|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 6:29:45 GMT 9
Chuyện cải cách tiếng ViệtÐặng Trần Huân (DaiChung) Kể ra từ khi tiếng Việt được hình thành tới nay biết bao nhiêu nhà ngôn ngữ học và không ngôn ngữ học đề xướng thay đổi nó. Nhiều quá kể ra không xuể. Khi tiếng Việt mới ổn định và đã có những tờ báo đầu tiên viết bằng tiếng Việt, nhà văn muốn cải cách tiếng Việt được nhiều người biết đến có lẽ là Nguyễn Trọng Thuật, tác giả tiểu thuyết Quả Dưa Ðỏ. Với cuốn Việt Văn Tinh Nghĩa xuất bản năm 1928, Nguyễn Trọng Thuật có nhiều nhận xét về tiếng Việt thời đó và đồng thời đề nghị một số cải cách nhưng những cải cách của ông bị văn phạm Pháp văn ảnh hưởng khá sâu đậm. Thấy tiếng Pháp có sô 1nhiều, số ít, giống đực, giống cái, ông đề nghị tiếng Việt cũng nên có những chữ câm đằng sau để phân biệt khi nghĩa khác nhau. Ví dụ chữ "kinh" có nhiều nghĩa khác nhau nên mỗi khi viết chữ kinh theo nghĩa nào phải viết khác nhau cho chính xác như viết kinhs sợ, kynhp đô, kynh Thánh, kinh nghiệm, v.v... Những đề nghị của Nguyễn Trọng Thuật chỉ gây thêm rắc rối phức tạp vì tất cả mọi nghĩa của chữ kinh khi đọc nguyên một câu văn hoặc có kèm theo một chữ khác là đủ nghĩa rồi. Do đó cuốn Việt Văn Tinh Nghĩa của ông dù có nhiều nhận xét, phân tách Việt ngữ rất hay nhưng những đề nghị của ông không được mấy người tán thành cả. Ngoài Việt Văn Tinh Nghĩa của Nguyễn Trọng Thuật, Trần Trọng Kim soạn cuốn Việt Nam Văn Phạm (chung với Phạm Duy Khiêm và Bùi Ký) có những tiến bộ rõ rệt. Ngay trong bài tựa, Trần Trọng Kim đã công bố minh bạch rằng Việt ngữ là một ngôn ngữ đơn giản, không nên mô phỏng văn phạm pháp văn để áp đặt cho tiếng Việt. Nhưng xét về nội dung Việt Nam Văn Phạm cũng chia ra danh từ, động từ, tính từ, ... Một ví dụ: ba chữ cái nhà ở, Trần Trọng Kim cho là động từ vì có chữ ở. Thế nhưng khi cuốn Việt Nam Văn Phạm được dịch sang tiếng Pháp với tên Grammaire Annamite do Lê Thăng xuất bản thì cái nhà ở được dịch là maison d' habitation thì không thể coi là động từ được nữa. Thành ra chủ trương không theo văn phạm Pháp khi soạn tiếng Việt nhưng vô hình trung các tác giả đã bị ảnh hưởng nặng nề văn phạm Phám mà không hay. Y như bây giờ có khá nhiều nhà văn, nhà báo hải ngoại mặc dầu biết Việt cộng đã đặt ra những chữ rất ngô nghê, lố bịch nhưng khi viết thì vẫn vô tình lôi cuốn và dùng những chữ lố lăng mà cộng sản đã chế ra. Sau Nguyễn Trọng Thuật và Trần Trọng Kim, nhiều lần vấn đề cải cách ngôn ngữ được đề ra. Cái trở ngại của tiếng Việt là năm dấu và những chữ cái mà vần Pháp ngữ không có trong khi chúng ta đang sống dưới thời thuộc Pháp. Có một dạo ngành bưu điện đã đề nghị và áp dụng thử những chữ Việt mà tiếng Pháp không có như ưng ý, ăn cháo, ... thay bằng uung ý, aan cháo để dùng khi gửi điện tín. Ngành in cũng muốn bỏ năm dấu và thay những tiếng thuần túy Việt bằng chữ cái Pháp nhưng không thực hiện nổi mà vẫn phải dùng con chữ đúc riêng cho tiếng Việt không tinh xảo lắm để chờ tới khi kỹ thuật đúc chữ Việt Nam tinh vi hơn. Tới nay máy điện toán (computer) được phát minh, các nhuu liệu tiếng Việt được sáng chế kịp thời vấn đề sắp chữ không còn nữa. Nhưng tới thư điện tử (e-mail) thì gặp trở ngại khi không đọc được hết các loại tiếng Việt từ nhu liệu không thống nhất ở nhiều vùng khác nhau trên trái đất. Người dùng đành tùy tiện gửi e-mail cho nhau với nhu liệu tiếng NAh không đánh dấu. Khi nhận được một e-mail có câu như sau: Bac Duong cuoi vo cho chau Hung ngay 7 tháng 3 vua qua. Tuy không xa nhung co chu Duong cung ve du dam cuoi. Người ngoài có thể biết co một người tên Duong mới làm đám cưới cho con nhưng chỉ người trong gia tộc mới hiểu được người anh tên là Ðường, hai vợ chồng người em là Dương và chủ rể là Hưng chứ nếu đoán sẽ có thể lộn hai tên Duong và Hưng với Hùng. Phải chăng vì biết đưa ra đề nghị cải cách có nhiều người không theo nên có những cuộc cải cách được đề xướng và chính người đề xướng tự thực hành lối viết của mình để làm gương. Vào thập niên 1960, khi in tập phiếm luận Chuyện Vô Lý của Lãng Nhân, nhà xuất bản Nam Chi Tùng Thư, Sài Gòn đã áp udng lối viết các từ kép bỏ dấu nối và viết liền vào nhau như ânái, hạnhphúc, chínhchuyên, giađình, ... Lối này mới torng cũng thấy ngồ ngộ nhưng không phải là không có trở ngại. Nếu những từ kép ô mai, phát hành, bác sĩ thú ý mà viết liền thành ômai, pháthành, bácsĩ thúy người ta cũng có thể lộn với ôm ai, phá thành, bác sĩ Thúy. Phải chăng thấy chuyện thí nghiệm này cũng gian nan nên bút ký Chuyện Vô Lý lần đầu chỉ in 160 bản tặng bạn bè và chuyện dính liền cũng rơi vào quên lãng một thời gian khá dài. Nguyễn Hữu Ngư một một mình một chợ đưa ra nhiều thay đổi cách viết tiếng Việt như bỏ Y dài thay bằng I ngắn, bỏ phụ âm H trong GH, NGH, ... Không ai nghe theo thì ông tự thực hành một mình. Ông bỏ tên Nguyễn Hữu Ngư của cha mẹ đặt để ký biệt hiệu là Nguiễn Ngu Í, Ngê Bá Lí đơn phương độc mã áp dụng lối viết ấy trong các tác phẩm của mình. Sau năm 1975 ở hải ngoại cũng có nhiều tác giả đưa ra những cải cách có khi mới, có khi không. Về việc viết I ngắn thay thế Y dài hai nhà biên khảo Lê Hữu Mục, Nguyễn Ðình Hòa nêu lại vấn đề này và hỗ trợ nó. Có nhiều người không đồng ý chuyện thay đổi này nhưng có người yểm trợ và người yểm trợ mạnh mẽ nhất là Dương Ðức Nhự. Theo một bài đăng trên tuần báo Sài Gòn Nhỏ, Wesminter (CA) số Xuân Kỷ Mão của Ðỗ Hữu và Diên Nghị (sau đăng lại có sửa chữa trên tạp chí Tinh Hoa, Minneapolis (MN) số tháng 10/99 với tên Ðức Cố và Diên Nghị), hai tác giả cho biết Dương Ðức Nhự không những yểm trợ chuyện thay thế Y dài do Lê Hữu Mục và Nguyễn Ðình Hòa theo duổi mà còn đề nghị cả chuyện viết dính liền, bỏ phụ âm Hoặc, du nhập chữ cái F, J, W, Z. Ông đề nghị viết ngẫm ngĩ, ngễnh ngãng, gồ gề thay cho ngẫm nghĩ, nghễnh ngãng, gồ ghề; viết zễ zàng, zu dương thay cho dễ dàng, du dương. Nhà thơ Diên Nghị và Ðức Cố hẳn cũng không tán thành lối cải cách của ông Dương Ðức Nhự khi đưa ra thí dụ chép truyện Kiều như sau: Trăm năm trong kõj người ta, Cữ tài, cữ mệnh qwé là gét nhaw. Trải kwa một kuộk bể zâu Những diềw trông thấj mà daudớn lòng Lạ jì bỉsắc tưfong, Trời xanh kwen thój má hồng dánh gen. Kảw thơm lần jở truớk dèn Fongtình kổlụk kòn trwiền sử xanh ... Có thể bị ám ảnh về kiến thức uyên bác của mình, về những điều đã dày công học hỏi và nghiên cứu nên thạc sĩ ngôn ngữ học Dương Ðức Nhự thấy cần phải thay đổi một cái gì mà ông cho là mới chăng? Nhưng thực ra những cải cách của giáo sư Nhự tưởng là mới lại không có gì là mới cả. Viết toàn I ngắn thì đã có từ khi Paulus Của viết tên ông là Huình Tịnh Của vào cuối thế kỷ 18. Nguyễn Hữu Ngư cũng chỉ làm công việc lập lại. Còn cộng sản Hà Nội thì quen cách cai trị theo lối độc tài nên đã ra hẳn một pháp lệnh về việc thay đổi I ngắn, Y dài. Cách viết tiếng Việt với những chữ cái la tinh F, J, W, Z, thì ông Hồ đã thực hiện vàlần cuối cùng là trong chính di chúc viết tay của ông đã có những chữ nhân zân, fe xã hội chủ nghĩa, fục vụ, Ðỗ Fủ, ... Lối viết đó được đàn em bợ đỡ, điển hình nhất là Nguyễn Kim Thản, Viện Trưởng Viện Ngôn Ngữ Học đã tâng bốc như sau: Ngay từ khi viết Ðường Kách Mệnh người đã dùng F thay cho Ph, Z thay cho Ðược và G, dùng K thay cho Các, bỏ Hoặc trong GH và NGH. Những người làm công tác ngôn ngữ học ngày nay ở nước ta vô cùng khâm phục những sự sửa đổi nói trên của Bác. Thiên tài và sự vĩ đại của Bác biểu hiện ở từng việc làm, từng chủ trương cụ thể như vậy đó. (Tiếng Việt của chúng ta, nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1983 trang 40). Di chúc viết tay của ông Hồ với cách viết lố lăng như trên đã được chụp lại in trong báo Nhân Dân sau khi ông chết và năm 1976 cũng bút tích ấy torng cuốn Chủ Tịch Hồ Chí Min, Tiểu Sử và Sự Nghiệp do Ban Nghiên Cứu lịch sử Ðảng Trung Ương biên soạn. Sự thay đổi chữ nghĩa đó sau này đã được ban hành bằng một pháp lệnh của chính quyền và được thực hiện trong Từ Ðiển Tiếng Việt (Hoàng Phê) từ ấn bản 1988 và trong Ðại Từ Ðiển Tiếng Việt (Nguyễn Như Ý) do Bộ Giáo Dục và Ðào Tạo xuất bản năm 1998. Cách viết dính liền những từ kép thì cũng là lập lại điều mà Nam Chi Tùng Thư đã làm từ năm 1962 mà không ai theo. Sống ở Mỹ ảnh hưởng lối viết cắt xén chữ nghĩa trong ngôn ngữ nên đã có khá nhiều người lên tiếng hoặc tự cải cách tiếng Việt theo một lối riêng mà mạnh mẽ nhất là viết tắt. Nhà thơ Du Tử Lê sau những sáng kiến về thơ gạch chéo cũng đã ch in hẳn ra ngoài bìa sách của ông cái tên với chữ thật lớn K. Khúc Của Lê mà không viết ca khúc như thường lệ. Báo Văn Nghệ Tiền Phong đã từng lên tiếng châm biếm lối viết tắt này khi đưa ra những "dự phóng" (đao to búa lớn ch nó oai): K nhac, H hong, C xich Chan minh nhung lam b b Lai cam bo duoc ma d chan nguoi Những người ủng hộ lối viết tắt lý luận rằng người Mỹ viết Toy R Us (chữ Rồi viết ngược), BBQ, U R here, Open on Nite thay cho Toys are us, You are here, Open all night mọi người vẫn hiểu. Không những viết mà khi đọc họ cũng bỏ những khuôn mòn sáo cũ. Khi nói về Quân Ðòan Một họ viết chữ số La Mã I Corps nhưng khi đọc họ đâu cần đọc Girst Corps hay Corps Oe mà đọc là Ai Co. Nước Mỹ là cờung quốc bậc nhất thế giới tại sao ta không bắt chước họ cho tiện lợi? Nghĩ cho cùng thì những cách viết lạ lùng khác thường ở Mỹ cũng thường chỉ thấy trong những bảng hiệu, trong những quảng cáo thương mại. Ở một quốc gia tư bản tự do, cạnh tranh kịch liệt thì các chuyên viên quảng cáo chỉ nghĩ làm sao cho mọi người chú ý, làm sao lôi kéo được sự tò mò, lôi kéo nhiều khách hàng nghĩa là mang lại nhiều lợi lộc. Nếu không có luật lệ hạn chế thì quảng cáo thương mại có thể sử dụng mọi hình thức dù lố bịch, vô luân, bạo lực, dâm đãng để làm sao kiếm được nhiều tiền. Nếu đúng như vậy có lẽ cũng chẳng nên dễ dãi thu nhập vào văn chương chữ nghĩa tiếng Việt để coi như một cải cách tân kỳ. Tiếng Việt có ưu điểm của nó nhưng cũng làm cho những người ngoại quốc muốn nghiên cứu phải bối rối về việc sử dụng uyển chuyển các từ ngữ mà chẳng cần văn phạm và năm dấu Việt độc đáo không có trong ngôn ngữ nào trên thế giới. Có thể vì lẽ đó tác giả Phụng Nghi trong cuốn 100 Năm Phát triển tiếng Việt (nxb Văn Nghệ, 1999) đã dành hẳn một chương để bàn chuyện có nên bỏ một trong hai dấu hỏi (?) ngã (~) tiếng Việt không? (Trang 137) Ông dẫn chứng ba khuynh hướng khác nhau về vấn đề này là khuynh hướng chỉ dùng một dấu trên toàn quốc, khuynh hướng dùng một dấu riêng tại miền Nam và khuynh hướng giữ nguyên trạng không cần thay đổi. Vấn đề đáng nói nhất là khuynh hướng đầu được báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật, xuất bản tại Sài Gòn từ năm 1990 là hai dấu hỏi ngã nên nhập chung làm một cho tiện, hỏi ngã gì cũng được. Ý kiến của tác giả bài báo thật dễ dãi nhưng khó chấp nhận và thực tế thì đã chín năm trôi qua chưa có ai tán thành đề nghị đó. Nếu chỉ vì ngại khó mà cứ đọc sao viết vậy thì chữ nghĩa không còn là chữ nghĩa nữa. Hai dấu hỏi và ngã có nghĩa khác nhau, dùng trong những trường hợp khác nhau không thể đồng hóa thành một được. Nếu câu nói: "Anh nỡ bỏ cô ấy mà không nghĩ tới tình nghĩa những năm qua sao?" mà viết toàn một dấu hỏi là Anh nở bỏ cây ấy mà không nghỉ tới tình nghỉa nhửng năm qua sao? Thì chắc cả trăm năm nữa cũng khó có thể quen tai. Nếu báo thanh Hồ chủ trương viết một dấu cho dễ thì cũng nên theo những anh bộ đội nói ngọng không phân biệt được hai chữ L và Những, mà bỏ một chữ L đi. Khi đó học trò viết Nu nàng nu nống cái Bống nằm trong cái Ong nằm ngoài hoặc là Não nính nệ nàng Náng nên nàng Nủ nấy nòng nơn nuôn nuôn đều được coi là đúng chính tả. Và nhân tiện cũng bắt chước giọng đọc của người miền Nam tất cả những chữ bắt đầu bằng Việt đầu viết thành Ðược cho tiện việc mặc dầu torng Nam đồng bào dù đọc Ðược nhưng vẫn viết V trúng phóc, (la ve). Cũng như không thể viện cớ thông tin trung thực, vô tư để khi rỗi rãi ngồi ghi âm hai người nói chuyện gẫu rồi cứ htế ghi chép lại nguyên văn in thành sách, chắc chắn tác phẩm này phải dày cả nghìn trang với đầy rẫy thì, mà, à, ờ, ừ, và nhiều khi còn chửi thề, nói tục. Học chự hay muốn nói cho đúng thì cũng phải chịu khó nên không thể ngại khó mà đơn giản hóa quá mức đến thành thiếu sót, thiếu nghĩa. Không thể viện cớ đơn giản để mà đưa đề nghị bắt chước người Mỹ chỉ cần xưng hô bằng hai tiếng I, You cho tiện để bỏ hết những từ ông, bà, cô, bác, chú, thím, cậu, dì, ... thân thương, độc đáo của Việt ngữ. Vấn đề cải cách một ngôn ngữ không phải là một chuyện dễ dàng. Người Trung Hoa hẳn cũng biết chữ viết của họ phức tạp, bất tiện nhưng không hề nghĩ tới chuyện la tinh hóa chữ Hán mà chỉ thay đổi Hán tự từ văn ngôn ra bạch thoại cho đơn giản hơn thôi. Người Nhật mạnh dạn hơn đã đặt ra một cách viết tiếng Nhật bằng chữ cái la tinh gọi là romaniji được chính quyền tích cực truyền bá nhưng cho tới nay có lẽ vẫn chưa có sách Nhật in bằng tiếng Nhật cải cách romaniji. Họ vẫn yêu thích lối chữ Nhật hiện hành, hình thức hơi giống chữ Hán nhưng ít nét và không rườm rà. Việc thay đổi chữ viết có ảnh hưởng tới kho tàng thư tịch của các dân tộc nên khó bề thực hiện. Giả thử có một nền văn học lâu đời như Trung Quốc, nếu thay đổi chữ Hán bằng chữ la tinh thì phải có một đội ngũ hùng hậu người mình dịch các áng văn của mình sang chữ mới của chính mình. Học giả Hoàng Xuân Hãn chắc chắn đã nghiên cứu những đề nghị cải cách tiếng Việt của các tác giả trước ông, đã biết sự khó khăn khi cải cách nên năm 1942 ông đã viết trong cuốn Danh Từ Khoa Học rằng: Tiếng hiện thời của các nước đều đầy những sự vô lý. Nhưng đố ai cải cách nó được. Ðể kết luận vấn đề ngôn ngữ, chúng tôi thiết nghĩ tiếng Việt hiên nay đã sử dụng được trong bậc đại học, đã có những thuật ngữ diễn đạt được những vấn đề chuyên môn, khó khăn mà không gặp trở ngại nên có thể tự hào về ngôn ngữ hiện tại. Công việc cần của chúng ta là bảo tồn ngôn ngữ ấy sao cho tiếp tục trong sáng mà đừng chế ra những cải cách lai căng làm vẩn đục tiếng Việt như Hà Nội đã làm. Việc thay đổi chỉ nên thực hiện khi thật sự cần thiết cho việc diễn đạt tư tưởng, hay cải đổi những phi lý rõ rệt mà không nên quá dễ dãi để a dua, mô phỏng nhất thời ngôn ngữ nước ngoài với mục đích làm duyên khiến cho mất sự đơn giản nhưng phong phú và uyển chuyển của tiếng Việt chúng ta.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 7:23:57 GMT 9
CÁC VẤN ĐỀ VỀ TIẾNG VIỆT
Nguyên Nguyên
THỬ TÌM GIẢI PHÁP DÙNG I-NGẮN THAY Y-DÀI CHO “NGƯỜI YÊU”
Hầu như những ai thích đọc sách báo chữ Việt đều biết rằng vào khoảng giữa thập niên 1960, ở Sàigòn bắt đầu có hiện tượng táo bạo cổ súy mọi người dùng chữ I thay cho chữ Y. Thí dụ trong khi bình thường người ta viết: “Tôi có yêu một người đàn ông Mỹ”, những người thích i-ngắn sẽ viết: “Tôi có iêu một người đàn ông Mĩ”. Người cổ võ mạnh mẽ nhất là nhà văn Nguyễn Hữu Ngư. Ông này mê cái mốt-I dữ dội đến độ dùng một bút hiệu thường trực là Nguiễn Ngu Í. Nguiễn Ngu Í chơi thân với học giả Nguyễn Hiến Lê cho nên chẳng bao lâu sau, người ta thấy học giả họ Nguyễn tiếp tục lăng xê mốt-i và từ khoảng đầu thập kỉ 1970 cho đến cuối đời, các tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê đều in các từ dùng Y ra i-ngắn hết. Chỉ trừ họ Nguyễn của tiên sinh không thấy thay đổi chữ y ra i thôi.
Cái mốt thay y bằng i từ thập kỉ 80 cho đến bây giờ gần như mỗi ngày một lan tràn mạnh hơn. Và hiện có vẻ thịnh hành ngay tại Việt Nam. Tuy nhiên luôn luôn người đọc thấy nó như bị một cái hạn chế nào đó. Hạn chế đó hình như dính liền với những lời chế giễu cái mốt-i này. Ai muốn chỉ trích nó rất dễ. Họ chỉ cần lôi tên người nữ ca sĩ có gốc “Bến Ngự Sông Hương” là xong. Họ nói đổi y thành i chắc phải gọi tên ca sĩ Thanh Thúy thành Thanh Thúi sao? Nhở Thanh Thúy chửi mình hay đi kiện mình thì làm sao đây? Thành ra phát triển của mốt-i này luôn luôn bị hảm lại nhờ ở tên tuổi của người ca sĩ đất Cố Đô đó chăng? Những người thuộc “trường phái” mốt-i cũng không chịu thua, và họ thường trích dẫn quyển Việt Nam Văn Học Sử Yếu của học giả Dương Quảng Hàm, trong đó họ Dương có viết đại khái rằng dùng i thay cho y cũng không sao!
Sau đây xin mạo muội đề nghị một giải pháp cho những người iêu thay y bằng i.
Trước hết xin quan sát một vài nguyên âm đôi như “ươ” trong từ như “hứơng” hay “hưởng”. Ta để ý trước hết vị trí của dấu sắc hay dấu hỏi. Dấu nằm ở đâu? Trên ư hay trên ơ. Nếu trên ư: hướng sẽ đọc ra là hứ-ơng chứ không phải hư-ớng. Hứơng có dấu trên ư (hứ-ơng) có vẻ có âm không sâu bằng có dấu trên ơ (hư-ớng) và chỉ sắc hơn hương một chút thôi. Do đó âm hướng thật sự đọc ra hướng hoàn toàn nhờ ở dấu sắc đặt để trên chữ “ơ” tức nguyên âm đi sau chứ không phải đi trước (ư).
Tương tự, ta có thể thử các từ dùng nguyên âm đôi như phường thành ra phừ-ơng và phư-ờng, hay thưởng thành ra thử-ơng và thư-ởng, hoặc phượng ra phự-ơng hay phư-ợng. Ta sẽ thấy ngay có một sự khác biệt nhưng rất ít. Dấu để vào âm sau “đúng” hơn nhưng có đánh sai ra âm trước, cũng không sao, không chết ai! Nhưng phải nhận rằng có... khác.
Giải pháp để hoá giải cái “âm nạn” “thanh thúi” này trong một ngẫu nhiên nằm trọn trong cách đánh dấu chữ I trong tên Nguiễn Ngu Í. Tức là nếu muốn hoá giải từ THÚY khi dùng I thay cho Y ta PHẢI đánh dấu ngay trên chữ i như trong tên Nguiễn Ngu Í:
THANH THÚY nếu muốn thay Y bằng I phải viết ra THANH THU-Í
Tương tự, thủy (nước) sẽ được viết là thu-ỉ.
Thùy mî (thuì mị (tức thu-ì mị)
Trọng Thủy (Trọng Thuỉ (tức Trọng Thu-ỉ)
Thế còn những từ như “suy đoán” thì sao. Ngày xưa đi học tiểu học các thầy các cô thường nói Y còn gọi là Y-cà-réc (Y-grecque - Y của tiếng Hy Lạp). Ngày nay ta thường gọi nó là I-dài. Do đó khi có âm Y cuối của một từ không dấu, nếu cần I thay cho Y, ta chỉ dùng 2 chữ i là xong? “Suy đoán” do đó có thể viết theo người “iêu-i” là SUII ĐOÁN (tức Sui-i đoán, Ok?).
Tương tự, tuy nhiên viết thành tuii (tui-i) nhiên.
Tương tự, Mầy sẽ trở thành Mâ-ì hay Mâì. Thành ra lần đầu tiên tiếng Việt có cảnh nguyên âm đôi, mỗi âm lãnh một dấu phía trên! Nghĩa là a trong Mầy có hai dấu: dấu mũ và dấu huyền. Do cách viết “iêu-i” a chỉ mang dấu mũ và dấu huyền nhường lại cho i đi đàng sau! Thí dụ khác: Sức mấy => Sức mâí, có vẻ OK như thường.
Vẫn còn một cái kẹt! Đó là kẹt ở truyền thống văn hoá con người. Kẹt ở từ Yêu viết thành Iêu có lẽ không quan trọng lắm vì có yêu thì cũng có “không yêu” hay “hết yêu” hay trong khi yêu chợt thấy người yêu mình đôi khi cũng như “yêu” như “quỷ”! Tức là YÊU đổi ra IÊU không vi phạm nhiều lắm đến văn hoá cổ truyền vì theo thông thường nó có nghĩa hơi tương đối và luôn luôn có các từ khác thay thế (như THƯƠNG chẳng hạn). Nhưng trục trặc ở một từ khác nằm trong cốt lõi của văn hoá Việt Nam: đó là Thầy, một từ hàm chứa ít nhiều tính cách thiêng liêng. Thầy nằm trong trục “quân sư phụ” của hệ thống Khổng Mạnh và cũng là từ gọi người Thân Phụ (Cha) trong một số nhiều gia đình ở ngoài Bắc. (Riêng người viết người Sàigòn nhưng không hiểu sao đã gọi thân phụ là Thầy cũng như ông đã gọi ông Nội như vậy). Theo mốt “iêu-i” Thầy sẽ trở thành Thâ-ì.
Không được, dù đã có một giải pháp cho giới iêu-i, xin mọi người hãy cố gìn giữ lấy Y.
THỬ VIẾNG LẠI ÂM CHỮ V VÀ D HAY DZ TRONG TIẾNG YIỆT CỔ
Bài này sẽ xem lại cách phát âm chữ V trong tiếng Việt cổ. Sau đó sẽ thử khảo sát về chữ D như trong một số từ: dung mạo, Kim Dung, dũng mãnh, da mặt, dễ ợt, miệt dưới, v.v... Đặc biệt sẽ cố gắng tìm một giải thích cho lối phát âm D như Dz của người Việt ở phía Bắc. Phát âm chữ D cũng liên quan đến V theo kiểu phát âm miền Nam, và bài này sẽ liên hệ đến một bài trước với tựa: “Thử tìm lại phát âm chữ V trong tiếng Việt cổ” (gọi tắt: Chữ V).
Trước hết xin tóm tắt những điểm chính yếu trong bài “Chữ Võ:
1. Có thể nói tất cả các ngôn ngữ Nam Á và Hán Tạng cho đến khoảng thế kỷ 17 hoàn toàn không có âm bắt đầu bằng chữ V như trong tiếng Pháp, tiếng Anh: vers le soleil, hoặc very bad, và chỉ có âm gần giống nhưng nhẹ hơn W như: đi Wià (đi về), con Uoi (Woi, con voi), Wương Yũ (Wang Yu, tài tử Vương Vũ).
2. Từ “Việt” trong Việt Nam, tiếng Quan Thoại gọi là Yuế, Quảng Đông gọi Yuệt, tiếng Nhật gọi “Beto” (gần giống với phát âm người Nam bộ: Byiệt), tiếng Mường gọi Yịt. Do đó theo lối “điền vào chỗ trống cho hợp lýõ, chắc hẳn tiền nhân Việt Nam cho đến thế kỷ 17 đã phát âm từ “Việt” là “Yiệt” hay “Byiệtõ.
3. Tương tự một số từ hiện viết bắt đầu bằng chữ V đáng lẽ phải được viết bằng Y theo như nguồn gốc phát âm của chúng:
Yũ thay vì Vũ, chỉ lông chim, mưa gió (quan thoại: Yu - có dấu).
Yiên thay vì Viên, như trong công viên, nhân viên (quan thoại: Yuan).
Yiễn thay vì Viễn, như trong “viễn vọng” (yiễn wọng, quan-thoại: yuan wang)
Yiện thay vì Viện, như viện trợ, viện trưởng
Yĩnh thay vì Vĩnh, như vĩnh biệt (qt: yong bie)
Yũ thay vì Vũ, như trong “vũ trụ” (qt: yu zhou)
Yiêm thay vì Viêm, như trong “viêm nhiệt” (yan re)
v.v...
Xin ghi chú thêm: Đa số các từ có âm bắt đầu bằng Y thường giống nhau giữa tiếng Quan Thoại và tiếng Quảng Đông, chỉ trừ một hai ngoại lệ. Thí dụ như từ Vân (Mây). Quan thoại đọc YUN, Quảng Đông đọc Wan theo Bình Nguyên Lộc xuất phát từ tiếng Mã Lai AWAN (mây).
4. Các giáo sĩ và cố đạo người Pháp trong công trình kiến tạo chữ quốc ngữ có lẽ đã dùng chữ V để ký âm cùng một lúc cho chữ W và Y (hay By theo lối đọc phía Nam). So với các ngôn ngữ khác của Á Châu như tiếng Nhật, tiếng Tàu, tiếng Nam Dương (Inđô) tiếng Việt thiếu hẵn chữ W đáng lẽ đứng vào vị trí then chốt của chữ V. Chữ quốc ngữ do các giáo sĩ Tây tạo dựng cũng không dùng chữ Y như Y trong tiếng Anh: YES, YOU, YELL, mà lại dùng như i trong một số ít từ như: Yêu, Yếu nhân, chim Yến, tất cả đều có thể thay bằng i: iêu, iếu nhân, chim iến. Hoặc Y theo tính chất i-dài chỉ dùng ở cuối từ như: Thúy Kiều, tuy nhiên, suy đoán, thấy, v.v.. (Gần đây người ta có thể thấy rằng Y ở cuối từ vẫn có thể được hoàn toàn thaii thế bằng i-ngắn. Xin đọc “Thử tìm giải pháp cho người yêu thay i-ngắn cho y-dài”).
Nếu so sánh một quyển tự điển Việt-Anh với một quyển tự điển Hoa-Anh ta sẽ thấy tự điển Việt không có trang nào chứa từ bắt đầu bằng chữ W, và ngược lại tự điển Hoa không có chữ V, mặc dù có đến 60 phần trăm từ Việt xuất thân từ tiếng Hán tức tiếng Hoa (xem Vũ Thế Ngọc: “Nghiên cứu chữ Hán và tiếng Hán Việt” EastWest Institute 1989). Ngôn ngữ của dân tộc Inđô (Nam Dương) cũng vậy, gần như hoàn toàn không có âm bắt đầu bằng V, mà chỉ có âm W, như trong tên phổ thông Widjaja. Đặc biệt, nếu xem qua các tự điển Việt-QuanThoại hay Việt-QuảngĐông ta sẽ thấy các từ hiện viết bắt đầu bằng V như vũ-trụ, viên-mãn, Việt-Nam, công viên, v.v., thật sự đáng lẽ phải được ký âm hay viết bắt đầu bằng chữ Y: yũ-trụ, yiên-mãn, Yiệt-Nam, công yiên, v.v., chiếm đến khoảng 30 phần trăm của các từ gốc Hán Yiệt bắt đầu bằng chữ V. Thêm vào đó một số từ thuần nôm có liên hệ gốc gác ít nhiều đến các ngôn ngữ Nam Á như tiếng Mã Lai, tiếng Mường và một lô các thứ tiếng của dân tộc ít người tại bán đảo Đông Dương chắc hẳn đã được phát âm bằng By như Byua (Vua) - theo kiểu người Nam bộ - lại chiếm thêm một số phần trăm nữa. Phần còn lại, những từ bắt đầu bằng V có lối phát âm V theo kiểu Tây Phương và người phía Bắc, nguyên thủy được mượn từ tiếng Tây, tiếng Y Pha Nho, Bồ Đào Nha, Latinh, v.v. dùng để ký âm và thay thế âm W của tiếng Yiệt cổ. Đó là những từ như: Về (Wìa hay We, Yiệt cổ), Văn hoá (wen hua, qt), vạn (wan), vương (wang, qt), v.v. Thành ra trong lối phát âm chữ V trong tiếng Việt, cả người Nam bộ và người phía Bắc đều phát âm biến đổi so với tiếng Yiệt cổ mỗi bên khoảng 50 phần trăm, 50-50!! Muốn nhớ điều này cứ lôi tên tài tử phim kungfu của Hongkong tên Vương Vũ. Người Bắc bộ phát âm như Vương Vũ, người miền Nam như Yương Yũ - và chính ra phải Wương Yũ theo như gốc tiếng Tàu: Wang Yu. Yũ ở đây có nghĩa lông chim chứ không phải Vũ của vũ công.
Những từ thuần nôm chắc hẳn đã được phát âm như By theo kiểu Nam bộ hiện rất khó tìm vì đòi hỏi công trình nghiên cứu rất công phu, cũng như việc đối chiếu với các ngôn ngữ của các dân tộc ít người tại Việt Nam, và của người Mã Lai, người InĐô, v.v.. Trước mắt chỉ có hai tài liệu, một của Bình Nguyên Lộc (BNL) “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” xuất bản tại Sàigòn 1971 và hai, bài của Hồ Lê trong quyển kỷ yếu của nhiều tác giả “Tiếng Việt và các Ngôn ngữ Dân Tộc phía Nam” xuất bản 1992 tại Sàigòn. Xin trích ra một số từ bị “tình nghi” là thủ phạm của lối phát âm V như By của người Nam bộ:
Vải (fabric): byải (tiếng Mạ), kpải (Bàna)
Vua (king): Bua (Việt thế kỷ 17), Bua (Mường), BĂưa (Bàna)
Vàng (yellow): Yèng (Mường)
Vuốt (vuốtve, caress): puôt (Xtiêng), phyê (Danaw), xapu (MãLai), xpôt (Môn)
Vú (breast): bu (Palaung, Riang), pu (Darang, Son, Angku). “Bú vú” xuất phát từ đây chăng?
Vai (shoulder): yaq (Palaung), pnah (Mường)
Vơ (dùa, sweep off): yô (Khơme), yôk, iok (Banah), yôk (Xơđăng)
Vé (ticket): Piao (quan thoại)
Vía (hồn viá, soul/spirit): piái (Mường)
Vàm (sông Vàm Cỏ): Piam (Mã Lai)
Rõ ràng chữ V đã được các giáo sĩ dùng để ký âm một lúc 2 âm W và Y (hay By). Tỉ lệ phân phối hai âm W và Y (nếu kể luôn By) này trong tiếng Yiệt cổ rất có thể lên đến 50-50 (fifty-fifty!!), tức âm nguyên thủy Y (hay By theo kiểu Nam Bộ) hiện đều được viết V chiếm tỉ số rất cao, cao hơn nhiều người nói tiếng Việt vẫn hằng nghĩ đến! Thắc mắc hiển nhiên nhất sẽ là tại sao người Bắc Hà (phía Bắc sông Gianh) lại tống hết các âm W và Y vào với V, và người Nam Hà có khuynh hướng nhét hết hai thứ W và Y vô âm Y hay By. Hơn nữa, tại sao vấn đề quá giản đơn và hiển nhiên như vậy lại nằm trong đống cát bụi của một thời gian quá dài như Nguyễn Du đã ao ước có người sẽ hiểu ông:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Ba trăm năm nữa ai người sẽ
Nhỏ lệ buồn cho một Tố Như)
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 7:24:15 GMT 9
Một phần của việc truy tìm giải đáp cho những thắc mắc này cũng được dùng để giải thích hiện tượng tại sao người Bắc Bộ lại có khuynh hướng phát âm Y như Dz (trong những từ bắt đầu bằng D: Dũng, Dung, Dương Qua), sẽ được đề cập phía sau. Nhưng trước hết xin mạo muội đưa ra một số giả thiết nhằm giải thích một hiện tượng “động trời” V đọc cho W và Y trong ngôn ngữ Việt Nam, đã nằm trong bóng tối trong khoảng 3 trăm năm!
Thứ nhất, như gần 2 triệu người Việt hiện định cư tại nước ngoài có thể nhận xét, muốn thông thạo một ngoại ngữ người ta cần phải sinh sống và xử dụng ngôn ngữ đó ngay tại nước đó ít lắm từ 10 đến 20 năm. Tốt nhất là sinh đẻ ngay tại nước ngoài thì giọng nói mới không bị lớ (accent). Nhớ người Hoa tại Việt Nam, lúc nào họ nói tiếng Việt vẫn có accent, vẫn bị lớ. Chỉ trừ những thiếu niên người Hoa đi theo học trường Việt ngay từ nhỏ khả dĩ mới có thể “hoà mình” với giọng nói của người Việt bản xứ. Các giáo sĩ có công kiến tạo chữ quốc ngữ chắc chắn cũng đã bị lâm vào tình trạng “chưa rành” tiếng Nôm mà phải ra công ghi ký âm tiếng Nôm bằng chữ cái alphabê của tiếng Latinh để tạo dựng chữ quốc ngữ! Ngôn ngữ nào đối với người nước ngoài cũng “khó” cả. Một trong những yếu tố khiến ngôn ngữ trở thành khó khăn đối với người nước ngoài là việc biến chuyển ý nghĩa của từ (nuances) theo với thời đại, và biến chuyển của giọng nói hay cách phát âm theo địa phương. Thí dụ, đọc truyện kiếm hiệp ta thấy người Hoa dùng “giới giang hồ” có nghĩa những người từng trải, nay đây mai đó, đi sông vượt hồ, hành hiệp cứu người. Sang qua tiếng Việt qua dòng thời gian, “giang hồ” đi với gái giang hồ lại mang nghĩa “gái điếm”. Ở Sàigòn cứ vài năm là có một cụm từ mới, như “sức mấy”, “bề hội đồng”, “bỏ qua đi tám”, “tuyệt chiêu”, v.v.. Những biến chuyển này không có một từ điển nào cập nhật cho kịp! Biến chuyển theo với địa phương quá hiển nhiên không cần đề cập nhiều ở đây - nhưng chỉ xin đơn cử thí dụ người Bắc Hà, xin được nhấn mạnh sau thế kỷ 17 chứ không phải trước đó, có một khuynh hướng phát âm quốc ngữ như cuốc ngữ và người Nam đọc quấc ngữ; người Trung và người Nam phát âm Cộng Hoà như Cọng Hoà (trên một hai con tem thời 1954-65 còn viết Cọng Hoà),... Do đó ta có thể xác nhận rằng trong tình thế “khẩn trương” đòi hỏi một ngôn ngữ dựa trên mẫu tự Latinh cho tiếng “An-Nam” trong công cuộc truyền giáo của mình, các giáo sĩ Tây Phương mặc dù chưa nắm vững hoặc hiểu thật r” hay phát âm tiếng Nôm vẫn còn accent, vẫn còn lớ, đã tạo dựng nên phần lớn của căn bản chữ quốc ngữ cho nước Nam.
Lý do thứ hai, và lý do này liên quan đến việc dùng chữ cái V phiên âm một lượt cho hai âm W (con Woi/ voi) và Y hay By (ông Byua/ vua), cho tiếng Nôm ở thế kỷ 17. Đó là ta phải xem thật ra đối tượng chính trong công cuộc ký âm ban đầu tạo dựng chữ quốc ngữ là ai. Đối tượng chính, theo thiển ý, thật ra không phải là người Việt Nam! Người Việt Nam chỉ là đối tượng phụ. Đối tượng chính là những ông giáo sĩ khác, những người trong giới cầm quyền ở tận Paris, những người “lái buônõ, những thương gia đang qua lại miền Đông Á, tất cả đều là người Pháp. Bởi đối tượng chính này là những người Tây nên cái tiêu chuẩn hay ràng buộc hàng đầu cho các giáo sĩ đã là phải cấu trúc tiếng Việt làm sao cho các ông Tây bà đầm có thể đọc được dễ dàng. Tức là tuyệt đối không được dùng chữ cái W (của tiếng Anh, tiếng Hoà Lan, tiếng Đức, v.v.) để phiên âm cho Wăn Hoá, Wương Yũ, đi Wề, v.v. mà phải dùng V cho Văn hoá, Vương Yũ, đi về, v.v. bởi những ông Tây sau đó nếu phải xử dụng âm W, như trong con Woi (voi), sẽ bỡ ngỡ và có thể gặp khó khăn, và có thể than phiền với nhà cầm quyền ở Paris hay với giáo hội. Tuyệt đối cũng không được dùng Y ở đầu từ mang âm như YES, Yummy, Yul Brynner, v.v. trong tiếng Anh, mà chỉ dùng nó như i ở đầu từ (như yêu / iêu, đau yếu / iếu) và như i-dài ở cuối từ (như ThaY đổi). Để đáp ứng với đòi hỏi khó khăn này các giáo sĩ đã vay một chữ cái mang âm hoàn toàn khác biệt với Y (cho Yũ / vũ: mưa, Yiên chức / viên chức, v.v.) để thay thế cho Y. Đó là chữ cái D như trong Dầu, dương thế, dễ dàng (đáng lẽ phải là yầu, yương thế, yễ yàng!), v.v.. Chữ D-tây này đọc là Đ của tiếng Việt như trong dans la salle, diaspora, Disneyland, Demi Moore, Denis Quaid, v.v. bị dùng để thay cho Y, nên các giáo sĩ lại mượn Đ của tiếng nước Băng Đảo (Iceland) nằm ở phía Bắc nước Anh đem vào trám chỗ cho chữ D-Tây. Việc thay thế Y bằng D-tây, rồi Đ cho D-tây, theo thiển ý, là một điểm thiếu hoàn hảo quan trọng trong việc cấu tạo chữ quốc ngữ của các giáo sĩ Tây phương, như sẽ đề cập phía sau. Ta có thể bắt chước nữ tài tử Joan Collins gọi đó là Past-Imperfect (quá khứ không hoàn hảo).
Cũng bởi hai lý do nêu trên, hai âm W và Y bị sát nhập lại làm một. Người Nam Hà trong quá trình học chữ quấc ngữ đã lẫn lộn các từ bắt đầu bằng W thành ra Y hay By bởi họ chỉ nhìn thấy tất cả những từ đọc bằng Y và W trong nguyên thủy đều viết bắt đầu bằng chữ V. Người Bắc Hà ngược lại hoan hô chữ V mới thay cho âm W cũ (âm W, như trong con woi, Wương Thúy Kiều, đều hiện diện trong tất cả các thứ tiếng như tiếng Tàu, tiếng Nhật, tiếng In-Đô và như hầu hết các ngôn ngữ Đông Nam Á) và trong quá trình nhận dạng chữ V viết cho các từ đáng lẽ viết bằng Y hay By như Yũ trụ, Buya chúa, công yiên, yiện trưởng, v.v. họ dần dà phát âm luôn, nhưng đúng theo ký hiệu chữ V-tây, thành ra vũ trụ, vua chúa, công viên, viện trưởng, v.v.. Lối “đọc thay đổi với âm nguyên thủy” này ta có thể tạm gọi là lối biền đổi “hài thanhõ, những người học chữ Hán đều quen thuộc. Đó là những từ vì viết chữ có phần gốc giống nhau, nên có âm giống nhau. Thí dụ miêu dùng để chỉ con mèo, cũng đọc là miêu để chỉ “mạõ, miêu để chỉ cái mỏ neo. Nay gọi “lối bíến đổi hài thanh” dùng để diễn tả tâm trạng chữ V đi làm dâu hai họ W và Y. Sẽ có người lộn V với Y rồi đọc nó là Y (như yăn hoá, yăn yõ, thay vì văn hoá, văn võ) như người Nam. Cũng sẽ có người vẫn lộn nó luôn luôn dùng để thay cho W nhưng theo kiểu hài thanh sẽ tiếp tục đọc nó là V luôn tuốt cho những từ có âm bắt đầu bằng Y (như vũ lộ, viên chức, thay vì yũ lộ, yiên chức), như người Bắc.
Bài đã dài, xin được bàn tiếp vấn đề này trên Đại Chúng số 76.
Nguyên Nguyên
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 7:32:35 GMT 9
CHỮ V, VÀ D (HAY DZ) TRONG TIẾNG VIỆT
Nguyên Nguyên
(tiếp theo kỳ trước)
Vấn đề có vẻ hiển nhiên nhưng khá “động trời” này đã nằm chìm trong lòng đất và dưới dòng nước của thời gian trên dưới cũng đã 300 năm. Liên quan đến vấn đề này nếu nhìn trên phương diện hoàn toàn khách quan của một người có quốc tịch Úc, Mỹ hay Pháp, Anh, Gia Nã Đại, Tân Tây Lan, v.v. người ta có thể nói trong quá trình chuyển từ tiếng Nôm sang chữ quốc ngữ, người Bắc Hà đã biến chuyển lối phát âm của nước mình (Yiệt Nam ra Việt Nam), còn người Nam bộ phát âm sai Wăn hoá của dân tộc mình (văn hoá, chứ không phải yăn hoá). Sai hay biến chuyển, xin nhấn mạnh, đều lấy thế kỷ 17 làm điểm mốc. Cũng chẳng sao, bởi Yiệt xuất xứ từ lối gọi người Wăn Lang (Văn Lang, xin xem Hoàng Thị Châu, có trích dẫn trong bài “Chữ-Võ) của người Tàu từ thời cổ thượng, chứ người Yiệt trong thời đại Hùng Vương chắc hẳn đã không gọi dân tộc mình là Yiệt tộc. Còn “văn hoá” chỉ là một từ Hán Việt cũng vay mượn từ tiếng Tàu. Nếu vị trí địa dư của Việt Nam nằm xa Trung quốc hơn, chắc hẳn tiền nhân Việt Nam sẽ không gọi đó là “văn hoá” hay “văn minh” mà đã gọi hay diễn tả chúng bằng các “cụm từ” khác! Và chắc cũng không bao giờ có tên gọi Yiệt hay Việt trong lòng dân tộc! Cái gì của Caesar xin hãy trả lại cho Caesar! Phải chăng tiền nhân Việt ở hai miền Bắc Nam trong tiềm thức đã nghĩ như vậy khi họ trả lại cho Trung Quốc, từ Yiệt và wăn hoá, những gì thật sự không phải của tiền nhân nước Văn Lang?
Thế nhưng tại sao lại có hiện tượng này và tại sao nó dễ bị dòng đời quên lãng như vậy? Trước khi truy tìm câu trả lời hay các giả thiết giải đáp cho hiện tượng “động trời” này, xin nhấn mạnh phát âm V là Y hay By của đến phân nửa các từ bắt đầu bằng V trong tiếng Việt (như Buya chúa, yũ bão, công yiên, v.v.) không phải do người Nam Bộ “sáng chế” gì ra mà nó lại xuất xứ từ đất Bắc Hà. Người Bắc chỉ phát âm như vua chúa, vũ bão, công viên, và đã dần dà dẹp lối phát âm cũ trong các thế kỷ 17 đến 19 khi chữ quốc ngữ bắt đầu được phổ biến. Phát âm này cũng như một lô từ như Bông thay vì Hoa, Trái thay vì Quả, v.v. trước giờ thường tưởng là lối gọi đặc thù Nam Bộ, xuất phát ở thế kỷ 17 tại miền Bắc. Yi yân đi về phía Nam theo chúa Nguyễn đã đem nó vào Nam không hề thay đổi và giữ mãi cho đến ngày nay.
Bình Nguyên Lộc trong quyển “Nguồn gốc Mã Lai” đã trích dẫn một bài thơ, từ một quyển sách của Hoàng Xuân Hãn, của một thi sĩ Bắc Hà vào thời xưa cổ r” ràng dùng từ Bông chứ không phải Hoa! Bình Nguyên Lộc còn ghi lại theo quyển “Khâm dịch Việt Sử Thông Giám Cương Mục” của giáo sư Langlet ở đại học Văn Khoa Sàigòn ngày trước rằng có thể việc di tản chiến lược của trên 50000 lính Tàu ở Bắc Hà trong cuối thời Minh sang qua Thanh đã ảnh hưởng đến việc Hoa-ngữ hoá một số từ thông thường ở đàng Ngoài. Việc di tản một số khổng lồ của tàn quân nhà Minh đến Bắc Hà đã làm Chúa Trịnh nhức đầu không ít, nhưng rất tiếc, có thể vì một lý do nào đó, sử Việt hình như chưa có dịp nghiên cứu kỹ. Giả thiết “Hoa ngữ hoá” này được tăng thêm sức thuyết phục mạnh mẽ nếu tra ra từ Bông trong bản so sánh các từ tiếng Nôm với các ngôn ngữ thuộc nhóm Nam-Á do Hồ Lê cung cấp trong quyển kỷ yếu “Tiếng Việt và các Ngôn ngữ Dân Tộc phía Namõ. Theo đó tiếng Mường (ở ngoài Bắc) gọi Bông là Pông, tiếng Xơđăng là Bông, tiếng Chăm, Bangu. Nguyễn Du (vào thế kỷ 18) trong Truyện Kiều có câu dùng cả bông và hoa, có lẽ đúng vào thời kỳ chuyển tiếp, giao ban, giữa bông và hoa tại miền Bắc:
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
TRÁI cũng vậy. Người Biat, Co, Boloven, Brâu, Kơho gọi là PLAI (âm TL hay BL, PL ở vào thế kỷ 17 chính là âm TR hiện nay: ông Trời ngày xưa gọi ông Blời!), người Xơđăng gọi Trái là Pơlai, Xtiêng gọi Plơy, người Mường, Thay. Việc người Bắc di cư vào Nam sau Hiệp định Genève 1954 lấy làm lạ khi thấy người Nam gọi Hoa là Bông, Trái thay vì Quả, cũng giống như những người phiá Bắc sinh đẻ sau 1954 vào Nam Bộ công tác hay tham quan, hoặc thăm họ hàng sau 1975. Họ sẽ bỡ ngỡ không ít khi nghe người trong Nam nói: tìm ra, đi chơi hay đi xem cảnh, nghĩ ra, nhanh lên, v.v. thay vì: phát hiện, đi tham quan, phản ảnh, khẩn trương, v.v.. bởi sau mấy mươi năm quan hệ mật thiết với Trung quốc, ngôn ngữ Việt ở phiá Bắc cũng bị ảnh hưởng sâu đậm như thời chúa Trịnh kể trên.
Hiện tượng một từ xuất xứ ở một nơi (hoặc ngay cả lối phát âm), được người di cư đem đi chốn khác hay người chốn khác vay mượn, rồi tại nơi xuất xứ ban đầu, từ đó có biến đổi, và lâu ngày về sau nơi vay mượn hay nơi người di cư mang đến từ cũ đó vẫn giữ nguyên, - mọi người đều có thể tưởng lầm rằng từ vay mượn hay mang đi đó, hoặc cả lối phát âm, là những gì đặc thù của nơi vay mượn. Hiện tượng này đã xảy ra với tiếng Hán Việt như Vũ Thế Ngọc (trong “Nghiên Cứu chữ Hán và tiếng Hán Việtõ) đã dẫn chứng. Tiêu biểu là từ Buồng mang nghĩa Phòng (room), nhiều người vẫn thường tưởng là tiếng Nôm thuần tuý! Buồng chính là âm Hán Việt của thời Thượng cổ mượn từ Buàng trong phát âm tiếng Tàu hồi đó. Đến thời Trung cổ bên Tàu âm này biến thành Buờng, và đến ngày nay tiếng quan thoại phát âm là Fang, gần với Phòng hơn.
Sau khi ghi nhận rằng những người có trách nhiệm sáng chế ra chữ quốc ngữ chưa hẳn đã thông thạo chữ Nôm ở thế kỷ 17, ta có thể ghi nhận tiếp rằng mặc dù vậy, phản ứng của dân chúng Việt Nam đối với chữ quốc ngữ rất cuồng nhiệt! Bằng chứng là ở thế kỷ 17 có thể phỏng chừng 10 phần trăm dân số là biết đọc và biết viết chữ Nôm và chữ Hán. Đó là những nhà Nho, những quan lại, những ông Nghè ông Cử, thuộc giai cấp hàng đầu là Sĩ. Còn 90 phần trăm kia chỉ có tiếng nói mà không biết chữ viết. Tức mù chữ! Đến cuối thế kỷ 20, trong các lăng xê kêu gọi đầu tư nước ngoài vô Việt Nam, các kinh tế gia và các nhà doanh thương Âu Mỹ thường nêu lên con số 90 phần trăm dân số Việt Nam biết đọc biết viết, và vài chục phần trăm biết thêm một hai ngoại ngữ!! Đó là thành quả lớn lao nhất của chữ quốc ngữ do công trình các giáo sĩ Tây Phương. Qua việc xử dụng chữ quốc ngữ, có đến hàng trăm hàng ngàn người Việt hiểu r” tâm sự của Tố Như, và đến 90 phần trăm dân số đều biết đến Nguyễn Du và quyển Truyện Kiều bất hủ. “Lý do đầu tiên” đã khiến mọi người không để ý đến biến chuyển “động trời” của chữ V, chữ W, chữ Y, chữ D rồi Dz (!!) chính lại là “lý do tiền đâu” tức là chữ quốc ngữ đã giúp họ một phương tiện hữu hiệu cho việc mưu cầu sinh kế, và mở mang kiến thức. Mê học chữ quốc ngữ trong thuở ban đầu đến nổi quên ăn quên ngủ, quên để ý đến sự biến chuyển đó. Chữ quốc ngữ đã may mắn đến nước Nam trước cuộc cách mạng Công Nghệ diễn tiến tại Âu Châu vào thế kỷ 18. Nhưng trớ trêu thay cho giai cấp Sĩ, tức giai cấp những người Việt đã hấp thụ Tây học hay những sĩ phu tiến bộ đã góp phần chính vào việc truyền bá chữ quốc ngữ, sự lan tràn của chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng Công Nghệ đã vô hình chung đẩy giai cấp Sĩ xuống phía dưới, trong mức thang Sĩ Nông Công Thương, và đưa Công với Thương lên trên! May mắn cho Việt Nam còn ở chỗ so với tiếng Hán, chữ Nôm mà Nguyễn Du đã dùng để viết Truyện Kiều là một chữ cực kỳ khó khăn và phức tạp. Muốn học nó thông thường phải học tiếng Tàu trước!!! Muốn thông thạo chữ Nôm có lẽ phải tốn ít nhất là 7 năm, và không phải ai cũng học được, nếu không xác nhận rằng chỉ một số ít người mới học được. Trong khi đó chỉ cần chừng 9 tháng là có thể học biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ, và hầu như ai học cũng được. Chữ quốc ngữ đã tới Việt Nam thật đúng lúc và trong vài thế kỷ qua đã là phương tiện hữu hiệu cho cảm thông, thông tin, quân sự, chính trị, phát triển văn hoá, văn nghệ, mỹ thuật, ca kịch nghệ, khoa học, kỹ thuật, v.v. nghĩa là cả một nền tảng thiết yếu và thuận lợi cho sức sống dân tộc. Thử tưởng tượng nếu không có chữ quốc ngữ, người Việt sẽ phải loay hoay lâu hơn so với người Tàu và người Nhật trong việc gia nhập cách mạng internet hiện nay. Bởi tiếng Nôm còn khó hơn tiếng Tàu và tiếng Nhật rất nhiều.
Sự sai lạc hay biến chuyển của các âm như âm V và Dz (như sẽ trình bày phía dưới) có vẻ xuất phát từ những vị tôn sư ban đầu. Đó là các Cha, các ông Cố Đạo, “thầy kẻ giảngõ, các người Việt Nam thấm nhuần Tây học, hoặc những người đã theo giúp các cố đạo ra công truyền bá chữ quốc ngữ. Trong các tác giả tiên khởi của chữ quốc ngữ có mặt tại Việt Nam vào khoảng thế kỷ 16, đáng kể nhất là Alexandre de Rhodes còn gọi Jean Rhodes, vào đàng Trong giảng đạo trước, về sau ra đàng Ngoài, và có gặp chúa Trịnh. Sau đó Alexandre de Rhodes trở về Pháp và cho xuất bản địa đồ nước An-Nam vào năm 1649, quyển Sử Ký Bắc Hà năm 1652, và quan trọng nhất, quyển tự điển tiếng Việt-Bồ Đào Nha-và tiếng Latinh (1651). Thế tại sao tên quan trọng nhất Yiệt Nam các giáo sĩ thuở ban đầu và một hai thế kỷ sau lại không lưu ý để nó tự biến thành Việt Nam? Thật ra quốc hiệu của nước trong suốt từ thế kỷ 15 khi Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh cho đến đầu thế kỷ 19 khi Gia Long thiệt lập nhà Nguyễn, là một vấn đề hơi lộn xộn, và hình như chưa có công trình nào nghiên cứu kỹ việc này. Cũng như việc nghiên cứu xem vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, v.v. hay ngay cả Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, ông nào có học qua chữ quốc ngữ và ông nào thông thạo quốc ngữ nhất - sử liệu hãy còn thiếu sót. Các sách sử có ghi sau khi đuổi xong quân Minh, Lê Lợi tạo dựng nên nhà Lê và tự đổi quốc hiệu ra Đại Việt. Nhưng quốc hiệu Đại Việt này đã không có sự chuẩn nhận của Trung Quốc, và của “quốc tếõ! Tức Trung Quốc trong suốt vài thế kỷ sau Lê Lợi vẫn tiếp tục gọi nước Nam là An-Nam. Bằng chứng: (i) Bắc Kinh tấn phong Nguyễn Huệ với tước An-Nam quốc vương, trước khi Gia Long vào năm 1802 sai sứ sang Tàu xin đổi quốc hiệu ra Nam Việt trở lại. (Nhưng nhà Thanh không cho vì nghĩ đến nước Nam Việt rộng lớn của Triệu Đà trước đó khoảng 2000 năm đã lan qua đến một phần của Quảng Đông và Quảng Tây, nên chỉ thuận với tên Việt Nam). (ii) Hoà ước Patenôtre 1884 vẫn ghi nước Việt là Đại Nam. Nghĩa là đối với những người có công tạo dựng và truyền bá chữ quốc ngữ trong suốt trên 200 năm, từ Việt hay Yiệt hoàn toàn không có trong tâm thức của họ!!! Họ chỉ biết nước đó là nước An Nam, hay cùng lắm thêm vào Cochichine (Nam kỳ) hay Tonkin (Bắc kỳ) mà thôi. Họ gọi chung người Yiệt là người An Nam. Trong giả thiết quy lỗi ở những vị Thầy đầu tiên trong khoảng thế kỷ 17-19 đã gây ra chuyện ký âm biến chuyển ở V đi làm dâu hai họ W và Y (hay By), chúng ta có thể đặt ra thêm 3 giả thiết nhỏ nằm dưới tiêu đề giả thiết “Sai do lỗi ở Thầy".
Giả thiết nhỏ thứ nhất: Ký âm này do ở chỗ chính các tác giả đầu tiên chưa thấm nhuần và thông thạo toàn diện tiếng Nôm, như đã bàn qua ở phía trên. Có lẽ các tác giả đầu tiên phải thảo ra chữ quốc ngữ trong một thời gian ngắn do ở sự đòi hỏi cấp bách của các cấp trên ở tại Paris. Thành ra còn một hai âm chưa được nghĩ ra hoàn tất như âm “By” trong các từ như Byải (vải), Byua (vua chúa - tuy nhiên Bình Nguyên Lộc có ghi các Cố đạo thoạt đầu có ghi Bua cho Vua như ta đọc ngày nay), Byiệt (trong Nam Việt - bởi lý do người Nhật gọi Việt Nam là Beto-Nam), v.v.
Giả thiết nhỏ thứ hai: Ký âm này do ở các Thầy (có thể có một vài Cô - như các Bà Phước chẳng hạn, cũng lại một điểm sử liệu còn hơi thiếu sót) ở thế hệ thứ hai, và thứ ba, v.v. Đó là những Cố đạo, những giáo sĩ đến nước Nam một vài chục năm hay cả trăm năm sau các tác giả ban đầu, bấy giờ đã về với cõi Chúa. Tất nhiên khả năng tiếng Việt của họ có thể sâu rộng hơn hay kém thông thạo so với các giáo sĩ tác giả nguyên thủy. Thêm vào đó chắc chắn có thêm các thầy cô người Việt bản xứ đã theo giúp việc truyền bá chữ quốc ngữ. Trong tất cả những người thuộc các thế hệ tiếp nối này chắc chắn sẽ có vài vị thắc mắc một vài điểm kỹ thuật trong toàn bộ chữ quốc ngữ mà các giáo sĩ như Alexandre de Rhodes đã “sáng chếõ. Và . . . có thể họ đã tự ý thay đổi một vài âm - trong đó có âm V hoàn toàn thay thế cho các âm bắt đầu bằng Y (như yiên chức, thay bằng viên chức), bằng By (Byải: thay bằng Vải), hay bằng B (Bua: thay bằng Vua). Khi họ thay như vậy người Bắc Hà hoàn toàn chấp nhận đổi mới và đọc luôn những từ đó bắt đầu bằng V. Người Nam Hà ngược lại tưởng V dùng để ký âm cho By (ông byua, bà byải) hay Y (yũ lộ, diễn yiên), nên khi gặp phải bất cứ từ nào bắt đầu bằng V họ đều đọc tuốt ra ra By hay Y hết trọi: Byăn hoá (văn hoá), con yoi (con voi), v.v.. Họ dẹp và đọc lầm một số từ bắt đầu bằng W khi xưa - như tiền nhân họ đã từng đọc khi còn ở miền Bắc - nhưng vẫn giữ được cách đọc đúng của lối phát âm trên toàn cõi nước trước đó khoảng trên 100 năm: Yiệt Nam hay Byiệt Nam! Ở phía dưới ta sẽ thấy giải thích tại sao D được đọc như Dz tại Bắc Hà - và chính điểm này cộng với âm chữ V của miền Bắc là một âm hoàn toàn “Tây” khiến ta có thể đặt ra thêm một giả thiết nữa. Đó là các Thầy ở các thế hệ sau của phía Bắc có thể vẫn gồm nhiều giáo sĩ gốc Pháp hơn các Thầy dạy chữ quốc ngữ ở Nam Bộ. Ta có thể tìm ra luôn một sự liên hệ mật thiết (strong correlation) giữa phát âm chữ V, chữ Dz (thay cho D) ở miền Bắc với tỷ số người theo Đạo ở miền Bắc so với miền Nam.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 7:33:07 GMT 9
Giả thiết nhỏ thứ ba là một giả thiết mang nhiều trí tưởng tượng và ảnh hưởng của các phim xinê Hollywood. Đó là loại giả thiết theo kiểu conspiracy theory (thuyết về âm mưu toa rập), được đặt ra để viết tiểu thuyết, để làm đề tài quay phim kinh dị thu hút hàng triệu khán giả trên toàn cầu. Thường chỉ để giải trí mà thôi. (Xin xem phim về conspiracy gần đây do Mel Gibson và Julia Roberts thủ vai chính). Thuyết về âm mưu toa rập sẽ nói có thể đã có một nhóm thực dân chủ trương phải cho hai kỳ Bắc và Nam phát âm khác nhau để chia nước Nam ra cho dễ cai trị. Rất dễ, họ chỉ cần dạy người học chữ quốc ngữ lần đầu, trong Nam từ nào viết bắt đầu bằng V hãy đọc By hay Y, ngoài Bắc hễ thấy từ nào viết bắt đầu bằng V cứ đọc như tiếng Tây. Chỉ có vậy thôi.
Quan sát Thầy rồi, xin thử quan sát Trò. Trò là ai? Trước khi chữ quốc ngữ đến với hàng vạn rồi hàng triệu người học trò cuối cùng là những người trong dân gian, những người học trò đầu tiên, trong số hàng chục đến hàng trăm hàng ngàn trong thời buổi ban đầu, đều trở thành những người Thầy người Cô nhận trách nhiệm thiêng liêng truyền bá chữ quốc ngữ cho dân tộc. Đa số những người học trò đầu tiên nhanh chóng trở thành Thầy đó đều là những người Việt, những người theo Đạo, những người theo Tây học, và một số sĩ phu tiến bộ đã thấm nhuần Nho học. Ta có thể suy đoán rằng chỉ có chừng một trăm người học trò ban đầu đã có thể học chữ quốc ngữ trực tiếp từ các tác giả đã “sáng chế” ra chữ quốc ngữ mà thôi. Điểm này vẫn chưa quan trọng. Điểm khác biệt quan trọng nhất của người học trò, hay “đồ đệõ, ở thế kỷ 17-19 với người học trò, hay “sinh viênõ, ở cuối thế kỷ 20 và sang thế kỷ 21 hiện nay là gì? Đó là người học trò ở các thế kỷ trước dưới ảnh hưởng ngàn đời của văn hoá Trung quốc cổ xưa luôn luôn tôn kính các bậc Sư bậc Thầy của mình. Thầy dạy gì học đó, không hề thắc mắc hay đặt nghi vấn với Thầy. Đó cũng là người học trò ở các thế kỷ trước hoàn toàn thiếu thốn trang bị của tinh thần khoa học Tây Phương như ngày nay. Tinh thần khoa học bao gồm việc phân tích và tổng hợp dựa vào những quan sát khách quan về sự kiện. Thiếu sót về phân tích khoa học cộng với dư thừa trong việc tôn kính ân sư đã khiến những người HọcTrò-trở-thành-Thầy đó qua nhiều thế kỷ không thể nào “phát hiện” được một vài điểm thiếu hoàn hảo (như V dùng để thay cho W và Y) nằm ngay trong lòng tiếng Việt mến yêu.
Thế còn những người học trò có ít nhiều hiểu biết về tiếng Tàu thì sao? Tại sao tiếng Tàu đọc Yue Nan hay Yuet Nam cho Việt Nam mà họ cũng không phát hiện được có cái gì hơi lạ ở chữ quốc ngữ? Ta phải phân biệt thêm tiếng Tàu ở nước Việt Nam là gì. Thường gọi đó là tiếng Hán hay đúng hơn, Hán Việt. Tiếng Hán Việt là một hệ thống phiên âm tiếng Tàu nói theo giọng Hoa Bắc, tức gần với giọng Quan Thoại hơn giọng Quảng Đông (xem Vũ Thế Ngọc, Bình Nguyên Lộc). Thật ra nó gần với giọng tiếng Tàu ở thời Trung Cổ hơn hiện tại (xem Vũ Thế Ngọc). Nó lại được phiên âm theo “khẩu vị” của người Việt phát âm tiếng Nôm. Thí dụ Hoài Cổ quan thoại đọc Huai Gu, Nam Bắc quan thoại đọc Nan Bei, Mao Trạch Đông, đọc Mao Ze Dong, tái kiến, quan thoại: zai jian. Người Việt Nam đọc tiếng Hán Việt người Tàu chỉ hiểu được chừng 5 phần trăm là cao!! Ngược lại người Tàu, Quảng Đông, Phúc Kiến hay Bắc Kinh có đọc thơ văn Lý Bạch hay nói cái gì đi nữa, người tinh thông Hán Việt nhất cũng chỉ có thể đoán được đến 10 phần trăm là giỏi lắm rồi!
Cái thế bí mật của sự biến chuyển âm chữ W và Y sang âm chữ V như Wương Yũ thay vì Vương Vũ, yĩnh yiễn cho vĩnh viễn, người rành tiếng Hán Việt qua nhiều năm vẫn không thể khám phá ra được bởi vì chữ quốc ngữ đã được dùng để ký âm luôn cho tiếng thuần Nôm (như đi về, sức mấy, động trời) và tiếng Hán Việt (trọng yếu, Kinh tế, vũ lộ, vĩnh viễn). Và tiếng Hán Việt đã tách rời khỏi tiếng Tàu từ lâu trong cách phát âm. Tiền nhân Việt Nam không bao giờ phải kiểm lại rằng từ Hán Việt này, từ Hán Việt nọ hiện đang được phát âm bên Tàu ra sao. Tiếng Việt biến chuyển ra sao thì tiếng Hán Việt cũng thay đổi y như vậy. Yũ để chỉ mưa, lông chim viết thành Vũ thì tiếng Hán Việt cũng phải chấp nhận dùng Vũ luôn thôi. Thành ra chỉ cần sang một thế hệ ký âm không đúng sẽ dễ dàng trở thành đúng.
Có một giới rất rành tiếng Việt và tiếng Quan Thoại, Quảng Đông, v.v. sau khi chữ quốc ngữ ra đời. Đó là những người sứ thần hay tùy yiên sứ quán sang Tàu làm việc (yiệc?) và những nhà cách mạng Việt Nam bôn ba lưu vong và sống lâu năm bên Tàu. Hoặc những thương gia gốc Hoa hay gốc Việt đi qua đi lại hai nước. Những người này là những người không bao giờ có được một phút nghĩ đến chữ quốc ngữ! Tựu chung những điểm thiếu hoàn hảo của V đã ẩn mặt dễ dàng đối với cả hai giới thông thạo chữ Nho (Hán Việt) và giới nói rành tiếng Quảng Đông hay Quan thoại.
Ta cũng phải để ý sự nồng nhiệt trong việc đón nhận rồi giúp truyền bá chữ quốc ngữ của giới sĩ phu trí thức của nước An-Nam. Mục đích sâu xa và thầm kín của họ chắc hẳn đã bao gồm việc mở mang và nâng cao dân trí để giành lại chủ quyền quốc gia, tạo dựng cho dân tộc một ngôn ngữ mới tách khỏi cái rườm rà rắc rối của chữ Nôm và chữ Tàu. Họ có thân Tây ít nhiều đi nữa, việc đóng góp vào sự phát triển chữ quốc ngữ, theo thiển ý, là một hành động mang tính chất cách mạng, góp phần không ít trong việc đánh đuổi thực dân. Thời gian hai ba trăm năm xem ra thật ngắn, rất ngắn trong sự bận rộn của cả một dân tộc lo thức tỉnh trước trào lưu tiến bộ của thế giới, lo tranh thủ độc lập cho nước nhà. Bởi vậy V thế cho W và Y, D thay cho Y, rồi Đ bất đắc dĩ trám chỗ cho D-Tây là những chuyện “tầm phàoõ, “vu vơ” chẳng ai màng để ý đến.
Bây giờ xin quan sát phát âm chữ D-Việt, và thử tìm giải thích tại sao người Bắc Hà thường có khuynh hướng phát âm thành Dz.
Việc thay thế cho âm Y bằng D-Tây (đọc là Đ) như dans le jardin, Demi Moore, diaspora, rồi dùng Đ của tiếng Iceland trám chỗ cho D là một việc làm thiếu hoàn hảo của các tác giả chữ quốc ngữ. Đó là những từ như Dầu (quan thoại: You), Dùng (Yong), Dễ (Yi), Dì (Yi, chị hay em gái của mẹ), Dược (như Dược Sĩ, quan thoại Yao), v.v. Và rất có thể D-Việt, nếu dùng để thay cho Y, đáng lẽ phải được dùng viết luôn cho những từ như Dĩnh diễn (vĩnh viễn, yong yuan), công diên (công viên, gong yuan), v.v. Nhưng lại không. Từ đó ta có thể thêm một giả thiết rằng phải chăng tiền nhân Việt Nam ở thế kỷ 17 hoặc trước đó đã phát âm đến phân nửa các từ bắt đầu bằng V như Việt Nam, công viên, vải vóc, thật sự bằng By như Byiệt nam, công byiên, byải byóc, cho nên các tác giả ban đầu đã không ký âm các từ này bắt đầu bằng D-Việt tức âm Y thuần tuý?
Việc thay thế âm Y bằng D-Việt đã gây ra 2 hệ quả quan trọng. Thứ nhất, đối với người Việt di tản ra định cư ở nước ngoài, những người có tên bắt đầu bằng chữ D-Việt đành phải từ giả lối xưng hô danh tánh, cha sinh mẹ đẻ của mình. Danh đọc thành Đanh, Di đọc thành Đi, Diên đọc thành Đien. Và đặc biệt hai tên đẹp cho người nữ và người nam là Mỹ Dung và Anh Dũng đều phải đọc My Dung và Anh Dung. Dung hay Dũng viết không dấu thành ra Dung hết. DUNG đọc theo tiếng Mỹ tiếng Anh lại trở nên một danh từ mang ý nghĩa “hết sức hôi hám” (nghĩa: phân bò)! Do đó khuynh hướng thông thường hiện nay của người Việt định cư ở các nước nói tiếng Anh tiếng Mỹ mang tên bắt đầu bằng chữ D thường bắt buộc phải biến nó ra thành Dz, biến Dung thành Dzung, hoặc một đôi khi và có vẻ đúng hơn: Yung, như Yung Krall.
Hệ quả thứ hai xảy ra tại miền Bắc có lẽ cũng đã hai ba trăm năm rồi. Đó là lối phát âm D-Việt thành ra Dz. Xin nhắc lại D-Việt có âm như Y, trong dinh dưỡng, và D-Tây có âm như Đ, trong dans, Denis, Disneyland. Ta hãy thử tìm giải thích hiện tượng này bằng hai giả thiết sau đây.
Giả thiết thứ nhất là giả thiết “Sai theo lối hài thanh” như đã đề cập ở phía trên. Đó là cách phát âm theo với chữ viết, như V viết cho Vũ thay vì đúng ra phải Y như Yũ chỉ mưa gió, người đọc sẽ đọc nó như Vũ (với âm V của tiếng Tây). Theo với giả thiết này ta hãy xem xem âm bắt đầu bằng D-Việt đã có viết chuyển biến qua lại với âm bắt đầu bằng Gi hay không. Thí dụ: dở chứng hay giở chứng; Dành giật hoặc giành giật - với điều kiện ta phải thấy r” rằng sự biến chuyển qua lại này xảy ra rất nhiều trong tiếng Việt.
Lật một quyển từ điển Việt Hán ta thấy những điểm r” rệt như sau:
D-Việt như trong Dầu hỏa, dĩ vãng, dinh dưỡng, dự báo, di cư, biểu diễn, dĩnh ngộ, Dương Qua, v.v. nếu bắt nguồn từ tiếng Hán với những từ tương tự đều phải bắt đầu bằng Y : Shi you (dầu từ đá), yi wang, ying yang, yu bao, yi ju, biao yan, ying wu, Yang Guo.
Âm Gi trong tiếng Việt, gần gần với âm Dz, như Trường Giang, giám hộ, thế giới, giao thiệp, giải thích, giới tuyến, Giáo Hoàng, giảm giá, nếu bắt nguồn từ chữ Hán thông thường sẽ bắt đầu bằng Ji: Chang jiang, jian hu, shi jie, jiao she, jie shi, jie xian, Jiao huang, jian jia, v.v.
Gần như hoàn toàn không có âm nào bắt đầu bằng Ji trong tiếng quan thoại khi chuyển qua tiếng Hán Việt lại bắt đầu bằng D-Việt cả. Như vậy D-Việt đặt ra để thay thế chính yếu cho Y. Nguyên thủy bắt buộc phải đọc yầu hỏa, yĩ vãng, yinh yưỡng, yự báo, yi cư, biểu yiễn, v.v.
