tác giả cuốn Trăm Hoa đua nở trên đất Bắc – nhất là cuốn From Colonialism to Communism, ông viết bằng tiếng Anh và xuất bản tại Ấn Độ và Anh Quốc, sau còn được dịch ra tiếng Pháp – cho rằng việc chọn lựa đảng cộng sản là một chọn lựa sai lầm của Việt Minh. Dựa theo ý kiến của tướng Nguyễn Sơn, ông Hoàng Văn Chí cho thấy cái sai lầm thứ hai của Việt Minh là: “Tuy nhiên mối bất hoà lớn giữa Nguyễn Sơn và các lãnh tụ Việt cộng không phải là vấn đề kèn cựa địa vị, mà là vấn đề bất đồng ý kiến đối với chính sách yêu cầu Trung cộng viện trợ. Nguyễn Sơn hết sức phản đối việc yêu cầu Trung cộng viện trợ vì Sơn cho rằng hễ nhận viện trợ của Trung cộng thì sẽ mất hết chủ quyền. Sơn viện lẽ rằng hồi chiến tranh chống Nhật, ông Mao không thèm yêu cầu Nga viện trợ và để mặc Nga tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch. Theo Sơn thì nên tự lực kháng chiến chống Pháp, đánh Pháp bằng vũ khí thu được của Pháp, tuy gian lao hơn nhưng không bị phụ thuộc vào bất cứ một ngoại bang nào. Sau một cuộc thảo luận to tiếng với ông Hồ, Sơn bực mình nhắm phía bắc, đi thẳng sang Trung Quốc. Vì được tôn là “anh hùng dân tộc” của Trung Quốc nên từ Lạng Sơn đến Bắc Kinh, đi qua tỉnh nào, Sơn cũng được đón tiếp trọng thể. Nhưng ông Hồ đã đánh điện sang Bắc Kinh, báo cáo với ông Mao là Sơn vô kỷ luật, và đồng thời Võ Nguyên Giáp cũng bắt toàn thể quân đội Việt Minh phải học tập một tài liệu đặc biệt, trong đó tả Sơn là một cán bộ “điển hình xấu”. Vì bị ông Hồ báo cáo lên tới Bắc Kinh, Sơn phải đi chỉnh huấn ngay tức khắc. Sau khi chỉnh huấn, Sơn tình nguyện đi học đại học quân sự ở Nam Kinh, do chuyên viên Nga dạy về chiến thuật quân sự hiện đại. Năm 1956, Sơn bị ung thư dạ dày và khi biết mình sắp chết, xin phép mang vợ con về Việt Nam. Hai ngày sau khi về tới Hà Nội thì Sơn chết, và Võ Nguyên Giáp phải đi đưa đám. Những người đã từng quen biết Sơn đều công nhận ông có tinh thần quốc gia mặc dầu suốt đời tranh đấu trong hàng ngũ cộng sản. Nếu không chết sớm, Nguyễn Sơn có thể là một Tito Việt Nam.” (Trích bản dịch: Từ chủ nghĩa thực dân sang chủ nghĩa cộng sản, bản photocopy). Mặc dầu, có rất nhiều biến cố quân sự, chính trị là nguyên xa gần, trực tiếp hay gián tiếp xảy ra dẫn đưa đến chiến tranh 1946-1954. Nhưng nhờ nhiều tài liệu của nguời Pháp đã mở ra cho thấy rằng phát súng phát lệnh đánh Pháp mở màn cho cuộc chiến 1946-1954 là do Võ Nguyên Giáp khởi đầu. Việc Hồ Chí Minh từ chối đi về Việt Nam bằng máy bay lấy lý do sức khỏe và đòi đi về bằng đường thủy trên chiếc Dumont d’Irville là để mua thời gian. Một thời gian cần thiết để cho Võ Nguyên Giáp có đủ thì giờ thanh toán các đảng phái quốc gia như Quốc Dân, Đồng Minh Hội khi quân Tàu rút khỏi Việt Nam và củng cố lực lượng quân sự. Khi về Việt Nam, phe cánh của Hồ Chí Minh đã mua 6 tấn hàng hóa, phần lớn là dụng cụ máy móc, trang bị truyền tin. Nhưng xui cho họ, hàng hóa mua vể để địa Sài Gòn nên chiếc tàu thủy cặp bến Sài Gòn và đã bốc dỡ số hàng hóa ấy xuống. Mãi sau này mới tìm cách đưa ra Hải phòng thì số hàng hóa ấy đã hư hỏng và thất thoát. Stein Tonnesson đã viết lại như sau: “During the absence of Ho Chi Minh, the Viet Minh had strenthened its position considerably. The main Dong Minh Hoi leaders had disappeared from the scene, and the Việt Nam QDD had also been weakened”. Đây là những bằng chứng sau khi dẹp các đảng phái, Việt Minh đã có kế hoạch đánh Pháp. “On November 25 and 27, a sureté informer warned of an imminent Vietnamse attack in Hanoi. At a “reasonnable” price, the sureté bought copies of a “Défense Plan for the Capital Hanoi,”approved by Ho Chi Minh on November 24 in a restricted cabinet meeting, as well as a plan for an attack on Gia Lam airfield, approved on November 26 by a commission of military experts. The two plans had both been worked out by Giap. The sureté boss, Moret, affirmed that there was no reason to doubt the honesty (bonne foi) of the informer..” (…) Throughout 1947, French Intelligence “proved” again and again that the Vietnamse attack in Hanoi in December 19 had been long premeditated. A great number of “proofs” were established.” (Trích: Vietnam 1946, How the war began, Stein Tonnesson, các trang 86 và 172-173). Cùng một nhận định như Stein Tonnesson, William J. Duiker trong: The Communist Road to Power in Viet Nam viết: “In early december, the situation worsened (…) The French decision to augment its forces and strenfhten its military position in North Viet Nam may have persuaded the Party leadership that war was unavoidable. On the seventh, Vo Nguyen Giap dispatched a circular instructing all military units to be prepared to launch an attack on French installation by the twelfth.” (Trích: The Communist Road to Power, William J. Duiker, trang 124) Vài ngày tiếp theo sau đó, Việt Minh đưa ra lời kêu gọi toàn dân chuẩn bị cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thành phố Hà Nội, bộ chỉ huy và quân đội Việt Minh rút về Hà Đông và để lại dân quân du kích, tự vệ thành phố “cầm chân” quân đội Pháp. Họ đắp những ụ đất ở một số địa điểm và đào tường từ nhà nọ thông thương sang nhà kia. “Tunnels and trenches were constructed to permit communication from one sector to another without the use of main arteries” (Trích W. J. Duiker, Ibid, trang 124.) Người Pháp đã yêu cầu Việt Minh dẹp bỏ các ụ chướng ngại vật trong một số khu phố và gửi tối hậu thư cho Việt Minh phải giải giới. Việt Minh cũng muốn tấn công Pháp một các bất ngờ, nhưng như nói ở trên, tin tức tình báo mà người Pháp nắm được qua một tình báo viên nên người Pháp đã chuẩn bị canh phòng cẩn mật. “The Viet Minh had counted on the element of surprise, but the French had been forewarned of the attacks by an agent during the afternoon of the nineteenth and had placed their forces in the Hanoi region on the alert.” (Trich W. J. Duiker, Ibid, trang 125) Vì thế, sau khi súng nổ, quân đội Pháp đã làm chủ được tình hình trong thành phố, nhất là chiếm giữ những khu trọng yếu có Pháp kiều cư ngụ cũng như nắm giữ được phi trường Gia Lâm. Hồ Chí Minh đã rút bộ chỉ huy về Hà Đông trước khi phát động chiến tranh. Hà Đông chỉ cách cách Hà Nội 6 cây số. Nếu ngay sau đó, quân đội Pháp quyết định nhanh chóng nhảy dù bao vây Hà Đông thì toàn bộ Tham Mưu của Việt Minh từ Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng có thể bị bắt. Tình hình chắc đã đổi khác. Cho nên đi đến kết luận Võ Nguyên Giáp là động cơ chính và là ngòi nổ mở màn cho cuộc chiến tranh Pháp-Việt. Cá nhân người viết bài này còn ghi nhớ trong đầu, tối ngày 19, 1946, khi vừa bước chân lên cầu thang để đi ngủ thì nghe một tiếng nổ lớn, sau đó đèn điện trong nhà tắt phụt, phải lần mò cầu thang để lên lầu. (Người viết ở đối diện với sở quân nhu và sở Hành chánh tài chánh của Pháp. Cơ sở rộng lớn này chiếm hai mặt đường. Con Đường Đôi và phố Cửa Bắc trước đây là thành Hà Nội, nơi mà Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu đã tuẫn tiết ở đó). Đằng sau là dãy nhà ba tầng dành cho cư xá sĩ quan không quân Pháp. Suốt đêm không nghe thấy tiếng súng nổ. Nếu có thì từ xa..Sáng hôm sau, sở Hành Chánh tài chánh của Pháp thấy có hai xe thiết giáp trấn giữ, chĩa súng ra ngoài. Cũng không xa chừng vài trăm mét, người viết thấy một vài khẩu súng gỗ còn vứt lại trên vỉa hè. Thật hết sức là ngạc nhiên không hiểu được. Làm sao Tự vệ có thể dùng súng gỗ bắn lại quan đội Pháp? Trên bờ đê Yên Phụ, nhìn từ phố Cửa Bắc, cách chừng hai cây số đường chim bay nổi bật trên nền trời, từng đoàn người lũ lượt gồng gánh hối hả chạy về hướng Nam thành phố. Chỉ trong một đêm, thành phố Hà Nội bị bỏ hoang. Trong khu phố cổ như Hàng Ngang, hàng Đào, hàng Thiếc, nhà nọ thông thống sang nhà kia. Nghe nói Tự vệ cầm cự được hai tháng đủ thời giờ cho bộ đội chính quy rút lên miệt Bắc. Đây là chính sách tiêu thổ kháng chiến mở đầu cho cuộc chiến Việt-Pháp. Nó đã mở đầu như thế một cách kỳ lạ. Việc phá nổ nhà máy đèn là bước đầu của cuộc chiến tranh Việt- Pháp theo kế hoạch của Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp là người quyết định chung cuộc chiến tranh Đông Dương -HCM bị động trong trường hợp này- và Việt Nam không quan tâm hoặc nghi ngờ những giải pháp ngoại giao cũng như xu hướng giải thực trên toàn thế giới. Ông nóng lòng, không nhẫn nại được nữa trong bầu khí chờ đợi, căng thẳng từng ngày. Thật vậy, phải nhìn nhận xu hướng giải thực ở Việt nam cũng có dấu hiệu tiến bộ và thay đổi cho thấy có cơ hội thực hiện từng giai đoạn một ở Việt Nam với sự nhượng bộ của Pháp khi ký kết Hiệp Định Élysée giữa Bollaert và Bảo Đại sau những đàm phán thất bại giữa Pháp và Việt Minh. Công việc giải thực từng giai đoạn một đã từng xảy ra tại Canada, Úc và Tân Tây Lan (New Zealand – DCVOnline) vào năm 1922, nằm trong khối Commonwealth. Và cũng tương tự như thế tại Tunisie, Maroc vào năm 1958, nằm trong khối quốc gia Territoire d’Outremer. TOM). Năm 1947, Ấn độ được độc lập và lập tức Pakistan tách ra khỏi Ấn Độ. 1950, Indonesia dành được độc lập từ Hoà Lan. Lần lượt đến Mã Lai, Tích Lan và Miến Điện lấy lại độc lập. Từ Đông sang Tây, từ Bắc Phi những nước thuộc địa nằm trong quỹ đạo của nguời Anh, Pháp và Bỉ đều dành được độc lập. Và đã có 49 các nước tân Phi Châu tách rời ra và trở thành các nước tân lập. (Trích Culture and Imperialism, Edward W. Said, trang 199) Chỉ trừ Việt Nam và Algérie khi dành được độc lập đã trả giá rất đắt. Butterfield nhận định, đây là “The tragic element in human conflict”. Stein Tonnesso đánh giá “War was Vietnam’s predicamment for well over forty years. No other country has suffered as many war casualties since World War II.” Từ 1945 đến 1954, khoảng 365.000 người đã bị giết, 40.000 về phía quân đội Pháp, 200.000 về phía Việt Minh và 125.000 thường dân. (Trích: Viet Nam 1946, How the war began, Stein Tonnesson, trang 01.) Nhưng Viêt Minh ngoảnh mặt làm ngơ trước những tiến bộ đạt được qua các thương lượng, các Hiệp định được ký kết với người Pháp. Người cộng sản tiếp tục tiến hành chiến tranh giải phóng bất kể quyền lợi dân tộc, đất nước bị hy sinh cho tham vọng chính trị của đảng cộng sản. Nhận đinh lại cái giá phải trả cho nền độc lập Stein Tonnesson cho thấy rằng: Chẳng những thế, họ còn tiến hành cùng một lúc hai việc: - Thanh trừng, khai trừ tất các lãnh tụ đảng phái chính trị những người Quốc như một khủng bố trắng suốt từ Nam ra Bắc. - Mặt khác, họ phát động các phong trào đấu tranh giai cấp thể hiện qua cuộc cải cách ruộng đất bắt chước theo Trung Quốc. Đây là công cuộc dọn đường cho sự áp đặt chủ nghĩa xã hội trên toàn thể khối dân tộc. (Trích Viet Nam 1946, Ibid, trang3-4). Chiến thắng xong Pháp ở Điện Biên Phủ, họ coi đó là thành tích lãnh đạo của đảng Cộng sản, phủ nhận mọi sự đóng góp xương máu của những thành phần kháng chiến yêu nước. Rõ ràng chủ nghĩa dân tộc trong trường hợp Việt Nam đã bị người cộng sản vận dụng chủ nghĩa dân tộc cho những vận động chính trị của đảng cộng sản Đông Dương. Nói khác đi Chủ nghĩa dân tộc chỉ là một biến thái của chủ nghĩa cộng sản bá quyền. Ngày nay, cuộc chiến thắng Pháp ở Đông Dương thông qua Hiệp định Geneva phải được hiện nguyên hình là một cuộc chiến tranh Ý thức hệ giữa Thế giới Tự Do và Thế giới Cộng Sản kể từ thập niên 1950 trở đi. Hiệp định Geneva chỉ tạo ra một ảo tưởng chính trị rằng cuộc chiến tranh đã chấm dứt. Nhưng ngay từ sau khi Hiệp định được ký kết thì người cộng sản đã chuẩn bị cho giai đoạn hai để thôn tính miền Nam rồi. Chính thức đảng Cộng sản Đông Dương của Hồ Chí Minh đã được hai đảng đàn anh công nhận là Trung Quốc và Liên Xô. Cũng chính thức, họ được sự viện trợ quân sự “vô điều kiện” từ các nước XHCN anh em. Phía bên Thế giới Tự Do, Mỹ trực tiếp nhúng tay vào tình hình chiến sự Đông Dương bằng cách viện trợ quân sự và kinh tế cho Pháp và chính phủ Bảo Đại của chính quyền Quốc Gia. Đánh pháp dưới lá cờ Chủ nghĩa Dân tộc đã đánh lừa được cả một thế hệ thanh niên tham gia vào cuộc chiến. Nhưng cuộc chiến 1954-1975 cũng một lần nữa khoác chiêu bài “Chống đế quốc Mỹ và tay sai bán nước”! Nhìn lại mà không khỏi đau xót là Việt Nam là nước duy nhất trên toàn thế giới đã trả giá quá đắt cho việc thâu hồi độc lập với sự hy sinh tính mạng nhiều nhất, thời gian kéo dài nhất 30 năm, và nhất là sự tụt hậu phát triển so với các nước láng giềng như Đại Hàn, Thái Lan, Trung Quốc, Nam Dương, Singapore với cùng hoàn cảnh bị đô hộ. Lê Duẩn viết trong Thư vào Nam: “Ta đã dùng đấu tranh chính trị và quân sự để giành lấy những vùng nông thôn rộng lớn, nhưng vẫn chủ trương để cho quần chúng giữ thế hợp pháp với địch. Làm như vậy vì chúng ta thấy được tính chất quyết liệt và lâu dài của cuộc chiến.” (Trích Thư vào Nam, gửi cho Mười Cúc, tháng 7, năm 1962, Lê Duẩn, trang 72). Người cộng sản không bao giờ dám nhìn nhận điều này. Không bao giờ dám so sánh, dám đặt câu hỏi tại sao Việt Nam lại thua kém các nước láng giềng hàng nửa thế kỷ? Một phần họ thực sự mắc chứng vĩ cuồng về chiến thắng Pháp và Mỹ. Họ không tự hỏi sau chiến thắng đó học được g? Khi Phạm Văn Đồng sang thăm Lý Quang Diệu ở Singapore để học bài học vỡ lòng về bài học phát triển kinh tế. Theo Lý Quang Diệu, ông ta đã không học được gì, về tay không vì sự đui mù ngu dốt. Những người học trò đầu tiên của Lý Quang Diệu là Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc và Võ Văn Kiệt. Sau này việc “phong thánh” cho các anh hùng liệt sĩ chỉ thêm bẽ bàng và không đủ giải thích và cứu vãn cho tính trạng tụt hậu phát triển so với các nước trong vùng. Sức nặng quá khứ thay vì giảm nồng độ lại đào sâu thêm vào tâm trí người dân về một sự hy sinh vô bờ bến về sức người, sức của một cách uổng phí! (Còn tiếp)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 11, 2013 11:13:56 GMT 9
Thắng mình trước đãVừa có hai sự kiện, cùng liên quan đến cuốn “Bên thắng cuộc” làm mình chú ý: (1) Tờ Pháp luật TP.HCM đăng “Cái nhìn thiên kiến về lịch sử” của Nguyễn Đức Hiển. Và (2) Liên Ủy ban chống Cộng sản, tay sai và chống tuyên vận Cộng sản ở Mỹ gửi thư mời họp để bàn bạc về chuyện tổ chức biểu tình chống tờ Người Việt phát hành cuốn sách này. Sự kiện (1) mình biết qua trang web Ba Sàm. Sự kiện (2) mình biết qua email của một người bạn, kèm câu hỏi: Ông nghĩ sao? Thay vì trả lời riêng bạn qua email, mình viết vài dòng trên facebook để có thể chia sẻ với cả bạn và các bạn khác vài điều mà mình nghĩ… 1. Hồi nhỏ, ở nhà mình có vài cuốn album để cất ảnh. Mấy cuốn album này do trường Võ bị Quốc gia ở Đà Lạt dùng làm quà. Nếu mình nhớ không lầm thì cuốn nào trên góc trái, phía trên cùng, cũng in chìm hình một sinh viên sĩ quan, kèm dòng chữ “Tự thắng – Chỉ huy”. Lúc đó, xem – nhớ nhưng thật tình, mình không hiểu tại sao trường Võ bị Quốc gia (một nơi danh giá, đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp cho quân đội miền Nam Việt Nam trước tháng 4 năm 1975, vốn là chỗ không dễ vào, nếu vào và ra được thì vừa là sĩ quan, vừa có văn bằng cử nhân khoa học – một