Ta cũng phải xem xem trong những từ Việt thuần Nôm có những từ nào có thể bị tình nghi gây ra lối sai hài thanh cho chữ D-Việt hay chăng. Tìm tòi bằng cách đối chiếu với các tiếng như tiếng Mường, tiếng Khả Lá Vàng, tiếng Mã Lai, v.v. Rất khổ việc này cực kỳ khó khăn vì ở Việt Nam cho đến nay hình như chỉ có vài ba người đã nghiên cứu về vấn đề này, như Bình Nguyên Lộc và Hồ Lê. Chỉ có thể tìm ra lác đác một hai từ trong các bản đối chiếu đã xuất bản:
Dừa (Coconut): Nyor (Mã Lai), Đôn (Kampuchia), Prao (Thái Lào)
Dòm (Nom/Lom, look): yôô (Darang), yao (Vu), yau (En), yaung (Son)
Dùa (Vơ, sweep off): iok (Hrê), yok (Bahna), yok (Xơ đăng), chok (Giế triêng)
Giết (kill): kuchit (Môn), gơxớt/xvêt (Kơho), kachêt (Tà Ôi), ziet (Theng)
Gió (wind): kyaal (Môn), kơyol (Khơme), kayêu (Hrê), kuyal (Bru), khial (Co)
Giỡ (giỡ nhà, lift/remove): yuk (Môn), yơik (Danaw), Đ-yuk (Palaung), yơk (Mnông)
Ta để ý trong bản đối chiếu ngắn ngủi này, âm D-Việt vẫn còn tương đương với âm Y. Âm Gi khi thì gần với Y như trong Giỡ và Gió, nhưng r” ràng sát với Gi như trong Ziet (giết), tiếng Theng, hay kachêt tiếng TàÔi, hoặc gơxớt (Kởho) đọc thật nhanh.
Giả thiết đọc D-Việt thành ra Dz do ở sự biến chuyển con thoi qua lại giữa D-Việt và Gi do đó thiếu sức thuyết phục vững chắc.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 7:34:27 GMT 9
Giả thiết thứ hai liên hệ đến việc “sai do lỗi ở Thầy” như đã đề cập phía trên. Các Thầy ban đầu, nhất là các Thầy nói tiếng Tây rất quen, đa số đã phát âm D-Việt (tức Y, như trong dan díu) thành ra Dz trong hàng chục hàng trăm năm đầu, nên các trò và đại đa số dân chúng phía Bắc đã tiêm nhiễm và phát âm theo y như vậy. Thế nghĩa là thế nào?
Muốn hiểu rõ ta hãy thử đặt mình vào vị trí của những vị Thầy vào thế hệ thứ hai thứ ba sau các tác giả đầu tiên. Từ Pháp đến xứ An-Nam những người Thầy đó phải học cấp tốc tiếng quốc ngữ của người bản xứ để mai mốt có thể giảng đạo. Họ tự học cấp tốc tiếng quốc ngữ bằng cách thực hành qua trung gian những người rành 2 thứ tiếng Tây và Nôm, hoà mình “nói đạiõ, “học đại” với người địa phương, cũng như ngày đêm tra cứu những quyển sách tài liệu mà các người “sáng chế” chữ quốc ngữ đầu tiên đã để lại. Khó khăn thông thường nhất của những vị Thầy Tây này và ngay cả những người Việt bản xứ đã học qua chữ cái alphabê và thông thạo tiếng Tây là gì? Đó là khó khăn nhận diện một chữ cái rất quen thuộc ở tiếng Tây nhưng bị “cưỡng ép” phát âm khác biệt một trời một vực. Đó là chữ D-Tây (đọc là Đ) bị ép phải đọc như Y (viết dang dở, lại không đọc đang đở như Tây, mà phải đọc là yang yở!). Bởi chữ D-Tây đã và đang bị thay thế một cách thiếu tự nhiên bằng Đ, như đáo để, đáng lẽ phải viết theo kiểu Tây là dáo dể! R” thật lộn xộn.
Thế tại sao D tự nhiên biến thành Dz? Xin mạo muội đưa ra giải thích rằng mỗi khi các vị tôn sư người Pháp này hay các Thầy người Việt chưa rành chữ quốc ngữ (trong lối đánh vần) nhưng đã khá thông thạo tiếng Tây gặp phải những từ viết bằng chữ D trong giờ “Tập Đọc” của lớp học chữ quốc ngữ: những từ như Danh dạy dỗ Duyên, Dung dạn dĩ (với) Danh, v.v., họ sẽ dễ dàng bị lúng túng và . . . nhầm lẫn. Theo bản năng cố hữu từ thuở cha sinh mẹ đẻ, họ sẽ dễ đọc nhầm chữ D-Việt thành ra chữ D-Tây trở lại (tức Đ, như au dedans, déja-vu, v.v.). Tức họ sẽ đọc Danh thành Đanh trong chừng một tíc tắc của thời gian, chừng 1 phần trăm hay một phần ngàn của một giây đồng hồ. Sau khoảng thời gian nhanh chóng đó, với trí hiểu biết của một bậc Thầy họ nhận diện liền ngay rằng Danh phải đọc là Yanh, lập tức họ sẽ biến chuyển phần phát âm còn lại trở thành Yanh. Tức là họ sẽ phát âm D như Đờ-Yờ và Danh như Đờ-Yờ-ANH.
Ta thử đọc nhanh Đờ-Yờ xem sao: Đờ-Yờ => Đờ-Yờ => Đờ-Yờ => ĐờYờ
Nhanh hơn nữa: ĐờYờ => ĐờYờ => ĐờYờ => Đ-Y => Đy = ĐY => . . . Đz= Dz !!!
Đọc thử Duyệt (lịch duyệt) hay Dĩnh (dĩnh ngộ) thật nhanh theo kiểu những vị Thầy gốc người Pháp xem sao:
ĐờYờ-uyệt => ĐờYờ-uyệt => Đ-Yuyệt => ĐYuyệt => . . . Đzuyệt = Dzuyệt !!!
ĐờYờ-ĩnh => ĐờYờ-ĩnh => Đ-Yĩnh => Đyĩnh => . . . Đzĩnh = Dzĩnh !!
Âm Y đi theo sau chữ D-tây sẽ trở thành một âm gió y hệt như âm Dz. D trước z trong Dz chính nguyên thủy là D-Tây. Và Dz thật ra phải được viết là Dy, hay đúng phiên âm hơn ĐY. Nhưng quyền viết ra Dz là quyền của người hay những người viết ký âm ra nó đầu tiên. Sự biến chuyển của D-việt ra Dz này nghĩ cho kỹ cũng vẫn là một biến chuyển do ở “hài thanhõ. Thấy chữ giống nhau người ta hay đọc giống nhau: Thấy chữ D-Việt lại lầm là D-Tây nên thay vì phát âm như Y các Thầy thời xa xưa đã có khuynh hướng nhận diện và phát âm nó như D-Tây. Nhưng chỉ trong một tíc tắc của thời gian thôi. Sau đó các Thầy Tây này sẽ nhận thức sai lầm của mình và uốn lưỡi lại sao đó để trả nó về âm Y. Từ đó sinh ra Dy và Dz.
D đọc ra Dz và V đọc luôn cho W và Y hay By, cả hai dễ dàng đưa chúng ta đến giả thiết rằng các Thầy dạy chữ quốc ngữ ở Bắc Hà nhiều người Pháp hơn ở Nam Bộ, và việc này cũng liên hệ mật thiết đến số người theo Đạo ở Bắc Hà có vẻ đông hơn ở Nam bộ.
Thử kiểm chứng thêm về giả thiết “hài thanh” của những vị Thầy ban đầu trong âm D (cho Y) đọc như Dz. Ta phải tìm xem có một trường hợp nào tương tự như vậy chăng? Có. Thật ra âm Dz là một thứ âm Z nhẹ, rất nhẹ. Giữa D-việt và Z. Nó cũng giống xa xa gần gần với âm Z trong pinyin của tiếng Quan thoại: Mao Ze Dong (Mao Trạch Đông), zai jian (tái kiến), zai nar (tại đâu), v.v.. Âm Z này của tiếng quan thoại ngày xưa phiên âm theo kiểu Wade-Giles (xin xem bài chữ-V) được viết là Ts: Mao Ze Dong xưa được viết Mao Tse Tung. Nay, theo pinyin do chính người Tàu soạn lại, Ze thế Tse, Dong thế Tung. Tung với Dong, nhất là T với Đ, là hai âm có động tác phát âm ở lưỡi gần giống nhau. Thí dụ để ý khi đọc Toàn hay Đoàn, Đoàn chỉ khác với Toàn trong vị trí đầu lưỡi nằm sâu trong miệng hơn một chút. Ts (tức TờXờ - trong Mao Tse Tung) đọc nhanh cũng giống như Đờ-Xờ (Ds), ngày trước đã dùng y như cho Z-nhẹ ngày nay - trong Mao Ze Dong. Thành ra chữ D-Việt đọc theo giọng lớ của các Thầy gốc Pháp là Dz hay DY, tức một loại Z-nhẹ, cũng giống như một loại Z-nhẹ KHÁC đã được dùng để thay cho TờXờ (Ts) trong pinyin (phiên âm) của tiếng quan thoại ngày nay.
Bài này đặc biệt sẽ không có phần kết. Chỉ xin tóm tắt một vài điểm chính:
Tiếng Việt cho đến thế kỷ 17 hoàn toàn không có âm chữ V.
Trong việc kiến tạo chữ quốc ngữ, các giáo sĩ đã dùng chữ V thay cho W (như con Woi) và Y hay By (như Yiệt Nam hay Byiệt Nam).
Vấn đề tìm hiểu âm cổ của chữ V thật sự là một chuyện “vu vơ” trong trên 300 năm qua.
Chữ D phát âm như Dz là hệ quả tất yếu của việc dùng D thay cho Y, rồi Đ thay cho D-tây, mà những vị Thầy người Pháp đã vướng phải do ở thói quen “hài thanhõ.
Postscript (Viết Sau): Phạm Quỳnh trong tạp chí Nam Phong số 84 Tháng 6 - 1924 (xem Phạm Quỳnh 1892-1992, Nhà xuất bản An Tiêm 1992) đã dùng “yêm-bác” tiền thân của uyên bác sau này. Học giả họ Phạm cũng dùng i-ngắn trong các từ như mĩ thuật. Yêm bác, xuất xứ từ tiếng quan thoại yuan bo, có lẽ là từ cuối cùng có phát âm Y như quan thoại được biến chuyển ra khỏi Y trong thời đại cận kim. Việc biến chuyển của Yêm bác đã để lộ một vài tông tích và dấu vết: (i) Tiếng Hán Việt ngày xưa quả thật đã dùng âm Y (như D-Việt) cho phân nửa âm hiện bắt đầu bằng V ngày nay; (ìi) Sở dĩ Yêm bác còn tồn tại cho đến khoảng thế chiến thứ 2 là vì đó là một loại từ ít được dùng tới, và người trong dân gian coi đó là thứ dao to búa lớn, không hiểu đó là gì; (ììi) Uyên bác thật sự sẽ có ký âm là Wiên bác nếu chữ quốc ngữ có chữ cái W, hay ít lắm đáng lẽ phải viết thành viên bác. Điều này chứng tỏ ai đó (có lẽ thuộc Tự Lực Văn Đoàn) viết lại Yêm bác thành uyên bác có hiểu biết rằng V đã thay cho W và Y, nhưng vì phải biến đổi trễ nếu không nói sau cùng, nên thay vì viết viên bác hay viêm bác họ phải viết thành uyên bác. Sao vậy? Bởi Viên hay Viêm đã bị các từ mang nghĩa khác cũng biến từ âm Y chiếm mất hết rồi: Công Viên (gong yuan) và Viêm Nhiệt (Yan re)!
(b) Bình Nguyên Lộc có trích dẫn từ công trình nghiên cứu về người Mường của Jeanne Cuisinier: “Les Mường, Géographie humaine et Sociologie”, xuất bản năm 1946, viết rằng “người Mường có khuynh hướng phát âm chữ V như Bi”. Nghĩa là vải vóc họ đã đọc như Biải Bióc, y hệt như người Nam Bộ! Và theo thống kê năm 1946 của bà Cuisinier, tổng số người Mường độ 300000, trong đó 136000 cư ngụ ở Hoà Bình, 86000 sống ở Thanh Hoá, 30000 ở Phú Thọ, 20000 tại Sơn Tây.
Nguyên Nguyên
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 16:23:53 GMT 9
Trên dưới, ngắn dài ra sao? ___________ Nguyễn Dư Bạn bè của tôi ơi ! Các bạn có còn nhớ mấy kỉ niệm " chữ nghĩa " năm xưa không ? Ôi ! Cái thời lạy cô đi qua, lạy thầy đi lại. Có đứa độc miệng khấn thêm Đi mau mau cho bọn con nhờ. Quên làm sao được cái thời ấy nhỉ ? Năm chúng tôi... Thôi, không dám chơi trèo, thấy người sang bắt quàng làm họ, người ta chửi cho thì khốn. Mình làm, mình chịu, đừng vơ thêm, lôi thêm người khác vào. Vậy, xin khiêm tốn sửa lại rằng... Năm tôi học lớp ba trường tiểu học Quang Trung (Hà Nội, 1952), có một lần cả lớp viết sai chính tả từ giặt gỵa. Sai đủ kiểu. Nhiều đứa viết là giặt dịa. Có đứa viết giặt gịa. Hai ba đứa viết giặt giạ. Thầy bảo phải viết là giặt gỵa. Cả lớp chả hiểu tại sao lại viết như vậy. Ngày sau sẽ hiểu. Hôm nay thầy dạy như vậy thì cứ biết như vậy. Mãi sau này mới được thấy từ giặt gyạ (Laver ses habits, giặt quần áo) trong tự điển của Génibrel (1898). Thấy cả vua Gyalong (Gia Long) trong báo L'Illustration (1857). Lật Từ điển tiếng Việt (1988) của Hoàng Phê ra xem thì thấy viết là giặt gịa. Từ đơn gịa không có trong từ điển của Hoàng Phê. Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895) định nghĩa gịa là đồ đong lúa, tức là từ giạ của Hoàng Phê. Hôm ấy có đứa hỏi vặn thầy tại sao không viết là giặt dịa? Thầy bảo không được vì giặt gỵa là từ kép, dê dưới (g) phải đi với dê dưới. May cho thầy. Cả lớp không có đứa nào biết trường hợp dê dưới đi với dê trên (d) của giản dị để đưa ra " ăn thua " với thầy. Muốn cho gyạ giống gịa thì chỉ việc thay một chữ, đặt cái dấu vào đúng vị trí. Có vậy thôi mà cũng không biết ! Không biết thì cứ giặt giũ cũng được. Dù sao thì giặt gyạ (Génibrel) hay giặt gịa (Hoàng Phê) cũng là một trường hợp... hơi phức tạp. Còn nhiều trường hợp khác giản dị hơn nhiều nhưng cũng đủ để làm cho trẻ con... bực mình ! Năm tôi học lớp nhất trường tiểu học Thạnh Mỹ Tây (Thị Nghè, 1954) gặp mấy chuyện nửa cười nửa mếu. Người lớn gọi là chuyện... ngôn ngữ bất đồng. Này, này, coi chừng vạ miệng bây giờ! Tiếng Việt thuần nhất. Không có chuyện ngôn ngữ bất đồng giữa người Việt với người Việt. Những kẻ có ý xấu muốn kì thị, chia rẽ thì... Chết ! Chết ! Cái sảy nảy cái ung thì... bỏ mẹ cả đám. Xin sửa lại. Đây chỉ là chuyện... phát âm không giống nhau thôi. Nói như thế được chưa ạ? Được, chúng ta không nên chuyện gì cũng... bé xé ra to ! Xin phép được lau mồ hôi hột. Và xin bắt đầu lại câu chuyện. Năm tôi học lớp nhất trường tiểu học Thạnh Mỹ Tây (Thị Nghè), mỗi tuần phải viết một bài chánh tả. Viết xong, cả lớp đổi tập cho nhau. Cô giáo đọc lại, giảng nghĩa, chỉ cách viết các chữ khó. Cả lớp dò theo, sửa lỗi cho nhau. Bạn bè đứa nào cũng khoái bắt lỗi thằng ngồi bên cạnh. Đứa nào cũng chăm chú sửa cho bạn, không bỏ sót một cái dấu phết. Sửa bài như vậy vừa nhanh, vừa kĩ, lại vừa đỡ mệt cho cô. Có lần tôi bị một lỗi vì... một cái lá. Phải nói ngay là không phải cái lá nho úp úp mở mở hay cái lá đa lấp ló lem nhem, mà đây chỉ là cái lá chuối... " nỏn ". Cô giáo nhấn mạnh chữ " nỏn " dấu hỏi. Tôi giơ tay xin nói. Cô hất hàm cho phép. " Thưa cô, nõn dấu ngã chớ không phải dấu hỏi ". Cô giáo lắc đầu : " Dấu hỏi chớ không phải... dấu ngả ". " Dạ, nõn dấu ngã ". " Cãi bậy ". Cô đập thước kẻ xuống bàn : " Lên đây coi ". Tôi bất đắc dĩ phải lên chỗ cô đứng. Cô cầm thước chỉ vào trang sách. " Sách viết dấu hỏi nè, thấy chưa ? ". Tôi bắt đầu run. " Dạ thấy ". Trong bụng muốn nói thêm " Thấy cả mẹ em rồi, cô ơi ". Nói có sách, mách có chứng đàng hoàng, đâu phải chuyện giỡn. Cô có lí trăm phần trăm. Cãi nữa thì ăn đòn. Em chịu thua cô. Mấy năm sau mới được học câu Tận tín thư bất như vô thư (Đọc sách mà quá tin sách chẳng bằng không đọc sách). Thấm thía nhưng hơi muộn. Chỉ tiếc cho cái lá chuối " nỏn ", già héo mất rồi. Hôm ấy, tôi sốt ruột chờ giờ tan học. Thơ thẩn dạo một vòng sở thú, rồi mới về nhà. Dọc đường, khám phá ra một điều thú vị. Lang thang sở thú sướng hơn ngồi trong lớp học. Đến tối vẫn còn ấm ức. Tức hộc máu vì cái lá chuối " nỏn "... May mà chưa bị hộc máu thật. Thôi mà. Bỗng sực nhớ hình như có lần mẹ khuyên Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Còn đi học thì phải mặc áo gì đây, mẹ ? Mặc sơ mi trắng mau bẩn lắm. Chẳng lẽ ngồi yên chịu trận sao? Ngu vừa vừa thôi chớ ! Thua quỷ thua ma chứ ai lại thua cả cái " vớ vẩn " kia ? Đã vậy thì... Đi với chánh tả của cô thì mày phải mặc áo... bi- da-ma giáo. A ha ! Cái gì mới khó chứ ma giáo thì... dễ ợt cô à. Qua mặt cô cái vèo, khỏi cần bấm còi. Sách không phân biệt hỏi ngã thì mình phải làm cho hỏi ngã... giống nhau. Chu choa, xin lãnh hội những lời vàng ngọc của quới nhơn. Hỏi chỉ khác ngã cái đuôi vểnh cong. Dạ, đúng vậy. Vậy ta chỉ việc phe phẩy thêm một cái đuôi be bé xinh xinh vào dấu hỏi là xong. Hình dạng hỏi hay ngã sẽ giống nhau như... chị em con Ngọc sinh đôi ở cuối xóm. Xin bái lạy quới nhơn. Nhưng chưa xong ! Thông thường thì dấu hỏi phải viết thẳng đứng, dấu ngã viết nằm ngang. Đó là cách viết chân phương. Nôm na gọi là viết rõ ràng. Lối viết của những kẻ không theo tôn chỉ của ma giáo. Muốn theo ta thì từ nay phải viết... mập mờ. Không thẳng, không ngang, mà phải... lửng lơ con cá lóc. Chênh chếch như ánh trăng... một đêm trong rừng vắng ! (Ta lạc đề. Thèm sơn nữ quá). Viết nghiêng chênh chếch thế nào để kết quả chắc ăn một trăm phần trăm? Nhà địa lí gọi là nghiêng theo hướng tây bắc, đông nam. Nhà toán học gọi là nghiêng 45 độ âm. Nhà quê gọi là nghiêng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải. Đố cô giáo của con hay bất cứ ai phân biệt được hai cái dấu. Lá nõn hay lá nỏn ai muốn đọc thế nào cũng được. Xin đa tạ quới nhơn. Xin khất quới nhơn một li nước đá nhận. Ta thấy con bị nạn thì giúp, ta không nhận thù lao. Chết cha ! Chó chê chè ! Ngài không thèm ăn thật hay ngài chê chẳng bõ dính răng ? Quới nhơn hay là quái nhơn đây ? Cho đến hết năm học tôi không còn bị hai cái dấu hỏi, dấu ngã ám ảnh. Nhưng cái số con rệp vẫn còn bị sao quả tạ chiếu. Một hôm cô bắt viết bài tả một đám đánh nhau đến... mẻ đầu " sức " trán. Trúng tủ ! Biết rồi, khổ lắm, viết mãi. Mẻ sứt này thì cũng như Chớ cười những người đui què mẻ sứt của thời mặc quần... soọc. Tôi tự tin viết " sứt " trán. Một lỗi ! Lại gân cổ lên cãi. " Thưa cô, sứt mẻ là chữ t. Sức mạnh mới là chữ c ". Cô giáo liền giở bửu bối Nói có sách, mách có chứng để bịt họng đứa con nít. Một lần nữa tôi bị mắng là vừa bướng vừa không chịu nghe lời cô giáo trong lớp. Mấy thằng trời đánh thánh vật lại được một phen cười hô hố. Khoe đủ mấy cái răng... sứt ! Một lỗi là một lỗi, không tha thứ được. Tình thầy trò bắt đầu sứt mẻ. Sức mấy mà hàn gắn lại được. Lần này quới nhơn của tôi cũng khoanh tay chịu thua. Cô mày võ nghệ cao quá. Ta không địch lại được. Hoàn toàn bế tắc. Không có mẹo nào để làm cho c cũng như t được. Cũng may. Những ngày nửa cười nửa mếu rồi cũng qua mau. Đến kì thi tiểu học tôi tự nguyện " hoàn lương ". Ngậm ngùi từ giã ma giáo. Vì tin rằng người chấm bài sẽ không dựa vào mấy trang sách " mắc dịch " để hại đám tuổi trẻ mà tài cãi lí lại chưa cao. Tôi nhẹ nhõm trở về với dấu hỏi thẳng đứng, dấu ngã nằm ngang. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học thừa nhận rằng phát âm của người miền Bắc phân biệt hỏi ngã, chữ cuối là c hay t, có g hay không có g, nhưng lại mắc phải mấy khuyết tật khác. Người miền Bắc uốn lưỡi không khéo như người miền Nam. Không phân biệt s với x, ch với tr, d với r... Thầy nào dùng sách do dáo (giáo) học Ngô Đê Mân chích (trích) lục, cho học trò viết chính tả bài Xự (sự) tích hai chị em, bà Chưng Chắc (Trưng Trắc), bà Chưng Nhị (Trưng Nhị) (Edmond Nordemann, Quảng tập viêm văn (Chrestomathie Annamite, 1898), Hội Nhà Văn, 2006, tr 50-52) thì chắc chắn chẳng có trò nào thoát được con số không to tướng. Đặc điểm của tiếng Việt là có năm cái dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Muốn doạ người nước ngoài chỉ cần đưa ra mấy câu thần chú : ma, má, mà, mả, mã, mạ. Ba, bá, bà, bả, bã, bạ. Mỗi chữ một nghĩa khác nhau. Cao siêu hơn thì đưa ra hình ảnh : Dưới hiên hiển hiện người hiền Sắc, không, ngã, nghiệp, pháp huyền hỏi ai ? Năm cái dấu sắc sảo, nặng nề, huyền bí... Con trẻ học hỏi vất vả, dễ ngã lòng. Đôi khi người lớn cũng bối rối cười trừ. Một vài hội đoàn Việt kiều bên Pháp, bên Mĩ kêu gọi bà con đóng tiền cho... thủ quỷ. Cho quỷ giữ quỹ, vì thế mà nhiều người e ngại đóng góp. Bộ sử nổi tiếng của Trần Trọng Kim được in lại bên Mĩ với tựa đề mới Việt Nam sữ lược (Miền Nam). Dường như từ sữ chưa có trong các từ điển tiếng Việt. Trong nước xuất bản Quốc triều chỉnh biên toát yếu (Thuận Hoá, 1998). Kẻ nào to gan muốn chỉnh cả chính sử của nhà Nguyễn? Chưa hết. Đôi lúc còn phải chọn chữ i ngắn (i) hay i dài (y). Ngày xưa, Huình - Tịnh Paulus Của viết : Nguít (ngó có nửa con mắt, không muốn ngó). Huinh đệ. Huiên đường. Ngày nay mấy từ này được viết là nguýt, huynh, huyên. I được thay bằng y. Ngược lại, ym (mát mẻ, tư nhuận) được viết là im. Y nhường chỗ cho i. Mọi người vui vẻ chấp nhận mấy thay đổi này. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều trường hợp khó thay đổi. Người này khư khư giữ chữ i. Thưa quí vị, ngân quĩ cúng ma quỉ còn tiền, khỏi phải quịt bọn hàng mã... Người khác lại khăng khăng đòi chữ y. Dài mới đẹp. Bồng bềnh, uyển chuyển, thướt tha. (Lại lạc đề). Thế là khắp nơi nổi lên một loạt nào là ca sỹ, văn sỹ, bác sỹ, thạc sỹ, tiến sỹ, sỹ quan... Ngày xưa dân ta chỉ biết Nhất sĩ nhì nông. Ngày nay sỹ bỵ bán sỷ. Mặt mày bý xỵ. Cứ theo trường phái ba phải là chắc ăn nhất. Có nhà báo đưa tin : Thượng nghị sĩ McCain thăm viếng Việt Nam... Các quan chức của ta đánh giá cao cuộc thăm viếng của thượng nghị sỹ McCain. Trường kĩ thuật " chất lượng cao " kia tự hào đào tạo được nhiều kỹ sư xuất sắc. Bên cạnh chuyện i ngắn i dài, lại còn chuyện phải đánh dấu cho đúng chỗ. Cần gì đúng ! Miễn sao trông cho cân đối là được. Cứ đánh vào giữa là xong. (Đóa hoa, lõa lồ...). Dài ngắn, trước sau, loạn xà ngầu. Mặc kệ quy định và quyết định của bộ Giáo Dục. Bất chấp Từ điển chính tả tiếng Việt (Hoàng Phê, Giáo Dục, 1985), Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Khoa Học Xã Hội, 1988). Trong chuyến du lịch Tam Đảo tôi nghe lỏm được tại một khách sạn. - Em làm giấy tờ cho anh để về thanh toán với cơ quan. - Dạ vâng. Thế tên anh " nà " gì nào ? - Lê Đức Linh - Nê Đức Ninh. - Anh tên là Linh. Không phải Ninh. - Ninh... Ninh... Thế tên anh viết bằng " nờ " dài hay " nờ " ngắn ạ ? - Cái nhà cô này thật là ỡm ờ. " Nờ " của anh dài. Vừa ý chưa ? Cô gái cười giòn tan : - " Nờ " dài. Tí nữa thì em cắt cụt. - Tưởng là chỉ có dê trên (d), dê dưới (g), i dài (y), i ngắn (i), bây giờ lại có cả " nờ " dài (l), nờ ngắn (n). Còn em, tên là gì ? Có trên dưới, ngắn dài gì không ? - Dạ, em " nà " Xuân. - Tên hay nhỉ, nhưng phải sờ mạnh (s) hay sờ nhẹ (x) Xuân mới chịu ? Cô Xuân đỏ mặt, cười duyên : - Nhè nhẹ thôi anh. Nguyễn Dư (Lyon, 11/2009)
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2010 7:44:42 GMT 9
Cách Viết Hoa Trong Tiếng Việt Đào Văn Bình
Đôi khi trong đời người ta, viết văn chỉ vì nhu cầu thôi thúc chứ thực ra nhà văn chưa chắc đã nắm vững một số kỹ thuật hoặc nguyên tắc viết văn. Ngay chính bản thân tôi cũng rơi vào trường hợp như vậy. Điều này cũng dễ hiểu vì tôi không tốt nghiệp hoặc chưa theo học một truờng hoặc một lớp dạy viết văn nào. Mặc dầu tôi đã trải qua sáu năm đại học nhưng ở đại học người ta không chấm điểm theo nghệ thuật viết văn mà chấm điểm theo nội dung bài vở. Cho nên khi khởi đầu viết tác phẩm Những Sự Thực Không Thể Chối Bỏ năm 1987 thì kỹ thuật viết văn của tôi như nguyên tắc viết hoa, cách chấm câu v.v.. hoàn toàn là của lớp đệ thất, đệ lục với lời dạy của thầy, cô trong môn Việt Văn rất đơn sơ mà tôi chỉ còn nhớ lõm bõm. Sau mười năm sống ở Mỹ tức khoảng năm 1995 và sau khi đã làm việc trong các trường học, theo dõi các bài giảng dạy viết văn của học sinh Mỹ, đọc các sách biên khảo về văn chương Hoa Kỳ tôi mới bắt đầu hiểu một số vấn đề như sau: I. Quy tắc viết hoa Trước khi nói về nguyên tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ chúng ta thử tìm hiểu xem nguyên tắc viết hoa của văn chương Việt Nam như thế nào. Theo tôi, khi tổ tiên chúng ta còn xử dụng tiếng Hán để làm văn tự thì chắc chắn không có quy tắc viết hoa. Khi chữ quốc ngữ được sáng tạo thì quy tắc viết hoa của chúng ta đã được mô phỏng hoặc bắt chước theo lối viết hoa của văn chương Pháp. Thế nhưng quy tắc mà chúng ta ứng dụng hoặc bắt chước lại hỗn loạn và không thống nhất. Tôi không hiểu lỗi này do cha ông chúng ta không có một Hàn Lâm Viện để đặt một quy tắc thống nhất hoặc giả đây là lỗi của nhà văn, nhà xuất bản, của ban biên tập, của người sắp chữ (sau này là người đánh máy) ? Riêng bản thân tôi, cho mãi tới năm 2000 – tức là sau 15 năm viết văn tôi mới chính thức tuân thủ lối viết hoa thống nhất theo văn chương Hoa Kỳ. Điều này qúy vị độc giả có thể nhận thấy trong cuốn Ký Sự 15 Năm xuất bản năm 2000. Chứ còn năm tác phẩm về trước, lối viết hoa của tôi hoàn toàn không thống nhất và hết sức lộn xộn. Sau đây là lối viết hoa trong văn chương Việt Nam theo thứ tự thời gian mà tôi đưa ra như những điển hình. 1) Viết hoa theo Việt Nam Tự Điển Khai Trí Tiến Đức (1931): Chỉ viết hoa chữ đầu, chữ sau không viết hoa và có gạch nối giữa các chữ. Thí dụ: Kinh-dương-vương Hà-nội, Hà-nam, Hà-tĩnh, Giáo-sư, Giáo-sĩ, Hương-giang, Nga-la-tư, Thái-bình-dương Thế nhưng: A-di-đà-Phật (chữ Phật cuối cùng lại viết hoa) 2) Lối viết hoa không thống nhất trong Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng: Tên người: Viết hoa cả họ, tên và chữ lót theo văn chương Mỹ nhưng vẫn có gạch nối theo lối cũ. Thí dụ: Dương-Huy, Nguyễn-Thiết-Thanh, Nguyễn-Yên. Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết: Dương-thị-Mai (chữ thị không viết hoa) Tước hiệu, chức vụ: Thường không viết hoa và rất lộn xộn. Thí dụ: cụ tú Ninh-Bắc, cụ tú Lãm, ông hàn Thanh nhưng ở một chỗ khác lại viết Bà Cán, ông Tham Lộc (Tham ở đây là một tước vị lại viết hoa) Địa danh, dinh thự, công viên, thành phố, trường học: Khái Hưng chỉ viết hoa chữ đầu và vẫn có gạch nối theo lối cũ. Thí dụ: Phúc-yên, Hà-nội, chùa Bách-môn Thế nhưng ở những chỗ khác tất cả lại viết hoa. Thí dụ: Thạch-Lỗi, Quan-Thánh, Phú-Thọ, Trù-Mật, Ninh-Bắc, Nam-Định, Gia-Lâm Các con đường, con sông Khái Hưng viết hoa cũng không thống nhất: Thí dụ: đường Quan-Thánh (Quan Thánh viết hoa) Sông Tô-lịch (sông lại viết hoa, lịch lại không viết hoa) Ngày, tháng Khái Hưng không viết hoa. Thí dụ: thứ bảy 3) Lối viết hoa của Nhất Linh trong Bướm Trắng: Về địa danh, Nhất Linh chỉ viết hoa chữ đầu và có gạch nối theo lối cũ. Thí dụ: Sầm-sơn, Hà-nội, Khâm-thiên, Chợ-lớn Thế nhưng Sài Gòn có chỗ lại viết: Sài gòn (không gạch nối) Sài-gòn (có gạch nối) Nhật bản (không gạch nối) Về tên người Nhất Linh viết hoa theo lối Mỹ. Thí dụ: Bác-sĩ Trần Đình Chuyên (không gạch nối, chữ lót viết hoa) Nhưng ở một chỗ khác lại viết: Vũ-đình-Trương (có gạch nối và chữ lót lại không viết hoa) 4) Lối viết hoa không thống nhất của Thanh Tịnh trong Quê Mẹ: Các địa danh chỉ viết hoa chữ đầu và có gạch nối. Thí dụ: phá Tam-giang, trường Mỹ-lý, Trung-kỳ, Hà-nội Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết: Trường Mỹ-lý (trường viết hoa mà không phải ở đầu câu) làng Hòa ấp (lại không có gạch nối) chùa Đồng Tâm (chữ tâm lại viết hoa và không có gạch nối) Chức vụ chỉ viết hoa chữ đầu. Thí dụ: Hương-thơ Thế nhưng ở những chỗ khác lại viết: ông đốc (đốc không viết hoa) ông Huyện Phong (hai chữ sau lại viết hoa) Miếu Thần Đá (tất cả lại viết hoa) miễu Thánh (chữ miễu không viết hoa) Các tên người đều viết hoa theo lối Mỹ nhưng có gạch nối. Thí dụ: Hoàng-Thiên-Y, Khổng-Tử, Lý-Tịnh, Na-Tra Nhưng ở một chỗ khác lại viết: Lê Bá Xuân (không gạch nối) 5) Lối viết hoa không thống nhất của Hoàng Văn Chí: Về tên các quốc gia: Viết hoa theo lối Mỹ nhưng vẫn có gạch nối. Thí dụ: Việt-Nam, Đông-Nam-Á, Đông-Dương, Hòa-Lan Nhưng ở nhiều chỗ khác chỉ viết hoa chữ đầu: Hoa-kỳ, Thái-lan, Ấn-độ, Trung-cộng, Tây-tạng, Tên các nhân vật: Có lúc viết hoa theo lối Mỹ nhưng vẫn có gạch nối. Thí dụ: Khuyển-Dưỡng-Nghị, Tôn-Văn, Vương-Dương-Minh Thế nhưng ở những chỗ khác lại viết: Phan-đình-Phùng, Tôn-thất-Thuyết (chữ lót không viết hoa) Nhóm, hội đoàn, đoàn thể: Viết hoa không thống nhất, chỗ có gạch nối, chỗ không. Thí dụ: Phong trào Cần-Vương Phong trào Đông Du (không gạch nối) Phong trào Văn-Thân phong trào cộng sản (cả bốn chữ lại không viết hoa) Các địa danh viết hoa cũng không thống nhất. Thí dụ: Thượng-Hải, Hồng-Kông, Trà-Lùng, Hàng-Bông, Làng Cổ-Am, Yên-Báy, Hải-Phòng Thế nhưng ở những chỗ khác lại chỉ viết hoa chữ đầu mà thôi. Thí dụ: Hà-nội, Quảng-châu, Quảng-nam, Lạng-sơn, Dương-tư, Nam-đàn v.v.. 6) Lối viết hoa của Duyên Anh trong Về Yêu Hoa Cúc (1970): Đại lược về tên người, địa danh, tên trường học, tước hiệu Duyên Anh viết hoa theo lối Mỹ và bỏ gạch nối. Thí dụ: Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Mai Thảo, Nguyên Sa, Đinh Hùng, Hàn Mặc Tử Đại Học Văn Khoa, Đà Lạt, Hà Nội, Mỹ Tho Thế nhưng còn hai chữ Sài Gòn thì Duyên Anh có lúc viết Sài-gòn (có gạch nối, chữ gòn không viết hoa), rồi có lúc lại viết Sài gòn (không gạch nối) Tên các tờ báo, tạp chí lối viết hoa cũng không thống nhất. Thí dụ: nhật báo Đồng Nai, tuần báo Kịch Ảnh tức là các chữ nhật báo, tuần báo không viết hoa) thế nhưng lại viết: Đông Dương Tạp Chí (tạp chí lại viết hoa) Các tác phẩm văn chương chỉ viết hoa chữ đầu, chữ sau không viết hoa (tức theo lối cũ). Thí dụ: Ngày về, Lạnh lùng, Chân trời cũ Nhưng ở chỗ khác lại viết Tiêu Sơn Tráng Sĩ (tất cả đều viết hoa) 7) Lối viết hoa không thống nhất của Hoàng Khởi Phong trong Người Trăm Năm Cũ 1993: Hoàng Khởi Phong là cựu chủ nhiệm kiêm chủ bút Tạp Chí Văn Học trong khoảng thời gian từ 1989-1990. Dĩ nhiên với chức năng này ông phải đọc lại và coi lại rất nhiều bài viết thế nhưng lối viết hoa của ông cũng không thống nhất – điển hình qua tác phẩm Người Trăm Năm Cũ. Các tước vị hoặc ngôi thứ trong gia đình đều viết hoa như: Đề Thám, Cai Kinh, Cả Huỳnh, Cả Tuyển, Tổng đốc Lê Hoan... Thế nhưng ở nhiều chỗ khác, các tước vị lại không viết hoa: Thí dụ: vua Hàm Nghi, tướng Voyron, quan ba Lambert... Các điạ danh, cách viết hoa cũng không thống nhất: Thí dụ: Phủ Lạng Thương, tỉnh Hà Đông, huyện Nhã Nam (Phủ, huyện, tỉnh đều là đơn vị hành chánh thế mà phủ viết hoa còn tỉnh và huyện lại không viết hoa). Các biến cố lịch sử đáng lý phải viết hoa lại không viết hoa. Thí dụ: Cuộc khởi nghiã Yên Thế, chiến khu Yên Thế. Đáng lý phải viết: Cuộc Khởi Nghĩa Yên Thế, Chiến Khu Yên Thế. 8) Lối viết hoa không thống nhất của Tạ Chí Đại Trường trong Tạp Chí Văn Học năm 2000: Tạ Chí Đại Trường là cây viết chủ lực cho Tạp Chí Văn Học sức học rất uyên bác nhưng cũng lại không để ý đến quy tắc viết hoa. Thí dụ: Công Giáo (tất cả đều viết hoa) Thế nhưng ở chỗ khác lại viết: Tam giáo (chữ giáo không viết hoa) Tự Đức kí Dụ: Đáng lý kí viết hoa lại không viết hoa. truờng Bảo hộ (chữ hộ không viết hoa) nhưng lại viết trường Chu Văn An (chữ an lại viết hoa) Hồng vệ binh maxít phương Đông: (chữ phương không viết hoa). Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết: Văn Minh Tây Phương (chữ phương lại viết hoa) Hồng quân Trung Quốc (chữ quân đáng lý viết hoa lại không viết hoa) Cộng hòa Đại Hàn (chữ hòa đáng lý viết hoa lại không viết hoa) Phong trào Không liên kết Thế giới thứ Ba: Các chữ trào, liên kết, giới, thứ - đáng lý phải viết hoa lại không viết hoa. 9) Lối viết hoa của Nguyễn Hưng Quốc trong Tạp Chí Văn Học năm 2000 Nguyễn Hưng Quốc là cây viết chủ lực cho Tạp Chí Văn Học. Là một nhà bình luận văn học rất kỹ lưỡng thế nhưng Nguyễn Hưng Quốc cũng không chú ý đến quy luật viết hoa. Tên các tác phẩm đều viết hoa như: Truyện Kiều Thơ Mới của Hoài Thanh Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết: thơ Nguyễn Công Trứ (chữ thơ không viết hoa). Thơ Nguyễn Công Trứ là một danh từ riêng chỉ Nguyễn Công Trứ mới có cho nên phải viết hoa. Các tên nhóm, hội đoàn đều viết hoa như: Nhóm Sáng Tạo (chữ nhóm viết hoa) trường phái Phê Bình Mới (đáng lẽ chữ trường phái cũng phải viết hoa) Rồi ở một chỗ khác lại viết: nhóm Ngôn ngữ học tại Moscow (đáng lý phải viết: Nhóm Ngôn Ngữ Học tại Moscow II. Quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ: (*) Đây là quy tắc thống nhất được áp dụng ở khắp mọi nơi. Ít khi thấy nhà văn, nhà thơ, nhà báo Hoa Kỳ vi phạm quy tắc này. Nguyên do chính là vì xã hội của họ đã ổn định cả hai trăm năm nay, việc gì cũng đã trở thành quy củ, nề nếp, có trường ốc. Ngoài ra tờ báo nào, nhà xuất bản nào cũng có một ban biên tập chịu trách nhiệm về vấn đề này chứ không “tự biên tự diễn, tự đánh máy, tự in, tự sáng chế” như chúng ta. Giới thiệu quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ ở đây không có nghĩa là cái gì của Mỹ cũng nhất. Quy tắc nào cũng tốt cả nhưng với điều kiện phải thống nhất. Không thể ở đầu trang viết: Phong trào Đông du rồi ở cuối sách lại viết Phong Trào Đông Du. Nếu cứ tiếp tục viết lộn xộn như thế này thì con cháu chúng ta cũng sẽ tiếp tục thừa kế cái lộn xộn đó và hậu quả là cả ngàn năm sau nền văn chương Việt Nam vẫn cứ tiếp tục lộn xộn làm người ngoại quốc điên đầu khi nghiên cứu văn chương Việt Nam. Sau đây là quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ, nếu áp dụng vào văn chương Việt Ngữ sẽ như sau: 1) Tên người: Thí dụ: Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Lê Chân, Ông Tô Hiến Thành, Ông Cao Bá Quát, Ông Tôn Thất Thuyết, Bà Đoàn Thị Điểm, Ông Đặng Trần Côn, Cô Nguyễn Thị Giang, Cô Bắc. 2) Các con vật mình nuôi và thương mến (pet): Con Vàng, Con Vện, Con Loulou, Con Cún, Con Bống 3) Các chức vụ, tước hiệu và các chữ tắt của tên: Thí dụ: Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sử Gia Lê Văn Hưu, Chúa Sãi, Chúa Trịnh, Bà Huyện Thanh Quan, Đô Đốc Tuyết, Cai Tổng Vàng, Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Giáo Sư Nguyễn C. Hách, GS Phạm B. Tâm, Đại Sứ Cabot Lodge, Tiến Sĩ Kissinger, Tổng Thống Roosevelt. 4) Ngôi thứ trong gia đình: Thí dụ: Cô Bảy, Bác Ba, Bà Cả Tề, Thím Năm, Cô Ba Bến Tre, Cô Năm Phỉ, Út Trà Ôn. 5) Địa danh, dinh thự, công viên, thành phố, quận: Thí dụ: Thành Phố Đà Lạt, Dinh Độc Lập, Phủ Thủ Hiến, Phủ Thủ Tướng, Tòa Thị Chính Nha Trang, Công Viên Tao Đàn, Vườn Hoa Con Cóc, Vườn Hoa Chéo, Quận Gò Vấp, Quận Châu Thành Mỹ Tho, Xã An Hội... 6) Bến, cảng, phi trường: Thí dụ: Phi Trường Tân Sơn Nhất, Ga Hàng Cỏ, Bến Vân Đồn, Bến Sáu Kho, Bến Đò Bính, Bến Đò Lèn, Cảng Hải Phòng 7) Đường: Thí dụ: Đường Trần Hưng Đạo, Xa Lộ Biên Hòa, Quốc Lộ 1, Liên Tỉnh Lộ 7, Hương Lộ 8... 8) Chợ: Thí dụ: Chợ Bến Thành, Chợ Đồng Xuân, Chợ Tân Định, Chợ Bà Chiểu, Chợ Lớn, Chợ Huyệïn Thanh Vân... 9) Núi, đèo, cửa ải: Thí dụ: Núi Hoàng Liên Sơn, Núi Sam, Núi Ba Vì, Núi Ngũ Hành, Núi Ông Voi, Núi Ngự, Đèo Hải Vân, Đèo Cả, Ải Nam Quan... 10) Sông, thác, hồ, suối: Thí dụ: Sông Hồng, Sông Mã, Sông Chu, Sông Hương, Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Than Thở, Hồ Ba Bể, Thác Bản Giốc, Suối Giải Oan... 11) Vịnh, biển, đảo: Thí dụ: Vịnh Hạ Long, Vịnh Cam Ranh, Rạch Cái Cối, Vũng Rô, Quần Đảo Hoàng Sa, Quần Đảo Trường Sa, Đảo Tây Sa, Côn Đảo, Hòn Bà, Hòn Chồng, Hòn Vọng Phu, Phá Tam Giang… 12) Ngày tháng: Thí dụ: Tháng Giêng, Thứ Hai, nhưng mùa thu, mùa xuân (các mùa lại không viết hoa) 13) Ngày lễ, các sinh họat thể thao v.v.. Thí dụ: Lễ Hai Bà Trưng, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ, Ngày Thiếu Nhi Toàn Quốc, Ngày Quốc Tế Nhân Quyền, Giải Túc Cầu Thế Giới (World Cup), Vòng Pháp Quốc (Tour de France), Giải Quần Vợt Hoa Kỳ (US. Open)… 14) Nhóm, hội đoàn: Thí dụ: Nhóm Sáng Tạo, Nhóm Ngàn Lau, Hội Đua Ngựa Phú Thọ, Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ, Hội Ái Hữu Gò Công, Câu Lạc Bộ Lướt Sóng, Môn Phái Vovinam, Môn Phái Thiếu Lâm, Trường Phái Siêu Thực, Trường Phái Dã Thú, Trường Phái Ấn Tượng. 15) Ban nhạc: Thí dụ: Ban Thăng Long, Ban Tiếng Tơ Đồng, Ban The Rolling Stone, Đoàn Cải Lương Hương Mùa Thu, Đoàn Thoại Kịch Tiếng Chuông Vàng… 16) Báo chí, tựa đề các cuốn sách, thơ, bài báo, vở kịch, bức hoạ, bản nhạc, truyện, cuốn phim và bài báo: Thí dụ: Nam Phong Tạp Chí, Tạp Chí Bách Khoa, Nhật Báo Người Việt. nhưng: báo Văn, báo Viễn Đông, báo Saigon Nhỏ, báo Người Việt, Đoạn Tuyệt, Thơ Vũ Hoàng Chương, Truyện Kiều, Kịch Lôi Vũ, Trường Ca Mẹ Việt Nam, Cầu Sông Qwai... 17) Thánh thần và kinh sách: Thí dụ: Trời, Phật, Chúa, Đức Thánh Trần, Bà Chúa Liễu Hạnh, Mẹ Âu Cơ, Kinh Kim Cang, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Kinh Coran, Kinh Cựu Ước.. 18) Miền, vùng của một đất nước (nhưng không phải để chỉ phương hướng). Thí dụ: Miền Nam, Miền Bắc, Miền Trung, Vùng Cao Nguyên, Miền Tây, Bắc Bình Định... 19) Các biến cố lịch sử, tài liệu, mốc thời gian: Thí dụ: Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ, Đệ II Thế Chiến, Thời Kỳ Bắc Thuộc, Thời Kỳ Trịnh - Nguyễn Phân Tranh, Thời Kỳ Phục Hưng, Nhà Hậu Lê, Bình Ngô Đại Cáo... 20) Ngôn ngữ, chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo: Thí dụ: Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Hoa Ngữ, Nhật Ngữ, Việt Ngữ Thái, Nùng, Kinh, Thượng, Ra-Đê, Việt v.v.. Việt Tịch, Pháp Tịch, Ấn Tịch... Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Ấn Độ Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo.. 21) Tên các con tàu, xe lửa, máy bay hoặc nhãn hiệu xe hơi: Thí dụ: Tuần Dương Hạm Yết Kiêu, Khu Trục Hạm Vạn Kiếp, Hàng Không Mẫu Hạm Trần Hưng Đạo...La Dalat, Citroyen, Toyota, v.v… Thiên Lôi (Thunderchief), Con Ma (Phantom) 22) Chữ đầu của câu trích dẫn: Thí dụ: Trần Bình Trọng dõng dạc nói “Ta thà làm quỷ Nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.” (Trích Tuyển Tập 20 Năm Viết Văn xuất bản năm 2004) Ghi chú: (*) Đây chỉ là sự gợi ý sau khi nghiên cứu lối viết hoa của văn chương Hoa Kỳ. Chuyện đặt ra một quy tắc viết hoa cho cả một quốc gia cần có sự đóng góp của rất nhiều nhà văn, nhà báo, nhà giáo dục và nhà nghiên cứu về ngôn ngữ…và cần một thời gian dài giảng dạy trong các trường từ tiểu học. Ngòai ra quý vị, quý bạn nào muốn đọc thêm các tác phẩm văn chương của cùng tác giả xin viếng Weblog Đào Văn Bình tại địa chỉ: hxxp://daovanbinh.cattien.us ĐÀO VĂN BÌNH
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 10, 2010 4:44:48 GMT 9
Chữ quốc ngữ bành trướng từ Nam ra Bắc
Nguyễn Phú Phong 1. Chữ quốc ngữ buổi đầu ở Nam Kỳ thuộc Pháp Từ quốc ngữ dùng ở chương này dùng để chỉ tiếng Việt và chữ viết theo mẫu tự La Tinh. Tình hình dạy quốc ngữ ở Nam Kỳ từ buổi đầu Pháp mới chiếm đóng có những điểm đáng nêu ra sau đây. Ngày 17.2.1859, ngay khi đổ bộ lên Sài Gòn, đô đốc R. de Genouilly đã thấy có mặt tại đây một chủng viện và một truờng học gọi là Trường d'Adran do Hội Truyền Giáo Nước Ngoài thiết lập. Học sinh trường này học đọc và học viết chữ quốc ngữ. Họ cũng được học tiếng LaTinh, đôi khi vài chữ/tiếng Pháp nhưng rất hiếm. Dĩ nhiên, quân viễn chinh Pháp phải nhờ đến Hội Truyền Giáo để được cung cấp những người thông ngôn đầu tiên; các người này về ngoại ngữ chỉ biết tiếng La Tinh, nhưng một thứ tiếng La Tinh tồi. Năm 1861, một trường dạy tiếng Việt được thiết lập ở Sài Gòn để đào tạo những viên thông ngôn người Pháp, các người này về sau trở thành những giáo sư đầu tiên về bộ môn tiếng Việt. Học viên người Âu của trường này đều xuất thân từ bộ binh hoặc hải quân Pháp. Ðiều đáng ghi nhận là trường này vốn là cơ sở hành chánh chứ không phải giáo dục. Ngày 31.3.1863, đô đốc Bonard ra quyết định tái lập các hạt giáo dục cũ (do nhà Nguyễn thiết lập) với các chức đốc học, giáo thọ, huấn đạo; tạo chỗ cho học sinh các loại: học sanh, tú tài, cử nhân; tái lập các cuộc thi hương (mà kỳ đầu tiên phải được thực hiện năm 1864). Kiến thức về chữ quốc ngữ không bắt buộc trong các kỳ thi nhưng thí sinh biết thứ chữ viết này được ưu đãi hơn. Bắt đầu năm 1866, việc dạy tiếng Pháp cho người Việt Nam được khởi sự nhưng vẫn còn nằm trong tay các giáo sĩ; giáo hội lần hồi mở trường ở Mỹ Tho, Vĩnh Long và Chợ Lớn. Các trường học nhà dòng được chính quyền thuộc địa trợ cấp, đã phát triển đáng kể trong 5 năm trời. Dưới thời đô đốc Ohier, năm 1869, một số trường được lần lượt mở ra ở Cần Thơ, Sóc Trăng, Gò Công, Tân An, Rạch Giá, Cần Giộc, Ích Thanh (?), để dạy cho bọn tráng niên chữ quốc ngữ và những bài vỡ lòng tiếng Pháp. Ngày 17.11.1874, đô đốc Dupré ra quyết định tổ chức lại hoàn toàn nền giáo dục quốc dân. Nền giáo dục này được tuyên bố là miễn phí và tự do, tuân theo qui định chung của giáo dục quốc dân ở Pháp. Việc giáo dục (ở Nam Kỳ lúc đó) chịu mệnh lệnh trực tiếp của giám đốc nội vụ và đặt dưới sự giám sát của các trường quận mà trách nhiệm thuộc về các viên chức hành chánh. Các trường làng dạy chữ Hán bị bãi bỏ hoặc sáp nhập vào trường ở quận lỵ, biến thành một trường duy nhất dạy chữ quốc ngữ. Có sáu trung tâm thanh tra: Sài gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc Trăng, mỗi nơi đều có một trường Pháp. Có thể nói rằng buổi đầu thời Nam Kỳ thuộc địa Pháp, tổ chức giáo dục ở đây còn đang trong thời kỳ mò mẫm, việc đem chữ quốc ngữ thay thế hẳn chữ nôm và chữ Hán có khi phải khựng lại, bằng chứng là việc tái lập các chức đốc học, giáo thọ, huấn đạo, và tổ chức lại các cuộc thi hương. Việc thứ hai đáng ghi nhận là giáo dục được đặt dưới quyền của một viên chức nội vụ, tức là phụ trách an ninh. Nhận xét thứ ba là vì nhu cầu hành chánh mà người Pháp lúc bấy giờ học tiếng Việt và những người này đều xuất thân từ quân đội. Có một sự khác biệt lớn giữa người Việt và người Pháp hay người ngoại quốc trong việc học quốc ngữ. Người Việt học quốc ngữ là học đọc và học viết tiếng mẹ; ngữ nghĩa và cú pháp tiếng Việt họ đã nắm. Còn người ngoại quốc học quốc ngữ thì phải rèn luyện cú pháp, ngữ nghĩa, đọc và viết. Người Việt học chữ Hán không phải học viết mà thôi mà còn học đọc, học nghĩa, học cách dùng, tóm lại là học một ngoại ngữ. Nói chung bước đầu của chữ quốc ngữ ở miền Nam gặp nhiều khó khăn vì nhiều lý do. Tại những người chủ xướng là ngoại nhân đi chinh phục. Tại họ là những quân nhân chỉ lấy những biện pháp cấp thời để giải quyết những vấn đề giai đoạn nên không có một cái nhìn lâu dài. Tại việc giáo dục mới mà chữ quốc ngữ là công cụ chuyển tải chính mặc dù có những kiện tướng như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huyụnh Tịnh Của, phải đương đầu với một hàng ngũ còn hùng mạnh thuộc trường học Hán-nôm truyền thống mà đại diện là các nhà nho yêu nước như Nguyễn Ðình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, v.v. Cuộc đối địch không thuần xảy ra giữa hai chữ viết của một ngôn ngữ mà còn giữa hai thái độ chính trị, hợp tác và chống đối; giữa các tôn giáo, đạo Ky Tô một bên, và Nho, Ðạo và Phật, bên kia. 2. Chữ quốc ngữ lan rộng ra phía Bắc Sau khi được sử dụng làm chữ viết "chính thức" của tiếng Việt ở Nam Kỳ thuộc Pháp, chữ quốc ngữ bành trướng ra phía Bắc. Những biến cố lịch sử có tác động vào, hoặc đánh dấu lên, sự bành trướng này là: - Ngày 15.3.1874, Triều đình Huế ký hiệp ước thừa nhận chủ quyền Pháp trên lãnh thổ Nam Kỳ, từ địa giới phía nam tỉnh Bình Thuận trở vào Nam. - Ngày 25.4.1882, Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai. Hà Nội thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tử tiết. - 25.8.1883, Triều đình Huế ký với Pháp hiệp ước Harmand thừa nhận Nam Kỳ là thuộc địa Pháp, thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. - 6.6.1884, Triều đình Huế và Pháp ký hiệp ước Patenôtre theo đó nước Pháp sẽ thay mặt nước An Nam trong mọi quan hệ đối ngoại. Như vậy từ đây chữ/tiếng Hán nhường bước cho chữ/tiếng Pháp trên mặt ngoại giao. Một cách lặng lẽ trong các cuộc giao thiệp quốc tế, tiếng Việt/chữ quốc ngữ hoàn toàn vắng bóng, chịu sự "bảo hộ" của tiếng Pháp. - 27.1.1886, Tổng thống Pháp bổ nhiệm Paul Bert sang cai trị Trung-Bắc Kỳ, mở đầu chế độ văn quan thay chế độ võ quan trước đó. Cũng năm này Paul Bert thiết lập Băc Kỳ Hàn lâm viện (Académie Tonkinoise). - 1895, Phan Ðình Phùng mất, phong trào Cần Vương mà Phan là chủ tướng cũng tắt theo. Bài thơ tuyệt bút của Phan Ngự sử nói lên tâm sự của một người bầy tôi phò vua cứu nước theo quan niệm của một nhà nho yêu nước truyền thống được viết bằng Hán văn. - 1896, Toàn quyền Ðông Dương ra nghị định cho thành lập một trường Pháp-Việt ở Huế, gọi là Trường Quốc học Huế. - 6.6.1898, Toàn quyền Ðông Dương đặt thêm một kỳ thi phụ cho khoa thi Hương trường thi Nam Ðịnh. Môn thi gồm năm bài tiếng Pháp: viết tập, chính tả, dịch Pháp ra Việt, hội thoại, đọc và dịch miệng (hệ số 5); chính tả tiếng Việt (hệ số 3); bài dịch từ Hán văn ra tiếng Việt (hệ số 4). Ai đã đỗ tú tài, cử nhân kỳ thi Hương chính mà còn đỗ cả kỳ phụ sẽ được ưu tiên chọn ra làm quan. Việc đưa tiếng Pháp làm môn thi ở Trường Nam Ðịnh là một biến cố quan trọng vì tính cách biểu tượng của trường thi này trong chế độ khoa cử theo nho học của Việt Nam. Trần Văn Giáp (1941: 2) có nói qua lịch sử tỉnh Nam từ đời Hùng Vương để kết luận: "Trong khoảng một trăm năm trước đây, tỉnh Nam-định sở dĩ có tiếng, toàn quốc thiếu-niên nào bậc anh-tuấn, nào người ngu-độn, ai ai cũng chú-trọng đến tỉnh Nam, là vì có trường-thi hương ở đó." - 15.12.1898, Toàn quyền Ðông Dương Paul Doumer ra nghị định thành lập Phái đoàn Khảo cổ học Thường trực tại Ðông Dương (Mission Archéologique Permanente en Indochine), đến 20.10.1900 đổi gọi là Trường Viễn Ðông Bác Cổ (Ecole Française d"Extrême-Orient) . - 30.12.1898, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh về chế độ báo chí ở Ðông Dương. - 20.6.1903, Thống sứ Bắc Kỳ ra nghị định thành lập Trường Hậu bổ Hà Nội (Ecole d"apprentis mandarins) theo chỉ thị ngày 9.2.1897 của Tổng thư ký Phủ Toàn quyền Ðông Dương. Ngày 18.4.1912 Trường Hậu bổ Hà Nội đổi thành Trường Sĩ hoạn (Ecole des Mandarins). Ngày 15.10.1917, Toàn quyền Ðông Dương ra nghị định lập Trường Pháp chính Ðông Dương (Ecole de Droit et d"Administration) thay cho hai trường Sĩ hoạn Hà Nội và Hậu bổ Huế (thiết lập ngày 5.5.1911). - 27.4.1904, Pháp cho thiết lập chương trình giáo dục hệ Pháp-Việt ở Bắc kỳ. - 5.1904, Thành lập Hội Duy Tân ở Quảng Nam. Hội này do Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể làm hội trưởng mà mục đích là Khôi phục nước Việt Nam, lập thành nước quân chủ lập hiến. (Xin đừng lẫn lộn Hội Duy Tân với Phong trào Duy Tân do Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng chủ xướng.) - 7.1905, Mở đầu Phong trào Ðông du của Duy Tân hội. Phan Bội Châu viết Khuyến quốc dân du học văn. - 8.3.1906, Toàn quyền Ðông Dương cho thiết lập Hội đồng Hoàn thiện nền giáo dục bản xứ (Conseil de Perfectionnement de l"enseignement indigène). Như vậy từ đầu thế kỷ 20 trở đi, sau khi cuộc đấu tranh vũ trang của Phong trào Cần Vương tan rã, nước Việt Nam dưới mắt người Pháp, xem như đã dược bình định, nhà cầm quyền Pháp bắt đầu đặt để những cơ chế về hành chánh, giáo dục để cai trị các xứ thuộc địa và bảo hộ. Các cơ chế chính quyền của Triều đình nhà Nguyễn dần dần hoặc bị thay thế hoặc bị làm suy yếu đi không còn thực quyền. Hán học, nền tảng của công cuộc đào tạo sĩ phu, quan chức nhà Nguyễn, theo đó cũng tàn tạ nhường chỗ cho lớp quan chức mới xuất thân từ các trường Pháp-Việt. Chữ quốc ngữ từ trong Nam lan ra đất Bắc, xen vào các kỳ thi; biết quốc ngữ trở thành một yêu cầu để bước vào quan trường. Tuy vậy vào cuối thế kỷ 19, những bước đầu của quốc ngữ ở miền Bắc còn rất e dè, như lời tự thuật của nhà nho Nguyễn Bá Học: "Tôi lúc mới học quốc-ngữ thường không dám học to tiếng, chợt có khách đến phải giấu ngay sách vào trong túi áo, hình như có hai mươi bốn mẫu-tự quốc ngữ, là một cái sách bí-mật cấm thư". (xem Cụ Nguyễn-Bá-Học, Nam Phong, số 50, aoủt 1921, tr. 167). 3. Bước ngoặt quyết định của chữ quốc ngữ Nhưng bước ngoặt quyết định dẫn đến sự thành công của chữ quốc ngữ là do chính các nhà nho trong hàng ngũ Phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục. Phong trào Duy Tân phát động từ năm 1905 ở Quảng Nam với ba lãnh tụ: Trần Quý Cáp (1871-1908), quê huyện Ðiện Bàn, Quảng Nam, đậu tiến sĩ năm 1904; Phan Châu Trinh (1872-1926), quê huyện Tiên Phước, Quảng Nam, đậu phó bảng năm 1901; Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), quê huyện Tiên Phước, Quảng Nam, đậu tiến sĩ khoa hội thi năm 1904. Bộ ba này năm 1905 nhân chuyến vào Nam, đến Bình Ðịnh, mượn tên ứng thí trong một kỳ thi đã làm hai bài thơ Chí thành thông thánh và Danh sơn lương ngọc đả kích những người còn bát cổ văn chương thụy mộng trung (ngủ mê trong giấc mộng văn chương bát cổ). Hai bài thơ này rõ ràng tấn công vào nền cựu học, bài xích cái học cử nghiệp, mở đầu cho chủ trương tân học sau này của Phong trào. Ðông Kinh Nghĩa Thục khai giảng tháng 3, 1907 tại phố Hàng Ðào, Hà Nội, chương trình noi theo đường lối tân học của Trung Quốc và Nhật Bản. Trong các sĩ phu sáng lập có cụ cử Lương Văn Can, thục trưởng của Trường; cụ huấn Nguyễn Quyền, giám học; cụ án Nghiêm Xuân Quảng, v.v., và một số nhà tân học như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, v.v. Trọng tâm các trước tác của Ðông Kinh Nghĩa Thục nhắm vào hai mặt, đánh đổ và xây dựng. Ðánh đổ các hủ tục, lối nhắm mắt học từ chương theo kiểu khoa bảng cũ, các tư tưởng thoái hoá của tầng lớp sĩ phu thủ cựu. Xây dựng bằng cách hướng sự học vào các khoa học kỹ thuật mới, xem nặng thực nghiệp, chấn hưng công thương nghiệp. Và nhất là kêu gọi học chữ quốc ngữ. Từ buổi đầu cuộc chiếm đóng Nam Kỳ của Pháp đến khi Phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục ra đời, nửa thế kỷ trôi qua, chữ quốc ngữ đã lột xác dưới mắt các sĩ phu Việt Nam. Chữ quốc ngữ trước kia bị xem như một toan tính của chính quyền thuộc địa hòng La Mã hoá nền quốc học Việt Nam, như một vũ khí đi chinh phục của ngoại nhân, bây giờ được đón tiếp như một công cụ chuyển tải hữu hiệu những tư tưởng yêu nước, những tri thức mới. Như vậy là từ một công cuộc La Mã chữ viết bị ép buộc, việc áp dụng chữ quốc ngữ đã chuyển thành một cuộc La Mã hoá đồng thuận và tự nguyện. Và chuyện lột xác này phần lớn lại do tác động của các nhà nho, của các ông tiến sĩ, phó bảng, thám hoa, cử nhân triều Nguyễn, những người xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, tinh thông chữ Hán. Lập trường của ba vị Trần, Phan và Huỳnh, của Phong trào Duy Tân, đối với chữ quốc ngữ thực quá rõ ràng qua Bài hát khuyên học chữ quốc ngữ mà tác giả chắc là Trần Quý Cáp, có đoạn: ... Chữ quốc ngữ là hồn trong nước Phải đem ra tính trước dân ta Sách các nước, sách Chi Na Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường... Bài thơ này cũng được xếp vào thơ văn của Ðông Kinh Nghĩa Thục (xem Vũ Văn Sạch và đtg, 1997: 110) chứng tỏ rằng hai phong trào đều có những chủ trương giống nhau về ngôn ngữ và chữ viết. Hơn nữa một người như Phan Tây Hồ chẳng hạng lại cùng hoạt động ở cả hai bên. Khuyên học chữ quốc ngữ không phải là một trào lưu cách biệt mà là một bộ phận trong một phong trào qui mô hơn có thể gọi là sách lược học văn minh theo đường lối mới.* Như vậy ta sẽ không lấy làm lạ khi thấy xuất hiện một hiện tượng khác của phong trào, việc cổ động hớt tóc: Cúp hè! cúp hè! Tay mặt cầm kéo Tay trái cầm lược Cúp hè! cúp hè! Ðủng đỉnh cho khéo. Bỏ cái ngu mày, Bỏ cái dại mày, Học theo người Tây. Hãy còn ăn mặn, Hãy còn nói láo, Phen này ta cúp, Phen sau ta cạo. (Vè cúp tóc) Phản ứng lại phong trào hớt tóc, nổi lên vụ án thế phát về phía chính quyền: những người có mái tóc hớt ngắn bị các quan bắt bớ. Các nhà nệ cổ cũng làm thơ chống đối: Mồ cha, mả mẹ anh đâu? Còn vua còn chúa, hỏi anh cúp cái đầu thờ ai? Chữ rằng phục quốc Tây lai, Xem trong Nam Việt ai ai cũng buồn tình. Nước Nam mình còn miếu, còn đình, Còn khoa, còn mục, còn mình, còn ta, Làm chi khác thể ông thầy chùa, Khỏi xâu, khỏi thuế cũng nên đua cúp đầu. Xem thế, cái phạm vi của nền văn minh mới mà phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục cổ vũ thật là đa dạng, rộng rãi và bao quát. Việc dạy và học quốc ngữ trong ý đồ Pháp hoá (francisation) dân thuộc địa của chính quyền Pháp ở Ðông Dương trở thành một chủ trương nhằm giáo hóa dân chúng của các nhà nho thức thời mà mục đích cuối cùng vẫn là giải phóng dân tộc, giành lại độc lập cho nước nhà. 4. Thắng lợi vĩnh viễn của chữ quốc ngữ Như vậy chữ quốc ngữ loại hẳn chữ nôm để dùng viết tiếng Việt trên toàn cõi Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 và từ đó danh từ chữ quốc ngữ thường được dùng để chỉ tiếng Việt nhiều hơn để chỉ chữ viết. Cứ đọc kỹ Bài hát khuyến học ở trên thì ta thấy ngay. Khi nói Chữ quốc ngữ là hồn trong nước thì các cụ nhà nho muốn nói Tiếng Việt là hồn trong nước chứ chẳng lẽ trước khi chữ quốc ngữ được các nhà truyền giáo Âu Châu phát minh nước ta không có hồn hay sao? Sau này có kẻ hậu bối dựa heo câu hát này mà nói lên lời Tiếng ta còn thì nước ta còn. Còn trong hai câu: Sách các nước, sách Chi Na. Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường... thì quả là chữ nghĩa ở đây là thuộc về từchứ không thuộc về tự, và dịch ra thì dịch ra tiếng Việt chứ không thể dịch ra chữ quốc ngữ hiểu như chữ viết. Tình hình thắng lợi của chữ quốc ngữ trong cuộc cạnh tranh với chữ nôm và sự lẫn lộn giữa chữ viết (chữ quốc ngữ) và ngôn ngữ (tiếng Việt) được thể hiện rõ trong bài diễn văn của đại úy Jules Roux* đọc ở Toà Ðốc lý quận 6 Paris, ngày 6.7.1912 nhan đề là: Le triomphe définitif en Indochine du mode de transcription de la langue annamite à l"aide des caractères romains ou " Quốc ngữ" [Cuộc thắng lợi vĩnh viễn của phương thức ghi tiếng Annam bằng con chữ La Mã hay "Quốc ngữ"]. Dưới đây xin trích ra một số đoạn của bài diễn văn nói lên sức mạnh và sự thành công của quốc ngữ theo quan điểm của một người Pháp có thiện cảm và tin tưởng vào tiếng Việt. Trước hết Roux xác nhận quốc ngữ - Roux dùng quốc ngữ thay vì chữ quốc ngữ - là: " đồ nghề dùng để phổ biến một cách thần diệu tư tưởng phương Tây... là yếu tố xâm nhập mãnh liệt vào một dân tộc... nhờ vào sự ổn định ngữ nghĩa đem lại cho các từ của tiếng An Nam, quốc ngữ sẽ có sứ mạng làm công cụ chuyển tải những tư tưởng của chúng ta [tức người Pháp] có mòi góp phần vào sự phát triển xứ thuộc địa Ðông Duơng to lớn của chúng ta... " Phần tôi [tức là Roux], tôi không thù ghét gì chữ Hán nhưng thứ chữ này đối với quốc ngữ trong 30, 40 năm tới đây sẽ giống như tiếng La Tinh đã trở thành đối với tiếng Pháp như ngày nay... "Việc giảng dạy quốc ngữ đã toả lan với một tốc độ chóng mặt ... " Tư tưởng và sự vật được họ [ những người Việt du học ở Paris ] diễn tả bằng những chữ Hán thích hợp. Những chữ Hán này, thường là chữ đôi, phát âm theo một cách nào đó trong tiếng Việt, và cách phát âm này được ghi lại rất chính xác bằng quốc ngữ. Các từ mới này dưới dạng quốc ngữ ... càng ngày càng làm giàu cho tiếng An Nam ... "... Hậu quả khác: ngôn ngữ này [tức tiếng Việt], được viết bằng con chữ La Mã như thế, có chiều hướng trở thành đa âm tiết ... Như vậy những từ như tự-do, đồng-bào, tự-lập, bảo-hộ, được ghép bằng hai từ đơn âm hiện nay lập thành, đồng thời cùng với số động từ khác, những từ hai âm tiết chân chính mà sự biến chuyển tự nhiên của quốc ngữ rốt cuộc sẽ bỏ bớt cái gạch nối để trở thành những từ nối liền (tựdo, đồngbào ... ghi chú thêm của NPP) giống như các từ Pháp portemonnaie hay portefeuille (thay vì porte-monnaie hay porte-feuille, ghi chú thêm của NPP). "Như vậy, quốc ngữ ... xâm nhập mọi thứ. Nó được dạy mọi nơi ... "Chính là thông qua quốc ngữ mà dân An Nam gắn bó với nền văn minh Pháp và chính cũng qua quốc ngữ mà chúng ta xáp lại gần với dân tộc này... " Tướng Pennequin hiện đang chỉ huy quân đội ở Ðông Dương, có viết năm 1909 : 'Quốc ngữ là công cụ chân chính để đưa tư tưởng chúng ta xâm nhập vào dân An Nam ... "... Thật đáng buồn thay trong một thời gian dài quốc ngữ không những không được quan tâm mà còn bị chống đối.' "Ông Farjenel, người học chữ Hán từ 20 năm nay... đã nói như sau: 'Ở Bắc Kỳ, thế hệ mới đã dốc lòng học quốc ngữ mà họ nhận ra cái thế hơn trội đối với chữ tượng hình nhất là trên phương diện dễ học. Chỉ những thầy đồ già mới nuối tiếc cái kiểu viết cổ lỗ sĩ (archaique) của chữ tượng hình.' "Một công văn năm 1910 của Khâm sứ Bắc Kỳ định rằng tất cả các văn bản dùng cho việc quảng bố như nghị định, quyết định, lệnh, chỉ thị, phán quyết, phải được viết bằng quốc ngữ. Công văn này cũng nói thêm rằng [việc dùng quốc ngữ] phải áp dụng cho thư tín thường lệ giữa các quan triều Nguyễn và chính quyền Pháp, và càng nhiều càng hay, cho các thông tri của các quan lại gửi đến người dân ... "Năm 1909, ở Hanoi có thành lập một Hội thân hữu Pháp Việt để phổ biến và quảng bá chữ quốc ngữ. Hội này còn có tên là Bác Văn Hội nhắm đến những mục đích sau Ðaây: 1. Ðưa ra mắt những tác phẩm văn học An Nam viết bằng chữ khối vuông - chữ nho hay chữ nôm - bằng cách dịch ra quốc ngữ hay tiếng Pháp ; 2. Dịch ra quốc ngữ những sản phẩm của tri thức Pháp về những môn khoa học, nghệ thuật, luật, kinh tế chính trị, văn học, với dụng ý là ổn định... ngữ nghĩa các từ trong tiếng nói của xứ An Nam ... "Khâm sứ Bắc Kỳ tuyên bố là không đặt vấn đề gạt bỏ văn tự Trung Quốc để thay thế bằng quốc ngữ. 'Mọi cuộc phiên viết theo ngữ âm dành cho tiếng An Nam hay Hán-Việt đều thiếu sót và đưa đến nhiều chỗ không rõ ràng. Ông Simoni [Khâm sứ Bắc Kỳ] viện lý do là số lượng âm tiếng An Nam hay Hán-Việt rất giới hạn nên rất khó khăn để phân biệt chúng nếu không dùng chữ tượng ý. [Vấn đề từ đồng âm, chú thích NPP]' "Nhưng đó chính là điểm mà tôi (Roux) phản bác bằng cách nêu lên sự sử dụng càng ngày càng tăng trong quốc ngữ những từ đôi, những từ này đem lại cho tiếng An Nam tính chính xác ... "... Không, ông Khâmsứ ơi! Các cuộc phiên viết theo ngữ âm dành cho tiếng An Nam, nhất là Hán-Việt, sẽ đáp ứng và sự phiên viết này sẽ không gây ra nhầm lẫn khi các ông đồ An Nam dùng quốc ngữ để thông qua những chữ đôi ..." Tóm lại để chứng minh cái thế thượng phong của chữ quốc ngữ, Roux đã triển khai hai điểm chính sau đây: 1. Dưới mắt một sĩ quan thuộc địa, quốc ngữ là một phương tiện tốt, có hiệu năng để truyền bá văn minh phương Tây, để xâm nhập tư tưởng dân bảo hộ, và nhất là công cụ tiện lợi để soạn thảo công văn hành chánh, điều hành chính quyền. 2. Theo quan điểm của nhà nghiên cứu thì Roux tuy thường lẫn lộn giữa chữ viết và ngôn ngữ nhưng vẫn có cái nhìn sáng suốt về sức mạnh và sự phong phú của tiếng Việt. Khác với một số người kể cả người Việt, xem trọng chữ Hán, tức tiếng Trung Quốc, cho là chữ của thánh hiền, chữ của bác học (langue savante), dè bĩu chữ nôm, tức tiếng Việt, cho nôm na là cha mách qué, thì Roux tin tưởng là quốc ngữ, hiểu theo nghĩa vừa chữ viết vừa ngôn ngữ, có thể diễn tả những ý niệm trừu tượng trong nghệ thuật, khoa học, chính trị, văn học, v.v..., có thể giúp "ổn định ngữ nghĩa các từ." Ðối với chữ quốc ngữ mà một số người cho là kém hơn chữ nôm vì có quá nhiều từ đồng dạng đồng âm thì Roux phản bác lại, nói rằng các từ này sẽ được hiểu nghĩa rõ ràng qua các từ đôi (hay từ ghép). Thông qua các từ đôi này với số lượng càng ngày càng nhiều, tiếng Việt có chiều hướng trở nên đa âm tiết. Ðó là một nhận định khá đúng đắn của Roux. Qua chương trình hành động của Phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục, qua tình hình và nhận xét của viên quan ba pháo binh Jules Roux, thì quốc ngữ thắng lợi hoàn toàn. Chữ viết La Tinh hoá trở thành quốc tự và quốc ngữ/tiếng Việt chứng tỏ có đủ sức để trở thành một ngôn ngữ khoa học, nghệ thuật, chính trị. Còn cái điều cho tiếng Việt đã đạt đến độ một ngôn ngữ văn chương trác tuyệt chưa thì đã được chứng minh qua các tác phẩm nôm như Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm ở thế kỷ 18, và nhất là Truyện Kiều ở đầu thế kỷ 19. (*) - Roux, đại úy pháo binh thuộc địa, tiến sĩ luật, là bạn của cụ Phan Châu Trinh