thời đã từng là mơ ước của mình), lại chọn “Tự thắng – Chỉ huy” làm slogan. Lớn lên thì mình hiểu tại sao trường Võ bị Quốc gia lại chọn “Tự thắng – Chỉ huy” làm slogan. Không tự thắng chính mình thì làm người tử tế còn khó, nói gì đến chuyện chỉ huy! 2. Khi sinh ra mình là công dân Việt Nam Cộng hòa nhưng lúc lớn lên, mình trở thành công dân Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cũng tại vậy mà mình có nhiều người thân, người quen bị gọi là “ngụy quân, ngụy quyền”. Sau ngày “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, phần lớn “ngụy quân, ngụy quyền” mất sạch mọi thứ: nhà cửa, tài sản, tương lai, một số người mất cả sinh mạng. Gia đình mình cũng thế. Nếu ai hỏi mình: có oán Cộng sản không? Mình sẽ trả lời rằng: Có! Song đối tượng của sự oán hận đó đã khác nhiều so với trước. Lúc đầu, mình ghét tất cả những người từ ngoài Bắc vào. Rồi oán hờn thu hẹp, mình chỉ còn căm giận cán bộ, đảng viên, bộ đội, công an. Sự căm giận này bây giờ không còn. Chính xác hơn, sự căm giận này vẫn còn nhưng nó hướng vào chủ nghĩa cộng sản và sự tồn tại của thể chế chính trị là con đẻ của nó trên xứ sở này. Sở dĩ nhận thức của mình thay đổi liên tục như thế là nhờ sách vở, tài liệu và thực tế cuộc sống. Hồi đọc “Những thiên đường mù” của Dương Thu Hương, mình choáng váng vì hóa ra người dân miền Bắc còn khổ hơn người dân miền Nam. Mình dùng hai chữ “khổ hơn” vì ít ra, người dân miền Nam đã từng có lúc được sống “cho ra hồn người”, trước khi cùng khốn khổ, khốn nạn như nhau. Sau này, hỏi thăm một số người lớn tuổi đã từng sống ở miền Bắc trước tháng 4 năm 1975, họ bảo, thật ra, “Những thiên đường mù” chỉ khắc họa một phần sự thật, chưa lột tả được toàn bộ môi trường xã hội miền Bắc trước tháng 4 năm 1975… Tương tự, sự căm giận bộ đội giảm dần khi cuộc chiến ở Campuchia biến một mớ bạn bè mình thành bộ đội, thương binh, có đứa trở thành liệt sĩ. Còn một thực tế khác, chẳng riêng mình mà ai cũng thấy, đó là, đa số những người đóng góp tuổi trẻ, sức lực, máu xương, thân nhân cho việc tạo lập ra chính quyền này cũng chẳng sung sướng gì hơn. Đến giờ, đâu có ít gia đình liệt sĩ, thương binh, có công cũng đã mất sạch mọi thứ. Xét cho đến cùng, tất cả đều là nạn nhân. Ngay cả cán bộ, đảng viên cũng là nạn nhân, họ cắn răng chịu đựng đủ thứ bất toàn của hệ thống, ngửa tay nhận đồng lương chết đói và để tồn tại phải tìm đủ cách để “ăn”, vừa phải chuốc sự khinh bỉ của người bị “ăn”, vừa phải chấp nhận cho các đồng liêu khác “ăn” lại. Một kiểu “ăn lẫn nhau”, một thứ bi kịch kéo dài từ đời cha sang đời con và có thể còn tiếp tục kéo dài sang đời cháu. Họ có muốn như vậy không? Mình nghĩ là không nhưng họ chẳng có lựa chọn nào khác. Lý do mình tóm tắt quá trình định hình và chuyển đổi nhận thức của mình, vì mình tin nó tương đồng với quá trình định hình và chuyển đổi nhận thức của nhiều người khác, trong số hàng chục triệu dân miền Nam Việt Nam trước và sau tháng 4 năm 1975. Mình chỉ là một trong hàng chục triệu số phận na ná như thế do thời cuộc tạo ra. Dù muốn hay không, hàng chục triệu số phận này đã và sẽ là một phần của lịch sử. Bài “Cái nhìn thiên kiến về lịch sử” của Nguyễn Đức Hiển không những không đếm xỉa gì đến phần này của lịch sử mà còn bóp méo nó, nên có thể vì vậy mà bị nhiều người chửi. Theo mình, nhìn, nghe, đọc, hỏi, nghĩ là điều cần thiết mà ai cũng nên làm. Mình tin, do đặc điểm nghề nghiệp, một nhà báo cần làm những điều này gấp nhiều lần những người bình thường, đặc biệt là khi máy tính, Internet đã trở thành phương tiện đại chúng. Tiếc là bạn Hiển ít nhìn, ít nghe, ít đọc, ít nghĩ, chỉ quen bông phèng, chớt nhả, nhận được vài lời khen, lại tưởng mình hơn người, thành ra làm điều quá phận. Vì bạn Hiển bảo: “Bóp méo sự thật lịch sử dù với bất cứ lý do gì thì đều là tệ hại” … nên mình cung cấp cho bạn hai chuyện mà bạn có thể xác minh ngay và sắp tới, mong bạn cho mình biết thêm suy nghĩ của bạn về bản chất cuộc chiến, mà bạn muốn biện minh rằng chính đáng: - Chuyện thứ nhất là vụ ném lựu đạn vào buổi lửa trại, tổ chức cho các Hướng đạo sinh, thành viên Gia đình Phật tử và học sinh các trường trung học ở Quy Nhơn, tại sân vận động Quy Nhơn (nay là thành phố Qui Nhơn, tỉnh Bình Định), vào đêm 9 tháng 1 năm 1972, để giết tỉnh trưởng Nguyễn Văn Chức nhưng ông Chức không chết, chỉ có vài chục người là giáo viên, học sinh chết, bị thương. Người tổ chức vụ ném lựu đạn này là bà Huỳnh Thị Ngọc đã được Đảng và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng Vũ trang” hồi Quốc khánh năm 1995, báo Quân đội Nhân dân có bài ca ngợi (tựa là “Giả điên trong tù”, đưa lên Internet hôm 16 tháng 7 năm 2007). Sau khi đọc “Giả điên trong tù”, bạn có thể tìm gặp những người dân Quy Nhơn, nay trong độ tuổi khoảng 60, để hỏi thăm và nghe thêm về bản chất – kết quả thật sự của một “chiến công”, trong cuộc chiến được bảo là chính nghĩa đó. - Chuyện thứ hai là vụ pháo kích vào Trường Tiểu học Cộng đồng ở thị trấn Cai Lậy, tỉnh Định Tường (nay là huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang), ngày 9 tháng 3 năm 1974, khiến 32 học sinh chết tại chỗ và 55 học sinh khác bị thương. Những người dân Cai Lậy, Tiền Giang, nay trong độ tuổi khoảng 55, cũng có thể kể để bạn biết thêm về “chiến công” tệ hại này. Những “chiến công” kiểu như vậy đã được lập trên xác rất nhiều thường dân, trong đó chủ yếu là người già, phụ nữ và trẻ em ở miền Nam (mình muốn nhấn mạnh yếu tố này). Khi thân nhân của các nạn nhân vẫn còn, làm sao có thể bảo với họ rằng, cuộc chiến do miền Bắc khởi xướng, mục tiêu chính là thiết lập “tiền đồn của phe XHCN ở Đông Nam Á” lại là cần thiết và chính đáng. Người ta chỉ mới thôi tự hào về sự tự nguyện đảm nhận vai trò “tiền đồn của phe XHCN ở Đông Nam Á” chừng 20 năm nay thôi bạn Hiển à! Bạn Hiển, Làm báo ở Cộng hòa XHCN Việt Nam quả thật là rất khó nhưng nếu bạn không muốn, chẳng ai có thể bắt bạn làm bồi. Ngay cả khi chấp nhận làm bồi thì ít nhất cũng có hai loại bồi. Một loại hiểu và xấu hổ vì chuyện làm bồi nên chỉ dùng bút danh. Loại còn lại vừa hám lợi, vừa chuộng hư danh tới mức mụ mẫm, nên sẵn sàng vỗ ngực, xưng tên. Nguyễn Đức Hiển, bạn thuộc loại nào vậy? Nếu thật sự bạn vẫn muốn nuốt thêm một hoặc nhiều lần nữa những luận điệu cũ rích mà Đảng đã nhai đi, nhai lại, ụa ra, cho các loại bồi nuốt vào, rồi phun phe phè suốt mấy chục năm qua, muốn hãnh diện vì bạn vẫn còn thích làm gia súc, vẫn tự nguyện giữ bản năng tiêu hóa, “kiên quyết” không thèm tiến hóa như thế thì nó là quyền của bạn, song đừng mửa mớ luận điệu ấy ra, nó khiến nhiều người cảm thấy phiền bởi sự “kiên quyết” ấy! 3. Giống nhiều người, mình cũng ráng kiếm một bản “Bên thắng cuộc” nhưng thú thật là mình chỉ mới lướt qua. Mình đọc chưa kỹ, do còn chờ phần sau. Đọc chưa kỹ nhưng mình tin “Bên thắng cuộc” có khiếm khuyết, thiếu sót, thậm chí có cả những điểm chưa chính xác. Đó là điều đương nhiên, không thể tránh khỏi đối với những cuốn sách thuộc loại như “Bên thắng cuộc”. Do vậy, phân tích hay – dở, góp ý đúng – sai, đưa ra đề nghị này – khác, để cả tác giả lẫn người đọc cùng xem xét – ngẫm nghĩ thêm là điều cần thiết. Với mình, dẫu cho còn khiếm khuyết, thiếu sót, thậm chí có cả những điểm chưa chính xác thì “Bên thắng cuộc” vẫn là một cuốn sách cần đọc, vì loại sách này giúp người đọc có một cái nhìn bao quát về chính trường – xã hội Việt Nam sau tháng 4 năm 1975. Khi đã có thể nhìn một cách bao quát, hiểu rõ hơn về những chuyện vốn chỉ nghe nói loáng thoáng, từng người có thể ngẫm nghĩ – tìm kiếm thêm thông tin để tự lý giải tại sao xã hội chúng ta đang sống lại như thế này? Mình tin “Bên thắng cuộc” còn có tác dụng như một gợi ý, kích thích những người khác, đặc biệt là những người trong “cung đình” kể lại, nói thêm về những chuyện họ biết cho mọi người cùng biết. Mình vẫn tin rằng, mọi thay đổi tích cực cho xứ sở và dân tộc này khởi đầu từ từng người. Trước hết là kể những điều mình biết, chia sẻ những điều mình nghĩ với mọi người quanh mình. Chỉ thế thôi. Không cần phải chỉ dẫn hay thuyết phục ai rằng họ nên nghĩ gì, làm gì. Khi đã có thông tin, từng cá nhân sẽ tự đối chiếu chúng với thực tế xã hội và hoàn cảnh, cũng như nhu cầu cá nhân của họ. Tự họ sẽ thấy họ nên làm gì, làm như thế nào. Có lẽ đó mới là giá trị thực của “Bên thắng cuộc” và là đóng góp đáng ghi nhận của Huy Đức. Điều đáng ngạc nhiên là không chỉ Đảng cầm quyền thù ghét những thứ như “Bên thắng cuộc” mà ngay cả một số người chống Đảng này ở bên ngoài Việt Nam cũng tỏ ra thù ghét nó. Mình đã thử tìm hiểu tại sao và rất ngao ngán khi nhận ra rằng, có những người thù ghét Cộng sản nhưng lối suy nghĩ, cách hành xử của họ y hệt như Cộng sản. Đọc những bài họ viết, xem những ý kiến họ bày tỏ, những video clip quay chuyện họ làm, nghe họ nói, mình thấy phẫn nộ khi họ nhân danh “chính nghĩa”. Miền Nam Việt Nam mà mình biết không có thứ “chính nghĩa” đó. Nửa đầu thập niên 1970 là giai đoạn miền Nam Việt Nam đỏ máu và trắng khăn tang. Hết Hạ Lào tới An Lộc, Quảng Trị, Phước Long,… Trong bối cảnh ấy, dân miền Nam vừa nghe “Thề không phản bội quê hương” (của Cục Chính huấn Quân lực Việt Nam Công hòa) với những: “…Quyết chiến! Thề quyết chiến! Quyết chiến! Đánh cho cùng dù mình phải chết. Để mai này về sau con cháu ta sống còn…”, vừa hát “Kỷ vật cho em” (thơ Linh Phương, Phạm Duy phổ nhạc): “…Anh trở về trên đội nạng gỗ. Anh trở về bại tướng cụt chân…”, vừa ngâm “Ngày mai đi nhận xác chồng” (thơ Lê Thị Ý, Phạm Duy phổ nhạc thành “Tưởng như còn người yêu”): “…Dài hơi hát khúc thương ca. Thân côi khép kín trong tà áo đen. Chao ơi thèm nụ hôn quen. Ðêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ nhau. Chiếc quan tài phủ cờ màu. Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng…”. Hay đọc “Chiều mệnh danh Tổ quốc” (thơ Nguyễn Tất Nhiên): “…Chiều quân đội nghĩa trang. Chiều mệnh danh tổ quốc. Có muôn ngàn câu kinh. Có muôn ngàn tiếng khóc. Có chuyến xe nhà binh. Đưa ‘Thiên Thần’ xuống đất…”. Miền Nam Việt Nam hồi đó mà mình biết cũng có tham nhũng, hối lộ, phe phái và nhiều điều bất toàn khác nhưng đó là chỗ mà những “Thề không phản bội quê hương”,… có thể đứng chung cùng những “Kỷ vật cho em”, “Ngày mai đi nhận xác chồng”, “Chiều mệnh danh Tổ quốc”,… Nhiều “Thiên Thần” chấp nhận ra trận, rồi đi luôn vào lòng đất để những người còn lại được quyền làm những chuyện có vẻ như rất mâu thuẫn ấy. Đó là điều khiến miền Nam Việt Nam khác xa miền Bắc Việt Nam. Miền Nam Việt Nam hồi đó mà mình biết, không có những kẻ “bảo vệ chính nghĩa quốc gia” bằng cách “đụ mẹ”, “đéo bà” người khác chỉ vì họ không nói, không làm điều những kẻ đó muốn nghe, muốn thấy. Cũng không có những kẻ, một tay giương cao quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa, tay còn lại tụt quần, chổng mông vào mặt người khác giữa nơi công cộng để khẳng định quyết tâm… chống Cộng sản. Miền Nam Việt Nam hồi đó mà mình biết, tuy chống Cộng nhưng vẫn tiếp nhận “Tiếng gọi công dân” (tên nguyên thủy là “Thanh niên hành khúc”) của Lưu Hữu Phước – một cán bộ Cộng sản cao cấp – làm Quốc ca, sau khi kế thừa chính thể Cộng hòa Tự trị Nam kỳ. Mình nghĩ chỉ chi tiết này thôi có lẽ cũng đủ để biết tinh thần, quan niệm của miền Nam Việt Nam hồi đó ra sao. Với những gì mới biết về những cá nhân, những nhóm cựu công dân miền Nam Việt Nam, bây giờ đang chống Cộng theo kiểu chống hết mọi thứ, bất kể tình – lý, chỉ để thiên hạ biết mình đang “bảo vệ chính nghĩa quốc gia”, mình tự hỏi, không biết bao giờ thì những ông, những bà này sẽ chống hát Quốc ca Việt Nam Cộng hòa, vì tác giả của bài hát này là một Việt cộng cao cấp? Có nên xem chuyện hát “Tiếng gọi công dân” đã và đang diễn ra ở những nơi có cựu công dân Việt Nam Cộng hòa là một hình thức tuyên vận của Cộng sản và rất cần chống ngay lập tức hay không? Mình tin sẽ không có ai trong số các ông, các bà đó dám cổ súy chuyện này. Nếu không dám và chắc là không dám thì “chính nghĩa” mà qúy vị tạo ra, nhảy múa để “bảo vệ” rõ ràng là chưa (không thể) ổn. Xin qúy vị hãy xem lại lối nghĩ, cách hành xử của qúy vị. Tuy số lượng của những vị này chẳng đáng là bao trong khối người Việt đang phải sống bên ngoài Việt Nam nhưng mình không thể không nói. Kiểu chống hết mọi thứ chỉ để thiên hạ biết mình đang “bảo vệ chính nghĩa quốc gia” của những vị này, không chỉ làm hoen ố hình ảnh miền Nam Việt Nam ngày xưa. Chúng đang được Đảng CSVN khai thác triệt để nhằm chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên của họ. Đặc biệt là vào lúc này, khi hệ thống đã mục ruỗng, thông tin đa chiều đang làm cho nhận thức cán bộ, đảng viên thay đổi và nhiều người bắt đầu “muốn làm một cái gì đó” thì những bài viết, ý kiến, hành động cực đoan của những vị này trở thành một món quà quý. Chúng đã và đang được sử dụng để minh họa cho những lời răn đe, kêu gọi kiểu như: “Bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”; “Còn Đảng, còn mình”; “Quân đội là của Đảng và phải bảo vệ Đảng”; “Bảo vệ chế độ XHCN là bảo vệ sổ hưu”. Đinh Việt Vài nét về tác giả Đinh Việt: Đinh Đồng Phụng Việt (sinh 22 tháng 2, 1968), được biết nhiều hơn với tên tiếng Anh như Viet Dinh, Viet D. Dinh, hoặc ngắn gọn Đinh Việt, là Trợ lý Bộ trưởng Tư pháp (Assistant Attorney General) Hoa Kỳ từ 2001 đến 2003, tác giả đạo luật chống khủng bố PATRIOT Act sau sự kiện 11 tháng 9. Hiện nay ông là giáo sư Đại học Georgetown và tham gia hội đồng điều hành của tập đoàn News Corporation.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jan 6, 2014 5:27:44 GMT 9
60 năm sau ngày thoát ách đô hộ thực dân Pháp, VN được, mất những gì?60 namTrong năm 2014 này Việt Nam sẽ tưng bừng kỷ niệm 60 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương, giành lại độc lập cho ba nước Lào, Cambodge và Việt Nam, bởi theo sách sử của Việt Nam hiện nay, cũng như trong nhận thức của nhiều người Việt thì nước Việt Nam chính thức độc lập từ thời điểm kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, tức là từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Nhưng trên thực tế thì Việt Nam đã độc lập khỏi sự đô hộ của thực dân Pháp từ gần 10 năm trước đó, vào ngày 11 Tháng 3 năm 1945 khi quân đội Nhật Bản làm cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Bảo hộ của Pháp, được sự hậu thuẫn của Nhật, Hoàng Đế Bảo Đại đã cho thành lập Chính Phủ Đế Quốc Việt Nam vào ngày 17 tháng 4 năm 1945 và bổ nhiệm Giáo Sư Trần Trọng Kim làm Thủ tướng Chính Phủ, đồng thời, Hoàng Đế Bảo Đại cũng đã ban một chiếu chỉ, tuyên bố Việt Nam độc lập với nguyên văn: “Theo tình hình thế giới nói chung và hiện tình Á Châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: Kể từ ngày hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một quốc gia độc lập.” Tiếc thay, chính phủ Đế Quốc Việt Nam còn quá non trẻ, mới tồn tại được 126 ngày với một đất nước hoang tàn, đổ nát ngân khố không một đồng, hai triệu đồng bào Bắc và Trung kỳ đang chết đói, xác người vẫn ngổn ngang khắp chốn, 95% người