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 10, 2010 4:46:27 GMT 9
Ảnh hưởng của văn học Pháp vào văn học Việt Nam
Nguyễn Phú Phong Qua chữ viết tiếng Việt theo mẫu tự La Tinh, văn học Pháp thâm nhập vào văn học Việt Nam trên hai mặt : - Ðem lại những thể loại mới vào văn học Việt Nam như thơ ngụ ngôn, tiểu thuyết văn xuôi. - Cách tân hình thức, thay đổi diễn xuất, phong cách, tạo ra nguồn cảm hứng mới, thoả mãn những thị hiếu mới, đề xuất những tư tưởng mới. 1. Dịch thơ Pháp Sự thâm nhập sớm nhất của văn học Pháp qua đường dịch thuật được thực hiện từ năm 1884 qua cuốn sách của Trương Minh Ký, Chuyện Phang-sa diễn ra quốc ngữ (16 chuyện ngụ ngôn của La Fontaine), Sài-gòn, 1884 (xem Trần Văn Giáp và đtg, 1972, 82). Còn có một cuốn khác cùng đề Chuyện Phang-sa diễn ra quốc ngữ gồm 150 chuyện ngụ ngôn của La Fontaine dịch ra dưới thể văn xuôi và thơ lục bát (18 bài) . Sách này được xuất bản năm 1886 và được tài trợ của Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ thuộc Pháp (Conseil Colonial de la Cochinchine Française). Xem qua cơ quan tài trợ này đủ biết việc áp dụng chữ quốc ngữ có đi đôi với chủ trương phổ biến văn học Pháp ở những vùng Pháp mới chiếm đóng. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng bộ ba Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của, Trương Minh Ký, những nhà nho miền Nam tiên phong trong việc dùng chữ quốc ngữ và có hấp thụ được văn hoá Âu Tây không phải là những tác nhân tích cực cho việc truyền bá văn chương Pháp. Vai trò này về sau dành cho Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh và nhất là nhóm Nam Phong từ nhị thập niên thế kỷ 20 trở đi. Trái lại một người như Huình Tịnh Paulus Của quả xứng đáng là một nhà Việt Nam học có công trong sự nghiệp giữ gìn, làm giàu, tăng niềm tin tưởng vào tiếng Việt và chữ quốc ngữ qua cuốn Ðại Nam Quấc Âm tự vị, Saigon, Imprimerie Rey, Curiol & Cie, 1895, 596 trang. Thật ra ý ban đầu của tác giả là muốn làm một cuốn từ điển song ngữ Việt-Pháp nhưng vì gặp nhiều trở ngại đành bỏ phần tiếng Pháp nên Huình Tịnh Của trở nên tác giả của cuốn từ điển Việt-Việt đầu tiên. Tác giả đã có lời phân bày (Ðại Nam Quấc Âm tự vị, tr. IV) : " Làm tự vị này, sơ tâm ta muốn cho có tiếng Langsa. Hồi mới khởi công, có nhiều quan Tây giùm giúp, sau các ông ấy có việc phải thuyên đi Bắc-kỳ, bỏ có một mình ta, lúng túng, phải bỏ phần dịch tiếng Langsa. Nhưng vậy nhơn khi rỗi rảnh, ta cứ làm theo tiếng ta, chữ ta, viết đi chép lại, ngày đêm khó nhọc, hơn bốn năm trời mới thành công việc... " Trong một bài nghiên cứu đăng trong Cahiers d'Etudes Vietnamiennes (Tập San Việt Học), 10, 1989-90, Phạm Ðán Bình đã lập một bản kê rất công phu theo niên đại xuất hiện những bản dịch ra Việt ngữ các bài thơ Pháp. Bản kê bắt đầu với bài dịch thơ ngụ ngôn của La Fontaine của Trương Minh Ký năm 1884 như đã lược bày ở trên và kết thúc với bài dịch của Tường Vân đăng trong Tao Ðàn số 13, 16.10.1939, có đề là Từ giã tổ quốc (Tiếng hát của kẻ vượt bể khơi đi) mà nguyên bản tiếng Pháp là của Victor Hugo, Le chant de ceux qui s'en vont sur mer (Les Châtiments). Cũng trong bài này, Phạm Ðán Bình đã đưa ra một số nhận xét đáng lưu ý khi nói về ảnh hưởng của văn học Pháp đối với văn học Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20. Nếu không kể nhà thơ ngụ ngôn La Fontaine, các thi sĩ Pháp khác có thơ dịch ra tiếng Việt thì Victor Hugo dẫn đầu với 27 bài ; Lamartine 16 bài ; Musset 11 ; Verlaine 10 ; Ronsard và Sully Prudhomme, mỗi người 6 bài. Năm thi sĩ Pháp, Lamartine, Hugo, Musset, Ronsard và Verlaine hầu hết thuộc truờng phái lãng mạng, đã chiếm gần phân nửa tổng số các bài thơ dịch (tức là 139/300) ; số còn lại dành cho khoảng 60 tác giả khác. Các người dịch dường như nghiêng về các đề tài buồn như sự trôi đi của thời gian, tính mỏng manh của đời người, cái lạnh lùng của số mệnh. Nếu tính theo ngày xuất hiện bản dịch thì La Fontaine được dịch sớm nhất, lần đầu tiên năm 1884 do Trương Minh Ký ; Beaudelaire năm 1917 do Phạm Quỳnh dịch ra văn xuôi ba bài thơ trong tập Fleurs du Mal là Spleen (U uất), La Rançon (Chuộc mình) và Recueillement (Bình tĩnh), đăng trong Nam Phong số 5, 1917. Chateaubriand, một nhà thơ lãng mạng nổi tiếng được dịch năm 1921 qua bài Nuit chez les sauvages de l'Amérique (Ðêm vắng ở khoảng giã bên Tân Thế Giới) do một học sinh năm thứ 3 Quốc Tử Giám, đăng ở Nam Phong số 47. Cùng năm 1921, Lamartine đuợc dịch ra 5 lần, bốn lần với bài Le lac (Cái hồ), một lần với bài L'Automne (Mùa thu), tất cả đều xuất hiện trên Nam Phong số 48, 49 và 51. Ronsard, một tác giả ở thế kỷ 16, phải chờ đến 1923 với bài Sonnet (sur la mort de Marie) (Một người con gái từ trần); Sully Prudhomme năm 1923 với bài Le vase brisé (Cái bình vỡ); Musset năm 1924 với bài L'étoile du soir (Hỏi sao hôm), bài Lorsque le laboureur... (Nhà sét đánh cháy) đều đăng trong Nam Phong số 88 và sau cùng là Victor Hugo, năm 1925, với bài Hymne [Mort pour la patrie] (Vị quốc vong thân), Nam Phong số 91, và bài Oceano Nox (Những kẻ đắm tàu), Nam Phong số 93. 2. Dịch truyện và tiểu thuyết Pháp Về truyện và tiểu thuyết Pháp dịch ra tiếng Việt thì dịch giả đầu tiên cũng là Trương Minh Ký với cuốn Tê-lê-mạc phiêu lưu ký, Sài-gòn, 1887; nguyên bản Pháp văn là của Fenelon, Les aventures de Télémaque (1699). Sách này được Trương Minh Ký diễn ra bằng tiếng Việt theo thể thơ lục bát và khởi đăng ở Gia Ðịnh báo, kể từ 20.6.1885. Thứ đến phải kể đến Trần Chánh Chiếu (1867-1919) còn gọi là Gilbert Chiếu, người gốc quận Châu Thành, Rạch Giá. Ông theo học ở Collège d"Adran Sài Gòn, sau được bổ dụng làm giáo học rồi làm thông ngôn cho Tham biện Chủ tỉnh Rạch Giá. Theo Bùi Ðức Tịnh (1972: 46-47) thì trong hai năm 1906, 1907, Trần Chánh Chiếu làm chủ bút tờ Nông Cổ Mín Ðàm (số 1, 1901, Saigon) và nổi tiếng trong cuộc vận động Duy Tân nên được mệnh danh là ông Phủ Minh Tân. Ðồng thời Gilbert Chiếu cũng kiêm luôn chủ bút tờ Lục Tỉnh Tân Văn (số 1, 1907, Saigon) dưới tên Trần Nhựt Thăng, hiệu là Ðông Sơ. Trần Chánh Chiếu có cho in cuốn Tiền căn báo hậu, bản dịch cuốn tiểu thuyết của Alexandre Dumas, Le Comte de Monte-Cristo (1846) do nhà Imprimerie de l'Union, Saigon, ấn hành năm 1914. Sau bản dịch Tê-lê-mạc phiêu lưu ký, Sài-gòn, 1887, của Trương Minh Ký, đây là bản dịch tiểu thuyết Pháp thứ hai, cách nhau 27 năm. Về việc dịch tiểu thuyết Pháp, một người thứ ba đáng nói đến là Nguyễn Văn Vĩnh. Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1896, mới 14 tuổi đã tốt nghiệp trường Thông ngôn. Có thể nói Nguyễn Văn Vĩnh là người đã dịch tiểu thuyết Pháp ra tiếng Việt nhiều nhất. Một số tác phẩm Pháp do Nguyễn Văn Vĩnh dịch được liệt kê như sau (Trần Văn Giáp và đtg, 1972, II, 103) : - 1927 A. Dumas, Les trois mousquetaires (1844) (Truyện ba chàng ngự lâm pháo thủ) - 1927 Fenelon, Les aventures de Télémaque (1699) (Tê-lê-mặc phiêu lưu ký) - 1932 Abbé Prévost, Histoire du chevalier des Grieux et de Manon Lescault (1731) (Mai-nương Lệ-cốt) - 1928 V. Hugo, Les misérables (1862) (Những kẻ khốn nạn) - 1928 Ch. Perrault, Les contes (1697) (Truyện trẻ con) - 1928 H. De Balzac, La peau de chagrin (1831) (Truyện miếng da lừa) Ngoài ra nội trong năm 1928, Nguyễn Văn Vĩnh còn dịch ra bốn bản kịch nổi tiếng của soạn giả Pháp Molière ở thế kỷ 17. Ðó là Người bệnh tưởng (Le malade imaginaire), Người biển lận (L'avare), Giả đạo đức (Le misanthrope) và Trưởng giả học làm sang (Le bourgeois gentilhomme). 3. Ảnh hưởng thơ Pháp vào thơ mới Việt Nam Qua phần trình bày trên, ta nhận thấy rằng ở mặt chữ viết, chữ quốc ngữ được chính thức dùng để viết tiếng Việt là vào giữa thế kỷ 19 do nhà cầm quyền Pháp quyết định và chỉ áp dụng cho phần đất Pháp mới chiếm ở Sài Gòn-Lục Tỉnh. Dần dần với cuộc chinh phục quân sự Việt Nam của Pháp càng ngày càng mở rộng ra phía bắc và miền trung Việt Nam thì việc dùng chữ quốc ngữ cũng được lan ra theo với lực lượng chiếm đóng của Pháp. Có thể nói việc áp dụng chữ quốc ngữ xuất phát từ trong Nam đã làm một cuộc Bắc tiến, lần hồi lấn át chữ nôm và chữ Hán, và đã thắng lợi hoàn toàn với quyết định năm 1918 của Triều đình Huế bãi bỏ các cuộc thi kiểu xưa của các triều vua chúa Việt Nam mà trong đó chữ viết chính là chữ khối vuông (Hán và nôm). Chúng tôi xin nhấn mạnh rằng danh từ chữ quốc ngữ ở đây là để chỉ chữ viết, thứ chữ viết tiếng Việt dùng mẫu tự La Tinh ; chữ quốc ngữ đối lập với chữ nôm thuộc loại chữ khối vuông dùng "hình tượng" tuy cả hai cùng sử dụng để viết tiếng Việt. Không thể và không nên hiểu chữquốc ngữ như là tiếngquốc ngữ được La Mã hoá như qua từ ngữ "langue nationale romanisée" (xem Bùi-Xuân Bào, 1985, tr. 4). Hiểu như thế này sẽ dẫn độc giả, nhất là độc giả ngoại quốc, đến sự lẫn lộn tai hại là tiếng Việt đã bị La Mã hoá. Ðồng thời với hướng tiến từ Nam ra Bắc của chữ quốc ngữ thì việc du nhập văn chương Pháp qua những bản dịch các bài thơ hoặc truyện và tiểu thuyết cũng phát triển theo hướng Sài Gòn-Hà Nội. Như vậy trong lĩnh vực thi thơ, sự gặp gỡ với các thi sĩ Pháp đã đem tới cho tác gia Việt Nam nguồn cảm hứng mới và những hình thức biểu đạt mới. Sự chuyển tiếp bắt đầu từ cuối thập niên thứ hai của thế kỷ 20 được thể hiện qua sự phê bình, hoặc sự lảng quên luật thơ Ðường mà tiền nhân xem như một kiểu mẫu hoàn chỉnh của thi thơ. Trong lúc xã hội khám phá ra cá nhân, cái tôi, thì văn thơ hồ hởi thoát ra khỏi những niêm luật khắc khe đã định ra ở Trung Quốc từ mười thế kỷ trước về việc gieo vần, thuận thanh, đối ngẫu. Với sự lui dần vào hậu trường của Hán tự, các bài thơ làm theo Ðường luật càng ngày càng hiếm. Cảnh mờ dần của thơ Ðường kéo theo sự mai một của một nhãn quan nào đó về vũ trụ, của một thứ nhuệ cảm nào đó, của một quan niệm về nghệ thuật nào đó. Trong khi ấy, các môn đồ và những người khởi xướng thơ mới khai trương từ năm 1932 Ố với bài Tình già của Phan Khôi đăng trong Phụ Nữ tân văn, số 122, ngày 10.3.32 Ố hầu hết còn đang ở độ thanh xuân; một số trong bọn họ đã nổi tiếng lúc mới 16 tuổi, ngay ở bài thơ đầu và giành được cảm tình của thế hệ trẻ ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hoá Âu Tây. Rất đông các tác giả thơ mới đã hút nhụy từ thơ Pháp và không đọc được chữ Hán. Ðối với họ, sự thay thế chữ Hán hay chữ nôm bằng chữ quốc ngữ không phải chỉ là một sự thay đổi chữ viết, mà còn là một cuộc giả từ đối với một di sản trĩu nặng những ràng buộc nó bóp nghẹt cá nhân và làm cản trở cảm hứng của thi sĩ. Theo Xuân Diệu* , con người ở Việt Nam tính theo diện một cá nhân " trong những năm 30 (của thế kỷ 20) chối bỏ những tấm tã lót của xã hội phong kiến, đã ra đời lần đầu tiên. Có một lòng cảm thán, một sự phát minh say sưa ; đó là một thứ tình đầu... Chúng tôi muốn giải phóng cả nội dung lẫn hình thức của thơ. " Giải phóng nội dung ? Tức là làm ra những bài thơ cá biệt. " Không còn là cái vui, cái buồn, cái tuyệt vọng phi cá thể, đã lắng xuống, có thể nói là đã cô đọng lại, được tìm thấy trong thi thơ truyền thống, nhưng mà là một sự rung cảm thầm kín của một con người bằng xương bằng thịt, sự phơi bày ra những góc chốn u tối của một cá thể đau buồn hoặc sung sướng, thấy và cảm thấy sự vật và hoàn cảnh đã sống qua với một cảm giác rung động, dâng cao gần đến mức bệnh tật. " (Nguyễn Khắc Viện và ctv, 1975: 47). Ðể thực hiện công việc này thì người mẫu có đó, ở trong văn học Pháp sẵn sàng cho ta mô phỏng. Trên mặt từ ngữ, đôi khi là một sự vay mượn, thường là một sự cải tác, nhưng hay gặp hơn là một sự pha trộn thành công của cảm hứng và công sức, một thứ luyện đan có kết quả của sáng tạo và vay mượn. Như Xuân Diệu đã lấy một câu thơ của Edmond Haraucourt: Partir, c'est mourir un peu (Ði là chết đi một ít), và thay đổi khúc đầu : Yêu là chết ở trong lòng một ít. Một hôm, Alfred de Musset nói với George Sand: Dépêche-toi, George, notre amour est vieux (Nhanh lên em, George, mối tình chúng ta đã già rồi). Câu này làm nguồn cảm hứng cho bài Giục giã của Xuân Diệu : Mau với chứ, vội vàng lên với chứ Em, em ơi, tình non đã già rồi... Tình non đã già rồi thời đó là một kết hợp từ ngữ khá bạo. Theo lời thú nhận của Xuân Diệu, " Một số đông độc giả quen thuộc với thơ cổ điển, đã bất bình trước lời văn quá Âu hoá của Xuân Diệu, không còn đặc tính dân tộc, thi vị kín đáo của phương Ðông ; một số người xấu miệng còn cho rằng một số câu thơ của Xuân Diệu làm người ta phải đỏ mặt vì tính suồng sã của nó. " Những câu dịch sát chữ từ câu thơ Pháp : Hơn một loài hoa đã rụng cành Plus d"une espèce de fleurs a quitté les branches (X.D. "Ðây mùa thu tới",Thơ thơ, 1938) Nhưng ta cũng có thể tìm ra những cái đổi mới, hay cả những phát minh nằm ở mép giới hạn chấp thuận của ngữ nghĩa, tư duy Việt Nam thời bấy giờ : Cái bay không đợi cái trôi Từ tôi phút trước sang tôi phút này (X.D. "Ði thuyền", Thơ thơ, 1938) (Cái) bay, (cái) trôi, những động từ được biến thành danh từ ; đó chứng tỏ cách dùng từ rất bạo dạn của Xuân Diệu trong câu văn tiếng Việt kể từ những năm 30 của thế kỷ 20. Hơn nữa ta còn có (cái) tôi dùng để chỉ bản ngã, một khái niệm thời thượng lúc bấy giờ, trong trào lưu muốn nâng cao cá nhân, tách cá nhân ra khỏi cộng đồng. Nói về cú pháp của câu thơ thì các nhà thơ mới không ngại ngùng từ bỏ luật đối ngẫu của thơ truyền thống mà áp dụng phương thức bắc cầu kiểu thơ Pháp : Thức dậy nắng vàng ngang mái nhạt Buồn gieo theo bóng lá đong đưa -> Bên thềm. Ố Ai nấn lòng tôi rộng Cho trải mênh mông buồn xế trưa. Bắc cầu không những chỉ là phương tiện nối liền một yếu tố của một câu thơ với một câu kế tiếp, câu trước trên mặt ý nghĩa chưa được trọn vẹn, còn treo lơ lửng, mà đối với Xuân Diệu còn là một cách thức để " chuyển tải cái tràn đầy của vế thơ trước qua vế thơ sau theo tinh thần tự do lồng lộng trong thơ Pháp. ": Ố Một tối bầu trời đắm sắc mây, Cây tìm nghiêng xuống đám hoa gầy, Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ -> Nghiêng xuống làn rêu một tối đầy -> Những lời huyền bí toả lên trăng, Những ý bao la rủ xuống trần... (X.D. "Với bàn tay ấy", Thơ thơ, 1938) Trên đây là những nét phác hoạ về ảnh hưởng thơ Pháp vào thơ Việt, nhất là qua Xuân Diệu, một nhà thơ có tú tài tây. Hoài Thanh và Hoài Chân (1985: 115) đã có nhận xét: " Ngày một ngày hai cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá tây của Xuân-Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng-dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt-nam đã quyến dũ ta. "
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 10, 2010 4:48:47 GMT 9
Tranh luận về việc áp dụng chữ quốc ngữ
Nguyễn Phú Phong Sáng chế ra chữ viết để ghi lại một ngôn ngữ là một công việc thuộc lĩnh vực khoa học. Muốn thành công trong việc này, phải biết phân tích hệ thống ngữ âm, nhận diện những âm vị căn bản, lựa chọn những tín hiệu thích nghi và hiệu lợi, v.v. Bằng chứng là riêng chỉ để cải tiến chữ quố ngữ là một thứ chữ viết đã hình thành và áp dụng từ lâu mà đã phải triệu tập hết hội nghị này đến hội nghị khác, lấy ý kiến các nhà văn, các nhà ngôn ngữ học ( xem Viện Văn Học, 1961 ), rốt cuộc lại kết qủa thật là mỏng manh, chữ quốc ngữ hiện nay vẫn giữ nguyên một số điểm không hợp lý. Rõ ràng là sáng chế một thứ chữ viết đòi hỏi đến một tư duy khoa học. Nhưng khi đã có chữ viết rồi mà muốn đem ra áp dụng nó thì phải có một quyết định chính trị. Riêng trường hợp chữ quốc ngữ tuy được ra đời công khai từ giữa thế kỷ 17 - có thể lấy năm 1651 năm xuất bản cuốn Dictionarium annamiticum lusitanum, et latinum của A. de Rhodes làm khởi điểm dù rằng công cuộc sáng chế đã phải bắt đầu nhiều năm trước đó - nhưng phải chờ đến khi Pháp chiếm Sài Gòn - Lục Tỉnh thì mới có quyết định dùng chữ quốc ngữ một cách chính thức và rộng rãi. Quyết định dùng chữ quốc ngữ để ghi viết tiếng Việt thay thế chữ nôm được thể hiện qua việc phát hành tờ Gia Định báo tháng 4, 1865, tờ báo đầu tiên bằng tiếng Việt và cũng là đầu tiên dùng chữ viếát theo mẫu tự La-tinh. Và trớ trêu thay đây là tờ báo do chính quyền Pháp ở Nam Kỳ chủ trương, do một người Pháp tên là Ernest Potteaux làm chánh tổng tài ( chức vụ này tương đương với chức chủ nhiệm kiêm chủ bút ). Xin nhắc là vào năm 1865 Việt Nam đã mất ba tỉnh Gia Định, Biên Hòa và Định Tường về tay người Pháp và đô đốc de la Grandière lúc bấy giờ là thống soái Nam Kỳ ( gouveneur de Cochinchine ). Thời gian đầu, Gia Định báo phát hành mỗi tháng một số. Mục đích của tờ báo đã được ông G. Rose nêu rõ trong văn thư đề ngày 9.5.1865 gửi Bộ trưởng bộ Thuộc Địa Pháp ( xem Huỳnh Văn Tòng, 1973: 55 ): " Tờ báo này nhằm phổ biến trong giới dân bản xứ tất cả những tin tức đáng cho họ lưu ý và cho họ có một kiến thức về những vấn đề mới có liên quan đến văn hoá và những tiến bộ về ngành canh nông... " Tờ Courrier de Saigon trong số 7, ngày 5.4.1865 có loan tin số ra mắt của Gia Định báo như sau : " Trong tháng này sẽ có số thứ nhất một tờ báo in bằng tiến An-nam thông thường. Dưới một hình thức thu hẹp ấn bản sẽ gồm các tin tức ở thuộc địa, giá cả nhiều loại hàng và một vài ý niệm hữu ích cho người bản xứ. Tờ báo sẽ ra hàng tháng và sẽ phát không trong các trường học để học sinh khá trong các làng mạc có thể đọc được ..." * Nhưng trước khi Gia Định báo ra đời, trong chính sách khuyến khích và đẩy mạnh việc dùng chữ quốc ngữ, năm 1861, thống đốc Charner đã cho phát hành cuốn từ điển nhỏ francais-annamite et annamite-francais, 96+157 trang, do viên sĩ quan hải quân Gabriel Aubaret soạn. Đây là cuốn tự điển (hay đúng ra là một cuốn từ vựng) song ngữ hai chiều Pháp-Việt và Việt-Pháp đầu tiên. Như vậy, năm 1651 với cuốn từ điển tam ngữ Dictionarium của A. de Rhodes thì chữ quốc ngữ được hoàn chỉnh để dùng như một công cụ truyền đạo. Mục đích này tuy nhiên không thể làm giảm giá trị khoa học công trình của A. de Rhodes và những người đi trước ông. Còn cuốn từ điển của G. Aubaret đánh dấu thời kỳ bắt đầu dùng tiếng Việt do người Pháp chủ trương trong công việc hành chính ở vùng Pháp chiếm đóng. Việc dạy tiếng Việt cho các viên chức hành chính Pháp ở Nam Kỳ song song với việc dạy tiếng Pháp cho các thông ngôn người Việt Nam được xúc tiến. Mà dạy tiếng Việt cho người Pháp nên thông qua thứ chữ viết nào, nếu không phải là chữ quốc ngữ là một thứ chữ viết rất gần chữ Pháp, do chính các người Âu Châu đặt ra, thêm nữa rất tiện lợi, dễ học, dễ nhớ hơn nhiều so với chữ nôm ? Việc đem chữ quốc ngữ sử dụng như chữ viết " chính thức " cho tiếng Việt không phải không gây ra một cuộc tranh luận giữa các giới thẩm quyền Pháp ở Nam Kỳ. Sau đây xin lược bày một số ý kiến và quan điểm tiêu biểu. 1. Quan điểm của Luro Eliacin Luro là thanh tra bản xứ vụ ( inspecteur des affaires indigènes ) trong chính quyền Pháp mới đặt ở Nam Kỳ. Luro còn là tác giả một giáo trình về hành chính Việt Nam dùng cho Trường các viên chức tập sự Pháp ( Collège des stagiaires ). Giáo trình này gồm 45 bài, dày 562 trang, đề cập đến các vấn đề tổ chức chính quyền Việt Nam dưới nhà Nguyễn, vấn đề địa bộ, thuế má, giáo dục, v.v. ( Cours d'administration annamite, Saigon, 1905 ). Qua giáo trình này ta thấy Luro là người thông hiểu khá nhiều về Việt Nam. Bởi vậy ý kiến của Luro về chữ viết và ngôn ngữ ở Việt Nam đáng được lưu ý. Sau đây là những đoạn trích dịch từ bài 38 về giáo dục quốc dân ( instruction publique ) của Luro : " Trước hết, bắt đầu ta phải gạt qua một bên những tư duy theo kiểu Âu Châu của chúng ta. Chúng ta phải hiểu ngay rằng chúng ta đứng trước một hệ thống chữ viết tượng hình ( hiéroglyphique ) chứ không phải ngữ âm. Trí nhớ cần thiết không còn là trí nhớ thuộc về âm tiếng, trí nhớ về từ, trí nhớ về ngôn ngữ. Chúng ta phải tạo ra một trí nhớ mới; một trí nhớ của đôi mắt, của người họa sĩ [ để học chữ nôm hay chữ Hán, NPP ]... Tất cả cái khó khăn trong việc học [ chữ tượng hình ] nằm trong trí nhớ của hình vẽ, của hình thể, phải vẽ, vẽ không ngừng trong những năm học đầu, đó là bí quyết. Chúng ta [ chính quyền Pháp ] đã phá bỏ những cái ấy [ cách giáo dục truyền thống của Việt Nam với ông đốc học ở cấp tỉnh, giáo thụ cấp phủ, huấn đạo cấp huyện, với chữ Hán, với tứ thư, ngũ kinh,... NPP chú thích ]. Xuất phát từ cái ý thoạt nhìn có vẽ quyến rũ là không có gì giản đơn hơn việc thay thế hệ tín hiệu tượng hình bằng hệ tín hiệu ngữ âm, chúng ta đã truất bỏ [...] các trường tiểu học tự do kiểu cũ. Thay thế các vị giáo học của các trường theo kiểu truyền thống, chúng ta đưa vào các đứa trẻ được huấn luyện trong những năm đầu của cuộc chiếm đóng, chỉ mới biết đọc, biết viết tiếng thông thường ( langue vulgaire ), và biết bốn phép toán. Rồi chúng ta bắt mỗi làng phải gửi một số qui định học sinh đến trường [...] Hậu quả là các làng mộ học sinh cho các trường quốc ngữ của chúng ta, kiểu như họ mộ lính, bằng cách trả tiền cho gia đình của học sinh, và công cuộc giáo dục bắt buộc của chúng ta tính như một thứ thuế đánh thêm vào dân. Học đọc và viết theo ngữ âm là một trò chơi; khi người ta biết đọc biết viết, người ta không biết gì cả vì cũng thể như người ta ở trong tình trạng một con vẹt cầm bút. Biết đọc biết viết chữ Hán có nghĩa là đã bỏ ra vài năm thời niên thiếu vào những cuốn sách luân lý, lịch sử, học chúng và hiểu chúng. Như vậy thật sự có thể nói rằng [ học chữ Hán là ] đã thu nhận được giáo dục bởi vì các thầy giáo không xao lãng mặt này. Với hệ thống [ giáo dục ] của chúng ta [...] học sinh ra trường mà chẳng được dạy dỗ về luân lý, và không có một giáo dục nào cả. Nếu kết quả các trường học của chúng ta thâu lượm được là con số không thì phải dẹp hết chăng ? Chắc chắn là không. Nhưng không nên tạo lập thêm. Phải nâng cao đào tạo giáo viên, bắt họ phải biết tiếng quan thoại như họ hiểu biết tiếng thông thường ( vulgaire ); bắt họ phải dạy hai thứ tiếng đó, hai tiếng này còn cần thiết trong nhiều năm nữa ... Tôi không muốn sự dùng chữ tượng hình tiếp tục mãi. Nhưng tôi cho rằng muốn phá bỏ ( détruire ) chúng... thì phải hiểu biết chúng để vận động một cách cẩn thận. Tôi nhìn nhận rằng chúng không thể được thay thế hoàn toàn trước khi một ngôn ngữ bình dân hoàn hảo hơn được tạo ra, tôi biết rằng phương tiện duy nhất để chuyển từ tiếng Việt qua tiếng Pháp là việc sử dụng các con chữ la-tinh [...] Sau cùng tôi cho rằng sự thay thế một hệ chữ viết này bằng một hệ khác là không tùy thuộc vào một nghị định của chính phủ mà ý chí sẽ bị tan vỡ trước sức ỳ của dân chúng và trước sức mạnh của sự sử dụng trong thương mãi ... Thưa các Ngài, nguồn gốc của những sai lầm đó là người ta cứ tưởng là người ta có thể dạy trong vài năm cho một dân tộc quên đi được ngôn ngữ và phong tục của mình ... Bài này viết cuối năm 1873 và đánh dấu tình trạng giáo dục thời bấy giờ ". 2. Ý kiến của Etienne Aymonier Aymonier từng làm công sứ Pháp tại Bình Thuận, giám đốc trường thuộc địa, thành viên của Hội đồng Quản trị Hội Pháp-văn Liên-hiệp ( Alliance Francaise), biết tiếng Việt, tiếng Chàm và tiến Khmer. Lập trường của Aymonier là lấy tiếng Pháp thay thế tiếng Hán trên toàn cõi Việt Nam. Dưới đây là những điểm quan trọng trong hai bài viết của Aymonier đã phát hành trong những năm 1886 và 1890. Trong bài viết năm 1886, có những đoạn như sau : " Cuộc thống trị của Pháp không thể nào thực hiện được nếu không có một hình thức biểu hiện tiếng An-nam bằng những con chữ Âu Tây... Đứng một bên cái công cụ cần yếu mà không hoàn toàn đó, có cách sử dụng đơn giản nhưng giới hạn đó ( tức là tiếng Việt, NPP ghi chú ), chúng ta cần phải gieo rắc vào người dân An Nam rằng cái nhu cầu hiểu biết một ngôn ngữ bác học, một ngôn ngữ cấp cao; việc không thể chối cãi được là sự học hỏi tiếng Pháp phải chính thức thay thế sự học hỏi tiếng Trung Quốc ." Trong bài năm 1890, Aymonier đã phát biểu : " Các nhà truyền giáo, những kẻ phát minh ra chữ quốc ngữ, đã sử dụng thứ chữ viết này để truyền đạo của mình. Chuyện này rất đúng nhưng phải nói thêm rằng công cụ này rất đơn giản, thật tiện lợi cho những ai chỉ nhắm vào một sự dạy dỗ có giới hạn những tư tưởng bình dân, luân lý, hay đạo giáo. Công cụ này không cho tiếp cận những chủ đề cao xa, văn chương hay khoa học. Vào cái thế mà cuộc đọ sức đáng lẽ phải xảy ra giữa tiếng Pháp và tiếng Trung Quốc, một bên là biểu hiện cho ảnh hưởng đạo đức trong quá khứ, bên kia đại diện cho sự thống trị ở tương lai; ở cái thế ấy người ta lại đi tìm một kẻ thứ ba, tiến An Nam, mà người ta đem sức ra phát hiện, làm cho thành tựu bằng nhiều hy sinh to lớn. Có ai nêu ra chuyện phải truất bỏ tiếng An Nam một cách đột ngột hay là từ từ ? Mà việc này có ở trong tầm sức của chúng ta không ? [...] Thực ra, vấn đề được đặt ra là thay thế trong chương trình dạy chính thức, tiếng Trung Quốc, hiện nay được dạy đến tận các thôn quê, bằng tiếng Pháp, ngôn ngữ của những kẻ đi chinh phục với hậu quả được lường trước là sự sử dụng ngôn ngữ này sẽ toả lan càng ngày càng lớn. Như thế tiếng An Nam sẽ tồn tại trong tình trạng hiện nay, tình trạng hiện có là do sự học hỏi và sử dụng tiếng Trung Quốc trong hàng thế kỷ, tình trạng của một thổ ngữ. Chúng ta hé thấy là tiếng An-Nam sẽ hao mòn nhanh. Các thanh điệu đã mất đi cái sắc sảo của chúng ở Nam Kỳ thuộc Pháp. Về lâu dài trong một tương lai xa, ngôn ngữ này chắc sẽ tắt đi và để lại một số chữ trong tiếng Pháp tương lai của xứ này [...] ... Tôi xin đưa ra lời nguyện ước sau đây : 1. Chương trình dạy chính thức ở Nam Kỳ thuộc Pháp sẽ được đặt cơ sở trong một chừng mực tối đa có thể được, trên sự học hỏi tiếng Pháp. 2. Trên toàn cõi Đông Dương thuộc Pháp, chính quyền sẽ cho nghiên cứu các phương tiện để thúc đẩy tiếng Pháp (...) Chớ nên dạy tiếng Pháp cho hàng thân hào, cho giới lãnh đạo, mà phải nhắm vào những đứa trẻ của dân thường, con gái lẫn con trai. Tốt hơn là nhắm vào từng nhóm làng xã, chỗ này chỗ kia, trước tiên là ở những vùng phụ cận những trung tâm Âu Tây, hay trong những làng thiên chúa giáo, ở tất cả những nơi mà thiện chí được bộc lộ Đó là cách mà tôi gọi là cắm ngôn ngữ vào đất bằng cách cho nó bắt rễ." 3.Suy nghĩ của E. Roucoules. E. Roucoules từng là hiệu trưởng Trung học ( Collège ) Chasseloup-Laubat ở sài Gòn, phó chủ tịch của Hội nghiên cứu Đông Dương (Société des Etudes Indo- Chinoises ) và của Ủy ban địa phương Hội Pháp-văn Liên-hiệp. Trong một bài viết năm 1890, tựa là Le Francais, le quốc-ngữ et l'enseignement public en Indo - Chine.Réponse à M. Aymonier ( Tiếng Pháp, chữ quốc ngữ và giáo dục quần chúng ở Đông Dương. Trả lời ông Aymonier ), có những suy nghĩ và nhận xét như sau : " Chữ viết này ( tức chữ quốc ngữ ) trên mọi mặt là tối ưu, và chúng ta sẽ sai lầm nếu không dùng đến nó. Phải chăng là đã đạt đến một điểm lớn nếu có thể cho cả một dân tộc có khả năng trong vòng vài tuần lể học viết được một ngôn ngữ nói thật thông thường... cũng như một ngôn ngữ hằng ngày, [... ] Người An Nam viết và viết rất nhiều. Số lượng thư từ mà họ gởi cho nhau nhiều vô số và số tiền bưu điện thu vào gia tăng rất đều là một chứng cớ về cái nhu cầu trao đổi giữa họ với nhau. [...] Ta không thể cho rằng tiếng An Nam thông tục có khả năng dùng vào các lập luận trừu tượng hay khoa học. Nhưng việc dạy ở cấp [ cao ] đó chỉ có thể dành cho những phần tử tinh hoa trong dân chúng, và thực hiện bằng tiếng Pháp, bằng tiếng Pháp đúng đắn và chân chính [ ... ] Sự dùng chữ quốc ngữ như chúng tôi đề ra đem đến một cái lợi tức khắc là không làm gián đoạn với quá khứ và những thói quen. Chúng tôn đã thu tóm vai trò chữ quốc ngữ đúng vào cái giá trị của nó, vai trò của một khí cụ tiện lợi và cần thiết. Và đó là vai trò duy nhất mà nó có thể cán đáng được. ... Chúng ta đừng quên rằng vào năm 1874, đề đốc Dupré đã muốn thử truyền bá tiếng Pháp và làm tỏa rộng sự phổ biến chữ quốc ngữ, chữ viết này đã được chính các nhà truyền giáo tạo ra và bày dạy; nhưng lúc bấy giờ thì chính họ chống đối việc dạy này và gây ra nhiều xung đột và vì thế chính quyền cao cấp của Đề đốc - Toàn quyền phải can thiệp. ... Không thể trông cậy vào một sự giúp đỡ hữu hiệu từ những người [ ... ] mà tinh thần đoàn thể chống lại việc truyền bá thứ chữ viết mà chính họ tạo nên, khi họ nhận thấy rằng nếu vào tay kẻ khác, thứ chữ viết này có thể làm nảy sinh ra một sự cạnh tranh đối với ảnh hưởng của họ." 4. Nhận xét về ý kiến của các viên chức Pháp Trước hết ta nhận thấy ngay rằng các viên chức Pháp thời ấy xem thường tiếng Việt, cho ngôn ngữ này là vulgaire( có thể tạm dịch là thông tục, tầm thường, NPP), không đủ sức để diễn tả những tư tưởng trừu tượng, ý hẳn là muốn so sánh với tiếng Hán và tiếng Pháp, là những ngôn ngữ lớn, đầy đủ. Cái nhìn này đúng là cái nhìn của những kẻ đi chinh phục, nhưng cũng có cơ sở vì cho tới thời điểm này dưới thời các triều đại vua chúa Việt Nam, tiếng Trung Quốc vẫn được xem trọng, được dùng trong công việc hành chính,sao viết sử sách, nói tóm lại như một ngôn ngữ chính thức, một ngôn ngữ ngoại giao, một ngôn ngữ của hạng trí thức học giả. Người ta vẫn cho chữ Hán là chữ ( của đạo ) nho, chữ của thánh hiền. Mục đích chính trong chính sách ngôn ngữ của chính quyền Pháp khi mới mới chinh phục Nam Kỳ không phải là xúc tiến phát triển tiếng của người bản xứ, tức là tiếng Việt, mà là nhắm truyền bá giảng dạy tiếng Pháp cho người dân mới bị chinh phục với ý đồ là tiếng Pháp sẽ dần dần thay thế tiếng Hán trong lãnh vực văn thư hành chánh, ngoại giao, sử liệu, ở cấp trung đại học..., nghĩa là tiếng Pháp phải trở thành ngôn ngữ của giới hành chánh và trí thức Việt Nam. Để lấp bằng sự thiếu thốn về phương tiện ( cần ngân sách to lớn để tăng thêm số giáo viên Pháp ) E. Aymonier ( 1890 : 34 ) không ngần ngại đề nghị dạy một thứ tiếng Pháp giảm gọn, đơn giản hoá đến mức quái gở. " Tôi [ Aymonier ] đề nghị tạm bỏ đi trong tiếng Pháp những điều không theo quy tắc chính tả, những khó khăn văn phạm, số lớn những từ đồng nghĩa và những từ trừu tượng, hầu hết các phép chia động từ ( ngoại trừ ở một số ngôi thứ ba số ít, và các động từ không ngôi ), như vậy sẽ còn lại một tiếng nói giảm gọn, " mọi (nègre)" chúng ta có thể hiểu thế, có dáng điệu nói của tỉnh lẻ, nhịp nhàng, nhưng cũng đủ để diễn tả những tư tưởng cụ thể. Ví dụ như từ amour sẽ loại bỏ đi vì có thể dùng aimer thay thế; parler dùng thay cho parole ." Nhưng dù muốn dù không, chính quyền thuộc địa Pháp vẫn có nhu cầu cho các viên chức của mình học tiếng Việt để tiếp xúc với dân bản xứ, và thi hành công cuộc cai trị những lãnh thổ vừa mới chiếm. Đối với người Pháp, lẽ dĩ nhiên, việc học tiếng Việt sẽ dễ dàng qua chữ quốc ngữ hơn là chữ nôm. Xin nhắc là trong thời gian đầu chinh phục Việt Nam, chính quyền Pháp ở Nam Kỳ đều nằm trong tay các đô đốc hải quân. Trong tình hình này, ta không lấy làm lạ là cuốn từ điển song ngữ Pháp - Việt đầu tiên được xuất bản là do một quân nhân, đại úy hải quân Gabriel Aubaret làm tác giả. Đó là cuốn Vocabulaire Francais - Annamite et Annamite - Francais, Bangkok, 1861, dày 157 trang. 5. Sự đề kháng của chữ nôm Trước tình thế nhà cầm quyền Pháp tỏ vẻ ủng hộ chữ quốc ngữ, tức là chữ viết theo con chữ La Tinh của tiếng Việt, thì giới nhà nho, tức tầng lớp trí thức Việt Nam lúc bấy giờ nghĩ sao ? Tất nhiên là họ chống đối vì nhiều lẽ. Thứ nhất vì chữ quốc ngữ là sản phẩm của ngoại bang và cũng là công cụ truyền đạo thiên chúa. Ví dụ như Nguyễn Đình Chiểu không chịu chấp nhận một thứ chữ viết được đồng hoá với những kẻ xâm lược. Nét độc đáo của thời Nguyễn Đình chiểu là tuyệt đại đa số các tác giả yêu nước và chống Pháp đều sáng tác bằng chữ nôm (xem Nguyễn Đình Chiểu, 1973, tr.9) Chữ quốc ngữ còn có khi được gọi là " tây quốc ngữ tức là tiếng nói được viết ra bằng các con chữ Âu Châu " (P.G.V. ,1897, VI). Mà tên gọi này thì quá lộ liễu, nói lên rõ ràng nguồn gốc của thứ chữ viết này, khiến các nhà thức giả Việt Nam thời ấy khó có thể dùng nó để viết bài kêu gọi dân chúng chống ngoại xâm. Dùng chữ viết trở thành biểu tượng của một thái độ chính trị. *
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 10, 2010 4:52:34 GMT 9
Nghiên cứu tiếng Việt trước Pháp thuộc
Nguyễn Phú Phong Tình hình nghiên cứu tiếng Việt, cụ thể là làm từ điển Việt ngữ trước Pháp thuộc, tức là trước nửa sau thế kỷ 19, như thế nào khi chữ nôm còn là chữ viết chính thức của tiếng Việt ? Câu hỏi này đáng được quan tâm và giải đáp. Bắt đầu từ thế kỷ 15 với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, kế đến thế kỷ 16 với Bạch Vân Am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tiếng Việt đã chứng tỏ có nhiều khả năng diễn tả không những tình cảm mà còn tư tưởng nữa. Nhưng tiếng Việt được ghi dưới dạng chữ nôm chưa từng bao giờ là một đối tượng được nghiên cứu và tích trữ những tư liệu về chính nó. 1. Cuốn An Nam dịch ngữ Người ta thường nhắc tới tập An Nam dịch ngữ được biên soạn vào thế kỷ 15-16. Đây là tập từ vựng Hán-Việt đối chiếu do người Trung Quốc đời Minh soạn nhằm mục đích hổ trợ các sứ thần Trung Quốc trong việc thông hiểu và phiên dịch ngôn ngữ tiếng nước khác khi giao tiếp. Như vậy An Nam dịch ngữ chỉ là một tập trong bộ Hoa Di dịch ngữ gồm nhiều cuốn khác như Hán-Triều Tiên, Hán-Nhật Bản, Hán-Chiêm Thành, v.v. Hiện có sáu bản sao Hoa Di dịch ngữ khác nhau trong đó có quyển An Nam dịch ngữ (ANDN). ANDN có 716 mục từ được sắp theo 17 môn : Thiên văn, Địa lý, Thời lệnh, Hoa mộc, Điểu thú, Cung thất, Khí dụng, Nhân vật, Nhân sự, Thân thể, Y phục, Ẩm thực, Trân bảo, Văn sử, Thanh sắc, Số mục, Thông dụng. Nên nhớ là phải chờ đến thế kỷ 17, bắt đầu với cuốn Dictionarium của A. de Rhodes thì từ điển tiếng Việt mới sắp các mục từ theo thứ tự chữ cái A B C La Tinh. Số từ trong An Nam dịch ngữ so với Dictionarium của A. de Rhodes thì quả thật ít ỏi. Theo Vương Lộc (1995: 3-4), tiếng Việt trong ANDN là phương ngữ Bắc Bộ. ANDN có một số hạn chế : (1) Lắm khi chọn không đúng từ ngữ Việt để dịch từ Hán tương ứng ; (2) Đưa vào những từ ghép không có trong tiếng Việt do việc dịch từng thành phần những tổ hợp tiếng Hán, rồi ghép lại ; (3) Khiếm khuyết do dùng chữ Hán để phiên âm tiếng Việt nhưng hệ thống ngữ âm của hai ngôn ngữ lại không giống nhau. Có nhiều công trình nghiên cứu về ANDN, đáng lưu ý là của Vương Lộc, xuất bản 1995; và của Trần Kinh Hoà, năm 1953 và 1966-1968. 2. Từ điển của các nhà Truyền giáo Khi nói đến tình hình nghiên cứu tiếng Việt buổi ban đầu tức phải nói đến ba cuốn từ điển của Alexandre de Rhodes, của Pierre Pigneaux (còn gọi là Pigneaux de Béhaine), Evêque d'Adran (Giám mục Bá Đa Lộc), và của Jean Louis Taberd. Ba cuốn này đều ra đời trước khi nước Pháp đánh chiếm Việt Nam vào giữa thế kỷ 19, nghĩa là trước khi tiếng Pháp trở thành một ngôn ngữ lấn mạnh trong hành chánh, giáo dục ở Việt Nam. Ba cuốn trên đều dùng tiếng La Tinh để giải thích tiếng Việt. Mà ai ai cũng biết rằng tiếng La Tinh là ngôn ngữ dùng để truyền đạo Ki Tô. Phải đợi đến năm 1861, ta mới có cuốn từ điển song ngữ Việt-Pháp đầu tiên do viên sĩ quan hải quân Pháp Gabriel Aubaret soạn. Cuốn này mới thật là một công cụ nhắm vào việc dạy và/hay học tiếng Việt cho các viên chức người Pháp trong guồng máy cai trị những phần đất miền Nam Việt Nam vừa mới chiếm được. Dù với mục đích chính là truyền giáo các cuốn từ điển Việt-La Tinh kể trên đã đóng góp rất lớn vào lĩnh vực ngôn ngữ văn hoá của Việt Nam. 2.1. Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes Từ điển của A. de Rhodes có thể được xem như công trình tiên khởi trên nhiều mặt : 1. Đó là cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên. 2. Đó là công trình phát khởi cho công cuộc từ vựng học tiếng Việt. 3. Đó là công trình phản ánh khá trung thực hệ thống ngữ âm tiếng Việt ở thế kỷ 17. Vì đó cũng là công trình đã phân tích ngữ âm tiếng Việt đến những yếu tố ngữ âm nhỏ nhất là âm vị. Lần đầu tiên người ta thấy mỗi thanh điệu tiếng Việt được ghi bằng một dấu. Nên nhớ là chữ nôm không có dấu riêng cho thanh điệu và đơn vị ngữ âm nhỏ nhất mà chữ nôm sử dụng để xây dựng chữ viết là âm tiết chứ không phải âm vị. Trên mặt ngữ âm lịch sử, cuốn từ điển của de Rhodes còn lưu chứng tích những nhóm phụ âm đầu ml (mlẽ : lẽ), mnh (mnhẽ : nhẽ), tl (tlứng : trứng), bl (blai : trai) còn sinh động trong tiếng Việt ở thế kỷ 17 nhưng vào thế kỷ 18 đã bắt đầu biến mất nếu suy theo cuốn từ điển của Pierre Pigneaux. Sách Dictionarium của de Rhodes còn có phần phụ lục là Brevis Declaratio (Thông báo vắn tắt) gồm tám chương. Chương 1 Chữ và vần tiếng Việt ; chương 2 Thanh và dấu đặt ở nguyên âm ; hai chương này miêu tả giá trị ngữ âm của từng chữ cái dùng để ghi tiếng Việt và đề cập đến các dấu để ghi thanh điệu mà de Rhodes gọi là linh hồn của tiếng này. Nguồn gốc những chữ cái và những dấu ghi thanh điệu đã được de Rhodes đề cập đến, và được nhà bác học Haudricourt bình luận khá đầy đủ trong bài viết tựa là Origine des particularités de l'alphabet vietnamien đăng trong Tạp chí Dân Việt Nam, số 3, xuất bản tại Hà Nội năm 1949. Theo tôi, người Việt chưa có công trình nghiên cứu nào khai thác chi tiết phần này để phục nguyên hệ thống ngữ âm tiếng Việt ở thế kỷ 17. Một người Mỹ là Gregerson đã làm việc này và bài viết, nguyên là tiểu luận cao học Master of Arts, Đại học Hoa Thịnh Đốn, đã đăng trong Tạp Chí BESI, 1969, tựa là A study of Middle Vietnamese phonology [Nghiên cứu ngữ âm tiếng Việt thời trung đại]. Các chương khác là : chương 3 Danh từ ; chương 4 Đại từ ; chương 5 Những đại từ khác ;chương 6 Động từ ;chương 7 Những tiểu từ không biến cách ; chương cuối Mấy qui tắc cú pháp. Các chương này chứng tỏ de Rhodes là người tiên khởi đã phân biệt những phạm trù cú pháp-từ vựng cho tiếng Việt như đại từ, động từ, v.v. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra một số luật về cú pháp tiếng Việt. Như vậy A. de Rhodes không những là người góp phần rất lớn vào công cuộc sáng tạo ra chữ quốc ngữ, người tiên phong về từ vựng học Việt ngữ, mà cũng là người đặt nền tảng cho việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt. 2.2. Từ điển Việt-Latinh của Pierre Pigneaux Từ điển của Pierre Pigneaux - mà ta thường gọi là Pigneaux de Béhaine (tên Việt là Bi Nhu) - theo bài nhập đề của sách là ấn bản in lại nguyên xi (fac-similé) cuốn từ điển viết tay của Pierre Pingeaux, giám mục d'Adran (Bá Đa Lộc), giám mục địa phận Đàng Trong (Cochinchine), đánh dấu kỷ niệm thứ 260 năm sinh của giám mục. Ấn bản này do Hội Truyền giáo Nước ngoài Paris xuất bản năm 2001, có tên trên gáy sách là Vocabularium Annamitico-Latinum (tạm dịch là Từ vựng Việt-La) nhưng ở trang trong lại mang đề là Dictionarium Annamiticum-Latinum(Từ điển Việt-La) . Sinh năm 1741 tại Origny en Thiérache, Aisne Pháp, Pierre Pigneaux đã hoàn tất việc học của mình ở Paris và sau đó theo vào chủng viện Hội Truyền giáo Nước ngoài (Société des Missions Etrangères), rue du Bac, Paris. Nhà truyền giáo trẻ tuổi này rời Lorient Pháp năm 1765 và đến Hà Tiên năm 1767, được bổ nhiệm vào chủng viện ở đây và trở thành cha cả năm 1769. Nhưng những năm này vùng Hà Tiên Cambốt hay bị loạn lạc giặc giã nên các học sinh chủng viện khoảng 40 người được di tản qua Pondichéry Ấn Độ năm 1770 và lập thành chủng viện mới ở đó. Chính ở Pondichéry năm 1772, mới 31 tuổi, Pierre Pigneaux được phong làm Giám mục d'Adran, kế nghiệp giám mục phụ trách giáo phận Đàng Trong. Pierre Pigneaux gặp Nguyễn Ánh khoảng 1775, phò Nguyễn Ánh trong 24 năm trời và qua đời năm 1799, thọ 58 tuổi. Cuốn từ điển Việt-LaTinh làm trong thời gian Pigneaux ở Pondichéry, nghĩa là chỉ 5 năm sau khi Pigneaux tiếp xúc với Việt Nam. Như vậy Pigneaux phải có một sức làm việc, một óc tổ chức và một khiếu về ngôn ngữ có tầm cỡ. Pigneaux lại được một nhóm người phụ trợ đắc lực, như nhà nho Trần Văn Học(Việt Nam), Mạn Hoè (người Pháp, tên Manuel), Nguyễn Văn Chấn (người Pháp, tên Dayot), Nguyễn Văn Thắng (người Pháp, tên Vannier), Gia Đô Bi (gốc Tây Ban Nha), Ma Nộ Y (người Tây Ban Nha)... Cuốn sách được biên soạn trong tinh thần nào ? Bài nhập đề cuốn từ điển không phải của tác giả, mới thêm vào sau này, có nói đến chủ ý của Pierre Pigneaux là "Phải truyền đạo bằng cách tấn công vào cái tim và cái đầu của xã hội mà ta muốn xâm nhập. Muốn được như vậy phải gây ấn tượng với giới có học, trên mặt khoa học cũng như trên mặt văn hoá. Muốn kéo vào đạo Ki Tô những nhà nho hay những quan chức có thế quyền trong xã hội Đàng Trong, thì phải nhữ họ và chinh phục họ ở lĩnh vực mà họ giỏi. Tôn giáo phải được trình bày với họ trong một ngôn ngữ và phong cách toàn hảo. Cuốn sách được làm ra như là một công cụ cần thiết cho những nhà truyền giáo Âu Châu, cho các thầy giảng giáo lí Việt Nam, và nhắm vào việc in ấn sách tôn giáo có chất lượng. Cuốn sách không phải là một thứ tiêu khiển trí thức mà là một công cụ truyền đạo trong giới Hán-Việt. " Qua những hàng trên, dụng ý của cuốn từ điển thật quá rõ. Cuốn sách này đã theo chân Pigneaux đi khắp Nam Kỳ, Cambốt, Thái Lan trong thời gian Pigneaux phò Nguyễn Ánh bôn tẩu trước sức truy đuổi của Tây Sơn. Từ điển của Pigneaux theo ấn bản fac-similé là cuốn từ điển song ngữ Việt-La, khổ 25x35cm, dày 729 trang, nên khá nặng. Mỗi từ đơn hoặc kép tiếng Việt hay cụm từ tiếng Việt được ghi bằng chữ nôm hay chữ Hán và chữ quốc ngữ và được giải thích bằng tiếng La Tinh. Về bố cục, ngoài phần Nhập đề không phải của tác giả, sách gồm 2 phần : phần tra cứu và phần giải thích : - Phần tra cứu có 67 trang, gồm một bảng đối chiếu chữ nôm/chữ Hán và chữ quốc ngữ và một bảng hướng dẫn cách tra một số chữ nôm khó. - Phần giải thích các từ hoặc cụm từ tiếng Việt chiếm 662 trang. Phần này là chính. Các mục từ tiếng Việt được đưa vào từ điển sắp theo vần chữ cái La Tinh. ở từng mục từ, chữ nôm/chữ Hán viết bằng nét bút đậm và lớn đặt trước, tiếp đến là chữ quốc ngữ tương ứng với nét gầy, khổ khi lớn (các từ với chữ C đầu) khi nhỏ (các từ với chữ G đầu), kế đó là phần giải thích bằng tiếng La Tinh. Cách sắp đặt theo thứ tự chữ nôm trước, chữ quốc ngữ sau, với nét chữ và khổ chữ khác nhau cho ta cái cảm tưởng là tác giả trọng phần chữ nôm/chữ Hán hơn chữ quốc ngữ và ở mỗi mục từ, phần chính là chữ nôm chứ không phải chữ quốc ngữ. Một điều khác đáng chú ý là Pigneaux không phân biệt chữ nôm và chữ Hán. Phải đợi đến từ điển của Huình-Tịnh Paulus Của (1895) và kế đó của J. Bonet (1898-1900) mới phân biệt chữ nôm và chữ Hán. Qua sự phân biệt này ta mới thấy có sự đối lập rõ ràng giữa tiếng Việt và tiếng Hán. Xin lưu ý rằng năm 1867, G. Aubaret trong phần Nhập đề cuốn Grammaire annamite (Văn phạm tiếng Việt) (tr.I) vẫn nhận định là " Tiếng bình dân nói trong vương quốc An Nam là một phương ngữ của tiếng Trung Quốc (La langue vulgaire parlée dans le royaume d'Annam est un dialecte chinois). " Ở mỗi một mục từ, ngoài từ chính còn có một số cụm từ. Ví dụ ở mục từ dông, ngoài từ chính là dông còn có dông tố và mưa dông. Hai cụm từ này được ghi cả bằng chữ khối vuông và bằng chữ quốc ngữ. Có điều đáng chú ý là khi ghi bằng chữ nôm thì mưa dông chẳng hạn viết theo trật tự chữ Hán, từ mặt qua trái, nghĩa là nếu viết theo trật tự chữ quốc ngữ/tiếng Việt là mưa dông nhưng theo chữ nôm thì dông mưa. Đó một điểm mà chúng ta thường không chú ý: chữ nôm không những bắt chước chữ Hán theo hình thức thứ chữ khối vuông mà còn bắt chước chữ Hán viết theo trật tự từ ngược với trật tự từ của tiếng Việt. Chữ Hán/nôm đọc từ trên xuống dưới từ phải qua trái. Như vậy chứng tỏ Pigneaux tôn trọng thói quen các nhà nho đương thời đọc chữ Hán từ phải qua trái. Về nội dung, từ điển của Pigneaux có gần 6000 mục từ. Nếu tính cả từ kép và cụm từ thì vốn từ của sách có thể đến hơn bốn vạn, so với từ điển của de Rhodes thì tăng khá rõ. Giáo sư Trần Nghĩa, Viện Hán Nôm Hà Nội nhận xét là từ điển Pigneaux bao gồm từ phổ thông, phương ngữ miền Nam... Tôi có hai ý kiến về lời kiểm nghiệm này: - Về từ phổ thông thì tôi không thấy sách của Pigneaux có kê những tiếng tục như từ chỉ bộ phận sinh dục của đàn ông và đàn bà. Trái lại trong từ điển của de Rhodes thì có. Những từ này tuy tục nhưng đáng quan tâm với nhà từ vựng-dân tộc học vì chúng là thành phần vốn từ căn bản của một ngôn ngữ. Phải chăng vì từ điển nhắm vào giới trí thức Hán học nên bỏ qua một số từ thông tục ? - Về phương ngữ miền Nam thì tôi thấy nhận xét phía trên là đúng. Tôi tra cứu và thấy rằng trong từ điển của Pigneaux có những điều sau đây : a) Có từ lầm mà không có nhầm; có lanh mà không có nhanh ; có lời mà không có nhời ; nhưng có lem cũng có nhem. Có nhơn mà không có nhân ; có ơn mà không có ân; nhưng vừa có mần vừa có làm. b) Trên mặt ngữ âm thì từ điển Pierre Pigneaux không còn thấy những nhóm phụ âm đầu mnhầm, mlầm. Nhóm bl như trong blái cũng không còn. Nhóm tl chỉ còn có một từ tla. Vì thế chữ quốc ngữ trong sách của Pigneaux gần với chữ quốc ngữ hiện đại ta đang dùng hơn. c) Từ điển của Pigneaux là một nhân chứng quí giá của tiếng Việt thế kỷ 18, là một nguồn tư liệu quí về tiếng Đàng Trong. Nhất là từ điển cung cấp cho ta nhiều cứ liệu về chữ nôm thế kỷ 18. d) Một số từ trong sách được ghi lại dưới nhiều chữ nôm khác nhau. Ví như âm vô có hai cách viết ; vua viết bằng hai chữ khác nhau ; trời có thể viết bằng ba chữ nôm ; trốn cũng vậy ; âm ong có bốn cách viết . Dựa vào đây có thể phân biệt chữ nôm đủ nét với chữ nôm giảm nét, chữ nôm bác học với chữ nôm tục; chữ nôm chung cho cả nước với chữ nôm riêng cho Đàng Trong. Chữ quốc ngữ dưới dạng hiện tại chúng ta đang dùng có thể xem là xuất phát từ chữ quốc ngữ đã được hiệu chính trong từ điển của Pigneaux. e) Từ điển còn một số thiếu sót hoặc tồn nghi. Ví dụ như chữ nôm ít (đáng lẽ viết với chữ thiểu ) viết thành út (với chữ tiểu). Ví dụ như đàn chim 'bầy chim' viết sai là đàng chim. Ảnh hưởng của cách phát âm miền Nam nên đặt vào dưới mục từ đàng (đường) ? Chỗ sai đàng chim này cho đến từ điển của Taberd, 1838, vẫn tồn tại. Nhưng cái điểm không hoàn chỉnh nhất của từ điển vẫn là cách sắp đặt những từ đồng âm khác nghĩa. Lấy từ ai làm ví dụ : từ ai gốc Hán có ít nhất hai nghĩa : ai là bụi cát như trong trần ai ; ai là thương như trong ai oán. Vì vậy trong từ điển có hai mục từ ai viết với hai chữ khối vuông khác nhau. Dưới ai(trần ai), từ điển vào : ai nấy, mặc ai. Còn dưới ai (thương) thì vào ai ôi, Ai Lao, ai cha. Cách sắp đặt như thế này chỉ hợp lý nếu dựa theo chữ nôm/chữ Hán làm chuẩn. Nhưng nếu dựa theo tiếng Việt phân theo hạng nghĩa của từ đồng âm thì là bất hợp lý. Cách sắp đặt từ theo chữ nôm lắm khi cho ta bắt được một điều lý thú. Ví như cụm từ aiôi trên đây thì ít nhất phải có hai nghĩa. Ai ôi nghĩa là người nào đó ôi như trong : Ai ôi chớ vội khoe mình. Ai ôi nghĩa là thương ôi như trong câu: Ai ôi ! Hồng nhan bạc phận. 2.3. Cuốn Dictionarium Annamitico-Latinum của Taberd Việc cho in lại bằng fac similé từ điển của Pierre Pigneaux năm 2001 là việc làm bổ ích, nhất là cho giới nghiên cứu. Nhưng thực tế mà nói thì cuốn từ điển này đã được xuất bản dưới dạng sách in. Đúng vậy, khoảng 90 phần trăm sách này đã được J. L. Taberd sử dụng để hoàn thành công trình của mình lấy tên là Dictionarium Annamitico-Latinum(Từ điển Việt-Latinh) in năm 1838 tại Serampore, Ấn Ðộ. Cuốn từ điển Việt-LaTinh do Taberd, một giám mục người Pháp soạn thảo, trớ trêu thay lại được hổ trợ trong việc xuất bản bởi Asiatic Society of Bengal [Hội Á Châu tỉnh Bengal], Ấn Độ thuộc Anh. Như vậy 70 năm sau từ điển của Pierre Pigneaux, Taberd, giám mục Ðàng Trong kế nghiệp Pigneaux ở chức vị này, đã bồi bổ và công bố di sản văn hoá của người đi trước mình. Công trình của Taberd ngoài phần tra cứu từ vựng được trình bày giống như từ điển của Pigneaux, lại còn có 46 trang đề cập đến chữ cái, âm vần, thanh điệu, và ngữ pháp tiếng Việt. Lại có những trang lược bày niêm luật làm văn làm thơ viết bằng tiếng Việt. Qua đây ta biết được phần nào văn quốc ngữ thời bấy giờ. Trong mục Tractatus de variis particulis et pronominibus ... "Khái luận về những tiểu từ và đại từ..." (tr. xii-xxviii) và mục tiếp theo đề là Nomina numeralia "Cách đếm danh từ" (tr. xxviii- xxxviii), Taberd đã cắt nghĩa và chỉ cách sử dụng không dưới 230 từ hư (hoặc từ ngữ pháp theo cách gọi ngày nay). Hai mục này cộng với phụ lục Brevis declaratio của A. de Rhodes là một kho tàng cho những nhà nghiên cứu ngữ pháp lịch sử tiếng Việt khai thác. Tôi chỉ lấy một ví dụ về ngữ pháp-ngữ nghĩa của hai từ cái và con mà trong Taberd gọi là đại từ (pronomen) nhưng bây giờ chúng ta kêu là loại từ (classifier, classificateur). Chỉ từ Taberd trở đi, mới có nhận xét về sự đối lập hữu sinh/vô sinh áp dụng cho con/cái, một sự đối lập mà những tác giả văn phạm hoặc ngữ pháp tiếng Việt sau Taberd, dù là người Việt Nam hay người ngoại quốc đều kế thừa Taberd và cho nó có một giá trị văn phạm. Nhưng cách đọc của Taberd về đối lập con/cái tương đương với khu biệt hữu sinh/vô sinh (hoặc động/bất động) là dựa vào những phạm trù thuộc thế giới thực tại ngoài ngôn ngữ nên đã để sót không làm sáng tỏ được những đối lập như con cờ/cái cờ trong đó cờ đều thuộc vật vô sinh cả. Vì thế tôi đã đề nghị một cách đọc cặp loại từ con/cái tương đương với +động/-động theo ngữ nghĩa, có sức giải thích bao quát vì không bỏ qua một bên nhiều trường hợp được xem là ngoại lệ (xin đọc Nguyễn Phú Phong, 1995, tr.77-88; 2002, tr.59-71; 2004, tr.43-53). Ngoài ra còn có nhiều phần phụ lục như : bảng kê chữ Hán theo bộ thủ có chua cách đọc bằng chữ quốc ngữ, 18 trang ; bảng kê chữ nôm theo bộ thủ có chua cách đọc bằng chữ quốc ngữ, 111 trang ; bảng kê chữ Hán theo vần A B C có chua cách đọc quốc ngữ và phần giải thích bằng tiếng La Tinh, 106 trang. Việc đáng quan tâm nhất là từ điển Taberd có 39 trang kê tên thực vật Đàng Trong Hortus Floridus Cocincinae. 3. Thay lời kết Qua những hàng giới thiệu ba cuốn từ điển Việt-La ở trên, ta có thể nói mục đích chính của các công trình này là nhắm vào việc truyền đạo Thiên chúa, một tôn giáo đến từ Âu Châu. Nhưng có lẽ điểm khác giữa cuốn Dictionarium của A. de Rhodes một bên và hai cuốn từ điển của Pierre Pigneaux và Taberd bên kia, là đối tượng. Sách của A. de Rhodes nhắm vào ngôn ngữ Việt của đại chúng trong lúc Pierre Pigneaux và Taberd hướng về ngôn ngữ của giới trí thức nhà nho Việt Nam lúc bấy giờ. Vì thế trong sách của hai tác giả sau các mục từ đều có ghi chữ Hán hoặc chữ nôm bên cạnh chữ quốc ngữ. Hơn nữa, Pierre Pigneaux và J.L. Taberd đều là giám mục địa phận Đàng Trong nên dù muốn dù không đối tượng chính của hai tác giả này là giáo dân và do đó ngôn ngữ của Đàng Trong. Vì lý do này qua hai tác giả sau, nhất là qua cuốn từ điển của Pierre Pigneaux ta có thể nghiên cứu đến sự hình thành một phương ngữ Việt Đàng Trong từ Sông Gianh trở vào, trước khi phương ngữ lớn này chia ra thành những phương ngữ nhỏ khác như phương ngữ Nam Bộ ngày nay, phương ngữ miền Trung hạ, hay đúng hơn là phương ngữ vùng Bình Định cho đến ranh giới Nam Bộ ngày nay (xem L. Cadière, 1911, Le dialecte du Bas-Annam). Sau Taberd, công cuộc làm từ điển Việt-Latinh được J.S. Theurel, giám mục địa phận Tây Đàng Ngoài (Tunquini Occidentalis) tiếp nối với cuốn : - J.S. Theurel, 1877, Dictionarum Anamitico-Latinum, Ninh Phú, 566 tr. + Appendix 71 tr. Cuốn sách trên phản ánh phương ngữ miền Bắc nên có thể kết hợp khai thác với cuốn từ vị sau đây để tìm hiểu thêm về phương ngữ này : - Ravier (Cố Khánh) et Dronet (Cố Ân), 1903, Lexique Franco-Annamite. Tự vị Phalangsa-Annam, Ke-So, Imp. de la Mission. Ngoài dòng từ điển làm để sử dụng cho sự truyền bá Phúc âm, còn có từ điển in ra để phục vụ cho người Âu làm việc trong chính quyền Nam Kỳ, hay giao thiệp thương mãi. Cuốn từ điển hai chiều Pháp-Việt và Việt-Pháp đầu tiên phải kể ra là công trình của viên sĩ quan Hải quân Pháp, Gabriel Aubaret, được in ra do lệnh của Phó Đề đốc Charner, Tổng Tư lệnh các Lực lượng Hải quân Pháp ở Đông Dương : - Aubaret, G., 1861, Vocabulaire Français-Annamite et Annamite-Français, précédé d'un traité des particules annamites, Bangkok, Imprimerie de la Mission Catholique, XCV +96p + 157p. Thư mục De Rhodes, Alexandro, 1651, Dictionarivm Annamiticvm Lvsitanvm, et Latinvm, Romae, Sacrae Congregationis. Huình Tịnh Paulus Của, 1895-1896, Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Saigon, Imp. Rey, Curiol & Cie (Tome I, A-L, 1895; Tome II, M-X, 1896). Nguyễn Phú Phong, 2002, Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt. Loại từ và chỉ thị từ, Hà Nội, Nhà xb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 234 tr. Nguyễn Phú Phong, 2004, Tôi và con, cái, Hợp Lưu 77, tháng 6&7, 2004, 34-53, California, Hoa Kỳ. P.-G.V., 1897, Grammaire annamite à l'usage des Français de l'Annam et du Tonkin, Hanoi, F.-H. Schneider. Pigneaux (de Béhaine), Pierre, 1772?, Dictionarium Annamiticum-Latinum (manuscrit), Paris, Société des Missions Etrangères (édition en fax-similé, 2001). Taberd, Jean Louis, 1838, Dictionarium Annamitico-Latinum, Serampore. Vương Lộc, 1995, An Nam dịch ngữ, Hà Nội-Đà Nẵng, Nhà xb Đà Nẵng, 203 tr.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 16:32:09 GMT 9
Ngôn Ngữ Mạng: Gió lành hay Gió độc?