dân Việt mù chữ, khó tiếp cận với thông tin trung thực, nên dễ bị mê hoặc bởi các luận điệu tuyên truyền của cộng sản. Một chính phủ non trẻ phải đối diện với vô vàn khó khăn, lại chưa thành lập được quân đội là điều kiện thuận lợi cho Hồ Chí Minh và tổ chức Việt Minh dễ dàng cướp chính quyền theo mệnh lệnh của Quốc Tế Cộng Sản, nhằm xích hóa Việt Nam và mở rộng lãnh thổ đỏ xuống các nước Đông Nam Á. Sau khi cướp được chính quyền và thủ tiêu chính phủ Quốc Gia của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, chính Hồ Chí Minh đã ký Hiệp Định Sơ Bộ với thực dân Pháp vào ngày 6 tháng 3 năm 1946. Một trong những điều khoản quan trọng nhất của Hiệp Định Sơ Bộ là cho phép 15.000 binh lính Pháp trở lại Miền Bắc để thay thế cho 200.000 lính thuộc quân đội Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch, làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Rõ ràng, chính Hiệp Định này đã giúp Pháp có được danh chính ngôn thuận khi đưa quân đội trở lại tái chiếm Đông Dương và tiếp tục đặt nền đô hộ trở lại đối với Việt Nam. Bởi điều đó mà nhiều sỹ phu yêu nước lúc bấy giờ đã vô cùng phẫn nộ về hành động cõng rắn cắn gà nhà, rước voi dày mã tổ bằng Hiệp Định Sơ Bộ mà Hồ Chí Minh đã cùng chính phủ Pháp ký kết vào ngày 6 tháng 3 năm 1946. Như vậy, máu xương của hàng vạn đồng bào, dân công, vê quốc quân đã phải đổ ra để đánh đổi chiến thắng Điện Biên Phủ, chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương là cái giá mà Hồ Chí Minh và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải trả cho những sai lầm của họ khi cướp chính quyền của chính phủ Quốc Gia do Trần trọng Kim làm thủ tướng, và ký Hiệp Ước Sơ Bộ để đón quân đội Pháp trở lại với một tuyên bố hết sức đê hèn và đáng hổ thẹn rằng: “Thà ngửi cứt thằng Tây ít lâu, còn hơn suốt đời ăn cứt thằng Tàu”. [Plutôt flairer un peu la crotte des Francaisque manger toute notre vie celle des Chinois – Paul Mus, "Vietnam, Sociologie d'une guerre", Paris, Seuil, p. 185].” Cho nên, xét một cách khách quan thì Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và chính phủ Cộng Sản Việt Nam đang mang một món nợ máu xương rất lớn của đồng bào Việt Nam đổ ra để đánh đổi cái vinh quang chiến thắng Điện Biên Phủ cho họ, nhưng thực chất nguồn xương máu đó của đồng bào đổ ra chỉ để trả giá cho sai lầm của ông Hồ khi cướp chính quyền Quốc Gia của chính phủ Trần Trọng Kim và sau đó ký hiệp Sơ Bộ, đón quân Pháp trở lại. Vấn đề này chúng tôi xin được trình bày trong một bài viết tiếp theo. Trở lại với chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương, cách đây 60 năm, vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, và cứ tạm tin rằng Việt Nam chỉ mới giành được độc lập từ thực dân Pháp sau chiến thắng này, thì tính ra từ năm Giáp Ngọ 1954 đến năm Giáp Ngọ 2014 là vừa tròn một “Thập Lục Hoa Giáp”, tức là đúng một chu kỳ chuyển luân của đất trời theo lịch Đông Phương. Với lịch sử của một dân tộc thì 60 năm chưa phải là quá dài, nhưng so với đời người thì 60 năm là quá đủ để cho con người ta chiêm nghiệm được những thăng trầm của đất nước, của lịch sử giống nòi. 60 năm cũng là khoảng thời gian đủ dài để người ta đưa ra những nhận định đúng đắn về các triều đại, các thể chế chính trị hay những cá nhân có những ảnh hưởng, những hệ lụy đối với tương lai của đất nước và tiền đồ của dân tộc. Và tất nhiên 60 năm cũng là một khoảng thời gian đủ dài, trong xây dựng, để người ta vực dậy nền kinh tế đổ nát do chiến tranh hay do tình trạng nô lệ kìm hãm. Để minh chứng điều này, trước hết, chúng ta hãy xem xét nền kinh tế của Nhật Bản sau Đệ Nhị Thế Chiến. Hẳn mọi người đều còn nhớ rõ là khi kết thúc cuộc Đại Chiến Thế Giới lần thứ hai kinh tế Nhật Bản bị hoàn toàn kiệt quệ do sự tàn phá của hai quả bom nguyên tử mà Hoa Kỳ thả xuống để phá hủy hoàn toàn hai thành phố Hiroshima và Nagasaki vào ngày 6 tháng 8 và ngày 9 tháng 8 năm 1945. Tuy nhiên, chỉ 8 năm sau đó, tức là vào năm 1953 thì kinh tế của Nhật Bản đã hoàn toàn hồi phục và trở thành một siêu cường kinh tế thứ hai thế giới, chỉ đứng sau Hoa Kỳ vớ tổng thu nhập GDP bình quân trên đầu người là 38.500 Mỹ kim, trong khi so với Việt Nam thì Nhật Bản là một quốc gia có nhiều khó khăn, bất lợi hơn về mặt thiên nhiên, với diện tích không lớn hơn Việt Nam là mấy, đồi núi chiếm đến 70% diện tích nhưng lòng đất lại hầu như không có khoáng sản. Nhật Bản là một đảo quốc bao bọc chung quanh là biển, nhưng thềm lục địa hầu như không có dầu mỏ như Việt Nam hay các quốc gia khác. Tệ hại hơn nữa là hằng năm Nhật Bản phải hứng chịu hơn 1.500 cơn địa chấn, và trên toàn lãnh thổ của Nhật Bản, chỉ có 16% diện tích đất đai là phù hợp cho đời sống dân sinh mà thôi. Vậy mà Nhật Bản phát đã triển kinh tế lên mức siêu cường từ một đống đổ nát, chỉ trong vòng chưa đầy10 năm. Đã bao giờ các giới chức lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam tìm hiểu xem nhờ đâu mà người Nhật phát triển kinh tế xã hội và dân sinh thần kỳ đến vậy hay không? …Và sau 60 năm thoát ách nô lệ Việt Nam đã đạt được những gì? Xin được trở lại với Việt Nam thời Pháp thuộc từ 1858 đến 1885: Đây là thời kì mà Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam, với một nền kinh tế thực dân và bảo hộ, thời gian đó tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam chỉ ở mức 2,5% đến 3%, sau khi Pháp chiếm được lục tỉnh Nam Kỳ, tăng trưởng của Nam Kỳ lúc này đã lên tới 6%. Tiếp đến việc chiếm nốt Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tăng trưởng của cả Việt Nam đã lên khoảng 6% đều đặn cho đến khi Lào và Cambodge bị Pháp thôn tính, lúc này kinh tế Việt Nam lên mức trên 8% … Với tinh thần chống mọi sự đô hộ của ngoại bang, chúng ta từng cho rằng để dễ bề cai trị thuộc người dân thuộc địa, thực dân Pháp đã áp dụng chính sách ngu dân, khiến cho có đến 95% người dân Việt Nam thời đó bị mù chữ. Điều này, hư thực ra sao? Chính nhờ cuộc cải cách giáo dục trong thời kỳ Pháp thuộc đã xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục Nho Học từ chương với chữ Hán cả nghìn năm trong chế độ phong kiến Việt Nam để thay thế bằng phong trào tân học theo chữ quốc ngữ đã tạo ra một tầng lớp trí thức mới, đó là những người xuất thân từ truyền thống nho giáo nhưng được tiếp cận với văn hóa phương Tây. Đại diện tiêu biểu cho giới này là các cụ Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu đã mở đầu cho phong trào Duy Tân và phong trào Đông Du vận động tăng cường dân trí, dân chủ, nhân quyền và cải cách xã hội cho người Việt trước sự cai trị của Thực dân Pháp. Đơn Xin Vào Học Trường Thuộc Địa – Của Nguyễn tất Thành Tuy nhiên, do tư tưởng thủ cựu từ vua quan nhà Nguyễn cho đến nhiều tầng lớp dân chúng tiếp tục sùng bái Nho học, Hán học và bài Pháp, bài xích văn hóa phương Tây là nguyên nhân chính yếu khiến cho có đến 95% dân chúng mù chữ, chứ thực ra chính quyền Bảo Hộ chẳng những không áp dụng bất cứ chính sách ngu dân, không hề chủ trương “địa hào trí phú đào tận gốc, trốc tận rễ” như chủ trương của Hồ Chí Minh và chế độ Cộng Sản sau này, mà ngược lại, chính phủ Pháp còn mở cả trường Thuộc địa và cấp học bổng cho học sinh các nước thuộc địa đến Pháp học hành, để nâng cao dân trí, mà ngay cả Nguyễn Tất Thành kẻ mà sau này trở thành lãnh tụ Hồ Chí Minh của Cộng Sản Việt Nam cũng từng làm đơn xin vào học, trong thời gian ông tha phương cầu thực tại Pháp. Rủi thay, vì những thành tích bất hảo trong suốt thời niên thiếu mà Nguyễn Tất Thành đã bị từ chối, không