Trịnh Thanh Thủy Gần đây trong một bài báo của thư viện quốc gia Hoa Kỳ, một tác giả đã róng lên tiếng chuông cảnh tỉnh các bậc phụ huynh nên lưu ý đến sự nguy hiểm của việc dùng tiếng lóng trên mạng của các em học sinh. Sự kiện có những kẻ săn đuổi và lợi dụng tình dục lảng vảng trên mạng được "Trung tâm tìm kiếm trẻ em bị lợi dụng và mất tích-The National Center for Missing & Exploited Children" nhắc nhở đến thường xuyên. Theo một cuộc nghiên cứu mới đây của toà án Hoa Kỳ thì ở những phòng "chat room" trong năm em có một em bị gạ gẫm tình dục. Các kẻ gian có thể giả trang thành phái nam hay nữ, mang những nick khác nhau để lân la làm quen với các em. Sau đó họ có thể dẫn dụ các em vào những cái bẫy đã giương sẵn với mục đích tối hậu là lợi dụng và tấn công tình dục, tệ hơn nữa là bạo hành và sát nhân. Vấn đề đáng quan tâm là các phụ huynh vì bận sinh kế và trăm ngàn việc khác, ít lưu ý đến việc các em online hay lên mạng, chat với nhau hay chat với người lạ. Có nhiều phụ huynh than phiền rằng dù có kiểm soát các em thì khi các em chat bằng một thứ tiếng lóng online, họ không thể hiểu được hay muốn tìm hiểu cũng mất nhiều thì giờ nghiên cứu để biết rõ mà dĩ nhiên các em sẽ không dại gì "lạy ông tôi ở bụi này" mà chỉ cho cha mẹ cách giải mã thứ tiếng lóng này. Biết cách đọc tiếng lóng để tìm hiểu và kiểm soát sự an toàn trong việc giao du của con cái mình là một khí giới hữu ích mà các cha mẹ nên có và nên làm. Từ khi thế giới mở toang cánh cửa "mạng lưới toàn cầu" khắp nơi con người hân hoan chào đón những lợi ích của Internet mang lại. Ngoài truyền thông và những nối kết cảm thông giữa con người và con người thì Chat Room là nơi gặp gỡ và giao tế xã hội có tính nhân bản nhất. Phương tiện truyền thông gọi là Chit Chat này phát triển khắp nơi và du nhập vào Việt Nam như một luồng gió. Vấn đề chúng ta nên đặt câu hỏi là làn gió này là gió lành hay gió độc? Nếu bạn là một người lạ lần đầu bước vào một Chat Room, bạn có thể rất ngạc nhiên như bước vào một thế giới ảo riêng biệt với những ngôn từ rất đặc biệt, rất riêng. Tò mò hơn, nếu bạn vui chân ghé vào một trang Web hay một blog cá nhân của các Teen thế hệ 9X (thế hệ sinh vào thập niên 1990) hay 8X(thế hệ sinh ra trong khoảng 1980-1989), bạn còn thấy lạc lõng hơn vì không hiểu thứ ngôn ngữ mà các bạn trẻ đang trao đổi với nhau, có khi còn là những mật ngữ, toàn những dấu hiệu. Với sự tiến triển nhanh chóng của thế giới mạng, sau Chat Room là Instant Messengers (IM), rồi tới Blog và Text Messages, có một thứ ngôn ngữ ra đời đó là Ngôn Ngữ Chat, Ngôn Ngữ SMS, Chat Ngữ, Ngôn Ngữ @, Tiếng Lóng Online, hay Tiếng Lóng Trên Mạng. Chúng ta có thể tạm gọi chúng là Chat Ngữ cho gọn. Chúng bắt nguồn từ những tin nhắn hay các mẩu đối thoại, mục đích để tiết kiệm ký tự như một thể tốc ký. Các bạn trẻ dùng chúng riết rồi quen tay, lâu dần biến thành một thứ ngôn ngữ thường nhật của cư dân mạng. Chat Ngữ ban đầu chỉ là cách biến đổi những chữ cái học theo các web nước ngoài. Như: like=lyk, don't know=dunno, love=luv, hate=h8. Hoặc số 4 là cách viết tắt cho chữ for, four từ đó suy ra các chữ khác 4ever tức forever (mãi mãi). Cũng là từ forever nhưng cũng có thể viết for3v3r bởi 3 viết tắt cho chữ e. Sau những chữ cái được thay thế bằng những chữ cái khác để dạng chữ biến đi như Chữ I thay bằng J. Chữ A trông hơi giống số 4. Chữ "không" thay bằng chữ "hok", chữ "rồi" thay bằng "oỳ", giờ thay bằng "h`" nhìn rất lạ lẫm. Một em đã viết:phamtungvt (15 tuổi, địa chỉ: l0^j" m0n` dj~ vAng~...) : "công nhận nà bây h` ngôn ngữ kiểu naj` nhiu` ác. Nhưng vjk nhìu wen oy` chẳng bjk làm sa0" (Công nhận là bây giờ ngôn ngữ kiểu này nhiều ác, nhưng viết nhiều quen rồi chẳng biết làm sao). Hoặc một em với nick dembu0n.nh0em với câu thơ tình như sau: 4nh o? da^y giu*a~ d0'ng -do*j' la.c l0ng~... ng0n'g ch0*' aj -da~ ba0 la^n' fu. ba.c... (Anh ở đây giữa dòng đời lạc lõng, ngóng chờ ai đã bao lần phụ bạc....) Để đọc và hiểu được ngôn ngữ của thế hệ @, hầu hết những người không quen phải vất vả lắm, có khi phải vận dụng toàn bộ khối óc để tưởng tượng, suy ngẫm, phân tích mới hiểu và cảm thông được những gì của thế hệ đang trao đổi cho nhau. Theo thời gian, Chat Ngữ trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Đây là một loại biến thể "gần âm, cùng nghĩa". Biết = bít, viết = vít, c = k (có = kó), b =p (bé = pé), trời ơi = chài oai = cha`j oj, buồn = bùn = pùn, vui = zui... Chúng ta có thể rất lúng túng với những câu chào hỏi thế này trong blog của một bạn trẻ: - Lam` wen na...! Chuk' pan buoi chiu` vui ve?, Pan. ne0` wan tam^ den^' ch0. n0j^~ Caj' Rag (Can^` Th0) thj` thu~ d0x. & g0p' y' kjen^' va0` paj` vjet^' 0f mjh` jum` nha!!!!!!! (Làm quen nha! Chúc bạn buổi chiều vui vẻ. Bạn nào quan tâm đến chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ thì thử đọc và góp ý kiến vào bài viết của mình dùm nha) - Choc' nua~ fai? xuong' nau' kom...ho`...lau lam' rui` hok nau'...sao ma` minh` lai luoi` nau' kom thia' hok biet'...hay la` hok fai? kon gai' nhay?" (Chốc nữa phải xuống nấu cơm, lâu lắm rồi không nấu, sao mà mình lại lười nấu cơm thế không biết, hay không phải là con gái nhỉ). Một số nguyên âm bị các Chat Thủ làm méo mó dị dạng, khiến các câu chữ đọc lên nghe như tiếng nhõng nhẽo, ngọng nghịu của mấy em bé hay lắc đầu nguầy ngậy kiểu: "hỏng thèm đâu: hỏng xèm âu" . Tỷ như: "a" thành "e"; "ê", "êu" thành "iu"; "ô" thành "u"; "ê" thành "i"; "ôi" thành "oai", "ui"; "o" thành "oa". Bạn có thể tìm ra một đoạn văn như thế này trong một forum. -"Thông béo thông béo, tui xin kiu gọi các thành viên hãy tích cực hưởng ứng việc đội mũ bẻo hỉm khi đi ra đường nghen. Vì seo à? Để bẻo đẻm en tòn dzì cái đầu của mình là quan trọng nhứt mờ. Hơn nữa, bi giờ cũng có nhìu kỉu địp lém đóa. Nhà tui vừa mở tịm bán mũ bẻo hỉm, ai có théc méc gì thì gọi cho tui ở số đt: 090xxxxx. Mong pà kon đìu ủng hộ. Kakaka...". ("Thông báo thông báo, tui xin kêu gọi bà con hãy tích cực hưởng ứng việc đội mũ bảo hiểm khi đi ra đường nghen. Vì sao à? Để bảo đảm an toàn vì cái đầu của mình là quan trọng nhất mà. Hơn nữa, bây giờ cũng có nhiều kiểu đẹp lắm đó. Nhà tui vừa mở tiệm bán mũ bảo hiểm, ai có thắc mắc gì thì gọi cho tui ở số: 090xxxx. Mong bà con đều ủng hộ. Kakaka...".) Thả ngựa, xem hoa, lang thang vào một blog ta có thể tìm ra một hay những chữ, những câu, những đoạn viết lộn xộn pha tiếng anh nguyên thủy hoặc phiên âm như: -À, nài nài thì dza là dzo mấy đuối, cùi... khoai lang chứ hổng phải entry của anh làm freeze laptop đúng chưa?.... Noob =)., em chả bao h dùng IE nhá, tại ko có gì, sặc, bực cái entry này nha, cứ mỗi lần vào, là nó lại active cái mớ java Runtime T.T...... ... Báo anh bít sn em, rồi ông anh lại bắt tưng bừng, có gì thứ 7 or CN em sẽ call anh... ......Dạo này hư quá nhá, bao lô, đề đóm nữa he he, kon lạy kụ...... lâu lâu kụ vào blog con làm 1 câu hoành tráng quá ^^ dạo này cái dự án hard working,.... lâu roài hok lên diễn đàn, bà nói boy nèo bà cũng o thích mà, cái này mà enhance màu lên một chút thì màu ngọt lắm đây..... ới giá < 3T, có cảm ứng thì chỉ có Windows Mobile. Em có chịu dùng hàng 2nd không.... Ngôn ngữ mạng còn có hàng loạt những kiểu chơi chữ hay tiếng lóng thời đại dùng lâu nay đã trở thành quen thuộc như : xịn, chảnh, chán như con dán, xinh như tinh tinh , tinh vi sờ ti con gà ri, già khốt ta bít , hiểu chết liền, biết chết liền, hơi bị đẹp, hơi bị ngon, hơi bị hay, chập cheng, bụp, đi mò tôm, đi sô, tới bến, bể hũ mắm, bán cái, chồn lùi, trùm sò= kẹo kéo, to be keo (cu bị teo), xả láng=tận tình, thầy chạy=tột cùng hay hết ý, banh-ta-lông=nát tan, mát trời ông địa=tuyệt vời,bập=lấy,cực kỳ=rất đẹp, phơ=phê, củ chuối=đểu, nhão=õng ẹo, lác=ba xạo, cưa(tán gái), bú(uống rượu).... Cao siêu hơn, gần đây thế hệ 9X đã cải tiến và cho ra đời một loại ngôn ngữ @ version 2 hay còn gọi là...Mật Mã @..... ***]`])iF_µ`/vµº][" ][º]".......!!!! (º" ][†|µ][(? ])]F_µ` †† |Cl† §µ ]<º ††|F_? 3]F_†" †Pvµº(" ])(. 3º]~ (Cl]" v]F_][~ (Cl][† |? ]<†|] ])º" ])]F_][~ PvCl v/Cl" †|ºCl][` †|Clº? , v/Cl" ]) F_]º ]<†|]F_][" PvF_ ]_Cl]v[` †µº][(? §F_~ (º" 1 ]v[º]" †]][†| ])Cl]` ]_Clµ.†|Cl] ][Cl]v[ (µ][(~ ]_Cl` 1 ]<†|ºCl][(~ ††|º]` (]Cl][ v/Cl" ])Cl]`.PvF_ ††|Cl† §µ ]v[Cl][~ ][(µ¥][ /º]" ])] F_µ` ][Cl¥`.][†|µ][( /vº] ††|µ" (†|Cl][(~ 3Clº (]º` "3Cl][(` ]º†|Cl][(?" (Cl~.][†|µ][(~ ]<†|º" ]<†|Cl][,(µ][(`(µ(,] [†|~ 3] v/Cl][,])Clµ ]<†|º~,/vCl†" ][]F_/v` †]][ ,][†|~ ]_º †ºCl][ , /vCl†" /vCl†" ***` (µº]" (µ][(` ]_Cl` ][†|~ (]º† ] [µº(" /vCl†" ]_Cl` ][†|µ][(~ ])]F_µ` ]_µº][ (Cl][" ]_]F_][` vº]" /vº]~ (º][ ][(µº]`.(º" Cl] ])º" ][º]" PvCl][(` "(†|]? ] <†|] ][Clº` 3Cl][ ])Clµ ]<†|º? ])F_][" 99% ††|]` ]_µ(" ])º" 3Cl][ §F_~ ])º][" ][†|Cl][ ])( 1% ][]F_/v` †|Cl][†| ]º†|µ(" ***" /vº]" †|]F_µ? ])( (]Cl" †Pv] ])](†|" ††|µ( ºF (µº( §º][(".(† |Cl][(? ]_F_~ (§ ††|Cl† §µ ][(†|]F_† ][(Cl~ ])F_]["][†|µ vCl¥? ...Vài điều muốn nói.. Có những điều ko thể bít trước được, bởi cái viễn cảnh khi đó diễn ra quá hoàn hảo, quá đẹp khiến lầm tưởng sẽ có 1 mối tình dài lâu, 2 năm cũng là 1 khoảng thời gian quá dài, thật sự mãn nguyện với điều này. Nhưng mọi thứ chẳng bao giờ "bằng phẳng" cả. Những khó khăn cùng cực, những bi quan, đau khổ, mất niềm tin, những lo toan, mất mát... Cuối cùng là những giọt nước mắt, là những điều luôn gắn liền với mỗi con người. Có ai đó nói rằng: "Chỉ khi nào bạn đau khổ đến 99% thì lúc đó bạn sẽ đón nhận được 1% niềm hạnh phúc... mới hiểu được giá trị đích thực của cuộc sống. Chẳng lẽ thật sự nghiệt ngã đến như vậy? Khi nhìn thấy thứ ngôn ngữ bí hiểm như loại Mật mã @ này thì ai cũng lắc đầu chịu thua luôn, theo ngôn ngữ mạng có thể nói là "hiểu chết liền" hay "botay.com". Có lẽ khi phát minh ra những ký hiệu này, các em muốn chứng tỏ mình là một cao thủ của thế kỷ tiên tiến với trình độ kỹ thuật điện toán cao. Nhất là các em cần một thế giới riêng và không muốn ai hiểu được nội dung các cuộc nói chuyện qua lại của mình. Nhưng sự bí hiểm hay gợi óc tò mò của người khác và dễ gây nghi ngờ. Người lớn bắt đầu đặt câu hỏi, có gì mờ ám đằng sau những mật mã ấy không? Cơ quan FBI của Mỹ cũng có tuyển một ít em rành về ngôn ngữ chat text để theo dõi tội phạm nhắn tin nhau. Bởi có những tin nhắn (message) được viết theo ngôn ngữ chat text của lớp trẻ nên người lớn không đọc được. Trong các thư viện của Hoa Kỳ, những người quản thủ thư viện cũng lưu ý các cha mẹ về vấn đề Ngôn Ngữ Mạng khó hiểu này. Một số các Chat Room có bỏ phần Tự điển Chat Ngữ tiếng Anh ngay khi bạn vào phòng Chat để trò chuyện, nó giúp cho những người mới vào không bỡ ngỡ với thế giới mới toàn lối viết tốc ký bí hiểm. Ngay trên mạng chúng ta có thể tìm ra những phần mềm cho không (free software), hoặc được bán để giúp các bậc phụ huynh giải mã (decoder) các ngôn ngữ mạng hòng theo sát hành động các con em mình. Đây là vài mạng nối (link) tiêu biểu cho tiếng Anh và tiếng Việt: Teen Chat and Acronyms Decoder Software www.teenchatdecoder.com/Free Download Teen Chat Decoder www.download3000.com/download_26950.html Chương trình v2V của tác giả Dương Đăng Trúc Khuyên: sẽ giúp bạn giải mã loại tiếng Việt Online này sang tiếng Việt bình thường. Và e-CHIP đã cho tải miễn phí v2V tại địa chỉ: echip.com.vn/echiproot/html/softv.html Một vài diễn đàn trong nước như VietBao.vn, Zing, Diễn đàn WTT(Web Trẻ Thơ) đã mở ra những cuộc tranh luận chung quanh đề tài Chat Ngữ. Số người đưa ý kiến phản hồi đã gây nên những tranh cãi sôi nổi đáng chú ý. Có những ý kiến chống đối, bênh vực, và trung hoà, nhưng tất cả đã nêu ra được những quan tâm chính trong lãnh vực làm đẹp và trong sáng tiếng Việt. Có những bạn chỉ trích gay gắt và tỏ ra khó chịu với lối viết tắt, quái gở, méo mó, dị dạng, lười biếng, lủng củng, khó hiểu này. Họ bảo rằng lối viết này bị lạm dụng thái quá, đã làm mất đi vẻ trong sáng của tiếng Việt. Chúng còn bị sai ngữ phạm, gây phản cảm, bị gọi là thùng to rỗng ruột, tha hoá, một căn bệnh của ngôn ngữ hoặc ngôn ngữ chợ búa hay hội chứng "ac ac, hic hic, he he".... Thậm chí một người còn gọi đây là thứ ngôn ngữ "ngoài hành tinh" mà ông cha ta không tài nào hiểu nổi và việc chúng ta sử dụng thứ "tiếng Việt ngoại lai" này là hành động chúng ta đang hùa nhau đẩy dân tộc chúng ta từng chút một xuống hố sâu thoái trào về đạo đức và sự tiến bộ. Mỉa mai hơn, có bạn còn gọi đó là "Một thứ tiếng Việt mới mẻ, ngắn gọn và vô cùng tiết kiệm nhiên liệu" !!!! Những bạn trẻ bênh vực thì cho rằng việc dùng từ ngữ khác biệt hoặc việc làm cho méo đi, có chức năng riêng của nó. Việc sử dụng những từ tiếng lóng trong giao tiếp của 8X, 9X thời nay đa phần là để cho vui, để bộc lộ cảm xúc dễ dàng hơn. Có thể lấy ví dụ: "Không đâu mà" thành "hem đâu mừ"; bạn có thấy cảm xúc nũng nịu qua câu tiếng lóng này không? Chúng còn thể hiện cá tính và nhấn mạnh sự hiện diện của thế hệ người sử dụng nó nữa. Các bạn ấy còn cảm thấy được hoà nhập vào sự văn minh toàn cầu, sự tự do về sở thích, suy nghĩ cũng như đam mê riêng trong thế giới của mình. Họ nghĩ chưa chắc những thứ dị dạng mà họ đang dùng ấy là một món hàng nhảm nhí, vô bổ vì nếu nó vô dụng và có hại thì ai mà thèm dùng làm gì. Một số khác nghĩ, chúng ta mới bắt đầu hội nhập thế giới, thì nó là một cái mốt hiện đại, bạn không dùng, bạn bị lạc hậu hay không phù hợp với cách "Sống bằng hơi thở @, hành động bằng suy nghĩ @". Bạn sẽ bị bạn bè chê là" hai lúa" không hợp thời và trở thành một món hàng "quí hiếm" hoặc thuộc dạng "đồ cổ" !!! Sự hội nhập với văn hoá toàn cầu đòi hỏi một tốc độ nhanh và nhạy, sự thay đổi của văn hoá truyền thống là điều hẳn nhiên không dừng lại được vì thế chúng ta cần cập nhập và tìm cách thay đổi cho phù hợp chứ không cứ có mỗi "Dạ cổ hoài lang" mà bắt mọi thế hệ phải nghe hoài. Một bạn có đồng quan điểm và cho là ngày xưa đi học, bạn ấy và các bạn bè đều viết tắt cả, có như vậy mới theo kịp bài vở trên lớp, có khi mượn tập bạn về nhà dịch mãi mới ra, nhiều lúc trong bài thi và bài kiểm tra cũng có những lỗi viết tắt. Có bạn tích cực hơn và khen cách viết như thế rất hay và độc đáo, vì sau những bài học quá chuẩn và căng thẳng, các bạn trẻ cần có phút sống thoải mái trò chuyện theo quy luật thế giới riêng của mình nhưng bạn ấy nhấn mạnh chỉ dùng trong thế giới mạng thôi nên cũng không ảnh hưởng gì lắm. Phần lớn các bạn trẻ đều hiểu rằng việc lạm dụng là điều không tốt nhưng lại thừa nhận việc sử dụng tiếng lóng đã thành thói quen nên khó bỏ. Ngôn ngữ đi liền với văn hoá. Khi nào văn hoá teen vẫn còn tồn tại, thì ngôn ngữ @ vẫn được duy trì. Nó có thể biển đổi đôi chút cho phù hợp với thời điểm mà thôi. Sự phát triển của ngôn ngữ mạng là một sự kiện hiển nhiên không thể ngăn cản hay cấm đoán được. Có người tỏ ra rất khó chịu khi phải tiếp xúc với lối viết này và đề nghị các diễn đàn ra điều lệ cấm nhưng các em trả lời rằng nếu bây giờ "cấm hoàn toàn ngôn ngữ teen, đảm bảo sẽ có rất nhiều em cảm thấy bị ức chế, vì chẳng biết truyền đạt ý kiến thế nào cho hợp ý." Với một ý kiến ôn hoà hơn, chúng ta có thể thấy một bạn không đặt vấn đề "nên hay không nên sử dụng?", mà là "sử dụng lúc nào và như thế nào?", tức là "nên sử dụng tùy nơi và tùy lúc" . Vì các em đã bị thói quen dẫn dắt, thiếu ý thức đến độ dùng Ngôn Ngữ Mạng trong các bài luận văn hay bài thi của mình mà không hay. Nếu để ý ta còn tìm thấy rất nhiều tiếng lóng được các em dùng như thứ tiếng Việt hàng ngày ở đời thường, trong nhà, trường học và các nơi công cộng. Các bản tin được các phóng viên ghi lại cũng nghe lổn nhổn những tiếng lóng. Trong những bộ phim truyền hình có đề tài về giới trẻ chúng ta thấy các diễn viên đối thoại chan chát những tiếng lóng. Ở Hoa Kỳ và thế giới toàn cầu đã nổ ra các cuộc tranh luận tương tự. Một nữ sinh khi điền đơn tìm việc làm, vì thói quen em đã dùng ngôn ngữ mạng mà không biết. Vấn đề ngày càng nan giải, khi các giáo sư ở Mỹ có chính sách khuyến khích các em dùng blog để viết bút ký hay tập viết văn cho Anh ngữ các em được khá hơn. Nhưng các em lại vướng mắc vào lối viết tắt làm hư ngữ phạm, từ vựng và cả phép chấm câu nữa. Thêm nữa, việc các hãng điện thoại vì cạnh tranh thương trường đã cho khách hàng dùng một số lượng text message miễn phí hay chỉ tính một lệ phí rất nhỏ làm khách hàng dùng text message thường xuyên hơn. Text message và Chat room biến thành một phương tiện truyền thông rẻ tiền khiến lối viết tốc ký càng được tận dụng. Hậu quả là các em trở nên lười hơn khi viết theo lối viết truyền thống. Nguy hại hơn nó còn có thể ảnh hưởng đến việc đau cổ và bàn tay trong tương lai khi nói bằng tay quá nhiều thay vì nói chuyện mặt đối mặt hay dùng điện thoại. Khi vấn đề được nêu ra các em đều nhìn nhận thói quen dùng ngôn ngữ mạng đã làm hư tính truyền thống của ngôn ngữ nhưng nếu được các giáo sư hay phụ huynh nhắc nhở hay nghiêm khắc chỉ bảo thì các em sẽ ý thức được sự sai lầm của mình mà sửa đổi. Như thế chúng ta rút ra được một quan điểm trung hòa là không nên đả phá, chỉ trích hay lên án gay gắt, cấm đoán các em trong việc dùng tiếng lóng hay ngôn ngữ mạng. Vì tiếng lóng hay Chat Ngữ chỉ có tính lâm thời và bất ổn định. Nó chỉ nên dùng trong một phạm vi hạn chế mà thôi. Nếu các em lúc nào cũng ý thức được việc sử dụng đúng lúc, đúng nơi thì việc sử dụng nó không còn là vấn đề với các em nữa. Vai trò của các thầy cô và phụ huynh trong việc này là một vai trò quan trọng. Các vị nên để ý đến các em nhều hơn khi thấy các em trò chuyện trên mạng hay tin nhắn và nhắc nhở các em về việc không nên dùng Ngôn Ngữ Mạng trong các bài tập, bài viết, bài thi ở trường. Chúng ta không nên phủ nhận sự có mặt của Chat Ngữ như một sự tiến hoá của ngôn ngữ và chúng ta nên đặt lại vấn đề làm sao hội nhập vào đó mà không bị những làn gió độc làm hư, làm tàn hoại văn hoá truyền thống. Có lẽ chúng ta nên trách mình trước khi đổ lỗi cho Ngôn Ngữ Mạng hay các em vì trách nhiệm giáo dục là trách nhiệm của chúng ta, trách nhiệm của gia đình và học đường. Trịnh Thanh Thủy Tài Liệu Tham Khảo -Are You Hip to Chat-Room Lingo? By LaurenBarack findarticles.com/p/articles/mi_hb5934/is_200501/ai_n23916343/?tag=content-inner;col1 -Internet slang www.alsindependence.com/Internet_Slang.htm -Chat Slang and Acronyms used in chat rooms, IM, and email www.web-friend.com/help/lingo/chatslang.html -Chat Room Slang, Chat Slang Dictionary, Chat Acronyms www.pulpchat.com/faq/faq215.php -Teen Chat Decoder 5.0.00 teen-chat-decoder.parental-control-products-llc.qarchive.org/ - BONUS: BẢNG "MẬT Mà @" A = Cl B = 3 hoặc ß (ß = Alt+225) C = ( D = ]) E = F_ G = ( ( = Alt + 170) H = †| († = Alt+0134) I = ] K = ]< L = ]_ M = /v N = ][ O = º (º = Alt + 248 = Alt+0186) P = ]º QU = v/ R = Pv S = § T = † († = Alt+0134) U = µ (µ = Alt+230) V = v W = v/ X = >< Y = ¥ (¥ = Alt+157)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 16:35:14 GMT 9
Thơ Mới Những người theo tân học hay những du học sinh thuở trước như Nguyễn Trọng Quản, Diệp Văn Cương... đều có học hay đọc thơ của những nhà thơ Pháp, thi pháp của họ cũng có vần nhưng số chữ trong câu không gò bó, nó đã ảnh hưởng, trở thành nhân tố làm cho Thơ mới được khai sinh sau nầy, kể cả yếu tố Nguyễn Văn Vĩnh dịch ngụ ngôn của La Fontaine, chẳng hạn như bài La Cigale et la Fourmi : Con ve sầu kêu ve ve Suốt mùa hè Ðến kỳ gió bấc thổi Nguồn cơn thật bối rối ... Nếu chúng ta quay trở lại ngày trước một thời gian ngắn, chúng ta thấy rằng sĩ tử, hay những nhà trí thức, khoa bảng Việt Nam đều phải học từ chương để thi cử, đạt được thành quả trở thành ông Cử, ông Nghè, ông Cống, ‘’ thắng vi quan thối vi sư ‘’, người ta đều phải trãi qua học làm thi, làm phú, những vần những điệu bị gò ép trong khuôn khổ sẵn có. Trong tiến trình thôn tính Việt Nam của Pháp, Miền Nam đã không còn thi cử theo lối cũ từ năm 1863, Bắc Kỳ bãi bỏ thi cũ theo lối cũ năm 1915 và Trung kỳ khóa thi cuối cùng năm 1919. Kể từ đó con đường quan lộ phải học chữ Quốc ngữ, chữ Pháp để biết đọc biết viết, những người nào muốn học cao hơn, chỉ còn có cách theo nền giáo dục của Pháp, cho nên người ta dễ dàng chịu ảnh hưởng thi pháp của Pháp. Trong địa hạt Văn học nghệ thuật, người ta thường có kinh nghiệm thấy rằng hình thức quyết định nội dung, chính hình thức chữ Quốc ngữ đã đưa đến khai sinh ra Thơ mới là điều tất nhiên vậy. Nhưng điều quan trọng là Miền Nam đã chính thức khai sinh ra Thơ mới do ông Phan Khôi (1) khởi xướng, ông đã viết bài đăng trên Phụ Nữ Tân Văn ở Sàigòn, số 122 ngày 10 tháng 3 năm 1932 có tựa là : Một Lối Thơ Mới Trình Chánh Giữa Làng Thơ Trong ấy ông đã viết : ‘‘... đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vần mà không bó buộc niêm luật gì hết ‘’ và tạm mệnh danh là thơ mới , ông đem bài Tình Già đăng lên làm thí dụ điển hình : Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa. Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh, kề nhau than thở : - ‘‘ Ôi ! Ðôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn là không đặng’’; ‘‘ Ðể đến nổi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau !’’ - ‘‘ Hay ! Nói mới bạc làm sao chớ ! Buông nhau làm sao cho nỡ ?’’ ‘‘ Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy !’’ ‘‘ Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng mà tính việc thủy chung ? ‘’ Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau : Ðôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được ! Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi ! Con mắt còn có đuôi. Bài báo của Phan Khôi được nữ độc giả Liên Hương ở Hội An gửi thư tới hoan nghênh, được Lưu Trọng Lư gửi đăng Thơ mới bài Trên Ðường Thiên Lý và bài Vắng Khách Thơ cũng của Lưu Trọng Lư nhưng ký tên là Thanh Tâm, sau bài thơ nầy được Lưu Trọng Lư đổi tên là Xuân về : Xuân về Năm vừa rồi Chàng cùng tôi nơi vùng giáp Mộ Trong căn nhà cỏ Tôi quay tơ Chàng ngâm thơ Vườn sau oanh giục giã, Nhìn ra hoa đua nở, Dừng tay tôi kêu chàng: ‘‘ Này, này bạn ! xuân sang ‘’. Chàng nhìn xuống mặt hớn hở Tôi nhìn chàng lòng vồn vã ... Rồi ngày lại ngày Sắc màu: phai Lá vàng: rụng Ba gian: trống Xuân đi Chàng cũng đi Năm nay xuân còn trở lại Người xưa không thấy tới. Sau đợt ba bài thơ mới đó, Phụ nữ Tân Văn còn đăng những bài Thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh (tức Nguyễn Thị Kiêm), Hồ Văn Hảo và những người khác nữa. Ngày 26-7-1933 thi sĩ Nguyễn Thị Manh Manh, diễn thuyết tại Hội Khuyến Học Nam Kỳ (SAMIPIC) Sàigòn, để cổ vũ, tán dương Thơ mới, sau đó cũng có những nhà văn đăng dàn diễn thuyết nhằm mục đích phổ biến Thơ mới như Ðỗ Ðình Vượng, Lưu Trọng Lư, Vũ Ðình Liên. Dĩ nhiên có những nhà văn , nhà thơ như Tân Việt, Tản Ðà, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh, Tường Vân và Phi Vân, Tùng Lâm Lê Cương Phụng, Thái Phỉ và Huỳnh Thúc Kháng viết bài đăng trên báo, đăng đàn diễn thuyết, từ Sàigòn ra đến Hà Nội để bênh vực thơ cũ, công kích Thơ mới. Nhưng thực chất Thơ mới phóng khoáng, bình dị, mới mẻ, nên được nhiều người ủng hộ từ phía sáng tác cũng như giới thưởng ngoạn, từ đó Thơ mới có đủ sức bật vượt qua làng thơ cũ, chiếm chỗ đứng xứng đáng trong văn học Việt Nam, ngày nay chúng ta có những bài thơ mới của Tứ Ly, Thế Lữ, Vũ Ðình Liên, Ðoàn Phú Thứ ... đã sáng tác trong giai đoạn nầy. Thiên nhiên ưu đãi, đất đai phì nhiêu, đời sống dân chúng trù phú lại được nhiều tự do, những yếu tố ấy giúp cho Miền Nam dễ dàng phát triển kinh tế, là đòn bẩy giúp cho văn học nghệ thuật có điều kiện tiến triển. Chủ trương phổ biến chữ Quốc ngữ của nhà cầm quyền Pháp để dễ dàng cai trị thuộc địa, là một cơ hội tốt cho các nhà văn, nhờ đó Miền Nam đã sáng tạo được những đường lối mới, phù hợp với hình thái đơn giản của chữ Quốc ngữ. Trong bối cảnh đó Thơ mới đã ra đời, đem lại cho nền thi ca Việt Nam một thời kỳ vàng son rực rỡ. Tiếc thay Miền Nam thời đó chỉ có Thi sĩ Ðông Hồ và Mộng Tuyết còn để lại tên tuổi trong thi ca và Văn học Việt Nam. --- Sách tham khảo : Hoài Thanh Hoài Chân Thi nhân Việt Nam VH, Sàigòn, 1988 Minh Huy Luật Thơ Mới Khai Trí, Sàigòn, 1961
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 16:39:00 GMT 9
Nguồn Gốc Chữ Quốc ngữ
Huỳnh Ái Tông A. Đại Cương. Danh từ chữ Quốc ngữ hay chữ Việt, người Việt chúng ta đã dùng từ lâu, mặc dù nó không được chính danh. Bởi vì danh từ chữ Quốc ngữ là danh từ chung, chỉ cho các thứ chữ của một nước, chẳng hạn chữ Nôm ( 1 ) cũng là chữ Quốc ngữ của nước ta, nhưng do chúng ta dùng lâu đã quen, nên danh từ chữ Quốc ngữ để chỉ cho chữ viết chúng ta dùng ngày nay. Chữ nầy thoạt đầu do những vị giáo sĩ Tây phương truyền đạo tại Việt Nam, họ mượn mẫu tự La tinh, ghép lại để ghi âm địa danh và nhân vật địa phương, từ đó nó đã trải qua các thời kỳ hình thành chữ Quốc ngữ, qua quá trình hình thành, nó đã được sự đóng góp của người Việt cũng như người ngoại quốc, phần chính vẫn là người Việt chúng ta. Sự hình thành chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm ba thời kỳ : * Thời kỳ sáng tạo từ năm 1621. * Thời kỳ xây dựng năm 1651. * Thời kỳ phát triển từ năm 1867. Chúng ta biết rằng, khoảng giữa thế kỷ XVI, lúc ấy nước ta chia thành Nam, Bắc triều. Năm 1533, có giáo sĩ Irigo (I-Nê-Khu), người Âu, theo đường biển vào nước ta ở Đàng Ngoài, tại Nam Định để giảng đạo. Năm 1596, giáo sĩ Diago Advarte đến Đàng Trong ở một thời gian rồi bỏ đi, cho đến năm 1615, giáo sĩ Francesco Buzomi đến lập Giáo Đoàn Đàng Trong (Mission de la Cochinchine), đến năm 1627, giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) mới lập Giáo Đoàn Đàng Ngoài (Mission de Tonkin). Cả hai giáo đoàn nầy đều thuộc Dòng Tên, có một trung tâm truyền giáo ở Áo Môn (Macao - Trung Quốc), vì trước kia người Bồ Đào Nha sang Trung Hoa buôn bán, họ ở bán đảo Schangch'nan thuộc Quảng Châu, vào khoảng năm 1557, có bọn cướp biển trú ẩn ở Áo Môn, thường hay khuấy nhiễu Quảng Châu, nên người Trung Hoa nhờ các thương gia Bồ Đào Nha dẹp bọn cướp biển ấy, sau khi dẹp xong bọp cướp, người Bồ Đào Nha xin phép nhà cầm quyền Trung Hoa cho họ trú ngụ ở bán đảo Schangch'nan và Áo Môn, mỗi năm họ đóng thuế cho chánh quyền Trung Hoa, cho đến thế kỷ XX Áo Môn vẫn còn thuộc Bồ Đào Nha. Thuở đó, các nhà truyền giáo Tây phương muốn sang Viễn đông, họ đều theo các thương thuyền Bồ Đào Nha, cho nên họ chọn Áo Môn làm trung tâm truyền giáo để hoạt động ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam, nơi ấy có cả một Viện thần học " Madre de Dieux " (Mẹ Đức Chúa Trời). Do đó các giáo sĩ người Âu thường từ Áo Môn sang Đàng Ngoài hay Đàng Trong và ngược lại, họ thường dùng ngôn ngữ Bồ Đào Nha để giao dịch với nhau, những phúc trình truyền giáo hay thư từ gửi về La Mã có khi họ viết chữ Bồ, có khi họ viết chữ La Tinh. B. Sự Hình Thành Chữ Quốc Ngữ I.- Thời Kỳ Sáng Tạo Chữ Quốc Ngữ Không phải chữ Quốc ngữ hình thành do sự ngẫu nhiên từ những chữ phiên âm tiếng Việt, thực ra chữ Quốc ngữ hình thành theo hướng chung của các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Đông nằm trong địa bàn truyền giáo của họ. Thật vậy, tại Trung Hoa, Hoa ngữ được các nhà truyền giáo dùng mẫu tự La Tinh phiên âm trước nhất, công việc nầy do hai giáo sĩ Dòng Tên là Micac Ruggieri và Matteo Ricci đã soạn quyển Ngữ vựng hay Tự vựng Bồ-Hoa, quyển nầy mỗi trang chia làm 3 cột : chữ Bồ, chữ Hán, phiên âm Hoa ngữ, tài liệu nầy soạn khoảng năm 1584-1588, bảng viết tay còn lưu trử tại văn khố Dòng Tên ở La Mã (Rome). Năm 1598, giáo sĩ Ricca và Cateneo đã dùng ký hiệu để ghi các thanh Hoa ngữ. Tại Nhật Bản, các tác phẩm chữ Nhật đã được La tinh hóa, từ năm 1592 đến năm 1596 có đến 10 tác phẩm loại nầy được in ra, hai tác phẩm quan trọng sau đây đáng được nhắc đến: 1) Cuốn Giáo lý ghi bằng tiếng Nhật theo mẫu tự La Tinh có tên là : Dotrina Jesus no Compania no Collegio Amacusa ni voite superiores no vou xi no comuni core no fan to nasu mono nari, Nengi, 1592. 2) Cuốn tự điển La - Bồ - Nhật: Dictionarium latino lusitanicum ac Japonium (In Amacusa in Collegia Japonico Societa Jesus, Anno 1595) Ngoài ra còn có sách ngữ pháp Nhật được in theo mẫu tự a, b, c vào năm 1603-1604. Tại Việt Nam, thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm 2 giai đoạn : * Giai đoạn phiên âm. * Giai đoạn cấu tạo câu. 1.- Giai đoạn phiên âm. Về nguồn gốc, có lẽ câu sau đây là một dòng chữ xuất hiện đầu tiên, trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ. " Con gno muon bau tlom laom Hoalaom chian ". Câu nầy, theo giáo sĩ Christofora Borri ( 2 ), là câu mà các giáo sĩ đàng trong đã dùng trước khi ông có mặt tại đây, nó có nghĩa là : Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng ? Danh từ Hoa Lang, không rõ do đâu mà có, nhưng đó là danh từ do người Việt Nam thời bấy giờ dùng để chỉ cho người Bồ Đào Nha, và sau đó được dùng để gọi chung các nhà truyền giáo Tây Phương. Như vậy câu trên là câu các nhà truyền giáo Tây phương muốn hỏi một người Việt rằng : " Muốn vào đạo Thiên chúa chăng ? " Vì lẽ câu nói không diễn tả được rõ ý nên Linh mục Buzomi đã sữa lại như sau : " Muon bau dau Christiam chiam ? " ( Muốn vào đạo Christiang chăng ?). Đây là câu trích trong quyển sách của Christoforo Borris xuất bản năm 1631 tại La Mã, viết bằng chữ Ý ( 3 ). Tuy vậy, chúng ta có thể coi những chữ phiên âm trong sách nầy đã được ông dùng trong thời gian từ 1618 đến 1621, là thời gian ông sống ở Đàng Trong. Phiên âm : Nghĩa Anam : An Nam Tunchim : Đông Kinh Ainam : Hải Nam Kemoi : Kẻ mọi Cacciam : Cả chàm (Kẻ Chàm) Sinunua : Xứ Hóa ( Thuận Hóa) Quamguya : Quảng Nghĩa Quignin : Qui Nhơn Dàdèn, lùt : Đã đến lúc Dàdèn lùt : Đã đến lúc Scin mocaij : Xin một cái Chià : Trà Cò : Có ....... Onsaij : Ông sãi Quanghia : Quảng Nghĩa Nuoecman : Nước mặn Da, an, nua : Đã ăn nữa, Da, an, het : Đã ăn hết Omgne : Ông nghè Tuijciam,biet: Tui chẳng biết Onsaij di lay : Ông Sãi đi lại Bàncò : Bàn Cổ Maa : Ma Maqui, Macò : Ma quỉ, ma quái Bũa : Vua Chiuna : Chúa Bản phúc trình của Linh mục João Roig viết bằng chữ Bồ Đào Nha tại Áo Môn ngày 20-11-1621, để gửi về La Mã, trong ấy có phiên âm vài danh từ như sau : An nam : An Nam Sinoa : Xứ Hóa Usai : Ông Sãi Ungne : Ông nghè On trũ : Ông trùm Ca cham : Ca chàm ( kẻ chàm, tức Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh, thời ấy dân chúng gọi là Cả Chàm hay Dinh Chàm) Nuocman : Nước Mặn Bafu : Bà phủ Sai Tubin : Sãi Từ Bình ( ? ) Banco : Bàn Cổ Oundelinh : Ông Đề Lĩnh Cùng năm ấy, Linh mục Gaspa Luis cũng viết một bảng tường trình bằng La văn tại Áo Môn ngày 12-12-1621 gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, để báo cáo về giáo đoàn Đàng Trong, trong ấy có dùng vài phiên âm : Cacham : Kẻ chàm Nuocman : Nước Mặn Ongne, Ungué : Ông nghè Bancô : Bàn Cổ Đến ngày 16-6-1625, giáo sĩ Đắc Lộ có viết một lá thư bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas, trong ấy có vài phiên âm : Ainão : Hải Nam Tunquim, Tunquin : Đông Kinh Thêm một tài liệu khác Gaspar Luis viết bằng La văn ngày 1-1-1626 tại Nước Mặn để gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, trong ấy có phiên âm một số địa danh và danh từ: Fayfó : Hải phố (Fayfo : Hội An) Cacham : Kẻ chàm Nuocman : Nước Mặn Pullocambi : ? Dinh cham : Dinh chàm Quanghia : Quảng Nghĩa Quinhin : Qui nhơn Ranran : Ran ran ( tức là sông Đà Rằng ở Phú Yên) Bendâ : Bến đá Bôdê : Bồ đề Ondelimbay : Ông Đề Lĩnh Bảy Ondedoc : Ông Đề đốc Unghe chieu : Ông nghè Chiêu Nhit la khaun, khaun la nhit : Nhứt là không, không là nhứt Và Linh mục Antonio de Fontes người Bồ Đào Nha, đã có đến ở Đàng Trong năm 1624 và Dinh Chàm với Linh mục Pina và Đắc Lộ, cũng ngày 1-1-1626, Linh mục Fontes viết tại Hội An một bản tường trình bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi là Bề Trên Cả Dòng Tên ở La Mã, bảng tường trình nầy gồm có 3 phần, trong ấy cũng cho chúng ta biết thuở ấy giáo đoàn Đàng Trong có 3 cơ sở: Hội An, Kẻ Chàm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Qui Nhơn). Trong bảng tường trình nầy, có các phiên âm : Digcham : Dinh Chàm Nuocman : Nước Mặn Quinhin : Qui Nhơn Sinua, Sinuâ : Xứ Hóa Orancaya : ? Quan : Quảng (Quảng Nam) Xabin : Xá Bình ? Bếndá : Bến đá Bude : Bồ đề Ondelimbay: Ông Đề Lĩnh Bảy Ondedóc : Ông đề đốc Onghe Chieu : Ông nghè Chiêu Nhít la khấu, khấu la nhít : Nhứt là không, không là nhứt Dinh Cham : Dinh Chàm Sinóa : Xứ Hóa Ngày 13-7-1626, Linh mục Francesco Buzomi viết một lá thư chữ Ý gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, cách phiên âm có tiến triển phần nào, vì các danh từ ghi theo đơn âm như ngày nay, các chữ phiên âm trong bức thư nầy gồm có: Xán tí : Xán tí (Thượng đế) Thiên chu : Thiên chủ (Thiên chúa) Thiên chũ xán tí : Thiên chủ thượng đế Ngaoc huan : Ngọc hoàng Cho đến năm 1631, có thêm hai tài liệu của Đắc Lộ: một vào ngày 16-1-1631, ông có viết một bức thư gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas ở La Mã , trong ấy chỉ tìm thấy có một chữ phiên âm Thinhũa : Thanh Hóa, và một bản văn khác thuật lại việc ông cùng Linh mục Pedro Marques tới cửa Bạng (Thanh Hóa) vào ngày 19-3-1627 cho đến lúc Linh mục Antonio F. Cardin đến Thăng Long ngày 15-3-1631 (trong chuyến đi ấy, có các Linh mục Gasparo d'Amiral, André Palmeiro, Antonio de Fontes), tài liệu nầy gồm 2 trang rưỡi chữ, viết trên giấy khổ 16 x 23 cm, trong ấy chỉ phiên âm có mấy chữ : Sinoa : Xứ Hóa (thuận Hóa) Anná : An nam Sai : Sãi Mía : Mía ( nhà tạm trú) Những tài liệu phiên âm trên, cho chúng ta thấy phần nào sự manh nha hình thành chữ Quốc Ngữ trong các năm từ 1621 đến năm 1631. Trong mười năm đó, chúng ta thấy sự phiên âm không mấy tiến triển, chưa có sự thống nhất nào cả, chẳng hạn như danh từ xứ Hóa, họ đã phiên âm : Sinoa (Jão Roig 20-11-1621) Sinua, Sinuâ, Sinoá (Antonio de Fontes 1-1-1626) Sinoa (Đắc Lộ 1631) Danh từ Ông Nghè : Omgne (Christoforo Borri 1618-1621) Ungne (Jão Roig 20-11-1621) Ongne, Ungué ( Gaspar Luis 12-12-1621) Unghe (Gaspar Luis 1-1-1626) Onghe (Antonio de Fontes 1-1-1626) 2.- Giai Đoạn Cấu Tạo Câu. a.- Sự đóng góp của Gasparo d'Amiral Giai đoạn kế tiếp được coi như khởi sự từ năm 1632 với những phiên âm của Gasparo d'Amiral, trong giai đoạn nầy, chúng ta thấy vai trò đóng góp cho sự hình thành chữ Quốc ngữ của Gasparo d'Amiral rất quan trọng, ông phiên âm có phương pháp. Tài liệu dẫn sau đây cho chúng ta thấy rõ Đắc Lộ đã theo phương pháp của ông để phiên âm trước khi dựa vào quyển tự điển Bồ Đào Nha - Annam cũng của ông, để Đắc Lộ soạn quyển tự vị "An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh " Để hiểu rõ điều chúng tôi vừa đề cập tới, không gì hơn là chúng ta nhìn lại cuộc đời và vết đi của họ, chúng ta sẽ thấy ảnh hưởng của Gasparo d'Amiral đối với Đắc Lộ. Gasparo d'Amiral sinh năm 1592 tại Bồ Đào Nha, gia nhập Dòng Tên ngày 1-7-1608, ông đã làm giáo sư dạy La văn, Triết học, Thần Học tại các học viện và đại học Evora, Braga, Coinbra ở Bồ Đào Nha. Năm 1623, Gasparo d'Amiral đến Áo Môn, vào tháng 10 năm 1926, ông cùng với Thầy Paulus Saito (1577-1633 người Nhật) đến Đàng Ngoài cho đến tháng 5 năm 1630 cả hai cùng với Linh mục Đắc Lộ và Pedro Marques về Áo Môn. Ngày 18-2-1631 Gasparo cùng 3 Linh mục khác là André Palmeiro, Antonio de Fontes và Antonio F. Cardim từ Áo Môn đáp tàu Bồ Đào Nha đến cửa Bạng (Thanh Hóa) và đến ngày 15-3-1631, các Linh mục nầy mới đến Kẻ Chợ (Thăng Long). Sau đó Linh mục Palmeiro và Fontes trở về Áo Môn còn Amiral và Cardim ở lại tiếp tục công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài. Năm 1638, Linh mục Amiral được gọi về giữ chức Viện Trưởng Viện thần học tại Áo Môn, như vậy ông đã ở Đàng Ngoài được 7 năm. Đến năm 1641, ông được cử làm Phó Giám Tỉnh Dòng Tên hai tỉnh Nhật và Trung Hoa (gồm các nước Nhật, Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Thái Lan và Trung Hoa - Áo Môn, Quảng Đông, Quảng Tây). Năm 1645, ông đáp tàu từ Áo Môn đi Đàng Ngoài, khi tàu đến gần đảo Hải Nam bị đắm, do đó ông bị chết đuối vào ngày 23-12-1645. Trong 7 năm ở Đàng Ngoài, Gasparo d'Amiral còn để lại 2 tài liệu liên quan đến chữ Quốc Ngữ. Tài liệu 1, ông viết bằng Bồ văn tại Kẻ Chợ vào ngày 31-12-1632 nhan đề: " Annua do reino de Annam do anno de 1632, pera o Pe André Palmeiro de Compa de Jesu, Visitator das Provincias de Japan, e China " ( Bảng tường trình hàng năm về nước An nam năm 1632, gửi cha André Palmeiro, Dòng Tên, giám sát các tỉnh Nhật và Trung Hoa). Tài liệu nầy hiện lưu trử tại văn khố Dòng Tên La Mã, trong đó có một số phiên âm như sau: Tun kim : Đông Kinh, chỉ cho xứ An Nam Đàng tlão : Đàng Trong Đàng ngoày : Đàng Ngoài Đàng tlên : Đàng trên Oũ nghe : Ông nghè nhà thượng dày: nhà thượng đài nhà ti, nhà hién : nhà ti, nhà hiến nhà phũ : nhà phủ nhà huyẹn : nhà huyện oũ khơũ : Ông Khổng ( Khổng Phu Tử) Đức laõ : Đức Long; niên hiệu Đức Long (1629-1634) Vĩnh Tộ : Vĩnh Tộ; niên hiệu Vĩnh Tộ (1620-1628) Bua : Vua Tế Kì đạo : Tế kỳ đạo Đức vương : Đức Vương Chúa oũ : Chúa Ông ( tức Trịnh Tráng) Chúa tũ, chúa dũ, chúa quành : Chúa Tung (Trịnh Vân; Tung Quận Công) Chúa Dũng (Trịnh Khải; Dũng Quận Công) Chúa Quỳnh ( Trịnh Lệ; Quỳnh quận công) Chúa cả : Chúa cả (Trịnh Tạc, vào thời nầy Đàng Ngoài có 5 chúa là : Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Vân, Trịnh Khải, Trịnh Lệ mà chỉ 2 chúa có quyền hành mà thôi) Thanh đô vương : Thanh Đô Vương Chúa triết : Chúa Triết (Trịnh Tùng) Kẻ chợ : Kẻ Chợ (Thăng Long) yêu nhău : yêu nhau oũ phô mả liêu : Ông Phò Mã Liêu (con rễ Trịnh Tráng) Đàng Ngoằy : Đàng Ngoài Quãng : Quảng Tàm đàng : Tàm Đàng Bên đoũ đa : Bên Đống Đa tày : Tầy lằng bôũ bàu : làng Bông Bầu Cô bệt : Cô Bệt Tri yếu : Tri yếu kẻ hằii : kẻ hầu ăn dương huyẹn : An Dương huyện coũ thằn : công thành Thíc ca : Thích Ca ( Phật) Phổ lô xã : Phổ lô xã Sãy uãy : Sải vải Hộy ăn xả : Hội An xã huyẹn uịnh lạy : huyện Vĩnh Lại Thầi uăn Chật : Thầy Văn Chật làng Kẻ tranh xuyên : Làng Kẻ Tranh Xuyên Kẻ trãng : Kẻ Trang Sấm phúc xả : Sấm Phúc xã Nghỹa ăn xả : Nghĩa An xã huyẹn bạyc hặc : Huyện Bạch Hạc thầi phù thủi : Thầy phù thủy Oũ jà nhạc : Ông già Nhạc Oũ phu mã kiêm : Ông Phò mã Kiêm bà : bà (?) chúa bàng : chúa Bằng thăn khê : Thanh Khê hàng bè : hàng Bè hàng bút : hàng Bút cữa nam : cửa Nam kẻ ăn lẵng : kẻ An lãng hàng nấm : hàng nắm đinh hàng : Đinh hàng càii iền : Cầu Yên hàng thuõc : hàng thuốc oũ đô đốc hạ : Ông Đô Đốc Hạ Oũ phũ mã nhăm : Ông Phò mã Nhâm Oũ chưỡng hương : Ông chưởng Hương Thầi : Thầy đức oũ hồe : Đức ông Huề thuyèn thũỉ : thuyền thủy Quãng liẹt xã : Quãng liệt xã giỗ : giỗ chặp : chạp mă : ma kẽ uạc : kẻ Vạc cỗ : cỗ oũ chưỡng quế : ông chưởng Quế tình : tình nhũộn : nhuận tháng : tháng cốt bõý : cốt bói Kẽ lăm huyẹn toũ sơn : kẻ Lâm, huyện Tống Sơn Nghệ an : Nghệ An Bố chính : Bố chính thuặn hốe : Thuận Hóa huyẹn nghi xuon : huyện Nghi Xuân huyẹn Thinh Chương : huyện Thanh Chương làng cầii : làng Cầu nhà nga : nhà nga đậii xá : đậu xá vàng may : Vàng May đức bà sang phú : đức bà sang phú oũ bà phủ : ông bà phủ kẽ mộc : kẻ Mộc kẽ bàng : kẻ Bàng an nam : An Nam Tài liệu thứ hai cũng soạn bằng Bồ văn tại kẻ Chợ ngày 25-3-1637, có nhan đề: " Relacam dos Catequista da Christamdade de Tumk e seu modo de proceder pera o Pe Manoel Dias, Vissitador de Jappão e China " (Tường thuật về các Thầy giảng của giáo đoàn Đàng Ngoài và về cách thức tiến hành của họ, gửi cha Manoel Dias, giám sát Nhật Bản và Trung Hoa), tài liệu nầy hiện lưu trử tại Văn Khố Hàn Lâm Viện Sử Học Hoàng Gia Madrid Bồ Đào Nha. Gồm có một số phiên âm sau đây : Sãy : Sãi đức : đức Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô thầy : thầy định : định nhin : Nhơn (tên) Nghệ an : Nghệ an lạy : lạy tri : Tri (tên) bùi : Bùi (tên) Quang : Quảng (tên) tháng : Thắng (tên) Coũ thàn : Công Thành Sướng : Sướng (tên) đàng ngoài : Đàng Ngoài già : Già (tên) Vó : Vó (tên) nân : Nân (tên) lồ : Lồ (tên) đôủ thành : Đông thành (tên) Kẻ chợ : Kẻ Chợ (tên) Trong hai tài liệu nầy, tài liệu thứ nhất có gần 400 chữ phiên âm, chưa được thống nhất cách dùng mẫu tự ghi âm. Ví dụ : Âm a ghi ă (Hội ăn xã) hay ghi a (Nghệ an) Âm ò ghi ô (oũ phô mả liêu) hay ũ (oũ phũ mả kiêm) Có một số âm, phụ âm, dấu giọng không như ngày nay : Các âm â ghi ă (hàng nấm) ----------- ê - e (huyẹn, hién) ----------- y - i (thầi) ----------- o - õ (bõy) --------- âu - ăii (hầu) Các phụ âm : ng ghi ũ (oũ) ----------------- ch - yc (bạyc) Các dấu giọng : ? ghi ~ (cữa nam, phũ) ------------------- ~ - ? (Sấm phú xả, Nghỹa ăn xả) Tuy nhiên Gasparo d'Amiral cũng ghi được các âm như ngày nay : a (nghệ an ) ă (hàng nắm) â (thầi) ê ( nghệ) ô (giỗ) ơ (chợ) i (nghi xuôn) u (yêu nhău) ư (thương, vương) Có đủ dấu giọng: không dấu (nam, đô) � (Thíc ca) ` (thầi phù thũi) ? (chúa cả) ~ (giỗ) . (vĩnh tộ) Tài liệu thứ hai viết sau 5 năm, một số chữ viết ngày nay giống y như vậy: đức, chúa thanh đô, thầy, Nghệ an, lạy, định ... Do đó chúng ta thấy Gasparo d'Amiral ghi âm tiến bộ hơn các giáo sĩ khác, đó cũng là điều dĩ nhiên bởi vì từ tài liệu của Jão Roiz hay Gaspar Luis viết từ năm 1621, đến tài liệu thứ nhất của Gasparo d'Amiral có khoảng cách biệt trên 10 năm. b.- Sự đóng góp của Linh mục Đắc Lộ. Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), người được Pháp đề cao đã sáng chế ra chữ Quốc Ngữ, mang lại sự khai hóa cho dân tộc Việt Nam, với chiêu bài nầy để che đậy hành động thực dân, xâm chiếm lãnh thổ và cai trị hà khắc dân tộc chúng ta. Để hiểu rõ vấn đề nầy, chúng ta cần lướt qua tiểu sử và hành trình truyền giáo của Đắc Lộ. Đắc Lộ sinh ngày 15-3-1591 tại Comtat Venaissin, tỉnh Avignon, miền Nam nước Pháp, tổ tiên ông gốc Do Thái. Tổ phụ của ông đã di cư từ Tây Ban Nha sang Avignon vào giữa thế kỷ XVI, thân sinh ông là Benadin II de Rhodes, được liệt vào hàng thân hào, nhân sĩ trong vùng. Đắc Lộ gia nhập Dòng Tên ở La Mã ngày 14-4-1612, học tập chuyên về thần học và toán học tại học viện Saint André du Quirinal, thụ phong linh mục tại La Mã năm 1618. Cũng trong năm nầy, ông được phép sang Đông Nam Á truyền giáo, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Đào Nha, rồi từ đây đáp tàu đi Áo Môn ngày 04-4-1619, vì có ghé qua Goa (Ấn Độ) nên ông đến Áo Môn ngày 29-5-1623, ông đặt chân lên Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1624 tại Đà Nẳng, cùng với các linh mục Gabriel de Mattos và một giáo sĩ Nhật. Đắc Lộ đến cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm thuộc Quảng Nam Dinh, nơi đây có Linh mục Francisco de Pina (sinh năm 1585 tại Bồ Đào Nha, đến Đàng Trong năm 1617 và chết đuối ở Quảng Nam năm 1625) và Antonio de Fontes (đến Đàng Trong tháng 12 năm 1624), tại đây Đắc Lộ học tiếng Việt với Francisco de Pina, tháng 7 năm 1626 ông rời Đàng Trong về Áo Môn, ngày 19-3-1627, ông cùng với Linh mục Pierre Marquez đến của Bang ( Thanh Hóa), ở đây, hai ông có yết kiến Trịnh Tráng, rồi sau đó theo chúa Trịnh ra Thăng Long, thời gian nầy hai Linh mục lập giáo đoàn Đàng Ngoài, tháng 5 năm 1630, chúa Trịnh cấm đạo, trục xuất các giáo sĩ, Đắc Lộ trở về Áo Môn. Từ năm 1630 đến năm 1640, Đắc Lộ dạy thần học ở học viện thần học Áo Môn. năm 1640, ông được cử đến Đàng Trong làm Bề Trên, thay thế Linh mục Buzomi vừa từ trần tại Quảng Nam Dinh, ông ở đây cho đến ngày 3-7-1645, bị bắt buộc phải rời cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm, theo lệnh của quan Cai bộ áp dụng án trục xuất các giáo sĩ của chúa Nguyễn. Kể từ đó, ông rời hẳn nước Việt Nam, trở lại Áo Môn ông dạy tiếng Việt ở Học viện Thần Học, ngày 20-12 năm 1645 ông đáp tàu từ Áo Môn đi Âu Châu, nhằm mục đích vận động thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam. Ngày 16-11-1654,Toà thánh La Mã cử Đắc Lộ làm Bề Trên của phái đoàn truyền giáo ở Ba Tư. Đầu tháng 11-1655, ông đáp tàu từ Marseille đi Ispaham thủ đô Ba Tư, và tại đây ông đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5 tháng 11 năm 1660. Giai đoạn trước, giáo sĩ Đắc Lộ có để lại 3 tài liệu về chữ Quốc Ngữ vào năm 1625 và 1631 đã dẫn ở trên và giai đoạn sau nầy, ông cũng để lại 3 tài liệu khác viết vào các năm 1636, 1644, 1647. Tài liệu năm 1634, viết tay có nhan đề: " Tunchinenois Historiae libri duo quorum altero status temporalis hujus Regni, altero mirabiles evangelicae praedications progressus refuruntur. Coeptae per Patres Societatis Jesu, ab Anno 1627 ad Annum 1636 " ( Lịch sử Đàng Ngoài và những bước tiến triển lớn lao mà phúc âm rao giảng đã làm ở nước nầy để cải hóa lương dân, từ năm 1627 đến năm 1636) Bản nầy ghi bằng La văn gồm 2 quyển, lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã. Các chữ phiên âm trong quyển một. Tung : Đông kin : kinh Annam : An Nam Ai nam : Hải Nam Chúacanh : Chúa Canh Che ce : kẻ Chợ (Thăng Long) Chúa bàng : Chúa Bàng (đúng ra là Bình; Bình An Vương Trịnh Tùng) Chúa õu : Chúa ông Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô ( Thanh Đô Vương Trịnh Tráng) uuan : vương min : minh bát min : bất minh thuam : thuận uan : văn uu : vũ gna ti : nhà ti gna hien : nhà hiến Cai phu : cai phủ Cai huyen : cai huyện Bua ; vua den : đền sin do : sinh đồ huan cong : hương cống tin si : tiến sĩ tam iau : tam giáo dạu nhu : đạo nhu (nho) dạu thíc ; đạo thích Thicca, Thic ca, Thiccả : Thích ca Sai : Sãi sai ca : Sãi cả lautu : Lão tử Giô : giỗ Cu hồn : Cô hồn ba hon : ba hồn Chin via : Chín vía dum : Đồng (tên) Các chữ phiên âm trong quyển hai Cửa bang : Cửa Bạng (Thanh Hóa) Phạt : Phật bụt : Bụt dang : Đàng ciiia oũ : chúa ông ciiia ban uuan : chúa Bằng vương ciii sai : chúa Sãi ciii canh : chúa canh thinh hoa : Thanh Hóa thai : thầy sai vai : Sãi Vãi Che vich : kẻ vích (cửa Vích, cửa sông ở phía Bắc Thanh Hóa) Che no : Kẻ Nộ Gne an : Nghệ An bochin : bố chính Rum : Rum kiemthuong : Kiêm Thượng Phuchen : Phục chân cà : Cà cã : cả cá : cá tlẽ : trẻ tle : tre Tài liệu năm 1644, Đắc Lộ viết bằng Bồ văn tại Thanh Chiêm, nhan đề: " Relacão do glorioso Martirio de Andre Cathequista Protomartir de Cochinchiana alanceado, e degolado em Cachão no 26 de Julho de 1644 Tendo de Idade dezanove annos " ( Tường thuật cuộc tử đạo vinh hiển của Thầy giảng An-Rê, vị tử đạo tiên khởi ở Đàng Trong, đã bị đâm chém tại kẻ Chàm ngày 26-7-1644, tử đạo lúc 19 tuổi), tài liệu nầy có những chữ phiên âm và câu phiên âm : Ounghebo, Oũnghebo : Ông Nghè Bộ Giũ nghĩa cũ d chúa Jesu cho den het hoy, cho den blon doy : Giữ nghĩ cùng đức chúa Jesu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời. Tài liệu năm 1647, Đắc Lộ viết bằng La văn tại Macassar ngày 4-6-1647 có nhan đề : " Alexandre Rhodes è Societate jesu terra marique decẽ annorũ Itinerarium " ( Cuộc hành trình mười năm trên bộ, dưới biển của Đắc Lộ thuộc Dòng Tên), tài liệu nầy có các phiên âm như sau: Ciam : Chàm Ranran : Ran ran Ké han : Kẻ Hàn On ghe bo : Ông nghè Bộ ke cham : kẻ Chàm halam : Hà Lan Cai tlam, Caitlam : Cát Lâm ben da : Bến đá Qui nhin : Qui Nhơn Nam binh : Nam Bình Bao bom : Bầu vom Quan Ghia : Quảng Nghĩa Nuoc man : Nước Mặn bau beo : Bầu Bèo (?) liem cum ; Liêm công Quanghia : Quảng Nghĩa Baubom : Bầu Vom bochinh : Bố chính Oũ ghe bo : Ông nghè Bộ Sau khi đối chiếu tiểu sử của Gasparo d'Amiral và Đắc Lộ cùng các tài liệu phiên âm như trên, chúng ta có nhận định sau : 1) Linh mục Gasparo d'Amiral phiên âm có tự dạng gần với chữ Việt chúng ta viết ngày nay, hơn là các phiên âm của Đắc Lộ, thử so sánh : Tài liệu Gasparo d'Amiral 1632 : Tài liệu Đắc Lộ 1636 ----------------- Thanh đô vương -------- thanh đô ----------------- Nhà ti --------------------- gna ti ----------------- Nhà hién ----------------- gna hien ----------------- Nghệ ăn, nghệ an ------ Gne an ----------------- Bố chính ----------------- bochin 2) Gasparo d'Amiral phân biệt được một số dấu giọng như đã vạch ra ở phần trước, trong khi Đắc Lộ lại ít dùng dấu giọng. 3) Ngay trong cách phiên âm của Đắc Lộ, tài liệu sau phiên âm kém hơn tài liệu trước. Trái lại, Gasparo d'Amiral phiên âm tài liệu năm 1637 khá hơn tài liệu năm 1632. Năm 1632, bảng tường trình của Gasparo d'Amiral gửi cho Linh mục André Palmeiro, giám sát các tỉnh Nhật, trung Hoa lúc đó Đắc Lộ cũng ở tại Áo Môn (1630-1640), là người tha thiết với các giáo đoàn truyền giáo tại Việt Nam, chắc chắn Đắc Lộ có xem qua bảng tường trình nầy. Từ năm 1638-1645 Gasparo d'Amiral ở tại Áo Môn, như vậy họ đã có thời gian ở bên nhau 2 năm 1638-1640, rồi tháng 7 năm 1645 đến 20-12-1645 Đắc Lộ từ Việt Nam trở lại Viện Thần Học Áo Môn, phụ trách dạy tiếng Việt, còn Gasparo d'Amiral đã soạn quyển Tự vựng Việt La, như vậy cả hai có thêm thời gian ở bên cạnh nhau, lại cùng hoạt động chung bộ môn tiếng Việt, điều đó cho ta thấy chắc chắn Đắc Lộ có chịu ảnh hưởng của Gasparo d'Amiral về lãnh vực tiếng Việt. Tài liệu Đắc Lộ viết năm 1647 tại Macassar, chứng tỏ rằng sau khi ông rời Việt Nam ngày 20-12-1645, ông vẫn chưa có được một hệ thống phiên âm vững chắc và gần gủi với chữ Quốc ngữ ngày nay. c.- Sự đóng góp của Linh mục Antonio Barbosa Antonio sanh năm 1594 tại ville de Arrifana de Sonza, Bồ Đào Nha, gia nhập Dòng Tên vào ngày 13-3-1624. Năm 1629, ông được cử đến truyền giáo ở Đàng Trong và đến tháng 4 năm 1636, ông có đến Đàng Ngoài truyền giáo. Cho đến tháng 5 năm 1642, vì lý do sức khỏe, ông phải trở về Áo Môn tịnh dưỡng. Cũng do tình trạng sức khỏe không tốt nên sau một thời gian tịnh dưỡng, ông rời Áo Môn đi Goa và ông đã từ trần trên đường đến Goa năm 1647. Mặc dù ngày nay Antonio không có để lại tài liệu Quốc ngữ nào, nhưng Đắc Lộ đã cho biết : " Tôi lợi dụng công việc của các giáo sĩ khác cũng thuộc Dòng Tên, nhất là của Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa. Cả hai ông nầy, mỗi ông đều làm một cuốn tự điển. Ông Gasparo d'Amiral làm cuốn Annamiticum - Lusitanium; ông Antonia Barbosa làm cuốn Lusitanum - Annamiticum. Nhưng tiếc rằng cả hai ông đều chết sớm. Tôi lợi dụng công việc của cả hai ông viết ra cuốn tự điển mới, có chua thêm tiếng La tinh, mục đích để giúp người bản xứ học tiếng La tinh theo lệnh của các đức hồng y." ( 4 )
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 16:40:58 GMT 9
d.- Sự đóng góp của người Việt
Dù sao, khởi thủy chữ Quốc ngữ hình thành cũng nằm trong mục đích chánh là phương tiện truyền giáo cho các giáo sĩ thuộc Dòng Tên ở Việt Nam. Bên cạnh các giáo sĩ, giáo dân Việt Nam thời đó không nhiều thì ít cũng có đóng góp trong lúc hai linh mục Gasparo và Antonio soạn hai quyển tự điển của họ, điều đó tuy không có chứng cứ, nhưng theo suy luận hợp lý, cho phép chúng ta tin như vậy.
Ngoài ra trong thời kỳ nầy còn có tài liệu của 14 giáo dân Việt Nam ghi bằng chữ Quốc ngữ, về việc họ xác nhận tán đồng ý nghĩa mô thức rửa tội, do 31 linh mục Dòng Tên thảo luận ở Viện Thần Học tại Áo Môn năm 1645
Tài liệu nầy là một bản La văn do các linh mục Dòng Tên soạn, để trả lời cho Linh mục Sebastião de Jonaya, nhan đề: " Cirra formam Baptismi Annamico Idiomate prolatam' ( Chung quanh mô thức rửa tội bằng thổ ngữ An Nam). Phần chữ Quốc ngữ của 14 giáo dân Việt Nam ghi như sau:
" Nhin danh Cha uà con uà Su-phi-ri-to-sang-to í nài An-nam các bỏn đạo thì tin ràng ra ba danh ví bàng muốn í làm một thì phải nói nhin nhít danh cha etc.- tôy là Giu ão câi trâm cũ nghi bậi - tôy là An re Sen cũ nghi bậi - tôy là Ben tò vẫn triền cũ nghi bậi - tôy là Phe ro uẫn nhit cũ nghi bậi - tôy là An jo uẫn tãu cũ nghi bậi - tôy là Gi-ro-ni-mo cũ nghi bậi - tôy là I-na sô cũ nghi bậi - tôy là tho-me cũ nghi bậi - tôy là Gi-le cũ nghi bậi - tôy là lu-i-si cũ nghi bậi - tôy là Phi-lip cũ nghi bậi - tôy là Do-minh cũ nghi bậi - tôy là An-ton cũ nghi bậi - tôy là Giu ão cũ nghi bậi " ( nhân danh Cha và con và Su-phi-ri-to Sang-to Spirito Santo ý nầy An nam các bổn đạo thì tin rằng ra ba danh. Ví rằng muốn ý làm mộy thì phải nói : nhân danh Cha vân vân. Tôi là Giu an Cai (?) Trâm cũng nghĩ vậy - Tôi là An rê Sen cũng nghĩ vậy - Tôi là Ben tô Văn Triều cũng nghĩ vậy - Tôi là Phê rô Văn Nhất cũng nghĩ vậy - Tôi là An gio Văn Tang cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi-rô-i-mô cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi le cũng nghĩ vậy - Tôi là lu-i-si cũng nghĩ vậy - Tôi là Phi líp cũng nghĩ vậy - Tôi là Đô Minh cũng nghĩ vậy - Tôi là An ton cũng nghĩ vậy - Tôi là Giu an cũng nghĩ vậy).
Như thế, chúng ta thấy rõ đây là một bản văn Quốc ngữ của 14 người Việt Nam xác nhận mô thức rửa tội năm 1645 của các linh mục Dòng Tên và đây là tài liệu cho chúng ta thấy sự đóng góp của người Việt Nam trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.
Qua so sánh, chúng ta có thể thấy rằng chữ Quốc ngữ năm 1645 chỉ giống chữ viết ngày nay khoảng 45%, và thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ khởi đầu từ năm 1621 đến đây đã chấm dứt, để chuyển sang thời kỳ kế tiếp.
Tưởng cũng nên nhắc lại, từ khi khởi đầu phiên âm cho đến khi hình thành chữ Quốc ngữ, không phải là sự ngẫu nhiên, bởi vì giáo đoàn truyền giáo Dòng Tên trước đó đã hoàn tất việc việc La tinh hóa chữ Nhật, để truyền giáo tại Nhật Bản. Nhật Bản cũng như Việt Nam ta, thuở đó mỗi nước đều có chữ Quốc ngữ biến chế từ chữ Hán, nước ta gọi là chữ NÔM, muốn biết chữ Nôm, đòi hỏi người ta phải am tường chữ Hán, chữ Hán vốn đã khó học rồi thì chữ Nôm lại càng khó hơn, chính vì thế mà các linh mục đã La tinh hóa chữ viết của Nhật cũng như Việt Nam, để cho công việc truyền giáo của họ được dễ dàng hơn.
* II. Thời Kỳ Xây Dựng
1. Khái Quát.
Theo tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ, cho đến khi quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum của Alexandre de Rhodes được in tại La Mã năm 1651, chữ Quốc ngữ đã bước sang giai đoạn mới. Giai đoạn nầy bắt đầu từ công trình của hai Linh mục Antonio Barbosa và Gasparo d'Amiral khi hai ông biên soạn Dictionarium Lusitanum - Annamaticum và Annamiticum - Lusitanum nhưng cả hai quyển nầy ngày nay chưa được khám phá.
Các nhà nghiên cứu cho rằng hai quyển tự điển vừa kể, có thể đã bị thất lạc do các cuộc di chuyển văn khố Dòng Tên từ Áo Môn qua Manila khoảng năm 1759-1760, và sau đó nhà cầm quyền Tây Ban Nha tịch thu các tài liệu ở văn khố Dòng Tên tại Manila vào khoảng năm 1770 đem về Madrid, nên ngày nay không tìm thấy vết tích 2 quyển tự điển nầy ở Áo Môn, Manila và ở Madrid cũng không tìm thấy chúng.
Linh mục Thanh Lãng có cho biết tại Tòa Thánh La Mã hiện có 2 cuốn tự điển do Linh mục Philipphé Bỉnh sao lục, không đề tên tác giả, đó là quyển : Dictionarium Annamiticum - Lusitanum ký hiệu Borg Touch 23 dầy 288 trang và Dictionarium Lusitanum - Annamiticum ký hiệu Touch 23 dầy 324 trang.
Philipphé Rosario Bỉnh sanh tại Hải Dương năm 1759, vào chủng viện năm 1775. Được phong Thầy Cả sau khi mãn khóa học.
Ngày 20-6-1796, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Đào Nha, tại đây ông theo dõi tình hình giáo hội và sáng tác gồm 23 tác phẩm gồm Bồ văn, La Tinh, Nôm và Quốc ngữ, trong số ấy có tác phẩm " Truyện An-nam Đàng ngoài chí Đàng trão ". Ông mất tại Lisbonne năm 1832.
Căn cứ vào công trình của Philipphé Bỉnh, vào những điều của Linh mục Thanh Lãng cho biết, chúng ta có thể đi đến kết luận là quyển Dictionarium Annamiticum - Lusitanum của Gasparo d'Amiral và Dictionarium Lusitanium - Annamiticum của Antonio Barbosa đều có ở tại Lisbonne nơi mà Philipphé Bỉnh đã ở và làm việc, nên ông đã sao chép lại quyển tự điển, nó cũng chứng tỏ rằng Linh mục Đắc Lộ đã mang 2 quyển sách trên từ Áo Môn về Âu châu, có lẽ trước tiên ông định in 2 quyển tự điển nầy, về sau ông đã dựa vào đó soạn và in ra quyển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, nên 2 quyển tự điển kia không cần thiết phải in nữa.
Chọn năm 1651 là năm đánh dấu sự hoàn tất công trình điển chế chữ Quốc ngữ, nhằm mục đích làm phương tiện truyền giáo của các giáo sĩ Tây Phương, bởi vì chẳng những quyển tự điển Dictionarium Annamiticum Lusitinum et Latinum được in mà còn có quyển " Cathéchismus " (Phép giảng tám ngày), cũng được in trong năm nầy.
2. Thời kỳ soạn thảo quyển tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - LaTinh
Cho đến nay, chưa có tài liệu nào công bố thời gian và địa điểm Đắc Lộ đã soạn quyển Dictionarium Annamiticum Lusitinum et Latinum. Theo đoạn văn trích dịch ở trên, chúng ta biết rằng Đắc Lộ soạn quyển tự điển nầy dựa vào công trình hai quyển tự điển của Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa.
Nhưng công trình của 2 linh mục nầy không được in ra, chưa tìm thấy bản gốc, cũng chưa tìm thấy tài liệu nào cho biết thời gian biên soạn hay hoàn tất của chúng, để từ đó có thể giúp chúng ta xác định thời gian Linh mục Đắc Lộ soạn quyển tự điển của ông. Đặt ra vấn đề nầy để xác nhận thời điểm, trong những giai đoạn của tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.
Theo vết chân của Đắc Lộ, chúng ta biết ông có thể soạn quyển tự điển, trong khoảng năm 1630-1640 là thời gian ông dạy thần học ở Học viện thần học tại Áo Môn. Nhưng mà thời gian nầy không chắc Linh mục Antonio Barbosa đã soạn xong quyển Tự điển Bồ Đào Nha - An Nam, vì thời gian 1620-1642 ông đang truyền giáo Đàng Trong rồi Đàng Ngoài, thời gian nầy Linh mục Antonio học hỏi tiếng Việt, và từ năm 1642 đến năm 1647 ông có ở Áo Môn để dưỡng bệnh, có lẽ thời gian nầy Linh mục Antonio đã biên soạn và hoàn tất quyển tự điển của mình trước tháng 12 năm 1645.
Còn Linh mục Gasparo d'Amiral sau thời gian ở Đàng Ngoài 7 năm, từ năm 1638-1645 ông ở tại Áo Môn giữ chức Viện trưởng Viện thần học kiêm Phó Giám Tỉnh Nhật và Trung Hoa, chắc chắn thời gian nầy ông đã phối hợp với Linh mục Antonio Barbosa để biên soạn và hoàn tất quyển tự điển An Nam - Bồ Đào Nha.
Tóm lại các quyển tự điển An Nam Bồ Đào Nha và Bồ Đào Nha An Nam được soạn trong khoảng 1638-1645. Vì năm 1645, Linh mục Gasparo bị đắm tàu chết đuối và trước đó ít hôm, Linh mục Đắc Lộ đã rời Áo Môn trở về Âu Châu, chúng ta lại biết thêm rằng, thời gian từ 3-7-1645 đến 20-12-1645 là thời gian cả 3 linh mục Đắc Lộ, Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa đều có mặt tại Thần Học Viện ở Áo Môn, chắc chắn họ đã có quyết định giao cho Đắc Lộ mang 2 quyển tự điển của họ về nhà in của Bộ Truyền giáo ở La Mã để in, cho nên ngày nay bản gốc 2 quyển tự điển trên không tìm thấy ở Áo Môn, Manilia hay Tây Ban Nha.
Linh mục Đắc Lộ rời Áo Môn ngày 20-12-1645, và đến La Mã ngày 27-6-1649, có lẽ thời gian nầy ông bắt đầu soạn quyển Tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh, nhằm mục đích để cho các Linh mục truyền giáo ở Việt Nam được dễ dàng hơn. Ý ấy đã được các Hồng y chấp thuận như ông đã ghi ở bài tựa quyển Tự điển.
Vậy thời điểm Đắc Lộ soạn quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum là khoảng năm 1645- 1649, và ngày 5-2-1651 quyển nầy được Linh mục F. Piccolomineus Bề Trên Cả Dòng Tên cho phép xuất bản. Và sau đó quyển Cathéchismus được soạn trong khoảng năm 1649 - 1651, cuốn nầy được Linh mục L. M. Gosswinus Nickel quyền Bề Trên Cả cho phép xuất bản ngày 8-7-1651, nó đóng vai trò quan trọng trong công cuộc truyền giáo, nên trong phiên họp các Hồng Y và giáo chủ ngày 2-10-1651 đã quyết định ra lệnh cho nhà in của Bộ Truyền giáo ngưng in các ấn phẩm khác, để nhanh chóng in cho xong quyển Cathéchismus.
3. Nội Dung Quyển Dictionarium Annamaticum et Latinum
Quyển sách nầy trừ lời tựa, nó được chia thành ba phần chính:
a. Phần I. Linguae Annamaticae seu Tunchinensis brevis declaratio ( tức là phần Ngữ Pháp Việt Nam được soạn bằng La văn gồm 31 trang, chia thành 8 chương:
Chương I .- De literis et syllabis quibus hase lingue constat (chữ và vần trong tiếng Việt) Chương II.- De Accentibus et aliis signis in vocalibus dấu nhấn và các dấu) Chương III.- De Nominibus (Danh từ) Chương IV.- De Pronominibus (Đại danh từ) Chương V.- De Aliis Pronominibus (các Đại danh từ khác) Chương VI.- De Verbis (Dộng từ) Chương VII.- De Reliquis oratiomis indeclinabilibus (những phần bất biến) Chương Chót.- Pracepta quacdam ad syntaxim pertinentia (cú pháp)
b. Phần II. Dictionarium Annamiticum seu Tunchinense cum lusiatna, et latina declaratione.
Phần nầy không đánh số trang, chỉ đánh số cột, mỗi trang chia làm 2 cột, có tất cả 900 cột, nhưng từ mẫu tự nọ sang mẫu tự kia thường để một vài trang giấy trắng. Chúng ta cũng nên chú ý, mẫu tự b (phụ âm v ngày nay, vì có tự dạng gần giống như mẫu tự b, nên được xếp tiếp sau mẫu tự b)
Mỗi chữ Việt được giải nghĩa theo thứ tự chữ Bồ rồi mới đến chữ La tinh.
c. Phần III. Index Latini sermonis. Phần nầy mỗi trang chia làm 2 cột, không có ghi số trang và số cột, nhưng có tất cả 350 cột, tức là 175 trang. Trong mỗi cột, tác giả liệt kê các chữ La tinh, bên cạnh mỗi chữ có ghi số cột của chữ La tinh ấy ở Phần II. Như vậy người biết chữ La tinh sẽ tra cứu được chữ Việt tương ứng.
Sau khi biết khái quát về quyển tự điển nầy, chúng ta có những nhận định sau đây :
* Công trình điển chế Việt ngữ của Đắc Lộ chẳng những đã hệ thống hóa phương pháp ghi âm ngôn ngữ Việt Nam mà còn là một tác phẩm căn bản, để từ đó Việt ngữ được hợp lý hóa các âm thể như ngày nay.
* Dù sao thì công trình của Đắc Lộ cũng chỉ nhằm giúp những người biết chữ La tinh hay Bồ Đào Nha học Việt ngữ, Đắc Lộ không có công trình nào nhằm vào sự phổ biến chữ Quốc ngữ nầy cho người Việt, cũng vì thế mà từ 1651 đến 1866, hơn 2 thế kỷ chữ Quốc ngữ chỉ được phổ biến giữa các giáo sĩ và một ít giáo dân mà thôi.
* Cho đến khi quyển " Chuyện Đời Xưa " của Trương Vĩnh Ký ra đời năm 1866, vẫn còn ghi ở lời Tựa "... cùng là có ý cho người ngoại quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen. " Điều nầy đủ chứng tỏ chữ Quốc ngữ trước đó, có mục đích giúp cho người ngoại quốc học tiếng Việt.
* Ngày nay một số tự điển nhằm mục đích giảng giải, phần đầu của tự điển có phần tóm lược ngữ pháp, chẳng hạn như quyển Anh Việt, Việt Anh Tiêu Chuẩn Tự Điển của Lê Bá Kông, sự trình bày cũng giống như hình thức trình bày ở phần đầu quyển Tự điển Việt - Bồ - La của Đắc Lộ.
4. Các Tác Phẩm Tiêu Biểu Khác.
a. Quyển Cathéchismus
Ngay trong năm 1651, Quyển Cathéchismus ( Phép Giảng Tám Ngày) là một bản văn chữ Quốc ngữ xưa nhất còn lại ngày nay, nó cũng là bản văn được nhiều người biết đến, đấy là công trình của Đắc Lộ, tuy chỉ nhằm mục đích truyền giáo, nhưng ngày nay nó đã trở thành một chứng liệu quý giá để xác định một bản văn hoàn toàn dùng Quốc ngữ.
Cathéchismus là một quyển sách giáo lý, viết cho người giảng dạy giáo lý dùng để truyền giáo. Mỗi trang sách chia làm 2 cột, cột bên trái là chữ la tinh và cột bên phải là chữ Quốc ngữ. Sách có 319 trang, không có lời tựa.
Sách không chia từng chương, mà chia thành ngày học, gồm có 8 ngày, cho nên còn được gọi tên là " Phép giảng tám ngày " , phân chia như sau :
- Ngày thứ nhất : Đạo thánh đức Chúa Trời. - Ngày thứ hai : Đức Chúa Trời. - Ngày thứ ba : Đức thợ cả - Ngày thứ tư : Những đạo vạy - Ngày thứ năm : Một đức chúa Trời ba ngôi - Đức chúa Trời ra đời cứu thế. - Ngày thứ sáu : Thầy thuốc cả. - Ngày thứ bảy : Con chiên lành. - Ngày thứ tám : Một bậc thang lên Thiên đàng.
Sách không chia ra các tiểu mục, trong khi sao lục để tái bản, André Marillier dựa vào nguyên tắc để chia ra các tiểu mục. Chẳng hạn như Ngày thứ tư : Những đạo vạy :
* Con cháu ông Adam. * Ông Noe và lụt cả * Tháp Babel * Nước đại minh phân ra nhiều đạo vạy * Đạo bụt : giáo ngoài và giáo trong * Đạo lão * Đạo Nho : Việc thờ ông Khổng. * Những sự dối trá của Thích Ca về linh hồn ta * Những điều lầm lỗi trong việc thờ cúng cha mẹ * Linh hồn ta chẳng hay chết.
Quyển Cathéchismus là một quyển sách Quốc ngữ được in đầu tiên vào năm 1651, nó mở đầu cho công cuộc truyền bá giáo lý Thiên chúa giáo bằng sách Quốc ngữ tại Việt Nam.
b. Các Tài Liệu Viết Tay
Ngày nay tại văn khố Dòng Tên ở La Mã còn có 2 tài liệu viết tay của 2 người Việt, đó là Igesico Văn Tín và Bento Thiện.
Tài liệu của Igesico Văn Tín là một lá thư viết ngày 12-9-1659, không đề nơi chốn gửi, mà cũng không ghi tên người nhận, nhưng do những chi tiết trong thư, người ta hiểu được là Văn Tín viết tại kẻ Vó, gửi cho Linh mục Marini lúc đó dang ở La mã. Nội dung thư, đại ý nói về các hoạt động truyền giáo tại kẻ Vó ( Đàng Ngoài), sau khi các giáo sĩ Tây phương bị chúa Trịnh trục xuất khỏi Đàng Ngoài, và bày tỏ lòng thành kính đối với Linh mục Marini ( 5 )
Còn tài liệu của Bento Thiện gồm có một bức thư viết tay, viết năm 1659 và một tập tài liệu. Cả hai đều lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã. Về bức thư, tuy không có ghi ngày, nhưng mở đầu bức thư, ông có ghi ngày viết là ngày lễ Daria tức là 25 tháng 10.
Ở hàng trên cùng hay dòng thứ nhất của bức thư nầy, có ghi dòng chữ Bồ " Ao Pe Philipe Marino " ( Gửi cho cha Philipe Marino - Marini), dòng thứ hai ghi bằng chữ La Tinh " Pax Christi " ( Bằng an chúa Ky-tô), từ dòng thứ ba trở đi là chữ Quốc ngữ.( 6)
Nội dung bức thư nầy, ông nói về tình hình truyền giáo tại Đàng Ngoài, cùng những lời ca ngợi của chính Bento Thiện cũng như của những giáo dân đã nhờ ông chuyển lời thăm hỏi đến Linh mục Marini.
Ngoài ra Bento Thiện cũng có đề cập tới việc Marini nhờ ông viết một số tài liệu về Việt Nam, ông cho biết đã làm xong " hai vở " ( 7 ), và gửi nơi Linh mục Onofre để nhờ chuyển tới cho Marini.
Còn về tập tài liệu (hai vở) ( 8 ), nó gồm có 2 phần, phần trước gồm có : Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy cho đến Trịnh Nguyễn phân tranh, tuy tóm lược nhưng cũng khá đầy đủ, phần nầy gồm có 6 trang khổ 20 x 29 cm. Phần sau cũng gồm có 6 trang cùng khổ giấy, nội dung gồm có : Ghi chép phong tục, tổ chức quan lại, thi cử, tổ chức hành chánh, kể ra các xứ, phủ, huyện, châu, động, xã, thôn ở Đàng Ngoài và phần cuối cùng là tín ngưỡng.
Những tài liệu nầy có chụp hình và in lại trong quyển Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659 của Linh mục Đỗ Quang Chính, nói chung thì chữ Quốc ngữ viết vào thời kỳ nầy rất khó đọc, chỉ có chừng 50% là có tự dạng giống như ngày nay.
Qua những lời lẽ viết trong thư của Văn Tín và Bento Thiện cho chúng ta thấy rằng, sự diễn đạt bằng Quốc ngữ thời ấy không được suông sẻ, dữ kiện nầy không thể kết luận rằng trình độ văn hóa của người viết kém, vì Bento Thiện đã viết được lịch sử Việt Nam ... chẳng qua chữ Quốc ngữ chưa được phổ biến, chưa có quy củ để có thể diễn đạt tư tưởng dễ dàng, trong sáng, cho nên câu văn kém văn hoa.
5. Thời kỳ của Pièrre Joseph Georges Pigneau de Béhaine và J. L. Tabert.
a. Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine (1741-1799)
Ông là Giám mục d'Adran, người Pháp thuộc dòng Thừa sai, trong thời gian ở chủng viện Virampatman gần Pondichéry (Ấn Độ), ông có nghiên cứu về Khổng Mạnh và có soạn bộ tự vị Việt - La tinh (Dictionarium Annamatica - Latinum). Bản sao ghi năm 1772, còn lưu trử tại văn khố của hội Thừa sai Paris. Sách chưa kịp in ra thì ông mất.
b. J. L. Tabert (1794-1840).
Giám mục Tabert cũng thuộc dòng Thừa sai, ông có ở Sàigòn và soạn hai quyển tự vị : Dictionarium Annamatico - Latinum và Dictionarium Latino - Annamaticum, theo các nhà nghiên cứu như Adrien Launay, Linh mục Lepold Cadière đều cho rằng Tabert đã dựa vào công trình của d'Adran để soạn thảo. Quyển Dictionarium Annamatico - Latinum (Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng) được ấn hành do nhà Serampore, Extypis J. C. Marshman năm 1838.
Đến thời kỳ nầy các phụ âm đầu bl (blõ : trở), ml (mlòy: lời), tl (tlẽi : trẩy) vận cản /~/ (oũ : ông) đều được cải tiến như tự dạng ngày nay.
Nói chung đến thời kỳ nầy, chữ Quốc ngữ đã hoàn bị, hay nói khác hơn là chữ Quốc ngữ trong quyển Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng của Linh mục Tabert và chữ Quốc ngữ ngày nay không mấy khác biệt, và chữ Quốc ngữ cũng chỉ là phương tiện truyền giáo, cũng giống như tình trạng trước kia, nó chỉ được phổ biến giữa các giáo sĩ truyền giáo ở Việt Nam và một số rất ít giáo dân người Việt.
Phải đợi đến năm 1866, năm quyển " Chuyện Đời Xưa " của Trương Vĩnh Ký ra đời, chữ Quốc ngữ mới được phổ biến với mục đích truyền bá cho người Việt, và phải đợi đến năm 1882, nhà cầm quyền Pháp ban hành Nghị định, bó buộc các viên chức hành chánh xã thôn trong khắp cõi Nam Kỳ, phải thông hiểu chữ Quốc ngữ, nó đánh dấu thời điểm chữ Quốc ngữ được sử dụng chính thức tại miền Nam. Như vậy, từ khi manh nha cho đến khi được dùng làm văn tự chính thức trên vùng đất thuộc địa của Pháp, chữ Quốc Ngữ phải trải qua một thời gian trên hai thế kỷ rưỡi để hoàn thiện cấu trúc tự dạng.
C. Kết Luận
Do các Linh mục dùng chữ Quốc ngữ, để truyền bá đạo Thiên chúa, thực dân Pháp sử dụng chữ Quốc ngữ thành công cụ cai trị. Người miền Nam sống trên dải đất Nam Kỳ tuy mới thành lập, nhưng họ cũng đã chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Phật, Khổng hay Lão, lại có cá tính hào hùng, cho nên những người yêu nước, người bình dân chống lại việc học chữ Quốc ngữ nầy, tinh thần ấy được ghi lại trong Ca dao:
Khuyên anh về học lấy chữ Nhu, ( 9 ) Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
Biết được tiến trình hình thành của chữ Quốc ngữ, chúng ta mới hiểu rằng không phải chỉ có Linh mục Đắc Lộ, là người có công sáng chế ra chữ Quốc ngữ, mà trước đó còn có nhiều người khác, gồm các giáo sĩ Tây phương vàngười Việt Nam.
Phải đợi đến những nhà văn tiền phong như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của, sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc truyền bá chữ Quốc ngữ, trong đó Huình Tịnh Của soạn quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in năm 1896. Họ đã là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên phong sau nầy về các địa hạt: báo chí, dịch truyện tàu, viết tiểu thuyết và ngay cả phong trào thơ mới cũng bắt đầu từ miền đất Nam Kỳ nầy.
Huỳnh Ái Tông Memoiry Day 2000 Source : Hậu Giang * (1). Chữ Nôm là mượn âm Hán Việt để ghi âm tiếng Việt.
(2). Christofora Borri đến Đàng Trong năm 1618, ông theo Linh mục Buzomi và Pina đến lập cơ sở ở Nước Mặn, ông rời Đàng Trong năm 1621 về Áo Môn, rồi sau đó về Âu Châu.
(3). Borri, Relation della nuova missione delli PP. della Compania di Giesu, al regno della Cocincina, scritta dal Padre Christoforo Borri, Milanese della medesima Compania, Roma, 1631 ( Sự liên hệ về giáo đoàn mới của các linh mục Dòng Tên, ghi bởi linh mục Christoforo Borri người Milan thuộc giáo đoàn nầy).
(4). Võ Long Tê, Lịch sử Văn học công giáo Việt Nam, Tư Duy, Sàigòn 1965 trang 192-193.
(5). Đỗ Quang Chính Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659, Ra Khơi, Sàigòn 1972, trang 92-98.
(6). Sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 100-107
(7). Bento Thiện gọi là 2 vở, đó là 2 tập vở. Xưa kia chuyển vận Âu- Á bằng đường thủy, có lẻ sợ bị nạn đắm tàu, nên sao thêm 1 tập, để gửi 2 chuyến tàu khác nhau, cho nên tuy 2 nhưng chúng chỉ là một, ngày nay cả 2 tập vở ấy, tồn trử tại Văn Khố Dòng Tên ở La Mã.
(8). Sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 108-109 và phụ lục.
(9). Chữ Nhu là âm Hán Việt, âm Nôm đọc là Nho, chỉ cho chữ Hán
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 16:42:38 GMT 9
Các nhà văn quốc ngữ tiền phong (Phần 1)
Huỳnh Ái Tông
Những nhà văn quốc ngữ tiên phong là những người đã dùng chữ quốc ngữ để phổ biến văn chương, học thuật trước tiên mà cũng là những người hô hào truyền bá chữ quốc ngữ đến đại chúng vào thời kỳ sơ khai. Những nhà văn tiền phong ấy là Trương Vĩnh Ký, Hình Tịnh Của, Trương Minh Ký, đã sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc truyền bá chữ quốc ngữ. Trong đó Trương Vĩnh Ký soạn và cho in ra Chuyện Đời xưa năm 1867, còn Huình Tịnh Của soạn quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in năm 1895. Họ đã là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên phong sau nầy.
1. Sự Đóng Góp Của Các Nhà Văn Tiền Phong
Trương Vĩnh Ký đáng được người đời tôn vinh lên hàng bác học như người ta đã làm, chính ông là học giả, là nhà văn tiền phong đã nhìn thấy khả năng chữ Quốc ngữ và ông đã phổ biến chữ Quốc ngữ đến quảng đại quần chúng.
Trước ông, chưa có ai làm việc nầy, cho đến thời đại của ông và công việc ông làm, cho thấy chữ Quốc ngữ đã được công chúng dùng đến. Như vậy nó đã được phổ biến chớ không phải chờ đợi đến người Pháp, người Pháp chỉ là kẻ nhúng tay vào cho nó tiến nhanh, ngõ hầu giúp cho việc cai trị của họ được dễ dàng. Cho nên người bình dân chống đối thực dân Pháp, cũng ngấm ngầm chống lại việc học chữ Quốc ngữ, nên trong mới có Ca dao trên.
Như đã nói, các nhà văn tiên phong gồm có : Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của và Trương Minh Ký. Trong phần nầy, trước tiên chúng tôi muốn dành một chỗ xứng đáng cho học giả Trương Vĩnh Ký, vì ông chính là người tiền phong dùng chữ Quốc ngữ và cổ vũ cho phong trào học Quốc ngữ.
a) Trương Vĩnh Ký (1837-1898)
Tên thật của ông, là Trương Chánh Ký sau đổi thành Trương Vĩnh Ký, tên thánh là Jean Paptiste, tên chữ là Pétrus, tự Sĩ Tải. Vì vậy người ta thường viết tên ông là Pétrus Jean Paptiste Trương Vĩnh Ký, sanh ngày 6 tháng 12 năm 1837 tại làng Vĩnh Thành (tục danh Cái Mơn), tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoằng An, tỉnh Vĩnh Long, sau nầy thuộc tỉnh Bến Tre. Ông là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Thi và Nguyễn Thị Châu, năm 1842, được 5 tuổi, ông học chữ hán với ông giáo Học. Năm 1847, cha ông qua đời trong khi trấn nhậm ở một vùng gần Nam Vang (Phnom Penh), có lẽ sau đó, mẹ ông giao ông cho giáo sĩ Tám, với sự dìu dắt của vị giáo sĩ nầy, ông học chữ Quốc ngữ, sau đó giáo sĩ Tám mất, có nhà truyền giáo người Pháp tên Việt là linh mục Long, đem về nhà dòng chánh ở Cái Nhum (Bến Tre) cho học chữ La tinh.
Dưới triều vua Minh Mạng, năm 1835 hạ Chiếu cấm đạo, nên năm 1848, Linh mục Long đưa Trương Vĩnh Ký qua học tại Trung Học Pinhalu ở Campuchea, đây là trường đạo dành để dạy học trò người Việt, Miên, Lào, Thái Lan, Miến Điện và Trung Hoa , nhờ ở chung với học sinh các nước Đông Nam Á mà ông học nói và viết thông thạo các ngôn ngữ kể trên.
Năm 1851, Trương Vĩnh Ký theo Linh mục Long qua họctại Tổng Chủng Viện Viễn Đông Quốc Ngoại Truyền Giáo ở Poulo-Pénang (Hạ Châu). Trong 6 năm theo học ở Pénang, ông đã học về văn chương, khoa học, triết lý qua chữ La tinh, và ở tại đây, công có dịp học thêm các ngôn ngữ Pháp, Anh, Hy Lạp, Ấn Độ và Nhật.
Năm 1858, được tin mẹ mất, ông rời Poulo-Pénang trở về Cái Mơn, năm nầy ông được 21 tuổi. Hai năm sau, qua sự giới thiệu của Linh mục Lefèvre, Trương Vĩnh Ký ra làm thông ngôn cho Đại úy Jauréguiberry. Năm 1861, ông lập gia đình với bà Vương Thị Thọ rồi lập gia cư ở Chợ Quán (nay ở ngay tại góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng, quận 5 Sàigòn). Năm 1862, ông bị chuyển ra làm việc ở Huế.
Năm 1863, Trương Vĩnh Ký được Pháp phái theo sứ bộ Nam triều do Phan Thanh Giản làm Chánh sứ, phái bộ sang triều kiến Pháp hoàng Napoléon III. Nhờ sứ trình nầy, ông có dịp viếng các nước Anh, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ai Cập, Ý, La Mã. Tại La Mã, ông được Giáo hoàng Pio IX tiếp kiến, còn trong lúc ở Paris, ông kết thân với các nhà thông thái, danh vọng nước Pháp như Paul Bert, Duruy, Littré ... Ông được cử vào Hội viên của hội chuyên khảo về Nhân loại, và hội chuyên học tiếng Đông phương.
Từ năm 1886-1888, Trương Vĩnh Ký được bổ nhậm chức Giám đốc và dạy ngôn ngữ Đông Phương ở Trường Thông Ngôn ( Collège des Interprètes).
Ngày 16-9-1869, ông được Thống soái Nam Kỳ Ohier bổ nhiệm Chánh Tổng Tài tờ Gia Định Báo. Ông đã điều hành tờ báo nầy cho đến năm 1872, Năm nầy ông được thăng Tri Huyện và được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường Sư Phạm (Ecole Normal). Năm 1874, ông là giáo sư dạy chữ Quốc ngữ và chữ hán ở Trường Hậu Bổ (Collège des Stagiaires).
Từ 1866-1886, khoảng thời gian 20 năm nầy, ông chuyên về vấn đề văn hóa và giáo dục. Nhưng năm 1886, người bạn cũ của ông là Paul Bert sang làm Thống Đốc Nam Kỳ, vì tình bạn ông đã bước sang sân khấu chánh trị, một bước phù du mà cuối cùng cuộc đời ông nghèo nàn, danh vọng một thời đã mai một!
Trước tiên Paul Bert lấy tình thân hữu nhờ ông giúp cho vài việc liên lạc với triều đình Huế (1), sau sung Cơ Mật Viện và làm Giám quan, cố vấn cho vua Đồng Khánh.
Ngày 11-11-1887, Paul Bert mất, ông có dịp rời khỏi sân khấu chánh trị mà cả phía Pháp cũng như quan lại Nam triều, kẻ không tin cẩn, người lại không ưa ông. Trở về nhà, ông sáng tác và vui thú văn chương.
Trương Vĩnh Ký thiết tha với nền văn học Quốc ngữ, đọc Ý sáchChuyện Đời Xưa để thấy rõ hoài bão của ông:
Kêu rằng chuyện đời xưa, vì nó là những chuyện kẻ lớn trước ta bày ra để mà khen sự tốt, chê sự xấu cho người ta sửa cách ăn, nết ở cho tử tế.
Ta cũng có thêm một hai chuyện thiết tích mà có ý vị vui, dễ tức cười, cũng để cho người ta thấy khen mà bắt chước, thấy chê mà lánh.
Góp nhóp trộn trạo chuyện nọ chuyện kia, in ra để cho con nít tập đọc chữ quốc ngữ, cũng là có ý cho người ngoại quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen.
Nay ta in sách nầy lại nữa: vì đã hết đi, cũng vì người ta dùng sách nầy mà học tiếng, thì lấy làm có ích. Vì trong sách ấy cách nói là chính tiếng An Nam ròng, có nhiều tiếng nhiều câu thường dùng lắm. P.J.B. Trương Vĩnh Ký
Năm 1888, ông xuất bản một nguyệt san lấy tên là Thông Loại Khóa Trình ( Miscellanées ou lectures intructives pour les éleves des écoles primaires, communales et cantonales et les familes), nguyệt san nầy số 1 không có ghi ngày tháng xuất bản, chỉ có ghi năm 1888, từ số 3 trở đi có ghi thêm Juillet 1888 và các số sau ghi mỗi số một tháng kế tiếp. Như vậy số 1 có thể ra vào tháng 5 (Mai) 1888 và số sau cùng là số 18 năm 1889, in khổ 16cm X 24cm, mỗi số có 12 trang.
Sau đây trích trang 3 số 1. ( Có hàng chữ Hán : Thường Bả Nhất Tâm Hành Chánh Đạo)
(Đạo) (Chánh) (Hành) (Tâm) (Nhất) (Bả) (Thường) (2)
Bảo
Coi sách dạy lắm, nó cũng nhàm; nên phải có cái chi vui pha vào một hai khi, nó mới thú.
Vậy ta tính làm ra một tháng đôi ba kì, một tập mỏng mỏng nói chuyện sang đàng, chuyện tam hoàng cuốc chí, pha phách lộn lạo xào bần để cho học trò coi chơi cho vui. Mà chẳng phải chơi không vô ích đâu, cũng là những chuyện con người ta ở đời nên biết cả. Có ý có chí thì thì lâu nó cũng thấm, như là trí con trẻ còn đang sáng láng sạch sẻ, tinh thần còn minh mẫn, tươi tốt như tờ giấy bạch, như sáp mềm, vẽ vời, uốn sửa sắc nào thế nào cũng còn đặng: tre còn măng dễ uốn, con còn nhỏ dễ dạy.
Phép học là trước học lễ sau học văn; được cả hai ấy mới ra con nhà gia giáo, biết phép tắc, lễ nghi, can thường, luân lý, biết chữ nghĩa văn chương, kinh sử, truyện cổ tích cổ kim ấy là đấng đợt con người tử tế: ở đời dù sao cũng chẳng nao, chẳng mếch: vì hể người (Đạo) (Tâm) ( Nhân) đạo tâm nhơn, người (Hiếu) (Tâm) Nhân) hiếu tâm nhơn, người (Hảo) (Tâm) (Nhân) hảo tâm nhơn, và người (Thiện) (Tâm) (Nhân) thiện tâm nhơn thì (Hoàng) (Thiên) (Bất) (Phụ) hoàng thiên bất phụ. Lấy đó làm mực mà ở thì nên, vì trời đất không lầm (Thiên) (Địa) (Bất) (Thác) thiên địa bất thác. Hãy cứ thường nắm một lòng làm đạo chính thì sẽ qua truông đời xống (3), xống bình an vô sự. P. Trương Vĩnh Ký
Chẳng những Trương Vĩnh Ký là một nhà văn tiền phong xứng danh của nền văn học chữ quốc ngữ mà ông còn là một học giả rất nổi tiếng, ông đã được các vinh dự:
1-10-1863: Lãnh huy chương Dõng sĩ cứu thế của Tòa thánh La Mã. 27-6-1886: Lãnh huy chương Isabelle la Catholique của Tây Ban Nha. 15-2-1876: Được cử làm hội viên Hội chuyên khảo về Văn hóa Á Châu. 07-7-1878: Được cử làm hội viên Hội chuyên học địa dư ở Paris. 17-5-1883: Lãnh huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhị đẳng của nước Pháp. 17-5-1886: Lãnh Tứ đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long Khánh của Nam triều. 04-8-1886: Lãnh Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng của nước Pháp. 03-6-1887: Lãnh Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của nước Pháp.
Ông cũng có lãnh Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Hoàng Gia Cam Bốt. Vua Đồng Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm Viện thị giảng học sĩ. Vua Khải Định ban hàm Lễ Bộ Tham Tri. Vua Bảo Đại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư.
Trong khoảng năm 1873-1874, ông được liệt vào hàng thế giới thập bát văn hào, xếp theo mẫu tự như sau :
Bác sĩ Allemand, Banadona d" Ambrum, Bonhomme (Honoré), Cazot (Jules), Đại tướng Chambron, Bá tước Chambord, Christophie (Albert), Conte (Casimir), Desmaze (Charles), Duprat (Pascal), Dupuy (Charles), Garnier-Pages, Guizot, Lafayette (Oscar de), Lefèvre-Pontalis (Amédée), Marcon, Pétrus Ký, Thống chế Saldonha Oliveirae Daun.
Cộng tác với Pháp, nhưng chắc chắn Trương Vĩnh Ký không thích con đường chính trị, ông lại thiết tha với nền văn học chữ quốc ngữ, ông có chủ đích quay về sự nghiệp văn chương của mình, khi Paul bert mất, ông không ngần ngại từ bỏ sân khấu chánh trị, trở lại nghề dạy học, viết sách dạy các thứ tiếnng Đông phương, về phương diện nầy, ông là nhà ngôn ngữ học quảng bác, vì ông có thể nói và viết 15 ngôn ngữ Tây phương và 11 ngôn ngữ Đông phương.
Viết sách dạy người Pháp học tiếng Việt và ngược lại, dịch bộ Tứ Thư (Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử), cũng như một số sách chữ Hán ra chữ quốc ngữ, cốt để phổ biến ngôn ngữ và tư tưởng Đông phương, chính ở phương diện nầy chúng ta thấy ông là nhà văn hóa, ở sân khấu chánh trị ông mong tạo sự thông cảm giữa người Việt và người Pháp, giữa những xung đột lớn lao về chánh trị, kinh tế, văn hóa giữa hai nước. Tuy theo đạo Thiên chúa nhưng phải nhận ông vẫn giữ được phong hóa Đông phương, thấm nhuần tư tưởng Khổng Mạnh, điểm nầy chúng ta xem lại bài di huấn của ông viết vào ngày 8-11-1870.
"" Người đời sanh ký tử quy, đàng đi nước bước vắn vỏi lắm. Nhưng ai cũng có phận nấy, hể nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng mình cho xong đã, mới chun vô phòng được. Sự sống ở đời tạm nầy, đỏ như hoa nở một hồi sương sa; vạn sự đều chóng qua hết, tan đi như mây như khóị Nên phải liệu sức, tùy phận mà làm vai tuồng mình cho xong...""
Và sau đây là bài thơ ông sáng tác lúc gần ngày lâm chung :
Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai, Xô đẩy người vô giữa cuộc đời. Học thức gửi tên con sách nát, Công danh rốt cuộc cái quan tài. Dạo hòn, lũ kiến men chân bước, Bò xối, con sùng chắt lưỡi hoài ! Cuốn sổ bình sanh công với tội, Tìm nơi thẩm phán để thừa khai. Ông mất vào ngày 1 tháng 10 năm 1898, thọ 61 tuổi. Mộ của ông hiện ở góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng Sàigòn, trong khuôn viên nhà của ông ngày xưa ở Chợ quán. Thời Pháp, tưởng nhớ công nghiệp của ông, người ta đúc tượng ông, một người nho nhã mặc quốc phục, đầu bịt khăn đống, tay cầm quyển sách, tượng đặt trong khuôn viên trước Bộ Ngoại Giao và Dinh Độc Lập. Tại Thủ đô Sàigòn, Bộ Giáo Dục dành một trường Trung Học Lớn mang tên ông, Trường Trương Vĩnh Ký nằm cạnh Trường Đại Học Khoa Học Sàigòn.
Kê ra những sách và bài của ông đã viết để thấy văn nghiệp của ông đồ sộ, phong phú và đa dạng (4): 1. Năm 1865 : Cours pratique de langue Annamite, à l"usage du college des interpretes. 2. Năm 1867 : Contes Annamite (Chuyện đời xưa) 3. "" : Abrégé de Grammaire Annamite 4. Năm 1872 : Grammaire Francaise (Mẹo Luật dạy tiếng Lang sa) 5. Năm 1875: Petit cours de Geographie de la Basse-Cochinchine 6. "" : Histoire Annamite en vers (Đại Nam quốc sử diễn ca) 7. "" : Cour de Langue Annamite (autographié) 8. "" : Cour de Langue Mandarine ou de Caractes Chinois (autographié) 9. "" : Kim Vân Kiều-Poème transcrit pour la première fois en quốc ngữ avec des notess explicatives, précédé d"un résumé succinet du sujet en prose et suivi de quelques pièces de vers relatives à la même histoire. 10. Năm 1876: Manuel des Écoles Primaires-(Syllabaire quốc ngữ, Histoire Annamite, Histoire Chinoise (en ananmite) 11. "" : Quatre livres classiques en caractères Chinois et en annamite (autographié) 12. "" : Alphabet quốc ngữ 13. Năm 1877: Sơ học vấn tân Répertoire pour les nouveaux étudiants en caractères 14. Năm 1879: Cour d" Histoire Annamite, en 2 volumes 15. Năm 1881: Voyage au Tonkin en 1876 (Chuyến đi ra Bắc kỳ năm Ất hợi) 16. "" : Retraite et Apothésose de Trương Lương. 17. "" : Les convenances et les Civilités Annamites. 18. Năm 1882: Saigon d"autrefois. 19. "" : Saigon d"aujourd"hui. 20. "" : Passe-temp (Chuyện khôi hài) 21. "" : Apologie de Trương Lương (Trương Lương hầu phú) 22. "" : Événement de la vie (Kiếp phong trần, 3è edition) 23. "" : Fais ce que doit , advienne que pourra (Bất cượng) 24. "" : Devois des Filles et des Femmes. 25. "" : La Bru (Thơ dạy làm dâu) 26. "" : Défaut et Qualités des Filles et des Femmes. 27. Năm 1883: Guide de conversation Annamite Francaise (Sách tập nói tiếng An-nam Phangsa) 28. "" : École domestique ou un Père et à ses Enfants. 29. "" : Caprises de la Fortune (Thạnh suy bỉ thời phú) 30. "" : Procription des Corbeaux (Bài hịch con quạ) 31. "" : Un lettré pauvre (Hàn nho phong vị phú) 32. Năm 1884: Grammaire de la Langue Annamite (Sách mẹo tiếng Annam) 33. "" : Tam tự kinh. 34. "" : Sơ học vấn tân. 35. "" : La Digne (Mắc cúm từ) 36. "" : Jeux et Opium (Cờ bạc, nha phiến) 37. "" : La Bucheron et la Pêcheur (Ngư tiều trường điệu) 38. "" : Huấn mông ca Transcription et traduction en annamite et en francais. 39. Năm 1885: Alphabet Francais pour les Annamite. 40. Năm 1886: Conférence sur le Souvenir histoirique de Saigon et de ses environs. 41. "" : Cours de la Langue Annamite aux Européens-Phrasélogie-Thèmes versions. 42. "" : Cours d"Annamite aux Élèves Européens-Explication du Lục Vân Tiên 43. "" : Cours d"Annamite aux Élèves Annamites-Explication du Lục Vân Tiên 44. "" : Prosodie et Versification Annamite-Cour d"Annamite aux Élèves Annamite. 45. Năm 1886: Dispute de Mérite entre les six Animaux domestique (Lục súc tranh công) 46. "" : Maitre et Élève sur la Grammaire Francaise (Thầy trò về mẹo luật tiếng Phangsa). 47. "" : Kim Vân Kiều en prose-Converti et commenté en langue vulgaire pour les Élèves Annamite. 48. "" : Théâtre, Comédies, Chants, Chansons Annamite(Hát lý hò Annam) Cours aux Elèves Annamite. 49. Năm 1887: Cours de caractères Chinois, 2è année-Explication du Mencius, Thèmes, Versions et explication des pièces officielles. 50. "" : Vocabulaire des Mot usueles, Noms et termes Techniques, Scientifiques, et Administratifs. 51. "" : Livres Élémentaire de 3.000 caractères (Tam thiên tự giải nghĩa). 52. "" : Résumer de la Chronologie de l"Histoire et de la Production de l"Annam en Tableau Synoptiques (Ước lược sự tíchnước Nam) 53. "" : Précis de Géographie 54. "" : Les six Annimeaux domestiques (Lục súc) 55. Năm 1888: Đại Nam thập nhứt tỉnh thành đồ. 56. "" : Miscellanées ou Lectures instructives pour les Élèves des Écoles primaire, communales et cantonales et les Familles. 57. Năm 1889: Poème populaire (Lục Vân Tiên) 58. "" : Poème populaire (Phan Trần) 59. "" : Cours de Siamois 60. "" : Cours de Langue Malaise, professé et autographié jusqúà là 7è lecon. 61. "" : Đại Nam tam thập nhứt tỉnh địa đồ 62. "" : Quatres Livres classiques en Caractères Chinois et en Annamite-Grande Étude Invariable Milieu. 63. "" : Grand Dictionnaire Annamite Francaise-1er feuille comme spécimen 64. Năm 1890: Cours de Cambodgien (Ecriture et langue) 65. "" : Vocabulaire du Cours d"Annamite. 66. "" : Vocabulaire du cours de Caractères Chinois. 67. Năm 1891: Cours de Littérature Chinoise. 68. "" : Cours de Littérature Annamite. 69. "" : Programme Générale d"Études des les Écoles Annamites. 70. "" : Modèles des Pièces officielles et administratives en caractères. 71. "" : Généalogie de la Famille de P. Trương Vĩnh Ký. 72. "" : Sĩ viên thi thảo. 73. "" : Recueil de Brochures sur l"histoire de la littérature annamite, relié. 74. Năm 1894: Cours d"Annamite parlé (vulgaire) 75. "" : Grand Dictionnaire Francais-Annamite (invachevé) 76. ( 5 ) : Grammaire de la Langue Chinoise (Mẹo chữ Nhu) 77. "" : Grammaire Annamite en Annamite (Mẹo tiếng Annam) 78. "" : Langage de la Cour en Extrême-Orient 79. "" : Vocabulair Francais-Malais 80. "" : Guide de la Conversation Malaise-Francaise 81. "" : Vocabulair Francais-Cambodgien 82. "" : Guide de la Conversation Cambodgienne-Francaise 83. "" : Vocabulaire Francais-Siamois 84. "" : Vocabulaire Siamoise-Francaise 85. "" : Cours de la Langue Birmane 86. "" : Vocabulaire Birman-Francais 87. "" : Guide de la Conversation Birmane-Francaise 88. "" : Cours de Ciampois 89. "" : Vocabulaire Ciampois-Francais 90. "" : Guide de la Conversation Ciampoise-Francaise 91. "" : Cour de la Langue Laotienne 92. "" : Vocabulaire Laotien-Francais 93. "" : Guide de la Conversation Laotienne-Francaise 94. "" : Cours de la Langue Tamoule 95. "" : Vocabulaire Tamoul-Francais 96. "" : Guide de la Conversation Tamoule-Francaise 97. "" : Cours de la Langue Indoustane 98. "" : Vocabulaire Indoustan-Francais 99. "" : Guide de la Conversation Indoustane-Francaise 100. "" : Minh tâm-La précieux Miroir du Coeur (en 2 vol) 101. "" : Cours de la Géographie de l"Indochine avec carte générales et partiuculières en six parties: 1. La Cochinchine-francaise, 2. L"Annam central, 3. Le Tonkin, 4. Le Cambodge, 5. Le Siam, 6. La Birmanie. 102. "" : Cours d"Annamite écrit (Mandrin ou de caractères chinois) 103. "" : Mencius-(Quatre Livres) No 3 104. "" : Luận ngữ (Quatre Livres) No 4 105. "" : Dictionnaire Chinois-Francais-Annamite. 106. "" : Annam Politiqye et Social 107. "" : Dictionnaire biographie Annamite (ou De Viris illustribus regni Annamitici) 108. "" : Flore Annamite 109. "" : Produits de l"Annam 110. "" : Dictionnaire Géographie Annamite. 111. "" : Les Droits de l"Annam dans la Vallée du Mékong (Mémoire sur) 112. "" : Recueil de Chansons populaire Annamites 113. "" : Recueil d"Oraisons funèbres Annamites 114. "" : Recueil de pièces de théâtre Annamite 115. "" : Sujets Histoiriques des Poèmes Annamites 116. "" : Étude comparée sur les Langues, Écritures, Croyances, et Religions des Peuples de l"Indochine. 117. "" : Combinaisiondes systèmes d"écritures idéographique, hiérogkyphique, phonétique, alphabétique 118. "" : Étude comparée des Langues et des Écritures des trois branches linguistique. 119. Năm 1937: Petit Dictionnaire Francais-Annamite à l"usage des écoles et des bureaux.
Sau khi kê các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, chúng ta thấy khoảng thời gian 33 năm với 119 tác phẩm chúng ta được biết đến, có thể có những tác phẩm đã bị thất lạc nên không có trong danh sách nầy.
Văn nghiệp để lại đồ sộ, phong phú, đa dạng, gồm nhiều địa hạt như : Triết học, Văn học, Sử học, Địa lý... Riêng về ngành ngôn ngữ học, ông đã viết nhiều sách dạy tiếng Á Châu như : Trung Hoa, Lào, Kam pu chia, Thái Lan, Miến Điện, Mã lai, Ấn Độ chứng tỏ ông là nhà thông thái hiếm có, danh tiếng của ông chẳng những chỉ có ở trong nước mà còn có ở nước ngoài thời bấy giờ.
Cho nên về văn học chữ quốc ngữ, Pétrus Trương Vĩnh Ký thật xứng danh là một nhà văn tiền phong.
Trích Văn: CƯƠNG TỪ THỨC TRUYỆN ( 6)
Năm Quang-thái đời Trần, ở trong xứ Hóa-châu (Huế, ngũ quang) có tên Từ-Thức vốn dòng-trâm anh. Cha người xưa dự bực công khanh, nhờ ơn vua nên mạng tù thân, làm quang Tể-huyện coi hạt Tiên-du. Gần miền có một chùa tên là Lam-tích, góp thâu cảnh bầu thiên, mẫu-đơn một đóa sen mấy nhành, tiếng đồn khắp hết gần xa, trẻ già náo-nức yến anh dập diều.
Từ-Thức cũng ra đi coi cho biết, tới nơi hoa mẫu-đơn, bỗng đâu xảy gặp một người xinh tốt lịch-sự quá chừng quá đỗi, trên trời cũng ít có, dưới đời thì hản không. Thấy nàng (Giáng-hương) bị kẻ giữ hoa bắt cầm, thì thương mới đòi trẻ tùy-nhi mà biểu nó đi hỏi vì cớ làm sao làm vậy? Người ta nói nàng coi hoa nên bị bắt. Từ-Thức rằng trọng vọng gì thứ ấy, mà khách tiên phải tay phàm nhủm-nha như vậy. Bèn bước tới cổi áo gấm ra cho thằng canh, mà xin tha cho nàng đi.
Nàng tiên cám ơn Từ-Thức hết lòng. Rồi từ tạ trở về cõi tiên. Chàng Từ-Thức từ ấy những thương những nhớ luôn luôn, nên buồn đi chơi mãi, những say cảnh vật thú vui. Sau treo ấn-tín từ chức quờn đi. Sắm thuyền tớ thầy đi lưu-linh dạo cảnh chơi, đụng hang nào ghé hang nấy coi; khỏi Xích-bích tới Viên-đào, trải qua non nước khắp nơi. Ngày kia trông ra cửa Thần-phù, (7) ngoài xa biển, ở bắc quấc chạy qua nam phương, mới nói với nàng Giáng-hương mà xin về thăm quê đặng có phú trối việc nhà cho an rồi hãy trở lại non tiên mà ở mãn kiếp cùng nhau. Nàng Giáng-hương mới năn nỉ cầm ở lại, mà chàng Từ-Thức rằng-rằng quyết một xin về. Đem nhau vào chầu chúa Tiên coi thử người phán dạy lẽ nào. Chúa tiên phán rằng chàng còn lòng tục chưa dời, còn nhớ tưởng sự đời bấy lâu thì thôi, về thì cho về, cho xe tiên đưa về. Giáng-hương mới trao một bức thơ phong làm của đưa chàng.
Chàng Từ-Thức cầm thơ từ tạ ra về. Tới nơi thì đã vật đổi sao dời khác xưa. Tìm nhà nhà chẳng còn; tìm người, người những mặt lạ cả; không thấy lấy một người quen, hỏi ông bà già cả, thì nói không biết, nói tên nói họ ra cũng không ai biết; các ông già nói: từ thuở nhỏ có nghe nói tên ấy họ ấy mà biết đã mấy đời rồi bây-giờ còn ở đâu mà tìm?
Từ-thức ngơ ngáo không biết làm sao, muốn trở lại non tiên cùng nàng Giáng-hương, hay đâu sự dở-dang ra rồi; xe mây đưa mình nó đã đi mất đi. Một mình bơ vơ ngao ngán, mới mở thơ ra mà coi, thì biết đã đành cách-biệt, không còn lẽ trở lại nữa được. Thở than than thở ra đi, chun vào ở núi Huỳnh-sơn, ở ăn đó làm sao thì biệt tích không rõ đặng. (Miscellanées No 8 Decembre 1888, trang 15-16)
ĐỐI ĐƯỢC VỢ
Anh học trò khó lịch-sự bảnh bao người, đi khuyên giáo, tới nhằm cái nhà kia giàu có. Trong nhà thợ đương làm ầm ầm ạc ạc, cũng có tiếng thầy lang ( thầy thuốc) với thầy pháp tới đó nữa.
Con gái nhà ấy đã đúng tuổi chưa có chồng, thấy vậy thì thương, ra nói rằng: "" Thôi đừng có đi khuyên giáo làm chi mà xấu hổ đạo học trò, để tôi ra cho một câu đối, ai đáp được trúng ý tôi thì tôi sẽ lấy người ấy làm chồng.
Ai nấy nghe ham chợp rợp. Xin ra câu đối đi. Cô ấy ra rằng: "" Đế Nghiêu, đế Thuấn, đế Võ; Võ, Nghiêu, Thuấn, tam đế truyền hiền "". Chú thợ mộc hớp tớp đối lại rằng: "" Bào rà, bào tách, bào xoi; xoi, rà, tách, ba bào phạt mộc "". Thầy pháp cũng nóng đối rằng: "" Lôi thiên, lôi tướng, lôi bồng; bồng, thiên, tướng, tam thiềng trừ quỉ "". Thầy chùa xen vào đối rằng: "" Bồ đề, bồ Tát, bồ lương; lương, Đề, Tát, tam bồ cứu khổ "". Thầy lang lại đối rằng: "" Huỳnh cầm, huỳnh bá, huỳnh liên; liên, cầm, bá, tam huỳnh giải nhiệt "". Anh học trò lịch ịch ở sau, đối rằng: "" Vương Văn, Vương Khải, Vương Thang; Thang, Văn, Khải, tam vương kế thánh.
Đối trúng ý, trúng đề, cô ấy chấm được.
May cha chả là may; sẵn nhà, sẵn cửa, sẵn cơm, sẵn gạo; nhảy phóc vô đó một cái, sướng đã nên sướng ! (Chuyện khôi hài - Passe-temps - bài số 9)
Huỳnh Ái Tông (1) Nhân Loại bộ mới số 4 ngày 15-10-1958 trang 30-32 (2) Chúng tôi dùng chữ trong ngoặc thay cho chữ Hán. (3) Chúng tôi để nguyên văn, không sửa chữa chánh tả, xống: sống (4) Chép theo Petite Dictionnaire Francais-Annamite.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 16:45:03 GMT 9
Tiết 1: Ðại Cương
Ở chương trước, chúng ta biết chữ quốc ngữ hình thành khởi đi từ các nhà truyền giáo Ðàng Trong cũng như Ðàng Ngoài, rồi lần lượt chữ quốc ngữ được phổ biết trong giới Thiên chúa giáo, chữ quốc ngữ thời ấy là phương tiện truyền giáo. Cho đến khi Pháp đặt chân lên miền Nam, thì chữ quốc ngữ được dùng làm phương tiện đô hộ dân Việt Nam ta. Từ đó chữ quốc ngữ có cơ hội tiến triển mạnh mẻ, được phổ biến, truyền bá đến quảng đại quần chúng. Các nhà văn tiền bối như Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của, Trương Minh Ký đã dịch các tác phẩm Nho giáo, soạn tự vị, in các tác phẩm văn chương Việt Nam, truyện đời xưa, nhằm mục đích truyền bá tư tưởng Khổng Mạnh, phổ biến văn chương Việt Nam và chữ quốc ngữ.
Trước hết là Báo Chí, khởi đầu là tờ Gia Ðịnh Báo ra ngày 15-4-1865, kế đó là Phan Yên Báo ra năm 1868, Nông Cổ Mín Ðàm 1901... Sau đó đến thời kỳ thơ như Lục Vân Tiên của Nguyễn Ðình Chiểu do Trương Vĩnh Ký phiên âm ra quốc ngữ năm 1880, sau đó là dịch truyện Tàu vào khoảng năm 1904, còn quyển tiểu thuyết được viết đầu tiên in năm 1887, là quyển Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, rồi quyển Hoàng Tố Oanh Hàm Oan của Trần Chánh Chiếu ra đời năm 1910, nó mới nhen nhúm gây thành phong trào viết tiểu thuyết sau nầy. Các giai đoạn ấy đã tạo thành trào lưu văn học quốc ngữ, nó có sắc thái và truyền thống đặc biệt mang cá tính của người miền Nam.
Chúng ta đi sâu vào chi tiết ở phần sau, tưởng cũng cần nhắc lại chữ quốc ngữ ở miền Bắc được chính thức sử dụng từ năm 1913, sau khi miền Nam đã chính thức sử dụng chữ quốc ngữ trên 20 năm và đã gần nửa thế kỷ truyền bá chữ quốc ngữ.
Tiết 2: Báo Chí
A. Gia Ðịnh Báo Là tờ báo do nhà cầm quyền Pháp chủ trương. Số 1 ra ngày 15-4-1865, do Ernset Potteaux làm Chánh Tổng Tài. Chức vụ nầy có lẽ bao gồm Chủ Nhiệm, Chủ Bút và luôn cả Quản Lý (1).
Từ năm 1869-1872, Trương Vĩnh Ký được cử làm Chánh Tổng Tài.
Từ năm 1872, do J. Bonet làm Chánh Tổng Tài, có lẽ tờ báo đình bản vào năm 1909 (2)
Tờ báo nầy trước tiên mỗi tháng phát hành một số ra vào ngày 15 mỗi tháng, khoảng năm 1870 thì cứ mỗi tháng ra 3 số, về sau cứ mỗi tuần ra 1 số.
Mỗi số báo có 4 trang. Về nội dung, trước tiên chỉ có hai phần: Phần công vụ và phần tạp vụ.
- Phần công vụ: Dụ, nghị định, chỉ thị, thông tư, biên bản Hội Ðồng Quản Hạt (3)...
- Phần Tạp vụ: Lời rao, tin tức, trả lời cho các đương đơn, án Hội Ðồng xét lại ...
Ðơn cử nghị định ngày 16-9-1869 của Thống Soái Nam Kỳ G. Ohier, đăng trên Gia Ðịnh Báo (4) :
"...Kể từ ngày hôm nay, việc biên-tập tờ báo An-nam Gia Ðịnh Báo được giao cho ông Pétrus Trương-Vĩnh-Ký với tư cách Chánh-tổng-tài tờ báo nầy, ông sẽ lãnh một bổng-cấp hàng năm 3.000 phật-lăng (5).
Tờ báo tiếp-tục ra hàng tuần. Nó chia làm hai phần, phần công-vụ gồm các văn-thư, quyết-định của quan Thống Soái và của nhà cầm quyền, nguyên văn bằng tiếng Pháp do Nha Nội-trị cung cấp và ông Trương Vĩnh Ký dịch ra chữ An-nam; phần tạp-vụ gồm các bài có ích cho sự học và vui thích với các bài sử-học, luân-lý, thời-sự để có thể đọc trong các trường bản xứ và làm cho dân chúng An-nam chú ý."
Sau đây là phần công vụ, đăng ở số 3 năm thứ 10, phát hành ngày 1-2-1874, đăng nghị định thăng trật của hai công chức như sau :
Trường Hậu-bổ Sàigòn
Trần Nguyên Hanh làm thông ngôn hạng 3, lên hạng nhì, đồng niên ăn 1.400 quan tiền.
Trường Khải Tường
Trương Minh Ký, nguyên làm thầy dạy giúp hạng ba, lên hạng nhì, đồng niên ăn 1.400 quan tiền.
Về phần tạp vụ, một bài thuộc vào loại phiếm luận ngày nay, đăng trong số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16-2-1870:
Người bên Tàu thường gọi là người Trung-Quốc nghĩa là nước ở giữa vì thuở xưa bên ấy có 18 nước chư hầu; chỗ Kinh thành Hoàng-đế ở lại vô ở giữa các nước chư hầu nên gọi là Trung Quốc.Người bên Tàu thường kêu mình là Ðường-nhơn hay Thanh-nhơn, nghĩa là người nhà Ðường nhà Thanh.An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v...
Người Bắc thì kêu là Ngô, nghĩa là nước Ngô, có kẻ lại cắc nghĩa rằng vì bởi nó hay xưng mình là Ngô nghĩa là tôi.
Kêu Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy.
Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc ...
Còn tin tức, như mẫu tin sau đây, đăng vào Gia Ðịnh Báo số 8 năm thứ 6, phát hành ngày 8-3-1870:
... Có một người tên là Thiện, nhà ở gần chợ Hốc-môn. Tối 12 tháng giêng nầy người ấy xuống ghe mà ngủ, còn vợ con thì để ngủ ở nhà. Vừa đặng một hồi kế lửa phát lên, thím Thiện chạy ra la, làng xóm chạy đến, khuân đồ giùm đặng phân nửa, rồi nhà cháy trụm đi, chú Thiện có tật điếc, vợ kêu, la làng trốc trôn lồi đít, làng xóm khuân đồ tở mở, lửa cháy đùng đùng, mà cho lọt vào tai va thì nhà cửa, tài vật đã ra tro rồi...
Chánh Tổng Tài Trương Vĩnh Ký muốn có những tin tức mới lạ, cùng khuyến khích những thông tín viên tự nguyện, để góp cho Gia Ðịnh Báo được dồi dào tin tức khắp Nam kỳ lục tỉnh, ông đã có lời rao sau đây, đăng trong số 11 năm thứ 6, phát hành ngày 8-4-1870
Lời cùng các thầy thông-ngôn, ký-lục, giáo tập vân vân đặng hay:
Nay việc làm Gia Ðịnh Báo tại Sàigòn, ở một chỗ, nên không có lẽ mà biết các việc mới lạ các nơi trong 6 tỉnh mà làm cho thiên hạ coi; nên xin các thầy cứ mỗi tuần hay nửa tháng phải viết những chuyện mình biết tại chỗ, tại xứ mình ở, như:
Ăn cướp, ăn trộm. Bệnh-hoạn, tai-nạn. Sự rủi-ro, hùm tha, sấu bắt. Cháy chợ, cháy nhà; mùa màng thể nào. Tại sở nghề nào thạnh hơn vân vân
Nói tắt một lời là những chuyện mới lạ, đem vô nhựt-trình cho người ta biết, viết rồi thì phải đề mà gửi về cho Gia Ðịnh Báo Chánh tổng-tài ở Chợ-quán.
Trong tờ báo, như đã nói có phần công vụ và tạp vụ, có những bài không ghi rõ xuất xứ. Trương Vĩnh Ký giải thích phần nầy:
Những kẻ coi nhựt-trình phải có ý cũng hiểu điều nầy là:
Thường những chuyện Tạp-vụ các nơi trong đất Nam-kỳ gửi về cho kẻ coi Gia-Ðịnh Báo, thì có kẻ coi lại, có trắc thì sửa lại cho xuôi cho dễ nghe vì các thầy gửi cho nhựt-trình thì cũng ưng chịu làm vậy; lại cũng để tên các thầy ấy ký lấy vì là của các thầy ấy viết và gửi. Còn như phần công-vụ, các bài nghị-luận quan lớn Nguyên-Soái cùng những khúc chẳng có tên ai đứng là kẻ coi nhựt-trình làm. Mà những khoản thẩm xét án các quan tham-biện hay là trả lời cho kẻ quì đơn, việc nọ việc kia thì của Hội-đồng quan Thống-soái Nam-kỳ luật-vụ làm ra sẵn rồi mà gửi đem vô Gia-Ðịnh Báo, có tên người đứng ký vô đó, thì hể gửi thế nào thì in ra thế ấy mà thôi. Cho nên khi có điều gì không được cho rõ mấy thì xin kẻ coi nhựt-trình chớ trách-cứ kẻ coi việc ấy ...
Cũng có phần văn chương như bài sau đây, đăng trong số 39 năm thứ 19, ngày 13-10-1883:
Nồi Ðất Với Nồi Ðồng
Nồi đồng tính việc đi đàng, Rủ ren nồi đất cùng trang đang thì. Kiếu rằng: Chẳng tiện nổi đi, Ở an xó bếp, không ly góc lò. Vì e sẩy bước rủi ro, Rách lành chịu vậy, đói no vui vầy. Rằng da đấy cứng hơn đây, Phận kia dễ tính, thân nầy khó toan. Ðáp rằng: rủi gặp dọc đàng, "" Vật chi cứng cát cảng ngang không vì. Ðể ta qua bửa lo chi, Bên thì vật ấy bên thì nhà ngươi. Tai nghe nói ngọt tin lời, Chìu lòng bạn hữu bèn dời chân đi. Bước khua lộp cộp dị kỳ ! Xa nhau e sợ, gần thì đụng nhau. Hai nồi đi chẳng đặng mau, Chưa đầy trăm bước đụng nhau rã rời. Hởi ôi Nồi đất rồi đời, Khôn lời năn nỉ, khôn lời thở than. Nơi nghèo khổ, chỗ giàu sang, Ở đời giao kết kẻ ngang vai mình.
Diễn quốc âm Trương Minh Ký
B. Phan Yên Báo
Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng Phan Yên Báo được xuất bản năm 1868, do ông Diệp Văn Cương (6) chủ trương biên tập, về nội dung như Gia Ðịnh Báo lúc đầu, tờ báo nầy về sau bị đóng cửa, vì có những bài báo có tánh cách chánh trị, do vậy mà tờ Phan Yên Báo ngày nay không còn, cũng không rõ nó là nguyệt san hay tuần san.
Có người cho rằng Phan Yên hay Phiên An Trấn là tên cũ của đất Gia Ðịnh và Phan Yên Báo là tờ báo viết bằng chữ Hán do Nguyễn Trường Tộ làm chủ nhiệm.
Qua tiểu sử của Diệp Văn Cương, tờ Phan Yên Báo của ông không thể có vào những năm đầu Pháp mới đô hộ miền Nam, ít ra báo của ông cũng chỉ có từ 1880 hay trễ hơn, còn Phan Yên Báo của Nguyễn Trường Tộ nếu có, chắc không xuất bản ở miền Nam, vì nó là tờ báo chữ Hán.
C. Nhựt Trình Nam Kỳ
Là tuần báo, xuất bản số đầu vào năm 1883
D. Thông Loại Khóa Trình
Nó giống như Gia Ðịnh Báo ở chỗ có hàng chữ Hán Thông Loại Khóa Trình ở trên, bên dưới là hàng chữ Miscellanées, số 1 và 2 không ghi tháng phát hành, số 3 có ghi Juillet 1888, như vậy số 1 có thể ra vào tháng 5 (Mai) năm 1888. Số cuối cùng là số 18 ra tháng 10-1888. Khổ 16cm x 24cm, từ số 1 đến số 3 mỗi số có 12 trang, từ số 4 trở đi, mỗi số có 16 trang. Từ số đầu cho đến số 5, các bài đều không có ghi tên tác giả, nhưng theo bài Bảo (7), những bài ấy đều của Trương Vĩnh Ký viết, kể từ số 6 mới có thêm các bài văn vần, gọi là diễn Nôm của Trương Minh Ký làm để giải nghĩa các câu chữ Nho, có lẽ để cho người ta dễ học thuộc lòng, sau đó mới có bài của những người khác.
Về nội dung gồm có :
Dạy chữ Nhu (chữ Hán) Dạy chữ Pháp (thời bấy giờ gọi là Phang sa hay Lang sa) Giảng nghĩa về luân lý Khảo cứu về thi ca, phong tục. Nhơn vật (danh nhân) Sau đây là các bài trích dẫn: a ) Câu Chữ Nhu(8) ( x x x x x x x x x x x x x x ) (9) Thập phần tinh tinh sử ngũ phần, lưu thủ ngũ phần giữ nhi tôn (x x x x x x x x x x x x x) Thập phần tinh tinh đô sử tận, hậu đại nhi tôn bất như nhân Nghĩa đen:
Mười phần rành rành dùng lấy năm phần, Ðể lại lấy năm phần cho con cháu; Mười phần rành rành đều mình dùng hết, Ðời sau con cháu chẳng như người ta.
Nghĩa là:
Như mình có đặng giàu sang rõ-ràng cả mười phần thì hãy hưởng lấy năm phần mà thôi, để dành lại năm phần sau con cháu hưởng với: vì nếu như mình được mười phần mình hưởng hết đi cả mười, thì đời sau con cháu mình còn gì mà hưởng, té ra sa sút chẳng bằng người ta.
Trương-Minh-Ký diễn ra ca Nôm rằng:
Mười phần rỡ rỡ lấy năm xài, Ðể lại năm phần trẻ gái trai, Rỡ rỡ mười phần đều dùng hết, Ðời sau con cháu dám bì ai.
b ) Một hai câu tiếng Phangsa(10) ( Monsieur,(Bongdur moxơ) = chào ông Bonjour (Madame,( ----""------ madăm) = chào bà (Mademoiselle,(--""--madơmoaxel) = chào cô Comment cela va-t-il? (Còmăng xa va ti) = mạnh-khỏe thế nào ? Cela va bien (xa va biêng) = mạnh khỏe. Où allez-vous ? (u alê vú) = anh đi đâu ? Je vais me promener (dờ ve mơ promơnê) = tôi di dạo
c) Tam Cang Là Những Cang Nào ?(11) là (x) (x) quân thần = vua tôi (=vua với tôi) "" (x) (x) phụ tử = cha con (= cha với con) "" (x) (x) phu phụ = vợ chồng (= vợ với chồng)
(x) (x) (x) (x) quân vi thần cang (vua là giềng tôi) (x) (x) (x) (x) phụ vi tử cang (cha là giềng con) (x) (x) (x) (x) phu vi thê cang (chồng là giềng vợ) Chỉ vua với tôi ở cùng nhau phải cho có đạo, cha với con ở cùng nhau phải cho có tình, chồng với vợ ở cùng nhau phải cho có nghĩa là thuận hòa với nhau.
Ấy là ba giềng cả.
Giềng là mối dây bìa giềng lưới, có nó mới thành tấm lưới, mới chắc cho lưới.
Về Tam Cang(12)
Ở dưới đời, người ta không phép sinh ra mà ở một mình cho đặng. Có cha có mẹ, có anh em chị em, bà con cô bác, có bằng-hữu, thân-quyến. Có vợ có chồng sanh con đẻ cháu ra nối dòng; thành nên gia-thất; nhiều ra, ở lan ra có xóm có làng, có huyện, có phủ, có tỉnh, có xứ, có nước, có ra như vậy thì phải có tôn-ti, đẳng-cấp, nên phải có vua có chúa, có quan có quyền mà cai-trị, gìn-giữ đùm-bọc lấy nhau cho yên nhà vững nước.
Vì vậy phải có đạo tam-cang ràng-rịt vấn-vít nhau; mà giữ phép ở với nhau cho trên thuận dưới hòa, thì mới bảo hộ nhau được. Lớn theo phận lớn, nhỏ theo phận nhỏ các y kỳ phận thì bằng-an.
Vua cũng có phép buộc phải ở với tôi dân làm sao; con dân cũng có luật buộc phải ở với vua quan thể nào cho phải đạo. Cha mẹ có phận phải giữ với con-cái cách nào; con-cái có phép dạy phải ở làm sao với cha mẹ cho trọn niềm; còn chồng với vợ cũng có ngãi phải giữ với nhau cho trọn nhân trọn ngãi nữa.
Ấy là ba mối cả, là chánh giềng làm nên tấm lưới chắc chắn vững bền.
d) Hát Nhà Trò(13)
Hát nhà trò là tục ngoài Bắc vô tới Nghệ-An, Hà-Tỉnh chí sông Gianh.
Tại kinh thành Huế cũng có mà là đào ngoài Bắc rước vô dùng tại triều.
Ngoài Bắc hể khi có đám-tiệc, hội-hữu, hôn-tế, kì-yên, chạp-miễu, thì thường có hát nhà trò. Tùy theo ý chủ muốn, có khi kêu một đào một kép, có khi hai, có khi năm bảy hay là nhiều hơn mặc ý mình. Trải chiếu dưới đất, đào ra ngồi hát đó, kép cầm đờn đáy gảy ngồi lại một bên.
Thường đào là con-gái có xuân-sắc, chuyên tập nghề xướng-ca, ngâm-nga, múa hát,bắt-bộ v.v. tục kêu là cô-đào (đàu B). Tay cầm quạt tay cầm sanh nhịp, miệng hát nhiều cung bậc giọng thấp cao ngân-nga hay và êm tai lắm.
Hát thì hát những là Ca-trù, hoặc giậm Túy-kiều, câu hát rời, Tần cung-oán, Chinh-phụ-ngâm, thơ phú hoặc kể truyện. Có người đánh trống nhỏ cầm chầu hoặc là chủ đám, hoặc là người chủ nhường mời. Hát cũng có khi đứng khi ngồi, khi múa tay, bắt bộ. Lại có khi bắt đào quình tương (14) rượu cho khách, là bắt tay bưng chén rượu, chơn bước khoan- thai, miệng hát câu chi cho hay đẹp tình ưa ý khuyên mời khách uống, đem lại dâng đưa vô tới miệng.
Cung giọng nhà-trò thường là những cung giọng nầy
Mẫu dựng Thiệt nhạc Ngâm vọng Tì bà Tắc phản Hát hói Gửi thư Huình Hãm Cung bắc Cửa quyền Non mai Nường hạnh Chữ khi Thơ Thỏng e) Ca kiêng giống độc(15) Rượu để bình đồng ấm thiết lâu, Gan bò một lá, với gan trân. Giải (ba-ba) ba chơn, cá lân không vảy, Dê một sừng, tôm chẳng có râu. Chó bốn đề, lương vàng cất cổ, Gà năm sắc, ngựa trắng đen đầu. Cua sinh một mắt, lệch sao điểm. Vật ấy đừng dùng kẻo lệ âu. g) Ba bậc bộ hành ở nhà quán (16) Nhứt quân tử, ăn mứt gừng, uống nước chè tàu, ngồi chiếu bông, nằm nhà trong, đánh cờ tiên. Nhì quân tử, ăn thịt trâu, uống nước chè huế, ngồi chiếu kế, nằm nhà giữa, đánh cờ tướng Tam quân tử, ăn cơm nguội, uống nước lạnh, ngồi chiếu manh, nằm nhà ngoài, đánh cờ chó. h) Lý-Thường-Kiệt (x) (x) (x) (17) Lý-thường-Kiệt người tỉnh Hà-Nội, huyện Vĩnh-Thuận làm quan tướng nhà Lý. Thuở ấy bền Tàu nhà Tống nghe lời Vương-an-Thạch mà khinh dị Annam, vua Lý-nhơn-Tông mới sai Lý-thường-Kiệt, với Tông đảng đem 10 vạn binh qua đánh Tống, lấy đất Châu Khâm, châu Liêm giết Thương-thủ-Tiết, lấy châu Ưng, giết châu Nham và hơn 10 vạn con người ta.
Sau Tống sai binh tướng qua đánh Annam, khi đóng binh tại bờ sông Như-nguyệt, thì Lý-thường-Kiệt biết bụng dân hay tin tưởng thần thánh, thấy Quách-quì với Triệu-tiết đem binh Tàu hơn 87 vạn qua, nao sợ ngã lòng, thì dụng mưu mà làm cho vững lòng quân. Vậy mới cho người ra sau bàn-thờ miễu ông Tương-tướng giả thần ứng phán, ngâm như lời sấm bốn câu như sau đây.
Nam quốc sơn-hà nam đế cư, Tiệt nhiên phân-định tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Binh lính nghe liền vững bụng, bèn đánh quân nhà Tống phải thua. Ông Lý-thường-Kiệt là người nhiều mưu-lược, có tài tướng-soái, làm tôi 3 đời vua, đánh Tống thua, dẹp an Chiêm-thành, huân-nghiệp công-trận lớn lắm. Ðược tặng là Việt quốc công.
Ðời nhà Nguyễn, Minh Mạng năm thứ 4 cho tế theo trong miễu Lịch-đại đế vương.
Tóm lại, Thông Loại Khóa Trình được coi như nguyệt san văn học, nội dung gồm có những bài sao lục, một số bài khảo cứu và sáng tác; phần lớn dùng văn vần và không có hình ảnh trang trí.
E. Nông Cổ Mín Ðàm Là tuần báo phát hành vào ngày thứ Năm, có 8 trang, khổ 27cm x 20cm do Canavaggio sáng lập. Số 1 ra ngày 1-8-1901, những người cộng tác với Canavaggio làm chủ bút tờ báo nầy lần lượt gồm có: Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Viên Kiều, Nguyễn Ðồng Trụ, Lê Văn Trung, ngoài số những người chủ bút vừa kể, còn có sự cộng tác của các nhà văn danh tiếng như Nguyễn An Khương, Thượng Tân Thị Phan Quốc Quang, Lê Quang Chiểu, Giáo Sỏi, Ðỗ Thanh Phong.
Nội dung báo gồm có luận thuyết, tin tức, lời rao, dịch chuyện Tàu, diễn Nôm các bản cổ văn, thi ca, nhàn đàm và quảng cáo.
Sau đây là một số bài trích dẫn:
Bão lụt phía Tây-Nam(18)
Trong một năm hai lần bão, tại xứ nhỏ như Nam Kỳ, thương hại thay cho dân khổ, 16 tháng ba bão nơi Ðông Nam (19) dân Tây-Nam bình tịnh, đến đêm 26 tháng chín bão nơi Tây Nam từ 8 giờ tối tới 4 giờ sáng mới ngơi. Từ Sóc Trăng, Ðại Ngãi, Bạc Liêu, Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá, Châu Ðốc và Hà Tiên, cây ngã nhà xiêu, ghe chìm người chết, hao của dân vật, nghĩ rất thảm thương. Chẳng phải bão mà thôi, lại nước lụt tràn bờ, lúa cày mạ gieo đều trốc rễ. Nghĩ coi sáu tháng chia nhau chịu khổ, người mắc trước kẻ bị sau, lúa thóc mùa màng mang hại. Thương là thương dân hèn gặp khổ, kẻ khó chịu tai; nhọc hình-hài làm mọi cho người, đói lòng, dạ không an con vợ. Thương ôi Ðã biết rằng: Trời còn có khi mưa khi nắng, người sao không lúc thạnh lúc suy. Nhưng vậy mà ngoài ba mươi năm dân luống thảnh-thơi, quen thời-tiết phong điều võ-thuận. Xãy một phút trời sanh tai biến, người không dè phải chịu nghèo nàn. Dẫu tiên-tri cũng khó thở-than, vì dân-vật thường không tin lời phải. Nếu luận chuyện thành tiên thành phật cùng địa-phủ thiên-đàng, thì nhiều nơi tham nơi sướng tránh chỗ go; bằng mà luận trái phải việc đời, lo việc tới lui, thạnh lắm phải lo suy, sướng lâu thì sợ cực; những điều ấy người cho rằng luận vấy, ăn cơm nhà để lo chuyện bao đồng. Ôi thôi ! Hể trời khiến tai-nàn người chịu, xót tình thương nên tỏ một đôi lời. Gia Cát xưa chưa bỏ lều tranh, đã rõ trước tam-phân đảnh túc; bởi Chiếu-liệt đốc-thành kỉnh-sĩ, nên người đành tận-tụy cúc-cung. Vì một người, chịu nhọc một mình; làm hết sức, chớ cơ trời nào dám cãi. Thương trăm họ nên phân trái-phải, hết sức mình cho trọn phận làm người, há cầu ai rằng phải rằng chăng, điều phải chẳng tự nhiên người xét lấy.
Thương ôi !
Bị bị tai tai trời trời khiến khiến hại hại người người đời đời hết hết tưởng tưởng chơi chơi thì thì phải phải sợ sợ.
Xin chư văn hữu đọc bài tứ tuyệt nầy, rồi gửi đến cho bổn quán, như trúng thì xin phụng lại một tháng nhựt-trình xem chơi.
Chủ bút
Ðọc đoạn văn vừa trích, chúng ta thấy chủ bút cũng như những người viết khác, còn chịu ảnh hưởng của cổ văn rất nhiều, nhất là cách hành văn biền ngẫu. Hai bài trích kế tiếp sau đây, không dụng lối biền ngẫu, họ viết y như câu nói, đó là nét đặc trưng của văn chương miền Nam.
Trường Tabert(20)
Mỗi năm hể sau ít ngày ăn lễ sanh-nhật, thì trường học Taberd phát phần thưởng học trò rồi đặng bãi trường. Khi phát phần thưởng mời cha mẹ học trò đến xem hát cho vui. Trường dạy học Taberd, thiệt lập nhiều cach vui cho người có con học vào trường ấy và dục lòng trẻ nhỏ vui và siêng học, học đạo đức, học lễ nghi, học văn chương, học vẽ lại thêm học hát xướng. Ðến lúc làm điều vui, cũng còn kiếm điều cho có ích, điều dạy làm lành, răn đời lấy nhơn-nghĩa. Như là bày tuồng hát chơi mà có ý khuyên người làm phải, dạy trẻ lòng lành, xem đáng cám ơn người bày biện, lòng tốt thương người, tập rèn cho con em phải cách.
Lời Rao
Thường thường hể làm cha mẹ ai ai đều thương con chẳng cùng. Bởi con tôi quá lắm, mới lấy lẽ phải mà răn. Nay vợ chồng tôi là Nguyễn-Hữu-Phước làm tri huyện tại hạt Gò Công, rao cho chư vị đồng bang và người khách đặng rõ: Xin chớ có cho tên Nguyễn Hữu Vạng vay tiền mượn bạc chi. Nó là con của vợ chồng tôi mà nó không nghe lời dạy-dỗ , cứ theo hoang-đàng phóng-tứ. Nếu ai có cho mượn, mất tiền phải chịu lấy, chớ vợ chồng tôi không biết đến.
Tự hậu không ai được phép nói động đến vợ chồng tôi về tên Vạng thiếu nợ.
Tri huyện Nguyễn-Hữu-Phước
Sau đây là mẫu tin đăng trên Nông Cổ Mín Ðàm năm 1915, chúng ta thấy những người viết văn lúc đó vẫn còn chịu ảnh hưởng cách hành văn biền ngẫu, những người viết tin, lồng vào đó phần trào phúng, ngày nay các thông tín viên vẫn còn dùng :
Rồi trái oan
Một phu-nhân ở đường d" Espagne (21) ngó qua chùa chà chưa biết đạo xướng tùy có chi cay đắng hay là nghĩ trần ai ngán sự đời, tạm nha phiến một chung trộn với dấm mà liều má phấn. Vào nhà thương thôi rồi nợ phong trần trả sạch còn cái giây oan trái buộc ràng. Bởi vì không rõ cơ quang, quan mới lập đàng tra vấn. Vấn cho rõ vì sao mà tự tận, có phải vì tình trường mà giận hờn ghen. Vấn cho ra coi ai ép uổng phận nhỏ nhen, làm đến đổi cánh sen chôn lấp.
Tuy nhiên cũng có người hành văn không dụng lối biền ngẫu nên vừa ngắn mà vẫn giữ tánh chất trào lộng như đoạn văn sau đây :
Lê-văn-Búp ở Thủ-Dầu-Một đi xách nước giếng hồi nào không biết, đến chừng người nhà hay tri hô lên thì thấy anh Lê-văn-Búp trồng chuối ngược. Bộ vó chổng khu xách nước nên mới té dọng đầu xuống giếng.