được nhận vào học trường thuộc địa, để rồi ông tiếp tục lang thang và cuối cùng phải đi làm tay sai cho Đệ tam Quốc Tế, để du nhập chủ nghĩa cộng sản về để tàn hại giống nòi. Và cũng nhờ chính sách khuyến học của Pháp lúc bấy giờ mà Việt Nam đã có được một số các nhà bác học, các học giả như Lưu Văn Lang, Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Trần Văn Giáp, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường… Ngoài ra, dẫu là một nước thực dân đang cai trị nước thuộc địa Việt Nam, nhưng chính phủ bảo hộ cũng không hề ngăn cấm các quyền tự do căn bản của con người, bao gồm tự do lập hội, tự do ngôn luận hay tự do báo chí, nhờ đó mà lúc bấy giờ ở Việt Nam đã tồn tại các đảng phái chính trị hoạt động công khai như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng, Tân Việt Cách Mạng Đảng. Trong lĩnh vực báo chí, ngôn luận thì khắp trên ba kỳ của đất nước đều có các tòa soạn báo tư nhân hoạt động công khai như Gia Định Báo ra đời từ năm 1865, Phan Yên báo ra đời từ năm 1868, Nam Kỳ Địa Phận Báo ra đời năm 1883 và cứ thế các tòa báo tư nhân cứ tiếp tục xuất hiện như Nông Cổ Mín Đàm, Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo, Đại Việt Tân Báo, Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Dương Tạp Chí. Đến năm 1907 lại xuất hiện thêm tờ Lục Tỉnh Tân Văn do Trần Chánh Chiếu làm chủ bút. Là một người cầm đầu phong trào Minh Tân nên Trần Chánh Chiếu và LỤC TỈNH TÂN VĂN hoạt động rất mạnh để cổ súy phong trào này. Đây là một trong những tờ báo có mối quan hệ đặc biệt với phong trào Đông Du, và Duy Tân của hai nhà cách mạng Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Một số trí thức khoa bảng hoạt động trong lĩnh vực báo chí lúc bấy giờ có thể kể đến như Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim, Nguyễn Khắc Hiếu… Tiếp đến, vào tháng 1 năm1915 Báo Trung Bắc Tân Văn xuất hiện ở Hà Nội do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút. Đây là một diễn đàn quan trọng thu hút nhiều cây bút nổi tiếng đương thời trên các lĩnh vực văn hoá, chính trị, xã hội Việt Nam vào thời gian đó. Sang thập niên 1930s, báo chí Tiếng Việt tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh khoảng 30 tờ báo và tạp chí có từ trước vẫn đang tiếp tục lưu hành thì có khoảng 180 tờ báo và tạp chí mới ra đời. Đặc biệt bên cạnh báo chí hợp pháp phát hành công khai còn xuất hiện dòng báo bí mật của Đảng Cộng sản Việt Nam và dòng báo lưu hành trong các nhà tù của thực dân. Báo chí thời kì này phản ánh khá rõ nét tình hình kinh tế xã hội và chính trị tư tưởng đương thời. Đó là bên cạnh trào lưu Âu hoá và lối sống tư sản trong các đô thị, là tin tức về các hoạt động cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, các cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng như cuộc thảo luận của Hải Triều và Thiếu Sơn về “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh”, cuộc thảo luận của Hải Triều và Phan Khôi về “Duy vật và Duy tâm”; cuộc thảo luận của Phan Khôi và Nguyễn Thị Chính về “Vấn đề giải phóng phụ nữ với nhân sinh quan”, và cuộc tranh luận về “Phổ thông đầu phiếu” trên báo Công Luận năm 1932 và các bài về quyền bầu cử của phụ nữ… Đó là sơ lược về kinh tế chính trị, văn hóa xã hội và nhân văn nước Việt Nam dưới ách đô hộ của thức dân Pháp kể từ khi tiếng súng đại bác đầu tiên bắn vào Đà Nẵng, báo hiệu sự khởi đầu một thời kỳ nô lệ mới của Việt Nam cho đến khi chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương vào năm 1954. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn của nước Việt Nam mới, sau khi kết thúc thời kỳ Pháp thuộc. Sau hiệp định Geneva, khoảng 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam để tránh họa cộng sản. Đây là một khó khăn lớn đối với chính phủ Quốc Gia Việt Nam trong việc ổn định an sinh xã hội cho một khối lượng quá lớn đồng bào vừa đến nơi ở mới. Nhưng lại là một thuận lợi lớn cho chính phủ của Hồ Chí Minh ở miền Bắc bởi sau khi 1 triệu người bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn để đi tìm tự do ở Miền Nam, thì số ruộng đất dôi dư ra rất nhiều, nhất là đối với Miền Bắc lúc bấy giờ kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên do ảnh hưởng của cuộc “Cải Cách Ruộng Đất” từ năm 1949 đến năm 1956 với hàng chục ngàn nông dân bị hành quyết, do bị quy là địa chủ, với 810.000 hécta ruộng đất, hơn 106.448 trâu bò và 148.565 căn nhà bị tịch thu và quốc hữu hóa và tiếp nối với giai đoạn thứ hai “tiến lên chủ nghĩa xã hội” của nông nghiệp, bắt đầu từ năm 1958, mà theo đó, các tư liệu sản xuất như ruộng đất, trâu bò, cày bừa đều là của chung. Đây là sai lầm lớn nhất của chế độ cộng sản khi vận dụng học thuyết kinh tế chính trị của Karl Marx, để xây dựng CNXH, bởi học thuyết đó trong thực tế đã đi ngược lại với quy luật phát triển chung của xã hội loài người, và mâu thuẫn với bản năng gốc của con người là bản năng sở hữu. Hệ lụy của sai lầm này đã khiến cho cả Miền Bắc Việt Nam trở nên điêu tàn, đói rách trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Một bức tranh toàn cảnh của Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa lúc bấy giờ cũng không khác mấy so với xã hội Bắc Triều Tiên hiện nay. Chỉ có giới quan phương thì luôn được no đủ, còn lại thì toàn dân Miền Bắc luôn phải sống trong đói rách triền miên. Cả Miền Bắc XHCN lúc bấy giờ tồn tại được nhờ vào nguồn viên trợ của Nga Sô và Trung Cộng từ bom đạn, khí tài cho đến lương thực thực phẩm. Chính vì điều này mà sau khi cưỡng chiếm được Miền Nam vào tháng 4 năm 1975 Bộ Chính Trị Trung Ương đảng cộng sản Việt Nam đã xác định rằng, để Hà Nội tiến kịp Sài Gòn thì phải mất đến 30 năm, nhưng để Sài Gòn lùi kịp Hà Nội thì chỉ cần 3 năm thôi, và Bộ Chính Trị đã chọn giải pháp 3 năm, làm cho Sài Gòn lùi kịp Hà Nội, bằng các chính sách cấm chợ, ngăn sông khiến cho nhân dân cả nước đều trở nên đói rách lầm than hơn cả thời nô lệ thực dân Pháp. Có một thực tế rất nhạy cảm nên ít ai dám đề cập một cách công khai ở Việt Nam đó là từ sau khi quân xâm lược Pháp rút đi, thì các quyền tự do căn bản của toàn dân Miền bắc XHCN cũng theo đó mà biến mất. Và rồi sau sự sụp đổ toàn diện của nền Đệ Nhị Cộng Hòa ở Miền Nam vào năm 1975 thì các quyền tự do, dân chủ căn bản của nhân dân Miền Nam cũng bị bức tử, để hòa cùng cả với nước, người dân Việt Nam hoàn toàn không còn bất cứ một quyền tự do nào trong tư tưởng, trong ngôn luận, trong tín ngưỡng hay trong lập hội nữa. Tất cả mọi tư tưởng của nhân dân đều được định hướng bởi đảng và nhà nước qua tổ chức Tuyên Giáo Trung Ương, tất cả các hội đoàn đều thuộc về nhà nước, và người dân phải có bổn phận tham gia để được củng cố quan điểm lập trường chính trị, để thấm nhuần tư tưởng xuyên suốt rằng, “yêu nước là phải yêu chủ nghĩa xã hội, phải luôn ca ngợi bác, đảng và các lãnh tụ khác của cộng sản“, nhưng hoàn toàn cấm chỉ mọi phát ngôn theo nhận thức riêng của cá nhân. Cũng vậy, tôn giáo, tín ngưỡng được đánh giá lại theo quan điểm của Karl Marx, là thuốc phiện của nhân dân, cho nên những nhà hoạt động tôn giáo cũng bị xem như là những kẻ buôn lậu thuốc phiện do vậy mà nhiều lãnh đạo tinh thần, tôn giáo phải bị tù đày lao lý với những bản án hết sức nặng nề, những cơ sở tôn giáo bị trưng thu và mọi hoạt động tôn giáo thuần túy đều bị ngăn cản, nghiêm cấm bằng pháp lệnh, nghị định của chính phủ. 60 nam4Về lĩnh vực báo chí và truyền thông, ngay từ những ngày đầu nắm quyền cai trị đất nước, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã ra sức trấn áp giới nhân sỹ trí thức hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, đặc biệt là những người chủ trương đòi tự do ngôn luận và tự do báo chí, với vụ án nhân văn giai phẩm, hàng trăm nhân sỹ trí thức bị hạ phóng, bị giam cầm cho đến chết, tất cả các tòa soạn báo không thuộc nhà nước cộng sản đều bị đóng cửa vĩnh viễn. Cho đến nay đã 60 năm kể từ ngày độc lập, Việt Nam vẫn chưa tồn tại một tờ báo tư nhân nào. Gần đây, để khẳng định lại cho quốc dân đồng bào rõ về độc quyền báo chí và ngôn luận chỉ thuộc về đảng và nhà nước, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ra chỉ thị “nghiêm cấm tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức”. Ông cũng khẳng định rằng Pháp luật Việt Nam cấm báo chí tư nhân, và Nguyễn Tấn Dũng cũng đã chỉ thị cho các cơ quan an ninh lập tường lửa để ngăn chặn người dân Việt Nam truy cập vào hệ thống báo chí tự do của Phương Tây. Cùng với đó là nhiều chiến dịch trấn áp những người có tư tưởng tự do, dân chủ, nhiều blogger bị bắt bớ, bị truy tố theo điều 88 Bộ Luật Hình Sự về tội “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tệ hại hơn nữa là chiến dịch trấn áp đó còn kéo vào tận các các nhà tù, nơi những nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền, những nhà báo tự do bị giam giữ, bằng nhiều hình thức vô cùng dã man, như giam chung các tù nhân lương tâm này với những người mắc bệnh lao, bệnh Aids, hoặc tổ chức cho các đại bàng là các tù hình sự trong các nhà tù đó đánh đập hành hung những tù nhân chính trị. Tàn bạo hơn nữa là việc hoán chuyển tù nhân chính trị người Miền Nam ra Bắc, người Miền Bắc vào Nam, xa cách hàng ngàn cây số nơi quê hương bản quán của họ, để vừa tạo sự khó khăn cho sự thích nghi của tù nhân với môi trường sống mới, với khí hậu, với sương lam chướng khí, vừa gây khó khăn cho gia đình, thân nhân của họ trong việc thăm nuôi và chăm sóc khi đau ốm. Đây là cái tinh vi của chế độ cộng sản trong việc trấn áp các tiếng nói đối lập, mà các chế độ thực dân, phát xít trước đây không thể nào sánh kịp. Về đời sống xã hội… Thật khó mà hình dung được rằng khi nhân loại bước vào thiên niên kỷ thứ 3 đã hơn 10 năm rồi mà người dân Việt Nam vẫn tiếp tục sống trong đói nghèo, cơ hàn. Ngoài cái hào nhoáng của các khu đô thị, do có sự đầu tư của các doanh nhân ngoại quốc, thì còn lại dân chúng các vùng nông thôn vẫn sống dưới mức nghèo khổ và hằng năm vẫn đói ăn nhiều tháng trời trong mùa giáp hạt, để đến nỗi mỗi năm, hàng trăm ngàn thanh niên Việt Nam vẫn phải tiếp tục rời bỏ quê hương để đi làm lao nô khắp thế giới với mỹ từ “Xuất Khẩu Lao Động”, và cũng thế, mỗi năm cũng hàng trăm ngàn thiếu nữ Việt phải lìa bỏ quê nhà để đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc theo các dịch vụ môi giới lấy chồng ngoại quốc, với mong muốn cha mẹ, anh em còn ở lại quê nhà không còn phải đói ăn trong những ngày giáp hạt, không còn phải thiếu mặc trong những ngày giá lạnh tiết Đông. Chắc chắn đây là những điều chưa từng tồn tại trong xã hội Việt Nam ngay cả trong suốt gần một trăm năm nô lệ giặc Tây. Còn nhớ, vào dịp tết nguyên đán năm 1976, một lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam là Tổng Bí Thư Lê Duẫn đã long trọng tuyên bố với toàn dân rằng, “Với đường lối lãnh đạo sáng suốt của đảng và nhà nước, chỉ 10 năm nữa là mỗi gia đình người Việt Nam sẽ sở hữu một radio, một TV và một tủ lạnh”. Khi nghe phát ngôn này của một lãnh đạo tối cao của đảng CSVN, nhiều người dân Miền Nam đã cười cợt cho cái não trạng đó của một đầu đảng – Ấy vậy mà đến nay, đã gần 4 thập niên rồi, tức là đã 4 lần cái mười năm của Lê Duẩn rồi mà hàng chục triệu người Việt vẫn khố rách áo ôm, vẫn đang sống dưới mực đói nghèo, cơm vẫn chưa đủ no, áo vẫn chưa đủ ấm, thì TiVi, Tủ lạnh quả là quá xa vời! Đã 60 năm rồi kể từ ngày đất nước Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ thực dân Pháp, xin hỏi người dân Việt chúng ta đã được những gì và đã bị mất đi mất những gì? Não trạng của các lãnh tụ cộng sản sẽ còn khiến cho đất nước Việt Nam tàn lụi đến mức nào nữa? Sự xuẩn động của SANG TRỌNG HÙNG DŨNG, những kẻ nô lệ cộng sản Nga Tàu sẽ còn làm cho người dân Việt Nam u tối, điêu linh, cơ lại đến bao giờ nữa? 00 giờ, ngày 01 tháng 01 năm 2014 ******************* Y Kien :quang phan 83 năm lịch sử của Đảng Cộng sản Việt nam đầu trâu mặt ngựa là 83 năm ngập ngụa máu của người dân Việt, 83 năm của những cái chết cực kỳ bi thảm, hãi hùng : ***Chuyến Bay Định Mạng “ -24/11/2012 – Đỗ Minh Đức : Thiếu Tá Nguyễn Du bị cột quỵ xuống đất, người Thiếu Tá tài giỏi, và trẻ nhứt của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã bị đám Cộng Sản ác ôn và đồng bào nơi đây xẻo thịt, lóc da cho đến chết! Nghĩ đến thì man rợ đấy nhưng có người dân nào có đủ can đảm không nghe theo lịnh của Việt Cộng. Nếu người dân nào không tuân lịnh cầm dao xẻo thịt Thiếu Tá Nguyễn Du thì sẽ bị đám Việt Cộng lôi ra bắn chết ngay. Bởi thế, cứ mỗi người bước qua chỗ Thiếu Tá Nguyễn Du thì họ cắt tai, cắt mũi, xẻ thịt, lớn tiếng xỉ vả … *** “Vụ Tết Mậu Thân, bóng tối lịch sử đã sáng dần ? “- Nguyễn Đức Cung : Có trường hợp nạn nhân bị tùng xẻo như Thiếu tá Từ Tôn Kháng, Tỉnh Đoàn trưởng Tỉnh đoàn Xây dựng Nông thôn Thừa Thiên, đảng viên Đại Việt Cách Mạng trốn trên mái nhà nên vợ con ông bị đe dọa nếu ông không ra trình diện thì vợ con sẽ bị bắn ngay. Thiếu Tá Kháng bèn ra hàng. Ông bị cột vào một chiếc cọc đóng giữa sân nhà và bị Cộng Sản dùng dao cắt tai, xẻo mũi cho đến khi nạn nhân chết. *** “NHỮNG LÁ THƯ TỪ TUYẾN ĐẦU TỔ QUỐC “ -TQLC LÊ CÔNG TRUYỀN : -Thiếu Tá Huỳnh Túy Viên, cựu sinh viên sĩ quan Khóa 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, quận trưởng quận Ðầm Dơi, bị VC giết bằng cách cho người móc mắt ngay tại quận lỵ vào đầu tháng 5 năm 1975. -Khi chi khu Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên thất thủ, Thiếu tá Chi Khu Trưởng Trần Vũ bị VC giết bằng cách lấy đũa tre vót nhọn đâm mù cả đôi mắt rồi cột ở chuồng bò cho đến chết! -Thiếu Tá Bùi Văn Ba, quận trưởng quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long bị VC dùng dao phát cỏ chặt đầu. *** Trong cuốn sách “Real War” của tổng thống R. Nixon, ông đã viết lại câu chuyện: …Uwe Siemon-Netto , ký giả nỗi tiếng người Đức sau khi đi theo một tiễu đoàn Miền Nam vào ngôi làng bị Việt cộng bố ráp năm 1965 kể lại : Lủng lẳng trên các cành cây và sào trong sân làng là thân xác ông xã trưởng , nguời vợ và 12 đưá con vừa trai, vưà gái kể cả cháu bé, tất cã những người nam đều bị cắt cu dái nhét vào mồm, còn những người nữ bị cắt rời vú. Dân làng bị tập trung chứng kiến cảnh tàn sát. Việt cộng bắt đầu giết em bé, rồi một cách chậm rãi giết các em lớn, giết nguời mẹ và sau cùng là giết nguời cha. Việt cộng đã giết cã nhà 14 nguời một cách lạnh lùng như bấm cò đại liên bắn máy bay ” ***Tạp chí lớn ở Hoa kỳReader’s Digest số tháng 11/1968 : …Viên xã trưởng cùng với bà vợ như người điên cuồng. Một trong các đứa con của hai người , một bé trai mới 7 tuổi, đã bị mất tích từ bốn ngày qua. Quá sợ hãi, họ tìm đến trung tướng Lewis Walt để cầu cứu vì tin rằng đứa bé đã bị Việt Cộng băt cóc. Rồi thì đột nhiên, thằng bé thoát ra khỏi rừng, chạy về làng. Mẹ nó chạy ra, ôm lấy nó vào lòng. Cả hai bàn tay đứa nhỏ bị chặtđứt, và trên cổ đeo một cái bảng có ghi những dòng chữ cảnh cáo cho cha nó. Nếu ông ta hay bất kỳ người nào trong làng cả gan đi bỏ phiếu trong kỳ bầu cử tới, sẽ chịu những