Nguyễn Chánh Sắt và Nguyễn An Khương dịch nhiều truyện Tàu đăng trên Nông Cổ Mín Ðàm và bản dịch Tam Quốc Chí đăng trong báo nầy, ký kên Canavaggio, nhưng theo Vương Hồng Sễn, người dịch là Lương Khắc Ninh.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 16:46:19 GMT 9
Sau đây trích một bài dịch Hán văn của Nguyễn Chánh Sắt :
Chuyện mộ Tào Tháo
Phía ngoài thành Hứa-Ðô có một cái sông nước chảy rất mạnh, hai bên thì bờ vực hẳm sâu. Mùa hè trời nóng nực, có một người kia xuống tắm, giây phút nổi lên như bị đao búa chém đứt ra từng khúc. Sau có một người cũng bị như vậy, thiên-hạ thất-kinh lấy làm lạ. Quan phủ sở tại thấy vậy, bèn bắt nhiều dân khiêng đất đốn cây chận ngọn nước sông lại, lúc nước cạn rồi thì thấy dưới sông có cái hang sâu, trong ấy có đặt những xa máy tinh những gươm bén lắm. Phá máy lấy gươm lên, moi riết vào thấy có cái bia nhỏ đề chữ giống điệu chữ đời Hớn, xem kỷ ra mới biết là mộ của Tào Mạnh Ðức. Quan phủ bèn dạy phá hòm ra, lấy xương đem chôn nơi khác. Còn những ngọc ngà châu báu liệm trong hòm, thì lấy hết mà bỏ vào kho.
Trong sách có nói Tào Tháo có bảy mươi hai cái mã nghi, hay đâu ngoài bảy mươi hai cái lại còn một cái nầy nữa. Ấy vậy thì gian trá như Tào Tháo, đến thác cũng còn gian trá. Song đã ngoài ngàn năm mà một nắm xương tàn còn chẳng giữ đặng thay, nghĩ lại mà coi, thì gian trá cho lắm lại có ích gì.
Rút trong LIÊU TRAI CHÍ DỊ dịch ra
Tân Châu, NGUYỄN CHÁNH S&IEXCL;T
Và sau đây là phần Nhàn Ðàm đăng vào năm 1908 (không rõ số mấy)
CON VOI VỚI CON TRÂU (tranh công)
Con trâu ngày kia đi ngao du ngoài rừng, xãy gặp con voi đứng lại mà đàm luận việc công cán với nhau, thì con Voi thấy con Trâu có hơi mệt, liền hỏi sức lực mầy làm dường bao mà coi bộ mệt lắm vậy, thì con trâu trả lời rằng:
Tôi làm vầy chớ công cán tôi cao dày lắm, biết mấy đời vương, giúp trong thiên hạ đà lắm thuở, tuy tôi tuổi tác nhỏ nhen chớ trong lòng sẵn có ba lá sách, nhưng vậy cũng biết đặng đường nhơn nghĩa mà cư xử trong và bề ngoài.
Con voi nói lại rằng: Nè còn công cán tao cao dày lắm, nhơn vì trước tao giúp cho vua Thuấn đã cày nên ruộng, bởi vậy sau đây người ta tặng kêu tao là ông-tượng, nên tao biết tao phải lớn hơn hết.
Con trâu trả lời: Phải ông thiệt là lớn hơn hết, lớn là lớn cái vóc và khoe mình nên người ta gọi là ông tượng, và hình thù thì lớn mà tánh nết ăn nói nhỏ nhen lắm, nên người ta sợ bụng ông không chừng, thiệt tôi coi đi xét lại, nhằm trước xem sau có một mình ông bụng lớn và bao tử cũng lớn chứa phẩn nhiều hơn hết, mà lại xông lớn đống, hể ai đi có gặp nói phẩn của ông-tượng là vậy đó.
Nguyễn Quang Trường
Tự Cửu Viễn
Cũng ở trang 6 tờ báo nầy có đăng những quảng cáo như sau :
NHÀ ÐÓNG SÁCH J. VIẾT-LỘC & CIE
ở đường d"Ormay số 61, Sàigòn
LÊ-VĂN-NGÀN, kế vị
Kính cùng chư quý vị đặng rõ, kể từ ngày 15 tháng sáu langsa, chúng tôi mới làm hùn thêm đặng lo tấn tới và mở mang cuộc đóng sách và cuộc buôn bán thuở nay của mấy thầy Viết-Lộc và Công-ty.
Vậy xin trong lục châu cùng châu thành Saigon Chợlớn tưởng tình anh em chúng tôi trước sau cũng vậy mà giúp sức cho người nam ta cho tấn tới theo đường thương mãi.
Luôn diệp nầy chúng tôi xin trong chư quý vị ai còn thiếu bạc hay là có muốn mua cái chi thì xìn từ ngày nay đến sau phải gửi cho thầy Lê-văn-Ngàn.
Còn nhà J. Viết-Lộc & Cie có thiếu của ai thì hạn trong một tháng phải đem tờ giấy chi đến tại nhà nầy mà tính. Bằng quá hạn nầy rồi thì chúng tôi chẳng biết tới nữa.
Saigon, le 16 Juin 1908
Phần quảng cáo đa số là của người ngoại quốc, đủ chứng tỏ thuở ấy người Pháp và Ấn chiếm hầu hết việc thương mại ở Sàigòn. Ðây là một mẫu quảng cáo hàng :
Tiệm Bán Hàng Hoá Ông Courtinat và Công-Ty ở đường Catinat, Saigon Số 96-98-100-102-104-106-108
Có bán: lụa, nhun, tố, nỉ, hàng tây, đủ thứ, đủ màu; Tủ sắt, giường sắt có ruột gà, bàn rữa mặt lót mặt đá cẩm thạch, tủ cây Hongkong, xe máy từ 55 đồng; Xa bong hiệu Mignon mỗi hộp 100 miếng giá gửi đến chổ 1$85 và xa bong thơm, dầu thơm đủ thứ; Ghế Thonet mặt cây tốt lắm; Dù lục soạn hay là dù vải đủ thứ; Giày, vớ, khăn, đồng hồ vàng, bạc và nickel, kiếng soi lớn nhỏ đủ thứ, cùng đồ hành lý; Máy nói hiệu Pathé; Pháo bông, cùng đồ cho con nít chơi đủ thứ; Hột xoàn lớn nhỏ tốt nhứt hạng; Có bán xe hơi hiệu Berliet, chạy từ Saigon xuống Vũng tàu 28 phút, cũng có lảnh sữa xe hơi. Tại nhà nầy chẳng thiếu món chi mà lại giá rẻ.
Tóm lại Nông Cổ Mín Ðàm là một tuần báo khổ lớn, nội dung gồm đủ các phần tuy có 8 chỉ trang, nhưng phần văn chương chiếm hết tờ báo. Nông Cổ Mín Ðàm ra đời trong thời buổi sơ khai của nền báo chí nước ta, lúc chữ quốc ngữ cũng còn ít người biết đọc. Cho nên mặc dù nó đã đình bản chưa đầy một thế kỷ, mà ít có người được biết đến tờ báo nầy.
Tờ Nông Cổ Mín Ðàm ra mắt, mặc dù sau Gia Ðịnh báo, Thông Loại Khóa Trình, nhưng hiện tình báo chí thuở ấy chỉ có Tờ Nông Cổ Mín Ðàm mà thôi, mãi cho đến năm 1907 mới có tờ Lục Tỉnh Tân Văn.
Dù sao thì tờ Nông Cổ Mín Ðàm cũng có đủ yếu tố là một tờ báo, nó gồm đủ các phần như báo chí ngày nay.
Về chữ Quốc ngữ, chúng ta để ý sẽ thấy rằng chữ thuở ấy chẳng có mấy sai khác như hiện nay, trừ một số lỗi chánh tả. Lối hành văn dài thậm thượt, nhận xét nầy cho thấy hành văn thuở đó chưa được chú trọng, quy cũ như hiện nay.
Tờ Nông Cổ Mín Ðàm không những phổ biến tư tưởng Ðông phương, mà còn phổ biến tư tưởng học thuật Tây phương, đi theo đường lối Trương Vĩnh Ký đã làm từ trước.
F.- Nhật Báo Tỉnh Cũng là tuần báo, phát hành vào ngày Thứ Năm hàng tuần, từ năm 1905 đến 1912.
G.- Lục Tỉnh Tân Văn
Năm 1907 H.F. Schneider lập ra tờ Lục Tỉnh Tân Văn, Trần Chánh Chiếu làm chủ bút, phát hành hàng tuần, có một phần nhỏ về công báo. Năm 1910, Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút, đến năm 1919 Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút tờ Trung Bắc Tân Văn, là một ấn bản của Lục Tỉnh Tân Văn, phát hành cho miền Trung và Bắc.
Về sau Lục Tỉnh Tân Văn nhượng lại cho Nguyễn Văn Của làm chủ nhiệm và do Lê Hoằng Mưu làm chủ bút.
Bước sang thập niên 20 còn có những tờ báo như :
H.- Nữ Giới Chung
Do Lê Ðức làm Chủ nhiệm và Sương Nguyệt Anh, con gái của Nguyễn Ðình Chiểu làm Chủ Bút.
I.- Công Luận Báo
Do Lê Sum làm chủ bút, phát hành vào ngày Thứ Ba và Thứ Sáu, kể từ báo Công Luận trở đi, mỗi tờ báo sau nầy đều có dành riêng một trang văn thơ, hay ít ra 1 cột gọi là Văn Uyển.
II.- Trung Lập Báo
Do Phi Vân Trần Văn Chim tác giả Ðồng Quê làm chủ bút, đặt biệt báo nầy khởi đăng tiểu thuyết "" Châu Về Hiệp Phố "" của nhà văn Phú Ðức, tiểu thuyết nầy sau vẫn còn đăng lại ở nhật báo Thần Chung của Nam Ðình, Tiếng Chuông của Ðinh Văn Khai, tuần báo Bình Dân của chính tác giả Phú Ðức
Báo chí đã đóng góp một phần lớn cho việc truyền bá chữ Quốc Ngữ, mặc dù trong thời kỳ đầu nầy, báo chí chỉ được phổ biến trong giới quan lại người Việt, giúp việc trong guồng máy cai trị của Pháp, từ cấp Tổng, Huyện trở lên. Dần dần báo chí lan rộng đến các điền chủ, giáo học, cho đến khi báo chí đăng những truyện tàu, tiểu thuyết lúc ấy báo chí mới được phổ cập đến giới trung lưu ở thôn quê, vì lúc ấy báo chí đã thoát khỏi cái vỏ công báo, và chữ Quốc ngữ đã được dạy ở các trường học ở thôn quê miền nam.
Tưởng cũng nên ghi nhận, ở Bắc năm 1892 có tờ Ðại Nam Ðồng Văn Nhật Báo (in chữ Hán) (22), phải đợi cho đến năm 1905 mới có tờ Ðại Việt Tân Báo in cả chữ Quốc Ngữ và Chữ Hán . Năm 1907, tờ Ðại Nam Ðồng Văn Nhật Báo có thêm Ðăng Cổ Tùng Báosố ra mắt ngày 28-3-1907 do Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ bút.
Sở dĩ báo chí ở Trung và Bắc chậm xuất bản là vì theo Ðạo Dụ ngày 31-5-1906, chánh phủ Nam triều mới đổi mới cho chế độ học và thi cử ở Bắc và Trung, chương trình học vẫn lấy chữ Hán làm gốc, nhưng thêm các khoa Cách trí, Sư ký, Ðịa dư,Toán pháp dạy bằng Quốc Ngữ và một ít chữ Pháp. Thi Hương và Thi Hội cũng có những bài chữ Quốc Ngữ và chữ Pháp. Ở Bắc năm 1915 và ở Trung năm 1919 mới bỏ lối thi cử cũ (23).
Tiến trình báo chí ở Miền Nam, cho chúng ta thấy nó cũng là một yếu tố để truyền bá chữ Quốc Ngữ, đọc lại tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đôi chỗ nói tới nhựt trình thời bấy giờ, đọc Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư trong Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam, chúng ta thấy ghi đậm nét về sự truyền bá chữ Quốc Ngữ, và sự phổ cập báo chí ở Miền Nam.
(Còn tiếp) Huỳnh Ái Tông Ghi chú :
( 1 ) Theo lời Bác sĩ Nguyễn Minh Tâm Giám Ðốc Nha Y Tế Học Ðường thuộc Bộ Giáo Dục, trong phiên họp các Trưởng Ty Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên vào cuối năm 1974 tại Bộ Giáo Dục, ông cho biết, có người bán trọn bộ báo nầy cho một người Mỹ trong năm ấy, giá 1 triệu 5 trăm ngàn đồng Việt Nam (thời giá 1US=200 đồng VN). ( 2 ) Theo Giáo sư Huỳnh Văn Tòng cho biết tại Thư viện trường Ngôn Ngữ Ðông Phương (L"École National des Langues Orientales) ở Paris, số 3 phát hành ngày 15-7-1865, số 4 phát hành ngày 15-8-1865 và số chót mà thư viện có là số 42, phát hành ngày 25-10-1909
( 3 ) Hội Ðồng Tỉnh.
( 4 ) Phan Long Ðiền trích dịch, đăng trong Giai Phẩm Bách Khoa ngày 17-8-1974
( 5 ) Franc: Ðơn vị tiền tệ Pháp.
( 6 ) Diệp Văn Cương tự Thọ Sơn, bút hiệu Yên Sa, người làng An Nhơn, tỉnh Gia Ðịnh, sau khi thi đậu bằng Trung Học, ông được chánh phủ bảo hộ cho sang Pháp học và đổ bằng Tú Tài, về Việt nam dạy trường Chasseloup-Laubat, ông được Toàn quyền Paul-Bert chú ý, nên có đưa ra Bắc và Trung làm việc. Ở Huế ông đảm trách việc dạy học cho vua Ðồng Khánh, tại đây ông kết duyên cùng một bà công chúa, con của Thoại Thái vương sinh ra Diệp Văn Kỳ cũng là một nhà báo kỳ cựu trong Nam vào thập niên 30.
Diệp Văn Cương có những tác phẩm sau :
Recueil de morale annamite (1917) Syllabaire quốc ngữ (1919) Tập Phong hóa dịch ra quốc ngữ ( 7 ) Ðã trích bài Bảo ở chương trước, trong phần tiểu sử Trương Vĩnh Ký. ( 8 ) Số 10, trang 5 và 6.
( 9 ) Chữ x trong ngoặc là thay cho chữ Hán
( 10 ) Số 2, trang 11
( 11 ) Số 1, trang 4
( 12 ) Số 2, trang 3
( 13 ) Số 4, trang 13
( 14 ) Quình tương là tích chén nước Vân-anh đưa cho Bùi Hàn uống (coi giải trong Túy-Kiều) - Tài liệu chú -
( 15 ) Số 1, trang 9
( 16 ) Số 3, trang 4
( 17 ) Số 3, trang 3
( 18 ) Nông Cổ Mín Ðàm số 166 ngày 17-11-1904
( 19) Hai trận bão nầy xãy ra vào năm Thìn, nên người ta hay nói "" Năm Thìn Bão Lụt"", trong Ca dao miền Nam có câu nói về trận bão nầy :
Ðèn nào cao cho bằng đèn Châu Ðốc, Gió nào độc cho bằng ngọn gió Gò Công. Thổi ngọn Ðông phong lạc vợ xa chồng, Nằm đêm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi.
( 20 ) Nông Cổ Mín Ðàm số 173 ngày 5-1-1905
( 21 ) Ðường Lê Thánh Tôn Sàigòn.
(22) Theo Quốc Triều Chính Biên. Năm 1888, tháng 4 quan Ðại Pháp mới lập sở Ðại Nam Nhật Báo.
(23) Ðề thi Hội cuối cùng năm 1919:
Việc chánh trị bây giờ càng khó, Trung Kỳ và Bắc Kỳ tình thế khác nhau, nên sửa sang những điều gì trước ? Luận. Nước ta Văn hiến, trải mấy ngàn năm, bây giờ nghĩ phỏng Thái Tây đặt Viện Hàn Lâm dịch các sách vở. Luận Nước ta việc hình luật đời nào cũng trọng, quan hệ nhơn tâm phong tục là thế nào ? Luận Khoa thi nầy, kết quả lấy 7 Tiến sĩ và 16 Phó bảng.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 16:48:29 GMT 9
Tiết 2: Báo Chí
A. Gia Ðịnh Báo Là tờ báo do nhà cầm quyền Pháp chủ trương. Số 1 ra ngày 15-4-1865, do Ernset Potteaux làm Chánh Tổng Tài. Chức vụ nầy có lẽ bao gồm Chủ Nhiệm, Chủ Bút và luôn cả Quản Lý (1).
Từ năm 1869-1872, Trương Vĩnh Ký được cử làm Chánh Tổng Tài.
Từ năm 1872, do J. Bonet làm Chánh Tổng Tài, có lẽ tờ báo đình bản vào năm 1909 (2)
Tờ báo nầy trước tiên mỗi tháng phát hành một số ra vào ngày 15 mỗi tháng, khoảng năm 1870 thì cứ mỗi tháng ra 3 số, về sau cứ mỗi tuần ra 1 số.
Mỗi số báo có 4 trang. Về nội dung, trước tiên chỉ có hai phần: Phần công vụ và phần tạp vụ.
- Phần công vụ: Dụ, nghị định, chỉ thị, thông tư, biên bản Hội Ðồng Quản Hạt (3)...
- Phần Tạp vụ: Lời rao, tin tức, trả lời cho các đương đơn, án Hội Ðồng xét lại ...
Ðơn cử nghị định ngày 16-9-1869 của Thống Soái Nam Kỳ G. Ohier, đăng trên Gia Ðịnh Báo (4) :
"...Kể từ ngày hôm nay, việc biên-tập tờ báo An-nam Gia Ðịnh Báo được giao cho ông Pétrus Trương-Vĩnh-Ký với tư cách Chánh-tổng-tài tờ báo nầy, ông sẽ lãnh một bổng-cấp hàng năm 3.000 phật-lăng (5).
Tờ báo tiếp-tục ra hàng tuần. Nó chia làm hai phần, phần công-vụ gồm các văn-thư, quyết-định của quan Thống Soái và của nhà cầm quyền, nguyên văn bằng tiếng Pháp do Nha Nội-trị cung cấp và ông Trương Vĩnh Ký dịch ra chữ An-nam; phần tạp-vụ gồm các bài có ích cho sự học và vui thích với các bài sử-học, luân-lý, thời-sự để có thể đọc trong các trường bản xứ và làm cho dân chúng An-nam chú ý."
Sau đây là phần công vụ, đăng ở số 3 năm thứ 10, phát hành ngày 1-2-1874, đăng nghị định thăng trật của hai công chức như sau :
Trường Hậu-bổ Sàigòn
Trần Nguyên Hanh làm thông ngôn hạng 3, lên hạng nhì, đồng niên ăn 1.400 quan tiền.
Trường Khải Tường
Trương Minh Ký, nguyên làm thầy dạy giúp hạng ba, lên hạng nhì, đồng niên ăn 1.400 quan tiền.
Về phần tạp vụ, một bài thuộc vào loại phiếm luận ngày nay, đăng trong số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16-2-1870:
Người bên Tàu thường gọi là người Trung-Quốc nghĩa là nước ở giữa vì thuở xưa bên ấy có 18 nước chư hầu; chỗ Kinh thành Hoàng-đế ở lại vô ở giữa các nước chư hầu nên gọi là Trung Quốc.Người bên Tàu thường kêu mình là Ðường-nhơn hay Thanh-nhơn, nghĩa là người nhà Ðường nhà Thanh.An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v...
Người Bắc thì kêu là Ngô, nghĩa là nước Ngô, có kẻ lại cắc nghĩa rằng vì bởi nó hay xưng mình là Ngô nghĩa là tôi.
Kêu Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy.
Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc ...
Còn tin tức, như mẫu tin sau đây, đăng vào Gia Ðịnh Báo số 8 năm thứ 6, phát hành ngày 8-3-1870:
... Có một người tên là Thiện, nhà ở gần chợ Hốc-môn. Tối 12 tháng giêng nầy người ấy xuống ghe mà ngủ, còn vợ con thì để ngủ ở nhà. Vừa đặng một hồi kế lửa phát lên, thím Thiện chạy ra la, làng xóm chạy đến, khuân đồ giùm đặng phân nửa, rồi nhà cháy trụm đi, chú Thiện có tật điếc, vợ kêu, la làng trốc trôn lồi đít, làng xóm khuân đồ tở mở, lửa cháy đùng đùng, mà cho lọt vào tai va thì nhà cửa, tài vật đã ra tro rồi...
Chánh Tổng Tài Trương Vĩnh Ký muốn có những tin tức mới lạ, cùng khuyến khích những thông tín viên tự nguyện, để góp cho Gia Ðịnh Báo được dồi dào tin tức khắp Nam kỳ lục tỉnh, ông đã có lời rao sau đây, đăng trong số 11 năm thứ 6, phát hành ngày 8-4-1870
Lời cùng các thầy thông-ngôn, ký-lục, giáo tập vân vân đặng hay:
Nay việc làm Gia Ðịnh Báo tại Sàigòn, ở một chỗ, nên không có lẽ mà biết các việc mới lạ các nơi trong 6 tỉnh mà làm cho thiên hạ coi; nên xin các thầy cứ mỗi tuần hay nửa tháng phải viết những chuyện mình biết tại chỗ, tại xứ mình ở, như:
Ăn cướp, ăn trộm. Bệnh-hoạn, tai-nạn. Sự rủi-ro, hùm tha, sấu bắt. Cháy chợ, cháy nhà; mùa màng thể nào. Tại sở nghề nào thạnh hơn vân vân
Nói tắt một lời là những chuyện mới lạ, đem vô nhựt-trình cho người ta biết, viết rồi thì phải đề mà gửi về cho Gia Ðịnh Báo Chánh tổng-tài ở Chợ-quán.
Trong tờ báo, như đã nói có phần công vụ và tạp vụ, có những bài không ghi rõ xuất xứ. Trương Vĩnh Ký giải thích phần nầy:
Những kẻ coi nhựt-trình phải có ý cũng hiểu điều nầy là:
Thường những chuyện Tạp-vụ các nơi trong đất Nam-kỳ gửi về cho kẻ coi Gia-Ðịnh Báo, thì có kẻ coi lại, có trắc thì sửa lại cho xuôi cho dễ nghe vì các thầy gửi cho nhựt-trình thì cũng ưng chịu làm vậy; lại cũng để tên các thầy ấy ký lấy vì là của các thầy ấy viết và gửi. Còn như phần công-vụ, các bài nghị-luận quan lớn Nguyên-Soái cùng những khúc chẳng có tên ai đứng là kẻ coi nhựt-trình làm. Mà những khoản thẩm xét án các quan tham-biện hay là trả lời cho kẻ quì đơn, việc nọ việc kia thì của Hội-đồng quan Thống-soái Nam-kỳ luật-vụ làm ra sẵn rồi mà gửi đem vô Gia-Ðịnh Báo, có tên người đứng ký vô đó, thì hể gửi thế nào thì in ra thế ấy mà thôi. Cho nên khi có điều gì không được cho rõ mấy thì xin kẻ coi nhựt-trình chớ trách-cứ kẻ coi việc ấy ...
Cũng có phần văn chương như bài sau đây, đăng trong số 39 năm thứ 19, ngày 13-10-1883:
Nồi Ðất Với Nồi Ðồng
Nồi đồng tính việc đi đàng, Rủ ren nồi đất cùng trang đang thì. Kiếu rằng: Chẳng tiện nổi đi, Ở an xó bếp, không ly góc lò. Vì e sẩy bước rủi ro, Rách lành chịu vậy, đói no vui vầy. Rằng da đấy cứng hơn đây, Phận kia dễ tính, thân nầy khó toan. Ðáp rằng: rủi gặp dọc đàng, "" Vật chi cứng cát cảng ngang không vì. Ðể ta qua bửa lo chi, Bên thì vật ấy bên thì nhà ngươi. Tai nghe nói ngọt tin lời, Chìu lòng bạn hữu bèn dời chân đi. Bước khua lộp cộp dị kỳ ! Xa nhau e sợ, gần thì đụng nhau. Hai nồi đi chẳng đặng mau, Chưa đầy trăm bước đụng nhau rã rời. Hởi ôi Nồi đất rồi đời, Khôn lời năn nỉ, khôn lời thở than. Nơi nghèo khổ, chỗ giàu sang, Ở đời giao kết kẻ ngang vai mình.
Diễn quốc âm Trương Minh Ký
B. Phan Yên Báo
Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng Phan Yên Báo được xuất bản năm 1868, do ông Diệp Văn Cương (6) chủ trương biên tập, về nội dung như Gia Ðịnh Báo lúc đầu, tờ báo nầy về sau bị đóng cửa, vì có những bài báo có tánh cách chánh trị, do vậy mà tờ Phan Yên Báo ngày nay không còn, cũng không rõ nó là nguyệt san hay tuần san.
Có người cho rằng Phan Yên hay Phiên An Trấn là tên cũ của đất Gia Ðịnh và Phan Yên Báo là tờ báo viết bằng chữ Hán do Nguyễn Trường Tộ làm chủ nhiệm.
Qua tiểu sử của Diệp Văn Cương, tờ Phan Yên Báo của ông không thể có vào những năm đầu Pháp mới đô hộ miền Nam, ít ra báo của ông cũng chỉ có từ 1880 hay trễ hơn, còn Phan Yên Báo của Nguyễn Trường Tộ nếu có, chắc không xuất bản ở miền Nam, vì nó là tờ báo chữ Hán.
C. Nhựt Trình Nam Kỳ
Là tuần báo, xuất bản số đầu vào năm 1883
D. Thông Loại Khóa Trình
Nó giống như Gia Ðịnh Báo ở chỗ có hàng chữ Hán Thông Loại Khóa Trình ở trên, bên dưới là hàng chữ Miscellanées, số 1 và 2 không ghi tháng phát hành, số 3 có ghi Juillet 1888, như vậy số 1 có thể ra vào tháng 5 (Mai) năm 1888. Số cuối cùng là số 18 ra tháng 10-1888. Khổ 16cm x 24cm, từ số 1 đến số 3 mỗi số có 12 trang, từ số 4 trở đi, mỗi số có 16 trang. Từ số đầu cho đến số 5, các bài đều không có ghi tên tác giả, nhưng theo bài Bảo (7), những bài ấy đều của Trương Vĩnh Ký viết, kể từ số 6 mới có thêm các bài văn vần, gọi là diễn Nôm của Trương Minh Ký làm để giải nghĩa các câu chữ Nho, có lẽ để cho người ta dễ học thuộc lòng, sau đó mới có bài của những người khác.
Về nội dung gồm có :
Dạy chữ Nhu (chữ Hán) Dạy chữ Pháp (thời bấy giờ gọi là Phang sa hay Lang sa) Giảng nghĩa về luân lý Khảo cứu về thi ca, phong tục. Nhơn vật (danh nhân) Sau đây là các bài trích dẫn: a ) Câu Chữ Nhu(8) ( x x x x x x x x x x x x x x ) (9) Thập phần tinh tinh sử ngũ phần, lưu thủ ngũ phần giữ nhi tôn (x x x x x x x x x x x x x) Thập phần tinh tinh đô sử tận, hậu đại nhi tôn bất như nhân Nghĩa đen:
Mười phần rành rành dùng lấy năm phần, Ðể lại lấy năm phần cho con cháu; Mười phần rành rành đều mình dùng hết, Ðời sau con cháu chẳng như người ta.
Nghĩa là:
Như mình có đặng giàu sang rõ-ràng cả mười phần thì hãy hưởng lấy năm phần mà thôi, để dành lại năm phần sau con cháu hưởng với: vì nếu như mình được mười phần mình hưởng hết đi cả mười, thì đời sau con cháu mình còn gì mà hưởng, té ra sa sút chẳng bằng người ta.
Trương-Minh-Ký diễn ra ca Nôm rằng:
Mười phần rỡ rỡ lấy năm xài, Ðể lại năm phần trẻ gái trai, Rỡ rỡ mười phần đều dùng hết, Ðời sau con cháu dám bì ai.
b ) Một hai câu tiếng Phangsa(10) ( Monsieur,(Bongdur moxơ) = chào ông Bonjour (Madame,( ----""------ madăm) = chào bà (Mademoiselle,(--""--madơmoaxel) = chào cô Comment cela va-t-il? (Còmăng xa va ti) = mạnh-khỏe thế nào ? Cela va bien (xa va biêng) = mạnh khỏe. Où allez-vous ? (u alê vú) = anh đi đâu ? Je vais me promener (dờ ve mơ promơnê) = tôi di dạo
c) Tam Cang Là Những Cang Nào ?(11) là (x) (x) quân thần = vua tôi (=vua với tôi) "" (x) (x) phụ tử = cha con (= cha với con) "" (x) (x) phu phụ = vợ chồng (= vợ với chồng)
(x) (x) (x) (x) quân vi thần cang (vua là giềng tôi) (x) (x) (x) (x) phụ vi tử cang (cha là giềng con) (x) (x) (x) (x) phu vi thê cang (chồng là giềng vợ) Chỉ vua với tôi ở cùng nhau phải cho có đạo, cha với con ở cùng nhau phải cho có tình, chồng với vợ ở cùng nhau phải cho có nghĩa là thuận hòa với nhau.
Ấy là ba giềng cả.
Giềng là mối dây bìa giềng lưới, có nó mới thành tấm lưới, mới chắc cho lưới.
Về Tam Cang(12)
Ở dưới đời, người ta không phép sinh ra mà ở một mình cho đặng. Có cha có mẹ, có anh em chị em, bà con cô bác, có bằng-hữu, thân-quyến. Có vợ có chồng sanh con đẻ cháu ra nối dòng; thành nên gia-thất; nhiều ra, ở lan ra có xóm có làng, có huyện, có phủ, có tỉnh, có xứ, có nước, có ra như vậy thì phải có tôn-ti, đẳng-cấp, nên phải có vua có chúa, có quan có quyền mà cai-trị, gìn-giữ đùm-bọc lấy nhau cho yên nhà vững nước.
Vì vậy phải có đạo tam-cang ràng-rịt vấn-vít nhau; mà giữ phép ở với nhau cho trên thuận dưới hòa, thì mới bảo hộ nhau được. Lớn theo phận lớn, nhỏ theo phận nhỏ các y kỳ phận thì bằng-an.
Vua cũng có phép buộc phải ở với tôi dân làm sao; con dân cũng có luật buộc phải ở với vua quan thể nào cho phải đạo. Cha mẹ có phận phải giữ với con-cái cách nào; con-cái có phép dạy phải ở làm sao với cha mẹ cho trọn niềm; còn chồng với vợ cũng có ngãi phải giữ với nhau cho trọn nhân trọn ngãi nữa.
Ấy là ba mối cả, là chánh giềng làm nên tấm lưới chắc chắn vững bền.
d) Hát Nhà Trò(13)
Hát nhà trò là tục ngoài Bắc vô tới Nghệ-An, Hà-Tỉnh chí sông Gianh.
Tại kinh thành Huế cũng có mà là đào ngoài Bắc rước vô dùng tại triều.
Ngoài Bắc hể khi có đám-tiệc, hội-hữu, hôn-tế, kì-yên, chạp-miễu, thì thường có hát nhà trò. Tùy theo ý chủ muốn, có khi kêu một đào một kép, có khi hai, có khi năm bảy hay là nhiều hơn mặc ý mình. Trải chiếu dưới đất, đào ra ngồi hát đó, kép cầm đờn đáy gảy ngồi lại một bên.
Thường đào là con-gái có xuân-sắc, chuyên tập nghề xướng-ca, ngâm-nga, múa hát,bắt-bộ v.v. tục kêu là cô-đào (đàu B). Tay cầm quạt tay cầm sanh nhịp, miệng hát nhiều cung bậc giọng thấp cao ngân-nga hay và êm tai lắm.
Hát thì hát những là Ca-trù, hoặc giậm Túy-kiều, câu hát rời, Tần cung-oán, Chinh-phụ-ngâm, thơ phú hoặc kể truyện. Có người đánh trống nhỏ cầm chầu hoặc là chủ đám, hoặc là người chủ nhường mời. Hát cũng có khi đứng khi ngồi, khi múa tay, bắt bộ. Lại có khi bắt đào quình tương (14) rượu cho khách, là bắt tay bưng chén rượu, chơn bước khoan- thai, miệng hát câu chi cho hay đẹp tình ưa ý khuyên mời khách uống, đem lại dâng đưa vô tới miệng.
Cung giọng nhà-trò thường là những cung giọng nầy
Mẫu dựng Thiệt nhạc Ngâm vọng Tì bà Tắc phản Hát hói Gửi thư Huình Hãm Cung bắc Cửa quyền Non mai Nường hạnh Chữ khi Thơ Thỏng e) Ca kiêng giống độc(15) Rượu để bình đồng ấm thiết lâu, Gan bò một lá, với gan trân. Giải (ba-ba) ba chơn, cá lân không vảy, Dê một sừng, tôm chẳng có râu. Chó bốn đề, lương vàng cất cổ, Gà năm sắc, ngựa trắng đen đầu. Cua sinh một mắt, lệch sao điểm. Vật ấy đừng dùng kẻo lệ âu. g) Ba bậc bộ hành ở nhà quán (16) Nhứt quân tử, ăn mứt gừng, uống nước chè tàu, ngồi chiếu bông, nằm nhà trong, đánh cờ tiên. Nhì quân tử, ăn thịt trâu, uống nước chè huế, ngồi chiếu kế, nằm nhà giữa, đánh cờ tướng Tam quân tử, ăn cơm nguội, uống nước lạnh, ngồi chiếu manh, nằm nhà ngoài, đánh cờ chó. h) Lý-Thường-Kiệt (x) (x) (x) (17) Lý-thường-Kiệt người tỉnh Hà-Nội, huyện Vĩnh-Thuận làm quan tướng nhà Lý. Thuở ấy bền Tàu nhà Tống nghe lời Vương-an-Thạch mà khinh dị Annam, vua Lý-nhơn-Tông mới sai Lý-thường-Kiệt, với Tông đảng đem 10 vạn binh qua đánh Tống, lấy đất Châu Khâm, châu Liêm giết Thương-thủ-Tiết, lấy châu Ưng, giết châu Nham và hơn 10 vạn con người ta.
Sau Tống sai binh tướng qua đánh Annam, khi đóng binh tại bờ sông Như-nguyệt, thì Lý-thường-Kiệt biết bụng dân hay tin tưởng thần thánh, thấy Quách-quì với Triệu-tiết đem binh Tàu hơn 87 vạn qua, nao sợ ngã lòng, thì dụng mưu mà làm cho vững lòng quân. Vậy mới cho người ra sau bàn-thờ miễu ông Tương-tướng giả thần ứng phán, ngâm như lời sấm bốn câu như sau đây.
Nam quốc sơn-hà nam đế cư, Tiệt nhiên phân-định tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Binh lính nghe liền vững bụng, bèn đánh quân nhà Tống phải thua. Ông Lý-thường-Kiệt là người nhiều mưu-lược, có tài tướng-soái, làm tôi 3 đời vua, đánh Tống thua, dẹp an Chiêm-thành, huân-nghiệp công-trận lớn lắm. Ðược tặng là Việt quốc công.
Ðời nhà Nguyễn, Minh Mạng năm thứ 4 cho tế theo trong miễu Lịch-đại đế vương.
Tóm lại, Thông Loại Khóa Trình được coi như nguyệt san văn học, nội dung gồm có những bài sao lục, một số bài khảo cứu và sáng tác; phần lớn dùng văn vần và không có hình ảnh trang trí.
E. Nông Cổ Mín Ðàm Là tuần báo phát hành vào ngày thứ Năm, có 8 trang, khổ 27cm x 20cm do Canavaggio sáng lập. Số 1 ra ngày 1-8-1901, những người cộng tác với Canavaggio làm chủ bút tờ báo nầy lần lượt gồm có: Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Viên Kiều, Nguyễn Ðồng Trụ, Lê Văn Trung, ngoài số những người chủ bút vừa kể, còn có sự cộng tác của các nhà văn danh tiếng như Nguyễn An Khương, Thượng Tân Thị Phan Quốc Quang, Lê Quang Chiểu, Giáo Sỏi, Ðỗ Thanh Phong.
Nội dung báo gồm có luận thuyết, tin tức, lời rao, dịch chuyện Tàu, diễn Nôm các bản cổ văn, thi ca, nhàn đàm và quảng cáo.
Sau đây là một số bài trích dẫn:
Bão lụt phía Tây-Nam(18)
Trong một năm hai lần bão, tại xứ nhỏ như Nam Kỳ, thương hại thay cho dân khổ, 16 tháng ba bão nơi Ðông Nam (19) dân Tây-Nam bình tịnh, đến đêm 26 tháng chín bão nơi Tây Nam từ 8 giờ tối tới 4 giờ sáng mới ngơi. Từ Sóc Trăng, Ðại Ngãi, Bạc Liêu, Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá, Châu Ðốc và Hà Tiên, cây ngã nhà xiêu, ghe chìm người chết, hao của dân vật, nghĩ rất thảm thương. Chẳng phải bão mà thôi, lại nước lụt tràn bờ, lúa cày mạ gieo đều trốc rễ. Nghĩ coi sáu tháng chia nhau chịu khổ, người mắc trước kẻ bị sau, lúa thóc mùa màng mang hại. Thương là thương dân hèn gặp khổ, kẻ khó chịu tai; nhọc hình-hài làm mọi cho người, đói lòng, dạ không an con vợ. Thương ôi Ðã biết rằng: Trời còn có khi mưa khi nắng, người sao không lúc thạnh lúc suy. Nhưng vậy mà ngoài ba mươi năm dân luống thảnh-thơi, quen thời-tiết phong điều võ-thuận. Xãy một phút trời sanh tai biến, người không dè phải chịu nghèo nàn. Dẫu tiên-tri cũng khó thở-than, vì dân-vật thường không tin lời phải. Nếu luận chuyện thành tiên thành phật cùng địa-phủ thiên-đàng, thì nhiều nơi tham nơi sướng tránh chỗ go; bằng mà luận trái phải việc đời, lo việc tới lui, thạnh lắm phải lo suy, sướng lâu thì sợ cực; những điều ấy người cho rằng luận vấy, ăn cơm nhà để lo chuyện bao đồng. Ôi thôi ! Hể trời khiến tai-nàn người chịu, xót tình thương nên tỏ một đôi lời. Gia Cát xưa chưa bỏ lều tranh, đã rõ trước tam-phân đảnh túc; bởi Chiếu-liệt đốc-thành kỉnh-sĩ, nên người đành tận-tụy cúc-cung. Vì một người, chịu nhọc một mình; làm hết sức, chớ cơ trời nào dám cãi. Thương trăm họ nên phân trái-phải, hết sức mình cho trọn phận làm người, há cầu ai rằng phải rằng chăng, điều phải chẳng tự nhiên người xét lấy.
Thương ôi !
Bị bị tai tai trời trời khiến khiến hại hại người người đời đời hết hết tưởng tưởng chơi chơi thì thì phải phải sợ sợ.
Xin chư văn hữu đọc bài tứ tuyệt nầy, rồi gửi đến cho bổn quán, như trúng thì xin phụng lại một tháng nhựt-trình xem chơi.
Chủ bút
Ðọc đoạn văn vừa trích, chúng ta thấy chủ bút cũng như những người viết khác, còn chịu ảnh hưởng của cổ văn rất nhiều, nhất là cách hành văn biền ngẫu. Hai bài trích kế tiếp sau đây, không dụng lối biền ngẫu, họ viết y như câu nói, đó là nét đặc trưng của văn chương miền Nam.
Trường Tabert(20)
Mỗi năm hể sau ít ngày ăn lễ sanh-nhật, thì trường học Taberd phát phần thưởng học trò rồi đặng bãi trường. Khi phát phần thưởng mời cha mẹ học trò đến xem hát cho vui. Trường dạy học Taberd, thiệt lập nhiều cach vui cho người có con học vào trường ấy và dục lòng trẻ nhỏ vui và siêng học, học đạo đức, học lễ nghi, học văn chương, học vẽ lại thêm học hát xướng. Ðến lúc làm điều vui, cũng còn kiếm điều cho có ích, điều dạy làm lành, răn đời lấy nhơn-nghĩa. Như là bày tuồng hát chơi mà có ý khuyên người làm phải, dạy trẻ lòng lành, xem đáng cám ơn người bày biện, lòng tốt thương người, tập rèn cho con em phải cách.
Lời Rao
Thường thường hể làm cha mẹ ai ai đều thương con chẳng cùng. Bởi con tôi quá lắm, mới lấy lẽ phải mà răn. Nay vợ chồng tôi là Nguyễn-Hữu-Phước làm tri huyện tại hạt Gò Công, rao cho chư vị đồng bang và người khách đặng rõ: Xin chớ có cho tên Nguyễn Hữu Vạng vay tiền mượn bạc chi. Nó là con của vợ chồng tôi mà nó không nghe lời dạy-dỗ , cứ theo hoang-đàng phóng-tứ. Nếu ai có cho mượn, mất tiền phải chịu lấy, chớ vợ chồng tôi không biết đến.
Tự hậu không ai được phép nói động đến vợ chồng tôi về tên Vạng thiếu nợ.
Tri huyện Nguyễn-Hữu-Phước
Sau đây là mẫu tin đăng trên Nông Cổ Mín Ðàm năm 1915, chúng ta thấy những người viết văn lúc đó vẫn còn chịu ảnh hưởng cách hành văn biền ngẫu, những người viết tin, lồng vào đó phần trào phúng, ngày nay các thông tín viên vẫn còn dùng :
Rồi trái oan
Một phu-nhân ở đường d" Espagne (21) ngó qua chùa chà chưa biết đạo xướng tùy có chi cay đắng hay là nghĩ trần ai ngán sự đời, tạm nha phiến một chung trộn với dấm mà liều má phấn. Vào nhà thương thôi rồi nợ phong trần trả sạch còn cái giây oan trái buộc ràng. Bởi vì không rõ cơ quang, quan mới lập đàng tra vấn. Vấn cho rõ vì sao mà tự tận, có phải vì tình trường mà giận hờn ghen. Vấn cho ra coi ai ép uổng phận nhỏ nhen, làm đến đổi cánh sen chôn lấp.
Tuy nhiên cũng có người hành văn không dụng lối biền ngẫu nên vừa ngắn mà vẫn giữ tánh chất trào lộng như đoạn văn sau đây :
Lê-văn-Búp ở Thủ-Dầu-Một đi xách nước giếng hồi nào không biết, đến chừng người nhà hay tri hô lên thì thấy anh Lê-văn-Búp trồng chuối ngược. Bộ vó chổng khu xách nước nên mới té dọng đầu xuống giếng.
Nguyễn Chánh Sắt và Nguyễn An Khương dịch nhiều truyện Tàu đăng trên Nông Cổ Mín Ðàm và bản dịch Tam Quốc Chí đăng trong báo nầy, ký kên Canavaggio, nhưng theo Vương Hồng Sễn, người dịch là Lương Khắc Ninh.
Sau đây trích một bài dịch Hán văn của Nguyễn Chánh Sắt :
Chuyện mộ Tào Tháo
Phía ngoài thành Hứa-Ðô có một cái sông nước chảy rất mạnh, hai bên thì bờ vực hẳm sâu. Mùa hè trời nóng nực, có một người kia xuống tắm, giây phút nổi lên như bị đao búa chém đứt ra từng khúc. Sau có một người cũng bị như vậy, thiên-hạ thất-kinh lấy làm lạ. Quan phủ sở tại thấy vậy, bèn bắt nhiều dân khiêng đất đốn cây chận ngọn nước sông lại, lúc nước cạn rồi thì thấy dưới sông có cái hang sâu, trong ấy có đặt những xa máy tinh những gươm bén lắm. Phá máy lấy gươm lên, moi riết vào thấy có cái bia nhỏ đề chữ giống điệu chữ đời Hớn, xem kỷ ra mới biết là mộ của Tào Mạnh Ðức. Quan phủ bèn dạy phá hòm ra, lấy xương đem chôn nơi khác. Còn những ngọc ngà châu báu liệm trong hòm, thì lấy hết mà bỏ vào kho.
Trong sách có nói Tào Tháo có bảy mươi hai cái mã nghi, hay đâu ngoài bảy mươi hai cái lại còn một cái nầy nữa. Ấy vậy thì gian trá như Tào Tháo, đến thác cũng còn gian trá. Song đã ngoài ngàn năm mà một nắm xương tàn còn chẳng giữ đặng thay, nghĩ lại mà coi, thì gian trá cho lắm lại có ích gì.
Rút trong LIÊU TRAI CHÍ DỊ dịch ra
Tân Châu, NGUYỄN CHÁNH S&IEXCL;T
Và sau đây là phần Nhàn Ðàm đăng vào năm 1908 (không rõ số mấy)
CON VOI VỚI CON TRÂU (tranh công)
Con trâu ngày kia đi ngao du ngoài rừng, xãy gặp con voi đứng lại mà đàm luận việc công cán với nhau, thì con Voi thấy con Trâu có hơi mệt, liền hỏi sức lực mầy làm dường bao mà coi bộ mệt lắm vậy, thì con trâu trả lời rằng:
Tôi làm vầy chớ công cán tôi cao dày lắm, biết mấy đời vương, giúp trong thiên hạ đà lắm thuở, tuy tôi tuổi tác nhỏ nhen chớ trong lòng sẵn có ba lá sách, nhưng vậy cũng biết đặng đường nhơn nghĩa mà cư xử trong và bề ngoài.
Con voi nói lại rằng: Nè còn công cán tao cao dày lắm, nhơn vì trước tao giúp cho vua Thuấn đã cày nên ruộng, bởi vậy sau đây người ta tặng kêu tao là ông-tượng, nên tao biết tao phải lớn hơn hết.
Con trâu trả lời: Phải ông thiệt là lớn hơn hết, lớn là lớn cái vóc và khoe mình nên người ta gọi là ông tượng, và hình thù thì lớn mà tánh nết ăn nói nhỏ nhen lắm, nên người ta sợ bụng ông không chừng, thiệt tôi coi đi xét lại, nhằm trước xem sau có một mình ông bụng lớn và bao tử cũng lớn chứa phẩn nhiều hơn hết, mà lại xông lớn đống, hể ai đi có gặp nói phẩn của ông-tượng là vậy đó.
Nguyễn Quang Trường
Tự Cửu Viễn
Cũng ở trang 6 tờ báo nầy có đăng những quảng cáo như sau :
NHÀ ÐÓNG SÁCH J. VIẾT-LỘC & CIE
ở đường d"Ormay số 61, Sàigòn
LÊ-VĂN-NGÀN, kế vị
Kính cùng chư quý vị đặng rõ, kể từ ngày 15 tháng sáu langsa, chúng tôi mới làm hùn thêm đặng lo tấn tới và mở mang cuộc đóng sách và cuộc buôn bán thuở nay của mấy thầy Viết-Lộc và Công-ty.
Vậy xin trong lục châu cùng châu thành Saigon Chợlớn tưởng tình anh em chúng tôi trước sau cũng vậy mà giúp sức cho người nam ta cho tấn tới theo đường thương mãi.
Luôn diệp nầy chúng tôi xin trong chư quý vị ai còn thiếu bạc hay là có muốn mua cái chi thì xìn từ ngày nay đến sau phải gửi cho thầy Lê-văn-Ngàn.
Còn nhà J. Viết-Lộc & Cie có thiếu của ai thì hạn trong một tháng phải đem tờ giấy chi đến tại nhà nầy mà tính. Bằng quá hạn nầy rồi thì chúng tôi chẳng biết tới nữa.
Saigon, le 16 Juin 1908
Phần quảng cáo đa số là của người ngoại quốc, đủ chứng tỏ thuở ấy người Pháp và Ấn chiếm hầu hết việc thương mại ở Sàigòn. Ðây là một mẫu quảng cáo hàng :
Tiệm Bán Hàng Hoá Ông Courtinat và Công-Ty ở đường Catinat, Saigon Số 96-98-100-102-104-106-108
Có bán: lụa, nhun, tố, nỉ, hàng tây, đủ thứ, đủ màu; Tủ sắt, giường sắt có ruột gà, bàn rữa mặt lót mặt đá cẩm thạch, tủ cây Hongkong, xe máy từ 55 đồng; Xa bong hiệu Mignon mỗi hộp 100 miếng giá gửi đến chổ 1$85 và xa bong thơm, dầu thơm đủ thứ; Ghế Thonet mặt cây tốt lắm; Dù lục soạn hay là dù vải đủ thứ; Giày, vớ, khăn, đồng hồ vàng, bạc và nickel, kiếng soi lớn nhỏ đủ thứ, cùng đồ hành lý; Máy nói hiệu Pathé; Pháo bông, cùng đồ cho con nít chơi đủ thứ; Hột xoàn lớn nhỏ tốt nhứt hạng; Có bán xe hơi hiệu Berliet, chạy từ Saigon xuống Vũng tàu 28 phút, cũng có lảnh sữa xe hơi. Tại nhà nầy chẳng thiếu món chi mà lại giá rẻ.
Tóm lại Nông Cổ Mín Ðàm là một tuần báo khổ lớn, nội dung gồm đủ các phần tuy có 8 chỉ trang, nhưng phần văn chương chiếm hết tờ báo. Nông Cổ Mín Ðàm ra đời trong thời buổi sơ khai của nền báo chí nước ta, lúc chữ quốc ngữ cũng còn ít người biết đọc. Cho nên mặc dù nó đã đình bản chưa đầy một thế kỷ, mà ít có người được biết đến tờ báo nầy.
Tờ Nông Cổ Mín Ðàm ra mắt, mặc dù sau Gia Ðịnh báo, Thông Loại Khóa Trình, nhưng hiện tình báo chí thuở ấy chỉ có Tờ Nông Cổ Mín Ðàm mà thôi, mãi cho đến năm 1907 mới có tờ Lục Tỉnh Tân Văn.
Dù sao thì tờ Nông Cổ Mín Ðàm cũng có đủ yếu tố là một tờ báo, nó gồm đủ các phần như báo chí ngày nay.
Về chữ Quốc ngữ, chúng ta để ý sẽ thấy rằng chữ thuở ấy chẳng có mấy sai khác như hiện nay, trừ một số lỗi chánh tả. Lối hành văn dài thậm thượt, nhận xét nầy cho thấy hành văn thuở đó chưa được chú trọng, quy cũ như hiện nay.
Tờ Nông Cổ Mín Ðàm không những phổ biến tư tưởng Ðông phương, mà còn phổ biến tư tưởng học thuật Tây phương, đi theo đường lối Trương Vĩnh Ký đã làm từ trước.
F.- Nhật Báo Tỉnh Cũng là tuần báo, phát hành vào ngày Thứ Năm hàng tuần, từ năm 1905 đến 1912.
G.- Lục Tỉnh Tân Văn
Năm 1907 H.F. Schneider lập ra tờ Lục Tỉnh Tân Văn, Trần Chánh Chiếu làm chủ bút, phát hành hàng tuần, có một phần nhỏ về công báo. Năm 1910, Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút, đến năm 1919 Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút tờ Trung Bắc Tân Văn, là một ấn bản của Lục Tỉnh Tân Văn, phát hành cho miền Trung và Bắc.
Về sau Lục Tỉnh Tân Văn nhượng lại cho Nguyễn Văn Của làm chủ nhiệm và do Lê Hoằng Mưu làm chủ bút.
Bước sang thập niên 20 còn có những tờ báo như :
H.- Nữ Giới Chung
Do Lê Ðức làm Chủ nhiệm và Sương Nguyệt Anh, con gái của Nguyễn Ðình Chiểu làm Chủ Bút.
I.- Công Luận Báo
Do Lê Sum làm chủ bút, phát hành vào ngày Thứ Ba và Thứ Sáu, kể từ báo Công Luận trở đi, mỗi tờ báo sau nầy đều có dành riêng một trang văn thơ, hay ít ra 1 cột gọi là Văn Uyển.
II.- Trung Lập Báo
Do Phi Vân Trần Văn Chim tác giả Ðồng Quê làm chủ bút, đặt biệt báo nầy khởi đăng tiểu thuyết "" Châu Về Hiệp Phố "" của nhà văn Phú Ðức, tiểu thuyết nầy sau vẫn còn đăng lại ở nhật báo Thần Chung của Nam Ðình, Tiếng Chuông của Ðinh Văn Khai, tuần báo Bình Dân của chính tác giả Phú Ðức
Báo chí đã đóng góp một phần lớn cho việc truyền bá chữ Quốc Ngữ, mặc dù trong thời kỳ đầu nầy, báo chí chỉ được phổ biến trong giới quan lại người Việt, giúp việc trong guồng máy cai trị của Pháp, từ cấp Tổng, Huyện trở lên. Dần dần báo chí lan rộng đến các điền chủ, giáo học, cho đến khi báo chí đăng những truyện tàu, tiểu thuyết lúc ấy báo chí mới được phổ cập đến giới trung lưu ở thôn quê, vì lúc ấy báo chí đã thoát khỏi cái vỏ công báo, và chữ Quốc ngữ đã được dạy ở các trường học ở thôn quê miền nam.
Tưởng cũng nên ghi nhận, ở Bắc năm 1892 có tờ Ðại Nam Ðồng Văn Nhật Báo (in chữ Hán) (22), phải đợi cho đến năm 1905 mới có tờ Ðại Việt Tân Báo in cả chữ Quốc Ngữ và Chữ Hán . Năm 1907, tờ Ðại Nam Ðồng Văn Nhật Báo có thêm Ðăng Cổ Tùng Báosố ra mắt ngày 28-3-1907 do Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ bút.
Sở dĩ báo chí ở Trung và Bắc chậm xuất bản là vì theo Ðạo Dụ ngày 31-5-1906, chánh phủ Nam triều mới đổi mới cho chế độ học và thi cử ở Bắc và Trung, chương trình học vẫn lấy chữ Hán làm gốc, nhưng thêm các khoa Cách trí, Sư ký, Ðịa dư,Toán pháp dạy bằng Quốc Ngữ và một ít chữ Pháp. Thi Hương và Thi Hội cũng có những bài chữ Quốc Ngữ và chữ Pháp. Ở Bắc năm 1915 và ở Trung năm 1919 mới bỏ lối thi cử cũ (23).
Tiến trình báo chí ở Miền Nam, cho chúng ta thấy nó cũng là một yếu tố để truyền bá chữ Quốc Ngữ, đọc lại tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đôi chỗ nói tới nhựt trình thời bấy giờ, đọc Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư trong Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam, chúng ta thấy ghi đậm nét về sự truyền bá chữ Quốc Ngữ, và sự phổ cập báo chí ở Miền Nam.
(Còn tiếp) Huỳnh Ái Tông Ghi chú :
( 1 ) Theo lời Bác sĩ Nguyễn Minh Tâm Giám Ðốc Nha Y Tế Học Ðường thuộc Bộ Giáo Dục, trong phiên họp các Trưởng Ty Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên vào cuối năm 1974 tại Bộ Giáo Dục, ông cho biết, có người bán trọn bộ báo nầy cho một người Mỹ trong năm ấy, giá 1 triệu 5 trăm ngàn đồng Việt Nam (thời giá 1US=200 đồng VN). ( 2 ) Theo Giáo sư Huỳnh Văn Tòng cho biết tại Thư viện trường Ngôn Ngữ Ðông Phương (L"École National des Langues Orientales) ở Paris, số 3 phát hành ngày 15-7-1865, số 4 phát hành ngày 15-8-1865 và số chót mà thư viện có là số 42, phát hành ngày 25-10-1909
( 3 ) Hội Ðồng Tỉnh.
( 4 ) Phan Long Ðiền trích dịch, đăng trong Giai Phẩm Bách Khoa ngày 17-8-1974
( 5 ) Franc: Ðơn vị tiền tệ Pháp.
( 6 ) Diệp Văn Cương tự Thọ Sơn, bút hiệu Yên Sa, người làng An Nhơn, tỉnh Gia Ðịnh, sau khi thi đậu bằng Trung Học, ông được chánh phủ bảo hộ cho sang Pháp học và đổ bằng Tú Tài, về Việt nam dạy trường Chasseloup-Laubat, ông được Toàn quyền Paul-Bert chú ý, nên có đưa ra Bắc và Trung làm việc. Ở Huế ông đảm trách việc dạy học cho vua Ðồng Khánh, tại đây ông kết duyên cùng một bà công chúa, con của Thoại Thái vương sinh ra Diệp Văn Kỳ cũng là một nhà báo kỳ cựu trong Nam vào thập niên 30.
Diệp Văn Cương có những tác phẩm sau :
Recueil de morale annamite (1917) Syllabaire quốc ngữ (1919) Tập Phong hóa dịch ra quốc ngữ ( 7 ) Ðã trích bài Bảo ở chương trước, trong phần tiểu sử Trương Vĩnh Ký. ( 8 ) Số 10, trang 5 và 6.
( 9 ) Chữ x trong ngoặc là thay cho chữ Hán
( 10 ) Số 2, trang 11
( 11 ) Số 1, trang 4
( 12 ) Số 2, trang 3
( 13 ) Số 4, trang 13
( 14 ) Quình tương là tích chén nước Vân-anh đưa cho Bùi Hàn uống (coi giải trong Túy-Kiều) - Tài liệu chú -
( 15 ) Số 1, trang 9
( 16 ) Số 3, trang 4
( 17 ) Số 3, trang 3
( 18 ) Nông Cổ Mín Ðàm số 166 ngày 17-11-1904
( 19) Hai trận bão nầy xãy ra vào năm Thìn, nên người ta hay nói "" Năm Thìn Bão Lụt"", trong Ca dao miền Nam có câu nói về trận bão nầy :
Ðèn nào cao cho bằng đèn Châu Ðốc, Gió nào độc cho bằng ngọn gió Gò Công. Thổi ngọn Ðông phong lạc vợ xa chồng, Nằm đêm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi.
( 20 ) Nông Cổ Mín Ðàm số 173 ngày 5-1-1905
( 21 ) Ðường Lê Thánh Tôn Sàigòn.
(22) Theo Quốc Triều Chính Biên. Năm 1888, tháng 4 quan Ðại Pháp mới lập sở Ðại Nam Nhật Báo.
(23) Ðề thi Hội cuối cùng năm 1919:
Việc chánh trị bây giờ càng khó, Trung Kỳ và Bắc Kỳ tình thế khác nhau, nên sửa sang những điều gì trước ? Luận. Nước ta Văn hiến, trải mấy ngàn năm, bây giờ nghĩ phỏng Thái Tây đặt Viện Hàn Lâm dịch các sách vở. Luận Nước ta việc hình luật đời nào cũng trọng, quan hệ nhơn tâm phong tục là thế nào ? Luận Khoa thi nầy, kết quả lấy 7 Tiến sĩ và 16 Phó bảng.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 16:51:17 GMT 9
Tiết 3: Thơ
I.- Ðại Cương Nếu báo chí giữ vai trò khá quan trọng trong việc truyền bá chữ quốc ngữ ở giai cấp trung lưu, Thơ lại giữ một vai trò quan trọng trong việc phổ biến chữ quốc ngữ trong giai cấp bình dân ở miền Nam.
Thơ là danh từ của người miền Nam dùng, để chỉ cho các loại truyện như Thúy Kiều, Lục Vân Tiên, Phạm Công Cúc Hoa..., còn danh từ truyện là để chỉ cho truyện Tàu như Tam Quốc Chí, Tây Du Ký, Thuyết Ðường... Chúng tôi dùng từ Thơ trong tiết nầy, cốt để giữ nguyên danh từ thông dụng của nó ở miền Nam.
Tất cả thơ đều soạn theo thể thơ Lục Bát của Việt Nam ta, căn cứ vào quá trình sau đây, chúng tôi xếp thơ trước truyện và tiểu thuyết.
1. Năm 1875, Trương Vĩnh Ký xuất bản Kim Vân Kiều của Nguyễn Du bằng Quốc ngữ. Ðến năm 1889, sau khi tác giả Nguyễn Ðình Chiểu mất được một năm, ông lại cho xuất bản quyển Lục Vân Tiên, Phan Trần.
2. Văn nghiệp của Huình Tịnh Của (1834-1907), cũng có tác phẩm Quan Âm Diễn Ca bằng Quốc ngữ.
3. Theo tài liệu ông Nguyễn Văn Kiềm, trong quyển Tân Châu 1870-1964, cho biết nhà văn Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt đã dịch truyện Tây Hớn do J. Viết Lộc & Cie ở Sàigòn xuất bản, là quyển truyện Tàu đầu tiên dịch ra Quốc ngữ, được độc giả rất hoan nghênh, nhưng ông Kiềm không cho biết truyện ấy xuất bản năm nào, nhà J. Viết Lộc & Cie được thành lập và hoạt động từ năm 1900 đến 1908, vậy truyện Tây Hớn xuất bản thời gian đó. Tóm lại thơ in và phổ biến qua chữ Quốc ngữ có từ năm 1875, nhưng đó là Kim Vân Kiều chưa chắc nó đã được ưa chuộng vì là áng văn chương tuyệt tác, có nhiều điển tích, người bình dân khó hiểu, phải đợi đến sau năm 1889,khi quyển Lục vân Tiên và Phan Trần ra đời, người bình dân mới có thể bắt đầu ưa chuộng thơ, chính trên sách Lục vân Tiên cũng ghi thơ văn bình dân (Poème populaire).
Từ đó thơ được giới bình dân ưa chuộng, các nhà văn thời ấy đua nhau sáng tác, cho đến năm 1907, đã có thêm những quyển thơ sau đây, xuất bản tại nhà in Saigonnaise:
- Lâm Sanh Xuân Nương soạn giả Nguyễn Kim Ðính (1) - Trần Ðại Lang - - Dương Ngọc - Bà Huỳnh Kim Danh - Trương Ngộ - - Quang Âm giáng thế - - Trần Sanh Ngọc Minh - Nguyễn Bá Thời - Bạch Viên Tôn Các - - Ðào Trinh Luông Sanh - - Lý Công - Nguyễn Bá Thời - Ngọc Cam Ngọc Khổ - Nguyễn Bá Thời - Chiêu Quân Cống Hồ - Ðặng Lễ Nghi - Thoại Khanh Châu Tuấn - Bà Huỳnh Kim Danh - Thạch Sanh Lý Thông - Hà Trung - Tống Tử Vưu - - Lang Châu - - Lâm Sanh Lâm Thoại - - Tiên Bửu - - Mục Liên Thanh Ðề - Bà Huỳnh Kim Danh - Tam Nương - - Trương Ngáo - Hoàng Minh Tự - Mụ Ðội - - Nam Kỳ - - Học Tập Qui Chánh - - Kiều Truyện có giải nghĩa - - Trần Minh Khố Chuối - Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Văn Khỏe - Trọng Tương Vấn Hớn - - Văn Doan -
Vì thơ thuộc loại sách phổ biến trong giới bình dân, trình bày hết sức đơn sơ, không chú trọng ấn bản, từ lúc thơ được in trong những năm đầu tiên cho đến những năm sau nầy, nó vẫn được giữ y nguyên hình thức cũ, in khổ 16cm x 24 cm, trang bìa giấy màu loại mỏng, có vẽ hình để minh họa một cảnh nào đó trong nội dung, hình vẽ và tựa in một màu, đôi khi hình vẽ in một màu và tựa in màu khác, bìa màu khác, sách dầy kể luôn cả bìa là 16 hay 24 trang, bìa sau thường in danh mục các quyển thơ đã được in. Năm 1907, giá một quyển trung bình là 35 xu, đến thập niên 50, giá 2 đồng, đến thập niên 70 giá 10 đồng đến 20 đồng tùy sách dầy hay mỏng.
Về cách trình bày bên trong, mỗi hàng in cả 2 câu Lục và Bát thành một dòng, không phân đoạn hay tiết mục gì cả. Có quyển vì ngắn, nên trong có thêm hình vẽ cho đủ số 16 trang của quyển thơ, những quyển loại nầy có chua thêm dưới tựa ‘‘ Có hình ‘’.
Thơ được sáng tác phần lớn dựa theo các chuyện cổ tích, như : Thạch Sanh Lý Thông, Nàng Út, Chàng Nhái Kiểng Tiên..., đựa theo tuồng tích truyện Tàu như Võ Tòng Sát Tẩu, Tề Thiên Ðại Thánh loạn thiên đình ...có liên quan đến thời sự như Sáu Trọng, Hai Ðẩu, Sáu Nhỏ... có liên quan tôn giáo như Quan Âm giáng thế, Mục Liên Thanh Ðề...
Mặc dù cốt chuyện soạn đúng theo quy ước, luôn luôn kết thúc có hậu, ân đền nghĩa trả, mọi gút đều được mở, nhưng vì người ta quá yêu chuộng thơ, cho nên thơ được đặt thêm ra chẳng hạn như Hậu Lục Vân Tiên, Hậu Phạm Công Cúc Hoa, Hậu Bạch Viên Tôn Các...
Một số cốt chuyện đã được 2 tác giả soạn thơ, ví dụ như nhà xuất bản Phạm Văn Cường có thơ Trần Minh Khố Chuối của soạn giả Nguyễn Bá Thời, nhà xuất bản Phạm Văn Thình cũng có thơ Trần Minh Khố Chuối của soạn giả Nguyễn Văn Khoẻ.
Ðã là thơ thì người ta không đọc, phải ngâm, nhưng giọng ngâm ấy đặc biệt có tánh cách ngâm thơ của người miền Nam, nó gần với giọng hát ru em của người miền Nam vậy.
Như đã trình bày, thơ được phổ biến trong giới bình dân miền Nam, người ta chú trọng nội dung mà không quan tâm đến hình thức, do đó những tác giả của các tập thơ đều bị lãng quên, ngày nay khó sưu tầm được.
Các tập thơ trước kia do nhà xuất bản Saigonnaise số 39-41 đường Catinat (sau đổi là Tự Do, Ðồng Khởi), hay nhà in Phạm Văn Thình số 179, rue d’Espagne (đường Lê Thánh Tôn), cho đến thập niên 60 vẫn còn có 3 nhà xuất bản : Thuận Hòa, 54 Tháp Mười Chợ Lớn, Phạm Ðình Khương 31 Bd Bonhoure và Phạm Văn Cường 171 Ðại Lộ Khổng Tử Chợ Lớn. Ðến thập niên 70, chỉ còn có hai nhà xuất bản Phạm Ðình Khương và Phạm Văn Cường.
Có quyển Lục Vân Tiên của nhà xuất bản Phạm Văn Thình, không ghi rõ năm in, nhưng có lẽ trước năm 1950, đã thấy ghi tái bản đến lần thứ 13, sau đó bản quyền nhường cho nhà Thuận Hòa in tiếp, nhà xuất bản nầy cũng như nhà xuất bản Phạm Văn Cường sau nầy không ghi lần tái bản các quyển thơ.
Các nhà xuất bản chắc có dụng ý riêng của họ là không ghi lần tái bản, để in lậu tránh việc xin cấp giấy phép. Do đó, chúng ta không thể biết được một số quyển thơ đã tái bản vào năm nào.
Cũng như truyện tàu sau nầy, phải nói người bình dân rất ưa chuộng thơ, đêm đêm bên ngọn đèn dầu, một người nằm đọc thơ cho những người khác cùng nghe, đấy cũng là cách giải trí của người bình dân ở thôn quê ngày trước, thỉnh thoảng họ mới được giải trí với những đoàn hát bộ khi ở đình làng có cúng kỳ yên, giỗ thần, năm chỉ một đôi lần, cho nên cùng nhau quây quần nghe đọc truyện ban đêm, khi mùa màng nhàn rỗi là một thú vui của họ, nhu cầu đọc truyện bắt buộc người ta phải biết chữ. Từ đó người bình dân mới cho con em cấp sách đến trường làng học đôi năm, họ không có cao vọng cho con cái học thành tài, làm thầy Thông, thầy Ký, mục dích của họ là học để biết đọc biết viết, nhất là đọc thơ cho họ nghe lúc nhàn rỗi. Ðó cũng là yếu tố góp phần vào việc truyền bá chữ quốc ngữ buổi sơ thời ở miền Nam.
Gần một thế kỷ đã qua rồi, thơ khôn còn được sáng tác thêm nữa, trong danh mục chủng loại của thơ, chúng ta có thể tổng kết được số lượng sau đây :
- Lục Vân Tiên của Nguyễn Ðình Chiểu - Phạm Công Cúc Hoa - Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Văn Khỏe - Lâm Sanh Xuân Nương - Nguyễn Kim Ðính - Thoại Khanh Châu Tuấn - Bà Huỳnh Kim Danh - Bạch Viên Tôn Các - Tống Tử Vưu - Nàng Út - Chàng Nhái - Nguyễn Bá Thời - Ðơn Hùng Tín I & II - Dương Ngọc - Bà Huỳnh Kim Danh - Thạch sanh Lý Thông - Hà Trung - Con Tấm Con Cám - Nguyễn Bá Thời - Nam Kinh Bắc Kinh - Bà Huỳnh Kim danh - Trần Ðại Lang - Lang Châu cùi - Lý Công - Nguyễn Bá Thời - Lâm Sanh Lâm Thoại - Trò Ðông - Ðặng Lễ Nghi - Tam Nương - Trần Minh Khố Chuối - Nguyễn Bá Thờ, Nguyễn Văn Khỏe - Ngọc Cam Ngọc Khổ - Nguyễn Bá Thời - Ông Trượng Tiên Bửu - Mục Liên Thanh Ðề - Chiêu Quân Cống Hồ - Ðặng Lễ Nghi - Trần Sanh Ngọc Anh - Nguyễn Bá Thời - Nhị Thập Tứ Hiếu - Ðương Dương Trường Bản - Sáu Trọng Hai Ðẩu - Sáu Nhỏ - Túy Kiều đời nay - Vân Tiên cờ bạc - Tiết Giao đoạt ngọc - Tiết Cương khởi nghĩa - Phụng Kiều Lý Ðáng - Năm Tỵ - Phan Công - Nguyễn Bá Thời - Quan Âm thơ - Ân tình - Mụ Ðội - Nữ Trung báo oán - Ðặng Lễ Nghi - Hoàng Trừu (Công chúa đội đèn) - Nguyễn Bá Thời - Chàng chuột Lệ Tiên - Trần Nhựt Chánh hội tam thê - Cậu Hai Miêng - Thơ đi Tây - Sử Công - Tiết Ðinh San - Phàn Lê Huê - Hoàng Minh Tự - Tống tửu Ðơn Hùng Tín - Triệu Tử đoạt ấu chúa - Phụng Nghi Ðình - Võ Tòng Sát Tẩu - Nguyễn Bá Thời - Lưu Bị cầu hôn Giang tả - Hạng Võ biệt Ngu Cơ - Tề Thiên Ðại Thánh loạn thiên đình - Hoàng Minh Tự - Tam Tạng Thỉnh Kinh - Bá Áp Khảo dạy đờn Ðắc Kỷ - Mộc Quế Anh dưng cây - Ông phò nhị tẩu - Nguyễn Thành Long - Tiết Nhơn Quí lấy Ma Thiên Lãnh - Trụ Vương mê Ðắc Kỷ - Xử Bàng Quí Phi - Chung Vô Diệm hội Kỳ Bàn - Quan Công thất thủ Hạ Bì - Thôi Tử thí Tề quân - Quốc Trì giả điên - Giang Ðông phó hội - Tam khí Châu Du - Phật Tổ ra đời - Bà Quan Âm - Trương Ngáo - Hoàng Minh Tự - Lãnh bán heo - Lưu Bình Dương Lễ gả vợ cho con - Cha mẹ dạy con - Mạnh Lệ Quân
Các loại thơ đặt tiếp theo :
- Hậu Lục Vân Tiên - Nguyễn Bá Thời - Hậu Phạm Công Cúc Hoa - Hậu Lâm Xanh Xuân Nương - Thanh Tâm - Hậu Trần Minh Khố Chuối - Ðinh Công Thống - Hậu Thạch Sanh - Nguyễn Bá Thời - Hậu Thoại Khanh Châu Tuấn - Nguyễn Bá Thời - Hậu Bạch Viên Tôn Các - Hậu Tống Tử Vưu - Hậu Nàng Út - Hậu Chàng Nhái - Thanh Tâm
II.- Kết cấu nội dung
Qua danh mục trên, chúng ta thấy một số lớn thơ được sáng tác theo chuyện cổ tích, hay truyện Tàu. Nhân vật được xây dựng đặt trên căn bản quan niệm xây dựng con người của Khổng giáọ Trai thời : Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa; gái thời : Công, Dung, Ngôn, Hạnh. Bối cảnh được xây dựng từ đồng quê cho đến triều đình, cốt chuyện đi từ hoàn cảnh nhân vật nghèo khó, rồi dần dần bước lên đường công danh sau khi nhân vật chánh gặp nghịch cảnh trớ trêu, cay nghiệt do những kẻ có ác tâm hoặc nịnh thần ở triều đình tạo ra, dù cho nghịch cảnh thế nào đi nữa, phần kết chuyện cũng phải có Hậu, nghĩa là người ngay được hưởng vinh quang, ân đền nghĩa trả, kẻ gian ác phải bị trừng phạt. Như Lục Vân Tiên sau cùng được lên ngôi thiên tử, sau khi trãi qua những nghịch cảnh bị mù lòa, bị Trịnh Hâm gạt gẩm xô xuống biển Ðông, bị Võ Công đưa vào hang núi Thương Tòng, nhưng những nghịch cảnh như thế, đều được Tiên, Phật ra tay tế độ cho, rồi Vân Tiên cũng được thuốc Tiên chữa cho mắt sáng, rồi ứng thí đỗ Quốc trạng, đi dẹp giặc Ô Qua, gặp lại Nguyệt Nga, cuối cùng một nhà đoàn tụ vinh hiển. Còn những kẻ ác tâm như Trịnh Hâm thì bị đắm thuyền chết đuối, mẹ con Thể Loan (gia đình Võ Công) bị cọp tha.
Bối cảnh, nhân vật, tình tiết mỗi chuyện dù có khác nhau, nhưng nó đều có chung một mô thức như truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Ðình Chiểu.
Thật ra thì thơ hầu hết là chuyện cổ tích trong dân gian Việt Nam, một phần là truyện Tàu, chính Nguyễn Ðình Chiểu sáng tác Lục Vân Tiên cũng phải phỏng theo mô thức xây dựng con người Việt Nam chịu ảnh hưởng Trung Hoa về Tam Cang và Ngũ Thường của nam giới hay Tam Tòng và Tứ Ðức của nữ giới.
Chẳng hạn như chuyện Trần Minh Khố Chuối.
Trần Công một phủ quan giàu có, đã trộng tuổi mà chưa có con để nối dõi tông đường, rồi một hôm đi cầu tự ở một ngôi chùa danh tiếng kia. Nơi dây, Trần Công gặp một viên quan Thị vệ cũng đi cầu tự, hai bên đồng cảnh ngộ nên kết nghĩa với nhau, họ hẹn ước gian khổ có nhau, và nếu hai nhà sau nầy kẻ sanh con trai, người sanh con gái, họ sẽ kết nghĩa thông gia.
Sau khi cầu tự về, Trần thị có mang, Trần công từ ấy gia công thi ân bố đức, rồi Trần Minh chào đời, gia đình Trần công lại thi ân bố đức nhiều hơn, cho đến năm Trần Minh được 7 tuổi, Trần công mất, gia cảnh sa sút nghèo nàn, Trần Minh phải xin ăn nuôi mẹ, ngày thì bửa đói bửa no, thân không mảnh vải che thân phải đóng khố.
Rồi Trần Thị nhớ tới lời hẹn ước xưa, mới cùng Trần Minh đi tìm quan Thị Vệ, nhưng viên quan Thị Vệ nầy thấy cảnh nghèo của Trần Minh, bèn ngảnh mặt làm ngơ, mẹ con Trần Thị lại phải dắt díu tiếp tục ăn xin., rồi Trần Thị mất. Trần Minh tiếp tục sống tha phương cầu thực và đến huyện Võ Khê tầm thầy học đạo.
Ở trường học, con nhà giàu có ỷ lại vào sự giàu sang của cha me chúng hiếp đáp Trần Minh đủ điều, chàng cam tâm nhẫn nhục cố gắng học với mục đích bảng hổ đề danh sau nầy.
Còn viên quan Thị Vệ sau khi xô đuổi mẹ con Trần Thị, muốn thử lòng con gái là nàng Ðệ Nhất, bèn thuật lại mọi chuyện của gia đình Trần Minh và mối giây liên hệ với nàng, ông ta cho biết rằng nếu nàng đồng ý, ông sẽ gã nàng cho Trần Minh. Nàng tỏ bày bằng lòng với số phận theo lời giao ước ngày xưa của cha mẹ hai bên. Ông ta giận dữ, phân tách thiệt hơn cho nàng nghe, sợ làm phật ý cha, nàng xin cha cho mở một cửa hàng với dụng tâm tìm cho gặp mặt để giúp đỡ Trần Minh. Nhờ đó nàng tìm ra manh mối Trần Minh, giúp Trần Minh phương tiện học hành, đi ứng thí, kỳ thi ấy chàng đỗ Trạng nguyên. Nam vương liền gả công chúa cho chàng.
Sau khi bái tổ vinh qui, sum họp với nàng Ðệ Nhứt, quan Thị Vệ bị sét đánh chết, sau khi cư tang, vợ chồng Trần Minh trở lại triều đình, được Nam Vương truyền ngôi, nàng Ðệ Nhứt lên ngôi chánh hậu và công chúa giữ phận thứ phi.
Chuyện Trần Minh không có nhiều tình tiết, nghịch cảnh trớ trêu dồn dập như Lục Vân Tiên. Trần Minh chỉ có nghèo và đi tới cùng cực của cảnh nghèo là phải đóng khố chethân, xin ăn qua ngày, phải chịu những cảnh ức hiếp của bọn học trò con nhà giàu, ấy là bối cảnh xã hội thời nào cũng có. Cũng cùng chung cái cảnh đoạn trường bị từ hôn như Lục Vân Tiên, nhưng Trần Minh chỉ gặp khổ chớ chẳng gặp cảnh hiểm nguy.
Như đã nói trên, chuyện xưa đều có chung mô thức, kết thúc phải đi đến chỗ tốt đẹp cho người Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa, phải ân đền oán trả, những cái oán mà con người chỉ trả trong giới hạn nào đó, nó không tương xứng với hành động đã gieo, thì những kẻ gây oán phải trả theo luật nhân quả nhãn tiền, kết cục hết sức rõ ràng và minh bạch, nhằm mục đích ‘’ khuyến thiện, trừng gian ‘’.
Ðứng về mặt tôn giáo mà nói, nội dung các chuyện có ảnh hưởng các tôn giáo lâu đời ở nước ta như Phật, Khổng, Lão, nó luôn luôn thích hợp với người bình dân. Họ tin tưởng vào đức Phật Tổ để sống đời sống ăn hiền ở lành hay làm lành lánh dữ. Ðề cao Trung, hiếu, tiết, nghĩa của đạo Khổng và cũng tin tưởng vào pháp thuật của tiên gia để trừ tà, ếm quỷ, cầu phong, đảo võ những hình thức mà đời sống nông dân cần đến.
Ðọc qua thơ, sẽ thấy nội dung trình bày triết lý sống phổ quát của người miền Nam, nó cũng là triết lý sống của người Việt vậy.
III.- Văn Chương thơ
Thơ như đã đề cập trước, chính danh nó là truyện, như truyện Kiều, truyện Nhị Ðộ Mai trong chủng loại của Văn học Việt Nam. Vậy Thơ là truyện bằng thi ca, kể theo thể lục bát, hình thức của Thi ca bình dân, cũng có thể nói Thơ là truyện hay chuyện diễn ca, nghĩa là người ta dùng hình thức thi ca bình dân, để diễn các chuyện cổ tích và trích những đoạn truyện Tàu thành một khúc ca, vì vậy mà cùng một chuyện có thể có vài ba tác giả.
Chẳng hạn như thơ Phạm Công Cúc Hoa có bổn do Nguyễn Bá Thời soạn, có bổn do Nguyễn Văn Khỏe soạn, thơ Trần Minh khố chuối cũng vậy, một vài chuyện do hai tác giả soạn như thế, tựa và lời diễn ca tuy có khác nhưng nội dung chỉ là một. Ví dụ :
Thơ Chàng Nhái hay Thơ Chàng Nhái Kiểng Tiên Thơ Lý Công hay Thơ Lý Công Thị Hươu Thơ Trương Ngáo hay Thơ Trương Ngáo đòi tiền Phật ... Thể lục bát rất thích hợp cho hình thức diễn ca cho chuyện và cốt chuyện có sẵn, soạn giả chỉ dụng công diễn thành thi ca, nhiều khi diễn ca có tiết điệu mà không chú trọng về vần, cho nên nhiều vần bị gượng ép hay thất vận. Ví dụ : Phạm Công ngẫm nghĩ gần xa, Không thi thì uổng công ta sách đèn. Chàng bèn ứng thí đậu liền. Bèn vào yết kiến bệ tiền Hoàng gia (2) hoặc : Thà anh thác xuống suối vàng, Ðể em ở lại cho nhàn tấm thân. Em về ở với song thân Ðể chi mà chịu nhọc nhằn thế ni ( 3 ) hoặc : Mãng đương bàn bạc sự tình, Lang vương đắc ý rượu đào giao bôi. .... Chiêu Quân liếc ngó Vương Long, Bèn trao mê dược tửu trung bỏ vào. ... Chiêu Quân thôi mới tâu vào, Người Mao Diên Thọ Hớn trào gian hung. Vốn tôi có sự cừu nhân, Cho tôi tẩy oán thành thân mới đành. Cừu nầy tôi trả chẳng xong, Tôi nguyền mạng một trôi giòng biên giang. (4) Trong số các soạn giả thơ - trừ Nguyễn Ðình Chiểu - chỉ có Hoàng Minh Tự gieo vần nghiêm chỉnh hơn cả. Cũng có câu vần được dời từ chữ thứ 6 câu 8, sang chữ thứ 4 câu 8 như :
Ðoạn nầy nói việc mụ già, Cưới dâu về nhà, tính đã ba năm. (5) hay : Gieo tiền thầy nói vội vàng, Hoàng hậu rõ ràng, mình mới thọ thai (6) Cách gieo vần nầy, chúng ta thấy một số câu trong Chinh Phụ Ngâm : Ngập ngừng lá rụng cành trâm, Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao. Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ, Chiều lại tìm nào có tiêu hao. Ngập ngừng gió thổi áo bào, Buổi hôm tuôn đẩy nước trào mênh mông. Ngay chính trong Ca dao cũng có gieo vần như vậy : Chị Xuân đi chợ mùa Hè, Mua cá Thu về, chợ hãy còn Ðông. hay : Ðèn nào cao cho bằng đèn Châu Ðốc, Gió nào độc cho bằng gió Gò Công. Thổi ngọn Ðông phong, lạc vợ xa chồng, Nằm đêm nghĩ lại, nước mắt hông tuôn rơi. Về tiểu đối hay bình đối thì rất hiếm, nhưng cũng có : Ầm ầm nổi trận phong lôi, Sấm rền gió dập, sóng dồi mưa chang (7) hay: Ngày đêm lội suối qua đò, Băng truông tuyết đượm, qua đò nắng chan (8) Cũng dùng lối hồi văn như : Nhìn nhau bốn mắt ròng ròng, Nhìn nhau chạnh dạ xót lòng biết bao. (9) dùng lối điệp ngữ như Tạc thù chén lại chén qua Càng phân việc trước, càng hòa chén sau. (10) Như lối hồi văn và điệp ngữ trong Chinh Phụ Ngâm : 229 Chẳng hay muôn dặm ruỗi dong, Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng. Lòng chàng ví cũng bằng như thế, Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa. Hướng dương lòng thiếp dường hoa, Lòng chàng lẫn thản e tà bóng dương. Và : 225 Hoa trải nguyệt, nguyệt in một tấm, Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông. Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng. Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau. Trong Ca dao cũng có : Thiếp than cha mẹ thiếp nghèo, Thiếp than phập thiếp như bèo trôi sông. hay : Gió đưa gió đẩy về rẩy ăn còng, Về sông ăn cá, về đồng ăn cua. Ðôi chỗ có những câu thất luật như: Gian nan bậu chịu trăm đường, Thảm sầu luống những đoạn trường xiết chi. Anh muốn hạ tờ phân ly, Lại e thất hiếu lễ nghi sanh thành. (11) Nếu như soạn giả cẩn thận trao chuốc câu văn, chỉ cần đảo vị, đã tránh được thất luật : Hạ tờ anh muốn phân ly, Lại e thất hiếu lễ nghi sanh thành. Nhưng đặc tính bình dân của Thơ là ở chỗ không dùng hay ít dùng đến điển tích, nhờ vậy người bình dân đọc dễ hiểu, chính chỗ đó, Thơ đã được họ ưa chuộng. Tuy nhiên không phải hoàn toàn không dùng điển tích và từ Hán Việt: Xuân Nương phân hết đuôi đầu, Lâm Sanh nghe nói hột châu tuôn dầm. Tưởng là dứt giải đồng tâm, Hay đâu lại đặng sắt cầm sánh đôi. Truyền quân vội chước kim bôi, Cha con chồng vợ vầy vui một nhà (12) Những từ như Phụ vương, Hoàng Hậu, Thái Tử ... được dùng nhiều, cho nên người bình dân cũng dễ hiểu, tính chất bình dân còn ở chỗ hành văn bình dị, dùng từ thông dụng, có tánh cách địa phương như : Thầy Viên vội vả vái vang, Lâm dâm miệng vái tứ phan chư thần (13) Công Nương cũng dự hồng nhan, Muốn đưa cho Trạng dượuvàng kết đôi (14) Ta đem nàng lại tòa chương, Tâu cùng vương phụ cho tường sự dươn(15) Hành văn, người ta cố tránh những chữ thì, mà, là .. nhưng trong thơ không thiếu gì những chữ ấy. Ðặc biệt soạn giả hay dùng: kia là, thay là như từ đệm : Dặn nhau cho chiếc chiếu manh kia là (Phạm Công Cúc Hoa) Gắng công đèn sách thảo ngay kia là (PCCH) Về ai nấy mặc mới xongkia là (PCCH) Học trò cười nói đã vang kia là (PCCH) Ðẹp thay cảnh vật kia là (Hậu Lâm Sanh) Khen rằng như thế vẹn trinh thay là (HLS) Vẹn toàn ở lại đông phương kia là (Hậu Thoại Khanh) Máu hồng tuôn chảy hãy kinh kia là (HTK) Binh thuyền ước hạn chật sông kia là (Dương Ngọc) Nàng hồi tiên cảnh đắng cay thay là (Bạch Viên Tôn Các) Tôn Hương, Tôn Lượng đẹp xinh kia là (BVTC) Mỹ vị quí lại cao lương thay là (Con Tấm Con Cám) Và cũng hay dùng từ ni : Cớ nào mà chạy theo rừng thể ni (Hậu Chàng Nhái) Mặc tình trai gái phỉ nguyền lòng ni (Dương Ngọc) Tôi muốn đoán thật quẻ ni (DN) Nào hay nhơn đạo tình đời thế ni (Trần Minh Khố Chuối) Sử dụng những từ đệm như trên, nó giúp cho soạn giả hành văn dễ dàng, nhưng chính ở chỗ đó làm hại văn chương, nó đã đẩy soạn giả tới chỗ không cần trao chuốc câu văn, lập đi lập lại một từ rất thông thường, như vậy làm cho bản văn trở nên tầm thường, thiếu tánh cách văn chương trao chuốc. Ðôi khi, cách hành văn bỗng trở nên ví von như :
Anh nên day lại xem rành, Ngựa xe em đã sắm sanh sẵng sàng. Bây giờ anh kiếp sữa sang, Ðặng mà xuống chốn Tràng an kịp thì. (Trần Minh Khố Chuối) Như người ta nói đùa một câu toàn là vần ‘’ s ‘’: Sáng sớm sắm sanh sữa sang sáng sủa sẵn sàng xuống sở ‘’. Thơ nói chung, soạn giả đua nhau sáng tác, nhà xuất bản đua nhau phát hành, không chú trọng về hình thức trình bày, về hành văn cho sáng sủa mang tánh chất văn chương, có những quyển đã tái bản 15 hay 20 lần, nhưng nó cứ y : ‘’ Bổn cũ soạn lại ‘’, nhiều lầm lỗi đáng trách, như tập Hậu Vân Tiên có hình của Nhà Xuất bản Phạm Văn Cường, in trọn trang 22 cũng là trang chót, in nhầm một đoạn của truyện Lục Vân Tiên từ câu 1943 đến câu 1996, cho nên bản Hậu Vân Tiên nầy không có đoạn chót.
Các nhà xuất bản cũng không sữa chửa lỗi chánh tả, vì chữ Quốc ngữ lúc còn phôi thai, chánh tả chưa phân minh hoặc do thợ nhà in sắp chữ sai.
Ngày nay muốn nghiên cứu về thơ, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn do các nhà xuất bản không chú trọng về sản phẩm của họ, trước năm 1975 nhà phát hành Phạm Văn Cường, 171 Khổng Tử, Chợ Lớn vẫn còn in ấn phát hành các lọai Thơ, Truyện, Tuồng. Nhưng độc giả đã hiếm rồi, sách in giấy xấu, khó lưu trữ, sau nầy sưu tập sẽ hết sức khó khăn.
IV Kết luận
Sau khi nghiên cứu qua thơ, chúng ta thấy rằng nó đã được phổ biến một cách rộng rãi trong giới bình dân, vì từ ngữ và nội dung thơ mang tính chất bình dân, đặc trưng nầy không thể phủ nhận được.
Theo luật cung cầu tự nhiên, giới bình dân thuở trước giải trí khi làm việc thì có câu hò, giọng hát, lúc ngày mùa nhổ mạ, cấy lúa, gặt hái, những đêm trăng thanh gió mát, xay lúa giả gạo. Lúc nhàn rỗi nằm nghe kể chuyện đọc thơ, thỉnh thoảng xem hát bội ở đình làng. Những thứ giải trí ấy, không chỉ thuần tính chất giải trí, nó còn mang tính cách giáo dục nữa.
Chúng ta có dân tộc tính, nhưng không thể chối cải ảnh hưỡng sâu đậm và lâu dài của tư tưởng học thuật Trung Hoa đối với đời sống tinh thần và vật chất của người Việt Nam, dân tộc chúng ta luôn luôn chống tính đồng hóa của người Trung Hoa, nhưng chấp nhận thu thái những tinh hoa văn hóa Trung Hoa và Ấn Ðộ và các nước khác. Cho nên quan niệm ‘’ Văn dĩ tải đạo ‘’ của Hàn Dũ, vẫn là quan niệm hàng đầu của những nhà văn thuở trước, điều nầy trong một số tập thơ cũng có nhắc tới như :
Trời kia hữu nhãn rất tài, Bao giờ nở phụ độc rày thơ nhơn. Tích xưa truyện cũ đành rành, Cho hay muôn việc học hành phải lo. (Trần Minh Khố Chuối của Nguyễn Bá Thời) Xem qua tích cũ ngậm ngùi, Chí công thiên địa đầu đuôi tích nầy. Thiện ác hữu báo cho hay, Khá xem chuyện cỗ người nay giữ mình. (Hậu Thạch Sanh của Nguyễn Bá Thời)
Ở cho biết ngải biết nhân, Biết Trung biết hiếu quỷ thần cũng kiên. Tu nhơn tích đức lòng hiền, Lễ nghi trọn giữ lòng thiền hiếu trung. (Mục Liên Thanh Ðề của Bà Huỳnh Kim Danh)
Hiếu trung người thế giữ toàn, Theo hiền lánh dữ tầm đàng chánh ngay. Hoàng Trừu dứt tích từ đây, Giúp chư liệc vị giải khuây đêm tràng. (Hoàng Trừu của Nguyễn Bá Thời)
Ðến đây chúng ta đã thấy quá trình của chữ Quốc ngữ nó đi từ phiên âm đến ghép câu, điển chế, báo chí, diễn ca rồi nó sẽ đi đến dịch truyện Tàu và sáng tác tiểu thuyết sau nầy. Thơ đã trải qua giai đoạn phát sinh, hiện hữu và suy tàn, nó đã làm tròn nhiệm vụ một cách xứng đáng. Nó đã để lại trong văn học miền Nam một thời kỳ, như một cành hoa cỏ dại nở ven cánh rừng, bởi vì nó là giai đoạn chập chửng, dò dẫm từng bước, để tiến nhanh khi đến giai đoạn trưởng thành của chữ Quốc ngữ.
Ðứng về mặt văn hóa, thơ là bước đầu tiên rồi sang truyện Tàu là nền tảng để xây dựng cho tiểu thuyết sau nầy, kể cả các mặt sáng tác và thưởng ngoạn, thơ đã góp phần vào nền văn hóa đặc thù miền Nam.
Ngày cuối năm 2000 Ghi chú : 1.- Một số soạn giả còn được ghi trên các quyển thơ tái bản sau nầy. 2.- Nguyễn Bá Thời, Phạm Công Cúc Hoa, trang 11, Nhà Xuất Bản Thuận Hòa, Sàigòn, Việt Nam. 3 & 5.- Nguyễn Kim Ðính, Lâm Sanh Xuân Nương, trang 1, NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn, VN. 4.- Ðặng Lễ Nghi, Chiêu Quân Cống Hồ, trang 9, NXB Phạm Văn Thình, Sàigòn, VN 3 & 5.- Nguyễn Kim Ðính, Lâm Sanh Xuân Nương, trang 1, NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn, VN. 6.- Bà Huỳnh Kim Danh, Dương Ngọc, trang 2, NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn, VN 7.- Nguyễn Bá Thời, Hoàng Trừu, trang 11, NXB Phạm Ðình Khương, Sàigòn, VN 8.- Nguyễn Văn Khoẻ, Trần Minh Khố Chuối, trang 5, , NXB Phạm Văn Thình, Sàigòn, VN 9 & 10.- Nguyễn Văn Khoẻ, Trần Minh Khố Chuối, trang 13, NXB Phạm Văn Thình, Sàigòn, VN. 9 & 10.- Nguyễn Văn Khoẻ, Trần Minh Khố Chuối, trang 13, NXB Phạm Văn Thình, Sàigòn, VN. 11.- Nguyễn Kim Ðính, Lâm Sanh Xuân Nương, trang 1, NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn, VN. 12.- Nguyễn Kim Ðính, Lâm sanh Xuân Nương, trang 16, NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn,VN. 13.- Bà Huỳnh Kim Danh, Dương Ngọc, trang 2 NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn, VN. 1958 14.- Nguyễn Văn Khoẻ, Trần Minh Khố Chuối, trang 16, NXB Phạm Văn Thình, Sàigòn, VN 15.- Bà Huỳnh Kim Danh, Nàng Út, trang 7, NXB Phạm Văn Cường, Sàigòn, VN
( * ) Trở về Mục Lục
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 16:53:06 GMT 9
Tiết 4 : Truyện Tàu
I.- Ðại Cương
Truyện Tàu cũng đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc truyền bá chữ Quốc Ngữ ở Miền Nam. Bởi vì đầu thế kỷ XX, sau một phần tư thế kỷ bị đô hộ, ở miền Nam chữ Hán đã ít người biết, chữ Nôm lại càng ít người biết hơn, còn chữ Quốc ngữ vừa mới có, tuy dễ học nhưng cũng còn ít người biết, chưa được phổ biến rộng rãi đến mọi người, hơn nữa bị sự chống đối của những người yêu nước, từ giới bình dân cho đến kẻ sĩ thời bấy giờ.
Chữ Hán thuở đó vẫn còn ưu thời mẫn thế trong văn chương Việt Nam, người ta vẫn còn quan niệm cho rằng ‘’ Nôm na là cha mách qué ‘’ , giai cấp Nho sĩ như Huỳnh Mẫn Ðạt, Tôn Thọ Tường đang thời kỳ xuống dốc, Tôn Thọ Tường còn phải học chữ Quốc Ngữ. Thái độ nhà nho chân chính thời bấy giờ chắc chắn là phải miệt thị chữ Quốc ngữ bởi vì chẳng những nó sinh sau đẻ muộn, mà còn là phương tiện để phản quốc cầu vinh. Dù cho Trương Vĩnh Ký hay nhiều người khác hô hào học chữ Quốc ngữ, và cả nghị định của nhà cầm quyền Pháp ghi rõ về quyền lợi cho người học chữ Quốc ngữ, nó vẫn cứ bị đối kháng.
Thuở xưa có nhiều nơi, nhà cầm quyền Pháp bắt buộc phải có người đi học chữ Quốc ngữ, người trong làng, trong Tổng phải mướn con nhà nghèo đi học, trớ trêu thay về sau những người nghèo đi học mướn ấy thành đạt, làm thầy Thông, Thầy giáo, Cai Tổng, Tri Huyện. Nhờ chữ Quốc ngữ con em của người nghèo khó, tá điền tay lấm chân bùn đã trở nên những người ăn trên ngồi trước, có địa vị trong làng, trong tổng. Chữ Quốc ngữ ít nhiều làm thay đổi xã hội, nhờ đó nó có cơ hội phát triển.
Từ báo chí, từ truyện cổ tích, thơ là bước dọ dẫm, vì những nhà văn tiền phong cũng dịch những tinh túy Hán văn sang chữ Quốc ngữ để giới thiệu cho những người tân học biết được giá trị của cổ văn. Trương Vĩnh Ký dịch Luận ngữ, Mạnh Tử... Trương Minh Ký với Cổ Văn Chơn Bửu, nên những nhà văn lớp mới sau nầy không có nền tảng vững chắc về cổ văn, họ chọn lựa dịch tác phẩm bình dân của Trung quốc, đó là dịch truyện Tàu.
Cũng như chữ Nôm trước kia, ban sơ người ta dùng nó để ghi các địa danh, nhân vật từ thời Sĩ Nhiếp, trải qua hàng mấy trăm năm điển chế, đến khi Nguyễn Thuyên dùng văn tế cá sấu ở sông Phú Lương năm 1282, nó trở thành một biến cố văn học, vậy mà mãi cho đến năm 1373-1376, mới có một tác phẩm văn chương đầu tiên của chữ Nôm ra đời, đó là Truyện Trinh Thử. Chữ Nôm đã phải trải qua một thời kỳ hấp thụ, tôi luyện gần một thế kỷ mới có thể mang chứa tác phẩm văn chương, chữ Quốc ngữ cũng theo vết mòn ấy.
Như vậy thì nền văn học mới, phải trải qua giai đoạn tất yếu hấp thụ, trong giai đoạn nầy nó sẽ gan lọc, để sau đó sinh hóa thành sắc thái riêng.
II.- Thời điểm dịch truyện Tàu
Trước tiên cần phải minh định thời điểm Truyện Tàu đã được dịch, nhất là ảnh hưởng của nó gây thành phong trào, gây tác động độc giả, trở nên yếu tố trong văn học miền Nam.
Sơn Nam viết trong quyển Cá Tính Miền Nam, ông có cho biết truyện Tam Quốc Chí được dịch đăng trên báo Nông Cổ Mín Ðàm năm 1904, ký tên dịch giả Canavaggio, nhưng theo Vương Hồng Sễn, người dịch chính là Lương Khắc Ninh. Như vậy truyện Tam Quốc Chí do Lương Khắc Ninh dịch đăng đầu tiên trong Nông Cổ Mín Ðàm năm 1904.
Ðến ba năm sau, năm 1907, quyển Ðại Hồng Bào Hải Thoại do Trần Phong Sắc dịch, được nhà in Imprimerie Saigonnaire ấn hành, bìa sau có kê ra 27 truyện đã được dịch ra Quốc ngữ và do nhà in nầy phát hành. Theo lối in truyện thời bấy giờ cũng như Thơ, mỗi truyện in thành nhiều quyển, mỗi quyển từ 10 đến 50 trang, một bộ truyện dài như Phong Thần, Tây Du, Thủy Hử in thành hàng chục quyển, điều nầy có nguyên nhân do dịch giả dịch đến đâu, nhà in in đến đấy hơn nữa mỗi quyển giá bán ra hợp với túi tiền của những người bình dân. Mỗi quyển thời đó giá là 40 xu, tương đương với nửa giạ (1) lúa.
Truyện thời bấy giờ in bằng giấy báo, bìa in giấy màu, tựa in cả chữ Hán và chữ Quốc ngữ, ngoài ra còn có vài hàng chữ Pháp như Traduit par Trần Phong Sắc Professeur à l’ecole de Tân-an. Tous droits reservés.
Ðến năm 1920, truyện Tàu có chút ít thay đổi về hình thức như bìa dùng giấy trắng có trình bày hình in ba hay bốn màu.
III.- Những nhà dịch truyện Tàu
Sau Lương Khắc Ninh, nhiều người khác có vốn Hán học và biết chữ Quốc ngữ cũng góp phần vào việc dịch truyện Tàu như Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc, Nguyễn An Khương, Nguyễn An Cư họ đều là chủ bút hay phụ bút cho các tờ báo Như Nông Cổ Mín Ðàm, Lục Tỉnh Tân Văn. Truyện của họ dịch được in báo hay in thành tập.Dưới hình thức tập truyện, nó dễ dàng phổ cập đến giới bình dân, nhờ vậy mà chữ quốc ngữ có thêm phương tiện truyền bá.
Báo chí quốc ngữ vào đầu thế kỷ XX được giới bình dân xem như là một thứ hàng ngoại nhập để trưng bày trong gia đình các ông Hội đồng, Cai tổng hay các đại điền chủ như chiếc xe đạp, cái đồng hồ treo tường... Bởi vì nó mới lạ từ hình thức cho đến nội dung, nó có nhiều mục, nhiều chuyện, từ chuyện xưa cho đến chuyện đời nay, từ chuyện Phú lang sa (2), chuyện nhà Hán, nhà Ðường cho tới Việt Nam. Ở tỉnh muốn có báo đọc, người ta phải đặt mua dài hạn, báo gửi tới qua đường bưu điện, như nhà văn Sơn Nam ghi lại qua chuyện ngắn Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư, trong tập truyện Hương Rừng Cà Mau
Còn truyện thì cũng thứ chữ mới lạ : Quốc ngữ, nhưng nó thống nhất câu chuyện, nó nói về Tề Thiên Ðại Thánh, Phong thần, Tam Quốc đều là những chuyện gần gũi với tâm hồn người bình dân, bởi vì họ cũng đã từng nghe những người trong gia đình hay hàng xóm, lúc trà dư tửu hậu, họ đã đàm luận với nhau về những nhân vật ấy, những gương trung hiếu tiết nghĩa ấy, cho nên được đọc hay nghe đọc truyện, nó có từng chương từng hồi, tình tiết rõ ràng, do đó truyện được hoan nghênh và vô hình chung chữ Quốc ngữ được người ta ưa chuộng theo.
Cha mẹ khuyến khích con em đi học, nhà giàu có muốn được hiển vinh, nhà nghèo cũng chỉ muốn biết đọc, biết viết để đọc truyện Tàu cho cha mẹ nghe những khi mùa màng rãnh rỗi. Những nhà văn lão thành như Hồ Hữu Tường hay Vương Hồng Sễn còn ghi trong tác phẩm của họ, là đêm đêm đọc truyện Tàu cho người khác nghe, được trả công đọc bằng một tô cháo đêm.
Cho nên truyện Tàu đã góp phần vào việc truyền bá chữ Quốc ngữ, cũng như đã đóng góp cho nền văn học ở miền Nam. Trước tiên chúng tôi đề cập đến những nhà dịch truyện.
1. Lương Khắc Ninh tự Dũ Thúc (1862-1943): Lương Khắc Ninh sinh tại làng An Hội tổng Bảo Trị tỉnh Bến Tre là con ông Lương Khắc Huệ và bà Võ Thị Bường. Ông Huệ người gốc Quảng Nam vừa giỏi Hán văn, vừa am tường nghề thuốc.
Lúc nhỏ, Lương Khắc Ninh học chữ Hán, năm 14 tuổi bị cưỡng bách, ông vào trường tỉnh học, thuở đó trường dạy chữ Pháp và Quốc ngữ, sau khi ra trường ông được tuyển dụng vào Sở Thương Chánh Bến Tre, sau đó từ năm 1889 ông được bổ làm thông ngôn tại tòa án tỉnh.
Ông được cử vào Hội Ðồng quản hạt tỉnh Bến Tre. và sau đó được cử vào Hội Ðồng Tư Vấn Nam Kỳ. Ông làm chủ bút đầu tiên tờ Nông Cổ Mín Ðàm do Canawaggio sáng lập, ông dùng bút hiệu là Dũ Thúc.
Năm 1906, Trần Chánh Chiếu thay ông làm chủ bút Nông Cổ Mín Ðàm, tháng 10 năm 1908 ông lại thay Trần Chánh Chiếu làm chủ bút tờ Lục Tỉnh Tân Văn. Ông cũng có lập một gánh hát bội ở Sàigòn, ông cũng thường diễn thuyết ở Bến Tre và Sàigòn. Ðêm 23-3-1917, ông có diễn thuyết tại trụ sở Hội Khuyến Học Nam Kỳ về đề tài cải lương nghề hát.
Có lẽ việc dịch truyện Tàu của Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, khởi đầu trên tờ Nông Cổ Mín Ðàm, chẳng qua là để mở một mục mới lạ, để có bài vở đăng đủ khuôn khổ tờ báo, không ngờ nó mở đầu cho phong trào dịch truyện Tàu để đăng báo, in thành sách, đáp ứng cho nhu cầu người đọc, cho nên mới có những nhà dịch truyện khác.
Vì không có tài liệu về bản dịch Tam Quốc Chí, chúng tôi trích một đoạn của bài của Lương Khắc Ninh, để thấy cách hành văn của ông thời bấy giờ.
Thương Cổ Thiệt Luận
Cách lập thế đặng đua chen về sự hùn hiệp cho kịp người Khách, thì phải làm như vầy: lập một hùn của người bổn quốc chừng 1 triệu, trong 1 triệu chia ra làm năm ngàn phần hùn, mỗi phần là hai trăm ngươn bạc (3), rồi hiệp với người langsa hoặc 1 triệu hoặc 2 triệu. Nhà hùn lập tại Mỹ Tho, lựa chỗ nào có thế rộng đặng ngày sau mở thành thị cho trù mật. Hãng ấy để cho bạc lúa, mua lúa của mấy tỉnh trong chở ra. Mấy tỉnh trong là Rạch Giá, Long Xuyên, Biên Hòa, Bảy Xàu, Sóc Trăng, Cần Thơ, Sa Ðéc, Vĩnh Long, Trà Vinh...Hãng cất vựa cho lớn rộng, sắm ghe chài cho nhiều, tàu kéo ghe hai ba chiếc thì mấy tay bán lúa đi không dài ngày, ghé Mỹ Tho chẳng gần đàng hơn là lên Chợ Lớn. Người bán đặng bớt sở phí, cho người mua y giá thường, mua để sẳn rồi bán lại cho nhà máy xay tại Chợ Lớn. Hãng mình cứ tính vốn lời phân phân phải mà bán lại cho nhà máy, chẳng phải chấp đoạn thăng giá làm chi, cứ có lợi thì là đủ. Mua bán như vậy thì mình đặng gồm mối chánh. Nhiều lúa hơn ăt là bán không khi nào lỗ, vì bởi đủ giá mới bán, nếu không thì để đó. Xem coi có vững bền mạnh mẻ không? Làm đặng như vậy thì số lúa nội Nam Kỳ về hãng mình trữ, có ít lắm cũng đặng phân nữa hay là hai phần là ít.
Anh em lớn nhỏ hãy xét một điều nầy: vì cớ chi mà tại Chợ Lớn , kinh hẹp, rạch cạn, ở xa mấy tỉnh trong mà ai ai đều phải chở lúa đến đó mà bán ? Nhiều khi ghe chài bị cạn một đôi ngày mới ra khỏi, tại nước kém ghe đông, chật ra không khỏi. Ấy đó thất lợi nhiều mà con nhà buôn phải tùy theo chổ đô hội mà đến. Xem ra chịu thiệt hại cũng nhiều mà phải đến đó; vì sao mà phải vậỷ Thứ nhứt chỗ đó mới bán đặng, bởi có đông người mua. Thứ hai là các sắc hóa hạng vật cần dùng cho bổn quốc, thì tại Chợ Lớn trữ, nên phải đến đó, trước là bán đặng lúa, sau là bổ đặng hàng hóa. Dầu cồn cạn muốn ngăn trở, bối, ăn cướp làm hại, cũng ráng mà đến đó. Xét cho kỷ thiệt cũng khổ và chịu thiệt hại cũng nhiều. Nhưng vậy mà người bổn quốc cứ chuyên một nghề làm lúa, bán lúa mà mua đồ vật khác mà xài, ấy là đều chỗ huyết mạch của nhơn dân. Mạch máu mình mà mình không cần đến, không ngó đến, để cho người Khách nắm, thì khổ cho mình dường nào Người Khách nếu nắm riết lại, thì mình ắt khốn nạn; vì sao Mạch máu lại bị ngăn thì người khó sống.
Vậy hãng lớn của bổn quốc lập để mua bán lúa, thì phải giúp cho người bổn quốc. Người thông đạt, kẻ lịch lãm, lãnh bạc trước lập tào khậu trữ hàng hóa cho lớn, cho đủ, cho đông tại Mỹ Tho, như tại Chợ lớn vậy. Ấy đó mới có chỗ mà đua chen cuộc buôn so sánh với kẻ Khách đặng, chớ như để làm theo thành thị sẵn như chỗ Chợ lớn thì là chỗ người thành khoảnh đã lâu, mình chen bàn tay đã chẳng lọt, thế chi mà sánh kịp.
Lương Dũ Thúc Bến Tre Trong văn học Miền Nam Dũ Thúc Lương Khắc Ninh ít được người ta nhắc tới vì ông làm báo và chánh trị, ông không có để lại tác phẩm văn chương nào khác ngoài truyện dịch Tam Quốc đăng trên Nông Cổ Mín Ðàm, nhưng lại ký tên của người chủ nhiệm Canawaggio, cũng vì lẽ đó mà từ trước tên tuổi ông không được nhắc đến, nhưng chính ông mới là người dịch truyện Tàu đầu tiên. 2. Nguyễn Chánh Sắt tự Tân Châu (1869-1947): Ông là con ông bà Nguyễn Văn Tài, người làng Long Phú, quận Tân Châu Tỉnh Châu Ðốc, gia đình ông nghèo, cùng xóm có gia đình ông Nguyễn Văn Bửu hiếm con, nên xin ông về làm con nuôi. Lúc nhỏ ông được học Hán văn với Tú Tài Trần Văn Thường, rồi sau đó sang tỉnh lỵ Châu đốc, học tại Trường Tiểu Học tỉnh Châu Ðốc.
Sau khi đậu bằng Sơ Học, ông đã đến tuổi trưởng thành, được dưỡng phụ lập gia đình cho ông với bà Văng Thị Yên. Khi cha mẹ nuôi qua đời, gia đình ông có một con gái.
Lúc bấy giờ có ông De Colbert, người Pháp đến Tân Châu lập Sở Kén (nuôi tầm để lấy tơ) (4), hai ông có đi lại chơi thân với nhau, về sau việc làm ăn thất bại, De Colbert được nhà cầm quyền Pháp đề cử giữ chức Quản đốc đề lao Côn Nôn. Dịp nầy De Colbert tiến cử Nguyễn Chánh Sắt theo ông ra Côn Nôn làm Thông ngôn.
Trong thời gian ở Côn đảo, Nguyễn Chánh Sắt được De Colbert đối đải như tình bạn bè, vì vậy ông mượn lý do học chữ Hán, ông xin cho vài nhà cách mạng được ra ở nhà ngoài với ông.
Bốn năm sau, De Colbert bị bệnh kiết lỵ phải đưa về Sàigòn chữa trị, không khỏi rồi qua đời tại đây, do đó Nguyễn Chánh Sắt xin nghỉ việc ở Côn Nôn. Về Sàigòn ông làm việc qua các sở Canh Nông, Công Chánh, Ðịa chánh... Sau cùng thôi làm việc, đi dạy chữ Hán ở vài trường trong đó có trường Tabert, trong thời gian nầy ông có quen biết với Canavaggio.
Canavaggio có ruộng muối ở Bạc Liêu, nên đưa Nguyễn Chánh Sắt xuống Bạc Liêu trông nom ruộng muối cho ông ta. Ở đây được 4 năm, Nguyễn Chánh Sắt trở về Sàigòn, bắt đầu dịch truyện Tàu. Ðầu tiên ông dịch truyện Tây Hớn, giao bản quyền cho nhà in J. Viết Lộc et Cie. Nhà in nầy sau khi phát hành quyển 1, được độc giả ưa chuộng nên quyển 2 và 3 được in cấp tốc phát hành cho kịp thời. Sau đó, ông tự xuất bản lấy quyển Ðông Hớn.
Trong thời gian nầy, phong trào Ðông Du lan tràn khắp nước, tại Sàigòn có y sĩ Nguyễn An Khương ( thân sinh nhà ái quốc Nguyễn An Ninh), lập Chiêu Nam Lầu ở đường Nguyễn Huệ, tầng trên là khách sạn, tầng dưới là hiệu may do cô của Nguyễn An Ninh đứng trông nom.
Gilbert Trần Chánh Chiếu, chủ bút Nông Cổ Mín Ðàm, lập Nam Kỳ Kỷ Nghệ Công Ty, có làm xà phòng hiệu con Rết và vài món hàng khác. Còn Nguyễn Chánh Sắt được phong trào đề cử xuống Mỹ Tho lập khách sạn Nguyễn Chánh Sắt, Mỹ Tho lúc ấy là trục giao lưu chính, xe lửa chạy từ Sàigòn xuống Mỹ Tho, từ Mỹ Tho có tàu chạy đường Sóc Trăng, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long Xuyên, Rạch Giá, Sađéc, Châu Ðốc, Nam Vang... và ngược lại.
Các công ty, khách sạn là những cơ sở kinh tài, cũng là nơi giao thiệp, hội họp của phong trào. Nguyễn Chánh Sắt ở Mỹ Tho được vài năm thì phong trào Ðông Du đổ bể, ông trở về Sàigòn làm chủ bút Nông Cổ Mín Ðàm của Canawaggio và do Hội Ðồng Lê Văn Trung giúp vốn. Thời gian làm báo, ông dùng ba bút hiệu là Bá Nghiêm, Du Nhiến Tử và Vĩnh An Hà.
Năm 1906, ông có đi dự triển lãm ở Marseille, được chánh phủ Pháp tặng Diplôme de mérite avec mention honorable. Trở về nước với số kinh nghiệm thu thập được ở Pháp, ông lo chỉnh đốn lại tờ báo và dịch thêm các truyện Chung Vô Diệm, Tam Quốc...
Năm 1912, việc khai thác tờ báo không được như ý, ông trả tờ báo lại cho Canawaggio rồi đi xuống Giá Rai (Bạc Liêu) làm ruộng. Ông bị thất mùa liên tiếp mấy năm, nên năm 1915 hay 1916 lại trở về Sàigòn tiếp tục điều hành tờ Nông Cổ Mín Ðàm, lần nầy ông Nguyễn Văn Của chủ nhà in Imprimerie de l’Union giúp vốn, Trong thời gian ấy ông sáng tác tiểu thuyết, lôi cuốn rất đông độc giả, người ta lấy tên một nhân vật nổi tiếng trong tiểu thuyết của ông, để đặt cho ông biệt danh ‘’ Monsieur Chăn Cà Mum ‘’, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề nầy trong phần tiểu thuyết.
Ông và ông Nguyễn Văn Của có lập Nam Kỳ Nhựt Báo Ái Hữu Hội. Năm 1921, ông làm Hội Thẩm toà Ðại Hình Sàigòn. Khoảng năm 1940, ông lui về quê an hưởng tuổi già và mất tại Tân Châu ngày 6 tháng 6 năm 1947.
Ngoài các bài văn đăng báo, tác phẩm của ông có :
a) Truyện và sách dịch :
Tam tự kinh Huấn tử cách ngôn Tây Hớn 1908 (5) Ðông Hớn Tam Quốc Chí Chung Vô Diệm Ngũ Hổ Bình Tây (1906-1908) Càn Long Du Giang Nam Anh hùng náo tam môn giai Hậu anh hùng (1908) (6) Mạnh Lệ Quân Nhạc Phi diễn Nghĩa (năm 1928 in lần thứ ba) Thập nhị quả phụ chinh tây Vạn huê lầu.
b) Tiểu thuyết (sẽ nói tới ở chương sau).
Trích văn : Xin đọc chuyện Mộ Tào Tháo ở phần Báo Chí.
Khóc Con (7) Xốn xang bức rứt mấy canh gà, Thương nhớ vong nhi lụy nhỏ sa. Một giấc nghỉ ngơi an phận trẻ, Ngàn năm đau đớn tủi thân già. Bơ vơ hai cháu đành không mẹ. Hủ hỉ mình con nở bỏ cha, Tạo hóa bất nhơn theo khuấy mãi. Khiến người cắt ruột tệ chi
*
Chi mà đau đớn lắm trời ôi ! Cái nghĩa cha con đã phủi rồi. Tức nổi trẻ thơ sao vắn vỏi, Thương bầy cháu ngoại chịu mồ côi. Chim đà mất mẹ buồn ngơ ngác, Tre phải khóc măng thảm dập dồi. Thắt thẻo ruột tầm vò chín khúc, Chi mà đau đớn lắm trời ôi !
*
Trời ơi bao nỡ hại người lành, Cái nghĩa cha con há dứt đành. Hăm tám tuổi xanh sao vắng số, Bảy mươi đầu bạc ngẫn ngơ hình. Gia đình những tưởng già nương trẻ, Thơ xã hết trông trẻ giúp mình. Sách vở mấy trương còn để đó. Từ đây khuê các phải buồn tanh.
*
Buồn tanh thổn thức mấy năm canh, Vắng dạng tai nghe tiếng trống thành. Trước cửa vật vờ hòn núi giả, Bên tường thỏ thẻ giọng chim oanh. Ép mình ngâm vịnh làm khuây dạ, Tiếng cháu ngây thơ phút động tình. Bé tí chắt chiu đau đớn nhẻ, Bao đành độc địa hởi cao xanh.
*
Ông xanh bao nỡ chẳng thương mình, Hiếu nghĩa sao mà lại ghét ganh. Phải biết ấu xuân phần vắn số, Ðã tầm Hậu Nghệ thuốc tràng sinh. Bồi hồi sáu khắc sầu khôn xiết, Thốn thức năm canh nhắc chẳng đành. Nhớ trẻ biết đâu tìm được thấy, Chỉ mình quanh quẩn mấy khuôn hình.
*
Mấy khuôn hình trẻ vẻ trong nhà, Nhìn tới di dung giọt đượm sa. Nét đứng dạng ngồi còn phất phưởng, Lời ăn tiếng nói đã phôi pha. Trông vào tủ sắt lòng chua xót, Ðoái lại phòng văn dạ thiết tha. Thương nhớ ái nhi buồn khó tả, Sụt sùi chan chứa tấm lòng ta.
*
Lòng ta khắc khoải trót đêm tròn, Thổn thức năm canh mãn nhớ con. Thảm thiết lòng già nằm chẳng tiện, Mơ màng dạng trẻ ngủ sao ngon. Xưa còn tin tức trông lom lỏm, Nay vắng dạng hình khóc nỉ non. Ước gặp Nam Tào ta hỏi thử, Cớ sao mạng số lại thon von.
*
Thon don phận trẻ dễ an nào, Cực nổi cha già thảm xiết bao. Mẹ yếu một thân sầu ủ rũ, Con thơ hai đứa khóc nghêu ngao. Cửa nhà thiếu kẻ lo săn sóc, Vườn tược không người giữ trước sau. Uất ức bên lòng nằm chẳng tiện, Một mình trằn trọc trót canh thâu.
*
Trót canh thâu chẳng thấy con mình, Một giấc ngàn thu đã biệt hình. Sao nở chia phôi tình cốt nhục, Bao đành phân rẽ mối thâm tình. Ngẫn ngơ tuổi cháu còn suy ấu, Ngao ngán thân già nổi tử sinh. Cội cũ một mai mà xế bóng, Bơ thờ hai mục nổi linh đinh.
*
Linh đinh phận trẻ biết đâu mà, Nỗi trước sau đây dạ xót xa. Ngày tháng bơ vơ không bố mẹ, Sớm khuya bận bịu có ông bà. Não nồng tiếng dế lòng ngao ngán, Vắng vỏi hơi ve dạ thiết tha. Ðoái lại cảnh tình thêm bát ngát, Xốn xang bứt rứt mấy canh gà.
Văn tế (8)
Hởi ôi ! Cọng tháp sơn phai Ðồng chu keo rã Ðầu đương trăng xế, xốn xang trong đám mây chiều, Trước án hương tàn đau đớn thấy muôn lằn khói tỏa ! |Nhớ linh xưa ! Tánh hạnh khiêm hòa. Phong tứ thanh nhã. Văn chương lổi lạc ít kẻ hơn Ngài Bút toán tinh thông không ai bằng cả Việc xử thế, vô kiêu vô lẫn, tánh ái nhân biết trọng kẻ hiền tài. Phép tề gia, khắc niệm khắc cần, lòng thế chúng hay thương người cô quả. Tới lui cùng bạn tác, lòng chẳng chút đơn sai. Ăn ở với bà con, dạ không hề dối trá. Tưởng những lúc đàm văn luận phú, sớm tới trưa ý chẳng biết nhàm, Nhớ những khi chén rượu chung trà, ngày chí tối tình còn chưa thỏa. Cuộc thăng thưởng của tôi vừa được đó, tưởng cùng nhau vui hợp một trường, Thơ chúc mừng của bạn mới đây, nay lại đã vật phân hai ngã. Ôi ! Tạo hóa khéo trớ trêu, Vô thường hay khuấy khỏa. Ðoái thấy linh sàng khói tỏa, chín chiều ruột thắt đòi cơn. Xa trông cô trũng mưa tuôn, mấy đoạn lòng đau như sả. Nhà Hàn uyên mình vàng vóc ngọc, bao nở đành nắm đất lấp vùi. Cửa Lan đài tuyết trắng gương trong, Cớ sao gặp trời chiều hối hả. Nghe tin điển tay run lập cập, chưa kịp xem mà lòng đã phập phòng. Nhớ dạng hình dạ luống ngậm ngùi, trông chẳng thấy giọt lụy tuôn lả chả Ðã biết đường sanh tử nay tay tạo hóa, nhưng mà người thác yên kẻ sống khó nguôi lòng, Cho hay nẽo tồn vong tự máy thiên công, ngặt nỗi đây còn thảm đó sao yên dạ. Nay phút đã tới tuần bá nhựt, dĩa muối dưa để tỏ tấm chơn thành. Mai đây rồi cách biệt thiên niên, cuộc thơ rượu khó cùng nhau xướng họa. Sống cũng vậy, thác rồi cũng vậy, tình cố giao đã có non sông. Còn làm sao, mất làm sao ? Lời cựu ước khôn phai vàng đá. Lòng thương tưởng lấy chi bày tỏ, trước linh từ ba tiếng ô hô ! Dạ ai hoài luống những sụt sùi, trong văn tế vài lời bái tạ
Hởi ôi thương thay ! Có linh xin chứng.
Từ những nhà văn tiền phong đến Nguyễn Chánh Sắt, cách hành văn đã có nhiều thay đổi, văn chương của Nguyễn Chánh Sắt có trao chuốc, cho nên chẳng những ông dịch truyện Tàu, mà còn là một trong những nhà văn viết tiểu thuyết sau nầy.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 16:54:20 GMT 9
3. Trần Phong Sắc tự Ðằng Huy: Tiểu sử của ông đến nay chưa có người sưu tầm, chỉ được biết ông là người Tân An, làm giáo viên ở trường tỉnh lỵ Tân An. Ông sống cùng thời với Nguyễn Chánh Sắt, giỏi Quốc ngữ và tinh thông Hán Văn. Ông theo đạo Phật, là cư sĩ tu tại gia, ông có soạn dịch một quyển Kinh Nhật Tụng.
Xin trích một đoạn của truyện ‘’ Ðại Hồng Bào Hãi Thoại ‘’ của ông dịch, in năm 1908.
Truyện nầy nói từ vua Chánh Ðức, triều Minh, nối qua vua Gia tịnh, truyền tới vua Long Khánh thì hết, bởi vì người dọn truyện có ý tỏ tới Hãi Thoại mất, và Nghiêm Tung là nịnh thần chết mà thôi. Nội các thứ truyện Hồng Bào, đều nói sai ngoa hết thảy, duy có thứ truyện nầy gọi là ÐẠi hỒng bÀo thuật rõ ràng hơn hết, nên tôi diễn ra kẻo e có người dịch nhầm thứ khác mà lưu truyền, thì sai tích Hãi Thoại; vì Hãi Thoại công chánh trong trào Minh, cũng như Bao Công trung trực trong trào Tống.
Song có kẻ hỏi rằng: ‘‘ Hãi Thoại làm quan tới chức Văn Minh Ðiện Ðại Học Sĩ. Sao chẳng lấy chức ngài mà đặt hiệu truyện ? Hoặc là dùng chức Thiếu bảo là chức của vua phong thêm cho Hãi Thoại khi ngài đã mất. Lại lấy chữ Hồng bào là áo đỏ của bá quan, ông nào cũng có. Nếu lấy tên áo mà làm sách e nhẹ thể ngài chăng ?’’. Thì ông làm truyện ấy đáp rằng: ‘‘ Bởi Hãi Thoại thanh liêm giữ cái áo rồng đỏ từ khi mới làm quan cho đến khi thác, thác rồi cũng liệm ngài bằng áo ấy, nên để hiệu tên áo, cho tỏ đức thanh liêm của ngài, và cho rõ truyện nầy nói trọn đời ngài mà dứt.
Trong truyện nầy cứ việc thiệt mà nói, chẳng có phép thần thông biến hóa như chuyện chiến chinh, nên không trùng ý với nhau, cũng đáng xem cho rỏ, tập giống như Hãi Thoại vài phân thì cũng gọi là chánh trực, tuy vận lao khổ mà tiếng thơm để lại muôn đời; chẳng nên bắt chước cha con Nghiêm Tung, vinh hiển một hồi, bị tru lục mà ô danh ngàn thuở.
Còn như Lưu đồng Hùng vi phú bất nhơn, sau trời phạt cũng lâm nạn cả, Nghiêm Nhị cậy thế quan mà hiếp chúng sau cũng mắc họa theo Nghiêm Tung; Trương hoàng hậu con nhà hèn mà có đức, nên đặng hiển vinh, vậy chớ thấy kẻ thất thời mà khi dể.
Nội truyện nầy phân làm 6 tập, xem hết mới rỏ ràng.
Thơ rằng :
Trần tình cho rỏ truyện Hồng Bào, Phong hóa nhờ đây sữa đặng cao. Sắc tặng đại thần khen Hãi Thoại Ðề danh Trung giới đáng hiền hào. Tân An Trần Phong Sắc tự Ðằng Huy kỉnh khái. ............
HỒI THỨ NHÌ ÔN PHU NHƠN KÉN RỂ ÐỀN ƠN
Nói về Hãi Thoại đi với các Tú Tài, đến miễu Thổ Ðịa, thấy miễu ấy dựa bên đường, ba thước bề cao, hai thước bề rộng, hương tàn khói lạnh, bốn phía nhện giăng ! Cốt Thổ Ðịa ngồi trong, bàn án cao hơn một thước. Không thấy vật chi cúng quải, có bụi đóng đầy bàn Các tú tài tức cười đồng nói rằng : ‘‘ Ngài túng thiếu như vầy, không ăn lo sao đặng ? Nếu giữ thanh liêm công chính, mười năm không có một cây hương ‘’.
Còn Hãi Thoại giận lắm, chỉ cốt mà mắng rằng: ‘‘ Làm ông thần gì, lại xúi quỉ phá hại dân chúng ? Nay ta đến đây cắt nghĩa, cho rõ phải chăng: Hể làm vị Thần, thời phải công bằng chánh trực, cứu dân độ thế, trị quỉ phạt tà; trên chẳng hổ cùng đất trời, dưới có công với lê thứ; sao lại làm trái lẽ, dùng vật hối lộ của ma, chẳng cứu dân thời thôi, lại nhập đảng với quỉ mà khuấy chúng. Hiếp đáp đàn bà góa, làm bịnh gái mồ côi, mà thâu vàng bạc giấy tiền, kiếm đầu heo chén rượu. Tội ấy trên trời cũng không để, lỗi nầy trong thế cũng chẳng dung. Ta dạ thẳng lòng ngay, chẳng thẹn cùng trời, không hổ với đất; thấy quỉ thần không công chánh, lấy làm mắt cở mười phần.’’ Nói rồi hét lớn rằng : ‘’ Chưa biết quấy hay sao hãy còn ngồi đó ?’’ Hãi Thoại nói chưa dứt tiếng, cốt đất liền nhào xuống bể tan. Các tú tài thấy sự kỳ dị, đồng vổ tay cười ngất.
Chúng ta thấy Trần Phong Sắc hành văn gảy gọn, nhưng vẫn còn sử dụng lối biền ngẫu, những đoạn trích văn nầy, cho chúng ta so sánh cách hành văn của những nhà văn thuở trước, cho đến ông dần dần trong sáng hơn, nhưng truyền thống văn miền Nam vẫn ‘’ Nói sao viết vậy ‘’.
4.- Nguyễn An Khương tự Tân An : Ông là người Hốc Môn tỉnh Gia Ðịnh, một danh y, có tham gia phong trào Ðông du và là thân sinh của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, ông cũng là một trong số những dịch giả dịch truyện Tàu thời bấy giờ.
Tác phẩm của ông gồm có :
Vạn Huê Lầu diễn nghĩa. Ngũ Hổ Bình Tầy (1907) ( 9 )
Trích văn :
Kim Cổ Kỳ Quan Kim Ngọc Nô đánh chồng bạc ngãi.
Ðời nhà Tống, năm Thiệu Hưng, kinh đô là đất Lâm An. Tuy chỗ ấy là chỗ giàu có, nam thanh nữ tú mặc lòng, nhưng mà cũng có ăn mày nhiều lắm. Trong bọn ăn mày nầy có một người làm đầu gọi là chủ phồn đặng mà quản suất các ăn mày kia. Hể các ăn mày đi xin được đem về thì chủ phồn cứ lấy tiền đầu mỗi ngày. Như qua đến mùa đông, không còn đi xin đặng nữa thì chủ phồn phải nuôi cơm cho cả bọn ăn mày ấy ăn. Còn rách áo rách quần, thì chủ phồn phải lo sắm cho chúng. Cho nên bọn ăn mày phải chìu lòn đầu lụy người chủ phồn, ở theo cách tôi tớ vậy, không dám điều chi xúc phạm đến.
Người chủ phồn ấy ngồi không, cứ việc thâu như vậy mỗi ngày rồi lại lấy của đó mà cho vay lại mà lấy lời. Như làm chủ phồn mà không cờ bạc phá tán gì, thì chắc là làm nên sự nghiệp lớn. Bởi có phương làm ăn khá như vậy cho nên mấy người chủ phồn ấy dẫu mà giàu có cho lắm nó cũng không chịu bỏ nghề cũ. Nhưng mà cái hiệu chủ phồn thì không tốt; dẫu mà có ruộng đất cò bay thẳng cánh truyền tử lưu tôn cách mấy đời đi nữa, thì người ta cũng gọi là của đi xin. Mãn đời mấy người chủ phồn thì ra đâu không ai coi ra gì, không bì kịp mấy người dân giả tầm thường. Nếu muốn làm lớn, thì đóng cửa mà làm lớn với tôi tớ trong nhà mà thôi.
Thuở ấy tại thành Cang Châu, có một chủ phồn tên là Kim Lão Ðại, ông bà xưa đã làm nghề bảy đời rồi ...’’
Tân An Nguyễn An Khương Chuyết dịch 5.- Nguyễn An Cư : Ông là em ruột của Nguyễn An Khương, cũng là một trong những nhà dịch truyện Tàu thời bấy giờ, truyện của ông dịch có :
Phấn Trang Lầu Tam Quốc Chí.
Thiết nghĩ cũng cần nhắc lại, những nhà xuất bản truyện Tàu gồm có :
J. Viết Lộc et Cie. Nhà in Saigonaise Nhà in Phạm Văn Thình. Tín Ðức Thư Xã Có thể nói Tín Ðức Thư xã là nhà phát hành nhiều truyện Tàu và lâu đời nhất ở miền Nam. (10)
IV. Nguồn gốc và nội dung truyện Tàu
Truyện Tàu bắt nguồn từ thần thoại, rồi truyền kỳ Trung Quốc, cho đến đời Tống mới có những nhà kể chuyện, họ kể chuyện ở ngoài đường phố, ở nơi đình đám, người kể chuyện ban sơ là những người làm nghề thủ công, có chút ít chữ nghĩa, đọc được sách vở, dùng trí nhớ của mình kể lại cho vài người khác nghe, để giải buồn trong lúc làm việc. Từ hình thức ấy, dần dần tiến tới lối giải trí và nảy sinh ra một hạng người krể truyện, họ chuyên sống nghề nầy trên khắp xứ Trung Hoa, dĩ nhiên ngoài việc kể ra, họ còn phải lắng tai nghe những lời bình phẩm hoặc những sai sót tên tuổi nhân vật, địa danh từ người bình dân cho đến giới quan lại, những lời bình phẩm, bổ túc những sai sót ấy, giúp cho họ thêm, bớt và hiệu đính lại, do đó cốt chuyện, tình tiết, nhân vật được họ đẽo gọt tròn méo một cách nghệ thuật, nó cũng nói lên sự đóng góp chung của mọi người để sáng tác nên chuyện thời ấy. Nhưng đến khi quân Nguyên tràn vào Trung Quốc thì quân Nguyên mang theo tuồng hát để giải trí, nghệ thuật giải trí nầy đã là cho lối giải trí kể chuyện lần lần lui vào quá khứ.
Ðến đời Minh, vì tình hình chánh trị thời bấy giờ, sĩ phu bị tập trung nơi kinh đô, câu thúc tư tưởng họ, cho nên văn học nghệ thuật không phát triển, ngược lại truyện Tàu được phát triển nhanh chóng, vì người ta sáng tác truyện Tàu dựa theo các chuyện kể từ đời Tống, hình thức nầy không bị câu thúc tư tưởng, vì sĩ phu chỉ ghi chép lại chuyện kể, hơn nữa nó đã đề cao Trung, hiếu, tiết, nghĩa, nhhư vậy cũng nằm trong mục đích củng cố chế độ phong kiến cho vững mạnh. Nhưng các nhà viết truyện cũng cố gắng ký thác những phản kháng của họ về chế độ, nhà vua, quan lại ...
Những chủ đề chính trong truyện như Trung, hiếu, tiết, nghĩa, khử bạo trừ gian, thế thiên hành đạo, trung thắng nịnh, chánh thắng tà.
Một điểm cũng cần nói tới ấy là bùa phép trong truyện, khởi từ thần thoại nó đã mang sẵn ý niệm hoang đường, lại được khai sinh trước thời đại khoa học, do đó truyện mang nhiều chi tiết thần tiên, ma quái, bùa phép.
V.- Văn Chương truyện Tàu
Truyện Tàu là tiểu thuyết của Trung Quốc, đương nhiên nó là bộ môn văn chương. Ðối với văn chương Trung Quốc, về thi phú thì cô động nội cái tên Tứ Tuyệt chúng ta cũng đủ thấy nó cô động biết chừng nào. Một bài thơ tứ tuyệt chỉ có 28 chữ, tạo thành áng văn chương xúc tích, mô tả tình cảm, tâm sự. Ví dụ như bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế, mà nhiều người chúng ta đã biết :
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, Giang phong ngư hỏa đối sầu miên. Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự, Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền. Nhà thơ Tản Ðà đã dịch : Trăng tà tiếng quạ kêu sương, Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ, Thuyền ai đậu bến Cô Tô, Nữa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San. hay bài Tiết Phụ Ngâm của Trương Tịch Quân tư thiếp hữu phu, Tặng thiếp song minh châu. Cảm quân triền miên ý, Hệ tại hồng la nhu. Thiếp giá cao lâu liên uyển khởi, Lương nhân chấp kích Quang Minh lý. Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt, Sự phu thệ nghĩ đồng sanh tử. Hoàn quân minh châu song lệ thùy, Hận bất tương phùng vị giá thú. Ngô Tất Tố dịch : Chàng hay em có chồng rồi, Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành. Vấn vương những cảm mối tình, Em đeo trong áo lót mình màu sen. Nhà em vườn ngọc kề bên, Chồng em cầm kích tại đền Minh Quang. Như gương vâng biết lòng chàng, Thờ chồng há dám phủ phàng thề xưa. Giả ngọc chàng giọt lệ như mưa, Hận không gặp gỡ khi chưa có chồng. Thi phú cô động, xúc tích như vậy, ngược lại tiểu thuyết thì lại trường thiên, truyền thống ấy dẫn đến những chuyện kiếm hiệp của Kim Dung và phim bộ của Hồng Kông sau nầy, nói chung là nó kéo dài lê thê. Truyện Tàu, một truyện chia thành nhiều Hồi, mỗi Hồi mở đầu có một câu chữ hay hai câu thơ giới thiệu tổng quát nội dung của Hồi ấy. Ví dụ như truyện Ðại Hồng Bào Hãi Thoại, Hồi thứ nhất có một câu giới thiệu :
Diệu Tiết phụ dạy con học chữ . Hoặc trong Thủy Hử, Hồi thứ bảy mươi (kết cuộc) Trung nghĩa đường, hào kiệt nhận bảng trời, Lương Sơn Bạc anh hùng kinh ác mộng. Cuối hồi thì có cả một bài hay hai câu thơ. Cũng trong truyện Ðại Hồng Bào Hãi Thoại, cuối Hồi thứ nhất, có một bài thơ Trời già đã định nợ ba sinh, Bèo nước gặp nhau há tại mình ? Rõ thiệt Hằng Nga đành ý trước, Nhành hoa cung Quảng khéo đem tin. Cuối Hồi sáu mươi chín của truyện Thủy Hử, có hai câu thơ : Băm sáu thiên cang hợp số định Bảy hai địa sát đủ cơ mầu Còn cuối Hồi bảy mươi, tác giả dùng bốn chữ ’‘ Thiên Hạ Thái Bình ’’để kết thúc, nó bao trùm cả truyện, bao hàm cả ước nguyện của mọi người, nên chẳng có hai câu thơ. Trong mỗi Hồi, cứ mở đầu bằng : ‘‘ Nói về ... ‘’ hoặc ‘‘ Khi ấy ...’’, còn chấm dứt mỗi Hồi thì : ‘‘ Muốn biết việc thế nào, xin xem hồi sau phân giải ‘’. Người ta thường hay nói : ‘’ Hạ hồi phân giải ‘’, ấy là bắt chước nói theo cách hành văn của truyện Tàu.
Trong khi đối thoại thì luôn luôn dùng : ‘’ Hỏi rằng, Thưa rằng, Nói rằng, Bảo rằng...’’, còn đọc thơ hay bảng ghi chép chi thì : " Thơ như vầy ...".
Những điểm vừa trình bày làm cho người đọc thường nhàm chán, nhưng chúng ta nhớ lưu ý truyện Tàu là chuyện kể, cho nên phải giới thiệu từng hồi, cho người nghe biết được Hồi ấy sẽ nói gì, cuối Hồi có bài thơ để bình phẩm tình tiết khen chê nhân vật. Còn : ‘‘Hỏi rằng, thưa rằng, bảo rằng, trả lời rằng...’’ có như vậy mới phân biệt tình tiết mô tả và câu văn đối đáp.
Một trăm lẽ tám anh hùng Lương Sơn Bạc, người ta đã dựng cho mỗi nha6n vật một cá tính đặc thù, ngoài ra những truyện khác, người ta cực tả thành những nhân vật điển hình, như nói đến gian nịnh phải kể Tần Cối, đa nghi như Tào Tháo, nóng tính như Trương Phi, chính trực như Quan Công, công minh như Bao Công, tài giỏi như Khổng Minh.
Hiểu được cốt lõi của truyện Tàu vốn là chuyện kể, viết ra thành văn để đọc cho người khác nghe, sở trường của nó là mô tả nhân vật và thuật chuyện, cho nên nha6n vật được mô tả đậm nét sắc sảo và tình tiết câu chuyện thật rõ ràng, có đầu có đuôi.
Trong truyện hiếm tả cảnh, nhưng thi ca thì có khá nhiều, chứng tỏ ảnh hưởng rơi rớt của thời Ðường truyền sang Tống.
V.- Ảnh hưởng của truyện Tàu
Truyện Tàu rất có ảnh hưởng đối với người miền Nam. Hai ảnh hưởng lớn nhất ấy là cá tính và văn chương. Ðất miền Nam hay nói rõ hơn là Lục tỉnh được các chúa Nguyễn khai mở từ năm 1623 đến năm 1759, Nếu kể từ năm khởi đầu 1623 cho đến năm 1954 thì người Việt Nam đã sống trên ba thế kỷ ở dãi đất nầy.
Qua ba thế kỷ đó, người miền Nam gồm có 2 thành phần chính; một là di dân, mà những người di dân là những người nghèo khó, trừ một thiểu số là tôn thất nhà Nguyễn, khi giao tranh với Tây Sơn, lúc chúa Nguyễn bôn tẩu, họ bị thất lạc nên ẩn cư ở vài nơi (Như Long Xuyên có chi phái Nguyễn Phước) và một số người Trung Hoa theo phong trào phản Thanh phục Minh đã đến miền Nam giúp chúa Nguyễn và lập nghiệp ở Cù Lao Phố Biên Hòa, Mỹ Tho vùng Chợ Mới Long Xuyên, Hà Tiên dần dần từ đời nọ sang đời kia họ đã bị Việt hóa.
Người di dân đến miền Nam vì Miền Nam trù phú, đất rộng người thưa, xa cách xã hội phong kiến, không bị kiềm tỏa bởi triều đình và quan lại.
Thiên nhiên và hoàn cảnh đã là những nhân tố tác động cho người miền Nam có cá tính như họ thích sống đời bình dị, tự do, ưa chuộng công bằng, sẵn sàn giúp đỡ kẻ thế cô.
Cá tính đó, người miền Nam đã sẵn có, lại được truyện Tàu un đúc về Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa, cho nên cá tính của người miền Nam là rất trung trực, nhân nghĩa và bình dị, do đó chúng ta hiểu tại sao người miền Nam tận tâm với chúa Nguyễn. Câu văn nhẹ nhàng, giản dị đã nói lên nghĩa khí của người miền Nam, đó là 2 câu trong Lục Vân Tiên của Nguyễn Ðình Chiểu :
Trai thời trung hiếu làm đầu, Gái thời tiết hạnh là câu trao mình Nếu không chịu ảnh hưởng của truyện Tàu, thì những năm 1945 cho đến năm 1954 làm gì miền Nam có những người như các Tướng giáo phái Hòa Hảo là Tướng Tướng Năm Lửa vợ biệt danh là Phàn Lê Huê, Tướng Lâm Thành Nguyên (biệt danh cậu Hai Ngoán), Tướng Nguyễn Thành Vinh (biệt danh Ba Cụt), Tướng Nguyễn Giác Ngộ (biệt danh ông Nguyễn), Tướng Cao Ðài Trình Minh Thế, Tướng Bình Xuyên Lê Văn Viễn (biệt danh Bảy Viễn). Nhưng về văn chương miền Nam, truyện Tàu ảnh hưởng rõ nét và làm nhịp cầu cho giai đoạn tiểu thuyết sau nầy.
Chú thích
1 - Giạ: là đơn vị đong đếm lúa gạo, 1 giạ bằng 40 lít, nữa giạ là 1 táo. 2 - Phú lang sa : Phiên âm chữ Francaise 3 - Hai trăm ngươn bạc, là hai trăm đồng bạc. Vào thời Pháp thuộc, Pháp phát hành cho Ðông Dương (Việt, Miên, Lào) một đơn vị tiền tệ đúc bằng bạc, hình tròn, đường kính chừng 5 cm, cân nặng 37.5 grame, một mặt có hình con cò, gọi là đồng bạc trắng, hay đồng bạc con cò, sau thay vì đúc đồng bạc bằng bạc, người Pháp in tiền giấy chữ Hán ghi Nhứt Nguyên cũng đọc Nhất Ngươn, chữ Quốc ngữ ghi Một Ðồng Bạc, nghĩa là tờ giấy ấy có giá trị là 37.5 gờ ram bạc. Về sau đồng bạc giấy không còn được bảo chứng giá trị như thế nữa. 4 - Ở Tân Châu có nghề dệt lụa gia truyền, nổi tiếng vải Mỹ A, nó là lụa nhuộm trái Mạt Nưa, mặt vải láng bóng, quần mới may mấy bà đi nghe có tiếng sột sạt. 5 - Quyển Tây Hớn có ghi người xuất bản. Publié par Huỳnh Hữu Phú, Néogicent Mỹ Tho, Imprimerie J. Viết Lộc et Cie. 6 - Quyển nầy có ghi Publié par Huỳnh Khắc Thuận Secrétaire du Secretariat du Gouvernement - Saigon - Imprimerie F.H.Schneider 1908 7 - Con gái ông, Bà Nguyễn Thị Nguyệt tự Minh Nghĩa, giáo học, từ trần năm 1929. 8 - Bài văn tế ông Dương Minh Chí (1862-1836) người xã Long Phú, quận Tân Châu tỉnh Châu Ðốc, ông là bậc thâm nho, giỏi Nôm và Quốc ngữ. Thường xướng họa với Trần Kim Phụng, Nguyễn Quang Chiêu, Cao Nhật Tân, Trần Thới Hanh, Nguyễn Chánh Sắt. Bài nầy đăng trên Lục Tỉnh Tân Văn ngày 31-12-1936. 9 - Bộ nầy có 9 cuốn, cuốn 1 Nguyễn Chánh Sắt dịch năm 1906, cuốn 2 không rõ ai dịch, từ cuốn 3 đến cuốn 8 Nguyễn An Khương dịch năm 1907, và cuốn 9 dịch năm 1908. 10 - Tín Ðức Thư xã ở đường Tạ Thu Thâu, bên hông chợ Sàigòn. Sách tham khảo :
Trần Phong Sắc Ðại Hồng Bào Hải Thoại, Imprimerie Saigonnaise, Sàigòn, 1907 Nguyễn Huy Khánh Khảo Luận Tiểu Thuyết Trung Hoa, Khai Trí, Sàigòn, 1955
( * ) Trở về Mục Lục
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 16:57:39 GMT 9
Tiết 5 : Tiểu Thuyết
I.- Ðại Cương và thời điểm tiểu thuyết ra đời
Tiểu thuyết miền Nam tuy sinh sau đẻ muộn hơn báo chí, thơ, truyện Tàu, nhưng nó đã mang lại cho văn học miền Nam thêm một bước tiến trong quá trình của chữ quốc ngữ.
Tiểu thuyết miền Nam khai sinh từ lúc nào ? Ấy là một điểm quan trọng cần được tìm hiểu.
Theo các nhà văn hay các nhà khảo cứu thì tiểu thuyết sơ khai được in trong các tập sách quảng bá của các nhà thuốc Tây (Pharmacie) hay nhà thuốc Nhị Thiên Ðường thời bấy giờ, những quyển sách ấy cũng chỉ còn lại trong ký ức của họ, sách xuất hiện vào khoảng những năm 1910.
Khi nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh, chúng ta biết rằng quyển tiểu thuyết đầu tay của ông là quyển Ai Làm Ðược khởi thảo từ năm 1911, là thời gian ông làm việc tại Cà Mau và bối cảnh chuyện cũng được ông chọn nơi đó, theo sự tiết lộ của gia đình thì quyển tiểu thuyết nầy ông khởi hứng viết sau khi đọc chuyện Hoàng Tố Oanh Hàm Oan của Gilbert Trần Chánh Chiếu. Như vậy Trần Chánh Chiếu còn viết tiểu thuyết sớm hơn Hồ Biểu Chánh. Nhưng sau nầy người ta lại còn tìm thấy Truyện Thầy LAZAZO Phiền của Nguyễn Trọng Quản đã được ấn hành năm 1887.
Như vậy có thể nói rằng tiểu thuyết trong văn học Quốc ngữ miền Nam có từ năm 1887, nhưng nó không gây được ảnh hưởng gì cho người sáng tác và giới thưởng ngoạn, nó bị chìm trong lãng quên, mãi cho tới khoảng 25 năm sau, tiểu thuyết mới gây được phong trào sáng tác và thưởng ngoạn.
Không kể Nguyễn Trọng Quản, những nhà văn tiền phong viết tiểu thuyết như Trần Chánh Chiếu, Lê Hoàng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt là những tiểu thuyết gia truyền thống miền Nam, tiếp nối có Hồ Biểu Chánh, Phú Ðức, Tân Dân Tử, Hồ Hữu Tường, Phi Vân, sau nầy còn có Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam.
Cho họ là tiểu thuyết gia truyền thống miền Nam, bởi vì văn chương của họ có những nét đặc thù miền Nam, nó không mang tính chất diễm lệ qua lối hành văn, không tiểu thuyết hóa những câu đối thoại. Một vài nhà văn như Hồ Biểu Chánh chẳng hạn, chúng ta thấy văn chương của ông là thứ văn " ròng miền Nam ", có lẽ vì đặc tính ấy mà trước đây những nhà khảo cứu đã bỏ quên hay xem nhẹ tiểu thuyết miền Nam.
Trong phần nầy, mặc dù chúng tôi cố gắng trình bày những hiểu biết của mình để làm rõ nét vai trò tiểu thuyết miền Nam trong văn học chữ quốc ngữ, nhưng cũng là để đặt lại đúng vị trí tiểu thuyết miền Nam trong nền văn học nước nhà.
Công việc tập trung các tài liệu thật là khó khăn, bởi vì những quyển tiểu thuyết ban đầu không còn nữa, báo chí buổi sơ khai càng quí hiếm, các bài khảo cứu trong thập niên 70 cũng chỉ trưng ra được một số ít chi tiết nhờ vào ký ức các bậc lão thành, nhà văn tiền bối, nhờ vậy, chúng ta mới có cơ sở để khảo cứu.
II.- Các tiểu thuyết gia đầu tiên
Trong tiết nầy, chúng tôi thiết nghĩ phải đành cho Nguyễn Trọng Quản nhà văn tiên phong một chỗ xứng đáng là tiểu thuyết gia đầu tiên của miền Nam, tiếc rằng tiểu thuyết của ông không gây được ảnh hưởng cho nền văn học tiểu thuyết, có lẻ vì chưa có nhịp cầu nối liền từ nền văn học cũ sang nền văn học mới. Kế đó Gilbert Trần Chánh Chiếu, vì ông chẳng những là nhà văn viết tiểu thuyết gây được ảnh hưởng cho phong trào viết tiểu thuyết, mà còn là nhà cách mạng có tâm huyết với nước nhà.
1.- P.J.B. Nguyễn Trọng Quản : Cho đến nay chưa có tài liệu tra cứu rõ ràng về ông, chỉ biết ông là học trò Trương Vĩnh Ký, bạn đồng học với ông Diệp Văn Cương, từng du học tại Lycée d’Alger, có làm Hiệu Trưởng Trường Sơ Học tại Sàigòn. Ngoài Truyện Thầy LAZAZO Phiền, có lẽ ông còn có những bài viết đăng trên Gia Ðịnh Báo, tiếc rằng chúng ta chưa có tài liệu tra cứu thêm.