gì còn tệ hại hơn nữa cho những đứa con còn lại của ông ta. … Tại một xã khác không cách xa Đà Nẵng là bao, Việt Cộng cũng đưa ra những lời cảnh cáo tương tự. Tất cà những người dân bi. tập trung trước nhà viên xã trưởng, kể cả vợ ông ta đang bụng mang dạ chửa và bốn đứa con để chứng kiến cảnh khủng bố dã man của bọn chúng. Lưỡi ông xã trưởng bị cắt đứt, và hạ bộ của ông ta cũng bị thiến rời ra, đem nhét vào trong mồm trầy trụa máu rồi khâu lại. Sau khi ông ta chết, bọn Việt Cộng xoay ra hành hạ bà vợ bằng cách dùng dao rạch bụng bà ta ra. Đứa trẻ chín tuổi bị chúng dùng một que nhọn xuyên qua từ tai bên này sang tai bên kia. Hai đứa kia củng bị giết chết một cách tương tự. Chỉ cõn đứa bé gái năm tuổi được bọn chúng cho thoát chết, để rồi nó chỉ còn biết cầm tay người mẹ đã chết mà gào khóc. …Trong một trường hợp, một bé gái 15 tuổi đã cung cấp tin tức của bọn Việt Cộng cho thủy quân lục chiến của tướng Walt. Em đó sau này đã bị bọn Việt Cộng bắt cóc đem vào rừng, bị hành hạ, tra tấn, trước khi bị chặt đầu. Những kẻ giết em không ai khác hơn là người anh ruột của em, cùng với một đứa em của em bé gái, và hai “đồng chí” của họ. …Một xã trưởng đã bị Việt Cộng siết cổ cho đến chết trước mắt người vợ đang có mang. Sau đó, chúng quay snag hành hạ người vợ. Chúng chặt cụt hai chân bà ta đi khiến bà ta phải bị sanh non. Một đưa con trai ba tuổi bị bọn Việt Cộng dùng súng tiểu liên bắn chết. ***Về cuộc Cải Cách Ruộng Đất do Hồ chí Minh phát động, sách “Công Và Tội” – Nguyễn Trân : Một cụ già đầu bạc trắng phơ bị chém, đầu rơi xuống nhuộm máu đỏ; một anh Cao Đài không cho cột tay chân mà ngồi vòng tay để cho chém, bảo giết được thể xác anh chớ không giết được linh hồn anh! Một gương anh hùng, lẫm liệt! Các địa chủ phú nông bị giết một cách thê thảm. Dã man nhất là khi chồng bị giết, vợ phải đưa tay lên hoan nghênh, cũng như con khi cha bị giết. Có người bị bắt nhốt trong cũi heo để dân chúng dưới sự kích thích hay hiệu lệnh của cán bộ Việt Minh dùng lao cao vót nhọn (chớ không phải gươm giáo) mà đâm cho chết, có người bị chôn vùi mà chưa chết lên tiếng cầu xin: “Tôi chưa chết xin giết tôi đã”. *************** *** Sau hơn 83 năm Cộng sản có mặt tại Việt Nam, 68 năm Việt cộng cầm quyền miền Bắc và 38 năm Việt cộng đặt ách cai trị toàn cõi Việt Nam , tình trạng nhược tiểu và thê lương của đất Việt, người Việt đã được các giới chức cao cấp dân sự và quân đội , giới có học và người dân trong nước nhận định như sau :: *** Nguyễn Hộ- Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở TP.HCM.: Nhục! Đất nước như thế này là nhục! Làm công dân của Việt Nam, có lịch sử oai hùng, đến ngày nay mà không có tự do, đó là nhục nhã! Nhục! Không thay đổi điều này, không xứng đáng làm người ! *** Giáo sư Hoàng Minh Chính, nguyên Viện trưởng viện Triết học Mác-Lê: “ Cái đảng này nó đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, mà bản thân chủ nghĩa Mác-Lênin đã sai từ gốc rễ và cái đảng này nó đang xây dựng một cơ chế độc tài, độc quyền toàn trị thì làm sao cải tổ được, tự đổi mới được…Liên xô đàn áp nhân dân như thế, Liên xô đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin xây dựng một chính đảng toàn trị, thì chính nhân dân đã nổi dậy lật đổ cái chính đảng đó…” ***Nguyễn Minh Cần- Ủy viên Thường vụ Thành ủy Hà Nội, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, chủ nhiệm báo Thủ đô Hà Nội. :Hiệp ước về biên giới ngày 30.12.1999 và Hiệp ước về lãnh hải Bắc Bộ ngày 25.12.2000 mà những kẻ cầm quyền CHXHCNVN đã tự tiện ký kết với Trung Quốc mà không công khai thảo luận dân chủ tại quốc hội, cũng như không dám công khai bàn bạc với quốc dân đồng bào, do đó đã làm cho Tổ Quốc ta mất đi hàng mấy trăm cây số vuông lãnh thổ, trong đó có vùng ải Nam Quan, thác Bản Giốc, v.v… và hơn chục ngàn cây số vuông lãnh hải trong vịnh Bắc Bộ! *** Trung Tướng cộng sản Trần Độ: “Tại sao chiếm được miền Nam năm 1975, một nửa đất nước trù phú như vậy mà chỉ vài năm sau đã đưa cả nước vào tình trạng nghèo đói ngắc ngoải như vậy?” …Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thủy Hoàng và các vua quan tàn bạo của Trung Quốc, cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài. Nó tàn phá cả một Dân tộc, huỷ hoại tinh anh của nhiều thế hệ. *** Đại tá công an cộng sản Lê Hồng Hà, nguyên chánh văn phòng Bộ Công an :“Đối với dân tộc Việt nam, học thuyết Mác là học thuyết ngoại nhập…Không giúp lý giải được xã hội Việt nam với những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng toàn khác với Tây Âu, rất dể dẫn cách mạng VN đi chệch đường và do đó gây nên tổn thất, gây đổ vỡ, gây kiềm hãm sự phát triển…” *** Đại Tá cộng sản Phạm Quế Dương, tổng biên tập tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân: “Cộng sản vừa bất tài vừa bất lực, vừa bất lương” *** Đại Tá điệp báo cộng sản Phạm Xuân Ẩn than thở : Tất cả những lời nói về giải phóng trong “hai mươi, ba mươi, bốn mươi năm qua” sản xuất ra được cái này, cái xứ sở nghèo nàn, rách nát bị cai trị bởi một bọn lý thuyết gia ít học, tàn bạo và độc đoán *** Tiến sĩ Hà sĩ Phu :Chỉ biểu tình ôn hòa chống kẻ xâm phạm bờ cõi mà phải xin phép mới được biểu tình thì đất nước này rất xứng đáng làm nô lệ, không có nhân dân anh hùng nào lại ứng xử như con giun vậy. Dân Việt Nam quyết không chấp nhận sự nô lệ ấy *** Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang: Ba mươi năm qua, chủ nghĩa Mác-Lênin đã tàn phá đất nước này về mặt kinh tế, và tàn phá cả về mặt văn hóa và tư tưởng *** Kỹ sư Phương Nam Đỗ nam Hải : Lối ứng xử của giới cầm quyền VN đối với người dân trong nước là “lối ứng xử của kẻ côn đồ, của một chế độ côn đồ sử dụng những kẻ côn đồ để hành xử với những người yêu nước đang đứng lên đấu tranh để quyết giành lại tự do, dân chủ cho dân tộc VN… Họ là một chế độ bất chính, cho nên họ run sợ trước bất cứ một phản ứng nào của nhân dân *** Lê Hiền Đức – cựu giáo chức chống tham nhũng: “Đã sống qua thời VN còn chịu ách cai trị của phong kiến, ách đô hộ của thực dân, phát-xít, đã hoạt động hậu địch trong kháng chiến, đã xem phim ảnh, nghe kể lại hoặc trực tiếp chứng kiến hàng trăm, hàng ngàn vụ chính quyền “của dân, do dân, vì dân” cưỡng chế, thu hồi đất đai, nhà cửa, tài sản đối với người dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, song tôi chưa bao giờ thấy người dân bị đàn áp một cách man rợ đến như thế, với quy mô lớn như thế”! ***- Nhà văn Thuỳ Linh, Phó giám đốc Hãng phim truyền hình VFC: “Ôi người dân quê tôi lam lũ nhiều đời sẽ còn bị bần cùng tới khi không còn nước mắt để khóc, không còn máu để chảy trong huyết quản. Ngày mai những thân phận người không còn được bú mớm dòng sữa Đất Mẹ sẽ vất vưởng ra thành phố lay lắt kiếm sống qua ngày. Những kiếp sống tàn đời không biết đến ấm no” “…Ngút trời tiếng khóc xé vành môi bà mẹ, chị em tôi, những người bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, để kiếm hạt thóc nuôi con khôn lớn đi đánh giặc giữ nước, giữ làng. Giờ Làng Nước có rồi nhưng Đất lại bị đưa vào cuộc bán buôn kiếm chác của những kẻ chức quyền tham lam vô độ, vô nhân” . “Thà ngửi cứt thằng Tây ít lâu, còn hơn suốt đời ăn cứt thằng Tàu” , khi Hồ chí Minh nói câu này thì lúc đó Trung Hoa vẫn còn dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch . Chớ còn sau khi Mao trạch Đông đã giật được chính quyền, thì Việt gian Hồ chí Minh ca ngợi công ơn của Mao bằng hai câu thơ : Trăm ơn, ngàn nghĩa, vạn tình, Tinh thần hữu nghị quang vinh muôn đời
|
|