Truyện Thầy Lazazo Phiền được Nguyễn Trọng Quản sáng tác năm 1886, ông viết tựa đề ngày 1 tháng 12 năm 1886, và được nhà in J. Limage, Librairie - Editeur, đường Catinat (1) Sàigòn, ấn hành năm 1887 (2)
Về tiểu thuyết Truyện Thầy Lazazo Phiền thuộc loại thuật sự, cốt truyện như sau : Ðêm 12-1-1884, tác giả xuống tàu tại bến Sàigòn đi Bà rịa, lúc lên pont (sàn) tàu, tác giả gặp một thầy tu Lazazo Phiền, thầy Phiền có tâm sự buồn đi Vũng Tàu nghỉ dưỡng bệnh. Thầy Phiền tâm sự năm 1850 Thầy được 13 tuổi thì mẹ mất, sống với cha là Trùm họ đạo ở Ðất Ðỏ Bà rịa. Năm 1860, Pháp đánh Biên Hòa các người có đạo bị bắt cầm tù, khắc trên mép tai 4 chữ " Biên Hòa tả đạo ". Năm 1862 Pháp đến Bà rịa thì nhà tù bị quan Annam đốt thiêu ba trăm tù nhân, số còn sống chạy thoát chừng 10 người trong ấy có thầy. Hai chân bị phỏng, thầy té xỉu bên bụi cây, được quan ba Pháp cứu sống và nuôi dưỡng sau đó quan ba Pháp về nước gửi thầy cho đức cha Lefèvre, Thầy được học chữ Quốc ngữ đến năm 1864 vào học trường chữ La tinh. Ở trong trường Thầy kết nghĩa với người bạn là Vero Liễu, Liễu có người em bạn dì, sau cha mẹ Liễu gả cho Thầy. Thầy xuất thân trường College d’Adran nên đi làm thông ngôn tại Bà rịa. Khi làm thông ngôn Thầy có quen quan Pháp nên hay vào đồn ăn cơm, có vợ viên quan ba Pháp là người Việt sanh tâm yêu Thầy, Thầy trốn tránh.
Trong khi đó Liễu thôi làm việc ở Sàigòn, xuống Bà rịa buôn ngựa hay ở nhà Thầy, Thầy được thơ nặc danh tố cáo bạn và vợ xằng bậy, nên Thầy lập tâm dẫn lính phục kích bắn chết Liễu, rồi nữa tháng sau Thầy lại dùng thuốc độc của người Thượng dạy bỏ vào siêu thuốc của vợ Thầy, vợ Thầy uống lầm bệnh ngày càng trầm trọng hơn 11 ngày thì mất. Trước khi vợ Thầy mất, có lẽ hiểu được mưu độc của Thầy, nhưng người đàn bà ấy đã nói : " Tôi biết vì làm sao mà tôi phải chết, song tôi cũng xin chúa thứ tha cho Thầy."
Sau khi chôn cất vợ xong, Thầy Phiền xin thôi việc về Sàigòn xin vào nhà dòng Tân Ðịnh tu và chuyến tàu ấy Thầy đi dưỡng bệnh.
Khi tác giả về đến Sàigòn ngày 27-1-1884 thì được thơ của Thầy Phiền viết từ Bà rịa ngày 25-1-1884 thuật lại là khi Thầy về đến nơi, người vợ của quan ba Pháp kia hối hận nên có được thư của cô ta viết cho Thầy thuật lại là chính cô ta đã cáo gian cho vợ Thầy và Vero Liễu Và Thầy Lazazo Phiền chết ngày 27-1-1884.
Truyện nầy tác giả viết in ra 28 trang khổ 12 x 19 cm
Trích văn :
Ai xuống Bà rịa mà có đi ngang qua đất thánh ở trong cát tại làng Phước Lễ thì tôi xin bước vô đất thánh ấy, kiếm cái mồ có cây thánh giá bằng ván, sơn nửa đen nửa trắng gần một bên nhà thờ những kẻ Tử đạo mà thăm mồ ấy kẻo tội nghiệp Vì đã hai năm nay không ai thăm viếng, không ai màng ngó tới.
Mồ đó là mồ một Thầy đã chịu lương tâm mình cắn rứt đã mười năm, bây giờ mới đặng nằm yên nơi ấy.
...................
Ðồng hồ nhà thờ nhà nước (3) vừa đánh 8 giờ; đồ tôi đã đem xuống tàu mà đi Bà rịa rồi.
Chiếc Jean Depuis định 10 giờ mới chạy, nên còn 2 giờ chẳng biết làm đi gì. Lên đến sân thấy trăng thanh gió mát ( Rằm tháng chạp Annam là 12 Janvier 1884), thì tôi lại đứng nơi be tàu mà hóng gió.
Ðứng đó lòng buồn một ít vì phải xa cách cửa nhà vợ con hơn tám bửa cho nên dẫu mà trên bờ đèn sáng như ngày, kẻ qua người lại xe ngựa rầm rầm, nhà hàng dẫy đầy những kẻ vui chơi, tôi cũng chẳng đem trí mà xem các sự ấy, cứ một xem phía bên sông Thủ Thiêm mà thôi; vì phía đó chẳng chơi sự sang trọng vui chơi, chẳng tỏ bày sự phàm xác thịt. Nơi ấy là nơi nghèo khổ làm ăn ban ngày, thong thả mà nghỉ ngơi ban đêm, nên còn một hai chỗ còn đèn leo lét mà chỉ vài nhà chưa ngủ mà thôi.
Còn dưới sông mặt trăng dọi xuống làm cho nước giọng ra như tấm lụa vàng có kim sa.
Ðọc đoạn văn trích trên đây, chúng ta sẽ có dịp so sánh với các nhà văn sau nầy như Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt viết sau ông trên dưới 30 năm, Nguyễn Trọng Quản đã hành văn trong sáng.
Lời tựa đề tặng Diệp Văn Cương và các bạn người Việt cùng học ở Lycée d’Alger; ngoài ước muốn cho Miền Nam có tương lai rực rở, tiến bộ và văn minh, ông còn viết :
" ...Tôi một có dụng ý lấy tiếng thường mọi người hàng ngày nói mà làm ra một truyện hầu cho kẻ sau coi mà bày đặt cùng in ra ít nhiều truyện hay; trước là làm cho con trẻ ham vui mà tập đọc, sau là làm cho dân các xứ biết rằng : người Annam sánh trí sánh tài thì cũng chẳng thua ai ".
Qua lời tựa nầy, chúng ta xác định được, trước ông chưa có ai viết tiểu thuyết, cũng như Trương Vĩnh Ký, trước ông chưa có ai viết " Chuyện đời xưa " vậy, thứ nữa là dùng tiếng thường nói sao viết vậy : Ðó chính là truyền thống của văn chương miền Nam.
2.- Trần Chánh Chiếu (1868-1919): Trần Chánh Chiếu tự Gilbert Chiếu, bút hiệu Tố Hộ và Trần Nhựt Thăng, ông sinh tại làng Vân Tập, sau đổi là Vĩnh Thanh Tân, tỉnh Rạch Giá, cha là Trần Thọ Cửu, hương chức trong làng.
Gia đình ông khá giả, sau khi học xong trường tỉnh, ông lên Sàigòn học trường College d’Adran và khi thành tài, ông làm giáo học rồi làm thông ngôn cho Tham biện Chủ tỉnh Rạch giá (4).
Ông có khẩn đất vùng Tràm Vẹt, có phố xá tại chợ Rạch giá, nên sau đó ông thôi làm công chức, trở về làng làm Xã trưởng (5) một thời gian, ông được phong chức Phủ hàm và gia nhập Pháp tịch.
Khoảng năm 1906, ông lên Sàigòn hoạt động trong phong trào Minh Tân - Danh từ nầy có lẽ lấy chữ trong sách Ðại Học. " Ðại học chi đạo, tại minh minh đức. tại tân dân tại chí ư thiện ", phong trào Minh Tân là một bộ phận trong phong trào Duy Tân.
Năm 1906 và 1907, ông làm Chủ bút tờ Nông Cổ Mín Ðàm và năm 1907 tờ Lục Tỉnh Tân Văn ra đời, ông Làm Chủ bút tờ nầy dưới bút hiệu Trần Nhựt Thăng. Ông có hoạt động bí mật với Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể, ở Sàigòn ông lập Minh Tân Công Nghệ Xã, Nam Trung khách Sạn, ở Mỹ Tho có Minh Tân khách sạn là những nơi mà ông muốn người Việt Nam kinh doanh, để đương đầu với người nước ngoài, và cũng là nơi gặp gỡ của những người trong phong trào.
Vì hoạt động bí mật và cạnh tranh thương mại, nên ông bị người Pháp theo dõi, đến tháng 10 năm 1908 ông bị bắt cho đến tháng 4 năm 1909 ông mới được thả ra, sau đó ông vẫn hoạt động bí mật trong phong trào Ðông du, và ông mất tại Sàigòn năm 1919.
Ngoài việc làm báo, hoạt động cách mạng ra, ông dịch và viết một số tác phẩm sau :
- Tiền căn hậu báo (dịch le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas), trước đăng trong Lục Tỉnh Tân Văn. Năm 1914, nhà in Imprimerie de l’Union ấn hành sách. - Hoàng Tố Oanh hàm oan. - Văn ngôn tập giải. - Gia phổ (1917)
Trích văn :
Thương hải tang điền
Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Theo luật lệ tạo hóa, hễ hữu hình thì hữu hoại. Vật chi hễ có hình, hoặc chẳng lâu thì mau cũng phải hư nát. Còn trong đám trần ai hễ hữu sanh thì hữu tử, có sanh sản thì có tử táng, có sống thì có chết.
Vã lại, sông biển núi non cũng hay đổi dời, ruộng dâu hóa ra biển, biển cạn bày đất thành ruộng dâu. Núi cao sập lỡ thành ao hồ, non nhỏ có ngày cao lớn. Mỗi người đều thấy, hễ chiêm nghiệm thì đều hiểu.
Nói sang qua phong tục thì lại thấy nó mỏng manh hơn bánh tráng. Xưa vẽ mình, ở dã, ở bãi, nhờ ba con cá nuôi lỗ miệng, đầu trọc, mình đóng khố. Sau lần lần bắt chước lân bang, Sắm áo quần ngày càng tao nhã thanh lịch. Nay lại muốn bỏ đồ xưa, đổi áo thay xiêm, đổ dài thay vắn, cúp tóc cho gọn. Xưa đi giày hàm ếch lượt bượt. Nay đi giày đính gót gọn gàng. Xưa bịt khăn, nay đội nón. Muôn việc cũng đều bắt chước các nước, còn việc cơ xão, việc thông minh, bày vẽ cho cận tiện thì mình thua sút xa thăm thẳm.
Nghĩ lại sự bắt chước cũng không mau được, ban đầu thì xài quần tây, đến sau cúp tóc, đội nóm, bây giờ muốn đổi áo. Mấy ông tưởng vậy là đủ cuộc trí thời thức thế sao ?
Tôi tưởng chưa, là vì việc hủ lậu còn đầy, sự nghi nan còn nặng. Việc đọc sách, đọc nhựt trình còn sơ, việc cơ xão công nghệ còn hẹp. Nay lo chuyện sua se là dọn quần đánh áo. Hà tất duy tân. Ấy là có vỏ nõ có ruột. Phải ráng mà bươn chải với đời, lo cho con nhà nước Nam thông nghề buôn, giỏi nghiệp nghệ, tiện tặn chắt lót, thủ quyền lợi vì hễ có hằng sản mới có hằng tâm; bằng tay không chân rồi, dầu có mặc áo gấm cũng chẳng làm chi, bất quá thì hơn con công một thí mà thôi.
Xin tri túc thường túc. Có 10$ ăn 5$ dành để 5$. Ðến khi có gặp điều phải mà thi ân được. Chớ " đồng rằng trong túi vắng hoe, thì ắt là kiến nghĩa nan vi, lâm nguy nan cứu ".
Tố Hộ
Bài nầy in ra chắc có các vị Minh Tâm công luận. Phận tôi làm chủ bút sẽ cầm cân.
Chủ Bút
Số 2, ngày 21-11-1907
3. Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947) : Ông từng làm chủ bút Nông Cổ Mín Ðàm, là một nhà dịch truyện Tàu, cũng là một trong những nhà viết tiểu thuyết buổi sơ khai. Lần thứ hai làm chủ bút Nông Cổ Mín Ðàm, truyện Tàu đã được dịch nhiều rồi, và tiểu thuyết bắt đầu ló dạng buổi bình minh, nên ông chuyển sang viết tiểu thuyết đăng trong Nông Cổ Mín Ðàm. Tiểu thuyết Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên làm cho ông nổi tiếng hơn cả, người ta gọi ông với biệt danh là Monsieur Chăn Cà Mun, đó là tên của nhân vật chính trong chuyện.
Muốn hiểu rõ hơn về cuộc đời của ông, xin xem lại tiểu sử ông ở Tiết 4, mục III, tiểu mục 2.
Về tiểu thuyết của ông sáng tác gồm có :
Gái trả thù cha (trinh thám tiểu thuyết, 4 quyển 220 trang, năm 1920)
Tài mạng tương đố (tâm lý tiểu thuyết, 2 quyển)
Lòng người nham hiểm (xã hội tiểu thuyết, 1 quyển)
Nghĩa hiệp kỳ duyên, (năm 1920) ( 6 )
Trinh hiệp lưỡng mỹ
Lê Thái Tổ (4 quyển, năm 1931)
Trích văn :
Vậy sao? Cơ khổ dữ chưa, vậy mà tôi không biết, chớ anh nhà cửa ở đâu? Sao mà biết con hai ở đây? Trịnh-thế-Xương chưa kịp trả lời, Lâm-thế-Viễn liền rước mà nói rằng: " Ông bác đây là người giàu có lớn bên chợ Tân Châu ". Rồi đó Lâm-trí-Viễn mới thuật hết đầu đuôi sự tích lại cho Dì Tư bán cá nghe. Dì tư bán cá miệng nhai trầu tích hoát, tay xỉa thuốc ba ngoai mà nói rằng: " Trời đất ơi! Ðây với đó có bao xa mà không biết, phải tôi dè vậy thì tôi nhắn cho ông anh hay đã lâu rồi chớ đâu mà để cho tới ngày nay. Từ ngày tôi gặp con hai nó đi lơ thơ ngoài chợ, tôi thấy vậy tôi thương nên tôi đem nó về mà ở với tôi đây đã mấy tháng nay. Dì cháu hẩm hút với nhau thiệt tôi thấy tánh nết nó thiệt thà tôi thương nó quá. Lúc đêm hôm rảnh rang tôi cũng hỏi thăm gốc gát cha mẹ nó thì nó không biết chi hết, vì lúc họ chở nó đi thì nó còn nhỏ quá ". Trịnh thế Xương bèn thò tay vào túi lấy ra (100 đồng) một trăm đồng bạc, trao cho Dì tư bán cá mà nói rằng: " Con gái tôi nó đùm đậu ở đây trong mấy tháng thiệt cũng nhờ cái lòng tốt của chị, mà bởi tôi đi thình lình nên không có bạc đem theo nhiều, vậy thì xin chị nhận đỡ lấy một trăm đồng bạc nầy, gọi là của tôi đền đáp ơn dày của chị, vui lòng đặng tôi đem con gái tôi về, kẻo để tắt tưởi cái tấm thân nó tội nghiệp ".
Trích Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên
Từ bài trích Mộ Tào Tháo ở Tiết Báo Chí, đến phần trích trên đây, chúng ta thấy Nguyễn Chánh Sắt hành văn nhẹ nhàng, nhưng vẫn thể hiện nét đặc thù của truyền thống văn chương miền Nam.
4. Lê Hoằng Mưu : Ông sinh khoảng năm 1880 và mất khoảng năm 1940. Sinh tại Cái Cối tỉnh lỵ Bến Tre, ông có bút hiệu Mộng Huê Lầu, ông bắt đầu sáng tác vào khoảng năm 1917-1918, đến năm 1921 ông làm chủ bút tờ Lục Tỉnh Tân Văn cho đến năm 1930.
Tác phẩm của ông gồm có :
. Hà Hương phong nguyệt. (7) . Oán hồng quần tức Phùng Kim Huê ngoại sử (1920) . Tô Huệ Nhi (1920) . Oan kia theo mãi tức Ba mươi hai đêm Hồ Cảnh Tiên tự thuật (1922) . Ðêm rốt của người tử tội ( 1930 ?) . Người bán ngọc . Ðầu tóc mượn
Trích văn (8)
Oán Hồng Quần
... Trên chữ đề Tân Hiệp nhà ga, dưới chạo rạo người ta lên xuống.
Huê khát nước thấy dừa muốn uống, tính xuống mua mà xuống lại e, may đâu con bán dừa đem lại gần xe, cho hành khách tiện bề mua lấy. Huê mừng dạ mau chân bước lại, kêu hỏi thăm một trái mấy đồng. Xãy đâu gần bên nàng có một thầy thông, chợt thấy khách má hồng bủn rũn. Trơ đôi mắt hỏi thầm trong bụng: " Có phải Túy Kiều xưa, nay sống lại chăng ? Thầy mới lần tay toan mở túi gió trăng, kiếm lời ghẹo ả Hằng cung nguyệt ".
Lê Hoằng Mưu hành văn theo lối biền ngẫu, đó là ảnh hưởng của cổ văn Trung Hoa, dùng trong thi phú từ chương.
Một đoạn văn xuôi của ông, chúng tôi thử xuống dòng ở các chấm câu, nó gần trở thành một bài phú.
"...Chung thờ thần mày trắng, mười mấy năm mới bỏ ra đi.
Trốn mà đi Nam Vang, ngỡ cải nghiệp điếm đàng sửa sang tánh hạnh.
Có dè đâu lên Nam Vang cũng chẳng tiếc phấn son một mảnh; không thẹn điều lá gió chim cành; hết Tống Ngọc tới Trường Khanh, vui theo cuộc lầu xanh ang ná (9)...’’
So với văn của Nguyễn Chánh Sắt, rồi lần tới Hồ Biểu Chánh, chúng ta sẽ thấy rõ sự chuyển thể từ thi ca sang văn xuôi, cần phải có một nhịp cầu, ấy là truyện Tàu.Ðọc lại đoạn văn trên chúng ta thấy ông hành văn từng câu ngắn, có người cho đó là văn nhát gừng. Nhưng trong buổi giao thời ấy, ông là một nhà văn sáng giá, theo như bài viết của Lãng Tử đăng trong tuần báo Mai số 68 phát hành ngày 6-1-1939, viết về Lê Hoằng Mưu như sau :
Sánh truyện hồi đó ông viết ra thật nhiều và đều bán chạy như tôm tươi giữa buổi sớm, ông nổi danh quá lắm, làm cho ông Nguyễn Văn C (10) trong một lúc vui sướng vì đã có người giúp việc quí giá đã hứa với ông rằng sẽ giữ ông lại trong tờ báo trọn đời. (11).
III. Ðặc tính của tiểu thuyết sơ khai
Chúng ta chưa biết nhiều về Lê Hoằng Mưu, nhưng Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt, nếu kể thêm Nguyễn Trọng Quản thì họ đều là những người có học Quốc Ngữ và Pháp Văn, do đó ít nhiều họ cũng bị ảnh hưởng văn chương Tây Phương, nhưng cổ văn, Thơ, truyện Tàu vẫn có ảnh hưởng đến họ, chính vì vậy mà tiểu thuyết thuở ban đầu ấy, đã chịu một số ảnh hưởng sau đây :
1.- Chịu ảnh hưởng chương hồi của tiểu thuyết Trung Quốc
Về chương hồi của truyện Tàu, chúng tôi đã nói qua ở Tiết 4, mục V. Tưởng cũng cần nhắc lại, mỗi truyện Tàu chia thành nhiều chương, hồi. Trước mỗi hồi đều có một hay hai câu thơ giới thiệu tổng quát nội dung của hồi đó.
Tiểu thuyết miền Nam buổi sơ khai cũng vậy, có chương hồi. Bản Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên do nhà văn Sơn Nam sưu tầm và cho in lại trong tạp san Nhân Loại (12), không thấy có phân chia thành hồi, nhưng từng đoạn có ghi :
Lâm trí Viễn dụng mưu.
Một chước rất mầu.
Còn tiểu thuyết Nhơn Tình Ấm Lạnh của Hồ Biểu Chánh, do Tín Ðức Thư Xã in năm 1928 có phân chia thành hồi như :
Hồi thứ II
Phi Phụng tỏ tình buồn dạ khách,
Duy Linh tức trí kiếm đường vinh.
hoặc Hồi thứ XVI
Từng cay đắng mới biết thế tình gian dối,
Lắm thảm sầu nên nhìn người ngọc quặn đau.
Sau nầy Hồ Biểu Chánh cho in lại, ông đã bỏ bớt các câu thơ giới thiệu các hồi.
Giọt Máu Chung Tình của Tân Dân Tử do nhà Phạm Văn Thìn in năm 1954 vẫn còn in chương hồi theo cũ :
Hồi thứ nhất
Thành Bình-Ðịnh thuật sơ sự tích,
Võ-đông-Sơ lướt dặm quan hà.
Như vậy cho thấy, ban sơ tiểu thuyết chịu ảnh hưởng truyện Tàu về hình thức cũng phân chia thành chương hồi.
2. Chịu ảnh hưởng văn chương Trung quốc
Chúng ta ai cũng biết rằng miền Nam không phảo là mảnh đất chịu ảnh hưởng lâu đời về văn chương Trung Quốc, miền Nam chỉ có năm ba ông Cử, vài ông tiến sĩ, rồi Pháp chiếm lấy miền Nam, nền văn học Quốc ngữ được phát sinh. Quốc ngữ chỉ là phương tiện cai trị của người Pháp, còn con đường quan lại nhất thiết phải học chữ Pháp, bởi vì các Nghị Ðịnh, công văn đều viết bằng Pháp văn, chữ Quốc ngữ chỉ dùng ở báo chí, văn chương. Những người làm báo, sáng tác tiểu thuyết đều biết Pháp văn, Hán Văn và Quốc ngữ.
Mặc dù học Hán văn không nhằm mục đích thi cử, nhưng mà học để biết nghĩa lý thánh hiền, học cho hiểu để đàm luận văn chương, cho nên nhà văn thời đó còn chịu ảnh hưởng rơi rớt lại văn chương biền ngẫu của Trung Hoa.
Ðây là đoạn mở đầu bộ Giọt Máu Chung Tình của Tân Dân Tử :
Lửa hạ vừa tàn, gió thu đổ lá, kèn xe hơi rỉ rả, tiếng ngâm sầu nhặt nhặt khoan khoan. Nội cỏ bóng le the, trang vẻ cảnh vàng vàng dợt dợt, kìa xóng róng một đám rừng thông cụm liễu cây đứng xơ rơ, trợn mắt trơ trơ, dường như giận cái phong cảnh tiêu điều, mà phai màu xủ lá. Nọ một giãi trường sơn vọi vọi, nằm dọc theo mé biển Ðông dương, dơ sống phơi sườn, thiêm thiếp yêm liềm ở dưới trời Nam, dường như buồn thảm cái thời tiết đổi dời nên không động dạng...
Còn đoạn mở đầu Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên của Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt :
Vừa cuối tiết thu, trời chiều mát mẻ, trên nhành chim kêu chiu chít, dưới sông cá lội vởn vơ; Lâm trí Viễn tay cầm nhựt báo, tay xách ba-ton (baton), rảo bước thung dung, thơ thẩn lối cầu đường núi Sam là chỗ hẹn hò với tình nhân mà trao lời tâm sự. Gần trót giờ lâu, chẳng thấy dạn nàng, anh ta buồn ý, liền dở tờ nhựt báo xem chơi cho tiêu khiển...
3. Chịu ảnh hưởng về nền luân lý của Trung Hoa
Mặc dù chịu ảnh hưởng phần nào của Tây phương nhưng ảnh hưởng về luân lý của Trung Hoa vẫn nặng nề, nhưng đó cũng là nền nếp, phong hóa của Việt Nam ta từ lâu đời.
Những tam cang, ngũ thường, tam tòng, tứ đức đã ăn sâu vào đời sống người Việt Nam, khi người ta nói đến lễ nghĩa, đối xử với nhau trong xã thôn và làng nước. Nó là chuẩn mực cho tác giả xây dựng nhân vật, hoàn cảnh. Thậm chí đến nhân vật của Nguyễn Chánh Sắt, ông đặt tên biểu trưng cho từng cá tánh nhân vật.
Kẻ mưu sâu hiểm độc thì tên là Lâm-trí-Viễn, người giả mạo, sau nầy phải chạy trốn tên là Ðào-phi-Ðáng, kẻ hết lòng hết dạ cứu giúp người tên là Trần-trọng-Nghĩa, kẻ có lòng thương người tên là Trịnh-thế-Xương, kẻ phải chịu phiêu bạt tên là Trịnh Phương Lang, còn tên cờ bạc ăn cắp vặt tên là Trịnh-bất-Thanh.
Hồ Biểu Chánh cũng vậy, người con gái trinh trắng ông đặt tên là Bạch Tuyết, kẻ có chí ông đặt cho tên Chí Ðại ...
4. Hành văn trơn tuột như lời nói
Có một đặc tính cho văn chương miền Nam, nó đã tạo thành truyền thống, khởi đầu từ Trương Vĩnh Ký, đặc tính ấy là hành văn trơn tuột, nói sao viết vậy, Chẳng hạn như đoạn trích trong Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên ở trước:
..." Trời đất ơi! Ðây với đó có bao xa mà không biết, phải tôi dè vậy thì tôi nhắn cho ông anh hay đã lâu rồi chớ đâu mà để cho tới ngày nay. Từ ngày tôi gặp con hai nó đi lơ thơ ngoài chợ, tôi thấy vậy tôi thương nên tôi đem nó về mà ở với tôi đây đã mấy tháng nay. Dì cháu hẩm hút với nhau thiệt tôi thấy tánh nết nó thiệt thà tôi thương nó quá. Lúc đêm hôm rảnh rang tôi cũng hỏi thăm gốc gát cha mẹ nó thì nó không biết chi hết, vì lúc họ chở nó đi thì nó còn nhỏ quá "...
Một đoạn trích trong Ai Làm Ðược của Hồ Biểu Chánh, sáng tác năm 1912, nhuận sắc in năm 1922, để chúng ta thấy rõ đặc tính văn chương miền Nam.
... Quan Phủ đã nổi giận mà bà còn châm chích thêm, chẳng khác nào lửa cháy mà bà còn chế thêm dầu, bởi vậy quan Phủ lấy roi biểu Bạch Tuyết nằm xuống ông đánh hơn một chục roi, cắn răn trợn mắt không cho Bạch Tuyết khóc.
Ông vừa đánh vừa nói rằng :
- Mầy lấy thằng Chí Ðại làm nhục nhã tao, tội ấy tao chưa nói, bây giờ tao định gã mầy cho mầy khỏi mang tiếng xấu, mầy lại làm hơi khôn lanh, muốn chống cự với tao nữa à.
Bạch Tuyết nghe mấy lời ấy thì chưng hửng, không biết lấy chi mà đối nại được, kêu oan rằng :
- Oan ức con lắm cha ôi Mẹ ôi Mẹ ở dưới cửu tuyền xin mẹ chứng dùm con, kẻo tội nghiệp thân con lắm, mẹ ôi !...
IV. Các nhà văn tiếp nối
Mặc dù Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam đều có tham gia vào văn chương, báo chí trước năm 1954, nhưng chúng tôi không xếp các ông vào trong các nhà văn tiếp nối ở miền Nam vì Bình Nguyên Lộc chỉ nổi tiếng với tác phẩm Ðò Dọc, sau khi ông được giải thưởng Văn Chương toàn quốc năm 1958-1959, còn Sơn Nam thì nổi tiếng sau khi xuất bản quyển Hương Rừng Cà Mau năm 1962. Mặc dù Bình Nguyên Lộc với chuyện Rừng Mắm, còn Sơn Nam với quyển Hương Rừng Cà Mau, đều là những truyện có giá trị mang chứa tình yêu quê hương đậm đà, nhưng vì giới hạn văn chương miền Nam từ cuộc Nam tiến cho đến năm 1954, cuộc di cư vĩ đại ấy đã pha trộn văn chương, làm cho văn chương miền Nam có sắc thái khác, thành ra một thời kỳ trong Văn học Việt Nam.
Phần nầy chúng tôi đề cập đến các nhà văn Hồ Biểu Chánh, Tân Dân Tử, Phú Ðức, Phi Vân và Hồ Hữu Tường. Người được đề cập đến trước tiên là nhà văn Hồ Biểu Chánh.
1. Hồ Biểu Chánh (1885-1958):
Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, sinh ngày 1 tháng 10 năm 1885, tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công, trong một gia đình nghèo.
Năm lên 8, Hồ Biểu Chánh học chữ Nho, năm lên 12 ông bắt đầu học Quốc ngữ và chữ Pháp tại trường tổng Vĩnh Lợi, rồi sau học trường tỉnh Gò Công. Nơi đây ông được cấp học bổng để theo học tại trường Chasseloup-Laubart ở Sàigòn. Cuối năm 1905 ông thi đậu bằng Thành Chung.
Năm 1906, ông thi đổ làm Ký lục tại Soái phủ Nam Kỳ (Sàigòn), tòng sự tại Dinh Hiệp Lý, năm 1912,1913 tòng sự tại toà bố tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau. Năm 1914, tòng sự tại tòa bố tỉnh Long Xuyên. Năm 1917, Hội Khuyến Học Long Xuyên xuất bản Ðại Việt tạp chí, ông có cộng tác với tạp chí nầy, viết về khoa học, kinh tế, lý tài.
Năm 1919, đổi về làm việc tại tòa bố Gia Ðịnh. Năm 1920, làm việc tại văn phòng Thống Ðốc Nam Kỳ. Cuối năm 1921 thi đậu Tri Huyện.
Năm 1927 thăng tri phủ, đổi đi làm Quận Trưởng quận Càn Long, tỉnh Trà Vinh. Năm 1932, đổi đi làm Quận Trưởng quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Năm 1934, đổi đi làm Quận Trưởng quận Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ.
Năm 1935, đổi về Sàigòn làm Phó Chủ Sự phòng 3, kiểm soát ngân sách tỉnh và thành phố. Năm 1936, thăng Ðốc Phủ Sứ, trong năm nầy ông làm đơn xin hưu trí, nghị định cho về hưu tháng Giêng năm 1937, nhưng mãi đến năm 1941, ông mới được về hưu.
Ngày 4-8-1941, ông được cử làm Nghị Viên Hội Ðồng Liên Bang Ðông Dương, đến ngày 26-8-1941, ông được cử làm Nghị viên kiêm Phó Ðốc Lý thành phố Sàigòn. Cuối năm 1941, thành phố Sàigòn - Chợ Lớn sáp nhập làm một, ông làm Nghị viên trong Ban Quản Trị thành phố Sàigòn cho đến năm 1945.
Năm 1946, ông làm Chánh Văn phòng cho Chánh phủ Nam kỳ của Thủ tướng Nguyễn Văn Thinh. Sau khi Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh quyên sinh. Hồ Biểu Chánh mới từ bỏ hẳn cuộc đời công chức.
Sau khi về hưu, ông ở Gò Công một thời gian, rồi trở lại Sàigòn, ông vẫn tiếp tục sáng tác cho đến khi nhắm mắt lìa đời ngày 4 tháng 11 năm 1958, tại biệt thự Biểu Chánh, đường Hồ Biểu Chánh (gần ngã tư Ngô Ðình Khôi và Trần Quang Diệu). Phú Nhuận, tỉnh Gia Ðịnh.
Khi ông mất, thi sĩ Ðông Hồ lấy tên các tác phẩm của ông, làm câu đối đi viếng tang ông như sau :
- Cay đắng mùi đời, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, tác phẩm viết trăm lẻ năm thiên, Vì nghĩa vì tình, Ngọn cỏ cứng gió đùa, Tỉnh mộng, mấy Ai làm được.
- Cang thường nặng gánh, cơn Khóc thầm, cơn Cười gượng, thanh cần trải bảy mươi bốn tuổi, Thiệt giả giả thiệt, Vườn văn xưa Ghé mắt, Ðoạn tình còn Ở theo thời.(14)
Trong đời công chức, ông có những huy chương sau :
- 28-12-1920: Khuê bài danh dự bằng bạc
06-04-1921: Kim Tiền 26-08-1924: Monisaraphon 25-03-1927: Ordre Royal du Dragon de l’Annam 02-09-1937: Ordre Royal du Cambodge 09-08-1941: Chevalier de la Légion d’Honneur
Về văn nghiệp, ngoài tiểu thuyết ra, ông còn viết nhiều thể tài khác như khảo cứu về tôn giáo, chánh trị, tiểu thuyết. Viết tuồng cải lương, hát bội...
Năm 1942 và 1943, Hồ Biểu Chánh làm chủ nhiệm Bán nguyện san Ðại Việt Tạp Chí (13) và Nam Kỳ Tuần Báo xuất bản tại Sàigòn.
Về tiểu thuyết, ông đã sáng tác những tác phẩm sau đây :
1. Ai làm được sáng tác năm 1912,
nhuận sắc năm 1922
2. Chúa tàu Kim Qui 1922
3. Cay đắng mùi đời 1923
4. Tỉnh mộng 1923
5. Một chữ tình 1923
6. Nam cực tinh huy 1924
7. Nhơn tình ấm lạnh 1925
8. Tiền bạc, bạc tiền 1925
9. Thầy thông ngôn 1926
10. Ngọn cỏ gió đùa 1926
11. Chút phận linh đinh 1928
12. Kẻ làm người chịu 1928
13. Vì nghĩa vì tình 1929
14. Cha con nghĩa nặng 1929
15. Khóc thầm 1929
16 Nặng gánh cang thường 1930
17. Con nhà nghèo 1930
18. Con nhà giàu 1931
19. Ở theo thời 1935
20. Ông Cử 1935
21 Một đời tài sắc 1935
22. Cười gượng 1935
23. Dây oan 1935
24. Thiệt giả, giả thiệt 1935
25. Nợ đời 1936
26. Ðóa hoa tàn 1936
27. Lạc đường 1937
28. Từ hôn 1937
29. Tân phong nữ sĩ 1937
30. Lời thề trước miễu 1938
31. Tại tôi 1938
32. Bỏ chồng 1938
33. Ý và tình 1938
34. Bỏ vợ 1938
35. Người thất chí 1938
36. Tìm đường 1939
37. Hai khối tình 1939
38. Ðoạn tình 1939
39. Ái tình miếu 1941
40. Cư kỉnh 1941
41. Mẹ ghẻ, con ghẻ 1943
42. Thầy Chung trúng số 1944
43. Hai Thà cưới vợ 1944
44. Một đóa hoa rừng 1944
45. Ngập ngừng 1944
46. Chị Hai tôi 1944
47. Bức thư hối hận 1953
48. Trọn nghĩa vẹn tình 1953
49. Nặng bầu ân óan 1954
50. Ðỗ nương nương báo oán 1954
51. Lá rụng hoa rơi 1954-1955
52. Tơ hồng vương vấn 1955
53. Hai chồng 1955
54. Hai vợ 1955
55. Ðại nghĩa diệt thân 1955
56. Trả nợ cho cha 1955
57. Những điều nghe thấy 1955-1956
58. Ông Cả Bình Lạc 1955-1956
59. Một duyên hai nợ 1956
60. Trong đám cỏ hoang 1956-1957
61. Vợ già chồng trẻ 1956
62. Hạnh phúc lối nào 1957
63. Sống thác với tình 1957
64. Nợ tình 1957
65. Ðón gió mát, nhắc chuyện xưa 1957
66. Chị Ðào, chị Lý 1957
67. Nợ trái oan 1957
68. Tắt lửa lòng 1957
69. Lẫy lừng hào khí 1957-1958
70. Lần qua đời mới 1958-?
71. Hy sinh 1958--?
Ðáng lẽ chúng tôi đặt nhà văn Hồ Biểu Chánh vào hàng các tiểu thuyết gia đầu tiên, nhưng chúng tôi nghĩ từ năm 1912, ông sáng tác Ai Làm Ðược, nhưng phải đợi 10 năm sau, ông mới sửa chữa và cho in ra, thời gian 10 năm ấy vật đổi sao dời, tiểu thuyết đã đi được những bước vững chắc rồi.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 17:00:08 GMT 9
Lối hành văn của ông vượt hẳn các nhà văn lớp trước, tuy những quyển tiểu thuyết của những năm đầu, thỉnh thoảng ông cũng dùng lối biền ngẫu, như đoạn sau đây trong Nhơn Tình Ấm Lạnh :
"... Ðêm đã khuya nên trên đường chẳng còn ai đi nữa, trăng thật tỏ mà mấy nhà ở dọc theo đường lại kín cửa ngủ hết. Duy Linh ra khỏi cửa ngỏ của ông Huyện hàm rồi, thì thủng thẳng huởn bước mà về. Ði vài chục bước ngó ngoái lại một lần, thì thấy vách tường trắng toác, nóc lầu hồng hồng, trước cửa lầu ngọn đèn chiếu sáng trưng, sau nhà bếp dạng người còn náo nức. Bóng trăng vì nhanh áng nên chỗ mờ chỗ tỏ, cây cỏ bị ngọn gío đàng nên lắc lại lắc quạ Dọng ngâm nga nghe tiếng dế khóc bên chân, bay sập sận thấy cánh chim quơ trước mặt ...’’
Tuy nhiên tiểu thuyết của ông đã có ranh giới phân biệt rõ ràng thời kỳ sơ khai đã chấm dứt, cho nên chúng tôi đưa ông vào các nhà văn tiếp nối.
Nghiên cứu tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, chúng tôi thấy những nét đặc biệt bằng bạc trong hầu hết các tác phẩm của ông.
Về luân lý, ông vẫn theo luân lý Khổng Mạnh, nhưng luôn muốn có cải cách, uyển chuyển cho phù hợp với hoàn cảnh chớ không quá câu nệ, chẳng hạn như trong Vì Nghĩa Vì Tình :
"... Tối lại cô ngủ không được, cô nằm suy tới tính lui, làm thân đàn bà con gái, nếu tỏ với đàn ông con trai một lời không đoan chánh, thì thẹn thùa xấu hổ có chi bằng, mà nếu mình vì danh tiết, không đành khêu tình, đặng mà cứu cái sanh mạng của người ta thì té ra mình trọng chữ " trinh " hơn là chữ " nhơn ", làm người dường ấy chưa phải là người đứng đắn. Cô cân phân từ chút, cô xét nét từ hồi, nếu cô giữ vẹn tiết trinh thì Chánh Tâm phải chết, rồi Trọng Quí phải mang cái quả báo. Cô là người có lòng nhân từ, cô không nở vì phận cô mà cô để cho kẻ khác bị hại, thà là cô mang tiếng thất tiết mà cô cứu người ta, chớ cô cố chấp danh tiết của cô thì cái lỗi bất nhơn nó còn nặng hơn cái lỗi thất tiết nhiều lắm. Mà tại sao lại gọi rằng thất tiết? Phận gái phải gìn giữ nết na, mình liếc mắt trêu hoa, mình tỏ lời ghẹo nguyệt, mình làm giả dối đặng cho khách buồn rầu động tình mà quên nổi vợ con vậy thôi, chớ mình dại gì mà để rơm gần cho lửa bắt, thọc tay vào cho chàm dính, mà sợ xủ tiết ô danh ".
Nhân vật của Hồ Biểu Chánh phần nhiều đều có khuynh hướng phiêu lưu, từ Chí Ðại trong Ai Làm Ðược, Phan Văn Quí trong Mẹ Ghẻ Con Ghẻ, Duy Linh trong Nhân Tình Ấm Lạnh, Châu Tất Ðắc trong Từ Hôn, Lân trong Lời Thề Trước Miễu, cho đến thằng Hồi, thằng Quì trong Vì Nghĩa Vì Tình, thằng Ðược, thằng Bỉ trong Cay Ðắng Mùi Ðời, thằng Hiệp, thằng Cao trong Lạc Ðường là những nhân vật phiêu bạt, lang thang để : " đi một ngày đàng, học một sàng khôn ". Những nhân vật phiêu lưu ấy thường chọn con đường thương mại để nên người. Chắc chắn ông muốn thay đổi tạp quán, khuyến khích người ta nên rời khỏi con trâu, cái cày, mảnh vườn, đám ruộng để đi đó đi đây, dùng con đường thương mãi tiến thân.
Xã hội tiểu thuyết của ông phần lớn là xã hội của những điền chủ, Hội đồng ở thôn quê, của ông Phủ, ông Phán, thầy Thông, cô Ký ở thành thị, bên cạnh những Ba Có bán chè trong Nợ Ðời, Tư Cu trong Vì Nghĩa Vì Tình, Lý Trường Mậu trong Lạc Ðường... lớp trưởng giả đầy rẩy những lường lọc, bất công, xa hoa, còn trong khuê phòng các con ông Hội đồng, điền chủ chịu nhiều nổi gian truân, nào là Cẩm Vân trong Vì Nghĩa Vì Tình, Phi Phụng trong Nhân Tình Ấm Lạnh, Thu Hà trong Khóc Thầm, Bạch Tuyết trong Ai Làm Ðược..., còn những người nghèo khó rất đáng thương tâm như Trần Văn Sửu trong Cha Con Nghĩa Nặng, hương Hào Ðiều trong Khóc Thầm.
Ông cũng đã phá về quan niệm hôn nhân của người xưa như môn đăng hộ đối...Nhưng không phải đổi mới hoàn toàn như Ðoạn Tuyệt của Nhất Linh, hay ngược lại một sự cảm hóa như Cô Giáo Minh của Nguyễn Công Hoan, ông muốn kêu gọi sự thức tỉnh về quan niệm hôn nhân như trong Tại Tôi, một tiếng kêu trầm thống cho bà cả Kim, đại diện cho lớp trưởng giả miền Nam thời bấy giờ, không phải một sự phản kháng, không phải do may rủi tình cờ, mà là trường hợp điển hình gây ra nổi thương tâm ray rức cho bậc cha mẹ.
Từ năm 1927, ông là bậc " Dân chi phụ mẫu ", vậy mà tiểu thuyết ông tả những chuyện loạn luân, giết người như Lý Trường Mậu giết Mái Chín Cúng giựt tiền cho vợ con, sau vợ con sa đọa, mãn tù anh ta trở về lại giết vợ là Ba Trâm và con là Cô Ba Hào, rồi anh ta tự tử trong Lạc Ðường (1937), Trinh giết bà Lợi để cướp tiền trong Người Thất Chí (1938), Hương Hào Ðiều giết Vĩnh Thái và Thị Sen là đôi gian phu dâm phụ trong Khóc Thầm (1929).
Tiểu thuyết của ông có hậu, quả báo nhãn tiền, mọi việc đều để răn dạy, phải chăng nó phản ánh cái xã hội ngang tàng thời đó ? của thứ anh hùng " thế thiên hành đạo "; nếu tiểu thuyết để giáo hóa con người thì nó cũng có khả năng làm cho người ta bắt chước, nghĩa là nó có ảnh hưởng tốt và xấu tuỳ theo trình độ và trường hợp của mỗi người. Nhưng phải công nhận đây là sự táo bạo của nhà văn lớp trước.
Nhiều tiểu thuyết của ông đã phóng tác theo tiểu thuyết Tây phương rất tài tình, như quyển Ai Làm Ðược, ông mô phỏng theo quyển André Cornelis của P. Bourget, Chúa Tàu Kim Qui phỏng theo Le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas, Ngọn Cỏ Gió Ðùa phỏng theo Les Miserables của Victor Hugo, Cay Ðắng Mùi Ðời phỏng theo San Famille của Hecto Mailot, Người Thất Chí phỏng theo Tội Ác Và Hình Phạt của Destoievski...
Trong Tội Ác Và Hình Phạt của Dostoievski ám chỉ ý tưởng hình phạt do luật định, không làm tội nhơn sợ hải nhiều như những nhà làm luật tưởng, trừ khi chính hắn đòi hỏi hình phạt đó trong tinh thần, nhưng cuối cùng rồi Dostoievski cũng đưa Raskôlnikốp trở về nhà giam của xã hội con người ở Tây Bá Lợi Á với bản án tám năm tù khổ sai, còn Hồ Biểu Chánh đẩy Trinh tự phạt mình hơn mười năm xa lánh con người trong dãi Thất Sơn, vì chàng ta tự đòi hỏi cái hình phạt ấy cho mình, ông đã vượt quá Dostoievski.
Văn chương của Hồ Biểu Chánh cũng giản dị như những nhà văn lớp trước, nhiều khi ông kể chuyện hơn là tả chuyện, ông cũng dành lấy quyền nói cho mình quá nhiều mà không để cho những tình tiết tạo thành câu chuyện. Chẳng hạn một đoạn trong Nhân Tình Ấm Lạnh, ông sử dụng lối ấy: ... Ở đời có nhiều cái vận hội lạ lùng có khi việc nên đã thấy trước mà rồi lại hóa ra hư, việc quấy đã tỏ tường mà ai cũng cho là phải. Mà việc quấy thiên hạ cho là phải, ấy là tại bụng người dua bợ nên chẳng luận làm gì, chí như việc gần nên mà hóa ra hư, nghĩ thiệt không biết sao mà liệu trước ...
Bối cảnh tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh phần nhiều ở Lục Tỉnh, Sàigòn và Gia Ðịnh, đó là những nơi ông đã sống, làm việc có nhận xét, có nhiều ấn tượng để viết, nên khi tả cảnh ông ghi được những nét tinh tế, do đó ông tả cảnh thôn quê, chúng ta thấy như một bức tranh đẹp có nhiều màu sắc linh động. Một cảnh ông tả Xóm Tre ở Gò Công.
" Ðến nữa tháng năm, trời mưa dầm dề ngày nào cũng như ngày nấy. Chiều bửa nọ, trận mưa mới tạnh, bóng mặt trời chói chói phía bến đò; trong xóm nhà nhúm lửa nấu cơm chiều khói lên ngui-ngút; tre níu nhau mừng trời mát lá giũ phất phơ. Ngoài đồng náo nức nông phu, bạn cầy thá ví tiếng vang vầy, công cấy hát hò hơi lảnh lót. Dưới sông bao ngược ghe chài chở lúa trương buồm rồi thả trôi theo giòng nước, chiếc nào chở cũng khẳm lừ. Trên lộ Cây Dương xe ngựa đưa người núc nít chạy chậm xì, tiếng lục lạc nhỏ khua xa xa nghe như tiếng nhái."
Về tả người, chúng ta xem qua kỹ thuật của ông, tả Huỳnh Phi Phụng trong Nhân Tình Ấm Lạnh : "... Cô tuổi vừa mới 17, nước da trắng đỏ, đầu tóc đen huyền, hàm trăng trắng mà đều như hột bầu, ngón tay dài mà lại non như da giấy, mình mặc áo lãnh màu bông phấn quần lụa bom-bay mới tinh, chơn đi giày thêu cườm, bông tay cà rá, dây chuyền đều nhận hột xoàn sáng ánh." Tả Ba Trâm, vợ cập rằng Mậu trong Lạc Ðường :
"... Ba Trâm tóc tai dã dượi ở trong buồn bước ra. Tuy cô hẩm hút trong cái chòi lá, tuy cô mặc cái áo cụt vải trắng với mộyt cái quần lãnh đen củ xì, nhưng mà nước da trắng trong, mái tóc dợn sóng, tay chân dịu nhiễu, môi má ửng hồng, tuổi đã quá ba mươi mà sắc vẫn còn xinh đẹp. Nhan sắc nầy lẽ thì phải ở nhà lầu, ngồi xe hơi mới xứng đáng."
Ðến khi Ba Trâm lấy chồng khác, đã ở nhà lầu, đi xe hơi rồi, ông tả lại cô ta :
" ... Cô bận một bộ đồ mát bằng lụa mỏng, màu bông hường; nước da của cô đã trắng; mà nhờ màu áo giọi thêm, làm cho nhan sắc của cô pha vẻ lả lơi với vẻ nghiêm nghị, nên coi đẹp đẻ vô cùng.. "
Cái lối viết trơn tuột của ông, tưởng chỉ cần nghe thằng Ðược nói với Ba Thời :
"- Sướng a ! Tía tôi vìa đây tôi biểu tía tôi mua thép uốn lưỡi câu rồi tôi đi câu với tía tôi chơi. Nầy má, hôm trước thằng Phát đi câu với tía nó, nó câu được một con cá trê lớn quá, mà à... "
Còn nếu cần nữa, chung ta đọc luôn bức thư của tên Hữu, gửi cho Ba Thời cũng trong Cay Ðắng Mùi Ðời.
Xà-No, le 16 Decembre 19..
Tao gửi lời về thăm mầy được mạnh giỏi. Tao ở dưới nầy bình an như thường. Năm nay tao làm ăn cũng khá khá. Như mầy có nghèo lắm thì bán cái nhà lấy bạc đi qua Mỹ Tho rồi ngồi tàu mà xuống đây.
Mà nếu mầy đã có nơi nào khác rồi thì phải gửi thơ cho tao biết. Nói dùm tao gửi lời thăm anh Hai chị Hai và bà con lối xóm hết thảy.
Hữu ký
Nói chung, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh rấp hấp dẫn lớp độc giả trung lưu và bình dân thời bấy giờ, do cốt truyện đều đáng thương tâm vì những hoàn cảnh éo le ngang trái. Nhân vật đồng quê có, thành thị có phô bày xã hội đương thời thích hợp với nhiều tầng lớp. Truyện của ông đều nhằm mục đích hướng thượng, ông luôn luôn để cho những nhân vật thiện của ông nhắc nhở hành động của mình để đi tới con đường lương thiện.
Kỹ thuật xây dựng truyện của ông khá cao, ông dồn đẩy những nhân vật chính vào các trạng huống thương tâm, những tình tiết dồn dập dễ gây cảm xúc cho độc giả.
Gần 50 năm sống và viết, viết cho đến hơi thở cuối cùng, ông đã để lại cho văn học miền Nam 71 quyển tiểu thuyết, văn nghiệp thật hiếm có đối với một nhà văn. Trong văn học sử, người ta lãng quên nhiều nhà văn lớp trước của miền Nam, nhưng người ta không thể quên được tên tuổi, văn nghiệp của Hồ Biểu Chánh. Ðộc giả trộng tuổi vẫn còn ưa chuộng tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh vì cốt chuyện, và vì người ta còn tìm thấy dĩ vãng xã hội mình một thời đã sống an.
2. Tân Dân Tử ( ? ) :
Nói về tiểu thuyết miền Nam, không thể bỏ qua Tân Dân Tử, ông chuyên viết về lịch sử tiểu thuyết, nó giống y như truyện Tàu. Cũng là một thứ tiểu thuyết có chương hồi, cũng dựa vào sự kiện lịch sử. Tiểu thuyết ông sáng tác khoảng 1920-1924, gồm những bộ truyện rất nổi tiếng, bộ Giọi Máu Chung Tình năm 1954, in đến lần thứ 8 và lần nầy in 5.000 quyển.
Tiếc rằng chúng tôi chưa sưu tầm được tiểu sử của ông, văn nghiệp của ông gồm có :
. Giọt máu chung tình. . Gia Long tẩu quốc. . Gia long phục quốc.
Chúng tôi trích một đoạn trong Giọt Máu Chung Tình :
Hồi Thứ Hai Mươi Bảy
Ðền nợ nước, anh hùng ra tử trận
Trọn ân tình, liệt nữ quyết liều thân.
Vừng ô thấm thoát phúc lặng đài tây, gương nguyệt lấp lòa đã treo bóng thỏ, đoạn Võ đông Sơ cùng Thu Hà đương ngồi trước hoa viên đàm đạo, bỗng thấy mọt tên Ngự lâm quân ngoài cửa, vội vả bước vô, cúi đầu chào Ðông Sơ và nói: Bẩm Ðô húy, thánh chỉ dạy đòi về việc binh tình cấp cấp.
Ðông Sơ nghe nói liền bước lại tiếp lấy thánh chỉ đọc coi, thì thấy nói như vầy:
" Nay nhơn Thanh triều ỷ thế, nước mạnh binh nhiều, muốn xâm phạt lấn nước ta, vì vậy trẫm phải ngự giá thân chinh, quyết đánh cùng quân Tàu một trận .
Vậy truyền cho Ðông Sơ Ðô húy lập tức đến tỉnh Lạng Sơn quảng xuất các đạo võ tam quân, và theo trẫm mà lãnh chức ngự tiền Hộ giá ".
Ðông Sơ đọc rồi thì nét mặt có sắc buồn dào dào, đứng ngó Thu Hà một cách sửng sờ và nói : Ái khanh ôi ! Cũng tưởng hai ta đã hết cơn ly biệt, đến lúc trùng phùng, đặng cùng nhau vui cuộc lương duyên, cho toại chí lúc bình sanh sở nguyện, chẳng dè cái thời điên vận đảo, nó cứ theo đuổi buộc ràng, hờn thay cuộc thế đa đoan, khiến cho gặp buổi nước nhà hữu sự, vì vậy cho nên triều đình hạ chỉ đòui tôi ra hộ giá Thánh hoàng, làm cho đôi ta phải rẻ phụng lìa loan, thì biết chừng nào mới đặng vầy vui giai ngẫu.
Thu Hà nghe nói thì động lòng ly biệt, càng thêm xót dạ ân tình, rồi nghĩ cho nhà nước đương gặp buổi hoạn nạn truân chuyên, thì gượng gạo lấy lời hơn thua mà tỏ bày khuyến nhủ, rồi nói :
Lang quân ôi Hai ta vẫn đương lúc tình nồng nghĩa mặn, mà thình lình khiến cho én lạc nhạn xa, thì dẫu ai gan sắt dạ đồng gặp lúc nầy cũng phải đau lòng đứt ruột, nhưng mà tôi khuyên mình phải lấy chữ ân làm trước, rồi sau sẽ nói đến chuyện tình, ân là ân quốc gia thủy thổ, tình là tình ân ái vợ chồng, nay nước nhà đương gặp lúc hữu sự phân vân, và mấy vạn đồng bào ta đương đâu cật đâu lưng trong cõi chiến trường, mà xông pha giữa chốn lằn tên mũi đạn. Vậy thì lang quân là một đấng nam nhi phận sự, lại thọ ơn phước lộc triều đình, thế phải ra mà đỡ vạt nâng thành, lấy một gan đởm mà bồi đắp cho quê hương trong cơn nước lửa, tôi cũng ngày đêm khấn vái mà cầu chúc cho lang quân đặng bình an vô dạng trong chốn mũi đạn lằng tên. Ngõ mau mau trở bước khải hoàng, chừng ấy đôi ta sẽ hiệp mặt phòng lang, và vui tình nệm gối, thì cũng chẳng muộn... " (15)
Các bộ tiểu thuyết của Tân Dân Tử, ông viết chẳng khác gì truyện Tàu từ hình thức đến nội dung, văn chương của ông nhẹ nhàng hơn Lê Hoằng Mưu, những đọc giả đã quen đọc truyện Tàu, khi đọc tới tiểu thuyết lịch sử của Tân Dân Tử, người ta rất ưa chuộng, mặc dù tiểu thuyết của Gilbert Chiếu, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt đang trên đà tiến triển tốt đẹp, cho nên quyển Giọt Máu Chung Tình được in đến lần thứ 8, trong khi toàn bộ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, chỉ có những bộ sau đây được in đến 8 hay 9 lần:
. Tỉnh mộng in lần thứ 8 . Ngọn cỏ gió đùa in lần thứ 8 . Cay đắng mùi đơì in lần thứ 9 (16)
Những bộ còn lại cũng chỉ in từ 1 đến 3 lần, một số chỉ đăng trên báo, và một số chưa xuất bản lần nào (17).
Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn, chưa chắc đã có quyển nào tái bản nhiều như thế, cho nên mặc dù là văn biền ngẫu, nhưng cốt truyện đề cao trung, hiếu, tiết, nghĩa lại lồng trong một chuyện tình bi thương, vì Võ Ðông Sơ và Bạch Thu Hà đều chết sớm, kẻ hy sinh cho tổ quốc để bảo vệ non sông, người chết cho thủy chung với tình yêu của mình.
Như thế chuyện hóa ra không có hậu, nên cuối chuyện tác giả có thêm phần nhà vua ngự phê tác hợp lương duyên cho hai linh hồn, nhưng người đọc, sau khi khép sách lại vẫn còn ray rức tiếc thương.
Ảnh hưởng của tiểu thuyết Tân Dân Tử đối với lớp thanh niên ở thôn quê thời bấy giờ không phải là không có, một là nó gieo vào tâm hồn giới thanh niên một mẫu người lý tưởng của thanh niên như Võ Ðông Sơ, một trang anh hùng phò vua giúp nước, hai là mối tình chung thủy của Bạch Thu Hà, mối tình của trai tài gái sắc, làm cho biết bao thanh niên ấp ủ hoài bão trở thành người anh hùng như Võ Ðông Sơ, nó chính là động cơ thúc đẩy biết bao nhiêu thanh niên đồng quê miền Nam, gia nhập vào đội ngũ thanh niên tiền phong, rồi các lực lượng võ trang ở miền Nam sau đó.
3. Phú Ðức (1901-1970):
Nói tới Hồ Biểu Chánh là nói tới tiểu thuyết tình cảm, xã hội, còn nói tới tiểu thuyết kiếm hiệp phải nói tới Phú Ðức, đó là đặc trưng của hai nhà viết tiểu thuyết danh tiếng ở miền Nam.
Nhà văn Phú Ðức tên thật là Nguyễn Ðức Nhuận ( 18 ), sinh ngày 24-9-1901 tại xã Bình Hòa tỉnh Gia Ðịnh, tên bổn mạng là Joseph, ông từ trần ngày 4-3-1970 tại Gia Ðịnh, hưởng thọ 70 tuổi. Thân phụ ông là Nguyễn Ðức Tuấn từng làm Ðốc học trường Sơ học tỉnh lỵ Gia Ðịnh và Cai tổng Tổng Bình Trị Thượng tỉnh Gia Ðịnh.
Trước khi trở thành nhà văn, Phú Ðức là một nhà giáo, dạy tại trường Gia Ðịnh do thân phụ ông làm Hiệu trưởng. Năm 1925 nhà giáo Nguyễn Ðức Nhuận viết một truyện ngắn Câu Chuyện Canh Trường, gửi đăng trên nhật báo Trung Lập. Lúc đó tờ Trung Lập do Trương Duy Toản và Phi Vân đang phát động phong trào tẩy chay hàng Bombay ở Sàigòn rất có hiệu quả, do ngược lại chủ trương của thực dân Pháp, họ thúc ép tờ Trung Lập phải ngưng phong trào nầy, nên chủ bút Mạnh Tự Trương Duy Toản phải nghĩ cách thu hút độc giả, do nhận thấy tờ Ðông Pháp Thời Báo nhờ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh được nhiều độc giả, nên cụ Mạnh Tự đã mời tác giả Câu Chuyện Canh Trường, cộng tác viết tiểu thuyết cho tờ Trung Lập.
Phú Ðức bắt đầu viết " Cái Nhà Bí Mật " rồi sau đó viết tiếp Châu Về Hiệp Phố, một quyển tiểu thuyết đã đưa tên tuổi Phú Ðức lên cao. Năm 1926, ông rời bỏ nghề dạy học và bắt đầu làm chủ bút tờ Công Luận, sau nầy khoảng thập niên 50, ông cộng tác với các Nhật báo Thần Chung, Tiếng Chuông, rồi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tuần báo Bình Dân và chủ nhiệm nhật báo Dân Thanh.
Ông hâm mộ thể thao, chơi quần vợt, bóng tròn, ông cũng có luyện tập võ nghệ, nhờ đó ông viết đúng các thế võ thuật, ông thích xem chiếu bóng và đọc truyện trinh thám của Pháp nhứt là tác giả Michel Zevaco. Những sở thích ấy, giúp cho ông viết thành những chi tiết được độc giả thích thú và hâm mộ.
Như đã nói, tiểu thuyết Châu Về Hiệp Phố làm cho Phú Ðức nổi tiếng nhứt, lần đầu đăng trên báo Trung Lập, Công Luận, său đó nhà xuất bản Xưa Nay in thành sách rồi sau nầy các nhật báo Thần Chung, Tiếng Chuông, Ðuốc Nhà Nam đăng lại vẫn được độc giả ưa chuộng.
Theo như ông trả lời cuộc phỏng vấn của báo Ngày Mới năm 1959, ông đã sáng tác trên 70 bộ tiểu thuyết trong vòng 35 năm và những tiểu thuyết của ông ngày nay người ta còn biết được:
. Cái nhà bí mật. . Châu về hiệp phố. . Tiểu anh hùng Võ Kiết. . Lửa lòng. . Một mặt hai lòng. . Non tình biển bạc. . Tình trường huyết lệ. . Một thanh bửu kiếm. . Chẳng vì tình. . Mít Si Ma...
Trong làng báo, nhiều ký giả viết về Phú Ðức, họ có quan điểm như nhau, Phú Ðức là một hiện tượng lạ trong làng báo :
. Chỉ có viết tiểu thuyết mà làm chủ bút một tờ báo ( làm chủ bút mà không cần nắm chủ trương, đường lối, không viết xã luận, mỗi ngày chỉ viết tiểu thuyết mà thôi ) . Một tuần báo Bình Dân chỉ đăng toàn tiểu thuyết của ông, nó bán rất chạy và đủ nuôi tờ nhật báo Dân Thanh (thật ra tuần báo Bình Dân còn có đăng về các kỳ đua ngựa, những người mê đánh cá ngựa có thể vừa theo dõi các trận đua, vừa đọc tiểu thuyết giải trí). . Chỉ có bổn cũ Châu Về Hiệp Phố soạn lại, mà ông tạo ra xe hơi, nhà lầu. Ðúng ra ông là tiểu thuyết gia đẻ bọc điều, trong làng báo miền Nam, ông viết tiểu thuyết không chú trọng về văn chương, những cảnh ông tả chỉ để xác định không và thời gian, trong bối cảnh phải có mà thôi, chẳng hạn như đoạn Hiệp Liệt cứu Hiếu Liêm trong Châu Về Hiệp Phố.
..." Ðêm hôm sau vào lúc 9 giờ, tại nhà Hoàn Ngọc Ẩn, Năm Mạnh và Lục Tặc đang trò chuyện, thì bên ngoài một trận mưa to, gió lớn đang đổ nước xuốn ào ào ..."
Ông thường hành văn hí ngôn, trong câu đối thoại, dù thực tế hiếm có xảy ra như đoạn sau đây giữa thám tử Ðỗ Hiếu Liêm và Ðội Tài :
- Thầy Ðội hôm nay có chuyện gì mà thầy đi vào đây có gương mặt buồn teo như thế ? Ðội Tài thở dài: - Rua xếp ! Thật vậy ông xếp thấy cái mặt tôi hôm nay nhăn nhó như cái xíu mại khó thương làm sao. - Có thím Ðội lẽ nào ngâm câu : " Anh đi đàng anh, em đi đàng em " chớ gì ? Ðội Tài mĩm cười : - Phải như thế thì tôi " măng phú " xếp à, đàn bà như trấu xay tôi kể gì. Hôm nay tôi đến thăm xếp đặng báo một cái tin đặc biệt. - Tin chi vậy hở thầy Ðội ? - Một vụ cướp táo bạo nhà máy Huỳnh Long ở Bình Tây bị bọn cướp khoét tủ sắt không còn một xu con. - Bọn cướp thật hung ác, chúng đâm anh Chà ban cà lì đổ ruột chết lòi cà ri không kịp ngáp.
Tiểu thuyết của Phú Ðức được nhiều độc giả ưa chuộng vì có nhiều nguyên nhân :
Ông lợi dụng phong trào võ ta và quyền anh có sự thách thức giữa võ sĩ Tạ Ánh Xém và Amadou vào khoảng năm 1924. Tiểu thuyết kiếm hiệp có pha lẫn loại trinh thám, một thể tài mới lạ và cũng có phần gần gủi với truyện Tàu. Thể tài nầy không kén lựa độc giả như loại tiểu thuyết tình cảm hay luận đề. Nghiên cứu về tiểu thuyết miền Nam, không thể bỏ qua nhà văn Phú Ðức, nói đến tiểu thuyết tình cảm xã hội phải nói đến Hồ Biểu Chánh, nói đến tiểu thuyết trinh thám võ hiệp phải nói đến Phú Ðức, bởi vì ông là một hiện tượng đặc biệt trong làng báo miền Nam.
4. Phi Vân (1917-1972?)
Phi Vân tên thật là Lâm Thế Nhơn sanh năm 1917 trong một gia đình trung lưu ở Cà Mau, ông chuyên viết chuyện ngắn và phóng sự. Năm 1943, quyển Ðông Quê của ông đoạt giải nhất trong cuộc thi văn chương do Hội Khuyến Học Cần Thơ tổ chức, từ đó cho tới năm 1970, quyển nầy đã được in 5 lần. Ngoài ra ông còn những tác phẩm :
. Dân quê . Cô gái quê . Hồn quê ( truyện dài chưa xuất bản ) . Nhà quê trong khói lửa ( hồi ký chưa xuất bản )
Ông còn là một nhà báo, từng cộng tác với nhiều nhật báo và tuần báo, ông cũng từng điều khiển ban biên tập các nhật báo Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Dân, Dân Quí, Thủ Ðô, Cấp Tiến, cũng đã giữ chức Tổng Thư Ký Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt trong Liên đoàn ký giả quốc tế (I. F. J)
Ông mất tại Sàigòn vào đầu thập niên 70.
Như đã nói, quyển Ðồng Quê của ông được nhiều người ưa chuộng vì tác giả đã tả lại xã hội thôn quê miền Nam vào tiền bán thế kỷ 20, nào là phong tục đám cưới, thầy pháp, thầy bùa, hò đối đáp, đi câu trộm...
Mỗi một truyện của ông vẽ lại góc nhỏ của xã hội đồng quê, cho ta thấy vài khía cạnh của phong tục tạp quán, những bọn cường hào ác bá, đầu trộm đuôi cướp làm cho đời sống dân quê chịu nhiều nổi áp bức. Nhưng dân quê vẫn sống với đồng ruộng, tình nghĩa hàng xóm bên chung rượu chén trà, giải trí với những gánh hát bội, giọng hò câu hát trên sông trong những đêm trăng thanh gió mát hữu tình, hay những lúc ngày mùa nhộn nhịp. Muốn hiểu phong tục tạp quán miền Nam không thể không đọc qua tác phẩm của ông.
Bối cảnh tác phẩm Ðồng Quê của Phi Vân là vùng đất Cà Mau, thôn quê là đề tài phong phú cho nhà văn, hơn nữa nơi đó rừng sâu nước độc, là chân trời mới, có sức hấp dẫn lạ lùng cho độc giả ở thành thị, phần khác một số độc giả gốc ở thôn quê nay đến sinh sống nơi thành thị, nhớ cảnh nhớ quê, nhớ mái nhà xưa, nhớ tiếng dế nỉ non canh trường, nhớ tiếng ếch nhái trong những đêm mưa rỉ rã, họ nhớ mùa lúa chín, nhớ cộng rơm, gốc rạ, cho nên họ đọc Ðồng Quê để tìm hiểu, để nhớ kỷ niệm xưa.
Cà Mau, còn những nhà văn khai thác những đề tài hấp dẫn lạ lùng, như Sơn Nam dựng chuyện ở vùng Rạch Giá Cà Mau trong Hương Rừng Cà Mau, Bình Nguyên Lộc với Rừng Mấm chứa đầy triết thuyết về xã hội miền Nam.
Chuyện Phi Vân viết có tánh cách trào lộng, dí dỏm, thử đọc một đoạn của truyện ngắn Ðạo:
" Riêng ông giáo Xệ chủ nhà, đã yếu rượu mà ráng theo mấy ông khách gần hụt hơi.
Bỗng Phó Xã Việt cười khè :
- Xin lỗi Chủ , Sư Muôn giải nghĩa chữ Ðạo trật lất còn Chủ chiết tự ra còn... sái nát hơn nữa!
Ông Chủ giật mình, mặt đang đỏ gay, gần như tái lại. Ông trợn mắt :
- Thằng Phó Xã mầy nói sao? Tao giải trật à ? Tao mà trật ? Ừ chữ nghĩa mầy già hơn, giảng thế nào cho trúng nghe thử ?
- Bẩm Chủ, tự nhiên, chê được là giải được. Chủ đừng quá nóng. Tôi đã nói " nghĩa lý không tư vị " kia mà! Ðây về chữ Ðạo, thì tự tôi thích ra như vầy :
Hai chấm phết là âm dương, gạch ngang là hiệp nhất, dưới chữ tự, bên chữ chi phảy, là " Tự mình chi đó " !
Tự mình thông tri âm dương, biết phân phải trái, biết lẽ chánh tà, mới phải là Ðạo hoàn toàn chớ Ấy là tôi chiết tự sơ sơ như thế, chớ nếu phải giải cho rành thì phải cắt nghĩa tại sao chữ Ðạo có liên tiếp đến 12 nét, mười hai hội của khí vận tuần hườn, từ " chí, sửu " chí ư " tuất, hợi "...
Phó xã Việt như hừng chí, hăng tiết cắm đầu nói, nói mãi quên dòm sau trước, chừng trực nhìn lại, mấy ông khách và chủ nhà, anh ta trợn tròng, dứt ngay : Kẻ gục qua, người gục lại, riêng Ðình Uýnh đã ngoẻo đầu ngáy khò khò ...
Ðêm đã về khuya. Người nhà đều ngủ mất, xa xa có tiếng chó sủa ở đầu làng.
Ông Chủ đang ngửa mình sau thành ghế vùng ụa ra một tiếng rất lớn, rồi chúi nhủi xuống bàn, cố gượng :
- Ðạo! Hay... hay ... ! Bọt phe thằng Phó Xã ! Bọt phe thằng Phó Xã....’’
Chuyện của Phi Vân, người ta có thể đọc đi đọc lại, nó vẫn có sự hấp dẫn, lôi cuốn y như mới đọc lần đầu. Ngoài những chuyện tình cảm, Phi Vân dùng ngọn bút của mình để đả phá những chuyện mê tín dị đoan của người dân quê như chuyện Sanh nghề tử nghiệp, Mét Văn Quang, một ông thầy tướng số nửa quê, nửa chợ đã bị một tên điền chủ cho một trận đòn nên thân.
Chuyện Ông tướng thầy Ba hay Châu Xương cử thanh long đao, cũng là những chấm phá đậm nét trong bức tranh tả chân của ông, qua đó chúng ta thấy dưới ngòi bút dí dỏm, Phi Vân đã vạch rõ những điều mê tín dị đoan ấy, và cho thấy người ta đã lợi dụng lòng mê tín của dân quê, để lừa dối một cách trắng trợn.
Dựng lên câu chuyện tình trong Phóng sự tiểu thuyết, Phi Vân cũng không bỏ qua sự đã phá mê tín dị đoan, nhưng sự áp bức của nạn cường hào ác bá, lợi dụng những cơ hội người ta sa cơ thất thế, hay những người hiền lành để dở hết những mánh lới lợi dụng và bóc lột, chuyện ấy ai cũng biết và thường thấy xãy ra, nhưng Phi Vân cho ta thấy khía cạnh của cuộc đời, đau thương, nhục nhã đè nặng lên đời sống hàng ngày của người dân chất phác, nghèo nàn.
Bút pháp Phi Vân ngắn gọn. Ông sử dụng chấm, phẩy gẩy gọn làm cho văn của ông rõ ràng, động tác nhanh như đoạn sau đây trong Phóng sự tiểu thuyết:
- Hay là thừa lúc nầy mình thử bùa?... _y bậy nà ! Con của Thầy mình ! Thầy thì Thầy chớ, " thử’’ chớ phải " thiệt " sao ?... Cha, rủi Thầy mình biết?...Biết làm sao được, chỉ có hai đứa ở nhà...Rủi Thầy mình về bất tử ?
Tôi phập phòng hỏi :
- Cô hai ơi, Thầy thím sao chưa về ?
- Em cũng không biết nữa. Hồi đi nói về sớm mà tới bây giờ ...
Tôi nhóng :
- Thôi thì tôi về vậy, khuya rồi !
- Ý ở lại với em chút nữa anh Sáu à !
Trong giọng nói có chút một chút gì như van lơn quyến luyến.
Bốn bề lặng lẽ như tờ. Phía sau lửa cháy lách tách. Tôi quả quyết, cắn môi : Thây kệ, thử càn...
Toàn thân tôi bỗng run lên, trống ngực tôi đánh rầm rầm. Hai hàm răng tôi cắn khít lại, rồi ... " Ôm mà xơ rốp... "
Cô hai ơi, lại tôi chỉ cái nầy !
Thì lạ lùng thay, linh nghiệm thay, tôi gọi vừa dứt lời, cô Yến vươn mình bước xuống đất, ngoan ngoản như con mèo sau bếp...
Thình lình có tiếng chó sủa, rồi chó mừng. Tôi giựt mình đứng dậỵ
- Ba má về...!
Ðang đi lại tôi, cô Yến trở mình " cái vụt " mừng reo, chạy ồ ra mở cửa.
Từ ông dùng rất gợi hình : " lúa đã trổ đuôi chín. Cả đồng vun một màu vàng mơ .’’ hay " Vào một đêm không trăng, trời chuyển mịt mù tối đen, rồi mưa rỉ rả. "
Những đoạn trích trên, phần nào chứng tỏ được Phi Vân là một nhà văn truyền thống miền Nam, nhưng cái đặc thù của ông là bút pháp dí dỏm, trào lộng, thậm chí cho đến cái chết của Mét Văn Quang, ông cũng dùng bút pháp ấy, và nhờ vậy nó làm rỏ nét đặc thù của ông.
Hai hôm sau, " Mét Văn Quang " đoán số mình không còn sống nổi nữa, nên đã trút linh hồn tại xứ Năm Căn: cái xứ mà " Mét "đã phụ vào một chút công làm trôi mất chất quê mùa!
Tưởng cần trích thêm đoạn kết trong Phóng sự tiểu thuyết, để thấy rõ tâm hồn và quan niệm sống của Phi Vân.
Năm năm tù và mười năm biệt xứ không dài bao nhiêu, nhưng nó thay trọn cuộc đời tôi. Tôi muốn người ta cho tôi ngồi trong khám mãi để quên đi, quên biệt, còn hơn cho tôi trở về với người đời.
Năm năm trong tù tôi học rành chữ Quốc ngữ và mon men được chút đỉnh chữ Tây.
Mười năm biệt xứ khiến tôi có dịp dạn dày với cuộc đời và nới rộng tầm con mắt.
Tù hạn trả xong, tôi lần về làng cũ. Cảnh vật không còn như xưa nữa. Ông và bà thầy pháp đã vào cảnh Tiên, Phật; thằng Út đã đi theo cải lương; đất chủ Nghĩa bán cho người khác; con tám Én đã có chồng với một dọc con dài, chồng nó là thằng tư Bồ.
Tôi cất tạm một căn nhà trên hòn Ðá Bạc. Ở đó, ngày ngày nghe tiếng gió thét, sóng gầm. Chỉ có gió thét sóng gầm mới an ủi được lòng tôi.
Và chiều chiều, khi vừng thái dương sắp chìm vào nước biển, tôi leo lên một mỏm đá cao chót vót đứng nhìn về phía đất liền.
Sau rặng cây xanh bên ấy, chạy dài đồng nầy sang đồng kia, ruộng nầy sang ruộng khác. Trong những đồng ruộng mênh mông, hiền lành đó, ẩn trú biết bao nhiêu là tá điền và chủ điền..
Mà thôi, dĩ vãng đã chết, còn nhắc lại làm gì nữa ! ...
Họ không phải là người gây nên tội ác, họ chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh xã hội và của một thời kỳ...
|
|